TRUYEN2-Lnghiabk05
Bà Sơn cụt ghé ngồi bên chồng, uống một tách trà cho thấm giọng mới thông tin sốt dẻo, sau khi cột chặt miệng cái bao nhét đầy những thứ giá trị nhất. Năm nào cũng chạy lũ nên bà có thừa kinh nghiệm chọn cái gì, bỏ cái gì mà không tiếc rẻ nếu lũ có quét cả nhà đổ xuống sông. Thằng Hòe hào hứng hưởng ứng ngay.
- Thằng Bảy Rưỡi - giám - đốc không thuộc câu ca dao: “Ai ơi nên lấy thợ cưa /Cưa qua cưa lại... dái đưa lòng thòng”.
Chuyện phu nhân Bảy Rưỡi - giám - đốc ngoại tình với thằng thợ mộc to con, đẹp trai thì làng trên xóm dưới đều biết. Nguyên nhân là Bảy Rưỡi - giám - đốc tha về nhà nhiều gỗ quí để thuê thợ đóng đồ mộc. Thợ ăn ở ngay trong nhà tháng này qua tháng khác. Một lần đi rừng về, Bảy Rưỡi - giám - đốc thấy thằng thợ mộc nó “ đóng” luôn con vợ mình. Nhiều người ác khẩu còn lu loa là thằng thợ mộc chuyên mặc quần đùi ống rộng đứng trên thang cao ưỡn bụng ra khiêu khích, rồi nhờ phu nhân Bảy Rưỡi - giám - đốc chồm lên đưa cây búa cây đinh. Lão Sơn cụt thoáng nao núng, trường hợp này cũng là “ăn của rừng rưng rưng nước mắt” chăng?
Con tắc kè lại buông hai tiếng “hết rừng!”. Tiếng nước chảy xiết nghe mạnh hơn, gấp gáp hơn rồi có tiếng ầm ào của hàng xà cừ trốc gốc đổ ập vào dòng nước hung hãn. Chạy mau! Lão Sơn cụt hô lớn như hô xung phong vào trận.
Cả ba ngồi thở dốc bên vệ đường liên xã cao hơn bờ sông cả chục mét. Ngoái nhìn phía dòng sông, lão Sơn cụt chửi đổng:
- Mẹ nó chớ thay màu xanh cho rừng. Bọn lâm tặc cầm bút nguy hiểm gấp ngàn lần lâm tặc cầm cưa. Chỉ quân lâm tặc trên bàn giấy mới chủ trương như vậy. Rễ cây cà phê, cây trà, cây ăn trái thì làm sao giữ đất giữ nước bằng rễ cây rừng cổ thụ. Ông bà phải nói là... thằng ăn của rừng, thằng rưng rưng nước mắt!
Lão Biền làng Ốc
Tết đang đến rất gần. Vậy là đón tết này, làng Ốc cũng đã kịp có cây cầu xi-măng cốt thép mấy chục nhịp, nối thông với thiên hạ. Sáng nay khánh thành, người đông nghịt. Lý trưởng Kiền (dân làng Ốc vẫn quen miệng gọi chủ tịch xã Độc Họ như vậy) đứng trên bục cao, đọc oang oang bài diễn văn chào mừng, lâu cả tiếng đồng hồ. Kiền nói, nào là, nào là ... nhăng nhít đủ chuyện, nhưng tựu trung vẫn là nhờ công lao giời biển và sự quan tâm của... và của...vân vân... Mặt trời đã lên cao. Nắng vàng soi bóng cây cầu xuống mặt sông đỏ ngầu sau mùa lụt. Trương Luận áo đẫm mồ hôi, sốt ruột nhìn lên cái loa phóng thanh, rồi buột miệng văng tục :
- Nói đ... gì mà dai thế. Không có tiền của dân thì lấy con c... mà làm.
- Chú thì đến chết cũng không bỏ được cái thói ăn nói lốp bốp.
Trương Luận giật mình quay lại, thấy ông anh ruột Trương Biền đã đứng cạnh mình từ lúc nào.
- Bác cũng ra à. Nhưng mà nó nói dài, lại thối như cứt ấy. Xong cái dự án cầu này, chắc lũ chúng nó cũng ăn đậm.
- Chú khép bớt cái mỏ lại. Cứ oang oang, oang oang. Hồi vào hợp tác xã, chú đã phải ngồi tù mấy tháng, về cái tật nói năng bạt mạng mà vẫn không kinh à ?
Cuối cùng thì tiếng vỗ tay như sấm, cùng tiếng hò reo cuồng nhiệt cũng đã nổi lên, vang dậy cả một khúc sông. Tiếp theo là hồi còi dài chói tai, phát lệnh cắt băng, thông cầu ...
Lão Biền đã định không ra, nhưng ngồi ở nhà nghe tiếng kèn, tiếng trống cùng tiếng hò reo cứ rộ lên từng đợt, lão cũng thấy xốn xang không đành được. Vốn tính kín đáo, vui buồn không ai biết, thế mà từ khi cây cầu mới làm xong phần móng, lão đã khấp khởi mừng. Dù bận rộn đến mấy, ngày nào lão cũng lướt qua một tý, lướt lại một tý, rồi lẩm bẩm tính xem cây cầu đã thi công được bao lâu rồi, cứ như cây cầu này là do nhà lão bỏ tiền ra làm vậy. Vậy mà chiều qua, lão vẫn còn làm ra vẻ tỉnh bơ, bảo mụ vợ và mấy đứa con rằng " Nghe nói lễ khai trương cầu sáng mai làm to lắm, mẹ con mụ có hóng hớt thì ra sớm mà xem".
Lão Biền là dân làng Ốc chính hiệu, nên đã biết cái giá của cuộc sống biệt lập với xung quanh, nhất là trong mùa mưa lũ, có năm mất đến mấy mạng người. Cụ cố tổ nhà lão chính là người khai sinh ra cái làng Ốc này. Chuyện rằng, cái thủa xa xôi ấy, con sông Hồng đoạn chảy qua đây rộng cả mấy cây số. Một ngày kia, bỗng có một đụn đất bồi nổi lên gần giữa sông. Đụn đất ấy cứ lớn dần, lớn dần. Những cây sậy tấp vào, rồi cứ thế mọc lan ra thành rừng, trở thành vương cuốc của lũ cò. Chúng sinh sôi con đàn, cháu đống, rồi kéo theo lũ cáo, lũ chuột và cả họ hàng nhà rắn về quần cư. Thế là, bãi đất nổi này trở thành nguồn lợi trời cho. Dân quanh vùng ở làng Bắc; làng Đông; làng Nam, rồi cả tận làng Tây cũng tranh nhau đến săn bắt. Xảy ra triền miên những vụ đánh nhau đến sứt đầu, mẻ trán, nhiều khi chết cả người. Chuyện cũng kể rằng, trong những trận huyết chiến ấy, vì ở gần bãi nổi nhất, người làng Bắc thường ỷ thế dân đông, làng lớn, để lấn át, nên chiếm phần thắng thế. Còn dân các làng Đông, làng Nam vì nhỏ bé đành chịu lép vế, thường phải chia thành những tốp dăm, bảy người để săn lén, cố giành lấy chút phần lộc của giời. Riêng người làng Tây, tuy võ nghệ có phần cao thủ hơn cả, nhưng ít dân, lại ở quá xa, nên thường phải bỏ lỡ rất nhiều cơ hội. Chuyện cũng còn lưu truyền rằng, vào cái thủa xa xôi ấy, trong một đêm trăng sáng, dân làng Bắc đang bày cỗ thịt rắn, say xưa mừng thắng lợi, thì bỗng thấy từ trên trời cao, một ngôi sao đâm bổ xuống đầu. Quá sợ hãi, mọi người la hét chạy tán loạn. Nhưng thật hú hồn, gần đến mặt đất ngôi sao ấy lại tự vỡ tan ra thành hàng triệu, hàng triệu mảnh nhỏ, kèm theo một tiếng nổ long trời. Cả làng Bắc sợ chết ngất. Sáng ra, mọi người còn chưa hết kinh hoàng, thì một thằng nhỏ từ cánh đồng đầu làng chạy về. Tối qua nó sợ quá chạy ra, rồi ngủ thiếp luôn ở đó. Tay nó cầm một vật sáng loáng, vừa chạy vừa la : vàng ! vàng ! ... Người làng Bắc, sau một hồi nhìn nhau ngơ ngác, chợt hiểu ngay. Thì ra, những mảnh vỡ của ngôi sao tối qua chính là vàng. Cả làng Bắc trở nên đại náo loạn. Người ta lao vào nhau, quần thảo nhau, tranh cướp, cố giành giật bằng được những cục vàng. Khi tất cả trở lại bình thường, tưởng là dân làng Bắc phải hỷ hả lắm. Vậy mà họ lại gườm gườm nhìn nhau như kẻ thù. Chỉ vì kẻ được nhiều, người được ít, mà ganh ghét đánh lộn, chia rẽ, trấn lột, giết hại lẫn nhau, kéo dài hết ngày này đến ngày khác, khiến làng xóm không lúc nào yên. Đến tận khi, chú bé là người đầu tiên nhặt được vàng đã thành người lớn, mà những thù hận vì vàng vẫn chưa yên. Chán quá, chú ta liền bỏ làng, đưa vợ con ra bãi nổi, phá lau sậy, dựng nhà, khai hoang. Năm tháng qua đi, thấy chú làm ăn khá, dân các nơi cũng lần lượt kéo ra. Rồi cứ thế mà sinh con, đẻ cái, cứ thế mà thành xóm, thành làng. Chú bé ấy, chính là cụ cố tổ nhà lão Biền. Cái tên làng Ốc có lẽ cũng bắt đầu có từ ngày ấy. Vì về mùa cạn thì không nói làm gì, muốn sang bãi nổi chỉ cần lội bộ cũng qua được. Nhưng về mùa mưa thì tứ bề là mênh mông biển nước, bãi nổi này như một ốc đảo, cô lập với xung quanh.
Lão Biền ít học, nhưng lại là một "tri điền" ở làng Ốc. Lão thuộc tính nết từng cánh đồng, từng khu đất, mùa vụ nào trồng cây gì, nuôi con gì... lão đều thuộc nằm lòng, nói vanh vách. Hồi còn làm ăn kiểu hợp tác xã, có mấy kỹ sư nông nghiệp về chỉ đạo sản xuất , cậy có tý chữ học được, vênh vênh váo váo, làm cái gì hỏng cái đó, nên lão Biền chẳng coi ra gì. Lão vỗ ngực đầy tự hào : " Đất làng Ốc thế này, người làng Ốc thế này, giời cho bờ xôi, ruộng mật, thiên thời, địa lợi thế này, mà nai lưng làm quanh năm vẫn đói vàng mắt. Làm thế, thì ngửi thế đ... nào được ". Lắm lúc ngồi một mình trầm ngâm, nhớ lại những cái thời điên điên, khùng khùng đó, lão Biền thường phá lên cười, khiến vợ con cứ tưởng lão bị ngộ gió. Còn trong các dịp cỗ bàn của làng, của họ, có chút rượu cay, lão Biền cứ bô bô, lúc bổng lúc trầm như nhà hùng biện, thỉnh thoảng lại có mấy câu văng tục chêm vào. Lão hùng biện thế này : " Hồi cải cách ruộng đất, làng Ốc mình đây chưa tới nghìn nóc nhà, ruộng chỉ dăm trăm mẫu, mà có tới mấy chục địa chủ. Lấy đ... đâu ra mà nhiều địa chủ thế. Xóm làng cứ loạn hết cả lên. Thù nhau, hận nhau, chẳng biết vì cơn cớ gì. Cha trách con, vợ oán chồng, anh em không thèm nhìn mặt nhau. Ăn thì một phần gạo cõng ba bốn phần sắn, đói nhe răng. No cơm, ấm cật thì mới dậm dật mọi nơi chứ. Cứ như vậy, thử hỏi cuộc sống sinh sôi, nảy nở thế đ... nào được. Cải cách như thế, khác đ... gì cách mẹ nó mất cái con c... Rồi lại còn cái họa hợp tác, hợp te, nữa chứ. Tùng đi, cắc về theo kẻng, theo trống. Ngàn đời cha ông thằng nông dân phải một nắng, hai sương, mới ra được hột thóc, chứ có theo giờ giấc như trại lính đ... đâu ...".
Đã thành nếp quen, chiều nay lão Biền lại ngồi trầm tư một mình. Rít xong hơi thuốc lào, trong tiếng kêu ròn tan của cái điếu cày kỷ niệm, do cụ thân sinh để lại từ hồi cải cách ruộng đất, lão Biền lại lim dim mắt, suy nghĩ miên man. Khi sửa sai, từ địa chủ kháng chiến, nhà lão Biền được hạ thành phần xuống còn trung nông. Qua được thời khốn nạn, tưởng sẽ được yên, nhưng nhà lão lại lâm vào cảnh họa vô đơn chí. Cụ thân sinh ra lão, sau những đợt bị đấu tố, làm nhục, lại cũng cả vì tiếc của nữa, mà phát bệnh. Cụ quyết không chịu uống thuốc. Con cháu quỳ khóc lạy van, cụ cũng mặc kệ. Trước khi nhắm mắt, cụ chỉ dặn con trưởng là lão Biền vẻn vẹn có mấy câu : " Chưa yên đâu, còn lăng nhăng lắm. Anh, em chúng mày dù có chết cũng phải ráng mà giữ đất của tổ tiên". Ghi nhớ lời cha, sau mấy năm làm lụng vất vả cật lực, nhờ tinh thông đồng đất, lại giỏi canh tác, nên vợ chồng lão và vợ chồng chú em, đã chuộc lại được gần hết số ruộng đất của nhà bị tịch thu hồi cải cách. Nhưng đến đận phong trào hợp tác hóa, lại phải cúng hết vào làm ăn tập thể, chỉ còn lại dăm sào đất thổ, vừa ở vừa làm vườn. Trước khi làm ăn kiểu hợp tác xã, dân làng Ốc này chẳng bao giờ đói. Ngay cả hồi bốn lăm (1945) , người làng Ốc vẫn cơm ngày hai bữa, đỏ lửa hai lần. Vào hợp tác xã rồi, mới qua vài vụ ra đồng theo tiếng kẻng, lão Biền đã thấy ngay là cách làm ấy nó phản động. Càng làm càng nghèo, càng đói rách. Nếu cứ làm tới nữa, chắc cả làng sẽ "tiến nhanh" , "tiến mạnh" xuống bần nông, xuống cố nông, rồi thành một lũ ăn mày. Mải nghĩ, lão không biết chú em ruột đã đến và ngồi vào bàn từ lúc nào :
- Chú Luận mới sang đấy à ...
Bỗng cơn ho kéo đến, lão ho sù sụ một hồi, chảy cả nước mắt.
- Dạo này em thấy bác xuống sức lắm.
- Thì cũng đã ngoài sáu mươi, xuống lỗ đến nơi rồi còn gì.
- Con chó nhà bác đâu rồi, không thấy ?
- Chắc nó theo bà ấy với thằng út đi chơi đâu đó.
Lão Biền rất thương thằng em kém lão cả chục tuổi, tính nết bộc trực, thấy sao nói vậy, lấy vợ ra ở riêng mấy chục năm, mà vợ vẫn không biết đẻ. Bây giờ thì coi như tuyệt tự. Cả hai vợ chồng đều không thích xin con nuôi, nên cái gì cũng cúc cung cho ông anh cả. Nhất là từ khi vợ chồng lão Biền tòi ra được thằng cu Tít.
Ngoài làm nông, nhà lão Biền còn có thêm nghề phụ là nghề đóng cối xay lúa. Hồi chưa có máy xay xát, gặp lúc nông nhàn, anh em nhà phó cối họ Trương rất đắt hàng, làm không hết việc. Cũng chỉ vì chuyện giữ đất của tổ tiên, mà anh em nhà Biền đã chịu vào hợp tác xã rồi, lại đòi ra. Ra xong, thấy bị o ép quá lại xin vào. Cứ vào vào, ra ra như vậy mãi, nên Biền quên cả chuyện lấy vợ. Biền cưới vợ cho chú em xong, lại lao vào việc lo giữ đất cát, lo chuyện mồ mà tổ tiên. Mãi ngoài ba mươi Biền mới lập gia đình. Khác với chú em, Biền lấy vợ xong, là vợ lão cứ sòn sòn năm một. Đứa đầu gái. Biền bắt vợ đẻ tiếp ngay. Lại gái. Lại đẻ tiếp ngay. Cứ thế liên tạch đến đứa thứ năm vẫn là thị mẹt. Biền mệt nhoài, đã nản chí. Vợ lão thở phào, tưởng đã được nghỉ luôn. Cô con út cũng đã gần năm tuổi. Nhưng khi nghe dân làng kích rằng, Biền phó cối, mà "cối" dở hạng bét, không "cối" ra nổi một đứa có con chim, thế là lão lại năn nỉ bà vợ lúc này đã ngoài bốn mươi xuân, cố vượt cạn thêm lần nữa, cho có nếp có tẻ và sau này còn có đứa chống gậy. Lão dẻo mỏ tán rằng " đã có ngũ long công chúa, mà thêm được một quý tử nữa thì chỉ có nhất. Bà cố lên, tôi sẽ thưởng hẳn cho bà vài cái huân chương vì sự nghiệp ...". Vợ lão nghe bùi tai, tán thưởng ngay. Khỏi phải nói, khi thằng út vừa oe oe trên tay bà đỡ, là lão đã nhảy cẫng lên, sướng đến phát cuồng. Suốt mấy ngày, lão không còn kín như bưng mà huyên thuyên đủ chuyện, cái gì trong bụng cũng sổ toẹt ra hết. Nào là, nhà lão sẽ đóng hẳn một cái thuyền bằng gỗ sến, có gắn máy hẳn hoi, để đưa đón cậu ấm nhà mình đi học cấp II, rồi cấp III trong mọi thời tiết. Hồi ấy, làng Ốc mới chỉ có trường cấp I. Khi chuyển cấp, lũ trẻ phải sang sông học nhờ, mùa lụt nào cũng có đứa bị chết đuối. Nào là, khi học lên nữa, lão sẽ tìm cách gửi cậu quý tử lên học tận Hà Nội. Làng Ốc là đất ông cha, giàu đẹp, màu mỡ thật đấy, nhưng chữ nghĩa, khôn ngoan, bằng thế đ... nào được đất thủ đô. Chưa biết chừng, khoái lên, bố mày còn "chạy" cho thằng "chọi" một suất sang luôn cả Liên Xô... Có người trêu chọc hỏi lão " Có một quý tử mà cho đi xa thế, tận Liên Xô, sao không sang Trung Quốc cho nó gần, núi liền núi, sông liền sông ?". Lão Biền vội xua tay, văng tục, gạt phắt : " Liền, liền cái con c... Ông là ông xin vái, xin vái. Nghe đâu bên ấy nó lại vừa mới cách, mới hóa văn, hay văn hóa, văn hiếc cái gì đó. Có thằng làm to như ông trời vẫn bị mang ra đấu tố. Cứ nghe thấy cách , cách là bố mày sợ lắm rồi. Sợ bỏ mẹ ...".
- Chú lại sang nói với tôi về cái chuyện đất cát của mấy đứa chứ gì ? Tôi đã biết rồi, biết rồi. Tôi xin chú. Bao nhiêu lần phải to tiếng với chú, tôi đâu nỡ. Nhưng mà chú cố chấp quá.
- Vì em thấy bác vẫn chưa biết. Vẫn còn bị mê hoặc bởi những thứ tầm phào. Nếu không tỉnh ra, bác sẽ lại sai lầm. Lần này nữa là hết đấy.
- Thì chú cứ nói toạc mẹ nó ra xem nào.
- Bác đã cho phép, thì em xin được nói thẳng. Khi gả con bé Xuân cho nhà họ Bành bên làng Bắc, nhà người ta xin ở rể, bác chấp nhận. Thôi thì cũng được. Gả đến con bé Hạ cũng là làng Bắc, cũng lại họ Bành, cũng lại xin ở rể, bác đồng ý tiếp. Rồi lần lượt đến cháu Thu, cháu Đông, thông gia vẫn là nhà họ Bành bên làng Bắc. Họ vẫn cái bài cũ là xin ở rể. Bác cũng bày trò họp gia đình, dòng họ, hỏi ý người này người kia, nhưng rồi cuối cùng bác vẫn gia trưởng, lấy quyền huynh thế phụ, để buộc cả nhà tuân theo ý của người ta. Quá tam đến bốn bận, thiên hạ người ta chửi nhà mình ngu, mắc phải bùa mê, ăn phải cháo lú, nên mới không biết nhà họ Bành nó dùng cái chiêu " mía ngọt cả cụm", "dùng con chị, dụ khị con em", chẳng lẽ bác lại bỏ ngoài tai ...
- Chú im đi ! Chú bảo ai ngu ?
Lão Biền mặt đỏ như gấc, đập mạnh tay xuống bàn làm ly nước đổ tung tóe, nhìn sang ông em, mặt cũng đang đỏ như mặt gà chọi. Sau một lát im lặng lão Biền hạ giọng, ra vẻ lõi đời :
- Chú biết một mà không biết hai. Nhà họ Bành nó giàu, nó mạnh, bao đời nay họ nhà nó đã làm bố cả cái làng Bắc bên ấy rồi. Con nhà mình gả bán vào đấy là an phận, mà mình cũng được yên thân, không phải lăn tăn gì sốt...
- Thì ra là thế. Lâu nay em cứ tưởng bác kinh nghiệm xương máu đầy mình, tính toán thâm hậu, nào ngờ thiển cận, nông choèn như đít cái chén hạt mít. Nên mới gả bán cho họ nhà nó, hết đứa này đến đứa khác. Thôi thì bác không nhận là bác ngu, bác dại, thì em xin khấu đầu với tổ tiên, với thiên hạ là em ngu, em dại vậy. Họ nhà chúng nó giàu, vậy mà cả bốn thằng con nhà chúng nó, đều xin ở rể bằng được. Năm sào đất của ông bà để lại, bác đã làm của hồi môn mất gần bốn sào, coi như biếu không cho chúng nó. Vậy mà ...
- Thôi ! Chú im đi.
- Em không im. Hôm nay bác có đánh chết em cũng phải nói. Bác đã biết mộ cụ cố tổ nhà ta bị nứt làm hai chưa ?
Mặt lão Biền từ đỏ tía chuyển sang tái nhợt, lắp bắp hỏi lại ông em ruột :
- Chú nói sao, vừa trùng tu xong, đích thân tôi coi thợ, nứt thế quái nào được ?
- Sao với chả giăng cái gì. Bác đi mà hỏi thằng chồng con Đông, rể quý thứ tư của bác ấy.
*
* *
Lão Biền mặt xanh như đít nhái, cắt không ra máu, phủ phục, lạy van như tế sao bên ngôi mộ của cụ cố tổ nhà mình. Lát sau, lão bật dậy, hai mắt đỏ ngầu, hầm hầm đi như chạy về nhà thằng rể thứ tư, quát toáng lên từ ngoài cổng :
- Thằng Thâm đâu, ra tao hỏi đây, ra ngay đây !
- Thưa thầy, nhà con đang bận ăn cỗ mừng có cầu mới ngoài ủy ban.
Lão Biền khựng lại một lúc, quay ra, nghĩ sao quay lại, quát lớn :
- Đông ! cỗ với chả bàn gì. Mày ra gọi ngay thằng Thâm về cho thầy.
- Thôi mà thầy. Giời đánh còn tránh miếng ăn. Có gì thầy cho con xin. Anh Thâm về con bảo sang gặp thầy ngay.
Lão Biền lại hầm hầm, cắm đầu đi ra khu đất đặt mộ cụ cố tổ nhà mình. Lão nhìn hàng cây đen, một thứ cây lâu năm vừa cho gỗ quý, vừa cho quả ăn, do thằng con rể trồng làm gianh giới thẳng tắp, áp sát vào ngôi mộ. Thân cây nào cũng đã to chừng hơn hai chét tay. Mộ cụ cố tổ nhà lão bị nứt, đích thị là do rễ của mấy cái cây đen chết tiệt này, chứ không phải tại cái hầm khí ga chứa phân heo ở mãi phía trong kia. Lão điên tiết quay về nhà, vừa đi vừa lầm bầm chửi thằng con rể : " Tiên sư cái giống ngu, thiếu đ... gì thứ làm bờ rào mà phải trồng cây đen ..."...
Thằng cu Tít mừng rơn, chạy về báo tin với mẹ rằng, chị Nam nó đi thi hoa hậu đã lọt được vào vòng trung khảo. Chị Nam nó mới qua tuổi mười bảy mà cao và đẹp chẳng kém gì nữ tài tử Kimtahee trong phim Hàn Quốc, tính tình thùy mị, nết na lại học giỏi cả toán, cả văn, cả lịch sử và còn giỏi cả tiếng Anh nữa. Khi chị nó được tuyển vào danh sách đi thi hoa hậu, cả làng Ốc đều bảo, chị nó giành vương miện là cái chắc. Mẹ nó mừng ra mặt. Chỉ có lão Biền, bố nó là không đồng ý cho đi, khiến cả cái họ Trương nhà nó phải xúm vào nói mãi, bố nó mới chịu. Nó bảo " U thấy chưa, nghe bố có phải uổng cho chị Nam nhà mình không". Rồi nó lại chạy đi khoe búa xua khắp xóm.
Mụ vợ lão Biền dáng người cao lớn, có khuôn mặt phúc hậu, ít học, nhưng giỏi việc mùa màng, răm rắp sợ chồng một phép. Khi vừa mang bầu đứa thứ năm, đi soi ở bệnh viện, biết lại là con gái, bao nhiêu người khuyên hay là làm "kế hoạch" cho rồi, lão Biền cũng trù chừ, nhưng mụ dứt khoát giữ lại. Mụ bảo, giời đã cho, thì gái giai gì cũng được hết. Nhờ trời cả năm đứa con gái, đứa nào cũng cao ráo, cũng đẹp, cũng nết na giống mẹ.
Vừa thấy lão Biền bước vào sân, mụ vợ lão đã đon đả chạy ra, định báo tin vui, nhưng thấy mặt ông chồng hầm hầm đỏ gay, làm mụ bứ họng cụt hứng. Mụ bị nặng tai. Mỗi lần vợ chồng lão Biền nói với nhau cái gì , hàng xóm cứ tưởng là hai ông bà đang cãi lộn. Sau khi dỏng tai nghe thủng câu chuyện, mụ tròn mắt hỏi chồng :
- Thế hử, động mồ động mả là độc lắm đấy thầy em ạ. Thầy em tính sao, chẳng lẽ thằng Thâm nó lại trồng bờ rào cây đen lấn sang đất nhà ta ?
- Còn chẳng lẽ gì nữa. Nó lấn sang phải đến nửa mét, tính theo chiều dài đâu phải ít. Cái sổ đỏ tôi vùi trong bồ lúa, bà vào lấy ra đây xem nào.
Lục đục trong buồng một hồi, nghe lão Biền quát ỏm tỏi, giục rối rít, mụ vợ mới hớt hải chạy ra :
- Ối giời ơi, thầy em ơi ! chuột nó cắn rách hết rồi.
- Thôi chết bỏ mẹ. Đưa đây xem nào. Ôi giời ! Vẫn còn may, đ... mẹ lũ chó chuột, mới gặm mất của bố nó cái bìa.
Lão Biền lật đật đeo kính, mang cái sổ đỏ ra sân, lấy ngón tay rê rê theo đường kẻ giáp gianh hai khu đất. Rồi lão lẩm bẩm dằn từng tiếng :
- Mẹ cha nó, đông tây tứ cận thế này, thì nhầm lẫn thế đ... nào được. Này, bà đi gọi ngay vợ chồng thằng Thâm sang cho tôi, bảo nó mang cả cái sổ đỏ của nhà nó nữa.
Vừa thấy chỉ mình cô con gái thứ tư dẫn xác đến, lão Biền đã gầm lên :
- Thằng Thâm chết rồi à ? Về bảo nó sang ngay !
Vốn biết tính bố nóng nảy, cô con gái nhỏ nhẹ :
- Anh Thâm nhà con say quá nằm bẹp dí, không dậy nổi. Con nghe u con nói hết cả rồi. Sổ đỏ của nhà con đây. Bản vẽ trại heo giống, có dấu đỏ xác nhận của nhà con đây. Chỗ vẽ cái ô này là hầm khí ga...
- Vứt mẹ nó cái hầm khí ga nhà chị đi -- lão Biền gắt.
- Ơ hay. Con xin thầy cứ bình tĩnh, thước tấc còn đó, thì anh Thâm nhà con trồng hàng cây đen lấn sang thế nào được.
- Thế mắt chị mù hay sao, mà không thấy mộ cụ cố tổ nhà mình bị rễ cây nó đâm sang, làm nứt toác ra rồi, hả ?
*
* *
Không chỉ dân làng Ốc, mà tất cả dân các làng xung quanh đều xôn sao về chuyện tranh chấp đất đai, giữa lão Biền và thằng con rể. Chủ tịch xã Độc Họ, tức lý trưởng Kiền vốn không ưa gì anh em nhà lão Biền, đã lôi cái giấy đánh vi tính có chữ ký của lão Biền ra hòa giải :
- Giấy cho đất, có chữ ký đồng ý của ông to bằng cái mẹt đây này, nhìn kỹ đi. Đã chấp nhận rồi, nay lại đổi ý thì thối lắm, ai ngửi được.
Lão Biền ức quá văng tục, cãi :
- Chính cái lý cứt của anh nó mới thối. Mả cụ cố tổ nhà tôi nằm trên phần đất đó ngay từ thủa mới lập làng. Tôi có ngu hơn giống chó cũng không thể nhắm mắt, ký cho thằng Thâm phần đất ấy được.
Lý trưởng Kiền cũng không vừa, đốp luôn :
- Ngu như cái giống gì là quyền của ông. Đây cứ là theo giấy trắng, mực đen nhá. Không chịu thì cứ việc đưa nhau ra tòa thế giới, tòa sao Kim, sao Thổ mà kiện, nhá !
Suốt mấy buổi hòa giải, thằng con rể thứ tư người nhà họ Bành của lão Biền, chỉ rung đùi ngồi im không hề nói câu nào. Nó hết nhìn mấy thằng anh vừa là cọc trèo, vừa là ruột thịt cũng đang rung đùi ngồi im bên cạnh, lại nheo mắt thương hại nhìn ông nhạc đang gân cổ văng tục, cãi sùi cả bọt mép. Nó thầm cảm ơn cô vợ vừa đẹp, vừa ngây thơ. Thầm cảm ơn ông bố vợ, tưởng khôn ngoan mà lại quá cả tin, nghe nó đọc văn tự cho đất xong, là cứ thế thục mạng ký mấy tờ liền. Thầm cảm ơn cái máy vi tính, cái máy photo. Và, cuối cùng là phải cảm ơn thằng cha lý trưởng Kiền, nhận phong bì của nó xong là nhắm mắt xác nhận thục mạng ...
*
* *
Lão Biền nằm bẹp gí mấy ngày liền, chẳng màng gì đến ăn uống, nên người sút hẳn đi. Tin con gái út lọt vào trung khảo hoa hậu toàn quốc, cũng chẳng làm lão vui lên được. Lão càng nghĩ càng thấy đau hơn là bị hoạn, cay hơn là cắn phải ớt. Suy đi, tính lại chán ra rồi, lão bảo mụ vợ gọi ông em ruột đến. Sau khi ậm ừ, vòng vo một hồi, lão mới bảo :
- Chú Luận ạ ! Thôi thì tôi biết sai, biết dại, đắc tội với ông bà, tổ tiên rồi. Chuyện đã ra thế này, làm ầm lên, thiên hạ chê cười thì còn bịt tai giả điếc, kệ mẹ thiên hạ được. Nhưng, còn con cháu của mấy chi nữa trong tộc họ Trương sẽ ỉa vào mặt tôi, sẽ truất cái quyền trưởng tộc của nhà mình, thì chắc là tôi không sống nổi. Tôi như vậy, chú cũng chẳng sung sướng gì. Thôi thì đành ngậm bồ hòn làm ngọt mà ém đi ...
- Bác nói ém là ém thế nào ? Tôi là tôi tung hê hết, thông gia cái con c..., chả cần môi với răng đ... gì nữa.
Lần đầu tiên thấy thằng em đứng dậy sẩn cồ, xưng tôi, văng tục cả với mình, nhưng lão Biền vẫn ôn tồn , nhỏ nhẹ :
- Chú cứ ngồi xuống nghe tôi nói hết đã. Đời tôi sắp tàn. Đời chú cũng không còn được mấy nả nữa đâu. Banh ra bây giờ là tộc họ nó truất phế, nó trát cứt vào mặt tôi, mặt chú đấy. Chú thì không con. Cả chi trưởng tộc nhà mình, chỉ còn nhìn vào một mình thằng cu Tít chưa vỡ bọng cứt, thì chúng nó lật, dễ như ngửa bàn tay, chưa chắc đã qua nổi kỳ giỗ tổ sang năm. Chú đã nghe ra chưa. Thôi thì tôi xin chú vậy.
- Thế bảc bảo ém nhẹm làm sao ?
Tưởng ông em ruột đã có vẻ xuôi theo, lão Biền liền lên giọng :
- Tất niên năm nay, mổ luôn hai con lợn một tạ, mời cả tộc họ Trương. Cứ nói là mấy chục năm rồi, nay nhà bác cả tổ chức đại tiệc cúng tổ, tạ lễ các cụ phù hộ cho con Nam nó vào được cái trung kết hoa hậu. Coi như lờ tịt chuyện đất cát đi. Có ai hỏi thì giải thích, là do nhầm lẫn nhỏ thôi, đã ổn cả rồi. Nếu hỏi nữa thì mắng át đi. Hỏi nữa, thì lấy gia pháp họ Trương ra mà trị...
- Thế còn thằng lý Kiền, nó cứ rêu rao bêu xấu mình, thì bịt được miệng nó à ?
- Thằng ấy thì khó gì. Khép cái mỏ chó của nó cũng chỉ mất cái phong bì vài triệu.
- Bác tưởng ém nhẹm dễ lắm à. Làng Ốc đã có cầu xi-măng hiện đại, bốn mùa thông với thiên hạ, có điện thoại, điện sáng, đâu còn như ngày xưa mà bưng bít, ém nhẹm. Bác nói, thì em buộc phải nghe, chứ trong họ chắc gì người ta chịu nghe ? Ngay đến việc sau này kén rể, gả chồng cho con cháu Nam, dù nó không là hoa hậu, thì bác cũng đâu có bắt nó phải nghe theo ý bác được...
- Bố nó mà nó không nghe thì chú bảo nó nghe ai, loạn à ?
- Bác đừng vội nóng. Bác dạy đúng nó nghe. Nhưng thời buổi này, nó không thể dễ dàng cả đời thí cái mạng của nó, cho kiểu tính toán của cá nhân bác, như lối bác đã nhắm mắt gật theo cái chiêu "mía ngọt cả cụm" của nhà họ Bành được ...
Không để ông em ruột nói hết, lão Biền gầm lên :
- Thôi ! Chú không phải dạy khôn tôi. Chú không nghe theo tôi thì chú cút ngay !
- Cút thì cút.
*
* *
Từ ngày có cây cầu, dân làng Ốc đua nhau mua xe máy. Lũ thanh niên mặt cứ câng câng, phóng xe bạt mạng, chằng mấy khi là không xảy ra va quệt, tai nạn. Suốt ngày, ô tô con, ô tô tải bóp còi bin bin. Đường sá thênh thang, các cửa hàng, cửa hiệu hiệu đua nhau mọc lên. Thằng cu Tít theo mẹ đi chợ. Mẹ nó mua bao nhiêu là đồ ăn. Chỉ còn mấy ngày nữa là tết. Tối nay, trên ti-vi có chương trình truyền hình trực tiếp chung khảo hoa hậu toàn quốc. Mẹ nó khấp khởi mừng, bụng vui như mở cờ, còn nó thì nhảy như sáo, liến thoắng luôn miệng. Nhưng về đến nhà, hai mẹ con nó đều ngớ ra, khi thấy lão Biền đang khóc tu tu như trẻ con, bên bàn thờ tổ tiên.
Thằng cu Tít mặt tái mét hỏi mẹ nó :
- Thầy bị sao thế hả u ?
Mẹ nó không nói gì, vội kéo theo nó xuống bếp. Đầu nó ong ong. Tai nó ù ù, nhưng vẫn nghe rõ tiếng khóc hu hu của lão Biền và tiếng còi xe hơi lanh lảnh vọng lại từ phía cây cầu hiện đại, xen lẫn tiếng kêu eng éc rợn người, của con lợn nhà hàng xóm đang bị chọc tiết.
Lão ngư dân và Biển cả
Trong màn đêm u tối, lạnh lẽo dọc bờ biển không một bóng người, xuất hiện hình dáng của một thân hình khá lực lưỡng với chòm râu dài với dáng đi có vẻ mệt nhoài, buồn chán của kẻ nghiện rượu. Lão ngư dân với độ tuổi chừng bốn mươi đến năm nay này đã về hưu quân sự lâu rồi, giờ đến những người con của lão. Bước hết nổi, lão ngồi bệt xuống mặt cát phẳng, êm dịu. Nhìn ra biển, một màu đen sâu thẳm, lác đác vài ánh đèn của một số chiếc thuyền ra khơi vào ban đêm. Gió bây giờ thổi mạnh lắm, đã mạnh còn mang theo hơi lạnh của khoảng thời gian giáp đông. Trên tay, lão ngư dân cầm một chai rượu gần cạn. Lâu lâu, cứ thể mà lão nốc từng ngụm rượu nên cả người lão nóng ran, khác xa với không gian giá lạnh bên ngoài. Và trong lòng lão cũng vậy, nó sùng sục một ngọn lửa đang cháy bỏng trong trái tim, một nỗi nhớ, một nỗi lưu luyến về những ai đó…
Ngày xưa, lão có một người vợ rất xinh đẹp, lúc đầu, cả hai đều làm nghề ngư dân, sau chính quyền kêu gọi nên đã vào quân đội tham gia kháng chiến. Vợ lão thì làm ở đơn vị quân y, còn lão thì làm nhiệm vụ ở tiền tuyến. Sau một thời gian, gia đình lão ngư dân được nghỉ phép về nhà, và thật bất ngờ thay, người vợ sanh cho lão đến hai người con sinh đôi. Thế là gia đình lão được nghỉ ở nhà để chăm sóc, nuôi dạy chúng. Sau đó, vợ lão còn sinh cho lão thêm bốn đứa con, tổng cộng cả thảy là sáu đứa, sáu đứa đều là con trai. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi đi, cả sáu người con trai đều đã lớn và đi nghĩa vụ quân sự. Hai vợ chồng thì đã đứng tuổi nên chẳng còn được tham gia quân đội nữa. Trong lúc chia tay với những đứa con, người vợ đã khóc đến đỏ cả hai con mắt trông thật tội nghiệp, lão thì chỉ biết buồn buồn, không nói gì. Và rồi sau đó, hai vợ chồng già lại tiếp tục làm nghề ngư dân, kiếm sống qua ngày. Cuộc sống tuy cực khổ nhưng hạnh phúc ấy cứ tiếp diễn đến một ngày có thư gửi từ chiến trường về báo rằng tất cả sáu người con của lão đều đã hi sinh. Vừa nghe được cái tin sét đánh ấy, vợ lão đã bị ngất nhưng lão đâu biết rằng cơn ngất ấy là do bị tăng huyết áp đột ngột và đã cướp đi sinh mạng của bà từ đấy. Thế là mất hết, lão chẳng còn biết trời đất là gì nữa. Hàng xóm láng giềng đều nhìn lão với một ánh mắt thông cảm, thương xót. Có nhiều người đã qua nhà lão để an ủi nhưng lão đều phủi tay đuổi về. Biết lão chẳng có họ hàng xa, nhiều gia đình ngư dân gần đấy đã gom góp được một số tiền tặng lão. Lão nhận và để đấy, chẳng ai biết lão sẽ làm gì.
Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, râu lão giờ đã dài xuống vì không được cạo trong nhiều năm, tóc lão cũng dài và bạc trắng, khuôn mặt thì nhăn nhúm lại, một phần vì đau khổ, buồn bã, một phần vì tuổi tác, lão chỉ còn giữ lại cái vẻ lực lưỡng năm nào mà thôi. Bây giờ, không vợ, không con, không họ hàng, lão chỉ còn biết sống một mình kiếm sống qua ngày. Buổi sáng, lão đi lên “tảng đá lớn” – khu vực vừa cao, vừa dốc, vừa nguy hiểm nên không ai tới – vác thêm chiếc cần câu dài thật dài, một xô nước biển và một mớ mồi câu để câu cá vì lão giờ không còn đủ sức để ra khơi nữa. Lão cứ thế ngồi câu cá từ sáng đến tối. Về nhà, lão đem tất cả số cá câu được đi ướp muối để dành cho sáng hôm sau luộc hoặc nướng để làm thức ăn cho cả ngày hôm sau. Thoạt đầu nghe thì thấy cuộc sống an nhàn thiệt, chẳng phải suy nghĩ, chẳng phải lo âu gì hết, cứ thế mà tiếp tục sống. Nhưng thật ra, sống như thế lợi thì ít mà hại thì nhiều. Số cá mà lão câu được đâu phải do lão sắp đặt trước mà là do ông trời sắp đặt cho lão ấy chứ. Vì thế có hôm câu được nhiều cá thì đem số cá dư ra ngoài chợ bán mua gạo. Nếu ít thì ăn ít, thậm chí có ngày lão chẳng câu được con nào nên cả ngày hôm sau lão phải nhịn đói. Quả thật vất vả!
Ngoài cả buổi đi câu cá như thế, hàng đêm, lão còn giành hàng giờ của mình để tâm sự với biển. “Sống gần biển quả thật hạnh phúc biết bao!”, lão quan niệm như thế vì trên bãi biển vắng người, lão có thể nói, có thể hét thật lớn, có thể tâm sự với biển những suy nghĩ của mình mà không sợ ai nghe thấy cả. Gió thổi mạnh mà mềm mại như muốn xoa dịu nỗi đau của lão, lão cảm nhận được như thế. Tiếng sóng biển rì rào như một bản nhạc hòa tấu du dương bất tận đưa lão đến những giấc mơ hay những quá khứ tươi đẹp, có khi đến những thiên đàng mà lão từng mơ đến. Biển thật tốt biết bao, làm bạn với biển là cả một niềm vinh dự lớn đối với lão. Có đôi lúc biển nổi sóng to giữa đêm kèm theo gió rất mạnh và mưa lớn, lão tưởng chừng như mình hoặc ai đó đã làm gì đấy làm biển tức giận, khi ấy lão sợ lắm, chỉ biết nhốt mình trong nhà. Nhưng sau cơn mưa, sóng lặng, biển êm, và cũng vào buổi tối, lão lại ngồi đấy, trên bãi cát mịn và cùng tâm sự với biển. Nhưng lão không bao giờ đi gặp biển một mình cả, lão còn mang theo chai rượu, những chai rượu mà lão sử dụng từ ngày này qua ngày khác, hết chai này lại mua chai khác, lão sử dụng tiền quyên góp của người dân để làm việc đấy. Có rượu vào, một cảm giác tê dại, đê mê, sảng khoái, cả người lão nóng lên thật mê hồn. Rượu như một chất xúc tác để lão có một tâm trạng sảng khoái hơn để trò chuyện với biển. Đôi khi, nhờ rượu mà lão còn thấy được hình bóng của vợ và các con mình xuất hiện trên biển, đang vẫy chào và mỉm cười với lão. Khi ấy, lão thật sự hạnh phúc. Nhưng gió đã thổi và kéo lão ra trạng thái nửa thực nửa mê ấy. Cuộc đời câu cá và tình bạn giữa lão với biển vẫn còn tiếp tục còn mãi.
Nhưng cũng vì hành động khác thường ấy của lão đã thêu dệt lên hàng chục câu chuyện ma khác nhau xung quanh ngôi nhà và khu vực lão đang ở. Vì ban đêm, mỗi lần người dân trong vùng đi ngang qua khu vực lão ở, họ đều thấy nhà lão sáng nên tưởng lão đang ở bên trong nhưng lại còn thấy một bóng đen cứ mập mờ mập mờ ngay bờ biển sau nhà, từ đó mọi người cứ tưởng đó là ma, và cũng đồng nghĩa với việc lão bị nghi ngờ là bị ma ám. Mọi người đều xa lánh lão, chẳng ai muốn đến gần lão và nhất là nơi ở của lão vì cũng sợ bị ma nhà lão ám.
Lúc đầu, khi biết được mọi người nghĩ thế về mình, lão tự cười một mình mà ra nước mắt, sau đó lại xuất hiện một nỗi buồn man mác. Nhưng đã là bạn của biển một thời gian dài thì mãi mãi vẫn là bạn, không thể tách rời được. Và đêm nay cũng vậy. Sau khi ngổi bệt xuống cát, tu từng ngụm rượu vào cổ họng, lão ngâm vài câu thơ rồi cũng lại tâm tình cùng biển. Nhưng mọi ngày, sau khi tâm sự xong, lão thường về nhà ngủ, hôm nay lại khác. Bởi vì gió biển mát lạnh một cách lạ kì kèm theo bản nhạc du dương khác thường của sóng, lão không thể nào về nhà mà nằm ngủ tại bờ biển. Sáng hôm sau, người dân làng chài tụ tập đông đúc bên chỗ lão nằm và bàn tán xì xầm. “Trời ơi, vậy là tối hôm qua cái hồn ma đó đã dẫn ổng tới đây rồi đó hả, ghê quá!”, “Đã bảo rồi mà, thế nào cũng có ngày này, linh hồn mỗi lúc một rùng rợn!”, “Chắc đây là hồn của mẹ con lão dẫn lão ra đây nhảy múa rồi ngủ quên luôn ở đây chứ gì!”,… Bỗng nhiên, lão mở mắt ra. “Ối ối! Kẻ bị ma ám tỉnh giấc rồi kìa, chạy thôi!”, “Á! Chạy mau bà con”, mọi người tá hỏa chạy túa ra khắp nơi, lão ngồi dậy, chẳng biết gì hết. Tin đồn lan rộng mỗi lúc một nhanh, càng lan càng mãnh liệt vì còn được thêu dệt nên nhiều tình tiết rùng rợn khác làm người người ai nấy đều khiếp sợ. Đến tai của trưởng làng, sự việc này được thêm khắc đến nỗi giống như có khoa học chứng minh là đúng vậy. Vốn là một người không ưa chuyện ma quỷ mà lại rất thương dân, một phần vì câu chuyện này được thêu khắc, cải biên lại quá thực tế nên trưởng làng đã quyết định đuổi lão ngư dân ra khỏi làng và cho lão một miếng đất ở một nơi ở mới xa thật xa. Đến ngày ông trưởng làng cùng mọi người đến nhà lão để đuổi lão đi thì chỉ thấy một căn nhà nhỏ trống hoắc, chỉ còn những vật dụng linh tinh mà không thấy lão đâu cả. Mọi người hùa nhau chạy xuống bờ biển tìm kiếm nhưng cũng chẳng thấy đâu. Lão đã biến mất thật rồi. Đến bây giờ, trưởng làng cùng người dân mới thật sự sợ hãi và vội vã đốt căn nhà của lão ngư dân, ngôi nhà đã từng được cho rằng bị ma ám. Cũng từ ngày hôm đó, mọi người không thấy bóng ma lởn vởn ở bờ trên bờ biển vào mỗi tối nữa. Nhưng chuyện lão biến mất vẫn còn là một bí ẩn không thể giải thích và nó đã trở thành một câu chuyện ma nổi tiếng của làng chài ven biển này.
Đến năm 1975, khi đất nước được giải phóng, tôi cùng các chiến sĩ về lại quê hương, làng chài quen thuộc ngày nào và lại được nghe kể truyện về ông lão ngư dân ấy. Nghe kể xong, tôi bán tín bán nghi, không biết thật giả ra sao nhưng tôi tin rằng chuyện lão biến mất là có thật chứ còn lão bị ma ám là chuyện hoang đường, vô khoa học, có lẽ do hiểu lầm. Cho đến một ngày nọ, tôi nghe tin rằng có người phát hiện xác của lão ngư dân năm xưa trên một ngọn đồi nhỏ các làng chừng vài cây số. Tôi thầm mừng cho lão vì có lẽ oan khuất của lão đã được giải thì phát hiện bên cạnh lão có một bức di chúc viết rằng: “Gia đình tôi có hai anh em sinh đôi, tôi có một người vợ và sáu đứa con sinh sống ở đây đã lâu lắm rồi, còn đứa em của tôi cùng vợ nó đã bị chết ở chiến trường Việt Bắc đã lâu lắm rồi. Hiện giờ tôi có một gia tài lớn mà không có ai để trao lại nên xin giao hết cho trại trẻ mồ côi địa phương. Nơi cất giấu nó ở…”. Tôi đọc xong di chúc cùng ông trưởng làng, cả hai cùng đứng lặng người, nhìn nhau, mồ hôi toát ra. Và bí ẩn về lão ngư dân vẫn chưa kết thúc…
Lão Phệ
Thực ra tên thật lão là gì, cho đến bây giờ, tôi cũng chưa biết. Ngay từ những ngày đầu, khi mới hành nghề viết sớ ở cổng Phủ Tây Hồ này, trong tâm tưởng, tôi đã gọi lão bằng cái tên như vậy. Nói cho đúng, tôi nào có biết gì về con người lão, tôi và lão đâu có quen biết nhau, đâu có ân oán giang hồ gì với nhau ! Xét người như thế liệu có quá nhẹ dạ, có quá tư ý không ?
Lão ở trong một ngôi nhà to vật vã, có đầy "hoa leo, lá ngời phản chiếu", toạ lạc ngay bên con đường dẫn vào cổng Phủ, nơi mà ngày nào tôi cũng phải hai lần kẽo kẹt đi về ngang qua trên một chiếc xe cà tàng và, gần như vô thức, cứ phải so sánh nó với những căn nhà tối tăm và bốc mùi trong khu ổ chuột Thanh Nhàn. Khi ở ngoài đường, khuôn mặt trắng hồng, viên mãn với hai con tằm vồng xuống ở phía mi mắt dưới của lão lúc nào cũng nghênh nghênh theo cái lối "hạ mục vô nhân". Lại còn cái thói mặc bộ đồ ngủ, dắt chó đi dạo buổi sáng sớm mới "tiên sinh thư thái", mới xa cách với những người đồng bào lam lũ của mình làm sao ! Có hôm, lão không đi dạo mà tập chạy trên một chiếc "Máy thể dục" đặt ở góc sân. "Dởm đặc !". Nếu muốn xả bớt năng lượng dư thừa để giảm cân thì hà cớ gì không cuốc bộ một đoạn ra vườn đào của nông dân gần đấy mà hỏi: "Còn chỗ nào cần cuốc xới, bác để tôi sài đỡ ?!". Thế có phải vừa khoẻ người, vừa "ra thóc" không ?
Với lại, thử hỏi, thuở bé có ai lại không ham mê chuyện cổ tích - một thứ văn học dân gian, bắt nguồn từ đời sống, được chấp nhận và sống cùng chúng ta đã nhiều ngàn năm nay. Mà cổ tích thì thường bắt đầu bằng: "Ngày xửa ngày xưa, có một lão nhà giàu keo kiệt ... / có một lão địa chủ độc ác ... / có một gã nhà buôn tham lam và biển lận ..." hoặc: "Ngày xửa ngày xưa, có một bác nông dân nghèo nhưng thật thà và hay thương người .../ có một anh thợ nghèo nhưng vui tính và thích giúp đỡ người khác ... ". Và, một cách thô thiển, nếu coi cái đầu của chúng ta là một bộ vi xử lý cực kỳ tinh xảo thì những điều đó hầu như đã được cài đặt vào hệ thống xử lý dữ liệu của nó với tư cách là những thông tin mặc định; Thông tin này, dĩ nhiên, nếu chuyển sang ngôn ngữ học thuật, nó được gọi là chân lý.
Nhớ lại, hồi còn học cấp một, mỗi khi đám trẻ con chúng tôi có điều gì không bằng lòng mà nổi cáu với nhau, nếu có đứa nào đó vì quá tức giận mà xả vào mặt đối thủ của nó câu "Đồ con nhà giàu !" thì điều đó cũng có nghĩa là sự mạt sát đã đạt tới độ hoàn hảo về ý tứ và tinh vi về cách biểu đạt. Và cái sự phát ngôn đó được giới người lớn hiểu biết đánh giá là chỉ có thể được phóng ra từ một tâm hồn trong sáng và hứa hẹn một bản lĩnh văn hoá đông phương đủng đỉnh mà thâm hậu.
Thế thì cái cụm danh từ "Lão Phệ" mà tôi tự đặt cho lão, dù chỉ trong tâm tưởng, thực ra cũng có căn cứ thực tiễn và khoa học lắm chứ !
Thỉnh thoảng lão cũng lững thững vào Phủ, thắp một nén hương (thật không thể chấp nhận được !) và không bao giờ chịu mất một cắc nhỏ cho giới trung gian Trần - Linh chúng tôi. Không thấy ai nói gì về lão, trừ một lần, nhân vừa bán cho lão thẻ hương, cô hàng hương nói với tôi: "Lạ thật, cái nhà ông này, lần nào cũng chỉ có nhõn một thẻ hương, chẳng bao giờ sắm lễ sắm lạt gì cả; mà cái lối hành lễ cũng ngang ngang thế nào ấy, chẳng giống ai: Thản nhiên cắm hương lên điện, rồi lùi lại mấy bước, hai tay tỳ lên đầu chiếc can, mắt nhìn chằm chằm vào ngôi tượng thờ, chẳng động đậy khấn khứa xin cầu gì sất, nét mặt cũng chẳng có gì là cung kính, thành khẩn, cứ như là đi thăm bạn ấy; Nghĩa là ... hình như ông ấy có vẻ chẳng luỵ, chẳng sợ cả Thần tài lẫn Thần quyền. Khối kẻ miệng lưỡi đầy gang đầy thép, hiển hách cả một vùng mà cũng còn chẳng dám thế ! Lắm khi tôi cũng thấy sợ thay cho ông ta !".
Và tôi cũng nhận thấy tất cả những công dân đang tham gia các hoạt động kiếm sống ở khu vực cổng Phủ đều tỏ ra kính trọng, nể vì chào lão mỗi khi giáp mặt. Còn lão chỉ khẽ gật đầu đáp lại và dường như coi đó là sự tất nhiên, là cái trật tự xã hội nó vốn thế, phải thế ! Dù mới hành nghề ở đây được mấy tháng nhưng tôi luôn thấy gai mắt, bức xúc mỗi khi gặp những cảnh huống mà lão đóng vai trò kẻ cả, trịch thượng như vậy. Bây giờ là thời nào rồi ? Chúng ta đang sống trong một nền cộng hoà - một hình thái xã hội tiến bộ cao - chẳng phải đã được những công dân Pháp yêu tự do và tiếng cười cùng hát vang khúc tráng ca Marseillaise lộng gió, trân trọng đặt viên gạch đầu tiên cho nền móng của nó từ năm 1789 và, sau đó, loài người tiến bộ vẫn không ngừng đấu tranh để hoàn thiện trong cả mấy trăm năm trời nay đó sao ?. Ôi ! "Tiền tài hai chữ " xưa nay vốn luôn được người ta dùng mực "son" mà "khuyên ngược" là thế ư ?! Không nhẽ cái thằng người chúng ta mãi vẫn chỉ là những nhà thời trang học đầy sáng tạo thôi sao ?!
- Này ông bạn, viết cho lá sớ đi !
Câu nói đó của một người bạn bình dân hành nghề lái xe ôm ở cổng Phủ khiến tôi choàng tỉnh, kéo tôi ra khỏi dòng suy tư to tát, không hề ăn nhập gì với hoàn cảnh và địa vị xã hội của một anh thày nho chuyên nghề viết sớ. Tôi đỏ mặt lúng túng hỏi :
- Nguyện ... nguyện vọng ?
- Thằng con tôi ngày mai thi đại học. Tôi muốn xin các ngài cho nó sự may mắn, thông suốt ... còn viết thế nào thì ... chậc, ... tuỳ ông !
Tôi mỉm cười, nhìn anh và thấy vui vui. Còn anh thì hình như hiểu lầm, nhìn tôi chằm chằm, thoáng vẻ bất mãn:
- Thì cũng phải thi một tý chứ, còn cái phúc nhà mình nó đến đâu thì vẫn là phải chịu .... Thì vẫn biết người có lao động làm nghề gì cũng tốt, cũng lương thiện, cũng đàng hoàng ... nhưng đấy chỉ là "ný nuận" ... ! Đấy, từ thượng cổ đến giờ, có thằng chó nào muốn cho con cái làm nghề cuốc đất ... chạy xe ôm, chẳng qua cũng chỉ là ... cực chẳng đã. Mà học tập từ xưa nay là cái quyền chẳng của riêng ai sất; Con nhà vua hay con nhà sãi: mặc kệ, có sức thì cứ việc học !
- Ông hiểu nhầm tôi rồi. Trái lại, tôi rất vui vì thấy mọi người đều chăm lo cho việc học tập của lớp con cháu.
- Các cụ đã bảo rồi: "Nhân bất học bất tri lý" mà. Không học thì khó mà biết được các cái phải trái, khó mà nhàn cái thân lắm. Cứ nội bản thân tôi mà ngẫm, học hành chả đâu vào đâu, chữ nghĩa chẳng được bao lăm, có nghĩ được cái gì cho ra cái gì đâu. Mà ông xem, trong các phim chiếu trên ti vi ý ... , từ đời các vua chúa, có triều đình nào cấm con người ta học đâu, có coi cái việc học là quyền dành riêng cho một tầng lớp nào đâu. Có hoạ là bị thần kinh phân liệt !
Nhận thấy tôi chăm chú lắng nghe với một thái độ tôn trọng, cảm thông thực sự, anh hạ giọng, nói tiếp:
- Nhưng mà nghe ti vi than phiền là cái sự bằng sắc bây giờ cũng đáng ngờ lắm, thật giả nó cứ lộn tùng phèo cả lên. Ngày xưa lạc hậu, dân còn dốt nát, người ta mua tước mua quan đã đành, nhưng bây giờ, bằng cũng mua được đấy ! Nhưng tôi đếch cần ! Nếu con tôi thi đỗ, thì nó cứ học. Học là làm cho cái đầu mình nó sáng ra ấy chứ. Cái tôi khoái là cái đầu của con tôi phải sáng hơn cái đầu tôi, chứ có bằng sắc mà đầu óc vẫn tối mò mò thì cũng ... - môi trề ra, anh lắc lắc cái đầu - chả làm cái con mẹ gì, chỉ tổ làm khổ hàng xóm !
Ôi ông bạn bình dân của tôi ! Anh đúng là một giọt nước của cái đại dương bao la mà cụ Nguyễn Trãi cho rằng nó có thể quyết định số phận của bất cứ con thuyền nào đi lại trên đó. Cảm ơn anh đã giúp tôi xoá tan nỗi hoài nghi về nhận định "Ba anh thợ giày bằng một ông Gia Cát" của người xưa.
Thực ra anh là người đầu tiên tôi quen biết ở khu vực cổng Phủ. Cái thô nhám toát ra từ lời ăn tiếng nói, từ từng cử chỉ nhỏ chính là những yếu tố đầu tiên khiến tôi có cảm tình và gần gũi với anh. ở cái xã hội cổng Phủ này, hầu như mọi người đều quen biết nhau, thân có, sơ có, mà không ưa nhau: cũng có. Xã hội mà ! Nhưng tóm lại, tôi vẫn thấy ưa người bình dân bởi họ ít quanh quéo, à ơi; bởi họ giản đơn ngay cả trong cái bặm trợn thô thiển khó coi nhất; bởi họ không có tham vọng và vì thế không phải có những cố gắng quá tải so với năng lực của mình để rồi sinh ra lắm cái phiền toái, làm rối loạn hệ thống các chuẩn mực tinh thần không thành văn mà nhiều đời nay dân ta vẫn ưa dùng.
*
Rồi đến một hôm, tôi nhớ đó là một ngày rằm, khi đang hí hoáy viết sớ cho khách, tôi bỗng nghe giọng nói như quát của ai đó:
- Ông ở xới nào đến ?
Thì ra đó là ông bạn xe ôm thân mến của tôi. Anh khoanh hai tay trước ngực, ngồi dựa vào yên xe, hất hàm hỏi một người đang đứng cạnh chiếc xe Honda đời 79 đỗ sát ngay bên. Người đàn ông nhỏ thó đứng cạnh chiếc xe đó - vận bộ quần áo trông cũng thấy ngay là đã cũ nhưng vẫn rất sạch sẽ, đội một chiếc mũ lá rộng vành mới toanh che nắng cho khuôn mặt nhầu nhĩ, ốm o và cớm nắng (có lẽ vốn là công chức) - nhìn anh bạn tôi, ngơ ngác:
- Anh hỏi tôi ?
- Phải, tôi hỏi ông đấy ! - giọng anh xe ôm trì xuống, không hứa hẹn một điều gì tốt lành.
- Thế "xới" là gì ... tôi không biết ... ? - Người đàn ông nhỏ thó mặt vẫn đớ ra.
- Thần kinh à ?! ... Ông ở khu nào đến đây ?
- À ... - Người đàn ông nhỏ thó chợt hiểu ra, nở một nụ cười hiền lành, hoà nhã trả lời - tôi ở khu Đống đa.
- Thế thì, nói cho nhanh, xéo về xới Đống đa mà kiếm ăn. Để cho người ta sống với chứ !
Hiểu ra điều anh bạn tôi muốn nói, người đàn ông mới đến không giấu được sự ngạc nhiên, mềm mỏng bật lại:
- Cũng như ông thôi, tôi chạy xe ôm ở đây thì có sao ?
- Đồ ngu lâu, tao bảo mày biến, mày có biến không ?! - Mắt vằn ngược và các thớ thịt trên má anh bạn tôi bắt đầu rung lên nhằng nhằng ...
- Ông đùa đấy à ? Ông không có quyền ! Ông có biết ông đang sống trong một chính thể nào không ?!
- A ... ! Mày lại chính trị chính em với bố mày à ?
Thế là, phắt một cái, anh bạn xe ôm của tôi đã nhào tới, đấm đá túi bụi vào cái hình hài còm cõi, nhầu nhĩ và cớm nắng kia không chút thương xót. Mọi người quanh đấy chỉ biết lắc đầu mà nhìn cái thân hình còm cõi đương quằn quại, yếu ớt chống đỡ cơn mưa bạo lực giang hồ đang xả láng giáng xuống với một cường độ không thể kiểm soát.
- Dừng lại ! Khốn nạn ... dừng lại !
Lão Phệ xuất hiện. Tiếng quát của lão vang lên như một thứ quyền năng, đầy uy lực, khiến trận mưa đòn ngừng ngay lại .
- Đồ súc sinh ... sao lại đánh người ta dã man như thế ?! - Lão phệ chỉ thẳng tay vào mặt anh bạn tôi, hổn hển, giận dữ hét lên.
Tôi bỗng thấy lo sợ thay cho Lão Phệ. Cái đám lửa đang độ phừng phừng cực điểm kia rất có khả năng cháy lan sang lão lắm chứ ! Thế nhưng tình thế có vẻ diễn ra không theo cái logic thông thường đó.
- Tôi làm xe ôm ở đây từ trước, nó đến tranh khách của tôi. Bảo đi chỗ khác, đã không nghe ... còn "ný luận" vớ vẩn ... - Anh bạn tôi hầm hầm, uất ức giải thích.
- Chỗ này đâu phải của riêng ai - Lão phệ đứng thẳng người, một tay tựa trên chiếc can trúc, tay kia - vẫn chưa hết run vì giận - chìa ra, giảng giải: Nhà anh cần cái ăn cho con, nhà anh kia cũng cần cái ăn nuôi con, chúng đều là những đứa trẻ cần được nuôi dưỡng; Sau này lớn lên, chúng đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội ngang nhau. Đơn giản như thế sao không hiểu ?! Mà cùng dân nghèo với nhau thì càng phải biết thông cảm, biết thương nhau chứ, đánh người ta ngay ở cổng Phủ mà không sợ phải tội sao ?! - rồi ông quay sang người đàn ông đang ôm bụng, vẫn nằm dưới đất, mặt mày tím bầm, rớm máu - Nhà anh kia không có nghề nghiệp gì à ?
- Có ... cơ khí ... - anh thều thào trả lời.
- Còn đứng đó à ? - Lão quay sang mấy người vẫn bán hàng ở cổng phủ, đứng xúm quanh, lẫn vào đám người đi lễ - Khiêng ngay người ta về nhà tôi !
Thế là thế nào ? - Tôi không thể giải thích được tất cả những gì tôi vừa được chứng kiến. "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã !" là điều từ xưa đã in sâu vào tiềm thức của con người ta rồi, nhưng có phải ai cũng làm được đâu ! Dẹp một đám ẩu đả là việc ai cũng tán thành và ai cũng lường trước được sự nguy hiểm mà người thực hiện có thể phải gánh chịu. Vì vậy ít ai dám làm, trừ cái ông già mà sức vóc có thấm gì so với sức vóc đương độ của anh xe ôm kia. Ông ta vốn là một "cao thủ võ lâm" không "xuất thế hành tẩu" chăng ? Anh lái xe ôm kia sợ hãi cái con người sở hữu một khối tài sản mà anh ta có nằm mơ cũng chả thấy ? Hay ông ta là La Hán giáng thế ? ...
*
Chuyện sẽ chỉ có thế và những câu hỏi không giải đáp được vẫn lơ lửng trong đầu chắc hẳn sẽ theo thời gian nhạt dần trong tâm trí tôi nếu như vào một buổi tối sau đấy vài ba tháng, tôi không nhận ra cái nhà anh còm nhom ấy xuất hiện trên tivi với tư cách khách mời của chương trình "Những con ong mật". Thì ra anh ta đã đề xuất một mặt hàng mới cho một xưởng sản xuất từ thiện tư nhân và chính anh đã nghĩ và chế ra một dụng cụ rất đơn giản để sản xuất ra thứ mặt hàng đó, tạo điều kiện cho ông chủ của mình, là chính cái "Lão Phệ" ngang ngang ngửa ngửa kia, thoả mãn cái sở vọng nhận thêm trẻ em cơ nhỡ vào xưởng làm việc với mức lương tiềm tiệm đủ ăn đủ học.
Hoá ra, nghịch ngầm đâu phải là cái tính riêng có của giống người phàm chúng ta. Nếu có một cái "Hội của những kẻ khoái nghịch ngầm" thì chủ tịch của nó không phải là ai khác mà chính là cái Ông Xanh vốn đa sự kia vậy !
on lạy bố !
Đã là giống người, ai không có tính xấu ? Có tính xấu không thể giấu diếm, có tính xấu giấu diếm được, không tự nói ra thì không ai biết và mãi mãi lẩn sâu trong góc tâm tư trừu tượng và trữ tình. Thực ra, cho đến lúc chớm tuổi "nhi lập", hắn mới nhận ra đấy là một tính xấu của mình, bởi nhớ lại, từ thuở còn thiếu niên, hắn đã rất ham và luôn vui thích ngắm nhìn những thiếu nữ xinh đẹp mà hắn bắt gặp. Tất nhiên, lúc ý, họ đều hơn tuổi hắn, thậm chí còn hơn đến cả chục tuổi. Sau này, khi đã là một thanh niên, cái tính ấy càng phát triển, nhưng đã bắt đầu có ý thức giấu diếm và sự giấu diếm ấy có lúc đã trí trá đến gần như hoàn hảo. Sau khi quan hệ với vài cô gái, hắn phát hiện ra cái con đường đi đến "Z" cũng không phải khó khăn, tế nhị gì ghê gớm như hắn vẫn tưởng, vì thế hắn đâm ra thực dụng một cách đổ đốn. Nghĩa là, như một gã đệ tử Lưu Linh, cứ trông thấy gạo là y như rằng đầu óc lại nghĩ ngay đến rượu, cái thứ nước kỳ lạ có men say ấy, cái miệng bắt đầu chóp chép và trên đôi môi, lúc nào cũng ươn ướt, liền nở một nụ cười đờ đẫn, mơ hồ, nhưng thật ra rất thực tiễn khách quan và khá bạo liệt.
Chẳng phải hỏi ai, hắn thừa biết tất cả bọn đàn ông đều thế hết. Có điều, kẻ ít người nhiều, kẻ lộ liễu, người kín đáo; kẻ hăm hở bỏ công ra để đạt được điều khiến mình ham hố, người thì lại lười biếng không chịu nhúc nhắc mồm miệng chân tay, thành thử không có sự gì đặc biệt xảy ra và vì thế: Chung thân trong sáng.
Mà cánh đàn ông cũng thật là đa sự ! Lại cứ có cái thói hay đi bình phẩm, phê phán, khen chê đức hạnh của cánh phụ nữ. Họ bảo đức hạnh của phụ nữ cũng như thứ thuỷ tinh mỏng mảnh - ý hẳn là dễ vỡ. Ừ, thì dễ vỡ, nhưng sắt thép và thuỷ tinh thì thứ gì được gọi là long lanh ? Thử hỏi, không có những cô nàng lúng liếng đong đưa thì lấy đâu ra đối tác cho các quý ông phối kết hợp, giải trí vui vẻ ?
Cánh đàn bà thì vẫn đa sự. Họ nhất trí với nhau rằng cái bọn đàn ông là chúa ham hố và đa mang. Nhưng thực tế, những quý ông kém ham hố lại luôn bị họ đánh giá thấp đến thê thảm. Nghĩ xem, nếu không có những anh chàng giăng hoa phong tình, không ngại tốn kém, không sợ mất công, không ngại khó khăn vất vả … thì lấy ai ra để các quý bà vui thích nhâm nhi, ngấm ngầm định lượng và tự hào về sức quyến tình của mình ? Chỉ riêng những lời khen chơi quấy quá, cốt cho vui vẻ đời sống của các quý ông cũng đã chiếm đến quá nửa cái bảo tàng tinh thần đồ sộ của các quý bà rồi !
Quả là hắn đã trở nên thực dụng một cách đổ đốn. Và cái sự đổ đốn ấy, theo thời gian và theo quy luật tất yếu khách quan, ngày càng phát triển và hoàn thiện theo luật vòng xoắn ốc. Thậm chí, cho đến bây giờ, tuy mới ngoài ba mươi tuổi, trực giác của hắn đã phát triển đến mức, khi gặp một cô nàng nào đó, chỉ thoáng qua ánh mắt và một vài cử chỉ nhỏ, hắn cũng có thể đoán định được với đối tượng này mình sẽ đi được đến đâu.
Để quý vị không nghĩ người kể chuyện là hạng khoác lác, chỉ được cái "ný nuận" tinh vi và làm phách xuông, xin kể một câu chuyện của chính hắn, do chính hắn kể lại và sau câu kết chuyện là một lời dặn dò không kém phần chí tình và chân tình: “Cậu nên ghi lại để các anh chị em khác có thể tham khảo. Biết đâu, gặp người sáng dạ, lại đúc rút được thành lý luận cũng nên !”. Tôi cười, bảo hắn: Lý luận gì cái thứ phải gió chết tiệt ấy !
Câu chuyện này, tất nhiên là tầm phào, vô cùng tầm phào, vừa mới xảy ra tuần trước thôi, trên một chuyến tàu đêm Bắc Ninh - Lạng Sơn.
*
Tàu chợ, chạy từ Hà Nội, dừng ở ga Bắc Ninh để đón khách. Hắn lững thững lên tàu. Nhìn toa nào cũng đã đông người nên đành lên đại một toa ở khúc cuối. Dò dẫm trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn trần không đủ điện áp, thấy ghế nào cũng đã có người. Đến cuối toa, hắn hoàn toàn thất vọng, đã toan trải tờ báo xuống sàn để ngồi thì có một giọng con gái léo nhéo: "Anh gì ơi, đây còn chỗ, lên đây mà ngồi". Hắn ngoái lại, nhận ra một cô gái đang ngồi sát phía cửa sổ, cạnh một cái va li to tướng để chềnh ềnh trên mặt ghế. Cô gật đầu mỉm cười và ra hiệu cho hắn. Hắn đắn đo, lấy tay trỏ vào cái vai li: "Hình như chỗ này có người ngồi rồi !". Cô nhanh nhẹn bỏ chiếc va li xuống sàn toa xe: "Ngồi vào đi anh !". Thế thì yên tâm rồi. Hắn khẽ cúi đầu chào hai cụ già ở ghế đối diện, nói lời cảm ơn cô gái, từ tốn ngồi xuống và kín đáo nhìn cô gái: Còn trẻ, mái tóc dày mềm mại để thẳng, khuôn mặt sáng khá xinh xắn, thân hình mềm mại, đầy đặn; cái đầy đặn chết người của thứ gái một con và một chút nước hoa nhẹ thoang thoảng, đem đến cho hắn một cảm giác vô cùng dễ chịu, nhất là trên một chuyến tàu chợ xô bồ như thế này. Bây giờ, thiên hạ ăn mặc đẹp, nhiều kiểu, lắm sắc màu, nếu chỉ căn cứ vào trang phục, thì khó mà đoán được điều gì về cô gái.
- Cô xuống ga nào ? – Hắn bắt chuyện.
- Em xuống thành phố Lạng Sơn - Cô gái trả lời, khuôn mặt xây ra phía cửa sổ - Còn anh ?
- Cũng thế. Chắc em đi công việc ?
- Vâng, đi làm kiểm toán cho một công ty liên doanh.
- Chết thật, sao em liều thế ?
- Sao lại liều ? - Cô ngoảnh lại, không giấu được vẻ ngạc nhiên.
- Có gì đâu ... – Hắn làm bộ bối rối - Những cô gái xinh xắn không nên đi đâu một mình, nhất là đi xa như thế này.
- Vậy sao ?
Trong ánh sáng lờ mờ, hắn dễ dàng nhận thấy khuôn mặt cô chợt thẫm lại và thoáng lộ một cử chỉ bẽn lẽn. Tất nhiên, cái bẽn lẽn đầy giới tính, và hơn nữa, mơ hồ gợi mở cho hắn một điều gì đó, nhẹ nhõm và vui vẻ.
Lúc sau, hai cụ già ngồi đối diện mắt đã hơi gà gà, người đã dựa hẳn vào lưng ghế, vai lắc lư theo nhịp rung đều đều của con tàu. Cánh đàn ông ngồi ở khoang đối diện qua lối đi vẫn còn thức, ngồi hút thuốc xuông và nói những câu đứt quãng, những câu chuyện trên trời dưới đất, chẳng ăn nhập vào đâu và thỉnh thoảng lại đưa mắt sang phía hắn và cô gái, không giấu được vẻ tò mò. Cũng hơi khó chịu. Biết làm thế nào đươc, xã hội mà. Mà chính hắn cũng thỉnh thoảng đưa mắt sang nhìn họ đó thôi ! Có điều, hai kiểu đưa mắt đó lại hoàn toàn ở hai vị thế khác nhau.
- Anh ơi, em thấy rét - Mấy ngón tay thon nhỏ của cô gái chạm nhẹ vào đùi hắn - anh giúp em đóng cái cửa xổ lại đi.
Hắn đứng dậy, hào hiệp thực hiện yêu cầu của cô gái. Lúc ngồi xuống, nhận thấy hai vai cô vẫn xo lại, hắn bèn galăng, cởi phăng chiếc áo khoác mỏng của mình, hồn nhiên nhẹ phủ lên đôi vai cô. Cô vẫn ngồi im, không có phản ứng gì ngoài cái nhìn nửa biết ơn nửa khen ngợi và thấp thoáng chút khích lệ. Thấy vậy, hắn mới nửa đừa nửa thật:
- Chồng em cũng thật …
- Thật … thế nào ?
- … đáng trách !
- Sao lại thế ? - Cô gái ngước lên nhìn hắn, đôi mắt mở to ngạc nhiên đến ngây thơ.
- Có kim cương trong nhà mà không biết nâng niu. Như anh ấy à ... thà nghỉ phép đưa em đi chứ sao nỡ để em phải thui thủi một thân một mình, thân gái dặm trường thế này !
- Thật thế sao ? Anh cứ đùa em.
Đôi má cô lại thẫm hơn, cặp mắt đưa đi đưa lại, long lanh tin cậy, khiến hắn chẳng còn chút khí phách nam nhi nào nữa. Sau đó là im lặng. Tàu vẫn chạy, phát ra những tiếng cạch cạch đều đều. Cô gái hình như đã thiếp đi, đầu dần ngả và tựa hẳn vào vai hắn. Hơi ấm cùng với mùi hương từ cổ áo của cô gái toả ta khiến hắn ngất ngây, mụ mị. Hắn muốn có một cử chỉ gì đó. Hắn muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé kia mà bóp nhẹ; hắn muốn quàng tay, ấp cô vào lòng mà sưởi ấm cho cô ...
Hai cụ già lúc ấy đã ngủ hẳn. Nhìn sang khoang ghế bên kia, nhận ra có một cặp mắt đang nhìn mình và những người còn lại vẫn hút thuốc xuông và nói những câu chuyện rời rạc. Hắn thấy vừa bừng bực, vừa thất vọng. Thiên hạ lạ lùng thật ! Sao không ngủ một giấc cho béo, lấy sức để ngày hôm sau còn "cày" tiếp, đâu lại có cái thói cứ hay đi "soi" người khác, thô bạo phá hoại cái nết hồn nhiên trời cho của đồng loại !
Hoàn cảnh éo le, lực bất tòng tâm, hắn đành giả tảng tựa đầu vào lưng ghế, nhắm mắt lại như người vô tình thiếp ngủ. Lát sau, cô gái mở mắt và hốt hoảng ngồi thẳng dậy, luống cuống vuốt lại mái tóc óng ả, thẹn thò: "Xin lỗi anh, tại em mệt quá ... !". "Ồ, không ! Em nghĩ thế làm gì cho nó phức tạp; khi ngủ, ai cũng trong sáng như thiên thần ấy chứ !". Hắn vui vẻ nói lời vỗ về và, một lần nữa, đôi má của cô lại thẫm lại. Bất giác, không hiểu sao, hắn lại đưa mắt sang khoang bên. Ôi trời ! Cặp mắt đó vẫn đang nhìn sang phía hắn và cô gái. Thế này thì không phải là "soi" nữa mà phải gọi là "supersoi" [1] mới đích đáng ! Đúng lúc ấy, mắt hắn dừng lại ở một tờ báo đang để trên mặt cái bàn con phía bên họ và, trong khoảnh khắc, trong đầu loé lên một tia tinh quái, thứ tinh quái của những kẻ vốn tinh quái.
- Báo hôm nay hả anh ? – Hắn nhã nhặn hỏi người đàn ông đang nhìn mình.
- Vâng, cũng chả có gì đặc biệt. - gã trả lời hắn, không mấy thiện chí.
- Có nói gì về mấy ông bà ca hát trốn thuế hay cánh bóng đá trong nước bán độ không ? Thời buổi lộn xộn quá, mình thì xem họ chơi bằng tình cảm thể thao, còn họ lại lỡm mình.
- Thế mới đau chứ ! - Một anh chàng khác chen vào - Cứ tưởng thể thao là thứ trong sạch nhất, thế mà ... lại sinh ra cái trò bán độ. Thời buổi này, liệu còn có cái gì không đem ra bán không ?
- Tại sao ấy nhỉ ? - Anh chàng ngồi trong góc thở dài.
- Còn làm sao nữa ? Thế mà cũng phải hỏi. Theo tôi, cứ đuổi cổ hết chúng nó đi - Anh chàng vữa nãy soi hắn bức xúc.
Và sau đó, các ý kiến bắt đầu cất cánh. Hắn thú vị, ngồi im nghe ngóng.
- Đuổi hết đi thì chất lượng bóng đã Việt Nam sẽ ra sao, liệu các ông có đủ kiên nhẫn để ngồi xem đến hết cả hai hiệp không ?
- Đồng ý là như thế, nhưng buộc lòng phải làm lại thôi.
- Theo tôi, để dung hoà, từ thời điểm này trở về trước coi như xí xoá. Còn từ giờ giở đi, anh nào vi phạm, phải nghiêm trị theo pháp luật.
- Không được, như thế là dung túng cho tội ác. Có công thì thưởng, có tội thì phải trị ngay, không thì bóng đá của ta sẽ nát bét, các ngành khác cũng học theo thì bỏ bố !
- Thôi đi bố ạ, có mà nó học theo các ngành khác thì có ! Mà đã bao giờ bố thấy lợi mà ngoảnh mặt đi chưa ?
...
Quả là các ý kiến đã liên tiếp cất cánh, thi nhau cất cánh, có lúc còn chạm cánh, chéo cánh, thậm chí đè lên cánh của nhau. Một vài khuôn mặt đã bắt đầu ửng đỏ. Cung bậc âm thanh đã có phần cao hơn, ngữ điệu đã chuyển sang sắc thái hùng biện và lác đác đã thấy có cả dấu hiệu gia trưởng cực đoan. Cuộc "các ý kiến cất cánh" đã lan sang cả những khoang kề bên. Thật khí thế, thật sôi nổi, thật ồn ào náo nhiệt. Cái ồn ào đáng yêu của những chính kiến, của những suy nghĩ cá nhân tự do phát tác thoải mái, không cần phải e dè bởi, dường như ai cũng nghĩ, trong thể thao không hề có trần ngôn luận, cái thứ trần vô hình, thường trực hăm doạ, cứ lơ lửng đâu đó như không khí nước Trung Hoa thời “mười năm đại loạn” [2]. Có người đã thu cả hai chân lên ghế, có người chân trên ghế chân dưới sàn, có người đứng phắt dậy mà hoa chân múa tay, có người chỉ quay sang nói với người bên cạnh, ý tứ giảng giải, âm thanh ôn tồn đủ nghe ... Ôi chao, cái sự ngôn luận mới tự do, mới thoải mái và đáng yêu làm sao ! Và trong cái góc ao xôn xao chao chát ấy, hắn quay sang phía cô gái, mỉm cười:
- Em có thấy là họ rất đáng yêu không ?
- Vâng !
Cô gái tinh quái và thẹn thò trả lời. Rồi vừa cười, vừa ngả đầu vào vai hắn, tin cậy. Hắn, như một tiền đạo tài năng được trời phú bầm, đoán được hướng bóng tất yếu của người đồng đội, không bỏ lỡ cơ hội, liền cầm lấy bàn tay nhỏ bé của nàng, thủ thỉ:
- Bàn tay em sao lại đẹp thế ?
Nàng không nói gì, để yên tay nàng trong tay hắn và đôi mắt tối sẫm như nhung từ từ khép lại, đôi môi hồng hơi mỏng hé nở một nụ cười ngoan ngoãn, mơ hồ ... Nhìn sang khoang bên, dỏng tai nghe ngóng, hắn vẫn thấy các điệu bộ đầy phấn khích, các ý kiến đầy thuyết phục vẫn thi nhau chao chát cất cánh, lấp lánh như những tia pháo hoa trong ngày hội lớn. Vậy là, trong bầu không khí náo nhiệt, thẳng thắn, hiền lành và "unsoiable" [3] ấy, hắn và cô gái đó, trong chừng mực hoàn cảnh cho phép, đã làm được tất cả những gì họ muốn một cách say xưa và mĩ mãn.
*
Trời đã sáng rõ. Chàng và nàng cùng xuống tàu. Lẫn trong đám hành khách đang đổ ra phía cửa ga ấy, tai hắn vẫn bập bõm nhận ra một vài giọng cố níu kéo, bày tỏ đến cùng những ý kiến ... Hắn tủm tỉm cười, cái cười chỉ thấy ở những thằng đểu: Chà ... một vài tia pháo hoa le lói ở phút chót tàn hội. Nàng nhận ra chàng đang tủm tỉm thì hỏi: “Anh cười gì vậy ?”. Trả lời nàng thế nào đây ? Hắn chỉ có thể cười, và đó cũng chính là lời đáp khôn ngoan nhất.
Cô gái của hắn đã có xe của liên doanh ra đón. Nàng dúi vội cho hắn mẩu giấy ghi số điện thoại cầm tay của mình và bịn rịn tạm biệt. Hắn đứng bên cửa nhà ga, tay trái đưa lên vẫy vẫy theo xe như người ta vẫn làm trong những trường hợp như thế, còn tay phải chậm rãi vò nhẹ mẩu giấy nàng vừa trao cho và kín đáo búng nhẹ vào một thùng rác công cộng cạnh đấy.
Bỗng có ai đó vỗ nhẹ vào vai hắn. Ngoảnh lại, nhận ra đôi mắt trong góc khoang xe đối diện đêm trước, hắn bèn mỉm cười thân ái. Còn gã kia thì nghiêm mặt, lấy tư thế, đứng chụm chân, hai tay nắm vào nhau, hướng về phía hắn, khom người cung kính:
- Con lạy bố !
Tháng 01 năm 2006
GIẢ CẦY
Tôi thật tốt số. Vợ tôi tuy hơi chậm chạp nhưng nấu ăn khá ngon. Vốn ít nói, việc gì cũng chỉ cặm cụi làm. Làm xong, nếu được khen là thích và tự cho rằng như thế cũng bỏ cái công cặm cụi. Thực ra, trong chúng ta, phần lớn đều như vậy. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, kết quả làm lụng thì khiêm tốn nhưng nói năng lại rất vang vang, thậm chí chẳng "làm gì cho tổ quốc" mà cứ đòi hỏi hoài, bao nhiêu cũng thấy chưa đủ, rồi hoặc là sinh ra ấm ức, bất mãn, hoặc là gây ra đến lắm cái nhùng nhằng phiền phức. Một lần, buổi chiều, sau một ngày làm việc và học tập rã rời, mấy bố con tôi cùng đói meo, chẳng thể làm được việc gì, thậm chí là nghe nhạc Johann strauss, bèn quây quần vào mâm cơm. Trên mâm mới chỉ có độc một cái bát tộ trắng hoác hơ, mấy cái bát ăn cơm, nắm thìa cùng đũa và cạnh đó là nồi cơm đã chín. Tôi buồn thiu, còn hai đứa con thì làm dịu cơn đói bằng cách gõ bát khua môi ầm ĩ. Những đứa trẻ, chẳng ai dạy, vẫn làm như thế đã từ hàng ngàn năm nay. Vợ tôi, mặt đỏ gay vì nóng, lật đật bê từ trong bếp ra một cái nồi.
- Có đây, có đây ! Gớm, nóng tính thật ! Chiều nay vội quá. Hôm nay nhà mình ăn "chuyên đề". Mấy bố con chịu khó nhé.
Ăn "chuyên đề", theo lối nói của vợ tôi, nghĩa là trên mâm có nhõn một món ! Thằng anh nghe thấy vậy thì mặt mũi liền ỉu xìu và tỏ thái độ bằng cách tiếp tục khua bát đũa. Vung được mở ra. Trật tự được lập lại tức thì, không cần đến một câu nhắc nhở hoặc khiển trách nghiêm khắc thông thường, bởi trung ương thần kinh của ba bố con đã nhận được những thông tin về mùi và, trong khoảnh khắc, đưa ra những dự đoán khá chính xác về vị. Chúng tôi lập tức bị khuất phục bởi các hạt vật chất nhỏ li ti, từ cái nồi ấy, nhẹ bay ra và quện vào nhau thành một làn khói vừa dễ thương mà vừa đầy quyền lực.
Vợ tôi, mấy sợi tóc bết trên trán vì mồ hôi mồ kê, cầm lấy cái bát tộ, nghiêng mặt né làn hơi nóng hôi hổi đang bốc lên nghi ngút từ miệng cái nồi, thận trọng múc thức ăn ra. Hai đứa con tôi dướn cổ lên, đưa những cái cánh mũi đang phập phồng về phía làn khói thơm phức, đầy sức mê hoặc mà "thám hiểm".
- Món gì mà thơm thế mẹ ơi ? - Thằng anh, vốn háu ăn, lim dim hít hà.
- Giả cầy ! - Con em nói, giọng đầy kiến thức - anh quên rồi à ?
- Đúng đấy, con gái có khác, nhưng món này vẫn chưa phải là tuyệt chiêu của mẹ đâu ! - Tôi nói, giọng có lẫn chút nịnh đầm, nhưng vì phản ánh đúng hiện thực khách quan nên không gặp một chút phản ứng khiêm tốn nào, dù là yếu ớt.
Con em, thoắt cái, trở nên hoạt bát, kéo nồi cơm về phía mình và bắt đầu xới cơm cho cả nhà. Thằng anh háu đói như bố, bắt chước tôi, gắp tạm ứng ngay một miếng, đưa vào miệng, ngồi thẳng dậy, nhai nhồm nhoàm; thỉnh thoảng nó dừng lại, tâm trí dường như dồn cả vào miếng thịt trong miệng. Lát sau, nó gật gù mãn nguyện: "Mẹ nhà mình đúng là bậc kỳ tài trong thiên hạ !". Tôi cười đồng tình: Mùa hè vừa rồi cu cậu mới đọc được bộ Tam quốc diễn nghĩa có khác !
Những thứ mắm tôm, rượu trắng, củ xả, củ giềng, mẻ, chân giò thui vàng ươm ... nếu để riêng rẽ thì biết rồi đấy: cũng thường thôi ! Nhưng, quả thực, một khi chúng tụ hội với nhau thì ghê gớm thật; ngay đến bậc hiền nhân quân tử, dù cứng cỏi đến mấy, cũng phải bất giác mà xao xuyến, tim đập rộn ràng, nụ cười rộng mở. Cơm trắng sốt dẻo, rưới chút nước vàng sậm, sền sệt riêng có của thứ nước bì móng giò, ăn với những miếng thịt vàng xậm, có đủ cả bì với mỡ cùng nạc, đã được thui đến độ cháy cạnh và ngấm nghía vào đó đầy đủ cái cay nồng ấm nóng của khóm giềng bên bể nước mưa, cái cay mát thoảng ngọt của khóm xả trong góc vườn sau nhà, cái vị chua dịu dàng của thứ mẻ được đựng trong những cái âu sành hoặc cái bình tích sứt vòi để bên bếp nấu, bụi tro rơm rạ phủ lên một lớp mỏng để rồi cùng với hơi ấm của lửa ấp ủ nuôi dưỡng nên cái vị mà mỗi khi nhớ về một miền quê, không ai không thấy nó hiện lên. Bé mọn thế thôi nhưng chính chúng là những sợi trong vô vàn những sợi lớn sợi bé tạo nên cái vầng cội sừng sững của một nền văn hoá khiêm nhường mà sang trọng, sáng trong mà quật cường. Tất cả những thứ đó, cho thêm một chút rượu đục (thứ mà cụ Nguyễn Trãi vẫn ưa dùng) cùng bóp lẫn vào thịt sống, để cho hương và vị đủ ngấm đến tận từng thớ thịt rồi mới đặt lên bếp. Kể cũng lạ: Trước khi chế biến, rượu là rượu, giềng là riềng, xả là xả, mẻ là mẻ, mắm tôm là mắm tôm ... thứ nào có cái tôi của thứ ấy, không thứ ý chí ẩm thực nào - dù là độc tài và sắc bén đến mấy - có thể cơ học mà đổ đồng được ! Vậy mà một khi được những đôi tay mềm yếu của phụ nữ xứ ta phối lại với nhau, chúng lại cho ta một hoà vị hoà hương tuyệt đến mức, xin đánh cuộc, đến cụ Tản Đà cũng phải bối rối !
Mà sao lại gọi là giả cầy ? Tôi không dám võ đoán vì đã e biết đâu từ "giả" lại chẳng phải là một từ Hán Việt. Vậy là tôi đi tìm các cụ cao niên để hỏi. Thì ra cái sự cẩn thận của tôi là thừa. Từ "giả" là một từ thuần Việt, có nghĩa là không thật. Ngày xưa, thịt chó không sẵn, muốn ăn thường phải mấy nhà rủ nhau đụng một con. Mà cũng là nhân dịp gì đấy thì mới làm. Bấy giờ chợ búa chủ yếu là bán thịt lợn và thịt gia cầm. Thịt lợn - nếu diễn đạt theo lối thời nay - được gọi là "cơm". Những gia đình có mức sống từ trung lưu trở xuống cũng chỉ mua mỡ là chủ yếu, để ăn được lâu, tiết kiệm mà khớp đầu gối vẫn trơn tru nhẹ nhõm. Đôi khi, phấn khởi lắm cũng chỉ mua đến miếng dọi là cùng. Còn thịt chó thì được coi là "phở", chỉ để ăn chơi trong những lúc "trời đi vắng" thôi, chứ có đâu như bây giờ: Công nghệ Cầy tơ đa món, đa phương phát triển đến mức thịnh hoạt, người ăn thuộc đủ các hạng, chẳng kể sang hèn, bất lương hay không, đều ngồi xếp bằng trên phản, bên cạnh có mấy em mắt xanh mỏ đỏ lả lơi chuốc rượu tiếp nhắm cho cái sự ẩm thực thêm phần trữ tình. Nghĩ mà xem, bình thường có ai gọi thịt lợn, thịt gà, thịt bò ... là đặc sản đâu. Nhưng thịt chó thì có đấy ! Bởi cấu tạo vật lý và thành phần hoá học của nó có cái đặc biệt và cách chế biến cũng có cái "không giống ai". Phàm người nào trong đời đã có một lần được thưởng thức thì lần sau chỉ cần thoáng ngửi, dù chỉ là một sợi khói vương lên từ kẽ vung, thì lập tức à lên một tiếng, nở một nụ cười chan chứa phong vị "ẩm thực" rồi phán: chính nó !
Vì vậy, để sửa chữa cái khuyết điểm vì đã nghèo túng vất vả, không phải lúc nào thích mà có được ngay cái thứ thịt chó huyền bí đó, người ta bèn sáng kiến ra cách dùng thịt lợn, chế biến theo lề lối của thịt chó để thoả mãn đáng kể niềm hứng khởi khiêm tốn của mình. Món đó được gọi là giả cầy, phỏng theo món dựa mận, đỉnh cao của nền thịt chó chân chính mà vùng nào cũng có.
Từ xưa, thường, con người ta vốn ghét cay ghét đắng hoặc không đánh giá cao những gì gọi là giả. Tỷ như trong lĩnh vực Nhân học: giả nhân giả nghĩa, giả điên, giả điếc, giả tạo, giả dối, giả trá ... Hoặc trong lĩnh vực Đồ đạc học: giả da, giả vàng, giả kim cương, giả hiệu, giả cổ ... ấy là thường, vậy tất phải còn những cái không thường. Từ xưa, chẳng phải đã có những người giả điên giả dại để bảo toàn bí mật cho tổ chức của mình; chẳng phải đã có những người giả điếc để đào tạo lớp trẻ và sống được qua những thời minh di đó sao ? ... Các loại chân tay giả chẳng phải đã đưa các thương bệnh binh, những người không may tàn tật tiệm cận lại với cuộc sống ? Trong một buổi tiếp tân, chẳng phải bạn đã từng giả như không thấy một sơ xuất vô hại của ai đó, tránh cho người ấy một khó xử tế nhị đó sao ? Phụ nữ xứ nào chả thích làm đẹp, nhưng đâu có phải tất cả đều có đủ năng lực tài chính để thực hiện đầy đủ việc đó. May sao, những người chỉ quan tâm đến cái đẹp thuần mỹ đã có ông Mỹ Ký hỗ trợ. Số còn lại, có thiên hướng tài chính, thì bĩu môi, lười biếng hé mắt: Chà, đồ mỹ ký !. Nhưng tất cả đều có một điểm chung là coi thường các loại "Học vấn mỹ ký", "Danh vọng mỹ ký". Tất nhiên, ở đây, mỹ ký đã trở thành một tính từ đích thực, hai mặt, như biểu tượng Thái cực vậy. Đáng tiếc là ở chỗ, con người ta rất ít khi khai thác nó ở phần ý nghĩa đẹp đẽ ! Phải chăng, cái sự giả thứ hai này xuất phát từ cái tâm muốn vươn lên cái chân mỹ, từ năng lực không ngừng say mê sáng tạo vì cái chân thiện ? Vậy nên có những cái, tuy giả mà lại cao quí, đáng trân trọng; Giả cầy nằm trong số đó !
Bố con tôi thành thực hỷ hả, hồn nhiên lặn hụp trong không khí bữa ăn gia đình. ở đây, mọi lễ nghi rườm rà đều gác lại, chữ Lễ được cải tiến, tinh giản hơn, sao cho trong khuôn khổ đó cái tôi hồn nhiên, hàm chứa nhiều "tiềm năng", được phát triển thoải mái tự tại. Hạnh phúc đã đạt đến độ viên mãn, bằng chứng là thằng con trai tôi, sau khi ăn xong, vươn vai đứng dậy bên cái nồi đã sạch bóng, hứng khởi phát tác: "Mẹ nhà mình muôn năm !". Và lập tức, con em cũng giơ tay, hô tướng lên: "Bố nhà mình cũng thế !". Vợ tôi ngừng tay dọn mâm bát, ngồi yên, ngắm các chúng sinh, nở một nụ cười mãn nguyện.
Thực ra, phần lớn các bà vợ xứ ta, ít nhiều, đều có cái nhu cầu được chăm sóc, quán xuyến chồng con và, trong tầm điều tiết của mình, đều muốn cho chồng con mình luôn được thoả mãn, sung sướng và phát triển hết công suất. Hai hôm sau, bố con tôi lại được gặp lại món giả cầy yêu thích. Không khí bữa ăn vẫn hào hứng. Khi thu dọn mâm, vợ tôi múc chỗ còn lại, cho vào một cái bát con sạch sẽ tinh tươm: "Mẹ không cho vào tủ lạnh đâu, lát nữa học xong, đứa nào thấy đói thì ăn nhé !"
Cuối tuần đó, ngày nghỉ có nhiều thời gian, vợ tôi - như đã nói trên, chỉ nhăm nhăm muốn cho chồng con mình luôn được thoả mãn, sung sướng - lại mở đại hội giả cầy. Ăn được mấy miếng, tôi có cảm giác uể oải thế nào ấy. Quan sát hai đứa con, tôi thấy hình như chúng cũng thế. Nhưng, nhờ trời, có lẽ người cũng phú cho chúng cũng một chút phẩm chất tinh tế thì phải: Cảm xúc ẩm thực cho dù là kém sôi động, nhưng chúng vẫn cứ gắp, cứ múc đều đều, khéo léo không để lộ ra cái vẻ nhẫn nại đầy ý chí rất có thể làm rầu lòng mẹ chúng. Kết thúc bữa ăn, thấy vợ ngồi thừ, nhìn nồi giả cầy vẫn còn đến phân nửa, nét mặt thoáng buồn, tôi thấy thương quá. Lúc ấy, trên ti vi đang có chương trình ca nhạc Những bài hát về Hà Nội. Nhạc dạo đầu của bài Nhớ về Hà Nội vừa cất lên, tôi liền cầm lấy cái điều khiển chuyển phắt sang kênh khác. Thật may, kênh này cũng đang có một chương trình ca nhạc: Mùa xuân, mùa xuân, một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời ... "Bố thích nhạc vui hả bố ?" - Con em, vừa bưng cho tôi chén nước, vừa trêu chọc bố. "ừ !" - Tôi cười, trả lời cho qua chuyện.
Nhớ về Hà Nội là một bài hát rất hay, được rất nhiều người yêu thích. Cách đây trên dưới hai chục năm gì đó, lúc bấy giờ tôi chưa lập gia đình, chương trình truyền hình của ta chưa phong phú và thời lượng phát sóng chưa cao như bây giờ. Cứ mỗi buổi chiều, trước giờ phát sóng chính thức nửa tiếng, đài truyền hình Hà nội bắt đầu phát đi bài này. Dân mình, chẳng hiểu thế nào, chẳng ai bảo ai, cứ đến giờ đó là nhất loạt bật máy thu hình; rồi từ đủ các loại máy lớn máy bé, "made in" từ nhiều quốc gia với đủ cấp chất lượng, phần lớn đã qua sửa chữa và sang tay nhiều chủ, cùng phát ra đủ loại chất lượng âm thanh với nhiều cỡ âm lượng, dội từ nhà này sang nhà khác, và cứ thế, như một dàn đồng ca được nhân bản vô tính, ùa ra tràn ngập cả các vỉa hè, đường phố. Còn tôi, cũng vào giờ đó, rời nhiệm sở, vai đeo nhũng nhẵng chiếc túi đựng vài thứ tài liệu lằng nhằng cùng chiếc cặp lồng cơm trưa đã rỗng không, uể oải đi bộ từ Bờ Hồ, trên nền ca khúc đó, dọc theo Hàng Bài, phố Huế để về nhà. Bài hát quả là tuyệt. Tôi thầm cảm ơn đài truyền hình đã tặng tôi món quà âm nhạc đó vào cái giờ mệt mỏi nhất trong ngày và vừa đi vừa lắng nghe, vừa nuốt lấy từng lời của ca từ, từng nốt nhạc óng chuốt của cái khúc thức chậm rãi, lịch lãm, đầy hoài niệm và man mác buồn của ca khúc đó.
Ngày nào cũng như vậy. Nghĩa là tôi cũng vẫn đi về dọc theo những con phố ấy, cũng nghe một ca khúc ấy, mà cái ca khúc ấy vẫn thế, vẫn say sưa, vẫn tha thiết, vẫn hoài niệm đến cháy lòng, nếu có khác thì chỉ có một điều là hình như âm thanh của nó có rè hơn trước, bởi có lẽ nó được phát từ một cuộn băng nghiệp vụ. Rồi đến một hôm, tôi chợt nhận thấy mình trở nên lơ đãng, cái sự thưởng thức không còn được cháy bỏng, nồng nàn như ngày nào. Và một cảm giác bực bội, bức xúc, oi ả, vô lý cứ lớn dần lên mà không hiểu tại sao. Về đến nhà, thấy mẹ tôi đang ngồi nhặt rau muống trước cửa và chiếc ti vi trong nhà cũng đang hắt ra cái giai điệu đã quá quen ấy. Tôi có cảm giác rằng mình phải làm một việc gì đó, nhưng lại không biết là phải làm việc gì. Cái cảm giác bực bội, oi nồng vẫn âm ỉ, dấm dẳn, nguyên vẹn theo tôi vào nhà. Mẹ tôi vẫn ngồi nhặt rau và rủ rỉ kể cho tôi nghe chuyện giá cả chợ búa không biết là tại làm sao mà cứ tăng đều đều, về cái tật chơi đề của chú Quốc nhà bên đã khiến hai vợ chồng trở nên xô xát to. Có tiếng lao xao ngoài phố: "Hôm nay đề về bao nhiêu mày ?". "92 !". "Số con lừa, khốn nạn thật ! Tại sao tao lại đánh con 29 kia chứ ? Đau quá !" ... "Ô ! Vào cầu rực lửa rồi !". "Bố ơi, đi lấy tiền mua ti vi thôi. Nhà mình có tivi rồi !" ...
Tai ù đặc, đầu nóng ran, tôi đứng phắt dậy, tiến về phía cái tivi tắt đánh phụp. Yên ắng trở lại, đầu tôi nhẹ bỗng. Mẹ vẫn thản nhiên ngồi cấu từng cuộng rau. Tôi nằm xuống giường, duỗi thẳng hai tay hai chân, nhắm mắt thiếp đi. "Dậy rửa mặt rồi ăn cơm con !" - Mẹ dịu dàng vỗ nhẹ vào vai tôi. Tôi mở mắt, nhìn mẹ, lòng tràn ngập một tình cảm biết ơn của con trẻ. Ngày nào mẹ cũng chăm sóc, che chở cho tôi như một cậu bé; mấy chục năm rồi cứ như thế mà sao không thấy chán, thấy nhàm; kỳ diệu thay quả tim con người ! Mấy phút chợp mắt đó, như một liều thuốc tốt, khiến tôi tỉnh hẳn ra, cảm giác thư thái tự tại đã trở lại. "Mẹ không bật tivi mà xem hả mẹ ?". "Để cho con ngủ. Mẹ có bật lên cũng chỉ để cho vui nhà thôi mà !" - Mẹ cười hiền từ - "Bố anh ! Thau nước rửa mặt mẹ để ở đầu hè ý, chóng lên không nguội hết cơm canh bây giờ !"
Tôi ngồi im, thờ thẫn nhớ lại những chuyện đó. Vợ tôi thấy vậy, đem cho tôi gói thuốc lá và cái gạt tàn rồi ngồi xuống bên, cười dịu dàng:
- Em xin lỗi bố con. Ngày mai em sẽ làm món Cua đồng rang mẻ - rồi cô quay sang hai đứa - các con thấy thế nào ?
- Hoan hô ! Mẹ muôn năm !
- Mới mẻ muôn năm !
- Liên tục mới mẻ muôn năm !
Hai đứa, được lời như cởi tấm lòng, xếp hàng một, hớn hở diễu xung quanh chiếc chiếu bố mẹ đang ngồi cùng với các thứ mâm bát chưa dọn, hồn nhiên hét toáng lên và, sau đó, hai cặp môi hồng tươi bắt đầu say sưa cử nhạc:
Ông Cò Loan
Người làng gọi ông là Ông Cò Loan bởi người con đầu lòng của ông tên là Loan và người ấy là kẻ sẽ có trách nhiệm chống gậy trúc, đội vành rơm, mặc áo sô thắt dây chuối trong đám ma của ông sau này. Cũng chẳng hiểu tại sao ông lại đặt cho con trai cả của mình một cái tên nhiều nữ tính đến thế. Có thể do ông thích đẻ con gái đầu lòng chăng ? Có được con gái đầu lòng còn thiết thực hơn cả ruộng sâu, trâu nái. Đối với ông, việc đó là hoàn toàn có thể hy vọng được; còn ruộng sâu trâu nái chỉ là những chất liệu tinh thần dân gian, làm cho giấc mơ của mình sau một ngày làm lụng mệt mỏi thêm phần trữ tình bay bổng. Phần thân xác duy trì được là nhờ lúa ngô khoai sắn, phần hồn là chỗ dựa của phần thân xác và nó đứng vững được ở cõi nhân sinh là nhờ những giấc mơ. Bí bách càng nhiều thì mơ càng lắm. Khi tần xuất và cường độ của những giấc mơ đạt tới một ngưỡng nào đó thì tất sinh ra cách mạng. Cách mạng là tươi sáng. Loan phượng cũng tươi sáng, vì chúng thuộc giống tứ linh. Tứ linh là bốn giống sang quý. Từ xưa, những nhà quan thường lấy chúng đặt tên cho con cái; về sau, những nhà có của ăn của để cũng học theo: cho nó sang; và khi những làn gió dân chủ trong lành đã toả tràn khắp nơi, nó trở thành thứ hoàn toàn bình dân. Một lần, ông nói: “Mẹ cha nó chứ, của đáng tội, cái tên ấy nghe cũng bay bay đáo để”. Mà, biết đâu đấy, cái tên ấy, cũng có thể là một ước mơ cháy lòng của ông, những mong sao cho con cái thoát khỏi cái đói triền miên, cái thân phận nghèo hèn truyền kiếp của ông bà, cha mẹ nó. Tiếc một nỗi, phần thân xác của ông tuy có một chỗ dựa huy hoàng là vậy mà thực tế những gì ông có được lại còi cọc đến chảy nước mắt.
Ngày ấy, thời gian Mỹ ném bom miền Bắc, gia đình tôi phải đi tản cư theo Hợp tác xã thủ công nghiệp, nơi mẹ tôi có công ăn việc làm. Làng Phượng, cách thị xã không đầy năm cây số, là địa phương chúng tôi tản cư tới; một cái tên đầy ứ chất thơ, mặc dù có bói cả tháng, khắp làng, cũng không ra nổi lấy một gốc phượng. Vậy thì, phượng ở đây, chắc hẳn, là cái tên thuộc giống Tứ linh rồi. Làng Phượng nằm giữa con đường nội tỉnh và núi Dàn, một quả núi thấp nhỏ có đủ cả cây mọc trên đá, dây leo bụi rậm và tiếng chim kêu … , dấu chấm hết về phía tây của dãy núi đá vôi bắt đầu từ trong Vức, nổi tiếng với những ngọn núi Nấp, núi Nhồi cùng hòn vọng phu từ lâu đã phải đứng trơ trọi, càng ngày càng cô độc trên một triền đá đã gần như phẳng lỳ vì người ta đã và vẫn không ngừng nổ mìn lấy đá để nung vôi, tạc bia mộ và đem rải đường. Ôtô chạy trên con đường từ thị xã lên mạn ngược, khi qua khu vực này bao giờ cũng để lại phía sau chúng những cái đuôi dài cuồn cuộn, đặc quánh những bụi đá trộn với bột vôi, bột than, phải lúc lâu sau mới tan hết được. Sống ở vùng này, lỗ mũi và mi mắt của ai cũng có màu bàng bạc.
Ông Cò Loan là dân làng Phượng. Loan - Phượng chẳng phải là một cặp trời sinh đó sao ? Có phải vì thế, từ lúc được cha mẹ sinh ra, ông đã gắn bó với cái làng này; gắn bó đến nỗi, dẫu biết là đi khai hoang trên mạn ngược, đất đai thoải mái, cuộc sống có thể no đủ, mà sao ông không thể nào quyết một bề mà dứt đi cho được. Có thể, còn có một cái gì đấy hệ trọng hơn cả miếng ăn. Cũng có thể, trong người ông không có nhiều chất cách mạng mặc dù trước đây cũng có lúc ông đã từng là một chàng trai lực lưỡng hào hùng, đã từng say xưa hát vang “Nhà ta không cần lo, đời ta không cần thiết, ta quyết chí hy sinh …”, hoà vào đoàn người đang cháy khát tự do no ấm, gậy gộc trong tay, tiến thẳng vào nơi phủ huyện, phá tan cái chính quyền ọp ẹp mang bản chất áp bức, bóc lột, cấm đoán, sách nhiễu và coi dân như cỏ rác, lập nên một chính quyền mới chỉ chuyên tâm làm những việc có ích cho dân.
Không hiểu sao, ngay từ lần gặp đầu tiên, tôi đã thấy rất có cảm tình với ông. Người đàn ông có đôi mắt đen ẩn phía dưới đôi mày rậm, nước da ngăm đen, khuôn mặt hơi gẫy, chân đi cà nhắc đó luôn nở một nụ cười hiền lành và rụt rè mỗi khi tôi chào ông. Ông đông con, đứa nào mặt mũi cũng lem nhem, quần áo vá chằng vá đụp. Bản thân ông cũng mặc quần áo vá; chỉ có điều, hai cái ống quần ta nhầu nhĩ của ông chưa một lần tôi thấy chúng được buông xuống một cách thảnh thơi. Tuổi ông cũng chỉ trạc tuổi bố tôi, nghĩa là khoảng ngót năm mươi, nhưng không hiểu sao, cả làng, ai cũng gọi là Ông Cò Loan. Tôi, chẳng nghĩ ngợi gì, cũng thuận miệng mà gọi theo như thế.
Có lẽ ông cũng quý tôi. Ông luôn gọi tôi là chú, xưng tôi chứ không gọi là thằng, xưng tao như đối với những đứa trẻ cùng lứa khác. Tôi hỏi tại sao, ông bảo: “Vì chú là người có học” (Lúc ấy tôi đang học những lớp bảy - hệ mười năm - kia đấy !). Đối thoại của tôi với ông, thường, đại loại như thế này:
- Ông Cò Loan ơi, cho cháu một đẫn tre.
- Ờ, cái bụi ở cuối vườn ấy. Thích cây nào thì chú chặt cây ấy.
Hoặc:
- Ông Cò Loan ơi, bện giúp cháu một cái mũ rơm nhé.
- Ờ, tối nay tôi làm, sớm mai chú sang mà lấy.
Một lần đi ngang qua nhà ông, qua kẽ hàng rào cúc tần, thấy ông đang rỡ giong diềng ở góc vườn. Thoáng nhận ra tôi, ông vẫy vào, đưa cho mấy vầng củ còn nguyên cả đất ướt:
- Chú đem về luộc mà ăn.
- Cháu cảm ơn ông, nhưng … cháu không lấy đâu.
Tôi biết nhà ông rất khó khăn, thường phải ăn độn đủ thứ mà không mấy bữa được no. Tôi ngại, nhưng không biết từ chối thế nào cho nó dễ nghe hơn. Ông ngẩn mặt, vẻ không bằng lòng:
- Bữa trước, thấy mẹ chú đi mua giong diềng, tôi hỏi, bà ấy bảo chú thích thứ này lắm mà … hay là chú khinh tôi nghèo ?
Tôi sợ quá, đành phải muối mặt mà cầm lấy.
Nói đến ông Cò Loan là, dứt khoát, người ta liên tưởng đến ngay cái đói. Cái nồi hai phần cơm tám phần khoai hoặc giong ấy cũng không mấy khi giúp gia đình ông quên được cái đói. Thuở ấy, nhà tôi cũng ăn độn, nhưng có sổ gạo và ăn độn bằng bột mỳ của nước ngoài, nên cũng có phần sang hơn. Người đời, nếu có đói, thì thường là đói meo, đói ngấu nhưng nhà ông lại chơi khác kiểu: Đói luỹ kế !
Túng thì phải tính, lối đời vốn vậy. Khi cái đói đã luỹ kế tới trạng thái tới hạn, ông cũng tính. Người làng ai cũng nói ông là người có tật hay ăn trộm. Mà ai cũng nói, thì “hẳn cũng phải vì sao đấy chứ” [1]. Vậy mà đối với tôi, cái việc vô đạo đức tày đình ấy, không hiểu sao, chẳng đọng lại chút ấn tượng gì nặng nề trong lòng. Mà, ngay cả cái làng này, kể cũng lạ, đã biết ông hay đi ăn trộm mà chẳng nhà nào có ý cảnh giác với ông; chẳng nhà ai dùng khoá; đi làm đồng, cửa nhà nào cửa cũng chỉ thấy khép hờ. Về chuyện cái tật ông đi cà nhắc, có mấy người kháo rằng một lần ông bị những người ở nơi mất trộm bắt được, họ mới điên tiết cắt phăng đi của ông một gót chân bên phải để cho mà nhớ, mà chừa hẳn. Tôi không tin, tôi bức xúc chạy thẳng đến nhà cụ đồ già (trước đây cụ dạy chữ nho trong xã) hỏi cho ra nhẽ. Nghe tôi nói xong, cụ rụi ngay cái đóm đang cháy dở vào khe cái điếu bát, nét mặt nghiêm sắt lại, tay chống xuống bàn, chòm râu bạc khẽ rung rung:
- Tầm bậy ! Thậm tầm bậy ! Hơn chục năm trước, nhà bác ấy đi đập đá thuê cho xí nghiệp vôi đá trong núi Nhồi, lỡ bị đá lăn đè phải chân nên mới thành tật vậy đó !
- Người ta còn nói ông ấy ăn trộm đã thành nghề nữa cụ ạ.
- Nghề … thì chưa hẳn - giọng cụ dịu xuống - Nhưng ông ấy cũng chỉ trộm của nhà nước với hợp tác xã thôi … mà cũng chỉ ở vùng khác, tận nơi nảo nơi nào không biết nữa. Cháu tính, có ai đi làm công điểm cho hợp tác xã mà tận lực ? Lúa má ngoài đồng năm nào nom cũng loe hoe; năng suất làm sao cao được, thành thử thóc chia theo mùa vụ cũng chẳng được là bao, nhà lại đông con. Muốn trồng trọt thêm cái gì cho các con thêm cái mà ăn thì không có đất. Muốn vào núi làm đá như trước cũng chẳng được, chân cẳng ông ấy như thế thì ai người ta thuê. Họp hành thì ai ai cũng đua nhau phát biểu bao la ngút ngát, nhưng mà … có ai quan tâm đến hoàn cảnh ông ấy đâu ! Chậc, biết làm thế nào hở cháu ! … Ờ - Đôi mắt cụ đồ bỗng sáng lên - cứ loanh quanh thế mà rồi cũng góp được thằng Loan vào bộ đội đi nam rồi đấy !
Ngày ấy, tôi học buổi sáng, buổi chiều về nhà vẫn nhận làm thêm thùng đựng nước mắm, thùng đựng sứa cho xí nghiệp nước mắm Hưng Hải; loại thùng ghép bởi những thanh gỗ tạp rồi chít các đường ghép cho kín lại bằng thứ nhựa lấy từ cây sơn trên rừng, nên cũng có đồng ra đồng vào. Tôi hay sang nhà ông bảo mấy đứa nhỏ học bài. Thỉnh thoảng lại đem sang cả lọ mực Cửu Long hoặc ít tập giấy viết măm hào hai (tôi cậy cục nhờ người quen mua cho ở công ty bách hoá tỉnh), nói dối là được thưởng, không dùng hết. Lần nào Ông Cò Loan cũng lặng im, rồi sau đó bảo mấy đứa: “Chúng bay cố mà học được như chú ấy, rồi ra đời chúng bay mới no được. Giống tao thì đếch ra gì !”.
Chao ơi, có mỗi một chữ no thôi mà sao nó lại nặng đến thế. Không nhẽ tư tưởng “Dĩ thực vi thiên” của người Trung Hoa cổ đại nhập khẩu sang ta cả ngàn năm nay vẫn còn đất sống ?
*
Về phương diện thân xác, có lẽ, đói và rét là hai cái khổ nhất của con người. Mùa đông làm ra cái rét. Cái đói cũng sinh ra cái rét. Rét mướt vì rách rưới thì có thể kiếm lửa mà sưởi, nhưng rét run vì cái đói thì chỉ có ngũ cốc mới làm cho dịu được. Lửa đem hơi ấm từ bên ngoài tới, ngũ cốc toả nhiệt từ bên trong ra. Lửa làm ấm theo diện tích, ngũ cốc thì làm ấm theo thể tích; thậm chí, còn làm ấm cả những thứ không thể đo lường được bằng các đại lượng vật lý cổ điển. Ngũ cốc tốt tươi hay vàng úa đều bởi ở đôi bàn tay, hoạt động của đôi bàn tay lại được lập trình bởi cái đầu. Cái đầu tối tăm thì dẫu cái tay có chăm chỉ, khéo léo đến mấy cũng vứt. Ông Cò Loan hay mơ; vậy ông là kẻ lãng mạn. Điều ông mơ tưởng đến nhiều nhất là những bữa no nê; vậy, trong ba mươi sáu thứ lãng mạn, ông mang tư tưởng và chính kiến của phái lãng mạn ẩm thực cổ điển.
Mùa đông năm ấy, không hiểu sao, rét tệ rét hại. Vậy mà sớm nào tôi cũng đều đặn thức dậy lúc bốn rưỡi sáng để có thể kịp vượt bảy tám cây số đường đồng cho kịp giờ học. Có hôm mưa phùn gió bấc, đường trơn lầy lội, giá rét căm căm, tấm áo mưa đã bị rách đôi chỗ không ngăn nổi những giọt nước buốt cóng đang bắt đầu theo nếp buộc chảy vào trong cổ, đi qua mấy bãi tha ma mà thấy ớn đến tận sống lưng. Sau này, thấy con cái hay ỷ vào tiện nghi, tôi thường kể lại những cái khó cái khổ ngày ấy để giáo dục tinh thần hạt tiện và vượt khó cho chúng. Lần nào chúng cũng cười ngặt ngẽo: “Bố ơi, sao lúc nào bố cũng nói chuyện cổ tích thế ?!”. Sau nhiều lần truyền thuyết một cách “teno” mà vẫn chẳng thành công, tôi mới dần ngờ ngợ nhận ra một điều: Đấy là do hoàn cảnh. Con người ta thực ra có tính thích nghi rất cao. Giả thử, các con tôi cũng được đặt vào hoàn cảnh ấy, chắc hẳn chúng cũng sẽ vượt qua; biết đâu chúng còn xuất sắc hơn cả bố chúng. Vậy thì có gì đáng tự hào chứ ! Và tôi bèn thôi, không tiếp tục “nói chuyện cổ tích” nữa. Nói nữa, đâm ra, sẽ đi ngược lại tư tưởng “độc thiện kỳ thân”, sẽ mắc lỗi huyênh hoang gậm nhấm quá khứ, tự mình đề cao mình, lấp liếm những cái kém cỏi của mình bằng những việc mà các con tôi, trong hoàn cảnh đó, cũng tự nhiên vượt qua được; thậm chí, còn vượt đẹp ! Hơn nữa, thực ra, có một điều ít nhiều trí trá: Tôi đã lờ tịt đi, không đưa vào “chuyện cổ tích” với hy vọng các con tôi sẽ không bao giờ biết được, rằng cái sự gọi là “kiên cường vượt khó” ấy thực ra là do tôi tự đày đoạ bản thân, đày đoạ cả mẹ tôi sáng nào cũng phải phấp phỏng canh chừng thời gian để gọi tôi dậy sớm và sau đó, lọ mọ trong ánh đèn dầu madút đỏ quạch, mù mịt khói muội, nấu cho con cái gì đấy để yên trí rằng “thằng bé” đã được ấm bụng trước khi cắp sách ra khỏi cửa, trong khi tôi có thể dễ dàng xin học ở một trường hoàn toàn gần nhà, làm một điều giản dị như tất cả những đứa trẻ khác lúc bấy giờ đã làm. Cũng chỉ bởi tại tôi thích khác người, thích oai (Học ở trường tỉnh kia đấy !); cái oai vay mượn, chắp vá, không có trong danh mục vốn tự có.
Trời càng rét, càng thấy cái bụng nhanh đói tợn. Hôm ấy, mới khoảng mười giờ sáng, ngồi trong lớp học đã thấy đói cồn cào. Tan học, tôi hối hả đi thẳng về nhà, chứ không la cà ngó nghiêng, bắn chim bắn sáo như mọi ngày. Vào nhà, quẳng sách vở xuống phản, tôi xà ngay vào mâm cơm mẹ để phần, mở lồng bàn ra … Trời, không thể tin được: Một đĩa nhỏ thịt bò xào ! Một thứ vô cùng xa xỉ lúc bấy giờ, đã lâu lắm tôi mới được trông thấy. Thời ấy, mổ bò có nghĩa là phá hoại sức kéo nông nghiệp, đương nhiên là mang tội phá hoại sản xuất; tội này to lắm và, nếu muốn, người ta có thể dễ dàng quy về những ý nghĩa chính trị nào đó. Mà chính trị, người Trung Hoa bảo, là thống soái lắm vậy.
- Ai cho nhà mình Thịt bò đấy mẹ ? – Vừa nhồm nhoàm, tôi vừa hỏi.
- Mẹ nhờ bác Trang gái mua hộ đấy – Mẹ cười - À, bố vừa gửi về cho con đôi dép nhựa Tiền Phong. Nhất anh đấy !
Mấy tuần sau, mẹ tôi nhận được một cái giấy gọi của công an huyện. Thì ra cái giấy đó liên quan đến món thịt bò tôi được ăn: Đấy là thịt của con bò mà Ông Cò Loan đã bắt trộm ở xã trên, làm thịt, chỉ lấy phần mông đem bán (Thảo nào mà ngon thế !); còn toàn bộ, đem chôn xuống đất, phi tang. Liền sau đó, người ta đưa ông ra toà. Mẹ tôi và những người mua thịt bò đều nhận được giấy triệu tập ra toà để làm chứng. Toà kết án Ông Cò Loan bị đi tù. Nơi thụ án không phải là trại giam Cầu Gạch, nơi gần chỗ chúng tôi tản cư. Do tình hình chiến tranh, lúc ấy, trại đã được sơ tán lên một huyện trên mạn ngược.
Ông cò Loan đi tù rồi, tôi thấy buồn; nhiều lúc ngơ ngơ ngẩn ngẩn, buồn cười lắm. Như kẻ nghiền thuốc lào bị người khác giấu mất cái điếu cày, lúc ấy tôi mới nhận ra ông đã thực sự trở thành một mảng không nhỏ trong đời sống tinh thần của mình từ lúc nào không biết. Đi tù, dù đối với người chưa từng lịch duyệt, cũng biết là khổ lắm. Khổ nhất là mất quyền công dân. Cũng may, Ông Cò Loan của tôi là người chưa bao giờ đọc sách báo, ông chỉ mải lo kiếm cái ăn nuôi con.
Thì vẫn biết có tội là phải đi tù, nhưng cứ nghĩ đến việc ông ấy đang bị nhốt trong nhà giam là tôi cứ thấy lòng dạ nao núng, không yên. Vậy là, kỳ nghỉ hè năm ấy, tôi quyết định lên trại giam thăm ông. Trái ngược hoàn toàn với những gì tôi mường tượng về hoàn cảnh trong tù của ông, dù trong lòng rất quý ông, tôi cũng không thể tưởng tượng ra rằng Ông Cò Loan của tôi lúc ấy đang ăn ở, sinh hoạt chung với đơn vị quản giáo ! Nghĩa là: Ông chỉ bị nhốt về mặt lý thuyết; và hơn thế nhiều lần: Ông đang làm chức tổ phó tổ cấp dưỡng của trại !
Mừng vui quýnh quáng … sau một hồi loay hoay, hết nhấc ghế lên lại đặt ghế xuống, hết nhấc chén lên lại đặt ấm xuống, mãi ông mới rót được cho tôi chén nước rồi hỏi đủ thứ chuyện ở làng. Có điều, vẫn chẳng giống ai, ông không hỏi những câu kiểu như: Người làng nghĩ về tôi ra sao khi tôi phải vào tù ?
Trước khi chia tay, tôi bẽn lẽn đưa cho ông hai chục bạc, bảo là để thỉnh thoảng ông mua thuốc lào. Ông gãi đầu, cười như kẻ biết mình bất nhã:
- Tôi thực là không thiếu thốn gì, tôi không lấy của chú đâu. Vụ vừa rồi, tôi vỡ đất, trồng được mấy vạt sắn đấy. Khi nào về dưới ấy, nhờ chú mang giúp một tải sắn về khô cho chúng nó. Lúc nào rỗi rãi, chú sang bảo ban chúng nó học hành là cũng kể như kiếp này tôi có phúc rồi.
- Bao giờ ông được ra tù ?
- Nghe các cán bộ nói tôi cải tạo tốt nên sẽ được giảm án - Ông ngừng lời, nét mặt trùng xuống, ánh mắt thoáng buồn - Có dễ … chỉ nửa năm nữa là về hẳn.
Nửa năm sau. Một chiếc xe hàng dừng lại ở bãi Voi Đá Ngựa Đá ngoài làng. Người “lơ” xe vừa càu nhàu vừa hỳ hục dỡ xuống gần một chục cái bao tải căng phồng cho một hành khách có dáng đi cà nhắc. Ông Cò Loan đã trở về làng thật !
Vài người xì xầm, nghi ngờ: “Chẳng biết nhà tù có làm cho chừa được cái tính ấy không ?!”. Hoặc: “Bây giờ thì các hợp tác xã lại phải tăng cường trị an thôi !” ...
Tôi mừng lắm. Ông làm thịt hai con gà, sai con mời tôi sang uống rượu. Được mươi hôm, ông bảo tôi:
- Ngày mai tôi đi, ở nhà, lũ trẻ ấy mà, vẫn nhờ chú đấy.
- Ông đi đâu ? – Tôi ngạc nhiên.
- Lên trại.
- Hết án rồi cơ mà ?
- Ừ, hết rồi.
- Sao ông lại lên ?
- Chậc, tôi xin ở lại.
- Thật thế á ?
- Thật mà !
- Nhưng mà tại sao chứ ?
- Ờ … ở trên ấy … lại tốt. Cả cha, cả con đều …đỡ khổ.
Tôi há hốc mồm: Thật quái gở, người ta mong ra tù sớm còn chẳng được, đằng này đã được ra rồi còn xin ở lại … Hay có thể đấy chỉ là cách giải thích, chứ thật ra … rõ là ông chưa mãn hạn tù. Ông được về thăm nhà chẳng qua là nhờ cán bộ quản giáo có ý ưu ái riêng thôi. Trong lòng thấy buồn, tôi không cật vấn gì thêm nữa.
Sáng hôm sau, là chủ nhật, tôi lấy xe đạp đèo ông ra bến xe để ông lên trại.
*
Bẵng đi hai năm. Một hôm, có việc đang đi ngoài đường, tôi nhận ra một người mặc bộ đại cán bốn túi, dắt chiếc xe đạp Thống Nhất sơn xanh mới coóng, phía sau đèo hai cái tải to, dừng xe bên vệ đường đang cười với tôi. Quái thật, mình có quen không nhỉ ? ... Ôi trời, tôi quýnh lên:
- Ông Cò Loan ! Ông Cò loan thật à ? … Oách quá ! Cả xe đạp nữa !
Ông cười ngượng ngịu:
- Bây giờ tôi cũng được biên chế nhà nước rồi, thành cán bộ quản giáo của nhà nước rồi, thoát ly [2] rồi - Ông vỗ nhẹ tay lên ghi đông xe - Trại mới ưu tiên phân phối cho tôi đấy. Trưa nay, chú sang nhà uống chén rượu, mừng cho tôi nhé !
TÂM SỰ CỦA MỘT CHÚ CHÓ
Tôi là một con chó. Một con chó bình thường như tất cả những con chó nhà khác. Người ta nuôi chúng tôi để chúng tôi trông nhà, đi săn, làm bầu bạn (số này ít thôi), để cho vui hoặc chỉ đơn giản là làm cảnh và thậm chí chỉ cốt để phô bày cho thiên hạ thấy cái nếp thời thượng cao sang, thời trang cập nhật của gia đình mình. Do xuất thân là giống chó vùng rừng núi, có tầm thước vừa phải nhưng khoẻ mạnh, nhanh nhẹn và tinh nhạy nên tôi được ông chủ Bệu - là chủ hiện giờ của tôi, người thấp và mập nhưng không hiểu sao thịt ở má và cằm cứ chảy võng xuống - nhân một chuyến công tác vùng sâu vùng xa, xin đưa về nuôi để giữ nhà.
Ngày ấy, thực ra tôi không muốn đi tí nào. Khi nghe ông bệu ngỏ ý muốn xin tôi đưa về xuôi, tôi phát hoảng, trốn biệt vào rừng. Đến xẩm tối, tôi mò về, thấy im ắng, mới rón rén đi vào nhà. Ông chủ thấy tôi đứng thập thò ngoài cửa liền gọi tôi vào, lấy cơm cho ăn. "Khổ mày, suốt từ sớm đến giờ chẳng có gì vào bụng - ông nhẹ nhàng xoa đầu tôi, buồn bã thủ thỉ - tao cũng đứt từng khúc ruột ấy chứ, nhưng đành phải thế thôi. Người ta thích mày quá mà, người ta lại giúp tao xin việc cho thằng A Bay nhà mình đấy. Làm việc dưới tỉnh thì không phải khổ; Nó lấy vợ ở dưới ấy rồi từ đời con nó cũng thế. Mày xuống Thủ đô ở với ông ấy không khổ như ở với tao đâu mà. Thôi, mày giúp tao vậy !". Nghĩ cũng phải, nhưng trong người cứ thấy buồn quá. Tôi không nuốt nổi chỗ thức ăn còn lại, lẳng lặng đi vào xó nhà, nằm xoài, thở dài. Ông chủ nhìn tôi, cũng thở dài. Đi thì đi, đi để trả nghĩa cho một gia đình đã rất quý mến tôi, đi cho biết đó biết đây ! Thế là tôi quyết định ra đi mặc dầu trong lòng rất luyến tiếc nơi chôn rau cắt rốn của mình và cũng không khỏi có chút bịn rịn với gia đình nhà chủ.
Đúng là ở với ông chủ Bệu có đầy đủ hơn thật. Ngày nào tôi cũng được ăn những thứ mà ngay cả ông bà chủ cũ của tôi mỗi năm cũng chỉ được ăn một đôi lần vào những dịp lễ, tết. Có điều, bà chủ mới chỉ cho tôi ăn khi họ đã xong bữa và đồ ăn của tôi được vét từ các bát đĩa thức ăn còn lại của mâm cơm. Còn hồi ở quê, bà chủ xới cơm cho tôi cùng một lượt với mọi người trong nhà. Ông bà chủ, các cô cậu và tôi cùng vừa ăn vừa cảm nhận hơi ấm toả ra từ cái bếp lửa bập bùng kề bên, từ những chuyện cả nhà nói với nhau về công việc nương rẫy, về việc học tập của trẻ con, về một cô Lủ nết na nào đấy ở bản bên. Về đây, tôi trở nên sạch sẽ, thơm tho, bóng mượt và đỏm dáng hơn. Cứ một tuần, chị người ở lại lôi tôi ra tắm cho một lần bằng cái cục màu hồng nhờn nhờn có mùi thơm là lạ mà sau này tôi được biết họ vẫn gọi là xà phòng thơm. Thỉnh thoảng, trước khi có mấy ông hồng hào, ngực ưỡn đi những chiếc xe lùn màu đen bóng nhẫy đến chơi, tôi còn được xì thêm một chút nước thơm sực nức từ cái lọ bé xíu mà bà chủ lấy từ một cái bàn nhỏ có gương đặt trong buồng ngủ của mình. Bà bảo: "Cho nó đỡ hôi, nếu không, khách khứa đến thì ngượng lắm !" Thực ra, tôi cũng không biết là mình có khổ hay sướng hơn trước không. Tôi chỉ thấy tù chân tù cẳng, chỉ thấy nhớ cánh rừng già mà chỉ cần phóng từ đầu nhà ra một quãng ngắn là tôi có thể chui vào những tán cây sùm xoà, xanh thẫm mà tha hồ nhảy nhót, sục sạo và thả sức hít căng lồng ngực làn không khí trong lành ẩm mát, phảng phất thứ mùi thơm khó tả của lớp lá cây mục, gỗ mục trộn với đủ các thứ hương toả ra từ các thứ lá và hoa rừng. Thứ mùi có sức mê hoặc tựa như khói của một loại nhựa màu nâu sẫm khi đốt lên mà mấy người già ở quê tôi vẫn dùng để hít vào phổi.
Cũng còn may cho tôi. Nhờ câu nói của bà chủ: "Phải cho nó tự do ra ngoài, không thì mình phải quét dọn cái của ấy, gớm lắm, bố ai chịu được !" nên ông chủ Bệu thuê người khoét cho tôi một cái lỗ vừa đủ chui lọt ở cánh cửa cổng. Dù là tù túng, nhưng tôi được đi lại thoải mái hơn, không gò bó, phát cuồng lên như những hôm đầu.
Dân ở đây lạ lắm. Họ ăn mặc đẹp, quần áo nhiều màu lạ mà đẹp mắt nhưng lại không có cái nhà để ở. Họ sống trong những cái hộp vuông vắn, nhẵn nhụi và những đồ đạc họ dùng, tôi chưa hề nhìn thấy lần nào ở quê. Chỉ ngày đầu tiên, sau khi cái lỗ ở cổng đã được khoét, tôi đã biết hết mặt những người sống lân cận nhà tôi. Có điều, gặp tôi ở ngoài đường, họ cứ nhìn tôi chằm chằm, ngờ vực và tránh xa ra. Xin cứ việc, chẳng sao cả !
Những con chó ở đây cũng lạ, chúng ít tụ tập hoặc sang nhà nhau chơi bời, tán gẫu như trên quê tôi. Thậm chí ngay cả việc chào nhau chúng cũng ít làm và thường kiệm lời lắm. Chúng ít rong chơi mà thường quanh quẩn ở nhà, thỉnh thoảng lại đảo qua chỗ để bát cơm, hít hít ngửi ngửi, liếm láp đôi chút rồi thủng thẳng bước ra phía cửa nghiêng ngó, hóng cái gì đấy không rõ. Chán, rồi ngáp dài và uể oải chui vào gầm bàn làm một giấc tít như con quay tiện bằng gỗ nhãn. Có lẽ vì thế mà chúng thường bị giới lưu manh coi thường. Nhưng chúng chẳng hề tự ái về chuyện đó. "Chuyện vặt, không đáng nghĩ ! - Con Phốc cạnh nhà tôi bảo thế - Điều quan trọng, đáng để những con chó khôn ngoan, nghiêm túc và có chí tiến lên quan tâm là sự nghiệp của mình. Mà cái sự nghiệp đó lại phụ thuộc vào việc nhà chủ có tin mình không, vào cách làm thế nào để họ tin yêu mình; Dĩ nhiên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến độ đầy và mức thơm ngon của bát cơm dành cho nó !". Thế nhưng chúng lại có vẻ rất khoái cái trò cãi nhau. Chẳng cần phải điều gì to tát, nghiêm trọng cho đáng, nhiều khi chỉ vì những việc không đâu như chuyện một con chó hàng xóm lân la ngoài cửa và đôi mắt lại cứ nhìn đăm đắm vào bát cơm của con chó chủ nhà. Năm thì mười hoạ, tôi mới có dịp chuyện gẫu với chúng, nhưng cũng kém hứng thú. Chúng thường bình luận về những cái tôi chẳng có chút hiểu biết gì; Đại loại như các loại đồ ăn mới được du nhập từ nước ngoài hoặc các loại xà phòng thơm mà giới chó thuộc các nhà sang trọng hay dùng. Về khoản này, thú thực, nhờ chúng mà tôi được mở mang ít nhiều, nhưng cái đầu nhà quê của tôi lại chẳng nhớ được bao nhiêu. Cũng may, những cái đó, nếu có đọng lại được trong đầu tôi, khá lắm cũng chỉ làm cho những kẻ ít xét nét không cho tôi là đồ chó quê. Đôi khi, trong lúc tán gẫu, nếu tôi có đề cập đến những chuyện có dính dáng đến rừng xanh, suối mát, chim ca, vượn hú hoặc những thú vui khi vào cuộc săn chồn săn cáo thì chúng lại nhìn tôi như nhìn một thứ chó hoang dã, man rợ, chưa hề nếm trải các cái văn minh lịch duyệt. Và, dù những con chó ấy có khéo đến mấy, chúng cũng không thể giấu hết được cái nhìn khinh khi pha chút thương hại của những kẻ cả nơi tỉnh thành, dồi dào tin tức và am tường mọi nhẽ đối với một thứ chó không giống chó nào (tương đương với cụm: "Không giống ai" của giống người) như tôi.
Mà chủ của chúng - Họ cũng khổ, chẳng có lấy cái nhà mà ở - cũng lạ lắm ! Tuy họ cũng khoái cái trò cãi nhau, nhưng nguyên nhân dẫn đến các cuộc cãi vã của họ thường thuyết phục hơn, cao cả hơn. Thậm chí, họ còn có cả năng lực cãi nhau kịch liệt trong im lặng. Hình như đấy là một khả năng chỉ thấy ở giống người. Nhưng thường thường, kết thúc của kiểu cãi nhau này còn gớm ghiếc hơn cả cắn nhau đổ máu. Nghe nói, lúc thua có người phải vào nhà thương điên. Tất nhiên trong số đó có người không hề điên tí nào. Điều làm tôi phiền lòng nhất và cũng vì thế mà bức xúc nhất là trong khi cãi vã, họ thường vô cớ bôi nhọ danh dự loài chó chúng tôi. Khi cuộc đọ khẩu đã đạt đến độ cao trào, họ không ngần ngại gì mà không xuất ra những "đặc chưởng" kèm theo nhiều dấu chấm than như: Đồ chó ! Đồ ăn bẩn như chó ! Đồ chó má đê tiện ! Đồ chó săn !... Bố láo, giống chó chỉ ăn uống thiếu vệ sinh chứ tuyệt nhiên, hàng ngàn năm nay, không bao giờ ăn bẩn ! Giống chó làm gì cũng đàng hoàng chứ không bao giờ quanh quéo, kể cả khi tranh ăn của đồng loại ! Ấy vậy mà khi chứng kiến những "đặc chưởng" đó được ngang dọc phóng ra, lũ chúng nó cứ thản nhiên như không có gì xảy ra, tựa như cái loài chó khốn nạn ấy là cái giống nảo giống nào, ở tít đâu như trên cung trăng vậy. Xin lỗi, tôi không hề có ý trịch thượng khi đưa ra nhận xét này: Ý nghĩ của loài chó quê chúng tôi thanh thoát đến nỗi có thể nhẹ nhàng bay liệng trên không trung hoặc phóng thẳng lên những đỉnh núi cao nhất, xa nhất; Còn ở đây, hình như trong ý nghĩ của những con chó tỉnh có lẫn cả sạn, luôn bị những cái hộp nhỏ bé vuông vắn kia khuôn lại, ép xuống, ngắn tũn, loanh quanh và độc như muỗi A-nô-phen !
*
Cũng còn may cho tôi - một con chó quê mùa ngớ ngẩn, lạc lõng, cô độc, thấy cái gì cũng lạ - làm quen được với một cô nàng chó Nhật lông xù nền trắng vá vàng rất kháu. Tôi gặp cô nàng trong một lần đang đi về cuối con phố hẹp gần nhà. Cánh cổng nhà ấy ít khi thấy đóng. Hôm ấy, cô nàng đang ngồi trong sân, buồn thiu nhìn ra đường.
- Gâu, chào đằng ấy ! - Tôi lân la tiến đến, ve vẩy cái đuôi làm quen.
- Gâu, xin chào anh ! - Cô nàng nghiêng cái đầu xù, lịch thiệp trả lời, ánh mắt có phần hơi cảnh giác, cái đuôi hơi cụp xuống, bất động - tôi tên là Tôny. Tên anh là gì ?
- Tên cô nghe lạ nhỉ - Tôi ngẩn ra - Ở chỗ tôi ở cũ người ta chỉ gọi chúng tôi theo màu lông thôi. Vậy là cô biết tên tôi rồi đấy.
- Đen ! - Cô nàng reo lên như tìm thấy mẩu xương.
- Mực ! - Tôi độ lượng chữa lại và giảng giải - Mực thì đen mà. Nhưng bây giờ ông bà chủ mới của tôi lại gọi tôi là A-lát-xô. Mà sao ở đây người ta đặt tên nghe cứ như xe chạy trên đường khấp khểnh ấy nhỉ ? Thôi kệ, cái đó có đáng gì !
Từ đấy, mỗi khi có dịp, tôi thường đến chơi với Tôny. Tôi kể cho cô nghe các chuyện về quê tôi. Có nhiều cái cô không thể hình dung ra được nhưng lại tỏ ra rất thích thú. Tôny rủ tôi vào nhà. Trông cô ấy yểu điệu khuê các thế thôi nhưng nơi ở cũng đơn giản lắm, đồ đạc các thứ không phức tạp và bóng bảy như bên nhà tôi. Cụ chủ, từ dưới nhà đi lên, trông thấy tôi liền mỉm cười: "ồ ... Tôny đã có bạn rồi cơ đấy !". Theo bản năng, tôi toan bỏ chạy, nhưng Tôny đã kịp thời thông báo: "Ông cụ nhà em hiền lắm, mấy lại rất yêu súc vật" . Cụ ngồi xuống, giơ tay ra bắt, nhưng tôi không hiểu nên cứ ngồi yên. "Khi mới gặp nhau lần đầu - cụ nói với tôi, giảng giải - bao giờ người ta cũng bắt tay nhau để tỏ tình thân thiện". Rồi cụ cầm lấy chân trước của tôi đặt vào lòng bàn tay của mình, nắm chặt lại mà lắc lắc. "Thế, thế - cụ nói - còn bây giờ ta sẽ đãi hai bạn một chầu bánh bích quy Hải Châu". Sau đó, chúng tôi cùng chén bánh, còn cụ ngồi vào bàn, mải miết viết lách cái gì đó. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ: Đó là một cụ già tóc đã bạc trắng, gầy guộc mà nhanh nhẹn. Khuôn mặt gầy gầy, nhẹ nhõm với đôi mắt to hiền từ , cái sống mũi thanh và thẳng như sống lá chuối trên quê. Vầng trán rộng và sáng với một mảng da trắng bợt phía chân tóc, khác hẳn với phần còn lại.
- Trán cụ làm sao ấy nhỉ ? - Tôi thắc mắc.
- Bị chất độc màu da cam từ hồi trong chiến trường đấy.
- Thế Cụ viết cái gì mà nhiều thế ? - Tôi không giấu được sự tò mò.
- Cụ là đại tá quân đội đấy; Đã tham gia hai cuộc chiến tranh đánh Pháp với đánh Mỹ. Vào ngày lễ quân đội, cụ mặc quân phục vào nom oách lắm.
- Thế thì liên quan gì đến chuyện viết lách ?!
- Đúng là anh chưa biết ! Ngày xưa cụ chủ nhà em chỉ huy bộ đội chiến đấu giỏi lắm, toàn là thắng thôi ! Một lần, trên đường đi công tác, bị giặc phục kích và bị bắt bỏ tù vào đảo Phú Quốc, tít tận cuối miền nam. ở trong tù, cụ bị giặc đánh nhiều lắm, đau lắm, chảy cả máu, nhưng không đầu hàng. Thế mới oách chứ ! Đã thế lại còn tập hợp được các tù binh khác như mình và bảo họ cách đấu tranh chống lại bọn nhà tù ! Bây giờ, về hưu rồi mà cũng chả thấy nghỉ ngơi gì đâu. Bên quân đội yêu cầu cụ viết lại những kinh nghiệm chiến đấu bằng súng ống ngoài trời mấy lại chiến đấu không có súng ống trong tù để người ta thêm vào sách học của những sỹ quan bây giờ đấy !
Tôi lè lưỡi, ngước nhìn cụ, thán phục.
Một lần, tôi hỏi:
- Tôny bé như quả dưa chuột thế kia làm sao mà trông nhà được ?
Cô nàng đưa chân lên gãi đầu, cười cười:
- Đúng là việc này em không thể oách bằng các anh được. Chẳng ai sợ em cả, nhưng có khách đến nhà là em biết ngay. Em sủa nhách nhách báo cho cụ chủ biết. Thật đấy ! Mỗi khi nghe em cất giọng, cụ bảo: "A, có khách đây, xem là ai nào !". Cũng may, khách nhà em toàn người đàng hoàng, tử tế; ông nào nom cũng hiền hiền là. Họ hay cho em bánh bích quy, có người còn mang cho em cả thịt quay nữa. Còn điều này, anh biết không - cô nàng tròn mắt, thì thầm - hễ có ông nào chẳng may bị ốm đau, họ kéo đến đông lắm. Người thì hỏi thăm, người thì chăm nom, người thì tặng quà, người thì gửi thuốc, cứ tít mù cả lên như nhà có việc ý chứ !
- Sao em biết ?
- Cụ chủ cho em đi theo mà !
- Sao lại thế nhỉ. Chắc họ là họ hàng của nhau - tôi phỏng đoán.
- Không tý nào chứ ! - Tôny thần mặt ra một lát. Sau đó à lên một tiếng và nói bằng một giọng đầy tự tin - Họ là bạn chiến đấu, đã từng chia nhau từ củ sắn, mẩu thuốc lá đến cả cái mạng sống.
- Mạng ai thì người ấy sống chứ, chia thế quái nào được ! - Tôi phì cười.
- Anh chưa biết rồi - Tô ny nhẫn nại giải thích - Có lúc bạn mình bị thương, họ cho nhau cả máu đấy ... rồi lại còn ngấm ngầm nghĩ mẹo để giành nhau cả những việc nguy hiểm chết người ấy chứ ! Cứ nghe lỏm các cụ ấy tố cáo nhau trong lúc nói chuyện, em biết được hết.
- Vì sao lại thế nhỉ ?
- Vì họ là bộ đội chứ sao nữa. Các bộ đội đều như thế hết !
Một lần, cụ chủ nhà Tô ny có một cụ bạn đến chơi. Nhân trông thấy chúng tôi, cụ khen:
- Anh Tô Diệu nuôi được hai con chó hay quá nhỉ !
- Không, có một thôi. Con màu đen ở gần đây, bạn của con Tôny nhà tôi. Anh Thanh Huệ tặng tôi đấy. Cái tên Tô ny là do cháu nội anh ấy đặt từ trước, gọi quen rồi, chứ tôi lại thích gọi nó là con Vá kia. Cũng không sao. Điều thú vị là nó cư xử với tôi như là một người bạn !
- Thế cơ à ? Nếu thật thế thì quả là phi thường.
- Đối với cái giống này, chuyện đó cũng là bình thường. Các cụ nhà mình từ xưa chả nói "Khuyển mã tri tình" đó sao ? Lúc nào chúng cũng quấn quít với chủ mà không hề để ý xem ông chủ của chúng cho chúng cái gì. Và sự quấn quít ấy cũng không hề nhạt đi ngay cả khi mất mùa đói kém, ta không thể có gì giúp cho chúng qua cơn đói lòng.
Nghe đến đấy, mặt cụ khách chợt đỏ lên và, ngay sau đó, chuyển sang trắng bợt. Cụ khách đưa bàn tay lên, run run vuốt mặt, thở dài.
- Anh làm sao thế, thấy khó ở à ? - Cụ Diệu trông thấy thế, hốt hoảng hỏi - tuổi già nắng mưa không chừng là thế đấy.
- Không có vấn đề gì đâu. Đúng là lão già lẩm cẩm, hay nghĩ ngợi, suy diễn không đâu, rồi đâm ra trầm cảm.
- Tôi nói có điều gì không phải ? Thôi, cho qua đi !
- Không, tôi phải cảm ơn anh đã cho tôi "mở rộng tầm mắt". Có điều ... giá mà giống người chúng mình ...
- Tại anh chưa nuôi bao giờ nên chưa biết đó thôi. Anh cứ thử nuôi mà xem, hay lắm đấy. Cái giống này vừa tinh nhạy vừa trong trẻo như trẻ con ấy. Chúng cảm nhận rất chính xác đâu là người tốt, kẻ xấu. Cứ nghe tiếng sủa, cứ xem thái độ của chúng là ta có thể nhận diện được khách vào nhà là loại người nào; mà cứ quan sát cái cách nó quấn quýt với chủ thì cũng biết được chủ nó có quý nó hay không. Chúng biết hết cả đấy, chỉ phải cái không nói ra được ... Thường thường, tôi dậy lúc khoảng năm giờ sáng. Tập tành một chút rồi đun nước, làm một ấm trà, vừa nhấm nháp vừa ngâm nga mấy câu cổ thi. Cái đó đã thành lệ. Vì thế có hôm nào thấy mệt, tôi không dậy sớm là y như rằng khoảng bảy giờ, Tô ny bắt đầu chồm lên cạnh giường, kéo màn, kéo chăn. Có một lần, tôi thấy mệt quá, các khớp chân tay ê bại, đầu buốt như có một vật gì sắc nhọn xuyên qua (chắc do cái đợt ở tù, bị chúng nó bắt đứng đèn) nên không dậy được. Các con tôi không biết, tưởng tôi vẫn ngủ, sợ mất giấc của bố, nên chúng để yên, rồi đi làm. Tô ny kéo màn mấy lần, thấy tôi vẫn nằm im, nó bèn đứng ra giữa nhà, sủa rộn lên. Sau đó thấy im ắng một lúc lâu. Té ra, nó phi sang nhà bà Luận - bác sỹ quân y - cùng sinh hoạt tổ cựu chiến binh với tôi. Sau này bà kể lại tôi mới biết - Tô ny cứ hết cắn lấy gấu quần bà kéo ra phía ngoài rồi lại chạy ra cổng, hướng đầu về phía nhà nó mà sủa ... một lúc sau, bà Luận ngờ ngợ đoán ra có chuyện gì đó bên nhà tôi (về khoản trực giác, phụ nữ vốn nhanh nhạy hơn cánh mình nhiều) ... Vụ ấy, nhờ được bà ấy xử lý kịp nên bây giờ, tôi vẫn còn ngồi đây nói chuyện với anh.
- Chà, Đúng là phi thường ! - Cụ khách thốt lên, thú vị - Lần này ta không có gì. Lần sau đến, nhất định ta sẽ khao cô mình một chầu ra trò.
- Thực ra, em biết gì đâu, chỉ là học theo cụ chủ thôi - Tôny vừa thẹn thò vừa vui sướng giải thích cho tôi - lần ấy em bị đau bụng, cụ chạy sang mời cụ Luận tiêm cho em. Buồn cười lắm, cụ ấy cứ ra ra vào vào cả buổi sáng, chả đâu vào đâu, quên cả bữa trưa. - Nói đến đây, cô ngừng lại, nhỏm lên, gập người ra phía sau, xử lý một con rận bất thần quấy rầy không đúng lúc ở phía đuôi (hành vi ấy không được nhã lắm, nhưng nó diễn ra rất hồn nhiên nên có thể châm chước được - Tôi thầm nghĩ) - Hồi ấy - Tô ny hồn nhiên nói tiếp - còn khó khăn lắm, cả cái phố này chỉ toàn nhà lụp xụp. Bác con dâu cả thương cụ, mua trứng vịt lộn cho cụ ăn sáng. Cụ vẫn cầm tờ báo đọc, thủng thẳng bảo: "ừ, để đấy rồi bố ăn". Khi bác ấy ra khỏi cửa đi làm, cụ mới bỏ tờ báo xuống, nhỏm phắt dậy, lấy trứng bóc cho em. Còn cụ thì ăn ... mỳ ăn liền !
Ngay cả tôi, một con chó hẳn hoi, cũng thấy điều đó là phi thường. Tôi nhìn Tô ny, nhìn cụ Diệu, lòng tràn đầy cảm phục. Cụ Diệu và cụ khách thì chẳng hay biết gì; còn cô nàng thì bẽn lẽn, vùi mặt vào hai chân trước, kín đáo ngước mắt quan sát mọi người. Nếu không có lớp lông dày mượt che phủ thì có lẽ tôi đã trông thấy mặt cô ta lúc ấy đỏ lắm.
*
Trời đã về tiết cuối thu. Vài chiếc lá đỏ tía, còn sót lại trên cây bàng trước cửa nhà cũng đang ngả ngốn, như chỉ chực bay theo những làn gió nhẹ đã chớm se lạnh. Thời gian trôi đi nhanh quá. Nhờ ở gần cụ Diệu và Tô ny, tôi trưởng thành hẳn lên. Những hiểu biết về giống người và giống chó của tôi dường như cũng đầy lên. Những nhận xét của cụ Diệu về loài chó khiến tôi phải tự xét lại bản thân và cảm thấy tự tin hơn bao giờ hết. Duy chỉ có cái nhìn của những con chó hàng xóm khi trông thấy tôi là vẫn không đổi. Qua ánh mắt chúng, tôi đọc được những dòng sau: Gã quê mùa này không có khả năng hiểu được cuộc sống và các kỹ năng tạo dựng cho mình một đời sống vật chất bền vững; Thực đáng thương, đáng thương !
Mùa đông năm ấy mây giăng đầy trời, cây lá đìu hiu, phố phường xám xịt. Cái giá buốt kéo dài lê thê như không bao giờ còn dừng lại nữa. Có những hôm nhiệt kế xuống đến vạch thứ 6, hơi lạnh rò rẫm vào đến tận xương ống chân. Những đợt gió mang hơi lạnh, không rõ từ đâu đến, liên tục và hào phóng trộn đều vào không gian. Giá đó không phải là hơi lạnh mà là tiếng cười thì đã quá ! Nói cho vui thế thôi chứ thực ra, dẫu ông trời kia có làm cho bầu không khí này đông cứng lại, tôi vẫn không cảm thấy lạnh. Chính hơi ấm của tình bạn giữa ba chúng tôi đã làm nên điều kỳ diệu ấy.
Tôi sung sướng, say sưa tận hưởng vị ngọt mà cụ già và Tôny đưa lại và tưởng chừng như làn ánh sáng ấm lành từ họ toả ra là cứ thế, là mãi mãi. Sau này, khi đã già nua, được nghe chuyện của nhiều người già, tôi mới hiểu ra rằng lúc bông hoa đạt tới trạng thái tươi thắm nhất cũng là lúc cái sự tươi thắm ấy bắt đầu đi vào cõi tàn lụi. Điều mà tôi và Tôny không bao giờ có thể nghĩ trước đã xảy ra.
Chuyện xảy ra vào một buổi trưa của cái mùa đông buốt giá khác thường ấy. Các bác con cụ đưa cụ vào bệnh viện do chứng xuất huyết não bất thần xảy ra. Sinh hoạt trong gia đình trở nên rối loạn. Nhà cửa bừa bộn. Hàng xóm ngơ ngác. Tô ny bỏ bữa và nằm dụi vào góc bếp. Tôi cố khuyên giải nhưng chẳng ăn thua gì.
Hai ngày sau, người ta báo tin cụ đã mất. Mọi người bận rộn chuẩn bị cho tang lễ. Tô ny vẫn bỏ bữa và nằm lả trong góc bếp. Bà Luận hay tin, chạy sang. Sau khi khám xong, tiêm cho Tôny thứ thuốc gì đấy và lắc đầu thở dài. Cuối cùng, cô bé không trụ được và cũng đã ra đi vào đúng cái ngày đưa tang cụ chủ. Sau đám tang, mọi người trong nhà kinh ngạc khi khớp lại thời gian của các việc xảy ra trong ngày. "Lạ thật, Tô ny chết đúng vào lúc hạ huyệt cho bố !" - Bác trưởng thảng thốt kết luận.
Thế là họ quyết định đưa Tô ny ra nghĩa địa, chôn cạnh cụ chủ.
Tôi chạy dọc theo các con phố ồn áo, lách bừa qua dòng xe cộ những lúc phải sang đường, lén bám theo họ ra ngoài đồng. Đợi họ chôn cất cho Tôny xong và trở về, tôi tiến đến hai ngôi mộ: một lớn, một bé. Mùi đất mới, mùi cỏ tươi trộn với mùi khói hương trong làn gió đồng se sắt của một chiều đông buốt giá khiến mọi vật trở nên xám ngắt, ảm đạm. Nỗi nhớ trào lên đến cháy ngực. Lần đầu tiên trong đời, sâu trong lồng ngực, tôi cảm nhận được thế nào là nỗi tái tê của một kẻ cô đơn, côi cút.
Ở dưới lớp đất kia, chắc hai ông cháu đang lạnh lắm ! Tôi khẽ đặt xuống bên mộ cụ Diệu một mẩu bút chì, bên mộ Tô ny mấy chiếc bánh bích quy mà không sao dừng được những giọt nước mắt cứ ứa ra.
Lão Ứng
(1)
- Chào lão Ứng! Lão lại say rồi! Chỗ này làm gì có chuột? Để cháu đưa lão về nhé?
- Tao vừa ra đến đây, về là về thế nào!
- Trăng đẹp quá lão nhỉ?
- Ôi chà! Trăng đẹp hay không tao vẫn phải cần đèn. Nhưng hôm nay trời đẹp thật. Gió mát như thế này, ngủ đồng cũng sướng. Mà mày về nhà đi chứ ? Khuya lắm rồi?
- Lão cho cháu đi cùng một lúc, cháu chưa muốn về!
- Hừm, cũng được. Nhưng con gái con đứa...
- Cháu chỉ xem lão bắt chuột một lát thôi!
- Thì đi! Cẩn thận không giẫm phải rắn rết hay mảnh chai lọ thì khổ!
oOo
Đêm thẫm lại rồi hồng lên dưới ánh trăng mười bảy tròn đầy mỡ màng. Không gian tan loãng, đất trời ẩm ướt nở phình ra theo tiếng côn trùng, ếch nhái nỉ non. Tiếng kêu lúc thì uể oải, yếu ớt, kéo dài; lúc lại rộ lên ầm ĩ, rộn ràng như hoan hỉ. Lão Ứng vừa đi vừa lẩm bẩm đằng trước, tôi thập thõm bước theo. Bờ ruộng nhỏ tí tẹo, cỏ mọc dày. Dưới ánh trăng mờ mờ, thỉnh thoảng tôi lại bước hụt, thụt chân xuống bùn làm đi tong cả một khóm lúa. Cả cánh đồng lúa đang thì con gái, xanh đen dưới trời đêm. Gió làm từng đám ngả vào nhau, xào xạc, xô đẩy dúi dụi. Có những nhánh lúa mảnh mai còn dạt mãi xuống, nửa như giận dỗi, nửa làm điệu với bạn bè quanh mình. Có khóm lại bướng bỉnh, thân vươn thẳng đứng chỉ nhẹ đung đưa mấy lá lúa non tơ. Không gian nhộn nhịp, tưng bừng trong vũ hội của họ nhà lúa. Những khúc hoan ca được cất lên trầm bổng, du dương làm tan đi sự tĩnh mịch, lặng lẽ của đêm mùa thu dù lúc này, chỉ có tôi và lão Ứng - một cách ngẫu nhiên - cùng tham gia vào cuộc chơi náo nhiệt của cỏ cây cùng trời đất.
Đã từ lâu, tôi nghe dân làng kháo nhau rằng, lão Ứng là tay sát... chuột nhất vùng. Chỉ với một chiếc nghiền nhỏ, sắc như nước, một cái giỏ to tổ chảng và những tiếng “chít chít” giống y như tiếng nói của họ nhà chuột, lão đi ra đồng. Chuột ư ? Bây giờ thì vô thiên lủng. Sức sống kỳ dị cùng khả năng sinh sản khủng khiếp của chuột khiến cánh nhà nông nhiều phen bải hoải nghĩ cách tiêu diệt chúng. Những bông lúa mẩy căng bị cắn ngang tơi tả rồi gom thành đống. Khoai, ngô bị gặm nham nhở nằm chỏng chơ cạnh hang hốc do chúng đào làm nhà ở. Con người nhiều khi tưởng như bất lực trước tiếng rinh rích đâu đó của chuột vào những chiều chạng vạng trên đồng hoặc những đêm yên tĩnh trong nhà mình. Các loại bẫy, các loại bả chuột, thuốc chuột được phát kiến và tung ra. Chuột nhà dính bẫy, chuột đồng chết vì bả chuột, thuốc chuột và cả vì điện giật nữa, được gom lại chôn ! Cũng đỡ, nhưng ăn thua gì ! Chuột chạy ngang nhiên trên đường cái, chân đưa lên vuốt râu, mắt thao láo nhìn người qua lại. Chuột lao cả vào chân người đi làm đồng... Sự hiện diện của chúng trở nên quen thuộc và nhàm chán đến mức làm cho con người nghĩ rằng, đó là hiện tượng tất yếu của cuộc sống !
Rất tự nhiên, trong vùng mọc ra những tay săn chuột thiện nghệ. Thịt chuột - nếu biết cách chế biến với gia vị thích hợp - còn ngon hơn cả thịt gà vì rất mềm và thơm. Người ta làm chuột sạch sẽ rồi luộc và ép cho khô nước, rắc lá chanh thái mỏng. Đó là món đơn giản nhất. Thịt chuột đem nấu giả cầy, tẩm ướp rồi nướng trên than hồng hoặc quay trong chảo mỡ đang sôi... Rất nhiều món nhậu được làm từ chuột khiến cánh đàn ông mê tít. Tôi chỉ được nghe kể lại chứ chưa khi nào dám thử - đơn giản vì tôi nhát dù thực tế, thịt chuột rất lành... Và thế là đủ các kiểu bắt chuột được người ta nghĩ ra.
Nhưng cách của lão Ứng thì độc nhất vô nhị. Xách giỏ, nghiền cùng chiếc đèn pin rất sáng, lão đi ra đồng, chúm miệng kêu “chít chít”. Tiếng chít chít của lão giống đến mức lũ chuột bị bé cái nhầm ! Chúng tưởng đó là tiếng kêu bầu bạn, tiếng gọi của tình cảm hay tiếng than vãn cần an ủi, giúp đỡ nên hăm hở chạy ra. Và khi ánh đèn pin chiếu vào, chuột ta tròn mắt ngạc nhiên, đầu nghiêng nghiêng, nhìn chằm chằm vào luồng sáng, không hề nghĩ đến chuyện ngọ nguậy. Mắt chúng sáng lấp lánh, hơi đỏ và đầy nét dại khờ. Ánh mắt ngây thơ, hồn nhiên và thanh thản - ánh mắt mà chỉ trẻ con mới có, còn người lớn, tôi đảm bảo, đã đánh mất sạch từ lâu rồi - khiến thoáng chốc, ta như quên mất hàm răng chắc khỏe cùng sự phá phách ghê gớm của chúng. Tất cả những điều đó chỉ xảy ra không quá nửa phút. Và phập, chiếc nghiền nhỏ đã lao ngập lưng con chuột, tiếng chít chít tuyệt vọng vang lên. Chuột ta oằn người nằm duỗi ra, im ắng. Lão Ứng nhấc nghiền lên ngắm nghía, rồi bỏ tọt vào cái giỏ đã mở hom và bình thản cất bước. Tôi im lặng, mắt chăm chăm nhìn những thao tác thành thạo của lão rồi cũng lúp xúp chạy theo...
oOo
- Này, gần hai giờ sáng rồi ! Mày về đi, con gái con đứa... - Tiếng lão Ứng khàn khàn giục tôi.
- Được nhiều chưa hả lão ? Cho cháu xem một lát nữa ! Cháu không sao mà ?
- Mày lạ thật đấy ! Con gái con đứa...
“Em lạ thật đấy...” - Câu nói cửa miệng của Vĩnh ! Câu nói thân thuộc vừa dễ thương vừa đáng ghét trong suốt ba năm yêu thương nhau. Vĩnh bảo tôi rất lạ, chẳng giống một cô gái bình thường chút nào. Tôi lại thấy khác, thấy mình lẫn lộn trong họ một cách nhẫn nại dù điều đó nhiều lúc làm tôi chán cả bản thân mình. Ngày Vĩnh tỏ tình, cũng là một đêm mùa thu, trời thăm thẳm xanh, trăng vàng óng tươi cười, cỏ cây chứng kiến. Tôi thấy điều ấy thật lãng mạn. Thế rồi tan vỡ, giống như sự tan vỡ của bao mối tình. Và tôi đau khổ, giống như sự khổ đau của bao người đàn bà khác dù tôi không hề khóc lóc. Tiền đề cho việc kết thúc cuộc tình này là những trận cãi vã thường xuyên, mức độ tăng dần cho đến khi cả hai đều nhận thấy, tất thảy đã mòn xác mòn xơ và thật khó cứu vãn.
Tay nải đựng những kỷ niệm tình yêu của tôi và Vĩnh lèo tèo dăm ba thứ nhỏ nhặt, đến mức nhiều khi tôi hồ nghi, không biết có phải đó là tình yêu thật không hay chỉ là chút gì na ná như vậy. Thực tình, khi nhìn lại, tôi thấy kinh kinh, sao cả hai kỳ cục thế, dằng dai những ba năm rồi cuối cùng nhạt thếch và lơ lửng. Có một điều làm tôi bực tức là Vĩnh đã không nói lời chia tay mà sử dụng cái chân lý thông thường cánh đàn ông tâm đắc: Lúc định rời khỏi một con người, tốt nhất là để cho người ta làm việc gì đó tổn hại đến anh trước. Và quả thực, tôi đã làm điều ấy với Vĩnh bằng một cơn tam bành rất chi đàn bà... Ngay sau đó, Vĩnh biến mất một cách nhẹ nhõm dù anh cũng thừa hiểu, cơn tam bành của đàn bà chẳng khác gì dòng sông chảy trong sa mạc, lúc đầu thì ào ào, cuồn cuộn; sau đó thì mất tăm mất tích, chẳng thấy đâu nữa. Cơn tam bành của tôi, khác gì đâu ? Cãi cọ với Vĩnh xong, tôi hả hê lắm dù nước mắt tràn mi. “Thôi, xong rồi ! Kiệt sức rồi ! Hết !”. Bụng bảo dạ như thế, hùng hổ như thế mà chỉ được vài tuần. Nỗi nhớ Vĩnh, nhớ đến day dứt, đến tội nghiệp lại dằn vặt tôi. Tôi cay đắng tự chửi mình: “Đồ ngu !”. Nhưng ích gì ? Hình ảnh Vĩnh vẫn hiện ra vừa lung linh vừa méo mó. Tình yêu là cái quái gì nhỉ mà khi có người ta lại nghĩ rằng chưa, lúc mất mới biết là có, vẫn ngỡ hãy còn ?
- Làm việc ở đó lâu chưa ? Sao không xin về gần nhà ? - Lão Ứng quẳng giỏ chuột vào góc cái lều nhỏ dựng tạm cạnh bờ mương rồi ngồi bệt xuống cỏ. Câu hỏi của lão lôi tuột tôi về thực tại.
- Dạ, gần tám năm rồi lão ạ ! Cháu cũng đã thử xin nhiều lần nhưng không được. Bây giờ thì quen rồi. Có lẽ chẳng cần thay đổi nữa.
- Con gái con đứa, phải biết giữ gìn chứ? Tao thấy mày thật lạ, trông xinh xắn, ưa nhìn đấy, sao lúc nào cũng ủ dột ? Ăn mặc thì đơn giản. Lại thích thơ thẩn đăm chiêu một mình. Tính tình cô độc vậy, đàn ông nó không ưa đâu !
- Cháu biết rồi ! - Tôi gượng cười, thấy lòng đau nhói. Lão Ứng đã nói đúng. Và tôi cũng hiểu được những điều ấy, thậm chí hơn. Nhưng biết làm sao được vì tôi chẳng thể đổi thay nổi mình.
- Sáng mai nếu rảnh, sang tao đãi món này ! - Lão Ứng chỉ vào giỏ chuột tiếp tục - Ngon lắm, rồi mày sẽ thích cho mà xem ! Giờ thì về đi, gần sáng rồi.
- Thế còn lão ? - Tôi day mặt lên trời hỏi nhỏ.
- Tao ngủ luôn ở đây. Mai về sớm cũng được.
Im lặng. Cao cao trên đầu, lấp lánh chòm sao tua rua như một đám lửa nhỏ sắp tàn. Ông Thần Nông còng lưng khắc khổ nhìn xuống hạ giới vẻ trầm tư. Không gian thinh lặng mênh mang. Chỉ nghe thấy tiếng nứt nẻ của mặt đất, tiếng xào xạc của những cành cây đang nô giỡn dưới trăng. Tôi và lão Ứng, mỗi người đuổi theo một suy nghĩ riêng. Bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn khi nhìn dáng ngồi xù xì, chắc nịch của lão. Thực ra, lão Ứng cũng hay đáo để đấy chứ? Vậy sao mọi người trong làng lại có ý xa lánh ? Nhà tôi và nhà lão chung ngõ. Một cái ngõ nhỏ xíu với hai hàng xương rồng thẳng tắp, chạy tuốt vào tận sân mới rẽ làm hai. Ngoặt sang phải là ngôi nhà ba tầng quét vôi màu xanh nhạt với vườn cây ăn quả quanh năm xanh tốt - đó là nhà tôi. Còn bên trái - nếp nhà gỗ ba gian thấp tè của lão Ứng. Hồi tôi còn bé tí, lão Ứng đã có tiếng là rượu chè be bét và trộm vặt tùm lum. Bà Hinh vợ lão - một người đàn bà nhỏ thó, mũi nhọn và có cặp mắt rất đẹp suốt ngày lụi hụi thu dọn những thứ lão quăng ra khi say bí tỉ hoặc đến từng nhà nhỏ những giọt nước mắt trong vắt, to như hạt đỗ chảy trên khuôn mặt khắc khổ xin lỗi người ta: “Chồng em trót dại, các bác xá tội cho, em sẽ đền !”. Vì nhà tôi ngay cạnh nên thấy có “sự vụ” là tôi tót đến ngay. Lúc nhỏ thì đứng ở bậu cửa bếp, hếch mắt lên nhìn. Lớn hơn, tôi xăng xái chạy vào tận trong nhà, cũng thu thu vén vén cùng vợ lão rồi tỉ tê hỏi han. Chẳng để làm gì vì tôi chưa biết an ủi. Nhưng tôi cũng không rồi mồm đến nỗi đi kể lể lung tung ra ngoài dù dân trong xóm rất thích nghe chuyện nhà khác để bàn tán, thêm dấm thêm ớt cho đỡ buồn tẻ cái sự đời vốn đầy nhọc nhằn, tù túng của họ.
Lão Ứng uống rượu như uống nước lã. Cái bi-đông đã tróc sơn loang lổ, bẹp dúm một bên thân suốt ngày lão đeo ở lưng quần chưa khi nào cạn thứ dung dịch cay cay và đắng ngắt ấy. Thức nhắm của lão có khi là vài quả chuối xanh, hai ba quả khế, thậm chí một đĩa nhỏ rau luộc. Sang hơn thì lạc rang hay mấy bìa đậu phụ rán. Vậy mà lão đòi một mình một mâm trên phản, ngâm nga hàng tiếng đồng hồ. Còn bà Hinh thì ăn cơm dưới đất, canh chồng. Họ không con cái nên sự trái khoáy ấy bà Hinh cũng chiều lão được... Lúc đầu, lão Ứng uống tì tì. Khi rượu bắt đầu ngấm, lão cũng bắt đầu nói. Đông tây kim cổ, nghĩ gì lão nói ra tuốt nhưng chỉ lầm bầm một mình. Tai liền miệng đó, lão nói thì lão nghe. Bà Hinh vẫn im lặng. Chỉ đến khi say bí tỉ, lão mới bắt đầu cãi cọ, với chính mình. Câu trước thầm thì giảng giải, câu sau lão vống lên, gay gắt, gây gổ. Rồi lão dằn tay xuống phản, mắt vằn lên, miệng không ngớt lẩm bẩm. Và cuối cùng, vài thứ trên mâm bay ra ngoài. Khi thì bi-đông rượu, lúc vài cái bát, thậm chí cả mâm. Cáu quá, lão loạng choạng bước xuống, vớ lấy cái ấm nhôm quăng tiếp... Vì thế, nhà lão dùng toàn đồ sắt hoặc đồ nhựa. Bát sắt, mâm đồng. Thậm chí ghế ngồi cũng rất khó vỡ vì chúng nhẹ bỗng, lẳng một cái bay tít ra tận góc vườn.
Sau này, tôi nhiều lần sang chơi nhà lão. Nghe lão độc thoại, mới kinh ngạc trước sự hiểu biết và trí nhớ tuyệt vời của lão. Hóa ra lão đọc rất nhiều và bôn ba cũng lắm. Mười tuổi, lão Ứng bỏ nhà ra đi. Vừa làm thuê lão vừa học. Hết chữ nho đến chữ quốc ngữ. Khi có một món tiền kha khá, lão nghĩ ngay đến việc học... Trôi dạt mãi bởi chiến tranh, loạn lạc và nghèo khó, lão bò lên tận Tuyên Quang, lấy một cô vợ nhỏ nhắn người Thái trắng - bà Hinh bây giờ và sống ở vùng núi xanh ngắt hiểm trở, quanh năm sương mù vây phủ ấy gần ba mươi năm mới tìm về quê nhà. Chỉ tiếc rằng tạo hóa thường sinh ra con người và thổi vào linh hồn họ sự khập khiễng nhiều lúc trớ trêu đến nực cười. Trường hợp lão Ứng cũng là một điều khập khiễng khi sự hiểu biết, trí thông minh của lão không khắc chế được những thói tật xấu không thể chấp nhận nổi trong mắt người đời. Và điều đó làm tôi day dứt, khó hiểu. Hình ảnh lão Ứng cùng bà vợ già nhẫn nhục, nhỏ như đứa trẻ mười lăm luôn quanh quẩn trong tâm thức tôi.
Cái nết trộm vặt của lão Ứng xem chừng khó chữa trị và rõ ràng là gây nhiều tai tiếng hơn cả bệnh nghiện rượu dù nó đã chấm dứt cách đây chục năm. Một đứa trẻ, bé nứt mắt như tôi cũng hiểu ngay rằng, lão đi chôm chỉa của người ta không phải vì túng thiếu gì. Một chục năm tha hương, lão dành dụm được khối của. Vườn nhà lão thì rộng, ngày nào bà Hinh chẳng toòng teng hai rổ rau thơm ra chợ ? Tiền bán rau cũng đủ để vợ chồng lão sống rồi... Vậy mà... Hồi còn hợp tác, người ta bắt được lão ăn trộm ngô đánh đống ngoài sân kho. Đó là ngày lão bước vào tuổi năm mươi. Về sau, lão càng tự nhiên hơn. Cái gì để hớ hênh là lão vớ tất. Lối xóm đầu tiên còn thì thầm to nhỏ, nghi nghi hoặc hoặc. Rồi người ta làm ầm lên; rầm rĩ, tức giận. Những thứ lấy được, lão đem bán đổ bán tháo để mua rượu uống. Cũng chẳng biết giải thích thế nào khi lão chỉ trộm vặt. Lúc cái nồi đã cũ, khi là chiếc áo đã hơi sờn vai. Rồi gà vịt, mà chỉ một, hai con mỗi nhà. Hết trộm gần đến trộm xa. Quanh xóm, lão khua khoắng chẳng chừa ai cả, trừ nhà tôi. Song mỗi nhà lão hỏi thăm không quá hai bận ! Vì thế, cứ động mất cái gì người ta lại te tái đến gọi bà Hinh và người đàn bà còm nhom ấy bèn hối hả vào hòm lục tiền. Đền ! Đôi mắt nâu tròn, trong veo như mắt trẻ thơ và không biết già đi theo năm tháng của bà Hinh đã bạc màu hơn dù tôi chưa thấy bà nặng lời với lão Ứng bao giờ...
Dù trộm vặt thì lão Ứng vẫn là kẻ ăn trộm. Và trong quãng đời dài chinh chiến với việc chôm chỉa, lão cũng bị bắt dăm lần. Nhẹ thì phạt vi cảnh, đền tiền. Nặng thì lên huyện, bị giam mấy ngày rồi về. Chưa khi nào lão phải đi tù cả. Người ta chẳng thương gì lão mà thương bà Hinh. Nhìn những giọt nước mắt chứa chan trên mặt cùng dáng vẻ lập cập cam chịu của bà, ai cũng mủi lòng.
Có lẽ tính thích cầm nhầm đồ nhà người khác của lão Ứng là một thứ bệnh trầm kha, một cái tật quái gở vô phương cứu chữa dù lão đã cố gắng. Chính tôi nhiều lần, ngồi thừ một chỗ ở góc nhà, nhìn lão Ứng uống say rồi khóc hu hu như đứa trẻ và hứa rất chắc chắn với vợ rằng mình sẽ chừa. Xong, chứng nào lão vẫn giữ tật ấy. Hôm trước hứa hẹn đủ điều, vài bữa sau lại thấy lão lỉnh vào góc buồng, nhìn vợ xin lỗi người ta...
Tật trộm cắp của lão Ứng đột ngột chấm dứt sau cái chết của bà Hinh, vợ lão. Đêm cuối cùng trước khi từ biệt cõi trần, dưới ánh điện vàng vọt ảm đạm và trước mặt rất đông bà con trong xóm, bà Hinh bỗng tỉnh táo hẳn. Bà bắt tôi đỡ dậy rồi run run yêu cầu lão Ứng hứa một lời. Lão cuống quýt hứa rất trịnh trọng và thành khẩn... Nước mắt bà ứa ra, lão Ứng hốt hoảng vì hiểu rằng, có lẽ vợ chưa tin tưởng mình. Liếc thấy con dao ở góc nhà, lão bèn bước tới, nhanh như cắt chặt phăng ngón tay út của bàn tay trái rồi gắng gượng cười: "Bà thấy chưa ! Tôi thề mà !". Máu túa ra đỏ cả bàn tay khiến mọi người lặng đi. Đập mạnh vào ký ức tôi là hình ảnh lão Ứng mặt tái nhợt, mồ hôi lấm tấm rịn bên thái dương cố nén cơn đau với nụ cười méo xệch. Bà Hinh, vẻ thanh thản hiện rõ trong cặp mắt đã dại dần. Có lẽ bà đã hoàn toàn yên tâm để ra đi. Còn ngón tay út của lão Ứng thì văng ra giữa nhà, nhỏ nhoi, cựa quậy và thấm đầy máu. Rùng mình, tôi nhắm chặt mắt quay đi, lòng trào lên nỗi xót xa với vợ chồng lão Ứng.
Cũng từ đó, xóm thôn lặng lẽ hẳn. Chuyện trộm vặt không còn xảy ra nữa. Lời thề với người chết như một sự bảo lãnh đáng giá cho việc cải đổi, sửa chữa của lão Ứng trước thiên hạ. Ngày tháng trôi đi với bao bộn bề của cuộc mưu sinh. Tôi cũng lớn lên, học đại học rồi ra trường. Suốt cả thời thiếu nữ trẻ trung cho đến giờ, hơn mười năm, tôi như chiếc đèn cù, ngoay ngoáy, xoay tít với những vấn đề của riêng mình cùng bao toan tính. Thực tế có, lãng mạn có, yêu đời có mà chán đời cũng có. Tôi đã yêu rồi bỏ. Lại yêu. Rồi lại bỏ. Vĩnh là người thứ ba. Ba người đàn ông ngốn đứt của tôi mười năm có lẻ... Khi người ta nghĩ cho mình nhiều quá, lòng trắc ẩn cũng dễ mất đi. Từ ngày bà Hinh mất, tôi hầu như không sang thăm lão Ứng nữa... Cho đến tận đêm nay, tôi buồn, trống trải, run rẩy vì mệt mỏi, vì cay đắng. Còn lão Ứng, lão đang nghĩ gì ?
oOo
- Mày làm một ngụm cho ấm bụng ? Rượu nếp cẩm nhà Tư béo bên xóm Đoài đấy ! - Lão Ứng đưa cho tôi bi-đông rượu đã cạn gần hết.
- Cảm ơn lão, cháu không uống !
- Say sao được mà lo... Thôi, về đi ! Tao vào lều ngủ đây ! - Giọng lão đã nhừa nhựa, líu ríu va đập vào nhau. Có cảm giác đến lời nói của lão cũng gà gật buồn ngủ. Vừa nói, lão vừa vứt cái nghiền xuống bờ ruộng rồi chui vào lều.
Đúng lúc ấy, tôi nhìn thấy một bóng người lúi húi ở đằng xa. Hoảng hốt, tôi thì thào gọi lão Ứng:
- Kìa, lão Ứng ! Hình như có ai ở đằng kia ?
- Đâu, mày bảo chỗ nào ? Tao chẳng nhìn thấy gì cả ? Già rồi, mắt mũi kèm nhèm tợn ! - Lão Ứng thoắt trở dậy, tỉnh táo hẳn.
- Kia kìa ! - Tôi túm vào vạt áo lão, tự dưng lạnh cả người - Lão nhìn thấy chưa ? Thẳng tay cháu chỉ đây này ! Gần đường cái cơ mà ?
- Chỗ vườn chuối nhà Hạ ấy à ?
- Vâng... Nó chui vào đó rồi lão ạ ! Đấy... nó lại chui ra kìa...
- Hừm ! Thằng nào láo toét thế ? Lại định chặt trộm chuối đây mà ! Để tao xem sao ?
- Lão cho cháu đi với ! - Tôi hốt hoảng.
- Mày run như cầy sấy thế kia, đứng còn không vững nữa là... - Lão khẽ cười thành tiếng - Thôi, ngồi đấy ! Tao về
ngay !
- Không... Cháu sợ lắm, cháu đi cùng lão cơ ! - Tôi nài nỉ.
- Thôi được rồi, rõ là... Khẽ thôi nhé ! Nào, thở sâu vào ! Thế, đừng run lập cập nữa ! Bước đằng sau tao, được chưa ?
Tôi và lão Ứng khom người khẽ khàng tiến dần về vườn chuối nhà cô Hạ. Mặc cho tôi vất vả bò như hụt hơi, lão Ứng tay cầm nghiền, nhanh như mèo và không một tiếng động, chăm chú quan sát phía trước... Năm buồng chuối rất to đã được chặt xuống để ở đầu bờ. Mùa này, chuối tây rất đắt. Chợ chuối - đêm nào cũng họp lúc gần sáng, cách đây chưa đến hai cây số... Kia rồi, thằng trộm đã hiện ra lù lù. Tôi trợn mắt ngạc nhiên. Bên cạnh, lão Ứng cũng ngẩn người. Tưởng ai, hóa ra thằng Khánh, con cô Tân xóm Đông - cô giáo dạy tôi hồi tiểu học. Nhà cô Tân nghèo lắm. Chú Nam, chồng cô hy sinh ở chiến dịch biên giới năm bảy chín khi thằng Khánh mới lọt lòng. Cô Tân bị thấp khớp mãn tính, người gầy guộc ốm yếu và phải dùng thuốc quanh năm. Thằng Khánh hai mươi tuổi, nó học rất khá mà chẳng dám thi đại học. Bây giờ, cô Tân đã về hưu. Lương tháng không đáng là bao so với tiền chữa bệnh. Vì cô đau yếu luôn nên mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều dồn vào tay thằng Khánh. Gia cảnh khó khăn, túng bấn nên nó tính chuyện làm liều chăng ? Học trò cũ, rời khỏi vòng tay ấm áp của cô là bay đi một mạch, mấy ai ngoái đầu lại ? Vậy là nhiều khi xao lãng, chúng tôi quên cả đến thăm cô. Biết cô bệnh, thằng Khánh vất vả mà tôi - đứa học trò cô rất yêu - nào làm được gì ?... Nhìn thằng Khánh lấm lét, hớt hải khuân từng buồng chuối lên bờ ruộng, tôi chết điếng người...
Lúc này, tôi như hóa thành đá. Người cứng lại, cổ mỏi nhừ còn mắt thì lồi hẳn ra, nóng rực. Tôi thầm mong thằng Khánh chỉ chặt vài buồng thôi rồi phải tìm cách mang ngay đến chợ. Trời sáng đến nơi rồi... Loay hoay nghĩ ngợi, tôi không để ý lão Ứng đã lùi lũi luồn ra sau từ lúc nào đang khua khua tay ra hiệu cho tôi. Tôi nhẹ cả người, quay ngoắt lại bò dần về phía lão. Hồi hộp, tôi vô ý giẫm cả chân xuống cái hố trên đường, suýt ngã bổ chửng... Chạy được một quãng xa, thấy thằng Khánh đã chui ra khỏi vườn chuối, hì hục khuân chúng lên đường lớn, tôi nhẹ nhàng dịch sát vào phía lão Ứng:
- Này, tao bảo ! - Lão thì thào.
- Gì cơ ạ ?
- Coi như chưa thấy gì cả ! Mày về nhà đi !
- Vâng ! - Tôi do dự nhìn lão - Nhưng...
- Thằng Khánh hỏng thật, tao không nghĩ con nhà giáo Tân lại đi ăn cắp. Chắc mẹ nó ốm quá... Tha cho nó lần này con ạ. Nhưng, nếu không sửa được là xong đời đấy. Tao đã như vậy nên tao biết. Quen tay quen nết rồi, thấy người ta có gì hay hay, hở ra là xoáy luôn... Mà thôi, biết thế nào mà tính, đời nó, nó khắc phải lo. Vả lại, thằng này không phải thứ hư hỏng. Nhìn nó lóng ngóng, bê buồng chuối mà ngã dúi dụi thì biết, chắc cu cậu mới ăn trộm lần đầu. Nhà Hạ giàu nhất xã, mất vài buồng chuối cũng chẳng sao. Chỉ có điều sớm mai, con mụ vợ lại tru tréo, um tỏi cả đồng lên cho mà xem... Thôi, về !
Lão Ứng cứ nói. Còn tôi thì im lặng nghe. Vừa lẩm bẩm lão vừa chùi chân vào đám rơm khô người ta đánh đống gần cửa lều. Hoàn hồn, tôi thở một hơi thật dài, thật sâu và thấy trong lòng vui buồn lẫn lộn. Phải công nhận cách giải quyết của lão Ứng là hay hơn cả. Tôi chỉ lo, liệu thằng Khánh có dừng lại ở đây được không vì nó còn trẻ quá. Còn cô Tân nữa chứ ? Nói với cô sự thật này, cô chịu đựng được chăng ? Tôi bỗng thấy chán nản vô cùng, đành ngồi bó gối im lặng.
- Sáng đến nơi rồi ! Về nhà ngủ đi ! Con gái con đứa...
- Vâng ! Lão cũng về thôi chứ ?
- Hừm, kệ tao... Ơ kìa ! Cái bi-đông rượu đâu rồi hả ?
- Cháu không biết ạ !
- Thôi chết ! Ban nãy tao vẫn đeo bên người cơ mà ! Được rồi, cứ về đi. Chắc rơi đâu đó thôi, lát nữa tao đi tìm...
- Vâng ! Chào lão cháu về trước ! - Tôi nói rồi quay đi.
oOo
Tinh mơ hôm sau, tôi đến cơ quan. Chuyện đêm trước, giật mình tưởng như một giấc mơ. Một tuần chậm chạp trôi qua, vẫn không thấy tăm hơi của Vĩnh. Lúc ấy, tôi mới thất vọng tràn trề. Tâm trạng hụt hẫng, đau đớn dù vẫn biết đó là kết cục tất yếu. Công việc, sự vui vẻ của đồng nghiệp chỉ làm tôi nhẹ nhõm phần nào... Chiều thứ bảy, tôi lại khăn gói về nhà. Vừa nhô đầu vào ngõ, mẹ tôi đã sốt sắng:
- Lại về hả con ! Sao muộn vậy ! Nắng tắt lâu rồi mà ! Ăn mặc phong phanh thế này, cảm lạnh thì khổ ?... Này, tưởng lão Ứng đã chừa hẳn. Ai dè... Hay lão ấy đoái tính, gở chết nhỉ ? Lão vẫn khỏe thế kia cơ mà ! Mấy hôm trước, lão lại chặt trộm chuối nhà Hạ - những sáu buồng tất cả đấy! Người ta thương tình lão già cả, chỉ nhốt một ngày ở ủy ban xã, phạt vi cảnh bắt lao động công ích ba ngày, rẫy cỏ ở sân hội trường và dọn vệ sinh khu nhà trẻ... À, tiền đền cho nhà Hạ là năm trăm ngàn. Nhà Hạ cũng chẳng ra gì. Giàu nứt đố đổ vách ra còn ki bo. Lấy của lão Ứng năm trăm mà vẫn kì kèo nọ kia...
- Mẹ bảo sao ? - Tôi dựng vội cái xe vào góc sân hỏi vội vàng - Lão Ứng lại ăn trộm ư ? Sao người ta bắt được lão nhỉ ? Con...
- Ôi dào ! Giá lão không say bí tỉ có lẽ cũng chẳng bắt nổi. Sáng bạch ra ngày, mọi người đi làm đồng thấy lão rúc đầu vào cây rơm nhà Thu Nhị cạnh bờ mương, cách vườn chuối chẳng đáng là bao ngáy khò khò, chân thò ra ngoài nhem nhuốc những bùn cùng đất. Còn cái bi-đông rượu của lão, nó rơi ngay cạnh vườn chuối... Bị dựng dậy, lão mắt nhắm mắt mở chui ra khỏi cái ổ rơm ấm áp nhận ngay tắp lự cái bi-đông ấy là của mình. Người ta điệu lão đến trụ sở xã. Nhưng đúng là chưa lần nào mẹ thấy lão Ứng như lần này. Dân quân hỏi, lão cứ lúng ba lúng búng, mặt mũi bần thần, một mực kêu oan không nhận là mình ăn cắp. Lão còn lấy cả vong hồn bà vợ già đã mất của mình ra đảm bảo. Người ta không thèm nghe. Thế là lão nói tên con. Lão bảo, đêm hôm ấy, con đã cùng đi bắt chuột với lão...
- Rồi sao nữa hả mẹ ? - Tôi sốt ruột, nóng nảy cắt ngang - Mẹ nói nhanh lên nào ?
- Người ta bắt đầu nghi hoặc... Đùng một cái, đến chiều, lão nhận tuốt. Lão kể rành mạch việc chặt sáu buồng chuối thế nào, khuân lên bờ rồi mang bán ra sao. Lão cũng xin lỗi mẹ vì đã bịa ra việc con đi bắt chuột với lão. Thế là xong chuyện ! Chán thật, lão cũng đã già rồi...
Nghe đến đó, tôi chẳng nói chẳng rằng, chạy bổ sang nhà lão Ứng. Lão đang ngồi thu lu ở góc chiếu với bi-đông rượu - vẫn cái bi-đông ấy - và mấy củ lạc rang.
- Mày đã về đấy à ? - Lão hỏi vọng ra khi thấy tôi.
- Chào lão Ứng ! Cháu...
- Ngồi xuống đây ! Mẹ mày kể rồi
hả ?
- Vâng !... Tại sao lão lại nhận là mình đã chặt trộm chuối ? Thằng Khánh nó...
- Đêm qua, tao đi bắt chuột ở đồng Tám Mẫu. Thằng Khánh mò ra tìm và đưa tao gói này - Vừa nói lão vừa lần lần trong người, đưa một cái bọc nhỏ, hơi nhàu nát ra trước mặt tôi - Sáu trăm ngàn mày ạ ! Nó cảm ơn và xin trả lại tao số tiền đã nộp phạt.
- Thế ạ ! - Tôi cất giọng rời rạc.
- Tao chỉ phải nộp có năm trăm ngàn thôi. Nhưng làm gì có tiền nên đi vay lãi ngày nhà Minh Thục xóm ngoài, bảy phân đấy ! Nhà ấy bao giờ cũng thế ! Khiếp thật... Còn mấy chục, mai mày đến nhà giáo Tân đưa cho thằng Khánh hộ tao, bảo là chỉ hết chừng ấy ! Giá tao dư dả thì lấy của nó năm trăm thôi. Nhưng... mày thấy đấy !...
- Dạ, cháu hiểu lão. Nhưng sao lão lại làm thế ?
- Ôi dào ! Chẳng sao cả ! Thằng Khánh sau lần này chắc sợ vãi tè ra rồi. Đố dám ăn cắp nữa ! Đêm qua tao cũng bảo với nó rằng, nếu nó còn dại dột đi chôm của người ta nữa, tao sẽ kể lại chuyện trộm chuối này cho cả làng nghe. Lúc đó thì... Nó khóc và hứa rồi ! Còn tao, thêm một chuyện này nữa thì có làm sao ! Tao đã thề không đi ăn trộm nữa thì chắc từ giờ sẽ hết tai bay vạ gió thôi... Lần này, coi như tao giúp giáo Tân một chút thôi mà !
- Vâng ạ !
oOo
Sáng hôm sau, tôi mua hoa quả, một ít thuốc bổ đến thăm cô Tân. "Còn vài chục này, cháu biếu lão. Ngày mai thằng Khánh sẽ nhận lại một trăm ngàn". Mặc tôi năn nỉ thuyết phục, lão Ứng vẫn nhất quyết đưa cho tôi số tiền thừa. Bù thêm cho đủ, trước khi về tôi dúi vào tay thằng Khánh một trăm. Khi cầm tiền, tôi thấy nó run run. Nhìn vào mắt nó, tôi thấy yên lòng lạ... Buổi chiều hôm ấy, định bụng sang thăm lão Ứng một lát rồi mới đến cơ quan. Lề mề thế nào, tôi lại muộn. Vội vàng gói ghém đồ đạc mang ra xe, tôi hớt hải phóng vụt đi, chẳng kụp chào lão Ứng...
Ông lão đánh giày
Phần I
Lão nhìn tôi. Đôi mắt như tan hết sương khói, ánh lên màu kim loại được mài sáng. Tôi nhìn đôi mắt người đã từng cầm cuốc, cầm súng, cầm chìa khóa giữ kho bây giờ thì cầm giày, quết lên đấy cái màu xi pha trộn, tự tạo, cùng cái miệng ngọt ngào tiếp thị để rồi “có được là bao đâu” như lời lão thường nói.
Không biết ông lão có biệt tài gì trong pha chế để được một loại xi đặc biệt đến thế. Xi của lão vừa bóng lại vừa bền. Ai có giày nhờ lão đánh xi chỉ một lần là có thể nhớ lâu, nhớ đời. Cách đây mấy năm tôi có mua một đôi giày da nâu, đế cao su đỏ, đồ nội thôi nhưng sau lần nhờ lão đánh xi đi đến đâu người ta cũng chỉ trỏ, bàn tán. Bạn thân thì bảo: “Con mày vừa gửi ở Tây về đấy à?”. Người lạ thì ý tứ trầm trồ: “Đôi giày của ông giá chắc đắt lắm?”. Tôi nói thật, chả ai tin lại còn nở nụ cười khen tặng nữa. Lúc ấy, chỉ nghĩ do tính chững chạc của mình mà người ta suy ra, cứ cái gì tôi dùng đều cho là đồ quý, đồ ngoại cả.
Như vậy là trên đời này cũng có loại người làm cho đồ đạc của mình sang lên. Tỷ như tôi chẳng hạn. Cái áo mua ở vỉa hè có 18.000 đồng nói vống lên 120.000 đồng cũng có người tin. Đấy là chuyện của một lần, tôi nói phét và xấu hổ mãi đến bây giờ. Thực ra, cái áo ấy, tôi mua của một hãng gia công có cửa hàng tại vỉa hè. Còn lần này, về cái đôi giày da nâu ấy, cố nói thật lại chả ai tin. Vậy thì cái sự kỳ diệu ấy hẳn phải có từ ông lão đánh giày, bởi ai nhìn cũng bảo cái đồ của anh vừa bóng, vừa mịn, mắt đi dép lê của tụi tôi còn nhìn ra chất ngoại của nó nữa là các vị đi dép có quai hậu, đi sục có tất, đi giày có dây.
Tôi đã phát hiện ra cái sự có được của mình là từ tay lão. Mà cái sự có được ấy của ông lão là nhờ vào chất nâu nâu sền sệt của chất xi gia truyền đựng trong hộp sắt tây gỉ. Tôi được sang trọng vì đôi giày mặc dù cố tình không muốn có và không muốn chấp nhận. Dẫu sao thì sự đã rồi. Và chính ông lão đánh giày và sửa chữa giày ấy đã làm tôi sáng dạ dần về sự đời biến hóa so với cái cố chấp cổ lỗ của gã đồ tân thời như tôi.
Sau tiếng vang của đôi giày nâu tôi đến tâm sự với lão. Lần này tôi mang đến biếu lão một bao thuốc Thăng Long và một lon bia nội nhưng có đề chữ ngoại:
- Biếu cụ lon nước có men và bao thuốc mà cụ thích.
- Cảm ơn chú. Có lộc gì mà đem cho lão đậm thế này?
Tôi cười:
- Lộc giày cụ ạ!
Lão hóm hỉnh:
- Lạ. Xưa nay thường nói lộc miệng, lộc tay chứ mấy khi người ta nói đến lộc chân.
Tôi như đùa, như thật:
- Thời buổi bây giờ cái gì cũng có cả. Đâu chỉ đến lộc chân, còn lộc lưng, lộc gối nữa cụ ạ. Cái thứ tôi mang biếu cụ là lấy từ lộc chữ để mừng cái lộc giày cụ ban cho đấy.
Lão cười. Nụ cười thiếu răng nên có khoảng tối, khoảng sáng, trông tồi tội và thương vô cùng. Tôi nói rõ cái sự thật về đôi giày nội được phong mác ngoại. Ông lão nhướng mắt ngạc nhiên rồi chụm miệng, gật gù. Tôi muốn nghe lão nói một câu gì đó với mình mà sao lão cứ giữ nguyên cái động tác ấy.
Bao thuốc tôi biếu lão tự bóc rút ra một điếu, châm lửa. Lon bia tôi mời, lão lấy ngón tay gầy khô, bật nắp, nhấp một ngụm. Với cách thưởng thức này là lão không chê mình. Khi tôi thanh thản lại cũng là lúc lão thôi gật gù, nở nụ cười thiếu sáng, hỏi:
- Ông chú không thích chuyện ấy à?
- Không!
- Lạ!
- Lão bảo sao?
- Tôi nói là lạ, ông chú lạ. Đời này, người ta thích được khen, được nịnh. Còn ông chú khi được cả hai điều ấy lại ra vẻ khó chịu là cớ làm sao? Có Trâu Quỳ không thế?
Lão hơ hớ cười. Lon bia được đặt mạnh xuống mặt hè, sánh men ra ngoài. Lão lắc lắc người rồi lấy tay đập đập vào vai tôi. Lúc này thì chỉ mắt lão nói. Đôi mắt đã vào độ sương khói như vần vụ cơn giông và lóe lóe những tia sáng như tia chớp. Trông lão như đang ngồi trên sóng nước.
- Số một chứ không phải phải là số hai đâu, ông chú ạ!
- Thì lão cứ nói toẹt ra là tôi hâm có được không?
- Dễ thế kia à? Hâm mà như chú rồi khối người muốn. Tỉnh mà như tôi liệu mai mốt còn mấy đứa thèm? T
iếng nói của lão sầm xuống, u tối. Giọng lão như có nước mắt.
- Tay nghề tốt như anh liệu được mấy người?
- Chú khen anh thế là bằng chửi vào mặt anh còn hơn. Cái nghề đánh giày nó vậy. Hay đấy, dở đấy.
- Nhưng...
- Tôi biết chú định nói gì rồi!
- Không!
- Thế thì ông chú lại phải càng tự hào chứ! Giả như thật mà.
- Nhưng…
- Lại nhưng…? Mấy cậu có chữ nghĩa bây giờ là chúa ba phải. Còn lão, tôm là tôm, tép là tép. Lão làm một hơi nữa hết lon bia. Thuốc Thăng Long lão đã hút đến điếu thứ hai.
Có một người đàn ông ăn mặc là lượt từ xa đi lại:
- Này ông cụ, đánh giúp đôi giày…
- Mời ông ngồi ghế đây. Ông đợi cho một lát?
Tôi biết lão vì tôi mà từ chối khách, nên nói:
- Xin phép lão…
- Chú cứ ngồi. Tôi chưa nói hết.
Lão vẻ dứt khoát. Ông khách đánh giày tỏ ra khó chịu:
- Không nhớ tôi là ai à? Người ta cần là cần ngay lúc này?… Được rồi!...
Người khách quay ngoắt đi với dáng vẻ khinh khi, dọa dẫm. Tôi biết vì tôi mà lão bị khách giận. Tuy vậy lão vẫn bình thản xếp đồ vào hộp như thể sắp nghỉ làm việc:
- Tôi thì chả lạ gì cha này. Loại có máu mặt đấy. Có đôi lần qua lại gã ta nhắc nhở tôi ngồi dẹp dẹp vào lấy lối đi. Chú tính, lưng đã dựa vào cái gốc cây bàng này thì còn lùi vào đâu được nữa.
- Thế sao lão không đánh luôn cho người ta để đỡ phải mất lòng…
- Tôi là tôi chúa ghét cái câu này ông cụ…
Và rồi như lẽ tự nhiên của cảm xúc có đà ông lão đánh giày kể cho tôi nghe về lai lịch của mình
Lão vốn là trai quê. Bố lão xưa nghèo phải bỏ làng ra phố đánh giày, lúc có vợ mới đưa về làng xoay nghề làm ruộng. Nghề làm ruộng chỉ phải hầu đất chứ không phải hầu ai. Đến đời lão, từng là dân quân xã rồi đi đánh giăc, bị thương được ưu tiên cho chuyển sang nghề giữ kho. Ngày ấy người nhiều của hiếm. Ai cũng đói, ai cũng thiếu vậy mà Thủ trưởng của lão coi kho nhà nước như kho nhà mình. Nay cái này, mai cái nọ, lúc lái xe, lúc nhân viên hành chính... đứa nào cũng có giấy viết tay do Thủ trướng ký. Cũng nhiều lần Thủ trưởng, rồi cả vợ ông ta nữa thân chinh vào kho, ngắm cái nọ, sờ cái kia, rồi thì “cậu chuẩn bị cho mình cái này, cái này….”. Sau dần, chịu không nổi, bực mình quá, lại vốn nóng tính không giữ được trong bụng lâu lão uất ức bật lên:
- Thủ trưởng cứ làm như kho nhà nước là cái vại gạo nhà mình không bằng...
- Cậu nói ai?
- Tôi bảo ông ấy. Cái đồ cường hào bốn túi!
Và dĩ nhiên lão bị cho về một cục. Bạn bè lão bảo lão dại. Có đứa còn mắng lão ngu. “Nó ăn mình cũng ăn. Tội đếch đâu mà trong trắng đến nỗi phải trắng tay…”. Vợ lão chỉ biết khóc. Lão thét to với cả nhà:
- Có im đi không! Chết làm sao được thằng này. Còn hòm đồ nghề đánh giày ông cụ bàn giao cho đây.
Vợ lão bực quá:
- Làm ông không muốn lại đi làm thằng, đồ dở người ạ.
- Làm thằng mà tâm trong còn hơn làm ông mà bẩn bụng, mẹ mày hiểu không?
- Trời ơi…
Vợ lão chỉ biết ôm mặt hờ trời. Lão nghĩ, cao xanh ở xa, mấy khi nghe thấy lòng trần. Âu đó cũng là lẽ đời thường nhật. Được cái này mất cái kia. Muốn tâm trong thì làm sao nặng bụng được. Đời này cũng có kẻ đang ông bỗng chốc hóa thằng. Còn lão, chỉ ở hơn thằng một tí nay xuống thằng đã làm sao?…
Và từ đấy lão nối nghiệp cha. Lão cũng nổi tiếng cả vùng về tài đánh xi đẹp và đặc biệt rất ít nói với người lạ. Một bận, có ông khách ăn mặc sang trọng tìm đến đánh giày, muốn trò chuyện thấy lão chỉ gật gù, mới hỏi bằng một thứ tiếng lơ lớ:
- Cụ bị câm lâu chưa?
Lão cười xòa:
- Đâu có. Tính tôi nó thế. Lúc nào miệng cũng như bị khâu.
Vậy mà, sao hôm nay lão nói với tôi nhiều đến vậy. Lão như muốn dốc bầu cùng “tri kỷ”. Lão gọi tôi là thế và sẵn sàng hy sinh cả công việc sinh nhai để ngồi tiếp cái anh dở người vì không chịu nhận đôi giày của mình là giày ngoại.
- Thôi thì kệ sự đời - Tôi mời lão hút tiếp điếu thuốc nữa - Bây giờ ông bác - Tôi gọi thân tình - Ông bác cho em biết, có sự tài tình gì trong cái ống bơ gỉ kia mà xi của bác bền và bóng đến thế.
Lão hà hà, nín lặng chốc lát sau đó mới bật ra:
- Có nói chú cũng không biết. Từ ông cụ tôi kia. Vì miếng cơm đút miệng cả thôi. Khách đến, nhìn đôi giày, chưa biết đầu cua tai nheo là gì bao giờ tôi cũng có đôi câu rào đầu: Giày Đức hay I - ta đây? Cha cha tuyệt quá! Hoặc có phải đây là Pháp không… tôi đoán không nhầm mà! Cũng có khi... Tàu cao cấp, Hồng Công xịn đây thêm xi của tôi vào nữa cứ gọi là siêu ngoại!... Ngần ấy câu, nhìn mặt người rồi mặt giày mà nói, cộng với loại xi gia truyền… Thế là khách sướng rơn. Mình cũng có cái lợi ở đấy chứ. Cơm áo có đùa với ai bao giờ. Lạ? Khi được khen ai cũng rạng rỡ cả lên chỉ có riêng ông chú là tôi thấy càu nhàu.
- Ông bác thấy em lạ lắm à?
- Không lạ! Cũng chẳng quen. Con ễnh ương bé thân nên to miệng. Tôi nghề hèn nên lấy nói phét làm sang. Hơn nữa, nói phét mà người ta tin là thật thì càng sang. Nhưng thú thật với chú nó tài là ở cái này đây này…
Lão lại giơ ra trước mặt tôi cái ống bơ gỉ, cái ống sắt dị mọ, xấu xí mà như có phép lạ. Tôi cầm nó trên tay, mở nắp ra ngửi. Vẫn cái mùi hăng hắc bình thường mà sao khi nó phết lên mặt da lại khiến người ta tưởng là giày ngoại.
- Cũng cần cả cái phom nữa ông chú ạ. Bây giờ phom của Ta, của Tây, của Tàu cũng lơ lớ nhau - lão nói tiếp.
- Còn xi ạ?
- Xi thì cũng vậy. Đấy là bí quyết. Cũng Tây, Tàu lẫn lộn. Mỗi thứ một tí. Ta nhiều hơn. Làm lâu mà sinh kinh nghiệm. Bao giờ ông chú phải hành cái nghề đánh giày như tôi ông chú sẽ biết. Chả phải dạy cũng ra. Chú ngẫm mà xem. Đời mà…
Lão nhìn tôi. Đôi mắt như tan hết sương khói, ánh lên màu kim loại được mài sáng. Tôi nhìn đôi mắt người đã từng cầm cuốc, cầm súng, cầm chìa khóa giữ kho bây giờ thì cầm giày, quết lên đấy cái màu xi pha trộn, tự tạo, cùng cái miệng ngọt ngào tiếp thị để rồi “có được là bao đâu” như lời lão thường nói.
Đời mà…
Lão đã cho tôi một câu trả lời như ngàn đời nay con người ta vẫn thường nói với nhau như thế. Mà đã như thế rồi thì còn có gì phải hỏi nhau nữa. Bằng lòng vậy, cầm lòng vậy. Tôi như chẳng còn điều gì để hỏi. Thâm tâm tôi cầu chúc cho lão bình an với một chỗ ngồi nho nhỏ, khiêm nhường ở cuối phố. Nơi ấy có một gốc cây bàng già nhưng nhiều lá và cái bệ xây bằng gạch chung quanh làm chỗ cho lão ngồi, cho lão xếp đồ…
“Ông lão đánh giày và sửa giày cũ kỹ, lem luốc của tôi ơi! Làm sao sạch sẽ được khi suốt ngày phải sờ mó vào bụi bặm, giày dép. Được cái, sau đôi tay tần tảo, chuyên cần của lão mọi cái lại bóng bảy tinh tươm...”.
Bẵng đi một thời gian sau, tôi có việc phiền đến lão. Đôi giày da nâu vì đi đường nắng nhiều mà bạc mốc ra đang cần được chăm sóc. Lão không còn ở đấy nữa. Nơi gốc bàng ai đó đã treo vào đấy đôi cái lốp xe rách. Tôi hỏi thăm bà cụ hàng nước thì bà cụ bảo nghe đâu ông lão đánh giày mắc lỗi “ tiêu thụ của gian” vì có liên quan đến một kẻ chuyên ăn cắp giày của người khách nước ngoài nên bỏ nghề rồi. Bà lão hàng nước còn nói:“ Cái thằng đến đánh giày ấy thật tệ. Nghe đâu lần nào đến nó cũng nói ngon nói ngọt rằng xi ở đây tốt lắm. Ông đánh cho thật đẹp vào. Đây là đôi giày ngoại của bạn con vừa mang ở bên Tây về đấy, nay muốn thay đổi mốt đi nên nhờ ông xem có ai thích thì bán giúp. Thế là…”.
Tôi giật mình. Lẽ nào ông lão đánh giày của tôi lại đổ đốn đến thế! Có thể ông bị lừa chăng?
Mang nỗi hoài nghi tôi loanh quanh đi tìm ông. Cũng phải tự trách mình trước. Quen lâu mà nhà ông lão ở đâu tôi không biết. Lại phải nhờ bà cụ hàng nước mách cho. Vẫn là cái câu nghe đâu muôn thuở của bà cụ dẫn tôi đi tìm. Ngõ to ngách nhỏ. Nhà cao nhà thấp. Giàu sang có. Tầm tầm có. Nói nghề rồi nói tên. Người lắc đầu. Người ngờ ngợ. Vào lúc sắp thất vọng thì tôi gặp được người mách. Đó là một người ở ngoài phố lớn vào ngõ lấy hàng về bán. Hàng của ông là những đôi giày gia công làm kỹ và hợp mốt. Nhìn màu xi trên mặt giày tôi giật mình. Thế là người muốn tìm lại đã gặp!
- Ông bác làm em toát mồ hôi...
Tôi kể lại những điều đã nghe được cho ông lão đánh giày của mình nghe. Ông gật gù bảo tôi:
- Nghe gì cái thông tin của các hãng vỉa hè nghễnh ngãng ấy. Có, có chuyện đó nhưng không phải là việc đó. Tôi lên công an là để báo cáo lại toàn bộ sự việc. Thật hú vía. Còn được lập công nữa nhá. Bọn ăn cắp đồ tốt của thiên hạ làm đồ sang cho mình bị bắt cả nút. Thật đáng đời lũ xấu bụng. Cũng nhờ việc này mà tôi dứt khoát bỏ cái nghề ngồi phơi mặt ra giữa thiên hạ để đánh bóng cho cái bọn mất dạy ấy. Tôi đây thì ông chú hiểu rõ quá đi rồi còn gì. Đời nào lại đi làm cái việc xấu xa. Mình là người cơ mà. Nhưng được rồi...
Ông lão đánh giày và sửa chữa giày thân yêu của tôi đã thực hiện cái nhưng được rồi ấy bằng cách trở lại nơi gốc bàng thân thuộc cùng nghề cũ của mình. Nhiều khách quen lại tìm đến. Bà cụ hàng nước đã xuê xoa, hể hả trò chuyện với ông và thôi nghe đâu khi nói về ông nữa. Nhưng được đúng một tháng sau cái quán đánh giày và sửa chữa giày dân dã ấy được “đóng cửa” với hàng chữ thông báo viết trên tấm bìa cứng treo ở thân cây về lý do nghỉ việc của nó.
Trong một ngôi nhà cấp bốn còn tuềnh toàng ở một ngõ phố nọ có một xưởng thợ nhỏ chuyên môn đóng những đôi giày nội chất lượng cao. Ông lão đánh giày thân yêu của tôi, người thợ đóng giày bây giờ mong muốn với những sản phẩm tự thân ấy sẽ không bao giờ làm hổ mặt mình...
Ông Lão Dê Xồm
Ngày xưa ở xóm tôi ở có một ông lão, tuổi chắc cũng gần sáu mươi, tóc đã bạc phơ phơ cả dù trông còn tráng kiện lắm. Vợ ông năm ấy có lẽ cũng trên bốn mươi, miệng lúc nào cũng nhai trầu đỏ choét.
Ông bà già đã có năm người con, đứa con út cũng cỡ tuổi tôi lúc bấy giờ là mười tuổị Ông bà già nhưng tình tứ lắm, đi đâu cũng cầm tay, âu yếm nhau, chẳng khác gì các thanh niên trai trẻ. Đa số người trong xóm tôi ở hình như khó chịu vì thấy ông bà thương nhau ra mặt kiểu đó. Nhưng họ chỉ thì thầm với nhau là ông bà già mà còn tình như thanh niên thôi chứ không dám nói thẳng.
Mãi đến một hôm, không biết ông bà tọ tẹ thế nào mà bác gái cái bụng mỗi ngày một lớn và thế là trái bom tai tiếng bùng nổ vang cả xóm. Người ta công nhiên gọi ông lão là ông già dê xồm. Kể cũng tội ông bà, ở một xã hội khép kín như ở Việt Nam ngày xưa mà văn minh đi trước cả bao nhiêu năm chẳng khác gì ở các nước Tây Phương bây giờ còn công khai khoe dùng Viagra chẳng ngại ngùng gì!
Ông bà chẳng xấu hổ, mà có gì đâu để xấu hổ chứ! Mỗi khi người ta gọi ông là ông dê xồm, thì ông cười hề hề nói, "Tôi có dê gì mấy bà vợ của các ông hay dê các bà đâu mà lôi thôi rắc rối! Tôi dê vợ tôi thì mắc mớ gì mấy người! Rõ thật là lắm chuyện!"
Ông nói, "Con trời cho vào tuổi này là trời thương đó! Đâu có phải bình thường đâu! Tôi chẳng thuốc bắc, thuốc nam! Có con tuổi này cũng ấm áp tuổi già!"
Mà đúng là con trời cho thật. Bác gái tuổi trên bốn mươi mà khi lâm bồn sinh cái rụp ở nhà, chẳng phải đi nhà thương nhà thác gì hết. Chỉ có bà mụ trong xóm tới phụ đỡ đẻ tí thôi.
Thằng bé lớn như thổi, có lẽ được các anh các chị nó ẵm bồng cưng chiềụ Khi hai ông bà đưa con đi lễ, hay đi chơi thì mỗi người cầm một tay của thằng bé thay vì cầm tay nhau như hồi trước trông thật là đầm ấm.
Người lạ không biết cứ hỏi, "Bố mẹ thằng bé kháu khỉnh này đâu mà ngày nào ông bà cũng đưa đi chơi hết?"
Ông lão tủm tỉm cười, "Nó là con chúng tôi đấy!"
Những người lạ lắc đầu nghĩ rằng đó là con nuôi của ông bà, chứ không phải là con trời cho lúc đã cao tuổi.
Hôm nay sắp sang năm dê, tôi lại thấy nhớ ông già dê chi lạ! Thằng bé giờ chắc lớn rồi, không chừng cũng tình tứ như ông bố ngày xưa! Năm nay nó cũng mười sáu mười bảy, chẳng biết ông già dê giờ còn sống hay mất nữa.
Ông lão sửa xe
Chiều Sài Gòn, dòng người xuôi ngược những con đường ngày một đông đúc hơn. Dường như ở Sài Gòn không khí về đêm luôn nhộn nhịp hơn những khi khác. Ông Nam, một thợ sửa xe đã già, cố và một vài đũa gấp gáp cho xong buổi cơm chiều như thường lệ. Ông sửa xe ngang trường Lê Hồng Phong đã được hơn hai mươi lăm năm rồi. Lúc còn trẻ thì ông sửa xe gắn máy, nhưng nay già ông chuyển qua sửa xe đạp cho học sinh. Với người như ông Nam, mọi thăng trằm trong đời ông đều đã trải qua.
Sau ngày ba mươi tháng tư, cuộc sống của ông đã nghèo khổ thì giờ lại khổ cực thêm hơn. Thời đó, chính quyền đánh tư sản để lấy hết vàng của dân. Bất kể ai, một ông chủ hay một thằng hầu, miễn có vàng là phải giao nộp. Thêm vào đó là hai cuộc đổi tiền càng làm cho kinh tế miền Nam thêm khủng hoảng. Hai triệu đồng đổi được khoảng hai trăm đồng. Nhiều nơi, chính quyền còn ép giá dân để tham nhũng. Phút chốc, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp lại một cách tối đa. Chẳng còn ai giàu cả ngoài những người làm cho nhà nước lúc bấy giờ. Những người mà ông Nam biết nếu còn chút vàng thì tìm mọi cách vượt biên để tìm một cuộc sống bông bằng hơn, một cuộc sống cho con người ta cơ hội đổi đời.
Còn riêng ông Nam, lúc trước đã nghèo, giờ giải phóng rồi thì cũng có khá hơn đâu. Ông bắt đầu học nghề sửa xe để kiếm cơm dằn bụng mỗi ngày. Thời ấy thứ gì cũng phải đợi phân phát từ trên xuống. Lúa gạo làm ra mà không được ăn, phải nộp cho hợp tác xã để rồi đợi họ phát lại cho. Một mùa làm được năm chục vạ thì cuối mùa được dữ lắm một hai vạ mà ăn. Cuộc sống không biết bao nhiêu là khổ cực.
Ông Nam sống một mình trong một căn phòng trọ nhỏ mà ông đã mướn ở hơn gần hai mươi năm rồi. Ông không còn người thân lẫn họ hàng vì họ đã chết hết khi chiến tranh hoặc lưu lạc mất rồi. Lúc còn trai trẻ, ông có quen một người con gái nhưng duyên nợ không thành vì gia đình cô gái chê ông nghèo quá, không lo nổi cho con gái họ. Từ đó ông quyết định không theo đuổi ai nữa cả vì “thân mình mình còn lo chưa xong nữa thì làm sao lo được cho người khác.”
- Xin lỗi, ông vá lại bánh sau cho cháu được không ạ?
Đang suy nghĩ, ông Nam giật mình ngước lên. Đó là một cô nữ sinh nhễ nhãy mồ hôi bởi cái nóng bất tận của Sài Gòn.
- Ừ được, cháu đợi chút.
Ông Nam bắt đầu làm. Đôi tay nhăn nheo dày cứng của ông tuy chậm chạp nhưng rất chính xác. Ông làm công việc này như thể nó là bản năng của ông vậy. Mười lăm phút, vậy là xong.
- Bao nhiêu tiền ạ?
- Ba ngàn.
Cô nữ sinh lấy tiền trả cho ông, cám ơn rồi dắt xe đi.
Đối với ông Nam, ông không bao giờ nghĩ rằng công việc của mình là thấp hèn. Ông luôn cho rằng công việc của ông quan trọng không kém gì công việc của những kỹ sư, bác sỹ. Cuộc sống sẽ ra sao nếu không có những người như ông?
Thời gian trôi qua, giờ đã là chín giờ tối. Ông Nam tính gom đồ lại rồi về nhà nhưng ông cũng muốn nấng ná lại một chút coi có kiếm thêm được vài ngìn nữa không? “Khốn nạn thật!” Ông suy nghĩ trong đầu. Cuộc sống bao năm vẫn vất vả như thường. Tiền kiếm được cũng chỉ vừa đủ ăn, còn dư bao nhiêu thì cũng đi mất theo mấy cơn bệnh cứ vài tháng lại kéo đến một lần. Ông tự hỏi dân đen sống khổ cực như vầy mà tụi quan liêu chẳng thấy sao? “Mình ngồi mót vài ngàn, còn tụi nó mót tiền dân lên tới triệu đô?” Giờ đây ông mới thắc mắc không biết sao tụi nó đếm nổi số tiền mà chúng tham nhũng nữa. Cả đời ông, tờ một đô ông còn không biết mặt mũi ra sao nữa chứ nói chi là tới triệu đô.
Cái nóng oi bức ở Sài Gòn giờ không còn nữa. Thay vào đó, cái lạnh nhẹ nhàng nhưng cũng đủ cho ông Nam phải mặc thêm một chiếc áo khoác lên chiếc áo xanh jean đã rách hai lỗ trên hai vai ông. Cuộc sống Sài Gòn theo ông Nam không giờ ngủ. Vòng tuần hoàn bắt đầu khi những người quét rác lạo xạo, những tiểu thương trong chợ bắt đầu chuẩn bị cho buổi chợ sớm hay những người đi tập thể dục trong các công viên xuất hiện. Và vòng tuần hoàn ấy kết thúc khi những vũ trường đã đóng cửa khiến những cô chiêu cậu ấm chạy rầm rú ngoài đường đi tìm những cơn thác loạn khác.
- Này ông già, vá giùm tui bánh trước rồi bơm luôn bánh sau. Đụ mẹ, bữa nay xui quá!
Ông Nam nhìn lên thấy một cậu thanh niên khoảng chừng hai mươi tuổi. Nhìn thoáng qua ông biết đó là con nhà giàu. Tóc tai nhuộm vàng nhuộm đỏ, mình đeo đầy trang sức trong khi miệng luôn phì phèo điếu thuốc.
- Cậu chờ chút.
- Lẹ lẹ giùm ông già ơi, tụi nó đi hết mẹ rồi!
Ông Nam bắt đầu làm việc. Tay ông cố làm cho nhanh nhưng trong bụng ông không muốn vậy. Ông ghét nhất tụi ăn chơi này. Ông cho rằng chúng là loại quên cội quên nguồn. Người Việt thì phải tóc đen mũi tẹt. Không đâu, chúng nhuộm tóc vàng lên, đi nâng mũi lên để mong thành Tây. Nhưng chúng quên là dù bề ngoài chúng là Tây nhưng trong óc chúng vẫn là người Việt. Chúng quên câu “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” rồi. Mà tụi này chắc gì đã đi học đâu mà biết. Học chi? Bây giờ không học cũng có tiền mà.
Ông Nam làm xong. Cậu thanh niên đó trả tiền rồi rồ máy phóng đi để lại sau lưng làn khói trắng. Ông Nam bắt đầu gom đồ lại, chất gọn ghẽ trong thùng rồi để lên chiếc xe đạp. Ông đạp xe về ngang qua những chiếc xe mì gõ thơm phức. Lòng cồn cào nhưng ông không có quen ăn đêm. Đường vào nhà trọ ông không xa nhưng ngoằn nghèo khó tìm. Tuy là người suốt ngày phải chịu bụi bậm ngoài đường nhưng trong phòng ông mọi thứ đều rất ngăn nắp và sạch sẽ. Ông không nhớ ông có thói quen gọn gàng từ bao giờ. Có lẽ khi càng về già ông muốn mọi thứ trở nên giản dị hơn. Tắm xong, ông Nam lấy chiếc radio đã cũ ra nghe. Khi nghe ông có khi nhìn vào một khoảng không nào đó và bắt đầu suy nghĩ. Ông cảm thấy cuộc đời ông cô đơn quá. Suốt ngày ông chả nói chuyện với ai cả ngoài những câu giao tiếp thông thường với khách. Ông nghĩ có lẽ cuộc đời của ông chỉ làm bạn với cô đơn mà thôi.
Tắt radio, ông Nam vào giăng mùng ngủ. Giấc ngủ đến với ông dễ dàng bởi sự mệt mỏi trong cả ngày làm việc. Mắt ông lim dim chìm vào giấc ngủ trước khi nhận ra hôm nay là ngày sinh nhật lần thứ bảy mươi ba của mình.
Hắn
Hắn ngước mắt nhìn căn nhà xiêu vẹo mà lắc đầu ngao ngán , thầm ước ao có tiền để xây căn nhà mới .. nhưng rồi cũng chỉ là mơ ước mà thôi . Tuy vậy trong căn nhà ọp ẹp đó ,Hắn cùng mẹ và cô em gái vẫn có những tháng ngày hạnh phúc bên nhau , tuy những bữa cơm có đạm bạc , nhưng vẫn ấm áp qua những ánh mắt và rộn rã nụ cười .
Hai công đất hoa màu và cái nghề làm thuê của hắn cũng đủ nuôi ba miệng ăn không đến nỗi nào thiếu thốn ,ở nhà có cô em gái chăm sóc mấy công hoa màu , nuôi được bầy gà mới nở .
Buổi sáng khi hắn khóac vội cái áo lính cũ mèm đi làm , thì cô em gái cũng bưng thúng khoai ra chợ .. Mẹ hắn chưa đầy 70 nhưng cuộc sống khắc khổ vì lo toan nên già xọm như ngoài 80 , còn khỏe mạnh, hằng ngày Bà ở nhà làm mấy việc linh tinh .. Xem ra thì nhà hắn cũng tạm ổn qua ngày , hắn lại là đứa con trai có hiếu với Mẹ , không như những đứa trạc tuổi hắn , thôi thì đủ chuyện cafe ,thuốc lá rượu chè ...Hắn siêng năng cần mẫn hiền lành như cục bột nên mọi người trong cái xóm vắng này cả thảy ai cũng thương .
Giá như không có một ngày , một cái ngày định mệnh đã thay đổi cuộc đời hắn .
Sau lần choáng ngợp vì cái sự giàu sang của anh bạn nhà quê xưa , sau vài năm bỏ quê lên phố tìm tương lai , giờ trở về như một sự đổi đời thật sự .
Với bộ quần áo đắt tiền , xe gắn máy tay ga đời mới và nhất là khuôn mặt rạng rỡ của một người hạnh phúc , tất cả thứ đó đã làm thay đổi hoàn toàn tư duy của hắn .
Và hắn quyết định rời bỏ cái làng quê nghèo nàn này để lên thành phố tìm tương lai , với ước mơ vĩ đại là có thật nhiều tiền để lo cho Mẹ và em gái có cuộc sống tốt hơn nhất là nhất định sẽ xây lại ngôi nhà thật khang trang cho Mẹ .
Và hắn đã làm thật ... cuộc sống ở thành phố đã lôi cuốn hắn quay cuồng vào nhịp độ hối hả .. Rồi thời gian cứ thế trôi qua , hắn chẳng còn thì giờ để về thăm cái làng quê có bà Mẹ già và cô em gái mõi mắt chờ trông , quả thật hắn chẳng có thời gian nào nữa , bây giờ thì hắn có tiền , một cô vợ , đứa con gái kháu khỉnh và nhất là hắn chẳng quên cái ước mơ xây một ngôi nhà thật khang trang cho Mẹ và em gái .
Có nhiều lần em gái hắn nhắn tin cho hắn với nhiều lý do: về làm giỗ cho ba , Mẹ bệnh ... nhưng lần nào hắn cũng khất đi : “ Nhất định là anh sẽ về xây lại ngôi nhà mình thật đẹp , sẽ lo cho Mẹ và em , em cầm ít tiền này lo cho Mẹ hộ anh nhé , khi nào anh có đủ tiền xây nhà anh sẽ về ...“
Chiều hôm nay vẫn như mọi buổi chiều .. sau trận nhậu bí tỉ với các chiến hữu với lý do là mới nhận được tiền thưởng cuối năm .. Hắn là đà dắt chiếc gắn máy vừa mua lại ở salon xe cũ , vào nhà cái hình ảnh đầu tiên là một lá thư nằm giữa bàn kê ngay ngưỡng cửa ra vào , chiều nay vợ con hắn cũng đi liên hoan với bạn bè chưa về .. Hắn làu bàu thầm nghĩ “ lại thư từ của ai đây ??” Hắn chưa vội xem , tắm rửa cái đã cho thoải mái sau một ngày làm việc mệt nhọc nhất là sau trận bia bọt với chiến hữu . Những giọt nước mát đã làm cho hắn cảm thấy thật thoải mái và tan biến phần nào cái men bia đang ngư trị trong bụng hắn , khoan thai bước ra phòng khách , hắn chợt nhớ đến lá thư trên bàn ,chậm rãi hắn cầm lên xem ..
Mấy chữ “Gởi Anh Hai Người gởi : Bé ba “ đập vào mắt hắn , hắn hơi lo lắng ,
Vội xé phong thư ra ... vỏn vẹn có mấy chữ : “Anh hai về gấp . Mẹ bệnh rất nặng , em sợ lắm ..”
Hắn ngồi phịch xuống ghế , đầu óc hơi chao đảo ....
Trời vừa tờ mờ sáng , hắn đã thức từ lúc nào , nhìn vợ con đang say giấc , hắn chép miệng lắc đầu , chuyện lá thư hắn vẫn không cho vợ biết vì Hắn vẫn dấu Mẹ và em gái chuyện vợ con của Hắn .
Thu xếp vài bộ quần áo nhét vội vào cái balô cũ ngày nào .. Hắn nhẹ nhàng lách qua cửa ra ngoài ....
Ngày cuối năm đường phố chợt như đông và vui hơn khiến trong lòng Hắn cũng thấy bớt lo lắng một chút .. mãi đến gần xế chiều chiếc xe đò mới từ từ bò vào bến xe thị xã .. Vội vã ,Hắn bước như chạy về Làng , những khung cảnh xa xưa liên tiếp đập vào mắt Hắn ... rồi bao nhiêu ký ức từ đâu trôi về ồ ạt theo những bước chân .... Trước cửa nhà Hắn sao đông người quá .. linh tính báo cho Hắn là có chuyện không lành ... Hắn bứơc vội vào nhà .. Hắn há hốc mồm .. đôi mắt như mất hồn.. hai chân Hắn như muốn sụm xuống ..
Trên chíếc divang nhỏ kê ở giữa nhà , Mẹ hắn - người ta đã phủ lên thân thể bằng tấm vải màu trắng tóat , có một nải chuối xanh dằn trên bụng , trên đầu là bát cơm trắng và mấy nén nhang đang tỏa khói ...
Hắn đã hiểu : .. gục đầu bên thi thể Mẹ , sau một ngày đường ngồi trên xe mệt mỏi cộng với nỗi đau quá bất ngờ..hắn thiếp đi ....
Trong cơn mơ , hắn thấy Mẹ hắn đang tươi cười đứng trước một ngôi nhà thật khang trang mà hắn vừa xây xong cho Mẹ .
Hắn
Đầu hắn tròn. Mặt hắn tròn. Núng nính như cái thủ lợn. Cũng may hắn có chút chiều cao nên dù có phốp pháp cũng không đến nỗi ung ủng tròn lăn.ưa nay trong ca dao, dân gian thường hát: Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon. Có lẽ cũng vì thế, do ảnh hưởng văn hóa cổ truyền, mỗi khi muốn nấu cháo lòng, các bà nội trợ thường cố chọn cho được bộ đồ lòng béo nây nây, trắng hồng, uốn khúc chặt chẽ, khít khao, và khúc cổ lọ chắc nịch. Nhìn thôi đã thấy vừa ròn vừa mềm, lại vừa thơm tho nữa. Bên xứ tây này, ở Paris, chỉ có chợ Tầu, quận 13 và chợ Belleville. Tìm được một bộ đồ lòng tốt thật hiếm có. Đa số cứ thưỡn ra, lỏng lẻo, teo nhách, lại có khi hơi xanh xanh. Trông đã thấy dai, tanh và đắng. Hết cả hấp dẫn. Lòng heo để nấu cháo thì cần con lợn thật mập. Nhưng còn ruột gan hắn có tốt như hình dong thừa thãi ấy hay không lại là chuyện khác hẳn.
Hồi bà con ta còn lính mới tò te, chân ướt chân ráo tới xứ tự do này, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ai có lỡ miệng hỏi han tới hắn, thì làm cách gì hắn cũng xa gần cho biết hắn gốc gác họ « Đờ » từ bao nhiêu đời rồi. Cái tên cúng cơm của hắn ở Việt Nam xưa nay bà con biết, chỉ là tên dùng tạm thời trong xứ la....xa xôi ấy mà thôi. Nay về « cố quốc » thì cái tên ấy yêu cầu bà con ...quên đi. Xin từ nay gọi hắn với cái tên...tây thật. Người đối diện nhìn hắn kín đáo, suốt từ đầu chí chân, cố tìm trên con người, trên khuôn mặt da vàng mũi tẹt ngắn ngủn, ninh ních ấy, một chút gì để gợ nhớ đến những tên họ « Đờ » phú lăng xa, nhưng thấy quả thật là khó. Khó hơn cả tìm bộ đồ lòng ngon ở chợ tầu, vì chẳng có một tí gì gọi là liên hệ, vương vấn, giông giống cả. Có người bạo phổi hỏi thẳng hắn có dính dấp giây mơ rễ má gì thì hắn...ngượng ngập trong một giây đồng hồ, sau đó hít một hơi dài trên cái tẩu thuốc gắn chếch trên mép, phà khói vào mặt ngưới đối diện, xốc lại cổ áo ba đờ suy cho có vẻ ...Tây, tằng hắng xong, hắn cho biết là từ đời ông cố ông sơ gì đó có quan hàm với...mẫu quốc. Người đối diện vỡ lẽ, nhưng cứ nhìn cách ăn nói, cách cư xử của hắn, người nghe tự dưng muốn cười. Mà người muốn cười phải công nhận là người dễ tính. Nếu gặp người khó khăn, họ sẽ tìm cách kê tủ đứng mát mẻ về thái đô....tây vàng của hắn. Có người sau khi biết gốc tích của hắn, gặp hắn đâu đó, mà gọi hắn bằng cái tên tây thật « Đờ » ấy thì hắn lộ vẻ sung sướng lắm và người đó bảo đảm được hắn có cảm tình đặc biệt. Bất cứ ở đâu cũng thấy hắn. Bất cứ hội họp nào, hắn cũng le te, lảng vảng, có mặt. Kể từ một buổi văn nghệ bỏ túi đến ngày lễ tế Tổ Hùng Vương. Lúc nào cũng ra cái điều mình là nhân vật nòng cốt của cục diện. Hắn cứ tự nhiên như vào chỗ...đông người. Có nghĩa là, khổ chủ chẳng hề cầu cứu tới hắn, hắn cứ phe lờ, nhờ hay chẳng nhờ, hắn cứ vác cái thân hộ pháp tới, cũng chạy tới chạy lui, chỉ chỏ, ra lệnh cho vài chú thanh niên có thiện chí đến giúp mà không biết rõ hay chẳng cần biết rõ ai là trưởng ban tổ chức vì tuổi trẻ làm việc không vụ lợi. Nhưng tuyệt nhiên không thấy hắn trong những buổi họp chính trị, buổi biểu tình, đêm không ngủ, kịch liệt chống cộng của người Việt yêu tự do, đòi nhân quyền. Có người sốt ruột hỏi tại sao hắn có mặt gần như khắp nơi, nhưng lại không bao giờ thấy hắn đi biểu tình này nọ, thì hắn trang trọng và khiêm nhường bảo rằng hắn chỉ lo về văn hóa, chính trị có người khác lo.
- Một mình làm sao ôm được hết.
Hắn trả lời như vậy trong giọng cười hềnh hệch. Được cái chưa thấy ai than thở về hắn rõ rệt, một con người chẳng ai ưa, nhưng cũng chẳng ai ghét. Bà con Việt Nam mình vốn tính dễ dãi nên dù bực bội vẫn cứ để hắn can thiệp vào việc của mình một cách...không giấy phép.
Thời gian trôi nhanh như vó câu qua cửa sổ. Chẳng mấy chốc đã xa xứ hơn 20 năm trời kể từ năm 1975.
Những lính mới ngày xưa đa số đã trở thành. ...Tây giấy. Có người thực tế lấy tên tây cho mình hay cho con cái để dễ giao thiệp hàng ngày. Điều đó có phần có lý. Có người cẩn thận hơn, áp dụng đúng câu « nhập gia tùy tục », nhất là các bà các cô, nên mỗi khi gặp nhau trong nhà hay ngoài phố đều chìa má hôn hít thắm thiết và xổ tiếng phá lăng xa loạn xạ. Cái màn hôn má này cũng được các đấng mày râu áp dụng một cách hăng hái. Tuy nhiên họ cũng...khôn lắm. Biết lựa người mà hôn. Họ biết bà nào khoái ôm hôn và bà nào nhăn mũi tránh xa. Vì thế không phải muốn...gỡ gạc ai cũng được mà lại không bị ...xỉ vả oan.
Cuối thế kỷ XX có sự kiện lịch sử lớn. Đó là sự tan rã của khối cộng sản Âu Châu nói chung, Sô Viết nói riêng và sự cúp viện trợ của Sô Viết cho cộng sản Việt Nam, nói riêng nữa. Cùng trong thời gian Việt cộng gặp khó khăn chính trị và kinh tế ấy thì có phong trào người Việt ở hải ngoại về thăm quê hương. Những người ngày hôm trước còn ôm hôn nhau ở...chợ tầu Paris, ngày hôm sau lại gặp nhau trên vỉa hè ...Saigon. Vì đã bỏ nước ra đi, khi trở về, họ mang ảo tưởng về thăm Saigon, chứ không phải thăm thành Hồ. Trong lòng họ Saigon vẫn là Saigon. Huyễn mộng đã khiến họ quên mất rằng trên thực tế Saigon đã bị đổi tên. Dù về nước chơi, trong những câu nói, cũng may không ai còn dùng đến tên của cái xác ướp kia nữa.
Trong lúc một số người Việt Nam trở thành...Tây Đầm trong cách sống và một số trở thành...Việt kiều yêu nước về thăm quê hương, ...vô tình trở thành cứu tinh, trong sự mừng rơn của Việt cộng trong cơn túng quẫn, thì hắn cũng...thay đổi. Phải thành thật nói ngay rằng dù Việt cộng mừng hết lớn vì được ngoại tệ, nhưng một mặt vẫn « chết giun chết dế » vì lo sợ những người về nước đem cái gu yêu tự do, yêu nhân bản, về thôi vào tâm hồn những kẻ thiếu thốn các món ấy trong cái nước Cộng Hoà xã Hội Chủ Nghĩa và...vô tình lột mặt nạ cái nhà cầm quyền Xạo hết Chỗ Nói ấy. Hắn ráo riết có mặt ở các buổi họp có tính cách văn hoá hơn. Chú trọng khuyến khích mầm non văn nghệ Việt Nam hơn. Văn nghệ tình tự dân tộc, nhưng tha thiết tự do, hạnh phúc thật sự, tha thiết một quê hương không bóng dáng cộng sản. hắn rưng rưng xúc động mỗi lần được đứng nghiêm chỉnh, kính cẩn, chào quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và hãnh diện hát vang bài quốc ca cùng mọi người trong phòng họp.
Gặp hắn. Người quen miệng gọi hắn bằng cái tên phú lăng xa, thì hắn nghiêm mặt, trịnh trọng chỉnh nhẹ thiên hạ rằng phải biết nhớ nguồn, nhớ gốc của mình, rằng mình là người Việt Nam, da vàng mũi tẹt, cho dù cái tên cha mẹ đặt cho có xấu cách mấy chăng nữa cũng cứ nên dùng. Thế là hắn lại đào cái tên cúng cơm Mít Đặc đã chôn sâu đâu đó từ cả chục năm nay ra xài lại trước sự chưng hửng và sững sờ của người đối diện.
Nhân khi cả thế giới kêu gọi bỏ hoặc bớt hút thuốc lá, thì hắn cũng vứt bỏ cái ống tẩu đi luôn. Trong câu chuyện, không thấy hắn phà khói rồi nhún vai kiểu tây nữa. Cách xưng hô « toa, moi » cũng không còn. Trái lại hắn cho người đối diện biết là không những tiếng mẹ đẻ, tức tiếng Việt Nam, có một kho mà còn có một bụng chữ...nho nữa. Nếu người kia mở mắt thao láo nhìn hắn ngạc nhiên, thì hắn rút liền trong túi áo vét ra một tờ giấy vẽ ngoằn ngoèo mấy hàng chữ nho và những vần thơ cổ. Thế rồi chẳng cần người đối diện yêu cầu, hắn rung người ngâm liền vài câu. Cái thủ lợn gật gù ra vẻ hiểu biết sâu sắc lắm.
Những năm xưa, mọi người còn nhớ, hắn như một ông...tây vàng, trong lúc mọi người còn là « mít » một trăm phần trăm. Nay ngược lại, thì thiên hạ thành...tây, thành...đầm hết cả, thì chỉ hắn đơn độc trở về nguồn.
Rất có thể hắn học nhiều hiểu rộng thật. Một bà có tuổi đứng gần đó nghe hắn ngâm thơ sang sảng, lại nghe hắn khoe vừa đi làm vừa đi học, bà càng bội phục người có chí lớn. Tò mò bà hỏi làm quen:
- Gớm ông giỏi quá nhỉ, lại chịu khó thế nữa. Thế ông học môn gì đấy ạ?
- Tôi học...cao học.
Bà có tuổi định hỏi gì thêm, nhưng trù trừ giây lát rồi thôi. Mặt có vẻ bần thần. Bà quay đi, vừa đi vừa suy nghĩ. Chắc đó là môn học mới. Ở cái xứ văn minh này, cái gì cũng khác lạ. Xưa nay người ta học y khoa, nha khoa, dược khoa, luật khoa, kế toán, thiết kế, kỹ sư, giáo sư, kiến trúc sư, rồi điện toán là môn bà mới nghe nói khoảng hơn chục năm nay v.v...Mấy môn đó bà nghe nói tới thường, nhưng riêng môn...cao học, thì chưa nghe qua bao giờ. Bà nghĩ thầm rõ ràng đó là cấp bực của các môn học thì đúng hơn, như cấp tiểu học, cấp trung học đệ nhất, đệ nhị, tú tài, cử nhân v.v...Bà định bụng về nhà sẽ hỏi chồng môn cao học là môn học gì. Bà không dám hỏi thẳng hắn, sợ hắn chê bà quê mùa.
Tóm lại, hắn là thế đó. Đặc biệt như vậy. Nhìn hắn núng nính như con lợn thì chẳng hiểu có nên bắt hình dong hay không và việc nhìn bề ngoài của người có thể biết bên trong tâm óc người ấy, đúng hay sai, quả thật khó nói.
Đất xóm chùa
Ông Sĩ Duệ tức Sĩ Thái sư của xóm Chùa lâu nay sinh lẩn thẩn tợn. Sau lưng ông có kẻ đã cười chế giễu: “Lão ẩm IC rồi!”.
Đừng lầm. Là ông đang loay hoay tìm đường đi nước bước trong tình thế mới thôi. Loạn nhà, loạn xóm, không tính kỹ thì toi. Tâm can Sĩ Thái sư ngày đêm nung nấu. Nghe thiên hạ kháo nhau chuyện chục cây, trăm cây, càng phát điên đầu. Ai cũng bảo phải có bước nhảy vọt, phải nhảy mới hòng phất lên được. Nhưng dân xóm Chùa nhiều gia cảnh chưa xong buổi sáng đã lo bữa tối, bảo nhảy ra sao? Khéo chỉ nhảy cỡn.
Sĩ Thái sư bụng bảo dạ: Trước tiên cần một chỗ tĩnh mịch để suy nghĩ đã. Đức Phật cũng cần một gốc bồ đề khuất nẻo ngồi tĩnh toạ mới khai minh được. Ông đã chọn sẵn một nơi.
Sáng sớm Sĩ Thái sư giành lấy con bò trong tay cu Tin, cháu đích tôn ông.
- Hôm nay cho mày nghỉ. Thằng bố mày... ba đời úp mặt mông bò chưa chán hử?
Thằng bé chỉ tròn mắt ngó. Bố nó đã dặn dạo này ông giở chứng già, mọi người không ai được trái ý ông. Đấy, ông đi mà chăn!
Sĩ Thái sư thủng thẳng dắt bò ra đồng, tới thẳng khu lăng Ngài, nơi một thảm cỏ non ngút mới mọc. Sớm quá, mới có cu Bơ với con bò đực nhà nó.
Thoáng đãng thật, Này trời, này đất, này thằng mình... Tha hồ nghĩ ngợi. Một nỗi buồn rất khẽ và rất yên lành lẩn quất trong không gian hây hẩy gió.
- Mày làm gì đấy cu Bơ?
Giọng ông hứng lên, gây sự. Cu Bơ giơ con sâu khoai khoe:
- Con Đông Tây, ông xem này.
- Con phải gió ấy tao lạ. Cái giống mất lập trường!
- Sao lại mất lập trường?
- Chả phải bảo Đông nó cũng gật, bảo Tây nó cũng ừ đấy à? Xoay tứ phía, gật tứ phía ... Rõ khéo! Cu Bơ bĩu môi nghĩ thầm: “ông hâm đại tướng!” Cầm con sâu khoai nó ve vẩy đi ra sau lăng, nơi con bò đực cất giọng thoả mãn gọi nó: “Bơ... ơ... “.
Sĩ Thái sư ngồi vắt chân chữ ngũ trên mẫu tường đổ yên ắng quá. Tựa hồ xóm Chùa bỗng lùi về một thế giới khác. Tựa hồ ông đang ở thế giới này suy nghĩ xem vì sao xóm Chùa ở thế giới kia cứ nhắng nhít rối tinh rối mù lên. Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị trường quốc tế, nào liên doanh thương mại thế mạnh...
Khốn nạn, cái vạt đất tí hin bị bỏ quên sau mấy luỹ tre, mơ ước hào hoa nhất chỉ là nồi cơm Thạch Sanh cả làng ăn không hết, chuyện tinh tướng bốc giời nhất cũng chỉ chuyện củ khoai to bằng cột đình... Cứ ra cái điều!
Gạo vẫn đang lên đấy. Hai tháng nay gạo chót vót ở cữ hai ngàn hai. Sờ lên gáy khắc biết xóm Chùa chưa thoát khỏi thời “quy ra gạo”.
Quy ra gạo tất. Xóm Chùa có một cô gái lai Tây. Thị xuất xứ từ một cuộc chạy giặc chậm chân của người đàn bà quê mùa với tên lính viễn chinh Ma-rốc nhanh nhẹn. Sinh ra, thị được đặt tên là Mừng. Còn mừng nữa chứ! Nhưng cái chất trái khoáy nghe mãi thành quen. Tuổi dậy thì Mừng cũng ưa nhìn, bộ ngực bề bộn, nước da ngăm nâu, hai háng nở căng, cứ hực lên sức sống của xứ sở hoang dại. Vậy mà giai làng chỉ ngắm từ xa, tịnh không ai dạm hỏi. Máu kỳ thị dân tộc ở xóm Chùa xem ra cũng mạnh mẽ lắm.
Thì cứ việc kỳ thị. Đã thế Mừng sống nhơn nhơn, bất cần đời. Mừng đi tỉnh như đi chợ, thỉng thoảng lại đẻ một đứa con không bố. Cái khoản lãi suất đó dễ kiếm. Thị là người đàn bà duy nhất ở xóm Chùa dám đường hoàng hút thuốc lá, dám mặc một cái áo ngủ kiểu tỉnh. Cái áo ngủ màu đỏ cháo lòng ai thải ra cho, nhưng nó vốn mỏng lắm, kiểu cách lắm, lại có mẩu đăng-ten, nó dính vào người thị bằng cả sự bợ đỡ của nó. Với cái áo ngủ ấy sáng sáng thị trưng diện, đứng vặn vẹo thể dục bên cạnh căn lều rách gần điếm làng, hệt một tiểu thư quý phái. Thiên hạ đi làm đồng qua đều được chiêm ngưỡng. Có thể nhiều anh đàn ông xóm Chùa nuốt nước miếng, nhắm mắt khi đi qua căn lều rách... Cố giữ cho máu kỳ thị khỏi sôi lên. Ai chẳng điên tiết!
Rồi đùng một hôm vỡ chuyện “quy ra gạo”. Anh chàng Khải Khẹc mắt toét, cán bộ văn hoá xã, ông chủ mẫu mực của gia đình gồm một vợ bốn con, xưa nay được tiếng chững chạc, sáng hôm ấy bị một bữa mất mặt. Duyên do Mừng vác rá sang đòi nợ gạo. Còn đang dùng dằng tính toán, người đòi năm kẻ bảo ba, chẳng ngờ vợ Khải Khẹc đi làm đồng bỗng về nữa buổi bắt gặp. Chị ta sửng sốt túm lấy Mừng, lu loa gọi cả làng đến chứng kiến. Làm sao thóc gạo đầy buồng thế kia, phải đi vay con đĩ thập thành chết đói hở giời. Vay bao giờ, vay mấy bơ, làm sao phải vay? Anh chàng Khải Khẹc mặt ngây thộn, đỏ tựa xát lá han, chúi một xó không dám đối chứng. Rình lúc mọi người sơ ý Khải Khẹc đánh liều phóng ra khỏi buồng tháo chạy. Mừng ức quá la toáng lên:
- Thằng khốn kia, mày chạy làng hả? Mày sấp mặt với bà ba lần chứ ít, miệng mày ngoen ngoẻn hứa quy ra năm bơ, nay mày định quỵt bà hở? Bà thách mày quỵt đấy...
Lúc ấy các bà vợ xóm Chùa mới giật mình, ngấm ngầm kiểm tra hạt gạo ở nhà. Rồi các bà giật mình cái nữa. Xưa nay chưa ai thấy thị Mừng đong gạo ngoài c hợ cả!
Mong sao cái xó “quy ra gạo” được sống êm đềm như thời chưa có tiền tệ.
Quãng ba năm trước xuất hiện hai anh chàng ở tỉnh về đo đạc ngắm nghía đất cát. Họ đóng những cái cọc xuyên qua xóm Chùa. Họ bảo con đường cao tốc do nước ngoài đầu tư ngoại tệ xây dựng sẽ chẻ dọc xóm Chùa làm hai. Ai cũng ngờ vực. Ôi dào, cao thấp gì ở nơi hủ nút này. Chuyện ồn ào một dạo rồi lịm tắt như tất cả mọi tin vịt khác, dù những cái cọc đóng sờ sờ đấy. Vài tháng sau cọc thành củi đun, cọc thành cột buộc bò, tiện tay ai người nấy rút.
Đầu năm nay cả làng giật mình bừng tỉnh khi thằng Hà bán đầm mực. Một vụ mua bán động trời.
Thường dân xóm Chùa đều có tên kép. Hà có tên Hà Mai-lơ. Một hôm Hà Mai-lơ đang tìm vặt nắm lá phèn đen cho vợ ốm bổng nó thấy ba người đàn ông dắt xe máy đi vào làng.
- Anh gì ơi, cho hỏi thăm với. Ở đây có ai bán đất bán nhà không anh?
- Các ông mua nhà đất thế nào, tôi chưa rõ.
- À, bọn mình có mấy cơ sở sản xuất đang cần mua mặt bằng mở rộng. Cần gấp đấy. Nhà đất to nhỏ, rộng hẹp, đều có việc tất. Anh biết giới thiệu giúp, bọn mình sẽ có khoản chi xứng đáng cho anh.
Hà Mai-lơ vừa đi làm thợ xây trên tỉnh, nó ranh lắm, ngửi ra luôn mùi vị câu chuyện. Sau một hồi thăm dò, nó dẫn ngay đến Đầm Mực đầu làng rao bán. Nó hét giá thật cao để đùa chơi. Ai dè đám kia thoả thuận luôn. Đang cần tiền đánh bạc. Hà Mai-lơ liền đưa họ vào nhà lão Hớn cạnh đường viết giấy cam đoan và đòi ít tiền đặt cọc. Nó hứa vài hôm sẽ lo xong dấu má văn tự nhượng bán cho họ. Người mua kẻ bán đều hỉ hả.
Tiền đã xếp trước mặt. Đúng lúc ông nọ đang xin chữ ký ông kia làm tin thì bị phát hiện. Người ta túm cổ bốn ông lôi tới Uỷ ban.
Làng ngớ ra. Chuyện tựa sét đánh ngang tai. Việc Hà Mai-lơ dám cả gan gạ bán đầm mực của làng không quan trọng bằng nổi thắc mắc: Vô cớ thiên hạ mò về xóm Chùa mua đất với giá cắt cổ thế? Mà vội vã như ăn cướp thế?
Thôi chết, nhớ ra rồi. Đường cao tốc! Không phải đường cao tốc cứ đem đầu tôi đi mà chặt!
Nửa tháng sau quả nhiên làng mắc dịch “sốt đất”. Con đường cao tốc bị lãng quên giờ như thể đã nằm chình ình qua xóm Chùa. Con cả lão Tự nghệch chém vỡ đầu thằng thứ hai, tranh nữa thước đất bên cạnh con đường cao tốc vô hình. Bốn nhà vẫn chung ngõ đi bỗng om sòm đánh nhau chia bôi đường biên giới. Ai cũng cố ngoi ra mặt đường. Đất mặt đường đắt như vàng, anh nào mạnh chân sẽ kiếm bẫm. Bà cụ Lãng kiện con rễ, đòi lại cái chuồng trâu đã cho con gái làm hồi môn từ hai chục năm trước. Mụ Chiu xắn váy rách rao bán hàng trăm triệu cái ao tù toen hoẻn cuối xóm. Còn đang rối tinh với nhau đã thấy nhà Quảng ầm ầm chở hai vạn gạch về. Hỏi ra mới biết nhà nó xoắn đôi sào vườn bán cho dân ngoài tỉnh. Từ bé nó phải ăn bữa cơm bữa cháo, nay nó xây nhà gạch hai tầng ốp đá cho cả làng biết mặt.
Không ai thiết làm ăn gì nữa, chỉ nháo nhác chuyện mua bán đất. Cứ một người lạ xuất hiện ở đầu làng, lập tức người nọ theo chân, người kia ướm hỏi. Ai có bà con quen biết ngoài tỉnh đều lao ra dắt mối. Nhà nào cũng cố co lại thật bé, thật hẹp để dư tí đất bán. Giá co được bằng con rận thì thích. Thế mới thật đổi đời. Gặp vận may một phút lên ông, một phút có quyền coi thằng hàng xóm bằng ngoé.
Nhưng cơn sốt đất đang lúc sắp nung ròn xóm Chùa, bổng làng bị một gáo nước lạnh giội xuống. Người ta kháo nhau xã Bồ Đa mới rồi cũng có đoàn đo đạc về cắm mốc. Đường cao tốc chệch sang xã ấy cơ. Tận mắt anh chàng Khải Khẹc đi xem hàng cọc mốc giới về, anh chạy khắp làng thậm thụt xui người này bán phứa đất cho nhanh, kẻo vỡ chuyện sẽ sụt giá. Họ còn đồn có công ty Đài Loan mở hàng nước ngọt trên đất Bồ Đa nữa. Người tứ xứ đang đổ xô sang đất Bồ Đa. Người Bồ Đa hôm nay bán năm chỉ một mét vuông đất.
Giời ôi, cơ hội ngàn năm có một, đợi phút này nhảy vọt để chơi với đời lại bị hẫng ư? Những ai chưa kịp bán đất, bán nhà ủ dột rầu héo ruột gan. Ông Ba Sính choảng vợ một trận nên thân bởi bà Ba cứ chờ cao giá hai thước vườn xoan mãi. Cho chết: Giả dụ bán phắt lấy dăm mười cây, làm dấn vốn phất lên, đầu tư vào xay xát, vào vườn ao chuồng, rồi cho thằng cả mua xe lam chạy chợ... Bằng trúng số độc đắc. Con mụ bổi nó giết ông. Giờ ăn cám nhé.
Khi đã bớt choáng váng người ta mới hỏi nhau! Tại sao đường cao tốc lại chạy sang bên Bồ Đa? Bên mình đã đóng cọc từ ba năm trước cơ mà. Dễ chừng mấy thằng đo đạc chơi quả lừa chăng? Nay chúng vác thước rêu rao đường cao tốc qua lối này, mai lại vác thước đo đạc lối khác. Hoặc chúng được bọn con buôn thuê mướn làm động tác giả để dân hoang mang không biết đâu lường trước, rồi bọn con buôn lừa dịp mua rẻ bán đắt. Ức quá, phải tóm cổ mấy thằng xỏ lá đần cho sặc tiết, xem đường cao tốc chính thức qua đâu, chứ lại chịu chúng bịp ư?
Người đau nhất phải kể đển lão Hớn, ông bạn già chí cốt của Sĩ Thái sư. Lão Hớn chuyên sản xuất tiền vàng, đô-la âm phủ. Lão nghèo nhưng dám bắt chước vua lấy hẵn bốn vợ, một vợ chết còn ba, cộng mười hai đứa con cả thảy. Cái khối cộng đồng không liên kết này rất phức tạp, do đó nền kinh tế nhà lão thuộc khu vực chậm phát triển nhất xóm. Giỏi xoay như lão nhiều lúc cũng phải ôm đầu kêu la: “Sung sướng thân tôi chưa? Mỗi ngày làm bốn thúng đô-la không đủ cho các ông các bà ngốn. Cứ trông hết vào thằng già còng lưng tịnh không ai đỡ đần gì cả ư?”. Lão kêu ai? Hình như lão Hớn thích lấy vợ đần, cốt được cái đẻ khoẻ, và lão Hớn thích sinh những đứa con đần, cốt được cái tài văn cháo quanh năm. Lão còn kêu ai?
Lão Hớn đã phân chia vương quốc thành hai cơ ngơi. Nhà trên lão ở với thứ phi thứ tư đồng thời làm nơi sản xuất. Nhà ngang cho hai ái phi còn lại ở hai buồng kề nhau. Số hoàng tử công chúa chia đều các diện tích ở xen kẽ, không phân biệt.
Vừa dậy lên chuyện đất cát lão Hớn đã ra lệnh cho cả ba bà phi thu gom dân cư lên hết nhà trên. Lão cắt nhà ngang cùng nửa khoảng sân bán nghiến cho một gã buôn ngoài tỉnh. Lão bảo:
- Mình nhanh chân làm trước thiên hạ mới giỏi. Chờ lúc ai cũng đua nhau bán, rồi rẻ hơn bèo.
Được ba cây vàng, lão Hớn mừng tưởng phát cuồng. Lão định bụng dùng tiền bán nhà mua một nơi xa hẳn cho hai bà vợ khuất mặt đi, khỏi sinh sự với bà ba. Đánh đổi nơi ở, vẫn dư được dăm chỉ làm dấn vốn, trúng quá!
Nhưng lão lầm. Mới nữa tháng sau giá nhà đất vọt lên cao chưa từng thấy. Lão cùng ba bà vợ chạy rạc cẳng khắp vùng không tìm đâu được mẫu đất giá ba cây. Khu nhà đã bán cho gã ngoài tỉnh giờ phải lên mười cây mới chuộc được.
Lão Hớn chết nữa phần hồn. Nửa phần kia cũng không hơn. Mười sáu nhân mạng chen chúc trong hai chục mét vuông, chỉ những và mặt nhau cũng đã đủ lộn ruột.
Lại thêm tiếc của, tiếc đến hộc máu. Mất dứt dăm bảy cây. Tuy ba bà phi không dám ra mặt chì chiết lão nhưng cả ba đều sưng sỉa tranh thủ dùng các điển tích cạnh khoé.
Ngày gã ngoài tỉnh bán trao tay khu nhà ngang lấy mười ba cây, lão Hớn ngã bệnh, cấm khẩu. Nay lão đã qua cơn nguy kịch, gượng ngồi được rồi. Nhưng không ai dám hở cho lão biết tin rằng: trong lúc lão thập tử nhất sinh, ba cây vàng lão giấu dưới gối đã biến mất.
Sở dĩ lão ngồi lên được cũng nhờ tin đường cao tốc qua bên Bồ Đa. Lão Hớn đã trút nửa cơn bệnh cho thằng cha mua mười ba cây khu nhà lão. Thằng cha nhanh nhảu ấy phát ốm, tuy chưa đến nổi cấm khẩu.
Sĩ Thái sư rất thương tình cảnh lão Hớn. Ông được các bà phi nhà lão giao phó nhiệm vụ tham gia việc báo tin chuyện mất ba cây vàng. Lựa thế nào cho lão khỏi lăn đùng ra...
- Bơ ơi!
- Gì cơ?
- Mày trông hộ bò tao cái. Tao tới thăm lão Hớn, chốc về ngay.
- Trưa cháu phải về sớm đi học.
- Ừ, nhát thôi.
Sĩ Thái sư thả hai gấu quần xắn, tay chắp sau lưng lững thững bước. Cái roi bò ông vẫn cầm trên tay hất lên hất xuống dưới mông ông chẳng khác cái đuôi ngoe nguẩy. Thằng Bơ bật cười nhớ lần được xem ông đóng vai Thái sư trên sân khấu, ông cũng cầm quạt lông hất hất kiểu đó.
Tới nhà lão Hớn, Sĩ Thái sư nhìn hàng tường gạch mới xây cắt đứt ngang sân, màu gạch đỏ au, ông chợt rầu rĩ ái ngại. Trong nhà hôm nay sao lặng lẽ thế? Ông đánh tiếng:
- Ông Hớn đã khoẻ chưa?
- Ông vào chơi - Tiếng lão Hớn khàn khàn vọng ra - Đang mong ông quá.
- Đi đâu cả thế này?
- Ấy đấy...
Căn nhà ngập ngụa quần áo, đồ dùng. Đám quần thần của lão Hớn từ lớn chí bé nửa đêm đã hò nhau dậy, sang Bồ Đa làm tạp dịch. Cơn sốt nhà đất bốc lửa bên đó giờ thu hút đám lao công rẻ mạt xóm Chùa. Khối việc: đào đất, san nền, chuyền gạch cát... Khi người ta rủng rỉnh trăm cây, chục cây, giá cả đỡ riết róng. Dân xóm Chùa tự khắc kéo nhau sang làm mướn cho dân Bồ Đa.
Lão Hớn chìa ống tay chỉ có da bọc xương, kể lể:
- Chân tay còn run lắm, chưa làm được. Mà tôi đã nghĩ, lũ đần độn ấy thất nghiệp ráo. Nhào sang Bồ Đa mấy hôm nay rồi.
Ngồi đối diện trên chõng, Sĩ Thái sư lặng lẽ ngắm lão Hớn. Gầy tợn, không chổ nào còn thịt. Cái sọ vàng ệch gồ lên dưới mấy sợi tóc lưa thưa. Trong lúc ba bà phi của lão tuy sứt mũi, vổ răng, xấu xí chẳng bà nào thua bà nào, nhưng bà nào cũng một rổ ngực, một rổ mông. Thế chả trách.
- Chóng khoẻ lên kẻo âm phủ dạo này thiếu tiền mặt lắm. Ông ốm làm cho thị trường dưới ấy mất giá. Phải sản xuất cấp tập đi. Diêm vương không sợ nạn lạm phát đâu nhé.
Ông Sĩ Duệ bỡn cợt lão bạn già. Lão Hớn kéo cái cười đáp lễ thành một tiếng rên khẽ.
- Vâng... âng, ông nói giúp với anh cả trổ hộ tôi một khuôn năm mươi ngàn và một khuôn hai mươi ngàn nữa.
Anh cả con ông Sĩ Duệ thường nhận giúp lão Hớn những việc kỹ thuật như trổ khuôn, vẽ mẫu... Anh học dỡ dang một khoá hội hoạ nghiệp dư trên tỉnh, dù vậy cũng thừa vốn làm nghệ thuật ở xóm Chùa, từ truyền thần, phông cưới đến sơn quan tài v.v...
- Ông lại thay khuôn ư? Đừng vẽ, cứ khuôn năm ngàn mà in. Thế tất người ta càng phải mua nhiều cho ông.
Lão Hớn khẽ nhăn mặt.
- Thiên hạ chỉ đốt cho bố mẹ loại tiền âm phủ cao nhất, như thói quen các cụ tích tiền trên trần. Nhà nước mới phát hành loại bạc năm mươi ngàn, mình phải theo ngay. Phép dân buôn, không chạy kịp thị trường thì chết.
- Rắc rối đấy nhỉ. Ông đã quyết thế, tôi sẽ bảo cháu sang. Nhưng ông đã thật khoẻ đâu.
Lão Hớn lại nhăn.
- Cũng phải nhúc nhắc thôi, ông ạ.
Rời khỏi nhà lão Hớn, đầu óc Sĩ Thái sư tự nhiên không níu giữ được suy nghĩ nào mạnh lạc, ông đành để nó lông bông tuỳ thích.
Mẹ bố thằng Bơ, kia kìa, nó đã dong bò về. Biết không thể lẩn được, cu Bơ nhanh nhảu thanh minh.
- Cháu về đi học. Cháu gởi bò ông cho ông Bản đới.
Ông lườm nó.
- Nhót ra trường sớm làm giặc hử?
Cu Bơ nguýt lại nhưng không dám cãi. Thì cứ sờ cái đầu trọc đầy sẹo xem oan không?
Lão Bản cũng ngồi vắt vẻo trên mẩu tường đổ. Cả người lão chui tọt trong tấm áo bốn túi lính ngụy, dài chấm đầu gối, y hệt con bù nhìn ruộng dưa. Để thiên hạ quên sự loắt choắt của mình, động tí lão trợn mắt phồng mang, mà bẻo lẻo suốt ngày, không chuyện kín hở gì của xóm Chùa lão không biết.
Vừa thấy mặt Sĩ Thái sư lão Bản rung rung đùi hỏi độp luôn:
- Này, ông nghe nó sắp thiến làng chưa?
Sĩ Thái sư ngớ ra.
- Ai?
- Thằng hoạn lợn chứ ai.
Lão Bản xưa nay chỉ gọi tay Quang Chủ tịch xã bằng cái nghề nghiệp mới ngày nào anh ta còn hoạt động khắp mấy thôn. Gọi cách ấy lão biểu lộ sự ghét cay ghét đắng anh chủ tịch xã.
- Nó thiến hộ càng may. Như tôi với ông còn tiếc thương gì không vứt bố của nợ đi.
- Thật chứ?
Lão Bản chỉ tay vào mặt ông Sĩ Duệ cười nấc. Đột ngột lão ngưng cười, nghiêm giọng lại trước bộ mặt dò hỏi của ông Sĩ Duệ.
- Tôi đã nghĩ mãi ông ạ. Hoạn lợn nói chỉ được hột dách lợn, chứ hoạn làng nó moi ra cây ra chỉ, mà làng lại không kêu được eng éc, êm thấm lắm, ông hiểu không?
- Tôi hiểu rồi.
Lão Bản hứng chí nhích người nhường chỗ cho Sĩ Thái sư ngồi. Lão ghé sát tai ông lào thào:
- Nó sắp bán đứt đất.
Ông Sĩ Duệ giật mình.
- Có quyết định bán chính thức rồi ư?
- Chứ gì. Tẩu tán càng nhanh càng tốt. Ban quản lý hợp tác xã sắp đến nước giải tán, còn tí đất dư thừa nào bán nốt, thủ vào túi mấy thằng chính quyền với nhau. Giải tán, hoà cả làng.
Ông Bản đang nói đến khu vườn cây của các cụ phụ lão xóm Chùa, một khu đất ngon mắt, nằm hơ hớ cạnh đường quốc lộ như gái ngủ ngày, gần năm trăm mét vuông. Cuối năm ngoài chủ nhiệm hợp tác quyết định thu hồi, lý do các cụ không đương nổi mức khoán tiền hoa lợi. Họ rục rịch bán khu vườn cây đã ba tháng nay. Dân xóm Chùa tập hợp nhau người xin đổi, kẻ xin mua, cố nhoi ra mặt đường quốc lộ làm kinh tế. Nhưng xã không giải quyết. Ai dám bán đất? Dân xóm Chùa có giỏi chạy xin được giấy tờ thành phố cấp đất hãy nói chuyện.
- Ông nghe rõ chửa, bán cho dân thôn được bao nhiêu tiền đã sờ sờ ra đấy, còn đút túi khoản nào? Thằng hoạn lợn kỳ này tuyên bố giải quyết cho Viện cây giống nào đó lấy một tỷ hai. Nó bảo năm trăm triệu là tiền Viện giúp xã sửa đường làng, chia đầu dân nông nghiệp mỗi suất hai mươi ngàn. Bảy trăm triệu kia nộp ngân sách thành phố theo quy định đền bù nhà nước, xã chỉ được thêm hai mươi phần trăm ở phần này nữa thôi. Thằng Viện cây giống đang chạy giấy xin đất thành phố. Chúng nó sắp xong cả.
Ông Sĩ Duệ chắt lưỡi ngơ ngẩn.
- Chết chửa, tỷ hai... rẻ thối. Giá phải gấp hai ba lần.
Lão Bản huơ tay cao giọng hơn:
- Dào ôi, nó bán mấy tỉ cho nhau, ai biết ma ăn cỗ ở đâu. Nó bảo sao, dân bào hao làm vậy. Chỉ ức rõ ràng nó bán đất, Viện cây giống cũng mua đất, nhưng chúng mua bán dưới chiêu bài hợp pháp, dân trơ mắt ếch.
- Phải. Thằng này cáo già, nó thoát bao nhiêu vụ bán đất cát của xóm Chùa rồi mới tài chứ.
Bốn năm trước anh hoạn lợn kiếm miếng ăn khá chật vật. Từ khi trẻ hoá đội ngũ cán bộ, được lên cầm quyền, lại gặp đúng thời mở cửa, gã phất lên như diều gặp gió. Gã hoạn lợn nay cưỡi xe máy thượng thặng, của nả lập tức ngót nghét trăm cây nhờ ký kết ngấm ngầm. Dại gì mỡ đến miệng mèo không ăn? Cốt nhất chùi mép cho khéo, đừng để thiên hạ đưa vào vòng luật pháp. Gã bảo đàn em: “Đứa nào ngu để vướng luật pháp, dù bằng bố đẻ tao cũng không cứu”.
Gã hoạn lợn người thôn cuối xã, nên khi vào ghế chủ tịch gã tìm cách nắm gáy luôn bí thư Thái người công dân đại diện xóm Chùa. Đây nhá, chủ tịch tìm kết thân Bí thư, vừa được tiếng đoàn kết, vừa giúp đỡ gia đình cách mạng nòi. Nhà Thái có liệt sĩ chống Pháp, liệt sĩ chống Mỹ, em giai út bên Viện kiểm sát kiêm huyện uỷ viên, em gái công tác bên phòng công nghiệp thành phố. To chưa! Tu đến mấy đời mới có hồng phúc ấy. Nắm được Thái cũng coi bằng nắm tất xóm Chùa. Và xóm Chùa gần hết đầu dân nội ngoại họ Đào, họ Đào làm chủ nền kinh tế bản địa.
Gã hoạn lợn khôn lắm. Thoạt đầu gã bố trí cho hai con Thái đi lao động xuất khẩu Đức, miếng đất ngon đầu làng giáp quốc lộ gã “giãn dân” cho dâu rễ Thái, con cháu nội ngoại, kèm một xuất đất cho anh chàng thương binh cụt tay xóm Chùa để dân khỏi kêu ca. Ai xì xèo, gã hoạn lợn làm ngơ cho Thái hết. Bấy giờ Thái há miệng mắc hàm thiếc, phải cúc cung tận tuỵ, bảo sao nghe vậy. Người ta che chở cho anh tức thị người ta có quyền làm bố anh.
Sau gần bốn năm cầm quyền, bằng cách nhử mồi câu cá, sợi dây bảo hiểm cho gã hoạn lợn đã dài tận huyện, tận thành phố, gã cóc sợ ai nữa. Gã thường bật cười bảo dân xóm Chùa: “Các vị đi xe đạp lên tỉnh kiện tôi, sao nhanh bằng tôi đi xe máy”. Một vườn cây chứ mười vườn cây gã cũng bán ngon ơ.
Sĩ Thái sư lẩm bẩm rủa:
- Nó nuốt nhiều cho nó chết nghẹn đi.
Lão Bản liếc ông một cái cười khẩy:
- Ấy chớ! Chớ rủa kẻo hối không kịp. Nó chết nghẹn, khối thằng chết nghẹn theo.
Kiểu cười khẩy ấy, cái liếc mắt ấy khiến ông Sĩ Duệ lạnh gáy. Ông trừng mắt lên:
- Ông nói gì, làm sao tôi hối không kịp?
- Ơ hơ, hỏi hay nhỉ? Biết đâu đấy.
Đã nhiều bận Sĩ Thái sư phải cố nén không đập lão Bản một trận nhừ tử. Ông chúa ghét thói kích bác cà khịa. Lão rất thâm, chuyên chọc vào những huyệt điếng người, khó nói nhất. Hai người mỗi bận chăn bò giáp mặt nhau, họ rất thích to nhỏ, kết thúc chuyện bao giờ lão Bản cũng phá đám như vậy.
Có gì đâu, vợ ông Sĩ Duệ vốn em út nhà Thái. Bàn dân thiên hạ ai chẳng biết kinh tế gia đình ông đều một tay bà Duệ xốc vác.
Thôi, về thôi. Ngồi nán với gã loắt choắt này chỉ tổ bực mình. Sĩ Thái sư lẳng lặng phủi đít quần ra dắt bò về.
Lão Bản tiu ngỉu. Quái, thằng cha Thái Sư hôm nay dở chứng ngậm miệng ăn tiền, không chịu tranh cãi, mất cả thú...
Sĩ Thái sư vừa buột xong con bò vào gốc cây ổi đã thấy bà vợ ngồi sàng gạo bên thềm tươi tỉnh vẫy ông.
- Này, về tôi bảo cái này hay lắm.
Tự dưng ông nhớ đến những lời ỡm ờ của lão Bản.
Chờ ông pha xong ấm nước, rít xong điếu thuốc lào thứ nhất bà Duệ mới ghé ngồi bên bàn.
- Chuyện gì? - Ông hạ giọng điềm nhiên hỏi.
- Các bác bên nhà tôi vừa gọi tôi, sang bàn việc, bảo về nói trước, xem ý ông đã...
Bà ngừng lời dò dẫm ông bằng mắt. Ông liếc nhanh cái miệng he hé, hai chiếc răng cửa hơi thô trông càng tăng vẻ hóng hớt của bà, ông cười thầm.
- Sao?
- Chuyện khu vườn cây các cụ đấy.
Ông nhả khói thật từ từ. Bà Duệ hơi do dự. Không biết lão gàn mọc đuôi này có chịu nghe không, hay lại phá đám như mọi bận? Chao ôi, cả đời mình cứ phải xoa xuýt bên này, che chắn bên kia để anh em trong nhà khỏi va chạm nặng nề. Chung quy chỉ cái tội ra điều không hám lợi, khinh rẻ đồng tiền của lão. Ghét quá, thử hỏi vợ con lão sống nhờ ai, lấy gì đổ miệng? Không có các bác bên ngoại rộng lòng đùm bọc lại chả vác được mặt thế kia?
- Vườn cây của làng bận gì đến tôi? Bà lại sắp gái goá lo việc triều đình đấy hử?
Bà muốn nổi ngay tam bành nhưng kìm lại được. Bà đã sắp sẵn một chiến dịch thật mềm mỏng, không mắc mưu khiêu khích của địch. Cốt lo việc lớn. Lão không bằng lòng sẽ hỏng tuốt.
- Ăn nói hay nhỉ? Ông chả ao ước đổi được tí đất ngoài vườn cây đấy ư?
- Sao bảo bán chác cho Viện cây giống nào rồi?
Bà Duệ đắc ý ra mặt. Bà hạ giọng thì thào:
- Viện đứng nhận lấy danh nghĩa thôi. Họ chỉ có ba xuất, Còn bác Thái lo cho bảy xuất con cháu anh em trong nhà. Ông biết Viện trưởng cây giống ấy là ai không? Chồng con Cúc nhà dượng Tám gọi chúng tôi bằng bác họ.
Thế đấy, họ nhà Đào vươn ngành vươn chi như vòi bạch tuộc, bám vào đất xóm Chùa... Gớm thật... Ông Sĩ Duệ chợt vỗ mạnh điếu cày, sái thuốc cùng nước điếu văng ra nhà. Bà Duệ nhăn mặt. Nhăn theo thói quen gây sự với ông, chứ mùi nước điếu thấm tháp gì. Nhưng bữa nay bà không nói ra miệng.
- Ý bà nói bác Thái lo cho nhà ta mua một xuất vườn cây ư?
Cái môi hở khẻ cong lên:
- Ông kín miệng nhá. Tuyệt đối không cho con cái biết vội. Chuyện chưa đâu vào đâu cả. vẫn trên danh nghĩa của Viện cây giống tất. Nếu ông bằng lòng ta nộp trươc hăm nhăm triệu xuất nhà ta.
- Lấy đâu ra hăm nhăm triệu? Bà ngỡ tôi ăn chặn ăn cướp như thiên hạ để có của chìm của nổi phỏng?
“Như thiên hạ...” Như ai bà Duệ thừa biết ý ông. Đã tự nhủ không mắc mưu địch bà vẫn không giữ được giọng mát mẻ bóng gió lại:
- Chết nỗi, ai tưởng ông có của. Trông tạng ốm đói cả - nhà - nhà ông ai chẳng biết. Hăm nhăm triệu nộp trước không phải lo, đã có người hứng việc hộ ông. Ông chỉ toạ hưởng kỳ thành thôi... ôi.
Ái dà, nho nhe! Văn hóa lớp hai mà động nói toàn nói chữ, nhìn hai cái má ưng ửng lên kìa! Mụ này không nhịn lâu được thói đốp chát khinh chồng của giống con gái họ Đào đâu. Bảy chị em, đã chọn mụ nền tính nhất đấy. Nhớ dạo nào mụ những e cùng thẹn...
- Vậy chứ tiền ở lỗ nẻ mọc ra hử?
- Ông chỉ cần viết cái đơn xin thế chấp tài sản, nộp cùng văn tự nhà mình, xin vay ngân hàng đầu tư nông nghiệp huyện. Ông cứ bằng lòng, bác Thái sẽ bảo cách đơn từ. Cánh nhà mình bảy xuất, Viện cây giống ba, còn mười xuất phía ông Quang chủ tịch mặc ông ấy lo, vị chi hai chục xuất, vay đủ năm trăm triệu trước. Hẵng cứ công khai báo cáo toàn dân việc làm đường xá chia bôi cho đủ...
- Hai chục xuất, thằng hoạn lợn chơi chục xuất...
Do sửng sốt quá, ông buột nói ra miệng. Bà Duệ trợn mắt nhìn chồng. Thật kinh cho cái giọng khinh người. Phải, anh em nhà tôi chỉ ăn cướp, thiên hạ thì “thằng hoạn lợn”, còn ông con dòng cháu giống đại địa chủ. Rõ bông phèng quen kiểu ăn nói phường tuồng, phường xướng ca vô loài!
- Người ta thù oán gì ông, ông độc miệng thế? Này, chính thằng hoạn lợn đứng ra chèo chống hộ cả gánh nặng của ông nữa đấy. Không có nó, ngân hàng huyện biết ông vương tướng gì dám cho nhà ông vay. Tiền không phải vỏ hến.
Rành rành chúng đang thiến làng đó. Chủ tịch mười, bí thư bảy, mà công khai, mà sắp có dấu đỏ thành phố... Ông Sĩ Duệ thấy tai mình ù lên. Lẫn lộn vào ý nghĩ của ông từng mẫu rỉ rả giọng bà... Bác Thái cùng chồng con Cúc sẽ đứng ra bán bớt vườn cây, trả nguyên vốn lãi ngân hàng, mình không phải lo trả. Tự dưng đổi nửa vườn cây không mất một xu. Sau chia hai mươi xuất đất, ai không dùng thì bán cho tập thể. Bác Thái muốn chờ xem ý ông... Bà Duệ chợt im bặt, lặng lẽ quan sát địch thủ. Ơ kìa, sao ngồi im như phỗng thế nhỉ? Hay nghe được cái lộc to sướng quá, sướng nhưng ngượng, khó ăn nói chăng? Có vậy chứ! Cũng phải nghĩ lại chứ. Người đâu mà bạc mồm, gàn bướng cho khổ thân mình, khổ lây cả vợ con. Dạo này tóc bạc trắng nhanh quá, da lại đen nhẻm. Con mắt xưa lúng liếng trên sân khấu làm người ta cười quặn ruột, giờ sao vàng khè, lúc nào cũng càu cạu vậy? Không biết có hiểu người ta bực bao nhiêu lại thương bấy nhiêu không? Vợ chồng đầu gối tay ấp, ai muốn ngoảnh mặt dỗi hờn. Người chứ gỗ đá?
Bà Duệ do dự mấy lần định ghé sát lại một chút. Cái mùi nắng, mùi mồ hôi, mùi thuốc lào bổng sực lên mời gọi. Vờ như có con muỗi đậu vào cánh tay ông, bà giơ tay vẫy khẽ vào đó.
- Khiếp, muỗi...
Sự đụng chạm đủ cho lòng người đàn bà rung lên, giải toả mọi nổi ấm ức. Nhà yên tĩnh, con cháu vắng cả... Bà nhớ đã lâu, kể từ dịp cưới con út, bà đã tuyệt nhiên lạnh lùng với ông. Dễ đến vài ba tháng... Tội quá!
- Bác Duệ ơi, ới bác Duệ!
Quỷ tha ma bắt quân phá đám. Bà tẽn, mặt đỏ lên. Nhưng giọng ai gọi khẩn cấp quá khiến bà chồm ra thềm trước ông.
- Cái gì đới?
- Bác giai có nhà không ạ?
Khải Khẹt chạy bình bịch vào sân. Mặt anh chàng dại gái xám bệch, viền đỏ đôi mắt càng ửng lên. Ông Sĩ Duệ vội lên tiếng:
- Vào đây chú Khải.
- Bác ơi, bác sang ngay ông Hớn cái. Ông í chết rồi. Sĩ Thái sư bật dậy. Giờ ông mới để ý tới vẻ run rẩy của anh ta.
- Chết thế nào, tôi vừa bên đó buổi sáng cơ mà?
- Khiếp quá. Bà ba chạy cuồng sang kéo cháu tới nhà. Bà ta bảo về tới cửa đã thấy ông í lủng lẳng... Bác sang với cháu đi.
Sĩ Thái sư tê hết thần kinh đỉnh đầu. Ông xỏ vội đôi dép. Khải Khẹt ghé sát tai ông thì thào:
- Nghe đâu đêm qua ông í biết chuyện mất vàng bạc gì đó. Sáng nay cả nhà sang Bồ Đa gánh gạch lại chả thấy ông í động tĩnh gì. Giờ về là thế.
Ông Sĩ Duệ rùng mình nhớ cái giọng lão Hớn lúc sáng: “ ... Để có rẻo mặt đường dưới âm, cần phải chết sớm tranh đất, tôi xin chết ngay”. Chả lẽ lão nói thật đấy ư?
Bà Duệ cũng nghe hết câu chuyện, nhớn nhác muốn chạy theo ông.
- Ông ơi...
Ông quay ngoắt lại. Ông nhìn bà. Đôi mắt ông bỗng tối sầm, hai hàm răng nghiến vào nhau...
Ôi lão Hớn, sao lại vội thế? Lão có kịp cầm theo bộ hồ sơ xin cấp đất âm phủ, hay lá sớ tâu trình Diêm Vương cho lão được một rẻo mặt đường kinh doanh hay không, ơi lão Hớn...
Trinh tiết xóm Chùa
Ba chữ đại tự sơn đen Triều phục thôn vẫn được giữ y nguyên trên cổng làng tới tận giờ. Ra điều xưa kia ở đây có ối quan, phấp phới đường thôn toàn phẩm phục triều đình, chứ không phải loại quần áo giô- kề hàng thùng nhà chúng bay, nói cho mà biết! Thế nhưng con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ ngược, xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn nà, đập cửa ô tô đánh sầm, rồi điềm nhiên lắc mông đi vào làng. Cứ hệt như con Khờ nhón váy bằng hai ngón tay cong cong kiểu cách, chiếu cố bước qua vòm cổng thiêng liêng của xóm Chùa ông. Cha con đĩ, thôn triều phục nó coi chẳng khác cửa hàng Karaôkê nhà nó à!
Nếu ở trường hợp khác chắc cái Khờ không khỏi bị các cụ bà chửi té tát vào mặt. Còn các cụ ông sẽ khạc nhổ, rủa một câu thật hiểm: “Rõ nòi nhà mõ!”. Mõ vốn chức danh của ông nội con Khờ, người có công đẻ ra anh đánh dậm, bố nó, một thời làm chủ tịch xã rất hách. ông ta được cái nết chưa quen tham ô, chưa mạnh tay “thiến” dân như các đời chủ tịch kế nhiệm. Bởi vậy lúc ông ta đột ngột chết, nhà cửa vẫn tuềnh toàng, mấy món tiền kếch sù sắp bí mật chia chác hóa ra tuột hết. Thôi cũng được cái tiếng trong sạch làm vui! Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là cô Lầy Lầy. Chả biết lầy lội đẹp hơn khờ khạo ở chỗ nào, nhưng từ dạo nó bị người ta dụ dỗ đem bán tận Hồng Kông, chốn lầu xanh nó kiếm được anh Từ Hải lấy làm chồng, ai cũng mừng cho phúc phận nhà nó. Mừng hơn nữa nó biết mang cái thân xác tìm về quê quán, lại mang kèm theo hàng đống tiền, vàng, của nả... Năm ngoái nó cho mẹ tiền xây nhà ba tầng, xây lại mộ cụ mõ, xây mộ ông đánh dậm, nghênh ngang to bằng hai nhà táng ở giữa nghĩa địa xóm Chùa, rất khiêu khích. Đành rằng từ thời mở cửa, xóm Chùa ông có thừa hơi hướng văn minh hiện đại, những nhà cao tầng mọc như nấm rơm, video mở cả hăm bốn tiếng, nhưng ngôi nhà ba tầng sang trọng hơn cả khách sạn ba sao ngoài tỉnh cùng hai ngôi mộ nói trên vẫn khiến cả làng lác mắt. Lần này về cô Lầy Lầy lại biếu bà con họ hàng mỗi người một đồng tiền Tây làm quà mừng Tết Trung thu, trẻ con mỗi đứa mỗi gói bánh quy, kèm mấy viên kẹo Tàu. Cả làng được dịp rộ lên, kéo nhau đi nhận quà như đi nhận phát chẩn.
-Tiên nhân nó! Nó mỗi người một tờ tiền âm phủ đây này!
Lão Tí-nghệch ra điều có con giai bên Canada thường xuyên gửi tiền về cho, lão khinh khỉnh mắng bà cụ Mạch:
- Bà dở hơi! Tờ một đô la chính cống của Mỹ đấy. Cái thứ tiền âm phủ cúng bái của các bà gọi là tiền hàng mã, tiền nhái. Ai chê cứ đưa tôi tiêu hộ.
Lão Bản chăn con bò ra khu lăng Ngài cũng nhấp nhổm không yên vì chuyện đô la. Lão gọi thằng cu Sữa, bạn chăn bò vong niên của lão mà hỏi:
- Mày đã được ăn kẹo Tàu rồi hở?
- Chả bằng kẹo dồi làng mình ông ạ. Thơm hắc.
- Hừm, không quen khéo tháo dạ bỏ bố!
Cu Sữa tên khai sinh là Chiến Thắng, em giai cu Bơ. Cu Bơ, nhân vật trong chuyện Đất xóm Chùa nay đã lớn, giờ trao lại nghề chăn bò cho thằng em út, đi lái xe ôm. Như vậy chứng tỏ đời sống đang tiến lên. Lão Bản lắm lúc nhớ Sĩ Thái Sư lẫn cu Bơ đến ngơ ngẩn. Lão định bụng sang mùa đông cũng bán bò, giải nghệ.
- Này, cu Sữa, mày trông bò hộ tao, nhát tao cho “năm hìu” đánh con đề số không bảy. Đêm qua tao nằm mơ thấy rắn rồi.
- Không chơi nói dối đánh lừa trẻ con đâu đấy.
- Nứt mắt đã gớm. ông dối bao giờ?
Lão Bản lườm nó, xong đi thẳng qua cánh đồng về xóm ba, tới nhà ông Sĩ Duệ, tức Sĩ Thái Sư. Nhất định phải thăm dò xem con Khờ làm gì lắm tiền thế. Nó vung tiền khuấy động làng này cốt trêu ngươi ai? Bà Sĩ Duệ con gái họ Đào, chị em thúc bá với vợ ông đánh dậm, tất phải biết mọi chuyện.
Vào đến sân, lão Bản nhìn thấy Sĩ Thái Sư ngồi ở bàn nước ngóng ra. Bà Duệ đang sàng gạo ngoài hè. Lão Bản chợt nhận xét Sĩ Thái sư tóc tai dạo này có vẻ bạc tợn, nhưng bà vợ mặc cái áo hở rộng cổ thế kia còn ngon lành ra phết. Lão Bản tủm tỉm nhớ bữa ông chồng bình phẩm vụng sau lưng vợ. Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão! Chả bù ngoài tỉnh, năm sáu chục xuân xanh vẫn nõn nà trông tựa miếng giò lụa... ồ, không, trong cái áo mốt mới thế kia chưa gọi là miếng thịt ngan già được. Lão Bản cất giọng đùa cợt:
- Gớm nhẩy. Giờ đôi chim bồ câu chỉ ngồi nhà gù nhau, ai sướng bằng? Hơn được lên tiên!
Thấy lão Bản, Sĩ Thái sư vội vớ cái ấm chuyên trà, vui ra mặt. Ngày nào lão Bản không qua lại uống trà, chuyện gẫu, Sĩ Thái sư tưởng chừng thiếu hụt điều gì, chén trà thiếu hẳn hương vị. Còn uống trà kiểu độc ẩm chẳng thà ra vục ngụm nước mưa ngoài bể. Chính ông cũng không phân biệt được mình nghiện trà hay nghiện lão Bản. Người ta nói tâm giao tri kỷ ở chỗ đó.
Bà Duệ không để lão Bản kịp ngồi đã tìm cớ phân trần chuyện nhà, hy vọng lôi kéo lão vào phe đồng minh. Tay vẫn nhoay nhoáy cái sàng, bà Duệ rỉ rả khơi chuyện:
- Ngồi gù nhau thì bồ câu, bồ nông đều đói rã họng, sướng nỗi gì hở ông? Đấy, tôi mới phân tích cho thằng cháu cả, ông ạ. Nó sắm xe máy, vừa ngốn xăng, lại khi hỏng hóc chữa tốn tiền triệu, rồi mua mười, bán năm... Chả thấy nó xót ruột... Nhưng cứ nói tậu cho bố mẹ đôi bò để sinh lợi hàng ngày, nó quầy quậy tiếc của. Mất đi đâu một xu hở ông? Rõ ràng mua năm, bán mười cơ mà... Nó chơi xe, chúng tôi chơi bò, đổ đồng như nhau, hỏi ai khôn hơn ai?
Sĩ Thái sư bật cười. ông biết ngay, thấy mặt lão Bản mụ này sẽ lại lồng lên chuyện mua bò, lấy cớ trách chồng, trách con cho xem... à, nó giàu bằng ai đã vội xấu hổ, không dám để bố mẹ chăn bò như xưa? Chăn bò là cách người già nghỉ ngơi thong dong ngoài đồng mát mẻ, làm quan làm tướng gì phải giữ mẽ? Cứ nói toẹt, chẳng qua nó sĩ với đằng con vợ ngoài tỉnh nhà nó...
Sĩ Thái sư chuyên xong chén trà, mới thủng thẳng tiếp lời vợ:
- Ông Bản thấy bà cháu dại chửa. Con nó cho chơi lại không muốn, cứ thích lăn ra làm. Làm đến chết a?
- Vâng, tôi xưa nay chỉ thích làm đến chết. Chăn con bò mà sợ?
Bà hơi xẵng giọng. ông Sĩ Duệ vội cười nịnh.
- Ơi dào, thích thì bà chăn ngay tôi đây này. Tôi xin làm bò cho bà chăn, được không? Phải bò bốn chân như bò thật, tôi cũng xong. Bò tôi lại không đòi ăn cỏ rách, mưa nắng không bắt ai lặn lội, chỉ thi thoảng nhẹ nhàng mua cho đồng rượu, thế thôi...
Lão Bản vào hùa với bạn:
- Chí phải. Giàu cũng giàu rồi, mà nghèo cũng... nghèo nứt đố đổ vách ra rồi. Tôi sắp làm đơn trình lên bà nhà tôi xin bán bò, nghỉ hưu đây. Ngẫm ra chỉ tại các bà vụng đẻ. Cứ thử đẻ được đứa con gái như con Khờ, có bằng vạn con bò không nào? Ai xứng xách dép cho nó chưa? Con giai lão Tí-nghệch mang tiếng Việt kiều Canada về làng mà kiệt, một đồng xu cũng không rơi vãi. ôi chao, nếu tôi có con gái ấy a...
Lão Bản bỏ lửng. ông Sĩ Duệ cảnh giác lảng sang chuyện khác. Dù sao con Khờ cũng gọi bà Duệ bằng dì, chuyện xấu tốt mặc thây nó, ông không dây, không động chạm trước mặt vợ. Chẳng may lỡ mồm lỡ miệng, mụ họ Đào nhà ông lại gầm lên.
Năm ngoái con Khờ tức cô Lầy Lầy về thăm nhà, khi trở lại Hồng Kông mang theo tấm ảnh lẫn lý lịch cái Huệ, em họ cô, lúc ấy vừa tròn mười tám tuổi. Hai tháng sau, Lầy Lầy đón Huệ theo đường du lịch sang bên đó để làm “vòng một”. Vòng một nói nôm na là cuộc gặp gỡ giữa lão già Hồng Kông sáu mươi ba tuổi với Huệ, do Lầy Lầy môi giới. Xem xét mặt hàng, lão già thấy ưng ý thì kết thúc vòng một, lão thuê Lầy Lầy chạy giấy tờ làm thủ tục hôn thê. Cũng vừa vặn hết hạn du lịch. Huệ trở về Việt Nam thông báo chuyện cưới xin với gia đình. Bố mẹ nó liền cấp tốc tổ chức mấy mâm cỗ “diện hẹp”, để cái Huệ còn kịp quay sang Hồng Kông làm tiếp “vòng hai”. Tất cả chớp nhoáng nhưng răm rắp theo đúng trình tự, không sai một ly. Xong vòng hai, Huệ chính thức thành vợ lão già ngoại quốc, dứt hẳn với chốn quê nhà ăn xó mó niêu, đồng thời cũng từ đây chính thức trở thành mỏ vàng cho cố hương. Nào gửi tiền để bố xây nhà, sắm xe cho em, nào gửi năm ngàn đô la bước đầu giúp mẹ trả nợ mọi khoản chi phí trước khi cưới...
Lão Bản phát ghen, chửi đổng: “Con mẹ nó! Cứ như thể cái ấy của nó tạc bằng kim cương chứ không phải thường!”
Sau chuyện con Huệ, các bà mẹ xóm Chùa ông tỉnh ngộ rằng “đầu tư chồng ngoại” cho con gái, chắc chắn lãi nhất. Trừ phi trời không cho phải chịu. Riêng lão Bản quy tội tại vợ, mắng vợ vụng đẻ. Ai đời đẻ toàn giặc nhà trời, năm thằng con giai ăn tàn phá hại. Rồi đây chúng ta phải “bứng” những của sứt môi, lồi rốn xóm Chùa, gái ế ẩm không xuất ngoại được. Lấy vợ hư vẫn có cơ rèn cặp thành ngoan. Chứ lấy vợ xấu cầm bằng nó hại mấy đời con cháu nhà mình. Giống má ép-một, ép-hai sẽ chẳng ra người, chẳng ra ngợm. Kinh nghiệm xương máu đời lão, hỏi sao không thấy? Cái mũi mỏ chim, cặp chân vòng kiềng của đám con giai lão đều thừa hưởng ở mẹ chúng đó thôi? Bởi vậy trước đây lão vẫn ngấm ngầm để ý cô con út ông Sĩ Duệ cho thằng cả. Con bé như nụ hồng hàm hiếu, xinh quá, xinh đến mức lão phấp phỏng không dám hy vọng nhiều. Bây giờ lại nổi lên chuyện chồng ngoại, còn nói gì nữa!
Nhưng xinh quá chưa chắc đã hay. Có giời mới biết bà Duệ đang tan nát cõi lòng từ hôm con Khờ trở về. Nói cho chính xác là từ buổi tối Khờ tập hợp tất cả các bà bá, bà dì, nội ngoại ruột thịt đến nhà, nói toẹt rằng:
- Cháu về lần này cũng muốn nhặt vài chị em gái, đưa sang bên ấy cho đông vây cánh làm ăn. Cứ có khả năng xuất được cháu sẽ giúp. Các bà phải xác định cho con cháu đi cứu gia đình thoát nghèo, thoát khổ. Quanh quẩn xóm Chùa ông đây, dù tài, dù sắc đến mấy cũng chả có cơ hội đổi đời. Làm vợ mấy anh nhọ đít, hai tay vày lỗ miệng, phí!
- Chết chết, chị kín đáo chứ! Khéo không người ta bảo chị là mẹ mìn Tàu thì khốn!
Một bà bá lên tiếng can. Cô Lầy ngật cái cổ trắng phau cười giòn giã:
- Buồn cười chưa? Cháu làm gì phạm pháp đâu. Là cháu thương họ hàng loay hoay nghèo túng, cháu giúp, bận đến ai? ôi dào, khối người lạy cháu chả được.
Các bà nghệt mặt nghe. Có lý quá. Chỉ một lát sau các bà tranh nhau vanh vách khai bằng hết lý lịch của con gái. Cái Khờ tuyên bố dứt khoát:
- Toàn người nhà, cho phép cháu nói thật. Em Thảo con dượng Tám, em Thủy con dì Tác Lan, em Hoa con dì Huệ, những em như thế mới lo được. Còn chị Hà con bá Thu... Cháu nói thật nhé, chị ấy ngoại hình hơi yếu đành chịu vậy. Tiêu chuẩn phải xinh xắn dễ coi, trẻ, khoẻ. Đặc biệt các chị em phải còn “xịn”, các bà hiểu chứ ạ?
Cái Khờ giải thích cặn kẽ chuyện chị em phải còn “xịn”, cũng như các chuyện khác. Ai thắc mắc gì cứ hỏi. Càng nghe nó giải thích càng thấy nó không khờ tí nào. Cuối cùng mọi người đã thông suốt hết. Lúc ấy cái Khờ mới lôi quà cáp ra chia, người vuông khăn, kẻ tấm áo. Lại còn kính râm, cà vạt cho các bác giai; son môi, nước hoa cho các cô em ở nhà... Nhưng xôn xao nhất là những bức ảnh con Huệ gửi về gia đình. Trong ảnh không có cái nào thấy hình ông lão sáu mươi chồng nó, chỉ rặt ô tô, phòng tắm lộng lẫy, người nó lấp lánh nữ trang trông lóa mắt. Chao ôi, con bé mò cua bắt ốc ngày nào bỗng thoắt cái lột xác thành bà hoàng đây này!
Từ lúc ở nhà con Khờ về, bà Duệ đứt từng khúc ruột. Cái Huệ đã ăn nhằm gì. Con Hoa nhà bà mới thật xinh như hoa, nức tiếng hàng xã. Hoa cũng vừa mười tám, thi trượt đại học, hiện đang ôn tập, quyết chí thi cử phen nữa. Thế nhưng đầu năm nay nhà bà xuất hiện anh chàng quay phim chụp ảnh đám tang, đám cưới, có cửa hiệu ngoài phố. Cả nhà đều ngầm hiểu anh chàng ngấp nghé cô Hoa. Anh ta không đỏm trai nhưng bù lại rất mau mắn mồm miệng, thi thoảng không quên biếu Sĩ Thái sư bánh thuốc lào chính hiệu Tiên Lãng, vài lít rượu làng Vân ngon nổi tiếng để ông ngâm thuốc. Dĩ nhiên Sĩ Thái sư liền say đứ đừ, say cả rượu lẫn thuốc lào. Giả dụ anh chàng phó nháy định chim Sĩ Thái sư thì chỉ cần thế cũng đủ ông đổ kềnh, không phải cưa kéo thêm. Nhưng cô Hoa tỏ ra khôn đáo để. Bà Duệ hỏi han, cô chỉ trả lời lấp lửng:
-Dào ôi, đã biết đâu bụng dạ người ta. Mình quê mùa, chắc gì người ta ưng. Họ đùa mình đấy thôi.
Bà Duệ mừng thầm. Gái khôn mới biết vè giai. Vè, có nghĩa chỉ lượn lờ, sát đấy mà lảng ngay đấy. Con mồi không biết đường lần, lúc ngỡ mình chẳng là cái đinh gỉ, lúc lại ngỡ mình nắm chắc trái tim nàng trong lòng bàn tay. Nhưng tưởng bở, tim đâu rẻ vậy? Ngay tim lợn cũng nằm trong loại mặt hàng cao giá nhất trên phản thịt ngoài chợ kia kìa!
Đến một hôm bà Duệ ngỡ ngàng bắt gặp cô Hoa cầm sợi dây chuyền lóng lánh mặt đá đỏ, ướm lên cái cổ trắng mềm mại như ức bồ câu của cô.
- Ở đâu ra vậy, Hoa?
Hoa giấu không kịp, đành chìa sợi dây chuyền lấp lánh cho mẹ, ấp úng:
- Vàng giả đấy mẹ...
Nhưng giấu sao được bà Duệ. Đây mà là vàng giả?
- Mày định bịt mắt tao cơ à? Gớm thật! ơó đâu ra thứ này, nói ngay!
- Con... nhặt được của rơi ngoài đường.
- A, thế! Thế thì tao cất thứ của rơi nhặt được này đã.
Lúc ấy Hoa mới van vỉ mẹ, nói thật hết. Của anh chàng phó nháy xú-vơ-nia nhân sinh nhật cô. Bà Duệ im lặng nhưng mơ hồ lo lắng.
Linh cảm của bà không lầm. Một bữa bà bắt gặp Hoa đang lén ăn khế ở góc vườn. Xưa nay con bé sợ chua thế, lẽ nào... Bà bàng hoàng. Chẳng nói chẳng rằng bà túm cô gái rượu ngay dưới gốc khế, lôi thốc vào buồng. Bằng một cái giật rất phũ bà dứt tung cúc áo đứa con gái đang nhũn người ra. Giật tiếp cái xú-chiêng, bà há hốc miệng ngó sững. Đôi bầu vú trắng nõn phồng to khác thường, hai núm xinh xinh phớt hồng của nó nay cũng sẫm lại, nở gấp ba... Để không nghi ngờ gì nữa bà nắm cạp chun quần Hoa kéo xoạt xuống ngang hông. Cô gái không kịp phản ứng. Bụng nữ thần sắc đẹp chỉ hơi nhô chút đỉnh, nhưng con mắt đàn bà của bà Duệ nhận biết đích thị là Nó.
Bà Duệ ngã vật xuống giường chết ngất. Trong cơn nức nở bà tiếc công giữ ngọc gìn vàng cho con gái suốt mười tám năm, như giữ con ngươi. Vậy mà... ôi con ngươi là con con ngươi ơi! ôi thuốc lào Tiên Lãng với rượu làng Vân kia ơi!
Phải người mẹ khác chắc chuyện om sòm làng nước. Nhưng đây tịnh không. Vẫn thấy bà Duệ đảo những chảo cốm thoăn thoắt, niềm nở tiếp khách ngoài chợ tỉnh vào cất hàng.
Sáng tinh mơ hôm thứ ba, bà Duệ cùng Hoa đi tỉnh sớm. Tìm tới hiệu chụp ảnh, nhưng nó đã đóng cửa. Hỏi chủ nhà mới biết thằng phó nháy vào Nam rồi, mấy tháng tiền thuê cửa hiệu nó cũng quỵt luôn. Ra ngoài đường bà Duệ rít lên:
- Thằng chết tiệt có biết mày bị không?
- Có.
- Nó nói sao?
- Bảo để lo cưới.
- Cưới cái mả mẹ nó! Thôi, về...
Tang rượu làng Vân chỉ còn vương hơi trong mấy hũ thuốc bắc khô như rắn ráo. Sĩ Thái sư không hề hay biết gia đình ông đang trải qua cơn bão lớn tương đương cơn bão Băng-la-đét. ông hồn nhiên hỏi con:
- Này Hoa, thằng phó nháy sao lâu chưa thấy đến chơi, nhẩy?
Con gái ông gằm mặt lí nhí đáp:
- Con không biết ạ.
Bà Duệ ngấm nguýt trả lời hộ:
- Nó bị kẹp xe chết rồi. Từ rày ông đừng hỏi đến nó cho tôi đỡ lộn ruột.
- Ơ hay, ruột bà lộn ngang lộn dọc mặc bà, sao tự nhiên độc mồm vậy?
- Ôi chao, nó lấy vợ, bỏ rơi con gái ông kia. Tôi nói thế đã thất hiếu hử? Rượu với thuốc sướng quá! ông đừng bàn việc nhà cho nát thêm ra nữa.
ông tịt. ơ được, không cho tham gia nội chính ông càng rảnh rang. Dạo này ông đánh bạn với lão kép cải lương về già. Lão ta sống một mình ở ngôi nhà nhỏ cuối thôn bốn. Thi thoảng lão vẫn lén lút đón ca-ve non thật xinh về ngôi nhà độc thân suốt đêm, để nó hầu hạ đấm bóp tấm thân nhăn nheo một nắm xương khô cho sướng. Vợ lão chết đã lâu, không ai nỡ xét hỏi. Mà có xét, nay lão bảo cháu gái gọi vợ bằng dì, mai bảo cháu gái con ông bạn thân ngoài phố đã sao.
Nhất là không phiền toái. Chờ trời tối, chạy xe máy cái vèo lên đến đầu tỉnh đã đón được “của lạ” về tận nhà. Như thế sạch sẽ hơn, như thể con hát-i-vê không dám đánh đường mò về tận nơi xóm Chùa ông thiêng liêng. Chuyện kinh thiên động địa nhưng không ai biết cả... Chỉ cần kín đáo một chút... Lấy khăn che mặt đi em!
ông Sĩ Duệ cũng vài lần được lão kép cải lương “đưa vào đời” tại nhà hàng tỉnh lẻ cho an toàn. ôi chao, sự ấy không thể tả nổi. Từ đám ca-ve, hai anh già “ngộ” được nhiều điều đến thú vị. Mới hôm nọ lão kép thì thào kể cho ông Sĩ Duệ chuyện “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”, bằng giọng rất đỗi nghẹn ngào... Xin đừng hôn em. Em thề đã giữ cái hôn cho chồng em. Anh mất tiền, muốn làm gì cũng được, nhưng chỉ từ dưới cổ trở xuống. Chồng em ở đâu ư? Anh ấy đang ngồi tù. Ngồi tù vì buôn lậu nuôi mẹ con em đấy. Em sẽ đợi chồng em. Bao giờ anh ấy trở về, em không phải đi khách kiếm tiền nuôi con nữa...
Lão kép hát rớm nước mắt bảo ông:
-Thấy chưa? Ai dám bảo chữ trinh chỉ có một kiểu?
Sĩ Thái sư gật gù bán tín bán nghi. Nó giữ chữ trinh hay nó gần cái miệng thuốc lào lão già nó sợ? Cũng mặc mẹ nó. Dù sao từ dạo được “đưa vào đời” ai trông Sĩ Thái sư đều khen trẻ ra.
Bây giờ ông càng muốn phó thác gia đình cho vợ con. Dưới bàn tay mụ nữ tướng, đâu khắc vào đó.
Thì đúng đâu lại vào đó. Nhờ tài khéo léo của bà Duệ, cô Hoa sau một tuần vắng mặt, lên phố giúp việc anh chị, nay bỏ học về nhà quanh quẩn làm cốm với mẹ. Gia đình Sĩ Thái sư lại êm đềm như thường. Không ai biết giây phút nằm tênh hênh trên bàn bệnh viện, cô Hoa ngây thơ phập phồng tình yêu của xóm Chùa đã chết rồi. Giờ còn lại đây một cái xác lạnh khô, chán chường đến mức không buồn... chết nữa!
Bởi vậy sáng chị Lầy Lầy sang chơi. Hoa không tươi tỉnh mặn mà lắm. Nhưng chị Lầy Lầy vừa thấy Hoa đã vồn vã xoắn xuýt.
- Ôi, lâu không gặp con bé, ai ngờ em gái chị chim sa cá lặn thế này! Dì ơi, bằng nhà dì trúng xổ số thêm áp mạn đấy.
Bà Duệ cùng Hoa nín thít, mặt chảy dài. Lầy Lầy đoán ngay có chuyện khúc mắc. Chưa kịp hỏi han, Hoa đã lỉnh xuống bếp. Bà Duệ kéo tay Lầy Lầy vào trong buồng tỉ tê mọi chuyện.
- Giời ơi, sao em con dại thế. Phí đời cho thằng phó nháy!
- Vậy đấy. Giờ chị muốn giúp em cũng chả được. Sự tình ra nông nỗi này, sang nước người ta thêm nhục. Dì nghe nói bọn đàn ông ngoại quốc phát hiện con gái không còn nguyên vẹn, nó bán luôn vào nhà chứa. Nếu không nó cũng vùi dập hơn con ở nhà nó.
- Chuyện xảy ra đến thế, đành tìm cách gỡ. Dì khổ tâm mấy cũng không kéo lại được. Bây giờ dì nghe con, nếu nhà quyết tâm để em Hoa đi, con khắc có cách.
Cái Khờ ngó trước ngó sau rồi hạ giọng thì thào vào tai bà Duệ:
- Dì thu xếp cho con một khoản kha khá. Con có đường dây bí mật đưa em Hoa đi sửa sang lại.
- Chị bảo sao? - Bà Duệ sửng sốt ngó sững cái Khờ.
- Con sẽ đưa em đến một cơ sở y khoa đặc biệt, ở đấy người ta nhận vá, người ta tân trang nguyên lành như cũ... Dì phải thề giữ bí mật cho con đấy. Chuyện này nghiêm trọng lắm. Nếu hở ra chúng nó giết con, không đùa đâu dì ạ.
Bà Duệ cứ há hốc miệng. Giời ơi, có thế như thế được ư? Lại như thế thật sao? Tân trang xong, con gái đã hư cũng trở lại thành “xịn”, lại rách, lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết y khoa” ấy sao?
Trưa hôm đó, sau bao nhiêu ngày u ám Sĩ Thái sư mới thấy vợ cười nói hớn hở ra mặt. Bà dịu dàng bảo ông:
- Cái khoản tiền của họ, ông cho tôi mượn tạm ít hôm đã.
- Bà nói hay chửa. Tiền đâu của nhà mình. Đã định ngày đầu tháng tới các chú thím ấy về...
- Cứ đưa đây tôi giật tạm, lo việc trước đã. Rồi tôi nhắn thằng cả chạy sớm hoàn lại. Hai triệu nhà ông chưa to đâu!
- To nhỏ mặc tôi, không được đụng vào đấy. Mà bà làm gì cũng phải nói ra chứ. Buôn bạc giả hay sao?
Tức thì mắt bà long lên. Bà điên lắm. Muốn biết sẽ được biết! Đằng nào việc con Hoa đi Hồng Kông rồi cũng phải bàn. Đã khoẻ hoạnh hoẹ thì dỏng tai nghe cho hết những điều bà âm thầm gánh vác hộ “quả phúc” nhà ông nhá!
Sĩ Thái sư tưởng đâu sét đánh xuống đầu. Những chuyện khốn nạn đến thế chúng mày dám giấu ông? Chúng mày coi ông là thứ gì trong nhà này hả? ông càng tức gấp đôi vì không thể quát tháo cho hả giận, càng không thể nện mẹ con nhà họ Đào một trận thừa sống thiếu chết.
Sĩ Thái sư lao ra khỏi nhà như phát rồ. Đi cho bình tĩnh. ở nhà có thể ông hộc máu mắt.
Qua khỏi ngõ, bất đồ ông chạm trán lão Bản dong bò đi thả. Lão Bản toét miệng cười trêu:
- Thiết triều hôm nay có người vạch mặt gian thần đấy ngài Thái sư ạ.
ý lão Bản nhắc khéo việc mấy ông xóm Chùa định làm đơn kiện thằng cha chủ tịch xã. Mọi bận thế nào Sĩ Thái sư cũng hồ hởi bắt chuyện, bàn bạc, to nhỏ với lão. Nhưng lạ, bữa nay mặt Sĩ Thái sư cứ hằm hè, tái dại rất khó tả. Lão Bản liền rủ:
- Rỗi, đi với tôi đi. Không trò chuyện mồm nó mốc ông ơi.
Lão cũng đang đầy ứ một bầu tâm sự cần được thổ lộ đây.
Hai người lặng lẽ theo sau con bò. Cả hai đều cúi đầu mà đi, trông xa như thể họ mặc niệm trước mông con vật.
- Thằng Hợp, Phó Chủ tịch xã nói còn sai làm sao. Đi khám đợt nghĩa vụ năm nay mới chết đắng ra. Một nửa thanh niên xóm Chùa bị loại vì máu có khoản... dương tính con Hít.
ông Sĩ Duệ trợn tròn mắt hỏi lại:
- Sao? ông nói sao? Sao lại bố láo thế được? Tôi ngỡ chỉ có con nhà Cua thôi chứ?
- Cái thằng chết tháng trước hử? Nói làm gì... Sang giai đoạn cuối bây giờ đã có ba thằng nữa rồi. Con nhà Thìn, con Tài Bân, con mụ Thích.
- Chao ôi, xóm Chùa đổ đốn thế rồi ư?
Lão Bản ngậm ngùi:
- Thôi đi. Còn đâu xóm Chùa ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu đưa ma tuý, ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền... Còn gì để nói, hở ông?
Sĩ Thái sư liếc xéo lão Bản. Cái vẻ thâm trầm mỉa mai còn phảng phất trên gương mặt lão khiến ông gai người. Lòng dạ ông như bị xát muối. Và cùng với nỗi xót thầm, ông nghe tức tưởi trỗi dậy một sự phản kháng yếu ớt. Nói cho cùng, đám con gái xóm Chùa có đánh cắp trinh tiết cũng đâu phải tội lỗi ghê gớm lắm. Chúng là nạn nhân thôi. Nạn nhân cho thói đời, cho đồng tiền theo cách chúng nó. Thời buổi mở cửa, chữ trinh dẫu đến ba vạn đường đã sao? Những thằng đàn ông nước ngoài dại dột cứ để chết bố chúng nó!
Con bò thong dong gặm cỏ. Hai lão ngồi xuống bờ tường đá khu nghĩa địa. Từ đây nhìn xuống đất xóm Chùa uốn lượn giống hình con rồng nghênh chầu mặt nguyệt. Mặt nguyệt chính là ngọn đồi. Khu nghĩa địa được xây hình tròn trên đỉnh đồi cũng tựa cái rốn của mặt nguyệt. Hướng cửa nghĩa địa quay về làng, để trừ ma quỷ cho dân con xóm Chùa ông. Do vậy xưa nay ai cũng yên chí mình được che chở, chả sợ gì sất...
“Ôi, vậy vì sao ra nông nỗi này?”. Sĩ Thái sư bải hoải ngoảnh nhìn xóm Chùa. ơ kìa hình như dải đất uốn lượn thân thuộc ấy bỗng dưng lùi xa, lùi xa từng tí một trước mặt ông. Hay có làn sương mù nào đang giăng lên, che phủ xóm Chùa chăng? Mà lạ quá, ngay bờ tường đá dưới chân ông cũng bồng bềnh tựa hồ thụt xuống, lún xuống...
Sĩ Thái sư xây xẩm mặt mũi, ngã lăn vào lòng lão Bản. Hai tay ông vẫn chới với muốn níu giữ lấy cái gì vô hình đang vuột mất.
Đúng lúc một cơn xoáy lốc ào qua, cuốn theo tiếng kêu của lão Bản về làng, rồi thả rơi từng khúc âm thanh rời rạc, nghe như tiếng ai gọi hồn...
Hai người đàn bà xóm Trại
Vào lúc lên đèn thì trời có mưa. Có lẽ đây là cơn mưa cuối đông, vì chỉ còn
mươi ngày nữa là Tết. Gió từ bãi sông rộng thổi hắt từng làn mưa bụi về phía
chân đê. Tiếng mưa mỏng và nhẹ, như tiếng người thì thào đâu đó. Cả triền bãi
rộng chạy ven đê làng Chùa chỉ còn lại một ngôi nhà nhỏ. Trong ngôi nhà ấy
có hai người đàn bà đã sống với nhau mấy chục năm nay. Bây giờ tóc họ đã
bạc trắng. Và lúc này họ đang ngồi trong chái bếp nhỏ ấm áp bởi hơi rơm, lá
chuối khô và lửa bếp. Chiếc mâm gỗ có một vết nẻ to được đặt trên nền bếp
bằng đất lâu ngày cứng lại như đá. Trên mâm chỉ độc một bát canh dưa nấu tép
bốc hơi nghi ngút. Hai bà lão ngồi ở hai phía mâm đối diện nhau. Hai cặp đầu
gối xương xẩu nhô cao đỡ lấy hai gương mặt nhăn nheo và sạm đen.
- Bà mua mớ tép này của ai? Bà lão ân hỏi và lấy đũa đảo bát canh.
- Mấy đứa trẻ trâu - Bà lão Mật trả lời - Chúng nó mang vào tận đây.
- Mớ tép này mấy đồng?
- Hai ngàn.
- Bà cứ có tật mua nhiều. Không bảo chúng nó sẻ lấy một nửa.
- Có dúm tép bằng dúm muối, sẻ một nửa còn lại chúng nó bán cho ai.
Hai bà lão lặng lẽ bưng hai bát cơm xới vơi như cơm cúng và nhón nhén ăn.
- Nấu tép dưa phải nấu cho dừ - Bà lão ân càu nhàu - Xương cứng ê cả răng.
- Tép bằng lỗ mũi xương ở đâu ra.
- Bà còn khỏe răng, chứ tôi sờ mãi chẳng được một cái.
Hai bà lão vừa ăn vừa lầm rầm những chuyện như thế. Bên ngoài ngôi nhà mưa
vẫn thì thào. Trong tiếng mưa vẳng lên tiếng chó từ mấy gia đình ở chân đê bên
kia.
- Đấy, tôi nói rồi - Bà lão ân khẽ kêu lên và ho - Hóc xương cá rồi đấy. Khổ.
- Bà cứ khạc mấy cái là nó ra - Bà lão Mật lo lắng. Bà lão ân đặt bát cơm ăn
dở xuống mâm và quay sang phía khác khạc mấy cái.
- Có khỏi không?
- Có được đâu. Không khéo lại chết vì hóc xương tép.
- Bà cứ hay dở mồm - Bà lão Mật nói. Và chợt reo lên - A, để tôi chữa mẹo
cho.
Bà lão Mật vội vàng cầm lấy hai chiếc đũa cả dính cơm và lom khom đến bên
bà lão ân.
- Bà ngồi im nhé. Cứ nhắm mắt lại.
Bà lão Mật vừa nói vừa đưa hai chiếc đũa cả cách đỉnh đầu bà lão ân chừng
gang tay. Rồi vừa gõ hai cái đũa cả vào nhau và vừa lầm rầm như người niệm
chú: "Gần ra, xa vào". Đọc đúng bảy lần thì bà dừng lại và hỏi:
- Được chưa bà?
Bà lão ân không trả lời. Bà vất vả nuốt nuốt nước miếng. Một lát sau bà nói:
- Được rồi. Chả ăn nữa. Sáng mai đun lại cho kỹ. Ăn xong bữa cơm tối, hai bà
lão bỏ thêm cái gốc tre vào bếp và lấy trầu ra ăn. Bà lão ân lấy một miếng cau
tươi đưa cho bà lão Mật.
- ở đâu mà cau tươi thế này? Bà lão Mật hỏi.
- Cau từ hôm cưới con nhà Phấn. Chúng nó nhét đầy cả túi.
- Con nhà Phấn à?
- Con nhà nó chẳng ra đón bà vào ăn cỗ là gì. Bà ốm bà không đi mà lại còn
không nhớ?
Sau đó hai bà lão im lặng nhai trầu. Ngọn lửa ăn dần vào gốc tre khô. ánh lửa
gần gũi và xa xôi chập chờn trong hai đôi mắt đục mờ.
- Thế Tết năm nay định gói bao nhiêu bánh? - Bà lão ân quay lại phía bà lão
Mật hỏi.
- Gói bao nhiêu thì gói. Nhưng vừa vừa thôi. Năm nào cũng bỏ mốc meo cả.
- Cứ nấu ba chục cái.
- Gớm, bà làm như nấu cho cả làng.
- Cứ nấu thế. Trẻ con trong làng ra chơi thì cho chúng nó. Rồi... nhỡ có ai về...
Nghe bà lão ân nói vậy, bà Mật từ từ ngước đôi mắt đục mờ lên nhìn một lúc
lâu rồi hỏi khẽ:
- Ai về?...
*
* *
Mấy chục năm về trước. Cũng những đêm mùa đông giáp Tết ở trong chái bếp
như thế này. Hai bà lão ngồi trước bếp lửa và hồ hởi nói với nhau về chuyện
gói bánh chưng. Ngày ấy họ còn trẻ lắm. Cả hai người mới ngoài hai mươi tuổi.
"Năm nay thế nào hai anh ấy cũng về - Mật thì thầm - chị ân nhỉ"
"Tao cũng mong quá - ân nói như bằng hơi thở - đêm qua tao mơ thấy con gà
trống mổ vào ngón tay út. Mấy năm rồi chẳng có ai về ăn Tết".
"Em phát ốm vì chờ thôi".
"Giá như có đứa con... thì họ bao giờ về cũng được". "Chị ân ơi - Mật chợt
kêu lên và ôm lấy ân - Mấy đêm trước em cũng mơ. Em thấy anh ấy về và ...
ngay đêm đó...".
Nói đến đó mặt Mật ửng đỏ và đôi mắt Mật vừa lấp lánh vui, vừa bối rối.
"Đêm đó thì sao" ân lườm mắt, mắng yêu Mật - "Con khỉ".
"Ngay đêm đó em mơ em có mang. Lúc tỉnh dậy sờ bụng em thấy khang khác.
Em sợ lắm".
"Con này nói chuyện vớ vẩn"
"Thật đấy mà, đến hôm nay em vẫn thấy bụng mình khang khác như thế - Mật
nói và cầm tay ân kéo đặt lên bụng mình- Chị sờ mà xem. Đấy, chị thấy khác
không?"
Vì tò mò, ân đưa tay ấn vào bụng Mật. Và một lúc sau ân cũng hoảng hốt vì
cảm thấy hình như trong bụng Mật cũng không bình thường.
"Này... ân thì thào - Chồng đi vắng, hay mày trót dại..."
"Chị bảo dại cái gì?..."
"Có thằng nào nó rủ rê mày không?"
"Không, làm gì có chuyện ấy. Có mà trôi sông"?
"Tôi phải trông nom cô - ân nói - Có chuyện gì thì tôi và cô cứ là bỏ xóm bãi
này mà lên rừng đấy nhé"
ân và Mật đều mồ côi bố mẹ. Và lớn lên lấy chồng, họ đưa nhau ra xóm bãi
lập nghiệp. Rồi một đêm hai người đàn ông của họ khăn gói theo một đơn vị
bộ đội vượt sông Đáy về phía núi Miếu Môn. Trước khi qua sông hai người đàn
ông dặn: "Hai chị em dọn về mà ở với nhau. Đến Tết, kháng chiến thành công
chúng tôi về". Từ ngày đó Mật dọn sang ở với ân. Họ sống như hai chị em
ruột với nhau.
Và khi Tết đến, cả hai lại xuống bến rửa lá dong và vo gạo. Má họ rực đỏ trong
gió lạnh cuối đông. Tiếng cười họ trong trẻo và rạo rực vang trên mặt sông mùa
nước cạn yên tĩnh. Nhất là vào đêm luộc bánh, cả hai đều thấy hồi hộp lạ lùng.
Họ cảm thấy da thịt họ thấm đầy hơi lửa bếp. Khi bánh chín, họ chọn những
chiếc bánh đẹp nhất, chắc nhất để phần hai người đàn ông của họ. Nhưng
những ngày Tết thường vụt đi như tên bắn. Cánh bãi không còn tiếng pháo tép
của trẻ con nữa. Và những bầy sáo tháng Giêng đã loáng thoáng bay về, ân và
Mật mang những chiếc bánh đã khô lá luộc lại. Cho đến khi ở đầu góc bánh đã
lấm tấm mốc xanh thì họ không còn bình tĩnh chờ đợi nữa. Cả hai cùng khóc.
Đêm xuống, hai người đàn bà trẻ nằm xoay lưng vào nhau trên giường lót rơm
và giấu tiếng thở dài.
"Chị ngủ à, chị ân" - Mật thường bắt đầu câu hỏi như thế trong đêm.
"Chưa". ân trả lời trong chăn.
"Sao Tết năm nay các anh ấy lại không về nhỉ?"
"Có giời mà biết - ân giận dỗi - Chắc chiến dịch bận"
"Mai mình cứ luộc lại bánh chị ân ạ"
"Luộc bánh thành cháo à. Bỏ ra mà ăn hết đi"
"Ăn làm sao hết những hai chục cái"
Sau những câu chuyện như vậy cả hai chị lại chìm vào giấc ngủ lơ mơ. Thường
sang Giêng gió sông ấm hơn và đất bãi phả hương phù sa dễ chịu làm giấc ngủ
của họ thường có những cơn mơ. Trong mơ, ân lại thấy con gà trống tía với
chiếc mào đỏ rực, cái ức rộng, và đôi cựa bóng như gà mổ mổ vào ngón tay út
của mình. Còn Mật vẫn cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ. Mật thấy người lính
trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật lại dè dặt đặt tay lên
bụng. Rồi Mật mơ hồ lo lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác.
Rồi vào một ngày giáp Tết, chồng ân đột ngột ghé qua nhà. Tiếng gõ cửa gấp
gáp trong đêm làm Mật choàng tỉnh.
"Ai đấy? Ai đấy?" Mật quýnh lên hỏi.
"Tôi đây. Bấc đây"
"Giời ơi! Mật lập cập kêu lên - Anh Bấc..."
Khi cánh cửa vửa mở thì người lính ùa vào ôm lấy Mật.
"Anh Bấc - Mật hoảng hốt - Mật đây. Em đây mà"
Vòng tay người lính vội rời ra và buông thõng xuống.
"ân đâu?"
"Chị ân đi Kim Bôi sáng nay cùng mấy chị trong xóm, xem có lá dong rẻ hay
quýt cam gì đấy mua về bán chợ Tết. Em ở nhà trông nhà".
"Bao giờ ân về?"
"Có lẽ mai chị ân về, thế bao giờ anh đi?"
Bấc đứng lặng không trả lời. Gió sông lạnh thổi xốc vào ngôi nhà tranh bé nhỏ.
"Vào nhà đi anh, để em đốt đống lửa cho ấm"
Một lát sau ngọn lửa đã chui qua những cành củi khô và vươn lên.
"Em nấu cho anh bát cơm nhé?"
"Anh ăn rồi. Liệu ngày mai ân có về kịp không?"
"Chị ấy sẽ nóng ruột mà về. Sao các anh biệt tin lâu ngày thế? Nhà em ra sao
rồi anh?"
Mật rụt rè hỏi và đợi câu trả lời.
"Sau ngày sang sông, chúng tôi cùng nhau ở một đơn vị được một tháng. Sau
đó mỗi người đi một đơn vị. Nghe đâu Ngữ đang ở Bắc Cạn. ở nhà không
nhận được tin gì của nó à?"
"Không - Mật nói như khóc - Em và chị ân Tết nào cũng mong các anh về.
Năm nào hai chị em cũng gói nhiều bánh..."
"Mình sắp đánh lớn. Đơn vị tôi đang chuyển quân lên mặt trận Hòa Bình. Hai
chị em ở nhà có khỏe không?"
"Chúng em thế nào cũng chịu được. Chỉ lo cho các anh hòn đạn mũi tên. Sao
anh về chẳng tin cho chị ân biết trước?"
"Đang kháng chiến mà cô cứ làm như... - Người lính cười. Gió thổi mạnh hơn
qua những tàu chuối ngoài vườn. Sương như xuống dầm dề trên mái rạ. Ngọn
lửa như ngái ngủ cháy lờ đờ trên củi.
"Anh nghỉ một tí đi, kẻo mệt - Mật nói - Hết canh ba rồi".
"Cô đi nằm đi. Tôi ngồi đây. Cũng sắp sáng rồi".
Mật không trả lời. Chị ngồi im lặng nhìn những mẩu than nhấp nháy như
những ngôi sao mùa đông. Giá như đêm nay ân ở nhà thì ân hạnh phúc biết
bao nhiêu. Và giá như người lính kia là chồng chị. Nghĩ đến đó máu trong
người chị dào lên chảy xiết. Chị thấy mặt mình nóng rát. Chị nhớ đến cơn mơ
thường gặp và chị muốn khóc.
"Chúng em ở nhà khổ lắm - Mật thổn thức - Giá như có mụn con thì đỡ khổ"
"Sắp hòa bình rồi. Chúng tôi sẽ về cả thôi. Rồi không có sức mà đẻ".
Người lính nói và cười vang. Mật cũng bật cười theo. Nước mắt chị giàn giụa.
Ngọn lửa cuối cùng đã chui vào đống than đỏ và ngủ vùi trong đó. Mật ngồi
trong bóng tối, miệng lầm rầm: "Chị ân ơi về mau lên. Anh Bấc đang đợi, chị
ân ơi, mau lên".
*
* *
Cái gốc tre đã cháy hết, hai bà lão vẫn ngồi im lặng. Hai gương mặt sạm đen và
nhăn nheo như nằm bất động trên hai đầu gối xương xẩu. Một con chuột nhắt
bé như hạt mít từ góc bếp bò ra. Nó rón rén leo trên chiếc mâm gỗ. Rồi bất chợt
nó nhảy phóc lên miệng bát làm chiếc bát ăn cơm đổ kềnh:
- Bà ngủ rồi đấy à? Bà lão ân quay sang phía bà lão Mật hỏi.
- Ngủ đâu mà ngủ - Bà lão Mật mở mắt nói và lại nhai tiếp miếng trầu còn
ngậm trong miệng - Ăn miếng trầu thế mà say say.
- Chiều bà có che kỹ cái chuồng gà không?
- Che rồi. Tôi cho uống cả nước vôi trong. Sương thế này sợ rù mất mấy con
gà.
- Mẹ Phấn nó bảo Tết năm nay đón hai cụ vào nhà nó ăn Tết. Nó bảo hai cụ
sống ngoài bãi như ma ấy.
- Ăn uống được gì đâu mà vào. Nó còn con cháu, khách khứa, thì giờ đâu mà
hầu mình. Thôi chết, tôi bỏ quên cái rổ có cái áo giặt dở lúc chiều.
- Bà lú lẫn hơn cả tôi - Bà lão ân nói.
- Chiều đang giặt dở thì bà Mên tưới trên bãi gọi chuyện. Thế rồi cứ quên mà
về. Tôi phải xuống bến tôi lấy.
- Thôi mưa gió tối tăm thế này, đi rồi ngã ra đấy. Có cái rổ rách với cái áo nát,
ma nó lấy.
Nhưng thấy bà lão Mật cứ khăng khăng đòi đi, bà lão ân với lấy cái nón đưa
cho bà lão Mật và dặn: "Đi chầm chậm thôi, bà ạ". Trời đêm mênh mang. Bà
lão Mật lom khom xuống bến. Bà đã đi không biết bao nhiêu lần trên con
đường này. Và con đường đã ăn sâu vào trí nhớ bà.
Khi cắp rổ định quay về thì có tiếng cá quẫy mạnh sát bờ. Một vật gì đó vô
hình rơi vào ký ức bà tựa như cái quẫy của đuôi cá. Và rồi những vòng sóng kỷ
niệm cứ loang ra, loang mãi. Bà từ từ ngồi xuống nhìn dòng sông trong đêm.
Nơi đây, mấy chục năm về trước bà đã tiễn chồng theo bộ đội sang sông. Và
chính nơi đây, bà đã tiễn Bấc đi trong lần người lính ghé qua nhà không gặp vợ
mình.
*
* *
Suốt cả ngày hôm ấy vẫn không thấy ân về - Bao nhiêu kỷ niệm đều mờ đi
theo tuổi tác, nhưng những đêm như thế vẫn bám dai dẳng trong bà lão Mật -
Hôm ấy, cứ thỉnh thoảng Mật lại chạy lên mặt đê ngóng về phía xa. Buổi tối ăn
cơm xong, Bấc nói:
"Khuya tôi phải đi. Mai ân về bảo tôi vẫn khỏe".
"Chỉ sáng mai là chị ấy về thôi - Mật nói như van - Tối mai anh hãy đi".
"Không được đâu. Tối nay tôi phải có mặt nơi đóng quân".
Khoảng chín giờ tối thì Bấc lên đường. Mật tiễn Bấc xuống bến sông. Khi sát
mép nước Bấc quay lại. Anh đặt tay lên vai Mật. Những ngón tay người lính
như bấu chặt vào vai chị. Mật thấy rét run lên, hai hàm răng chị va vào nhau lập
cập.
"Anh đi nhé - Người lính thì thào - hai chị em ở nhà thương nhau. Anh và Ngữ
sẽ về sớm".
Bấc đi được một tiếng đồng hồ thì Ân về. Nghe tiếng Ân gọi cửa. Mật run bắn
và òa khóc. "Chị Ân ơi, anh Bấc về, Bấc về".
"Đâu, đâu? Anh ấy đâu?... Đâu?"
"Anh ấy đi rồi. Anh Bấc chờ chị suốt cả đêm qua. Anh vừa sang sông".
Bó lá dong lớn và sọt quít đồi đổ xuống như người ngã. "Anh ấy đi lâu chưa? -
Ân hổn hển - Anh ấy đi lối nào".
"Anh Bấc lội qua bến nhà mình". Vừa nói Mật vừa nắm tay Ân đi như chạy
xuống bến. Đến bờ sông, Ân giật tay chị ra khỏi bàn tay Mật và lội ào ào
xuống nước.
"Chị ơi! Anh ấy đi xa rồi - Mật đứng trên bờ ôm ngực khóc gọi - Đừng sang
sông nữa, chị ơi".
Mật ngồi thụp xuống bờ cát ướt lạnh và bưng mặt nức nở cho đến tận khi chị
nghe tiếng khỏa nước mệt mỏi vào bờ. Ân rét ướt nghiêng ngả bước lên bờ. Hai
người đàn bà trẻ đứng im lặng trước nhau. Rồi cả hai lao vào ôm lấy nhau nức
nở. Gió sông như ấm hơn thổi dạt dào qua bãi về phía chân đê. Và đâu đó
thoảng mùi cỏ lên mầm hăng hăng.
Tết năm ấy, Ân và Mật vẫn lặng lẽ gói nhiều bánh. Nhưng Tết năm ấy, cả hai
người lính của họ vẫn không về. Sang giêng, hai người đàn bà mấy lần mang
bánh luộc lại và mấy lần nhìn nhau khóc.
Mấy năm sau ngày hòa bình lập lại. Mật nhận được báo tử chồng. Nhưng Tết
đến họ vẫn gói nhiều bánh. Trong mơ chị vẫn thấy người lính trở về. Và tỉnh
giấc vẫn rụt rè đặt tay lên bụng mình và thấy khang khác. Nhiều lần Ân khuyên
Mật nhận lời lấy một người đàn ông nào đó. Những lần như thế, Mật chỉ nở
một nụ cười xa xăm và ngơ ngác như một nụ cười của một người vừa thức giấc
trong giấc ngủ trưa. Và sau đó thì Mật nói với Ân: "Bao giờ anh Bấc về với chị
thì em đi lấy chồng".
*
* *
Đợi lâu không thấy bà lão Mật về, bà lão Ân sốt ruột ra đầu ngõ hướng xuống
sông gọi:
- Bà Mật ơi! Bà Mật.
- Tôi về đây.
- Đã bảo đêm hôm rồi còn mò xuống - bà lão Ân cằn nhằn - Già rồi còn thích
làm tội thân, tội mình.
Nói vậy nhưng bà lão Ân vẫn đứng lại đợi cho đến khi bà lão Mật lên đến đầu
ngõ.
- Vào đi ngủ thôi bà ạ - Bà lão Ân nói - Tôi đau hết cả lưng rồi.
Gian nhà nhỏ trong đêm như rộng mênh mông. Hai bà lão nằm quay lưng vào
nhau và thỉnh thoảng lại khúc khắc ho.
- Bà vẫn nhai trầu đấy à? - Bà lão Ân hỏi.
- Tôi nhai cho hết kẻo phí.
- Nhai thế mà không mỏi mồm.
Đâu đó trên mái nhà có tiếng chuột đuổi nhau rinh rích. Và từ cỗ áo quan có
tiếng mọt nghiến gỗ trèo trẹo.
- Bà có cầm bao diêm đấy không? Bà lão Ân hỏi.
- Có, làm gì nữa bây giờ?
- Tôi xem con mọt. Có khi lúc mình chết thì mọt cũng cắn nát cỗ áo ra rồi.
- Nó nằm trong gỗ chứ nó lại chui ra cho bà xem.
Nói vậy nhưng bà lão Mật vẫn lấy bao diêm đưa cho bà lão Ân. Bà lão Ân bật
diêm châm đèn soi cỗ áo quan. Bà nghiêng đầu nghe ngóng một lúc rồi lấy tay
đập đập vào cỗ áo: tiếng mọt chợt im bặt. Bà đứng bên cỗ áo quan cho đến khi
yên tâm là con mọt không còn dám cắn nữa thì mới tắt đèn lên giường.
Gần sáng những ngọn gió cuối đông tuy còn lạnh nhưng đã chơm chớm xuân
thổi rạo rực qua ngôi nhà của hai bà lão. Và bà lão Mật lại mơ thấy người lính
trở về. Nhưng khi nhìn rõ mặt thì bà nhận ra đó không phải Ngữ mà là Bấc.
*
* *
Vào đầu năm 1960, Ân nhận được thư Bấc gửi về, trong thư anh nói đang đóng
quân ở Quảng Bình bên cạnh một dòng sông đẹp như sông Đáy quê anh.
"Chị Ân ơi - Mật cuống quít - Chị đi vào tìm anh ấy đi. Đi ngay đi. Mọi việc
đồng áng cứ để em".
Suốt mấy ngày đó, cứ chốc chốc Ân lại mang thư chồng ra đọc và khóc. Cuối
cùng chị quyết định khăn gói đi thăm chồng.
Nhưng cuộc đời thật trớ trêu. Ân đi được dăm ngày, thì Bấc về.
"Anh Bấc, anh gặp chị Ân không? - Mật hốt hoảng hỏi khi chị linh cảm thấy
điều không bình thường - Chị Ân vào Quảng Bình tìm anh rồi".
"Tìm anh hả? Đi bao giờ?"
"Chị Ân đi được dăm ngày rồi"
Nghe Mật nói, Bấc đứng chết lặng. Mãi sau anh mới nói:
"Người lính nay đây mai đó, tìm sao được"
"Anh Bấc ơi, lần này anh phải ở nhà chờ chị ấy - Mật nói và khóc - Em không
cho anh đi đâu cả. Anh Bấc ơi! Anh Ngữ hy sinh rồi"
"Ngữ hy sinh rồi ư! Hy sinh bao giờ? ở đâu?"
"Có giấy báo tử rồi anh ạ. Hơn ba năm rồi"
Đêm ấy Bấc nói với Mật:
"Sáng sớm mai anh phải đi rồi. Lần này anh đi rất xa và có lẽ lâu lắm".
"Không. Anh phải ở nhà chờ chị ấy về rồi đi đâu thì đi. Nếu không chị ấy chết
mất."
"Không làm sao khác được Mật ạ. Anh phải đi."
Khoảng canh tư thì Bấc khoác ba lô lên đường. Mật tiễn Bấc lên đến mặt đê.
Bỗng Mật ôm lấy Bấc và khóc nấc lên.
"Anh Bấc ơi! Em thương chị Ân quá. Em thương anh hu ... hu ... và thương cả
cái thân em nữa. Nếu anh Ngữ về được một lần thì em đỡ khổ, đỡ ân hận biết
bao. Anh Bấc ơi, sao em không phải là chị Ân, sao anh không phải là anh Ngữ,
hả anh? hu ... hu....".
Bấc không nói được gì. Anh ghì Mật vào lòng. Cả hai người run lên. Mật vội
đẩy Bấc ra và vội vã nói:
"Anh đi đi, anh Bấc, anh đi đi".
Nói xong, Mật chạy nhào xuống chân đê. Chị vừa chạy, vừa ngã và nức nở gọi
tên Ân và tên chồng chị.
Rồi Bấc cũng không trở về, khi Ân và Mật vừa bước qua tuổi bốn mươi. Đêm
đêm hai người đàn bà thường xuống sông ngồi khóc. Và Tết lại đến, những
ngọn gió chớm xuân thổi đầm ấm và rạo rực qua ngôi nhà của họ suốt đêm. Và
những ngày giáp Tết là những ngày họ thường mơ nhiều hơn. Trong mơ có
tiếng gà gáy và tiếng gõ cửa gấp gáp, có ngan ngát mùi lá dong xanh và hương
ấm đậm của gạo nếp đã vo sạch. Họ vẫn ở lại ngoài bãi sông, mặc dù những
gia đình khác đã dọn vào làng theo quy hoạch của chính quyền xã và để tránh
những năm nước sông lên to. Có một điều gì đó thiêng liêng và đau khổ đã gắn
chặt họ với ngôi nhà nhỏ và bến sông.
- Này, bà Mật! Bà Mật, ngủ mê đấy à? Bà lão Ân lay gọi bà lão Mật - Kêu gì
mà khiếp thế.
- Tôi ngủ ... mê à? Bà lão Mật ú ớ hỏi - Sáng chưa bà?
- Còn chán.
- Bà cho tôi mượn bao diêm - bà lão Mật ngồi dậy nói.
Bà lão Mật lục đục tìm đèn và bật diêm. Ngọn đèn dầu tỏa một quầng sáng
vàng ấm trong nhà.
- Bà dậy mà đi.
- Không.
- Già thì phải chịu khó mà đi. Không nhỡ ra quần, ra áo khai lắm.
- Ôi giời! Bà lão Ân cựa mình và chép miệng - Bệnh già nó thế, ai mà muốn.
Khi gà trong xóm bên kia chân đê thi nhau gáy ran thì hai bà lão lại tỉnh giấc.
Bà lão Mật lại nhóp nhép nhai cái bã trầu vẫn ngậm trong miệng khi ngủ.
- Thế bà định Tết này gói bao cái bánh? - Bà lão Mật hỏi.
- Cứ bảo mẹ Phấn nó mua cho đủ lá gói ba chục cái. Mình thì ăn là mấy, nhưng nhỡ có ai về...
Nghe bà lão Ân nói vậy, bà lão Mật ngừng nhai trầu và hơi nghiêng đầu về phía bà lão Ân như định hỏi điều gì đó. Nhưng bà lại thôi.
Và bên ngoài, những ngọn gió sông đã chơm chớm xuân vẫn rạo rực thổi qua ngôi nhà nhỏ.
Nghĩa địa xóm chùa
Dù sống dù chết, chung quanh mình có được lân bang láng giềng tử tế là điều đại phúc. Do vậy tôi vẫn mừng thầm. Số mình không may mắn lúc sống, ắt khi chết phải khác. Từ ngày ra nhập tịch nghĩa địa xóm Chùa tôi được sống trong cảnh chan hòa tình người, tối lửa tắt trăng có nhau vui vẻ.
Tôi nằm ở mẩu đất đầu cùng nghĩa địa. Hàng xóm phía tay phải tôi là lão Hớn, ông lão về đây đúng hôm rằm trung thu, sau tôi hai tháng. Phía trái, cụ Bạch mù. Phía trên đầu tôi anh trung sĩ Tạo, thuộc diện dân cư lớp trước, sắp được kỳ giỗ thứ hai. Ba chúng tôi sống rất hòa thuận, phải đạo. Tôi vẫn có ý chờ xem người hàng xóm thứ tư, người nằm hàng dưới chân tôi sẽ ra sao. Hãi nhất lọt vào khu vực này một ông thích triết lý vặt. Loại ấy đáng sợ hơn loại sinh thời nghiện món Karaôkê.
Thì hôm qua đám phu đào huyệt xóm Chùa đã hì hục đào một cái huyệt vượt hẳn quy cách thông thường, ngay dưới chân mộ tôi, cho vị hàng xóm thứ tư đấy. Tôi giỏng tai nghe lỏm tin tức sốt dẻo về hắn. Nhưng bực quá, những người phu đào huyệt cũng không biết mấy tí.
- Lão này nghe đâu họ hàng mụ hai Đá. Mụ ấy đứng ra thu xếp xin cho lão được chôn ở đây.
- Đã nộp các khoản cho Hội bảo thọ và Ban quản lý nghĩa trang chưa?
- Không rõ.
- Các ông làm ăn như… Phải bảo gia đình họ dành khoản tiền thuốc nước đưa riêng tổ đào huyệt chứ. Mẹ khỉ, thôi, sâu đủ rồi.
- Ông ơi, hôm qua anh con giai nhà này đã có lời với tôi, nhờ đào sâu rộng hơn bình thường một chút, vì quan tài bằng kính. Anh ta hứa ngày mai đưa đám về sẽ có khoản thù lao riêng.
- Sao bây giờ ông mới nói? Làm ăn kiểu gì vậy?
Cứ thế họ cãi nhau tới tận lúc đào xong huyệt, ra về.
Từng ấy cứ liệu chỉ đủ cho tôi hình dung nét cơ bản vị hàng xóm mới: Ông này do có họ với bà hai Đá xóm Chùa nên được về nằm đây, thuộc diện dân ngụ cư giống tôi, không phải dân bản địa. Điểm đặc biệt, quan trọng: Chắc ông ta chức tước to lắm mới được nằm quan tài kính. Thứ ấy đâu phải dành cho các phó thường dân.
Chuyện cái quan tài kính chẳng mấy chốc loang ra khắp khu nghĩa địa, thành một tin thời sự giật gân. Chức tước đến mức được dùng quan tài kính sẽ có tiêu chuẩn nằm Mai Dịch, sao lại về đây? Nếu do nguyện vọng gửi gắm nắm xương tàn nơi quê cha đất tổ, chính quyền địa phương tất phải đón rước linh đình, tổ đào huyệt phải được huấn thị chu đáo, có đâu chờ khoản thuốc nước đến nỗi cãi nhau? Vậy ông ta là ai? Tất thảy họ hàng quen biết mụ hai Đá dưới này đều được dò hỏi, nhưng ai cũng mù tịt. Bởi thế người ta càng háo hức. Người đoán già, kẻ đoán non, rồi đi đến nhất trí: Ông ma mới thuộc diện không bình thường.
Gần tầm trưa nay dân cư khu nghĩa địa chúng tôi xôn xao choáng váng khi nhà đám về. Cứ ngỡ to lắm, rầm rĩ lắm, ai dè chúng tôi chưng hửng thấy chỉ có một ô tô đưa linh cữu, chỉ một người con trai duy nhất thỉnh thoảng thảm thiết khóc rống lên: “Bố ơi, ới bố ơi…”, cùng vài tiếng chân bà con họ hàng đưa đám. Một kiểu đám ma lặng lẽ của dân nghèo thành thị, không kèn, không trống, không điếu văn.
Ngược lại có rất nhiều tiếng xì xào xuýt xoa của đám trẻ chăn trâu kéo nhau xem đám tang.
- úi giời, quan tài bằng kính thật chúng bay ạ. Nhìn rõ cả xác nữa kìa.
- Thiếu tướng đấy. Gớm, lắm huân chương nhỉ?
- Ông này diện oách ghê, có cả gậy chống bịt bạc.
Chừng non một giờ sau đám tang kết thúc. Tôi theo dõi tiếng chân họ ra ô tô. Cái ô tô chuyển bánh về hướng thành phố. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Giờ chỉ còn việc đợi đêm xuống sẽ rõ.
Thời gian hôm nay bỗng trở nên dài dặc không sao chịu nổi. Chúng tôi đếm từng giây, lắng nghe hơi nóng ban ngày xem lúc nào hạ xuống. Ai cũng mường tượng mặt trời đỏ ối đang rơi gượng nhẹ vào đồi cây phía trước. Rì rầm mơ hồ dưới lòng đất là tiếng kháo chuyện của mấy mụ đàn bà. Dù là người hay ma họ cũng không bớt được tính hóng hớt. Sự việc đêm nay với họ chắc vui hơn hội.
Khi tiếng cú rúc lướt êm trên mặt cỏ nhuốm sương chiều, trời chưa kịp tối hẳn, cả khu nghĩa địa đã rình rịch. Không ai còn nhịn được. Tiếng gõ vách áo quan gọi nhau nổi lên ào ào. Con ma ngỗ nghịch nào đằng cuối nghĩa địa hứng chí cất tiếng hú “ư…u…” kéo dài bất tận trong lòng đất. Nửa giờ nữa mới được phép lên khỏi mồ, sao đã cuồng cả vậy?
Cũng không nên trách chúng tôi. Nếu không có những sự cố như đêm nay cuộc sống ngoài nghĩa địa sẽ buồn tẻ lắm. Quanh đi quẩn lại chỉ mấy vụ kiện tụng truyền kiếp, mấy con ma hiếu sự khư khư ôm mối hận cũ rích thở than, vài cặp vợ chồng kiên quyết ly hôn, bới móc nhau những chuyện từ đời tám hoánh. May sao thi thoảng lại có một đầu ma mới về đây để cuộc sống thêm rôm rả.
Thường thường ma mới sẽ bị làm tình làm tội vài đêm đầu. Người ta lục vấn lý lịch nếu hắn thuộc diện ngụ cư, người ta hỏi thăm tin tức con cháu chòm xóm nếu là dân bản địa. Ai cúng muốn biết tình hình thời sự quốc tế, anh chàng ét en giê(SNG), đến tình hình bệnh dịch si đa… Ma mới còn phải ra mắt thổ thần, thổ địa. Họ đã cách mạng hóa dưới cái tên: Ông quản trị hành chính khu nghĩa địa, ông cán bộ tổ chức, ông cán bộ hộ khẩu. Số của nả mang theo ma mới phải biếu xén các chức sắc, khao đãi lân bang hàng xóm…
Sau vài đêm ma mới trắng tay, được xét chính thức diện dân cư nghĩa địa. Ma cũ bắt nạt ma mới có nghĩa là thế. Khi cú rúc lần thứ hai, không người nào nằm rốn được nữa. Tiếng lao xao nổi dần lên mặt đất. Bên nhà lão Hớn, lão Bạch mù, anh chàng Tạo đều đã có tiếng mở cửa cành cạch.
- Dậy thôi ông giáo ơi. Đến giờ rồi đới.
Lão Hớn gọi tôi ngay bên trên nóc, có ý cho cả lão ma mới nghe tiếng.
- Vâng, tôi lên ngay đây.
Tuy vậy tôi vẫn nán chờ thêm ít phút. Nếu người ta thuộc hàng quan chức cao cấp nhà nước, hãy để các ông chức sắc đón tiếp, gặp gỡ. Anh tiếp xúc trước họ, họ lại cho anh muốn vượt mặt, sinh lôi thôi.
- Ra đi chứ anh giáo!
Giọng trung sĩ Tạo bừng bực rồi. Tôi đành mở cửa nắp áo quan bước lên. Anh Tạo ít tuổi hơn tôi nhưng thuộc hàng “cũ” hơn, tôi buộc phải nể mặt.
Trăng mới nhú. Khung cảnh nhuốm màu bàng bạc. Nhấp nhô trên mỗi ngôi mả từng đầu ma ngồi giãi thẻ, vươn vai vặn mình cho đỡ mỏi. Mươi cái bóng khoác lân tinh chạy tới chạy lui chập chờn. Ai chưa quen mắt nhìn chúng tôi dễ phát khiếp. Nhưng cư dân nghĩa địa nhìn nhau không chỉ thấy có khung xương trắng hếu, họ thấy cả hình hài nhau thuở sinh thời, mắt người trần chẳng bao giờ nhận ra.
Lão Hớn vỗ vai tôi, nhe răng cười. Tóc lão hôm nay đã bợt ra từng mảng lớn.
- ấm bụi rồi nhỉ? Đủ cỗ bốn anh. Này, có cả huân chương kháng chiến hạng nhất nữa nhé. Ái dà, tay này lạ lắm. Đêm nay khối chuyện hấp dẫn.
Chúng tôi chưa kịp hàn huyên đã thấy đám chức sắc từ xa kéo tới. Vẫn ba ông thổ thần thổ địa cải tiến mọi hôm. Không biết họ thuộc chính thể nào, do dẫn cử hay ai cử, nhưng họ vẫn tồn tại lâu lắm và không một ai dám chất vấn họ. Ba vị ma oai quyền ấy đêm nay lên sống áo trịnh trọng. Ông quản trị hành chính khu dẫn đầu, khua những đốt xương lốc cốc hơi ồn ào để tăng vẻ quan cách. Theo sau ba ông cả đàn cả đống ma lặng lẽ bám sát thành một khối đông nghịt, óng ánh phát sáng.
Anh trung sĩ Tạo thu vội những vạt quần áo rách tươm, dẹp lối cho họ, rồi đứng thẳng đuỗn theo tư thế quân sự.
- Báo cáo, em chào các thủ trưởng.
Tôi, lão Hớn, lão Bạch ngồi nép vào nhau. Trong lúc vội vã tôi đã đụng rơi mất cái răng cửa của lão Bạch mù. Lão càu nhàu: “Lát nữa ông phải tìm giả lão đấy”. Tôi bấm vội cho lão im đi.
- Chúng tôi mời… e hèm… xin kính mời đồng chí lên chơi thăm anh em.
Ông quản lý lý lịch dè dặt ngọt ngào nói vọng xuống ngôi mộ phủ đầy hoa.
Im lặng.
Tôi rợn sọ não. Cư dân khu nghĩa địa chưa từng được nghe giọng mời ngọt ngào lịch sự như thế bao giờ. Ông lý lịch xưa rày chỉ gõ gõ đốt xương bàn chân lên trốc mộ mà hạch con ma mới, bắt lên trình diện.
Thường thì những con ma mới không đợi mời mọc. Ngay đêm đầu tiên họ sẽ náo nức nhảy bổ ra khỏi quan tài sớm nhất, tay bắt mặt mừng với bà con họ tộc đã lâu nay âm dương xa cách. Trông họ hớn hở cười nói chẳng khác những kẻ bị lưu đày xa xôi nay mới trở về quê mẹ. Sau đó họ tự đến trình diện đám chức sắc, mang theo quà cáp biếu xén, không đợi phải gọi.
- Xin đồng chí chiếu cố lên gặp gỡ anh em vài phút. Kể ra… nếu đồng chí còn mệt cũng xin cho chúng tôi biết để khỏi quấy quả. Đồng chí tha lỗi cho chúng tôi vì chưa biết được quý danh.
Chút nữa tôi phì cười. Ông quản lý hộ khẩu tính tình hách dịch nhất đám chức sắc, bữa nay giở giọng uốn éo khúm núm nghe thật khó vào. Chẳng thà lão cứ quát tháo như mọi bận.
Cả nghĩa địa im phắc nín thở trừ đám dế vô tư. Sau vài giây mới nghe từ dưới tầng hoa vọng lên tiếng rên rỉ yếu ớt.
- Ừ hưm… A hưm…
Mọi người xì xào. Ông quản lý hộ khẩu lừ hai hốc mắt tứ phía. Tức thì im bặt. Một lần nữa ông ta lại cất giọng nài nỉ.
- Kính mời đồng chí… mời thủ trưởng lên gặp gỡ bà con. Xin thông cảm vì…
Những cánh hoa trên mộ bỗng rung động, rồi xuất hiện một thể xác lừng lững, cao đến mét bẩy, đóng khung trong bộ quân phục cấp tướng, huân chương đầy ngực, chống cái gậy có cán bịt bạc, thật oai phong lẫm lẫm quá chừng. Cư dân nghĩa địa một phen lác mắt. Chỉ thiếu nước nhảy cẫng tung hô. Thách nghĩa địa hàng xã có ông tướng oách như vậy đấy. Lại còn “xịn” nguyên xi nhé.
Tuy nhiên tôi ở quá gần nên không chỉ bị choáng bởi vẻ bề ngoài của vị tướng. Tôi buộc phải chú ý đến bộ mặt ngài ngơ ngác, vẻ lúng túng sợ hãi, sự loay hoay không biết ngồi đâu đứng đâu lẫn ánh mắt lấm lét nhìn ngó mọi người. Quái thật, các ông tướng lúc sống ông nào cũng hét ra lửa, động nói đã trợn mắt, chả lẽ lúc chết lại kém thế?
- Báo cáo thiếu tướng, tôi trung sĩ Đàm Xuân Tạo, thuộc binh chủng phòng không không quân, hiện có mặt tại đây, xin ra mắt thiếu tướng!
Tiếng hô dõng dạc của Tạo đã khiến ngài thiếu tướng hoảng hồn, ngã bệt xuống vòng hoa trốc mộ cả người run bắn. Ơ hay nhỉ, trông ngài ngồi ngay cán tàn giữa vòng hoa đang héo rũ mới ngộ chứ. Ngài nhìn sững anh trung sĩ Tạo, miệng há hốc. Quả tình thấy một bộ xương lêu đêu rập gót chào, ai chẳng hãi đến bạt vía.
Ông quản trị hành chính liền ném khúc xương tay đánh bốp vào sọ trung sĩ Tạo, nghiêm giọng:
- Dẹp đã. Ai cho phép ra mắt vô tổ chức? Thủ trưởng chưa tiếp khách cá nhân lúc này. Để yên người ta làm việc.
- Báo cáo rõ!
Tạo lướt biến vào giữa lão Hớn với tôi. Tấm khung xương sườn của anh chạm phải tôi phập phồng run run. Tôi bỗng thương hại tạo. Đã bảo thấy những người sang trọng cố gắng tránh cho thật xa.
- Kính thưa thủ trưởng, dân cư nghĩa địa Xóm Chùa xin nhiệt liệt chào mừng thủ trưởng!
Ông quản lý hành chính hô to. Mọi người đồng thanh hô theo. Hai mắt vị tướng giương lên kinh hãi hơn. Khi đám đông chập chờn nhảy múa vờn vã tiến đến gần, ngài bỗng đưa hai tay ôm lấy mặt.
- Im lặng! Im lặng!
Ông quản lý hộ khẩu bay lên khỏi mặt đất nửa mét, huơ mảnh áo liệm trắng tinh, phất phất ra hiệu. Khối quần chúng lập tức im phắc.
Chúng tôi xưa nay sống rất kỷ luật.
Ông quản lý hộ khẩu quay lại cười hị hị.
- Thưa thủ trưởng, xin đồng chí bình tĩnh. Nói chung dẫn cư chúng tôi ở đây đều rất tốt, nhiệt tình nhưng chưa được tâm lý, có thể đồng chí chưa quen lắm… Xin hân hạnh được tự giới thiệu: ba chúng tôi đây đại diện chính quyền, chúng tôi đến để xin đồng chí cho phép làm thủ tục nhập cảnh.
- Thưa vâng… thật là hân hạnh…
Bấy giờ ngài thiếu tướng mới lí nhí đáp lời ông quản lý hộ khẩu. Đêm trở nên đen loãng, tĩnh mịch lạ thường, do một đám mây lướt qua mặt trăng. Ai cũng cố giữ cho các khớp khỏi kêu lục cục, sợ thất thố.
- Xin thủ trưởng cho biết quý danh.
- Tôi ạ? Thưa tôi là Dương Đức Lâm.
Giọng ngài thiếu tướng khúm núm sợ sệt. Lão Hớn ghé tai tôi thì thào: “ Ra tướng soái về đến nghĩa địa cũng tan cả khí phách nhỉ?”
- Báo cáo thiếu tướng Dương Đức Lâm…
- ấy chết, ông đừng lầm. Tôi là Dương Đức Lâm thợ điện bậc ba về hưu.
Ngài hốt hoảng cắt lời ông hộ khẩu, cải chính. Tất cả chúng tôi đều như bị điện giật.
- Thưa… Sao lại… sao lại thợ điện bậc ba ạ?
- Chả là quần áo, mũ mãng người ta mặc nhầm cho tôi. Tôi tên thực là Dương Đức Lâm, thợ điện bậc ba về hưu. Những thứ này… chẳng qua do sự nhầm lẫn trong lúc mai táng.
- Thưa thủ… Chắc đồng chí muốn đùa chúng tôi đấy chứ?
Ông quản lý hành chính rụt rè hỏi lại. Ngài ma mới còn rụt rè hơn.
- Chết nỗi, tôi đâu dám đùa. Rõ khổ quá, xin các ông tin tôi. Đâu phải tôi định tâm loè bịp đùa cợt ai. Duyên do khâu nhà xác lộn xộn quá.
Trong khối ma phía sau bỗng rộ lên tiếng cười sằng sặc.
- Vậy còn quan tài kính thì sao?
- Thưa cũng thế. Tất cả đều của ông thiếu tướng Quách văn Thanh. Đây, các ông nhìn xem, cây gậy khắc tên ông ta, trong túi áo quân phục còn sót cái giấy mời họp của Bộ tư lệnh.
Ông quản lý hộ khẩu thận trong xem xét tờ giấy mời họp đã nhầu nát. Hai vị chức sắc kia chuyền tay cây gậy bịt bạc để đọc dòng chữ khắc trên cán. Sau đó họ chụm vào nhau hội ý rất lâu.
Rồi ông hộ khẩu lại hỏi.
- Vậy có gì chứng minh ông là Dương Đức Lâm, thợ điện bậc ba?
Ông hộ khẩu đã đổi sang giọng hạch hỏi. Trước mắt chúng tôi cũng không còn vị thiếu tướng lung linh hào quang nữa, chỉ còn một lão ma mới, lý lịch mờ ám. Làm sao lão chứng minh được mình đích thực Dương Đức Lâm, thợ điện bậc ba về hưu?
Chợt ông quản trị hành chính nảy ra sáng kiến. Ông quay về phía đám đông dõng dạc hỏi:
- Ai nội ngoại thân thích của bà hai Đá xóm Chùa, hãy ra cả đây.
Chừng dăm sáu con ma tách khỏi đám đông lập loè lân tinh lướt tới gần ba vị chức sắc.
- Thưa chúng tôi đây ạ.
- Ai quen biết ông Dương Đức Lâm này không?
Một chú ma khoảng mười chín đôi mươi khép nép thưa.
- Thưa bác, cháu thường được mợ hai Đá đưa ra ăn cỗ nhà ông Dương Đức Lâm ngoài tỉnh. Mợ Đá với ông Lâm con dì con già nên đi lại cũng gần.
- Mày nhìn kỹ xem có phải ông Lâm đây không?
Chú ma trẻ lượn quanh lão ma mới hai vòng. Chúng tôi thấy thần kinh căng như dây đàn. Im lặng đến mức nghe rõ mấy hạt sương rơi lộp bộp trên nhành tầm xuân.
- Ôi cậu Tuyên… Nếu phải cậu Tuyên xin hãy nhận thực giúp tôi.
Lão ma mới lắp bắp, giơ cả hai tay về phía chú ma trẻ van vỉ. Nhưng dường như chú sợ sệt điều gì, lượn ra xa, né tránh lời cầu cạnh ấy.
- Thế nào?
Ông lý lịch sốt ruột túm lấy cổ chú ma trẻ quát hỏi. Chú ta lúng túng trả lời.
- Thưa đồng chí thủ trưởng, em nhìn mặt ông ấy có nhiều nét giống ông Lâm. Nhưng em…
- Cậu có dám cam đoan là ông Lâm đấy không?
- Nhưng em không dám cam đoan…
lão ma mới bật đứng dậy, cuống quýt nói liền một hơi:
- Này cậu Tuyên, đừng có lối giết người không dao thế. Không phải tôi thì ai biết cậu mò vào buồng con Hằng nhà tôi lúc nó ngủ trưa, bị tôi tạt tai cho một cái hở?
Chú ma trẻ như bị chạm tự ái cũng nổi đoá quát lại.
- Ông đểu vừa vừa chứ. Chính ông cũng biết lần ấy Hằng hẹn hò tôi. Chẳng qua ông chê tôi nghèo, ông ngăn cấm chia rẽ chúng tôi, ép con gái ông lấy chồng Việt Kiều, đến nỗi tôi uất ức chết oan chết uổng. Hu…hu… chính lão Lâm đó. Tôi đã thề không đội trời chung với lão…
Không còn gì nghi ngờ nữa nhé. Rành rành lão ma mới đã cho mọi người “ăn” quả lừa. Cái tội lão để chúng tôi hồi hộp bàn tán suốt hai ngày không thể tha thứ. Nỗi tẽn chuyển thành căm phẫn. Chúng tôi giậm chân, la hét, chửi rủa.
- Ê, lão không biết ngượng sao, thiếu tướng rởm?
- Đồ lừa bịp!
- Giời ôi, còn quan tài kính nữa chứ.
- Tống cổ lão khỏi đây đi.
Ông hộ khẩu phải quát lên.
- Im đi. Ai khiến các người tham gia xử lý? Để chúng tôi làm việc.
Ba ông chức sắc chụm đầu hội ý lần thứ hai. Một lát ông lý lịch cao giọng tuyên bố:
- Này ông Lâm, hiện thời chúng tôi chưa quyết định điều gì cả. Ông hãy nhờ ông giáo kia - ông ta chỉ vào tôi - làm ngay hộ một bản tường trình sự việc nhầm lẫn để chúng tôi xét. Hiểu chưa?
- Thưa vâng.
Ông hộ khẩu trót thưa gửi lúc đầu, chưa tìm được cớ gì để cáu, nên trước lúc quay đi ông chỉ mặt lão ma mới đe dọa.
- Khai cho đúng sự thật. Phát hiện chỗ nào cố tình giấu giếm đừng trách chúng tôi ác.
Ba ông chức sắc kéo nhau về.
Lão ma mới chưa kịp hoàn hồn đã bị vây kín xung quanh. Người ta lêu đêu, giễu cợt. Kẻ giựt áo, người giằng gậy… Lão ma mới chúi đầu vào giữa hai gối né tránh. Trung sĩ Tạo còn định đá cho lão vài đá nếu tôi không kịp giữ tay anh.
Duyên do ai đã từng là ma sẽ hiểu tội loè bịp dối trá bị coi khinh nhất, bị lên án nhất. Suốt một đời trên trần dối trá bịp bợm chán chê mọi kiểu, cái chết được coi như lời ăn năn sám hối đầu tiên, thánh thiện nhất. Kẻ nào đến cái chết còn bợn mùi dối trá đê tiện, kẻ đó không được mẩu đất nghĩa địa dung thân.
Làn sóng tấn công lão ma mới mỗi lúc một ào ạt. Bỗng nhiên lão ôm mặt khóc rống. Nghe tiếng khóc thảm thiết của lão tôi động lòng trắc ẩn, vội đứng ra dẹp mọi người lùi lại.
- Thôi nào các vị. Làm tình làm tội lão phỏng có ích gì? Ác với nhau lúc sống chưa chán sao?
Ở đây người ta rất nể tôi. Kể về giáo giới, tôi xuống đất mới nhất. Tôi dạy con cháu chắt chút họ trên trần nên được tính như một cái công lớn với họ.
Họ liệt tôi vào dạng cố vấn có uy tín ở khu nghĩa địa. Thường những vụ kiện cáo bất đồng gì họ cũng tìm đến tôi. Tóm lại, nhờ tiếng nói tôi có một trọng lượng nào đấy nên đám đông đang sôi sục ồn ào đã dần dần lắng lại. Lão ma mới được thể khóc tức tưởi hơn. Tôi huých cho lão một cái, khẽ bảo:
- Thôi đi, ông có nín ngay không?
Lão sợ hãi nín bặt, hệt một đứa bé bị bắt nạt. Lúc ấy tôi quay ra nói với mọi người:
- Theo tôi bà con hãy cân nhắc trường hợp này thận trọng. Tôi nghi là có nhầm lẫn thật. Nhắm mắt hai tay buông xuôi, lão phó mặc cho những người sống bày vẽ, lỗi đâu tại lão? Tôi được cử giúp lão viết bản tường trình, tôi sẽ hỏi han cặn kẽ, rồi thực hư ra sao, tôi xin trình lại bà con sau.
Đám đông miễn cưỡng đồng ý.
- Trước mắt lão cứ phải trút bỏ bộ thiếu tướng đi mượn ấy đã. Trông ngứa mắt lắm. Hoặc lão thích diện quá, xin mời lão về Mai Dịch.
- Ông giáo giảng giải cặn kẽ luật lệ chúng tôi để lão biết.
- Vâng. Tôi sẽ bảo lão.
Thường mỗi ma mới về đây đều được giao cho một ma cũ hướng dẫn nếp sống. Như vậy họ có ý giao lão cho tôi.
Bây giờ đám đông kéo nhau về khu trung tâm sinh hoạt theo thường lệ. Câu chuyện cái quan tài kính, lão thiếu tướng rởm vẫn được mọi người bàn tán mãi chưa thôi. Ba người hàng xóm của tôi cũng theo chân đám đông. Tôi do nhiệm vụ được giao, do tò mò lẫn thương hại, tôi ở lại cùng lão ma mới. Nhặt được tấm khăn liệm ai vứt vương vãi tôi ném cho lão.
- Ông quẳng quách những thứ sang trọng kia đi.
- Vâng.
Lão líu ríu rũ bỏ bộ quân phục, khoác tấm chăn liệm, co ro ngồi xổm giữa những vòng hoa tơi tả. Lão sụt sịt nói với tôi:
- Thưa ông giáo, tôi rất cảm tạ ông đã có lòng che chở. Thật tình tôi chẳng biết lấy gì đền đáp. Trăm sự trông cậy ông, nên làm gì ông bày vẽ giúp cho.
Trút bỏ bộ quân phục rồi trông lão ma mới hiền lành thảm hại.
Tôi ngồi xuống trước lão. Bây giờ lão nhìn tôi có phần bình tĩnh hơn. Lão ngắm những khúc xương trắng với vẻ tò mò. Lão ngạc nhiên quan sát gương mặt nửa thực nửa hư của tôi, cái mặt đặc biệt của những cư dân nghĩa địa. Nghĩa là ngoài đầu lâu xương sọ bên trong chúng tôi mang thêm lớp bọc lờ mờ xanh lợt, y hệt nét mặt sinh thời. Tấm màng bao phủ này nhìn rất rõ nhưng không sờ mó thấy. Có vậy chúng tôi mới phân biệt được nhau, chứ lủng củng rặt những xương ai chả giống ai. Mấy mụ ma đàn bà ưa làm đỏm còn thích giữ cả hình dáng thân thể trời đã phú cho khi sống. Với cánh đàn ông nó chỉ tổ vướng víu nóng nực. Riêng diện ma mới như lão Lâm phải sau tuần bốn chín, lão rũ bỏ được hết dư vị trần tục, khi ấy lão mới thoát xác giống dân cư ở đây.
Tôi thong thả lôi cái bút máy cùng cuốn sổ tay ra.
– Tôi làm tường trình cho ông đây. Nào, hãy kể từ đoạn ông chuẩn bị bước sang thế giới bên này nhé.
Lão chợt nhớ công việc nặng nề liền thở dài đánh thượt.
Mùi hoa giập nát nồng nặc trong đêm. Trăng lơ lửng giữa đỉnh đầu vằng vặc.
***
Thưa ông giáo, có ai kịp chuẩn bị cho mình kia chứ? Tôi đã ngã xuống đúng lúc bị một mụ đẫy đà, thơm ngát nước hoa chen lấn ở quầy gửi tiết kiệm. Chả là tôi có ít tiền về hưu, gửi lấy lãi. Bụng đang bực vì con mụ vô ý cứ cong tớn bộ mông đồ sộ phía trước để mình ra sức né tránh, bỗng nhiên tôi thấy tê nhói từ gáy lên đỉnh đầu. Chỉ kịp quờ quạng níu lấy cuốn sổ tiết kiệm từ trên mặt quầy, tôi ngã lăn xuống đất. Khi biết ra đã thấy mình nằm trong nhà xác.
Căn nhà chữ nhật, đèn đóm sáng choang. Chúng tôi gồm bốn người, ba đàn ông, một đàn bà, đều nằm trên những bệ xi măng lạnh ngắt. Nửa đêm yên ắng, chúng tôi liền lên tiếng chào hỏi nhau. Tôi nằm ngoài cùng rồi đến ông thiếu tướng, đến vị anh hùng lao động họ Ngô. Trong cùng là một bà phu nhân Bộ trưởng nào đó. Bà ta im lặng không nói với chúng tôi một lời. Ông thiếu tướng khẽ rỉ tai tôi rằng bà ta tự tử vì ông Bộ trưởng bồ bịch, nên tận lúc chết bà vẫn căm thù đàn ông.
Tôi không khỏi bứt rứt vì lọt vào nơi toàn người quyền quý. Tôi hỏi ông thiếu tướng:
- Thưa ông đây là đâu vậy?
- Nhà xác bệnh viện Việt Xô.
Thảo nào, hẳn vì quỹ tiết kiệm cách bệnh viện mấy bước chân nên tôi may mắn thế. Lúc sống không có tiêu chuẩn, nay chết được vào nằm nhờ một tí cũng hả. Chỉ sợ thằng cháu Hùng, thằng con trai duy nhất của tôi không đoán nổi sự tình, không dám mò vào đây tìm bố.
Vị anh hùng lao động có vẻ thanh thản với sự ra đi. Ông nói trong tiếng cười vui vẻ:
- Hôm nay nữa ta sẽ rũ sạch mọi thăng trầm sướng khổ của một đời người các ông ạ. Bây giờ tôi thú thực cùng hai ông, một nửa cuộc đời tôi vị anh hùng ấy sống chứ tôi đâu được sống. Tôi bị vị ấy đè bẹp gí. Cái gánh nặng quả không thể tưởng tượng nổi. Phút nhắm mắt tôi thật sự khoan khoái khi trút được vị ấy ra khỏi vai mình. Bây giờ lòng cứ lâng lâng mới lạ chứ. Giá rít điếu thuốc lào nữa thì tuyệt!
Tâm trạng ông thiếu tướng lại dào dạt kiểu khác.
- Tôi mong chóng tới lúc được thấy mặt người thân. Tôi không an ủi nổi họ nhưng sẽ cố bình thản để trấn tĩnh họ. Xưa nay tôi vốn sợ nhất phải nhìn gương mặt vợ con đầm đìa nước mắt. Với bạn bè chiến hữu lại khác hẳn. Dù nỗi đau đớn có xé lòng thì chúng tôi cũng chỉ ôm chặt nhau một cái, vỗ vai nhau nói một câu giản dị: “Đi nhé!” như thuở vào sinh ra tử…
Lão thợ điện bậc ba, nghe những điều họ nói thật xa lạ cao vời, nên tôi chỉ biết im lặng, với lòng đầy kính trọng.
Phải kể rằng gác nhà xác hôm đó chúng tôi đã gặp phải một gã xỏ lá, tắc trách đến nỗi tôi không thể hiểu tâm địa thực của lão. Ba hôm rồi gã nhận làm hộ ông già trực gác bị ốm. Nhưng đáng lẽ phải có mặt suốt đêm ngày ở phòng trực, gã đã khoá cửa lẻn về hú hí với gái vào đêm tôi nằm đây. Mãi sáu rưỡi sáng gã mới mắt nhắm mắt mở đến trông coi công việc. Gã vừa lạch xạch mở khoá đã nghe có tiếng một thanh niên tìm gặp. Tôi nằm ngoài cùng nên nghe rõ cuộc đối thoại của họ. Anh thanh niên là con trai ông thiếu tướng. Anh đưa gã gác nhà xác một gói quần áo đồ dùng, dặn gã sửa sang cho cha anh, để kịp chín giờ rước linh cữu tới Hội trường thành phố làm tang lễ.
Điều này lẽ ra tôi chẳng nói, nhưng mọi nỗi khốn khổ của tôi từ việc đó sinh ra tất, ông giáo ạ. Nên tôi xin ông đừng ghi vào bản tường trình. Những điều ta còn mơ hồ, chớ vội nghĩ xấu cho ai. Gây nên thù oán tôi không thích. Vả tôi không biết rõ duyên cớ vì sao con trai ông thiếu tướng không làm cái việc hiếu nghĩa cho cha mẹ theo đúng phong tục cổ truyền, không tự tay chăm sóc hình hài ruột thịt. Có thể anh đang cuống cuồng vì công việc chuẩn bị tang lễ, có thể vì anh yên tâm cha anh ngoài cương vị thiếu tướng còn là một vị cách mạng lão thành, nhà nước sẽ lo chu tất mọi chi tiết nghi thức tang lễ, có thể anh nhầm gã gác nhà xác cũng trong Ban tổ chức đám tang thiếu tướng… nói gọn lại anh trao bộ quân phục, những tấm huân chương, cái gậy bịt bạc, toàn kỷ vật của ông thiếu tướng cho gã gác nhà xác, rồi không kịp cả việc vào bên trong thăm cha, anh vội cùng cô vợ chưa cưới lao xe máy đi ngay.
Nghe đâu tang lễ sẽ rất long trọng, có phái đoàn chính phủ đến viếng. Anh con trai thiếu tướng thức suốt đêm qua vẫn còn ngập việc chưa lo kịp.
Do ông thiếu tướng có hai vợ nên phải tổ chức bàn thờ gia đình cả hai nơi để đón quan tài từ hội trường vòng về qua vĩnh biệt hai tổ ấm. Nào bố trí người tiếp khách, ai được theo xe tang, ai ở lại cảm tạ mời mọc khách viếng, ai tiếp bốn phía họ hàng nội ngoại, tiếp bà con trong quê ra đưa đám, lo nơi ăn chốn ngủ… Không thể kể cho xuể. Tôi nghe được anh bàn bạc cùng cô vợ chưa cưới khi họ đứng chờ gã gác nhà xác nên tôi rất thông cảm cho sự tất tả vội vã của anh.
Nhưng cũng do yên tâm việc thay quần áo, sửa soạn linh cữu thuộc bổn phận gã gác nhà xác phải làm, nên anh con trai thiếu tướng không đưa cái khoản lót tay tiêu cực phí. Tôi thấy rõ sự bất bình của gã. Khật khưỡng bước vào nhà, miệng gã lủng bủng những: chưa có tí gì vào bụng, mới sáng bảnh mắt đã phải mó tay thay quần áo cho “cái của nợ”, rồi “thằng cha sao quá thiếu lịch sự, mình có phải người nhà nó đâu, nó dám quen thói con ông cháu cha sai hạch thiên hạ, một xu thuốc nước không chi…”.
Gã nhà xác vừa ca cẩm vừa ôm bọc quần áo, mũ, gậy, tiến đến những bệ xi măng chúng tôi nằm. Gã đứng sững im lặng. Cái giây phút im lặng độc địa ấy có lẽ là phút gã bị quỷ dữ mua mất linh hồn. Tôi nghe gã chậc lưỡi một cái rồi lấy tay lật vải liệm che mặt tôi. Gã ngoái sang cũng mở mặt ông thiếu tướng như thế. Gã nhướn mày nhìn tôi, nhìn ông thiếu tướng, lại nhìn tôi, nhìn ông ta…Gã phân vân không biết ai là người gã phải sửa sang, hay gã chợt nhận thấy chúng tôi có nét hao hao giống nhau, cả tầm vóc cũng giống, gã bỗng nẩy ý nghĩ tai ác nào đó, hay đầu óc gã vẫn để lơ mơ đâu đâu?
Tôi chỉ nghe gã chậc lưỡi lần thứ hai rồi nhanh nhẹn bắt tay lột bỏ quần áo bệnh viện, thay bộ quân phục vào, gài tất huy chương huân chương, đặt mũ lên ngực, đặt gậy bên tay cho… cho tôi! Ôi cái thằng khốn kiếp ấy, nó chọn xác tôi thế chỗ ông thiếu tướng!
Giá lúc đó tôi bật dậy được, bạt tai cho gã vài cái.
Thưa ông giáo, ông cũng thấy tôi không có lỗi gì đấy nhé. Ông có thể chấm dứt bản tường trình quãng vừa rồi hay đoạn kể tiếp theo tuỳ ông. Phần quan trọng nhất tôi đã nói ra. Chỉ tha thiết nhờ ông lựa lời viết cho. Chi tiết nào không cần thiết ông lược bớt hộ. Còn kể từ khúc này xin ông coi như tôi tâm sự riêng với ông.
Thưa ông giáo, mọi chuyện cứ thế tiếp diễn. Người ta mang quan tài kính đến, trịnh trọng đặt xác tôi vào, mũ đội đầu, gậy bên tay. Cái toà pha lê bé nhỏ tuyệt vời đó được chuyển gượng nhẹ lên xe ô tô đặc biệt, chở tôi tới một chỗ rực rỡ trang nghiêm. Quả thật tôi chẳng biết mình tỉnh hay mơ. Tự nhiên thành tướng, đón rước linh đình, có lính uy nghi bồng súng, chung quanh đèn nến tựa sao sa, cờ quạt buông rủ… Đáng lẽ cứ đánh liều hưởng chút vinh hoa phú quý. Nhưng lòng tôi chỉ dấy lên sự sợ hãi mỗi lúc mỗi lớn. Họ phát hiện tôi không phải là ông thiếu tướng thì dơ dáng quá. Sự thể sẽ ra sao? Hẳn người ta lập tức tống tôi ra khỏi quan tài kính, lột lấy quân phục mũ mãng, như thể xử lý với quân bịp bợm. Ôi, xấu hổ quá.
Tôi xác định trước sau cũng không cách nào thoát khỏi cảnh nhục nhã ấy. Ước sao sớm có người phát hiện sự lầm lẫn để tôi mau chóng được yên thân trở lại nhà xác. Nhưng có đến vài chục người qua lại bên quan tài tôi, họ chỉ bận lo kê cho chắc, đặt hoa cho đẹp, hương đốt cho đượm, tịnh không ai nghi ngờ chút gì. Tôi tự động viên cố gắng chờ đến phút thân nhân ông thiếu tướng có mặt, chứ những người trong ban tổ chức chưa hẳn đã biết ông.
Thì đây, vài chục người khăn sô mũ mấn trắng loá kéo tới sắp hàng một dãy bên quan tài tôi. Tôi nghe được những tiếng khóc tấm tức dè dặt. Đích thị vợ con ông thiếu tướng. Tôi nôn nao chờ một tiếng kêu kinh ngạc trong đám trắng loá kia cất lên. Một phút rồi hai phút trôi qua… Nhạc cử ai khúc. Trông xuống dưới đông nghìn nghịt lúc nào không biết. Nhạc chấm dứt, liền tới một vị trung tướng lên đọc điếu văn bằng một giọng nghẹn ngào rơi nước mắt.
Sao lại thế hở giời? Chẳng lẽ gương mặt tôi lồ lộ sau lần kính trong suốt mà hai bà vợ lẫn từng ấy con cái ông thiếu tướng không ai nhận ra? Họ mải nhìn vào nỗi đau trong lòng họ, hay mải giữ lễ với ông cả bà lớn đến viếng, nên chưa một lần liếc mắt tới tôi? Hay tôi không phải tôi nữa?
“…Đồng chí hãy nhận ở đây tấm lòng tiếc thương vô hạn của những người bạn vào sinh ra tử cùng nhau”. Tôi đành đặt hết hy vọng vào số chiến hữu gắn bó của ông thiếu tướng. Thế nào cũng có một người nhìn đến tôi, dù chỉ một người thôi. “Chúng tôi xin được ghi tạc trong trái tim mình hình ảnh xiết bao yêu quý của đồng chí trước giờ phút vĩnh biệt…”
Chao ôi, ông giáo có thể tin được không, hàng đoàn người quân phục có, thường phục có, đặt vòng hoa, đứng mặc niệm rồi đi vòng quanh linh cữu mà tịnh không một ai… Tôi những muốn kêu lên, hét lên với tất cả nỗi kinh hoàng. Trong lúc đó cứ lũ lượt những bộ mặt buồn bã diễu hành, những cặp mắt âu sầu lơ đãng lướt qua tôi tưởng chừng bất tận. Từ nỗi tuyệt vọng, tôi chuyển thành bất mãn, chua chát. Ông thiếu tướng kia ơi, nếu ông hoá ra cái xác vô thừa nhận cũng đừng tiếc rẻ oán trách tôi. Ở đây không ai cần ông, không ai thật sự tha thiết đến ông. Không phải tôi tranh mất vinh hạnh mà chính thực tôi hứng chịu nỗi bất hạnh cho ông đó.
Gần cuối buổi tang lễ, khi tôi sắp dửng dưng mặc kệ tất, tôi bỗng nhận ra trong đoàn đại biểu binh chủng không quân lạc vào một khuôn mặt… Trời ơi, hồn tôi phập phồng thổn thức. Thằng Hùng, con trai tôi! Đúng nó! Nó đi phía cuối đoàn, vẻ cũng bồn chồn nôn nóng, đang tiến dần tới nơi đặt linh cữu. Vừa nhìn rõ tôi, nó đứng dừng lại, miệng há hốc. Người đi sau đẩy lưng nó. Thằng Hùng miễn cưỡng bước tiếp nhưng mắt vẫn chòng chọc vào tôi… Còn nhìn gì, cứu bố mau con ơi!
Mày lại lạ bố mày ư? Nào, nhanh con !
Quả nhiên thằng Hùng bỗng rẽ ngang. Nó lao vào giữa đám khăn sô áo trắng. Không biết nó nói gì với họ, cả đám bỗng nhốn nháo. Dù đang không khí trang nghiêm, hai người đàn bà mặc tang phục cùng một lúc bổ nhào tới sát áo quan, nhòm tận mặt tôi. Tôi đoán họ là hai vị phu nhân ông thiếu tướng. Mắt họ dần dần trợn ngược. Cái bà trẻ hơn bỗng buông người ngã xuống ngất xỉu. Tức thì chấp chới đám khăn áo trắng đó đổ xô cả đến quanh linh cữu. Thằng Hùng run ríu lưỡi nhưng nó khăng khăng chỉ vào tôi tuyên bố.
- Đây là bố tôi.
May sao người ta đã kịp thời ngăn khách viếng từ xa, không ai biết sự thể. Vài giây sau một người trong Ban tổ chức nói vào micrô:
- Xin các vị thứ lỗi. Do có trục trặc xảy ra trong tang lễ. Ban tổ chức đề nghị các đoàn đến viếng thiếu tướng Quách văn Thanh lùi tới một rưỡi chiều nay sẽ tiếp tục. Thành thật cáo lỗi cùng các đồng chí.
Cửa hội trường được lệnh đóng lập tức. Gia đình cùng Ban tổ chức quây lại hội ý. Ai cũng hốt hoảng nhìn tôi như thể tôi vừa dùng ma thuật lẻn vào nằm đó.
Anh con trai ông thiếu tướng cũng trạc tuổi thằng Hùng, giờ đây tôi được nhìn rõ anh là người chỉ huy ở đây.
- Tất cả bình tĩnh, tuyệt đối giữ kín để tôi lo liệu. Tôi sẽ đưa ông cụ nhà anh Hùng về bệnh viện rồi đưa bố tôi tới đây trước một rưỡi. Thật may quá, đoàn viếng bên chính phủ vừa lên ô tô xong. Thôi, cấm bàn tán.
Căn cứ vào những tiếng xì xào của gần hai chục bộ mặt còn nhoè nhoẹt nước mắt, tôi được biết mỗi người đều có một lý do riêng khiến không ai kịp nhìn đến tôi. Duy chỉ có một chị cháu họ xa ngờ ngợ nhưng không dám nói. Lỡ đây do căn bệnh ác liệt làm biến dạng ông chú, hoặc giả một cách ngụy trang cho ông thiếu tướng rút lui hoạt động bí mật như thuở xưa chăng? Chị định bụng chờ dịp đến thật gần linh cữu quan sát.
Hai phút sau Ban tổ chức cử một cán bộ cùng thằng Hùng, anh con trai thiếu tướng, đưa linh cữu theo lối cửa sau, bí mật lên cái ô tô kín về bệnh viện Việt Xô.
Thoát nạn! Tôi mừng như sống lại. Đúng câu “trẻ cậy cha, già cậy con”. Sau này tôi được biết nỗi gian truân của thằng Hùng khi đi lùng xác cha thật đáng thương. Gã gác nhà xác bảo nó: “Ơ hay, có bao nhiêu người ở cả đấy. Dễ tôi thủ tiêu ông cụ nhà anh chắc? Bảo vật dụng quý hóa cho cam. Đằng này… tôi có nhầm ông cụ với hài cốt lính Mỹ đâu”. Thằng Hùng thiếu nước phát điên lên. Đang lúc khóc lóc đau đớn nó chợt nảy ra ý nghĩ: Hay người ta lấy nhầm xác? Nhầm ở những nơi khác chứ Bệnh viện Việt Xô có một trường hợp ông thiếu tướng chắc không thể nhầm được. Nó vội phóng xe đến ba bệnh viện quanh khu vực quầy tiết kiệm, dò hỏi ba ông gác nhà xác, nhặt địa chỉ cả thảy mười bốn người chết được đưa đi chôn sáng nay. Tám đàn bà loại ra. Còn sáu đàn ông, thằng Hùng lao đến từng địa điểm cử hành tang lễ tìm cách nhận diện. Đám tận Thanh Xuân, đám ở Bưởi. Nhờ giời phật phù hộ, nó cứ phóng xe như điên trên các đường phố dày đặc xe cộ mà không sao cả. Hết năm vị rồi. Thằng Hùng đã tuyệt vọng lắm. Chỉ còn duy nhất mỗi ông thiếu tướng. Chả lẽ ông thiếu tướng?
Lấy hết can đảm thằng Hùng đi tới hội trường lớn, nơi đang cử hành tang lễ rất trọng thể. Đúng lúc đoàn khách chính phủ đến viếng, ban bảo vệ không cho người lạ bén mảng.
Nó đành nén lòng chờ. Mãi khi đoàn khách quan trọng ra về, nó lân la cầm một thẻ hương trà trộn vào đoàn đại biểu không quân, bám theo đuôi, lọt vào trong. Nó đánh nước cầu may cuối cùng, thực tình nó không dám tin tưởng tí nào. Giờ đây ngồi trên ô tô thằng Hùng cứ đăm đắm nhìn sững tôi, vẻ mặt lạnh lùng. Cảm nghĩ nó ra sao khi thấy bố nó uy nghi trong bộ quân phục nhỉ? Bỗng nó hỏi anh con trai thiếu tướng:
- Anh Tài này, giờ anh định ra sao?
Tài đang ngơ ngẩn mất hồn, anh cau có trả lời:
- Vâng, sự nhầm lẫn thật tai hại. Tôi chưa hiểu thực chất vấn đề này do đâu. Để tang ma xong, tôi sẽ làm cho ra lẽ.
- Việc đó tuỳ anh. Tôi muốn hỏi rằng bây giờ bây giờ sẽ điều chỉnh nhầm lẫn ra sao đây?
- Thì… chúng ta đang đưa ông cụ anh về Bệnh viện, sau đó tôi đưa bố tôi trở lại hội trường. Anh vui lòng vậy, biết làm sao nữa.
- Nghĩa là sẽ mở quan tài đưa bố tôi ra để đặt ông cụ anh vào đây chăng?
- Còn làm sao khác được?
- A, vậy thì không xong đâu. Dễ anh chưa biết đã nhập quan không có lệ thay áo lại để tránh chuyện trùng tang. Mẹ tôi ở quê lại đang ốm.
Thằng Hùng nói dối. Mẹ nó chết từ thuở mới sinh nó kia mà.
- Anh nói lạ vậy? Không đưa ông cụ ra thì làm thế nào?
- Làm thế nào mặc anh. Nhưng dứt khoát không ai được phép chạm vào thi thể bố tôi. Anh bảo đảm tính mạng cho gia đình chúng tôi không bị chôn thêm người nữa chứ? Đây không phải do tôi gây chuyện. Quan tài kính nhà anh không to lắm đâu.
Thằng Hùng đỏ mặt tía tai giận dữ. Tài cùng anh Ban tổ chức luống cuống nhìn nhau.
- Trời ơi, lại thế nữa. Chúng ta đều đang đau khổ, anh phải thông cảm cho tôi với chứ.
- Tôi đã nói mẹ tôi đang ốm.
- Hay anh cầm chút tiền phí tổn, dù dăm bảy triệu cũng cố giúp tôi cho êm đẹp chuyện này đi.
Thằng Hùng trợn mắt quát.
- Vậy ra anh cho tôi bắt bí tống tiền anh hử? Anh dám nghĩ thế hử?
Tài cũng hết chịu nổi. Anh ta run tái người đi, giọng đanh lại:
- Nếu lúc khác tôi dám thách cái mặt anh gây chuyện lôi thôi. Chẳng qua trong tình trạng cấp bách tôi phải nói khó với anh. Chứ không thì…
Anh Ban tổ chức hoảng hồn can cả hai bên. Vừa lúc xe tới bệnh viện. Tôi được chuyển ngay về nhà xác, về đúng vị trí cũ, khác chăng chỉ thêm cái quan tài kính. Thằng Hùng không rời tôi nửa bước.
Ông thiếu tướng vẫn nguyên đó. Trước cơn phát khùng của Tài, gã gác nhà xác ú ớ thanh min: “Nào tôi có biết mặt bố anh bao giờ”. Rồi gã lỉnh mất.
Đã mười hai rưỡi. Tài cùng anh Ban tổ chức cuống cuồng lo lắng trước vẻ lạnh như đá của thằng Hùng. Tôi thừa biết tính khí ngang ngạnh của thằng con tôi nên khi nó sụp xuống ôm lấy quan tài tuyên bố: ai muốn mở nắp cỗ áo ấy phải qua xác nó, tôi cứ rợn cả người…
Ông giáo ạ, có những người số phận kỳ quặc, đến chết cũng không được yên ổn là làm sao?
***
Lão ma mới ngước nhìn tôi dò hỏi, mắt thẫn thờ buồn. Tôi muốn an ủi lão nhưng chẳng biết nói gì.
- Kể ra anh con trai ông cũng bướng đấy nhỉ?
- Vâng. Tôi không biết do nó thích tôi được nằm trong quan tài kính hay nó sợ trùng tang thật… hay nó thấy lúc sống tôi ngậm nguội thua thiệt đủ điều, nay đến lúc chết còn bị người ta lột lại quần áo trông bất nhẫn quá, nó không chịu chăng?
- Thằng khá mới nghĩ được thế.
- Ông giáo ạ, anh Ban tổ chức đã đứng làm trung gian vận động thằng Hùng chịu lấy hai chục triệu, đừng gây khó dễ cho họ nữa…
- Hai mươi triệu? Úi giời, lộc tự nhiên rơi xuống tay.
- Vâng. Bố con tôi chưa nhìn thấy tiền triệu bao giờ. Tôi những muốn nhảy khỏi quan tài để thằng con tôi có cơ hội kiếm số vốn làm ăn. Nhưng nó lại chối đây đẩy.
- Rốt cục người ta xử lý thế nào.
- May sao bữa qua còn có ông anh hùng lao động họ Ngô nằm cùng chúng tôi. Ban tổ chức tang lễ ông thiếu tướng cũng là những người sẽ tổ chức cho ông anh hùng, họ có sáng kiến điều tạm cái quan tài kính sắp sẵn để ông thiếu tướng mượn dùng trước đã.
- Cũng may nhỉ?
- Vâng. Bộ quân phục dễ kiếm. Phiền nhất món huân huy chương. Người ta phải điện sang Bộ Nội vụ xin vay, bằng mọi giá nửa giờ sau đó có đủ cho ông thiếu tướng. Riêng cái gậy kỷ niệm đành chịu. Loay hoay đến phút cuối cùng anh con trai thiếu tướng cho lệnh không chờ gậy nữa. Tôi cứ áy náy không hiểu ông thiếu tướng ấy thiếu gậy chống sẽ đi đứng ra sao? Nghe nói vết thương hồi trẻ đã làm teo một chân ông ta, ông giáo ạ:
- Ôi dào, ông ấy quyền chức thế, ở Mai Dịch khắc có người phục vụ chu tất.
Chúng tôi cùng bất chợt im lặng vì phía trung tâm nghĩa địa bỗng dưng rộ lên những tiếng cười. Tôi muốn chấm dứt ghi chép nên bảo lão:
- Tôi sẽ viết bản trình ngắn gọn, đủ cho người ta hiểu ông là nạn nhân của một việc nhầm lẫn. Thế nhé?
Lão ma mới cũ gằm mặt, giọng sượng sùng:
- Vâng. Ông nói đúng quá. Nạn nhân ông giáo ạ. Tôi với thằng cháu Hùng có được nhờ sự lẫm lẫn mà sung sướng hơn đâu. Nó không muốn báo tang với ai, chỉ người gia tộc đưa tôi về đây. Thâm tâm nó rất ngượng khi nghe người ta xì xào: “Lão Lâm chết bở quá. Trông ra dáng thiếu tướng đấy chứ”. Còn tôi, tôi chỉ mong chết đúng như một lão thợ điện bậc ba về hưu nghèo túng. Đấy, tôi đã thử làm thiếu tướng mấy giờ liền nhưng có thấy sung sướng gì đâu.
Trăng về sáng nhạt dần. Khối cộng đồng dân cư nghĩa địa đã tới giờ túm năm tụm ba lang thang dạo chơi đây đó. Có tiếng đàn mơ hồ của lão Bạch mù. Tôi nhận ra nhóm văn nghệ của lão đang chơi trích đoạn Thị mầu lên chùa. Mụ đào Xuyến từ hôm rằm tháng bảy được con cháu đốt cho mươi bộ quần áo xanh đỏ, dạo này vung vẩy õng ẹo tợn. Mớ năm mớ ba phấp phới hay đáo để. Một đêm mụ hát ve vãn tôi:
“Này thày giáo ơi…
Thày như táo rụng sân đình
Em như gái dở…”
Xem ra chỉ cuộc sống chúng tôi thanh thản, sạch mọi bận tâm với nhân tình thế thái, trừ khi người ta bắt di chuyển mồ mả để lấy đất quy hoạch.
Ông Năm xóm chợ
Hồi đó cả nhà tôi tản cư lên Bình Đức. Ở xóm nhà san sát đông vầy. phía trước nhà chừng trăm thước là nhà thờ thiên chúa. Phía dưới nhà tôi không xa, khu đất thánh với những hàng mộ trắng toát lạnh lùng.
Vườn nhà ông Năm cạnh khu đất thánh rộng gần hai công đất. Ông sống một mình với đứa cháu ngoại lớn hơn tôi một tuổi .Chẳng biết từ bao giờ tôi đã thân với nó và có lẻ tôi đến với nó bắt đầu từ những trái chuối lửa đỏ ối mà ông Năm hay gọi tôi vào mỗi khi thấy tôi thơ thẩn ngoài ngõ lượm bông dừa câu còng.
Ông Năm có cả vườn chuối lửa.Thân và bẹ lá viền màu đỏ trông rất đẹp. Trái chuối chín to bằng cổ tay, đỏ lựng , thơm lừng.Sau nhà ông Năm có ba ngôi mộ đất, không có mộ bia. Ông là người ngoại đạo nên mộ chôn ở nhà không đem vào đất Thánh.
Gần sáu mươi,ông Năm vẫn còn khoẻ, vẫn chống gậy đi cấy. Sáng sớm ông mặc áo dài đen, cột tà lên cao, bịt khăn lên đầu, lặng lẽ chống gậy ra đi. Đế trưa ông quay về , bao giờ cũng có một gói xôi bọc trong lá chuối thơm nức muối mè. Và cũng không biết từ bao giờ tôi ở nhà ông Năm nhiều hơn nhà của mình. Cứ mỗi trưa, mỗi chiều thấy người ngoài đồng lũ lượt đi về thì tôi và con Phụng đứng sau bờ xương rồng, ngóng cổ ra bìa vườn trông đợi.
Hồi ấy chiến sự gay gắt lắm, chính quyền Sài Gòn bắt nhà nào cũng có bảng liên gia, tối treo đèn trước cửa. Có đêm chẳng biết vì sao ông chủ ấp bắt nhà nào cũng phải khua mõ, đánh trống.Anh chín tôi, mang cái thùng thiết đã thủng đít, lấy cây sắt đánh rầm rầm .Âm thanh hỗng loạn:cốc cốc, xèng xèng vang lên khắp xóm, ngoài đường thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu của bọn dân vệ:
- Đánh mõ lên !
Tôi tham gia tích cực vào công việc ấy cho tới khi ngủ gục mới chịu chui vô mùng.
Sáng hôm sau người đi chợ nghe vợ tên chủ ấp thẻ thọt:
- Hồi hôm “mấy ổng” về!
“ Mấy ổng” là ai tôi không biết, nhưng những gia đình có liên quan tới chính quyền nguỵ thì len lét lo sợ, vừa chật vật tối đã treo đèn và cửa đóng then cài.
Hai hôm sau cái đêm trống , mõ ấy, máy bay dội bom xuống ấp Đồng. Đám con nít rậm rịt gọi nhau;
- Tuị bây ơi đi coi máy bay bỏ bom!
Ông Năm chống gậy chậm rãi ra bìa vườn, tôi và con Phụng lót tót theo sau. Người ngoài ấy gióng gánh, đùm túm con cái chạy trở ra, có người định về trong ấy đều phải ở lại. Tôi thấy rõ những trái bom trắng toát lạnh lùng nối đuôi nhau rơi xuống, những cụm khói bốc lên đen kịt.Xa mút tầm mắt, những tàu lá chới với, nghiêng ngã. tụi thằng Tèo, thằng Xệ hò hét:
- Đùng! Đùng!
Bà tám Trơn có đất vườn ở trong đó liền trút nổi tức giận vào chúng:
- Tụi bây ham lắm hả? im hôn!
Đám trẻ cụt hứng, im re. Nét mặt người lớn nặng trĩu lo âu. Ông Năm rung rung chòm râu bạc. Mắt rấn rấn nước.Ai đó kêu lên:
- Trời ơi nhà cửa, vườn tượt tiêu mẹ nó hết rồi!
Hình như không đủ sức nhìn cảnh huỷ diệt đó, ông Năm kéo tay tôi và con Phụng nói thật khẻ:
- Vìa con!
Tới xế, máy bay không còn quần đảo, những người có đất đai ,nhà cửa trong đó vội khăn nón về thăm. Ông Năm cũng khăn áo, giấu bọc gì cồm cộm trong người rồi nói với tôi và con Phụng:
- Hai đứa coi nhà ,ông ngoại đi xóm một chút. Ai có hỏi nói ông đi cấy chiều nghe không!
Tôi ngậm trái trâm trong miệng gật đầu. Ông vừa đi khỏi con Phụng nói với tôi;
- Mày ở nhà tao đi “cầu” nghe!
Tôi ừ, nhưng nó vừa đi, tôi cũng khép cửa lẻn theo sau. Con Phụng khom người men theo bờ xương rồng. À nó “theo dõi” ông ngoại của nó.Tôi bám theo sát lưng.Bị lộ nó thùng thẩy với tôi, rồi hai đứa vòng qua khu đất thánh.
Gần khu đất thánh là rẫy hoa màu, hành và hẹ sắp thu hoạch toả mùi thơm nồng cả mũi.Phụng ló đầu lên khỏi ngôi mộ, ngó nghiêng rồi nói:
- Ông ngoại đâu mất rồi
Tôi chỉ:
- Kìa, sau cây rơm đó!
Hai đứa nhảy qua mấy líếp hành để chạy qua cây rơm.Một phụ nữ quảy đôi thùng, chặn ngang:
- Đi đâu đó? Về nhà đi, nắng lắm!
Không biết là ai? Bởi chiếc khăn đội đầu choàng kín mặt,lại thêm cái nón lá sùm sụp.
Chạng vạng tối ông Năm mới về.lụm cụm nấu cơm. Ở nhà tôi và con Phụng bắt ghế leo lên chiếc gióng treo nồi cơm và niêu cá bóng kho khô ở chái bếp ăn hết cơm nguội
Buổi sáng,trời sese lạnh. Tôi lười lĩnh quấn cái mền dù ngủ nướng.Chuông nhà thờ bỗng đổ một hồi bảy tiếng. Má tôi đang lui cui dưới bếp chép miệng:
- Trong đạo lại có người đàn ông chết!
Tôi tung mền định đánh răng rồi đi nghe ngóng. Thường thì những người có đạo, lúc hấp hối rước “cha” ( Linh mục nhà thờ) đến đọc kinh thánh rửa tội. Đàn ông chết giật bảy tiếng chuông, đàn bà thì chín tiếng.
Vừa lúc ấy chị tôi đi chợ về, đặt cái giỏ đầy rau cải xuống ghế và hớt hải nói
- Má ơi ông mười So bị ám sát!
Má tôi chỉ ừ ,còn tôi phun vội bọt kem xía vào:
- Trời ơi! Sao mà thấy ghê vậy?Vậy tối mình đóng cửa treo đèn sớm để bị ám sát chết!
Chị tôi trề môi:
- Mày định lên làm chủ ấp thế ổng hay sao mà sợ bị ám sát?
Má tôi giấu nụ cười:
- Tụi bậy ăn no rồi nói bậy không hà.
Đám tang tên chủ ấp vô danh tiểu tốt mà sao có lính gát mấy ngã đường.Nhiều xe jép đậu ngoài ngõ.Có đội kèn tây, có vòng hoa tưởng niệm… trên chiếc quan tài sơn hực hở, phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ.Một tên ,
không biết lính gì mà mặc quân phục trắng toát có hoa mai bạc trên vai, đỡ lấy và an ủi bà vợ trẻ đang gục khóc bi ai trước quan tài chồng với hai đứa con.
Xong đám tang, bà chủ ấp vội vã thu vén đồ đạt cùng hai con về Mỹ Tho.Chiếc cổng xanh khép im ỉm với sợi dây xích và ổ khoá bự chảng.Người lớn xì xầm:
- Cha Mười So không chỉ là chủ ấp bình thường mà còn là tay tình báo đặc biệt.
Vài hôm sau một tên khác được đưa đến nhận chức danh chủ ấp( dân vùng này chẳng ai chịu nhận cái chức đó cả), tuy nhiên vẫn có kẻ thích làm “quân sư ”. Khi tên chủ ấp mới tới thì bọn người này ra vào nơi hắn ở, dẫn hắn xuống gặp gỡ, nói chuyện làm quen dân….
Mùa đông năm ấy, cái lạnh kéo dài. Chuông nhà thờ thỉnh thoảng điểm chín tiếng, bảy tiếng. Người ta chết vì bệnh tật, vì già, nhiều hơn cả là do bom đạn.
Ông Năm già hơn sau mùa đông ấy. Ông vẫn quấn khăn lên đầu, mặc áo dài đen đi ruộng. Chiếc gậy tre trên tay ông như bóng hơn khua nhẹ theo bước chân ông trên con đường đất.
Buổi trưa ông chưa về, tôi và con Phụng kéo nhau ra khu đất thánh xem người ta đưa đám ma vào đó để chôn.Bỗng nghe tiếng thằng Xệ gọi thất thanh:
- Phụng ơi ông Năm chết rồi!
Tôi và con Phụng nhảy qua mương định rượt bắt, vả vào miệng nó vài cái,bởi cái tính lý lắc hay chọc chúng tôi. Thằng Xệ không ba chân bốn cẳng bỏ chạy như thường ngày.Khi con Phụng giá tay , nó đứng im đôi mắt rân rấn nước:
- Em nói thiệt chớ bộ, hổng tin ngó xuống nhà mà coi!
Chúng tôi ngoái lại, thấy một nhóm người đang chạy theo chiếc võng khiêng một người trên đó. Những người chòm xóm đưa tang lập tức chạy ra khỏi khu đất thánh đổ về phía nhà ông Năm. Tôi và con Phụng chạy tắt qua vườn, chui qua rào xương rồng ,bị gai xước rướm máu tay mà không để ý.
Đàn ông , kẻ chạy mua hòm,kẻ tháo vách, người tắm rửa thay đồ cho ông Năm.Người quày quả chạy đón xe đi Xoài Hột, Long Hưng…. để gọi con cháu ông Năm về. Đàn bà soạn áo quần cho ông Năm, soạn nồi, thau, rổ rá, dụm bếp, nổi lửa một góc sân sau. Má tôi và mấy người nửa quảy gánh đi chợ .
Trong vạt áo dài đen cột túm lấm lem bùn và máu, người ta lôi ra một bộc ổi chua.Không phải là mùa cấy lúa nên không có xôi, ông hái ổi trong vườn nhưng chưa kịp đem về cho hai đứa tôi .
Ông Năm đã vĩnh diễn ra đi, vầng trán ông chau lại hình như ông còn một điều gì đó chưa kịp làm xong.Tôi ngơ ngác một thời gian dài, nước mắt nhớ ông tạo thành dấu hỏi : vì sao ông Năm bị bắn chết?
Ông Năm chết không lâu thì hoà bình.Mọi người rộn rịp trở về quê.Tôi gói ghém kỷ niệm tuổi thơ giả từ xóm Chợ ,theo má và anh chị ,lên con tàu nhỏ xuôi theo nhánh sông Tiền .Mang theo câu hỏi ấy suốt hơn ba mươi năm.
Bây giờ tôi đứng đây,ngôi nhà lá lụp sụp đầy kỷ niệm đã thay bằng ngôi nhà ngói mới.Dưới bụi chuối lửa còn sót lại, đang trổ buồng tàn lá xanh, xum xuê viền đỏ, là mấy nấm mộ xi măng mới quét vôi trắng có nhiều hoa cuốn kèn.
Phụng xiết tay tôi, giọng run run, nghèn nghẹn:
- Anh Trần định phá hết chuối lửa, trồng nhãn cơm suồng,tao cản lại. Ảnh chừa mấy bụi chuối để tao chờ mầy. Cứ mỗi lần chuối chín tao mong mày và nhớ ngoại – nói lau vội nước mắt - Hồi đó, ngoại là hội trưởng hội nông dân. Ông Mười So đã chỉ điểm cho máy bay dội bom xuống ấp Đồng, ngay căn cứ của bộ đội dừng quân. Ông Ngoại đã theo dõi và đưa người về “diệt” nó.Tụi nó theo rình mò và bắn ông để trả thù … Uỷ ban xã định đưa mộ ông về nghĩa trang nhưng tao nói để ông nằm cạnh bà cho ấm cúng.
Tôi bâng khuâng nhìn ra khu đất thánh, dày đặc mộ, bao nhiêu năm qua, biết bao con chiên đã nằm xuống.
Phụng trách:
- Mày thật tệ, về xứ rồi mất tiêu, không một lần quay lại thắp nhang cho ngoại.
Tôi nhìn nó không biết nói sao. Ba mươi năm qua, tôi đã vật lộn với cuộc sống nghèo túng, khó khăn. Nhớ lắm nhưng đành chịu.
Trong ánh hoàng hôn và gió chiều, tôi thấy tóc của Phụng lốm đốm bạc. Lòng tôi se lại.
Người ngoài đồng lác đác trở về. Bất chợt hai chúng tôi cùng nhìn ra bìa vườn,nghe như trong gió vấn vương mùi xôi và muối mè bọc trong lá chuối. Nhưng con đường đã láng nhựa và không có bóng ông Năm.Mắt hai đúa tôi ngân ngấn nước.
Giàn mướp hương cuối mùa
Ðợt gió thu cuối mùa đã thả vào khu vườn sau thêm chút tiêu điều của một mùa thu rất ngắn. Năm nào cũng vậy, một đêm đang ngủ chợt giựt mình thức giấc, nghe ào ào sau vườn tiếng lá rung, không biết gió ở đâu đổ về khu vườn lá đã chuyển màu, chùm phong linh sau nhà vang lên những hồi chuông leng keng như báo hiệu mùa thu sắp ra đi rồi đó. Mùa thu ở đây ngắn quá để lá chỉ mới chớm vàng chưa kịp rụng, đợt gió lạnh tràn về làm úa đi những chiếc hoa vàng trên giàn mướp hương, những quả mướp non chưa kịp lớn sẽ là món ăn ngon cuối mùa trên mâm cơm gia đình bà nội Tý anh và Tý em.
Giàn mướp đang độ vào hè, với những trái mướp dài lủng lẳng treo trên giàn nhiều đến nỗi ăn không kịp, phải đem biếu cho hàng xóm, gọi con cái ăn hộ giờ này chỉ còn có vài quả cuối mùa co quéo lại nằm trên mặt giàn, không thả được mình xuống khoe mã như dạo đang hè. Bây giờ muốn ăn phải tìm mỏi mắt vì còn dăm quả đèo đẹt, lấp mình trong khoảng giàn xanh xanh, chen lấn trong đó nhiều loại rau khác nhau: mùng tơi, lá mơ, mướp hương. . .
Những loại rau này rất buồn cười, sống hồn nhiên như những đứa bé con nhà nghèo, tự nhiên mọc lên rồi lớn, bám vào được chỗ nào thì cứ thế mà leo, còn nhiều khi bà nội Tý anh cẩn thận gieo hột trong những cái chậu đất tốt, tưới tắm, nâng niu, cây có đâm chồi nảy lộc nhưng chỉ được vài hôm là ủ giột, mặt mày cứ sa sầm xuống như bị cầm hãm tù tội. Cái khoảng khoát khỏe mạnh của cây cỏ là được sống tự nhiên với thiên nhiên, hễ mọc được là sống khỏe, rồi sau đó tự nhiên chen lấn với các loại khác mà sống còn.
Nói đến cái cơ duyên của giàn mướp này bà nội Tý anh lại buồn cười. Thực tình thì bà có trồng đâu, cái giàn là của nhà mùng tơi tím đó chứ, sau có người hàng xóm quảng cáo về cái lá mơ trị kiết lỵ, đầy hơi, trĩ nội trĩ ngoại rồi tặng cho một cây, bà cũng dọn cho nó một chỗ mát mẻ ngay bên vệ rào, gần đám mùng tơi. Sở dĩ đa số dây leo được bò quanh vệ rào, vì chỗ này ít bị nắng gắt mùa hè chiếu cố đến, chỉ vào buổi bình minh mới lên là còn hưởng tý ánh nắng mặt trời, nhưng cứ càng xế trưa thì chỗ ấy mát dần lên, dây lá không ủ rủ héo rũ xuống vì nắng hè khắc nghiệt.
Khi đám mùng tơi phơi phới leo lên, chị lá mơ cũng ì ạch chạy theo kịp thì trên giàn những lá mơ mềm mềm hai mặt xanh và nâu tím, đầy những lông tơ cũng lẫn lộn với chị mùng tơi tím xinh xinh vẻ hiền hậu của cô gái quê không son phấn. Muốn có nồi canh mùng tơi, trước hết bà nội Tý anh đã hái những lá nằm phía dưới của hàng rào, sau chỗ nào cao hơn thì phải dùng cái thang nhỏ mới hái được. Nhà ít người thì một rổ nhỏ cũng có tô canh rồi, hai thằng Tý anh Tý em khi biết ăn cơm là cũng biết ăn canh mùng tơi, chả vì có tý rau trơn trơn dễ nuốt. Nhưng khi nào nhà có khách, ngoài những món thịt thà xào nấu công phu, bao giờ bà nội Tý anh cũng phải nấu thêm tô canh mùng tơi, ăn với món cà muối xổi thơm mùi tỏi ớt lúc nào cũng có sẵn trong tủ lạnh.
Không biết sao chứ nồi canh mùng tơi ăn với cà lại được khách chiếu cố tận tình, chẳng phải dài hơi mời mọc. Hôm nào đi chợ thấy bán cua biển còn tươi, bà nội Tý anh đã chịu khó mua về làm sạch sẽ, rồi nhờ ông xay giùm để dành từng bọc trong tủ đá. Khi muốn ăn, bỏ ra ngoài chờ hết lạnh lọc lại là có món canh cua nấu rau gì cũng ngọt. Nó hợp lạ lùng với rau đay, nhưng có đem nấu với mùng tơi và mướp hương thì cũng chẳng chê vào đâu được.
Hồi xưa đến giờ người ta hay nói đến cái duyên của mùng tơi với quả mướp, hai thứ này đi với nhau như bóng với hình. Người nội trợ khi mua rau mùng tơi nấu canh, bao giờ cũng hay nghĩ đến qủa mướp, thấp thoáng trong nồi canh là những miếng mướp mong mỏng xanh xanh màu ngọc thạch, thì lại phải điểm lên những lá mùng tơi xanh tím làm nền cho tô canh quyến rũ hơn, mùi vị hòa hợp lạ lùng. Thế mà khi không cái duyên quả mướp với mùng tơi lại đến với mảnh vườn của bà nội Tý anh. Nhà hàng xóm mùa thu năm trước dọn dẹp giàn mướp tàn, lẫn lộn những hột mướp giống với cỏ khô, dồn hết vào hông nhà ở vệ rào, năm nay khi mùa Xuân sang tự nhiên mọc lên những dây mướp thật khỏe, rồi vì nhu cầu sống cứ thế vươn lên, tìm đất đứng và tự nhiên bò qua cái hàng rào nhà hàng xóm.
Cuộc xâm lăng này không biết đối với chị mùng tơi và chị rau mơ có dễ chịu không thì chủ nhà không biết, nhưng cứ nhìn những dây mướp to khỏe, thay đổi từng ngày, lá xanh rờn to bằng hai bàn tay xoè ra, "tự nhiên như người Hà Nội" che kín cái giàn còn trống trải, tạo bóng mát cho cái hàng ba nắng mùa hè chênh chếch soi vào thì tiện lợi biết mấy. Nhất là trên cái giàn ấy đã xuất hiện những bông hoa vàng, rủ rê con ong cái bướm ở khắp nơi bay về dập dìu trên giàn mướp hương, đem đến những mảnh tình con con cho hoa lá cũng tưng bừng mở hội.
Ðó là cái tình của cây cỏ, còn cái lợi trước mắt thì nhà có thêm mướp để nấu canh mùng tơi, món canh quê mùa quốc hồn quốc túy mà chan vào bát cơm, rồi cắn thêm quả cà ròn tan trong miệng, chẳng thích lắm sao! Chủ nhân thuộc loại nhàng nhàng đủ ăn, chả có danh gì với núi sông ngoài cái giàn mướp và mùng tơi che kín cái hiên sau nhà, nên gọi cái giang sơn của mình là vườn rau quê hương, để gợi nhớ cái vườn rau quê nhà, và cũng vợi đi chút buồn xa xứ, hễ khách đến nhà thế nào cũng nấu cho được tô canh mướp , mùng tơi để đãi khách.
Bây giờ trời đã cuối thu, chỉ còn thưa thớt vài quả mướp đèo trốn tít ở trên cao, rình mãi bà nội Tý anh mới gom được ba quả mướp đèo để nấu tô canh cuối mùa. Ngó quanh cái giậu mùng tơi lá đã úa vàng, bé tẻo teo bám trên sợi dây màu tím lịm, vặt trụi đi thấy cũng tội nghiệp, chỉ con những chùm hột màu tím khô đong đưa dưới mặt giàn. Rau ăn đúng mùa, trái ăn đúng kỳ mới ngon, thôi thì làm một nồi canh mướp với nhúm tôm tươi bóc vỏ, thêm vào tý thịt nạc, vài tai nấm, một nắm bún tàu rồi nêm vào một chút hành ngò chẳng ngon lắm sao!
Nhà hôm ấy có khách. Khách từ phương Bắc mới đầu đông mà đã giá rét, trốn lạnh đi về phương Nam chơi ít lâu nên khi nhìn thấy cái vườn phương Nam, tuy đã xơ xác tiêu điều nhưng vẫn thấy lòng ấm lại. Chẳng vì mùa đông phương Bắc đến sớm từ cuối tháng chín, chưa gì vườn tược hoa cỏ đã úa màu rơi rụng hết, nay về phương Nam người xa quê như bắt gặp được một khoảnh quê hương xa tít tắp bên kia bờ đại dương. Nhất là bụi mía ven bờ rào bên khung cửa sổ thì ôi chao sao nó nhớ chi là nhớ, một cơn gió thổi qua để tất cả những thứ lá cây trong vườn rung lên xào xạc, bụi mía xào xạc, những lá mướp già vừa chớm khô cũng xào xạc, trời lại hanh hanh nắng mà vẫn hơi se lạnh, tý nữa trên mâm cơm lại có thêm tô canh mướp cuối mùa, còn giữ nguyên cái tình quê trong đó.
Không cần mời chào nài ép nhiều nhặn gì, đến bữa cơm ngoài món thịt kho trứng, đĩa cá chiên ròn chan nước mắm chua ngọt, tô canh mướp cuối mùa múc lên chỉ loáng mà đã hết. Khách vừa ăn vừa khen rối rít:
" Chả nói dấu gì, cao lương mỹ vị chúng tôi không thiếu, có tiền mua tiên cũng được, nhưng không tìm ra được hương vị thanh thanh ngọt ngào như cái tô canh mướp nhà bác. Ngày xưa hồi còn ở quê nhà...."
Thế là bao nhiêu kỷ niệm ở đâu tuôn ra như nước vỡ bờ:
" Bà cụ tôi hồi sinh tiền chỉ thích mỗi món canh mướp nấu lòng gà, ngày giỗ kỵ cũng phải để bộ đồ lòng cho cụ nấu canh mướp. Còn ngày thường thì chỉ nhúm tôm khô cũng xong, nhưng quả thật những thứ này đi với nhau lại hòa hợp một cách lạ lùng. Cái màu xanh xanh biêng biếc của lá mùng tơi, rồi điểm vào đó những lát mướp mong mỏng như ngọc thạch, úi chao, cả một nghệ thuật ẩm thực của tiền nhân trong ấy..."
Khách đúng là xính thơ văn nên khi tả món ăn cũng phải cầu kỳ hoa mỹ, chứ cứ như bà nội Tý anh, cả đời dân giả chỉ biết nồi niêu xoong chảo, cách nấu nướng cũng chỉ đơn giản miễn sao có chút thức ăn đưa cơm cho no bụng:
" Chắc các bác chưa từng được ăn đọt mướp xào tỏi bao giờ nhỉ?"
Khách ngưng húp canh, ngẩn ngơ nghĩ chưa ra là trên đời lại còn món đọt mướp xào tỏi:
" Vâng, món ấy thì chưa được ăn qua, nhưng đào đâu ra cho đủ để xào?"
Bà nội Tý anh hãnh diện khoe:
" Từ ngày sang đây đến nay, tôi cũng chửa thấy chợ nào có bán đọt mướp. Bí rợ, đậu hòa lan thì thiếu gì, nhưng tìm được đọt mướp để xào thì hiếm còn hơn cao lương mỹ vị. Gặp năm giàn xum xuê quá mà quả ăn mãi cũng chán, nhà chỉ hay hái đọt mướp để xào thôi. Ðúng là quý thật, vì mỗi lần hái chỉ được một rổ nhỏ, lấy cả lá non tước đi cái vỏ ngoài cũng chỉ được đúng một đĩa, hôm ấy nhà tôi gọi là có đại tiệc đấy, mỗi người được đúng hai gắp..."
Khách xuýt xoa:
" Tiếc nhỉ, giá đến chơi sớm vào độ hè chắc tôi đã được ăn món ấy. Ðâu chủ nhà diễn tả xem cái đọt mướp xào tỏi nó thi vị ở chỗ nào, có bằng món đọt đậu Hòa Lan trong nhà hàng Tàu không?"
Xem ra khách có vẻ chưa tin vào cái món đọt mướp "cây nhà lá vườn" này lắm, bà nội Tý anh phải vận dụng hết khả năng văn chương để cho khách phương xa thèm thuồng món ăn dân giả này, bởi chưa chắc có tiền đã mua được:
" Ấy, bác vào bất cứ nhà hàng nào ở đây không bao giờ tìm được trong " menu " món này đâu đấy! Còn so sánh với đọt đậu xào thịt bò thì hai cái khác nhau một trời một vực, hương vị mỗi thứ mỗi khác, tuy đã xào nhưng mùi hương của cái nhụy hoa vàng kia nó vẫn phảng phất trong cái miếng rau mình nhai trong miệng, bùi bùi, hơi nhân nhẩn mà không đắng, thơm thơm mà lại thanh thanh, cứ chầm chậm nhai thì mới thấy cái ngon nó thấm vào lục phủ ngũ tạng. Rau bí rợ thì dễ kiếm, nhung khi luộc hay xào, ăn nó nhàn nhạt không bao giờ có được cái vị thơm của lá mướp."
Khách cười xòa lên:
" Ui chao! Nghe tả sơ sơ thôi mà đã thấy thèm ứa nước miếng ra rồi. Xem ra chả có cái gì bỏ phí, vì lá mướp nghe nói cũng là dược thảo chữa cái bệnh gì đó...."
Chủ khách cùng cười, giá cây mướp đang bò trên giàn kia nghe được chắc cũng phổng mũi ra vì sung sướng:
" Nghiên cứu về dược thảo của rau cỏ thì nhiều, nhưng chính lá mướp cũng là một thứ thuốc chữa bịnh ngoài da hay lắm. Nó còn chữa được cả bệnh Giời ăn, mọc thành giề mà hễ nước vỡ ra đến đâu thì lan ra tới đó, cái lạ rằng chỉ nổi một nửa thôi, hễ ở lưng thì mọc một bên không bao giờ qua phía bên kia, nhưng để giáp vòng thì hết thuốc chữa. Vậy mà ngày xưa ở nhà quê người ta cứ lấy lá mướp giã nát ra đắp lên cũng khỏi. Thế tôi đố chị chỉ có người Việt mình mới biết ăn đọt mướp, hay là các dân xứ khác họ cũng biết ăn như mình?"
Khách lắc đầu:
" Ngay tôi là người Việt thế nhưng hồi ở bên nhà, cũng chưa bao giờ biết là đọt mướp ăn được."
Bà nội Tý anh tiếp lời khách:
" Chính tôi thì cũng không nghĩ rằng đọt mướp ăn được, vì khi các cụ mình trồng cho mướp ra hoa nhiều mới có quả, bất cứ giống gì hái đọt ăn lá đều không kết quả được bao nhiêu. Thế nhưng cái hôm bà hàng xóm người Phi Châu sang chơi, thấy cây mướp có nhiều đọt non, bà ấy mới bảo rằng lá mướp non ăn ngon lắm. Tôi không tin như thế, nhưng nghe vậy cũng ăn thử một bữa xem sao, mới biết người ta nói đúng."
Chỉ tiếc rằng giàn mướp vào cuối thu đã tàn, nên không thể hái được nắm đọt mơn mởn để đãi khách như độ đang hè, nhưng câu chuyện kể về quả mướp hương nó lại lan man sang vấn đề khác:
" Mình thì cứ tưởng chỉ có mỗi mình mình mặn nồng nỗi nhớ quê cha đất tổ, hóa ra dân tộc khác cũng vậy. Món ngon không phải ở chỗ đắt tiền, nhưng chính là nó hợp với cái nỗi nhớ trong lòng mình mà bỗng hóa nên ngon, nên hiếm. Ôi cái thuở còn thơ, hễ buồn buồn thì vác con dao ra vườn đốn một cây mía xuân diệu, rồi cứ thế ngồi dưới gốc mía mà gặm, sao nó ngọt nó ngon đến thế. Bây giờ nói xin lỗi bác, khéo không lại đi tuốt hết cái hàm răng..."
Hai người cứ thế rũ ra cười với nhau, hai thằng Tý anh Tý em cùng cười góp vào mà chẳng hiểu gì. Bà nội Tý anh bảo:
" Mùa này cá nục ngon và béo lắm, mai tôi đãi chị món lá mướp cuốn cá nục, nuớng lửa than rồi cuộn với bánh tráng, rau sống tuyệt trần đời. Trải ba lớp lá mướp, để cá lên rồi cuộn chặt vào mà nướng, thịt cá không tanh mà lại còn thơm cái mùi khói đồng nhờ lá mướp bao xung quanh. Muốn tìm ra cái hương quê cũng chẳng khó gì chị ạ."
Cơm nước xong, ấm trà cúc pha vừa phải đủ làm thơm miệng và mát bụng. Hình như chợt nhớ ra, bà nội Tý anh lại nói với khách:
" Xem thế nhưng không phải lúc nào cũng ăn được mướp. Người yếu tỳ yếu vị, bị cảm lạnh thì không nên ăn, mướp thuộc loại hàn ăn vào cũng khó tiêu. Nhưng hề gì, nhà tôi có một giàn lá mơ đấy, bứt vài lá dằn bụng thì ăn gì cũng chả lo!"
Xóm Người Mù
Xóm Người Mù. Không biết tự bao giờ cái tên gọi ấy đã trở nên quen thuộc. Không thể nhớ nổi người khiếm thị đầu tiên nào đã dùng bước giang hồ ở khu dân cư trải dọc triền sông này, rồi rủ rê thêm những người đồng cảnh ngộ quy tụ lại, chọn nơi đây làm " đất lành chim đậu" .
Ra đi từ nhiều miền quê khác nhau. Trẻ có, già có, gặp gỡ đâu đó dọc những ngả đường bươn chải kiếm sống họ dắt dìu nhau về, thoạt tiên vài người rồi dần dà đến vài chục, và, sống đạm bạc khiêm cung giữa bao người lành lặn khác. Ban đầu chính quyền địa phương đặt vấn đề đòi trục xuất, riết làm ngơ vì chẳng nghe ai kiện cáo, tị nạnh gì. Đèn nhà ai nấy sáng, không hẳn đùm bọc, nhưng tuyệt đại đa số người trong xóm giềng đều tỏ ra thông cảm, sống chan hòa thuận thảo. Có lẽ có cô tôi là ngoại lệ, không thích đã đành, còn hết sức lấy làm khó chịu bởi không dưng phải lọt thỏm giữa một khu xóm như thế. Có lần cô bảo:
- Bạn hàng hễ ai nghe tao cho biết số nhà, tên đường, tên phường thì cứ y như rằng người ta hỏi có phải ở Xóm Người Mù không? Không dưng mang tiếng mù lây. Chun đụt dưới mái nhà này lỡ ăn nên làm ra nên không đành bỏ đi nơi khác, chớ không tao xới khỏi lâu rồi. Cái xóm gì mới bảnh mắt ra ngõ đã gặp người lò dò bị gậy phát ngán. Bao nhiêu cái Tết có cáp vàng tao cũng đâu dám xuất hành đầu năm!
Là chị hai của cha tôi, cô xa nhà sống theo kiểu thân tự lập thân hồi còn trẻ, giờ xấp xỉ tuổi năm mươi, chưa chồng con dù nhan sắc đến nỗi nào, khó tính là điều dễ hiểu, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi sao cô hẹp lòng đến vậy.
Rời quê ra tỉnh học trọ, mỗi sáng sớm tôi ra chợ tiếp cô bày hàng quần áo thời trang, giày dép, mỹ phẩm, chiều tiếp dọn hàng. Từ vài tháng nay bỗng có người tình nguyện làm thay, tôi bỗng rảnh rang. Ông ta kém cô vài tuổi, luôn " hình dong chải chuốt, áo quần bảnh bao" . Nhờ ông, hình như dạo này cô đâm ra trẻ lây, đâm ra thích chưng diện với lắm bộ đồ môđden mặc rồi đứng uốn éo trước gương hệt những người mẫu thời trang không khoe chướng, cô hỏi, chẳng muốn cô buồi tôi đành miễn cưỡng khen đẹp. Đêm đêm, tôi đến lớp ngoại ngữ học thêm thì ông đeo cô đi chơi bằng xe Dream. Chiếc xe cô nhún nhường cho biết vốn là hàng còn nguyên thùng, mua để tiện việc ông đưa đón. Chưa hết, cô bê về cả dàn máy karaoke để giải sầu. Thỉnh thoảng hai người kề vai song ca trông rất mùi mẫn. Thỉnh thoảng mở tiệc đãi bạn bè tại nhà. Nhưng cái đám cưới lắm lần nghe cô bàn tính mãi chưa thấy thực hiện.
Dù cô luôn rầy la ngăn cấm, tôi vẫn lén chơi với đám người mù trong xóm. Đứa hát rong, đứa bán vé số dạo, đứa đan sọt đan thúng,... Trong số ấy tôi thân nhất con Thắm hát rong. Con nhỏ ông Tư đờn cò đã " nhặt" về trên một chuyến tàu Thống Nhất. Nó gầy gò đến độ qua cầu gió có thể thổi baỵ Nó hay khiến tôi nhớ tới con em gái dưới quê nên thường lén cô tiếp tế cho hai cha con chút ít lương thực, hoặc thuốc men lúc đau ốm. Thắm bị mù từ thưở lọt lòng, chẳng biết tí gì về thế giới chung quanh, chỉ nghe kể rồi mường tượng. Thuộc khá nhiều bài ca do nghề nghiệp, riêng món vọng cổ luôn bị ông Tư bắt bẻ, ca hoài chưa ngọt, chưa rặt giọng đàng trong theo ý ông muốn. Có hôm nó hỏi tôi:
- Anh ra sao anh hai?
- Thì cũng giống hầu hết mọi người.
- Có đẹp trai không cơ!
- Đẹp xấu tùy người đối diện - Tôi nói đại. Nó phụng phịu:
- Anh quên người đối diện hổng có mắt sao? Thôi thì chắc anh đẹp như ông Lục Vân Tiên hoặc Thạch Sanh trong truyện bố Tư kể, vì anh cũng tốt bụng như họ.
- Xấu như Trương Chi thì có, đừng có ham tưởng tượng.
- Ai nói Trương Chi xấu, riêng em vẫn cho là đẹp.
- Hiểu rồi, Thắm cũng đẹp lắm.
- Xạo quá mạng vậy anh hai?
Đại để, chúng tôi thường trò chuyện vớ vẩn kiểu ấy. Uống nước rạch Đầu Sấu bao năm, cố nói tiếng Nam bộ, giọng Hà Bắc vẫn còn vương lại vài âm hao như là dấu ấn của quê quán, dù quê quán ấy nay đã trở nên xa vời vợi, mờ nhạc trong trí nhớ nó. Những lúc Thắm theo ông Tư đi hát rong đâu đó cả tháng mới quay về, tôi thấy nhớ cái giọng thỏ thẻ nửa Nam nửa Bắc của nó. Sau một chuyến đi xa, bao giờ nó cũng tặng tôi một món quà gì đó, dù rẻ tiền cũng khiến tôi cảm động.
Không ít lần hễ nghe ông ấy và cô hát karaoke, tôi bắt gặp Thắm đứng lặng lẽ ngoài rào bông bụp. Biết tỏng nó rất thích trò chơi hiện đại ấy, một đêm đôi tình nhân vừa lên xe ra khỏi cổng, tôi rủ nó đến nhà, ngồi vào ghé salon hẳn hoi, và mở máy cho Thắm tha hồ ca, tôi giúp nó đọc lời những bài chỉ thuộc lõm bõm. Nhìn vẻ mặt hân hoan khó tả, nghe giọng bội phần diễn cảm, tôi cảm thấy vui như đang đãi nó một bửa tiệc thịnh soạn. Hai đứa vui nên " dượng" và cô về lúc nào không haỵ
- Trời đất, bộ mày khùng rồi sao Khánh? Dám mời con nhỏ dơ dáy thượng lên cả salon, còn bày đặt hát xướng. Bộ mày mê nó lắm sao thằng ông con? Này, cút mau! - Vừa đay nghiến, cô vừa nhào tới đẩy xua Thắm ra khỏi cửa. Quýnh quáng, con nhỏ không kịp cầm gậy, ngã lăn từ bậc thềm xuống sân, bể cả mắt kiếng đen, bật khóc tức tưởi. Ông ấy chỉ khoanh tay đứng nhìn lắc đầu cười. Tôi đỡ Thắm dậy, đặc chiếc gậy vào tay nó, đổ quạu, quên cả giữ kẻ:
- Nhẫn tâm vừa thôi, cô không thương xót kẻ tật nguyền chút nào sao?
- Mầy, mầy dám lên giọng chửi tao hả đồ mất dạy? - Cô gào, chảy chồm xỉa xói. Ông ấy ra vẻ kẻ cả khoác tay ngăn, cất giọng du dương:
- Kìa em, nguôi giận đi nào. Chậc, chỉ là chuyện nhỏ. Thôi, cho anh xin!
Từ hôm ấy Thắm luôn tránh găp tôi, không nhận cả chiếc kiếng mới tôi mua đền nó. Vào một ngày mưa từ ga Hòa Hưng quay về, ông Tư đờn cò ngã bịnh. Tuy được chòm xóm tận tình giúp đỡ đưa vào bịnh viện điều trị nhưng ông không qua khỏi. Sau đám tang chừng vài hôm, đã nguôi giận, Thắm tìm gặp tôi rủ ra chợ Cái Răng ăn kem với vẻ mặt buồn rượi. Tôi ngạc nhiên chẳng nghe nó nhắc đến bố Tư, lại tỉ mỉ nhắc kể từng người tốt kẻ xấu trong xóm, chi li từng kỷ niệm vặt, nhỏ nhoi của hai đứa, đoạn mĩm cười:
- Còn sao trên trời ở xóm mình có giống nơi khác không anh hai?
- Giống!
- Bèo dưới bến cũng thế chứ?
- Thế! Tôi nhại giọng Hà Bắc cốt làm nó vui.
- Vậy là dù đi bất cứ nơi đâu em ngước " nhìn" trời cũng sẽ mường tượng ra sao ở xóm mình, qua khúc sông nào cũng " thấy" bèo của bến nhà, chắc là không buồn lắm đâu.
- Thắm nói gì lạ vậy? Tính bỏ đi sao? Đi đâu?
- Đố anh biết? - Nói xong nó cười. Nước mắt lấp lánh trên má. Ngỡ chỉ nói đùa chơi, hôm sau Thắm mang theo cây đờn cò bỏ đi mất biệt. Câu đố đêm ấy tôi vẫn nhớ nhưng không cách chi tìm thấy câu trả lời.
Bây giờ tôi đã vào đại học. Mỗi lần ra chợ tiếp cô bày hàng và chiều dọn về như trước đây. Cô tôi lại tiếp tục sống cô đơn. Sau trận đánh ghen tàn độc của bà vợ và tám đứa con kéo từ Vĩnh Long sang Cần Thơ vào một ngày không nhớ đẹp hay xấu trời, ông " dượng" ra đi không lời từ biệt, quên cả chiếc Dream. Bây giờ cô tôi luôn mang kiếng đen vì con mắt trái bị axít làm hỏng, trở nên trầm lặng, ít nói và, hình như trong con mắt còn lại những người mù chung xóm chẳng còn đáng ghét nữa.
Sáu giang hồ
"Sông gối đầu tay sóng
Rừng gối đầu tay cây
Người gối đầu tay gió
Nổi chìm mà quên bay." (1)
1.
Bến Củi chỉ còn là cái tên rỗng không, mọi dấu vết của khu xóm chợ ven sông ngày xưa gần như xóa trắng. Những vựa than, vựa củi có hoặc không mái che đã "bốc hơi" đằng nào, thay vào là những quán ăn, tiệm tạp hóa, hớt tóc tắm hơi mát xa... chen chúc mọc lên dù không hẳn ngay hàng thẳng lối, thoạt trông cũng biết chúng được uốn nắn theo một trật tự quy hoạch mới, mang đậm dấu ấn của làn sóng đô thị hóa tràn qua chốn này, chưa lâu nhưng cũng đủ xóa đi bộ mặt cũ, bộ mặt vẫn còn nguyên trong ký ức của một người cũ vừa quay về.
Quần áo tuềnh toàng, vẻ người mệt mỏi, lấm bụi, hắn tựa khúc củi mốc cời được trang điểm thêm cái mũ lưỡi trai và cặp kính đen, trông y chang một tên tù vừa được phép ra trại. Ngửa cổ nốc cạn chai bia, ném vỏ xuống mớ chai rỗng dưới gầm bàn đánh "xoảng" Sáu Giang Hồ nối thêm điếu thuốc mới, bóp tắt mẩu thuốc tàn giữa hai ngón tay chai sần, búng văng ra khoảng nắng ngoài hiên quán. Buổi trưa im ắng, không khí oi nồng không chỉ ngợp ngợp trên những mái tôn ánh chói, mà cơ hồ phong tỏa cả mọi giác quan, sẵn sàng bốc cháy nếu bị "châm ngòi" bằng một mồi lửa nào đó có hoặc không khói. Tiếng võng đưa kẽo kẹt sau quầy hàng bỗng im bặt, hắn hắng giọng:
- Ngủ sao bà chủ?
- Chưa! - Người đàn bà có bộ ngực thỗn thện phô lập lờ dưới viền cổ áo trễ nải ngồi lên, quơ chân giữ yên võng, ngáp rõ to, nói:
- Chú cần gì à?
- Không, lúc nãy chị nói là đã về đây mở quán từ hơn ba năm nay?
- Ừa, rồi sao?
- Có một thằng đầu trọc tếu, chuyên uống bia bằng cách đập bể cổ chai vào ống quyển chân gác lên bàn, nó có thường ghé đây không? Hoặc lui tới khu này không?
- Uống bia bằng cách... Làm gì có. Ở đây dân quậy cũng nhiều, nhưng hổng có tay nào quái vậy đâu.
- Lẽ nào nó không còn bám đất này?
- Xưa chú cũng đã từng ở đây sao?
- Dà!
- Và chắc bỏ đi cũng lâu rồi?
- Ngoài mươi năm.
- Trời, giờ toàn dân mới không à!
Ngoài mươi năm. Biết bao bèo đã trôi qua ngoài bến, mây bay qua bầu trời. Người cũ đa số có gốc gác trôi sông lạc chợ, giờ tứ tán theo những cảnh đời gạo chợ nước sông khác. Người nào còn, kẻ nào mất họa là chỉ có trời hoặc đất biết. Đứa vẫn còn kéo lê được chiếc bóng quay về như hắn bỗng vô danh trước bến sông quen thuộc cũng là lẽ thường thôi! Tiếng võng lại tiếp tục kẽo kẹt. Chiếc võng đay già nua nhẫn nại đong đưa cái túi thịt gần cả tạ. Gã khách chưa say lắm, nghe đâu đó trong sâu thẳm lòng mình chút cảm giác buồn nẫu nuột, trống rỗng lặng lẽ sủi tăm.
Chiếc xe đạp đòn dông cũ sờn đèo quài dừa trĩu trái dừng lại trước cửa, người đàn bà tháo vội chéo khăn rằn bịt mặt chống bụi, lột chiếc mũ vải rộng vành cầm tay quạt lia lịa, ngước gương mặt đỏ gay vì nắng trông hút vào gọi:
- Dừa nè chị Ba!
Hệt phải bỏng, vừa thoạt chạm ánh mắt người đàn bà lia qua cửa, Sáu Giang Hồ giật thót, kéo sụp mũ lưỡi trai xuống ngang mũi, đưa lẹ tay lên chiếc kính đen để yên chí nó vẫn còn che nửa khuôn mặt có cái bớt mầu đỏ bầm vắt chéo trên chân mày mắt trái.
2.
Sông Hậu dịu sóng. Gió thổi xoay tít cái chong chóng gấp bằng giấy báo cắm đầu nóc mui. Thằng nhóc trần như nhộng nằm ngửa, đầu gối tay, nheo mặt nhìn cái chong chóng mê mải, "con chim" rám nắng trông ngộ nghĩnh hệt con sò cắm chóc ngóc giữa cặp chân ngắn ngủi phơi ngoài khoảng trống lổ đổ hoa nắng rụng từ tán còng xuống.
Trong mui, chai đế còn lưng nửa, đĩa mồi cóc ổi, khô cá khoai còn đầy. Ông Tám Chài cạn ly, Sáu Giang Hồ đỡ lấy rót đầy đặt nhẹ xuống sạp ghe chao nhẹ trên lưng sóng.
- Nghe qua đi, ở hiền gặp lành, giờ chú mầy hổng còn trẻ người non dạ gì nữa mà mua thù chuốc oán, phải để đức cho con cháu mai sau Sáu à.
- Con mua thù chuốc oán?
- Chú mầy nghễnh ngãng thiệt hay giả bộ vậy?
- Tía... nói gì con không hiểu.
- Bộ không nghe người ta đồn rần lên hổm rày hay sao?
- Người ta... là ai hả tía?
- Thì bà con chòm xóm.
- Bà con chòm xóm nào đâu, con về thấy toàn lạ hoắc lạ huơ...
- Chú mấy khéo giả ngộ thiệt! - Ông Tám cười rung chòm râu bạc, cầm khúc cá khoai huơ huơ như vẽ bùa trước mặt hắn. - Bà con còn nhiều lắm, ở tản mác quanh đây thôi, nhưng có khi người ta tránh mặt.
À ra vậy! Tránh như người dương thế tránh hồn ma bóng quế về từ âm ty địa phủ, hay như người lành tránh con hủi? Hắn chua chát nhủ thầm, thoáng khựng sững, thấp giọng:
- Vậy người ta đồn sao hả tía?
- Đồn chú mầy về tìm con Út Cưng để thanh toán mối hận xưa, đòi lại thằng Cu Hùm.
Tợp ngụm rượu, cầm chai rót đầy, Sáu Giang Hồ găm mắt xuống đĩa mồi như thể mấy miếng ổi bất thần nẩy lá, hoặc mấy con khô khoai hốt nhiên giương vây lừ mắt gì đó, ông Tám nóng nảy:
- Có đúng vậy không?
- Không đúng! - Hắn lắc đầu.
Cái lắc đầu trông buồn nản hơn là thanh minh. Hôm bất ngờ gặp lại Út Cưng - người đàn bà đèo quài dừa đến bỏ mối ở quán bà Ba Xuân - không muốn và cả không chờ đợi, hắn vẫn nhăn mặt vì nghe cơ hồ có chiếc kim bén buốt cắc cớ thuốn qua tim, suýt buột miệng gọi nàng, nhưng rồi đã ngậm miệng, và thêm lần nữa đành để người từng có thời đầu gối tay ấp quay lưng biến khuất vào điệp trùng những đàn bà con gái - hắn đinh ninh - trái tim thủy chung hay gian trá chỉ có quỷ sứ may ra mới biết. Vẻ người lam lũ hôm ấy của nàng khiến hắn quá đỗi ngạc nhiên, bởi khác quá xa Út Cưng thời nào trong kí ức.
° ° °
Dạo ấy trên "lãnh địa" từ Rạch Cá Lóc đến Xẻo Trâm Bầu dài chừng mười lăm cấy số, dọc Bến Cá dài tới Bến Gạo, Bến Củi, Sáu Giang Hồ "trấn" khúc đầu, Mãnh Cụt "trấn" khúc đuôi, mỗi đứa có vài chục đàn em chung mâm chung chiếu, ngoài nghề bốc vác, chúng kiêm luôn các nghề phụ như đâm thuê chém mướn, buôn gian bán lậu trên bộ lẫn dưới sông, các phe cánh khác lỡ lạc bước vào không mẻ đầu thì cũng sứt trán. Hai phe chung sống khá hòa bình, thậm chí rất thuận thảo, nhưng rồi vào cái đận hạn Bà Chằn năm nọ, Sáu Giang Hồ không may bị vướng vào mẻ lưới quét hàng cấm, bị vô tù mất ba nằm. Gỡ xong ba cuốn lịch quay về đời thường thì thằng con đầu lòng - Cu Hùm - đã có thêm đứa em gái lên hai, và đứa nữa còn trong bụng mẹ. Căn nhà cũ trong hẻm Tàu Hũ không còn. Nơi ở mới của mấy mẹ con là một căn phố ngoài đường lớn buôn bán quần áo khá khang trang. Hỏi Cu Hùm, Út bảo nó đi học. Hỏi cha của đứa gái và đứa sắp chào đời là ai, nàng một mực không nói, khóc lóc mà rằng, vắng hắn như rắn mất đầu, bọn đàn em đứa bỏ nghề đổi xứ đi nơi khác, đứa đầu quấn sang phe Mãnh Cụt, hai mẹ con thành ra bơ vơ chẳng ai đỡ đần hôm sớm. Đe nẹt có, năn nỉ ỉ ôi có, nhưng Út Cưng vẫn câm như hến không cho hắn biết Cu Hùm học ở trường nào, xem ra đã ôm cầm sang thuyền khác, nàng vẫn khư khư giữ lấy núm ruột của mối tình "trai tứ chiếng, gái giang hồ" nay đã thành quá vãng, để hắn vốn trắng tay càng tay trắng luôn!
Chưa bao giờ hắn cảm thấy lòng đắng và đau đến vậy, cất mình ra đường mà chẳng chút ngạc nhiên khi cô vợ cũ sau cơn khóc bảy phần than vãn, ba phần kể khổ mắt vụt ráo trơ hệt mắt cá ươn, không có lấy dù chỉ nửa lời níu giữ gã chồng cũ. Bao nhiêu mường tượng về cuộc hội ngộ đầm ấm phút chốc tan thành mây khói đã đành, bẽ bàng hơn, không chỉ trái tim nàng vuột mất mà cả cái da cái thịt nõn nường kia cũng đã thuộc về những chiều quấn quít trộn tóc hòa nồng, hà hơi ấp lạnh, những khuya kêu đòi trườn rướn, siết rên hoan lạc... trong tay thằng khác. Sự phản bội phũ phàng, ngang nhiên nhưng hình như nàng không hề có lỗi mà muôn sự đều do hắn. Ôi, cái đồ ngu như heo chưa thiến, hồi đó có mỗi mấy lạng "cơm tiên" cũng để cho bị mắc lưới! Hắn tự rủa thầm cho đỡ... đắng.
Vào một chiều mưa tầm tã, do ma đưa lối quỷ dẫn đường sao ấy, Sáu Giang Hồ bước vào một quán nhậu quen thuộc nay đã "lên đời" thành nhà hàng, và hắn bỗng gặp lại Mãnh Cụt. Đầu vẫn trọc tếu, áo chim cò, quần Jeans và giầy da đen bóng lộn. Mãnh Cụt ngồi một mình, chân gác lên bàn, uống bia theo lối quen đã thành tật: Cầm chai quật vào ống quyển đánh "chong", cái cổ chai vỡ ngọt y như bị tiện đứt rồi ngửa cổ tu ừng ực. Người lạ thấy màn "diễu võ dương oai" ấy mười người hết chín rưỡi thường lác mắt phục lăn, còn những ai biết tỏng dưới lớp quần Jeans là cả một ống sắt chân giả thì bĩu môi khinh miệt, hoặc cười khẩy hàm ý không tán thưởng cũng không chê bai.
Thoạt thấy Sáu Giang Hồ thả phịch người xuống ghế đối diện mình, Mãnh Cụt quắc mắt nhìn lom lom đoạn cả cười rụt vội hai chân xuống gầm bàn.
- Trời đất, mầy hả Sáu? Cứ ngỡ tay yêng hùng mạt vận nào, đại ca ra hồi nào vậy? Sao hổng báo trước để đàn em đi đón? - Quay mặt vào phía quầy, gã lệnh: - Tiếp khách... tới bến luôn nghe tụi bây!
Sau tiếng "dạ" ran, bia và mồi được hai cô tiếp viên trắng y như bông bưởi, đỏ y châu sa, mượt mà y... cháo chảy bưng ra với dáng đi hao hao những người mẫu trên sân khấu, hai chân khẽ bước cheo chéo nhau, dặt dè như thể ngại trái chanh trái táo gì đó kẹp sau làn váy cũn cỡn bất chợt rơi vãi ra.
Mặc giọng lưỡi đểu cáng của thằng "đồng nghiệp" cũ, "đại ca Sáu" lầm lì ăn và uống, cơ hồ lỡ nuốt trọng mất lưỡi, chẳng hở ra tiếng nào. Mãnh Cụt tiếp tục thượng chân lên bàn, trưng cặp đế giầy chỉ cách mũi "đại ca" vài tấc, tiếp tục uống bia kiểu trêu ngươi nọ và, thao thao gần như bất tuyệt từ chuyện này sang chuyện nọ. Dù chẳng mảy may tin những khoe mẽ thành tích, bốc phét uy danh trong câu chuyện thuộc loại "tào lao bắc xế" của Mãnh Cụt, Sáu Giang Hồ cũng không thể không thừa nhận rằng, bây giờ gã chẳng những giàu tiền lắm của mà thế lực cũng trội hơn ngày xưa, cả cái khoản học làm sang cũng được gã chăm chút kỹ.
Ném cái chai rỗng xuống gầm bàn, Mãnh Cụt chìa hộp xì gà về phía Sáu, hắn nhón lấy một điếu, Mãnh vội bật quẹt ga đưa tới, đoạn với thao tác vặt khá điệu nghệ, gã búng một điếu lên cao há miệng theo kiểu chó đớp xương ngậm lấy đằng cán, dùng lưỡi lùa từ mép trái sang mép phải trước khi châm hút, thổi khói mù mịt. Sáu Giang Hồ bật thốt, giọng bực bõ:
- Đ. m, bao nhiêu năm cũng chỉ mấy trò khỉ cũ rích.
- Ngại thấy những trò mới của tao mầy sẽ ngất xỉu, từ từ thôi con ạ! Sao? Đ.m, hợp tác với bọn này chớ?
Vẻ mặt câng câng của tay du côn vườn xưa vốn ngang cân đồng lượng với mình giờ trông sao tởm đến vậy? Thay vì tương một quả đấm vào mặt gã, Sáu Giang Hồ lại thấy mình "nhẫn nhục" nói giọng của kẻ lép vế:
- Kiểu nào?
- Chung vốn kinh doanh! Trò này bảo đảm... mới!
- Vốn máu hay mồ hôi vậy?
- Bậy, tiền chớ! Kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
- Tao cháy túi, mầy thừa biết.
- Vậy thì... làm công ăn lương!
- Tao không tin mầy là một ông chủ tốt.
- Xin lỗi mầy! - Mãnh Cụt mủm mỉm cười, gõ nhẹ nắm đấm lên bàn đệm cho câu nói nhả rời từng tiếng nửa cười cợt nửa nghiêm chỉnh một cách khó thể nghi ngờ: "Tao không tốt mà dám dang tay xoạc chân chào đón, bảo bọc vợ con mầy trong lúc mầy đi tù à?".
Nghe tim vụt nhói như vừa nhận một nhát dao trí mạng, Sáu Giang Hồ bật dậy, run giọng:
- Thì ra... Mấy chính là... là...
Và, thói côn đồ bao năm tạm lắng, ẩn tàng đâu đó trong xương cốt bất chợt vùng dậy, hắn quơ lấy chai bia uống dở nhắm Mãnh Cụt vụt tới, gã né tránh, bật tiếng cười ha hả. Bàn nhậu tức khắc bị Sáu Giang Hồ đạp đổ, cũng là lúc hắn bị kềm cứng bởi hai thằng to con, mình trần trùng trục, mặt mũi trông hiền khô như thể vừa từ đất nứt lên và, trận đòn hội chợ bắt đầu.
Chẳng biết mê man trong bao lâu, hôm sau hắn choàng tỉnh, thấy mình nằm trên ghe ông Tám Chài, cả xác lẫn hồn đau ê ẩm. Trong ánh nắng sớm mai như rải hàng tỷ con rắn vàng óng trên sóng nước lăn tăn, ông Tám nheo mắt cười, nói:
- Lâu nay qua toàn vớt xác hiền lành trôi sông, trời xui đất khiến thế nào bữa nay lại vớ phải cái thây chưa thèm chết, lại là một thằng đầu trộm đuôi cướp.
Hắn kinh ngạc:
- Ủa, sao ông... biết...
- Chú mầy nổi tiếng cùng hung cực ác từ Bến Củi đến Bến Cá ai hổng biết.
Ngoài nghề chài lưới, bao nhiêu năm rồi không nhớ nữa, ông Tám còn kiêm nghề vớt những cái xác có người thân hoặc vô thừa nhận, tự nguyện chọn sông làm mồ, hoặc sơ sẩy, bị tai bay vạ gió phải trôi sông. Ông coi đó như việc làm tích đức, không bao giờ ngửa tay nhận thù lao, chẳng bao giờ chậm trễ, nhưng cũng chưa bao giờ cứu được kẻ xấu số nào khi hơi thở mỏng manh của họ lỡ bị sóng cuốn đi, vậy mà hôm ấy ông đã giành lại hắn từ tay Hà Bá, trả lại hơi thở cho thằng tù vừa mãn hạn đang ngắc ngoải vì tình phụ, lại bị bồi thêm một trận thừa sống thiếu chết chẳng phân biệt nổi đòn thù hay đòn ghen. "Dưỡng thương" chừng tuần lễ mới tương đối lại sức, Sáu Giang Hồ quỳ móp tạ ơn, khẩn thiết xin ông Tám nhận làm con nuôi. Ông thẳng thừng từ chối:
- Từ lâu qua lỡ coi sông là vợ, sóng là con, và những oan hồn trôi sông là bè bạn mất rồi. Vả lại đức của nhà qua mỏng lắm, hổng dám nhận làm cha một tay du côn du kề danh tiếng lẫy lừng cỡ chú mầy đâu!
- Con vốn từ trại trẻ mồ côi bước ra đời, giờ tứ cố vô thân, tía kể như đẻ con lần thứ hai - Hắn nghẹn ngào nói - Từ nay con xin thề...
- Bây toàn thề kiểu cá trê chui ống, hơi đâu tin. Thôi vầy nghen, có chú mầy đêm hôm qua cũng đỡ hiu quạnh, vui thì ở, buồn cứ đi.
Dù không được ông Tám chấp thuận, Sáu Giang Hồ vẫn cần mẫn, chí thú làm "con nuôi", tỏ ra tu tỉnh hẳn. Ngày ngày dang nắng đội mưa chịu khó tập bơi, lặn, cắn răng nhận những cái tát nháng lửa của ông Tám mỗi lần do quen thói buột miệng chửi thề. Sóng gió sông nước hiền hòa không chỉ "ăn" vào cái da cái tóc mà hình như còn lận cả vào tận tâm can gã đàn ông vâm váp, chắc nịch, phụ tá đắc lực của ông Tám trong nghề chài lưới lẫn "nghề" mò vớt xác. Ngạc nhiên thấy hàng tháng ròng hắn không một lần rời ghe lên bến, đôi khi ông nhắc nhở, hắn chỉ mỉm cười rồi lảng sang chuyện khác, có lần ông bực bội gắt:
- Nè, chú mầy tính trói mình vô cái ghe tàng này mãi hay sao?.
- Dạ đâu có, đơn giản là con cũng chọn sông làm vợ y như tía vậy mà! Hắn nửa đùa nửa thật.
Ông Tám trừng trợn:
- Bậy bạ nghe mầy, phải kêu sông bằng má mới đúng chớ thằng ba trợn!
- Chừng nào tía chịu nhận con làm con nuôi, con mới... còn lúc này...
- Chú mầy là... tình địch của qua hả thằng đầu trộm đuôi cướp?
Hai người cùng cười, ông Tám nhìn xoáy vào tinh mũi hắn:
- Qua già rồi không kể số gì nữa. Chú mầy còn trẻ...
- Vậy tía muốn con quay về nghề cũ à?
- Bậy, ý qua muốn nói là có cả trăm cả nghìn kiểu hoàn lương, không cứ gì phải tự giam mình giữa sông nước như vầy.
Sáu Giang Hồ trầm ngâm, có vẻ nghĩ ngợi rất lung và, sau đó hắn không còn tự neo mình vào chiếc ghe già nua suốt ngày đêm nữa, thỉnh thoảng lên bến lang thang đâu đó, đôi khi còn theo ông Tám đi ăn đám giỗ những người xấu số ông coi là bạn bè, đã từng được ông vớt từ sông lên. Nghe vài người ở chợ mách lẻo, mỗi khi lên phố chợ hắn thường lui tới khu nghĩa địa đối diện Trường tiểu học Ngày Mai, ông Tám tò mò:
- Nè Sáu, chú mầy có vụ mần ăn gì bí mật mà thỉnh thoảng lại vô nghĩa địa?
Thoạt tiên ngậm tăm, bị cật vấn riết hắn đâm bực, dấm dẳng nói:
- Làm gì có phi vụ bí mật bí mơ nào. Thoáng ngập ngừng rồi hắn làu bàu tiếp: - Chẳng qua lâu lâu nhớ thằng Cu Hùm, con lại tới đó nhìn lén nó đi học về.
- Nhìn trộm nó hay là... con mẹ nó?. - Ông Tám nói giọng cà rỡn, hắn đổ quạu gắt:
- Chỉ riêng nó thôi, không tin thì cũng mặc tía, đồ ông già... nhiều chuyện!
- Nhìn lén à? Sao chú mấy hèn vậy? Phải giành nó khỏi tay con đờn bà thay lòng đổi dạ chớ!
- Đúng, con chỉ là một thằng hèn!
Hắn cúi gầm mặt. Ông Tám cả cười:
- Đừng có buồn, qua chỉ đùa thôi. Suy cho cùng lúc này thằng nhỏ ở với má nó vẫn ấm hơn với chú mầy, sông có khúc, người có lúc, biết đâu sau này...
Ngày tháng cứ thế êm xuôi, ông già sông nước ngày mỗi thấy gần gũi Sáu Giang Hồ hơn, ngày mỗi tin hắn hoàn lương thật. Hệt người dạy thú trong sở thú thấy con hổ được mình thuần hóa trở nên hiền lành giống con chó nhà, ông Tám ngầm "sướng" về cái thành quả - dù chẳng được ai ghi nhận - mình đạt được. Lại nữa, sau vài lần trái gió trở trời, ốm đau èo uột, được hắn tận tình chăm sóc từ thuốc men đến miếng ăn giấc ngủ, ông chợt ngộ ra, tình cảm "con nuôi" ở hắn là thứ tình chân thật, định bụng hôm nào sẽ làm bữa tiệc nhỏ, để hắn chính thức được kêu sông Hậu bằng má, không còn "phạm thượng" đòi đóng vai tình địch nữa, nhưng rồi...
Vào một ngày không còn nhớ đẹp hay xấu trời, cái bến Cây Còng đêm đêm ghe chài về ngủ đậu thường trống vắng chợt có chiếc ghe khác tới neo đậu kề bên. Ghe thương hồ chuyên doanh mặt hàng đường thốt nốt từ Campuchia xuôi về bỏ mối cho các vựa, chợ ven sông, sau đó trong chuyến ngược chở khẳm lừ các loại hàng đặc sản miền Tây Nam Bộ. Ông Thạch Nu chủ ghe là người Khmer vui tính, luôn tươi cười nhưng chỉ có thể nói chuyện với người khác qua động tác của những ngón tay. Cô con gái lai Việt có mầu da nâu sáng hơn cha, mảnh mai, rắn rỏi, và trông trẻ hơn cái tuổi 30 vốn có. Ban ngày cô lanh lợi, hoạt bát bao nhiêu thì - lạ thay - về đêm, giọng hát cổ nghe buồn bấy nhiêu.
Dẫu một tháng chỉ vài lần ghé bến, tiếng hát buồn não nuột vẳng từ cái ghe bầu ấy thường khiến Sáu Giang Hồ bồn chồn đến mất ngủ. Tiếng hát đêm đêm trong thế giới hết sức kiệm lời, nếu không muốn nói là hoàn toàn câm lắng của hai cha con man mác chút huyễn hoặc, gợi mối cảm hoài lạ lùng nào đó ở người nghe. Ban đầu lạ, hắn không tiện hỏi, dần dà quen, một hôm hắn đánh bạo hỏi cô "hàng xóm":
- Sophi à, tôi hỏi nếu không phải cô bỏ quá cho!
Nàng khẽ nhíu mày, mủm mỉm cười, nói giọng Việt hơi cứng nhưng khá tròn vành rõ chữ:
- Có gì đâu, anh Sáu cứ hỏi, nếu là chuyện không đáng nghe Sophi chỉ việc bỏ ngoài tai.
- Sao cô chỉ thích hát vào ban đêm? Những bài hát tiếng Khmer tôi không hiểu nhưng nghe thiệt buồn, nghe riết thuộc luôn.
- Anh Sáu có xạo không vậy?
Sophi nửa ngờ nửa tin. Hắn cố uốn giọng bắt chước âm điệu một bài cô hay hát:
- Kôn ơi, Kôn kênh tơn oôna xrây puu âu kôn kon dum mđai kôn tơn phxa phnhơ num... Sophi có thể hát bài này bằng tiếng Việt không?
Đôi mắt long lanh ánh ướt vẻ vui khôn tả, cô không hát mà dịu dàng nói:
- Cũng dễ hiểu thôi, dịch ra tiếng quê ngoại Sóc Trăng của Sophi thì: Con ơi nghe lời cha ru. Mẹ con đi chợ tới trưa mới về. Mẹ về cho bánh sa kê. Cho đầu con gối con kê lên đùi. Mẹ cưng con ngủ cho mùi. Chân mẹ làm đệm tay thời ôm con. Ngủ đi, đừng khóc, cha thương!
- Thì ra là một bài hát ru con. Hắn bỗng đổi giọng cà khịa: - Nhưng nghe Sophi hát ru tôi lại... mất ngủ, lạ quá hà!
Cô gái nhại đúng ngữ điệu của hắn:
- Đơn giản vì... anh Sáu có phải là con của Sophi đâu!
- Ờ há! Mà sao lời bài hát lại là cha ru...
- Đố anh Sáu biết?
- Chịu!
- Sophi mất má từ lúc mới lọt lòng, cha phải ru dỗ, nuôi nấng Sophi chớ còn ai khác nữa?
- Thì ra... trước đây ông không hề...
- Cha Sophi mới bị mất tiếng chừng vài năm nay thôi, sau một trận đau liệt giường liệt chiếu tưởng chết hồi còn ở Biển Hồ.
- Ngày xưa ông hát ru Sophi ngủ, bây giờ cô hát ru ai?
- Thì cũng... ru con.
- Hình như bên ghe cô đâu có trẻ con.
- Không trẻ con thì ru búp bê cũng đâu có sao!
Vừa nói cô vừa ngước cái nhìn xa vắng lên trời, hắn cảm thấy rờn rợn như thể trong giây lát sẽ có một đứa trẻ vỗ đôi cánh lấp lánh bảy sắc cầu vồng bay xuống từ những đám mây, và nàng sẽ ẵm nó, sẽ đong đưa nó dịu dàng trong vòng tay mầu nâu sáng, phơn phớt lông tơ, và cất tiếng não nuột hát ru.
Giữa lúc mối giao hảo láng giềng đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp thì chiếc ghe thương hồ ấy đột nhiên vắng bặt, chẳng thấy ghé bến Cây Còng nữa. Tiếng hát ru quen thuộc trở thành nỗi nhớ lúc nào chẳng hay, khiến Sáu Giang Hồ đâm ra bực bõ chính mình, rằng khéo bận tâm vớ vẩn, thế nhưng không ít lúc hắn giật thót, bắt gặp mình lẩm bẩm "nhại" lại những lời ru buồn Sophi từng hát. Tình cờ nghe thấy, ông Tám chẳng nói gì, chỉ nghĩ bụng: "Con hổ" lại nhớ rừng, không khéo nó phải lòng tiếng hát như ngải như bùa ấy mất rồi!
Vắng chiếc ghe chở lời ru buồn về đâu chẳng biết chừng hơn hai con trăng, Sáu Giang Hồ lặng lẽ ra đi, để lại đôi dòng viết nguệch ngoạc trên bề lưng lờ lịch ngày hôm ấy, lén bỏ vào cái khạp da bò, nơi vừa đựng gạo ăn hàng ngày, vừa cất tiền dành dụm của ông Tám Chài: Con mạn phép mượn tía ít tiền, mong tía đừng giận. Chắc chắn có ngày con sẽ trở về. Huỳnh Văn Bé Sáu. Tờ lịch đến nay ông Tám vẫn giữ dưới đáy khạp và, thoáng chốc mới đó mà đã hơn mười năm.
3.
Thằng nhỏ ngoài mui ngủ lúc nào chẳng hay. Nắng nghiêng bóng che mát cả người nó, "con chim" vẫn hồn nhiên chìa lên trời. Cái chong chóng tiếp tục quay mòng. Gió lớn hơn, lá rụng nhiều, cây còng đang mùa thay lá. Trong mui, cuộc nhậu đã tàn, hai người chuyển sang uống trà quạu.
- Nói đi, có phải hồi đó chú mầy chịu hổng xiết cái bịnh tương tư, nên bỏ qua đi tìm... - Ông Tám nói. Sáu Giang Hồ mỉm cười, cái bớt vắt chéo trên chân mày mắt trái đỏ au y tôm luộc:
- Tía biết tỏng rồi còn giả bộ!
- Rồi có gặp không?
- Dạ có, tía Sophi coi vậy nhưng khó dàn trời, ban đầu ổng nhứt định không chịu, riết con mới làm ổng... mê. Chốc, Sophi đã một lần... gãy gánh nên ổng...
- Chú mầy lấy lòng ổng bằng mấy ngón tay ra dấu hả?
- Dạ không, bằng sự cần mẫn kiên trì bám riết. Chuyện dài lắm, ly kì lắm, nhưng tóm lại là...
- Là... sau cùng chú mày cũng cho con nhỏ cái nó cần?
- Dà!
- Một đứa con để tha hồ ru hỡi ru hời thay vì con búp bê bằng mủ?
- Đại để vậy không chỉ một mà tới hai đứa. Tụi con ăn nên làm ra, và sống rất hạnh phúc, nhưng rồi... - Cảm thấy trái tim cơ hồ bị bóp nghẹt bởi bàn tay phải gió nào, ắng lặng giây lát, hắn lái câu chuyện sang ngõ khác: - Con quả có tội lớn, xưa đã có lần con nói với tía con là thằng hèn, hơn mười năm qua con lại là đứa bất nghĩa không một lần về thăm tía, may mà tía...
- Ờ, may mà qua chưa về quạt nước pha trà hầu tiên tổ dưới chín suối. Chú mầy còn bất nghĩa cả với thằng con trai, thằng Cu Hùm.
- Ơn trời, con đã gặp nó rồi!
Hôm tình cờ gặp Út Cưng ở quán bà Ba Xuân ngoài Bến Củi, dù tránh mặt, nhưng rồi hắn cảm thấy không thể không biết tí tin tức nào về nàng, bèn hỏi bà Ba. Bà này chẳng biết gì nhiều, chỉ nói một cách hờ hững: - Nghe đâu nó ở tuốt trong Rạch Gừa!
Rạch Gừa không hề xa lạ. Đó là nơi ngày xưa hắn rất ngại ghé, bởi mỗi lần thấy mặt là bà Chín Cải lại kiếm cớ chửi chó mắng mèo, xàng thúng đụng nia, rủa xiên mắng xéo, thở vắn than dài rằng nhà bà vô phước, có mỗi mụn con gái rượu sau năm thằng con trai chẳng ra gì, nó lại vớ nhằm đứa đầu trộm đuôi cướp.
Trong căn nhà lá trống trước trống sau, nắng xế trưa dọi qua những lỗ thủng trên mái trên vách đổ xuống mặt sàn ẩm hàng loạt hột gà dẹt, tròn, méo, dị dạng. Trên chiếc giường tre trải manh chiếu cũ, thằng Hùm nằm thu người dưới tấm mền chỉ cũ sờn, dù đã mười bốn tuổi trông nhỏ thó giống đứa trẻ lên chín, mở mắt thao láo trông lên mái lá như thể trông chờ phép lạ nào đó sẽ đến từ cái thiên đường hư ảo trong những truyện kể đêm đêm của mẹ nó và, phép lạ đã đến với nó thật. Chẳng phải đến từ cái nơi có hoa thơm cỏ lạ, cây trổ toàn bánh kẹo, lủng lẳng đủ thứ đồ chơi, lắm thức ăn thức uống ngon lành dành cho những thiên thần xinh ngoan vân vân thoắt ẩn thoắt hiện trên chín tầng mây, mà đến từ những bước chân của Sáu Giang Hồ bước qua khung cửa ọp ẹp mở toang hoang suốt bốn mùa. Thoạt nghe tiếng chân, nó thoáng giật thót, chõi mạnh tay cố nâng nửa phần người phía trên nhổm lên, nghểnh cái cổ ốm o, dài ngẳng trông ra, khẽ nhíu đôi mày thơ dại hỏi khẽ:
- Ai đó?
- Cu Hùm có nhà không?
- Tui là Hùm đây, ông... ông...
Thằng nhỏ giương mắt nhìn ông khách chẳng có dấu ấn nào trong kí ức nó.
- Ba đây, ba của con đây!
Thấy thằng nhỏ chẳng tung mền bật dậy, chỉ động đậy mặt mày đã co rúm lại một cách đau đớn, hắn rảo bước tới, vẻ mặt thiểu não của Cu Hùm khiến hắn gần như sụp xuống, quỳ móp bên giường.
- Con bịnh hay sao vậy?
- Con bị... liệt mất rồi! Cu Hùm nở nụ cười méo xệch.
Khựng sững, bất động một giây, hai giây rồi ba giây... Sáu Giang Hồ bưng mặt khóc tấm tức. Tiếng khóc cố nén tải ngầm sự đau khổ cùng cực làm chuyển rung cả ngôi nhà lá. Tiếng khóc phát từ gã đàn ông dãi dầu sương gió, bặm trợn nghe kì quặc làm thằng nhỏ tật nguyền sợ đến sởn ốc, mếu máo khóc theo. Từ năm lên tám, sau một trận sốt li bì, chứng bại liệt đã làm teo cơ đôi chân tội nghiệp của nó.
- Gặp thằng Hùm rồi có gặp má nó không? - Ông Tám chiêu ngụm nước trà nguội ngắc.
- Dạ có, nhưng cũng kể như không! - Sáu Giang Hồ khẽ lắc đầu - Hôm đó ở chợ về không biết nghe lời của đứa ác khẩu nào, ngỡ con bắt cóc mất thằng nhỏ, Út Cưng lồng lộn đi tìm, gặp hai cha con trong một tiệm cơm, nó la toáng lên, nhiếc mắng đủ điều, quăng trả lại tất tần tật những thứ con mua sắm cho thằng nhỏ kể cả chiếc xe lăn, lôi nó lên xe ôm dông biến. Con gom tất cả các thứ quay lại Rạch Gừa. Út Cưng không thèm mở cửa, cái cửa ọp ẹp chỉ cần đạp một cái là... nhưng con cố dằn nén, để các thứ trước hiên. Hổng biết lóng rày mẹ con nó sống ra sao?
- Thỉnh thoảng qua cũng có gặp nó. Giờ nó bán rau quả ngoài chợ, lam lũ lắm, hổng còn ăn trơn mặc láng như xưa.
- Thằng Mãnh Cụt...
- Tiêu rồi, dễ chừng cũng ba hay bốn năm gì rồi, sanh nghề tử nghiệp mà, nó cho nhiều người ăn dao nên đến ngày tận số dao ăn nó cũng là lẽ thường tình, lẽ công bằng của trời đất. Tay anh chị, gã già nhân ngãi non vợ chồng đột ngột mất đi, cái cửa hàng quần áo ngoài phố bị các mụ vợ lớn vợ bé và con cái của gã lấy lại, sang cho người khác. Con Út đành kéo sắp nhỏ về Rạch Gừa nương náu chỗ bà ngoại chúng, bả cũng "đi bán muối" chết từ năm ngoái rồi.
- Sao tía rành quá mạng vậy?
- Ui, cái thị trấn Cù Lao này nhỏ bằng bàn tay, hổng cần đăng nhựt trình chuyện gì ai cũng biết. Vả lại, tuồng như qua có nợ nần gì với má con nó, hễ gặp là cầm lòng không đậu; khi thì vài con cá, lúc mấy cái bánh gởi con Út mang về cho sắp nhỏ, mà nói cho cùng, gặp con Út qua lại nhơ nhớ chú mầy, tuy chưa chấp thuận ngoài miệng nhưng trong lòng qua đã coi chú mầy là con nuôi... mẹ nó rồi! Ngoài cu Hùm, thằng Mãnh Cụt để lại tới năm đứa ba gái hai trai, nuôi hổng nổi, nó cho đi ở đợ hết, còn thằng Út Chót mới bảy tuổi đã đi bán vé số dạo. Thấy thằng nhỏ mặt mày sáng sủa lanh lợi, qua mang về cho nó tiếp tục ăn học. Cái thằng đang ngủ ngoài ngoải đó, nó mắc ngủ nên nãy giờ qua chưa cho chú mầy hay.
4.
Nửa đêm về sáng. Khu bến chợ có lắm người Việt làm ăn sinh sống trên dòng Bassac - cách thành phố Tà Keo chẳng bao xa - tối đen như mực, đom đóm lập lòe tựa những quầng mây nhỏ khi tán lúc tụ chấp chới, chợt nháng chợt nhòe trong bóng ghe bóng thuyền cặp mạn kề nhau. Không khí tĩnh lặng bỗng bị phá vỡ bởi tiếng máy đuôi tôm đổ dòn, rồi nhanh như cắt, những chiếc xuồng máy chở đầy bọn mặc đồng phục mầu đen, cổ quấn khăn rằn đỏ trắng ập tới. Tức khắc tiếng la hét, tiếng súng ran lên xáo động cả một vùng sông nước. Thoạt tiên bóng tối bị xé nát, băm vụn bởi những tia lửa khạc từ những nòng súng, đèn pin, sau đó bùng cháy thành những đám nhỏ rồi đám lớn. Trong biển âm sắc hỗn độn, ông Thạch Nu khởi động máy, cố đưa chiếc ghe bầu tách ra khỏi "điểm nóng", Sáu Giang Hồ chống sào tiếp sức Sophi và hai đứa nhỏ trùm chăn kín mít, nín khe trong một góc quây kín hàng hóa mà người mẹ cho là an toàn nhất. Nhưng rồi họ không phải là "ngoại lệ" của cơn lốc đen man rợ, khóa chặt không chỉ từng bước mà cả từng hơi thở riêng tư trong ngực họ. Khi chiếc ghe bầu vừa quay ngang tách mũi ra khỏi đám hỗn loạn chừng vài thước, một báng súng từ phía sau vụt bổ xuống gáy Thạch Nu làm ông đổ gục, ngã tõm xuống sông với tiếng thét xé lòng: Sophi! Âm thanh kì diệu, hiếm hoi cuối cùng được bất ngờ cất lên sau nhiều năm tắc tiếng. Cô con gái từ lòng ghe lao ra, chới với lạc giọng gọi cha, nhưng ông đã khuất dưới mặt nước đục ngầu phù sa pha máu. Hai đứa trẻ bíu lấy gấu sà rông mẹ tựa hai chiếc lá mỏng manh và Sáu Giang Hồ, chiếc sào lúc này chỉ là chiếc que tăm làm sao ngăn bọn thú người đang cơn say máu! Buông sào, hắn liều mạng lăn xả vào một tên, tước lấy súng của nó. Cây AR15 trút hết số đạn còn lại trong băng đẩy lùi được một đợt "tiến công", đợt khác lại tiếp tục xốc tới. Trong khói lửa mịt mù, họ khản giọng tuyệt vọng gọi tên nhau, nhưng không thể bao bọc cho nhau được. Trước khi phóng xuống sông bơi lặn thoát hiểm, hình ảnh sau cùng hắn còn thấy được và mãi mãi khắc ghi trong kí ức: Trong bóng tranh tối tranh sáng hỗn mang, hai đứa trẻ bị dằn một cách man rợ ra khỏi tay mẹ chúng, bị túm chân xách ngược quật vào mạn ghe hệt hai con nhái bén tội nghiệp, và người mẹ thích hát những lời ru buồn bị kềm chặt bởi những bàn tay lông lá, bị chúng bóc trần hệt bóc một quả chuối dưới những cặp mắt thú đói, và hàng tràng cười có thể làm đông lạnh máu trong tim của bất cứ người lương thiện nào.
Cái đêm kinh hoàng ấy bao năm rồi vẫn còn nguyên vẹn, không hề phôi pha trong kí ức đã đành, mỗi lần nhớ lại, Sáu Giang Hồ cứ ngỡ mới xảy ra đâu từ hôm qua. Nếu không có những ngày "khổ luyện" bơi lặn ở sông Hậu với ông Tám Chài, đêm hôm ấy hắn đã chìm tận đáy sông Bassac. Và, từ đêm hôm ấy, những tiếng gọi hoảng hốt, tuyệt vọng của ông Thạch Nu, của Sophi và hai đứa trẻ trai lúc nào cũng như bay lượn trong không khí sẵn sàng đáp đậu xuống hắn khiến tim đau, lòng đau cùng nỗi dằn vặt. Sao hôm đó hắn không cùng "nắm tay" vợ con đi sang thế giới bên kia mà lại đớn hèn thoát hiểm một mình để bây giờ sống không ra sống, chết chưa ra chết, cứ vật vờ như cái phao, cái nút chai hèn mọn nửa chìm nửa nổi lênh đênh trên bề mặt biển đời, hay bể trầm luân - như sư Huệ Đức từng gọi - luôn luôn cuộn sóng thế này?! Đôi khi hắn lại tiếc giá như đừng gặp ông Tám Chài, chẳng gặp Sophi mà đã chết dưới tay Mãnh Cụt, hoặc vẫn tiếp tục là thằng đầu trộm đuôi cướp, hở tí là giương nanh múa vuốt... lưu manh!
Nỗi dằn vặt và những đôi khi ấy sắp từ bỏ hắn vĩnh viễn? Mặt trời nống vòng sáng mỗi lúc mỗi rộng hơn ở đằng đông. Mặt nước sông Hậu phẳng lì như thể đêm qua sóng rủ nhau đi chơi đâu đó chưa về kịp. Ngồi bó gối đằng lái, Sáu Giang Hồ dõi mắt chờ những tia nắng đầu ngày với cảm giác được khói sóng vuốt ve không chỉ xác mà cả hồn.
Lặng lẽ nhưng vô cùng lẫm liệt, mặt trời từ từ nhô lên hệt một quầng máu tươi roi rói. Không còn bao lâu nữa mình sẽ chẳng bao giờ thấy lại mặt trời!? Buồn bã nhủ thầm đoạn hắn đứng lên trông hút vào vòm mui, trong đó ông Tám và thằng Út Chót vẫn ngon giấc, rồi cái nhìn cất ngược lên tán còng đã già cỗi hơn xưa, hình như những lời ru buồn của Sophi lẫn những tiếng gọi tuyệt vọng vẫn còn rì rào, rì rào sau những tờ lá đẫm sương, mỗi tờ lá là một con mắt đăm đăm dõi về phương nào xa diệu vợi!
Mặt trời lên cao hơn, "máu" tràn lênh láng, mầu đỏ tươi loãng dần thành nắng đổ sấp chiếc bóng dài ngoằng của hắn mất hút vào gốc còng cổ thụ. Gã đàn ông rời ghe lên bến, đầu cúi rũ, hai tay thọc sâu túi quần, thong thả bước hệt một người nhàn hạ.
5.
Chợ vãn người. Út Cưng loay hoay xếp gọn mớ rau quả, rảy nước cố níu giữ sự tươi tốt cho chúng dưới những tia nắng như kiếm bổ từ mặt trời đứng giữa hồng tâm giờ ngọ. Ông Tám Chài đến nghiêng sát, nói nhỏ:
- Vô quán nước, có chút chuyện.
Thoáng ngỡ ngàng, Út Cưng thấp giọng:
- Bộ có gì quan trọng sao chú Tám?
- Tao có huỗn đâu mà đi kiếm bây giữa trưa đứng bóng như vầy!
Ông già tóc râu bạc trắng quảy quả bước đi. Út Cưng nhờ bà bạn hàng ngồi ngáp vặt bên cạnh trông hàng giùm, lẽo đẽo theo sau. Họ vào một quán nước bên hông chợ tương đối vắng, nhạc boléro hải ngoại nhừa nhựa ru ngủ không chỉ ông chủ trẻ áo trạc ngực phô hình xăm gái lõa thể trên ngực, mà cả lũ ly tách chai lọ, những cô diễn viên điện ảnh, ca sĩ, người mẫu thời trang... trên những tấm áp phích quảng cáo mầu mè lòe loẹt dán gần như kín cả bốn mặt tường. Uống ngụm đá chanh quậy chưa tan hết đường, ông Tám nói:
- Nghe bây đối xử không đẹp lắm với ba thằng Hùm phải không Út?
- Dà, thì cháu... - Út Cưng ấp úng: - Mà sao chú Tám biết?
- Hổm rày thằng Sáu ở chỗ qua chớ đâu! Chuyện xưa bây bỏ nó trong lúc tù tội theo thằng Mãnh chắc bây chưa quên?
- Chú nói tội cháu, hồi đó cháu bị anh Mãnh ép buộc, dọa dẫm đủ điều...
- Ờ, nó mang vàng bạc lót dưới lưng bây cho êm đặng ép bây ăn nằm đẻ son sòn năm một chớ gì? Chà, cực quá hèn!
Người đàn bà xấu hổ cúi gầm mặt, đưa ly lên định uống ngụm cà phê đá, ngập ngừng, lại đặt ly xuống, khoan xoáy cái nhìn bắt nọn vào ông Tám:
- À, cháu biết rồi, chắc ba Cu Hùm nhờ chú biểu cháu quay lại với ảnh?
- Đừng tưởng bở nghen con! Hổng có thằng đàn ông nào ngu dại đi hốt ổ một gái nạ dòng với sáu con về mà nuôi báo cô đâu, bộ bây tưởng bây còn sắc nước hương trời lắm chắc?
Út Cưng ngượng chín, câu nói "phũ phàng" của ông già sông nước khiến nàng tưởng chừng những phần da kín vụt bị bóc trần phơi lồ lộ hệt những cô thời trang mặc đồ tắm nẩy ngực ngoáy mông trên tường kia. Ông Tám tiếp tục cái giọng nửa câng câng, nửa lành lạnh làm người nghe phát... ớn:
- Nghe bây sợ thằng Sáu bắt cóc Cu Hùm à?
- Dà, dù có cực gấp trăm ngàn lần nữa, cháu cũng không thể xa con của cháu được.
- Theo chỗ qua biết thì nó hổng có ý định đó đâu.
- Vậy ảnh muốn gì?
- Gặp lại, để coi bây đối xử tàn tệ tới cỡ nào!
- Nãy giờ cháu nghe đã đầy tai, mong chú thương tình đừng chửi cháu nữa, tội nghiệp. Nói đi, chú tìm cháu có chuyện gì vậy? Cháu không đến nỗi tàn tệ như chú nghĩ đâu - Út Cưng bưng mặt khóc òa, nước mắt ràn rụa qua kẽ những ngón tay hình như chẳng trong mà vẩn mầu cay cực, buồn tủi.
Dù rủa thầm trong bụng: "Hừm, nước mắt cá sấu!" nhưng rồi ông Tám cũng chợt hối về giọng lưỡi cay độc của mình vừa rồi, bèn dịu giọng:
- Thiệt tình thì, thằng Sáu cũng hổng oán trách gì bây đâu.
- Dà, cháu biết ảnh rất thương thằng Hùm. Nhưng cháu nghĩ, lỡ làng cả rồi, ly nước hắt đi khó bề hốt lại... Dạo này ảnh sống ra sao hả chú?
- Nghe đâu từ hồi năm nẳm, nó sang Campuchia sinh sống mần ăn, vợ con không may bị bọn Pôn Pốt giết sạch, nó trốn thoát, nhưng nghĩ máu thịt oan hồn vợ con vẫn ở bên bển, quay về xứ không đành, nó bèn ở lại đi kiếm ăn lớ ngớ, bị lùa vô trại lao động cải cách hay cưỡng bách gì gì đó hút chết, may sao có một ông người gốc Hoa giàu sụ thương tình bảo lãnh ra, mướn nó mần vệ sĩ. Ông này mần chủ tới sáu, bảy cái khách sạn loại sang, lại có máu mê cờ bạc, theo hầu riết nó cũng đâm ra thạo nghề đổ bát, nổi tiếng là con bạc xuất quỷ nhập thần. Ông chủ gốc Hoa mất đột ngột vì bị nhồi máu trong một ván bài tiền đặt cược cả triệu đô la. Sau đó nó được bà chủ tin cậy, cho trông coi một khách sạn nhà hàng kiêm luôn sòng bạc... Ôi dào, nó kể lớt phớt, qua cũng chỉ nghe qua loa, không tin lắm, nhưng giờ thì tin nó đúng là... - Ông Tám ngưng bặt, Út Cưng bửng lửng, sốt ruột:
- Đúng là gì hả chú?
- Thì là.... đúng, nó đúng là một ông chủ!
Cơ hồ biến thành kẻ nào khác, ông Tám trịnh trọng đảo mắt ngó quanh, tưởng chừng không chỉ những cặp mắt trong quán, trên các mặt tường mà cả những cái nhìn vô hình nào đó trên khắp thế giới đang lom lom găm vào mình, đoạn trịnh trọng kêu tính tiền, trịnh trọng đứng lên, trịnh trọng rảo bước về phía mấy chiếc xe lôi đậu bên kia đường. Đáp lại đôi mắt xoe tròn kinh ngạc của Út Cưng, ông trịnh trọng nói gần như thì thầm:
- Không thể nói ở ngoài đường ngoài sá được, về chỗ qua, hổng biết thằng Út Chót có bỏ ghe đi chơi không, sao nóng ruột quá vầy nè!
Về tới bến Cây Còng, ông Tám yên lòng khi bước lên ghe thấy Út Chót nằm sấp trên sạp ván đọc truyện tranh. Nựng nịu, hôn hít thằng nhỏ, dúi cho nó mấy ngàn rồi Út Cưng theo ông Tám vào góc bếp đằng lái. Trước đôi mắt xoe tròn của người đàn bà lam lũ, ông trịnh trọng mở nắp cái khạp da bò lấy ra hai bó tiền buộc gọn bằng dây thun, toàn tiền mệnh giá 100.000. Một bó dày cỡ cục gạch ông có dán mẩu giấy ghi Kính biếu tía của con, và bó kia dày gấp đôi kèm dòng chữ Của má Cu Hùm và sắp nhỏ.
Chẳng tin vào mắt mình, Út Cưng cố nén kinh ngạc:
- Mèng ơi, tiền thiệt hay giả mà nhiều quá vậy nè?
Có lẽ từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới giờ, bữa nay mắt ông Tám mới tràn ngập ánh vui đến thế:
- Thiệt chớ!
Tương tự, có lẽ từ lúc lọt lòng tới giờ, Út Cưng mới thấy được một bó tiền to nặng đến dường ấy, thực mà cử ngỡ như đang mơ, nửa ngờ nửa tin.
- Chú Tám đừng hù cháu tội nghiệp nghen! Có thiệt là... là tiền của ảnh gởi lại hay là...
- Hay là tiền Hà Bá dưới sông chắc! Còn ai trồng khoai đất này nữa! Hồi năm năm, trước khi bỏ đi biền biệt nó cũng bỏ vô cái khạp này mấy dòng chữ hẹn chắc chắn sẽ về. Lần này nó lại mượn cái khạp mần hộp thơ. Chậc, cái thằng thiệt là... à, mà sao lần này hổng thấy nó hẹn về gì cả vậy cà!?
6.
Chùa tọa lạc ở lưng chừng một sườn đồi đất đỏ miền Đông, ẩn khuất dưới tán si cổ thụ, bốn mùa râm bóng. Mái ngói cũ kỹ oằn nặng cơ man nào là năm tháng, tường rêu bạc mầu nắng mưa lưu cữu. Từ chánh điện đến hậu liêu, các khám thờ, tượng thờ, bàn ghế, hoành phi câu đối, cây kiểng... khoác chung vẻ dung dị trầm mặc, không xanh đỏ tím vàng lòe loẹt giống các chốn Phật đường nơi phồn hoa đô hội. Vài ông sư, dăm chú tiểu, người lặng lẽ như những họa tiết phác thảo điểm vào cảnh u tịch những nét sinh động từ tốn khiêm cung. Nơi này ngăn cách với thế giới "chúng sinh" ồn động bên ngoài cả một cánh rừng cao su bạt ngàn, các đạo hữu ở xóm nhà gần nhất cũng phải hành hương qua chừng sáu bảy cây số mới đến được chùa để lễ bái, nên quanh năm ít khách thập phương lui tới. Có phải vì vậy mà khi thoạt thấy chiếc Toyota mang biển số Campuchia lấm bụi dừng lại trước cổng, sư trụ trì Huệ Đức vội vàng ra đón? Không hẳn thế, ông vui mừng vì gặp lại một khách thân.
Sư đưa khách vào hậu liêu. Trà nhanh chóng được mang ra. Họ ngồi đối ẩm trên sập gụ. Gió từ ngoài vườn lan luồn qua các ô cửa nghịch những chùm phong linh phát hàng chuỗi kính coong nghe vui tai, thanh thoát như thể chúng được gảy từ chiếc đàn nào tận thinh không bay lạc tới chốn này. Thong thả uống cạn một tuần trà, sư nheo mắt ngắm khách.
- Con quả đúng hẹn, thầy đinh ninh thế nào con cũng ghé. Đi miền Tây về lúc nào?
- Dạ, trưa nay, về tới Sài Gòn, ghé bịnh viện xong là con đi thẳng đến đây.
Có vẻ bị dị ứng sao đó với cái bệnh viện Sáu Giang Hồ vừa buột thốt, sư Huệ Đức khẽ nhíu mày.
- Sở nguyện ở miền Tây con đã làm xong chưa?
- Dạ rồi!
- Họ còn sống và an lành cả chứ?
- Dà, ông Tám cũng thường dù đã già quắt như trái khổ qua, nhưng vợ cũ, đứa con trai của con và sắp nhỏ con của người chồng sau thì... khổ lắm.
- Con có cho họ biết nguyên do và mục đích chuyến về của con không?
- Dạ không?
- Sao vậy?
- Thấy không tiện, bạch thầy!
- Bất cứ chuyện gì, rõ ràng minh bạch vẫn hay hơn chứ!
- Nhưng lòng vợ cũ con giờ đã khác, người lâu nay con vẫn coi là cha nuôi thì con không đành lòng cho ổng biết sự thật.
Tiếng chuông gió vẫn tiếp tục thánh thót, hương lan tỏa nhẹ từ vườn vào tinh khiết đến hư ảo, nhưng bầu khí bỗng chùng nặng giữa hai người.
- Hãy coi mọi chuyển biến trên đời này là lẽ tự nhiên của vô thường, con sẽ thấy lòng nhẹ hơn.
- Trước đây để quên đi bi kịch bất hạnh của gia đình, con lao đầu vào công việc như điên, nhưng thân xác rã rời, cái đầu vẫn tỉnh táo không thể diệt trừ được ác mộng, con phải khổ sở chống chọi với chúng gần như hàng đêm. Đã đến lúc...
Thoáng tuyệt vọng làm tối sầm vẻ mặt ông khách, sư Huệ Đức châm trà thêm vào tách, điềm tĩnh nói:
- Đừng có lúc nào cũng sẵn sàng đầu hàng hay chủ bại. Nhớ không? Đã từng có lúc bị đối xử như thú vật, loi ngoi lóp ngóp tưởng đã xong đời, thế mà con cũng giũ được bùn và máu mủ tanh tưởi đứng lên.
- Thầy chợt nhắc khiến con chợt nhớ, có một chuyện hàng bao nhiêu năm con định bụng sẽ xin lỗi thầy rồi cứ quên đi.
- Chuyện gì?
- Cái hồi thấy bị kiết lị nặng ở trại Phnom Srais người chỉ còn nắm xương, con đã lén bắt cóc nhái, tắc kè sấy khô tán thành bột để thầy ăn cho lại sức ngại thầy sợ phạm tội ăn mặn, con đã nói dối là bột đậu nành pha củ năng.
- Tưởng gì, thầy biết nhưng tảng lờ để còn được sống. Vả lại, ở thời buổi lao động khổ sai, thuốc men chẳng có, gạo và muối hiếm hơn vàng thì cũng đành phải "phá chấp" thôi.
- Vậy thì con hiểu rồi, Thầy đã "phá chấp" đến độ khai với bọn chúng thầy là người Hoa thay vì người Việt.
- Ờ họ ghét cay ghét đắng người mình mà, thầy lại nói được tiếng Hoa nên... Chắc, gặp thời thế thế thời phải thế... thôi. Nhưng nói thì nói vậy, đến hết đời ngoài những tội nhỏ nhặt ấy, còn biết bao là tội nữa thầy phải sám hối.
- Thầy đã vậy thì bọn phàm phu tục tử như con phải sám hối cả ngàn kiếp may ra...
- Lại bi quan! - Sư lắc đầu - Phải trì chí hơn mới được. Theo thầy thì thời gian qua con đã thắng. Không thắng sao mang được hàng tỉ đồng từ Campuchia quay về giúp trẻ mồ côi, cơ nhỡ, các cụ ông cụ bà neo đơn, và giúp những người thân!
- Bạch thầy, đó chỉ là chút muối bỏ biển. Trước đây công việc và thời gian là hai trợ thủ đắc lực giúp con rất nhiều, nay thì con không con thời gian nữa, giữ tiền bạc cũng chẳng để làm gì.
Dẫu có vòng vo né tránh cách nào cũng đã đến lúc không thể không nhắc đến sự thật đang làm bận lòng cả hai người.
- Vừa rồi ở chỗ bệnh viện người ta nói thế nào?
- Phải nhập viện trước khi quá muộn!
- Muộn là bao lâu?
- Không bao giờ người ta cho bịnh nhân biết cái điều tối kỵ ấy, nhưng con biết thời gian sống của con bây giờ chỉ còn tính bằng tuần hoặc ngày.
- Con nên nghe theo chỉ định của các thầy thuốc. Đi ngay thôi, thầy sẽ đi cùng con.
- Có ích gì đâu, bạch thầy! Chuyến về này con đã làm xong sở nguyện của mình, con tính chuẩn bị chuyến đi... cuối cùng sớm hơn, trước khi bị nó quật ngã.
Cơ hồ hóa tượng trong giây lát trầm tư, đoạn sư vụt bừng tỉnh:
- Có nghĩa là... con muốn tự sát trước khi bị nó hành hạ, thậm chí... hành quyết? Không, đừng, còn nước còn tát chứ, ai lại...
- Nhưng, bạch thầy con vốn là một thằng hèn đủ thứ, đặc biệt chịu đau rất dở.
- Kẻ tự bóp chết, cắt đứt sự sống của chính mình tệ hại hơn một kẻ hèn, là một kẻ sát nhân!
Sư Huệ Đức đứng lên, bước lui tới, mày cau ríu lại hốt nhiên trông già sọm hệt ông già tám mươi chứ không phải chỉ mới ngoài sáu mươi.
Nhanh thật, mới đó mà đã bao nhiêu năm trôi qua. Thời ấy sư còn là đại đức trẻ, tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, giảng dạy môn triết Đông ở trường đại học Vạn Hạnh. Vốn ham mê ngôn ngữ học, sau Anh, Pháp và Hoa ngữ tương đối thành thạo, được Giáo hội trợ cấp học bổng, sư rời Sài Gòn lên đường xuất dương sang Ấn Độ nghiên cứu chữ Phạn rồi đến Campuchia học tiếng Khmer và chữ Pali - ngôn ngữ dùng trong Kinh sách Phật giáo của xứ sở này - tại một ngôi chùa lớn ở trung tâm thành phố Phnom Penh. Khóa học sắp hoàn tất thì xảy ra đại họa Khmer Đỏ, chùa chiền bị dẹp bỏ, sư sãi cũng chỉ là những công cụ lao động như hàng bao tín đồ của họ, bị dồn ra khỏi thành phố về các vùng nông thôn, bị lùa vào các trại lao động cưỡng bách đào mương đắp đập, sản xuất lúa, biến rừng hoang thành đồng trồng bông vải, thi hành bất cứ loại lệnh lạc nào của Angka Leu (2), thường trực bị hành hạ bằng roi vọt, báng súng, đói lạnh, bệnh tật, đa số trở thành mồi ngon của các đại dịch bệnh như tiêu chảy, kiết lị, phù thũng, suy kiệt thể xác lẫn tinh thần. Những ai bị kết tội phản động, không bám kịp hoặc đi ngược dòng "bánh xe lịch sử" thì bị xử tử công khai với thao tác thi hành án tiết kiệm đạn dã man: Dùng những công cụ hiền lành của nông dân, của đồng ruộng như lưỡi cuốc, lưỡi mai nhân danh cách mạng đập thẳng cánh vào gáy hoặc đầu nạn nhân, rồi hất thây xuống hố chôn trước đó chính họ đã đào sẵn. Sư không thể nhớ nổi mình đã trải qua bao nhiêu trại lao dịch từ Phnom Srais, Phnom Korg đến Year Piar, và các làng mạc rải dọc dòng sông Bassac hiền hòa ấy, đã từng suýt chết đói biết bao nhiêu bận, đã từng vượt qua những lần bệnh chí mạng ra sao!
Hồi mới vào trại tập trung, bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết thảm của ông Thạch Nu và vợ con, hễ thấy bọn mặc đồng phục đen, cổ quấn khăn rằn đỏ trắng ở bất cứ đâu lập tức Sáu Giang Hồ nghe tim bị bóp nghẹt, lòng nghẹn ứ uất hận, và mắt vằn ánh căm thù. Thỉnh thoảng hắn lên cơn hoảng loạn, buông bỏ cuốc xẻng giữa giờ lao động, vắt giò lên cổ chạy thục mạng, khóc lóc van lạy "đừng giết tôi, xin đừng giết tôi!" đoạn cười sằng sặc, có khi đang đêm chợt thức, bỗng cất tiếng sủa, tru lên như chó sói, hoặc thình lình nhào xuống sông, mương bơi lặn hệt rái cá hàng giờ. Ngoài những lúc lên cơn, hắn cần mẫn làm việc năng suất gấp hai ba người khác, đặc biệt rất kiệm lời. Có lẽ nhờ thế mà hắn được Angka giả ngơ, không "xóa sổ". Sư Huệ Đức luôn cầu nguyện cho tâm thần hẳn sớm tìm thấy lại sự cân bằng. Chẳng rõ có được Phật phò hộ độ trì hay không mà Sáu Giang Hồ bất giác tỉnh táo trở lại sau một sự cố ai cũng cho là lạ lùng: Hôm ấy có hai người chung trại bị xử tội trộm cá khô của bếp ăn tập thể và mưu toan đào thoát qua biên giới. Cam - Thái. Theo thông lệ, họ phải tự đào huyệt cho mình trước khi bị hành quyết, nhưng cả hai suy kiệt đến độ không thể động tay hay nhấc chân nổi. Sáu Giang Hồ bị chỉ định làm thay.
Đào xong chiếc hố đôi vã mướt mồ hôi, được thưởng một điếu thuốc, hắn điềm tĩnh hút thuốc thở khói, điềm tĩnh cùng bao người khác đứng chờ "thị phạm" phút cuối cùng của hai kẻ xấu số, và rồi hắn không thể điềm tĩnh được nữa khi hai nhát cuốc vung lên, hai cái thây bị bịt mắt đổ xuống. Sau tiếng thét xé lòng, hắn ngã ra bất tỉnh, mê man đến hai hôm sau mới choàng thức, ngơ ngác như thể từ hành tinh nào lạc tới. Từ đó những cơn hoảng loạn không còn nữa, mọi người trong trại kháo nhau, rằng những hồn ma vía quỷ náu ẩn trong hắn đã được hai tử tội bắt mang theo về địa phủ để hắn được bình yên, họ đền ơn hắn đã ra sức đào cho họ một chỗ nằm tử tế cuối cùng nơi trần thế!
Vào những ngày đen tối ấy, dù chênh lệch tới hơn mười tuổi đời, sư Huệ Đức và hắn đã trở thành đôi bạn thân. Một ông sư học thức đầy mình, xuất thân từ cửa Phật kết giao với gã giang hồ gốc gác mồ côi, cựu học sinh dở dang của trường Dòng, từng ẵm cả đồ thờ bằng bạc của nhà Chúa bỏ trốn đi bụi đời... Thoạt tiên từ lời ăn tiếng nói đến cung cách ứng xử giữa hai người có sự lựng khựng, khập khiễng, riết rồi cái khổ, cái đau, cái đói đã như những sợi dây vô hình ràng buộc họ cùng mối đồng cảm sâu xa của những tội đồ bị đạp xuống tận đáy địa ngục, cần phải tựa vào nhau để tồn tại, nuôi hy vọng sống còn. Hắn luôn đỡ đần sư trong các công việc lao động nặng, sẵn sàng sẻ chia, nhường từ miếng ăn đến hớp nước nhỏ, bao giờ cũng với thái độ hết sức tôn kính. Sư bù vào lỗ hổng kiến thức của hắn khá nhiều điều ông đã học hỏi, chiêm nghiệm từ cuộc sống trong lẫn ngoài cửa Thiền, cả những tinh hoa gạn lọc từ kinh sách triết học, Phật học. Có lúc sư quên bẵng hắn chỉ là đứa phàm phu tục tử, đầu óc gần như mít đặc, cứ huyên thuyên thuyết giảng để rồi ngẩn cả người khi chợt phát hiện hắn đã ngủ từ lúc nào chẳng hay, hoặc lơ mơ thả lỏng tâm trí tận đẩu tận đâu, ông đành mỉm cười mà rằng, ờ thì mình nói cho đỡ nhớ Thiền viện? trường lớp và lũ môn sinh không biết lúc này đã đi đâu về đâu cũng chẳng sao!
Ngày nọ, vận may - có mơ cũng không thể thấy - bỗng đến với Sáu Giang Hồ từ một người Campuchia gốc Hoa giàu sụ: Đại gia Basaka, vốn chơi thân với bọn chóp bu ở trại lao động. Trong đợt đội tạp vụ của trại được cắt cử đến tu sửa lại ngôi vườn, hồ bơi rộng mênh mông ở biệt thự của ông ta, hắn đã "lọt vào mắt" ông chủ lớn ấy, sau đó không những được bảo lãnh ra khỏi trại mà còn được mướn làm vệ sĩ vân vân và vân vân, như ông Tám Chài từng kể với Út Cưng.
Gần tám tháng sau ngày Sáu Giang Hồ ra khỏi "địa ngục", sư Huệ Đức và cơ man nào là nạn nhân cùng cảnh ngộ khắp đất nước Campuchia mới được quân đội Việt Nam giải thoát. Và, bây giờ hai người lại gặp nhau, nói như sư thì bởi vì, họ đã lỡ có duyên nghiệp với nhau đâu từ kiếp trước! Cái gã trai trẻ có lúc mất trí đã hồi phục được tâm trí, cái gã lầm lì đương đầu với bao khổ nạn dọc đời, ham sống ngày ấy, giờ buông xuôi, chán sống rồi sao?
Mặc ngày mỗi lúc mỗi xế bóng ngoài cửa, tiếng chuông gió không ngơi nghỉ, và hương lan dìu dịu kín đáo len vào tận các ngõ ngách lòng người, sư Huệ Đức tiếp tục bước hết chiều ngang đến chiều dọc hậu liêu, không chỉ đôi mày cau ríu lại mà hình như cả hồn lẫn xác sư cùng đắm vào suy tưởng. Mãi đến lúc khách đã kiếu từ ra về sư vẫn chưa dừng bước.
7.
Tay anh chị miệt vườn hoàn lương, kẻ bị tình phụ, ngư dân kiêm nghề mò xác, lái buôn đường sông, nạn nhân của Angka, con bạc xuất quỷ nhập thần, ông chủ Casino Ritz- Battambang, kẻ tự nhận mình là thằng hèn, con bệnh ung thư giai đoạn cuối; thực hiện chuyến đi cuối cùng của đời mình vào một đêm đẹp trời. Chiếc Toyota mang biển số Campuchia lấm bụi lặng lẽ rời đường lớn rẽ vào vạt rừng cao su bạt ngàn, dừng lại cách chùa Tĩnh Tâm Tự chừng hơn cây số. Máy xe vẫn nổ, đèn tắt ngấm, cửa kính được quay kín, ngưng hệ thống thông gió, máy điều hòa điều chỉnh độ lạnh tối đa và, trong bóng tối đặc quánh, hắn nhắm mắt lại nghe những lời ru buồn ngày xưa người vợ quá cố thường hát vẳng từ ổ máy CD nhỏ nhẹ vang trong bầu khí mỗi lúc mỗi cạn kiệt dần ô-xi, điềm tĩnh chờ thần chết mang mình qua khỏi biên giới mong manh giữa Sống và Hủy diệt. Trong khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mà dài dằng dặc ấy, lặng lẽ mà bạo liệt ấy bao kỷ niệm buồn vui sướng khổ, cay đắng lẫn ngọt bùi lũ lượt hiện ra, thoạt tiên chậm, sau dồn dập hàng hàng lớp lớp, hết đợt sóng quá vãng này tiếp lớp sóng quá vãng khác cuồn cuộn, cuộn siết chồng lấp nhau, cùng triệu triệu huyết quản li ti, tỉ tỉ tế bào đang hoặc sắp tan vỡ tranh nhau hô vang vĩnh biệt, vĩnh biệt! Rồi tất thảy hốt nhiên rút tạnh, chỉ còn mỗi lời ru độc chiếm. Giữa lúc tâm trí đẫm ngát lời ru buồn não nuột, hắn chìm dần vào hôn mê thì ở băng, ghế sau bỗng vang lên tiếng la hớt hải của Cu Hùm:
- Lạnh quá ba ơi, con chết mất!
Thằng nhỏ mở nhanh chuốt cửa, và sau cú máy điện thoại di động nó gọi cho sư Huệ Đức, Sáu Giang Hồ không thể bỏ ngoài tai sự van nài của đứa con tật nguyền, không thể cắt ngang nghiệp chướng, chuyến đi cuối cùng đành bỏ dở.
Làm thế nào "cài" được Cu Hùm vào chuyến đi chết chóc để nó can ngăn kịp lúc một người chán sống, đau đáu với ý định trở thành kẻ sát nhân của chính mình? Tôi - người kể lại câu chuyện này - hỏi sư Huệ Đức. Ông nói:
- Phàm là khi làm bất cứ việc gì với bằng hết thiện tâm thì lòng và trí huệ của ta sáng hẳn lên, sắp đặt mọi chuyện đâu vào đấy. Vả lại, vào giờ ấy ngày ấy chưa phải là thời điểm tận số của Huỳnh Văn Bé Sáu.
Bà Chị Mắm Tôm
"... Đã là con gái,
"Đến tuổi dậy thì ì..ì..
"Cô nào trông... cũng... đẹp!... "
Tôi vừa nghêu ngao ê a những câu thơ, vừa cảm phục nghĩ rằng không biết những câu thơ này của ai và tôi đã thuộc lòng từ bao giờ. Hôm nay bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến, ngâm nga một cách thích thú và cảm thấy nó đúng vô cùng. Càng đúng hơn nữa, khi mà- lúc này tôi lại hay nghĩ đến Kim, cô bé Gia Long có đôi mắt tròn đen ngây thơ vô tội vạ mà tôi mới gặp hai tuần trước trong chiến dịch quyên góp cứu trợ nạn lụt miền Trung. Thích chí quá tôi buột miệng:
- Chí lý! chí lý! đã là con gái thì đẹp là cái chắc. Lại đến tuổi dậy thì nữa thì cô nào mà chả đẹp! Thật là đúng! Đúng không thể chê vào đâu được. Hoan hô nhà ông thi sĩ đại tài!
Nhưng, sau khi thốt ra câu cuối cùng tôi bỗng khựng lại một giây và cảm thấy có một cái gì bất ổn. Vâng, đúng vậy. Ở đời luôn có những cái NHƯNG quái ác, những định luật bất quy tắc vì tôi liên tưởng đến Mai và Tuyết, hai đứa em gái của tôi. Nghĩ đến hai đứa em tôi, tôi mới thấy rằng cái nhà ông thi sĩ nào đó đã có những câu thơ mà mới vài phút trước đây tôi cho là bất hủ, là chí lý, là đúng thật là đúng thì bây giờ, trong trường hợp này nhà thi sĩ ấy lại sai thật là sai!
Thật ra hai đứa em gái tôi không được đẹp cũng chẳng phải là lỗi của chúng nó mà thật sự là lỗi tại tôi. Nghe các cụ nói: khi người mẹ mang thai nếu nghĩ đến hay thương mến ai thì đứa bé trong bụng sẽ giống người đó. Vậy là khi mang thai các em tôi, mẹ tôi chắc phải thương mến tôi ghê gớm nên bọn nó giống tôi như đúc.
Ông bà cụ nhà tôi không chỉ là những người sành tâm lý mà lại còn biết tiên đoán cả chuyện tương lai và rất giàu kinh nghiệm nên đã "trông mặt đặt tên" cho hai đứa em tôi. Các cụ biết trước rằng đứa em lớn của tôi sau này nó sẽ rất đồ sộ nguy nga nên đặt tên cho nó là Mai. Một cái tên thôi, đủ nói lên những kỳ vọng mà cha mẹ đặt để ở con mình. Đặt tên con gái là Mai, cha mẹ tôi đã hy vọng là khi lớn lên, con mình có cốt cách của một cành mai "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" hay "mình hạc xương mai".
Nhờ kinh nghiệm của những năm làm cha mẹ nên điều tiên đoán ấy thật quả không sai một tý nào. Mai càng lớn càng... xổ sữa. Đến khi được mười sáu tuổi thì nó đã sổ sữa đến mức tận cùng. Thế là điều mong ước mà ông bà cụ nhà tôi ước mong nơi Mai thì đã bất thành. Chắc là lúc tâm niệm, cha mẹ tôi đã không coi ngày nên chạm phải ngày vía, mất linh. Vì thế, càng lớn, Mai càng không có chút gì là mình hạc xương mai mà ngược lại, nó... vĩ đại đến nỗi có những ngộ nhận rất thường.
Một hôm, Hảo, người bạn cùng lớp lần đầu đến nhà tìm tôi. Mai ra mở cửa, Hảo vội vàng cung kính:
- Chào chị ạ, thưa chị cho em gặp Tường.
Thấy Hảo gọi mình bằng chị một cách kính cẩn và còn tỏ ra khép nép thì Mai lại nghĩ là Hảo chọc quê mình nên nó bực lắm. Mai mở cửa cho Hảo, nguýt dài một cái và xụ cái mặt ra.
Vốn đã mát da mát thịt, mặt Mai lúc bình thường đã không nhỏ nay lại xụ ra nên càng "vĩ đại" hơn. Không thèm nhìn Hảo, Mai nói cụt ngủn:
- Đi vắng rồi!
- Thưa chị, chị có biết bao giờ Tường về không ạ?
- Không biết!
Thấy thái độ của Mai như thế, Hảo lại vụng về luống cuống hơn:
- Vậy... thưa chi... cho em...
Hảo chưa đứt lời thì bỗng nghe Mai hét tướng lên:
- Có gì thì nói đi! Thưa thưa với gởi gởi hoài, phát mệt!
Bị bất ngờ đối xử một cách lạnh lùng tàn nhẫn trong khi cố gắng lễ phép hết mình, Hảo hoang mang và bất nhẫn đứng im chưa biết phải phản ứng ra sao. Thấy vậy, Mai bỏ vào trong nhà để Hảo đứng ngơ ngác một mình với câu hỏi không hiểu là mình đã làm gì lầm lỗi để cho bà chị của Tường giận mình như vậy.
Nghe tiếng Mai hét, bà cụ tôi không hiểu chuyện gì vội từ nhà bếp chạy lên. Thấy nét mặt Mai hầm hầm bực bội đi vào và thấy Hảo đứng bơ vơ ngoài phòng khách, đoán hiểu phần nào, cụ Ôn tồn chữa ngượng cho cả hai:
- Chào cậu, mời cậu ngồi chơi, em Tường đi với ông nhà tôi chắc đến tối mới về, cậu có cần gì, tôi nhắn lại.
Hảo chưa kịp lấy lại hồn vía sau cuộc gặp gỡ với Mai nên nói không có gì nhắn. Hắn vội chào mẹ tôi rồi lỉnh mất.
Hôm sau vào lớp, vừa thấy tôi Hảo đã trả thù:
- Trời đất qủy thần ơi, thằng Tường có bà chị ghê qúa chúng mày à! Bà ấy vĩ đại lắm, lại xấu không chịu được. Đã thế, bà ấy còn có nghề bán mắm tôm. Hôm qua, tao đến tìm thằng Tường, bị bà ấy cho ăn mấy gói mắm tôm. Khiếp qúa! Kinh khủng quá!
Quang thật thà:
- Thằng Tường làm gì có chị? Chắc mày vào lầm nhà thì có!
Lâm chen vào đùa cợt:
- Ông cụ non như mày vào lầm nhà được ăn mắm tôm là phúc lắm đấy con ạ. Ai chứ mày vào lầm nhà tao, tao cho ăn đấm!
Lâm quay lại tôi:
- À, mà bà nào ở nhà mày mà ghê qúa vậy Tường? Sao không báo động cho chúng tao đề phòng với ha?
Tôi ngượng ngùng chậm rãi phân trần:
- Làm gì có bà nào? Con em tao chứ ai. Nó tức mình vì bị thằng Hảo cung kính gọi nó là chị xưng em lại còn khúm núm thưa thưa gởi gởi, nó nghĩ là thằng Hảo thấy nó to con rồi chọc quê nó nên nó nổi sùng!
Cả bọn cười ầm lên. Thế là từ đấy tôi có điều gì không ăn ý với lũ bạn là bọn nó lại lôi chuyện "gói mắm tôm" ra để làm áp lực với tôi. Vốn bản tính dĩ hòa vi qúi lại nể bạn, thương em, tôi không muốn tụi bạn mình thêm mắm dậm muối nói những điều oan ức cho Mai nên tôi luôn nhượng bộ. Nhưng tụi nó cũng đâu có để Hảo yên thân, hễ Hảo làm gì không vừa ý thì bọn nó la lên:
- Tường ơi, mày về xin "bà chị" mày gói "mắm tôm" cho thằng Hảo giùm tụi tao được không? Nó có vẻ nghiền món mắm tôm của chị mày nặng rồi Tường à. Không tin, đến đây mà xem nó đang lên cơn nghiền nè!
Lúc đầu chúng tôi còn bò lăn ra cười với nhau mỗi khi có dịp chọc ghẹo nhau như thế. Nhưng sau bị tụi bạn ghẹo trước mặt cả mấy cô nữ sinh trường bạn đến thăm, làm mấy cô này chả hiểu ất giáp gì cả, cứ nhìn Hảo và tôi dò hỏi làm Hảo mắc cở, nổi sùng. Nhất qủi, nhì ma thứ ba học trò, lời các cụ nói thật chẳng sai chỗ nào. Càng thấy Hảo nổi sùng thì tụi bạn càng thấy trò chơi của mình thành công và càng làm tới. Trong đó, chỉ vì là anh của Mai, tôi cũng là nạn nhân của bọn "thứ ba" này. Sau thấy tức giận không giải quyết được thì Hảo đành phải xuống nước:
- Tao van tụi bay, tụi bay muốn làm gì cũng được nhưng đừng đề cập đến vụ "gói mắm tôm" trước mặt bọn con gái, làm tao muốn độn thổ luôn.
Đứa em gái út của tôi là Tuyết. Mẹ tôi sanh nó vào đúng đêm Ba Mười Tết. Thời đó ở ngoại ô chưa có đèn điện nên đêm Ba Mươi đã tối lại tối hơn. Cả nhà chỉ có một cái đèn dầu le lói nên khi bà Mụ nắm đầu nó lôi ra thì chỉ nghe tiếng khóc oe oe chứ chẳng nhìn thấy nó đâu. Mẹ tôi nói ước gì nó trắng như cuộn bông gòn Bạch Tuyết để nhìn cho rõ mặt. Chắc vì nghĩ thế, mẹ tôi bèn bàn với bố tôi đặt tên nó là Tuyết. Ông cụ thấy có lý nên bằng lòng ngaỵ Hôm sau, sáng sớm Mồng một Tết, bố tôi khăn áo chỉnh tề đến chúc tuổi ông Xã trưởng và làm giấy khai sinh ngay cho nó.
Khác với Mai, Tuyết thì gầy ốm tong teo và đen bóng. Vì gầy quá, hai mắt của nó trở nên to thao láo và lộ ra như mắt con cá vàng, hàm răng của nó vêu vẩu trắng toát khoe ra lúc nào trông cũng như cười, nổi bật hẳn trên màu da đen thui của nó. Giá lúc sanh ra mà nó có hàm răng như thế này thì chắc mẹ tôi đã nhìn thấy và sẽ đặt tên nó khác đi. Nhưng Tuyết lại hiền hơn con chị. Nếu có ai gọi nó là "cây sậy" hay "chiếc đũa mun" thì nó cũng chỉ "cười" với "nụ cười hàm tiếu sẵn nở trên môi" chứ không hề giận dỗi ngúng nguẩy như Mai.
Bạn bè Tuyết còn bảo là Tuyết có tài đóng kịch, nhất là môn cải lương. Chỉ nghe nói thế thôi, còn thật sự tôi chưa bao giờ được nghe nó ca hát gì cả. Chỉ có một lần Phúc đến nhà tôi để đi chung xe đạp đến lớp vì xe của Phúc bị hư, Tuyết ra mở cửa, với bản tính vui vẻ cố hữu và "nụ cười trời cho", Tuyết nói một câu rất... cải lương:
- Chào anh Phúc, nghe anh Tường em nhắc anh hoài, khen anh học giỏi vậy mà hôm nay em mới được gặp anh. Thật là hữu xạ tự nhiên hương! Mời anh vào, anh Tường em đang chờ anh ở trong nhà ấy!
Tôi đang bỏ mấy cuốn sách vào cái túi da bỗng phì cười. Tôi có nhắc tên của Phúc ở nhà hồi nào đâu. Hơn nữa, xạ Ở đâu ra mà tự nhiên hương như vậy? Cái con bé này mồm miệng qúa! Giữa trưa tháng Năm oi ả, Phúc như được uống một ly nước dừa xiêm mát lịm, chàng theo chân Tuyết vào nhà ngồi chờ tôi ở chiếc ghế sa lông và lòng thì cứ ngẩn ngơ mãi với "nụ cười muôn thưở" của "chiếc đũa mun". Đến khi tôi bước ra, tằng hắng, Phúc mới tỉnh khỏi cơn mê hồn trận. Tôi cười với Phúc:
- Mình đi thôi, Phúc!
Đến giờ nghỉ chuyển môn, Phúc quảng cáo:
- Thằng Tường có cô em gái dễ thương hết sẩy tụi bay ơi! Đứa nào muốn nộp đơn làm em rể nó thì phải đứng xếp hàng sau lưng tao đấy nhé!
Hảo vội vàng phản đối:
- Mày điên nặng rồi hả? Có điên thì điên một mình mày thôi Phúc ơi!
Rồi Hảo gào lớn hơn cho mấy đứa còn chưa chú ý lắm vào câu chuyện:
- Ê! tụi bay đừng đứa nào nghe thằng Phúc xúi dại nghe. Tao hả, thằng Tường mà tình nguyện gả em gái nó cho tao, tao còn kêu lính bắt và đòi bồi thường thiệt hại nữa kià chứ ở đó mà xếp hàng!
Cảm thấy Tuyết bị tổn thương Phúc cự nự:
- Ê, ăn nói vừa thôi, thời buổi này phát ngôn bừa bãi ở tù đó con ạ! Người ta như thế mà mày chê! Để tao xem bồ mày đẹp đến cỡ nào cho biết!
- Chả đẹp đến cỡ nào cả, nhưng nếu tao có bồ, tao sẽ không bao giờ chọn một bà mập ú, mặt như cái bánh bao chiều lại còn chanh chua kinh khiếp như em thằng Tường cả!
Quang cười cười:
- Đừng mạnh miệng quá Hảo, coi chừng ghét của nào trời trao của nấy đó!
Hảo bĩu môi trả lời Quang trong lúc Phúc nhìn Hảo ngơ ngác hỏi:
- Mày nói cái gì lạ vậy Hảo? Em thằng Tường đâu có ghê gớm như vậy đâu? Cô bé xinh xắn, nước da bánh mật và ngọt như cục đường phèn, dễ thương như chiều chủ nhật! Có mày lúc nào cũng đòi hỏi tuyệt hảo. Hèn chi tên mày là Hảo cũng có lý do.
Hảo phá lên cười:
- Ối giời đất ơi, ối làng xóm ơi, ối tụi bay ơi, em thằng Tường to bằng cái thùng phuy đựng nước. Mỗi bước chân em đi thì rung chuyển cả ngôi trường Nguyễn Trãi này. Em mà lườm cho một cái thì dù đang mùa Xuân hoa cũng héo, phán ra câu nào thì câu ấy sặc mùi mắm tôm thế mà thằng con nhà Phúc khen được là xinh xắn ngọt ngào dễ thương thì có chết không cơ chứ!... Liệu, mày cầm sách vở giùm tao để tao rảnh tay đưa thằng Phúc vào nhà thương Biên Hòa tĩnh dưỡng!
Phúc cảm thấy Tuyết bị xúc phạm một cách nặng nề và chính chàng cũng bị xúc phạm. Chỗ bạn bè với nhau, chàng bị xúc phạm còn có thể châm chế nhưng Tuyết bị xúc phạm thì không thể nào tha thứ được! Nghĩ thế, mặt cậu đỏ gay, vừa toan phản pháo thì giáo sư đã vào lớp và kêu gọi vãn hồi trật tự.
Sau mùa thi tú tài toàn phần năm đó, lũ chúng tôi đứa thì lên đại học tiếp tục dùi mài kinh sử, đứa thì lên đường nhập ngũ để làm người hùng của em gái hậu phương. Có đứa may mắn hơn được cha mẹ gởi đi ngoại quốc du học. Riêng tôi thì sau hai năm học Khoa học, chán qúa thi vào Hải Quân để dệt mộng hải hồ. Chúng tôi, sáu đứa ngồi hai bàn liền nhau trong suốt hai năm dài, từ đó, chỉ còn gặp gỡ nhau qua những bì thư nhỏ.
Lần lượt một vài đứa chúng tôi có vợ, có con. Vì hoàn cảnh phải thay đổi chỗ ở luôn luôn, vì bận rộn của công việc, chúng tôi dần dần mất liên lạc với nhau. Chỉ có Quang và tôi là thỉnh thoảng còn gặp gỡ. Quang phục vụ Ở chi khu Hội An còn tôi sau bốn năm theo Tuần Giang Đỉnh tôi đổi về đất liền, ngay căn cứ Hải Quân Đà Nẵng.
Một buổi chiều vừa ở văn phòng về, Trung, đứa con trai thứ hai vừa lên ba tuổi của tôi cầm một phong thư đưa cho bố. Cu cậu bập bẹ từng tiếng:
- Bố, thợ Ông nội. Bà nội. Mẹ đọc, bố đọc.
Tôi cởi áo ngoài vắt trên thành ghế rồi ẵm bổng Trung lên hôn vào cổ nó làm Trung nhột cười sặc sụa. Sau đó tôi đặt cu cậu ngồi trong lòng tôi và mở thư ra đọc.
“Gia Định ngày... tháng... năm...
Hai con thương yêu của bố mẹ,
Cu Lớn, cu Nhỏ và bé Diễm yêu quý của ông bà nội,
Bố mẹ viết thư thăm vợ chồng con và lũ nhỏ. Gia đình con khỏe mạnh bố mừng. Bố mẹ mới nhận được thư
của vợ chồng con Tuyết hôm kia, sau thư của vợ chồng con hai ngày. Tụi nó báo tin mừng là đứa con thứ hai của chúng nó sẽ chào đời vào khoảng tháng Hai năm tới. Chồng nó, thằng Lộc mới đổi về tiểu khu Long Khánh. Đặc biệt thư này bố mẹ báo cho các con một tin mừng là bố mẹ đã định ngày cho nhà trai làm đám hỏi con Mai. Chú rể tương lai của nhà mình có cái tên đẹp lắm: Hảo, Nguyễn Ngọc Hảo. Hảo tốt nghiệp kỹ sư điện ở Nhật về được mấy năm nay và hiện làm Phó Giám Đốc nhà máy điện Thủ Đức. Kể ra thì cũng là duyên nợ với nhau hay sao ấy chứ con Mai nhà mình từ chối hết đám này đến đám khác, mẹ mày cứ giục giã vì không muốn nó muộn màng. Cho đến hôm nó đi dự đám cưới bạn nó, cô giáo Huệ. Huệ là em họ của Hảo và thế là hai đứa nó gặp nhau. Chúng nó thư từ qua lại đã bảy tám tháng rồi và nhà trai mới đến xin hỏi cưới hôm quạ Nghe nói xưa Hảo cũng học ở Nguyễn Trãi như con, không biết con có biết Hảo không? Vậy nhớ đến ngày... tháng... các con liệu mà thu xếp đem bày nhỏ về ăn đám hỏi cô Mai nó.
Bố mẹ chúc các con khỏe mạnh, may mắn, lũ nhỏ hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn.
Bố me.
T.B. Ông bà nội nhớ Cu Lớn, Cu nhỏ và bé Diễm lắm. Tụi con nhớ về thăm nội nghen!”
Chẳng phải moi móc lâu la trong trí nhớ tôi có thể đoán chắc 99% Hảo, thằng em rể tương lai của tôi chính là Nguyễn Ngọc Hảo, thằng bạn cũ của tôi trong những năm Đệ nhị, Đệ nhất ở Nguyễn Trãi. Là đứa bị con Mai đối xử rất ư là tàn nhẫn vô nhân đạo ngày nào và sự tích "mắm tôm" được khai sanh từ đó. Là đứa mà từng to họng cay cú chê con Mai là thùng phuy, là xấu ghê xấu gớm, xấu không chịu được. Là đứa đòi kêu lính bắt tôi và đòi bồi thường thiệt hại nếu chẳng may tôi lỡ dại tình nguyện gả em gái tôi cho nó.
Trong sáu đứa chúng tôi chỉ có mình Hảo là được đi du học ở Nhật vì nó học rất giỏi lại con nhà giàu. Tôi chợt thấy vui buồn lẫn lộn khi nhớ đến đám bạn ngày xưa. Buồn nhất là khi nghĩ đến Lâm. Cũng như tôi, sau hai năm học Khoa Học, Lâm đi lính tàu baỵ Phi cơ thám thính của nó bị bắn rơi ngay trong phi vụ đầu tiên ở biên giới Việt – Lào. Lâm được ghi là mất tích và đến nay vẫn không ai có tin tức gì về nó. Liệu hiện làm luật sư ở tòa án Saigon. Nghe nói Liệu cưới vợ đã mấy năm nay và đã có một con. Phúc sau khi lấy được bằng Dược sĩ có đi dạm hỏi Tuyết nhưng không hiểu sao chuyện lại chẳng thành. Nghe nói giờ này Phúc vẫn còn độc thân vui tính. Quang thì cưới vợ đã hơn ba năm nhưng chưa có con và từ ngày đổi về chi khu Hội An thì cuộc sống của Quang có vẻ an nhàn hơn tất cả. Nghĩ đến Quang tôi lại nhớ đến lời nó nói với Hảo ngày nào: "Đừng mạnh miệng qúa Hảo. Coi chừng ghét của nào trời trao của nấy đó!" Tôi bỗng phá lên cười. Quang hiền lành ít nói thật nhưng nói câu nào linh câu ấy.
Cũng may cho Hảo, sau lần thấy Mai đối xử không phải với Hảo, các cụ tôi bắt Mai ngồi nghe giảng suốt mấy tiếng đồng hồ. Từ đó, nó đổi tính, chịu khó bơi lội, tập thể thao và đến ngày Mai thành cô giáo thì mọi người mới chợt nhận ra rằng điều ước của ông bà cụ nhà tôi đặt vào nó từ lúc mới sanh đã được bà tiên nào đó dùng đũa thần làm ước mơ biến thành sự thật. Từ lúc nào không ai nhớ được, chỉ biết rằng Mai bây giờ đúng là một thiếu nữ dù đã qua tuổi dậy thì rồi thế mà "trông cũng đẹp", đúng như câu thơ bất hủ Ngày xưa. Không biết rằng sau những tháng thư từ tìm hiểu nhau như thế, Hảo có tìm hiểu được một điều rất quan trọng rằng Mai chính là cái thùng phuy, là "bà chị mắm tôm" năm cũ hay không.
Con dao và lát bánh mì
Mả mẹ mày… làm ăn như củ kít”. Cây thước thợ gõ xộc lên gờ tường mới xây. Lớp gạch phía trên ngã bổ xuống, vang thành tiếng động lộc cộc khô khốc. Cây thước quay ngang qua phía đầu Tỏ. Tiếng “cốc” nhỏ, rất nhỏ như tiếng con chim gõ kiến gõ vào cành cây khô. Tỏ xoa xoa chỗ đau, đưa chiếc bay lên và kịp hạ xuống. Chiếc bay hạ xuống để nghe tiếp câu chửi: “Đ. má… đầu mày chứa toàn bùn thúi và phân trâu”. Tỏ cúi xuống mảng tường vênh, đè chiếc bay lên phân gạch nhớp nháp vữa. Cây thước thợ di chuyển qua phía bờ tường bên kia, nơi toán thợ đang gác tấm lanto.
Tỏ nhìn cây thước thợ di chuyển, nhìn dáng đi lạch bạch của con vịt bầu, đầu chực ngã chúi về phía trước. Chỉ cần một tích tắc thì cái bay vung lên, nhưng Tỏ đã ghìm lại, nén cơn giận xuống bàn chân phải, đá tung lớp gạch vừa xây, ném chiếc bay lên không, bước thẳng.
Gió lùa qua hai tai, nắng tháng Sáu ập xuống như lửa từ bễ rèn phụt ra. Cả công trường xao bay, phậm phực trong hơi nóng. Những gờ gạch xây chao lên hập xuống như gió nâng kéo chiếc lá trên cành trôi trong lớp không khí loãng. Đồng nước phía trước sáng trắng đến loá mắt. Tỏ men theo con mương cụt thất thểu quay về xóm.
Bộ phảng ngựa kê ở đầu chái phủ lớp bụi mỏng. Tỏ không phủi, nằm ình xuống, đầu gối lên hai tay, mắt ngó đăm đăm vào giàn rui kèo cong vểnh, liên tưởng đến thân phận của thằng người vêu vẹo, lồi lõm là nó.
“Công trường bữa nay nghỉ sao?”. “Không”. “Đau bệnh gì à?”. “Không”. “Sao vậy?”. “Không làm nữa”. “Mẹ cứt, không làm thì lấy gì nhét vào miệng?”. “Ăn trộm…”.
Sáu Xường ném chiếc cuốc lăn lóc xuống nền đất, tru lên: “Thằng mất dạy. Ăn nói với cha mẹ cứ như ném cát vào mặt. Không đi làm thì lấy gì ăn?”. “Nói rồi. Không làm thợ xây nữa. Mai đi Sài Gòn tìm việc khác. Mỗi tháng gửi về năm trăm được chưa?”. “Đúng là đồ ăn trộm, quân bất nhơn!”. “Sao cha không ra công trường chửi vào mặt tụi ăn trộm đó. Mà không phải ăn trộm đâu. Cướp. Chúng nó lắm tiền nhiều thế, đi cướp của thằng dân mạt rệp đó”.
Sáu Xường không nhìn con, lạch bạch ra giếng kéo nước rửa đôi chân mốc cời, trong khi Tỏ vẫn nằm gối đầu trên hai bàn tay bắt chéo vào nhau, lơ mơ nghĩ về thân phận cong oằn của mình và ngủ thiếp trong cơn nóng hầm hập từ mái tôn dội xuống.
Cơn nóng kéo Tỏ chìm lút trong cơn mộng mị hãi hùng. Anh thấy mình cầm chiếc xà beng đào sâu phần bờ ruộng nhà, hất tung những dãy bê tông đè bên trên, đẩy ra xa thật xa khu công trường đang thi công, giành giật từng phân vuông đất, moi từng hốc nhỏ nối lại, cong người đẩy tới. Những lọn cỏ nát nhão trộn lẫn chút cát, vữa, gạch vụn như cái xác con gà bị bánh xe cán nhẹp trên mặt đường, lầy nhầy, sền sệt… Những dề đất kết lại rồi vỡ ra, trôi theo sức đẩy cật lực của thằng con trai tuổi hai mươi. Người mẹ từ hướng núi bay về, tóc rũ rượi, mặt đầy máu níu thằng con lại, giọng gào khản đặc: Mẹ van con! Xưa chúng giết mẹ dưới dốc đá. Giờ mẹ không muốn con chết theo mẹ. Tỏ vuột ra khỏi đôi tay người mẹ chỉ còn những đốt xương trắng hếu rung lên. Tỏ lao tới. Mảnh ruộng vuông vức khi xưa theo cơn giận dữ cuồng dại bị xô nghiêng, lệch thành nhiều hình thù kỳ dị khác nhau: khi thì như lưỡi mác, lúc bè ra mỏng dẹt như bánh tráng, lúc như ống thổi lửa… rồi rơi tòm xuống đáy sông. Bà mẹ ngã sấp xuống nền cát cháy đầm đìa máu me, hai tay chấp chới trong khoảng không liếp màu máu bầm. Tỏ hoảng hốt la lên. Mồ hôi chảy bè trên mặt ván ngựa. Anh mở mắt chỉ kịp thấy mái rui kèo cong vòng như chiếc võng gai sắp câu mình lên cao.
Mặt trời nhỏ lại bằng chiếc dĩa, dính chặt lên đỉnh núi phía tây rồi lăn từ từ xuống.Khối đỏ nhoè nhoẹt mất hút.
-Tui qua nhà bảy Lụa - Tỏ kéo dài giọng, bước ra khỏi bờ sân gạch.
-Đàng hoàng với con nhà người ta – Tiếng ông Xường đâu đó trong gian nhà tối vọng ra, nhỏ như tiếng thở dài – Năm tới tao qua nhà hai Trương bàn chuyện cưới hỏi. Lo làm ăn, dành dụm tiền là vừa.
-Xì... - Lời phản kháng hệt đầu máy hơi nước phun ra, cố gắng rướn tới, kéo hàng dãy toa nặng nhọc, ì ạch lăn về phía trước.
Tỏ bước thẳng. Bước đi nặng nề không dám ngoái nhìn căn nhà cũ kỹ ọp ẹp. Bao nhiêu dự tính bị chôn sâu dưới những tầng bê tông đè lên. Chỉ cần hai mùa lúa, Tỏ sẽ mua gạch xây lại căn nhà. Một mùa nữa sẽ dẫn bảy Lụa về hôm sớm cho cha. Vậy mà giờ này bước ra khỏi ngõ, chệnh choạng như kẻ trốn chạy.
Trời tối hù. Qua mấy truông tre dài hun hút, Tỏ xuôi ra phía gò Mãng Cù. Những bụi trâm bầu nối dài chạy dọc hai bên đường kéo bóng tối đậm hơn. Những hình thù kỳ dị nhấp nhô phía trước, theo từng bước đi cao thấp trên các mô đất lồi lõm trên mặt đường. Căn nhà bảy Lụa chìm sâu bên trong vườn dừa, hắt ra chút ánh sáng yếu ớt. Tỏ dụ dự một lúc rồi bước thẳng ra đường đất đỏ, phía sau là căn nhà chìm khuất sau vườn dừa, hàng trâm bầu, truông tre và căn nhà xiêu vẹo…Tỏ hiểu rằng, nếu không đi nhanh, chỉ một thoáng chao lòng anh sẽ chạy vào, sẽ chu môi giả tiếng chim cú và Lụa sẽ bước ra, ngã vào đôi tay chắc khoẻ. Lụa sẽ hoá thành sợi dây thừng cột chặt Tỏ lại. Và lại sẽ nắm chiếc bay lên, sẽ gồng mình đẩy từng xe cát gập ghềnh cả đời người…
Mặt lộ thênh thang gió, thênh thang những ruộng mạ thiệp đen bóng tối, nhấp nhô sau công trường. Chiếc túi vải trên lưng đung đưa theo nhịp bước chân chạm vào vùng thịt da, cơ hồ như có bàn tay Lụa đang xoa lên những chỗ đau ê ẩm sau một ngày đội nắng trên giàn xây.
Bàn tay Lụa xoa mãi trên lưng tới ngả tư quốc lộ, Tỏ chuyền túi vải xuống tay trái, ghé mông lên cột số. Trời tối đen. Xóm làng phía sau lưng là một khối đen đậm đặc. Những hàng tre, mái tranh, ruộng đồng, rặng trâm bầu và khu công nghiệp dính chặt vào nhau, không thể nhìn thấy rõ ràng đâu là mái đình, đâu là cầu ao nơi hai đứa thỉnh thoảng hẹn hò lúc đêm tối trời.
Phải đợi khá lâu mới thấy ánh đèn nhấp nháy từ xa. Chiếc xe khách trờ tới. Tỏ bật dậy chuyền túi vải qua tay phải giơ lên.
-Đi đâu? - Người phụ xe hỏi nhanh như viên bi bắn ra khỏi tay.
-Sài Gòn - Tỏ đáp.
-Trăm rưởi.
-Trăm hai.
-Chạy - Người phụ xe hô lên như người chỉ huy hô lính xung phong.
Tỏ đuổi theo vừa la “trăm rưởi, trăm rư…ởi…”. Tỏ chạy hụt hơi, vừa nhẩm tính trong đầu: tới bến vẫn còn chín chục, đủ để sống hai ngày ở đất Sài Gòn trước khi tìm ra công việc gì đó. Xe dừng. Tỏ lao lên như con chim cắt. Lúc ngồi yên trong lòng xe, nước mắt tự dưng trào ra, lăn xuống bên khoé môi mằn mặn. Anh cảm thấy tim mình bị bóp thắt. Anh tưởng tượng người cha già khọm sẽ hoảng hốt khi thức dậy không thấy mình ngủ trên bộ ván ngựa, con Lụa sẽ khóc nức nở khi biết nó chỉ còn lại một mình trong vườn dừa âm u. Mẹ anh chết cách đây bốn năm đồng nghĩa với việc chấm dứt sự học, bấu trên bờ ruộng giúp cha việc đồng áng. Bốn năm trống trải đủ để Lụa chen ngang vào đời thằng con trai bước qua tuổi dậy thì. Và Tỏ như chiếc áo tơi móc dính trên cột. Giờ thì chiếc áo tơi bay đi, từ từ bay đi chỉ còn trơ khấc chiếc móc tre ám bụi. Tỏ miên man tưởng tượng anh sẽ ngã quỵ trên đường, rồi lại gạt bỏ ý nghĩ đen tối để mơ ngày trở về làng trên chiếc xe bóng lộn, máy nổ rì rì…Lụa ra đón ở đầu con mương nước cắt xéo nửa làng và dân trong ấp sẽ nhìn nó…
-Tới bến rồi. Xuống đi cha nộ…ội - tiếng nội kéo dài ra như tiếng kẻng hợp tác xã thuở trước, mệt mỏi và dứt khoát.
Tỏ đeo túi vải lên vai, ngáp tiếng dài trước khi bước xuống. Bến nhộn nhịp. Những người chạy xe ôm ùa tới vây quanh hỏi Tỏ đi đâu. Anh lắc đầu bước chệnh choạng giữa đất Sài Gòn ồn ào, chen chúc và khói bụi. Bản thân anh cũng không biết đi đâu, đến đâu. Không ai là người quen ở xứ này. Hồi còn ở làng nghe nói có cô Thao con gái út thầy Sáu vì chuyện tình duyên nên bỏ nhà vào đây trên mười năm, và trước đó có mấy người vì dính líu đến chế độ bỏ trốn đâu đó trên Tây Ninh. Đất Sài Gòn rộng, người đông như kiến bò biết tìm đâu? Bước chân cứ xuôi theo con đường rộng, chật cứng người, xe; tay trái giữ chiếc túi vải, tay phải thọc sâu trong túi quần, ấn những tờ giấy bạc cong queo nằm xẹp sát đáy.
Tới ngả tư kịp lúc đèn đỏ, Tỏ trôi theo dòng người đi bộ qua bên kia đường và dừng lại trước chiếc xe đẩy bán bánh mì. Tỏ mua một ổ. Lúc lôi những tờ giấy bạc ra, nghe người bán bánh hô gọn trơn: “mười ngàn” khiến nó giật thót người. Anh hiểu rằng, đến giờ phút này trong túi chỉ còn tám chục. Tám chục để chống chọi với việc tìm kiếm việc làm mù mịt trước mắt trong những ngày sắp tới khiến miếng bánh trôi qua cổ họng vừa mặn vừa chua, khiến anh nhớ tới những miếng cơm cháy bên hông nồi, dĩa rau luộc và xoong cá kho, nhớ tói hình ảnh người cha ngồi nhai trệu trạo, luôn nấc cụt trong mỗi bữa cơm và những tiếng rên nho nhỏ đêm khuya trở trời. Tỏ đang là chỗ dựa duy nhất trong cuộc đời còn lại của ông, một ông già trên sáu mươi, goá vợ, con cái muộn mằn… Chót bánh mì cuối cùng trôi qua cổ làm nhói lên nỗi đau tê. Đúng mình là thằng mất dạy, bất nhơn, bất hiếu và kịp hiểu ra rằng, mỗi tháng không có năm trăm gửi về, cũng đồng nghĩa với chuyện đẩy cha mình men tới vực đói khát, đau bệnh. Cả thể xác và tinh thần ông đã suy sụp kể từ ngày toà tuyên án ba năm tù giam vì tội bắt tay với kẻ gian làm mất năm tấn lúa hợp tác xã. Kẻ gian ấy toà không thể “định dạng” còn ông thì cứng họng không mở miệng khai nổi. Ông đã nhiều lần nói: Thà mang tiếng và chịu nhục trong ba năm hơn là phải khai ra để tự mình bôi bẩn “lý tưởng” mà ông và cả thế hệ thanh niên nông dân đã đổi bằng máu, nước mắt, bằng sự sống và cái chết trong đường tơ kẽ tóc! Tỏ không thể hiểu cái lý tưởng trừu tượng kia là cái giống gì, vùng vằng: Tui không hiểu nổi, sao cha luôn chìa vai rước tai hoạ cho kẻ khác. Giờ lão ta ngồi chót vót ở huyện này, vậy mà có bao giờ lão ghé thăm cha, hỏi han lấy một tiếng? Mày còn nhỏ chưa hiểu lẽ đời. Có những việc biết thế nhưng không thể hé răng. Ba năm đâu là gì, đau bệnh ai chẳng có lúc? Tỏ ít chữ, nhưng nghĩ, chẳng lẽ tình đồng chí lại đánh đồng với chuyện đạo đức, trái phải. Đồng chí này thà dịp thót lên cổ, đạp lên đầu đồng chí bạn để leo lên cao. Đó mà gọi là hy sinh với phấn đấu sao? Năm tấn lúa cha Tỏ chưa hề biết một hột chắc lép trong đó nhưng lại biết nhiều hơn, về mùi tù. Đó là lần duy nhất Tỏ cồn cào ruột gan. Còn lần này lại dờn dợn bỡi nó đang tách khỏi sự chở che, thúc nhắc của cha mình.
-Ê, ông bạn, định đi đâu?
Tỏ ngước lên. Đó là một người đàn ông trung niên, nước da đồng hun, đội chiếc mũ rộng vành, miệng ngậm tẩu thuốc, phì phèo.
-Dạ, tới nhà bà con - Tỏ trả lời.
-Giỡn sao cha nội. Ngó bộ dạng ông bạn biết ngay là ở tỉnh mới lên – ông ta gỡ tẩu thuốc ra khỏi miệng, môi nhếch lên, lướt cặp mắt bên trong chiếc kính đen, từ đầu xuôi xuống chân rồi ngược trở lên như thể đánh giá một trái bí, củ khoai chứ không phải là thằng người đang đứng trước mặt ông ta – bà con đếch gì! Ông bạn đi tìm việc làm thì đây giúp cho. Công việc nhẹ nhàng. Giữ xe cho nhà hàng, tháng triệu rưỡi. Tháng đầu ông bạn đóng cho tôi ba trăm. Các tháng sau, mỗi tháng hai trăm cho tới khi nào ông bạn không thích làm nữa. Ok?
Tỏ nhìn chăm chăm vào mặt người đàn ông, ước lượng mức độ chân thật: Đôi môi thâm đen, hàng lông mày rậm, cặp mắt ẩn sau lớp kính màu tránh nắng. Tất cả chưa nói lên điều gì. Nhưng dẫu sao, tỏ nghĩ, ngồi trông xe là công việc nhàn hạ. Nghề ngỗng chẳng có lấy chút bợn, lại có công việc khi vừa mới chân ướt chân ráo đã là điều may mắn, không thể đòi hỏi hơn. Và hơn hết là có chút tiền gửi về cho cha hàng tháng trước khi đình đậu một công việc gì đó. Tỏ gật đầu. Người đàn ông gõ bã thuốc rớt xuống đường trước khi ngồi dạng chân nổ máy. Tỏ leo lên, cứng ngắt như chiếc bao tải phía sau tấm lưng to bè.
Quán nằm trong ngõ cụt, sát bờ sông, chung quanh là các loại cây táp nham từ rừng đưa về làm cảnh, cành lá um tùm. Phía sau, cứ mỗi hai ba gốc cây là những căn chòi lợp lá dừa nước. Những tấm rèm màu xanh da trời vây quanh, tiệp với màu lá cây và sông nước trước mặt. Đó là những gì Tỏ nhìn thấy từ bên ngoài, chưa một lần đặt chân vào bên trong. Tỏ không được phép đặt chân vào!
Công việc của Tỏ là đưa thẻ và đánh số xe cho khách, sắp xếp lại ngay ngắn thành những dãy dài, dắt xe ra cổng trả lại khách, cúi đầu nói câu “ chúc quí khách vui vẻ hay nói cảm ơn”. Các bữa ăn không giờ giấc, do người phụ bếp mang ra trên chiếc khay nhôm. Thức ăn ê hề, nhưng chắc chắn không phải nhà bếp nấu cho Tỏ mà là thức ăn thừa của khách. Điều này không làm anh cảm thấy khó chịu, đôi lúc còn thấy như niềm hạnh phúc đang cúi xuống cõng mình lên vai: Tỏ mập hơn, cao to hơn, da dẻ trở nên hồng hào mịn mượt hơn, khi đứng trước chiếc gương soi lớn, ngay sát cổng ra vào. Anh thấy mình khác hẳn trong bộ comple màu trắng viền nẹp đỏ và chiếc mũ lưỡi trai trên đầu…Những lúc vắng khách, Tỏ ngồi trên chiếc ghế nhựa ngó mong ra dòng sông. Dòng nước đục lềnh như không hề chảy. Hàng dừa nước bờ bên kia ken dày, che khuất những căn nhà lụp xụp, mái rũ xuống cam phận, không dám ngước nhìn bờ bên này. Buổi chiều, nước thuỷ triều lên, những tàu lá dừa chúc ngọn trong dòng nước đong đưa nhè nhẹ, khiến Tỏ có những cảm giác mơ hồ về sự nhớ nhung, thoắt hiện thoắt biến, không rõ nét: khuôn mặt Lụa lờ mờ bên dưới màu nước đục, và cha anh cong người gãy khúc ở đầu chót lá. Cả hai cứ rung lên nhè nhẹ, không với cánh tay ám đất về phía Tỏ.
Một chút khắc khoải nhớ nhung bỗng gãy gập theo tiếng máy xe đỗ xịch ngay trước ghế dựa, chỗ anh ngồi. Tỏ bật dậy như quán tính chiếc lo xo bất ngờ được thả bung. Anh mở cửa xe vừa cúi gập người chào. Những người phụ nữ ăn mặc diêm dúa bước ra, ngước mặt nhìn lên trời cao và bước thẳng vào bên trong. Tỏ đóng cửa xe, dịch người qua bên làm hiệu cho xe đậu chỗ đất trống cạnh bờ sông. Chiếc xe quay nửa vòng như làm xiếc, ghếch mũi giữa hai thân dừa thẳng đuột, thở xọc một cái thả một vùng khói trắng phía sau.
Tỏ quay đi kịp lúc nghe giọng nói sau lưng: “Anh bữa nay có vẻ thiếu lịch sự đấy nhé!”. “Xin lỗi”, Tỏ nói và quay lại. Đó là người phụ nữ mặc chiếc robe hoa cà. “Sao, chỉ có vậy thôi à?”. Tỏ luống cuống hệt như mình là đứa trẻ mắc lỗi. “Anh không phải đỏ mặt lên như thế, anh bạn trẻ và đẹp trai ạ”. Sau đó Tỏ có cảm giác như một bên vai của người phụ nữ chạm vào người mình. “Ngồi nói chuyện một chút, được chứ hả?”, bà ta lại cất giọng. “Không dám, mời bà ngồi”, Tỏ nói với giọng của người đang lên cơn sốt vừa kéo ghế rút chiếc khăn trong túi quần lau ghế (dù trước đó anh đã mài đũng quần lên đó rồi). Người phụ nữ đưa tay vịn thành ghế. Tỏ đứng dựa một bên cổng, chỉ cách một với tay. Đến lúc này anh mới hoàn hồn để kịp quan sát: Khuôn mặt thon dài, lưỡng quyền hơi nhô cao ửng đỏ. Hàng lông mày rậm được tỉa tót cẩn thận…Bà ta không đẹp lắm, nhưng đầy sức sống.
-Công việc ở đây có dễ chịu không?
-Dạ…
-Tôi có một đề nghị: Nhiều lần qua chỗ này, tôi thấy anh là người cẩn trọng, chu đáo. Tôi muốn chuyển anh về văn phòng.
-Thưa, đã hứa với anh Năm.
-Ôi dào, ngoài mấy cái nhà hàng, tôi còn văn phòng môi giới giao dịch địa ốc. Tôi muốn đưa anh về chỗ đó để thay người khác đã xin nghỉ việc. Sáng mai xe đến đón anh về làm công việc khác. Tôi đã quyết định rồi – Nói và bà ta nhoẻn miệng cười giống như bấc đèn dầu hôi được vặn cao ngọn, và bước tới, không hề ngoảnh lại.
Công việc mới của Tỏ vẫn là công việc như lúc ở nhà hàng, chỉ khác một điều là không có mũ lưỡi trai, bộ comple màu trắng nẹp đỏ hai bên ống, thay vào là bộ âu phục với chiếc cà-vạt luôn đổi màu mỗi ngày như một quý ông. Suốt ngày anh ngồi bên trong cửa kính đón khách. Hết việc lại chúi mũi vào tờ báo hay ngó mong ra đường nhìn vẻ bóng lộn và diêm dúa của Sài Gòn lướt qua như đèn kéo quân. Cho tận lúc này, hơn hai tháng rồi, Tỏ không hiểu mình là cái giống gì giữa khung cửa kính luôn đông nghịt người ra vào. Mà toàn những kẻ sang trọng. Có lúc Tỏ cảm thấy mình như đống giẻ rách quấn quanh hai cọc tre bắt chéo làm hình nhân cắm sâu giữa cánh đồng hiu quạnh. Chân gác cổng không thể vênh mặt lên để tự hào nhìn thiên hạ, nhưng lúc này, mỗi tháng Tỏ gửi về gần triệu đồng chứ không phải năm trăm như đã lỡ tuôn ra trong cơn giận dữ vô cớ trước kia. Mà cũng không rõ cha mình có nhận được hay không? Vì mọi chuyện đều do bà chủ ghi vào mảnh giấy, kêu thư ký mang đi. Có những lúc nhìn thấy vẻ lúng túng, thắc thỏm của Tỏ, bà chủ cười khẩy: “Bộ anh nghĩ tôi lừa anh sao?”. Câu nói như gáo nước sôi dội từ đỉnh đầu nóng rát xuống tận hạ bộ khiến khuôn mặt căng đỏ của anh càng đỏ gấc. Bà vịn cả hai tay nắn vai anh: “Anh làm sao thế? Thôi được, chiều nay tôi đãi anh…”
Quán nằm sát bờ sông Đồng Nai, bao quanh là vườn bưởi oằn trái. Hai người ngồi ở góc khuất. Ánh sáng vừa đủ để nhìn dòng nước trôi lặng lờ, đủ để Tỏ quan sát kỹ hơn về bà chủ có cái gì đó vừa nhân hậu vừa dữ dằn ở đôi mắt mà anh không thể diễn đạt bằng lời. Anh nhìn đăm đắm như một đứa trẻ cố moi trí nhớ về một câu nào đó trong bài học thuộc lòng đã bay mất. “Anh quan sát tôi hơi kỹ đấy, như mấy tay phó nháy chụp hình người mẫu vậy”. Bà chủ đột ngột lên tiếng. “Dạ, xin lỗi bà chủ”. “Anh dẹp mẹ cái bà chủ của anh đi. Tôi hơn tuổi anh. Gọi chị được rồi, mà nếu như tôi lấy chồng sớm thì có thể con tôi cũng gần xấp xỉ với anh. Nhưng rất tiếc...”. Ba chữ cuối rớt dài xuống dòng sông mênh mông những lọn sóng lăn tăn. “Tên tôi là Dung, Tưởng Dung chứ tên cha mẹ đặt là Lụa…”. Bà lại tiếp tục kể vừa với tay cầm chai Courvoisier rót vào chiếc cốc thuỷ tinh, uống cạn sạch, không hề nhận ra cái giật thót người của Tỏ. “Tôi cũng dân miền Trung như anh, cũng được học hành tử tế cho đến khi cha tôi bị bắt, bị truy tố về tội buôn lậu, trốn thuế. Những người liên quan phủi tay cái rột, bởi họ có thân có thế.Còn cha tôi thì không, chỉ một thân một mình. Vậy là tôi phải hoá thành nàng Kiều để chuộc cha ra khỏi vòng lao lý…” Lụa lại rót cốc đầy, lại uống, nói tiếp: “Mẹ đời! Anh biết sao không? Một đứa con gái đang tuổi hai mươi phải nằm ngửa chịu đến bốn thằng đàn ông cỡ cha chú mình cỡi lên. Chúng là những tên được ấn vào tay những quyển luật dày cộm để bảo vệ công lý. Chúng nhân danh công lý để buộc tội người này hay tha bổng người khác. Chúng như bà phù thủy, biến có thành không, biến không thành có! Chúng từng kết án chung thân cho tội phạm hiếp dâm. Vậy mà chúng đã lật ngửa tôi ra trong một nhà nghỉ nào đó, ở một xứ nào đó sau khi chuốc cho tôi đến say bí tỉ. Mùi bia rượu, mùi thuốc lá tanh lợm khiến đầu óc tôi tỉnh rụi, không khóc, không đau đớn, mở trừng mắt nhìn bọn chúng, những tên đĩ bợm còn sót lại trên thế gian này và tưởng tượng đến cán chày giã vào chiếc cối nhỏ kêu lọc cọc. Cái tiếng đanh gọn, khô khốc đến là buồn cười. Buồn cười và buồn nôn… Vậy đấy. Tôi đã trả nợ công lý bằng cách đấy. Cha tôi trắng án! Buồn cười chưa?”. Lụa lại rót đầy hai cốc, nâng lên: “Nào, mời anh. Uống để chia sẻ niềm hạnh phúc đắng cay với tôi chứ! Chỉ có anh là người đầu tiên và cuối cùng tôi kể chuyện đời mình”. Tỏ chạm cốc, nốc cạn, lòng cay xè. Lụa lôi chiếc khăn giấy trong ví ra nhưng cầm riết trong lòng tay, khuôn mặt đanh khô, mắt nhìn ra dòng sông như ước đoán khoảng cách. Và nhảy ùm xuống. Chuyện đó không xảy ra. Chỉ nghe tiếng rượu chảy lóc róc vào ly. Tiếng rượu chảy nghe như máu từ miệng Tưởng Dung phọt ra. Lại rót, lại uống. Những dĩa thức ăn đầy nguyên, không ai buồn động đũa. Mặt sông duềnh lên những lọn sóng nhỏ, hấp háy dưới quầng sáng từ quán hắt ra, những lọn sóng chới với, đuối hụt nhấp nhô như cái xác trương sình, trôi sông. Lụa ném chiếc khăn giấy lên bàn: “Cuộc đời quá là đơn giản. Mọi chuyện đơn giản đến trần trụi, chẳng có gì là ghê gớm. Vậy mà tại sao mấy lão triết gia hết đi tìm chân lý này đến chủ nghĩa nọ làm gì cho nhọc xác? Anh nghe tôi nói rồi đó. Bốn thằng cha nhân danh công lý trên tấm thân trần truồng của tôi đến nỗi nữ thần Dike và Aphrodite (1) xoắn tay lại, cười nức nở, hứa hẹn sẽ bay xuống trần gian hiệu đính chuyện thần thoại của mình. Lạ chưa?”.
Tỏ thấy, dưới ánh sáng nhập nhoạng, hình như có giọt nước mắt nhỏ, rất nhỏ ngập ngừng nơi khoé mắt Lụa, rồi bất ngờ thụt vô như kẻ chạy trốn. Trong khoảnh khắc ấy, Lụa không còn hình dạng của bà chủ sang trọng, hoá thành người đàn bà đau khổ nhất trong những người đàn bà đã lướt qua cuộc đời khốn khổ của một thằng con trai nông thôn. Tỏ có cảm giác chị đang rất gần gũi với anh, không phải ở cái tên trùng với tên người con gái anh yêu thương, mà ở chỗ chị đã chọn anh như một kẻ tin cậy để giải bày những ưu uất đời mình. Tỏ tưởng tượng cảnh nhục nhằn của chị bên dưới những khối thịt nhớp nháp khiến đầu óc anh ngật ngừ váng vất. Lần đầu tiên anh uống nhiều rượu, nghe chuyện như đang nhìn bầu trời sụp dần từng mảng. Anh lừ đừ nhìn Lụa. Lụa cũng lừ đừ nhìn anh. Hai người nhìn nhau hồi lâu. Bỗng Lụa cười phá lên, tiếng cười như mũi kim nhọn xoáy vào vùng da non khiến Tỏ có cảm giác như như ly chén trên bàn cũng nhảy tưng lên, rúng động. “ Từ đó tôi khám phá ra rằng, chính chỗ đó, chính chỗ vùng cấm đó mà các nhà đạo đức giảo hoạt luôn giả bộ che mắt, luôn là thứ vũ khí lợi hại làm cho các lãnh chúa, vương hầu khanh tướng… phải quỳ mọp. Tôi đã sử dụng nó để tạo nên cơ ngơi nhớp nhúa này, để nhìn chúng ghen tuông lồng lộn vít đầu nhau xuống bùn đen. Lũ người bẩn thỉu và đĩ bợm kia cứ thì thụt moi hết két quỹ này đến dự án nọ để cống nạp cho tôi trước khi chúng có thể (được phép) lần bàn tay dơ bẩn từ ngực xuống háng tôi, rồi lộn ngược trở lên. Anh cảm thấy quá bẩn thỉu phải không? Nhưng lũ chúng thấy như một ân sủng từ bàn tay chúa trao cho. Chúng là những quan chức mẫn cán và kiên định ở xứ này đấy. Chúng bỏ lại đằng sau bầy vợ con nhếch nhác để quỳ mọp dưới chân tôi, úp mặt lên háng tôi như những tín đồ xác tín về đức tin đang rầm rì cầu nguyện một cách trân tráo. Eo ơi, toàn lũ đĩ bợm, rặc một lũ đầu nhỏ mỏ to… Tôi có tất cả và không có gì hết. Thật tởm lợm!”. Lụa ngã người ra thành ghế dựa, nói như kẻ tội đồ thánh thiện bước nhẹ tênh trong cõi mộng du: “Cuối tháng tôi sẽ đưa anh về cái làng quê nơi cha mẹ tôi sinh ra tôi và công lý đã vùi dập đời tôi. Nghe nói giờ nó không thành làng quê, cũng không phải bộ mặt thị thành; ở đó có bầy người ngơ ngác bị lùa ra khỏi mảnh đất của mình… Thời chiến tranh hai bên đã quần thảo nhau nát nhão như nồi cám heo, nay thì sự nhếch nhác đó cũng không kém gì”. Tỏ buộc miệng: “Chị định làm gì?”. Lụa ngửa người cười lớn: “Đến giờ mới nghe anh mở miệng! Làm gì à? Những căn nhà lá xiêu vẹo tôi “đốt” hết, xây lại cho họ bằng gạch ngói, coi như tôi trả nợ xóm làng, vậy thôi, không có gì ghê gớm. Tôi không có ý định chuộc lại lỗi lầm lần nữa, bởi đơn giản tôi không mắc lỗi nào cả, kể cả vấn đề tiết trinh và đạo đức. Cái của phù du kia là do những thằng ngu mang đến cho tôi sau những đêm truy hoan không chút cảm giác, mùi mẽ gì. Tôi chỉ như chiếc gối nhồi bông cho chúng cỡi lên, vậy thôi. Trinh tiết đáng lẽ để dành hiến dâng cho người mình yêu nhất thì đã bị những kẻ nhân danh công lý cưỡng đoạt rồi, còn lại sau đó nó như một hang cua: hết người này thò tay vào bắt, lại đến lượt người khác. Anh có hình dung ra hình tượng người nhà quê bắt cua đồng không? Mà anh đã từng bắt cua đồng lần nào chưa? Lụa dừng lại, khuôn mặt đanh khô rồi bất ngờ dãn ra. Chị thở sượt: Tôi không sử dụng cho riêng mình, tôi chia sớt cái phù du ấy cho nhiều người. Ban đầu là hôi thối, nhơ nhuốc nhưng khi trôi qua chiếc “máy giặt” trong làm ăn nó trở thành thơm tho. Nhiều tay vênh mặt về chuyện này, còn tôi thì cúi gằm đau đớn để trả nợ xóm làng xơ xác của tôi. Vậy đó, có gì phải bận tâm, phải không?”.
Không khí nặng nề đến khó thở. Tỏ muốn nói một điều gì đó với chị ta, nhưng không đủ sức, không đủ chữ nghĩa và sự hiểu biết để gải bày. Anh cục cựa trên ghế như có những con kiến nhỏ bò vào đũng quần, lói nhói. Chai rượu đã cạn. Lụa kêu bồi bàn mang chai khác. Tỏ ngăn lại, kêu nho nhỏ trong cổ họng như người nghẹt mũi: “Thôi, đủ rồi chị”. “Anh sợ à”. “Không”. “Vậy thì sao lại ngăn cản niềm vui của tôi?”. “Không phải chuyện vui, nghe buồn muốn khóc”. “Anh bạn đẹp trai của tôi, anh uỷ mị thái quá đấy”. Im lặng hồi lâu. “Anh đã biết mùi đàn bà chưa hả?”. “Trời, chị!” Tỏ kêu lên run rẩy. “Việc gì anh phải kêu phải run lên như thế kia? Tối nay tôi sẽ cho anh biết mùi đàn bà là thế nào. Tôi thấy nhiều thằng nhóc cứ trố mắt nhìn xoáy vào những vùng cong trũng sau lằn vải các cô gái như muốn lột trần ra. Còn anh thì nhìn tôi một cách ơ hờ? Tôi đã kể cho anh nghe về cuộc đời tôi. Tôi là một con điếm, một con điếm trong sạch, tôi không phải là một trinh nữ hiến tế cho các đẳng thần nữa rồi. Vậy thì việc gì anh phải hoảng hốt?”. “Không, chị vừa là chị, là bà chủ đã vói tay cứu em. Cái đó người ta gọi là…”. “Ý anh nói là loạn luân chứ gì? Nhảm nhí”. “Tôi van chị”. Tỏ chắp hai tay lại trước ngực. “Anh nhảm nhí mà tôi cũng nhảm nhí nữa. Có lẽ mình nên dừng để đầu óc tỉnh táo, để cảnh sát không phát hiện một người say lái xe trên đường, phải không?”.
Lụa lái xe thật chậm, không mở miệng nói câu nào suốt dọc đường về. Tỏ liếc ngang thấy môi chị mím lại, mắt đăm đăm nhìn về phía trước như thể chị đang nhìn vào vòng ngắm của tấm bia chuẩn bị bóp cò. Vẻ căng thẳng ấy chuyền sang Tỏ khiến anh tỉnh hẳn. Trong hai người, Lụa và anh ai sẽ là lát bánh mì nằm gọn trong chiếc dĩa trên bàn ăn? Lúc ngồi ở quán chị ta nói vật hiến tế? Vật hiến tế là gì nhỉ, anh không thể nghĩ ra, không hiểu được; mơ hồ rằng đó là sự mất lửng giữa vinh quang và cay đắng, niền vui và nỗi thống khổ trộn lẫn vào nhau?
Anh cảm thấy lòng mình thật trống trải. Trống trải đến vô cùng vô tận.
iếu thuốc lá
Chúng ta sẽ không có một câu chuyện "điếu thuốc lá". Các anh ở Pháp về sẽ thuật cho bạn nghe những chuyện đau đớn, khi túi đã cạn tiền, những phút cảm động, khi nhặt được mấy mẩu đầu thuốc lá trong khe tủ, dưới gầm bàn, trên ổ khóa. Những thi sĩ sẽ ca tụng cái thủa thần tiên ngồi ngắm khói thuốc lá giữa lúc câu thơ sắp hiện hình trong khối óc. Nhiều nhà văn sẽ kể lại cái giật mình khinh hoảng trong đêm khuya, khi chuông đồng hồ rè rè điểm hai tiếng, vội liếc nhìn đĩa gạt tàn thuốc lá đã cao có ngọn...
Nhưng chuyện của tôi đây sẽ không có những thú vị, những ủy khúc nên thơ như thế. Nó sẽ là xin nói ngay, một câu chuyện trẻ con, rất trẻ con.
Thời ấy, tôi mới độ chín mười tuổi.
Một hôm tôi đứng xem anh tôi và ông Cửu Thầy đánh cờ. Anh tôi hai tay ôm đầu, mắt đăm đăm nhìn xuống bàn cờ chừng để tìm gỡ một nước bí. Còn ông Cửu Thầy thì điềm tĩnh, không nghĩ ngợi, ngửng mặt như chú mục vào một người tưởng tượng, đương từ cửa đi vào. Sự thực, thì ông ta chẳng nhìn gì hết, vì một lẽ rất giản dị: ông ta mù.
Thỉnh thoảng cặp môi mỏng và thâm của ông ta lại bỏ rơi nụ cười hầu bất tuyệt để kéo một hơi thuốc lá, rồi khi điếu thuốc đã đặt y nguyên chỗ cũ trên thành bàn cờ sơn son, nụ cười lại trở về đậu lên cái miệng hé mở, tựa con chuồn chuồn trên mặt ao không bao giờ chịu rời hẳn bông hoa muống sau mỗi cái giật mình cất cánh bay đi.
Tôi đứng ngắm ông Cửu Thầy, và như bị cái dáng điệu, cái cử chỉ lạ lùng thôi miên, mắt tôi đưa từ đôi kính đen bóng, từ hàng răng đen láy, đến điếu thuốc lá với sợi khói xanh, từ từ xoáy trôn ốc cất lên.
Và tôi lấy làm thán phục ông ta, vì thấy ông ta không sờ soạng tìm như mọi người mù, nhưng rất tự nhiên cầm điếu thuốc đưa lên môi, như một người hoàn toàn có đủ ngũ quan. Nào phải ông ta lờ mờ trông thấy ngoại vật cho cam! Ông ta mù tịt, mù một trăm phần trăm. Mà điều ấy chính tôi đã nhận thấy rõ ràng, một hôm tôi đứng nhìn ông ta tháo kính uốn nắn lại đôi gọng đồng: hai con mắt ông ta cùng không có con ngươi và lõm hẳn vào, hai mép mi như khâu liền lại nhau. Người nhà tôi còn nói một lần đến cúng kỵ, vì thằng con ông ta bỏ chạy chơi không dẫn lối cho ông ta, ông ta đã lễ bốn lễ sang phía bên cạnh bàn thờ. Nhưng điều này tôi quyết không thể có, chẳng qua người ta chỉ bịa đặt ra để giảm giá ông Cửu Thầy, vì tôi tin chắc rằng ông ấy không làm sai lầm một việc gì, không đi sai lạc một con đường nào: con mắt tinh thần của ông còn sáng suốt hơn con mắt thịt của chúng ta nhiều.
Cái tài đoán trông mọi việc của ông, bọn người sống chung quanh tôi thường thêm thắt truyền tụng, đến nỗi đã in sâu vào khối óc thơ ấu của tôi cái ảo thuật lạ lùng của ông thầy bói lạ lùng ấy. Vì ông Cửu Thầy chính là một ông thầy bói, một ông thầy bói cao quý của quan trường. Thiên tiểu sử của ông mà người ta thuật đi thuật lại bằng một giọng bí mật càng làm tôn giá trị ông lên và đã khiến tôi đặt ông ngang hàng với những nhân vật kỳ dị trong những truyện Chinh đông, Chinh tây, hay Đông Chu liệt quốc mà ông thường kể cho anh em chúng tôi nghe bên khay đèn thuốc phiện sáng bóng.
Ông mù năm mười tám tuổi, sau một khoa thi mà ông không may bị loại ở kỳ phúc hạch. Từ đó ông đi chu du thiên hạ để đoán việc dở, hay cho người đời. Một hôm, ông đến chơi một ông tổng đốc lĩnh chức khâm sai đi dẹp loạn Đốc Tít, giữa lúc ông tổng đốc sắp sửa cất quân lên đường. Ông gieo một quẻ, đoán sẽ xảy ra sự bất trắc và quan quân sẽ mất đầu chết ở một quãng đồi Tây. Ông tổng đốc lo lắng, rụt rè không dám vội tiến binh, liền cho một đoàn thám tử mười người, cưỡi ngựa phi qua đồi Tây để xét tình hình hư thực. Quả nhiên bọn thám tử đều bị câu liêm bên địch dựt mất thủ cấp. Được tin, ông tổng đốc thở ra khoan khoái: ngài vừa thoát cái nạn làm con ma không đầu. Tức thì ông thầy được ngài ban cho hàm cửu phẩm và từ đó ông đã nghiễm nhiên có cái tên, ông "Cửu Thầy".
Một lần nữa - mà lần này chính tôi được mục kích - giữa một trận bão dữ dội, một trận bão đổ cửa đổ nhà, nhổ bật cây, uốn cong cột giây thép, ông đã dám một mình nằm ngủ một giấc ngon lành trong gian nhà học mảnh yếu của chúng tôi. Thấy cụ cử và anh em chúng tôi rời đi nơi khác, ông chỉ mỉm cười nói một câu bí mật: "Không hề gì đâu!" Quả không hề gì thật. Gian nhà học chênh vênh trên nền cao vẫn đứng vững sau trận bão.
*
* *
Tôi tò mò đứng ngắm cái mặt bình tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, ngắm hai ngón tay diễm ảo rón rén cầm điếu thuốc lá nhẹ nhàng như hai ngón tay thiếu nữ cầm sợi chỉ xỏ trúng ngay cái lỗ trôn kim, và trí tôi âm thầm ôn lại những chuyện trên kia.
Bỗng nẩy ra trong óc tôi một ý kiến ngộ nghĩnh: tôi muốn giấu điếu thuốc lá đi xem ông Cửu Thầy có đoán biết không, hay vẫn cứ rón rén hai ngón tay để cầm một vật đã mất. Tôi mon men lại đứng sát bên giường, mắt dán vào điếu thuốc. Và tôi thò tay ra rồi lại rụt tay về, lòng phân vân, sợ hãi. Như có tiếng thì thào xui giục tôi: "Cứ thử xem nào!..." Nhưng tôi vẫn không dám liều.
Một lần tôi đã quả quyết, mạnh bạo đưa bàn tay ra. Nhưng, như đoán rõ ý tôi hai ngón tay ông Cửu Thầy đã tới đích trước, khiến tôi càng kinh ngạc...
Về sau, tôi cũng làm nổi cái việc dự định của tôi, cái việc nó ám ảnh tôi một cách mãnh liệt. Mà làm nổi là nhờ về một cuộc cãi lộn của hai kỳ thủ: Lúc ấy anh tôi khẽ nói với bên địch nước cờ vừa đi của mình. Tức thì, không ngần ngừ, hai ngón tay ông Cửu Thầy rón rén hạ xuống bàn cờ, như cái mỏ con gà mái thong thả hé ra, nghiêng nghiêng hạ xuống đất để đớp một cái mồi chắc chắn và béo bổ. Nhưng cái kìm tay cặp không khí. Tôi cho là ông thầy lầm chỗ và mỉm cười nhìn ông: cái mỉm cười bí mật của ông đáp lại liền. Còn đáp lại anh tôi thì ông thầy chỉ dùng lời nói:
- Thôi, xin hòa, vì con ngựa của tôi đã bị người ta... bắt trộm mất rồi, tôi còn đánh chác làm sao!
Anh tôi cãi lại:
- Ông nói lạ! Có phải ông ngờ tôi giấu quân mã của ông không?
- Không, cậu không giấu, cậu chỉ nhặt để ra giường thôi. Kia kìa, quân mã của tôi kia kìa!
Vừa nói, ông Cửu Thầy vừa giơ tay trỏ vào chỗ những quân cờ mà anh tôi đã chặt được, y như một người sáng mắt vậy. Lòng kính phục của tôi đối với ông thầy bói đã lên đến cực điểm. Và tôi càng quả quyết thi hành việc dự định của tôi. Nhân ông không lưu ý tới, vì đương tức tối với anh tôi, tôi cầm ngay điếu thuốc lá giấu đằng sau lưng. Liền lúc ấy hai ngón tay của ông lò cò rón rén hạ xuống bàn cờ. Tôi sợ hãi luống cuống, vội vàng lại đặt điếu thuốc vào chỗ cũ. Tôi vội vàng quá nên đặt ngược, đầu có lửa cháy quay vào phía trong.
Chừng mải cãi lý với anh tôi, ông Cửu Thầy không kịp đoán biết điều bất trắc, biến cố thình lình ấy. Nghiễm nhiên, không ngờ vực, ông cầm thuốc hút. Bỗng ông giật mình đánh rơi điếu thuốc xuống đất: ông vừa đưa đầu có lửa vào môi.
Nhưng cái mỉm cười của ông không vì thế, cũng như không vì việc mất trộm ngựa, mà héo rụng. Nó vẫn nở tươi như đóa hoa hàm tiếu ở trên cặp môi ông, tuy cặp môi ấy chắc chắn đã bị bỏng, vì tôi thấy thỉnh thoảng ông lại thè lưỡi ra yên lặng lia quanh một vòng.
Rồi trong khi anh tôi chịu thua bày lại quân cờ để đánh ván khác, ông thản nhiên móc túi lấy gói thuốc lá, đánh diêm châm một điếu khác mà vẫn như trước, mỗi lần kéo xong một hơi, ông đặt xuống thành bàn cờ, y nguyên chỗ cũ. Có điều ông cẩn thận hơn, trước khi hút, ông đưa ngón tay ra sờ qua xem đầu nào nóng.
*
* *
Từ hôm ấy, luôn luôn ông Cửu Thầy nhìn tôi mỉm cười, cái mỉm cười lặng lẽ, bí mật, ghê sợ nữa. Tôi cố nhớ đến cái mù của ông mà cho rằng ông không nhìn tôi, không mỉm cười với tôi. Nhưng không sao được, tôi vẫn nhận thấy rõ rệt hai cái mắt kính đăm đăm thu lấy hình tôi. Hơn thế, cái nhìn đen còn theo đuổi tôi cả những lúc tôi đứng một mình, cả trong những giấc chiêm bao của tôi. Tôi yên trí chắc chắn rằng thế nào rồi ông Cửu Thầy cũng trả thù tôi một cách đích đáng. Mà một ông thầy bói cao tay lại lắm mưu nhiều kế như ông ta đã định trả thù ai thì thực chẳng biết đâu mà coi chừng, mà tránh thoát được.
Vì thế, tôi lo lắng, ăn mất ngon, ngủ mất yên, mong cho chóng tới ngày ông từ biệt nhà tôi để cùng thằng con cắp tráp theo hầu đi chu du thiên hạ. Nhưng, hình như không bao giờ ông ta đi, hay ngỏ ý muốn đi. Hay ông định ở lại cho kỳ báo được thù?
Tôi càng sợ hãi khi thấy ông ta phô diễn sự trả thù thằng con một cách quỷ quyệt lạ lùng. Ông ta mỉm cười gọi:
- Con ơi!
Rồi rất ngọt ngào:
- Con lại đây thầy bảo thầm điều này.
Thằng con vì biết mình có lỗi, rụt rè chưa dám vâng lời ngay. Nhưng về sau như bị đôi kính đen của cha thôi miên, nó mon men lại gần... lại gần... Ông Cửu Thầy vẫn mỉm cười, đợi. Bỗng nhanh như con bói cá chộp mồi, bàn tay trái ông bổ xuống nắm lấy cái chỏm tóc rối trong khi bàn tay phải tát luôn một chập đến gần chục cái rất mạnh rất kêu trên hai má thằng con khốn nạn...
Đoạn đâu lại hoàn đấy. Nụ cười tươi, bí mật, đôi kính đen vẫn lãnh đạm nhìn thẳng vào mắt tôi.
Tôi không ngờ vực gì nữa. Những cái tát kia là cốt để bảo cho tôi biết trước rằng sự trả thù của ông thầy bói sẽ ghê gớm đến bực nào...
Nhưng sáng hôm sau ông Cửu Thầy từ biệt ra đi.
*
* *
Ngày nay thỉnh thoảng đãng trí cầm ngược điếu thuốc đưa gần môi, tôi lại nhớ tới câu chuyện thời còn nhỏ, và tôi mơ màng như nhìn thấy đôi kính đen và cái miệng cười say, sợi khói xanh từ từ xoáy trôn ốc cất lên.
Củ khoai nướng
Sau trận mưa rào vòm trời như được rửa sạch, trở nên xanh và cao hơn.
Đã chớm hè nhưng trời vẫn lành lạnh, cái lạnh làm người ta hưng phấn và chóng đói. Thường Mạnh đi học về là đi thả trâu. Tối mịt cậu rong trâu về, đầu tưởng tượng đến một nồi cơm bốc khói nghi ngút.
Nhưng từ giờ đến tối còn lâu và cậu cần phải tìm được một việc gì đó trong khi con trâu đang mải miết gặm cỏ. Cậu bèn ngồi đếm từng con sáo mỏ vàng đang nhảy kiếm ăn trên cánh đồng màu đã thu hoạch. Thỉnh thoảng chúng lại nghiêng ngó nhìn cậu, ý chừng muốn dò la xem "anh bạn khổng lồ" kia có thể chơi được không. Chợt Mạnh phát hiện ra một đám mầm khoai đỏ au, mập mạp, tua tủa hướng lên trời. Kinh nghiệm đủ cho cậu biết bên dưới những chiếc mầm là củ khoai lang sót. Với bất cứ đứa trẻ trâu nào thì điều đó cũng tương đương với một kho báu. Nó bị sót lại từ trước Tết và bây giờ nó sẽ rất ngọt. Để xem, anh bạn to cỡ nào? Không ít trường hợp bên dưới chỉ là một mẩu khoai. Nước miếng đã kịp tứa khắp chân răng khi cậu tưởng tượng đến món khoai nướng. Ruột nó trong như thạch. Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này. Thật may là mình đem theo lửa - cậu lẩm bẩm. Sợ niềm hy vọng đi veo mất nên cậu rón rén bới lớp đất mềm lên. Khi cậu hoàn toàn tin nó là một củ khoai thì cậu thọc sâu tay vào đất, sâu nữa cho đến khi những ngón tay cậu ôm gọn củ khoai khá bự, cậu mới từ từ lôi nó lên. Chà, thật tuyệt vời. Nó không chỉ đơn thuần là củ khoai sót. Nó y như quà tặng, một thứ kho báu trời đất ban riêng cho cậu.
Mạnh đã có việc để làm, mà lại là một việc làm người ta háo hức. Trong chốc lát đống cành khô bén lửa và đợi đến khi nó chỉ còn lớp than hồng rực Mạnh mới vùi củ khoai vào. Cậu ngồi im lắng nghe một sự dịch chuyển vô cùng tinh tế dưới lớp than, cùi trắng muốt đang bị sức nóng ủ cho thành mật. Từng khoảnh khắc với Mạnh lúc này trở nên vô cùng huyền diệu. Rồi có một mùi thơm cứ đậm dần, cứ quánh lại, lan tỏa, xoắn xuýt. Cậu nhớ lại có lần bà kể, nhờ đúng một củ khoai nướng mà ông cậu thoát chết đói và sau đó làm nên sự nghiệp. Chuyện như cổ tích nhưng lại có thật. Nào, để xem sau đây cậu sẽ làm nên công trạng gì.
Chợt cậu thấy có hai người, một lớn, một bé đang đi tới. Ông già ôm theo bọc tay nải còn cậu bé thì cứ ngoái cổ lại phía làng. Cậu nhận ra hai ông cháu lão ăn mày ở xóm bên. Hôm nay, chẳng có phiên chợ sao ông cháu lão cũng ra khỏi nhà nhỉ. Vài lần giáp mặt cậu bé và thấy mặt mũi nó khá sáng sủa. Bố mẹ nó chết trong một trận lũ quét nên nó chỉ trông cậy vào người ông mù lòa.
Mạnh lén trút ra tiếng thở dài khi ông cháu lão ăn mày đã đến rất gần. Có thể thấy rõ cánh mũi lão phập phồng như hà hít tìm thứ mùi vị gì đó. Cậu bé vẫn câm lặng, thỉnh thoảng lén nhìn Mạnh.
- Mùi gì mà thơm thế - ông cậu bé lên tiếng - Hẳn ai đang nướng khoai. Ngồi nghỉ một lát để ông xin lửa hút điếu thuốc đã cháu.
Ông lão lần túi lấy gói thuốc lào. Thằng bé giúp ông tháo khỏi lưng chiếc điếu nhỏ xíu. Mùi khoai nướng vẫn ngào ngạt và Mạnh đành ngồi chết gí, không dám động cựa. Chỉ khi ông lão nhờ, cậu mới cúi xuống thổi lửa. Chà, ông cháu lão mà ngồi dai là củ khoai cháy mất. Đã có mùi vỏ cháy. Lửa sẽ lấn dần vào cho đến khi biến củ khoai thành đen thui mới thôi. Dường như đoán được nỗi khó xử của Mạnh, ông lão bảo:
- Tôi chỉ xin lửa thôi...
Mạnh như bị bắt quả tang đang làm chuyện vụng trộm, mặt đỏ lên. Nhưng ông lão mắt lòa không thể nhìn thấy còn cậu bé ý tứ nhìn đi chỗ khác.
- Thôi, chào cậu nhé. Ta đi tiếp đi cháu!
Ông lật đật đứng dậy, bám vào vai cậu bé, vội vã bước. Cậu bé lặng lẽ nhìn Mạnh như muốn xin lỗi vì đã làm khó cho cậu. Cái nhìn đĩnh đạc của một người tự trọng, không muốn bị thương hại khiến Mạnh vội cúi gằm xuống. Ôi, giá như có ba củ khoai, chí ít cũng là hai củ. Đằng này chỉ có một... Mạnh thấy rõ tiếng chân hai ông cháu xa dần. Nhưng chính khi ấy, khi củ khoai nóng hổi, lớp vỏ răn lại như từng gợn sóng nằm phơi ra trước mắt Mạnh, thì nỗi chờ đón háo hức lúc trước cũng tiêu tan mất. Giờ đây củ khoai như là nhân chứng cho một việc làm đáng hổ thẹn nào đó. Dù Mạnh có dối lòng rằng mình chẳng có lỗi gì sất nhưng cậu vẫn không dám chạm vào củ khoai... Hình như đã có người phải quay mặt đi vì không dám ước có được nó. Có thể ông nội cậu đã từng nhìn củ khoai nướng cho ông làm nên sự nghiệp bằng cái cách đau đớn như vậy.
Mặc dù rong trâu về từ chiều nhưng mãi tối mịt Mạnh mới vào nhà. Giờ đây mới là lúc cậu sống trọn vẹn với cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá. Cậu nhắm mắt lại mường tượng giây phút cậu bé kia mở gói giấy báo ra. Nửa củ khoai khi đó sẽ khiến cậu ta liên tưởng đến phép lạ, có thể lắm chứ! Và rồi cậu thấy lâng lâng đến mức chính mình tự hỏi liệu đây có phải là giấc mơ?
Trong quán phở gia truyền
Hắn nghe người ta đồn đại khá nhiều về một quán phở kỳ lạ, khách đến phải xếp hàng. Ai muốn ăn phải dậy từ rất sớm hoặc đến vào lúc đêm khuya. Đến sớm ăn phở nước đầu. Đêm khuya thì ăn phở vét. Chỉ hai thời điểm ấy là vắng khách.
Hắn đã sống qua thời tem phiếu nên hiểu thế nào là việc đi xếp hàng. Nửa đêm gà gáy, dù mưa rét cũng không được ngại. Cứ phải xếp được lốt ở cửa hàng gạo mới yên tâm. Hàng chục người mũ áo lụp xụp lặng lẽ đứng thành hàng với một sự kiên nhẫn mà có lẽ không thể gặp ở đâu khác. Những khuôn mặt vốn đã hốc hác vì thiếu chất, nay lại thêm mất ngủ trông vật vờ, như những hồn ma chờ ăn cháo thí. Ngần ấy năm, hắn để ý hầu như không ai bỏ cuộc khi chưa thấy cô nhân viên, phần lớn là xấu xí và cong cớn, tuyên bố ráo hoảnh: "hết hàng". Đó là điệp khúc kinh hãi nhất mà chả ai có quyền vặn vẹo.
Giờ đây tưởng chuyện xếp hàng đã thành một thứ di sản văn hoá. Vậy mà vẫn còn chuyện phải xếp hàng mới ăn được phở thì kỳ lạ thật. Hắn không giấu được cảm giác thú vị. Đó là đặc tính chung nhân loại. Khi cái gì mất đi mới thấy tiếc và gán cho nó đủ thứ giá trị. Giả sử cái thời xếp hàng trở lại thì thật khủng khiếp. Nhưng có người và ngay cả hắn cũng đã bắt đầu kể về nó bằng niềm hãnh diện, hãnh diện nhất là được thấy mình như những nhân chứng của lịch sử. Oách lắm chứ. Vì thế sau nỗi thú vị, hắn cảm thấy buồn. Hoá ra độc quyền bất cứ cái gì, kể cả vai trò nhân chứng về thời xếp hàng, cũng không dễ, không có gì đảm bảo chắc chắn về vị thế. Điều đó càng thôi thúc hắn phải đến tận nơi cái quán phở kia. Và hắn quyết phải ăn một trong những bát phở đầu tiên.
Hoá ra lời đồn đại là sự thật. Đúng là người ta xếp hàng để chờ ăn một bát phở sáng thật. Điều đó giờ đây đang đập vào mắt hắn. Điều khác với thời hắn xếp hàng mua gạo là bây giờ mặt mũi ai nấy béo đỏ, ăn mặc tươm tất chứ không mê đụp như trước kia. Bắt chước mọi người hắn cũng cầm sẵn tiền trong tay và đứng vào hàng. Hắn cố nghểnh cổ lên để nhìn về phía quầy, nơi có độ ba, bốn người đang thoăn thoắt thái, đập, xóc bánh phở, nhận tiền của khách, chan nước dùng, hò hét quát lác... dường như họ không thể nhanh hơn được nữa. Nhưng hình như khách hàng không hài lòng với tốc độ quá chậm chạp của họ. Điều đó khiến cả hai bên luôn ở vào tình trạng căng thẳng. Khách hàng giải toả bằng những câu trách cứ của người đóng vai trò thượng đế. Người của nhà hàng thì chỉ im lặng, đúng với bổn phận của kẻ luôn mong được phục vụ.
Có lẽ họ đã quen đến mức không còn cảm xúc nữa, mặc kệ ai muốn nói gì thì nói. Mặc kệ luôn cả sự cãi cọ, tranh chấp chỗ đứng của khách hàng. Người này bảo họ đến lượt trước, người kia cãi lại, người khác thừa cơ chìa tiền ra, khua vào tận mặt nhân viên nhà hàng. Trong thời gian ấy thể nào cũng lại có ai đó lợi dụng chen lên, khoái chí với sự nhanh chân của mình mặc những người phía sau gào lên đòi lôi cổ kẻ chen ngang mất lịch sự ra. Thành ra thứ vung vãi nhiều nhất là nước bọt. Hắn cũng dính một cục nước bọt của ai đó phi thẳng vào gần tai. Hắn cảm giác rất rõ bãi nước bọt đặc quánh của một gã nhất định bị bệnh hôi mồm.
Phía trước hắn một phụ nữ cũng phải vài lần lén đưa tay chùi nước bọt ở cổ đồng thời ý tứ đặt hai ngón tay bịt vào lỗ mũi. Khổ thân nàng, thân gái bị ép giò thế kia chỉ để ăn một bát phở liệu có đáng không? Mà đâu chỉ có mình nàng. Phía sau hắn các bà các cô vẫn lần lượt nhập cuộc, oang oang nói chuyện về băng vệ sinh siêu mỏng chỉ hợp với người hẹp háng. Tất cả những điều đó không chỉ đập vào mắt mà vào cả ngũ giác hắn. Hoá ra có những thứ thuộc về bản sắc thật sự, nghĩa là bất chấp thời gian, những biến động xã hội... nó cứ trơ ra, không sức mạnh vật chất, tinh thần nào thay đổi được. Ví dụ như chuyện xếp hàng đây.
Ở đầu hàng bỗng xảy ra cãi cọ. Một ông khách đang đòi đổi phở vì không đúng với yêu cầu của ông ta. "Tôi gọi tái gầu cơ mà, sao lại cho tôi tái nạm?". "Thôi, dùng tạm đi! - Ai đó góp lời. - Người ta trót làm rồi. Hôm khác ăn tái gầu". Có tiếng cười nổi lên. Ông khách quay sang vặc nhau với người vừa nói: "Ông nói cho Tây nó nghe. Mất tiền mua chứ ăn xin chó đâu mà phải nhận cái thứ mình không thích". Ông khách kia im lặng trong khi ông đòi đổi phở thì vẫn đứng như ăn vạ, tay bê bát. Nhân viên nhà hàng vội nhận lại, mặt vẫn vô cảm. Nhưng muốn đổi thì phải chờ bởi chẳng ai chịu nhường khi đến lượt mình. "Chị cho đây đi chứ?" - Ông khách đòi đổi phở sốt ruột giục nhân viên nhà hàng. "Vâng, bác chờ cho một lát". "Chờ, chờ, tôi ăn xin à?". "Làm cho tôi đi đã. Của tôi hai trứng".
"Đến lượt tôi". "Cái ông này, giẫm cả vào chân người ta!". Người phụ nữ trước mặt hắn lại lặng lẽ đưa tay chùi mặt, lần này là má. Hắn đã gần đến lượt, có thể nhìn thấy nồi nước phở sôi ùng ục, lộn nhào đủ thứ trong đó. Hắn quan sát đám nhân viên nhà hàng. Toàn những tay tổ của nghề băm thịt. Miếng thịt bò đỏ au, chỉ trong tích tắc đã nát nhừ dưới lưỡi dao. Rồi bẹt một cái, cả cục thịt bị băm nhừ ấy bám chặt vào bản dao và cứ thế tay nhân viên trút thẳng vào bát phở. Trong thời gian hắn nghĩ lung tung thì tay nhân viên đã kịp làm tới bốn miếng như vậy, không miếng nào khác miếng nào. "Thế có định làm cho tôi không thì bảo?" - Ông đòi đổi hàng bắt đầu nổi cáu. "Có ngay đây ạ!" - Một nhân viên nhà hàng vừa đưa tay ý tứ gãi sườn vừa nói. Sau đó chị ta lại thoăn thoắt bốc bánh phở.
"Cứ có ngay, có ngay... nhưng có đ. đâu!". Tay nhân viên đang băm thịt dừng lại nhìn nhanh người vừa văng tục. Hình như anh ta định nói gì đó nhưng chỉ thấy quai hàm bạnh ra rồi lại xẹp xuống. Khách tiếp tục đến, tiếng quát lác của mấy gã trông xe nhặng xị cả lên. Ông khách chờ đổi từ phở tái nạm sang tái gầu cuối cùng cũng được toại nguyện. Ông bê bát phở ra tìm chỗ ngồi nhưng mọi dãy bàn đều đã chật cứng. Loanh quanh mãi cuối cùng ông ngồi xổm ngay trên nắp cống chạy dọc vỉa hè, nơi cũng có vài người không chiếm được chỗ ngồi như ông đang húp xì xụp, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Họ chẳng để ý đến điều gì khác ngoài khoái cảm tạo ra do cách ăn ngốn ngấu.
Cuối cùng cũng đến lượt hắn chìa tiền ra. Giống như ông bị nhầm phở lúc trước, hắn không sao kiếm được một chỗ ngồi ăn đàng hoàng. Ngay cả một chỗ ngồi xổm trên nắp cống ngoài vỉa hè cũng không còn. Thế là đành đứng ăn vậy. Hắn cố tập trung cảm giác để tận hưởng hương vị của từng miếng phở và tìm cái lý do của những sự nhọc nhằn kia. Mùi nước phở quện lẫn mùi nước cống bốc lên khiến hắn thấy lờm lợm. Nhưng hình như chỉ mình hắn cảm thấy như vậy - Xung quanh mọi người đều cắm cúi ăn, cốt sao xong thật nhanh để thoát khỏi chỗ này và để không bị xô đẩy bởi những người mới đến.
Bỗng tiếng ồn ào nổi lên rồi chỉ thấy mấy tay trông xe lao vào vơ vội những chiếc ghế cáu bẩn ném đại vào phía trong cửa hàng, bất chấp việc ai đó chửi toáng lên. Một cùi tay thúc phải hắn đúng lúc hắn đưa bát phở lên húp. Chưa kịp nói gì thì người vừa gây ra sự cố - trông qua cũng nhận ra ngay là một giáo sư - nói như van: "Xin lỗi nhé". Hắn thấy chính ông ta cũng đang khốn khổ với chiếc áo bị những sợi phở ướt bám vào. "Ăn mới chả uống, khổ quá đi vác đấu!". "Này- hắn hỏi ông kia - ông có thấy ngon không?". "Ngon chó gì. Làm sao mà ngon được cơ chứ. Đã chả có chỗ ngồi lại còn phải chạy mấy ông trật tự". "Thế sao người ta vẫn cứ ra vào nườm nượp thế kia hả ông?". "Thì ông hỏi ngay chính ông ấy".
Hắn nhìn đồng hồ. Một tiếng cho bữa sáng. Hắn nhìn dòng người vẫn tiếp tục nối vào, mặt ai nấy đầy nhẫn nhục một cách khổ ải mà cám cảnh. Hắn lại thấy lờm lợm ở cổ họng. Hắn tự nhủ sẽ chẳng bao giờ bước chân vào quán phở này nữa.
Nhưng rồi bất đắc dĩ hắn lại phải đến. Như hôm trước, vẫn cả một dãy người dài dằng dặc. Hắn đứng phía sau một người đàn ông ăn mặc rất trí thức và hắn hớn hở ra mặt khi nhận ra ông ta chính là vị giáo sư hôm nọ. Hình như ông đã liếc tìm chỗ trên nắp chiếc cống ngoài vỉa hè, bởi cũng giống như hôm nọ, mọi dãy bàn đã kín đặc, người đứng người ngồi lố nhố. "Chào ông" - hắn chủ động lên tiếng trước. "Vâng, chào anh" - ông giáo sư uể oải chào lại, rõ ràng ông ta không muốn kéo dài thêm sự quen biết. Nhưng hắn thì lại không nghĩ thế. Hắn vừa nảy ra ý định là muốn tìm xem lý do nào khiến ông giáo sư trở lại quán phở này để một lần nữa - và có thể nhiều lần nữa - chịu cảnh cơ cực nhường kia chỉ vì một bát phở cho bữa sáng. "Tưởng sau bữa hôm nọ thì các vàng ông cũng không đến đây nữa" - hắn nói bâng quơ nhưng rõ ràng là đang nối lại mạch chuyện với ông giáo sư. Ông giáo sư không giấu giếm vẻ mặt khó chịu trước sự quan tâm quá đáng của gã lắm chuyện này, cố ý không trả lời. Nhưng hắn không chịu bỏ cuộc.
"Ông ăn ở quán phở này mấy lần rồi?". "Làm sao tôi nhớ được!" - Ông giáo sư khẽ cười khẩy. "Sáng nay ông có nghe thời sự không, chả biết chiếc xe khách bị đổ hôm trước có thêm ai bị chết?". Ông giáo sư quyết tâm quay mặt đi. Hắn đổi chân cho đỡ mỏi, hỏi tiếp: "Theo ông bọn trẻ không thèm nghe lời người lớn có nguyên nhân từ đâu?". "Thôi, kệ chúng nó! - người phía sau khẽ bảo hắn - Đứa nào không biết lo thân thì cứ việc chết. Vả lại người lớn cũng có ra gì đâu. Hẵng lo bữa sáng đi đã...". Nhưng hắn vẫn bám theo ông giáo sư: "Thế nào ông, phải có nguyên nhân chứ? Giới các ông phải hành động đi chứ...". Đến đây hắn chỉ thấy ông giáo sư khẽ xoay người lại, nhìn chòng chọc vào mắt hắn, hàm bạnh ra còn tiếng nói thì được nước bọt hộ tống phun như mưa. "Tôi ước ngay bây giờ là thằng đầu đường xó chợ để có thể tát cho anh một cái. Anh để cho tôi yên có được không?" "Sao ông lại nổi cáu với tôi?" - hắn thật sự ngạc nhiên. Ông giáo sư chưa kịp trả lời thì nhân viên nhà hàng hỏi "Bác dùng loại gì ạ?". "Cho tôi phở hôm nọ, à vâng, tái nạm". Rồi ông kiên nhẫn đứng chờ để tự tay bê bát phở ra vỉa hè, vừa ăn vừa loanh quanh tìm chỗ ngồi. Ông ăn như được lập trình sẵn, bao nhiêu sự khổ ải hiện hết lên mặt.
Trong khi đó hắn cứ nghĩ mãi mà không tìm ra lời giải thích việc ông giáo sư nổi nóng. Ông ta đáp lại lời hỏi thăm của người khác như vậy đấy. "Nào, có ăn không thì bảo!" - Người phía sau khẽ gắt lên. Hắn vội chìa tiền ra. "Anh dùng loại gì ạ?". "Cho tôi ...loại gì cũng được. Nhưng mà này, sao ông ta lại nổi cáu với tôi?". Lời của hắn rơi tõm vào đâu đó trong khi nhân viên nhà hàng có vẻ khó xử. Hắn bưng bát phở, còn đang ngần ngừ thì đã thấy tiếng gắt um lên: "Được rồi thì ra đi để đến lượt người khác chứ". "Vâng, xin thông cảm. Tôi ngạc nhiên thật đấy...". Không ai thèm hiểu hắn đang nói gì.
Hắn thấy khinh bỉ, xấu hổ, thương hại, căm ghét... tất cả cứ lộn tùng phèo trong đầu. Hắn chỉ muốn hắt toẹt mớ ý nghĩ ấy, như hắn vừa làm thế với bát phở, nhưng không phải xuống miệng chiếc cống hôi hám kia... "Đồ điên"- mọi cặp mắt hướng về hắn đều để lộ ra ý nghĩ ấy. Nhưng kể cả hắn điên thật thì cũng mặc xác hắn, đám đông vẫn lầm lụi nhích từng tí một, như là họ không còn mối bận tâm nào khác quan trọng hơn việc phải ăn bằng được một bát phở gia truyền.
Bát canh nước trong rau biếc
Anh mở cửa rồi nhìn sang phòng khách, không thấy chị ở đó. Anh mỉm cười, đi vào bếp, quả nhiên chị đang đảo cơm trong nồi. Anh ngửi thấy mùi cơm thơm, rất thơm. Điều lạ là ở nơi khác, hầu như anh chưa ngửi thấy mùi cơm thơm như thế bao giờ.
Anh rửa tay, ngồi vào bàn ăn. Chị bưng lên hai đĩa nhỏ có hoa xanh, một đĩa đựng mười mấy con ốc hạt mít, một đĩa đựng rau non mỡ, trong trong. Cuối cùng chị bưng lên một âu sành nhỏ, đây mới chính là món anh mong chờ nhất. Lập tức anh mở nắp âu ra xem, trong đó có trắng có xanh, có đỏ, trông thật vui mắt.
Anh tự múc trong âu ra nửa bát canh. Nước canh trong, không có váng mỡ, xanh là rau cải, trắng là đậu phụ, lại còn dăm ba hạt câu kỷ đỏ. Mùi vị canh tuyệt hảo, bảo chay tịnh thì lại rất đậm đà, bảo đậm đà thì lại rất thanh đạm, bảo thanh đạm thì lại rất ngọt ngào. Bát canh chẳng khác gì có đoá phù dung nổi trên mặt nước trong, đầy vẻ thiên nhiên. Chỉ húp một ngụm thôi đã thấy các giác quan bị tê liệt cả một ngày bỗng dưng thức tỉnh, vẻ mặt anh cũng biến đổi theo. Dường như vỏ bọc mỏng trên mặt đã bị vỡ tan, tất cả các thớ thịt, tất cả các nếp nhăn đều duỗi ra... thật là một món canh ngon tuyệt! Nó khác hẳn các bữa tiệc anh phải thù tiếp - tiệc công việc. Loại tiệc như thế không bao giờ có cơm. Lúc nào cũng quá nhiều chất béo, quá nhiều vị nồng cay làm cháy cả cổ, lưỡi hầu như tê dại.
Anh húp liền hai bát canh rồi mới ăn cơm, cứ một con ốc hạt mít lại một gắp rau, một đằng béo, một đằng giòn, đều là những món trôi cơm. Bát cơm hết veo lúc nào cũng chẳng hay, nhưng anh không xới thêm mà chỉ nhấm nháp một lưng canh nữa, sau đó anh đặt bát xuống, mỉm cười với chị:
- Em nấu sao được món canh này? Ai cũng bảo tiệm ông Vương Già có món canh ngon, nhưng theo anh thì canh ở tiệm ấy cũng không ngon bằng canh nhà nấu.
- Nói ra thì... Kỳ thực rất đơn giản, nhưng phải có lòng kiên trì.
Sau này nhiều lần anh thấy luyến tiếc cuộc sống lúc đó. Cuộc sống thật yên bình. Cảm giác thật tuyệt khi ngồi vào bàn ăn đợi vợ bưng chiếc âu sành lên, màu sắc đẹp mắt khi mở nắp âu ra.
Anh đã kết hôn mười bảy mười tám năm rồi. Vợ anh là bạn thời học đại học, là mối tình đầu. Ra trường hai năm, họ làm lễ cưới và chẳng bao lâu đã có con. Thằng bé chẳng những học vào loại ưu mà còn rất xinh trai, bởi vì chị là hoa khôi của trường, chẳng cần trang điểm cũng đáng yêu. Vì thế nên anh không dễ bị sắc đẹp đàn bà làm kinh động. Vả chăng anh cũng biết sắc đẹp của phụ nữ bây giờ phần lớn nhờ vào mỹ phẩm.
Nhưng sự xuất hiện của Đô Đô là một việc hoàn toàn bất ngờ. Lúc đầu anh thấy đó chỉ là cô bé còn chưa trút bỏ được vẻ ấu trĩ, như một bình hoa thuỷ tinh, đẹp và trong suốt, chỉ để ngắm chứ không dùng được bao lâu. Tới khi nhận ra ý đồ của cô bé, anh còn cảm thấy buồn cười. Nếu không phải là nhân viên của anh, cô bé đáng gọi anh bằng chú. Đương nhiên anh cũng thầm lấy làm thích thú. Cô bé chẳng những xinh đẹp mà gia đình cũng không xoàng. Cha là luật sư nổi danh, mẹ là bác sĩ nổi tiếng, gia đình vốn định cho cô sang Đại học Cambridge du học. Một cô bé như thế mà gần gũi đàn ông thì...
Lúc đầu anh thật sự không hề để ý vì cho rằng Đô Đô chỉ bốc đồng nhất thời, hơn nữa anh không thể phá hoại gia đình của mình. Nhiều năm nay, vợ anh xin nghỉ công việc dạy học ở một trường trung học mà chị đang làm rất tốt, chuyên tâm ở nhà giúp chồng, dạy con. Một phụ nữ ngoài bốn chục tuổi, không có sự nghiệp, cũng không có bạn bè, chị sẽ sống sao đây? Huống hồ rất nhiều đàn ông bây giờ sau khi thành đạt đều tìm thú vui mới, bỏ mặc người vợ kết tóc xe tơ. Anh không muốn mình cũng là hạng đàn ông tầm thường. Nhưng con gái thời nay chỉ thích làm theo ý mình. Các cô muốn gì là vừa khóc vừa gào đòi chết. Bình hoa thuỷ tinh Đô Đô vì yêu anh vô vọng nên đặt mình trên vách đá thẳng đứng. Cuối cùng anh đành phải giơ tay đỡ lấy cô ta.
Anh không về nhà ăn cơm nữa. Sau đó cả đến tối cũng không về. Anh bảo anh quá bận, sau đó lại nói anh muốn ở một mình cho yên tĩnh. Chị im lặng hồi lâu. Cuối cùng chị bảo:
- Thôi thế này vậy, khi nào anh muốn về thì gọi điện.
Anh không thích thuê nhà, bảo phải mua một căn hộ trang bị đầy đủ, đồng bộ, từ đồ đạc đến đồ điện. Đô Đô lại không thích, cô bảo kiểu nhà như thế không có phong cách. Cuối cùng cô đưa anh về ở nhà cô. Đô Đô một mình ở căn hộ hai phòng ở, một phòng khách do cha mẹ mua cho. Cô tự trang trí lấy, một phong cách gọn nhẹ, hiện đại nhưng lại là kiểu còn tốn tiền hơn cả bài trí hoa lệ.
Tình yêu mới, nhà ở mới, không khí mới, điên cuồng mới, cả anh cũng thấy mình như đổi mới. Mấy tháng trời qua đi như có cánh bay. Cũng có lúc cả hai thấy đói. Anh là nhân vật của một nửa công chúng, không thể đi ăn hàng ngày ở tiệm, Đô Đô đành phải gọi các tiệm mang đồ ăn tới nhà. Món ăn đưa đến không có canh, họ có lúc uống thay bằng trà Ô Long đóng hộp và thường xuyên hơn là uống Côca Côla.
Dần dần bữa ăn trở thành công việc khổ sai, bởi các món đưa đến trở nên khó nuốt, hơn nữa anh còn phải che giấu, bởi chỉ cần anh tỏ ra không vừa ý là Đô Đô nói ngay: "Em biết anh lại nhớ cuộc sống trước kia rồi chứ gì? Anh thấy hối thì cứ nói toẹt ra đi!".
Chẳng ngờ một hôm, vừa vào qua cửa, anh đã nhìn thấy khuôn mặt ửng hồng vì hưng phấn của Đô Đô. Đô Đô kéo anh vào bếp. Trong bếp là cảnh một siêu thị thu nhỏ sau cơn động đất. Mọi thứ đều rối loạn, cả đến mái tóc của Đô Đô cũng dính một thứ gì đó vàng vàng như mỡ. Tất bật một lúc lâu rồi Đô Đô cũng làm xong. Anh làm ra vẻ không do dự xúc món xúc xích Viên sốt cà chua thêm mười mấy thứ gia vị khác nữa. Ăn xong, anh nói: "Từ nay không cần phải nhiêu khê đến thế. Người giỏi làm cơm thì cho dù chỉ có canh nước trong cải biếc, ăn vào đã thấy sướng!".
Dứt lời, anh lập tức nhận ra mình đã nói một câu không nên nói.
* * *
Khi tiếng chuông cửa vang lên, trong một giây, chị tưởng anh trở về, nhưng chị hiểu ngay là không phải. Chị mở cửa, một cô gái trẻ đứng ngay trước mặt chị, da trắng nõn nà. Chị thầm hỏi bằng ánh mắt, cô bé nói: "Em là Đô Đô, bạn của chồng chị!".
Chị hiểu ra ngay. Đô Đô muốn tìm một tình cảm nào đó biểu hiện trên nét mặt chị nhưng không hề có. Cô ấy đi vào đề:
- Hôm nay em đến đây, một là muốn thấy chị là người như thế nào, hai là muốn được chị cho ăn cơm chị nấu. Anh thường khen chị nấu món đơn giản nhất cũng thành được món ngon nhất nên em tò mò.
Chị dường như cảm thấy khó nghĩ, lát sau mới nói:
- Thế thì cô ăn tạm bữa cơm xoàng vậy.
Chị dọn ra một bát cơm, hai đĩa thức ăn nhỏ và một cái âu sành. Đô Đô mở âu sành, múc một bát canh, húp một ngụm rồi chẳng cần suy nghĩ đã reo "Oa!". Cô ngờ vực nhìn chị:
- Đây chính là món canh nước trong rau biếc hay sao?
- Anh ấy gọi như thế! - Chị đáp.
- Chị có thể cho em biết canh này nấu như thế nào không?
Chị dường như khẽ trút một tiếng thở dài, sau đó mới nói:
- Phải chuẩn bị nhiều thứ đấy. Sườn ngon, giămbông Kim Hoa, gà cỏ Tô Bắc, tôm tươi Thái Hồ, măng núi Mạc Can, sò tươi, nấm hương, đến mùa cua thì mua cua hồ Dương Trừng, chặt làm đôi, cho tất cả vào âu đun nhỏ lửa chừng ba bốn giờ. Nước một lần phải đổ cho đủ, không cho muối, bột nêm. Hầm xong, vớt tất cả bã ra, cả những vụn bã nhỏ cho nước thật trong. Lúc gần ăn mới thả đậu phụ, rau cải, những thứ này có thể hút hết váng mỡ.
Đô Đô hít vào một hơi dài. Đây chính là món canh được gọi là "nước trong rau biếc" sao? Lòng dạ người phụ nữ này mới sâu lắng làm sao! Còn người đàn ông kia nói mà chẳng hiểu gì hết. Hàng ngày được hưởng thụ món ngon như thế mà anh lại cho rằng đó là món đơn giản nhất, dễ làm nhất? Chính trong giây phút đó, Đô Đô sâu sắc hiểu ra người phụ nữ ấy. Cô cũng hiểu ra trên thế giới này, giữa tình yêu này và tình yêu kia khác xa nhau biết mấy!
Chị nhìn Đô Đô, cười khoan dung rồi hỏi:
- Cô có thể vì anh ấy mà nấu như vậy không?
Đô Đô ngoẹo đầu, nghiêm túc suy nghĩ rồi đáp:
- Em có thể làm như vậy, nhưng không cần nữa rồi.
Một tháng sau. Chiều muộn, như thường lệ chị ở trong bếp. Chuông cửa bỗng reo vang, chị mở cửa, bất ngờ lại là anh. Chị ngẩn ra, buột miệng hỏi:
- Sao thế? Quên không mang chìa khoá à?
Anh cảm thấy như trút được gánh nặng, xác định mình có thể rửa tay ngồi vào bàn ăn được rồi. Chị bưng lên một khay to. Chứ không mang thành nhiều lần như trước. Trên khay có hai bát cơm, hai đĩa nhỏ thức ăn và một cái âu sành. Đó là thứ anh nhớ nhung nhất. Không chờ được, anh mở nắp âu, múc ra lưng bát canh. Vẫn có xanh, đỏ, trắng, vẫn là màu nước trong vắt, không có váng mỡ. Anh hấp tấp hút một ngụm, chỉ một ngụm ấy là đã biến sắc mặt.
- Canh gì thế này? - Anh không dám nhổ ra.
Chị nếm một ngụm rồi nói:
- Nước trong rau biếc thì chỉ có thế này thôi.
Anh đặt thìa xuống xét nét nhìn chị. Chị không nhìn anh, thản nhiên ăn cơm. Anh không ăn, châm một điếu thuốc. Chị không hề nhìn anh lấy một cái. Ăn xong miếng cuối cùng, chị thu hết bát đĩa vào khay, sau đó mới nhìn thẳng vào anh nói:
- Nhà ta sau này có thể phải thuê một người giúp việc theo giờ. Em tìm được việc rồi mà việc nhà lại nhiều như vậy.
- Em đi làm? Làm gì? - Anh kinh ngạc hỏi.
- Anh quên rồi à? Em vốn là một cô giáo.
Ngụm canh khó nuốt vừa nãy dường như cuộn lên trong ruột, anh buột miệng hỏi:
- Việc lớn như thế sao không bàn với tôi? Em bây giờ sao thế? - Vừa hỏi xong, anh đã thấy hối. Người đuối lý là anh.
Nhưng chị không nói gì thêm, chỉ nhìn anh một cái. Cái nhìn ấy khiến anh bắt đầu nhận ra mình thật ngu xuẩn.
Rau đồng quê
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông tôi trúng tuyển kỳ thi vào đại học khoa học xã hội và nhân văn tại Saigon. Tôi là một cô gái đồng quê. Ngoài giờ học, quanh năm tôi miệt mài ruộng vườn rẫy bái giúp cha mẹ, ít được đi đây đi đó. Bây giờ lên đại học tôi phải xa nhà để đến thành phố trọ học. Đối với tôi, Saigon có những xa lạ, tôi cảm thấy ngỡ ngàng và lo lắng. Con đường tiến thân tôi buộc lòng xa nhà, mạnh dạn bỏ tất cả mọi quen thuộc, mang niềm tin tuổi trẻ nhiều mơ ước xây dựng tương lai sự nghiệp cho bản thân và phục vụ xã hội.
Mẹ tôi lo lắng nhiều cho tôi nơi xứ lạ quê người. Không những bà lo lắng tiền bạc chu cấp hằng tháng mà còn lo cho tôi đau ốm bệnh hoạn, lo nơi ăn chỗ ở và nhất là không có ai bên cạnh chỉ dẫn, nhắc nhở và trông chừng tôi hằng ngày.
Mẹ đang nghĩ tôi còn non người trẻ dạ rất có thể vấp ngã trước cuộc sống phồn hoa đầy cạm bẫy nơi đất lạ. Mẹ rất cưng con gái ruột của mẹ nên đã lặn lội tìm nhà người bạn quen thân để gởi gấm tôi. Tôi thưong mẹ hơn tất cả mọi người và hứa chắc nịch với mẹ là sẽ chăm học, vài năm sau con sẽ chiếm được mảnh bằng mang về cho mẹ. Tại Saigon hằng ngày đi học tôi mặc quần tây áo sơ mi, cỡi chiếc xe đạp cà tàng, tóc kẹp thả dài xuống lưng. Nhìn dáng vẻ bề ngoài của tôi trông quê quê gì đâu ! Đôi lúc tôi mặc cảm ngượng ngùng với bản tính rụt rè cố hửu. Trong lúc đó thì bạn bè dân thành phố chúng nó đi học bằng honda, cúp đời mới, đeo đồng hồ xịn, mặc thời trang, xài điện thoại di động có camera, máy nghe nhạc đeo tai, tóc cắt uốn theo người mẫu, tài tử, diễn viên. Tan giờ học chúng kéo vào nhà hàng ăn chơi, đến các tụ điểm giải trí, vào quán internet tìm bạn bốn ohương, chat ... hoặc có đứa dợt le bằng những xế hộp bóng nhoáng vi vút trên đường phố, nhìn mà ham.
Mặc cảm thân phận thấp hèn, tôi ít tiếp xúc thân thiện với tụi nó, và chỉ biết chơi với mấy con nhỏ nhà quê như tôi. Dù sao trong lòng tôi cũng gợi lên những ước muốn những cái mà mình chưa có. Xin thêm tiền gia đình là điều tôi không nên làm. Cha mẹ tôi đầu tắt mặt tối để có chu cấp cho tôi hằng tháng bằng số tiền cố định. Ước muốn cho tôi vươn lên như bạn bè đâu phải là chuyện dễ. Chính là sự ray rứt và thường xuyên suy nghĩ của tôi.
Qua năm học thứ hai, tôi đã dần dần thích nghi với hoàn cảnh mới, bớt dần sự ngượng ngùng rụt rè. Cuộc sống đã giúp tôi những hiểu biết khôn ngoan hơn. Đầu tiên tôi muốn
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro