Hai mươi năm sau 45~het
Chương 45
Ở đây đã được chứng minh rằng động tác đầu tiên bao giờ cũng là động tác hay hơn cả
Ba nhà quý tộc đi theo con đường đi Picardie, con đường mà họ quen nhẵn và nó gợi cho Arthos và Aramis nhớ lại vài kỷ niệm trong những niệm huy hoàng nhất thời trẻ trung của họ.
Khi tới chỗ ngày xưa họ đã xô xát với bọn đắp đường, Arthos nói:
- Nếu Mousqueton đi với chúng ta, qua chỗ này hẳn là hắn rưn sợ lắm nhỉ; cậu còn nhớ không, Aramis? Chính tại chỗ này hắn đã xơi phát đạn trứ danh ấy.
- Thực tình thì tôi cho phép nó run sợ đấy, - Aramis nói, - Bởi vì chúng tôi cũng rùng mình trước kỷ niệm đó: ở quá cây kia là một chỗ hẻm mà tôi tưởng đã bỏ xác lại đấy.
Mọi người tiếp tục đi. Rồi chả mấy chốc chính Grimaud trở lại với ký ức của mình.
Tới trước quán hàng mà chủ bác và bác ngày xưa đã làm một chầu no say tuý luý, bác đến gần Arthos, trỏ anh xem cửa sổ cái hầm rượu và nói:
- Xúc xích!
Arthos bật cười về cơn điên loạn hồi tuổi trẻ của mình và anh cũng thấy thú vị như nghe kể về chuyện của một người khác vậy.
Cuối cùng, sau hai ngày và một đêm rong ruổi, một buổi chiều đẹp trời họ tới Boulogne-sur-Mer, một thành phố hầu như hoang vắng, hoàn toàn xây trên đồi cao cái mà người ta gọi là thành phố thấp hồi ấy chưa có. Boulogne là một vị trí vững chắc phi thường.
Khi đến cửa ô thành phố de Winter nói:
- Các ông ạ, ở đây ta cũng phải làm như ở Paris; ta phải tách nhau ra để tránh những điều nghi kỵ. Tôi quen một quán hàng ít khách, nhưng người chủ hoàn toàn tận tâm với tôi. Tôi đi đến đấy, vì chắc có những thư từ đang đợi tôi. Các ông đến khách sạn đầu tiên của thành phố, như khách sạn l Epée du Grand Henri chẳng hạn các ông ăn uống nghỉ ngơi, rồi sau hai giờ nữa chúng ta sẽ đợi ở đấy.
Công việc quyết định như vậy.
Milord de Winter đi dọc theo các đại lộ phía ngoài để vào bằng một lối vào khác khác, còn hai người bạn thì vào lối cửa ở ngay trước mặt. Đi độ hai trăm bước họ đã tìm được cái khách sạn đã được chỉ dẫn từ trước
Mọi người cho ngựa được nghĩ ngơi và tám mát, nhưng vẫn không rời yên ngựa, những người theo hầu đang mệt mõi, bởi hai người hầu cận làm việc rất trể, họ lo cho chủ cũng họ một cách kiên nhẫn, để chủ nhân họ đến nơi hẹn đúng giờ,
Họ làm việc , nhưng không trao đổi với nhau một lời gì cả một lời gì cả .
Ai cũng hiểu rằng những cử chỉ ấy chỉ nhằm đối với Blaisois; đối với Grimaud thì từ lâu nó đã trở thành vô ích rồi.
Arthos và Aramis đi ra cảng.
Với bộ quần áo phủ đầy bụi, với cái, dáng thanh thoát dễ nhận ra là người thường quen với những chuyến đi xa, đôi bạn khêu gợi sự chú ý của mấy người đi dạo chơi.
Họ thấy rõ ràng là việc họ đến đây đã gây một ấn tượng nào đó đối với một người trong số những kẻ đi dạo kia. Họ chú ý đến người ấy trước tiên cũng chính vì những nguyên nhân chính họ bị những người khác chú ý; anh ta đi đi lại lại có vẻ buồn rầu trên con đập dẫn ra bến, vừa trông thấy họ là anh ta cứ nhìn chằm chằm mãi và có vẻ nóng lòng muốn bắt chuyện.
Anh ta trông còn trẻ và nước da tai tái; cặp mắt có một màu xanh bất định đến nỗi tuỳ theo nhưng màu sắc mà nó phản chiếu nó có vẻ giận dữ lên như mắt một con hổ. Dáng đi mặc dầu thủng thỉnh và quanh co mơ hồ, vẫn tỏ ra rắn rỏi và táo bạo. Anh ta vận đồ đen và mang một thanh kiềm dài với vẻ khá trang nhã.
Đi tới con đập. Arthos và Aramis dừng lại nhìn một chiếc thuyền nhỏ buộc vào một cái cọc và trang bị đầy đủ như đang chờ đợi.
- Chắc hẳn là thuyền của ta, - Arthos nói.
- Ừ, - Aramis đáp, - Cái thuyền buồm đang sẵn sàng ở ngoài kia có vẻ là thuyền sẽ chở chúng ta đến nơi đã định. Còn bây giờ - anh nói tiếp. - Miễn là Winter đừng để chúng ta phải chờ đợi thì nán lại đây cũng chẳng hay ho gì, chẳng có một bóng phụ nữ nào đi qua cả.
- Suỵt! Arthos bảo - Người ta sẽ nghe được những lời chúng ta nói đấy.
Thật vậy, trong khi đôi bạn quan sát, thì người du khách du ngoạn đi qua đi lại nhiều lần phía sau họ và dừng lại khi nghe nói đến tên de Winter, song vì khuôn mặt anh ta chẳng biểu hiện một xúc cảm nào khi nghe cái tên đó, nên cũng có thể là ngẫu nhiên anh ta dừng chân.
- Thưa các ông, - Người thanh niên chào với vẻ rất thoải mái và lễ độ; xin các ông miễn thứ cho tính tò mò của tôi, tôi thấy như các ông từ Paris tới đây, hoặc ít ra các ông cũng là những người mới đến ở Boulogne-sur-Mer.
- Vâng, thưa ông, - Arthos đáp cũng với vẻ lịch sự như vậy. - Chúng tôi từ Paris đến. Ông có điều gì cần vậy?
- Thưa ông, - Người thanh niên nói, - Liệu ông có vui lòng cho tôi biết rằng có thật ngài giáo chủ Mazarin không còn là tể tướng phải không?
Đó là một câu hỏi kỳ lạ, - Aramis nói.
- Ông ta là tể tướng mà cũng chẳng là tể tướng. - Arthos đáp. - Nghĩa là một nửa nước Pháp xua đuổi ông ta, và một nửa kia thì duy trì do những mưu mô và những lời hứa hẹn đầy rẫy của ông ấy. Tình trạng này có thể còn kéo dài rất lâu, như ông thấy đấy.
- Cuối cùng - Kẻ lạ mặt nói - Ông ta không bỏ trốn mà cũng chẳng bị cầm tù ư?
- Không, ông ạ, ít ra trong lúc này.
- Thưa các ông, tôi xin cảm ơn về sự ân cần của các ông, - Người thanh niên nói và bước đi .
- Anh nghĩ thế nào về cái người hỏi chuyện này? Aramis nói.
- Tôi cho đó là một dân tỉnh lẻ chán chường hoặc một kẻ dọ thám dò la tin tức.
- Thế mà anh trả lời như vậy ư?
- Tôi chẳng thể trả lời khác được. Hắn lịch sự với tôi và tôi cũng lịch sự lại với hắn.
- Nhưng nếu đó là một tên do thám?
- Thì tên do thám ấy làm gì tôi? Chúng ta không còn ở thời giáo chủ de Richelieu, chỉ cần một điều khả nghi nhỏ là ông ta cho đóng cửa các cảng.
- Dù sao thì anh cũng sai lầm khi trả lời hắn như vậy - Aramis vừa nói vừa đưa mắt theo dõi người thanh niên đi khuất sau những đồi cát.
- Còn cậu, - Arthos nói, - cậu quên rằng cậu đã phạm một điều khinh suất khác là đã nói ra tên Milord de Winter. Cậu quên rằng người thanh niên đã dừng lại khi nghe nói đến cái tên đó sao?
- Thêm một lý do để khi hắn nói với anh thì mới hắn vừa đi qua con đường của hắn.
- Thế là một cuộc cãi vã nổi lên, - Arthos nói.
- Một cuộc cãi vã làm anh sợ hãi từ bao giờ vậy?
- Một cuộc cãi vã bao giờ cũng làm tôi sợ khi người ta cố tình chờ đợi ở tôi và cuộc cãi vã ấy có thể ngăn cản tôi tới đích. Với lại, cậu có muốn tôi thú nhận một điều không? Chính tôi, tôi cũng tò mò muốn nhìn gần gã thanh niên ấy.
- Tại sao vậy?
- Aramis, cậu sắp giễu cợt tôi cho mà xem; cậu sẽ nói rằng tôi luôn luôn nhắc lại vẫn một điều ấy, cậu sẽ gọi tôi là kẻ hoảng sợ nhất trong những kẻ hoang tưởng.
- Sao nữa?
- Cậu thấy cái người ấy giống ai?
- Về cái xấu hay cái đẹp? - Aramis cười hỏi.
- Về cái xấu và về cái điểm mà một người đàn ông có thể giống một người đàn bà đến mức nhiều nhất.
- A! Mẹ kiếp! - Aramis kêu lên, - Cậu làm tôi nghĩ đến điều ấy.
- Không, bạn thân mến ơi, chắc chắn là cậu không hoang tưởng đâu; và bây giờ mình suy nghĩ lại, thực tình là cậu có lý: cái miệng nhỏ và lặn vào, cặp mắt lúc nào cũng tuân theo mệnh lệnh của trí óc, chứ không phải của trái tim. Đúng là một đứa con hoang nào đó của Milady.
- Cậu cười à, Aramis?
- Theo thói quen, thế thôi, vì rằng xin thề là cũng như cậu, mình chẳng thích thú gì gặp lại cái con rắn ấy trên đường đi của mình đâu.
- A, de Winter đến kìa? - Arthos nói.
- Tốt! - Aramis đáp, - chỉ còn thiếu một điều là mấy thằng hầu của chúng ta bây giờ lại bắt chúng ta phải chờ đợi.
- Không đâu, - Arthos nói, - tôi đã trông thấy chúng đi sau Milord vài chục bước. Tôi nhận ra Grimaud ở cái đầu rắn rỏi và đôi chân dài nghêu. Tony mang những khẩu súng trường của chúng ta.
- Thế là chúng ta xuống thuyền ban đêm à. - Aramis hỏi và liếc nhìn về phía tây nơi mặt trời chỉ còn lại một áng mây vàng vừa chìm xuống biển vừa tắt dần.
- Chắc thế, - Arthos nói.
- Chán thật! - Aramis kêu lên, - ban ngày tôi đã ít thích biển, ban đêm càng ít hơn, tiếng sóng vỗ, tiếng gió thổi, cái lúc lắc ghê sợ của con tàu, thú thực là tôi ưa thích tu viện ở Noisy hơn.
Arthos mỉm cười bằng nụ cười buồn rầu của mình, vì rõ ràng anh vừa nghe bạn nói vừa nghĩ đến chuyện khác và bước về phía de Winter.
Aramis đi theo anh.
- Này, ông bạn của chúng ta có chuyện gì thế nhỉ? Aramis nói - Trông ông ấy giống những kẻ bị đày xuống địa ngục của Dante, mà quỷ Satan đã vặn cổ và đang nhìn xuống gót chân. Ông ta nhìn cái quái gì ở đằng sau mình như vậy.
Trông thấy hai người bạn, de Winter bước gấp đến với họ một cách nhanh chóng lạ thường.
- Có chuyện gì thế, Milord, ai đã làm ông thở đến đứt hơi như vậy - Arthos hỏi.
- Chẳng có gì đâu, - Vừa nói Wanter vừa ngoái nhìn sau đồi cát.Thì thầm: Hình như nó cũng có mặt ở đây
Athors nhìn qua Aramis
- Chúng ta hãy đi đi, de Wanter nói tiếp - Chúng ta đi đi, cái thuyền buồm bỏ neo kia chờ chúng ta đấy, các ông có trông thấy không, chúng ta hãy lên trên đó đi nhé .
Vừa nói, de Wanter cũng nhìn ngược lại về phía đồi cát một lần nữa
- Ô kìa! - Aramis nói, - Ông còn quên cái gì chăng?
- Không, đó là một mối bận tâm.
- Ông ta đã trông thấy hắn- Arthos nói nhỏ với Aramis.
Đã tới cái cầu thang dẫn tới thuyền. De Winter cho bọn đầy tớ xuống trước mang theo vũ khí và bọn phu mang các rương hòm và ông đi xuống sau họ.
Cùng lúc ấy Arthos chợt nhìn thấy một người đàn ông đi men theo bờ biển song song với con đập và rảo bước vội vàng như muốn đứng từ phía kia của bến cách chừng non hai chục bước, chứng kiến việc xuống thuyền của họ.
Giữa bóng tối bắt đầu buông xuống, anh tưởng như nhận ra người thanh niên đã hỏi chuyện các anh.
- Ồ ! Ồ! Anh tự nhủ, - phải chăng rõ ràng là một tên do thám và hắn định cản trở bọn ta xuống thuyền? Song, dù trong trường hợp kẻ lạ mặt có ý định ấy thật, thì cũng đã khá muộn để thi hành, nên Arthos đến lượt mình vẫn bước xuống thang, nhưng không rời mắt khỏi gã thanh niên. Cuối cùng, hắn đã xuất hiện trên một cửa cống.
Chắc chắn là hắn định công kích chúng ta, nhưng ta cứ việc xuống thuyền và một khi đã ra khơi, thì hắn cứ việc đến!
Và Arthos nhảy xuống thuyền, nó lập tức rời bến và bắt đầu đi ra với sức của bốn tay chèo lực lưỡng.
Nhưng gã thanh niên cũng đi theo ngay hay nói đúng hơn là vượt chiếc thuyền. Thuyền phải đi qua giữa cái mỏm của con đập bị chế ngự bởi một cây đèn biển vừa mới thắp sáng và một tảng đá dựng xiên từ xa đã trông thấy hắn leo lên tảng đá để có thể chế ngự con thuyền khi nó đi qua.
- Ái chà! - Aramis báo Arthos, - Gã thanh niên ấy nhất định là một tên dọ thám rồi.
- Gã thanh niên nào vậy? - de Winter hỏi và quay đầu lại.
- Thì cái gã đã đi theo bọn tôi, nói chuyện với bọn tôi và đợi chúng ta ở kia kìa, ông hãy nhìn xem.
De Winter quay lại và nhìn theo hướng Aramis trỏ. Ngọn đèn pha chiếu sáng cái eo biển nhỏ mà họ sắp đi qua và tảng đá có gã thanh niên đang đứng đợi, đầu để trần và hai tay khoanh lại.
- Chính nó! - Milord de Winter vừa kêu lên vừa nắm lấy cánh tay Arthos, - Chính nó, tôi đã ngờ nhận ra nó và tôi đã không lầm.
- Nó là ai vậy? - Aramis hỏi.
- Con trai của Milady, - Arthos đáp.
- Gã mục sư, - Grimaud kêu lên.
Gã thanh niên nghe thấy những lời đó, dường như hắn sắp nhảy bổ xuống, hắn ra đứng tận mỏm đá nghiêng nghiêng xuống mặt biển.
- Phải chính ta đây, ông bác của tôi ơi, ta là con trai của Milady, ta là mục sư, ta là thư ký và là bạn của Cromwell, và ta biết các người, và đồng bọn.
Ở trong thuyền có ba con người chắc chắn là dũng cảm và không ai dám phủ nhận lòng can đảm của họ. Vậy mà trước tiếng nói ấy, cái giọng ấy, cử chỉ ấy, họ cảm thấy một nỗi kinh hoàng chạy rần rật trong mạch máu họ.
Còn Grimaud thì tóc gáy dựng lên và mồ hôi chảy ròng ròng trên trán.
- A! - Aramis nói, - Đó là thằng cháu, đó là gã mục sư, đó là con trai của Milady, như chính hắn vừa nói sao?
- Chao ôi, đúng thế! - De Winter lẩm bẩm.
- Thế thì, đợi đấy! - Aramis nói.
Và với vẻ bình tĩnh ghê gớm mà anh thường có trong những tình huống gay go nhất, anh cầm lấy một trong hai khẩu súng trường mà Tony mang theo, giơ lên nhằm vào con người đang đứng sừng sững trên tảng đá như một hung thần.
- Bắn đi!- Grimaud bất giác kêu lên.
Arthos nhào mình vào nòng súng và ngăn lại phát đạn sắp sửa bay đi.
- Quỷ đã bắt anh chuyện điên rồ ấy rồi? - Aramis la lên, - Tôi đã nhằm hắn rất chính xác ở đầu mũi súng và chắc chắn là viên đạn đã trúng giữa ngực hắn rồi.
- Giết chết mẹ nó là đủ lắm rồi, - Arthos âm thầm nói.
- Mẹ nó là một đứa phản trắc đã từng đánh vào tất cả chúng ta, hoặc vào bản thân chúng ta hoặc vào những người thân yêu của chúng ta.
- Phải rồi, nhưng đứa con trai, nó chưa làm gì chúng ta cả.
Grimaud lúc nhảy nhổm lên để xem hiệu quả của phát súng bây giờ buông mình xuống chán nản và đập tay đen đét.
Gã thanh niên cười phá lên.
- A! Thì ra chính các người, - Hắn nói, - Thì ra chính các người và bây giờ ta đã biết rõ các người.
Tiếng cười the thé và những lời nói hăm doạ của hắn theo gió bay lên mạn thuyền và tan đi trong chân trời sâu thẳm.
Aramis rùng mình.
- Hãy bình tĩnh nào, - Arthos nói. - Quỷ quái thật! Chúng ta không còn phải là những đấng nam nhi nữa hay sao?
- Có chứ. - Aramis đáp, - Nhưng gã kia là một con quỷ và này, hãy hỏi ông bác xem tôi có sai lầm không, nếu trừ khử đứa cháu thân yêu của ông ấy.
De Winter chỉ đáp lại bằng một tiếng thở dài.
Arthos nắm bàn tay de Winter và thử lái qua câu chuyện khác, anh hỏi ông:
- Bao giờ thì chúng ta cập bến nước Anh?
Nhưng ông ta không nghe thấy những lời ấy và không trả lời.
- Arthos này, - Aramis nói, - Có lẽ hãycòn kịp thời giờ. Trông xem hắn vẫn đứng ở chỗ cũ.
Arthos gắng gượng quay đầu lại nhìn gã thanh niên đối với anh hiển nhiên là nặng nề khó chịu.
Thực vậy, gã vẫn đứng sừng sững trên tảng đá, ngọn đèn pha tạo ra chung quanh gã một vầng hào quang xán lạn.
Arthos như là hiện thân của lý trí, chú ý tìm hiểu nguyên nhân mà ít quan tâm đến hiệu quả, anh hỏi:
- Nhưng hắn làm gì ở Boulogne-sur-Mer?
- Hắn theo đuổi tôi, hắn theo đuổi tôi, - de Winter đáp, lần này ông đã nghe thấy tiếng nói của Arthos, vì tiếng nói của anh phù hợp với những suy nghĩ của ông.
- Bạn ơi, - Arthos nói, - để theo đuổi ông, ắt là hắn phải biết rõ cuộc khởi hành của chúng ta chứ? Vả chăng, chắc chắn là trái hẳn lại, hắn ta đã đi trước chúng ta kia mà.
- Thế thì tôi chẳng hiểu ra làm sao cả? - Người Anh vừa nói vừa lắc đầu như một kẻ đang nghĩ rằng thử chống lại một sức mạnh siêu nhiên thì thật là vô ích.
- Aramis này, - Arthos báo, - Tôi nghĩ rằng mình rõ ràng sai lầm không thể để mặc cậu làm cái việc vừa rồi.
- Thôi im đi, - Aramis đáp, - anh làm tôi phát khóc lên bây giờ.
Grimaud thốt ra một tiếng càu nhàu không rõ rệt, nghe như một tiếng gầm gừ.
Vừa lúc ấy từ chiếc tàu buồm có tiếng réo gọi họ. Người lái thuyền ngồi ở đằng lái đáp lại và chiếc thuyền ghé mạn con tàu.
Một lát sau, mấy người cùng đày tớ và hành lý đã lên tàu. Người chủ tàu chỉ đợi hành khách để nhổ neo, và hành khách mới lên boong là người ta cho con tàu quay mũi về phía Hastings, nơi họ phải lên bờ.
Cũng lúc ấy ba người bạn đều bất giác nhìn một lần cuối cùng về phía tảng đá, ở đó vẫn nổi rõ lên cái bóng hăm doạ đang theo dõi họ.
Rồi một tiếng nói vọng đến tận chỗ họ và gửi tới họ lời đe doạ cuối cùng:
- Hẹn gặp lại các ngài ở bên nước Anh nhé?
-*-*-*-
Chương 46
Lễ tạ về chiến thắng Lens
Tất cả sự hoạt động náo nhiệt ấy mà bà Henriette nhận thấy và cố tìm hiểu lý do nhưng uổng công, là do chiến thắng ở Lens gây nên. Quận công de Châtillon có phần đóng góp cao quý vào chiến thắng, được ngài Hoàng thân phải về đưa tin; ngoài ra ông còn được giao cho treo lên các vòm cửa nhà thờ Đức Bà hai mươi là cờ chiếm được của cả quân Lorrain và quân Tây Ban Nha.
Tin tức ấy có tính quyết định: nó cắt đứt cuộc tố tụng với nghị viện ủng hộ triều đình. Tất cả những thuế khoá đăng ký giản lược bị nghị viện phản đối đều được viện lý do về sự cần thiết bảo vệ danh dự của nước Pháp và về kỳ vọng rủi may đánh bại quân thù. Nhân vì từ sau chiến thắng Nordlingen người ta chỉ toàn gặp phải những chuyện hẩm hiu, nên nghị viện có thể chất vấn Mazarin về những chiến thắng luôn luôn được hứa hẹn và luôn luôn bị trì hoãn.
Nhưng lần này rốt cuộc người ta đã đánh nhau và tranh giành toàn là chiến công và chiến công mỹ mãn. Cho nên mọi người đều hiểu rằng có chiến thắng kép đôi với triều đình: chiến thắng ở bên ngoài và chiến thắng ở bên trong, đến nỗi nhà vua ấu thơ khi nhận được tin tức cũng phải kêu lên:
- A! Hỡi các ngài trong nghị viện, chúng ta sẽ xem các ngài nói thế nào đây!
Nghe vậy Hoàng hậu đã ôm ghì vào ngực mình vị ấu chúa mà những tình cảm kiêu kỳ và bất khuất hoà hợp thật nhịp nhàng với tình cảm của bà. Một cuộc hội họp được triệu tập ngay tối hôm nay được mời dự có thống chế de La Meilleraie và ông de Villeroy, bởi vì họ theo phái Mazarin; có Chavigny và Séguier bởi vì họ thù ghét nghị viện; có Gitaud và Comminger bởi vì họ hết lòng với hoàng hậu.
Những điều quyết định trong cuộc họp chẳng lọt ra ngoài tí gì.
Người ta chi biết rằng chủ nhật tới sẽ có lễ và hát Tạ ơn ở nhà thờ Đức Bà mừng chiến thắng Lens.
Hôm chủ nhật ấy, dân chúng Paris tỉnh giấc trong niềm hoan hỉ.
Thời ấy lễ tạ ơn là một đại sự, người ta hứa lạm dụng cái kiểu lễ nghi này và nó gây tác dụng lớn. Mặt trời như cũng tham dự vào lễ hội, thức dậy thật rạng rỡ và mạ vàng lên những ngọn tháp tối sẫm của kinh đô lúc ấy đã nườm nượp dân chúng. Những phố xá tốì tăm nhất của khu Cité cũng mang không khí hội hè và dọc theo các đường kè người ta cũng thấy những đoàn dài dằng đặc những nhà tư sản, nhưng thợ thủ công, những đàn bà trẻ con nối tiếp nhau kéo nhau đến nhà thờ Đức Bà giống như một con sông chảy ngược về nguồn.
Các cửa hiệu vắng tanh, các nhà đều đóng cửa. Ai nấy đều muốn xem ông vua trẻ cùng với mẹ và vị giáo chủ trứ danh Mazarin mà người ta căm ghét đến nỗi ai cũng muốn nhìn tận mắt.
Vả chăng, sự tự do lớn nhất ngự trị trong đám dân chúng đông đảo ấy: mọi chính kiến đều biểu hiện công khai và có thể nó báo hiệu cuộc khởi loạn, giống như hàng nghìn quả chuông ở tất cả các nhà thờ ở Paris khua vang báo hiệu lễ Tạ ơn. Cảnh sát của thành phố do tự thành phố đặt ra; chẳng có cái gì đe doạ đến quấy rối cuộc hoà tấu của lòng căm ghét rộng rãi và làm nguội lạnh những lời nói từ những cửa miệng phỉ báng kia.
Tuy nhiên, từ tám giờ sáng, trung đoàn thị vệ của hoàng hậu do Gitaud chỉ huy cùng với phó là Comminger cháu ông ta, có kèn trống đi đầu, đến bố trí quân từ Hoàng cung đến nhà thờ Đức Bà.
Dân Paris xem cuộc vận động ấy với vẻ bình thản và bao giờ cũng tò mò trước điệu nhạc binh và những bộ quân phục sặc sỡ.
Friquet. diện quần áo ngày hội. Viện cớ bị sưng hàm mà hắn tạo ra bằng cách ngậm vô sô hạt anh đào vào một bên miệng, hắn đã được Bazin cấp trên của hắn cho nghỉ cả ngày.
Lúc đầu Bazin từ chối, do bác đang bực bội trước hết vì Aramis ra đi mà chẳng hề nói cho bác biết là đi đâu, sau nữa vì bác phải phục dịch một cuộc lễ mừng chiến thắng không hợp với chính kiến của mình. Ta còn nhớ Bazin là một người Fronde và nếu trong một buổi lễ long trọng như thế này mà một ông phụ thủ có thể vắng mặt như một ngày lễ tầm thường mà Bazin ắt đã trình với vị tổng giám mục cái điều yêu cầu như người ta vừa trình với bác. Bác bèn bắt đầu bằng cách từ chối mọi chuyện nghỉ phép.
Nhưng ngay trước mắt Bazin cái hàm của Friquet. sưng lên to tướng, cho nên vì danh dự của cả đoàn lễ sinh có thể bị tổn hại bởi một dị dạng như thế, cuối cùng Bazin đành càu nhàu mà nhượng bộ.
Ra đến cổng nhà thờ, Friquet. nhổ toẹt cái khối sung ra và nhìn về phía Bazin một cử chỉ mà nó bảo đảm cho thằng nhóc Paris lớn sự hơn hẳn của nó đối với những thằng nhóc khác trên thế giới, còn về công việc khách sạn của hắn, tất nhiên hắn giũ sạch mà nói rằng hắn phải phục dịch một ngày lễ ở nhà thờ Đức Bà.
Như vậy là Friquet được tự do diện bộ quần áo bảnh bao nhất.
Nhất là hắn lại có một thứ trang sức thật đặc sắc, đó là một cái mũ bonnet nó lai lai kiểu mũ dẹt thời trung cổ với kiểu mũ rộng vành thời vua Louis XIII. Bà mẹ nó may cho nó cái mũ kỳ lạ ấy, và do ngẫu hứng hoặc do thiếu vải đồng màu, bà đã tỏ ra ít quan tâm đến sự hoà hợp màu sắc, thành thử các tác phẩm tuyệt xuất của đồ mũ mãng thế kỷ thứ mười bảy kia một bên thì vừa vàng vừa xanh, một bên thì vừa trắng vừa đỏ. Nhưng Friquet. vốn rất mê sự đa dạng của màu sắc, nên hắn chỉ càng thêm hãnh diện và dương đương đắc ý.
Ra khỏi chỗ Bazin, Friquet. ba chân bốn cẳng chạy đến Hoàng cung. Hắn tới vào lúc trung đoàn thị vệ từ trong đó đi ra, và do hắn đến chẳng có mục đích nào khác là xem diễn binh và nghe nhạc, hắn bèn đi lên đầu, đánh trống bằng hai thanh đá đen, rồi chuyển sang chơi kèn miệng giả làm kèn đồng một cách tài tình khiến các nhà tài tử về âm điệu bắt chước đã phải nhiều lần khen ngợi.
Trò chơi ấy kéo dài từ cửa ở các Thày đội đến quảng trường nhà thờ Đức Bà, và Friquet. lấy làm thích thú lắm. Nhưng khi trung đoàn dừng lại và các đại đội triển khai đi sâu tận vào tận trung tâm khu Cité và đóng ở cuối phố Saint Christophes, gần phố Cocatrix nơi ông Broussel ở, thì Friquet. chợt nhớ ra là mình chưa ăn sáng, hắn loay hoay tìm xem mình phải quay gót về phía nào để hoàn thành cái công việc quan trọng trong ngày ấy. Sau khi đã suy nghĩ chín chắn, hắn quyết định rằng ông tham nghị Broussel sẽ phải chi cho bữa chén của hắn.
Cho nên hắn băng mình chạy đến đứt hơi tới nhà ông tham nghị và đập cửa dữ dội.
Bà mẹ hẳn làm vú già cho ông Broussel ra mở cửa.
- Thằng ôn con kia, - bà nói, - Mày đến đây làm gì, tại sao mày không ở nhà thờ Đức Bà?
- Mẹ Nanettete ơi, - Friquet. đáp, - con đã đến đấy, nhưng vì con thấy có những chuyện xảy ra mà thày Broussel cần được báo cho biết, cho nên được ông Bazin cho phép, mẹ biết ông Bazin phụ thủ chứ, con đến đây để nói chuyện với ông Broussel.
- Thế mày định nói gì với ông Broussel, hả thằng khỉ?
- Con muốn nói riêng với ông ấy.
- Không thể được, ông ấy đang bận việc.
- Thế thì con đợi vậy, - Friquet. nói, - Chắc hẳn ông ấy thu xếp thì giờ được.
Và hắn leo nhanh lên cầu thang, còn bà Nanette thong thả lên sau hắn.
- Nhưng cuối cùng, - Bà nói, - Mày muốn gì ở ông Broussel.
- Con muốn bảo ông ấy rằng - Friquet. cố nói thật to để đáp lại - có cả một trung đoàn thị vệ đi về phía này. Do con nghe nói ở khắp nơi rằng triều đình có ác cảm với ông, nên con đến báo trước để ông ấy đề phòng.
Broussel nghe tiếng kêu của thằng nhãi ranh và thích thú trước sự hăng hái quá mức của hắn, ông bước xuống gác một, vì quả thật ông đang làm việc ở gác hai.
- Này, cậu bạn ơi, - Ông nói, - Trung đoàn thị vệ thì can gì đến ta và cậu điên hay sao mà làm om xòm lên thế? Cậu không biết rằng đó là thói quen các vị ấy vẫn làm như thế ư? Theo lệ thường thì trung đoàn ấy phải làm hàng rào trên đường vừa đi qua.
Friquet. giả bộ kinh ngạc và dùng ngón tay quay quay cái mũ mới, hắn nói:
- Thưa ông Broussel, ông biết điều đó thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên với ông, ông biết hết mọi thứ, nhưng còn cháu thì lạy Chúa, thực ra cháu không biết, và cháu cứ tưởng rằng đã góp với ông một ý kiến hay. Xin ông Broussel đừng giận cháu về điều đó.
- Trái lại, cậu nhỏ ơi trái lại ta thích sự nhiệt tình của cậu. Bà Nanette ơi, hãy xem những quả mơ mà bà Longueville gửi cho ta hôm qua; và lấy dăm sáu quả cho con trai bà cùng với một cái bánh mềm.
- A! Xin cảm ơn ông Broussel - Friquet. nói, - xin cảm ơn, cháu rất thích ăn mơ.
Broussel sang phòng vợ và bảo dọn ăn sáng. Lúc ấy chín giờ rưỡi ông cố vấn đứng ra cửa sổ. Phố xá vắng tanh, nhưng xa xa người ta nghe thấy như tiếng thuỷ triều đang dâng lên, tiếng ầm ầm mênh mông của những đợt sóng quần chúng đã lớn lên chung quanh nhà thờ Đức Bà.
Tiếng ồn ấy càng tăng khi d Artagnan cùng với đại đội ngự lâm quân đến canh ở các cổng nhà thờ Đức Bà để giúp tiến hành cuộc lễ. Anh đã bảo trước Porthos vận đại lễ phục cưỡi con ngựa đẹp nhất của mình, đóng vai người linh ngự lâm danh dự giống như d Artagnan trước kia vẫn thường làm.
Viên đội trong đơn vị, người lính già trong những cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha đã nhận ra Porthos là bạn đồng ngũ và chẳng mấy chốc đã kể cho mọi người dưới quyền bác những công tích lớn lao của anh chàng khổng lồ ấy, niềm vinh dự của ngự lâm quân xưa kia của ngài de Treville. Porthos không những được anh em trong đại đội đón tiếp niềm nở mà còn được mọi người nhìn với vẻ thán phục.
Mười giờ sáng đại bác ở cung Louvre bắn báo hiệu vua ra. Một chuyển động giống như một cơn giông bão uốn cong và xô lắc các ngọn cây truyền nhanh trong đám dân chúng đang rộn rịch đằng sau những khẩu súng trường bất động của lính thị vệ. Cuối cùng vua xuất hiện cùng với thái hậu trong một cỗ xe toàn mạ vàng. Mười cỗ xe khác theo sau chở các thị nữ, các sĩ quan của hoàng gia và tất cả triều đình.
- Đức vua muôn năm! - Người ta hô lên ở khắp mọi chỗ.
Ông vua trẻ trịnh trọng thò đầu ra cửa xe, lộ vẻ mặt khá biết ơn và cũng khẽ gật đầu chào, điều đó càng làm tăng tiếng hô của đám đông.
Đoàn ngự giả đi thong thả và phải mất gần nửa giờ để vượt khoảng cách từ cung Louvre đến quảng trường nhà thờ Đức Bà. Tới đó đoàn dần dần tiến vào dưới cái vòm rộng mênh mông của đô thành và cuộc lễ thánh bắt đầu.
Lúc triều đình đi đến chỗ của mình, thì một cỗ xe có gia huy của Comminger rời đoàn xe của triều đình và thong thả đi đến cuối phố Saint-Christophe vắng tanh vắng ngắt. Bốn thị vệ và một phó quan cảnh sát đi theo xe bèn leo lên cỗ xe nặng nề và đóng các rèm cửa lại rồi qua một kẽ sáng được sắp đặt thận trọng, viên cảnh sát bắt đầu rình theo dọc phố Cocatrix như có ý đợi một người nào đi tới.
Tất cả mọi người đều bận tâm vào lễ hội, thành thử cả cỗ xe lẫn những sự đề phòng của những kẻ ngồi trong xe đều không bị chú ý.
Riêng có Friquet. mà mắt lúc nào cũng rình rập là thấy rõ, hắn đến đầu tường ở một ngôi nhà ở sân trước nhà thở để nhấm nháp những quả mơ. Từ chỗ ấy hắn nhìn xem vua, hoàng hậu và tể tướng Mazarin, và dự lễ messe như hắn đã phục dịch.
Vào cuối cuộc lễ, hoàng hậu trông thấy Comminger vẫn đứng bên cạnh bà để chờ đợi sự xác định lại mệnh lệnh mà bà đã giao cho y trước lúc rời cung Louvre, bà khẽ nói:
- Đi đi, Comminger, và xin Chúa phù hộ cho ông?
Comminger lập tức đi ngay, ra khỏi nhà thờ và đi vào phố Saint-Christophe.
Friquet. nhìn thấy viên sĩ quan bảnh bao ấy có hai thị vệ theo sau thì cũng đi theo chơi, và càng hoan hỉ vì cuộc lễ kết thúc ngay lúc ấy và vua cũng đã lên xe.
Vừa trông thấy Comminger xuất hiện ở đầu phổ Cocatrix là viên cảnh sát nói nhỏ một tiếng với tên đánh xe ngựa và tên này lập tức cho cỗ xe chuyển động và đi đến cổng nhà ông Broussel.
Comminger gõ cửa cùng lúc chiếc xe dừng ở đó.
Friquet. đứng đằng sau Comminger, đợi mở cửa.
- Thằng ôn kia, mày làm gì đấy? - Comminger hỏi.
Với cái giọng mơn trớn mà thằng nhóc Paris biết dùng rất tài tình khi cần thiết, Friquet. đáp:
- Thưa ngài sĩ quan, tôi đợi vào nhà tiên sinh Broussel?
- Đúng là ông ta ở đây phải không? - Comminger hỏi.
- Vâng, thưa ngài.
- Ông ta ở gác mấy?
- Ở tất cả các ngôi nhà, Friquet. đáp, - Nhà này là của ông ấy mà.
- Nhưng thường ông ta ở đâu?
- Khi làm việc ông ở gác hai; khi ăn ông xuống gác một, lúc này chắc ông đang ăn vì là giữa trưa rồi.
- Tốt! - Comminger nói.
Cửa mở. Viên sĩ quan hỏi người đầy tớ và biết rằng tiên sinh Broussel có nhà và đúng là đang ăn trưa. Comminger đi lên sau người đầy tớ và Friquet. đi lên sau Comminger.
Broussel ngồi ở bàn ăn cùng với gia đình, trước mặt ông là bà vợ, hai bên cạnh là hai cô con gái, ở đầu bàn là người con trai Louvières, mà chúng ta đã thấy xuất hiện nhân tai nạn của ông tham nghị, nay ông đã bình phục hoàn toàn. Ông già đôn hậu sức khỏe dồi dào đang thưởng thức những trái mơ ngon lành mà bà de Longueville gửi đến.
Người đầy tớ toan mở cửa phòng dề báo tin, thì Comminger giữ tay người ấy lại, tự mình mở cửa và đứng ngay trước bức tranh gia đình ấy.
Trông thấy viên sĩ quan, Broussel hơi xúc động, nhưng nhìn thấy hắn chào lễ phép, thì ông đứng lên và cũng chào lại.
Tuy nhiên, mặc dầu sự lễ phép qua lại ấy, nỗi lo âu hiện lên gương mặt mấy người phụ nữ. Louvières tái xanh mặt và nóng lòng chờ đợi viên sĩ quan biện giải.
- Thưa ông, - Comminger nói, - Tôi mang một mệnh lệnh của đức vua.
- Hay lắm, - Broussel đáp. - Đó là lệnh gì thế ông?
Và ông giơ tay ra.
- Thưa ông, tôi được phải đến bắt giữ ông, - Comminger nói vẫn với cái giọng và vẻ lịch sự ấy, - và nếu như ông tin, thì ông chẳng phải mất công đọc bức chiếu dài dòng này làm gì và xin ông đi theo tôi.
Sấm sét giáng xuống giữa đám người hiền lành đang sum họp yên tĩnh này cũng không gây nên một tác dụng khủng khiếp hơn.
Broussel lùi lại run như cây sẩy. Thời ấy, bị giam cầm vì mối cừu thù của nhà vua thật là một điều kinh khủng. Louvières toan nhảy đến chỗ thanh kiếm của mình để trên một cái ghế ở góc phòng, nhưng ông lão Broussel giữa tình cảnh ấy vẫn không mất trí ông đưa mắt nhìn con trai và ghìm lại được cái động tác tuyệt vọng đó. Bà Broussel bị cái bàn ngăn cách với chồng khóc nức nở còn hai cô con gái thì cứ ôm chặt lấy cha mình.
- Nào ông ơi, - Comminger bảo, - Mau mau lên, phải tuân lệnh đức vua.
- Thưa ông - Broussel nói, - Tôi đang yếu sức và không thể ngồi tù trong tình trạng này được; tôi yêu cầu có thời gian.
- Không thể được! - Có một tiếng gào ở cuối phòng.
Comminger quay đầu lại và trông thấy bà Nanette, tay cầm cán chổi, mắt rực lên những tia lửa giận dữ.
- Bà Nanette ơi, - Broussel bảo - Hãy bình tĩnh nào, tôi van bà đấy.
- Tôi mà bình tĩnh được ư, trong khi người ta bắt giữ ông chủ của tôi, người phù trợ, người giải phỏng, người cha của nhân dân khốn khổ! A! Phải rồi? Ông có xéo đi không? Ông vẫn còn biết tôi - bà nói với Comminger.
Comminger mỉm cười. Hắn quay về phía Broussel và nói:
- Này, ông bảo cái mụ kia câm mồm đi và hãy đi theo tôi.
- Bảo tôi câm mồm ư, hả hả! - Nanette nói. - À! Được đấy! Phải có một người khác nữa ngoài ông ra, kẻ đẹp mã của nhà vua ạ! Rồi ông xem!
Và bà Nanette lao về phía cửa sổ, mở ra và kêu to bằng một giọng chói tai từ sân trước nhà thờ cũng nghe thấy:
- Cứu chúng tôi với! Người ta bắt giữ ông chủ của tôi người ta bắt giữ ngài tham nghị Broussel! Cứu chúng tôi với!
- Này ông, - Comminger nói, - Hãy nói rõ ý kiến ngay đi: Ông có tuân lệnh không hay là toan kháng cự lại đức vua?
- Tôi tuân lệnh, tôi tuân lệnh, ông ạ, - Broussel kêu lên, thử gỡ mình khỏi vòng tay của hai con gái và dùng mắt ghìm anh con trai luôn sẵn sàng buột khỏi ông.
- Trong trường hợp ấy - Comminger nói, - hãy bắt mụ già này im lặng.
- A, mụ già à! - Nanette nói.
Và bà lại càng gào thét to hơn, tay bám chặt lấy song cửa:
- Cứu chúng tôi với! Cứu chúng tôi với! Cứu ngài Broussel đang bị người ta bắt chỉ vì đã bảo vệ dân chúng! Cứu chúng tôi với!
Comminger ôm ngang mình bà vú toan giằng bà ra khỏi vị trí, nhưng cùng lúc ấy có một tiếng nói khác từ tầng dưới đất hét lên bằng cái giọng the thé:
- Có vụ giết người! Cháy! Có kẻ ám sát! Người ta chọc tiết ông Broussel!
Đó là tiếng của Friquet.. Bà Nanette thấy mình được ủng hộ càng ra sức hò la theo.
Đã có những cái đầu tò mò hiện ra ở các cửa sổ. Dân chúng từ đầu phố chạy đến, lúc đầu có một số người, rồi từng toán, rồi cả đám đông? Người ta nghe thấy tiếng kêu, trông thấy một cỗ xe, nhưng không hiểu chuyện gì cả. Friquet. từ trong nhà nhảy lên nóc cỗ xe và kêu to:
- Họ định bắt ông Broussel? Trong xe có lính thị vệ và trên gác có viên sĩ quan.
Đám đông bèn gầm lên và đến gần mấy con ngựa. Hai lính vệ đứng ở dưới dường trèo lên gác hỗ trợ cho Comminger; những tên ở trong xe mở cửa xe ra và dựng chéo các cây giáo.
- Các vị thấy chưa? - Friquet. kêu. - Các vị thấy chưa? Chúng nó đấy!
Rồi nó quay vào nhà và ném tới tấp vào người tên đánh xe ngựa tất cả những gì nó vớ được.
Mặc dầu sự thị uy cừu địch của bọn lính vệ và có lẽ, chính vì sự thị uy đó mà đám đông càng gào thét lên và xấn vào lũ ngựa. Bọn lính vệ dùng giáo đâm làm lùi bước những kẻ hung hăng nhất.
Tuy nhiên sự huyên náo mỗi lúc một tăng, đường phố không còn chứa nổi những người xem từ mọi phía dồn đến; đám đông lấp cả khoảng trống mà mấy ngọn giáo ghê gớm cửa lính vệ còn canh giữ ở giữa dân chúng và cỗ xe. Bọn lính như bị xô đẩy bởi những bức tường luỹ sống, sắp sửa bị đè nát vào những trục xe và thành xe.
Những tiếng kêu "Nhân danh đức vua!" do viên phó quan cảnh sát nhắc đi nhắc lại hàng chục lần chẳng mảy may tác động đến đám người hằng hà sa số đáng sợ ấy và dường như còn khiến họ phẫn nộ thêm. Lúc ấy nghe tiếng kêu "Nhân danh đức vua!" một kỵ sĩ phóng đến và trông thấy những bộ quân phục bị ngược đãi, bèn xông lên, tay kiếm lăm lăm và đem đến một sự hỗ trợ không ngờ tới cho bọn lính vệ
Kỵ sĩ ấy là một thanh niên trạc mười lăm mười sáu tuổi mặt tái đi vì phẫn nộ. Anh nhảy xuống đất tựa lưng vào càng xe và dùng con ngựa của mình làm chiến luỹ, anh rút những khẩu súng ngắn ở bao ra gài vào thắt lưng và bắt đầu vung gươm ra dáng một con người mà, việc múa gươm là điều quen thuộc.
Trong mười phút một mình anh ta chống cự với cả đám đông.
Lúc ấy Comminger ra và đẩy Broussel đi trước mình.
- Phá tan cỗ xe ra! - Dân chúng gào lên.
- Cứu chúng tôi với - Bà vú già kêu.
- Có vụ giết người! - Friquet. vừa la vừa tiếp tục ném tới tấp vào bọn thị vệ tất cả những gì hắn nhặt được.
- Nhân danh đức vua! - Comminger hô.
- Kẻ nào xông lên trước tiên sẽ chết! - Raoul vội vã kêu lên khi thấy một gã khổng lồ sắp sửa đè bẹp mình anh dí luôn mũi kiếm vào người hắn, hắn cảm thấy bị thương bèn vừa lùi ra và hét lên.
Chính là Raoul sau năm ngày vắng mặt đã trở lại theo đúng lời hứa với bá tước de La Fère. Anh muốn dự xem lễ hội và đã theo dường ngắn nhất đi đến nhà thờ Đức Bà. Tới gần phố Cocatrix, anh đã bị lôi cuốn theo làn sóng dân chúng. Khi nghe kêu "Nhân danh đức vua!" anh nhớ ngay đến lời dặn của Arthos "Phụng sự đức vua" và chạy ngay đến để chiến đấu vì đức vua, mà những lính thị vệ của Ngài đang bị ngược đãi.
Có thể nói là Comminger đã quăng Broussel vào trong cỗ xe và nhào vào theo. Đúng lúc ấy một phát súng hoả mai nổ, đạn xuyên qua mũ của Comminger từ trên xuống dưới và làm gẫy tay một lính vệ.
Comminger ngẩng đầu lên, và trông thấy giữa đám khói bộ mặt hăm doạ của Louvières ló ra ở cửa sổ gác hai.
- Được lắm, - Comminger nói, - tôi sẽ nói chuyện với ông sau.
- Và tôi cũng vậy - Louvières đáp, - Chúng ta sẽ xem người nào nói to hơn.
Friquet. và Nanette vẫn gào thét. Những tiếng kêu la, tiếng đạn nổ, mùi thuốc súng bao giờ cũng làm cho người ta say sưa, đang phát huy tác dụng.
- Đánh chết tên sĩ quan đi! Đánh chết đi! - Đám đông hét.
Một náo động lớn rộn lên.
Comminger vén các tấm rèm cửa ra để mọi người nhìn rõ trong xe rồi tì mũi gươm vào ngực Broussel hắn, kêu lên:
- Các người tiến lên một bước là ta sẽ giết chết tên tù nhân này ngay, ta được lệnh là mang tù nhân về chết hoặc sống: ta sẽ mang hắn chết về, có thế thôi.
Một tiếng kêu khủng khiếp vang lên. Vợ và các con gái của Broussel giơ tay ra van xin dân chúng.
Dân chúng hiểu rằng viên sĩ quan tái mét nhưng tỏ ra thật kiên quyết và hắn sẽ làm như hắn nói. Mọi người vẫn hăm doạ, nhưng dãn bớt.
Comminger cho tên lính bị thương lên xe cùng với mình rồi ra lệnh đóng cửa xe lại.
- Đi đến Cung, - Hắn bảo tên đánh xe ngựa vừa trải qua một mẻ thừa sống thiếu chết.
Tên đánh xe ra roi quất ngựa mở một con đường rộng trong đám đông, nhưng đi đến kè thì phải dừng lại. Chiêc xe đổ kềnh, mấy con ngựa bị đám đông lôi đi, chèn cho ngạt thở và nghiền nát. Raoul đi bộ vì không có thì giờ để lên ngựa, mệt nhoài vì phải đánh kiếm bằng bản cũng như bọn lính vệ phát chán vì phải đánh giáo mác bằng mặt dẹt, bắt đầu dừng đến mũi nhọn của gươm giáo. Người ta bắt đầu thấy chốc chốc lóe lên ở giữa đám đông nòng một khẩu súng trường hoặc lưỡi một thanh trường kiếm; vài phát súng nổ đì đoành chắc là bắn chỉ thiên, nhưng tiếng vang cũng không kém làm rung động những trái tim; gạch đá tiếp tục ném xuống như mưa từ các cửa sổ. Khắp phố vang lên những tiếng nói mà người ta chỉ nghe thấy trong những ngày bạo loạn và xuất hiện những bộ mặt mà người ta chỉ trông thấy trong những ngày đẫm máu. Những tiếng kêu "Đánh chết! Đánh chết bọn lính vệ? Quẳng thằng sĩ quan xuống sông Seinee?" át tất cả tiếng ồn ào dù to đến mấy. Raoul mũ tả tơi, mặt đầm đìa máu me, cảm thấy không chỉ sức lực mà cả lý trí bắt đầu bỏ rơi anh: cặp mắt anh bơi trong một đám sương mù đo đó và qua đám sương mù ấy anh nhìn thấy hàng trăm cánh tay đang vươn ra sẵn sàng tóm lấy anh khi nào anh ngã xuống. Comminger bứt tóc vò tai trong cỗ xe lật đổ. Bọn lính vệ chẳng thể hỗ trợ cho ai trong khi mỗi tên phải lo bảo vệ cho chính mình. Tất cả thể là hết: xe, ngựa, lính vệ, sai nha, và có thể cả tù nhân nữa tất cả sắp sửa tan tác tả tới, thì bỗng nhiên một tiếng nói rất quen thuộc với Raoul vang lên, bỗng nhiên một thanh kiếm lớn lấp lánh trên không; cùng lúc ấy đám đông mở ra, bị chọc thủng, bị lật nhào, bị đè bẹp. Một viên sĩ quan ngự lâm quân đánh chém tứ tung, chạy đến chỗ Raoul và ôm lấy anh đúng lúc anh sắp quỵ xuống.
- Mẹ kiếp! - Viên sĩ quan kêu lên, - Họ giết chết anh ta rồi chăng? Nếu vậy thì tai hoạ lớn cho họ!
Ba viên sĩ quan quay lại mặt đằng đằng sát khí, giận dữ và nạt nộ trông phát khiếp đến nỗi những kẻ phiến loạn hung cuồng nhất cũng xô đè lên nhau mà bỏ chạy, có mấy người lăn cả xuống sông .Seine
- Ông d Artagnan? - Raoul lẩm bẩm.
- Phải, chính tôi tôi đây! Chúa ơi! Và xem ra anh cũng còn may lắm, anh bạn trẻ ạ.
Rồi d Artagnan đứng hẳn lên đôi bàn đạp, giơ gươm lên, gọi vừa bằng lời vừa bằng cử chỉ đám ngự lâm quân không chạy kịp theo anh, thế mới biết anh phóng nhanh biết chừng nào. Anh hô to:
- Nào, lại đây các ông! Nào, hãy quét sạch cho tôi tất cả những thứ này đi! Dùng súng! Cầm lấy súng Nạp đạn! Ngắm...
Nghe mệnh lệnh ấy những núi người đổ sụp xuống bất thình lình, đến nỗi d Artagnan không nén được một chuỗi cười ròn rã.
- Cảm ơn ông d Artagnan, - Comminger vừa nói vừa thò nửa người ra cửa cỗ xe đổ, - Xin cảm ơn vị quý tộc trẻ tuổi! Tên ông là gì nhỉ? Để tôi trình với hoàng hậu.
Raoul toan trả lời, thì d Artagnan ghé vào tai anh mà bảo:
- Hãy im lặng để tôi trả lời.
Rồi quay về phía Comminger, anh bảo:
- Comminger, đừng để mất thì giờ, hãy ra khỏi xe nếu có thể, và lấy một xe khác mà đi.
- Nhưng xe nào?
- Trời ơi, chiếc xe đầu tiên nào đi qua Cầu Mới. Tôi cho rằng những kẻ nào đi chiếc xe ấy sẽ rất sung sướng được cho mượn xe để làm công cụ của nhà vua.
- Nhưng tôi không thể... - Comminger nói.
- Thôi, đi đi, nếu không thì năm phút nữa tất cả bọn tiện dân sẽ trở lại với kiếm gươm và súng ống. Ông sẽ bị giết chết và tù nhân được giải thoát. Đi thôi. Mà này, vừa vặn có một cỗ xe đang đến kia kìa.
Rồi lại cúi xuống Raoul, anh khẽ bảo:
- Nhất là chớ có xưng tên anh ra.
Chàng thanh niên nhìn anh với vẻ kinh ngạc.
- Được rồi, tôi chạy đến đó bây giờ, - Comminger nói, - vả nếu chúng trở lại, thì các ông cứ bắn.
- Không được, không được đâu, - D Artagnan đáp, Trái lại không ai được động đậy. Một phát súng nổ lúc này. sẽ phải trả giá quá đắt ngày mai.
Comminger lấy bốn lính thị vệ và từng ấy lính ngự lâm chạy ra chỗ chiếc xe. Hắn bảo mọi người xuống và đem cỗ xe đến gần chiếc xe đổ.
Nhưng khi phải chuyển Broussel từ chiếc xe đổ sang xe kia, dân chúng chợt trông thấy người mà họ gọi là kẻ giải phóng họ, bèn thốt ra những tiếng gào thét không thể tưởng tượng được và lại ùa đến cỗ xe.
- Đi đi, d Artagnan nói, - Đây là mười lính ngự lâm để đi theo ông; tôi giữ lại hai mươi người để kìm giữ dân chúng. Hãy đi ngay và chớ để mất một phút nào cả. Mười người cho ông Comminger!
Mười người rời khỏi toán quân, bao quanh cỗ xe mới và phi nước đại.
Cỗ xe chạy thì tiếng kêu la càng tăng lên gấp bội, mười nghìn người ùn ùn trên kè, làm nghẽn tắc Cầu Mới và những phố liền kề.
Mấy phát súng nổ. Một lính ngự lâm bị thương.
- Tiến lên! - D Artagnan hô, - anh không nhịn được nữa và cắn ria mép.
Và với hai mươi người của mình anh công kích cả đám dân chúng ấy khiến họ nhào đổ, kinh hoàng.
Riêng có một người đứng nguyên tại chỗ, cây súng hoả mai trong tay. Người ấy nói:
- A! Thì ra chính mày đã toan ám sát ông ta. Đợi đây!
Và hắn hạ nòng súng nhằm vào d Artagnan đang cho ngựa phi hết sức vào chỗ hắn.
D Artagnan cúi rạp mình xuống cổ ngựa vào lúc người thanh niên nổ súng; viên đạn cắt phăng chiếc lông mũ của anh.
Con ngựa phát khùng xộ vào kẻ dại dột đã dám một mình thử ngăn cản một trận cuồng phong, và hất tung hắn rơi vào một bức tường.
D Artagnan dừng phắt ngựa lại và trong khi ngự lâm quân của anh tiếp tục công kích, anh trở lại giơ cao kiếm trên kẻ bị anh xô ngã.
Raoul nhận ra người trẻ tuổi ấy vì đã trông thấy anh ta ở phố Cocatrix, vội kêu lên:
- A! Ông ơi, hãy tha thứ cho anh ta, đó là con trai ông ấy đấy.
D Artagnan vội dừng cánh tay sắp giáng xuống.
- Ồ! anh nói, - anh là con trai ông ấy à? Nếu thế thì là chuyện khác.
- Thưa ông, tôi xin đầu hàng! - Louvières vừa nói vừa đưa khẩu súng hoả mai nhả đạn cho viên sĩ quan...
- Thôi nào! Mẹ kiếp, chớ có đầu hàng! Trái lại hãy cố chuồn đi mau lên! Nếu tôi bắt anh, thì anh sẽ bị treo cổ.
Người thanh niên không để nói đến câu thứ hai, anh ta chui dưới cổ con ngựa và biến đi ở góc phố Guénégaud.
- A, anh ngăn bàn tay tôi rất kịp thời, - D Artagnan bảo Raoul, thực tình mà nói người này coi như chết đến nơi rồi và khi tôi biết anh ta là ai thì tôi sẽ ân hận là đã giết anh ta.
- Ôi thưa ông, - Raoul nói, - sau khi cảm ơn ông thay cho người thanh niên tội nghiệp kia, tôi xin phép cảm ơn ông cho riêng tôi, vì thưa ông, tôi cũng sắp chết đến nơi rồi thì ông kịp đến.
- Khoan đã, khoan đã, chớ có nói năng mệt sức.
Rồi moi ở một bao súng ra một lọ đầy rượu vang Tây Ban Nha anh bảo:
- Hãy uống vài ngụm đi nào.
Raoul uống và toan nhắc lại lời cảm ơn, thì d Artagnan đã nói:
- Này người thân yêu ơi, chúng ta sẽ nói chuyện đó sau.
Rồi trông thấy ngự lâm quân sau khi đã quét đường kể từ Cầu Mới đến Saint-Michel đang trở lại anh giơ cao thanh kiếm để họ rảo bước lên và hỏi họ:
- Ơ này? Có chuyện gì mới xảy ra không?
- Thưa ông, - Viên đội đáp, - Xe của họ bị gẫy lần nữa, đúng là một vận xui thực sự.
D Artagnan nhún vai nói:
- Đó là những kẻ vụng về. Khi chọn một cái xe, thì phải chọn cái vững chắc chứ. Cỗ xe dùng để bắt giữ một Broussel phải chờ nổi mười nghìn người.
- Trung uý ra lệnh gì không ạ?
- Hãy dẫn phân đội về dinh.
- Thế ông rút về một mình?
- Đã đành! Ông cho tôi cần người hộ vệ à?
- Tuy nhiên...
- Thôi đi đi.
Ngự lâm quân đi và d Artagnan ở lại một mình với Raoul.
- Bây giờ còn đau không? - Anh hỏi.
- Còn, ông ạ. Tôi thấy đầu mình nặng và nóng như lửa.
- Có gì ở đầu vậy? - D Artagnan vừa nói vừa bỏ mũ ra. - Á à! Một vết bầm .
- Vâng, tôi chắc rằng đã bị một chậu hoa ném vào đầu.
- Bọn súc sinh! - D Artagnan kêu lên. - Ơ, nhưng mà anh có mang đinh thúc ngựa, thế lúc ấy anh đi ngựa à?
- Vâng, nhưng tôi đã xuống ngựa để bảo vệ ông Comminger, và con ngựa của tôi đã bị người ta lấy mất. Mà này, nó kia kìa.
Quả thật, đúng lúc ấy con ngựa của Raoul đi qua do Friquet cưỡi, hắn đang vừa phi vừa vẫy chiếc mũ bonnet và la.
- Broussel! Broussel!
- Ơ này! Thằng vô lại kia, dừng lại! - D Artagnan kêu lên - Đem con ngựa lại đây!
Friquet. nghe rõ hẳn hoi, nhưng hắn tảng lờ và cứ chạy tiếp...
D Artagnan toan đuổi theo Friquet., nhưng không muốn để Raoul ở lại một mình, anh đành lấy súng ngắn ở bao ra và nạp đạn.
- Friquet. tinh mắt và tinh tai, hắn vừa trông thấy động tác của d Artagnan và nghe thấy tiếng cò súng vội dừng phắt ngựa lại.
- A! Ông đấy à, thưa ông sĩ - quan - Hắn vừa, nói vừa tiến lại nói, Tôi rất vui mừng được gặp ông.
D Artagnan chăm chú nhìn Friquet. và nhận ra thằng nhóc con ở phố Calandre...
- A, mày đấy à, thằng nhóc! Lại đây!
- Vâng, thưa ông sĩ quan chính tôi đây, - Friquet. nói với cái điệu mơn trơn.
- Thì ra mày đổi nghề rồi à? Mày không còn làm lễ sinh, mày không còn làm hầu bàn quán ruợu, và bây giờ đi ăn trộm ngựa!
- Ồ, thưa ông sĩ quan, sao lại nói thế, - Friquet. kêu lên. - Tôi đang đi tìm vị quý tộc có con ngựa này, một chàng kỵ sĩ tuấn tú uy nghi như César... - Hắn giả bộ như mới trông thấy Raoul lần đầu tiên và nói tiếp - A! Nhưng tôi không nhầm, người ấy đây rồi. Thưa ông, ông sẽ không quên thằng nhỏ này chứ?
Raoul thò tay vào túi.
- Anh định làm gì thế? - D Artagnan nói.
- Để tôi cho thằng bé đó mười livres, vừa nói Raoul vừa lấy trong túi ra một cây súng ngắn
- Cho nó mười cái đá thì có - Artagnan vừa nói, vừa ra lệnh -
- Cút đi, đồ vô lại và đừng quên rằng tao biết nhà của mày đấy.
Friquet. không ngờ được thoát nợ một cách dể dải đến thế, hắn ta nhảy một bước từ kè ra phố Dauphine và biến mất.
Raoul lên ngựa và cả hai người đi bước một về phố Tiquetonne, d Artagnan nhìn chàng thanh niên như đó là con đẻ của mình.
Dọc đường vẫn có khối tiếng xì xào lẩm bẩm và những lời hăm doạ xa xa. Nhưng nhìn thấy viên sĩ quan có phong cách thật nhà binh, trông thấy thanh kiếm ghê gớm treo ở cổ tay anh bằng sợi dây da người ta luôn luôn tránh ra và không có một ý đồ thực sự nào nhằm chống lại hai kỵ sĩ.
Thế là hai người đi tới quán "Con dê cái nhỏ" mà không có chuyện gì xảy ra.
Mỹ nhân Madeleine báo với d Artagnan là Planchet đã trở về và dẫn theo Mousqueton, anh chàng này đã chịu đựng một cách anh hùng việc lấy viên đạn ra và lại khỏe mạnh như xưa.
D Artagnan cho gọi Planchet; nhưng người ta gọi mãi mà chẳng thấy hắn trả lời: hắn đã biến mất.
- Thế thì đem rượu vang ra đây? - D Artagnan bảo.
Rồi khi rượu mang ra và d Artagnan còn lại một mình với Raoul, anh nhìn thẳng vào mặt Raoul mà nói:
- Anh tự thấy bằng lòng với mình lắm phải không?
- Vâng ạ, - Raoul đáp. - Hình như tôi đã làm tròn bốn phận của mình. Tôi đã chẳng bảo vệ nhà vua đó sao?
- Thế ai bảo anh bảo vệ vua?
- Thì chính Bá tước de La Fère.
- Đúng, vua, nhưng hôm nay anh không bảo vệ vua, anh đã bảo vệ Mazarin, như thế lại khác hẳn.
- Nhưng thưa ông...
- Anh đã làm một việc dị thường, anh bạn trẻ ạ, anh đã dây vào nhưng chuyện không can hệ gì đến anh.
- Song chính ông...
- Ồ, tôi là chuyện khác tôi phải tuân theo mệnh lệnh vị chỉ huy của tôi. Vị chỉ huy của anh là Ngài hoàng thân. Hãy nhớ rõ điều đó, anh không có người chỉ huy nào khác. Nhưng mà, - D Artagnan nói tiếp, - người ta đã trông thấy cái đầu vớ vẩn này đang đi theo phái Mazarin và giúp vào việc bắt bớ Broussel! Thôi, chớ có hé miệng một ti gì kẻo Bá tước de La Fère sẽ tức giận đấy.
- Ông cho rằng bá tước de La Fère sẽ tức giận tôi ư?
- Hẳn đi chứ! Tôi chắc chắn như vậy; nếu không vì điều ấy, thì có lẽ tôi sẽ cảm ơn anh vì rốt cuộc anh đã làm việc cho chúng tôi. Cho nên tôi đã thay bá tước mà quở trách anh, cơn thịnh nộ sẽ dịu hơn, anh hãy tin như vậy. Với lại, - D Artagnan nói thêm, - Con thân yêu, ta dùng đặc quyền mà người đỡ đầu của con đã nhượng cho ta.
- Thưa ông, tôi không hiểu ý ông, - Raoul nói.
D Artagnan đứng dậy đến bàn viết lấy một bức thư đưa cho Raoul.
Raoul đọc lướt qua tờ giấy và cái nhìn trở nên bối rối. Ngước đôi mắt đẹp rưng rưng lệ nhìn d Artagnan anh nói:
- Ôi, lạy Chúa! Vậy là ông Bá tước đã rời Paris mà không gặp tôi.
- Ông ra đi cách đây bốn ngày, - D Artagnan nói.
- Nhưng bức thư dường như chỉ rõ rằng ông ấy đang trải qua một mối nguy hiểm chết người.
- Ồ! Ông ấy mà trải qua một mối nguy hiểm chết người! Không đâu, cứ yên tâm, ông ấy đi vì công việc và chẳng bao lâu sẽ trở về. Tôi mong rằng anh sẽ không lấy làm khó chịu nhận tôi làm người bảo trợ tạm thời.
- Ô, không đâu, ông d Artagnan - Raoul nói, - Ông là người quý tộc trung hậu và Bá tước de La Fère yêu quý ông biết chừng nào!
- Này, lạy Chúa! Hãy yêu mến tôi nhé. Tôi sẽ không làm rầy rà anh mấy đâu, nhưng với điều kiện anh sẽ là Fronde, anh bạn trẻ và rất Fronde nữa kia.
- Nhưng tôi có được tiếp tục thăm bà de Chevreuse không?
- Có chứ! Cả ông chủ giáo và bà de Longueville nữa. Và nếu ông Broussel tử tế mà anh đã dại dột tham gia vào việc bắt bớ còn ở kia, thì tôi sẽ bảo anh: Hãy mau mau đến xin lỗi ông Broussel và hôn lên hai mà ông.
- Được rồi thưa ông, tôi sẽ tuân lời ông, dù rằng tôi chưa hiểu ý ông.
- Anh hiểu làm gì, vô ích. Kìa, - D Artagnan quay ra phía cửa vừa mới mở ra và nói tiếp - Ông Du Vallon đến đây với quần áo rách tả tơi.
Porthos mình ròng ròng mồ hôi và đầy bụi bậm đáp:
- Phải, nhưng đổi lại, tôi đã xé rách bao nhiêu da thịt. Những tên loạn dân ấy không muốn cất kiếm của tôi đi! Ghê thật! Cuộc náo động dân chúng đến thế là cùng! - Chàng hộ pháp nói tiếp với vẻ bình thản, - nhưng tôi đã dập chết hơn hai chục tên bằng cái chuôi gươm Balizarde... Một chút rượu vang nào, d Artagnan.
- Ồ xin tuỳ ý cậu, - Chàng Gascon vừa nói vừa rót đầy cốc Porthos, - Nhưng khi đã uống rồi, cậu hãy nói tôi biết ý kiến của cậu.
Porthos nốc một hơi cạn cốc rượu, rồi sau khi đã đặt cốc xuống bàn và mút mút chòm ria mép, anh hỏi.
- Ý kiển về cái gì cơ?
- Này nhé, - D Artagnan nói. - Bragelonne đây muốn đem hết sức mình ra giúp vào việc bắt giữ Broussel và tôi vất vả lắm để ngăn anh ta bảo vệ Comminger.
- Ghê nhỉ! - Porthos nói - Và người bảo trợ sẽ nói thế nào khi biết chuyện này?
- Thấy chưa! - D Artagnan ngắt lời, - Hãy làm Fronde, anh bạn trẻ ơi. Hãy làm Fronde và nhớ rằng tôi thay bá tước về mọi mặt.
Và anh vỗ rủng rẻng túi tiền.
Rồi quay về phía bạn, anh bảo:
- Có đi không, Porthos?
- Đi đâu cơ? - Porthos vừa hỏi vừa rót thêm rượu vang nữa.
- Đi đến bày tỏ kính lễ với tể tướng.
Porthos nốc cốc rượu thứ hai vẫn với vẻ bình thản như lần trước, rồi vớ chiếc mũ dạ để ở trên ghế và đi theo d Artagnan.
Còn Raoul thì đứng ngẩn người ra vì những điều mắt thấy tai nghe; d Artagnan đã cấm anh rời khỏi phòng trước khi sự náo động lắng dịu.
-*-*-*-
Chương 47
Kẻ ăn mày ở nhà thờ Saint-Eustache
Artagnan đã tính toán việc mình làm khi anh không đến ngay Hoàng cung. Anh đã để cho Comminger đến đó trước anh và do đó trình với tể tướng những công việc phi thường mà hắn ta, d Artagnan và bạn anh đã làm trong buổi sáng, hôm nay cho phe phái của hoàng hậu.
Cho nên Mazarin đã đón tiếp hai anh một cách nồng hậu, hết lời khen ngợi các anh và tuyên bố rằng mỗi anh đã tiến quá nửa con đường mà các anh ao ước, nghĩa là cấp đại uý của d Artagnan và tước vị Nam tước của Porthos.
D Artagnan có lẽ thích tiền bạc hơn là tất cả những thứ đó vì anh biết rằng Mazarin hứa hẹn thì dễ dàng nhưng giữ lời thì khó lắm. Cho nên anh coi những lời hứa của giáo chủ như những món ăn vô bổ, song anh tỏ ra không kém hài lòng trước mặt Porthos để bạn khỏi nản lòng.
Trong khi hai người bạn đang ở chỗ tể tướng thì hoàng hậu cho gọi ông ta. Giáo chủ nghĩ rằng đây là một dịp tăng thêm nhiệt tình của hai kẻ bảo vệ mình bằng cách để chính hoàng hậu ban lời cảm ơn với họ; ông ra hiệu cho họ đi theo mình. D Artagnan và Porthos chỉ cho ông xem phần quần áo bụi bậm và rách tả tơi của họ, nhưng giáo chủ lắc đầu và nói:
- Những bộ quần áo này còn giá trị hơn quần áo của phần lớn các cận thần mà các ông sẽ trông thấy ở chỗ hoàng hậu, vì đây là những quần áo chiến trận.
D Artagnan và Porthos tuân lệnh.
Cung đình của Anne d Autriche đông đúc và ồn ào vui vẻ, vì xét cho cùng, sau khi giành một chiến thắng với Tây Ban Nha, người ta vừa mới giành một chiến thắng với dân chúng. Broussel đã bị đưa ra khõi Paris mà không có chống cự và giờ này chắc đang nằm trong nhà tù Saint-Germain; và Blancmensnil cũng bị bắt đồng thời với Broussel nhưng êm ru, không khó khăn gì và đã bị nhốt vào lâu dài Vincennes.
Comminger đứng bên cạnh hoàng hậu, bà hỏi hắn ta về những chi tiết của cuộc chinh phạt. Mọi người đang nghe Comminger kể chuyện, thì hắn chợt nom thấy ở cửa giáo chủ bước vào, theo sau là d Artagnan và Porthos.
- A! Thưa Lệnh bà, - Comminger vừa nói vừa chạy đến d Artagnan, - đây là một người có thể trình với Lệnh bà hay hơn tôi, vì đó là cứu tinh của tôi. Không có ông ta, chắc hẳn lúc này tôi đang mắc vào những tấm lưới ở Saint-Clou vì tôi chỉ còn cách là nhảy xuống sông mà thôi. Nói đi, d Artagnan nói đi.
Từ khi là trung uý ngự lâm quân đến giờ, d Artagnan đứng ở cùng phòng với hoàng hậu kể có đến trăm bận, nhưng chẳng bao giờ bà ta nói năng với anh cả.
- Thế nào, ông? - Hoàng hậu nói, - Sau khi đã làm một việc như vậy để phụng sự tôi mà ông lại im lặng ư?
- Thưa Lệnh bà, - D Artagnan đáp, - tôi chẳng có gì để nói, nếu không phải tính mạng của tôi là để phụng sự Hoàng thượng, và tôi chỉ lấy làm sung sướng ngày nào tôi hy sinh nó vì Người.
- Tôi biết điều đó ông ạ, - Hoàng hậu nói, -Ttôi biết điều, đó và từ lâu rồi. Cho nên tôi rất sung sướng được ban cho ông cái dấu hiệu công khai của niềm quý trọng và lòng biết ơn của tôi.
- Xin phép Lệnh bà, - D Artagnan nói, - cho tôi được san sẻ một phần ân huệ đó cho người bạn của tôi là cựu ngự lâm quân thuộc đại đội Ngài de Treville cũng giống như tôi (anh nhấn mạnh vào những tiếng đó), và đã lập nhiều kỳ tích, - Anh nói thêm.
- Tên ông là gì? - Hoàng hậu hỏi.
- Trong ngự lâm quân, - D Artagnan đáp - Ông ấy được gọi là Porthos, (hoàng hậu rùng mình) nhưng tên thật của ông là hiệp sĩ Du Vallon.
- De Bracieux de Pierrefonds, - Porthos nói thêm.
- Những tên ấy quá dài tôi không nhớ hết được, và tôi chỉ muốn nhớ đến cái tên đầu tiên, - hoàng hậu nói một cách duyên dáng.
Porthos thi lễ, d Artagnan lùi hai bước lại đằng sau. Lúc ấy người ta báo có ông chủ giáo đến.
Một tiếng kêu kinh ngạc nổi lên trong cuộc hội họp cung đình.
Dù rằng ông chủ giáo vừa mới truyền giảng ngay buổi sáng nay, người ta biết rõ ông nghiêng hẳn về phía La Fronde. Và Mazarin khi yêu cầu với vị Tổng giám mục Paris để cháu ông truyền giảng, hiển nhiên là đã có ý đồ thí cho ông de Retz(1) một trong những đường gươm hiểm hóc theo kiểu Ý nó khiến ông vô cùng thích thú.
Quả thật, ra khỏi nhà thờ Đức Bà ông chủ giáo đã biết tin về biến cố xảy ra. Mặc dầu gần như giao kết với những người Fronde chủ chốt, ông ta chưa dấn sâu đến mức không thể rút lui được, nếu như triều đình ban cho ông những lợi ích mà ông khao khát và chức vụ chủ giáo chỉ là sự dẫn dắt tới đó. Ông de Retz muốn được làm tổng giám mục thay chân chú mình, và làm giáo chủ như Mazarin.
Nhưng cái đảng phái bình dân khó lòng ban cho ông những ân sủng hoàn toàn vương giả ấy. Ông bèn đi tới Hoàng cung để chúc tụng hoàng hậu về chiến thắng Lens và định bụng sẵn là sẽ hành động ủng hộ hoặc chống lại triều đình tuỳ theo lời chúc tụng của ông được tiếp đón tốt hay xấu.
Vậy là ông chủ giáo được trình báo. Ông bước vào và vừa trông thấy dung mạo của ông, cả cái triều đình dương dương đắc thắng này háo hức tò mò nghe lời ông nói.
Một mình ông chủ giáo gần như có dư trí tuệ bằng tất cả những người hội họp ở đẩy nên họ chẳng dễ gì giễu cợt ông. Cho nên bài diễn văn của ông khôn khéo hoàn hảo đến nỗi những người dự muốn cười nhạo quá đi, mà không tài nào nắm bắt được chỗ sơ hở. Ông kết thúc bằng cách nói rằng ông đem cái năng lực nhỏ mọn của mình ra phụng sự hoàng thượng.
Suốt thời gian ấy hoàng hậu tỏ vẻ thưởng thức hào hứng bài diễn văn của ông chủ giáo. Nhưng diễn văn lại kết thúc bằng câu nói đó, câu nói duy nhất sơ hở cho những lời giễu cợt. Anne quay đầu lại và một cái đưa mắt ném ra phía các sủng thần của bà báo hiệu rằng bà phó mặc ông chủ giáo cho họ. Tức thì những kẻ khôi hài trong triều đình lao ngay vào việc trêu đùa gạt gẫm. Nogent-Bautru, thằng hề của nhà vua kêu lên rằng hoàng hậu rất sung sướng tìm được những sự cứu viện của tôn giáo trong lúc nghiêm trọng như thế này.
Mọi người phá ra cười ngạo nghễ
Bá tước de nói Villeroy rằng không hiểu sao có lúc người ta đã phải sợ hãi, khi mà để bảo vệ triều đình chống lại nghị viện và các nhà tư sản Paris, người ta đã có ông chủ giáo, ông chỉ ra hiệu một cái là có thể làm nổi dậy cả một đội quân gồm những linh mục, lính gác Thụy Sĩ và phụ thủ.
Thống chế de La Meilleraie nói thêm rằng nếu trường hợp xảy ra đánh nhau và ông chủ giáo sẽ nổ súng thì thống chế chỉ bực mình một nỗi là trong cuộc hỗn chiến, người ta không thể nhận ra ông chủ giáo bằng chiếc mũ đỏ(2) như người ta đã nhận ra vua Henri IV nhờ chiếc mũ lông trắng ở trận Ivry.
Trước cơn bão tố ấy mà ông có thể làm thành chết người đối với những kẻ giễu cợt, Gondy vẫn bình tĩnh và nghiêm khắc, Hoàng hậu bèn hỏi ông xem ông có điều gì hay hơn thêm vào bài diễn văn mà ông vừa nói không.
- Có thưa Lệnh bà, - Chủ giáo nói, - Tôi xin Lệnh bà suy nghĩ hai lần trước khi gây ra nội chiến trong vương quốc.
Hoàng hậu quay lưng lại và những chuỗi cười lại bắt đầu.
Ông chủ giáo chào và đi ra khỏi Hoàng cung, ông ném lại giáo chủ đang nhìn ông, một trong những cái nhìn mà người ta hiểu là chỉ có giữa những kẻ tử thù. Cái nhìn ấy sắc bén đến nỗi nó xuyên thấu vào tận trong tim Mazarin, và, cảm thấy đó là một lời tuyên chiến, ông ta nắm lấy cánh tay d Artagnan và nói:
- Này ông khi nào có dịp ông sẽ nhận ra đúng cái người vừa mới đi ra chứ?
- Vâng, thưa Đức ông, - anh đáp.
Rồi quay lại phía Porthos, anh nói:
- Chán thật! Hỏng cả rồi. Tôi không thích những cuộc xung đột giữa những người nhà thờ.
Gondy vừa rút lui vừa ban phước trên lối đi của ông, tự tạo cho mình cái thú vui ranh mãnh là khiến cho đến cá những bộ hạ, cả kẻ thù của ông cũng quỳ gối dưới chân ông.
Bước chân qua ngưỡng cửa Hoàng cung, ông lẩm bẩm:
- Ôi! Triều đình bội bạc, triều đình điên đảo, triều đình hèn mạt! Ngày mai ta sẽ dạy cho mi cười, nhưng cười với giọng khác kia.
Nhưng trong khi người ta làm những trò vui thích điên cuồng ở Hoàng cung để thêm thắt vào trận cười của hoàng hậu, thì Mazarin, con người biết phải chăng, vả lại đã có tất cả sự lo xa của nỗi sợ hãi, không mất thì giờ vào những trò đùa vẩn vơ và nguy hiểm. Ông ta đi ra sau chủ giáo, soát lại các khoản mục, siết chặt bao vàng, và sai những người thợ tin cẩn làm các chỗ cất giấu trong tường.
Trở về nhà, ông chủ giáo được biết có một người trẻ tuổi đến sau lúc ông đi và vẫn đợi ông, ông hỏi tên và mừng run lên khi biết đó là Louvières.
Ông chạy ngay đến văn phòng mình. Quả thật người con trai của Broussel đang ở đó vẫn còn tức điên lên và đầm đìa máu me sau cuộc chiến đấu chống lại các nhân viên của nhà vua. Sự đề phòng duy nhất của anh để đi đến toà tổng giám mục là để lại cây súng hoả mai ở nhà một người bạn.
Ông chủ giáo đi tới chỗ anh và giơ tay ra. Anh nhìn ông như muốn đọc rõ tim gan ông.
- Ông Louvières thân mến ơi, - chủ giáo nói, - hãy tin rằng tôi chia sẻ một phần thật sự mối tai hoạ xảy ra với ông.
- Có thật không và ông nói nghiêm túc đấy chứ? - Louvières hỏi.
- Từ đáy lòng tôi, - Gondy đáp.
- Trong trường hợp ấy, thưa Đức ông, thời kỳ của những lời nói đã qua rồi và giờ hành động đã tới. Nếu Đức ông muốn thì trong ba ngày nữa cha tôi sẽ ra khỏi nhà tù và trong sáu ngày nữa ông sẽ là giáo chủ.
Chủ giáo rùng mình.
Louvières nói tiếp:
- Ồ! Ta hãy nói chuyện thẳng thắn và lật ngửa quân bài. Người ta chẳng gieo rắc ba mươi nghìn êquy bố thí như ông đã làm từ sáu tháng nay vì lòng từ thiện Gia-tô giáo thuần tuý đâu, nếu như thế thì hay quá. Ông có tham vọng, thật là đơn giản: ông là người có kỳ tài và ông cảm thấy giá trị của ông. Còn tôi, tôi căm ghét triều đình, và lúc này đây tôi chỉ có một mong muốn trả thù. Ông hãy cho chúng tôi giới tu hành và dân chúng mà ông có sẵn; tôi, tôi sẽ cho các ông giới tư sản và nghị viện; với bốn nhân tố ấy, trong tám hôm là Paris về tay chúng ta, và xin ông hãy tin lời tôi, ông chủ giáo ạ, triều đình sẽ đem cho vì sợ hãi cái mà nó ắt chẳng đem cho vì hảo tâm.
Chủ giáo đến lượt mình nhìn Louvières bằng con mắt xuyên thấu và nói:
- Nhưng ông Louvières ơi ông có biết rằng điều mà ông để nghị tôi ấy chẳng qua là cuộc nội chiến ư?
- Đức ông ạ, ông chuẩn bị nó từ khá lâu rồi để nó đến đúng lúc.
- Không can gì, - Chủ giáo nói, - Ông hiểu rằng điều ấy cần được suy nghĩ chứ?
- Thế ông cần mấy tiếng đồng hồ?
- Mười hai tiếng ông ạ, có nhiều quá không?
- Bây giờ là giữa trưa, nửa đêm tôi sẽ đến ông.
- Nếu tôi chưa về thì hãy đợi tôi nhé?
- Tuyệt! Hẹn nửa đêm, thưa Đức ông.
- Nửa đêm, ông Louvières thân mến ạ.
Còn lại một mình, Gondy cho gọi tất cả những linh mục mà ông có quan hệ. Hai giờ sau ông đã tụ họp được ba mươi linh mục ở các giáo khu đông dân nhất và do đó phiếu đông nhất thành Paris.
Gondy kể lại điều lăng mạ mà người ta vừa mới làm với ông ở Hoàng cung và nhắc lại những lời đùa cợt của Bautru, của bá tước de Vilơroa và thống chế de La Meilleraie. Các linh mục hỏi ông cần phải làm gì.
- Rất đơn giản, - Chủ giáo nói. - Các ông điều khiển các ý thức, vậy thì hãy phá tan cái thiên kiến tồi tệ về sự sợ hãi và kính nể các vua chúa. Hãy nói cho các con chiênn biết rằng hoàng hậu là một bạo chúa, và nhắc đi nhắc lại thật mạnh mẽ để mỗi người đều biết rằng những tai hoạ của nước Pháp đều do Mazarin mà ra, hắn là tình nhân và kẻ cám dỗ hoàng hậu. Hãy bắt đầu công việc ngay hôm nay, ngay từ lúc này, và trong ba ngày tới, tôi chờ các ông thành đạt.
Ngoài ra nếu trong số các ông ai có điều gì hay muốn khuyên nhủ tôi thì hãy ở lại, tôi sẽ vui lòng lĩnh ý.
Ba linh mục ở lại: linh mục ở Saint-Merri, linh mục ở Saint-Sulpice và linh mục ở Saint-Eustache.
Những người khác rút lui.
Gondy nói:
- Các ông cho rằng có thể giúp đỡ tôi còn hiệu quả hơn các bạn đồng giáo chứ?
- Chúng tôi hy vọng như vậy, - các linh mục đáp.
- Nào, xin ông linh mục Saint-Merri bắt đầu.
- Thưa Đức ông ở trong khu vực tôi có một người có thể là rất có ích cho ngài.
- Người nào thế?
- Một thương nhân ở phổ Lombards, có ảnh hưởng lớn nhất đến giới tiểu thương trong khu.
- Tên là gì?
- Tên là Planchet. Cách đây sáu tuần một mình anh ta làm nên một cuộc bạo loạn, nhưng sau đó người ta lùng anh để treo cổ, nên anh ta biến mất.
- Liệu ông có tìm lại được không?
- Tôi hy vọng là được. Tôi không tin là anh ta đã bị bắt giữ; và do tôi là người nghe xung tội của vợ anh ta nếu chị ta biết chồng ở đâu thì tôi cũng sẽ biết.
- Được, ông linh mục hãy tìm người ấy và nếu thấy thì dẫn đến cho tôi nhé.
- Vào lúc nào, thưa Đức ông?
- Sáu giờ, được không?
- Chúng tôi sẽ tới Đức ông vào lúc sáu giờ.
- Thôi đi đi, ông linh mục thân mến, và cầu Chúa phù hộ cho ông?
- Ông linh mục đi ra.
- Thế còn ông? - Gondy vừa nói vừa quay về phía linh mục xứ Saint-Sulpice.
- Thưa Đức ông, - Ông này đáp, - Tôi quen một người đã từng làm nhiều việc lớn giúp một vị hoàng thân rất được lòng dân, ông ta có thể làm một thủ lĩnh xuất sắc của những kẻ khởi loạn và tôi có thể tiến cử lên Đức ông sử dụng.
- Người ấy tên là gì?
- Bá tước de Rochefort.
- Tôi cũng biết ông ta, nhưng khốn nỗi ông ấy không ở Paris.
- Thưa Đức ông, ông ta ở phố Cassette.
- Từ bao giờ?
- Từ ba hôm nay rồi.
- Thế tại sao ông ta không đến thăm tôi?
Người ta đã nói với ông ta rằng. Đức ông sẽ thứ lỗi cho tôi...
- Tất nhiên, cứ nói.
- Rằng Đức ông đang thương lượng với triều đình.
Gondy cắn môi.
- Người ta lừa dối ông ấy đấy. Hãy dẫn ông ấy đến đây vào lúc tám giờ, ông linh mục ạ, và cầu Chúa ban phước cho ông cũng như tôi ban phước cho ông!
Ông linh mục thứ hai cúi chào và đi ra.
Chủ giáo quay về phía người còn lại và nói:
- Bây giờ đến lượt ông. Liệu ông có gì hay để hiến cho tôi như hai ông kia không?
- Thưa Đức ông, còn hay hơn ạ.
- Gớm nhỉ! Hãy chú ý là ông vừa mới làm một điều cam kết ghê gớm: Một vị đã hiến cho tôi một thương nhân, vị kia hiến cho tôi một bá tước; hẳn là ông sẽ hiến cho tôi một vị hoàng thân phải không?
- Thưa Đức ông, tôi sẽ hiến ngài một kẻ ăn mày.
- A! A! - Gondy suy nghĩ và kêu lên. - Ông nói phải đấy, ông linh mục ạ; một người nào đó sẽ làm nổi dậy cả cái đạo quân những kẻ cùng khổ làm tắc nghẽn ngã tư đường phố Paris và có thể khiến họ kêu la khá to để cho tất cả nước Pháp nghe thấy rằng chính lão Mazarin đã dồn họ đến cảnh bị gậy...
- Vừa hay tôi có người mà ngài cần.
- Hoan hô! Người nào vậy?
- Một kẻ ăn mày tầm thường như tôi đã nói với Ngài, hắn xin của bố thí bằng cách đưa nước thánh trên những bậc thềm của nhà thờ Saint Eustache từ gần sáu năm nay.
- Và ông nói rằng hắn có ảnh hưởng lớn đến đồng bọn ạ?
- Đức ông có biết rằng cảnh ăn mày là một đội quân có tổ chức một thứ hiệp hội của những kẻ không sở hữu gì hết chống lại những kẻ có sở hữu, một hiệp hội trong đó mỗi người đóng góp phần của mình và nó thuộc về một thủ lĩnh.
- Phải, tôi đã nghe nói đến điều ấy, - Ông chủ giáo nói.
- Vậy thì cái người mà tôi hiển ngài ấy là một tổng đại biểu.
- Ông có biết gì về người đó không?
- Thưa Đức ông, tôi không biết gì hết ngoài điều tôi thấy hình như hắn bị giày vò vì một nỗi hối hận nào đó.
- Ai làm cho ông tin điều đó?
- Tháng nào cũng vậy, cứ đến ngày 28, hắn nhờ tôi làm lễ mess cầu cho sự yên nghỉ của linh hồn một người nào đó chết bất đắc kỳ tử. Tôi cũng vừa mới làm lễ ấy ngày hôm qua.
- Tên hắn là gì.
- Maillard, nhưng tôi không nghĩ rằng đó là tên thật.
- Liệu vào giờ này chúng ta có thể gặp hắn ở vị trí của hắn được không?
- Hoàn toàn được.
- Vậy thì ông linh mục ơi, ta đến gặp kẻ ăn mày của ông đi. Và nếu hắn đúng như ông đã nói, thì ông có lý đấy, chính ông đã tìm ra kho báu thực sự.
Và Gondy mặc y phục kỵ sĩ, đội một cái mũ rộng vành đính chiếc lông chim đó, đeo một thanh gươm dài, mắc đinh thúc ngựa vào đôi ủng, khoác một tấm áo choàng rộng và đi theo ông linh mục.
Ông chủ giáo và kẻ đồng hành đi qua tất cả các phố xá ngăn cách toà tổng giám mục yới nhà thờ Saint Eustache , xem xét cẩn thận tinh thần dân chúng. Dân chúng náo động, nhưng giống như một đàn ong hoảng sợ dường như không biết đậu xuống đâu, và hiển nhiên là nếu không tìm được những thủ lĩnh cho đám dân chúng ấy thì tất cả sẽ chỉ diễn ra thành những tiếng vo ve mà thôi.
Đi tới phố Prouvaires, ông linh mục trỏ tay về phía sân trước nhà thờ, nói:
- Kia kìa, hắn đang ở tại vị trí của hắn.
Gondy nhìn theo và trông thấy một kẻ nghèo khổ ngồi trên một chiếc ghế và tựa lưng vào một góc tường; hẳn có một cái xô nhỏ để bên cạnh và tay cầm một cây ngù dùng để rẩy nước thánh.
- Có phải vì đặc quyền mà hắn được ngồi ở đấy không? - Gondy hỏi.
- Không đâu, thưa Đức ông, - Linh mục đáp, - Hắn đã thương lượng với kẻ trước hắn về chỗ của người đưa nước thánh.
- Thương lượng à?
- Vâng, cái chỗ ấy phải mua đấy; tôi chắc tên này đã mua chỗ với giá một trăm pistol.
- Tên vô lại này hẳn là giàu có?
- Vài người trong bọn này lúc chết đói khi để lại tới hai mươi nghìn, hai lăm nghìn, ba mươi nghìn livres hay nhiều hơn nữa.
- Hừm! - Gondy cười nói, - Tôi không ngờ rằng mình đã đặt của bồ thí đúng chỗ đến thế.
Trong khi đó hai người đi về phía sân trước. Lúc linh mục và chủ giáo đặt chân lên bậc đầu tiên của nhà thờ, người ăn mày đứng dậy và chìa cây ngù ra.
Đó là một người đàn ông trạc bảy mươi đến bảy mươi tám tuổi, thấp và khá đẫy đà, tóc xám, mắt hung hung. Trên gương mặt gã hiện lên cuộc đấu tranh giũa hai nguyện lý trái ngược nhau, một bản chất xấu xa bị chế ngự bởi nghị lực, có lẽ bởi sự ăn năn.
Trông thấy người kỵ sĩ đi theo linh mục, hắn khẽ giật mình và nhìn với vẻ kinh ngạc.
Linh mục và chủ giáo lấy đầu ngón tay chạm vào cây ngù và làm dấu chữ thập, chủ giáo ném một đồng tiền bạc vào trong chiếc mũ để dưới đất.
- Maillard này, - Linh mục nói, - Ông đây với tôi đến để nói chuyện với bác một lát.
- Với tôi ư? - Gã ăn mày nói, - thật là vinh dự cho một kẻ dâng nước thánh nghèo hèn.
Trong giọng nói của gã có một nét trào lộng mà hắn không chế ngự được hoàn toàn vả nó khiến ông chủ giáo kinh ngạc.
Linh mục như đã quen với cái giọng ấy, nói:
- Phái, chúng tôi muốn biết xem bác nghĩ gì về những sự kiện ngày hôm nay và bác nghe thấy những người ra vào nhà thờ bàn tán, thế nào về những sự kiện đó?
Gã ăn mày gật đầu và nói:
- Thưa linh mục, đó là những sự kiện đáng buồn và cũng như mọi khi nó rơi vào đầu đám dân chúng nghèo khổ. Còn về điều người ta bàn tán thì tất cả thiên hạ đều bất bình, tất cả thiên hạ đều ca thán, nhưng nói tất cả thiên hạ là chẳng nói ai cả.
- Bạn thân mến, - Ông chủ giáo nói, - Bác hãy cắt nghĩa xem.
- Tôi nói rằng tất cả những tiếng kêu la ấy, tất cả những điều ca thán ấy, tất cả những lời chửi rủa ấy chi gây nên một cơn giông tố và những tia chớp mà thôi, nhưng sấm sét sẽ chỉ giáng xuống khi nào có một người chỉ huy điều khiển nó.
- Này bạn ơi, - Gondy nói - Tôi thấy bác là một người khôn khéo; liệu bác có sẵn lòng tham gia vào một cuộc nội chiến nho nhỏ trong trường hợp nó xảy ra và nếu như chúng ta tìm được một thủ lĩnh thì liệu bác có để cho vị ấy tuỳ ý sử dụng thế lực riêng của bác và ảnh hưởng mà bác đã giành được ở bạn bè của bác không?
- Có thưa ông, miễn là cuộc chiến tranh ấy được Nhà thờ tán thành và do đó có thể dẫn tôi tới mục đích mà tôi muốn đạt tới, nghĩa là sự xá tội cho tôi.
- Cuộc chiến tranh ấy không những được Nhà thờ tán thành mà còn do Nhà thờ lãnh đạo nữa. Còn việc xá tội cho bác, chúng ta có Ngài Tổng giám mục Paris, ngài giữ nhiều quyền hành lớn của Toà thánh La Mã, và cả ông chủ giáo nữa, ông có quyền đại xá; chúng tôi sẽ giới thiệu bác với ông ta.
- Maillard này, - Linh mục nói, - Hãy nhớ rằng chính tôi đã giới thiệu bác với ngài chủ giáo, ngài là một vị chúa toàn năng và có thể nói là ngài đã bảo đảm cho bác.
- Thưa linh mục, - Người ăn mày nói, - Tôi biết rằng bao giờ ông cũng rất tốt với tôi; cho nên về phía mình, tôi sẵn sàng làm vừa lòng ông.
- Thế bác có cho rằng thế lực của bác đối với đồng nghiệp của bác cũng to tát như ông linh mục nói với tôi ban nãy không?
- Tôi cho rằng họ có một niềm tôn kính nào đó đối với tôi, gã ăn mày nói với vẻ kiêu hãnh, - và không những họ sẽ làm mọi điều tôi ra lệnh cho họ, mà tôi đi bất cứ đâu họ cũng sẽ theo tôi.
Và bác có thể bảo đảm với tôi về năm mươi người thật quyết tâm, những con người tâm tính tốt và thật phấn khích, những kẻ la hét to có thể làm sụp đổ những tường luỹ của Hoàng cung khi hô "Đả đảo lão Mazarin" giống như tường lũy của Jéricho ngày xưa sụp đổ không?(3)
- Tôi tin rằng, - Gã ăn mày đáp - Tôi có thể đảm đương những việc khó khăn hơn và quan trọng hơn thế nữa.
- A, a! - Gondy nói, - bác có thể đảm nhiệm trong một đêm dựng mười lũy chướng ngại không?
- Tôi có thể nhận làm năm mươi cái và đến ban ngày thì bảo vệ chúng.
- Mẹ kiếp, - Gondy nói, - bác nói với vẻ chắc chắn khiến tôi rất hài lòng, và bởi vì ông linh mục bảo đảm với tôi về bác...
- Tôi xin bảo đảm, - Linh mục nói.
- Đây là một cái túi đựng năm trăm pistol bằng vàng, - Gondy nói, - bác hãy làm mọi sự sửa soạn, và cho tôi biết mười giờ tối nay tôi có thể gặp bác ở đâu?
- Đó phải là một nơi thật cao để một hiệu lệnh phát ra từ đấy mọi khu phố ở Paris đều có thể trông thấy được.
- Bác có muốn tôi nói một lời với thày trợ tế ở nhà thờ Saint-Jacques- la-Boucherie không? - Linh mục nói - Ông ta sẽ đưa bác vào một căn phòng trên ngọn tháp.
- Thế thì tuyệt quá! - Gã ăn mày đáp.
- Vậy thì chiều nay vào sáu giờ, - Chủ giáo nói, - Và nếu tôi hài lòng về bác, thì bác sẽ có một túi tiền năm trăm pistol nữa.
Cặp mắt gã ăn mày ánh lên một nỗi thèm thuồng, nhưng hắn dẹp ngay niềm xúc động ấy và nói:
- Vâng, tối nay, mọi thứ sẽ sẵn sàng.
Và hắn đem chiếc ghế vào trong nhà thờ, xếp cái xô và cây ngù bên cạnh chiếc ghế, rồi đi lấy nước thánh ở trong chậu nước thánh để làm dấu, dường như hắn không tin cậy ở nước cửa hắn trong xô, và ra khỏi nhà thờ.
Chú thích:
(1) chủ giáo de Gondy
(2) Mũ đỏ: mũ giáo chủ mà ông chủ giáo đang khao khát.
(3) Giensô là một thành phố ở Gioocđani. Theo Kinh Thánh thì Giôđuye đã làm đổ sụp các tường luỹ của Giêrỉsô bằng những hồi kèn trận (khoảng 1400-1260 trước Công nguyên).
-*-*-*-
Chương 48
Ngọn tháp nhà thờ Saint-Jacques- la-Boucherie
Ô ng de Gondy đã chạy khắp chỗ và trở về toà tổng giám mục là sáu giờ kém mười lăm.
Đến sáu giờ ông được báo là có linh mục ở Saint-Merri tới.
Ông vội vã nhìn phía sau linh mục và thấy có một người đi theo.
- Cho vào - Ông bảo.
Linh mục vào và Planchet theo sau.
- Thưa Đức ông, - Linh mục Saint-Merri nói, - Đây là người mà tôi đã có vinh dự trình với ngài.
Planchet cúi chào với dáng điệu của một người đã từng đi lại những nhà tử tế.
- Ông sẵn lòng phụng sự lợi ích của nhân dân chứ? - Gondy hỏi.
- Đúng như thế, - Planchet đáp - tôi là Fronde trong tâm hồn. Như Đức ông thấy đấy, tôi bị kêt án treo cổ.
- Vào dịp nào?
- Tôi đã giải thoát khỏi tay bọn cảnh sát của Mazarin một vị công hầu cao quý mà chúng dẫn trở lại ngục Bastille nơi ông đã bị giam giữ từ năm năm.
- Ông ta tên là gì?
- Ồ! Đức ông biết rõ quá: đó là bá tước de Rochefort.
- À! Thật đúng rồi! - Chủ giáo nói - tôi có nghe nói về vụ ấy. Ông đã làm nổi dậy cả một khu phố, có phải không?
- Cũng gần như vậy, - Planchet đáp với vẻ tự mãn.
- Ông làm nghề gì nhỉ?
- Bán mứt kẹo ở phố Lombard.
- Ông thử giải thích xem vì sao làm một nghề yên bình như vậy mà ông lại có những khuynh hướng hiếu chiến đến thế?
- Thế vì sao Đức ông vốn là người nhà thờ bây giờ lại tiếp tôi trong bộ y phục kỵ sĩ với thanh kiếm bên mình và đinh thúc ngựa ở đôi ủng?
- Đối đáp khá lắm, thật vậy? - Gondy cười nói, - Nhưng ông biết đấy, mặc dầu đeo tấm băng giáo sĩ, tôi luôn luôn có những khuynh hướng chiến tranh.
- Ấy, thưa Đức ông, trước khi làm nghề mứt kẹo tôi đã ba năm ở trung đoàn Piémont, và trước đó tôi đã đi hầu ông d Artagnan mười tám tháng.
- Ông trung uý ngự lâm quân ấy à? - Gondy hỏi.
- Chính ông ấy, thưa Đức ông.
- Nhưng người ta bảo ông ấy là một người theo phái Mazarin cuồng nhiệt?
- Ô! - Planchet kêu lên.
- Ông định nói gì?
- Không, thưa Đức ông. Ông d Artagnan đang ở trong quân ngũ, ông ấy làm chức phận của mình là bảo vệ Mazarin, lão trả lương cho ông ấy, cũng như những nhà tư sản chúng tôi, chúng tôi làm chức phận của mình là công kích Mazarin, lão ăn cắp của chúng tôi.
- Ông là một anh chàng thông minh đấy, ông bạn ạ. Có thể trông cậy ở ông được không?
- Tôi nghĩ rằng, - Planchet nói, - Ông linh mục đã bảo đảm với ngài về tôi.
- Có thể, nhưng tôi thích nhận được sự bảo đảm ấy từ miệng ông.
- Thưa Đức ông, ngài có thể trông cậy ở tôi miễn rằng đó là việc làm đảo lộn thành phố.
- Thì đúng là việc ấy. Ông thấy là có thể tập hợp được bao nhiêu người trong đêm nay?
- Hai trăm tay súng và năm trăm tay thương.
- Giá như mỗi khu phố chỉ cần một người làm được như vậy, thì ngày mai chúng ta sẽ có một đội quân khá mạnh.
- Đúng quá.
- Ông có sẵn sàng tuân theo bá tước de Rochefort không?
- Tôi sẽ đi theo ông ấy xuống dịa ngục, và chẳng phải nói chơi đâu vì tôi cho rằng ông ấy có thể xuống đấy lắm chứ?
- Hoan hô!
- Ngày mai phân biệt giữa bạn và thù bằng dấu hiệu gì?
Mọi người Fronde có thể gài trên mũ một chiếc nơ bằng rơm.
- Được!
- Xin ngài ra lệnh.
- Ông có cần tiền không?
- Thưa Đức ông, tiền bạc không bao giờ làm hại trong bất cứ việc gì. Nếu không có tiền người ta sẽ khỏi cần đến nó; nhưng nếu có tiền thì mọi việc chỉ càng nhanh hơn và tốt hơn thôi.
Gondy đến một cái hòm và lôi ra một túi tiền và nói:
- Đây là năm trăm pistol; mà nếu công việc tiến hành tốt thì ngày mai lại có từng ấy nữa.
- Tôi sẽ báo cảo trung thành với Đức ông về số tiền đó, - Planchet nói và kẹp túi tiền vào nách.
- Tốt lắm. Ông hãy canh chừng giáo chủ.
- Xin cứ yên trí, lão ta ở trong những bàn tay vững vàng.
Planchet đi ra, Linh mục nán lại đằng sau một chút và nói:
- Thưa Đức ông, ngài hài lòng chứ?
- Phải, người ấy có vẻ là một tay kiên quyết.
- Vâng, hắn sẽ làm nhiều hơn hắn hứa đấy.
- Thể thì tuyệt lắm.
Linh mục ra theo Planchet đang đợi ông ở cầu thang.
Mười phút sau người ta báo tin linh mục ở Saint-Sulpice đến.
Cửa phòng Gondy vừa mở ra, một người chạy xổ vào đó là bá tước de Rochefort.
- Thì ra ông đây à, ông bá tước thân mến! - Gondy vừa nói vừa giơ tay ra.
- Thưa Đức ông, - Rochefort nói, - thế là cuối cùng ngài đã dứt khoát?
- Bao giờ tôi cũng vậy, - Gondy đáp.
- Thôi không bàn chuyện ấy nữa; tôi tin lời ngài; chúng ta sẽ cho lão Mazarin dự vũ hội(1).
- Thì... tôi hi vọng.
- Thế bao giờ cuộc vũ bắt đầu.
- Những người được mời sẽ đến đêm nay, - Chủ giáo nói, - Nhưng các cây vĩ cầm sớm mai mới bắt đầu chơi.
- Ngài có thể trông cậy ở tôi và ở năm mươi lính mà hiệp sĩ d Humières đã hứa trong cơ hội tôi cần đến.
- Năm chục người lính à?
- Phải, ông ta tuyển mộ và cho tôi mượn. Lễ hội xong, nếu còn thiếu tôi sẽ cho thay thế.
- Tốt lắm, Rochefort thân mến ạ; nhưng chưa phải đã hết.
- Còn chuyện gì nữa? - Rochefort cười hỏi.
- Ông de Beaufort, các ông đã làm gì?
- Ông ấy đang ở Vendôme và đợi nhận thư của tôi để trở về .
- Viết thư cho ông ấy đi. Đến lúc rồi đó.
- Vậy là ngài chắc chắn ở công việc của ngài rồi ư?
- Phải, nhưng ông ta phải gấp lên mới được, vì rằng khi dân chúng Paris chỉ mới chớm khởi nghĩa thì chúng ta sẽ chọn một trong mười hoàng thân để đứng đầu dân chúng; nếu ông de Beaufort chậm trễ thì ông ấy sẽ mất chỗ.
- Tôi có thể cho ông ấy biết ý kiến của ngài không?
- Hoàn toàn được.
- Tôi có thể bảo ông ấy rằng ông ấy cần trông cậy ở ngài không?
- Hay lắm.
- Và ngài để cho ông ấy toàn quyền?
- Phải, về mặt chiến tranh, còn về chính trị...
- Ngài biết rõ đó không phải là mặt mạnh của ông ta.
- Ông ta sẽ để tuỳ ý tôi thương lượng về chiếc mũ giáo chủ của tôi.
- Ngài vẫn tha thiết đến cái đó à?
- Vì rằng người ta buộc tôi phải đội một cái mũ hình dáng không hợp với tôi, - Gondy nói, - tôi mong muốn ít ra cái mũ ấy phải màu đỏ.
- Không nên tranh cãi về thị hiếu và màu sắc, - Rochefort cười nói, - tôi xin bảo đảm về sự đồng ý của ông ấy.
- Thế tối nay ông viết thư cho ông ấy à?
- Tôi làm hơn thế nửa, tôi phải một người đưa tin đến chỗ ông ta.
- Độ bao nhiêu ngày thì ông ấy có thể tới đây.
- Trong năm ngày.
- Ông ấy hãy đến và sẽ thấy một sự đồi thay.
- Tôi mong muốn như vậy.
- Tôi xin bảo đảm với ông.
- Như vậy thì...
- Hãy đi tập hợp năm mươi người của ông lại và ông hãy sẵn sàng.
- Với cái gì kia?
- Với mọi chuyện.
- Có tín hiệu tập hợp gì không?
- Một cái nơ bằng rơm gài trên mũ.
- Được rồi. Xin từ biệt Đức ông.
- Xin từ biệt Rochefort thân mến.
Ông linh mục từ nãy vẫn chẳng có cách nào xen vào cuộc đối thoại ấy, thì Rochefort đã kéo ông ra về; vừa đi Rochefort vừa nói:
- A!Ngài Mazarin, ngài Mazarin! Ngài hãy xem tôi có quá già nua để làm một con người hành động không?
Lúc ấy đã chín giờ rưỡi tối và ông chủ giáo phải mất nửa giờ để đi từ toà tổng giám mục đến tháp nhà thờ Xanh Giác La Busơri.
- Ông nhận thấy một ánh đèn le lói ở một trong những cửa sổ cao nhất trên cây tháp.
- Ông gõ cửa và có người ra mở. Ông trợ tế đích thân đợi và cầm đèn soi đưa ông lên tận trên ngọn tháp. Đến đây, ông trỏ một cánh cửa nhỏ đặt chiếc đèn vào trong một góc tường để khi ra chủ giáo có thể tìm thấy và đi xuống.
Mặc dù chìa khoá vẫn cắm ở cửa, ông chủ giáo vẫn gõ cửa.
- Cứ vào! Một giọng nói cất lên mà ông chủ giáo nhận ra là người ăn mày.
De Gondy vào. Quả nhiên đó là người dâng nước thánh ở sân trước nhà thờ Saint- Eustache. Gã nằm đợi trên một chiếc chõng. Thấy chủ giáo vào, hắn đứng dậy.
Chuông điểm mười giờ.
- Thế nào, - Gondy hỏi, - Nhà ngươi giữ lời hứa đấy chứ?
- Không được hoàn toàn, - Gã ăn mày đáp.
- Thế là thế nào?
- Ngài yêu cầu tôi năm trăm người, có phải không?
- Phải, thế sao?
- Tôi sẽ cung cấp cho ngài hai ngàn người.
- Bác không nói khoác chứ?
- Ngài có muốn một bằng chứng không?
- Có.
Ba cây nến được thắp lên, chảy ở ba cửa sổ mà một cửa trông ra khu Cité, một cửa trông ra Hoàng cung và một cửa trông ra phố Saint-Denis.
Người ăn mày lẳng lặng đi ra lần lượt thổi tắt ba ngọn nến.
Chủ giáo đứng trong bóng tối, căn phòng chỉ còn được chiếu bới ánh sáng chập chờn của mặt trăng khuất trong những đám mây đen lớn mà nó viền bạc ở chung quanh.
- Ngươi làm gì thế? - Chủ giáo hỏi.
- Tôi phát tín hiệu.
- Tín hiệu gì?
- Tín hiệu dựng lũy chướng ngại.
- À ! À !
- Lúc này ra khỏi đây, ngài sẽ thấy người của tôi đang hành động. Song le ngài hãy đề phòng kẻo gẫy chân khi vấp phải một dây xích hoặc rơi xuống một cái hố.
- Tốt lắm! Tiền đây cũng bằng số tiền ngươi đã nhận. - Bây giờ hãy nhớ rằng nhà ngươi là một thủ lĩnh và chớ có đi uống rượu.
- Hai mươi năm nay tôi chỉ uống nước.
Chủ giáo đưa túi tiền cho gã ăn mày và nghe tiếng bàn tay moi móc và mân mê những đồng tiền vàng.
- Á à! - Chủ giáo nói, - Đồ vô lại, mi là một kẻ bủn xỉn.
Gã ăn mày buông một tiếng thở dài và quẳng túi tiền xuống.
- Thì ra tôi vẫn như thế ư, - Hắn nói, - và tôi không bao giờ gột bỏ được con người cũ hay sao? Ôi khốn cùng, ôi phù hoa?
- Song bác cứ cầm lấy.
- Vâng, nhưng tôi xin thề trước mắt ngài rằng tôi sẽ dùng những gì còn lại của tôi vào việc thiện.
Mặt gã tái đi và cau lại như một người vừa mới trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm.
- Con người lạ lùng - Gondy lẩm bẩm.
- À ông cầm lấy chiếc mũ định đi ra, nhưng khi quay lại ông thấy gã ăn mày đứng giữa ông và cánh cửa.
Cử động đầu tiên dường như là người ấy muốn làm điều gì ác đối với ông.
Nhưng rồi, trái lại, ông thấy gã chắp hai bàn tay lại và quỳ xuống.
- Thưa Đức ông, - Hắn nói, - Trước khi rời tôi, xin ngài hãy ban phước cho tôi, tôi van ngài.
- Đức ông à! - Gondy kêu lên, - Ông bạn ơi, bác nhầm tôi với người khác rồi.
- Không, thưa Đức ông, ngài là gì thì tôi coi ngài đúng như vậy, nghĩa là Ngài chủ giáo, thoạt nhìn là tôi nhận ra ngay.
Gondy mỉm cười.
- Thế bác muốn tôi ban phước à? - Ông hỏi.
- Vâng, tôi cần vậy.
Người ăn mày nói những lời đó với giọng hổ nhục và ân hận thật lớn lao và sâu sắc đến nỗi Gondy giơ tay ra và ban phước cho hẳn với tất cả sự uyển chuyển mà ông có thể làm được.
- Bây giờ, - chủ giáo nói, - giữa chúng ta có sự hoà đồng. Tôi sẽ ban phước cho ngươi và đối với tôi, nhà ngươi là thiêng liêng cũng như ngược lại tôi là thiêng liêng đối với ngươi. Nào, nhà ngươi có phạm một trọng tội gì mà công lý của con người truy tố không và tôi có thể bảo đảm cho nhà ngươi?
Gã ăn mày lắc đầu.
- Cái trọng tội mà, tôi phạm không thuộc công lý của con người, và ngài chỉ có thể giải thoát cho tôi bằng cách luôn luôn ban phước cho tôi như ngài vừa mới làm.
- Nào, phải thật thà, - Giáo chủ nói - Không phải suốt đời nhà ngươi đã làm cái nghề mà ngươi đang làm chứ?
- Không, thưa Đức ông, tôi chỉ làm từ mười năm nay.
- Trước khi làm nghề này, bác ở đâu?
- Ở ngục Bastille.
- Thế trước khi vào ngục Bastille? ...
- Tôi sẽ nói với Đức ông sau, vào cái ngày mà ngài muốn nghe tôi xưng tội.
- Được rồi. Vào bất cứ giờ nào ngươi đến, ban ngày hay ban đêm, hãy nhớ rằng tôi sẵn sàng xá tội cho ngươi.
- Xin cảm ơn Đức ông, - gã ăn mày nói bằng một giọng khàn khàn, - Nhưng tôi chưa sẵn sàng để tiếp nhận.
- Được rồi. Thôi, từ biệt.
- Xin từ biệt Đức ông, - Gã ăn mày nói và vừa mở cửa vừa cúi rạp mình trước vị chủ giáo.
Chủ giáo cầm cây đèn nến xuống thang và đi ra, vẻ rất trầrn ngâm.
Chú thích:
(1) Nghĩa bóng: đánh, choảng.
-*-*-*-
Chương 49
Cuộc nổi dậy
Gần mười một giờ đêm: Gondy đi trên các đường phố Paris chưa được một trăm bước đã nhìn thấy diễn ra một đổi thay kỳ lạ.
Toàn thành phố dường như do những sinh vật quái dị cư trú. Người ta trông thấy những cái bóng lặng lẽ nậy đá lát đường, hoặc kéo đi và lật đổ những cỗ xe, hoặc đào những, cai hố lớn để nuốt, chửng cả hàng đại đội kỵ binh. Tất cả những nhân vật hoạt động sôi nổi ấy đi đi lại lại, chạy vùn vụt, giống như những ma quỷ đang thực hiện một công việc lạ lùng nào. Đó là, những người ăn mày của triều đình những "Chuyện Thần Kỳ": đó là những bộ hạ của gã dâng nước thánh ở sân trước nhà thờ Saint Eustache đang chuẩn bị những luỹ chướng ngại cho ngày mai.
Gondy nhìn những con người của bóng tối ấy, những kẻ lao động đêm hôm ấy với một niềm kinh hãi. Ông tự hỏi sau khi lùa tất cả những tạo vật bẩn thỉu ấy ra khỏi hang ổ của chúng, liệu ông có quyền lực đề đẩy chúng trở lại được không. Khi một kẻ nào đó trong đám người ấy tiến đến gần ông, ông sẵn sàng làm dấu thánh.
- Ông đi vào phố Saint-Honoré và bước đến phố Ferronnerie.: ở đây, quang cảnh thay đổi: đó là những người buôn bán đang chạy từ nhà hàng này đến nhà hàng nọ; các cửa ra vào đóng kín như những cánh cửa chắn gió; nhưng chỉ là khép lại thôi, chốc chốc mở ra, rồi đóng lại ngay để cho người vào, họ có vẻ sợ bị trông thấy họ mang cái gì?
Đó là những chủ hiệu có thừa khí giới đem cho những người không có mượn.
Một người lưng gập xuống dưới sức nặng của gươm kiếm, súng hoả mai, súng trường, khí giới đủ loại, đi từ cửa nhà này đến cửa nhà khác và rải rác đặt vũ khí xuống. Nhờ ánh sáng một ngọn đèn, ông chủ giáo nhận ra Planchet. Chủ giáo qua phố Tiền Tế đi ra kè. Trên kè những tốp nhà tư sản mặc áo choàng màu đen hoặc xám tuỳ theo họ thuộc tầng lớp tư sản cao hay thấp, đứng im lặng, trong khi những người riêng lẻ chuyển từ tốp này sang tốp khác. Tất cả những tấ áo choàng xám hay đen đều bị vén lên ở phía sau bởi mũi một thanh kiếm và ở phía trước bởi nòng một khẩu súng hoả mai hoặc súng trường. Đi đến Pont-Neuf, chủ giáo thấy cầu bị canh gác.
Một người tiến lại hỏi:
- Ống là ai? Tôi không công nhận ông là người của chúng tôi.
- Đó là vì ông không nhận ra bạn bè của mình, ông Louvières thân mến ạ? - Chủ giáo nói và bỏ mũ ra.
Louvières nhận ra ông và cúi chào.
Gondy lại rong ruổi trên đường và xuống tận cây tháp Nesle.
- Ở đây ông trông thấy một đoàn dài những người đang lướt men theo các bờ tường. Có thể nói đó là một đám rước của những bóng ma vì rằng tất cả đều khoác áo choàng trắng. Đi tới một chỗ nọ, tất cả lũ người đó theo nhau lần lượt tiêu tan cứ như là mặt đất hẫng dưới chân họ. Gondy đứng tì khuỵu tay vào một góc tường và xem họ biến đi từ người thứ nhất đến người sát cuối.
Người cuối cùng ngước mắt nhìn chắc hẳn để yên tâm rằng mình và đồng đội không bị rình mò, và mặc dầu bóng tối, vẫn nhận ra Gondy. Hắn bước thẳng đến chỗ ông và gí khầu súng ngắn vào ngực ông.
- Ơ này? Ông de Rochefort, - Gondy cười nói, - đừng có đùa với súng đạn.
Rochefort nhận ra tiếng nói và kêu lên:
- A! Đức ông đấy à?
- Chính tôi đây. Ông dẫn những người nào vào tận trong lòng đất như vậy?
- Năm mươi lính mới mộ của hiệp sĩ d Humières, họ được nhằm đưa vào khinh kỵ binh, và được trang bị toàn áo choàng trắng.
- Thế ông đi đâu vậy?
- Đến một nhà điêu khắc là bạn tôi, nhưng chúng tôi đi xuống bằng cái cửa sập nơi người cất những tượng đá.
- Tốt lắm, - Gondy nói.
Và ông bắt tay Rochefort; ông này đến lượt mình bước xuống và đóng cửa sập lại.
Chủ giáo trở về nhà. Lúc ấy đã một giờ sáng. Ông mở cửa sổ và cúi xuống để nghe ngóng.
Khắp thành phố vang lên một tiếng ồn ào kỳ lạ, chưa từng nghe, chưa từng biết. Người ta cảm thấy như ở trong tất cả các phố xá tối tăm tựa những hang sâu kia đang diễn ra một điều gì lạ lùng và ghê gớm. Chốc chốc nổi lên một tiếng gầm gào tựa như tiếng giông bão đang ào đến hoặc tiếng sóng biển đang trào lên nhưng không có gì rõ ràng, không có gì khác biệt, không có gì cắt nghĩa nổi hiện ra trong trí óc dường như những tiếng bí ẩn và ngầm sâu nó thường đi trước những trận động đất.
Công cuộc chuẩn bị khởi loạn kéo dài suốt đêm như vậy. Ngày hôm sau Paris tỉnh giấc như cũng giật mình về diện mạo của chính mình. Có thể ví như một thành phố bị bao vây. Những người vũ trang đứng trên các lũy chướng ngại, mặt hầm hè, vai đeo súng; những mật khẩu, nhưng toán tuần tra, nhưng cuộc bắt bớ, cả những cuộc hành quyết nữa, đó là cảnh tượng mà khách bộ hành trông thấy trên mỗi bước đi. Người ta giữ những người đội mũ có lông chim và những thanh kiếm mạ vàng để bắt họ hô Broussel muôn năm! Đã đảo lão Mazarin! Và nếu kẻ nào từ chối cái nghi thúc đó liền bị hò la, làm nhục và đánh đập nữa. Người ta chưa giết chết, nhưng không phải là không muốn.
Những lũy chướng ngại mọc lên đến tận Hoàng cung. Bons-Enfants đến phố Ferronnerie, từ phố Saint Thomas du Louvre đến Pont-Neuf, từ phố Richelieu đến cửa ô Saint-Honoré, có đến hơn mười nghìn người vũ trang và những người hăng hái nhất: kêu những lời thách thức với những lính gác trơ trơ của trung đoàn thị vệ được bố trí canh gác xung quanh Hoàng cung mà các cổng rào sắt được đóng chặt sau lưng họ, sự đề phòng ấy khiến tình thế trở nên bấp bênh. Diễu hành giữa quang cảnh đó là những toán hàng trăm rưởi, hai trăm con người hốc hác, bủng beo, rách rưới mang theo những thứ cờ hiệu viết những chữ: "Nhìn xem sự khốn cùng của dân chúng"
Khắp nơi những con người ấy đi qua, những tiếng hô cuồng nhiệt vang lên, và có biết bao nhiêu những toán người như thế nên người ta hô gào ở khắp mọi nơi.
Sự kinh ngạc của Anne d Autriche và Mazarin lúc thức dậy càng lớn khi người ta đến báo tin rằng khu Cité mà chiều tối hôm qua họ để cho yên ổn thì sớm nay tỉnh dậy xôn xao, náo động hết sức. Cho nên cả hai người đều không muốn tin ở những báo cáo của người ta và nói rằng họ sẽ chi tin điều đó bằng mắt thấy tai nghe mà thôi.
Người ta bèn mở cửa sổ ra: họ trông thấy, họ nghe thấy và họ tin vậy.
Mazarin nhún vai và làm ra bộ rất khinh thường cái đám tiện dân kia, nhưng ông ta tái mặt đi rõ rệt, và run bắn lên ông ta chạy về văn phòng mình, cất ngay vàng và tư trang của mình vào những hộp bí mật và lấy những cái nhẫn kim cương đẹp nhất ra đeo vào các ngón tay. Còn hoàng hậu giận dữ và mặc theo ý chí của riêng mình, bà cho gọi thống chế de La Meilleraie đến, ra lệnh cho ông cần bao nhiêu người thì cứ lấy và đi xem xét xem trò đùa ấy là cái gì vậy.
Ông thống chế vốn tính rất liều lĩnh và quả quyết. Đối với đám tiện dân ông có một nỗi khinh bỉ sâu sắc mà cánh binh gia thường biểu thị với họ. Ông lấy năm mươi người và toan đi ra bằng lối cầu Louvre; nhưng tại đó ông gặp Rochefort với năm mươi khinh kỵ binh của mình kèm theo một nghìn năm trăm người. Chẳng có cách nào phá vỡ một hàng rào như vậy. Thống chế cũng chẳng muốn thử và đi ngược đường sau.
Nhưng đến Pont-Neuf, ông gặp Louvières cùng đám tư sản. Lần này thống chế thử công kích nhưng ông được đón tiếp bằng những phát súng trường trong khi gạch đá từ các cửa sổ ném xuống như mưa. Ông phải bỏ lại ba người.
Ông đành tháo lui về khu chợ, nhưng vấp phải Planchet cùng đám kích thủ. Những cây kích, cây thương nằm ngang trong tay lăm lăm chĩa về phía ông.
Ông muốn đè bẹp, tất cả đám áo choàng xám ấy, nhưng những áo choàng xám chống cự rất hăng và thống chế phải lùi về phía phố Saint-Honoré, để lại trên chiến trường bốn lính vệ bị giết rất êm ái bằng giáo mác.
Ông bèn đi vào phố Saint-Honoré; nhưng tại đây ông gặp những lũy chướng ngại của gã ăn mày ở nhà thờ Saint- Eustache. Những bức lũy ấy được canh giữ không chỉ bởi đàn ông đuợc vũ trang, mà còn bởi đàn bà và trẻ con nữa. Trùm Friquet., sở hữu một khẩu súng ngắn và một thanh gươm do Louvières cho, đã tổ chức một toán bấu sấu như hắn, và la hét om sòm đến vỡ ập cả phố.
Ông thống chế tưởng nơi ấy canh giữ kém những nơi khác và muốn bẻ gãy. Ông cho hai chục lính xuống ngựa để tấn công và mở cửa bức luỹ, còn ông và số quân cưỡi ngựa còn lại bảo vệ toán công kích. Hai mươi lính tiến thẳng đến chiến luỹ, nhưng sau những cây rầm; giữa những bánh xe, từ trên các phiến đá, một loạt súng khủng khiếp bắn ra, và nghe tiếng súng, những kích thủ và Planchet xuất hiện ở góc nghĩa trang. Những kẻ vô tội, và những người tư sản của Louvières cũng ló ra ở góc phố Tiền Tệ. Thống chế La Meilleraie bị mắc kẹt giữa hai làn đạn.
Thống chế La Meilleraie là người dũng cảm, cho nên ông quyết chết tại trận. Ông bắn trả từng phát một, và những tiếng rú đau đớn bắt đầu vang lên trong đám dân chúng. Lính thị vệ thành thạo hơn, bắn trúng hơn, nhưng dân tư sản đông đảo hơn, nghiền nát họ trong một trận bão sắt thép thật sự. Nhiều lính ngã gục xung quanh ông thống chế tưởng như trong trận Rocroy hoặc trận Lérida. Fontrailles, viên phụ tá của ông gãy tay, ngựa thì bị đạn vào cổ và đau đến phát điên, nên khó khăn lắm mới kiềm chế được nó. Cuối cùng đến cái giờ phút tưởng như sắp lìa đời mà kẻ dũng cảm nhất cũng thấy ớn lạnh trong mạch máu và mô hôi vã trên trán, thì bỗng nhiên đám dân chúng mở ra ở phía phố l Arbre-Sec và hô vang: Chủ giáo muôn năm!
Và Gondy vận lễ phục thày tu xuất hiện, điềm tĩnh đi qua giữa loạt súng nổ, ban phước cho những ngươi ở hai bên, bình thản như khi ông dẫn một đám rước Thánh thể.
Mọi người quỳ gối.
Thống chế nhận ra chủ giáo, chạy tới và nói:
- Nhân danh Chúa trời, hãy kéo tôi ra khỏi nơi đây, nếu không thì tôi và tất cả những người của tôi đến để xác lại đây mất.
Tiếng ồn ào nổi lên giữa đám dân đông to đến nỗi nếu có tlểng sấm sét cũng chẳng ai nghe thấy. Gondy giơ tay lên và kêu gọi yên tĩnh.
Mọi người lặng im.
- Này các con, - chủ giáo nói, - Đây là Thống chế de La Meilleraie mà các con đã hiểu lầm ý định của ngài. Ngài cam kết rằng khi trở về cung Louvre sẽ nhân danh các con mà yêu cầu hoàng hậu trả lại tự do cho Broussel của chúng ta. Ngài thống chế cam kết như vậy chứ?
Gondy quay về phía La Meilleraie và nói thêm.
- Mẹ kiếp, - Thống chế kêu lên, - Chắc chắn rằng tôi cam kết như vậy? Mình đã không hy vọng được thoát nợ một cách rẻ đến thế.
- Ông ấy đã nói lời hứa của nhà quý tộc, - Gondy nói.
Thống chế giơ bàn tay lên ra hiệu đồng ý.
"Chủ gỉáo muôn năm!" - Đám đông hô to. Có vài tiếng còn thêm: "Thống chế muôn năm", nhưng rồi tất cả đồng thanh hô: "Đả đảo lão Mazarin!"
Đám đông dãn ra; đường qua phố Saint-Honoré là gần nhất.
Người ta mở các lũy chướng ngại và ông thống chế cùng đám tàn quân rút lui, có Friquet. cùng bọn trộm cắp dẫn đầu, những đứa này giả bộ đánh trổng, những đứa khác bắt chước tiếng kêu.
Trông cứ như là cuộc hành quân khải hoàn; song le đằng sau những lính vệ, các chiến luỹ đóng lại; ngài thống chế thì tấm tức trong lòng.
Trong thời gian ấy, như chúng tôi đã nói, Mazarin vẫn ở tại văn phòng riêng, thu xếp những việc nhỏ của mình. Ông cho gọi d Artagnan, nhưng giữa sự ồn ào ấy, ông chẳng hy vọng gặp anh d Artagnan không phải phiên trực. Mười phút sau viên trung uý xuất hiện ở ngưỡng cửa, cùng đi có Porthos, người bạn nối khố.
- A! Lại đây, lại đây, ông d Artagnan, - Giáo chủ reo lên, - Xin hoan nghênh ông cùng bạn ông. Nhưng này, có chuyện gì xảy ra trong cái thành phố Paris độc địa này thế?
- Chuyện gì xẩy ra ư? Thưa Đức ông! Chẳng có gì hay ho cả? - D Artagnan gật gù nói - Thành phố khởi loạn rầm rộ. Lúc nãy tôi đi qua phố Montorgueil cùng ông Du Vallon đây, ông thực sự là môn hạ của ngài; mặc đầu bộ quân phục của tôi và có lẽ chính tại bộ quân phục ấy, mà người ta bắt chúng tôi phải hô: "Broussel muôn năm!" và thưa Đức ông, có nên nói thêm họ bắt chúng tôi hô gì nữa không ạ?
- Cứ nói, cứ nói.
- Và "Đả đảo Mazarin!" Thực tình đó là câu đại ngôn tung ra.
Mazarin mỉm cười, nhưng mặt tái mét.
- Thế ông có hô không? - Ông ta hỏi.
- Thực tình là không, - D Artagnan đáp, - Tôi không tốt giọng, ông Porthos bị cảm nên cũng không hô. Thế là, thưa Đức ông...
- Thế là sao? - Mazarin hỏi.
- Xin hãy xem mũ áo của tôi.
Và d Artagnan đưa ra bốn lỗ đạn ở tấm áo choàng và hai lỗ đạn ở mũ của mình. Còn quần áo của Porthos thì một nhát kích xé toạc một bên sườn và một phát súng ngắn cắt đứt lông mũ.
- Ghê gớm thật - Giáo chủ trầm ngâm nói và nhìn hai người bạn với một vẻ khâm phục chất phác, - Nếu là tôi thì có khi tôi la to lên rồi đấy.
Lúc ấy, tiếng ồn ào vang đến gần hơn.
Mazarin lau mồ hôi trán và nhớn nhác nhìn quanh mình. Ông ta muôn ra cửa sổ xem lắm, nhưng không dám. Ông bảo:
- Ông d Artagnan, nhìn xem có chuyện gì thế?
D Artagnan đi ra cửa sổ với vẻ vô tư lự thông thường của mình.
- Ô! Ô! Cái gì thế kia? Thống chế La Meilleraie trở về không mũ. Fontrailles tay buộc treo, lính thị vệ bị thương, ngựa máu me đầy mình... Ơ! Nhưng mà bọn lính canh làm gì thế này? Họ giương súng ngắm và sắp sửa bắn.
- Đã ra lệnh cho họ bắn vào dân chúng, - Mazarin nói, - nếu dân chúng tiến sát Hoàng cung.
- Nếu họ nổ súng thì mọi việc hỏng hết! - D Artagnan kêu lên.
- Chúng ta có cổng sắt.
- Cổng sắt à! Chỉ được năm phút! Cổng sắt sẽ bị nhổ lên vặn quẹo và bẻ gẫy! Đừng bắn, mẹ kiếp! - D Artagnan mở hẳn cửa sổ và kêu lên.
Giữa tiếng ồn ào lời dặn dò ấy chẳng thể nghe được và ba bốn tiếng súng trường vang lên, rồi một loạt đạn ghê gớm tiếp theo.
Người ta nghe thấy tiếng những viên đạn đập chan chát vào mặt ngoài của Hoàng cung; một viên lọt qua dưới cánh tay d Artagnan và đập vỡ một tấm gương mà Porthos đang soi với vẻ thoả mãn.
- Ôhimé! Một tấm gương Venise, - Giáo chủ kêu lên.
- Ồ! Thưa Đức ông, - D Artagnan vừa nói vừa bình tĩnh đóng cửa sổ lại, - Xin ngài đừng tiếc vội, chẳng bõ công, vì rất có thể chỉ một tiếng đồng hồ nữa thôi, tất cả gương của ngài sẽ không còn một mảnh, dù là gương Venise hay gương Paris.
- Nhưng ý kiến ông thế nào? - Giáo chủ run như cầy sấy hỏi.
- Chà mẹ kiếp! Trả Broussel cho họ vì họ đòi! Một viên tham nghị ở nghị viện, ngài dùng làm cái gì kia chứ? Chẳng được tích sự gì?
- Thế còn ông Duy Vallon ý kiến ông ra sao? Ông sẽ làm gì?
- Tôi sẽ trả Broussel, - Porthos đáp.
- Lại đây, lại đây các ông, - Mazarin gọi, - tôi đến nói với hoàng hậu về chuyện này.
Đến cuối hành lang, ông dừng lại và nói:
- Các ông ơi, tôi có thể trông cậy vào các ông chứ?
- Chúng tôi không hiến mình hai lần - D Artagnan nói, - chúng tôi hiến mình cho ngài, ngài cứ ra lệnh, chúng tôi tuân theo.
- Vậy thì các ông hãy vào căn phòng này và chờ đợi, - Mazarin nói.
Và rẽ sang một lối, ông đi vào phòng khách bằng một cửa khác.
-*-*-*-
Chương 50
Nổi dậy biến thành bạo loạn
Căn phòng d Artagnan và Porthos vào chỉ ngăn cách với phòng khách nơi có hoàng hậu bằng những ô cửa căng thảm. Tấm ngăn mỏng cho phép nghe rõ tiếng nói ở bên kia, và kẽ hở giữa những tấm rèm dù hẹp mấy vẫn có thể nhìn sang được.
Hoàng hậu đang đứng trong phòng khách, mặt tái đi vì giận dữ, song cố tự kiềm chế đến nỗi tưởng như bà chẳng cảm thấy một xúc động nào. Đằng sau bà là Comminger, Villequier và Gitaud, sau nữa là các thị nữ.
Trước mặt bà là viên chưởng ấn Séguier, vẫn con người cách đây hai mươi năm đã làm tình làm tội bà(1). Hắn kể rằng xe của hắn vừa bị phá hỏng, hắn bị rượt theo, hắn lao vào dinh l Hôtel d O... rằng dinh lập tức bị xâm chiếm, cướp bóc, tàn phá, may thay hắn kịp trốn vào một căn buồng, nấp sau một tấm thảm, được một bà già che giấu cùng với anh hắn là giám mục Meaux. Rành rành nguy to rồi, bọn cuồng bạo sấn đến gần căn buồng và hầm hè de doạ đến nỗi viên chưởng ấn tưởng giờ tận số của mình đã điểm, vội vàng xưng tội với người anh để dọn mình sẵn sàng chết nếu bị phát hiện. May sao dân chúng tưởng chúng tẩu thoát bằng lối cửa sau nào đó, nên rút đi để hắn tụ do chuồn. Hắn bèn cải trang bằng bộ y phục của hầu tước l Hôtel d O và ra khỏi dinh bước qua xác viên phó quan cảnh sát và hai vệ sĩ của hắn đã bị giết chết khi bảo vệ cổng phố.
Trong khi hắn kể chuyện, Mazarin vào, lặng lẽ đến bên hoàng hậu và nghe.
- Thưa Lệnh bà, tôi nghĩ rằng nghiêm trọng lắm, - Viên chưởng ấn nói.
- Nhưng ông có ý kiến gì trình với tôi?
- Tôi rất muốn trình bày một ý kiến với Hoàng thượng, nhưng không dám.
- Cứ nói đi, cứ nói đi ông ạ, - Hoàng hậu nói với một nụ cười chua chát, - Ông đã từng dám cả chuyện khác nữa cơ mà.
Viên chưởng ấn đỏ mặt và lắp bắp vài tiếng.
- Không bàn chuyện quá khứ, mà hiện tại, - Hoàng hậu nói, - Ông bảo rằng có một điều khuyên tôi, vậy là điều gì?
- Thưa Lệnh bà, - Chưởng ấn ngập ngìng đáp, - Đó là hãy thả Broussel ra.
Mặc dầu mặt bà đã tái, Hoàng hậu càng tái đi rõ rệt và cau mặt lại. Bà nói:
- Thả Broussel ư? Không bao giờ!
Vừa lúc ấy có tiếng chân bước ở phòng trước, và chẳng báo trước thống chế de La Meilleraie xuất hiện ở ngưỡng cửa.
- A! Ông thống chế đây rồi! - Hoàng hậu mừng rỡ reo lên, - Tôi hy vọng ông đã trị được tất cả bọn súc sinh ấy rồi chứ?
- Thưa Lệnh bà, - Thống chế nói, - Tôi đã để lại ba người ở Pont-Neuf, bốn ở Halles, sáu ở góc phố l Arbre-Sec và hai ở cồng Hoàng cung, vị chi là mười lăm người. Tôi đem về mười hai người bị thương. Mũ của tôi bị một viên đạn bắn văng đi không biết ở đâu, và rất có thể là tôi đã nằm lại cùng với chiếc mũ, nếu không có ông chủ giáo đến giải thoát cho tôi.
- A! - Hoàng hậu nói :
- Xét cho kỹ, tôi sẽ ngạc nhiên nếu trong tất cả vụ này mà không thấy cái con chó lùn chân quẹo ấy dây vào.
- Thưa Lệnh bà, - La Meilleraie cười nói,
- Xin đừng nói nhiều điều xấu quá về ông ấy trước mặt tôi, vì rằng cái việc mà ông ấy giúp tôi vẫn còn nóng hổi.
- Hay đấy! - Hoàng hậu nói, - Ông hãy biết ơn ông ta bao nhiêu tuỳ thích, nhưng việc đó không ràng buộc tôi. Ông về đây bình yên vô sự đó là tất cả điều tôi mong muốn; ông không những là người đến vừa hay mà còn là kẻ quay trở về thật kịp thời(2).
- Vâng thưa Lệnh bà, nhưng tôi là người trở về kịp thời với một điều kiện, đó là tôi sẽ chuyển đạt tới Lệnh bà ý nguyện của dân chúng.
- Ý nguyện à? - Anne d Autriche cau mày nói. - Ô hô? Ông thống chế ơi, ắt là ông phải lâm vào một mối nguy hiểm ghê gớm lắm, nên ông mới đảm nhiệm một sứ mạng lạ lùng đến thế.
Những lời ấy được thốt ra với một giọng châm biếm không lọt khỏi tai thống chế.
- Xin Lệnh bà thứ lỗi, - Thống chế nói, - Tôi không phải luật sư, mà là người chinh chiến, do đó có thể hiểu sai giá trị của từ ngữ, có lẽ tôi phải nói điều mong ước của dân chúng, chứ không phải ý nguyện của dân chúng. Còn cái điều mà Lệnh bà hạ cố trả lời tôi, tôi cho rằng Lệnh bà muốn nói rằng tôi đã sợ hãi.
Hoàng hậu mỉm cười.
La Meilleraie nói tiếp:
- Vâng, thưa Lệnh Bà, tôi đã sợ hãi; trong đời tôi đây là lần thứ ba điều ấy đến với tôi, trong khi tôi đã dự mười hai chiến trận hẳn hoi, chưa kể bao nhiêu cuộc chiến đấu và những cuộc đụng độ lẻ tẻ mà tôi không nhớ rõ. Vâng, tôi đã sợ hãi, và tôi thích thà đứng trước Hoàng thượng dù nụ cười của Người có đe doạ đến mấy, còn hơn đối mặt với lũ quỷ sử địa ngục kia đã đi theo tôi về đến tận đây.Và chúng từ đâu chui ra tôi cũng không biết nữa.
- Hoan hô! - D Artagnan khẽ nói với Porthos, - Trả lời hay đấy.
Trong khi các cận thần nhìn nhau kinh ngạc thì hoàng hậu cắn nhẹ vành môi và nói:
- Vậy thì cái điều mong ước ấy của dân chúng là gì?
- Là trả Broussel, cho họ, thưa Lệnh bà, thống chế đáp.
- Không bao giờ? - Hoàng hậu nói, - Không bao giờ!
- Hoàng thượng là chúa tể, - La Meilleraie nói, rồi cúi chào và lùi một bước về phía sau.
- Ông đi đâu, thống chế? - Hoàng hậu hỏi.
- Tôi ra truyền lại câu hỏi trả lời của Hoàng thượng cho những kẻ đang chờ đợi.
- Hãy ở lại, thống chế, tôi không muốn có vẻ phải đàm phán với bọn phiến loạn.
- Thưa Lệnh bà, tôi đã hứa với họ, - Thống chế nói.
- Có nghĩa là?...
- Là nếu Lệnh bà không cho ngăn giữ tôi, thì tôi buộc phải đi xuống.
Cặp mắt Anne d Autriche phóng ra hai tia chớp.
- Ồ! Ông ơi, điều ấy không trở ngại gì, - Hoàng hậu nói, - Ta đã cho bắt giữ những kẻ còn cao hơn ông. Gitaud!
Mazarin xông ra. Ông nói:
- Thưa Lệnh bà, đến lượt tôi, nếu tôi dám trình Lệnh bà một ý kiến...
- Phải chăng vẫn là trả Broussel, thưa ông? Nếu đúng như vậy thì ông có thể miễn nói.
- Không - Mazarin đáp, - Mặc dầu có thể ý kiến ấy cũng giá trị bằng một ý kiến khác.
- Vậy là ý kiến gì?
- Đó là cho gọi ông chủ giáo đến.
- Chủ giáo! - Hoàng hậu kêu lên, - Cái kẻ gây rối ghê tởm ấy ư? Chính hắn đã gây ra tất cả cuộc nổi loạn này.
- Thêm một lý do, - Mazarin nói - nếu hắn đã gây ra, hắn có thể dẹp lại.
- Ơ này, thưa Lệnh bà, - Comminger nói, hắn đang đứng gần cửa sổ và nhìn ra - Cơ hội thật là tốt, ông ta kia kìa, đang ban phước trên quảng trường Hoàng cung.
Hoàng hậu lao ra cửa sổ.
- Đúng rồi, - bà nói, - Lão chúa đạo đức giả! Nhìn xem!
Mazarin nói:
- Tôi thấy tất cả mọi người quỳ trước mặt ông ta, mặc dầu ông ta chỉ là chủ giáo, còn tôi nếu ở chỗ ông ta bây giờ người ra sẽ xé xác tôi ra từng mảnh, mặc dầu tôi là giáo chủ. Cho nên, thưa Lệnh bà, tôi kiên trì điều mong ước của tôi (Mazarin nhấn mạnh hai tiếng đó) là xin Hoàng thượng tiếp ông chủ giáo.
- Thế tại sao cả ông nữa, ông không nói ý nguyện của ông? - Hoàng hậu khẽ nói.
Mazarin cúi mình.
Hoàng hậu đứng trầm ngâm một lát. Rồi ngẩng đầu lên bà nói:
- Ông thống chế, hãy đi tìm ông chủ giáo và dẫn đến đây.
- Tôi sẽ nói gì với dân chúng? - Thống chế hỏi.
- Bảo họ hãy kiên nhẫn, - Anne d Autriche nói, - Tôi, tôi rất kiên nhẫn!
Trong tiếng nói của người đàn bà Tây Ban Nha kiêu hãnh có một giọng thật là mệnh lệnh thống chế không cãi lại nửa lời, ông cúi mình và đi ra.
D Artagnan quay lại phía Porthos và nói:
- Chuyện này rồi kết thúc ra sao?
- Chúng ta sẽ thấy rõ, - Porthos đáp với vẻ bình tĩnh.
Trong khi đó, Anne d Autriche đến chỗ Comminger và nói khẽ với hắn điều gì.
Mazarin lo ngại nhìn về phía có d Artagnan và Porthos.
Những người tham dự khác trao đổi với nhau những lời nói thì thầm.
Cửa mở ra thống chế xuất hiện, theo sau có chủ giáo.
- Thưa Lệnh bà, - Ông nói, - có ông Gondy đây, ông ấy vội vã đến theo lệnh của Hoàng thượng.
Hoàng hậu đi vài bước ra đón và dừng lại, lạnh lùng, nghiêm khắc, im lặng và môi dưới bĩu ra, vẻ khinh bỉ.
Gondy kính cẩn cúi mình thi lễ.
- Thế nào, ông, - Hoàng hậu nói, Ông nói gì về cuộc nổi dậy này?
- Ấy, thưa Lệnh bà, - Chủ giáo đáp, - Không còn là cuộc nổi loạn nữa, mà là một cuộc bạo loạn.
- Bạo loạn là ở những kẻ nghĩ rằng dân chúng của ta có thể nổi loạn? - Anne kêu lên, - Bà không gìấu nổi ý nghĩ của mình trước mặt chủ giáo, mà bà coi, có lẽ là chính đáng, như kẻ chủ mưu của sự náo động ấy. Bà nói tiếp - Bạo loạn? Những kẻ mong mỏi điều đó gọi như thế đây cái phong trào do chính họ gây ra; nhưng đợi đấy, quyền lực của nhà vua sẽ lập lại trật tự!
Gondy lạnh lùng đáp:
- Thưa Lệnh bà, phải chăng Hoàng thượng ban cho tôi cái vinh dự được kiến diện là chỉ để nói với tôi điều đó?
- Không đâu, ông chủ giáo thân mến ơi, - Mazarin nói, - Chính là để hỏi ý kiến ông trong cái bối cảnh mà chúng ta đang sống.
Gondy giả vờ ngạc nhiên hỏi:
- Có đúng là Hoàng thượng cho gọi tôi là để hỏi ý kiến không?
- Phải, - Hoàng hậu nói, - Người ta muốn vậy.
Chủ giáo nghiêng mình:
- Hoàng thượng muốn rằng...
- Ông nói cho biết nếu ở địa vị Hoàng thượng thì ông sẽ làm gì. - Mazarin vội vã đáp.
Giáo chủ nhìn hoàng hậu, bà gật đầu.
- Ở địa vị Hoàng thượng, - Gondy lạnh lùng đáp, - Tôi sẽ không do dự, tôi sẽ thả ngay Broussel.
- Thế nếu tôi không thả , - Hoàng hậu kêu lên, - Thì ông cho rằng điều gì sẽ xảy ra?
- Tôi cho rằng ngày mai Paris sẽ bị phá tan tành, - Ông thống chế nói xen vào.
- Ta không hỏi ông - Hoàng hậu nói xẵng và chẳng buồn quay đầu lại, - Ta hỏi ông de Gondy.
- Nếu hoàng thượng hỏi tôi, - Chủ giáo đáp vẫn với vẻ điềm nhiên, - Tôi sẽ nói rằng, tôi hoàn toàn nhất trí với ông thống chế.
Mặt hoàng hậu đỏ rực lên, cặp mắt xanh huyền diệu dường như sắp bật ra khỏi tròng, đôi môi son tươi thắm mà các thi sĩ đương thời ví như đoá hoa lựu đang nở bỗng tái hẳn đi và run lên vì điên giận; bà khiến cả Mazarin cũng kinh hãi, mặc dù ông ta đã quen với những cơn giận dữ trong cái gia đình sóng gió ấy. Cuối cùng với một nụ cười dễ sợ bà kêu lên:
- Trả lại Broussel! Quả là một điều khuyên hay ho đấy! Người ta thấy rõ đó là của một vị thầy tu.
Gondy không sờn lòng. Những lời sỉ nhục hôm nay trôi tưột đi như những lời châm chọc ngày hôm qua; nhưng nỗi căm ghét và lòng phục thù cứ lặng lẽ tích tụ lại từng giọt từng giọt trong tâm can ông. Ông lạnh lùng nhìn hoàng hậu, bà có ý giục Mazarin cũng phải nói điều gì.
Theo thói quen, Mazarin nghĩ ngợi nhiều và nói năng ít.
- Hề hề! - Ông nói - Lời khuyên hay đấy, lời khuyên của bè bạn.
- Tôi cũng vậy, tôi sẽ trả ông ta, cái ông Broussel tử tế ấy, sống hoặc chết, thế là mọi việc xong xuôi.
- Nếu ông trả lại ông ta chết rồi thì mọi việc sẽ xong xuôi như ông nói, thưa Đức ông, nhưng sẽ xong xuôi khác với ông hiểu đấy.
- Tôi đã nói sống hoặc chết à? - Mazarin đáp - Đó là cách nói thôi, ông biết rằng tôi hiểu tiếng Pháp tồi mà ông thì nói và viết giỏi lắm, ông chủ giáo ạ.
- Chao ôi, Hội nghị quốc gia kia đấy! - D Artagnan nói với Porthos, - thế mà chúng tôi đã họp những cuộc hội nghị hay bằng mấy ở La Rochelle cùng với Arthos và Aramis.
- Ở pháo đài Saint-Gervais, - Porthos nói thêm.
- Ở đấy và nhiều nơi khác nữa.
Đợi cơn mưa rào qua đi, chủ giáo lại tiếp tục vẫn với vẻ lãnh đạm ấy:
- Thưa Lệnh bà, nếu Hoàng thượng không tán thành cái ý kiến tôi đưa ra, thì chắc chẳn bởi vì Người đã có nhiều ý kiến hay hơn để nghe theo. Tôi quá hiểu sự khôn ngoan của hoàng hậu và của những vị cố vấn của Lệnh bà nên không thể giả định rằng người ta sẽ để thành phố kinh đô chìm đắm lâu trong một sự rối loạn nó có thể trở thành một cuộc cách mạng.
Người phụ nữ Tây Ban Nha cắn đôi vành môi để dấu đi cơn giận dữ, rồi cười khẩy nói:
- Như vậy là theo ý ông cuộc nổi dậy ngày hôm qua, hôm nay đã trở thành một cuộc cách mạng phải không?
- Vâng, thưa Lệnh bà, - Chủ giáo trịnh trọng đáp.
- Này ông, nhưng nghe ông thì, các dân tộc có lẽ quên các máy hãm?
Gondy lắc đầu nói:
- Năm nay là năm xui đối với các vua chúa. Xin Lệnh bà hãy nhìn nước Anh.
- Phải, - Hoàng hậu đáp - Nhưng may thay ở nước Pháp không có Olivier Cromwell.
- Biết đâu đấy! - Gondy nói,
- Những con người kia tựa như sét, người ta chỉ biết đến họ khi nào họ giáng xuống.
Ai nấy rùng mình và có một lát im lặng.
Trong khi ấy hoàng hậu ấn hai bàn tay lên ngực. Rõ là bà đang nén những tiếng đập gấp gáp của trái tim mình.
- Porthos, - D Artagnan lẩm bẩm, - hãy nhìn kỹ vị linh mục kìa.
- Có, mình đã nhìn, - Porthos đáp. - Thế thì sao?
- Này, thật là một con người!
Porthos nhìn d Artagnan với vẻ ngạc nhiên; rõ ràng là anh hoàn toàn không hiểu bạn mình định nói gì
- Hoàng thượng sẽ dùng những biện pháp thích hợp, - Chủ giáo tiếp tục nói một cách tàn nhẫn, - Nhưng tôi dự đoán là những biện pháp ấy rất khủng khiếp và chỉ càng chọc tức thêm những kẻ ngang ngạnh.
- Thế thì ông chủ giáo ơi, - Hoàng hậu nói với vẻ châm biếm - Ông là bạn của chúng tôi và ông lại có rất nhiều thế lực đối với họ, ông sẽ trẩn an họ bằng cách ban phước lành cho họ.
- Như thế có lẽ sẽ quá muộn, - Gondy nói, vẫn lạnh như băng:
- Và có lẽ bản thân tôi sẽ mất hết mọi ảnh hưởng, còn Hoàng thượng bằng cách trả lại Broussel cho họ sẽ chặt đứt mọi cội rễ của cuộc phản loạn và dùng quyền trừng trị một cách tàn nhẫn mọi sự gia tăng bạo loạn.
- Thế tôi không có cái quyền đó sao? - Hoàng hậu kêu lên.
- Nếu Lệnh bà có thì xin cứ dùng, - Gondy đáp.
- Ghê thật! - D Artagnan bảo Porthos, - Đó là một tính cách mà tôi ưa thích. Sao ông ta chẳng là tể tướng và tôi chẳng là d Artagnan của ông ta nhỉ, mà lại là của cái lão Mazarin đê tiện ấy! A, mẹ kiếp! Chúng ta sẽ cùng chơi những đòn ra trò!
- Phải đấy, - Porthos đáp.
Hoàng hậu ra hiệu cho bãi triều trừ Mazarin.
Gondy cúi chào và toan rút lui như những người khác.
- Ông hãy ở lại, - hoàng hậu nói.
"Được, Gondy tự nhủ, - bà ta sẽ nhượng bộ".
- Bà ta sẽ cho giết ông ấy mất, - D Artagnan nói với Porthos, - nhưng dù sao cũng không bởi tay ta. Trái lại tôi xin thề trước Chúa rằng hẻ nào xông đến ông ta, tôi sẽ nhảy bổ vào họ.
- Tôi cũng vậy, - Porthos nói.
- Được! - Mazarin ngồi xuống ghế và lẩm bẩm, - ta sẽ thấy cái mới.
Hoàng hậu đưa mắt dõi theo những người đi ra. Khi người cuối cùng ra đã đóng cửa, bà quay đầu lại. Người ta thấy bà đã có những cố gắng không ngờ để chế ngự cơn tức giận của minh. Bà quạt, bà hít ở lư hương, bà đi đi lại lại. Gondy bắt đầu lo ngại đưa mắt thăm dò những tấm thảm phủ tường, sờ nắn tấm áo giáp ông mặc dưới lần áo dài và chốc chốc lại rờ tìm cái chuôi con dao găm Tây Ban Nha rất tốt mà ông giấu trong chiếc áo thày tu xem nó có tiện ở trong tầm tay mình không.
Cuối cùng hoàng hậu dừng chân và nói:
- Nào, bây giờ còn có riêng chúng ta, xin ông chủ giáo nhắc lại lời khuyên của ông.
- Đây, thưa Lệnh bà, - Gondy làm bộ suy nghĩ một chút - Công khai thừa nhận một điều sai lầm, đó là sức mạnh của những chính quyền mạnh, đưa Broussel ra khỏi nhà tù và trả lại cho dân chúng.
- Ôi! - Anne d Autriche kêu lên, - ta phải tự hạ mình như thế ư? Ta có phải là nữ hoàng hay không? Tất cả bọn đê tiện đang hò hét có phải là đám thần dân của ta hay không? Ta có những bạn bè và lính thị vệ hay không? A! Xin Thánh mẫu như nữ hoàng Catherine nói - Bà lên giọng và nói tiếp - Thà tự tay ta bóp cổ tên Broussel ti tiện ấy còn hơn trao hắn cho bọn chúng.
Và hai bàn tay quặp lại, bà xông đến Gondy mà lúc này bà căm ghét ít ra thì cũng bằng Broussel.
Gondy đứng im, không một thớ thịt nào trên khuôn mặt động dậy; song cái nhìn giá băng của ông như một lưỡi gươm chạm với cái nhìn điên giận của hoàng hậu.
- Một người chết này, - D Artagnan nói, - nếu như có một Vitry nào đó (3) trong triều và vào đây trong lúc này. Nhưng trước khi hắn tới được ông chủ giáo tử tế kia thì chính tôi, tôi sẽ giết tên Vitry chết tươi? Giáo chủ Mazarin hẳn sẽ vô cùng biết ơn tôi.
- Suỵt! Nghe nào! - Porthos nói.
- Này bà! - Mazarin kêu lên và nắm lấy tay Anne d Autriche kéo lại sau, - Bà làm cái gì thế?
Rồi ông nói thêm bằng tiếng Tây Ban Nha:
- Anne, bà điên đấy à? Bà là hoàng hậu mà gây ra ngay ở đây những cuộc cãi nhau như của bọn tư sản ấy! Và bà không trông thấy sao trước mặt bà, trong con người của vị tu sĩ này là cả dân chúng Paris lăng nhục ông ta trong lúc này là nguy hiểm; nếu ông ta muốn thì trong một giờ nữa bà sẽ không còn ngôi báu! Được rồi, ít lâu nữa trong một dịp khác bà sẽ đối chọi vững vàng và mạnh mẽ, nhưng hôm nay chưa phải lúc. Hôm nay bà hãy giả vờ, ve vuốt đi, nếu không thì bà chỉ là một người đàn bà tầm thường.
Nghe mấy tiếng mở đầu bài diễn văn, d Artagnan đã nắm lấy cánh tay Porthos và siết chặt dần dần, rồi khi Mazarin im lặng, anh nói rất khẽ với bạn:
- Porthos này, chớ có bao giờ nói trước mặt Mazarin rằng tôi biết tiếng Tây Ban nha, nếu không thì tôi sẽ đi đứt, cả cậu cũng vậy.
- Được rồi, - Porthos đáp.
Lời giáo huấn gay gắt ấy đượm vẻ hùng hồn đặc trưng cho Mazarin khi ông ta nói tiếng Ý hoặc Tây Ban Nha và biến mất hẳn khi ông nói tiếng Pháp được nói ra với một vẻ mặt thân nhiên khó thăm dò khiến Gondy vốn tài xem tướng thế mà cũng chỉ nghĩ rằng đó chỉ là một lời khuyên can đơn giản cần phải ôn hoà hơn mà thôi.
Về phía mình, hoàng hậu bị trách móc nặng lời bỗng nhiên dịu hẳn đi. Có thể nói rằng bà đã để rơi lửa khỏi mắt bà, máu khỏi má bà và cơn giận dữ dai dẳng khỏi cặp môi của bà. Bà ngồi phịch xuống, để rơi hai cánh tay rã rời xuống hai bên mình, bằng một giọng đầy nước mắt, bà nói:
- Ông chủ giáo, xin ông hãy tha thứ cho tôi, và gán sự dữ dằn kia cho điều mà tôi phải chịu đựng. Là đàn bà, và do đó dễ nệ theo những yếu đuối của giới mình, tôi kinh hãi nội chiến; là hoàng hậu và quen được phục tùng, tôi dễ nổi khùng trước những sự kháng cự đầu tiên.
- Thưa Lệnh bà, - Gondy nghiêng mình nói - Hoàng thượng lầm khi coi những ý kiến chân thành của tôi là kháng cự. Hoàng thượng chỉ có những bầy tôi phục tùng và cung kính. Không phải hoàng hậu là người mà dân chúng căm giận. Họ đòi Broussel, có thế thôi, và họ sung sướng được sống dưới những luật pháp của Hoàng thượng, nếu như Hoàng thượng trả Broussel cho họ, - Gondy mỉm cười nói thêm.
Vừa mới nghe câu: "Không phải hoàng hậu là người mà nhân dân căm giận, Mazarin đã vểnh cả hai tai lên, tưởng rằng chủ giao sẽ nói tiếp về những lời hô: "Đả đảo lão Mazarin! . Nhưng thấy đoạn ấy được bỏ đi, ông thầm cảm ơn chủ giáo. Rồi bằng giọng mượt mà nhất và vẻ mặt nhã nhặn nhất ông nói:
- Xin Lệnh bà hãy tin ở ông chủ giáo ông là một trong những chính khách tài giỏi nhất mà chúng ta có được. Chiếc mũ giáo chủ đang khuyết dường như dành cho cái đầu cao quý của ông.
"A! Mi cần đến ta thế ư, thằng ba que quỷ quyệt" - Gondy nhủ thầm.
Và lão ta sẽ hứa hẹn gì với chúng ta, - D Artagnan nói, - cái ngày mà người ta sẽ muốn giết lão? Ghê nhỉ? Lão ta ban phát những chiếc mũ giáo chủ như thế, thì Porthos ạ, chúng ta hãy chuẩn bị ngay ngày mai yêu cầu cho mỗi đứa chúng ta phụ trách một trung đoàn. Mẹ kiếp Chỉ cần cuộc nội chiến kéo dài một năm thôi, tôi sẽ cho mạ vàng lại cho tôi thanh gươm của nguyên suý!
- Thế còn tôi? - Porthos hỏi.
- Cậu ấy à? Tôi sẽ cho cậu cây gậy thống chế của ông de La Meilleraie, lúc này ông ta có vẻ không được sủng ái lắm.
- Như vậy, - Hoàng hậu nói, - Thực sự là ông sợ cuộc phản loạn dân chúng à?
- Thực sự chứ, thưa Lệnh bà, - Gondy nói, ngạc nhiên rằng mình đã không làm già hơn - Tôi sợ rằng khi cơn lũ đã phá vỡ đê, nó sẽ gây nên những cuộc tàn phá lớn.
- Còn tôi, - hoàng hậu nói, - Tôi cho rằng trong trường hợp ấy phải chống lại bằng những con đê mới.
- Nào, tôi sẽ suy nghĩ.
Gondy nhìn Mazarin với vẻ kinh ngạc. Mazarin đến gần hoàng hậu để nói. Vừa lúc ấy người ta nghe thấy tiếng ồn ào dữ dội trên quảng trường Hoàng cung.
Gondy mỉm cười, cái nhìn của hoàng hậu rực lửa, Mazarin tái xanh tái xám.
- Lại chuyện gì nữa? - Mazarin nói.
Lúc đó Comminger chạy xổ vào phòng khách và thưa:
- Xin Lệnh bà thứ lỗi, nhưng dân chúng đã nghiền nát lính canh vào rào sắt và lúc này đang phá các cổng. Lệnh bà ra lệnh thế nào ạ?
- Lệnh bà nghe xem, - Gondy nói. - Tiếng sóng gào, tiếng sét nổ, tiếng núi lửa gầm cũng không thể so sánh với trận bão tố của những tiếng la hét lúc này đang bốc lên tận trời.
- Ta ra lệnh thế nào ư? - Hoàng hậu nói.
- Vâng, gấp lắm rồi.
- Ông có khoảng bao nhiêu người ở Hoàng cung?
- Sáu trăm người.
- Cắt một trăm người ở bên vua, và với số còn lại hãy quét sạch bọn tiện dân ấy cho ta.
- Bà làm gì thế? - Mazarin nói.
- Đi đi! - Hoàng hậu bảo.
Comminger đi ra với sự phục tùng thụ động của người lính.
Vừa lúc ấy, một tiếng gãy kinh khủng vang lên, một chiếc cổng bắt đầu bật tung.
- Này bà! - Mazarin nói, - Bà làm nguy hại tất cả chúng ta rồi, nhà vua, bà và tôi nữa.
Nghe tiếng kêu của linh hồn đó của ông giáo chủ thất đảm hoàng hậu cũng hoảng sợ và gọi Comminger lại.
- Muộn quá rồi! - Mazarin vò đầu bứt tai nói, - Muộn quá rồi.
Cổng bật ra và người ta nghe đám tiện dân reo hò mừng rỡ.
D Artagnan cầm kiếm ra tay và ra hiệu cho Porthos làm theo.
- Hãy cứu lấy hoàng hậu? - Mazarin nói với ông chủ giáo.
Gondy lao ra phía cửa sổ và mở ra. Ông nhận thấy Louvières đi đầu một đám đông phải đến ba bốn nghìn người.
- Không được tiến thêm một bước nào nữa! - Ông kêu lên. - Hoàng hậu ký rồi.
- Ông nói gì thế? - Hoàng hậu kêu.
- Sự thật, thưa bà, - Mazarin vừa nói vừa đưa giấy bút ra - Cần phải như vậy. - Rồi ông nói thêm - Anne, hãy ký đi, tôi van bà tôi muốn thế!
Hoàng hậu ngồi phịch xuống ghế, cầm bút và ký.
Do Louvières ngăn dân chúng không tiến thêm một bước nào nữa, nhưng tiếng ồn ào khủng khiếp chỉ rõ sự phẫn nộ của quần chúng đông đảo vẫn tiếp tục.
Hoàng hậu viết:
"Người coi nhà tù Saint-Germain sẽ trả lai tự do cho cố vấn Broussel"
Rồi bà ký.
Mắt nhìn ngốn ngấu từng cử động nhỏ của bà, ông chủ giáo chộp lấy tờ giấy ngay khi nó vừa được ký xong, trở ra cửa sổ và cầm tờ giấy mà vẫy vẫy:
- Tờ lệnh đây, - Ông nói.
Dường như toàn thể Paris cùng reo hò ầm ĩ vì vui mừng; rồi vang lên những tiếng hô:
"Broussel muôn năm! Chủ giáo muôn năm!".
-" Hoàng hậu muôn năm!" - Ông chủ giáo hô.
Mấy tiếng hô đáp lại, nhưng lẻ tẻ rời rạc.
Phải chăng chủ giáo hô lên câu đó chỉ là để cho Anne d Autriche nhận thấy thế yếu của mình.
- Ông Gondy, - Bà nói, - bây giờ ông đã đạt được điều ông mong muốn thì mời ông đi đi.
- Khi nào hoàng hậu cần đến tôi, - chủ giáo cúi chào và nói, - Xin Hoàng thượng biết cho rằng tôi sẵn sàng chờ lệnh.
Hoàng hậu gật đầu và Gondy rút lui.
Cửa vừa mới đóng lại, Anne d Autriche đã giơ tay ra về phía ấy mà nói:
- A! Tên thầy tu đáng nguyền rủa kia! Sẽ có ngày ta cho mi uống nốt chén mật đắng mà mi đã chuốc cho ta hôm nay.
Mazarin chầm chậm tiến đến gần bà.
- Hãy để mặc tôi, - Bà nói - Ông không phải là một người đàn ông?
Và bà đi ra.
- Chính bà mới không phải một người đàn bà, - Mazarin lẩm bẩm.
Rồi sau một lát trầm ngâm, ông chợt nhớ ra rằng d Artagnan và Porthos chắc vẫn ở kia, do đó đã nghe thấy hết cả. Ông cau mày và đi thẳng đến chỗ che thảm và vén lên: căn phòng vắng tanh.
Khi nghe lời nói cuối cùng của hoàng hậu, d Artagnan đã nắm tay Porthos và kéo bạn đi ra phía hành lang.
Mazarin cũng ra hành lang và thấy đôi bạn đang đi dạo.
- Ông d Artagnan, tại sao ông rời căn phòng?
- Bởi vì, - D Artagnan đáp, - hoàng hậu đã ra lệnh cho tất cả mọi người đi ra, tôi nghĩ rằng lệnh ấy là cho chúng tôi cũng như cho những người khác.
- Như vậy là ông đã ra đây từ...
- Từ khoảng mười lăm phút d Artagnan vừa nói vừa nhìn Porthos và ra hiệu cho bạn đừng cải chính.
Mazarin bất chợt cái ra hiệu đó và tin chắc rằng d Artagnan đã trông thấy hết và nghe thấy hết, nhưng ông biết ơn anh về sự nói dối.
- Ông d Artagnan này, Quiả nhiên ông là người mà tôi tìm kiếm, và ông có thể trông cậy ở tôi cả bạn của ông nữa.
Rồi chào đôi bạn bằng nụ cười ưu nhã nhất, ông yên tâm hon trở vào văn phòng mình, vì sau khi Gondy ra, tiếng ồn ào đã ngừng bặt y như bởi phép mầu.
Chú thích:
(1) Trong bộ truyện trước, Séguier theo lệnh vua Louis XIII toan lục soát ngay trong mình hoàng hậu để tìm kiếm một bức thư khả nghi
(2) chơi chữ: "bienvenu" - đến vừa hay, được hoan nghênh, và "bien revenu" - quay trở về thật; hoàng hậu có ý châm biếm ông thống chế bại trận phải trở về.
(3) Vitry (1581-1644) đại uý thị vệ (sau làm thống chế) năm 1617 theo lệnh vua Louis XIII bắt giữ thống chế Concini, ông này kháng cự và bị Vitry giết chết
-*-*-*-
Chương 51
Khi hoạ thì dễ nhớ ra
Anne d Autriche điên giận trở về phòng cầu nguyện của mình. Bà vặn vẹo đôi cánh tay mỹ miều mà kêu lên:
- Sao! Dân chúng đã từng thấy ông de Condé đệ nhất thân vương, bị mẹ chồng của ta, Marie de Médicis bắt giữ: họ đã thấy mẹ chồng ta, nhiếp chính cũ của họ bị tể tướng Richelieu đuổi đi; họ cũng đã từng thấy ông de Vendôme tức là con trai vua Henri IV bị cầm tù ở Vincennes. Họ chẳng nói năng gì cả, trong khi người ta lăng nhục, người ta tống giam, người ta đe doạ những nhân vật lớn ấy! Thế mà chỉ vì một tên Broussel! Giê su ơi, cái vương quyền ra thế nào rồi đấy?
Anne vô tình dụng chạm đến vấn đề nóng bỏng. Dân chúng không nói năng gì cho các hoàng thân, dân chúng nổi dậy vì Broussel, chính vì đây là một người thuộc tầng lớp bình dân, và bảo vệ Broussel, dân chúng cảm thấy một cách tự nhiên rằng họ bảo vệ chính mình.
Trong lúc ấy, Mazarin đi dạo khắp trong văn phòng mình, chốc chốc lại nhìn sang chiếc gương Venise của ông bị rạn nứt hết.
- Chà! - Ông nói, - Ta biết lắm, buộc phải nhượng bộ như vậy thì thật dáng buồn. Nhưng, ơ hay, chúng ta sẽ phục thù, Broussel thì can hệ gì! Đó chỉ là một cái tên, không phải là một vật.
Là chính khách khôn ngoan đến mấy đi nữa, lần này Mazarin lầm rồi: Broussel là một vật, chứ không phải một cái tên.
Cho nên, buổi sáng hôn đó, khi Broussel vào Paris trong một cỗ xe lớn có con trai là Louvières ngồi bên và Friquet. đi theo xe, tất cả dân chúng mang vũ khí đổ xô ra trên đường ông đi qua. Những tiếng hô: "Broussel muôn năm! Cha của chúng ta muôn năm!" vang lên khắp nơi và mang cái chết đến cho lỗ tai Mazarin.
Từ mọi phía những tên do thám của tể tướng và hoàng hậu mang về những tin tức xấu, chúng thấy giáo chủ rất hoảng loạn và hoàng hậu rất bình tĩnh. Hoàng hậu có vẻ như đang suy nghĩ thật chín muồi một quyết định lớn lao, điều ấy càng tăng lên những nỗi lo ngại của Mazarin. Ông biết rõ bà hoàng kiêu ngạo và rất sợ những quyết định của bà.
Ông chủ giáo trở lại nghị viện còn vua hơn cả vua, hoàng hậu và giáo chủ ba người cộng lại. Theo ý kiến của ông, nghị viện ra một pháp lệnh yêu cầu những người tư sản hạ vũ khí và phá bỏ các luỹ chướng ngại; bây giờ thì họ biết rằng chỉ cần một giờ để cầm lại vũ khí và một đêm để dựng lại các luỹ chướng ngại.
Planchet trở về cửa hiệu của mình. Chiến thắng ân xá, Planchet không còn sợ bị treo cổ; anh tin chắc rằng nếu người ta chỉ lộ vẻ bắt giữ anh, thì dân chúng sẽ nổi dậy ủng hộ anh cũng như họ vừa mới làm để ủng hộ Broussel.
Rochefort đã trả lại đội khinh kỵ binh cho hiệp sĩ d Humières.
Thiếu mất hai người khi điểm danh, nhưng ông hiệp sĩ là Fronde trong tâm hồn chẳng muốn nghe nói đến bồi thường.
Gã ăn mày ở lại chỗ mình ở sân nhà thờ Saint Eustache , vẫn một tay dâng nước thánh một tay xin bố thí, và chẳng ai hồ nghi rằng hai bàn tay ấy vừa mới giúp kéo ra khỏi toà kiến trúc xã hội hòn đá nền tảng của vương quyền.
Louvières hãnh diện và hài lòng. Anh đã trả thù Mazarin mà anh khinh ghét và đã góp sức để đưa cha mình ra khỏi nhà tù; tên tuổi anh đã được nhắc đến với nỗi kinh hoàng ở Hoàng cung. Anh nói với ông cố vấn được trở về với gia đình:
- Cha ơi cha có tin rằng, nếu giờ đây con xin hoàng hậu một đại đội thì bà ấy sẽ cho con không?
Trong thời gian bạo động, Raoul nhất thiết đòi tuốt kiếm ra để tham gia vào phe này hoặc phe kia, d Artagnan phải vất vả lắm mới giữ chân Raoul ở nhà được. Lúc đầu Raoul không chịu, nhưng d Artagnan đã phải nhân danh bá tước de La Fère để bảo ban anh.
Nhân dịp tình hình đã yên tĩnh, d Artagnan cho Raoul đi. Raoul đến thăm bà de Chevreuse rồi lên đường trở lại quân đội.
Riêng Rochefort thấy công việc kết thúc quá kém. Ông đã viết thư mời quận công de Beaufort về, quận công sắp tới nơi và sẽ thấy Paris yên tĩnh.
Ông đến tìm chủ giáo để hỏi xem có nên bảo hoàng thân dừng lại trên đường không, nhưng Gondy ngẫm nghĩ một lát và nói:
- Cứ để ông ấy tiếp tục hành trình.
- Như vậy là công việc chưa xong ư? - Rochefort hỏi.
- Không đâu! Bá tước thân mến ơi, chúng ta chỉ mới ở chỗ bắt đầu.
- Ai làm cho ngài tin như vậy?
- Tôi biết rõ bụng dạ hoàng hậu: bà ta chẳng chịu thua đâu.
- Bà ta chuẩn bị một việc gì sao?
- Tôi chắc thế.
- Ngài biết chuyện gì, nào?
- Tôi biết rằng bà ra đã viết thư triệu ngài Hoàng thân từ quân đội trở về gấp.
- Á, à! - Rochefort nói, - Ngài nói đúng đấy, cần để ông de Beaufort đến.
Ngay buổi chiều tối hôm ấy, tiếng đồn lan ra là Hoàng thân de Condé đã về tới Paris.
Đó là một tin tức thật bình thường và tự nhiên song nó có một âm vang rộng rãi. Người ta nói rằng hở chuyện này ra là do bà de Longueville, bà được ngài Hoàng thân tâm sự, mà thiên hạ thì buộc tội Hoàng thân đã có một sự luyến ái đối với em gái vượt quá giới hạn của tình anh em.
Những chuyện tâm sự đó tiết lộ những dự định nham hiểm của hoàng nậu.
Ngay buổi chiều hôm Hoàng thân về, những người tư sản tiến bộ hơn những kẻ khác, những thẩm phán, những thủ lĩnh các khu phố đến những chỗ quen biết và nói:
- Tại sao chúng ta đã không đoạt lấy nhà vua và đưa đến Toà Thị sảnh? Thật là một sai lầm để cho kẻ thù của chúng ta dạy dỗ vua, bảo ban vua những điều xấu. Nếu như được ông chủ giáo chẳng hạn trông nom thì vua sẽ hấp thụ được những nguyên lý quốc dân và sẽe yêu mến nhân dân.
Ban đêm náo động một cách âm thẩm. Ngày hôm sau người ta lại trông thấy những tấm áo choàng xám và đen, những đội tuần tra thương nhân mang vũ khí và những toán ăn mày.
Hoàng hậu đã thức suốt đêm để bàn bạc với Hoàng thân. Nửa đêm Hoàng thân được dẫn đến phòng nguyện của hoàng hậu và tới năm giờ sáng ông mới ra về.
Năm giờ hoàng hậu đến văn phòng tể tướng. Nếu như bà chưa được đi nằm thì giáo chủ cũng đã dậy rồi.
Ông đang thảo bức thư trả lời Cromwell. Ông hẹn với Mordaunt mười ngày thì sáu ngày đã qua rồi.
Chà! Ta để hắn phải chờ một chút, nhưng ông Cromwell hiểu quá đi, cách mạng là thế nào, nên không thể không thứ lỗi cho ta.
Ông bèn đọc lại với vẻ thoả mãn đoạn đầu bức thư biện hộ của mình thì nghe có tiếng cào nhè nhẹ vào cánh cửa thông sang những căn phòng của hoàng hậu. Chỉ một mình hoàng hậu có thể đến bằng cửa ấy.
Giáo chủ đứng lên và ra mở.
Hoàng hậu mặc xuềnh xoàng, nhưng cái xuềnh xoàng ấy càng hợp với bà, vì rằng cũng như nữ thần Dian ở viện bảo tàng Poitiers hoặc ở phòng khách bà Ninon, Anne d Autriche giữ cái độc quyền là lúc nào cũng xinh đẹp. Song buổi sớm hôm ấy bà còn đẹp hơn thường lệ bởi vì cặp mắt bà có tất cả cái long lanh mà một nỗi vui mừng bên trong tạo nên.
- Có việc gì đấy bà, - Mazarin lo ngại nói, - Trông bà có vẻ đắc ý lắm?
- Đúng, Giulio ạ, - bà đáp - đắc ý và vui sướng, vì rằng tôi đã tìm ra kẻ bóp chết cuộc bạo loạn này.
- Bà hoàng của tôi ơi, - Mazarin nói, - bà là một chính khách lớn nào xem kế sách ra sao.
Và ông giấu điều mà ông viết bằng cách nhét lá thư mới bắt đầu xuống dưới tờ giấy trắng.
- Chúng muốn bắt nhà vua, ông biết chứ? - Hoàng hậu nói.
- Chao ôi! Biết! Và còn muốn treo cổ tôi nữa!
- Chúng sẽ không có vua.
- Và chúng sẽ không treo cổ tôi.
- Ông nghe đây: tôi muốn cướp đi họ của con trai tôi và bản thân tôi và ông cùng với tôi, tôi muốn rằng sự kiện này, từ hôm nay đến ngày kia sẽ thay đổi bộ mặt của mọi thứ cần được thực hiện mà không ai biết, ngoài ông, tôi và một người thử ba.
- Người thứ ba ấy là ai?
- Ông Hoàng thân.
- Ông ta đã về như người ta nói với tôi phải không?
- Về tối hôm qua.
- Bà đã gặp rồi chứ?
- Tôi vừa mới chia tay ông ấy.
- Ông ấy giúp sức vào kế hoạch này à?
- Chính ông ta đề ra ý kiến.
- Thế còn Paris?
- Ông ta sẽ để cho bị đói và buộc phải đầu hàng không điều kiện.
- Kế hoạch không thiếu vẻ vĩ đại, nhưng tôi chỉ thấy có một trở ngại.
- Trở ngại gì?
- Sự không thể được.
- Lời nói vô nghĩa. Không có gì là không thể được.
- Trên kế hoạch.
- Trong thực hiện. Chúng ta có tiền không?
- Ít thôi - Mazarin đáp, sợ Anne d Autriche đòi moi tiền trong túi ông ta.
- Chúng ta có tinh thần can đảm không?
- Rất nhiều.
- Vậy thì dễ lắm. Ô! Giulio, ông có hiểu không? Paris, cái thành phố Paris ghê tởm ấy một buổi sáng thức dậy không có hoàng hậu không có vua, bị bao vây, bị quấy nhiễu bị bỏ đói, tất cả phương sách chỉ còn trông vào cái nghị viện ngu đần và ông chủ giáo còm nhom với đôi chân vặn vẹo của họ!
- Hay, hay! - Mazarin nói. - Tôi hiểu rõ hiệu quả, nhưng tôi không trông thấy phương tiện để đạt tới.
- Tôi thì tôi sẽ tìm thấy đấy.
- Bà nên biết rằng đây là chiến tranh, là cuộc nội chiến bừng bừng, kịch liệt, không nguôi.
- Ồ! Phải đấy, phải đấy, chiến tranh, - Anne d Autriche nói - Phải đấy, tôi muốn biến cái thành phố phiến loạn này thành tro bụi; tôi muốn dập tắt ngọn lửa trong máu; tôi muốn rằng một tấm gương kinh khủng sẽ nếu mãi mãi tội ác và trừng phạt. Hỡi Paris! Ta căm thù mi, ta ghê tơm mi!
- Khoan, khoan, Anne, bà khát máu đấy! Hãy coi chừng, chúng ta không còn ở thời đại những Malatesta và những Castruccio Castracani(1); bà sẽ tự làm cho bà bị chặt đầu, bà hoàng xinh đẹp của tôi ạ, và như thế thì uổng lắm.
- Ông cười tôi đây à?
- Tôi rất ít cười. Chiến tranh với cả một dân tộc thì thật là nguy hiểm. Bà hãy trông Charles đệ nhất em rể của bà đấy, tình hình ông ấy xấu lắm, rất xấu.
- Chúng ta đang ở nước Pháp, và tôi là người Tây Ban Nha.
- Không cần, per Baccho, không cần, có lẽ tôi thích bà là người Pháp thì hơn, cả tôi cũng vậy; người ta sẽ thù ghét cả hai ta ít hơn.
- Song ông tán thành tôi chứ?
- Vâng, nếu tôi thấy điều ấy có thể làm được.
- Nó sẽ làm được, chính tôi nói với ông thế. Ông hãy sửa soạn.
- Tôi ấy à? Lúc nào tôi cũng sẵn sàng ra đi, song, như bà biết đấy, tôi chẳng ra đi bao giờ... và lần này chắc là cũng không hơn những lần khác.
- Cuối cùng, nếu tôi đi thì ông có đi không?
- Tôi sẽ thử xem.
- Ông làm tôi đến chết về những sự sợ hãi của ông đấy Giulio ạ, mà ông sợ cái gì kia chứ?
- Sợ nhiều điều lắm.
- Những điều gì nào?
Bộ mặt Mazarin từ giễu cợt trở thành u ám.
- Anne, - Ông nói, - Bà chỉ là một người đàn bà, và là đàn bà bà có thể tùy tiện lăng nhục đàn ông vì chắc chắn là mình được miễn tội. Bà cáo buộc tôi là sợ hãi; tôi không sợ hãi nhiều như bà đâu, bởi vì tôi tôi không bỏ trốn. Người ta hò la chống ai? Chống bà hay chống tôi? Người ta muốn treo cổ ai? Bà hay tôi? Vậy mà tôi đương đầu với bão tố, trong khi bà cáo buộc tôi là sợ hãi; chẳng phải anh hùng rơm đâu, đó không phải là thói của tôi, nhưng tôi vững vàng. Hãy bắt chước tôi, om sòm ít thôi, hiệu quả nhiều hơn. Bà la hốt hoảng lên, bà chẳng đạt tới đâu. Bà bàn đến chuyện trốn...
Mazarin nhún vai, cầm tay hoàng hậu và dắt bà ra cửa sổ:
- Hãy nhìn xem!
- Gì nào? - Hoàng hậu nói, mù quáng vì sự bướng bỉnh của mình.
- Kia kìa! Qua cửa sổ bà nhìn thấy gì nào? Nếu tôi không lầm thì đó là dân tư sản mặc áo giáp đội mũ sắt trang bị súng trường tốt như thời Liên minh thần thánh; họ đang nhìn chằm chằm lên cửa sổ bà đang đứng và bà có thể bị nom thấy nếu bà vén rèm lên quá cao.
Bây giờ ta ra cửa sổ kia; bà trông thấy gì nữa? Những đám dân chúng mang giáo mác canh gác các cổng ngõ của bà. Ở bất cứ cửa nào của Hoàng cung mà tôi dẫn bà ra, bà đều thấy như thế cả. Các cổng lớn bị canh gác, các cửa thông gió và các căn hầm cũng bị canh gác, và đến lượt tôi sẽ nói với bà cái điều mà La Ramée nói với tôi về ông De Beaufort: trừ phi là chim hay là chuột, ông sẽ không ra khỏi nơi đây.
- Vậy mà ông ta vẫn ra đấy.
- Bà có tính nước ra cũng bằng cách ấy không.
- Thế tôi là tù nhân đấy à?
- Trời ơi! - Mazarin nói, - Có đến một tiếng đồng hồ tôi chứng minh với bà điều đó rồi.
Và Mazarin điềm nhiên lấy ra viết tiếp bức thư đang viết dở.
Anne tức run người lên, đỏ bừng mặt vì hổ nhục, đi ra khỏi văn phòng và dập cửa đánh rầm một cái.
Mazarin chẳng buồn quay đầu lại.
Trở về phòng mình, hoàng hậu buông mình xuống chiếc ghế bành và khóc nức nở.
Rồi bỗng nhiên một ý nghĩ đến bất thình lình khiến bà bật dậy và reo lên:
- Ta thoát rồi! Ô, phải, rồi, phải rồi, ta biết một người có thể đưa ta ra khỏi Paris người ấy, một người mà ta đã quên lãng quá lâu.
Và mặc dầu với nỗi vui mừng, bà mơ màng nói:
"Ta mới bội bạc làm sao, có đến hai mươi năm trời ta bỏ quên người ấy, người mà lẽ ra ta phải phong làm một thống chế Pháp quốc. Bà mẹ chồng ta đã vung vãi vàng bạc, chức phẩm và những vuốt ve cho Concini, ông ta đã làm hại bà; ông vua chồng ta vì một cuộc ám sát đã phong Vitry làm thống chế Pháp quốc. Còn ta, ta đã bỏ mặc trong quên lãng, trong cảnh khốn cùng cái anh chàng d Artagnan cao quý đã từng cứu ta.
Và bà chạy ra chiếc bàn để giấy, bút, mực và ngồi viết.
Chú thích:
(1) Những Castruccio Castracani nổi tiếng ở Ý xưa kia, tức là những thủ lĩnh quân du kích hoặc lính đánh thuê, xưng hùng xưng bá một vừng. Trong số đó có những vua chúa thất thế.
-*-*-*-
Chương 52
Cuộc hội kiến
Sáng hôm ấy, d Artagnan nằm trong phòng Porthos. Đó là một thói quen của đôi bạn từ khi có những cuộc rối loạn. Dưới chân giường họ để gươm kiếm và trên bàn trong tầm tay để súng ngắn.
D Artagnan vẫn còn ngủ và mơ thấy trời phủ một đám mây, từ đám mây ấy rơi xuống một trận mưa vàng và anh giơ mũ ra hứng dưới một ống máng, Porthos thì mơ thấy cái tấm bảng ở cỗ xe của mình không đủ rộng để chứa hết những gia huy mà anh cho tô vẽ vào đấy.
Các anh thức giấc vào lúc bảy giờ do một thằng hầu không vận áo dấu mang một bức thư đến cho d Artagnan.
- Thư của ai đấy? - Chàng Gascon hỏi.
- Của hoàng hậu, - Tên hầu đáp.
- Sao! - Porthos ngồi dậy ở trên giường nói - Nó bảo gì vậy?
D Artagnan bảo thằng hầu sang buồng bên cạnh và khi nó khép cửa lại, anh nhẩy ra khỏi giường và lướt đọc rất nhanh, trong khi Porthos cứ giương mắt ếch ra mà nhìn, mà không dám hỏi câu nào.
- Này bạn Porthos - D Artagnan đưa thư ra và nói, - Lần này thì đây là danh hiệu Nam tước của cậu và tờ phong đại uý của tôi. Cầm lấy đọc đi và xét đoán.
Porthos giơ tay đón bức thư và run run đọc dòng chữ:
"Hoàng hậu muốn nói chuyện với ông d Artagnan. Ông hãy đi theo người đưa thư!"
- Ơ này! - Porthos nói, - Mình thấy đây chỉ là chuyện bình thường.
- Mình thì lại thấy nhiều chuyện đặc biệt, - D Artagnan nói.
Nếu người ta gọi đến tôi, tức là công việc rối rắm lắm. Cậu thử nghĩ xem trong đầu óc hoàng hậu phải xáo động thế nào thì kỷ ức về tôi sau hai chục năm trời nó mới nổi lên trên mặt nước chứ?
- Đúng đấy, - Porthos nói.
- Nam tước, hãy mài sắc gươm, nạp đạn vào súng, đem lúa mạch cho ngựa ăn, tôi xin cam đoan rằng trước ngày mai sẽ có chuyện mới lạ và motus!(1)
- Ái chà? Thế không phải là một cái bẫy người ta giăng ra để gạt bỏ chúng ta hay sao? - Porthos nói, anh vẫn băn khoăn rằng vinh quang sau này của anh ắt gây ra sự khó chịu cho kẻ khác.
- Nếu là một cái bẫy thì tôi sẽ ngửi thấy ngay, hãy yên trí, - D Artagnan nói. - Nếu Mazarin là người Ý thì tôi cũng là Gascon cơ mà.
Và d Artagnan loáng một cái đã mặc xong quần áo.
Porthos vẫn nằm và đang cài áo choàng cho bạn thì có tiếng gõ cửa lần nữa.
- Cứ vào! - D Artagnan bảo.
Một tên hầu thứ hai vào.
- Giáo chủ Mazarin sai tôi mang thư đến, hắn nói.
D Artagnan nhìn Porthos.
- Phiền phức rồi đấy, - Porthos nói, - Bắt đầu từ đâu bây giờ?
- Tuyệt diệu thật, - D Artagnan nói, - Đức ông hẹn gặp tôi sau nửa giờ.
- Anh bạn này, - D Artagnan quay sang nói với tên hầu, - Hãy trình Đức ông rằng nửa giờ nữa tôi sẽ có mặt.
Tên hầu chào và đi ra.
- Cũng may là nó không trông thấy tên hầu kia, - D Artagnan nói.
- Cậu cho rằng cả hai người cho đi tìm cậu vì cùng một việc ư? - Porthos hỏi.
- Tôi chắc chắn là không phải như vậy.
- Thôi, thôi, nhanh nhẹn lên, d Artagnan. Nhớ rằng hoàng hậu đang đợi cậu; sau hoàng hậu là giáo chủ, và sau giáo chủ là tôi.
Tên hầu dẫn anh đi qua phố Petits-Champs, và rẽ sang trái đưa anh vào một cái cổng nhỏ trông ra phố Richelieu. Rồi họ đi lên một cái cầu thang kín và d Artagnan được đưa vào trong phòng nguyện.
Một niềm xúc động bất giác khiến trống ngực viên trung uý đập rộn rã. Anh không còn lòng tin cậy của tuổi trẻ nữa, và kinh nghiệm đã dạy cho anh tất cả tầm nghiêm trọng của những biến cố đã qua.
Anh đã biết thế nào là sự quý phái của các ông hoàng và vẻ uy nghiêm của các vua chúa. Anh đã quen xếp sự tầm thường của mình sau những kẻ giàu sang và danh gia thế phiệt. Xưa kia anh tiếp cận Anne d Autriche với tư cách một chàng trai trẻ chào đón một người đàn bà. Giờ đây thì khác hẳn: anh đến với bà ta như một người lính tầm thường đến với một vị thủ lĩnh lẫy lừng.
Một tiếng nhè nhẹ khuấy động sự yên tĩnh của phòng nguyện.
D Artagnan rùng mình và trông thấy một bàn tay trắng muốt vén tấm thảm lên. Nhìn hình dạng thanh tú, màu trắng nuột nà và vẻ đẹp mỹ miều, anh nhận ra bàn tay vương giả kia mà có lần người ta đưa anh hôn.
Hoàng hậu đi vào.
- Ông đấy à, ông d Artagnan, - Bà nói và nhìn viên sĩ quan bằng cặp mắt chứa chan nỗi u hoài thương mến. - Đúng là ông, và tôi nhận ra ngay. Ông hãy nhìn lại tôi đi, tôi là hoàng hậu, ông có nhận ra tôi không?
- Không ạ, Thưa Lệnh bà, - D Artagnan đáp.
Bằng cái giọng ngọt ngào mà bà biết lồng vào tiếng nói của mình khi bà muốn, Anne d Autriche nói tiếp:
- Thế ra ông không còn biết rằng hồi xưa hoàng hậu đã cần đến một dũng sĩ trẻ dũng cảm và tận tụy và bà đã tìm được người kỵ sĩ ấy và mặc dầu ông ta có thể tưởng rằng bà đã quên ông ta, bà vẫn dành một chỗ cho ông ta trong đáy lòng mình.
- Không, Thưa Lệnh bà, tôi không biết chuyện ấy, - Người lính ngự lâm đáp.
- Không sao cả ông ạ, - Anne d Autriche nói, - Không sao, ít ra là đối với hoàng hậu, vì rằng bà hoàng hậu ấy hôm nay cần đến vẫn lòng dũng cảm ấy, vẫn lòng tận tụy ấy.
- Sao thế nhỉ? - D Artagnan nói, - Xung quanh hoàng hậu đầy những bộ hạ thật tận tụy, những cố vấn thật khôn ngoan, những con người thật vĩ đại do công tích hoặc địa vị của họ, vậy mà hoàng hậu lại hạ cố để mắt đến một người lính vô danh ư?
Anne hiểu rõ lòng trách móc được che đậy ấy, bà cảm động hơn là tức giận. Biết bao đức hy sinh và vô tư của người quý tộc Gascon đã bao phen khiến bà hổ thẹn, bà sẵn sàng chịu thua vì tinh thần cao thượng.
- Ông d Artagnan này, - Hoàng hậu nói:
- Tất cả những điều ông nói về những người bao quanh tôi có lẽ đúng đấy; nhưng tôi chỉ tin cậy có một mình ông thôi. Tôi biết ông là của giáo chủ, nhưng hãy là của tôi nữa, tôi sẽ đảm nhận vận hạnh của ông. Nào, giờ đây liệu ông có làm cho tôi cái mà hồi xưa người quý tộc kia mà ông không biết ấy đã làm cho hoàng hậu không?
- Tôi sẽ làm mọi điều mà Hoàng thượng ra lệnh, - D Artagnan nói.
Hoàng hậu ngẫm nghĩ một lát, và nhìn thấy thái độ dè đặt của người lính ngự lâm, bà nói:
- Có lẽ ông thích sự nghỉ ngơi phải không?
- Tôi không biết nữa, thưa Lệnh bà, vì tôi có được nghỉ ngơi bao giờ đâu.
- Ông có bạn bè không?
- Tôi có ba người bạn: hai người đã rời Paris không biết đi đâu. Còn mỗi một người còn lại, nhưng tôi chắc rằng đó là một trong số những kẻ biết người kỵ sĩ mà Hoàng thượng đã nói với tôi.
- Tốt lắm. - Hoàng hậu nói:
- Ông và bạn của ông giá trị bằng một đội quân.
- Thưa Lênh bà, tôi phải làm gì?
- Năm giờ ông trở lại đây và tôi sẽ nói ông biết; nhưng này chớ có nói với bất kỳ ai về cuộc gặp gỡ mà tôi hẹn với ông!
- Không đâu, thưa Lệnh bà!
- Thề trước Chúa Jesus đi.
- Thưa Lệnh bà, tôi không bao giờ sai lời hứa. Tôi đã nói không là không.
Mặc dầu ngạc nhiên về thứ ngôn ngữ ấy mà bà không quen nghe từ miệng các cận thần của mình, hoàng hậu coi đó một điểm tốt cho nhiệt tình mà d Artagnan đem ra phục vụ bà trong việc hoàn thành kế hoạch của bà. Đó là một trong những thủ đoạn của chàng Gascogne đôi khi nhằm che đậy sự tinh tế sâu xa của mình dưới cái bề ngoài có vẻ là một sự cục cằn trung thực.
- Lúc này hoàng hậu không có điều gì khác phán bảo tôi chứ? - anh nói.
- Không, ông ạ - Anne d Autriche đáp, - Ông có thể lui cho đến lúc mà tôi đã hẹn.
D Artagnan chào và đi ra. Vừa ra khỏi cửa, anh nói:
- Quái nhỉ! Hình như ở đây người ta rất cần đến mình.
Rồi vì nửa giờ đã trôi qua anh đi theo dãy hành lang và đến gõ cửa văn phòng tể tướng.
Bernouin đưa anh vào.
- Thưa Đức ông, tôi đến theo lệnh ngài, - Anh nói.
Và theo thói quen anh đưa mắt lướt nhanh chung quanh mình và nhận thấy trước mặt Mazarin có một bức thư niêm phong. Song nó lại được đặt mặt có chữ xuống bàn thành thử không thể nào xem được gửi cho ai.
Mazarin chằm chằm nhìn d Artagnan và nói:
- Ông vừa ở chỗ hoàng hậu ra, phải, không?
- Tôi ấy à, thưa Đức ông! - Ai bảo ngài như vậy?
- Chẳng ai bảo, nhưng tôi biết.
- Tôi rất lấy làm thất vọng thưa với Đức ông rằng ngài lầm, - Chàng Gascon trả lời một cách nghênh ngang, ỷ vào điều mình vừa mới hứa với Anne d Autriche.
Tự tôi mở cửa tiền sảnh và trông thấy ông ở đầu hành lang ấy là vì tôi được đưa vào lối cầu thang kín.
- Sao thế?
- Tôi không biết; có lẽ có sự hiểu lầm.
Mazarin biết rằng không phải dễ dàng bắt d Artagnan nói ra điều anh muốn giấu; cho nên lúc này ông thôi không muốn khám phá điều chàng Gascon giữ bí mật với ông.
- Thôi, ta hãy bàn việc của tôi vậy, bởi vì ông không muốn nói với tôi về việc của ông.
D Artagnan nghiêng mình.
- Ông có thích những chuyện viễn du không? - giáo chủ hỏi.
- Cuộc đời của tôi đã trải qua trên những nẻo dường lớn.
- Có điều gì giữ ông ở lại Paris không?
- Chẳng có điều gì giữ tôi lại Paris ngoài một mệnh lệnh của bề trên.
- Tốt. Đây là một bức thư cần phải đưa tới địa chỉ của nó.
- Tới địa chỉ của nó, thưa Đức ông? Nhưng làm gì có địa chỉ.
- Quã thật mặt trước của phong bì chẳng đề chữ gì cả.
- Nghĩa là, - Mazarin nói, - Có hai lớp phong bì.
- Tôi hiểu rồi, tức là đến một nơi đã định nào đó, tôi mới được xé phong bì ngoài.
- Đúng thế? Hãy cầm lấy và mang đi. Ông có người bạn, ông Du Vallon mà tôi rất mến, ông hãy để ông ta đi cùng.
"Thôi rồi! - D Artagnan tự nhủ, - lão ta biết rằng bọn mình đã nghe được câu chuyện hôm qua, nên muốn đẩy bọn mình đi khỏi Paris".
- Ông lưỡng lự à? - Mazarin hỏi.
- Không, thưa Đức ông, tôi đi ngay lập tức. Song le tôi mong muốn một điều.
- Điều gì? Nói đi.
- Xin Đức ông qua chỗ hoàng hậu.
- Khi nào?
- Ngay bây giờ.
- Để làm gì cơ?
- Để nói với Lệnh bà một câu này thôi: "Tôi phái ông d Artagnan đi có việc, và tôi bảo ông ta đi ngay lập tức".
- Đấy nhé, - Mazarin nói, - rành rành là ông đã gặp hoàng hậu.
- Tôi đã thưa với Đức ông rằng có thể có một sự hiểu lầm.
- Thế là thế nào, - Mazarin hỏi.
- Tôi có dám nhắc lại với Đức ông lời thỉnh cầu của tôi không ạ?
- Được rồi, tôi đến đó bây giờ. Hãy đợi tôi ở đây.
Mazarin cẩn thận nhìn xem có cái chìa khoá nào bỏ quên ở các tủ không, và đi ra.
Mười phút trôi đi, trong khi ấy d Artagnan cố sức đọc qua lớp phong bì ngoài xem viết gì ở phong bì trong, nhưng không thể được.
Mazarin trở lại, mặt tái đi và có vẻ bận tâm lắm. Ông ngồi vào bàn giấy. D Artagnan chăm chú xem xét ông ta như vừa mới xem xét phong thư; nhưng lớp bì mặt của ông ta cũng không thể xuyên thấu được như lớp bì của bức thư.
"Ê, ê, - Chàng Gascon nhủ thầm, lão ấy có vẻ tức giận. Với ta chăng? Lão ngẫm nghĩ, tống ta vào ngục Bastille chăng? Khoan khoan, Đức ông! Câu đầu tiên mà ngài nói ra điều ấy thì tôi bóp cổ ngài ngay và tôi đi làm Fronde. Người ta sẽ hoan nghênh ca tụng tôi như ông Broussel và Arthos sẽ phong tôi là Brutus của nước Pháp(2). Thế thì cũng kỳ đấy nhỉ?"
Chàng Gascogne với trí tưởng tượng luôn luôn phi nước đại, đã nhìn thấy tất cả sự quyết định có thể rút ra từ tình huống ấy.
Nhưng Mazarin chẳng hề ban một mệnh lệnh nào thuộc loại đó và trái lại còn mơn trớn d Artagnan. Ông nói:
- Ông d Artagnan thân mến của tôi ơi, ông nói phải đấy, và ông chưa thể đi ngay được.
- A! - D Artagnan kêu lên.
- Tôi xin ông hãy trả lại tôi bức thư kia.
D Artagnan tuân theo. Mazarin yên tâm rằng dấu niêm phong vẫn nguyên vẹn. Ông nói:
- Chiều nay tôi sẽ cần đến ông, hai giờ nữa ông sẽ trở lại đây.
- Thưa Đức ông, - D Artagnan đáp, - Hai giờ nữa tôi có một cuộc hẹn không thể vắng mặt được.
- Ông đừng ngại điều đó, - Mazarin nói, - Vẫn cùng một việc ấy mà.
- Được, d Artagnan nghĩ, - Ta nghi ngờ.
- Vậy ông hãy đến đây vào năm giờ và đưa cả ông Du Vallon thân mến ấy đến nhé, tuy nhiên, cứ để ông ta ở tiền sảnh; tôi muốn nói chuyện riêng với ông.
D Artagnan nghiêng mình. Vừa nghiêng mình anh ta vừa tự nhủ:
"Cả hai người cùng một mệnh lệnh, cả hai người cùng một giờ hẹn, cả hai người cùng ở Hoàng cung; ta đoán xem. A! Đây là một bí mật mà ông de Gondy có thể trả giá một trăm nghìn livres".
- Ông suy nghĩ à? - Mazarin lo ngại nói.
- Vâng, tôi tự hỏi xem có cần phải mang vũ khí hay không?
- Phải vũ trang đến tận răng, - Mazarin nói.
- Được rồi, thưa Đức ông, chúng tôi sẽ làm thế.
D Artagnan chào, đi ra và chạy về nhà kể lại với bạn mình những lời hứa hẹn phỉnh phờ của Mazarin, nó mang đến cho Porthos một niềm hân hoan không thể tưởng tượng được.
Chú thích:
(1) Tiếng la tinh: im lặng, giữ kín
(2) Brutus (thế kỷ I trước Công nguyên): Chính khách La Mã cùng với Catxiuyx âm mưu chống lại Xêda và đã giết chết Xêda ngay trong cuộc họp Nghị viện. Về sau thua trận, Brutus tự sát.
-*-*-*-
Chương 53
Chạy trốn
Mặc dầu những dấu hiệu náo động của thành phố, khoảng năm giờ chiều khi d Artagnan đến, Hoàng cung vẫn phô bày một quang cảnh vào loại thú vị nhất.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên: hoàng hậu thực sự chẳng phải sợ hãi điều gì, vì dân chúng chẳng còn gì để yêu cầu cả. Vẻ xôn xao của họ chỉ là sự rơi rớt của cuộc náo loạn cần có thời gian để yên đi, giống như sau một trận bão phải nhiều ngày sau mới lặng sóng.
Có một bữa tiệc lớn mà duyên cớ là sự trở về của người thắng trận ở Lens. Các ông hoàng, bà chúa được mới dự, xe cộ ngổn ngang các sân từ buổi trưa. Sau bữa ăn có chơi bài ở chỗ hoàng hậu.
Anne d Autriche hôm ấy thật tuyệt vời, đầy vẻ duyên dáng và trí tuệ. Chưa bao giờ người ta thấy bà ta hớn hở đến thế. Lòng phục thù ra hoa long lanh trong cặp mắt và làm hé nở đôi môi bà.
Lúc mọi người ăn xong, Mazarin lánh đi, d Artagnan đã đến vị trí của mình và đợi ông ở tiền sảnh. Giáo chủ xuất hiện, vẻ tươi cười, cầm tay anh dẫn vào văn phòng mình. Ông ngồi xuống và nói:
- Ông d Artagnan thân mến ơi, tôi sẽ trao cho ông cái dấu hiệu lớn nhất của lòng tin cậy mà một tể tướng có thể trao cho một sĩ quan.
D Artagnan nghiêng mình và nói:
- Tôi hy vọng rằng Đức ông trao cho tôi điều đó mà không có ẩn ý và với sự tin tưởng rằng tôi xứng đáng với nó.
- Người xứng đáng nhất trong tất cả mọi người ông bạn thân mến của tôi ạ, bởi vì chính là với ông mà tôi ngỏ lời.
- Vậy thì, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - tôi xin thú nhận rằng tôi chờ đợi một cơ hội như thế từ lâu rồi. Vậy xin ngài nói nhanh lên điều mà ngài cần nói với tôi.
- Ông d Artagnan thân mến ạ, - Mazarin nói tiếp, - chiều nay ông sẽ mang ở trong tay mình sự nghiệp cứu quốc. - Ông dừng lại.
- Xin Đức ông cắt nghĩa xem, tôi chờ đợi.
- Hoàng hậu đã quyết định một chuyến đi nho nhỏ cùng với vua đến Saint-Germain.
- Á à! - D Artagnan nói, - Nghĩa là hoàng hậu muốn rời Paris.
- Ông hiểu đấy, tính ngẫu hứng của đàn bà mà.
- Vâng, tôi hiểu rất rõ, - D Artagnan đáp.
- Chính vì thế mà sáng nay, hoàng hậu đã cho gọi ông đến và báo ông trở lại vào năm giờ.
D Artagnan lẩm bẩm: "Thế mà cũng mất công bắt mình thề rằng không được lộ ra với bất kỳ ai về cuộc gặp gỡ đó. Ôi! Đàn bà! Dù có là hoàng hậu chăng nữa, họ vẫn cứ là đàn bà!"
- Ông không tán thành cuộc đi chơi nho nhỏ ấy à, ông d Artagnan thân mến? - Mazarin hỏi với vẻ lo lắng:
- Tôi ấy à, thưa Đức ông? Sao lại thế?
- Ấy là vì thấy ông nhún vai.
- Thưa Đức ông, đó là cách tôi tự nói với mình.
- Như vậy là ông tán thành chuyến đi ấy?
- Thưa Đức ông, tán thành hay không tán thành, đối với tôi. không hơn không kém. Tôi chờ đợi mệnh lệnh của ngài.
- Tốt! Vậy chính ông là người mà tôi yên tâm để đưa đức vua và hoàng hậu đến Saint-Germain.
"Xảo trá gấp đôi! - D Artagnan tự nhủ".
Nhìn thấy vẻ lãnh đạm của d Artagnan, Mazarin lại nói:
- Ông thấy rõ ràng như tôi nói với ông, việc cứu quốc dựa vào bàn tay ông.
- Vâng, thưa Đức ông, tôi cảm nhận thấy tất cả trách nhiệm của một nhiệm vụ như vậy.
- Tuy nhiên ông chấp nhận chứ?
- Tôi vẫn chấp nhận.
- Ông cho rằng việc đó có thể làm được chứ?
- Mọi việc đều có thể làm được.
- Liệu ông có bị tấn công ở dọc đường không?
- Có khả năng lắm.
- Trong trường hợp ấy, ông sẽ làm thế nào?
- Tôi sẽ đi xuyên qua những kẻ tấn công tôi.
- Nếu như ông không đi xuyên qua họ thì sao?
- Thì mặc kệ họ, tôi sẽ vượt qua đầu họ.
- Và ông đưa vua và hoàng hậu đến Saint-Germain an toàn chứ?
- Vâng.
- Trên tính mạng của ông?
- Trên tính mạng của tôi.
- Ông d Artagnan thân mến ơi, ông là một anh hùng! - Mazarin nói và nhìn người lính ngự lâm với vẻ khâm phục.
D Artagnan mỉm cười.
- Thế còn tôi? - Mazarin nói sau một lát im lặng và nhìn chằm chằm vào anh.
- Thưa Đức ông, sao lại còn ngài nữa?
- Còn tôi, nếu tôi cũng muốn ra đi.
- Thế thì khó khăn hơn đấy.
- Sao vậy?
- Đức ông có thể bị nhận ra.
- Cả với sự cải trang này ư? - Mazarin nói.
Và ông vén tấm áo choàng phủ lên trên chiêc ghế bành trên đó để một bộ com-lê kỵ sĩ màu ngọc trai và thạch lựu viền đầy tua ren bạc.
- Nếu Đức ông cải trang thế thì sẽ dễ dàng hơn.
- A! - Mazarin thở phào.
- Nhưng sẽ phải làm cái điều mà hôm nọ Đức ông nói rằng nếu ở địa vị chúng tôi chắc ngài đã làm rồi.
- Làm cái gì cơ?
- Hô: "Đả đảo Mazarin?
- Tôi sẽ hô.
- Hô bằng tiếng Pháp. Tiếng Pháp đúng cơ, Đức ông ạ; hãy coi chừng về giọng nói. Người ta đã giết của chúng ta hai nghìn người Angevins ở Sicile, chỉ vì họ phát âm sai tiếng Ý. Hãy coi chừng dân Pháp có thể trả thù ngài về vụ Kinh vãn khoá Sicile(1).
- Tôi sẽ hết sức cố gắng.
- Có rất nhiều người vũ trang ở các phố xá, - D Artagnan nói tiếp, - ngài có dám chắc rằng không một ai biết kế hoạch của hoàng hậu không?
Mazarin ngẫm nghĩ.
- Thưa Đức ông, việc mà ngài đề ra với tôi ấy sẽ là một việc thật hay ho đối với một kẻ phản bội. Những lý do về những sự tình cờ của một cuộc công kích có thể biện minh tất cả.
Mazarin rùng mình; song ông nghĩ rằng một kẻ có ý định phản bội sẽ chẳng báo trước.
- Cho nên, - ông vội vã nói, - tôi không tin cậy tất cả mọi người, và bằng chứng là tôi đã chọn ông để hộ vệ tôi.
- Ngài không đi cùng với hoàng hậu à?
- Không.
- Thế ngài đi sau hoàng hậu ư?
- Không, - Mazarin vẫn nói như vậy.
- A! - D Artagnan bắt đầu hiểu ra và kêu.
- Phải! Tôi có kế hoạch của tôi, - giáo chủ nói tiếp. - Đi với Hoàng hậu, tôi làm tăng gấp đôi những vụ rủi ro của bà. Đi sau hoàng hậu thì việc ra đi của bà làm tăng gấp đôi những rủi ro của tôi; rồi một khi triều đình đi thoát người ta có thể quên tôi lắm chứ: Những đại nhân thường hay bội bạc mà.
- Đúng đấy, - D Artagnan nói và bất giác đưa mắt nhìn chiếc nhẫn kim cương của hoàng hậu mà Mazarin đeo ở ngón tay.
Mazarin theo dõi hướng nhìn ấy và nhẹ nhàng lộn mặt nhẫn vào phía trong. Và với nụ cười quỉ quyệt Mazarin nói:
- Cho nên tôi muốn ngăn họ khỏi bội bạc với tôi.
- Không xui khiến người khác vào đường tà tâm, đó là lòng nhân ái Thiên chúa giáo, - D Artagnan nói.
- Đúng là vì như vậy, - Mazarin đáp, - mà tôi muốn ra đi trước họ.
D Artagnan mỉm cười; anh là người hiểu rất rõ cái tính xảo quyệt kiểu Ý ấy. Mazarin trông thấy anh mỉm cười và thừa lúc đó nói luôn:
- Như vậy là ông sẽ bắt đầu bằng việc đưa tôi ra khỏi Paris trước tiên, có phải không, ông d Artagnan thân mến?
- Việc ủy thác gay go đấy, thưa Đức ông, - D Artagnan lấy lại vẻ trang nghiêm nói.
Mazarin chăm chú nhìn anh để không một biểu hiện nào trên gương mặt anh lọt khỏi mắt ông và nói:
- Nhưng mà sao ông không nói tất cả những nhận xét ấy đối với vua và hoàng hậu.
- Thưa Đức ông, vua và hoàng hậu là hoàng hậu của tôi và vua của tôi, - Người lính ngự lâm đáp, - Sinh mệnh của tôi thuộc về các Người và tôi chịu ơn các Người, về nó. Các Người yêu cầu sinh mệnh của tôi, tôi chẳng có ý kiến gì hết.
"Thật là chí lý, Mazarin khẽ lẩm bẩm, nhưng vì sinh mệnh của mi không thuộc về ta thì ta phải mua nó chứ gì?"
Và buông một tiếng thở dài não nuột, ông bắt đầu quay mặt nhẫn ra phía ngoài.
D Artagnan mỉm cười.
Hai con người đó gặp nhau ở một điểm: tính giảo hoạt. Nếu như họ cũng lại gặp nhau ở lòng dũng cảm nữa, ắt hẳn sẽ giúp cho nhau được những việc thật lớn lao.
- Nhưng ông cũng nên hiểu rằng, - Mazarin nói, - nếu tôi yêu cầu ông giúp cho việc đó cũng là với ý định tỏ lòng biết ơn.
- Đức ông chỉ mới có ý định thôi ư? - D Artagnan hỏi.
- Này, - Mazarin vừa nói vừa tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay.
- Ông d Artagnan thân mến ơi, đây là một chiếc nhẫn kim cương xưa kia đã thuộc về ông, bây giờ nó trở về với ông là chính đáng, hãy cầm lấy nó, tôi van ông.
D Artagnan không để Mazarin phải mất công nài nỉ, anh cầm lấy nhẫn, nhìn xem hạt kim cương có đúng vẫn là hạt ấy không và sau khi yên tâm về sự tinh khiết của nước láng anh đeo nhẫn vào ngón tay với niềm vui khôn tả.
- Tôi thích nó lắm đấy, - Mazarin nhìn theo nó lần cuối cùng mà nói, - Nhưng không sao, tôi rất vui lòng tặng ông.
- Thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - còn tôi, tôi nhận nó như nó đã được cho tôi. Nào, ta hãy bàn về những công việc nho nhỏ của ngài. Ngài muốn ra đi trước tất cả mọi người à?
- Phải, tôi cần như vậy.
- Lúc mấy giờ?
- Mười giờ.
- Còn hoàng hậu đi lúc mấy giờ?
- Nửa đêm.
- Như vậy, có thể được. Tôi đưa ngài ra trước, rồi để ngài ở ngoài cửa ô và quay về đón hoàng hậu.
- Tuyệt diệu, nhưng làm thế nào để đưa tôi ra khỏi ngoài Paris?
- Ồ! Về chuyện đó xin cứ để mặc tôi làm.
- Tôi giao ông toàn quyền, hãy lấy một toán hộ vệ đông thế nào tuỳ ông.
D Artagnan lắc đầu.
- Tuy nhiên, tôi thấy rằng đó là cách chắc chắn nhất. - Mazarin nói.
- Vâng, thưa Đức ông, chắc chắn đối với ngài nhưng không chắc chắn đối với hoàng hậu.
Mazarin cắn môi. Ông nói:
- Thế thì chúng ta sẽ tiến hành thế nào?
- Thưa Đức ông !Cứ để mặc tôi tự lo liệu .
- Hừm! Mazarin kêu.
- Và cần phải giao cho tôi quyền chỉ huy hoàn toàn công việc này.
- Tuy nhiên...
- Hay là ngài kiếm người khác vậy, - D Artagnan nói và quay lưng lại.
- Ơ! - Mazarin khẽ lẩm bẩm - Ta chắc là nó bỏ đi với chiếc nhẫn. - Và ông gọi anh lại.
- Ông d Artagnan, Ông d Artagnan thân mến của tôi ơi, - Mazarin nói bằng một giọng mơn trớn.
- Đức ông gọi tôi?
- Ông có bảo đảm với tôi về mọi sự không?
- Tôi không bảo đảm gì cả. Tôi sẽ làm hết sức mình.
- Hết sức mình?
- Phải.
- Vậy thì, nào tôi tin cậy ở ông.
"Thật là may!", d Artagnan tự nhủ thầm.
- Vậy ông có mặt ở đây vào chín giờ rưỡi.
- Tôi sẽ thấy Đức ông sẵn sàng chứ?
- Tất nhiên; rất sẵn sàng.
- Như vậy là đã thỏa thuận. Bây giờ Đức ông cho tôi gặp hoàng hậu được chứ?
- Gặp dể làm gì?
- Tôi muốn nhận mệnh lệnh của Hoàng thượng từ miệng của Người.
- Lệnh bà đã giao cho tôi nói với ông.
- Lệnh bà có thể quên điều gì đó?
- Ông cần gặp lắm à?
- Rất cần, thưa Đức ông.
Mazarin lưỡng lự một lát.
- Tôi sẽ đưa ông vào, nhưng không được hé một tí nào về cuộc nói chuyện của chúng ta.
- Thưa Đức ông, điều gì nói giũa chúng ta chỉ can hệ đến chúng ta mà thôi.
- Ông thề sẽ im lặng chứ?
- Thưa Đức ông, tôi không thể thốt bao giờ. Tôi nói có hoặc không. Và do tôi là nhà quý tộc tôi giữ lời.
- Thôi được, tôi thấy rằng cần phải tin cậy ông hoàn toàn, không ngoại trừ gì hết.
- Đó là điều hay nhất đấy xin Đức ông hãy tin lời tôi.
- Đi nào, - Mazarin nói.
Ông đưa d Artagnan đến phòng nguyện và bảo anh đợi.
Anh đợi không bao lâu. Năm phút sau anh đã ở trong phòng hoàng hậu đến trong bộ y phục đại lễ hội. Trang điểm như thế trông bà chỉ ngót ba mươi lăm tuổi và vẫn xinh đẹp.
- Ông đấy à, ông d Artagnan, - Bà cười duyên dáng và nói, - Xin cảm ơn ông đã khẩn khoản xin gặp tôi.
- Xin hoàng thượng thứ lỗi, - D Artagnan nói, - Vì tôi muốn được nhận mệnh lệnh từ miệng Lệnh bà.
- Ông biết về chuyện gì rồi chứ?
- Vâng, thưa Lệnh bà.
- Ông chấp nhận việc mà tôi ủy thác cho ông?
- Với lòng biết ơn.
- Hay lắm: hãy có mặt ở đây vào lúc nửa đêm.
- Tôi sẽ có mặt.
- Ông d Artagnan ạ, - Hoàng hậu nói, - tôi biết quá rõ tính vô tư của ông, nên không nói về lòng biết ơn của tôi với ông trong lúc này, nhưng tôi thề với ông rằng tôi sẽ không quên việc giúp đỡ thứ hai này như tôi đã quên việc giúp đỡ đầu tiên đâu.
- Hoàng thượng được tự do nhớ hay là quên, và tôi không biết Người định nói gì.
Và d Artagnan nghiêng mình thi lễ.
Hoàng hậu nói với nụ cười duyên dáng nhất của mình:
- Thôi, ông đi đi và trở lại đây lúc nửa đêm.
Bà ta giơ tay làm hiệu tạm biệt, d Artagnan rút lui; nhưng khi ra anh đưa mắt nhìn chỗ cửa nhỏ nơi hoàng hậu đã vào và dưới tấm rèm anh thấy thò ra một chiếc mũi giày nhung.
- A, - anh nói, - lão Mazarin nghe ngóng xem ta có phản lại lão không. Thực ra cái con rối nước Ý ấy chẳng đáng được phục vụ bởi một người quân tử.
Cùng không vì thế mà d Artagnan không đến đúng hẹn. Chín giờ rưỡi, anh tới tiền sảnh.
Bernouin đang đợi và dẫn anh vào.
Anh thấy giáo chủ bận y phục kỵ sĩ. Ông ta rất tươi tỉnh trong bộ quần áo ấy, song ông rất tái và run sợ đôi chút.
- Có một mình ông thôi à? - Mazarin hỏi.
- Vâng, thưa Đức ông.
- Thế ông Du Vallon tử tế ấy không đi cùng với chúng ta cho vui à?
- Có chứ, ông ấy đợi ở ngoài xe ông ấy.
- Tại chỗ nào?
- Ở cổng khu vườn Hoàng cung.
- Thế ta đi bằng xe của ông ta à?
- Vâng.
- Không có hộ vệ nào khác ngoài hai ông à?
- Như thế chưa đủ sao; chỉ một trong hai chúng tôi là đủ rồi.
- Ông d Artagnan thân mến ơi, thực tình ông làm tôi kinh hãi với sự bình tĩnh của ông đây.
- Trái lại tôi tưởng rằng nó phải gây nên lòng tin cậy cho ngài chứ.
- Còn Bernouin, tôi có mang theo đi không,
- Không có chỗ cho ông ấy, ông ấy sẽ đến với Đức ông sau.
- Đành vậy, - Mazarin nói - bởi vì mọi việc đều phải làm theo ý ông.
- Thưa Đức ông, hãy còn đủ thời giờ để rút lui, và ngài hoàn toàn tự do.
- Không đâu, không đâu! - Mazarin nói, - Ta đi nào.
Và cả hai người đi xuống lổi cầu thang kín.
Mazarin vịn tay mình vào cánh tay d Artagnan và anh thấy tay ông run bần bật.
Họ đi qua các sân Hoàng cung vẫn còn mấy chiếc xe của các thực khách về muộn, vào khu vườn và đến chỗ cổng nhỏ.
Mazarin lấy một chiếc chìa khoá ở trong tủi ra thử mở cửa, nhưng tay run đến nỗi chẳng rõ thấy lỗ khóa.
- Đưa tôi! - D Artagnan bảo.
Mazarin đưa chìa khoá, d Artagnan mở cửa, rồi cho chìa vào túi mình; anh tính còn phải trở lại bằng cổng ấy.
- Bậc xe được hạ xuống, cửa mở sẵn, Mousqueton đứng ở ngoài cửa. Porthos ngồi tít trong xe.
- Mời Đức ông lên đi, - D Artagnan nói.
Chẳng đợi bảo đến hai lần Mazarin lao mình vào trong xe.
D Artagnan lên theo. Mousqueton đóng cửa xe lại và leo lên đằng sau xe với những tiếng rên rỉ thảm hại. Mượn cớ là vết thương hãy còn đau lắm, hắn đã lần chần chẳng muốn đỉ, nhưng d Artagnan đã bảo hắn:
- Nếu ông muốn thì cứ ở lại, ông Mousqueton thân mến ạ, nhưng tôi báo trước để ông biết rằng đêm nay Paris sẽ bị thiêu trụi.
Nghe vậy, Mousqueton không đòi hỏi gì hơn và tuyên bố rằng hắn sẵn sàng đi theo chủ hắn và ông d Artagnan đến cùng trời cuối đất.
Cỗ xe đi nước kiệu vừa phải để không tố giác một chút nào rằng có chưa những người vội vã. Giáo chủ lấy khăn tay ra lau mồ hôi trán và đưa mắt nhìn xung quanh mình.
Bên trái là Porthos, bên phải là d Artagnan, mỗi người ngồi cạnh một cửa, mỗi người dùng làm một bức thành cho ông.
Trước mặt trên một chiếc ghế nhỏ đặt hai đôi súng ngắn, một đôi trước Porthos, một đôi trước d Artagnan. Ngoài ra, mỗi anh còn đeo một thanh kiếm bên sườn.
Cách Hoàng cung một trăm thước, một đội tuần tra ngăn xe lại.
- Ai đó? - Người chỉ huy quát.
- Mazarin! - D Artagnan đáp và cười phá lên.
Giáo chủ cảm thấy tóc dựng ngược trên đầu.
Câu bông đùa tỏ ra thú vị đối với mấy người tư sản, họ thấy cỗ xe không có vũ khí và chẳng có hộ tống, nên không thể ngờ là sự thật với một sự khinh suất như vậy.
- Chúc đi bình yên? - Họ reo lên.
Và họ để cho xe đi.
- Hừm! - D Artagnan nói. - Đức ông nghĩ thế nào về câu trả lời ấy?
- Một người tài trí.
- Chuyện phải làm, - Porthos nói, - Tôi hiểu...
Đến giữa phố Les Petits-Champs, một toán kiểm tra thứ hai ngăn xe lại.
- Ai đó? - Viên đội trưởng hô.
- Đức ông ngồi lui vào, - D Artagnan nói.
Và Mazarin ngồi tụt vào giữa hai người bạn thế nào mà bị họ che lấp chằng còn nhìn thấy ông đâu cả.
- Ai đó? - Vẫn tiếng nói ấy sốt ruột kêu lên.
Và d Artagnan cảm thấy như người ta xông ra chặn đầu lũ ngựa.
- Ê! Planchet, - Anh nói.
Viên đội trưởng lại gần, Quả nhiên là Planchet, d Artagnan nhận ra tiếng nói của người hầu cũ.
- Ơ kìa! Ông! - Planchet nói, - Ông đấy à?
- Ồ lạy Chúa! Phải rồi bạn thân mến ạ. Ông Porthos thân thiết này vừa mới bị một nhát kiếm và tôi đưa ông trở về nhà nghỉ nơi miền quê của ông ở Saint-Clou.
- Ô? Thật à? - Planchet nói.
- Porthos này, - D Artagnan bảo, - Nếu cậu còn nói được, thì hãy nói một lời với cậu Planchet tốt bụng này.
Bạn Planchet thân mến ơi, - Porthos nói bằng một giọng rầu rĩ, - Tôi đau lắm, và cậu có gặp một thầy thuốc, cậu hãy giúp đưa đến tôi nhé!
- Ôi lạy Chúa? Tai hoạ thật! - Planchet kêu lên. - Chuyện xảy ra như thế nào?
- Tôi sẽ kể cho cậu nghe sau, - Mousqueton nói.
Porthos thốt ra một tiếng rên rỉ dài.
- Này Planchet, - D Artagnan nói thầm, - Hãy tránh ra để bọn tôi đi, kẻo ông ấy không kịp đến nơi mất: ông ta bị thương vào phổi.
Planchet lắc đầu ra vẻ muốn nói: Trường hợp ấy thì nguy rồi!
Rồi quay về phía người của mình anh bảo:
- Để cho đi, bạn tôi đấy mà.
Xe tiếp tục đi, Mazarin nín hơi mãi, đánh liều thở mạnh.
- Bricconi! - Ông lẩm bẩm.
Đến cách cửa ở Saint-Honoré, xe lại gặp một toán thứ ba. Toán này gồm những kẻ mặt mày ốm o giống như bọn trộm cướp; đó là quân của gã ăn mày ở Saint Eustache .
- Chú ý, Porthos! - D Artagnan bảo.
- Porthos vươn tay ra chỗ súng ngắn.
- Có chuyện gì vậy? - Mazarin hỏi.
- Thưa Đức ông tôi cho rằng chúng ta gặp bọn xấu rồi.
Một người tiến lên cửa xe, tay cầm một thứ lưỡi liềm.
- Ai đó? - Người ấy hỏi.
- Ê! Lạ chưa - D Artagnan nói, - Các người không nhận ra xe của Ngài hoàng thân, hay sao?
- Hoàng thân hay không cũng phải mở ra! Chúng tôi canh giữ cửa ô, không ai đi qua mà tôi không biết đó là người nào.
- Phải làm gì bây giờ? - Porthos hỏi.
- Mặc kệ! Cứ đi qua, d Artagnan nói.
- Nhưng đi thế nào? - Mazarin hỏi.
- Đi qua hoặc vượt qua. Người đánh xe ngựa vội phóng nước đại. Đang giơ roi lên
- Không được đi một bước nào nữa, - Người có vẻ là chỉ huy nói; nếu không ta sẽ chặt chân ngựa.
- Gớm nhỉ, - Porthos nói, - thế thì tiếc lắm, lũ ngựa giá một trăm pistolg một con đó.
- Tôi sẽ trả ông hai trăm? Mazarin nói.
- Vâng, nhưng một khi họ đã chặt chân ngựa thì họ sẽ cắt cổ chúng ta.
- Có một tên đến bên cạnh tôi, - Porthos nói - Có cần hạ sát nó không?
- Có! Bằng một quả đấm, nếu cậu có thể làm được.
- Chúng ta chỉ nổ súng khi cùng bất đắc dĩ.
- Tôi có thể làm được, - Porthos nói.
- Thế thì đến đây mà mở, - D Artagnan nói với kẻ cầm liềm; anh cầm một khẩu súng bằng nòng và chuẩn bị đánh bằng báng súng.
Trong khi kẻ ấy tiến lại, d Artagnan nhô nửa người ra ngoài để dễ dàng cử động hơn. Mắt anh nhìn vào mắt gã ăn mày và ánh sáng của ngọn đèn soi tỏ.
Chắc hẳn hắn nhận ra người lính ngự lâm, vì mặt hắn tái nhợt đi; chắc hẳn d Artagnan nhận ra hắn, vì tóc anh dựng ngược lên.
- Ông d Artagnan? - Hắn kêu lên và lùi lại một bước, - Ông d Artagnan đấy? Hãy để cho đi qua!
Có lẽ d Artagnan sắp trả lời, thì một đòn giổng như một quả chùy giáng xuống đầu một con bò vang lên: Porthos vừa mới đập chết địch thủ của mình.
D Artagnan quay lại và trông thấy kẻ bất hạnh nằm sóng soài ra cách đấy bốn bước. Anh bảo người đánh xe:
- Bây giờ phi đại lên! Phóng, phóng!Nhanh lên !
Người đánh xe ra roi quất ngựa, những con ngựa quí phải chồm lên. Người ta nghe thấy những tiếng kêu như của những người bị xô ngã. Rồi cảm thấy xe giật lên hai cái liền: khi bánh xe vừa mới chẹt lên một vật mềm và tròn.
Một lát im lặng, xe vượt qua cửa ô.
- Đi đến Cours-la-Reine! - D Artagnan bảo người đánh xe.
Rồi quay lại phía Mazarin, anh nói:
- Thưa Đức ông, bây giờ ngài có thể đọc năm điều kinh Chúa Cha và năm điều kinh Thánh Mẫu để cảm ơn Thượng Đế về sự giải thoát ngài rồi đấy; ngài đã thoát nạn, ngài được tự do.
Mazarin chỉ đáp lại bằng một tiếng rên rỉ. Ông không thể tin nổi một sự thần kỳ đến như vậy.
Năm phút sau, xe đứng lại, đã đến khu vườn dạo chơi Cours-la-Reine.
- Đức ông hài lòng về đoàn hộ vệ của ngài chứ? - Ngươi lính ngự lâm hỏi.
- Rất vui mừng, ông ạ. - Mazarin nói và liều thò đầu ra cửa xe bây giờ ông hãy làm như thế cho hoàng hậu.
- Sẽ dễ dàng hơn, - D Artagnan đáp và nhảy xuống đất, anh nói tiếp - ông Du Vallon, tôi gửi gắm Đức ông cho ông đấy.
- Cứ yên tâm, - Porthos nói và chìa tay ra.
D Artagnan nắm tay Porthos và lắc lắc.
- Ái! Porthos kêu lên.
D Artagnan nhìn bạn kinh ngạc.
- Cậu làm sao thế? - Anh hỏi.
- Tôi e rằng bị trật xương cổ tay, - Porthos đáp.
- Chết thật! Với lại cậu nện như một thằng điếc ấy.
- Cần phải thế, vì địch thủ của tôi sắp nổ một phát súng ngắn vào tôi. Nhưng còn cậu, cậu khử thằng địch của cậu như thế nào?
- Ồ! Địch thủ của tôi ấy à, - D Artagnan nói, - đó không phải là một người.
- Thế là cái gì.
- Đó là một loài yêu quái. Và tôi đã xua đuổi nó.
Không giải thích gì thêm, d Artagnan cầm lấy súng ngắn ở ghế đằng trước gài vào thắt lưng, khoác tấm áo choàng và không muốn trở lại bằng lối cửa ô đã đi ra, anh đi về phía cửa ô Richelieu.
Chú thích:
(1) Revanche des Vêpres =Vụ thảm sát hàng loạt dân Pháp ở đảo Sicile năm 1282, do dân Sicile nổi loạn chống lại vua Pháp Charles I d Andrew và xảy ra vào lúc các nhà thờ rung chuông gọi tín đồ.
-*-*-*-
Chương 54
Cỗ xe của ông chủ giáo
Đáng lẽ trở về bằng cửa ô Saint-Honoré, vì còn thì giờ, d Artagnan đi quay về lôi cửa ô Richelieu. Người ta đến kiểm tra và khi trông thấy chiếc mũ có lông chim và áo choàng gắn lon sĩ quan ngự lâm quân, họ vây lại với ý định bắt anh hô: "Đả đảo lão Mazarin!". Cuộc thị uy đầu tiên ấy, thoạt đầu không làm anh lo ngại; nhưng khi biết rõ sự thể ra sao, anh hô bằng một giọng rất hay khiến những kẻ khó tính nhất cũng phải hài lòng.
Anh đi theo đường Richelieu, ngẫm nghĩ cách đưa hoàng hậu đi như thế nào vì đưa đi bằng cỗ xe có quốc huy Pháp thì chẳng nên nghĩ đến. Chợt ở cổng dinh bà de Guéménée , anh nhác trông thấy một cỗ xe.
Một ý nghĩ đột ngột loé lên trong óc anh.
- À! Chúa ơi! - Anh nói, - Cuộc chiến chính đáng đây.
Và anh tiến gần đến cỗ xe, nhìn huy hiệu trên thành xe và áo dấu của người đánh xe ở trên ghế.
Cuộc khám xét ấy càng dễ dàng vì người đánh xe đang ngủ say.
- Đúng là xe của ông chủ giáo, - Anh nói, - Mình bắt đầu tin rằng Thượng Đế ủng hộ ta thật đấy.
Anh nhẹ nhàng trèo lên xe, và kéo sợi dây lụa móc ở ngón tay út người đánh xe, anh nói:
- Đi đến Hoàng cung.
Người đánh xe mình choàng dậy cho xe chạy đến nơi đã bảo, chẳng hồ nghi lệnh ban ra từ kẻ khác chứ không phải chủ của mình.
Người lính canh Thụy Sĩ sắp sửa đóng cổng nhưng trông thấy cỗ xe lộng lẫy, ngỡ đó là cuộc đến thăm quan trọng và để cho xe đi qua, xe đứng lại ở hàng cột.
Đến lúc ấy, người đánh xe ngựa mới nhận ra là không có người hầu ở đằng sau xe.
Hắn tưởng là ông chủ giáo đã dùng bọn chúng vào việc gì đó, và chẳng buông cương, hắn nhảy xuống để mở cửa.
D Artagnan nhảy xuống theo. Tên đánh xe ngựa nhận thấy không phải chủ mình, hoảng sợ lùi lại một bước, anh liền một tay túm lấy cổ áo, một tay dí súng vào họng hắn. Anh bảo:
- Cứ thử kêu lên một tiếng thôi, mày sẽ chết.
Nhìn vẻ mặt của người đang nói, gã đánh xe thấy rõ mình đã rơi vào một cái bẫy, hắn cứ há hốc miệng ra và mắt mở thao láo.
Hai người lính ngự lâm đang đi dạo ngoài sân, d Artagnan gọi họ bằng tên:
- Này ông de Bellière , hãy vui lòng cầm lấy dây cương từ tay con người đôn hậu này, trèo lên xe đánh đến chiếc cửa cầu thang kín và đợi tôi ở đó. Đây là việc quan trọng để phục vụ nhà vua.
Biết rõ viên trung uý của mình không thể làm một trò đùa đối với công vụ, người lính ngự lâm tuân theo chẳng nói một lời, mặc dầu anh thấy mệnh lệnh có vẻ kỳ cục.
Rồi quay về phía người lính ngự lâm thứ hai, d Artagnan nói:
- Ông du Verger, hãy giúp tôi đưa người này đến nơi an toàn.
Người lính ngự lâm tưởng ông trung uý của mình vừa mới bắt giữ một ông hoàng nào đó cải trang, bèn cúi chào, rồi tuốt gươm ra, anh ra hiệu là mình đã sẵn sàng.
Bernouin sốt ruột đợi tin tức của chủ mình.
- Thế nào ông - Hắn hỏi.
- Mọi việc đều tuyệt diệu, ông Bernouin thân mến ạ; nhưng đây là một người mà xin ông vui lòng đưa vào một nơi chắc chắn...
- Đưa vào đâu, hả ông?
- Tùy ông, miễn là nơi ông chọn phải có vừa cửa ra vào vừa cửa sổ khoá cẩn thận.
Và người ta dẫn ngươi đánh xe ngựa tội nghiệp ấy vào một căn buồng cửa sổ có chấn song sắt, trông chẳng khác một xà lim nhà tù.
- Bây giờ, ông bạn thân mến ơi, - D Artagnan nói với người đánh xe, - Tôi mời ông bỏ ra cho tôi mũ và áo choàng của ông.
Ta biết chắc là người đánh xe chẳng kháng cự chút nào; hơn nữa hắn vô cùng kinh ngạc về chuyện xảy ra với mình đến nỗi hắn lảo đảo và lắp bắp như người say rượu. D Artagnan ném tất cả bộ y phục vào tay gã hầu phòng.
- Ông Verger, - D Artagnan nói, - Bây giờ ông hãy tự giam mình cùng với người này cho đến lúc nào ông Bernouin mở cửa.
Phiên gác sẽ khá dài và chẳng thú vị lắm đâu, tôi biết, nhưng ông hiểu cho, - Anh trịnh trọng nói thêm, - Vì công vụ của đức vua.
- À này! - D Artagnan nói, - Nếu người này định trốn hoặc kêu, ông cứ việc cho gươm xuyên qua ngực hắn.
Người lính ngự lâm gật đầu ra hiệu là anh sẽ nghiêm chính tuân theo mệnh lệnh.
D Artagnan đi ra, dẫn theo Bernouin.
Đồng hồ điểm mười hai giờ đêm.
- Hãy đưa tôi đến phòng nguyện của hoàng hậu, - D Artagnan nói,
- Báo với bà là tôi đã đến, rồi đem cái bọc quần áo này cùng với một khẩu súng trường nạp đạn đầy đủ để lên ghế của cỗ xe đang đợi ở chân cầu thang kín ấy.
Bernouin dẫn d Artagnan vào phòng nguyện, anh ngồi đó dáng trầm ngâm.
Mọi việc ở Hoàng cung vẫn như thường lệ. Lúc mười giờ, như chúng tôi đã nói, mọi thực khách đều về hết; nhưng người phải đi trốn cùng với triều đình đã nhận mật khẩu và được mời có mặt tại Cours-la-Reine từ nửa đêm đến một giờ.
Mười giờ, Anne d Autriche sang chỗ vua. Người ta vừa mới cho hoàng đế đi nằm; cậu Louis trẻ còn lại sau cùng, bày trò đánh nhau bằng những chú lính chì, trò chơi ấy làm cậu thích thú lắm. Hai đứa thị đồng cùng chơi với cậu.
- Laporter, - Hoàng hậu nói, - Đến giờ Hoàng thượng đi nằm rồi.
- Cậu vua đòi thức đêm vì chẳng buồn ngủ tí nào.
Nhưng hoàng hậu khẩn khoản.
- Thế sáu giờ sáng mai con chẳng phải đi tắm ở Conflans à, Louis? Hình như chính con yêu cầu mà?
- Mẹ nói đúng đấy, - Vua nói, - Và con sẵn sàng lui về buồng khi nào mẹ vui lòng ôm hôn con.
- Laporter hãy đưa cây đèn cho ông hiệp sĩ de Coislin.
Hoàng hậu đặt môi lên vầng trán trắng mịn màng mà cậu bé tôn kính giơ ra với vẻ đường bệ đã sặc mùi nghi thức.
- Con ngủ mau lên nhé Louis, - Hoàng hậu nói, - Con sẽ bị đánh thức sớm lắm đấy.
- Con sẽ cố gắng để tuân lệnh mẹ, - Cậu Louis nhỏ nói, - Nhưng con chẳng buồn ngủ tí nào cả.
- Laporter, - Anne d Autriche khẽ nói, - hãy kiếm quyển sách nào thật chán cho Hoàng thượng đọc, nhưng chớ cởi bỏ quần áo.
Vua đi ra, có hiệp sĩ Coislin cầm đèn đi theo. Đứa thị đồng kia được đưa về nhà nó.
Hoàng hậu bèn trở về phòng mình. Các thị nữ của bà, tức bà de de Brégy, tiểu thơ de Beaumont, bà de Motteville et Socratineem - Người ta, gọi như vậy do sự khôn ngoan của cô, họ vừa mang đến chỗ tủ quần áo những thức ăn còn lại của bữa trước để bà ăn, theo thói quen.
Hoàng hậu sai bảo các việc, nói về bữa ăn mà hầu tước de Villequier mời bà vào ngày kia, chỉ định những người mà bà cho đi dự, bà còn báo trước vào ngày hôm sau nữa một cuộc đi thăm tu viện Val-de-Grâce nơi bà có ý đình qui y, và dặn Béringhen, người hầu phòng thứ nhất của bà, sẽ đi theo bà.
Bữa ăn tối của các thị nữ xong, hoàng hậu giả bộ rất mệt và sang phòng mình để nằm. Bà de Motteville trực việc hầu riêng tối hôm ấy đi theo hoàng hậu và giúp bà cởi bỏ xiêm y. Hoàng hậu lên giường nằm và nói chuyện thân ái với bà mấy phút, rồi cho bà ra.
Đấy là lúc d Artagnan đi vào sân Hoàng cung bằng cỗ xe của chủ giáo.
Một lát sau, xe của các bà thị nữ đi ra và cổng sắt đóng lại.
Mười hai giờ điểm.
Năm phút sau, Bernouin gõ cửa phòng ngủ của hoàng hậu, hắn đến bằng lối đi bí mật của giáo chủ.
Anne d Autriche tự mình ra mở cửa.
Bà đã mặc quần áo, nghĩa là đã đi tất dài và khoác cái áo choàng dài.
- Ông đấy à, Bernouin, - Bà nói, - Ông d Artagnan có đấy không?
- Thưa Lệnh bà có, ở trong phòng nguyện. Ông ấy đợi Hoàng thượng sửa soạn xong.
- Tôi xong bây giờ. Hãy đến bảo Laporter đánh thức vua dậy và mặc quần áo cho vua, rồi từ đây đi sang chỗ thống chế de Villeroy và báo cho ông ta biết.
Bernouin cúi chào và đi ra.
Hoàng hậu vào phòng nguyện được chiếu sáng bằng một ngọn đèn giản dị loại hàng thuỷ tinh Venise. Bà thấy d Artagnan đang đứng đợi.
- Ông đấy à? - bà nói.
- Vâng, thưa Lệnh bà.
- Ông sẵn sàng chứ?
- Vâng, tôi đã sẵn sàng.
- Thế còn ông giáo chủ?
- Ông ấy đã đi ra không gặp rủi ro gì, và đang chờ Lệnh bà ở Cours-la-Reine.
- Nhưng chúng ta đi bằng xe nào?
- Tôi đã lo trước cả rồi. Một cỗ xe đang đợi Lệnh bà ở dưới sân.
- Ta sang chỗ vua đi.
D Artagnan nghiêng mình và đi theo.
Cậu bé Louis đang được mặc quần áo trừ đôi giày và áo chẽn ngoài. Cậu để người ta làm với vẻ ngạc nhiên, căn dặn Laporter mãi, nhưng chỉ được trả lời bằng mỗi câu:
- Thưa Ngài, đó là theo lệnh của hoàng hậu.
Giường để hở và người ta trông thấy nhưng tấm vải trải giường của vua cũ kỹ quá đến nỗi đã thủng lỗ chỗ.
Đó lại là một trong những hậu quả tính biển lận của Mazarin.
Hoàng hậu vào, d Artagnan đứng ở ngưỡng cửa.
Cậu bé thấy hoàng hậu vào liền tuột ra khỏi tay Laporter và chạy đến với bà.
Hoàng hậu ra hiệu cho d Artagnan tới gần.
D Artagnan tuân theo.
Hoàng hậu chỉ cho con người lính ngự lâm đang đứng, bình thản, đầu trần và nói:
- Con trai của ta ơi, đây là ông d Artagnan, con người dũng cảm như những anh hùng, hiệp sĩ ngày xưa mà con rất yêu thích mỗi lần các bà thị nữ kể cho con nghe. Hãy nhớ kỹ tên ông và nhìn kỹ ông để không quên mặt ông, bởi vì tối nay ông sẽ giúp chúng ta một việc lớn.
Cậu vua nhỏ nhìn viên sĩ quan bằng con mắt to và kiêu hãnh của mình và nhắc lại:
- Ông d Artagnan.
- Đúng đấy, con ạ.
- Cậu vua nhỏ thong thả giơ bàn tay nhỏ nhắn lên và chìa ra cho người lính ngự lâm quân; anh quỳ một chân xuống và hôn lên tay vua.
- Ông d Artagnan? Louis nhắc lại. - Đúng chứ, thưa mẹ.
Vừa lúc ấy người ta nghe thấy như một tiếng ồn ào đến gần.
- Cái gì đó? - Hoàng hậu nói.
D Artagnan giương cả đôi tai thính và cặp mắt thông minh lên và đáp:
- Ô, ô! Đó là tiếng dân chúng đang nổi loạn.
- Ta phải trốn đi thôi, - Hoàng hậu nói.
- Hoàng thượng đã giao cho tôi chỉ huy việc này, ta cần phải ở lại và xem họ muốn gì?
- Ông d Artagnan.
- Tôi xin bảo đảm mọi chuyện.
- Không gì thông cảm nhanh chóng hơn lòng tin cậy. Vốn đầy sức mạnh và lòng can đảm, hoàng hậu nhận thấy được đến mức cao nhất hai đức tính ấy ở những người khác.
- Hãy làm đi, - Bà nói, - Tôi trông cậy ở ông.
Trong tất cả việc này, Hoàng thượng có cho phép tôi ra các mệnh lệnh nhân danh Người không?
- Cứ ra lệnh ông ạ.
- Đám dân chúng này còn muốn gì nữa. - Vua nói. - Và cậu nhanh chóng ra khỏi phòng.
Tiếng ồn ào càng lớn dần, như bao trùm toàn bộ Hoàng cung.
Ở bên trong người ta nghe thấy những tiếng hô nhưng không rõ nghĩa. Hiển nhiên là có la ó và phản loạn. Nhà vua mặc dở dang, Hoàng hậu và Laporter ai nấy thế nào vẫn nguyên thế ấy và hầu như đứng nguyên tại chỗ, nghe ngóng và chờ đợi.
Comminger đêm ấy trực gác ở Hoàng cung chạy đến. Anh ta có gần hai trăm quân ở trong các sân và chuồng ngựa và đem ra để hoàng hậu sử dụng.
Trông thấy d Artagnan trở lại, Anne d Autriche hỏi:
- Thế nào, có chuyện gì đó?
- Thưa Lệnh bà, có tin đồn rằng hoàng hậu đã rời Hoàng cung, cướp đi cả đức vua, và dân chúng yêu cầu có bằng chứng là không phải như vậy, nếu không thì họ sẽ phá huỷ Hoàng cung.
- Ôi, lần này thì thật quá lắm, - Hoàng hậu nói, - Và tôi sẽ chứng minh cho họ rằng tôi không ra đi.
Nhìn vẻ mặt của hoàng hậu, d Artagnan đoán rằng bà sẽ ra lệnh làm một việc hung bạo nào đó. Anh đến gần bà và nói thì thầm:
- Hoàng thượng bao giờ cũng tin cậy tôi chứ?
Giọng nói ấy khiến bà rùng mình.
- Phải ông ạ, hoàn toàn tin cậy... hãy nói đi.
- Hoàng hậu có hạ cố làm theo ý kiến của tôi không?
- Cứ nói.
- Xin Hoàng thượng hãy cho ông Comminger lui và ra lệnh cho ông ấy cùng với người của mình ở yên trong đơn vị và các chuồng ngựa.
Comminger nhìn d Artagnan bằng cái nhìn ghen tị, với cái nhìn ấy mọi cận thần đều thấy rạng lên một vận hội mới.
- Ông nghe thấy rồi chứ, Comminger? - Hoàng hậu nói.
D Artagnan đến bên anh ta, với sự minh mẫn thông thường anh đã nhận ra cái nhìn lo ngại ấy.
- Ông Comminger, - Anh nói - Hãy thứ lỗi cho tôi, hai chúng ta đều là bầy tôi của hoàng hậu có phải không? Lúc này là đến lượt tôi có ích cho Lệnh bà, vậy xin ông chớ ao ước cái diễm phúc đó của tôi.
Comminger nghiêng mình và đi ra.
"Bây giờ, - D Artagnan tự nhủ, - Ta lại có thêm một kẻ thù!".
- Bây giờ cần phải làm gì? - Hoàng hậu nói với d Artagnan. - Vì ông nghe đấy, tiếng ồn ào chẳng dịu đi mà còn tăng lên gấp bội.
- Thưa Lệnh bà, - D Artagnan đáp, - Dân chúng muốn trông thấy vua, cần phải để họ thấy vua.
- Sao để cho họ thấy vua à? Ở đâu? Ngoài bao lớn ư?
- Không, thưa Lệnh bà, mà ở ngay đây, trên giường vua đang ngủ.
- Ô! Thưa Hoàng thượng - Laporter reo lên - Ông d Artagnan hoàn toàn đúng.
Hoàng hậu suy nghĩ, rồi mỉm cười ra vẻ một người đàn bà chẳng lạ lùng gì đối với cách cư xử hai mặt.
- Cốt yếu là... - hoàng hậu lẩm bẩm.
- Ông Laporter, - D Artagnan nói, - hãy đi ra ngoài cổng Hoàng cung báo với dân chúng rằng họ sẽ được mãn nguyện, và năm phút nữa, họ không những sẽ trông thấy vua mà còn thấy vua ở giường; cần nói thên rằng vua đang ngủ và hoàng hậu yêu cầu mọi người im lặng để khỏi làm vua thức giắc.
- Nhưng không phải là tất cả mọi người, mà một đoàn đại biểu độ dăm ba người thôi chứ?
- Thưa Lệnh bà, tất cả mọi người.
- Nhưng họ sẽ giữ ta đến sáng hãy nghĩ đến điều đó.
- Chỉ mười lăm phút thôi. Tôi xin bảo đảm mọi điều, xin Lệnh bà hãy tin tôi. Tôi hiểu biết dân chúng, đó là những đứa trẻ lớn chỉ cần vuốt ve là xong. Trước mặt nhà vua đang ngủ, họ sẽ câm miệng, hiền hoà và nhút nhát như một con cừu.
- Thôi đi đi, Laporter, - Hoàng hậu bảo.
Cậu vua nhỏ sán đến gần mẹ và hỏi:
- Tại sa phải làm những điều họ đòi hỏi.
- Cần phải thế, con trai ạ, - Anne d Autriche đáp.
- Nhưng nếu người ta bảo con phải thế này phải thế nọ, thì con không còn là vua nữa rồi.
Hoàng hậu im lặng.
- Thưa Hoàng thượng, - D Artagnan nói, ngài có cho phép tôi hỏi ngài một câu không?
Louis XIV quay lại, ngạc nhiên vì có người dám nói với mình như vậy. Hoàng hậu siết bàn tay con.
- Được, ông ạ, - cậu nói.
- Hoàng thượng có nhớ khi chơi ở khu vườn Fontainebleau hoặc trong cung điện Versailles, bỗng nhiên trông thấy mây kéo đầy trời và nghe tiếng sấm vang rền không?
- Chắc chắn là có chứ.
- Thế thì Hoàng thượng có còn muốn chơi mấy đi chăng nữa, tiếng sấm ấy nói với ngài rằng: "Ngài hãy về đi, cần phải như vậy".
- Hẳn là thế, ông ạ; nhưng người ta cũng đã nói với tôi rằng, tiếng sấm, đó là tiếng của Chúa Trời.
- Ấy đấy, - D Artagnan nói, - Ngài hãy nghe tiếng của dân chúng xem, và ngài sẽ thấy nó giống tiếng sấm.
Quả nhiên lúc ấy một tiếng ầm ầm kinh khủng theo cơn gió đêm bay qua. Rồi đột nhiên nó ngừng bặt.
- Thưa ngài, - D Artagnan nói, - người ta vừa mới nói với dân chúng rằng ngài đang ngủ: ngài thấy rõ rằng ngài vẫn là vua đấy chứ?
Hoàng hậu kinh ngạc nhìn con người kỳ lạ kia mà tinh thần dũng cảm vang lừng khiến anh ngang hàng với những kẻ dũng cảm nhất và trí tuệ tinh tế và ranh ma khiến anh ngang hàng với tất cả mọi người.
Laporter vào.
- Nào, Laporter? - Hoàng hậu hỏi.
- Thưa Lệnh bà, - Ông đáp - Điều tiên đoán của ông d Artagnan đã thực hiện: họ dịu yên đi như bởi phép mầu. Người ta sắp mở cổng cho họ và năm phút nữa họ sẽ tới đây.
- Laporter, - Hoàng hậu nói, - Nếu ông đặt một con trai của ông vào chỗ vua thì ta có thể đi trong lúc này.
- Nếu hoàng thượng ra lệnh, - Laporter đáp, - Thì các con trai tôi cũng như tôi đều sẵn sàng phục vụ hoàng hậu.
- Không được, - D Artagnan nói, - Bởi vì nếu một người trong bọn họ biết mặt Hoàng thượng và nhận ra mưu gian, thì mọi sự sẽ thất bại thôi.
- Ông nói có lý đấy, ông ạ, và bao giờ cũng có lý, - Anne d Autriche nói. - Laporter cho vua đi nằm.
Laporter đặt vua ăn vận, nguyên như thế vào trong giường, rồi phủ một tấm mền lên tận vai.
Hoàng hậu cúi xuống và hôn lên trán con.
- Giả vờ ngủ đi, Louis, - Bà bảo.
- Vâng, - Vua đáp, - Nhưng con không muốn bất cứ người nào trong số họ đụng chạm vào con.
- Thưa hoàng thượng, - D Artagnan nói, - Tôi đứng đây và tôi cam đoan rằng nếu một kẻ nào đó dám cả gan như vậy, hắn sẽ trả giá bằng tính mạng hắn.
Laporter đi ra, hoàng hậu đứng gần tấm thảm, d Artagnan lách vào sau tấm rèm.
Rồi có tiếng bước nặng nề và dè đặt của cơ man nào là người.
Hoàng hậu tự mình vén thảm lên và đặt một ngón tay lên miệng.
Trông thấy hoàng hậu, đám người đứng lại với thái độ cung kính.
- Vào đi các ông, vào đi! - Hoàng hậu nói.
- Thế là trong đám dân chúng ấy có một cử chỉ do dự giống như là nỗi hổ thẹn. Họ sẵn sàng chờ đợi sự kháng cự, họ chờ đợi sự phản đối, họ sẵn sàng phá cổng và quật ngã lính thị vệ; nhưng cổng mở sẵn, và nhà vua thì rõ ràng không có người canh gác nào khác ngoài bà mẹ đứng ở bên giường.
Những người đi đầu lắp bắp gì đó toan rút lui.
- Các ông cứ vào, - Laporter nói, - Vì hoàng hậu đã cho phép.
Một người bạo dạn hơn mấy người kia, bèn đánh liều vượt qua ngưỡng cửa và rón rén đi vào. Những người khác làm theo và căn phòng đông ùn lên một cách lặng lẽ, cứ như là tất cả những kẻ đó đã là những cận thần cung kính nhất và tận tâm nhất. Phía bên ngoài cửa, những người không vào được kiễng chân, nhô đầu lên xem.
Qua một kẽ hở của tấm rèm, d Artagnan trông thấy hết và nhận ra người vào trước tiên là Planchet.
Hoàng hậu đoán rằng đó là người chỉ huy của cái đám này bèn nói:
- Ông muốn nhìn mặt vua thì tự tôi sẽ chỉ cho ông xem. Lại gần đây, nhìn kỹ xem và hãy nói xem chúng tôi có vẻ là những ngươi định đi trốn hay không?
- Chắc là không phải thế, - Planchet đáp, hơi ngạc nhiên về vinh dự bất ngờ mà anh được nhận.
- Vậy ông hãy nói với những người Paris trung thành của tôi, - Anne d Autriche nói tiếp với một nụ cười mà d Artagnan không lầm về cái vẻ biểu hiện của nó, - Rằng ông đã nhìn thấy vua đang nằm ngủ, cũng như hoàng hậu sắp sửa đi nằm.
- Thưa Lệnh bà, tôi sẽ nói như vậy và những người đi cùng tôi cũng sẽ nói như tôi, nhưng...
- Nhưng sao? - Anne d Autriche hỏi.
- Xin Hoàng thượng thứ lỗi, - Planchet nói, nhưng có đúng là đức vua đang nằm trong giường không?
Anne d Autriche rùng mình. Bà nói:
- Nếu trong các ông, có ai biết mặt vua thì cứ đến gần và nói xem có đúng là Hoàng thượng nằm đây không?
Một người khoác áo choàng che cả mặt bước đến, cúi xuống giường và nhìn.
D Artagnan đã tưởng là người đó có ý đồ xấu, anh đặt tay vào thanh kiếm; nhưng khi người đó cúi xuống đề lộ một phần mặt, d Artagnan nhận ra ông chủ giáo.
- Đúng là vua rồi, - Người đó nói và đứng lên. - Cầu Chúa ban phước lành cho Hoàng thượng.
- Phải, - Người chỉ huy khẽ nói, - Phải cầu Chúa ban phước lành cho Hoàng thượng.
Và tất cả những con người ấy, lúc vào đằng đằng tức khí, bây giờ chuyển từ phẫn nộ sang mủi lòng, cũng cầu ban phước lành cho ấu chúa.
- Bây giờ các bạn ơi, - Planchet nói, - Chúng ta hãy cảm ơn hoàng hậu và rút lui thôi.
Tất cả mọi người cúi chào và đi ra dần dần không gây tiếng động như lúc họ vào. Planchet vào đầu tiên ra cuối cùng.
Hoàng hậu ngăn anh lại và nói:
- Ông bạn ơi, tên ông là gì?
Planchet quay lại rất đỗi ngạc nhiên về câu hỏi.
- Phải, - Hoàng hậu nói, - Được tiếp ông tối hôm nay, tôi cũng rất vinh dự như tiếp một ông hoàng, và tôi mong muốn biết tên ông.
"Phải - Planchet nghĩ, - Để rồi đối xử với tôi như một ông hoàng chứ gì, xin cảm ơn!".
D Artagnan rùng mình sợ rằng Planchet bị cám dỗ như một con quạ trong ngụ ngôn sẽ nói tên ra và hoàng hậu biết tên cậu ta có thể sẽ biết Planchet đã từng là người của anh.
- Thưa Lệnh bà. - Planchet cung kính trả lời, - tôi tên là Dulaurier sẵn sàng hầu hạ Lệnh bà.
- Cảm ơn ông Dulaurier, - Hoàng hậu nói, - Ông làm nghề gì thế?
- Thưa Lệnh bà, tôi làm nghề buôn bán đồ dạ ở phố Bourdonnais.
- Tôi chỉ cần biết có thế, - hoàng hậu nói. - Cảm ơn ông Dulaurier thân mến, tôi sẽ nói chuyện với ông sau.
D Artagnan từ sau tấm rèm đi ra, lẩm bẩm:
- Thôi thôi dứt khoát Planchet không phải là một thằng ngốc, và người ta thấy rõ hắn đã có thầy có bạn giỏi giang.
Các diễn viên khác nhau của màn kịch lạ lùng này còn đứng nhìn nhau một lát mà chẳng nói một lời, hoàng hậu đứng gần cửa, d Artagnan nửa người thò ra khỏi nơi ẩn nấp nhà vua chống khuỷu tay nhổm dậy và sẵn sàng lại nằm kềnh xuống, nếu có một tiếng động nào chứng tỏ đám dân chúng quay trở lại. Nhưng tiếng động không gần lại mà mỗi lúc một xa dần và cuối cùng tắt hẳn.
Hoàng hậu thở phào; d Artagnan lau mồ hôi trán, nhà vua tụt xuống sàn và nói:
- Ta đi thôi.
Lúc đó Laporter xuất hiện.
- Thế nào? - Hoàng hậu hỏi.
- Thưa Lệnh bà, - người hầu phòng đáp, - tôi đã đi theo họ ra cổng; họ báo tin cho tất cả bạn bè của họ rằng họ đã trông thấy vua và hoàng hậu đã nói chuyện với họ, thành thử họ ra về với vẻ rất hãnh diện và đắc ý
- Ôi! Bọn khốn nạn! - Hoàng hậu lẩm bầm, - Chúng sẽ phải trả giá về tội mạo muội của chúng, chính ta hẹn với chúng đấy?
Rồi quay về phía d Artagnan, bà nói:
- Này ông, tối nay ông đã cho tôi những lời khuyên hay nhất mà tôi nhận được trong đời mình. Hãy tiếp tục đi: chúng ta phải làm gì?
- Ông Laporter, - D Artagnan nói, - Mặc nốt quần áo cho Hoàng thượng.
- Chúng ta có thể đi rồi à? - Hoàng hậu hỏi.
- Khi nào Hoàng thượng muốn. Lệnh bà chỉ phải xuống cầu thang kín, và sẽ thấy tôi ở cửa.
- Ông đi đi, - Hoàng hậu nói, - Tôi sẽ theo ông.
D Artagnan cầm lấy cái bọc mà anh đã dặn Bernouin để ở trong xe. Ta còn nhớ đó là chiếc mũ và tấm áo choàng của gã đánh xe cho ông de Gondy.
Anh khoác áo lên vai và đội mũ lên đầu.
Người lính ngự lâm xuống xe.
- Này ông, - D Artagnan nói, - Ông đi trả lại tự do cho bạn đồng ngũ của ông đang canh giữ tên xà ích. Các ông đi ngựa của mình đến phố Tiquetonne khách sạn "La Chevrette" và lấy con ngựa của tôi và ngựa của ông Du Vallon, đem thắng yên cương theo kiểu chiến trận, rồi các ông dắt ra khỏi Paris và đến khu Cours-la-Reine. Nếu không thấy ai ở đấy thì các ông đi tiếp đến tận Saint-Germain. Công vụ của nhà vua!
Người lính ngự lâm giơ tay lên mũ chào và ra đi để hoàn thành những mệnh lệnh mà anh vừa nhận.
D Artagnan lên ghế xe.
Anh có một đôi súng ngắn ở thắt lưng, một khẩu súng trường ở dưới chân, thanh kiếm trần ở đằng sau.
Hoàng hậu xuất hiện, đằng sau bà có vua và quận công d Anjou, em trai vua.
- Cỗ xe của ông chủ giáo? - Hoàng hậu kêu lên và lùi lại một bước.
- Phải đó thưa Lệnh bà, nhưng xin cứ mạnh dạn trèo lên; chính tôi sẽ đánh xe.
Hoàng hậu thốt lên một tiếng kinh ngạc và leo lên xe. Vua lên sau và ngồi bên cạnh bà.
- Lại đây, Laporter, - Hoàng hậu bảo.
- Sao? Thưa Lệnh bà! - Người hầu phòng nói - Ngồi cùng một xe với các Hoàng thượng ư!
- Tối nay không có chuyện nghi thức, mà là việc của nhà vua. Lên đi, Laporter.
Laporter tuân lệnh.
- Đóng các rèm cửa lại, - D Artagnan bảo.
- Nhưng thế liệu có gây nên sự nghi ngờ không hả ông? - Hoàng hậu hỏi.
- Xin Lệnh bà cứ yên tâm, - D Artagnan đáp, - Tôi đã có sẵn câu trả lời.
Người ta đóng rèm cửa xe và phi nước đại qua phố Richelieu. Đến cửa ô, viên chỉ huy đồn tiến ra, tay cầm ngọn đèn và dẫn đầu mười hai người.
D Artagnan ra hiệu cho viên đội trưởng đến gần và nói:
- Ông có nhận ra xe của ai không?
- Không, - Viên đội trả lời.
- Hãy nhìn gia huy xem.
Viên đội mang dèn lại gần tấm biển xe.
- Gia huy của Ngài chủ giáo? - Anh ta nói.
- Sụyt! Ngài đang hú hí với bà de Guéménée .
Viên đội bật cười, nói:
- Mở cửa ra. Tôi biết là cái gì rồi đó.
Rồi đến gần tấm rèm buông, anh ta nói:
- Đức ông ơi, khoái tỉ nhé!
- Tò mò , - D Artagnan kêu, - Cậu làm tớ bị đuổi mất.
Chiếc rào chắn cót két trên bản lề và trông thấy đường mở, d Artagnan ra roi quất mạnh lũ ngựa khiến chúng chạy lồng lên.
Năm phút sau đã tới chỗ xe của giáo chủ.
- Mousqueton, - D Artagnan gọi, - Hãy vén các tấm màn xe của hoàng thượng lên.
- Chính ông ta đấy, - Porthos nói.
- Làm người đánh xe? - Mazarin kêu lên.
- Và với cỗ xe của ông chủ giáo?
- Hoàng hậu tiếp lời - Corpo di dio! - Mazarin nói,
- Ông d Artagnan, ông đang giá nghìn vàng.
-*-*-*-
Chương 55
Làm thế nào mà d'Artagnan và Porthos kiếm được một người hai trăm mười chín, một người hai trăm mười lăm louis nhờ bán rơm
Mazarin muốn đi ngay lập tức đến Saint-Germain, nhưng hoàng hậu nói rằng bà còn phải đợi những người bà đã hẹn. Tuy nhiên bà dành cho ông chỗ của Laporter. Giáo chủ nhận và chuyển từ xe này sang xe nọ.
- Không phải vô cớ mà tiếng đồn rằng vua sẽ rời Paris vào ban đêm. Mươi mười hai người được biết cuộc đi trốn đó từ sáu giờ chiều, và dù kín đáo đến mấy, họ không thể truyền lệnh ra đi mà câu chuyện không lọt ra ngoài chút ít. Vả chăng mỗi người trong bọn họ đều có một vài người quan hệ thân thiết, và do người ta chẳng còn nghi ngờ gì là hoàng hậu rời Paris với những kế hoạch trả thù khủng khiếp, nên mỗi người đều báo trước cho bạn hữu hoặc họ hàng thành thử tiếng đồn về cuộc ra đi ấy lan nhanh ra các phố phường trong thành phố như một vệt thuốc súng.
Cỗ xe đầu tiên đến sau xe hoàng hậu là xe của Ngài Hoàng thân, trong có ông de Condé, bà Condé và bà hoàng thân quả phụ. Cả hai đều bị khua dậy từ nửa đêm và chẳng hiểu vì sao cả.
Cỗ xe thứ hai có quận công d Orléans và bà quận công. Bà Cô lớn và tu viện trưởng de La Rivière, người sủng ái không thể tách rời và là cố vấn thân tín của quận công.
Xe thứ ba có ông de Longueville và hoàng thân de Conti là em và em rể ngài Hoàng thân. Họ xuống xe đến gần cỗ xe của vua và hoàng hậu để bái chào Hoàng thượng.
Hoàng hậu phóng một cái nhìn vào tận đáy xe cửa vẫn mở và thấy xe không còn ai. Bà hỏi:
- Thế còn bà Longueville đâu?
- Ô! Mà em gái tôi đâu nhỉ? - Hoàng thân de Condé hỏi.
- Thưa Lệnh bà, - Quận công de Longueville đáp, - Bà nhà tôi đau và có nhờ tôi xin với Hoàng thượng xá lỗi cho.
Anne d Autriche đưa mắt rất nhanh sang Mazarin, ông đáp lại bằng một cái lắc đầu khó nhận biết.
- Về chuyện này, ông thấy thế nào? - Hoàng hậu hỏi.
- Tôi cho rằng đó là một con tin đối với dân chúng Paris, - Giáo chủ đáp.
- Tại sao cô ta không đến? - Hoàng thân de Condé khẽ hỏi de Conti.
- Im nào! - Ông này đáp, - Chắc hẳn bà ta có lý do riêng của mình.
- Bà ấy làm hại chúng ta, - Hoàng thân lẩm bẩm.
- Bà ấy cứu chúng ta, - Hoàng thân de Conti nói.
Xe cộ ùn ùn đến. Có thống chế de La Meilleraie, thống chế de Villeroy, Gitaud, Villequier, Comminger; hai người lính ngự lâm cũng tới dắt theo ngựa của d Artagnan và Porthos. D Artagnan và Porthos nhảy lên ngựa. Tên đánh xe của Porthos thay d Artagnan trên cỗ xe chở Hoàng hậu, còn Mousqueton thay thế tên đánh ngựa và cứ đứng sừng sững mà đánh xe với lý do mà chỉ riêng hắn biết, chẳng khác gì chàng l Automédon ngày xưa.
Hoàng hậu mặc dầu bận hàng trăm việc linh tinh vẫn đưa mắt tìm d Artagnan, nhưng chàng Gascon đã chen lẫn vào đám đông với sự thận trọng quen lệ của mình. Anh bảo Porthos:
- Chúng ta hãy đi tiền trạm và sửa soạn chỗ ở cho tử tể ở Saint-Germain, vì chẳng ai sẽ nghĩ đến chúng ta đâu. Tôi cảm thấy mệt mỏi lắm rồi.
- Tôi buồn ngủ dúi dụi ra rồi - Porthos nói. - Thề mà nói rằng chúng ta chẳng có một trận chiến đấu cỏn con nào! Rõ rằng dân Paris thật là ngu ngốc.
- Chẳng phải là chúng ta khôn ngoan hơn không? - D Artagnan nói.
- Có lẽ
- Thế cổ tay cậu có đỡ đau không?
- Khá rồi. Nhưng cậu có tin rằng lần này chúng ta nắm chắc không?
- Cái gì cơ?
- Cái lon của cậu và cái tước hiệu của tôi ấy mà.
- Thực tình có? Gần như tôi dám cuộc như vậy. Với lại nếu họ không nhớ ra thì tôi sẽ làm cho họ nhớ.
- Có tiếng hoàng hậu kìa, - Porthos nói. - Hình như bà đòi cưỡi ngựa.
- Ồ! Bà ấy thì rất muốn đấy, nhưng...
- Nhưng sao?
- Nhưng mà giáo chủ không muốn.
Rồi d Artagnan bảo hai người lính ngự lâm:
- Các ông đi theo xe hoàng hậu và không được rời xa cửa xe. Chúng tôi đi sửa soạn chỗ nghỉ.
Và d Artagnan cùng Porthos phóng về phía Saint-Germain.
- Các ông? Chúng ta đi nào! - Hoàng hậu nói.
Cỗ xe vua lên đường theo sau là tất cả các xe khác và hơn năm mươi kỵ binh.
Đoàn đi tới Saint-Germain không gặp chuyện gì trắc trở. Bước xuống bậc xe, Hoàng hậu thấy Hoàng thân đang bỏ mũ đứng đợi để đỡ bà xuống.
Mặt mày rạng rỡ, bà nói:
- Hay thật! Khi dân chúng Paris tỉnh giấc.
- Chiến tranh đấy, - Hoàng thân nói.
- Chiến tranh ư? Được lắm! Chúng ta chẳng có về phía chúng ta con người chiến thắng Rocroy ạ, Nordlingen và Lens đó sao?
Hoàng thân nghiêng mình ra hiệu cảm ơn.
Ba giờ sáng. Hoàng hậu đi đầu vào lâu đài. Mọi người vào theo; gần hai trăm người đã đi theo bà trong cuộc đi trốn.
- Thưa các ông, - Hoàng hậu cười nói, - Các ông nghỉ tại đây, lâu đài rộng rãi chẳng thiếu chi đâu: nhưng ta không tính đến đây, nên người ta cho tôi biết là tất cả chỉ có ba cái giường, một cho vua, một cho tôi.
- Và một cho Mazarin, - Ông Hoàng thân khẽ nói.
- Còn tôi, tôi sẽ nằm ở dưới sàn à? Gaston d Orléans nói với một nụ cười lo ngại.
- Không, thưa Đức ông, - Mazarin nói, - Giường thứ ba dành cho Điện hạ.
- Thế còn ông, - Hoàng thân hỏi.
- Tôi không ngủ, - Mazarin đáp, - Tôi còn phải làm việc.
Gaston bảo người ta trỏ cho mình buồng và giường, chẳng buồn lo xem vợ và con gái mình nghỉ ngơi bằng cách nào.
- Còn ta, ta sẽ đi nằm, - D Artagnan nói. - Porthos lại đây với tôi!
Porthos đi theo d Artagnan với niềm tin cậy sâu sắc vào trí tuệ của bạn mình.
Họ đi bên nhau trên quảng trường của toà lâu đài. Porthos ngơ ngác nhìn d Artagnan đang bấm ngón tay tính tính toán toán.
- Mỗi cái một pistol, bốn trăm cái bốn trăm pistol.
- Đúng rồi. Bốn trăm pistol, - Porthos nói, - Nhưng cái gì làm nên bốn trăm pistol cơ chứ?
- Một pistol chưa được, tiếp tục tính toán, phải đáng một louis.
- Cái gì đáng giá một louis?
- Một louis một cái, bốn trăm cái vị chỉ là bốn trăm louis.
- Bốn trăm à? - Porthos hỏi.
- Phải, họ hai trăm người; một người cần ít ra là hai cái; vậy tổng cộng là bốn trăm cái.
- Nhưng bốn trăm cái gì cơ chứ?
- Nghe đây, - D Artagnan nói. - Do ở đây có đủ loại người đang ngơ ngác xem triều đình tới..., - anh nói thầm vào tai Porthos.
- Tôi, hiểu rồi, - Porthos nói - thực tình tôi hiểu rất rõ! Mỗi đứa hai trăm louis hay lắm, nhưng người ta sẽ nói gì?
- Họ muốn nói gì thì nói, vả lại họ có biết là chúng ta đâu?
- Thế ai sẽ đi phân phối?
- Mousqueton chẳng có đây sao? - Thế còn áo đâu! - Porthos nói: người ta sẽ nhận ra áo đâu của nhà tôi.
- Thì nó lộn áo ra!
- Cậu bao giờ cũng phải, bạn thân mến ạ, - Porthos kêu lên, - Nhưng tất cả những ý kiến ấy, cậu moi móc ở nơi quỷ quái nào ra thế.
D Artagnan mỉm cười.
Đôi bạn đi vào phố đầu tiên mình gặp. Porthos gõ cửa nhà bên trái.
- Có rơm không? - Họ hỏi.
- Thưa ông, nhà chúng tôi không có, người chủ đáp, - Nhưng các ông hãy đến hỏi người bán rơm ạ.
- Người bán rơm ở đâu?
- Ở cái cổng lớn cuối phố này.
- Bên trái hay bên phải.
- Bên trái.
- Ở Saint-Germain liệu còn các nhà khác có rơm rạ không?
- Cô chủ quán Mouton-Couronné và bác chủ trại Gros Louis.
- Họ ở đâu?
- Phố Ursulines.
- Cả hai đều ở phố ấy ư?
- Phải.
- Tốt lắm.
Đôi bạn đến nhà thứ hai và thứ ba hỏi thăm, họ chỉ đúng như nhà đầu tiên. Rồi d Artagnan đến nhà người buôn rơm, mua một trăm năm mươi bó rơm hết ba trăm pistol. Anh tiếp tục đến nhà chủ quán và thấy Porthos đang mua hai trăm bó với giá tương tự. Cuối cùng bác chủ trại Louis biếu không tám mươi bó. Thế là tổng cộng được bốn trăm ba mươi bó rơm.
Saint-Germain không còn rơm.
Những việc vơ vét ấy không mất quá nửa giờ. Mousqueton được dặn dò cẩn thận, đứng đầu cuộc mua bán bất ngờ ấy. Hắn được dặn không bán một chút rơm nào dưới giá một louis một bó, và phải thu được bốn trăm ba mươi louis.
Mousqueton lắc đầu và chăng hiểu gì về sự đầu cơ của hai ông bạn.
D Artagnan vác ba bó rơm trở về lâu đài. Ai này đều rét run cầm cập và buồn ngủ dúi dụi, nhìn một cách thèm thuồng ganh tỵ , nhà vua, hoàng hậu và Đức ông nằm trên giường.
D Artagnan vào, gây ra một trận cười rộn rã cả phòng.
Nhưng anh làm ra vẻ không nhận thấy rằng mình là đối tượng chú ý của mọi người và anh bắt tay vào xếp dọn cái ổ rơm của mình khéo léo biết bao vui vẻ biết bao khiến cho những kẻ tội nghiệp buồn ngủ mà không ngủ được kia phải thèm rỏ dãi.
- Phải có rơm? - Họ kêu lên, - Phải có rơm! Kiếm rơm ở đâu bây giờ?
- Tôi sẽ dẫn các ông đi, - Porthos nói.
Và anh dẫn các vị ham thích đến chỗ Mousqueton, hắn phân phát một cách hào hiệp các bó rơm, cứ mỗi bó một louis. Người ta thấy rõ là hơi đắt, nhưng khi đã buồn ngủ rũ người ai mà chẳng sẵn sàng bỏ ra vài ba louis để mua lấy vài tiếng đồng hồ ngủ ngon giấc?
D Artagnan liên tiếp nhượng lại ổ rơm của mình đến mười lần, và anh coi như đã trả tiền rơm của mình như mọi người khác, mỗi bó một louis cho nên anh bỏ túi được ba chục louis trong non nửa giờ. Đến năm giờ sáng giá rơm lên đến tám mươi livres một bó, nhưng cũng chẳng có mà mua.
D Artagnan đã cẩn thận để dành bốn bó rơm cho mình. Anh cầm chìa khoá phòng giấu rơm và cùng Porthos, anh ra tính toán với Mousqueton. Chất phác và giống như một viên quản lý đứng đắn mà hắn đã làm, hắn nộp lại cho hai ông chủ bốn trăm ba mươi louis và còn giữ một louis cho mình.
Mousqueton không biết gì về những chuyện đã diễn ra ở lâu đài, không hiểu vì sao ý nghĩ về việc bán rơm lại không đến với hắn sớm hơn.
D Artagnan bỏ tiền vào mũ và trở về thanh toán với Porthos.
Mỗi người được hai trăm mười năm louis.
Lúc bấy giờ Porthos mới nhận ra rằng anh không có rơm để dành cho mình, anh quay lại chỗ Mousqueton thì hắn đã bán sạch không giữ lại một cọng rơm nào cho hắn cả.
Anh tìm đến d Artagnan. Nhờ để lại bốn bó rơm, d Artagnan đang bện lại và nếm náp trước một cách thú vị cái ổ thật êm ái độn cao trên đầu và kín dưới chân, đến vua trông thấy cũng phải thèm: nếu như vua ngủ chẳng được ngon giấc trong giường mình.
Bằng bất cứ giá nào d Artagnan cũng không muốn xáo trộn giường mình vì Porthos, nhưng với bốn louis bạn nộp cho anh, anh bằng lòng cho Porthos nằm chung với anh.
Anh xếp thanh gươm ở chân, để súng ngắn bên cạnh mình, trải áo choàng xuống chân, để mũ dạ lên áo choàng và khoan khoái duỗi mình lên ổ rơm kêu lạo xạo. Anh đã bắt đầu mơn man những mơ ước mà số tiền hai trăm mười chin louis kiếm được trong mười lăm phút gây nên, thì một tiếng gọi ở cửa phòng làm anh bật dậy.
- Ông d Artagnan, ông d Artagnan!
- Ở đây, - Porthos nói - Ở đây!
Porthos hiểu rằng nếu d Artagnan đi thì cái giường sẽ thuộc một mình anh.
Một sĩ quan tiến đến.
D Artagnan chống khuỷ tay nhổm dậy.
- Ông là d Artagnan phải không, - Viên sĩ quan hỏi.
- Phải, tôi đây. Ông cần gì?
- Tôi đi tìm ông.
- Ai bảo ông đi?
- Ngài giáo chủ.
- Hãy nói với Đức ông là tôi sắp ngủ và với tư cách bạn bè tôi khuyên ông ấy cũng làm như vậy.
- Các hạ không ngủ và sẽ không đi ngủ, và ngài cần ông ngay bây giờ.
- Ôn dịch bắt cái lão Mazarin ấy đi, lão ta không biết ngủ đúng lúc! D Artagnan lẩm bẩm. - Lão ấy muốn gì ở ta? Có phải để phong ta làm đại uý không? Trường hợp ấy thì ta thứ lỗi cho lão.
Và chàng ngự lâm quân vừa trở dậy vừa cằn nhằn, mang gươm, mũ, súng, áo choàng, rồi đi theo viên sĩ quan, còn Porthos ở lại làm chủ nhân độc nhất của cái giường rơm, thử bắt chước những mưu toan đẹp nhất của bạn.
Trông thấy người mà mình vừa mới cho đi tìm thật không đúng lúc, giáo chủ nói:
- Ông d Artagnan, tôi quên ông đã giúp đỡ tôi tận tình như thế nào và tôi sẽ đưa ra một bằng chứng.
- Hay, - D Artagnan nghĩ, - có vẻ là điểm tốt đây.
Mazarin nhìn người lính ngự lâm và thấy anh nở nang cả mặt mày.
- A! Đức ông.
- Ông d Artagnan, - giáo chủ nói, - Ông rất muốn làm đại uý phải không?
- Vâng, thưa Đức ông!
- À bạn ông, cũng vẫn ước ao làm nam tước chứ?
- Thưa Đức ông, lúc này ông ấy đang mơ làm nam tước.
- Vậy thì, - Mazarin, vừa nói rút ra một bức thư mà ông ta đã đưa d Artagnan xem - Ông cầm bức thư này và mang nó sang nước Anh.
D Artagnan nhìn phong bì không có địa chỉ.
- Tôi có được biết phải đưa lại cho ai không ạ?
- Đi tới London ông sẽ biết. Đến London ông mới được xé các phong bì ngoài.
- Ngài có điều gì chỉ giáo cho tôi?
- Tuân theo về mọi điểm người nhận thư này.
D Artagnan định hỏi thêm, thì Mazarin nói:
- Ông đi Boulogne-sur-Mer; đến quán Huy hiệu Anh quốc ông sẽ gặp một người quý tộc trẻ tên là Mordaunt.
- Vâng, và tôi phải làm gì với người ấy?
- Đi theo anh ta tới nơi mà anh ta dẫn đến.
D Artagnan kinh ngạc nhìn giáo chủ.
- Dặn dò ông thế là đủ rồi, - Mazarin nói, - thôi đi đi.
- Nói đi đi thì dễ lắm, - D Artagnan nói, - Nhưng muốn đi phải có tiền mà tôi thì chẳng có.
- A! - Mazarin gãi tai nói, ông nói là không có tiền à?
- Không có, thưa Đức ông.
- Thế cái nhẫn kim cương tôi cho ông hôm qua đâu?
- Tôi muốn giữ nó làm kỷ niệm của Đức ông.
Mazarin thở dài.
- Thưa Đức ông, ở nước Anh sinh hoạt đắt đỏ lắm, nhất là với tư cách phái viên đặc biệt.
- Hừm! - Mazarin nói. - Đó là một nước rất thanh đạm và sống giản dị từ khi có cách mạng nhưng không sao.
- Ông mở ngăn kéo và lấy ra một túi nhỏ.
- Ông nói thế nào về một nghìn êquy này?
D Artagnan bĩu môi dưới dài thè lè ra và nói:
- Thưa Đức ông, tôi nói rằng thế là ít, vì chắc chắn là tôi sẽ không đi một mình.
- Tôi đã tính rồi, - Mazarin đáp, - Ông Du Vallon sẽ cùng đi với ông, cái vị quý tộc xứng đáng ấy; vì rằng, ông d Artagnan thân mến ạ, sau ông thì chắc chắn là tôi yêu quý con người Pháp quốc ấy hơn cả.
D Artagnan bèn trỏ vào cái túi tiền mà Mazarin vẫn giữ khư khư và nói:
- Thưa Đức ông, nếu ngài yêu quý ông ta đến thế thì, ngài hiểu cho rằng...
- Được rồi. Vì coi trọng ông ta, tôi đưa thêm hai trăm êquy.
- Đồ bần tiện, - D Artagnan lẩm bẩm, rồi nói. - Nhưng ít ra thì khi trở về chúng tôi có thể trông cậy chứ? Ông Porthos vào tước hiệu nam tước của ông ấy và tôi vào cấp bậc của tôi.
- Lời thề của Mazarin.
- Tôi thích một lời thề khác hơn kia, - D Artagnan nói nhỏ với mình, rồi cao giọng. - Tôi có thể đến bái chào Hoàng thượng không ạ.
- Hoàng thượng ngủ, - Mazarin vội vã đáp, - Và ông cần phải đi ngay. Thôi, đi đi ông.
- Thêm một lời nữa, thưa Đức ông: nếu ở nơi tôi đến, người ta đang đánh nhau thì tôi có đánh nhau không?
- Ông sẽ làm theo lệnh người mà tôi biên thư.
- Được rồi, thưa Đức ông, - D Artagnan vừa nói và vươn dài tay ra nhận lấy túi tiền, - Và tôi xin bày tỏ với ngài lòng kính trọng của tôi.
D Artagnan thong thả bỏ bọc tiền vào cái túi áo rộng của mình, rồi quay lại nói với viên sĩ quan.
- Nhờ ông vui lòng đến đánh thức ông Du Vallon dậy, nói là lệnh của Các hạ và bảo ông ấy là tôi đợi ở chuồng ngựa.
Viên sĩ quan hối hả đi ngay, d Artagnan xem ra hắn có điều gì cần thiết nữa hay không?.
Porthos vừa mới ngả lưng xuống nệm rơm và bắt đầu ngáy du dương theo thói quen, thì có ai đó đập vào vai mình. Anh tưởng d Artagnan, nên không động đậy.
- Lệnh của giáo chủ, - Viên sĩ quan đáp.
- Hừm! - Porthos lầu bầu và mở to mắt, - Ông bảo gì?
- Tôi nói rằng Các hạ phải ông sang nước Anh và ông d Artagnan đợi ông ở chuồng ngựa.
Porthos buông một tiếng thở dài, đứng lên lấy mũ, súng, kiếm và áo choàng, rồi vừa đi ra vừa luyến tiếc ngoái nhìn cái nệm ấm mà anh đã tự hẹn với mình ngủ một giấc thật ngon lành.
Anh vừa mới quay lưng, thì viên sĩ quan đã nằm kềnh xuống chiếc nệm, mà anh chưa bước qua ngưỡng cửa thì kẻ kế tục anh đã ngáy đến vỡ nhà. Cũng tự nhiên thôi: anh ta là kẻ duy nhất trong tất cả cái đám người này cùng với vua và hoàng hậu và Đức ông Gaxton d Orléans ngủ mà không mất tiền.
-*-*-*-
Chương 56
Có tin tức về Aramis
D Artagnan đi thẳng đến chuồng ngựa. Trời vừa tảng sáng. Anh nhận ra ngựa của anh và của Porthos buộc ở máng ăn nhưng máng rỗng không. Nghĩ thương hại mấy con vật tội nghiệp anh lần đến một góc chuồng ngựa và thấy lấp lánh một ít rơm có lẽ thoát khỏi cuộc vơ vét đêm qua. Anh lấy chân vun rơm thì thấy mũi giày đụng phải một vật tròn tròn và có lẽ đụng phải chỗ phạm, nên nó hét lên một tiếng, chống đầu gối nhổm dậy và dụi mắt. Đó là Mousqueton, đêm qua không còn rơm cho mình, nên lấy rơm ăn của ngựa để nằm.
- Mousqueton, - D Artagnan bảo, - Nào, ta lên đường!
Nhận ra tiếng nói của bạn chủ mình, Mousqueton vội vàng đứng dậy và đánh rơi mấy đồng louis kiếm được khi đêm một cách bất hợp pháp.
D Artagnan nhặt một đồng louis ngửi và nói:
- Ô! Cái thứ vàng này có mùi kỳ cục thật, mùi rơm.
Mousqueton đó đừ mặt một cách đến là thật thà và có vẻ thật bối rối khiến chàng Gascon bật cười và bảo:
Porthos có lẽ sẽ nổi giận đấy, Mousqueton thân mến ạ, nhưng tôi thì tôi tha thứ cho cậu, song hãy nhớ rằng vàng này cần dùng để chữa cho các vết thương của chúng ta, và hãy vui lên nào.
Tức thì Mousqueton miệng cười toe toét, nhanh nhẩu thắng ngựa cho chủ và leo lên ngựa mình mà chẳng nhăn nhó bao nhiêu.
Vừa lúc ấy Porthos đi đến với bộ mặt cáu kỉnh và hết sức ngạc nhiên trông thấy d Artagnan với vẻ cam chịu và Mousqueton khá hớn hớ.
- Ái chà! - Anh nói, - Chắc là đã có cấp bậc cho cậu và Nam tước cho tôi phải không?
- Chúng tôi sắp đi kiếm mảnh bằng chứng nhận, - D Artagnan nói, - Và khi ta trở về tiên sinh Mazarin sẽ ký.
- Thế ta đi đâu? - Porthos hỏi.
- Trước hết đi Paris, - D Artagnan đáp, - Tôi muốn thu xếp vài công việc.
- Nào ta về Paris, - Porthos nói.
Và cả haỉ đi về Paris.
Tới mấy cửa ô họ kinh ngạc thấy thái độ doạ nạt của thành phố.
Chung quanh một cỗ xe bị phá tan tành dân chúng không ngớt phần chửi rủa, trong khỉ mấy người định đi trốn thì bị bắt giữ, chúng là một ông già và hai người đàn bà.
Trái lại khi d Artagnan và Porthos xin vào thì họ mơn trớn hết lời. Họ cho rằng đó là những người rời bỏ phe nhà vua và họ muốn thu hút về với họ.
- Vua đang làm gì? - họ hỏi.
- Vua ngủ.
- Còn mụ Tây Ban Nha?
- Bà ta mơ màng.
- Còn cái tên người Ý đáng nguyền rủa ấy?
- Lão ta thức, - D Artagnan đáp. - Như vậy các bạn phải giữ vững, bởi vì rằng nếu họ ra đi, chắc hẳn là để làm chuyện gì đó. Nhưng vì rốt cuộc các bạn là những kẻ mạnh hơn, không nên gay gắt với phụ nữ và ông già, và nên nhắm đúng những mục đích thực sự.
Dân chúng nghe những lời đó với vẻ thú vị và để cho mấy bà bị giữ đi, họ cảm ơn d Artagnan bằng một cái nhìn hùng hồn.
- Thôi bây giờ, tiến lên nào! - D Artagnan nói.
Và họ tiếp tục đi, xuyên qua các lũy chướng ngại, bước qua những dây xích, bị xô đẩy, bị căn vặn và cũng hỏi han lại những người khác.
Đến Hoàng cung, d Artagnan trông thấy một viên đội đang huấn luyện quân sự cho sáu trăm thị dân. Đó là Planchet, anh đang đem những điều nhớ được ở trung đoàn Piémont ra giúp cho đội tự vệ thành thị.
Đi qua trước mặt d Artagnan, anh nhận ra chủ cũ của mình.
- Kính chào ông d Artagnan, - Planchet nói với vẻ hãnh diện.
- Kính chào ông Dulaurier, - D Artagnan đáp.
Planchet đứng sựng lại trố đôi mắt thao láo và ngơ ngác ra nhìn d Artagnan. Hàng người đầu tiên thấy chỉ huy của mình dừng chân cũng đứng lại, cứ như thế cho đến hàng cuối cùng.
- Những bọn thị dân ấy thực là kỳ lạ một cách ghê gớm, - D Artagnan nói với Porthos.
Và anh lại tiếp tục đi.
Năm phút sau anh xuống ngựa trước khách sạn "La Chevrette.
Mỹ nhân Madeleine chạy ra đón d Artagnan.
- Bà Turquaine thân mến của tôi ơi, - D Artagnan nói, - Nếu bà có tiền bạc nhiều thì hãy chôn vùi cho nhanh lên; nếu bà có đồ tư trang hãy giấu ngay đi; nếu bà có con nợ, hãy đòi bằng được, nếu bà có chủ nợ thì chớ có trả họ.
- Tại sao thế? - Madeleine hỏi.
- Bởi vì Paris sắp biến thành tro bụi, như Babylone không hơn không kém, mà chắc hẳn bà đã nghe nói đến!(1)
- Thế ông chia tay tôi trong tình hình như thế này ư?
- Phải đi ngay bây giờ, - D Artagnan nói.
- Ông đi đâu?
- A! Nếu bà có thể bảo cho tôi biết điều đó, thì quả là bà giúp tôi một việc thực sự đấy.
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa!
D Artagnan giơ tay ra hiệu cho bà chủ quán hãy bớt những lời kêu ca than vãn đi vì có kêu cũng bằng thừa. Và anh hỏi:
- Có thư từ gì cho tôi không?
- Có một bức thư cũng vừa mới đến.
Và bà đưa thư cho anh.
- Thư của Arthos! - D Artagnan reo lên khi nhận ra nét chữ cứng cáp và dài của bạn.
- A, - Porthos nói, - xem anh ta nói những chuyện gì nào, d Artagnan mở thư và đọc:
"D Artagnan thân thiết,
Du Vallon thân mến,
Các bạn thân thiết của tôi ơi, có lẽ đây là lần cuối cùng các bạn nhận được tin tức của tôi. Aramis và tôi, chúng tôi cực khổ lắm, nhưng lạy Chúa, lòng dũng cảm của chúng tôi và kỷ niệm về tình bạn của chúng ta nâng đỡ chúng tôi. Hãy luôn nhớ đến Raoul. Tôi gửi gắm các bạn những giấy tờ để ở Blois, và trong hai tháng rưỡi nữa, nếu các bạn không nhận được tin tức về chúng tôi thì hãy xem những giấy tờ đó. Hãy ôm hôn thật mạnh tử tước hộ người bạn tận tụy này.
Arrthos"
- Chắc chắn là tôi sẽ ôm hôn nó, - D Artagnan nói, - Và như thế nó ở trên đường đi của chúng ta. Và nếu như nó bất hạnh bị mất đi, Arthos tội nghiệp của chúng ta, thì từ ngày hôm nay nó trở thành con trai của tôi.
- Và tôi - Porthos nói, - Tôi sẽ cho nó làm người thừa kế toàn hưởng của tôi.
- Xem Arthos còn nói gì nữa nào?
"Nếu trên các ngả đường đi, các cậu gặp một tên Mordaunt thì hãy coi chừng. Tôi không thể nói nhiều về điều đó ở trong thư".
- Mordaunt! - D Artagnan kinh ngạc kêu lên, - Mordaunt, được lắm, - Porthos nói, - Ta sẽ nhớ.
- Này, nhưng còn có lời tái bút của Aramis.
Thật thế, - D Artagnan nói.
Và anh đọc:
"Các bạn thân mến, Chúng tôi giấu giếm các bạn nơi trú ngụ của chúng tôi vì hiểu rõ lòng tận tụy anh em của các cậu và biết rõ rằng các cậu sẵn sàng đến để chết cùng với chúng tôi".
- Mẹ kiếp! - Porthos đùng đùng nổi giận hét lên làm Mousqueton bắn đi tới cuối phòng, - Như vậy là cậu đang gặp nguy hiểm chết người à?
D Artagnan đọc tiếp:
"Arthos truyền lại cho cậu Raoul, còn tôi truyền lại cho cậu một cuộc trả thù. Nếu may mắn các cậu tóm được một tên Mordaunt nào đó, thì hãy bảo Porthos dẫn nó đến một xó và vặn cổ nó đi. Tôi không dám nói gì hơn trong một lá thư.
Aramis"
- Nếu chỉ có thế thì dễ dàng lắm, - Porthos nói.
- Trái hẳn lại cậu ạ, - D Artagnan rầu rầu đáp - Vì không thể được.
- Sao vậy?
- Vì đúng là cái tên Mordaunt mà chúng ta phải gặp ở Boulogne-sur-Mer và đi cùng hắn sang Anh.
- Thế thì, đáng lẽ đuổi theo tên Mordaunt ấy, Chúng ta đuổi theo các bạn của ta. - Porthos nói với những cử chỉ có thể làm kinh hãi cả một đội quân.
- Tôi có nghĩ đến điều đó, - D Artagnan nói, - Nhưng bức thư không có ngày cũng chẳng có con niêm.
- Đúng thế, - Porthos nói.
Và anh đi đi lại lại trong phòng như một kẻ lạc lối, làm mọi điệu bộ và chốc chốc lại rút gươm gần ra khỏi vỏ.
Còn d Artagnan đứng ngây ra như một người thất đảm và trên gương mặt anh hiện lên nỗi đau buồn sâu sắc nhất.
- A! Thãt là một chuyện không hay! - Anh nói - Arthos coi thường chúng ta, anh ấy muốn chết một mình, không tốt!
Nhìn thấy hai nỗi thất vọng tầy đình ấy, Mousqueton khóc rưng rức ở trong góc phòng.
- Thôi, - D Artagnan nói, - Làm như thế chẳng được tích sự gì. Chúng ta hãy đi gặp và ôm hôn Raoul như ta đã nói, và có khi nó nhận được tin của Arthos.
- Ô đó là một ý kiến hay, - Porthos nói, - D Artagnan thân mến ạ, thực ra tôi không biết cậu định làm gì, nhưng cậu có rất nhiều ý kiến. Ta hãy đến gặp Raoul đi.
- Kẻ nào đụng đến ông chủ ta lúc này hãy coi chừng, - Mousqueton nói, - Ta sẽ lột xác nó ra.
Họ lên ngựa và ra đi. Đến phố Saint-Denis, họ thấy một đám tụ hội dân chúng. Đó là ông de Beaufort vừa mới từ Vendôme tới và được ông chủ giáo giới thiệu với đám dân Paris kinh ngạc và mừng rỡ.
Với ông de Beaufort, họ coi như từ nay mình là kẻ bất khả chiến bại.
Đôi bạn rẽ sang một phố nhỏ để khỏi gặp hoàng thân và đi đến cửa ô Saint-Denis. Mấy lính canh hỏi hai kỵ sĩ:
- Có đúng là ông de Beaufort đã tới Paris không?
- Đúng quá rồi còn gì, - D Artagnan đáp, - và bằng chứng là ông ấy phái chúng tôi đi đón cha ông ấy là cụ de Vendôme cũng sắp tới nơi.
- Ông de Beaufort muôn năm! - Lính canh hô to.
Và họ kính cẩn lui ra để những phái viên của ông hoàng vĩ đại đi qua.
Ra khỏi cửa ô, con đường như bị ngốn ngấu bởi những con người không hề biết mệt mỏi hay chán nản; ngựa của họ bay đi và họ không ngớt bàn tán về Arthos vả Aramis.
Mousqueton chịu đựng mọi nỗi đau đớn không thể tưởng tượng nổi, nhưng người nô bộc tuyệt vời ấy tự an ủi, nghĩ rằng hai ông chủ của mình còn nếm trải biết bao nỗi đau khổ khác. Bây giờ hắn đi tới coi d Artagnan như ông chủ thứ hai và hắn tuân lệnh anh còn nhanh nhảu hơn và nghiêm chính hơn đối với Porthos.
Doanh trại đóng ở giữa Saint-Omer et Lambres; đôi bạn đi vòng đến tận trại và kể lại cho quân đội biết chi tiết về cuộc đi trốn của vua và hoàng hậu mà ở đây chỉ mới được nghe tin không rõ ràng. Họ thấy Raoul ở cạnh lều của mình nằm trên một bó rơm mà con ngựa đang rút vụng mấy cọng. Chàng thanh niên mắt đỏ ngầu và có vẻ thất vọng. Thống chế de Grammont và bá tước de Guise trở về Paris và cậu bé tội nghiệp thấy mình lẻ loi.
Lát sau, Raoul ngước mắt lên trông thấy hai kỵ sĩ đang nhìn mình anh nhận ra và chạy tới, hai tay dang ra.
- Ô! Các ông bạn thân mến đấy ư? - Anh reo lên,
- Các ông đến tìm tôi à? Các ông có đưa tôi đi với các ông không? Các ông có mang đến tin tức gì của vị đỡ đầu của tôi không?
- Thế anh không nhận được tin à? - D Artagnan hỏi.
- Chao ôi? Không, ông ạ, và tôi chẳng biết thực sự bây giờ ông ấy ra sao. Thành thử ra... Ôi! Thành thử ra tôi lo lắng đến phát khóc.
Quả thật hai giọt nước mắt lớn lăn trên đôi má sạm nâu của chàng thanh niên.
Porthos quay đi để người ta khỏi nhìn thấy trên khuôn mặt phương phi mà hiền lành của anh những gì đang diễn ra trong trái tim anh.
D Artagnan từ lâu lắm rồi mới thấy mình xao xuyến mạnh đến thế. Anh nói:
- Anh bạn ơi, việc gì phải thất vọng. Anh không nhận được thư của bá tước, thì chúng tôi nhận được... một...
- Ô! Thật ư? - Raoul reo lên.
- Và thư đáng yên tâm nữa kia, - D Artagnan nói khi nhìn thấy nỗi vui mừng mà tin tức ấy đem lại cho cậu thanh niên.
- Ông có thư đấy không? - Raoul hỏi.
- Có, nghĩa là tôi đã có, - D Artagnan vừa nói vừa làm bộ lục tìm, - Đợi tí, chắc nó ở trong túi áo, bá tước nói về việc trở về, phải không Porthos.
Vốn là Gascon, d Artagnan không muốn một mình gánh chịu sự nói dối.
- Phải đấy, - Porthos húng hắng nói.
- Ôi! Đưa thư cho tôi, - Raoul nói.
- Ô Tôi mới còn đọc mà. Chẳng lẽ lại mất. A! khổ chưa, túi tôi bị thủng.
- Ồ! Đúng thế, ông Raoul, - Mousqueton nói. - Lá thư rất đáng mừng; các ông đây đã đọc cho tôi nghe và tôi đã khóc vì vui sướng.
- Ông d Artagnan ơi, - Raoul bình tĩnh lại được một nửa và hỏi, - Ít ra ông cũng biết bá tước ở đâu?
- A! Thế đấy! - D Artagnan nói, - Chắc chắn là tôi biết, nhưng, Chúa ơi! Đó là một điều bí mật.
- Tôi hy vọng là không phải đối với tôi.
- Không phải đối với anh, cho nên tôi sẽ nói ông ấy ở đâu?
Porthos trố mắt ngạc nhiên nhìn d Artagnan, d Artagnan lẩm bẩm: "Ta sẽ nói ở đâu để nó không thể tìm nhỉ?".
- Ông ấy đang ở Constantinople.
- Chỗ bọn Thổ Nhĩ Kỳ! - Raoul hốt hoảng kêu lên. - Lạy Chúa?
- Ông nói gì vậy?
- Ơ kìa, điều ấy làm anh sợ hãi ư? - D Artagnan nói. - Bọn Thổ thì là cái thá gì đối với những người như bá tước de La Fère và tu viện trưởng D Herblay?
- A! Bạn của ông đi cùng với ông bá tước à? - Raoul nói, - Điều ấy làm tôi yên tâm đôi chút.
"Cái thằng quỉ sứ d Artagnan ấy thật là nhanh trí!" Porthos lẩm bẩm, anh phục lăn cái mưu mẹo của bạn.
Vội chuyển hướng câu chuyện, d Artagnan nói:
- Đây là năm mươi pistol mà bá tước gửi cùng một chuyến thư cho anh. Tôi đoán là anh không còn tiền và món tiền này đến kịp thời.
- Thưa ông, tôi hãy còn hai mươi pistol.
- Ồ, cứ cầm lấy, thể là bảy mươi đồng.
- Và nếu anh muốn thêm nữa..., - Porthos nói và thọc tay vào túi.
- Xin cảm ơn, - Raoul đỏ mặt nói, - Nghìn lần cảm ơn ông.
Vừa lúc ấy Olivain hiện ra.
- Nhân tiện hỏi anh, - D Artagnan nói, cố để tên hầu nghe thấy.
- Anh có hài lòng về Olivain không?
- Vâng, cũng được ạ.
Olivain giả tảng không nghe thấy gì và đi vào lều.
- Anh trách gì cái thằng bố láo ấy?
- Nó tham ăn lắm, - Raoul nói.
- Ô! Thưa ông - Olivain nghe lời cáo buộc lại xuất hiện và nói.
- Nó hơi có tính ăn cắp.
- Ô, thưa ông!
- Và nhất là nhát như cáy.
- Ô! ô! ô! Ông ơi, ông bôi xấu tôi, - Olivain nói.
- Gớm nhỉ! - D Artagnan nói, - Olivain này, hãy nhớ rằng những người như bọn ta không thể để bọn nhút nhát hầu hạ, ăn cắp của chủ, ăn mứt kẹo vả uống rượu vang của chủ còn tha thứ được, chứ nhút nhát thì ta xẻo tai đi. Hãy trông ông Mousqueton kia, bảo ông ấy cho xem những vết thương danh dự, và nhìn xem tính dũng cảm thường lệ của ông ấy đã tô điểm vẻ uy phong lên gương mặt ông ấy như thế nào.
Mousqueton lên đến chín tầng mây, và nếu hắn dám thì hắn đã ôm hôn d Artagnan, trong khi chờ đợi hắn tự hứa với mình sẵn sàng chết vì anh nếu như cơ hội đến.
- Raoul hãy tống cổ thằng vô lại này đi, - d Artagna nói. - Vì nó nhát gan, có ngày nó làm mất thể diện.
- Ông hỏi rằng tôi nhát gan, - Olivain la lên, - Bởi vì hôm nọ ông toan đánh nhau với người cầm cờ của trung đoàn Grammont; và tôi từ chối không đi theo ông.
- Này, Olivain, - D Artagnan nghiêm khắc nói. - Một tên hầu không bao giờ được trái lệnh.
Rồi kéo nó ra chỗ khác anh bảo:
- Nếu chủ mày sai thì mày đã làm đúng, và đây là một êquy thưởng cho mày. Nhưng nếu có bao giờ chủ mày bị lăng nhục mà mày không xả thân vì chủ, thì tao sẽ cắt lưỡi mày và đem quét lên mặt mày đấy. Hãy nhớ lấy!
Olivain cúi mình và nhét đồng êquy vào túi.
- Raoul này, - D Artagnan nói, - Bây giờ ông Du Vallon và tôi phải đi làm nhiệm vụ sứ giả. Tôi không thể nói với anh là nhằm mục đích gì? Vì chính tôi cũng không biết, nhưng nếu anh cần điều gì thì cứ viêt thư cho bà Madeleine Turquaine ở khách sạn "La Chevrette phố Tiquetonne, và cứ rút tièn ở quỹ đó như ở quỹ nhà băng: tất nhiên cần tiết kiệm vì tôi không dồi dào như quỹ của ông Tổng giám thu d Emery đâu.
Và sau khi ôm hôn đứa con nuôi tạm thời anh chuyển nó sang cánh tay lực lưỡng của Porthos. Porthos nhấc bồng nó và để nó bám một lúc vào trái tim cao quý của chàng khổng lồ ghê gớm.
- Nào, ta lên đường, - D Artagnan nói.
Và họ đi Boulogne-sur-Mer, tới nơi trời gần tối, ngựa của họ đẫm mồ hôi và sùi cả bọt mép.
Họ đứng lại trước khi vào thành phố và cách đấy mười bước, có một người trẻ tuổi vận đồ đen trông như đang chờ đợi ai, và khi trông thấy họ, anh ta cứ nhìn chằm chằm mãi.
D Artagnan đến gần hắn ta và thấy hắn vẫn không rời mắt nhìn mình, anh nói:
- Ê, này ông bạn, tôi không thích người ta cứ nhìn mình từ đâu đến chân như vậy.
Người thanh niên không đáp lại câu đó của d Artagnan mà hỏi.
- Thưa ông, xin ông cho biết ông có phải từ Paris đến không?
D Artagnan cho rằng đó là một kẻ tò mò nào muốn biết tin tức về kinh đô, nên đáp bằng một giọng mềm mỏng hơn.
- Phải đấy, ông ạ.
- Ông có phải vào nghỉ ở quán Huy hiệu Anh quốc không? Các ông có được Các hạ giáo chủ Mazarin giao cho một sứ mệnh không?
- Có, ông ạ.
Nếu vậy thì chính tôi là người ông cần liên hệ, tôi là Mordaunt.
- A! - D Artagnan tự nhủ thầm, - Kẻ mà Arthos dặn ta phải coi chừng.
- A - Porthos lẩm bẩm. - Kẻ mà Aramis muốn ta vặn cổ.
Cả hai người chăm chú nhin gã thanh niên.
Gã hiểu lầm cái vẻ nhìn ấy và nói:
- Các ông nghi ngờ lời tôi nói chăng? Nếu vậy tôi sẵn sàng đưa ra mọi bằng chứng.
- Không, ông ạ, - D Artagnan nói, - Chúng tôi sẵn sàng theo ý ông.
- Vậy thì, các ông ơi, - Mordaunt nói, - Chúng ta đi ngay không chậm trễ, bởi vì hôm nay là ngày hạn cuối cùng mà ông giáo chủ đã hẹn với tôi. Tàu của tôi đã sẵn sàng, nếu các ông không đi thì tôi đi một mình, và tướng Olivier Cromwell chắc đang rất sốt ruột đợi tôi trở về.
- A! a, - D Artagnan nói, - Như vậy là chúng ta được phải đến tướng Olivier Cromwell.
- Ông không mang một bức thư gửi cho Ngài ư? - Người thanh niên hỏi.
- Tôi có một bức thư mà tôi chỉ được mở phong bì ngoài khi tới London, nhưng là vì ông đã nói là phải gửi tới ai rồi, cho nên chẳng cần phải đợi khi tôi đến đó.
D Artagnan xé luôn phong bì. - Quả thật bức thư để:
"Gửi ngài Olivier Cromwell, tướng lãnh quân đội quốc gia Anh".
- A! - D Artagnan nói, - Sứ mệnh lạ lùng.
- Ông Olivier Cromo là người như thế nào? - Porthos hỏi khẽ.
- Một người trước làm rượu bia, - D Artagnan đáp.
- Phải chăng lão Mazarin muốn làm một vụ đầu cơ rượu bia giống như chúng ta đã đầu cơ rơm? - Porthos nói.
- Nào, nào, ta đi thôi, các ông ơi, - Mordaunt sốt ruột nói.
- Ồ, ồ! Không ăn tối à? - Porthos kêu, - Ông Cromwell không chờ được một chút hay sao?
- Vâng, nhưng còn tôi? - Mordaunt nói.
- Ông thì sao? - Porthos hỏi.
- Tôi, tôi rất vội.
- Ồ! Nếu là việc ông thì chẳng can hệ gì đến tôi, - Porthos nói, - Và tôi sẽ ăn tối dù có được phép hay không được phép của ông.
Cái nhìn mơ hồ của gã thanh niên chợt rực lên và như sắp tóe ra một tia chớp, nhưng gã tự kiềm chế.
- Ông ạ, - D Artagnan nói, - Cần miễn thứ cho những lữ khách đói bụng. Vả lại bữa ăn của chúng tôi chẳng làm ông bị muộn lắm đâu. Chúng tôi sẽ phóng ngay đến quán. Ông cứ đi bộ ra bến, chúng tôi ăn một miếng, rồi sẽ theo kịp ông thôi mà.
- Xin tuỳ ý các ông - Mordaunt nói, - Miễn là chúng ta sẽ ra đi.
- May quá, - Porthos lẩm bẩm.
- Tên tàu là gì? - D Artagnan hỏi.
- Tàu Standard.
- Được rồi. Nửa giờ nữa chúng ta sẽ lên tàu.
Và đôi bạn thúc ngựa phóng đến quán Huy hiệu Anh quốc.
Vừa phi d Artagnan vừa hỏi:
- Cậu thấy gã thanh niên thế nào?
- Tôi chẳng ưa cái thằng ấy chút nào, - Porthos nói, và tôi chỉ thấy ngứa ngáy chân tay dữ dội, muốn làm theo lời dặn của Aramis.
- Chớ có làm như vậy, - Porthos thân mến ạ; đó là một phái viên của tướng Cromwell. Tôi chắc rằng chúng mình sẽ được tiếp đãi tồi tệ nếu báo cho ông ấy biết là chúng ta đã vặn cổ người bộ hạ tin cẩn của ông ấy.
- Mặc kệ - Porthos nói, - Tôi thấy Aramis là người có ý kiến hay.
- Hãy nghe tôi, - D Artagnan nói, - Khi sứ mệnh của chúng mình làm xong.
- Thì sao?
- Nếu nó đưa chúng ta trở lại Pháp...
- Sao nữa?
- Thì rồi ta sẽ tính.
Đôi bạn tới quán Huy hiệu Anh quốc ăn uống ngon lành, rồi đi ngay ra cảng. Một con tàu sẵn sàng giương buồm, và trên boong tàu, họ nhận thấy Mordaunt đang đi đi lại lại ra vẻ sốt ruột lắm.
Trong lúc, con thuyền chờ họ ra cặp mạn tàu Standard, d Artagnan nói:
- Cái gã thanh niên kia giống một cách lạ lùng một người nào đó mà mình đã quen, nhưng không nhớ được là ai.
Họ đến chỗ bắc cầu và lát sau đã lên tàu.
Nhưng đưa ngựa lên lâu hơn và đến tám giờ tối mới nhổ neo được.
Gã thanh niên sốt ruột giậm chân và bắt người ta phải kéo buồm lên...
Porthos mệt lử vì ba đêm qua không ngủ và vì một cuộc đường chạy ngựa bảy mươi dặm, vào phòng là ngủ ngay liền.
D Artagnan kiềm chế nỗi ghê tởm đối với Mordaunt, đi dạo với hắn ở trên boong và kể lể đủ mọi thứ chuyện để buộc hắn phải nói.
Mousqueton thì say sóng.
Chú thích:
(1) Babylone: thành phố cổ xưa, ở trên đất Irắc ngày nay, bị quân Hitxít phá trụi vào khoảng hơn một nghìn năm trước Công nguyên.
-*-*-*-
Chương 57
Người Scotch phản bội lời thề, vì một đồng xu, bán rẻ Đức vua
Giờ đây, xin bạn đọc hãy để mặc con tàu Standard lặng lờ trôi không phải về phía London nơi mà d Artagnan và Porthos đã ngĩ là sẽ đến, nhưng con tàu lại chạy vế phía Durham, nơi mà Mordaunt trong thời gian lưu trú ở Boulogne-sur-Mer đã nhận được thư từ ra lệnh cho anh ta phải trở về đó. Xin các bạn hãy theo chúng tôi đến danh trại quân đội nhà vua đóng ở bên này sông Tyne, cạnh thành phố Newcastle.
Tại đó, giữa hai con sông, những tấm lều vải của một đội quân nhỏ trải ra trên biên giới giáp xứ Scotch nhưng vẫn ở trên đất Anh. Đã nửa đêm. Qua những bắp chân trần, những vạt áo ngắn, nhưng áo tới sặc sỡ và cái lông chim trang trí trước mũ nỉ của họ, ta vẫn có thể nhận ra những người dân vùng cao nguyên Scoth đang canh phòng uể oải. Mặt trăng lướt giữa hai đám mây lớn. Từng quãng chiếu sáng những khẩu súng hỏa mai của các lính canh và làm nổi bật mạnh mẽ những bức tường, những mái nhà và những tháp chuông của thành phố mà vua Charles I vừa mới nộp cho các toán quân của nghị viện, cũng như thành phố Oxford và Newark, họ còn cầm cự vì ông ta trong niềm hy vọng một sự hoà giải. Trong một mái lều rộng lớn ở một đầu doanh trại, đông đảo sỹ quan Scotch đang họp một cuộc hội nghị do lão bá tước de Loewen vị chỉ huy của họ chủ trì.
Cạnh lều, một người mặc kỵ sỹ đang nằm ngủ trên thảm cỏ, tay phải duỗi ra trên thanh kiếm.
Cách đấy năm chục bước, một người khác cũng vận y phục kỵ sỹ đứng nói chuyện với một lính canh Scotch dường như thông thạo tiếng Anh nên mặc dầu là người nước ngoài anh ta cũng hiểu được những câu trả lời của gã lính canh nói bằng thổ ngữ xứ Perth.
Chuông đồng hồ thành phố Newcastle điểm một giờ sáng, người kỵ sỹ ngủ choàng dậy và sau khi làm mọi cử chỉ của một người tỉnh dậy sau một giấc ngủ sâu, anh ta chăm chú nhìn ngó xung quanh.
Thấy chỉ có một mình mình. Anh đứng lên, rẽ quặt ngang và đi qua chỗ người kỵ sỹ đang nói chuyện với gã lính canh.
Chắc là đã hỏi chuyện xong vì một lát sau anh này từ giã người lính và đàng hoàng đi theo người kỵ sĩ nọ.
Đến chỗ bóng một chiếc lều dựng trên lối đi, người kỵ sĩ đi ra đứng lại đợi bạn và hỏi bằng thứ tiếng Pháp thuần tuý nhất từng được nói từ vùng Rouen đến Tour:
- Thế nào, bạn thân mến của tôi?
- Chà? Bạn ơi, chẳng còn thì giờ để mất đâu, cần phải báo trước cho nhà vua.
- Có chuyện gì xảy ra thế?
- Dài lắm, không thể nói được. Vả lại lát nữa cậu cũng sẽ được nghe cơ mà. Hơn nữa, chỉ một lời nói hở ra ở đây là hỏng hết mọi việc. Ta đi tìm Milord de Winter.
Và hai người đi đến phía cuối doanh trại. Do doanh trại chẳng rộng hơn năm trăm bước vuông, chẳng mấy chốc họ đã tới lều của người cần tìm kiếm.
- Tony, chủ của anh ngủ à? - Một kỵ sỹ nói bằng tiếng Anh với tên hầu nằm ở ngăn thứ nhất dùng làm phòng đợi.
- Thưa bá tước, không ạ, - Tên hầu đáp, chắc là không phải, hoặc nếu có ngủ thì cũng chỉ mới chợp mắt thôi, vì rằng sau khi cáo biệt đức vua về, ông chủ tôi cứ đi đi lại lại đến hơn hai tiếng đồng hồ và tiếng bước chân của ông mới ngừng độ một phút. Với lại, ông có thể xem đây, - Tên hầu vua nói thêm vừa vén tấm rèm cửa lên.
Quả thật Winter đang ngồi trước một ở cửa sổ để không khí ban đêm lọt vào, ông buồn rầu nhìn lên mặt trăng đang khuất sau những đám mây đen lớn.
Đôi bạn đi đến gần de Winter. Ông không nghe thấy gì, vẫn cứ ngồi nguyên, đầu tỳ lên bàn tay, mắt ngước nhìn trời. Mãi đến lúc thấy có người đặt tay lên vai mình, ông mới quay lại nhận ra Arthos và Aramis và giơ tay ra bắt tay họ. Ông nói:
- Các ông có nhận thấy đêm nay mặt trăng đỏ quá như nhuộm một màu máu không?
- Không - Arthos đáp, - Tôi thấy vẫn như mọi khi.
- Ông hiệp sỹ hãy nhìn xem - de Winter bảo.
- Xin thú thật rằng, tôi cũng đồng ý với bá tước de La Fère, - Aramis đáp, - và tôi thấy chẳng có gì khác thường cả.
- Thưa bá tước, - Arthos nói, - trong một tình cảnh thật là bấp bênh như tình cảnh chúng ta hiện nay, thì chính là cần phải xem xét ngay trên mặt đất, chứ không phải trên trời. Ông đã xem xét những người Scotch của chúng ta chưa và ông có tin chắc họ không?
- Những người Scotch à? - de Winter hỏi, - Những người Scotch nào?
- Ôi, Chúa tôi, - Arthos nói, - những người Scotch của chúng ta chứ còn ai nữa, những người mà nhà vua trông cậy những quân sĩ Scotch của bá tước Loewen.
- Không, - de Winter đáp, rồi ông nói thêm - Như vậy, các ông hãy nói xem có phải các ông không thấy như tôi cái màu đỏ đó kia đang che phủ bầu trời?
- Không thấy một chút nào cả! - Arthos và Aramis cùng đáp.
Vẫn băn khoăn về ý kiến ấy, de Winter lại nói:
- Các ông hãy cho tôi biết có đúng là có một truyền thuyết ở Pháp kể rằng trước hôm bị ám sát, vua Henri IV ngồi chơi cờ với ông de Bassompierre và trông thấy có những vết máu ở trên bàn cờ phải không?
- Phải - Arthos đáp, - Và ngài thống chế kể lại cho tôi nghe nhiều lần.
- Thế đấy, - de Winter lẩm bẩm - Và ngày hôm sau Henri IV bị giết chết.
- Nhưng bá tước ơi, cái ảo ảnh của Henri IV có liên quan gì đến ông kia chứ? - Aramis hỏi.
- Chẳng có gì cả, các ông ạ; kể ra tôi cũng điên rồ đi bàn với các ông những chuyện như vậy, khi mà vào giờ này các ông đến lều tôi chắc hẳn có tin tức gì quan trọng.
- Vâng, thưa Milord, - Arthos nói, - Tôi muốn nói chuyện với đức vua.
- Với đức vua ư? Nhưng vua đang ngủ.
- Tôi cần tiết lộ với vua những điều rất hệ trọng.
- Những chuyện đó để đến mai không được ư?
- Cần để vua biết ngay bây giờ, và có lẽ cũng đã quá muộn.
- Thế thì vào ngay đi, - de Winter nói.
Lều của de Winter dựng cạnh lề vua, hai lều thông nhau bằng một thứ hành lang. Việc canh phòng hành lang ấy không giao cho lính gác mà giao cho một tên hầu phòng tin cẩn của vua Charles I để trong trường hợp khẩn cấp nhà vua có thể liên hệ ngay với người bầy tôi trung thành của mình.
- Các ông này đi cùng với tôi, - de Winter nói.
Tên hầu cúi chào và để cho đi qua.
Quả thật vua Charles I không cưỡng nổi cơn buồn ngủ đang ngủ thiếp đi trên một chiếc giường dã chiến, mặc áo chẽn đen, chân đi ủng dài, thắt lưng nới lỏng, mũ để bên mình. Mấy người tiến lại.
Arthos đi đầu lặng yên ngắm nghía một lát bộ mặt thanh tao mà tái nhợt khuôn trong mớ tóc đen dài dính vào thái dương bởi mồ hôi của một giấc ngủ thảng thốt, những đường gân xanh to nổi lên như căng đầy nước mắt dưới cặp mắt mệt mỏi.
Arthos buông một tiếng thở dài; tiếng thở dài ấy khiến vua tỉnh dậy đủ biết nhà vua ngủ chập chờn như thế nào.
Vua mở mắt, rồi chống khuỷ tay nhổm người lên và nói:
- A! Bá tước de La Fère đấy à?
- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Arthos đáp.
- Ông thức canh chừng trong khi tôi ngủ, và ông mang tin tức gì đến cho tôi phải không?
- Chao ôi! - Arthos đáp. - Hoàng thượng đoán đúng.
- Tin tức xấu, phải không? - Vua rầu rầu mỉm cười và nói.
- Vâng thưa Hoàng thượng.
- Không sao, người mang tin là người được hoan nghênh, vả chẳng bao giờ ông đến tôi mà không làm cho tôi vui lòng. Ông do Henriette cử đến tôi, lòng tận tụy của ông không cần biết đến Tổ quốc đến tai hoạ.
Tin tức mà ông mang đến, dù thế nào đi nữa, ông cứ nói hẳn hoi.
- Thưa Hoàng thượng, ông Cromwell đã đến Newcastle tối nay.
- A! Để đánh tôi chăng? - Vua nói.
- Không đâu, thưa Hoàng thượng, để mua ngài.
- Ông nói gì thế?
- Thưa Hoàng thượng, tôi nói rằng ngài còn nợ quân đội Scotch bốn trăm nghìn livres
- Về tiền lương muộn trả? Phải, tôi biết. Từ gần một năm nay những người Scotch dũng cảm và trung thành của tôi chiến đấu vì danh dự.
Arthos mỉm cười, nói:
- Ấy thưa ngài, dù danh dự là một điều tốt đẹp, họ cũng chán chiến đấu vì nó rồi, và đêm nay họ đã bán ngài lấy hai trăm nghìn livres, tức là một nửa số tiền nợ họ.
- Không thể có chuyện ấy được, - Nhà vua kêu lên - Người Scotch bán vua của họ lấy hai trăm nghìn livres.
- Những người Do Thái rõ ràng đã bán Chúa của họ lấy ba mươi xu.
- Thế tên Judas nào đã làm cái việc mua bán đê mạt ấy?
- Bá tước de Loewen.
- Ông có chắc chắn không?
- Tôi đã nghe điều đó bằng chính tai mình.
Nhà vua buông một tiếng thở dài, dường như trái tim ông tan vỡ và gục đầu vào hai bàn tay mình.
- Ôi Những người Scotch - Ông nói,
- Những người Scotch mà ta gọi là những kẻ trung thành của ta những người Scotch mà ta gửi gắm thân mình khi ta trốn thoát ở Oxford, những người Scotch! Đồng bào của ta, những người Scotch! Anh em của ta! Nhưng ông ơi, ông có thật chắc chắn như thế không?
- Nằm sau tấm lều của bá tước de Loewen và vén rèm lên, tôi đã trông thấy hết cả và nghe thấy hết cả.
- Thế khi nào thì việc mua bán ghê tởm ấy phải hoàn tất?
- Trong buổi sáng ngày hôm nay. Hoàng thượng thấy đấy, không thể chậm trễ được nữa.
- Để làm gì cơ chứ, bởi vì ông nói rằng tôi đã bị bán rồi cơ mà.
- Để vượt qua sông Tyne, để sang đất Scotch, để đến với Lord Montrose, ông ta không bán ngài.
- Tôi sẽ làm gì ở Scotch? Làm một cuộc chiến tranh du kích ư? Một kiểu chiến tranh như vậy chẳng xứng dáng với một ông vua.
- Tấm gương của Robert Bruce(1) còn đó để xá miễn cho ngài.
- Không, không, tôi chiến đấu quá lâu rồi. Nếu chúng muốn bán tôi chúng cứ việc nộp tôi đi, và nỗi hổ nhục muôn đời về sự phản phúc của họ sẽ rơi xuống đầu họ.
- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói,
- Có thể một ông vua phải hành động như vậy, nhưng một người chồng hay một người cha không nên hành động như vậy. Tôi đến đây nhân danh vợ và con gái của ngài, và nhân danh vợ và con gái và hai con nữa của ngài đang còn ở London, tôi xin nói với ngài rằng: Thưa Ngài, Ngài phải sống, Thượng đế muốn như vậy?
Nhà vua đứng dậy, siết chặt dây lưng, gài thanh kiếm, lấy khăn lau mồ hôi trán và nói:
- Vậy thì, phải làm gì bây giờ?
- Thưa ngài, trong tất cả quân đội của ngài có một trung đoàn nào ngài có thể trông cậy không?
- De Winter, - Vua nói, - Ông có tin vào sự trung thành của trung đoàn ông không?
- Thưa Hoàng thượng, đó là những con người, mà những con người dễ trở thành rất yếu đuối hoặc rất độc ác. Tôi tin ở sự trung thành của họ, nhưng tôi không dám bảo đảm, tôi có thể gửi gắm tính mạng tôi cho họ nhưng tôi do dự khi phải gửi gắm họ tính mạng của Hoàng thượng.
- Thế này vậy, - Arthos nói, - không có trung đoàn, chúng ta có ba người tận tụy, thể là đủ. Xin Hoàng thượng hãy lên ngựa, đi ở giữa chúng tôi, chúng ta sẽ vượt qua sông Tyne, sang đất Scotch và chúng ta sẽ thoát.
- Ông có đồng ý như thế không, de Winter? - vua hỏi.
- Có, thưa Hoàng thượng.
- Còn ông hiệp sĩ D Herblay?
- Thưa ngài, tôi đồng ý.
- Vậy thì phải làm theo như các ông đã muốn, de Winter, hãy ra lệnh đi!
De Winter đi ra, trong khi ấy vua sửa sang y phục.
Những tia sáng đầu tiên của ban ngày bắt đầu lọt qua những ô cửa lều, thì de Winter vào.
- Thưa ngài, tất cả đã sẵn sàng, - Ông nói.
- Còn chúng ta? - Arthos hỏi.
- Grimaud và Blaisois đã thắng ngựa xong rồi.
- Thế thì, - Arthos nói, - ta không để mất một phút nào nữa và đi ngay.
- Ta ra đi nào, - Vua nói.
- Thưa ngài, - Aramis nói, - Ngài không bảo cho bè bạn biết à?
- Bạn bè của tôi ư, - Charles I buồn bã lắc đầu nói, - Tôi chẳng còn bạn bè nào khác ngoài ba ông ra. Một người bạn hai mươi năm chẳng bao giờ quên tôi; hai người bạn mà tám ngày tôi sẽ không bao giờ quên. Ta đi thôi, các ông, ta đi thôi.
Vua ra khỏi lều và thấy ngựa của mình đã sẵn sàng. Đó là một con ngựa màu vàng nhạt mà ông cưỡi được ba năm rồi và rất quý mến nó.
Con ngựa trông thấy ông, mừng rỡ hí lên.
- A! - Vua nói, - Ta hơi bất công, còn đây nữa, nếu không phải một người bạn thì ít ra cũng là một sinh vật yêu mến ta. Mày, mày sẽ trung thành với ta phải không, Arthus?
Như hiểu những lời nói đó, con ngựa giơ cái mũi bốc khói đến gần mặt vua và mừng rỡ nhếch mép lên để lộ hàm răng trắng nhơn.
- Phải rồi, phải rồi - Nhà vua lấy hai tay vuốt ve nó và nói, - Tốt lắm, Arthus, ta hài lòng về mày.
Và với cái dáng bộ nhẹ nhàng đã khiến nhà vua nổi tiếng là một trong những kỵ sĩ giỏi nhất châu Âu, Charles nhảy phắt lên mình ngựa, rồi quay lại phía Arthos, Aramis, và de Winter, ông nói:
- Nào, tôi chờ các ông đây.
Nhưng Arthos vẫn đứng yên, mắt đăm đăm và tay giơ về phía một vạch đen men theo bờ sông Tyne và trải ra trên một chiều dài gấp đôi bề dài của doanh trại. Giữa lúc còn đang tranh tối tranh sáng, anh chưa phân biệt được rõ ràng và nói:
- Đường vạch kia là cái gì ấy nhỉ? Hôm qua tôi không trông thấy.
- Chắc là sương mù từ sông bốc lên, - Vua nói.
- Thưa ngài, đó là một cái gì đặc và chắc hơn là hơi nước.
- Đúng vậy - de Winter nói, - Tôi thấy như một hàng rào chắn màu đo đỏ.
- Đấy là quân địch, - Arthos kêu lên, - Chúng từ Newcastle ra và bao vây chúng ta.
- Quân địch, - Vua nói. - Đúng là quân địch. Muộn quá rồi, kia kìa! Bên cạnh thành phố, chỗ có mặt trời, các ông có thấy những sườn sắt lấp lánh không?
Người ta gọi như vậy những lính mặc giáp sắt mà Cromwell trang bị cho các đội cận vệ.
- A! - vua nói, - chúng ta sắp được biết có đúng là những người Scotch của ta phản bội không?
- Ngài làm gì bây giờ? - Arthos hỏi.
- Ra lệnh cho họ công kích và cùng với họ đè bẹp những quân phiến loạn kia.
Và nhà vua thúc ngựa phóng đến lều của bá tước de Loewen.
- Chúng ta hãy đi theo ngài, - Arthos bảo.
- Nào ta đi, - Aramis nói.
- Nhà vua bị thương chăng - de Winter nói, - tôi trông thấy những vết máu trên mặt đất.
Và ông phóng theo hai người bạn. Arthos ngăn ông lại, bảo:
- Ông đi tập hợp trung đoàn ông lại; tôi thấy thế nào chúng ta sẽ cần đến nó.
De Winter quay ngựa lại, còn đôi bạn tiếp tục đi.
Vài giây sau, vua tới lều của viên tướng tổng chỉ huy quân đội Scotch, vua nhảy xuống đất và bước vào.
Viên tướng đang ở giữa các chỉ huy chủ yếu.
- Đức vua? - Họ vừa kêu vừa đứng lên và nhìn nhau với vẻ kinh ngạc.
Charles đứng trước mặt họ, mũ trên đầu, lông mày nhíu lại, ông cầm roi ngựa vụt vào chiếc ủng của mình mà nói:
- Phải rồi các ông ạ, đích thân nhà vua đây; nhà vua đến hỏi các ông về tình hình xảy ra.
- Thưa ngài, có chuyện gì ạ? - Bá tước dờ Loewen hỏi.
Nổi giận đùng đùng, vua nói:
- Có chuyện gì à? Tướng Cromwell đã đến Newcastle đêm qua, các ông biết mà tôi không được thông báo; có chuyện là quân địch ra khỏi thành phố và chặn đường qua sông Tyne, các lính canh ắt phải trông thấy cuộc vận động đó, vậy mà tôi không được thông báo; có chuyện là bằng một hiệp ước hèn hạ, các ông đã bán đứng nhà vua cho nghị viện lấy hai trăm nghìn livres, ít ra là tôi được thông bảo về việc đó. Đấy, những chuyện ấy đấy, các ông ạ. Tôi buộc tội các ông, các ông hãy trả lời hoặc thanh minh đi.
- Thưa Hoàng thượng, - Bá tước de Loewen lắp bắp - Ngài đã lầm vì một báo cáo sai nào đó.
- Chính mắt tôi trông thấy quân đội địch trải ra giũa tôi và xứ Scotch, - Charles I nói, - và hầu như tôi có thể nói rằng chính tai tôi đã nghe bàn luận những điều khoản của cuộc mua bán ấy.
Những viên chỉ huy Scotch đến lượt mình nhíu lông mày lại nhìn nhau.
Hổ thẹn chín người, bá tước de Loewen lẩm bầm:
- Thưa hoàng thượng, chúng tôi sẵn sàng trình với ngài mọi bằng chứng.
- Ta chỉ cần mỗi một bằng chứng thôi, - Vua nói. - Hãy đưa quân đội ra chiến đấu và tiến thẳng đến quân thù.
- Thưa ngài, không thể được?
- Có ai ngăn cản vậy - Charles I quát lên.
- Hoàng thượng biết rằng có đình chiến giữa chúng ta và quân đội Anh, - Bá tước đáp.
- Nếu có đình chiến thì quân Anh cũng phá bỏ nó rồi khi chúng ra khỏi thành phố trái với những điều ước buộc chúng phải ở yên trong thành. Ta đã nói với các ông rằng các ông phải cùng tôi xuyên qua quân địch và trở về Scotch. Nếu các ông không làm như vậy thì được? Hãy chọn lựa giữa hai cái tên nó phân biệt những kẻ đáng khinh bỉ và phỉ nhổ với những con người khác. Hay là các ông là những kẻ hèn nhát, hoặc các ông là những kẻ phản bội?
Mắt của những người Scotch rừng rực lên như ta thường thấy trong những tình huống tương tự. Họ đi từ chỗ cực kỳ hổ thẹn đến chỗ cực kỳ trâng tráo, và hai viên tộc trưởng xông đến bên cạnh nhà vua.
- Thế thì phải đấy, - Họ nói, - Chúng tôi đã hứa giải thoát xứ Scotch và nước Anh khỏi tay những kẻ uống máu và vàng bạc của xứ Anh và Scoch . Chúng tôi đã hứa và chúng tôi giữ lời.Vua Charles Stuart , ông là tù nhân của chúng tôi!
Và cả hai người cùng giơ tay ra để bắt giữ nhà vua.
Nhưng trước khi ngón tay của họ chạm đến người vua thì cả hai đã ngã xuống, một người ngất đi và một người chết.
Arthos đã đập đầu một người bằng báng súng và Aramis đã dùng kiếm đâm xuyên qua thân hình người kia.
Bá tước de Loewen và những chỉ huy khác lùi lại trước sự cứu viện bất ngờ như từ trên trời rơi xuống người mà họ tưởng đã là tù nhân của họ. Nhân đó Arthos và Aramis kéo nhà vua ra khỏi mái lều phản bội mà ông đã mạo hiểm dấn thân mình vào một cách đến là thiếu thận trọng rồi cả ba người phóng ngựa trở về. Họ gặp de Winter dẫn đầu trung đoàn mình đang tiến lại. Vua ra hiệu cho ông đi theo mình.
Chú thích:
(1) Vua, người Norman, lánh sang xứ Scotch và liên minh với hoàng gia xứ này.
-*-*-*-
CHương 58
Lễ phục thù
Bốn người đi vào trong lều. Thực tế chưa có một kế hoạch hành động nào phải quyết định ngay một kế mới. Nhà vua buông mình xuống chiếc ghế bành và nói.
- Tôi thất bại rồi.
- Không đâu, thưa Ngài, - Arthos nói, - Ngài chỉ bị bội phản thôi.
Vua buông một tiếng thở dàỉ.
- Bị phản bội, bị phản bội bởi những người Scotch mà tôi đã sinh ra giữa lòng họ, mà tôi bao giờ cũng ưu ái hơn người Anh. Ôi! Bọn khốn khiếp!
- Thưa ngài, bây giờ không phải là lúc trách móc mà là lúc tỏ ra ngài là vua và nhà quý tộc. Đứng lên, ngài hãy đứng lên? Vì rằng ở đây ít ra ngài cũng có ba người sẽ không phản bội ngài, ngài có thể yên tâm! A! Nếu như chúng ta có tới năm người. - Arthos lẩm bẩm, nghĩ đến d Artagnan và Porthos.
- Ông nói gì vậy? - Charles đứng lên và hỏi.
- Thưa ngài, tôi nói rằng chỉ còn có một cách. Milord de Winter chịu trách nhiệm về trung đoàn của ông hoặc na ná như vậy, ta không tranh cãi về chữ nghĩa; ông dẫn đầu quân của ông; chúng tôi đi bên cạnh Hoàng thượng; chúng ta chọc thủng những chỗ trong quân đội của Cromwell và chúng ta sẽ đi sang Scotch.
- Còn một cách nữa, - Aramis nói - đó là một người trong chúng ta mặc quần áo và cưỡi ngựa của vua, trong khi quân địch bám theo người ấy, nhà vua có lẽ đi thoát.
- Ý kiến hay lắm - Arthos nói, - và nếu Hoàng thượng muốn ban vinh dự đó cho một người trong số chúng tôi, chúng tôi sẽ rất biết ơn.
- Ông thấy lời khuyên ấy thế nào, de Winter? - Vua nói và nhìn với vẻ khâm phục hai người kia mà sự bận tâm duy nhất là chọn cho mình những nỗi nguy hiểm đe doạ nhà vua.
- Thưa Hoàng thượng, nếu như có một cách đề cứu vua thì đó chính là kiến nghị mà ông D Herblay vừa mới đề ra. Cho nên chúng tôi tha thiết xin Hoàng thượng lựa chọn ngay vì chúng ta không còn thì giờ nữa.
- Nhưng nếu tôi chấp nhận, thì đó là cái chết, ít ra cũng là một người tù tội đối với người đóng vai tôi.
- Đó là niềm vinh dự đã cứu được vua của mình! - de Winter nói.
Nhà vua nước mắt lưng tròng nhìn người bạn già của mình, tháo dải huy chương Thánh linh mà ông đã đeo để nghênh tiếp hai người Pháp đi theo mình và quàng vào cổ de Winter đang quỳ xuống để nhận cái dấu hiệu kinh khủng của tình thân hữu và lòng tin cậy của vua mình.
- Thật là chính đáng, - Arthos nói, - Ông ấy phụng sự lâu hơn chúng ta nhiều.
Nghe vậy, nhà vua quay lại nhìn rưng rưng nước mắt và nói:
- Các ông hãy đợi một lát, tôi vẫn còn hai dải huân chương để ban cho các ông.
Rồi ông đến chỗ cái tủ huân chương của chính mình lấy ra hai dải huân chương Jarretière.
Arthos vội nói:
- Những huân chương này không thể dành cho chúng tôi.
- Tại sao vậy ông? - Charles hỏi.
- Những huân chương này hầu như chỉ dành cho những bậc vương hầu mà chúng tôi chỉ là những nhà quý tộc bình thường.
- Ông thử điểm qua tất cả những ngai vàng có mặt trên mặt đắt này, - Nhà vua nói, - Và tìm xem có những trái tim nào lớn hơn trái tim của các ông không. Không, không, các ông không thừa nhận giá trị của mình nhưng tôi đây, tôi công nhận nó. Hãy quỳ xuống, bá tước.
Arthos quỳ xuống vua quàng cho anh giải huân chương từ trải qua phải như thường lệ và nâng thanh kiếm lên, rồi đáng lẽ dùng câu nói thường lệ: "Trẫm tặng thưởng huân chương này cho khanh, khanh hãy dũng cảm, trung thành và chính trực", thì vua nói:
- Ông bá tước, ông dũng cảm, trung thành và chính trực, tôi tặng thưởng huân chương này cho ông.
Rồi ông quay sang phía Aramis, vua bảo:
- Ông hiệp sỹ, đến lượt ông.
Và nghi thức cũng lại bắt đầu với những lời như vậy, trong khi de Winter nhờ các giám mã cởi chiếc áo giáp đồng đang mặc ra để trông giống vua hơn.
Trao huân chương cho Aramis xong, vua ôm hôn cả Aramis và Arthos.
Đứng trước một tấm gương tận tụy lớn lao như vậy, de Winter lấy lại mọi sức lực và can đảm của mình và nói:
- Thưa Hoàng thượng chúng tôi đã sẵn sàng.
Nhà vua nhìn ba người quý tộc và hỏi:
- Như vậy ta phải chạy trốn à?
- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói, - Đi trốn xuyên qua một đội quân, ở khắp các nước trên thế giới coi là công kích.
- Như vậy, - Charles nói - ta sẽ cầm kiếm ở trong tay mà chết.
- Ông bá tước, ông hiệp sỹ ơi, nếu như có bao giờ tôi còn là vua...
- Thưa Hoàng thượng, ngài đã ban vinh dự cho tôi nhiều hơn là thuộc về nhưng người quý tộc bình thường, như vậy chúng tôi mới là người mang ơn.
- Nhưng thôi ta đừng để mất thì giờ, vì ta đã để mất khá nhiều rồi đó.
Nhà vua bắt tay lần cuối cùng cả ba người, đổi mũ với de Winter, rồi đi ra.
Trung đoàn của de Winter đứng trên một nền đất cao vượt doanh trại, vua cùng với ba người bạn đi ra đó.
Doanh trại lính Scotch như đã tỉnh giấc hắn; mọi người ra khỏi lều và đến xếp hàng như để đi chiến đấu.
- Nhìn xem, - vua nói - Phải chăng họ hối hận và sẵn sàng ra trận.
- Thưa Hoàng thượng, - Arthos nói, - Nếu họ hối hận thì họ sẽ đi theo chúng ta.
- Được - vua nói, - Ta làm gì bây giờ?
- Ta hãy xem xét quân đội địch, - Arthos nói.
Cả nhóm người đều dán mắt vào cái vạch thẳng mà lúc tảng sáng họ tưởng là sương mù và bây giờ những tia nắng đầu tiên tố giác là một đạo quân bố trí chiên đấu. Không khí trong lành như thường thấy vào lúc sớm tinh mơ này. Người ta phân biệt rõ ràng những trung đoàn, những lá cờ và đến cả màu sắc các binh phục và ngựa.
Lúc ấy Arthos trông thấy trên một ngọn nhỏ hơi nhô ra phía trước phòng tuyến địch, xuất hiện một người dáng thấp, đậm và nặng nề. Người ấy đứng giữa mấy sỹ quan và đang chĩa ống nhòm sang nhóm người có vua đứng.
- Người ấy, - Aramis nói, - Có quen biết Hoàng thượng không?
Charles mỉm cười, nói:
- Người ấy là Cromwell.
- Vậy thì ngài hãy sụp mũ xuống để ông ta khỏi nhận ra sự thay thế.
- Ôi, - Arthos nói, - Chúng ta đã mất nhiều thì giờ rồi.
- Vậy thì, - Vua nói, - Ban mệnh lệnh và ta đi thôi.
- Ngài ra lệnh chứ? - Arthos hỏi.
- Không, tôi phong ông làm trung tướng, - Vua nói.
- Vậy thì, - Arthos nói, hãy nghe đây, Milord de Winter, thưa Hoàng thượng, xin ngài hãy đứng xa ra; điều chúng tôi sắp nói ra đây không liên can đến Hoàng thượng.
Vua mỉm cười và lùi lại ba bước.
- Tôi đề nghị như thế này, - Arthos nói. - Ta chia trung đoàn của ta ra làm hai đội kỵ binh ông dẫn đầu đội thứ nhất, Hoàng thượng và chúng tôi dẫn đầu đội thứ hai. Nếu không có gì đến cản trở lối đi của chúng ta, thì tất cả chúng ta cùng công kích để chọc thủng phòng tuyến địch và ta sẽ nhảy xuống sông Tyne, rồi lội hoặc bơi qua. Trái lại nếu quân địch ngăn cản chúng ta trên đường, thì ông và quân của ông hãy liều chết cho đến người cuối cùng; còn chúng tôi và vua tiếp tục tiến theo đường của mình. Một khi chúng tôi tới bờ sông, nếu đội kỵ binh của ông làm tròn nhiệm vụ của mình thì dù địch có đông dày đến ba hàng chúng tôi cũng đánh bằng được.
- Lên ngựa! - Winter nói.
- Lên ngựa! - Arthos nói, - mọi việc đã được tính trước và quyết định rồi.
- Vậy thì, - vua nói, - Các ông tiến lên! Và ta sẽ tập hợp nhau lại bằng mật khẩu xưa kia của Pháp: Montjoie và Saint-Denis! Tiếng kêu của nước Anh bây giờ đang được nhắc lại bởi quá nhiều kẻ phản bội.
Mấy người lên ngựa, vua lên ngựa của de Winter, de Winter lên ngựa của vua, rồi de Winter đứng lên hàng đầu của đội kị binh thứ nhất vua với Arthos bên phải và Aramis bên trái, đứng lên hàng đầu đội kỵ binh thứ hai.
Tất cả quân đội Scotch nhìn những sự chuẩn bị đó, với sự bất động và im lặng của nỗi hổ thẹn.
Có mấy viên chỉ huy đi ra khỏi hàng ngũ và bẻ gãy gươm kiếm của mình.
- Hay! - Vua nói, - Điều đó an ủi ta không phải tất cả họ là phản bội.
Lúc ấy tiếng de Winter vang lên, ông hô:
- Tiến lên!
Đội kỵ binh thứ nhất chuyển động, đội thứ hai nối theo và đi xuống khỏi nền đất cao.
Một trung đoàn giáp sĩ địch quân số gần bằng bên này đang triển khai từ phía sau ngọn đồi và rạp ngựa phóng sang nghinh chiến.
Vua chỉ sang Arthos và Aramis xem diễn biến đó.
- Thưa ngài, - Arthos nói, - Trường hợp này đã được tính trước, nếu như quân sĩ của de Winter làm nhiệm vụ của mình, thì sự kiện này sẽ cứu chúng ta, chứ không phải làm hại chúng ta.
Giữa lúc ấy vượt lên tất cả tiếng ngựa phi ngựa hí, tiếng de Winter vang lên:
- Tuốt kiếm ra tay!
Nghe mệnh lệnh ấy tất cả các thanh kiếm tuốt ra khỏi vỏ như những ánh chớp.
Say sưa vì tiếng ồn ào và quang cảnh đó, vua cũng hô lên:
- Nào, các ông tuốt kiếm ra tay.
Nhưng nghe mệnh lệnh ấy mà vua làm gương, chỉ có Arthos và Aramis tuân theo.
- Chúng ta bị phản bội rồi, - Vua nói nhỏ.
- Khoan đã, Arthos nói. - Có lẽ họ không nhận ra tiếng hoàng thượng và đợi mệnh lệnh của viên chỉ huy đội của họ.
Họ lại không nghe thấy mệnh lệnh của đại tá họ hay sao! Nhưng xem kìa!- Vua kêu lên và ghìm ngựa đứng phắt lại khiến nó khuỵu chân xuống và vua phải túm lấy dây cương ngựa của Arthos.
- A! a, đồ khốn mạt! Đồ phản trắc! - de Winter la lên trong khi quân của ông rời hàng ngũ chạy tản mác ra ngoài cánh đồng.
Chỉ có khoảng mười lăm người ở lại quanh ông và đợi chờ cuộc công kích của đội giáp sĩ của Cromwell.
- Ta hãy ra cùng chết với họ - Vua nói.
- Ta cùng chết! - Arthos và Aramis cùng nói.
- Tất cả những trái tim trung thành hãy đến với tôi! - de Winter hô to.
- Tiếng hô đó vang đến tai đôi bạn, họ phóng vút ngựa lên.
- Không dung tha! - Một lời hô bằng tiếng Pháp bỗng vang lên đáp lại lời hô của de Winter một giọng nói khíển họ rùng mình.
Còn de Winter nghe giọng nói đó tái người đi và như hoá đá.
Gíọng nói ấy là của một kị sĩ cưỡi trên một con tuấn mã màu đen, dẫn đầu một trung đoàn Anh mà trong khi công kích thật hăng hái anh ta đã vượt trước đến mười bước.
- Chính hắn? - de Winter lẩm bẩm, mắt nhìn trân trân và buông thõng thanh kiếm bên mình. Trông thấy dải huân chương màu lơ và con ngựa màu vàng nhạt của de Winter, nhiều người đã lầm lẫn và kêu:
- Vua! Vua.
- Không phải, không phải vua đâu!- Người kỵ sĩ nọ kêu lên - Đừng có lầm lẫn. Có phải không, Milord de Winter, rằng ông không phải là vua? Có phải ông là bác của tôi không?
Và cùng lúc ấy, Mordaunt, vì chính là hắn chĩa nòng súng ngắn vào de Winter, súng nổ, viên đạn xuyên qua ngực của vị quí tộc già khiến ông nảy bật người trên yên và ngã vào trong tay Arthos.
Ông lẩm bầm:
- Kẻ phục thù!
- Mi hãy nhớ đến mẹ ta - Mordaunt vừa hét lên vừa nhảy băng qua do ngựa phóng quá đà.
- Đồ khốn kiếp! - Aramis vừa kêu vừa nã một phát súng gần như sát đầu nòng vào Mordaunt do hắn đi sát gần anh; nhưng chỉ có kíp nổ còn đạn xịt.
Lúc ấy cả trung đoàn địch xông vào đoàn người đã chống cự.
Hai người Pháp bị vây quanh dồn ép, bao trùm. Sau khi biết chắc là de Winter chết, Arthos buông xác ông ta tuốt kiếm và bảo bạn.
- Nào, Aramis, vì danh dự của nước Pháp.
Và hai lính Anh ở sát gần hai nhà quí tộc ngã gục ngay xuống bị đánh tử thương.
Ngay lúc ấy một tiếng hò la khủng khiếp vang lên và ba chục lưỡi kiếm lấp lánh trên đầu họ.
Bỗng nhiên một người lao ra từ giữa hàng ngũ quân Anh mà anh ta xô đẩy và nhảy bổ vào Arthos, ôm chặt lấy anh bằng đôi tay gân guốc của mình, giằng lấy thanh kiếm của anh và nói vào tai anh:
- lm lặng! Đầu hàng đi! Đầu hàng tôi tức là không đầu hàng.
Một người khổng lồ cũng nắm lấy hai cổ tay Aramis và ôm chặt lấy anh khiến anh cố vùng vẫy mà không thoát ra được.
- Đầu hàng đi! - Người ấy nói và nhìn anh chằm chặp.
Aramis ngẩng đầu lên và Arthos quay lại:
D art..., - Arthos vừa kêu lên thì bị chàng Gascon bịt chặt lấy miệng:
- Tôi xin hàng? - Aramis vừa nói vừa đưa thanh gươm cho Porthos.
- Bắn! Bắn! - Mordaunt trở lại chỗ đôi bạn và hô.
- Tại sao lại bắn? - Viên đại tá nói, - Tất cả mọi người đều đầu hàng rồi.
- Con trai của Milady, - Arthos bảo d Artagnan.
- Tôi đã nhận ra nó.
- Tên mục sư đấy, - Porthos bảo Aramis.
- Tôi biết rồi.
Cùng lúc ấy, các hàng ngũ bắt đầu dãn mở ra.
D Artagnan cầm lấy cương ngựa Arthos, và Porthos cầm cương ngựa Aramis. Mỗi người cố đưa tù binh của mình ra xa bãi chiến trường.
Cuộc chuyển dịch ấy để lộ nơi de Winter đã ngã xuống. Với bản năng thù hằn, Mordaunt đã tìm lại ông, từ trên lưng ngựa cúi xuống nhìn ông với một nụ cười khả ố.
Arthos vốn điểm tĩnh là thế, thò tay vào bao súng hãy còn súng.
- Anh làm gì thế? - D Artagnan hỏi.
- Hãy để tôi giết nó.
- Không được có một cử chỉ nào khiến người ta có thể cho rằng anh biết nó, nếu không thì cả bốn chúng ta cùng đi đời.
Rồi quay về phía gã thanh niên, anh nói:
- Bắt được món bở! Ông bạn Mordaunt này, bắt được món bở!
- Ông du Vallon và tôi mỗi người đều có một tù binh: những người được tặng huân chương Jarretière.
Mordaunt nhìn Arthos và Aramis bằng cặp mắt đỏ ngàu và nói:
- Nhưng mà tôi thấy hình như đây là những người Pháp.
- Thực tình tôi chẳng biết gì cả, - D Artagnan nói và hỏi Arthos - Ông là người Pháp phải không?
- Đúng, tôi là người Pháp, - Arthos trịnh trọng đáp.
- Thế thì ông bạn thân mến ơi. Ông đang là tù binh của người đồng quốc đấy.
- Nhưng vua đâu? - Arthos băn khoăn hỏi - Vua đâu?
- Ê! Chúng tôi bắt giữ vua rồi.
- Phải, - Aramis nói, - Bằng một sự phản bội đê hèn.
Porthos bấm tay bạn và mỉm cười nói:
- Ồ, thưa ông, chiến tranh tiến hành bằng cả vũ lực lẫn sự khôn ngoan. Trông kìa!
Quả nhiên lúc ấy người ta trông thấy đội kỵ binh phải bảo vệ cuộc rút chạy của Charles đang tiến ra đón trung đoàn Anh; họ quây quanh vua đang đi bộ một mình trong khoảng trống. Ông hoàn trông bình thản, nhưng người ta thấy rõ ông đã phải chịu đựng đau khổ như thế nào để tỏ ra bình thản; vì vậy mồ hôi chảy ròng ròng trên trán ông và ông lau thái dương và môi ông bằng một chiếc khăn tay cứ mỗi lần khăn rời khỏi miệng lại thấy nhuộm máu.
- Đây là Nabuchodonosor(1)! - Một giáp sĩ cựu thanh giáo của Cromwell trông thấy kẻ mà người ta gọi là bạo chúa kêu lên.
- Ông nói gì vậy, Nabuchodonosor à? - Mordaunt nói với một nụ cười ghê rợn. - Không đâu, đây là vua Charles I, ông vua Charles tử tế đã tước đoạt của các thần dân để thừa hưởng.
Charles ngước mắt nhìn xem kẻ láo xược nào nói như vậy, nhưng không nhận ra hắn. Tuy nhiên vẻ uy nghiêm bình thản và sùng tín của gương mặt ông khiến mắt của Mordaunt phải cụp xuống.
Nhìn thấy hai người bạn quí tộc, một ở trong tay d Artagnan, một ở trong tay Porthos, vua nói:
- Xin chào các ông! Ngày hôm nay tệ hại quá, nhưng ơn Chúa, không phải lỗi tại các ông. Ông bạn già de Winter của tôi đâu?
Hai người quí tộc quay đầu lại và im lặng.
- Hãy tìm xem Straffordd đâu(2) ở đâu, - Mordaunt nói bằng cái giọng the thé.
Charles rùng mình: tên quỷ sứ đã đánh trúng. Strafford là nỗi ân hận đời đời, là bóng đen ban ngày, là ma quái ban đêm của ông: Vua nhìn xung quanh và thấy một xác chết dưới chân mình, đó là de Winter.
Charles không kêu một tiếng, không rỏ một giọt nước mắt, song mặt ông tái nhợt hẳn. Ông quỳ một chân xuống đất, nâng đầu de Winter dậy và hôn lên trán. Rồi tháo dải huân chương Thánh linh mà ông đã quàng vào cổ bạn, ông thành kính đặt lên ngực mình.
- De Winter bị giết rồi à? - D Artagnan dán mắt vào xác chết và hỏi.
- Ừ, bởi tay thằng cháu ông ấy, - Arthos nói.
- Ồ, thế thì người đầu tiên trong chúng ta ra đi, - D Artagnan lẩm bẩm, - Đó là một con người dũng cảm, cầu cho ông được yên nghỉ.
Vua vừa mới lấy lại những huy hiệu của vương vị xong, thì viên đại tá chỉ huy trung đoàn tiến lại và bảo:
- Charles Stuart, tù binh của chúng tôi, có đầu hàng không?
- Đại tá Thomlison, - Charles nói, - Nhà vua không đầu hàng đâu; con người nhượng bộ trước vũ lực, có thế thôi.
- Đưa gươm đây.
Vua rút thanh gươm ra và tì vào đầu gối mà bẻ gẫy.
Lúc ấy một con ngựa không người cưỡi, mép sùi bọt, mũi hếch ra, chạy tới. Nhận ra chủ, nó đứng lại bên ông và mừng rỡ hí vang; đó là con Arthus.
- Nào các ông hãy dẫn tôi đi, tuỳ các ông đi đâu thì đi.
Rồi vội vàng quay đầu lại, ông nói:
- Khoan đã, hình như Winter cựa quậy, nếu ông ta còn sống, thì vì những điều thiêng liêng nhất mà các ông còn có trong lòng, chớ nên bỏ vị quý tộc cao thượng ấy.
- Ồ, hãy yên trí, vua Charles ạ, - Mordaunt nói, - Viên đạn đã xuyên qua tim.
D Artagnan vội bảo Arthos và Aramis:
- Đừng nói một lời nào, đừng có một cử chỉ nào, đừng nhìn sang Porthos, vì rằng Milady không chết, và linh hồn mụ ta đang sống trong thể xác thằng quỷ sứ kia!
Phân đội kỵ binh tiến về thành phố, mang theo chiến lợi phầm đế vương; nhưng đi được nửa đường thì một phụ tá của tướng Cromwell mang lệnh đến bảo đại tá Thomlison dẫn vua đến Holdenby-Castle.
Đồng thời những người liên lạc phóng đi tất cả các ngả đường để báo tin cho nước Anh và tất cả châu Âu rằng Charles Stuart đã là tù binh của tướng Olivier Cromwell.
Chú thích:
(1) vua xứ Babylone từ 605 đến 562 trước C.N., đã mở nhiều cuộc hành quân chống Ai Cập, Liđi, xâm lấn Ả Rập, phá huỷ vương quốc của Juyđa cùng kinh đó là Jêrudalem
(2) Tể tướng Anh, sủng thần của vua, bị nghị viện xử tử mà vua Charles I không dám can thiệp.
-*-*-*-
Chương 59
Olivier Cromwell
- Các ông có đến chỗ tướng quân không? - Mordaunt hỏi d Artagnan và Porthos. - Các ông biết đấy, ngài triệu các ông tới sau công việc này.
- Trước hết, - D Artagnan nói - chúng tôi đưa tù binh của chúng tôi đến nơi an toàn. Ông có biết rằng những nhà quí tộc ấy đáng giá mỗi người một nghìn năm trăm pistol không?
Mordaunt cố kiềm chế mà vẻ hung dữ vẫn bật ra trong ánh mắt khi hắn nhìn hai người kia mà nói:
- Ồ cứ yên trí, các kỵ sĩ của tôi sẽ canh giữ họ và canh giữ cẩn thận là khác; tôi xin bảo đảm với các ông về họ.
- Tự tôi canh giữ còn cẩn thận hơn, - D Artagnan nói, - Vả chăng, cần cái gì nào; một căn phòng với những người canh gác, hay là lời nói đơn giản hơn rằng họ không tìm cách chạy trốn đâu.
- Tôi sẽ thu xếp việc này, rồi chúng tôi sẽ có vinh dự đến trình diện tướng quân và hỏi ngài xem có điều gì chuyển đến Các hạ của chúng tôi không.
- Thế các ông định ra đi ngay à? - Mordaunt hỏi.
- Sứ mệnh của chúng tôi đã hoàn thành, chẳng có gì giữ chúng tôi ở lại nước Anh nữa, ngoài hảo ý của con người vĩ đại mà chúng tôi được phải đến.
Gã thanh niên cắn môi và ghé vào tai viên đội mà nói:
- Ông hãy theo dõi những người này thật sát, khi nào biết rõ họ ở đâu ông hãy đến đợi tôi ở cổng thành.
Viên đội ra hiệu tuân lệnh.
- Thế rồi, đáng lẽ đi theo đám tù binh bị dẫn vào thành phố, Mordaunt đi về phía ngọn đồi nơi Cromwell đã xem trận đánh và vừa mới sai dựng lều cho mình.
Cromwell đã cấm không để cho ai vào chỗ mình; nhưng người lính canh biết rõ Mordaunt là một trong số những người thân tín nhất của vị tướng, nên nghĩ rằng lệnh đó không nhằm anh tả.
Thế là Mordaunt vạch tấm rèm cửa lều và trông thấy Cromwell ngồi trước một cái bàn tì mặt vào hai bàn tay và quay lưng lại.
Chẳng biết ông có nghe tiếng Mordaunt đi vào không, những Cromwell không ngoảnh lại. Mordaunt đứng lại gần cửa.
Cuối cùng, sau một lát, Cromwell ngẩng vầng trán nặng nề lên và linh cảm như thấy ai đó, ông thong thả quay đầu lại. Trông thấy gã thanh niên, ông báo:
- Tôi đã bảo là tôi muốn ngồi một mình cơ mà?
- Thưa ngài, tôi tưởng điều ngăn cấm đó không nhằm vào tôi, - Mordaunt nói, - Tuy nhiên, nếu ngài ra lệnh, tôi sẵn sàng đi ra ngay.
- A, ông đấy à, Mordaunt! - Cromwell nói, như bằng sức mạnh của ý chí mình, vén tấm màn đang che cặp mắt ông - Vì ông đã đến đây, tốt thôi, hãy ở lại.
- Tôi xin dâng ngài những lời chúc mừng của tôi - Mordaunt nói.
- Những lời chúc mừng của ông? Về việc gì?
- Về việc bắt được Charles Stuart. Bây giờ ngài là chúa tể của nước Anh.
- Tôi còn hơn thế nữa kia, cách đây hai tiếng đồng hồ, - Cromwell nói.
- Thế là thế nào, thưa tướng quân?
- Nước Anh đã cần đến tôi để bắt tên bạo chúa, bây giờ tên bạo chúa đã bị bắt. Ông có trông thấy hắn không?
- Thưa ngài, có ạ.
- Thái độ hắn thế nào.
Mordaunt ngập ngừng, rồi chân lý như tự bật ra khỏi miệng hắn:
- Bình thản và đường hoàng.
- Hắn nói gì?
- Vài câu từ biệt bạn bè.
"Bạn bè à? - Cromwell lẩm bẩm, - Thì ra hắn, hắn cũng có bạn bè"?
Rồi cao giọng:
- Có chống cự không?
- Thưa ngài không, hắn ta bị mọi người bỏ rơi, trừ ba bốn người; cho nên hắn không có cách gì chống cự.
- Hắn nộp gươm cho ai?
- Hắn không nộp mà bẻ gẫy.
- Hắn ta làm thế là hay; nhưng đáng lẽ đừng bẻ mà để dùng thì hay hơn và có lợi hơn.
Một lát im lặng.
Rồi Cromwell nhìn chằm chằm Mordaunt và hỏi:
- Hình như viên đại tá chỉ huy trung đoàn đứng bảo vệ cho nhà vua, cho Charles, bị giết rồi phải không?
- Phải đó, thưa ngài.
- Bị ai giết? - Cromwell hỏi.
- Tôi ạ.
- Tên ông ta là gì?
- Lord de Winter.
- Bác của ông ư? - Cromwell kêu lên.
- Bác của tôi - Mordaunt nói, - Những kẻ phản bội nước Anh không phải họ hàng nhà tôi.
Cromwell trầm ngâm một lắt, nhìn gã thanh niên kia, rồi với một nỗi u buồn sâu sắc mà Shakespeare miêu tả thật tài tình; ông nói:
- Mordaunt, ông là một bộ hạ ghê gớm.
- Khi Chúa đã ra lệnh, - Mordaunt nói, - Không có gì phải mặc cả với mệnh lệnh của Người. Abraham đã giơ dao lên đầu Isaac, mà Isaac là con trai của ông ta.
- Phải, - Cromwell nói, - Nhưng Chúa đã không để hoàn thành sự hy sinh ấy.
- Tôi đã nhìn xung quanh tôi, - Mordaunt nói, - Và tôi chẳng nhìn thấy dê lớn dê con đứng lại trong các bụi cây ngoài cánh đồng.
Cromwell nghiêng mình nói:
- Mordaunt, ông là kẻ dũng mãnh trong số những kẻ dũng mãnh.
- Thế còn mấy người Pháp họ xử sự thế nào.
- Như những người nghĩa hiệp.
- Phải rồi, phải rồi, - Cromwell lẩm bẩm. - Những người Pháp chiến đấu tốt và quả thật nếu ống nhìn thấy của tôi tốt, hình như tôi đã trông thấy họ ở hàng đầu.
- Đúng là họ ở hàng đầu.
- Tuy nhiên còn sau ông, - Cromwell nói.
- Đó là lỗi tại những con ngựa của họ, chứ không phải tại họ.
Lại im lặng một lát.
- Thế còn bọn Scotch?
- Họ đã giữ lời cam kết, - Mordaunt đáp, - Và án binh bất động.
- Bọn khốn nạn! - Cromwell lẩm bẩm.
- Sĩ quan của họ xin gặp ngài, - Mordaunt nói.
- Tôi không có thì giờ. Đã trả tiền họ chưa?
- Đêm nay ạ.
- Họ nói hãy đi đi, hãy trở về núi non của họ mà che giấu nỗi sỉ nhục của họ, nếu như núi non đủ cao đề che giấu; tôi chẳng có việc gì với họ nữa và họ cũng chẳng có việc gì với tôi nữa. Và bây giờ hãy đi đi, Mordaunt.
- Trước khi ra đi, - Mordaunt nói, - Thưa chủ soái tôi có mấy điều muốn hỏi và một điều muốn cầu xin ngài.
- Với tôi ư?
Mordaunt cúi mình và nói:
- Tôi đến với ngài, vị anh hùng của tôi, người che chở tôi, người cha của tôi, và tôi xin nói: Thưa chủ soái, ngài có hài lòng về tôi không?
Cromwell ngạc nhiên nhìn anh ta.
Gã thanh niên vẫn thản nhiên.
- Có, - Cromwell nói, - Từ khi biết ông, tôi thấy ông không những đã làm nhiệm vụ của mình, mà còn làm hơn thế nữa; ông là người bạn trung thành, người thương lượng khôn khéo, người lính dũng cảm.
- Ngài có nhớ rằng, tôi là người đầu tiên đưa ra ý kiến thương lượng với bọn Scotch về việc bỏ rơi vua của họ
- Phải, ý kiến ấy là của ông, đúng thế. Tôi đã chưa đẩy lòng khinh bỉ những con người đi tới chỗ ấy.
- Tôi có phải sứ giả tốt khi sang Pháp không?
- Phải, và tôi đã đạt được những gì tôi yêu cầu ở Mazarin.
- Có phải tôi đã luôn luôn chiến đấu hăng hái vì quang vinh và lợi ích của ngài không?
- Có lẽ quá hăng hái là khác, và đó là điều tôi đã khiển trách ông lúc nãy. Nhưng mà ông muốn đi tới đâu với tất cả những câu hỏi?
- Thưa chúa công, để thưa với ngài rằng đã đến lúc chỉ cần một lời nói của ngài có thể thưởng công cho tất cả mọi việc phụng sự của tôi.
- A! - Olivier nói với một cử chỉ hơi khinh thị, - Đúng đấy tôi quên rằng mọi việc phục vụ đều cần được thù lao, ông đã phục vụ tôi và chưa được đền bù.
- Thưa ngài, tôi có thể được đền bù ngay bây giờ và vượt cả những điều tôi mong ước.
- Thế là thế nào?
- Tôi đã có phần thưởng trong tầm tay và hầu như tôi đã nắm được.
- Phần thưởng gì vậy? - Cromwell hỏi. - Người ta đã hiến vàng cho ông ư? Ông yêu cầu một cấp bậc chăng? Hay là ông muốn cai trị một vùng?
- Thưa ngài, ngài có chấp nhận điều thỉnh cầu của tôi không ạ?
- Phải xem đó là cái gì đã chứ!
- Thưa ngài, khi ngài bảo tôi: Hãy thực hiện một mệnh lệnh, có bao giờ tôi trả lời: Hãy xem mệnh lệnh gì nào?
- Nếu như điều mong ước của ông không thể nào thực hiện được thì sao?
- Khi ngài có một điều mong muốn và giao cho tôi phải hoàn thành, có bao giờ tôi đáp lại rằng: Không thể nào thực hiện được.
Nhưng một yêu cầu gì mà phải rào trước đón sau đến thế.
- A, xin ngài cứ yên tâm, - Mordaunt nói với vẻ đơn giản - nó chẳng làm ngài phá sản đâu.
- Thôi này, - Cromwell nói, - Tôi hứa sẽ chấp nhận yêu cầu của ông chừng nào nó ở trong quyền hạn của tôi. Nói đi.
- Thưa ngài, - Mordaunt đáp, - Sáng nay người ta bắt được hai tủ binh, ngài cho tôi xin hai người đó.
- Chắc là họ dạm tiền chuộc lớn lắm phải không? - Cromwell nói.
- Trái lại, thưa ngài, tôi chắc rằng họ nghèo.
- Thế họ là bạn bè của ông à?
- Vâng, thưa ngài, - Mordaunt reo lên. - Đó là bạn của tôi, bạn thân thiết mà tôi có thể hy sinh tính mạng của tôi cho họ.
- Được, Mordaunt ạ, - Cromwell nói, với một cử chỉ vui vẻ ông lấy lại được quan niệm tốt hơn về người thanh niên. - Được, tôi cho anh, tôi cũng chẳng muốn biết họ là những ai; đấy anh muốn làm gì họ thì làm.
- Xin cảm ơn ngài, - Mordaunt reo lên. - Xin cảm ơn ngài! Sinh mạng tôi nay thuộc về ngài, và nếu có mất nó đi, tôi vẫn còn chịu ơn ngài, xin cảm ơn, ngài vừa mới trả công cho tôi thật hậu hĩ.
Và hắn quỳ xuống chân Cromwell. Vị tướng thanh giáo không muốn hoặc làm ra bộ không muốn để người ta bày tỏ kính lễ với mình như đối với nhà vua, ông không chịu nhưng gã thanh niên cứ nắm lấy tay ông mà hôn.
Khi hắn đứng lên, Cromwell ngăn lại và hỏi:
- Sao? Thế không xin những phần thưởng khác à? Không xin vàng bạc ư? Không xin cấp bậc ư?
- Thưa chúa công, ngài đã cho tôi tất cả những gì ngài có thể cho được, và kể từ ngày hôm nay, tôi coi như ngài hết nợ với tôi rồi.
Và Mordaunt lao ra khỏi lều của vị tướng với một nỗi vui mừng tràn ngập cả trái tim và đôi mắt của mình.
Cromwell nhìn theo. Ông lẩm bẩm:
- Hắn đã giết chết bác hắn! Chao ôi! Những bộ hạ của ta là những của gì thế này? Tên này không đòi hỏi gì hoặc làm như không đòi hỏi gì, có lẽ trước Thượng đế hắn đã yêu cầu nhiều hơn cả những kẻ sẽ đến đòi hỏi vàng bạc, các tỉnh thành và bánh ăn của những người cùng khổ; chẳng có kẻ nào phụng sự ta không công. Charles I là tù binh của ta có lẽ còn có bạn bè, còn ta, ta chẳng có bạn bè nào cá.
Và thở dài, ông lại tiếp tục nỗi trầm ngâm bị Mordaunt ngắt quãng.
-*-*-*-
Chương 60
Những người quý tộc
Trong khi Mordaunt đi về phía lều của Cromwell, thì d Artagnan và Porthos dẫn tù binh của anh đến ngôi nhà mà người ta thu xếp cho các anh ở tại Newcastle.
Việc Mordaunt dặn dò viên đội không thoát khỏi mắt chàng Gascon: cho nên anh cũng đưa mắt dặn dò Arthos và Aramis hết sức thận trọng. Vì vậy Arthos cứ lặng lẽ đi bên cạnh những người chiến thắng; điều đó cũng chẳng khó vì mỗi người đã có bao nhiêu điều phải suy nghĩ và giải đáp.
Nếu như có người phải kinh ngạc thì đó là Mousqueton, khi đứng ở ngưỡng cửa, hắn trông thấy bốn người bạn đang đi. Có viên đội và khoảng một chục người đi kèm. Hắn giụi mắt không thể tin đó là Arthos và Aramis, nhưng rồi hắn buộc phải thừa nhận sự thật hiển nhiên. Cho nên hắn sắp cuống quít lên với những lời cảm thán, thì Porthos bắt hắn im lặng ngay bằng một cái trừng mắt ghê gớm không còn cho phép bàn cãi gì nữa.
Mousqueton đứng sững ra ở cửa đợi chờ sự giải thích một việc kỳ lạ đến thể; điều làm đảo lộn đầu óc hắn hơn cả là cả bốn người bạn có vẻ như không nhìn nhận nhau nữa.
Ngôi nhà mà d Artagnan và Porthos dẫn Arthos và Aramis tới là do tướng Cromwell thu xếp cho các anh đến ở từ hôm trước, nó ở vào góc phố, có một khoảng vườn và chuồng ngựa ngoặt sang phố bên.
Các ở cửa ở tầng sát đất có chắn song sắt như thường thấy ở các thị xã nhỏ, nên trông giống hệt cửa sổ nhà tù.
Hai người bạn đưa tù binh vào nhà trước và đứng ở ngưỡng cửa.
Sau khi sai Mousqueton dắt ngựa vào chuồng, Porthos nói:
- Tại sao chúng ta không vào cùng họ.
- Vì rằng, - D Artagnan đáp, - Trước hết phải xem viên đội kia và tám hay mười người cùng đi muốn gì ở chúng ta đã.
Viên đội cùng người của hắn vào đóng ở trong vườn.
D Artagnan hỏi họ muốn gì và tại sao lại đóng ở đó. Viên đội đáp.
- Chúng tôi được lệnh giúp các ông canh giữ tù binh.
Chẳng có gì phải nói về điều ấy, trái lại đó là một sự quan tâm nhã nhặn mà mình phải tỏ ra biết ơn mới đúng, d Artagnan bèn cảm ơn viên đội và cho hắn một đồng cuaron để uống rượu mừng sức khỏe tướng Cromwell.
Viên đội nói rằng những người thanh giáo không uống rượu và bỏ đồng tiền vào túi mình.
- Ôi, d Artagnan thân mến ơi, - Porthos nói, - thật là một ngày ghê sợ!
- Cậu nói gì thế, Porthos? Ngày chúng ta tìm lại được bạn bè mà cậu bảo là ngày ghê sợ?
- Ừ? Nhưng mà trong một hoàn cảnh như thế này ư?
- Đúng là hoàn cảnh rắc rối thật, - D Artagnan nói, - Nhưng không sao, ta hãy vào nhà và cố nhìn cho sáng tỏ hơn một chút tình huống của chúng ta.
- Tình huống rắc rối lắm, - Porthos nói, - Và bây giờ tôi mới hiểu vì sao Aramis dặn đi dặn lại tôi là phải bóp cổ cái tên Mordaunt ghê tởm ấy.
- Im nào, - D Artagnan bảo, - Chớ có nói cái tên ấy ra.
- Nhưng mình nói tiếng Pháp, mà họ lại là người Anh cơ mà.
D Artagnan nhìn Porthos với vẻ khâm phục, mà một con người biết điều không thể từ chối trước những điều dị thường đủ loại.
Rồi do Porthos nhìn lại anh mà chẳng hiểu tý gì về sự kinh ngạc của anh, anh đẩy Porthos và bảo:
- Ta vào thôi.
Porthos vào trước, d Artagnan vào sau, anh đóng cửa lại cẩn thận rồi lần lượt ôm hôn hai người bạn.
Arthos buồn rũ rượi, Aramis hết nhìn Porthos lại nhìn d Artagnan mà chẳng nói một lời, nhưng cái nhìn của anh truyền cảm đến nỗi d Artagnan hiểu rõ. Anh nói:
- Các anh muốn biết làm thế nào mà chúng tôi lại ở đây phải không? Trời ơi! Thật là dễ đoán. Mazarin đã phải chúng tôi mang một bức thư cho tướng Cromwell.
- Nhưng thế nào mà cậu lại ở bên cạnh Mordaunt. - Arthos nói, - Mordaunt mà tôi đã dặn cậu phải đề phòng, hả d Artagnan?
- Và tôi đã dặn cậu là phải bóp cổ, hả Porthos! - Aramis nói theo.
- Vẫn là do Mazarin. Cromwell cử Mordaunt sang gặp Mazarin; Mazarin sai chúng tôi đến Cromwell. Có định mệnh trong tất cả các chuyện này.
- Phải, d Artagnan, cậu nói đúng. Một định mệnh chia rẽ chúng ta và làm hại chúng ta. Vậy thì Aramis, ta không bàn đến nữa, và chúng ta hãy sửa soạn chịu đựng số phận của chúng ta.
- Mẹ kiếp! - D Artagnan nói, - Trái lại, ta cứ bàn chứ; bởi vì đã thoả thuận một lần cho mãi mãi rằng chúng ta bao giờ cũng bên nhau dù trong những mục đích trái ngược nhau.
- Ồ phải, rất trái ngược nhau! - Arthos mỉm cười nói, bởi vì tôi xin hỏi cậu, cậu phục vụ mục đích gì ở đây? A! d Artagnan, hãy xem tên Mazarin khốn khiếp dùng cậu vào việc gì. Cậu có biết rằng hôm nay cậu phạm tội gì không? Tội bắt vua, sỉ nhục vua, giết vua.
- Ồ, ồ! - Porthos nói, - Anh tưởng như vậy ư?
- Arthos, anh nói quá lên đây, - D Artagnan, - Chúng tôi không đến nỗi như thế đâu.
- Ồ, lạy Chúa, trái lại chúng tôi nói đúng đấy. Tại sao lại bắt giũ một ông vua. Khi người ta muốn kính trọng ông như một vị chủ, người ta không mua ông như mua một kẻ nô lệ. Cậu tưởng rằng Cromwell trả giá ông hai trăm nghìn livres là để đặt lại ông lên ngôi đấy chứ? Các bạn ạ, họ sẽ giết vua, hãy tin chắc như vậy và nó vẫn là cái tội nhỏ nhất họ có thể phạm. Thà chém đầu còn hơn là sỉ nhục một ông vua.
- Tôi chẳng bảo là không, - D Artagnan nói, - Dù sao đó là điều có thể xảy ra, nhưng tất cả những chuyện ấy có làm gì chúng tôi đâu? Tôi đến đây vì tôi là người lính, vì tôi phục vụ những người chủ của tôi, nghĩa là những người trả lương cho tôi. Tôi đã thề phục tùng và tôi phục tùng; nhưng các anh, các anh chẳng thể thốt gì tại sao các anh lại đến đây; và các anh phục vụ lợi ích gì nào?
- Lợi ích thiêng liêng nhất trên đời này, - Arthos nói. - Lợi ích của hoạn nạn, của vương quyền và của tôn giáo. Một người bạn một người vợ, một người con gái đã thiết tha kêu gọi chúng tôi đến giúp đỡ họ. Chúng tôi đã giúp đỡ họ theo khả năng nhỏ mọn của chúng tôi và Chúa sẽ chứng giám cho chúng tôi là có tâm mà thiếu lực. D Artagnan ạ, cậu có thể nghĩ theo cách khác và xem xét vấn đề theo một kiểu khác, bạn ạ. Tôi không ngăn cản cậu đâu, nhưng tôi trách cứ cậu.
- Ô, ô! - D Artagnan đáp, - Ông Cromwell là người Anh, chống lại vua của ông ấy là người Scotch, thì rốt cuộc có làm gì tôi đâu?
- Tôi là người Pháp, tất cả những chuyện ấy chẳng liên quan gì đến tôi Tại sao anh lại bắt tôi chịu trách nhiệm?
- Thôi, ta hãy đi vào thực chất, - Porthos bảo.
Arthos lại nói:
- Bởi vì tất cả những người quý tộc đều là anh em, bởi vì cậu là nhà quý tộc, bởi vì vua ở tất cả các nước đều là những người cao nhất trong những nhà quý tộc; bởi vì đám dân chúng mù quáng, bội bạc và tồi tệ luôn luôn thích hạ thấp những gì cao hơn mình; và chính cậu, d Artagnan con người của giới lãnh chúa cổ, con người có tên đẹp đẽ, có tay kiếm sắc bén, cậu đã góp phần nộp một ông vua cho bọn buôn bán rượu bia, bọn thợ may, bọn đánh xe! A! D Artagnan là một người lính, có thể cậu đã làm tròn nhiệm vụ, nhưng là nhà quý tộc cậu là người phạm tội, tôi xin nói với cậu như vậy.
D Artagnan nhai một chiếc cọng hoa, không trả lời và thấy khó chịu, bởi vì khi tránh cái nhìn của Arthos anh gặp cái nhìn của Aramis.
- Còn cậu Porthos, - Bá tước tiếp lời, như ái ngại cho sự bối rồi của d Artagnan, - Cậu là tấm lòng tốt nhất, ngươi bạn tốt nhất người lính tốt nhất mà tôi được biết; cậu mà tâm hồn khiến cậu xứng đáng sinh ra trên những phẩm cấp của một triều đình và sớm muộn sẽ được một ông vua thông minh thưởng công; Porthos thân mến của tôi ơi, là nhà quý tộc bằng những phong cách, những thị hiếu và lòng Pomme-de- Pincảm, cậu cũng có tội như d Artagnan đấy.
Porthos đỏ mặt lên, nhưng vì thích thú hơn là ngượng ngùng, tuy nhiên vẫn cúi đầu xuống ra chiều hổ thẹn và nói:
- Phải rồi, phải rồi, bá tước thân mến ạ, tôi chắc rằng anh nói đúng.
Arthos đứng dậy. Anh đi tới d Artagnan chìa tay ra và nói:
- Thôi nào, đừng hờn dỗi nữa, con trai thân yêu của tôi, vì rằng tất cả những điều tôi nói với cậu, tôi đã nói nếu không phải bằng tiếng nói, thì ít ra cũng bằng tấm lòng của một người cha. Cậu hãy tin rằng, nếu cảm ơn cậu đã cứu mạng tôi và không đã động một lời nào về tình cảm của tôi cho cậu biết thì chắc hẳn là dễ dàng cho tôi hơn nhiều.
- Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên rồi, Arthos ạ, - D Artagnan vừa đáp vừa siết chặt tay bạn, - Nhưng cũng vì anh có những tình cảm quái gở mà mọi người không có. Ai có thể tưởng tượng một con người biết phải chăng mà rời bỏ nhà cửa mình, rời bỏ nước Pháp, rời bỏ đứa con nuôi, một chàng trai tuyệt diệu - Vì rằng chúng tôi mới gặp nó ở doanh trại - để chạy đi đâu? Đi cứu viện cho một vương triều thối rữa và mọt ruỗng nó sắp sụp đổ một sớm một chiểu như một túp lều cũ nát. Cái tình cảm mà anh nói đẹp thật đấy, đẹp quá đến nỗi nó thành siêu nhân.
Không để mình mắc bẫy vào cái ngón láu cá Gascon mà người bạn giăng ra khi đụng chạm đến tình yêu thương cha con của anh với Raoul, Arthos đáp:
- D Artagnan này, dù sao chăng nữa cậu cũng biết rõ ràng trong thâm tâm cái tình cảm ấy là đúng; nhưng tôi đã sai lầm đi tranh cãi với ông chủ của mình, d Artagnan, tôi là tù binh của cậu, cậu cứ đối xử với tôi đúng như thế.
- A, Chúa ơi! - D Artagnan nói, - Ông cũng thừa biết ông chẳng bị như thế lâu nữa đâu, ông tù binh của tôi ạ
- Không, - Aramis nói, - chắc hẳn họ sẽ đối xử với chúng ta như những tù binh ở Philip-Haugh.
- Thế người ta đã đối xử với tù binh ở Philip-Haugh như thế nào? - D Artagnan hỏi.
- À - Aramis trả lời - người ta đã treo cổ một nửa và đem bán nửa còn lại.
- Thế thì tôi xin bảo đảm với các anh rằng, - D Artagnan nói, -Cchừng nào còn một giọt máu trong huyết quản tôi thì các anh sẽ không bị bắn hoặc treo cổ! Chúng cứ đến đây! Với lại anh có trông thấy cái cổng kia không, Arthos?
- Thì sao?
- Khi nào muốn, các anh cứ việc đi bằng cái cổng ấy vì rằng từ lúc này trở đi anh và Aramis, các anh tự do như khí trời.
- Tôi công nhận điều đó, d Artagnan thân mến ạ - Arthos đáp, - Nhưng cậu không còn là chủ của chúng tôi nữa: cậu thấy rõ là cổng đã bị canh gác rồi.
- Thì phá mà ra chứ, - Porthos nói. - Ở đấy có gì nào? Mười người là cùng.
- Chẳng là quái gì đối với bốn chúng ta nhưng đối với hai chúng tôi là quá nhiều đấy. Thôi này, chia rẽ như chúng ta hiện nay thì chúng tôi phải chết thôi.
- Nhìn xem cái số nó là như vậy; hồi trước trên đường Vendôme, d Artagnan quả cảm là thế, vậy mà các cậu đã bị bại trận, giờ đây đến lượt Aramis và tôi. Vì những điều như vậy không bao giờ xảy ra khi cả bốn chúng ta đoàn kết lại với nhau, vậy thì chúng tôi sẽ chết như de Winter; còn tôi, tôi xin tuyên bố rằng tôi chỉ đồng ý cả bốn chúng ta cùng trốn.
- Không thể được - D Artagnan nói - Chúng tôi ở dưới quyền Mazarin.
- Tôi biết chứ và không ép buộc gì cậu hơn. Những điều biện luận của tôi chẳng kết quả gì đâu, chắc hẳn là nó rất tệ vì chẳng có chút tác động nào đến những tâm trí rất là đúng đắn như của các cậu.
- Vả chăng, - Aramis nói, - Dù những biện luận ấy có tác dụng đi chăng nữa, thì tốt hơn cả là không nên làm nguy hại đến hai người bạn tuyệt diệu của chúng ta như d Artagnan và Porthos. Các cậu hãy yên trí, chúng tôi chết và làm vẻ vang cho các cậu; còn riêng tôi, Arthos ạ, tôi cảm thấy hãnh diện đi tới trước những mũi súng và cả sợi dây thừng nữa cùng với anh, vì rằng chưa bao giờ tôi thấy anh cao cả như hôm nay.
D Artagnan chẳng nói chẳng rằng, nhưng sau khi gặm nát cái cọng hoa, anh gặm đến các móng tay. Cuối cùng anh nói:
- Các anh tưởng tượng rằng người ta sẽ giết các anh à? Để làm gì kia chứ? Ai quan tâm đến cái chết của các anh? Vả lại các anh là tù binh của chúng tôi cơ mà.
- Ngốc! Đại ngốc! - Aramis nói, - thế ra cậu chưa biết rõ Mordaunt à! Này, chỉ nhìn nhau có một cái thôi mà tôi đã trông thấy trong cái nhìn của hắn rằng chúng tôi đã bị kết án rồi.
- Này - Aramis ơi, - Porthos nói, - Sự thực là tôi rất bực đã không bóp cổ nó chết như cậu đã dặn đấy.
- Ê, Tôi sợ cóc gì cái thằng Mordaunt ấy? - D Artagnan kêu, - Mẹ kiếp! Nó cứ ám tôi xem, tôi sẽ nghiền nát nó ra, đồ sâu bọ ấy! Các anh không phải trốn, tôi xin thề rằng ở đây các anh cũng an toàn như cách đây haỉ mươi năm Arthos ở phố Férou và Aramis ở phố Vaugirard.
Chợt Arthos chỉ tay ra phía một trong hai cửa sổ có chắn song sắt đang soi sáng căn phòng và nói:
- Này, các cậu sắp biết sự tình ra sao đấy vì chính nó đang chạy đến kia kìa.
- Ai kia?
- Mordaunt.
Quả thật, nhìn theo hướng Arthos trỏ, d Artagnan trông thấy một kỵ sĩ đang phi nước đại tới.
Đó là Mordaunt.
D Artagnan băng mình ra khỏi căn phòng.
Porthos định ra theo, nhưng d Artagnan bảo:
- Cậu hãy ở lại và chỉ ra khi nào tôi gõ gõ vào cánh cửa.
-*-*-*-
Chương 61
Jesus, lạy Chúa tôi!
Khi Mordaunt tới trước ngôi nhà thì trông thấy d Artagnan đứng ở ngưỡng cửa và lính tráng cùng vũ khí nằm rải rác trên thảm cỏ khu vườn.
- Ơ hay! - Hắn kêu lên, nghẹn cả họng vì vừa mới chạy bở hơi tai, - Các tù binh vẫn còn ở cả đây chứ.
- Vâng, thưa ông, - Viên đội vừa đáp vừa cùng đồng đội vội vã đứng lên và giơ tay lên mũ chào.
- Tốt! Lấy bốn người; để dẫn họ ra và đưa ngay lập tức đến chỗ tôi ở.
Bốn người sửa soạn.
- Thưa ngài nói gì ạ? - D Artagnan nói bằng cái giọng giễu cợt mà các bạn đọc của chúng tôi đã từng thấy bao lần từ khi quen biết anh - Có chuyện gì xin ngài vui lòng cho biết?
- Thưa ông, có chuyện là tôi ra lệnh cho bốn người đem tù binh mà chúng ta bắt được sáng nay ra và đưa đến chỗ ở của tôi.
- Tại sao vậy? - D Artagnan nói. - Xin lỗi về sự tò mò, nhưng mong ông hiểu rằng tôi muốn được rõ về chuyện đó.
Mordaunt kiêu ngạo đáp:
- Tại những tù binh ấy bây giờ thuộc về tôi, và tôi được tuỳ hứng sử dụng họ.
- Xin phép ông, ông bạn trẻ ơi, - D Artagnan nói, - Xin phép ông, hình như ông lầm rồi đấy. Xưa nay tù binh thuộc về người nào đã bắt họ, chứ không thuộc kẻ nào đã xem bắt họ. Ông có thể bắt Lord de Winter là bác của ông, như người ta nói, nhưng ông thích giết ông ta hơn, được thôi; chúng tôi, ông Du Vallon và tôi có thể giết hai nhà quý tộc này, nhưng chúng tôi thích bắt họ hơn, mỗi người một ý thích mà.
Cặp môi Mordaunt trắng bệch ra.
Hiểu rằng công chuyện sắp hỏng đến nơi, d Artagnan bèn gõ nhịp hành khúc thị vệ đội vào cánh cửa.
Vừa mới được một nhịp, Porthos đã ra và đứng về phía bên kia cánh cửa, chân anh chạm vào ngưỡng cửa và đầu chạm vào rầm cửa.
Mưu kế ấy không lọt qua mắt của Mordaunt, với vẻ tức giận bắt đầu lộ rõ, hắn nói:
- Thưa ông, ông kháng cự vô ích, những tù binh này vừa mới được giao cho tôi xong do vị tổng chỉ huy, vị chủ soái lẫy lừng của tôi, Ngài Olivier Cromwell.
Những lời ấy như sét đánh ngang tai d Artagnan. Máu bốc lên thái dương, một đám mây mù bay qua mắt anh, anh hiểu rõ nỗi kỳ vọng hung cuồng của gã thanh niên và tự nhiên bàn tay anh hạ xuống đốc kiếm.
Porthos nhìn sang d Artagnan xem mình phải làm gì và rập theo những động tác của anh.
Cái nhìn ấy khiến d Artagnan lo ngại hơn là vững tâm, và anh bắt đầu tự trách mình đã cầu cứu đến sức mạnh tàn bạo của Porthos vào một việc đáng lẽ cần phải dùng mưu mẹo nhiều hơn.
Anh tự nhủ thầm: "Bạo lực sẽ làm cho tất cả chúng ta đi đời. Anh bạn d Artagnan của tôi ơi, hãy chứng tỏ cho con rắn con này hiểu rằng anh không những mạnh hơn nó, mà còn tinh khôn hơn nó".
Anh bèn lễ phép cúi chào và nói:
- A! Ông Mordaunt ơi, thế mà ông chẳng nói rõ điều ấy ngay tử đầu. Sao, ông được ngài Olivier Cromwell vị chỉ huy lẫy lừng nhất thời đại này phái đến đây ư?
- Tôi vừa mới ở chỗ ngài ra, - Mordaunt vừa nói vừa nhảy xuống đất và đưa con ngựa của mình cho một tên lính giữ, - Tôi vừa mới rời khỏi ngài đây, ông ạ.
- Ông bạn thân mến ơi, - D Artagnan nói tiếp, - Ông chẳng bảo tôi ngay từ đầu. Tất cả nước thuộc về ngài Cromwell và bởi vì ông nhân danh ngài đến lấy tù binh, tôi xin phục tùng, họ là của ông, xin ông cứ mang đi.
Mordaunt tiến lên, mặt mày rạng rỡ, còn Porthos thì rụng rời nhìn d Artagnan và há miệng toan nói.
D Artagnan giẫm lên ủng Porthos, anh mới hiểu rằng đó là một mánh khóe của bạn.
Mordaunt đặt chân lên bậc thềm thứ nhất, mũ cầm tay, sắp sửa đi qua giữa đôi bạn, và ra hiệu cho bốn tên lính đi theo mình, thì d Artagnan với nụ cười nhã nhặn nhất đặt bàn tay lên vai gã thanh niên và nói:
- Xin lỗi ông, nếu vị tướng lẫy lừng Olivier Cromwell dùng tù binh của chúng tôi để ân thưởng cho ông, thì chắc hẳn ngài đã viết cho ông tờ giấy ban tặng đó chứ?
Mordaunt đứng sững lại. D Artagnan nói tiếp:
- Ngài có gửi cho ông một lá thư nào cho tôi, hoặc một mảnh giấy nhỏ nào đó, chứng tỏ ông nhân danh ngài mà đến không? Xin ông hãy trao cho tôi mảnh giấy ấy để ít ra tôi còn có cớ biện minh với mấy người đồng quốc của tôi về sự bỏ rơi nọ. Nếu không thì dù tôi có tin chắc rằng tướng Olivier Cromwell không thể muốn điều ác cho họ, ông hãy híểu rằng sẽ có những hành động xấu đấy.
Mordaunt lùi lại và cảm thấy rõ ngón đòn, hắn phóng sang d Artagnan một cái nhìn khủng khiếp, nhưng anh vẫn đáp lại bằng vẻ mặt dễ thương và thân thiện nhất đời.
- Này ông, - Mordaunt nói, - Khi tôi nói với ông một điều. Ông có lăng nhục tôi bằng cách nghi ngờ đó không?
- Tôi ấy à, - D Artagnan kêu lên, - Tôi mà nghi ngờ điều ông nói ư: Xin chúa chứng giám, ông Mordaunt thân mến ơi, trái lại tôi coi ông như một nhà quý tộc xứng đáng và hoàn hảo, theo những thể hiện bên ngoài. Với lại, ông có muốn tôi nói thẳng thắn với ông không? - D Artagnan nói tiếp với vẻ cởi mở.
- Xin ông cứ nói. - Mordaunt đáp.
- Ông Du Vallon đây giàu có, ông ấy có bốn mươi nghìn livres tiền niên thu, do đó ông ấy chẳng thiết tiền bạc, cho nên tôi không nói cho ông ấy, mà nói cho tôi thôi.
- Sao nữa ông?
- Tôi thì không giàu, ở xứ Gasgogne, đó không phải là điều nhục, ông ạ. Chẳng ai giàu có cả và Henri IV hiển hách vua của dân Gascons cũng như hoàng thượng Philip IV vua tất cả các xứ Tây Ban Nha chẳng bao giờ có đồng xu dính túi.
- Nói nốt đi, ông, - Mordaunt bảo, - Tôi thấy ông muốn đi tới đâu rồi, và nếu cái điều mà tôi suy nghĩ nó ngăn giữ ông, thì ta có thể cắt bỏ sự khó khăn đó.
- A! - D Artagnan nói, - Tôi biết rõ ông là một chàng trai thông minh. Vậy thì đây là sự thật, đó là cái thóp của tôi, như dân xứ tôi thường nói. Tôi là một sỹ quan từ chân trắng mà lên, tôi chỉ có những cái mà thanh kiếm mang lại, nghĩa là những nhát đâm chém nhiều hơn những tờ giấy bạc. Nhân vì sớm hôm nay bắt được hai người Pháp có vẻ là danh gia thế phiệt, hai người được tặng thưởng huân chương Jarretière, tôi tự nhủ: Tài sản của ta gây dựng rồi đây. Tôi nói lại, bởi vì ông Du Vallon giàu có, trong trường hợp như thế này bao giờ cũng nhường tù binh lại cho tôi.
Hoàn toàn bị huyễn hoặc bởi cái vẻ chất phác dài dòng của d Artagnan. Mordaunt mỉm cười ra vẻ người hiểu biết rành rọt những điều mà người ta phân trần với mình và mềm mỏng đáp:
- Này ông ạ, lát nữa tôi sẽ đưa ông tờ lệnh ký hẳn hoi và kèm theo tờ lệnh là hai nghìn pistol. Nhưng trong khi chờ đợi, ông hãy để tôi dẫn những người ấy đi.
- Không đâu, - D Artagnan nói, - Chậm trễ nửa giờ thì quan trọng gì đối với ông? Tôi là người có nề nếp ông ạ, ta hãy làm mọi việc theo đúng nguyên tắc.
- Song tôi có thể ra lệnh cho ông - Mordaunt nói, - Tôi chỉ huy ở đây.
- A, này ông ơi - D Artagnan mỉm cười nhã nhặn và nói, - Mặc dầu ông Du Vallon và tôi có vinh dự cùng đi với ông, người ta thấy rõ là ông chưa biết về chúng tôi đâu. Chúng tôi là những nhà quý tộc, chỉ với hai chúng tôi thôi, chúng tôi có thể giết chết các ông, ông cùng tám người của ông đấy. Vì chúa! Ông Mordaunt ạ, đừng cố chấp, vì rằng khi người ta cố chấp, tôi cũng cố chấp, và có thể là tôi trở thành ngang ngạnh một cách hung tợn. Và ông bạn đây nữa, - D Artagnan nói tiếp, - Trong trường hợp ấy, ông ấy còn ngang ngạnh và hung tợn hơn tôi nhiều. Đó là chưa kể chúng tôi do tể tướng Mazarin phải tới đây, ngài thay mặt cho vua nước Pháp. Do đó, trong lúc này dây, chúng tôi thay mặt cho vua và tể tướng, với tư cách là những sứ giả chúng tôi là bất khả xâm phạm, ngài Olivier Cromwell, vị tướng vĩ đại và chắc chắn cũng là nhà chính trị vĩ đại hoàn toàn sẽ là người hiểu biết điều đó. Hãy về xin ngài tờ lệnh ký đi. Điều ấy có mất gì với ông đâu, ông Mordaunt thân mến.
Porthos lắc đầu vỡ lẽ, hiểu ý bạn và nói:
- Phải rồi tờ lệnh ký; người ta chỉ yêu cầu ông có thế thôi.
Dù ham dùng bạo lực đến mấy chăng nữa, Mordaunt cũng nhận ra những lý lẽ d Artagnan vừa nói là chí phải. Vả lại danh tiếng của anh khiến hắn phải kính phục và điều hắn trông thấy anh làm sáng nay càng làm nổi tiếng thêm danh tiếng ấy. Hắn suy nghĩ. Rồi hoàn toàn mù tịt về những quan hệ bạn bè sâu xa giữa bốn người Pháp mọi điều lo ngại của hắn biến đi hết trước cái lý do rất là xuôi tai về tiền chuộc.
Thế là hắn quyết định đi lấy không chỉ tờ lệnh mà cả hai nghìn pistol nữa, số tiền mà hắn tự đánh giá hai tù binh.
Mordaunt bèn lên ngựa và sau khi dặn dò viên đội canh gác cẩn thận, hắn ngoắt dây cương bỏ đi mất.
- Tốt lắm! - D Artagnan nói, - Mười lăm phút đi đến chỗ lều và mười lăm phút trở lại, thừa đủ cho chúng ta.
Rồi anh trở lại với Porthos, bộ mặt không biểu lộ một sự thay đổi nhỏ nhặt nào khiến những kẻ đang rình anh tưởng như anh vẫn tiếp tục câu chuyện lúc nãy. Anh nhìn thẳng vào mặt Porthos và nói:
- Này cậu, hãy nghe cho rõ điều này nhé. Trước hết không được nói tí gì cho các bạn chúng ta về những điều cậu vừa nghe thấy, không cần để các cậu ấy biết về việc chúng ta giúp đỡ họ.
- Được rồi, tôi hiểu, - Porthos đáp.
Bây giờ cậu hãy ra chuồng ngựa, cậu sẽ thấy Mousqueton ở đó, các cậu thắng yên cương cho ngựa để súng ống vào các bao rồi cho ngựa ra và dẫn đến cái phố dưới kia, để chỉ còn có việc nhảy lên cưỡi còn các việc khác tôi lo.
Porthos không có ý kiến nhận xét gì hết và tuân theo với niềm tin cậy tuyệt vời ở bạn mình.
- Tôi đi đây - Anh nói, - Song tôi có vào được phòng các bạn ấy không?
- Không, khỏi cần.
- Vậy thì cậu hãy cầm hộ tôi túi tiền để ở trên lò sưởi.
- Yên trí.
Porthos bình thản và lẳng lặng đi ra chuồng ngựa. Anh đi giữa đám binh lính và mặc đù anh là người Pháp hẳn hoi họ không thể không chiêm ngưỡng vóc người cao lớn và chân tay vạm vỡ của anh.
Đến chỗ góc phố anh gặp Mousqueton và kéo hắn đi củng.
Lúc ấy d Artagnan trở vào, vừa đi vừa huýt sáo một điệu hát mà anh đã bắt đầu từ lúc Porthos đi ra.
- Arthos thân mến ơi, - D Artagnan nói - Tôi vừa mới suy nghĩ về những lý lẽ của anh và bị nó thuyết phục. Dứt khoát là tôi không tiếc rằng mình đã rơi vào trong cái vụ lôi thôi này. Cho nên tôi quyết định cùng trốn với các anh. Không nghĩ ngợi gì nữa nhé và hãy sẵn sàng. Hai thanh kiếm của các anh ở trong góc kia, đừng quên, đó là một công cụ rất có ích trong những hoàn cảnh như thế này. À, điều đó làm tôi sực nhớ đến túi tiền của Porthos.
Và anh cất bọc tiền vào túi. Hai người nhìn anh với vẻ kinh ngạc.
- Ơ hay! - D Artagnan nói, - Tôi xin hỏi các anh, như thế có gì là lạ nào? Tôi mù quáng, Arthos đã mở mắt cho tôi, có thế thôi. Lại đây.
Hai người bạn lại gần. Anh bảo:
- Các anh có trông thấy cái phố kia không? Ngựa của các anh để ở đấy; các anh đi ra cổng rẽ về bên trái, nhảy lên yên thế là xong xuôi. Các anh đừng lo ngại gì hết mà cần chú ý nghe hiệu lệnh hành động. Hiệu lệnh đó là khi tôi kêu: "Giêsus, lạy Chúa tôi!".
- Nhưng cậu hãy thề đi là cậu sẽ đến, - Arthos nói.
- Có Chúa, tôi xin thề!
- Đồng ý, - Aramis reo lên. - Khi nghe tiếng kêu "Giêsus, lạy Chúa tôi! chúng tôi sẽ ra, chúng tôi sẽ quật đổ tất cả những gì cản lối đi của mình, chúng tôi sẽ chạy đến chỗ để ngựa, sẽ nhảy lên ỵên và thúc ngựa phóng, có phải như thế không?
- Tuyệt diệu!
- Aramis thấy chưa, - Arthos nói, - Tôi vẫn bảo cậu rằng d Artagnan là người hay nhất trong chúng ta mà.
- Lại những lời tán tụng, - D Artagnan nói, - Được tôi sẽ trốn.
- Tạm biệt!
- Và cậu sẽ đi trốn với chúng tôi chứ?
- Chắc chắn rồi! Đừng quên hiệu lệnh "Giêsus, lạy Chúa tôi".
Và anh bình thản đi ra như lúc đi vào lại huýt sáo tiếp bài ban nãy bỏ dở.
Bọn lính đang chơi hoặc ngủ, hai tên ngồi trong góc hát sai bài thánh thi: Superflumina Babylonis.
D Artagnan gọi tên đội và nói:
- Ông bạn thân mến ơi, tướng Cromwell đã sai ông Mordaunt mời tôi đến, tôi nhờ các ông canh gác tù binh cẩn thận hộ.
Viên đội ra hiệu là không biết tiếng Pháp.
D Artagnan bèn cố làm những cử chỉ để cho hẳn hiểu, hắn hiểu ra và gật đầu.
Anh lìền đi xuống chuồng ngựa và thấy năm con ngựa đã thắng yên cương, cả con của anh cũng vậy.
Anh bảo Porthos và Mousqueton:
- Mỗi người hãy dắt một con và rẽ về bên trái để Arthos và Aramis từ cửa sổ trông thấy rõ.
- Họ đến ngay chứ? - Porthos hỏi.
- Một lát nữa.
- Cậu không quên túi tiền của tôi chứ?
- Không, yên trí.
- Tốt.
Rồi Porthos và Mousqueton mỗi người dắt một con ngựa ra vị trí.
Còn lại một mình, d Artagnan bèn đánh lửa châm vào một mẩu bùi nhùi to bằng hai cánh bèo, nhảy lên ngựa và đi đến trước cửa, đứng giữa bọn lính.
Vừa vuốt ve con ngựa, anh vừa nhét mầu bùi nhùi cháy vào tai nó.
- Phải là một kỵ sĩ cừ khôi như d Artagnan mới dám liều chơi như vậy vì rằng vừa mới cảm thấy nóng bỏng trong tai, con ngựa hý lên một tiếng đau đớn nó nhảy lồng lên và nhảy chồm chồm như điên dại.
Bọn lính sợ nó đè bẹp vội tản ra xa.
- Cứu tôi với! Cứu tôi với! Giữ nó lại, giữ nó lại! Con ngựa của tôi bị chóng mặt.
Quả nhiên một lát sau máu như ứa ra từ mắt nó và miệng nó sùi bọt trắng xoá.
D Artagnan vẫn kêu cứu mà bọn lính chẳng dám bén mảng tới gần.
- Cứu tôi với! Cứu tôi với! Các ông để mặc tôi chết à? Giêsus, lạy Chúa tôi!
D Artagnan vừa mới thốt ra tiếng kêu ấy thì cửa bật mở Arthos và Aramis kiếm cầm tay, băng ra. Nhờ mưu mẹo của d Artagnan, đường đi mở rộng.
- Tù binh trốn kìa! Tù binh trốn kìa! - Viên đội kêu lên.
- Giữ lại Giữ lại! - D Artagnan vừa kêu vừa thả dây cương cho con ngựa hung dữ, nó lao đi và xô ngã mấy người.
- Stop! Stop!(1) - Bọn lính vừa kêu vừa chạy đến chỗ để vũ khí.
Nhưng các tù binh đã nhảy lên yên, và một khi đã lên yên ngựa rồi, họ chẳng để mắt thì giờ lao ra phía cổng gần nhất. Chạy đến giữ phố họ gặp Grimaud và Blaisois đang đến tìm chủ.
Bằng một dấu hiệu, Arthos làm cho Grimaud hiểu rõ tất cả, bác đi theo luôn cái tốp nhỏ ấy nó phóng như một cơn lốc, d Artagnan đến sau cùng càng thúc giục thêm. Họ lướt qua những ô cửa như những cái bóng những người canh không kịp nghĩ đến ngăn giữ lại, và họ ra đến cánh đồng bằng phẳng.
Trong khi ấy bọn lính vẫn kêu gào: Stop! Stop. Còn viên đội - bắt đầu nhận thấy mình bị mắc lừa cứ vò đầu bứt tóc mãi.
Giữa lúc ấy, người ta trông thấy một kỵ sĩ phi nước đại tới, tay cầm một mảnh giấy.
Đó là Mordaunt quay trở lại với tờ lệnh.
- Tù binh đâu? - Hắn vừa kêu, vừa nhảy xuống ngựa.
Viên đội không còn sức mà trả lời, giơ tay trỏ vào cái cổng mở toang và căn phòng trống rỗng. Mordaunt xông lên các bậc thềm hiểu rõ mọi sự, hắn hét lên một tiếng như vừa bị ai xé đứt ruột và ngất xỉu trên thềm đá.
Chú thích:
(1) Dừng lại, dừng lại! (tiếng Anh)
-*-*-*-
Chhương 62
Ở đâu chứng minh rằng những tình huống gay go nhất, những trái tim lớn vẫn không mất dũng cảm và những dạ dày lớn vẫn không quên đói
Cái toán nhỏ ấy không trao đổi một lời, không ngoái lại đằng sau, cứ phi nước đại, vượt qua một con đường mà chẳng ai biết tên và để lại sau phía trái mình một thị trấn mà Arthos đoán chừng là Durham.
Cuối cùng trông thấy một khu rừng nhỏ họ thúc ngựa một lần cuối và đi về hướng đó.
Vừa mới khuất sau một rặng cây xanh khá dày để che mắt những kẻ có thể đuổi theo, họ dừng lại để họp bàn. Họ giao ngựa cho đầy tớ để cho ngựa nghỉ mà không tháo yên cương và cắt Grimaud canh gác.
Arthos bảo d Artagnan:
- Trước hết, lại đây đã để tôi ôm hôn cậu, cậu là cứu tinh của chúng tôi, cậu là người anh hùng thật sự trong chúng ta.
- Arthos nói đúng đấy, và tôi khâm phục cậu, - Aramis vừa nói vừa ôm chặt lấy bạn. - Với cái đầu thông minh, con mắt tinh tường, cánh tay sắt thép, tinh thần chiến thắng, có cái gì mà cậu không kỳ vọng được.
- Bây giờ thì ổn cả rồi, - Chàng Gascon nói - Tôi xin nhận tất cả những cái hôn và lời cảm ơn cho tôi và Porthos, nhưng thôi đừng mất thì giờ nữa.
Nghe nói vậy, hai người bạn sực nhớ đến Porthos, vội đến bắt tay anh.
- Bây giờ - Arthos nói, - Không thể cứ chạy bừa phứa và như những kẻ rồ dại mà phải bàn định một kế hoạch. Chúng ta sẽ làm gì nào?
- Cái mà chúng ta sắp làm ấy à? - D Artagnan nói - Dể thôi! Chẳng có gì là khó nói cả.
- Vậy cậu thử nói xem nào?
- Chúng ta đến một hải cảng gần nhất, tập trung tất cả những món tiền nhỏ mọn của chúng ta lại, thuê một chiếc tàu và đi về Pháp. Riêng tôi tôi góp đến đồng xu cuối cùng. Kho báu thứ nhất là tính mạng, mà tính mạng của các anh phải nói rằng treo trên sợi tóc.
- Cậu thấy thế nào, du Vallon! - Arthos hỏi.
- Tôi ấy à, - Porthos nói, - Tôi hoàn toàn nhất trí với d Artagnan; thiết gì cái nước Anh của nợ này.
- Cậu dứt khoát rời bỏ nước Anh à? - Arthos hỏi d Artagnan.
- Đúng thế, tôi chẳng thấy có gì giữ tôi lại cả.
Arthos trao đổi một cái nhìn với Aramis, rồi thở dài nói:
- Thôi các bạn, hãy đi đi.
- Sao lại "các bạn hãy đi đi". - D Artagnan hỏi. - Chúng ta đi nào chứ!
- Không, bạn ơi, - Arthos nói, - Cần phải từ giã chúng tôi.
- Từ giã chúng tôi? - D Artagnan lặp lại, bàng hoàng về cái tin bất ngờ ấy.
- Ô hay! - Porthos nói, - tại sao lại từ giã chúng tôi, vì chúng ta cùng có nhau cơ mà?
- Bởi vì nhiệm vụ của các cậu đã hoàn thành, các cậu có thể, thậm chí phải trở về Pháp, nhưng nhiệm vụ của chúng tôi chưa hoàn thành.
- Nhiệm vụ của các anh chưa hoàn thảnh ư? - D Artagnan kinh ngạc nhin Arthos và nói.
- Chưa bạn ạ, - Arthos đáp bằng một giọng vừa nhẹ nhàng vừa kiên quyết. - Chúng tôi đến đây để bảo vệ vua Charles, chúng tôi đã bảo vệ tồi, bây giờ chúng tôi phải cứu ông ta.
- Cứu vua? - D Artagnan nhắc lại và nhìn Aramis như đã nhìn Arthos.
Aramis đành khẽ gật đầu.
Gương mặt d Artagnan biểu lộ một vẻ thương cảm sâu sắc; anh bắt đầu cho rằng mình đang có chuyện với hai kẻ điên rồ.
- Arthos này, - D Artagnan nói - Anh không thể nói nghiêm túc như thế được đâu. Nhà vua đang ở giữa một đạo quân đang dẫn đến London. Chỉ huy đạo quân ấy là một người hàng thịt hoặc con một người hàng thịt gì đó, không quan trọng, đại tá Harison. Việc xử án vua sẽ làm ngay khi tới London tôi xin cam đoan như vậy. Chính Olivier Cromwell đã nói với tôi không ít về vấn đề đó, nên tôi cũng hiểu sự thể sẽ ra sao.
Arthos và Aramis lại trao đổi với nhau một cái nhìn thứ hai.
- Bản án xong, người ta sẽ chẳng thi hành chậm trễ đâu, - D Artagnan nói tiếp. - Ô, các vị thanh giáo ấy là những người khẩn trương trong công việc đấy.
- Thế cậu cho rằng nhà vua sẽ bị hình phạt gì? - Arthos hỏi.
- Tôi e rằng là án xử tử; họ đã làm quá nhiều chuyện chống lại nhà vua, nên không thể tha thứ cho ông và chỉ còn một cách là giết đi. Thế các anh không biết câu nói của Olivier Cromwell khi ông đến Paris và người ta chỉ ông xem tháp lâu đài Vincennes nơi giam giữ ông Vendôme à?
- Câu gì vậy? - Porthos hỏi.
- Chỉ nên đụng đến các ông hoàng vào nơi đầu.
- Tôi có biết, - Arthos nói.
- Thế anh tưởng ông ta không đem câu châm ngôn của mình ra thực hiện khi bây giờ ông ta đã tóm giữ được nhà vua hay sao?
- Có chứ, tôi còn chắc chắn là khác, nhưng như thế là thêm một lý do để không bỏ rơi cái đầu uy nghi đang bị đe doạ.
- Arthos, anh điên mất rồi.
- Không đâu, bạn ạ, - Vị quý tộc nhẹ nhàng đáp, - nhưng de Winter đã đến Pháp tìm chúng tôi và dẫn chúng tôi đến bà Henriette. Bà hoàng đã ban vinh dự cho chúng tôi, D Herblay và tôi, bà yêu cầu chúng tôi giúp đỡ cho chồng bà. Chúng tôi đã hứa hẹn, lời hứa của chúng tôi bao gồm tất cả, đó là sức lực của chúng tôi, trí tuệ của chúng tôi, sau rốt là tính mạng của mình mà chúng tôi cam kết chúng tôi chỉ còn việc giữ lời. Ý kiến của cậu cũng thế phải không, D Herblay
- Phải, - Aramis nói, - Chúng tôi đã có một lời hứa.
- Rồi chúng tôi lại có một ý kiến khác nữa, - Arthos nói tiếp, - Đây này, hãy nghe kỹ nhé. Ở Pháp lúc này mọi thứ đều tồi tàn và nghèo đói. Chúng ta có một ông vua mười tuổi chưa biết mình muốn cái gì. Chúng ta có một hoàng hậu mà nỗi đam mê muộn màn làm cho mù quáng. Chúng ta có một tể tướng cai trị nước Pháp như là cai quản một trang trại lớn nghĩa là chỉ bận tâm xem ở đó vàng có mọc lên được không, khi cày bừa nó bằng một âm mưu và thói xảo quyệt .Ý chúng ta có những ông hoàng gây sự chống đối có tính cách cá nhân và ích kỷ chẳng đạt tới đâu ngoài việc moi từ tay Mazarin mấy thỏi vàng và vài mảnh quyền thế. Tôi đã phục vụ họ không phải vì nhiệt tâm. Thượng đế chứng giám rằng tôi đánh giá họ theo giá trị thực của họ, có chăng là do một sự an bài từ trước. Giờ đây lại là chuyện khác, giờ đây trên đường đi của tôi, tôi gặp một bất hạnh vương hầu, một bất hạnh Âu châu và tôi gắn bó với nó. Nếu chúng tôi cứu được nhà vua thì thực là đẹp đẽ; nếu chúng tôi chết vì vua, thì thực là lớn lao!
- Như vậy, - D Artagnan nói, - Anh biết trước là các anh sẽ tiêu vong chứ gì?
- Chúng tôi e là như vậy và nỗi đau đớn duy nhất của chúng tôi là chết xa các cậu.
- Các anh sẽ làm gì giữa một nước xa lạ và thù địch?
- Cậu nhỏ ơi, tôi đã từng đi khắp nước Anh, tôi nói tiếng Anh như ngươi Anh, và Aramis cũng có biết ít nhiều thứ tiếng ấy. A! Nếu, như chúng tôi có các cậu! Với cậu, d Artagnan, với cậu, Porthos, tất cả bốn chúng ta hợp nhau lại lần đầu tiên từ sau hai mươi năm nay, chúng ta sẽ đương đầu không chỉ với nước Anh mà với ba vương quốc!
D Artagnan bực tức nói:
- Thế các anh có hứa với bà hoàng ấy rằng các anh sẽ công phá tháp London giết một trăm nghìn lính không, chiến đấu thắng lợi chống lại nguyện vọng của một dân tộc và tham vọng của một con người khi người đó tên là Cromwell không? Các anh, cả Arthos và Aramis, chưa trông thấy con người ấy. Này, đấy là một người thiên tài khiến tôi rất nhớ đến giáo chủ của chúng ta, giáo chủ kia cơ, giáo chủ vĩ đại. Các anh biết đấy. Cho nên các anh chớ có cường điệu nhiệm vụ của mình. Nhân danh Chúa Trời, Arthos thân mến ạ, chớ có làm những việc tận tâm vô ích! Thực tình, khi nhìn anh, tôi thấy anh là một người biết những lẻ phải; nhưng khi anh trả lời tôi, tôi thấy như mình đang nói chuyện với một thằng điên. Nào, Porthos, hãy đứng về phía tôi.
- Cậu nghĩ thế nào về việc này? Cứ nói thẳng thắn.
- Chẳng có gì là hay ho cả? - Porthos đáp.
Thấy Arthos như chẳng nghe anh nói mà lại đang lắng nghe mình nói với mình, d Artagnan sốt ruột bảo:
- Nào Arthos, chưa bao giờ anh khó chịu về những lời khuyên của tôi. Vậy thì hãy tin tôi, nhiệm vụ của anh đã kết thúc, kết thúc một cách cao quý, hãy trở về Pháp với chúng tôi.
- Bạn ơi, quyết định của chúng tôi là không thể lay chuyển.
- Nhưng anh còn một lý do gì mà chúng tôi không biết chăng?
Arthos mỉm cười.
D Artagnan tức giận vỗ đùi đen đét và lải nhải những lý lẽ thuyết phục nhất mà anh có thể làm ra; nhưng Arthos chỉ đành lòng đáp lại bằng một nụ cười bình thản và hiền hoà, còn Aramis bằng những cái gật gù.
Cuối cùng d Artagnan tức điên người và la lên:
- Bởi vì các anh đã muốn vậy, thôi thì chúng ta hãy để lại nắm xương tàn của mình ở cái xứ sở khốn nạn quanh năm rét mướt này, mà ngày đẹp trời là sương mù, sương mù là mưa và mưa là lũ lụt, nơi mà mặt trời giống như mặt trăng, mặt trăng như một bánh pho-mát kem. Thực ra vì đã chết thì chết ở đây hay chết ở đâu đâu, đối với chúng ta chẳng có gì quan trọng.
- Tuy nhiên - Arthos nói, - Bạn thân mến ơi, Hãy nghĩ xem, đây là chết sớm hơn.
- Ô hay. Sớm hơn một chút hay muộn hơn một chút, điều ấy chẳng bõ công tranh cãi.
- Nếu như có điều khiến tôi thấy làm lạ, - Porthos trịnh trọng nói, thì dường như chưa phải điều đó đã đến đâu.
- Ồ, điều đó sẽ đến cứ yên trí Porthos ạ. - D Artagnan nói, - Như vậy là thoả thuận rồi nhé, và nếu như Porthos không phản đổi...
- Tôi ấy à, - Porthos nói, - tôi sẽ làm điều mà các cậu muốn. Vả lại, tôi thấy điều mà bá tước La Fère nói ban nãy là rất đẹp.
- Nhưng còn tương lai của cậu thì sao, - D Artagnan nói liến thoắng và sôi nổi, - nếu chúng ta cứu được vua thì chúng ta có cần quan tâm đến điều đó không? Vua được cứu rồi, chúng ta tập hợp bạn bè của vua lại, chúng ta đánh bại bọn thanh giáo, chúng ta chiếm lại nước Anh, chúng ta đưa vua trở về London, chúng ta đặt ngài thật lên ngai vàng một cách nghiêm chính...
- Và rồi vua phong chúng ta làm quận công, làm triều thần, - Porthos nói, mắt anh lóng lánh mừng vui và như trông thấy cái tương lai ấy qua một huyền thoại.
- Hoặc là vua quên mất chúng ta, - D Artagnan nói.
- Ồ - Porthos kêu.
- Kìa! Điều ấy đã thấy rồi còn gì? Porthos. Hình như xưa kia chúng ta đã giúp Anne d Autriche một việc chẳng kém việc mà hôm nay chúng ta định giúp vua Charles I là bao nhiêu, thế mà nó có ngăn cản hoàng hậu quên béng chúng ta trong gần hai mươi năm đâu.
- Này d Artagnan, - Arthos nói, - Mặc dầu vậy, cậu có bực mình khi đã giúp bà ta không?
- Thực tình không, - D Artagnan đáp, - Vả tôi còn thú nhận rằng trong những lúc bực bội nhất, tôi vẫn tìm thấy một niềm an ủi trong kỷ niệm ấy.
- D Artagnan cậu thấy đấy, Các ông hoàng thường bội bạc, Nhưng Chúa thì không bao giờ.
- Thế thì, Arthos ơi, - D Artagnan nói, - tôi tin rằng nếu anh gặp quỷ sứ ở trên mặt đất này ắt hẳn anh sẽ dẫn nó cùng với anh lên trời.
Arthos chìa tay ra với d Artagnan và nói:
- Như vậy là...
- Như vậy là thoả thuận, - D Artagnan đáp, - Tôi thấy nước Anh là một xứ tuyệt vời, tôi ở lại, nhưng với một điều kiện.
- Điều kiện gì?
- Người ta không bắt tôi học tiếng Anh.
- Được thôi, - Arthos nói với vẻ đắc thắng. - Bạn ơi bây giờ tôi xin viện Đức Chúa là người am hiểu chúng ta, viện tên họ của tôi mà tôi cho là không có tỳ vết, để thề với cậu là tôi tin rằng có một uy quyền canh chừng cho chúng ta, và tôi có hy vọng là cả bốn chúng ta sẽ gặp lại nước Pháp.
- Được - D Artagnan nói - nhưng xin thú thực là tôi có niềm tin trái ngược hẳn.
- Cái cậu d Artagnan thân mến này! - Aramis nói, - Ở giữa chúng ta, hắn tiêu biểu cho sự chống đối của các nghị viện, họ luôn luôn nói không và luôn luôn làm có.
- Phải rồi, nhưng trong khi chờ đợi, thì cứu nguy cho cuộc cờ.
- Thôi, này, các bạn ơi, - Porthos xoa xoa tay nói, - Bây giờ mọi việc đã quyết định xong xuôi, nếu như chúng ta nghĩ đến ăn uống nhỉ? Hình như trong những tình huống gay go nhất trong đời mình, chúng ta vẫn ăn uống thì phải.
- A phải đấy, - D Artagnan nói. - Hãy bàn về ăn uống trong một đất nước mà yến tiệc linh đình, người ta ăn toàn thịt cừu luộc, cỗ bàn thịnh soạn, người ta uống toàn rượu bia? Chẳng biết ma xui quỷ giục thế nào mà anh lại đâm đầu vào một đất nước tội nợ như thế này, hử Arthos? À xin lỗi nhé, - Anh mỉm cười nói thêm, - Tôi quên rằng anh không còn là Arthos nữa.
- Nhưng chẳng sao, chúng ta hãy xem cái kế hoạch ăn uống của cậu ra sao nào, Porthos.
- Kế hoạch của tôi à?
- Ừ, cậu có một kế hoạch không?
- Không, tôi đói, có thế thôi.
- Chết chưa, nếu chỉ có thế thì tôi cũng vậy, tôi đang đói.
- Nhưng không phải cứ đói là đủ, phải tim cái ăn chứ, trừ phi gặm cỏ như lũ ngựa của chúng ta.
- A! - Aramis kêu, anh không đến nỗi hoàn toàn tách rời mọi thứ ở trên trần như Arthos, - Khi chúng ta ở khách sạn Parpaillot, các cậu có nhớ các con sò huyết đỏ au mà chúng ta chén không?
- Và những cái đùi cừu ở trên cánh đồng muối nữa! - Porthos nói và thè lưỡi ra liếm mép.
- Nhưng này Porthos - D Artagnan nói - Chúng ta đã chẳng có anh bạn Mousqueton nuôi nấng cậu ăn uống thật đang hoàng ở Chantilly đó sao?
- Thật thế - Porthos nói, - chúng ta đã có Mousqueton, nhưng từ khi hắn lên làm quản lý hắn nặng nề ra quá; không sao, cứ gọi hắn lên.
Vả để chắc chắn được hắn đáp lại một cách dễ chịu, anh kêu:
- Ơ này, Mousqueton.
Mouston xuất hiện; mặt hắn trông thật thảm hại.
- Mouston thân mến, anh làm sao thế? - D Artagnan hỏi, - Anh có ốm đau gì không?
- Thưa ông, - Mouston đáp, - Tôi đói lắm ạ.
- Ấy chính vì thế mà chúng tôi triệu ông lên đấy. Ông Mouston thân mến ạ. Ông không thể đánh bẫy được con thỏ hiền lành và mấy con trĩ đẹp đẽ để làm món hầm và chả nướng như ở khách sạn... thực tình là tôi quên mất tên rồi.
- Khách sạn... gì nhỉ? - Porthos nói, - Tôi cũng quên nốt.
- Không sao, và quăng thòng lọng lấy mấy chai rượu vang Bourgogne lâu năm nó đã chữa khỏi rất nhạy cái trật xương của chủ anh ấy mà.
- Chao ôi, thưa ông, - Mouston đáp, - Tôi e rằng tất cả những thứ ông vừa yêu cầu rất hiếm ở cái xứ sở tồi tệ này, và tôi cho rằng tốt hơn cả là nhờ đến ông chủ của ngôi nhà nhỏ mà từ ven rừng ta cũng trông thấy.
- Saol? Có một ngôi nhà ở quanh đây à? - D Artagnan hỏi.
- Thưa ông, vâng.
- Vậy thì như cậu nói, chúng ta đến ăn ở đó đi.
- Thưa các vị, các vị thấy thế nào, ý kiến của ông Mouston chẳng chí lý hay sao?
- Ê này - Aramis nói - Nếu chủ nhà là người thanh giáo thì sao.
- Càng hay! Mẹ kiếp, - D Artagnan đáp, - Nếu hắn là người thanh giáo thì chúng ta sẽ cho hắn biết tin vua bị bắt, rồi để mừng cái tin ấy, hắn sẽ cho chúng ta mấy con gà mái trắng.
- Nhưng nếu hắn là lãnh chúa - Porthos nói.
- Trong trường hợp ấy, chúng ta sẽ làm bộ mặt đưa đám và vặt lông những con gà mái đen.
Arthos bất giác mỉm cười về cái máu vui nhộn của chàng Gascon bất trị, và nói:
- Cậu sung sướng thật, vì cậu nhìn cái gì cũng tươi cười.
- Biết làm thế nào! - D Artagnan đáp, - tôi sinh ra ở một xứ không có bóng mây trên trời.
- Chẳng như ở cái xứ này, - Porthos vừa nói vừa giơ tay ra để xem có đúng là mưa không vì anh vừa mới thấy như có một giọt nước rơi làm anh lạnh quá.
- Nào, nào, - D Artagnan nói, - thêm một lý do để chúng ta lên đường... Ơ này Grimaud!
Grimaud xuất hiện.
- Này ông bạn Grimaud bác có thấy gì không, - D Artagnan hỏi.
- Chẳng có gì hết, - Grimaud đáp.
- Đồ ngu, - Porthos nói, - Ba người kia chúng chẳng buồn đuổi theo chúng ta. Ồ! Nếu chúng ta ở vào địa vị chúng thì sao nhỉ?
- Ồ, chúng nó sai lầm, - D Artagnan nói, nếu gặp Mordaunt, tôi sẵn sàng nói với nó một câu ở trong Thébaïde(1): Đây là chỗ rất hay để quật ngã một con người.
- Này cậu ơi, - Aramis nói, - Dứt khoát là thằng con trai không có sức mạnh như mẹ.
- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - hãy khoan đã. Chúng ta mới rời nó khoảng hai tiếng đồng hồ nó chưa biết chúng ta đi lối nào, chúng ta ở đâu. Khi nào đặt chân lên đất Pháp, chúng ta hãy nói nó không mạnh bằng mẹ nó, nếu từ giờ đến lúc ấy chúng ta không bị giết hoặc đầu độc.
- Trong khi chờ đợi, ta cứ chén, - Porthos nói.
- Phải đấy, - Arthos nói, - Thực tình tôi đói lắm rồi.
- Liệu hồn những con gà mái đen! - Aramis bảo.
Và do Mouston dẫn đường, bốn bạn đi về phía ngôi nhà, họ gần trở lại nỗi vô tư lự xưa kia, vì rằng giờ đây họ là bốn người hợp nhất và hoà thuận như Arthos nói.
Chú thích:
(1) Thébaïde hoặc "Những anh em thù địch" - bi kịch của Raxin
-*-*-*-
hương 63
Chào Hoàng thượng sa cơ
Lần trước tới ngôi nhà, những kẻ lần trốn của chúng ta trông thấy đất bị xới lên như có một toán kỵ sĩ đông đảo đã đi trước họ. Trước cổng nhà các dấu vết càng nom rõ hơn cái toán ấy dù có là gì chăng nữa cũng đã nghỉ chân tại đây.
- Mẹ kiếp. - D Artagnan nói, - Chuyện rành rành ra rồi, vua và đoàn hộ tống đã đi qua đây.
- Thôi chết! - Porthos nói - Như thế thì họ đã ngốn ngấu hết rồi còn gì.
- Biết đâu họ chẳng để lại một con gà.
D Artagnan nói rồi nhảy xuống ngựa, đến gõ cửa, nhưng chẳng có ai trả lời.
Anh đẩy cửa, cửa không chốt và thấy căn phòng đầu tiên vắng tanh.
- Thế nào? - Porthos hỏi.
- Chẳng thấy ai cả, - D Artagnan đáp - A, a!
- Cái gì thế?
- Có máu.
Nghe thấy thế, ba người bạn nhẩy xuống ngựa và đi vào. Nhưng d Artagnan đã đẩy cửa căn phòng thứ hai, và qua nét mặt anh, rõ ràng là anh đã thấy một vật gì đặc biệt.
Ba người bạn đến gần và nom thấy một người đàn ông hãy còn trẻ nằm sóng sượt dưới đất trong một vũng máu.
Chắc là anh ta đã muốn vào giường, nhưng không đủ sức và ngã xuống.
Arthos là người đầu tiên đến gần kẻ bị nạn, anh tưởng như trông thấy người ấy cựa quậy.
- Thế nào? - D Artagnan hỏi.
- Nếu như anh ta chết, - Arthos đáp, - Thì cũng chưa lâu, vì người vẫn còn nóng. Mà không, tim vẫn còn đập. Này, anh bạn ơi!
Kẻ bị thương thở dài một cái. D Artagnan vốc nước vào lòng bàn tay và vẩy vào mặt.
Anh ta mở mắt, toan ngóc đầu dậy và lại ngã xuống.
Arthos định vực anh ta lên đầu gối mình, nhưng trông thấy vết thương ở phía trên tiểu não một chút và làm nứt toác sọ; máu ở đó tuôn ra lênh láng.
Aramis lấy khăn thấm nước và đắp vào vết thương, nước lạnh khiến kẻ bị thương hồi tỉnh và mở mắt lần thứ hai.
Anh ta ngạc nhiên nhìn những người kia có vẻ thương hại anh và đang cố sức cứu chữa cho anh.
- Ông đang ở giữa các bạn bè - Arthos nói bằng tiếng Anh, - Cứ yên tâm, và nếu ông còn có sức thì hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.
- Đúc vua, - Kẻ bị thương lẩm bầm, - đức vua là tù binh.
- Ông trông thấy à! - Aramis hỏi cũng bằng tiếng Anh.
Người ấy không trả lời.
- Hãy yên trí, - Arthos lại nói, - Chúng tôi là những bầy tôi trung thành của Hoàng thượng.
- Ông nói thật chứ? - Kẻ bị thương hỏi.
- Chúng tôi lấy danh dự quý tộc mà thề.
- Vậy tôi có thể nói với ông được không?
- Nói đi.
- Tôi là em của Parry, người hầu phòng của Hoàng thượng ấy.
Arthos và Aramis nhớ lại đó là cái tên mà de Winter đã gọi người hầu mà các anh đã gặp trong hành lang lều vua.
- Chúng tôi có biết, anh ta không rời vua bao giờ.
- Phải, đúng thế, - Kẻ bị thương nói. - Thấy Đức vua bị bắt, bác ấy nghĩ tới tôi. Khi đoàn người đi qua nhà tôi, bác nhân danh vua xin cho đoàn dừng lại và được chấp thuận. Nghe nói vua đòi, họ cho vua vào trong căn phòng tôi đang ở đây, để người dùng bữa và cắt lính canh ở cửa ra vào và cửa sổ. Parry biết căn phòng này có một cửa sập dẫn xuống căn hầm và từ đó có thể đi ra ngoải vườn, bác ra hiệu cho tôi, tôi hiểu ngay, nhưng chắc hẳn ám hiệu bị bọn lính canh bắt chợt và nghi ngờ. Không biết rằng họ nghi ngờ, tôi chỉ có một điều mong muốn là cứu Hoàng thượng. Tôi bèn giả vờ ra vườn kiếm củi và nghĩ rằng không thể chậm trễ. Tôi đi vào đường ngầm dẫn đến căn hầm có cánh cứu sập Tôi lấy đầu đội nắp hầm lên, và trong khi Parry nhẹ nhàng cài chốt cửa ra vào lại, tôi ra hiệu cho vua đi theo tôi? Than ôi, vua không muốn, dường như ngài ghê tởm việc chạy trốn như thế. Nhưng Parry chắp tay van lạy ngài, tôi cũng vật nài ngài đừng bỏ lỡ một cơ hội như vậy. Cuối cùng ngài quyết định đi theo tôi. May thay, tôi đi trước, vua đi sau tôi vài bước bỗng nhiên tôi thấy trong đường hầm sừng sững một bóng đen cao lớn. Tôi toan kêu lên để báo hiệu cho vua, nhưng không kịp. Tôi cảm thấy một đòn như cả ngôi nhà đổ sập xuống đầu tôi và tôi lăn ra bất tỉnh.
Một người Anh tử tế và chính trực! Một bầy tôi trung thành! - Arthos nói.
- Khi tỉnh lại tôi thấy mình vẫn nằm ở chỗ ấy. Tôi lết ra tận ngoài sân, vua và đoàn hộ tống đã đi rồi. Tôi lê từ ngoài vườn vào đây phải mất đến một tiếng đồng hồ, nhưng rồi kiệt sức, tôi ngất đi lần thứ hai.
- Thế bây giờ ông thấy thế nào?
- Đau lắm, ông ạ.
- Chúng tôi có thể giúp gì cho ông? - Arthos hỏi.
- Hãy đỡ tôi lên giường, như thế có lẽ dễ chịu hơn.
- Có người nào để cứu chữa cho ông không?
- Vợ tôi đang ở Durham và sớm muộn sẽ trở về. Nhưng còn các ông không cần gì ư, không muốn cái gì ư?
- Lúc này chúng tôi định đến xin ăn.
- Chao ôi? Họ vơ vét sạch, chẳng còn lấy một mẩu bánh ở trong nhà. D Artagnan, cậu nghe thấy chưa? - Arthos nói, - chúng ta phải đi kiếm bữa ăn ở chỗ khác thôi.
- Chẳng sao! - D Artagnan nói, - Bây giờ tôi không thấy đói nữa.
- Thực tình, tôi cũng vậy, - Porthos nói.
Họ đưa người bị nạn lên giường và gọi Grimaud đến băng bó vết thương. Giúp việc bốn người bạn, Grimaud đã có nhiều dịp làm băng bó và đôi chút ra dáng nhả phẫu thuật.
Trong khi ấy mấy người lẩn trốn đi ra căn phòng ngoài và họp bàn.
- Bây giờ đây, - Aramis nói, - Chúng ta đã biết sự thể ra sao rồi.
- Đúng là vua và đoàn hộ tống đã đi qua đây ta phải đi theo hướng ngược lại. Cậu thấy thế nào, Arthos?
Arthos không đáp, anh đang suy nghĩ
- Phải đấy, - Porthos nói - Ta đi hướng ngược lại. Nếu ta đi theo đoàn hộ tống, ta sẽ thấy mọi thứ đều bị ngốn ngấu hết và cuối cùng chúng ta sẽ chết đói. Cái nước Anh đáng nguyền rủa này. Đây là lần đầu tiên tôi không được ăn trưa. Bữa trưa là bữa ăn ngon nhất của tôi đấy!
- D Artagnan, cậu nghĩ thế nào - Arthos hỏi. - Cậu có đồng ý với Aramis không?
- Không, - D Artagnan đáp. - Tôi trái với ý kiến đi theo chiều ngược lại.
- Sao, - Porthos hoảng hốt nói. - Cậu định đi theo đoàn hộ tống ư?
- Không, nhưng đi cùng hướng với họ.
- Đi cùng hướng với đoàn hộ tống ư? - Aramis kêu lên.
- Cứ để d Artagnan nói, - Arthos bảo, - Cậu biết rằng hắn là người luôn có ý kiến hay mà.
- Tất nhiên. - D Artagnan đáp, - phải đi nơi nào người ta không tìm kiếm chúng ta. Do họ chẳng bao giờ lại đi lùng chúng ta trong đám người thanh giáo, chúng ta hãy đến chỗ bọn thanh giáo.
- Hay lắm, bạn ơi! Ý kiến thật là tuyệt, - Arthos nói, - Tôi sắp sửa nói thì cậu đã nói trước mắt rồi.
- Thế anh cũng đồng ý như vậy à? - Aramis hỏi.
- Phải. Người ta tưởng chúng ta muốn rời nước Anh và họ tìm kiếm chúng ta ở các bến cảng; trong khi đó chúng ta sẽ đến London cùng với vua. Một khi tới London rồi, sẽ chẳng ai tìm thấy chúng ta đâu; Ở giữa một triệu con người, ẩn náu chăng khó khăn gì, chưa kể, - Arthos nói thêm và đưa mắt sang Aramis, - Những điều may ta sẽ gặp trong chuyên đi này.
- Phải, - Aramis nói. - Tôi hiểu.
- Tôi chẳng hiểu gì, - Porthos nói, - Nhưng không sao vì ý kiến này vừa là của d Artagnan, vừa là của Arthos, ắt hẳn là ý kiến hay nhất.
- Nhưng - Aramis nói, - Liệu đại tá Harrison có nghi ngờ chúng ta không?
- Ô mẹ kiếp! - D Artagnan nói -Ttôi lại trông cậy vào chính ông ta cơ chứ. Đại tá Harrison là chỗ bạn bè của chúng ta, tôi đã gặp ông ta hai lần ở chỗ tướng Cromwell; ông ta biết rằng chúng tôi được ông Mazarin phải từ Pháp sang, và coi chúng tôi như anh em. Vả chăng, đó chẳng phải là con trai một người đồ tể đó sao? Đúng như thế, phải không? Vậy thì Porthos sẽ chỉ cho ông ta biết người ta đập chết một con bò bằng một quả đấm như thế nào, còn tôi sẽ cho ông ấy hay người ta nắm sừng một con bò to lớn và quật ngã nó ra sao, điều ấy sẽ chinh phục lòng tin cậy của ông ta.
Arthos mỉm cười. Rồi vừa giơ tay ra vừa nói vớỉ chàng Gascon:
- D Artagnan, cậu là người bạn đường hay nhất mà tôi được biết. Tôi rất sung sướng được gặp lại cậu, con trai thân yêu của tôi.
Ta đã biết, Arthos thường gọi d Artagnan như vậy những khi trải tim anh dạt dào tình cảm.
Vừa lúc ấy Grimaud đi ra. Kẻ bị thương đã được băng bó và khá hơn.
Bốn người bạn cáo biệt anh ta và hỏi có nhắn gì cho anh trai mình không.
Con người trung hậu đáp:
- Nhờ các ông bảo bác ấy nói để Đức vua biết rằng họ không giết chết hẳn tôi; dù hèn hạ như tôi, tôi cũng tin chắc rằng hoàng thượng thương tiếc tôi và ân hận về cái chết của tôi.
- Cứ yên trí, - D Artagnan nói, - Trước buổi tối này, ngài sẽ biết.
Toán người lại ra đi. Không thể lầm đường, vì con đường họ muốn đi theo được vạch rõ ràng qua cánh đồng.
Sau hai tiếng đồng hồ đi lặng lẽ, d Artagnan dẫn đầu bỗng dừng ở lại một chỗ dường ngoặt.
- A, a, - Anh nói, - Người chúng ta đây rồi.
Quả thật một toán đông kỵ sĩ hiện ra ở cánh đồng nửa dặm.
- Các bạn ơi! - D Artagnan nói, - Hãy đưa gươm kiếm cho ông Mouston, ông ta sẽ trả lại các anh khi cần thiết, và đừng quên rằng các anh là tù binh của chúng tôi đấy.
Rồi mọi người cho ngựa đi nước kiệu, chúng cũng bắt đầu mệt mỏi, và chẳng mấy chốc họ đuổi kịp đoàn hộ tống.
Nhà vua có một bộ phận của trung đoàn Harrison bao quanh, đi đầu vẫn thản nhiên, đàng hoàng và với vẻ như là thiện ý.
Trông thấy Arthos và Aramis mà người ta đã chẳng để cho ông có thì giờ từ biệt, vua đọc trong những cái nhìn của hai nhà quý tộc thấy rằng họ còn có những bạn bè ở cạnh họ mấy bước và mặc dầu vẫn tưởng họ là tù binh, một sắc đỏ vui mừng bốc lên hai gò má xanh xao của nhà vua.
Để hai bạn mình cho Porthos canh giữ, d Artagnan đi lên hàng đầu của đoàn quân đến thẳng chỗ Harrison. Ông ta nhận ngay ra là đã gặp anh ở dinh Cromwell, và đón tiếp anh một cách lịch sự như một người ở địa vị ấy và với tính cách ấy có thể làm đối với mọi người khách. Đúng như điều dự đoán của d Artagnan, viên đại tá không nghi ngờ gì hết.
Người ta dừng lại; vua ăn ở chỗ nghỉ này. Tuy nhiên lần này người ta đề phòng để vua khỏi mưu toan chạy trốn. Trong gian phòng lớn của khách sạn, một chiếc bàn nhỏ được xếp cho vua và một bàn lớn cho các sĩ quan.
- Ông có ăn với tôi không? - Harrison hỏi d Artagnan.
- Chao ôi, tôi rất vui lòng - D Artagnan đáp, - Song tôi còn người bạn đồng hành, ông Du Vallon với hai tù binh mà tôi không thể rời xa và họ làm chật bàn của ông ra. Nhưng thế này có lẽ tiện hơn; ông cho kẻ một cái bàn vào một góc và cho dọn thức ăn sang đấy cho chúng tôi nếu không thì chúng tôi chết đói mất. Như thế vẫn là cùng ăn với nhau, bởi vì chúng ta sẽ ăn trong cùng một gian phòng.
- Được! Harrison nói.
Mọi việc được thu xếp như d Artagnan mong muốn và khi anh trở lại thì đã thấy nhà vua ngồi ở cái bàn nhỏ, do Pary hầu, Harrison và các sĩ quan ngồi chung một bàn và ở trong góc một bàn dành cho anh và các bạn đồng hành.
Bàn của các sĩ quan thanh giáo hình tròn và chẳng biết do tình cờ hay tỉnh toán vụng, Harrison ngồi quay lưng lại phía vua.
Trông thấy bốn người quý tộc vào, vua không tỏ ra chú ý gì đến họ.
Họ đến chỗ bàn dành cho mình và ngồi sao để không quay lưng lại ai.
Để chào mừng các vị khách của mình, Harrison sai mang nhưng thức ăn ngon nhất của bàn mình sang cho họ. Tiếc thay không có rượu vang. Đối với Arthos điều ấy không can gì, nhưng d Artagnan, Porthos và Aramis mỗi lần phải nhấp rượu bia lại nhăn nhó vì cái thứ đồ uống thanh giáo này.
- Thưa đại tá, - D Artagnan nói, - Thậttình là chúng tôi rất biết ơn ông về sự mời mọc quý hoá này, vì nếu không có ông, chắc chắn chúng tôi sẽ phải nhịn bữa trưa cũng như đã nhịn bữa ăn lót dạ và đây là ông du Vallon là bạn tôi cũng chia sẻ lòng biết ơn của tôi bởi vì ông ấy đói lắm.
- Tôi vẫn đói, - Porthos vừa nói vừa chào viên đại tá.
- Thế cái sự kiện nghiêm trọng là phải nhịn bữa lót dạ ấy đã xảy ra với các ông như thế nào? - Viên đại tá vừa cười vừa hỏi.
- Do một nguyên nhân rất đơn giản, - D Artagnan nói, - Tôi vội vã đuổi theo đại tá, vì vậy đi cùng đường với ông. Lẽ ra một sĩ quan kỳ cựu như tôi không làm như vậy, vì phải biết rằng nơi nào mà một trung đoàn hùng hậu như trung đoàn ông đã đi qua thì chẳng còn để lượm một nữa. Cho nên ông hiểu rõ nỗi thất vọng của chúng tôi khi tới một ngôi nhà xinh xinh ven rừng mái ngói đó, cửa sổ xanh, đẹp như mơ, từ xa trông rất thích. Chúng tôi chắc mẩm là sẽ có gà mái tơ để quay, đùi cừu để nướng chả, nhưng đến nơi chỉ trông thấy một kẻ tội nghiệp tắm mình trong... - A, mẹ kiếp Thưa đại tá, xin hãy chuyển lời khen của tôi đến viên sĩ quan nào đã giáng cái đòn ấy thật đích đáng, thật đích đáng khiến ông du Vallon bạn tôi phải khâm phục, ông ấy cũng giáng được những đòn như thế.
- Vâng, - Harrison cười nói và đưa mắt sang một viên sĩ quan ngồi cùng bàn, - khi Groslow đã đảm nhiệm công việc ấy thì chẳng cần ai đến sau ông ta.
- A! Thì ra ông đấy à? - D Artagnan nói và chào viên sĩ quan, tôi tiếc là ông không nói tiếng Pháp để tôi có lời chúc mừng ông.
- Thưa ông, tôi sẵn sàng nhận và chúc mừng lại ông, - Viên sĩ quan nói bằng tiếng Pháp khá thạo, - Bởi vì tôi đã ở Paris ba năm.
- Vậy thì - D Artagnan nói tiếp, - Tôi vội xin thưa với ông rằng, cái đòn ấy nện hay đến nỗi hầu như đã giết chết địch thủ.
- Tôi tưởng đã giết chết hẳn rồi chứ, - Groslow nói.
- Không. Cũng chẳng còn gì quan trọng lắm đâu, đúng thế, nhưng hắn không chết.
Khi nói câu ấy, d Artagnan đưa mắt nhìn Parry, bác đang đứng trước nhà vua, mặt tái nhợt, - để ngụ ý rằng cái tin tức này là gửi cho bác.
Vua lắng nghe câu chuyện này mà tim thắt lại với một nỗi lo âu khôn tả, vì không biết tên sĩ quan người Pháp kia muốn đi tới đâu, và những chi tiết tàn nhẫn kia núp dưới một bề ngoài vô tư lự khiến ông bực tức.
Chỉ sau những lời nói cuối cùng của d Artagnan ông mới dễ thở.
- A! Bực nhỉ, - Groslow nói, - tôi cứ tưởng đạt hơn cơ đấy. Nếu từ đây đến nhà tên khốn kiếp này không xa, tôi sẽ trở lại, cho hắn chết hẳn.
- Ông làm thế là phải, nếu như ông sợ nó hồi phục, d Artagnan nói, - bởi vì ông biết đấy, khi vết thương vào đầu mà không giết chết ngay thì sau tám ngày nó sẽ khỏi.
Và d Artagnan lại liếc nhìn Parry lần thứ hai, mặt bác ta lộ vẻ mừng rỡ khiến Charles giơ tay ra cho bác và mỉm cười.
Parry cúi xuống bàn tay chủ và hôn lên với vẻ cung kính.
- D Artagnan này, - Arthos nói, - Quả thật cậu vừa là người giữ lời vừa là người tài trí. Nhưng cậu thấy vua thế nào?
- Tôi hoàn toàn ưa thích gương mặt của vua. Ông ta vừa có vẻ tử tế vừa có vẻ cao quý.
- Phải, - Porthos nói, - Nhưng ông ta để bị bắt, đó là một sai lầm.
- Tôi rất muốn uống chúc mừng sức khỏe nhà vua, - Arthos nói.
- Vậy thì để tôi làm cho, - D Artagnan bảo.
- Làm đi, - Aramis nói.
Porthos nhìn d Artagnan, choáng váng cả người về những nguồn thủ đoạn dồi dào mà trí xảo Gascon không ngừng cung cấp cho bạn.
D Artagnan cầm chiếc cốc bằng thiếc rót đầy rượu và đứng lên. Anh nói với các bạn:
- Thưa các ông, chúng ta hãy uống mừng sức khỏe người chủ bữa ăn này. Chúc mừng ông đại tá và mong ông biết cho rằng chúng ta sẵn sàng phục vụ ông đến tận London và xa hơn nữa.
Vừa nói d Artagnan vừa nhìn Harrison, ông ta tưởng người ta nâng cốc chúc mình bèn đứng dậy và chào bốn người bạn, mấy người này dán mắt vào vua cùng uống, trong khi Harrison cũng cạn cốc của mình không một chút nghi ngờ.
Đến lượt mình, Charles chìa cốc ra để Parry rót cho vài giọt bia vì rằng vua cũng chỉ được chia phần như mọi người, và vừa đưa cốc lên môi vừa nhìn lại bốn người quý tộc, ông uống với nụ cười đầy vẻ quý phái và biết ơn.
Harrison đặt cốc xuống và chẳng tỏ một vẻ kính trọng nào đối với người tù hiển hách mà mình dẫn đi, ông hô:
- Nào, xin các ông lên đường!
- Ta ngủ ở đâu, đại tá?
- Ở Tirsk. - Harrison đáp.
Vua đứng lên, quay lại phía người hầu và nói:
- Parry, đem ngựa ra. Ta muốn đi đến Tirsk.
- Arthos này, - D Artagnan nói, - Thực tình vua của anh đã quyến rũ tôi thật sự và tôi sẵn lòng phục vụ ông ta.
- Nếu điều cậu nói là chân thành, - Arthos nói, - Thì vua không đi tới London.
- Sao vậy?
Vì rằng trước lúc đó, chúng ta đã cướp vua đi.
- A! - D Artagnan nói, - Xin lấy danh dự mà thề rằng lần này anh điên thật đấy, Arthos ạ.
- Thế cậu có một kế hoạch nào không? - Aramis hỏi.
- Này, - Porthos nói - việc đó không phải là không thể làm được nếu như có một kế hoạch hẳn hoi.
- Tôi không có, - Arthos đáp, - nhưng d Artagnan sẽ tìm ra một diệu kế.
D Artagnan nhún vai, và mọi người lên đường.
-*-*-*-
Chương 64
D'Artagnan được một diệu kế
Có lẽ Arthos hiểu d Artagnan còn hơn d Artagnan tự hiểu mình. Anh biết rằng trong một tâm trí mạo hiềm như tâm trí d Artagnan chỉ cần gieo một ý tưởng giống như trên một mảnh đất màu mỡ chỉ cần gieo một hạt giống. Cho nên anh đã lặng lẽ để mặc bạn mình nhún vai, và anh vừa đi vừa nói chuyện với bạn về Raoul, câu chuyện mà trong một hoàn cảnh khác, anh đã hoàn toàn bỏ rơi.
Trời tối hằn thì đến Tirsk. Bốn người bạn tỏ ra hoàn toàn xa lạ và thờ ơ với những biện pháp phòng ngừa mà người ta thi hành để yên tâm về nhà vua. Họ rút vào một ngôi nhà riêng và do luôn luôn phải lo ngại cho chính mình, họ cũng ở trong một phòng và sắp xếp một lối thoát trong trường hợp bị tấn công. Các người hầu được cắt đặt vào những vị trí khác nhau; Grimaud nằm trong một ổ rơm chắn ngang cửa.
D Artagnan có vẻ đăm chiêu và tạm thời mất đi tính vui miệng thông thường. Anh chẳng nói một lời và không ngừng huýt sáo, đi từ giường ra cửa sổ. Porthos xưa nay chỉ nhìn thấy những sự vật bên ngoài, vẫn nói chuyện như thường lệ, d Artagnan đáp lại bằng những tiếng nhát gừng. Arthos và Aramis nhìn nhau tủm tỉm cười.
Cả ngày mệt mỏi song trừ Porthos mà giấc ngủ cũng bất khuất như sự thèm ăn, các bạn khác đều khó ngủ.
Sớm hôm sau d Artagnan dậy trước tiên. Anh xuống chuồng ngựa, xem xét các con ngựa, ban các mệnh lệnh cần thiết trong ngày cho người hầu, trong khi Arthos và Aramis chưa dậy và Porthos vẫn đang ngáy.
Tám giờ sáng đoàn quân lên đường theo trật tự hôm trước.
Riêng d Artagnan để mặc các bạn đi với nhau và đến nối lại với Groslow sự quen biết bắt đầu từ hôm qua.
Được những lời khen của anh ve vuốt, Groslow đón tiếp anh bằng một nụ cười nhã nhặn.
- Thưa ông, - D Artagnan nói, - Thực tình tôi rất sung sướng tìm được một người nào đó để nói cái ngôn ngữ tầm thường của mình. Ông Du Vallon bạn tôi vốn tính đa sầu thành ra cả ngày chẳng thể moi ở miệng ông ấy lấy bốn câu, còn hai tù binh của chúng tôi ông cũng thừa hiểu rằng họ chẳng hào hứng gì chuyện trò với chúng tôi.
- Đó là những tên bảo hoàng cuồng dại, - Groslow nói.
- Thêm một lý do để họ bất bình với chúng tôi vì đã bắt mất lão Stuart mà chúng tôi mong rằng các ông sẽ đem ra xử án đến nơi đến chốn.
- Thì chúng tôi dẫn hắn đến London để làm cái việc ấy mà, - Groslow nói.
- Và tôi đoán rằng không lúc nào ông rời mắt khỏi lão ta phải không.
- Hẳn đi chứ! Ông thấy đấy, - Viên sĩ quan cười nói, - Hắn ta có một đoàn hộ giá thật là đế vương.
- Phải ban ngày chẳng có nguy cơ lão ta trốn thoát; nhưng ban đêm?
- Ban đêm phải phòng ngừa gấp đôi.
- Bằng cách nào?
Tám người thường xuyên ở trong phòng hắn.
- Ghê nhỉ! - D Artagnan nói. - Nhưng ngoài tám người đó ra, còn phải canh gác ở bên ngoài nữa chứ. Vì một tù nhân như vậy thì đề phòng bao nhiêu cũng chẳng phải là thừa.
- Ồ không, ông thử nghĩ xem: hai người không vũ khí thì làm gì được tám người có vũ trang.
- Sao lại hai người?
- Vua và tên hầu phòng.
- Người ta cũng cho phép tên hầu phòng ở bên ông ta à?
- Phải, Stuart yêu cầu được ban cho cái đặc ân ấy và đại tá Harrison đã bằng lòng. Lấy cớ mình là vua hình như lão ta không thể tự mình mặc lấy quần áo hoặc cởi ra...
Quyết định tiếp tục cái phương án tán tụng đã tỏ ra rất có hiệu quả với tên sĩ quan Anh, d Artagnan nói:
- Đại uý này, thực tình là càng nghe ông nói tôi càng ngạc nhiên về cách ông nói tiếng Pháp sao mà dễ dàng và tao nhã thế. Ông đã ở Paris ba năm, đúng như tôi dù có ở London suốt đời chăng nữa, tôi tin rằng cũng chăng thể đạt tới trình độ hiện nay của ông đâu. Thế dạo ở Paris ông làm gì?
- Cha tôi vốn là thương gia đã cho tôi đến ở với người bạn bán hàng bằng thư tín ở Paris, và ngược lại ông ta đã cho con trai đến ở với cha tôi. Việc trao đổi như vậy là thường giữa các nhà buôn với nhau.
- Thế Paris có làm vừa lòng ông không?
- Có chứ, nhưng các ông cần một cuộc cách mạng như kiểu của chúng tôi; không phải để chống lại vua của các ông đâu, đó chỉ là một đứa bé, mà để chống lại cái lão người Ý bần tiện ấy, hắn là tình nhân của hoàng hậu.
- A! Tôi rất đồng ý với ông đấy, và điều ấy sẽ làm sớm, chỉ cần chúng tôi có được mười hai sĩ quan như ông, không thiên kiển, cánh giác và không thể thương lượng! A! Chúng tôi sẽ nhanh chóng thanh toán được lão Mazarin và sẽ cho lão một bản án nho nhỏ như các ông sắp làm với vua của mình.
- Nhưng tôi tưỏng ông phục vụ lão ta cơ mà, - Viên sĩ quan nói, - Và chính lão ta đã phái ông sang gặp Cromwell?
- Nghĩa là tôi phục vụ nhà vua, và biết rằng lão ta cần phải một người nào đó sang nước Anh, tôi bèn xin lãnh nhiệm vụ đó, ông xem tôi mong muốn biết chừng nào con người thiên tài lúc này đây đang chỉ huy ở ba vương quốc(1). Cho nên khi ngài đề nghị với ông Du Vallon và tôi tuốt kiếm ra để chào mừng nước Anh cổ kính, ông đã thấy chúng tôi bập vào đề nghị đó như thế nào rồi.
- Phải tôi biết rằng các ông đã công kích bên cạnh ông Mordaunt.
- Ở bên trái và bên phải ông ấy. Ghê thật, lại một chàng thanh niên dũng cảm xuất sắc như ông ta. Ông thẳng tay hạ sát bác của mình. Ông có trông thấy không?
- Ông quen biết ông ấy à? - Viên sĩ quan hỏi.
- Quen lắm chứ, có thể nói rằng chúng tôi rất mật thiết với nhau. Ông Du Vallon và tôi đã cùng đi với ông ấy từ Pháp sang đây.
- Hình như các ông để cái ông ấy phải chờ đợi rất lâu ở Boulogne-sur-Mer phải không?
- Làm thế nào được, - D Artagnan đáp, - Cũng như ông, tôi phải canh giữ một ông vua.
- A, a! Vua nào - Groslow hỏi.
- Vua của chúng tôi, mẹ kiếp, ông king(2) tí hon Louis thứ mười bốn.
Và d Artagnan ngả mũ ra. Viên sĩ quan Anh vì lịch sự cũng làm theo.
- Thế ông phải canh giữ bao lâu?
- Ba đêm và thực tình, tôi sẽ mãi mãi nhớ lại ba đêm ấy một cách thú vị.
- Ông vua nhỏ dễ thương chứ?
- Ông ta ngủ ngon lành.
- Ý ông định nói gì?
- Tôi muốn nói rằng các sĩ quan bạn tôi ở thị vệ đội và ngự lâm quân đến chơi với tôi, và cả đêm chúng tôi chè chén và cờ bạc.
- À phải, - Người Anh thở dài, - Đúng thật người Pháp các ông là những người bạn vui tính.
- Khi canh gác các ông không chơi bạc à?
- Không bao giờ.
- Như vậy, chắc các ông buồn chán lắm nhỉ và tôi lấy làm ái ngại cho các ông đấy - D Artagnan nói.
- Sự thật là, - Viên sĩ quan nói, - Tôi đợi phiên gác với một nỗi kinh hoàng. Sao mà dài thế, cả một đêm trọn thức canh.
- Đúng thế, khi người ta canh gác một mình hoặc với những người lính ấm ớ. Nhưng khi người ta canh với một người bạn chơi vui tính. Khi người ta lăn tiền vàng và những quân súc sắc trên bàn, thì đêm qua đi như một giấc mơ. Ông không thích cờ bạc à?
- Trái lại.
- Chơi Le lansquenet (3) chẳng hạn.
- Tôi mê lắm. Hồi ở Pháp hầu như tối nào tôi cũng chơi.
- Thế từ khi về nước Anh?
- Tôi chẳng cầm đến một con súc sắc hay một quân bài.
- Tôi thương ông quá, - D Artagnan nói với một vẻ thương cảm sâu xa.
- Này ông, - Người Anh nói, - Ta hãy làm một chầu?
- Chầu gì?
Ngày mai tôi trực gác.
- Trông chừng Stuart à?
- Phải. Ông hãy sang chơi đêm với tôi.
- Không được đâu, - D Artagnan đáp.
- Không được ư?
- Hoàn toàn không thể được.
- Sao vậy?
- Đêm nào tôi cũng chơi bạc với ông Du Vallon. Đôi khi chúng tôi không ngủ... Sáng nay chẳng hạn, sáng rồi mà vẫn còn chơi.
- Thế thì sao?
- Ông ấy sẽ buồn phiền, nếu không có tôi cùng chơi.
- Ông ấy chơi khá không?
- Tôi đã thấy ông ấy thua hai nghìn pistol và cười ra nước mắt.
- Thế thì kéo ông ta đến đây.
- Ông tính thế nào? Còn tù binh của chúng tôi?
- Ờ nhỉ. Khỉ thật! - Viên sĩ quan nói. - Nhưng bảo bọn đầy tớ canh gác cho.
- Vâng, để họ tẩu thoát à? Tôi chẳng làm thế đâu - D Artagnan nói.
- Chắc hẳn đó là những người có địa vị cao sang nên ông mới giữ riệt thế?
- Ấy một người là lãnh chúa giàu sụ ở Touraine; một người là hiệp sĩ ở Malte nhà quyền thề lắm. Chúng tôi sẽ thương lượng tiền chuộc; khi về Pháp mỗi người phải nộp hai nghìn livres sterling (4).
Chúng tôi không muốn rời mắt một lát nào những người mà bọn đầy tớ của chúng tôi biết rõ là triệu phú. Khi bắt được họ, chúng tôi đã moi của họ được ít nhiều, và xin thú thật với ông rằng đêm đêm, tôi và ông Du Vallon chúng tôi giằng co nhau túi tiền của họ đấy. Nhưng có lẽ họ còn giấu giếm một vài viên ngọc quí, một vài hạt kim cương, thành thử chúng tôi cứ như những kẻ biển lận chẳng lúc nào dám rời xa kho vàng của mình. Chúng tôi trở thành kẻ canh gác thường xuyên tù binh của mình; khi người này ngủ thì người kia thức.
- À ra thế! - Groslow nói.
- Bây gỉờ thì ông hiểu cái gì buộc tôi phải từ chối nhã ý của ông. Vả lại tôi càng nhạy cảm với lời mời của ông hơn khi thấy rằng không có gì chán hơn là cứ chơi mãi với vẫn một người vận số đen liên tục bù trừ nhau, và sau một tháng chẳng ai được cũng chẳng ai thua.
- Ôi! Groslow thở dài mà nói, - Còn có điều chán hơn nữa kia, đó là chẳng có gì hết.
- Tôi hiểu lắm, - D Artagnan đáp.
- Nhưng này, - Người Anh lại nói, - Những tù binh của ông có nguy hiểm không?
- Về mặt nào cơ?
- Họ có khả năng tẩu thoát không?
D Artagnan bật cười và nói:
- Ôi lạy Chúa, một tên sốt rét run cầm cập vì không quen với khí hậu ở đất nước tươi đẹp của ông, tên kia là hiệp sĩ Malte nhút nhát như đứa con gái. Và để chắc hơn, chúng tôi tước bỏ của họ đến cả con dao gập và cái kéo bỏ túi.
- Vậy thì hãy dẫn họ theo, - Groslow nói.
- Sao, ông định thế ư? D Artagnan hỏi.
- Vâng, tôi có tám người.
- Thì sao?
- Bốn người canh họ, bốn người canh vua.
Kể ra thì công việc có thể thu xếp như vậy đấy, - D Artagnan nói, - Nhưng tôi gây cho ông nhiều điều phiền phức quá.
- Ô hay, cứ đến chứ ông sẽ thấy tôi dàn xếp công việc như thế nào?
- Ồ, tôi không ngại ngần đâu, đối với một người như ông, tôi có thể nhắm mắt mà phó thác mình.
Câu phỉnh nịnh sau cùng này khiến cho viên sĩ quan cười một cái cười thoả mãn nó làm cho người ta trở thành bạn bè của kẻ đã gây ra tiếng cười ở họ bởi vì nó là một sự bốc hơi của lòng tự phụ được mơn trớn.
- Thế có gì ngăn trở chúng ta bắt đầu ngay tối nay không, - D Artagnan hỏi.
- Bắt đầu cái gì cơ?
- Canh bạc của chúng ta ấy.
- Chẳng có gì ngăn trở cả, - Groslow đáp.
- Thể thì tối nay ông sang với chúng tôi, và tối mai chúng tôi sẽ sang ông. Ông biết đấy tù binh của chúng tôi là những kẻ bảo hoàng cuồng dại; nếu như họ có điều gì làm ông lo ngại thì thôi, và dù sao đêm nay vẫn là một đêm thú vị.
- Tuyệt lắm! Tối nay ở bên các ông, tối mai ở chỗ Stuart, tối ngày kia ở chỗ tôi.
- Và các ngày sau ở London. Ê, mẹ kiếp! - D Artagnan nói, ông thấy không, người ta có thể sống vui vẻ ở khắp nơi.
- Đúng, - Groslow nói, - Khi người ta gặp những người Pháp và những người Pháp như ông.
- Và như ông Du Vallon; ông sẽ thấy một chàng trai khoái hoạt như thế nào! Một người Fronde cuồng điên, một người đã suýt giết gọn Mazarin, người ta dùng ông ấy, chẳng qua vì sợ ông ấy.
- Phải, ông ấy trông ra dáng lắm, và chưa quen biết ông ấy, tôi cũng rất ưng ý.
- Thế thì khi ông quen biết ông ta lại còn khác nữa. Ơ này, ông ta đang gọi tôi. Chúng tôi gắn bó với nhau đến nỗi ông ta không thể thiếu tôi được. Xin lỗi ông nhé.
- Ta định thế nào?
- Đến tối nay.
- Ở chỗ ông á?
- Vâng ở chỗ tôi.
Hai người chào nhau và d Artagnan trở lại với các bạn đồng hành.
- Cậu nói chuyện quỉ quái gì với con chó ngao ấy thế? - Porthos hỏi.
- Bạn thân mến chớ nói năng như vậy về ông Groslow; đó là một trong những bạn thân của tôi đấy.
- Bạn thân ư, - Porthos nói, - Cái kẻ tàn sát nông dân ấy à?
- Sụyt! Porthos thân mến ơi, đúng là ông Groslow có hơi nóng nảy, nhưng kỳ thực ông ta có hai đức tính tốt mà tôi khám phá được: Ông ta khờ dại và kiêu ngạo.
Porthos trợn tròn mắt kinh ngạc, Arthos và Aramis nhìn nhau tủm tỉm, họ hiểu d Artagnan và biết rằng anh chẳng làm gì không có mục đích.
- Nhưng thôi, tự cậu sẽ đánh giá ông ấy, - D Artagnan nói thêm.
- Thế là thế nào?
- Tối nay tôi sẽ giới thiệu ông ấy với cậu. Ông ấy đến chơi bạc với chúng ta đấy.
Nghe vậy mắt Porthos sáng lên, anh nói:
- Ồ, ồ! Hắn ta có giàu không?
- Đó là con trai của một trong những thương gia mạnh nhất ở London.
- Hắn biết chơi Le lansquenet chứ?
- Hắn tôn thờ.
- Thế bài bassette ?
- Hắn mê như điên.
- Con bài biribi?
- Sở trường của hắn.
- Tốt lắm! - Porthos, - Chúng ta sẽ có một đêm thích thú.Càng thích thú vì nó hứa hẹn một đêm tuyệt diệu hơn.
- Tại sao thế?
- Vì chúng ta mời hắn chơi tối nay hắn mời chúng ta chơi tối mai.
- Ở đâu?
- Tôi sẽ bảo cậu sau. Bây giờ chúng ta hãy lo một điều: tiếp đãi sao cho xứng đáng cái vinh hạnh mà ông Groslow dành cho ta. Tối nay nghỉ ở Decby. Mousqueton cần đi trước và có chai rượu vang nào trong tỉnh phải mua luôn. Cũng chẳng tai hại gì nếu hắn sửa soạn một bữa ăn tối nho nhỏ, bữa ấy hai cậu sẽ không dự vì Arthos bị sốt rét và Aramis là hiệp sĩ ở Malte thì những câu chuyện của bọn lính tráng thô bỉ như chúng tớ sẽ chẳng làm đẹp lòng cậu và khiến cậu đỏ mặt. Các cậu nghe rõ chứ?
- Rõ, - Porthos nói, - Nhưng quỷ bắt tôi hay sao, mà sao tôi chả hiểu được gì.
- Bạn Porthos ơi, - D Artagnan nói, - Cậu nên nhớ rằng, tôi dòng dõi các nhà tiên tri nhờ bố tôi, và các mụ thầy bói nhờ mẹ tôi, và tôi chỉ nói bằng các lời ẩn dụ và những câu đố: ai có tài thì nghe ai có mắt thì nhìn, lúc này tôi không thể nói hơn được.
- Này bạn, cứ làm đi, - Arthos nói, - Tôi chắc chắn rằng điều cậu làm là tốt đây.
- Còn cậu Aramis, cậu có nhất trí như thế không?
- Hoàn toàn, d Artagnan thân mến ạ.
- Hay lắm, - D Artagnan nói, - Đây là hai tín đồ thật sự, mình vui lòng làm thử những điều thần diệu cho họ; chẳng như cái tên Porthos hoài nghi này, nó bao giờ cũng muốn trông thấy và sờ thấy thì mới tin.
Porthos làm ra vẻ tinh khôn nói:
- Sự thật là tôi rất hay nghi ngờ.
D Artagnan vỗ vào vai anh một cái và nhân đến chỗ đứng lại để ăn sáng, câu chuyện ngừng lại ở đó.
Khoảng năm giờ chiều, theo như đã thoả thuận, họ cho Mousqueton đi trước, Mousqueton không biết tiếng Anh, nhưng từ khi sang nước Anh đã nhận xét thấy rằng Grimaud do thói quen dùng cử chỉ thay thế lời nói một cách tuyệt diệu. Hắn bèn nghiên cứu cử chỉ của Grimaud và chỉ qua mấy bài học, nhờ tính ưu việt của ông thày hắn đã đạt tới trình độ kha khá. Blaisois đi theo hắn.
Đi qua phố chính của Derby, bốn người bạn nom thấy Blaisois đứng ở ngưỡng cửa một ngôi nhà đẹp; họ sẽ trú ngụ ở đây.
Suốt cả ngày họ không lại gần vua, sợ gây ra nghi ngờ, và đáng lẽ ăn cùng bàn với đại tá Harrison như hôm qua, hôm nay họ ăn riêng với nhau.
Tới giờ đã thỏa thuận. Groslow đến. D Artagnan đón hắn ta như đón một người bạn hai mươi năm.
Porthos ngắm nghía hắn từ đầu đến chân và mỉm cười nhận thấy rằng hắn không cân sức với anh, mặc dầu cái đòn ghê gớm hắn đã giáng cho người em của Parry.
Arthos và Aramis cổ gắng hết sức để che giấu nỗi ghê tởm mà cái bản chất tàn bạo và thô lỗ kia đã gây nên cho các anh.
Tựu trung là Groslow tỏ ra hài lòng về cuộc đón tiếp.
Arthos và Aramis giữ đúng vai trò của mình. Đến nửa đêm hai anh lui về phòng mình và người ta đã để ngỏ cửa với lý do nhân đức.
Hơn nữa d Artagnan dẫn các anh về, để cho Porthos đánh với Groslow.
Porthos được năm mươi pistol và khi rút lui thấy rằng mình có một chỗ bầu bạn dễ chịu hơn thoạt đầu anh tưởng.
Còn Groslow tự hẹn với mình hôm sau trút cái thua bạc với Porthos lên dầu d Artagnan, và khi chia tay với chàng Gascon hắn không quên nhắc lại cuộc hẹn buổi tối.
- Chúng tôi nói buổi tối vì mấy con bạc chia tay nhau vào lúc bốn giờ sáng.
Ngày hôm ấy trôi qua như thường lệ; d Artagnan đi từ chỗ đại uý Groslow, đến chỗ đại tá Harrison và từ chỗ Harrison đến chỗ các bạn anh. Đối với ai không hiểu biết d Artagnan thì dường như anh vẫn trong trạng thải thông thường; nhưng đối với các bạn anh, nghĩa là Arthos và Aramis thì thấy anh vui thích như điên.
- Chẳng rõ hắn mưu mô gì đây? - Aramis nói.
- Đợi xem, - Arthos đáp.
Porthos không nói gì, song với vẻ thỏa mãn lộ hắn ra mặt anh thọc tay vào túi đếm lại từng đồng số tiền năm mươi pistol anh được bạc ở Groslow.
Buổi tối đến Ryston, d Artagnan tập hợp các bạn lại. Gương mặt anh để mất đi cái vui vẻ vô tư mà anh đeo như một cái mặt nạ suốt cả ngày. Arthos siết chặt tay Aramis.
- Sắp đến lúc rồi à? - Arthos hỏi.
- Phải, - D Artagnan nghe tiếng và đáp, - Phải, sắp đến lúc rồi: các cậu ạ, đêm nay chúng ta cứu vua.
Arthos rùng mình, mắt sáng rực lên. Lúc trước anh hy vọng bây giờ thì hoài nghi, Anh nói:
- Này d Artagnan,đây không phải là một trò đùa chứ? Nếu là một trò đùa thì nó làm tôi đau lòng lắm đấy.
- Arthos, anh nghi ngờ tôi như vậy thì kỳ lạ thật, - D Artagnan đáp - Ở đâu và lúc nào anh thấy tôi đùa với tấm lòng một người bạn và tính mạng của một ông vua? Tôi đã nói và tôi nhắc lại rằng đêm nay chúng ta cứu Charles đệ nhất. Anh đã tin tưởng nơi tôi sẽ tìm ra một kế, kế ấy đã tìm được.
Porthos nhìn d Artagnan với một niềm khâm phục sâu xa.
Aramis mỉm cười ra chiều hy vọng.
Arthos thì tái đi như xác chết và run bắn cả tay chân.
- Nói đi nào, - Arthos bảo.
Porthos giương to đôi mắt thao láo của mình, Aramis có thể nói là đánh đu lên đôi môi của d Artagnan.
- Chúng ta được mời sang chơi đêm ở chỗ ông Groslow, các cậu biết chứ?
- Ừ - Porthos nói, - Hắn đã bảo chúng ta hẹn cho hắn chơi canh bạc phục thù.
- Đúng. Nhưng các cậu có biết chơi phục thù ở đâu không?
- Không.
- Ở chỗ nhà vua.
- Ở chỗ vua? - Arthos kêu lên.
- Phải đấy, các cậu ạ: Groslow tối nay hắn là người lo về chuyện canh gác Hoàng thượng, và để giải trí trong phiên gác, hắn mời chúng ta đến chơi.
- Cả bốn người? - Arthos hỏi.
- Dĩ nhiên, tất nhiên là cả bốn, chẳng lẽ chúng tôi rời tù binh của mình à?
- A, a! - Aramis reo lên.
- Nào, nào! nói tiếp đi - Arthos hồi hộp nói.
- Thế là chúng ta sẽ đến với Groslow, chúng tôi mang kiếm, các cậu mang dao găm. Bốn chúng ta sẽ làm thịt tám tên lính ấm ớ và tên chỉ huy ngu dại của chúng. Porthos cậu thấy thế nào?
- Tôi cho là dễ như chơi, - Porthos đáp.
- Chúng ta sẽ cho vua mặc giả Groslow. Mousqueton, Grimaud và Blaisois giữ ngựa đã thắng yên cương sẵn sàng ở góc phố đầu tiên chúng ta nhảy phốc lên và trước khi trời sáng chúng ta đã phóng được hai mươi dặm. Hèm! Trù liệu như thế được không, Arthos?
Arthos đặt hai bàn tay lên vai d Artagnan và nhìn anh với nụ cười hiền hậu và bình thản.
- Bạn ơi, - Anh nói, - Tôi xin tuyên bố rằng dưới trời này không ai sánh được với cậu về lòng cao quý và dũng cảm. Trong khi chúng tôi tưởng rằng cậu thờ ơ với những nỗi đau khổ của chúng tôi, mà cậu dù không chia sẻ cũng chẳng có tội vạ gì, thì một mình cậu tìm ra được cái mà chúng tôi tìm tòi uổng công. d Artagnan, vậy tôi xin nhắc lại rằng, cậu là người tốt nhất trong bọn chúng ta, tôi ban phước cho cậu và tôi yêu quý cậu, con trai thân yêu của ta ạ.
Porthos lấy tay đập đập vào trán và nói:
- Thế mà tôi không nghĩ ra, thật là đơn giản.
- Nhưng này, - Aramis nói, - Nếu tôi hiểu đúng thì có phải là chúng ta giết tất cả không?
Arthos rùng mình và gương mặt trở nên trắng bệt.
- Chán quá! - D Artagnan nói. - Dứt khoát là phải thế rồi. Tôi đã tìm ra những việc này từ lâu, để xem có cách nào tránh được chuyện đó không, nhưng thú thật là chịu đấy.
- Thôi, - Aramis nói, - Không phải chuyện mặc cả với tình thế ở đây. Chúng ta sẽ tiến hành như thế nào?
- Tôi có đến hai phương án , - D Artagnan đáp.
- Ta xem cái thứ nhất thế nào, - Aramis nói.
- Nếu tất cả bốn chúng ta cùng quây quần, thì khi tôi ra ám hiệu, ám hiệu là tiếng "Rốt cuộc", các cậu đâm một nhát dao vào tên lính đứng gần nhất, chúng tôi cũng làm như vậy. Thế là trước hết, bốn tên địch chết, thế là trận đánh coi như cân nhau, vì chúng ta có bốn người chọi năm. Năm tên đó đầu hàng, chúng ta sẽ nhét giẻ vào miệng chúng, nếu chúng chống cự, ta sẽ giết. Nếu tình cờ mà vị chủ tiệc của chúng ta thay đổi ý kiến và chỉ nhận tiếp Porthos và tôi thôi, thì dành là phải dùng những phương kế lớn và đánh gấp đôi, nhưng thế sẽ lâu hơn và ầm ĩ hơn một chút, nhưng các cậu sẽ đứng ở bên ngoài với gươm kiếm và khi nghe thấy tiếng động thì chạy đến.
- Nhưng nếu chính các cậu bị đả thì sao? - Arthos nói.
- Không thể vậy đâu! - D Artagnan nói, - những tên nghiện rượu bia ấy nặng nề lắm vả vụng về lắm, vả lại cậu sẽ đâm vào họng, Porthos ạ, như thế giết chết nhanh hơn và lại tránh được tiếng kêu.
- Hay lắm! - Porthos nói, - Đó sẽ là một cuộc chọc huyết rất xoàng thôi.
- Ghê tởm, ghê tởm! - Arthos nói.
- Ơ kìa? Con người đa cảm, - D Artagnan nói,
- Anh đã làm những chuyện ấy như thế trong trận mạc rồi. Với lại bạn ơi, - Anh nói tiếp, - Nếu anh thấy sinh mạng của vua không đáng với cái nó phải trả giá, thì coi như xong thôi, và tôi sẽ báo với Groslow rằng tôi bị mệt.
- Không, bạn ơi, - Arthos nói, - Tôi đã sai lầm và chính cậu mới đúng. Hãy tha lỗi cho tôi nhé.
Vừa lúc ấy cửa mở, một tên lính xuất hiện. Hắn nói bằng tiếng Pháp tồi.
- Ông đại uý Groslow báo với ông d Artagnan và ông Du Vallon rằng ông ấy đang đợi các ông.
- Ở đâu? - D Artagnan hỏi.
- Ở trong phòng Nabuchodonosor người Anh, - tên lính thanh giáo cực đoan nói.
Nghe hắn lăng mạ đức vua như vậy, Arthos giận đỏ mặt, và đáp lại bằng tiếng Anh thật nặng và rõ ràng :
- Được rồi, hãy nói với đại uý Groslow rằng chúng tôi sẽ đến.
Sau khi tên lính thanh giáo đi ra, mấy tên hầu được lệnh thắng yên cương cho tám con ngựa và đến đợi ở góc phố cách nhà vua ở hai chục bước, và phải ở liền bên nhau, ngồi sẵn trên mình ngựa.
Chú thích:
(1) chỉ nước Anh, Scotland và Irlandais
(2) tiếng Anh: vua.
(3) Một lối chơi bài nhập từ Đức.
(4) Đơn vị tiền tệ Anh.
-*-*-*-
Chương 65
Canh bài lansquenet
Chín giờ tối. Các trạm gác thay phiên lúc tám giờ, và phiên gác của đại uý Groslow đã bắt đầu được một tiếng.
D Artagnan và Porthos mang theo gươm. Arthos và Aramis mỗi người mang theo một con dao găm trong ngực áo, tiến về phía ngôi nhà tối hôm ấy đang giam giữ Charles Stuart. Đi theo những người chiến thẳng mình, hai anh bạn bề ngoài không vũ trang và khúm núm như những kẻ bị bắt.
Trông thấy họ, Groslow nói:
- Thật tình, tôi hầu như không trông đợi ở các ông nữa.
D Artagnan đến gần hắn và nói nhỏ:
- Quả thật, ông Du Vallon và tôi đã do dự một lát.
- Vì sao? - Groslow hỏi.
D Artagnan đưa mắt nhìn sang Arthos và Aramis:
- À, a! - Groslow nói, - Do chính kiến ư? Không can gì. Trái lại, -Hhắn cười và nói thêm - nếu họ muốn xem Stuart của họ thì cứ việc xem.
- Chúng ta chơi đêm ở trong phòng vua à? - D Artagnan hỏi.
- Không, ở phòng bên cạnh, và do cửa để ngỏ, cho nên đúng như chúng ta ở cùng phòng vua. Ông có mang tiền không? Tôi xin tuyên bố là buổi tối nay tôi tính chơi một cảnh sát phạt kịch liệt.
- Ông có nghe thấy không? - D Artagnan vừa nói vừa vỗ túi cho tiền vàng kêu xủng xoảng.
- Very good(1)? - Groslow nói và mở cửa phòng, - Để mở đường cho các ông.
Và hắn vào trước.
D Artagnan quay lại phía các bạn. Porthos vô tư như đi vào một canh bạc thật thông thường. Arthos tái mặt nhưng cương quyết. Aramis lấy khăn lau mồ hôi lầm tấm trên trán.
Tám tên lính gác đứng ở vị trí của mình, bốn tên trong phòng vua, hai tên ở chỗ cửa thông, hai tên ở cửa ngoài. Nhìn thấy những thanh kiếm tuốt trần, Arthos mỉm cười: không phải là một nơi mổ thịt nữa, mà là một cuộc chiến đấu hẳn hoi.
Từ lúc đó khí sắc vui vẻ trở lại với anh.
Qua cửa thông mở sẵn, người ta trông thấy Charles nằm trên giường, mặc nguyên quần áo, ông chỉ đắp một tấm chăn len.
Parry ngồi ở chân giường, khẽ đọc một chương trong kinh Phúc âm, nhưng cũng đủ để Charles nghe, mắt lim dim.
Một cây nến mỡ bò đặt trên một cái bàn đèn soi sáng bộ mặt nhẫn nhục của vua và bộ mặt vô cùng kém bình tĩnh của gã đầy tớ trung thành.
Thỉnh thoảng Parry ngừng đọc, tưởng rằng vua ngủ rồi, nhưng vua lại mở mắt, mỉm cười, bảo:
- Đọc tiếp đi Parry tốt bụng của tôi, tôi vẫn nghe.
Groslow bước đến ngưỡng cửa phòng vua, chiếc mũ đang cầm tay, hắn làm điệu bộ đội lên đầu để đón tiếp các vị khách, và nhìn một lát với vẻ khinh bỉ bức tranh giản dị và cảm động một lão bộc đọc Kinh thánh cho vua của mình đang bị tù đầy. Rồi yên tâm về lính gác của hắn đều đứng đúng ở nơi qui định, hắn quay lại phía d Artagnan, nhìn người Pháp với vẻ đắc chí, như muốn cầu xin ở anh một lời khen cho chiến thuật của hắn.
- Thật là tuyệt điệu, - Chàng Gascon nói, - Chúa ơi! Ông sẽ làm một vị tướng khá xuất sắc đấy.
- Thế ông có tin rằng chừng nào tôi còn canh gác Stuart, hắn có trốn được không? - Groslow hỏi.
- Tất nhiên là không rồi, - D Artagnan đáp. - Trừ phi là trời mưa rơi xuống các bạn bè của ông ta.
Groslow nở nang cả mặt mày.
Trong suốt cảnh đó, Charles Stuart vẫn nhắm mắt, không ai biết được ông có nghe thấy hay không những lời xấc xược của viên đại uý thanh giáo. Nhưng đến khi nghe thấy giọng nhấn mạnh của d Artagnan, ông bất giác mở mắt.
Về phía mình, Parry cũng rùng mình và ngừng đọc.
Vua nói:
- Đọc tiếp đi Parry, tất nhiên nếu anh mệt thì thôi.
- Thưa Ngài, không, - Gã hầu phòng đáp.
Và hắn lại tiếp tục đọc.
- Ở phòng ngoài, một cái bàn được sửa soạn, bàn phủ một tấm thảm, trên đặt hai cây nến những quân bài và hai hộp xúc xắc.
- Nào các ông, - Groslow nói, xin mời các ông ngồi, tôi ngồi đối diện với Stuart, tôi mê nhìn hắn ta lắm, nhất là xem hắn ở đâu, ông d Artagnan ngồi trước mặt tôi.
Arthos tức đỏ mặt lên, d Artagnan cau mày nhìn anh.
- Được rồi, - D Artagnan nói, - Ông, bá tước de La Fère ngồi bên phải ông Groslow,Ông hiệp sĩ D Herblay ngồi bên trái. Còn ông Du Vallon ngồi cạnh tôi. Ông cuộc cho tôi, còn hai ông kia cuộc cho ông Groslow.
Như vậy là Porthos ngồi bên trái d Artagnan, anh dùng đầu gối để nói với bạn. Arthos và Aramis ngồi đối diện với anh anh có thể đưa mắt.
Nghe tên bá tước de La Fère và hiệp sĩ D Herblay, Charles mở mắt ra và bất giác ngẩn cái đầu cao lên nhìn bao quát tất cả các diễn viên của màn kịch đó. Vừa lúc ấy Parry giở mấy trang Kinh thánh và cất cao giọng đọc câu xướng này của Jérémie:
"Chúa phán rằng: Hỡi các tôi tớ của ta hãy lắng nghe lời các nhà tiên tri mà ta đã quan tâm phải đến cho các người, và ta đã dẫn dắt đến với các người!".
Bốn người bạn đưa mắt nhìn nhau. Những lời mà Parry vừa đọc chỉ cho họ rằng vua đã hiểu lý do thật sự của sự hiện diện của họ.
Mắt d Artagnan ngời lên một sự mừng rỡ.
- Lúc nãy ông hỏi tôi là có tiền không phải không? - D Artagnan nói và đặt hai mươi pistol lên bàn.
- Phải, - Groslow đáp.
- Thế thì đến lượt tôi, tôi xin nói: Hãy giữ gìn cẩn thận kho vàng của ông, vì rằng tôi xin cam đoan là chúng tôi chỉ ra khỏi đây khi đoạt được nó.
- Nhưng tôi sẽ bảo vệ nó đấy, - Groslow đáp.
- Càng hay, - D Artagnan nói - Vào trận, nào đại uý, vào trận. Ông biết hoặc hay không biết rằng đó là điều chúng tôi đòi hỏi.
- A biết lắm chứ, - Groslow vừa nói vừa cười hô hố, - Người Pháp các ông chỉ hay kiếm chuyện đánh nhau.
Charles đã nghe thấy hết và hiểu tất cả. Mặt ông hơi đỏ lên.
Những tên lính gác thấy ông dần dần duỗi chân tay mỏi mệt ra, và lấy cớ là nóng bức quá do cái lò sưởi đốt đến sáng trắng, ông dần dần gạt cái chăn Scotch sang một bên để lộ thân hình ông nằm ngủ mà vẫn mặc nguyên quần áo.
Arthos và Aramis mừng rở khi thấy vua quần áo vẫn sẵn sàng.
Canh bạc bắt đầu. Tối hôm ấy vận đó xoay sang Groslow. Hẳn cầm cái may và được luôn luôn thắng. Một trăm pistol cứ thế chuyển từ cạnh bàn bên này sang cạnh bàn bên kia. Groslow sướng điên người.
Porthos mất cả năm mươi pistol vừa được bạc hôm qua cộng thêm độ ba chục pistol của riêng mình nữa, anh càu nhàu bực bội lắm và lấy đầu gối thúc vào đùi d Artagnan như muốn hỏi đã đến lúc chuyển sang trò chơi khác chưa; Arthos và Aramis cũng nhìn anh bằng con mắt dò hỏi, nhưng d Artagnan vẫn thản nhiên như không. Đồng hồ điểm mười giờ. Có tiếng đội tuần tra đi qua.
D Artagnan rút thêm những đồng pistol ở túi ra và hỏi:
- Các ông cho đi tuần tra bao nhiêu bận?
- Năm bận, cứ hai giờ một bận? - Groslow đáp.
- Tốt lắm, - D Artagnan nói, - Thế là thận trọng.
- Tiếng đội tuần tra đi xa dần.
Lần đầu tiên d Artagnan đáp lại Porthos bằng một cái thúc vào đùi.
Trong khi ấy, bọn lính được lệnh phải canh ở trong phòng vua, bị hấp dẫn bởi canh bạc và trông thấy vàng - Thế lực thật là mạnh mẽ
- Ở tất cả mọi con người - Chúng dần dần đi lại gần cửa và kiễng chân nhìn qua vai d Artagnan và Porthos. Những tên lính ở ngoài cửa cũng xích đến gần, vô tình hộ trợ cho lòng mong muốn của bốn người bạn, họ muốn có chúng ở trong tầm tay hơn là buộc phải chạy tới chúng ở bốn góc phòng. Hai tên lính ở cửa vẫn cầm kiếm tuốt trần, nhưng chúng cũng kiễng chân để xem đánh bạc.
Thời điểm càng đến gần, Arthos càng tỏ ra bình tĩnh hơn. Hai bàn tay trắng muốt và quí phái của anh nghịch những đồng louis vàng mà anh vặn vẹo và uốn thẳng lại dễ như thế chúng làm bằng thiếc. Kém tự chủ mình hơn, Aramis luôn luôn thọc tay vào ngực áo; còn Porthos sợ thua bạc mãi, cứ lầy đầu gối thúc liên hồi vào đùi bạn.
D Artagnan hững hờ quay đầu lại và trông thấy ở giữa hai tên lính, Parry đang đứng và Charles chống khủy tay và chắp hai bàn tay lại như gửi tới Chúa một lời cầu nguyện nhiệt thành. D Artagnan hiểu là đã đến lúc rồi, mỗi người đã ở vị trí của mình và chỉ chờ một tiếng "Rốt cuộc" là tiếng ám hiệu của anh.
Anh ném một cái nhìn chuẩn bị về phía Arthos và Aramis, cả hai khẽ nhích ghế lại đằng sau để dễ dàng cử động.
Anh thúc một cái thứ hai vào đùi Porthos. Porthos đứng lên như để dãn gân cốt, những vừa đứng lên anh vừa xem lại thanh kiếm có rút ra khỏi vỏ dễ dàng không.
- Thánh thần ơi! - D Artagnan nói, - Lại mất toi hai chục pistol nữa rồi! Đại uý Groslow ơi, quả thật là ông có vận đỏ quá, nhưng chẳng được lâu đâu.
Anh móc túi lấy ra hai chục pistol nữa.
- Ván cuối cùng, đại uý ạ. Hai mươi pistol đặt một ván, một ván thôi ván cuối cùng.
- Thì hai mươi pistol, - Groslow nói.
Và hắn lật hai con bài như thường lệ, một con vua cho d Artagnan và một con ách cho hắn.
- Một vua, - D Artagnan nói, - Điểm tốt đấy. Này tiên sinh Groslow ơi, - Anh nói thêm, - Hãy coi chừng vua đấy.
Mặc dầu tự kiềm chế mình, giọng nói của anh run lên một cách kỳ lạ, khiến đối phương của anh phải rùng mình.
Groslow bắt đầu lần lượt lật các quân bài. Nếu lật được một quân ách trước thì hắn thắng nếu lật một vua trước hắn thua.
Hắn lật lên một quân vua.
- Rốt cuộc! - d Artagnan kêu.
Nghe tiếng đó, Arthos và Aramis đứng bật dậy Porthos lùi lại một bước.
Kiếm và dao sắp sửa loé lên, thì bất thình linh cửa mở và Harrison xuất hiện ở ngưỡng cửa, đi cùng có một người mặc áo choàng đen.
Phía sau người ấy lấp lánh những súng ống của năm sáu tên lính.
Groslow vội vàng đứng dậy, xấu hổ vì bị bắt bất chợt giữa những quân bài, xúc xắc và rượu vang nhưng Harrison không chú ý đến hắn và cùng đi với người mặc áo choàng vào phòng vua. Ông nói:
- Charles Stuart! Có lệnh dẫn ông về London, ngày hay đêm cũng không nghỉ. Vậy ông hãy sửa soạn đi ngay lập tức.
- Lệnh ấy từ đâu ra, - Vua hỏi. - Từ tướng Olivier Cromwell phải không?
- Phải, - Harrison đáp. - Chính ông Mordaunt vừa mới mang đến và đôn đốc thi hành.
- Mordaunt! - Bốn người bạn lẩm bẩm và đưa mặt nhìn nhau.
D Artagnan vơ vét tất cả tiền nong mà anh và Porthos bị thua ở trên bàn và nhét vào trong cái túi áo rộng của mình. Arthos và Aramis đứng vào phía sau anh. Mordaunt quay lại nhìn thấy nhận ra các anh và reo lên một tiếng vui mừng man rợ.
- Có lẽ chúng mình bị bắt, - D Artagnan nói nhỏ với các bạn.
- Chưa đâu! - Porthos nói.
- Đại tá, đại tá!- Mordaunt nói, - Cho bao vây căn phòng này, ông bị chúng lừa rồi. Bốn tên Pháp này trốn khỏi Newcastle và chắc hẳn muốn cướp vua đi. Phải bắt giữ chúng ngay.
- Ồ! Chàng trẻ ơi, - D Artagnan vừa nói vừa tuốt gươm ra - Đây là một mệnh lệnh dễ nói hơn là dễ thi hành.
Rồi vung lên một đường gươm tròn khủng khiếp anh hô:
- Rút lui! Các bạn! Rút lui!
Đồng thời anh băng mình ra ngoài cửa, quật ngã hai tên lính gác trước khi chúng có thời giờ lên lên súng.
Arthos và Aramis chạy ra theo. Porthos đi tập hậu, và trước khi lính tráng, sĩ quan, đại tá kịp tỉnh ra, thì bốn người bạn đã đến ngoài phố.
- Bắn! - Mordaunt kêu - Bắn theo họ!
Có vài ba phát súng nổ thật, nhưng chỉ để soi bốn kẻ chạy trốn ngoặt vào góc phố, bình yên vô sự.
Ngựa đã để sẵn nơi quy định; mấy tên hầu chỉ việc quăng dây cương cho chủ, họ nhảy phắt lên yên nhẹ nhàng như những kỵ sĩ thiện nghệ.
- Tiến lên! - D Artagnan hô, - Thúc ngựa và vững vàng!
Họ cứ thế mà phóng, theo sau d Artagnan và trở lại con đường mà họ đã đi trong ngày, tức là nhằm hướng Scotch. Thị trấn không có cổng và tường lũy nên họ đi ra chẳng khó khăn gì.
Đi khỏi ngôi nhà cuối cùng độ năm chục bước d Artagnan dừng ngựa.
- Dừng lại! - anh hô.
- Sao lại dừng? - Porthos kêu. - Cậu muốn nói phi rạp đất chứ gì?
- Không đâu, - D Artagnan đáp. - Lần này họ sẽ đuổi theo chúng ta; cứ để cho họ đi ra khỏi thị trấn và chạy theo chúng ta trên đường đi Scotch. Khi nào trông thấy họ phóng đi qua đây, chúng ta sẽ đi ngược trở lại.
Cách đấy mấy bước có một con suối cắt ngang đường và một cái cầu bắc qua suối, d Artagnan dắt ngựa đi xuống dưới vòm cầu các bạn anh làm theo anh.
Chưa được mười phút, họ nghe tiếng phi nước đại của một toán kỵ binh. Năm phút sau toán ấy đi qua ngay trên đầu họ, chúng chẳng hề ngờ rằng những người mà chúng đang tìm kiếm chỉ ngăn cách chung bởi chiều dày của cái vòm cầu.
Chú thích:
(1) Tiếng Anh: Rất tốt!
-*-*-*-
Chương 66
London
Khi tiếng vó ngựa đã chìm trong khoảng xa xăm, d Artagnan lội lên bờ và vừa bước dài trên cánh đồng vừa cố sức hướng về phía London. Ba người bạn lặng lẽ đi theo anh cho đến lúc nhờ một khoảng trống rộng hình bán nguyệt ở phía sau họ trông thấy họ đã rời xa thành phố.
Cuối cùng sau khi biết chắc rằng mình đã ở khá xa nơi xuất phát để có thể chuyển từ phi nước đại sang nước kiệu, d Artagnan nói:
- Lần này tôi tin rằng mọi việc hỏng hết rồi và tốt nhất là chúng ta trở về Pháp, Arthos, anh thấy ý kiến ấy thế nào? Liệu có phải lẽ không?
- Phải bạn thân mến ơi, - Arthos đáp - Nhưng hôm nọ cậu thốt ra một lời phải lẽ hơn, một lời cao quý và hào hiệp. Cậu nói: "Chúng ta chết ở đây!". Tôi xin nhắc lại để cậu nhớ lời của cậu.
- Ồ! Porthos nói, - Cái chết thì có nghĩa lý gì đâu đối với ta, và không phải cái chết nó làm ta lo ngại, bởi vì chúng ta có biết đó là cái gì đâu; nhưng ý nghĩ về một sự thất bại nó giày vò tôi. Cứ theo cái chiều mọi sự xoay vần, tôi thấy là chúng ta sẽ phải đi đánh nhau ở London, ở các tỉnh, ở tất cả các nước Anh và thật ra đến bước cuối cùng chúng ta không thể tránh khỏi bị đánh bại.
- Chúng ta cần chứng kiến cái bi kịch lớn này đến cùng, - Arthos nói, - Muốn sao thì chúng ta chỉ rời khỏi nước Anh sau khi nó kết thúc, Aramis cậu có nghĩ như tôi không?
- Hoàn toàn như vậy, Bá tước thân mến ạ vì thú thật với anh rằng tôi chẳng thấy bực mình nữa nếu gặp lại Mordaunt. Tôi chỉ thấy hình như chúng ta có một món nợ phải thanh toán với hắn mà thôi, và chúng ta không có thói quen rời bỏ các xứ sở mà không trả những loại nợ nần như vậy.
- À? Đây lại là chuyện khác, - D Artagnan nói, - và đó là một lý do tôi thấy có thể thừa nhận được. Về phần tôi, xin thú nhận là nếu cần tôi sẽ ở lại London một năm để gặp cái tên Mordaunt đó.Song le chúng ta phải ở nhà một người chắc chắn và làm sao để không gây một sự nghi ngờ nào, vì rằng vào giờ này hẳn ông Cromwell đã cho lùng chúng ta và theo tôi phán đoán, ông Cromwell không đùa đâu. Arthos này, anh có biết ở trong thành phố có một cái quán nào có khăn trải bàn trắng tinh, có thịt bò quay vừa chín tới, có rượu vang không làm bằng houblon hoặc đỗ tùng không.
- Tôi chắc làm được việc ấy đây, - Arthos đáp. - De Winter đã dẫn chúng tôi đến nhà một người mà ông nói là dân Tây Ban Nha vào quốc tịch Anh nhờ những đồng tiền guinées ( đồng Ghi né = 21 shillings ) của những người đồng quốc mới của ông ta. Aramis, cậu thấy thế nào?
- Chủ trương nghỉ lại ở nhà ông trưởng lão Péréz tôi thấy là phải lẽ nhất đây, và tôi tán thành. Chúng ta sẽ gợi lại những chuyện về De Winter mà ông ta có vẻ rất kính trọng; chúng ta nói là chúng ta sẽ đến đây như những nhà tài tử muốn đi xem xét tình hình, chúng ta sẽ chì tiêu ở đấy mỗi người một guinées một ngày, và tôi thiết nghĩ rằng với tất cả những sự phòng bị ấy, chúng ta có thể sống khá yên ổn.
- Cậu quên một điều đấy. Aramis ạ, một điều phòng bị khá quan trọng.
- Điều gì?
- Thay đổi y phục.
- Ô hay! - Porthos nói, - Hà cớ gì phải thay đổi y phục? Những y phục chúng ta đang mặc thật là vừa ý.
- Để không bị nhận ra, - D Artagnan nói, - Quần áo chúng ta có những kiểu cắt may và màu sắc hầu như giống nhau, thoạt nhìn nó đã tố giác ngay là nhưng French man(1). Tôi chẳng tội gì bám lấy kiểu cắt may chẽn hoặc màu sắc giày dép của tôi để đến nỗi vì yêu thích nó mà có nguy cơ bị treo cổ ở Tyburm hoặc đi đầy ở bên Ấn Độ. Tôi sẽ mua một bộ y phục màu hạt dẻ. Tôi chú ý tất cả những tên thanh giáo ngu ngốc kia đều mê mệt cái màu ấy.
- Nhưng liệu anh có tìm thấy người ấy không? - Aramis hỏi.
- Ồ tất nhiên, - Arthos đáp, - Ông ta ở phố Green-Hall street, quán Bedford s Tavern. Vả lại tôi có thể nhắm mắt mà đi trong thành phố ấy chứ.
- Tôi muốn đã ở ngay tại đó rồi đấy, - D Artagnan nói, - Ý kiến tôi là ta phải tới London trước khi trời sáng, dù ngựa có ngã quỵ mà chết cũng đành.
- Nào đi, - Arthos nói, - Bởi nếu vì tôi không tính toán sai, thì chúng ta chỉ còn cách đó chừng tám đến mười dặm.
Mấy người bạn thúc ngựa đi và quả nhiên khoảng năm giờ sáng họ đã đến London. Qua cửa ô họ bị một trạm gác ngăn lại, nhưng Arthos trả lời bằng tiếng Anh rất cừ rằng họ do đại tá Harrison phải về báo trước cho người bạn đồng liêu là ông Pridge rằng vua sắp tớí.
Câu trả lời ấy dẫn đến những câu hỏi han về chuyện bắt vua, và Arthos kể ra những chi tiết rõ ràng và xác thực đến nỗi những lính canh nếu có vài điều nghi ngờ thì nó cũng tan biến hết. Thế là cửa ô được mở rộng cho bốn người bạn với mọi kiểu chúc mừng thanh giáo.
Arthos đã nói đúng, anh đi thẳng đến Tửu quán Bedford s Tavern, chủ quán nhận ra anh và rất vui mừng thấy anh trở lại với với đám bạn đông đảo và sang trọng ông ta lập tức cho sửa soạn những căn phòng đẹp nhất.
Bốn lữ khách tới London lúc trời chưa sáng mà đã thấy cả thành phố rộn rịp. Từ chiều trước đã có tin loan truyền rằng đại tá Harrison sắp giải vua trở về kinh đô, cho nên nhiều người không ngủ
Sợ rằng lão Stuart - Như họ gọi - Tới nơi vào ban đêm và họ sẽ bị lỡ không được xem.
Chủ trương thay đổi y phục được mọi người nhất trí tán thành, trừ sự phản đối yếu ớt của Porthos lúc đầu. Họ bèn đem ra thực hiện.
Chủ quán cho mang đến những quần áo đủ loại cứ như là ông định sắm sửa thêm cho tủ quần áo của mình. Arthos lấy một bộ màu đen tạo cho anh vẻ một như nhà tư sản tử tế. Aramis không muốn rời thanh gươm, chọn một bộ màu sẫm kiểu quân nhân. Porthos mê tít một cái áo chẽn màu đỏ và đôi giày màu xanh. D Artagnan đã quyết định màu từ trước, nên chỉ còn chọn sắc độ và mặc một bộ màu hạt dẻ trông rất giống một người buôn bán đã về nghỉ hưu.
Còn Grimaud và Mousqueton do không mặc áo dấu, nên trông như đã cải trang hẳn. Ngoài ra Grimaud có dáng điềm đạm, khô khan và cứng nhắc như kiểu một người Anh thận trọng. Mousqueton thì như một người Anh to bụng, phì nộn và nhàn du.
- Bây giờ hãy sang vấn đề chủ yếu, - D Artagnan nói. - Ta hãy cắt tóc để khỏi bị đám tiện dân chửi bới. Không còn là nhà quý tộc bằng thanh kiếm, ta hãy là người thanh giáo bằng mái tóc. Các cậu biết đấy, đó là điểm quan trọng phân biệt kẻ đính kết cùng tôn giáo với chàng công tử.
Về cái điểm quan trọng ấy, Aramis tỏ ra thật là bất phục tùng anh muốn ra sức giữ lại bộ tóc vốn rất đẹp của mình mà anh chăm chút rất cẩn thận. Arthos đành phải làm gương trước vì anh vốn dửng dưng với tất cả những vấn đề ấy. Porthos không khó khăn lắm, dâng cái đầu mình cho Mousqueton, hắn thẳng tay đưa kéo vào mớ tóc dày và cứng. D Artagnan tự cắt cho mình một kiểu đầu ngẫu hứng, nó khá giống với cái mề đay thời Françoise đệ nhất hoặc thời Charles IX.
- Trông chúng ta thật là ghê tởm, - Arthos nói.
- Và hình như chúng bốc mùi thanh giáo thối tha đến rùng mình, - Aramis nói theo.
- Ô, tôi lạnh ở đầu, - Porthos kêu.
- Còn tôi, - D Artagnan nói - Tôi thấy thèm đi thuyết giáo quá.
- Giờ đây, - Arthos nói, - Chúng ta chẳng còn nhận ra nhau nữa; do đó chẳng sợ người khác nhận ra chúng mình, ta hãy đi ra xem vua đến. Nếu ông ta đi suốt đêm thì chẳng còn cách xa London đâu.
Quả thật bốn người bạn chen lẫn vào đám dông, chưa được hai giờ đồng hồ mà đã có tiếng reo hò và náo động lớn báo hiệu Charles tới nơi. Người ta cho một cỗ xe đi đón, và từ xa chàng khổng lồ Porthos đứng cao hơn mọi cái đầu, báo tin rằng anh đã trông thấy cỗ xe vua.
D Artagnan đứng kiễng chân, trong khi Arthos và Aramis lắng nghe để tự mình biết xem dư luận bàn bạc thế nào. Cỗ xe đi qua, d Artagnan nhận ra Harrison và Mordaunt ngồi ở hai bên cửa xe. Còn dân chúng, Arthos và Aramis nghe thấy họ chửi rủa Charles thậm tệ.
Arthos trở về chán nản, d Artagnan bảo anh:
- Bạn thân mến ơi, anh cố chấp một cách thật vô ích. Tôi cam đoan với anh là tình thế rất xấu. Riêng tôi, tôi gắn mình với nó là vì anh và vì một sự thích thú tài tử về chính trị theo kiểu ngự lâm quân; tôi thấy rất thú vị giật miếng mồi khỏi tay tất cả những kẻ hò hét kia và cười vào mũi họ. Tôi sẽ nghĩ đến chuyện đó.
Ngày hôm sau khi đứng ở cửa sổ trông ra những khu phố đông người nhất của khu Cité, Arthos nghe thấy người ta rao bán nghị án của Nghị viện đưa ra toà cựu vương Charles I bị coi là phạm tội phản bội và lạm dụng quyền hành.
D Artagnan đứng cạnh anh. Aramis tra một bản đồ, Porthos mê man trong những khoái cảm cuối cùng của một bữa ăn sáng ngon lành.
- Nghị viện ư? - Arthos kêu lên, - Không thể nào Nghị viện ra một nghị án như vậy.
- Nghe này, - D Artagnan nói, - Tôi ít hiểu tiếng Anh, nhưng chẳng qua tiếng Anh là tiếng Pháp phát âm sai, nếu điều tôi nghe Nghị viện nghị án thì có nghĩa là nghị án của Nghị viện chứ gì, nếu không thì Chúa đầy doạ tôi đi, như ở đây họ thường nói.
Vừa lúc ấy chủ quán vào, Arthos ra hiệu cho ông ta đến. Anh hỏi bằng tiếng Anh:
- Nghị viện ban ra nghị án đấy à?
- Vâng, thưa Milord, Nghị viện thuần khiết.
- Sao, Nghị viện thuần khiết à? Như vậy là có hai Nghị viện ư?
- Ông bạn ơi! - D Artagnan ngắt lời, - Tôi không nghe được tiếng Anh, nhưng tất cả chúng tôi đây đều hiểu tiếng Tây Ban Nha, xin ông vui lòng nói chuyện với chúng tôi bằng thứ tiếng ấy, nó lại là tiếng của nước ông, do đó chắc hẳn ông thích dùng nó mỗi khi có dịp.
- A, đúng đấy, - Aramis nói.
Còn Porthos như chúng tôi đã nói, anh đang tập trung tất cả sự chú ý vào miếng sườn mà anh đang mải gỡ chỗ nạc ra.
- Ông hỏi gì nhỉ? - Chủ quán nói bằng tiếng Tây Ban Nha.
Arthos lại nói bằng tiếng ấy:
- Tôi hỏi có phải là có hai nghị viện không, một thuần khiết và một không thuần khiết.
- Ồ! Thật là kỳ lạ! - Porthos nói, anh ngẩng đầu lên và nhìn các bạn với vẻ ngạc nhiên, - Thế là bây giờ tôi hiểu tiếng Anh à? Tôi hiểu ông vừa nói cái gì.
Với vẻ bình tĩnh thông thường Arthos nói:
- Ấy là vì chúng tôi nói tiếng Tây Ban Nha bạn ạ.
- À, khổ thật! - Porthos nói, - Đáng lẽ tôi đã biết thêm một thứ tiếng nữa, bực nhỉ.
- Thưa ngài, - Chủ quán đáp, - Khi nói Nghị viện thuần khiết, tôi muốn nói cái Nghị viện mà ông đại tá Pridge đã thanh lọc rồi.
- À ra thế, - D Artagnan nói, - dân ở đây sáng tạo thật. Khi trở về Pháp tôi phải mách cái kế ấy cho ông Mazarin và ông chủ giáo. Một người thanh lọc nhân danh triều đình, một người thanh lọc nhân danh dân chúng, kết cục sẽ chẳng còn Nghị viện nữa.
Đại tá Pridge trước làm nghề đánh xe, - Chủ quán đáp - Ông ta là một người tài trí khi đánh xe đã nhận xét thấy một điều; ấy là khi một hòn đá nằm ở trên đường đi, thì nhặt hòn đá vứt đi còn nhanh hơn là cố đẩy cho bánh xe trườn qua hòn đá. Bây giờ trong số hai trăm năm mươi thành viên của Nghị viện thì một trăm chín mươi mốt người cản trở ông ta và có có thể làm đổ cỗ xe chính trị của ông. Giống như xưa kia ông bèn nhặt những hòn đá và quẳng ra khỏi nghị viện.
Vốn là người trí xảo, d Artagnan rất trân trọng trí xảo ở bất cứ nơi nào gặp nó. Anh reo lên:
- Hay thật!
- Những người bị trục xuất ấy có phải thuộc phái Stuart không? - Arthos hỏi.
- Có thể như vậy , thưa Senior ( 1) , chẳng hoài nghi gì nữa, và chắc ngài biết rằng họ đã toan cứu vua.
- Chúa ơi! - Porthos trịnh trọng nói, - Họ đều là số đông .
- Thế ông cho rằng vua bằng lòng ra trước một toà án như vậy sao? - Aramis hỏi.
- Phải bằng lòng chứ, - Người Tây Ban Nha đáp, - Nếu ông ta từ chối, dân chúng sẽ cưỡng bách.
- Xin cảm ơn tiên sinh Perez, - Arthos nói, - bây giờ tôi đã biết tình hình đầy đủ.
- Arthos ơi, - D Artagnan nói:
- Cuối cùng anh đã bắt đầu tin chưa, đó là một mục đích thất bại, và chúng ta sẽ không bao giờ vươn tới ngang tầm của những Harrison, những Joyce, những Pridge và những Cromwell.
- Vua sẽ được giải thoát ở toà án, - Arthos nói, chính sự im lặng của những người theo ông chỉ rõ một âm mưu.
D Artagnan nhún vai.
- Nhưng mà, - Aramis nói, - nếu họ dám kết án vua của họ, thì họ sẽ kết án lưu đầy hoặc tù là cùng.
D Artagnan huýt sáo với vẻ ngờ vực.
- Rồi sẽ biết, - Arthos nói, - vì chúng ta sẽ đến xem phiên toà, tôi đoán chừng như vậy.
- Ông chẳng phải đợi lâu đâu, - Chủ quán nói, - Vì ngày mai bắt đầu xứ án rồi!
- Ái chà! - Arthos nói, - Thế là thủ tục tố tụng được làm xong trước khi vua bị bắt hay sao?
- Chắc hẳn là thế, - D Artagnan đáp, - Người ta đã bắt đầu làm hôm vua bị mua bán.
- Các cậu biết đấy, - Aramis nói, - Chính ông bạn Mordaunt của chúng ta đã làm cuộc mua bán, nếu không thì ít ra cũng làm những việc mở đầu cho vụ đó.
- Các cậu nhớ rằng, - D Artagnan nói, - Tôi sẽ giết ông Mordaunt ở bất cứ nơi nào ông ta rơi vào trong tầm tay tôi.
- Hừ! Một tên khốn nạn như vậy? - Arthos kêu.
- Nhưng chính vì hắn là một tên khốn nạn mà tôi giết nó, - D Artagnan đáp.
- Anh bạn thân mến ơi, tôi đã chiều ý anh khá nhiều rồi, nên anh cũng phải rộng lượng với tôi chứ. Vả chăng lần này, dù có vừa lòng anh hay không, tôi cũng tuyên bố với anh rằng cái tên Mordaunt ấy sẽ bị giết vì tay tôi mà thôi.
- Và tôi nữa, - Porthos nói.
- Và tôi nữa, - Aramis nói.
- Sự nhất tríthật xúc động! - D Artagnan reo lên, - Và nó rất thích hợp với những người tư sản hẳn hoi như chúng ta. Ta hãy đi dạo quanh thành phố nào. Ngay Mordaunt cách bốn bước cũng không thể nhận ra chúng ta trong sương mù như thế này. Ta hãy đi uống một chút sương mù xem sao.
- Phải đấy, - Porthos nói, - thay rượu bia mà.
Và bốn người bạn đi ra, để như người ta thường nói, thở hít không khí của xứ sở.
Chú thích:
(1) Tiếng Anh: người Pháp.
(1) Senior : tiếng Tây Ban nha là Ông
-*-*-*-
Chương 67
Xử
Ngày hôm sau một toán lính gác đông đảo dẫn Charles I đến trước toà thượng thẩm để xử án. Dân chúng tràn vào các phố và các ngôi nhà giáp toà án.
Cho nên vừa mới bước đi, bốn người bạn đã bị ngăn lại bởi bức tường sống hầu như không thể vượt qua ấy. Vài người trong đám dân chúng xô đẩy Aramis rất dữ dội, đến nỗi Porthos phải giơ nắm đấm ghê gớm của anh lên và giáng xuống khuôn mặt trắng bột của một gã làm bánh, nó lập tức thay đổi màu và nhuốm đầy máu, như giập nát một chùm nho chín. Việc đó gây ra náo động; ba người định xông vào Porthos, nhưng hai người bị Aramis và d Artagnan gạt ra, còn người thứ ba bị Porthos ném qua đầu. Mấy người Anh ham mê võ thuật rất phục cách đánh nhanh chóng và dễ dàng ấy và vỗ tay. Thế là Porthos và các bạn mình lúc đầu sợ bị đám đông đánh chết, suýt nữa thì được hoan hỉ chúc mừng. Nhưng bốn lữ khách của chúng ta sợ bất cứ cái gì có thể làm lộ họ, nên cố thoát ra khỏi sự hoan hô. Tuy nhiên nhờ cuộc biểu diễn sức mạnh Hecquyn ấy(1) họ giành được một điều, đó là đám đông dãn ra trước họ và họ đạt tới kết quả đó một bức tường như không thể thực hiện được, tức là tới được toà xử án.
Tất cả London chen chúc nhau ở cửa các khán đài. Cho nên khi bốn người bạn lách được vào một khán đài thì đã thấy ba hàng ghế đầu hết chỗ. Đối với những người không muốn mình bị nhận ra thì đó chỉ là một nửa điều không may thôi. Họ bèn đến ngổi ở phía dưới, rất hài lòng là đã tới được đây, trừ Porthos vì muốn khoe cái áo chẽn đó và đôi giày xanh, nên cứ tiếc là không được ngồi ở hàng ghế đầu.
Các ghế bố trí theo kiểu vòng cung từ thấp lên cao, nên từ chỗ ngồi của mình, bốn người bạn bao quát tất cả cử toạ. Do tình cờ mà các anh vào đúng khán đài ở giữa và ngồi đúng trước mặt cái ghế bành dành cho Charles I.
Khoảng mười một giờ sáng, vua xuất hiện ở cửa phòng. Ông đi vào giữa đám lính gác, nhưng vẫn đội mũ, vẻ mặt điểm tĩnh và đưa mắt nhìn một cách cương quyết khắp mọi phía y như ông đến chủ trì một cuộc họp các quần thần chịu khuất phục, chứ không phải để trả lời những điều buộc tội của một triều đình phản loạn.
Các quan toà hãnh diện vì có một ông vua để làm nhục, rành rành đang sử dụng cái quyền mà chính họ đã tước đoạt. Cho nên một quan toà đến bảo Charles I rằng theo tục lệ bị cáo phải bỏ mũ ra trước mặt hắn.
Chẳng nói chẳng rằng, Charles ấn sâu mũ xuống đầu và quay đi chỗ khác, rồi khi các quan toà rời đi, ông ngồi xuống cái ghế bành đã để sẵn trước mặt chánh án, và ông vụt vào đôi giày của mình bằng một cái que cầm ở tay.
Parry vẫn đi theo ông, đứng ở phía sau.
Đáng lẽ xem những nghi thức ấy thì d Artagnan nhìn Arthos; gương mặt Arthos phản chiếu tất cả những sự xúc động của nhà vua mà chính vua do cố sức tự kiềm chế đã xua đuổi khỏi gương mặt mình. Nỗi xao xuyến ấy của Arthos, con người lạnh lùng và điềm tĩnh, khiến anh hãi hùng, Anh ghé tai bạn và nói:
- Tôi hy vọng rằng anh noi gương Hoàng thượng và chớ để mình bị giết một cách dại dột ở trong cái cũi này.
- Yên trí, - Arthos đáp.
- A, a? - D Artagnan nói, - Hình như người ta lo sợ một cái gì vì xem này, các điểm gác tăng gấp đôi, trước chỉ có gươm giáo, nay có cả súng ống nữa. Bây giờ có vũ khí cho tất cả mọi người: gươm giáo đối với những thính giả ở dưới sàn, súng ống dành cho chúng ta.
- Ba mươi, bốn mươi, năm mươi, bây mươi..., - Porthos lẩm bẩm đếm những lính mới đến.
- Ê, Porthos, cậu quên viên sĩ quan à, - Aramis nói, hình như hắn cũng đáng được đếm đấy chứ!
- Ôi cha, - D Artagnan thốt lên. Và anh tức giận tái người đi, vì nhận ra Mordaunt, gươm tuốt trần, dẫn toán lính ngự lâm đứng sau nhà vua, nghĩa là trước mặt khán đài.
- Liệu hắn có nhận ra chúng ta không? - D Artagnan nói.
Trường hợp hắn nhận ra, thì tôi sẽ đánh để rút lui ngay. Tôi chẳng thích để người ta áp đặt cho tôi một kiểu chết đâu. Tôi rất muốn chết theo cách mình chọn. Mà tôi thì không chọn cách được bắn chết trong một nhà ngục.
- Không, hắn không nhìn thấy chúng ta đâu, - Aramis nói. - Hắn chỉ nhìn vua thôi. Hắn đang nhìn vua bằng con mắt thật ghê gớm , đúng là một thằng láo xược. Liệu nó có thù ghét hoàng thượng bằng thù ghét chúng ta không?
- Mẹ kiếp, - Arthos nói, - Chúng ta chỉ tước mất mẹ nó, còn vua đã tước cả tên họ và tài sản của nó rồi còn gì.
- Đúng đấy, - Aramis nói - Nhưng hãy yên lặng nào? Ông chánh án đang nói với vua.
Thật vậy ông chánh án Bradshaw gọi kẻ bị cáo uy nghi và nói:
- Stuart, ông hãy nghe điểm danh các vị thẩm phán và nếu có ý kiến gì thì trình bày với toà.
Như thể những lời ấy chẳng phải nói với mình, nhà vua quay đầu ra chỗ khác.
Viên chánh án chờ đợi và do chẳng có câu trả lời nào đáp lại, nên đợi một khoảnh khắc trong im lặng.
Trong số một trăm sáu mươi ba uỷ viên được chỉ định, chỉ có bảy mươi ba người có thể đáp lại cuộc điểm danh, những người khác sợ hãi bị đồng loã với một hành động như vậy nên tránh mặt.
Không tỏ ra chú ý đến sự vắng mặt của ba phần năm số uỷ viên, ông chánh án nói:
- Tôi tiến hành điểm danh.
Và ông lần lượt đọc tên những uỷ viên có mặt và vắng mặt những người có mặt đáp lại bằng một giọng mạnh mẽ hoặc yếu ớt, tuỳ theo họ có can đảm hay không về quan niệm của mình. Lại có một khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi tiếp sau tên những người vắng mặt được nhắc lại hai lần.
Tên của đại tá Fairfaxc cũng được tiếp theo bằng một khoảnh khắc im lặng nhưng rất trang trọng, nó tố giác sự vắng mặt của những người không muốn cá nhân mình tham gia vào cuộc xét xử này.
- Đại tá Fairfaxc có không? - Bradshaw nhắc lại.
- Fairfaxc à? - Một tiếng nói giễu cợt đáp lại, qua giọng kim ấy, người ta nhận ra là giọng một phụ nữ, - Ông ta quá là khôn ngoan để có mặt ở đây.
Một trận cười vang lên tiếp đón những câu nói ấy thốt ra với sự táo bạo mà nhưng người phụ nữ rút ra từ chính sự yếu đuối của họ, sự yếu đuối ấy tránh cho họ mọi sự trả thù.
- A, tiếng nói của một phụ nữ, - Aramis kêu lên. - Thực tình tôi sẵn sàng cho đi rất nhiều để nàng ta sẽ trẻ trung và xinh đẹp.
Và anh trèo lên bậc để cố nhìn xem tiếng nói ấy từ đâu phát ra.
- Xin thề là nàng ta kiều diễm thật! Xem này d Artagnan, mọi người đều nhìn bà ta, và mặc dầu cái nhìn của Bradshaw, bà ta chẳng tái mặt đi.
- Thì chính là Fairfaxc phu nhân đấy, - D Artagnan nói, - Porthos, cậu có nhớ không? Chúng ta đã gặp bà ta cùng chồng ở nhà tướng Cromwell.
Sự yên tĩnh do sụ việc khác lạ đó làm rộn lên một lát lại trở lại và việc điểm danh tiếp tục.
- Bọn kỳ quặc này sắp bế mạc phiên họp đấy, khi nhận thấy không đủ số người cần thiết, - Bá tước de La Fère nói.
- Arthos anh không hiểu rõ họ đâu, - D Artagnan nói. - Hãy chú ý cái cười của Mordaunt, hãy xem nó nhìn vua kia. Đó là một cái nhìn của một kẻ sợ nạn nhân của hắn trốn thoát chăng? Không, không, đó là cái cười của nỗi hằn thù được thoả mãn, của lòng phục thù chắc chắn được toại nguyện. A, con mãng xà độc địa này(2), ngày nào mà ta được chọi nhau với mi chỉ bằng mắt thôi cũng đã là một ngày sung sướng đối với ta.
- Vua trông đẹp thật! - Porthos nói, - và xem kìa, là tù binh mà ông ta vẫn ăn vận chính tề. Cái lông cài mũ của ông ta cũng đáng giá ít ra là năm mươi pistol, Aramis nhìn xem!
Cuộc điểm danh xong, ông chánh án ra lệnh chuyển sang bản buộc tội.
Arthos tái mặt, anh lại sai lầm một lần nữa trong sự chờ đợi. Mặc dầu các thẩm phán không đủ số người, việc xử án vẫn tiến hành, như vậy là nhà vua bị kết án từ trước.
D Artagnan nhún vai bảo Arthos:
- Tôi đã nói với anh rồi mà. Nhưng anh vẫn hoài nghi. Bây giờ anh hãy giơ cả hai tay ra mà giữ chắc lấy lòng can đảm của mình và lắng nghe, đừng có thất vọng những việc ghê gớm nho nhỏ mà cái ông mặc áo đen kia sắp nói về vua của mình với đặc quyền đặc lợi ấy. Thật vậy, chưa bao giờ người ta làm nhục vẻ tôn nghiêm vương giả bằng sự buộc tội độc ác hơn, bằng những lời chửi rủa hèn hạ hơn, bằng điều công kích đẫm máu hơn. Cho đến đây, người ta sẵn lòng ám hại các ông vua, nhưng người ta có lăng nhục thì cũng chỉ là lăng nhục những thi hài của họ mà thôi.
Charles I lắng nghe bài diễn văn của kẻ buộc tội với một sự chú ý đặc biệt, cho qua những lời chửi rủa, giữ lại những điều bất bình, và khi nỗi hằn thù quá tràn trề, khi kẻ buộc tội tự nhận trước làm đao phủ, vua chỉ đáp lại bằng một nụ cười khinh bỉ. Kết thúc thì đó là một bản cáo buộc chủ yếu và ghê gớm, trong đó vua tìm thấy tất cả những điều khinh suất của mình biến thành một âm mưu, những lỗi lầm của mình biến thành một âm mưu, những lỗi lầm của mình biến thành trọng tội.
D Artagnan để mặc dòng thác chửi rủa ấy trôi đi với niềm khinh thị xứng đáng với nó, anh chỉ dùng hết cái trí xét đoán đúng đắn của mình ở vài ba điều cáo buộc của kẻ buộc tội.
- Sự thật là, - Anh nói, - Nếu người ta trừng phạt vua về tội thiếu thận trọng và nhẹ dạ thì cũng là xứng đáng; nhưng hình như cái hình phạt mà ông phải chịu đựng lúc này đây mới thật là tàn nhẫn.
- Trong mọi trường hợp, - Aramis nói, - Hình phạt không nhằm vào vua mà vào các tể tướng, bởi vì điều luật đầu tiên của hiến pháp là: Vua không thể sai lầm.
Porthos chỉ nhìn Mordaunt và chỉ quan tâm đến hắn. Anh thầm nghĩ:
"Đối với ta, nếu chỉ để làm rối loạn vẻ trang nghiêm của tình hình, ta sẽ nhảy từ khán đài xuống dưới kia, bằng ba bước nhảy ta sẽ chồm vào Mordaunt và bóp cổ hắn, ta sẽ cầm hai cẳng hắn mà quật chết tất cả lũ ngự lâm quân xấu xa kia chúng học đòi ngự lâm quân Pháp. Trong khi ấy d Artagnan vốn giàu trí xảo và ứng phó kịp thời có lẽ sẽ tìm ra một kế cứu vua. Ta cần nói điều này với cậu ta".
Còn Arthos, mặt nóng bừng, hai nắm tay quặp lại, môi ứa máu vì răng cẳn phải, người đẫm mồ hôi, anh tức giận về điều lăng nhục của nghị viện và sự nhẫn nại bền bỉ của vua chúa; và cánh tay vững vàng ấy, trái tim không hề nao núng ấy đang biến thành một bàn tay run rẩy và một cơ thể gai rợn.
Vừa lúc ấy kẻ buộc tội kết thúc ban cáo trạng của mình bằng câu:
"Bản cảo trạng này do chúng tôi làm nhân danh nhân dân nước Anh".
Nghe câu đó có tiếng rì rầm ở các khán đài và giọng nói không phải của đàn bà mà là một giọng đàn ông, hùng mạnh và giận dữ, vang lên phía sau d Artagnan:
- Mày nói láo? Chín phần mười nhân dân Anh ghê tởm những điều mày nói.
Đó là tiếng nói của Arthos, anh không kiềm chế được mình, đứng lên giơ tay ra chất vấn kẻ buộc tội công khai.
Nghe tiếng nói ấy, vua, quan toà, khán giả tất cả mọi người quay lại nhìn phía khán đài có bốn người bạn ngồi, Mordaunt nhận ra nhà quí tộc và ba người Pháp cũng đứng dậy vẻ mặt tái đi và hăm doạ.
Mắt hắn rực sáng lên vì mừng rỡ, hắn vừa mới tìm được những người mà hắn đã mang cả cuộc đời mình ra để tìm kiếm và giết chết. Hắn tức giận vẫy hai chục lính ngự lâm đến gần và trỏ tay lên khán đài nơi có kẻ thù của mình, hắn quát:
- Bắn lên khán đài kìa!
Nhưng, nhanh như cắt, d Artagnan nắm lấy ngang mình Arthos, Porthos ôm lấy Aramis, lao vào các hành lang, nhảy bổ xuống các cầu thang và mất hút trong đám đông. Trong khi ấy, ở trong hội trường, những nòng súng hỏa mai giơ ra de doạ ba nghìn khán giả, họ hoảng sợ và kêu la ầm ĩ nên ngăn chặn được một cuộc tàn sát đã chuẩn bị.
Charles cũng nhận ra bốn người Pháp; một tay ông đặt lên ngực để nén những nhịp đập dồn dập của con tim, một tay che mắt để khỏi nhìn những người bạn trung thành của mình bị thảm sát.
Mặt Mordaunt tái đi và run lên vì tức giận, nhảy bổ ra khỏi gian phòng tay lăm lăm gươm trần cùng với mười kích thủ, sục sạo trong đám dân chúng, hỏi han, căn vặn thở hổn hển, rồi quay về mà chẳng tìm được ai cả.
Rối loạn khôn tả xiết. Hơn nửa giờ trôi qua mà nói chẳng ai nghe. Các quan toà tưởng như mỗi khán đài đều sẵn sàng vang lên như sấm. Các khán đài trông những mũi súng hướng về phía mình, vừa sợ hãi vừa tò mò cứ ồn ào và náo động lên .
Cuối cùng sự yên lặng được lặp lại.
Bradshaw hỏi vua:
- Ông có nói gì để tự bào chữa không?
Thế là bằng giọng một quan toà chứ không phải của một bị cáo, Charles đứng lên không phải với vẻ hổ nhục mà với vẻ chế ngự, ông nói:
- Trước khi hỏi tôi, hãy trả lời tôi đã. Ở Newcastle tôi vẫn tự do, tôi đã ký một hiệp nghị với hai viện. Tôi đã thực hiện phần của tôi. Còn các ông đã mua tôi ở tay bọn Scotch, không đắt đâu, tôi biết, và điểu đó làm vinh dự cho nền kinh tế của chính phủ các ông. Nhưng mua tôi với cái giá của một tên nô lệ, các ông mong rằng tôi không còn là vua nữa chăng? Không đâu. Trả lời các ông là quên mất điều đó. Cho nên tôi chỉ trả lời các ông khi nào các ông đã xác minh được quyền chất vấn tôi. Trả lời các ông tức là thừa nhận các ông là quan toà, mà tôi chỉ thừa nhận các ông là đao phủ của tôi thôi.
Và giữa một sự im lặng chết chóc, Charles vẫn đội mũ bình tĩnh và kiêu kì, ngồi xuống ghế. Rồi với niềm kiêu hãnh, ông quay lại nhìn chỗ khán đài lúc nãy có mấy người Pháp xuất hiện và lầm bẩm:
- Tiếc rằng mấy người Pháp của mình không ở đây nữa? Họ sẽ thấy rằng người bạn của họ sống thì xứng đáng được bảo vệ, chết thì xứng đáng được than khóc.
Song ông đã uổng công dò tìm trong đám đông dày đặc và như cầu xin ở Thượng đế những sự mầu nhiệmr ngọt ngào và an ủi ấy. Ông chỉ nhìn thấy toàn những bộ mặt ngây dại và sợ sệt; ông cảm thấy mình đang đánh nhau với thù hằn và hung bạo.
Thấy Charles quyết định giữ thái độ im lặng đến cùng, ông chánh án nói:
- Thôi được! Mặc dù ông im lặng, chúng tôi vẫn xét xử ông. Ông bị buộc tội phản nghịch, lạm dụng quyền hành và ám sát. Những nhân chứng sẽ làm chứng. Một phiên toà sáp tới sẽ hoàn tất những gì mà ông không chịu làm trong phiên họp này.
Charles đứng dậy và quay lại trông thấy Parry mặt tái mét, thái dương đẫm mồ hôi.
- Ơ kìa? Parry thân mến, ngươi làm sao thế và vì cớ gì mà xúc động dữ vậy?
Nước mắt rưng rưng, giọng năn nỉ, Parry nói:
- Ôi thưa Hoàng thượng, khi ra khỏi phòng, xin ngài chớ nhìn sang bên trái.
- Tại sao thế. Parry?
- Ôi đức vua của tôi ơi, tôi van xin ngài đừng có nhìn.
Charles vừa cố nhìn qua hàng rào lính gác đứng sau mình vừa hỏi:
- Nhưng mà có cái gì cơ chứ? Nói đi.
- Có đấy ạ Nhưng mà ngài sẽ không nhìn chứ! Người ta đã đem đặt trên bàn cái lưỡi rìu mà người ta vẫn dùng để xử tội nhân. Trông cái đó thật là đáng sợ; ngài chớ có nhìn, tôi van ngài.
- Bọn ngu ngốc? - Charles nói, - Chúng nó tưởng ta cũng hèn nhát như chúng sao? Nhà ngươi đã báo trước cho ta như thế là tốt đấy, cảm ơn Parry.
Đã đến lúc phải rút lui, vua đi ra theo bọn lính.
Quả thật ở phía trái cổng lấp lánh ánh sáng ghê rợn của một tấm thảm đó trên đó đặt một lưỡi rìu sáng loáng có cán dài nhẵn bóng bởi bàn tay đao phủ.
Đến trước lưỡi rìu, Charles dừng lại và mỉm cười nói:
. - À !Thật là một lũ ngốc ! Dụng công và rất xứng đáng đối với những kẻ không biết thế nào là một nhà quý tộc .
Rồi lấy cái que mảnh dẻ cầm trong tay, ông vụt lên chiếc rìu và nói tiếp
- Hỡi lưỡi rìu của đao phủ, mi chẳng khiến ta sợ hãi đâu; ta quất mi trong khi chờ đợi một cách kiên nhẫn và sùng tín rằng mi sẽ quật trả lại ta.
Rồi nhún vai với dáng ngạo mạn vương giả, ông tiếp tục đi, để lại những bộ mặt kinh ngạc của những kẻ xúm đông lại quanh chiếc bàn, để xem thái độ của vua ra sao, khi trông thấy cái lưỡi rìu nó sẽ chặt lìa cái đầu của mình ra khỏi cổ.
- Parry này, - Vua nói,
- Xin Chúa tha tội! Thực ra tất cả lũ người ấy coi ta như một tên lái buôn bông Ấn Độ, chứ không phải một nhà quý tộc đã quen trông những gươm kiếm lấp lánh. Chắc rằng chúng nghĩ rằng ta không bằng một gã hàng thịt.
Vua ra đến cổng. Một đoàn người dài dằng đặc chạy đến; không kiếm được chỗ trên khán đài họ muốn ít ra cũng được thưởng thức đoạn cuối của quang cảnh đó mà phần thú vị nhất đã bị hụt. Đám người đông nghìn nghịt trong đó rải rác những bộ mặt hằm hè khiến vua buông một tiếng thở dài:
- Biết bao nhiêu là người, - Vua nghĩ, - Mà chẳng có lấy một người bạn tận tâm.
Ông vừa tự nhủ thầm với mình những lời hoài nghi và chán nản ấy thì bỗng nghe một giọng nói lẩm bẩm bên cạnh ông:
- Kính chào Hoàng thượng sa cơ!
Vua quay ngoắt lại, lệ tràn trong khóe mắt và trong tim.
Đó là một người lính già trong đội ngự vệ của ông không muốn trông thấy ông vua bị bắt của mình đi qua mà không dâng ông một kính lễ cuối cùng.
Nhưng cũng lúc ấy con người khốn khổ đó bị nện một chuỗi gươm xuống đầu ngã gục.
Trong số những kẻ giết người, nhà vua nhận ra đại uý Groslow.
- Chao ôi, - Charles nói, - Một hình phạt thật nặng nề đối với một lỗi thật nhỏ nhặt.
Rồi, lòng quặn đau, ông lại tiếp tục đi, nhưng chưa được trăm bước thì một kẻ hung hãn ghé đầu vào giữa hai tên lính áp giải và nhổ toẹt vào mặt vua, như xưa kia một tên Do Thái hèn mạt và xấu xa đã nhổ vào mặt Chúa Giêsu.
Những chuỗi cười hô hố và những tiếng rì rầm áo não đồng thời vang lên.
Đám đông lúc dãn ra, lúc cụm lại rập rờn như mặt biển trong cơn dông, và giữa làn sóng sống động ấy vua hình như trông thấy cặp mắt nảy lửa của Arthos. Charles chùi mặt và nói với một nụ cười buồn bã:
- Tên khốn kiếp! Cho nó một xu nào cũng sẽ làm như vậy đối với bố nó.
Vua không nhầm. Quả thậtông đã trông thấy Arthos và các bạn mình lại chen lấn vào đám dông và bằng cái nhìn cuối cùng hộ tống ông vua tuẫn nạn.
Khi người lính già chào Charles, Arthos vui mừng lắm; và khi người lính tội nghiệp ấy tỉnh lại, bác ta sẽ lấy mười đồng guinées của nhà quý tộc Pháp nhét vào túi bác. Nhưng lúc tên lăng mạ hèn nhát nhổ vào mặt vua, Arthos sờ tay vào cán dao găm. D Artagnan vội ngăn lại và nói bằng giọng khàn khàn:
- Khoan đã cậu!
Chưa bao giờ d Artagnan gọi Arthos hoặc bá tước de La Fère bằng cậu.
Arthos đứng lại.
D Artagnan tì vào tai Arthos và ra hiệu cho Porthos và Aramis cùng dừng lại. Rồi anh đến đứng đằng sau cái người tay để trần vẫn còn cười về các trò đùa đê tiện của hắn được mấy kẻ hung dữ khác khen ngợi
Người ấy đi về phía khu Cité, d Artagnan vẫn vịn vai Arthos đi theo hắn và ra hiệu cho Porthos và Aramis cùng đi.
Người để cánh tay trần trông giống như một kẻ mổ thịt, cùng với hai tên đồng bọn đi theo một phố dốc và hẻo lánh dẫn xuống bờ sông.
D Artagnan rời Arthos vả đi sau kẻ lăng mạ.
Tới bờ sông ba kẻ kia nhận thấy có người bám sát mình bèn dừng lại và vừa nhìn những người Pháp một cách xấc xược vừa trao đổi với nhau mấy lời giễu cợt.
- Arthos này, - D Artagnan nói, - Tôi không biết tiếng Anh, nhưng anh biết, vậy anh hãy làm thông ngôn cho.
Nói xong anh bước gấp lên và vượt qua ba người kia. Rồi quay ngoắt lại, d Artagnan bước thẳng đến trước mặt gã mổ thịt, hắn cũng dừng lại. Anh chỉ tay vào ngực hắn và nói với Arthos:
- Anh hãy nhắc lại với hắn câu này: "Mày là đồ hèn mạt. Mày đã lăng nhục một người không có tự vệ mày đã bôi bẩn mặt vua của mày, mày phải chết!..."
Arthos mặt tái nhợt và tay bị d Artagnan nắm chặt dịch lại những lời nói lạ lùng ấy cho gã kia nghe. Nhìn thấy những sự sửa soạn ghê gớm ấy và con mắt khủng khiếp của d Artagnan, hắn toan tự vệ Aramis bèn đặt tay lên thanh kiếm, nhưng d Artagnan bảo:
- Không dùng gươm kiếm, không dùng gươm kiếm! Gươm kiếm là để cho những nhà quý tộc.
Rồi túm lấy cổ gã mổ thịt, anh nói:
- Porthos, cậu hãy đập chết tên khốn nạn này hộ tôi bằng một cú đấm thôi.
Porthos vung cánh tay khủng khiếp của mình lên làm nó kêu rít trong không khí như một cánh ná và cả một khối nặng nề giáng xuống đầu tên hèn mạt đánh ịch một cái và đập vỡ sọ hắn.
Hắn đổ vật xuống như một con bò dưới một nhát búa tạ. Những tên đồng bọn muốn kêu, muốn chạy trốn, nhưng há miệng mà chẳng ra lời, đôi chân run rẩy như biến đâu mất.
- Arthos hãy nói với chúng điều này nữa, - D Artagnan bảo -
"Sẽ chết như thế này tất cả những kẻ quên rằng một người bị xiềng xích là một người bất khả xâm phạm, một ông vua bị tù đầy thì hai lần thay mặt cho Chúa".
Arthos dịch lại lời d Artagnan.
Hai gã kia miệng câm như hến, tóc dựng ngược lên, nhìn cái xác của bạn chúng ngập trong những vũng máu đỏ ngầu. Rồi như lấy lại được tiếng nói và sức lực, chúng vừa chạy vừa kêu rú lên vừa chắp hai bàn tay lại.
- Công lý đã thực hiện! - Porthos lau trán và nói.
- Và bây giờ đây, - D Artagnan bảo Arthos,
- Anh đừng có nghi ngờ gì tôi và hãy yên trí, tôi sẽ đảm nhiệm mọi việc liên quan đến vua.
Chú thích:
(1) vị thần cực kỳ khỏe trong thần thoại Hy Lạp, đã hoàn thành mười hai kỳ tích
(2) Trong nguyên bản nói basilic là con rắn hoang đường chỉ bằng cái nhìn cũng đủ giết chết người ta.
-*-*-*-
Chương 68
Đại sảnh trắng
Nghị viện kết án tử hình Charles Stuart, như người ta có thể dễ dàng thấy trước. Những cuộc xét xử chính trị bao giờ cũng chỉ là những nghi thức vô ích, bởi vì vẫn nhưng thiên kiến ấy vừa buộc tội lại vừa kết án. Cái lý luận kinh khủng của những cuộc cách mạng là như thế đấy.
Việc kết án ấy mặc dầu đã được mấy người bạn của chúng ta liệu trước, nó vẫn làm cho họ đau đớn. D Artagnan có những tài trí hơn là những lúc gay go càng nảy ra nhiều mưu mẹo nhất, lại thề rằng sẽ tìm mọi cách ở trên đời để ngăn cản sự kết thúc của tấn bi kịch đẫm máu này. Nhưng bằng cách nào đây? Đó là điều anh thấy còn mơ hồ quá.
Tất cả phụ thuộc vào tính chất của hoàn cảnh. Trong khi chờ đợi một kế sách hoàn chính, để tranh thủ thời gian, bằng mọi giá phải cản trở việc hành hình mà các quan toà đã quyết định vào ngày hôm sau.
Cách duy nhất là làm sao làm biến mất tên đao phủ London.
Đao phủ biến mất thì bản án không thể thi hành. Chắc chắn là người ta sẽ đi kiếm đao phủ ở thành phố gần London nhất, và như thế ít ra cũng được thêm một ngày, mà một ngày trong trường hợp như thế này có thể là cứu nạn! D Artagnan đảm nhiệm cái công việc quá ư là khó khăn này.
Một điều không kém phần quan trọng là báo cho Charles Stuart biết rằng người ta đã định cứu ông để ông hết sức hỗ trợ những người bảo vệ ông hoặc ít ra không làm điều gì trở ngại cho công việc của họ... Aramis nhận làm cái việc mạo hiểm đó.
Charles Stuart đã yêu cầu người ta cho phép giám mục Juxon đến thăm ông ở nhà tù Đại sảnh trắng. Ngay chiều hôm ấy Mordaunt đã đến nhà giám mục để cho ông biết điều mong muốn sùng tín của nhà vua và sự cho phép của Cromwell. Aramis nhất quyết bằng cách doạ nạt hoặc thuyết phục làm sao cho giám mục đồng ý để cho anh thay thế ông, mang những huy hiệu giáo chức của ông và lọt vào cung Đại sảnh trắng.
Cuối cùng Arthos đảm nhiệm việc chuẩn bị các kế hoạch rời khỏi nước Anh trong trường hợp thành công cũng như thất bại.
Đêm đến, họ hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ, và mỗi người lên đường để thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm của mình.
Cung Đại sảnh trắng được canh gác bởi ba trung đoàn kỵ binh và nhất là bởi những nỗi băn khoăn vô tận của Cromwell, ông đi đi lại lại và phải đi các tướng lãnh hoặc nhân viên.
Một mình trong căn phòng thường lệ của mình có hai ngọn nến soi sáng, nhà vua bị kết án tử hình buồn bã nhìn cái xa hoa của thời vàng son đã qua, giống như vào lúc lâm chung người ta nhìn hình ảnh cuộc đời thấy nó sáng lạn và ngọt ngào hơn bao giờ hết.
Parry không rời chủ lúc nảo và từ khi chủ bị kết án, hắn khóc mãi không thôi.
Ngồi tì tay trên một cái bàn, Charles Stuart ngước nhìn một bức đại bài trên đó treo những bức chân dung của vợ và các con của ông.
Ồng chờ đợi Juxon trước hết, rồi sau Juxon là sự tuẫn tử.
Đôi khi dòng suy nghĩ của ông dừng lại ở những người quí tộc Pháp trung hậu lúc này như đã cách xa ông hàng trăm dặm, có vẻ huyền thoại, hư ảo và tựa như những hình ảnh mà người ta thấy trong giấc mơ và biến mất khi tỉnh dậy.
Mà quả thật, đôi khi Charles tự hỏi mình rằng tất cả những gì vừa mới xảy ra với ông phải chăng là một giấc mơ hoặc ít ra cũng là một điều mê sảng trong cơn sốt.
Nghĩ vậy ông đứng lên, đi vài bước như để ra khỏi cơn mê, đi ra đến cửa sổ nhưng lập tức trông thấy ở phía dưới cửa lấp lánh những nòng súng của lính gác. Khi ấy ông buộc phải thú nhận rằng ông đang thức tỉnh hẳn hoi và giấc mơ đẫm máu của ông là có thật.
Charles lặng lẽ trở lại ghế bành, ngồi tì tay lên bàn, gục đầu vào bàn tay và nghĩ ngợi.
- Than ôi! - Ông tự nhủ thầm, - Nếu như ít ra ta có một đức cha để xưng tội trong số những tâm hồn sáng láng của Nhà thờ đã thăm dò mọi bí mật của cuộc đời, mọi điều nhỏ nhen của sự cao cả, thì, tiếng nói của người ấy có lẽ sẽ dập tắt tiếng nói đang than thở trong tâm hồn ta? Nhưng ta sẽ có một linh mục tâm hồn tầm thường mà do tai hoạ của ta, ta đã phá vỡ cuộc đời và cơ nghiệp của ông ấy. Ông ấy sẽ nói với ta về Thượng đế và cái chết như vẫn thường nói với những kẻ sắp chết khác, không hiểu rằng kẻ sắp lìa đời vương giả này để lại một ngai vàng cho kẻ tiếm đoạt trong khi con gái của mình chẳng còn bánh ăn.
Rồi đưa các bức chân dung lên môi, ông lần lượt lẩm nhẩm đọc tên của từng đứa con ông.
Đêm hôm ấy là một đêm mù sương và ảm đạm. Chuông nhà thờ gần đó thong thả điểm giờ. Ánh sáng vàng vọt của hai cây nến gieo rắc trong căn phòng rộng rãi và cao ráo ấy những bóng ma chập chờn kỳ lạ. Đó là những tổ tiên của vua Charles tách ra khỏi những khung ảnh thiếp vàng; và những bóng chập chờn kia là những vầng sáng cuối cùng xanh xanh và lấp lánh của một ngọn lửa than đang tắt.
Một nỗi buồn mênh mang xâm chiếm cả tâm hồn . Ông vùi đầu vào trong lòng bàn tay và mơ màng đến cái thế giới thật là tươi đẹp, khi người ta rời bỏ nó hoặc đúng hơn là nó rời bỏ ta, đến những cái vuốt ve thật êm ái và ngọt ngào của những đứa con nhất là khi người ta xa rời chúng để không bao giờ gặp lại nữa.
Rồi ông nghĩ đến người vợ cao quý và can đảm đã nâng đỡ ông đến phút cuối cùng. Ông rút từ ngực ra cây thánh giá kim cương và tấm huân chương Jarretière mà bà đã nhờ những người Pháp hào hiệp kia đưa tới, và hôn lên. Rồi nghĩ rằng bà chỉ thấy lại những kỷ vật ấy khi tấm thân lạnh giá và bị chặt của ông ta đã bị vùi trong một nấm mồ, ông cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh chạy khắp người như những cơn ớn lạnh mà tử thần ném lên mình ta như ném chiếc áo choàng đầu tiên của nó.
Thế là trong căn phòng nhắc nhở với ông biết bao kỷ niệm đế vương và đã từng chứng kiến biết bao cận thần vào ra và biết bao điều phỉnh phờ nịnh hót, giờ đây một mình ông cùng với một tên đầy tớ buồn phiền mà linh hồn yếu đuối không thể nâng đỡ linh hồn ông nhà vua buông rơi lòng can đảm của mình xuống ngang tầm của sự yếu đuổi ấy, của những bóng đêm ấy, của cái giá lạnh mùa đông ấy.
Và liệu người ta có sẽ nói ra không? Cái ông vua ấy chết thật cao cả, thật tuyệt vời, với nụ cười nhẫn nhục trên môi, đã lau trong bóng tối một giọt nước mắt rơi xuống bàn và rung rinh trên tấm thảm thêu vàng lỏng lánh.
Bỗng nhiên có tiếng chân bước ngoài hành lang, rồi cửa bật mở và gian phòng bừng lên trong ánh sáng khói um của những ngọn đuốc Một giáo sĩ vận y phục chủ giáo bước vào có hai tên lính gác theo sau. Charles khoát tay một cách khần thiết cho hai tên lính và chúng đi ra. Căn phòng trở lại tối tăm.
- Juxon! - Charles reo lên, - Juxon? Cảm ơn người bạn cuối cùng của tôi, ông đến rất kịp thời.
Vị giám mục đưa mắt lo ngại nhìn nghiêng sang phía người dân ông đang thổn thức ở góc lò sưới.
- Nào, Parry, đừng khóc nữa, - Vua nói, - đây là Chúa đến với chúng ta.
- Nếu là Parry thì tôi chẳng có gì phải lo ngại, - Giám mục nói. - Vậy thì tôi xin phép kính chào Hoàng thượng và thưa với ngài tôi là ai và đến đây vì việc gì.
Nhìn lại người và nghe giọng nói ấy, suýt nữa Charles kêu lên, nhưng Aramis đặt ngón tay lên môi và kính cẩn cúi chào ông vua Anh quốc.
- Ông hiệp sĩ, - Charles lẩm bẩm.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Aramis ngắt lời và lên cao giọng, vâng tôi là giám mục Juxon, người hiệp sĩ trung thành của Chúa Giêsu, đến đây theo nguyện vọng của Hoàng thượng.
Đã nhận ra D Herblay, Charles chắp hai tay, kinh ngạc và ngẩn người ra trước những người ngoại quốc này, họ chẳng có động cơ nào khác ngoài nghĩa vụ mà tự lương tâm họ đặt ra, chiến đấu chống lại ý nguyện của một dân tộc và chống lại số mệnh của một ông vua.
- Ông đấy à! - Vua nói, - Ông làm thế nào mà tới được đây? Lạy Chúa, nếu họ nhận ra ông thì ông nguy to.
Parry đứng gần đấy, tất cả con người hắn biểu hiện một niềm khâm phục hồn nhiên và sâu sắc.
Vừa tiếp tục ra hiệu cho vua im lặng, Aramis vừa nói:
- Xin ngài đừng lo gì cho tôi, và chỉ nên lo cho ngài thôi. Các bạn bè của ngài chăm lo cho ngài, ngài thấy đấy; chúng tôi sẽ làm gì, tôi cũng chưa biết; nhưng bốn con người đầy lònh cương quyết đó có thể làm được rất nhiều việc. Trong khi chờ đợi, ngài chớ nhắm mắt ban đêm, chớ ngạc nhiên về chuyện gì cả và sẵn sàng với mọi việc có thể đến.
Charles lắc đầu nói:
- Bạn ơi, các ông có biết rằng chẳng còn mấy thời giờ nữa đâu, và nếu các ông muốn hành động thì phải gấp lắm ư? Các ông có biết rằng đến mười giờ sáng mai là tôi phải chết không?
- Thưa ngài, từ giờ đến lúc ấy, một điều gì đó sẽ xảy ra khiến việc hành quyết không thể thực hiện được.
Vua nhìn Aramis với vẻ ngạc nhiên.
- Đúng lúc ấy ở phía dưới cửa sổ phòng vua vang lên một tiếng động lạ như tiếng bốc dỡ một xe chở gỗ.
- Ông có nghe thấy không? - Vua hỏi.
- Tiếng động kia kèm theo một tiếng kêu đau đớn.
- Tôi có nghe, - Aramis đáp, - Nhưng tôi không hiểu rõ tiếng động ấy là gì và nhất là tiếng kêu kia.
- Tôi không biết ai đã thốt ra tiếng kêu ấy, Vua nói: nhưng về tiếng động tôi sẽ nói để ông rõ. Ông có biết rằng tôi sẽ bị hành quyết ở ngay ngoài cửa sổ kia không? - Vua nói và giơ tay về phía bãi tối chỉ có toàn lính gác.
- Vâng, thưa ngài, tôi có biết, - Aramis đáp.
- Đấy! Những gỗ mang đến là những cột kèo người ta dùng để dựng đoạn đầu đài cho cho tôi đấy. Có người thợ nào đó bị thương khi bốc dỡ.
Aramis bất giác rùng mình.
- Các ông thấy đấy, - Charles nói, - Các ông có khăng khăng làm nữa cũng vô ích mà thôi. Tôi đã bị kết án, hãy đề tôi cam chịu số phận của mình.
Lấy lại sự bình tĩnh bị quấy động trong giây lát, Aramis nói:
- Thưa ngài họ có thể dựng một đoạn dầu đài nhưng họ sẽ không tìm được một đao phủ.
- Thế nghĩa là thế nào? - Vua hỏi.
- Nghĩa là vào lúc này, thưa ngài, tên đao phủ đã bị bắt cóc hoặc dụ dỗ đi. Ngày mai đoạn đầu đài sẽ sẵn sàng, nhưng không còn đao phủ, người ta sẽ phải hoãn việc hành quyết đến ngày kia.
- Thế thì sao? - Vua hỏi.
- Thì đêm mai chúng tôi sẽ bốc ngài đi, - Aramis đáp.
Một tia chớp vui mừng bất giác lóe lên gương mặt vua. Ông reo lên:
- Thế là thế nào?
Parry chắp hai bàn tay lẩm bẩm:
- Ôi, ông ơi! Cầu Chúa ban phước lành cho ông và các bạn ông.
- Thế là thế nào? - Vua nhắc lại, - Tôi cần phải biết để nếu cần tôi còn hỗ trợ các ông chứ.
- Thưa ngài, tôi thật không biết gì cả, - Aramis nói, - Nhưng cái người khôn khéo nhất, dũng cảm nhất, tận tâm nhất trong bốn chúng tôi đã bảo khi chia tay rằng: "Hiệp sĩ, hãy nói với vua rằng ngày mai vào lúc mười giờ tối, chúng tôi cướp vua đi". Bởi vì ông ấy đã nói, ông ấy sẽ làm.
- Hãy cho tôi biết tên của ông bạn hào hiệp ấy, - Vua nói, - Để tôi giữ một niềm biết ơn ông ấy mãi mãi, dù ông ấy có thành công hay không.
- D Artagnan, thưa ngài. Chính ông ấy đã suýt cứu được ngài thì đại tá Harrison vào thật là không đúng lúc.
- Quả thật các ông là những con người kỳ diệu! - Vua nói. - Người ta đã kể cho tôi nghe những chuyện tương tự về các ông mà tôi không tin.
- Giờ đây xin ngài hãy nghe tôi - Aramis nói. - Không một lúc nào ngài quên rằng chúng tôi chăm lo việc cứu ngài; một cử chỉ nhỏ nhặt, một tiếng hát khe khẽ, một dấu hiệu thoảng qua của những người sẽ đến gần ngài, phải rình hết, nghe hết, thật bình tỉnh.
- Ôi, hiệp sĩ! - Nhà vua kêu lên, - Tôi biết nói gì với ông đây? Không một lời nào, dù từ đáy lòng tôi thốt ra, có thể biểu hiện hết niềm biết ơn của tôi. Nếu các ông thành công - Tôi sẽ không nói rằng các công cứu một ông vua, không, nhìn từ doạn đầu đài như tôi đang nhìn đây thì, tôi xin thề rằng, vương vị chẳng có nghĩa lý gì cả; nhưng các ông giữ gìn được một người chồng cho vợ, một người cha cho các con của ông ta. Hiệp sĩ ơi, hãy cầm lấy tay tôi, đó là tay một người bạn sẽ yêu quý ông cho đến hơi thở cuối cùng.
Aramis muốn hôn tay vua, nhưng vua nắm lấy tay anh và áp vào tim mình.
Lúc ấy một người đi vào không buồn gõ cửa. Aramis toan rụt tay về, nhưng vua giữ lại.
Đó là một trong những tín đồ thanh giáo nửa thày tu nửa lính đầy rẫy quanh Cromwell.
- Ông cần gì? - Vua nói.
- Tôi muốn xem việc xưng tội của Charles Stuart đã xong chưa, - Người mới vào đáp.
- Điều ấy can hệ gì đến ông? - Vua nói, - Chúng ta không cùng một tôn giáo.
- Tất cả mọi người đều là anh em, - Người thanh giáo nói. - Một người anh em của tôi sắp chết, tôi đến khích lệ anh ta đi đến cái chết.
- Thôi đủ rồi, - Parry nói - Đức vua không cần đến những điều khích lệ của ông.
- Thưa ngài, - Aramis nói nhỏ, - Hãy nhẹ nhàng với hắn, chắc hẳn đó là một tên do thám.
- Thưa ông, - Vua nói, - sau vị tiến sĩ giám mục tôn kính, tôi sẽ vui lòng nghe ông.
Người có cái nhìn lấm lét rút lui và không quên quan sát Juxon với một vẻ chú ý không thoát khỏi con mắt nhà vua. Khi cửa đóng rồi, vua nói:
- Hiệp sĩ ạ, tôi chắc rằng ông nói đúng và cái người kia đến đây với y đồ xấu. Khi ra khỏi đây ông hãy coi chừng kẻo vướng vào tai hoạ.
- Xin cảm ơn Hoàng thượng, - Aramis nói, - Nhưng ngài hãy yên tâm. Dưới làn áo dài này tôi mặc một áo giáp sắt và giấu một con dao.
- Thôi, ông đi đi, và cầu Chúa che chở cho ông, như tôi vẫn thường nói khi còn làm vua.
Aramis đi ra. Charles tiễn anh ra ngưỡng cửa, Aramis vừa đi vừa ban phước khiến những tên lính gác cúi rạp mình, anh đưởng bệ đi qua các tiền sảnh đầy lính tráng, bước lên cỗ xe có hai tên hầu đi theo và trở lại toà giám mục, hai tên hầu cáo biệt anh, Juxon đợi chờ lo lắng.
- Thế nào? - Ông vội hỏi thì thấy Aramis vào.
- Thưa ngài, mọi việc đều hoàn thành như tôi cầu mong. Dọ thám, lính gác, sai nha đều tưởng tôi là ngài, nhà vua thì ban phước cho ngài trong khi chờ đợi ngài ban phước cho vua.
- Cầu Chúa che chở cho con, vì rằng tấm gương của con đem lại cho ta hi vọng và can đảm.
Aramis mặc lại y phục và áo choàng của mình ra đi và báo trước cho Juxon rằng anh sẽ còn nhờ vả ông một lần nữa.
Đi ra phố mới độ mươi bước anh đã nhận thấy rằng mình bị một người khoác chiếc áo choàng lớn bám theo sau; anh rờ tay vào con dao găm và đứng lại. Người kia đi thẳng tới anh. Đó là Porthos.
- À, ra cái anh bạn thân mến này, - Aramis nói và chìa tay ra cho bạn.
- Bạn thân mến, cậu thấy đấy, - Porthos nói, - Mỗi người chúng ta có nhiệm vụ của mình; nhiệm vụ của tôi là canh gác cho cậu và tôi đã làm. Cậu có gặp vua không?
- Có mọi việc tốt cả. Bây giờ các bạn chúng ta đâu?
- Chúng ta hẹn gặp nhau ở khách sạn vào lúc mười một giờ.
- Thế thì của còn bao lâu nữa đâu.
Quả thật, chuông nhà thờ Saint Paul điểm mười giờ.
Tuy nhiên do hai người bạn làm chu tất mọi việc nên đến nơi hẹn trước.
Sau đó, Arthos vào.
- Mọi việc tốt cả, anh nói trước khi các bạn kịp hỏi.
- Cậu đã làm gì? - Aramis hỏi.
- Tôi đã thuê một chiếc tàu buồm hẹp như cái thuyền thoi, nhẹ như cánh én, nó đợi chúng ta ở Greenwich, trước mặt đảo Những con Chó. Tàu có một chủ và bốn người làm, họ nhận năm mươi livres sterling và để tuỳ ý chúng ta sử dụng trong ba đêm liền. Sau khi đưa vua lên thuyền, lợi dụng nước triều chúng ta xuôi sông Tamise và hai giờ sau là ra đến biển khơi. Lúc ấy, như những tên cướp thực thụ chúng ta đi men bờ biển, trú ở các vách núi, hoặc nếu mặt biển tự do chúng ta sẽ dong buồm thẳng đến Boulogne-sur-Mer. Nếu tôi có chết thì hãy nhớ ông chủ tàu là thuyền trưởng Roger và tàu gọi là Tia chớp. Cứ thế là sẽ tìm ra. Một cái khăn tay buộc ở bốn góc là ám hiệu nhận ra nhau.
Một lát sau d Artagnan về.
- Các cậu hãy dốc túi ra cho đủ một trăm livres sterling, vì rằng túi tôi...
Và anh lộn các túi rỗng không của mình ra.
Số tiền được góp xong ngay, d Artagnan đi ra một lát rồi quay về. Anh nói:
- Vậy, mọi việc đã xong xuôi. Nhưng cũng chẳng phải là dễ dàng.
- Gã đao phủ đã rời London chưa? - Arthos hỏi.
- Ấy! Như thế chưa phải là chắc chắn đâu. Hắn có thể ra cửa này và lại vào cửa khác.
- Thế bây giờ hắn ở đâu?
- Ở trong hầm
- Trong hầm nào?
- Trong hầm của ông chủ quán chúng ta! Mousqueton ngồi canh ở ngưỡng cửa, chìa khoá đây.
- Hoan hô! - Aramis nói. - Nhưng cậu làm thể nào mà định đoạt người ấy biến đi được?
- Giống như người ta định đoạt mọi thứ ở đời này. Bằng tiền bạc. Việc này tôi phải trả giá đắt lắm, nhưng hắn đã đồng ý.
- Thế cậu phải trả bao nhiêu? - Arthos hỏi, - Bởi vì cậu hiểu đấy, bây giờ chúng ta hoàn toàn không còn là những anh chàng ngự lâm quân nghèo xác không nhà không cửa, cho nên những việc chi tiêu của chúng ta là phải chung nhau.
- Tôi phải chi mười hai nghìn livres, - D Artagnan đáp.
- Thế cậu đã kiếm đâu ra được? - Arthos hỏi. - Cậu có đủ số tiền đó ư?
- À cái nhẫn kim cương trứ danh của hoàng hậu ấy mà! - D Artagnan thở dài đáp.
- A đúng thế? - Aramis nói, - Tôi đã nhận ra nó ở ngón tay cậu.
- Thế cậu đã chuộc lại nó ở ông des Essarts đấy à? - Porthos hỏi.
- Ồ, phải, lạy Chúa! - D Artagnan nói. - Nhưng thiên mệnh đã ghi rằng tôi không thể giữ gìn nó. Biết làm thế nào? Người ta tin rằng kim cương nó cũng có thiện cảm và có ác cảm như con người; dường như cái nhẫn nó ghét tôi.
- Nhưng nó lại rất hợp với lão đao phủ, - Arthos nói.
- Khốn thay, đao phủ nào cũng có người phụ việc, người hầu, biết đâu đấy.
- Thì đao phủ này cũng có đầy tớ đấy, nhưng chúng ta ăn may thôi.
- Thế là thế nào?
- Vào cái lúc tôi tưởng mình sắp có một việc thứ hai phải thương lượng, thì người ta mang cái thằng đầy tớ ấy về với một bên đùi gẫy.
Do quá hăng hái hắn đã đi theo cỗ xe chở kèo cột đến tận cửa sổ nhà vua; một cái cột rơi và đè gẫy chân hắn.
- A! - Aramis nói, -Thế ra chính hắn đã thốt ra tiếng kêu mà tôi nghe thấy lúc đang ở phòng vua.
- Có thể lắm! - D Artagnan nói, - Nhưng vì là một người có thiện tâm, khi ra về hắn đã hứa là sẽ cử đến nơi đến chốn bốn thợ giỏi và lành nghề để giúp sức những thợ đang làm. Và khi về đến nhà chủ, mặc dù đang bị thương như thế, hắn lập tức viết cho bác Tôm Lâu là một thợ mộc bạn hắn, dặn bác đến ngay cung Đại sảnh trắng để hoàn tất lời hứa của hắn. Bức thư ấy đây, hắn thuê một người mang đi ngay, mất mười xu và tôi đã phải mua lại mất một đồng louis.
- Thế cậu lấy bức thư ấy làm gì? - Arthos hỏi.
- Thế anh không đoán ra à. - D Artagnan hỏi lại, cặp mắt lấp lánh thông minh.
- Xin thề là là tôi chịu đấy.
- Thế này nhé, Arthos thân mến! Anh nói tiếng Anh như đích thị Jôn Bun(1), anh là bác Tôm Lâu, còn ba chúng tôi là ba thợ bạn. Bây giờ anh hiểu ra chưa?
Arthos reo lên đầy vẻ mừng vui và thán phục. Rồi anh chạy vào buồng lấy ra mấy bộ quần áo thợ thuyền; cả bốn người mặc vào và ra khỏi khách sạn, Arthos mang một cái cửa, Porthos một cái kìm, Aramis một cái rìu, d Artagnan một cái búa và đinh.
Lá thư của gã đầy tớ tên đao phủ chứng thực với bác thợ cả rằng họ đúng là những người mà bác đang đợi.
Chú thích:
(1) Biểu tượng của người Anh
-*-*-*-
Chương 69
Những người thợ
Khoảng nửa đêm. Charles nghe tiếng rầm rầm rất to ở dưới cửa sổ: đó là tiếng búa rìu chan chát, tiếng kìm cặp ken két và tiếng cửa xẻ xoèn xoẹt.
Charles để nguyên quần áo nằm lăn ra giường và vừa mới chợp mắt thì tiếng ồn ào khiến ông choàng dậy.
Ngoài tiếng vang nghe thấy, tiếng ồn kia còn dội tiếng vang tinh thần khủng khiếp trong tâm hồn ông và những ý nghĩ ghê sợ tối hôm qua lại đến công kích ông.
Một mình trước bóng đêm và sự cô đơn, ông không đủ sức chịu đựng nổi sự tra tấn ấy, nó không có trong chương trình những hình phạt đối với ông. Ông bèn bảo Parry ra bảo lính canh nói với những người thợ làm nhẹ tay hơn và hãy thương đến giấc ngủ cuối cùng của kẻ đã từng là vua của họ.
Lính canh không muốn rời vị trí của họ, nhưng để cho Parry đi.
Sau khi đi vòng quanh lâu đài đến gần cửa sổ, Parry trông thấy ở ngang bằng với bao lớn đã dỡ rào sắt đi, một đoạn đầu đài đang làm dở nhưng người ta đã bắt đầu đóng đinh chắng bằng một tấm rèm bằng nỉ đen.
Đoạn đầu đài dựng cao ngang tầm cửa sổ tức là gần hai mươi bộ có hai tầng ở dưới. Nhìn cảnh tượng thật là dể sợ, nhưng Parry vẫn cố tìm trong đám đông bảy tám người thợ đang dựng cái máy thê thảm ấy xem chỗ nào gây tiếng ồn nhức óc nhất cho vua.
Trên sàn thứ hai, bác trông thấy hai người đang dùng kìm gõ nốt những thanh sắt cuối cùng của bao lớn. Một người cao lớn như ông hộ pháp thay cái chiên cụ phá cổng thành ngày xưa làm việc xô đổ những bức tường. Mỗi lần anh ta ra tay, gạch đá bay tứ tung. Người kia quỳ đang cạy từng tảng đá lung lay.
Rành rành là những người này gây ra tiếng động khiến vua kêu la.
Parry trèo thang đến chỗ họ. Bác nói:
- Các bạn ơi, xin các bạn làm nhẹ nhàng hơn một chút có được không? Vua đang ngủ và cần được ngủ.
Người thợ dùng kẹp ngừng tay và quay nghiêng lại, nhưng do bác ta đứng nên mặt bị khuất trong bóng tối dày đặc gần sàn và Parry trông không rõ.
Người đang quỳ cũng quay lại và do thấp hơn người kia, nên mặt được ánh đèn chiểu sáng và Parry trông rõ. Người ấy chằm chằm nhìn Parry và để một ngón tay lên miệng.
Pary kinh ngạc lùi lại.
- Được thôi, được thôi, - Người thợ nói tiếng Anh rất cừ, - Bác hãy trở về nói với vua rằng, nếu đêm nay khó ngủ thì đêm mai sẽ ngủ ngon hơn.
Những lời nói ấy cứ theo nghĩa đen có một ý nghĩa thật ghê gớm, được những người thợ làm ở phía bên cạnh và tầng dưới tiếp nhận bằng một trận cười ầm ĩ.
Parry rút lui, ngờ rằng mình đang chiêm bao.
Charles sốt ruột đợi hắn.
Lúc bác trở về, tên lính canh cửa tò mò ngó đầu vào xem vua đang làm gì.
Vua đang chống khuỷu tay lên giường.
Parry đóng cửa và đi đến bên vua, mặt vui mừng rạng rỡ.
- Thưa Hoàng thượng, Hắn khẽ nói, - Ngài có biết những người thợ đang làm ồn ồn đó là ai không?
Charles lắc đầu buồn bã, nói:
- Không, làm sao tôi biết được điều đó? Tôi có quen những người ấy không?
Parry cúi sát xuống giường chủ và nói nhỏ hơn nữa:
- Thưa Hoàng thượng, đó là bá tước De La Fère và đồng đội của ông.
- Họ dựng đoạn đầu đài cho tôi à? - Vua ngạc nhiên hỏi.
- Vâng họ vừa dựng đài vừa đục một lỗ thủng vào tường.
- Suỵt - Vua vừa nói vừa hoàng hốt nhìn quanh. - Ngươi trông thấy họ à?
- Tôi đã nói với họ.
Vua chắp hai tay lại và ngước mắt lên trời. Sau một lời cầu nguyện thành kính và ngắn ngủi ông nhảy ra khỏi giường và đi đến cửa sổ, vén rèm lên những lính canh vẫn ở đấy, phía xa ngoài bao lớn một bãi phẳng trải rộng và bọn lính đi qua như những cái bóng.
Charles không phân biệt được gì cả, nhưng cảm thấy ở dưới chân những nhát búa chấn động của các bạn mình. Mỗi nhát đó lúc này đáp lại tận đáy lòng ông.
Parry không lầm, bác đã nhận rõ Arthos. Chính anh được Porthos giúp sức đang đục một lỗ hổng để đặt các xà ngang.
Cái lỗ ấy ăn thông vào một cái hầm nhỏ đào ngay dưới sàn của phòng vua. Hầm đó giống như một tầng trệt, khi vào trong đó rồi, chỉ cần một cái kìm và đôi vai thật khỏe là có thể nậy một tấm ván sàn lên, việc này có Porthos lo. Vua sẽ lách qua lỗ hổng ấy cùng những người cứu mình chui vào một ngăn ở dưới đoạn đầu đài, mặc một bộ quần áo thợ đã chuẩn bị sẵn, chẳng e sợ gì, đàng hoàng đi ra với bốn người bạn.
Những lính canh chẳng nghi ngờ gì, thấy những người thợ vừa mới làm ở đoạn đầu đài sẽ để họ đi qua.
Còn cái tàu buồm như chúng tôi đã nói vẫn sẵn sàng ngoài bến.
Cái kế hoạch to lớn, đơn giản và dễ dàng, giống như mọi điều này sinh từ một quyết định táo bạo.
Đôi bàn tay trắng muốt và nuột nà của Arthos toạc ra để bốc những tảng đá mà Porthos đã nậy bật ra. Anh đã có thể thò đầu xuống dưới những vải trang trí bàn ở bao lớn. Hai giờ nữa anh sẽ lách được cả người qua. Trước khi trời sáng cái lỗ hổng sẽ được đục xong và khuất sau tấm rèm bên trong mà d Artagnan sẽ căng lên.
D Artagnan làm như một người thợ Pháp và đóng những cái đinh rất đều đặn như một người căng thảm khéo léo nhất. Aramis cắt những chỗ vải thừa của tấm nỉ xoà xuống đất và che bộ khung của giàn giáo.
Một ngọn lửa than bùn đã giúp những người thợ qua được cái giá rét thấu xương đêm hôm 29 rạng ngày 30 tháng Giêng(1). Những người thợ mải miết nhất chốc chốc cũng ngừng tay để sưởi. Riêng Arthos và Porthos không rời công việc của mình. Cho nên trời vừa rạng sáng và soi tỏ các nóc nhà thì cái lỗ chui đã hoàn thành. Arthos vào đó mang theo quần áo dành cho vua bọc trong một mảnh nỉ đen. Porthos đưa anh một cái kìm, d Artagnan căng một tấm nỉ rộng ở bên trong, kể cũng khá xa xỉ đấy, nhưng rất có ích vì nó che lấp hẳn cái lỗ hổng ở tường.
Arthos chỉ còn phải làm hai tiếng đồng hồ nữa để thông được đến chỗ vua. Theo dự kiển của bốn người bạn, họ còn cả một ngày rộng rãi, bởi vì thiếu đao phủ người ta buộc phải đi kiếm đao phủ ở Bristol.
D Artagnan lại mặc bộ đồ hạt dẻ, Porthos mặc áo chẽn đó, Còn Aramis đến nhà ông Juxon để nếu có thể thì cùng ông đi vào tận chỗ vua.
Cả ba người hẹn gặp nhau vào giữa trưa ở quảng trường toà Đại sảnh trắng để xem tình hình ra sao.
Trước khi rời đoạn dầu đài, Aramis đã đến gần chỗ Arthos nấp để báo rằng anh sẽ cố gặp lại nhà vua.
- Vậy thì xin tạm biệt và can đảm lên nhé, - Arthos nói. - Hãy cho vua biết tình hình đến đâu rồi. Dặn vua là khi nào không có ai ở trên thì gõ xuống sàn để tôi yên trí tiếp tục công việc. Nếu Parry giup tôi gỡ sẵn cái tấm lót dưới lò sưởi, chắc là một tấm đá lát, ra được thì hay lắm. Còn cậu Aramis, cố gắng không rời vua.
Hãy nói to, nói thật to, vì ở ngoải cửa sẽ có người nghe. Nếu trong phòng có một lính canh thì cậu giết ngay không chờ đợi gì cả.
Nếu có hai tên thì cậu giết một, Pary giết một. Nếu có ba tên thì các cậu hãy liều chết, nhưng hãy cứu lấy nhà vua.
- Cứ yên trí, - Aramis nói, - Tôi sẽ mang đi hai con dao găm và đưa cho Parry một con. Hết rồi chứ?
- Ừ đi đi. Nhưng dặn kỹ là đừng có hào hiệp hão. Trong khi các cậu đánh nhau, thì vua phải trốn ngay. Khi phiến đá đã đậy lại trên đầu vua thì cậu ở lại chiến đấu dù sống hay chết, người ta cũng phải mất ít ra mười phút để tìm ra cái lỗ tẩu thoát. Trong mười phút ấy chúng tôi đi được khối đường đất và vua sẽ được cứu thoát.
- Mọi việc sẽ như cậu dặn, Arthos ạ. Đưa tay đây, vì có lẽ chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa.
Arthos đưa hai tay ra quàng lấy cổ Aramis và hôn bạn.
- Tôi hôn cậu đây, - Anh nói, - Bây giờ nếu tôi chết hãy nói với d Artagnan rằng tôi yêu nó như con tôi và ôm hôn nó hộ tôi. Ôm hôn cả cái cậu Porthos dũng cảm và tốt bụng của chúng ta nữa. Vĩnh biệt! - Vĩnh biệt, - Aramis nói. - Bây giờ thì chắc nhà vua sẽ trốn thoát, cũng chắc chắn như đang siết chặt bàn tay trung hậu nhất trên đời.
Aramis rời Arthos, xuống khỏi đoạn đẩu đài và trở về khách sạn vừa đi vừa huýt sáo một điệu hát ca tụng Cromwell. Anh thấy hai bạn mình đang ngồi gần lò sưởi cháy rựng rực, uống một chai rượu vang ports và ăn ngấu nghiến một con gà ướp lạnh. Porthos vừa ăn vừa tuôn ra ông ổng những lời chửi rủa bọn nghệ sĩ đê tiện, d Artagnan cứ im lặng ăn, nhưng trong óc vẫn nghĩ đến những kế hoạch táo bạo nhất.
Aramis kể lại tất cả những điều đã thoả thuận với Arthos, d Artagnan tán thành bằng cái đầu, còn Porthos bằng tiếng nói:
- Hoan hô! - Anh kêu lên, - Vả lại chúng ta sẽ ở đấy khi vua trốn. Nấp dưới đoạn đầu đài thì kín quá rồi và chúng ta có thể trông vào đó. Với d Artagnan, tôi, Grimaud và Mousqueton, chúng tôi đủ sức diệt tám tên. Tôi không kể Blaisois, hắn chỉ giữ nổi ngựa. Hạ một tên mất hai phút, hai lần mất bốn phút. Cho Mousqueton thêm một phút là năm, trong năm phút ấy, các cậu có thể phóng được một phần tư dặm.
Aramis ăn vội một miếng, uống một cốc rượu vang và thay quần áo.
- Bây giờ tôi đi đến ngài tổng giám mục. Porthos chuẩn bị vũ khí, d Artagnan canh gác cẩn thận gã đao phủ nhé.
- Yên trí, Grimaud đã thay phiên Mousqueton và chặn chân lên cẩn thận rồi.
- Kệ cứ phải canh gác thật cẩn mật và không được một phút ngồi rồi.
- Ngồi rồi ư? Bạn thân mến ơi, cậu hãy hỏi Porthos xem. Tôi có ở yên đâu. Lúc nào tôi cũng ở trên đôi cẳng và có vẻ một người ham nhảy múa. Mẹ kiếp! Lúc này đây tôi yêu quí nước Pháp biết chừng nào. Có một tổ quốc cho riêng mình thật là sung sướng, khi mình đang khốn khổ trên tổ quốc những người khác. Aramis rời các bạn như đã rời Arthos, nghĩa là ôm hôn họ. Rồi anh đến giám mục Juxon và trình bày yêu cầu của mình. Do đã được báo trước là cần một linh mục để làm lễ ban thánh thể và nhất là trong trường hợp vua muốn được dự lễ messe, nên Juxon càng dễ dàng bằng lòng mang theo Aramis.
Mặc y phục giống như Aramis hôm trước, giám mục lên xe.
Aramis đổi dạng vì vẻ mặt xanh xao và rầu rĩ hơn là vì bộ y phục trợ tế, leo lên ngồi cạnh Juxon. Cỗ xe dừng lại trước cổng toà Đại sảnh trắng lúc gần chín giờ sáng. Chẳng có vẻ thay đổi gì cả: Các tiền sảnh, các hành lang vẫn dẫy lính canh như hôm trước. Hai lính gác ở cửa phòng vua, hai tên khác đi đi lại lại trước bao lớn trên sàn của đoạn đầu đài đã kê sẵn chiếc thớt.
Nhà vua lòng đầy hi vọng, gặp lại Aramis, niềm hi vọng ấy biến thành mừng rỡ. Ông ôm hôn Juxon và bắt tay Aramis. Juxon giả vờ nói to và trước mặt mọi người về cuộc gặp gỡ với nhà vua hôm trước.
Vua đáp lại rằng nhưng lời mà giám mục nói với ông trong cuộc hội kiến ấy đã khai hoa kết Pomme-de- Pinvà ông mong muốn một cuộc hội đàm nữa tương tự. Juxon quay về phía những người có mặt ở đấy và yêu cầu được ở lại một mình với vua. Mọi người rút lui.
Cửa vừa mới khép lại, thì Aramis vội nói:
- Thưa Hoàng thượng? Ngài được cứu thoát rồi! Tên đao phủ London đã biến mất; người phụ việc của hắn hôm qua bị gẫy đùi dưới cửa sổ phòng ngài. Tiếng kêu mà chúng ta đã nghe thấy là của hắn. Chắc hẳn người ta đã biết tin đao phủ mất tích, chỉ có đao phủ ở Bristol và phải có thời gian để tìm kiếm hắn.
- Chúng ta còn thì giờ tới tận ngày mai.
- Thế bá tước de La Fère đâu? - Vua hỏi.
- Ở cách ngài hai bộ. Ngài hãy lấy cây gắp than gõ vào lò ba tiếng sẽ thấy ông ấy đáp lại.
Vua đưa bàn tay run rẩy cầm lấy cây gắp than gõ ba tiếng cách đều nhau. Lập tức từ dưới sàn những tiếng gõ đáp lại vang lên đùng đục và dè đặt.
- Như vậy, - Vua nói, - Người đáp lại cho tôi là...
Là bá tước de La Fère, - Aramis nói. - Ông ta sửa soạn đường để Hoàng thượng trốn. Parry sẽ nhắc tấm đá lát kia và một lối đi sẽ mở ra.
- Nhưng tôi chẳng có một dụng cụ nào. - Parry nói.
- Hãy cầm lấy con dao găm này, - Aramis bảo, - Nhưng đừng làm cùn nó quá vì rằng bác sẽ cần dùng nó để đào cái khác hơn là đá.
Charles quay về phía giám mục và nắm lấy hai tay ông mà nói:
- Ôi, Juxon, hãy nhớ lời cầu nguyện của kẻ đã từng là vua của ông.
- Người ấy vẫn là vua và sẽ mãi mãi là vua, - Juxon hôn tay ông hoàng và nói.
- Ông hãy cầu nguyện suốt đời cho người quý tộc mà ông trông thấy đấy, cho người kia mà ông nghe thấy ở dưới chân và cho hai người khác nữa, dù đang ở đâu họ cũng chăm lo đến việc cứu thoát tôi.
- Thưa Hoàng thượng, - Juxon đáp, - Ngài sẽ được tuân theo.
- Chừng nào tôi còn sống thì mỗi ngày sẽ có một lời cầu nguyện của Chúa cho những người bạn trung thành này của ngài.
Người thợ đào hầm tiếp tục công việc một lát nữa và người ta cảm thấy nó không ngừng nhích gần lại. Chợt một tiếng động bất ngờ vang lên trong hành lang. Aramis vờ lấy cây gắp than và ra hiệu ngừng việc.
- Tiếng động ấy đến gần và nghe rõ tiếng những bước chân đều dặn. Bốn người đứng im lặng và chằm chằm nhìn ra cửa. Cánh cửa mở ra từ từ và trang trọng.
Lính thị vệ dàn thành hàng rào trong gian phòng ở phía trước phòng vua. Một ủy viên của Nghị viện vận y phục đen và đầy vẻ trịnh trọng báo điểm gả bước vào chào vua và mở một tờ chiếu ra đọc cho ông nghe bản phán quyết như người ta thường làm đối với tội phạm sắp bước lên đoạn đầu dài.
- Thế này là thế nào? - Aramis hỏi Juxon.
Juxon ra hiệu như nói rằng ông cũng hoàn toàn mù tịt như anh.
Với vẻ xúc động chỉ riêng Juxon và Aramis cảm nhận thấy vua hỏi:
- Việc ấy thi hành hôm nay à?
- Ngài không được báo trước là làm sáng nay ư? - Người mặc áo đen hỏi lại.
Vua nói:
- Thế ta phải chết như một tội phạm bình thường do tay đao phủ London sao?
- Thưa ngài, - Vị uỷ viên Nghị viện đáp,
-Đao phủ London biến mất, nhưng một người khác xin thay thế. Như vậy là việc hành quyết chỉ chậm lại trong khoảng thời gian ngài yêu cầu để sắp xếp những công việc vật chất và tinh thần mà thôi.
Một chút mồ hôi lâm tấm ở chân tóc là dấu hiệu xúc động duy nhất của nhà vua khi nghe tin ấy.
Còn Aramis thì tái nhợt hẳn. Tim anh ngừng đập. Anh nhắm mắt lại và vịn tay lên bàn. Nhìn thấy nỗi đau đớn sâu sắc ấy, Charles như quên bẵng nỗi đau của mình. Ông đến cạnh Aramis, nắm lấy tay anh. Với một nụ cười dịu dàng và buồn bã, ông nói:
- Bạn ơi! Hãy can đảm lên nào rồi quay về phía uỷ viên, ông nói:
- Tôi đã sẵn sàng, ông ạ. Ông thấy đấy, tôi chỉ mong muốn hai điều và nó cũng chẳng làm các ông chậm trễ bao nhiêu đâu: một là nhận lễ ban thánh thể; hai là ôm hôn các con tôi và nói với chúng lời vĩnh biệt cuối cùng. Chẳng hay có được phép không?
- Thưa ngài, được ạ, - Vị ủy viên Nghị viện đáp.
Và ông đi ra...
Aramis hồi tỉnh lại, bấm móng tay vào thịt mình, một tiếng rên rền rĩ thoát ra từ lồng ngục anh. Anh nắm lấy tay Juxon và kêu lên:
- Ôi! Thưa Đức ông, Chúa ở đâu? Chúa ở đâu?
- Con ơi, - Giám mục đĩnh đạc nói, - Con không trông thấy Chúa đâu, bởi vì những dục vọng của cõi trần che khuất Chúa.
- Con ơi, - Vua bảo Aramis, - Con đừng buồn phiền làm chi. Con hỏi Chúa làm gì ư? Chúa chứng giám lòng tận tụy của con và việc tuẫn tử của ta, hãy tin rằng cả hai điều ấy đều sẽ được ân thưởng. Vậy thì hãy cáo buộc những con người, chứ không phải Chúa, về những việc xảy ra. Chính là những con người làm con phải khóc.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, ngài nói đúng, - Aramis đáp.
- Chính là những con người mà tôi phải công kích, chính là những con người mà tôi sẽ công kích.
Vua quỳ xuống và bảo Juxon:
- Juxon, hãy ngồi xuống. Bây giờ chỉ còn có việc ông nghe tội và tôi xưng tội với ông.
Thấy Aramis toan rút lui, ông nói:
- Ông cứ ở lại. Parry cứ ở lại. Trong việc bí mật của việc sám hối, ta cũng chẳng có gì mà không thể nói trước mặt mọi người, các bạn cứ ở lại; và ta chỉ tiếc có một điều là tất cả thiên hạ không được nghe ta nói như các bạn và cùng với các bạn.
Juxon ngồi xuống, và vua quỳ trước mặt ông ta như kẻ kinh cẩn nhất trong các tín đồ, bắt đầu việc xưng tội.
-*-*-*-
Chương 70
Hãy nhớ lấy
Xưng tội xong, vua Charles nhận lễ ban thánh thể rồi xin được gặp con cái. Chuông điểm mười giờ; theo vua nói, như vậy chẳng phải là chậm trễ gì lắm.
Trong khi ấy, dân chúng đã sẵn sàng. Họ biết rằng việc hành quyết ấn định vào lúc mười giờ nên ùn ùn kéo đến những phố giáp hoàng cung và nhà vua bắt đầu phân biệt được cái tiếng ồn xa xăm kia của sóng biển và đám đông, một đằng do bão tố, một đằng ham mê khuấy động.
Con cái của vua tới: trước tiên là công chúa Charlotte, rồi công tước de de Glocester, nghĩa là một thiếu nữ tóc hoe vàng mắt đẫm lệ rồi một cậu bé độ tám chín tuổi mắt ráo hoảnh, môi dưới bĩu ra một cách khinh khi nó biểu hiện niềm kiêu hãnh chớm nở. Cậu bé đã khóc suốt đêm qua, nhưng trước mặt đám người này cậu không khóc.
Charles cảm thấy trái tim mình tan ra khi trông, thấy hai đứa con mà ông không gặp từ hai năm rồi mà chỉ được gặp lại vào lúc chết.
Một giọt lệ rưng rưng trên khóe mắt, ông vội quay đi để chùi, vì ông muốn tỏ ra mạnh mẽ trước những kẻ mà ông để lại một di sản thật nặng nề tai hoạ và đau thương.
Thoạt tiên ông nói với con gái. Kéo con vào lòng ông nhắc nhở con lòng sùng đạo, sự nhẫn nhục và tình yêu thương cha mẹ. Rồi ông bế cậu công tước nhỏ de Glocester đặt lên đùi mình để có thể ôm ghì vào lòng và hôn lên mặt nó. Ông nói:
- Con trai của ta ơi, khi đi tới đây con gặp rất nhiều người ở ngoài phố và trong các hành lang; những người ấy sắp chặt đầu cha, con chớ bao giờ quên điều đó. Có thể một ngày kia, thấy con ở gần và có con ở trong tay, họ muốn đưa con lên làm vua mà khước từ hoàng tử de Galles hoặc quận công d York là những anh lớn của con, một người đang ở Pháp, một người không rõ ở đâu. Nhưng con không là vua đâu, con trai ạ, và con chỉ có thể làm vua bằng cái chết của các anh con. Con hãy thề với ta rằng con chớ để người ta đặt vương miện lên đầu con mà không có quyền hợp pháp thừa kế. Vì rằng, con hãy nghe cho kỹ nhé, nếu con làm như vậy, thì một ngày kia người ta sẽ chặt bỏ cả đầu lẫn vương miện, và lúc ấy con sẽ chẳng thể chết một cách bình thản và không ân hận như ta chết hôm nay. Con trai ta, hãy thề đi.
Cậu bé giơ bàn tay nhỏ xíu trong lòng bàn tay cha và nói:
- Thưa Hoàng thượng, con thề với ngài rằng...
Charles ngắt lời:
- Henri, hãy gọi ta là cha con.
- Thưa cha, - Cậu bé nói lại, - Con xin thề với cha rằng người ta sẽ giết chết con trước khi đưa con lên làm vua.
- Tốt lắm con ạ, - Charles nói? - Bây giờ con hãy ôm hôn cha, cả Charlotte nữa, và đừng quên cha nhé.
- Ồ! Không, không bao giờ! - Hai đứa trẻ kêu lên và quàng những cánh tay thân yêu quanh cổ cha.
- Vĩnh biệt, - Charles nói, - vĩnh biệt các con. Juxon, hãy dẫn chúng nó đi, nước mắt của chúng nó sẽ tước mất của ta lòng can đảm đi đến cái chết.
Juxon gỡ tay hai đứa trẻ khỏi tay cha chúng và giao chúng cho những người đã đưa chúng đến.
Cửa mở ra sau lưng họ và mọi người có thể vào.
Thấy mình lẻ loi giữa đám lính gác đông đảo và những kẻ tò mò bắt đầu ùa vào trong phòng, vua chợt nhớ rằng bá tước de La Fère ở rất gần đây, ngay dưới sàn nhà, không trông thấy ông và có lẽ lúc nào cũng mong gặp ông.
- Ông sợ rằng một tiếng động nhỏ nhất cũng sẽ coi như một ám hiệu cho Arthos, và nếu lại tiếp tục làm việc anh sẽ tự làm lộ mình.
Cho nên ông giả tảng yên lặng và do đó giữ được mọi người trong trạng thái nghỉ ngơi.
Tình trạng bất động khủng khiếp ấy kéo dài hai tiếng đồng hồ.
Một sự im lặng chết chóc ngự trị trong căn phòng vua.
Arthos bèn quyết định đi tìm nguyên nhân của sự yên tĩnh câm lặng và ảm đạm ấy, nó chỉ bị khuấy động bởi tiếng ồn ào không dứt của đám đông. Anh vạch tấm rèm che khuất lỗ thủng ở tường và đi xuống tầng một của đoạn đầu dài. Trên đầu anh cách không đầy gang tay là tấm sàn gỗ dựng đoạn đầu đài.
Tiếng động cho đến lúc đó chỉ ầm ì bây giờ huyên náo hẳn lên và có vẻ hăm doạ khiến anh giật nẩy người lên vì kinh hãi. Anh đi đến sát mép đoạn đầu đài, hé mở tâm nỉ đen ở ngang tầm mắt và trông thấy những kỵ binh dồn đến chỗ bộ máy khủng khiếp. Bên ngoài đám kỵ binh là một hàng kích thủ, ngoài hàng kích thủ là ngự lâm quân và ngoài ngự lâm quân là những hàng đầu tiên của đám dân chúng, họ giống như một đại dương ảm đạm đang sôi sục và gầm gào.
Còn run rẩy hơn cả tấm vải anh đang vò trong tay, Arthos tự nhủ thầm:
- Chuyện gì xảy ra thế? Dân chúng chen chúc xô đẩy nhau, lính tráng lăm lăm vũ khí, và giữa đám khán giả đang dán mắt về phía cửa sổ, ta nom thấy d Artagnan. Hắn đợi gì. Hắn nhìn gì? Lạy Chúa! Có lẽ họ để xổng tên đao phủ rồi ư?
Bỗng nhiên trên quảng trường vang lên tiếng trống lục bục và buồn thảm. Những tiếng bước chân nặng nề và kéo dài vang lên trên đầu anh. Có một cái gì tựa như một đám rước lớn đang giẫm đạp lên các sàn của toà Đại sảnh trắng, rồi chợt anh nghe thấy chính những tấm ván của đoạn đầu đài kêu cót két. Anh đưa mắt lần cuối nhìn quảng trường và vẻ mặt của các người xem nói cho anh biết rõ cái điều mà một mềm hi vọng cuối cùng còn rót lại trong lòng anh đã ngăn không đoán ra.
Tiếng ồn ào ở quảng trường đã tắt hẳn. Tất cả mọi con mắt đều dán chặt về phía cửa sổ toà Đại sảnh trắng; những cái miệng hé mở và hơi thở ngưng lại chỉ rõ sự chờ đợi một cảnh tượng hãi hùng.
Tiếng bước chân mà khi ngồi ở dưới gian phòng vua Arthos đã nghe thấy bây giờ lại vang lên trên đầu anh và sàn đoạn đầu đài võng xuống dưới sức nặng đến nỗi những tấm ván gần chạm đầu người quý tộc khốn khổ. Đúng là có hai hàng lính đến chiếm chỗ.
Cùng lúc ấy một giọng nói rất quen thuộc với Arthos, một giọng nói cao quý thốt ra ở trên đầu anh:
- Thưa ông đại tá, tôi muốn nói với dân chúng.
Arthos rợn cả người, đúng là vua đang nói trên đoạn đầu dài.
Quả thật sau khi uống vài ngụm rượu vang và nhấp một mẩu bánh, Charles cảm thấy mệt mỏi đến với mình vì đợi chờ cái chết, đột nhiên quyết định đi tới đón rước và ra hiện tiến tới. Người ta bèn mở toang hai cánh cửa sổ trông ra quảng trường và dân chúng có thể nhìn thấy từ cuối phòng thoạt tiên một người trùm kín mặt lặng lẽ tiến ra, tay cầm một cây rìu khiến người ta nhận ra ngay đó là đao phủ. Người ấy đến gần cái thớt và đặt rìu lên đó.
Đó là tiếng động đầu tiên mà Arthos nghe thấy.
Rồi tiếp sau người ấy, Charles Stuart chắc là tái nhợt nhưng bình thản và chũng chạc bước đi giữa hai hàng linh mục theo sau có mấy vị sĩ quan cao cấp đến chủ toạ cuộc hành hình và hai hàng kích thủ đi hộ tống xếp hàng ở hai bên đoạn đầu đài.
Sự xuất hiện của người bịt mặt gây nên tiếng xì xào bàn tán kéo dài. Ai nấy đều tò mò muốn biết gã đao phủ lạ kia là ai mà có mặt đến là kịp thời để cho cái cảnh tượng khủng khiếp kia đã hứa hẹn với dân chúng được diễn ra trong khi mọi người đã tưởng rằng nó sẽ bị hoãn đến ngày mai. Cho nên ai nấy đều hau háu nhìn hắn, nhưng chỉ có thể thấy đó là một người tầm thước vận toàn đồ đen và có vẻ đã đứng tuổi vì chòm râu hoa râm thò ra một chút dưới tấm vải che mặt.
Nhưng khi nhìn thấy vua thật là bình tĩnh, thật là cao quý, thật là đường hoàng, dân chúng lập tức im lặng, nên ai nấy đều nghe rõ nguyện vọng mà vua mới nêu ra là được nói với dân chúng.
Chắc là điều yêu cầu ấy đã được đáp lại bằng một dấu hiệu đồng ý cho nên bằng một giọng đĩnh đạc và âm vang nó rung động đến tận đáy lòng Arthos, vua bắt đầu nói.
Ông giải thích cách cư xử của mình với dân chúng và đưa ra cho họ những lời khuyên răn vì lợi ích của nước Anh.
- Chao ôi, - Arthos tự nhủ thầm, - Có thể nào mà ta lại nghe và trông thấy những điều ta đang nghe và trông thấy kia ư? Có thể nào mà Chúa lại bỏ rơi kẻ đại diện của mình ở trên mặt đất này đến mức để nó chết một cách thê thảm, ê chề như vậy ư? Còn ta thì không được trông thấy vua! Và không được nói với vua lời vĩnh biệt!
Một tiếng động tựa như tiếng cái công cụ chết người động đậy trên tấm thớt vang lên.
Vua ngừng lời, rồi bảo:
- Đừng đụng đến cái rìu.
Rồi ông tiếp tục bài diễn văn.
Bài diễn văn kết thúc, một sự im lặng băng giá trùm lên đầu Arthos. Anh đặt tay lên trán và thấy mồ hôi chảy ròng ròng mặc dầu trời lạnh.
Sự im lặng đó chỉ rõ những việc sửa soạn cuối cùng.
Kết thúc bài diễn văn, vua lướt trên đảm dân chúng một cái nhìn đầy lòng khoan dung. Và tháo tấm huân chương đang đeo, vẫn là tấm kim cương mà hoàng hậu gửi đến, Charles trao cho vị linh mục đi theo Juxon. Rồi rút trong ngực cây thánh giả cũng bằng kim cương và cũng do Henriette gửi đến, ông nói với linh mục:
- Này ông, tôi sẽ giữ cây thánh giá này trong tay cho đến phút cuối củng; ông sẽ cầm lấy nó sau khi tôi chết.
- Vâng, thưa Hoàng thượng.
- Tiếng nói ấy Arthos nhận ra là của Aramis.
Cho đến lúc ấy Charles vẫn đội mũ. Ông bỏ mũ ra và ném sang bên cạnh. Rồi ông lần lượt cởi từng chiếc cúc áo chẽn, cởi áo và ném xuống cạnh chiếc mũ. Cảm thấy rét ông bảo người ta đưa mình chiếc áo ngủ.
Tất cả những sự sửa soạn ấy được tiến hành với một vẻ bình thản đến kinh người.
Người ta tưởng như nhà vua sắp sưa đi nằm ở trên giường ngủ, chứ không phải ở trong chiếc quan tài.
Sau hết lấy tay, vén tóc lên, ông bảo đao phủ:
- Liệu tóc này có vướng ông không? Nếu vướng thì có thể lấy dây buộc nó lên.
Kèm theo lời nói là một cái nhìn như muốn xuyên qua tâm vải che mặt của kẻ lạ mặt. Cái nhìn đến là cao thượng, đến là bình tĩnh, đến là quả quyết buộc người kia phải quay mặt đi. Nhưng tránh cái nhìn sâu xa của vua, hẳn lại gặp cái nhìn nảy lửa của Aramis.
Thấy hắn không trả lời, vua nhắc lại câu hỏi. Hắn đáp:
- Chỉ cần ông vén tóc lên khỏi cổ.
Dùng hai bản tay rẽ mái tóc và nhìn chiếc thớt, vua nói:
- Cái thớt này thấp quá, không có cái nào cao hơn à?
- Đó là cái thớt thường dùng, - Gã che mặt đáp.
- Ông có chắc chắn chặt đầu tôi bằng một nhát không? - Vua hỏi.
- Tôi hy vọng như vậy, - Đao phủ đáp.
Trong mấy tiếng "Tôi hy vọng" như vậy bật lên một giọng nói thật lạ lùng khiến mọi người đều rùng mình, trừ nhà vua.
- Được lắm, - Vua nói. - Bây giờ đao phủ hãy nghe đây.
Kẻ bịt mặt tiến một bước về phía vua và tì tay lên chiếc rìu.
- Ta không muốn mi chém bất ngờ, - Charles nói, - Ta sẽ quỳ để cầu nguyện, khi ấy mi đừng chém vội.
- Thế tôi chém vào lúc nào? - Đao phủ hỏi.
Khi nào ta kề cổ lên thớt và giơ tay lên mà nói: Remember(2) thì mi hãy chém mạnh tay vào.
Kẻ bịt mặt khẽ cúi mình.
Vua bắt đầu nói với những người xung quanh:
- Đây là lúc ta từ giã cõi dời. Hỡi các người, ta bỏ các người giữa cơn bão táp và đi trước các người trong một xứ sở không biết bão táp là gì. Vĩnh biệt!
Ông nhìn Aramis và hất đầu bằng một dấu hiệu đặc biệt. Rồi ông nói tiếp:
- Bây giờ xin ông hãy đứng ra xa để tôi thầm cầu nguyện. Cả mi nữa cũng đứng xa ra, - Vua nói với đao phủ, - Chỉ cần một lát thôi, ta biết rằng ta thuộc về mi rồi nhưng hãy nhớ là chỉ vung rìu khi ta ra hiệu.
Charles quỳ xuống, làm dấu thánh, ghé miệng xuống mấy tấm ván như muốn hôn lên mặt sàn. Rồi một tay tì xuống sàn, một tay vịn vào cái thớt, ông nói bằng tiếng Pháp:
- Bá tước de La Fère ơi, ông có đấy không và tôi nói với ông được chăng?
Giọng nói ấy đập thẳng vào tim Arthos và xuyên qua như một lưỡi gươm lạnh giá. Anh run rẩy nói:
- Được ạ thưa Hoàng thượng.
- Hỡi bạn trung thành, trái tim hào hiệp, - Vua nói, tôi đã không thể được cứu thoát, tôi không nên được cứu thoát. Giờ đây, dù có phạm điều bất kính, tôi cũng sẽ nói với ông rằng: Phải, tôi đã nói với những con người, tôi đã nói với Chúa, bây giờ tôi nói với anh là người cuối cùng. Để bảo vệ một mục đích tôi cho là thiêng liêng, tôi đã mất ngôi báu của ông cha tôi và làm tan nát hương hỏa của các con tôi. Còn lại một triệu đồng tiền vàng tôi chôn giấu trong các hầm của lâu đài ở Newcastle khi rời bỏ thành phố này. Số tiền ấy chỉ một mình anh biết; khi nào thời cơ đến anh hãy dùng nó cho lợi ích của đứa con trai cả của tôi. Và giờ đây, bá tước de La Fère, hãy nói với tôi lời vĩnh biệt.
Lạnh toát cả người vì kinh hãi, Arthos lắp bắp:
- Xin vĩnh biệt Hoàng thượng thần thánh và tuẫn tử.
Một lát im lặng, trong khi đó Arthos thấy hình như vua nhổm dậy và thay đổi tư thế.
Rồi bằng một giọng cả tiếng và âm vang để không những ở đoạn đầu đài mà cả trên quảng trường cũng nghe thấy vua kêu lên:
- Remember!
- Tiếng ấy vừa mới thốt ra thì một nhát kinh khủng phập xuống làm rung cả sàn đoạn đầu đài. Bụi từ tấm vải văng ra làm mù cả mắt nhà quý tộc khốn khổ. Rồi bất giác Arthos ngước mắt và ngẩng đầu lên, một giọt nong nóng rơi xuống trán anh. Anh kinh hãi rợn người và lùi lại. Tức thì những giọt rơi chuyển thành một dòng suối đen đổ xuống dưới sàn.
Arthos ngã khuỵu xuống, như người điên dại và xỉu đi một lúc lâu. Nghe tiếng ồn ào giảm dần anh chắc là đám đông đã rời xa; anh ngồi yên một lát nữa, im lặng và bàng hoàng. Rồi anh quay lại, lấy khăn tay nhúng vào vũng máu của ông vua tuẫn tử. Cuối cùng anh bước xuống, vạch tấm rèm, lách ra giữa hai con ngựa, chen lẫn vào đám dân chúng và trở về khách sạn trước tiên.
Lên phòng mình, anh soi gương thấy một vết đỏ lớn trên trán, anh lấy tay chùi, tay dính bê bết máu vua và anh ngất lịm.
Chú thích:
(1) Ngày 30-1-1649, ngày Charles I bị hành hình.
(2) Tiếng Anh: hãy nhớ lấy
-*-*-*-
Chương 71
Người chết
Tới bốn giờ chiều mà trời đã tối mịt. Tuyết rơi dày đặc và lạnh buốt. Aramis trở về và thấy Arthos nếu không phải là bất tỉnh thì cũng rã rời.
Nghe tiếng bạn mình, bá tước ra khỏi cơn mê.
Aramis nói:
- Thế là chúng ta thất bại trước định mệnh.
- Thất bại - Arthos nói. - Đức vua cao quý và khốn khổ thay!
- Anh bị thương đấy à? - Aramis hỏi.
- Không. Đó là máu của vua.
- Thế lúc ấy anh ở đâu?
- Vẫn ở đây, dưới gầm đoạn đầu đài.
- Anh trông thấy hết cả chứ?
- Không, nhưng nghe tiếng hết cả. Cầu Chúa hãy tránh cho tôi một khoảnh khắc như tôi vừa mới trải qua! Tóc tôi không bị bạc đi chứ?
- Như vậy anh biết rằng tôi đã không rời nhà vua.
- Tôi nghe tiếng của anh cho đến phút chót.
- Đây là tấm huân chương vua đưa cho tôi, đây là cây thánh giá tôi gỡ từ tay ngài; ngài mong muốn những vật ấy được trao lại cho hoàng hậu.
- Và đây là một chiếc khăn để bọc lại, - Arthos nói.
- Và anh rút từ túi áo ra chiếc khăn tay đã nhúng vào máu vua.
- Giờ đây, - anh hỏi, - người ta làm gì với cái thi thể tội nghiệp ấy.
- Theo lệnh của Cromwell, - Aramis đáp,
- Các nghi lễ đối với vua chúa được phép tiến hành. Chúng tôi đã đặt thi thể vào trong một cỗ quan tài bằng chì: các thầy thuốc lo việc ướp hương những di hài và sau đó vua được đặt trong một phòng tang luôn thắp sáng.
- Trò hề! - Arthos rầu rĩ lẩm bẩm, - Nghi lễ nhà vua cho người bị chúng ám hại.
Aramis nói:
- Điều đó chứng minh rằng vua chết, nhưng vương quyền không chết.
- Than ôi? - Arthos nói, - Có lẽ đó là ông vua hiệp sĩ cuối cùng ở trên đời này.
- Thôi đừng buồn phiền nữa, bá tước ơi, - Một giọng nói ồm ồm cất lên ở cầu thang cùng với những bước chân sải rộng của Porthos - Tất cả chúng ta đều phải chết, các bạn khốn khổ của tôi ạ.
- Cậu về muộn thế, Porthos thân mến, - Bá tước de La Fère nói.
- Phải, - Porthos nói, - Dọc đường có nhiều người khiến tôi bị trễ.
Họ nhảy nhót, bọn khốn khiếp! Tôi đã tóm lấy cổ một thằng và chắc đã bóp nghẹt một chút. Đúng lúc ấy một đội tuần tra đi tới. May thay cái thằng cha mà tôi gây sự đứng mấy phút mà chẳng nói được. Tôi thừa cơ lao vào một phố nhỏ. Phố ấy dẫn đến một phố nhỏ hơn. Thế là tôi bị lạc. Tôi chưa thuộc London, mà lại không biết tiếng Anh, đã tưởng không tìm ra đường đi nữa; cuối cùng cũng về được đây.
- Nhưng còn d Artagnan, - Aramis hỏi - Cậu có trông thấy hắn không và liệu có chuyện gì xảy ra với hắn ta không?
- Chúng tôi lạc nhau vì đám đông, - Porthos đáp, - và mặc dầu cố sức tôi vẫn không đuổi kịp cậu ấy.
- Ồ, tôi đã trông thấy cậu ấy, - Arthos chua chát nói. - Cậu ấy đứng ở hàng đầu đám dân chúng, chiếm chỗ thật tuyệt để không bỏ sót một chút gì, và xem chừng cảnh tượng thật ly kỳ, nên cậu ấy muốn xem đến cùng.
- Ô, bá tước de La Fère ơi! - Một giọng nói cất lên bình tĩnh mặc dù hơi nghẹt lại vì cuộc đi vội vã - Phải chăng anh vu oan cho người vắng mặt?
Lời trách móc ấy chạm vào tim Arthos. Tuy nhiên vì sự có mặt của d Artagnan ở hàng đầu của đám dân chúng ngu dại và hung dữ ấy đã gây ấn tượng sâu sắc với anh. Arthos đành chỉ đáp lại:
- Bạn ơi, tôi không vu khống cho cậu đâu. Anh em đang lo ngại cho cậu, nên tôi nói là đã trông thấy cậu ở đâu thôi. Cậu không quen Charles, đấy chỉ là một người xa lạ đối với cậu, và không ai buộc cậu phải yêu mến ông ấy.
Arthos vừa nói vừa chìa tay ra với bạn. Nhưng d Artagnan giả vờ không trông thấy cử chỉ ấy và vẫn để tay trong áo choàng.
Arthos từ từ buông thõng tay xuống.
- Úi chà? Tôi mệt lắm, - D Artagnan nói và ngồi xuống.
Aramis lấy một chai rượu ở trên bàn rót đầy một cốc và bảo:
- Uống một cốc Porthos đi cho tỉnh người.
Biết chàng Gascon đang bực mình, Arthos muốn chạm cốc với bạn và nói:
- Phải đấy, ta uống nào và rời bỏ cái đất nước ghê tởm này. Các cậu biết đấy, thuyền đang đợi chúng ta.
- Ta khởi hành tối nay vì chẳng còn việc gì phải làm ở đây nữa.
- Ông bá tước vội lắm nhỉ? - D Artagnan nói.
- Mảnh đất đẫm máu này thiêu đốt chân tôi, - Arthos nói.
Chàng Gascon thản nhiên nói:
- Băng tuyết không gây tác dụng như thế với tôi.
- Nhưng bây giờ nhà vua chết rồi, - Arthos nói, - Cậu muốn chúng ta phải làm gì cơ chứ?
- Ông bá tước ơi, - D Artagnan nói với giọng thờ ơ - Như vậy là ông không thấy rằng ông còn phải làm một việc gì đó ở nước Anh sao?
- Chẳng có gì hết, - Arthos nói, - Chẳng có gì hết ngoài việc hoài nghi lòng nhân đức của Thượng đế và khinh rẻ những khả năng của bản thân tôi.
- Thế thì, - D Artagnan nói, - Tôi, một thằng yếu hèn, một thằng ngông nghênh khát máu, đứng sát gần đoạn đầu đài ba chục bước để xem cho rõ cảnh chém rơi đầu một ông vua mà tôi không quen biết và dường như tôi dửng dưng, tôi nghĩ khác với ông bá tước..., tôi ở lại.
Arthos tái nhợt cả người, mỗi lời trách móc của bạn như trích từng nhát dao vào tim gan anh.
- Ồ, cậu ở lại London à? - Porthos hỏi.
- Phải, - D Artagnan đáp. - Thế còn cậu?
- Tôi ấy à! - Porthos nói, anh cảm thấy lúng túng với Arthos và Aramis, - Ô, ờ... vì rằng tôi đến đây cùng với cậu, nên cậu đi tôi mới đi, tôi không thể để cậu ở lại một mình trong cái xứ sở ghê tởm này đâu.
- Cảm ơn người bạn tuyệt vời của tôi. Vậy thì tôi có một công việc muốn đề nghị với cậu và chúng ta sẽ bắt tay vào thực hiện sau khi ông bá tước ra đi. Việc ấy tôi mới nghĩ tới khi xem cái cảnh tượng mà cậu đã biết đấy.
- Việc gì cơ? - Porthos hỏi.
- Việc tìm hiểu xem người che mặt đã sốt sắng nhận chém đầu vua là ai vậy?
- Người che mặt? - Arthos kêu lên, - Thế ra cậu không để xổng tên đao phủ à?
- Tên đao phủ ư?- D Artagnan nói - hắn vẫn ở trong hầm rượu và tôi đoán thế nào hắn chẳng nhỏ to vài lời với những chai rượu của chủ quán. À, mà anh làm tôi nghĩ đến...
Anh ra cửa và gọi:
- Mousqueton.
- Ông gọi tôi? - Một giọng nói như từ âm phủ vọng lên.
- Hãy thả tù nhân của cậu ra, - D Artagnan nói, - mọi việc xong cả rồi!
- Thế kẻ khốn khiếp nào đã hạ sát vua? - Arthos hỏi.
- Một tên đao phủ nghiệp dư, - Aramis nói, - Vậy mà hắn múa rìu cũng khá thành thạo, vì rằng đúng như hắn hi vọng như vậy, hắn chỉ chém có một nhát.
- Cậu có nom thấy mặt nó không? - Arthos hỏi.
- Nó mang vải che mặt, - D Artagnan nói.
- Nhưng Aramis, cậu đứng gần hắn cơ mà? Tôi chỉ nom thấy một chỏm râu hoa râm thò ra dưới tấm mặt nạ.
- Vậy là một người đứng tuổi ư? - Arthos hỏi.
- Ồ, - D Artagnan đáp, - Điều ấy có nghĩa lý gì. - Khi người ta đeo một chiếc mặt nạ, người ta có thể đeo một chòm râu lắm chứ.
- Bực thật, tôi đã không theo dõi, - Porthos nói.
- Này, Porthos thân mến, - D Artagnan nói, - Đúng là cái ý nghĩ đã đến với tôi.
Arthos đã hiểu ra. Anh đứng dậy và nói:
- D Artagnan, hãy tha lỗi cho tôi. Tôi đã nghi ngờ Chúa, tôi rất có thể nghi ngờ cả cậu. Bạn ơi, tha lỗi cho tôi nhé!
D Artagnan nhếch mép gượng cười và nói:
- Lát nữa ta sẽ bàn.
- Thế nào? - Aramis hỏi.
- Chẳng là, - D Artagnan nói tiếp, - Trong lúc hành hình, tôi không xem vua như bá tước nghĩ, bởi vì tôi biết một người sắp chết như thế nào rồi, và dù đã quen với những chuyện như thế, nó vẫn làm tôi khó chịu. Cho nên tôi đã nhìn kỹ tên đao phủ che mặt, như đã nói với các bạn, tôi nảy ra ý nghĩ xem hắn là ai. Do chúng ta có thói quen bổ sung lẫn nhau và gọi nhau giúp đỡ, như người ta vẫn thường dùng tay nọ hỗ trợ tay kia, tôi bất giác nhìn xem Porthos có đấy không; bởi vì tôi biết là Aramis lúc ấy ở bên vua, còn bá tước đang ở dưới gầm sàn đoạn đầu đài. Vì thế mà tôi thứ lỗi cho anh, - D Artagnan chìa tay ra cho Arthos và nói - chắc là anh đau khổ lắm.
- Tôi nhìn quanh và trông thấy ở bên cạnh tôi một cái đầu vỡ toác vá qua quít bằng vải đen. "Ô hay? - Tôi tự nhủ. - hình như một miếng vá theo kiểu vá của mình, và chính ta đã khâu cái sọ ấy ở đâu thì phải". Quả thật đó là gã Scotch tội nghiệp, em của Parry mà các bạn biết đấy; người đã bị Groslow đùa thử sức mình, và chỉ còn có nửa đầu khi chúng ta gặp.
- Hoàn toàn đúng, - Porthos nói, - Người có gà mái đen.
- Đúng thế Porthos ạ, người có gà mái đen.
- Đúng thế, chính hắn. Hắn ra hiệu với một người khác đứng ở phía bên trái tôi, tôi quay lại và nhận ra bác Grimaud thật thà, cũng như tôi, đang hau háu nhìn tên đao phủ che mặt.
- Ô! Tôi bảo bác ta. Đó là tiếng nói tắt bá tước thường dùng để nói với bác. Grimaud hiểu ngay là người ta gọi mình và quay phắt lại như một chiếc lò so; bác nhận ra tôi và giơ tay trỏ người che mặt, bác nói: "Hèm!" Thế có nghĩa là: "Ông có trông thấy không". " Mẹ kiếp" - Tôi đáp. Chúng tôi hoàn toàn hiểu nhau. Tôi quay về phía người Scotch; anh ta cũng có những cái nhìn biết nói. Tóm lại các anh biết đấy, mọi sự kết thúc thật là bi thảm. Dân chúng ra về; chiều xuống dần; tôi rút lui vào một góc quảng trường cùng với Grimaud và người Scotch và ra hiệu cho anh ta ở lại với chúng tôi. Từ chỗ ấy tôi trông thấy tên đao phủ vào phòng vua thay quần áo vì chắc hẳn quần áo hắn nhuốm đầy máu. Sau đó, hắn đội mũ khoác tấm áo choàng và biến mất. Tôi đoán là hắn sắp đi ra, bèn chạy đến phía trước cổng.
Quả đúng thật, năm phút sau chúng tôi trông thấy hắn xuống thang.
- Cậu đi theo hắn chứ? - Arthos hỏi.
- Tất nhiên!- D Artagnan đáp, - Nhưng chẳng phải dễ dàng đâu.
Chốc chốc hắn quay lại, chúng tôi buộc phải ẩn nấp hoặc giả bộ như người bình thường. Tôi rất có thể xông tới và giết chết i hắn ngay; nhưng tôi không ích kỷ và coi đó là một cuộc liên hoan dành cho anh, Arthos ạ, để an ủi anh đôi chút. Cuối cùng sau nửa giờ đi qua các phố xá ngoằn ngoèo nhất của khu Cité, hắn tới một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh không có một tiếng động, một tia sáng nào báo hiệu là có người ở.
Grimaud rút từ đôi ủng to tướng của mình ra một khẩu súng ngắn.
- Hử!- Bác vừa nói vừa chỉ tay vào súng.
- Đừng!- tôi bảo và giữ tay bác lại.
Như tôi đã nói, tôi có ý định riêng.
Kẻ che mặt đứng lại trước một cái cổng thấp và rút chìa khoá ra; nhưng trước khi tra khoá vào ổ, hắn quay lại xem có bị theo dõi không. Tôi núp sau một cây to, Grimaud sau một cái cột mốc; gã Scotch chẳng có chỗ nấp đành nằm bẹp xuống mặt đường.
Chắc hẳn kẻ bị theo dõi chỉ có một mình hắn, vì tôi nghe tiếng khoá vặn lách cách, cửa mở ra và hắn biến mất.
- Tên khốn kiếp! - Aramis nói, - Trong khi cậu trở về thì hắn trốn mất và chúng ta sẽ chẳng tìm ra đâu.
- Thế nào, Aramis, - D Artagnan nói, - Cậu coi thường tôi như một kẻ khác sao?
- Tuy nhiên, - Arthos nói, - Lúc cậu vắng mặt.
- Ô hay, lúc tôi vắng mặt tôi đã chẳng cắt Grimaud và tên Scotch thay tôi là gì? Trước khi hắn có thì giờ đi mười bước ở trong nhà, tôi đã đi quanh nhà và xem xét, ở cái cửa mà hắn đi vào tôi để gã Scotch canh và ra hiệu bảo gã nếu tên che mặt đi ra, thì phải theo hắn ngay, còn Grimaud cũng theo dõi hẳn và trở về báo cho chúng ta biết. Cuối củng tôi cắt Grimaud coi cửa thứ hai và cũng căn dặn như vậy, rồi tôi trở về đây. Con thú bị bao vây rồi, bây giờ ai muốn xem nó bị dồn đến đường cùng nào?
D Artagnan lau mồ hôi trán, còn Arthos nhảy xổ vào vòng tay anh mà nói:
- Bạn ơi, kể ra cậu quá tốt, nên mới tha thứ cho tôi; tôi đã sai lầm, trăm lần sai lầm. Lẽ ra tôi phải hiểu cậu lắm chứ, nhưng ở trong lòng chúng ta có cái gì đó độc ác nó cứ bắt tôi nghi ngờ mãi.
- Hừm! - Porthos nói, - Biết đâu tên đao phủ lại chẳng phải là Cromwell, ông ta muốn công việc thật chắc chắn nên tự mình làm lấy.
- Không đâu! Ông Cromwell người mập và thấp, còn kẻ kia thanh mảnh và dong dỏng cao cao.
- Có khi là một tên lính bị tội mà người ta bắt làm việc đó để được hưởng ân xá như người ta làm với ông Sale tội nghiệp. - Arthos nói.
- Không, không, - D Artagnan nói tiếp, - Đây cũng không phải bước đi đều dặn của một bộ binh; cũng không phải là bước đi dài rộng của một kỵ sĩ. Người này có bắp chân mảnh mai và dáng đi thanh nhã. Nếu tôi không nhầm thì chúng ta đang nói chuyện,chuyện với một người quý tộc.
- Một người quý tộc! - Arthos kêu lên, - Không thể thế được! Đó là một điều sỉ nhục đối với tất cả giới công hầu.
- Một cuộc đi săn lý thú! - Porthos cười rung cả cửa kính mà nói - Một cuộc đi săn lý thú, mẹ kiếp!
- Thế nào, Arthos, anh vẫn ra đi chứ? - D Artagnan hỏi.
- Không, tôi ở lại, - Arthos đáp với một cử chỉ hăm doạ nó chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành cả.
- Nào, mang gươm ra! Aramis mang gươm ra! Và không để trễ một phút nào.
Bốn người bạn vội vàng mặc lại y phục quý tộc, đeo gươm vào, gọi Mousqueton và Blaisois lên, sai họ thanh toán tiền nong với chủ quán và sẵn sàng để lên đường vì rất có khả năng là họ rời London ngay đêm nay.
Đêm càng khuya, tuyết vẫn rơi và giống như một tấm vải liệm mênh mông phủ lên cái thành phố giết vua: mới gần bảy giờ tối mà chỉ thấy vài ba người đi ngoài phố, mọi người ở trong nhà và thì thầm bàn tán về những biến cố khủng khiếp trong ngày.
Bốn người bạn khoác áo choàng đi qua khắp các quảng trường và phố xá của khu Cité, ban ngày đông đúc thế mà ban đêm vắng tanh. D Artagnan dẫn các bạn đi, chốc chốc lại thử tìm những dấu chữ thập mà anh đã dùng dao găm vạch vào tường, nhưng trời tối như bưng khiến các dấu vết chỉ đường rất khó nhận ra. Tuy nhiên d Artagnan đã khắc sâu vào trong góc mỗi cột mốc, mỗi vòi nước, mỗi biển hàng, nên chỉ nửa giờ sau, anh cùng các bạn đã trông thấy ngôi nhà hẻo lánh.
Lúc đầu d Artagnan ngỡ là người em của Parry biến đi rồi nhưng anh lầm. Gã Scotch lực lưỡng đã quen với băng tuyết của núi non quê mình đang nằm dài bên cột mốc giống như một pho tượng đổ ra khỏi đế trơ trơ trước thời tiết trái chướng, để mặc tuyết phủ đầy mình, khi thấy bốn người đến gần mới nhỏm dậy.
- Này, - Arthos nói, - Đây lại thêm một tôi tớ hết lòng.
Lạy Chúa, kể ra những người trung hậu không đến nỗi hiếm hoi như người ta tưởng, điều ấy cổ vũ ta.
- Đừng vội khen gã Scotch của chúng ta - D Artagnan nói.
- Tôi cho rằng hắn đến đây là vì lợi ích của bản thân mình. Tôi nghe nói rằng những người sinh ra ở bên kia sông Tweed chúa là thù hằn.
- Ngài Groslow hãy coi chừng! Rất có thể ngài sẽ trải qua một khắc thảm sầu nếu ngài gặp lại hắn.
Nói xong, anh tách ra khỏi các bạn, đến gần gã Scotch để hắn nhận ra anh, rồi gọi các bạn đến.
- Thế nào? - Arthos hỏi bằng tiếng Anh.
- Chẳng có ai đi ra cả, - Người em của Parry đáp.
- Được rồi. Porthos và cả Aramis nữa, hãy ở lại đây với người này. Còn d Artagnan dẫn tôi đến Grimaud.
Grimaud không nhanh nhẹn bằng gã Scotch, bác dán mình vào một cây liễu rỗng mà bác làm thành một chòi canh. Lúc đầu d Artagnan cũng tưởng là kẻ che mặt đã đi và Grimaud đã bám theo hắn.
Chợt một cái đầu ló ra và khẽ huýt sáo.
- Ô! - Arthos nói.
- Vâng, - Grimaud đáp.
Mấy người đến gần cây liễu.
- Thế nào, - D Artagnan hỏi, - Có ai đi ra không?
- Không, nhưng có một người nào đó đi vào, - Grimaud đáp.
- Đàn ông hay đàn bà.
- Đàn ông.
- A a? Thế là họ có hai người.
- Tôi muốn rằng họ có bốn ngươi, - Arthos nói, - Ít ra cuộc chiến cũng cân bằng.
- Có khi họ có bốn người đấy, - D Artagnan nói.
- Sao vậy?
- Những người khác chẳng thể có sẵn từ trước ở trong nhà và chờ đợi họ hay sao?
Grimaud trỏ một cửa có ánh sáng lọt qua khe cửa chớp và nói:
- Ta thử xem.
- Đúng đấy, - D Artagnan đáp và gọi mấy người kia.
Họ đi vòng quanh ngôi nhà và ra hiệu cho Porthos và Aramis đến. Hai anh chạy tới và hỏi:
- Các anh có nhìn thấy gì không?
- Không, nhưng ta sẽ biết, - D Artagnan nói và chỉ vào Grimaud đang bám vào những chỗ gồ ghế ở tường và leo lên được năm sáu bộ.
Cả bốn tiến lại gần. Grimaud vẫn leo tiếp nhẹ nhàng như một con mèo và cuối cùng tay với được một cái móc cửa, chân tì, vào một bờ tường khá chắc chắn và ra hiệu rằng mình đã tới đích. Ồi bác ghé mắt vào một kẽ cửa.
- Thế nào? - D Artagnan hỏi.
Grimaud giơ hai ngón tay ra.
- Nói xem nào, vì tối quá chẳng trông thấy gì cả, - Arthos bảo.
- Có bao nhiêu người?
Grimaud gắng sức cất lời:
- Hai người: một trước mặt tôi một quay lưng lại.
- Được. Người quay mặt lại là ai?
- Người tôi thấy đi vào lúc nãy.
- Bác có biết hắn không?
- Tôi ngỡ nhận ra và tôi không lầm: người ấy mập và thấp.
- Ai thế? - bốn người bạn thì thào hỏi.
- Tướng Olivier Cromwell.
Bốn người bạn nhìn nhau.
- Còn người kia! - Arthos hỏi.
- Gầy và dong dỏng cao.
- Chính tên đao phủ, d Artagnan và Aramis cùng nói.
- Tôi chỉ nhìn sau lưng hắn, - Grimaud nói, - Nhưng khoan đã, hắn cử động, hắn quay lại, hắn đã bỏ cái trùm mặt tôi có thể trông thấy... A!
Như bị bắn trúng tim, Grimaud buông cái móc sắt ra và vừa thốt lên một tiếng rên rĩ, vừa ngã vật ra sau.
Porthos đỡ bác trong tay.
- Bác có trông thấy hắn không? - Bốn người bạn hỏi.
Tóc dựng đứng và mồ hôi vã ra trán, Grimaud đáp:
- Có
- Thế đó là ai? - Porthos hỏi.
- Nó! Nó! - Grimaud lắp bắp, mặt tái nhợt như một xác chết, và giơ hai bàn tay run rẩy nắm chặt lấy tay chủ.
- Nó là ai? - Arthos hỏi.
- Mordaunt!... - Grimaud đáp.
D Artagnan, Porthos và Aramis thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ.
Arthos lùi lại một bước rờ tay lên trán và lẩm bẩm:
- Định mệnh.
-*-*-*-
Chương 72
Ngôi nhà của Cromwell
Quả đó là Mordaunt mà d Artagnan đã theo dõi nhưng không nhận ra. Khi vào nhà hắn đã bỏ mặt nạ, và gỡ chòm râu hoa râm mà hắn dùng để cải trang, trèo lên gác, mở cửa căn phòng có đèn chiếu sáng và căng rèm màu sẫm, đến trước một người đàn ông đang ngồi viết trước một bàn giấy.
Người ấy là Cromwell.
Người ta biết rằng ở London, Cromwell có vài ba chỗ ẩn náu như vậy mà các bạn bè đều không hay và ông chỉ cho mấy người thân cận nhất biết mà thôi.
Mordaunt được kể trong số những người ấy.
Khi hắn vào, Cromwell ngẩng đầu.
- Anh đấy à, Mordaunt, - Ông nói, - Anh đến muộn thế?
- Thưa tướng quân, - Mordaunt đáp, - Tôi muốn xem nghi lễ ấy cho đến cùng cho nên bị trễ.
- A! - Cromwell nói, - Thông thường tôi không ngờ anh tò mò đến thế đâu.
- Bao giờ tôi cũng tò mò xem sự sụp đổ của một trong những kẻ thù của Đức ông, mà kẻ thù này không tính trong những kẻ nhỏ mọn nhất. Nhưng tướng quân không đến Đại sảnh trắng ư?
- Không, - Cromwell đáp.
Một sự im lặng .
- Ngài đã biết những chi tiết gì chưa? - Mordaunt hỏi.
- Chưa. Tôi ở đây từ buổi sáng. Tôi chỉ biết có một âm mưu cứu thoát vua.
- A! Ngài biết điều đó à? - Mordaunt hỏi.
- Có gì đâu! Bốn người cải trang làm thợ toan kéo vua ra khỏi nhà tù và đưa đến Greenwich nơi có một chiếc tàu đợi sẵn.
- Biết rõ như vậy mà Đức ông vẫn ngồi đây, xa khu Cité bình thản và bất động?
- Bình tĩnh thì đúng, - Cromwell đáp, - Nhưng ai bảo anh là bất động?
- Tuy nhiên, nếu như âm mưu kia thành công thì sao?
- Tôi những mong như vậy.
- Tôi nghĩ rằng Đức ông coi cái chết của Charles I như một tai họa cần thiết cho lợi ích của nước Anh.
- Thì sao! - Cromwell nói, - Ý kiến tôi vẫn như vậy đấy. Miễn là hắn chết; có lẽ chết không phải ở trên đoạn đầu đài thì hơn.
- Tại sao vậy?
Cromwell mỉm cười.
- Xin ngài tha lỗi, - Mordaunt nói, :
- Xin ngài hiểu cho rằng ngài là vị tướng, còn tôi là một kẻ học việc trong nghề chính trị, tôi mong muốn trong mọi hoàn cảnh được lợi dụng những bài học mà vị chủ của tôi ban cho tôi.
- Bởi vì người ta sẽ nói rằng tôi cho xử án vua là vì công lý, và để cho vua chạy trốn là vì khoan dung.
- Nhưng nếu vua trốn thoát được thì sao?
- Không thể được.
- Không thể được ư?
- Phải, tôi đã cho phòng bị cẩn thận.
- Đức ông có biết bốn người mưu mô cứu vua là ai không?
- Đó là bốn người Pháp mà hai do bà Henriette cử sang cho chồng, còn hai người do Mazarin cử sang cho tôi.
- Ngài cho rằng Mazarin phái họ sang để làm cái việc họ đã làm không?
- Có thể như vậy, nhưng ông ta sẽ chối.
- Ngài tin như vậy à?
- Tôi chắc chắn như thế.
- Tại sao vậy?
- Vì họ đã thất bại.
- Trước đây Đức ông đã cho tôi hai tên trong số những người Pháp ấy trong khi chúng chỉ phạm tội mang vũ khí ủng hộ Charles I. Bây giờ chúng phạm tội âm mưu chống lại nước Anh, ngài có vui lòng cho tôi cả bốn tên ấy không?
- Cứ lấy - Cromwell nói.
Mordaunt cúi mình thi lễ với một nụ cười đầy vẻ hung bạo đắc thắng.
Thấy hắn sắp sửa cảm ơn mình, Cromwell nói:
- Nhưng này, ta hãy trở lại với lão Charles tội nghiệp ấy. Trong đám dân chúng người ta có hô gì không?
- Rất ít, ngoài những tiếng hô "Cromwell muôn năm!"
- Lúc ấy anh ở đâu?
Mordaunt nhìn vị tướng một lát để thử đọc trong mắt ông xem có phải ông đưa ra một câu hỏi vô ích không và ông đã biết hết tất cả rồi. Hắn đáp:
- Tôi đứng ở chỗ có thể trông thấy hết và nghe thấy hết.
Đến lượt Mordaunt tỏ ra kín đáo không ai dò xét được. Sau mấy giây quan sát, hắn đưa mắt ra chỗ khác với vẻ thản nhiên.
Cromwell nói:
- Hình như gã đao phủ ngẫu nhiên ấy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Thấy người ta nói rằng chỉ ít nhát chém cũng được thực hiện bằng một bàn tay bậc thầy.
Nhớ lại rằng lúc nãy Cromwell nói là không được biết một chút chi tiết nào cả, Mordaunt bèn tin rằng vị tướng đã nấp ở sau một tấm rèm cửa nào đó để chứng kiến cuộc hành hình. Hắn đáp bằng một giọng bình thản:
- Đúng vậy, chỉ một nhát là đủ.
- Phải chăng đó là một đao phủ chuyên nghiệp, - Cromwell nói.
- Ngài tin vậy ư?
- Sao lại không?
- Người ấy không có vẻ một đao phủ.
- Nếu không phải là đao phủ, - Cromwell nói, - Kẻ nào lại muốn làm cái nghề ghê tởm ấy?
Mordaunt đáp:
- Có thể đó là một kẻ thù riêng của vua Charles đã thề trả hận và đã thực hiện lời thề đó. Cũng có thể đó là một vị quý tộc nào đó có những duyên cớ nghiêm trọng thù ghét ông vua mất ngôi và biết rằng vua sắp trốn thoát, nên đã đứng chặn đường, mặt che kín, lưỡi rìu cầm tay, không phải như kẻ thay thế đao phủ, mà như người đại diện của định mệnh.
- Cũng có thể như vậy, - Cromwell nói.
- Nếu như thế thật, - Mordaunt nói, - thì Đức ông có kết tội hành động của người kia không?
- Không phải tôi làm nhiệm vụ xét xử. Đó là việc giữa người ấy với Thượng đế.
- Nhưng nếu Đức ông biết người quý tộc ấy?
- Tôi không biết, - Cromwell đáp, - Và tôi cũng không muốn biết. Người ấy hay người khác đối với tôi thì can hệ gì? Khi mà Charles đã bị kết án thì không phải một người chém đầu ông ta mà là lưỡi rìu.
- Nhưng mà, - Mordaunt nói, - Không có người ấy thì vua đã được cứu thoát.
Cromwell mỉm cười.
- Như ngài nói, chắc hẳn người ta đã cướp vua.
- Người ta cướp vua và đưa đến Greenwich, - Cromwell nói,
- Tại đó vua xuống một tàu buồm cùng với bốn kẻ của mình, nhưng trên tàu có bốn người của tôi và năm tấn thuốc nổ của nhà nước. Ra ngoài biển, bốn người của tôi xuống một chiếc xuồng, và anh đã khá khôn khéo về chính trị, nên tôi khỏi phải giải thích nốt phần sau.
- Vâng, ra ngoài biển tất cả bọn họ sẽ bị nổ tung.
- Đúng thế. Vụ nổ sẽ làm cái việc mà lưỡi rìu không muốn làm. Vua Charles sẽ tiêu ma trong biển cả.
Người ta sẽ nói rằng vua thoát khỏi công lý của con người nhưng không thoát khỏi sự trả thù của trời đất; chúng ta sẽ chỉ là những quan toà và Thượng đế là đao phủ của vua. Đấy, nhà quý tộc che mặt của anh đã làm hỏng việc ấy của tôi. Anh thấy rõ là tôi có lý khi không muốn biết người đó; bởi vì thực ra, dù người ấy có những ý đồ thật tốt, tôi cũng không thể tỏ ra biết ơn về cái việc người ấy đã làm.
- Thưa ngài, - Mordaunt nói, - Cũng như mọi khi, tôi cúi mình bái phục trước tướng quân, người là một nhà tư tưởng uyên thâm, và cao kiến làm chiếc tàu buồm bị nổ mìn thật là tuyệt vời.
- Vô lý - Cromwell nói, - Vì nó đã trở thành vô ích. Về chính trị chỉ có ý kiến tuyệt vời khi nó mang lại kết quả; mọi ý kiến khi làm bị thất bại đều là điên rồ và Cromwell đứng lên và nói tiếp:
- Vậy thì, Mordaunt, tối nay anh đến Greenwich; hỏi người chủ chiếc tàu buồm Tia chớp. Anh giơ cho ông ta một chiếc khăn tay trắng buộc nút ở bốn góc, đó là ám hiệu đã định. Anh bảo những người ở thuyền lên bộ và anh cho chở chỗ thuốc nổ đến kho binh khí, trừ phi...
- Trừ phi..., - Mordaunt lặp lại, mắt ánh lên một niềm vui man rợ trong khi Cromwell nói.
- Trừ phi chiếc tàu buồm để nguyên như vậy có thể sử dụng cho những dự định riêng của anh.
- A! Chúa công! Chúa công! - Mordaunt reo lên. - Khi kén chọn ngài làm thánh nhân, Thượng đế đã ban cho ngài cái nhìn của Người mà không gì có thể thoát khỏi.
Cromwell cười, nói:
- Hình như anh vừa mới gọi tôi là Chúa công thì phải? Tốt thôi, vì chỉ có chúng ta với nhau, nhưng cần phải chú ý rằng anh không được buột miệng nói một lời như vậy trước mặt bọn thanh giáo ngu độn của chúng ta.
- Thì cũng chẳng mấy chốc mà người ta sẽ gọi Đức ông như vậy hay sao?
- Tôi cũng mong như vậy, - Cromwell nói, - Nhưng bây giờ chưa đến lúc.
Cromwell đứng dậy và cầm áo choàng.
- Ngài ra về ạ? - Mordaunt hỏi.
- Phải, - Cromwell đáp, - Tôi đã ngủ ở đây tối hôm qua và tối hôm kia; và anh biết đấy, tôi không có lệ ngủ ba lần ở cùng một giường.
- Như vậy là Đức ông cho tôi tự do suốt đêm nay.
- Nếu cần thì cả mai nữa, - Cromwell nói. - Từ chiều hôm qua đến giờ, - Ông mỉm cười nói thêm, - Anh đã làm khá nhiều việc giúp tôi nếu anh có những việc riêng cần giải quyết, tôi cũng cần đành thì giờ cho anh.
- Cám ơn ngài. Tôi mong rằng thời giờ ấy sẽ được sử dụng tốt.
Cromwell gật đầu, rồi hỏi:
- Anh có trang bị vũ khí không?
- Tôi có mang kiếm.
- Có ai đợi ở ngoài cửa không?
- Không ạ.
- Vậy thì anh nên đi với tôi.
- Xin cám ơn ngài, những lối quanh co mà ngài phải đi theo lối đường ngầm vào đây ắt là sẽ chiếm nhiều thì giờ của tôi, mà theo những điều mà ngài vừa nói với tôi thì có lẽ tôi đã để mất quá nhiều thời giờ rồi. Tôi sẽ đi ra bằng cổng trước.
- Vậy thì hãy đi đi, - Cromwell nói.
Và đặt tay lên một nút bấm ông làm mở ra một cánh cửa khuất kín trong tấm thảm phủ tường mà con mắt thành thạo nhất cũng không thể nhận ra.
Cánh cửa lò-xo thép tự khép lại.
Đó là một trong những lối thoát bí mật thường có ở tất cả những ngôi nhà bí hiểm của Cromwell, như lịch sử đã kể.
Lối thoát ấy đi bên dưới một đường phố vắng vẻ và thông ra một cái hành lang nhỏ trong vườn một ngôi nhà khác ở cách xa một trăm bước.
Qua khe hở của một tấm rèm không kín, Grimaud đã lần lượt nhận ra Cromwell và Mordaunt và chứng kiến phần cuối của cuộc hội kiến ấy.
Ta đã thấy tin này tác động như thế nào đến bốn người bạn.
D Artagnan là người đầu tiên lấy lại sự bình tĩnh và sáng suốt của mình. Anh nói:
- A, Mordaunt! Đúng là đích thân Chúa gửi hắn đến cho chúng ta.
- Phái đấy, - Porthos nói, - Vậy chúng ta hãy phá cửa và vồ lấy nó.
- Không, - D Artagnan nói, - Trái lại ta không phá gì hết. Không được gây tiếng động, tiếng động sẽ gọi mọi người đến. Nếu nó ở cùng vị chủ soái đáng tôn kính của nó như Grimaud cho biết, thì chắc hẳn có một đội lính giáp sắt nào đó nấp ở cách đây năm chục bước.
- Ơ này, Grimaud, lại đây và cố đứng vững trên hai chân nhé.
Grimaud đến gần. Tức giận và xúc động, nhưng bác vẫn vững vàng.
- Tốt, - D Artagnan nói tiếp. - Bây giờ bác lại trèo lên cái bao lơn kia và cho chúng tôi biết cái thằng Mordaunt có còn đứng với ai không, nó sắp sửa đi ra hay là đi ngủ; nếu nó còn có người khác đợi thì ta đợi đến lúc nào đó chỉ còn có một mình; nếu nó đi ra, ta sẽ bắt nó khi đi ra; nếu nó ở lại ta sẽ phá cửa sổ lớn mà vào. Như thế đỡ gây tiếng động và đỡ khó khăn hơn là phá cổng.
Grimaud bắt đầu lặng lẽ leo lên cửa sổ, d Artagnan bảo:
- Arthos và Aramis hãy gác cửa sau, chúng tôi ở đây với Porthos.
Hai người bạn tuân lệnh.
- Thế nào, Grimaud? - D Artagnan hỏi.
- Nó có một mình, - Grimaud đáp.
- Có chắc không?
- Chắc.
- Chúng ta không thấy người bạn của nó đi ra.
- Nó đang làm gì?
- Nó khoác áo choàng và xỏ găng tay.
- Nào, chúng ta bắt đầu! - D Artagnan lẩm bẩm.
Porthos đặt tay vào con dao găm và bất giác rút ra khỏi vỏ.
- Hãy tra vào, Porthos ạ, - D Artagnan nói, - Không phải đánh ngay đâu. Ta giữ được nó rồi, cần tiến hành có trật tự. Chúng ta có mấy điều giải thích cần trao đổi với nhau, và việc này là một vế đối xứng của màn kịch ở Armentières(1) xưa kia. Tuy nhiên, ta hy vọng rằng thằng này không có con cái nối dõi, và nếu ta diệt nó thì tất cả sẽ bị diệt cùng với nó.
- Suỵt! - Grimaud nói. - Nó sắp sửa đi ra đấy. Nó đến gần cây đèn. Nó tắt đèn. Tôi chẳng còn trông thấy gì nữa cả.
- Xuống đất, nào xuống đi.
Grimaud nhảy lùi ra và rơi xuống. Tuyết làm giảm tiếng động, không nghe thấy gì hết.
- Bác hãy ra cửa bảo Arthos và Aramis đứng chực ở hai bên cửa sau, còn tôi và Porthos đứng ở cửa này. Nếu tóm được nó, họ sẽ vỗ tay làm hiệu; chúng tôi cũng vậy!
Grimaud biến đi.
- Porthos, - D Artagnan nói, - hãy né bớt đôi vai to bè của cậu đi để nó không trông thấy.
- Miễn là nó đi lối này, - Porthos nói.
- Suỵt!
Porthos dán người vào tường như anh muốn lẩn vào trong đó d Artagnan cũng làm như vậy.
Có tiếng bước chân của Mordaunt trong cầu thang âm vang.
Một ô cửa nhỏ không nhìn thấy trượt ken két trong đường rãnh.
Mordaunt ngó nhìn, nhưng do sự phòng bị của hai người bạn, hắn không thấy gì cả. Hắn bèn tra chìa khoá vào ổ. Cánh cửa mở ra, hắn xuất hiện trên ngưỡng cửa.
Cùng lúc ấy, hắn đứng đối diện với d Artagnan.
Hắn muốn đẩy cửa lại, nhưng Porthos đã lao đến quả nắm và mở toang cửa ra.
Porthos vỗ tay ba tiếng. Arthos và Aramis chạy đến.
Mordaunt tái nhợt đi, nhưng hắn không kêu một lời, không gọi người ứng cứu.
D Artagnan bước thẳng đến , nhìn thẳng vào lòng ngực của Mordaunt ,có thể cái nhìn thấu cả lòng ngực của hắn, và khiến hắn bước giật lùi lên suốt cầu thang có một ngọn đèn soi sáng giúp chàng Gascogne không rời mắt khỏi hai bàn tay Mordaunt.
Nhưng Mordaunt hiểu rằng nếu có y giết được d Artagnan, thì hắn còn phải đương đầu với ba kẻ thù khác nữa, cho nên hắn không làm một động tác chống cự nào, không làm một cử chỉ đe doạ nào.
Lùi tới cửa, Mordaunt cảm thấy cùng đường và tưởng rằng thôi thế là mọi sự chấm dứt với hắn ở đây rồi; nhưng hắn lầm, d Artagnan giơ tay mở cửa, hắn và anh đi vào phòng nơi mười phút trước đó hắn đã chuyện trò với Cromwell.
Porthos vào theo; anh nhấc chiếc đèn treo ở bên trần lấy lửa châm vào một chiếc đèn khác.
Arthos và Aramis vào sau cùng và khoá cửa lại.
D Artagnan cầm một cái ghế và bảo Mordaunt:
- Hãy ngồi xuống đi.
Mordaunt đón cái ghế từ tay d Artagnan, hắn ngồi xuống, mặt xanh nhợt nhưng bình tĩnh. Aramis kéo ba chiếc ghế đến cách đó ba bước cho mình với d Artagnan và Porthos ngồi.
Arthos ra ngồi ở một góc xa nhất, có vẻ nhất quyết làm một khán giả im lặng trước những điều sắp diễn ra.
Porthos ngồi bên trái và Aramis ngồi bên phải d Artagnan.
Arthos tỏ ra buồn rầu. Porthos xoa xoa bàn tay có vẻ sốt ruột lắm.
Aramis vừa mỉm cười vừa cắn môi đến chảy máu.
Riêng d Artagnan tự kiềm chế, ít ra là bề ngoài.
Anh nói:
- Ông Mordaunt này, sau bao nhiêu ngày trời mất công chạy đuổi theo nhau, cuối cùng sự tình cờ đã tập hợp chúng ta lại, cho nên ta hãy chuyện trò với nhau một chút, ông vui lòng chứ?
Chú thích:
(1) Trong "Ba người lĩnh ngự lâm" đó là nơi các anh bắt và xử tội Milady, mẹ của Mordaunt.
-*-*-*-
Chương 73
Đối thoại
Mordaunt bị chộp bất thình lình, hắn trèo lên thang gác với cảm tưởng càng mơ hồ hơn nữa, đến nỗi sự suy nghĩ của hắn không thể nào trọn vẹn. Chỉ có điều thực tế là tình cảm đầu tiên của hắn hoàn toàn dành cho nỗi xúc động, sự bất ngờ và nỗi kinh hoàng khủng khiếp nó xâm chiếm bất cứ người nào bị một kẻ tử thù hơn hẳn về sức mạnh tóm chặt lấy cánh tay đúng lúc anh ta tưởng kẻ thù ấy đang ở một nơi khác và bận bịu về những việc khác.
Nhưng một khi đã ngồi xuống, lúc đã biết rằng mình được hưởng một sự đình hoãn trị tội, thì dù với ý đồ gì hắn cũng tập trung tư tưởng và gom hết sức lực. Cái nhìn nảy lửa của d Artagnan không làm nhụt chí mà có thể nói truyền điện thêm cho Mordaunt, vì cái nhìn bừng bừng hăm doạ thật đấy nhưng chân thành trong nỗi thù hằn và giận dữ. Mordaunt sẵn sàng nắm lấy mọi cơ hội thuận lợi để ra thoát khỏi cơn nguy, hoặc bằng vũ lực hoặc bằng mưu mẹo, hắn bèn thu mình lại như con gấu bị dồn vào hang ổ bằng con mắt có vẻ bất động nó theo dõi mọi cử chỉ của người thợ săn đã dồn đuổi nó.
Tuy nhiên, nhanh như tia chớp con mắt ấy nhìn xuống thanh kiếm dài và chắc chắn đập bên hông hắn, hắn thản nhiên đặt bàn tay trái lên chuôi kiếm đưa nó sang tầm tay phải và ngồi xuống theo yêu cầu của d Artagnan.
D Artagnan chắc hẳn chờ đợi một lời nói công kích nào đó để bắt đầu vào một cuộc chuyện trò châm biếm hoặc gay gắt mà anh thường ứng đối rất tài.
Aramis tự nhủ thầm:
"Chúng ta sắp sửa nghe những chuyện nhạt nhẽo",
Porthos ngoạm ria mép và lẩm bẩm:
"Mẹ kiếp, lại sắp sửa những chuyện khách sáo, để đập nát con rắn này!",
Arthos né mình trong góc phòng, bất động và nhợt nhạt như một bức tượng chạm nổi và mặc dầu ngồi yên anh vẫn cảm thấy trán mình râm rấp mồ hôi.
Mordaunt không nói gì, song le khi yên trí rằng thanh kiếm của mình vẫn sẵn sàng, hắn ngang nhiên bắt tréo chân và chờ đợi.
Sự im lặng không thể kéo dài hơn nữa để trở thành vô nghĩa , d Artagnan hiểu điều đó và do anh đã mời Mordaunt ngồi xuống để nói chuyện, anh biết rằng chính anh phải mở đầu câu chuyện. Vớí vẻ lịch sự chết người, anh nói:
- Thưa ông, dường như ông thay đổi y phục cũng gần nhanh bằng bọn tuồng câm nước Ý mà ngài giáo của Mazarin đã đưa từ Bergame tới. Tôi đã từng được xem và chắc hẳn ông cũng được ngài giáo chủ dẫn đi xem trong chuyến du ngoạn của ông tại Pháp.
Mordaunt không trả lời.
- Ban nãy, - D Artagnan nói tiếp, - Ông cải trang, tôi muốn nói rằng ông vận y phục kẻ giết người, và bây giờ...
- Và bây giờ trái lại, tôi hoàn toàn có vẻ trong bộ y phục của kẻ sắp bị người ta giết có phải không? - Mordaunt đáp lại bằng một giọng bình thản và cộc lốc.
- Ồ, ông ơi, - D Artagnan đáp, - Sao ông lại có thể nói năng như thế nhỉ, khi mà ông đang ngồi cùng với các nhà quý tộc và ông có một thanh gươm thật tốt kề bên mình.
- Thưa ông, - Mordaunt đáp, - Chẳng có thanh gươm tốt nào địch nổi bốn thanh gươm và bốn con dao găm của bọn tuỳ tùng đang đợi các ông ở ngoài cửa.
- Xin lỗi ông lầm rồi, - D Artagnan nói. - Nhưng kẻ đang đợi chúng tôi ở ngoài cửa chẳng phải tuỳ tùng mà là đầy tớ của chúng tôi. Tôi muốn đặt mọi vật vào đúng sự thật chí ly nhất.
Mordaunt chỉ đáp lại bằng một nụ cười làm nhíu đôi môi lại một cách giễu cợt.
Nhưng vấn đề không phải ở đó, - D Artagnan nói tiếp, - Tôi xin trở lại vấn đề của tôi. Tôi lấy làm vinh dự hỏi ông rằng tại sao ông lại đội lốt. Tấm vải che mặt khá tiện lợi cho ông thì phải. Chòm râu xám hợp tuyệt vời với ông. Cái lưỡi rìu mà ông bổ một nhát thật trứ danh lúc ấy chẳng phải lạc lõng với ông. Thế thì hà cớ gì ông phải gỡ bỏ nó đi...
- Vì rằng nhớ lại tấn thảm kịch ở Armentières, tôi nghĩ rằng có thể tôi sẽ thấy bốn lưỡi rìu chọi một, bởi vì tôi sẽ ở giữa bốn đao phủ.
Mặc dầu một cái chau mày nhẹ báo hiệu rằng anh bắt đầu nổi cáu d Artagnan vẫn đáp lại với vẻ bình tĩnh nhất.
- Này ông, dù rằng hết sức xấu xa và tồi bại, ông vẫn quá non trẻ, cho nên tôi chẳng quan tâm đến những câu chuyện vớ vẩn của ông. Vớ vẩn thật, vì ông vừa mới nói đến vụ Armentières nó chẳng mảy may liên quan gì đến tình hình hiện nay. Thật vậy, chúng tôi chẳng thể đưa một thanh gươm cho bà mẹ nhà ông và yêu cầu đấu gươm với chúng tôi.
Nhưng đối với ông, một kỵ sĩ trẻ chơi dao găm với súng ngắn như chúng tôi đã thấy và mang một thanh gươm lớn nhường kia, thì chẳng ai không có quyền xin chiếu cố một cuộc gặp gỡ.
- A, a! - Mordaunt nói, - Vậy là ông muốn một cuộc đấu gươm ư?
Và hắn đứng lên, mắt lấp lánh như sẵn sàng đáp lại lời khiêu khích ngay lập tức.
Porthos cũng đứng dậy, sẵn sàng như mọi khi với những chuyện bất ngờ như thế.
Vẫn bình tĩnh, d Artagnan nói:
- Xin lỗi, xin lỗi! Chúng ta đừng vội vã, bởi vì chúng ta ai cũng mong muốn mọi việc tiến hành đúng quy tắc. Cho nên, Porthos thân mến, hãy ngồi xuống, và xin ông Mordaunt lãy bình tĩnh. Chúng ta sẽ thu xếp việc này cho ổn thoả, và tôi sẽ thẳng thắn với ông. Ông Mordaunt này, hãy thú nhận rằng ông rất khao khát giết chết những người này hoặc những người nọ trong số chúng tôi đây có phải không?
- Những người này và những người nọ, - Mordaunt đáp.
D Artagnan quay về phía Aramis và nói:
- Aramis thân mến, hãy thừa nhận rằng thật là một điều rất may mắn, ông Mordaunt am hiểu tường tận những điều tinh tế trong tiếng Pháp. Ít ra là sẽ không có sự hiểu lầm giữa chúng ta; và chúng ta sẽ thu xếp mọi việc cho thật kỳ diệu.
Rồi quay lại phía Mordaunt, anh nói tiếp:
- Ông Mordaunt thân mến ơi, tôi xin nói với ông rằng các ông bạn của tôi đây sẽ đáp lại tấm thịnh tình của ông đối với họ và cũng sẽ rất vui mừng được giết chết ông. Tôi xin nói thêm rằng, rất có khả năng họ sẽ giết ông, tuy nhiên với tư cách những nhà quý tộc chính trực và bằng chứng tốt nhất mà người ta có thể đưa ra là đây.
Nói xong, d Artagnan ném mũ xuống tấm thảm, kéo sát ghế vào tường, ra hiệu cho các bạn cũng làm như vậy, rồi chào Mordaunt với vẻ ưu nhã rất lịch sự của một người Pháp và nói:
- Xin hầu tiếp ông: vì rằng nếu ông không có ý gì bác bỏ điều vinh dự mà tôi yêu cầu, thì tôi sẽ là người bắt đầu. Thanh gươm của tôi có ngắn hơn thanh gươm của ông, nhưng... chậc... tôi hy vọng rằng cánh tay tôi sẽ bổ sung cho lưỡi gươm.
- Dừng lại? - Porthos tiến lên và nói, - Tôi là người bắt đầu, không bàn cãi gì hết.
- Ấy, xin phép, Porthos? - Aramis nói.
Arthos không động đậy, dường như đó là một bức tượng, hơi thở của anh cũng như dừng lại.
- Này, này, các bạn ơi, - D Artagnan nói,
- Xin cứ yên trí, sẽ đến lượt các anh. Hãy nhìn xem đôi mắt của ông ta và đọc trong nó mối hận thù sung mãn mà chúng ta gây nên, hãy xem ông ta tuốt kiếm khéo léo như thế nào. Kìa, ông ta đang nhìn quanh rất thận trọng xem có chướng ngại nào ngăn mình bước lùi không. Này, tất cả những điều đó chứng chẳng tỏ rằng ông Mordaunt là một tay kiếm tài ba sao, và các bạn sẽ nối tiếp tôi ngay thôi mà, miễn là các bạn hãy ở nguyên tại chỗ như Arthos ấy, tính bình tĩnh của anh ấy như thế nào, các bạn đã biết rõ, tôi chẳng phải nhắc lại nhiều lần, và hãy cho tôi được thực hiện cái sáng kiến của tôi. Và chăng,-
D Artagnan tuốt gươm ra bằng một động tác kinh khủng và nói tiếp, - Tôi có chuyện đặc biệt quan thiết với ông này và tôi sẽ bắt đầu. Tôi mong như vậy, tôi muốn như vậy.
Lần đầu tiên d Artagnan nói với các bạn lời lẽ như thế. Từ trước đến giờ anh chỉ nghĩ trong đầu mà thôi.
Porthos lùi lại, Aramis kẹp gươm vào nách. Arthos ngồi im lặng trong góc tối không phải bình tĩnh như d Artagnan nói, mà đang ngột ngạt, đang hổn hển.
- Này, hiệp sĩ, hãy tra kiếm vào vỏ - D Artagnan bảo Aramis, - Kẻo ông đây lại hiểu sai rằng anh có những ý định không hay.
Rồi quay sang Mordaunt anh nói:
- Thưa ông, tôi chờ ông.
- Tôi rất khâm phục các ông đấy, - Mordaunt nói. - Các ông tranh cãi xem ai là người đầu tiên đấu với tôi, nhưng các ông chẳng hề hỏi ý kiến tôi mà hình như vấn đề này có can hệ đến tôi một chút ít thì phải. Tôi thù tất cả bốn ông, đúng thế, nhưng ở mức độ khác nhau. Tôi hy vọng giết chết cả bốn ông, nhưng tôi có nhiều cơ hội giết chết người thứ nhất hơn người thứ hai, người thứ hai hơn người thứ ba, người thử ba hơn người cuối cùng. Do đó tôi đòi hỏi quyền được chọn địch thủ của tôi. Nếu các ông từ chối quyền đó thì cứ việc giết tôi đi tôi sẽ chăng đấu gươm đâu.
Bốn người bạn nhìn nhau.
- Đúng đấy - Porthos và Aramis đều nói, ai nấy đều hy vọng rằng sự lựa chọn rơi vào mình.
Arthos và d Artagnan không nói gì cả; nhưng sự im lặng của họ biểu hiện sự tán thành.
Giữa cảnh im lặng sâu xa và trang nghiêm ngự trị trong ngôi nhà bí ẩn ấy, Mordaunt nói:
- Thế thì tôi xin chọn làm địch thủ đầu tiên của tôi cái người đã cho rằng mình xứng đáng mang danh hiệu bá tước de La Fère và đã lấy tên là Arthos.
Arthos đứng bật dậy như có lò-xo, nhưng trước nỗi kinh ngạc của các bạn, sau một giây lâu bất động và lặng im, anh lắc đầu nói:
- Ông Mordaunt này, mọi cuộc đấu gươm giữa hai người chúng ta là không thể được; ông hãy trao cho người khác cái vinh dự mà ông dành cho tôi.
Và anh ngồi xuống.
- A, - Mordaunt nói, - Ra đây là một kẻ đã sợ hãi.
- Đồ khốn khiếp! D Artagnan thét lên và nảáy vọt đến gã thanh niên. - Kẻ nào dám nói ở đây là Arthos sợ hãi.
- D Artagnan, cứ để cho hắn nói - Arthos nói với một nụ cười đầy buồn phiền và khinh bỉ.
Chàng Gascon hỏi:
- Arthos, đây là quyết định của anh đấy
- Không thay đổi.
- Thôi được, không bàn đến chuyện ấy nữa.
Rồi quay lại Mordaunt, anh nói:
- Ông đã nghe đấy, bá tước de La Fère không muốn ban cho ông vinh dự là người được đấu gươm cùng ông ấy. Vậy ông hãy chọn trong số người nào thay thế ông ấy.
- Khi đã không đấu với ông ta, - Mordaunt nói - Thì đấu với ai cũng chẳng quan trọng gì đối với tôi. Hãy viết tên các ông bỏ vào chiếc mũ và tôi sẽ rút thăm.
- Ý kiến hay đấy, - D Artagnan nói.
- Thật vậy, - Aramis nói, - Cách ấy hoà giải tất cả.
- Thế mà tôi không nghĩ ra, - Porthos nói, mà thật là đơn giản.
- Nào, Aramis - D Artagnan nói, - Hãy viết thăm đi, bằng kiểu chữ xinh xinh mà anh đã viết cho Marie Michon để báo cho cô ấy biết rằng bà mẹ của ông Mordaunt đây muốn ám sát quận công Buckingham ấy mà.
Mordaunt chịu đựng đòn công kích mới ấy mà không chau mày.
Hắn đứng khoanh tay và tỏ ra thản nhiên như không. Nếu không phải can đảm, thì ít ra cũng là lòng kiêu hãnh, thật rất giống như vậy.
Aramis đến bàn giấy của Cromwell xé lấy mảnh giấy to bằng nhau, viết tên mình trước tiên rồi đến tên các bạn và để mở nguyên, đưa cho Mordaunt xem. Hắn không đọc và gật đầu tỏ ý hoàn toàn tin cậy ở anh. Anh gập giấy lại cho vào một cái mũ và đưa lại cho hắn.
Mordaunt thò tay vào mũ lấy một tờ giấy và để rơi lên bàn một cách khinh thị mà không buồn đọc.
- A! Con rắn con! - D Artagnan lẩm bẩm, - Ta muốn đánh đổi tất cả vận may thăng cấp lên đại uý ngự lâm quân lấy tờ phiếu mang tên ta.
Aramis mở tờ giấy ra. Anh cố làm ra vẻ bình thản và lạnh lùng, nhưng ai cũng thấy giọng nói của anh run lên vì căm hờn và thèm khát.
- D Artagnan - anh đọc to lên.
D Artagnan thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ:
- A!- anh nói - Trời công minh thật!
Rồi quay lại Mordaunt, anh nói:
- Tôi hy vọng rằng ông không có điều gì phản đối chứ?
- Hoàn toàn không, - Mordaunt đáp, và rút gươm ra để mũi gươm lên giày của mình.
Khi đã chắc chắn điều mong ước của mình được thực hiện và địch thủ của mình không thoát khỏi tay mình, d Artagnan lấy lại tất cả sự yên trí, bình tĩnh và thong thả nữa mà anh thường quen đưa vào chuẩn bị cái công việc hệ trọng mà người ta gọi là một cuộc quyết đấu.
Anh vén tay áo, chùi đế giày bên phải lên sàn nhà, điều ấy không ngăn cản anh chú ý thấy lần thứ hai Mordaunt đưa mắt nhìn quanh mình bằng một cái nhìn rất kỳ lạ mà anh đã một lần nhác thấy. Cuối cùng anh nói:
- Ông đã sẵn sàng chưa?
- Chính tôi đang chờ ông đấy. - Mordaunt ngẩng đầu lên đáp và ném sang d Artagnan một cái nhìn không thể tả được.
- Vậy ông hãy coi chừng, - Chàng Gascon nói, - vì rằng tôi đánh gươm khá lắm.
- Tôi cũng vậy, - Mordaunt đáp.
- Càng hay, điều đó khiến cho lương tâm tôi thanh thản. Hãy đề phòng!
- Khoan đã, - Gã thanh niên nói, - Xin các ông hãy hứa với tôi rằng các ông chỉ công kích tôi một cách tuần tự, người nọ sau người kia thôi.
- Này, con rắn con! - Porthos nói, - Có phải anh yêu cầu như vậy để lăng mạ chúng tôi đấy không?
- Không đâu, để lương tâm được thanh thản như ông này vừa nói đấy thôi.
- Chắc nhằm chuyện khác đây, - D Artagnan lẩm bẩm và vừa lắc đầu vừa băn khoăn nhìn xung quanh.
- Lời thề của nhà quý tộc! - Aramis và Porthos đồng thanh nói.
- Trong trường hợp ấy, - Mordaunt nói, - Xin các ông hãy đứng gọn vào một góc như bá tước de La Fère, nếu ông không đấu thì ít nhất cũng tỏ ra hiểu biết những qui tắc của một trận đấu. Các ông hãy để rộng cho chúng tôi, chúng tôi rất cần.
- Được, - Aramis nói.
- Lắm thứ lủng củng, - Porthos nói.
- Các anh hãy đứng gọn lại, - D Artagnan nói. - Đùng để cho ông đây có thể vịn vào một cớ nhỏ mọn nào để xử sự không đúng mà, xin thất lễ ông chứ, hình như ông rất thèm những cớ ấy.
Porthos và Aramis đứng vào cạnh tường song song với chỗ Arthos đứng, thành thử hai đấu thủ chiếm chỗ chính giữa căn phòng, nghĩa là họ ở nơi sáng nhất, hai ngọn đèn chiếu sáng đặt trên bàn của Cromwell.
Chẳng cần phải nói rằng khi người ta rời xa ngọn đèn thì ánh sáng yếu dần đi.
- Nào, - D Artagnan nói, - Cuối cùng thì ông đã sẵn sàng chưa?
- Rồi, - Mordaunt đáp.
Cả hai người đồng thời tiến lên một bước, và nhờ cái động tác giống nhau ấy, hai thanh kiếm chạm nhau.
D Artagnan là một tay kiếm siêu quần nên chẳng cần sờ nắn địch thủ, như người ta thường nói theo luật ngữ đấu kiếm. Anh giở một đòn nghi binh tuyệt diệu và nhanh như chớp, Mordaunt đỡ được.
- A, a! - Anh kêu lên với nụ cười khoan khoái.
Và chẳng để mất thì giờ, tưởng nhìn thấy chỗ sơ hở, anh vươn tay đâm một nhát thẳng cực nhanh và lóe sáng như tia chớp.
Mordaunt đỡ bằng một đường gươm rất chặt chẽ như không ra khỏi chôn kim.
D Artagnan nói:
- Tôi bắt đầu ngờ rằng chúng tôi đang chơi đùa.
- Ừ, - Aramis nói, - Nhưng vừa chơi đùa vừa chơi thật chặt chẽ vào.
- Mẹ kiếp! Này bạn cẩn thận đấy, - Porthos nói.
Mordaunt mỉm cười.
- Chà! - D Artagnan nói,
- Sao ông có một cái cười đê tiện đến thế? Ma quỷ đã dạy ông cười như thế phải không?
Mordaunt chỉ đáp lại bằng cách cố khoá chặt thanh gươm của d Artagnan với một sức mạnh mà chàng Gascon không ngờ có thể tìm thấy ở một cơ thể trông ốm o, nhưng nhờ một miếng đỡ khéo léo không kém nhát đánh của đối thủ, anh kịp thời gặp lưỡi gươm của Mordaunt, nó trượt theo gươm của anh mà không chạm vào ngực anh.
Mordaunt lùi nhanh lại một bước.
- A! Ông lùi đấy à? Ông quay đấy à? - D Artagnan nói.
- Tuỳ ý ông thôi, nhưng tôi cũng đã nhìn thấy được một điều: tôi không trông thấy nụ cười độc ác của ông đâu nữa. Tôi đang đứng hẳn trong bóng tối; càng hay. Ông không ngờ rằng ông có cái nhìn giả dối, nhất là khi ông sợ hãi. Hãy nhìn vào mắt tôi đây và ông sẽ thấy một điều mà một mảnh gương chẳng bao giờ cho ông thấy cả, đó là một cái nhìn thật thà và thẳng thắn.
Những lời lẽ dài dòng ấy có lẽ chẳng lấy gì làm nhã nhặn lắm, nhưng d Artagnan có thói quen tuôn ra cốt để làm bận tâm rối trí địch thủ. Song Mordaunt chẳng đáp lại một lời, hắn cứ lùi và chạy mãi, cuối cùng đổi được sang chỗ d Artagnan.
Hắn càng mỉm cười luôn và bắt đầu khiến chàng Gascon lo ngại.
- Thôi, thôi, phải kết thúc đi, - D Artagnan nói, - thằng ba hoa này có những bắp chân bằng thép. Nào xông lên đánh những đòn mạnh mẽ!
Anh dồn ép ráo riết Mordaunt. Hắn tiếp tục lùi bước, nhưng rõ ràng là do chiến thuật, không phạm một sơ suất nào khiến d Artagnan có thể lợi dụng, lưỡi gươm của hắn không một nhát nào trệch đường.
Tuy nhiên trận đấu diễn ra trong một căn phòng chật hẹp thiếu chỗ tung hoành đến nỗi một lúc chân Mordaunt chạm vào trường và tay trái hắn vịn vào đó.
- A! - Ông bạn quý ơi, lần này thì ông không còn lùi vào đâu được nữa. - d Artagnan mím môi, chau mày và nói tiếp:
- Các bạn ơi, đã bao giờ các bạn trông thấy một con bọ cạp bị đóng đinh vào tường chưa? Chưa thấy phải không? Vậy thì các bạn sắp thấy đấy.
Và trong một giây đồng hồ, d Artagnan phóng ba nhát khủng khiếp vào Mordaunt. Ba nhát đều chạm vào người, nhưng chỉ sướt qua thôi. D Artagnan không sao hiểu nổi sức mạnh kỳ lạ đó. Ba người bạn đứng xem mà thở hổn hển, trán đẫm mồ hôi.
Cuối cùng vì lấn quá gần, đến lượt d Artagnan lùi lại một bước để chuẩn bị một nhát thứ tư hay nói đúng hơn là để thực hiện nhát đó. Bởi vì đối với anh, đấu kiếm cũng như đánh cờ là một sự phối hợp rộng lớn, trong lúc mọi chi tiết móc nối ăn khớp với nhau.
Nhưng đến lúc anh làm một động tác nghi binh vừa mau lẹ vừa rảo riết, rồi bất thần đâm một nhát nhanh như chớp, thì bức tường nút đôi ra. Mordaunt biến mất vào khe hở toang hoác đó, còn lưỡi gươm của d Artagnan bị kẹp chặt giữa hai mảng tường khép lại và gẫy vụn ra như thuỷ tinh.
Trong khi đang đấu kiếm, Mordaunt đã vừa tự vệ vừa tìm cách đến dựa vào cánh cửa bí mật mà lúc trước ta đã trông thấy Cromwell đi ra. Từ đó, hắn đưa tay trái dò tìm và ấn nút; rồi hắn biến mất giống như những hung thần nọ trên sân khấu có tài đi xuyên qua các bức tường.
Chàng Gascon văng ra một tiếng chửi rủa điên giận, nó được đáp lại bằng một tiếng cười từ bên kia tấm cửa sắt, một tiếng cười man rợ, thê lương khiến chàng Aramis hoài nghi ớn lạnh đến tận xương sống.
Đến đây với tôi, - D Artagnan kêu lên, - Ta hãy phá cái cửa này ra.
Aramis chạy tới và nói:
- Đó là quỷ sử hiện hình!
- Nó trốn thoát rồi! Mẹ kiếp! Nó trốn thoát rồi! - Porthos gào lên và tì cả bắp vai đồ sộ của mình vào vách ngăn mà ấy, nhưng nó không hề suy suyển.
- Càng hay! - Arthos thầm lẩm bẩm.
Mệt nhoài vì những cố sức vô ích, d Artagnan nói:
- Tôi đã ngờ ngợ. Khi thằng khốn khiếp chạy quanh gian phòng, tôi đã nghi nó mưu mô một điều gì đê tiện; nhưng ai có thể ngờ được việc đó.
Aramis nói:
- Quỷ sứ đã đưa đến cho chúng ta một tai hoạ ghê gớm.
- Thượng đế đưa đến cho chúng ta một hồng phúc hiển nhiên! - Arthos nói với một vẻ mừng rỡ rành rành.
D Artagnan rời bỏ cánh của sắt trơ trơ, nhún vai nói:
- Arthos! Thực sự là anh tự hạ mình đấy. Sao anh lại có thể buông ra những lời lẽ như vậy với những người như chúng tôi, mẹ kiếp! - Anh không hiểu tình hình bây giờ ra sao ư?
- Sao? Tình hình thế nào cơ? - Porthos hỏi.
- Trong các trò chơi này, - D Artagnan nói, - Kẻ nào không giết thì sẽ bị giết. Bạn thân mến ơi, trong những lời than vãn chuộc tội của mình, anh có nghĩ rằng Mordaunt hy sinh chúng ta cho lòng hiếu tử của hắn ta không? Nếu đó là ý kiến của anh, thì hãy nói thật cho chúng tôi biết.
- Ôi! d Artagnan, bạn thân mến của tôi! - Kể ra thật tệ hại phải nhìn các sự việc theo phương diện đó. Thằng khốn nạn sắp phải một trăm giáp sĩ đến nghiền nát chúng ta như nghiền bột trong cái cối của ông Cromwell. Nào, lên đường thôi! Chúng ta mà nán lại đây năm phút thôi thì ta sẽ đi đời hết.
- Phải, cậu nói đúng đấy, ta lên đường thôi! - Arthos và Aramis nói.
- Nhưng đi đâu bây giờ? - Porthos hỏi.
Về khách sạn, lấy quần áo và ngựa. Rồi từ đó, nhờ Trời phù hộ, ta sẽ trở về Pháp, nơi ít ra tôi cũng còn biết về kiến trúc nhà cửa.
Thuyền đang đợi chúng ta, thực tình là hãy còn may đó.
Nói rồi, gắn liền lời giáo huân với những hành động nêu gương, d Artagnan tra đoạn gươm gãy vào vỏ, nhặt mũ, mở cửa cầu thang và bước vội xuống, ba người bạn theo sau.
Ra ngoài cổng, gặp lại mấy người hầu, họ hỏi tin tức về Mordaunt, nhưng bọn này chẳng thấy ai đi ra cả.
-*-*-*-
Chương 74
Con tàu Tia chớp
Artagnan đã đoán đúng: Mordaunt không có thời giờ để mất và đã không để mất thời giờ! Biết rõ quyết định và hành động nhanh chóng của kẻ thù, nên hắn cũng quyết ra tay ngay. Lần này các chàng ngự lâm quân đã tìm được địch thủ ngang tài.
Sau khi đóng cửa cẩn thận sau lưng mình, Mordaunt tra thanh gươm vào võ, trườn xuống một đường hầm và lần sang ngôi nhà bên cạnh, Hắn dừng lại để lấy hơi và sờ nắn trong người.
- Tốt lắm! - Hắn nói, - Chẳng sao cả, chẳng có gì đáng kể: mấy vết xây xát, có thế thôi, hai vết ở cánh tay, một vết ở ngực. Nhưng vết thương do ta gây nên hay hơn nhiều! Cứ hỏi tên đao phủ xứ Béthune, cứ hỏi ông bác ta và vua Charles xem? Bây giờ không thể để mất một giây đồng hồ, vì chỉ chậm một giây thôi là chứng nó có thể trốn thoát; mà cần làm sao cho cả bốn tên kia chết cùng với nhau, chết cùng một đòn, tan xương, nát thịt, bay biến đi. Ta sẽ chạy cho đến lúc hai chân không còn mang nổi mình, trái tim rộng nở đầy lồng ngực, nhưng ta sẽ đến trước chúng nó. Mordaunt bắt đầu rảo bước nhanh hơn, nhưng đều dặn hơn đến trại kỵ binh đầu tiên cách đó gần một phần tư dặm và đi chừng mất bốn năm phút.
Đến trại, hắn xưng danh, rồi lấy con ngựa tốt nhất và phóng đi ngay. Mười lăm phút sau hắn đến Greenwich.
- Bến cảng kia rồi, - Hắn lẩm bẩm. - Chấm đen sẫm ngoài kia kia đảo Những con Chó. Hay thật! Ta vượt chừng nửa giờ... có lẽ một giờ. Ta ngốc thật! Suýt nữa thì mình chết ngạt vì sự vội vã điên cuồng ấy.
Hắn đứng lên bàn đạp để nhìn ra xa tìm giữa những đám dây dợ và cột buồm nói:
- Tia chớp, con tàu Tia chớp ở đâu?
Như để đáp lại mấy lời nói lầm bầm của hắn, một người nằm trên một cuộn dây thừng đứng dậy và tiến mấy bước về phía Mordaunt.
Mordaunt rút chiếc khăn tay ra và giơ phất phới trong gió một lát. Người kia tỏ vẻ chăm chú, nhưng vẫn đứng nguyên một chỗ, chẳng tiến mà cũng chẳng lùi một bước nào.
Mordaunt thắt nút lại ở bốn góc khăn tay, người kia đến sát gần. Đó là ám hiệu thỏa thuận. Người thủy thủ khoác một chiếc áo choàng len rộng che cả mặt, cất tiếng:
- Thưa ông, phải chăng tình cờ mà ông từ London đến đây để làm một chuyến du ngoạn trên biển.
- Rõ ràng như vậy, - Mordaunt đáp, - Tôi muốn đi ra phía đảo Những con Chó.
- Thế đấy. Chắc hẳn ông ưa thích một loại thuyền nào đó hơn phải không? Ông muốn thuyền chậm hay thuyền nhanh...
- Như tia chớp, - Mordaunt đáp.
- Hay lắm, thế thì đúng chiếc thuyền của tôi mà ông đang tìm.
- Tôi là người chủ thuyền đó.
- Tôi bắt đầu tin điều đó, - Mordaunt nói, - Nhất là nếu ông không quên ám hiệu nào đó.
- Thưa ông đây! - Người chủ thuyền rút trong túi áo choàng ra một chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc.
- Tốt lắm, tốt lắm? - Mordaunt reo lên và xuống ngựa. - Bây giờ gấp lắm rồi, ông hãy cho dẫn con ngựa này đến quán hàng gần đây và đưa tôi ra thuyền của ông.
- Nhưng những người đồng hành của ông đâu? - Chủ thuyền hỏi. - Tôi ngỡ rằng ông có bốn người cơ mà, không kể đầy tớ.
Mordaunt đến gần người thuỷ thuỷ và nói:
- Này ông, hãy nghe đây, tôi không phải là người mà ông chờ đợi cũng như ông không phải là người mà họ muốn tìm. Ông đã thay thế đại uý Roger phải không? Ông đến đây theo lệnh của tướng Cromwell; tôi cũng do ngài phải tới.
- QuẢả thật vậy, - Người chủ thuyền nói, tôi nhận ra ông, - Ông là đại uý Mordaunt.
Mordaunt giật mình.
- Ồ đừng sợ, - Người chủ thuyền kéo áo choàng xuống, ngả mũ ra và nói, - Tôi là một người bạn mà.
- A, đại uý Groslow! - Mordaunt reo lên.
- Chính tôi. Tướng quân nhớ rằng trước kia tôi là sĩ quan hải quân nên đã giao nhiệm vụ này. Có gì thay đổi không?
- Không có gì thay đổi cả. Trái lại mọi việc vẫn như đã định. Có lúc tôi nghĩ rằng cái chết của nhà vua...
- Cái chết của nhà vua càng thúc giục họ chạy trốn.
- Có lẽ trong mười lăm phút nữa họ sẽ tới đây.
- Thế ông đến đây làm gì?
- Để xuống thuyền với ông.
- A, a! Tướng quân hoài nghi nhiệt tình của tôi chẳng?
- Không phải thế đâu! Tôi muốn tự mình chứng kiến cuộc trả thù của tôi. Này, ông không có ai giúp mang con ngựa của tôi đi ư?
Groslow huýt sáo, một thủy thủ xuất hiện.
- Này Patric, - Groslow bảo, hãy dắt con ngựa này đến chuồng ngựa của quán hàng gần nhất. Nếu có người hỏi ngựa của ai thì nói rằng của một vị lãnh chúa Irlandais.
Người thủy thủ lẳng lặng rời bước.
- Ông không sợ họ nhận ra ông ư? - Mordaunt hỏi.
- Chẳng lo đâu! Tôi mặc như thế này, trùm cái áo choàng này trời tối như thế này. Vả lại, ông mà còn chẳng nhận ra tôi, thì họ làm sao mà nhận ra được.
- Đúng thế, - Mordaunt nói, - Với lại họ chẳng ngờ đến ông đâu.
- Mọi thứ sẵn sàng cả rồi chứ?
- Rồi.
- Thuyền chất hàng chưa?
- Rồi.
- Năm thùng đầy phải không?
- Và năm mươi thùng rỗng.
- Thế đấy.
- Chúng tôi chở rượu Portos đến Anvers.
- Tuyệt lắm. Bây giờ cho tôi xuống thuyền và ông hãy trở lại vị trí, vị họ đến ngay bây giờ đấy.
- Sẵn sàng.
- Điều quan trọng là không để cho ai trong số người của ông trông thấy tôi vào.
- Chỉ có một người ở trên thuyền và tôi tin ở hắn ta như chính mình. Vả chăng người ấy không biết ông, và cũng như đồng đội của hắn, hắn sẵn sàng phục tùng mệnh lệnh mà không hay biết gì hết.
- Tốt lắm, ta đi thôi.
Họ đi xuống phía sông Tamies. Một chiếc xuống nhỏ neo ở bến cảng bằng một xích sắt buộc vào một cái cọc. Groslow kéo cái xuồng nhỏ lại giữ cho Mordaunt xuống, rồi hắn nhảy xuống theo. Và ngay lập tức hắn cầm lấy mái chèo và chèo miết để chứng tỏ với Mordaunt điều hắn nói là thật, nghĩa là hắn không quên nghề thủy thủ của mình.
Năm phút sau, chiếc xuống thoát ra khỏi cái thế giới thuyền bè vào thời ấy luôn luôn bề bộn ở các vùng lân cận London và Mordaunt có thể trông thấy chiếc tàu buồm buông neo như một chấtm đen đang đung đưa ở cách đảo Chó chừng bốn năm tầm(1).
Đến gần tàu Tia chớp, Groslow huýt sáo ra hiệu và trông thấy một cái đầu ló ra trên thành tàu.
- Đại uý đấy à? - Người kia hỏi.
- Phải, ném thang xuống đây.
Nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như một con én, Groslow leo lên và đứng bên gã thủy thủ. Không trả lời, Mordaunt nắm lấy sợi thừng và leo theo thành tàu một cách lanh lẹn và chắc chắn hiếm có đối với những người ở trên cạn; lòng háo hức trả thù của hắn đã thay thế cho thói quen và khiến hắn có khả năng làm được mọi việc.
Như Groslow đã dự kiến, người thuỷ thủ gác trên tàu Tia chớp không có vẻ gì nhận biết là chủ mình trở về cùng với người khác.
Mordaunt và Groslow đi đến phòng của thuyền trưởng. Đó là một ngăn đựng tạm bằng ván gỗ ở trên boong.
- Căn phòng danh dự đã được đại uý Roger nhượng cho hành khách.
- Bọn họ đâu? - Mordaunt hỏi.
- Ở cuối tàu Groslow đáp.
- Họ không có việc gì làm ở phía này ư?
- Chẳng có việc gì hết.
- Tuyệt lắm! Tôi sẽ nấp ở chỗ ông. Ông hãy trở lại Greenwich và dẫn họ đến đây. Ông có một chiếc xuồng nhỏ nào không?
- Chỉ có mỗi chiếc xuồng nhỏ đã đưa ông đấy thôi.
- Nó có vẻ nhẹ và chắc.
- Một thuyền thoi thực sự đấy.
- Hãy lấy dây chão buộc nó vào sau đuôi tàu, để mái chèo vào xuồng để nó có thể đi theo luồng tàu và khi cần thì chỉ việc cắt dây. Để sẵn rượu rhum và bánh qui trong xuồng. Nếu chẳng may biển động, người của ông sẽ chẳng bực mình thấy có sẵn các thứ để mà bồi bổ sức lực.
- Ông sẽ thấy được vừa ý. Ông có muốn thăm sợi dây mìn không?
- Không, - Mordaunt đáp. - Đợi lúc ông trở lại. Tôi muốn tự mình đặt dây mìn để chắc chắn là không cháy chậm. Chú ý che mặt để họ không nhận ra ông.
- Chuông đồng hồ Greenwich đang điểm mười giờ.
- Cứ yên trí.
Thật vậy, mười tiếng chuông ngân vang rầu rĩ quyện qua bầu trời chứa đầy những đám mây khổng lồ đang trôi đi giống như những làn sóng im lặng.
Groslow khép cửa lại và Mordaunt cài chốt bên trong. Sau khi ra lệnh cho người thuỷ thủ gác canh phòng thật cẩn mật, Groslow xuống thuyền. Chiếc thuyền nhanh chóng rời xa, đôi mái chèo khuấy nước bọt ngầu.
Khi Groslow cập bến Greenwich, gió thổi lạnh và con đường đập vắng tanh; nhiều thuyền bè vừa lên bờ thì nghe như có tiếng ngựa phi trên con đường lát đá.
- Ồ, ồ! - hắn nói, - Mordaunt giục ta gấp lên là đúng. Không thể chậm trễ được nữa, họ tới kia rồi.
Quả nhiên, đó là những người bạn của chúng ta hay nói đúng hơn là nhóm tiền trạm gồm d Artagnan và Arthos. Đến trước nơi Groslow đứng, họ đứng lại như đã đoán ra rằng đó là người họ cần tìm. Arthos xuống ngựa và lặng lẽ giơ một chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc và phất lên trước gió, trong khi d Artagnan bao giờ cũng thận trọng, hơi cúi mình trên yên ngựa, một tay thọc vào bao súng.
Ngồi xổm sau một chiếc nòng đại bác chôn xuống đất dùng để cột các dây thuyền, Groslow ngỡ rằng các kỵ sĩ kia là những người hẳn đang đợi, lại trông thấy ám hiệu đã định hẳn đứng dậy và bước thẳng đến chỗ họ. Hắn trùm áo choàng kín mít, nên trông không rõ mặt. Vả chăng tròi tối như mực nên việc phòng bị cũng bằng thừa.
Tuy nhiên, mặc dầu bóng tối, con mắt sắc sảo của Arthos vẫn đoán ra rằng không phải kẻ đứng trước mặt anh là Roger.
Arthos lùi lại một bước và hỏi:
- Ông cần gì?
Groslow bắt chước giọng Irlandais và nói:
- Thưa Milord, tôi muốn thưa với ngài rằng ngài định tìm ông chủ tàu Roger, nhưng uổng công thôi.
- Sao vậy? - Arthos hỏi.
- Bởi vì sáng nay ông ta ngã từ trên cột buồm quan trắc và bị gẫy đùi. Tôi là em họ của ông Roger, nên ông ta kể với tôi tất cả mọi việc và nhờ tôi thay ông ra đón ngài và các vị quý tộc có mang chiếc khăn tay buộc nút ở bốn góc giống như cái khăn tôi có ở trong túi đây. Tôi sế đưa các ngài đi bất cứ nơi nào các ngài muốn.
Nói rồi Groslow móc túi ra chiếc khăn mà hắn đã giơ cho Mordaunt xem.
- Có thế thôi à? - Arthos hỏi.
- Ấy thưa ngài, còn bảy mươi lăm livres đã hứa nếu tôi đưa các ngài yên ổn đến Boulogne-sur-Mer hoặc một nơi nào đó ở nước Pháp mà các ngài cho biết.
Arthos quay sang hỏi d Artagnan bằng tiếng Pháp:
- Cậu thấy việc đó thế nào?
- Hắn nói gì đã chứ? - D Artagnan đáp.
- Ở nhỉ, - Arthos nói, - Mình quên rằng cậu không biết tiếng Anh.
Và anh kể lại cho bạn những lời trao đổi vừa rồi với người chủ tàu.
- Điều ấy có vẻ thật đấy. - D Artagnan đáp.
- Tôi cũng nghĩ thế, - Arthos nói.
- Với lại d Artagnan nói, - Nếu như người này lừa dối ta, ta vẫn có thể bắn vỡ sợ nó.
- Thế ai sẽ dẫn đạo chúng ta?
- Anh đấy, Arthos ạ. Anh biết đủ thứ ở trên đời và tôi chẳng hồ nghi là anh không biết lái một con tàu.
Arthos mỉm cười bông đùa và nói:
- Bạn ơi, thực tình là cậu nói khoác thật đúng lúc. Cha tôi ngày trước hướng cho tôi làm nghề hàng hải, cho nên tôi cũng biết đôi chút về việc lái tàu.
- Anh thấy chưa. - D Artagnan reo lên.
- Vậy cậu hãy đi tìm các bạn chúng ta và trở lại đây. Mười một giờ đêm rồi, chẳng còn nhiều thì giờ nữa đâu.
D Artagnan tiến về phía hai kỵ sĩ cầm súng ngắn đang đứng gác ở những ngôi nhà đầu tiên của thị trấn.
Ba kỵ sĩ khác cũng đứng canh có vẻ chờ đợi, họ nép vào một nhà kho sát bờ đường.
Hai kỵ sĩ đứng giữa là Porthos và Aramis. Ba kỵ sĩ ở cạnh nhà kho là Mousqueton, Blaisois và Grimaud.
Nhưng nhìn gần thì thấy sau lưng ngựa của Grimaud còn có người em của Parry. Anh ta phải dẫn trở lại London những con ngựa của mấy ông chủ và người hầu đã bán cho chủ khách sạn để trả tiền trú ngụ. Cũng nhờ vậy mà bốn người bạn còn dư ra được một số tiền, nếu không phải là to tát thì ít ra cũng đủ chi dùng trong những khi bị chậm trễ hoặc xảy ra những chuyện bất thường.
D Artagnan rỉ tai bảo Porthos và Aramis đi theo mình và mấy người này lại ra hiệu cho bọn đầy tớ xuống ngựa và tháo các bọc quần áo ra.
Người em của Parry lưu luyến chia tay bạn bè. Họ mời anh ta sang Pháp, nhưng anh khăng khăng từ chối.
- Cũng đơn giản thôi - Mousqueton giải thích, - Anh ta còn có ý định trả thù Groslow.
- Ta còn nhớ rằng chính Groslow đã đập vỡ sọ anh ta.
Toán người theo kịp Arthos. Nhưng d Artagnan đã lấy lại tính đa nghi tự nhiên của mình. Anh thấy trên hè vắng vẻ quá, đêm tối đen quá, chủ tàu dễ dãi quá.
Anh kể lại những việc xảy ra cho Aramis nghe, anh chàng này không kém đa nghi càng góp phần làm tăng thêm những nỗi nghi ngại của bạn.
Một tiếng chậc nhỏ báo cho Arthos biết những nỗi băn khoăn của chàng Gascon.
- Chúng ta chẳng có thì giờ để hoài nghi đâu, - Arthos nói, - Chiếc thuyền đang đợi chúng ta, ta vào đi.
- Với lại ai cấm chúng ta cứ vào mà vẫn cứ hoài nghi, - Aramis nói. - Ta sẽ theo dõi chủ thuyền.
- Nếu hắn không đường đường chính chính, tôi sẽ đập vỡ sọ nó ra, có thế thôi...
- Porthos nói hay lắm, - D Artagnan bảo. - Nào, ta vào đi. Đi, Mousqueton.
D Artagnan ngăn các bạn lại, cho bọn gia nhân qua trước để thử tấm ván bắc từ con đập ra thuyền.
Ba tên hầu sang thuyền yên ổn.
Arthos theo sau họ, rồi đến Porthos và Aramis; d Artagnan sang sau cùng, vừa đi vừa lắc đầu.
- Cậu làm cái quái gì thế? - Porthos nói. - xin thề là cậu làm cho Césars cũng phải sợ.
D Artagnan đáp:
- Trên cái bến này, tôi thấy chẳng có người kiểm tra, chẳng có một tên lính gác chẳng có nhân viên thuế quan.
- Vậy mà cậu than vãn ư? Porthos nói. - Mọi việc trôi chảy như trên một đường dốc nở hoa.
- Mọi việc trôi chảy quá, Porthos ạ. Mặc kệ, rốt cuộc, nhờ ơn Chúa.
Tấm ván vừa rút lên, chủ thuyền ngồi vào đằng lái và ra hiệu cho một thuỷ thủ dùng một cây sào đẩy cho thuyền ra khỏi chốn mê lộ những tàu với bè.
Một thủy thủ khác đứng sẵn ở mạn trái thuyền tay cầm mái chèo.
Khi ra được chỗ thoáng, bạn hắn đến cùng chèoo và thuyền bắt đầu lướt nhanh.
- Cuối cùng chúng ta ra đi! - Porthos nói.
- Than ôi! - Bá tước de Là Fère đáp, - Chúng ta ra đi không có thêm ai!
- Phải rồi, nhưng cả bốn người chúng ta cùng đi, không một vết xước, đó là một điều an ủi.
- Chúng ta chưa đến nơi đâu, - D Artagnan nói. - Hãy coi chừng những cuộc chạm trán.
- Ơ này, bạn thân mến ơi, - Porthos nói. - Cậu giống như những con quạ ấy, cậu toàn kêu điều gở. Ai có thể gặp gỡ chúng ta trong cái đêm tối mù mịt như thế này, cách xa hai chục bước chẳng còn nhìn thấy gì hết.
- Phải, nhưng sáng mai thì sao? - D Artagnan nói.
- Sáng mai chúng ta sẽ ở Boulogne-sur-Mer.
- Tôi thành tâm cầu mong điều đó, - Chàng Gascon nói, -
Và tôi thú nhận nỗi yếu đuổi của tôi. Arthos này, anh sắp cười đấy, nhưng chừng nào chúng ta còn ở trong tầm súng của con đập hoặc những tàu bè ven đó, tôi vẫn thấp thỏm đợi chờ một loạt đạn khủng khiếp nào đó sẽ nghiền nát tất cả chúng ta.
- Nhưng mà, - Porthos nói về biết suy nghĩ, - Đó là điều không thể có được, bởi vì người ta sẽ giết chết luôn cả chủ thuyền lẫn thuỷ thủ.
- Ô hay, đó là một việc quan trọng đối với ông Mordaunt đó hả?
- Cậu tưởng ằng ông ấy quá câu nệ như thế ư?
- Rốt cuộc, - Porthos nói, - Tôi rất khoái thấy d Artagnan thú nhận là cậu ta sợ.
- Không những tôi thú nhận, mà tôi còn tự phụ là khác. Tôi chẳng phải là con tê giác cứ húc bừa như cậu. Ơ này, cái gì thế kia?
- Tia chớp đó, - Chủ thuyền nói.
- Chúng ta đến rồi ư? - Arthos hỏi bằng tiếng Anh.
- Đến rồi! - Thuyền trưởng nói.
Quả thật, sau ba nhát chèo, con thuyền đã cập mạn chiếc tàu nhỏ.
Người thuỷ thủ đang đợi, cái thang đã buông sẵn, hắn đã nhận ra con thuyền.
Arthos leo lên trước tiến nhanh nhẹn như thuỷ thủ thực thụ.
Aramis từ lâu đã quen với thang dây và những phương tiện khác ít nhiều sáng tạo dùng đề vượt qua những nơi cấm đoán. D Artagnan thì như một thợ săn hươu nai và hoẵng. Còn Porthos thì cứ lấy sức mà giẫy.
Leo thang dây đối với mấy tên đầy tớ khó khăn hơn. Không phải với Grimaud, bác như giống mèo ống máng, gầy và thon, bao giờ cũng tìm được cách leo lên mọi chỗ. Nhưng đối với Mousqueton và Blaisois, mấy người thủy thủ buộc phải đẩy họ lên đến ngang tầm tay của Porthos, rồi chàng hộ pháp cứ tóm lấy cổ áo của họ mà lôi lên boong tàu.
Thuyền trưởng dẫn hành khách vào phòng đã sửa soạn cho họ, nó gồm có mỗi một gian, cho nên họ phải ở chung. Rồi hắn đi ra, viện cớ phải sai phải làm các việc.
- Khoan đã, - D Artagnan bảo, - Ông chủ ơi, ông có bao nhiêu người ở trên tàu?
- Tôi không hiểu, - Hắn trả lời bằng tiếng Anh.
- Arthos dịch hộ tôi với.
Arthos hỏi lại bằng tiếng Anh.
- Ba người, - Groslow đáp, - Tất nhiên không kể tôi.
D Artagnan hiểu, vì chủ tàu vừa nói vừa giơ ba ngón tay.
- Ồ ba à? - D Artagnan nói. - Tôi bắt đầu yên tâm hơn. Mặc lòng, trong khi các cậu sửa soạn chỗ nằm, tôi đi một vòng quanh tàu xem sao.
- Còn tôi, - Porthos nói, - Tôi đi lo bữa tối.
- Cái dự tính ấy thật đẹp đẽ và hào hiệp, Porthos ạ, hãy thực hiện ngay đi. Còn Arthos, anh hãy cho tôi mượn gã Grimaud, khi đánh bạn với Parry hắn đã học sủa được chút ít tiếng Anh; hắn sẽ làm thông ngôn cho tôi.
- Đi đi, Grimaud, - Arthos bảo.
Một tay cầm khẩu súng ngắn, một tay nhấc sẵn chiếc dèn có sẵn ở trên bong, d Artagnan bảo chủ tàu:
- Come!
Cùng với chữ Goddam(2), đó là tất cả những gì anh nhớ được trong tiếng Anh.
D Artagnan đi đến cửa quầy tàu và xuống sàn giữa.
Sàn giữa chia làm ba khoang; khoang d Artagnan đang xuống nó có thể kéo dài từ cột buồm nhỏ thứ ba đến tận đuôi tàu, phía trên nó là ván sàn phòng Arthos, Porthos và Aramis đang sửa soạn nghỉ ngơi. Khoang thứ hai ở giữa tàu dùng làm nơi nghỉ cho bọn đầy tớ. Khoang thứ ba kéo dài dưới mũi tàu, nghĩa là dưới cái buồng mà thuyền trưởng dựng tạm và Mordaunt nấp trong đó.
D Artagnan vừa bước xuống thang vừa dang tay giơ chiếc đèn ra phía trước và nói:
- Ồ, ồ, sao mà lắm thùng gỗ thế này. Hẳn là căn hầm của Ali Baba(3).
- Ông nói cái gì thế? - Gã thuyền trưởng nói bằng tiếng Anh.
D Artagnan hiểu qua giọng nói. Anh đặt chiếc đèn lên một thùng rượu và nói:
- Tôi muốn biết có cái gì trong những thùng này.
Chủ tàu toan trèo lên thang, nhưng lại thôi.
- Porthos! - hắn đáp.
- A, rượu vang portos hả? - D Artagnan nói. - Dù sao cũng yên tâm, chúng ta sẽ không chết khát.
Rồi quay lại phía Groslow đang lau mồ hôi hột đổ trên trán, anh hỏi:
- Các thùng có đầy không?
Grimaud dịch lại.
- Có thùng đầy, Có thùng rỗng, - Groslow trả lời bằng một giọng dù cố gắng tự nhiên vẫn lộ ra vẻ lo lắng.
D Artagnan lấy tay gõ gõ vào các thùng thấy rằng có năm thùng đầy, còn các thùng khác đều rỗng. Rồi trước sự kinh hoàng của gã người Anh, anh soi đèn vào khe thùng và thấy rằng các khe thùng đều trống.
- Thôi, ta đi nào, - Anh nói và tiến về phía cửa thông sang khoang thứ hai.
Viên thuyền trưởng đứng ở phía sau luôn luôn hốt hoảng, nói:
- Khoan đã, tôi có chìa khoá của cửa ấy.
Và vội vàng đi trước d Artagnan và Grimaud, hắn run run tay tra chìa khoá vào ổ. Mousqueton và Blaisois sắp sửa ăn bữa tối.
Trong khoang này rành rành chẳng có gì để tìm kiếm hoặc lấy ra cả: ánh đèn soi rõ những người bạn đồng hành xứng đáng ấy và tất cả mọi ngóc ngách.
Người ta chuyển sang thăm khoang thứ ba.
Đó là phòng các thuỷ thủ.
Ba bốn chiếc võng mắc ở trần; một cái bàn treo bằng hai sợi dây luồn qua mỗi đầu bàn, hai cái ghế một và gãy chân, đó là tất cả đồ đạc trong phòng.
D Artagnan tới vén mấy tấm rèm treo ở vách và chẳng thấy gì khả nghi, anh trở lên trên boong.
- Thế còn căn buồng này? - Anh hỏi.
Grimaud dịch ra tiếng Anh và chủ tàu đáp:
- Đó là buồng của tôi. Ông có muốn vào không?
- Mở cửa ra, - D Artagnan bảo.
Chủ tàu tuân theo, d Artagnan giơ đèn và ló đầu qua cánh cửa hé mở và thấy rằng căn buồng đó là một túp lều thật sự. Anh nói:
- Tốt! Nếu có một đội quân ở trên tàu, thì chẳng phải nó được giấu ở đây. Thôi ta về xem Porthos đã kiếm được cái gì ăn chưa?
Rồi gật đầu cảm ơn chủ tàu, anh trở về căn phòng danh dự có các bạn anh ở đó.
Hình như Porthos chẳng kiếm được gì ăn cả, hoặc giả - Nếu có kiếm được cái gì đó thì do cái mệt thắng cái đói, anh nằm trong tấm áo choàng, và lúc d Artagnan về thì anh đã ngủ say.
Được những cơn sóng biển đầu tiên ru êm, Arthos và Aramis cũng lim dim con mắt và mở choàng khi nghe tiếng bạn bước vào.
- Thế nào? - Aramis hỏi.
- Ổn cả, - D Artagnan đáp, - Chúng ta có thể ngủ yên.
Được đảm bảo như vậy, Aramis lại ngả đầu xuống sàn, Arthos gật đầu thân ái, và d Artagnan, cũng như Porthos, còn cần ngủ hơn là ăn, anh nằm ngủ trong chiếc áo choàng, gươm tuốt trần, mình chắn ngang lối đi để không ai có thể đi vào mà không đụng phải anh.
Chú thích:
(1) Tầm bằng 1 phần 10 hải lý, tức 185 mét.
(2) Come: lại đây!
Goddam: tiếng rủa
(3) Truyện "Nghìn lẻ một đêm" hồi ấy vừa mới được dịch ra lần đầu tiên và rất thịnh hành. Trong truyện "Nghìn lẻ một đêm" Ali Baba dùng các thùng rỗng để nhốt những tên cướp.
-*-*-*-
Chương 75
Rượu vang Porto
Mười phút sau, các ông chủ ngủ thiếp cả, nhưng bọn đầy tớ thì không ngủ được vì đói và nhất là vì khát.
Blaisois và Mousqueton sắp chuẩn bị chỗ nằm bằng một tấm ván và một chiếc va-li, trong khi ấy một chiếc bàn treo giống như cái bàn ở phòng bên cạnh, trên đặt một bình rượu bia và ba cái cốc cứ lắc la lắc lư theo sóng biển.
- Sóng lắc dữ quá! - Blaisois nói, - Tôi cảm thấy lại sắp bị say sóng như hôm đến.
Mousqueton đáp:
- Để chống say sóng, chỉ có bánh lúa mạch và rượu houblon là hay nhất.
Blaisois vừa sửa soạn chỗ nằm xong, loạng choạng bước đến ngồi cạnh cái bàn nơi Mousqueton đang ngồi và bảo:
- Mousqueton ơi, thế còn cái chai bằng mây của cậu đâu, cậu đánh mất rồi ư!
- Không, - Mousqueton đáp, - Parry giữ rồi. Cái lũ quỷ sứ Scotch ấy lúc nào cũng khát.
Rồi quay về phía Grimaud vừa mới theo d Artagnan đi tuần tra về, hắn hỏi:
- Còn anh, Grimaud, anh có khát không?
- Cũng như một thằng Scotch, - Grimaud rầu rầu đáp.
Rồi bác ngồi xuống cạnh Blaisois và Mousqueton, lấy ở trong túi ra một cuốn sổ tay và tính toán tiền chi tiêu của cả hội mà bác làm quản lý.
- Ôi chao ơi. - Blaisois kêu lên, - Bụng tôi nó cuốn cuộn lên rồi đây này.
Lên giọng thầy thuốc Mousqueton bảo:
- Thế thì phải ăn một chút thức ăn.
Vẻ mặt thảm hại, Blaisois đưa ngón tay khinh thị chỉ cái bánh lúa mạch và bình rượu bia và nói:
- Cái kia mà cậu gọi là thức ăn ư?
- Này Blaisois, - Mousqueton nói :
- Cậu nên nhớ rằng bánh mì là thức ăn thật sự của người Pháp, mà không phải lúc nào người Pháp cũng có bánh mì ăn đâu; hỏi Grimaud mà xem.
Với một sự nhanh nhẹn nó làm vinh dự cho tài ứng đối lanh lợi của mình, Blaisois đáp:
- Phải, nhưng mà rượu bia thì có phải là thức uống của người Pháp không?
Mắc bí và lúng túng, Mousqueton ậm ừ đáp:
- Về điểm này thì đúng là không thật và người Pháp ác cảm với rượu bia cũng như người Anh ác cảm với rượu vang.
Bình thường, Blaisois vẫn phục lăn những kiến thức sâu xa của Mousqueton, nhưng lần này hắn đâm ra hoài nghi và hỏi:
- Ông Mousqueton ơi, thế những người Anh không thích rượu vang như thế nào?
- Họ ghét rượu vang.
- Ấy thế mà tôi đã trông thấy họ uống đấy.
- Chịu hình phạt thôi, - Mousqueton vênh vang nói - Chứng cớ là một ông hoàng người Anh đã chết vì người ta nhét vào một thùng rượu bồ đào. Tôi đã nghe ông tu viện trưởng D Herblay kể như vậy.
- Cái thằng ngốc thật! - Blaisois nói, - Tôi rất mong ở vào địa vị của hắn.
- Cậu có thể làm được đấy? - Grimaud vừa ghi chép các con số vừa nói.
- Sao tôi lại có thể làm như vậy? - Blaisois hỏi.
Grimaud lẩm bẩm nhẩm nhớ bốn và chuyển con số đó sang cột bên cạnh rồi đáp:
- Được đấy!
- Tôi làm được ư, bác Grimaud? Bác giải thích xem.
Trong khi Blaisois nêu những câu hỏi, thì Mousqueton vẫn giữ im lặng, nhưng qua vẻ mặt anh ta thấy rõ chẳng phải là thản nhiên.
Grimaud vẫn lẩm nhầm tính cộng và viết xong tổng số. Bác chỉ tay về phía khoang tàu đầu tiên mà bác và d Artagnan đã đến xem và nói:
- Porthos.
- Sao? Những thùng gỗ mà tôi đã nhìn thấy qua cánh cửa hé mở ấy à?
- Porthos, Grimaud nhắc lại và lại bắt đầu một con toán mới.
Blaisois nói với Mousqueton:
- Tôi nghe nói portos là một thứ rượu vang ngon tuyệt của Tây Ban Nha.
- Ngon tuyệt! - Mousqueton vừa đáp vừa liếm mép, - Ngon tuyệt. Trong hầm của ông nam tước đở Bracieux có thứ rượu ấy.
Gã Blaisois thật thà bảo:
- Giá chúng ta nài bọn Anh bán cho một chai nhỉ?
Mousqueton chợt trở lại với những bản tính ăn trộm cũ hắn nói:
- Bán à! Chàng nhỏ ơi, người ta thấy rõ là cậu chưa có kinh nghiệm việc đời. Tại sao lại đi mua trong khi có thể lấy được.
- Ấy à? - Blaisois đáp - Thèm muốn của người khác - hình như là điều cấm đấy!
- Ở đâu nào - Mousqueton hỏi.
Trong những điều răn của Chúa hoặc Nhà thờ gì đó tôi không nhớ rõ. Nhưng điều tôi biết là có câu:
Của người khác
Chớ có thèm,
Vợ người ta
Chớ tòm tem.
Bằng giọng kẻ cả nhất, Mousqueton nói:
- Lại một lý sự trẻ con. Phải trẻ con. Tôi xin nhắc lại, ông Blaisois ạ. Tôi xin hỏi ông, trong các kinh Thánh có chỗ nào ông thấy nói rằng bọn Anh là người đồng loại của ông không?
- Đúng là không thấy ở đâu cả, hoặc giả là tôi không nhớ.
- Lý sự của trẻ con, tôi xin nhắc lại, - Mousqueton nói - Blaisois thân mến ơi, nếu cậu đi chinh chiến mười năm như Grimaud hoặc tôi đây, cậu sẽ biết phân biệt của người khác với của kẻ thù. Tôi nghĩ rằng do người Anh là một kẻ thù, mà rượu vang porto kia lại là của người Anh; vậy thì nó là của chúng ta, vì chúng ta là người Pháp. Cậu không biết câu cách ngôn này ư: Của quân thù tha hồ mà lấy.
Tài lém miệng ấy được nhấn mạnh bằng tất cả quyền uy mà Mousqueton rút ra từ kinh nghiệm lâu đài khiến Blaisois kinh ngạc.
Hắn cúi đầu như để suy ngẫm và đột nhiên ngẩng đầu lên như một kẻ được trang bị một lý lẽ không thể cưỡng nổi. Hắn nói:
- Ông Mousqueton ơi, thế các vị chủ của chúng ta có tán thành ý kiến của ông không?
Mousqueton mỉm cười khinh khỉnh và nói:
- Có lẽ tôi phải đến quấy rầy giấc ngủ của các vị công hầu trứ danh ấy để nói rằng: "Thưa các ngài, tên Mousqueton, đầy tớ của các ngài đang khát, các ngài cho phép nó uống không ạ?" Tôi xin hỏi các bạn, tôi khát hay không thì có can hệ gì đến ông de Bracieux?
Blaisois lắc đầu nói:
- Thứ rượu ấy đắt lắm.
- Blaisois ơi, - Mousqueton nói, - Dù có là vàng nước uống được chăng nữa, thì các ông chủ của chúng ta cũng chẳng nhịn đâu. Nên biết rằng, nam tước de Bracieux khá giàu để uống một mình một thùng rượu portos, dẫu phải trả mỗi giọt rượu một pistol.
Càng lúc càng vênh vang hãnh diện, Mousqueton nói tiếp:
- Mà các ông chủ đã không nhịn rượu thì việc gì các đầy tớ lại nhịn?
Rồi Mousqueton cầm lấy bình rượu bia đem dốc hết ra ngoài cửa sổ thành tàu và oai vệ tiến đế phía cửa thông ra khoang tàu.
- A, a. - Hắn nói, - Cửa đóng rồi? Cái bọn quỷ sứ Anh cát lợi này là đa nghi quá nhỉ?
- Cửa đóng à? - Blaisois nói với giọng thất vọng không kém. - Khổ thân tôi, bụng tôi càng nôn nao dữ.
Mousqueton quay về phía Blaisois với bộ mặt thật là thảm hại, rành rành là hắn chia sẻ đến cao độ nỗi thất vọng của thằng bạn trẻ.
- Cửa đóng! - Hắn nhắc lại.
- Nhưng mà, - Blaisois nói ướm, - Anh Mousqueton ơi tôi đã nghe anh kể rằng, hồi còn trẻ có lần ở Chantilly anh đã nuôi nấng chủ anh và bản thân anh bằng cách đánh bẫy chim trĩ, câu cá chép và quăng thòng lọng các chai rượu thì phải.
- Tất nhiên, - Mousqueton đáp, - Hoàn toàn đúng như vậy, và Grimaud kia, có thể nói cho cậu nghe. Nhưng mà hầm rượu có cửa thông gió, và rượu đóng vào chai? Tôi không thể quăng thòng lọng qua vách tường này, cũng không thể dùng một sợi dây nhỏ kéo cả một thùng rượu đến hai tạ.
- Không, - Blaisois nói,
- Nhưng anh có thể nhấc vài ba tấm ván ở vách ra và lấy khoan khoan một lỗ ở một thùng rượu chứ.
Mousqueton trợn tròn mắt lên và nhìn Blaisois như một người rất đỗi ngạc nhiên tìm thấy ở một kẻ khác những đức tính không ngờ tới, hắn nói:
- Đúng đấy, có thể làm như vậy. Nhưng kiếm đâu ra một cái đục để nậy ván và một cái khoan để khoan thùng?
Vừa kết sổ thu chi, Grimaud vừa nói:
- Cái túi đồ nghề.
- A, phải rồi, cái túi đồ nghề, - Mousqueton nói, - Thế mà mình không nghĩ ra.
Thật vậy, Grimaud không chỉ là quản lý của đoàn mà còn là thợ sửa chữa binh khí nữa, ngoài quyển sổ, bác còn một túi đồ nghề. Do Grimaud là một con người cực kỳ thận trọng, cái túi đồ nghề của bác xếp cẩn thận trong va-li, đựng các thứ dụng cụ cần thiết nhất. Trong cái túi có một mũi khoan to vừa phải. Mousqueton chộp lấy ngay.
Còn cái đục, chẳng phải tìm đâu xa; con dao găm đeo ở thắt lưng dùng thay còn lợi hơn. Mousqueton tìm một chỗ có tấm ván long ra, điều ấy dễ thôi, và bắt tay ngay vào việc.
Blaisois xem làm với vẻ khâm phục xen lẫn nôn nóng; chốc chốc hắn lại góp ý về cách nậy một cái đinh hoặc thực hành những lời khuyên thật thông minh và sáng suốt.
Sau một lúc Mousqueton đã nậy ra được ba tấm ván.
- Đấy! - Blaisois nói.
Mousqueton trái ngược với con ếch trong ngụ ngôn cứ tưởng rằng mình to hơn thật. Khốn thay, nếu hắn ta đã rút gọn cái tên mình được một phần ba, thì hắn lại chẳng làm được như vậy cho cái bụng của mình.
Hắn thử chui qua cái lỗ hổng vừa mở xong, nhưng đau khổ thay, vì thấy còn phải nậy ít ra vài ba tấm ván ra thì hắn mới chui lọt.
Hắn buông một tiếng thở dài và lui ra để tiếp tục công việc.
Lúc ấy Grimaud đã tính toán xong. Rất thích thú với công việc đang tiến hành, bác đứng dậy đi tới chỗ các bạn và nom thấy nhưng cố gắng vô ích của Mousqueton để chui sang bên kia.
- Để tôi - Grimaud bảo.
Chỉ một tiếng đó với riêng bác giá trị bằng một đoản thi và như người ta biết một đoản thi với riêng bác giá trị bằng một bản trường thi. Mousqueton quay lại hỏi:
- Sao, bác à?
- Tôi, tôi sẽ qua?
Liếc nhìn thân hình dài và mảnh của bạn, Mousqueton nói:
- Đúng thế, bác sẽ qua được, và dễ dàng là khác.
- Phải đấy, - Blaisois nói, - Bác ấy biết rõ những thùng đầy vì đã vào hầm cùng với ông hiệp sĩ d Artagnan. Mousqueton, hãy để bác Grimaud qua.
Mousqueton hơi tự ái, nói:
- Tôi cũng qua dễ dàng được như Grimaud.
- Ừ nhưng mà sẽ lâu hơn và tôi đã khát khô cổ rồi. Bụng tôi càng ngày càng nôn nao.
Mousqueton đưa cái bình đựng rượu bia và mũi khoan cho kẻ thay mình làm cuộc mạo hiểm và nói:
- Vậy thì sang đi, Grimaud.
- Chuẩn bị cốc sẵn đi, - Grimaud bảo.
Và bác tỏ một cử chỉ thân ái với Mousqueton để hắn tha thứ cho bác đang kết thúc một công việc đã được một kẻ khác khởi đầu rất xuất sắc. Rồi như một con rắn ráo bác trườn vào cái lỗ hổng và biến mất.
Blaisois say sưa đến mê hồn. Trong tất cả những chiến công thực hiện được từ khi sang nước Anh bởi những con người phi thường mà bọn họ có cái may mắn được giúp việc, thì chiến công này đối với hắn dường như dứt khoát là kỳ diệu hơn cả.
Mousqueton nhìn Blaisois với vẻ thân thiện mà nó cũng không tìm cách lẩn tránh và nói:
- Blaisois, rồi cậu xem, những lính tráng kỳ cục như chúng tớ, khi khát chúng tớ uống như thế nào.
Từ cuối hầm tàu. Grimaud bảo:
- Cái áo choàng.
- Đúng thế. - Mousqueton nói.
- Bác ấy muốn gì? - Blaisois hỏi.
- Bịt lỗ hổng bằng cái áo choàng.
- Để làm gì cơ?
- Sao mà ngốc thế? - Mousqueton nói. - Nếu có ai vào thì sao?
- À, đúng thật! - Blaisois kêu lên với niềm thán phục ngày càng rõ rệt. - Nhưng như thế thì bác ấy trông rõ sao được.
- Grimaud lúc nào cũng nhìn rõ, - Mousqueton đáp, - Ban đêm cũng như ban ngày.
- Bác ấy sướng nhỉ, - Blaisois nói, - Ban đêm không có đèn nên thì tôi cũng chẳng đi nổi hai bước mà không cụng dầu.
- Ấy là vì không phục vụ trong quân ngũ. - Mousqueton nói.
Nếu có thì cậu đã học được cách lấy một cái kim từ trong lò ra.
- Nhưng thôi, im lặng! Hình như có người đến.
Mousqueton hú một tiếng sáo báo động quen thuộc với bọn đầy tớ hồi còn trẻ, rồi ngồi vào bàn và ra hiệu cho Blaisois làm theo.
Blaisois tuân lời.
Của mở. Hai người trùm áo choàng xuất hiện. Một người lên tiếng:
- Ồ, ồ! Mười một giờ mười lăm rồi mà chưa đi ngủ à? Thế là trái điều lệnh đấy. Mười lăm phút nữa phải tắt hết đèn đóm và mọi người phải ngáy đều rồi.
Hai người bước đến cái cửa khoang nơi Grimaud đã chui vào, mở cửa, đi vào và đóng cửa lại:
Blaisois run rẩy nói:
- Thôi chết rồi, bác ấy nguy to.
- Grimaud cáo già lắm! - Mousqueton lẩm bẩm.
Và họ đợi chờ, dỏng tai nghe và nín thở.
Mười phút trôi qua, trong khi đó không có tiếng động gì đáng nghi ngại là Grimaud bị lộ.
Cánh cửa lại mở, hai người khoác áo choàng đi ra và khép cửa lại cũng thận trọng như khi họ vào, rồi đi ra ngoài sau khi ra lệnh tắt đèn đi ngủ.
Blaisois thì thào:
- Ta có tuân lệnh không? Tôi thấy họ có điều gì ám muội.
Họ bảo mười năm phút, ta còn năm phút nữa, - Mousqueton nói.
- Ta báo cho ông chủ biết chăng?
- Đợi Grimaud đã.
- Nhưng nếu họ giết bác ấy rồi thì sao?
- Thì Grimaud phải kêu chứ.
- Anh biết, bác ấy như câm ấy mà.
- Thì ta cũng phải nghe tiếng đánh nhau.
- Nhưng nếu bác ấy không ra?
- Bác ta đây rồi.
Quả thật, đúng lúc ấy, Grimaud vén tấm áo choàng lên, thò ra khỏi lỗ hổng một khuôn mặt tái nhợt, đôi mắt hoảng sợ trợn tròn lên để lộ một đồng tử nhỏ giữa một vòng trắng lớn. Bác cầm ở tay cái bình bia đựng đầy một chất gì đó đem lại gần ánh đèn bốc khói để soi và thốt ra một tiếng ối! Với vẻ khiếp đảm hết sức khiến Mousqueton hoảng sợ lùi lại một bước và Blaisois suýt ngất.
Tuy nhiên cả hai người cũng tò mò nhìn vào cái bình bia, nó đựng đầy thuốc súng.
Tin chắc rằng con tàu chở thuốc nổ, chứ không phải rượu vang, Grimaud băng mình lên cửa quầy tàu, nhảy một bước đến phòng các ông chủ ngủ. Bác đẩy khẽ cửa, cánh cửa chạm vào người d Artagnan khiến anh choàng dậy.
Vừa trông thấy bộ mặt thất sắc của Grimaud, anh hiểu ngay là có việc gì bất trắc xảy ra và toan kêu lên. Nhưng Grimaud bằng một cử chỉ nhanh hơn lời nói đặt một ngón tay lên miệng anh và bằng một hơi thở mạnh không ngờ có trong một thân hình mảnh dẻ như vậy, bác thổi tắt ngọn đèn đêm ở cách đó ba bước.
D Artagnan tì tay nhổm người lên, Grimaud quỳ một chân xuống sàn và vươn dài cổ, mọi giác quan kích động cực độ, bác thì thầm kể vào tai anh một câu chuyện xét cho cùng khá là nguy kịch để khỏi phải dùng đến cử chỉ và nét mặt.
Trong khi đó, Arthos, Porthos và Aramis ngủ nhưng những người đã thức trắng tám ngày qua; và ở sàn giữa Mousqueton đang thận trọng buộc các dây ngù, còn Blaisois sợ dựng cả tóc gáy cũng cố làm theo.
Việc đó đã diễn ra như thế nào?
Vừa mới chui qua lỗ hổng vào khoang tàu đầu tiên là bác tìm đến một thùng rượu. Bác gõ lên thấy thùng rỗng. Bác sang một thùng khác cũng lại thùng rỗng.
Nhưng đến thùng thứ ba gõ thì nghe tiếng đùng đục không thể sai được là thùng này đầy.
- Hay lắm, - Grimaud nói, - Thế là đỡ công đục.
Bác ghé bình bia vào, mở vòi thì thấy có chất gì chảy rất êm và chậm từ thùng ra.
Rất có ý thức là không thể mang về cho đồng đội một thứ rượu mà mình không thể bảo đảm, Grimaud trước hết cẩn thận đóng vòi lại và đưa bình lên miệng để nếm thì nghe thấy tiếng báo động của Mousqueton.
Nghi là có cuộc tuần tra đêm, bác lách mình vào kẽ hai cái thùng và nấp sau một chiếc.
Quả nhiên một lát sau, cửa mở ra rồi đóng lại, sau khi hai người khoác áo choàng vào như chúng ta đã biết lúc họ xuất hiện và ra lệnh cho Blaisois và Mousqueton tắt đèn.
Một người cầm một chiếc đèn có kính che kín và cao để ngọn lửa không bốc khói lên. Hơn nữa kính lại được che bằng tờ giấy trắng để làm dịu hoặc đúng hơn là hút bớt ánh sang và độ nóng.
Người ấy là Groslow.
Người kia tay cầm một vật gì đó dài, dẻo và lại như một sợi dây thừng ngà ngà. Khuôn mặt hắn ta che một chiếc mũ rộng vành.
Grimaud tưởng rằng một sự thèm khát giống như của bác đã cuốn hút họ vào trong hầm và đến thăm chất rượu portos. Bác càng nép mình vào sau thùng rượu và bụng bảo dạ rằng nếu mình có bị phát hiện thì tội cũng chẳng lấy gì làm ghê gớm lắm.
Đến chỗ cái thùng mà Grimaud nấp ở phía sau hai người kia dừng lại.
Người cầm đèn lồng hỏi bằng tiếng Anh:
- Ông mang dây cháy đây chứ?
- Dây cháy đây, - Người kia đáp.
Nghe giọng nói người vừa đáp, Grimaud giật mình và cảm thấy ớn lạnh đến tận tuỷ sống. Bác khẽ nhổm đầu lên khỏi nắp thùng gỗ và nhận ra dưới cái mũ rộng vành khuôn mặt xanh xao của Mordaunt. Hắn hỏi:
- Dây này cháy độ bao lâu.
- Độ gần năm phút, - Chủ tàu đáp.
Giọng nói này cũng chẳng xa lạ với Grimaud. Bác nhìn và nhận ra Groslow.
- Vậy thì, - Mordaunt nói, - Ông báo cho người của ông hãy sẵn sàng, đừng nói để làm gì cả. Cái xuồng nhỏ vẫn neo theo tàu chứ?
- Giống như một con chó sói dắt đi theo chủ bằng một sợi dây gai...
Như vậy khi đồng hồ chỉ mười hai giờ mười lăm phút, các ông lẳng lặng xuống chiếc xuống.
- Sau khi châm lửa vào dây cháy à?
- Việc đó tôi lo. Tôi muốn thật chắc chắn về cuộc trả thù của tôi.
- Cái mái chèo ở trong xuống chứ?
- Mọi thứ đều sẵn sàng.
- Như vậy là thoả thuận rồi nhé!
Mordaunt quỳ xuống buộc một đầu dây cháy vào cái vòi thùng; để chỉ còn có việc châm lửa vào đầu dây kia.
Xong việc đó, hắn rút đồng hồ ra, đứng dậy và bảo:
- Ông nhớ rồi chứ? Đến mười hai giờ mười lăm, nghĩa là...
Hắn nhìn đồng hồ.
- Còn hai mươi phút.
- Tốt lắm, - Groslow đáp, - Tuy nhiên tôi cần lưu ý ông một lần cuối cùng rằng có nguy hiểm trong việc ông tự dành lấy, và có lẽ nên sai một người của chúng ta đốt dây mìn thì tốt hơn.
- Ông Groslow ơi, - Mordaunt nói, - Ông biết câu tục ngữ Pháp: "Mình làm lấy, thấy yên tâm". Tôi sẽ đem áp dụng nó.
Grimaud đã lắng nghe tất cả. Con mắt bác đã bù vào chỗ không hiểu hết lời nói. Bác đã trông thấy và nhận ra hai kẻ tử thù của bốn chàng ngự lâm quân. Bác đã tận mắt nhìn thấy Mordaunt đặt dây mìn và chính tai nghe thấy hắn nói câu tục ngữ bằng tiếng Pháp nên càng dễ đoán ra.
Cuối cùng bác sờ đi sờ lại cái chất đựng trong bình nó chẳng phải chất lỏng như Mousqueton và Blaisois chờ đợi, mà lại là những hạt bột thô nó kêu sin sít và tan vỡ ra trong tay bác.
Mordaunt rời gót cùng với thuyền trưởng. Tới cửa hắn dừng lại nghe ngóng và nói:
- Ông nghe chúng nó ngủ có mê không?
Thực vậy, qua ván sàn vẫn nghe thấy Porthos ngáy.
- Đúng là Chúa giao chúng nó cho ta! - Groslow nói.
- Lần này thì quỷ cũng không cứu được chúng nó!
Và cả hai đi ra.
Đợi nghe tiếng khoá cửa vặn xong và chắc chắn còn lại một mình, Grimaud từ từ đứng dậy dọc theo thành vách.
Bác giơ ống tay áo quệt những giọt mồ hôi lã chã trên trán và nói:
- Ái chà! May mắn làm sao mà Mousqueton lại khát.
Bác vội vàng chui ra khỏi lỗ hổng, ngỡ mình vẫn còn mơ; nhưng nhìn thấy thuốc nổ trong bình bia bác thấy rõ giấc mơ đó là cơn ác mộng chết người.
Như ta đoán biết, d Artagnan nghe kể tất cả những chi tiết ấy với sự chú ý ngày càng tăng. Và chẳng đợi Grimaud kể xong, anh nhẹ nhàng đứng lên và quay sang phía Aramis nằm ở bên trái, anh vửa ghé tai vừa vỗ vào vai bạn để phòng ngừa mọi động tác phản ứng đột ngột. Anh bảo.
- Hiệp sĩ ơi, dậy đi và chớ có gây tiếng động.
Aramis tỉnh giấc, d Artagnan nhắc lại câu nói và nắm lấy tay bạn. Aramis tuân theo.
- Arthos nằm bên trái cậu, - D Artagnan nói tiếp, - Hãy báo cho anh ấy biết như tôi đã nói với cậu.
Aramis đánh thức Arthos thật dễ dàng vì giấc ngủ của anh nhẹ nhàng như của những bản chất tinh vi và nhạy cảm. Nhưng đánh thức Porthos thì khó khăn hơn.
Anh ta sắp sửa hỏi những nguyên nhân và duyên cớ làm sao anh ta mất giấc và rất bực mình, thì d Artagnan thay cho mọi lời giải thích lấy tay bịt miệng anh ta lại.
Rồi chàng Gascon giơ tay kéo các bạn lại gần thành thử họ như chụm đầu lại với nhau. Anh bảo:
- Các bạn ơi, ta phải rời tàu ngay lập tức, nếu không thì chết cả lũ bây giờ.
- Ô hay! - Arthos nói, - Lại còn thế nữa kia à?
- Các cậu có biết thuyền trưởng là ai không?
- Không.
- Đại uý Groslow.
Một cái rùng mình của các bạn cho d Artagnan hay là câu chuyện của anh bắt đầu gây tác động đến họ.
- Groslow à, quỷ thật? - Aramis nói.
- Groslow là gì? - Porthos hỏi, - Tôi chẳng nhớ nữa.
- Cái kẻ đã đập vỡ đầu Parry và giờ đây đang sửa soạn đập vỡ đầu chúng ta.
- Ô, ồ!
- Còn viên trung uỷ của hắn ta, các cậu có là biết ai không?
- Trung uý của hắn ta à? - Arthos nói - Trong một cái tàu buồm bốn người không có trung uý đâu.
- Nhưng Groslow không phải là đại uý thuyền trưởng như một người khác. Hắn có một trung uý trợ giúp, và viên trung uý ấy là Mordaunt.
Lần này thì các ngự lâm quân không còn rùng mình mà gần như là bật kêu lên. Những con người không thể chiến bại ấy bị khuất phục trước thế lực huyền bí và bất hạnh mà cái tên kia gây ra và họ cảm thấy kinh hoàng khi chỉ mới nghe thốt ra cái tên ấy.
- Làm thế nào bây giờ? - Arthos hỏi.
- Ta chiếm lấy con tàu, - Aramis đáp.
- Và giết phăng nó đi, - Porthos nói.
- Tàu bị đặt mìn rồi, - D Artagnan nói. - Những thùng gỗ mà tôi tưởng chứa đầy rượu. Porthos toàn là những thùng thuốc nổ. Khi Mordaunt thấy hắn bị lộ, hắn sẽ cho nổ tung cả bạn cả thù, và thực tình đó là một ông bạn khó chơi, nên tôi chẳng thích đánh bạn với ông ta dù ở trên trời hay dưới địa ngục.
- Vậy cậu có một kế hoạch rồi - Arthos hỏi.
- Có
- Thế nào?
- Các cậu có tin cậy tôi không?
- Cứ ra lệnh đi! - cả ba chàng ngự lâm cùng nói.
- Thế thì, lại đây.
D Artagnan đi tới một cửa sổ thấp như cửa dùng để thoát nước ở mạn tàu, nhưng vừa cho một người chui qua và đẩy nhẹ trên bản lề.
- Đường đi đây, - Anh nói.
- Ôi chao, - Aramis nói, - Các bạn ơi, trời rét cắt da cắt thịt thế này.
- Nếu cậu muốn thì cứ ở lại; nhưng tôi báo cho cậu biết rằng lát nữa sẽ nóng giẫy lên đấy.
- Nhưng chúng ta không bơi vào bờ được.
- Một chiếc xuống được dắt theo tàu. Tất cả chỉ có thế. Đi thôi, các cậu
- Khoan đã, - Arthos nói, - Bọn đầy tớ đâu?
- Chúng tôi đây! - Mousqueton và Blaisois đáp.
Grimaud đã đi tìm họ để tập trung tất cả lực lượng vào phòng, họ theo lối cửa quầy ở gần giáp cửa đi vào mà chẳng bị trông thấy.
Tuy nhiên ba người bạn đứng lặng yên trước quang canh hãi hùng mà d Artagnan đã mở ra trước mắt họ khi nâng tấm cửa che lên.
Thtc vậy, bắt cứ ai đã nhìn thấy cảnh tượng đó một lần đều biết rằng không có gì tác động sâu sắc hơn mặt biển động rì rầm cuồn cuộn những con sóng đen ngòm dưới ánh trăng nhợt nhạt đêm đông.
- Mẹ kiếp! - D Artagnan nói, - Hình như chúng ta do dự. Chúng ta do dự thì bọn đầy tớ của chúng ta sẽ thế nào?
- Tôi chẳng do dự đâu, - Grimaud nói.
- Thưa ông, - Blaisois nói, - Tôi xin báo trước là tôi chỉ biết bơi ở trong sông ngòi thôi.
- Còn tôi, - Mousqueton nói - Tôi chẳng biết bơi chút nào hết.
Trong lúc đó, d Artagnan lách mình qua ô cửa.
- Bạn ơi, cậu quyết định rồi ư? - Arthos hỏi.
- Phải, - Chàng Gascon đáp. - Này, Arthos, anh là người hoàn hảo, anh hãy bảo tinh thần chế ngự thể chất. Anh, Aramis, hãy dặn dò bọn đầy tớ. Anh Porthos, hãy giết tất cả những gì cản trở chúng ta.
Rồi, sau khi siết tay Arthos, d Artagnan lợi dụng thời cơ lúc tàu đang dập dờn nghiêng ngả chìm ở phía đuôi, anh trườn xuống nước và đã ngập đến thắt lưng.
Arthos xuống theo ngay trước khi tàu dềnh lên. Sau đó đuôi tàu nhô lên và người ta trông thấy sợi chão buộc chiếc xuống căng ra trên mặt nước.
D Artagnan bơi đến nắm lấy sợi chão. Anh đợi ở đó, đầu mấp mé mặt nước, tay bám sợi dây.
Một giây sau Arthos đã tới chỗ anh.
Rồi ở chỗ ngoặt của đuôi tàu, hai cái đầu khác ló ra. Đó là Aramis và Grimaud.
- Tôi lo cho Blaisois, - Arthos nói, - D Artagnan cậu có nghe nó nói rằng nó chỉ biết bơi ở sông ngòi không?
- Khi người ta biết bơi thì ở đâu cũng bơi được, - D Artagnan đáp - Lên thuyền, lên thuyền đi.
- Nhưng chưa thấy Porthos đâu.
- Porthos sẽ tới. Cứ yên trí, hắn bơi như Eviathan(1) vậy.
Nhưng không thấy Porthos đâu thật; bởi vì một màn kịch nửa bi nửa hài đã diễn ra giữa anh với Mousqueton và Blaisois.
Hai gã này hoảng sợ vì tiếng sóng vỗ, tiếng gió gào, kinh hãi trước đám nước đen ngòm sôi sục trong cái hốc sâu thẳm, hai gã chẳng dám tiến mà lùi lại.
- Nào, nào, - Porthos bảo, - Xuống nước đi
- Nhưng thưa ông, - Mousqueton nói, - Tôi không biết bơi, hãy để tôi lại đây - Ông ơi, tôi cũng vậy, - Blaisois nói.
- Tôi bảo đảm là sẽ tôi ôm các cậu sang thuyền, Porthos nói.
- Nhưng chắc chắn rằng ta sẽ chìm nghỉm trước khi tới đó, - Blaisois mếu máo.
- Ái chà, ta sẽ bóp chết cả hai đứa nếu chúng mày không đi ra.
- Porthos vừa nói vừa túm lấy cổ chúng. - Tiến lên, Blaisois.
Một tiếng rên rỉ bị dập tắt bởi bàn tay sắt của Porthos là tất cả câu trả lời của Blaisois; vì rằng ông hộ pháp nắm lấy cổ và chân nó và quăng nó như một tấm ván qua cửa sổ đầu cắm xuống biển.
- Bây giờ Mousqueton, - Porthos nói, - Ta hi vọng rằng mày không rời bỏ chủ mày chứ!
Nước mắt rưng rưng, Mousqueton đáp:
- Ối ông ơi, tại sao ông lại lập lại những lời ấy làm gì? Chúng ta ở lâu đài Pierrefonds sung sướng bao nhiêu.
Rồi không nói thêm một lời oán trách nào khác, hắn trở nên tư lự và vâng lời, hoặc vì tận tâm thật, hoặc vì tấm gương của Blaisois.
Mousqueton lao đầu xuống biển. Dù sao đó cũng là một hành động vì Mousqueton tưởng phen này chết thật.
Nhưng Porthos không phải người bỏ rơi đồng đội như vậy. Ông chủ nhảy liền theo chân đầy tớ, nên hai người rơi mà chỉ nghe tõm cùng một tiếng. Thành thử khi Mousqueton vừa ngoi lên mặt nước, mắt loá đi, thì đã thấy mình được giữ bởi bàn tay to tướng của Porthos, và hắn chẳng cần cử động chút nào cũng vẫn lừ lừ tiến về cái dây chão với vẻ oai vệ của một vị thuỷ thần.
Cùng lúc ấy, Porthos thấy ở tầm tay với của mình một vật gì đang xoáy theo dòng nước. Anh túm lấy tóc, thì ra là Blaisois mà Arthos cũng đang ra đón.
- Thôi, thôi, bá tước, không cần đến anh đâu! - Porthos nói.
Quả thật, nhoài chân mạnh một cái Porthos đã đứng thẳng lên như người khồng lồ Adamaxto trên ngọn sóng, và ba cái nhoài nữa anh đã tới được chỗ các đồng đội.
D Artagnan, Aramis và Grimaud giúp Mousqueton và Blaisois leo lên thuyền. Rồi đến lượt Porthos, anh trèo qua mạn thuyền khiến nó suýt bị lật úp.
- Còn Arthos đâu? - D Artagnan hỏi.
- Tôi đây, - Arthos đáp.
- Đủ cả rồi, - D Artagnan đáp. - Còn anh, Arthos, có giữ dao găm đấy chứ?
- Vậy thì cắt dây chão đi và lên đây.
Arthos rút từ thắt lưng con dao găm sáng loáng và cắt dây. Con tàu rời xa. Chiếc thuyền dừng lại bị sóng đánh dập dềnh.
- Lên đi, Arthos! - D Artagnan nói.
Và giơ tay cho bá tước de La Fère leo lên và ngồi vào trong thuyền.
- Vừa kịp, - chàng Gascon nói,
- Và các anh sắp trông thấy một điều kỳ lạ.
Chú thích:
(1) Quái vật trong thần thoại Phênixi, tuyệt vời
-*-*-*-
Chương 77
Định mệnh
Quả nhiên, d Artagnan vừa dứt lời thì một tiếng còi vang trên chiếc tàu buôm, nó bắt đầu xuyên vào trong sương mù và bóng đêm. Anh nói tiếp:
- Các anh biết đấy, điều ấy có nghĩa là gì rồi.
Lúc ấy người ta trông thấy một chiếc đèn lồng xuất hiện trên boong và những bóng đen ở đuôi tàu.
Bỗng nhiên một tiếng kêu khủng khiếp một tiếng kêu tuyệt vọng xuyên qua khoảng không và dường như tiếng kêu ấy xua đuổi mây đi, tấm màn che khuất mặt trăng bỗng phanh ra và người ta nhìn thấy in lên trên nền trời xanh bàng bạc nhưng cánh buồm xám và những sợi dây đen của con tàu.
Trên tàu, những bóng đen chạy cuống quýt, những tiếng kêu thảm thiết hoà nhập với những điệu vũ điên loạn ấy.
Giữa những tiếng kêu hoảng hốt, trên vầng sáng ở đuôi tàu người ta thấy xuất hiện Mordaunt tay cầm một bó đuốc.
Những bóng đen chạy cuống quýt ở trên tàu kia, đó là Groslow tới giờ quy định với Mordaunt đã tập hợp người của mình lại. Còn Mordaunt sau khi nghe ngóng ở cửa phòng các ngự lâm quân xem họ có ngủ yên không, thấy yên tĩnh, hắn yên tâm và đi xuống hầm tàu. Thực vậy, ai có thể nghi ngờ những việc vừa xảy ra? cho nên Mordaunt mở cửa và chạy đến chỗ những thùng thuốc súng. Cuồng nhiệt như một kẻ khao khát trả thù và vững tin ở mình như những kẻ mà Chúa đã mê hoặc, hắn châm lửa vào đây mìn.
Trong khi ấy, Groslow và các thuỷ thủ tập trung ở đuôi tàu - Kéo dây đi, - Groslow bảo, - Kéo xuồng lại phía chúng ta.
Một thuỷ thủ trèo qua thành tàu, nắm sợi dây chão và kéo, sợi dây cứ trôi tuồn tuột chẳng nặng nề vướng víu gì.
- Dây chão bị đứt rồi! - Người thuỷ thủ kêu lên. - Không còn xuồng nữa!
- Sao! Không còn xuống à? - Groslow vừa nói vừa lao ra bao lơn tàu - Không thể như thế được?
- Nhưng đúng là như vậy, - Thuỷ thủ đáp, - Xin ông hãy nhìn xem: chẳng có vệt nước kéo theo và dầu dây chão đây thôi.
Ấy là lúc Groslow kêu thất thanh và các chàng ngự lâm quân nghe thấy.
- Có chuyện gì thế? - Mordaunt vừa chạy ra hỏi và cũng lao về phía sau, tay cầm đuốc.
- Quân địch tẩu thoát rồi! Chúng đã cắt dây và dùng xuống để trốn.
Mordaunt nhảy vọt một cái tới cửa phòng và đạp tung cửa ra.
- Trống rỗng! - Hắn kêu lên. - Ôi! Bọn quỷ quái !
- Chúng ta sẽ đuổi theo chúng, - Groslow nói - Chúng nó chưa thể đi xa đâu, và ta sẽ đánh chìm chúng bằng cách đè lên thuyền chúng.
- Ờ nhưng mà lửa! - Mordaunt nói, - Tôi đã châm.
- Châm vào đâu?
- Vào đây mìn - Chết cha rồi! - Groslow gầm lên và nhảy bổ đến cửa kho.
- May ra còn kịp chăng?
Mordaunt chỉ đáp lại bằng một tiếng cười ghê rợn. Nét mặt xáo động vì hận thù hơn là vì khiếp sợ, hắn ngước nhìn trời bằng cặp mắt lơ láo như muốn ném lên đó một lời phỉ báng cuối cùng. Trước tiên hắn ném bó đuốc xuống biển, rồi hắn nhảy xuống theo.
Cùng lúc ấy Groslow vừa đặt chân xuống cầu thang hầm tàu thì con tàu mở hoác ra như miệng một ngọn núi lửa, một ngọn lửa vọt lên trời cùng với một tiếng nổ giống như cả trăm khẩu đại bác cùng bắn đồng thời.
Bầu trời đỏ rực, những mảnh tàu vỡ cũng rực lửa văng vọt tứ tung. Rồi ánh chớp kinh khủng tắt, những mảnh vỡ là tả rơi xuống, run rẩy trong vực thẳm và tắt ngấm, và trừ một chấn động trong không trung, sau một lát, người ta tưởng như không có gì xảy ra cả.
Riêng có chiếc tàu đã biến mất khỏi mặt biển, cả Groslow, cả ba thuỷ thủ tiêu ma.
Bốn người bạn đã trông thấy hết cả, không bỏ sót một chi tiết nào của tấn thảm kịch ghê gớm ấy. Bị chìm ngập chốc lát trong ánh sáng chói lọi nó soi rọi mặt biển xa đến hơn một dặm, người ta có thể nom thấy họ mỗi người trong một tư thế khác nhau, nhưng cùng biểu lộ một nỗi kinh hoàng mà mặc dầu lòng gan dạ sắt họ không thể không cảm thấy rõ rệt. Rồi những tàn lửa rơi quanh họ; cuối cùng ngọn núi lửa tắt như chúng tôi đã kể, và tất cả lại rơi vào bóng đêm, con thuyền gập ghềnh và mặt biển động sóng.
Họ yên lặng và rã rời trong một lát. Porthos và d Artagnan mỗi người cầm một mái chèo cứ giữ nguyên nó trên mặt nước, tì cả người lên và quặp chặt lấy nó.
Aramis là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng chết chóc đó. Anh nói.
- Thực tình tôi tin rằng lần này mọi sự đều kết thúc.
- Cứu tôi với các ngài ơi! Cứu tôi với!
Một tiếng kêu bi thảm vang lên giống như tiếng kêu của một hồn ma nào trên biển.
Mấy người bạn nhìn nhau. Ngay Arthos cũng rùng mình. Anh nói:
- Chính nó đây, đúng giọng nói của nó.
Mọi người im lặng, vì rằng cũng như Arthos mọi người nhận ra giọng nói ấy. Song, những đồng tử dãn to của họ quay về phía tàu đắm, cố gắng phi thường để nhìn xuyên qua màn đêm.
Sau một lát, họ bắt đầu nhận ra một bóng người đang ráng sức bơi gần lại.
Arthos thong thả giơ tay chỉ người đó cho các bạn.
- Phải rồi, phải rồi, - D Artagnan nói, - Tôi trông rõ hắn.
- Lại hắn à? - Porthos thờ phì phò như bễ lò rèn nói.
- Ái chà, hắn là người sắt chắc.
- Ôi, lạy Chúa, - Arthos lẩm bẩm.
Aramis và d Artagnan nói thầm với nhau.
Mordaunt bơi vài sải nữa, và giơ một tay lên khỏi mặt nước ra hiệu nguy cấp, nói:
- Hãy thương tôi! Lạy Chúa, xin các ngài hãy thương tôi! Tôi cảm thấy kiệt sức rồi, tôi sắp chết đến nơi rồi.
- Tiếng nói khẩn cầu cứu vớt thật là rung động đến nỗi nó khêu gợi lòng thương cảm tận đáy lòng Arthos.
- Tội nghiệp nó! - Anh lẩm bẩm.
- Được, - D Artagnan nói, anh chỉ còn thiếu nước thương hại nó thôi! Thật ra tôi cho rằng nó bơi về phía chúng ta. Vậy hắn có nghĩ rằng chúng ta sẽ vớt nó không? Cứ chèo đi, Porthos cứ chèo đi.
Và để làm gương, d Artagnan nhấn mái chèo xuống nước, hai nhát chèo đẩy thuyền đi xa hai mươi sải, Mordaunt gào lên:
- Ôi các ngài sẽ không bỏ rơi tôi! Các ngài sẽ không để mặc tôi chết đuối! Các ngài không phải không thương xót?
- A a! - Porthos bảo Mordaunt, - Anh bạn dũng cảm ơi tôi ngỡ là cuối cùng chúng tôi đã bắt được anh, và anh chẳng có lối nào ra thoát khỏi nơi đây ngoài cánh cửa của địa ngục!
- Ồ Porthos! - Bá tước de La Fère lẩm bẩm.
- Arthos, cứ để mặc tôi. Kể ra anh trở nên kỳ lạ với những kiểu hào hiệp bất tận của anh rồi đó. Trước hết tôi xin tuyên bố rằng nếu nó tiến sát cách thuyền mười bộ, tôi sẽ lấy mái chèo phang vỡ sọ nó.
- Ôi xin các ông gia ơn, đừng bỏ mặc tôi, xin các ông hãy thương tôi! - Gã thanh niên kêu vang, đôi lúc đầu hắn chìm xuống ngọn sóng, thì hơi thở hổn hển của hắn làm sủi bọt làn nước lạnh giá.
Mắt luôn theo dõi mỗi cử động của Mordaunt, d Artagnan kết thúc cuộc dối thoại với Arthos, rồi đứng dậy nói với kẻ đang bơi.
- Này ông, hãy lánh xa ra. Nỗi ân hận của ông nó còn quá mới mẻ nên chúng tôi không thể nào tin tưởng được. Hãy nhớ rằng con tàu mà ông toan dùng để nướng chúng tôi hãy còn phun khói ở dưới mấy tấc nước và tình trạng của ông hiện giờ vẫn là một nệm trải hoa hồng so với tình trạng mà ông muốn đặt chúng tôi vào và ông đã đặt ông Groslow cùng đồng đội của ông ta vào đó.
Với giọng tuyệt vọng hơn, Mordaunt nói:
- Các ngài ôi, tôi xin thề rằng nỗi hối hận của tôi là thực sự. Các ngài ơi, tôi còn trẻ mới chưa đầy hai mươi ba tuổi đầu. Tôi bị lôi cuốn bơi một mối đi hận thật tự nhiên, tôi muốn trà thù cho mẹ tôi, và chắc chắn ở địa vị tôi, các ngài sẽ làm như tôi thôi.
Trông thấy Arthos mỗi lúc một rầu rỉ thêm, d Artagnan nói:
- Hừ! Tùy xem.
Mordaunt chỉ còn ba, bốn sải nữa là tới thuyền, vì rằng cái chết đang đến gần như tạo cho hắn một sức mạnh phi thường.
- Chao ôi? - Hắn nói, - Tôi sắp chết rồi? Các ngài sắp giết chết đứa con trai như đã giết chết mẹ nó? Vậy mà tôi có phải là kẻ phạm tội đâu. Theo mọi luật lệ của Trời và của con người, một đứa con phải báo thù cho mẹ. - Hắn chắp tay lại và nói thêm. - Với lại nếu như đó là một tội ác, thì bởi vì tôi đã ăn năn, bởi vì tôi đã xin lỗi thì tôi phải được tha thứ.
Rồi như lực đã kiệt, hắn không thể đứng nổi dưới nước nữa, một con sóng tràn qua đầu và dập tắt tiếng nói của hắn.
- Ôi! Thật là xé lòng! - Arthos nói.
Mordaunt lại nhô lên.
- Còn tôi - D Artagnan nói, - Tôi nói rằng phải chấm dứt. Hỡi ông đã nhẫn tâm hạ sát bác mình, hỡi ông đao phủ của vua Charles, hỡi ông đốt tàu, tôi xin cam đoan là sẽ để ông chìm xuống tận đáy biển, hoặc nếu ông còn tiến gần lại thuyền một sải tay thôi, tôi sẽ đập vỡ sọ ông bằng mái chèo.
Trong nỗi tuyệt vọng, Mordaunt bơi thêm một sải, d Artagnan hai tay cầm chặt mái chèo. Arthos đứng dậy và kêu lên:
- D Artagnan, d Artagnan! Con trai của ta ơi! Ta van xin con! Kẻ khốn khổ sắp chết rồi, và thật là ghê tởm để mặc một con người chết mà không chìa tay ra khi người ta chỉ cần chìa tay ra là cứu được hắn. Ôi! Trái tim tôi ngăn cấm một hành động như vậy; tôi không thể cưỡng lại được, cần phải cho hắn sống.
- Mẹ kiếp! - D Artagnan đáp lại. - Tại sao anh không tự trói chân tay và tự nộp mình ngay lập tức cho tên khốn kiếp ấy? Như thế có phải sớm hơn không? A! Bá tước de La Fére ơi, ông muốn chết bởi tay nó phải không? Thế thì tôi, con trai của ông như ông gọi ấy, tôi không muốn như vậy.
Đây là lần đầu tiên d Artagnan cưỡng lại một điều thỉnh cầu của Arthos khi Arthos gọi anh bằng con.
Aramis lạnh lùng tuốt lưỡi gươm ra mà anh đã ngậm vào miệng mang theo trong khi anh bơi. Anh nói:
- Nếu hắn đặt tay vào mạn thuyền thì tôi sẽ chặt tay hắn như đối với một kẻ giết vua.
- Còn tôi, khoan đã, - Porthos nói...
- Cậu sẽ làm gì? - Aramis hỏi.
- Tôi sẽ nhảy xuống nước và bóp cổ cho nó chết.
Với một tình cảm không cưỡng nổi, Arthos kêu lên:
- Ôi! các anh ơi! Chúng ta hãy là những con người chúng ta hãy là những kẻ có đạo!
D Artagnan buông ra một tiếng thở dài nghe như một tiếng rên rỉ. Aramis hạ mũi gươm. Porthos ngồi xuống.
- Xem kìa, - Arthos nói, - Xem kìa, cái chết đang hiện lên gương mặt hắn. Hắn kiệt sức rồi, và chỉ một phút nữa thôi, hắn sẽ chìm xuống tận đáy biển. Ôi! Hãy tránh cho tôi niềm ân hận gớm guốc ấy; đừng bắt tôi phải chết vì nhục nhã, các bạn ơi, hãy ban cho tôi tính mạng của kẻ khốn khổ đó, tôi sẽ ban phước cho các anh, tôi sẽ...
- Tôi chết mất, - Mordaunt lẩm bẩm, - Cứu tôi với! Cứu tôi với!
- Ta hãy giành lấy một phút. - Aramis cúi sang bên trái bảo d Artagnan, rồi cúi sang bên phải bảo Porthos - Chèo một mái nữa nào.
D Artagnan không đáp lại bằng cử chỉ hoặc lời nói. Anh bắt đầu xúc động phần vì những lời van nài của Arthos, phần vì cảnh tượng đang diễn ra trước mắt anh. Riêng Porthos đẩy một mái chèo, nhưng vì chèo có một bên nên chiếc thuyền quay vòng và khiến Aramis nhích gần lại kẻ sắp chết.
- Bá tước de La Fère! - Mordaunt kêu lên, - Bá tước de La Fère ơi? Chính là ngài mà tôi xin thưa, chính là ngài mà tôi cầu khẩn, ngài hãy thương tôi!... Bá tước de La Fère, ngài ở đâu? Tôi không còn nhìn thấy gì cả... Tôi chết mất!... Cứu tôi với, cứu tôi!
Với vẻ cao thượng và đường hoàng vốn có, Arthos chìa tay ra cho Mordaunt và nói:
- Tôi đây! Ông hãy bám lấy tay tôi mà leo lên thuyền.
- Thà không nhìn còn hơn, - D Artagnan nói - Sự yếu đuối ấy làm tôi thêm sợ hãi.
Anh quay lại phía các bạn; họ chen nhau vào phía cuối thuyền dường như sợ đụng chạm vào cái kẻ mà Arthos đã không ngại ngần chìa tay ra cho nó.
Mordaunt cố hết sức nhô người lên, nắm lấy bàn tay đang chìa ra cho hắn và bám chặt lấy với sức mãnh liệt của niềm hy vọng cuối cùng.
- Được rồi. - Arthos nói. - Đặt tay kia vào đây.
Và anh giơ vai mình ra làm điểm tựa thứ hai, thành thử đầu anh gần chạm đầu Mordaunt và hai kẻ tử thù ấy ôm chặt lấy nhau như hai anh em.
Mordaunt quặp chặt ngón tay vào cổ áo Arthos.
- Tốt! - Bá tước nói. - Bây giờ ông được cứu thoát rồi, hãy yên tâm.
Bỗng với một cái nhìn rực lửa và một giọng nói hận thù khôn tả, Mordaunt thét lên:
- A! Mẹ ơi, con chỉ có thể dâng cho mẹ một vật hiến tế thôi, nhưng ít ra đó cũng sẽ là vật mà mẹ lựa chọn!
Và trong khi d Artagnan kêu lên một tiếng, Porthos giơ mái chèo lên Aramis tìm một chỗ để đâm, thì một chấn động dữ dội khiến thuyền nghiêng đi và kéo tuột Arthos xuống nước. Mordaunt thốt ra một tiếng kêu đắc thắng lấy tay siết chặt cổ Arthos: dùng chân quặp chặt người và chân anh, giống như một con rắn quấn chặt con mồi của mình để làm cho nó tê liệt.
- Không kêu la, không gọi cứu, Arthos cố ngoi ở trên mặt biển một lát, nhưng rồi bị sức nặng lôi kẻo anh chìm dần. Chẳng mấy chốc mọi người chỉ còn trông thấy mớ tóc dài cửa anh chập chờn; rồi tất cả mất hút. Chỉ còn một khoảng rộng mặt nước sôi sục nhưng rồi cũng tan đi là chỉ rõ nơi cả hai người đã chìm nghỉm.
Câm lặng vì ghê sợ, nghẹn ngào vì bất bình và kinh hãi, ba người bạn cứ đứng trơ ra đó, miệng há hốc, mắt giương to, tay dang ra. Trông họ như những pho tượng và mặc dầu họ lặng im, người ta vẫn nghe tiếng tim họ đập thình thình. Porthos là người đầu tiên hồi tỉnh, anh vò đầu bứt tai và với tiếng nức nở xé lòng ở một người như anh, anh gào lên:
- Ôi Arthos, Arthos! Tấm lòng cao quý! Tai hoạ! Tai hoạ cho chúng ta đã để mất anh!
- Ôi tai hoạ thật! - D Artagnan nhắc lại.
- Ôi tai hoạ! - Aramis lẩm bẩm.
Vừa lúc ấy giữa một khoảng biển rộng lấp lành ánh trăng cách thuyền bốn năm sải cái sôi sục ban nãy lại diễn ra và người ta trông thấy xuất hiện trước tiên chỏm tóc, rồi đến một khuôn mặt nhợt nhạt, mắt mở nhưng đã đục lại, rồi một thân hình nhô lên đến ngang lưng thì lật ngửa ra, bồng bền theo từng ngọn sóng.
Trước ngực cái xác đó có một con dao đâm vào và thò ra cái chuôi nạm vàng lấp lánh.
- Mordaunt! Mordaunt! - Cả ba người bạn cùng kêu lên, đấy là Mordaunt.
- Nhưng còn Arthos? - D Artagnan nói.
Bỗng nhiên con thuyền nghiêng hẳn về bên trái trước một sức nặng mới bất ngờ và Grimaud thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ. Mọi người quay lại và trông thấy Arthos, mặt tái nhợt, mắt mờ đi và tay run rẩy, anh đang bám vào mạn thuyền để nghỉ ngơi. Tám cánh tay gân guốc lập tức nhấc anh lên và đặt vào trong thuyền.
Một lát sau. Arthos thấy người ấm lên, tỉnh táo và hồi sinh dưới những cái vuốt ve ôm ấp của các bạn mình đang mừng rối rít.
- Anh không bị thương à? - D Artagnan hỏi.
- Không, - Arthos đáp... - Thế còn nó?
- Ồ, nó ấy à? Lần này ơn Trời, nó chết thật rồi.
Và buộc Arthos phải nhìn theo hướng tay mình d Artagnan chỉ anh xem cái xác Mordaunt trôi trên những con sóng khi nổi khi chìm dường như vẫn còn đuổi bốn người bạn bằng một cái nhìn chứa chất lời nguyền rủa và mối tử thù.
Cuối cùng nó chìm nghỉm. Arthos dõì theo bằng con mắt buồn rầu và ái ngại.
Hoan hô Arthos! - Aramis nói với vẻ đạt dào tình cảm hiếm thấy ở anh.
- Nhát đâm đẹp thật! - Porthos reo lên...
- Tôi có một đứa con trai, - Arthos nói. - Tôi đã muốn sống.
- Cuối cùng, - D Artagnan nói, - Chúa đã lên tiếng.
- Không phải tôi đã giết nó, - Arthos lẩm bẩm, - Số mệnh đấy.
-*-*-*-
Chương 78
Sau khi suýt bị đem quay, Mousqueton suýt bị nướng thịt
Sau màn kịch khủng khiếp mà chúng tôi vừa kể, một không khí im lặng sâu xa bao trùm tất cả con thuyền. Mặt trăng ban nãy ló ra trong chốc lát dường như Thượng đế muốn rằng không một chi tiết nào của sự kiện này được che giấu trước con mắt của các khán giả, bây giờ lẫn vào trong mây. Tất cả lại trở vào cái bóng đêm thật hãi hùng trong một bãi sa mạc và nhất là bãi sa mạc lỏng này mà người ta gọi là đại dương, và chỉ còn nghe thấy tiếng gió rít trên các ngọn sóng.
Porthos phá tan sự im lặng, nói:
- Tôi đã được xem vô khối chuyện, nhưng không chuyện nào xúc động tôi mạnh mẽ như chuyện tôi vừa mới chứng kiến. Tuy nhiên, trong lòng thật xáo động như tôi, tôi xin tuyên bố với các bạn rằng tôi thật là sung sướng. Một trăm cân được cất đi khỏi ngực tôi và cuối cùng tôi thở dễ dàng.
Thật vậy, Porthos thở với một tiếng kêu nó làm vẻ vang cho cái cử động mãnh liệt của hai lá phổi anh.
- Porthos ạ, - Aramis tiếp lời,
- Còn tôi, tôi sẽ không nói đến như cậu; tôi vẫn còn kinh hoàng, đến độ tôi không còn tin ở mắt mình nữa, tôi nghi ngờ những gì tôi đã trông thấy, tôi tìm kiếm xung quanh chiếc thuyền và từng phút, từng giây, tôi sẵn sàng đợi chờ cái thằng khốn kiếp hiện ra , và chính tôi tay cầm con dao găm đễ cắm vào tim nó.
- Ồ, tôi thì rất bình tĩnh, - Porthos nói. - Nhát dao đâm vào chỗ xương sườn thứ sáu và ngập tới đốc. Arthos ơi tôi không trách móc gì anh đâu mà trái lại. Khi đâm là phải đâm như thế chứ. Cho nên bây giờ tôi mới sống, tôi thở, tôi vui mừng.
- Porthos ơi, - D Artagnan nói, - Chớ vội hát mừng chiến thắng.
- Chưa bao giờ chúng ta trải qua một nguy hiểm lớn hơn lúc này, vì rằng một con người thắng được một con người chứ không thắng được một hoàn cảnh. Chúng ta đang đi biển ban đêm không người hướng dẫn, trên một chiếc thuyền mỏng manh; một cơn gió có thể lật úp thuyền thế là chúng ta đi đứt.
Mousqueton buông một tiếng thở dài.
- D Artagnan, cậu thật là bội bạc, - Arthos nói.
- Phải bội bạc và đã hoài nghi Thượng đế đúng lúc Người vừa mới cứu tất cả chúng ta một cách thật là kỳ diệu. Cậu tưởng rằng Người cầm tay dẫn chúng ta vượt qua bao nhiêu hiểm nguy để rồi sau đó bỏ rơi chúng ta ư? Không đâu. Chúng ta lên đường bằng một ngọn gió tây, ngọn gió ấy vẫn thổi cơ mà.
Arthos định hướng theo sao Bắc đẩu và nói tiếp:
- Đây là Đại Hùng Tinh, do đó chỉ ta biết bên kia là nước Pháp.Ta cứ đi theo chiều gió, và chừng nào gió chưa đổi chiều thì nó sẽ đưa ta về phía bờ biển Calais hoặc Boulogne-sur-Mer. Nếu thuyền lật úp thì chúng ta là những người khá khoẻ mạnh và bơi lội khá giỏi . Ít ra là năm người trong chúng ta - Để lật ngửa thuyền lên hoặc ôm chặt cùng với nó nếu như sự cố gắng đó vượt quá sức của chúng ta. Hiện giờ chúng ta đang đi trên con đường của mọi tàu bè đi từ Douvre đến Calais và từ Portsmouth đến Boulogne-sur-Mer. Nếu như nước giữ lại được những vết tàu đi thì chắc chắn chúng sẽ đào thành một thung lũng dài ở ngay chỗ chúng ta đang đi này. Như vậy thì đến sáng không thể nào chúng ta lại không gặp một chiếc thuyền đánh cá nào đó họ sẽ tiếp đón chúng ta.
- Nhưng giả dụ chúng ta không gặp thuyền nào và gió đổi chiều lên hướng Bắc thì sao?
- Thế lại là chuyện khác, - Arthos đáp. - Chúng ta sẽ chỉ gặp đất liền ở bờ bên kia Đại Tây Dương.
- Có nghĩa là chúng ta sẽ chết đói, - Aramis nói.
- Chắc chắn mười mươi rồi! - Bá tước de La Fère nói.
Mousqueton buông một tiếng thở dài còn não nuột hơn lần trước.
- Ơ này, Mousqueton? - Porthos hỏi, - Sao cậu cứ thở dài thườn thượt mãi như vậy? Thế thì chán ngán lắm.
- Tôi đang rét, ông ạ, - Mousqueton đáp...
- Vô lý - Porthos nói.
- Sao lại vô lý? - Mousqueton ngơ ngác hỏi.
- Đúng thế. Người cậu có một lớp mỡ bao bọc, khi trời không thấm vào được. Hẳn là có chuyện khác hãy nói thật đi.
- Thế thì, thưa ông, chính cái lớp mỡ mà ông biểu dương ấy nó làm tôi kinh hãi.
- Tại sao vậy, Mousqueton. Cứ mạnh dạn nói đi, các ông đây cho phép cậu đấy.
- Thưa, tại vì tôi nhớ đến cái tủ sách ở lâu đài Bracieux có vô số truyện phiên lưu, và trong số sách đó có sách của Jean Mocquet, người phiêu lưu trứ danh của Henri IV.
- Thì sao?
- Thưa ông, trong những sách ấy nói rất nhiều đến những chuyện phiêu lưu trên biển cả và những sự nguy hiểm giống như sự nguy hiểm đang đe dọa chúng ta trong lúc này!
- Tiếp tục đi, Mousqueton, - Porthos nói, - sự so sánh ấy đầy thú vị.
- Ấy đấy, ông ơi, trong những trường hợp như vậy, Jean Mocquet kể rằng những du khách đói mèm có tục lệ ghê tởm là ăn thịt lẫn nhau và thường bắt đầu bằng...
Dù tình thế đang nghiêm trọng, d Artagnan không nhịn cười được, nói:
- Trước tiên là thịt người nào béo nhất?
Hơi choáng váng vì trận cười đó, Mousqueton đáp:
- Vâng, thưa ông, nhưng tôi cũng xin phép thưa với ông rằng tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện ấy cả.
- Cái thằng Mousqueton hiền lành ấy là hiện thân của đức hy sinh. Ta cuộc rằng cậu đã bắt đầu trông thấy mình bị ông chủ xé xác ra từng mảnh và ăn thịt.
- Vâng, thưa ông, tôi xin thú nhận rằng mặc dầu cái niềm vui mà ông đoán ra ở trong lòng tôi không phải không xen lẫn chút ưu phiền, tôi cũng không lấy làm tiếc cho cái thân tôi lắm, nếu như tôi được biết chắc chắn rằng khi chết tôi vẫn còn có ích cho ông.
- Mousqueton ơi! Porthos rầu rầu nói, - Nếu có bao giờ chúng ta còn trở lại được lâu đài Pierrefonds, thì cậu và con cháu cậu sẽ được sở hữu cái vườn nho ở phía trên trang trại.
- Và Mousqueton này, - Aramis nói, - Cậu sẽ đặt tên nó là vườn nho Hy sinh đề truyền lại cho hậu thế cái kỷ niệm về việc hiến mình của cậu.
- Ông hiệp sĩ ơi, - D Artagnan cười nói, - Chắc hẳn cậu sẽ ăn thịt Mousqueton mà không ghê sợ, nhất là sau vài ba ngày nhịn đói.
- Ồ không đâu, - Aramis đáp, - Thực tình tôi thích ăn Blaisois hơn, vì chúng ta quen biết nó chưa bao lâu.
Người ta trao đổi với nhau câu chuyện bông đùa đó nhằm mục đích gạt ra khỏi tâm trí Arthos cái cảnh tượng vừa mới diễn ra nhưng thấy rằng bọn đầy tớ đều thấp thỏm lo âu, trừ Grimaud, bác biết rằng mối nguy hiểm, dù là nguy hiểm gì, vẫn có thể xảy ra. Cho nên bác không tham gia vào câu chuyện và câm lặng theo thói quen, bác ráng sức chèo, mỗi tay một mái.
- Bác vẫn chèo đấy à? - Arthos hỏi.
Grimaud gật đầu.
- Sao lại chèo?
- Để cho nóng người.
Thật vậy, trong khi những kẻ đắm tàu khác rét run lên, thì bác Grimaud thầm lặng đổ mồ hôi hột.
Bỗng nhiên Mousqueton mừng rỡ reo lên và tay giơ cao một cái chai. Hắn đưa chai cho Porthos và nói:
- Ô ông ơi! Chúng ta thoát nạn rồi. Thuyền chứa đầy thức ăn.
- À lục lọi ở dưới gầm ghế nơi hắn ngồi, hán đã vớ được cái vật mẫu quý hoá kia, hắn lôi ra hơn chục chai như vậy, bánh mì và một tảng thịt bò muối.
Chẳng cần phải nói rằng sự khám phá ấy đem lại niềm hân hoan cho mọi người, trừ Arthos.
Ta nhớ rằng Porthos đã đói bụng từ lúc bước chân lên tàu buồm, anh reo lên:
- Thật vậy! Sao lạ thật, sao những nỗi xúc động làm cho ta đói cồn cào đến thế?
Và anh uống một hơi cả chai rượu rồi ăn béng luôn trọn một phần ba cái bánh và tảng thịt muối.
- Bây giờ - Arthos nói, - Các bạn hãy ngủ đi hoặc cố mà ngủ đi, để tôi canh cho.
Đối với những người khác không phải là những chàng phiêu lưu dày dạn của chúng ta, thì lời đề nghị kia chắc hẳn là giễu cợt. Thật vậy, họ ướt lạnh đến xương tuỷ, gió rét cắt da và những nỗi xúc động vừa nếm trải không cho họ nhắm mắt. Nhưng đối với những bản chất ưu tú kia, những tính tình sắt đá kia, những cơ thể rã rời vì trăm thứ mệt nhọc kia, thì trong mọi trường hợp giấc ngủ vẫn đến đúng giờ chẳng khi nào vắng mặt.
Cho nên tận dụng lời khuyên của Arthos và vững tin ở người hoa tiêu ấy một lát sau, mỗi người đều ngủ theo một cách. Như đã hứa.
Arthos ngồi một mình ở đằng lái, tỉnh táo và tư lự điều khiển con thuyền như theo con đường nó phải đi. Chốc chốc anh lại đăm đăm ngước nhìn trời, chắc là không phải chỉ để tìm hướng đi về nước Pháp, mà còn để xem gương mặt của Thượng đế.
Arthos đánh thức mọi người dậy sau khi đã để họ ngủ mấy tiếng đồng hồ. Ánh sáng ban mai đầu tiên chiếu rạng mặt biển xanh xanh, và cách non mười tầm súng ở phía trước người ta trông thấy một khối đen sì phía trên căng một tấm buồm hình tam giác mảnh và dài như cánh én.
- Một thuyền buồm! - Bốn người bạn cùng reo lên, trong khi bọn đầy tớ cũng biểu hiện nỗi vui mừng bằng những giọng khác nhau.
Thực và đó là một chiến thuyền Dunkerquoise kéo đi về phía Boulogne-sur-Mer.
Bốn ông chủ với Blaisois và Mousqueton cùng kêu lên hòa làm một tiếng vang ngân trên mặt biển đàn hồi, trong khi Grimaud chẳng nói chẳng rằng chụp chiếc mũ vào đầu mái chèo và giơ cao lên để thu hút con mắt của những người ở trên chiếc tàu kia cũng sắp nghe thấy tiếng kêu gọi.
Mười lăm phút sau, chiếc xuồng của con tàu dắt họ đến. Họ đặt chân lên boong của con tàu nhỏ.
Grimaud được chủ mình sai đưa hai mươi đồng guinées cho chủ tàu, và do thuận gió đến chín giờ sáng thì những người Pháp của chúng ta đặt chân lên mảnh đất của Tổ quốc.
Porthos giẫm những bàn chân đồ sộ lên bãi cát và nói:
- Hay thật! Giẫm lên mảnh đất này mình thấy khỏe hẳn ra. Bây giờ kẻ nào thử đến sinh sự với mình, ngó nghiêng mình hoặc chọc tức mình xem, hắn sẽ thấy là hắn gặp phải tay ai? Tôi thách thức cả một vương quốc.
- Còn tôi, - D Artagnan nói, - Tôi xin thề với cậu là tôi chẳng thách thức oang oang như thế đâu, Porthos ạ: vì rằng ở đây người ta để ý đến chúng ta lắm đấy.
- Thật quả vậy, - Porthos nói, - Người ta ngắm nghía chúng ta thì có.
- Này cậu, - D Artagnan nói, - Tôi chẳng tự ái đâu, thật đấy. Tuy nhiên tôi nhìn thấy những người mặc áo đen, mà trong tình thế hiện nay của chúng ta, tôi xin thú thật rằng bọn áo đen làm tôi hoảng sợ.
- Đó là những nhân viên thuế quan, - Aramis nói.
- Dưới thời gíáo chủ cũ, giáo chủ vĩ đại, - Arthos nói, chắc người ta chú ý đến chúng ta nhiều hơn là đến hàng hoá. Nhưng dưới thời giáo chủ này, các bạn hãy yên tâm, người ta sẽ chú ý đến hàng hoá nhiều hơn đến chúng ta.
- Tôi chẳng tin đâu, - D Artagnan đáp, - Tôi sẽ đi theo lần những đồi cát.
- Tại sao không đi vào thành phố? - Porthos bảo. - Tôi thích một quán hàng tử tế hơn là những bãi sa mạc ghê tởm này mà Chúa tạo ra riêng cho loài thỏ thôi. Vả lại tôi đang đói đây.
- Porthos ạ, cậu làm thế nào tuỳ thích! - D Artagnan nói, - Nhưng riêng tôi, tôi tin rằng đối với những kẻ trong hoàn cảnh chúng ta, thì đi ngoài đồng ruộng vẫn chắc chắn hơn.
Và chắc chắn là tập hợp được đa số, d Artagnan cứ bước dần vào những đống cát mà chẳng đợi Porthos trả lời.
Cả toán đi theo anh và chẳng mấy chốc đã biến mất sau lưng những cồn cát, không bị mọi người chú ý.
Sau khi đi được một phần tư dặm đường, Aramis bảo:
- Bây giờ ta nói chuyện nào.
- Ấy chớ. - D Artagnan nói, - Ta hãy trốn đi. Chúng ta đã thoát khỏi Cromwell, Mordaunt và biển cả ba cái vực thẳm toan nuốt chửng chúng ta, nhưng chúng ta sẽ chẳng thoát khỏi tay ngài Mazarin đâu.
- D Artagnan nói đúng đấy, - Aramis nói, - Và theo ý tôi, để chắc chắn hơn, chúng ta hãy chia nhau ra.
- Phải đấy. d Artagnan, ta chia nhau ra.
Porthos toan lên tiếng phản đối, nhưng d Artagnan bấm tay anh để anh hiểu là đừng nói.
Porthos biết tuân theo những ám hiệu ấy. Với bản tính chất phác anh thừa nhận sự hơn hẳn về trí tuệ của bạn. Cho nên anh đành câm như hến.
- Nhưng tại sao ta lại phải chia nhau ra? - Arthos hỏi.
- Bởi vì - D Artagnan đáp, - Porthos và tôi được Mazarin phải sang với Cromwell và đáng lẽ phục vụ Cromwell thì chúng tôi đã phục vụ Charles I, hai việc đó chẳng giống nhau tí nào.Sau đó lại trở về cùng với các ông de La Fère và D Herblay thì tội trạng của chúng tôi càng được xác nhận. Nếu chúng tôi trở về không có các anh thì tội trạng của chúng tôi ở trong tình trạng nghi ngờ, mà với sự hoài nghi người ta sẽ đi rất xa. Mà tôi thì đang muốn làm cho ngài Mazarin điên đầu đấy.
- Ồ, đúng thế, - Porthos nói.
- Nhưng cậu quên rằng, - Arthos nói, - Chúng tôi là tù binh của cậu, chúng tôi không hề tự coi mình đã thoát lời cam kết với các cậu. Và khi các cậu dẫn chúng tôi như tù binh về Paris...
- Arthos ơi - D Artagnan ngắt lời, - Tôi rất bực mình thấy một người trí tuệ như anh lại hay nói những điều tầm thường khiến học trò lớp ba cũng phải đỏ mặt.
Lúc ấy Aramis đang hiên ngang tì lên thanh gươm của mình, mặc dầu lúc trước anh đã nêu lên một ý kiến trái ngược, bây giờ sẵn sàng đồng tình với Arthos.
D Artagnan quay lại phía Aramis và nói thêm:
- Hiệp sĩ ơi, anh hãy hiểu rằng lúc này cũng như mọi khi tính liều lĩnh của tôi là thái quá. Tóm lại: Porthos và tôi chẳng mạo hiểm cái gì. Nhưng nếu tình cờ, người ta thử bắt giữ chúng tôi trước mặt các anh thì sao? Bắt bảy người chẳng giống bắt ba người đâu: gươm kiếm sẽ tuốt ra khỏi vỏ và sự việc vốn đã chẳng hay ho gì đối với mọi người trở thành nghiêm trọng và nguy hại cho cả bốn chúng ta. Hơn nữa, nếu tai hoạ đến với hal chúng ta thôi, thì hai người kia còn được tự do chẳng hơn ư, họ sẽ cố gắng lặn lội và đào tường phá ngạch để cuối cùng giải thoát được cho các bạn. Rồi thì biết đâu nếu chúng ta tách riêng ra, bà hoàng sẽ chẳng tha thứ cho các anh và Mazarin sẽ chẳng tha thứ cho chúng tôi, điều mà chắc hẳn họ sẽ từ chối nếu chúng ta tụ họp lại với nhau. Thôi, Arthos và Aramis hãy đi phía tay phải, còn Porthos đi về phía trái cùng tôi. Hãy để các anh ấy đi lên vùng Normandie; còn chúng ta theo con đường ngắn nhất về Paris.
- Nhưng này, - Aramis hỏi, - Nếu chúng ta có ai bị bắt ở dọc đường thì làm thế nào báo cho nhau biết tai hoạ đó?
- Chẳng có gì khó cả, - D Artagnan đáp. - Ta hãy thoả thuận với nhau về một hành trình và cứ theo đúng như thế mà đi, không sai trệch. Các anh hãy đến Saint-Valery, rồi Dieppe, sau đó theo đường bên phải Dieppe mà tới Paris. Chúng tôi sẽ đi qua Abbeville, Amiens, Péronne, Compiègne và Senlis. Ở mỗi quán ăn, mỗi ngôi nhà mà chúng ta dừng chân, ta sẽ vạch lên tường bằng mũi dao hoặc vạch lên cửa kính bằng mảnh kim cương, một dấu hiệu có thể dẫn đường cho những người còn tự do đi tìm kiếm.
- Chao ôi - Arthos nói, - Tôi yêu quý những đức tính của trái tim cậu bao nhiêu thì tôi càng khâm phục những tài trí của khối óc cậu bấy nhiêu.
Và anh chìa tay ra cho d Artagnan.
Chàng Gascon nhún vai nói:
- Arthos ơi, liệu con cáo có tài năng không. Không, nó biết bắt gà ăn, biết đánh lạc hướng những kẻ đi săn và tìm được đường dù ngày hay đêm, tất cả chỉ có thế thôi. Thế nào, ta thỏa thuận chứ?
- Thỏa thuận rồi.
Vậy thì ta chia tiền, - D Artagnan nói, - Chắc còn khoảng hai trăm pistol. Grimaud, còn bao nhiêu?
- Thưa ông, một trăm tám mươi louis rưỡi ạ.
- Thế à! Hoan hô! Kìa, mặt trời! Xin chào bạn mặt trời! Tuy rằng bạn chẳng giống như mặt trời xứ Gastogne, ta vẫn nhận ra bạn hoặc ta giả hộ nhận ra bạn. Xin chào! Lâu lắm rồi ta chưa trông thấy bạn.
- Thôi, thôi d Artagnan ơi, - Arthos nói, - Đừng có làm ra vẻ gan dạ quá,ta thấy nước mắt cậu rưng rưng kìa. Ta hãy thẳng thắn với nhau: sự thẳng thắn ấy ắt làm lộ ra những phẩm cách tốt của chúng ta.
- Ôi chao - D Artagnan nói. - Arthos ơi: anh tưởng rằng người ta có thể chia tay một cách bình tĩnh và trong một hoàn cảnh không ít nguy hiểm hai người bạn như anh và Aramis hay sao?
- Không đâu. - Arthos đáp - Con trai của tôi ơi, hãy đến cho tôi ôm hôn nào!
- Chúa ơi! - Porthos nghẹn ngào nói. - Hình như mình sắp khóc, khỉ thật?
Và bốn người bạn nhào vào nhau: ôm chặt lấy nhau. Bốn con người ấy siết chặt trong vòng tay anh em, lúc này chỉ có một linh hồn chung.
Blaisois và Grimaud đi theo Arthos và Aramis.
Mousqueton đủ giúp cả Porthos và d Artagnan.
Như vẫn thường làm, họ chia nhau tiền một cách đều dặn thân thiết. Rồi sau khi bắt tay từng người và nhắc đi nhắc lại với nhau những lời thề thốt về tình bằng hữu thuỷ chung, bốn nhà quý tộc chia tay nhau để đi theo con đường đã qui định, và dời chân mà vẫn còn ngoái lại nhìn nhau và gửi cho nhau những lời lẽ thân thương mà các đụn cát còn vang vọng mãi.
Cuối cùng họ không còn nhìn thấy nhau nữa.
- Chúa ơi! - Porthos lên tiếng, - D Artagnan ơi, tôi phải nói với cậu điều này ngay lập túc, vì tôi không thể để bụng một điều gì chống lại cậu. Tôi đã không nhận ra cậu trong hoàn cảnh này.
- Vì sao? - D Artagnan mỉm cười tinh quái và hỏi.
- Vì rằng nếu như cậu nói, Arthos và Aramis đang trải qua một mối nguy hiểm thì không phải lúc bỏ rơi họ. Tôi thú thật là tôi đã sẵn sàng theo họ và tôi vẫn sẵn sàng đuổi theo họ, bất chấp tất cả bọn Mazarin trên cõi đời này.
- Porthos ạ, cậu làm thế là phải nếu tình hình đúng như vậy, - D Artagnan nói. - Nhưng cậu cần biết rõ một điều nhỏ nhặt này, tuy nhiên dù nhỏ nhặt mấy chăng nữa nó cũng sẽ làm thay đổi luồng suy nghĩ của cậu. Đó là các anh bạn kia không trải qua mối nguy hiểm lớn nhất, mà là chúng ta? Chúng ta chia tay họ không phải là bỏ rơi họ, mà là để khỏi làm lụy tới họ.
- Thật ư? - Porthos giương to mắt ngạc nhiên hỏi.
- Tất nhiên rồi! Nếu họ bị bắt thì đơn giản chỉ có nhà ngục Bastille, còn nếu chúng ta bị bắt thì là đến quảng trường Grève(1).
- Ô, ô! Porthos nói, - Thế thì từ đó còn xa mới tới cái huy hiệu Nam tước mà cậu hứa với tôi.
- Ô hay! Có lẽ chẳng xa đến như cậu tưởng đâu Porthos ạ. Cậu nhớ câu phương ngôn: "Mọi con đường đều dẫn tới La Mã".
- Nhưng này - Porthos hỏi, - Tại sao chúng ta trải qua những nguy hiềm to lớn hơn của Arthos và Aramis?
- Bởi vì họ chỉ có làm theo nhiệm vụ của bà hoàng Henriette giao cho, còn chúng ta thì phản lại sứ mệnh mà Mazarin giao. Bởi vì ra đi với tư cách sứ giả đến Cromwell, bây giờ chúng ta trở thành người thuộc phe vua Charles. Bởi vì đáng lẽ phải góp sức làm rơi đầu ông vua bị kết án bởi những kẻ thô bỉ mà người ta gọi là các ngài Mazarin, Cromwell, Joyce, Pride, Fairfaxx, v v... thì chúng ta suýt nữa cứu thoát vua.
- Thực tình đúng là như vậy, - Porthos nói, - Nhưng bạn thân mến ơi, lo chuyên giữa trăm công nghìn việc to lớn, tướng Cromwell Iàm gì có thì giờ nghĩ đến.
- Cromwell nghĩ đến mọi việc, Cromwell có đủ thì giờ cho mọi việc và bạn thân mến ơi, hãy tin tôi, chúng ta đừng để mất thì giờ của mình, nó quý lắm. Chúng ta chỉ an toàn sau khi đã gặp Mazarin, vậy mà vẫn còn...
- Chết thật! - Porthos nói, - Thế chúng ta sẽ nói gì với Mazarin?
Cứ để mặc tôi, tôi đã có kế hoạch, cười người hôm trước, hôm sau người cười. Ông Cromwell rất giỏi, ông Mazarin rất quỉ quyệt, nhưng tôi muốn dùng mưu thuật còn cừ hơn chống lại họ và chống lại ông Mordaunt đã quá cố.
- Này cậu, - Porthos bảo, - Được nói ông Mordaunt đã quá cố thì khoái thật.
- Thực tình đúng như vậy, - D Artagnan đáp. - Nhưng ta lên đường thôi.
Và không để mất thời gian, hai người bạn theo hương lần ra con đường đi Paris. Mousqueton theo sau, đêm trước hắn đã đói rét cóng cả đêm, bây giờ mới đi được mười lăm phút đã nóng rực cả người.
Chú thích:
(1) Nơi hành quyết những tội phạm nặng.
-*-*-*-
Chương 79
Trở về
Arthos và Aramis đi theo hành trình mà d Artagnan đã vạch ra và cố sức đi thật nhanh. Họ thấy dường như nếu bị bắt giữ ở gần Paris thì vẫn lợi hơn ở xa.
Trong nỗi thấp thỏm lo bị bắt , nên vào ban đêm tối nào họ cũng vạch lên tường hoặc lên kính ám hiệu đã thỏa thuận. Nhưng sáng ra tỉnh giấc họ rất đỗi ngạc nhiên thấy mình vẫn tự do.
Lần lần họ tìm về Paris, những biến cố lớn mà họ đã chứng kiển và đã làm đảo lộn nước Anh dần dần tan biến như những giấc mơ.
Trong khi đó trái lại những biến cố trong thời gian vắng mặt họ đã khuấy động Paris và các tỉnh xuất hiện trước mặt họ.
Trong sáu tuần vắng mặt họ, ở Pháp đã xảy ra rất nhiều sự việc nhỏ, chúng hợp lại cũng thành như một biến cố lớn. Nhân dân Paris buổi sáng tỉnh dậy không thấy hoàng hậu, không thấy vua, xôn xao náo động cả lên về sự ra đi này; và sự vắng mặt của Mazarin mà họ rất mong muốn cũng không bù lại nổi sự vắng mặt của hai hoàng thượng bỏ trốn.
Khi Paris biết tin cuộc chạy trốn đến Saint-Germain, cuộc chạy trốn mà chúng tôi đã để bạn đọc chứng kiến, thì tình cảm trước tiên khuấy động đô thành là một kiểu hốt hoảng mà trẻ con thường cảm thấy khi chúng thức giấc giữa ban đêm hoặc trong cảnh vắng lặng.
Nghị viên hốt hoảng và quyết định cử một phái đoàn đến tìm hoàng hậu và yêu cầu bà trở về Paris sớm.
Nhưng hoàng hậu còn đang say sưa với chiến thắng Lens và với niềm kiêu hãnh về cuộc bỏ trốn thực hiện thật là đẹp đẽ. Những đại biểu Nghị viện không những không có vinh dự được bà tiếp đón, mà còn phải đứng đợi ở ngoài đường cái. Tại đây quan chưởng ấn - vẫn viên chưởng ấn Séguier mà trong cuốn "Ba Người lính ngự lâm" chúng ta đã thấy hắn ngoan cố truy lùng một bức thư giấu tận trong yếm bà hoàng hậu - Séguier trao cho họ một bức tối hậu thư của triều đình nêu rõ là Nghị viện phải tự hạ mình nhận lỗi trước Hoàng thượng về những vấn đề đã dẫn tới cuộc xích mích chia rẽ họ nếu không thì ngày hôm sau Paris sẽ bị bao vây.
Ngay lúc này, theo dự kiến của cuộc bao vây đó, quận công d Orléans đã chiếm cầu Saint-Clou và ngài Hoàng thân đang còn chói lọi về chiến thắng Lens của ngài đã giữ Charenton và Saint-Denis.
Một sự trả lời ôn hoà của triều đình có lẽ sẽ được nhiều người đồng tình. Tiếc thay lời đe doạ kia đã gây tác dụng ngược lại với điều mong đợi. Nó đã chạm lòng tự ái của Nghị viện, Nghị viện đang cảm thấy được sự ủng hộ mạnh mẽ của giai cấp tư sản mà việc thả Broussel vừa rồi càng tỏ rõ sức mạnh. Nghị viện bèn trả lời bức công hàm đó bằng cách tuyên bố rằng giáo chủ Mazarin rành rành là thủ phạm của tất cả những sự lộn xộn và bị coi là kẻ thù của nhà vua và quốc gia.
Nghị viện ra lệnh cho Mazarin rút lui khỏi triều đình ngay hôm đó và rời khỏi nước Pháp trong vòng tám ngày; quá hạn đó mà hẳn không chấp hành thì sẽ ra lệnh cho tất cả quần thần của nhà vua đuổi đánh hắn.
Câu trả lời kiên quyết ấy mà triều đình còn lâu mới ngờ tới, đồng thời đặt cả Paris và Mazarin ra ngoài vòng pháp luật. Bây giờ chỉ còn chờ xem Nghị viện hay triều đình sẽ thắng.
Triều đình bèn chuẩn bị tấn công và Paris chuẩn bị phòng thủ.
Thể là những nhà tư sản, thị dân lại bận vào cái việc thông thường của họ trong thời tao loạn, nghĩa là chăng các dây xích và đào phá nền đường phổ.
. Họ bỗng thấy ngài chủ giáo dẫn đến viện trợ cho họ hoàng thân de Conti, em của hoàng thân de Condé, và quận công de Longueville, em rể ông. Từ lúc đó họ vững dạ vì có hai vị thân vương về phe mình và hơn nữa lại có lợi thế về số đông. Sự viện trợ không hy vọng thà cô ấy đến với dân chúng Paris ngày mồng mười tháng Giêng.
Sau một cuộc bàn cãi sôi nổi, hoàng thân de Conti được phong làm tổng tư lệnh các quân đội của vua ở ngoài Paris, cùng với quận công d Elubeuf, quận công de Bouillon và thống chế La Mothe làm trung tướng. Quận công de Longueville không chức trách và tước vị đành bằng lòng với việc phụ tá cho anh vợ mình.
Còn quận công de Beaufort từ Vendôme tới, sử chép rằng ông mang theo cái dáng bộ kiêu kỳ, mớ tóc dài và đẹp và cái tính được lòng dân nó khiến ông xứng đáng với vương quyền của các khu chợ.
Thế là quân đội Paris được tổ chức một cách vội vã; những người tư sản, thị dân do một tình cảm nào đó thôi thúc hối hả cải trang thành binh sĩ, đội quân lâm thời đã thử làm một cuộc xuất quân chủ yếu nhằm tự trấn an mình và trấn an những người khác bằng sự tồn tại của mình hơn là nhằm một điều gì nghiêm túc.
Nó mang một lá cờ phấp phơi trên đầu và ghi một tiêu ngữ thật lạ lùng: "Chúng ta đi tìm đức vua của chúng ta!"
Những ngày tiếp sau, họ làm một vài cuộc hành quân bộ phận chẳng có kết quả nào khác ngoài việc cướp đi mấy đàn gia súc và đốt cháy vài ba ngôi nhà.
Lúc ấy vào những ngày đầu tháng Hai. Đúng ngày mồng một, bốn người bạn của chúng ta cập bến Boulogne-sur-Mer và chia làm hai ngả đi về Paris.
Đến ngày thứ tư, họ tránh Nanterre một cách thận trọng để khỏi rơi vào tay một nhóm nào đó theo hoàng hậu.
Arthos làm những việc phòng bị ấy một cách cẩn thận, nhưng Aramis đã nhắc nhủ anh rất chí lý rằng: họ không có quyền bất cần, họ được vua Charles ủy nhiệm một việc tối thượng và thiêng liêng và nhiệm vụ ấy được định hướng trao từ dưới chân đoạn đầu đài chỉ kết thúc ở dưới chân bà hoàng Henriete.
Arthos dành nhượng bộ.
Đến ngoại ô hai lữ khách thấy việc canh phòng cẩn mật, toàn Paris được vũ trang. Lính canh không cho hai nhà quý tộc đi qua và gọi viên đội.
Viên đội ra ngay lập tức và lấy bộ dạng quan trọng như những người tư sản thường làm khi có vinh dự được mang một chức vị nhà binh.
- Các ông là ai? - Hắn hỏi.
- Hai nhà quý tộc, - Arthos đáp.
- Các ông từ đâu đến - Từ London.
- Các ông đến Paris làm gì?
- Thực hiện một sứ mệnh nơi hoàng hậu Anh quốc.
- Ái chà! Hôm nay tất cả mọi người đều đến nhà hoàng hậu Anh quốc cả! viên đội đối đáp. - Ở đồn này đã có ba nhà quý tộc đang đưa kiểm tra giấy tờ và sắp đi đến chỗ hoàng hậu. Giấy thông hành của các ông đâu?
- Chúng tôi không có.
- Sao, các ông không có à?
- Không, chúng tôi đã nói là chúng tôi từ bên nước Anh về. Rời Paris từ trước khi nhà vua ra đi, chúng tôi hoàn toàn không biết tình hình chính trị diễn ra đến đâu rồi.
- A! - Viên đội nói với vẻ ranh mãnh - Các ông là những người thuộc phái Mazarin định vào đây để dọ thám chúng tôi.
Từ nãy Arthos vẫn để Aramis trả lời, bây giờ mới nói:
- Ông bạn thân mến ơi, nếu chúng tôi là người phải Mazarin thì trái lại, chúng tôi đã có đủ mọi thứ giấy tờ. Trong hoàn cảnh của các ông lúc này tôi thiết tưởng trước hết các ông hãy đề phòng những người có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ.
- Các ông hãy vào trong đơn vị canh phòng, - viên đội nói, - và trình bày lý lẽ với ông chỉ huy đồn.
Hắn ra hiệu cho lính gác đứng ra một bên, rồi đi trước dẫn hai nhà quý tộc vào.
Đơn vị canh phòng gồm toàn những nhà tư sản và lớp bình dân người này đánh bạc, người kia uống rượu, người khác tán chuyện gẫu.
Trong một góc được canh chừng, ba người quý tộc đến trước đang đợi kiểm tra giấy tờ thông hành. Viên sĩ quan xem xét giấy tờ ngồi ở phòng bên cạnh, cấp bậc của anh ta khá quan trọng nên được dành một phòng riêng.
Cử chỉ trước tiên của những người đến trước và những người đến sau là từ hai đầu của đơn vị canh phòng, họ đưa mắt nhìn nhau rất nhanh và dò xét.
Những người đến trước khoác những tấm áo choàng dài phủ lên những bộ y phục chỉnh tề. Một người nhỏ nhắn hơn đồng bọn đứng ở phía sau khuất trong bóng. Nghe viên đội báo rằng, rất có khả năng hắn dẫn vào hai kẻ thuộc phái Mazarin, ba người quý tộc lắng tai lên và chú ý. Người nhỏ nhất trong bọn họ đã bước lên hai bước lại lùi lại một bước và lẩn vào bóng tối. Nghe nói hai người mới đến không có thông hành cả đơn vị canh phòng hầu như nhất trí là không để cho họ vào.
- Có chứ? - Arthos nói, - Trái lại, rất có khả năng là chúng tôi sẽ vào bởi vì dường như chúng tôi đang tiếp xúc với những người biết chuyện. Vả lại có thể làm một điều rất đơn giản là thỉnh tên họ của chúng tôi đến Lệnh bà hoàng hậu Anh quốc. Nếu như Lệnh bà bảo đảm cho chúng tôi, thì chắc các ông sẽ thấy rằng để chúng tôi đi vào chẳng có điều gì tai hại cả.
Nghe câu nói ấy, sự chú ý của người quý tộc nấp trong bóng tối càng tăng gấp bội, thậm chí kèm theo một cử chỉ kinh ngạc, đến nỗi tấm áo choàng mà ông ta quấn chặt lại đẩy rơi chiếc mũ xuống đất:
Ông ta cúi xuống và vội vã nhặt lên.
Ồ! Lạy Chúa! - Aramis thúc khuỷu tay vào Arthos mà nói - Anh có trông thấy không?
- Cái gì cơ? - Arthos hỏi.
- Khuôn mặt của người nhỏ nhất trong số ba nhà quý tộc kia.
- Không.
- Hình như tôi đã..., nhưng điều ấy không thể có được.
Vừa lúc ấy viên đội vào phòng riêng của viên sĩ quan chỉ huy để nhận lệnh đi ra, hắn trao một tờ giấy cho ba người quý tộc và nói:
- Giấy thông hành hợp lệ cả, hãy để cho ba ông này đi qua.
Ba người quý tộc cúi đầu chào và vội vã đi ra lối cửa đã mở theo lệnh viên đội.
Aramis đưa mắt dõi theo và lúc người khách nhỏ nhất đi qua trước mặt, anh siết mạnh tay Arthos.
- Có chuyện gì đấy hả bạn? - Arthos hỏi.
- Tôi thấy... chắc là một tưởng tượng của tôi.
Rồi quay lại phía viên đội, anh hỏi:
- Xin ông cho biết ông có quen ba nhà quý tộc vừa ra khỏi dây không.
- Tôi biết họ qua giấy thông hành: đó là các ông de Flamarenx, de Châtillon và de Bruy, ba nhà quý tộc phái Fronde đang đi tới chỗ quận công de Longueville.
Aramis như trả lời cho ý nghĩ của chính mình hơn là nói với viên đội:
- Quái lạ, mình tưởng như nhận ra chính lão Mazarin.
Viên đội bật cười, nói:
- Lão ấy à! Liều mạng đến chỗ chúng tôi để được treo cổ à? Đâu lại ngu ngốc đến thế!
- A! - Aramis lẩm bẩm, - Có thể mình bị lầm lắm chứ; mình chẳng còn con mắt sắc sảo như d Artagnan.
- Ai nói đến d Artagnan đó? - Viên sĩ quan vừa lúc ấy ra đến ngưỡng cửa hỏi.
- Ôi! - Grimaud trợn tròn mắt kêu lên.
- Cái gì thế? - Aramis và Arthos cùng hỏi.
- Planchet! - Grimaud nói - Planchet với giáp che cổ.
- À! Các ông de La Fère và D Herblay, - viên sĩ quan reo lên. - Các ông trở về Paris! Ôi, tôi mừng quá! Chắc hẳn các ông đến với các vị hoàng thân?
Trong khi Arthos mỉm cười nhìn người bạn cũ của Mousqueton, Bazin và Grimaud giữ một cấp bậc quan trọng trong đội tự vệ tư sản thì Aramis nói:
- Như cậu thấy đấy, Planchet thân mến ạ.
- Thưa ông D Herblay, liệu ông có thể cho tôi biết tin tức về ông d Artagnan mà ông vừa nhắc đến.
- Bạn thân mến ơi, chúng tôi chia tay ông ấy cách đây bốn ngày, và chắc hẳn ông ấy đã tới Paris trước chúng tôi.
- Không đâu, tôi chắc chắn là ông ấy chưa trở về đô thành, có lẽ ông ấy ở lại Saint-Germain.
- Tôi vừa mới qua đấy hôm nay mà.
Aramis mỉm cười hỏi:
- Thế mỹ nhân Madeleine có tin tức gì về ông ấy không?
- Không, tôi cũng chẳng giấu ông rằng bà ta tỏ vẻ rất lo lẳng.
- Kể ra thì giờ cũng gấp lắm rồi - Aramis nói - mà chúng tôi cũng rất vội vã. Vậy nên Arthos thân mến ơi, tôi chẳng hỏi tin thêm về anh bạn của chúng ta, và hãy cho phép tôi chúc mừng ông Planchet.
- A! Ông hiệp sĩ! - Planchet nghiêng mình nói.
- Ông trung uý! - Aramis đáp.
- Trung uý và được hứa hẹn lên đại uý.
- Tuyệt lắm! - Aramis nói. - Thế nhưng vinh dự ấy đến với anh như thế nào?
- Trước hết, các ông có biết rằng chính tôi đã cứu ông de Rochefort không.
- Biết quá đi! Ông ta đã kể cho chúng tôi nghe.
- Việc ấy khiến tôi suýt bị lão Mazarin treo cổ và tất nhiên cũng khiến tôi được lòng dân hơn nữa.
- Và cũng nhờ được lòng dân...
- Không, nhờ có một cái gì hơn thế kia. Hẳn các ông biết rằng trước kia tôi đã phục vụ ở trung đoàn Piémont và được vinh dự làm đội trưởng.
- Phải rồi.
- Ấy thế! Một hôm có một đám tư sản và thị dân vũ trang đi diễu hành mà người thì bước chân trái, người thì bước chân phải, chẳng ai có thể xếp họ thành hàng lối cả. Tôi mới hướng dẫn họ và khiến họ đi đều bước hẳn hoi, và thế là người ta bèn phong cho tôi làm trung uý ở ngay bãi... tập.
- À, ra thế đấy! - Aramis nói.
- Thành thử ra, - Arthos tiếp lời, - Các anh có một đám quý tộc đi với mình phải không?
- Đúng vậy! Chắc các ông cũng biết lúc đầu chúng tôi có hoàng thân de Conti, quận công de Longueville, quận công de Beaufort, quận công de d Elbeuf, quận công de Bouillon, quận công de Chevreuse, ông Brissac, thống chế de La Mothe, ông de Luyne, hầu tước de Vitry, hoàng thân de Marcillac, hầu tước de Marcillacs, bá tước Noirmoutiers, hầu tước de Fiesque, hầu tước Laigues, công tước de Montrésor, hầu tước de Sévigné, rồi còn ai mà biết không nữa nhỉ...
- Thế còn ông Raoul de Bragelonne đâu? - Arthos hỏi với giọng xúc động. - D Artagnan có nói với tôi là khi ra đi đã gửi gắm ở nơi anh Planchet tốt bụng của tôi mà.
- Vâng, thưa bá ông d Artagnan đã coi cậu Raoul như chính con đẻ của mình, và tôi phải thưa rằng tôi không lúc nào rời mắt khỏi cậu ấy.
Giọng lạc đi vì mừng rỡ, Arthos lại hỏi tiếp:
- Thế cậu ta có mạnh khỏe không. Có gặp tai nạn gì không?
- Không sao cả, ông ạ.
- Cậu ta hiện ở đâu?
- Vẫn ở phố Grand-Roi-Charlemagne..
- Hằng ngày cậu ta làm gì?
- Khi thì đến hoàng hậu Anh quốc, lúc tới bà de Chevreuse. Cậu ấy và bà de Guise chẳng rời nhau mấy khi.
- Cảm ơn Planchet, cám ơn nhé! - Arthos vừa nói vừa chìa tay ra.
Planchet khẽ chạm đầu ngón tay mình vào bàn tay Arthos và đáp:
- Ôi! Thưa ông bá tước.
- Ơ kìa! Bá tước làm cái gì vậy! Với một tên đầy tớ cũ! - Aramis nói.
- Bạn ơi, - Arthos đáp, - Anh ta cho tôi biết tin tức về Raoul.
Planchet không nghe thấy lời nhận xét ấy nói:
- Thế bây giờ các ông định làm gì?
- Planchet thân mến ơi, nếu anh cho phép thì chúng tôi trở về Paris, - Arthos nói.
- Sao! Tôi mà cho phép các ông? Ông bá tước nhạo tôi đấy ư? - Tôi chẳng là gì khác ngoài kẻ hầu hạ ông. - Planchet đáp và cúi đầu.
Rồi quay về phía quân mình, anh bảo:
- Hãy để các ngài đây đi qua. Tôi biết các ngài, các ngài là bạn của ông de Beaufort đấy.
- Ông de Beaufort muôn năm! - Cả đồn đồng thanh hô và mở đường cho Arthos và Aramis. Riêng viên đội đến gần Planchet và lẩm bẩm.
- Sao! Không có giấy thông hành à?
- Không giấy thông hành - Planchet đáp...
- Thưa đại uý, - Viên đội nói và thăng tước cho Planchet cấp bậc mà người ta đã hứa, - Hãy chú ý là một trong số ba người đi ra lúc nãy có nói nhỏ với tôi là phải đề phòng các ông này.
Planchet trịnh trọng nói:
- Còn tôi, tôi quen các ông này và tôi xin bảo đảm.
Nói rồi anh bắt tay Grimaud, bác ta có vẻ lấy làm vinh dự về sự đối xử đặc biệt ấy.
- Tạm biệt đại uý nhé! - Aramis nói với giọng giễu cợt, - Nếu có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ kêu nài lên ông đấy.
- Thưa ông, về điều này cũng như về mọi việc khác, tôi vẫn là kẻ hầu hạ của ông.
Aramis lên ngựa nói:
- Cái thằng ranh này xem ra sáng trí lắm.
- Sao lại không? - Arthos cũng nhảy lên yên và nói: sau bao nhiêu năm chải mũ cho chủ nó mà!
-*-*-*-
Chương 80
Những sứ giả
Hai người bạn lên đường ngay và xuôi xuống cái dốc cao ngoại ô. Nhưng tới chân dốc họ rất đỗi ngạc nhiên thấy các phố xá Paris biến thành sông ngòi và các quảng trường biến thành hồ ao. Sau những trận mưa lớn đầu tháng Giêng, sông Seine dâng cao và cuối cùng tràn ngập nửa kinh thành.
Arthos và Aramis cho ngựa xông bừa xuống chỗ lụt nhưng chẳng mấy chốc nước ngập đến ngực ngựa, và hai nhà quý tộc phải rời ngựa để đi thuyền. Họ dặn mấy người đầy tớ đợi họ ở Khu Chợ.
Thế là họ đi thuyền cập vào cung Louvre. Trời tối mịt. Những ngọn đèn lồng vàng vọt run rẩy trên các ao hồ, những chiếc thuyền chở lính tuần tra lấp lánh gươm súng, những tiếng gọi canh đêm trao đổi giữa các đồn bốt, cảnh tượng ấy của thành phố Paris làm loá mắt Aramis, con người nhạy bén nhất với những tình cảm hiếu chiến mà người ta có thể gặp.
Họ tới chỗ hoàng hậu Henriette, nhưng buộc phải chờ đợi. Bà hoàng đang tiếp những người quý tộc mang đến những tin tức về nước Anh.
Nghe người hầu nói vậy, Arthos bảo hắn:
- Chúng tôi cũng vậy, chúng tôi không những mang những tin tức của nước Anh mà chúng tôi còn đích thân từ nước Anh tới đây.
- Vậy xin các ngài cho biết quý danh, - tên hầu nói.
Aramis đáp.
- Bá tước de La Fère và hiệp sĩ D Herblay.
Đã được nghe bà hoàng bao lần thốt lên những tên này trong niềm hy vọng, gã hầu nói:
- A! Trường hợp này lại khác, và tôi chắc Lệnh bà sẽ chẳng tha thứ cho tôi nếu tôi để các ngài phải chờ đợi dù chỉ chốc lát. Xin các ngài hãy theo tôi.
Và hắn đi trước, Arthos và Aramis theo sau.
Đến phòng bà hoàng, hắn ra hiệu cho họ chờ, rồi mở cửa và nói:
- Thưa Hoàng thượng, mong Lệnh bà xá lỗi cho tôi đã trái lệnh Người, nếu Người biết rằng những vị khách mà tôi đưa vào là các ngài bá tước de La Fère và hiệp sĩ D Herblay.
Nghe nói đến hai cái tên ấy, hoàng hậu mừng rú lên khiến hai nhà quý tộc cũng nghe thấy.
- Tội nghiệp hoàng hậu? - Arthos lẩm bẩm.
- Ô! Mới các ông vào! Mời các ông vào! - Cô công chúa trẻ reo lên và lao ra cửa.
Cô gái đáng thương không rời mẹ và cố gần gủi chắm sóc bà để bà khuây khoả nỗi nhớ hai anh và em gái cô.
Cô tự ra mở cửa và bảo:
- Xin mời các ông vào.
Arthos và Aramis cúi chào. Bà hoàng ngồi trong một chiếc ghế bành. Đứng trước mặt bà là hai nhà quý tộc mà các anh đã gặp ở bốt canh.
Đó là các ông Flamarens và Gaspard de Coligny, công tước de Châtillon em của người bảy tám năm về trước đã bị giết ở quảng trường Hoàng gia trong một cuộc đấu kiếm dính dáng đến chuyện bà Longueville.
Nghe báo hai người mới vào, họ lùi lại một bước và thì thầm với nhau vài lời vẻ lo ngại.
Trông thấy Arthos và Aramis, hoàng hậu Anh quốc reo lên:
- A! Các ông đấy à! Cuối cùng các ông, những người bạn trung thành đã trở về. Nhưng các, chuyến thư tín của Nhà nước còn đi nhanh hơn các ông. Triều đình đã hay tin các sự việc ở London khi các ông tới các cửa ô Paris. Đây là các ông de Flamarenx và de Châtillon do hoàng hậu Anne d Autriche phải mang đến cho tới những tin tức mới nhất.
Aramis và Arthos liếc nhìn nhau. Sự bình thản và cả nỗi vui mừng nửa lấp lánh trong đôi mắt của bà hoàng khiến các anh hết sức kinh ngạc.
Bà hoàng quay lại phía các ông Flamarens và Châtillon và bảo:
- Xin mời ông tiếp tục đi. Các ông nói rằng Hoàng thượng Charles I, vị cha tôn nghiêm của tôi đã bị kết án từ hình trái với nguyện vọng của đa số quần thần Anh phải không?
- Vâng, thưa Lệnh bà, - Hai ông lắp bắp.
Arthos và Aramis nhìn nhau mỗi lúc một kinh ngạc hơn.
- Và rồi, - bà hoàng nói tiếp, - Khi bị đưa ra đoạn đầu đài! Ôi lạy Chúa, ôi quân vương của tôi! Và khi bị đưa ra đoạn đầu đài, Người được đám dân chúng bất bình cứu thoát!
- Vâng, thưa Lệnh bà, - Châtillon đáp lại rất khẽ chỉ có hai nhà quý tộc hết sức chăm chú mới nghe được lời khẳng định ấy.
Bà hoàng chắp hai bàn tay lại với vẻ biết ơn sâu sắc, trong khi cô gái quàng tay lên cổ mẹ và hôn bà, mắt đầm đìa những giọt lệ mừng vui.
Châtillon thấy vai kịch mình sắm quá nặng nề và đỏ mặt lên trước cái nhìn trân trân và sắc sảo của Arthos, nói:
- Bây giờ, chúng tôi chỉ còn dâng lên Hoàng thượng những kính lễ của chúng tôi.
- Khoan đã nào, các ông, - hoàng hậu vừa nói vừa ra hiệu giữ họ lại. - Hãy nán lại một lát bởi vì các ông de La Fère và ông d Herblay đây mà chắc các ông có nghe nói, đã tới London và là nhân chứng mắt thấy tai nghe, có lẽ sẽ kể những chi tiết mà các ông không biết. Các ông sẽ kể lại những chi tiết này cho hoàng hậu, cô em dâu tốt bụng của tôi nghe, đừng giấu giếm tôi điều gì, đừng nương nhẹ tôi. Hoàng thượng vẫn còn sống và danh dự vương tông được bảo toàn thì mọi chuyện khác đối vôi tôi chẳng có nghĩa lý gì.
Arthos tái mặt và đưa tay lên ngực.
Hoàng hậu trông thấy vẻ mặt tái và cử chỉ ấy vội nói.
- Thế nào, hãy nói đi, tôi van ông.
- Xin Lệnh bà xá lỗi, - Arthos nói - Nhưng tôi chẳng muốn thêm thắt gì vào câu chuyện kể của các ông đây trước khi các ông thừa nhận là có thể các ông đã lầm.
- Lầm à! - Hoàng hậu gần như tức tối kêu lên - Lầm à?... Vậy thì chuyện gì đã xảy ra? Ôi, lạy Chúa.
- Thưa ông, - Flamarenx nói với Arthos.
- Nếu chúng tôi lầm thì đó là do hoàng hậu nói sai, và chúng tôi thiết nghĩ rằng các ông không có ý định sửa lại vì như vậy là đính chính điều mà Hoàng thượng nói.
- Điều sai lầm ấy là do hoàng hậu ư, thưa ông? - Arthos hỏi hằng giọng bình tĩnh và âm vang.
- Vâng - Flamarenx cúi mặt xuống lẩm bẩm.
Arthos thở dài buồn bã.
- Phải chăng điều sai lầm ấy là do cái người đi cùng với các ông mà chúng tôi đã gặp ở đơn vị canh phòng cửa ô Roule - Aramis nói với vẻ lịch sự khiêu khích. - Bởi vì nếu bá tước de La Fère và tôi không lầm, thì các ông có ba người khi đi vào Paris.
Châtillon và Flamarenx rùng mình.
Nỗi lo âu mỗi lúc một tăng, hoàng hậu kêu lên:
- Nhưng bá tước hãy giải thích đi. Tôi đọc thấy nỗi tuyệt vọng trên trán ông, miệng ông ngập ngừng phải báo cho tôi một tin tức khủng khiếp, bàn tay ông run lên kia... Ôi! Lạy Chúa? Lạy Chúa! Có chuyện gì xảy ra vậy?
Nàng công chúa trẻ quỳ xuống bên cạnh mẹ nói:
- Cầu Chúa hãy rủ lòng thương chúng tôi.
- Này, ông ơi, - Châtillon nói, - Nếu các ông mang một tin bất hạnh mà lại báo cho hoàng hậu biết thì các ông hành động như một người tàn nhẫn.
Aramis sấn đến gần như chạm vào người Châtillon. Mím môi lại và mắt nảy lửa, anh nói:
- Này ông, tôi thiết tưởng rằng ông không có ý định dạy bá tước de La Fère và tôi điều gì cần phải nói ở đây chứ?
Trong lúc diễn ra cuộc đấu khẩu ngắn ngủi ấy, Arthos vẫn đặt lên ngực và đầu cúi xuống, tiến đến gần hoàng hậu và nói bằng giọng xúc động:
- Thưa Lệnh bà, do bản chất ở cao hơn những kẻ khác, những ông hoàng bà chúa được trời phú cho một trái tim để chịu đựng những nỗi bất hạnh to lớn hơn rất nhiều những bất hạnh của kẻ tầm thường; bởi vì trái tim của họ có liên quan đến tính ưu việt của họ. Cho nên tôi thiết nghĩ là một hoàng hậu lớn như Hoàng thượng không thể nào hành động giống như một người đàn bà thân phận như chúng tôi. Thưa hoàng hậu, người được phó cho tất cả những sự tuẫn nạn trên cõi trần này, đây là kết quả cái sứ mạng vinh dự mà Người đã trao cho chúng tôi.
Và quỳ xuống trước mặt bà hoàng hồi hộp và lạnh ngắt, Arthos rút từ trong ngực ra một cái hộp trong đựng tấm huân chương bằng kim cương mà hoàng hậu đưa cho Lord de Winter trước khi ra đi, và chiếc nhẫn cưới mà vua Charles trước khi chết giao cho Aramis. Từ khi nhận hai kỷ vật ấy, Arthos không lúc nào rời chúng cả.
Anh mở hộp và giơ những kỷ vật đó ra cho bà hoàng hậu với một nỗi đau đớn âm thầm và sâu sắc.
Hoàng hậu đưa tay ra cầm lấy chiếc nhẫn, run rẩy đưa lên môi hôn, rồi không buông nổi một tiếng thở dài, không thốt ra được một tiếng nức nở, bà dang tay ra, tái nhợt đi và ngã ngất trong vòng tay các cung nữ và con gái.
Arthos hôn lên gấu áo người quả phụ đáng thương và đứng lên với một vẻ uy nghiêm nó gây ấn tượng sâu sắc đến những người chứng kiến, anh nói:
- Tôi, bá tước de La Fère, người quý tộc không bao giờ nói dối, tôi thề trước Chúa trước tiên, rồi trước bà hoàng hậu tội nghiệp, rằng tất cả những gì có thể làm được để cứu đức vua, chúng tôi đã làm trên đất nước Anh.
Rồi quay lại phía Aramis, anh nói tiếp:
- Hiệp sĩ, bây giờ chúng ta hãy ra đi, nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành.
- Chýa hết, - Aramis bảo, - Chúng ta còn phải nói một lời với các vị này.
Rồi quay lại phía Châtillon, ông nói:
- Thưa ông, liệu ông có vui lòng đi ra ngoài, dù chỉ một lát thôi, đề nghe những lời mà chúng tôi không thể nói trước mặt bà hoàng?
Châtillon không đáp, chỉ cúi đầu ra hiệu đồng ý.
Arthos và Aramis đi trước, Châtillon và Flamarens theo sau.
Chẳng nói một lời, họ đi qua tiền sảnh, nhưng khi tới một nền đất ngang bằng với một cửa sổ, Aramis đi theo lối nền đất hoàn toàn vắng vẻ. Đến cửa sổ anh dừng chân và quay về phía công tước de Châtillon, anh nói:
- Thưa ông, ban nãy hình như ông tự cho phép mình cư xử với chúng tôi thật lỗ mãng. Như vậy dù ở trường hợp nào cũng đều bất nhã, tệ hơn nữa nó lại do những người mang đến cho hoàng hậu tin tức của một kẻ nói dối.
- Ơ, cái ông này! - Châtillon kêu lên.
Aramis hỏi với giọng giễu cợt:
- Các ông đã làm gì ông de Bruy? Phải chăng do tình cờ mà ông ta thay đổi bộ mặt khiến nó giống hệt ông Mazarin? Ai cũng biết rằng ở Hoàng cung có vô số mặt nạ của ngýòi Ý để thay đổi từ mặt nạ thằng hề đến mặt nạ rối Pantalon.
- Nhưng ông khiêu khích chúng tôi đấy à? Tôi ngỡ như vậy.- Flamarens nói.
- A! Các ông chỉ ngỡ thôi à?
- Hiệp sĩ ơi, hiệp sĩ! - Arthos kêu.
- Kìa, cứ để mặc tôi làm, - Aramis bực bội nói, - Anh biết rằng tôi không thích những chuyện tồn tại ở dọc đường.
- Thế thì kết thúc đi, ông ơi, - Châtillon nói với vẻ ngạo mạn chẳng thua gì Aramis.
Aramis nghiêng mình nói:
- Thưa các ông, một người khác ngoài tôi hoặc bá tước de La Fère có lẽ sẽ bắt giữ các ông đây, vì rằng chúng tôi có vài người bạn thân ở Paris. Nhưng chúng tôi hiến các ông một cách để ra đi mà chẳng lo ngại gì. Hãy đến cái bãi hoang kia, kiếm cầm tay và nói chuyện với chúng tôi năm phút.
- Sẵn lòng, - Châtillon nói.
- Khoan đã, các ông, - Flamarens kêu lên. - Tôi biết rõ lời đề nghị thật cám dỗ, nhưng vào giờ này thì không thể chấp nhận được.
Aramis nói giọng giễu cợt:
- Tại sao vậy? Phải chăng sự gần gũi Mazarin đã khiến các ông thận trọng đến thế?
- Ồ! Flamarens, ông nghe đấy, - Châtillon nói - Không đáp lại sẽ là một vết nhơ cho tên tuổi của tôi và danh dự của tôi.
- Ý kiến tôi cũng vậy, - Aramis nói.
- Ông đừng trả lời nữa, - Flamarens nói, - Song tôi chắc rằng lát nữa các ông cũng sẽ đồng ý với tôi.
Aramis bắt đầu với một cử chỉ xấc xược không tưởng tượng nổi. Châtillon thấy vậy liền đặt tay vào đốc kiếm.
- Công tước ơi, - Flamarens nói, - Ông quên rằng ngày mai ông phải chỉ huy một cuộc tiến quân thật là quan trọng, và do ngài Hoàng thân chỉ định và Hoàng hậu chấp thuận, từ giờ cho tới mai ông không còn thuộc về ông nữa.
- Được! Vậy thì đến sáng ngày kia, - Aramis nói.
- Đến sáng ngày kia, - Châtillon nói, - Thì lâu quá, các ông ạ.
- Không phải tôi ấn định và yêu cầu thời hạn đó. - Aramis nói. - Nhất là hình như người ta có thể gặp lại nhau ở cuộc ra quân đó.
- Vâng thưa ông, - Châtillon nói, - Ông có lý, và rất vui lòng nếu ông quá bộ đến tận cửa ô Charenton.
- Sao vậy? Để có danh dự gặp ông, tôi có thể đi cùng trời cuối đất, huống hồ chỉ phải đi có một vài dặm thôi.
- Vậy thì đến ngày mai.
- Tôi mong như vậy. Bây giờ ông hãy đi đến với giáo chủ của ông. Nhưng trước hết, hãy lấy danh dự mà thề rằng ông sẽ không báo cho ông giáo chủ biết là chúng tôi đã trở về.
- Lại còn ra điều kiện ư?
- Sao lại không.
- Bởi vì chỉ có người chiến thắng mới ra điều kiện, còn các ông thì lại không phải như vậy.
- Thế thì, chúng ta tuốt gươm ra ngay bây giờ. Đối với chúng tôi chẳng sao cả, vì rằng chúng tôi không chỉ huy cái cuộc ra quân ngày mai.
Châtillon và Flamarens nhìn nhau. Lời nói và cử chỉ của Aramis đầy vẻ châm biếm khiến họ nhất là Châtillon, khó mà kềm chế nổi tức giận. Nhưng rồi gã nhịn được trước lời nói của Flamarens. Gã nói:
- Thôi được! Người bạn của chúng ta dù là gì chăng nữa, cũng không biết gì về những điều đã xảy ra. Nhưng này ông, ông hứa rằng ngày mai có mặt ở Charenton phải không?
- A! Các ông cứ yên trí, - Aramis đáp.
Bốn nhà quý tộc chào nhau, nhưng lần này Châtillon và Flamarens đi ra khỏi cung Louvre trước, còn Arthos và Aramis theo sau.
- Này, Aramis, - Arthos hỏi, - Ai làm cho cậu nổi cơn điên giận lên thế?
- Họ đã... thế anh không trông thấy à?
- Không.
- Họ đã cười khẩy khi chúng ta thề rằng chúng ta đã làm nhiệm vụ của mình ở trên nước Anh. Có thể họ tin hoặc không tin. Nếu tin thì họ cười khẩy là để lăng mạ chúng ta; nếu không tin thì họ càng lăng nhục chúng ta hơn, và phải làm chứng tỏ cho họ biết chúng ta là thế nào chứ? Với lại tôi cũng chẳng bực mình thấy họ hoãn việc này đến ngày mai đâu; tôi cho rằng tối nay chúng ta có việc gì đó làm hay hơn là đấu kiếm.
- Việc gì thế?
- À, chúaôi! Chúng ta cho bắt lão Mazarin.
Arthos bĩu môi khinh thị và nói:
- Những cuộc chiến ấy không hợp với tôi, cậu biết chứ, Aramis?
- Tại sao vậy?
- Tại vì nó giống những cuộc đánh úp.
- Arthos ạ, kể ra anh có thể là một vị tướng kỳ cục đấy. Anh chỉ đánh nhau ban ngày thôi, anh sẽ cho đối phương biết trước giờ mà anh tấn công, và anh sẽ chẳng nhằm đánh họ ban đêm bao giờ, vì sợ họ buộc tội là anh đã lợi dụng bóng tối.
Arthos mỉm cười nói:
- Cậu biết rằng người ta chẳng thể thay đổi được bản tính mình. Và chăng cậu có biết chúng ta đang ở đâu không, và biết đâu bắt lão Mazarin lại chẳng phải việc xấu hơn là việc tốt, một sự lôi thôi hơn là một chiến công?
- Arthos, hãy nói rằng anh không tán thành kiến nghị của tôi.
- Không đâu, trái lại tôi cho rằng đó là thẳng thắn; tuy nhiên...
- Tuy nhiên làm sao?
- Tôi cho rằng đáng lẽ cậu không nên bắt những gã kia thề là không nói gì cho Mazarin biết; vì rằng bắt họ thề như vậy thì hầu như cậu cũng đã cam kết rằng sẽ chẳng làm gì cả?
- Tôi thề rằng tôi chẳng cam kết gì hết, tôi tự coi như mình hoàn toàn tự do. Nào, nào, Arthos, ta đi thôi?
- Đi đâu?
- Đến ông de Beaufort hoặc ông de Bouillon; chúng ta sẽ cho họ biết tình hình ra sao.
- Được, nhưng với một điều kiện là ta sẽ bắt đầu bằng ông chủ giáo. Đó là một tu sĩ, ông ta thông thạo về những điều nan giải và chúng ta sẽ kể với ông ta điều băn khoăn của ta.
- A! - Aramis kêu lên, - Ông ta sẽ làm hỏng cả, sẽ chiếm lấy hết cả. Ta sẽ không bắt đầu từ ông ấy mà kết thúc ở ông ấy.
Arthos mỉm cười. Ta thấy anh có một suy nghĩ từ trong đáy lòng mà không nói ra.
- Thế thì, - anh nói, - Ta bắt đầu bằng người nào?
- Bằng ông de Bouillon nếu như anh vui lòng, nhà ông ấy là nhà đầu tiên trên đường ta đi.
- Bây giờ cậu cho phép mình một việc nhé!
- Việc gì?
- Mình đến khách sạn "Grand-Roi-Charlemagne." để ôm hôn Raoul.
- Ơ kìa! Thế thì tôi cũng đi với anh và chúng ta sẽ cùng ôm hôn nó.
Hai người lại xuống chiếc thuyền đã đưa họ đến đây và đi ra khu chợ. Họ gặp Grimaud và Blaisois đang giữ ngựa của họ, và cả bốn thầy trò đi về phố Guénégaud.
Nhưng Raoul không có ở khách sạn "Grand-Roi-Charlemagne.", trong ngày anh nhận được một bức thư của ngài hoàng thân và lập tức cùng Olivain ra đi ngay.
-*-*-*-
Chương 81
Ba phụ tá của Tổng tư lệnh
Theo như đã thoả thuận với nhau, sau khi ra khỏi khách sạn "Đại đế Grand-Roi-Charlemagneơ", Arthos và Aramis đi về phía dinh công tước de Bouillon.
Đêm tối mù mịt và mặc dầu đi vào những giờ yên tĩnh và vắng vẻ vẫn tiếp tục vang lên hàng nghìn tiếng động nó khiến một thành phố bị bao vây giật mình tỉnh dậy.
Đi mỗi bước là gặp các lũy chướng ngại, ở mỗi ngách phổ xá là những sợi dây chăng, ở mỗi ngã tư là những toán quân đóng ngoài trời. Những đội tuần tra nhan nhản gặp nhau và trao đổi mật khẩu; những người đưa tin do các chỉ huy khác nhau phải đi như mắc cửi.
Cuối cùng những cuộc đối thoại sôi nổi chỉ rõ sự xao xuyến nhân tâm được trao đổi giữa những dân cư hoà bình đứng ở cửa sổ với những người hiếu chiến hơn họ mang thương tích trên vai hoặc súng cầm tay chạy khắp phố phường.
Đi chưa được trăm bước, Arthos và Aramis bị lính canh ở lũy chướng ngại ngăn giữ lại và hỏi mật khẩu. Các anh nói là đi đến nhà ông de Bouillon để báo cho ông biết một tin tức quan trọng, và người ta đành cho một người gọi là để đưa các anh đi vào dễ dàng, nhưng thực ra là để canh phòng các anh. Người dẫn đường đi trước và hát:
"Cái ông Bouillon hiền lành
Bị bệnh phong thấp nó hành"
Đó là một trong những bài ca mới mẻ nhất, không biết có bao nhiêu đoạn, và mỗi người đều có phần trong đó.
Đi đến gần dinh ông dờ Bouillon họ gặp một tốp ba kỵ sĩ có đủ mọi khẩu lệnh trên đời, vì họ đi chẳng có người dẫn đường và hộ tống, và khi tới các lũy chướng ngại họ chỉ cần trao đổi vài lời với những người canh gác là người ta để cho họ đi qua với tất cả sự tôn kính dành cho chức vị của họ. Trông thấy dáng vẻ họ. Arthos và Aramis dừng lại.
- Ô kìa! - Aramis, nói - Bá tước có nhìn thấy không?
- Có, - Arthos đáp.
- Anh thấy ba kỵ sĩ đó giống ai nhỉ?
- Thế cậu thấy thế nào, Aramis?
- Hình như địch thủ của chúng ta.
- Cậu không lầm đâu. Tôi hoàn toàn nhận ra ông Flamarens.
- Còn tôi nhận ra ông de Châtillon.
- Còn kỵ sĩ mặc áo choàng nâu...
- Đó là giáo chủ.
- Đích thân.
- Quái quỉ nhỉ! - Aramis nói, - sao họ lại dám đi liều ở gần dinh Bouillon này.
Arthos mỉm cười, nhưng không đáp. Năm phút sau họ gõ cửa nhà ông Bouillon.
Cổng có một lính gác giống như nhà những nhân vật cao cấp; trong sân có cả một cái bốt nhỏ sẵn sàng tuân theo lệnh viên trung uý của hoàng thân de Conti.
Đúng như bài hát nói, công tước de Bouillon bị bệnh phong thấp và nằm liệt giường. Mặc dầu bệnh tình như vậy không cho phép ông cưỡi ngựa từ một tháng nay, nghĩa là từ khi Paris bị bao vây, ông vẫn bảo rằng ông sẵn sàng tiếp đón bá tước de La Fère và hiệp sĩ d Herblay.
Hai người bạn được dẫn đến giường ông Bouillon. Bệnh nhân nằm ở trong phòng, nhưng quanh mình đầy những trang bị nhà binh nhất. Khắp chỗ chỉ toàn bày và treo gươm kiếm súng ống, áo giáp, và ta dễ dàng thấy rằng khi nào dứt bệnh phong thấp là ông de Bouillon lập tức gây rắc rối ngay cho các kẻ thù của Nghị viện.
Trong khi chờ đợi, ông nói rằng ông rất tiếc mình buộc phải nằm liệt giường.
Trông thấy hai người khách, ông cố nhắc mình dậy và nhăn nhó vì đau, nhưng vẫn reo lên:
- A! Xin chào các ông! Các ông sung sướng thật các ông có thể nhảy ngựa, đi lại, chiến đấu vì lợi ích của nhân dân. Còn tôi, các ông thấy đấy, tôi bị đóng đinh chặt vào giường, ái chà. Cái bệnh phong thấp quỉ quái này? - Ông lại nhăn nhó. - Cái bệnh phong thấp tệ hại này.
- Thưa Đức ông, - Arthos cất tiếng, - Chúng tôi từ nước Anh về và việc quan tâm đầu tiên của chúng tôi khi tới Paris là đến hỏi thăm sức khoẻ của ngài.
- Xin đa tạ các ông, xin đa tạ. - Ông quận công đáp - Sức khỏe tôi kém lắm, như các ông thấy đấy... Cái bệnh phong thấp tội nợ này! A! Các ông từ Anh trở về ư? Tôi vừa nghe tin rằng vua Charles vẫn bình an, phải không?
- Thưa Đức ông, - Aramis đáp, - vua chết rồi.
- Ô hay? - quận công tỏ vẻ kinh ngạc.
- Bị Nghị viện kết án và chết trên đoạn đầu đài.
- Không thể thế được.
- Và bị hành quyết trước mắt chúng tôi.
- Vậy mà ông Flamarens nói với tôi thế nào?
- Ông Flamarens ư? - Aramis hỏi.
- Phải, ông ta mới ở đây ra.
Arthos mỉm cười và hỏi:
- Cùng với hai người bạn à?
- Phải cùng với hai người bạn, - Quận công đáp và nói thêm với vẻ lo ngại - Họ có gặp các ông không?
- Có chứ, - Arthos đáp, - Ở ngoài phố thì phải.
Và anh mỉm cười nhìn Aramis, Aramis cũng nhìn lại anh với vẻ hơi ngạc nhiên.
- Thưa Đức ông - Arthos nói, - Thật ra đang đau ốm như ngài, phải hết lòng hết dạ lắm với lợi ích của Paris, ngài mới vẫn đứng đầu quân đội và sự kiên trì ấy khiến chúng tôi rất cảm phục.
- Các ông ơi phải thế, chứ biết làm thế nào. Các ông cũng là một tấm gương, các ông thật là dũng cảm và tận tụy và chính nhờ các ông mà ông bạn đồng liêu thân mến của tôi, quận công de Beaufort được tự do và có thể là được cứu sống nữa. Phải biết hy sinh cho lợi ích chung chứ! Cho nên các ông thấy đấy, tôi cũng hy sinh; nhưng cũng xin thú nhận rằng tôi kiệt sức rồi; lực bất tòng tâm mà! Cái bệnh phong thấp chết tiệt này nó giết tôi! Và tôi cũng thú thật rằng nếu như triều đình chấp nhận những yêu cầu của tôi, yêu cầu thật chính đáng, bởi vì tôi chỉ yêu cầu một sự bồi thường mà ngài giáo chủ cũ đã hứa khi người ta tước mất thái ấp Sedan của tôi... Phải, tôi thú thật rằng nếu như người ta đền cho tôi những lãnh địa giá trị cũng ngang như thế, nếu như người ta bồi thưởng cái việc tôi không được hưởng thụ cái dinh địa ấy từ khi bị tước doạt, tức là từ tám năm nay, nếu như tước vị hoàng thân được ban cho người nhà tôi, và nếu ông Tuyren, em tôi, được phục chức chỉ huy, thì tôi sẽ rút lui ngay về đất đai của tôi và để mặc triều đình và nghị viện dàn xếp với nhau tuỳ họ.
- Thưa Đức ông - Arthos nói, - ngài nói rất chí lý.
- Ông đồng ý như vậy có phải không, bá tước de La Fère?
- Hoàn toàn.
- Thế còn ông hiệp sĩ D Herblay?
- Nhất trí.
- Thế thì, - quận công nói, - Tôi xin bảo đảm với các ông rằng đó là điều tôi sẽ chấp nhận. Lúc này triều đình đang đưa ra những kiến nghị với tôi, và chỉ còn mong tôi chấp nhận. Cho đến giờ phút này tôi vẫn từ chối. Nhưng vì rằng những người như các ông cho rằng như thế thì tôi sai lầm, và nhất là vì cái bệnh phong thấp chết tiệt này nó khiến tôi không thể làm được một chút việc gì cho lợi ích của Paris, cho nên thực tình, tôi muốn nghe lời khuyên của các ông và chấp rthận đề nghị mà ông de Châtillon vừa mới đưa ra với tôi.
- Hoàng thân hãy chấp nhận đi, - Aramis nói, - Hãy chấp nhận.
- Vâng, thực tình tôi cũng tiếc là chiều nay hầu như tôi đã gạt phăng lời đề nghị đó... nhưng ngày mai có hội nghị và ta sẽ xem.
Hai người chào quận công. Ông nói:
- Các ông về đi. Cuộc viễn du hẳn khiến các ông mệt nhọc lắm. Tội nghiệp vua Charles. Nhưng dù sao cũng có đôi phần sai sót của ông ta trong tất cả những chuyện đó. Điều an ủi chúng ta là nước Pháp không có gì phải tự trách mình trong trường hợp này, nó đã làm tất cả những gì có thể làm để cứu ông ta.
- Ồ! Về điều này, - Aramis nói, - Chúng tôi đã được chứng kiến, nhất là ông Mazarin...
- Thấy chưa? Tôi rất hài lòng là các ông đã làm chứng cho ông ấy; thực ra ông giáo chủ có mặt tốt, và nếu ông ấy không phải là người ngoại quốc thì có lẽ người ta cũng sẽ thừa nhận ông ấy. Ờ! Cái bệnh phong thấp quỉ quái này!
Arthos và Aramis đi ra, và tới tiền sảnh rồi mà vẫn nghe thấy những tiếng kêu la của ông de Bouillon; rõ ràng là ông hoàng tội nghiệp ấy đau ghê gớm lắm.
Ra khỏi cổng; Aramis hỏi Arthos:
- Thế nào, anh nghĩ sao?
- Về ai cơ?
- Thì về ông de Bouillon!
- Bạn ơi, tôi nghĩ về ông ta như bài hát của người dẫn đường cho chúng ta ấy, - Arthos đáp và lặp lại:
"Cái ông Bouillon đê hèn,
Bị bệnh phong thấp nó hành"
- Thế cho nên, - Aramis nói, - Anh thấy đấy, tôi có hé răng chút nào về mục đích chúng ta đến đâu.
- Và cậu hành động khôn ngoan đến nỗi có thể lại cho hắn bị một cơn đau nữa rồi. Thôi, ta đi đến ông de Beaufort.
Và hai người bạn đi về phía dinh Vendôme. Khi họ đến nơi, chuông điểm mười giờ tối.
Dinh Vendôme được canh phòng không kém và cũng phô ra vẻ mặt hiếu chiến không kém dinh Bouillon. Cũng có lính gác, có quân đứng gát ngoài sân, có súng dựng chụm, có ngựa thắng yên cương sẵn sàng.
Arthos và Aramis đi vào thì hai kỵ sĩ đi ra, họ phải cho ngựa lùi lại một bước để nhường chỗ cho các anh vào.
- A, a! - Aramis nói, - Các ông ơi, rành rành đêm nay là cái đêm gặp gỡ. Thú thật là chúng ta sẽ không may, vì sau khi gặp nhau quắ nhiều trong buổi tối nay, đến mai chúng ta sẽ chẳng thể gặp nhau nữa.
Châtillon, vì chính là gã cùng với Flamarens vừa ở nhà quận công de Beaufort ra, đáp lại:
- Ồ, về điều ấy các ông có thể yên tâm vì nếu ban đêm chúng ta không tìm nhau mà vẫn gặp nhau thì ban ngày chúng ta tìm nhau ắt là sẽ gặp nhau.
- Tôi mong như vậy, ông ạ, - Aramis nói.
- Còn tôi thì tôi chắc chắn, - Công tước đáp.
Flamarens và Châtillon tiếp tục đi ra, còn Arthos và Aramis xuống ngựa.
Hai anh vừa mới trao dây cương cho mấy tên hầu và cởi bỏ áo choàng ra, thì một người tiến lại gần dưới ánh sáng mập mờ của một ngọn đèn treo ở giữa sân, nhìn ngó các anh một lát, rồi kêu lên một tiếng kinh ngạc và vừa nhảy xổ vào vòng tay các anh vừa reo:
- Bá tước de La Fère! Hiệp sĩ D Herblay! Làm thế nào mà các ông lại có mặt ở Paris đây?
- Rochefort! - Hai anh cùng reo lên.
- Vâng, đúng rồi. Như các ông đã biết, chúng tôi từ Vendôme tới đây được bốn năm hôm rồi và đang sửa soạn cho lão Mazarin bận rộn đây. Tôi đoán chắc rằng các ông vẫn là người của bên ta chứ?
- Hơn bao giờ hết!
- Thế còn quận công?
- Ông ấy căm giận chủ giáo lắm. Các ông biết thắng lợi của lão đối với ông quận công thân mến của chúng ta chứ? Lão ta là ông vua thực sự của Paris, lão không thể đi ra ngoài mà không có nguy cơ bị người ta bóp cổ chết.
- A, càng tốt! - Aramis nói. - Nhưng này, hãy cho tôi biết có phải Flamarens và Châtillon vừa ở đây ra không?
- Phải, họ vừa mới yết kiến ông quận công. Chắc hẳn do Mazarin phái đến, nhưng họ đã thấy phải đối mặt với ai rồi, tôi dám chắc như vậy.
- Vừa hay! - Arthos nói. - Nhưng liệu chúng tôi có được vinh dự vào chào điện hạ không?
- Ô kìa! Vào ngay bây giờ ấy chứ! Các ông biết rằng đối với các ông lúc nào Điện hạ cũng có thể gặp được. Hãy đi theo tôi, tôi mong có vinh dự được giới thiệu các ông đấy.
Rochefort đi trước. Tất cả các cửa mở ra trước ông và hai người bạn. Họ thấy ông de Beaufort sắp sửa ngồi vào bàn ăn. Hàng nghìn công việc bận rộn ban chiều đã làm chậm bữa ăn tối của ông đến lúc ấy. Nhưng mặc dầu sự nghiêm trọng của tình hình, vừa mới nghe Rochefort báo tên hai người khách, ông hoàng đang kéo ghế vào sát bàn, ăn vội đứng lên, bước tới hai người bạn và nói:
- A! Xin chào mừng các ông. Các ông ăn cùng với tôi nhé.
- Boisjoli, hãy bảo Noirmont là tôi có hai thực khách. Các ông biết Noimont chứ? Đó là viên đầu bếp của tôi, người kế tục cha Marteau, kẻ làm những cái bánh nước ngon tuyệt mà các ông biết đấy. Boisjoli, bảo bác ấy đưa một chiếc bánh nướng lên, nhưng không phải loại bánh đã từng làm cho La Ramée. Ơn trời, chúng ta không cần đến thang đây, dao găm hay quả lê cay đắng nữa.
- Thưa Đức ông, - Arthos nói, - xin đừng làm phiền bác đầu bếp trứ danh của ngài nữa, chúng tôi biết bác ấy có tài năng phong phú đa dạng lắm. Tối nay, được Điện hạ cho phép, chúng tôi chỉ dám xin hỏi thăm sức khỏe của ngài và nhận mệnh lệnh của ngài thôi.
- Ồ, về sức khỏe của tôi, các ông thấy đấy thật là tuyệt diệu. Một sức khỏe đã chịu đựng năm năm ngục tù kèm theo ông De Chavigny nữa thì có thể làm được mọi việc. Còn về mệnh lệnh cho các ông, thi xin thú thật là tôi rất lúng túng, nhân vì mỗi người đều tự mình ra lệnh cả, nếu tình trạng này tiếp diễn thì cuối cùng, tôi chẳng ra lệnh gì hết.
- Thật thế ư? - Arthos nói, - Tôi tưởng rằng nghị viện trông cậy vào sự đoàn kết của các ngài.
- À phải, sự đoàn kết của chúng tôi! Nghe đẹp đẽ đấy. Với quận công de Bouillon thì còn khả dĩ; ông ta bị bệnh phong thấp và chịu liệt giường, nhưng còn có cách để thông cảm với nhau được. Còn với ông d Elbeuf và lũ con trai bị thịt của ông ta ấy à... Các ông biết bài vè về quận công d Elbeuf chứ!
- Thưa ngài, không ạ.
- Thật ư?
Ông quận công bèn cất tiếng hát:
d Elbeuf và lũ con
Làm loạn cả Hoàng trường.
Bốn kẻ đi vênh váo
d Elbeuf và lũ con
Nhưng nếu ra chiến trường
Tìm đâu vẻ mã thượng
d Elbeuf và lũ con
Nhặng xị cả Hoàng trường.
Nhưng mà, - Arthos nói, - Đối với ngài chủ giáo, tôi hy vọng không phải như vậy.
- A, vâng? Với ông chủ giáo thì còn tệ hơn nữa. Cầu Chúa hãy tránh cho ông những viên tư giáo bát nháo, nhất là khi họ lại mặc giáp sắt bên trong áo thày tu! Đáng lẽ ở yên trong toà giám mục của mình để làm các lễ tạ ơn mừng những chiến thắng mà chúng ta bị đánh bại, thì ông có biết ông ta làm gì không?
- Không ạ.
- Ông ta lập một trung đoàn mang tên ông, trung đoàn Coadjuter. Ông ta biến các trung uý và đại uý thành thống chế và các đại tá thành ông vua.
- Vâng, - Aramis nói, - Nhưng đến lúc phải chiến đấu, tôi chắc rằng ông ta sẽ bám trụ ở toà giám mục.
- Ồ, không phải thế đâu, D Herblay thân mến ơi, điều ấy ông lầm đấy! Khi cần chiến đấu thì ông ta chiến đấu. Thành thử do cái chết của chú ông đã cho ông cái ghế trong nghị viện, lúc nào ông ta cũng quẩn chân người ta ở nghị viện, ở hội đồng, ở trận mạc. Hoàng thân de Conti thì là tướng trong bức hoạ thôi, mà bức hoạ thế nào cơ chứ? Một ông hoàng gù lưng! Ôi, tất cả những điều đó tiến hành rất dở, các ông ạ, rất dở.
Arthos đưa mắt nhìn Aramis và nói:
- Thưa Đức ông, thành thử ra Điện hạ bất bình?
- Bất bình ư, bá tước? Phải nói rằng Điện hạ phẫn nộ. Đến mức - Tôi không nói với người khác mà nói riêng với ông thôi nhé - Nếu như hoàng hậu thừa nhận sai lầm đối với tôi mà gọi bà mẹ tôi đang bị lưu đầy trở về, và cho tôi lấy lại chức cái tước vị đô đốc vốn là của cha tôi và người ta đã hứa ban cho tôi khi ông chết, thì tôi sẵn sàng dạy những con chó cho chúng biết sủa rằng ở Pháp còn có những tên ăn cắp lớn hơn ông Mazarin nhiều.
Arthos và Aramis không chỉ đưa mắt nhìn nhau, mà còn vừa nhìn nhau vừa mỉm cười. Và dù có không gặp chăng nữa, các anh cũng đoán rằng Châtillon và Flamarens đã qua đây, cho nên các anh không nói nửa lời về sự có mặt của Mazarin ở Paris.
- Thưa Đức ông, - Arthos nói, - Thế là chúng tôi thoả mãn rồi. Đến thăm Điện hạ vào giờ này, chúng tôi không có mục đích nào khác là chứng minh lòng tận tụy của chúng tôi và để thưa với ngài rằng chúng tôi sẵn sàng hầu hạ ngài như những người tôi tớ trung thành nhất.
- Như những người bạn trung thành nhất, các ông ạ, như những người bạn trung thành nhất của tôi! Các ông đã chứng minh như vậy. Và nếu như sau này tôi có hoà giải với triều đình, thì tôi cũng sẽ chứng minh với các ông rằng tôi vẫn là người bạn của các ông, cũng như là bạn của mấy ông kia nữa, tên mấy ông kia là gì nhỉ?
- D Artagnan và Porthos.
- À, phải rồi, như vậy ông, bá tước de La Fère, và ông hiệp sĩ D Herblay, các ông hiểu cho rằng bao giờ tôi cũng hết lòng với các ông.
Arthos và Aramis cúi chào và đi ra.
- Arthos thân mến ơi, xin Chúa tha lỗi, tôi chắc rằng anh chỉ bằng lòng đi với tôi chẳng qua là để cho tôi một bài học phải không?
- Khoan đã, bạn thân mến, - Arthos đáp, - Hãy còn thì giờ để chiêm nghiệm khi chúng ta ra khỏi nhà ông chủ giáo.
Và cả hai người đi về khu Cité.
Đến gần cái nôi của Paris, Porthos vàAaramis thấy phố xá ngập lụt và lại phải đi thuyền.
Đã mười một giờ khuya rồi, nhưng ai cũng biết rằng đến nhà ông chủ giáo thì chẳng kể giờ giấc gì. Sự hoạt động ghê gớm của ông, tuỳ theo nhu cầu mà biến đêm thành ngày và ngày thành đêm.
Toà tổng chủ giáo nhô lên từ lòng nước, và cứ theo số thuyền đậu khắp chung quanh toà nhà, ta cớ thể ngờ rằng mình không phải ở Paris mà đang ở Venise (1). Thuyền bè đi lại đan nhau khắp mọi ngả, chui sâu vào trong những mé lộ của khu Cité, hoặc đi xa ra phía Binh công xưởng hoặc những con đường Saint-Victo, và cứ bơi như trên một cái hồ lớn. Có những thuyền im lặng và bí hiểm, có những thuyền ồn ào và sáng đèn. Đôi bạn lướt giữa cái thề giới thuyền bè ấy và cập bến.
Tất cả tầng trệt của toà giám mục bị ngập nước, nhưng có những cầu thang mọi kiểu lắp vào các tường. Tất cả sự biến đổi do ngập lụt là đáng lẽ vào nhà bằng của chính thì bây giờ vào bằng cửa sổ.
Cũng bằng cách như vậy, đôi bạn vào gian tiền sảnh của chủ giáo. Ở đây đông đặc những đầy tớ vì có đến một tá các vị công hầu tụ tập ở phòng đợi.
- Trời ơi! - Aramis nói, - Arthos hãy xem kìa! Thế này thì liệu cái lão chủ giáo hợm hĩnh ấy có vui lòng bảo chúng ta chờ đợi không?
Arthos mỉm cười, nói:
- Bạn thân mến ơi, cần phải xét người với tất cả những bất lợi trong tình cảnh của họ. Lúc này thì ngài chủ giáo đang là một trong số bảy tám ông vua Pháp đang ngự trị ở Paris, và ông ta có một triều đình.
- Phải đấy, - Aramis nói, - Nhưng chúng ta chẳng phải là cận thần.
- Cho nên chúng ta sẽ đưa tên chúng ta vào và nếu ông ta xem rồi mà không có sự trả lời thích đáng thì, được rồi chúng ta sẽ mặc ông ta với những công việc của nước Pháp và của riêng ông ấy. Bây giờ ta chì cần gọi một tên hầu ra và dúi cho nó một nửa pistol.
- A! đúng rồi, - Aramis kêu lên, - Mình có lầm không nhỉ... đúng không..., đúng đấy... này ông mãnh Bazin lại đây!
Lúc ấy Bazin oai vệ trong bộ y phục nhà thờ đang đi qua phòng đợi, chợt quay lại, cau mày nhìn xem kẻ nào hỗn xược gọi mình như vậy. Nhưng vừa mới nhận ra Aramis, thì con cọp bỗng trở thành con cừu và tiến lại hai nhà quý tộc mà nói:
- Ô kia! Ông hiệp sĩ đấy à! Ông bà tước đấy à! Chúng tôi đang lo lắng về các ông thì cả hai ông đã về đây rồi! Ôi, gặp lại hai ông, tôi mừng quá.
- Tốt lắm, tốt lắm, thày Bazin ạ, - Aramis nói, - Thôi chúc tụng thế đủ rồi. Chúng tôi muốn đến thăm ngài chủ giáo; chúng tôi vội lắm và cần gặp ngay bây giờ.
- Thế nào? - Bazin nói, - ngay bây giờ ư? Những vị công hầu như các ông không phải để người ta bắt ngồi chờ. Song le trong lúc này chủ giáo đang hội đàm bí mật với ông de Bruy nào đó.
- De Bruy? - Cả Arthos và Aramis cũng kêu lên.
- Vâng, tôi đã trình báo ông ta đến và tôi nhớ rất rõ tên ông ta.
- Ông quen biết ông ta ư? - Bazin lại nói. - Vì ông ta trùm áo choàng kín mít, đến nỗi tôi cố nhìn cũng chẳng nom thấy một góc nhỏ nào trên mặt cả. Nhưng tôi sẽ vào trình rằng các ông tới, và lần này sẽ có may mắn hơn.
- Vô ích! - Aramis nói. - Chúng ta lại không gặp ông chủ giáo tối nay nữa, phải không Arthos?
- Tuỳ anh thôi.
- Ông ta có những việc quá quan trọng cần thương lượng với cái ông de Bruy ấy.
- Thưa các ông, - Bazin nói, - Sau đấy tôi có phải trình lại rằng các ông đã tới toà giám mục không?
- Không, chẳng cần đâu, - Aramis nói, - ta đi thôi, Arthos.
Và hai người bạn rẽ đám đầy tớ, đi ra khỏi toà giám mục.
Bazin theo sau và chứng mình tầm quan trọng của các ông chủ mình bằng những cái vái chào lia lịa.
Khi xuống thuyền rồi, Arthos hỏi Aramis:
- Này cậu ơi, cậu đã bắt đầu thấy chưa, rằng chứng mình sẽ chơi xỏ tất cả các vị kia nếu chúng mình bắt giữ Mazarin?
- Arthos ơi, - Aramis nói, - Anh là hiện thân của sự khôn ngoan đấy.
Điều đập mạnh nhất vào hai người bạn là những biến cố ghê gớm xảy ra ở nước Anh và các anh tưởng như chúng bắt tất cả châu Âu phải quan tâm thì chẳng có gì là quan trọng đối với triều đình Pháp.
Thật vậy, ngoài một người vợ goá tội nghiệp và một đứa con mồ côi khóc lóc ở một xó cung Louvre thì chẳng ai tỏ ra biết rằng đã có một ông vua Charles I tồn tại và ông vua ấy vừa mới chết trên đoạn đầu đài.
Đôi bạn hẹn gặp lại nhau vào mười giờ sáng hôm sau. Khi đến cổng khách sạn thì đêm đã khuya lắm, nhưng Aramis còn có vài việc thăm viếng quan trọng phải làm và đã để Arthos về một mình.
Sáu giờ sáng hôm sau Arthos cũng đã đi ra ngoài và đến mười giờ họ lại gặp nhau.
- Thế nào, có tin tức gì không? - Arthos hỏi.
- Chẳng có gì hết. Chẳng ai trông thấy d Artagnan ở đâu, và Porthos cũng chưa xuất hiện. Thế còn anh?
- Cũng chẳng có tin gì cả.
-Kì lạ nhỉ?
- Thật vậy, - Arthos nói, - Sự chậm trễ này là không bình thường.
- Các cậu ấy đi theo đường ngắn nhất, cho nên đáng lẽ phải về trước chúng mình chứ?
- Chưa kể, - Arthos nói, - Chúng ta đều biết rằng d Artagnan rất khẩn trương trong mọi công việc, không bao giờ để mất thì giờ, nhất là lại biết rằng chúng ta chờ đợi... Cậu ta tính về đây ngày mồng năm.
- Mà hôm nay đã mồng chín. Tối nay là quá hạn rồi.
- Cậu định thế nào, - Arthos hỏi, - Nếu tối nay vẫn chưa có tin tức gì về các bạn?
- Chúa ơi! Chúng ta phải đi tìm.
- Được - Arthos nói.
- Nhưng còn Raoul? - Aramis hỏi.
Một bóng mây thoáng qua trán Arthos. Anh nói:
- Tôi cũng rất lo cho nó. Nó nhận một bức thư của hoàng thân de Condé và tới gặp ngài ở Saint-Clou, thế mà vẫn chưa trở về.
- Anh không gặp bà de Chevreuse à?
- Bà ta không có nhà. Còn cậu, tôi chắc thế nào cậu chẳng tạt qua bà de Longueville?
- Có đấy - Aramis đáp.
- Thế nào?
- Bà ta cũng không có nhà, nhưng ít ra cũng để lại địa chỉ mới.
- Ở đâu thế?
- Thử đoán xem, tôi cá bạc nghìn đấy.
- Tôi chắc rằng đêm qua cậu chia tay tôi và đến nhà bà ấy. Thế thì cậu bảo tôi làm sao mà đoán được cái bà xinh đẹp nhất và hoạt động nhất trong đám nữ Fronde ấy ở đâu lúc nửa đêm.
- Bạn thân mến ơi, bà ta ở Toà thị sảnh.
- Sao, ở Toà thị sảnh à? Thì ra bà ta được cử làm thị trưởng Paris ư?
- Không; bà ta làm quyền hoàng hậu Paris, và do không dám vừa thoạt đầu đã đến ngự ở Hoàng cung hoặc cung điện Tuleries, bà ta đóng ở Toà thị sảnh, tại đây bà ta sẽ cho ngài quận công thân mến ấy một đứa con thừa kế trai hoặc gái.
- Aramis, thế mà cậu đã không cho tôi biết tình hình này, - Arthos trách.
- Ơ thật à? Thế thì tôi quên đấy. Xin lỗi nhé!
- Từ giờ đến chiều tối chúng ta làm gì nào? - Arthos hỏi, - hình như ta quá rỗi rãi.
- Anh quên rồi ư, chúng ta có việc ấn định sẵn rồi mà.
- Về phía Charenton à, mẹ kiếp!
- Theo lời hẹn của hắn, tôi hy vọng gặp tại đấy một gã Châtillon nào đó mà tôi căm ghét từ lâu.
- Tại sao thế? - Arthos hỏi.
- Tại vì hắn là em ruột lão Coligny nào đó.
- À phải rồi, tôi quên mất. Cái lão đã tấp tểnh làm đối thủ của cậu. Hắn đã bị trừng phạt một cách tàn nhẫn vì cái tội mạo muội ấy.
- Bạn thân mến ơi, kể ra như thế cũng đủ lắm cho cậu rồi.
- Vâng, nhưng biết làm thế nào. Điều đó chưa đủ với tôi. Tôi là người thù dai; đó là cái điểm duy nhất khiến tôi bám vào Nhà thờ. Sau đó, Arthos ơi, mong anh hiểu rằng anh không hề bị buộc phải đi theo tôi.
- Thôi đi nào - Arthos nói - Cậu đùa đấy à?
- Bạn thân mến ơi, nếu anh quyết định đi với tôi thì không chậm trễ nữa. Trống đã đánh, tôi đã gặp các cỗ đại bác, đã trông thấy các nhà tư sản thị dân dàn trận trên quảng trường Toà thị sảnh; chắc chắn sắp có đánh nhau ở phía Charenton như hôm qua công tước de Châtillon đã nói.
- Tôi ngỡ là, - Arthos nói, - những cuộc đàm phán đêm qua có làm thay đổi chút nảo những khuynh hướng hiếu chiến.
- Phải, chắc thế, nhưng không phải vì vậy mà người ta không đánh nhau, dù là để ngụy trang cho những cuộc đàm phán.
- Tội nghiệp cho những con người kia? - Arthos nói, họ đi ra chỗ chết đề người ta trả lại đất Sedan cho ông Bouillon, để người ta ban quyền tập chức đô đốc cho ông de Beaufort, và để ngài chủ giáo được phong làm giáo chủ.
- Này, này, Arthos thân mến ơi, - Aramis nói, - Hãy thú nhận rằng anh chẳng tỏ ra hiền triết đến thế đâu, nếu như Raoul của anh không phải có mặt ở trong những vụ lộn xộn ấy?
- Có lẽ cậu nói đúng đấy, Aramis ạ.
- Vậy thì chúng ta hãy đến chỗ nào có đánh nhau, đó là một cách chắc chắn để tìm gặp d Artagnan, Porthos và cả Raoul nữa.
- Chao ôi! - Arthos nói.
- Này anh bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - Hãy nghe tôi, giờ đây chúng ta đang ở Pháp thì phải bỏ cái thói quen luôn luôn thở vắn than dài ấy đi. Đúng là! Thời thế thế, thế thời phải thế! Arthos, anh chẳng phải người kiếm cung nữa sao và anh làm như người tu hành ấy. Xem kìa, những nhà tư sản bảnh bao đang đi qua; trông ra dáng nhà binh đấy chứ!
- Họ đi từ phố Con Cừu ra.
- Trống trận đi trước, như những binh lính thực thụ. Này nhìn xem cái thằng cha kia, nó khệnh khạng, ưỡn ngực ra!
- Hừ! - Grimaud thốt lên.
- Cái gì? - Arthos hỏi.
- Planchet, ông ạ...
- Hôm qua trung uý, hôm nay đại úy. - Aramis nói, - Ngày mai chắc là đại tá, trong tám ngày nữa không chừng nó lên thống chế Pháp quốc.
- Ta hãy hỏi thăm tin tức nó xem sao, - Arthos nói.
Đôi bạn đến chỗ Planchet. Anh ta hãnh diện hơn bao giờ hết vì được biết đến trong khi đang thừa hành chức vụ của mình, chiếu cố giải thích cho hai nhà quý tộc rằng anh được lệnh đóng ở Hoàng trường với hai trăm người tạo thành đội hậu vệ của quân đội Paris, và khi cần sẽ tiến về phía Charenton.
Do đi cùng một hướng, Arthos và Aramis hộ tống Planchet đến tận vị trí của anh ta.
Planchet cho vận động khá nhanh nhẹn người của mình trên Hoàng trường và bố trí họ đằng sau một dãy dài những dân tư sản đứng ở phố và cửa ô Saint-Antoine, trong khi chờ đợi hiệu lệnh chiến đấu.
- Ngày hôm nay sẽ nóng bỏng đây, - Planchet nói với giọng hiếu chiến.
- Hẳn là thế, - Aramis nói, - nhưng từ đây đến chỗ quân thù còn xa.
- Người ta sẽ rút ngắn khoảng cách lại, ông ạ, - một viên khu trưởng nói.
Aramis chào, rồi quay lại bảo Arthos:
- Tôi chẳng thiết ở lại Hoàng trường với tất cả lũ người này. Hay là chúng ta tiến lên phía trước; ta sẽ thấy rõ mọi sự hơn.
- Với lại ông de Châtillon sẽ chẳng đi tìm cậu ở Hoàng trường đâu, có phải không? Nào, ta đi lên phía trước.
- Thế về phía anh chẳng có vài lời cần nói với ông Flamarens hay sao?
- Bạn ơi, tôi đã có một quyết định là chỉ rút kiếm ra khi cùng bất đắc dĩ.
- Từ bao giờ vậy?
- Từ khi tôi rút dao găm.
- A, được lắm? Lại một kỷ niệm về ông Mordaunt.
- Này, bạn thân mến ơi, anh chỉ có nước ăn năn hối hận vì đã giết chết cái thằng ấy.
Với nụ cười buồn bã chỉ anh mới có, Arthos đặt một ngón tay lên miệng mà nói:
- Suỵt! Đừng nói đến Mordaunt nữa, kẻo mang hoạ đấy.
Rồi Arthos nhằm hướng Charenton mà phóng, đi theo cửa ô, rồi thung lũng Fêcamp đen đặc những thị dân vũ trang.
Aramis đi theo sau anh nửa thân ngựa.
Chú thích:
(1) Thành phố xây dựng trên mắt nước, là một thắng cảnh ở nước Ý.
-*-*-*-
Chương 82
Trận đánh ở Charenton
Arthos và Aramis tiến dần lên, vượt qua những đơn vị khác nhau, trông thấy những áo giáp đánh bóng sáng loáng nối tiếp những binh khí han gỉ và những súng hoả mai lấp lánh, những thương kích sặc sỡ.
- Tôi ngỡ đây là chiến trường thực sự, - Aramis nói.
- Anh có trông thấy đội kỵ binh đóng ở phía trước cầu, tay lăm lăm súng ngắn không?
- Này! Hãy coi chừng, đại bác tới kìa.
- Ái chà! Bạn thân mến ơi, - Arthos nói, - Cậu dẫn chúng ta đến đâu thế này? Tôi như thấy xung quanh chúng ta toàn những người thuộc các sĩ quan của quân đội hoàng gia. Có phải đích thị Châtillon đang tiến lên với hai viên đội trưởng kia không?
Và Arthos cầm kiếm ra tay, còn Aramis cho rằng quả thật mình đã đi quá giới hạn của trận địa Paris, cũng cho tay vào bao súng.
Công tước de Châtillon tiến lại và nói:
- Xin chào các ông? Tôi thấy là các ông không biết gì về tình hình xảy ra, nhưng một lời sẽ giải thích rõ hết cho các ông. Lúc này tạm đình chiến, vì có đàm phán. Ngài hoàng thân, ông de Retz, ông de Beaufort và ông de Bouillon đang bàn chính trị. Có hai điều: một là công việc dàn xếp không xong, chúng ta sẽ gặp lại nhau, hiệp sĩ ạ, hoặc là dàn xếp được, thì do tôi trút được việc chỉ huy, chúng ta sẽ lại càng gặp nhau.
- Thưa ông, - Aramis đáp, - Ông nói hay tuyệt. Vậy xin phép ông cho tôi hỏi một điều.
- Xin ông cứ hỏi.
- Các vị đại diện toàn quyền họp ở đâu?
- Ở ngay Charenton trong ngôi nhà thứ hai phía bên phải từ Paris vào.
- Cuộc hội nghị này không dự kiến trước à?
- Không. Hình như nó là kết quả những kiến nghị mới mà ông Mazarin đưa ra với dân chúng Paris tối hôm qua.
Arthos và Aramis nhìn nhau cười. Hơn bất kỳ ai, các anh hiểu rõ những kiến nghị đó là gì, do ai đề ra và đề ra với ai.
Arthos hỏi:
- Thế ngôi nhà nơi họp các vị đại diện ấy là của...
- Của ông de Chanleu, người chỉ huy các toán quân của các ông ở Charenton. Tôi nói các toán quân của các ông bởi vì tôi đoán chừng rằng các ông đây là Frondeurs.
- Nhưng... gần như thế, - Aramis nói.
- Sao lại gần như?
- Ồ, tất nhiên. Ông biết rõ hơn ai hết rằng trong thời buổi này người ta không thể nói chính xác người ta là cái gì?
- Chúng tôi ủng hộ đức vua và các ngài hoàng thân, - Arthos nói.
- Tuy nhiên chúng ta cần hiểu nhau, - Châtillon đáp.
- Đức vua đi với chúng tôi và vua có tổng tư lệnh là các ngài d Orléans và de Condé.
- Phải, - Arthos nói, - nhưng chỗ của vua là ở trong hàng ngũ chúng tôi với các ngài de Conti, de Beaufort, d Elbeuf và de Bouillon.
- Có thể như vậy, - Châtillon nói, - và người ta biết rằng riêng tôi, tôi rất ít cảm tình với ông Mazarin; các quyền lợi của chính tôi cũng ở tại Paris; tôi đang có việc tố tụng ở đó và tất cả tài sản của tôi tuỳ thuộc vào nó, và tôi vừa mới đến hỏi luật sư của tôi như các ông trông thấy tôi như thế này đây...
- Ở Paris à?
- Không, ở Charenton... ông Viole mà các ông biết tên, một con người tuyệt vời, hơi ngang ngạnh, nhưng ông ta không phải vào nghị viện để chẳng được lợi lộc gì. Tôi đã định đến thăm ông ấy tối hôm qua, nhưng cuộc gặp gỡ giữa chúng ta đã ngăn trở công việc của tôi. Do công việc vẫn phải tiến hành tôi đã lợi dụng cuộc hưu chiến, và thế là tôi đến với các ông.
Aramis cười hỏi:
- Ông Viole nói ý kiến với ông giữa trời ư?
- Vâng, và ngay trên mình ngựa nữa. Hôm nay, ông ta chỉ huy năm trăm tay súng, còn tôi thì đến thăm ông ta với hai khẩu đại bác nhỏ này kèm theo để làm vinh dự cho ông ta. Các ông đã tỏ ra ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi như vậy. Thú thực rằng lúc đầu tôi không nhận ra ông luật sư; ông ta đeo một thanh kiếm dài bên ngoài tấm áo trạng sư và những súng ngắn ở thắt lưng, khiến ông ta trông thật dữ dội. Chắc là các ông sẽ thú vị lắm nếu may mắn gặp ông ta.
- Nếu ông ta trông kỳ cục, - Aramis nói, - Thì người ta có thể cố tình cất công đi tim kiếm ông ấy đấy.
- Phải gấp lên ông ơi, vì rằng những cuộc đàm phán không thể kéo dài nữa đâu.
- Nhưng nếu cuộc đàm phán tan vỡ không mang lại kết quả, - Arthos hỏi, - Thì ông có định đánh chiếm Charenton không?
- Đó là lệnh của tôi. Tôi chỉ huy các toán quân công kích, và tôi cố hết sức để thành công.
- Ông ơi, - Arthos nói, - vì rằng ông chỉ huy kỵ binh...
- Xin lỗi, tôi chỉ huy toàn bộ.
- Càng hay!... Chắc ông phải biết tất cả các sĩ quan của ông chứ, tôi muốn nói những sĩ quan xuất sắc.
- Có chứ, biết gần hết.
- Mong ông vui lòng cho biết dưới quyền ông có hiệp sĩ d Artagnan, trung uý ngự lâm quân không?
- Không có, ông ạ. Từ hơn sáu tuần nay ông ta rời Paris và nghe nói sang nước Anh.
- Tôi biết điều đó, nhưng tưởng ông ấy đã trở về.
- Không, và tôi không biết rằng có ai gặp lại ông ấy không. Về vấn đề này tôi có thể trả lời ông rõ ràng, nhất là ngự lâm quân lại thuộc chúng tôi và chính là ông Cambon tạm thời thay thế ông d Artagnan.
Đôi bạn nhìn nhau.
- Cậu thấy đấy Arthos nói.
- Lạ nhỉ? - Aramis đáp.
- Dứt khoát là cậu ấy gặp tai hoạ ở dọc đường rồi.
- Hôm nay là mồng tám, tối nay là hết hạn. Nếu tối nay mà không có tin cậu ấy, thì sáng mai chúng ta sẽ đi tìm.
Arthos gật đầu.
Rồi với vẻ vẫn ngượng nghịu vì để lộ ra trước mặt anh chàng Aramis đa nghi những mối bận tâm cha con của mình, Arthos quay sang hỏi Châtillon:
- Thưa quận công, chẳng biết de Bragelonne, người thanh niên mười lăm tuổi giúp việc cho Ngài Hoàng thân có vinh dự được ông biết đến không?
- Tất nhiên là có, - Châtillon đáp. - Sáng nay cậu ấy đến chỗ chúng tôi cùng với Hoàng thân. Một chàng thanh niên tuyệt diệu. Cậu ấy là chỗ bạn bè của bá tước à?
- Thưa vâng, - Arthos nhẹ nhàng xúc động đáp, - Cho nên tôi muốn được gặp cậu ta. Có được không ạ?
- Thưa ông, được lắm chứ. Ông hãy đi theo tôi và tôi dẫn ông đến bộ tư lệnh.
- Ơ này! - Aramis quay lại và kêu lên - Nghe như có tiếng ồn ào ở phía sau chúng ta.
- Thật thế, - Châtillon nói, - Một biên đội kỵ binh đang đến chỗ chúng ta.
- Tôi nhận ra ngài chủ giáo với cái mũ Fronde.
- Còn tôi nhận ra ông de Beaufort với những chiếc lông chồn trắng.
- Họ phi nước đại tới, ngài hoàng thân cùng đi với họ. A! Ngài rời xa họ kìa.
- Trống gọi quân nổi lên rồi, - Châtillon kêu lên. - Các ông có nghe thấy không? Ta phải hỏi xem tình hình thế nào?
Quả thật, người ta trông thấy binh linh chạy đi lấy vũ khí, các kỵ binh đang ở dưới đất nhảy lên yên, kèn kêu, trống đánh, ông de Beaufort tuốt gươm ra.
Về phía mình, ngài Hoàng thân ra hiệu tập hợp, và tất cả các sĩ quan của quân đội hoàng gia, hoà lẫn với những toán quân Paris trong chốc lát, bây giờ chạy ùa về phía ông.
- Thưa các ông, - Châtillon nói, - Cuộc hưu chiến tan vỡ hiển nhiên rồi, người ta sắp sửa đánh nhau. Các ông hãy trở lại Charenton, vì tôi công kích ngay đấy.
- Kìa ngài Hoàng thân ra hiệu cho tôi.
Thật vậy, một người cầm cờ đang phất cao ba lần lá cờ hiệu của ngài hoàng thân.
- Hẹn gặp lại ông hiệp sĩ! - Châtillon kêu to.
Rồi ông ta phi nước đại đuổi theo đoàn hộ tống của mình.
Arthos và Aramis cũng giật cương đến chào ông chủ giáo và ông de Beaufort. Còn ông de Bouillon đến cuối cuộc đàm phán lên một cơn đau khớp kinh khủng đến nỗi người ta buộc phải đưa ông trở lại Paris bằng cáng.
Đối lại, ông quận công d Elbeuf có bốn con trai xúm quanh như một bộ tham mưu, lướt qua các hàng ngũ quân đội Paris.
Trong khi giữa Charenton và quân đội hoàng gia hình thành một khoảng trống dài nó dường như sửa soạn dùng làm cái ổ nằm cuối cùng cho những xác chết.
Ông chủ giáo siết lại dây lưng đeo kiếm mà ông mang bên ngoài chiếc áo giám mục dài theo mốt những vị tư giáo nhà binh xưa và nói:
- Cái lão Mazarin ấy thật sự là một điều sỉ nhục cho nước Pháp. Đó là một tên thô bỉ muốn cai quản nước Pháp như một mảnh đất phát canh. Cho nên nước Pháp chỉ có thể hy vọng được hạnh phúc và yên tĩnh khi hắn cút đi.
- Hình như người ta không thoả thuận được với nhau về màu của chiếc mũ(1), - Aramis nói.
Cùng lúc ấy ông de Beaufort giơ gươm lên và nói:
- Thưa các ông, chúng ta đã làm ngoại giao vô ích. Chúng ta muốn gạt cái lão Mazarin đê tiện ấy ra; nhưng hoàng hậu quá si mê lão ta nên khư khư giữ lão ta làm tể tướng, thành thử chúng ta chỉ còn có một cách là đánh cho thích đáng.
- Hay! - Ông chủ giáo nói, - tài hùng biện quen thuộc của ông de Beaufort đấy.
- May thay, - Aramis nói, - Ông ta sửa chữa những lỗi về Pháp văn của mình bằng mũi kiếm.
- Hừ! - chủ giáo nói với vẻ khinh thị, - Tôi xin thề là trong suốt cuộc chiến tranh này, ông ta sẽ rất mờ nhạt.
Rồi ông cũng tuốt gươm ra và nói:
- Này các ông, quân thù đang tiến đến chúng ta, tôi hi vọng chúng ta sẽ tha cho chúng nửa đoạn đường.
Và chẳng lo có ai theo mình hay không, ông phóng đi. Trung đoàn của ông mang tên trung đoàn Corinthe, tên địa hạt giáo chức của ông, rùng rùng theo ông và bắt đầu cuộc hỗn chiến.
Về phía mình, ông de Beaufort trung đoàn kỵ binh của mình dưới sự chỉ huy của Noimoutiers ra phía Etampes nơi nó phải gặp một đoàn quân lương mà dân Paris đang nóng lòng mong đợi. Ông de Beaufort sắp sửa yếm hộ cho nó.
Ông de Chaleu chỉ huy vị trí với bộ phận mạnh nhất của quân số mình sẵn sàng chống lại cuộc tấn công và trong trường hợp quân địch bị đẩy lùi thì sẽ làm một cuộc xuất quân.
Sau nửa giờ cuộc chiến nổ ra ở khắp các điểm. Ông chủ giáo tức khí về sự nổi danh về tinh thần dũng cảm của ông de Beaufort hăng hái xông lên và cá nhân cũng làm được những kỳ tích về quả . Ai cũng biết thiên hướng của ông là nghề gươm dao, và ông rất sung sướng mỗi lần được tuốt gươm ra khỏi vỏ, bất kể vì ai và vì cái gì. Nhưng trong hoàn cảnh này, nếu như ông đã làm tốt việc của người lính trơn thì ông lại làm tồi việc của viên đại tá chỉ huy. Với bảy tám trăm người, ông húc đầu vào cả khối ba nghìn quân cứ rùng rùng vừa đánh vừa đẩy lùi quân chủ giáo lộn xộn trở lui về phía tường thành. Nhưng đạn pháo binh của Chaleu bỗng chặn đứng quân đội của nhà vua khiến nó bị lung lay trong chốc lát. Nhưng rồi nó tập hợp lại sau một dãy nhà và một đám rừng nhỏ.
Chaleu tưởng rằng thời cơ đã đến bèn dẫn đầu hai trung đoàn băng ra truy đuổi quân đội nhà vua; nhưng như đã nói, nó đã được chính đốn lại và do đích thân Châtillon chỉ huy trở lại tấn công. Cuộc công kích rất dữ dội và khôn khéo khiến Chaleu và quân của ông ta hầu như bị vây kín. Chaleu ra lệnh rút lui, từng bước từng bước một.
Chẳng may một lát sau Chaleu bị tử thương, ngã xuống ngựa.
Châtillon trông thấy ông kia ngã xuống bèn báo tin đó ầm ĩ lên khiến quân đội nhà vua càng hăng, còn hai trung đoàn của Chaleu thì hoàn toàn mất tinh thần. Do đó ai nấy lo phận mình và tìm cách rút về chiến luỹ, tại đấy ông chủ giáo cố tổ chức lại cái trung đoàn của mình bị đánh tan.
Bỗng nhiên một đội kỵ binh xông ra trước những quân chiến thắng đang lộn xộn cùng với những kẻ lẩn trốn chạy vào trong các chiến luỹ. Arthos và Aramis dẫn dầu đội kỵ binh. Aramis lăm lăm tay kiếm tay súng. Arthos thì gươm vẫn trong vỏ, súng vẫn trong bao.
Arthos bình thản và lạnh lùng như trong một cuộc diễu binh, tuy nhiên cặp mắt đẹp và cao thượng của anh buồn rầu nhìn cảnh đâm chém lẫn nhau giữa bao nhiêu con người bị đem ra làm vật hy sinh bởi một bên là sự ngang ngạnh của phía nhà vua, và bên kia là sự thù hằn của các ông hoàng. Aramis trái lại, đâm chém, giết chóc và hăng say dần lên theo thói quen của anh. Cặp mắt anh rực lửa, khóe miệng thanh tú của anh mỉm cười một nụ cười tang tóc, cánh mũi mở to hít mùi máu, mỗi nhát gươm của anh đều đâm trúng và chuôi khẩu súng của anh kết thúc, đập chết kẻ bị thương đang cố gượng dậy.
Về phía đối phương, trong hàng ngũ quân đội hoàng gia, hai kỵ sĩ, một người mặc áo giáp mạ vàng, người kia mặc một mảnh da trâu đơn giản thò ra hai ống tay áo chẽn bằng nhung xanh lơ, công kích ở hàng đầu. Kỵ sĩ mặc áo giáp mạ vàng xông vào Aramis và đâm một nhát gươm, nhưng anh đỡ được với tài khôn khéo thường lệ.
- A! Ông Châtillon đấy à! - anh kêu lên, - Xin hoan nghênh! Tôi đang đợi ông đây.
- Tôi hy vọng đã không phải để ông chờ lâu, - quận công nói, - dù sao tôi cũng có mặt đây rồi.
Aramis rút từ trong bao ra một khẩu súng ngắn mà anh dành cho dịp này và nói:
- Ông Châtillon ơi, tôi tưởng rằng nếu như khẩu súng của ông hết đạn thì ông đi đời rồi.
- Ơn trời, không đâu? - Châtillon đáp.
Và quận công giơ súng lên ngắm và bắn vào Aramis. Nhưng đúng lúc ông bóp cò, thì Aramis cúi rạp xuống, đạn bay sượt trên đầu anh.
- Ồ ông bắn hụt rồi, - anh nói, - Nhưng tôi thì tôi xin thề rằng chẳng bắn hụt ông đâu.
- Nếu như tôi để cho ông có thì giờ! - Châtillon hét và thúc ngựa chồm lên, tay vung cao thanh kiếm.
Aramis chờ đợi với nụ cười khủng khiếp mà anh thường có vào những cơ hội như thế này. Trông thấy Châtillon phóng nhanh như chớp vào Aramis, Arthos vừa há miệng để kêu lên: "Bắn đi! Bắn đi chứ!" thì súng nổ. Ông de Châtillon dang hai cánh tay ra và ngã vật ra trên mông ngựa.
Viên đạn lọt qua kẽ hở của tấm áo giáp và xuyên vào trong ngực.
- Tôi chết rồi, - Quận công lẩm bẩm. Và ông tuột từ trên mình ngựa xuống đất.
- Tôi đã bảo mà, ông ơi, - Aramis nói, - giờ tôi tiếc rằng đã giữ lời hứa cẩn thận quá. Tôi có thể giúp gì được cho ông?
Châtillon giơ tay ra hiệu. Aramis toan bước xuống, thì đột nhiên một nhát gươm chém mạnh vào sườn anh, nhưng chiếc áo giáp đã đỡ được. Anh quay ngoắt lại nắm chặt lấy cổ tay kẻ địch thủ mới ấy thì đồng thời hai tiếng kêu thốt ra, do anh và Arthos.
- Raoul!
Chàng thanh niên cũng đồng thời nhận ra khuôn mặt D Herblay và giọng nói của cha mình, và buông Reuil thanh kiếm. Lúc ấy nhiều kỵ sĩ của quân đội Paris xông vào Raoul, nhưng Aramis dùng gươm đỡ cho cậu ta.
Anh kêu lên:
- Tù binh của tôi đấy? Hãy tránh xa ra.
Arthos cầm dây cương của con trai mình và kéo ra ngoài cuộc hỗn chiến.
Ngài hoàng thân de Condé ở tuyển hai yếm trợ cho Châtillon lúc ấy cũng xuất hiện. Người ta trông thấy lấp lánh cặp mắt phượng hoàng của ông và nhận ra ông bởi những đường kiếm sắc bén.
Trung đoàn Corinthe mà ông chủ giáo mất bao nhiêu công để tổ chức lại, vừa nhác trông thấy Ngài Hoàng thân đã ba hồn bảy vía lao vào giữa đám quân Paris, xô đẩy bừa phứa tất cả và chạy trốn vào Charenton mà họ đi qua không dừng lại. Bị lôi cuốn theo, ông chủ giáo chạy sang cái nhóm gồm Arthos, Aramis và Raoul...
Trong nỗi ghen tuông của mình, Aramis không thể không hí hửng về sự thất bại của ông chủ giáo, anh nói:
- A ! Thưa Đức ông, với tư cách tổng giám mục, chắc hẳn ngài phải biết Kinh Thánh!
- Kinh Thánh có liên quan gì đến những điều xảy ra với tôi? - chủ giáo hỏi:
- Ngài Hoàng thân hôm nay đối xử với ngài như với Thánh Paul(2) trong buổi sơ diễn với quân Corinthe.
- Thôi thôi! - Arthos bảo - Cậu nói hay lắm đấy, nhưng chớ có chờ đợi những lời chúc tụng ở đây. Tiến lên, tiến lên, hoặc đúng hơn là lùi lại vì rằng tôi thấy như trận đánh thất bại với phe Fronde rồi.
- Chẳng sao đối với tôi! - Aramis nói. - Tôi đến đây chỉ cốt gặp ông de Châtillon. Tôi đã gặp rồi và tôi mãn nguyện. Một cuộc, quyết đấu với một Châtillon, cũng khoái đấy chứ!
- Lại thêm một tù binh! - Arthos trỏ Raoul mà nói.
Ba kỵ sĩ tiếp tục lên đường, phi nước đại, chàng thanh niên mừng rỡ gặp lại cha mình. Hai người đi cạnh nhau, nắm tay nhau.
Khi đã ra khỏi bãi chiến trường, Arthos hỏi Raoul:
- Làm gì mà anh bạn xông xáo vào trong đám hỗn chiến thế? Tôi thấy như đó không phải là chỗ của anh, nhất là lại không được đem vũ khí đầy đủ hơn cho một cuộc chiến đấu.
- Cho nên, thưa ông, hôm nay tôi không nên đánh nhau mới phải. Tôi được giao một nhiệm vụ đến ông giáo chủ, và tôi đi Rueil, nhưng trông thấy ông de Châtillon công kích, tôi cũng thèm muốn được công kích bên cạnh ông. Ông ta mới cho tôi biết rằng có hai kỵ sĩ của quân đội Paris đang tìm tôi và một người tên là bá tước de La Fére.
- Thế nào, anh biết rằng chúng tôi ở đó và anh muốn giết ông bạn hiệp sĩ ư?
Raoul đỏ mặt đáp:
- Tôi không nhận ra ông hiệp sĩ trong bộ áo giáp, nhưng lẽ ra tôi phải nhận ra ông qua thái độ gan góc và tài khéo léo của ông mới phải.
- Xin cảm ơn lời khen ngợi, anh bạn trẻ ạ! - Aramis nói, - và người ta trông thấy rõ ai đã dạy anh những bài học xã giao. Nhưng này, anh nói là đi Reuil phải không?
- Vâng.
- Chỗ ông giáo chủ à?
- Chắc thế. Tôi mang một công văn của ngài Hoàng thân gửi Các hạ.
- Thế thì phải mang nó đi, - Arthos nói.
- Ô! Khoan đã nào, bá tước, đừng có hào hiệp rởm. Lạ thật! Không chừng số phận của chúng ta, và quan trọng hơn là số phận của các bạn ta lại nằm trong bức công văn ấy.
- Nhưng, - Arthos nói, - không nên để cho cậu thanh niên này làm không trọn nhiệm vụ của mình.
- Bá tước ơi, trước hết cậu thanh niên này là tù binh của chúng ta, anh quên rồi sao. Việc ta định làm là chính đáng. Vả chăng những người bại trận không nên khó tính trong việc lựa chọn phương tiện. Raoul đưa bức công văn đây!
Raoul do dự, nhìn Arthos như để tìm một qui tắc ứng xử trong ánh mắt cha.
- Raoul cứ đưa công văn ra, - Arthos nói, - anh là tù binh của hiệp sĩ D Herblay.
Raoul nhượng bộ với vẻ ghê sợ, nhưng Aramis không quá câu nệ như bá tước de La Fère, chộp ngay lấy lá thư, đọc lướt qua, rồi đưa lại Arthos mà nói:
- Anh là người tín ngưỡng, anh hãy đọc và suy nghĩ xem trong bức thư này có điều gì mà Thượng đế xét thấy là cần cho chúng ta biết.
Arthos, cầm bức thư, cau đôi lông mày thanh tú, nhưng rồi ý nghĩ cho đây là chuyện về d Artagnan đã giúp anh thắng nỗi ghê tởm phải đọc vụng thư. Bức thư viết:
"Thưa Đức ông,
Tối nay tôi sẽ gửi đến Các hạ mười người mà ngài yêu cầu để tăng cường cho toán quân của ông de Comminger. Đó là những người lính cũ có thể dùng canh giữ hai địch thủ ghê gớm mà tài khôn khéo và lòng quả cảm đã khiến Các hạ lo sợ!"
- Ồ! - Arthos kêu lên.
- Thế nào, - Aramis hỏi, - hai tay địch thủ mà ngoài toán quân của Comminger ra, còn phải cần đến mười tên lính thiện nghệ nữa để canh gác, là những ai vậy. Phải chăng nó không giống d Artagnan và Porthos như hai giọt nước?
- Chúng ta sẽ đi sục Paris suốt ngày hôm nay, - Arthos nói, - và nếu đến tối mà không có tin tức thì sẽ đi đường Pacardi và tôi bảo đảm rằng nhờ trí óc sáng tạo của d Artagnan, chúng ta sẽ sớm tìm ra vài dấu hiệu khiến chúng ta hết mọi nghi ngờ.
- Nào, ta đi sục ở Paris và nhất là hỏi Planchet xem hắn có nghe nói gì về chủ cũ của mình không?
- Cái cậu Planchet tội nghiệp ấy! Aramis này, cậu nói thế thôi, chứ không chừng hắn bị giết rồi. Tất cả những nhà tư sản hiếu chiến ấy đều ra trận cả, và có lẽ người ta đã làm một cuộc tàn sát.
Rất có thể như vậy, cho nên đôi bạn cũng thấy lo lắng, đi theo lối cửa ô Ngôi đền vào Paris và lần đến Hoàng trường, nơi các anh tính biết được tin về những người tư sản tội nghiệp kia. Nhưng các anh vô cùng ngạc nhiên thấy họ và đại uý của họ vẫn đóng quân ở quảng trường, uống rượu và cười cợt, trong lúc gia đình họ chắc hẳn đang khóc thương họ khi nghe tiếng đại bác Charenton nổ và tưởng rằng họ đã bị tan xác.
Arthos và Aramis lại hỏi tin Planchet, nhưng hắn chẳng biết gì về d Artagnan cả. Các anh định rủ hắn đi, nhưng hắn tuyên bố là không thể rời bỏ vị trí nếu không có lệnh trên.
Mãi đến năm giờ, mọi người mới trở về nhà và nói rằng họ đi đánh nhau về, họ đã không rời mắt khỏi con ngựa đồng đen của vua Louis XIII.
Planchet trở về cửa hiệu của mình ở phố Lombard và nói:
- Mẹ cha nó! Chúng ta đại bại. Tôi sẽ không bao giờ khuây được.
Chú thích:
(1) Ý nói ông chủ giáo thương lượng nhằm giành được chiếc mũ giáo chủ màu đỏ.
(2) Thánh Paul, sứ đồ của những người dị giáo, trên đường đi Damas, bị quật ngã bởi một sức mạnh siêu nhiên.
-*-*-*-
Chương 83
Đường Picardi
Rất an toàn ở trong thành phố Paris, Arthos và Aramis chẳng giấu giếm rằng hễ thò chân ra ngoài là có cơ gặp những nguy hiểm lớn nhất, nhưng đối với những con người như vậy, ta hiểu vấn đề nguy hiểm là thế nào. Hơn nữa họ cảm thấy rằng đoạn kết thút của chuyến phiêu lưu thứ hai ấy đang tới gần, và như người ta nói, chỉ cần ráng sức một chút nữa là xong.
Vả chăng chính Paris cũng chẳng yên ổn gì: lương thực bắt đầu thiếu thốn, và tuỳ theo một viên tướng nào đó của Hoàng thân de Conti thấy cần lấy lại ảnh hưởng, ông ta gây một cuộc nổi loạn nhỏ mà ông dẹp yên và nó giúp cho ông ta một khoảnh khắc vượt cao hơn các bạn đồng liêu.
Trong một cuộc bạo loạn như vậy, ông de Beaufort đã cho cướp phá ngôi nhà và thư viện của Mazarin, để theo ông nói, cho lũ dân khốn khổ kia một chút gì nhấm nháp. Arthos và Aramis rời Paris trong cuộc đảo chính ấy nó xảy ra vào buổi chiều tối hôm nhân dân Paris bị bại trận ở Charenton. Cả hai người để Paris ở lại trong cảnh cùng khổ sắp lâm vào nạn đói, xôn xao vì sợ hãi, bị xâu xé vì các bè đảng.
Là người Paris và là Frondeurs, các anh chờ đợi sẽ tìm thấy cảnh cùng khổ những nỗi lo sợ và những âm mưu cũng giống như vậy ở trong phe quân địch. Nhưng các anh vô cùng sửng sốt khi đi qua Saint-Denis, nghe nói là ở Saint-Germain người ta cười đùa, hò hát và sống rất vui nhộn.
Hai nhà quý tộc đi theo những đường quanh trước hết để khỏi sa vào tay bọn theo phái Mazarin rải rác ở Ile de France, sau nữa là để thoát khỏi những người Frondeurs đang giữ vùng Normandie họ sẽ chẳng tha dẫn các anh đến ông de Longueville để ông nhận xem là bạn hay là thù. Thoát khỏi hai mổi nguy ấy, các anh lại bắt vào đường Boulogne-sur-Mer đến Abơvin và đi lần từng bước, từng dấu vết một. Tuy nhiên có một lúc các anh ngập ngừng hỏi thăm hai ba quán hàng rồi mà chẳng thấy một dấu hiệu nào có thể soi sáng những mối hoài nghi hoặc hướng dẫn sự tìm kiếm cả. Nhưng khi đến Montreuil, Arthos cảm thấy trên mặt bàn có cái gì nham nháp dưới những ngón tay mịn màng của mình. Anh lật tấm khăn bàn lên thì thấy trên mặt gỗ khắc sâu mấy chữ bằng mũi dao: "Por... D act... - 2 tháng Hai".
Hay quá! - Arthos trỏ dòng chữ cho Aramis xem và nói. - Chúng ta định ngủ ở đây, nhưng thôi vô ích. Cần đi xa hơn nữa.
Cá hai lên ngựa và đi đến Abơvin. Tới đây các anh rất lưỡng lự vì có nhiều quán ăn quá. Biết bạn mình đã trọ ở đâu mà tìm, không lẽ vào tất cả các quán.
- Arthos, hãy nghe tôi, - Aramis nói. - Chúng ta dừng nghĩ đến chuyện tìm kiếm ở Abbeville làm gì. Chúng ta mà lúng túng thì các bạn ta cũng vậy thôi. Nếu như chỉ có một mình Porthos cậu ta sẽ đến trọ ở cái khách sạn sang trọng nhất và tới đấy, chúng ta sẽ tìm lại dấu vết của cậu ấy. Nhưng d Artagnan chẳng có những chỗ yếu ấy đâu. Porthos có thể khẩn khoản rằng cậu ta đói bụng lắm rồi, nhưng d Artagnan khắt khe như số mệnh ắt sẽ không nghe và vẫn đi tiếp.
Cho nên ta phải tìm ở nơi khác kia.
- Thế là đôi bạn lại lên đường, nhưng chẳng thấy quán hàng, nhà cửa, cây cối gì cả. Thật là một trong những nhiệm vụ khó nhọc nhất và vô vị nhất mà Arthos và Aramis đã từng làm. Và nếu không có cái động cơ ba mặt là danh dự, tình bạn và lòng biết ơn khắc sâu vào tâm hồn mình, thì hai lữ khách của chúng ta chắc hẳn đã trăm lần từ chối những việc đào bới cát ven đường, hỏi han khách bộ hành và bình luận những dấu hiệu, rình mò các bộ mặt.
Cứ như vậy họ đi tới Péronne
Arthos bắt đầu thất vọng. Cái bản chất cao quý và dễ thương ấy tự trách mình về cái tình trạng mờ mịt mà các anh đang lâm vào.
Chắc hẳn các anh đã tìm kiếm không kỹ, chắc hẳn các anh chưa đủ bền bỉ và sắc bén khi hỏi han, dò xét. Các anh đã sắp sửa quay trở lại thì lúc đi qua xóm ngoại ô dẫn đến cổng vào thị trấn, các anh trông thấy một bức tường trắng ở góc cái phố chạy quanh thành, Arthos ngước nhìn một bức tranh trên tường trông như của một đứa trẻ con vẽ bằng đá đen hình hai kỵ sĩ đang phi ngựa như điên, một kỵ sĩ cầm trong tay một tâm biển đề mấy chữ Tây Ban Nha: "Người ta đi theo chúng tôi ".
- Ồ! - Arthos nói, - thật là rõ như ban ngày. Dù đang bị đuổi theo, d Artagnan cũng dừng lại đây năm phút. Điều đó chứng tỏ là không bị đuổi sát gần và có thể cậu ta đã thoát được.
Aramis lắc đầu.
- Nếu cậu ấy thoát thì chúng ta đã gặp lại hoặc ít ra cũng nghe nói đến chứ!
- Cậu nói đúng đấy. Ta lại đi thôi.
Nói sự lo lắng và không kiên tâm của hai nhà quý tộc có lẽ là điều không thể có được.
Lo lắng là để cho trái tim trìu mến và thân thương của Arthos, không kiên tâm là để cho tính khí nóng nảy và dễ lầm lạc của Aramis. Cho nên trong ba bốn tiếng đồng hồ, cả hai người phóng với sự điên cuồng của hai kỵ sĩ vẽ trên bức tường. Bỗng nhiên đến một chỗ đường thắt hẹp lại giữa hai bờ cao, họ trông thấy một tảng đá lớn chắn ngang mặt đường. Chỗ cũ của tảng đá là ở trên một bờ cao, và cái hố sâu hoắm nó để lại chứng tỏ nó không thể tự lăn xuống đường: mà trông nó to nặng thế kia thì phải có cánh tay Biarée hoặc Encelade(1) mới vần ấy nó đi được.
Aramis dừng lại. Anh nhìn tảng đá mà nói:
- Ồ, trong chuyện này ắt là có hơi hướng Ajax de Télémon (2) hoặc Porthos đấy! Xuống đi anh và ta xem tảng đá này thế nào?
Đôi bạn xuống ngựa. Tảng đá rõ ràng được lăn xuống để cản đường các kỵ sĩ. Lúc đầu nó nằm ngang dường sau đó những kỵ sĩ đi sau đã phải vần nó sang một bên để lấy lối đi.
Đôi bạn ngăm nghía tảng đá ở mọi phía phơi ra ánh sáng nhưng không thấy gì lạ. Họ bèn gọi Blaisois và Grimaud tới. Cả bốn người mới lật được tảng đá lên, Bên sườn tảng đá chạm đất có viết mấy dòng chữ: "Tám lính khinh kỵ đuổi theo chúng tôi. Nếu chúng tôi tới được Compiègne, chúng tôi sẽ dừng ở quán "Con Công đội miện" chủ quán là chỗ bạn bè của ta".
- Thế là đã có điều được xác định, - Arthos nói, - trong trường hợp thế này hoặc thế khác, chúng ta cũng còn biết đường mà lần. Nào ta đi đến quán Con Công đội miện.( quán Paon Couronné )
- Ừ! Aramis nói, - nhưng muốn đến được đó thì phải cho ngựa nghỉ một lát kẻo chúng sắp sưng bầm chân rồi.
Aramis nói đúng. Họ dừng ở quán đầu tiên, cho ngựa ăn gấp đôi lúa mạch ngâm rượu vang, cho chúng nghỉ ba giờ, rồi lại lên đường. Mọi người cũng đã mệt nhoài, nhưng còn đứng vững được là nhờ niềm hi vọng.
Sáu tiếng đồng hồ sau, họ đến Compiègne và hỏi thăm quán Con Công đội miện. Người ta chỉ cho họ một tấm biển vẽ con công thần với chiếc mũ miện trên đầu.
Đôi bạn xuống ngựa và chẳng chú ý đến vẻ tự phụ huênh hoang của tấm biển hàng mà giá vào lúc khác chắc hẳn Aramis đã nặng lời chỉ trích. Họ thấy một gã chủ quán đầu hói nhẵn thín và bụng phệ như một ông phỗng của Tàu. Các anh hỏi hắn xem cách đây ít lâu có hai nhà quý tộc bị một toán khinh kỵ binh đuổi bắt không. Chẳng nói chẳng rằng, chủ quán đi đến chiếc tủ lấy ra một nửa lưỡi thanh trường kiếm.
- Các ông có biết cái này không? - Hắn hỏi.
Arthos chỉ thoáng nhìn qua và nói:
- Đây là thanh kiếm của d Artagnan.
- Của ông to cao hay ông nhỏ người? - chủ quán hỏi.
- Của ông nhỏ người - Arthos đáp.
- Chắc các ông là bạn bè của mấy ông kia?
- Phải. Thế chuyện gì đã xảy ra với họ?
- Các ông ấy đi vào sân nhà tôi với những con ngựa chân bầm máu, và trước khi kịp đóng cánh cổng lớn thì tám khinh kỵ binh đuổi theo đã ập vào.
- Tám tên! - Aramis nói. - Tôi lấy làm lạ là hai người dũng mãnh như d Artagnan và Porthos mà lại để bị tám người bắt.
- Đúng như vậy, thưa ông, tám tên lính kia sẽ chẳng làm gì nổi đâu nếu chúng không lấy thêm hai chục tên lính của trung đoàn Hoàng gia Ý đang đóng trong thành phố, thành thử có thể nói thẳng ra là hai ông bạn của các ông đã bị áp đảo về số lượng.
- Bị bắt giữ à? - Arthos, - nhưng có biết vì sao không?
- Thưa ông không. Họ đã dẫn hai ông đi ngay lập tức và các ông ấy không kịp nói gì với tôi cả. Sau đó tôi nhặt được mảnh kiếm gãy này trên bãi chiến trường, trong khi giúp khiêng hai người chết và năm sáu người bị thương.
- Thế còn hai ông kia, - Aramis hỏi, - có bị làm sao không?
- Tôi tin là không việc gì cả.
- Ông có biết họ dẫn đi đâu không? - Arthos hỏi.
- Về phía cung Louvre.
Arthos bảo:
- Ta hãy để Blaisois và Grimaud ở lại đây, ngày mai chúng nó về Paris, còn bây giờ chúng ta đi xe trạm.
- Được chúng ta đi xe trạm.
Trong khi cho đi kiếm ngựa, đôi bạn ăn vội vàng; họ muốn tiếp tục lên đường, nếu như thu thập được chút ít tình hình ở Louvre.
Họ đến Louvre. Ở đó chỉ có một tửu quán bán một thứ rượu chế tạo từ thời đó và đến ngày nay vẫn còn nổi tiếng. Arthos nói:
- Ta xuống đây nào, d Artagnan thể nào cũng chẳng bỏ lỡ dịp, không phải để uống một cốc đâu mà cốt để lại một dấu hiệu cho chúng ta.
Hai người bước vào và đến quầy gọi hai cốc rượu như d Artagnan và Porthos ắt đã làm. Mặt quầy phủ một tấm thiếc. Trên tấm thiếc có mấy chữ vạch bằng đầu chiếc kim băng lớn: "Rueil. Đ ".
Aramis nom thấy trước và khẽ reo lên:
- Họ ở Rueil!
Vậy thì chúng ta đến Reuil. - Arthos bảo.
- Như thế có khác nào ta tự dẫn mình đến miệng chó sói, - Aramis nói.
- Nếu tôi là bạn của Jonas ngày xưa giống như ngày nay tôi là bạn của d Artagnan, thì tôi sẽ chui theo anh ta vào tận trong bụng của cá voi, và cậu cũng sẽ làm như tôi, Aramis ạ.
- Dứt khoát rồi, bá tước ạ, tôi ngỡ là anh làm cho tôi hơn lên thế nào kia. Nếu có một mình tôi, tôi chưa biết liệu tôi đi Reuil như thế này mà không có những cách đề phòng cẩn thận không, nhưng vì có anh, thì anh đi đâu tôi sẽ đi đấy.
Họ lấy ngựa và đi Reuil ngay.
- Không còn nghi ngờ gì cả, Arthos đã nêu ra với Aramis ý kiến hay nhất.
Các đại biểu nghị viện vừa mới tới Reuil để dự những cuộc hội đàm trứ danh kéo dài ba tuần lễ và dẫn đến cái nền hoà bình khập khiễng nó kéo theo việc Ngài Hoàng thân bị bắt giữ...
Reuil bừa bộn và đầy rẫy người. Phe Paris thì có các luật sư các chủ tịch, các cố vấn, các pháp quan đủ loại. Phe triều đình có các quý tộc các sĩ quan, các lính vệ. Giữa cái đám hỗn độn ấy, người ta có thể xen vào mà chẳng sợ bị nhận ra. Vả lại, những cuộc đàm phán đã đi đến một cuộc đình chiến, thì nếu bắt giữ hai nhà quý tộc dù hợ có phạm tộí nặng mấy chăng nữa cũng là vi phạm đến quyền của mọi người.
Đôi bạn tưởng rằng tất cả mọi người đều bận tâm đến điều đang giày vò các anh. Các anh chen vào các nhóm, tưởng rằng họ nghe được điều gì về d Artagnan và Porthos; nhưng ai nấy chỉ quan tâm đến những điều khoản và những sự sửa đổi.
Arthos bàn là có thể lên gặp thẳng tể tướng.
- Bạn ơi!, - Aramis cãi, điều anh nói thật là hay ho đấy, nhưng hãy coi chừng; chúng ta có kín đáo thì mới an toàn. Nếu chúng ta lộ mình ra bằng cách này hay cách khác, thì ngay lập tức chúng ta nối gót các bạn ta ở một ngục tối nào đó, sâu dưới đất mà quỷ cũng chẳng lôi chúng ta ra được đâu. Các bạn của ta bị bắt ở Compiègne rồi dẫn đến Reuil như chúng ta đã biết chắc ở Louvre. Tới Reuil họ đã bị tể tướng tra hỏi và sau cuộc thẩm vấn ấy họ đã bị giam ở gần đấy hoặc tống đi Saint-Germain rồi. Họ không ở Bastille đâu, vì ngục Bastille thuộc quân Fronde và con trai Broussel, chỉ huy ở đó. Họ không chết đâu, vì cái chết của d Artagnan sẽ ầm ĩ to. Còn Porthos tuy có nóng nảy tôi vẫn tin rằng cậu ấy bất tử như Chúa Trời. Ta chớ thất vọng, hãy chờ đợi và nán lại Reuil, vì tôi chắc rằng các bạn ở Reuil. Nhưng kìa, anh làm sao mà tái nhợt đi thế kia!
Arthos run run đáp:
- Tôi nhớ là ở lâu đài Reuil, giáo chủ de Richelieu có cho xây một hầm giam kinh khủng để quăng vào đấy suốt đời những kẻ trọng tội.
- Ô hãy yên tâm anh ạ, - Aramis nói. - Ông de Richelieu là một nhà quý tộc dòng dõi cũng như chúng ta nhưng hơn chúng ta về địa vị, giống như một ông vua, ông ta có thể túm đầu những vị cao sang nhất trong chúng ta và láy lắc nó trên đôi vai. Nhưng Mazarin là một thằng hèn, nhiều nhất chỉ có thể túm cổ chúng ta như một tên xạ thủ. Vậy bạn cứ yên tâm, tôi đinh ninh rằng d Artagnan và Porthos ở Reuil, vẫn sống và rất khỏe mạnh là khác.
- Mặc kệ, - Arthos nói, - ta cứ yêu cầu ông chủ giáo để ta tham gia cuộc đàm phán và như vậy ta sẽ vào Reuil.
- Với những tên pháp quan tởm lợm ấy à? Bạn thân mến, anh có nghĩ đến điều ấy không? Anh tưởng rằng người ta cũng thèm đưa ra bàn bạc về sự tự do hay sự giam cầm d Artagnan và Porthos hay sao? Không, tôi có ý kiến là ta tìm một cách nào khác.
- Này bạn, - Arthos nói, - tôi trở lại ý nghĩ ban đầu. Tôi chẳng thấy có cách nào hơn là hành động thẳng thắn và chân thực. Tôi sẽ không tìm đến Mazarin mà đến gặp hoàng hậu mà bảo rằng: "Xin Lệnh bà hãy trả lại cho chúng tôi hai kẻ trung thành của Lệnh bà và hai người bạn thân thiết của chúng tôi".
Aramis lắc đầu nói:
- Arthos ạ, đó là phương sách cuối cùng mà anh vẫn có thể tuỳ ý sứ dụng. Nhưng hãy nghe tôi, chỉ dùng nó khi cùng bất đắc dĩ, vẫn còn có thì giờ kia mà. Trong khi chờ đợi chúng ta tiếp tục đi từn kiếm.
- Thế là họ lại đi tìm kiếm, thăm dò tin tức, và tìm đủ mọi cách khôn khéo hỏi han để người ta phải nói ra, và cuối cùng gặp được một lính khinh kỵ, hắn thú nhận đã tham dự vào việc áp giải d Artagnan và Porthos từ Compiègne đến Reuil. Không có hắn ta thì thực chẳng còn biết tăm hơi gì.
Arthos vẫn trơ lại hoài ý định gặp hoàng hậu.
- Muốn gặp hoàng hậu - Aramis nói, - trước hết phải gặp tể tướng, mà Arthos ơi, hãy nhớ điều tôi nói, chỉ mới nhìn thấy giáo chủ thôi, là chúng ta sẽ được sum họp ngay với các bạn của ta, mà không phải theo cách chúng ta muốn đâu. Thú thật rằng cách sum họp ấy tôi thấy chẳng thích thú chút nào. Muốn làm được tốt và nhanh chóng, chúng ta phải được tự do để hành động.
- Tôi sẽ đến gặp hoàng hậu. - Arthos nói.
- Nếu anh quyết định làm cái việc điên rồ ấy, thì xin hãy báo trước cho tôi một ngày.
- Tại sao vậy?
Tại tôi cần có một cuộc viếng thăm ở Paris.
- Thăm ai?
- Nào biết! Có thể là bà de Longueville. Bà ta rất có uy thế ở đó, bà ấy sẽ giúp đỡ tôi. Tuy nhiên nếu như anh bị bắt thì hãy nhờ ai đó báo tin cho tôi, tôi sẽ cố trở lại ngay.
- Tại sao cậu không liều để bị bắt giữ với tôi? - Arthos hỏi.
- Không, xin cảm ơn.
- Cả bốn người bị bắt và cùng tụ họp lại, tôi tin rằng chúng ta chẳng còn sợ nguy cơ gì. Chỉ hai mươi bốn giờ sau là chúng ta sẽ thoát ra ngoài.
- Bạn thân mến ơi, từ khi tôi giết chết Châtillon, thần tượng của các phu nhân ở Saint-Germain, tôi có quá nhiều hào quang ở quanh mình, nên không thể không sợ tù tội gấp đôi. Hoàng hậu chắc sẽ nghe theo lời khuyên của Mazarin nhân dịp này, và lời khuyên của Mazarin là đưa tôi ra xét xử.
- Nhưng Aramis ơi, vậy cậu nghĩ rằng hoàng hậu mê cái lão người Ý ấy đến mức như người ta đồn ư?
- Bà ta si mê một người Anh.
- Ơ bạn ơi, bà ấy là đàn bà.
- Không đâu, anh nhầm rồi, Arthos ạ. Bà ấy là hoàng hậu.
- Bạn thân mến ơi, tôi tự hiến thân và đến xin yết kiển Anne d Autriche.
- Xin vĩnh biệt Arthos; tôi sẽ dấy lên một đạo quân.
- Để làm gì?
- Để trở lại bao vây Reuil.
- Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?
- Ở dưới chân giá treo cổ của giáo chủ.
Và đôi bạn chia tay nhau. Aramis trở về Paris. Arthos chạy vạy để đến được hoàng hậu.
Chú thích:
(1) Những người khổng lồ và nhân vật trong thần thoại Hy Lạp.
(2) Người khổng lồ trong thần thoại Hy Lạp.
-*-*-*-
Chương 84
Sự trả ơn của Anne d'Autriche
Để vào tới chỗ Anne d Autriche, Arthos gặp ít khó khăn hơn anh tưởng. Ngay lần vận động đầu tiên mọi sự đã trôi chảy, và cuộc bái yết mà anh thỉnh cầu được chấp thuận vào ngày hôm sau, sau buổi lễ thức dậy mà với dòng dõi của mình, anh được phép tham dự.
Một đám đông đầy chật các gian nhà ở Saint-Germain. Tại Louvre hoặc Hoàng cung, chưa bao giờ Anne d Autriche có nhiều cận thần đến thế. Tuy nhiên có một sự huyên náo nổi lên trong cái đám quần thần thuộc lớp quý tộc thứ yếu ấy, trong khi những nhà quí tộc đệ nhất Pháp quốc lại ở bên cạnh hoàng thân de Conti, hoàng thân de Beaufort và ông chủ giáo.
Hơn nữa, một niềm hoan hỉ lớn tràn ngập trong triều đình. Tính cách đặc biệt của cuộc chiến tranh này là có nhiều khúc ca hơn là những phát đại bác.
Triều đình hát nhạo cánh Paris, cánh Paris hát xỏ triều đình.
Những vết thương không chết người thì cũng chẳng kém phần đau đớn, bởi vì bị gây ra bởi vũ khí mỉa mai.
Nhưng giữa những trận cười tràn lan và những câu chuyện có vẻ tầm phào ấy, một mối bận tâm lớn lắng sâu trong, mọi suy nghĩ.
Mazarin còn là tể tướng hoặc sủng thần, hay là Mazarin từ phương Nam như một đám mây bị cơn gió cuốn đến, rồi lại cuốn đi?
Tất cả mọi người hy vọng điều đó, mong muốn điều đó, thành thử ngài tể tướng cảm thấy như mọi lễ tiết, mọi sự phỉnh phờ ở quanh ông đều che phủ một nội dung hận thù ngụy trang không kỹ dưới sự sợ hãi và lòng vụ lợi. Ông thấy bực bội khó chịu, không biết tin cậy vào đâu và dựa dẫm vào ai.
Ngài Hoàng thân Condé chiến đấu vì ông, nhưng vẫn không bỏ lỡ dịp giễu cợt ông hoặc làm nhục ông. Đã mấy lần trước mặt kẻ chiến thắng Rocroy, Mazarin toan tỏ thiện ý thì Hoàng thân đã nhìn ông bằng một cách để ông hiểu rằng, nếu Hoàng thân bảo vệ ông ta thì chẳng phải vì tin tưởng hay nhiệt thành.
Thế là giáo chủ đành bám vào hoàng hậu, điểm tựa cuối cùng của ông ta. Nhưng đã mấy lần rồi ông cảm thấy như điểm tựa ấy rung rinh dưới bàn tay ông.
Giờ yết kiến tới, người ta báo cho bá tước de La Fère rằng bá tước vẫn được tiếp, nhưng phải đợi một lát, vì hoàng hậu còn phải họp với tể tướng. Sự thật có như vậy, Paris vừa cử một đoàn đại biểu mới đến nhằm đưa lại một sự chuyển biến nào đó cho các công việc và hoàng hậu đang trao đổi ý kiến với Mazarin về việc đón tiếp các đại biểu.
Các nhân vật cao cấp của nhà nước đang rất bận rộn. Arthos không thể chọn một thời điểm nào tồi tệ hơn đề nói về các bạn bè mình, những hạt bụi khốn khổ mất hút trong cơn lốc tung hoành.
Nhưng Arthos là một người ương ngạnh chẳng bao giờ đắn đo với một điều đã quyết định, khi quyết định ấy xuất phát từ lương tâm và do nghĩa vụ thôi thúc.
Cho nên anh khẩn khoản được vào chầu và nói rằng mặc dầu anh không phải đại biểu của de Conti, de Beaufort, de Bouillon, của d d Elbeuf, cũng chẳng phải của chủ giáo, bà de Longueville, de Broussel hay nghị viện, và anh đến chỉ về việc riêng thôi, nhưng không phải vì thế mà không có những điều quan trọng nhất để trình với Hoàng thượng, cuộc hội đàm xong, hoàng hậu cho gọi Arthos đến phòng mình.
Arthos được đưa vào và xưng danh. Đó là một cái tên đã quá nhiều lần vang đến tai hoàng hậu và rung động trong trái tim bà, nên bà không thể không nhận ra; tuy nhiên bà tỏ ra thản nhiên và đành nhìn người quý tộc ấy với vẻ chằm chằm mà chỉ các bà hoàng được phép do nhan sắc hoặc do dòng máu của mình.
Sau một lát im lặng, Anne d Autriche hỏi:
- Vậy là bá tước định giúp chúng tôi một việc thế?
Khó chịu thấy hoàng hậu không tỏ ra nhận biết mình, Arthos thưa:
- Vâng thưa Lệnh bà, lại một việc nữa ạ.
Arthos thật là một trái tim lớn, do đó là một cận thần rất tồi.
Anne chau mày, Mazarin ngồi trước bàn đang giở những giấy tờ như một quốc vụ khanh bình thường ngẩng đầu lên.
- Nói đi, - hoàng hậu bảo.
Mazarin lại giở giấy tờ.
- Thưa Lệnh bà, - Arthos nói, - Hai người bạn thân của chúng tôi hai kẻ tôi tớ dũng cảm của Hoàng thượng là các ông d Artagnan và Du Vallon do ngài giáo chủ phái sang nước Anh, khi trở về mới đặt chân lên đất Pháp thì bỗng nhiên mất tích, và không hiểu ra sao rồi.
- Thế thì sao? - Hoàng hậu hỏi.
- Vì vậy thưa Lệnh bà, - Arthos nói, - tôi khẩn cầu tới lòng nhân đức của Hoàng thượng để biết được hai nhà quý tộc ấy bây giờ ra sao, và sau đó nếu cần thi khẩn cầu đến công lý của Người.
Với vẻ cao ngạo trở thành xấc xược đối với một số người, Anne d Autriche đáp:
- Thưa ông, thì ra đó là lý do vì sao ông đến quấy rầy chúng tôi giữa lúc hàng trăm công nghìn việc to lớn đang làm chúng tôi bận rộn. Một công việc cảnh sát! Này, ông biết đấy, hoặc là ông cần phải biết rõ là từ khi chúng tôi không còn ở Paris, chúng tôi không còn có cảnh sát nữa.
Arthos cúi mình với vẻ cung kính lạnh lùng nói:
- Tôi nghĩ rằng Hoàng thượng không cần hỏi đến cảnh sát để biết các ông d Artagnan hay Du Vallon hiện giờ ra sao mà nếu như Người hỏi ngài giáo chủ về hai nhà quý tộc đó, ngài giáo chủ có thể trả lời Người mà không cần hỏi ai ngoài những ký ức của bản thân ngài.
Với cái bĩu môi khính thị riêng có, Anne d Autriche nói:
- Xin Chúa khoan dung! Tôi ngờ rằng ông hãy tự hỏi mình.
- Vâng, thưa Lệnh bà, tôi hầu như có quyền làm thế, vì đây là chuyện về ông d Artagnan, về ông d Artagnan, Lệnh bà nghe rõ chứ ạ. - Arthos nói khiến vầng trán của hoàng hậu phải cúi xuống dưới những kỷ niệm của người đàn bà.
Mazarin hiểu rằng đến lúc phải đỡ cho Anne d Autriche, ông nói:
- Ông bá tước ạ, tôi muốn nói để ông rõ điều mà Hoàng thượng chưa biết, đó là hai nhà quý tộc ấy hiện nay ra sao. Họ đã bất tuân thượng lệnh và bị bắt giữ rồi.
Arthos vẫn trơ trơ và không đáp lại Mazarin, anh nói:
- Vậy thì van xin Hoàng thượng hãy chiếu cố các ông d Artagnan và Du Vallon mà bãi bỏ lệnh bắt ấy.
- Điều ông yêu cầu tôi là một việc thuộc về kỷ luật và không can hệ gì đến tôi, ông ạ. - Hoàng hậu đáp.
Với vẻ đường hoàng, Arthos thi lễ và nói:
- Ông d Artagnan đã chẳng bao giờ nói điều ấy khi đó là việc phục vụ Hoàng thượng.
Và anh lui lại hai bước để ra cửa, nhưng Mazarin ngăn lại.
- Ông cũng từ nước Anh về phải không? - Ông nói và ra hiệu cho hoàng hậu, bà ta tái mặt đi rõ rệt và sắp sửa ban ra một mệnh lệnh ngặt nghèo.
- Và tôi đã chứng kiến những giây phút cuối cùng của vua Charles đệ nhất - Arthos nói. - Tội nghiệp vua! Nhiều nhất ngài cũng chỉ phạm tội yếu đuối vậy mà quần thần đã trừng trị ngài thật khắt khe. Lúc này đây, các ngai vàng đang lung lay và đối với những tấm lòng trung thành, phục vụ các hoàng thân chẳng phải là hay đâu. Đây là lần thứ hai ông d Artagnan sang Anh, lần thứ nhất vì danh dự của một hoàng hậu vĩ đại, lần thứ hai vì tính mạng của một ông vua vĩ đại.
- Với một giọng mà thói quen che giấu không xua tan được nét biểu hiện thật sự, Anne d Autriche nói:
- Ông Mazarin, xem có thể làm được gì cho các nhà quý tộc này không?
- Thưa Lệnh bà, - Mazarin đáp, tôi sẽ làm mọi điều gì vừa lòng Hoàng thượng.
- Ông hãy làm cái điều mà bá tước de La Fère thỉnh cầu. Tên ông gọi như vậy có phải không?
- Thưa Lệnh bà, tôi còn một tên khác nữa: Arthos.
Với một nụ cười chứng tỏ rằng chỉ nửa lời ông đã dễ dàng hiểu ra ngay, Mazarin nói:
- Thưa Lệnh bà, xin người cứ yên tâm, những ý muốn của người sẽ được thực hiện.
- Ông nghe rõ rồi chứ? - Hoàng hậu nói.
- Vâng thưa Lệnh bà, tôi không chờ đợi gì hơn là công lý của Hoàng thượng. Như vậy là tôi sẽ gặp lại các bạn bè của tôi, có phải không, thưa Lệnh bà? Có phải Hoàng thượng hiểu như vậy không?
- Phải, ông sẽ gặp lại các bạn ông. Nhưng nhân đây xin hỏi, ông thuộc phái La Fronde phải không?
- Thưa Lệnh bà, tôi phục vụ đức vua.
- Phải, theo cách của ông.
- Cách của tôi là cách của tất cả những nhà quý tộc chân chính, và tôi không biết có hai cách, - Arthos kiêu ngạo đáp.
Hoàng hậu khoát tay ra hiệu cho Arthos đi ra và bảo:
- Thôi, ông đi đi. Ông đã đạt được điều ông mong muốn, và chúng tôi cũng biết được những điều chúng lôi cần biết.
Khi cửa đã sập lại sau lưng Arthos, hoàng hậu quay lại bảoMazarin :
- Giáo chủ cho bắt giữ ngay gã quý tộc hỗn láo kia trước khi hắn ra khỏi sân!
- Tôi đã nghĩ đến điều ấy, - Mazarin nói,
- Và tôi vui mừng rằng Hoàng thượng đã ban cho một mệnh lệnh mà tôi định yêu cầu Người. Những tên hung hăng mang những tập quán của triều cũ vào thời đại hiện nay của ta gây rất nhiều phiền hà cho chúng ta; và đã có hai tên bị bắt rồi, ta hãy cho thêm vào đứa thứ ba.
Chẳng phải Arthos hoàn toàn bị hoàng hậu lừa bịp. Trong giọng nói của bà có cái gì đó đã khiến anh chú ý, nó vừa hứa hẹn lại vừa đe doạ. Nhưng anh không phải người hơi thấy nghi ngờ là lánh xa ngay, nhất là khi người ta đã nói rõ ràng với anh rằng anh sắp gặp lại các bạn anh. Cho nên anh đến một phòng ở gần kề nơi văn phòng anh được tiếp kiến để chờ người ta dẫn d Artagnan và Porthos đến hoặc đưa anh tới gặp họ.
Trong lúc chờ đợi, anh tới bên cửa sổ và bất giác nhìn ra sân.
Anh trông thấy đoàn đại biểu Paris vào để thu xếp nơi hội đàm dứt khoát và chào hoàng hậu. Có các vị cố vấn của nghị viện, các chủ tịch, luật sư, trong đó lạc lõng vài binh gia. Một đoàn hộ tống hùng hậu chờ đợi họ ở ngoài hàng rào sắt.
Arthos nhìn chăm chú hơn bởi vì giữa đám đông ấy anh tưởng như nhận ra một người quen, thì có người vỗ nhẹ vào vai anh.
Anh quay lạt và thốt lên.
- A! Ông de Comminger!
- Vâng, thưa bá tước chính tôi, và tôi được giao một nhiệm vụ mà để thi hành nó tôi xin ông hãy nhận tất cả những lời xin lỗi của tôi.
- Nhiệm vụ gì vậy, thưa ông? - Arthos hỏi.
- Xin bá tước nộp thanh gươm cho tôi.
Arthos mỉm cười và mở cửa sổ ra anh kêu lên:
- Aramis!
Một nhà quý tộc quay lại; đó là người mà Arthos đã ngỡ nhận ra, và chính là Aramis. Anh thân mật chào Arthos.
- Aramis! - Arthos nói. - Người ta bắt giữ tôi.
- Thế à! - Aramis lạnh lùng đáp.
Arthos quay lại phía Comminger và lịch sự trao kiếm đằng chuôi cho hắn ta, anh nói:
- Thưa ông, mong ông giữ gìn cẩn thận hộ cho để trả lại tôi khi nào tôi ra tù. Tôi rất quý nó vì nó do vua Françoise đệ nhất ban cho tổ phụ tôi. Trong thời ngài, người ta ban vũ khí cho các nhà quý tộc, chứ không tước vũ khí họ. Bây giờ ông đưa tôi đi đâu?
- À vào phòng tôi trước đã, - Comminger đáp. - Hoàng hậu sẽ quy định chỗ ở của ông sau.
Arthos không nói thêm một lời và đi theo Comminger.
-*-*-*-
Chương 85
Vương vị của Mazarin
Việc bắt bớ không gây một tiếng động nào, một sự công phẫn nào và gần như không ai biết đến. Do đo nó không ngăn cản diễn biến của các sự kiện, và đoàn đại biểu do Paris cử đến được thông báo long trọng rằng họ sẽ được tiếp kiến Hoàng hậu.
Hoàng hậu tiếp đón họ, im lặng và oai vệ như mọi khi. Bà nghe những điều kêu ca và cầu khẩn của các đại biểu, nhưng đến khi họ dứt lời, gương mặt Anne d Autriche vẫn thản nhiên, đến nỗi không ai có thể nói chắc được rằng bà có nghe thấy hay không.
Ngược lại Mazarin, có mặt trong buổi tiếp kiến ấy nghe rất rõ ràng điều các đại biểu yêu cầu, đó là sự thải hồi ông ta bằng những từ ngữ rõ ràng và rành mạch, một cách thuần tuý và đơn giản.
Những bài diễn văn kết thúc, hoàng hậu vẫn câm như hến.
- Thưa các ngài, - Mazarin nói,
- Tôi xin theo các ngài mà khẩn cầu hoàng hậu hạn chế những nỗi đau của các quần thần. Tôi đã làm mọi việc có thể làm dịu bớt, song theo các ngài nói, ý kiến chung cho rằng những nỗi đau khổ ấy là do tôi gây ra, một người ngoại quốc khốn khổ đã không làm vừa lòng mỗi người Pháp. Than ôi! Người ta không hiểu tôi, và cũng đúng thôi, tôi kế tục con người tuyệt vời nhất dường như vẫn còn nâng đỡ cái vương trượng của các vua chúa Pháp. Những ký ức của Ngài de Richelieu áp đảo tôi. Nếu như tôi có tham vọng mà chống lại các ký ức đó thì cũng uổng công. Nhưng tôi không thể và tôi muốn đưa ra một bằng chứng. Tôi tuyên bố là chịu thua. Tôi sẽ làm điều mà nhân dân đòi hỏi. Nếu như dân chúng Paris có vài điều sai lầm, mà ai chẳng có, phải không các ngài, thì Paris cũng đã bị trừng phạt đủ rồi, khá nhiều máu đã đổ ra, khá nhiều nỗi thống khổ đang đè nặng lên một thành phố không có vua của mình và nền công lý. Đừng qui cho tôi, một cá nhân tầm thường, cái việc tầy đình là chia rẽ một bà hoàng hậu với vương quốc của mình. Bởi vì các ngài đòi hỏi tôi rút lui, vậy thì tôi rút lui.
Aramis ghé tai người bên cạnh mà nói:
- Nếu vậy thì hoà bình được lập lại, và các cuộc đàm phán là vô ích. Chỉ còn có việc cho áp giải cẩn thận và tống khứ ông Mazarin ra tận nơi biên cương xa nhất và không để ông ta trở lại bằng nơi ấy hoặc nơi khác...
Viên pháp quan mà Aramis vừa bảo ấy lên tiếng:
- Khoan đã, ông ơi, khoan đã! Ông ra đi như vậy ư? Người ta thấy rõ ông là hạng người giang hồ hiệp khách đấy... Còn có cả một danh mục những khoản tiền lời lãi và những tiền trợ cấp phải sao chép minh bạch.
Đấy là ông Séguier, chỗ quen biết cũ của chúng ta. Hoàng hậu quay về phía ông ta mà bảo:
- Này ông chưởng ấn ơi, ông sẽ mở những cuộc hội đàm, mà họp ở Reuil. Ngài giáo chủ đã nói những lời khiến tôi rất xúc động. Đó là lý do vì sao tôi không trả lời ông dài dòng hơn. Còn về chuyện ở lại hay ra đi, tôi hàm ơn Ngài giáo chủ quá nhiều nên không thể không để cho ông ấy tự do hành động về mọi mặt. Ông giáo chủ muốn làm gì thì làm.
Một vẻ tái nhợt thoáng qua trên gương mặt thông minh của tể tướng ông lo âu nhìn hoàng hậu. Mặt bà trơ trơ như đá đến nỗi ông cũng giống như những người khác, chẳng đọc nổi những gì đang diễn ra trong lòng bà:
- Nhưng, thưa các ngài, - hoàng hậu nói thêm, - Trong khi chờ đợi sự quyết định của ngài Mazarin tôi mong rằng chỉ còn có vấn đề của nhà vua thôi.
Các đại biểu cúi chào và đi ra. Khi người cuối cùng đã ra khỏi phòng, hoàng hậu bảo Mazarin:
- Thế nào, ông nhượng bộ bọn quan toà và thầy cãi à?
Mazarin đưa con mắt sắc nhìn hoàng hậu chằm chằm và nói:
- Thưa Lệnh bà vì hạnh phúc của Hoàng thượng, không có sự hy sinh nào mà tôi không sẵn sàng chịu đựng.
Anne cúi đầu và Reuil vào trong những mơ mộng vẫn thường có ở bà. Kỷ niệm về Arthos trở lại tâm trí bà. Cái phong độ táo bạo của người quý tộc, lời lẽ vừa kiên quyết và đường hoàng, những ảo ảnh mà anh gợi lại chỉ bằng một lời, khiến bà nhớ lại cả một quá khứ đầy thơ mộng mê say: thuở thanh xuân, nhan sắc, hào quang những mối tình của tuổì hai mươi, và những cuộc chiến đấu khốc liệt của những người phù trợ bà, và cái chết đẫm máu của Buckingham, người đàn ông duy nhất bà thực sự yêu thương, và sự anh hùng của những kẻ vô danh bảo vệ bà đã cứu bà thoát khỏi nỗi thù hằn của cả Richelieu và vua.
Lúc này bà tưởng như ngồi một mình và không còn có cả một thế giới thù địch rình mò bà, thì Mazarin theo dõi những suy nghĩ của bà qua gương mặt, giống như người ta nhìn vào mặt hồ trong suốt những ánh mây trôi qua, những ánh phản quang của bầu trời cũng như những nét suy tưởng.
- Như vậy là, - Anne d Autriche lẩm bẩm,
- Phải nhượng bộ cơn bão táp, mua lấy hoà bình, chờ đợi kiên nhẫn và sùng kính những thời cơ tốt hơn ư?
Mazarin mỉm cười chua chát trước kiến nghị ấy nó bảo rằng hoàng hậu đã nhìn nhận lời đề nghị của ông tể tướng một cách nghiêm túc.
Anne cúi đầu và không nhìn thấy nụ cười ấy, nhưng nhận thấy câu hỏi của mình không được đáp lại, bà ngẩng đẩu lên, nói:
- Này, ông giáo chủ, ông không trả lời tôi à? Ông nghĩ gì thế?
- Thưa bà, tôi nghĩ rằng cái gã quý tộc hỗn xược mà ta sai Comminger bắt giữ ấy đã nói bóng gió đến ông de Buckingham mà bà để bị ám sát, đến bà de Chevreuse mà bà để bị lưu đày, đến ông de Beaufort mà bà để bị giam cầm. Nhưng nếu như hắn ta nói bóng gió đến tôi thì đó là hắn không biết rằng tôi là cái gì đối với bà.
Anne d Autriche rùng mình như mỗi khi người ta đánh vào lòng kiêu hãnh của bà. Bà đỏ mặt lên và để khỏi phải trả lời, bà ẩn những móng tay sắc nhọn vào lòng bàn tay mình.
Mazarin nói tiếp:
- Đó là một người có ý kiến hay, trọng danh dự và sáng trí chưa kể đó là người quả quyết. Bà cũng biết rõ về ông ta chứ? Do đó tôi muốn nói với hắn rằng, đó là một ân huệ riêng mà tôi ban cho, vậy mà hắn đã ngộ nhận về tôi. Đó là, cái điều mà người ta đề nghị với tôi thật sự hẩu như là một sự thoái vị, mà một sự thoái vị thì cần phải được suy nghĩ.
- Một sứ thoái vị ư? - Anne nói, - Ông ơi, tôi tưởng rằng chỉ có vua mới thoái vị?
- Này bà, - Mazarin đáp, - Tôi chẳng hầu như một ông vua, vua Pháp quốc đó sao? Thưa Lệnh bà, tôi xin bảo đảm rằng cái áo tể tướng của tôi ném lên chiếc giường ngự ban đêm trông rất giống một tấm ngự bào.
Đó là một trong những điều sỉ nhục mà Mazarin thường hay bắt bà phải chịu, và bà luôn luôn cúi đầu khuất phục. Chỉ có Elizabeth và Catherine II là những người giữ được mình vừa là tình nhân vừa là nữ hoàng đối với tình lang của họ(1). Cho nên Anne d Autriche hoảng sợ nhìn bộ mặt hâm doạ của ông giáo chủ trong những lúc như vậy cũng có một vẻ uy nghi nào đó.
- Thưa ông, - bà nói, - Chẳng phải tôi đã nói và ông cũng đã nghe thấy tôi nói với những người kia rằng tuỳ ý ông muốn làm gì thì làm đó sao.
- Trong trường hợp ấy, - Mazarin nói, - Tôi thích ở lại. Đó không những là lợi ích của tôi mà còn dám nói rằng đó là lợi ích của bà nữa.
- Vậy thì ông cứ ở lại, tôi không mong gì hơn; nhưng như vậy chớ có để tôi bị lăng nhục.
- Bà muốn nói đến yêu sách của bọn nổi loạn và những giọng điệu của chúng phải không? Hãy nhẫn nại! Chúng đã chọn một trận địa, và tôi là vị tướng khôn khéo hơn chúng: những cuộc đàm phán. Chúng ta sẽ đánh bại chúng chỉ bằng cách chờ thời. Chúng đói lắm rồi, tám ngày nữa thì còn tồi tệ hơn nữa.
- Ôi, lạy Chúa! Đúng thế ông ạ, tôi biết rằng chúng ta sẽ kết thúc ở đó. Nhưng tôi không nói về bọn ấy, không phải chúng là những kẻ nói với tôi những lời chửi rủa đau đớn nhất.
- A, tôi hiểu rồi! Bà muốn nói đến những kỷ niệm ba bốn gã quý tộc kia thường xuyên gợi lại cho bà. Nhưng chúng ta đã bắt giam chúng, và tội trạng của chúng khá đủ để chúng ta giam cầm chúng bao lâu tuỳ ý ta. Chỉ còn một tên vẫn ở ngoài và coi thường chúng ta. Nhưng, mẹ kiếp! Rồi chúng ta sẽ tống được hắn vào cùng với đồng bọn. Dường như chúng ta làm được những việc còn khó khăn gấp mấy. Trước tiên và để cẩn thận hơn, tôi đã cho giam chúng ở Reuil, nghĩa là bên cạnh tôi, nghĩa là dưới con mắt của tôi, trong tầm tay của tôi hai tên bất trị nhất. Hôm nay đây, tên thứ ba lại dẫn xác vào đó.
- Khi nào họ còn bị tù thì tốt rồi, - Anne d Autriche nói, - Nhưng một ngày kia họ sẽ ra.
- Vâng, nếu như Hoàng thượng thả họ ra.
Anne d Autriche nói tiếp như đáp lại chính ý của mình.
- A! Chính ở đây mà người ta luyến tiếc Paris.
- Tại sao thế?
- Vì nhà ngục Bastille, ông ạ, nó vững chắc và kín đáo.
- Thưa Lệnh bà, với những cuộc đàm phán chúng ta có hoà bình, với hoà bình chúng ta có Paris, với Paris chúng ta có Bastille. Bốn vị anh hùng rơm của ta sẽ chết mục ở trong đó.
Anne d Autriche khẽ chau mày, trong khi Mazarin hôn tay bà để cáo lui sau cái hành động nửa cung kính nửa tán tỉnh ấy Mazarin đi ra. Anne d Autriche nhìn theo và khi ông ta xa dần, người ta có thể trông thấy nụ cười khinh thị hiện trên môi bà. Bà lẩm bẩm:
- Trước kia ta đã coi khinh tình yêu của một ông giáo chủ không bao giờ nói "Ta sẽ làm", mà nói "Ta làm": ông ta biết những chỗ ẩn náu còn chắc chắn hơn Reuil, tối tăm và âm thầm hơn cả Bastille. Ôi, thế giới bây giờ suy vi rồi!
Chú thích:
(1) Elizabeth (1533 - 1603) nữ hoàng Anh và Catherine II đại đế (1762 - 1796) nữ hoàng Nga là những nữ hoàng kiên nghị và có tài
-*-*-*-
Chương 86
Đề phòng
Sau khi rời Anne d Autriche, Mazarin đi về nhà mình ở Reuil. Ông đi với đoàn hộ tống hùng mạnh vì thời loạn, và thường hay cải trang. Như chúng tôi đã nói, trong bộ quần áo hiệp khách trông ông là một nhà quý tộc rất bảnh bao.
Trong sân toà nhà lâu đài cổ ông lên xe ngựa và đi đến sông Seine ở quãng Chatou. Ngài Hoàng thân đã cấp cho ông năm mươi khinh kỵ binh đi hộ tống, nhiều như vậy không phải chỉ để bảo vệ ông mà còn để phô trương cho các kỵ sĩ thấy rằng các tướng lĩnh của hoàng hậu bố trí các toán quân thật dễ dàng biết bao và có thể phân tán tuỳ hứng.
Bị Comminger canh gác chặt chẽ. Arthos cưỡi ngựa, không có gươm, đi theo giáo chủ, mà chẳng nói nửa lời, Grimaud lúc đứng ở cổng toà lâu đài đã nghe tin chủ mình bị bắt khi anh kêu lên với Aramis, và theo hiệu lệnh của chủ, bác chẳng nói chẳng rằng đứng vào sát cạnh Aramis làm như không có chuyện gì xảy ra.
Từ hai mươi năm nay đi hầu chủ thực ra Grimaud đã thấy chủ đã thoát khỏi biết bao nhiêu cuộc phiêu lưu, nên cũng chẳng có gì khiến bác phải lo lẳng.
Các đại biểu nghị viện ngay sau cuộc tiếp kiến lên đường trở về Paris, nghĩa là đi trước tể tướng chừng năm trăm bước. Cho nên Arthos có thể trông thấy phía sau lưng Aramis mà chiếc thắt lưng mạ vàng và dáng đi kiêu hãnh khiến anh cứ dán chặt mắt vào đấy giữa các đám đông đen nghịt cũng như hướng vào đó niềm hy vọng được giải thoát, thói quen giao du và lòng quyến luyến nó nảy ra từ mọi tình bằng hữu.
Aramis trái lại chẳng tỏ ra băn khoăn một chút nào rằng Arthos có đi theo anh hay không. Đúng là có một lần anh quay lại khi đến lâu đài. Anh giả thiết rằng có lẽ Mazarin để người tù mới trong cái thành quách nhỏ có lính canh gác cầu và do một đại uý cai quản cho Hoàng hậu. Nhưng không phải như vậy. Arthos đi theo giáo chủ sang Chatou.
Tới chỗ chẽ đường Paris đi Reuil, Aramis quay lại. Lần này dự đoán của anh không lầm, Mazarin rẽ bên phải và Aramis trông thấy người tù khuất ở chỗ rẽ có cây cồi. Cùng lúc ấy do một ý nghĩ giống nhau. Arthos cũng quay lại. Đôi bạn trao đổi một cái gật đầu và Aramis đưa ngón tay lên mũi như để chào. Riêng Arthos hiểu rằng bạn mình ra hiệu là anh ta đã có một suy nghĩ.
Mười phút sau, Mazarin đi vào sân toà lâu đài mà vị giáo chủ tiền bổi của ông ta đã sai dọn cho mình ở Reuil.
- Thưa Đức ông, chúng tôi cho ông De La Fère ở đâu để vừa ý Các hạ.
- Ở khu nhà vườn cam phía trước có cái cái nhà giam đấy.
- Ta muốn rằng người ta trọng vọng bá tước De La Fère mặc dầu ông ta là tù nhân của Hoàng hậu.
- Trình đức ông - Comminger đánh liều nói, - Ông ta xin được chiếu cố đến chỗ ông d Artagnan, ông này đang ở khu nhà săn phía trước mặt vườn cam theo như Các hạ đã truyền lệnh.
Mazarin ngẫm nghĩ một lát.
Comminger thấy rõ ông ta đang cân nhắc. Hắn nói thêm:
- Đó là một cái nhà giam rất chắc, có bốn chục người chắc chắn, những binh sĩ đã được thử thách hầu hết là người Đức và do đó không có chút liên hệ nào với bọn Fronde và cũng chẳng có quyền lợi gì ở đó cả.
- Ông Comminger này, - Mazarin nói, - Nếu chúng ta để ba người ở cùng nhau thì phải tăng gấp đôi quân số bốt này mà chúng ta chẳng có sẵn nhiều người bảo vệ để làm những chuyện phung phí ấy.
Comminger mỉm cười. Mazarin trông thấy và hiểu rõ nụ cười ấy.
- Ông Comminger ạ, ông không hiểu đâu, nhưng tôi tôi hiểu họ lắm trước hết do chính họ, rồi do tục truyền. Tôi đã phái họ sang giúp vua Charles, và họ đã làm những chuyện thần kỳ để cứu ông ta. Hẳn là số mệnh đã phải can thiệp vào để cho vua Charles thân mến ấy giờ đây không được sống an toàn ở giữa chúng ta.
- Nhưng nếu họ đã hết lòng phục vụ Các hạ thì vì sao Các hạ lại cho họ vào tù?
- Vào tù ư? Mazarin nói, - thế Reuil là nhà tù từ bao giờ?
- Từ khi có các tù nhân, - Comminger đáp.
Với nụ cười quỷ quyệt, Mazarin nói:
- Các ông ấy không phải là tù nhân của tôi, đó là các vị khách của tôi đấy; khách quý đến nỗi tôi phải cho làm thêm song sắt ở cửa sổ, làm thêm khoá ở gian phòng họ ở, tôi sợ các ông ấy chán bầu bạn với tôi biết chừng nào. Nhưng dù sơ kiến, các ông ấy có vẻ là tù nhân, tôi vẫn rất kính trọng họ. Chứng cớ là tôi muốn đến thăm ông de La Fère và nói chuyện riêng với ông ấy. Do đó, để chúng tôi khỏi bị quấy rầy trong khi trò chuyện, như tôi đã dặn, ông hãy dẫn ông ta đến khu vườn cam, ông biết rằng đó là nơi tôi thường đi dạo tôi sẽ vào phòng ông ta và nói chuyện. Người ta cho rằng ông ta là kẻ thù của tôi, nhưng tôi có cảm tình với ông ta, và nếu như ông ta là người biết phải, thì có lẽ có thể dùng ông ta vào việc gì đó.
Comminger cúi chào và trở lại chỗ Arthos. Anh đang chờ đợi kết quả cuộc hội đàm với vẻ ngoài bình thản, nhưng trong lòng thật sự lo âu.
- Thế nào? - Anh hỏi viên trung uý thị vệ.
- Thưa ông, - Comminger đáp, - Dường như không thể được.
- Ông Comminger ơi, - Arthos nói, - Suốt đời tôi là lính, tôi hiểu thế nào là mệnh lệnh, nhưng ngoài mệnh lệnh đó ra, ông có thể giúp tôi một việc.
- Thưa ông, tôi rất vui lòng - Comminger đáp,
- Kể từ khi tôi biết ông là ai, và ngày xưa đã giúp những việc gì cho Hoàng thượng, từ khi tôi biết ông thân cận biết chừng nào với người thanh niên đã hết lòng dũng cảm đến cứu trợ tôi cái hôm bắt giữ lão già Broussel của nợ ấy, tôi xin tuyên bố là hết lòng vì ông, tất nhiên trừ điều lệnh.
- Xin cảm ơn ông, tôi không mong muốn gì hơn và tôi sẽ yêu cầu ông một điều chẳng làm lụy gì đến ông đâu.
- Nếu điều đó có làm lụy đến tôi một chút thì xin ông cứ nói, - Comminger mỉm cười đáp, - Tôi thích ông Mazarini. cũng chẳng hơn gì ông đâu, tôi phục vụ hoàng hậu và điều đó tất nhiên dẫn tôi đến phục vụ giáo chủ. Nhưng tôi phục vụ bà này với niềm vui và ông kia một cách miễn cưỡng. Vậy xin ông cứ nói đi, tôi chờ nghe đây.
- Bởi vì không có điều gì phương hại, - Arthos nói, - Khi tôi biết rằng ông d Artagnan ở đây, thì tôi chắc rằng cũng sẽ chẳng có gì tai hại hơn nếu ông ấy biết rằng chính tôi cũng ở đây.
- Tôi không được mệnh lệnh gì về vấn đề này cả.
- Thế thì xin ông vui lòng, chuyển lời thăm hỏi của tôi tới ông ấy và nói rằng tôi là người láng giềng của ông ấy. Đồng thời xin ông bảo cho ông ấy biết điều mà ông nói với tôi ban nãy, tức là ngài Mazarin đã để tôi ở khu vườn cam để tới thăm tôi, và tôi sẽ lợi dụng điều vinh hạnh mà ngài đã ban cho ấy để xoa dịu phần nào cảnh tù đầy của chúng tôi...
- Mà cảnh ấy không thể kéo dài, - Comminger tiếp lời - Chính ngài Mazarin đã nói với ông rằng ở đây không có nhà tù.
- Mà có những hầm sâu nhốt người - Arthos mỉm cười nói.
- Ồ! Đó lại là chuyện khác, - Comminger đáp.
- Phải rồi, tôi có nghe những lời đồn về vấn đề ấy: nhưng một người dòng dõi tầm thường như ông giáo chủ, một người Ý sang Pháp để tìm vận hội, sẽ chẳng dám đi đến những điều quá quắt như vậy, đó sẽ là một sự quái đản. Thời giáo chủ trước thật là hay, ông ta là một bậc đại thần, nhưng còn ông Mazarin! Những hầm kín là những thứ trả thù vương giả mà một kẻ ti tiện như ông ta không nên đụng vào. Người ta biết việc bắt giữ ông, người ta cũng sẽ biết việc bắt giam các bạn ông, và tất cả giới quý tộc Pháp sẽ đòi ông ta phải báo cáo về sự mất tích của các ông. Không, không, xin ông hãy yên tâm, những hầm nhốt người ở Reuil từ mười năm nay đã thành những chuyện tục truyền dùng cho trẻ con. Ông cứ ở đây không phải băn khoăn gì về chuyện đó. Về phần tôi, tôi sẽ báo cho ông d Artagnan biết việc ông đến đây. Biết đâu trong mười lăm ngày nữa ông sẽ chẳng giúp tôi một việc tương tự!
- Tôi ư, thưa ông?
- Hẳn đi chứ! Tôi chẳng thể đến lượt làm tù nhân của ông chủ giáo hay sao?
Trong trường hợp ấy, - Arthos nghiêng mình thi lễ, - Xin ông hãy tin chắc rằng, tôi sẽ hết sức làm vừa lòng ông.
- Thưa bá tước, ông có chiếu cố dùng bữa tối với tôi không? - Comminger hỏi.
- Xin cảm ơn ông, tôi khó ở, e rằng sẽ làm bữa tối mất vui.
Comminger bèn đưa bá tước đến một phòng sát đất tại một khu nhà nối tiếp vườn cam và nằm ngang bằng với vườn. Đi tới vườn cam phải qua một sân lớn đầy lính tráng và cận thần. Cái sân ấy hình móng ngựa; ở trung tâm là các gian nhà Mazarin ở, mỗi bên cánh là khu nhà săn nơi giam d Artagnan và khu vườn cam nơi Arthos vừa mới vào. Ở sau hai đầu cánh là khu vườn trải dài.
Vào trong căn phòng mình sẽ ở, qua ô cửa sổ ken sắt cẩn thận. Arthos trông thấy các tường và mái nhà.
- Toà nhà này làm gì? - anh hỏi.
Comminger đáp:
- Đó là phía sau khu nhà săn nơi các bạn ông bị giam giữ. Tiếc thay những cửa sổ trông ra phía này bị bịt lại từ thời ông giáo chủ trước, vì rằng các toà nhà đã nhiều lần được dùng làm nhà tù, và ông Mazarin khi nhốt các ông vào đây, chỉ là đưa các toà nhà trở lại mục đích sử dụng ban đầu. Nếu như các cửa sổ kia không bị bịt kín thì ông sẽ có niềm an ủi là liên hệ với các bạn bằng những dấu hiệu.
- Ông Comminger ơi, - Arthos nói, - Ông có chắc rằng giáo chủ sẽ hạ cố đến thăm tôi không?
- Ít ra thì ông ấy cũng nói chắc với tôi như vậy.
Arthos nhìn những chấn song cửa sổ mà thở dài.
Comminger nói:
- Đúng thật, hầu như là một nhà tù, ở đây chẳng thiếu gì, kể cả những chấn song. Mà cũng lạ thay chẳng biết ý nghĩ kỳ cục nào đã khiến ông, một đoá hoa quyền quý đi xoè nở tinh thần dũng cảm và lòng trung thực của mình ở giữa đám nấm dại La Fronde. Thật đấy, bá tước ạ, nếu như có bao giờ tôi có ý nghĩ kiếm một người bạn trong hàng ngũ quân đội hoàng gia, thì chính là ông mà tôi nghĩ đến đó. Ông bá tước de La Fère, một người Fronde, thuộc phe đảng của một Broussel, một Blancmensnil, một Viole! Chán thật, điều đó khiến người ta tưởng rằng bà mẹ ông là một bà pháp quan nhỏ mọn nào. Ông mà là một Fronde?
- Ông bạn thân mến ơi, - Arthos nói, - thực tình bây giờ phải là Mazarin hoặc Fronde. Tôi đã cho hai cái tên ấy vang lên thật lâu bên tai tôi, và rồi tôi tuyên bố theo cái tên sau, ít ra nó cũng là một tên Pháp. Với lại tôi là Fronde không phải với ông Broussel, ông Blancmensnil, và ông Viole, mà với ông de Beaufort, ông de Buinng, ông d d Elbeuf, với những hoàng thân, chứ không phải với những chủ tịch, tham nghị, pháp quan. Vả chăng, phục vụ ông Mazarin mang lại kết quả là thú vị! Ông de Comminger hãy nhìn bức tường không có cửa sổ kia nó sẽ kể cho ông nghe khối chuyện hay ho về lòng biết ơn Mazarin.
- Thật vậy, - Comminger cười nói, - Nhất là nếu bức tường ấy vọng lại những điều mà ông d Artagnan đã văng ra cho ông ta từ tám ngày rủi ro vận hạn.
- Tội nghiệp d Artagnan? - Arthos thốt lên với cái vẻ ưu sầu tuyệt đẹp, nó là một mặt trong tính cách của anh, một con người thật là tử tế thật là dũng cảm, nhưng thật là khủng khiếp đối với những kẻ không yêu mến những người mà anh yêu mến.
Anh nói tiếp:
- Ông có hai tù nhân rất ghê gớm, ông Comminger ạ, và tôi lấy làm ái ngại cho ông là người ta đã giao cho ông chịu trách nhiệm hai con người bất trị ấy.
- Bất trị à! - Comminger mỉm cười, nói. - Chà! Ông muốn làm tôi kinh hãi ư? Ngày đẩu bị giam giữ, ông d Artagnan khiêu khích tất cả lính trang và hạ sĩ quan, chắc hẳn để có được một thanh kiếm. Tình trạng ấy tiếp diễn ngày hôm sau và cả ngày hôm sau nữa, nhưng rồi ông ta trở nên bình thản và hiền lành như con cừu non. Bây giờ thì ông ta hát những bài ca Gascogne khiến chúng tôi chết cười.
- Thế còn ông Du Vallon? - Arthos hỏi.
- À ông ấy lại là chuyện khác. Thú thật rằng đó là một nhà quý tộc đáng sợ. Ngày đầu tiên ông ta hích vai một cái là đổ tất cả các cửa và tôi đã trù liệu là sẽ đem ông ta ra khỏi Reuil, giống như Samson ra khỏi Gada. Nhưng thái độ ông ra cũng theo nhịp ông d Artagnan. Bây giờ không những ông ta quen đi với cảnh giam cầm mà còn pha trò nữa.
- Càng hay, - Arthos nói, - Càng hay.
Đem khớp những điều Mazarin nói về mấy người tù với những điều bá tước de La Fère vừa nói, Comminger bắt đầu thấy đôi chút lo ngại, nên hỏi:
- Ông liệu xem còn có điều gì khác nữa?
Arthos nghĩ rằng tình trạng tinh thần của các bạn khá hơn lên chắc chắn do d Artagnan đã nghĩ ra một kế hoạch nào đó. Do đó anh không muốn làm hại các bạn bằng cách tán dương họ quá. Anh nói:
- Các ông ấy à? Đó là những cái đầu dễ cháy. Một người là dân Gascon, một người là dân Picardi. Cả hai đều bốc lửa dễ dàng, nhưng tắt ngóm cũng nhanh chóng. Ông đã có bằng cớ, và điều mà ông kể tôi nghe lúc này chứng thực cho điều mà tôi nói với ông bây giờ.
Đó cũng là ý kiến của Comminger. Cho nên hắn ta cáo lui, yên tâm hơn. Còn lại một mình Arthos trong căn phòng rộng rãi nơi theo lệnh giáo chủ, anh được đối xử như một nhà quý tộc.
Hơn nữa, để có một ý niệm chính xác về tình thế của mình, anh đợi chờ một cuộc viếng thăm trứ danh mà chính Mazarin đã hứa hẹn.
Chú thích:
(1) Thủ lĩnh của dân Hebrơ (thế kỷ I trước Công nguyên) có sức mạnh siêu nhiên nằm trong bộ tóc.
-*-*-*-
Chương 87
Trí óc và cánh tay
Bây giờ ta hãy từ vườn cam sang khu nhà săn.
Ở phía cuối sân nơi qua một cái cổng đông hàng cột kiểu ioniennes, người ta phát hiện những túp lều tồi tàn, có một toà nhà hình như vuơng dài ra như một cánh tay đón một cánh tay khác, khu nhà vườn cam, hợp thành một vành bán nguyệt bao bọc lấy cái sân danh dự.
Chính trong tầng dưới toà nhà đó. Porthos và d Artagnan bị nhốt, chia sẻ với nhau những chuỗi giờ phút dài dằng đặc của một sự giam cầm chăng thú vị gì đổi với hai tính khí ấy.
Như một con hổ, mắt trân trân, đôi khi gầm gừ, d Artagnan đi đi lại lại dọc theo những chấn song một cửa sổ rộng trông ra sân.
Porthos yên lặng nhai lại một bữa ăn tuyệt diệu mà người ta vừa mới đem thức ăn thừa đi. Một người như là mất trí và suy ngẫm người kia có suy ngẫm sâu xa và ngủ. Song giấc ngủ của anh là một cơn ác mộng, điều đó có thể đoán ra do cách anh ta ngáy ngắt quãng và chẳng ăn nhập gì với nhau cả.
- Kìa, trời đã xế chiều rồi, - D Artagnan nói, - Bây giờ cũng phải gần bốn giờ. Thế mà đã một trăm tám mươi ba giờ ta nằm ở đây rồi.
- Hừm! - Porthos như có vẻ đáp lại.
- Cậu có nghe thấy không, hởi tên ngủ muôn thuở kia? - D Artagnan nói, bực bội vì một người khác có thể ngủ cả ban ngày trong khi bản thân anh trằn trọc cả đêm mà không ngủ được.
- Gì đó? - Porthos hỏi.
- Điều tôi nói ư?
- Cậu nói gì thế?
- Tôi nói rằng, - D Artagnan đáp, - Chúng ta vào đây thế mà đã một trăm tám mươi ba tiếng đồng hồ rồi.
- Đó là lỗi của cậu, - Porthos nói.
- Thế nào, đó là lỗi của tôi à?
- Phải, tôi đã bàn với cậu ta chuồn đi mà.
- Bằng cách bê một chắn song hoặc phá một cảnh cửa.
- Tất nhiên.
- Porthos ơi, những người như cảnh ta không ra đi thuần tuý và đơn giản thế đâu.
- Thực tình, - Porthos, - Tôi ra đi với sự thuần tuý và đơn giản ấy mà hình như cậu rất coi khinh.
D Artagnan nhún vai nói:
- Với lại không phải cứ ra khỏi căn phòng này là xong cả đâu.
- Bạn thân mến ơi, - Porthos nói - Hình như hôm nay thái độ của cậu có khá hơn hôm qua đấy. Cậu hãy cắt nghĩa cho mình xem thế nào mà ra khỏi phòng chưa phải là đã hết.
- Chưa phải là hết, vì rằng không có vũ khí, không có mật khẩu, chúng ta sẽ không đi nổi năm mươi bước mà không vấp phải một lính canh.
- Khó gì! - Porthos nói. - Chúng ta đập chết tên lính canh và sẽ có vũ khí.
- Phải, nhưng trước khi chết hẳn - mà một tên lính Thụy Sĩ sống dai lắm - hắn sẽ kêu lên hoặc ít ra cũng rên rỉ khiến cả nhà giam đổ ra ngoài; chúng ta sẽ bị dồn đuổi và tóm gọn như những con cáo, trong khi chúng ta là những con hổ và người ta sẽ quăng chúng ta vào một cái hầm sâu nào đó, ở đấy chúng ta sẽ không có cả niềm an ủi là được xem mảnh trời xám ghê gớm của Reuil so với bầu trời ở Tarbes nó cũng chẳng giống gì hơn mặt trăng với mặt trời. Mẹ kiếp! Nếu chúng ta có một người nào đó ở bên ngoài có thể cho ta những tin tức về tình hình địa lý, hình thể và tinh thần của cái lâu đài này, về cái mà César gọi là tập quán và xứ sở tôi nghe người ta nói như thế... Này! Khi nghĩ rằng suốt hai mươi năm qua, trong thời gian ấy mình chẳng biết làm gì, thì mình chẳng có ý nghĩ lấy một tiếng đồng hồ thôi để đến nghiên cứu Reuil.
- Để làm gì kia chứ? - Porthos nói - Chúng ta cứ trốn đi thôi.
- Bạn thân mến ơi, - D Artagnan nói, - cậu có biết vì sao các bác thợ cả làm bánh ngọt không bao giờ tự tay mình làm không?
- Không, - Porthos đáp - Nhưng tôi cũng thích được biết.
- Ấy là vì trước mặt các học trò mình, họ sợ làm phải mấy cái bánh nước bị chảy hoặc mấy chiếc kem chua.
- Thì sao?
- Thì người ta sẽ cười họ, mà đừng bao giờ để người ta cười chê những thày dạy làm bánh ngọt.
- Thế những ông thấy làm bánh có liên quan gì đến chúng ta.
- Ấy là trong cái nghề phiêu lưu, chúng ta chớ có bao giờ thất bại, chớ làm trò cười cho thiên hạ. Vừa rồi ở nước Anh chúng ta đã thất bại, đã bị thua; và đó là một vết nhơ cho danh tiếng của chúng ta.
- Chúng ta bị ai đánh bại? - Porthos hỏi.
- Mordaunt.
- Phải, nhưng chúng ta đã dìm chết Mordaunt rồi.
- Tôi biết chứ, và điều đó phục hồi chúng ta một chút trong tâm trí của hậu thế, nếu như hậu thế quan tâm đến chúng ta. Nhưng này, cậu hãy nghe đây: Dù rằng ông Mazarin chẳng thể để ta coi thường, tôi thấy ông Mazarin còn mạnh một cách khác hơn ông Mordaunt nữa kia, và chúng ta sẽ chẳng dễ dàng dìm chết ông ta đâu. Ta hãy tự xét mình cẩn thận và chơi thật chặt chẽ; vì rằng, - D Artagnan thở dài và nói thêm, - chỉ riêng hai chúng ta, chúng ta có thể bằng tám người khác, song chúng ta không bằng bốn người mà cậu biết đấy.
Porthos cũng thở dài theo và nói:
- Đúng thế.
- Vậy thì cậu hãy làm như tôi. Hãy đi đi lại lại cho đến khi nào một tin tức của các bạn đến với chúng ta, hoặc một ý nghĩ nào hay ho nảy ra; chứ đừng có ngủ triền miên như mọi khi, vì chẳng có gì làm nặng đầu óc như giấc ngủ. Còn về điều gì đang như ta, có lẽ không đến nỗi nghiêm trọng chờ đợi chúng ta đang nghĩ lúc đầu. Tôi không tin rằng ông Mazarin nghĩ đến việc chặt đầu chúng ta, vì người ta sẽ không chặt đầu mà không xử án, mà xử án thì gây tiếng tăm, tiếng tăm sẽ thu hút bạn bè chúng ta, và khi ấy họ sẽ chẳng để cho Mazarin yên đâu.
Porthos tỏ vẻ khâm phục:
- Cậu biện luận hay lắm.
- Phải, không đến nỗi tệ, - D Artagnan nói. - Và rồi cậu xem, nếu họ không xử án chúng ta, nếu họ không chém đầu chúng ta, họ sẽ phải để chúng ta ở đây hoặc chuyển đi nơi khác:
- Ừ tất nhiên phải như thế, - Porthos nói.
- Mà này, không thế nào mà tiên sinh Aramis, nhà thám tử cừ khôi ấy, và Arthos nhà quý tộc khôn ngoan ấy lại không khám phá ra chỗ ẩn náu của chúng ta; tôi tin là sẽ đến lúc.
- Phải đấy, nhất là ở đây người ta không phải hoàn toàn tồi tệ; song le trừ một điều.
- Điều gì?
- Cậu có nhận thấy không, họ đã cho chúng ta ăn thịt cừu hầm ba ngày liên tiếp.
- Không, - D Artagnan đáp, - Nhưng nếu lần thứ tư lại thế, thì tôi sẽ kêu, cứ yên trí.
- Và đôi lần tôi thấy nhớ nhà, đã lâu lắm rồi, tôi chưa về thăm các lâu đài của tôi.
- Ô hay! Hãy tạm quên đi chứ; chúng ta sẽ thăm lại trừ phi ông Mazarin cho san bằng.
- Cậu bảo rằng lão ta dám làm việc bạo hành đó ư? - Porthos băn khoăn hỏi.
- Không, những quyết định như vậy ông giáo chủ cũ dám chơi lắm. Nhưng ông giáo chủ này rất biển lận nên chẳng dám liều đâu.
- Cậu làm tôi yên tâm, d Artagnan ạ.
- Vậy thì cậu hãy tươi tỉnh lên như tôi nào. Hãy bông đùa với lính gác, hãy gây cảm tình với bọn lính tráng vì ta không thể mua chuộc chúng, hãy tán tỉnh chúng hơn nữa khi chúng đến bên song cửa. Cho đến nay cậu mới chỉ giơ nắm đấm ra với họ thôi, mà Porthos ạ, nắm đấm của cậu càng to lớn bao nhiêu thì nó càng kém thu hút bấy nhiêu.
- À! Tôi muốn cho đi rất nhiều chỉ để đổi lấy năm trăm louis thôi.
Chẳng chịu thua bạn về lòng hào hiệp, Porthos nói chêm:
- Tôi cũng vậy, tôi sẽ cho đi hẳn một trăm pistol.
Hai tù nhân chuyện trò vừa tới đây thì Comminger vào, đi sau viên đội là hai người mang bữa ăn tối đến đựng trong một cái giỏ đầy những bát đĩa.
Hay thật! - Porthos nói. - Lại thịt cừu!
- Ông de Comminger thân mến ơi, - D Artagnan tiếp lời - Xin ông biết cho rằng, ông bạn du Vallon của tôi định sẽ làm những chuyện cực đoan ghê gớm, nếu như ông Mazarin cứ khăng khăng nuôi nấng chúng tôi bằng cái thứ thịt này.
- Tôi cũng tuyên bố rằng, - Porthos nói, - tôi sẽ không ăn gì cả nếu họ không mang thứ này đi.
- Mang thịt cừu đi, - Comminger bảo, - tôi muốn rằng ông du Vallon ăn bữa tối khoan khoái, nhất là tôi sẽ báo cho ông một tin tức mà tôi chắc rằng sẽ làm cho ông thấy ngon miệng.
- Ông Mazarin qua đời chăng? - Porthos hỏi.
- Không, tôi cũng lấy làm tiếc phải báo với ông rằng ông ta vẫn khỏe như vâm.
- Mặc kệ, - Porthos nói.
- Tin tức gì vậy, - D Artagnan hỏi. - Ngồi tù thì tin tức là thú hoa trái thật hiếm hoi, cho nên mong ông de Comminger sẽ miễn thứ cho nỗi sốt ruột của tôi, nhất là nếu ông cho biết rằng đó là một tin lành.
Comminger đáp:
- Liệu ông có vui mừng khi biết bá tước de La Fère vẫn mạnh khỏe không?
D Artagnan trợn tròn mắt ra và reo lên:
- Tôi vui mừng chứ! Mà còn hơn nữa kia, tôi rất sung sướng.
- Thế thì, tôi đã được chính ông ta ủy nhiệm gửi tới ông những lời chúc mừng và nói với ông rằng ông ta khỏe mạnh.
D Artagnan suýt nhảy hỏng lên vì mừng rỡ. Anh liếc nhanh nhìn Porthos như muốn bảo: "Nếu Arthos biết chúng ta ở đâu, nếu anh ta nhắn bảo chúng ta, thì Arthos sẽ hành động ngay đấy".
Porthos vốn ít khôn ngoan để hiểu những cái nhìn, nhưng lần này, nghe tên Arthos, anh cũng có cảm tưởng như d Artagnan và anh hiểu ra.
Chàng Gascon rụt rè hỏi lại:
- Thế ông nói rằng bá tước de La Fère đã nhờ ông chuyển lời chúc mừng đến ông Du Vallon và tôi ư?
- Vâng, thưa ông.
- Ông đã gặp ông ấy à?
- Tất nhiên.
- Ở đâu cơ? Tôi hỏi không có ý tọc mạch.
- Ngay gần đây, - Comminger mỉm cười đáp.
- Ngay gần đây? - D Artagnan nhắc lại, mắt sáng long lanh.
- Gần đến mức nếu như các cửa sổ phòng này trông ra vườn cam không bị bịt kín thì đứng đây các ông sẽ nhìn thấy ông ta.
"Anh ta rình mò quanh lâu đài", d Artagnan nghĩ vậy và nói.
- Có lẽ ông đi săn trong khu vườn và gặp ông ta chăng?
- Không đâu, gần hơn, gần hơn nữa. Ngay, ngay sau bức tường này, - Comminger vừa nói vừa gõ vào tường.
Sau bức tường này? Có gì sau bức tường này cơ chứ? Người ta dẫn tôi đến đây ban đêm, thành thử tôi mà biết mình đang ở đâu thì quỷ bắt tôi đi.
- Thế thì, ông hãy giả định một điều, - Comminger bảo.
- Tôi sẽ giả định đủ mọi thứ.
- Giả định rằng có một cửa sổ ở bức tường này.
- Thì sao?
- Thì từ cửa sổ này, ông sẽ trông thấy ông de La Fère đứng ở cửa sổ phòng ông ấy.
Vậy ông de La Fère đang ở trong lâu đài à?
- Phải.
- Với tư cách gì?
- Với tư cách như ông.
- Arthos là tù nhân ư?
Comminger cười đáp:
- Ông biết rằng không có tù nhân ở Reuil, vì đây không có nhà tù.
- Ta không nên chơi chữ, ông ạ. Arthos bị bắt à?
- Phải, ngày hôm qua, ở Saint-Germain, khi ra khỏi chỗ hoàng hậu.
Hai cánh tay d Artagnan Reuil thõng xuống bên sườn. Anh như bị sét đánh.
Một đám mây trắng nhợt nhạt lướt trên khuôn mặt sạm nâu của anh, rồi vụt tan ngay.
- Tù nhân? - anh nhắc lại.
- Tù nhân? - Porthos nhắc lại theo, chán nản.
Bỗng nhiên d Artagnan ngẩng đầu lên, và cặp mắt lóe lên một tia sáng mà ngay Porthos cũng không nhận thấy. Rồi vẫn nỗi thất vọng chán chường ban nãy lại nối tiếp ngay tia sáng thoáng qua ấy.
Comminger vốn có tình cảm quý mến thật sự với d Artagnan từ cái hôm bắt bớ Broussel, khi anh giúp kéo hắn ta ra khỏi tay đám dân chúng Paris, bèn nói:
- Thôi, thôi, đừng vội buồn phiền, ông ạ. Tôi không ngờ là mang đến cho ông một tin buồn đâu? Do đang có chiến tranh, tất cả chúng ta đều là những sinh vật bấp bênh vô định. Hãy vui lên vì sự tình cờ đã khiến bạn ông gần lại với các ông, chứ đừng có thất vọng.
Những lời khuyên giải ấy chẳng có tác dụng gì đến d Artagnan, anh vẫn giữ vẻ buồn thảm.
Thấy d Artagnan bỏ Reuil cuộc chuyện trò, Porthos thừa dịp nói chen vào:
- Thế vẻ mặt ông ấy thế nào?
- Ô rất tươi tỉnh, - Comminger đáp. - Lúc đầu ông ta cũng có vẻ chán nản như các ông; nhưng khi biết rằng ngài giáo chủ sẽ đến thăm ông ta ngay tối nay...
- A! - D Artagnan thốt lên, - ngài giáo chủ sẽ đến thăm bá tước de La Fère à?
- Phải, giáo chủ đã cho báo trước, và bá tước de La Fère khi biết tin ấy đã nhờ tôi nói với các ông rằng ông ta sẽ thừa dịp ân huệ ấy để khiếu nại về vụ của các ông và của ông ta.
- Ôi cái ông bá tước thân mến ấy.
- Việc khá hay nhỉ, - Porthos càu nhàu, - Ân huệ quá lớn lao! Mẹ kiếp!
- Ông bá tước de La Fère mà gia đình liên kết với những dòng Montmorency và Rohan lại bề vai phải lứa với lão Mazarin ấy.
- Không sao, - D Artagnan nói với giọng thật vồn vã - Ông Du Vallon thân mến ơi, thế là vinh dự cho bá tước de La Fère lắm đấy, nhất là cuộc viếng thăm đầy hy vọng. Mà theo lời tôi là một vinh dự quá lớn lao đối với một người tù, nên tôi ngỡ rằng ông Comminger nhầm.
- Sao, tôi nhầm ư?
- Có lẽ không phải ngài Mazarin sẽ đến thăm bá tước de La Fère, mà là bá tước de La Fère sẽ được ngài Mazarin gọi đến chăng?
Cố sắp xếp lại mọi việc cho thật chính xác, Comminger cãi:
- Không, không, không! Tôi nghe đầy đủ điều mà giáo chủ nói với tôi Chính giáo chủ sẽ đến thăm bá tước de la Fère.
D Artagnan thử bắt chợt một cái nhìn của Porthos xem anh ta có hiểu tầm quan trọng của cuộc viếng thăm ấy không, nhưng Porthos chẳng buồn nhìn gì hết.
- Ngài giáo chủ vẫn quen đi dạo ở vườn cam à? - D Artagnan hỏi.
Tối nào ông ấy cũng vào đó. Hình như ông ta đến đấy để suy nghĩ về công việc quốc gia.
- Thế thì tôi bắt đầu tin rằng ông de La Fère được Các hạ đến thăm - D Artagnan nói. - Chắc hẳn ngài cũng đi cùng với ai chứ?
- Cùng hai tên lính.
- Ngài bàn việc như vậy trước hai người lính ư?
Bọn lính là những dân Thụy Sĩ ở các làng xóm nhỏ và chỉ nói tiếng Đức. Vả lại rất có khả năng là chúng đợi ở ngoài cửa.
D Artagnan bấm chặt ngón tay vào lòng bàn tay, để cho nét mặt của mình chỉ lộ ra những gì mà anh cho phép biểu hiện. Anh nói:
- Ngài Mazarin tránh đi một mình vào nhà bá tước de La Fère như vậy, chắc là vì bá tước điên khùng lắm nhỉ.
Comminger bật cười nói:
- Ai chà! Chẳng trách người ta bảo các ông là những kẻ ăn thịt người! Còn ông bá tước de La Fère thì lịch thiệp, lại không có vũ khí. Vả chăng Các hạ chỉ kêu một tiếng thôi là hai lính tùy tùng sẽ chạy đến ngay.
Có vẻ đang nhớ lại những kỷ niệm d Artagnan nói:
- Hai tên lính! Phải rồi, thì ra đó là hai người mà tôi nào tôi cũng nghe thấy gọi họ và tôi trông thấy đi dạo có khi đến nửa giờ ở ngoài cửa sổ.
- Đúng đấy: họ đợi giáo chủ hay đúng hơn là đợi Bernouin đến gọi họ khi giáo chủ đi ra.
- Thực tình, - D Artagnan nói, - trông họ đẹp mã lắm.
- Họ thuộc trung đoàn trước ở Lens và ngài hoàng thân đem tặng giáo chủ cho oai.
Như để tóm tất cả cuộc chuyện trò kéo dài ấy vào một câu, d Artagnan nói:
- A, ông ơi, miễn là Các hạ nguôi đi và ban lại tự do cho ông de La Fère.
- Tôi hết lòng mong mỏi điều đó, - Comminger nói.
- Thế nếu như giáo chủ quên mất cuộc viếng thăm ấy, ông sẽ chẳng ngần ngại gì mà không nhắc ngài cho.
- Đúng thế.
- A, như vậy tôi yên tâm một chút.
Cách lái câu chuyện khéo léo ấy dường như là một mưu chước tuyệt vời của anh đối với những ai có thể đọc thấu trong tâm hồn chàng Gascon.
- Bây giờ, - anh nói tiếp, xin ông án huệ cuối cùng, ông de Comminger ạ.
- Sẵn sàng phục vụ ông.
- Ông sẽ gặp lại bá tước de La Fère chứ?
- Sáng mai.
- Chúng tôi xin gửi lời chào ông ấy và nhờ ông ấy cũng cầu xin cho tôi một ân huệ như ông ấy đã được hưởng.
- Ông muốn rằng ngài giáo chủ đến đây ư?
- Không đâu, tôi tự biết mình và không đến nỗi đòi hỏi nhiều như thế đâu. Chỉ xin Các hạ ban cho tôi vinh dự là nghe tôi trình bày thôi, đó là tất cả điều tôi mong muốn.
Porthos lắc đẩu lẩm bẩm: "Ôi, ta không bao giờ ngờ cậu ấy lại như vậy. Sự bất hạnh đã đánh quỵ ở anh một con người?"
- Điều ấy sẽ thực hiện thôi, - Comminger đáp.
- Ông cũng nói để bá tước yên tâm là tôi rất khỏe mạnh và ông trông thấy tôi buồn rầu nhưng nhẫn nại.
- Ông nói như vậy cũng làm vui lòng tôi đấy.
- Ông cũng nói điều ấy hộ ông Du Vallon.
- Không nói hộ tôi đâu! - Porthos la lên. - Tôi ấy à, tôi chẳng nhẫn nại gì hết.
- Nhưng bạn ơi, cậu sẽ nhẫn nại.
- Không bao giờ.
- Ông ta sẽ nhẫn nại đấy, ông de Comminger ạ. Tôi hiểu rõ ông ấy hơn là ông ấy tự hiểu mình. Và tôi còn biết hàng nghìn đức tính tốt của ông ấy mà ông ấy không ngờ đến nữa kia. Thôi, đừng nói nữa, Du Vallon thân mến, và hãy nhẫn nại.
- Xin tạm biệt các ông, - Comminger nói. - Chúc ngủ ngon!
- Chúng tôi sẽ cố gắng.
Comminger chào và đi ra. D Artagnan nhìn theo và vẫn đứng trong tư thế nhún nhường với vẻ mặt nhẫn nhục. Nhưng khi cánh cửa vừa mới đóng lại sau lưng viên đại uý thì d Artagnan nhảy bổ lại phía Porthos, ôm chầm lấy bạn với một vẻ vui mừng rõ rệt.
- Ô, ô! - Porthos nói. - Có chuyện gì đấy! Cậu phát điên đấy à, anh bạn khốn khổ của tôi?
- Có chuyện là, - D Artagnan đáp, - Chúng ta được cứu thoát rồi.
- Tôi chẳng thấy mảy may chút nào, - Porthos nói. - Trái lại, tôi thấy rằng chúng ta bị tóm cả, trừ Aramis, và khả năng đi ra giảm đi từ khi có thêm một người chui vào cái bẫy chuột của Mazarin.
- Không đâu, Porthos ạ. Cái bẫy chuột này chỉ đủ cho hai người với ba người nó trở thành yếu quá.
- Tôi chẳng hiểu gì cả, - Porthos nói.
- Chẳng cần thiết, - D Artagnan nói, - Ta hãy ngồi vào ăn và lấy sức vì sẽ cần đến nó đêm nay.
- Đêm nay chúng ta làm gì? - Porthos ngày càng tò mò hỏi.
- Có khả năng ta sẽ du hành.
- Nhưng mà...
- Ngồi vào bàn đi, bạn thân mến. ý nghĩ thường đến với tôi khi ăn. Sau bữa ăn, khi ý nghĩ của tôi đầy đủ rồi, tôi sẽ nói với cậu.
Dù rất mong muốn được biết về kế hoạch của d Artagnan, do biết cách bạn tiến hành công việc như thế nào, Porthos ngồi vào bàn mà không nài thêm câu nào, và ăn với một vẻ ngon lành và nó làm rạng rỡ cho niềm tin cậy mà sức tưởng tượng phong phú của d Artagnan đã gây cho anh.
-*-*-*-
Chương 89
Cánh tay và trí óc
Bữa ăn lặng lẽ nhưng không buồn tẻ. Vì rằng nụ cười ranh mãnh quen thuộc với d Artagnan trong những lúc vui vẻ chốc chốc lại rạng rỡ trên khuôn mặt anh. Porthos không để lọt một nụ cười nào cửa bạn, và mỗi lần như vậy, anh lại thốt ra một lời cảm thán nó chỉ rõ cho bạn rằng, mặc dầu không hiểu nhưng anh vẫn theo dõi điều suy nghĩ đang sục sôi trong đầu óc bạn.
Đến lúc tráng miệng, d Artagnan nằm kềnh ra ghế, ghếch chân nọ lên chân kia và rung đùi ra vẻ một người hoàn toàn hài lòng về mình.
Porthos chống khuỷu tay lên bàn tì cằm lên hai bàn tay và nhìn, d Artagnan với vẻ tin cậy nó khiến cho anh chàng khổng lồ ấy có một vẻ chất phác tuyệt vời.
Một lát sau d Artagnan nói:
- Thế nào?
- Thế nào? - Porthos lập lại.
- Bạn thân mến, cậu nói rằng...
- Tôi có nói gì đâu?
- Có chứ? Cậu nói rằng cậu muốn đi khỏi đây.
- À về điều đó thì có, chẳng phải tôi thiếu lòng mong muốn đâu.
- Và cậu nói thêm rằng, để đi khỏi đây, chỉ cần tháo một cánh cửa, hoặc hích đổ một bức tường.
- Đúng đấy, tôi đã nói và tôi còn nói điều đó.
- Còn tôi, Porthos ơi, tôi đã trả lời cậu rằng đó là một cách dở và chúng ta chẳng đi nổi một trăm bước mà không bị bắt lại và đập chết, trừ phi chúng ta có quần áo cải trang và vũ khí để tự vệ.
- Đúng rồi, chúng ta phải có quẩn áo và vũ khí.
D Artagnan nhổm dậy nói:
- Thế thì chúng ta có đấy, Porthos ạ, và còn có cả cái gì hơn thế nữa kia.
- Lạ chưa, - Porthos nói và ngơ ngác nhìn quanh.
- Đừng có tìm kiếm, vô ích, tất cả những thứ đó sẽ đến tìm chúng ta vào lúc ta muốn. Hôm qua chúng ta thấy những tên lính gác Thụy Sĩ đi dạo vào khoảng mấy giờ nhỉ?
- Khoảng một giờ, sau lúc nửa đêm.
- Nếu như hôm nay chúng lại ra như hôm qua, chúng ta sẽ chẳng đợi mười lăm phút để được ngắm nhìn chúng.
- Chắc chắn là chúng ta đợi mười lăm phút là cùng.
- Cậu vẫn có cánh tay khá tốt đấy chứ, Porthos?
Porthos cởi cúc tay áo, vén áo sơ-mi lên và khoái trá ngắm nhìn đôi cánh tay gân guốc của mình nó to bằng bắp đùi một người bình thường.
- Có chứ! - anh đáp - Khá tốt.
- Thành thử cậu có thể biến cái kẹp than này thành một cái vòng và cái xẻng này thành một cái mở nút chai, mà không khó nhọc lắm phải không?
- Tất nhiên rồi, - Porthos đáp.
- Xem nào, - D Artagnan bảo.
Chàng khổng lồ cầm lấy hai vật kia và với thao tác dễ dàng như không tỏ ra phải gắng sức chút nào, biến chúng thành hai vật mới mà bạn mình mong muốn.
- Đây này? - anh nói.
- Tuyệt điệu! Và thật sự là cậu có tài đấy.
Porthos nói:
- Tôi có nghe kể về một chàng khổng lồ Milon de Crotone(1) nào đó đã làm những điều phi thường, như cuộn dây thlừng vào quanh trán, rồi làm đứt dây ra, đấm một cái chết con bò, rồi vác nó lên vai, tóm hai chân sau một con ngựa đang chạy, v v... Tôi bảo người ta kể cho tôi nghe tất cả những kỳ tích của anh ta hồi ở Pierrefonds ấy và tôi đều làm được cả, trừ cái trò phùng thái dương ra làm đứt dây thừng.
- Ấy là vì sức lực của cậu không nằm trong đầu cậu, - D Artagnan nói.
- Không, nó nằm ở cánh tay và bắp vai tôi chứ! - Porthos ngây thơ đáp.
- Bạn ơi, bây giờ ta lại chỗ cửa sổ và cậu dùng sức bẻ một thanh chấn song. Đợi tôi tắt đèn đã.
Chú thích:
(1) Lực sĩ Hy Lạp (thế kỷ 16), đã lập nhiều thành tích và kỷ lục ở các hội thi đấu Olimpich. Tục truyền là về sau anh đẵn và bửa một cây to bì cây kẹp người lại, anh không thoát ra được và bị mãnh thú đến ăn.
Porthos đến cửa sổ, dùng hai tay nắm chặt một thanh chắn kéo mạnh về phía mình khiến nó cong lại như cánh cung và hai đầu thanh sắt bật ra khỏi bậc nơi nó đã được gắn chặt bằng xi-măng từ ba chục năm rồi.
- Này bạn ơi, - D Artagnan nói, - đó là điều mà ngài giáo chủ không bao giờ làm được dù ngài thật là một thiên tài.
- Có cần bẻ những thanh khác nữa không? - Porthos hỏi.
- Không cần một thanh là đủ, một người có thể chui qua được rồi.
Porthos thử và chui lọt cả mình.
- Được đấy - anh nói.
- Quả thật đó là một cái cửa ra vào khá đẹp. Bây giờ cậu thò tay ra.
- Qua đâu?
- Qua lỗ cửa ấy.
- Để làm gì?
- Lát nữa cậu sẽ biết. Làm đi.
Porthos tuân lệnh, dễ bảo như một người lính, và thò cả cánh tay ra khỏi chấn song.
- Tuyệt lắm? - D Artagnan nói.
- Hình như việc đó tiến hành thuận lợi phải không?
- Như chạy trên bánh xe ấy.
- Bây giờ tôi phải làm gì?
- Không có gì đâu.
- Thế là xong hết rồi à?
- Chưa đâu.
- Nhưng tôi cũng muốn hiểu rõ một chút, - Porthos nói.
- Cậu hãy nghe đây, chỉ hai câu là cậu rõ. Cửa cái phòng giam đang mở như cậu thấy đấy.
- Tôi có trông thấy.
- Ông Mazarin sẽ đi qua sân này để đến vườn cam, và người ta sẽ cử hai tên lính gác đi theo ông ta.
- Chúng đang đi ra kìa...
- Miễn là chúng đóng cửa lại! Tốt rồi, chúng đã đóng lại.
- Rồi sao?
- Im nào, khéo chúng nghe thấy.
- Tôi chẳng hiểu tí gì cả, - Porthos nói.
- Có chứ, vừa làm cậu sẽ vừa hiểu.
- Tuy nhiên tôi thích...
- Cậu sẽ thích thú về sự bất ngờ.
- Đúng thế, - Porthos nói.
- Sụyt!
Porthos im lặng và không động đậy.
Quả nhiên hai tên lính tiến về phía cửa sổ vừa đi vừa xoa xoa bàn tay, vì đang là tháng Hai, trời rét.
Vừa lúc ấy cửa phòng canh mở và người ta gọi một tên lính lại. Tên này rời bạn và trở vào đơn vị.
- Thế vẫn tiến hành chứ, - Porthos hỏi.
- Tốt hơn là khác, - D Artagnan đáp. - Bây giờ cậu nghe đây.
- Tôi sẽ gọi tên lính này đến và nói chuyện với nó, như hôm qua tôi đã làm với một đứa, cậu có nhớ không?
- Có, nhưng tôi chẳng hiểu nó nói gì.
- Đó là vì giọng nó hơi nặng. Nhưng cậu phải chú ý nghe rõ từng lời tôi sắp nói với cậu; tất cả là ở sự thực hiện, Porthos ạ.
- Được rồi. Thực hiện đó là mặt mạnh của tôi.
- Tôi biết quá đi chứ, cho nên tôi trông cậy vào cậu - Nói đi.
- Tôi sẽ gọi tên lính vào và nói chuyện với nó.
- Cậu vừa nói rồi.
- Tôi sẽ quay lại bên trái, thành ra khi nó bước lên chiếc ghế dài nó sẽ ở bên phải cậu.
- Nhưng nếu nó không bước lên thì sao?
- Nó sẽ lên, cứ yên trí. Lúc nó bước lên ghế cậu sẽ thò cánh tay ghê gớm của cậu ra và tóm lấy cổ nó. Rồi nhắc lên như Tôby bắt con cá bằng mang, cậu lôi nó vào phòng này, và chú ý siết cổ nó khá chặt để nó khỏi kêu.
- Được rồi, - Porthos đáp, - Nhưng nếu tôi bóp chết nó thì sao?
- Thì cũng chỉ là bớt đi một tên gác Thuỵ Sĩ. Nhưng tôi mong rằng cậu đừng bóp chết nó. Cậu nhẹ nhàng đặt nó xuống đây; ta sẽ nhét giẻ vào miệng nó và trói nó lại. Nhưng thế trước hết ta sẽ có một bộ quân phục và một thanh gươm.
- Tuyệt diệu! - Porthos reo lên và nhìn d Artagnan với vẻ khâm phục vô cùng.
- Hèm? - chàng Gascon nói.
- Ừ nhưng mà, - Porthos thay đổi ý kiến nói, - một bộ quân phục và một thanh gươm chẳng đủ cho hai người.
- Ơ! Thế nó không còn thằng bạn nữa à?
- Đúng rồi!
- Vậy thì khi tôi ho thì cậu lại vươn tay ra, sẽ đến lúc đấy.
- Được!
Đôi bạn đứng vào vị trí đã định. Porthos đứng khuất hẳn vào góc cửa sổ.
- Xin chào anh bạn? - D Artagnan cất cao giọng ngọt ngào nhất và ôn hoà nhất nói.
- Xin chào ông? - Tên lính đáp.
- Đi dạo thế chẳng ấm lên được lắm đâu, - D Artagnan nói.
- Brrun... - tên lính ậm ừ.
- Tôi chắc rằng một cốc rượu vang sẽ chẳng làm ông khó chịu đâu nhỉ
- Một côôc lượu phang à, nó sẽ tược hoan nghêng.
- Cá cắn câu, cá cắn câu! - D Artagnan lẩm bẩm bảo Porthos.
- Tôi hiểu rồi - Porthos đáp.
- Tôi có một chai rượu đây, - D Artagnan nói.
- Mộc chai tầy à?
- Đầy nguyên, và nó sẽ thuộc về ông nếu ông vui lòng uống mừng sức khỏe cho tôi.
- Hê hê! Tôi phui loòng lắm, - tên lính vừa nói vừa bước gần lại.
- Nào, anh bạn, - chàng Gascon bảo, - lại đây mà lấy.
- Lất phui loòng! Tôi ngô là có mộc cái ghế.
- Ô lạy Chúa, có một cái ghế đặt ở ngay đây này.
- Trèo lên đi... Thế, thế, được rồi, anh bạn ạ.
Và d Artagnan ho lên.
Cùng lúc ấy cánh tay của Porthos hạ xuống nhanh như tia chớp, chắc như gọng kìm, bàn tay sắt của anh tóm lấy cổ tên lính bóp chặt lại và kéo nó vào qua lỗ trống chỉ sợ nó xước da, và đặt nó xuống sàn. Để nó vừa đủ thời gian lấy lại hơi thở, d Artagnan nhét giẻ vào mồm nó, rồi cởi bỏ quần áo nói với sự nhanh nhẹn và khéo léo của một người đã từng học nghề ấy trên chiến trường.
Rồi tên lính bị bịt miệng và trói chặt được mang đến lòng lò sưởi mà các anh đã tắt lửa từ trước.
- Vẫn chỉ là một thanh gươm và một bộ quân phục, - Porthos nói.
- Tôi sẽ lấy dùng, - D Artagnan nói. - Nếu cậu muốn một bộ y phục và một thanh kiếm khác, thì lại phải làm lại trò này. Chú ý, tôi thấy rõ tên lính kia đi ra và đang đến đây.
Porthos nói:
- Tôi cho rằng làm lại mưu chước ấy là không khôn ngoan. Một cách mà làm đến hai lần chắc chắn là không thành công. Nếu tôi tóm hụt nó thì hỏng bét cả. Tôi sẽ ra và tóm nó vào lúc không ngờ nhất, và tôi sẽ nộp cậu thằng lính bịt miệng sẵn rồi.
- Thế thì tốt hơn, - chàng Gascon nói.
- Cậu hãy sẵn sàng. - Porthos vừa nói vừa trườn qua lỗ hổng.
Công việc tiến hành đúng như Porthos đã hẹn. Chàng khổng lồ nấp ở trên đường, khi tên lính đi qua, anh tóm lấy cổ nó, bịt miệng và đẩy nó như một xác ướp qua những song cửa đã bẻ doãng ra và chui vào theo.
Các anh lột quần áo nó cũng nhanh như lột thằng trước. Các anh đặt nó lên giường và lấy dây đai cột chặt nó lại. Do giường bằng gỗ sến cả tấm, dây đai lại chập đôi, cho nên các anh có thể yên tâm về nó như về tên trước.
D Artagnan nói:
- Công việc tiến hành tuyệt diệu. Bây giờ cậu hãy mặc thử bộ quần áo của thằng kia, chắc không vừa.
- Nhưng nếu có chật thì cũng không lo, cái dải đeo gươm là đủ, nhất là cái mũ có lông chim đó.
May sao thằng lính thứ hai là một tên Thụy Sĩ to lớn, thành thử trừ một vài chỗ bị bật chỉ, có thể nói là bộ quần áo mặc rất vừa.
Trong một lúc, có (tiếng vải sột soạt) Porthos và d Artagnan mặc vội vàng.
- Xong rồi! - cả hai người cùng nói. Rồi quay lại phía hai tên lính anh bảo - Nếu các anh ngoan ngoãn thì sẽ chẳng có chuyện gì ra đâu, nhưng nếu động đậy thì toi mạng đấy.
Hai tên lính câm như hến. Chúng đã nếm bàn tay Porthos và hiểu rằng đây là chuyện hết sức nghiêm túc và chẳng nên kêu ca phàn nàn gì cả.
Bây giờ, - D Artagnan nói - chắc là cậu chẳng bực mình vì đã hiểu ra có phải không?
- Phải lắm.
- Nào, ta ra sân.
- Chúng ta thay thế hai thằng cha kia.
- Được - Chúng ta đi lại dọc ngang.
- Và trông thật là hay, vì trời không nóng.
- Lát nữa tên hầu phòng sẽ đến gọi như hôm qua và hôm kia.
- Chúng ta trả lời chứ?
- Không, trái lại.
- Tùy cậu thôi... Tôi chẳng thiết trả lời.
- Chúng ta không trả lời. Chúng ta chỉ chụp mũ lên đầu và đi hộ tống Các hạ.
- Đi đâu?
- Đi theo ông ta, đến chỗ Arthos. Cậu tưởng rằng anh ta sẽ bực mình phải gặp chúng ta hay sao?
- Ồ, ồ -Porthos kêu lên, - tôi hiều rồi.
- Hãy đợi mà kêu, Porthos ạ, vì tôi xin thề với cậu là chưa đến chỗ kết thúc đâu, - Chàng Gascon nói giễu cợt.
- Có chuyện gì sẽ xảy ra? - Porthos hỏi.
- Hãy theo tôi, - D Artagnan đáp, - Ai sống thì sẽ thấy.
Rồi chui lại qua lỗ hổng anh nhẹ nhàng rườn xuống sân. Porthos ra cũng bằng lối ấy mặc dầu khó khăn hơn và chậm chạp hơn.
Người ta nghe thấy hai tên lính bị trói ở trong phòng run lên vì sợ hãi.
D Artagnan và Porthos vừa chạm chân tới đất thì một cánh cửa mở ra và tiếng tên hầu phòng vang lên:
- Lính hầu đâu?
Cùng lúc ấy phòng giam mở ra và có tiếng kêu:
- La Bruye và Bactoa, ơi!
D Artagnan nói nhỏ:
- Hình như tôi tên là La Bruye.
- Còn tôi là Bactoa, - Porthos nói.
Tên hầu phòng mắt quáng vì ánh sáng chắc hắn không nhận ra hai nhân vật của chúng ta đứng trong bóng tối, nên hỏi:
- Các ông ở đâu?
- Chúng tôi đây, - D Artagnan đáp. Rồi anh quay lại hỏi Porthos.
- Ông Du Vallon, thấy việc này thế nào?
- Thực tình, miễn là cứ như cái đà này, tôi cho là tốt đẹp.
Hai ngươi lính bất ưng trịnh trọng bước sau tên hầu phòng; hắn mở một cửa gian tiền sảnh, rồi mở một của khác như cửa phòng đợi, trỏ hai cái ghế đẩu và bảo:
- Mệnh lệnh thật đơn giản. Các ông chỉ cho một người vào đây thôi, một người duy nhất, các ông nghe rõ chưa? Không có gì hơn.
- Các ông phải tuyệt đối phục tùng người ấy. Còn lúc trở về, dĩ nhiên là các ông phải đợi tôi cho người thay.
D Artagnan thì tên hầu phòng biết rõ quá, hắn chẳng phải ai khác là Bernouin, từ bảy tảm tháng nay đã chục lần đưa anh vào chỗ tể tướng. Cho nên anh không trả lời mà chỉ, làu bàu tiếng ia là tiếng giống tiếng Gascogne ít nhất và giống tiếng Đức nhiều nhất.
Còn về Porthos thì d Artagnan đòi hỏi và được anh hứa hẹn là bất cứ trường hợp nào cũng không được mở miệng. Cùng bất đắc dĩ thì anh ta chỉ được phép thốt ra tiếng tacteflơ phổ biến và trang trọng.
Bernouin đóng cửa và đi ra.
Nghe tiếng khoá cửa lách cách, Porthos nói:
- Ô ô! Dường như ở đây nhốt người là cái mốt hay sao ấy. Hình như chúng ta chỉ có đổi phòng giam mà thôi, đang lẽ bị giam đằng kia, chúng ta bị giam ở vườn cam. Tôi chẳng biết rằng mình đã thắng hay chưa?
- Bạn thân mến ơi, - D Artagnan khẽ bảo, - Đừng có nghi ngờ Thượng đế và hãy để tôi suy nghĩ.
- Thì cậu cứ suy nghĩ đi? - Porthos bực dọc nói khi thấy sự việc lại xoay chuyển như vậy.
D Artagnan lẩm bẩm:
- Chúng ta đã bước tám mươi bước, đã leo lên sáu bậc, vậy thì như ông bạn de Comminger trứ danh của ta nói ban nãy, đây là khu nhà song song với khu nhà ở và người ta gọi là khu vườn cam. Bá tước de La Fère ở không xa đây đâu, song các cửa đều đóng kín.
- Khó cái gì! - Porthos nói, - chỉ hích vai một cái...
- Ấy chết, Porthos thân mến ơi, hãy giữ gìn sức lực của cậu kẻo đến lúc cần nó chẳng còn giá trị nữa. Cậu không nghe tiếng người nào đó đang đến ư?
- Có chứ.
- Thế thì, cái người nào ấy sẽ mở cửa cho chúng ta.
- Nhưng bạn thân mến ơi nếu cái người nào ấy nhận ra chúng ta, và nếu khi nhận ra, hắn kêu lên thì chúng ta bỏ đời; vì tôi chắc rằng cuối cùng cậu không có ý định cho tôi đập chết hoặc bóp cổ cái người nhà thờ ấy đâu. Những kiểu cách ấy rất tốt đối với bọn Anh và bọn Đức.
- Ôi nhờ Trời che chở cho tôi và cho cậu! - D Artagnan nói.
- Ông vua trẻ có lẽ sẽ biết ơn chúng ta đấy; nhưng hoàng hậu sẽ chẳng tha tội cho ta đâu, và chính là phải vì nể bà ấy. Với lại, đổ máu vô ích. Không, không bao giờ! Tôi có kế hoạch rồi. Hãy để tôi làm và chúng ta sẽ được cười thoả thích.
- Tốt thôi, - Porthos nói, - tôi đang muốn được cười đấy.
- Sụyt! - D Artagnan bảo, - người ấy đến đấy.
Lúc ấy ở phòng phía trước, tức là ở tiền sảnh, có tiếng chân bước nhè nhẹ. Bản lề cửa rít lên và một người vận kiểu kỵ sĩ trùm áo choàng nâu, đội mũ rộng vành sụp xuống mắt, tay cầm đèn xuất hiện.
Porthos đứng nép vào góc tường, nhưng anh không thể nào tránh khỏi người mới vào trông thấy. Ông ta đưa đèn cho anh và bảo.
- Châm đèn ở trần lên.
Rồi quay lại d Artagnan và hỏi:
- Ông biết mệnh lệnh chứ?
Và chàng Gascon đáp, anh cố tự giới hạn ở cái mẫu tiếng Đức ấy.
Người kỵ sĩ nói:
- Teđescô, va bene.
Rồi đến phía cửa trước mặt nơi đã vào, ông mở ra và biến mất sau khi khép cửa lại.
- Thế bây giờ chúng ta làm gì? - Porthos hỏi.
Bây giờ chúng ta sẽ dùng đến cái vai của cậu nếu cái cửa này đóng, Porthos ạ. Giờ nào việc ấy, và mọi việc đều đến đúng lúc đối với ai biết chờ đợi. Nhưng trước hết chúng ta hãy chặn cái cửa trước một cách thích đáng, sau đó chúng ta sẽ đi theo người kỵ sĩ.
Đôi bạn lập tức bắt tay vào việc và khuân hết đồ đạc trong phòng ra chèn vào cửa, cửa lại mở vào phía trong nên càng khó mà đi qua được.
- Đấy - D Artagnan nói. - Thế là chúng ta yên tâm không bị đột kích từ phía sau. Nào, tiến lên!
-*-*-*-
Chương 91
Những hầm nhốt người của Mazarin
Đôi bạn tới cái cửa mà Mazarin đã đi ra. Cửa đóng chặt, d Artagnan thử mở mà không được. Anh nói:
- Porthos, đây là chỗ mà cậu cần đặt vai vào. Đẩy đi, nhưng từ từ đừng gây tiếng động. Đừng phá, mà làm bật cánh cửa ra thôi.
Porthos tì bắp vai lực luỡng vào một bên cánh cửa khiến nó ưỡn ra. D Artagnan lách mũi gươm vào giữa cái chốt và ổ khoá. Cái chốt bị vạt chéo bật ra và cửa mở.
Porthos ơi, khi nào tôi nói với cậu rằng cứ nhẹ nhàng là đạt được tất cả ở đàn bà và các cánh cửa nhỉ?
- Chắc chắn rằng cậu là một nhà đạo lý học lớn rồi, - Porthos đáp.
- Ta vào đi, - D Artagnan bảo.
Họ vào. Phía sau một tấm kính, nhờ ánh sáng ngọn đèn của giáo chủ đặt ở giữa hành lang, họ trông thấy những cây cam và cây lựu của lâu đài Reuil xếp thẳng hàng thành một lối đi lớn và hai lối ngang nhỏ hơn.
- Không thấy giáo chủ, - D Artagnan nói, - mà chỉ có mỗi cái đèn. Lão ta biến đâu nhỉ?
Anh bảo Porthos tìm kiếm một bên đường ngang và anh một bên thì bỗng nhiên trông thấy ở phía trái một cái bồn cây để trệch sang bên cạnh và ở chỗ cũ của nó là một cái hố mở toang hoác.
Mười người có xoay cái bồn ấy cũng gay go, nhưng nhờ một bộ máy nào đó, nó đã xoay ra cùng phiến đá. D Artagnan nhìn xuống hố thấy có những bậc thang đi xuống của chiếc cầu thang xoay.
Anh vẫy Porthos lại và chỉ cho xem cái hố và những bậc thang.
Hai người nhìn nhau với vẻ kinh hãi.
D Artagnan nói thầm:
- Nếu chúng ta chỉ muốn có vàng thôi, thì chúng ta đã toại nguyện và sẽ giàu có suốt đời.
- Sao vậy?
- Cậu không hiểu à, Porthos Dưới chân cầu thang này chắc chắn là kho vàng trứ danh của giáo chủ mà người ta đồn mãi. Chúng ta chỉ có việc đi xuống, vét rỗng một két, nhốt ông giáo chủ vào đó và khoá hai vòng lại, rồi chúng ta có sức mang được bao nhiêu vàng đi thì cứ việc lấy, xong chúng ta để lại bồn cam vào chỗ cũ. Chẳng có ai trên đời này, kể cả ông giáo chủ sẽ đến tra hỏi chúng tra xem của cải của chúng ta ở đâu mà ra.
- Đối với bọn tiện dân. - Porthos đáp - thì đó là một vố chơi rất hay, nhưng tôi thấy nó như không xứng đáng với hai nhà quý tộc.
- Tôi cũng nghĩ vậy, - D Artagnan nói, - cho nên tôi mới nói. "Nếu chúng ta chỉ muốn có vàng... ", nhưng chúng ta muốn cái khác.
Cùng lúc đó, do d Artagnan cúi đầu xuống hầm để nghe ngóng, thì thấy có tiếng kim loại như một túi vàng lóc xóc đập vào tai, anh giật mình. Sau đó có tiếng khép cửa và ánh đèn le lói ở chân cầu thang.
Mazarin đã để đèn lại ở vườn cam để người ta tưởng rằng ông vẫn đi dạo. Nhưng ông đã dùng một cây nến để tìm kiếm két vàng bí mật của mình.
Vừa trèo lên cầu thang, vừa ngắm nghía cái túi căng phồng những đồng tiền vàng Tây Ban Nha, ông ta hỉ hửng nói:
- Hê hê! Đây là để trả cho năm ông tham nghị và hai ông tướng ở Paris. Ta cũng vậy, ta là một vị chỉ huy lớn song ta làm chiến tranh theo kiểu của ta...
D Artagnan và Porthos mỗi người nấp sau một bồn cây ở một đường ngang và chờ đợi.
Mazarin đến cách d Artagnan ba bước và ấn vào một chiếc lò-xo ẩn trong tường. Phiến đá xoay lại và đưa bồn cam trở lại chỗ cũ.
Rồi giáo chủ tắt nến bỏ vào túi, xách cái đèn lồng và nói:
- Ta đến thăm lão de La Fère nào.
D Artagnan nghĩ thầm: "Tốt! Đó là đường của ta, chúng ta sẽ cùng đi".
Cả ba người cất bước. Mazarin đi ở đường giữa, Porthos và d Artagnan đi lối hai bên. Hai anh cẩn thận tránh những vệt sáng dài do cái đèn của giáo chủ chiếu ra những khoảng trống giữa các bồn cây.
Các anh bước rất êm trên cát mềm nên giáo chủ đến cửa kính thứ hai mà vẫn không biết mình bị theo dõi.
Ông ta quay sang bên trái đi vào một hành lang mà hai anh chưa nhìn thấy. Nhưng lúc sắp mở cửa thì ông ta dừng lại, đăm chiêu:
- A! Quỷ thần ạ! - Ông nói, - ta quên mất lời dặn của de Comminger rồi. Cần phải lấy mấy tên lính đặt ở cửa này để ta khỏi bị rơi vào tay tên thiên lôi quỉ sứ ấy. Nào đi.
Và với vẻ sốt ruột ông ta quay lại định trở lui.
D Artagnan bước lên, mũ cầm tay, vẻ mặt nhã nhặn nói:
- Chẳng phải mất công đâu, thưa Đức ông, chúng tôi đi theo ngài từng bước, và có chúng tôi đây rồi.
Và anh lại cúi chào rất nhã nhặn.
- Vậy có chúng tôi đây, - Porthos nói theo.
Mazarin đưa mắt kinh hãi nhìn từ người này sang người kia, nhận ra cả hai và vừa để tuột cái đèn vừa thốt lên một tiếng rên rỉ hết hồn.
D Artagnan nhặt đèn lên, may thay nó rơi mà không bị tắt.
- Ồ! Đức ông thật là khinh suất, - D Artagnan nói.
- Đi ở đây mà không có đèn thì chẳng tốt đâu Các hạ có thể vấp vào một bồn cây nào đó và rơi xuống một cái hố nào đó.
- Ông d Artagnan, - Mazarin lẩm bẩm, chưa hết kinh ngạc.
- Vâng, thưa Đức ông, chính tôi đây, và tôi rất vinh hạnh được giới thiệu ông Du Vallon, người bạn quý của tôi mà hồi trước Đức ông đã hạ cố quan tâm thật là sốt sắng.
Và d Artagnan chiếu đèn lên bộ mặt hớn hở của Porthos lúc ấy mới hiểu ra và rất lấy làm tự hào.
- Ngài đi đến chỗ ông de La Fère, - D Artagnan nói tiếp.
Chúng tôi sẽ chẳng làm phiền Đức ông đâu. Xin ngài hãy dẫn đường và chúng tôi sẽ đi theo.
Mazarin dần dần lấy lại bình tĩnh. Ông nghĩ đến việc thăm kho vàng của mình vừa rồi và hỏi bằng một giọng run run:
- Các ông đến vườn cam lâu chưa?
Porthos mở miệng toan nói, nhưng d Artagnan ra hiệu, anh đành im và miệng anh từ từ ngậm lại.
- Chúng tôi vừa mới đến xong, - D Artagnan đáp.
Mazarin thở phào một cái: ông không lo cho kho vàng nữa, chỉ còn phải lo cho bản thân mình. Một nụ cười lớn nở trên môi ông.
- Nào, - Ông nói, - các ông đã đánh bẫy được tôi rồi, tôi xin chịu thua. Các ông yêu cầu được tự do phải không? Tôi xin trả lại tự do cho các ông.
- Ồ, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - Ngài thật tử tế quá nhưng chúng tôi đã có tự do rồi, và chúng tôi còn thích yêu cầu ngài cái khác cơ.
- Các ông tự do rồi ư? - Mazarin hoảng hốt hỏi.
- Tất nhiên rồi, và trái lại Đức ông mới mất tự do và biết làm thế nào, thưa Đức ông, luật lệ chiến tranh mà, phải chuộc lại tự do thôi.
Mazarin thấy ớn lạnh đến tận xương tuỷ. Con mắt sắc như dao của ông nhìn thẳng chằm chằm vào khuôn mặt giễu cợt của d Artagnan và bộ mặt lạnh lùng của Porthos. Cả hai khuôn mặt đều khuất trong bóng tối, và cả đến cô đồng bói toán ở động Quymơ(1) cũng đành chịu chẳng đoán được gì ở đó.
Chuộc lại tự do của tôi ư? - Mazarin đáp.
- Phải, Đức ông ạ.
- Thế tôi phải trả bao nhiêu tiền hả, ông d Artagnan?
- Ấy chết, thưa Đức ông, tôi chưa biết được đâu. - Nếu Các hạ cho phép, chúng tôi sẽ đến hỏi bá tước de La Fère. Vậy xin ngài chiếu cố mở cái cửa đến chỗ ông ấy, và trong mười phút ta sẽ ngã giá.
Mazarin rùng mình.
- Thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - ngài xem chúng tôi nhã nhặn biết chừng nào; tuy nhiên chúng tôi buộc lòng phải báo trước với ngài là chúng tôi không có thì giờ để mất đâu. Vậy xin Đức ông hãy mở cửa ra, và một lần cho mãi mãi, xin ngài nhớ cho rằng nếu ngài chỉ kêu lên một tiếng hoặc toan chạy trốn, thì vì tình thế của chúng tôi là rất ngoại lệ, xin ngài chớ oán giận nếu như chúng tôi phải làm một việc bạo hành.
- Các ông cứ yên trí, - Mazarin nói, - Tôi không mưu toan gì đâu, xin lấy danh dự mà thề.
D Artagnan ra hiệu bảo Porthos giám sát cẩn thận, rồi quay lại bảo Mazarin:
- Bây giờ, thưa Đức ông chúng ta đi vào nào.
Chú thích:
(1) Trong thần thoại Hy Lạp.
-*-*-*-
Chương 92
Đàm phán
Mazarin mở khoá của cái cửa đôi. Arthos đứng ở ngưỡng cửa sẵn sàng nghênh tiếp vị khách trứ danh theo như Comminger đã báo trước.
Nhìn thấy Mazarin anh cúi chào và nói:
- Xin Đức ông miễn khỏi phải có người đi theo; vinh dự mà tôi được ban quá lớn lao, nên tôi không thể quên điều ấy.
- Bá tước thân mến ơi, - D Artagnan nói, - Cho nên Các hạ dứt khoát không muốn cho chúng tôi theo. Chính Du Vallon và tôi nài nỉ, bằng một cách có thể là khiếm nhã đấy, vì chúng tôi rất tha thiết gặp lại anh.
Nghe tiếng nói và giọng giễu cợt ấy, trông cử chỉ rất quen thuộc ấy kèm theo tiếng nói và cái giọng ấy, Arthos nẩy bật lên vì kinh ngạc.
- D Artagnan! Porthos! anh reo lên.
- Chính tôi đây, bạn thân mến ạ.
- Chính tôi đây, - Porthos nhắc lại.
- Thể này là thế nào? - Bá tước hỏi.
Mazarin gượng cười, vừa cắn môi vừa mỉm cười và nói:
- Thế này nghĩa là bây giờ đã thay bậc đổi ngôi. Đáng lẽ các ông này là tù binh của tôi thì chính tôi lại là tù binh của các ông ấy. Đến nỗi ông thấy đấy, tôi bị buộc phải chấp nhận luật lệ lẽ ra chính tôi mới là người đặt ra luật lệ. Nhưng này các ông, tôi xin báo trước là trừ phi các ông giết chết tôi, thắng lợi của các ông mong manh lắm: sẽ đến lượt tôi, người ta sẽ đến.
- A a, Đức ông ơi, - D Artagnan nói, - Chớ có doạ nạt tôi, đó là gương xấu đấy. Chúng tôi hiền lành và nhã nhặn với Các hạ đến thế cơ mà! Nào, ta hãy gác mọi nỗi bực dọc ra một bên, hãy xếp hằn thù lại và ta nói chuyện lịch sự.
- Tôi không đòi hỏi gì hơn, - Mazarin nói. - Nhưng khi bàn bạc về tiền chuộc tôi? Tôi không muốn các ông coi cái thế của các ông cao hơn thực tế, vì khi dùng bẫy bắt tôi thì các ông cũng bị mắc luôn vào đó. Làm thế nào mà các ông ra khỏi đây? Hãy nhìn các song sắt các cửa, hãy nhìn hay đúng hơn là đoán xem các lính canh đang gác ở sau các cánh cửa và song sắt, các lính tráng ngổn ngang ở các sân, và ta điều đình. Đây, tôi sắp chứng tỏ với các ông rằng tôi thành thực.
- Được rồi, - D Artagnan ngẫm nghĩ, - ta hãy vững vàng, lão sắp chơi chúng ta một vố đây!
Tể tướng nói tiếp:
- Tôi đã đề nghị trả lại tự do cho các ông và tôi còn đề nghị như thế nữa. Các ông có nhận không? Trước một giờ nữa, các ông sẽ bị phát hiện, bị bắt giữ, bị buộc phải giết tôi; nhưng như vậy sẽ là một tội ác ghê gớm và hoàn toàn không xứng đáng với những người quý tộc trung hậu như các ông.
"Ông ta nói có lý", Arthos nghĩ.
Và giống như mọi lý lẽ diễn ra trong cái tâm hồn chỉ có toàn những ý tưởng cao quý ấy, ý nghĩ của Arthos phản ảnh ngay trên mặt anh.
Để sửa lại niềm hy vọng mà sự đồng tình thầm lặng của Arthos đã tạo ra cho Mazarin, d Artagnan nói:
- Cho nên chúng ta chỉ đi tới sự bạo hành đó vào lúc cùng kế mà thôi.
- Nếu trái lại, - Mazarin nói - Các ông nhận lấy tự do của mình và để cho tôi đi...
- Thế nào, - D Artagnan ngắt lời, - phải chăng ngài muốn chúng tôi nhận tự do của mình bởi vì ngài có thể lấy nó lại à - chính ngài nói điều đó - năm phút sau khi ngài ban cho chúng tôi? Và thưa Đức ông, - D Artagnan nói thêm - đúng như tôi hiểu về ngài, ngài sẽ lấy lại nó ngay thôi.
- Không, lời thề của giáo chủ... ông không tin tôi!
- Thưa Đức ông, tôi không tin ở những giáo chủ không phải là tu sĩ. Ngài không còn là tể tướng nữa, thưa Đức ông, ngài là tù binh của chúng tôi.
- Thế thì, lời thề của Mazarin? Tôi là Mazarin và tôi mãi mãi là Mazarin, tôi hy vọng như vậy.
- Hừm! - D Artagnan nói, - tôi có nghe nói một Mazarin ít có lòng thành kính đối với những lời thề, và tôi e rằng đó là một vị tổ tiên của Các hạ chăng? "
- Ông d Artagnan ơi, - Mazarin nói, ông là người trí xảo lắm, và tôi hết sức bực mình là đã đi cãi cọ với ông.
- Thưa Đức ông, chúng ta dàn hoà với nhau vậy, tôi không mong gì hơn.
- Thế này nhé, - Mazarin nói, nếu tôi cho các ông đựợc an toàn một cách minh bạch, hiển nhiên thì sao?
- A! Thế lại là một chuyện khác, - Porthos nói. - Xem nào!
- Xem nào? - D Artagnan lập lại.
Trước hết hãy trình bày kế hoạch của ngài, và chúng tôi sẽ xem xét.
- Hãy chú ý là các ông vẫn đang bị giam giữ, bị cầm tù.
- Đức ông nên biết rõ rằng, chúng tôi vẫn còn một kế hoạch cuối cùng, - D Artagnan nói.
- Kế sách gì?
- Cùng chết với nhau.
Mazarin rùng mình.
- Này. - Mazarin nói, - Ở cuối hành lang là một cái cửa mà tôi có chìa khoá, cửa ấy thông ra vườn. Hãy dùng chìa khoá ấy mà đi. Các ông cường tráng và nhanh nhẹn, lại có vũ khí. Đi một trăm bước rẽ sang trái, các ông sẽ gặp bức tường của khu vườn. Các ông trèo qua và nhảy ba cái là các ông sẽ ra đường cái và tự do. Bây giờ tôi đã hiểu các ông khá rõ để biết rằng nếu như người ta công kích các ông thì đó sẽ chẳng là điều trở ngại cho việc chạy trốn của các ông.
- A, mẹ kiếp, - D Artagnan nói. - Tốt lắm, điều ấy đã nói ra.
- Cái chìa khoá ấy đâu?
- Nó đây.
- Đức ông này, - D Artagnan nói, - ngài sẽ thân hành dẫn chúng tôi đến cái cửa ấy.
- Rất sẵn lòng, - Tể tướng nói, - Nếu như các ông cần như vậy để được yên tâm.
Mazarin không hy vọng được thoát kiếp một cách dễ dãi như vậy, nên mặt mày tươi tỉnh hẳn lên và đi ra hành lang để mở cửa.
Cửa ấy thông ra khu vườn và ba kẻ đi trốn nhận ra điều ấy do gió ban đêm lùa vào hành lang và thổi cả tuyết bay vào mặt họ.
- Ghê thật, ghê thật? - D Artagnan nói. - Thật là một đêm kinh khủng. Đức ông ạ! Chúng tôi không thuộc nơi này và chẳng bao giờ tìm được đường đi đâu. Vì Các hạ đã ra công ra đến tận đây, xin ngài cố thêm vài bước nữa... dẫn chúng tôi đến bức tường.
- Được thôi, - giáo chủ đáp.
Và cắt một đường thẳng, ông bước nhanh đến bức tường, và chỉ một loáng bốn người đã tới chân tường.
- Các ông đã hài lòng chứ? - Mazarin hỏi.
- Chắc thế! Chúng tôi khó tính thật! Vinh dự chưa! Ba gã quý tộc khốn khổ được một ông hoàng của Nhà thờ đi hộ tông! A, nhân tiện xin hỏi có phải lúc nãy Đức ông có nói rằng chúng tôi dũng cảm, nhanh nhẹn và được vũ trang không?
- Phải...
- Thế thì ngài nhầm rồi. Chỉ có ông Du Vallon và tôi được vũ trang thôi, còn ông bá tước thì không. Và nếu gặp một đội tuần tra thì chúng tôi phải có thể tự vệ được chứ?
- Đúng quá đi rồi.
Nhưng chúng ta kiếm đâu được thanh gươm, - Porthos hỏi.
D Artagnan nói:
- Đức ông sẽ cho bá tước mượn thanh gươm của ngài, vì đối với ngài nó cũng vô ích.
- Rất sẵn lòng, - giáo chủ nói, - Tôi còn mong ông bá tước hãy vui lòng giữ nó đề nhớ đến tôi.
- Điều ấy lịch sự đấy chứ bá tước! - D Artagnan nói.
- Cho nên, - Arthosđáp, - Tôi xin hứa với Đức ông là sẽ chẳng bao giờ rời nó.
- Hay - D Artagnan nói, - Đối đãi cư xử với nhau, thật là cảm động! Porthos, cậu có rưng rưng nước mắt không nhỉ?.
- Có - Porthos đáp, - nhưng không hiểu là do thế hay do gió nó làm tôi chảy nước mắt. Tôi chắc là tại gió đấy.
- Bây giờ, Arthos trèo lên đi, - D Artagnan bảo, - và nhanh lên.
Arthos được Porthos nhấc lên như một chiếc lông chim, đặt chân lên bờ tường.
- Bây giờ nhảy xuống đi, Arthos.
Arthos nhảy xuống và biến sau bức tường.
- Anh đã tới đất chứ - D Artagnan hỏi.
- Rồi.
- Không xảy ra điều gì chứ?
- Hoàn toàn bình yên.
- Porthos, - D Artagnan bảo - hãy theo dõi ngài giảo chủ, trong khi tôi leo lên. Không, tôi không cần cậu giúp, tôi trèo lên một mình.
- Hãy theo dõi ngài giáo chủ, thế thôi.
- Tôi theo dõi đây, - Porthos đáp. - Ơ kìa!...
- Cậu nói phải đấy, thật khó leo hơn mình tưởng. Hãy giơ lưng ra cho mình, nhưng chớ có buông ngài giáo chủ.
- Tôi không buông đâu.
Porthos giơ lưng cho d Artagnan bám, anh leo lên và ngồi ngự trên bờ tường.
Mazarin làm bộ cười.
- Xong chưa? - Porthos hỏi.
- Được rồi, nhưng bây giờ...
- Bây giờ làm sao?
- Bây giờ cậu đưa ông giáo chủ lên đây cho tôi và nếu ông ta kêu lên một tiếng thì cậu cứ bóp nghẹt ông ta.
Mazarin toan kêu lên, thì Porthos đã lấy tay siết chặt lấy ông và nhấc lên, d Artagnan tóm lấy cổ áo ông và đặt ông ngồi cạnh mình. Rồi bằng một giọng hăm doạ, anh bảo:
- Ông hãy nhảy ngay xuống bên cạnh ông De La Fère, nếu không tôi kết liễu đòi ông sớm hơn, lời thề nhà quý tộc.
- Ông ơi, ông ơi, - Mazarin kêu - Ông không giữ lời hứa.
- Tôi ấy à? Tôi đã hứa với ông điều gì nào?
Mazarin rên rỉ nói.
- Nhờ tôi mà các ông được tự do, tự do của các ông là tiền chuộc của tôi rồi.
- Đồng ý, nhưng mà tiền chuộc của cái kho vàng kếch sù chôn ở trong hầm và người ta xuống đó bằng cách bấm một nút lò-so ẩn ở trong tường để nó xay ở bốn cây và làm hở ra một cầu thang, thì có phải bàn đến nó một chút không, nói đi, Đức ông!
- Giêsu! - Mazarin thốt lên, hầu như ngạt thở và chắp hai bàn tay lại - Giêsu, lạy Chúa tôi. Thế là tôi mất hết cả rồi.
Nhưng không dừng trước những lời than vãn, d Artagnan nắm lấy cánh tay ông và đẩy nhẹ ông xuống tay Arthos, anh đang đứng thản nhiên ở chân tường.
Rồi quay lại phía Porthos, d Artagnan bảo:
- Tôi ngồi chắc ở bờ tường, cậu bám lấy tay tôi mà leo lên.
Porthos ráng sức làm lung lay cả bức tường và trèo lên. Anh nói:
- Trước tôi hiểu chưa đầy đủ đâu, nhưng bây giờ thì rõ rồi, thật là kỳ khôi lắm...
- Cậu thấy như thế à? - D Artagnan đáp. - Càng tốt! Nhưng để cho nó kỳ khôi đến cùng, ta đừng để mất thì giờ.
Và anh nhảy xuống chân tường.
Porthos nhẩy xuống theo.
- Các ông đi hộ tống ngài giáo chủ - D Artagnan bảo, - Tôi đi dò đường.
Chàng tuốt gươm ra và đi tiên phong.
- Thưa Đức ông, - anh nói, - phải rẽ lối nào để đi ra đường cái? Cần suy nghĩ kỹ trước khi trả lời, bởi vì nếu Đức ông có một sự nhầm lẫn thì có thể xảy ra những tai hại nghiêm trọng không chỉ với chúng tôi mà cả với ngài nữa đấy.
- Ông cứ men theo tường, - Mazarin nói, - và không sợ lạc đâu.
Ba người bạn gấp bước lên và sau một lát họ buộc phải đi chậm lại, vì giáo chủ đã hết sức cố gắng mà cũng không theo kịp họ.
Bỗng nhiên, d Artagnan vấp phải một vật gì âm ấm và động đậy.
- Này, một con ngựa! - anh nói, - các ông ạ, tôi vừa mới thấy một con ngựa.
- Tôi cũng thấy một con - Arthos nói.
- Tôi cũng vậy! - Porthos reo lên; tuân theo mệnh lệnh, anh vẫn nắm lấy tay giáo chủ.
- Thưa Đức ông, - D Artagnan nói - Đây là cái mà người ta nói là vận may, đúng vào lúc ngài than phiền là buộc phải cuốc bộ.
Nhưng anh vừa nói xong thì một nòng súng ngắn hạ xuống ngực anh và một tiếng nói trang nghiêm vang lên.
- Chớ có đụng vào.
- A! Grimaud, - D Artagnan reo lên. - Grimaud! Bác làm gì ở đây thế? Có phải trời đã kêu bác đến đây chăng?
- Không đâu, ông ạ, - Người đầy tớ thật thà đáp, - Ông Aramis sai tôi canh những con ngựa.
- Aramis ở đây à?
- Vâng, từ hôm qua.
- Thế các anh làm, gì?
- Chúng tôi rình.
- Sao? Aramis ở đây à? - Arthos hỏi.
- Ở chỗ cài cổng nhỏ của lâu đài. Vị trí của ông ấy ở đó.
- Các bạn có đông không?
- Chúng tôi có sáu mươi người.
- Báo cho họ biết đi.
- Thưa ông, tôi sẽ đi ngay bây giờ đây.
Nghĩ rằng không có ai, làm nhiệm vụ đó tốt hơn mình. Grimaud co cẳng lên mà chạy, trong khi ba người vừa tập hợp xong, đang đứng chờ.
Trong cả đám ấy, chỉ có ngài Mazarin là tỏ ra hết sức bực bội.
-*-*-*-
Chương 93
Do đâu mà người ta bắt đầu tin rằng cuối cùng Porthos sẽ là qnam tước và d'Artagnan sẽ là đại uý
Mười phút sau Aramis đến, có Grimaud và chín mươi nhà quý tộc đi cùng. Anh hớn hở ôm chầm lấy các bạn và nói:
- Thế là các anh đều được tự do rồi! Tự do không cần sự giúp đỡ của tôi? Thế là mặc dầu tôi đã hết sức cố găng mà chẳng làm được gì.
- Bạn thân mến ơi, chớ phiền lòng. Cái gì hoãn lại không phải là mất đâu. Nếu anh chưa làm được thì rồi anh sẽ làm.
- Tuy nhiên, tôi đã dùng nhiều biện pháp, - Aramis nói. - Ông chủ giáo cho tôi sáu mươi người; hai mươi người gác các bức tường từ Rueil đi Saint-Germain; hai mươi người phân tán trong rừng. Nhờ bài binh bố trận như vậy, tôi đã chặn được hai người mang thư của Mazarin gửi hoàng hậu.
Mazarin vểnh tai lên.
- Nhưng - D Artagnan nói, - Tôi chắc rằng anh đã hành động một cách đứng đắn là gửi trả lại ngài giáo chủ những bức thư đó.
- À vâng, - Aramis đáp. - Đối với ông ấy mà tôi phải sốt sắng làm cái điều lịch sự như vậy ư? Trong một bức thư, giáo chủ tuyên bố rằng két vàng bạc đều rỗng và Hoàng thượng không còn tiền.
Trong bức thư kia, ông ta bảo rằng sẽ cho chuyển các tù nhân của mình đến Melun, vì Rueil không tỏ ra là một nơi khá an toàn. Bạn thân mến ơi, anh có biết không, bức thư sau này cho tôi nhiều hy vọng. Tôi cùng sáu chục người đã mai phục bao vây toà lâu dài, chuẩn bị ngựa và giao cho Grimaud thông minh này trông coi; và tôi chờ người đưa các anh ra. Tôi tính là phải đến sáng mai, và không mong giải thoát cho các anh mà không có đánh nhau. Thế mà tối nay các anh đã được tự do, tự do không có chiến đấu, càng tốt? Các anh làm thế nào mà thoát khỏi cái lão Mazarin đê tiện ấy? Các anh chắc oán lão ấy lắm nhỉ?
- Ít thôi - D Artagnan nói.
- Thật ư?
- Có thể nói chúng tôi phải hài lòng về ông ấy.
- Vô lý!
- Thật đấy! Nhờ ông ấy mà chúng tôi được tự do.
- Nhờ ông ta?
- Phải. Ông ấy đã cho Bernouin, người hầu phòng của ông, dẫn chúng tôi ra vườn cam, rồi từ đó chúng tôi theo ông đến chỗ bá tước De La Fère. Rồi ông ta đề nghị trả tự do cho chúng tôi, chúng tôi chấp nhận, và ông ta còn tỏ ra ân cần đến mức chỉ đường và đưa chúng tôi đến tận bức tường của khu vườn mà chúng tôi vừa mới trèo qua với nỗi sung sướng nhất đời và đã gặp Grimaud.
- A, hay lắm, - Aramis nói, - việc này giúp tôi dàn hoà với ông ấy và tôi mong ông ấy có mặt ở đây để nói với ông ấy rằng tôi không tin rằng ông ta lại có khả năng làm một việc đẹp đẽ như thế.
- Không thể nhịn được lâu, d Artagnan nói:
- Thưa Đức ông, tôi xin giới thiệu với ngài ông hiệp sĩ D Herblay, ông ta đang muốn - Như ngài vừa nghe đấy - Dâng những lời chúc tụng cung kính lên Các hạ.
Và anh tránh ra để lộ Mazarin đang bối rối trước cái nhìn kinh hãi của Aramis.
- Ô ô! Aramis kêu lên, - giáo chủ à? Chiến lợi phẩm tuyệt quá? Ơ này, các bạn ơi, ngựa đâu, ngựa đâu?
Mấy kị sĩ chạy đến.
- Mẹ kiếp! - Aramis nói. - Có lẽ tôi cũng đã có ích cho một việc gì đó. Thưa Đức ông, xin ngài hãy hạ cố nhận cho tất cả những kính lễ của tôi. Tôi cuộc rằng ông thánh Christophe de Porthos(1) đây đã làm cái việc này! À, tôi còn quên...
Và anh khẽ ra lệnh cho một kỵ sĩ.
D Artagnan nói:
- Tôi nghĩ rằng, ta nên thận trọng đi ngay thôi.
- Ừ, nhưng tôi còn đợi một người..., một người bạn của Arthos.
- Một người bạn à? - Bá tước hỏi.
- Kia rồi, anh ta đang phóng ngựa đến qua các bụi rậm.
- Ông bá tước ơi ông bá tước ơi! -Một giọng thơ trẻ vang lên khiến Arthos rùng mình.
- Raoul, Raoul! - Bá tước de La Fère reo lên.
Trong giây lát, chàng thanh niên quên bẵng sự kính lễ thông thường; anh nhẩy lên bá lấy cổ cha.
- Ngài giáo chủ xem đấy, - Aramis nói, - Thật là tai hại khi chia rẽ những con người yêu thương nhau như chúng tôi.
Rồi quay lại phía các kỵ sĩ đến tập hợp mỗi lúc một đông thêm, anh nói tiếp:
- Xin các ông hãy vây quanh Các hạ để tỏ lòng tôn kính ngài. Ngài rất muốn chiếu cố đánh bạn với chúng ta; tôi mong rằng các ông sẽ biết ơn ngài. Này, Porthos, chớ có rời mắt khỏi Các hạ nhé.
D Artagnan và Arthos đang bàn bạc với nhau Aramis cũng đến bàn với họ.
- Nào, - D Artagnan nói, - Sau năm phút bàn luận, chúng ta sẽ lên đường!
- Chúng ta đi đâu? - Porthos hỏi.
- Đến chỗ cậu ở Pierrefonds, bạn thân mến ạ. Toà lâu đài tráng lệ của cậu xứng đáng là nơi trú ngụ vương giả để mời Các hạ đến. Vả lại ở nó ở cách Paris chẳng gần quá mà cũng chẳng xa quá, người ta có thể thiết lập những việc liên lạc dễ dàng giữa đấy và Paris. Đến đấy, Đức ông sẽ như một ông hoàng, vì ngài cũng là một ông hoàng hẳn hoi.
- Một ông hoàng sa cơ, - Mazarin nói một cách thảm hại.
- Chiến tranh có những may rủi, Đức ông ạ, - Arthos nói - nhưng xin ngài hãy yên tâm là chúng tôi sẽ không lợi dụng nó đâu.
- Không, nhưng chúng tôi sẽ sử dụng nó, - D Artagnan nói.
Suốt đêm những kẻ cưỡng đoạt phóng với nhịp độ nhanh không biết mệt xưa kia, Mazarin ủ rũ và đăm chiêu, phó mặc cho người ta lôi cuốn mình đi giữa cuộc chạy đua của những bóng ma. Đoàn người phóng liền một mạch mười hai dặm thì trời vừa rạng đông. Một nửa đoàn mệt lử, mấy con ngựa ngã quỵ.
Porthos nói:
- Những con ngựa ngày nay không bằng những con ngựa ngày xưa. Mọi thứ suy vi cả.
Tôi đã phái Grimaud đến Dammartin, - Aramis nói, - Hắn ta phải mang đến năm con ngựa khỏe, một cho Các hạ và bốn cho chúng ta.
Điều cốt yếu là chúng ta không rời Đức ông; số người còn lại trong đoàn sẽ đuổi kịp chúng ta sau, đi qua khỏi Saint-Denis thì là chẳng còn sợ gì nữa.
Vừa đúng lúc Grimaud dẫn đến năm con ngựa. Vị lãnh chúa mà bác đến hỏi là một người bạn của Porthos. Ông vội vã không phải để bán như người ta yêu cầu, mà ông rất vui lòng đem biếu những con ngựa khoẻ mạnh hất của ông.
Mười phút sau, đoàn người đến Ermenonville, nhưng bốn người bạn với niềm hăng hái mới, phóng nhanh hộ tống Mazarin.
Giữa trưa họ đi vào con đường của lâu đài Porthos. Mousqueton đi bên d Artagnan suốt dọc đường chẳng nói câu nào bây giờ mới thốt lên.
- A! Xin ông hãy tin rằng, từ khi ở Pierrefonds ra đi, đây là lần đầu tiên tôi mới thở được.
Và anh ta cho ngựa phi nhanh về để báo cho các gia nhân tin ông Du Vallon và các bạn bè ông sắp về.
D Artagnan nói với các bạn:
- Chúng ta có bốn người, ta sẽ thay phiên nhau canh giữ Đức ông mỗi người canh ba giờ, Arthos đi thăm lâu đài cốt làm cho nó có thể cố thủ trong trường hợp bị bao vây. Porthos lo việc cung cấp, và Aramis lo việc đóng quân. Nghĩa là Arthos sẽ là kỹ sư trưởng, Porthos là tổng chỉ huy hậu cần, và Aramis là quan tổng trấn địa phương.
Trong khi chờ đợi, người ta đặt Mazarin tại gian phòng đẹp nhất của lâu đài. Khi đã yên vị, Mazarin nói:
- Thưa các ông, tôi đoán rằng các ông không giữ tôi ở đây lâu một cách bí mật chứ?
- Không đâu, - D Artagnan đáp, - Trái lại chúng tôi tính sẽ sớm công bố việc chúng tôi giữ ngài.
- Thế thì các ông sẽ bị bao vây.
- Chúng tôi có tính đến chuyện ấy.
- Thế các ông sẽ làm gì?
- Chúng tôi sẽ tự vệ. Nếu như giáo chủ de Richelieu còn sống, ông ta sẽ kể cho ngài nghe một câu chuyện về pháo đài Saint-Gervais mà chỉ có bốn chúng tôi cùng với bốn đầy tớ đã chiếm giữ được, chống lại cả một đạo quân và còn diệt mười hai tên địch.
- Ông ơi, nhưng chiến tích ấy chỉ làm có một lần và không tái diễn nữa đâu.
- Cho nên ngày nay chúng tôi không cần phải anh dũng đến thế, ngày mai quân đội Paris sẽ được báo tin và ngày kia sẽ ở đấy rồi. Chiến sự đáng lẽ xảy ra ở Saint-Denis hoặc Charenton, sẽ diễn ra ở phía Compiègne hoặc Villers Cotterêts.
- Ngài Hoàng thân sẽ đánh bại các ông như đã luôn luôn đánh bại các ông.
- Cũng có thể, Đức ông ạ. Nhưng trước khi đánh nhau, chúng tôi sẽ đưa Các hạ đến một lâu đài khác của ông bạn Du Vallon chúng tôi, ông ta có ba lâu đài như cái này. Chúng tôi không muốn phơi bày Các hạ ra trước những sự may rủi của chiến tranh.
- Này ông, - Mazarin nói, - Tôi thấy là cần phải đầu hàng.
- Trước khi có cuộc bao vây ư?
- Phải, điều kiện có lẽ sẽ lợi hơn.
- A! Thưa Đức ông, về chuyện điều kiện, ngài sẽ thấy chúng tôi là rất biết điều.
- Thử xem những điều kiện của các ông là gì.
- Xin ngài hãy nghỉ ngơi đã; chúng tôi sẽ suy nghĩ...
- Tôi không cần nghỉ ngơi, tôi cần được biết tôi ở trong tay bạn bè hay thù địch.
- Bạn bè, Đức ông ạ.
- Vậy thì, hãy nói ngay điều mà các ông muốn để tôi xem có thể àn xếp giữa chúng ta được không? Bá tước de La Fére hãy nói đi.
- Thưa Đức ông, - Arthos nói, - tôi chẳng có gì để đòi hỏi cho riêng tôi, nhưng lại có quá nhiều để đòi hỏi cho nước Pháp. Cho nên tôi xin khước từ và nhường lời cho ông hiệp sĩ D Herblay.
Arthos nghiêng mình và lùi lại một bước, rồi đứng tựa vào lò sưởi, như một khán giả bình thường của cuộc đàm phán.
- Ông hiệp sĩ D Herblay nói đi, - giáo chủ bảo. - Các ông muốn gì? Đừng quanh co, mơ hồ. Xin nói rõ ràng ngắn gọn và rành mạch.
- Đức ông ạ, tôi sẽ chơi đường hoàng, bài đặt trên bàn.
- Vậy ông hãy ngả bài ra.
- Tôi có sẵn trong túi, - Aramis nói, - bản dự thảo các điều kiện mà phái đoàn đã đề ra cho ngài ngày hôm kia ở Saint-Germain, tôi là thành viên phải đoàn đó. Ta hãy tôn trọng những quyền lợi cũ, những yêu Pont-Neuf đưa thêm vào chương trình sẽ được chấp thuận.
- Chúng ta hầu như đã đồng ỷ về những điều kiện đó, Mazarin nói, - Ta hãy chuyển sang những điều kiện đặc biệt.
- Ngài tưởng rằng có những điều kiện đặc biệt ư? - Aramis mỉm cười hỏi.
- Tôi cho rằng tất cả các ông chẳng phải đều có tính vô tư giống như bá tước de La Fère đâu - Mazarin nói và quay chào Arthos.
- A! Thưa Đức ông, ngài nói đúng đấy, - Porthos đáp, - và tôi sung sướng là cuối cùng đã thấy ngài thừa nhận điều đó cho bá tước.
Bá tước de La Fère là một linh hồn thượng đẳng bay lượn lờ ở trên những ham muốn tầm thường và những dục vọng trần tục của con người. Đó là một tâm hồn cổ kính và cao thượng. Bá tước là một con người riêng biệt. Thưa Đức ông, ngài nói đúng, chúng ta không sánh được với bá tước, và chúng tôi là những người đầu tiên thú nhận với ngài điều đó.
- Porthos, - Arthos nói, - anh chế giễu đấy à?
- Không đâu, bá tước thân mến ơi, tôi nói điều mà chúng tôi nghĩ. Nhưng mà anh nói phải đấy, cái chính không phải là bàn về anh, mà về Đức ông và kẻ tôi tớ không xứng đáng của ngài là hiệp sĩ D Herblay.
- Thế nào, - giáo chủ nói, - Ông mong muốn gì ngoài những điều kiện chung mà chúng ta sẽ bàn lại.
- Thưa Đức ông, tôi muốn rằng người ta ban xứ Normandie cho bà De Longueville, với sự xá tội hoàn toàn và đầy đủ, và năm trăm nghìn livres. Tôi muốn rằng Đức vua chiếu cố làm người đỡ đầu cho đứa con trai mà bà ta mới sinh hạ; Đức ông sẽ dự lễ rửa tội cho nó và sau đó sẽ đi dâng kinh lễ lên đức Thánh Cha giáo hoàng.
- Nghĩa là ông muốn tôi rút lui khỏi chức vụ tể tướng, tôi rời bỏ nước Pháp, tôi tự đi lưu đầy.
- Ấy tôi muốn rằng Đức ông sẽ là Giáo hoàng ngay kỳ khuyết vị đầu tiên, và tôi chờ dịp để khẩn cầu sự xá tội hoàn toàn cho tôi và các bạn tôi.
Mazarin nhăn nhó một cái thật khó tả.
- Thế còn ông? - Giáo chủ hỏi d Artagnan.
- Thưa Đức ông, - Chàng Gascon nói, - Tôi đồng ỷ về mọi điểm với hiệp sĩ D Herblay, trừ điều khoản cuối cùng mà tôi hoàn toàn khác với ông ấy. Tôi chẳng mong Đức ông từ giã nước Pháp mà muốn ngài ở lại Paris. Tôi chẳng mong ngài trở thành giáo hoàng mà muốn ngài vẫn làm tể tướng, bởi vì Đức ông là một nhà chính trị lớn. Nếu như vấn đề tuỳ thuộc tôi, thì tôi còn cố gắng để ngài cầm đầu cả phải La Fronde nữa; nhưng với điều kiện là ngài sẽ nhớ một chút đến những bầy tôi trung thành của đức vua và ngài sẽ trao đại đội ngự lâm quân đầu tiên cho một người nào đó mà tôi sẽ chỉ định. Thế còn ông, ông Du Vallon?
- Phải, - Mazarin nói, - đến lượt ông, nói đi.
- Tôi ư? - Porthos nói. - Tôi muốn rằng để làm vẻ vang cho ngôi nhà của tôi mà giáo chủ đã trú ngụ và để ghi nhớ cuộc phiêu lưu này, ngài sẽ phong tước Nam tước cho mảnh đất của tôi với lời hứa hẹn là thưởng huân chương cho một người bạn của tôi trong kỳ thăng nhiệm đầu tiên mà Hoàng thượng sẽ làm.
- Ông biết rằng muốn được thưởng huân chương phải tỏ rõ tài năng.
- Người bạn ấy sẽ tỏ rátrõ. Vả lại nếu nhất thiết cần như vậy. Đức ông sẽ bảo cho ông ta biết làm thế nào để tránh thủ tục ấy.
Đòn đánh thực là trực tiếp. Mazarin cắn môi để dằn cơn tức giận và trả lời với giọng cộc lốc.
- Tất cả những điều đó hình như dung hoà với nhau rất khó, các ông ạ. Vì nếu tôi thoả mãn người này thì tất nhiên sẽ làm mất lòng người khác. Nếu tôi ở lại Paris, tôi không thể đến Rome: nếu tôi trở thành Giáo hoàng, tôi không thể còn là tể tướng, và nếu tôi không làm tể tướng thì tôi không thể phong đại uý cho ông d Artagnan và phong Nam tước cho ông Porthos.
- Đúng thế, - Porthos nói, - Ý kiến của tôi là một số ít, tôi xin rút kiến nghị của tôi về chuyện đi Rome và việc từ chức của Đức ông.
- Thế tôi vẫn là tể tướng à? - Mazarin hỏi.
- Ngài vẫn là tể tướng thoả thuận rồi Đức ông ạ, - D Artagnan nói, - Nước Pháp cần đến ngài.
- Còn tôi, - Aramis nói, - Tôi xin từ bỏ những yêu sách của mình, Đức ông vẫn là tể tướng và là sủng thần của hoàng hậu nữa, nếu như bà vui lòng ban cho tôi và các bạn của những điều mà chúng tôi đòi hỏi cho nước Pháp và chúng tôi.
- Xin các ông hãy lo cho các ông và để nước Pháp dàn xếp với tôi như nó muốn, - Mazarin đáp.
- Không được, không được - Aramis nói, - Cần phải có một hiệp nghị với những người Fronde và xin các hạ vui lòng thảo ra và ký trước mặt chúng tôi và trong đó còn cam kết là sẽ được hoàng hậu phê chuẩn.
- Tôi chỉ có thể bảo đảm cho mình tôi, - Mazarin nói, - và không thể bảo đảm về hoàng hậu. Nếu như hoàng thượng từ chối thì sao?
- Ồ, d Artagnan dap, Đức ông thừa biết rằng Hoàng hậu chẳng từ chối ngài cái gì.
- Này - Aramis hỏi, - Đây là bản hiệp nghị do phái đoàn Fronde đề xuất, xin Các hạ hãy đọc và xem xét.
- Tôi biết rồi, - Mazarin đáp.
- Vậy xin ngài ký đi.
- Các ông cần suy nghĩ rằng một chữ ký hạ bút trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay có thể bị coi là bị giật lấy bằng bạo lực.
- Đức ông sẽ có đó để nói rằng đây là tự nguyện ký.
- Nhưng cuối cùng, nếu tôi từ chối thì sao?
- Thế thì, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - Các hạ sẽ hứng chịu những hậu quả sự từ chối ấy.
- Các ông dám đụng chạm đến một giáo chủ ư?
- Thì Đức ông đã từng đụng chạm mãi đến những ngự lâm quân của Hoàng thượng rồi còn gì.
- Hoàng hậu sẽ trả thù cho tôi!
- Tôi không tin đâu, Đức ông ạ, mặc dầu tôi không nghĩ rằng Hoàng hậu chẳng thiếu lòng mong muốn ấy. Nhưng tôi sẽ đến Paris cùng với Các hạ, và dân chúng Paris là người bảo vệ chúng tôi.
Aramis nói chêm vào:
- Lúc này ở Rueil và Saint-Germain, người ta lo lắng lắm đấy! Người ta hỏi nhau là giáo chủ ở đâu, tể tướng ra sao rồi, sủng thần đi đâu? Hắn là người ta đang nhao nhác tìm kiếm Đức ông ở khắp các hang cùng ngõ hẻm? Hắn là người phải bình luận ghê lắm, và nếu La Fronde biết tin Đức ông mất tích thì hẳn là La Fronde rất đắc chí
- Thật là ghê gớm, - Mazarin lẩm bẩm.
- Đức ông hãy ký bản hiệp nghị đi! - Aramis bảo.
- Nhưng nếu tôi ký mà Hoàng hậu không phê chuẩn thì làm thế nào?
- Tôi đảm nhận đến gặp Hoàng thượng, - D Artagnan nói, - Và xin chữ ký của bà.
- Hãy coi chừng - Mazarin nhắc nhở: Tại Saint-Germain ông sẽ chẳng nhận được sự đón tiếp mà ông cho là có quyền chờ đợi đâu.
- Lo gì! - D Artagnan nói, - Tôi sẽ thu xếp làm sao để mình là người được hoan nghênh, tôi có một kế.
- Kế gì?
- Tôi sẽ đưa Hoàng hậu bức thư mà Đức ông bảo với bà rằng tài chính đã hoàn toàn bị kiệt quệ.
- Rồi sao nữa. - Mazarin hỏi.
Rồi khi thấy Hoàng hậu bối rối đến cực điểm, tôi sẽ đưa bà đến Rueil, tôi sẽ dẫn bà vào vườn cam và tôi sẽ trỏ cho bà xem một cái lò-xo nào đẩy nó làm xoay chuyển một bồn cây.
- Thôi thôi, ông ơi! - giáo chủ lẩm bẩm. - Bản hiệp nghị đâu?
- Đây - Porthos đáp.
- Ngài, thấy rằng chúng tôi đại lượng lắm đấy chứ, - D Artagnan nói, - Vì rằng với một bí mật như vậy, chúng tôi có thể làm được khối chuyện.
Aramis đưa bút cho giáo chủ và nói:
- Vậy thì xin ngài ký đi.
Mazarin đứng lên, đi đi lại lại một với vẻ mặt trầm ngâm hơn là thất vọng. Rồi đột nhiên ông dừng bước và hỏi:
- Các ông ơi, khí tôi ký rồi, thì có gì đảm bảo cho tôi?
- Lời thề danh dự của tôi, ông ạ, - Arthos nói.
Mazarin rùng mình, quay lại phía bá tước de La Fère, ngắm nghía một gương mặt thật cao quý và trung thực ấy rồi cầm lấy bút và nói:
- Thế là đủ cho tôi rồi ông bá tước ạ.
Và ông ta hạ bút ký.
- Và bây giờ, - Ông nói thêm, - Ông d Artagnan hãy sửa soạn đi Saint-German và mang một bức thư của tôi tới Hoàng hậu.
Chú thích:
(1) Theo truyền thuyết, thánh Cristoff đã kiệu cậu bé Giêsu lên vai để đi qua sông.
-*-*-*-
Chương 94
Thế nào mà với một cây bút và lời doạ nạt, người ta làm nhanh hơn, tốt hơn là đối với một thanh gươm hoặc lòng tận tụy
D Artagnan hiểu biết thần thoại. Anh biết rằng cơ hội chỉ có một chỏm tóc mà nắm lấy nó thì người ta mới bắt được cơ hội và anh không phải loại người để cho cơ hội chạy qua mà không tóm nó lại bằng chỏm tóc. Anh bèn tổ chức một hệ thống giao thông nhanh chóng và chắc chắn bằng cách gửi trước những ngựa thay thế đến Chantilly, để anh có thể đi tới Paris trong khoảng năm sáu tiếng đồng hồ. Nhưng trước khi đi, anh ngẫm nghĩ rằng đối với một chàng trai có trí xảo và kinh nghiệm, thì nếu dấn bước tới cái bấp bênh và để cái chắc chắn lại phía sau mình thì thật là một tư thế kỳ cục.
Cho nên lúc lên ngựa để thực hiện cái sứ mệnh nguy hiểm của mình, anh tự nhủ thầm.
Arthos là một nhân vật tiểu thuyết điển hình về lòng hào hiệp và độ lượng. Porthos là một bản chất tuyệt diệu nhưng rất dễ bị tác động. Aramis là một bộ mặt tượng hình, nghĩa là luôn luôn khó hiểu.
Ba cái phần tử ấy sẽ gây ra điều gì nếu ta không có ở đây để liên kết chúng lại với nhau?... Sự giải thoát cho giáo chủ chăng? Giải thoát giáo chủ là sự đổ vỡ tan tành những kỳ vọng của chúng ta, mà những kỳ vọng của chúng ta cho đến nay là phần thưởng duy nhất của hai mươi năm lập những kỳ công mà so với chúng thì những kỳ công của Hecquyn chỉ là những công trình của đám người chim chích.
Anh tìm đến Aramis và nói:
- Hiệp sĩ D Herblay thân mến ơi, anh là phái La Fronde hiện thân. Vậy anh hãy coi chừng Arthos, anh ấy không muốn làm những việc thuộc về cá nhân, ngay cả những công việc riêng tư của mình nữa. Nhất là hãy coi chừng Porthos, vì để làm vừa lòng bá tước mà anh ta coi như thần thánh ở dưới trần này, anh ta sẽ giúp Arthos giải thoát cho Mazarin, nếu Mazarin chỉ cần khóc lóc hoặc làm ra bộ hiệp khách.
Aramis mỉm một nụ cười vừa ranh mãnh vừa quả . Anh nói.
- Đừng sợ gì cả: tôi đặt ra những điều kiện. Tôi không làm cho tôi mà làm cho những người khác. Cái tham vọng nhỏ bé của tôi cũng phải thành đạt có lợi cho kẻ có quyền được hưởng chứ?
Tốt, - D Artagnan nghĩ, - Về mặt đó ta yên tâm.
Anh bắt tay Aramis và đến gặp Porthos:
- Bạn thân mến ơi, - anh nói. - Cậu đã cùng với tôi đổ bao nhiêu công sức ra để xây dựng cơ đồ của mình. Cho nên vào lúc chúng ta sắp sửa thu hoạch thành quả của công việc của mình, sẽ là một sự mắc lỡm kỳ cục đối với cậu nếu để cho Aramis lấn át mình. Aramis là một người tinh ranh, nhưng ta nói riêng với nhau thôi, sự tinh ranh ấy không phải lúc nào cũng không mang tính ích kỷ đâu. Hoặc chớ để Arthos lấn át, anh ấy là người cao thượng và vô tư, nhưng cũng là người chán đời, chẳng còn mong muốn gì cho riêng mình, nhưng không hiểu rằng người khác có những ao ước. Cậu sẽ nói thế nào nếu Arthos hoặc Aramis đề nghị cậu để Mazarin đi?
- Tôi sẽ nói rằng chúng tôi quá cực nhọc đề bắt lão ta, nên không thể thả lão ra như vậy được.
- Hoan hô Portho! Và cậu nói đúng đấy. Vì rằng thả lão ra là cậu buông thả luôn cả cái tước hiệu Nam tước của mình. Ấy là chưa kể ra khỏi đây Mazarin sẽ treo cổ cậu.
- Được! Cậu cho là thế à?
- Tôi chắc chắn như vậy.
- Thể thì tôi thà giết chết lão hơn là để cho lão thoát.
- Có lẽ cậu nói đúng. Cậu biết rằng khi chúng ta làm những công việc của mình thì không phải là cốt làm những việc của những người Fronde, họ hiểu những vấn đề chính trị không giống như chúng ta là những người lính cựu đâu.
- Bạn thân mến ơi, - Porthos nói. - Đừng sợ. Qua cửa sổ tôi nhìn cậu lên ngựa và dõi theo cậu cho đến lúc khuất, rồi tôi sẽ vào ngồi ở cái cửa kính trông sang phòng giáo chủ. Tại đấy, tôi sẽ nhìn thấy hết, và chỉ cần thấy một cử chỉ khả nghi thôi là tôi sẽ tiêu diệt.
- Hoan hô! - D Artagnan nghĩ bụng. - Về mặt ấy, ta tin rằng giáo chủ sẽ bị canh gác cẩn thận.
Và anh bắt tay vị lãnh chúa Pierrefonds, rồi đến tìm Arthos. Anh nói:
- Arthos thân mến ơi, tôi đi đây. Tôi chỉ có một điẽu nói với anh thôi. Anh biết rõ Anne d Autriche rồi đấy. Điều bảo đảm duy nhất cho tính mạng của tôi là sự giam giữ Mazarin; nếu các anh thả hắn ra là tôi chết đấy.
- D Artagnan thân mến ơi, - Arthos nói, - chỉ cần một duyên cớ ấy thôi cũng để tôi làm cái nghề gác ngục. Tôi xin hứa là cậu để giáo chủ ở đâu thì cậu sẽ tìm thấy lại ông ta ở đấy.
D Artagnan thầm nghĩ:
"Điều ấy làm ta yên tâm hơn tất cả mọi chữ ký của vua, chúa. Bây giờ, đã có lời hứa của Arthos rồi, ta có thể ra đi".
Thực sự, d Artagnan ra đi một mạch không có hộ tống nào khác ngoài thanh gươm và tờ thông hành đơn giản của Mazarin để đến chỗ Hoàng hậu.
Sau khi rời Pierrefonds sáu tiếng đồng hồ, anh tới Saint-Germain.
Việc Mazarin mất tích vẫn chưa ai biết. Chỉ riêng Anne d Autriche biết tin và giấu giếm đi nỗi lo ngại của mình với cả những người thân. Người ta đã tìm thấy ở trong phòng d Artagnan và Porthos hai tên lính bị trói và bịt miệng. Người ta cứu cho chúng ngay, nhưng chúng chẳng biết nói gì hơn ngoài điều chúng biết, nghĩa là chúng đã bị tóm, bị trói và bị lột quần áo như thế nào.
Nhưng còn sau khỉ d Artagnan và Porthos đã ra ngoài bằng lối chúng vào, tình hình ra sao thì chúng cũng mù tịt như mọi người khác ở trong lâu đài.
Chỉ có Bernouin là có biết hơn những người khác chút ít.
Chuông điểm nửa đêm rồi mà không thấy chủ mình trở về, hắn bèn đi vào khu vườn cam xem. Cửa đầu tiên bị chặn bằng các đồ đạc đã gây cho hắn đôi điều nghi ngờ, nhưng hắn không nói cho ai biết và kiên nhẫn dọn đường đi qua đống lộn xộn ấy. Rồi khi đến hành lang hắn thấy các cánh cửa đều mở tung. Cửa phòng Arthos và cửa đi ra vườn cũng mở. Ra vườn thì dễ nhận ra những dấu chân trên tuyết nối nhau ra đến tận bức tường. Sang bên kia tường lại vẫn thấy những dấu chân ấy, rồi vết chân ngựa giẫm tại chỗ, rồi dấu tích của cả một toán kỵ binh đi xa về phía d Enghien.
Từ lúc ấy hắn không còn nghi ngờ gì nữa rằng ông giáo chủ đã bị ba người tù bắt cóc mang đi, và hẳn vội chạy về Saint-Germain để báo cho hoàng hậu về sự mất tích ấy.
Anne d Autriche dặn Bernouin phải giữ kín việc đó và hắn nghiêm chính tuân theo. Tuy nhiên bà có nói cho ngài Hoàng thân Condé biết và ông ta đã lập tức tung ra năm sáu trăm kỵ binh với mệnh lệnh sục sạo tất cả những vùng xung quanh và dẫn về Saint-Germain mọi toán người dời Rueil đi ra bất cứ hướng nào.
Do d Artagnan không đi thành toán mà đi một mình lại đi tới Saint-Germain, cho nên chẳng ai chú ý tới anh và chuyến đi của anh chẳng bị trở ngại gì.
Khi vào đến sân của toà lâu đài cổ, người đầu tiên trông thấy vị sứ giả lại chính là Bernouin, hắn ta đang đứng một mình ở ngưỡng của chờ đợi tin tức của ông chủ mất tích.
Nhìn thấy d Artagnan cưỡi ngựa nghễu nghện đi vào trong sân danh dự, Bernouin dụi mắt ngỡ mình trông lầm. Nhưng d Artagnan gật đầu chào thân thiện, xuống ngựa và ném dây cương vào tay một tên hầu đi ngang qua. Anh mỉm cười tiến đến chỗ Bernouin.
Giống như một kẻ đang mơ một cơn ác mộng vừa ngủ vừa nói, hắn kêu lên:
- Ông d Artagnan! Ông d Artagnan!
- Tôi đây, ông Bernouin ạ!
- Thế ông đến đây làm gì?
- Mang đến đây tin tức của ngài Mazarin, mà tin tức mới nhất cơ đấy!
- Thế ngài ấy ra sao rồi?
- Vẫn khỏe như ông và tôi.
- Không có chuyện gì tai hại xảy đến với ngài chứ?
- Tuyệt đối không. Ngài chỉ cảm thấy cần phải làm một chuyến đi ra khỏi Ile de France và đã yêu cầu bá tước de La Fère, ông Du Vallon và tôi cùng đi. Là tôi tớ của ngài, chúng tôi chẳng thể nào từ chối một yêu cầu như vậy. Chúng tôi ra đi tối hôm qua và chúng tôi đây rồi.
- Các ông đây rồi?
Các hạ có chuyện cần nói với Hoàng hậu, một chuyện riêng tư và bí mật, một sứ mệnh chỉ có thể uỷ thác cho một người chắc chắn, cho nên ngài đã phải tôi về Saint-Germain. Vậy thì, ông Bernouin thân mến ơi, nếu ông muốn làm một điều gì đó vui lòng chủ của ông, thì hãy trình báo với Hoàng thượng rằng tôi đến và đến vì mục đích gì.
Dù anh nói nghiêm chính hay là nói bông đùa, thì trong tình huống hiện giờ, rành rành chỉ có d Artagnan là người duy nhất có thể gỡ mối băn khoăn lo lắng cho Anne d Autriche, cho nên Bernouin chẳng gây khó khăn gì và vào trình với Hoàng hậu cái chức đại sứ kỳ quặc kia và như hắn đã dự đoán, Hoàng hậu ra lệnh đưa d Artagnan vào ngay.
D Artagnan tiến lại phía nữ chúa của mình với tất cả biểu hiện của niềm cung kính sâu xa nhất.
Đến cách Hoàng hậu ba bước, anh quỳ một chân xuống và trình bức thư.
Như chúng tôi đã nói, đó là một bức thư đơn giản, nửa là thư giới thiệu nửa là thư uỷ nhiệm. Hoàng hậu đọc, nhận thấy đúng là chữ của giáo chủ, mặc dầu chữ viết hơi run. Do bức thư không kể gì chuyện đã xảy ra, bà hỏi anh những chi tiết.
D Artagnan kể lại với cái vẻ chất phác và giản dị mà anh rất khéo biểu lộ trong một số trường hợp. ...
Càng nghe kể Hoàng hậu càng nhìn anh với nỗi kinh ngạc tăng dần. Bà không hiểu sao một người dám âm mưu làm một việc ghê gớm như vậy và nhất là hắn ta lại cả gan kể nó ra với một bà hoàng đầy quyền uy và hầu như nghĩa vụ là phải trừng phạt hắn.
D Artagnan kể chuyện xong, Hoàng hậu tức đỏ mặt kêu lên:
- Ông dám thú nhận tội ác của ông và kể lại cho tôi nghe việc phản bội của ông à?
- Xin Lệnh bà xá lỗi, nhưng hình như tôi đã diễn đạt tồi hoặc Hoàng thượng hiểu sai tôi, chứ trong chuyện này không hề có tội ác hoặc phản bội. Ngài Mazarin bắt giam ông duy Vallon và tôi, bởi vì chúng tôi không thể ngờ rằng ngài phải chúng tôi sang nước Anh cốt chỉ để yên lặng xem người ta chém đầu vua Charles đệ nhất, anh rể của cựu vương đã khuất là chồng Lệnh bà, vua Charles là chồng của bà Henriette em chồng Lệnh bà và hiện là khách của Lệnh bà, và chúng tôi đã làm hết sức mình để cứu tính mạng của ông vua tuẫn tiết. Cho nên chúng tôi tin chắc rằng trong chuyện này có điều gì lầm lẫn mà chúng tôi là nạn nhân, và một sự biện giải giữa chúng tôi với Các hạ là cần thiết. Muốn cuộc biện giải có kết quả, nọ phải tiến hành một cách lặng lẽ, xa những kẻ quấy nhiễu. Vì vậy chúng tôi đã đưa ngài giáo chủ đến lâu dài của một bạn tôi, và ở đó chúng tôi biện giải với nhau. Thế đấy, thưa Lệnh bà, điều chúng tôi dự đoán đã đến, đúng là có sự nhầm lẫn. Ngài Mazarin đã tưởng rằng chúng tôi phục vụ tướng Cromwell, chứ không phục vụ vua Charles vì như vậy sẽ là một điều hổ nhục từ chúng tôi lan sang ngài, và từ ngài sang Hoàng thượng, một điều hèn nhát có thể làm hoen ố đến tận nguồn gốc vương vị của quý hoàng tử vẻ vang. Do chúng tôi đã nêu ra chứng cớ trái ngược lại, và chứng cớ ấy chúng tôi sẵn sàng trình bày với đích thân Hoàng thượng bằng cách kêu với bà quả phụ tôn nghiêm đang than khóc trong vùng Louvre mà lòng đại độ cao quý của Hoàng thượng đã dung nạp. Chứng cớ ấy đã hoàn toàn thoả mãn ngài giáo chủ đến mức để chứng tỏ sự hài lòng ấy, ngài đã phái tôi đến đây như Hoàng thượng thấy đấy để thưa với Lệnh bà về những điều sửa chữa cần thiết đối với những người quí tộc đã bị đánh giá sai và ngược đãi một cách sai lầm.
- Tôi đã nghe và khâm phục ông đấy, - Anne d Autriche nói. - Kể ra, tôi chưa thấy một sự trâng tráo thái quá đến như vậy.
- Ấy, thưa Hoàng thượng, - D Artagnan nói, - Đến lượt Lệnh bà lại lầm lẫn về ý đồ của chúng tôi như ngài Mazarin đã mắc.
- Chính ông đang sai lầm đấy, - Hoàng hậu nói,
- Và tôi sai lầm rất ít đến nỗi trong mươi phút nữa ông sẽ bị bắt giữ và trong một giờ nữa, tôi sẽ dẫn đầu quân đội của tôi đi giải thoát cho tể tướng của tôi.
- Tôi chắc rằng, - D Artagnan đáp, - Hoàng thượng sẽ không khi nào phạm điều khinh suất như thế đâu. Trước hết vì việc làm ấy không những là vô ích và nó sẽ đẫn đến những hậu quả thật nghiêm trọng. Trước khi được giải thoát, ngài giáo chủ sẽ chết, và Đức ông, rất tin tưởng sự thật của điều mà tôi nói với ngài, đến nỗi trái lại, ngài đã van tôi là nếu thấy Hoàng thượng ở trong những trạng thái như thế này thì tôi phải làm mọi điều có thể để Lệnh bà thay đổi chủ trương.
- Thế thì tôi đành bằng lòng với việc cho bắt giữ ông vậy.
- Tôi không mong gì hơn, thưa Lệnh bà, vì rằng trường hợp bắi giữ tôi cũng được tiên liệu như trường hợp giải thoát ngài giáo chủ. Nếu ngày mai tới giờ đã định mà tôi chưa trở về thì ngày kia, ngài giáo chủ sẽ được đưa tới Paris.
- Này ông, người ta thấy rõ ràng, do địa vị của ông, ông sống xa mọi người và mọi sự, vì nếu không thì ông đã biết rằng ngài giáo chủ đã năm sáu lần về Paris kể từ khi chúng tôi rời khỏi đó, và ngài đã gặp các ông de Beaufort, de Bouillon, d Elbeuf, ông chủ giáo và chẳng một ông nào có ý định bắt giữ ngài.
- Xin lỗi Lệnh bà, tôi biết tất cả những điều đó. Cho nên bạn bè tôi sẽ chẳng đưa ngài Mazarin đến chỗ các vị ấy đâu. Các vị ấy làm chiến tranh là vì lợi ích của chính họ, và nếu ban cho họ cái mà họ yêu cầu thì ngài giáo chủ sẽ mua được rất lợi. Trái lại các bạn của tôi sẽ dẫn ngài Mazarin đến Nghị viện mà chắc chắn người tà có thể mua lẻ, còn bản thân ngài Mazarin thì chẳng khá giàu để có thể mua cả mớ.
Với cái nhìn khinh thị ở một người đàn bà và trở thành khủng khiếp ở một nữ hoàng, Anne d Autriche nói:
- Tôi ngỡ rằng ông doạ nạt người mẹ Đức vua của ông.
- Thưa Lệnh bà, - D Artagnan nói:
- Tôi doạ nạt bởi vì người ta cưỡng bách tôi làm thế. Tôi lớn lên bởi vì tôi cần phải đứng ở tầm cao của các sự kiện và con người. Nhưng xin Lệnh bà hãy tin một điều cũng đúng như có một trái tim đang đập vì Lệnh bà trong lồng ngực này, hãy tin rằng Lệnh bà là một thần tượng vĩnh hằng của cuộc đời chúng tôi mà Lệnh bà biết đấy, lạy Chúa, chúng tôi đã đem mạo hiểm hàng chục lần vì Hoàng thượng. Nào, thưa Lệnh bà, phải chăng Lệnh bà sẽ không đoái thương những bầy tôi của mình từ hai chục năm trời nay sống vất vưởng trong bóng tối, dù trong một tiếng thở dải cũng không thể lọt ra một điều bí mật thiêng liêng và trân trọng mà họ đã có vinh dự được chia sẻ với Lệnh bả. Xin Lệnh bà hãy nhìn tôi kẻ đang nói với Lệnh bà đây, kẻ mà Lệnh bà cáo buộc là lớn tiếng và buông giọng doạ nạt. Tôi là cái thá gì kia chứ? Một sĩ quan khốn khổ không có tài sản, không có nơi nương tựa, không có tương lai, nếu như con mắt nữ hoàng của tôi mà tôi tìm kiếm khá lâu rồi, không nhòm ngó đến tôi một lát. Xin hãy nhìn bá tước de La Fère, một điển hình của lòng cao thượng, một đoá hoa của tinh thần nghĩa hiệp. Ông ta đã vào phe chống lại Hoàng hậu, không, đúng ra là chống lại tể tướng, và tôi tin là ông ta chẳng có đòi hỏi gì hết. Cuối cùng, xin hãy xem ông Du Vallon, tấm lòng trung thành ấy, cánh tay sắt thép ấy ông ta đợi chờ từ hai mươi năm nay từ miệng Lệnh bà một tiếng thôi có thể bằng tấm huy hiệu khiến ông ta trở thành cái mà ông ta rất xứng đáng về tinh thần và tài năng. Cuối cùng xin hãy xem đám dân chúng kia, họ quan trọng đối với một nữ hoàng lắm chứ, đám dân chúng ấy yêu quí Lệnh bà, tuy nhiên họ đau khổ. Lệnh bà yêu quý họ, tuy nhiên họ đói rách, họ không đòi hỏi gì hơn là cầu phúc cho Lệnh bà, tuy nhiên họ... không, tôi nói nhầm, không bao giờ dân chúng oán trách Lệnh bà. Vậy thì xin Lệnh bà nói một lời và mọi việc xong xuôi, hoà bình thay thế chiến tranh niềm vui thay thế nước mắt, hạnh phúc thay thế thảm hoạ.
Với vẻ ngạc nhiên. Anne d Autriche ngắm nhìn gương mặt võ thượng của d Artagnan, trên đó có thể đọc được một biểu hiện xúc động lạ lùng.
- Sao ông không nói ra tất cả điều đó trước khi hành động? - bà hỏi.
- Thưa Lệnh bà, vì cốt để chứng minh với Hoàng thượng một điều mà Người còn nghi ngờ, hình như vậy. Ấy là chúng tôi hãy còn một giá trị nào đó, và người ta có coi trọng chúng tôi chừng nào thì cũng là đúng đắn thôi.
- Thế cái giá trị ấy. - Anne d Autriche hỏi - Tôi xem chừng nó chẳng lùi bước trước cái gì cả, có phải không?
D Artagnan đáp:
- Trong quá khứ nó đã không lùi bước trước bất cứ cái gì, tại sao trong tương lai nó lại không như vậy?
- Trong trường hợp bị từ chối, và do đó trong trường hợp chiến đấu, liệu cái giá trị ấy có đi đến bắt cóc cả tôi ngay giữa triều đìth để nộp tôi cho La Fronde, như ông định nộp tể tướng của tôi không?
D Artagnan đáp với vẻ hợm mình kiểu Gascon mà ở anh chỉ là sự chất phác:
- Thưa Lệnh bà, chúng tôi không bao giờ nghĩ đến điều ấy, nhưng nếu giữa bốn người chúng tôi đã quyết định, thì chắc chắn là chúng tôi sẽ làm.
- Ta cần biết điều ấy, - Anne d Autriche lẩm bẩm, - Đó là những con người thép.
- Chao ôi! Thưa Lệnh bà, - D Artagnan nói, điều này chứng tỏ với tôi rằng chỉ đến hôm nay Hoàng thượng mới có một ý nghĩ đứng đắn về chúng tôi.
- Được, Anne noi, - nhưng nếu cuối cùng tôi đã có được ý nghĩ ấy.
- Thì Hoàng thượng sẽ thừa nhận sự công bằng cho chúng tôi. Thừa nhận cho chúng tôi, Lệnh bà sẽ không còn đối đãi với chúng tôi như những kẻ tầm thường. Lệnh bà sẽ thấy ở tôi một vị đại sứ xứng đáng với những lợi ích cao cả mà ông ta đã được giao phó để thảo luận với Lệnh bà.
- Bản hiệp ước đâu?
Anne d Autriche xem qua bản hiệp ước mà d Artagnan đưa trình. Bà nói:
Tôi chỉ thấy những điều kiện chung thôi. Những quyền lợi của các ông de Conti, de Beaufort, de Bouillon, d d Elbeuf, và ông chủ giáo đều có ghi. Nhưng còn điều kiện của các ông đâu?
- Thưa Lệnh bà, chúng tôi thừa nhận mình trong khi đặt mình vào tầm cao của mình. Chúng tôi nghĩ rằng tên tuổi của chúng t ô không đáng ghi vào bên cạnh những đại danh ấy.
- Nhưng tôi đoán rằng ông chẳng từ chối trình bày với tôi nhưng yêu sách của ông bằng lời.
- Thưa Lệnh bà, tôi nghĩ rằng Lệnh bà là một nữ hoàng vĩ đại và quyền thế, và chắc là sẽ chẳng xứng đảng với sự vĩ đại và quyền thế ấy, nếu không khen thưởng xứng đáng những cánh tay sẽ đưa Các hạ về Saint-Germain.
- Đó là ý định của tôi, nói đi.
- Xin lỗi Lệnh bà, tôi bắt đầu bằng tôi, nhưng cần phải nêu rõ tầm quan trọng của tôi, tôi không vơ lấy nó nhưng người ta đã ban cho tôi. Đối với con người đã thương lượng việc chuộc lại ngài giáo chủ thì việc khen thưởng không thể dưới tầm của Hoàng thượng và người đó phải được phong làm chỉ huy thị vệ, đại khái như là đại uý ngự lâm quân.
- Đó là chức vị của ông de Treville mà ông yêu cầu đấy.
- Chức vị ấy hiện nay khuyết, thưa Lệnh bà, từ một năm nay ông de Treville rời bỏ nó và chưa có ai thay thế.
- Nhưng đó là một trong những chức vụ quân sự hàng đầu của hoàng gia.
- Ngài de Treville xưa cũng chỉ là một thiếu sinh bình thường ở xứ Gascogne như tôi thôi, và cũng giữ chức vụ đó hai mươi năm.
- Cái gì ông cũng đối đáp được cả, - Anne d Autriche nói.
Và cầm một tấm bằng ở trên bàn giấy bà điền vào rồi ký.
D Artagnan đỡ lấy tấm bằng, cúi mình thi lễ và nói:
- Thưa Lệnh bà, tất nhiên đây là một phần thưởng đẹp đẽ và cao quí; nhưng mọi việc ở trên đời này đều đầy bất trắc, và một người khi Reuil vào sự thất sủng của Hoàng thượng thì hôm sau mất luôn cái chức vụ đó.
Đỏ mặt lên vì cái trí não kia cũng tinh tế như trí não của bà và thấy suốt tâm địa bà, bà nói:
- Vậy thì ông muốn gì nào?
- Một trăm nghìn livrơ cho cái gã đại uý ngự lâm quân khốn khổ này, được trả ngay mà công việc phục vụ của hắn không vừa lòng Hoàng thượng nữa.
Anne ngập ngừng, d Artagnan nói tiếp:
- Tôi xin phép Lệnh bà hãy lưu ý rằng, hôm nọ theo phán quyết của nghị viện dân chúng Paris treo giải thưởng sáu trăm nghìn livres cho ai đem nộp ngài giáo chủ còn sống hay chết sống thì đem treo cổ, chết thì kéo ra bãi đổ rác?
- Thôi được, thế cũng là phải chăng, - Anne d Autriche nói,
- Vì rằng ông chỉ đòi ở một hoàng hậu có một phần sáu số tiền mà nghị viện đề ra.
Và bà ký một điều ước cấp một trăm nghìn livres.
- Rồi sao nữa, - bà hỏi.
- Thưa Lệnh bà, ông bạn Du Vallon của tôi giàu, có do đó không ao ước của cải, nhưng tôi nhớ rằng giữa ông ấy và ngài Mazarin có bàn vấn đề phong Nam tước cho lãnh địa của ông ấy. Tôi còn nhớ rõ đó là một điều đã hứa hẹn.
- Một tên nông dân thô lỗ ấy à? - Anne d Autriche nói, - Người ta sẽ cười cho.
- Được - D Artagnan nói. - Nhưng tôi tin chắc một điều, ấy là kẻ nào cười trước mặt ông ấy sẽ không cười được hai lần đâu.
- Thôi được, cho cái tước vị ấy, - Anne d Autriche nói và ký luôn.
- Bây giờ còn hiệp sĩ hoặc tu viện trưởng D Herblay, xin tuỳ Thánh thượng gọi.
- Ông ta muốn làm giám mục à?
- Không ạ, ông ta mong muốn một điều dễ dãi hơn.
- Điều gì?
- Ấy là Đức vua hạ cố làm cha đỡ đầu cho con trai bà de Longueville.
Hoàng hậu tủm tỉm cười.
- Thưa Lệnh bà, - D Artagnan nói, - Ông de Longueville là dòng dõi hoàng gia.
- Phải, nhưng con ông ta?
- Thưa Lệnh bà, đứa con trai ấy... cũng thế chứ ạ, bởi vì chồng của mẹ nó đã như vậy.
- Thế bạn của ông không yêu cầu thêm gì cho bà de Longueville à?
- Thưa Lệnh bà, không ạ, bởi vì ông ấy đoán rằng Đức vua khi nhận làm cha đỡ đầu cho đứa trẻ, không thể không tặng cho mẹ nó nhân lễ mừng giải cữ một món quà dưới năm trăm nghìn livres, và tất nhiên vẫn giữ cho cha nó quyền cai trị xứ Normandie.
- Về quyền cai trị xứ Normandie, tôi nghĩ có thể cam kết, - Hoàng hậu đáp, - Nhưng về khoản năm trăm nghìn livrơ, thì ngài giáo chủ không ngớt nhắc nhở tôi rằng không còn tiền bạc trong các quỹ của Nhà nước nữa.
- Thưa Lệnh bà, nếu Người cho phép, chúng ta sẽ cùng đi tìm kiếm và chúng ta sẽ tìm thấy.
- Còn gì nữa.
- Dạ, hết rồi ạ.
- Ông chẳng có một người bạn đồng đội thứ tư nào?
- Có chứ ạ; bá tước de La Fère.
- Ông ta xin gì.
- Không xin gì cả.
- Không xin gì ư?
- Không.
- Trên đời này có một người có thể đòi hỏi mà không đòi hỏi gì ư?
- Thưa Lệnh bà, có bá tước De La Fère; ông ta không phải là một con người.
- Vậy là gì?
- Bá tước de La Fère là một nữa của Thánh.
- Ông ta chẳng có một con trai, một cậu thiếu niên, một người họ hàng, một đứa cháu đấy ư? Ông Comminger đã nói với tôi về cậu ta như một chàng trai dũng cảm, cậu ta đã cùng ông de Châtillon mang về những lá cờ ở mặt trận Lens mà.
- Như Hoàng thượng nói, ông ta có một đứa con nuôi tên là tử tước de Bragelonne.
- Nếu người ta ban cho cậu ta một trung đoàn, thì người cha đỡ đầu sẽ nói gì?
- Có thể ông ấy sẽ đồng ý.
- Có thể à?
- Vâng, nếu như đích thân Hoàng thượng yêu cầu ông ấy nhận.
- Đúng như ông nói, đấy là một con người kỳ lạ. Được rồi, chúng tôi sẽ suy nghĩ thêm và chúng tôi có thể nói với ông ta. Ông hài lòng chứ?
- Vâng, thưa Hoàng thượng. Nhưng có một điều mà Người chưa ký.
- Điều gì?
- Mà điều ấy lại là quan trọng nhất.
- Việc chấp thuận bản hoà ước?
- Vâng.
- Để làm quái gì? Ngày mai tôi sẽ ký.
- Có một điều mà tôi ngỡ có thể khẳng định với Hoàng thượng, - D Artagnan nói,
- Đó là nếu như Hoàng thượng không ký phê chuẩn bản hiệp ước hôm nay thì sau này sẽ không có dịp để ký nữa. Vậy tôi van xin Lệnh bà ký, ở dưới bản hiệp ước đó có câu hoàn toàn do ngài Mazarin viết, như Lệnh bà thấy đấy.
"Tôi bằng lòng phê chuẩn bản hiệp ước do nhân dân Paris đề nghị".
Anne bị tiến tới rồi không thể lùi, đành phải ký.
Nhưng vừa ký xong, thì lòng kiêu hãnh nổ ra ở bà như một cơn giông tố, và bà bưng mặt khóc nức nở.
Nhìn những giọt nước mắt ấy, d Artagnan rùng mình. Ngay từ thời ấy các bà hoàng khóc lóc như những người đàn bà tầm thường.
Chàng Gascon lắc đầu. Những giọt lệ vương hầu ấy thiếu đốt lòng anh. Anh quỳ xuống và nói:
- Xin Lệnh bà hãy nhìn gã quý tộc khốn khổ đang quỳ dưới chân Người, hắn xin Người hãy tin rằng chỉ một cử chỉ của Hoàng thượng thôi là hắn có thể làm tất cả để vui lòng Người! Hắn tự tin ở mình, hắn tin ở bè bạn, hắn cũng muốn tin ở nữ hoàng của mình và chứng cớ là hắn không sợ hãi gì hết, hắn không lợi dụng gì hết, hắn sẽ dẫn ngài Mazarin trở về với Hoàng thượng không điều kiện gì hết. Đây, thưa Lệnh bà, đây là những chữ ký thiêng liêng của Hoàng thượng, nếu như Lệnh bà thấy cần phải đưa cho tôi thì Lệnh bà sẽ làm. Nhưng từ giờ phút này trở đi: những chữ ký ấy không ràng buộc gì Lệnh bà nữa.
Và d Artagnan vẫn quỳ, với cái nhìn rừng rực niềm kiêu hãnh và lòng táo tợn nam nhi, anh đưa lại cho Anne d Autriche cả mớ giấy tờ mà anh mất bao công sức mới giành giật được từng tờ một.
Nếu như ở trên đời này tất cả không phải đều tốt, và tất cả không phải đều xấu, thì có những lúc, trong những trái tim khô cằn và lạnh giá nhất, nhờ được tưới bằng những giọt lệ của một nỗi xúc động cao độ sẽ nảy mầm một tình cảm khoan dung hào hiệp, mà sự tính toán và lòng kiêu ngạo sẽ bóp nghẹt ngay, nếu một tình cảm khác không chiếm lấy nó ngay khi mới ra đời.
Anne đang ở trong một lúc như thế, d Artagnan nhượng bộ trước nỗi xúc động của bản thân mình, hoà nhịp với nỗi xúc động của Hoàng hậu, anh đã hoàn tất công trình của một thuật ngoại giao sâu sắc Anh lập tức được đền bù về tài khéo léo hoặc lòng tận tụy của mình, tuỳ theo người ta muốn làm vinh dự cho trí não hoặc con tim anh về cái động cơ nó khiến anh hành động.
Anne nói:
- Ông nói đúng. Tôi đã không biết đến ông. Đây là những văn bản đã ký mà tôi trao lại cho ông một cách tự do. Hãy đi đi và nhanh chóng đưa ông giáo chủ trở về.
- Thưa Lệnh bà, - D Artagnan nói, - Tôi có trí nhớ và nhớ rằng cách đây hai mươi năm, đứng sau tấm thảm ở Toà Đô sảnh, tôi đã có vinh dự được hôn lên một trong hai bàn tay tuyệt mỹ kia.
- Vậy thì bàn tay kia đây, - Hoàng hậu nói, và để bàn tay trái không kém rộng rãi như bàn tay phải (bà tháo ở ngón tay một chiếc nhẫn kim cương gần giống chiếc nhẫn ngày xưa đã ban cho d Artagnan), - Xin ông hãy cầm lấy và giữ chiếc nhẫn này để nhớ đến tôi.
D Artagnan vừa đứng lên vừa nói:
- Thưa Lệnh bà, bây giờ tôi chỉ còn một ao ước, ấy tôi điều đầu tiên Lệnh bà đòi hỏi ở tôi sẽ là tính mạng tôi.
Và với cái phong thái chỉ có ở riêng anh, anh đứng dậy và đi ra.
Nhìn d Artagnan rời chân, Anne d Autriche lẩm bẩm:
- Ta đã quên những con người này, nhưng bây giờ ta dùng họ thì quá muộn rồi, trong một năm nhà vua sẽ thành niên.
Mười lăm tiếng đồng hồ sau, d Artagnan và Porthos đưa Mazarin trở về với Hoàng hậu và một người lĩnh tấm bằng đại uý ngự lâm quân, một người nhận tờ sắc phong Nam tước.
- Thế nào, các ông hài lòng chứ? - Anne d Autriche hỏi.
D Artagnan nghiêng mình, Porthos tay mân mê tờ sắc phong của mình, mắt nhìn Mazarin.
- Còn điều gì nữa. - Mazarin hỏi.
- Thưa Đức ông, còn điều hứa hẹn tặng huân chương trong kỳ thăng thưởng đầu tiên.
- Ông Nam tước ơi, - Mazarin đáp,
- Ông biết rằng không thể được tặng huân chương, nếu không có những bằng chứng về tài năng.
- Ồ! Thưa Đức ông, - Porthos nói. - Tôi xin cái dải huân chương màu xanh, có phải cho tôi đâu?
- Thế cho ai? - Mazarin hỏi.
- Cho bạn tôi, bá tước De La Fère.
- Ô! - Hoàng hậu nói, - Ông ấy lại là chuyện khác. Những bằng chứng đã có rồi.
- Ông ấy sẽ có?
- Ông ấy đã có.
Cùng ngày hôm ấy, hiệp ước Paris được ký kết và khắp nơi người ta đồn rằng tể tướng đã ở lỳ trong nhà ba hôm để thảo bản hiệp ước cho thật kỹ.
Hiệp ước ấy đã mang lại quyền lợi cho mỗi người như sau:
- Ông de Conti được hưởng xứ Damvilliers, và do chứng tỏ tài năng như một vị tướng, ông được ở lại làm quân nhân và không trở thành giáo chủ. Hơn nữa, người ta đã buông vài lời về sự kết hôn với một người cháu gái của Mazarin. Vài lời ấy được Hoàng thân rất hoan nghênh, đối với ông thì cười ai cũng không can hệ, miễn là người ta cưới vợ cho ông(1).
- Ông de Beaufort trở về triều đình với tất cả những sự bồi thường về việc người ta đã lăng nhục ông và những quyền cao chức trọng mà thử vị của ông có quyền đòi hỏi. Người ta cũng miễn xá hoàn toàn và đầy đủ cho những người đã giúp ông vượt ngục, để cho ông thừa hưởng tước vị đô đốc mà quận công de Vendôme cha ông đã giữ, và một khoản tiền bù cho những ngôi nhà và lâu đài của ông mà nghị viện xứ Bretagne đã cho phá huỷ.
- Quận công de Bouillon được nhận những lãnh địa ngang giá với thái ấp của ông ở Sedan; một khoản bồi thường những lợi tức của thái ấp ấy mà ông không được hưởng trong tám năm, và danh hiệu hoàng thân được ban cho ông và những người trong gia đình.
- Quận công de Longueville được hưởng quyền cai trị Pont de l Arche, năm trăm nghìn livres cho vợ và có vinh dự thấy con trai mình được ông vua trẻ và cô công chúa trẻ Henriette Anh quốc đỡ trên những tấm gấm trong buổi lễ rửa tội.
Aramis chỉ định Bazin sẽ hành lễ trong buổi lễ long trọng và Planchet sẽ cung cấp bánh kẹo.
- Quận công d Elbeuf được người ta cấp một số tiền cho vợ, một trăm nghìn livrơ cho con trai cả, còn ba đứa sau mỗi đứa được hai mươi lăm nghìn livrơ.
Chỉ có ông chủ giáo chẳng được gì cả. Người ta hứa với ông sẽ thương lượng với giáo hoàng về chiếc mũ giáo chủ cho ông, nhưng ông hiểu rõ mình sẽ xây dựng được cái gì trên những lời hứa hẹn của hoàng hậu và giáo chủ. Trái hẳn lại ông de Conti, không thể trở thành giáo chủ, ông buộc vẫn là người kiếm cung.
Cho nên trong khi toàn thể Paris vui mừng về việc Đức vua trở về ấn định vào ngày hôm sau nữa, thì giữa niềm hoan lạc chung ấy, ông chủ giáo de Gondy hết sức bực bội, đến nỗi ông sai đi tìm ngay tức khắc hai người mà ông thường có thói quen cho gọi đến khi ông ở trong những trạng thái tinh thần như vậy.
Hai người ấy, một là bá tước dờ Rochefort, người kia là gã ăn mày ở nhà thờ Saint- Eustache.
Họ đến rất đúng giờ như thường lệ, và ông chủ giáo đàm đạo vơi họ trong đêm hôm ấy.
Chú thích:
(1) vì ông ta bị gù lưng.
-*-*-*-
Chương 96
Do đâu mà chứng minh rằng đối với các ông vua trở lại kinh đô vương quốc đôi khi lại còn khó khăn hơn là ra khỏi kinh đô
Trong khi d Artagnan và Porthos đưa tể tướng đến Saint-Germain, thì Arthos và Aramis chia tay họ ở Saint-Denis và trở về Paris.
Mỗi người có việc đi viếng thăm riêng của mình.
Vừa tới Paris là Aramis chạy ngay đến Toà đô sảnh nơi bà de Longueville ở. Nghe tin tức đầu tiên về hoà bình, bà quận công xinh đẹp kêu toáng lên. Chiến tranh đã khiến bà trở thành nữ hoàng, hoà bình dẫn đến sự thoái vị của bà, bà tuyên bố rằng chẳng bao giờ bà ký vào bản hiệp ước và bà muốn một cuộc chiến tranh muôn thuở.
Nhưng khi Aramis trình bày nền hoà bình ấy dưới ánh sáng thật sự của nó nghĩa là với tất cả những lợi lộc; khi anh chỉ rõ rằng đánh đổi cái vương vị bấp bênh kia mà Paris không thừa nhận lấy cái phó vương vị Pont de l Arche, tức là toàn bộ xứ Normandie; khi anh làm vang lên bên tai bà năm trăm nghìn đồng livres mà tể tướng hứa; khi anh làm lấp lánh trước mặt bà niềm vinh dự được thấy vua đỡ đứa con bà trong lễ rửa tội, thì bà de Longueville chỉ còn phản đối theo thói quen của những người đàn bà xinh đẹp thường hay phản đối và chỉ còn chống cự chiếu lệ để rồi đầu hàng.
Aramis giả vờ tin rằng sự phản đối ấy là có thực và không muốn trước mắt bà tức bỏ đi cái công trạng đã thuyết phục được bà.
- Thưa bà, - anh nói, - bà muốn một lần nữa đánh lại ngài hoàng thân anh bà, nghĩa là người chỉ huy tài giỏi nhất của thời đại, và khi mà những người phụ nữ tài năng muốn, họ vẫn thành công. Bà đã thành công, ngài Hoàng thân bị thua vì rằng ngài không thể làm chiến tranh được nữa. Bây giờ hãy kéo ông ấy về phe đảng của ta. Cứ nhẹ nhàng tách ông ra khỏi hoàng hậu mà ông không thích và khỏi Mazarin mà ông khinh rẻ. La Fronde là một vở hài kịch mà chúng ta mới diễn có màn đầu. Ta hãy chờ ông Mazarin ở đoạn kết, tức là ngày mà ngài hoàng thân, nhờ ở bà, sẽ quay ra chống lại triều đình.
Bà de Longueville bị thuyết phục. Cái bà quận công Fronde ấy rất tin tưởng ở quyền lực của đôi mắt tuyệt đẹp của mình đến nỗi không hoài nghi về tác động của nó ngay đến cả ông de Condé anh bà, và sử sách châm biếm của thời ấy cho rằng bà đã không quá tự phụ.
Chia tay Aramis ở Hoàng trường, Arthos đến ngay bà de Chevreuse. Đây lại là một nữ Fronde phải thuyết phục, nhưng bà này khó thuyết phục hơn đối thủ trẻ của bà. Hịệp ước không qui định một điều kiện nào có lợi cho bà cả. Ông de Chevreuse chẳng được cử làm tổng đốc một tỉnh thành nào. Và nếu như hoàng hậu nhận làm mẹ nuôi thì chỉ là đối với cháu trai hoặc cháu gái của ông mà thôi.
Cho nên vừa mới nghe đến tiếng hoà bình, bà de Chevreuse chau mày và mặc dầu mọi luận lý của Arthos để chứng minh rằng một cuộc chiến tranh lâu dài hơn là không thể được bà vẫn khăng khăng ủng hộ chiến tranh.
- Bà bạn xinh đẹp ơi - Arthos nói, - Tôi xin phép nói rằng trong khi tất cả thiên hạ chán nản chiến tranh, có lẽ trừ có bà và ngài chủ giáo, còn tất cả mọi người mong muốn hoà bình. Bà sẽ lại bị lưu đày như thời vua Louis XIII. Xin hãy tin tôi, chúng ta đã qua cái tuổi những thành công về âm mưu, và cặp mắt huyền diệu của bà không phải sinh ra để lại tan trong nước mắt than khóc Paris, ở Paris bao giờ cũng sẽ có hai hoàng hậu chừng nào bà còn ở đó.
- Ôi - Bà quận công nói, - Tôi không thể làm chiến tranh một mình, nhưng tôi có thể trả thù cái bà hoàng hậu bội bạc ấy và cái lão sủng thần tham lam kia, và... Xin lấy danh dự nữ quận công mà thề rằng tôi sẽ trả thù.
- Thưa bà, - Arthos nói,
- Tôi van xin bà, đừng tạo một tương lai xấu cho de Bragelonne, anh ta đã được tiến cử, ngài hoàng thân muốn điều tốt lành cho anh ta, anh ta còn trẻ, hãy để cho một ông vua trẻ gây dựng. Chao ôi! Xin lỗi bà về sự yếu đuối của tôi; đến một lúc nào đó con người ta hồi sinh và trẻ lại trong con cái mình.
Bà quận công mỉm cười nửa thân thương, nửa giễu cợt và nói:
Arthos nói thật, anh không biết điều yêu cầu của Porthos và không biết rằng anh sẽ có một dải huân chương khác nữa.
- Ôi ta trở thành bà già mất? - Bà công tước mơ màng nói Arthos cầm lấy tay bà và hôn lên. Bà nắm anh mà thở dài nói:
- Bá tước ơi, Bragelonne chắc là một nơi ở rất đẹp. Ông là người phong nhã, ắt là ở đấy có nước non hùng vĩ, có rừng núi hữu tình,
Bà lại thở dài và tì cái đầu tuyệt mỹ lên bàn tay uốn cong lại một cách duyên dáng vẫn thon thả và nuột nà.
- Thưa bà, - bá tước nói, - Lúc nãy bà nói gì vậy? Chưa bao giờ tôi thấy bà trẻ đẹp đến thế.
Bà công tước lắc đầu.
- De Bragelonne có ở lại Paris không? - bà hỏi.
- Bà nghĩ thế nào về nó? - Arthos hỏi.
- Hãy để nó cho tôi, - Bà bảo.
- Không được đâu. Nếu bà quên câu chuyện về Ơđíp ( Oedipe)(1) thì tôi vẫn nhớ.
- Sự thật là ông rất dễ thương, bá tước ạ, và tôi muốn ở chơi Bragelonne một tháng.
- Bà không sợ là sẽ làm cho khối người ghen tỵ với tôi hay sao? - Arthos đáp một cách phong nhã.
- Không, tôi sẽ đi kiểu vi hành, dưới cái tên Marie Michon.
- Bà thật đáng quý.
- Nhưng ông đừng cho Raoul về ở với ông.
- Tại sao vậy?
- Vì nó yêu đương.
- Nó ấy à, một đứa trẻ con.
- Cho nên nó cũng yêu một đứa bé gái đấy thôi.
Arthos trở nên đăm chiểu. Anh nói:
- Bà nói đúng, bà công tước ạ. Mối tình lạ lùng đối với một con bé bảy tuổi có thể một ngày kia làm cho nó khốn khổ. Sắp có đánh nhau ở Flandre, nó sẽ đi đấy.
- Khi nó trở về, ông gửi nó đến tôi, tôi sẽ bọc áo giáp cho nó để chống lại ái tình.
- Chao ôi, thưa bà, ngày nay ái tình cũng giống như chiến tranh và áo giáp trở thành vô ích.
Vừa lúc ấy Raoul vào. Anh đến báo với bá tước và bà công tước rằng bá tước de Guise bạn anh đã cho anh biết rằng cuộc lễ long trọng đón vua, hoàng hậu và tể tướng sẽ cử hành vào ngày hôm sau.
Quả thật, hôm sau, từ mờ sáng, triều đình đã tấp nập sửa soạn rời Saint-Germain.
Từ chiều hôm trước Hoàng hậu đã cho mời d Artagnan đến và bảo:
- Này ông, người ta nói với tôi là Paris không yên tĩnh. Tôi lo ngại cho vua. Vậy ông hãy đi kèm ở cửa xe bên phải nhé.
- Xin Lệnh bà hãy yên trí, - D Artagnan đáp, - Tôi xin đảm nhận việc bảo vệ Đức vua.
Anh chào hoàng hậu, và đi ra.
Vừa ra khỏi cửa, anh gặp Bernouin đến báo cho anh biết rằng tể tướng đang đợi anh vì có những việc quan trọng. Anh lập tức đến đấy.
- Này ông, - giáo chủ nói, - người ta đang đồn về chuyện nổi loạn ở Paris. Tôi sẽ ngồi ở bên trái Đức vua. Do tôi là người chủ yếu bị đe doạ, ông sẽ đi ở cửa xe bên trái nhé.
- Xin Đức ông cứ yên tâm, - D Artagnan đáp, - Người ta sẽ không dụng đến một sợi tóc của ngài đâu.
Ra ngoài tiền sảnh, d Artagnan tự nhủ thầm.
- Chết thật? Mình làm sao gỡ ra được đây. Mình không thể vừa ở cửa xe bên trái lại vừa ở cửa xe bên phải. À, được rồi, mình sẽ canh vua, còn Porthos canh giáo chủ.
Sự thu xếp ấy vừa lòng mọi người, kể cũng là hiếm có. Hoàng hậu tin cậy ở lòng dũng cảm của d Artagnan mà bà đã biết rõ; còn tể tướng tin cậy ở sức mạnh của Porthos mà ông đã được thử thách.
Đoàn ngự giá lên đường về Paris theo thứ tự định sẵn. Gitaud và Comminger dẫn đầu đội thị vệ đi trước. Rồi đến xe nhà vua, hai bên cửa xe có d Artagnan và Porthos. Rồi đến ngự lâm quân, những người bạn cũ của d Artagnan từ hai mươi năm nay, mà anh là trung uý từ hai mươi năm và là đại uý từ hôm qua.
Tới cửa ô, cỗ xe được chào bằng những tiếng hô lớn: "Đức vua muôn năm!"; "Hoàng hậu muôn năm". Vài tiếng hô "Mazarin muôn năm!" xen lẫn, nhưng không có tiếng vang.
Đoàn xe đi đến nhà thờ Đức Bà nơi sẽ tổ chức lễ Tạ ơn
Tất cả dân chúng Paris đổ ra đường phố. Người ta đã bố trí lính Thuỵ Sĩ suốt dọc dường đi, nhưng vì đường rất dài, nên chỉ có thể đặt cách bảy, tám bước một người. Hàng rào ấy rõ ràng là không đủ, và thỉnh thoảng lại bị một đợt sóng dân chúng xô vỡ, rất khó khăn mới dựng lại được.
Từ một năm nay vắng mặt Nhà vua và Hoàng hậu, cho nên nhân dân Paris ao ước gặp lại và có xô đổ hàng rào bảo vệ cũng là do thiện ý thôi; nhưng mỗi lần như vậy Anne d Autriche lại nhìn d Artagnan với vẻ lo lắng, nhưng anh làm yên tâm bà bằng một nụ cười.
Mazarin đã chi tiêu một nghìn louis để vận động người ta hô "Mazarin muôn năm!" và đánh giá những tiếng hô đã nghe thấy không đáng hai mươi pistol, cũng lo sợ nhìn Porthos. Nhưng anh chàng vệ sĩ khổng lồ đáp lại bằng một giọng trầm rất tuyệt: "Đức ông yên trí", nên Mazarin mỗi lúc một vững dạ hơn.
Đến Hoàng cung người ta thấy dân chúng càng đông hơn nhiều.
Họ từ các phố tiếp giáp đổ vào quảng trường, và như con sông rộng nổi sóng, tất cả làn sóng người ấy đi đón xe vua, và chảy ầm ầm vào phố Saint-Honoré.
Khi xe tới quảng trường nhiều tiếng hô lớn: "Các đức Hoàng thượng muôn năm!" vang lên. Mazarin cúi xuống cửa xe. Vài ba tiếng hô: "Tể tướng muôn năm!" chào ông, nhưng lập tức bị dập tắt một cách thảm hại bởi những tiếng huýt sáo và la ó. Mazarin tái mặt đi và vội lùi lại phía sau.
- Đồ súc sinh! - Porthos lẩm bẩm.
D Artagnan không nói năng gì, nhưng vân vê ria mép với một cử chỉ đặc biệt nó chứng tỏ rằng cái khí chất vui vẻ Gascon của anh bắt đầu bốc nóng.
Anne d Autriche ghé tai ông vua trẻ và nói thầm:
- Con hãy tỏ ra nhã nhặn và nói vài lời với ông d Artagnan.
Ông vua trẻ quay ra phía cửa và nói:
- Ông d Artagnan ơi, tôi chưa chào ông, nhưng tôi vẫn nhận ra ông đấy. Chính ông đã đứng sau rèm màn giường tôi cái đêm mà dân Paris muốn đến xem tôi ngủ ấy mà.
- Và tiểu đức vua cho phép, - D Artagnan đáp, - Chính tôi sẽ gần Người tất cả nhưng khi nào có một mối nguy hiểm đe doạ.
Mazarin bảo Porthos:
- Này ông ơi, nếu tất cả cả cái đám đông kia ùa đến chúng ta thì ông sẽ làm gì?
- Thưa Đức ông, - Porthos đáp, - Tôi sẽ giết họ đến mức nhiều nhất.
- Hừm! - Mazarin nói, - dù thật dũng cảm và lực lưỡng như ông, ông cũng không thể giết hết tất cả.
Porthos đứng lên bàn đạp để xem cho rõ dân chúng đông chừng nào và nói.
- Đúng đấy, họ đông vô kể.
- Có lẽ ta thích ông kia hơn, - Mazarin nói.
Và ông ngồi thụt vào lòng xe.
Hoàng hậu và nhất là tể tướng cảm thấy lo ngại cũng đúng thôi.
Đám dân chúng vẫn giữ bề ngoài cung kính và quý mến nhà vua và bà nhiếp chính, bắt đầu nhốn nháo ồn ào. Người ta nghe thấy những tiếng rì rào ầm ĩ khi lướt trên mặt sóng nó báo hiệu một cơn giông tố, và khi lướt trên đám dân chúng nó báo hiệu một cuộc bạo loạn.
D Artagnan quay lại phía ngự lâm và nháy mắt làm hiệu: đám đông không nhận ra, nhưng cái đội ngũ ưu tú kia thì hiểu rõ quá đi.
Các hàng ngựa siết chặt lại và một cơn rùng mình nhè nhẹ chạy qua khắp mọi người.
Đến cửa ô Sergents đoàn hộ giá buộc phải dừng lại.
Comminger rời khúc đầu của đoàn hộ giá mà anh ta phụ trách và đến cỗ xe Hoàng hậu. Bà đưa mắt hỏi d Artagnan, anh cũng đáp lại bằng mắt.
- Cứ tiến lên, - Hoàng hậu đáp.
Comminger trở lại vị trí của mình. Người ta xô đẩy và rào chắn cửa ô đổ sập.
Mấy tiếng xì xào từ đám đông nổi lên và lần này nhằm cả vua lẫn tể tướng.
- Tiến lên! - D Artagnan cất tiếng hô.
- Tiến lên! - Porthos đáp lại.
Đám đông chỉ chờ đợi có sự thị uy ấy để bùng nổ, nên tất cả những tình cảm chứa chất trong họ cũng nổ ra đồng thời. Từ khắp phía vang lên những tiếng hô "Đả đảo lão Mazarin?", "Giết chết giáo chủ đi?".
Cùng lúc ấy từ phía Grenelle Saint-Honoré và phố du Coq, hai dòng thác người ùa đến và bẻ gẫy cái hàng rào lính Thụy Sĩ mỏng manh và cuồn cuộn đến tận chân ngựa của d Artagnan và Porthos.
Sự xô tràn lần này nguy hiểm hơn mấy lần trước và nó bao gồm những người vũ trang và còn vũ trang tốt hơn cả những người dân thường mọi khi báo động.
Người ta thấy phong trào này không phải là tác dụng của sự tình cờ đã tụ tập một số kẻ bất mãn trên cùng một điểm, mà là sự phối hợp của tinh thần thù nghịch đã tổ chức một cuộc tấn công.
Hai khối dân chúng ấy do thủ lĩnh chỉ huy, một người không có vẻ thuộc dân chúng mà thuộc đoàn thể danh giá của các vị hành khất; người kia thì mặc dầu cố bắt chước điệu bộ của dân chúng, người ta vẫn dễ dàng nhận ra một nhà quý tộc.
Hiển nhiên là cùng một xung lực đã thúc đẩy hai người hành động.
Có một chấn động rất mạnh truyền đến cả cỗ xe vua; rồi hàng nghìn tiếng la hét hợp thành một tiếng ồn ào xao động xen lẫn vài ba tiếng súng nổ.
- Ngự lâm quân đến đây? - D Artagnan hô to.
Đoàn hộ giá tách ra làm hai hàng, một sang phía bên phải cỗ xe và một sang phía bên trái, chạy đến hỗ trợ d Artagnan và Porthos.
- Thế là cuộc chiến nổ ra, càng khủng khiếp hơn do nó không có mục đích, càng thê thảm hơn do người ta không biết mình chiến đấu làm gì và cho ai.
Chú thích:
(1) Theo thần thoại Hy Lạp, Ơđíp là con vua Latiôx và Jôcaxtơ. Được nhà tiên tri cho biết là sau này Ơp sẽ giết cha và lấy mẹ. Laitiôx cho vứt con đi. Ơíp được những người chăn cừu cứu và đưa sang nuôi ở xứ khác. Ơđíp lớn lên, do tình cờ mà giết bố, rồi cưới mẹ. Sau này vỡ lẽ ra, Jôcaxtơ tự tử, còn Ơđíp tự móc mắt và cùng con gái bỏ ra đi.
Giống như mọi chuyển động của đám tiện dân, sự va chạm của đám đông này thật ghê gớm. Ngự lâm quân ít người, không thẳng hàng ở giữa đám đông ấy, không thể cho ngựa đi lại, bắt đầu bị tổn thương.
D Artagnan muốn hạ những tấm rèm ở xe, nhưng ông vua trẻ đã giơ tay ra và bảo:
- Không, ông d Artagnan, tôi muốn xem.
- Nếu Hoàng thượng muốn xem - D Artagnan nói, - thì xin Người cứ nhìn.
Và với nỗi tức giận khiến anh trở thành rất khủng khiếp, d Artagnan quay lại và nhảy vọt đến người thủ lĩnh của đám dân nổi loạn, ông ta một tay cầm súng ngắn, một tay cầm thanh gươm rộng bản đang đánh nhau với hai lính ngự lâm đề mở một đường đến tận cửa xe.
- Tránh ra, mẹ kiếp! - D Artagnan hét lên, - tránh ra!
Nghe tiếng kêu người thủ lĩnh kia ngẩng đầu lên, nhưng muộn quá rồi; d Artagnan đã đâm trúng và lưỡi gươm của anh xuyên qua ngực ông ta.
- A! Thôi chết rồi! - D Artagnan cố ghìm tay kiếm nhưng quá muộn - Bá tước đến đây để làm quái gì thế này!
- Để hoàn tất số phận của tôi, - Rochefort nói và khụyu chân xuống. - Tôi đã hồi phục sau ba nhát kiếm của ông, nhưng sẽ không hồi phục được sau nhát kiếm thứ tư này.
- Bá tước ơi, - D Artagnan xúc động nói. - Tôi đã đâm mà không biết là ông. Nếu như ông chết mà chết với nỗi thù hằn tôi thì tôi ân hận vô cùng.
Rochefort giơ tay cho d Artagnan. Anh cầm lấy.
Bá tước muốn nói, nhưng một bụm máu trào lên làm nghẹn lời ông. Sau một cơn co giật cuối cùng ông cứng người lại và tắt thở.
- Lùi lại, đồ súc sinh? Thủ lĩnh của chúng bay chết rồi, chúng bay chẳng còn gì để làm ở đây nữa.
Thật vậy, bá tước Rochefort là linh hồn của cuộc tiến công vào phía bên này sườn xe vua, tất cả đám dân chúng đã đi theo ông và phục tùng ông, bây giờ trông thấy ông ngã bèn bỏ chạy. Cùng với hai chục lính ngự lâm, d Artagnan truy kích đến phố Con gà trống, thì cái bộ phận này của cuộc nổi loạn tan như mây khói, tản mát trên quảng trường Saint-Germain và chạy ra phía bờ sông.
D Artagnan trở lại để hỗ trợ cho Porthos nếu bạn thấy cần, nhưng về phía mình Porthos đã làm xong công việc của anh với cùng một ý thức như d Artagnan.
Phía trái của cỗ xe được dọn quang không kém phía phải và người ta đang vén tấm rèm cửa mà Mazarin kém hiếu chiến hơn vua đã thận trọng hạ xuống.
Porthos có vé rầu rĩ lắm.
- Làm sao mặt cậu ìu xìu thế kia, Porthos? - D Artagnan hỏi.
- Thật lạ lùng đối với một kẻ chiến thắng.
- Thì cậu cũng thế thôi, - Porthos đáp. - Trông cậu có vẻ xúc động lắm!
- Mẹ kiếp! Tôi vừa giết một người bạn cũ.
- Thật à. Ai thế?
- Cái ông bá tước Rochefort tội nghiệp ấy?
- Thế thì cũng giống tôi, tôi vừa giết một người mà khuôn mặt không phải xa lạ với tôi. Tiếc thay tôi đã đập vào đầu và trong giây lát mặt hắn đầm đìa máu...
- Thế khi ngã xuống hắn không nói gì à?
- Có chứ hắn đã kêu... ối?
D Artagnan không nhịn được cười, nói:
- Tôi hiểu rằng, nếu hắn không nói điều gì khác thì điều ấy ắt không làm sáng tỏ điều gì hơn cho cậu.
- Thế nào ông? - Hoàng hậu hỏi.
- Thưa Lệnh bà - D Artagnan đáp, - Đường đã hoàn toàn khai thông và hoàng thượng có thể tiếp tục đi.
Quả thật, cả đoàn hộ giá đến Nhà thờ Đức Bà mà không gặp trở ngại gì. Dưới cổng nhà thờ, tất cả giới giáo sĩ đứng đầu là ông chủ giáo đứng đợi nhà vua, hoàng hậu và tể tướng, và sắp hát Tạ ân mừng sự trở về may mắn của họ.
Trong khi hành lễ vào lúc sắp kết thúc, một thằng nhóc, mặt mũi nhớn nhác chạy vào Nhà thờ. Nhờ mặc bộ quân phục thùng thình, hắn rẽ đám đông đầy ngộn sân đến kho đồ thánh. Hắn thay quần áo mặc bộ lễ sinh và đến gần Bazin: Bác mặc chiếc áo dài màu xanh dương nhạt, tay cầm chiếc que bịt bạc, đứng trịnh trọng trước mặt tên lính Thụy Sĩ ở lối vào chỗ hát kinh.
Bazin cảm thấy có người kéo tay áo mình. Cặp mắt bác đang khoái lạc ngước lên trời bèn hạ xuống và nhận ra Friquet..
- Ơ kìa, thằng nhãi? - Bác phụ thủ nói. - Có gì mà mày quấy rầy tao lúc tao đang làm phận sự.
- Ông Bazin ơi - Friquet. đáp. - Ông biết ông Maillard, người dâng nước thánh ở nhà thờ Saint Eustache ...
- Có, thế sao?
Trong cuộc xô xát, ông ta đã xơi một nhát chuôi gươm vào đầu. Chính ông hộ pháp quần áo thêu ren mà ông trông thấy kia, đã nện đấy.
- Thật à! - Bazin nói. - Thế thì lão ta phải đau lắm đấy.
- Đau đến nỗi gần chết, và lão ta muốn rằng trước khi chết được xưng tội với ngài chủ giáo. Theo người ta nói thì ngài có quyền xá miễn cả những đại tội.
- Và lão hình dung rằng ngài chủ giáo sẽ bận lòng vì lão ư?
- Vâng, tất nhiên rồi, vì hình như ngài chủ giáo đã hứa hẹn với lão ta.
- Ai bảo mày thế?
- Chính lão Maillard.
- Mày gặp lão ấy?
- Tất nhiên, khi lão ngã thì tôi ở đấy mà.
- Mày làm gì ở đấy?
- Này nhé, tôi hô "Đả đảo Mazarin! Giết chết lão giáo chủ? Treo cổ tên người Ý!" Chẳng phải ông đã bảo tôi hô như thế ư?
- Có câm đi không, thằng nhãi! - Bazin vừa nói vừa lo ngại nhìn quanh mình.
- Thành thử cái lão Maillard tội nghiệp ấy bảo tôi: "Friquet., mày hãy đi tìm ông chủ giáo, và nếu mày dẫn ông ấy đến đây, tao sẽ cho mày là người thừa kế của tao". Cha Bazin ơi, hãy nói đi, kẻ thừa kế của ông Maillard, người dâng nước thánh ở nhà thờ Saint- Eustache, hèm! Tôi đành chịu khoanh tay! Mặc kệ, tốt muốn giúp cho lão ta việc ấy, ông bảo sao?
- Tao sẽ bảo với ông chủ giáo, - Bazin nói.
Thật vậy, bác bước thong thả và cung kính đến chỗ chủ giáo, khẽ nói vào tai ông mấy lời; ông đáp lại bằng một cái gật đầu. Rồi bước trở lại giống như lúc bước đi bác bảo Friquet..
- Mày về bảo với kẻ sắp chết rằng cứ kiên tâm, trong một, giờ nữa, Đức ông sẽ tới.
Vui mừng vì sứ mệnh của mình thành công, Friquet. chẳng cởi bỏ y phục lễ sinh - vả chăng với bộ y phục này nó có vẻ dễ dàng hơn - nó ra khỏi đại thánh đường và mở hết tốc lực nó chạy vào con đường đi tới Tháp Saint-Jacques- la-Boucherie.
Quả nhiên ngày lễ hát Tạ ân vừa xong, như đã hứa, ông chủ giáo chẳng cởi bỏ y phục giáo chức, cũng đi tới ngọn tháp cổ mà ông rất quen thuộc, ông đến kịp thời. Mặc dầu mỗi lúc một yếu sức đi, kẻ bị thương vẫn chưa chết...
Cửa căn phòng gã ăn mày hấp hối được mở ra.
Một lát sau. Friquet. đi ra, tay cầm một túi da lớn mà hắn mở ra xem ngay khi ra khỏi phòng, và hắn hết sức ngạc nhiên thấy đựng đầy vàng.
Gã ăn mày đã giữ lời hứa và cho hắn thừa kế.
- A! Mẹ Nanette ơi. - Friquet. nghẹn ngào kêu - A! Mẹ Nanette ơi!
Nó không thể nói gì hơn. Nhưng không đủ sức nói năng, nó lại có sức hành động. Nó ra phố chạy một cách tuyệt vọng. Và giống như người lính Hy Lạp chạy từ làng Marathon khi đến quảng trường Aten thì ngã gục xuống, cành nguyệt quế cầm trong tay, Friquet. chạy đến cửa, nhà ông tham nghị Broussel cũng ngã gục xuống làm vung vãi khắp sàn nhưng đồng louis vàng óng từ trong túi rơi ra.
- Bà mẹ Nanette nhặt những đồng louis trước, rồi sau mới đở Friquet. vào.
Trong thời gian ấy, đoàn hộ, giá đi vào hoàng cung. Ông vua trẻ nói:
- Mẹ ơi, ông d Artagnan thật là một người anh dũng.
- Đúng đấy con ạ. Ông ta đã từng làm nhiều việc lớn giúp cha con. Hãy giữ gìn ông ấy trong tương lai.
Khi bước xuống xe, ông vua nhỏ nói với d Artagnan:
- Ông đại uý, Hoàng hậu muốn tôi mời ông và Nam tước Du Vallon bạn ông đến ăn bữa trưa nay.
Đó là một vinh dự lớn cho d Artagnan và Porthos, cho nên Porthos mừng quýnh lên. Tuy nhiên trong suốt bữa ăn vị quý tộc danh giá ấy tỏ ra rất bận tâm.
Lúc xuống thang ở Hoàng cung, d Artagnan hỏi nhỏ:
- Nam tước ơi, có chuyện gì thế, cậu có vé băn khoăn suốt cả bữa ăn.
- Tôi cố nhớ xem, - Porthos đáp, - Kẻ ăn mày mà tôi chắc đã giết ấy, không biết tôi đã gặp ở đâu rồi thì phải.
- Thế cậu không nhớ ra nổi à?
- Không.
- Vậy thì cậu cứ nhớ xem, bạn ạ. Khi nào nhớ ra thì cậu sẽ nói cho tôi biết nhé.
- Mẹ kiếp! Bực thật! - Porthos nói.
-*-*-*-
Đoạn kết.
Khi trở về nhà, đôi bạn thấy một bức thư của Arthos hẹn gặp nhau ở khách sạn Grand-Roi-Charlemagne. vào sáng hôm sau. Hôm sau vào giờ đã định, họ đến chỗ Arthos và thấy anh cùng Aramis vận quần áo du hành.
- Này, Porthos nói, - chúng ta đi tất cả à? Tôi cũng vậy, tôi đã sửa soạn từ sáng nay rồi.
- Phải rồi, ôi lạy Chúa? - Aramis nói, - chẳng có việc gì phải làm ở Paris cả, khi mà phong trào La Fronde không còn nữa. Bà de Longueville có mời tôi qua chơi Normandie mấy ngày và nhờ tôi sửa soạn chỗ ở cho bà ở Rouen trong khi người ta làm lễ rửa tội cho con trai bà. Tôi đi làm xong mấy việc ấy; rồi sau đó nếu không có gì mới, tôi sẽ trở lại tu viện của tôi ở Noisy le Sec.
- Còn tôi, - Arthos nói, - tôi trở về Bragelonne. D Artagnan vẫn biết đấy, tôi chỉ còn là một gã nhà quê thật thà chất phác mà thôi. Raoul chẳng có tài sản nào khác ngoài tài sản của tôi, tội nghiệp thằng bé. Và tôi phải trông nom tài sản ấy, bởi vì tôi chỉ như là một kẻ cho mượn tên họ.
- Còn Raoul thì anh định cho nó làm gì? - D Artagnan hỏi.
- Tôi để nó cho cậu đấy, bạn ạ. Sắp sửa có chiến tranh ở Flandre, cậu sẽ mang nó đi theo. Tôi e rằng những ngày nghỉ ở Blois sẽ nguy hiểm cho cái đầu xanh non trẻ của nó. Cậu hãy đem nó đi và dạy dỗ cho nó thành dũng cảm và trung thực như cậu ấy.
- Còn tôi, - D Artagnan nói, - Tôi không có anh nữa, Arthos ơi, nhưng ít ra tôi sẽ có cái đầu tóc hoe thân yêu ấy. Và Arthos ạ; dù nó chỉ là một đứa bé, nhưng linh hồn anh hoàn toàn sống lại ở nó, và tôi luôn luôn tưởng tượng rằng anh vẫn luôn ở bên tôi, dẫn dắt tôi, nâng đỡ tôi.
Bốn người bạn ôm nhau, nước mắt rưng rưng.
Rồi họ chia tay không biết bao giờ mới lại gặp nhau.
D Artagnan trở lại phố Tiquetonne cùng với Porthos, Porthos vẫn băn khoăn cố nhớ xem kẻ bị anh giết là ai.
Khi về đến khách sạn "La Chevrette thì thấy xe ngựa của vị nam tước đã sẵn sàng và Mousqueton ngồi trên yên.
- Này, d Artagnan ơi, - Porthos bảo, - cậu hãy giải ngũ và về ở với tôi ở Pierrefonds, Bracieux hoặc Vallon: chúng ta sẽ cùng nhau sống đến già và nói chuyện về các bạn đồng đội của chúng ta.
- Không đâu! - D Artagnan đáp. - Gớm thật! Người ta sắp mở chiến dịch và tôi muốn tham dự, biết đâu chẳng kiếm chác được cái gì.
- Thế cậu mong trở thành gì đấy?
- Thống chế Pháp quốc, mẹ kiếp!
- Ái chà! - Porthos vừa nói vừa nhìn d Artagnan và những chuyện huênh hoang của chàng Gascon anh chẳng bao giờ bắt chước được hoàn toàn.
- Cậu cứ ở với tôi Porthos ạ, tôi sẽ cho cậu làm quận công.
- Không được - Porthos nói - Mousqueton không muốn đi đánh nhau nữa, với lại người ta đã sửa soạn cho tôi một lễ vinh qui long trọng, nó sẽ khiến cho bọn hàng xóm của tôi phải tức hộc máu ra.
Biết rõ sự tự phụ của nam tước mới, d Artagnan nói:
- Về điều này thì tôi chẳng có ý kiến gì nữa. Tạm biệt anh bạn.
- Tạm biệt đại uý thân mến, - Porthos nói, - cậu nhớ rằng khi nào cậu muốn đến thăm tôi, bao giờ cậu cũng sẽ là khách quí ở lãnh ấp nam tước của tôi.
- Được - D Artagnan đáp - đi trận về, tôi sẽ đến cậu.
- Ngựa xe của ngài Nam tước đang đợi ạ, - Mousqueton thưa.
Đôi bạn siết chặt tay nhau và từ giã nhau, d Artagnan đứng trước cửa mặt rầu rầu nhìn theo.
Porthos ra đi. Nhưng đi được hai chục bước, Porthos dừng phắt lại, vỗ lên trán và quay trở lại.
- Tôi nhớ ra rồi, - anh nói.
- Cái gì cơ? - D Artagnan hỏi.
- Gã ăn mày, mà tôi giết là ai nào? Đó là cái thằng súc sinh Bonacieux(1).
Và vui mừng vì đầu óc mình đã thanh thản, Porthos đuổi theo Mousqueton và cùng khuất ở góc phố. D Artagnan đứng yên lặng và trầm ngâm một lát. Rồi quay vào anh trông thấy mỹ nhân Madeleine đang đứng trước ngưỡng cửa, lo lắng về vinh quang mới của d Artagnan.
- Nàng Madeleine ơi, - chàng Gascon nói, - hãy dành cho tôi gian phòng ở lầu một; bây giờ tôi là đại uý ngự lâm quân rồi tôi cũng phải tỏ thế nào cho xứng đáng chứ. Nhưng vẫn cứ giữ cho tôi phòng ở lầu năm nhé, ai mà biết được điều gì có thể xảy ra.
Chú thích:
(1) Trong "Ba chàng ngự lâm" Bonacieux là một gã lái buôn vì tham tiền nhận làm do thám cho tể tướng Richelieu, đã tham gia bắt cóc và hãm hại vợ mình. Vợ Bonacieux là người hầu phòng của hoàng hậu Anne d Autriche, bảo vệ hoàng hậu và yêu d Artagnan sau bị Milady đầu độc.
Hết
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro