Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

TRUYEN2-Lenghiabk05

tách rời nơi nhà trọ mà mẹ tôi đã gởi gấm. Họ kiểm soát tôi chặt chẽ, theo dõi sinh hoạt hằng ngày của tôi. Họ đã thực hiện những gì mẹ tôi đã nhờ cậy họ.  Còn với tôi, tôi cảm thấy hơi khó chịu như đang bị giam lỏng mất tự do.

            Tôi nói dối mẹ là có sự không hợp tính giữa tôi với gia đình đang ở trọ. Chuyện này có thể ảnh hưởng đến sự chăm chỉ đèn sách của tôi. Nghe tôi than thở, mẹ đồng ý để tôi dọn đến ký túc xá ở chung phòng với mấy đứa bạn và ăn cơm tháng. Thế là tôi được chút không khí tự do của đời sinh viên.

Tôi đem ý nghĩ thua sút của mình tâm sự với mấy đứa bạn cùng phòng. Có đứa bảo kệ nó, hơi sức đâu mà lo, tụi mình làm gì theo kịp chúng nó. Có đứa bảo muốn có tiền ăn xài chưng diện cho nở mặt thì đi làm thêm ngoài giờ học. Chúng nó nhìn bề ngoài tôi, tấm tắc khen tôi vượt quá tiêu chuẩn sắc diện, lợi khí hái ra tiền. Có đi làm nhà hàng như chúng nó vào mỗi buổi tối chừng thời gian là khối tiền để mua sắm, nhưng mà coi chừng bản thân để không hối hận.

Tôi nghe lời chúng nó trong tâm trạng náo nức để nhập cuộc. Tôi xin vào làm cho một nhà hàng lớn ngay giữa Saigon, cho dù tại đây tôi đã nghe xảy ra những chuyện không tốt trong công việc phục vụ khách. Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, tùy lúc xử sự. Còn do ở mình, nên hư do mình, cứ cố gắng giữ, nếu quá lắm thì rút lui. Đi làm để kiếm tiền trang trải cuộc đời, không phải đi làm để sa ngã hư hỏng tấm thân. Tôi mang tâm trạng đã xác định vị trí để an tâm làm việc.

Như lời chúng bạn nói, bước chân vào nhà hàng được vài hôm tôi là người được tiền típ nhiều nhất. Không nói cũng hiểu được rằng tôi là người mới ra nghề, sắc diện hấp dẫn, cơ thể nở nang đầy đặn, dân đồng quê sạch sẽ bảo đảm, ăn nói có duyên, thêm cái mác sinh viên nên đã thu hút được những vị khách giàu có sang trọng của nhà hàng. Họ đến với tôi nhiều lần và đã dành cho tôi những ưu đãi đặc biệt. Họ vồn vập bao quanh tôi với ánh mắt thèm khát, những lời nói ngọt ngào nóng bỏng. Họ bỏ tiền ra để mua lấy vài giờ ở bên tôi sau khi nhà hàng đóng cửa. Tôi  khôn khéo tìm mọi cách trì hoãn, giữ lòng chừng mực giao tiếp. Tôi đã nhìn thấy điểm khởi hành sa vào cạm bẫy đang bắt đầu từ đây. Những lời ong tiếng ve, ánh mắt đưa tình, sự săn đón niềm nỡ, những tờ giấy bạc hấp dẫn là bình phong che khuất bên trong sự manh tâm gian trá của người đời chực chờ quyết chiếm cho bằng được thể xác mình để thỏa mãn thú tính nhục dục bằng mọi giá. Bao nhiêu đàn bà con gái đã bị dụ dỗ và sa ngã đến tan nát cuộc đời. Cũng đã vô số những cô gái vô danh đang từ bùn đen một sớm một chiều muốn ngoi lên thật nhanh  trên nấc thang danh vọng và giàu sang,  hãnh diện với đời vẫn phải kinh qua những mặc cả ghê tởm và hèn hạ. Tôi hiểu điều đó và cũng đã hiểu những biến đổi trong môi trường đang sống. Từng đêm đi làm về nhìn những bộ quần áo thời trang đắt tiền vừa mua sắm, các món nữ trang quí giá lấp lánh đeo trên người cùng những sấp tiền dày cộm tôi cảm thấy vừa lòng và còn tự biết khen cho chính mình, rồi đôi lúc thờ ơ hoặc lãng quên những điều hiểu biết trước mắt.

Qua ba tháng làm nhà hàng tôi đã có sự thay da đổi thịt từ một cô sinh viên miệt vườn đang trở thành một nàng sinh viên thành phố  biết chưng diện và ăn chơi. Thời điểm này là vàng son. Tôi là một bông hoa biết nói giữa bao nhiêu cánh hoa khác. Bao nhiêu ong bướm dập dồn vây chung quanh để tranh nhau vờn hoa hút nhụy. Tôi đang quen biết được nhiều người từ sang đến hèn, những đại gia, những khuôn mặt lớn thời đại lắm quyền nhiều thế. Sự quen biết vì cần đồng tiền bỏ túi, không vì tình cảm. Tôi chưa thỏa mãn điều gì cho ai bằng những tình cảm riêng tư.

             Lúc này tôi đang chú ý đến một người. Ông là một vị khách đặc biệt của nhà hàng. Hằng ngày ông đến và đặc biệt ông yêu cầu tôi phải tiếp ông trọn những giờ ông có mặt. Thường là những bữa ăn sáng, ăn chiều, những bữa tiệc đãi bạn bè, những tiếp xúc cho công việc làm ăn của ông, ông buộc tôi luôn bên cạnh ông. Ông không bao giờ trả tiền  chi phí ăn uống này nọ, cứ mỗi cuối tháng có nhân viên của ông đến thanh toán cho nhà hàng. Tôi ngồi tại bàn với ông, cần điều gì tôi phải lo cho ông. Thỉnh thoảng ông hỏi tôi vài câu về cuộc sống. Ông tỏ ra đứng đắn, lịch sự, sang trọng và nghiêm nghị. Ông lớn tuổi vào hàng chú bác đối với tôi. Ông ăn mặc chỉnh tề đi xe hơi có tài xế riêng. Ông là tổng giám đốc dưới tay có nhiều kẻ hầu người hạ. Hằng ngày ông luôn cho tôi tiền đôi khi kèm theo những món quà đắt giá. Ông ân cần nhắc nhở tôi việc học hành. Ông dặn dò tôi trong việc tiếp xúc với khách hàng phải luôn thận trọng. Ông hỏi tôi về lý lịch, quê quán, gốc gác. Tôi thật thà nói cho ông nghe không dấu diếm một điều gì. Ông ngọt ngào nói với tôi là ông thương tôi, thương một cô gái đồng quê vừa xinh đẹp vừa chăm chỉ học hành.

Vài tuần quen nhau ông đưa tôi đến một cửa hàng mua tặng tôi một chiếc Dylan cấu cạnh mà ông gọi là quà kỷ niệm ngày quen nhau. Tôi xuýt xoa không dám nhận món quà quá lớn vì nghĩ rằng tôi mang tiếng lạm dụng chăng ? Tôi cảm thấy nghi ngờ tấm lòng tốt của ông mà bên trong như đang có một ý đồ nào đó. Nhưng rồi tôi phải nhận vì ông nài nỉ tôi, và vì tôi cũng đang đạt ước mơ đã ấp ủ trong lòng từ lâu. Ông bảo chỉ là chuyện nhỏ chẳng có gì đáng phải quan tâm. Ông giúp tôi như ông đã giúp mọi người vậy thôi.

Ông bỏ tiền thuê dài hạn một căn phòng đầy đủ tiện nghi ở tầng ba của một cao ốc lớn nằm giữa trung tâm Saigon dành riêng cho tôi. Ông nói ở chung đụng với nhiều người trong một căn phòng nhỏ ở ký túc xá là không tốt cho sức khoẻ, vã lại không yên tỉnh học hành ôn luyện bài vở cũng như bất tiện khi ông muốn đến thăm tôi. Trước đề nghị thật tình và rất mượt mà của ông tôi nào từ chối được. Nhưng mà làm sao từ chối được nhỉ ? Tiền, xe, nữ trang, chỗ ở, quần áo...là những thứ tôi đang cần. Cần cho nhu cầu cuộc sống thăng hoa. Cần và thèm mà không tiền mua. Đợi chừng nào mới có tiền mà mua. Dường như tôi cảm thấy mình đang rơi vào dòng định mệnh mà bề Trên đã dành sẳn cho tôi mà tháng trước tôi đã đi xem bói đã ứng rằng tôi sẽ được quới nhân giúp đở, nhưng phải thận trọng đừng để gì xảy ra. Điều ấy tôi không giải thích được mà cũng không thể tài nào quay lưng từ chối. Trót bước chân vào đành chấp nhận sự rủi may, dù vinh dù nhục, chuyện gì đó vẫn còn thì giờ suy tính lại và hạ hồi phân giải. Tôi biết và tôi hiểu lắm. Tôi như con thiêu thân đang chờn vờn gần vùng lửa nóng đang đâm đầu vào mà chưa cảm nhận cái chết gần kề. Cũng chưa chắc chắn rằng những điều không tốt xảy ra, nếu may ra tôi vẫn còn có qưới nhân phù trợ. Tôi bấu víu để tạo một niềm tin mà bước tới.

Ông đến căn phòng tôi ở vừa dọn về một tuần lễ. Ông đảo mắt nhìn căn phòng, quan sát tính toán gì đó, rồi gọi điện thoại người làm đến sai họ đi mua chở về tủ, bàn, giường, ghế, một số vật dụng cần thiết trong căn phòng. Ông không hỏi han gì ý kiến của tôi. Ông cho rằng mọi việc ông toàn quyền quyết định. Tôi như con chim nhỏ xinh xinh   đang được ông đặt vào chiếc lồng son, như con búp bế đẹp đặt trong lồng kính trong suốt đem trưng bày giữa căn phòng xinh xắn đầy hương hoa. Ông có thể đang va chạm tự ái của tôi, còn có thể xem nhẹ tôi.

- Em cám ơn lòng tốt của ông. Ông đã bao trọn gói cuộc sống của em như hiện nay, không lẽ ông không có một ý định nào đó đối với em ?

           Ông lịch sự trả lời nhỏ nhẹ :

- Vì tôi thương em ! Lài ạ ! Thương em như thương mọi người ! Tôi cũng đã giúp nhiều người như thế. Chỉ như vậy thôi, không có gì khác hơn.

Nghe ông nói tiếng thương, tiếng giúp,  lòng tôi se lại. Tôi lo ngại, e sợ như bao e ngại lo sợ mà tôi đã từng nghe bạn bè kể. Ngay bây giờ tôi đang là gì trước mặt ông ? Tôi bâng khuâng lo nghĩ đến một chỗ đứng, không lẽ thiên hạ chi tiền để rồi không được gì ?

Ông nhìn tôi trìu mến, nói như rót mật vào tai tôi  : - Tôi muốn Lài nghỉ việc nhà hàng kể từ hôm nay. Tôi không muốn hằng đêm em miệt mài ngột ngạt với khói thuốc, men rượu nồng nặc bên cạnh những tên đàn ông sàm sỡ không tư cách. Em cần sự yên ổn lo chuyện học hành. Tôi chỉ muốn em phải như thế.

- Ông độc quyền sở hửu em ?

- Em cũng đã hiểu rồi đó. Em giỏi lắm. Ông lại ngọt ngào với tôi :

            - Lài ạ ! Tôi muốn em làm việc với tôi tại công ty ngoài giờ học của em bắt đầu hôm nay. Tôi giao em nhiệm vụ kiểm soát viên tài chánh kế toán của công ty, làm việc bên cạnh tôi. Công việc thật dễ dàng, lúc nào rảnh em đến công ty vài giờ kiểm soát lại các bản chiết tính tài chánh mà nhân viên đã làm. Một công việc có tính cách hình thức để em được ở cạnh tôi yên tâm học hành. Việc học của em là chính.

Tôi đem chuyện kể với bạn bè. Tụi nó chúc mừng bảo tôi có số đỏ, đẻ bọc điều hãy cố bám lấy, nhưng cẩn thận coi chừng vấp ngã vào cạm bẫy của những tên nhà giàu quyền thế. Không ít những đại gia thích của lạ bao gái tơ mơn mởn, bồ nhí, lập phòng nhì, phòng ba...để hú hí. Khi chán thì sang tay từ đại gia này đến đại gia khác trong quyền lực đồng tiền. Bao nhiêu cô gái sa chân, những mảnh đời tan nát vỡ vụn. Họ chẳng bao giờ thương tiếc cành hoa đã tàn úa dưới tay mà họ đã vùi dập chán chê. Nghĩ được, hiểu được mà lòng tôi không kiềm chế được. Bao nhiêu bộ quần áo đắt tiền, các món nữ trang sang trọng, tiền bạc rủng rỉnh đang hấp dẫn quyến rũ tôi mãnh liệt. Tôi đang có được tất cả. Tiền lương hằng tháng ông chi trả cho tôi do nhân viên của ông mang đến quá nhiều  chẳng xứng công sức tôi làm. Ông để tôi hoàn toàn tự do trong công việc của tôi. Mà có làm việc gì cho cam. Tôi chỉ nhỏng nha nhỏng nhảnh cho hết thì giờ tại công ty rồi về. Khi nào thích thì đến công ty vài giờ vào những buổi tối không có bài học, xem xét qua loa vài tập hồ sơ mà nhân viên của ông đã làm xong. Làm để có mà làm. Đúng, sai chẳng cần thiết. Tôi có văn phòng riêng, bàn giấy riêng thật tự do và riêng tư. Tôi đi làm không ngoài mục đích ăn mặc chưng diện theo sự thèm khát của tôi trong tâm trạng một người đang như có chút thế lực trong công ty. 

Thường khi tôi đang ở nhà, ông gọi điện thọai di động, hoặc những buổi tối tại công ty, ông bảo tôi sửa soạn để đi với ông. Đi ăn uống tại các nhà hàng với những cặp đại gia khác. Đi tham dự tiệc tùng tại các nhà giàu có quyền lực. Tôi như một mệnh phụ phu nhân và luôn được niềm nỡ nghênh đón như một nữ hoàng. Tôi hãnh diện đi bên ông trong những bộ quần áo thời trang đắt tiền ông sắm cho tôi trên chiếc xe hơi bóng loáng có tài xế riêng lái đến những nơi ấy. Tôi là một bông hoa khả ái, hiếm quí đang tô thắm cuộc đời ông.

Thỉnh thoảng những ngày nghỉ cuối tuần ông tự lái xe đưa tôi du ngoạn Dalat, Nhatrang, Vũng tàu ...cư ngụ trong những khách sạn sang trọng. Không nói cũng thừa biết tôi đương nhiên đã ngủ với ông nhiều lần thật hạnh phúc tại các nơi ấy. Chính ông đã đưa tôi vào chuyện đó thật nhẹ nhàng và lịch lãm mà tôi chẳng có thể nào từ chối hoặc cưỡng lại được. Tôi không ân hận việc tôi đang làm, nhưng tôi chưa cảm nhận đó có phải là tình yêu thật sự mà ông đã có với tôi không ? Trái lại, tôi vẫn thích và ước muốn ông luôn bên cạnh, được ông che chở và chiều chuộng, và được ông yêu. Ông ngọt ngào lịch sự những lúc tôi nằm trong vòng tay ông :

- Lài ạ, những lúc ở cạnh bên em, anh cảm thấy dễ chịu và hạnh phúc.

Tôi trề môi nhõng nhẽo và hỏi khích ông :

- Ông thật sự nói đúng ý nghĩ mình hay chỉ nghĩ là món rau đồng quê tươi mát, bảo đảm an toàn cần có khi cần đến để được ăn bửa ăn ngon miệng ?!

Ông trợn mắt nhìn tôi chúm chím cười : - Em đã hiểu được nguyên lý của vấn đề rồi đó. Trong cuộc trao đổi có sòng phẳng chẳng gì là thiệt thòi. Nếu so lệch chưa chắc em phải chịu thiệt.

Tôi khởi sự hiểu được bối cảnh sau hội trường ông đang dàn dựng. Tôi càng hiểu thêm cái logic của ông mỗi lần ở cạnh tôi, khi ông nhận điện thoại nói chuyện với vợ con ông nghe thật ngọt ngào, dễ thương và quí trọng họ rất mực. Ông ôn tồn xác nhận :

- Với Lài là con chim quý bé nhỏ của anh mà anh đang cưng chiều là điều kiện ắt có trong anh. Nhưng vợ con anh phải là tất cả, là gia sản quý hiếm anh trang trọng gìn giữ một cách nghiêm túc

- Ông nói với em như thế được nhỉ ?

- Không có gì khác hơn ngoài qui luật, Lài ạ. Đó là sự thật gây đau khổ và niềm ân hận nhen nhúm trong lòng. Tôi hiểu suốt nhưng phải nhẫn nại chịu đựng vì con đường mình đang đi đã trót lại còn hấp dẫn vô cùng.

Một hôm vô tình ông đưa tôi trở lại nhà hàng cũ để ăn tối. Mọi người trong nhà hàng đã không còn nhìn ra được tôi. Tôi đang lột xác. Lớp áo sinh viên của cô gái đồng quê dân dã vừa mới đó trông quê mùa ngếch ngác, giờ đã thay da đổi thịt trong cốt cách quý phái sang trọng. Tôi đã không còn là chính tôi của những ngày đi xe đạp cà tàng đến xin việc làm thêm tại nhà hàng này do viên quản lý thu nhận. Anh ta chúc mừng tôi, khen ngợi tôi không tiếc lời. Nhưng tình cờ tôi được nghe trộm cuộc đối thoại giữa ông và viên quản lý nhà hàng. Ông bảo chính đó là thú chơi tao nhã mà ông đã có được. Thời đại này biết đem món rau tươi mát tinh sạch và an toàn của đồng quê biến thành nữ hoàng lộng lẫy, và đặt nó trong chiếc đĩa kiểu sẽ trở thành món ăn thời thượng quý hiếm cho giai cấp giàu sang thế lực và để sở hửu cho mình.

Tôi choáng váng trước sự ví von lố bịch của ông. Lòng tự ái của tôi đang tổn thương. Ông cho rằng sự qua lại, gần nhau giữa hai người chỉ là trò chơi tiêu khiển. Tôi chỉ là món đồ chơi nhất thời của ông không hơn không kém. Có thức ăn nào ăn mãi một lúc nào đó rồi cũng phải chán. Rồi cũng phải thay đổi để hợp khẩu vị. Tôi hiểu nhiều rồi nhưng cứ lăn xả vào. Chán nản, tôi bảo ông đưa tôi về nhà lấy cớ đang bị mệt trong người, không còn muốn ngồi lại tại nhà hàng này một giây phút nào. Ông tỏ thái độ không vừa ý :

            - Em không có quyền quyết định một điều gì khi chưa có ý kiến của anh. Em hoàn toàn thuộc về anh và phải tuyệt đối vâng phục. 

            Tôi im lặng mím chặt môi kiềm giữ sự tức tối đang muốn bật thành tiếng khóc. Về tới nhà, ông bỏ tôi xuống và lái xe đi thẳng không nói một lời. Tôi nằm vật xuống giường khóc cho đã cơn giận. Suốt đêm tôi không ngủ với suy nghĩ mình chỉ là món đồ chơi, một món rau dân dã an toàn của ông nhà giàu. Đầu óc tôi mụ mẫm vì những vật chất hấp dẫn mà tôi có được trước mắt. Học hành dần trễ biếng theo thói đua đòi đang trở thành hư hỏng. Tôi như đã quên lời hứa với mẹ lúc rời khỏi nhà là sẽ cố gắng học hành, đoạt mảnh bằng đem về cho mẹ. Hơn hai năm qua tôi đã làm khác đi những điều mẹ mong muốn. Thời gian gần đây gia đình tôi ở quê bắt đầu sa sút đã không còn đủ sức cấp dưỡng cho tôi. Mẹ thường đau bệnh trong tuổi già. Tôi phải gởi tiền liên tục về cho mẹ để điều trị và trang trải chi phí sinh hoạt trong gia đình. Mẹ mừng lắm khi biết tôi vừa đi học vừa đi làm ra tiền. Mẹ đâu có biết đồng tiền đó do đứa con gái yêu của mẹ bán thân mới có được.

Buồn quá, tôi bỏ căn phòng sang trọng về ký túc xá với mấy đứa bạn và nằm lỳ với tụi nó gần tuần lễ để cho tâm hồn thư giản bớt. Ông tìm tôi cùng khắp và khi gặp được tôi, ông đã không ngần ngại tát vào mặt tôi mấy cái tát khiến tôi tối tăm mày mặt và bảo rằng tôi là sở hửu của ông. Muốn đi đâu, làm gì tôi phải gọi điện thoại xin phép ông trước.

Tôi phản kháng, nói thẳng :

- Ông không có quyền đánh đập tôi. Ông không có quyền ngăn cấm tôi. Đừng hủy diệt món đồ chơi sau cuộc chơi của ông. Ông cũng đã nhận đó là một thú vui tao nhã của kẻ giàu tiền lắm bạc như ông kia mà.

Ông ôn tồn lịch sự :

- Tôi xin lỗi em. Tôi muốn biết em đã suy nghĩ gì trong cuộc chơi này ? 

Tôi trả lời nhát gừng :

- Không nghĩ gì hết. Ông hãy trả lại sự trong trắng và hồn nhiên của tôi ngày trước. Tôi đang là kẻ nhận những thiệt thòi, ông biết chưa ?

Ông cười biếm nhẻ :

- Em lầm rồi. Những gì em đang có trong tay là do từ đâu ra để em được hãnh diện ? Tôi nghĩ rằng giữa chúng ta đã có sự sòng phẳng rồi đó.

Sự tức giận sôi sục trong lòng, tôi chỉ vào mặt ông : - Ông im đi. Ông chớ quá tàn nhẫn với tôi. Ông đã bỏ tiền ra mua lấy sự ngây thơ khờ dại của tôi và chiếm đoạt tôi. Ông chẳng mất gì. Kẻ mất mát thiệt thòi là tôi. Giọng ông kênh kiệu :

- Em hãy hiểu rằng nếu tôi coi đồng tiền của mình lớn, có nghĩa là em có lời. Tôi nhận phần lỗ. Tuy nhiên, tôi đã đánh giá cao sự an toàn và trinh tiết của em, tôi đã trả cho em thật xứng đáng và sòng phẳng trong cuộc chơi này. Giữa chúng ta không ai thiệt thòi vì ai. Em còn đòi hỏi gì nữa ? Tôi điên lên và để trả đủa, tôi tát những tát tai nẩy lửa vào gương mặt béo phệ nung núc của ông, gằn từng tiếng  : - Tôi trả lại tất cả cho ông. Tôi không cần. Ông hãy dọn tất cả mọi thứ ông trưng bày trong căn phòng, và trả lại phòng cho chủ nhà.

Ông mở cửa xe, rồ máy, nói vói :

- Công việc như em nói tôi đã cho gia nhân thu dọn xong xuôi trong mấy ngày vắng em, em chớ lo. Đó là qui luật trong cuộc chơi mà. Chúc em có nhiều niềm vui mới. Ráng mà học hành đi.

Tôi bủn rủn tay chân nhìn theo chiếc xe của ông mất hút trên đường phố. Tất cả đã không còn gì. Món ăn lâu ngày ăn mãi sẽ chán, và thiu mốc phải vứt đi. Ông đã chán sau khi hưởng thụ đầy đủ. Ông đang vứt bỏ tôi như vứt một cây tăm đã sử dụng bên lề đường. Đó là cách chơi của bọn nhà giàu, những tên có máu mặt. Biết bao nhiêu con gái nhà lành đã sa chân như tôi ? Có không ít bạn gái không vì cần tiền để bớt đi cái nghèo mà chỉ cần danh vọng để được lăng xê trở thành ca sĩ, người mẫu, diễn viên...phải nở đem "cái ngàn vàng"đánh đổi nó để mà có. Phải chịu nát ngọc tan vàng để có được cái mác mà mình mong ước. Có bao nhiêu cô gái sinh viên, học sinh, các cô nhan sắc miền quê cả những ca sĩ, người mẫu, diễn viên...vì cần tiền, vì đua đòi...đã trót đem thân làm bé, làm bồ nhí, làm gái bao...cho những đại gia lắm bạc nhiều tiền, kẻ quyền cao chức trọng để một sớm một chiều sa cơ thất thế, bị đánh ghen, bị tạt át xít, bị bỏ rơi, bị sát hại nguyền rũa... !! Tôi sợ lắm !! Sợ mà vẫn lăn xả vào. Lòng tự ái không để tôi dừng lại. Xã hội nhiễu loạn đảo điên, đạo lý suy đồi đang chấp vào tôi đôi cánh để tiếp tục bay. Tôi quyết trả thù ông bằng mọi cách.

Năm đại học thứ ba tôi đang dần dần bỏ rơi. Đã trót sa cạm bẫy, thân tôi đâu còn gì để phải gìn vàng giữ ngọc. Cuộc sống vật chất trước mắt lung linh muôn màu sắc cám dỗ, thật quyến rũ thèm khát. Tôi tìm bạn trai, tập uống rượu, hút thuốc, thỉnh thoảng làm vài điếu cần sa cho quên sự đời. Ban ngày ôm mấy thằng con trai bụi đời mà tôi thích để ngủ vùi. Đêm về thì đi vũ sexy, hầu bàn, chuốc rượu, đi lắc. làm gái bao, gái dù...hoặc nhập nhò vào những canh bạc đỏ đen... Tôi trả thù ông say sưa để cho ông biết rằng tôi không hẳn là kẻ chỉ biết dựa vào những tên nhà giàu, quyền thế như ông. Nhưng thực tế tôi càng trả thù ông tôi càng cảm thấy mình vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Cứ thế tôi lao theo như chiếc xe tuột dốc. Đến khi nhìn lại mình, cơ thể tôi héo hon, suy sụp, mất dần sinh lực.

Đến lúc tỉnh lại, tôi nghiệm ra rằng khi chưa có tiền thì bằng mọi cách để có tiền. Khi đã có tiền trong tay, có những thứ mình không mua được bằng tiền. Suy nghĩ cho tôi thấy hãy sống những gì tôi đang có trong tầm tay, nếu muốn vươn lên  tôi phải thích nghi trong khả năng đang có.

Tôi lại nhớ về mẹ. Tôi đang có sự hối hận. Tôi trở lại cố gắng học. Tôi đang sợ mẹ tôi hơn bao giờ hết. Tôi là đứa con gái hư của mẹ. Xin mẹ tha thứ. Con đã không ngờ con lại hư thân mất nết như thế này ! Cũng do từ đâu hả mẹ...!?

Người vợ mù

Tôi được biết vợ chồng người ấy cũng là nhờ ở một sự ngẫu nhiên: họ dùng cửa nhà tôi làm nơi hội họp.

Hồi đó, tôi ở Ninh Giang, một phủ lỵ khá lớn. Một bến tàu thủy khá sầm uất trên con sông Chanh, cách tiêu khiển của tôi là chiều tôi ra bờ sông xem tàu tới, tàu đi, giữa một cảnh náo nhiệt và những tiếng ồn ào gào thét của bọn bán bánh giò và bọn mời khách trọ, với những lời đe dọa hách dịch của mấy chú tuần canh, lính thương chính đến hỏi thẻ và khám soát hành lý.

Nhưng từ ngày tôi để ý đến vợ chồng người mù, thì ở Ninh Giang, đối với tôi, không còn sự tiêu khiển nào thú hơn là được ngắm đôi uyên ương ấy chuyện trò với nhau: một cảnh tượng cảm động, thân mật và rất nên thơ.

Tôi không rõ cửa nhà tôi được họ chọn làm nơi hò hẹn từ bao giờ, và vì sao họ lại chọn cửa nhà tôi. Nhưng một buổi sáng mùa đông dậy sớm, ra hiên gác tì tay lan can nhìn xuống, tôi thấy hai bóng đen đen đang đứng trên hè đường, dưới làn mưa phùn giá rét. Một lát sau, người đàn ông bảo người đàn bà:

- Mười hai giờ bà chờ tôi ở đây nhé!

Lời nói dõng dạc trang nghiêm như giọng hạng người sống trong những xã hội cao quý. Rồi mỗi người đi một ngả. Văng vẳng tôi nghe rao câu rất quen tai:

- Ai muối mua!

Và tôi nhớ ngay ra ông lão bán muối mà tôi vẫn thường gặp lang thang trong các phố.

Mười hai giờ trưa khi chuyến ô-tô hàng chạy Hải Dương bắt đầu mở máy, quả nhiên một người đàn bà già và mù, áo xống gọn gàng và sạch sẽ, tay cầm cái rá, rờ lần các cửa xe, rời rạc xin tiền.

Tôi nghĩ thầm: “Không phải ăn mày lành nghề”.

Xe đi khỏi thì người bán muối buổi sáng cũng vừa đến nơi. Và tôi hiểu vì sao họ chọn giờ ấy làm giờ họp mặt: giờ ô-tô.

Luôn một tuần lư như thế, hôm nào cũng đủ sáu giờ sáng và mười hai giờ trưa là hai vợ chồng người mù tới cửa nhà tôi đứng nói chuyện. Họ không hề sai hẹn. Và tôi tò mò lưu ý đến họ, để tai lắng nghe những câu chuyện của họ, vì họ nói rất to, như chẳng cần gì ai, hơn nữa, như coi nơi hè đường là chốn phòng riêng của họ.

Họ có nhà riêng hay không, và nếu có thì nhà riêng họ ở đâu, tôi không rõ. Nhưng nghe chuyện họ, tôi biết rằng gia đình họ chỉ có hai vợ chồng: chồng làm nghề bán muối, vợ theo nghề ăn xin.

Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức nhau như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày, và mong nhớ nhau từng phút từng giây. Lần nào người chồng cũng bắt đầu:

- Bà đấy à? Thế nào, bà làm ăn có khá không?

Người vợ trả lời chẳng qua mấy câu này: “Cũng khá ông ạ” hay “Hôm nay làm ăn chẳng ra gì”.

Rồi bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hệt những việc đã xảy ra trong mấy giờ đồng hồ đi “làm ăn”. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ.

- Ông ạ, con mẹ Phúc Hòa Ðường nó lại nhiếc tôi sao không kiếm việc mà làm, đi ăn mày thế này không biết nhục à?

- Con mẹ Phúc Hòa Ðường ở phố Ninh Lãng có phải không bà?

- Phải đấy ông ạ. Nó thử mù như tôi xem ông nhỉ?

- Thế nó có cho bà đồng nào không?

- Nó cho mà nó nhiếc thì đã cam.

- Nó giàu nhất phố đấy, bà ạ.

- Giàu thế thì giàu làm gì? Giàu mà không biết thương kẻ đói khó, mù lòa. Cũng chả bền được đâu, ông nhỉ?

- Phải, bền thế nào được.

- Giá giời cho vợ chồng mình giàu như họ thì mình ăn ở ra người giàu, có phải không ông?

- Phải, mình để của làm gì? Ðể của cho con nó phá nhé? Bà có biết không, thằng con nhà ấy nó phá chẳng mấy nỗi mà hết cơ nghiệp. Thôi thì đủ, bà ạ, cờ bạc, bợm đĩ, hút sách.

- Thế à ông?

Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục, một điều ông ạ, hai điều bà nhỉ, và có tính cách thông tin tức như một tờ báo hàng ngày.

- Ông ạ, tôi nghe người nhà bà thông Ðoan nói chuyện xe Ninh Thái bị bắt thuốc phiện, đâu những bốn, năm cân nữa. Chắc bị phạt khá tiền đấy nhỉ? Hay đi đêm, thế nào chả có ngày gặp ma ông nhỉ?

Tiếp chuyện bắt thuốc phiện, bà lão kể đến chuyện gia đình nhà ông đội Nhất: Vợ chồng ông đội chẳng ngày nào là không cãi nhau. Bà lão nhắc lại từng câu mắng nhiếc chửi rủa tục tằn của hai người, rồi bình phẩm:

- Cứ nghèo như vợ chồng mình lại êm thấm, nhỉ ông nhỉ?

Ông lão bán muối cười rất có duyên, và có vẻ tự phụ nữa.

Hôm nào người vợ phàn nàn không xin được một trinh nhỏ, thì người chồng tìm hết lời an ủi:

- Thôi, bà ạ, cần gì. Hôm nay tôi làm ăn nhờ giời khá lắm. Chúng mình chỉ mong kiếm đủ ăn, chứ có cần để dành tiền như họ đâu. Vậy bà về nhà mà nghỉ nhá. Tôi đã đong một hào gạo, mua một xu rau muống, một xu tương rồi đấy. Bà về thổi cơm, tôi bán hết chỗ này cũng về ngay đây.

Họ từ biệt nhau, cho tới sáu giờ sáng hôm sau lại vui mừng cùng nhau nói chuyện.

Nửa năm ròng, tôi tò mò đi sâu mãi vào cái đời đường hoàng và thân mật của cặp vợ chống khốn khó.

Có hôm tôi đã cố theo họ xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng họ như đôi chuồn chuồn sống nhởn nhơ không tổ trên mặt nước ao tù.

--------------------------------------------------------------------------------

Một dạo tôi thấy vắng bóng đôi uyên ương già ở trước cửa nhà tôi. Tôi đoán chừng họ đã chọn một phố khác yên tĩnh hơn làm nơi góp chuyện hàng ngày.

Nhưng một buổi chiều đi chơi mát, tôi rẽ vào xem đền Chanh thì gặp ông lão lòa đương lom khom quét lá khô ở sân. Tôi vui mừng hỏi:

- Kìa ông bán muối. Hàng họ có khá không? Sao độ rầy tôi không gặp ông?

Người kia đứng thẳng lên, hấp háy cố nhìn tôi bằng cặp mắt gần tàn ánh sáng như ngọn đèn cạn dầu bập bùng chực tắt. Tôi hỏi luôn:

- Còn bà lão, vợ ông, lâu nay đi đâu?

Hai hàng lệ chảy giàn giụa trên đôi gò má răn reo.

Tôi hiểu ngay rằng ông lão già khốn nạn đương mang nặng trong lòng một nỗi thống khổ lớn lao.

Và tôi nghĩ ngay đến sự tử biệt...

- Ông buồn lắm phải không?

-Vâng, tôi không thiết sống nữa, thầy ạ. Bà lão nhà tôi, bà ấy bỏ tôi bà ấy đi rồi...

Tôi kinh ngạc:

- Bà ấy bỏ ông?

- Vâng, bà ấy chết rồi, còn đâu!

Người ấy cúi xuống quét sân, nói tiếp:

- Hơn bốn mươi năm giời ăn ở với nhau, chả có điều tiếng gì... bây giờ bà ấy bỏ bà ấy đi một mình.

Lúc từ biệt, tôi đãi ông lão khổ sở một hào nhưng ông ta lắc đầu xua tay:

- Tôi lấy tiền làm gì nữa. Ngày có vợ có chồng, tôi mới phải vất vả làm ăn. Chứ bây giờ còn một thân một mình, thì tôi chỉ nhờ cửa thánh ngày hai bữa cơm thừa canh cặn đủ no... để chờ ngày được gặp mặt bà lão tôi ở nơi suối vàng.

Dù cảm động đến đâu tôi cũng không thể giấu nổi cái mỉm cười: tôi nhận thấy ngôn ngữ ông lão bán muối vẫn còn đứng đắn và kiểu cách như xưa, khi ngồi trò chuyện với người vợ mù ở trước cửa nhà tôi.

THÚ HOANG

Đó không phải là căn nhà hoang. Chỉ vì cái vẻ u tịch thanh vắng của nó mà người ta cảm thấy vậy thôi.

Chung quanh, năm dặm vuông, không một bóng người. Thỉnh thoảng có xe qua lại thì đó là xe của những người ở xa đến cắm trại nơi một công viên tọa lạc cuối con đường chạy ngang trước nhà anh.

Nói “nhà anh” thì nghe kêu quá, vì anh đâu có nhà cửa gì. Anh chỉ là kẻ giữ nhà cho người ta mà thôi. Chủ nhà là chỗ quen biết, tin cậy anh nên mới giao cho căn nhà và thửa vườn rộng thênh thang này. Căn nhà mới mua lại của một gia đình người Mỹ. Chủ mới thì bận công việc ở phố—kinh doanh hay gì đó anh nào biết—lâu lâu mới về ăn một miếng, đánh một giấc, nói chuyện gẫu với anh một chút rồi phóng xe đi. Dĩ nhiên anh khỏi phải trả tiền nhà mà chủ nhà cũng khỏi phải trả tiền thuê cho cái công giữ nhà của anh. Đôi lúc anh cũng thắc mắc rằng ông ta mua căn nhà này làm gì mà không ở. Có lẽ mua để cho thuê, hoặc mua để chờ giá nhà lên thì bán lại kiếm lời. Mua để cho thuê thì chắc là không đúng vì nơi này xa xôi hẻo lánh quá ai mà chịu đến ở. Để bán thì có lý hơn. Nhưng thôi, chuyện người ta anh chẳng muốn xía vào làm gì. Thuê hay bán cũng chẳng ăn nhập gì đến anh cả. Giao kèo bằng miệng giữa anh với chủ nhà là anh sẽ ở đây một năm miễn phí và trách nhiệm của anh là thỉnh thoảng lau chùi trong nhà, tưới sơ ba chậu kiểng ngoài vườn, và có ai gọi điện thoại tới hỏi ông chủ nhà thì nhớ lấy message, tức là nhớ hoặc ghi lại những gì người gọi muốn nhắn lại với ông ấy. Thế thôi, còn chuyện ông mua nhà làm gì thì mặc ông.

Tuy nhiên, không muốn nghĩ tới cũng phải nghĩ. Một thằng tị nạn mới từ đảo qua còn ăn trợ cấp, chưa vào đại học, rảnh rỗi như anh, có quá thừa thì giờ để suy nghĩ đủ chuyện. Mà chuyện trước mắt là chuyện cái căn nhà mà anh đang sống đây. Chẳng biết chừng căn nhà này có cái gì bất thường—như ma quỉ hay yêu tinh chẳng hạn—khiến chủ cũ bán vội mà đi và chủ mới mua rồi, thấy hớ, chẳng dám ở. Nghĩ vậy, anh cũng thấy ớn ớn. Một mình trong căn nhà sáu phòng ngủ và một phòng khách rộng rinh, anh phải chia cho mỗi phòng được tiếp anh một đêm. Tính luôn một đêm ngủ trên xa-lông phòng khách thì cũng vừa khít một tuần chạy quanh. Như vậy, mỗi tuần, anh chỉ ngủ trong phòng (mà chủ nhà đã chỉ định như là phòng của anh) một đêm. Chủ nhà chẳng bảo anh ngủ vòng quanh các phòng như thế. Chỉ là ý anh thôi. Có lẽ anh làm vậy để căn nhà, với các phòng, sẽ có vẻ như quen thuộc, xóa đi cái cảm giác nó bị boỏhoang ít nhất là một thời gian nào đó trước đây. Phòng nào cũng sẽ có hơi người và vết tích của sự sống—dù là sống trong giấc ngủ—phảng phất trong đó. Ngủ lòng vòng các phòng như thế đã gần một tháng mà anh chẳng thấy yêu ma gì. Nhà cửa ở Mỹ mà, tìm con muỗi, con gián cũng khó, nói chi con ma. Mà thôi, đừng nhắc tới chữ MA nữa, thấy ớn quá, anh tự nói với mình như vậy.

Nhưng rõ thật khung cảnh thâm u của núi rừng bao bọc, ngày như đêm vắng ngắt như tờ, khó mà ngăn nổi sức tưởng tượng của một kẻ độc thân tương đối nhàn rỗi. Ban đêm, đang nằm đọc sách, cứ nghe tiếng gì rục rịch có vẻ khác thường nơi đâu là anh xách đèn bin tìm tới, rọi, nhìn; cũng không bao giờ quên mang theo một cây gậy phòng thân: gặp ăn trộm thì xán cho nó một cái; gặp cướp gõ cửa hay phá cửa thì cứ việc nhắm số điện thoại cấp cứu “911” mà bấm; còn như gặp ma thì... “Làm thế nào nhỉ? Chạy?” anh tự hỏi rồi thử tưởng tượng có một con ma đứng trong xó tối hành lang thấy mình thì nhăn răng cười (chứ không phải nhe răng dọa dẫm như thường thấy trong phim ảnh), và rồi chắc anh cũng nên cười nhẹ một cái đáp lễ hoặc giả đò không thấy, cứ việc vào phòng đóng cửa trùm chăn thôi. “Cha”, anh nhủ thầm, “thực ra thì nhăn răng cười còn rùng rợn hơn là nhe răng nanh mà dọa gấp trăm lần.” Điều kỳ lạ là từ nhỏ đến giờ hễ nghe thấy cái gì bị gán cho là có ma quỉ, anh nhất định tìm tới ngó cho bằng được. Anh sợ ma thật, nhưng không có cái tật sợ trước khi nhìn rõ đó là con ma hay chỉ là bụi cây, cái áo, cái quần phất phơ trước gió. Hồi trước, lúc còn ở Việt Nam, có lần anh và một người bạn đi chơi về khuya trên một con đường làng có những bụi tre kẽo kẹt đong đưa chung quanh nghĩa trang. Thằng bạn làm bộ tỉnh, nói chuyện om sòm như thể ta đây anh hùng lắm vậy, trong khi đôi mắt hắn cứ ngó chằm chằm dưới đất mà bước, chẳng dám liếc qua liếc về. Phần anh, thấy cái gì khả nghi là anh đứng lại, nhìn. Thằng bạn quá bước phaả lật đật quay lại chụp cùi chõ anh, hỏi:

“Gì vậy?”

“Tao thấy cái gì nhúc nhích trong kia.”

“Kệ nó, đi về mau!”

Hắn thường to tiếng để lấp cái sợ, mà anh thì lại thấy cần phải nhìn thẳng vào sự đe dọa nào đó để biết chân tướng nó. Về tới nhà hắn mới dám nói câu này:

“Lần sau đi đường mày đừng đứng lại ngó ngó chỉ chỏ cái gì hết nghen, thấy ớn. Giả như mày thấy con ma ở đó thì sao?”

“Thì xỉu. Còn hơn là để nó cứ lờn vờn theo mình hoài.”

Quả đúng như vậy, lập trường của anh đối với ma quỉ rất dứt khoát: thà thấy rõ nó rồi xỉu ngay lập tức còn hơn để cái vô hình của nó rà theo mình riết rồi mình bỏ chạy. Cứ tưởng tượng cái cảnh bị ma đuổi, anh đã thấy lạnh xương sống. Nó sẽ chận đầu này, chận đầu kia. Nó chỉ giỡn vậy thôi chứ thực ra mình chạy đâu có thoát, nó có phép mà, ai cũng nói vậy. Chạy cho bán mạng rồi cuối cùng mình cũng bị nó bắt kịp, và mình xỉu. Thế thì xỉu trước cho rồi chứ chạy chi cho kéo dài nỗi kinh hoàng đó! Cũng cùng lý luận đó, anh thấy có lẽ ngán nhất là bị đuổi bởœi một con ma cụt giò. Phải chi nó chạy nhanh, bắt kịp mình để mình xỉu luôn cho khỏe; đàng này, nó chạy cà nhót, té lên té xuống, làm bộ như là theo không kịp, rồi bỗng vụt một cái, đứng chình ình trước mặt, nhe răng... cười. Ôi, có lẽ Thượng đế sinh ra loài ma để cho cuộc sống thêm phần sinh thú hồi hộp đó mà. Nhưng ngài có biết đâu hình ảnh một con ma cũng làm giảm thọ nhiều người trên đời!

Cho đến lúc này, có lẽ anh cũng chẳng khác xưa là bao. Ngán thì ngán, nếu phải gặp; còn không gặp thì dĩ nhiên là chẳng có lý do gì để sợ. Có điều, bây giờ anh tin rằng nếu phải chạm trán một con ma hay quỉ yêu gì đó, ắt hẳn sẽ có một cuộc đối thoại. Anh sẽ hỏi nó: “Mày muốn gì?” nếu nó là con ma Việt Nam; và “May I help you?” nếu là con ma Mỹ. Hoặc là đọc một câu thần chú trừ ma để nó biến đi, chứ không đến nỗi gì phải xỉu. Dẫu sao, sống một mình giữa một cảnh đẹp và thanh vắng như thế này, anh cũng hài lòng lắm. Có thể nói, hơn mười năm nay, anh mới có được những ngày yên bình như trong thời gian này.

Hôm ấy là một đêm trăng mờ mờ. Anh khoác áo lạnh dạo chơi trong vườn. Trăng lẩn trong mây và những cành cây khô vươn lên giữa sương mù như hàng ngàn cánh tay gầy đang cố vói bắt nó. Tuyết rơi mấy ngày trước vẫn còn đọng trắng xóa quanh vườn khiến cho bầu trời đêm như được thắp lên bằng thứ ánh sáng huyền ảo của một thiên giới xa lạ nào. Bất chợt, anh cảm thấy quanh mình, những hàng cây khô khẽ lay mình trong đêm lạnh như những tiên nữ khỏa thân tắm trăng, không thoáng e thẹn vì không hay sự hiện diện của một chàng trai hạ giới đang đi những bước chậm và nhẹ trên mặt tuyết xốp. Anh đứng lặng một lúc lâu trong trạng thái mơ màng kỳ diệu đó, cơ hồ muốn lắng nghe cả tiếng cười đùa của các tiên nữ, và như thể anh e rằng chỉ động bước sẽ làm cho các tiên nữ giật mình biến mất. Nhưng trạng thái đó không kéo dài được bao lâu, anh lại trở về với thực tế rằng anh đang đứng đấy, giữa những thân cây trụi lá của một cánh rừng tịch mịch; và dưới bóng trăng mờ, bước chân anh vẫn còn ghi lại những vết tích lãng mạn trên làn tuyết mỏng. Anh thở dài và có thể nghe được nỗi tiếc nuối bâng quơ vương theo tiếng thở đó. Đúng ra, anh nghĩ, tiên nữ mà trần trụi thì chắc là không đẹp. Cũng như người vậy thôi, lõa thể thì thô quá—không còn để lại một chút gì cho óc tưởng tượng như là người Mỹ thường nói. Chẳng nên chứng kiến một cảnh tượng như vậy. Thế thì anh tiếc cái gì? Có lẽ không phải là tiếc mà là trong phút chốc, bỗng dưng thấy mình như một khách lạ, có mặt trên cõi đời này để tìm lại một cái gì đó bị đánh mất, nhưng chẳng nhớ nổi mình đã đánh mất cái gì. Bạn bè, người yêu, gia đình thân thuộc và con người, cả nhân loại này, cũng chẳng có nghĩa gì: chỉ như hàng cây khô hay tiên nữ đùa giỡn dưới trăng mà thôi.

Bỏ nước ra đi, như nhiều người khác, anh tìm tự do, hay đúng hơn, tìm một cuộc sống ổn định cho cả xác lẫn hồn, vì ở quê nhà, mọi thứ đều bấp bênh—bấp bênh từ nơi ăn chốn ở cho đến cả lời nói và ý nghĩ nữa. Anh đã không có những bữa cơm ngon ngồi quây quần với gia đình; không có những đêm ngủ an giấc ngay chính trong ngôi nhà của mình; không có những cuộc nói chuyện cho thật thoải mái với bạn bè thân; không có đủ thời gian để nằm đọc một cuốn sách và cũng không còn sách hay để đọc kể từ khi người ta muốn tắm cho cả nước bằng một màu đỏ loét. Hơn mười năm xấc bấc xang bang vì miếng cơm manh áo và để được ngủ cho qua giấc từ nhà này sang nhà kia, anh thực chẳng khác gì một kẻ du thủ du thực, hay tệ hơn nữa, một con chó ghẻ lang thang. Anh cho rằng xã hội ruồng bỏ anh. Phải, một xã hội đỏ loét thì không cách chi khứng nhận một tâm hồn xanh lơ. Cái xã hội đó như ngọn lửa hung bạo đốt cháy cả rừng xanh mà anh như một con thú hiền lành phải kinh hãi lẩn tránh. Con thú vùng chạy bất kể phương hướng, miễn sao tìm được chỗ an toàn mới thôi. Đến khi thực sự thoát khỏi hiểm nguy, con thú mới hoàn hồn và rồi ngơ ngác nhìn cảnh vật chung quanh. Đất an toàn cho một con thú lánh nạn thường khi không phải là cánh rừng cũ từng nuôi lớn bao kỷ niệm. Nơi đó, nó lại bắt đầu cuộc sống mới với những bất toàn khác. Bây giờ, trước mắt con thú, cũng những lùm cây, bụi cỏ, ghềnh đá ẩm rêu, suối chảy róc rách, nhưng mới lạ quá, nào biết đàng sau chúng tàng ẩn những bất trắc gì. Để lánh nạn, con thú đã bỏ lại bầy đàn và hang ổ của nó, hay ngược lại? Không.

Anh bước vào nhà, khép cửa lại, vừa buông một tiếng “không” thật khô, cùng lúc với tiếng khóa cửa lách cách. “Không phải con thú cố tình bỏ quên bầy đàn của nó, cũng chẳng phải bầy đàn đã bỏ nó. Chỉ vì lửa mà thôi.” Anh nằm dài trên xa-lông, nói chuyện với mình mà như nói với một người bạn vậy. Giữa đám đông mà nói lảm nhaả một mình e rằng người ta cho mình điên. Nhưng ở đây chỉ có anh, tha hồ nói laả nhảm và thực là quá cần thiết để nói lảm nhảm khi anh đang sống lẻ loi như bây giờ. Anh nằm đó, đốt một điếu thuốc, nhìn khói bay, thấy hồn mình lơ lửng, trống rỗng, và cô đơn khủng khiếp... Nỗi cô đơn này thật khó hiểu vì nó không thúc bách anh đi tìm đối tượng để chia xẻ hay đồng hóa. Nó lấp lửng và cơ hồ muốn đẩy anh vào nỗi khao khát được tan biến đi như làn khói thuốc. Nó là cơn buồn chán đến tận gốc rễ sự hiện hữu của chính mình. Cầm mãi điếu thuốc trên tay mà quên hút, anh lặng yên, lắng nghe một cách thấm thía sự tan loãng của lòng mình vào cõi không. Nhưng bên khung kiếng cửa sổ, anh bỗng nhác thấy một bóng đen động đậy. Cảm giác buồn chán vùng vằng một lúc rồi tan biến, nhường lại cho nỗi sợ và thoáng rùng lạnh liếm nhẹ trên da anh. “Gì đây? Té ra cuối cùng rồi cũng gặp ma hay sao?” Anh không vội nhìn ra cửa sổ, dụi nhẹ điếu thuốc trên gạt tàn, cố trấn tỉnh một lúc trước khi nhìn thẳng vào cái gì rờn rợn bên ngoài cửa sổ mà anh có cảm giác đang chăm bẳm ngó mình. Trong khi chuẩn bị tinh thần, anh nghe rõ tiếng gõ nhẹ vào cửa kiếng. Tiếng gõ thưa, nhẹ và lịch sự của một con ma hiền không có ý quấy phá hay ác ý gì. Có lẽ nó xin ẩn tuyết, vì tuyết đang rơi nhẹ từ khi anh trở vào nhà. Anh nghe lạnh buốt cả xương sống, lạnh hơn khi lao vào cơn băng giá ngoài trời nữa. Rồi anh quay phắt lại, nhìn thẳng vào bóng đen đó: một con mèo.

Anh đứng dậy, nhứ một quả đấm, xua đuổi nó:

“Tổ cha mày! Làm tao hết hồn.”

Từ bệ cửa sổ, con mèo phóng đi mất dạng. Anh thở phào, ngồi xuống lại, hơi thắc mắc về con mèo. Nó muốn gì đây? Kiếm ăn? Trốn lạnh? Nhà nó ở đâu? Chủ nó đâu? Chắc là mèo hoang. Thôi mặc, lâu nay nó sống được thì bây giờ cũng sống được. Không thể thương nổi một con mèo đã làm mình hoảng vía. Đâu phải anh không biết thương loài vật. Bầy nai, thỏ, sóc thường đùa giỡn trong vườn mỗi sáng không phải đã làm anh thích thú và yêu mến vô cùng đó sao! Nhưng con mèo này thì chẳng thương nổi, nó đã làm anh sợ. Nó to lớn như mèo rừng, đen mun một cách man rợ. Nó mang cái vẻ hiểm ác, tàn bạo, đầy thú tính—hừm, cái thú tính của một con vật đủ bản lãnh để tự sống trong rừng—mà người ta có thể yên tâm không cần phải lo lắng cho nó.

Anh về phòng lấy gối chăn, vào phòng khách ngủ. Cầm sách đọc mà anh chẳng hiểu gì. Xếp sách, nằm trằn trọc mãi đến khuya. Tuyết bay phất phơ ngoài cửa kiếng khiến anh chợt hiểu rằng anh không thể yên ngủ khi bỏ một con mèo đói lạnh ngoài trời. Anh vùng dậy, xách đèn bin, mở cửa ra ngoài. Anh gọi con mèo bằng những tiếng “meo, meo” thân thuộc và tình cảm y như trước đây anh gọi con mèo nuôi trong nhà anh ở Việt Nam vậy. Chẳng mấy chốc, con mèo nghe được tiếng anh, chạy vụt đến. Không sợ hãi, nó quấn quít bên anh, cạ mình nó vào chân anh tìm hơi ấm. Anh cúi xuống vuốt ve nó một lúc rồi đưa nó vào nhà. Mở tủ lạnh, nhìn trên nhìn dưới, anh chẳng thấy thứ gì cho nó ăn được. Chỉ toàn rau cải, bơ, phó mát và sữa tươi. Anh múc cơm vào một cái đĩa giấy, xịt chút nước tương cho nó ăn. Nó chê. Anh rót sữa tươi, nó cũng chê nốt. Anh hâm nóng sữa nó mới chịu liếm sạch. Chắc tại nó lạnh. Sau đó, ôm nó vuốt ve một hồi anh mới dọn chỗ cho nó ngủ cạnh lò sưởi.

Sáng hôm sau, chủ nhà về. Thấy con mèo, ông la inh ỏi:

“Í, cho nó vào đây làm gì! Quen rồi nó ở luôn đó. Thứ quỉ này dơ lắm, ỉa đầy nhà cho mà xem.”

Anh lật đật xua con mèo đi. Nó chẳng chịu ra ngoài, cứ chạy lòng vòng trong nhà. Ông chủ xách cây đuổi nó, anh mở sẵn cửa cho nó ra rồi đóng sập lại. Chủ nhà tiếp tục càm ràm:

“Nuôi đồ quỉ đó mất công dọn dẹp. Nó phá lắm.”

Lúc đó anh mới giật mình nhớ lại rằng mèo mà phóng uế thì phải biết, thối đến long óc đi được. May mà đêm qua nó chẳng làm gì bậy bạ. Tuy vậy, anh cũng thấy tội nghiệp cho nó. Chủ nhà đi rồi, anh lại ra ngoài tìm con mèo, kêu mãi chẳng thấy đâu. Anh vào ga-ra dọn một góc đầy đủ chăn êm nệm ấm cho nó.

Đến chiều, con mèo trở lại. Anh không cho nó vào nhà mà tiếp nó ngoài trời, vuốt ve, nói chuyện với nó. Xong, anh đưa nó đến ga ra chỉ cho nó biết nơi ăn chốn ở của nó. Anh lại lấy một đĩa cơm trộn chút bơ, chan chút nước tương cho nó. Lần này, nó cũng chẳng chịu ăn. Anh chẳng biết làm gì hơn. Anh ăn sao thì cho nó ăn vậy nhưng con mèo này đòi hỏi quá. Có lẽ nó ăn thịt thà quen rồi. Mèo chó của Mỹ thường có thức ăn riêng của chúng, đóng hộp, vô bao đàng hoàng, cho nên nó chê đồ ăn của anh là phải. Anh cứ đặt đĩa cơm cạnh chỗ nó nằm rồi đi vào nhà. Con mèo ngoan ngoãn không đi theo anh, có lẽ nó đã biết ý chủ nhà và biết rõ hơn là anh chẳng có thẩm quyền đem nó vào trong.

Sáng hôm sau ra thăm nó, thấy cái đĩa không, anh khoái quá. Và cứ thế, anh cho nó ăn cơm và uống sữa tươi mỗi ngày. Nhìn nó ăn ngon, anh gõ gõ trên đầu nó, nói:

“Vậy cũng là sang lắm rồi nghe mày. Mày mà ở Việt Nam thì chỉ được ăn khoai mì thôi, mà cũng chưa chắc là có đều đặn mỗi ngày nữa. Ở Việt Nam tao không được ăn cơm trắng như vầy đâu, mày có biết không!”

Con mèo ngó anh, ra vẻ thông cảm lắm. Ăn xong, nó liếm mép rồi dúi đầu vào lòng anh. Họ đã là đôi bạn thân suốt tuần lễ đó.

Nhưng tuần sau, chủ nhà lại về. Chạy xe vào ga-ra, thấy một đống nào quần áo cũ, nào thảm lót dơ và chình ình trên đó một con mèo đen, ông hét:

“Trời, lại con mèo này nữa!”

Ông chưa kịp tìm cây gậy, con mèo đã phóng chạy. Nó thật nhạy cảm, biết ngay là ai chẳng ưa mình. Ông chủ nhà đuổi theo nó đến tận hàng rào sau vườn. Ông chịu khó làm vậy để con mèo mang ấn tượng kinh khiếp là sẽ bị đánh đập hoặc có thể bị giết để nó không còn dám bén mảng trong sân nhà ông nữa. Anh chẳng biết nói sao, đành chịu lỗi với chủ nhà thôi.

Đến trưa, đang ngồi trò chuyện với chủ nhà ở mé hiên, anh thấy con mèo quay lại. Ông chủ nhà cũng nhìn thấy nó. Hai cục mỡ gần mép tai ông giật giật lên như thể muốn báo động là ông sắp sửa tấn công con mồi nào. Trong lúc đó, con mèo thong tảœ bước vào ga-ra. Nó chẳng biết là chiếc giường êm ấm của nó do anh bày biện cũng đã bị chính anh dọn sạch đi rồi. Để ông chủ yên tâm là anh sẽ không chấp chứa con mèo khi vắng ông nữa, anh đứng dậy đuổi nó đi. Anh thầm nghĩ trong bụng: “Tao phải đuổi mày. Vì nếu tao không đuổi mày thì có người đuổi tao, mày có biết không?” Con mèo ngơ ngác ngó anh, không chạy mà còn có vẻ như muốn đến gần anh, quấn quít bên anh như mọi hôm. Anh tiếp tục quơ tay xua đuổi nó. Nó đứng yên, nhìn anh, không chạy. Có lẽ nó không tưởng tượng nổi một người bạn thân như anh lại có thể xua đuổi nó. Anh phải vờ tháo giầy ném nó mới chịu lững thững chạy. Nó không chạy hốt hoảng bạt vía như khi bị ông chủ nhà rượt mà chỉ chạy một cách lừng khừng như đang còn tiếc rẻ nơi ăn ở của nó, hay đang còn thắc mắc về thái độ bạc bẽo của anh. Chốc chốc nó quay lại nhìn, đôi mắt buồn thảm. Anh đứng dõi theo bóng nó mất hút sau lùm cây mà cảm nghe như chính mình đã xua đuổi mình vậy.

Ông chủ đi rồi, anh lại tìm nó, gọi nó, chẳng thấy đâu. Anh thương đôi mắt nó quá. Một con thú hoang mà cũng biết ứa lệ sao! Chút tiền trong túi, anh lái xe ra phố mua cho con mèo vài hộp thịt. Rồi anh lại tìm nó, kêu nó, không thấy nó trở lại. Một ngày, hai ngày, ba ngày, rồi một tuần, rồi một tháng, con mèo đi biền biệt. Cánh rừng trở nên hoang dã hơn khi vắng bóng một con mèo.

Đêm ấy, ngoài trời, lại một đêm trăng mờ và cũng một vườn tuyết trắng xóa. Anh có thể nhìn những hàng cây khô như bao ước vọng đâm chồi từ vực đáy lòng mình, vươn lên giữa khoảnh trời nặng trĩu hơi sương. Và anh thèm được ngắm những tiên nữ trần trụi tắm trăng, thèm được ma quỉ quấy phá, thèm được một con mèo quấn quít nơi chân.

Xa quê hương, ăn ngủ nhờ, không bạn bè, không người yêu, không người thân thuộc, đứng một mình hiu hắt giữa rừng đêm, anh chẳng phải là một kẻ đi hoang, lạc bầy đó sao! Bất giác, anh buông một tiếng hú dài, lanh lảnh, vang cả góc rừng.

Tiếng hú không nhằm kêu gọi ai, chỉ như hình gọi bóng, như mình gọi mình, đầy thú tính, man rợ. Tiếng kêu của một con thú đủ bản lãnh để tự sống giữa rừng hoang.

Quái thú trong bản Khà Nông

Làng Khà Nông là một làng của người Thổ Tày ở vùng Lạng Sơn. Ông lý trưỏng của làng là người khá giả nhất làng. Người ta thường gọi ông là ông Lý theo cái chức vụ mà ông đang giữ. Ngoài chức vụ lý trưởng ra, ông còn là m chủ cả hơn hai chục mẫu ruộng quanh làng. Nhà ông cũng là ngôi nhà ngói duy nhất trong vùng nằm trên đỉnh ngọn đồi cao, còn dân làng thì sống trong các căn nhà tranh nằm rải rác trên sườn và dưới đồi này.

Ông Lý có một cô con gái lớn khoảng hơn 20. Cô này giống bố của cô rất thích sưu tập các đồ cổ. Trong nhà thì chưng đủ các loai bình gốm xưa, các hình tượng đủ loại. Còn ở ngoài thì đủ loại các chậu sứ dùng để trồng các loại cây quý! Tuy ông là người thiểu số nhưng nhìn nhà ông người ta nghĩ ông là một người kinh giàu có chuyên chơi đồ cổ hơn là một người Tày sống ở nơi vượn kêu khỉ hú này.

Chợ hội hàng năm ở biên giới là một hội chợ được tổ chức vào 3 ngày đầu trong tháng Tám âm lịch. Đây là một hội chợ rất lớn quy tụ dân chúng quanh các vùng Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Báị Có đủ các loại hàng hóa từ miền xuôi, miền ngược, và ngay cả hàng từ bên Trung Hoa mang sang. Cô con gái lớn của ông lý trưởng cùng các em đi chợ hội, vừa để mua sắm vừa để vui chơi trong ngày hội này vì biết bao nam thanh nữ tú cũng tới tham gia ngày hội.

Cô gái đi chợ về mang theo một cái tượng của một con vật kỳ quáị Cái tượng này chỉ cao chừng hai tấc, mang hình dáng của một con thú đực màu đen mà mặt mày trông rất dữ tợn, nửa giống chó và nửa giống heo rừng. Mắt nó trừng trừng nhìn như muốn đe dọa như muốn nuốt sống kẻ đối diện. Khi cô gái hỏi mua cái tượng này thì các em đã cố ngăn cản nhưng vì tính thích sưu tầm đồ lạ nên cô vẫn khăng khăng mua cho bằng được. Hơn thế nữa chỉ mới nhìn thấy cái tượng, cô đường như đã bị nó thu hút rồi! Một cái gì đó làm cô không thể cưỡng nổi việc mua tượng để mang về nhà mình.

Một việc kỳ lạ là tuy ông Lý là người mê đồ cổ; vậy mà khi thấy cái tượng này ông lại thấy không thích nó chút nào, nếu không muốn nói là không ưa! Ông mắng cô con gái tại sao rước cái đồ quỷ quái đó về làm gì! Ông nói là ông không muốn thấy nó ở trong nhà! Nhưng có một mãnh lực nào đó làm cô gái không thể dời bỏ cái tượng này! Cô bèn đem nó vào để trên cái kệ nhỏ trên vách sát đầu giường của mình.

Nửa đêm đó trong phòng bổng nổi lên tiếng rên của cô gáị Tiếng rên của sự sung sướng như trong lúc đang được ái ân! Tiếng rên kéo dài chừng năm phút rồi ngưng bặt! Cứ thế đêm nào cũng có tiếng rên trong phòng cô, và rồi người trong nhà cũng nghe được. Nhưng sáng dậy hỏi về việc này thì cô nói chẳng biết gì cả! Ông Lý bực lắm vì mọi người trong nhà đều nghe tiếng rên rỉ này, có lẽ con gái ông dấu diếm ông điều gì đây!. Tối đó ông và một tên đầy tớ rình sẳn ở nhà ngoài. Nửa đêm tiếng rên sảng khoái lại nổi lên, hai người bèn xông vào phòng và rọi đèn pin vào giường cô con gái! Không thấy gì cả mà chỉ thấy cô thân hình cô gái vẫn còn hơi quằn quại và miệng vẫn còn phát ra một vài tiếng rên rỉ nhè nhẹ, rồi cô gái nằm yên như đang ngủ say như chẳng có gì xảy ra vậy! Hai người bước lui ra và nghĩ là chắc cô gái đêm đêm chỉ nằm mơ thôi. Hay là cô con gái bị mắc bệnh mộng du không chừng, hoặc giả cô ta mắc chứng nói sảng trong mê cũng nên.

Từ hôm đó người nhà cũng không chú ý tới tiếng rên sảng khoái hằng đêm của cô gái nữa. Nhưng rồi một chuyện bất thường đã xảy ra! Bụng cô gái một ngày một lớn ra!! Ông Lý và bà vợ thấy nghi nghi nên cố gạn hỏi nhưng cô gái chẳng biết gì và cũng chẳng có quen với anh trai làng nào cả! Ông Lý giận lắm nhưng chẳng có chứng cớ gì để bắt tội con được. Một điều ông Lý làm lạ là nếu có thằng nào mò vào nhà ông thì làm sao nó qua mặt được con cho bẹt giê Đức to lớn của ông chứ! Một đêm ông nhất tâm rình cho ra lẽ! Ông bèn lén đục một cái lổ nhỏ ở vách phòng và tối đó ông thức rình. Đến nửa đêm khi tiếng rên bắt đầu, ông ghé mắt nhìn vào giường con gái! Qua tấm mùng mỏng và dưới ánh sáng lung linh của ngọn đèn dầu trong phòng, ông thấy con ông đang quằn quại, miệng rên rỉ, còn trên người cô là một cái bóng mờ mờ ảo ảo đang làm động tác làm tình với con ông! Ông phóng nhanh vào phòng, bật cây đèn pin trên tay soi vào giường! Nhưng cũng như lần trước kia, chẳng thấy bóng ai cả. Ông quát đầy tớ vào lục dưới gầm giường và mọi xó góc trong phòng! Nhưng vẫn không tìm ra một dấu vết nào cả! Cô gái thì thức tỉnh nhưng tỏ ra rất ngạc nhiên vì thấy người nhà đang lục lọi tìm kiếm gì đó trong phòng mình!

Đêm đó ông Lý nằm suy nghĩ nát cả đầu, cuối cùng ông chỉ nghĩ ra một điều mà ông cho là có lý nhất! Đó là cái tượng quái thú mà con ông đã mang về. Ông nghiệm ra rằng kể từ hôm con ông mang tượng đó về nhà là tiếng rên bắt đầu và sự việc đã đi đến tệ hại như ngày nay! Ông quyết định phải hủy bỏ cái tượng quái quỷ đó đi mới được! Sáng sau, ông bảo con gái mang tượng đó ra cho ông. Ông ngắm nghía nó một lúc và cảm thấy rờn rợn người như có gì đó đe dọa ông vậy. Có lẽ cái tượng đã đoán biết ý đồ của ông nên muốn cảnh cáo ông về điều này! Nhưng tình phụ tử đã thắng được sự sợ hãi, ông ném cái tượng xuống nền gạch làm nó vỡ ra từng mảnh vụn! Một cái gì đó lành lạnh toát ra và cô gái tự nhiên ngất xỉu! Đầy tớ khiêng cô ta vào phòng rồi dọn dẹp các mảnh vụn đi chôn. Ông Lý không quên dặn là đổ máu chó và nước tiểu vào các mảnh vụn đó để hồn của con quái thú không thể quấy nhiểu ai nữa!

Từ hôm đó nhà không còn nghe tiếng rên của cô gái nữa! Cả nhà mừng rở vì nghĩ là cô gái đã thoát được nạn rồi! Nhưng nổi khổ vẫn chưa dứt được vì cái bụng con ông vẫn một ngày một to hơn. Gia đình giấu cô trong nhà không cho ló mặt đi đâu cả vì sợ xấu hổ với dân làng! Dân trong vùng đâu biết chuyện gì đã xảy ra trong nhà ông đâu! Rồi cũng đến ngày cô gái sinh nở, me cô tự tay làm bà đở vì không muốn chuyện con gái bị chửa hoang bị đồn ra ngoài. Bổng có tiếng thét thất thanh trong phòng dội ra. Mọi người chạy vào thì thấy bà Lý nằm xỉu sóng soãi trên sàn nhà, cô gái thì vẫn còn mơ màng trên giường! Nhưng cái sự kinh hoàng nhất là trên giưòng đang bò lạng quạng một con quái thú một nửa thì giống người, còn nửa kia vừa giống chó vừa giống heo. Miệng nó kêu những tiếng i ỉ nho nhỏ !! Mọi người chạy dạt ra xa ngoài đứng há hốc nhìn vào một cách kinh khủng lắm.

Cuối cùng ông Lý thu hết can đảm vào túm lấy con quái thú đó mang ra sau nhà! Ông dơ tay đập nó vào cái cối xay lúa ở nhà sau! Con quái kêu rống lên một tiếng rồi nằm quay đơ! Con chó bẹt giê của ông đứng gần đấy bổng tru lên một hồi dài như chó sói! Nó nhảy tới chổ con quái thú và xé xác con này ăn một cách ngấu nghiến. Làm xong việc đó nó nhìn lên ông Lý với đôi mắt đỏ lòm dữ tợn. Nó nhe răng ra định chồm lên người ông thì may thay mấy tên đầy tớ ra kịp cầm gậy gộc phang vào đầu nó! Con chó vùng bỏ chạy về phía rừng cây, và từ nơi đó nó quay về làng tru lên từng hồi dài trước khi mất hút vào trong rừng rậm! Các con chó trong làng nghe tiếng tru này thì vội cúp đuôi chui hết vào gậm giường rên lên những tiếng ư ư? trong miệng ra chiều sợ sệt lắm !!

Ông Lý dặn các đứa đầy tớ trong nhà phải giữ kín điều này và nếu vợ và con ông có hỏi thì phải nói như lời ông đã dặn. Ông còn hăm dọa chúng nếu việc này mà lộ ra ngoài thì chúng phải chết dưới tay ông. Bọn đầy tớ lấm lét thề sẽ giữ bí mật này! Khi vợ và con tỉnh lại ông nói là đứa bé đã chết và ông đã cho đem chôn rồi. Bà Lý vẫn còn quá sợ hãi chẳng dám hỏi gì, còn cô gái thì khóc vì tưởng con mình thật sự chết khi mới vừa lọt lòng. Ông Lý dặn các đầy tớ phải chia nhau canh gác cẩn thận để đề phòng con chó bẹt giê trở về phá phách nhà ông. Ông nghi là con chó đã bị con quái thú ám nhập vào người rồi! Vì nó rất trung thành với ông, vậy mà lúc đó nó định chồm lên xé xác ông ra đó !

Từ hôm đó cứ một vài đêm là dân làng lại bị mất trộm gà, vịt, hoặc cả những con heo nhỏ !! Lạ một điều là kẻ trộm vào bắt gia súc mà không gây ra một tiếng động nào! Ngay cả bọn gà vịt heo cũng không kêu lên tiếng nào cả! Người ta xem xét dấu vết để lại thì chỉ thấy những dấu chân của một con chó to để lại quanh chuồng mà thôi! Vùng rừng núi này đâu có chó sói , còn bọn chó rừng thì nhỏ con và thường đi từng đàn cả chục con chứ đâu đi lẻ bầy bao giờ ! Hơn nữa chó rừng không hề bén mảng về bản làng bao giờ, vì khi chúng kéo đến gần thì các con chó trong làng đã đánh hơi sủa ầm cả lên, và dân làng vác gậy gộc , dao mác, chiêng trống ra đánh đuổi bọn cho rừng ngay một khi! Họ đoán chắc là có một con chó sói lạc loài từ đâu đến đây kiếm ăn! Họ bàn nhau cùng rình để đánh chết con sói này trừ họa cho dân nghèo!

Đêm cuối tuần lại là đêm trăng rằm nên cảnh vật được soi sáng trông rất thơ mộng. Tuy thế trong nhà nhiều thanh niên trai tráng và chủ gia đình cũng đang tỉnh thức để chờ động tỉnh! Đến giữa khuya bổng có tiếng chó tru ba hồi dài từ rừng vọng về. Các con chó vội chạy vào gầm giường nằm im thin thít không dám ú ớ tiếng nào. Các con vật trong chuồng kêu lên vài tiếng khe khẻ rồi im bặt như một điều gì đó làm chúng quá sợ không thể cất tiếng kêu lên nổi nữa! Những người rình trong nhà cũng thấy rợn cả người khi nghe tiếng tru đó! Trong làng cảnh vật trở nên im lìm, ngay cả côn trùng cũng ngưng cả những tiếng kêu nỉ non của chúng. Một bầu không khí nặng nề như bao trùm cái chết phủ lên làng Khà Nông này!

Bổng mọi người giật thót cả người lên! Một tiếng tru ghê rợn nổi lên ngay giữa làng! Con sói đã vào đến làng từ hồi nào rồi mà có ai biết đâu! Các con chó trong nhà càng rúc đầu vào hai chân như sợ sệt quá độ, bầu không khí bổng trở nên ma quái lạnh lùng hơn! Rồi một hai người gan dạ cũng ráng lén nhìn lén qua kẻ hở ra ngoài! Họ thấy một con chó thật lớn đang thủng thẳng rảo bước trên con đường giữa làng. Mắt nó đỏ lòm và long lên sòng sọc! Lông màu đen cháy như một con chó bị thui ! Nó nhảy vào chuồng súc vật của một nhà gần đó, và trong chớp nhoáng nó đã công ra một con heo sữa nhở. Con heo này như chết điếng dưới hàm rằng sắc bén của con sói đen kia nên không kêu được tiếng nào! Tuy thấy rỏ ràng sự việc, nhưng hình như sự sợ hãi đã làm cho mấy người cam đảm kia ngồi chết trân một chổ chẳng dám đụng đậy chút nào, nói chi tới việc chạy theo đánh đuổi con sói!

Riết rồi sự việc sói bắt mất gia súc sảy ra hằng đêm. Dân làng bèn trình lên ông lý trưởng để xin giúp đở diệt con sói dữ kia! Ông hứa là sẽ tìm cách diệt trừ con sói cho dân làng! Tuy nói thế nhưng ông thừa biết con sói đó chẳng đâu xa lạ cả, nó chính là con chó của ông bị quái thú nhập vào thôi! Ngay cả bộ lông màu vàng xám của nó cũng đã biến thành màu đen của con quái thú rồi! Nếu bộ lông nó không đổi màu thì có lẽ dân làng có thể đoán ra là con chó của ông ngay! Thôi thì phải tìm cách diệt trừ nó để khỏi mang họa về sau! Ông cho người qua tận Móng Cái để rước một ông phù thuỷ nổi tiếng người Thổ Tày như ông về. Ông trình bày hết các sự việc cho thầy phù thuỷ nghe và xin giúp diệt con quái thú này!

Ngay đêm đầu, thầy phù thuỷ lập một đàn cúng ngay gần bìa rừng, có một số dân làng cũng mò ra chổ lập đàn để xem cuộc diệt sói này. Tuy thế họ vẫn thủ theo vũ khí để đề phòng! Khoảng gần nửa đêm, thầy bắt đầu thắp đuốc, nhang, rồi bắt đầu bắt ấn và đọc thần chú để kêu gọi âm binh về giúp. Thầy cầm cây gươm sắt chém vào không khí nghe vùn vụt! Mọi người cảm thấy phấn chấn vì thầy sắp diệt được con sói ngoan cố kia! Thầy đang nhảy muá thì một tiếng gầm như sấm nổi lên, mọi người kinh hồn bạt vía chưa biết chuyện gì sảy ra thì một bóng đen ngòm đã phóng ngay vào chụp vật lên người thầy phù thuỷ. Có lẽ vì nhiều kinh nghiệm trong nghề nên thầy nhảy sang một bên né được cái vồ bất ngờ đó! Thầy chụp lấy một cây đuốc , cầm nhứ nhứ và đâm vào mặt con thú. Nó đi vòng vòng quanh thầy và thỉnh thoảng vờn vờn muốn nhảy chụp lấy thầy . Nhưng thầy thủ thế rất cẩn thận nên nó không dám nhảy vào vì con dao bén trên tay thầy như sẳn sàng xẻ nó ra thành hai.

Bây giờ tuy vẫn sợ hãi nhưng mọi người có thể nhìn rỏ mặt con sói này! Nói là sói thì không đúng hẳn, vì bộ mặt nó trông nửa như chó và nửa thì như heo rừng. Miệng thì ngoài bộ răng sắc bén lại lòi ra thêm hai cái răng dài như nanh heo! Mắt thì đỏ lừ như loé ra lửa, nhìn vào là thấy co rúm cả chân tay rồi!! Hèn chi lũ chó và bọn gia súc cúm cả người lại mỗi khi thấy hay nghe tiếng của nó! Đang theo dõi cuộc đấu giữa hai địch thủ một cách sợ hãi, họ nghe thầy phù thuỷ la lớn “Mọi người hãy định thần lại! Hãy cùng nhau vây đánh nó mau lên! Không thôi thì chết cả lũ hết bây giờ !!” Thế là mọi người như bừng tỉnh lại và cùng nhau reo hò, tay cầm dao mác nhảy vào bao vây con quái thú ! Họ vừa chém vừa la hét liên hồi. Con quái thú thấy không xong bèn gầm lên một tiếng rồi mở đường máu thoát thân. Nó phóng vào rừng mất dạng! Mọi người thở phào nhẹ nhỏm vội cùng nhau kéo chạy về làng!

Ngay sáng hôm sau thầy phù thuỷ cáo từ ra về. Thầy nói là thầy chịu thua con quỷ này rồi. Nó là thứ quỷ quái thú rất đữ, xuất phát từ bên Tân Cương, Trung Hoa chứ không phải ở bên ta nên thầy đành chịu thuạ Nếu có chống cự thêm thì cũng bỏ mạng vì nó thôi! Thầy cũng cảnh cáo là dân trong làng đừng vội mừng vì nó đã bỏ chạy. Nó sẽ về báo thù trong nay mai thôi! Thầy đi rồi, ông Lý lo lắng lắm, vì sợ con quái thú này sẽ về trả thù nhà ông trước tiên! Ông cho kêu thêm người làm về để canh gác nhà ông, với hy vọng là có nhiều người thì con quái này sẽ không dám đột nhập vào nhà!

Đêm đó thay vì chỉ có một người gác mỗi canh giờ, ông bắt la phải có hai người để hổ trợ cho nhau! Đã qua nửa đêm mà vẫn không thấy gì động tỉnh, mọi người hơi thấy yên lòng, có lẽ con quái thú đã sợ mà chạy biệt vào rừng sâu rồi! Tiếng gà gáy sáng vang lên, mọi người thở phào nhẹ nhỏm cho là mình đã đoán đúng.

Đêm sau mọi người không còn căng thẳng như đêm đầu nữa, nhưng ông Lý vẫn không dám sơ hở tí nào, vẫn dặn đầy tớ canh gác cẩn thận như hôm đầu. Mọi việc vẫn êm trôi gần cả đêm, nhưng tới khoảng 3 giờ sáng, con chó nằm gần người gác bổng ngóc đầu lên ngửi ngửi trong không khí, rồi chạy tốc vào nhà! Anh gác bèn gọi nhỏ người gác phía sau nhà phải chú ý vì có thể con quái thú đang lén lút trở về! Chỉ một lúc sau anh phát hiện ra một bóng đen trườn qua hàng dậu sau nhà, anh hô hoán to lên để mọi người ra tiếp taỵ Cái bóng đen kia liền nhảy lên chụp cắn ngay cổ họng anh ta rồi nhảy phóc ra ngoài chạy mất. Khi mọi người đến nơi thì anh ta đang thở hắt ra, trên cổ vết răng xé rách cái cổ của anh ta thành một lỗ lớn! Anh ta chết mà không nói thêm được lời nào nữa!

Sáng sau nửa số người làm cho ông Lý trốn mất. Họ sợ sẽ cùng chung số phận như người kia thôi! Chỉ còn lại mấy người làm trung thành từ lâu là còn ở lại, nhưng nhìn mặt họ thì thấy ngay sự kinh hoàng lộ hẳn trên đó! Ông Lý lo lắng lắm vì thấy mạng sống của gia đình mình đang bị đe doa. tới nơi rồi! Cả ngày hôm đó ông đứng ngồi không yên. Có lúc ông nghĩ là chắc ông phải mang gia đình đi lánh nạn ở một nơi nào đó thật xa để con quái thú không thể tìm ra. Nhưng cái cơ ngơi mà tổ tiên của ông để lại ông thể nào bỏ được! Chiều đó, ông đang nằm suy nghĩ về cách nào ổn thoa? nhất để giải quyết vấn đề thì đầy tớ vào báo có em ông mới về tớị Ông vừa mừng vừa lo lắng vì lại thêm một mạng nữa dấn thân vào chốn nguy hiểm này!

Số là ông Lý có một người em trai thua ông 10 tuổi. Em ông theo học ở Hà Nội và sau đó đi lính cho Tây lên tới quân hàm Đại Úỵ Ông em đi biệt tích cả hơn chục năm nay rồi không ai biết ông ta còn sống hay đã chết. Thế mà ông ta lại trở về đúng ngay lúc này. Ông Lý ra đón em thì thấy em mình và 3 người lính đi cùng. Họ mang theo cả vũ khí trên vai, có lẽ họ theo hộ vệ cho em ông thì phải. Sau những lời chào hỏi vồn vả và sự vui mừng khôn tả của hai anh em lâu ngày không gặp. Ông bảo người nhà làm tiệc để thiết đãi em mình. Trong khi chuyện trò ăn uống người em hỏi anh mình về vẻ khác lạ trong làng, và vẻ mặt lo lắng của những người trong nhà. Ông Lý đành kể hê”t sự thật cho em mình nghe và nói lên sự lo lắng của mình. Ông em suy nghĩ một chút rồi nói là đơn vị do ông ta chỉ huy đi hành quân ở vùng này và đóng ở cách đây không xa, để ông sẽ nghĩ cách giúp cho dân làng.

Tối đó ông cho lính về triệu tập một tiểu đội gồm những người gan dạ nhất tới nhà ông Lý. Sẩm tối, ông kêu người tiểu đội trưởng lại bàn tính kế hoạch rồi ra lịnh cho họ xuất quân. Tiểu đội này mò ra gần bìa rừng, gài đặt các trái hỏa châu trên con đường mòn dẫn vào rừng. Họ nằm phục kích cách con đường chừng 50 mét. Họ chọn cuối hướng gió để con thú không thể đánh hơi được họ! Mặt mày họ quệt lọ nghe. đen thui để ngụy trang trong đêm tối.

Đúng 0 giờ, một tiếng tru dài nổi lên ngay bìa rừng. Dù gan dạ và từng trải qua nhiều trận đánh, các người lính vẫn thấy da mình rợn lên! Họ trố mắt ra nhìn về phía con đường mòn. Đêm nay lại không trăng sao, gió thổi lạnh se se càng làm người ta có cảm tưởng như đang ở trong một phim kinh di nào đó! Dù cố mở to mắt nhìn nhưng không ai thấy được gì cả vì trời quá tối đen. Bổng một trái hỏa châu bật lên soi sáng cả một vùng; rồi lại thêm trái nữa bật lên. Bây giờ các người lính thấy rỏ ràng con quái thú to lớn đen đủi đứng trố mắt nhìn các trái hỏa châu như là đang ngạc nhiên lắm. Có tiếng hô lớn của người tiểu đội trưởng “Bắn!”. Hàng chục khẩu súng nhắm vào con quái thú nhả đạn. Nó trúng dạn quá nhiều cùng một lúc nên ngã quay xuống đường quằn quại với nhừng vết thương. Ngay lúc đó dân làng và ông Đại Úy chạy tới hiện trường, đuốc sáng rực cả góc rừng.

Mọi người vây quanh con quái thú vẫn còn thoi thóp thở. Nhưng con thú lại bổng đứng bật dậy, mắt long lên sòng sọc, miệng nhe bộ răng ra gầm gừ, và dạng người như thủ thế. Nó vươn người nhào về phía ông Đại Úy, trong khi ông đang cầm súng hướng về nó. Ông em liền vội dơ khẩu súng lục bằng bạc của mình nhắm vào đầu con thú và bóp cò. Một tiếng tru khủng khiếp nổi lên, và con quái thú ngã vật xuống giẫy chết. Trước sự kinh hoàng của mọi người có mặt, con quái thú biến trở lại hình dạng của con bẹt giê của ông Lý,. Lông nó cũng biến trở lại màu vàng xám như xưa. Mọi người cùng ồ lên và bàn tán xôn xao vì sự kiện này! Ông Đại Úy nói là ông đã dùng súng với đầu đạn bằng bạc để khử trừ con quỷ này! Chỉ có đạn bạc mới có thể tiêu trừ được các giống quỷ một cách hoàn toàn, còn nếu dùng đạn thường hay các vũ khí khác thì nó có chết cũng sẽ nhập ngay vào vật khác để tiếp tục gieo họa thôi.

Dân làng kéo xác con chó về làng và hôm sau đem chôn cất cẩn thận. Tuy đã nghe ông Đại Úy nói con quỷ đã hoàn toàn bị huỷ diệt, nhưng để yên tâm họ vẫn đổ vôi bột, nước tiểu, máu chó v.v. lên xác con chó trước khi lấp đất. Từ ngày đó trở đi dân làng Khà Nông lại được sống trong sự yên lành của một bản làng miền núị Cha con ông Lý thì dù vẫn ham thích sưu tầm đồ cổ nhưng bây giờ họ rất thận trọng khi chọn các món đồ mà họ muốn mua!

Tô canh bù ngót

Suốt ngày phải quay cuồng "bù đầu nhức óc" với việc nhà việc sở, vừa có chút rỗi rảnh thì máy truyền hình lại thu hút hết hồn vía, thành thử Đông chẳng còn chút thời giờ để sống riêng cho chính mình, huống hồ có thể nhàn nhã tưởng nhớ đến thân nhân bè bạn. Mãi đến khi phải ngồi bó gối hàng giờ trên chiếc phi cơ hành khách, không lăng xăng gì được, Đông mới mặc tình thả hồn trôi thật xa, về với chuỗi ngày ấu thơ êm ấm, tại căn nhà ngói ba gian, mặt tiền hướng ra rạch Cái Sơn, thuộc xã Hòa An, Cao Lãnh. Đông là con trai duy nhất, lại là út, nên được cả nhà chiều chuộng nâng niu. Các chị là gái thì lúc nào cũng phải giữ gìn ý tứ, đi đứng đoan trang, và chia xẻ công việc nhà với mẹ, chớ đâu có buông lung nhong nhong suốt ngày phá làng phá xóm, khi thì phóng xuống sông quậy bùn đụt ngầu, lúc lại thượng lên cây mận, cây vú sữa, ngồi vắt vẻo vừa ăn, vừa lơ đãng ngắm trời xanh. Cùn chân cùn cẳng, chán chuyện phá phách ngoài đường thì về nhà chọc ghẹo ba bà chị cũng thú vị. Chọc ghẹo quá trớn "giỏi lắm" bị mắng "thằng quỉ", thằng "mắc dịch" là tột cùng, còn như muốn trừng phạt thì "sức mấy" ba chị rượt kịp thằng nhỏ. Thật ra, chuyện chọc ghẹo bị đòn tuy hiếm hoi, nhưng đi đêm có ngày gặp ma, Đông cũng lâm nạn một lần khiến cái đầu lãnh cục u tròn như trái chanh. Giờ đây, bỗng nhiên nhớ lại chuyện xưa tích cũ nầy, Đông cảm thấy vui quá đổi là vui. Chàng tủm tỉm cười, lầm thầm: "Ông bà già mình lẫm rẫm vậy mà hay ghê! Phát họa kế hoạch sản xuất bốn năm, rồi đúng theo tiêu chuẩn mà thi hành y chang, mới tài tình chớ!". Tuy là một nông dân chân chính, nhưng tài nghệ đặt kế hoạch sản xuất của ông già, được "hậu thế nhắc nhở" phải kể là chuyện sản xuất con. Bà già cứ tà tà sanh con năm một, ông già lại theo bốn mùa mà đặt tên con là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Hết tên đặt thì bà chấm dứt cái rụp, chớ không tòn ten kèm theo thằng Ráng, thằng Thêm, con Thôi, con Nữa như người khác. Ông già rất hãnh diện về cái mục nầy, nên chỉ chờ đợi nhà có khách khứa thì gọi đám con ra, kể tên từng đứa để khoe khoang thành tích, vô tình khiến chị Ba tức tối đến điên người. Cũng giống như bất cứ cô gái mỹ miều nào, chị Ba thích trang điểm, làm dáng và dĩ nhiên rất mong được khoác một cái tên thơ mộng thanh tao. Điều éo le, là người đẹp hoa mỹ lại bị gán cho cái tên Hạ, lè tè thấp thỏi, thì sao chẳng đau lòng. Chẳng cần ai chỉ dẫn, vừa lên trung học, chị bèn lẵng lặng khai tử tên Hạ, sửa khai sanh bằng cách bôi dấu nặng thêm dấu huyền thành chữ Hà, đồng thời, lúc trò chuyện với bạn bè lúc nào, cũng xưng tên "Kim Hà thế nầy, Kim Hà thế kia" rất ư là điệu hạnh. Thế nhưng trường trung học quận Cao Lãnh chẳng lớn, bạn bè năm trước có đứa cũng lên học chung, thành thử cái tên cúng cơm "con ba Hạ" không thể dấu diếm ai được. Cái tên Hạ nhờm gớm, khó chịu dính cứng với chị Ba, giống như cục đàm kẹt cứng nơi cổ, khạc nhổ không xong, mà nuốt cũng chẳng trôi. Bực bội quá, có lần chị Ba lên tiếng càm ràm:

- Ba à! miền Nam mình đâu có đủ bốn mùa. Ba đặt tên tụi con là Xuân Hạ Thu Đông, thiệt chẳng hợp tí nào!

Đông vọt miệng:

- Đúng rồi! miền Nam mình chỉ có hai mùa là mùa nắng và mùa mưa. Vậy nếu Ba đặt tên đúng theo thời tiết, thì có lẽ chị hai mang tên "Phơi Nắng", còn tên chị là "Mắc Mưa" mới phải! Chị Ba! Chị nghĩ sao chớ theo em thì cái tên ba Hạ "bảnh tên" hơn cái tên ba Mắc Mưa nhiều lắm chị à!

Chị ba háy thằng em một cái bén ngót rồi lên tiếng: "Xí! ai bàn chuyện với mầy mà bày đặt ăn cơm hớt!", đoạn chị tiếp tục phân bua với ba:

- Con nghĩ chữ Việt có rất nhiều bộ bốn chữ hay ho như tứ quí, tứ đức, tứ phương...sao ba không chọn, nhè chọn bốn mùa chi, nghe chẳng thanh chút nào!

Tánh nào tật nấy, Đông lại nhanh nhẩu xía vào:

- Coi bộ đặt tên chị em mình theo bốn phương Đông Tây Nam Bắc hấp dẫn thiệt tình a! Chà! Trường hợp nầy chị sẽ mang mỹ danh là Tây, gọi đầy đủ là cô Ba Tây mới đúng! Chị ơi! ba Tây hay má Tây gì cũng đâu có đẹp hơn cái tên ba Hạ, chị Ba!

Thằng nhỏ ba hoa chích chòe không ngờ lời chọc ghẹo "ba Tây má Tây" lại khiến ông già nổi giận thình lình, ông cốc trên đầu thằng bé một cú đau điếng, rồi gằng giọng mắng:

- Thằng ăn nói bá láp! Cái miệng ăn mắm ăn muối độc địa nói tầm bậy rủi... có gì... thì sao?

Lời nói quàng xiên của Đông chắc đã phát ra đúng giờ linh, nên giờ nầy thì chị hai Phơi Nắng lại sinh sống tại vùng nắng cháy sa mạc Arizona, còn chị ba Mắc Mưa thì mặc tình dầm mưa tại vùng bão lụt Mississipi. Nhưng chuyện "linh ứng" thật sự đã xảy ra chỉ vài năm sau đó tại Việt Nam, liên quan đến chuyện tình duyên gây cấn của chị Ba. Vừa chuyển lên Saigon tiếp tục việc học, thoát khỏi bàn tay kềm kẹp của cha mẹ, chị Ba liền có ngay một nếp sống tình cảm khá tự do. Chị giao du rộng, có nhiều bạn trai, mà ai thì chị cũng đẩy đưa tình tứ, khuyến khích họ đeo đuổi. Với chị thì càng có nhiều người cạnh tranh trồng cây si thì càng có giá trị, nó thú vị như một thứ trò chơi, chớ chị đâu hề toan tính chuyện hôn nhân mà phải ra điều đứng đắn. Ông bà biết tính bay bướm của con gái, ngày đêm thấp thỏm lo âu, chẳng biết "hũ mắm nêm" hiểm nghèo nổ tung lúc nào. Ông bà chỉ biết khuyên lơn năn nỉ con gái dứt khoát "ưng" một chàng nào cho xong, nhưng cô nàng cứ "phớt tỉnh Ăng Lê", và cứ nhởn nhơ đùa giỡn. Một hôm chị Ba đột ngột mang hộp bánh trung thu về làm quà thăm cha mẹ. Sau buổi cơm chiều, chọn lúc cha mẹ đang nhâm nhi trà bánh vui vẻ, chị mới thỏ thẻ:

- Ba má à! vâng lời ba má, con đã dứt khoát chọn được người chồng tương lai cho con rồi!

Bà già đang ngồi ghế mừng quá nhỏm dậy hỏi một hơi:

- Thiệt vậy hả con! Thẳng (1) đến nhà mình lần nào chưa? Nó làm nghề gì? Mặt mày nó lịch sự không con?

Ông già cũng ôn tồn:

- Tánh tình nó ra sao? Học hành tới cỡ nào vậy con?

- Ơ! ảnh làm Cố vấn tại Bộ Xây Dựng Nông Thôn, cùng một cơ quan với con, ảnh cao ráo trắng trẻo đẹp trai lắm má ạ! Ơ! tánh ảnh hiền hậu dễ thương... làm sao á! ảnh đã tốt nghiệp đại học ở Hoa Kỳ đó ba!

- Tốt lắm! Thành phần du học thì sự nghiệp đương nhiên vững chãi, không có gì phải lo nữa! Còn gia đình nó như thế nào vậy con?

- Ơ!... ơ! cha mẹ ảnh không có ở đây ba à!

- Ủa! Như vậy té ra nó di cư vào Nam một mình à! điều đó cũng được đi, nhưng ít nhất thì nó cũng phải tìm ra chú bác cô dì hay anh chị để đứng làm chủ hôn chớ!

- Ơ...ơ! ảnh "mình ên" ở xứ nầy, ... ảnh là người... Hoa Kỳ ba à!

Ông bà già sống quanh quẩn tại xứ Đồng Tháp quê mùa, đầu óc thủ cựu, nên có một quan niệm rất hẹp hòi về việc kết hôn với người nước ngoài. "Cực chẳng đã, mới gả con cho chệc"(2), gả con cho người Trung Hoa, cùng màu da, sống cung đụng trong nước lâu đời mà còn bị khe khắc cho là chuyện cực chẳng đã, huống chi gả con cho người da trắng, để bị mỉa mai là con gái làm "me Mỹ, me Tây". Do đó, vừa nghe thỉnh cầu "động trời" của chị Ba, ông già đỏ mặt tía tai, nổi giận bừng bừng, còn bà già thì tái xanh như gà bị cắt tiết, khuỵu xuống ghế thở chẳng ra hơi.

- Mầy nói cái gì? Cho mầy lấy Mỹ đặng người ta cười thúi đầu tao hả?, ông già hét lên, rồi đứng lên thở hồng hộc chừng mười phút cho dịu cơn nóng giận, mới tiếp lời:

- Nó là người ngoại quốc làm sao tao biết gốc gác, biết cha mẹ họ hành nó! Rồi không mai mối, không ai đứng chủ hôn đàng trai thì tao gả bán với ai đây? Tao nhứt định không là không? Thà chết chớ tao không gả con cho Tây cho Mỹ nghe chưa?

- Con à! sao con dại quá vậy! con ưng thằng Việt Nam nào ba má cũng chiều ý con, chớ người Mỹ họ khác với người mình quá mà! gia đình lễ giáo đâu có ai lấy chồng ngoại quốc, a con!, bà già lên tiếng vỗ về.

Chị ba im lặng để mặc cho cha mẹ giảng "mo ran" đã đời, rồi mới lừng khừng nói:

- Con hiểu ba má chẳng ưa gì người Mỹ, nhưng con đã lỡ dại..., con đã có bầu với người ta rồi! Con biết phải làm sao bây giờ?

Ông bà đang ào ào giảng dạy con, bỗng nín khe không thốt thêm được một lời nào nữa. Bà nhìn ông, ông nhìn bà chua xót não nề. Phai lâu hàng giờ, ông già mới thở phào ra như quả bóng xì hơi, xuôi xị lên tiếng:

- Thôi được! Con muốn chọn ai thì chọn!

Thế rồi, ông bà cấp tốc lên Saigon tổ chức một đám cưới giản dị cho cô con gái, đoạn quày quả về quê, gặm nhấm nỗi buồn khổ khôn nguôi. Chị ba thì đâu cần đám cưới rình rang, cũng không có nhu cầu nở mặt nở mày với bà con xóm giềng. Chị lấy được người chồng chị thương, chị được xuất ngoại như mơ ước, và nhất là được hợp pháp "xổ toẹt" cái tên cúng cơm, để mang tên họ hoàn toàn Mỹ: bà Sue Johnson, thì chị đã hả dạ tột cùng rồi. Bà già nghe chuyện con gái đổi tên họ lắc đầu thở than: "Tưởng nó lựa chọn tên gì sang trọng, chớ tên Xu, tên Cắc thì hay hơn tên Hạ ở điểm nao?"

Năm 1975, khi gia đình Đông được đưa về tạm trú tại trại Fort Smith, chị Sue có đến thăm. Lần đó, Đông nhận thấy chị có vẻ xa cách, chị hà tiện từng lời nói, thường hay khinh khỉnh "à há, á à" thay câu đối đáp, nên Đông ngần ngại không đề cập đến chuyện nhờ vả chị lập hồ sơ bảo lãnh. Đông là người rất nặng tình gia đình, nên khi nếp sống tị nạn tạm ổn định, từ Houston chàng lần mò tìm đường viếng thăm chị Sue tại Jackson, Mississipi. Lần nầy, ngược lại chị Sue nói năng thật nhiều. Chị hãnh diện về kiểu cách sống rặc ròng Mỹ, chị khoe chồng con, khoe tài sản, sau cùng chị dành rất nhiều thời giờ để cười chê cái đám người Việt tị nạn quê mùa ngớ ngẩn để than phiền rằng sự hiện diện của họ ở xứ sở văn minh nầy chỉ làm tăng thêm phần lộn xộn, khiến chị mất mặt với bè bạn Hoa Kỳ mà thôi. Đông háo hức viếng chị hi vọng tìm lại những giây phút đậm đà tình ruột thịt ngày xưa, nhưng chị Sue đã vĩnh viễn cắt đứt quá khứ, đề tài mới mẻ về đời sống Mỹ của chị lại chẳng hấp dẫn chàng tí nào. Đông ngao ngán ra về, và từ đó, mối liên lạc chị em thưa dần. Người chị giàu tình cảm, có nếp sống giản dị, phù hợp với Đông nhất có lẽ là chị tư Thu. Chị không lập gia đình, ở lại Việt Nam chăm sóc cha mẹ cho đến ngày ông bà mãn phần thì đi xuất gia. Từ đó, viết thơ thăm hỏi phải hạn chế, ngôn từ sử dụng phải dè dặt để tránh khuấy động nếp sống thanh tịnh của kẻ tu hành. Bây giờ, dẫu Đông về nước thăm chị, thì hoàn cảnh kẻ tu người tục, Đông cũng khó tìm lại khối tình ruột thịt thắm thiết ngày xưa được. Do đó, bao nhiêu tình cảm gia đình, Đông dành hết cho người chị thứ hai ngụ tại Tucson, Arizona. Mặc dù vị trí thành phố nầy nằm trẹo đường, Đông phải đổi chuyến bay cực nhọc, nhưng mỗi khi có dịp đi Cali, chàng luôn tìm cách sắp xếp để ghé thăm chị đôi ngày. Về với chị cũng là về với quãng đời ấu thơ êm ấm ngày xưa tại quê hương yêu dấu.

*

**

Vừa bước ra khỏi cửa phi cơ, Đông đột ngột bị phủ chụp bởi một độ nóng kinh khủng như đang bị thiêu đốt trong một lò lửa vĩ đại, khiến chàng tối tăm mặt mũi muốn thối lui lại. Thế nhưng nhìn thiên hạ, Đông thấy ai cũng nhàn nhã không lộ chút khẩn trương, nên đành từ từ nối gót nhau đi vào bên trong phi trường. Đông dáo dác tìm thân nhân, thì nghe tiếng reo:

- Cậu năm! Thưa cậu năm!

- A! cháu Toàn! Mới hai năm không gặp mà trông cháu trưởng thành và đẹp trai hẳn ra!

- Dạ cám ơn cậu! Lần nầy cậu đến nhằm mùa hè nên khí hậu khá nóng phải không cậu?

- Nóng dễ sợ chớ khá khá cái gì! Nóng như vầy mà sao dân ở đây chịu đựng nỗi? hay thiệt!

Thằng nhỏ cười hệch hạc đáp:

- Cái gì cũng quen dần cậu ạ! Cậu biết không! dân ở Arizona thường tiếu rằng "địa ngục còn mát hơn xứ nầy vài độ, nên sống được ở đây rồi, thì chẳng ai còn sợ bị đọa xuống địa ngục cả!".

- Ba má cháu mạnh khỏe?

- Dạ mạnh! Ba vẫn đi làm "ca hai" nên đến hơn một giờ khuya mới về, phần má con tuy muốn ra phi trường đón cậu lắm nhưng lại kẹt nồi mắm chưng đang nấu dở dang!

- Tội nghiệp chị Hai! Cứ khổ công nấu với nướng!

- Hì! Hì! Cậu biết tánh má con mà! Bả lo lắng cả tuần lễ, bả chuẩn bị nấu nướng đâu vào đó từ ngày hôm qua lận, gồm toàn các món cậu ưa là bánh canh giò heo, tôm kho tàu, mực dồn thịt, gỏi sứa... Rồi hồi trưa nầy, trong khi đang lim dim nằm ngủ, chợt bả trổi dậy nói: "Chèn đét ơi! xém chút nữa tao quên món mắm chưng rồi! đây là món hẩu (3) nhứt của cậu út mầy đó". Thế rồi má con hối hả đi chợ để nấu liền cho kịp!

- Đúng là cậu thích những món đó! nhưng cậu chỉ lưu lại hai ngày mà má cháu nấu "ấp lẫm" như vậy, bụng dạ nào cậu chịu nỗi!

- Hì hì! Bởi tính má con như vậy nên thích thức ăn gì thì con ra tiệm ăn, tuyệt đối không hở môi. Nếu lỡ dại để bả biết, bả sẽ nấu đầy ấp, nấu dài dài, rồi ép ăn trợn lên trợn xuống đến nỗi vừa thấy đã rùn mình rởn óc mà chưa chắc bả buông tha!

- Hề! Hề! Cháu là út mà! Má cưng út quá nên mới ngóng tìm món nào út thích để nấu nướng cực khổ mà cung phụng út! Cháu sung sướng quá mà còn kêu rêu gì nữa?

- Thưa cậu! Được thương dĩ nhiên là điều sung sướng, nhưng được thương quá mức đôi khi nó lại ngột ngạt khó thở lắm cậu ạ!

Đông cũng là con út nên rất thông cảm cháu, vỗ về:

- Ngày xưa, ngoại cũng thương yêu lo lắng cho cậu tột độ như vậy, tình thương của ngoại trở thành mù quáng và độc quyền, đến nỗi cậu cảm thấy tù túng khó chịu. Đây là chuyện "nỗi lòng khó ngỏ cùng ai" phải không cháu? Mình hở môi than thở thì bị lên án ngay là con bất hiếu, nên đành phải câm nín. Nỗi khổ của người bị thương chưa chắc dễ thở hơn nỗi khổ của người bị ghét cháu ạ!

Câu chuyện đành bỏ dở dang khi hai cậu cháu bước ra ngoài trời đến chỗ đậu xe, và Đông lại phải gồng mình chống đỡ độ nóng kinh khủng của vùng sa mạc. Khi Toàn lái xe còn cách nhà mươi thước, Đông đã thấy bà chị lấp ló bên cửa ngóng chờ mình. Càng về già chị hai càng giống mẹ. Thoáng nhìn mái tóc bạc phơi, vẻ mặt phúc hậu, nụ cười dễ dãi của chị, Đông cảm thấy như mẹ đang hiện hữu, chàng xúc động run giọng lên tiếng:

- Chị hai!

Chị cũng mừng rỡ ứa nước mắt:

- Em út!

- Chị hai à! Chị giống má quá chừng hà! Cho chị quấn cái khăn rằn, miệng bỏm bẻm nhai trầu, thì y chang má ngày xưa, chẳng khác tí nào!

- Hì hì! Còn em hả! Cái trán sói, khuyết sâu hai bên như hai cái ụ tàu của em cũng chẳng khác gì ba! Cho em vận cái áo bành tô, chống cây ba toong thì giống hệt ông già rồi!

Chỉ đối đáp đôi câu mà cả bầu trời thương nhớ với bao nhiêu kỷ niệm ấm êm hiện về tràn ngập tâm khảm hai chị em. Đông mường tượng như mình còn là thằng bé con lẩn quẩn bên cha mẹ tại căn nhà ngói ven bờ rạch Cái Sơn, chàng đang tung tăng chạy nhảy quanh gốc xoài, gốc ổi, gốc mận trong vườn. Bất chợt, Đông bùi ngùi hỏi:

- Sau hè nhà mình có trồng rau đắng không chị hai?

- Vườn nhà mình chẳng có rau đắng! Ơ... mấy thuở mà má nấu thứ rau nầy, sao em nhắc đến kìa?

- Vậy thì em lầm rồi! mỗi lần em nghe bản nhạc "Con thương rau đắng mọc bên hè", em lại cứ liên tưởng đến món canh rau ngọt ngọt nấu với chuối mà má thường cho mình ăn lúc nhỏ. Lớn lên, sao má không còn nấu món nầy nữa chị há?

- A! đó là canh rau bú ngót! Em biết không? ở nhà quê đâu có phương tiện dự trữ thành thử thức ăn khi thừa thải, có lúc khan hiếm chẳng có món gì, kể cả rau cải. Trong trường hợp này, để bổ túc với món khô sặc, má ra sau hè "quơ" mớ rau bù ngót, chế ra món canh chuối, ngọt ngọt cho con cái dễ nuốt cơm. Về sau, thì con lộ trước nhà đã được xây đắp, chợ búc đi lại dễ dàng, nên món canh tạm bợ nầy không còn xuất hiện nữa! Lạ quá hén! Tại sao bao thức ăn ngon lành em không nhớ, nhè nhớ món canh quê mùa nầy?

- Hì! Hì! Em cũng chẳng hiểu tại sao em còn ghi nhận rõ ràng hương vị đậm đà của tô canh bù ngót, cùng với chi tiết cảnh gia đình mình quây quần ăn bữa cơm chiều hôm đó. Có thể vì hôm đó em được món đồ chơi mới, một cái vòng làm bằng vành nia cũ, mà chị vừa buộc sửa lại cho em. Em chan món canh nầy lua một hơi, để tự do xách cái vòng phóng ra ngoài chơi. Em đánh vòng chạy lanh quanh trên con đường bờ sông thiệt là vui!

- Vui quá hén! Vui quá đến nỗi lọt tuốt xuống sông, khiến cho bà già chửi chị một trận tơi tả về cái tội bày đầu, bày đặt...

Trong khi hai chị em đang cười khúc khích thì Toàn ăn mặc chải chuốc bước ra phòng khách, lễ phép khoanh tay:

- Thưa má! Thưa cậu! Con đi dự sinh nhựt bạn con!

- Con tệ quá hà! Lâu lâu cậu mới đến chơi một lần, đáng lẽ con nên ở nhà ăn cơm với cậu chớ?, chị hai càm ràm.

Thằng bé nhăn nhó như khỉ ăn ớt:

- Con hứa với thằng Thanh cả tháng trước! Mà con cũng đã thưa với má hôm quá rồi mà!

- Thôi chị! đừng nhằn nó tội nghiệp! Nó đã hứa với bạn thì phải giữ lời, vả chăng, ở nhà để nghe chị em mình kể chuyện đời xưa chán phèo thì chịu đời sao cho thấu!

Thằng bé vừa bước ra khỏi cửa, thì chị hai đã than vấn thở dài:

- Thằng đó tệ lắm! Nó chỉ biết bè bạn nó thôi, chớ chẳng nghĩ gì đến cha, đến mẹ!

- Chị nói sao chớ em nhận thấy thằng Toàn khá ngoan chớ!

- Không nhắc chi chuyện xa xôi, mới ràng ràng tuần trước đây nè! Hôm đó, nghe nó nhắc bún bò Huế, đi làm về mệt đừ, chị vẫn ráng bươn bả đi chợ, nấu ngay món nầy cho nó. Cơm nước xong, chờ đợi mỏi mòn đến chín giờ rưỡi tối, mới thấy nó mới dẫn thằng Thanh về nhà. Chị vừa mừng vừa giận, xum xoe trách: "Sao con về trễ quá vậy? con đi chơi với bạn sao không cho má hay, làm má lo lắng gần chết! Má chờ cơm đói rã ruột vậy đó!". Chỉ có vậy mà mặt nó chù ụ, nó hậm hực trả lời: "Tụi con vào thư viện tra cứu sách vở, chớ đi chơi hồi nào đâu? Mà con nói với má nhiều lần rồi! con đã hai mươi bảy tuổi, đâu còn con nít nữa mà lo lắng mãi! Má đã biết rằng con phải học bù đầu, lại còn trực nhà thương, giờ giấc bất thường, lúc nào con về thì con ăn! Sao má cứ chờ đợi hoài, để rồi lên tiếng cằn nhằn?". Nó tệ như vậy đó em! có mặt bạn nó mà nó lớn tiếng với chị, nó không nghĩ gì đến tình thương bao la của người mẹ, suốt đời hi sinh tận tụy, chịu đủ điều gian khổ để chăm nom lo lắng cho con...

- Như vậy thì nó hư giống như cậu nó rồi! Chị hai biết không có lần em về Cao Lãnh thăm má. Trong khi má lăng xăng nấu nướng mừng con, em ra chợ chơi chợt nghe tin thằng Danh, bạn chí thiết của em lâm bệnh nặng. Em vội tìm nó, được biết nó bị bệnh ung thư gan không phương cứu chữa, mạng sống chỉ kéo dài tối đa sáu tháng. Nó rủ em ra quán cà phê rỉ rả tâm sự với nhau lần chót. Lẽ ra, em nên nhận lời, nhưng em biết má trông ngóng ở nhà, nên nài ép nó ăn cơm tại nhà mình. Vừa dẫn nó bước vào cửa, em chưa có cơ hội phân trần thì má đã trách móc tùm lum, em bực bội quá nên trả lời tương tợ như thằng Toàn vậy đó. Chuyện nầy má không nhắc với em nữa, nhưng bả lại than thở với mấy dì, khiến em buồn phiền không ít. Thật ra, thằng con trai nào cũng muốn chứng tỏ mình ngon lành, mình trưởng thành đối với bạn bè. Do đó, trước mặt bạn nó, nếu mình tỏ ra cưng lo thái quái thì thằng nhỏ đã bối rối thẹn thùng rồi, huống chi, mình còn cằn nhằn nó, thì trách sao nó chẳng nổi cơn!

- Ơ! thằng Thanh thì chị coi như con cháu trong nhà nên có gì phải úy kỵ!... Ơ! nảy giờ chị em gặp nhau mừng quá quên cả việc cơm nước! Chắc em đói lắm hả?

- Chưa đói đâu chị!

- Chị có làm món nầy đặc biệt cho em nè! Đố em đó!

- Mắm chưng! Đúng không? hì! hì! thằng Toàn báo cáo trước với em rồi! em đã thèm nhỏ dãi từ lúc ở phi trường lận! Trời đất! chị nấu gì mà tới sáu, bảy món đầy khẳm như vậy? làm sao ăn cho nỗi? Thôi! Em chỉ xin ăn món mắm là đủ rồi!

- Ậy! Dĩ nhiên ưu tiên là mắm chưng nhưng em cũng phải nếm các món khác chứ!

- Ô! Chị hai tài quá! ở xứ nầy mà chị tìm đâu đủ thứ rau thơm, lại còn có chuối chát và khế nữa!

- Ừa! Thì đủ hết, nhưng so với quê mình thì vẫn còn thiết đọt lụa, đọt chiết, đọt chùm ruột... em à!

Nghe nhắc đến chùm ruột, Đông bỗng rùng mình tưởng nhớ hình ảnh mẹ hiền ngày xưa. Có lần bà thẩn thờ nhìn nhánh chùm ruột sai oằn, rồi lẩm bẩm: "Má mong nhà mình giống như nhánh chùm ruột, con cháu cả đàn quấn quít san sát bên nhau, thì hạnh phúc biết chừng nào!". Chàng ứa nước mắt nhủ thầm: "Ước mơ thâm thiết của má vẫn ràng ràng trước mắt, mà nay má không còn nữa, con cháu tản lạc mỗi người một nơi, phần con thì biết chừng nào mới có thể về thăm lại mảnh đất quê nhà!". Để che dấu nỗi xúc động dâng tràn, Đông vội vã xới cơm mời chị. Chàng gắp miếng mắm, cẩn thận kèm theo khế, chuối chát, rau thơm. Chàng nhai chầm chậm, để cho vị mắm mặn mà trộn lẫn với khế chua, chuối chát, cùng với rau thơm the the, biến thánh đặc chất khoái khẩu đậm đà, chan chứa cả bầu trời thương nhớ quê hương.

Đông buộc miệng khen:

- Chị nấu mắm chưng quá ư độc đáo! Ngon ơi là ngon!

- Ngon như vậy đó, vậy mà con cái nó chê mới tức chớ! Chị hai chép miệng thở dài, rồi buồn hiu tiếp tục than thở:

- Con cái đời bây giờ không ngoan ngoãn với cha mẹ như mình ngày xưa đâu em. Chị em thằng Toàn đều như vậy hết. Con Hồng nhan sắc mặn mòi nên có bao chỗ xứng đáng đánh tiếng muốn làm xuôi gia với chị. Chỗ nào nó cũng phản đối hết, để rồi đi ưng một thằng học hành chẳng hơn gì nó. Tức chết đi được! Giờ thì tụi nó sinh sống ở Los Angeles, đâu có xa xôi gì, vậy mà năm đầu nó còn về thăm cha mẹ, sau đó biệt dạng luôn. Thằng Tú đang làm kỹ sư ở Phoenix cách đây một trăm dặm, tới lui gần gũi cũng tiện. Chị thấy nó giao thiệp toàn gái Mỹ hơi lo ngại nên gạ dẫn nó đi Cali coi mắt con gái người bạn, thì nó cười ngất chê chuyện đó kỳ quá. Tới chừng chị nghe tin nó có con bồ gốc Mễ, chị bực quá la cho nó một trận, rồi chị lại thường xuyên tới lui khuyên nhủ và kiểm soát nó. Ngờ đâu, nó giận, nó âm thầm xin thuyên chuyển về hảng chánh ở Chicago, mà chẳng thèm hỏi ý kiến cha mẹ một tiếng. Còn thằng Toàn ở nhà thì cũng như không. Nó học bù đầu suốt tuần, mà hễ có chút giờ rảnh thì chụp cái điện thoại hò hẹn bạn bè, chẳng thèm ngó ngàng gì tới chị. Chị cảm tưởng như chúng bỏ rơi mình, chúng khinh thường mình như một thứ thừa thải, một kẻ dốt nát quê mùa, không xứng đáng để chúng bàn bạc, hỏi han ý kiến. Trước kia chị còn nhắc nhở chúng những chuyện vụn vặt như đội nón, che dù, mặc áo ấm, uống thuốc cảm..., nhưng thấy chúng chỉ "dạ! dạ!" lấy lệ, rồi lơ là chẳng thèm nhớ nghĩ..., nên đành câm họng! Ai cũng tưởng chị sung sướng có con cái ngoan giỏi, nhưng đâu có biết nỗi cô đơn, buồn tủi của chị đối với con cái như thế nào? Chắc chị chờ thêm một năm nữa cho thằng Toàn lấy xong mảnh bằng bác sĩ, chị sẽ vào chùa tu phứt cho rồi!

- Chị hai à! sống ở xứ người thì ngay bọn người lớn cũng bị ảnh hưởng mà thay đổi ít nhiều, huống chi là bọn trẻ. Chúng phải học hành, tiếp xúc suốt ngày với nền văn hóa nước người, thì làm sao mình có thể đòi hỏi chúng hoàn toàn giữ trăm phần trăm chất Việt Nam trong người cho được! Em chỉ mong sao chúng nó còn biết dạ thưa, chào hỏi bằng tiếng mẹ đẻ là an ủi lắm rồi!

- Ừa! Thì đành chịu như vậy chớ biết làm sao bây giờ!

- Thật ra dầu đám con cái của mình vẫn còn giữ nguyên chất Việt Nam, thì chắc chắn vẫn có lắm chuyện rắc rối khác xảy ra, và bậc làm cha mẹ cũng kêu rêu như thường. Nguyên nhân đích thực chính là quan niệm khác biệt giữa hai thế hệ, mà mâu thuẫn nầy thì ở nước nào, thời đại nào cũng xảy ra. Đây chính là mầm mống khổ đau không phải chỉ riêng giới cha mẹ gánh chịu, mà đám con cái cũng lãnh đủ nữa. Nói chi xa xôi, chị em mình ngày xưa cũng làm khổ ba má đâu có ít phải không chị?

- Làm khổ ba má thì còn ai ngoài con ba Hạ nữa!

- Chị Ba và em là hai đứa con tội lỗi ngập đầu, đâu đáng kể tới. Ngoan hiền nhất như chị tư Thu mà còn có chuyện cho ba má khổ nữa kia. Chị xin xuất gia, ba má không thuận, chị cũng vâng lời. Rồi chị lại xin thuyên chuyển về quận nhà dạy học để săn sóc ba má lúc tuổi già. Thế nhưng mối quan tâm lớn nhất của bậc làm cha mẹ là mong cái yên bề gia thất nên ba má cứ đôn đáo, tìm người mai mối để ép chị lấy chồng. Chị tư không thuận, thì trách móc, giận hờn..., khiến chị Tư cũng phiền muộn không kém...

- Hừ! Người ta nói "ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên", vụ ba má ép con Tư lấy chồng cũng hơi quá đáng phải không út? Về phần con tư thì tánh nó cũng dị hợm quá chừng hà! Chị thấy cái đám thằng kỹ sư Danh được quá chớ, vậy mà nó không ưng quách cho rồi, nếu được như vậy có phải nó làm cho ba má vui lòng không?

Có lẽ hừng chí với lời phê bình đặc sắc của mình, chị gật gù đúng theo giọng kẻ cả, trịnh trọng phán:

- Ba đứa em còn nhỏ không gần gũi ba má và hiểu ba má nhiều như chị, nên mới dễ làm cho ba má buồn phiền như vậy đó!

- Bộ chị tưởng..., ơ...ơ..., chị còn nhớ những chuyện sôi nổi về việc chị đòi uốn tóc, đòi quần áo son phấn thời trang không? À! còn cái vụ thằng con tiệm vàng Hữu Lợi cậy mai mối xin hỏi chị mới gay cấn hấp dẫn từng hồi chớ!

Dù tuổi đã gần sáu mươi, khi nghe cậu em nhắc những chuyện bực bội xa xưa hằng bốn mươi năm, chị hai vẫn cảm thấy nóng mặt. Chị ấm ức tuôn ra một hơi:

- Ông bà già mình hủ lậu hết chỗ nói! Cả nước người ta uốn tóc quăn, người ta chưng diện theo thời trang mà ổng bả cứ chủ trương con gái nhà lành thì phải kẹp tóc, quần đen áo trắng kín mít, may rộng thùng thình, mặt mày thì để mét chằng chớ cầm kỵ thoa chút phấn son. Nội cái việc chị muốn mặc cái quần trắng thôi mà cũng lắm gian nan với ổng bả rồi. Thuở đó, phong trào mặc quần trắng mướt ôm sát thân hình thật hấp dẫn khiến chị thèm thuồng vô cùng. Đúng lúc đó, ba cho tiền sắm một cái áo dài và cái quần mỹ a để dự tiệc cưới con đầu lòng của chú bảy Dinh. Vải mỹ a rất mắc tiền, nhưng đi đứng nghe sột soạt khó chịu, nên với quan niệm của con gái thời đó thì nó quê mùa, chớ đâu hấp dẫn bằng cái quần xa teng rẻ tiền. Chị âm thầm may quần xa teng trắng và dấu kỹ cho đến ngày đám cưới mới lòi ra. Má vừa thấy quần đã nổi giận đùng đùng rầy la chị một trận tơi bời, rồi bả còn lấy kéo cắt quân ra từng mảnh, nát tan như chính cõi lòng của chị.

- Ủa! Chuyện đó sao em chẳng nghe vậy kìa?

- Khổ sở thì chị khóc thầm thôi, chớ chị đâu dám đôi co lời qua tiếng lại với má, thì làm sao em hay biết được! Chị hiền thì ba má đối xử khắc khe như vậy đó. Đến khi con ba Hạ ăn vận theo đợt sống mới, ổng bả giận lắm nhưng vừa mới mở lời khuyên giải, thì nó đã nhảy dựng lên dọa bỏ nhà đi bụi đời, ổng bả đâu dám hó hé gì nữa. Chuyện chồng con của nó cũng vậy, nó muốn ngang nào được ngang nấy, chớ đâu bị hành hạ, "cà riềng cà tỏi" cằn nhằn tối ngày như chị vậy! Chướng nhất là vụ thằng con chủ tiệm vàng Hữu Lợi xin hỏi chị! Em nghĩ coi, cái thằng tướng tá tròn vo như hột mít, lại vô duyên, bất tài... chỉ giỏi ngón nghề chạy chọt được giấy miễn dịch... vậy mà ba má khăng khăng cho rằng nó "thọ", nó có tương lai... để rồi áp bức dày vò chị dài dài để buộc chị ưng hắn! Ngược lại, đến khi chị và anh hai thương nhau xin tiến tới hôn nhân, thì ổng bả ngăn cản đủ mọi cách. Ổng bả chê anh hai là người Trung, tính nết khó lường, tiếng nói khó nghe, xuôi gia xa xôi khó thân thiết, đời quân ngũ hiểm nghèo, không chăm sóc được vợ con... thế rồi, để làm nản lòng anh chị, ổng bả kiếm chuyện bắt lỗi phải từng cử chỉ, từng lời nói... khiến anh chị phải điêu đứng gian nan cả năm trời cho đến ngày cử hành hôn lễ mới được yên thân...

- Chị hai à! hành động nào của ba má cũng đều phát xuất từ tình thương vô bờ đối với con cái! Em nhắc nhở chuyện xưa không phải trách móc ba má, mà chỉ muốn chứng minh một điều là bậc làm cha mẹ, đôi khi thương yêu con mà thiếu hiểu biết, lại vô tình gây khổ đau cho con, đồng thời cũng tự làm khổ mình nữa. Đây là kinh nghiệm thời trẻ ai cũng đã trải qua, nhưng chẳng ai rút tỉa được bài học nầy hết! Khi trở thành bậc cha mẹ, người ta sẽ cố chấp và thiếu hiểu biết đối với con cái y hệt như cha mẹ họ ngày xưa! Đây là đầu giây mối nhợ của bao bất hòa, của nỗi khổ đau xảy ra trong mọi gia đình! Chị hai có đồng ý với em điều nầy không chị hai?

Chị hai trầm ngâm suy tư, rồi gục gặc gật đầu.

Chừng như đã chán ngán bàn chuyện con cái, hai chị em đổi đề tài sang chuyện cây xoài cây ổi, bánh phồng bánh tráng, tát đìa bắt cá... toàn là chuyện tầm ruồng chẳng đầu chẳng đuôi, vậy mà vui vẻ tận cùng. Món mắm chưng lại hợp khẩu nên Đông đã vui miệng nói, lại vừa vui miệng ăn "miếng đặng miếng được" đến khi no cứng mới ngừng. Thế nhưng chị hai đâu chịu để yên. Chị nằn nì nài ép: "em ăn thêm miếng gỏi sứa cho chị vui!", "tôm càng kho tàu nấu y chang như má nè"! Em thử một miếng chứ!, "mực dồn thịt chị làm cực khổ lắm nghen! Em không ăn thì phụ lòng chị đó!"... Đông nể chị, ăn thêm món nầy đến món kia, cho đến khi thở chẳng ra hơi, mới được bà chị buông tha. Đông có ý định chờ ông anh rể để chào mừng, nhưng chưa quen giờ giấc miền Tây, chàng buồn ngủ híp mắt, không thể thức thêm được nữa. Nửa đêm, cái bụng căng phồng khó chịu quá, Đông phải làm xấu, dựng chị dậy, kêu gào mấy viên thuốc tiêu thì mới tạm yên. Sáng hôm sau thức dậy, bữa ăn sáng thịnh soạn đã dọn đầy bàn, nhưng rất may, Đông không bị ép ăn nữa. Chàng nhâm nhi cà phê, hàn huyên hào hứng đủ mọi đề tài vô thưởng vô phạt với ông anh rể, cho đến giờ anh chị đưa trở ra phi trường.

Trong giờ phút chia tay quyến luyến, chị hai nắm tay em ân cần han hỏi:

- Cái bụng em đã đỡ chưa út?

- Đỡ nhiều rồi chị ạ!

Rồi với giọng nửa đùa nửa thật, Đông tiếp lời:

- Chị hai thấy không? cái gì quá mức thì cũng nguy hiểm cả! Được cho ăn quá mức thì bị trúng thực, còn được thương quá mức thì... ơ...ơ... nó cũng tù túng ngột ngạt lắm chị hai ạ!

- Hì! hì! té ra em chỉ giả vờ đau bụng để nhắc khéo chị điều đó phải không?

*

**

Đông trở về Houston quay cuồng kiếm sống, thỉnh thoảng chàng cũng điện thoại vắn tắt thăm chị, nhưng những mẩu chuyện tâm tình sôi động trong chuyến đi Tucson vừa qua, không ai buồn nhắc đến nữa. Bất ngờ, đúng ngày Tết âm lịch, Đông lại nhận được một bức thơ dầy cộm của chị. Lo sợ có điều bất tường. Đông hấp tấp mở ra xem:

Tucson, ngày 3 tháng 01 năm 1997

Em út thương của chị,

Lụi hụi mà chỉ còn một tuần lễ nữa thì mình lại ăn thêm một cái Tết tha hương. Tết bên nầy sao tẻ lạnh quá út ạ! Giờ nầy năm xưa ở bên nhà, không khí Tết rộn ràng lắm! Ba đã tỉ mỉ chọn cành mai đơm đầy bông búp chưng lên bàn thờ, cân xứng với một cặp dưa hấu to, và bộ lư hương bằng đồng sáng giới. Má chuẩn bị bánh mứt, trái cây từ mấy tuần trước, dự trữ thật nhiều, hầu đến cận Tết rảnh tay nấu một nồi bánh ích và bánh tét đầy âm ấp sẵn sàng chờ đợi đám con cháu tề tựu về tưng bừng ăn uống. Tình thương con cháu của má thật bao la, má gian nan cực khổ thế nào cũng được, miễn là thấy mặt đám con cháu đông đủ sum vầy quây quần trong ngôi nhà, thì bà mãn nguyện lắm rồi.

Tánh chị có lẽ chẳng khác gì má. Bao nhiêu tâm ý chị đều đặt tất cả vào các con: nhìn chúng ăn uống cười nói, chị hân hoan rộn rã; thấy chúng chợt đăm chiêu, lòng chị thảng thốt bất an. Chị chỉ muốn con cái sống gần gũi trong tầm tay của mình, vắng đứa nào chị cũng nhớ thương ủ rũ, chúng về nhà trễ thì ruột chị quặn thắt từng cơn. Đối với chị, đám con chị là nhất, quý giá không con cái ai sánh bằng, cho nên chị thấy có nhu cầu lo lắng bảo vệ chúng từng li tứng tí, sợ chúng ốm đau, gặp tai nạn, sợ chúng bị bạn bè lợi dụng, sợ chúng lầm lạc chọn người không xứng đáng gây khổ đau suốt đời... Thế nhưng chị càng lo lắng chăm sóc chúng thì chúng lại tỏ ra bất cần, chị muốn ôm chặt chúng trong vòng tay thì chúng càng vuột ra ngoài, than trách thì chúng tỏ vẻ bực bội tránh xa. Chị cảm thấy bị con cái bỏ rơi, chúng khinh thường, chúng bất cần mình. Chị cô đơn quá! chị hờn tủi và khổ sở cùng cực mà chỉ biết âm thầm chịu đựng, chớ tìm đâu được kẻ tâm giao để chia xẻ nỗi niềm. Chị đâm ra quạu quọ rắc rối, nhưng chỉ quạu quọ rắc rối với anh hai, chớ với chúng thì vẫn mềm mỏng để chiêu hồi.

May là trong chuyến thăm chị, em nhắc nhở chuyện ngày xưa, khiến chị lưu tâm suy tư cặn kẽ những mâu thuẫn của hai thế hệ. Từ đó chị nhận chân được một sự thật là: Ba má rất thương yêu con cái, nhưng thương yêu một cách mù quáng và không hiểu biết hoặc lưu ý gì đến tuổi trẻ, vì vậy mà ba má đã có cái nhìn cố chấp hẹp hòi, kết quả là ba má tự chuốc lấy khổ đau, mà đồng thời lại gây phiền lụy cho con cái nữa. Đó cũng là một khuyết điểm mà chị đã vấp phải. Chị đinh ninh rằng chỉ cần ôm "chính nghĩa thương con", thì chẳng cần đếm xỉa điều gì khác nửa, cứ mặc tình "tự tung tự tác" muốn thương con cách nào cũng đúng, vì vậy mới gây ra bao lủng củng trong nhà. Do khám phá nầy, chị không còn oán trách con cái nữa, mà chỉ tự quán sát tìm hiểu những khuyết điểm của chính mình. Trước hết, chị nghĩ đến mối bất hòa giữa chị và đứa con gái đầu lòng. Thật ra thì thằng rể cũng hiền lành dễ thương, nhưng theo quan niệm "phi cao đẳng bất thành phu phụ", chị cho rằng nó không xứng đáng nên ngăn cản tình yêu của chúng rất mãnh liệt, với thâm ý tách rời hai đứa hầu đem cháu Hồng gả cho con anh tư Thời đang học nha khoa. - Hồi nhỏ chị chủ trương tiền bạc và cấp bằng không đem lại hạnh phúc, chị chống đối ép duyên đến cùng, mà nay sao chị lại ép duyên con kìa? - Ngăn cấm không kết quả, chị đành thuận cho chúng tiến hành hôn lễ, nhưng nỗi ấm ức cứ tuôn tràn qua thái độ kém thân thiện của chị đối với thằng rể. Có lẽ vì vậy mà chúng nó viện cớ tìm được việc làm tốt ở Los Angeles, rồi dọn đi mất. Nó đi xa, chị nhớ chị buồn, rồi chị lại cằn nhằn oán trách, chúng càng né tránh rồi trốn biệt luôn. Ôi! giờ nầy chị hiểu và thương chúng nó, kể ra cũng hơi muộn màng. Kinh nghiệm vụ con Hồng, chị canh giữ hai thằng con trai rất kỹ. Chị gợi ý cho thằng Tú đám nào, nó cũng chẳng màn để ý, mà hễ hai anh em nó giao thiệp ai, chị lại thấy chẳng cô nào xứng đáng cả. (Chị mới nghiệm ra điều nầy em ạ! Dường như trong máu của người đàn bà thương con đã ngầm chứa chút tị hiềm với con dâu nên bạn gái nào của nó mình cũng chê. Ngay nàng dâu do mình chọn rồi giới thiệu cho con, không bao lâu mình cũng sẽ khám phá ra vô số khuyết điểm của nó.). Thời gian ngắn ngủi sau đó, chị hốt hoảng khám phá rằng thằng Tú dính líu với một cô gái gốc Mễ. Hôn nhân là chuyện chúng nó, chủng tộc nào tùy nó, đâu chắc gì có vợ Việt thì hạnh phúc bền bỉ? Kể ra, ở bên nầy mà có vợ Mễ thì cũng đâu có gì quá đáng hơn ngày xưa tại xứ Đồng Tháp quê mùa có chị nằng nặc đòi kết hôn với người Huế, nói tiếng gì mà cả xóm Cái Sơn chẳng ai hiểu một câu! Thế nhưng, lúc đó chị không nghĩ vậy, chị làm dữ với thằng Tú trước mặt con nhỏ đó, hi vọng con đó bỏ thằng Tú thì tốt biết bao nhiêu. Kết cuộc, như em biết đó, thằng Tú xin đổi lên Chicago. Từ chuyện tình duyên của con cái, chị quán sát cả đến những chuyện lặt vặt khác và chột dạ thấy mình sao lẩm cẩm quá chừng đi. Em nghĩ coi, thằng Toàn đã 27 tuổi, học năm chót y khoa, mà chị lải nhải bắt nó uống thuốc nầy thuốc nọ, phải mặc áo ấm, đội nón, che dù... lo như lo cho đứa con nít tiểu học, vậy mà nó lơ là thì chị lại hờn tủi mới chướng đời chớ! Đến như việc việc giao tế của nó, chị thường càm ràm rằng nó dành hết thời giờ cho bạn bè, nhưng thật ra thì nó học bạc đầu, mỗi tuần được chừng vài giờ rảnh rỗi, liên lạc với bạn bè trang lứa kháo nhau chuyện tầm phào cho thoải mái, mà chị đòi dành thời giờ đó cho chị, điều đó chắc hơi quá đáng phải không em?

Càng suy tư quán sát chị càng thông cảm hiểu biết con cái, chị không còn khổ sở, hờn giận gì nữa. Chúng nó, giống như chị ngày xưa, sẽ đến lúc trưởng thành, rồi có cuộc đời riêng. Con chim mẹ, phải tập nhìn bầy con của mình, tung cánh bay cao, với niềm hãnh diện hân hoan, chớ không phải với tâm trạng cô đơn hờn tủi.

Suy tư nầy vừa lóe trong tâm tư, chị liền cảm thấy niềm an lạc tràn ngập khắp cả châu thân. Chị vừa "ngộ" em ạ! Em đừng cười chị nhé! Chị nói giỡn nhưng không hẳn là đại ngôn đâu! Cái nguyên lý "vô thường" mà mình nghe quý thầy giảng hoài, chị tưởng như đã nắm vững, nhưng thật ra, trước kia mình nghe như nước đổ lá môn, mà chưa bao giờ thâm nhập. Bây giờ thì chị ý thức rõ rệt nguyên lý vô thường như một kinh nghiệm thực tại, nó hòa nhịp trong đời sống của mình, diễn tiến tuần tự, như nhiên và mầu nhiệm: hợp rồi tan, tròn rồi khuyết. Có cái gì thành trụ mà chẳng đi đến giai đoạn hoại không? Tấm thân tứ đại cũ mèm nầy, rồi cũng sẽ đến lúc tan hoại rã rời.

Em út thương,

Nguyên lý vô thường dính liền với ý niệm sống chết. Đã sanh ra đời thì ai cũng có một lần chết. Đó là sự thật hiển nhiên, vậy mà bấy lâu nay cơ hồ chị quên mất điều đó. Chị hành động in tuồng như chị sẽ sống dai như "Bành tổ" để đùm bọc, lo lắng cho các con mãi mãi. Ca dao nước mình so sánh sự sinh nở nguy hiểm như là chuyến phiêu lưu ra biển khơi cô đơn:

Người ta đi biển có đôi

Còn tôi đi biển mồ côi một mình.

Ca dao trên không đúng với trường hợp của chị, vì khi sanh ba mụn con, lần nào chị cũng có chồng kề cận, được bác sĩ và hộ sinh chăm sóc, nên cảnh cô đơn hiểm nghèo chưa thật sự trải qua. Thế nhưng, giờ đây câu ca dao đó bỗng hiện về ray rứt chị, khi chị nhận thấy rằng dường như nó phản ảnh khá trung thực tâm trạng cô đơn hoảng hốt của con người trong chuyến ra đi cuối cùng của cuộc đời. Con người từ cõi sống bước vào cõi chết mù mịt bơ vơ, hoang mang chẳng biết trôi dạt về đâu thì có khác nào đi biển một mình trong đêm đen mưa gió bão bùng. Chuyến đi kinh khủng đó không có phương cách trốn tránh được, vậy thì chỉ có một giải pháp duy nhất là chuẩn bị sẵn sàng để đối diện: nếu mình nắm vững phương hướng, và được hành trang bằng niềm tin và nghị lực chắc chắn nỗi hoang mang sợ hãi sẽ giảm thiểu! phải không út?

Anh chị đã may mắn quy y và học Phật Pháp với hòa thượng Thiện Hòa trước năm 1975, nhưng khi sang Hoa Kỳ phải quay cuồng với nếp sống mới, rồi chị lại "xà quần" với chuyện lo lắng, thương yêu, hờn giận con cái, mà xao lãng chuyện tu tập. Nay giật mình tỉnh thức, nhận thấy tình trạng đã vô cùng cấp bách, không còn chần chờ gì nữa, chị dứt khoát tu tập theo pháp môn Niệm Phật tu tâm, cầu vãng sanh về thế giới cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Kinh sách hướng dẫn pháp môn tịnh độ nhiều lắm, nhưng chị thấy chỉ cần quyển Niệm Phật Thập Yếu của thầy T. Thiện Tâm cũng đủ lắm rồi. Chị căn cứ theo đó mà lập thời dụng biểu cẩn mật để tha thiết Niệm Phật cầu vãng sanh. Nếu "Tín, Hạnh, Nguyện" được vững vàng, thì chuyến đi cuối cùng mình đã rõ ràng phương hướng, đầy đủ tư lương nên không có gì phải hoang mang bối rối nữa! phải không em!

Từ ngày khởi sự tu tập, tâm chị dần dần thoải mái. Dĩ nhiên là chị vẫn chăm sóc và cơm nước cho hai cha con, nhưng chị không "ép ăn và ép thương" ai nữa. Chị không đòi hỏi con cái lúc nào cũng nghĩ tới chị, chị cũng không trách móc hờn tủi, cũng không bận bịu lo âu về những chuyện xa vời ngoài tầm tay mình nữa. Anh hai cũng đỡ bị chị lăng nhăng cà khịa nên rất hài lòng.

Có lẽ tụi nhỏ kháo với nhau rằng độ rày chị dễ dãi, nên mùa giáng sinh vừa qua, đám con Hồng và thằng Tú rủ nhau về cho một nhà. Chị để chúng sống thoải mái tùy thích, không đòi hỏi ràng buộc gì cả. Chị cũng tươm tất nấu nướng cho chúng toàn là những thức ăn đặc biệt Việt Nam, để biết đâu chừng, một ngày xa xôi nào đó, bất chợt nhớ lại khung cảnh gia đình ngày xưa, thì hình ảnh con tôm kho tàu, trái khổ qua dồn thịt, tô mắm chưng... - giống như tô canh bù ngót của cậu út -, sẽ hiện về trong tâm khảm chúng như một kỷ niệm ngọt ngào tình thương. Chúng nó tựu về thì vui, chúng đi chị khỏe, thời giờ tu tập đỡ bị xáo trộn.

Ờ! có chuyện nầy khá vui, sẵn dịp chị kể em nghe cười chơi. Nhân dịp có đủ hai thằng con trai, anh dặn dò:

- Ba má đã bàn nhau và đồng ý rằng hôn nhân của các con do các con tự quyết định, hạnh phúc thì các con nhờ, đau khổ các con chịu. Ba má không muốn xen vào chuyện của các con, mà chỉ muốn nhắc nhở các con một điều là vợ chồng cùng chung một nền văn hóa, cùng chung một tôn giáo, dễ xây dựng hạnh phúc hơn. Lúc trẻ mình không thấy tầm quan trọng của hai vấn đề nầy, nhưng khi về già, người ta thường sống trở lại với dĩ vãng và cần nương tựa vào một niềm tin, thì văn hóa và tôn giáo, trở thành yếu tố then chốt giữ vững tình nghĩa mặn nồng cho chuỗi ngày già.

Chị cũng góp ý:

- Hôn nhân là chuyện quan trọng ảnh hưởng suốt cả đời. Do đó, các con nhớ phải cẩn thận, lựa thật kỹ kẻo mang khổ nghe các con!

Tú cười ngất đáp:

- Má yên chí đi! Vụ nầy thì con kỹ lắm! Con phải sống chung với nhau vài năm, biết rõ hết mọi chuyện rồi mới nghĩ đến chuyện kết hôn má ạ!

"Trời đất! Em nghe thằng Tú nói như vậy em có lùng bùng lỗ tai không út?". Chị thấy nó chủ trương kỳ lạ muốn răn dạy nó, nhưng mình đã nguyện buông bỏ mọi việc để rảnh rang tu tập, mà còn thắc mắc gì nữa, nên chị gượng cười cho xong.

Em út thương,

Chị biết em đã chứng kiến và hiểu biết nỗi đau khổ của chị, nên chị viết thơ nầy kể lể hết mọi chuyện để em được yên tâm. Bắt đầu tu tập thì cũng bắt đầu cảm thấy an lành thư thái em ạ! Kể ra, đợi gần đến sáu mươi mới lo tu niệm là quá trễ phải không em?

Ít hàng thăm hai em và các cháu. Chúc gia đình em một năm mới an khang thịnh vượng.

Chị hai của em,

Nguyễn Thị Xuân.

Đông xếp thơ chị lại trong niềm vui tràn ngập. Hình ảnh người chị thân thương thấp thoáng ẩn hiện trong tâm khảm chàng. Bóng dáng người chị tuổi lục trần đó thoạt tan biến rồi hóa thành cô gái tuổi trâm cài nhí nhảnh, đang chăm chỉ sửa chiếc vòng làm bằng vành nia cho thằng em út. Cạnh đó, bên bàn ăn, một tô canh bù ngót ngọt ngào vẫn còn nghi ngút khói...

Tháng 11.1996

Ghi chú:

1. Thẳng; thằng ấy

2. Chệc: thổ ngữ của người Tiều Châu có nghĩa là chú, như tiếng xẩm có nghĩa là thím. Dân miền Nam hiếu khách gọi người Tiều là "chú thím" bằng ngôn ngữ của họ là "chệc và xẩm", có người trùng dụng là chú chệc, thím xẩm.

3. Hẩu: hay hẩu sực là thổ ngữ người Quảng Đông có nghĩa là thức ăn ngon, khoái khẩu.

Mụ Hàng Vịt Xứ Miền Đông Nam

Ông Khuất quản lý khu chợ này nhiều năm. Vóc dáng không cao lắm, so với tầm mức của người Việt mình, da mặt hồng hào và vẻ mặt phúc hậu, mái tóc được cắt ngắn bình thường không theo mốt thời trang nhưng theo kiểu trọng tài đá banh, biểu hiện một con người trung thực, duy nhất có cặp mắt tinh tường cộng thêm trí phán đoán được dân chúng khen ngợi rất nhiều về thành tích bắt bọn móc túi, trộm vặt.

Kể từ ngày giải phóng đến nay đã bước sang năm thứ hai mươi mốt, thì ông cũng trụ được mười tám năm tròn.

Không chê trách là nhu nhược qụy lụy hay ông tính kỹ quá, nhưng qua biết bao gian truân, chịu đựng một cách khôn khéo để trụ vững với cái công việc quản lý khu chợ của cái xứ miền đông ngặt nghèo này không phải dễ như nhiều người ta tưởng.

Nghe đến chữ chợ là ai cũng hiểu ngay ra một nơi phức tạp muôn mặt.

Ngoài việc đấu thầu công khai bằng phong bì kín, ẩn, sau, phía trong những cái hụi chết lớn của ông này, nhỏ của bà kia, còn những ưu tiên chỗ sạp bán, lặng thinh với những gian hàng phải kiêng nể, tránh né hoặc lờ đi, bao nhiêu những cái vụn vặt, cấu ngắt, nhờ mua linh tinh vô hình vô dạng, những cái biếu xén qụy lụy cho đến những kẻ xin xỏ đớn hèn bẩn thỉu, sang trọng hay mạt hạng, không sao kể hết những phức tạp phiền toái.

Ông thừa sức hiểu cho mấy cái nghề không mấy người ưa thích này, thậm chí ngày nào, ít nhiều cũng xảy ra vài vụ việc to tiếng cãi vã mà với khả năng linh hoạt khéo léo ông đã giải quyết êm thắm, chính vì công việc đã mang lại cho bản thân ông và gia đình một cuộc sống trung bình, nên đành phải chịu, sự chấp nhận, sự hiện hữu, dù rằng đã bao lần tìm hướng chọn việc khác thay đổi.

Nói như thế chứ thực sự những cái lợi nhỏ không ít, tất nhiên cái phiền toái bực dọc cũng rất nhiều. Vậy nhưng nó là một công việc có nhiều người đứng ngoài ngấm nghé thèm thuồng, nào ai có biết ông đang đứng tần ngần.

Lần đầu tiên ông giận uất người, vì một bà bán vịt.

Trước mặt ông, người đàn bà bán vịt, bà vẫn khăng khăng không chịu đóng tiền hoa chi. Ông kiên nhẫn:

-Tôi đề nghị chị đóng cho, tôi còn nhiều việc.

Trên một khoảng góc trước bên phía phải của chợ. Mặt trước của khu chợ hướng về phía đông nam. Người đàn bà vẻ mặt đanh chắc, hai môi mỏng dính, thể hiện cho ta thấy một loại người nói nhiều, nhiều chuyện, chiếc áo cánh mặc không gọn gàng biểu hiện có tính nết bừa bãi, chật vật với cơm áo, bà ngồi chồm hổm với một bầy vịt mập màu lông sẻ. Tiếng the thé:

-Lấy bóp mắt người ta sao? Tưởng nuôi được mấy con vịt dễ lắm hả. Vốn liếng giống, thức ăn đâu có sẵn để nhặt không. Cả ngày dang mưa dang nắng ngoài đồng, có phải ngồi trong mát, trong rợp, vô biên chế, rồi quy hoạch quy định.

Nuôi vịt chẳng khác gì người, nặng nhẹ với nó, nó không đẻ, làm dữ nó chạy tán loạn, không gom lại một chỗ chỉ có nước ngồi đấy mà khóc.

Ông Khuất bực lắm nhưng cũng vẫn phải lên tiếng:

-Thôi tôi không nói nhiều với bà nữa. Đề nghị bà đóng hoa chi cho xong, tôi còn phải đi thu nơi khác.

Mụ hàng vịt cố ý làm dữ nhưng ông Khuất vẫn kiên quyết nhẫn nại. Mình không khen hay ông Khuất, vì dù sao với ngần ấy năm nghề nghiệp, cuối cùng bà phải xuống nước. Bà nhìn ông hơi né tránh, đôi mắt chớp chậm lại như muốn che dấu ý tưởng tiểu xảo không muốn cho ông biết rõ rằng bà đã chịu xuống nước nhượng bộ.

Lúc này bà hàng vịt cố tình nhìn thẳng vào ông Khuất như bắt gân nhau, biết không thể làm cách nào khác vẫn nói giữ trịch:

-Cho tôi đóng làm hai lần?

Ông Khuất cũng làm lởi xởi, như tự khẳng định cái cách xử sự vốn dĩ nó được tạo ra bởi những thành công trước bao nhiêu học hỏi sàng lọc “mềm nắn rắn buông”. Ông buông thõng to tiếng:

-Được. Đóng trước năm ngàn, lát thu thêm.

Ông Khuất trả lời dứt khoát như vuốt đầu kẻ thua cuộc, đưa tay nhận tiền thủng thẳng đếm lại, không xé biên lai bước đi.

- Phải vậy chứ.

Bà hàng vịt nói như chiến thắng của chính mình vừa đạt được, khi ông Khuất quay đi thật nhanh giấu nụ cười nghề nghiệp. Nghề dạy cho ông biết phải xử trí ra sao. Đằng sau mẹ hàng vịt vẫn sang sảng, như phân bua với quanh đấy.

- Các ông bà thấy không. Cái xã miền đông này nhỏ như con cóc lại nằm dọc theo hai bên con đường nhựa thẳng, có năm sáu ấp đòi tinh giảm biên chế. Tinh giảm cái gì? Tôi thử hỏi tinh giảm bớt cái bộ máy cồng kềnh để tránh bớt cái đám ăn không ngồi rồi trên trốc chứ gì, không các bà đừng có mơ. Tôi đã nói thì tôi không sợ, đã sợ thì không nói. Tinh giảm bằng cách chia xã ra làm hai. Như vậy ta có hai bộ máy chính quyền xã vậy thì tinh giảm ở chỗ nào?

Một số người lảng tránh. Bà hàng vịt ngưng một chút để cân vịt, rồi tiếp tục, đôi môi cong dẻo quẹo:

- Ngẫm nghĩ chính là tui đây nè. Trước chứ vịt, một mình tôi chăn nuôi tất cả ba bốn trăm con, nay chia đôi cho thằng nhỏ nó nuôi một nửa, nó nuôi thì nó xài chứ nó nuôi cho mình xài đâu mà mừng.

Có tiếng người ngoài xen:

- Nhưng vịt nó khác, ấp nó khác, bà nói đến làm chi vậy.

- Y chang. Vịt hay người, thì người nuôi xài chứ vịt nó xài ha? Đối với người thì người trên xài cũng vậy.

Vẫn có người cãi lại:

- Nhưng chia xã thì ít ấp đi.

- Đấy chính là ở chỗ đấy. Ít người, nhưng ráng gồng lên nuôi thêm một cái bộ máy nữa, các ông, các bà nghe kịp không?

- Cái này nữa này. Bầu cử các người hội đồng nhân dân ấp xã. Lẽ ra muốn để cho người dân chọn một danh sách thì chính quyền phải có lấy hai ba danh sách cho dân chọn chứ, đằng này chỉ có một để chọn một, rồi thêm vào đó một vài người lót đường để gạch bỏ. Ai gạch, bố trí con em, hoặc chọn sẵn người của mình ngồi đấy gạch theo quy định. Tôi không nói thì thôi chứ tôi nói rồi tôi phải nói cho hết.

Có lẽ cách rao hàng của bà bán vịt đã thành công. Khách mua đã vây quanh, bà đã tíu tít nên không còn phát ra những âm thanh chộn rộn nữa.

Hàng vịt vào cuối năm nay đắt khách. Chẳng mấy chốc bầy vịt đã vơi dần. Ông Khuất cũng thỉnh thoảng cũng đáo qua lại.

Người dân ở đây chưa ai dám ăn nói hồ đồ, nên khi thấy mụ hàng vịt liều mạng nói ra những điều không nên nói, cũng có người khen kẻ chê.

Thời buổi này khôn dại tại miệng nói năng không cẩn thận, đi tù như chơi.

Nhiều người đoán, không chừng mụ thuộc gia đình cách mạng.

Ông Khuất vẫn cứ tiếp tục công việc. Nhưng những câu nói của bà bán vịt vẫn ám ảnh theo ông. Giữa nơi chợ búa đông người coi như chỗ không người, bà đã phát ngôn bừa bãi. Ông cũng là một nhân viên cán bộ cơ quan nho nhỏ, ông cảm thấy bực mình. Đứng khách quan ta thấy bà hàng vịt nói có phần nào đúng, nhưng chỗ chợ không phải chỗ phát biểu lung tung. Thôi đành cho qua đi tất cả. Ông nghĩ vậy và cũng chẳng suy nghĩ thêm. Tiếng của bà hàng vịt cũng đã chấm dứt, tíu tít với khách hàng nên quên bẵng câu chuyện ban đầu.

Lúc này nhiều người nhìn ông Khuất như dò phản ứng, chọc ghẹo:

- Sáng sớm đã bị bà hàng vịt cho uống cà phê đen không đường mà cũng đành lòng vậy sao?

Ông Khuất chữa thẹn:

- Thôi kệ hơn thua với họ làm gì nữa cho thêm ồn ào.

Ông Khuất trở lại qua hàng vịt một lần nữa.

Bộ mặt bà hàng vịt né tránh cái nhìn của ông hơi cúi xuống, nhưng điềm nhiên hơn vui tốt hơn vì có lẽ đã bán hết đám vịt.

Tự nhiên trong lòng ông dâng lên một nỗi niềm khó tả, giận sự vật xung quanh thì ít, bục dọc với chính mình thì nhiều. Nghĩ một điều gì mông lung lắm, hoặc phải đắn đo kỹ lưỡng nó có tính cách không công bằng, tất nhiên ở đời khôn dại cái miệng, họ phải chịu.

Ông Khuất bước qua đường, vô tình chẳng ai nhìn theo.

Có lẽ ông đang đi đến phòng điện thoại.

Mọi người trong chợ bị câu chuyện bà hàng vịt gieo vào trong đầu như đám bụi đường tung lên rồi cả khu chợ hít phải gây khó chịu. Phần đông hay giật mình khi nghe tiếng rít của thắng xe, không ai hẹn ai cùng quay quắt trông nhìn dáo dác như một cái gì bất chợt có thể xảy đến. Và chắc nó sẽ phải xảy đến thôi ai ai cũng đều hiểu như vậy.

Nhiều xe máy đứng chờ những người nhà vào chợ cũng tan dần.

Phiên chợ cũng ngàn bớt qua đi.

Nhưng có thể tin phong thanh trong chiều nay hoặc sớm mai đầy ắp trong buổi chợ sớm, khi mặt trời bắt đầu ló dạng, tin thật trăm phần hoặc đơm đặt thêm cho nhiều ý vị, hay do miệng lưỡi của người.

Ai cũng cảm thấy một điều băn khoăn thật nhỏ thật nhẹ.

Dẫu gì tin chẳng mấy vui vẻ như nhiều tin khác, trong sự thinh lặng chịu đựng có sức dẻo dai xu thời của khu chợ miền đông nam.

Người Chăn Vịt Trại Châu Bình

Chẳng ai biết tên thật của ông ta là gì, mãi cho đến lúc câu chuyện khủng khiếp đó xảy ra. Thường ngày Người Chăn Vịt Trại Châu Bình chúng tôi vẫn gọi ông là ông Năm Cò. Tôi cũng không hiểu tại sao ông lại có cái tên này.

Vào năm 1980, trại Châu Bình là một trại cải tạo nổi tiếng hắc ám nhất của tỉnh Bến Tre. Theo những người ở tù lâu năm cho biết các trại cải tạo Bến Giá, Cây Dương chẳng có nhằm nhò gì so với trại Châu Bình. Tuy sanh sau đẻ muộn nhưng trại Châu Bình K.20 là một loại trại tù kiểu mẫu, điển hình được chỉ huy bởi các sĩ quan Công an và cảnh vệ toàn là người miền Bắc và xuất thân từ các trường huấn luyện công an cũng ở miền Bắc.Các nội qui, qui định của trại được thực hiện răm ráp, không sai chạy. Toàn trại có 20 đội, tôi thuộc đội 12. Tất cả các đội đều có một công việc chung và duy nhất: Lấy đất cho sâu xuống, chuyển đất đấp thành những hồ ở giữa, theo giải thích của cán bộ quản giáo là để nuôi tôm, cá xuất khẩu. Trên các bờ thửa thì trồng dừa cũng được phổ biến là để lấy cơm dừa xuất khẩu.

Khi tôi vượt biển bị bắt đưa đến trại thì có nơi dừa đã mọc cao và đang trổ bông trên nhiều bờ thửa.

Mỗi ngày khi tiếng kẻng đinh tai, nhức óc vang lên là chúng tôi phải thức dậy tập thể dục, vệ sinh cá nhân, sau đó ăn vội, khi thì một mẩu sắn, khi thì một củ khoai lang luộc.

Và sau đó tập họp ra hiện trường lao động dưới những họng súng A.K. lúc nào cũng lăm lăm chực nhả đạn trên tay những tên cảnh vệ mặt mày lúc nào cũng lầm lì. Tay mai, tay xẻng chúng tôi vừa đi vừa hát: “Một, hai, ba, bốn… đội ta quyết tâm học tập, lao động tốt. Đội ta quyết tâm làm theo lời Bác dạy… một, hai, ba, bốn…” Tiếng hát vang lên trong những buổi sớm mai, trong những buổi hoàng hôn. Thỉnh thoảng người đội trưởng lại hô ta hai tiếng “To lên!” là chúng tôi lại hả họng gào lên theo lịnh của anh ta.

Tôi ở đó đúng 30 tháng thì câu chuyện của ông Năm Cò xảy ra.

Thường thì tôi không đoán được tuổi tác của người đối diện, nhưng khi câu chuyện này xảy ra, tôi mới biết ông Năm Cò sinh năm 1913 tức đã 70 tuổi.

Đầu tóc bạc phơ, giọng nói hiền lành trên một gương mặt chất phác của nông dân miền Nam, ông Năm Cò là một tù nhân đặc biệt ở trại Châu Bình này. Sở dĩ tôi dùng chữ đặc biệt vì ông thuộc loại tù tự giác, tức là ông đi lao động không có công an kiểm soát như các tù nhân thuộc các đội. Nhiệm vụ của ông là chăn bầy vịt của trại. Buổi sáng đuổi vịt ra đồng, buổi chiều lùa vịt trở về. Sở dĩ tôi quen biết ông Năm Cò vì ông sinh hoạt chung với đội 12. Lúc nào ông cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Tôi không bao giờ nghe ông phàn nàn một người nào về bất cứ một chuyện gì. Ai cần gì ông có là ông giúp ngay. Từ điếu thuốc, cây kim, sợi chỉ, lọ dầu xanh. Nửa đêm, nửa hôm có ai đau bụng, nhức đầu, trúng gió nhờ tới ông, dù đang ngủ bị đánh thức, ông vẫn vui vẻ, chẳng có chút bực mình.

Lúc mới bị đưa vào trại, chưa liên lạc được với gia đình, ông là người giúp đỡ tôi nhiều nhất. Lúc đầu không ăn uống gì được, ông lấy cơm nấu cháo và khuyên tôi cố gắng ăn để có sức mà… cải tạo. “Chú mà sụm là mệt lắm đó”, tôi nhớ câu nói đó của ông hoài. 

Hình như tới năm cải tạo thứ hai của tôi, ông mới nói cho tôi nghe đôi điều về ông, thì phải. Tôi nghĩ ông nói là vì ông coi tôi như người thân. Theo lời ông thì ông bị bắt đi cải tạo vì “tội chánh trị”. Ông cười , vuốt chòm râu lưa thưa:

“Nói thiệt với chú Tư mày chớ tao mà “chánh chị, chánh em” gì. Số là hồi nào giờ gia đình tao theo đạo Hiếu Nghĩa. Kế xảy ra vụ Tòa Thánh Tây Ninh mà mấy ông chánh phủ biểu là đã tịch thu được danh sách vì người phụ trách phát lương của đám phản loạn làm rớt cái sổ phát lương. Nói hổng có căn chút nào, nhưng mà họ có cái lý của kẻ mạnh, mình đành chịu thôi. Chú Tư mày biết, thời nào thì mình cũng là thằng dân lo làm ăn chớ có tham gia, tham xương gì đâu. Hổng hiểu sao trong cái vụ án Cao Đài đó tao lại bị dính cựa. Mấy ổng biểu là tao nhận làm quận trưởng quận Cái Bè mới là chết một cửa tứ. Mấy ổng biểu là có người khai. Rồi mấy ổng còn bắt tao phải khai những đồng bọn khác. Chữ nghĩa của tao hổng bằng cái lá mít nên tao đâu có nhận làm quận, làm huyện mà làm cái giống gì. Thằng Tư mày biết: Cây dầu vuông mà mấy ổng đánh tao như đánh bao gạo chỉ xanh. Tao cố cắn răng, cắn lợi mà chịu. Đành chết thì chịu chớ biết ai mà khai. Khai bậy, khai bạ tội cho người ta. Mấy năm nay hễ trời trở lạnh là nó đau nhức không sao chịu nổi. May là vợ tao nó tiếp tế thuốc “tàn đền” để trị bịnh tức thường xuyên. Tao mà về được cũng chết vì bịnh hậu. Tao bị giữ ở Khám Lớn cả năm rồi mới được đưa xuống đây cải tạo. Hổng biết là sau đó mấy ổng biết là tao bị oan ức hay là thấy tao già tội nghiệp mà cho tao ra tự giác chăn vịt.”

Đó là những điều tôi được biết về ông Năm Cò. Những người bị bắt mà không biết mình bị tội gì, hoặc bị gán ghép tội thì thiếu gì trong các trại cải tạo, các trung tâm tạm giam ở Việt Nam.

Cứ mỗi dịp lễ lạc, chúng tôi lại được lệnh cán bộ quản giáo tổ chức sinh hoạt văn nghệ toàn trại. Những tù nhân tích cực tham gia sẽ được biểu dương, khi có thân nhân đến thăm nuôi sẽ được ở lại đêm, sẽ được dễ dãi. Bằng trái lại sẽ bị cúp thăm nuôi, bị cảnh cáo. Thế nên chúng tôi ai cũng hăng hái tham gia sinh hoạt văn nghệ. Buổi tối, sau giờ sinh hoạt, phê bình, bình bầu cá nhân xuất sắc trong ngày là chúng tôi lại tập hát. Mỗi tối thứ Bảy, chúng tôi cũng phải tổ chức sinh hoạt văn nghệ hàng tuần. Ai cũng phải hát, hoặc kể chuyện vui. Năm đó, trại tổ chức mừng lễ 2 tháng 9, cán bộ quản giáo là người miền Bắc nhưng không hiểu sao anh ta lại bắt chúng tôi tập dợt và trình diễn vở tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga.Tôi vì nhỏ con lại giả được giọng đàn bà nên bị chọn đóng vai Thái Hậu Dương Vân Nga. Tôi được phép viết thư gửi giấy phép thăm nuôi đặc biệt để vợ tôi đem áo dài, quần lãnh, nịt vú, quần lót, đầu tóc giả, son phấn vào trại để tôi giả làm Thái Hậu Dương Vân Nga. Ở trại cải tạo ăn uống rất thiếu thốn nên chúng tôi lúc nào cũng mong đợi quà thăm nuôi của gia đình. Mỗi ngày tám tiếng chuyển đất gò để đắp bờ thửa, ngày này quan ngày khác, người tù nào cũng bị ran ngực. Ăn uống kham khổ nên sức khoẻ ngày một mỏi mòn. Do đó, những lần thăm nuôi, quà cáp của gia đình đối với chúng tôi rất quan trọng.

Tôi nghĩ nếu không có nguồn tiếp tế của gia đình chắc tới ngày được thả ra tôi cũng không còn sức đâu để mà trở về với gia đình.

Việt Nam Cộng Sản khác với Việt Nam Cộng Hòa là họ có thể duy trì rất nhiều nhà tù mà họ ngụy danh là trung tâm tạm giam, là trại cải tạo vì họ không cần phải dùng đến một ngân khoản (hoặc nếu có thì cũng là để trả lương cho bọn Công An cai tù) để nuôi tù nhân mà tù nhân phải tự làm, bắt buộc phải làm để nuôi sống mình và cả cai tù. Và gia đình người tù cũng được “ân huệ” tiếp tay để nuôi tù là thân nhân của mình.

Thế nên công việc chăn vịt của ông Năm Cò là một công việc mà người tù nào cũng mơ ước. Sáng lãnh phần cơm, lùa vịt ra đồng cho đi ăn. Trong lúc rỗi rảnh tha hồ tát đìa bắt cá, bắt cua nấu nướng để “cải thiện” bữa ăn. Suốt mấy tháng đầu, hầu như ngày nào ông cũng xin phép đội trưởng tiếp tế thức ăn cho tôi. Khi thì một ít cá vụn kho, khi thì vài ba con cua nướng.

Sau khi được thăm nuôi, tôi xin phép để ăn cơm chung với ông. Có lần vui miệng, khi nghe kể lại việc làm của ông, tôi nói:

“Cháu mà được ở như ông Năm, ở chừng nào ở cháu đâu có ngán.”

Ông cười nói:

“Chú Tư mày nói vậy chớ có con chim nào bị nhốt mà không muốn được sổ lồng.Tù đày là nó đồng nghĩa với khổ đau. Ở đây mà có cho ăn vàng mỗi ngày cũng đâu bằng sum họp với vợ con mà nuốt muối cục.”

Tôi xin lỗi ông và nói là tôi chỉ muốn nói đùa cho nó vui. Ông cười xòa:

“Tao biết ý của thằng Tư mày nói, chớ đâu có phải là không biết. Có điều tao quý thằng Tư mày, tao mới giải bày cái ý nghĩ của tao.”

Sau đó, ông chậm rãi vấn một điếu thuốc, le lưỡi liếm cho dính điếu, châm hút một hơi dài:

“Chú Tư mày biết, mấy ông chánh phủ này mấy ổng cũng rành tâm lý lắm, mấy ổng bắt hát hò sanh hoạt này nọ để cho mình đừng có nghĩ quẩn rồi tính chuyện này nọ. Lúc nào mấy ổng cũng tạo cho mình những cái bận rộn âu lo. Chú Tư mày biết, nhiều buổi chiều nằm dưới bóng dừa trên bờ mẫu mơ mơ màng màng, nhớ vợ, nhớ con, nhớ nhà, nhớ cửa tao buồn ngủ muốn ríu con mắt mà đâu có dám ngủ, sợ ngủ quên bầy vịt nó đi lạc thì có nước chết. Lại suy nghĩ những chuyện gì đâu đâu. Thiệt hổng có cái đất nước nào mà khổ như cái đất nước mình. Giặc giã liên miên, hết chánh phủ này tới chánh phủ nọ. Hết chủ nghĩa này tới chủ nghĩa kia. Nhớ thời Việt Minh mấy ổng về nói ngon, nói ngọt, kêu gọi đóng góp, tiếp tế. Người dân ai mà hổng mong muốn đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi đất nước. Tới chừng thống nhứt, người dân mới bật ngửa. Trào trước thì chánh phủ như chiếc lưới giăng ở trên, để hỏng dưới chưn, người dân còn luồn lách được để mà sống. Trào này thì vô phương. Mình đã bất mãn, bực mình với mấy thằng Tây, thằng Mỹ, gặp mấy thằng Liên Xô, Liên Ngả này còn tổ sư bồ đề gấp ngàn lần. Rốt cuộc rồi người dân cũng phải è đầu ra mà chịu. Làm chánh phủ như mấy ông này thì muốn dân có tội dễ quá mà. Cứ muốn bắn, muốn giết ai thì cứ làm. Trào trước, muốn bắt tội người này, người nọ phải mất công rải truyền đơn, giấu súng ống rồi mới ập vô xét. Trào này thì cứ ghép tội “có tư tưởng phản động chống phá cách mạng” là bắt. Cần gì lịnh lạc, cái mà mấy ổng kêu là “tư tưởng phản động” nó có hình dáng, màu sắc gì đâu để mà định cho nó rõ được. Mấy ổng muốn méo thì nó méo, muốn tròn thì nó tròn. Thành thử cứ gán đại cho người nào đó rồi nó cũng thành tội, thành án.”

Ông dừng lại một lúc, nuốt nước bọt, nói tiếp:

“Chú Tư mày biết, lúc còn ở Khám Lớn Vĩnh Long, cuối năm có phái đoàn Bộ Nội Vụ tới thanh tra, tới chừng đó mấy ổng mới phát giác ra là ở cái phòng giam tao ở có một chú nhỏ bị giam đã năm năm mà hổng rõ tội trạng gì. Chừng truy ra thì chú nhỏ dính líu trong một vụ ăn cắp xe Honda. Chánh phạm thì đã được thả ra hồi ba, bốn năm trước.”

Tôi ngạc nhiên, hỏi: “Như vậy rồi vụ đó giải quyết làm sao?”

Ông Năm Cò mỉm cười, cay đắng: “Thì thả chú nhỏ ra chớ còn làm sao nữa. Được thả ra là mừng rồi. Hổng lẽ đi kiện lại chánh phủ là bị ở tù oan để đòi lại mấy cái năm ở tù dư đó hay sao? Bộ muốn thêm cái tội chống chánh phủ hay sao?”

Đó là lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông Năm Cò.

Cũng như hầu hết các trại tù ở Việt Nam, nếu ở vùng rừng núi thì trại sẽ thiết lập trong thung lũng, với một lối độc đạo dẫn về trại giam. Trại Châu Bình K.20 bốn bề là sông nước. Xung quanh trại rào bằng những thân cây dừa. Tù nhân leo rào vượt trại ra ngoài thì chín phần chết chỉ có một phần sống vì nghe nói lối thoát duy nhất là lội qua sông để vào được đất liền thì dưới sông lại có cá sấu. Thỉnh thoảng sáng ra có tin là tù vượt trại bị bắn chết. Sau đó ít lâu, đối chiếu lại các tin tức chúng tôi được biết đó là những người mà ban giám thị trại ghép vào thành phần chống đối. Những người ở lâu cho biết là những người đó bị thủ tiêu và bọn công an dàn cảnh là vượt trại.

Ngày lại ngày, những người tù mới được đưa tới trại mỗi ngày mỗi nhiều, nhất là vào khoảng tháng 5 trở đi. Những người vượt biển bị bắt lại phải bị đưa vào trại tù, bọn công an gọi là “vướng chà.” Cứ sau mùa vướng chà thì số tù ở trại Châu Bình ngày càng đông them nhưng người được xét tha thì rất họa hoằn.

Khi bắt đầu mùa vướng chà năm đó thì tai họa xảy đến cho ông Năm Cò.

Như mọi ngày, buổi chiều tôi đem các dụng cụ đựng cơm và thức ăn của ông để người trực chia phần. Mọi ngày vào khoảng đó là ông đã về tới trại. Thường thì ông vẫn nói với vẻ ái ngại:

“Làm phiền chú Tư mày quá. Thôi đem dùm tao về chỗ của mình đi. Rồi tao rửa ráy sơ, vô chú cháu mình ăn cơm. Bữa nay có món chuột ướp cà-ri nướng đặc biệt cho chú Tư mày.”

Buổi chiều hôm đó chờ hoài chẳng thấy bóng dáng ông Năm Cò. Tôi báo cáo đội trưởng. Đội trưởng báo cáo sự vắng mặt bất thường của ông Năm Cò lên cán bộ quản giáo. Ban Giám thị trại ra lịnh đội trưởng về sinh hoạt như thường lệ. Chiều hôm đó tôi nuốt cơm như nuốt sạn. Mặc dù lúc đó thức ăn ê hề vì vợ tôi vừa mới thăm nuôi để mang quần áo cho tôi giả đàn bà đóng vai Thái Hậu Dương Vân Nga.

Mấy tuần trước, trong những ngày Chủ Nhật, ông Năm Cò suốt ngày ngồi coi tôi tập tuồng và mong cho mau tới ngày trình diễn để coi tôi “diễn thiệt” như thế nào. Nhưng ông Năm Cò không còn dịp nào coi tôi “diễn thiệt” vai tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga.

Tuần lễ sau, ông Năm Cò bị xử bắn. Có người biết chuyện kể lại là hôm đó ông Năm Cò nằm trên bờ mẫu và ngủ quên. Bầy vịt mỗi ngày cứ tới giờ đó là trở về trại. Hôm đó, mặc dù không có người chăn vịt là ông Năm Cò huơ huơ cái que tre đuổi, đàn vịt vẫn theo nhau về trại. Ông Năm Cò thức giấc, tìm khắp nơi không thấy đàn vịt đành phải về trại để trình diện và trình bày lý do. Ban Giám Thị trại Châu Bình không tin những điều người chăn vịt trình bày. Những người cầm quyền trại, những người đại diện Đảng và Nhà Nước (cơ quan quyền lực cao nhất đã bỏ tù ông Năm Cò về tội âm mưu lật đổ chính quyền) lần này kết tội ông là âm mưu trốn trại nhưng không thoát được nên phải trở lại trại.

Lúc cán bộ công an đại diện Ban Giám thị trại Châu Bình đọc bản án tử hình ông Năm Cò, chúng tôi mới biết tên ông là Trần Văn Lành.

Đã bảy năm trôi qua, vậy mà khi kể lại câu chuyện này, tim tôi vẫn nhói đau như khi nghe tiếng súng hành quyết người chăn vịt trại Châu Bình vang lên trong đêm.

NGUYỄN THIẾU NHẪN (Des Moines 1987)

Con chuột cống

   Nó vùng dậy với tất cả nỗi oan ức nghiệt ngã tuyệt đối không đời nào được phơi bày. Nó, con chuột cống, đang mang một mũi tên có lẽ là một chiếc đũa bếp sắt… chạy chạy qua qua lại lại như chứng nhân cho tất cả sự ngược đãi, độc ác, gạt gẫm, xỏ lá. Luân cảm thấy tức tối đến cực điểm. Luân quăng chiếc xe đạp của mình trên lề đường, nhét vội hai trăm gờ ram thịt bò vừa mới mua ở chợ Bến Thành vào bánh xe, xông vô đám đông vô tâm đang lúc nhúc.

Bên kia là mặt tiền nhà ga Sài Gòn. Buổi sáng tương đối yên tĩnh mặc dù xe cộ vẫn không ngớt bóp còi qua lại liên miên. Một vài người đàn ông thất nghiệp và hành khất - ở đâu mà chẳng có cái nạn này trừ những nước theo xã hội chủ nghĩa - bơ phờ uể oải Có người đi qua đi lại chờ đợi và rình mò. Định cướp cái vật gì chăng? Khó lòng lắm các người ạ. Chỉ vì đói quá các người không nhận chân tình thế xung quanh. Bởi khu này có nhiều cảnh sát và nhân viên công lực. Thôi nhé, hãy nằm xuống bực thềm đó nghỉ một chút, và đánh một giấc ngắn hay một giấc ngàn năm cũng được. Ta bất lực trước các ngươi. Cứ đánh một giấc đi, rồi tính chuyện mưu sinh bằng mọi cách các ngươi có thể nhân danh cái đói thảm khốc. Ta cũng mưu sinh chật vật và thống khổ lắm đây. Nhưng hiện giờ ta có hai trăm gờ ram thịt bò - lại thịt bò con nữa mới tốt chứ – mới mua ở chợ Bến Thành. Ta rất đói nhưng không thể chia cho các ngươi. Bởi vì ta có chịu chia cho, chẳng lẽ mỗi người trong các ngươi chỉ sẽ nhận một… nguyên tử thịt bò. Các người đông quá. Cứ mỗi ngày đi qua ta đã thấy xuất hiện thêm những bộ mặt lạ rồi. Hình như từ dưới đất độn lên hay trên trơi cao rớt xuống. Còn những người cũ đã bỏ đi đâu? Chắc các người đã ngã quỵ ở một xó nào đó và trở về cát bụi. Thôi, vậy là xong. Ta không biết tính sao. Tính gì khi ta đã thấy trái đất nó quay, nó quay, nó quay. Thôi, ta sẽ mua thêm khoai tây về chiên và một ít sà lách Đà Lạt, làm một bữa bíp téc cho đã đời để nhìn trái đất này nó quay.

Sau một thoáng nghĩ ngợi lan man, tiếng động ở bên này đường Lê Lai kéo Luân về thực tại. Những xe cộ thì cứ thản nhiên băng qua. Những xe nhỏ như vec-pa, mô-tô, mô-by-lết cũng thản nhiên băng qua. Hầu hết những người đi bộ cũng thản nhiên đi qua. Có một số người thản nhiên cố ý một cách đáng bắn nhất. Họ ngửng mặt lên trời, xem những sự việc xảy ra ở dọc đường không những không can hệ gì đến họ mà còn đáng khinh như đa số những tên linh mục và thầy tu và những tên trí thức học phiệt xuẩn động của thế kỷ. Một số khác, cũng đông đảo như vậy, thản nhiên đi qua vì họ không trông thấy và không hay biết chi cả. Hình như họ sướng nhất trần gian. Họ trải qua khoảng một trăm năm ngắn ngủi và êm đềm. Như đời một công chúa trong hoàng cung. Như đời một tên mọi ở một bản thổ cô lập và heo hút. Như đời một sinh viên nhà giàu, mặt mày, tâm hồn và đầu óc đều trắng bệu như bột, thường học rất giỏi và nhiều lúc cả gan lý luận nữa nhưng tuyệt đối không bao giờ dám hành động và xuống đường. Nhưng nói chung họ là những kẻ tốt phúc nhất như họ vẫn nghĩ.

Chỉ có một số người nhìn lại đám đông, có trông thấy cảnh tượng một con chuột cống bị đâm ngang từ miệng đến hông. Rồi một số trong bọn này cũng bỏ đi. Một số lê la lại nhìn.

"Mẹ ơi, coi kìa!"

"Gì thế hở Mai?"

"Người ta xem đông quá mẹ ạ!"

"Thây kệ họ chúng ta không nên chen vào."

"Nhưng tụi con nít và cả người lớn nữa vỗ tay vui quá, vào xem thử chuyện gì hở mẹ!"

"Mẹ đã bảo phí thì giờ. Chúng ta còn phải vào chợ mua không biết bao nhiêu món ăn. Hôm nay Chúa nhật phải đông lắm. Con quên rằng anh con mới công du ở Mỹ về và nay mai lại sắp lên đường lại rồi sao? Mẹ phải lo cho anh con ăn đúng giờ giấc chứ."

"Thôi mẹ đứng chờ, con vào xem thử chuyện gì?"

Vừa lúc đó, đám đông dãn ra về một hướng. Rồi đám đông bóp lại thành một hình thuẫn.

"Ối, cái gì cháy khét đó Mai con ơi!"

"Thưa vâng mẹ ạ, nhưng không sao hết, người ta đốt một con chuột cống còn sống kia mà."

"À ra thế. Tưởng gì quan trọng. Chuyện có vậy mà cũng làm nháo cả phố lên!"

Cái đám đông vỗ tay reo hò. Một nhân viên cảnh sát huýt còi tiến khá chật vật vào đám đông.

"Cái gì vậy, cái gì vậy, xê ra, xê ra!"

"Xếp ạ, có cái gì đâu người ta đốt một con chuột cống."

"Thôi giải tán đi. Ai đốt đó, làm ơn cho tôi biết với."

Một nhân viên cảnh sát khác cũng tiến đến từ phía công trường của khu chợ Bến Thành. Rồi một nhân viên nữa từ bến xe lam. Rồi một nhân viên nữa mang kiếng trắng, tóc hớt cao, dạng chừng cấp bậc lớn hơn. Ông này điềm tỉnh đi vào, không nói năng gì cả.

Lúc này, Luân đã khóa kỹ xe đạp. Nó nhặt ở vỉa hè bên hông nhà ga một hòn đá đen lớn, rất bẩn, tiến về phía con chuột cống.

"Kìa anh Luân mẹ ạ!"

"Có phải không, con nhìn kỹ lại."

"Đúng rồi mẹ ạ."

"À, ra đúng thằng Luân. À, à, bây giờ mẹ mới thấy nó. Té ra nó chỉ là một đứa đứng đường. Vậy mà đến nhà xin dạy kèm theo lời rao của mẹ đăng ở báo, nó ăn mặc tươm tất, tỏ ra rất hiền, ngoan và chăm học, À, mẹ trông thấy rồi. Chính thằng Luân. Mai thứ Hai nó sẽ đến nhà ta phải không?"

"Vâng, mai anh Luân có đến."

"Mai là ngày mười hai phải không? Mai nó đến vứt cho nó một tuần lương rồi a lê xúp luôn! À, té ra cái thằng ngỗ ngáo, đứng đường mà từ lâu mẹ cứ tưởng là sinh viên nghèo, chăm học như nó vẫn nói. À ra thế. Đúng là cái mặt nó rồi."

Hai mẹ con xa dần ra khỏi đám đông.

Đám đông lại nháo lên vỗ tay. Con chuột cống nhảy lẫn cẫn đi qua đi lại bất kể hướng nào. Nó kiệt sức nên không thể giãy giụa như lúc đầu, Luân nhìn kỹ thấy rõ ràng một chiếc đũa bếp sắt đã đâm thẳng từ mồm vào họng nhưng chưa lủng qua bên ngoài. Miếng da bên dưới nách một chân phình chông ra, trắng phếu. Luân cũng chú ý thấy một cái lồng bằng lưới sắt mà nó nhớ đã giẫm phải một lần khi tiến vào đám đông. Luân đoán ngay tức khắc và đoán rất đúng: người ta đã đánh bẫy được con chuột cống vào lồng rồi người ta dí chiếc đũa bếp sắt vào mồm nó và đâm thẳng xuống hông. Con vật quá nhỏ và thất thế hoàn toàn nên chịu cái cực hình dã man và rừng rú đó. Luân mường tượng nghe những tiếng sực sự và xèo xèo khi chiếc đũa nóng đỏ đâm qua tim, phổi và những sớ thịt.

"Cái lè phải đăm cho nó chết cho lâu, chết từ từ mới được."

"Phải rồi, đừng có đăm lủng qua bụng nó sẽ chết ngay, phải đăm sơ sơ như vậy thì nó mới lâu chết, coi mới sướng chứ!"

Hai tên các chú nói chuyện với nhau. Đó là hai kẻ chủ chốt trong vụ hành quyết có thể gọi là hợp pháp nhưng vô cùng phi nhân và dã man thuộc hạng nhất thế gian đó. Hai tên chắc hẳn ở sát nhà nhau. Chắc hẳn là hai tên đó đều có nhiều cộng đồng sinh tồn nhỏ và lớn trong cuộc sinh hoạt ẩm thực và kinh tế hằng ngày. Chính những liên quan hạ đẳng đó thường dễ cấu kết con người với nhau. Đó cũng chính là cái mà xã hội vẫn quen mồm gọi là tình tương thân tương ái.

Luân đau nhói ở trong tim, trong ruột, trong linh hồn, trong suốt cả con người nó. Nó không dằn được nữa. Nhưng Luân không biết ném hòn đá vào ai. Trước kia Luân chỉ có ý định ném vào đầu con chuột cho nó chết ngay tức khắc. Bây giờ Luân chưa quyết định đối tượng. Ném vào con chuột cho nó chết thật nhanh, đành rồi, như ý nghĩ mạnh mẽ căn bản của Luân. Nhưng còn phải ném vào bất cứ ai trong đám đông. Ném vào hai tên chủ mưu Ba Tàu. Ném vào mấy viên cảnh sát không có thái độ. Ném vào người chủ nhà Luân đến giúp việc được mấy tháng nay hay ném vào chính ngay mặt con gái của bà, Mai, đứa con gái học đệ tứ? hay ném vào tất cả? hay ném lên trên trời? ném phủng trời cao? Luân đã sôi máu. Khắp người rung chuyển rất mạnh. Cùng lúc con chuột giựt giựt mấy cái thật mạnh. Máu ứ bật ra khỏi mồm. Nhắm mắt lại, Luân ném mạnh hòn đá lên đầu con vật khốn đốn nhưng không trúng. Luân lại càng sôi máu hơn. Nó thấy quá bất lực và hét lớn.

"Tại sao các ông không giết ngay tức khắc?"

A ha! Ô hô! A ha ha! cả bọn con nít và cả người lớn ở khu Lê Lai lao xao. Mọi con mắt bỗng đổ dồn đến Luân. Luân hoàn toàn bị vây kín bởi một thông đồng đầy đặc, lấp kín và ngu xuẩn của đám đông. Luân không thoát ra được. Mấy nhân viên cảnh sát đang xem tiến về phía Luân:

"Ê cậu kia, cậu định làm loạn đây sao?"

"Không, tôi không phải ở đây. Tôi chỉ là một người đi đường. Tôi không thể chịu thấu cảnh dã man rừng rú phi pháp và cực kỳ vô nhân trong vụ hành quyết này nên tôi có thái độ, hành động và tôi can thiệp."

Cả đám đông cười ồ lên. A ha! Ô hô! A ha ha!

Đợi cho tiếng cười la của đám đông tan dần, viên cảnh sát với cấp bực cao và có vẻ học thức mới hỏi tiếp Luân, giọng mai mỉa, hằn học và khinh bỉ. Trên đời này có biết bao nhiêu kẻ nhân danh cho tối tăm, ngu xuẩn cũng vênh mặt khinh bỉ kẻ khác.

"Ông can thiệp cho con chuột?"

"Thì ông đã thấy."

"Tôi chưa nghe ai nói bênh vực cho một con chuột cống bao giờ, ở các nước văn minh Âu Mỹ, người ta cũng chỉ bênh vực cho những con vật hữu ích nào đó hay ít ra một thân xác to lớn nào đó."

Nói xong, nhân viên công lực trí thức đó ngó thẳng vào mặt Luân, đưa tay nâng nhẹ đôi gọng kính, cố tạo cái vẻ đắc thắng và khoan dung. Đám đông lại chăm chú vào người Luân. Trong một khoảnh khắc, Luân thấy rõ đối tượng của đám đông bu lại ở khu phố này đã chuyển trọn vẹn từ con chuột sang Luân. Luân chỉ biết nhìn chiếc áo sơ mi của nó đã rách một vạt và dính nhiều đất. Những tiếng cười ồ di động từng chụm hai ba cái đầu này đến hai ba cái đầu khác trong đám đông. Cái thông đồng dầy đặc của đám đông càng ngày càng bít bùng. Thái độ độc nhất của người công chính trong trường hợp này là phải yên lặng, yên lặng hoàn toàn. Luân cảm thấy rõ điều đó và cho đó là cách thế phải giữ tương đối khôn ngoan nhất. Nhưng không dằn được trước những tiếng cười ngu xuẩn và khiêu khích không dứt được, Luân trả lời:

"Các ông mà hiểu cái gì. Các ông lầm hoàn toàn."

"Ông hãy nói ngay tôi lầm thế nào. Ý ông muốn bảo con chuột cống có ích hoặc có một thân xác to lớn như con mèo con chó chăng. Ông không biết những thứ bệnh ngặt nghèo do chuột cống gây ra sao? Như trong mùa dịch hạch lăm le Sài Gòn vừa qua, ông có hiểu nguyên nhân và thủ phạm độc nhất là ai không?"

Nói xong, nhân viên lại nâng nâng gọng kính, nhướng đôi mắt ra vẻ đắc thắng và khoan dung hơn. Nhưng Luân phản ứng ngay:

"Ông không được xúc phạm đến tôi bằng cách lập lại và lập lại một cách quá thiếu sót bài vệ sinh khoa học thường thức lớp tư lớp ba."

"Tại ông ngu quá!" Nhân viên đáp cộc cằn, không còn đeo cái mặt nạ khoan dung đối với một thanh nhiên chưa đầy hai mươi tuổi là Luân nữa.

"Chính ông mới ngu vì ông đem cái hiểu biết của một đứa học tiểu học nói chuyện với tôi."

"Vậy xin hỏi trí thức của ông đến đâu?"

"Không đến đâu cả. Không có nghĩa gì cả. Chắc chắn không có nghĩa gì cả. Nhưng ít ra còn dạy cho ông nhiều lắm ông ạ. Đây, thẻ sinh viên đây."

Viên cảnh sát giựt lấy rồi gật gật :

"À, à, sinh viên năm thứ ba y khoa."

Đám đông trở nên yên lặng. Viên cảnh sát nói thao thao, nói lấy nói để, hy vọng nói thật nhiều sẽ lấp kín sự thiếu sót nông cạn của mình:

"À, á, sinh viên, càng chứng tỏ ông ngu. Ông đã làm náo động cả khu phố này, ông đã ném đá vào con chuột cống đang bị người ta đổ xăng đốt. Ông hành động với mục đích gì nếu không phải là ngỗ nghịch hay cố ý gây rối. Ông không khinh tởm thứ chuột này hay sao? Ông học y khoa mà không biết chuột cống là nguyên nhân độc nhất sinh ra bệnh dịch hạch đe dọa ở Sài Gòn này hay sao?"

"Thưa ông tôi biết. Tôi rất nhờm tởm thứ chuột này, Tôi cũng quá biết rằng nguyên nhân chính của trận dịch hạch vừa qua là do loại bọ chét ở trên mình thứ chuột này. Nhưng vấn đề ở đây không phải là vấn đề đó. Xin ông hiểu rõ. Hơn nữa đâu phải bởi chuột cống là nguyên do chính và là thủ phạm để chúng ta - con người - tiêu diệt một cách thù hằn và dã man."

"Chứ cái gì là nguyên nhân chính."

"Thì tôi đã nói chính những con bọ chét trên lưng chuột mới được tạm gọi là nguyên nhân chính. Con chuột đâu có muốn bị thứ bọ chét kia ẩn vào mình nó hút máu và truyền nhiễm. Chính loài chuột cống là nạn nhân kia mà. Hơn thế nữa chính những con bọ chét kia cũng không phải là thủ phạm, con bọ chét có muốn sinh ra làm.... con bọ chét đâu. Con bọ chét có muốn có vi trùng dịch hạch ở trong người đâu. Và con vi trùng dịch hạch có muốn làm... con vi trùng dịch hạch đâu!"

Đám đông lại ngơ ngác không hiểu gì, kể cả viên cảnh sát đang đối đáp với Luân và mấy viên cảnh sát khác. Đám đông cục cựa, nhúc nhích, như một con thú lớn thù lù với cái đầu là viên cảnh sát có vẻ trí thức. Đến khi viên cảnh sát này nhếch mép cười thì toàn thân con thú cũng rung lên: cả đám đông lại cười lên nhao nhao: Ô hô! A ha!

Luân hối hận sao mình không giữ thái độ im lặng ngay từ lúc đầu và cứ để mặc cho mọi việc xảy ra. Luân, Luân, mày có nên im lặng hoàn toàn trên mặt đất này cho đến khi cái bóng của mày nhỏ dần, nhỏ dần, rồi mất hút hay không? Cái đuôi, cái thân của con thú, của thế kỷ này là con – thú–đám–đông rung lên làm cái đầu của nó càng chồm đến phía trước. Thật ra Luân đã hiểu cay đắng rằng con–thú–đám–đông bắt đầu hiện hình khi loài người biết sống thành đoàn thể, xã hội. Viên cảnh sát nói tiếp bằng giọng trấn áp.

"Ông ngỗ nghịch hay cố ý gây rối. Trong cả hai trường hợp, xin mời ông lên xe đến bót. Ở đó ông sẽ thấy lời lẽ thiệt hơn. Tôi có thể cũng không đủ quyền phán xét ông. Nhanh lên, xin mời ông."

Luân nhào tới lượm chính hòn đá nó vừa ném đập mạnh một lần nữa lên đầu con chuột đang ngất ngư vùng vẫy yếu ớt mang đám lửa cháy dở khắp toàn thân. Đám đông hoảng sợ dãn ra. Tất cả lô nhô, xao động. Họ tưởng Luân làm gì. Ai ngờ Luân chỉ đập mạnh hòn đá lên đầu con chuột. Máu tiếp tục búng ra và óc phun tóe ra. Con vật trúng chổ hiểm quật lên một cái rồi lịm luôn. Luân cũng ngất đi nhưng liền đó cảm thấy bình an. Xong, Luân không cần hoặc chưa muốn giải thích hành động của mình thì viên cảnh sát với nhiều người trong đám đông đồng la lớn:

"Này, này, sao ông độc ác và dã man như thế. Vậy mà hồi nãy ông nói ai dã man?"

Cái đám đông cười rồ lên. Luân không biết nói gì thêm. Một cái hố ngăn cách dựng ngược lên trước nó và đám đông. Không còn tình cảnh nào tuyệt vọng hơn tình cảnh không thể giải thích hay bày tỏ gì nữa ở thế kỷ này.

"Nó mất trí!"

"A, thằng điên!"

"Con cái nhà ai tội nghiệp!"

"Trông mặt mày khôi ngô đó chứ, lại sinh viên này nọ nữa."

" Có cái gì điên khùng trong mặt nó!"

"Đồ dã man!"

"Độc ác đến thế là cùng!"

"Đem mà giết nó đi cũng vừa!"

"Đồ quỹ yêu hiện hình."

Không biết bao nhiêu tiếng nói, giọng nói của đàn ông, đàn bà, trẻ con vang vọng đây đó, thốt ra từ cái thân thể nhầy nhụa của con–thú–đám–đông. Tất cả đều đắc ý, tự cho mình là những người bình thường, tốt, trong mọi xã hội trên mặt đất này.

Con chuột cống bây giờ đã hoàn toàn nằm yên một chỗ. Lửa còn cháy lem lém, càng ngày càng bớt khét vì lông lá đã rụng hết. Người ta hoàn toàn không chú ý đến con chuột nữa mà chỉ chú ý đến Luân. Luân là cái tụ điểm cho con mắt đám đông chĩa vào. Thế nhưng Luân không nhức nhối. Luân chỉ hối hận đã không can thiệp cho con chuột sớm như ý muốn, đã không giúp nó trở về bụi cát cho nhanh. Ôi mỗi một giây khắc cực hình trôi qua đối với một con chuột đang bị hành quyết một cách cực kỳ dã man như vậy là một ý nghĩa gì dưới trần gian này và trên cao thâm kia? Vậy mà Luân, mày đã cãi cọ phân bua với con–thú–đám–đông và vô tình để cho những phút đau đớn của con vật khốn đốn kia kéo dài. Những đau đớn đó, cố thể có một ân huệ nào ở trên cao rơi xuống để bồi hoàn không? Mọi con mắt đã hoàn toàn đậm chĩa vào Luân. Thế nhưng, sau đó, dần dần, Luân hết nhức nhối. Nó đứng vững như một hòn núi đặt giữa đại dương, mà chân núi ăn thủng qua ruột trái đất. Bão táp, thủy triều cứ trồi lên lấp xuống. Núi vẫn là núi. Đứng y nguyên một chổ. Luân thật sự đã hết nhức nhối.

"Ê, thôi đi cho kịp giờ." Một viên cảnh sát khác lại nói với Luân bằng một giọng truyền bảo.

"Xin hỏi: ông bắt tôi về lý do gì?"

"Ông phá rối trật tự, thế thôi."

"Thế nào là trật tự, ông?"

"Ông khỏi lý luận ở đây."

"Nhưng tôi phải biết lý do tôi bị bắt."

"Xin ông cứ về bót rồi biết."

Phải nói về bót mới biết. Nhưng Luân đứng vững như núi đá giữa đại dương kia.

Đám đông tan ra, tan ra. Hồi nãy giờ Luân hoàn toàn quên bà Ngạn – mẹ của Mai – và Mai, đứa con gái nó đến kèm học. Luân cứ tưởng hai mẹ con đã vào chợ Bến Thành rồi. Bây giờ Luân đã trông thấy Mai khi nhướng mắt lên một chút về phía trước. Mai đứng một mình tươi mát giữ đám đông hôi hám, dơ dáy. Luân đoán chắc bà Ngạn phải đứng ở ngoài đám đông sợ phiền phức và đang tức giận con gái mình dù là đứa con gái được chiều chuộng. Luân muốn tránh đôi mắt của Mai. Đôi mắt hết sức trong, hết sức xanh, dễ in vào bất cứ ấn tượng xấu tốt nào do xã hội chấp nhận. "Mai ơi, làm sao em hiểu được tôi. Mai hãy đi xa đi và coi như không gặp tôi sáng nay." Luân muốn truyền phóng ý nghĩ đó cho Mai. Rồi Luân đứng một mình, muôn đời một mình. Không cần phải giải thích và phân bua với ai. Luân thấm thía hiểu rằng trong cái số người chịu lê la đến xem cảnh tượng hành quyết rất cực kỳ dã man con chuột cống này - trong số có cả Mai - không ai đứng về phía Luân, hiểu nó. Luân bình tĩnh nói với nhân viên cảnh sát bên cạnh.

"Tôi có xe đạp. Nhờ ông cho lên xe luôn."

"Được rồi, nhưng nhờ ông cho xem thẻ căn cước và trưng binh luôn."

"Được rồi, về bót hẳn hay."

Luân bình tĩnh trả lời, dùng ngay lời một nhân viên khác đã nói với nó. Luân bình tĩnh cho đến phút chót. Đám đông tan dần, tan dần, tan dần. Những người đến chậm đều tỏ vẻ muốn hiểu nguyên nhân và cảnh tượng xảy ra. Một ông người Bắc di cư hỏi:

"Cái gì vậy thưa các ông?"

Một ông khác cũng người Bắc di cư trong đám đông tỏ vẻ rất biết chuyện, lấy giọng kẻ cả, bề trên, đai diện cho đám đông, cho phán xét và tiếng nói cuối cùng, đáp rất ư là gọn:

"Một người điên khùng gì đó."

Luân im lặng, Luân im lặng, Luân im lặng. Luân là môt hòn núi ngầm. Biển đã tràn ngập lên người nó. Bão tố đã tràn ngập người nó đến muôn đời.

Thiên đàng Địa ngục hai bên

Ai khôn thì lại ai dại thì qua

Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha

Đọc kinh cầu nguyện kẻo xa linh hồn

Linh hồn phải giữ...

Thằng Tâm mới đọc đến đó thì bọn trẻ dàn ra. Ở khi đất này bọn trẻ đã chế biến một thứ trò chơi của hầu hết trẻ con miền Nam với bài hát đọc được như trên. Đó là trò chơi "Bắt linh hồn" theo thằng Phước hoặc giản dị hơn, cứ lấy theo câu đầu của bài hát như con Nhạn đề nghị, trò chơi "Thiên đàng địa ngục hai bên".

Thiên đàng địa ngục hai bên

Ai khôn thì lại ai dại thì qua

"Này Tâm, dại thì qua cái gì mày?" Thằng Phước hỏi, và chưa kịp để thằng Tâm suy nghĩ trả lời, nói tiếp:

"Dại thì xa chứ?"

"Xa cái gì?" Thằng Tâm cãi.

"Xa địa ngục chứ xa cái gì nữa!"

"Vậy mày nói xa địa ngục là dại à? vì như thế bài hát nói "Ai khôn thì lại Thiên đàng và ai dại thì sa Địa Ngục".Vậy ai cũng khôn chứ có ai dại!"

"Khôn cái gì! Dại cái gì!"

Lão Phồn lên tiếng thình lình làm lũ trẻ mất hồn vía. Chúng không ngờ trong lúc nói chuyện chúng đã xê dịch lại gần túp lều của lão mài dao trong khu đất Mả Tây này. Con Nhạn thất kinh bỏ chạy trước. Sau thấy mấy đứa bạn trai chỉ dang ra thôi, nó từ từ từ tiến lại, núp sau lưng một đứa nhìn ông lão:

"Khôn cái gì! Dại cái gì! lão thích nhất là ăn cơm. Ăn cơm ngon lắm. Tụi bây đứa nào ăn cơm chưa?"

"Chưa!"

"Tôi rồi!"

"Tôi chưa!"

"Tôi ăn hồi năm giờ."

"Tôi chín giờ tối mới ăn. Nhưng mẹ tôi thường cho tôi ăn trước." Con Nhạn nói sau hết.

"Đứa nào ăn cơm rồi thì khôn, đứa nào chưa ăn thì dại , đúng vậy không?" Ông lão vừa nói vừa ngắm nhìn từng khuôn mặt trẻ, vẻ mặt ông nửa thật nửa chơi. Lũ trẻ không hiểu rõ thái độ của ông. Mà chính ông cũng không hiểu ông nói thật hay nói đùa nữa.

Lúc này Ái, chị của Nhạn, cũng vừa tiến đến. Ái được coi như bà tiên đối với tụi trẻ ở khu đất này không phân biệt giàu nghèo hay tôn giáo nào cả. Ái học đệ lục, rất xinh, rất ngoan. Ái nói với Nhạn.

"Mẹ gọi về tắm rửa.”

"Không, em chỉ muốn về ăn cơm thôi.”

"Ừ, tắm xong rồi ăn cơm. Sao bữa nay đòi cơm sớm thế?"

Cả bọn biết ý khúc khích cười. Riêng Nhạn – có lẽ trẻ nhất đám – không biết diễn ý làm sao đành nín thinh.

Thằng Phước lém lĩnh:

"Nhạn nó muốn khôn đó chị Ái ạ!"

Ái không hiểu gì ngơ ngác.

Lão Phồn thấy vậy nói lại:

"Đứa nào ăn cơm thì khôn đứa nào không ăn thì dại chứ không phải gần địa ngục hay thiên đàng gì hết.”

"Ồ vậy thì tụi mình đứa nào cũng khôn hết.” Tâm nói nhanh giữa tiếng cười reo của bọn trẻ.

Ái đứng một mình không hiểu lão Phồn nói chơi hay nói thật. Hình như nói chơi mà cũng hình như nói thật. Cũng như nhiều lời khác của lão mà Ái nghe được.

"Chiều nay mày chưa khôn phải không Nhạn? Chín giờ tối mày mới khôn, tao khôn hồi năm giờ rồi kia!" Phước cất tiếng làm Ái bật cười. Ái dẫn cả bọn đến bức tường đổ ngồi chơi.

Lúc đầu mới dọn nhà đến đây, Ái rất sợ cái Mả Tây này. Với tuổi mười ba, tâm hồn nó thực sự đang nẩy nở cùng với những sự dò hỏi thắc mắc về chính bản thân mình, về ngoại cảnh, về những hiện tượng ở ngoài tầm hiểu biết của cả người lớn. Ái không đời nào dám đi đâu gần Mả Tây. Nó nghi ngờ nhiều thứ. Nào là ma. Nào là bệnh phong cùi mà nó được biết có thể gây ra nếu gặp hơi mả bốc lên khi trời mưa. Nào là thể diện của một đứa con gái... sau cùng nó đã làm quen. Nó thấy tất cả tụi trẻ trong khu đất đều ra đó chơi. Chúng trèo lên mả thả diều. Chúng chơi đạp lon, cút bắt ở giữa những chiếc mả lớn. Có đứa nhà nghèo chiều tối ra nằm ngủ ngay trên mả trần hoặc những cái lăng nhỏ. Ở đây có cây cỏ, có dế, có chuồn chuồn. Đúng là một công viên. Đúng là một ấu viên nếu người ta dựng một tòa nhà, trồng thêm những cây đu, những ghế xích đu, những cái thang tuột cho trẻ. Đặc biệt nhất ở đây đã an nghỉ những linh hồn của nhiều nòi giống. Đầu tiên là mả của tụi lính Tây, lính lê dương đánh thuê cho Pháp như Ý, Đức, Ảrập... trong thời kháng chiến oai hùng và thần thánh vừa qua. Rồi sau đó, không ai cai quản, vùng đất này được dùng để chôn cất cả những xác chết người Tàu, người Ấn, người Ma Lai, người Campuchia, v.v. và dĩ nhiên có cả người Việt. Linh hồn của những kẻ quá cố ắt hẳn đã theo đủ những tôn giáo chính như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, v.v. nên sau đó dân vùng có khuynh hướng gọi là Mả Lớn hơn là Mả Tây hay Mả Thánh. Vâng, nếu cái nghĩa địa này không rộng lớn lắm ở bề mặt, ở diện tích, ở sự nguy nga của những kiến trúc mồ mả thì ít ra cũng rộng lớn về phương diện linh hồn, đạo giáo như vừa nói. Vào lễ Phật Đản, tụi con nít trong khu đất đã trốn nhà vào đây làm lễ. Vào lễ Giáng Sinh, tụi chúng cũng không từ chối dựng cây Nô-en nơi đây, với cả bánh, trái và nhũng thức ăn hỗn tạp của tụi con nít giàu, nghèo. Đây mới đích thực là một cộng đồng rộng lớn. Cộng đồng xã hội giữa những trẻ con không biết giai cấp. Cộng đồng tử sinh giữa những người chết và người sống (mặc dù hai bên không biết nhau). Cộng đồng tôn giáo, về những kẻ đã khuất được chôn chung trong một khu đất có vòng thành hẳn hoi và về phía rực rỡ nhất của những tâm hồn trong trắng đang hòa vui với nhau trong những dịp lễ lớn của Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Và thật ra nếu có đứa nào chịu tổ chức một đại lễ nào thuộc Bà La Môn giáo hay Hồi giáo hay Ma giáo gì gì cũng được bọn trẻ hoan nghênh mặc dù sự cấm đoán của cha mẹ, những bậc hiện thân dầy đặc của thành kiến. Lâu rồi một vài đứa trẻ con của những Mỹ kiều trắng và đen cũng ra đó chơi. Chúng phá phách không kém những đứa trẻ bản xứ. Chúng cũng trèo lên đầu mả thả diều, hát bô lô ba la, chúng cũng bắt chước bọn trẻ chấp tay cầu Phật mặc dù cha mẹ chúng biết. Thực là một cộng đồng rộng lớn và chân thực mà ở đó không ai muốn chiếm ưu thế cả.

"What do you play here?"

Thằng John bây giờ chạy ra nhập với bọn trẻ lựa một câu dễ nhất để hỏi nhưng tụi trẻ bản xứ không tài nào biết trả lời kể cả Ái, học đệ lục ban Anh Văn. Dù vậy thằng John cũng nhập bọn cố gắng chơi chung một cách thật hòa hợp, thân mật.

Ai khôn thì lại, ai dại thì qua.

Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha

Đọc kinh cầu nguyện…

Đọc đến đó thì thằng Tâm quay sang hỏi lão Phồn:

"Thưa ông. Ông đã bao giờ đọc kinh cầu nguyện chưa?"

Ông lão chỉ nghe được tiếng chưa rồi đoán chừng đáp:

"Chưa, lão chưa… ăn cơm. Lão thích nhất là ăn cơm. Ăn cơm rất ngon.”

Ái chăm chú nhìn lão Phồn, nhìn cái gian nhà lá dừa dựng sát bên vòng thành nghĩa địa như sợ gió bay. Như một số nhà của những phu xích lô, thợ hồ. nhưng những người nghèo này chỉ dựng nhà ở mặt tường ngoài của nghĩa địa. Còn nhà của lão Phồn ở ngay bên trong.

"Thưa ông, ông ở đây lâu chưa?" Ái hỏi.

"Gần hai mươi năm cháu ạ!" Ông lão dịu giọng.

"Sao ông không bệnh? Ông không sợ bệnh phong cùi ở hơi mả sao?"

"Bệnh sao được. Phật, Trời phải phù hộ chứ. Lão chỉ thường mắc phải một thứ bệnh.”

Ái chưa kịp hỏi thì Phước đã xen vào, vẻ hối hả như sợ lây bệnh:

"Thưa ông bệnh gì vậy?"

Lão Phồn nhìn ra cái mả lớn ở ngay trước nhà lão. Cái dáng lão xiêu vẹo trong chạng vạng đi một hơi thất sắc, xê ra. Ái chú ý thấy một cái chén và một đôi đũa úp trên đầu mả, sau cái thánh giá. Ái biết ngay đó là tất cả đồ dùng để ăn cơm của lão.

"Thưa ông bệnh gì vậy?" Ái hồi hộp hỏi lại.

"Bệnh đói cháu ạ!"

Ái, Nhạn, Tâm, Phước và cả John sau đó đều bật cười. Ái biết Lão Phồn đói thật nhưng Ái không hiểu thật ra ông có ý hài hước không? Nhìn khuôn mặt lạnh như bàn thạch của ông lão, Ái không đoán được mảy may ý nghĩ của ông:

Thiên đàng, Địa ngục hai bên

Ai khôn thì lại…

Tâm chưa dứt lời thì Phước nhìn ông lão:

"Thưa ông Thiên đàng là gì?"

"Thưa ông, Địa ngục gì ạ!" Con Nhạn cũng bắt chước hỏi theo.

"Ông tin có ma không ông? Ông gặp ma ở đây chưa?" Ái không để Lão Phồn trả lời, hỏi xen vào.

Ông lão loạng choạng sách một cái đấu ngắn bước ra phía mả, nơi có phơi cái chén và đôi đũa. Lão kê sát ghế vào thành mả, ngồi xuống thì vừa tầm với cái chén và đôi đũa. Cái mả biến thành bàn ăn.

"Thưa ông Địa ngục là gì ạ?" Phước hỏi lộn câu hỏi của Nhạn.

"Thưa ông Thiên đàng là gì ạ?" Nhạn đành phải hỏi câu hỏi của Phước.

Ông lão chưa biết trả lời sao thì Tâm đã đọc mấy câu hát.

Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha

Đọc kinh cầu nguyện kẻo xa linh hồn

Linh hồn phải giữ linh hồn

Đến khi…

Cả bọn – kể cả Ái – đồng thanh:

Đến khi gần chết được lên Thiên đàng

Cả bọn im lặng. Nhạn liếng thoắng:

"Thiên đàng ở đâu hở ông?"

Tâm không mong gì ông lão trả lời nên hát lại:

Thiên đàng, Địa ngục hai bên

Ai khôn thì lại ai dại thì qua

"Qua cái gì mày? xa chứ, bắt tao chữa lại mãi sao? Nghe đây:

Thiên đàng Địa ngục hai bên

Ai khôn thì lại ai dại thì ra”

Bấy giờ ông lão mới lên tiếng như trở lại điệp khúc:

"Khôn cái gì? Dại cái gì?"

Nghỉ một lát lão tiếp:

"Địa ngục với Thiên đàng ở đâu mà chẳng có.”

Cả bọn chụm lại lắng nghe, kể cả John, tưởng ông lão sắp giảng nghĩa.

"Lão thích nhất là cơm. Ăn cơm ngon nhất.”

Câu nói của lão làm cả bọn cụt hứng, cười bù. Nhưng chợt lão tiếp:

"Hãy tìm đâu cho lão một chén cơm, một con cá và nếu được một xị rượu lão chỉ ngay cho.”

"Thưa ông, ông chỉ ngay cái gì vậy?" Bọn trẻ đồng nói, quên hẳn những câu hỏi của chúng chưa được ông lão trả lời. Chỉ một mình Ái nhớ lại.

Khuya đó lão Phồn kiệt sức gục đầu bên thành mả.

Nước giải chảy một dòng đặc trên thành xi măng lấp lánh ánh trăng non. Lão đã kiệt lực trong suốt một ngày mài dao mà không kiếm ra khách. Chỉ có một mình Ái lẻn ra đây với một đĩa cơm, một chén thịt hầm và một ly rượu thuốc rót trộm của ba nó. Chỉ có một mình Ái chứng kiến cảnh phục sinh kỳ diệu của lão Phồn. Một sự phục sinh thực sự chứ không phải trong cổ tích hay thuộc loại thần thánh. Và lần đầu tiên trong thảm cỏ xanh nhung của tâm hồn Ái mơ hồ vẽ ra ý niệm đầu tiên về biên giới thô sơ nhưng nền tảng biết bao nhiêu giữa Thiên Đàng và Địa Ngục trên thế gian này.

Đêm tiệc trần gian

     Nằm suốt cả buổi xế trên võng ngủ rồi thức dậy ngâm cổ thi, lão Phụng thấy hơi chán. Nhưng lão cũng sung sướng có được một ngày nghỉ hoàn toàn mà đáng lẽ ra nghề nghiệp và công việc của lão không cho phép như đối với phần đông những người khác, những kẻ cơ hàn khốn khổ nhất trong xã hội cùng làm một nghề với lão. Lão đưa mắt nhìn về phía chiếc mùng lớn của lũ con mụ Đại. Lão bực mình thấy chiếc mùng vẫn còn bỏ rũ xuống mặc dù lũ con chưa lên ngủ. Nhưng mắt lão đã mờ cho nên lão lầm. Khi lão mới vừa bỏ chiếc võng, mở một chiếc nem và bẻ một miếng bánh mì đi về phía cửa sổ đằng sau gác, lão giật mình thấy thằng Hùng, thằng Bình, con Liên, thằng Lộc chui ra khỏi mùng mắt hướng về phía lão, im lặng, uể oải. Thằng Hùng – đứa con trai lớn của ông chủ nhà – thình lình bật lên khóc.

"Cái gì?" Lão Phụng bực trí gắt lên.

"Dạ tụi con đói quá.“ Thằng Hùng trả lời, lễ phép.

"Lúc trưa không ăn cơm sao?"

"Dạ mẹ con chưa về.”

"Biết rồi, mẹ tụi bây đi ở cữ, nhưng còn mụ Thận đâu? Sao không thổi cơm cho tụi bây ăn?"

"Dạ bà Thận đi đâu từ hôm qua chưa về.”

"Vậy từ hôm qua tụi bây ăn cơm ở đâu?"

"Dạ ở bên nhà bác Lâm.”

Lão Phụng không biết hỏi gì thêm. Cùng lúc đó cả bốn đứa con ông Đại đều òa lên khóc như bị ai thình lình đánh. Tiếng con Liên cao ré lên. Tiếng thằng Bình trầm xuống. Tiếng thằng Lộc bãi nhãi, dây dưa. Tiếng thằng con lớn chừng mười tuổi – thằng Hùng – thì nặng nề, ngột ngạt, ấm ức, tức tưởi như có ai chận ở cổ. Bây giờ thì lão Phụng không phân biệt được nữa. Tất cả những tiếng khóc kia đều hòa chung thành một âm thanh hỗn loạn khó tả. Nó giống như tiếng kêu của một vài thứ cá khá lớn ở trong cùng một mẻ lưới khi người ta mới vừa kéo lên ghe ở ngoài khơi. Hồi ở biển còn là một ngư phủ, lão Phụng phân biệt được tiếng kêu của nhiều loại cá khác nhau. Thế nhưng khi cùng nằm trong khoang thuyền hay ở trong đáy rọ lưới, chúng chỉ phát ra một âm thanh hỗn độn, ột ột, oạt oạt, lào xào khiến không ai dù nhiều kinh nghiệm đến đâu có thể phân biệt được chắn chắn những loại cá nào nếu không được dòm đến. Tiếng khóc của lũ trẻ con tự nhiên làm lão nhớ đến biển, đến một vùng biển đặc biệt ở một hòn đảo ngoài khơi Thái Bình Dương, nơi lão sinh ra đời. Lão còn nhớ rõ ngày lão phiêu bạt vào đất Sài Gòn, khoảng 1945, hồi Pháp và Nhật đánh nhau những năm đầu lão gần như ngạt thở vì lão không chịu được cuộc sống tù đày, ngột ngạt trên đất liền. Lão thèm khát vùng biển mặn bao la, càng thèm khát khi cuộc sống cơ hàn đẩy lão vào những ngõ hẻm tối tăm của thành phố và xã hội. Niềm tin tưởng và hy vọng độc nhất của lão Phụng: kiếm được một số tiền khá, giữ bí mật đừng cho ai biết để một ngày kia – ôi, cái ngày hạnh phúc – có phương tiện đóng được một chiếc thuyền gỗ nhỏ nhưng vững, chắc, có thể dùng được khoảng trên dưới hai mươi năm (lão hy vọng và tin tưởng có thể sống đến khoảng tám chín mươi năm) cho đến hết đời. Với chiếc thuyền đó lão sẽ tự túc sống một mình, cô đơn ở ngoài xã hội.

Lão Phụng mở chiếc nem thứ hai và nốc hết ly rượu thứ ba thì trời cũng đã chiều sẫm. Khoảng thời gian này ngày và đêm tối thường gần như không có biên giới. Màu đen của đêm sẽ từ từ chiếm đoạt lấy hết cả ánh sáng hay ánh sáng tự rút lui cũng thế. Lão Phụng bước đến cửa sổ đằng sau, tỳ một tay lên thành cửa, nhìn xuống cái vịnh phía dưới cùng với những nhà sàn, nhà gác, thấp, hẹp, tối tăm, nghèo cực, khốn đốn. Lão chờ đợi với lo âu từ mấy hôm nay một thứ mùi hôi sẽ xuất phát từ nơi đó. Nhưng tại sao chưa nghe? hay không bao giờ nghe thấy nữa? Lão mừng thầm. Lão nhìn lại phía mùng, nói với thằng Hùng:

"Hùng, tao bảo dẫn lũ em mày đi qua nhà bà Lâm, bà liên gia trưởng đó ăn cơm đi. Xong về ngủ im tất cả. Động đậy là ăn đòn. Nghe chưa?"

"Dạ.”

Thằng Hùng thưa xong, dẫn cả lũ em đi xuống thang gác. Đứa con trai mười tuổi dẫn mấy đứa em lóc nhóc leo nheo gần như vô tri vô giác. Có điều những sinh vật gần như vô tri vô giác đó cũng biết phản ứng, những phản ứng vô tri vô giác giống những xung động. Lão Phụng buồn cười thấy thằng Hùng và lũ em nó nghe lời ông phăng phắc, không dám cãi lại như khi còn cha mẹ nó ở nhà. Nhất là thằng Hùng, đứa con nít mười tuổi đó cũng biết đóng kịch nữa dù quá lộ liễu. Nó giả cái bộ mặt tuân phục, ít nói, lễ phép, hiền lành trái hẳn với lúc thường bởi nó biết chắc chắn rằng hiện giờ nó không có ai bênh vực che chở hết. Những đứa con nít trong những gia đình cơ hàn, cùng khổ hay nhưng gia đình khá giả nhưng cha mẹ thất học hoặc có đỗ đạt cao nhưng quá quê mùa, hạ trí thường thường được bẩm sinh một bản tính khôn ranh vặt vãnh đó, và được thụ hưởng rất sớm có khi mới chừng bốn, năm tuổi.

Khi đưa mấy đứa em xuống dưới thang gác, thằng Hùng lại òa lên khóc. Tiếng khóc tức tưởi, ấm ức nhưng gần như vô giác.

"Lại khóc. Có im đi không." Lão Phụng gắt.

"Mẹ lâu về quá." Thằng Hùng nói.

"Cũng gần về rồi! Mày có biết nhà hộ sinh bên Đa Kao chưa? Mụ Thận không dẫn tụi bây đi thăm em sao?"

Nghe tiếng em, đứa con mới đẻ, thằng Hùng thình lình ngưng khóc. Một nguồn vui vô tri tràn chiếm lấy tâm hồn trẻ thơ của nó. Nó nói chuyện một cách bình tĩnh, đôi mắt sáng lên. Mấy đứa em của nó cũng lây cái nguồn hạnh phúc vô tri kia quên hẳn cơn đói, nhịn lão Phụng, mắt sáng ngời như anh nó.

"Thưa ông, bao giờ em về?"

"Tao làm sao biết được. Nhưng gần rồi."

Nói đến đó. Lão giật mình vì biết ngày trở về của bà Đại đã gần kề. Ngày mai, ngày mốt... Lão tính nhẩm biết bà Đại đã đi ở cữ cách đây một tuần. Và cách đây mấy hôm, khi lão đi mua ve chai về, lão Phụng làm nghề mua bán ve chai, lão đã nghe biết được ngày về đích xác của mụ Đại. Đó là chiều thứ Bảy. Ông Đại ở quân trường Thủ Đức sẽ đến ngay nhà hộ sinh, đưa vợ về nhà luôn. Những người vợ trong những gia đình nghèo khổ lam lũ thường nằm đẻ rất mau. Tội nghiệp. Kế cận giờ sinh họ mới được đưa đến nhà hộ sinh và khi sinh xong, khỏi có việc nghỉ dưỡng sức, họ chạy về nhà ngay. Mà nghỉ dưỡng sức thế nào ở những cái nhà hộ sinh nghèo nàn, hôi hám, u ám, tối tăm với tiền viện phí rẻ mạt! Sở dĩ mụ Đại nằm đến hơn một tuần là vì ông Đại vắng nhà, bất tiện, thế thôi.

Nghĩ một chốc, lão Phụng nói với thằng Hùng:

"Ngày mốt, thứ Bảy, mẹ mày sẽ về, cùng với cha mày ở Thủ Đức và mấy người bạn của cha mày ở trong trường sỹ quan, ôi khối vui con ạ!"

"Mốt là còn hai ngày nữa phải không?"

"Ừ, hai ngày nữa thôi! Thôi, đi ăn đi, xong về ngủ im tất cả nghe không? Bà Lâm đang ăn cơm đó, đi ngay cho kịp!"

Đêm khuya. Cái xóm Cỏ nghèo nàn ở vùng Thị Nghè nầy gần như biệt lập với xung quanh. Người ta chỉ nghe thấy những tiếng người nói xôn xao lúc chiều. Bây giờ thì gần như yên lặng hoàn toàn. Người ta tiết kiệm dầu nên khắp nơi đều tối om.

Lão Phụng vẫn tỳ tay nơi cửa sổ. Lão đoán chắc lũ trẻ đã ngủ luôn ở nhà bà liên gia trưởng Lâm. Nhà bà Lâm rộng rãi nhất xóm và có một bề ngoài khá đặc biệt. Khi vào xóm nhìn thấy nhà bà, người ta biết ngay đó phải là nhà của một người có có cái chức sắc gì đó trong tổ chức làng xã ở thôn xóm. Trong xóm, bà Lâm là chỗ thân tình nhất của gia đình ông Đại. Mà thật ra trong xóm này chỉ có hai cái gia đình đó là có thể thân mật với nhau. Lý do: cả hai bên đều mặc nhận có một địa vị đáng kể nào đó trong xóm, bà Lâm tạm gọi là khá giả; ông Đại đỗ bậy bạ đâu được cái tú tài toàn phần và làm thư ký một tư sở khi chưa vào trường sỹ quan trừ bị Thủ Đức và chưa thất nghiệp. Phải kể thêm một yếu tố danh dự về phía bà Lâm. Bà, tuy góa chồng, sống hạnh phúc với hai đứa con gái và một đứa con trai. Một trong hai đứa con gái cũng đỗ được cái tú tài nhưng rủi thay vì tình duyên oan trái gì đó đã tự ý từ giã cõi đời. Đứa con trai thì không muốn thế chút nào nhưng đã mắc bệnh ban cua chết cách đây mới chừng hơn một tháng. Đứa con gái còn lại, rủi thay, là đứa con tệ nhất trong nhà. Bản tính nó im lặng, ủ rũ. Im lặng, ủ rũ đến độ làm cho bà Lâm phát sợ. Nhất là ban đêm, nó lại mê sảng nói những lời lẽ kỳ cục, quái dị. Bà Lâm muốn phát điên vì nguồn hy vọng cuối cùng của bà cũng đang bị hăm dọa. "Nó bị ma ám, hồn quỷ đã nhập vào nó!" Mọi người đều nói với bà như vậy. Bà tin lắm, càng ngày càng tin nhưng bà chưa tìm ra lý do thôi. Bà hứa với bất cứ thầy lang nào nếu cứu khỏi sẽ cúng cho một số tiền rất hậu. Nhưng chưa có ai...

Lão Phụng nhìn xuống vịnh nước dưới cửa. Đêm nay nước ở sông Thị Nghè lên khá lớn nên vịnh này cũng chịu ảnh hưởng. Đó là một cái vịnh nhỏ, bị tắt cụt ở phía trong, ăn thông với một nhánh sông nhỏ của sông Thị Nghè. Như tất cả cái vịnh con của những con sông nhỏ ở đây, nó dơ nhớp chưa từng thấy. Xung quanh vịnh chỉ có một loài thảo mộc độc nhất: loài cây mái chèo lá to bản. Cây mái chèo mọc quanh vịnh hay lác đác đó đây dưới chân những cột nhà nhớp nhúa. Lão nhìn bên phía nhà bà Lâm. Chỉ còn một ngọn đèn dầu leo lét đến cái độ gần muốn tắt. "Hay mụ Lâm đang rình ta, dò xét ta?" lão Phụng tự nghĩ, "mà dò xét cái cóc khô gì... hôm nay là ngày thứ Tư, không thấy cái mùi hôi , tức là, tức là..." lão nhớ lại mấy hôm nay nước sông thường lên lớn và nửa đêm nước rút hết ra sông. Chỉ có những xác súc vật chết thối nhiều ngày trôi vào đây thì mới bị kẹt lại còn tất cả mọi thứ đều theo con nước trôi luôn ra sông lớn. Lão bóc một cái nem khác. Mùi nem thịt phảng phất một chút mùi hôi lão đang tưởng tượng với sự lo lắng. Lúc đó một đôi chuột cống to tướng lăn từ mái lá xuống làm lão đánh thót trong ngực. Một con nhanh chân bắt nhanh qua mái tôn thấp vụt chạy về phía nhà bà Lâm. Con kia rủi ro đánh lọt xuống nước một cái bõm nhưng thừa sức lội lướt trên nước qua bên kia bờ, chui vào một ống cống xi măng bỏ hoang gần mấy đám cây mái chèo. Chuột cống là sinh vật độc nhất có một sinh hoạt náo động nhất của cái vịnh này. Chúng làm việc ban đêm, cả ban ngày ở dưới chân cừ những nhà sàn. Chúng lở lói trông không quen sẽ ói ngay. Chúng gần nước, sinh trưởng ở đó nên chúng gần như biến tích. Chúng lợi dụng mặt nước làm môi trường sinh hoạt, làm đất sống của chúng. Không những chỉ lội qua mặt nước trong những trường hợp bất đắc dĩ, chúng còn ăn, giỡn trên mặt nước. Một buổi trưa, khi mới đến xóm này, đang ngồi sắp xếp mấy cái chai, tỉn mới thu được, lão bắt gặp một con vật to bằng con chồn mướp ở trong đống củi bị động lội thẳng một hơi qua bên kia bờ. Lúc đầu lão tưởng đó là con rái cá. Bởi ở đây thỉnh thoảng cũng có loại động vật này ở sông lớn lên chơi. Nhưng sau lão không thể nào bị lầm nữa. Đó chính là loại chuột cống, loại sinh vật ươn hèn, dơ nhớp, hạ trí nhất mặc dù sự tinh khôn vặt vãnh của chúng. Chính vì chúng mà cả xóm nghèo này trở nên điêu đứng một phần nào. Chúng gây ra không biết bao nhiêu thứ bệnh, nhất là bệnh dịch. Mấy con heo của ông Đại tháng trước đua nhau đi chầu trời cũng tại chúng. Thế nhưng vợ chồng ông Đại chưa muốn tin theo lời một số người trong xóm đổ thừa tại con chó Ki Ki, con chó già khốn đốn hay tru lên trong những đêm khuya khoắt. Thật ra con Ki Ki có cắn lộn với con heo nái bà Đại một lần. Lần đó, khi bà Đại đi chợ, đói từ mấy hôm, con Ki Ki không ngại tấn công con vật già ngu xuẩn đần độn là con heo nái để tranh lấy phần cháo heo mới nấu khi sáng. Rủi thay lúc đó bà Đại bỏ quên cái gì lại trở về nhà. Bà im lặng, rình, lấy củi thước phang ngay đầu con Ki Ki nhưng may mắn gậy chỉ đập trúng vào bả vai nó. Đau điếng người, con vật khốn đốn tung chuồng lội thẳng qua vịnh nước đi mất. Lão Phụng thừa biết con vật già phải lấy hết sức bình sinh mới lội qua khỏi vịnh được. Thế nhưng hai ngày sau, không kiếm đâu được miếng ăn, nó quay đầu trở về. "Sao hèn thế hở con, sao không đi luôn đi! Cái thứ già mày là thứ bỏ đi tìm đâu ra được miếng cơm mà không trở về!" Lần đó vào buổi trưa có mặt lão Phụng ở nhà nên lão nghe rõ mồn một lời mụ Đại nói với con vật như thể nói với người vậy. Mụ còn nhiếc con chó: "Cứ giỏi tối nay tru lên nữa đi coi... hay là hồn quỷ nhập vào mày... coi chừng tao trụng nước sôi đó.“ Mấy ngày sau đó, con Liên - đứa con gái năm tuổi của mụ - té sông. Nó suýt chết. Rồi tiếp theo đó một cái nhà lá của một tên đàn ông Bắc di cư ở phía đầu xóm phát cháy do sự bất cẩn của hắn trong mùa nắng gắt. Thế mà người ta cũng đỗ thừa tại tiếng tru của con Ki Ki. Lúc này ông Đại, bà vợ và bà Lâm cũng chống trả vơi dư luận khá kịch liệt. Nhưng sau khi đứa con gái rồi đứa con trai mụ Lâm chết, sau tai nạn của con Liên và những chuyện phiền bực khác trong gia đình ông Đại, hai gia đình này cũng đâm ra thù ghét con Ki Ki và có khuynh hướng đồng ý với dư luận. "Phải giết nó đi, nếu không nó sẽ mang tai họa đến cho cả xóm.” Tên đàn ông thuộc giống người Bắc di cư chủ gia đình ở đầu xóm suýt gây hỏa hoạn cho cả xóm đến thẳng nhà ông Đại nói như vậy. Rồi sợ ông Đại không tin lắm, tên đàn ông đó tiếp: "Bác Đại à, bác là người có học hơn tất cả chúng tôi trong xóm nhỏ này, bác có đọc nhiều sách vở nhưng có những chuyện huyền vi của tạo hóa bác không làm sao hiểu nổi... Này, bác nên giết quách nó đi... Thứ chó tru đêm đó là hiện hình của quỷ sứ đó bác ạ. Bác có trông thấy đôi mắt đỏ ngầu của nó không? Nó sắp điên đến nơi nữa rồi đó... Rồi lại cắn phải người khác... Rồi bác phải tốn tiền đưa họ đến viện Pasteur Saigon. Rồi cảnh sát đến bắt... ối là khối phiền phức... đó là chưa kể đến những tai họa ác hiểm hơn..." Tên đàn ông thuộc giống người vốn ghiền "nai đồng quê" đó còn nói quyết liệt hơn. Lão Phụng nghe hết và lão chỉ biết cười. Bởi con Ki Ki không phải là con chó dại, có triệu chứng điên. Nó chỉ có một cái bệnh độc nhất: đói, cũng như hầu hết con cái của mấy gia đình tạo thành cái xóm Cỏ biệt lập này. Đói đã làm cho nó còm cõi. Đói đã làm cho nó hung dữ. Thế thôi. Và có lẽ nó tru cũng tại bởi đói; cái bệnh đói biến chứng, bởi lẽ người ta chỉ thường gặp những con chó ghẻ khốn đốn còm cõi ở những gia đình khốn khổ phần nhiều ở nhà quê và các miền giặc giã mới biết tru. Những con chó sống đầy đủ gần như không bao giờ biết đến nhu cầu đó. Và đôi mắt của con Ki Ki đâu có đỏ ngầu như người ta nói. Trái lại nó vẫn đen, Lão Phụng tin chắc rằng nếu con Ki Ki được nuôi trong một gia đình nào khác, đặt cho nó một cái tên hay hơn, cho ăn đầy đủ hơn, con Ki Ki bây giờ ắt hẳn phải thuộc vào loại khá hơn nhiều lắm. Phần lớn súc vật và người ta hơn thua nhau chỉ tại hoàn cảnh thôi. Nhưng trường hợp bà Lâm thì không phải. Bà thường khoe với mọi người trong xóm nhỏ này là trước kia, hồi chưa di cư, bà đích thực là người ở tỉnh không phải là dân ruộng. Bà rất giàu và có không biết bao nhiêu mẫu lúa ở ngoài Bắc. Nhưng cứ vào nhà bà, liếc một cái từ nhà bếp vào phòng khách, người ta quả quyết không sai là bà Lâm phải thuộc vào hạng quê mùa thô kệch dù trước kia thực sự bà giàu có. Những người thuộc gia đình đích thực khá giả, có học, có giáo dục, trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng còn giữ được những nét đặc biệt. Những nét đặc biệt đó hiện hình trong những cử chỉ, hành động, dù là cử chỉ, hành động du côn, ác hiểm, tàn bạo. Đến một ngày kia, tên Hai Độn - thợ quét vôi - ở cuối xóm bị ngã hộc máu khi đang xây cất một ngôi nhà ở Chợ Lớn, nằm bệnh trở về cũng đổ thừa tai nạn của mình cho tiếng tru con Ki Ki. Nhưng cứ nhìn cái cử chỉ loay hoay thường nhật của hắn ai cũng tin chắc thế nào hắn cũng bị té ngã và những tai nạn hiểm nghèo như vậy vốn vẫn là cái nghiệp thân yêu luôn luôn chờ đợi hắn.

Vậy mà hắn cứ đổ thừa cho con vật khốn đốn kia.

Con vật khốn đốn chỉ có một người bạn độc nhất là lão Phụng. Không phải lão chỉ có cảm tình đặc biệt đối với con Ki Ki. Lão còn có cảm tình đặc biệt với bất cứ con Ki Ki nào khác. Ngay khi đến đây, biết được hoàn cảnh khốn đốn của con chó già, lão có ý định giết nó. Lão thuộc loại người hết sức nhân đạo nên có thể bị ngộ nhận là dị thường. Và tình cảm nhân đạo của lão rất mạnh. Nhiều buổi trưa đi trên con đường vắng thấy một con chó già nằm thoi thóp thở, lão thấy xây xẩm cả mặt mày. Phải ở trong hoàn cảnh khốn đốn nghèo cực như lão mới biết cái tình cảm kia mạnh biết chừng nào. Và mỗi lần như thế, thế nào lão cũng bỏ tiền ra mua ít đồng bạc thịt kèm vào bánh mì hẳn hoi, nhưng trời ạ! trong đó còn có cả thuốc độc nữa, đem đến cho con chó ăn. Và buổi chiều ngày đó nếu ai để ý thế nào cũng gặp lão Phụng đi ngang qua đó, im lặng một phút rồi cúi đầu đi luôn. Nếu tính ra thì trong đời lão đã giết ít nhất là một ngàn con trong trường hợp đó rồi! Con số có thể nói là kinh khủng cho người nghe phải tin. Và mỗi lần giết được một con lão có thói quen về ghi một nét trong sổ con có đề ngày hẳn hoi.

Từ ngày lão Phụng đến thuê căn gác, con Ki Ki cứ xoắn xuýt bên lão. Phải nói thêm là lão Phụng ở chung một nửa căn gác thấp và hẹp của ông Đại với giá 150 đồng một tháng. Nửa căn gác ở phía trước là giang sơn ông Phụng, lão bán ve chai giang hồ, gồm có những đồ đạc độc nhất sau đây: một cái võng thượng hạng giăng vừa đủ chiều ngang căn gác, một cái rương cũ đựng một ít áo quần và một vò rượu. Ban đầu lão sống cùng cực với cái nghề này. Sau nhờ quen mối và kinh nghiệm lão sống đã khá. Mỗi tháng sau khi đi giao chai, tỉn cho tên chủ người Trung Hoa ở Chợ Lớn, lão nghỉ hẳn được một ngày, uống rượu ngâm thơ, sống phong nhã hơn hẳn những người khác cũng làm nghề này. Mỗi buổi chiều về lão Phụng có thói quen mua cho con Ki Ki một đồng huyết heo lão dấu kỹ trong gánh. Lão thường chỉ trở về buổi chiều, để tránh nghe những tiếng động, tiếng chửi bới ồn ào. Lão sợ nhất là cái âm thanh hỗn độn dị loại tạo thành bởi tiếng bầy heo đói kêu lên cùng với tiếng của lũ trẻ, tiếng quát tháo của bà Đại. Bà Đại nhiều lúc bận rộn cho heo ăn, quên cả đàn con. Ở trong cái xóm Cỏ nghèo khổ gồm mấy cái nhà, nhà nào bà Đại cũng đặt một cái hũ nước cơm đễ lấy đồ ăn thừa thãi về nuôi đàn heo. Nhưng gần cả xóm đều quá nghèo nên ít khi họ có đồ thừa thãi. Nhiều khi đến bốn năm ngày bà Đại mới đi thu một lần năm sáu cái hũ nhưng dồn chung lại thì chỉ được hơn nửa hũ cơm rau thừa, còn chỉ là nước lõng bõng sình thúi chắc chắn không thể có một thực dưỡng nào trong đó, nếu không muốn nói chỉ gồm toàn thuốc độc. Thế nên có ngày, dù khôn khéo tài ba đến đâu, mụ Đại cũng phải phát khóc lên. Bà phải lo một lúc hai bầy động vật có xương sống. Bầy thứ nhất là đàn con bà đẻ ra. Bầy thứ nhì là đàn heo con, dĩ nhiên do con heo nái đẻ ra chứ không phải bà. Thế nhưng con heo nái thì không phải nuôi con, đều này phải nói dù kể ra nó cũng kỳ cục thực. Bà Đại phải chạy ăn cho cả hai bầy. Bầy thứ nhất thì quan trọng hơn, nhưng cũng tùy thuộc vào bầy thứ nhì. Nếu một con trong bầy thứ nhất bị bệnh bà Đại có khóc được thì đối với một con trong bầy thứ hai – nói rõ ra là một con heo con – khi lâm bệnh bà Đại cũng ăn ngủ không yên và buồn bực đến khóc được. Có những buổi trưa nóng nực, lão Phụng đi xuống thang gác trông thấy cảnh con heo nái nằm nghiêng một bên, vú thừ ra bị một đàn heo con tranh nhau bú và khi lão quảy gánh ra đi, lúc qua phòng bà Đại, lão cũng trông thấy cảnh tượng tương tự: người đàn bà đó đang nằm thiu ngủ, hai vú xề ra, một vú đang được thằng con nhỏ sau cùng – thằng bé Lộc – ngậm kín và vú kia cũng đang được con Liên – em bé lên bốn – ngậm kín luôn. Con Liên không biết vì quá đói ăn hay vì một chứng tật tâm sinh lý nào mà đến bốn tuổi hãy còn nương vú mẹ. Đó là chưa kể một đứa con còn nằm trong bụng nữa. Những lúc đó, lão Phụng đưa mắt nhìn thật lâu. Đôi mắt cứ đăm đăm về phía bụng và vú mụ Đại. Nếu có ai bắt gặp, thế nào người ta cũng nghi ngờ lão Phụng có ý tà dâm. Thật ra, dù đã hơn sáu mươi tuổi, lão Phụng vẫn còn thoáng thấy một tình cảm ước ao dục vọng. Những tình cảm này chỉ đến sau, hoàn toàn đến sau. Lúc nhìn bà Đại, lão đã bị thúc đẩy hay thu hút bởi một tình cảm khác, hoàn toàn khác dù không ai tin. Lão chú ý từng vệt mồ hôi nhễ nhại chảy từ tóc tai, từ thân, từ cổ xuống ướt sũng cả áo và ván gỗ chiếc đi-văng. Lão sống trong một tình cảm vừa thương hại đau khổ vừa giận dữ uất nghẹn vô biên. Hai thứ tình cảm dị loại này nhiều lúc chỉ là một. Nó có hai mặt đó thôi. Cho nên, dù Nietzsche có nguyền rủa đạo Phật, Nietzsche cũng đã là một vị Phật hay ít ra cũng đã là một vị Bồ tát đúng nghĩa. Và phải tin dù Phật có sống thời Karl Marx và nguyền rủa Marx, Phật cũng phải hành động tương tự như Marx thì mới sáng danh đấng Chí Tôn đó thôi. Nhìn mãi, lão thấy gớm tởm và đến một lúc nào đó, tự nhiên lão thấy tức chết được nếu còn trông thấy cảnh tượng đó. Chỉ có những lúc lão mới nhận thấy sự hy sinh cao cả cùng sự tối tăm, ngu đần của một người mẹ, một cái máy đẻ có tình cảm. Khổ sở như vậy sao lại còn nuôi thêm con Ki Ki cho nó mệt? Lúc đầu lão Phụng tưởng ông Đại nuôi con Ki Ki cũng như một số người thấy cần thiết phải nuôi một con vật để vỗ về lúc buồn vui. Còn gì thú cho bằng lúc thảnh thơi được vuốt ve một con chó, con thỏ hay con gà con. Và lúc đó chắc chắn người ta không liên nghĩ gì thịt chó thịt thỏ hay thịt gà. Vậy, ban đầu lão Phụng cứ tưởng ông Đại nuôi con Ki Ki cũng vì lý do vô tư lợi kia (nhưng khi ngay cả ông nuôi con Ki Ki vì lý do để vỗ về thân mến ông cũng không thể được gọi là vô tư lợi được. Có cái quái gì ở trần gian này mà không bị thúc đẩy bởi một thứ tư lợi! Có cái quái gì vô tư ở trần gian này!) Sau lão Phụng mới biết rõ vợ chồng ông Đại nuôi con Ki Ki - và nuôi đã gần mười năm nay - chỉ vì lý do chính yếu: canh gác chuồng heo nái và bầy heo con ban đêm và ban ngày. Bây giờ nó bệnh tật, già yếu, giết là phải, nhất là khi nó tru lên từng cơn dài quái gở lúc canh khuya.

Lão Phụng nhớ mãi, mấy lúc gần đây, khuya nào nó cũng tru, đầu ngẩng lên một cõi nào vô danh xa vắng. Một tối thứ Bảy cách đây được hai tuần, khi bà Đại chưa đi ở cữ, thì ông Đại ở Thủ Đức về cùng mấy người bạn đồng khóa. Ông Đại – người đàn ông trạc chừng ba mươi nhưng tâm hồn đã héo úa bên đàn con nheo nhóc – bây giờ thấy vui hơn. Có lẽ đời sống quân trường đã gây cho ông một thứ trách nhiệm đầy ảo giác với kẻ đồng đội, với người xung quanh và ông thấy tầm vóc cuộc đời rộng lớn hơn nhiều. Ông lại còn sung sướng mỗi tháng tiết kiệm được khoảng tám trăm bạc về giao hết cho gia đình. Tám trăm bạc với gia đình ông Đại, cũng nghĩa lý lắm. Gì chứ cũng hơn lúc thất nghiệp ở Sai Gòn, chạy ăn từng bữa. Đêm đó cả gia đình ông Đại, bà Lâm, tên Hai Độn và tất cả mấy người đàn ông trong xóm đều tụ tập lại nhà ông Đại để mừng ông và cũng để nghe ông kể chuyện. Ông Đại kể thao thao bất tuyệt. Và khi ông mệt thì một trong những người bạn đồng khóa lại tiếp lời. Mọi người đều ngồi ở ngoài sân giữa trăng trong và gió mát. Bà Đại là người sung sướng nhất bởi có người chồng có chức vị như vậy. Thế rồi, lúc về khuya – lúc đó khoảng 1 giờ sáng – khi cuộc nói chuyện gần tàn, mọi người tan cuộc vui sắp sửa chia tay thì con Ki Ki lại bình tĩnh tru lên thấu trời xanh. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn đến con vật khốn khổ đó. Nó ngồi một mình, bình tĩnh, hai chân trước dựng xuống đàng hoàng, mõm chỏng lên trời mà tru. Mọi người bắt đầu nói sang chuyện con chó. Lão Phụng nằm trên gác lắng nghe hết. Mọi người đều đồng ý giết con chó sau khi có lời đề nghị của bà Lâm và nhất là tên Hai Độn và tên đàn ông người Bắc di cư suýt làm cháy cả xóm. Bây giờ mọi người mới đua nhau kể lại những cảnh khốn đón, những tai họa mà họ phải chịu trong khoảng một năm nay từ khi con Ki Ki bắt đầu tru, mà tai họa mở màn là cái chết của cô con gái mụ Lâm (dù cô ta đã tự tử vì tình duyên ở dưới trần này bị tan vỡ, một chuyện không ăn nhập gì với con chó cả). "Phải giết quách nó, lấy mật và tim đốt đi chôn kỹ hai năm sẽ hết tai họa", tiếng một người đàn ông khàn khàn vọng lên một mình và trịnh trọng. Bây giờ mọi người chú ý đến ông Lịch, một ông lang hạng nhỏ kiêm thầy rùa ma giáo có một cái quán bán thuốc Nam ở giữa xóm. Chính ông Lịch đã ãn tiền mụ Lâm rất nhiều nhưng không tài nào chứa nỗi đứa con gái ủ rũ sầu bi như bị ma ám. Người ta không hiểu nổi cái phương sách đuổi tà và trị bệnh của ông lang Lịch. Hình như mỗi ông thầy thuốc ta thường có một bài thuốc riêng, thường thường bí truyền và mờ ám đến nỗi những người cùng nghề khó lòng biết được. Đôi khi nó cũng được liên kết với tà thuật đầy ám muội như trường hợp lão lang Lịch. (Và chính vì vậy mà phương pháp trị liệu rực rỡ này của dân tộc đã từng bị ngộ nhận và chôn vùi). Sau khi đồng ý chắc chắn phải thịt con Ki Ki, người ta chia nhau công việc.

"Tôi thân hành nấu nước sôi!" Tên đàn ông Bắc kỳ di cư suýt làm cháy cả xóm nói trước hết.

"Tôi sẽ phụ với bà Lâm.” Mụ Thận – mụ ở cho ông Đại – cũng xen vào làm như thể ngang hàng với mấy người kia, nghĩa là những người không phải dù sao sống lệ thuộc như mụ. Bây giờ tên Hai Độn mới có ý kiến:

"Tôi sẽ ra công dọn dẹp bàn ghế đâu ra đó.”

"Đồng ý! Đồng ý!"

"Đồng ý.”

"Tôi sẽ chịu tất cả tiền la de!"

"Hoan hô! Hoan hô!"

"Đồng ý!"

"Hoan hô!..."

Người ta không còn phân biệt được tiếng ai nói nữa. Nhưng người ta cũng không rõ ông Đại hay một trong những người bạn đồng khóa nào đã hảo hớn chịu chơi bao khoản tiền la de cho cả xóm. Chỉ biết mọi người đều hân hoan sung sướng. Những người tham dự cuộc nói chuyện ở nhà ông Đại có thể chia làm ba loại. Loại thứ nhất gồm vợ chồng ông Đại và có lẽ những người bạn đồng khóa của ông Đại, là những người không thích thịt chó lắm nhưng phần nhiều ham vui và bị thúc đẩy bởi mê tín dị đoan (ông Đại dù sao cũng là người có học, ông không tin dị đoan nhưng thật ra ông cũng ngán đến một quyền lực siêu linh nào lắm!) Loại thứ nhì: loại đói khổ và rất thích thịt chó. Có thể kể vào loại này những tên như mụ Thận, Hai Độn, và nhất là tên đàn ông Bắc di cư suýt làm cháy nhà cả xóm, (những người này thật ra có tin dị đoan hay không chúng ta không cần biết đến). Loại thứ ba là những người không thích thịt chó, có lẽ chưa bao giờ ăn thử cũng nên nhưng rất dị đoan, khoái cúng tế ma chay vớ vẩn: Những người đàn bà trong xóm mà đại diện tiêu biểu là bà Lâm, người góa phụ hiện làm liên gia trưởng. Còn phải kể đến một loại... dị loại là lão lang Lịch ma giáo này quyết không thuộc vào hạng nào trong ba hạng vừa kể. Người tinh mắt một chút sẽ nhận thấy ngay ông bị thúc đẩy bởi một thứ bản năng bảo vệ một thứ quyền lợi và danh dự đê hạ (vâng, có một thứ danh dự đê hạ lan tràn trên thế gian hình sắc này): ông đã có kế hoãn binh cho cái bất tài của ông khi trị bệnh cho đứa con gái như bị ma ám của bà Lâm. Và nếu có một tòa án tối cao phân minh ở một thế giới nào khác kết tội những người có liên quan dính líu đến việc hành quyết con chó Ki Ki trong những ngày sắp đến thì tên lang Lịch phải chịu một hình phạt nặng nhất. Lão Phụng ở trên gác nghe thấy hết. Đêm đó lão uống rất nhiều rượu say túy tóa. Lão như người ở trên cao nhìn thấy tất cả những lớp mặt thật sau cái mặt nạ đeo ở ngoài của tuồng đời. Lão trông thấy tất cả múa may, hát xiệc, làm trò trống và lão cười một mình. Lão không biết lão đã nói gì trong lúc say khuya đó. Hình như lão có nói: "Ki Ki tao sẽ giết mày. Nhưng tao sẽ giết một cách êm thấm, không kéo dài đau đớn gì lâu con ạ! Rồi con sẽ về cái cõi hằng đêm con vọng ngưỡng nếu cõi đó có. Còn không con cũng sẽ yên thân. Rồi xác con sẽ trôi ra sông, ra sông lớn rồi ra biển. Ta cầu mong lắm. Ta đã từng ở biển. Ta đã gặp nhiều que xương trắng xóa của đồng đội con bị nước mặn ăn sạch, nhiều khi còn nguyên cả bộ nằm phơi trên bờ đảo... khi ta còn... ở tận nơi xa kia... nơi trở về của tất cả. Ta sẽ giúp con..." Sáng ra lão Phụng kiểm soát lại trí nhớ mới biết rằng mình đã có nói những lời tương tự như vậy, nhưng biết mình có nói to đủ cho những người ở dưới đang bàn tính bữa nhậu giả cầy nghe được hay không. Nhớ lại đêm đó, lão cười sặc sụa. Nhất là lời mụ Lâm nói với bà Đại khi chỉ cái thai:

"Mau đi nhé! Bà xổ bầu rồi mọi người mới định rõ được ngày! Tất cả đều tùy thuộc ở bà đó. »

Tất cả cười. Bà Đại cũng cười, không một chút thắc mắc đau đớn gì, nhất là khi mụ đàn bà nghĩ về số phận con vật khốn đốn, con vật đã sống với mình khoảng mười năm trời rồi. Có một số người đông đảo hình như không có một chút tình cảm nhân đạo. Họ dửng dưng. Không phải cái dửng dưng của một triết gia đầu bạc hay cái dửng dưng của một thằng khùng. Cái dửng dưng của họ là cái dửng dưng hạ trí, hay do cái hạ trí sinh ra. Bà Đại thuộc loại đó. Và lão Phụng không hiểu vì sao mụ có thể khóc được trong những trường hợp này hay trong những trường hợp khác.

Lão Phụng vẫn tỳ tay ở thành cửa sổ, thỉnh thoảng lão lại bóc thêm một chiếc nem. Lão dòm xuống vùng vịnh nước tối om. Lão nghi ngờ bà Lâm đang rình lão. "Nhưng làm được gì ta, ta sẽ đòi bằng chứng nếu họ quyết tâm..." Lão Phụng nghĩ một mình. Còn hai ngày nữa ông Đại ở Thủ Đức sẽ về, cùng với mấy người bạn. "Không hiểu bà Lâm đã biết số phận con chó chưa?" Lão Phụng vẫn còn nghi ngờ. Có điều lão khoái chí khi chiều hôm qua và mới sáng nay thôi mụ có qua tìm con Ki Ki vì ngày hành quyết đã đến gần. Tìm mãi không thấy, mụ hỏi lão Phụng khi gặp lão đang rửa mặt. "Ông có thấy con Ki Ki đâu không?" "Mới thấy đâu đó", lão Phụng nói gạt. Thế mà mụ Lâm yên trí là con vật vẫn còn lẩn quẩn đâu đó thật. Rồi mới hồi trưa, tên đàn ông Bắc di cư suýt làm cháy nhà – người sẽ ra tay dìm con chó xuống nước trong bao bố hay đập đầu nó và trụng nước sôi – và tên thợ quét nước vôi mang tục danh Hai Độn có qua tìm con chó. Cùng lúc đó mụ Lâm cũng qua theo mang đến một thùng chai la de lớn và mấy chai rượu đế. "Còn nữa", mụ ta nói "một người bạn ông Đại đã gởi tiền về nhờ tôi lo trước mọi việc!" Tên Hai Độn đắc chí. Đến khi tìm con chó không thấy, họ lại mới hỏi lão Phụng. Lão vẫn điềm tĩnh: "Mới đó, nó mới về đó mà, nó đói nên lẩn quẩn đâu đó!" Tất cả đều cả tin và trở về nhà. Vậy mà bây giờ lão Phụng vẫn còn nghi ngờ...

Vừa lúc thằng Hùng lại trở về leo lên thang gác, lão Phụng hỏi:

"Sao về trễ vậy? Mấy em đâu?"

"Dạ ngủ ở nhà bà Lâm!"

"Sao mày không ngủ bên đó luôn.”

"Dạ, bà Lâm bảo về coi nhà.”

"Được, lên ngủ đi, ngày mốt mẹ mày về!"

"Dạ bà Lâm có nói như ông.”

"Bà còn nói gì nữa không?"

"Dạ coi chừng con Ki Ki.”

"Sao nữa?"

"Dạ, bà nói hễ thấy nó về là đóng cửa nhà trên nhà dưới lại, bà sẽ đem cơm qua cho nó ăn.”

"Nó mới về đó.”

Thật ra mấy đêm nay người ta không nghe thấy tiếng tru của nó ở trong xóm này. Mà nó cũng sẽ không còn tru ở đâu trên mặt đất này nữa. Lão Phụng trở về võng. Lão nghĩ thầm: "Mấy đêm nay nước lớn chắc hẳn xác con vật đã trôi ra sông lớn rồi trôi luôn ra biển. Mát thân rồi phải không con? Tự nhiên đêm nay ta nhớ tiếng tru của con và nhớ vô cùng", lão nói thầm một mình như vậy. Lão sung sướng đã đánh lừa được cả bọn người trong xóm, những người tự nhận là khôn ngoan hơn lão và không bao giờ thèm chào hỏi lão dù lão lớn tuổi nhất trong xóm và với phép lịch sự tối thiểu cần có, lão đáng ra phải được cái hân hạnh đó. Lão sung sướng nghĩ đến cái đêm tiệc trần gian kia không bao giờ có nữa. Nhưng lão vẫn thắc mắc lo âu. Niềm khắc khoải này đã thức dậy trong suốt đời lão. Lão lấy sổ ra đếm số những con vật đã bị lão giết bằng cách đầu độc hay vừa đầu độc vừa dìm xuống nước như trường hợp con Ki Ki. "Một nghìn lẻ ba con... cộng thêm với con Ki Ki mới đây là một nghìn lẻ bốn con... Ta có nên tiếp tục? Và nếu cộng lại tiền phí tổn mua bánh mì thịt cho hơn một ngàn con kia chắc hẳn bây giờ ta đã thừa tiền đóng một chiếc thuyền con lênh đênh trên hải đảo... Ta đã ý thức việc này khi bắt đầu con thứ nhất... khi ta hãy còn trẻ... Ta có nên tiếp tục?" Lão thầm nghĩ trong trí và trong một phút suy tưởng sâu xa, lão bỗng thấy một hình ảnh kỳ dị hiện ra trong trí: Một đàn chó ghẻ lở lói già nua kéo nhau chạy dài đến vô định trong số có cả con Ki Ki lủi thủi theo sau. Tự nhiên lão thấy bất lực và muốn chết.

O chuột

Trong nhà, trừ người, chó và mèo làm chúa tể. Chó giữ về mặt bộ, mặt thuỷ. Hắn có phận sự chạy nhông khắp chốn để đánh hơi, để hỏi han và để mắng những người lạ đi tơ mơ vào trong ngõ. Có khi cao hứng hắn lội xuống ao, tắm; hoặc nếu có ai cầm hòn gạch ném vào nước và huýt mấy tiếng còi, hắn cũng động cỡn mà nhảy tùm xuống. Một đôi bận, sự đùa cợt của hắn cũng được việc. ấy là khi hắn bơi ở trong ao để dồn vịt về chuồng. Chó hay lèm bèn, ủng oẳng, sinh sự nhỏ nhen. Nhưng tính tình hắn lại phổi bò, dễ dãi và thường chóng quên. Con mèo rất khác. Mèo lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quí phái và trưởng giả. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưa toan một việc gì ghe gớm lắm. Có phải thế chăng, hỡi cái gã lừ đừ và nghiêm nghị kia? Gã lại càng làm ra vẻ khó hiểu tợn. Nhưng ngoài cái vỏ ngoài chưa thể đủ để nói rõ được bề trong. Biết đâu, mèo ta không khó chịu như mình tưởng. Mà vốn hắn lại hiền lành cũng nên?

Hôm nay, tôi kể chuyện một gã mèo, một gã mèo trẻ tuổi. Y sống lặng lẽ trong một nếp nhà ngói cổ kính, giữa một vườn cây rộng, ở làng Nghĩa Ðô, cùng một sân với bọn chó, bọn gà ri, bọn ngỗng...

Y là một chàng mèo mướp. Giống đó, nhà quê người ta nuôi nhiều . Cái bộ lông mèo mướp thực là dị kỳ. Nó vừa trắng màu lụa, vừa xám màu tro lại vừa đen xỉn. Khắp mình, ba màu ấy trộn lẫn với nhau, mà trôn rất nhỏ, hoà hợp lại thành một màu đặc biệt như màu cái chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Màu mướp ấy trông bẩn, vì đen ngòm ngòm, nhưng chính ra sạch lắm. Nó sạm như đất, mà không phải là có đất bám. Nó lại mờ mịt như có tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo - mà thực ra cái bờm lông xấu xí đó chẳng vấn một chút bụi tro. Ngắm thì không đẹp mắt, nhưng nếu sờ tay vào, nó muốt như sờ tay trên tấm nhung tơ.

Hai mắt mèo tròn và quắc như hai hòn bi ve để dưới ánh mặt trời. Hắn không có môi, song hắn có cái mũi đo đỏ, đẹp như môi son hồng của các cô con gái đương thì. Ðàn bà không ưa cái mũi đỏ ấy. Người ta bảo mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng. Hai bên mép hắn có hai hàng ria cứng nhắc như ria làm bằng thép nước. Lũ trẻ con, có lúc nghịch, đè ngửa hắn xuống, lấy kéo cắt trụi cả đôi hàng ria xuôm đuột. Nhưng chỉ qua ít ngày, nó lại trổ ra như thường.

Gã mèo mướp ăn ở thì giờ như một người đúng mực. Ban ngày hắn ngủ hoài, cái dáng mèo nằm, dáng êm, dáng thanh, dáng lâng, đẹp biết bao! Lúc bấy giờ, cái thân hắn nhẹ muốt, chỉ như một chút gợn gió phẩy bay một nắm bông gạo nõn.

Mà giá ban ngày hắn có thức cũng không làm gì; hắn chỉ nằm gù gù. Ðể đến đêm, trong cái bóng tối mung lung, hắn mới ra tay hoạt động. Hắn đi rà rà thâu canh như người trương tuần. Gã mèo có cái vẻ đạo mạo như một ông đứng tuổi, đương bắt đầu để râu. Hắn hiền hiền mà lại ang ác. Nghĩa là trông hắn thì không tài nào đoán được trong óc hắn nghĩ ngợi gì. Mà chừng hắn chẳng tư tưởng chi ráo! Hắn chỉ là một người rong chơi lông bông.

Chẳng có những bác trông mặt thì ra dáng đăm chiêu tư lự mà thực ra trong đầu không chứa đựng một ý nhỏ định nào.

Gã ngồi đấy, ở trên mặt dại bể. Hai chân trước đứng thẳng, đôI chân sau gấp lại, y như lối ngồi xổm. Ðôi mắt nhìn xa sôi... Thỉnh thoảng, theo thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên gãi mép, cũng như người ta đưa tay lên vuốt râu cho nó oai vậy. Trời đã xế chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng nhạt đọng trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang, tiếng guồng tơ quay đều đều. Trên đường cái, lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la, nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng khơi, người ta kéo nước rào rào. Cái gáo mo lạt sạt đụng vào thành giếng đá. Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán. Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về căn nhà hiu quạnh. Hắn bước từ tốn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi qua gốc cau, chẳng biết ý định sao, hắn leo tót ngay lên, quào quào mấy móng sắc vào cái vỏ cây cau điệp trắng, rồi lại tụt xuống, rồi đi lểu đểu, đạo mạo như trước. Hắn thường có những cử chỉ đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong lòng đang khoan khoái một điều mà hắn thường nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét tư lự.

Y ngồi vào thì lì bên bếp tro. y nghiêng mang tai để rũi vào một ông đồ rau, to bằng hòn gạch vồ lớn. Lúc nào y cũng ngứa và cần gãi.

Bỗng y đứng im. Y nghếch đầu lên. Hai cái tai mỏng vểnh ra để nghe ngóng. Hình như có tiếng lịch kịch ở sau đống củi. Nhưng khi bước lại thì không thấy đọng gì nữa. Gã quay đầu ra, ngước mắt nhìn lên đám mạng nhện có mắc bồ hóng đen xạm, bị gió đưa lúc lắc trên trần bếp.

Có tiếng động thực. Lần này gã mèo dúm bốn chân lại, bước từng bước rất nhẹ về phía đống củi. Ðống củi đó người ta để phiền quá, vừa chướng bếp, vừa làm cái rừng bùm tum, chỉ tiện ch quân gian núp náu.

Giống mèo là một giống, đứng ở chỗ nào, không thể chịu có được một tiếng động nhỏ. Ðã có khi gã mèo mướp nằm ngủ suốt đêm ở trên một đống củi. Ðấy là chỗ ra vào của lũ chuột ngày, cái lũ chuột con rất tinh ranh, hễ tha được một hột cơm nhỏ cũng chạy thọt ngay vào đó để nhấm nháp.

Mèo và chuột là đôi loài có thù không đội trời chung với nhau. Mèo ghét chuột quá, ghét kịch liệt. ý giả mèo ta tin rằng giống mình giỏi nhất thiên hạ; những tên chuột, tất cả lò nhà chuột, chỉ đáng đem thân làm nô lệ cho loài mèo thần thánh. Thế mà cái giống thấp hèn ấy không biết điều mà lại hay tắt mắt, táy máy, bặng nhặng làm nghịch mắt và rác tai bề trên.

Hai cái tai mèo mướp hơi động đậy. ấy là khi anh hết sức lắng nghe. Tai mèo mỏng tanh, gần soi bóng qua được, dỏng lên như chiếc tai lừa tý hon. Cái vòng tai rộng mở và loe ra. Chả trách gã nghe rõ lắm.

Gã khum hai chân trước xuống nhìn vào gầm đống củi. Rõ ràng gã trông thấy một chiếc đuôi nhỏ và dài thò lò dưới một mẩu gỗ. Ðúng cái đuôi chuột. Gã nép về một bên, thon người lại. Lúc này trông gã mèo quái ác dị thường, thoát hẳn cái dáng lừ đừ, hiền hậu hàng ngày. Y quời quời cái chân. Sau y biết làm thế hấp tấp quá. Phải chờ cho cái đuôi chuột lùi ra nữa mới được.

Lại có tiếng rúc rích ở trong. à có hai thằng chuột rửng mõ đang đùa nhau. Chúng nó hẳn đến ngày tận số. Ai đời chuột lại dám đánh đu ở miệng mèo!

Tuy cáu nhưng mèo cũng đủ kiên nhẫn để chờ cơ hội tốt đến. Trong kia, hai con chuột vô tình, vẫn đùa cợt vui vẻ. Nhiều lúc, có nhách lại chạy ra tận ngoài. Thò cái mõm nhọn ngửi xung quanh. Lộn tiết, gã mèo đã toan chộp, nhưng chuột lại ngay vào mất. Con mèo lại yên lặng, chịu khó ngồi rình.

Bóng tối chùm xuống mau nhẹ. Vừa với nhọ mặt người, bây giờ đã đêm hẳn. Ðêm nay là đêm rằm. Mặt trăng đã nhô tròn ở đầu đường. Một mảnh sáng nhờn nhợt in trước sân bếp. Trên nhà, người đã quẹt diêm để châm sáng đền cho trẻ học. Tiếng những đứa trẻ ra ao rửa chân, vừa đi vừa khua guốc lóc cóc.

Hai chú chuột ở trong gần đống củi hẳn thấy trời tối rồi thì muốn ra ngoài chơi lắm. Cái thằng mèo mướp ốm bệnh hen cò cửi qunh năm mà không chết ấy, bữa nay chắc đi chơi đâu vắng; nếu nó có nhà tất đã thấy nó rên gừ gừ ở trên đầu ông đầu rau. Chúng mình ra ngoài kia đùa một tí hoặc kiếm chác một cái gì ăn thì hay quá.

Hai cái đầu ló ra. Rồi hai gã chuột bước hẳn ra đống củi đi lần về phía bếp. Chúng vui vẻ cãi nhau choe choé.

Hai cái bóng bé nhỏ quá, chụm lại với nhau chưa bằng một ngón chân người lớn ta. Ðấy là hai con chuộc nhắt. Chuột nhắt bé hơn chuột chù. Nhưng nó nhanh và hoạt bát hơn nhiều . Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu - cứ vác cái mõm đã đủ mệt - đi đến đâu cũng rụt rụt, rè rè. Hễ hơi có cái gì đáng sợ là vội hốt hoảng chạy cuống lên, vãi cả đái và kêu rối rít. Ðã thế còn chậm và không biết leo tường, leo cột, chỉ luẩn quẩn sát mặt đất. Thật là một thứ chuột cùng dân, thấp kém nhất trong xã hội chuột. Vậy mà thiên hạ lại ưa thứ chuột đó. Không phải là ưa cái thân hôi hám của nó - chẳng đã có câu mỉa "Hôi như chuột chù" - nhưng người ta chỉ ưa có tiếng kêu "chuúc...chuuuúc...". Các cụ ta nói: " ấy chuột chù bảo: túc, túc, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài".

Và đây chỉ là hai con chuột nhắt. Thân chúng nhỏ nhắn, mõm chúng xinh xinh vừa phải. Về sự nhanh nhẹn, phải biết rằng nhờ ở cái thân hình bé bỏng, chúng leo vun vút, chúng chạy nhoăn nhoắt như có phép biến hoá.

Thoạt thấy bón đôi chuột lúi húi ra khỏi đống củi, gã mèo mướp mừng khấp khởi. Nhưng rồi chàng chán đớ ra ngay. Nó tưởng chuột chiếc to tát thế nào, chứ nếu biết chỉ là hai chuột nhắt tép ranh ấy thì nó đã bước từ nãy, không phải tốn công, tốn sức mà rình nấp vô ích. Mèo ta cũng khá đại lượng. Song thực cũng tại cái tính lười nhác cố hữu chả muốn cất đại công trình mà được chỉ có một tí ti kết quả đó thôi.

Nhưng đã thế này thì cứ bắt chơi. Hầy! Ðùa một mảy vậy. Nghĩ vậy, mèo ta co lưng lại để lấy thế rồi vươn hai chân ra chộp cả hai bóng đen ngọ nguậy ở trước mặt. Có tiếng kêu "chí...i...". Một con thoát được, còn một bị nắm lại. Mèo gầm gừ để thị uy và doạ dẫm. Chú chuột khốn nạn bị túm lại, nằm ngất trong hai bàn tay sắt đầy vuốt cong và sắc của ông mèo, y như cái cảnh rúm ró của chị cua nhà quê mà bị cụ ếch đại vương lấy một bàn tay mà vỗ vào vai.

Chú chuột nhắt bị mèo tha ra đến cửa bếp và được thả xuống đấy. Mèo không hề chú ý đến sự nhắm chú chuột nọ. Dễ thường chàng ta ví mình như một người anh hùng cái thế, có thèm sát hại lũ trẻ oắt bao giờ đâu! Sinh phúc cho chúng sống, còn hơn là túm lấy chúng mà nhai. Chưa bõ dính răng. Nhưng vốn mèo vẫn ác tính. Gã không ăn mà gã cũng không thả chuột ra. Cái mùi hôi ở lông chuột khiến cho gã mèo nhớ rằng thịt chuột ngon và loài chuột là loài đáng ghét lắm.

Mèo nhả chú chuột xuống đất, rồi ngồi ngây ra mà nhìn. Con vật khổ sở nằm co ro. Mèo ta đắc chí, lấy một chân vờn vờn vào mặt chuột. Bất tỉnh nhân sự từ nẫy giờ mới lại hoàn hồn, chuột khe khẽ thoi thóp thở. Mèo yên lặng, dáng ngẫm nghĩ. Gã không để ý đến chú chuột đương giương đôi mắt lồi như hai hột chàng ràng ra nhin gã. Chỉ ti hí mắt lương mà ranh thượng hạng.

Bỗng, thoáng một cái, chú chuột chạy vụt vào phía trong. Nhưng chàng mèo vẫn nhanh hơn. Chàng vươn tay ra. Lại chộp liền ngay lấy gáy chú nhỏ. Ôi chao! Chàng ta mới chộp cho chú nhỏ một cái nhá! Chú nhỏ kêu "chíi...chíi..." rầm cả lên.

Có lẽ nhân cuộc chạy trốn ấy, gã mèo bầy ra một trò chơi tiêu khiển qua thì giờ. Gã đem chuột ra chỗ ánh trăng, giả vờ để yên chú ra đấy. Rồi mèo yên lặng. Chú chuột sợ hãi không nhúc nhích.

Nhưng chính ra chuột vẫn rình mèo và mèo cũng lại rình chuột. Ðể hễ khác ý là chuột lại chuồn biến. Còn mèo, mèo cũng chỉ chờ chuột chạy là vồ ngay lấy. Gã mèo giương oai thả lỏng và chắc chắn chẳng khi nào chú chuột chạy thoát nổi đôi bàn chân nanh móng của gã.

Mà cũng thế thật. Chú chuột tưởng bác mèo hấc lờ, cứ xểnh một chút lại chạy. Có đến mươi lần. Nhưng cũng không lần nào khỏi bị tóm lại. Mỗi bận chuột động chân, mèo ta chỉ nhoi lên một tí, đã túm được dễ dàng. Mãi rồi con chuột hoá mệt lử. Nó chạy chậm dần và cuộc chơi cũng dần mất thú vị.

Khi đó, trong đống củi, bõng lại có tiếng rúc rích. Lại có tiếng lao xao của lũ chuột nào khác. Chả biết là chúng đùa nhau hay chúng định chơi cái lối chó cậy gần nhà, đứng trong ấy mà chửi đổng ra. Toan nhảy vào vồ cho chúng chết một mẻ, nhưng mèo vướng có con chuột tù binh ở dưới chân. Ðã thế, phải mắng cho chúng một trận mới được. Mèo liền gầm gừ, gầm gừ làm như sắp lăn ngay vào chiến tranh với những quan thù cỏ rác kia. Lũ chuột nhép câm ngay. Song chúng cũng không câm hẳn. Hễ mèo mà ngắt tiếng là chúng nó lại "chiií ...." rầm rầm. Làm điệu như xỉ vả bác mèo.

Bực mình, mèo ta nhảy một bước. Chú chuột nhắt đang nằm yên như chết vụt vùng chạy. Mèo hoảng hốt thò dài chân ra, nắm lấy nó. Nhưng chỉ nắm hụt được bóng cái lưng của chú chuột in thoáng trên nền đất dài đầy ánh trăng. Hai mắt mèo long lanh, sáng quắc! Cũng không thể đủ sáng để chọc thủng bóng tối dầy ra, mà tìm thấy chú chuột nhắt tí hon.

Gã mèo sục vào đống củi. Giá gã đâm đến vỡ đầu ra cũng chẳng tóm được một nỡm chuột. Mà những tiếng chíi...chíi quái ác, rất khó chịu vẫn văng vẳng đâu hai bên lỗ tai.

Chàng mèo mướp - mà chàng nào cũng thế - không cố ý ăn thịt chuột nhắt bao giờ. Mèo chỉ bắt những con chuột tiểu yêu đó để đùa nghịch và để hả cơn cáu kỉnh; vì loài chuột nhép cứ bặng nhặng, rúc rích trong xó bếp, là chỗ nghỉ ngơi của mèo. Chính những con chuột lớn lại đứng đắn, không ầm ĩ đến thế. Chỉ vì bực mình mà mèo bắt chuột nhắt. Nhưng chú chuột nhỏ khôn ngoan vẫn hay chạy trốn được. Ðời đời, cái giống chuột nhắt tai quái cứ làm rức tai loài mèo.

Suốt đêm hôm đó, gã mèo mướp kia chỉ đi quanh đi quẩn để tìm, để lùng bắt chuột nhắt. Và có những đêm sau, hắn cũng đi tìm chuột, nhưng - vẫn khờ dại như thường - hắn chỉ tìm để đùa chơi một chút. Rồi nó có rông mất, hắn lại khó chịu, bực dọc, hậm hực mà đi lùng bắt những con khác. Cái loài chuột nhãi cứ làm ta rối đầu và ngứa mắt quá.

Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ luẩn quẩn đi o chuột.

Buổi Tối Trong Làng Om Xà No

Mặt trời chếch về hướng Tây. Nắng nửa chiều nghiêng lả lướt trên đôi bờ kinh Vĩnh Tế. Ánh sáng hanh vàng phủ lên cánh đồng lạ lẫm cỏ cháy đất khô, rải rác mấy cây thốt nốt già cao lêu nghêu đưa ngọn. Mặt nước phía trước đầu ghe trầm lặng chảy xuôi bỗng nhăn nhúm bởi mũi ghe lao tới và tiếng máy nổ lạch tạch đều đều vọng vào hàng cây xanh xa xôi mất biệt.

Chị Sol mở những phần bánh mì mua khi sáng bày trên khoang, mời mọi người dùng bữa. Nhìn những khúc bánh mì cứng ngắt, nghĩ bà ngoại sẽ không ăn được, Kim bối rối ngó bà rồi ngó chị Sol, sắp sửa mở miệng yêu cầu một thức ăn khác thì người chủ ghe tốt bụng đã đem ra đưa bà ngoại chén cơm còn lên khói và cái dĩa nhỏ có khoanh cá lóc kho khô.

Bữa cơm trưa xong xuôi, dọn dẹp trên sàn khoang sạch sẽ, ba người đàn bà gầy sòng tứ sắc giao hữu. Mời ngoại tham dự, bà từ chối, lặng lẽ lấy trầu cau ra ngoáy trong khi Nga và Tân hớn hở xúm xít ngồi sát sòng. Một chút nhộn nhịp lóe lên trong ghẹ Tiếng cười vang vang, tiếng bạc cắc khua long-cong khi có người được tới. Sự Ồn ào nổi dậy từ trong ghe bay tạt ra phía ngoài nhòa nhập cùng vùng không khí tĩnh mịch buổi xế trưa. Thỉnh thoảng, một chiếc ghe máy từ phía đối diện chạy qua, hai dòng nước gặp nhau gây thành con sóng lớn rào rạt vượt vào bờ.

Đã hơn bốn giờ đồng hồ, ghe lầm lũi đi theo hướng mặt trời lặn. Kim bò đến ngồi sát cửa sổ, thọc tay khuấy đừa giỡn nước. Luồng nước mát ngấm vào lòng bàn tay, một chút sảng khoái nhè nhẹ dấy lên trong hồn. Vừa khỏa nước vừa mơ màng dòm bà ngoại tư lự chậm rãi đưa miếng trầu vào miệng, mắt hướng ra phía ngoài, tưởng bà như một khách lạ Ở hành tinh nào đến nhàn du trái đất, ngồi đó như cố tìm kiếm hình ảnh trong bụi cây đám cỏ loáng thoáng lùi lại đàng sau bóng dáng của một quá khứ nào đã khuất.

Trời bỗng nổi gió. Từng loạt lá vàng từ những cành cây khô, những vùng bụi từ hai bên bờ bốc lên cuồn cuộn đổ xuống mặt sông vắng trơ vơ chiếc ghe nhỏ chồng chềnh của cơn mưa sắp sửa chuyển mình với buổi chiều đột ngột tối sầm như một điềm báo tin giờ tận thế. Ghe lao đao sấn tới khoảng sông phía trước, xông pha giữa vòm trời tối tăm cùng tiếng vọng từ xa của sấm sét, đồng thời mưa ào ào đổ xuống và màn nước trắng xám đặc phủ trùm trên mặt nước như muốn nhận chìm chiếc thuyền nhỏ khẩm lừ trồi lên hụp xuống giữa dòng. Hàng hàng lớp lớp hột nước tuôn xuống mui ghe, phủ lên mặt kinh những chùm bọt trắng nối tiếp nhảy đùa trên mạt sóng rồi chìm sâu vào phía dưới. Trong cơn mưa giăng mờ, ghe phải đậu lại núp dưới một cụm cây lạ mọc cạnh bờ.

Ngồi trong mui rướn nhìn qua kẽ hở của lá cành, hy vọng tìm thấy những gì quen thuộc nhưng tuyệt nhiên không có gì chờ đợi trong khoảng đất sắp liều thân tìm đến. Trong một thoáng, linh cảm nhạy bén hiện ra trong trí vòm trời tối tăm trước mặt nhiều sự hiểm nguy chực chờ bắt đầu từng phút giây nầy. Tự hỏi, tại sao đã biết, đã nhìn thấy rõ ràng mà vẫn băng mình tiến tới để rồi xót xa cho sự tìm kiếm chỗ dung thân còn mơ hồ giữa vòm trời gió bão.

Mưa dịu bớt. Ghe rời chỗ đậu âm thầm lướt đi lẻ loi dưới màn nước mong mỏng và khoảng trời tím thẩm hoàng hôn. Trong khoang một chút ánh sáng nhỏ của cây đèn bão được đốt lên treo bên vách cho thấy mọi người đã nằm ngủ ngổn ngang bên bộ bài tứ sắc còn lộn xộn những con bài xấp ngữa.

Kim vẫn ngồi im lìm bên khung cửa nhỏ suốt cơn mưa dài. Bên ngoài bóng tối đã chụp xuống mênh mông lạnh lẽo như từ lâu thiếu vắng mặt trời. Đàng xa loáng thoáng ánh đèn, một chiếc ghe chạy ngược trở về. Khi hai ghe đến gần người tài công bên kia nói vọng qua:

- Phía trước có cướp chận ghe đó!

Tiếng chú Bân hỏi lại :

- Khoảng nào? Có mất mát gì không?

-Phía trên đó. Không lấy được gì, quơ bậy bạ mấy cây đường thốt nốt.

Mọi người trong khoang ngồi rột dậy nhôn nháo. Bà chủ ghe thì thầm:

- Ai có tiền bạc, vàng vòng kiếm chỗ dấu đi nhe.

Kim run rẩy, lần tay phía trước bụng lấy ra gói giấy, lúng túng không biết phải dấu nơi nào. Sau một thoáng suy nghĩ, Kim lết về phía lái, bỏ vào rỗ đựng chén lấy chồng tô lớn úp lên. Nghĩ thầm, một gia tài nhỏ trong gói giấy đó nếu bị cướp chắc phải quay trở lộn về. Lui vào ngồi lại chỗ cũ lầm thầm khấn cha mẹ phù hộ thoát khỏi sự mất mát. Thấy bà ngoại bò lại phía cái khánh thờ nhét vào phía dưới cái gì đó. Chú tài công cho máy nổ nhỏ sức chạy chậm hơn.

Trong ghe mọi người im thin thít như những người tử tù chờ giờ hành quyết.

Bà chủ ghe ra lịnh:

- Bân, neo ghe lại chờ một hồi coi sao.

hiếc ghe dừng lại giữa sông. Mưa đã tạnh. Từng loạt gió thổi lướt qua, những giọt nước đeo đọng trên cành dựa mé rơi lào xào xuống sông. Xung quanh vắng lặng, nghe rõ ràng tiếng cá móng nước hòa với tiếng kêu của ếch nhái, của dế giun vang lên từ vùng cây cỏ. Thời gian như đứng im trên đỉnh trời còn giăng mây xám và hãi sợ một thoáng động của lá cành.

Một lúc khá lâu không nghe động tịnh gì. Bà chủ ghe lên tiếng:

- Không lẽ đậu hoài ở đây. Bân ơi! Cho chạy đi.

Máy ghe nổ thật nhỏ và chầm chậm trôi theo dòng với sự lo âu hồi hộp và nhịp tim đập loạn xạ của mọi người trong khoang. Bỗng tiếng thổ ngữ lồ xồ rợn rùn cất lên bên mé bờ trong tiếng lên cò của nòng súng. Chú tài công hỏi nhỏ:

- Bà chủ, mình ghé vô nha, không thôi chúng nó bắn đó.

Ghe cặp vào mé. Mọi người trong ghe im lặng, bất động như những xác chết ngồi.

Hai người đàn ông xuống ghe, nói với nhau bằng thổ ngữ, lục soát từng người một, gom góp hết mớ tiền còn lại trong túi của mấy bà bạn hàng. Đến gần chỗ ngồi của bốn bà cháu, đôi mắt của hai tên cướp sáng hoắc long lên khả ố ánh ra chỗ chừa của cái khăn sọc rằn bao quanh khuôn mặt. Tên nầy nói với tên kia gì đó rồi chia nhau lục soát hai người con gái trước. Thấy trong túi nạn nhân không tiền, tên cướp nắn nót tìm kiếm mọi chỗ trong người Kim không chừa một chỗ riêng tư con gái. Moi móc đến nỗi Kim phải tránh né chống đối, mắt trừng trừng phẩn nộ. Tìm kiếm không được gì tên cướp quát lên giọng gầm gừ lớ lớ "vàng để đâu?"

Kim thu người vào sát vách ghe lặng thinh. Không nghe trả lời, hắn nắm tóc Kim quấn hai vòng trong bàn tay, giựt mạnh, lườm lườm dòm mặt cô gái hồi lâu hắn mới rời sang qua bà ngoại lục lọi tiếp. Đổ hết hai bọc áo quần, giũ từng cái, liếc dọc liếc ngang. Cạnh bên, tên kia cũng làm như vậy, hắn lục lọi ve vuốt khắp người Nga, sự va chạm thân xác gây trong lòng hắn nỗi ham muốn về nhục thể, đôi bàn tay hắn không ngừng sờ mó, thô bạo mạnh tợn cho đến nỗi Nga không chịu được phải hét lên và khóc ngất. Trên bờ, đồng bọn bỗng lên tiếng kêu réo, hai tên dưới nầy đành quét mắt một lượt nữa bốn phía chung quanh rồi nhảy nhanh lên bờ. Bốn bóng người lẫn vào màn đen mất dạng.

Bà ngoại ngó hai đứa cháu gái ngồi cúi đầu qua ánh đèn nhỏ, thở dài xót xạ Kim ứa nước mắt, nuốt xuống lòng mình niềm tủi hận.

Bà chủ ghe nói:

- Tụi cướp nầy khốn nạn quá, càng ngày càng lộng. Bân, cho ghe chạy mau, ghé Om-Xà-No ngủ.

Độ chừng năm bảy phút thì ghe tấp vào một bến nhỏ cắm sào ngoài xa bởi những chiếc xuồng đậu đặt lừ gần mé nước.

- Bà con sửa soạn lên bờ.

Dứt lời, bà chủ ghe, chị bạn hàng và chú tài công nhanh nhẹn ra khỏi ghe lên bờ đi mất dạng. Kim bò trở lại chỗ dấu cái gói giấy khi nãy nhét vào người.

Lúc quay lại, Kim cũng thấy bà ngoại làm như mình. Bây giờ Nga, Tân xách hai bọc hành lý chờ đợi bước theo chị. Kim lần bước trong bóng đêm dắt bà chuyền qua chùm xuồng ba lá lắt lư chao đảo. Đến mé, chị Sol chực sẵn đứa tay giúp kéo từng người một lên bờ, dẫn bốn bà cháu bước thấp bước cao men theo con đường đất với những ngôi nhà lá nhỏ lờ mờ bên bờ trong vòm không gian đen đặc.

Đến một căn nhà không xa mấy bờ sông, nhưng cách biệt hẳn với con đường đi do khoảng sân rộng và hàng rào mồng tơi bao bọc chung quanh. Chị Sol kề tai Kim nói nhỏ :

- Nhà của bà chủ ghe cho người đi buôn lỡ đường mướn ngủ.

Bỡ ngỡ bước vào cửa, cây đèn măn-xông treo phía trên cho thấy một căn và hai chái rộng rãi, cao ráo. Chính giữa nhà một cái bàn cây tròn với sáu cái ghế đẩu. Hai bên vách là hai dãy ván lót dài tận phía sau. Hàng chục chiếc ghế bố xếp dựng hai bên chái. Người chủ ghe cũng là chủ nhà đứng sẵn đó từ bao giờ đon đả chỉ vào bên trong:

- Bà ngoại và mấy cháu ngủ bộ ván sát vách đó với Chị Sol. Tôi qua nhà bên kia lấy cơm.

Mở tủ lấy chiếc mùng vải trắng lớn, vài cái gối mền để lên ván, bà chủ ghe lại thoang thoát đi ra ngoài. Hai chị em phụ với chị Sol giăng mùng, vắt lên, chờ giờ đi ngủ.

Cơm nước xong xuôi, Kim chun lấy cái mền nhỏ xếp nhiều lớp trải lên phần ván dành cho bà ngoại, miệng lẩm nhẩm, để ngoại nằm sát vách cho có vật chắn an toàn. Tân nằm kế ngoại, rồi Nga và mình. Còn chị Sol nằm phía ngoài án ngữ.

Thiếu gối, Kim dùng bọc hành lý gối đầu cho mình và cho em như dưới ghe khi sáng.

Không có đồng hồ, không biết giờ giấc, sự mỏi mệt bắt Kim phải nằm xuống. Đêm nay cũng như đêm qua, tịt mù vùng đất lạ. Đi đâu đó một lát, chị Sol trở về dở mùng leo lên ván. Đèn tắt, bóng đen đã buông mau xuống căn nhà. Bên ngoài tiếng dế nỉ non, tiếng cành cây cọ quẹt trên mái tôn, tiếng đập cánh của dơi và xa xa vẳng lại tiếng chim heo kêu quát... quát . Cạnh bên, bà và hai em đã thôi trở mình. Nhớ lại buổi tối trên ghe, nỗi kinh hãi còn lãng đãng trong hồn. May mắn không bị phát giác chỗ cất dấu mấy lượng vàng.

Toán cướp là những người nào mà được an lành cướp giựt dọc bờ kinh sát cái làng nhỏ nầy? Tại sao họ che mặt, có thể quen biết với những người đi buôn? Câu hỏi thốt ra chỉ dội lại trong lòng một sự trả lời còn mơ hồ trong tư tưởng. Nhắm nghiền hai mắt, màu đen ngập tràn trong hố mắt. Thần trí lãng vãng sự chết chóc, cướp của giết người. Hé mắt dòm khuôn mặt người đàn bà Miên đưa đường như cố gắng đo lường điều man trá chứa ẩn để rồi hoài nghi hiện tại bởi những lần đọc báo trước kia. Chưa hề rõ tông tích, biết sơ sài qua sự giới thiệu của bạn bè. Nơi quê nhà không còn thân nhân để nhờ giữ số vàng còn lại hầu giao cho nhóm tổ chức dẫn đường khi cuộc hành trình xong xuôi, đành phải mang theo trong người và hứa sẽ chồng hết tại nhà họ Ở Nam Vang. Lo lắng hiểm họa về lòng người. Nếu họ thông đồng với kẻ xấu, liệu bốn người có giữ được tánh mạng? Kinh hoàng khi nghĩ tới điều bị giết !!! Chắc là không thể, không phải vậy. Họ là những người dẫn đường chuyên nghiệp kiếm ăn. Lẽ nào... Những ám ảnh ghê rợn và hoạt cảnh của bọn cướp làm sờn, Kim lòng muốn trở về. Cạnh bên tiếng ngáy lớn vô tư của chị dẫn đường xoáy vào màn tai. Đêm đã sâu, bốn bề bóng tối mông lung vây bủa, tự dặn lòng cố gắng đề phòng mọi bất trắc và gìn giữ người thân.

Triền miên với cảm giác rờn rợn, con buồn ngủ cũng đã bắt đầu đậu vào đôi mắt. Bỗng nghe cánh cửa sau động đậy. Mở lớn mắt, một người đàn ông Miên với cây đèn dầu trên tay bước vào đứng sững một chỗ liếc cùng khắp gian nhà, cuối cùng hướng về phía bộ ván có người nằm. Kim run bắn người, sợ sệt, lay nhẹ chị Sol, nghiêng nhẹ qua phía chị kề vào tai thì thào báo tin có người vô nhà. Chị Sol mở mắt dòm về phía cây đèn. Nằm yên trong bốn bức vách mùng, hai người theo dõi cử động của gã cầm đèn đang đứng im nghe ngóng. Kim nghe rõ nhịp tim mình đập bình bình. Chị Sol nắm tay Kim bóp nhẹ trấn an.

Người đàn ông đó vẫn cầm cây đèn đưa về phía trước, bước từ từ đến bộ ván, kê mặt vào mùng như muốn nghe ngóng hay tìm kiếm cái gì . Thiên Kim vội vàng nhắm khít mắt. Chị Sol giả đò trở mình, tên người Miên lui lẹ ra xạ Chờ lúc lâu, hắn nhè nhẹ bước tới lần nữa. Chị Sol thình lình ứng thinh lên lớn một tràng tiếng Miên, hắn thổi đèn, chạy bay ra ngoài mất dạng.

- Nó sợ chạy rồi. Không dám trở lại đâu.

- Nó muốn làm gì vậy chị?

- Tên trộm vặt. Ngủ đi.

Một chút yên lòng. Kim trăn trở hồi lâu mỏi mòn cũng thiếp vào giấc ngủ. Ánh sáng mặt trời xuyên qua kẻ vách. Những hình tròn tròn trứng vịt từ nóc nhà soi xuống nền đất. Mọi người đã thức dậy lo phần việc riêng của mình. Kim còn say ngủ. Thằng Tân liếng xáo dở mùng nắm chưn chị kéo mạnh. Bà ngoại khoát tay ra dấu không cho Tân đánh thức:

- Để chị hai con ngủ thêm một chút nữa. Kêu nó dậy làm gì? Chưa đi bây giờ đâu.

- Sao ngoại biết?

- Chị Sol nói với ngoại mà.

Do cái kéo chưn, Kim mở mắt vội vàng ngồi lên, chun ra khỏi mùng mỉm cười với em. Nga giúp chị cuốn mùng, chồng gối mền đẩy sát góc vách. Chị Sol vừa đi vô vừa hối mọi người thay áo quần gom đồ đạc ra chợ ăn sáng và chờ ghe bỏ hàng rồi đi luôn. Thẳng về phía trước, khỏi ngôi nhà độ năm mươi thước thì đến một cái chợ nhỏ. Tất cả hàng quán bày bán trên một nền đất cao hình chữ nhựt. Nhà lồng chợ cũng trên khoảnh đất đó. Sườn nóc bằng cây lợp chồng chất với những tấm tôn cũ kỹ. Xung quanh là những căn nhà lá nhỏ cửa đóng kín, có thể người ở đó đã ra chợ bán hàng. Đưa bốn bà cháu đến một cái quán hủ tiếu, cà phê chiếm một khoảng lớn ở góc nhà lồng, ngồi chỗ bàn có những cái ghế chưn thấp vừa ăn vừa nhìn ngắm mây trời. Chị Sol trả tiền hủ tiếu, căn dặn chờ ở đây và bỏ đi về phía bờ sông.

Những người bán hàng là người Miên, có lẽ họ đến đây sanh sống sau cuộc ngoại chiến, nội chiến đẫm máu. Không biết nhóm chợ từ lúc nào, bây giờ chỉ còn lưa thưa năm bảy người mua bán nên tiếng ồn ào bớt lần. Mùi ẩm mốc bốc lên từ vũng nước mưa đọng lại tối qua bên hong chợ và hơi nóng của nắng lẫn mùi cát bụi quen thuộc đưa vào khứu giác giống như mùi riêng của đất nước nơi quê nhà.

Trên đất từng khoảnh rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ chuối, lá chuối và bả mía trơ vơ với đàn ruồi bay lên đáp xuống. Một vài người bán hàng đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào đầu gióng. Mấy đứa nhỏ Miên, mình trần ốm tong teo, quần đùi vá víu lom khom trên mặt đất, lượm lặt những cái gì có thể dùng được của những người bán hàng bỏ lại. Hình ảnh đó bày ra trước mắt mường tượng như bức tranh được vẽ lại nơi vùng đất nước vừa mới rời xạ Nhìn bao quát ngôi làng nhỏ xác xơ, xung quanh là cánh đồng cỏ cháy, sau lưng là con kinh rộng di chuyển bằng những chiếc ghe nhỏ, những chiếc xuồng ba lá chong chênh, lẫn lộn người Miên và người Việt gốc Miên buôn bán qua lại giữa hai vùng biên giới.

Những đứa trẻ dốt nát ở đây, trai đi lính như hai người lính đã thấy vừa rồi, gái cũng vậy, làm lụng khổ cực suốt đời như cha mẹ nó. Kim thở dài lắc đầu xua đuổi nỗi ám ảnh của cảnh tượng tàn tệ đời người.

Mặt trời đã lên giữa đỉnh đầu. Hơi nóng từ trên nóc chợ phả xuống hòa cùng mùi ẩm mốc từ dưới đất bốc lên khiến mọi người bắt đầu bức rức. Thằng Tân khó chịu đứng dậy chạy tới chạy lui từ đầu chợ đến cuối chợ. Không muốn kêu Tân sợ gây sự chú ý cho những người chung quanh, Nga đứng dậy đi về phía Tân nói nhỏ gì đó và dắt em về chỗ cũ, cũng đúng lúc chị Sol trở lại đưa mọi người xuống ghẹ Ghe rời bến bỏ lại làng Om-Xà-No đìu hiu với khoảng độ ba, bốn chục nóc nhà tranh, lá.

Gió hiu hiu thổi, chú tài công lầm lì giữ máy. Bốn bà cháu trong ghe chong mắt nhìn mũi ghe thoan thoát rẽ nước. Lần nầy ghe chạy mau hơn, vượt qua những lùm bụi, bến bờ cho tới lúc trời chạng vạng ghe ghé vào bến phà Neak Loung.

Cũng màn đen bao phủ như hai đêm trước, hối hã theo chị Sol tới bến xe đò để về thành phố Phnom Penh. Bến xe vắng ngắt. Bốn chung quanh đường đi và các ngõ nhỏ lờ mờ. Nhà nhà đóng im ỉm trừ một vài hàng quán cửa mở hắt ra vệt sáng vàng khè trên mặt lộ. Liếc một vòng chung quanh vẽ lo lắng, và thất vọng lộ ra ngoài mặt, chị Sol gượng gạo nói:

- Hết xe đò rồi. Đi đến quán ăn cơm và kiếm nhà ngủ trọ.

Vào quán chị Sol nói bằng tiếng thổ ngữ, rồi dẫn tới cái bàn phía trong cùng.

Không ai muốn ăn gì, chỉ cần uống một chút trà nóng. Xong xuôi, bốn cái xác biết cử động đi theo sự chỉ dẫn ra dấu bằng tay của người chủ quán trong lúc chị dẫn đường đi ra ngoài. Căn phòng nhỏ sau quán cửa khép hờ, người chủ quán xô cánh cửa mở rộng rồi bỏ đi. Bốn người vội vàng bước vào, nhờ ánh sáng của cây đèn măn-xông trước quán cho thấy khoảng rộng bên trong vừa đủ kê cái giường cây cũ kỹ và chiếc chiếu rách nhăn nhúm nhừ nát trên mặt giường. Ôm hai bao vải hành lý trong người, Kim dìu bà ngoại và ra hiệu cho hai em ngồi xuống giường mặc dầu rón rén nhẹ nhàng tiếng kêu răng rắc vẫn phát ra của những thanh tre phía dưới. Độ nửa giờ, chị Sol trở lại dắt ra khỏi quán, hối hã đẩy tất cả lên ngồi chen chúc băng ghế sau của một chiếc xe nhà, chị ghé ngồi băng giữa với một bà già Miên và cô gái. Xe chạy được một quãng đường chị Sol quay lại đưa tay ấn mấy chiếc nón lá để trước người của Nga xuống dưới chưn. Trong xe không ai nói gì, sự yên lặng làm tăng thêm bầu không khí nặng nề và sợ sệt.

Không lâu tới một trạm xét, người đàn bà ngồi chỗ tài xế đưa tờ giấy gì đó cho người lính chận xe. Người lính khoát tay cho xe đi, tiếng thở ra thật lớn từ phía chị Sol cho hiểu mối lo lắng trong lòng đã được giải tỏa. Bây giờ Kim mới dám chòm tới phía trước hỏi :

- Chị Sol, xe của ai vậy?

- Xe của bà cán bộ đi công tác về, may mắn lắm bả mới cho quá giang.

- Có tiền không?

Chị Sol cười và nói :

- Trên đời, không tiền không làm gì được.

Xe chạy vào giữa hai dãy đèn trên con đường dẫn đến thành phố. Bà cán bộ quay xuống nói một tràng tiếng Miên, chị Sol đáp lại cũng một tràng dài trong đó có tiếng Sàigòn.

Tò mò, Kim hỏi :

- Bà đó nói gì vậy? Chị nói gì có Sàigòn trong đó.

- Bả hỏi chị xuống đâu? Chị nói, cho xuống cầu Sàigòn.

Xe đã bắt đầu chạy chậm và rề rề, rồi ngừng hẳn ở lề đường. Bên tay phải có cây cầu lớn dài bằng xi măng bắt qua sông. Dưới sông lố nhố nhiều ghe nhỏ, ghe lớn cấm sào phía bên nầy và bên kia cầu. Đây là cây cầu có tên Sàigòn của thành phố Nam Vang mà những bà chủ ghe thường cho ghe ghé tại bến cầu nầy để dễ lên hàng, xuống hàng từ tỉnh Châu Đốc đến.

Mấy bà cháu chồm người tới trước trong tư thế chờ đợi hai mẹ con người đàn bà Miên bước xuống. Ra khỏi xe, thình lình một bà già nắm đầu đứa con gái mình vừa tát mạnh vô mặt vừa la lối om xòm. Người đứng gần xúm lại bao quanh chiếc xe, chỉ chỏ, bàn tán. Chị Sol lật đật lôi bốn bà cháu tuôn mau xuống đất, kéo ra khỏi đám đông, đón xe lôi về nhà trong sự vội vã. Xe chạy qua mấy con đường vắng vẽ mường tượng như ngoại ô rồi dừng lại trước một lối mòn sầm uất. Sau rặng cây già thấp thoáng ngôi nhà xam xám kiểu nhà sàn của đồng bào thượng nhưng vài thứ khác biệt là cửa, vách bằng cây và mái lợp ngói.

Ngước mắt dòm lên từng cao, bầu trời đục đục u ám, xa xa vài ngôi sao lạc lõng nhấp nháy soi mập mờ mảnh đất lạ lẫm dưới chân, Kim rùng mình, nỗi ám ảnh cướp bóc, hành vi khả ố trên ghe đêm qua, một chút ngao ngán dấy lên, ái ngại về đoạn đường sắp tới của bốn người.

Chuyện cười ở làng "Đợi"

Đúng là ta đã thấy hết, tao đã biết hết. Tao theo dõi được từ đầu đến đuôi - mụ Hoạch, người đàn bà có khuôn mặt "phàm phu" và cũng là người nổi tiếng đanh đá ở làng Đợi đang thao thao giữa đám đông toàn phụ nữ. Họ ngồi trệt trên bãi cát, mắt lơ đãng nhìn những con thuyền vừa buông neo trên bến, tai dỏng lên nghe chuyện. Trời về chiều, một buổi chiều về hè oi ả và ngột ngạt; không gian loang một màu vàng nhạt, biển đỏ rực vì nắng úa. Thường thường vào những lúc này, khi trên biển chỉ còn vài cánh buồm chơi vơi ngoài tít tận khơi xa, những người đàn bà cụm lại sau buổi đón cá về. Bấy giờ thôi thì những chuyện trong làng, trong chợ, trong tất cả các xó xỉnh của làng Đợi cứ rộ lên như không bao giờ dừng lại.

- ... Tao để ý từng li, từng tí một nên tao mới bắt được! Chao ôi, dúng là cố gắng "nắm" mới bắt được quả tang - Mụ Hoạch tiếp tục - Mà càng theo dõi tao càng thấy "ní thú" ghê, bay ơi - Vừa nói mụ Hoạch vừa nheo mắt. Một phụ nữ có khuôn mặt gầy lườm mụ Hoạch một cái rồi lảng đi. Chị đến bên một người mẹ trẻ đang bế đứa con trai, đứa bé có con mắt trong veo, đen láy. Chị cù một cái làm nó cười toe toét.

- Mặc kệ - Chị nói với đứa bé - Cho mẹ hôn quả núi của mẹ nào. Chao ôi, ước gì mẹ có...

Mụ Hoạch quay sang chị:

- Còn cái con Chiến "phòng không kia nữa. Mau mau mà đi đền, đi chùa, thắp hương cho thành tâm, lạy Trời lạy Đất cho đứa nào chết vợ ngó tới mày, để kiếm lấy một tý, kẻo mà ở già đấy. Thời buổi này cái đám như mày có biết ăn tranh, lấy cướp mưói kiếm được chồng chứ dễ lắm à!

Chiến cũng không vừa, chị bữu môi:

- ừ, thời buổi này là thế đấy, nhưng mặc tôi, chả phải dạy. Đây này, bụng tôi è è ra rồi đây này. Mai tôi tổ chức ăn mừng đấy. Mụ có thưởng gì không?

- Có mà thưởng! - Mụ Hoạch giơ quả đấm lên nhứ nhứ vào phía Chiến - Không biết xấu...

Đoạn mụ lại tiếp tục:

- Đúng là tao đã thấy hết. Đêm qua sáng trăng, trời giá, tao đi vơ lá phi lao, tao quyết nẫng của đám con nít một gánh nước trước khi trời sáng. Thế là tao mải vơ. Lúc đống lá đã cao chất ngất, tao mới ngồi xếp lá vào quang. Bấy giờ đã gần sáng, trăng sắp lặn. Đột nhiên, đột nhiên tao nhìn thấy một cái bóng người từ biển đi vào, cái bóng ấy cao lớn lắm, nó cứ vòng vèo làm tao ợn người. Vùng này chúng mày biết không - có rất nhiều ma, toàn ma biển hết. Cái bóng ấy đi vào chỗ đầu cồn cát rồi biến vào rừng phi lao. Lát sau, tao lại nhìn thấy cái bóng như bóng người ấy hiện ra xa xa, chỗ mấy túp lều của mấy con đĩ ấy, rồi lại biến mất. Một lúc sau, tao thấy có con nào đó vừa động ngộ chạy ra biển vùng vẫy, và đã về. Chứ nào phải ma quỷ gì. Nghe nói hồi này trời nóng, cái bệnh "động cỡn" của cái đám ấy hay phát lắm. Chính vì vậy nên tao càng tò mò, tao muốn biết cái bóng ấy là đứa nào trong số chúng nó. Tao lại gần túp lều có ánh đèn. Một bóng người cao lớn lắm, cao lớn như chưa từng thấy một người nào cao lớn như vậy. Cái bóng ấy chạy vụt qua chỗ tao như một cơn gío ào ào. Tao gọi: ối bay ơi... ối bay ơi... nhưng không thấy ai trả lời, cái bóng ấy biến giữa ba hàng sóng...

Mụ Hoạch dừng lại, mụ lim dim đôi mắt lươn của mụ rồi quả quyết.

- Tao cam đoan rằng trong cái "đám ấy" cái "lũ chúng nó" ấy, có đứa đã ngủ với ma biển. Rồi mà coi, sẽ có đứa đẻ ra sứa. Tao thề đấy. Đúng là tao nhìn thấy hết, tao biết hết.

Nói rồi mụ Hoạch cười như nắc nẻ. Mọi người cười theo mụ. Người ta bảo: Khi mụ Hoạch kể chuyện, nếu ai đó không cười, sẽ bị mụ chửi rủa thậm tệ.

Mụ Hoạch kết thúc câu chuyện:

- Vậy là hôm nay biển không được, chúng mày không mua được cá. Nhưng tao đã bán chịu cho chúng mày được một câu chuyện bí mật. Ngày mai tao buôn lại cá của chúng mày với giá rẻ để trừ tiền thưởng "kể chuyện" đấy.

Và mụ lại cười ngất, hồn nhiên.

Làng đợi là một làng cá, nằm ngang bên bờ biển với mấy chục mái nhà núp dưới rặng dừa cái bãi cát trắng phau. Phía trước làng, rừng phi lao như bức bình phong che chở. Cách bờ biển vài trăm hàng sóng, có một hòn đá lớn nhô lên khỏi mặt biển mà dân ở đây quen gọi là đảo Cô Đơn. Người ta bảo đặt tên như vậy là có lý, bởi vì hòn đá này chưa bao giờ có người ở, ngay cả trong chiến tranh, đảo Cô Đơn không có chỗ để đặt một cái chốt cho những trung đội săn máy bay. Trên đảo, ngoài những cây sim mọc như dán vào đá, thỉnh thoảng mới có những con chim bói cá mỏi cánh sà xuống đậu quanh đảo trông xa như những bông hoa mới nở xoè trên những nhành cây mới lạ.

ở làng Đợi, đảo Cô Đơn bị coi như một thứ "trái khoáy". Bởi vì hàng ngày , những chiếc thuyền phải vòng vèo tránh nó mới ra khơi được và những con thuyền cũng phải lựa lèo mới cập bến được. Chính vì thế, mọi người tỏ ra bực bội với nó. Ngay cả sóng biển, đêm cũng như ngày, ầm ĩ cãi nhau với đảo. Và ở làng Đợi, một cô gái trái tính trái nết thường bị quở mắng: "Mày có mà lấy ông đảo Cô Đơn làm chồng".

ở làng Đợi không chỉ riêng mụ Hoạch biết kể " truyện cười" mà rất nhiều người thường túm năm tụm ba kháo nhau một chuyện "rất tức cười". Đó là chuyện anh chàng Thục, bí thư chi bộ xin ra khỏi Đảng, việc xin ra khỏi Đảng của Thục đã điều làm nhiều người ngạc nhiên, càng ngạc nhiên khi thấy Thục bỏ làng đi biệt tích một thời gian. Thế rồi bất ngờ một hôm, người ta phát hiện thấy bóng Thục trên đảo Cô Đơn. Và sau này, khi biết Thục đã làm một túp lều để ở trên hòn đảo đó thì người làng Đợi có thêm một "truyện cười" mới.

Thục năm nay chừng ba lăm tuổi, vốn người rất to lớn khoẻ mạnh. Ngay từ tời còn rất trẻ , Thục nổi tiếng trong các cuộc thi thể thao ở làng. Nhất là về chạy dài, nhảy cao bơi lội. Có một thời khi anh đang ở quân đội, trong một trận đánh giáp lá cà, người ta từng tận mắt thấy anh quật ngã hai tên lính Mỹ bằng hai bàn tay cứng như thép của mình. Sau chiến tranh, Thục phục viên. Mọi người đều cam đoan rằng thời gian về làng anh có gầy đi chút ít, có lẽ cũng là do điều kiện kinh tế, điều kiện sinh hoạt không được thuận lợi và nhất là do những biến động sâu sắc trong gia đình. Bố mẹ anh đã mất khi anh đang trên đường từ Nam ra Bắc. Và ngay cả đối với người yêu của anh, cô ấy đã cưới chồng vào chính cái ngày anh khoác ba lô về đến đầu làng. Tất cả những điều đó đã làm Thục buồn đau. Cái tâm hồn vốn rất vui nhộn ngày xưa của anh bỗng trở nên xơ cứng. Nhưng Thục vấn phải sống. Anh là một thanh niên có năng lực, như mọi người đều nhận xét về anh. Tuy vậy, hoàn cảnh cũng có làm cho tính nết của anh đôi khi trở nên khác thường. Người ta thấy Thục có lần ngơ ngẩn, nghe chuyện người khác đang nói với mình mà như không nghe gì. Thậm chí bất chợt anh nổi nóng. Đôi khi anh trầm ngâm, ngồi lặng hàng giờ liền và nước mắt cứ ứa ra.

Nhìn chung, Thục vẫn là người đứng đắn và chuẩn mực ở làng Đợi. Chính vì thế mà anh đã làm bí thư chi bộ đến hai nhiệm kỳ.

Có một việc Thục đã làm xôn xao dư luận không chỉ ở làng Đợi mà tiếng đồn lan sang khắp các khu vực lân cận. Đó là việc anh cho xây dựng một dãy nhà cấp cho những người đàn bà chết chồng, những vợ liệt sĩ, những cô gái từng là thanh niên xung phong, bộ đội, khi trở về chưa lấy được chồng. Thực ra, lúc đầu Thục có kế hoạch xây cho mỗi người vài gian nhà nho nhỏ trên một mảnh đất trước kia là sân kho hợp tác xã. Nhưng có lẽ do nguyên vật liệu đủ mà những người trực tiếp thi hành kế hoạch đã xây hai cái nhà dài quay mặt vào nhau như hai cái lán của các cô gái làm đường Trường Sơn năm xưa. Trong nhà, người ta kê cho mỗi cô một cái giường cá nhân và một cái tủ nho nhỏ. Những ngày đầu, những người "hết duyên" về đây sống với nhau như chị em cùng một gia đình. Có lẽ cũng vì họ có cùng một hoàn cảnh. Nhưng một hôm có vài người đàn ông không biết từ đâu đã đến hai ngôi nhà này. Thế là một cuộc ghen tị, tranh giành ngấm ngầm diễn ra ở ngay đêm đầu và bùng nổ vào những đêm sau. Thật là một cuộc cãi lộn ầm ĩ... có người phản ánh lên huyện, huyện phê phán Thục là đã dung túng cho những trò quái gở, và bắt anh phải dẹp hai dãy nhà ấy đi nhưng anh không chịu. Mấy hôm sau, anh cho nhân viên của mình đi mua cót về thưng, chia từng gian nhà và cứ vài người được chia một gian nhà nhỏ. Chuyện này có người ở làng Đợi có một vụ cấp cứu. Bệnh nhân là một người đàn bà tuổi cao. Chị sinh lần đầu và lại không chồng. Người ta quyết định mổ cho chị để mong cứu cả mẹ lẫn con. Không ngờ chị lại băng huyết, mất nhiều máu. Bấy giờ máu khô ở trạm y tế không để truyền cho bệnh nhân, các thày thuốc yêu cầu tiếp máu tươi. Lúc này ở đây rất đông người, nhưng chủ yếu là họ đến xem đứa con của người đàn bà không chồng là con ai, chứ không phải đến để giúp đỡ chị ta, cho nên đến giờ phút cần thiết phải tiếp máu họ đều lỉnh đi cả - Cuối cùng Thục là người duy nhất cho máu. Chuyện này sau cùng cũng trở thành "truyện cười" của làng Đợi.

Làng Đợi luôn luôn có "truyện cười". Chẳng hạn, cô Thuần, một cô gái vốn rất xinh đẹp, nhưng vì đi bộ đội mà bị thương, má cô có một cái sẹo to trông như một cái bánh rán dán vào. Những người như mụ Hoạch quen gọi là "Thuần bánh rán" để mà cười vui. Hoặc như cô Thìn, cô gái hăng hái nhất trong đám thanh niên "ba sẵn sàng", lúc xuất ngũ thì một cái tai của cô bị chẻ đôi bởi một mảnh bom, người ta liền gọi cô là "Thìn ba tai". Ngay cả chị Thu, hội trưởng phụ nữ xã trong những ngày đầu chiến tranh, chị là khẩu đội trưởng khẩu đội 12 ly 7 chốt ở đầu làng. Sau năm trận đánh, chị bị cụt một nửa chân bên phải, bây giờ chị phải mang nạng. Vậy mà những kẻ thích đùa ở làng Đợi vẫn gọi chị là "Thu ba cẳng". Chả biết những người thường nghĩ ra những trò đùa kiểu ấy để tạo nên những trận cười thì họ có ác ý gì không, nhưng đối với cô Liên thật quả là một chuyện buồn nẫu ruột. Bởi cái lần đầu tiên người yêu Liên đến làng Đợi, anh có hỏi thăm tới nhà cô, nhưng lại gặp ngay phải mụ Hoạch, mụ bảo: "à, "Liên đàn ông" đấy hả?". Chỉ vì thế mà sau lần đó, người ta không thấy người con trai đó đến làng Đợi nữa.

Mấy năm nay những cô gái không lập được gia đình ở lang Đợi bỗng trở nên trái tính, trái nết. Ngay cái cô "Liên đàn ông" ấy, mỗi ngày lại càng như đang trở thành "đàn ông" hơn. Hình như Liên đã mất hẳn những "chu kỳ sinh lý" của phụ nữ. Chính cô cũng đã thổ lộ với bạn bè rằng đã nhiều năm cô không bao giờ phải dùng đến vải màn, bông băng. Nghĩa là cô đã trở nên sạch sẽ như đàn ông, không có tháng nào Liên phải chuẩn bị cho ngày "bệnh" như những chị em khác. Người ta bảo cô bị ảnh hưởng chất độc mầu da cam, có lấy chồng cũng không thể sinh con được. Chả biết điều đó có đúng không? Nhưng quả thật ở thời gian chiến tranh của Liên cũng hơn mười năm.

Riêng "Thìn ba tai" thì tính nết lại sinh động hẳn lên, miệng cô lúc nào cũng bô bô tán tỉnh cánh đàn ông. Nghe nói cô đang tấn công anh chàng cắm xăm ngoài bờ sông, "Thìn ba tai" đã mang anh về nhà mình được mấy đêm rồi.

Còn chị Thu lại trở nên trầm ngâm một cách kỳ lạ, hàng ngày chị rất ít nói. Có khi chị ngồi lặng lẽ rất lâu rồi bất giác chợt giơ cái nạng gỗ nhứ nhứ lên trời như cánh tay chỉ huy bắn máy bay năm xưa.

Nhất là "Thuần bánh rán". Hàng ngày cô đi lang thang khắp làng, cô đi khắp rừng phi lao, miệng nói lẩm bẩm rồi hát. Đó là những bài hát xa xưa, trong những năm chiến tranh... Một hôm, cô bỗng ôm chầm lấy một người đàn ông lạ mặt. Cô cứ ghì chặt anh ta vào lòng làm anh chàng hoảng hồn. Vì thế làng Đợi mỗi ngày càng có thêm nhiều "truyện cười ".

Cách đây mấy hôm, Có một chuyện khá kỳ lạ xẩy ra tại văn phòng uỷ ban xã đã làm cho bí thư Thục và ông chủ tịch trở nên bất đồng. Số là chị Thanh, vợ một liệt sĩ chưa có con. Lâu nay vẫn giúp việc ở văn phòng. Hôm đó vào buổi sáng chị đang quét nhà thì dừng lại, không hiểu sao chị uằn người, run bắn lên,tia mắt man dại nhìn xoáy vào ông khách, mặt đỏ lựng, bần thần. Mấy ông uỷ ban phát hoảng. Anh ta đi gọi người lại, họ đứng sau cửa sổ để chứng kiến cái cảnh tượng "động hớn" lạ đời ấy. Hôm sau, ông chủ tịch bàn với Thục nên cho chị Thanh nghỉ việc:

- Cứ cái đà này thì có ngày cả ông và tôi đều mang tiếng.

Thục im lặng. Đột nhiên nước mắt anh ứa ra. Hồi lâu, anh nói, giọng nghẹn lại:

- Ông nói rất đúng, ông có quyền quyết định việc đó. Nhưng tôi cảm thấy chúng ta thật độc ác...

- Hả...

-Ông chủ tịch kinh ngạc.

- Anh lại dung túng cho những hiện tượng sẽ dẫn đến các trò nhảm nhí, bậy bạ phải không ?

Và hai người đều đập bàn. Mấy cái cốc trên bàn rơi xuống nền nhà. Chiều hôm đó ông chủ tịch bảo người quản lý văn phòng :

- Nhặt xem cái nào vỡ đôi thì tìm keo gắn nó lại. Cái nào vỡ tan thì lập biên bản bắt đền bí thư. Chính anh ta gạt mấy cái cốc đó.

Bấy giờ ở làng Đợi, những người đàn bà ở lớn tuổi biết mình không lấy được chồng đã rồi bỏ những căn phòng trong dãy nhà ngói của xã để ra đầu rừng phi lao cạnh cửa lạch Sú làm những túp lều con con và ở đó. Nghe nói, hai bên bờ lạch sắp có một con đò nhỏ để người ta qua lại giao lưu chợ búa. Ông chủ tịch định cho dân quân ra lùa những người đàn bà này trở lại dãy nhà ngói của xã để đảm bảo chính sách đãi ngộ bởi vì trong số những người đàn bà ấy, số đông vẫn là bộ đội, thanh niên xung phong năm xưa. Việc này ông chủ tịch cũng bị bí thư Thục phản đối.

Sau những cuộc đụng độ cãi vã ấy, một hôm Thục lên huyện, xin trả thẻ Đảng rồi biến đâu mất. Mấy tháng sau, những túp lều ở của lạch sú đầu rừng phi lao làng Đợi mỗi ngày một đông thêm, và nó đã có tên là xóm Côi: Trong xóm Côi đã có một người đàn bà một người đàn bà đẻ ra một đứa con trai ngoài giá thú, đứa con trai đẹp như chúa Hài Đồng. ít lâu sau, lại thêm vài chị mang bầu, người ta mở một cuộc điều tra nổi. Đêm đến, xóm Côi lại có bóng người xuất hiện. Ai cũng bảo đấy là bóng ma từ biển vào hoặc là hồn của những người chết trận trở về với vợ các liệt sĩ. Có người cam đoan rằng đã nhìn thấy Thục bước ra từ trong một túp lều giữa xóm Côi lúc nửa đêm. Nhưng dân làng Đợi không tin. Không thể nào tin được, bởi nếu Thục muốn lấy vợ, sẽ có một cô gái trẻ đẹp ngay giữa làng này đến với anh. Hơn nữa, Thục chưa bao giờ có chuyện gọi là lăng nhăng ấy.

Một đêm Uỷ ban xã bố trí cho dân quân mai phục quanh xóm Côi. Lúc bóng người ở biển vào thì họ để xổng. Khi thấy có bóng người cao to lao ra biển thì họ hô to đuổi theo. Nhưng cái bóng ấy bơi ra rất xa. Đêm đó là một đêm sóng to, gió lớn. Ngày hôm sau người ta thấy một xác người trôi vào bờ. Đó là Thục. Dân làng Đợi kinh ngạc. Sau đó là những chuyện bàn tán xôn xao.

Và nhiều người cả đến mụ Hoạch, đã khóc lặng trong đám tang của anh.

Suốt nhiều ngày đêm, người ta nghe trong những túp lều ở xóm Côi vọng lên tiếng khóc . Không phải tiếng khóc của một người đàn bà, mà của gần như tất cả đàn bà ở xóm Côi.

Ngày ấy biển gào lên rồi lại im lặng.

Làng "Chí Phèo "

Tôi không hư cấu câu chuyện này thành tiểu thuyết, bởi chính bản thân nó cũng đủ làm nên những bi kịch của ngôi làng này. Ở đó, người gánh chịu nặng nề là các em tôi, bạn bè tôi đã được sinh ra và lớn lên, là những người mẹ, người chị ngày ngày phải cắm mặt vào đất nhẫn nhịn, bị dẫm nát tuổi thanh xuân. Tôi kể hoàn toàn những sự thật về những gì tôi đã thấy, đã hứng chịu bằng cách liệt kê. Tôi bất lực trước những nổi đau, nỗi đau thể xác chỉ là một ngày một bữa, nhưng nỗi đau tinh thần giằng xé, đè nặng lên những con người ấy, mà có người đã chết vì uất ức phải tự tử, có kẻ tù tội. Họ cam chịu với trò đùa số phận và hoạch định cuộc đời mình theo lời phán của những ông thầy tướng số. Hạnh phúc là một từ xa xỉ đối với họ.

1.

Đứng ở đồi thông đầu làng sẽ nhìn thấy rõ con đường đất uốn quanh dẫn vào một ngôi làng nằm lọt thỏm giữa những màu xanh bát ngát của cây rừng. Ở đó, có khoảng một trăm ngôi nhà, có một ngôi trường cấp một với 6 phòng học, có một cái chợ, nhóm hàng ngày vào buổi sáng sớm, có vài tiệm tạp hóa. Như bao nhiêu ngôi làng khác của Tây Nguyên, nghề nghiệp chính của họ vẫn là nương rẫy, là cà phê, cao su...

Nhà Duy có bốn anh em, nhưng chỉ có hai mẫu rẫy cà phê, tiền thu không đủ trang trải chi phí cho anh em Duy đi học, mẹ phải nấu thêm lò rượu. Từ đó, làng này thêm một nghề nữa là nghề nấu rượu và nuôi heo. Nấu rượu thì tất nhiên sẽ có nuôi heo, vì bã hèm khi đã cất rượu xong thì trộn cho heo ăn, chúng ăn thứ đó rất bổ và nhanh lớn, không phải tốn thức ăn cho heo nên thường lãi khá cao. Nhờ đó mà gia đình Duy khấm khá dần, mẹ không phải cằn nhằn chạy vạy từng bữa cơm hàng ngày nữa, anh em Duy dễ dàng có áo mới mặc đến trường.

Đầu ra chủ yếu của lò rượu nhà Duy là các tiệm tạp hóa trong làng, từ ngày nhà Duy nấu, các dì chủ các tiệm này không phải cực khổ sang các làng khác hoặc vào thị trấn để lấy rượu về bán. Những tháng cần phải chi tiên nhiều, mỗi ngày má phải dậy đốt lò sớm hơn, để kịp thời gian nấu hai nồi rượu, để số lượng rượu mỗi ngày được tăng gấp đôi, ba đem hàng đến những buôn khác của dân tộc để bán. Duy cũng thường được ba đèo trên chiếc xe đạp để vào buôn với mình, từ đó Duy cũng biết người dân tộc cũng thân thiện không đến nỗi độc ác hay man rợ như cái vẻ bề ngoài họ thể hiện và nghe người lớn kể, mà thật ra hồi ấy bọn nhóc con của Duy nghịch ngợm đủ trò, người lớn chỉ bày ra để kể thì ít mà hù thì nhiều. Đứa nào nghịch thì bị nhát là đem cho dân tộc, đứa nào đen đúa xấu xí quá bị ghẹo là con của dân tộc thế nào cũng lăn ra mà khóc bù lu bù loa.

Năm đó Duy chín tuổi. Cái tuổi thấy cuộc đời qua những trò chơi, thấy ngôi làng của mình từ trên đồi thông đầu làng. Hồi ấy, làng Duy chưa có điện. Ngọn đen dầu tù mù, đường đen kịt. Duy là con trai nhưng là đứa sợ ma nhất làng, sợ hơn cả con gái, nên nó thường là đích ngắm của bọn con nít trong xóm mỗi khi đêm về, nhất là những đêm trăng còn khuyết, ánh sáng lờ mờ không nhận ra rõ hình người. Duy không hiểu vì sao mình sợ ma, có lẽ nó bắt đầu từ những câu chuyện của ba, những câu chuyện rùng mình mà ba hay kể vào ban đêm cho những người bạn của mình, nó ngồi kế bên nghe lén. Hồi Duy chín tuổi, xung quanh làng của Duy còn nhiều rừng rậm, chuyện về ma lai rút ruột đi ăn thịt người vào ban đêm làm cho nó luôn sợ hãi. Nó tưởng tượng ra những chiếc đầu người mang theo nào là ruột gan phèo phổi bay lửng lờ trên những ngọn cây, những con ma lai đó hút máu người nào thì người bị hút máu đó không chết nhưng cũng biến thành ma lai như nó. Những con ma lai này ban ngày là một người bình thường như bao người khác, chỉ thành ma vào ban đêm. Nếu người trong gia đình phát hiện ai đó trong nhà mình là ma lai thì canh lúc nó rút ruột đi ăn ban đêm, lật nghiêng cái mình nó lại để nó không thể nhập vào xác, nó than khóc ngoài cửa và mặt trời lên sẽ chết. Không biết chuyện này bắt đầu từ cái gì, từ ai, nhưng qua mỗi người kể nó ly kì một kiểu khác nhau.

Trước cổng nhà Duy có cây gòn, loại cây mà người ta lấy ruột của trái nó ra làm gối ngủ. Lúc nhỏ, tụi nó hay chẻ trái gòn ra và cho bông bay tứ tung trong gió, thích thú. Rồi từ ngày nó nghe người ta kể ma hay ở trên ngọn các loại cây cao như cây gòn, thì ban đêm nó đóng chặt luôn cửa trước để mắt không nhìn ra hướng ngõ nữa. Đồn rằng trên những chạc ba của các cây cổ thụ, thường có những oan hồn của phụ nữ ru con, họ chết do bị ruồng bỏ rồi tự tử, hoặc bị đánh đập cho tới chết, đều là những người sống quanh đó. Có người bạn của ba khẳng định chắc nịch là bà Tư bán tạp hóa kể lại rằng chính bà đã thất kinh hồn vía khi tờ mờ sáng đi chợ, đến cây cổ thụ đầu làng, có người phụ nữ gửi tiền nhờ mua dùm hộp sữa cho con và xị rượu đế cho chồng. Nhưng đến chợ thì bà mói tá hỏa khi nhận ra tiền trên tay mình là tiền...âm phủ. Khi bà về ngang đầu làng thì không thấy ai, cũng không thấy ngôi nhà nào như lúc sáng, rồi nghe có người bảo nửa đêm thường nghe tiếng trẻ con khóc và tiếng ru con phát ra từ gốc cây.

Duy tin những điều đó vì khi mặt trời bắt đầu lặn, thì những cành cây bên ngoài đong đưa như những cánh tay đưa võng cho trẻ con.

Đến khi Duy mười chín tuổi, Duy mới hiểu được những câu chuyện người ta hay kể cho nhau ngày xưa chỉ để giải khuây trong lúc rỗi rãi, mà không có chuyện nào hấp dẫn bằng chuyện ấy cả. Không hề có con ma lai nào, cũng như không thể có oan hồn nào hiện về thành người nữa. Tất cả chỉ là thêu dệt nhưng làm cả quãng đời tuổi thơ Duy là sự hãi hùng bóng đêm. Thậm chí, khi ngủ chung với em trai mình, thỉnh thoảng nửa đêm nó quay sang sờ xem em mình có còn đầy đủ đầu mình tay chân không? Hay đã "rút ruột" đi ăn đêm rồi?

Hồi ấy, mẹ thường có việc phải ra ngoài vào ban đêm, vì ban ngày lo việc trong nhà tối mặt tối mũi, đêm mẹ đến nhà bà Tư kêu chở gạo qua, mua men, hoặc mua bất cứ gì mà ban ngày mẹ thấy thiếu không còn để làm. Trời tối như mực, mẹ hay kêu Duy đi cùng. Duy cầm đèn pin soi đường, không bao giờ Duy dám đi tụt lại đàng sau mẹ, vì sợ có ai đó níu từ phía sau.

Tối nay, Duy theo mẹ sang nhà dì Tư mua dầu thắp. Cầm chiếc đen pin soi thẳng con đường mòn, mẹ vừa đi vừa cầm cây khua hai bên vệ cỏ cho rắn rít đi hết. Bỗng chiếc đèn pin pha lướt qua một vật gì chuyển động, bò lồm cồm trước mặt, nó hét lên, đánh rơi cây đèn pin và níu lấy chân mẹ. Mẹ lượm đen pin lên vào soi kỹ vào vật đang chắn ngang đường đi thì thấy ông Thạch, ba của Như. Ông say khướt đang lếch về nhà.

2.

Trong làng có Như con của ông Thạch là thân với Duy nhất, nó cùng học lớp với Duy từ lúc mẫu giáo, nó là con gái nhưng lại không sợ ma, nó là đứa thường vạch mặt chỉ tên đứa nào dám làm ma nhát Duy. Duy thấy phục con Như lắm, riêng về lĩnh vực này thì Như là một anh hùng trong mắt nó.

Có lần Duy hỏi:

- Như không tin có ma à?

- Không biết, nhưng làng mình thì không có

- Sao Như chắc vậy được?

- Chắc! Vì nếu có đã bắt ba Như đi rồi. Có ngày nào ba Như về nhà trước mười giờ tối đâu.

Mà cũng phải, ngày nào ba Như cũng khật khà khật khưỡng đi về lúc nửa đêm, té lăn lóc ngoài đường, có lúc nằm ngủ luôn, rôi tỉnh dậy đi tiếp, có ma nào bắt đâu. Duy nghe tiếng Như cười chua chát:

- Ông ấy cũng có một con ma theo bảo vệ và dẫn đường rồi, nên không có ma nào dám bắt, Duy biết ma gì không? Ma men đó.

Duy nhớ đến những lần Như đi học bầm một bên mắt, hay tay chân bầm tím, tứa máu. Hỏi tại sao thì Như chỉ trả lơi tỉnh queo "ma bắt". Lúc chín tuổi, tất nhiên Duy tin thật, nhưng mười chín tuổi thì Duy biết quá rõ, tuổi thơ của Như đã bị con "ma men" ám ảnh, trực tiếp trên cơ thể này, chứ không phải trong tâm trí trẻ con của Duy nữa. Sau này Duy mới hiểu vì sao Như hay bảo Duy rằng "không có con ma nào mình không nhìn thấy nó mà đáng sợ cả!".

Có lần Như bảo phải chi đừng có ai nấu rượu, đừng ai bán rượu thì nhà nó đâu có khổ vầy. Duy chạnh lòng, đâu phải lỗi ở gia đình Duy, những gia đình nấu rượu, nhà Duy nấu rượu nhưng ba Duy đâu có uống, thỉnh thoảng ông chỉ uống một tí, có bao giờ say mèm như thế đâu? Nếu nhà Duy không nấu, những người như ba Như cũng sẽ có rượu uống, bằng chứng là mấy dì bán tạp hoá lại phải vào tận thị trấn hoặc qua làng khác mà mua về bán.

Nhà ông Thạch có đến 8 người con, 3 trai và 5 gái. Sau này, tất cả những nghiên cứu khoa học cho rằng rượu bia có tác hại đến sức khoẻ con người trong đó có chuyện dẫn đến vô sinh, Duy đều bác bỏ. Bằng chứng là ông ấy uống rượu trong suốt từ năm 20 tuổi đến giờ, 8 đứa con ra đời không thể nói ông ấy vô sinh. Còn chuyện vợ ông ngoại tình có con với người khác càng không. Vợ ông là người đàn bà nhẫn nhịn, cắm mặt vào đất, bàn tay bàn chân tứa máu để có tiền cho 10 miệng ăn và một miệng nhậu. Cả đời người không có chút thời gian rảnh rỗi cho riêng mình, chưa có ngày nào mặc trên mình bộ quần áo mới thì làm sao ngoại tình được. Vợ ông cũng như những người đàn bà của làng này, có ai hư thân hay đua đòi. Có lúc Duy nghĩ những người như mẹ của Như phải chi biết sống cho mình thì đỡ bi kịch hơn không?

Như là đứa con thứ tư trong nhà, trên Như có hai anh và một chị. Năm Như mười lăm tuổi, hai người anh của Như đều đi làm ăn xa, chị Như đã lấy chồng. Như cũng mong đến ngày mình đủ mười tám tuổi, như tất cả các thành viên khác của gia đình, mong đủ tuổi để ra đi, xa ngôi nhà "ma ám" này.

Như may mắn hơn những anh chị của mình là được học hết cấp ba và đậu cả đại học.

Ngày nhận giấy báo trúng tuyển đại học, Như mừng rơn đem sang khoe với Duy, ngay lúc Duy nhận được tin mình trượt đại học. Như an ủi Duy:

- Duy rớt thì năm sau thi lại, mình phải đậu để rơi xa ngôi nhà của mình, tờ giấy báo trúng tuyển này đã giúp mình bay đi, bay đi Duy biết không? Mừng cho mình đi, còn Duy, Duy không cần đến nó bằng mình đâu, vì Duy có một gia đình hạnh phúc.

Như nói, không cho Duy nói, Duy cũng không có quyền buồn trong lúc này. Vì niềm vui của Như lấn át hết rồi, một niềm vui hồn nhiên còn sót lại sau một tuổi thơ gian truân.

Nhà Như còn lại sáu người, ba mẹ và bốn đứa nhỏ, bốn đứa chưa đủ tuổi để bay như anh chị nó. Nhưng đến một ngày chúng cũng sẽ đi, chỉ còn mẹ Như ở lại, người đàn bà mấy mươi năm ban ngày sống bán thân mình cho rẫy rừng, cho cơm áo, ban đêm chịu những đòn roi của người chồng độc ác.

Ông đánh bà với bất cứ lý do gì, thậm chí những đứa con đi xa điện thoại về hỏi thăm bà mà không gọi cho ông, ông cũng đánh bà, lúc đánh thì luôn miệng hỏi:

- Nhà này mày là chủ hay tao là chủ?

- Mẹ con mày mưu mô lấy cái gì trong nhà này đi hết phải không?

- Lúc nào cũng mẹ con mày với nhau thôi, tao không là gì hết hả? hả? hả?

Sau đó là tiếng roi quất, tiếng đấm đá bịch bịch hự hự, tiếng bát chén vỡ tang hoang, tiếng long bong của nồi niêu xoong chảo, tiếng khóc thét của những đứa trẻ. Khi những đứa nhỏ này đủ lớn, đủ lớn để chấp nhận những chuyện này là chuyện bình thường của gia đình thì chúng không khóc nữa, chúng trân trân đứng nhìn, nhìn hiên ngang.

Rồi cũng có một ngày, thằng con trai nhỏ nhất trong nhà đủ mười tám tuổi, ngày cha nó say lướt khướt về nhà, cất giọng lè nhè:

- Bà à, mẹ tụi bây đâu, chết hết rồi à...

Thì nó không cho phép mẹ cho nó đỡ ba nó vào nhà nữa, nó bắt mẹ ngồi im. Tự nó ra đưa ông vào. Ông hất nó ra, nhưng làm sao sức của một ông già say xỉn bằng sức của một thanh niên mười tám. Nó khóa trái hai tay cha nó lại, cột luôn hai chân, rồi bế cha nó quăng lên giường. Ông chửi:

- Mày dám trói cha mày à, ngon ha, con bất hiếu, bất hiếu.

Nó câm lặng không nói gì, bảo mẹ nếu thấy điếc tai quá thì nhét nùi giẻ vào miệng ông ấy là xong. Người mẹ trừng trừng nhìn con rồi khóc:

- Con làm thế với cha con à? Được à con?

- Mẹ làm sao vậy? Mấy chục năm mẹ chịu hành hạ chưa đủ hay sao? Ngưng một đêm không được hả mẹ? Đêm nay thôi, ngày mai khi con đi rồi, mẹ hãy thả ông ấy ra.

- Con à, mày học cái thói đánh lại cha từ khi nào thế hả?

- Ông ấy không xứng đáng là cha con, mẹ để con yên. Mai con sẽ đi, như anh chị của con. Đi và không bao giờ về nữa! Mẹ biết không? - Nó hét lên, hét lớn hơn cả cha nó. Mấy đứa nhỏ lại khóc ré lên. Mẹ nó gục mặt xuống bàn, khóc tức tưởi.

Duy viết thư cho Như kể chuyện ở nhà. Như bảo lần sau những chuyện ấy Duy đừng kể nữa, Như quen rồi, ngày nào mà Như chả thấy. Như bảo nếu có kể, Duy kể về đồi thông đi, dạo này đứng từ đồi thông, Duy có thấy làng mình khác đi không?

Duy chẳng thấy nó khác đi tí nào hết, vẫn thế, vẫn chừng trăm nóc nhà, vẫn một ngôi trường cấp một và một cái chợ. Chiều chiều khói vẫn tỏa trên những nóc nhà, quyện trong sương và trong những tán cây rừng. Rừng vẫn xanh, làng vẫn nghèo như thế. Không khác gì. Chỉ có vào một ngày...

3.

Bà Năm, nhà ở đầu làng, ngôi nhà rộn ràng người ra vào bỗng vắng như nhà từ đường ngay sau ngày anh Minh, con bà Năm chết.

Anh Minh chết vì tai nạn giao thông! Tin này làm nhốn nháo cả làng. Ai cũng thương cảm rằng cái thằng đó hiền lành, chịu làm ăn, vợ đẹp con ngoan, sao lại chết trẻ? Chết oan? Ngàn đổ xuống như cây chuối trong bão, đứa con khát sữa ngằn ngặt khóc trong tay.

Bà Năm có chồng là lính ngụy bị bắn chết năm 1974, lúc đó anh Minh con bà tròn hai tuổi. Bà sống bằng đủ thứ nghề, rồi lưu lạc về ngôi làng này đâu khoảng năm tám lăm, năm đó Duy được mười hay mười một tuổi, Duy nhớ không rõ lắm. 

Khi anh Minh hai mươi lăm tuổi thì anh cưới vợ, vợ anh là Ngàn, là một trong những đứa bạn của Duy, năm ấy Ngàn cũng hăm ba. Ở cái làng heo hút này mà ở tuổi Ngàn thì cũng đã thuộc gái lỡ thì. Ngàn xinh, hiền lành nhưng chỉ có mỗi tội là Ngàn tuổi dần. Theo mấy thầy tướng số thì con gái tuổi dần có số "sát chồng", nên quen mấy người đều bị gia đình người ta phản đối, cho tới khi quen anh Minh. Bà Năm cũng phản đối dữ lắm, nhưng anh Minh yêu Ngàn và không tin vào những điều mê tín dị đoan nên anh quyết cưới. Ai ngờ vận đen lại vướng vào Ngàn, anh Minh có tật hay nhậu bù khú với bạn bè sau giờ làm việc, Ngàn khuyên can mãi mà không được. Rồi hôm ấy chỉ vì quá chén, anh chạy xe về nhà, qua đường mà không bật đèn ra hiệu, một chiếc xe chạy cùng chiều đâm sầm vào anh từ phía sau, anh chết ngay tại chỗ. 

Đứa con mới được hai tháng tuổi, khóc ngằn ngặt đòi sữa, Ngàn rũ người bên quan tài chồng. Anh Minh chết, mẹ chồng đổ tội cho Ngàn, vì Ngàn tuổi dần.

Nhưng có một điều sao không ai chịu hiểu là anh đã say xỉn khi lái xe và chạy sai luật giao thông? Ở cái làng này, luật giao thông là một thứ gi đó của chính phủ, của nhà nước chứ không liên quan đến họ. Cuộc đơi họ gần với những ông thầy tướng số hơn.

Sau đám tang chưa tròn một tuần, Ngàn bị bà Năm đuổi thẳng về nhà mẹ ruột sống. Vì tội đã dám dụ dỗ và giết con trai bà, bà đã dùng tất cả những từ ngữ nặng nề để đay nghiến Ngàn.

Ngàn không còn cách nào khác, mẹ ruột Ngàn cũng giận dữ trước những gì mà gia đình chồng của con gái bà đối xử tệ bạc với nó. Hơn ai hết, bà nghĩ rằng mẹ chồng Ngàn phải hiểu nỗi đau mất chồng lớn như thế nào, đàng này lại giáng thêm xuống con gái bà một nỗi đau, một nỗi nhục không gì bù đắp nổi.

Bà Năm sống một mình, trơ trọi, bà làm bạn với rượu. Bà không còn bước ra khỏi nhà nữa. Bà bảo bà uống cho đến chết thì thôi, nhưng uống rượu dễ gì chết nhanh như thuốc độc được. Nên bà vẫn sống, sống dày vò và khổ sở trong sự cô đơn, những người xung quanh không ai dám đến gần bà.

Rồi không lâu sau, Ngàn lại mặc thêm một lần áo tang nữa, áo tang cho mẹ chồng. Bà Năm chết cong queo dưới đất, xung quanh là chai rượu và ngổn ngang chén bát. Người ta phải mua gần hai mươi lít rượu để tắm cho chân tay bà duỗi thẳng ra.

Rượu, lại rượu. Như hỏi Duy có khi nào mai đây Duy cũng là một người đàn ông nghiện rượu, lại đánh đập vợ con và sống hiến xác cho ma men? Duy nghe xót lòng, niềm tin của Như mất hẳn vào những người đàn ông, cho nên tuổi này Như vẫn sống như thế, không yêu ai cả, không dám tin tưởng trao cuộc đời mình cho ai.

Có lần mẹ Như đã khuyên "con à, chuyện lập gia đình theo một quy luật tự nhiên, con không thể sống khác được, sự lựa chọn của con người chỉ có giới hạn, còn số phận mình do ông trời quyết định". Như không thể sống như mẹ, Như phải sống khác, những người đàn ông trong làng Như phải khác. Như hỏi Duy có cách nào đưa cái "văn hóa" trong chuyện uống rượu này về ngôi làng mình không? Để họ biết sống cho người khác, biết dừng lại đúng lúc và chừng mực trong bàn nhậu. Nhưng Duy biết bắt đầu từ đâu? Từ đâu hả Như?

Duy nhớ ông nội quá, ông hiền lành, phúc hậu. Ông cũng rất thích uống rượu, ông uống không nhiều, mỗi chiều ông chỉ uống một ly nho nhỏ để ăn cơm cho ngon miệng. Hôm nào ông thèm, uống đến ly thứ ba là ông say. Khi ông say, ông ôm hết nhưng đứa cháu mà hôn, ông lấy kẹo cho ăn, thậm chí bạn của Duy hay em Duy tới chơi ông cũng nựng nịu như cháu ông vậy. Duy rất thích lúc ông say, nhưng ông bị huyết áp nên bác sĩ không cho uống nhiều nữa. Vì thế mỗi chiều ba chỉ cho uống một ly nhỏ thôi và dặn anh em Duy đừng để ông nội uống ly thứ hai. Nhưng thỉnh thoảng anh em Duy ham chơi, thế nào ông cũng rót ly thứ hai thứ ba. Rồi thế nào anh em Duy cũng nghe lại cái điệp khúc "cha à, con không tiếc một ly rượu nhưng bác sĩ không cho cha uống nhiều, cha uống một ly là vừa rồi đừng uống thêm nữa". Ông gật đâu, hiền lành, như biết lỗi...

Rồi ông mất.

Sau này cha Duy cũng vậy, chiều chiều là uống một ly nhỏ trước bữa ăn. Má hay ghẹo ba "mai mốt già như ông nội, thằng Duy chiều chiều cũng dặn con tụi nó canh chừng đừng để ông nội rót ly thứ hai, rồi nó nói y chang mấy câu anh nói với ông nội tụi nó". Ba lại cười, cái cười hiền lành của ông nội.

Chiều chiều, Duy lên đồi thông, nhìn uống làng xem có gì mới không để kể cho Như nghe. "Cuộc sống ở đó vẫn tiếp diễn như mọi ngày. Như biết không, Duy thấy nhớ Như lắm, tuổi thơ bọn mình trôi qua ở đây, những ký ức còn lại là sự hãi hùng và nỗi đau thân xác. Đôi khi Duy lo sợ cho Như, liệu quê người có dung dưỡng cho Như không? Liệu sau khi không còn miềm tin vào ai Như có sống được với cộng đồng xung quanh không?

Khi đến tuổi này, Duy mới nhận ra hình như trái tim của Duy đã gửi đi tận phương trời nào rồi? Hạnh phúc của Như, nỗi đau của Như lúc nào cũng làm tim Duy nhói lên một nỗi niềm khó tả. Duy làm gì đây, làm gì để đưa Như về gần hơn? trong khi trách nhiệm gia đình không cho phép Duy ra đi thì Như đã bỏ nơi này như chạy trốn. Chạy trốn một cuộc đời nghiệt ngã, Như ơi.

4.

Chiều nay, lúc đang thơ thẩn đi về phía đầu làng, Duy thấy nhiều người hớt hơ hớt hải chạy vào chạy ra nhà Tư Quắn. Duy dừng lại nghe ngóng và hỏi thăm thì người ta bảo ông Tư Quắn đã giết chết vợ ông rồi, đang nằm trong vũng máu trong nhà. Người đã đã gọi công an, còn ông đã bỏ trốn đâu đó.

Một cảnh tượng hãi hùng đang hiện ra trước mắt Duy, bà Tư Quắn đang nằm trên vũng máu dưới sàn nhà, một chân nằm dưới đất, chân còn lại vắt trên giường. Gương mặt không còn nhận ra bà nữa, hai đường chém ngang mặt, một con mắt bị rơi ra ngoài, đầu bị chẻ ngang một đường giữa trán. Chứng tỏ ông Tư đã cố ý giết bà chứ không phải là những trận đòn trong lúc ông say như trước đây nữa. Trên bàn thờ, di ảnh đứa con gái nhìn xuống gia đình với ánh mắt thất thần, vô hồn, vô cảm. Nó nhìn mẹ một cách bình thản, có lẽ nó đã mong có ngày này lắm, để nổi đau mẹ không phải chịu dai dẳng nữa.

Ông an xã đến, lập biên bản, chụp hình, vẽ vẽ gì xuống nền nhà rồi đi, yêu cầu người nhà mai táng nạn nhân. Hai đứa con trai, cháu nội còn bi bô và đứa con dâu chân đứng như chôn trước thi hài của mẹ.

Ông Tư Quắn nổi tiếng là người sành nhậu ở làng, ông có thể ăn thịt cầy và đi săn bất cứ con thú nào trong rừng về nhậu. Nhưng trong làng không ai dám ngồi nhậu với ông. Vì ngồi chung, thế nào tới khi tàn cuộc thì cũng xuất hiện dao búa và đánh nhau. Vì thế, ông nhậu một mình hoặc sang các làng khác nhậu. Ông nhậu không nhiều, chừng một lần một tuần. Nhưng khi uống xong thì vợ con ông phải cuốn chiếu mềm mùng trốn ra rẫy ngủ. Ngủ lăn lết dưới đất, ngủ trong sương lạnh buốt. Nếu để ông nhìn thấy ai trong nhà thế nào ông cũng hành hạ dã man, ông bắt quỳ sắp hàng trước mặt ông và ông đánh. Ông tát trên mặt, đấm trên ngực hay đạp từ phía sau cho chúi nhụi. Không ai được khóc, nếu khóc ông sẽ cột dây vào chân và treo ngược lên xà nhà, hàng xóm không cứu kịp là chết.

Thuý, con gái ông, năm mười sáu tuổi, nó cầm dao dọa sẽ giết ông nếu ông dám hành hạ mẹ con nó nữa. Ông đã tát nó bạt tai, chúi nhủi. Trong lúc ông sơ ý, nó chém đứt ngón tay út của ông. Rồi bỏ chạy. Nó chạy hoài chạy hoài, ba ngày sau, người ta phát hiện xác nó trong một cái giếng trong rẫy của ai đó ở cuối làng. Lúc đem cái xác trương phình của nó về, ông Tư đứng chết trân, ông nhìn nó rồi nhìn xuống ngón tay vừa bị chém đứt của mình.

Bất giác, Duy nhớ đến Chí Phèo, Chí Phèo uống rựơu, nhưng suốt cuộc đời mình, hắn chỉ rạch mặt ăn vạ và chửi. Hắn giết Bá Kiến, vì Bá Kiến là tên đáng chết, là tên đẩy hắn vào con đường cùng. Ngoài ra hắn cũng yêu, có một tình yêu và không hại ai cả.

Còn ở đây, Ông Tư Quắn lại hại chính người vợ ông và những đứa con do ông sinh ra. Hổ còn không ăn thịt con. Vậy ông là gì?

Duy nhìn con người ấy một cách khinh bỉ. Những con ma của tuổi thơ Duy không đáng sợ bằng con người này. Như đã nói đúng "không có con ma nào mình không nhìn thấy mà đáng sợ cả".

Những tưởng sau cái chết tức tưởi của con gái, ông tu tâm lại, ai ngờ ông còn độc ác hơn, tàn nhẫn hơn gấp bội lần. Vì ông bảo chúng đã dám chống lại ông, ông sẽ giết hết, giết chết sạch những đứa còn lại, để không đứa nào chống lại ông nữa

Vợ và hai đứa con trai còn lại sống vất vơ vất vưởng ngoài đường, không ai dám đưa vào nhà mình trú ngụ. Nếu ông biết, ông đặt thuốc nổ ngoài cổng và hăm làm nổ tung cả làng.

Năm thằng Hoà hai mươi tuổi, sau hai năm kể từ ngày con Thuý em nó chết, thằng Hoà có vợ. Nhưng nó không biết gia đình nó sẽ đi hỏi vợ cho nó bằng cách nào. Cha nó làm cái gia đình tan nát từ lâu rồi. Đó là địa ngục của nó chứ không phải gia đình.

Thằng Hiệp, em trai út bỏ học, tụ tập chơi với bạn bè hư. Mà dù bạn bè nó có hư hay quậy phá thì không bằng một góc sự tàn nhẫn của cha nó kia mà. Rồi một hôm, cha nó lè nhè đi về, lớn tiếng trước cổng nhà. thì có chừng sáu, bảy đứa choai choai tay cầm gậy đứng trước cửa nhà và đánh ông tới tấp. Ông nhìn thấy chẳng đứa nào quen, chúng đánh gãy hai chân ông và doạ, nếu còn đánh ai nữa, dù là người trong gia đình ông sẽ bị chúng giết chết

Đám hỏi vợ cho thằng Hoà, mỗi mình má nó đại diện, vì ba nó không đi lại được. Đó là lý do tốt nhất để ba nó không có mặt mà không ai trách cứ gì. Vì nó sợ, khi tiệc hỏi do nhà gái đãi chưa tàn cha nó lại tay dao tay búa làm nhốn nháo cả dòng họ người ta. Mất mặt nó, mà có thể nó mất luôn vợ, cô gái rất ngoan hiền mà nó muốn hi sinh cả cuộc đời mình vì cô ấy. Mình sẽ không bao giờ sống như cha. Em sẽ hiểu khi về làm vợ mình. Còn bây giờ nó rất lo, nếu người ta biết được cha nó như thế nào, họ sẽ từ hôn ngay, vì quan niệm "cha nào con nấy".

Hai mẹ con lén cha nó bán một mẫu rẫy cà phê trong làng. Nó ra mua lại một mẫu rẫy khác ở tận Gia Lai. Mẹ nó bán cà phê thu được mùa trước, cho nó cất nhà.

Đám cưới xong, hai vợ chồng ra riêng, ra tận Gia Lai ở nhà mới, đi như chạy trốn, không giám nói với ông tiếng nào.

Cơn cuồng nộ của ông càng dâng cao khi tất cả các thành viên trong gia đình đều làm việc sau lưng ông. Ông giải quyết sự cuồng nộ ấy bằng những trận đòn chí tử trên cơ thể vợ ông.

Buộc thằng con trai út của ông phải nhờ đến bạn đánh cho ông gãy chân lần nữa. Gia đình ông luôn luôn hành xử theo luật rừng, không tình nghĩa, không đạo lý, người nào mạnh người ấy thắng không kể cha con.

Đến khi ông gãy chân lần thứ tư thì ông phát hiện ra những việc làm đó là của thằng con trai út ông. Việc đó đã đưa đến kết quả ngày hôm nay, người vợ xấu số của ông đã chết dưới tay ông. Vì như lời ông là "chúng" dám chống lại ông.

Thằng con út quỳ sụp xuống thi thể mẹ "phải chi hồi ấy con đánh ông ấy bể đầu thì đâu có cơ sự này, con chỉ nghĩ là gãy chân thôi cũng làm ông ấy sợ rồi, mẹ ơi ".

Đám tang bà tư Quắn, đám bạn thằng út ở đâu kéo về chừng hai chục đứa, đứng gác quanh nhà để canh chừng ông có thể quay về. Trong cơn giận hừng hực của bọn chúng, ông Tư quay về lúc này ông sẽ không còn đường sống. Vài anh công an xã sẽ không làm bọn trẻ này nao núng, nhất là những anh công an chờ có tiền lót tay mới làm việc.

Duy lại viết thư kể cho Như nghe, dù đã cố gắng lắm, muốn kể cho Như những chuyện vui, những chuyện không liên quan gì đến rượu, nhưng ngôi làng nhỏ này, những chuyện tốt đẹp thì có ai biết đâu, những tấm gương sáng là những người siêng năng cần mẫn sáng vác cuốc ra đồng, chiều vác về. Những chuyện tày trời như thế mới làm xôn xao, nó làm Duy bức bối, và muốn Như nghe. Dù Duy biết, khi kể những chuyện này, Như sẽ sợ hãi chính quê hương mình, Như sẽ xa Duy nhiều hơn.

Tính đúng vào cái hôm đám tang bà Tư Quắn thì Duy tròn hai bảy. Nghĩa là Như xa nhà chín năm. Một tuần sau đó, Duy nhận được thư Như và lời chúc mừng sinh nhật. Cộng thêm một tin làm Duy ngỡ ngàng rằng Như có người yêu.

5.

Tất nhiên việc Như có người yêu không có gì lạ với Duy cả, Như có phải là trẻ con đâu, cũng sắp hai bảy rồi. Như sống ở thành phố, đông đúc, ồn ào. Không lẽ trong những ồn ào đó, chín năm trời Như không tìm ra một bờ vai cho riêng mình? Trước đây, Duy luôn nghĩ rằng niềm tin của Như vào đàn ông ít lắm, Như mạnh mẽ, nên sẽ không tìm một nơi nào để tựa vào. Nhưng Duy chưa kịp hiểu rằng, sống ở xứ người, dẫu niềm tin có cạn kiệt vào lòng người dành cho nhau, Như buộc mình phải bám víu, phải tin vào một điều gì đó, một ai đó để tìm sức lực mà đứng lên sau những mệt mỏi tưởng chừng có thể buông xuôi. Những dòng thư của Duy không đủ cho Như bám vào, chính những dòng thư đó cũng chưa cho Như trọn vẹn niềm tin vào những gì tốt đẹp ở ngày mai.

Nên Như bảo, nếu lỡ yêu Như rôi, Duy hãy quên đi, quên những gì tốt đẹp thì nhẹ nhàng lắm, nó không như những con ma và những trận đòn đã khắc sâu một thời thơ ấu. Nên đừng chờ đợi Như, con đường Như đi không thể nào dẫm lên dấu chân của mẹ, dẫm lên những rẫy cà phê của ngôi làng mà Duy đã dính chặt vào nó, dẫu Như rất tin rằng Duy là người đàn ông tốt, mẫu mực, không giống cha Như.

Như cũng tuổi dần, nếu về ngôi làng này, số phận Như sẽ như Ngàn, sẽ bị gán cho những điều độc ác nghiệt ngã. Nào ai biết trước được những rủi may của cuộc sống?

Duy hiểu, những người đàn bà ở ngôi làng này, tất cả đều tin vào lời một ông thầy tướng số. Cất nhà xem thầy, cưới gả xem thầy, thậm chí cất cái ... chuồng heo cũng xem thầy. Mẹ Duy cũng không phải ngoại lệ. Nên cái tuổi dần của Như sẽ bị ông thầy ấy cản không cho bước chân về nhà Duy, giống ngày xưa ông ấy đã cản Ngàn về làm dâu bà Năm.

Như nói ở thành phố, người ta sống thực tế và hiện đại hơn, cưới gả gì cũng không xem thầy nữa, người ta chỉ xem vào cuốn lịch ngày ấy có phải hẹn đối tác nào không? chỉ thế thôi. Nên những nhà hàng tiệc cưới thường rình rang vào chiều thứ bảy và chủ nhật, chỉ có những ngày ấy khách mới rảnh rang mà đi dự tiệc. Không như ở quê mình, đi xem thầy, thầy bảo hai cái tuổi ấy phải rước dâu lúc năm giờ sáng, vậy cũng cố mà nghe theo, đánh thức họ hàng dậy từ nửa đêm. Như cười, chẳng biết như vậy để làm gì, những cái đám cưới như thế rồi về sống cùng nhau cũng đánh nhau ầm ầm, trong nhà hục hặc chuyện mẹ chồng con dâu, êm đẹp gì đâu! Duy cũng biết, Duy chứng kiến nhiều lắm, thấy rồi chỉ lắc đầu, rõ là những trò ngớ ngẩn. Cái ông thầy tướng số ấy quả là có sức mạnh ghê gớm khi "phán" và sai khiến biết bao nhiêu con người đang hộc tốc làm theo ý mình. Biết đâu vào cái giờ mà hàng chục người thức dậy để làm cái việc ông cho là tốt, thì chính ông, ông lại trằn trọc suy nghĩ không biết thức dậy, ngày mai đời mình sẽ ra sao?

Cũng vì thế mà Như chọn người đàn ông này, người ấy tên Quân. Là một trưởng phong trong công ty Như làm việc, không đẹp trai hào hao phong nhã, nhưng nhiệt tinh và hoà đồng với xung quanh, sống được lòng mọi người. Như yêu Quân vì những thứ đơn giản ấy, vì cảm thấy anh rất đáng tin.

Còn Quân yêu Như ở điểm nào? Như bảo Quân yêu Như vì Như là người lạnh lùng và bất cần, lúc nào cũng tỏ ra như thế, nên anh quyết chinh phục. Và đó là tình yêu của anh.

Duy ngẩn người, hóa ra tình yêu của họ cũng giản đơn như thế, chông chênh như thế!

Tết năm ấy, sau chín cái tết xa quê, Như về làng, có cả Quân.

Không có gì thay đổi nơi ngôi làng này, em Như đã xa nhà gần hết, mẹ Như già đến héo hắt, cha vẫn không bỏ được rượu. Ông đã nghiện từ lâu rồi, chỉ có điều sức ông không còn đi đây đi đó bù khú nữa mà uống ngay tại nhà, ông khát là ông uống rượu, uống như người ta uống nước, nên chẳng khi nào tỉnh.

Khi Như và Quân vào nhà thì gặp cha Như ngay cửa, ông lè nhè nhìn Quân:

- Bọn mày là đứa nào? Vào đây làm gì?

- Ba, đây là anh Quân, bạn trai con!

- Bạn trai à? Mày bỏ nhà đi theo trai giờ vác cái mặt về nhà à? Thằng kia, mày làm gì con gái tao rồi hả?

- Từ xưa giờ con có là con gái ba đâu mà giờ ba nói với anh ấy như vậy?

Dù mẹ Như có ra can ngăn, ông cũng chẳng tiếc lời mắng nhiếc. Như mặc kệ và kéo Quân vào nhà. Bảo Quân coi như không có ông. Nhưng làm sao Quân mặc kệ được, khi nhìn thấy tất cả những gì xảy ra quanh Như.

Ở nhà Như được ba hôm thì Quân xin phép về thành phố trước, Quân không thể ở lại khi vì anh mà chén bát trong nhà liên tục vỡ tan tành, anh không chịu nổi những lời mắng nhiếc của ba Như, anh chưa bao giờ phải sống và nghe những lời như thế. Anh bảo Như vào thành phố rồi mình gặp lại nhau, mình tính cách khác.

Cách khác của Quân chỉ là một tin nhắn, nhắn chỉ sau đó hai hôm, khi Như chưa kịp vào lại thành phố cùng anh. "Anh nghĩ chúng ta khó mà hòa hợp nhau khi gia đình em và gia đình anh quá khác biệt".

Như cười trừ, không nhắn lại. Rồi hỏi Duy "thế này thì Duy bảo Như tin được ai, tin vào cái gì?"

Chiều mồng năm tết. Duy đưa Như lên đồi thông đầu làng.

- Duy biết không? Như thèm ngửi mùi lá thông, thèm được nằm trên lớp lá thông êm và sạch thế này. Như thèm tất cả những gì thuộc về ngôi làng này, từ khí hậu, đến mùi khói chiều, đến sương sớm, thèm tất cả, chỉ trừ gia đình. Mà không! Trong gia đình, Như cũng yêu hết mọi người, chỉ trừ ba Như thôi. Như không biết có bao giờ Như tha thứ nổi cho ông không?

Duy nắm lấy bàn tay Như, bàn tay nay ngày xưa đã kéo Duy chạy khỏi lũ bạn làm ma nhát Duy, bàn tay ngày xưa từng níu áo Duy đi chậm lại để lâu đến nhà. Nó gần lắm, thân lắm. Như để yên bàn tay trong tay Duy, giữ chút hơi ấm cho nhau trong một chiều sương lạnh. Cái nắm tay như sẻ chia, là sự thông hiểu. Duy biết mình không nên nói gì cả, lời nói của Duy sẽ trở thành vô nghĩa nếu chỉ là những lời khuyên sáo rỗng. Rồi Như khóc.

- Cứ tưởng anh Quân là người mình tin được, lúc mới quen, anh ấy vưng chải lắm, tưởng không gì làm ảnh đổ cả. Vậy mà, đứng trước nổi đau của gia đình Như, anh ấy phủi hết những kỷ niệm đẹp của hai đứa. Có lẽ anh ấy xem thường gia đình Như lắm, Duy ạ! Ở thành phố chẳng có gia đình nào như thế cả!

Rõ ràng Duy thấy tình yêu của Quân dành cho Như ít quá, ích kỷ và nhỏ nhen quá, chỉ một chút thôi mà không chiến thắng được cái tôi, cái tự kiẹu trong lòng mình. Đáng lý anh phải biết chia sẻ và cảm thông cho Như, anh phải biết trong cái vẻ bất cần đời của Như kia là sự cô đơn khủng khiếp, là cái vỏ bọc xù xì đang chứa một trái tim yếu đuối, sao anh chỉ hiểu quá giản đơn, anh tưởng Như quá đủ đầy nên bất cần đời hay sao? Nông cạn quá Quân ơi!

Như tựa đầu lên vai Duy, tựa một cách tự nhiên và bình yên. Như cũng đang tìm nơi để bấu víu, sau nhưng mệt mỏi tìm kiếm của đời mình. Ở cái tuổi lỡ thì con gái, Như thấy mình quá chênh chao.

Duy choàng tay qua vai Như, để kéo Như về gần hơn nữa, để Như khóc, khóc sau chín năm xa nhau, sau chín năm chạy trốn, sau chín năm hi vọng nhưng không có sự đổi thay. Duy vẫn đang cố gắng làm cho Như tin rằng cuộc sống còn nhiều lắm những người đáng tin cậy. Duy muốn làm điểm tựa cho Như suốt cuộc đời này.

Nhưng có phải cuộc sống lúc nào muốn cũng được đâu, Duy muốn nhưng Như không muốn, vì lúc nào Như cũng muốn thoát khỏi cái làng nhỏ bé này. Dẫu khi xa, Như nhớ mùi khói chiều, mùi sương sớm, mùi lá thông... Vì khi sống, Như buộc phải đối mặt với những nổi đau của mẹ, như không còn đủ can đảm để nhìn mẹ héo hắt từng ngày trôi qua như thế nữa.

Rồi Như đi. Cầu nối giữa hai người chỉ là những bức thư, kể về những chuyện xảy ra trong làng. Duy như một ký giả, viết hết lại những gì xung quanh, để gửi cho Như.

Ba tháng sau kể từ ngày Như đi thì thằng Ninh, em trai Như bị bắt. Vì tội giết người. Cùng bị bắt với nó có thằng Hiệp con ông Tư Quắn và mấy đứa khác nữa.

6.

Thằng Ninh đi bụi ngay sau cái hôm nó trói cha nó rồi quăng lên giường, không mở trói cho đến hết đêm. Nó không biết rằng sáng hôm sau, khi nó đi rồi, mẹ nó vừa khóc vừa cởi trói cho cha, thì cha nó đã đánh mẹ nó ngã chúi nhụi với lời mắng nhiếc là bà đã dạy con thế đó hả? dạy thế hay sao? sao không dạy nó giết tôi đi?

Nó đi với thằng Hiệp con ông Tư Quắn, chính nó đã tham gia vào vụ mấy lần đánh ông Tư Quắn gãy chân. Nó cũng tính, lúc nào thấy cần thiết, nó cũng làm thế đối với cha mình. Nhưng nghĩ, dù sao ông cũng chưa ác bằng cha thằng Hiệp. Nên thôi.

Như biết tính thằng Ninh, nó là đứa không giống hai người anh, không cam chịu, nó phản kháng bằng cách rất cực đoan. Mới học lớp tám đã bỏ, không chịu đến trường nữa, nhà trường gửi giấy mời phụ huynh nó xé bỏ ngay trước mặt thầy hiệu trưởng, thầy đã tát cho nó bạt tai. Nó hầm hầm chỉ vào mặt thầy "thầy ra đường nhớ ngó trước ngó sau!" rồi bỏ đi, nghe sau lưng vọng theo "đồ mất dạy", nó nhếch mép cười, có ai dạy tôi đâu mà mất!

Nó sống ngoài thị trấn cùng với nhóm bạn bụi đời, đêm đêm đam mã tấu, dao găm, dao bấm múa sáng loáng đường quốc lộ làm kinh hãi người đi đường. Buồn buồn thì ...chém ai đó chơi, nhìn thấy ai đi đường có cái mặt nghênh nghênh tỏ ra không sợ ai thì tụi nó chém cho vài nhát. Quốc lộ dần dân trở thành con đường dành cho xe ô tô đi qua, không một ai dám ra đường vào ban đêm, học sinh cũng không dám đi học thêm nữa. Ban đêm, thị trấn chịu sự "thống trị" hoàn toàn của bọn cướp nhí này. Công an ở thị trấn chẳng làm được gì bọn chúng. Mà chẳng riêng gì công an thị trấn, cả cái huyện này, chẳng có anh công an nào làm việc đúng chức trách của mình cả, dân kêu cứu bằng điện thoại thì không nghe, chờ dân lên tận nơi, trao phong bì tận tay mới gật đầu làm vài việc lấy lệ thôi. Vì vậy nên giang hồ mới lộng hành.

Hàng tháng, thuế vụ đến thu thuế, Duy bực bội hỏi thuế mấy anh dùng để làm gì? chúng tôi nuôi các anh mà đến một nhóm nhóc con như thế lộng hành ngoài phố các anh cũng chịu thua, cũng chẳng màng ngó tới? Nói xong thì thấy cũng chẳng được gì, nói cho đỡ tức, vậy thôi. Mẹ Duy la, sao nói năng lung tung lần sau tụi nó lại làm khó dễ chuyện buôn bán của mình.

Từ ngày nhà Duy thuê một căn nhà ngoài thị trấn để buôn bán, ba Duy không còn nấu rượu nữa, chuyển sang trồng cây kiểng và mua bán chậu hoa, hình như ba già rồi, cái lam lũ tất bật của ngày xưa dần dần mất đi, thay vào đó là sự thư thái của tuổi già, khi mà mức sống được cải thiện dần, thì điều đó tốt hơn cho những người nông dân như ở quê Duy.

Có lần Duy gặp thằng Ninh, bảo chị Như hỏi thăm em, nó ngồi thật lâu, rồi sực nhớ điều gì, nó bảo "anh nói với chỉ là nếu chỉ có lấy chồng, em cho tiên mướn một ông già nao đó làm cha đứng ra làm lễ cho chỉ, đừng để cha em đứng trước hai họ làm việc đó, nhục lắm, chắc gì ổng nói ra câu nào cho có ngô có khoai". Cặp mắt thằng Ninh lúc đó trừng trừng sự căm hận, sự già đời trong một con người háo thắng bùng dậy dữ dội.

Lúc ấy, Duy không dám nói câu này cho Như nghe, nên Như mới đưa Quân về nhà, nên Như mới khóc trên vai Duy chiều hôm ấy. Những giọt nước mắt còn nóng hổi trên vai Duy.

Trong máu của cha Như có con "ma men" thống trị, nên chuyện phải thay đổi và làm lại cuộc đời như nhiều người khác là điều rất khó làm. Như biết điều đó, nhưng Như cố gắng hi vọng, vi dẫu sao, một lễ cưới vẫn cần có đủ cha lẫn mẹ.

Thằng Ninh thì bất cần, bạn bè có thân hơn gia đình, đường phố là nhà. Nó không cần ai torng gia đình ấy, nhưng ai cần đến nó, nó sẽ làm hết mình. Nó sòng phẳng một cách lạnh lùng. Cũng đúng thôi, gần hai mươi năm tuổi thơ của nó, có ngày nào nó được dạy là phải sống yêu thương? Sách vở trên trường không vào được đầu nó, vì tình cha con, tình vợ chồng, cha nó đã thể hiện bằng đòn roi.

Vào cái đêm ông tư Quắn, cha thằng Hiệp về nha, ông lén lút chui từ cửa sau. Tụi nó đang nhậu trong nhà, ngôi nhà ấy bây giờ là của bọn nó, là chỗ ngủ qua đêm của băng nhóm này. Ông Tư tìm lục cơm nguội dưới bếp, không may bị rơi cái nắp nồi. Tụi nó xuống xem, ông vội vàng bỏ chạy, tụi nó rượt theo nhưng trời tối mà đứa nào cũng ngà ngà say nên chỉ rượt một đoạn rôi nó quay về, ngôi nhậu tiếp.

Đến khi không con rượu và mồi nữa chúng kéo nhau ra thị trấn "làm ăn", cuộc sống của chúng, giang sơn của chúng là ở đó. Hôm ấy, tụi nó a thì gặp một nhóm thanh niên chừng 5, 7 đứa chạy xe máy rê rề ngoài đường, có lẽ tụi này từ nơi khác đến nên không biết ở đây có một băng cướp nhí thường ra tay rất dã man. Tụi thằng Ninh ao ra gây sự, mấy đứa kia thất thế, bỏ chạy, nhưng có 3 đứa không thoát được, đã bị tụi nó chém cho tới chết. Bỏ xác ba nạn nhân nằm đó chúng lấy xe và tất cả tư rang đem đi tìm chỗ nhậu tiếp.

Ngay đêm hôm sau, khi chúng chuẩn bị "xuất quân" thì công an tỉnh đã mai phục trước, bắt gọn nguyên nhóm.

Nếu công an huyện và công an thị trấn có trách nhiệm thì tụi nó đã bị bắt ngay hôm gây án chứ không đợi đến hôm sau, vi tụi nó đâu có trốn, vẫn nhởn nhơ ngoài đường phố thế thôi. Nghe đâu sau đó, một số công an cấp huyện trở xuống bị cách chức. Xóm làng như mở cờ, vui như hội. Chỉ có mẹ Như là héo hắt thêm.

Người ta nói tội của thằng Ninh nhẹ cũng 20 năm vì đó là tội giết người cướp của. Cũng may nó không phải là chủ mưu, chủ mưu như thằng Hiệp sẽ lãnh án tử hình.

Giá như bọn chúng có những ngươi cha tốt, những người cha không uống rượu, không vũ phu, lo làm ăn thì chúng đã không hận đời, không chém những nháat dao lạnh lùng vào người khác. Chính cha chúng đã đánh, giết những người trong gia đình không thương tiếc, kể gì người dưng, vài người dưng chết dưới tay bọn nó thì có sao đâu?

Chính bọn nó đã nói như hế tong phiên xử, nói tước tòa. Thằng Hiệp nói nếu ngày xưa, mấy lần cha nó đánh mẹ nó, mấy chú công an chịu đến cứu thi nó đs4 bình an, nó không phải khổ sở nghĩ cách tự cứu mình rồi gây ra thảm họa như bây giờ. Các anh công an xung quanh đứng im lặng, dửng dưng, ừ, ngày xưa, nó có gọi cho mình đâu.

Duy đứng phía sau, nhin thằng Ninh nhỏ thó đứng trước vành móng ngựa, mà lòng đau như cắt, cũng may Như không về, Như không thấy cảnh này, gia đình Như cũng không ai đến. Mẹ Như đã lên cơn sốt từ tối hôm qua, đến sáng nay vẫn không nhấc đầu lên nổi. Bà đang gọi mấy đứa nhỏ đưa mẹ lên tòa, mẹ muốn gặp thăng Ninh, mẹ muốn gặp nó coi nó có bị người ta đánh nhiều không? Ninh ơi!...

Thằng Hiệp bị án tử hình, thằng Ninh án chung thân, án tuyên nặng nề, dưới hàng ghế phía sau có những tiếng thở phào xen lẫn tiếng khóc. Thằng Hiệp không biết ngay sau hôm nó bị bắt, cha nó trở vê, sống đàng hoàng trong ngôi nhà ấy, mà không thấy anh công an nào đến trói bắt ông đi.

7.

Dù ông Tư Quắn không bị pháp luật trừng trị, thì những bóng ma của vợ ông, của các con ông cứ lẩn quẩn mãi. Đâu chừng nửa tháng kể từ ngày thằng Hiệp bị tuyên án tử hình, ông cũng kết thúc đời mình bằng chai thuốc diệt cỏ.

Cha Như cũng bừng tỉnh sau mấy mươi năm, ông chặt phăng hai ngón tay thề sẽ cai rượu.

Như hỏi Duy có thể tin điều này được không?

Cuộc sống vẫn tiếp diễn nơi ngôi làng nhỏ ven đồi ấy, vẫn có những người phụ nữ chịu thương chịu khó, vẫn có những người đàn ông biết yêu thương vợ con, cũng có những người đã, đang và sẽ bị "ma men" dẫn lối đi về. Đó là cuộc sống, Như à, ai trở về thì hãy đón nhận, cho người khác một cơ hội nghĩa là cho mình một cơ hội.

Như hiểu, Như vẫn thèm được nằm trên lá thông, thèm đươc ngửi mùi khói làng. Và cũng nhớ lắm bờ vai vững chải của người đàn ông đang chờ đợi Như nơi ngôi làng này.

Người điên làng Hà

     Buổi sáng bắt đầu bằng tiếng lợn ré bên lò mổ. Sau khi chuyến tàu S2 chạy tuyến Nam Bắc qua khoảng hai phút. Dàn đồng thanh lợn rống lên. Hình dung những con lợn hàng tạ, chỉ một cái thọc mạnh con dao phay, nó lăn đơ ra, trắng hếu. Làng Hà nằm sát mép đường ray. Bên cái lò mổ.

Trừ buổi sáng tinh mơ lợn kêu. Trừ ngày tám lần tàu chạy qua. Còn lại, làng Hà khá yên bình.

Làng Hà có trên một trăm hộ dân. Tháng trước, hộ bà Thừa trong miền Nam chuyển ra nữa vị chi là một trăm lẻ một hộ.

Thống kê của dân số, một hộ không quá bốn nhân khẩu. Duy chỉ có năm hộ ông Ức, ông Khê, ông Khương, ông Quang, ông Hà là hộ có sáu nhân khẩu, vì nhà sống ba thế hệ.

Nhà ở nông thôn, như thế là quá đạt tiêu chuẩn Nhà nước đặt ra. Nhưng, bắc đèn vào mà soi thì đa phần là một mẹ và hai, ba con.

Từ khi hộ bà Thừa chuyển đến, làng Hà khá rộn rịp. Rộn bởi những tiếng chửi đổng của Hại Đời - con gái bà Thừa. Rộn bởi những lời bàn tán của mấy kẻ rỗi hơi.

Bàn chi ngoài chuyện sinh sử con Hại Đời kể chuyện ở trong Nam cho mà nghe. Mà cười. Mà sướng...

- Tiên sư cái thằng Thanh điên. Thanh mát. Thanh hâm. Thanh chập...

Đó! Mới nhắc đến thì tiếng thị cất lên. Đang trưa. Nắng như rót lửa thế này thì chỉ con Hại Đời chửi chứ còn ai khác. Thị chửi ai rứa hè? Xóm có hai Thanh. Một già, một choai choai.

- Diễm Hương. Vô đây chơi.

Một khuôn mặt bự phấn, trưa nắng chảy mỡ thò ra dưới cái cửa sổ phất phơ tấm ni long. Hại Đời nó điên thật, nhưng nó căm thù đứa nào kêu nó bằng cái tên cúng cơm.

Phải là Diễm Hương, là Việt Trinh hay đại loại như thế. Mấy đứa trẻ con đi ngang qua, nhìn thấy Hại Đời là mặt tái mét.

Cái mặt của Hại Đời chữ điền (nếu là đàn ông chắc đẹp trai lắm!). Tạo hóa phẩy một nét bút đại xuống phía trên hai con mắt, thành đôi mày rậm rạp. Hai con mắt trũng sâu. Mở to thau láu. Hai phần trắng, một phần đen. Xung quanh điểm thâm quầng đen đủi như mấy bà đóng tuồng. Đó là điểm nhấn làm cho ai nhìn vào cũng nhận ra đó là người đàn bà điên.

Quần áo thì sặc sỡ sắc màu; toàn gam màu chóe như đỏ da cam, chuối non, tím nho thối. Trên đầu thị lúc nào cũng chễm chệ ít nhất là mười cái kẹp, cài; chằng qua chằng lại đến nỗi không thấy tóc đâu trơn.

Lũ trẻ nhấm nhót chạy ù qua một đoạn, rồi ngoái đầu lại kêu Hại Đời, Hại Đời điên. Lập tức Hại Đời tóm ngay cục đá bên đường đuổi theo. Y như rằng cả buổi hôm đó, Hại Đời rêu rao khắp xóm chì chiết lũ con nít mất dạy. Mà Thanh nào làm nó bực mình để nó chửi là điên là khùng rứa nhỉ.

Bắt được sóng, Hại Đời chui tọt ngay vào nhà mặt bự phấn, qua cái cửa sổ phất phơ tấm ni lông.

- Chị coi. Làm răng mà không lộn tiết lên cho được.

Hại Đời tuy điên, nhưng xưng hô rất lịch sự. Trừ những ai đụng chạm đến cục... điên của thị. Thì dù già trẻ gái trai. Thị quy về là con là thằng hết.

- Gớm. Ngồi quạt cho mát. Kể chị nghe coi. Thanh...nó làm chi... em à? Mà Thanh mô rứa?

- Thằng Thanh con mụ Bưởi chớ ai. Hắn đòi em cho hắn coi bụ (vú), rồi hứa mua xù chiêng cho em. Coi đã con mắt rồi mà không mua. Tổ cha thằng Thanh điên, chập, hâm, mát...

- Thì ra là thằng Thanh choai. Ả thở đánh thượt một cái, vì chuyện không ly kỳ mấy. Nhưng cái tin thằng Thanh con bà Bưởi lừa coi bụ con Hại Đời cũng được lan truyền khắp xóm qua lời mặt bự phấn.

Mà đến con điên còn có cái tên Hại Đời mà kêu. Huống chi một ả đàn bà mặt bự phấn. Ả tên là Lệ. Một ả đàn bà ăn không ngồi rồi. Ả về làm vợ thầy thuốc Chiêu, khi thầy Chiêu chữa lành bệnh cho con ả.

Ả không có tiền trả, lấy luôn thầy Chiêu để trừ nợ. Ả đẻ thêm với thầy Chiêu hai mặt con nữa, thầy Chiêu chết. Mình ả và ba đứa con nheo nhóc thừa hưởng căn nhà mái tranh của thầy Chiêu để lại. Không biết ả lấy gì nuôi con. Chỉ biết dạo đó, mái tranh của ả nhiều tiếng chó sủa hơn khi đêm xuống.

Đàn ông làng Hà không nhiều. Trung bình hai ba nhà có một đàn ông (không kể con nít). Tức kẻ goá. Kẻ lỡ thì. Kẻ bị chồng bỏ. Kẻ bỏ chồng. Đàn ông là cái trụ cột của gia đình. Những đối tượng vừa được liệt kê trên gọi chung là nhà không có trụ cột.

Đến mùa. Mấy bà không có trụ cột phải đi nhờ vả trụ cột người ta cày cho mảnh ruộng, nối cho cái dây điện. Điện sáng lâu rồi mà trụ cột của mình chưa thấy về. Ấy là có vấn đề. Vấn đề được giải quyết rất ổn thoả. Làng Hà vốn yên ấm.

Hôm qua, nhà bà Trúc làm cơm giỗ trụ cột. Bà Cúc sang nhà bà Cam mời, nhân tiện xin mấy lá trầu. Bà Cam đi làm đồng chưa về, chỉ gặp mỗi trụ cột. Vì giàn trầu cao, hay vì lạ tay trầu ủ rũ, trụ cột bà Cam hái trầu cho bà Trúc. Lúc đưa trầu, trụ cột bà Cam vỗ vỗ vào mông bà Trúc ba cái. Bà Trúc quay lại mắng:

- Bòa Bòa. Ông làm cái đếch chi rứa.

- Một lá trầu là một phổ. Ba lá ba phổ.

Trưa bà Cam sang ăn giỗ. Trầu đượm cau đỏ tươi. Làng Hà tối lửa tắt đèn có nhau. Tiếng cười nói râm ran. Ai đó khơi chuyện con Hại Đời ra kể. Mọi người thi nhau bàn tán.

Hại Đời không đám giỗ đám hiếu đám cưới nào trong làng mà thị không có mặt. Vậy mà hôm nay thị đến chậm. Hỏi ra, mới biết sáng nay là ngày mồng mười- ngày khám bệnh phụ khoa định kỳ của thị.

- Diễm Hương có muốn lấy chồng không?

- Dạ có chớ.

- Diễm Hương khi mô cưới? Ông Hà - một ông lão râu tóc bạc phơ cất lời.

- Dạ. Con chữa bệnh cho xong đã.

- Mày có lấy thằng Tung nhà tau không. Tau gả cho. Cụ Ức hỏi.

- Dạ không. Lành bệnh, con vô cưới anh Phi. Anh Phi chờ con ở trong Nam.

- Thằng Tung vừa đẹp trai, lại làm công an. Lấy nó có phải sướng hơn không. - một chị sồn sồn trêu tiếp.

- Phi chết rồi. Lấy thằng Tung ông Ức đi Diễm Hương ơi. Cưới chồng sướng lắm. Đừng để chết già mà uổng đời.

Ôi thôi. Con mệ mô độc mồm độc miệng chọc trúng cục... điên của thị. Thị quắc cặp mắt trắng dã lên. Răng thị nghiến chặt kêu két kèn kẹt. Tay thị đang bưng bát chè bỗng ném vèo xẹt qua cái mặt vừa thốt lên câu đó.

- Có mà chồng mi chết á. Đồ đàn bà tra chồng không ngủ cho mà sướng, mà đi nói chồng người ta chết. Đồ điên. Đồ khùng.

Thị điên thật. Nhưng ai chọc tiết thị, kẻ đó mới là điên hơn. Người đàn bà sợ quá, lén lút bỏ trốn mất tăm. Mọi người trong đám can ngăn thị. Nếu không, thị còn chửi nữa.

Thị là người chung tình. Không biết ở trong miền Nam xa xôi kia có người đàn ông nào đó tên Phi hay không. Giả sử có thì người đó có thề non hẹn biển gì với thị không. Hay đại loại là có làm trò gì với thị hay chưa? mà thị thủy chung với hắn đến thế.

Có lần thị kể chuyện, hồi ở trong Nam, có thằng rủ thị vào rừng cao su, rồi giở trò đồi bại với thị. Sau lần đó, mẹ thị phải đưa thị đến trạm y tế đặt vòng. Liệu chỉ một thằng ... hay nhiều thằng đàn ông dẫn thị vào rừng cao su nhiều lần?

Thị phải đi chữa bệnh phụ khoa. Mẹ thị đau đớn nhìn con, rồi trói vào góc nhà, không cho thị ra rừng cao su nữa. Thị suốt ngày đòi lấy chồng. Mẹ thị cấm tiệt. Nước mắt chảy ri rỉ ri rỉ. Thị cũng là đàn bà. Năm đó thị đã hai mươi bốn tuổi. Chỉ còn cách duy nhất, đưa thị về quê sinh sống. Ở làng, mọi việc đều yên ổn hơn. Mở mắt nhìn thấy nhau, ai nỡ... Rồi thị sẽ quên chuyện đòi lấy chồng.

Ngày đi. Mắt thị rơm rớm. Đầu thị cứ ngoái lại nhìn rừng cao su...

Tiếng tàu S2 xình xịch chạy qua. Tiếng lợn bên lò mổ rống lên thảm thiết. Dân làng Hà í ới ra đồng ngày mùa. Khi ấy, tiếng gà nghe chừng vẫn ngái ngủ.

Trưa. Không gian đặc quánh nắng vàng.

- Tiên sư thằng cha già, cha dê, cha điên. Người ta tới chơi nhà mình. Nói ngủ một chút cho mát rồi về. Rứa mà mò vô rờ người ta. Rúc cái cằm râu vô mặt người ta nhột không chịu được. Ôi cái thằng cha dê cụ. Ơi cái thằng cha điên. Cha khùng, cha mát...

Tiếng thị chửi váng một góc làng. Đáng ra, sau một buổi làm đồng mệt nhọc, nhu cầu nghỉ ngơi là trên hết, vậy mà những cái đầu rúc ra khỏi khe cửa. Hỏi han. Cười cợt. Trách móc. Bĩu môi. Thích thú.

Được dịp, thị liệt kê một đống danh sách những con dê đã sàm sỡ dụ dỗ thị. Mấy trụ cột lảng đi nơi khác. Nhất là trụ cột bà Thiện. Bà Thiện rất khoái nghe thị kể chuyện, nhưng trụ cột của bà thì rất nghiêm. Ông bảo kể tầm bậy tầm bạ. Ông quy tội thị là phạm...chính trị. Ô hô, tức cười chưa. Nói chuyện chính trị với con điên làm gì kia chứ! Thị là người điên.

Bà vợ ông dê cụ hoảng quá, chạy đôn chạy đáo đi tìm Hại Đời. Bà cho Hại Đời một nải chuối vàng hươm, một vài quả ổi, rồi thương lượng với Hại Đời đừng kể chuyện này nữa. Kể lắm công an bắt đó.

Hại Đời nghe công an, sợ im re. Vả lại, may mà có nải chuối với mấy quả ổi. Ai cho thị miếng ăn, thị nhớ một đời.

Đêm. Làng Hà co ro trong bóng tối. Bóng tối của cây cối. Bóng tối của đất trời. Một vài ánh sáng xẹt qua khi tàu chạy ngang. Tiếng chó cắn dồn dập ở phía mái tranh bà Lệ.

Lũ con của bà đang rồng rắn chòng ghẹo Hại Đời. Tiên sư lũ con nít không ai dạy. Có mà chúng bay điên thì có chớ bảo tau điên. Tiếng chửi rủa của thị bị át đi bởi tiếng hò hét của đám trẻ con.

Thị định bụng vào nhà bà Thiện kể chuyện cho bõ tức. Nhưng đến nhà bà Thiện thì phải ngang qua nhà mụ Lệ. Đoạn đường nhà mụ Lệ cây cối đồng loã, đen thui.

Hại Đời chưa từng biết sợ ma là gì (ma sợ Hại Đời thì có), vậy mà cũng phải giật mình khi bóng đen lù lù từ nhà mụ Lệ đi ra. Là trụ cột của bà Thiện. Hắn ngó nghiêng lén lút như một tên ăn trộm. Ban ngày hắn khoác lên mình bộ mặt nghiêm chỉnh, để khi đêm đến lại chui rúc luồn lủi như một con mèo đi hoang.

Thị ngó mắt vào bên trong, trụ cột của bà Lương, Bà Hến... Rải rác mấy bóng đen lù lù ngoài ngõ. Ngoài bờ sông cũng có một bóng đen vừa từ dưới đi lên. Nước còn tong tỏng trên tấm lưng trần. Hắn làm một cách vội vã, giấu giếm.

Làng Hà đàn ông không nhiều.

Thị thả mình cho bóng đêm nuốt chửng. Thị lang thang lủi thủi như cái bóng vô định. Thực ra, đêm nào thị cũng bỏ nhà đi lang thang như thế. Có khi, thị thong dong trên đường ray. Khi thị đứng trên cầu gió lộng, lặng nghe gió thốc vào mơn man da thịt. Có khi thị nhảy ùm xuống sông vùng vẫy.

Thế là mất toi buổi đêm. Thị tức anh ách mà không ai bắt chuyện với thị để thị kể, thị chửi.

Khi bóng đêm tan đi. Ánh sáng trải sự bình yên lên mọi vật. Những lùm cây khi đêm đến là quái vật thì ban ngày chính từ đó lại toả ra ngọn gió mát lành cho đời. Tất cả trở về giá trị vĩnh cửu.

Những người đàn ông hiếm hoi của làng Hà lại khoác lên mình bộ mặt nghiêm trang. Trụ cột bà Thiện nghiêm nghị trong bộ vét ngồi trên bàn tư pháp - trụ sở ủy ban xã. Người lọ mọ cày cuốc ra đồng. Người cò cưa xẻ gỗ. Tất cả đoan chính. Phẳng lặng.

Thị vẫn vất vơ trên đường làng. Cười. Nói. Hét. Chửi. Rồi thị thản nhiên đứng tồng ngồng truột quần xuống quá đầu gối. Hai tay túm vén ống quần ngồi đái. Thị làm như cả thế giới này chỉ tồn tại mỗi mình thị.

Đàn ông làng Hà đi qua, mặt dong thẳng phía trước, không hề ngó nghiêng. Nhưng, giá như có cái kính hiển vi đặt vào mà soi thì trăm phần trăm đồng tử của họ đang chiếu thẳng vào mông thị. Thị là người đàn bà điên, nhưng mông và đùi thị căng tràn thanh xuân, con gái làng Hà ít ai có được.

Còn đàn bà, ngoài số người đi làm, những kẻ rỗi hơi còn lại thò đầu ra bắt chuyện với Hại Đời. Họ bắt Hại Đời kể chuyện trong Nam cho mà nghe. Nghe một cách chăm chú, thích thú, rồi gật đầu lia lịa như vừa tiếp thu một bài học quý báu. Thi thoảng ré lên cười khoái trá.

-Thế khi mô Diễm Hương cưới. Nhớ mời tôi với hi.

- Dạ. Em phải chữa bệnh cho lành đã. Xong vô Nam cưới chồng, đẻ con. Anh Phi đang đợi em ở đó.

Thị vẫn không nguôi ý định lấy chồng. Bao giờ bệnh của thị mới lành? Thị luôn khao khát một người chồng mà mình yêu thương thực sự. Một người chồng có cưới xin hẳn hoi. Người đó phải là trụ cột của riêng mình thị.

Một ngày, người ta thấy có một người đàn ông, vai khoác ba lô về làng Hà. Người đàn ông hỏi thăm Hại Đời. Giọng miền Nam nghe đến là dễ thương.

Từ đó, không ai nghe tiếng Hại Đời chửi, cũng không thấy thị vất vơ trên đường làng nữa.

Làng Hà lại trở nên yên ắng. Một sự yên bình như chưa bao giờ yên bình đến thế.

Gia truyền, cổ truyền, đặc sản

Tối 19-4, khi mới trở về Hà Nội, tôi hay la cà đi tìm lại người quen và vài người bạn cùng lứa tuổi. Tôi đến nhà người bạn ở cuối phố gần chợ Đuổi. Cùng đi với Nguyên Hồng. Tới cửa, Nguyên Hồng nhìn vào rồi hỏi tôi:

- Mày quen thằng bồi tiêm này ở tiệm hút nào đấy?

Tôi cười: “Bạn cũ thôi. Không phải nó nghiện đâu” Nguyên Hồng không vào, anh sang ngồi chờ tôi ở quán nước chè tươi bờ hè bên kia. Tôi bảo nó không nghiện cũng như Nguyên Hồng đoán nó nghiện, cũng là trông mặt bắt hình dong, bởi vì trước kia thằng này cũng gầy quắt queo, nước da mai mái như thằng bồi tiêm chuyên hút sái thuốc của khách bỏ lại.

Tôi quen nó từ khi tôi còn ở làng. Nó là con một bác làm đề lại trong phủ lỵ. Bố làm “lại” là thầy cò, dắt mối kiện cáo. Nó thì làm “nho”, chuyên luẩn quẩn quanh công đường, hóng người có việc vào cửa quan viết đơn thuê, ngày cũng kiếm được dăm ba hào. Tôi không biết nó lúc làm “nho” cửa phủ, mà đến khi nó làm thơ và biết tội có viết văn viết báo, nó tìm tôi làm quen. Ngẩng lên trước nhà, thấy treo cái bảng: “Vân Vân Tử xem tướng tay phương pháp Ấn Độ. 5 đồng một quẻ”.

Bên dưới có cái bảng nứa sơn hàng chữ: Lớp dạy làm thơ. Có nhiều thi sĩ danh tiếng đến giảng. Cam đoan ba tháng làm  được  thơ đăng báo. 15 đồng một khoá (đóng tiền trước)

Nó nhớ ra tôi ngay.

Tôi hỏi đùa:

- Xem bói và dạy làm thơ việc nào kiếm được hơn?

Biết tẩy nhau từ thời trứng nước rồi, chúng tôi trò chuyện hể hả. Nó nói:

- Việc nào cũng cần thiết. Ấy thế mà nghề bói lại ra tiền hơn nghề thơ.

Nó cho tôi biết ở trong Hà Nội nó làm thơ, ký là thi sĩ Tiên ông, năm ngoái mới in tập thơ Đại Dương Kình hay “kềnh”, tôi không hiểu nghĩa là gì. Tháng sau, tôi lại đi qua phố ấy. Thấy ngoài cửa đã bỏ cái bảng dạy làm thơ. Cái bảng “Xem tướng tay” vẫn nguyên thế với tên của thầy tướng Vân Vân Tử, nhưng sơn đổi một dòng: Xem tướng tay phương pháp học được ở bên nước Tích Lan Tây Trúc...

Tôi bước vào. Người tiếp tôi không phải là nó mà là cái ông to béo, lần trước đến tôi đã gặp. Ông là người thuê cái buồng liền với nhà ngoài. Ông to béo nói:

- Sừ ấy đi rồi.

Rồi kể: ông ấy xuống Hải Phòng đi tàu há mồm vào Nam.

Tôi hỏi nqra đùa nửa thực:

- Ông dọn ra nhà ngoài theo đuổi nghề Vân Vân Tử?

Ông to béo cũng cười, nhưng cãi:

- Sừ ấy học nghề tôi thì có.

Làm thế nào biết được ai học ai. Có lẽ đoán được vẻ mặt dửng dưng của tôi, lão nói:

- Cho biết tài nhé. Sừ đưa tay đây moa xem. Tay phải.

Tôi ngửa bàn tay phải cho lão ngắm nghía. Rồi lão thong thả phán từng câu:

- Có tướng lên xe xuống ngựa đây. Nhưng là có tiếng hơn là có tiền. Mười năm nữa có cái hạn to. Biết trước thế này thì có thể tránh được.

Tôi trả tiền ông. Ông không lấy, và nói: “Xin nhờ sừ quảng cáo hộ mấy chữ lên báo”.

Tôi băn khoăn không biết anh bạn tôi hay lão này là Vân Vân Tử, nhưng khi ra về tôi cũng quên ngay. Bây giờ lắm nhà làm ăn cũng mưu mẹo một cách ác ôn thế này. Chủ nhà ngoài hay nhà hàng xóm đi Nam nếu trước đây làm ăn khá thì chủ nhà trong ra ở, hay nhà hàng xóm sang trương bảng tên cửa hiệu và buôn bán y chang nhà ấy. Hàng bánh giò trước cổng công ty nhà Đờ Măng ở gần Cửa Nam không còn. Nhưng một hàng nước cũng ở chỗ gốc bàng ấy gắn cái bảng: ở đây bán bánh giò Đờ Măng. Dưới Hải Dương có một hiệu bánh đậu xanh ngon ở Hà Nội có một hàng bánh cốm có tiếng. Bây giờ cả trong phố và ngoài bến xe Hải Dương vô khối nhà làm và bán bánh đậu xanh, và hai bên dốc hàng Than ở đây mọc ra hàng chục hàng bánh cốm tên hiệu ghé gẩm chữ Ninh bánh cốm) hoặc ở Hải Dương thì vẽ con rồng vàng bánh đậu xanh) có ghi chú đầy đủ... gia truyền năm đời... cổ truyền ba đời...

Sự lập lờ gia truyền này có gốc gác ra đời từ thời tôi gặp thằng thày tướng Vân Vân Tử kiêm thi sĩ Tiên ông và lão béo nhà trong ra nối nghiệp xem bói khi Vân Vân Tử đi Nam.

Những sự lừa bịp ấy vào thời buổi này vẫn thời sự lại còn múa may biến hoá khôn lường. Lâu lâu tôi mới lại đi qua cái phố ấy gần chợ Đuổi. Trông thấy ở của nhà ông bạn cũ của tôi treo cái bảng to dài ngang gian nhà sơn chữ đỏ: Phở Tôn Nam Định gia truyền. Kính mời quý khách. Tôi đã biết phở gia truyền chỉ là các người bán phở gánh hay làm thuê chứ phở gốc là “ngưu nhục phần” (thịt bò, bánh) của người Trung Quốc đem sang. Khi tôi còn nhỏ, gánh phở lên đến chợ Bưởi còn là “phở tân thời” cho nên làm gì có gia truyền, có năm đời phở. Tôi cũng tò mò vào xem cái ông coi tướng tay đã đổi nghề mở hiệu phở. Nhưng anh chủ hiệu còn trẻ lễ phép nói:

- Thưa ông, bố cháu về quê rồi.

Tôi không hỏi lại anh ấy, về quê là về quê hay ông ấy đã chết. Tôi hỏi thân mật:

- Ngày trước ông cụ nhà cậu xem bói tướng tay cơ mà, đã bói cho tớ, gia truyền gì cái phở...

Anh trẻ tuổi cười ha ha, tay giơ lên, rồi xòe ngón tay ra như đương to tiếng tranh luận:

- Ông có biết hiệu chả cá Lã Vọng không? Chả cá là món riêng của nhà người ta để ăn chơi. Nhiều người khen ngon, rồi mới ra cửa hiệu. Sách đã nói thế, ông biết không? Phở nhà cháu cũng như chả cá Lã Vọng, còn bằng mấy chả cá Lã Vọng. Đời các cụ nhà cháu làm phở, để trong nhà thưởng thức vào dịp tết nhất Bây giờ đến thời cơ bung ra thì con cái phải mở mang giới thiệu cho trong nước ngoài nước biết món đặc sản dân tộc của gia đình. Khách Tây vào hàng tôi đông lắm, ông biết không? Ý nghĩa khoa học quan trọng cả đấy, có phải không nào?

Anh nói luyến thoắng, thao thao, đệm những câu bình, những câu hỏi: có biết không, có phải không, có đúng không, đúng chứ, đúng không nào... làm cho tôi chỉ ngồi nghe mà cũng gật gưỡng, mệt mỏi xiêu xiêu ngỡ như anh ta nói có lý, nói phải cũng nên. Biết không? Biết không? Anh mời tôi ăn một bát phở bò tái mỡ - không làm tái nạm, anh bảo “Nạm là cái gân chứ cái quái gì, chỉ bịp nhau cả” rồi bưng ra bát phở đầy ú ụ Cũng như mọi hàng phở đều làm bán phở thay cơm “cơm phở”, chứ bây giờ không còn là quà phở nhẹ nhàng, thanh cảnh nữa. Ăn xong, tôi hỏi, anh bảo xin ông năm đồng và tôi trả tiền, anh cầm tự nhiên.

Ở Hà Nội, cái năm tôi mới khoảng lên mười, ngoài phố thỉnh thoảng mới gặp một hàng phở gánh. Ở các chợ Mơ, chợ Bưởi ngoại ô còn lạ lờ gọi phở là quà tân thời. Và chỉ có phở gánh, chưa đâu có hiệu phở. Thằng phở Tốn gia truyền, cổ truyền Nam Định này chắc chắn chỉ từ cái nghề xem tướng tay học lỏm của bố nó mà ra. May quá, không thấy nó lại treo cái bảng gia truyền nghề dạy làm thơ. Tôi thầm nói lỡm lờ thôi chứ từ thời thằng bố nó đã vứt cái bảng dạy làm thơ của thi sĩ Tiên ông đi rồi. Vả chăng, kể cả cái thời Tiên ông quảng cáo trên báo về cái lớp dạy làm thơ cũng chẳng có ma nào đến ghi tên học. Nghề thơ văn của chúng tôi, tiếng tăm chẳng đi đến đâu, cái miếng thì cũng không ra gì, ai dây vào cho rách việc.

Bây giờ nói về hai chữ “đặc sản” cứ thấy viết, thấy sơn nhan nhản ở các nhà hàng và đăng trên báo. Tôi hãy kể về Hà Nội ngày trước đã, để soi cái gương sáng gương mờ với bây giờ xem sao. Tất nhiên, thuở ấy, Hà Nội bé tẻo teo với dân số đôi ba vạn người, chẳng nhiều hàng quán như bây giờ, nhưng cũng có những nơi ăn uống quen thuộc, phân minh như thịt chó Hàng Đồng, Hàng Lược, chim quay đầu Hàng Gai, nem Sài Gòn và tái lăn Hàng Quạt, ở đình Hàng Vải Thâm, các cao lâu Tàu ở Hàng Buồm... Những nơi ấy được tiếng vì có món ăn hấp dẫn, đấy là cái tiếng tự nhiên, có khéo có ngon thì khách mới đồn rủ nhau đến nhưng không có nhà hàng nào ngô nghê vỗ ngực tự xưng là quán “đặc sản”, vẽ vời quảng cáo một tấc đến giời khoe loạn lên như bây giờ.

Những cái trò vè này cũng có nguồn gốc cả, cứ như tôi mắt thấy tai nghe thì dường như nó cũng lại được đẻ đái nảy nở từ cái thời ông thầy tướng thầy bói Vân Vân Tử và thi sĩ Tiên ông bạn tôi có tập thơ Đại Dương Kình mà ra.

Giấc mộng ông thợ dìu

Chuyện đoạn này chưa phải là chuyện giấc mộng.

Cách đây hơn bốn mươi năm. lần ấy tôi đi công tác ở Campuchia. Tối nào các vị chủ cũng đưa khách ra nhà hàng, chè chén xong kéo nhau xuống sàn nhẩy trên cái bè nổi bên sông Mêkông. Chẳng phải vì các ông chủ muốn làm đẹp lòng khách mà bởi lẽ khách ba chủ nhà bốn, có một khách thì cả mười ông chủ mới mượm cớ chè chén tiền chùa.

Đêm nào cũng dập dềnh trên mặt nước. Một cô gái nhảy đến ngồi vào bàn tôi. Cô mời:

- Anh ra đi với em vài pa.

Những cô gái nhảy đều là người Bắc dưới Sài Gòn lên. Ở dưới đó các sàn nhảy bị đóng của. Gái già Trần Lệ Xuân nhảy đã tả tơi cả người rồi lại hô hào chấn hưng phong tục, xúi lão Diệm cấm nhảy, thế là các ả này phải dạt lên đây kiếm cơm.

Cô gái cười cười:

- Sàn đây rung lắm, em đưa anh mấy bước mới quen được. Anh biết  nhảy chứ?

Một lần ở Lêningrat, một cô gái Nga đã dạy tôi: chỉ cần cần bước không dẫm vào chân người ta thế là biết nhảy. Tôi bảo ả gái nhảy:

- Biết chứ không dẫm chân người khác...

Ả mời tôi ra sàn, thì thào:

- Không dẫm chân em đừng thúc đầu gối lên bẹn em, thế là nhảy giỏi rồi.

Rồi sau tôi có cảm tưởng tôi biết nhảy, nhảy kền là đằng khác. Nhưng cũng chỉ đến Trung Á, đến Mông Cổ, đôi khi đã lâng lâng mới dám ti toe. Có Platon người Nga đi dịch cho tôi, Platon uốn lượn dẻo như múa. Platon bằng tuổi tôi, tôi bảo Platon:

- Ở Việt Nam người ta thường hỏi tuổi để đoán người. Mày với tao tuổi khỉ, chân tay vờn nhẹ nhàng nhỉ con khỉ.

Thế là tôi chẳng cần biết bài gì điệu gì, kèn trống đàn sáo ra sao, tôi nhảy theo miếng võ không dẫm chân người ta, không thúc lên bẹn người ta!

Ô hay, chứ sao, thế giới đã chăng có nhạc sĩ nổi danh chỉ hát cho người khác ghi nhạc và chú thần đồng Trần Đăng Khoa thì đã viết ra thơ từ khi chú chưa biết làm thơ đấy sao!

***

Câu chuyện đến đây thì tỏi đã như mê ngủ, tôi nằm chiêm bao.

Thời buổi này có những chuyện  chẳng đâu vào đâu mà ngon ăn. Đọc báo Công an Sài Gòn, thấy ông phóng viên gọi cái tên thợ dìu  thật là hay,  sáng tạo cực kỳ. Thợ dìu là cái trò dạy nhảy đầm, gọi là ông dìu dắt thì lại nghiêm mà không hẳn đúng việc, chỉ dùng một chữ dìu thì vừa, lại lắm nghĩa đen nghĩa mờ. (Dạ đánh quần vợt cũng là nghề đương đắt khách, giúp cho người ta bớt mỡ, nhưng tên gọi nghề này chưa có chữ hay nhủ thợ dìu). Tôi đương đi thơ thẩn quanh hồ Thiền Quang, lấp lánh nhà hàng, tiệm nhảy một góc sáng đèn, trưng cái bảng to tướng có chữ Ha le cờ-lớp. Trời, con cháu mình sống trong đất nước độc lập mới hơn nữa thế kỷ mà đã nhãng ca sự tích những nông nỗi đau khổ. Cái thằng thực dân đốc lý Halais ngày trước ngồi lên đầu ông bà ta ở thành phố này đã bị xoá đi đã lâu lắm rồi, lại ở Sài Gòn: ở Đà Lạt bây giờ mọc ra những tên nhà hàng Tonkin (Bắc Kỳ), Indochine (Đông Dương, Đông Pháp) - những cái tên tủi nhục thòi mất nước. Thôi, nhớ những chuyện này thì buồn, mà tôi thì hình như đang muốn vui. Cái cảm tưởng tôi đương có thể là, tôi vẫn là thợ dìu: tôi vừa trông thấy ánh đèn lóng lánh ông thợ dìu ngày xưa lại trở về ám ảnh tôi, lạ không. Phải, tôi đã từng nhảy, tôi biết nhảy.

Tôi bước vào ánh điện xanh đỏ rối mắt. Trong ấy người đông như nêm cói. Con mắt “nghề nghiệp” của tôi cũng phải thất kinh. Thế kia thì giẫm vào chân người cặp đôi, giẫm cả vào chân người xung quanh nữa.

Một cô gái váy hồng, môi tím bước ra.

- Bố ơi! Bố đi tìm cậu cả nhà bố hả?

Tôi gật gù vẻ chịu chơi:

- Tao thợ dìu đấy chứ.

Cô gái liến thoắng:

- Thế thì thôi, chín giờ sáng mai bố đến với các ông các bà tập dìu nhau. Bây giờ chỉ có chơi thôi. Bố trông người ta nhảy có loạn hơn thời các bố không?

Tôi ngồi vào cái bàn trống góc ngoài.

- Bố uống gì?

Chắc là ả này vừa làm “hối théng” vừa quản gia.

- Cho tao cốc Fanta.

Ả nói năng một cách lễ phép ỡm ờ, đã khiến tôi hoá ra ngay là cụ chuột nhắt mà nó là con mèo cái, con mèo vờn lão chuột nhắt lử lả gần chết. Lại còn nói:

- Bố vào ôn lại vài pa xem thế nào.

Thế là ả xốc ngay tôi đứng lên. Quả là dữ tợn quá. Cả một sàn người cứ hò hét thụi nhau, đạp nhau, vật nhau chẳng thấy nhảy nhót gì cả. Tôi hắt hơi, nghẹn cổ, ngạt thở. Ả lại lôi tôi ra từ lúc nào. Tôi cố mím môi cười:

- Tao sắp chết đây, biết không.

- Em phải nắm vai bố mới kéo bố ra được đấy, chứ bố mà ngã xuống, chúng nó xéo lên thì bố chết thật. Bây giờ bố chuồn thôi.

Rồi ả nói lem lém:

- Để em tính tiền đã. 50 ngàn đồng công em làm thợ dìu. 20 ngàn cốc Fanta (mà tôi chưa uống ngụm nào). Cốc bố bao em là cốc nước lã, em không tính em biếu bố. Cả thảy bảy mươi ngàn đồng.

- Tao dìu mày đấy chứ?

- Thôi thôi, trong túi bố có bao nhiêu thì bỏ ra. Đương vội đây.

Tôi vừa giơ ra tờ hai mươi ngàn đồng, ả giựt lấy lườm một cái rồi quay phắt vào.

Tôi ngước mắt. Tôi bỗng lại thấy tôi đương lững thững ngoài bờ hồ. Từ lúc ấy, tôi nghĩ mãi mà không nhớ đã có khi nào tôi đi tìm ông thợ dìu, có phải không?

Ngủ bụi

Đọc cái phóng sự ngắn trên báo Công an Nhân dân tháng 5 năm 1999 mà cứ thấy mỗi chữ một rợn. Hay là vì lâu nay đêm hôm không mấy khi tôi ra đường nên mới sinh ra cái sợ thế.

Bài báo cho biết rằng bây giờ tối đến, ở ngoài phố có năm loại người ngủ đường ngủ chợ, thường thấy ở các phố, ở đầu ô và trên mặt đê nhiều nhất. Những nơi trú ngụ ma biến không nhà cửa phần nhiều ở quanh chân cầu, gầm cầu và giữa bãi cỏ, chỗ khuất gió. Đủ thứ lều bạt, cọc, dây căng, dựng lên, sáng ra lại rỡ đi từ lúc chưa tường mặt người. Hạng sang có màn, chiếu hoặc giường gấp giá thuê cao nhất đến bốn nghìn. Tuy vậy hạng nào cũng chỉ như nhau, khách tự do “ba xoa, hai đập” - nghĩa là ngồi đập chân mấy cái rồi lăn ra ngủ và sáng ra đưa tay lên xoa mặt, như con mèo giơ chân rủa mặt khan.

Có hai loại ngủ đường nay đây mai đó, mà số phận mỗi đêm cứ may rủi không như nhau, một cái màn tã, buộc hai múi dây vào mép cửa sắt nhà nào đấy. Sáng sớm, chủ nhà mở khoá trong - có khi chủ nhà ở đâu đến, mở khoá ngoài thấy người lục đục trong màn, thế là đuổi đánh túi bụi. Nhưng cũng có khi gặp vận đỏ, người ta mở cửa lại giúi cho năm trăm một nghìn “công canh cửa đêm hôm”. Lãi quá. Còn ngủ xó tường, những người bạ đâu nằm đấy, chẳng bận đến ai, mặc mưa mặc rét, thì chớ thấy ở đầu ô Kim Mã có một nhà trọ hẳn hoi, nhưng mà loại này lộn xộn yêu tinh nhất. Khách có đấy là mấy chục đàn ông, đàn bà ngủ chung. Hai hàng chiếu trải dọc nhà, hai ngọn đèn trên trần sáng suốt đêm. Mọi người nằm úp thìa, đầu đàn ông đầu đàn bà chổng ngược nhau, chân hai bên thò ra mép chiếu đằng kia.

Cũng theo bài báo viết, mỗi ngày bây giờ có chừng hai ba trăm nghìn người lang thang các nơi vào thành phố kiếm ăn. Như vậy, cũng độ ngần ấy người ăn ngủ quờ quạng trong bóng đêm ma quái ấy. Lão ấy tò mò đến các quán trọ đầu ô Kim Mã. Thành phố vừa lên đèn, lão lò dò đi. Cái nhà trọ đàn ông và đàn bà nằm chổng đầu vào nhau ở đầu ô hỏi một cái người ta chỉ cho ngay.

Mới chặp tối chưa mấy người về, lão chưa trông thấy cái cảnh nằm ngổn ngang xuôi ngược như trong bài báo đã viết. Nhưng hai hàng chiếu đã trải, và trong ánh đèn điện lù mù muỗi bâu đã có những người trông nhá nhem chẳng biết đàn ông hay đàn bà, từng bọn ngồi thì thào rì rầm. Một người đàn ông cởi trần ngồi ngay ngoài, cửa. Hắn gầy móp, hai cánh tay như hai ống sậy. Nhưng tiếng hắn quát rất to:

- Thằng già kia, đi đâu?

- Tôi.., tôi...

- Chích.., choác... hả? Có muốn chết không? Cút ngay

Hắn xô đến, đẩy hắt lão ra cửa.

Năm trước, tôi có dịp đến thành phố Quảng Châu. Quảng Châu có sáu triệu dân, đông hơn Hà Nội nhiều, cũng là thành phố đương phát triển. Cũng tương tự Hà Nội, số người đến thành phố tìm việc nhiều nhất là người lao động ở quanh vùng các làng quê ra. Thế mà trên đường không thấy đâu có chợ người như ở các đầu ô thành phố ta.

Tôi hỏi:

- Quảng Châu giải quyết vấn đề người trong làng ra thành phố tìm việc thế nào?

Trả lời:

- Chúng tôi có kế hoạch về làng lấy người. Tất nhiên có đủ loại người, loại việc phức tạp, việc tự do ra thành phố.

Tôi đã trông thấy thế và nghe nói thế ở Quảng Châu, xin kể lại.

Lấy Chồng Khác Làng

Một phiên chợ áp Tết, những đứa trẻ phụ việc cho mẹ, chúng lớn lên được hai nhà gả cho nhau, đám cưới trong trận mưa rào đầu mùa, rồi lễ cheo ở đình làng, rồi người đàn ông đi buôn xa bị hổ ăn thịt, người đàn bà vẫn giữ lễ về quê chồng giỗ với đứa con bây giờ "chân nó dài bằng cái sào nứa"... Với bấy nhiêu tình tiết, bấy nhiêu câu chuyện dằng dặc gần cả một đời người, cùng rất nhiều những thói tục của làng Bắc Bộ xưa được gói trong truyện ngắn vẫn thênh thang rất thú vị này.

***

Thật thì cũng làng trên chạ dưới trong hàng huyện, chẳng xa mấy. Đứng gốc cây đề ngoài cổng đồng trông qua bờ đìa, mờ mờ trong lùm cây muỗm cổ thụ nhô lên hai cái cột trụ tam quan đình, những hôm quang trời, bên này cũng thấy được lằn đê chắn ngang tầm mắt. Thế mà ngỡ như đám mây trắng mùa hạ lững thững mãi mới sang đến bên ấy. Nghĩ ra thì là cách trở, cả đời cô Vải cứ tưởng như thế.

Mấy phiên áp Tết, chợ huyện đông như nêm cối. Bà Chồi quảy ống dang ra chợ. Vườn nhà bà có búi dang, tết nào cũng được vài gánh, đỡ tiền chợ. Vừa khéo, vào một chạp, những bụi dang vừa già ống, chẻ lạt được. Tết nhất, mái bếp nhà nào cũng giắt nắm lạt, lắm việc phải cần đến.

Ở chợ, có những mặt hàng chỉ Tết mới có bán. Bác tuần chợ xếp cả ra bãi ngoài. Gánh lá dong, ống dang, những quảy thùng mật, lão hàng gáo dừa, chợ Tết người ta sắm bó đũa, cái gáo, cái muôi mới, mấy con bò buộc tận ngoài rệ sông, bò rống ò ò lẫn tiếng lợn eng éc trong rọ.

Chợ trước, gánh ống dang của bà Chồi đến nửa buổi đã hết tiệt. Cũng đã đào, chặt ống cả trăm cái, nhưng còn phơi nóc chuồng lợn, chưa se mặt. Phiên này phải đi hai gánh dồn một mới có thể đủ bán. Bà Chồi nhấc gánh rồi nói:

- Cái Vải ra quảy đỡ cho tao mấy được.

Vải buộc thành bốn bó dang nặng. Vải quảy, mẹ chỉ phải vác một bó. Chưa đến nửa buổi, cả gánh dang còn có mấy ống điếc, ống lép. Hàng bên kia, bà bán mật đong không ngớt muôi. Hàng ống dang, hàng mật chạy tay, nhà nào chẳng gói bánh, cột bếp lại lủng liểng miếng thịt bò quấn lạt, rồi nồi chè con ong, chè bà cốt ngọt lừ.

Bà hàng mật hấp tấp sang hàng bà Chồi:

- Nhờ bà để mắt trông giúp hàng nhà cháu một mảy. Quái, cái thằng chết toi, chỉ sai đi chặt mấy cái ống nứa đựng mật mà mất mặt từ nãy.

Rồi bà lão chạy qua đám chọi gà đầu bãi thì thấy thằng con dựng đứng ống nứa bên nách, đương chầu hẫu xem đá gà - hay là nó cũng đánh gá, người chăm chú, người tíu tít cá cược. Mấy tay chủ gà loay hoay mặt đỏ lựng hay đỏ cay cú.

Con trai bà bán mật ngồi ngây mặt ra. Bà lão kêu "Chết thật! Chết thật!". Rồi, vào lôi ngật nắm tóc đuôi hoa voi. Thằng con phải chống hai tay xuống như con gọng vó mới khỏi ngã ngửa ra. Rồi nó đứng lên vác bó ống nứa cong cổ chạy.

Chỉ một chốc, những ống dang, những ống nứa đựng mật đã hết sạch. Hai bà lão thong thả ăn trầu, môi cắn chỉ nhai bỏm bẻm. Thằng con trai xách những thùng mật ra bờ sông té nước gột. Cái Vải nhà bà Chồi đã lồng quang gánh để đấy, vào trong chợ, dạo xem hàng tết.

Bà bán mật vuốt quết trầu bám mép hỏi bà Chồi: - Cái cháu quảy dang là thứ mấy nhà ta?

- Cháu thứ ba bà ạ.

Bà bán mật hỏi ngay một câu: - Bà cho tôi nhá?

Bà Chồi còn chưa biết thế nào, bà kia quết vôi lấy miếng trầu mời đon đả: - Cái thằng quảy mật ấy.

Rồi đưa bà Chồi miếng trầu mới têm. Bà Chồi nhổ bã trầu vào gốc cây, quay lại nhón tay lấy miếng trầu mới của bà bạn hàng. Và nói:

- Ối chà, con Vải nhà tôi ấy à, có nhớn mà chẳng có khôn đâu. Bà xem đấy, mặt trời đã lấp bóng đa rồi mà còn lượn chợ, rõ con nhà.

Bà bán mật lại vuốt mép, nhổ quết trầu rồi cũng nói ồi ồi:

- Thì cái thằng hai nhà tôi cũng như cái đụn rạ. Đấy, đi theo đỡ mẹ mà lại rúc vào đám chọi gà.

Câu chuyện qua lại mắng vui mắng yêu giữa hai bà về con cái mà rồi nên duyên chúng nó.

Tháng ba năm ấy, cô Vải lấy chồng bên Lở. Bấy giờ đã có mưa mới. Những trận mưa rào đầu mùa như mưa dứ, chốc ào ào chốc tạnh; con ngòi ngoài đìa có lúc nước ngập đến gối, đến bụng.

Họ nhà trai sang đón dâu, các lão ông lão bà, các cô phù dâu thoạt chỉ xống áo như người đi làm đồng. Người xắn quần, người ôm váy, bì bõm lội. Sang đến đồng Lở, đám rước dâu ghé vào cái quán gốc cây muỗm, như khách đường xa nghỉ chân. Bấy giờ mới lấy trong tay nải ra những buồng cau, những hũ rượu. Rồi thì áo the, khăn vố của ông cầm hương, các bà váy chồi thâm lồng ngoài váy nâu da bò, các cô thì khăn vuông mỏ quạ tua dây hoa đỏ . Chú rể đi lẫn trong đám trai, áo năm thân nhuộm cậy.

Đã tinh tươm ra đám đón dâu. Đi vào đường làng, ông cầm hương áo the khăn lượt chít, vừa lội ngòi quần xắn móng heo, vẫn đi chân không - cả đám rước dâu chân đất, chả cứ một ông cầm hương. Hương đen thơm nghi ngút trước hai người đội mâm cau, mâm rượu phủ vuông lụa điều.

Vào trong xóm, nhấp nhô người lớn trẻ con các ngõ đổ ra. Trẻ con cuống quýt chăng dây, vớ được dây mướp, dây gấc, cái thắt lưng dải yếm cũng chăng ra - chỉ kiêng không được chăng thừng. Chằng chịt như mạng nhện, những cái dây cản bước, như không muốn người con gái đi lấy chồng làng xa. Âậy thế nhưng đã có người nhà trai lo sẵn, xong cả. Trẻ mỏ chỉ khó cho thêm vui. Mỗi cái dây nhận một phong bao giấy điều. Mở ra, thấy mấy đồng chinh, đồng kẽm, đứa nào cũng hí hửng, giựt giây mở đường.

Đám đón dâu có lời nói trước, đôi bên đã thoả thuận từ con lợn, thúng gạo, gánh rượu, quan tiền. Nhà trai nhà gái ăn cỗ mỗi bên, bởi vì đường đất cách trở, hai họ chỉ miếng trầu và chén rượu hả hê rồi lễ tạ xin dâu về.

Đám rước dâu đã ồn ào ra đến đầu ngõ. Bà Chồi đứng trong cổng ném vốc muối theo rồi cúi mặt, quay vào. Còn Vải thì cảm thấy đi đâu chưa biết, nhưng thế là xa nhà từ đây. Nước mắt Vải đẫm cả hai bên má.

Rước dâu về, hai họ lại tay nải đeo vai, xúm xít hỗn độn như đi chợ tết. Mặt trời đã ngả đằng sau chân tre, sương mờ khắp cánh đồng. Hai bên bờ nghe tiếng nhái, tiếng chẫu.

Vải ngước mặt lên, chỉ thấy bóng tối mờ mịt. Mới vài bước đường mà xa, sao mà thật xa.

Lội xuống ngòi, đã nhá nhem tối, tiếng chân bì bõm, nhưng chẳng trông thấy chân ai. Vải quay nhìn lại bóng tối lần nữa.

Được mấy hôm, ăn cỗ lại mặt rồi, vợ chồng Vải về làng ngoại làm lễ nộp cheo. Lấy chồng làng khác, lệ phải có lễ cheo mới được làng nhận rể.

Chồng xách cái rọ mới đan nhốt con gà trống thiến, con gà mái rồi ra cổng đồng, như người đi làm, chỉ khác đầu quấn cái khăn lượt, lại mặc cái áo năm thân nhuộm cậy, như hôm đám cưới. Ra tới cầu ngói thì ngồi đợi vợ. Đến lúc trông thấy Vải trong khoanh tre đi ra thì chồng đứng dậy, lại cung cúc đi. Người đi trước cách quãng người đi sau, vào đến gốc đề đầu xóm Vải mới mở khăn vuông lấy cái áo dài nâu non mặc. Vạt áo thắt quả găng, lất phất bay lẫn hai dải yếm lụa. Áo váy tinh tươm rồi, Vải lại càng đi nán xa. Vải chẳng muốn ai trong làng gặp vợ chồng đi tay đôi. Vào đến cổng ngăn, Vải đã thấy chồng cắt tiết xong cả hai con gà, đương nhấc nồi nước sôi ra cầu ao giội làm lông.

Vải vào bếp. Chẳng đợi mẹ bảo, Vải cầm dao cắt tàu lá chuối lót lên cái nong rồi dỡ chõ xôi. Ngả chiếc mâm gỗ đơm xôi, mùi hương nhà trên quyện khói xôi ngào ngạt. Con gà thiến đã được vớt từ khi nãy để ghếch trên miệng nồi rồi người khía chân, khía cánh với mỏ, đặt nguyên cả con lên đỉnh mâm xôi để ra miệng vại dưới gốc cau. Trên mỏ con gà, từ lúc nào ai đã cài ngậm cái hoa đơn đỏ.

Bây giờ, vợ chồng lại khăn áo chỉnh tề. Vợ đội mâm xôi, chồng hai tay bưng hũ rượu, hai người đem lễ ra đình. Vào tam quan, vợ hạ mâm xôi xuống cửa bên. Chồng ấn lại vành khăn lượt trên đầu cho chặt, vợ từ từ đưa mâm xôi lên. Chồng trịnh trọng đội mâm, một tay nắm cổ hũ rượu nút lá chuối khô.

Vợ bước theo, vào trước bậc cửa đình thì đứng lại đấy, đàn bà con gái xưa rày không được đặt chân vào chốn đình trung. Vợ đứng nhìn bâng quơ ra ao làng. Năm xưa mùa này, những hôm nắng to cả lũ đem sảo ra bắt ốc nhồi nổi lên tránh nóng trong chân bụi cúc tần.

Nghe tiếng người rì rào, không phải tiếng quát lác. Mùi hương đưa ra có lẽ nắm hương chồng vừa thắp thêm. Vải cũng không dám ngoảnh mặt nhìn vào.

Người mõ ở ngoài lều bờ sông tất tưởi bước tới. Đòn gánh xỏ một bên quang có chiếc thúng trong để con dao phay với cái thớt. Chỉ vậy, nhưng bởi vào nơi trang nghiêm phải có ý, không dám khua múa con dao cái thớt.

Chồng hai tay đặt hũ rượu lên hương án cùng với mâm xôi con gà. Rồi quỳ xuống lễ thánh, xong xuôi bước ra vái hai bên các ông chức việc, các quan viên rồi cứ chắp hai tay, cúi đầu so vai lom khom bước lùi qua bậc cửa đình.

Ở nhà, mâm rượu con gà mái đã sẵn sàng. Đám chén mời ông chú, có lão ông cầm hương hôm đưa dâu cháu.

Sáng nắng thế mà giữa trưa đổ cơn mưa. Trận mưa rào đầu mùa ào ạt một lúc lại tạnh. Hai vợ chồng trở về bên Lở.

Có hơi rượu chếnh choáng, chồng chạy cung cúc như ma đuổi. Nước mưa đồng cao dồn về, con ngòi ngập đến thắt lưng. Nhìn lại, chưa thấy vợ, chồng ngồi đợi.

Vải đã ra khỏi cổng đồng. Trông hút đồng sâu, chỉ thấy bóng nước lấp loáng. Chắc là có khi nó lội qua ngòi rồi. Người trong xóm lác đác ra bờ tre bắt cá rô rạch. Gặp Vải, có người chào, có người hỏi chớt nhả: "Thím về bên nhà... Sang báo tin cho mẹ Chồi à... cái bụng trông ngon mắt thế kia rồi...".

Vải đỏ mặt cúi xuống vuốt cái khăn vuông bọc đĩa xôi và cái tỏi gà. Lại nhớ năm ngoái, năm kia, Vải chạy tớn lên theo chúng bạn ra bờ chuôm bắt cá rạch.

Cánh đồng mù mịt trắng những nước. Con ngòi ngập cả lên bờ cỏ. Đàn đỉa trâu, đỉa hẹ lượn lên lượn xuống cung quăng tìm chân tay người thò xuống nước.

Vải đã ra đến bờ ngòi. Chồng đương ngồi úp mặt xuống đầu gối, dáng ngủ. Nhưng không, như anh ả đã đánh hơi thấy vợ. Anh ả ngẩng mặt nhăn nhở cười, hai con mắt rượu vằn vằn đỏ.

Hỏi:

- Nhà mày có lội được không?

Vợ lắc đầu, nhìn lại đằng xa. Chồng cười tủm:

- Cõng nhẻ?

Vợ lại lắc đầu, vẫn tần ngần ngoảnh mặt trở lại. Chồng đứng lên, xoe ống quần, buộc hai dải áo vào bụng. Anh ta đương nghĩ nói thế nào để dỗ, để doạ, để vợ cho cõng. Thì vợ đã bíu tay ôm cổ chồng, rún lên, chân đạp như trẻ con chơi hún đu. Hai tay chồng ôm chặt đít váy vợ rồi lội xuống nước.

Chồng nói lỡm:

- Này này buông xuống cho đỉa cắn nhẻ!

Vợ đá chân xuống mặt nước, như trêu tức. Những đàn đỉa đói nhao nhao lượn theo. Đã thế, ông dìm cho một cái. Nhưng chị ả đã cong chân lên làm anh ả loạng choạng suýt ngã. Thì vừa sang đến bờ bên kia.

Hai con đỉa trâu bám vào bắp chân chồng như hai quả chuối bụt. Máu chảy loã lợi xuống gót, xuống cỏ.

Vải tụt trên lưng chồng xuống. Nhìn hai con đỉa lủng lẳng ở ống chân chồng, ả nguýt một cái.

- Rõ đáng đời!

Chồng nhìn quanh, chỉ thấy bóng nước bóng cỏ. Chẳng nói chẳng rằng, lẳng vợ một cái ngã bệt xuống. Tốc váy vợ, làm một quắn.

Rồi anh chàng ngủ một giấc mê mệt. Đến lúc thấy lạnh bên bả vai mới mở mắt, bốn bên vắng lặng. Ngôi sao hôm lay láy đã lên đằng kia.

Hàng năm, vợ chồng Vải về bên ngoại vào tết nhất hay các dịp góp giỗ. Cẩn thận, giữ lệ. Khi con gà, hũ rượu, lại có khi vác cả bó mía, dựng bên bàn thờ làm gậy cúng các cụ. Khi nào gặp mưa, nước ứ trong ngòi, chồng lại cõng vợ, rồi cõng cả con sang bờ bên kia.

Năm ấy, chỉ có hai mẹ con về bên ngoại góp giỗ. Nguyên vì anh theo bạn buôn lên Mường mua mía về kéo mật bán chợ tết. Khi lên theo đường bộ, về thì cho mía lên bè xuôi sông Đà. Năm nào cũng đi thế. Chuyến ấy ngược, dọc đường cả bọn ngủ lại cửa rừng dốc Cun. Nửa đêm, con hổ ra ăn thịt mất anh ấy.

Năm năm, mẹ con nhà Vải vẫn giữ lệ về góp giỗ. Khi qua ngòi, gặp nước đầy hay nước cạn, mẹ Vải cũng cõng con lội. Cu con đã lên chín, lên mười, "chân nó dài bằng cái sào nứa" - người ta cười thế, mẹ vẫn cõng con lội sang - người ta lại bảo nhà này chiều con quá.

Ăn Mày Trúng SỐ

Một con sông rộng, cầu sắt bắt ngang. Người qua kẻ lại trong cái buổi sớm mai nầy kể có hằng chục, hằng trăm mà không ai để ý lão ăn mày kia đang dựa mình vào lan can vừa cúi đầu suy nghĩ. Không một ai để ý đến lão, mà chẳng dè lão là người đóng vai tuồng trong chuyện nàỵ Không một ai tưởng rằng lão mừng lão vui mà chẳng ai dè lão đương mừng vui hơn cả mấy trăm người đã qua lại trước mặt lão từ sớm mai cho đến bây giờ.

Hôm nay gương mặt lão không thèm làm bộ đau đớn, thảm khổ; cái miệng của lão không thèm nói tiếng than vãn rên xiết. Ai đi ngang qua trước mặt lão thì mặc họ, lão cũng chẳng buồn đưa tay ra xin từng đồng xu lớn nhỏ như mọi bữa nữạ

Một người ăn mày, quần áo lang thang thúi hôi rách rưới mà hôm qua xin từng đồng xu, lượm từng đồng điếu mà hôm nay đã thấy tánh ý đổi xạ Ai đi ngang qua trước mặt, lão cũng cho rằng người ấy là không bằng lão, lão tưởng như vậy là có lý lắm chớ chẳng phải không vì hôm nay lão chẳng còn phải như mọi bữa nữa, lão không còn ăn xin ăn mày nữạ

Lão có mua một tấm giấy số mà tấm giấy số ấy lại trúng độc đắc mười ngàn đồng! Mười ngàn đồng bạc! Một triệu xu!

Theo ý tưởng của lão và những người như lão thì mười ngàn đồng bạc là một số tiền to tát, một số tiền nhiều không biết là bao nhiêu mà kể. Lão đứng dựa lan can cầu tự hồi hừng đông cho tới bây giờ. Bụng lão suy, trí lão nghĩ, suy nghĩ nghĩ suy mãi mà không biết phãi chi dùng số bạc 10.000 đ mà lão sẽ đặng lãnh vào việc gì?

Lão đứng ngó mông lại đằng xa kia thì thấy một toà nhà ngói, vách tường rất là đẹp mắt. Gương mặt của lão bổng lộ vẻ vui mừng. Lão nhìn ngay lại toà nhà ấy mãị Lão đã thấy chỗ dùng số bạc 10.000 đ của lão rồị Trước hết lão phải lo cho lão một chỗ ở. Lão muốn một cái nhà rộng, thật khéo, thật đẹp, chung quanh có vườn tược, có đủ thứ cây ăn trái và đủ thứ bông hoa kiểng vật. Bấy giờ đứng dựa lan can mà lão đã tưởng rằng đương đứng trong ngôi nhà tốt đẹp ấy rồị Một chiếc xe mui kiến sơn láng bóng chạy ngang qua cầu, trước mặt lão làm cho lão chống hai con mắt ngó theo không nháy, mà bụng bảo dạ rằng: - Rồi đây mình cũng sẻ phải có một xe hơi cũng đẹp cũng tốt như cái xe đó, mới cho là sướng. Mình ở trong một cái nhà lớn tốt mà nếu như không có sắm xe hơi không khác gì là một người con gái lịch sự mà què chơn. Phải! Lão ăn mày ta trúng số độc đắc 10.000 đ thì thật là có trúng nhưng vậy tiền chưa lãnh đồng nào, nhà cữa chưa cất, xe hơi cũng chưa sắm, thế mà lão ta nghiễm nhiên làm bộ tịch như một bực giàu sang, phong lưu, quyền quí đâu tự mấy đời rồị Dầu cho có lầu cao cửa rộng, xe hơi, ca nốt, thì cũng chưa đầy đủ cái lòng ham muốn của lão đâụ Lão cũng như ai, phải cây cỏ chi chi mà chẳng có tình. Ngoài những chuyện món ăn, nhà ở, xe đi, lão còn tính cần phãi có một cô vợ vừa non vừa đẹp đẻ cùng nhau trong lúc canh vắn chia cái buồn vuị Lão tính tới tính lui, tưởng xa tưởng gần rồi gục mặt xuống sông, nhấm xem hình bóng của mình dưới dòng nước chảỵ Bộ tướng xấu xa, thân hình dơ dáy làm cho lão có một điểm buồn cho lão rồị Nầy là cây gậy, nầy là cái bị, hôm nay lão cần giữ lấy nó mà làm gì đây nữạ Lão đã có 10.000 đ bạc là tấm giấy số trong mình thì lão đã thành một ông nhà giàu rồi, lão phải mau mau cỗi cái lớp ăn mày đị

Lão cầm cây gậy quăng ngay xuống sông, nó trôi lờ đờ trên mặt nước. Lão cầm cái bị mà quăng theo luôn cho nước chảỵ Cây gậy trôi trước, cái bị trôi sau, lão đưa mắt nhìn theo mà lòng khoan khoáị Lão đưa tay lên xuống làm như muốn xô đuổi hai cái món vật ấy trôi đi cho mau, cho xa lãọ Thình lình gương mặt lão vùng biến sắc, lão nhớ lại rằng tấm giấy số của lão đương nằm trong bị mà cái bị ấy đang lờ đờ đằng xa kiạ

Nóng quá mà quên rằng mình không biết lội nên lão vùng nhãy xuống sông ý muốn vớt cái bị lại, nhưng vậy không được, cái bị cứ trôi lần lần xa ra còn lão thì chìm lần lần xuống đáỵ

Than ôi! Nhà lầu, xe hơi, gái đẹp, những những đều thấy trôi theo dòng nước, còn lão ăn mày ta thì nằm dưới đáy sông làm cho giấy số mười ngàn không ai lãnh được.

Ðứa Ăn Mày

Thằng Miêng cũng chỉ là một con chó hoang hay một con mèo hoang. Sơn biết thế rõ lắm. Mỗi lần thấy dáng bộ thất thơ không cửa không nhà của một con mèo hay con chó, Sơn lại thương thằng Miêng, đứa em xấu số, bị nhà bỏ, và cũng bỏ nhà, đi hoang.

Truyện dài lắm. Dài lắm lắm. Sơn không dám nhớ lại. Những sự khổ xúc xích với nhau thành một cái vòng luẩn quẩn, sờ đến khâu này, tức nhiên động tới khâu kia. Chỉ biết rằng bọn chó mèo hoang làm cho Sơn đớn đau: chúng động tới những hình ảnh tồi tàn, thất thiểu của thằng Miêng, ― những kỷ niệm mà Sơn gắng đẩy vào một chỗ vắng vẻ, quên lãng nhất của lòng mình.

Sơn hiểu vì sao có sự liên tưởng ấy. Nhưng Sơn không dám hiểu kỹ; Sơn còn trẻ tuổi quá. Sơn nhát gan, không dám trông thẳng một cảnh ngộ éo le. Sơn cố ý để mù mờ trong lòng, cho lòng nhẹ bớt. Nhưng có một chuyện, nhất là một chuyện...

***

Năm ấy, Sơn học năm thứ hai ban thành chung trường Vinh, mười sáu tuổi đầu. Sơn có học bổng, được ăn ở tại trong trường trái với thằng Miêng học lớp tư, vẫn ở nhà cha mẹ. Một chiều thứ năm, Sơn cùng bọn lưu học sinh đi dạo, có thầy trợ dẫn đi. Sơn mới tắm rửa xong, đã soi gương rất lâu, chải tóc thực đẹp, với bao nhiêu đỏm đáng của chàng trẻ mới lớn lên.

Sơn không có tiền: các bạn khác thì đi giầy, mặc quần lụa áo hàng rất sang trọng. Cậu chỉ mang một đôi guốc; quần của cậu bằng vải không tốt mấy. Nhưng thợ giặt nhà trường đã là quần rất phẳng; và cậu có được một cái áo xuyến của người cô may cho, cái áo xuyến Sài-gòn. Ấy thế mà Sơn hoá ra xinh đẹp, đáng yêu thêm; cậu đi dọc đường, bước hăng, tự ngắm nghía mình trong tưởng tượng. Cái áo xuyến Sài-gòn láng mướt đẹp quá. Cô của Sơn đã may cho hết một chục bạc. Nhờ nó mà những chiều thứ năm Sơn ra vẻ học trò sang, đến nỗi đôi người bạn ngượng nghịu không dám lại gần. Anh em cười đùa Sơn, và Sơn cũng cười đùa, vô tâm sung sướng. Cả đoàn học sinh cùng đi.

***

Ðến bãi biển, gần nhà thương thành phố. Mấy cây tra-tây lá biếc và dày, để thõng những chùm trái tròn xanh. Hái xuống mà ăn thì ngon lành biết mấy! chắc vừa ngọt vừa chua. Sơn lén ngừng lại, trong khi anh em luôn đường đi thẳng. Sơn một mình đến gần cây tra tây, sắp trèo hái.

Trời muốn chiều. Dưới gốc cây, ở giữa cát vì nhớp nên đen, có lẫn những viên phẫn dê bé và tròn như hạt thuốc tể, một đứa nhỏ, một thằng ăn mày nằm ngủ. Tay nó co lại dưới đầu làm gối. Chân nó vì lạnh gió nên cũng co lại; mặt nó khuất vì cả mình nó rút cong như con tôm. Áo quần nó bằng vải đen, nhưng cái dơ bẩn lộ trắng hẳn ra cùng những vệt mồ hôi khô, thứ mồ hôi người ta gọi “mồ hôi muối”, vì mặn lắm và đọng trắng như nước biển.

Thằng nhỏ nằm xây lưng ra ngoài đường. Cổ đầy ghét. Tóc dài phủ tai, xuống ót, làm thành một cái đuôi nhọn. Tồi tàn, gớm ghiếc, hôi hám; một đứa ăn mày. Sơn tự hỏi:

― "Con nhà ai ban ngày đến nằm ngủ ở nơi đây?”

Khi ấy Sơn còn trẻ lắm, tính hay thương người, nên Sơn hay bâng khuâng lẩn thẩn như thế.

Sơn tò mò trông kỹ hơn. Chân Sơn động vào cát; thằng nhỏ bỗng thức dậy, ngửa mặt ra nhìn. Thì hỡi ôi! đó là thằng Miêng!

Ðó là thằng Miêng. Thực Sơn không ngờ rằng thằng Miêng lại có thể ngủ ở đó; nếu Sơn ngờ trước, thì Sơn đã nhận ra ngay là nó, chứ không đợi phải nhìn lâu.

Sơn bị mất hồn, không tin hẳn rằng thằng Miêng em Sơn nằm đó. Miêng ngửa hẳn thân mình, còn chưa tỉnh giấc; mắt nó mở đỏ ngầu, lẫn bao nhiêu kinh sợ trong nửa tỉnh nửa mê. Hai tròng mắt ngày thường đã ngơ ngác, bây giờ lại càng thảm hại như mắt một con vật bị săn riết, cùng đường. Trời ơi, hai con mắt của thằng Miêng, Sơn quên đi mà không được! Cặp mắt lạ quá, thảm quá; thế mà lúc ấy nó vừa đỏ vì ngủ, vừa trắng vì đói, vừa xanh vì sợ, vừa bàng hoàng trông thấy Sơn nên lác đi. Sơn nhớ lại mà khóc mất thôi! Sao bao nhiêu hình ảnh éo le lại rủ nhau đứng trong hai con mắt của Miêng, của một thằng nhỏ!

Mặt của Miêng nhem nhuốc. Miệng thì hở môi trên, để lộ hai cái răng cửa lớn và vàng khè. Một bên mép, nước dãi chảy trong khi ngủ thành đường còn ướt.

Sơn điếng người. Miêng lòm khòm ngồi dậy, hai tay dụi mắt, có vài hột nhỏ dính trên lông nheo. Nó còn ngơ ngơ; nhưng vì sợ anh, người đã thường đánh nó ở nhà, nên đứng dậy. Sơn nắm chéo áo nó, giũ cho cát rơi xuống. Sơn thở dài, giọng nói như chết:

―Thế thì thôi...

Sơn không biết cái gì ở trong đầu Sơn. Sơn còn lặng người, chưa cảm xúc được, vì cảm xúc nhiều và mạnh quá. Sơn bước đi, dẫn thằng Miêng đi theo. Sơn nghẹn ngào hỏi:

―Miêng, mày bỏ nhà đi mấy hôm?

Thằng khốn nạn không nói, cúi gầm đầu xuống. Sao lại bắt nó phải trả lời? Nó khổ, không đủ sao? Sao còn bắt nó phải xưng tội nó.

Sơn đã định thăm một người bạn đau tay; Sơn bèn đem Miêng vào nhà thương, ở gần đó. Sơn để nó đi trước, không cho nó đi sau, sợ nó trốn; tay Sơn liệu chừng sao cho dễ giơ ra nắm lấy áo nó, nếu nó vùng chạy. Sự mỉa mai ác độc: Sơn mặc quần là, áo xuyến, đi guốc đội mũ, ra vẻ học trò; còn thằng Miêng...

Sơn nói với em―em của Sơn như thế ư?―nói những gì, Sơn không nhớ nữa. Nhưng khi vào đến phòng Vệ, người bạn thân thiết, Sơn bỗng oà khóc. Em Sơn như thế đấy! Ai cũng tưởng là đứa ăn xin! Nằm ngủ trên cát nhớp, nơi đại tiện của những con cừu, con dê; áo quần gớm guốc, bụng đói xếp ve, thân hình gầy gò chẳng đáng một xu nhỏ!

―Miêng! Miêng ôi...

Sơn gọi thằng Miêng, và bỗng nhiên đánh mạnh vào lưng nó một cái, nghe một tiếng thụi! Lòng căm giận của Sơn lại phát ra bằng sự đau đớn của Miêng: thằng nhỏ khóc bật ra, vì nó đau tức nơi chỗ đánh, Sơn giận nhà và giận nó. Vì sao? Vì sao? Sơn không cần phải trả lời. Cả một quá khứ éo le, không thể nói ra được, lại rõ rệt trong trí não. Sơn thương thằng Miêng nghe chết một đoạn ruột. Cậu văng tay lên một cái, và đã đánh thêm thằng Miêng một cái nữa rồi!

Thằng Miêng khóc, van lạy:

― Tội quá! Tội quá! Anh ôi!

Sơn thấy nói đau, càng tức thêm, Sơn tức nó đã xui cho mình phải đánh nó, bèn tát nó luôn mấy cái, chúi cả đầu. Thằng Miêng khóc rú lên: tiếng khóc nó đâm vào lòng Sơn; Sơn cũng khóc theo. Một cậu nhỏ mười sáu tuổi, một thằng bé mười hai tuổi, hai đứa phải đâu là người lớn để sửa lại một cảnh đời? Chỉ có nước mắt, và những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại.

Rồi thì Sơn nghe đau nơi lưng, nơi mặt của mình, vì thằng Miêng đau nơi mình nó. Cậu học sinh vò hai bàn tay dữ tợn vào nhau. Hễ nhìn cái hình dạng tội tình của em, cậu khổ não vô cùng và khóc, bởi tính dễ khóc. Thằng Miêng tủi phận lại càng thút thít hơn.

***

Sơn cổi áo dài, lấy áo cụt mặc lót trong mình đưa cho em,―chỉ là cái áo ngắn, không có cánh tay―bảo em thay mặc. Áo giặt trong trường, trắng toát, mà quần Miêng và cả mình nó thì đen đỉu. Nhưng biết sao? Sơn không mặc quần đùi, nên không có để nhường cho hắn.

Miêng cuộn cái áo đen nặng mồ hôi thành một cục. Sơn đã bình tỉnh hơn, van nó, an ủi, cầu khẩn nó, và nhờ Vệ sẽ đưa nó về nhà. Lớn lao gì cho cam! Học lớp tư mà đã nên thân dơ bụi.

Cái đồng hồ phòng gác nhà thương bỗng đánh bốn tiếng, Sơn biết mình đã trốn hàng quá lâu, chắc sẽ bị phạt. Sơn vội vàng dặn dò em, dỗ dành nó, xin nó đừng đi hoang nữa; dẫu sao ở nhà vẫn còn hơn...

Sơn dặn Miêng phải tắm rửa và giặt quần áo đi; còn cái áo của Sơn, thì Miêng sẽ giữ lấy mà mặc. Sơn thở dài một tiếng: không có một xu mà cho em.

―Em ơi, em về nhà; anh vào trường, em ạ!

Lời nói nhỏ và nghẹn, Sơn vội đi đến chỗ anh em bạn chơi cách mấy trăm thước.

Không ai ngờ gì cả. Bọn thiếu niên cười đùa vui sướng. Gió biển mát, tung cả cái áo xuyến đẹp của Sơn lên. Một người bạn hỏi Sơn, cho sự ấy là một điều chưa từng thấy:

―Sơn mày ăn mặc hay thực! Không có áo cánh lót trong, mà lại mặc áo dài.

Cái Hỏa Lò

Mẹ của Siêu, Siêu gọi bằng má. Má Siêu xa thầy Siêu, về bên ngoại ở, Siêu con cá nhỏ giữa hai dòng nước, được về với má trong ít lâu. Siêu kể lại một kỷ niệm thời ấy. Các bạn ơi, hãy nghe chuyện một cái hỏa lò. Người ta rủ nhau đau khổ vì một ít đất nặn lại.

Khi lên sáu, không biết trời dun dủi thế nào, tôi được rời nhà thầy tôi trong hai tháng, về ở với má tôi, tại nhà bà ngoại.

Ôi thiên đường ở nhà bà tôi! Mình tôi nhẹ bông, không khi nào chịu đi từng bước, chỉ nhảy và chạy. Tôi sung sướng, tôi nở khắp toàn người, tôi sung sướng.

Một bữa trưa, cơm dọn rồi trên phản gỗ. Có cá chiên, có tôm kho, có rau và canh, có cả thịt nướng. Hôm ấy ê hề quá! Tôi đã ăn bằng mắt đến hai lần rồi. Khi bà tôi và mọi người xúm quanh mâm, tôi trèo lên phản để ăn bằng miệng. Tôi vừa cầm đũa, toan gắp thì bà nói:

- Siêu, mày không mời má mày ăn cơm à?

Tôi mới hay rằng má tôi còn ở dưới bếp. Vậy đó, mấy người đàn bà hay làm bộ, để "ăn sau" hoặc ít nữa cũng đến muộn. Hễ trong một gia đình, có dì, mợ, hay chị, ba bốn người, thì tất nhiên họ nhường lẫn nhau. "Chị lên trước đi! Em bận tay chút nữa". Thế rồi, ai cũng cố là người lên sau cùng.

Tôi chạy xuống nhà dưới: vòng hai tay lại cho có lễ phép:

- Dạ thưa má lên ăn cơm.

Má nói:

- Con lên ăn đi, má ăn ở đây.

- Không, bà bảo lên mà. Má không nghe bà giận.

- Con lên thưa với bà, má đã có thức ăn dưới này. Vừa nói, má tôi vừa bưng một niêu cơm nhỏ để trên chiếc chõng con. Thức ăn là một chén muối vừng mà tôi chắc mặn muối lắm, vì nhiều màu trắng, ít màu vàng. Xới cơm vào chén rồi, má tôi cười yêu:

- Con lên mau đi, kẻo người ta ăn hết. Hay là con ở đây ăn với má?

Không, tôi chả ăn đâu, muối vừng ngon sao cho bằng cá thịt.

Tôi đến thưa bà:

- "Má đương ăn ở dưới bếp".

Bà nói: "à phải, má mày nó muốn ăn riêng".

Ăn riêng? Một tiếng lạ. Tối đến tôi sực nhớ bèn hỏi chị Bốn, chị cắt nghĩa cho tôi hiểu: ăn riêng tức là để vốn riêng; buôn bán lấy lời, ăn cơm của má kiếm ra chứ không ăn lụy bà mãi. Chị Bốn cũng như tôi là cháu ngoại của bà, cha mẹ chết sớm, chị nương nhờ ở đây đã mười tám năm. Đủ hiểu rồi, tôi đến thỏ thẻ với má tôi:

- Chỉ có muối mè, thì ăn chung có hơn không. Má ăn như vậy, chắc xẵng miệng lắm.

Má xoa đầu tôi:

- Mày sang lắm nhé! Muối mè đã ngon rồi. Chớ hồi má đẻ con má ăn cơm với muối rang không thì sao. Ăn như vậy gần hai tháng. Lại còn đau nữa, đau mê man. Mà thuốc thang có gì đâu? Chỉ có nước tiểu xin của thằng nhỏ bên láng giềng, bỏ thêm một chút tiêu sọ.

Eo ôi! má tôi can đảm quá! Riêng mấy người đàn bà đẻ mới chịu khó được đến thế. Tôi dụi đầu vào cổ má, vuốt cằm và nói mơn:

- Má chịu khổ vì sinh ra con đó.

*

* *

Cách mấy ngày sau, tôi đương chơi "làm nhà" trong sân bếp, gần đống gạch. Tôi lụi hụi đặt viên này, chồng lên viên khác, đã làm thành một cái lầu hai tầng. Chừng ấy sao đủ? Tôi bèn cất thêm một cái lầu nữa: có đi đi về về mới vui.

Trời nhiều mây, nên tuy còn sớm nhưng trông đã tối. Chị Bốn ôm rổ ở chợ về, hai chân vội vã, tà áo dài đen làm gió sau mình. Bảy tám con ruồi túa theo sau rổ, chị vừa đặt xuống thì chúng ồ lên.

Tôi nghĩ: "Đấy, tụi nó đến nhập đàn ruồi ở nhà mình". Tôi nhớ ngay đến cái quán nước của bà Gồng, nơi tôi thường đến mua khoai lang, và lẩm bẩm: "Khi nào bán xôi đậu đen, người ta không biết trong đĩa xôi hột nào là ruồi, hột nào là đậu. Sao họ ăn được nhỉ? có phen nuốt ruồi vào bụng chứ chẳng không. Bà Gồng phải lấy một cái chai trắng, đổ nước vào quá nửa, rồi quệt đường bên trong cổ chai. Thế là các chị ruồi mon men theo dấu ngọt, bò dần vào, cho đến lúc xa quá sẩy chân, rơi ùm xuống nước. Rồi bơi, bơi như trong hồ. Nhưng đời nào thoát được chứ! Từ mai đến chiều, bà quán được gần đầy một chai đen! Thằng con mắt nhọ nhem thấy cái kết quả ghê tởm ấy lấy làm thích chí lắm".

Chị Bốn bưng rổ thức ăn vào bếp, chị nhìn quanh, khi nhìn đến chỗ để cái hỏa lò thì cái hỏa lò đã bị má tôi chiếm rồi?

Đã tối, rối thêm. Lấy gì kho cá cho bà ăn cơm. Chị Bốn hậm hừ nói to gì đấy. Má tôi không nhịn cháu, nói lại. Nhất là trong lòng: chắc má ức, má ghen, má xẳng xớm trong lòng, vì thấy má rời nhà cửa rồi, không còn chặt chẽ bằng một người cháu ngoại. Mà hễ má giận thì tôi rất thương; má có hay đanh đá cùng ai đâu! má được tiếng là hiền hậu, thiệt thà, ai ăn hiếp cũng được.

Bây giờ sự chếch mếch tăng thêm, tôi nghe tiếng dằn vặt bát chén, tiếng đạp thúng hất nồi, tiếng cãi gắt. Khi má tôi đi nhổ miếng nước trầu, má tôi ngó tôi như người không quen biết, má không chú ý tới tôi. Lần thứ hai đi ngang qua, má nạt:

- Siêu! mày có đem chất gạch lại không? Mày khuấy thế à? Của của bà, chớ của mẹ mày đâu? Dẹp lại!

Tôi tiu nghỉu, vội vàng tháo cái nhà công phu xây dựng, đã liều mặc hai tay trầy sướt, đã quên không sợ gạch rớt giập chân. Nhà mới làm xong, chưa được ở thử, nhưng thôi! Cái vách này dỡ đi, cái cửa này lấy ra, cái mái nhà này để làm gì? Và cả tầng lầu thứ ba, hãy dẹp đi nốt!

"- Thế đấy, mẹ con mình ở nhờ ở cậy, ăn chực ăn xin. Mẹ con nghèo xác xơ, chẳng có gì hết. Ai muốn đuổi mà chả được. Bơ vơ... bơ vơ..."

Siêu nghĩ thế, tủi thầm, nên tay Siêu chạm chạp. Vả lại rinh xuống thì dễ, rinh lên thì khó, nên thu dẹp rất lâu. Chết! tiếng xẳng xớm càng to, chắc bà nghe thấy mất! Má đi hỷ mũi. Vì khói hay vì khóc? Má khóc tức nhiên Siêu phải khóc lây. Siêu rơm rớm nước mắt. Nhưng Siêu ngậm miệng chặt. Khốn quá, cái gì ùn lên cổ, miệng cứ muốn phồng ra. Ráng ngậm chút nữa thôi, chút nữa thôi, cái ấy sẽ tan liền; nếu mở mồm tất phào ra mất. Đấy, đã hơi muốn hạ rồi đấy, Siêu không dám động tay chân, như những khi bưng một chén nước đầy cho bà súc miệng.

Nhưng bà đã nghe tiếng cãi cọ. Bà đi xuống bếp tay cầm cái roi. Không phải đánh Siêu đâu: đời nào? Thế đánh ai đây? Má, chắc đánh má. Siêu sợ giùm tưởng tượng đau ở mông và nghe một tiếng "trót". May thật, cổ Siêu bớt phồng một tý, nước mắt chạy đi đâu bớt một phần. Nhưng chỉ sụt một tí ti thôi; đang còn nặng cuống họng lắm.

Bà thở dài một cái, nói to mà như ngăn lại không cho tiếng ra:

"Kình lộn! Kình lộn! Bếp với lò! Dì với cháu! không biết của chi nhà bay mà bay giành nhau?"

Tiếng má và chị Bốn đáp lại cùng một lần, nói cả giây, cả lũ. Bà đến dơ roi quất chị Bốn: chị khóc hu hu, hai tay chị xoa xuýt nơi mình, chị kêu: "Tội quá, tội quá!" nhưng chị cũng chưa hết cãi. Bà giận lắm, đá ngay vào cái hỏa lò:

- Còn giành nhau nữa thôi? Giành! Kình!

Cá với lửa, với đất trộn nhau, nước vào than, kêu xèo xèo. Luôn giận, bà đổ rổ rau, bà đập trã canh, bà hất mớ tôm chị Bốn vừa bóc vỏ. Chỉ trong nửa phút, bao nhiêu thức ăn tan tành.

Nửa phút gấp ấy, cổ Siêu lại phồng lên lại, nước mắt góp mau thêm; thấy chuyện dữ, Siêu kinh hãi, không biết trong lòng Siêu đương như thế nào. Lệ đã lăn vài giọt xuống má. Nhưng Siêu găng, thế còn mạnh lắm, miệng ngậm cứng, hai hàm răng khít nhau: Siêu đương giữ một bờ đê không cho vỡ lụt. Dường như gân cốt cả người dồn lên nơi cuống họng. Ngực cũng dội lên. Bỗng Siêu nghe năm tiếng "trót" tiếp nhau: chị Bốn đã bị bà đánh thêm, đau quá; chị vừa kêu vừa khóc tầm tã. Bà thét, bà nói, chị khóc; ôi, cái hỏa lò khốn nạn, cái hỏa lò!

Bục một cái, đê vỡ rồi; bao nhiêu tiếng ào ra, hết mong, hết nín! Siêu vùng chạy một mạch, khóc ré lên. Chao ôi nước mắt, ở đâu nhiều thế này, Siêu lấy tay áo quẹt mà không dứt. Và cái ngực! Nó phồng lên! Và cái cổ! Nó kêu to, chốc chốc nấc một tiếng. Ôi cái hỏa lò ác nghiệt, cái hỏa lò bằng đất, cái hỏa lò!

Siêu nép sau một cánh cửa, khóc như gió như mưa. Siêu ngồi sụp xuống, để trút ra bao nhiêu nặng trĩu trong lòng. Siêu khóc, Siêu khóc...

*

* *

Khi Siêu đã khỏe, Siêu nghe tiếng chân bà ở dưới bếp đi lên. Siêu vội lẻn trước ra sân, sợ bà thấy, sợ thấy bà. Siêu nghe cái gì mới mới trong mình. Siêu đã nín.

Nhưng Siêu buồn, buồn lắm. Còn gì nữa đâu! Nồi niêu đã vỡ cả, cá thịt đổ cả rồi; nhất là chị Bốn đương đau, má đương buồn, bà đương mệt vì giận. Biết đâu bà không khóc? Bà lại sung sướng gì sao? Ôi, cái hỏa lò, vì mày mà nên cơ sự.

Thỉnh thoảng, Siêu thít một tiếng, ở đâu trong mũi còn sót lại. Mắt Siêu như mới rửa, nước còn đọng nơi lông nheo, hễ nhíu lại mà trông ra thì thấy cây cối đến rung mờ.

Siêu đi thơ thẩn ra ngoài đường. Những người láng giềng hỏi Siêu:

- Em khóc hay sao mà hai ống tay áo ướt vậy em?

Té ra họ chưa biết ư? Cơm gạo đổ hết, nồi niêu đập cả, thế mà họ hỏi như không. Siêu không nói năng, đứng ngẩn.

Và hãy còn buồn, buồn như mọi sự đều kết liễu. Buồn như phải rời nhà bà về ở với thầy. Buồn hơn trời mưa, buồn hơn chiều tối.

Một lát, Siêu vào lắng tai nơi cửa, thấy mọi tiếng đều im lìm. Cái lặng lẽ nghiêm nghị quá, làm Siêu sợ sợ. Siêu chậm rãi bước vào, đề phòng từng bước đi, từng cử chỉ. Nơi cái bàn nhỏ, có một niêu cơm. Bà tự tay nấu lấy nồi cơm này, vì nồi trước đương sôi, thì vừa bà đến đập vỡ và bà hờn má, hờn chị Bốn, không cho ai nấu lại, để mặc cho bà nấu bà ăn. Bà chan nước mắm vào cơm, ngồi một mình uể oải. Thấy Siêu, bà nói lạnh lùng: - Siêu, đi lấy chén ăn cơm.

- Vâng, cháu đi lấy.

Đi ngoan hơn người lớn. Không chạy nữa. Tay bấu vào chén. Lỡ rơi vỡ thì sao? Và ngồi ăn.

Bụng ban nãy thóp vào để cuộn nước mắt lên, bây giờ mỏi lắm. Khi Siêu nuốt cơm vào, Siêu nghe đau đau. Cơm bà nấu cứng quá. Nước mắm ăn chẳng ngon. Ôi, cái hỏa lò, cái hỏa lò đáng ghét!

*

* *

Hai hôm sau, buổi trưa, Siêu xuống bếp, chị Bốn cười rất dễ thương, nhờ Siêu một chuyện:

- Em ở đây chơi, coi giùm nhà cho chị, kẻo ai nấy đều ngủ hết. Em giữ khéo đừng cho mèo vào lục cũi. Chị đem bỏ cái hỏa lò nơi gốc cây đa, bên cạnh đình làng.

Cây đa có treo ấm và ống bình vôi. Có cái trang thờ; và ở dưới chân, có vô số hỏa lò và ông táo, cây đa to tát ấy ư? Không, không thể được. Cái hỏa lò kia không được sung sướng thế; chỉ đáng vứt nó vào đống rác thôi. Siêu bèn nắm lấy hai tay chị Bốn, hăm dọa:

- Mèo ăn hết cá, bà ngầy mặc chị; em không coi đâu, chị ở nhà đó, em không coi đâu!

Chó Mèo Hoang

Thà con cọp trên rừng hay đàn cá dưới biển, chúng nó sống như chúng nó sống, cứ tự nhiên, như cỏ nội, hoa đồng. Chúng không cần loài người biết đến, họ có hay không thì chúng cũng chả dính líu gì, có họ mà lại hay hơn! Chứ giống chó, giống mèo, nếu ta không nuôi thì nó biết làm sao? ừ, chúng đi làm gì?

Những chó mèo hoang không thể lại thành chó sói hay mèo rừng. Chúng đành phải thất thơ thất thểu, rách rưới, lang thang. Người ta phải nuôi, có một bổn phận phải nuôi bọn nó, nhưng người ta không nuôi. Vậy thì thôi, ai bắt người ta cho được?

Những con vật ấy đã nhiễm thói ăn cơm với cá, quen tính ở cậy ở nhờ, nương tựa, ỷ lại vào những gia đình, để bắt chước những điều văn minh. Chúng đã qua lại trong nhà cửa, đụng chạm với những bàn ghế, chung chạ với bếp núc. Và không thể tự mình lo đủ, vì đã mất bao nhiêu tài cán trời cho.

Không ai nuôi, bọn nó đi hoang; chúng bơ vơ, cực khổ, chúng đói khát, dơ nhớp, chúng thất nghiệp.

*

* *

A, những con mèo mắt sao, mắt ma, mắt giếng thẳm, bí mật như xứ cổ Ai Cập! Chúng rút mình lại, kêu một tiếng rù rù đâu từ các lỗ chân lông phát ra, lấm chấm nghe như gồm bằng rận nhỏ. Chúng hư thân, mất nết lắm, cái bọn mèo!

Khi Sơn còn học vần quốc ngữ ở nhà, mỗi lúc gần bữa ăn, mẹ Sơn bảo:

- Sơn, đi lấy cơm cho mèo ăn trước, kẻo đến lúc người ta ăn, nó nhảy ngay lên, đứng trên bàn.

Cơm xéo thật rời, chan nước thịt, lại bỏ thêm cá vụn, đựng trong cái chén sắt tây mới tháng trước em Sơn còn bưng ăn. Sơn trông mà bắt thèm đi được. Thế mà con Mun lè cái lưỡi hồng chỉ liếm vài miếng, xơi hết cá rồi thôi. Nó ăn sang! Nó làm bộ! Cho ăn tử tế thì không chịu. Để rồi đi ăn vụng, sướng hơn!

Nó lại còn làm biếng nữa. Trong bốn tháng trời nuôi nó, nó chỉ bắt được có một mẩu chuột tí hon. ấy vậy mà khi xin nó về, mẹ Sơn xách tai nó giơ bổng lên cao thử xem tính nó siêng hay nhác, thì con Mun co mình lại, quắp chân vào, kêu eo éo, ngó sao dễ thương quá! Làm cho cả nhà tưởng nó sẽ siêng.

Sơn cho nó ăn cơm lâu ngày cũng chán. Sơn không chịu nổi công việc ấy nữa. Trước người ta quí nó bao nhiêu, bây giờ nó hư bấy nhiêu. Mặc xác nó! Miễn là giữ gìn các thức ăn, đừng cho nó ăn vụng. Nó muốn đói thì cứ đói, mà muốn no thì bắt chuột lấy mà ăn!

Thế rồi con Mun đi hoang, theo bạn theo bè. Nó đi lúc nào không hay, nhẹ nhẹ bốn chân cao su của nó.

*

* *

Nhưng một sáng sớm cách đó ít lâu, ở đống gỗ đầu hiên, Sơn nghe có cheo chéo những tiếng mèo kêu, nhão ướt và inh ỏi. Thằng Được, một đứa ở nhỏ, kể lại với Sơn, giọng quan hệ bằng chuyện sinh hoàng tử:

- Con mèo bụng to gần sát đất vẫn đến nhà ta; hôm nay đẻ rồi. Năm con! Nó gầy xóp ve, không có sữa nên con nó la nheo nhéo.

Thế có gì hay? Song thằng nhỏ nói giọng rất thầm kín làm cho Sơn tò mò.

Sơn chạy ra xem. Mấy mẹ con ở trong hốc nào, tìm mãi không thấy, chỉ nghe tiếng rên la. Bọn mèo sơ sinh thi nhau réo to, trẻ con khóc không bằng. Sơn thương ngay. Thực lòng Sơn tội nghiệp chúng nó lắm.

Và Sơn liền được dịp che chở: chính trưa hôm ấy con mèo mẹ đến luẩn quẩn dưới bàn ăn cơm. Không biết nghĩ sao nó cứ đụng vào ghế Sơn ngồi. Sơn biết ý, lén bỏ xương cá xuống đất. Cái ấy cấm ngặt. Mẹ Sơn đã dặn: "Đừng bỏ xương xuống, nhớp nhà, và dậm lủng chân". Nhưng con mèo và cả gia đình nó đương đói đây này, quí hóa gì cái xương mà tiếc với nó?

Mẹ Sơn bắt được Sơn bỏ cả nửa con tôm xuống dưới bàn. Bà nhìn theo xuống, thấy con mèo. Bà nói:

- Mày nhịn ăn mà nuôi nó! Làm thế nó quen môi đến hoài, rồi rũ lông vào đồ ăn cho người ta ho lao!

Ăn phải lông mèo thì ho lao! Ghê chưa?

Mẹ Sơn còn giảng với những người khác:

- Không phải vậy là thương chứ. Đồ mèo hoang, chỉ tổ ăn chùng!

Tuy thế, sau bữa ăn trưa, Sơn lén vét một chén cơm cho con mẹ khốn nạn. Sơn lại còn nói mơn nó:

- Ăn đi, ăn mau, về mà cho con mày bú!

Có phải tội nghiệp hay không? Mấy con mèo mới đẻ, nhỏ yếu, khát sữa, rúc miệng nhai nát vú mẹ mà chẳng nước gì. Trách sao bọn nó đừng la. Nghĩa là nó khóc theo tiếng của nó.

*

* *

Tuy mẹ Sơn nói hung hăng, nhưng bà không rầy Sơn tốt bụng của bà nữa. Ngày nào con mèo lạ cũng được no. Bà lại còn vẽ cho Sơn:

- Cho nó vừa vừa, kéo nó bỏ dư, uổng hột ngọc trời. Người ta nói "ăn như mèo ăn ", con lấy chi nhiều cơm vậy?

Rồi thì một hôm - chúng nó vào như mèo chả ai biết mà để ý - toàn chùm mèo con nằm gọn trên cái ghế mây. Chúng lại dỡn nhau, con này nhảy lên con kia, làm dáng, khoe duyên, nằm xuống, đứng lên, ngừng lại, chạy vòng, tưởng đâu nhà của Sơn là nhà của chúng.

Đẹp nhất có con tam thể. Ba màu óng ánh, trắng, đen, vàng. Chao ôi, sao nhỏ nhẻ, mũm mỉm, yếu ớt, dễ thương! Sơn nhịn không được, bồng nó vào tay, vuốt ve, nưng nịu. Chị của Sơn, cô Thư mười hai tuổi, bấy lâu hờ hững, hôm nay lại âu yếm hơn ai. Cô nhỏ bồng lên mà thương, thương lộ rõ nơi bàn tay mơn lông, thương quấn quít nơi hai chân nhảy nhót, thương giòn giã nơi miệng nói, thương, thương!

Mẹ Sơn ban đầu nghìn nghiêm hai chị em:

- "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì giàu". Bay liệu đấy! Cơm đâu mà nuôi sáu cái miệng chỉ giỏi ăn mày?

Chị Sơn nũng nịu:

- Mẹ ạ "chó vào nhà thì nghèo, mèo vào nhà thì giàu" chứ! Có phải không mẹ! Phải không Sơn, câu tục ngữ xuôi hơn, đúng hơn chứ?

Mẹ tát yêu vào mặt chị. Giỏi thực! Chị Thư học đâu mà nhiều tục ngữ thế? ứng đối như trạng Quỳnh.

Rồi nhà lăng xăng lên vì những tiếng "meo... meo..." của năm sáu con mèo và của hai đứa nhỏ gọi mèo. Cho ăn, tắm rửa, chăm sóc, vuốt lông, dỡn, đùa, nhìn, vui quá!

Một lần mèo chạy vào chỗ cát, mũi còn ướt, nên dính cát đầy. Sơn phủi không hết, đem cào rửa, đến nỗi rách da non, thấy cả thịt hồng, Sơn lẻn vào buồng mẹ, lấy ve dầu tăng dót ra bôi.

Thấy mũi mấy con mèo nhỏ vàng khè, chị của Sơn lè lưỡi xuýt xoa, tưởng như mũi mình đương bị rát. Nhưng Sơn giảng nghĩa cho chị:

- Chị ạ, mèo nó không biết rát như ta đâu.

*

* *

... Lòng sốt sắng nguội dần, nhất là trong lòng con trẻ. Mấy con mèo càng ngày càng khuấy nghịch. Chị Sơn ngồi tập khâu vá, thì chúng tung rối cả cuộn chỉ; Sơn học, thì một con nhảy lên nằm gọn trên vở mới, nhớp tờ giấy trắng tinh. Cho ăn chung thì phải lấy cả cái đĩa to, đĩa ấy bận đơm cơm cho người nhà; cho ăn riêng thì phải bốn năm cái chén; mà bỏ cơm giữa đất, thì phải quét nhà.

Và càng lâu, càng lớn, chúng ăn càng tợn; mà thức ăn chúng lại kén chọn như ông hoàng. Nhà Sơn có giàu, có sang đâu!

Đã mấy lần, Sơn nghe thằng Được cau có. Bởi vì mèo ăn hết cơm, hết cá, hết phần của nó đi. Nó ăn sau nên nhà trên ăn còn thừa món gì, thì mèo đã hưởng trước nó, đến lúc bưng xuống thì bao nhiêu đĩa đã sạch bong. Và, hỡi ôi! Mèo lại còn ăn lẫn của nó nữa! Một hôm, mẹ Sơn cho nó một miếng cá - ngon lắm, cá thu - nó chưa ăn, chạy ra giếng xách nước; trở vào: đau đớn chưa mèo phỗng mất của nó rồi!

Té ra bọn mèo này ăn vụng! Rau nào sâu nấy. Chị Sơn đã bắt đầu nghĩ cách người lớn:

- Đồ con chửa hoang, làm sao mà nên được! Hư là phải. Cái giống mèo hoang...

Thấm thoát qua nửa tháng. Bọn mèo hành hung, rối loạn. Giường nào cũng leo, bàn nào cũng trèo, ghế nào cũng ngồi, không còn thứ bậc chi nữa. Nhỡ mình chúng có bọ chét, có phải lây sang người ta không? - Và ăn vụng cũng không chừa; quen môi chúng càng gian giảo gắt. Lại còn la inh ỏi; ban sáng, ban trưa, ban đêm người ta ngủ, lúc nào cũng mè nheo.

Con mèo mẹ ra gương xấu trước nhất. Phải trị. Đầu tiên, mẹ Sơn bảo đánh, Sơn lấy một cái lạt tre mỏng như cái tăm. Lần thứ hai một cái que lớn hơn. Lần thứ ba, cái cán quạt lửa. Lần thứ tư, con mèo lỳ lợm quá. Sơn phải dùng cả đến cái thước gạch. Thế mà mẹ Sơn còn mắng:

- Mày đánh không thấm da nó! Phải đánh mạnh, đánh chết đi cho chừa!

Sơn đánh không nỡ tay. Sao lại bắt Sơn làm công việc trị mèo ấy? thằng Được liền vội vàng bái lĩnh. Nó thi hành ngay với chiếc guốc, với cây củi. Nó cứ đánh bừa, gặp cái gì trong tay, là nắm lấy mà đánh mèo, không biết nó có thù gì to lớn thế. Sơn xin nó đừng đánh, nó không nghe. Sơn bảo nó đánh nhẹ, nó chỉ cười. Thấy mà đau giùm cho mấy con mèo; thằng nhỏ nhẫn tâm quá! Nhưng mèo hư tột bậc, cứ ăn vụng hoài. Sơn không có lý gì để bênh vực. Chị Sơn đã bỏ chúng, chỉ còn Sơn bịn rịn, - sao lòng Sơn lại yếu hơn lòng đàn bà?

Bây giờ ai đánh mèo, Sơn không dám cản, ai đập guốc nhằm chân mèo, Sơn chỉ nói nhỏ trong miệng: "tội chưa" - Bọn mèo ơi, ngoan lên thử nào! Bay hư hỏng thế này thì xấu hổ cho Sơn, người đã rước bay về; bay làm cho Sơn không thể giữ bay ở lại mà nuôi nấng.

*

* *

... Gió nồm bỗng thổi lên: thả diều sướng biết mấy! Sơn không giữ mấy con mèo nữa, ngày độc ác ấy, mẹ Sơn bảo thằng Được bỏ lũ mèo ở miếng đất hoang tận đầu thành phố, rất xa, cho chúng khỏi tìm cách về. Cách giải thoát này hoàn toàn nhất, không còn kế nào hơn. Còn nhớ thằng Được - thằng nhỏ sao nỡ quên rằng nó cũng tập tàng như rau tập tàng, đẻ ở bên ruộng kia, nếu không đẻ nơi đống gỗ - Thằng Được xách một tay hai cái tai, một tay ba cái; bọn mèo van nỉ, nhưng nó thì cười. Và con mẹ thì nó mượn một đứa nào đó ôm theo. Nó còn thêm:

- Tao vứt đủ cả sáu chúng mày hủ hỉ mẹ con với nhau. Đừng mong về ăn vụng nữa?

Tiếng "ăn vụng" kéo Sơn lại với niềm sắt đá; Sơn phải nhớ sự thật; nhớ bao nhiêu điều hại bọn mèo đã gây ra; dầu Sơn có thương đến đâu, cũng không ôm mấy con mèo lại được.

Ngày nay lớn lên. Sơn không chỉ thương sáu con mèo xấu số đã cùng sống với chàng trong một thời hạn, ghi lại nơi tay chàng một cảm giác mịn màng ve vuốt, lưu lại nơi mắt chàng cái ký ức của những con mắt tinh ma.

Chàng nghĩ đến tất cả những con mèo sống trong lối, lút trong đêm, trùm trong bí mật ghê sợ của một cuộc đời vô định, khác xa những con mèo sang trọng trong những gia đình trưởng giả, nằm chuốt lông trên chiếc gối bông êm ấm, hình bóng loáng như hàng lụa bao ghế hay gạch hoa lát nhà.

Nhiều phen Sơn đứng trên gác trọ, nhìn bao nhiêu nóc nhà chen lấn, lúc nhúc, gập ghềnh. Những nét ngớ ngẩn vì rắn rỏi, những đường gãy hẳn một cách thô bạo, mái bằng phẳng hay trồi lên sũm xuống vì lợp kiểu âm dương, vôi mốc rêu, ngói cũ càng, những màu nâu hay đỏ, những sắc xám hay xanh: tất cả làm nên một cảnh tượng kỳ dị, buồn cười, một cảnh tượng riêng khác.

Sơn nói: đó là thế giới của bọn mèo hoang. Chúng chui trong ống khói đen, nằm trong máng khô nước. Chúng đi nhẹ như sự rụt rè, chúng nhảy mau, chúng lượn nhanh, chúng vọt cao, chúng bổ thấp. Chúng khinh luật thăng bằng, chúng không sợ chiều dưới, và không nể chiều trên. Chúng không thể ngã chúng không thể té. Có phải chúng nó sống trong một cái đời ở trên cuộc đời hay không?

Song chúng tìm đâu ra ăn? Bảo là ăn vụng, thì tiện quá; cái hay, cái khó ở nơi cách ăn vụng. Đánh cắp thế nào? Rình mò ra sao? Chờ ban trưa, đợi ban tối? Nào có dễ gì ăn vụng! Người ta không chịu mất một con tôm to hay một miếng thịt nhỏ mà không báo thù bằng một thanh củi nặng làm gãy xương sườn. Có nhiều đêm, Sơn được gặp hai chấm sáng trong bóng đen, thôi miên, ám ảnh. Có những chiều, Sơn bắt gặp một thoáng mèo vụt qua rồi biến không biết nào nơi đâu. Có những trưa, Sơn trố mắt tha hồ trông những con mèo hoang gầy bẹp như không có bề dày, ngủ phơi dưới nắng.

Dầu đói khát, dầu phải tìm vỏ tôm hay xương cá ở nơi thùng rác, dầu phải đánh cắp những bộ ruột gà người ta vứt đi, dầu khổ sở thế nào, nhưng con mèo hoang vẫn giữ lấy vẻ quý phái – quý phái chứ không trưởng giả. Cách đi đứng, cách nhai nuốt, cách nâng nhẹ những vật thừa thãi đều có duyên của những bà hoàng sẩy ngôi hay những cung nữ hết thời. Chúng bước dè dặt, không muốn dính mình vào đất dơ, chúng có cái đặc tài giữ chân cẳng trơn tru, dù phải dậm qua nhớp nhúa. Và hễ thong thả, chúng liền tỉ mỉ tắm gội. Những cơn đói không bắt chúng lành tính sạch sẽ; tuy là mèo hoang, chúng vẫn còn là mèo.

*

* *

Và họ cũng không chừa cắn nhau, những bà tướng có râu mép. Họ không bỏ hẳn cốt hùm beo của giống giòng. Chân gầy của họ khéo dùng những móng trắng mỏng, nhọn quấn lại, giữ bén và kỹ hơn gươm trong chuôi.

Họ bấu nhau thì ít, gừ nhau thực nhiều. Họ gậm gừ, tiếng khô như khát, tiếng xóp như đói. Những tiếng căm giận, uất ức, đen ngòm, mếu máo như tiếng khóc của đứa hài nhi. Chốc chốc hai tiếng kình địch xoắn lại như quặn lấy nhau, nghe sợn sùng giữa đêm tối.

Tiếng gào của bọn mèo hoang, xui ta tưởng đến những bãi tha ma, những quỷ địa ngục. Ta thường gọi "Mèo ma" những thứ mèo tợ hồ không phải là sự thật, những thứ mèo có lẽ là giả, là yêu tinh. Và ý chừng, tuy ta không nói rõ với trí ta, ta vẫn tin mờ mờ rằng đó là yêu tinh hiện hình giả dạng.

Mèo hoang! Chuyện hồ ly thuở xưa chắc hẳn chỉ là bịa đặt; chỉ có các ngươi, chỉ có bọn mèo hoang mới thực là hồ ly tinh!

*

* *

Bọn mèo hoang tuy thế mà còn sướng. Chúng chẳng sinh ra để sống ngoại hạng, sống ngoài biên là gì. Chúng cao, chúng nhẹ, chúng ở thượng tầng như những nóc lầu chúng xem tợ đất bằng, như những chim sẻ chúng bắt ăn. Chúng có thuật tàng hình, biết làm một xứ riêng, ở đó mà meo, mà gào, mà khóc lên những tiếng hãi hùng cho bọn trẻ con - như Sơn khi còn nhỏ.

Bọn chó hoang mới thực khổ.

Bọn nó trung thành quá nên cứ luẩn quẩn chung quanh người. Bọn nó hiền quá, thật thà quá để người ta đánh một cách dễ dàng, rồi kêu những tiếng đau đớn như bị gãy xương và vỡ trái tim. Gồm bằng những con chó nhà nghèo, chủ đói không có ăn, huống chi là chó. Gồm bằng những mẫu chó đẻ bên bụi cỏ, lọt lòng ra rúc hết vú mẹ không được một chút sữa khô. Gồm bằng những con chó người ta quên nuôi, vì một ngày kia trong nhà bỗng có mười con hoàng anh hay một con vẹt. Gồm bằng những con chó người ta không đem đi, lúc đổi chỗ ở: chúng yêu quá, nương mùi tìm chủ, song đường xa thẳm, hơi đã bay theo gió mấy lần.

Gồm bằng những con chó già. Gồm bằng những con chó đau. Và biết đâu? Gồm bằng những con chó cứng đầu, ghê roi vọt và sợ đọa đày, bằng lòng chết khổ để theo tự do, như chó sói.

*

* *

Ban ngày, chúng đi lang thang, không biết dùng mình làm việc gì. Chúng không phải là loài biếng nhác. Nhưng không có sân, không có nhà mà giữ để sủa cho sướng miệng. Bây giờ chúng dám đâu hùng hổ với người ăn mày! Bởi vì chúng cũng đương đi ăn xin. Nhưng chúng chỉ có đôi con mắt để mà trông thôi, chúng không có lời để mà nói. Chúng chỉ có một bộ xương rất rõ, đếm được từng cái một, không hề che lấy bằng mảnh giẻ nào; nhưng chúng không thể van xin: "lạy ông, lạy bà, nhón tay làm phúc". ồ! lắm phen chúng ngứa miệng quá. Song lẽ nào lại quáu lên giữa đường, ở ngoài trời không; loài người sẽ đánh cho im, và chửi như... chửi chó!

Những con chó nhà vẫn thường đến nhập đàn với chúng. Trong đôi giờ, chúng được quên rằng chúng là "hoang". Cả năm sáu con ngửi lông nhau, liếm mặt nhau. Một con theo đuôi một con, khác chi một người theo chân một người để xin tình ái. Chúng đứng hai con với nhau; sau khi đã mơ lẫn nhau rồi, hai bên ngơ ngẩn hai đường, mỗi đằng nghĩ một ý riêng...

Họ không kể đến xã hội loại người; còn giữa bọn họ với nhau, thì họ không biết mắc cỡ. Họ rất tự nhiên. Bởi thế mới bị người ta đến quăng đá, ném đất cho, khuấy phá làm rầy, phạm vào tự do của họ. Bảo họ vào giữa sa mạc mà yêu nhau hay sao?

Cũng rất nhiều lần cắn nhau dữ tợn, ồn ào. Những con yếu - đó là những con "hoang" - bị nhổ cả từng vạt lông, da sùi trắng hay cháy ứa máu hồng. - Nói hồng cho đẹp vậy thôi chứ máu của loại chó khô khan, đói khát, gầy gò, chỉ có thể bầm tím. Và có lẽ họ không còn máu để chảy nữa kia!

Đó còn lúc khá. Lúc này mới chịu không nổi cho bọn vẩn vơ; tới giờ ăn, những con vật mập mạp, đầy đủ, béo tròn liền bỏ chạy về mừng ông chủ cũng béo tròn, đầy đủ mập mạp, đuôi ngoắt lia lịa, đầu quấn quít vào những ống quần. Chủ đánh cái nhẹ vào mỏ ác, và một đứa nhỏ ngoa mồm lên:

- ấy, thưa cha, con Vàng nó chạy ra chơi với chó hoang, bẩn cả bộ lông rồi!

- Thầy ạ, con Vện nó muốn hư như lũ chó hoang.

- Con Ba Tô! Mày không được chạy rông như chúng nó.

"Chúng nó" thì đương ngơ ngác nhìn theo. Đầu chúng cần được cọ vào một bàn chân; sườn của chúng nhớ một bàn tay ve vuốt. Và nhớ nhất, là cái bụng lép đáng thương, rỗng như những ngày trống không ở dọc đường.

Chao ôi đói, đói, đói không rên được, đói đi không nổi, đói lử cả người, đói... Bọn họ lẩn thẩn lơ thơ, tìm những cái xương không thể rớt xuống tự trên trời, kiếm những miếng cơm mà đất không làm cho mọc lên. Trời ơi, được một cái xương to mà giòn, nhai nghe rào rạo! Ôi chao! Mùi thơm ngào ngạt ở trong bếp nhà kia đưa ra cùng với khói ngon lành! Nếu vào được ở dưới một cái bàn ăn, há hờ những hột cơm rớt xuống! Những cậu bé vụng về và hào phóng, mới tập cầm đũa hay ăn quà đã no, các cậu đi đâu vắng cả? Sao không làm mưa cơm xuống đầy đất, những hột cơm có ướt nước cá, nước thịt, nước tôm! Các cậu rất xa xỉ, các cậu đạp cả chén cơm cho đổ ùa, các cậu há miệng rất hẹp, cố ý vãi cho con chó hai phần thìa cơm. Khi suốt ngày xơi bánh đã quá no, các cậu bưng chén cơm ra hè, mượn con chó của các cậu ăn giùm cho, rồi khoe với mẹ rằng các cậu giỏi lắm. Ôi, những cậu bé hay thương người như vậy, sao các cậu chỉ ở trong nhà!

Ước mơ... Nhớ nhung... Thèm thuồng. Và đói!

Húc mũi vào đống rác. Lè lưỡi trên bụi cỏ. Cào đất lên như những con gà. Con chó hoang cũng vẫn nhớ rằng không có gì trong ấy đâu, rác và cỏ, và cả đất nữa đều bị nó lục soát mấy mươi phen rồi. Nhưng tìm để mà tìm, để an ủi này lừa dối cơn đói mà thôi. Vả lại biết đâu ông trời của loài chó lại không rủ lòng thương mà cho gặp gỡ?

Chiều chiều Sơn đi chơi, thỉnh thoảng gặp một con chó ngẩn ngơ giữa đường vắng, kiếm gì ở dưới đất, mùi dư hay hương thừa, vết không thấy của một miếng thịt hay bóng vô hình của một ngày qua?

Gặp Sơn nhiều lần nên con chó quen người; nó đã đi sau, hít hơi của Sơn một cách ngọt ngào mà Sơn không để ý tới. Rồi một bận, nó cứ theo lỳ lấy Sơn, đuôi phe phẩy. Chắc bấy lâu, nó không được mừng ai, đuôi nó cần được dùng vào tình quyến luyến. Ai bảo rằng tâm hồn nó lại không đồng một cảnh khát khao yêu mến, như cô gái hay chàng trai trong tiểu thuyết tình?

Thú thực rằng Sơn có hơi sợ chó. Đứng xa xem thì được; lại gần, nghe con chó giơ hàm răng, thè lưỡi ướt liếm vào hai chân, Sơn nhột và sợ. Khi nhỏ, học bài "Con chó dại", Sơn ghê rợn và hễ gặp con chó nào đuôi bỏ thõng, mắt ngơ ngác, Sơn liền nghĩ ngay rằng nó cắn chết người. Bây giờ, tuy Sơn biết con chó ấy không dại, nó chỉ "hoang" thôi; Sơn cũng đương còn chút sợ thuở xưa; con vật theo chàng, chàng cuốn chân, vội vàng nạt nó một tiếng lớn. Chàng muốn ù té chạy. Nhưng lại e nó rượt theo cắn chàng.

Cái ấy không cấm chàng hết lòng thương con vật bơ vơ. Sơn thấy con chó buồn. Nó buồn lắm. Không ai thương nó hết,- nó biết đâu rằng Sơn không dám vuốt ve nó. Sơn sợ tuy rằng thương. Nó chỉ cúi gầm đầu xuống. Nó đi thất thểu không lanh lợi. Thỉnh thoảng nó ngẩng lên nhìn cái gì đâu đâu. Rồi nó lại cúi xuống đường, vừa theo mãi lấy Sơn.

Nó buồn lắm. Nó đương buồn, hoặc có cớ, hoặc không cớ. Mà chắc trong hồn loài vật, nỗi buồn mới thực là vô căn, không hiểu bởi vì đâu và cũng không rõ là thế nào.

Con chó kia còn biết dùng buổi chiều của nó để làm gì? Nó không biết. Nó không có thú tiêu khiển nữa. Nó một mình, - à không, nó đi theo Sơn.

Và Sơn thì theo những ý nghĩ rất thương xót, đớn đau. Người ta buồn thì có thể đi chơi, ít nữa người ta cũng tự biết, chứ con chó sau chân Sơn, nó chỉ đương ngơ ngẩn, không hiểu cái gì lạ thế đè nặng nó như một lớp. Nó khó chịu, nó ngơ ngác, nó cầu cứu với Sơn.

Nhưng Sơn không thể bồng nó vào tay, nựng nịu, mơn trớn nó. Sơn thương chứ không mến. Sơn tội nghiệp, nhưng lòng chua xót vô vị của Sơn không giùm cho con chó được tý gì.

Rồi Sơn muốn dứt khoát cái dây tình cờ đến buộc lấy chân Sơn. Sơn đi nhanh để con chó hoang không theo kịp. Bấy giờ con vật bèn chạy lúp xúp, ô hay! Sao nó dính vào Sơn như thế!

Nó còn chạy theo chàng một quãng xa, như ai bắn nó, đuôi ngoắt hoài, mũi không thôi ngửi vào chân Sơn, cách tỏ âu yếm giống hệt của loài người: người ta hít hương da thịt của bàn tay, của cánh tay, của đầu với tóc, với má, với cổ họng có những hốc nhỏ chứa mùi thơm...

Con chó hoang đã đứng dừng, ngực lép thở mau mau, cái lưỡi thè ra một chút. Sơn đi nhanh quá, Sơn cũng không thèm quay lại nhìn nó cơ mà. Nó biết người ta ghét nó, nên phải dừng lại và trông dõi người đi.

Nó đã xin lòng thương. Nó được lòng thương nhiều lắm, ngập cả tâm hồn người đã đành tâm bỏ nó. Nhưng nó không được nghe trên lông những ngón tay chạy dài, những ngón tay lượn ngược. Lấy hai chân, lấy một chân đè lên mình nó mà mơn trớn nó cũng được; nhưng không!

Sơn bước đi, nhưng người ta đau đớn ngoảnh mặt tránh một cách thê thảm. Cũng như lòng Sơn, chân Sơn không thể nào nhẹ được, tuy chàng nhất định không ngoảnh lại, sợ gặp đôi mắt thảm thiết của cái linh hồn đầu đường xó chợ kia. Sơn rùng mình, vì chàng thấy mình đương dẫm lên tình của một con chó rách, dẫm lên trái tim tội nghiệp của một con vật tồi tàn. Và Sơn hoa mắt đi, tưởng chân mình dính xương, máu nát tan như xương máu của một con chó chết chẹt ô tô.

Ðứa bé ăn mày

    Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó. Hai ống tay áo đen bóng vì luôn được dùng làm khăn lau mũi. Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dã càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ. Có thể nó chủ ý phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút gì chăng? Vì mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó. Sau khi thận trọng gõ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và hình như còn lép kẹp hơn bụng nó.

Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản vì những loại như nó không đáng được người ta quan tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng vì không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn. Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu vì búng mãi không vào đúng lỗ. Ðã thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa thì bất chợt nhìn thấy thằng ăn mày khốn khổ. Nó thấy có cái gì đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách dò đường hai cộc một bước của thằng kia. Ðôi mắt trắng dã làm nó, vốn bực mình vì mất viên bi, càng thêm khó chịu. Cứ như viên bi của nó đã bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa.

Thằng bé ăn mày kêu  ới ới , hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước.  Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!...  Giọng nó yếu lắm, chắc vì đói. Chờ mãi không thấy ai trả lại gậy, nó đành dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gõ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi. Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngã, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng thơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng.

Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này.

Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu bò rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp. Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngã xuống giếng và đã chết, vì bờ giếng lát gạch trơn chẳng có gì để bấu víu, vì nó quá yếu do đói ăn, vì xung quanh không có ai để vớt nó lên. Còn thằng bé chơi bi lếu láo kia thì thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà...

Chuyện này xảy ra đã mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ.

Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, vì nó là con nít. Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng. Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy thì phát gì? Phát nghề ăn mày à? Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đã đến.

Sau nhiều năm liền mất mùa vì thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ý mấy đến hiện tượng này, vì xưa nay ăn mày chẳng hiếm. Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn báo oán của thằng bé nọ. Ðể giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đã được gọi là  Ông . Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách. Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xã hội (người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xã, kèm theo chiếc dấu tròn đỏ chói). Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác - Làng Ăn Mày!

                                                         *  

 Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ , ông M. thở dài nói.

Ông là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau chứ giữa  nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có gì liên quan. Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông vì ông nhiều tiền mà không hợm mình, và cả vì ông đồng ý để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên. Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đã cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Ðình Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.

 Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đã làm thằng bé ăn mày phải chết, - ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia. - Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. Vì sao thì ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?

 Không , tôi đáp.

 Ông có tin vào báo ân, báo oán không?

 Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?

Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:

 Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt  Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa . Tình hình có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm gì bây giờ?

Tôi ngồi im vì chẳng biết trả lời thế nào.

 Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh, - cuối cùng tôi lên tiếng. - Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn gì. Còn chuyện thằng bé thì chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi , tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái gì đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều.

Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M., và cũng vì tò mò, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày.

Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng mình. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số. Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản.

Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà còn có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu. Từ lâu dân làng Thượng không còn xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng  ông tổ ăn mày  của làng. Ngôi mộ của  ông  đã phát càng phát thêm, nay gần giống một cái gò nhỏ, trẻ con không dám cho trâu bò dẫm lên.

Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả thì bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt thì thầm:

 Ông nhìn kìa. Ngài đấy!

 Ngài nào?  tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.

 Thần hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày...

Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:

 Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn nhỏ... Con xin ngài tha tội! Con xin ngài...

 Ông làm sao thế? - tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu. - Tôi có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?

Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người.

Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:

 Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?...

Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng, như để xác minh về sự hiện diện có thật của  ngài , ông quay sang tôi, chìa ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.

 Ngài để lại đấy!

                                                                *  

Sau đó có việc, tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M. đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt.

Một hôm, ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như không có nước, chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao giờ.

 Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp , ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.

Cô gái bán phở

Đó không phải là một cô gái béo tròn và thực dụng. Cô tên là Hương, 19 tuổi, mảnh mai và mơ mộng. Cô là con gái lão hàng phở ở phố tôi.

Quán phở Thới ngon nổi tiếng phố Giảng Võ và hầu như không ai sành phở mà không biết quán đó. Lão Thới chỉ khoảng hơn năm mươi tuổi. Còn trẻ chán. Thế mà đã bị gọi là "Lão" từ lâu rồi. Một người với cái bụng tròn như nồi nước phở, bộ mặt đỏ phừng phừng như thịt bò tươi và giọng nói lúc nào cũng như quát, không ai ngờ lại là bố của "hoa khôi phố" Kiều Hương.

Tôi vẫn thường gọi đùa cô là "nàng Tây Thi bán phở". Đấy là do tôi nhớ đến "nàng Tây Thi đậu phụ" trong truyện "Cố Hương" của Lỗ Tấn, nghe chua chát quá, nhưng mà thật như dao chém thớt. Và chính tôi cũng không nghĩ rằng, sẽ có lúc mình đưa Hương từ đời thực vào truyện ngắn. Bởi vì... bởi vì... tôi cũng thầm yêu Hương...

Tôi ở sát nhà Hương, hai cái nhà 3 tầng sát nhau, phòng Hương và phòng tôi cùng ở trên tầng 3. Nhà tôi mới chuyển đến đây khoảng nửa năm, nhà Hương thì ở đây từ rất lâu rồi.

Tôi thường đem cái "cơ sở luật" bé tí của mình để so sánh, để hỏi chính tôi. Sao Hương không học Đại học? Sao Hương cứ ở nhà bưng phở, lấy bánh phở ngày này qua ngày khác? Sao Hương... lại là con gái của lão Thới? Hương không giống lão về tất cả...? Sao... nhưng rồi cái "cơ sở luật" của chàng sinh viên 19 tuổi đang học năm thứ nhất trường luật - là tôi - không tìm được câu trả lời chính xác, và tôi quyết định phải tìm hiểu!

...Hương là con gái út của lão Thới, vợ lão cũng ở nhà bán phở. Lão muốn vậy chứ cả mẹ con Hương đều không muốn ở nhà để từ sáng đến trưa, từ chiều đến đêm không thoát nổi bát đĩa và hàng trăm công việc của một hàng phở đông khách.

Tôi cũng bận nhiều việc lắm, nào là đi học, nào là viết báo, cũng chẳng mấy khi đi chơi với chúng bạn. "Thì mình có hơn gì Hương", tôi vẫn nghĩ, "cũng suốt ngày công việc, thậm chí trong mơ cũng thấy mình đang chạy hổn hển nữa".

Lũ bạn tôi vẫn tấm tắc: "Nhất mày! Này nhé nhà mặt phố, bố làm "cốm", xe "người tình trăm năm" (xe Angel 80 ấy mà), trai một... Ôi em "xin chết"! Tôi ngẫm lại mình. Ờ chúng nó nói đúng. Bố tôi là giám đốc Trung tâm đào tạo của Đài truyền hình Việt Nam. Mẹ là giảng viên đại học. Và tôi, đỗ vào trường Luật dạng "thám hoa", chứ có phải kém cỏi gì đâu. Giờ lại còn làm trưởng lớp một lớp nổi nhất trường cũng oách nhưng chưa thấy "chết" ai cả, tôi chẳng chú ý lắm đến các cô gái điệu đàng và hời hợt nhan nhản quanh mình, những người với hàng mớ suy nghĩ thực dụng luôn dễ dàng "bay hơi" như nước phở.

...Hương học hết cấp III rồi ở nhà bán phở với bố mẹ Lão Thới có 3 đứa con gái, hai chị đi lấy chồng cả, còn có mình Hương. Hương hiền lành và cam chịu quá, tôi vẫn thầm trách. Nếu tôi là Hương, không bao giờ tôi chịu làm bồi bàn đến thế. Tôi nghe nói, lão Thới ít học nên không thích "con hơn cha", thế mới lạ. "Cho chúng mày học hết cấp 3 là tốt lắm rồi. Thời xưa, các cụ đâu có cho con gái đi học nhiều, biết chữ lắm để viết thư cho giai à. Hai chị mày đi lấy chồng xong rồi, còn mày thì khoan khoan. Để tao xem thằng nào khỏe mạnh, chăm chỉ đã..." Lão Thới bảo Hương. Tôi chẳng phải loại chăm chỉ, đi suốt ngày, có mẹ làm hết. Còn khỏe kiểu "vai u thịt bắp" tôi không có. Tôi cao mét bảy, nặng 58 kg, cũng hơi gầy. Nhưng "trí thức" thì phải thế, tôi tự an ủi, có phải thợ xẻ đâu mà...

Tôi thường vào ăn phở ở nhà Hương, chọn cái bàn trong góc, tôi thích quan sát mọi người, và ngồi đó để tiện ngắm nhìn Hương. Hương mặc toàn đồ bộ, người cao, trắng và môi rất đỏ. Và giọng nói, ôi, giọng nói Hương trong trẻo và ngọt ngào làm sao, nó làm người nghe muốn nghe mãi.

Hương dậy sớm, đi lấy bánh phở, còn thịt thì người ta mang qua nhà. Rồi về lau chùi bàn ghế, bưng phở, rồi lại bưng bát đũa đi rửa, rồi lại lau chùi... cứ thế ngày qua ngày. Một cuộc sống quá đơn điệu. Thì cũng khác gì cuộc đời mẹ Hương và của hai chị gái Hương lúc còn ở nhà. Tôi kinh ngạc trước sự chịu đựng của họ.

Mẹ Hương ít khi xuất hiện. Bà thường làm việc ở gian trong, nấu nướng dọn dẹp trong đó, chỉ khi quán quá đông khách bà mới xuất hiện. Lão Thới không muốn thuê thêm người làm, lão bảo: "Hay gì cái bọn "ô sin" ấy, nó cuỗm của mình lúc nào không biết!" Thế là cuộc sống đơn điệu ấy hút người Hương, như chồng bát cao hơn cô khi cô cúi xuống rửa chúng...

Chiều chiều, Hương ngồi lặng lẽ ngắm nhìn dòng người lại qua, đôi mắt lúc nào cũng mở to như chờ đợi, như mong muốn. Có những đêm khuya, tôi thấy đèn phòng Hương vẫn sáng, Hương viết gì đó say sưa lắm.

Rồi tôi biết Hương đã yêu. Không phải yêu tôi mà là một người khác. Anh ta hơn gì tôi chứ? Đẹp trai hơn tôi một chút, chẳng lẽ Hương thích hình thức? Anh ta mặc chải chuốt hơn tôi, đi xe Dream II, nhưng vẻ hào nhoáng không che nổi con người bên trong. Nhìn kiểu đi đứng, ăn uống là biết.

- Mày đứng đần ra đấy à ? Khách vào kia kìa!

Tiếng cáu bẳn của lão Thới cắt ngang dòng suy nghĩ, tôi giật mình. Anh ta đến. Hương trở nên vui vẻ, hoạt bát hẳn lên. Cô bưng bát phở nghi ngút khói đến cho anh ta dù tôi đến trước. Và cô nói gì đó rất dịu dàng. Một lát sau, Hương bưng phở đến cho tôi. Đặt bát xuống. Hương nói nhanh "Của anh này!" rồi quay sang phía anh chàng kia đến nỗi tay suýt gạt đổ bát phở.

Ngày lại ngày như thế. Tôi yêu Hương và tôi muốn thời gian "chín" hơn, khi ấy tôi mới thổ lộ. Hương yêu anh ta, còn anh ta thì có đáp lại đâu. Hay anh ta không biết ? Chiều thứ bảy tuần trước mấy thằng bạn thân ở lớp đến rủ tôi đi chơi. Bọn nó bảo ở quán sân ga đường Lê Duẩn (quán sinh viên) tối nay vui lắm, có nhiều "hội" trường khác đến hát nhạc sống. Tôi hỏi bọn nó vì dịp gì mà "xôm trò" vậy, mấy tên cười khì khì: thích thì quậy, thế thôi.

Tôi định không đi, nhưng chúng nó rủ "quyết liệt" quá thế là tặc lưỡi. Đi qua nhà Hương, tôi dừng lại nhìn Hương. Hương đang chống tay ngồi bên bàn sát cửa. Chúng tôi nhìn nhau, Hương thoáng bối rối rồi quay vào. Tôi hút ánh mắt theo... thằng Long đập vai, bảo: "Đi, mày! Mê rồi chứ gì, "đốn" đi!" Mấy đứa kia đồng tình: "Đốn!" rồi cười ré lên và cả lũ phóng đi.

Hương quá mơ mộng và đã ảo tưởng về anh ta. Có lẽ, cô nghĩ đấy là chàng hoàng tử của mình. Tôi cũng rất thích truyện cổ tích và hay đọc lắm, nhưng hồi nhỏ thôi. Bây giờ thì không, tôi biết rằng nếu người ta quá tin, huyễn hoặc điều gì mà không thể thành hiện thực thì có thể sẽ bị nạt vì thất vọng và hụt hẫng. Tôi đã nhìn thấy Hương say sưa đọc

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: