Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hai mươi năm sau 1~45

Hai mươi năm sau

Dịch giả: Anh Vũ

Lời giới thiệu

Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: VINGT ANS APRÈS - A. Dumas, Agence Parisienne de distribution, Paris Hai mươi năm sau là tập thứ hai trong thiên tiểu thuyết lịch sử gồm: "Ba người lính ngự lâm". "Hai mươi năm sau" và "Tử tước de Bragelonne" (hay Mười năm sau nữa).

Hai mươi năm sau diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử nước Pháp những năm 1648-1649 khi mà các nhân vật của tập truyện thứ nhất đã thêm hai mươi tuổi đời. Lúc ấy, giáo chủ tể tướng de Richelieu và vua Luis XIII đã chết, vua Louis XIV nối ngôi mới có mười tuổi. Hoàng hậu Anne d Autriche làm nhiếp chính và đưa người tình của mình là giáo chủ Mazarin gốc Ý lên làm tể tướng.

Tính tham lam, biển lận, xảo quyệt và những sự bóc lột tàn tệ của Mazarin cùng những hành vi chuyên quyền độc đoán của triều đình dấy lên lòng căm phẫn cao độ trong nhân dân và cả trong lớp hoàng thân, quý tộc bị chèn ép, khủng bố.

Thời gian ấy giai cấp tư sản ở châu Âu đã hình thành và phát triển, bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt với giai cấp phong kiến thống trị triều đình của nó. Ở nước Anh, một nước công nghiệp phát triển sớm và mạnh, cuộc cách mạng dân chủ tư sản do Olivier Cromwell lãnh đạo rồi lôi kéo được nghị viện và quân đội chống lại vua Charles I, lật đổ vương quyền và tuyên bố nền cộng hoà, gây ảnh hưởng vang dội đến tình hình các nước châu Âu, đặc biệt là Pháp. Tại Pháp, những tầng lớp tư sản giành được sự đồng tình của nghị viện và một số nhà quý tộc lại được nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thị dân, ủng hộ, đã lập ra phong trào La Fronde chống lại Mazarin và triều đình, gây lên những cuộc bạo loạn và dựng những luỹ chiến đấu nổi tiếng ở giữa Paris, buộc triều đình phải trốn khỏi kinh đô và đàm phán.

Trong bối cảnh lịch sử rối ren và sôi động ấy, Alexandre Dumas đưa các chàng ngự lâm quân quen thuộc của chúng ta trở lại sân khấu chính trị - xã hội. D Artagnan và Porthos phục vụ trong ngự lâm quân trực tiếp dưới quyền của tể tướng và hoàng hậu, còn Arthos và Aramis bí mật tham gia phong trào La Fronde. Những cuộc chạm trán bất ngờ và đọ kiếm nảy lửa giữa bốn người bạn tâm đắc thuộc hai phe đối lập tưởng như sẽ làm tan vỡ tình bằng hữu, trái lại lại đi đến củng cố tình bạn keo sơn sống chết có nhau. Vì bản chất của bốn con người ấy vẫn là trong sáng, nhân hậu, thuỷ chung, cùng yêu mến và căm ghét giống nhau, vì nghĩa lớn và tình riêng mà hành động, dù đường đi có khác nhau.

Tính cách của nhân vật được khắc hoạ trên các bối cảnh lịch sử đang trở dạ, sôi sục những cuộc bạo động và khủng bố, những cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa tư bản đang lên và chế độ phong kiến đang suy tàn.

Hoạt động của các chàng ngự lâm quân trong bộ truyện này gắn bó hơn với những sự kiện lịch sử và có thể nói, tham gia trực tiếp vào đó. Cái chất sôi nổi, lãng mạn, hùng tráng của họ trước kia phát triển thành sâu sắc, chín chắn và thực tế hơn, còn mang tính hiện thực đậm đà. Dù ở phe bên này hay phe bên kia, họ đều nhìn thấy sự thối nát của triều đình, bản chất xấu xa ti tiện của tể tướng, tính độc đoán, tàn bạo và bạc bẽo của hoàng hậu, sự suy vong của các vương triều, sự lợi dụng của những kẻ cầm đầu tranh thủ nhân dân để phục vụ lợi ích của chính mình. Qua lời nói của các chàng ngự lâm quân, tác giả đã nhận xét.

"Ở Pháp lúc này mọi thứ đều tồi tàn nhỏ mọn. Chúng ta có một ông vua mười tuổi chưa hiểu mình muốn gì. Chúng ta có một hoàng hậu mà nỗi đam mê muộn mằn khiến trở thành mù quáng. Chúng ta cỏ một tể tướng cai trị nước Pháp như cai quản một trang trại lớn, nghĩa là bận tâm xem ở đó vàng có mọc lên được không khi cày bừa nó bằng âm mưu và thói xảo quyệt Ý. Chúng ta có những ông hoàng gây sự chống đối có tính cách cá nhân và ích kỷ chẳng đi tới đâu ngoài việc moi từ tay Mazarin mấy thỏi vàng và vài mảnh quyền thế".

"Còn nhân dân thì sao?... Tội nghiêp cho những con người kia! Họ tiến ra chỗ chết để người ta trả lại đất Sedan cho ông de Buiông, để người ta ban quyền tập chức đô đốc cho ông de Beaufort, và để ngài chủ giáo được phong làm giáo chủ!"

"Dân chúng không kêu ca gì cho các vị hoàng thân, mà lại nổi dậy vì Broussel chính vì đây là một người thuộc tầng lớp bình dân, và bảo vệ Broussel dân chúng cảm thấy một cách tự nhiên rằng họ bảo vệ chính mình".

Sức mạnh của quần chúng nhân dân khi đã vùng lên là cơn bão táp ghê gớm, thậm chí chỉ một gã trùm ăn mày mà "Chẳng ai hồ nghi rằng hai bàn tay của hắn vừa mới giúp kéo ra khỏi toà kiến trúc xã hội hòn đá nền tảng của vương quyền".

Với thái độ thiện cảm, tác giả nhìn Olivier Cromwell như "một thủ lĩnh tài ba và vững vàng, kiên quyết chống lại một vương triều thối rữa và mọt ruỗng nó sắp sụp đổ một sớm một chiều như một túp lều cũ nát".

Viết tiếp "Hai mươi năm sau", A. Dumas chứng tỏ ngòi bút khoẻ khoắn, linh hoạt và sức tưởng tượng dồi dào, phong phú của mình. Vẫn những chàng ngự lâm kia nay đã sang tuổi trung niẻn, rất ít những chuyện đấu kiếm hoặc yêu đương, tập truyện vẫn hấp dẫn người đọc bằng sự kiện, những tình tiết luôn luôn bất ngờ, lý thú và hồi hộp, bằng hơi văn sinh động, tự nhiên, pha chút châm biếm mỉa mai. Tính cách mỗi nhân vật đều độc đáo, phát triển lôgích và đậm nét.

D Artagnan suốt hai chục năm ròng chỉ là một anh trung uý ngự lâm bị lãng quên, bạc đãi, vẫn là con người vừa trung hậu, tận tâm, vừa thực tế sắc sảo, bằng tài trí và mưu lược của mình nổi bật lên như một ngôi sao sáng mà bao kẻ quyền cao chức trọng khó bề sánh kịp.

Arthos mà lòng nhân ái và cao thượng đã thành truyền thuyết suốt đời, không màng danh lợi, không quản hy sinh, đến mức cứu cả kẻ tử thù và suýt mất mạng vì nó. Tuy nhiên mối tình bất ngờ và ngắn ngủi với bà công tước cải trang trên đường đi trốn, mang tính người hơn và tình phụ tử với đứa con chung - tử tước de Bragelonne - đã giải thoát anh khỏi nỗi thất vọng nặng nề của mối tình đầu thuở hoa niên bị đầu độc.

Aramis, con người khi là lính ngự lâm thì luôn luôn mơ ước được khoác áo tu viện trưởng, nhưng khi đã trở thành tu viện trưởng lại mang tính ngự lâm hơn bao giờ hết, vẫn thể hiện đúng bản chất nhất quán của mình và tự anh đã vạch trần những mặt trái nực cười của các tu viện và giáo chức.

Vẫn đáng yêu với tính huênh hoang chất phác nhưng bộc tuệch và chân thành của mình, chàng hộ pháp Porthos là một nét tương phản đặc sắc bổ sung cho hình tượng các chàng ngự lâm quân.

Mordount, đứa con trai sống sót của Milady, bước vào truyện với chí báo thù cho mẹ quyết liệt và dai dẳng như chính Milady hiện thân, là một bóng ma, một định mệnh luôn luôn đeo đẳng, ám ảnh, hãm hại các chàng ngự lâm quân và trở thành một đối tượng ghê gớm gây nên biết bao tai hoạ, biết bao tình huống gay go khốc liệt cho những địch thủ của mình, mang đầy kịch tính xuyên suốt cả cuốn truyện.

Những sự biến cách mạng ở Pháp và Anh thời bấy giờ thường sơ lược và khô khan trên các trang sử ký đã sống dậy dưới ngòi bút tài tình của A. Dumas, với nhũng quang cảnh, những con người, những tình tiết sinh động, linh hoạt, sôi nôí của những cuộc nổi dậy, những cuộc chinh chiến, những cuộc đấu tranh phức tạp, một mặt phơi bày tính chất phản động, xảo quyệt và ngoan cố của giai cấp thống tri, mặt khác làm nối bật khí thế dũng mãnh, hào hùng, hình ảnh cao đep của quần chúng cach mạng, nó như những cơn bão táp đầu tiên trong lịch sử làm rung chuyển nền móng của các ngai vàng và của mọi chế độ bóc lột. Rất thú vị là giống như trong nhiều tác phẩm của Victo Hugo, những cơn bão táp ấy làm thức dậy và lôi cuốn theo cả vào làn sóng cách mạng những tầng lớp "cặn bã" của xã hội, "những thằng nhóc Paris" đáng yêu và những đội quân hành khất bí hiểm và kỳ lạ.

Đọc "Hai mươi năm sau" chúng ta càng yêu mến các chàng ngự lâm và bùi ngùi cho số phận của họ, số phận của những con người. Cuộc đời của họ rồi sẽ ra sao? Họ vẫn gắn bó với lịch sử, sẽ sống với lịch sử, và cuốn hút chúng ta trong tập truyện cuối cùng "Tử tước de Bragelonne".

Anh Vũ

Dịch giả: Anh Vũ

Nguồn: NXB Văn Học, 2006

Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: "VINGT ANS APRÈS - A. Dumas, Agence Parisienne de distribution, Paris"

-*-*-*-

Chương 1

Bóng ma của Richelieu

Trong căn phòng của Cung giáo chủ mà chúng ta đã từng biết, bên chiếc bàn có góc thếp vàng trên chất đầy giấy tờ sổ sách, một người đang ngồi tì đầu lên hai bàn tay. Phía sau ông ta là một lò sưởi lớn đỏ rực lửa, những thanh củi bốc cháy đổ sụt trên những thanh sắt rộng vàng chóe. Ánh lò sưởi soi rọi phía sau bộ y phục lộng lẫy của con người trầm ngâm được ánh cây đèn thắp đầy nến chiếu sáng từ phía trước.

Cứ nhìn tấm áo dài đỏ tía và những thêu ren sang trọng ấy, nhìn vầng trán xanh xao vọng dưới những suy tư, nhìn cảnh quạnh hiu của căn phòng, sự yên tĩnh ở các tiền sảnh, bước đi đều đặn của lính vệ trên thềm, người ta có thể tưởng như vong hồn của cố giáo chủ tể tướng Richelieu (1) vẫn còn ngự trong phòng của ông ta.

Hỡi ơi! Quả thực đó chỉ là vong hồn của con người vĩ đại ấy. Nước Pháp suy yếu, quyền lực của nhà vua không dược biết đến, các quan đại thần lại mạnh lên và hiếu loạn. Kẻ thù lấn vào tận bên trong biên thuỳ, mọi thứ chứng tỏ rằng Richelieu không còn ở đây nữa.

Nhưng điều rõ hơn tất cả rằng tấm áo dài đỏ không phải là tấm áo của vị cố giáo chủ, ấy là sự cô đơn của một bóng ma hơn là một kẻ đang sống, ấy là những dãy hành lang vắng bóng các cận thần, những sân đầy những vệ sĩ, ấy là cái tinh thần nhạo báng bốc lên từ phố phường nó xuyên qua những cửa kính của căn phòng này đang bị lay động trước hơi thở của cả một kinh thành liên minh chống lại tể tướng, sau hết ấy là tiếng súng xa xa không ngớt dội về, may thay chỉ bắn vu vơ và không kết quả cốt làm sao cho bọn vệ sĩ, bọn lính gác Thuỵ Sĩ, đám ngự lâm quân và các binh lính bao quanh Hoàng cung - chính là Cung giáo chủ đã đổi tên - hiểu rằng nhân dân cũng có vũ khí.

Cái bóng ma ấy của Richelieu chính là Mazarin(2).

Vì chưng Mazarin đơn độc và tự cảm thấy mình hèn yếu.

Ông ta lẩm bẩm:

- Người ngoại quốc? Người Ý! Đấy những lời đao to búa lớn mà chúng buông ra! Với lởi ấy, chúng ta đã ám sát treo cổ, xé xác Concini (3) và nếu ta để mặc chứng, ắt chúng cũng sẽ ám sát ta, treo cổ ta, xé xác ta như vậy; mặc dù ta chẳng hề gây cho chúng một điều tai hại gì ngoài việc bóp nặn chúng một tí chút. Đồ ngu ngốc? Vậy là chúng không thấy rằng kẻ thù của chúng không phải lão người Ý này nói tiếng Pháp không sõi mà chính là cái bọn kia, họ có tài nói năng với chúng những lời hoa mỹ bằng cái giọng Paris thật là thuần tuý và tuyệt diệu.

- Phải rồi, phải rồi, - vị tể tướng nói tiếp và xảo quyệt cười, lần này cái cười có vẻ lạ lẫm trên đôi môi nhợt nhạt, - phải rồi, những tiếng đồn của các ngươi đã nói với ta điều đó, số phận của các sủng thần là bấp bênh, nhưng nếu các người biết điều đó thì các người cũng phải biết rằng ta đây, ta chẳng phải là một sủng thần tầm thường. Bá tước D Essex có một cái nhẫn tuyệt đẹp nạm đầy kim cương mà nữ hoàng tình nhân đã tặng: còn ta chỉ có một chiếc nhẫn bình thường với một con số ngày tháng(4), nhưng nó đã được ban phước tại tiểu thánh đường trong Hoàng cung, cho nên họ sẽ không phế bỏ ta theo nguyện vọng của họ. Họ chẳng nhận thẩy rằng với tiếng hô muôn thuở của họ: "Đả đảo lão Mazarin!" ta đã hô với họ, khi thì de Beaufort(5) muôn năm, khi thì ngài Hoàng thân muôn năm?

- Này! Ông de Beaufort đang ở Vinxen; Hoàng thân nay mai sẽ đến theo ông ta, còn nghị viện...

Đến đây, nụ cười của giáo chủ biểu hiện một vẻ thù hằn dường như không thể có được trên gương mặt vốn dịu dàng của ông.

- Nào! Nghị viện... Chúng ta xem xét sẽ làm gì cải nghị viện này. Có Orléans(5). Ồ! Ta sẽ để thì giờ xem xét. Song những ai đã hô đả đảo Mazarin cuối cùng sẽ phải hô đả đảo tẩt cả những kẻ đó, người nào phiên nấy. Richelieu khi còn sống bị bọn họ căm ghét và khi chết còn bị họ nhắc đến luôn trước kia còn thấp kém hơn ta, bới vì ông ta đã bị nhiều lần xua đuổi và luôn luôn nơm nớp còn bị xua đuổi nhiều hơn nữa. Hoàng hậu, chẳng bao giờ xua duổi ta đâu, còn nếu ta bị ép buộc phải nhượng bộ dân chúng thì nàng sẽ nhượng bộ cùng với ta; nếu ta chạy trốn, nàng cũng sẽ bỏ trôn và chúng ta sẽ thấy bọn phiến loạn xoay xở thế nào khi không có hoàng hậu, không có đức vua của họ. Ôi! Giá như ta không phải là người ngoại quốc, giá như ta là người Pháp, giá như ta là người quý tộc!

Và ông ta lại rơi vào trạng thái trầm ngâm.

Quá thật, tình thế đang khó khăn, và cái ngày vừa trôi qua càng thêm phức tạp. Luôn luôn bị tính biền lận bẩn thỉu thôi thúc, Mazarin chà siết dân chúng bằng thuế khoá, và dân chúng ấy chỉ còn lại có linh hồn như tổng trạng sư Talon nói, và hơn nữa, vì người ta không thể đem linh hồn ra bán tầm tầm, cho nên đám dân chúng mà người ta cố làm cho họ kiên nhẫn bằng tiếng đồn về những trận chiến thắng đã giành được, họ thấy những vòng nguyệt quế chẳng phải là thịt để có thể nuôi sống mình, đám dân chúng ấy từ lâu đã bắt đầu xì xào kêu ca.

Nhưng đó chưa phải là tất cả, vì khi dân chúng xì xào, triều đình không nghe thấy do nó vốn bị ngăn cách bởi giới thị dân và các nhà quý tộc Nhưng Mazarin đã dại dột đánh vào các pháp quan! Ông ta đã bán mười hai tờ chứng chỉ uỷ viên thỉnh nguyện, và do các án quan trả giá cho những chức vị của họ quá đắt và sự gia nhập của mười hai bạn đồng nghiệp kia tất làm giảm giá những chức vị đó, những án quan cũ đã hợp nhau lại, thề trước kinh Phúc âm là sẽ không chịu sự tăng thêm ấy và kháng cự lại mọi sự ngược đãi của triều đình; họ hứa hẹn với nhau là trong trường hơp một ngươi trong bọn họ do sự phản kháng ấy mà mất chức vị của mình thì họ sẽ cùng nhau đóng góp để hoàn lại tiền cho người ấy.

Đây là chuyện xảy ra từ hai phía đó:

Ngày bảy tháng Giêng, bảy đến tám trăm nhà buôn tập hợp và bị kích loạn về một khoản thuế mới mà người ta muốn đánh vào các trạch chủ, và họ đã cử mười đại biểu đến trình bày với quận công Orléans, người vốn có thói quen lấy lòng dân. Quận công tiếp họ và họ tuyên bố sẽ quyết định không đóng khoản thuế mới cho dù có phải dùng vũ lực chống lại quan quân của nhà vua đến thu thuế. Quân công Orléans lắng nghe với vẻ rất ân cần, làm họ hy vọng một sự giảm nhẹ nào dấy, hứa sẽ trình lại với hoàng hậu và đã tông biệt họ bằng lời nói thông thường của các ông hoàng: "Người ta sẽ xem xét".

Về phía mình, ngày mồng chín, các uỷ viên thỉnh nguyện của Tham chính viện đến gặp giáo chủ tể tướng, và một người thay mặt họ phát ngôn đã nói năng rất cương quyết và táo bạo đến nỗi giáo chủ sửng sốt; ông ta tống khứ họ ra và nói giống như quận công Orléans rằng người ta sẽ xem xét.

Thế là, để xem xét, người ta đã họp hội đồng và cho đi tìm quan Tổng giám tài chính d Emery.

Cái ông d Emery này bị dân chúng ghét cay ghét đắng, trước hết bởi vì ông ta là tổng giám tài chính, mà bất cứ tổng giám tài chính nào cũng đều bị ghét cả; sau nữa phải nôi rằng vì ông ta ít nhiều cũng xứng đáng bị ghét.

Ông ta là con trai một chủ ngân hàng thành Lyon tên gọi Particelli, sau khi bị vỡ nợ bèn đổi tên là d Emery. Nhân thấy ông ta có khả năng rất lớn về tài chính, giáo chủ de Richelieu đã tiến cử ông với vua Louis XIII dưới cái tên d Emery và do muốn phong ông làm giám quan tài chính nên đã nói rất tốt về ông ta.

- Hay tuyệt? - Nhà vua trả lởi. - Ta hài lòng là khanh trình với ta ông d Emery để tiến cử vào chỗ đòi hỏi một con người lương thlện. Ta nghe nói khanh tán trợ cái tên Particelli vô lại ấy, và ta lo khanh sẽ ép ta dùng hắn.

- Tâu hoàng thượng, - ngài giáo chủ đáp, - xin Hoàng thượng yên lòng, tên Particelli mà Hoàng thượng vừa nóỉ đến đã bị treo cổ rồi ạ

- A! Hay lắm! - Nhà vua reo lên. - Như vậy chẳng phải không dưng thiên hạ gọi là Louis Công minh.

Và ngài ký giấy bổ nhiệm ông d Emery. cũng vẫn cái ông d Emery ấy trở thành tổng giám tài chính. Người ta đi tìm ông theo lệnh tể tướng và ông chạy đến mặt tái mét và hốt hoảng, nói rằng con trai ông suýt bị ám sát ngay ban ngày giữa quảng trường Hoàng cung: đám đông gặp anh ta và chê trách sự xa hoa của vợ anh ta, mụ này có một căn nhà chăng nhung đỏ với những lụa ren bằng vàng. Đó là con gải của Lơ Camuy, tổng trưởng năm 1617. Ông này khi đến Paris chỉ có hai mươi livrơ, nay tự dành cho mình bốn mươi nghìn livrơ niên thu và vừa mới chia chín triệu cho các con.

Con trai d Emery suýt chết nghẹt vì một trong những người nổi loạn bắt phải ép hắn cho đến khi hắn phải nhả chỗ vàng đã ngốn.

Ngày hôm ấy Hội đồng chẳng quyết nghị được gì, vì viên tổng giám quá bấn bíu về sự cố đó nên chẳng còn bụng dạ nào mà bàn định.

Ngày hôm sau ông đệ nhất chủ tịch Nghị viên Mathieur Molé mà lòng quả cảm trong mọi công việc như giáo chủ de Retz nói, ngang với ngài quận công de Beaufort và ngài hoàng thân de Condé(7), nghĩa là hai người được coi như dũng cảm nhất nước Phảp, ngày hôm sau, đến lượt mình ông đệ nhất chủ tịch bị tiến công. Dân chúng đe doạ là ông ta phải gánh chịu trách nhiệm tất cá những tai hoạ mà người ta gây ra cho họ; nhưng với vẻ bình tĩnh thông thường, ông đệ nhất chủ tịch không xúc động và không kinh ngạc, ông đệ nhất chủ tịch đã trả lời rằng nếu những kẻ phiến loạn không tuân theo ý nhà vua, ông ta sẽ cho dựng những giá treo cổ ở các quảng trường để treo cổ ngay tức khắc những kẻ ngỗ ngược nhất trong bọn họ. Bọn này bên đáp lại rằng họ không yêu cầu gì hơn là dược trông thấy dựng lên những giá treo cổ, và chúng sẽ dùng để treo cổ những viên pháp quan tồi đã đi mua ân sủng của triều đình bằng giá sự khốn cùng của nhân dân.

Chưa hết, ngày mười hai, hoàng hậu đi dự lễ ở nhà thờ Đức Bà, việc bà thường làm đều đặn vào các ngày thứ bảy, thì hơn hai trăm phụ nữ bám theo vừa kêu la vừa xin được thừa nhận quyền lợi. Kể ra họ không có một ý đồ xấu nào, chỉ muốn quỳ trước hoàng hậu đề cầu bà rủ lòng thương; song vệ sĩ đã ngăn cản họ và hoàng hậu cứ ngạo mạn và kiêu hãnh đi qua mà chẳng để tai đến những tiếng kêu gào của họ.

Buổi chiều hội đồng họp và quyết nghị giữ vững quyền lực của nhà vua, do đó nghị viện được triệu tập vào ngày hôm sau tức ngày mười hai.

Ngày hôm ấy, cải ngày mà vào buổi chiều tối, chúng tôi mở đầu câu chuyện mới mẻ này, nhà vua khi ấy mới mười tuổi và vừa mắc bệnh thỷy đậu xong, mượn cớ đi nhà thờ Đức Bà để lễ tạ ơn bình phục, đã bố trí vệ sĩ, lính Thuỵ Sĩ và lính ngự lâm, rải quân xung quanh Hoàng cung, trên các kè và trên Cầu Mới, và sau khi nghe kinh misa, nhà vua bèn sang nghị viện. Ở đó trên một chiếc ngai ngự dựng bất ngờ, nhà vua không những giữ nguyên những chỉ dụ cũ mà còn đặt năm, sáu cái mới, tất cả những điều giáo chủ de Retz nói đều tai hại chẳng kém gì nhau. Đến nỗi ông đệ nhất chủ tịch như ta đã thấy, những hôm trước vẫn đồng tình với triều đình, mà nay cũng hết sức bất bình về cái cách đưa nhà vua đến Cung để tập kích và vi phạm sự tự do đầu phiếu.

Nhưng những người phản đối mạnh mẽ nhất những thuế khoá mới là ông chủ tịch Blancmensnil và ông tham nghị Broussel.

Các chỉ dụ đó ban xong, vua trở về Hoàng cung. Một trăm dân chúng đông nghịt đang đi trên dường, họ biết nhà vua từ nghị viện về, nhưng vì không biết nhà vua họp ở đó để thừa nhận quyền lợi của nhân dân hay để tiếp tục áp bức họ, nên không một tiếng kêu mừng rỡ nào vang lên khi vua đi qua để chúc mừng nhà vua đã bình phục. Trái lại, tất cả các gương mặt đều rầu rĩ và lo lắng; có vài người còn tỏ vẻ sừng sộ.

Mặc dầu nhà vua đã ra về, các toán lính vẫn ở nguyên tại chỗ: người ta lo ngại một cuộc bạo loạn bùng nổ khi biết kết quả phiên họp nghị viện; và quả nhiên, tiếng đồn vừa mới lan ra các phố rằng đáng lẽ phải giảm nhẹ thuế nhà vua lại tăng thêm thì các nhóm tập họp lại và những tiếng la hét vang ầm lên: "Đả đảo Mazarin? Broussel muôn năm! Blancmensnil muôn năm!" vì dân chúng biết rằng Broussel và Blancmensnil đã lên tiếng ủng hộ họ; và tuy tài hùng biện của các ông bị thất bại, họ vẫn tỏ lòng biểt ơn.

Người ta muốn giải tán các đám dân chúng, muốn dập tắt các tiếng kêu, nhưng càng thế các đám người càng đông lên và những tiếng kêu la càng tăng gấp bội. Lệnh vừa mới ban ra cho lĩnh ngự vệ và lính Thuỵ Sĩ, không những phải giữ vững, mà còn phải đi tuần tra trong các phố Saint-Denis và Saint-Martin, nơi các đám người có vẻ đông đảo hơn và nhộn nhạo hơn, thì ở Hoàng cung người ta thông báo có ông thị trưởng thành phố đến.

Ông ta được dẫn vào ngay: ông nói rằng nếu không chấm dứt ngay lập tức những cuộc thị uy thù nghịch, thì trong hai giờ nữa toàn thành phố Paris sẽ vũ khí sẵn sàng.

Người ta đang bàn luận xem phải làm gì thì viên trung uý thị vệ đoàn Comminger trở về quần áo tả tơi và mặt mày đầm đìa máu.

Thấy ông ta xuất hiện, hoàng hậu kinh hãi kêu lên và hỏi xem có chuyện gì.

Như ông thị trưởng đã dự kiến; nhìn thấy các toán lính gác, dân tình nổi xung lên. Người ta chiếm các tháp chuông và rung chuông báo động. Comminger đã chống cự tốt, bắt giữ một người đàn ông có vẻ là một trong những tay phiến động chủ yếu, và để làm gương đã ra lệnh treo cổ anh ta ở bãi Thập tự T rahoa. Binh lính lôi anh đi để thi hành lệnh, nhưng đi đến dãy chợ thì bị tiến công bằng gạch đá và giáo mác, kẻ phiến loạn thừa cơ chạy thoát ra phố Lômba và chạy bổ vào trong một ngôi nhà. Nhà bị phá cửa ngay lập tức. Nhưng bạo lực ấy cũng vô ích, không thể tìm thấy tội phạm.

Comminger để lại một trạm gác trong phố và cùng số lính còn lại của đơn vị trở về Hoàng cung để tâu với hoàng hậu về sự việc đã xảy ra. Suốt dọc đường, ông ta bị những tiếng la ó và đe doạ đuổi theo, nhiều lính của ông bị giáo mác đâm bị thương và bản thân ông bị một hòn đá đáp rách chỗ lông mày.

Câu chuyện của Comminger làm vững thêm ý kiến của ông thị trưởng - người ta chưa đủ sức đương đầu với một cuộc nổi loạn thực sự; ông giáo chủ cho loan tin trong dân chúng rằng các toán quân rải trên các kè và Cầu Mới chỉ là nhân dịp làm lễ và sắp rút đi.

Quả thật vào lúc bốn giờ chiều, các toán quân tập trung cả về phía Hoàng cung, người ta đặt một trạm gác ở chỗ chắn đường Sergents, một trạm khác ở chỗ Tám Mươi, cuối cùng một trạm nữa ở Saint-Roch. Người ta đưa lính Thuỵ Sĩ và lĩnh ngự lâm vào đầy các sân, các tầng trệt và chờ đợi.

Đấy là bổi cảnh diễn biến các sự kiện, khi chúng tôi đưa bạn đọc vào văn phòng của giáo chủ Mazarin xưa kia vốn là văn phòng của giáo chủ de Richelieu. Chúng ta đã thấy ông ta ở trong tình trạng tinh thần như thế nào khi nghe tiếng rì rầm của dân chúng lọt đến tai ông và tiếng âm vang của những phát súng nổ vọng đến căn phòng ông.

Bỗng nhiên, ông ngẩng dầu lên, lông mày hơi cau lại như một người đã có quyết định, trừng mắt nhìn lên một chiếc đồng hồ lớn sắp đánh chuông mười giờ, và vớ một cái còi bằng đồng mạ vàng nằm trong tầm tay ở trên bàn. Ông huýt lên hai tiếng.

Cánh cửa khuất sau tấm thảm treo tường mở ra không có một tiếng động và một người vận đồ đen lặng lẽ bước vào phòng, rồi đứng ở phía sau ghế bành.

- Bernouin, - giáo chủ nói mà chẳng buồn quay đầu lại vì sau khi thổi lên hai tiếng còi, ông biết người hầu của mình phải là ai, - lính ngự lâm đang gác ở Cung là lính nào?

- Thưa Đức ông, đó là ngự lâm đen.

- Đại đội nào?

- Đại đội Treville.

- Có sĩ quan nào ở đại đội ấy trong tiền sảnh không?

- Có trung uý d Artagnan.

- Chắc đó là một người tốt, phải không?

- Vâng, thưa Đức ông.

- Lấy cho ta một bộ y phục ngự lâm quân và giúp ta mặc vào.

Người hầu phòng đi ra cũng lặng lẽ như lúc vào và một lát sau trở lại mang theo bộ quần áo đòi hỏi.

Thế là vị giáo chủ vẻ im lặng và suy nghĩ, bắt đầu cởi bỏ bộ lễ phục mà ông đã mặc để dự phiên họp nghị viện, và mặc chiếc áo lính với một vẻ thoải mái nhờ nhũng chiến dịch ở Ý của ông xưa kia, rồi khi đã vận xong hoàn toàn, ông bảo:

- Đi tìm ông d Actagnan cho ta.

Người hầu phòng lần này đi ra cửa giữa, nhưng vẫn lặng lẽ và câm như hến. Có thể nói như một cái bóng.

Còn lại một mình, giáo chủ soi mình trong gương, vẻ hài lòng.

Ông ta vẫn còn trẻ, vì mới gần bốn mươi sáu tuổi, thân hình thanh nhã, hơi dưới chiều cao trung bình; da dẻ sáng và đẹp, cái nhìn rực lửa, mũi to, tuy nhiên khá cân đối, trán rộng và đường bệ, tóc hung hung và hơi xoăn, râu đen hơn tóc và lúc nào cũng uốn cao lên, khiến ông có dáng phong nhã. Ông quàng tấm dải đeo gươm, nhìn với vẻ thoả mãn hai bàn tay nuột nà của mình mà ông chăm chút nhất; rồi quẳng đôi găng bằng da hoẵng mà ông đã cầm lấy và hợp với bộ quân phục, ông xỏ đôi găng lụa giản dị.

Lúc ấy cánh cửa mở ra.

Một sĩ quan bước vào.

Đó là một người chạc băm chín bốn mươi tuổi, vóc người nhỏ nhưng chắc, gầy, mắt tinh và hóm hỉnh, râu đen và tóc hoa râm như thường xảy đến khi người ta thấy cuộc đời quá tốt hoặc quá xấu, và nhất là khi da người ta rất nâu.

D Artagnan đi bốn bước trong văn phòng là nhận ra mình đã

đến đây một lần trong thời giáo chủ de Richelieu, và chẳng thấy có ai trong phòng ngoài một lính ngự lâm của đại đội mình, anh dừng mắt trên người lính ngự lâm ấy và qua bộ y phục của người đó, vừa mới thoạt nhìn anh đã nhận ra ông giáo chủ.

Anh đứng thẳng trong tư thế cung kính nhưng đường hoàng và rất thích hợp với một người có địa vị trong đời mình luôn có dịp tiếp xúc với các quan đại thần.

Giáo chủ chằm chằm nhìn anh bằng con mắt tinh ranh hơn là sâu xa, ngắm nghía chăm chú, rồi sau vài giây im lặng, ông cất tiếng.

- Chính ông là ông d Artagnan phải không?

- Chính tôi, thưa Đức ông - viên sĩ quan nói.

Giáo chủ nhìn một lát nữa cái đầu đến là thông minh ấy và khuôn mặt mà sự linh hoạt thái quá đã bị kiềm chế bởi tuổi tác và kinh nghiệm; nhưng d Artagnan chịu dựng sự thẩm tra với tư cách một người xưa kia đã từng bị nhìn bằng những con mắt sắc sảo khác hẳn những con mắt mà anh chịu đựng sự dò xét vào lúc này.

- Này ông, - giáo chủ nói, - Ông sẽ đến với tôi, hay đúng hơn là tôi sẽ đi với ông.

- Xin tuân lệnh, - D Artagnan đáp.

- Tôi muốn tự mình đến thăm những trạm gác bao quanh Hoàng cung; ông nghĩ có điều gì nguy hiểm không?

- Nguy hiểm ư? Đức ông? Mà nguy hiểm gì? - D Artagnan ngạc nhiên hỏi.

- Người ta nói dân chúng hết sức náo loạn.

- Quân phục ngự lâm quân của nhà vua rất được kính nể, thưa Đức ông, và với bốn người, tôi dám cam đoan đánh tan một trăm tên loại dân đen ấy.

- Nhưng ông đã thấy, chuyện xảy ra với Comminger chưa?

- Ông de Comminger là thuộc đội cận vệ, chứ không phải ngự lâm quân là lính cừ hơn cận vệ.

- Thế có nghĩa là, - giáo chủ mỉm cười nói, - ngự lâm quân là lính cừ hơn cận vệ.

- Thưa Đức ông, mỗi người có lòng tự tôn về binh phục của mình.

- Trừ tôi ra! - Mazarin vừa cười vừa nói, - vì ông thấy tôi đã rời bỏ y phục của mình để mặc binh phục của ông.

- Ấy chết, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - đó là sự nhũn nhặn. Còn như tôi, tôi xin bày tỏ rằng nếu tôi có bộ y phục của Các hạ, tôi sẽ rất thoả mãn và nếu cần thì xin thề là sẽ chăng bao giờ mặc bộ y phục nào khác.

- Phải, nhưng để đi ra tối nay, có lẽ nó không an toàn lắm. Bemuanh đưa mũ dây.

Người hầu phòng mang ra một cái mũ binh phục rộng vành.

Ông chủ đội mũ với vẻ khá phóng túng và quay lại phía d Artagnan:

- Ông có những con ngựa đóng yên cương sẵn ở trong các chuồng phải không?

- Vâng, thưa Đức ông.

- Nào, ta đi đi.

- Đức ông cần bao nhiêu người?

- Ông đã nói là với bốn người các ông có thể đánh tan một trăm tên dân đen; cho là có thể gặp hai trăm tên, hãy lấy tám người.

- Khi nào Đức ông cần?

- Tôi theo ông, hay thôi, - giáo chủ nói tiếp, - ta đi lối này.

Bernouin, rọi đèn cho chúng tôi.

Người hầu cầm ngọn nến, giáo chủ cầm một chiếc chìa khoá mạ vàng để trên bàn giấy, và sau khi mở cửa một cầu thang bí mật, chỉ một lát sau ông đã ở trong sân Hoàng cung.

Chú thích:

(1) Jean Armand Duplessis - giáo chủ de Richelieu (1585-1642) từ năm 1622 tham gia Hội đồng Hoàng gia và trở thành tể tướng nước Pháp, nổi tiếng là một người độc tài, tàn nhẫn và lấn át quyền của vua Louis XIII. Ông ta chủ trương khuất phục các giới quý tộc, tập trung quyền hành vào chính quyền quân chủ trung ương, đấu tranh chống đế tộc Áo và mở rộng chiến tranh chống Tây Ban Nha. Richelieu là một nhân vật chính trong tập chính của tập truyện "Ba người lính ngự lâm".

(2) Juylơ Mazarin (1602 - 1661) - người Ý lấy quốc tịch Pháp, năm 1643, khi vua Louis XIII chết, con là Louis XIV mới năm tuổi nối ngôi, hoàng hậu Anne d Autriche lảm nhiếp chính và đưa giáo chủ Mazarin làm tể tướng. Là một kẻ bất tài, hèn nhát, lại rất tham nhũng, Mazarin đã gây công phẫn lớn trong nhân dân và giới quý tộc. Các quan đại thần và các hoàng thân đã dấy lên phong trào La Fronde chống lại Mazarin vả triều đình. Khi chết Mazarin đã chiếm hữu một gia tài khổng lổ và rất nhiều bộ sưu tập nghệ thuật quý giá đề trong các toà lâu đải cùa mình.

Trong nguyên bản thường dùng chữ "giáo chủ" để chỉ Mazarin nhưng trong bản dịch tuỳ chỗ chúng tôi dùng chữ "giáo chủ" hoặc "tề tướng" cho rõ nghĩa.

(3) Concini - người gốc Ý, làm thống chế Pháp, bất tài và tham lam, đã khiến các đại thần nổi loạn Năm 1967, vua Louis XIII phải ra lệnh bắt giam. Concini chống cự và đã bị giết chết.

(4) Ngày cưới. Người ta biết rằng Mazarin không bị một điều lệnh nào cấm kết hôn nên đã lấy Anne d Autriche (xem các hồi ức của de Lanporter và của quận chúa Palatin).

(5) Quận công de Beaufort - cháu nội của vua Hăngri IV một thủ lĩnh trong phong trào La Fronde của các hoàng thân.

(6) Gaston Orléans (1608 - 1660) - quận công con vua Henri IV tham gia những cuộc âm mưu chống lại Richelieu, rồi Mazarin.

(7) Condé (1621-1686) - một trong những tướng tài thời vua Louis XIV, đã từng tham gia phong trào La Fronde. Thường gọi là ngài Hoàng thân.

-*-*-*-

Chương 2

Một cuộc đi tuần đêm

Mười phút sau, toán lính nhỏ di ra qua phố Trẻ Ngoan, phía sau phòng biểu diễn mà giáo chủ de Richelieu đã cho xây để diễn vở "Niramơ" và giáo chủ Mazarin - say mê âm nhạc hơn văn chương - vừa mới cho diễn những ca kịch đầu tiên trình diễn ở Phảp.

Quang cảnh thành phố thể hiện tất cả nhưng tính chất của một cuộc náo động lớn; những đoàn người đông đảo chạy khắp phố phường, và mặc dầu d Artagnan có nói gì đi nữa, thì họ cũng dừng lại xem toán linh đi qua, vẻ giễu cợt dậm doạ chỉ rõ rằng những thị dân (1) đã tạm thời gác bỏ cái tính khoan hậu thông thường để mang những ý đồ gây gổ hơn. Chốc chốc; những tiếng ồn ào từ khu chợ Hallơ vọng đến. Những phát súng nổ lẹt đẹt từ phía phố Saint-Denis, và thỉnh thoảng đột nhiên không hiểu sao một tiếng chuông lại dội lên do tính bốc đồng của dân chúng.

D Artagnan bước trên con đường của mình với vẻ vô tư của một người mà với những chuyện lăng nhăng như vậy chẳng thể có một tác động nào. Khi một người đứng nghênh ngang giữa lòng đường anh thúc ngựa mà chẳng hề báo tránh, và những người trong đám đông, phiến loạn hay không, như biết rõ họ đang đụng phải tay nào đây, bèn dãn ra và để toán tuần tra đi qua. Ông giáo chủ khao khát cái thái độ bình tĩnh được ông gán cho là do thói quen gặp nguy hiểm, nhưng đối với viên sĩ quan tạm thời ông bị đặt dưới quyển: ông vẫn tỏ một thứ vị nể mà chính tính thận trọng làm hoà hợp với lòng can đảm vô tư.

Khi đến gặp trạm gác ở cửa ô Sergents, người lính canh hô:

"Ai! Đứng lại!", d Artagnan đáp và sau khi đã hỏi một mật khẩu ở giáo chủ, anh tiến đến. Mật khẩu "Louis" và "Rôcroa".

Những tín hiệu nhận biết được trao đổi. D Artagnan hỏi xem có phải ông de Comminger chỉ huy trạm này không?

Người lính canh chỉ cho anh một viên sĩ quan đang đứng dưới đất nói chuyện, bàn tay vịn vào cổ con ngựa của người đối thoại. Đó chính là người mà d Artagnan đang cần hỏi. Anh trở lại và nói với giáo chủ:

- Đấy là ông De Comminger.

Giáo chủ thúc ngựa về phía họ trong khi d Artagnan kín đáo lùi lại:

- Hoan hô Gitaud, - giáo chủ nói với kỵ sĩ, - mặc dù ông đã sáu mươi tư tuổi tôi thấy ông vẫn như xưa, lanh lẹn và tận tuỵ. Ông nói gì với chàng trai này thế?

- Thưa đức ông, - Gitaud đáp - tôi bảo anh ấy là chúng ta đang sống trong một giai đoạn kỳ dị, và ngày hôm nay giống hệt một trong những ngày của khối Liên Minh mà tôi từng nghe nói đến rất nhiều trong thời trai trẻ. Anh có biết trong phố Saint-Denis và Saint-Martin, người ta không có việc gì khác ngoài việc dựng các vật chướng ngại không?

- Ông bạn Gitaud thân mến, thế Comminger trả lời ông thế nào?

- Thưa Đức ông, - Comminger nói, - tôi trả lời rằng muốn một Liên Minh, họ chỉ thiếu một điều mà tôi thấy là khá quan trọng đó là một quận công De Guise (2) vả chăng người ta không làm hai lần cùng một việc.

- Không, nhưng họ sẽ làm một La Fronde như họ bảo, - Gitaud đáp.

- La Fronde, đó là cái gì? - Mazarin hỏi.

- Thưa Đức ông, đó là cái tên họ đặt cho bè đảng của họ.

- Tên ấy từ đâu ra?

Hình như cách đây mấy ngày. Ông tham nghị Basơmông có nói ở trong Cung rằng tất cả những người làm loạn giống như bọn học sinh dùng ná bắn đá trong các hầm hố ở Paris, khi thấy viên cảnh sát đến thì chạy đi, rồi lại tập hợp lại. Thế là họ chớp lấy cái đó, giống như bọn ăn xin ở Bruxelles đã làm, vả họ tự xưng là Fronde. Hôm nay và hôm qua, mọi thứ đều là của La Fronde, bánh trái, mũ mãng, găng, bao tay, quạt; nhưng này nghe kìa.

Quả nhiên lúc ấy một cửa sổ mở ra, một người đàn ông đứng đó và bắt đầu hát:

Một cơn gió Fronde

Nổi từ sớm tinh mơ

Chắc là nó gầm thét

Chống lại Mazarin

Một cơn gió Fronde

Nổi từ sớm tinh mơ

- Đồ lếu láo! - Gitaud lẩm bẩm.

Do bực bội vì vết thương, do chỉ muốn trả thù ăn miếng trả miếng, Comminger nói:

- Thưa Đức ông, ngài có muốn tôi nã một viên đạn cho cái tên vô lại kia, để dạy cho hắn đừng có hát bậy bạ đến thế một lần nữa không?

Và anh ta đưa tay với súng ở bên yên ngựa của ông giáo chủ.

- Chớ! Chớ! - Mazarin kêu lên. - Điavôlê(4) Anh bạn thân mến anh làm hỏng bét bây giờ, trái lại mọi việc đang tiến hành rất tuyệt. Tôi hiểu người Pháp của các anh y như tôi đã tạo ra họ, từ người đầu tiên đến người cuối cùng: họ ca hát, họ sẽ trả giá. Trong thời Liên Minh mà Gitaud nói đển lúc nãy, người ta chỉ hát kinh lễ, cho nên mọi việc rất dở. Lại đây Gitaud, lại đây và ta xem ở Tám mươi người ta có canh gác tốt như ở cửa ô Sergents không?

Giơ tay chào Comminger, ông ta đi theo d Artagnan đang lại dẫn dầu toán lính nhỏ của mình. Gitaud và giáo chủ bám sát ngay sau d Artagnan, rồi cuối cùng đến những kẻ còn lại trong đám tuỳ tùng.

- Đúng thật, - Comminger nhìn đoàn người xa dần và lẩm bẩm, - ta quên khuấy rằng, miễn là người ta nộp tiền, đó là tất cả những gì ông ta cần, cho riêng ông ta.

Dân chúng lại tiến vào phố Xanh Ônorê bằng cách luôn luôn chuyển dịch các đoàn, trong các đoàn ấy, người ta chỉ nói về các chi dụ trong ngày, người ta phàn nàn ông vua thơ trẻ huỷ hoại nhân dân mình như thế mà không biết, người ta đổ tất cả mọi tội lên đầu Mazarin, người ta bàn kêu với quận công d Orléans và ngài Hoàng thân, người ta ca tụng Blancmensnil và Broussel.

D Artagnan đi qua giữa những đoàn người ấy vô tư như thể anh và con ngựa của anh đều bằng sắt; Mazarin vâ Gitaud nói chuyện thì thầm, các lính ngự lâm cuối cùng nhận ra ông giáo chủ, lẳng lặng đi theo.

Đến phố Saint-Tauma du Louvre nơi có trạm Tám Mươi, Gitaud gọi một sĩ quan cấp dưới ra báo cáo.

- Thế nào? - Gitaud hỏi.

- A? Thưa đại uý, phía này mọi sự tốt cả, có chăng tôi thiết tưởng, có chuyện gì đó đang diễn ra trong cái dinh thự kia.

Và anh ta đưa tay trỏ một toà nhà lộng lẫy ở đúng ngay tại vị trí mà từ ấy có toà Vodovin.

- Trong cái dinh thự kia... - Gitaud nói. - Nhưng đó là dinh thự Rambouillet (5).

Tôi không biết đó có phải là dinh thự Rambouillet không, - viên sĩ quan nói tiếp, - nhưng tôi thấy vô số người vẻ tiều tuỵ lắm đi vào đó.

- Chà! - Gitaud bật cười nói - những thi sĩ ấy.

- Này, Gitaud, - Mazarin bảo, - thôi đi, đừng có bình phẩm với một vẻ bất kính như vậy về các vị ấy? Anh không biết tôi đã là thi sĩ hồi còn thanh niên và tôi đã làm những vần thơ như loại thơ của Benxơrađơ ấy!

- Ngài ư? Thưa Đức ông.

- Phải, chính tôi, anh có muốn tôi đọc nghe không?

- Tôi không biết lắm, thưa Đức ông. Tôi không hiểu tiếng Ý.

- Ừ nhưng anh hiểu tiếng Pháp, phải không, anh bạn Gitaud tốt bụng và trung thực của tôi, - Mazarin vừa nói vừa đặt tay thân mật lên vai. Ông và người ta ra mệnh lệnh nào đó bằng thứ tiếng ấy cho anh thì anh sẽ thi hành chứ!

- Hẳn nhiên rồi, thưa Đức ông, như tôi đã từng làm, miễn là mệnh lệnh đó từ hoàng hậu ban ra.

- A phải! - Macdaranh cắn môi nói. Tôi biết là anh hoàn toàn trung thành với bà ấy.

- Tôi là chỉ huy đội ngự vệ của hoàng hậu hơn hai mươi năm nay.

- Lên đường, ông d Artagnan, - giáo chủ nói, - phía này mọi sự tốt cả!

D Artagnan lại dẫn đầu đoàn người, không nói một lời và với sự phục tùng thụ động tạo nên tính cách của người lính kỳ cựu.

Anh rong ruổi đến phía cồn đất Saint-Roch nơi có cái trạm thứ ba sau khi đi qua phố Richelieu và phố Vilơđô. Đó là cái trạm lẻ loi nhất vì nó gần giáp với thành luỹ và ở phía này, thành phố thưa người ở.

- Ai chỉ huy trạm này? - Giáo chủ hỏi.

- Vilơkiê - Gitaud đáp.

- Quỷ ạ! - Mazarin kêu. - Ông nói chuyện riêng với hắn thôi, ông hẳn biết chúng tôi bất hoà với nhau từ khi ông nhận trách nhiệm bắt giữ quận công de Beaufort, hắn ta tưởng vinh dự ấy thuộc về hắn với tư cách là chỉ huy ngự vệ của Đức vua.

- Tôi biết rõ, và tôi đã bảo hắn đến trăm lần rằng hắn lầm rồi, Đức vua không thể ra lệnh ấy cho hắn, vì hồỉ ấy, vua mới chưa đầy bốn tuổi.

- Đúng, nhưng tô1, tôi có thề ban lệnh đó cho hắn, Gitaud ạ. song tôi lại thích rằng đó là ông.

Gitaud không đáp, thúc ngựa tiến lên, tự giới thiệu với người lính gác và cho gọi ông de Vilơkiê.

Ông de Vilơkiê đi ra với giọng bực bội khó chịu đã thành thói quen, ông nói:

- A? Ông đấy à, Gitaud! Ông đến đây làm quái gì thế?

- Tôi đến hỏi xem có chuyện gì mới ở phía này không?

- Thế ông muốn có chuyện gì nào? Người ta hô: "Đức vua muôn năm" và "Đả đảo Mazarin!" đó không phải là chuyện mới à? Thời gian gần đây, chúng tôi quen với những tiếng hô ấy.

- Và các ông phụ hoạ chứ gì? - Gitaud đáp.

- Thực tình đôi khi tôi rất thèm? Tôi thấy họ rất đúng, Gitaud ạ.

Tôi sẵn sàng cho đi năm năm tiền lương của tôi, không nhận lương để Đức vua tăng thêm năm tuổi.

- Thật chứ, và nếu nhà vua thêm năm tuổi thì sẽ có chuyện gì xảy ra.

- Nếu Đức vua thành niên, Đức vua sẽ tự mình ban mệnh lệnh và tuân theo cháu trai của Henri IV ắt là thú vị hơn con trai của Pietro Mazarin. Vì Đức vua, mẹ kiếp, tôi vui lòng xả thân, còn nếu vì Mazarin mà tôi bị giết giống như cháu trai ông suýt bị hôm nay ấy, thì chẳng có thiên đường nào, dù tôi có được đặt đàng hoàng vào đấy lại có thể an ủi được tôi bao giờ.

- Được rồi. được rồi, ông Vilơkiê - Mazarin - Cứ yên tâm, tôi sẽ báo cáo về lòng trung thành của ông lên Đức vua.

Rồi quay lại đám tuỳ tùng, ông bảo:

- Đi thôi các anh, mọi việc tốt cả, ta trở về.

- Này. - Vilơkiê hỏi, - Mazarin ở kia ư? Càng hay, đã từ lâu tôi có ý muốn nói thẳng trước mặt ông điều mà tôi nghĩ về ông ta, Gitaud, ông đã tạo cho tôi cơ hội ấy, và mặc dù ý định của ông có thể không phải là những ý định tốt nhẩt đối với tôi, tôi cũng xin cảm ơn ông.

Và ông quay gót trở lại đơn vị canh gác, miệng hát một điệu hát Fronde. Trong khi đó Mazarin quay về đăm chiêu tư lự, điều mà ông đã liên tiếp nghe qua Comminger, Gitaud, và Vilơkie càng khiến ông tin chắc vào điều suy nghĩ là trong trường hợp những biến cố quan trọng ông sẽ chẳng còn ai vì mình ngoài hoàng hậu, mà hoàng hậu thì thường bỏ rơi bạn bè, nên sự nâng đỡ của hoàng hậu đối với ông tể tướng đôi khi dường như chẳng chắc chắn gì và rất bấp bênh, mặc dầu ông đã có những cách đề phòng.

Suốt thời gian trong chuyến đi ban đêm ấy, tức là quãng gần tiếng đồng hồ. Ông giáo chủ vừa lần lượt nghiên cứu Comminger, Gitaud và Vilơkiê, vừa xem xét mọi người. Con người ấy tỏ ra thản nhiên trước sự hăm doạ của dân chúng và trước những lời bông đùa mà Mazarin buông ra, người ấy không hề cau mày cũng như trước những lời đùa bỡn mà anh ta là đối tượng, ông thấy đó dường như một người ngoại lệ và được tôi luyện để ứng phó với những biến cố thuộc loại những biến cố trong đó người ta đang có mặt, nhất là những biến cố mà trong đó người ta sắp có mặt.

Vả chăng cái tên d Artagnan ấy đối với ông hoàn toàn xa lạ, và mặc dầu Mazarin mới đến nước Pháp vào khoảng năm 1634 và 1635; tức là bảy hoặc tám năm sau những biến cố mà chúng tôi đã kể trong một thiên truyện trước, ông giáo chủ thấy hình như một trường hợp nào đó mà nay ông không nhớ rõ, ông đã nghe thốt ra cái tên giống như tên một con người nổi bật lên như một tấm gương về dũng cảm, khôn khéo và tận tuỵ.

Ý nghĩ ấy xâm chiếm đầu óc ông mạnh đến nỗi ông quyết định làm sáng tỏ ngay không chậm trễ; nhưng những điều cần tìm hiểu về d Artagnan không thể hỏi thẳng ngay anh ta được. Qua, vài tiếng thốt ra từ miệng viên trung uý ngự lâm quân, ông giáo chủ nhận ra ngay nguồn gốc Gascogne, mà người Ý và người Gascogne thì hiểu biết nhau quá rõ và giống nhau quá đỗi nên không thể tin cậy lẫn nhau về những điều mà họ tự nói về bản thân mình. Cho nên, khi đến dãy tường rào của Hoàng cung, giáo chủ gõ vào một cái cửa nhỏ gần đó nay là quán cà-phê De Foa, và sau khi cảm ơn d Artagnan và đặn anh đợi ở trong sân Hoàng cung, ông ra hiệu cho Gitaud đi theo ông. Cả hai người xuống ngựa, trao dây cương, cho tên hầu đã mở cửa và biến vào trong vườn.

Ông Giáo chủ vịn vào cánh tay viên đại uý ngự vệ già và nói:

- Ông Gitaud thân mến ơi, lúc nãy ông có nói với tôi là ông đã phục vụ hoàng hậu ngót hai mươi năm nay rồi phải không?

- Vâng, đó là sự thật, - Gitaud đáp.

- Này, Gitaud thân mến ơi, - giáo chủ tiếp, - tôi nhận xét thấy ngoài tinh thần quả cảm của ông không còn phải tranh cãi và lòng trung thành của ông đã qua mọi thử thách, ông còn có một trí nhớ tuyệt diệu.

- Đức ông nhận xét như vậy ư? - Viên đại uý, ngự vệ nói, - Quỷ ạ! Thật là rủi cho tôi.

- Thế là thế nào?

- Chắc hẳn một trong những phẩm chất hàng đầu của người cận thần là biết quên đi.

- Như ông Gitaud, ông không phải cận thần. Ông là một người lính trung thực, một trong những đại uý nọ, như hãy còn sót lại vài người của thời vua Henri IV nhưng buồn thay rồi chẳng mấy chốc sẽ chẳng còn lại người nào cả.

- Kỳ thật! Phải chăng Đức ông bảo tôi đến để xem số tử vi cho tôi?

- Không đâu, - Mazarin cười nói, - tôi bảo ông đến để xem ông có chú ý đến ông trung uý ngự lâm quân không?

- Ông d Artagnan ấy à?

- Phải.

- Tôi chẳng cần phải chú ý, thưa Đức ông - tôi biết ông ta từ lâu.

- Vậy là người thế nào?

- Ờ? - Gitaud ngạc nhiên vể câu hỏi. - Đó là một người Gascogne chứ sao!

- Phải, tôi biết điều đó, nhưng tôi muốn hỏi xem đó có phải là một người mà có thể tin cậy dược không?

Ông de Treville rất quý trọng ông ta, mà ông de Treville, ngài biết đấy, thuộc những người bạn lớn của hoàng hậu.

- Tôi muốn biết xem đó có phải là một người đã từng chứng tỏ giá trị và tài năng của mình chưa?

- Nếu theo ngài hiểu như một quân nhân dũng cảm, tôi thiết tưởng có thể trả lời đúng như vậy. Tại cuộc bao vây thành La Rochelle ở đèo Xuydơ, ở Pecpinhăng, tôi nghe nói ông ta đã hoàn thành quá cả nhiệm vụ của mình kia đấy.

- Nhưng Gitaud, ông biết đấy, những tể tướng khốn khổ như chúng tôi, thường thường còn cần cả những người khác những người dũng cảm kia. Chúng tôi cần những người khôn khéo. Ông d Artagnan dưới thời giáo chủ Richelieu chẳng đã dính líu vào một chuyện mưu mô nào đó chăng mà dư luận chung mong muốn rằng ông ta hãy rút ra một cách thật khéo léo.

- Thưa Đức ông! - Gitaud thấy rõ là giáo chủ muốn làm cho ông phải phun ra, bèn đáp - Tôi buộc phải thưa với Các hạ rằng tôi chi biết điều mà dư luận chung có thể mách đến Các hạ. Riêng tôi không bao giờ dây vào những chuyện mưu mô, mà nếu như thỉnh thoảng tôi có nghe đôi điều tâm sự về những âm mưu của những người khác thì do điều bí mật không phải là của tôi, Đức ông sẽ cho là phải khi tôi giữ gìn điều bí mật ấy cho những ai đã gửi gắm vào tôi.

Mazarin lắc đầu và nói:

- A! Tôi cam đoan là có những vị tể tướng thật là hạnh phúc, họ biết tất cả những gì họ muốn biết.

- Thưa Đức ông. - Gitaud nói tiếp, - Ấy vì những vị đó không đem cân tất cả mọi người vào cùng một bị và họ biết gõ vào những người chinh chiến về chuyện chiến tranh và gõ vào những người mưu mô về chuyện âm mưu. Ngài hãy tìm hỏi mọi người mưu toan nào đó ở cái thời kỳ ngài nói đến vả ngài sẽ moi được ở họ cái mà ngài muốn, tất nhiên là phải trả tiển.

- Ồ! Mẹ kiếp!- Mazarin thốt lên và chợt nhăn nhó, cái nhăn nhó thương bật ra khi người ta đụng với ông đến vấn đề tiền bạc theo cái nghĩa mà Gitaud vừa nói. - Người ta sẽ trả tiền... nếu như, không có cách nào khác.

- Có thật đúng là Đức ông yêu cầu tôi chỉ cho một người đã từng dây vào những chuyện mưu mô trong thời kỳ ấy không?

- Per Bacco! - Mazarin bắt đầu suốt ruột kêu lên. - Dễ đến một tiếng đồng hồ rồi, tôi có hỏi ông điều gì khác đâu, rõ cứng đầu, cứng cổ.

- Có một người mà tôi có thể đảm bảo với ngài về phương diện đó tất nhiên nếu ông ta muốn nói.

- Đó là việc của tôi.

- A, thưa Đức ông, không phải bao giờ cũng dễ dàng bắt những người không muốn nói phải nói.

- Chà! Cứ kiên nhẫn là sẽ đạt. Này, thế cái người ấy là...

- Bá tước de Rochefort...

- Bá tước de Rochefort?

- Rủi thay ông ta đã biến mất từ bốn năm năm rồi và tôi không biết ông ta bây giờ ra sao.

- Tôi thì tôi biết đấy, Gitaud ạ, - Mazarin nói.

- Thế ban nãy sao Các hạ còn than vãn và kêu không biết gì hết?

- Và, - Mazarin nói tiếp, - Ông tưởng rằng ông Rochefort...

- Đó là kẻ một lòng một dạ theo ngài giáo chủ đấy, nhưng tôi xin báo trước Đức ông là ngài sẽ phải trả giá đắt về điều đó, ngài giáo chủ xưa rất hào phỏng với các bộ hạ của mình.

- Phải rồi, phải rồi, Gitaud ạ, - Mazazin nói. - đấy là một con người vĩ đại, nhưng ông ta có cái thiếu sót đó. Cảm ơn Gitaud, tôi sẽ lợi dụng lời khuyên bảo của ông, ngay tối nay.

Do lúc ấy hai người đối thoại đi tới sân Hoàng cung, giáo chủ giơ tay ra hiệu chào Gitau và chợt thấy một viên sĩ quan đang đi đi lại lại ông tiến đến gần người ấy.

Đó là d Artagnan đợi giáo chủ trở lại như giáo chủ đã ra lệnh.

- Lại đây, ông d Artagnan, - Mazarin nói, với giọng dịu dàng uyển chuyển nhất của mình, - tôi có một mệnh lệnh trao cho ông.

D Artagnan nghiêng mình, đi theo giáo chủ theo lối cầu thang bí mật và một lát sau đã trở lại chỗ văn phòng, nơi anh đã ra đi. Giáo chủ ngồi trước bàn giẩy và lấy một tờ giấy viết lên đó mấy dòng.

D Artagnan đứng yên, thản nhiên chờ đợi, không suốt ruột cũng không tò mò; anh đã trở thành một người lính bằng máy hành động hay nói đúng hơn là tuân theo bằng lò xo.

Giáo chủ gấp thư và niêm phong, rồi bảo:

- Ông d Artagnan, ông mang bức công văn này đến ngục Bastille và dẫn về vài người ghi tên trong đó; ông lấy xe ngựa, một toán áp tải và canh giữ người tù cho cẩn mật.

D Artagnan cầm phong thư, đưa tay lên mũ chào, xoay mình trên gót chân như viên đội huấn luyện khéo léo nhất có thể làm được, đi ra và một lát sau, người ta nghe thấy anh ra lệnh, giọng ngắn gọn, đều đều:

- Bốn ngươl hộ tống, một cỗ xe, con ngựa của tôi.

Năm phút. sau, tiếng bánh xe và móng ngựa vang lên trên nền sân.

Chú thích:

(1) Geois thời ấy có nghĩ là các thị dân và cũng để chỉ tầng lớp tư sản thành thị

(2) Quận công De Guise (1550 - 1588) - thủ lĩnh của Liên Minh trong chiến tranh tôn giáo, đánh thắng phe tân giáo. Sau bị ám sát

(3) La Fronde - cái ná bắn đá, cái súng cao su

(4) Quỷ quái

(5) chỉ Richelieu

-*-*-*-

Chương 3

Hai kẻ thù cũ

D Artagnan đến ngục Bastille thì chuông đồng hồ vang lên tám rưỡi. Anh cho báo với viên quản ngục, khi ông này biết anh do quan tể tướng phái đến cùng với một tờ lệnh bèn ra đón anh tại bậc thềm.

Viên quản ngục Bastille ở lúc bấy giờ là Du Tremblay, em của thầy tu nổi tiếng Josep, người sủng thần khủng khiếp của de Richelieu mà thiên hạ gọi là Các hạ xám(1).

Khi thống chế de Batxompie bị giam ở ngục Bastille và đã ở đó mười hai năm ròng, các bạn tù của ông trong những giấc mơ được tự do đã nói với nhau: Tôi, tôi sẽ ra tù thời kỳ này, và tôi, tôi sẽ thời kỳ nọ, thì Batxompie đáp: Còn tôi thưa quý vị, tôi sẽ ra khi nào ông Duy Tremblay ra. Điều đó có nghĩa là khi tể tướng de Richelieu chết, ông Du Tremblay không thể không bị mất ghế ở ngục Bastille và tất nhiên Batxompie sẽ chiếm lại ghế của mình ở triều đình.

Điều tiên đoán ấy quả nhiên suýt nữa thì trở thành hiện thực, nhưng khác với điều Batxompie suy nghĩ, vì khi tể tướng Richelieu chết trái với mọi sự chờ đợi mọi việc vẫn tiếp tục tiến hành như trước kia: Du Tremblay chẳng ra, và Batxompie suýt nữa thì cũng không ra khỏi nhà tù.

Như vậy là du Tremblay vẫn là quản ngục Bastille khi d Artagnan đến đấy thi hành lệnh của tể tướng, ông ta tiếp anh một cách rất lịch sự, và nhân sắp ngồi vào bàn ăn, ông ta mời d Artagnan cùng dủng bữa tối với ông.

- Tôi sẽ rất vui lòng, - D Artagnan nói, - nhưng nếu tôi không lầm, ngoài phong bì của bức thư có ghi chữ: "Thượng khẩn".

- Đúng thật! - Du Tremblay, nói. - Ơ này thiếu tá, đưa tên tù số 256 xuống đây.

Khi bước vào ngục Bastille, người ta chấm dứt là một con người và trở thành một con số.

D Artagnan rùng mình khi nghe khoá loảng xoảng, nên anh ngồi yên trên mình ngựa mà chẳng xuống, nhìn những song sắt, những cửa sổ gia cố, những bức tường đồ sộ mà anh chi mới trông thấy ở bên kia đường hào, và chúng đã khiến anh sợ hết vía cách đây chừng hai mươi năm.

Một tiếng chuông vang lên.

- Tôi phải chia tay với ông thôi, - de Tremblay nói, - người ta gọi tôi đến ký lệnh thả tù nhân ra. Hẹn gặp lại nhé, ông d Artagnan!

- Quỷ diệt ta đi nếu ta đáp lại lời chào của anh! - D Artagnan lẩm bẩm và kèm theo lời rủa của mình bằng nụ cười duyên dáng nhất - Chi cần đứng thêm năm phút ở cái sân này là ta phát ốm. Này, này, ta thấy thà chết mục trên đống rạ, mà chuyện đó có thể xảy ra với ta lắm, còn thích hơn là làm quản ngục Bastille và vơ vét mười nghìn livres tiền niên thu.

Anh vừa kết thúc bản độc thoại ấy thì người tù xuắt hiện. Vừa trông thấy kẻ ấy, d Artagnan tỏ ra kinh ngạc, nhưng vội kiềm chế ngay. Người tù bước lên xe chẳng tỏ ra đã nhận biết d Artagnan.

- Này các ông, - D Artagnan nói với bốn người lính ngự lâm, - người ta đã dặn tôi là phải canh giữ tù nhân một cách nghiêm cẩn nhất, do không có khoá ở các cửa xe, tôi sẽ lên ngồi cạnh hắn ta. Ông Lilơbon làm ơn dắt con ngựa của tôi theo.

- Xin sẵn sàng, thưa trung uý, - người lính đáp.

D Artagnan xuống ngựa, đưa dây cương cho người lính ngự lâm, trèo lên xe và với giọng không hề để lộ một chút xúc động nào, anh bảo:

- Đến Hoàng cung nhanh lên.

Xe vừa chạy, d Artagnan lợi dụng bóng tối dưới vòm cây mà xe đi qua, bá lấy người tù và bảo:

- Rochefort! Anh đấy à! Đúng là anh chứ! Tôi không lầm.

- D Artagnan! - Đến lượt Rochefort ngạc nhiên reo lên.

- Ôi! Anh bạn khốn khổ của tôi! - D Artagnan nói tiếp. - Không gặp lại anh từ bốn năm năm nay, tôi cứ tưởng anh chết rồi cơ đấy.

- Thực tình, - Rochefort nói, - tôi cũng nghĩ chẳng có gì khác nhau lắm, giữa một người chết và một người bị chôn vùi, hoặc cũng gần như thế.

- Thế vì tội gì mà anh vào ngục Bastille?

- Anh có muốn tôi nói sự thật không?

- Có

- Này nhé! Tôi chẳng biết vì sao cả.

- Không tin tôi ư, Rochefort?

- Không phải thế, xin lấy danh dự quý tộc mà thề! Bởi lẽ không thể nào ngồi tù vì cái lý do mà họ gán cho tôi.

- Lý do gì?

- Kẻ trộm đêm.

- Anh, kẻ trộm đêm! Rochefort, auh đùa đấy à?

- Tôi hiểu. Chuyện này cần được giải thích phải không?

- Đúng vậy.

- Này nhé! Chuyện xảy ra như thế này. Một buổi tối, sau một bữa chè chén ở nhà Rêna tại cung Tuileries, cùng với quận công d Harcourt, Fontrailles - de Rieux và những người khác nữa, quận công d Harcourt đề xuất đi chơi trò kẻo áo choàng ở trên Cầu Môi. Anh biểt đấy, đó là một trò chơi rất thịnh hành do quận công d Orléans đặt ra.

- Anh điên hay sao, Rochefort! Ở cái tuổi anh!

- Không, lúc ấy tôi say, tuy nhiên thấy cái trò ấy dở, tôi bàn với hiệp sĩ de Rieux chỉ nên là khán giả chứ không là diễn viên và để xem được cảnh từ những lô hạng nhất, ta trèo lên con ngựa bằng đồng đen. Nói là làm luôn. Nhờ những đinh thúc ngựa dùng làm bậc leo, một lát sau chúng tôi ngồi vắt vẻo trên mông ngựa; chúng tôi khoan khoải lắm và xem say sưa. Đã có bốn năm áo choàng bị lột đi bằng sự khéo lẻo vô song và chẳng một người nào bị lột áo dám nói một lời thì không biết một tên ngu xuẩn nào đó không kiên tâm chịu đựng bằng những người khác, bỗng kêu lên: "Ối, cảnh giới" và thu hút ngay một đội cảnh sát tuần tra. Quận công d Harcourt, Fontrailles và mấy người khác bỏ chạy, de Rieux cũng muốn làm theo. Tôi giữ ông ta lại và bảo rằng người ta chẳng tìm mình ở đây đâu. Ông ta không nghe, đặt chân lên định thúc ngựa, để xuống, cái đinh gãy, ông ta ngã gãy một chân và đáng lẽ im đi thì ông lại kêu toáng lên như một tên sắp bị treo cổ. Tôi định nhảy xuống theo, nhưng muộn quá rồi: tôi nhảy vào tay bọn cảnh sát, họ dẫn tôi đến đồn Châtelet). Tôi yên trí ngủ một mạch, chắc chắn ngày mai sẽ ra khỏi đó. Ngày hôm sau, qua đi hôm sau nữa qua, rồi tám ngày qua đi, tôi viết thư gửi giáo chủ. Ngay ngày hôm ấy, người ta đến tìm tôi và dẫn về ngục Bastille. Tôi ở đây năm năm rồi. Anh có tin rằng đó là vì tôi đã phạm tội mạn thượng leo lên ngồi mông ngựa sau vua Henri IV không?

- Không, anh nói đúng. Rochefort thân mến ạ, không thể nào vì thế, nhưng có lẽ anh sắp hiểu vì sao.

- À phải, bởi vì chính tôi đã quên không hỏi anh điều này: anh dẫn tôi đi đâu?

- Đến quan tể tướng.

- Ông ta muốn gì tôi?

- Tôi không biết nữa, vì tôi cũng chẳng hiểu rõ là tôi phải đi tìm anh.

- Vô lý, Anh là một sủng thần mà?

- Một sủng thần, tôi ấy à? - D Artagnan kêu lên.

- Ôi! Ông bá tước tội nghiệp của tôi! Tôi còn quá là thiếu sinh Gascogne khi tôi gặp anh ở Meung, anh thấy đấy, thấm thoắt đã hai mươi năm rồi, than ôi!

Và một tiếng thở dài rất to chấm dứt lời anh.

- Nhưng nếu đến với một mệnh lệnh! - Vì tình cờ tôi đang ở tiền sảnh, và ông tể tướng tìm gọi tôi như có thể tìm gọi một người nào khác, nhưng tôi vẫn chỉ là trung uý ngự lâm quân, và nếu tôi tính đúng thì đã ngót nghét hai mươi mốt năm rồi tôi là trung uý.

- Rốt cuộc không có tai hoạ xảy đến với anh, thế đã là nhiều rồi.

- Thế anh muốn tai hoạ gì xảy đến với tôi kia chứ? Như một câu thơ La-tinh nào đó mà tôi quên, hay nói đúng hơn chưa bao giờ tôi thuộc cả: "Sét không đánh vào những thung lũng!", tôi là một thung lũng, hơn nữa một thung lũng thấp nhất, anh Rochefort thân mến ạ.

- Vậy lão Mazarin vẫn là Mazarin à?

- Cỏn hơn bao giờ hết, bạn thân mến ạ; người ta nói ông ta lấy hoàng hậu rồi.

- Lấy rồi?

- Nếu ông ta không phải là chồng, thì chắc chắn là nhân tình bà ấy...

- Cưỡng lại một Buckingham(2) và chịu khuất phục một Mazarin?

Đàn bà thế đấy! - D Artagnan nói triết lý.

- Đàn bà, không phải, nhưng các bà hoàng hậu.

- Trời ơi, về phương diện ấy, các hoàng hậu hai lần là đàn bà.

- Thế còn ông de Beaufort, ông ta vẫn ở trong tù à?

- Vẫn, thế thì sao?

- À vì ông ta muốn điều tốt lành cho tôi, ông ta có thể gỡ ra cho tôi.

- Có lẽ anh còn gần được tự do hơn ông ấy; như vậy chính anh sẽ gỡ cho ông ta.

- Thế thì, chiến tranh...

- Sẽ có

- Với Tây Ban Nha?

- Không, với Paris.

- Anh định nói gì?

- Anh có nghe những tiếng súng kia không?

- Có. Thì sao?

- Các thị dân đang đánh cầu dạo.

- Anh có tin rằng có thể làm nên trò trống gì với cái đám thị dân ấy không?

- Có chứ, họ có nhiều hứa hẹn đấy, và nếu như họ có một thủ lĩnh có thể tập hợp tất cả các nhóm lại làm một.

- Không được tự do cực thật.

- Ồ, lạy Chúa! Anh đừng thất vọng. Nếu Mazarin cho tìm anh, ắt là cần đến anh; và nếu ông ta cần anh thì này, tôi xin chúc mừng anh. Hàng bao nhiêu năm nay, chẳng ai còn cần đến tôi nữa; cho nên anh thấy tôi đã đến đâu rồi đó.

- Anh hãy khiếu nại đi, tôi khuyên anh đấy!

- Nghe này, Rochefort. Một thoả ước.

- Thoả ước gì?

- Anh biết rằng chúng ta là bạn tốt.

- Mẹ kiếp! Tôi vẫn còn mang những dấu tích của tình bạn chúng ta: ba nhát kiếm!...

- Này! Nếu anh lại trở thành người được ưu ái thì xin đừng quên tôi nhé!

Lời thề của Rochefort, nhưng cũng phải được đáp lại.

- Thoả thuận rồi nhé! Tai tôi đây.

- Như vậy ngay từ cơ hội đầu tiên mà anh thấy nói về tôi.

- Tôi sẽ nói về anh, còn anh?

- Tôi cũng vậy. Nhân tiện, về các bạn của anh, cũng phải nói về họ chứ?

- Bạn nào nhỉ?

- Arthos, Porthos và Aramis, anh đã quên họ rồi sao?

- Gần như thế.

- Bây giờ họ ra sao?

- Tôi không hay biết gì cả.

- Thật à?

- Ôi lạy Chúa, đúng thế. Chúng tôi từ giã nhau như anh biết đấy: họ vẫn sống; đó là tất cả điều tôi có thể nói, thỉnh thoảng tôi có nghe những tin tức, gián tiếp về họ. Nhưng họ ở chỗ nào trên thế giới này, quỷ bắt tôi đi nếu tôi biết được điều gì. Không, nói danh dự đấy! Tôi chỉ còn có anh là bạn mà thôi, Rochefort ạ.

- Còn cái vị trứ danh... anh gọi hắn là gì nhỉ, cái cậu người hầu mà tôi đã đưa làm ông đội ở trung đoàn Piêmông ấy mà.

- Planchet à?

- Phải, đúng rồi. Cái ngài Planchet trứ danh bây giờ ra sao?

- Ấy cậu ta đã lấy một ả có cửa hàng mứt kẹo ở phố Lombard cậu ta bao giờ cũng thích của ngọt mà; thành thử cậu ta trở thành thị dân Paris, rất có thể lúc này cậu ấy đang làm loạn. Rồi anh xem cái thằng vô lại ấy sẽ làm pháp quan trước khi tôi lên đại uý.

- Thôi d Artagnan thân mến ơi, can đảm lên một chút nào! Anh đang ở chỗ thấp nhất của bánh xe và khi bánh xe quay thì nâng anh lên cao. Ngay tối nay, số phận của anh có thể sẽ thay đổi.

- Amen! - D Artagnan vừa nói vừa dừng xe lại.

- Anh làm gì thế? - Rochefort hỏi.

- Phải làm sao để khi đến nơi người ta không trông thấy tôi ra khỏi xe anh; coi như chúng ta không quen biết nhau.

- Anh làm thế là phải. Xin từ biệt.

- Hẹn gặp lại, anh nhớ lời hứa nhé!

D Artagnan nhảy lên ngựa và lại dẫn đầu đoàn hộ tống.

Năm phút, sau về đến sân Hoàng cung.

D Artagnan dẫn người tù lên lối cầu thang lớn đi qua tiền sảnh và hành lang. Đến cửa phòng Mazarin; anh sắp sửa vào báo thì Rochefort đặt tay lên vai anh:

- D Artagnan này, - Rochefort mỉm cười nói, - anh có muốn nghe tôi thú nhận điều tôi đã suy nghĩ suốt dọc đường, khi thấy những đám thị dân lúc chúng ta đi qua và họ nhìn các anh - anh và bốn người cùa anh - với những con mắt rực lửa không?

- Nói đi, - D Artagnan đáp.

- Ấy là tôi chỉ cần kêu cứu là đủ khiến người ta xé xác các anh ra từng mảnh, anh và toán áp giải của anh, và thế là tôi được tự do.

- Thế sao anh không làm? - D Artagnan hỏi.

- Vớ vẩn! - Rochefort nói. - Tình bạn đã thề thốt! A, ví phỏng, một người khác, chứ không phải anh dẫn tôi đi, tôi không nói...

D Artagnan cúi đầu.

"Liệu Rochefort có sẽ được may mắn hơn mình không!" Anh tự nhủ.

Và anh cho người vào trình báo với tể tướng.

- Cho ông de Rochefort vào! - tiếng nói sốt ruột của Mazarin vang lên ngay sau khi nghe nói đến tên hai người - À mời ông d Artagnan hãy đợi: tôi chưa xong việc với ông ấy.

Những lời đó khiến d Artagnan mừng rơn. Như anh đã nói, từ lâu rồi chẳng ai cần đến anh và sự khẩn khoản ấy của Mazarin đôi với anh có vẻ là một điềm tốt.

Còn với Rochefort, điều đó chẳng có tác động gì khác đối với ông, ngoài việc khiến ông càng hết sức đề phòng. Ông bước vào căn phòng và thấy Mazarin đang ngồi ở bàn, mặc bộ y phục thông thường, nghĩa là theo kiểu môngxinho; nó gần như quần áo các tu viện trưởng thời bấy giờ, chi khác là ông ta đi bít-tất dài và khoác áo choàng tím.

Cánh cửa khép lại, Rochefort liếc nhìn Mazarin và bắt gặp cái nhìn của tể tướng.

Quan tể tướng vẫn như xưa, chải chuốt, banh bao, râu tóc uốn cẩn thận, bôi nước hoa thơm nức, và nhờ đỏm dáng nên trông ông trẻ hơn tuổi nhiều. Còn về Rochefort, lại là chuyện khác, năm năm tù đày đã làm già sọm đi người bạn cao đạo của ngài Richelieu: mái tóc đen của ông đã bạc trắng, nước da rám màu đồng nhường chỗ cho một màu tái xanh xao như do bị kiệt sức. Vừa nhìn thấy ông, Mazarin lắc đầu rất nhẹ khó mà nhận thấy vẻ như muốn nói: "Kìa, một con người dường như chằng còn làm nên trò trống gì hết..."

Sau một lát im lặng khá lâu trong thực tại, nhưng dài đến một thế kỷ đối với Rochefort, Mazarin rút từ một tập giấy tờ ra một phong thư mở, chỉ cho nhà quý tộc và nói:

- Tôi tìm thấy ở đây một bức thư ông yêu cầu được tự do, ông Rochefort ạ. Thế ra ông bị ngồi tù à?

Rochefort rùng mình trước câu hỏi đô. Ông nói:

- Nhưng hình như Các hạ biết rõ việc đó hơn bất kỳ ai.

- Tôi ấy à? Không đúng đâu! Ở ngục Bastille còn cả mớ tù nhân bị giam từ thời ngài Richelieu mà tôi cũng chẳng biết đến tên nữa.

- Ồ! Nhưng tôi thì lại là chuyện khác, thưa Đức ông? Và ngài biết tên tôi, vì theo chính lệnh của Các hạ mà tôi bị chuyển từ đồn chatelet đến ngục Bastille.

- Ông tưởng thế ư?

- Tôi biết chắc.

- Ồ, hình như tôi nhớ ra rồi, đúng vậy, có phải hồi ấy ông đã từ chối đi một chuyến công du sang Bruxelles cho hoàng hậu phái không?

- A, a! - Rochefort nói. - Vậy ra đó là cái nguyên nhân chính đây? Tôi tìm kiếm nó từ năm năm nay. Tôi đến là ngốc nên đã không tìm ra nó.

- Nhưng tôi không nói với ông đó là nguyên nhân vụ bắt giữ ông; ta thoả thuận với nhau, tôi hỏi ông câu này, chỉ có thế thôi: chẳng phải là ông từ chối đi Bruxelles vì hoàng hậu, trong khi ông đã bằng lòng đi đến đó vì ông cố giáo chủ.

- Thì đúng là do tôi đến đó vì cố giáo chủ mà tôi không thể trở lạí đó vì hoàng hậu được. Tôi đã đến Bruxelles trong một một hoàn cảnh khủng khiếp. Đó là nhân vụ mưu phản của Sale. Tôi ở đó để rình chộp thư từ liên lạc của Sale với ông thân vương và ngay hồi ấy khi tôi bị nhận ra, suýt nữa tôi bị xé xác ra từng mảnh. Như vậy làm sao mà ngài lại muốn tôi trở lại đó? Đáng lẽ phụng sự hoàng hậu tôi sẽ làm nguy hại cho bà.

- Đấy nhé! Ông Rochefort thân mến ơi, ông hiểu rõ những ý đồ tốt nhất bị diễn giải sai đi như thế nào? Haàng hậu chỉ nhìn thấy ở sự tù chối cúa ông một sự từ chối thuần tuý và đơn giản, bà đã phải than vãn trách oán ông rất nhiều, dưới thời cố giáo chủ, ôi, Hoàng thương, Lệnh bà!

Rochefort mỉm cười khinh bỉ:

- Chính vì tôi đã hết lòng phụng sự ngài giáo chủ Richelieu chống lại hoàng hậu, sau khi ngài mất, xin đức ông hiểu rằng tôi sẽ hết lòng phụng sự đức ông chống lại tất cả mọi người.

- Tôi ấy à, ông de Rochefort ơi, - Mazarin nói. - Tôi không như ngài Richelieu, ông ta muốn giành quyền tối thượng, tôi là một vị tể tướng bình thường không cần tới công bộc, khi mình đã là công bộc của hoàng hậu: Do Lệnh bà rất hay hờn giận, bà đã biết việc từ chối của ông, coi đó là một sự tuyên chiến; lại được biết ông là người ưu tú biết chừng nào, do đó càng nguy hiểm. Ông Rochefort thân mến ạ, nên bà đã ra lệnh cho tôi phải giữ ông. Đấy là nguyên nhân vì sao ông lại ở trong ngục Bastille.

- Vậy thì, thưa Đức ông - Rochefort nói, - dường như nếu vì lầm lẫn mà tôi phải vào ngục Bastille...

- Phải, phải, - Mazarin tiếp lời, - chắc mọi chuyện có thể dàn xếp ông là người hiểu biết một số việc nào đó và khi những việc đó không thông tỏ thì xúc tiến cho tốt.

- Đó là ý giáo chủ Richelieu và lòng kính phục của tôi đối với bậc sĩ nhân ấy càng tăng thêm vì điều ngài có ý muốn nói rằng đó cũng là ý của ngài.

- Đúng vậy, - Mazarin nói, - ngài giáo chủ là một người rất chính trị, đó là điều ngài hơn hẳn tôi; tôi chỉ là mội người giản dị, thật thà, đó là điều hại cho tôi, tôi có cái tính ngay thẳng thật là Pháp.

Rochefort mím chặt môi để khỏi bật cười.

- Vậy là tôi tới đích. Tôi cần những người bạn tốt, những người thủ hạ trung thành; khi tôi nói tôi cần, nghĩa là tôi muốn nói: hoàng hậu cần. Tôi làm gì cũng chỉ do mệnh lệnh của hoàng hậu- chính tôi ấy, ông nghe chứa? Không phải như ông giáo chủ de Richelieu làm mọi thứ theo ý mình. Cho nên tôi sẽ chẳng bao giờ là một người vĩ đại như ông ấy, nhưng bù lại, tôi là một người tốt, ông Rochefort ạ, và tôi hy vọng ông sẽ thể nghiệm điều đó.

Rochefort biết cái giọng nói mượt mà ấy trong đó chốc chốc lại lướt một tiếng rít giống như tiếng rít của con rắn hổ mang.

- Thưa Đức ông, tôi sẵn sàng để tin tưởng, dầu về phần tôi, tôi có ít chứng từ về cái tính chất phác thật thà mà Đức ông nói tới.

Nhìn thấy cử chỉ của quan tể tướng định ngắt lời mình, Rochefort nói tiếp luôn:

- Xin Đức ông đừng quên rằng từ năm năm nay tôi ở ngục Bastille và không có gì làm sai ý nghĩ như khi nhìn mọi vật qua những song sắt một nhà tù.

- A! Ông Rochefort, tôi đã nói với ông rằng đối với cái nhà tù của ông, tôi chẳng là cái thá gì. Hoàng hậu... cơn thịnh nộ của đàn bà và của các bà hoàng, biết làm thế nào. Nhưng cái đó sẽ qua đi như nó đến, vả sau đó không nghĩ đến nó nữa...

- Thưa Đức ông, tôi hiểu rằng hoàng hậu không nghĩ tới chuyện ấy nữa, bà đã trải qua năm năm ở Hoàng cung, giữa những hội hè và các cận thần; nhưng tôi, người đã trải qua năm năm ở ngục Bastille...

- Ôi! Lạy chúa! Ông Rochefort thân mến ơi, ông tưởng rằng Hoàng cung là một chốn vui thú lắm sao? Không đâu. Ở đấy, chúng tôi, ngay chúng tôi cũng có những nỗi lo toan, phiền lụy lớn của chúng tôi, tôi cam đoan với ông đấy. Nhưng này, thôi đừng nói đến tất cả những chuyện đó. Tôi bao giờ cũng vậy, tôi cứ hay nói trắng ra. Thế nào, ông có phải là người của chúng tôi không, ông Rochefort?

- Thưa Đức ông, ngài cần hiểu rằng, tôi không đòi hỏi gì hơn, nhưng tôi không còn hiểu biết tình hình gì hết. Ở ngục Bastille, người ta chỉ nói chuyện chính trị với các binh lính và cai ngục và chắc ngài cũng không biết rằng những loại người ấy thật mù mờ về những chuyện xảy ra. Tôi bao giờ cũng theo ông de Batxompie. Ông ta vẫn là một trong số mười bảy vị đại thần chứ?

- Ông ta chết rồi, ông ạ, và đó là một tổn thất lớn.

Đó là một con người thật tận tuỵ với hoàng hậu, mả những người tận tuỵ thật là hiếm.

- Mẹ kiếp, tôi tin lắm. - Rochefort nói - Khi ngài có những người như thế, ngài đưa họ vào ngục Bastille.

- Nhưng hơn nữa - Mazarin nói, - cái gì chứng tỏ lòng tận tụy?

- Hành động - Rochefort nói.

- À phảỉ. Hành động! - Quan tể tướng nói, vẻ suy nghĩ - Nhưng tìm đâu những người hành động?

Rochefort gật đầu:

- Những người ấy chẳng bao giờ thiếu đâu, thưa Đức ông, có điều ngài kiếm dở đấy thôi.

- Tôi tìm kiếm dở? Ông định nói gì thế. Ông Rochefort thân mến, hãy chỉ dẫn cho tôi. Ông hẳn phải học được rất nhiều trong mối thân tình với Đức cố giáo chủ. A! Đó là một người thật vĩ đại.

- Đức ông liệu có tức giận không, nếu tôi nói với ngài những điều đạo lý?

- Tôi ấy à, không bao giờ. Ông biết đấy, người ta có thể nói mọi điều với tôi. Tôi tìm cách làm cho người ta yêu mên tôi, chứ không phải sợ hãi tôi.

- Này nhé! Thưa Đức ông, trong ngục tối giam tôi có một câu ngạn ngữ viết lên tường bằng đầu đinh.

- Câu gì? - Mazarin hỏi.

- Thưa Đức ông, thế này này: chủ nào...

- Tôi biết rồi: tớ ấy...

- Không, môn hạ ấy. Đó là thay đổi nhỏ mà những người tận tuỵ ngài vừa nói tới ban nãy đã đưa vào để thoả mãn ý riêng của họ.

- Thế câu ngạn ngữ ấy là gì?

- Nghĩa là ông de Richelieu đã khéo biết tìm ra những người môn hạ tận tụy và có tới hàng tá!

- Ông ta, mục tiêu của tất cả những lưỡi dao găm! Ông ta, người đã suốt đời tránh đỡ tất cả những đòn người ta đánh.

- Nhưng ông ta, cuối cùng, đã đỡ được hết, và mặc dầu những đòn đó đánh rất dữ tợn. Chính vì nếu như ông ta có những kẻ thù thật sự thì ông cũng có những người bạn thật sự.

- Ấy, đó là tất cả những gì tôi yêu cầu! - Tôi biết có những người, - Rochefort nghĩ đã đến lúc thực hiện lời hứa với d Artagnan, bèn nói tiếp, - tôi có biêt những người, do sự khôn khéo của họ đã hàng trăm lần làm cho sức thông tuệ của ngài giáo chủ Richelieu cũng bị sai lạc; do lòng dũng cảm của họ đã đánh bại những vệ sĩ và bọn do thám của ngài, những người không tiền của, không nơi nương tựa, không uy tín, đã giữ gìn vương vị cho một đế vương và đến xin ngài giâo chủ dung thứ.

Mazarin cười thầm về việc Rochefort đang đi đến chỗ mà ông muốn dẫn dắt đến, và nói:

- Nhưng những người mà ông đang nói đến ấy, họ không tận tuỵ với ngài giáo chủ vì họ chống lại ngài.

- Không, vì lẽ ra họ phải được hậu đãi hơn, song họ có điều bất hạnh là đã tận tuỵ với chính bà hoàng hậu mà lúc nãy ngài tìm kiếm những thủ hạ cho bà ấy đấy.

- Ấy! Nhưng sao ông lại có thể thông tỏ mọi chuyện.

Tôi biết rõ những chuyện ấy, vì những người đó là kẻ thù của tôi ở thời kỳ đó; vì họ chống lại tôi; vì tôi đã gây ra cho họ mọi tai hoạ mà tôi có thể làm được và ngược lại, họ cũng ra sức trả miếng tôi như thế; vì một người trong bọn họ mà tôi đặc biệt va chạm nhiều nhất, đã cho tôi một nhát kiếm cách đây cũng gần bảy năm rồi đấy, đó là nhát kiếm thứ ba do cùng một bàn tay đã đâm tôi... sự kết thúc của một khoản thanh toán cũ.

- A! - Mazarin thốt lên với vẻ chất phác tuyệt vời - Giá tôi biết được những con người như vậy?

- Thưa Đức ông, ngài có một người như thế ở ngay cửa ngài từ hơn sáu năm nay và từ sáu năm nay ngài coi là chẳng sử dụng được vào việc gì.

- Ai vậy?

- Ông d Artagnan.

- Cái tên Gascon ấy à? - Mazarin kêu lên với một vẻ ngạc nhiên vờ vĩnh rất giỏi.

- Cái tên Gascon ấy đã cứu một hoàng hậu, và nhắn lại với ngài de Richelieu rằng về mặt khôn ngoan, khéo léo và chính trị, hắn chỉ là một đứa học trò.

- Thật vậy ư?

- Xin lấy danh dự mà nói với các hạ.

- Hãy kể cho tôi nghe chuyện ấy một chút, ông Rochefort thân mến.

- Kể cũng rất khó đẩy, thưa Đức ông, - nhà quý tộc mỉm cười nói.

- Vậy thì tự hắn ta sẽ kể cho tôi chăng?

- Tôi không chắc vậy, thưa Đức ông.

- Tại sao vậy?

- Vì điều bí mật không phải là ông ta, nhưng tôi đã thưa với ngài, đó là bí mật của một bà hoàng hậu vĩ đại.

- Và anh ta chỉ có một mình để thực hiện một mưu sự dường ấy sao?

- Không, thưa Đức ông, anh ta có ba người bạn thân, ba con người dũng cảm giúp sức, những người dũng cảm như ngài tìm kiếm lúc nãy.

- Và bốn người ấy hợp nhất lại, đúng không?

- Cứ như thể bốn người ấy chỉ là một, cứ như thể bốn trái tim đập trong cùng một lồng ngực, cho nên với cả bốn người, họ làm gì chẳng được...

- Ông Rochefort thân mến ơi, quả thực ông đã chọc tính hiếu kỳ của tôi tới mức khôn tả. Ông không thể kể lại tôi nghe câu chuyện đó sao?

- Không, nhưng tôi có thể nói với ngài một chuyện cổ tích, một chuyện thần tiên thật sự, tôi xin cam đoan như vậy, thưa Đức ông.

- Ồ! Nói đi, ông Rochefort, tôi rất thích những chuyện cổ tích.

- Đức ông muốn vậy chứ? - Rochefort nói và cố thử khám phá xem trên bộ mặt tinh ma quỷ quyệt ấy có để lộ một ý đồ gì không.

- Phải.

- Vậy xin ngài nghe đây! Ngày xưa có một hoàng hậu..., mà một hoàng hậu rất quyền thế, hoàng hậu của một trong những vương quốc lớn nhất thế giới. Một quan đại tể tướng muốn làm nhiều điều ác với hoàng hậu vì trước kia đã muốn làm nhiều điều thiện cho bà.

Đức ông đừng vội đoán, ngài sẽ chẳng đoán được lả ai đâu. Mọi chuyện đã xảy ra trước đây rất lâu, trước khi ngài đến vương quốc nơi bà hoàng hậu ngự trị. Rồi có một vị đại sứ đến triều đình, một vị đại sứ dũng cảm thật giàu có và thật phong nhã đến nỗi tất cả phụ nữ đều chết mê chết mệt, và ngay cả hoàng hậu, có lẽ để kỷ niệm cách ông ta giải quyết các công việc Nhà nước thế nào đấy, bà đã khinh suất trao tặng ông một vật trang sức nảo đó rất đặc biệt, đến nỗi nó không thể nào thay thế được. Do vật trang sức ấy của vua ban, quan tể tướng đó xui ngài buộc bà hoàng phải dùng vật trang sức đó trong bộ trang phục của bà tại buổi dạ hội sắp tới. Chẳng cần phải nói với Đức ông rằng quan tể tướng biết chính xác đồ trang sức ấy đã đi theo vị đại sứ về một nơi xa tít bên kia biển cả. Bà hoàng hậu vĩ đại thấy nguy rồi? Giống như người nữ tỳ cuối cùng của bà, vì bà rơi xuống từ trên cao chót đỉnh của tất cá nỗi quang vinh quyền thế của bà.

- Thế à! - Mazarin nói.

- Thế rồi, thưa Đức ông, bốn người đàn ông quyết chí cứu bà. Bốn người ấy chẳng phải công hầu, chẳng phải những người quyền thế, cũng chẳng phải những người giàu có, đó chỉ là bốn người lính có lòng nhiệt thành, cánh tay vững chắc, lưỡi kiếm sắc bén. Họ ra đi. Quan tể tướng biết rõ họ lên đường và đã cắt đặt người ở dọc đường để ngăn cản họ tới đích. Ba người trong bọn họ bị rất nhiều kẻ công kích loại khỏi vòng chiến đấu, chỉ mỗi một người tới bến cảng, giết hoặc làm bị thương những kẻ muốn chặn bắt anh ta, vượt biển và mang trở về đồ trang sức cho bà hoàng hậu vĩ đại bà đã có thể đính vào vai áo đúng ngày đã ấn định, điều ấy suýt làm cho ông tể tướng phát điên. Thưa Đức ông, ngài nghĩ thế nào về mẩu chuyện ấy?

- Thật là tuyệt! - Mazarin mơ màng nói.

- Thưa ngài, tôi biết mười chuyện như vậy.

Mazarin không nói gì nữa - ông nghĩ ngợi.

Năm, sáu phút trôi qua.

- Thưa Đức ông, ngài không có gì hỏi tôi nữa chứ? - Rochefort nói.

- Có và d Artagnan là một trong bốn người đó phải không?

- Chính anh ta đã chỉ huy toàn bộ vụ ấy.

- Thế mấy người kia là những ai?

- Xin Đức ông cho phép tôi dành cho ông d Artagnan được lộ trình với ngài tên những người ấy. Đấy là bạn bè của ông ta chứ không phải của tôi; chỉ riêng ông ta có thể có một ảnh hưởng nào đó đối với họ, và tôi cũng không biết nhưng tên thật của họ.

Ông không tin ở tôi, ông Rochefort. Này, tôi muốn thẳng thắn đến cùng; tôi cần đến ông, đến anh ta và đến tất cả.

- Xin Đức ông bắt đầu từ tôi, vì ngài đã cho tìm tôi và bây giờ tôi có dây, rồi ngài chuyển sang họ. Xin ngài đừng lạ về tính tò mò của tôi, khi một người đã ngồi tù năm năm, anh ta chẳng hề bực bội vì biết người ta sẽ đưa mình đi đâu.

- Ông Rochefort thân mến, ông sẽ có vị trí tin cậy, ông sẽ đến Vincennes nơi giam giữ ông de Beaufort; ông sẽ kèm giữ chặt ông ấy cho tôi. Ơ kìa? Ông làm sao thế?

- Tôi thấy ngài bắt tôi phải làm điều không thể làm được, - Rochefort lắc đầu nói, vẻ thất vọng.

- Thế nào, một điều không thể làm được! Mà tại sao điều đó lại không thể làm được?

- Vì ông de Beaufort là bạn của tôi, hay đúng hơn, tôi là một trong những người của ông ấy. Đức ông đã quên rằng chính ông ấy đã bảo đảm cho tôi trước hoàng hậu hay sao?

- Từ hồi ấy ông de Beaufort là kẻ thù của quốc gia.

- Vâng, thưa Đức ông, điều đó có thể, song vì tôi không phải vua, không phải hoàng hậu, cũng chăng phải tể tướng, ông ta không phải là kẻ thù của tôi và tôi không thể nào nhận việc mà ngài ban cho tôi.

- Đấy là cái mà ông gọi là tận tuỵ trung thành. Tôi khen ngợi ông đấy. Lòng trung thành của ông không ràng buộc ông quá, ông Rochefort ạ.

- Với lại thưa Đức ông, - Rochefort nói tiếp, - ngài nên hiểu cho rằng ra khỏi Bastille để lại vào Vincennes, thế chỉ là thay đổi nhà tù.

- Hãy nói ngay rằng ông thuộc phái ông Beaufort có phải là thẳng thắn không.

- Thưa Đức ông, tôi bị giam cầm lâu đến nỗi tôi chỉ thuộc có một phái: đó là phái ngoài trời thoáng đãng. Xin hãy dùng tôi vào mọi việc khác, phái tôi đi đâu đấy làm cho tôi bận rộn luôn, nhưng nếu có thể, trên những con đường cái.

- Ông Rochefort thân mến, - Mazarin nói, vẻ giễu cợt, - lòng hăng hái của ông đã lôi cuốn ông; ông tưởng vẫn còn trai trẻ, vì con tim thì vẫn còn trẻ đấy, nhưng lực đã kiệt rồi, ông ạ. Vậy hãy tin ở tôi; điều cần cho ông bây giờ, đó là nghỉ ngơi. Ơ này, có người nào đấy không...

- Thế Đức ông không quyết định gì về tôi sao?

- Trái lại, tôi đã quyết.

Bernouin vào.

- Gọi một môn lại đến, - Ông bảo, và nói thêm rất khẽ, - hãy ở bên tôi.

Một môn lại vào. Mazarin viết mấy chữ đưa cho người đó, rồi gật đầu chào.

- Từ biệt ông de Rochefort, - Ông nói.

Rochefort cung kính cúi mình và nói:

- Thưa Đức ông, tôi biết người ta sẽ đưa tôi trở lại Bastille.

- Ông thông minh đấy.

- Tôi trở lại đó, thưa Đức ông; nhưng tôi xin nhắc lại rằng, ngài đã sai lầm không biết dùng tôi.

- Dùng ông, bạn của những kẻ thù của tôi?

- Biết làm thế nào! Phải biến tôi thành kẻ thù của những kẻ thù của ngài chứ?

- Ông tưởng chỉ có một mình ông thôi ư, ông de Rochefort? Hãy tin tôi, tôi sẽ tìm được những người rất đáng với ông.

- Xin chúc ngài được như vậy.

- Được lắm. Thôi, thôi! Này, đừng có viết nhiều cho tôi nữa, vô ích, ông Rochefort ạ, các thư từ cùa ông sẽ là những bức thư thất lạc.

"Mình thật là cốc mò cho cò xơi", - Rochefort vừa lui ra vừa lẩm bẩm, và nếu d Artagnan không hài lòng với ta khi lát nữa ta kể cho hắn nghe những điều ta tán dương hắn, thì hắn khó tính đấy. Nhưng người ta dẫn mình đi chỗ quái quỷ nào thế này?

Quả thật, người ta dẫn Rochefort theo lối cầu thang nhỏ, chứ không đưa đi qua tiền sảnh nơi d Artagnan đang chờ. Ra đến sân, ông thấy cỗ xe với bốn ngựa hộ tống còn người bạn thì tìm uổng công.

- A, a! - Rochefort tự nhủ thầm! - Kìa, mọi sự thay đổi ghê gớm!

Và nếu như trong các đường phố lúc nào cũng có đông đảo dám bình dân như vậy thì, nào! Chúng ta hay cố gắng chứng minh cho Mazarin rằng chúng ta vẫn còn thích hợp cho một công việc khác, ơn Chúa, hơn là canh giữ một người tù!

Và ông nhảy lên cỗ xe cũng nhẹ nhàng như thể ông mới có hai mươi lăm tuổi.

Chú thích:

(1) Josep (1577 - 1638) - thầy tu, cố vấn tin cậy cùa tể tướng de Richelieu nổi tiếng gian ác nhân dân gọi bẳng cái tên khiếp sợ "Các hạ xám"

(2) Buckingham (1592-1628) - quận công, tể tướng nước Anh giúp phái Tân giáo ở Pháp. Bị một sĩ quan Thanh giáo ám sát. Trong "Ba người lĩnh ngự lâm", ông ta yêu hoàng hậu Pháp Anne d Autriche và chuyện tình ấy là nguyên do của bao câu chuyện phiêu lưu.

-*-*-*-

Chương 4

Anne d'Autriche ở tuổi bốn mươi sáu

Còn lại một mình Bernouin, Mazarin ngồi tư lự một lát; ông ta biết rất nhiều song lại biết chưa đủ.

Madarann là kẻ cờ gian bạc lận; đó là một chi tiết mà Briênnơ đã giữ lại cho chúng ta: ông gọi là giành lợi thế cho mình.

Mazarin quyết định chỉ bắt đầu canh bạc với d Artagnan khi ông ta đã biết rõ mọi con bài của đối phương.

- Đức ông không ban lệnh gì à? - Bernouin hỏi.

- Có chứ, - Mazarin đáp, - soi đèn cho tôi, tôi đến chỗ hoàng hậu.

Bernouin lấy một cây nến và đi trước.

Có một lối thông bí mật từ chỗ ở và chỗ làm việc của Mazarin đến các căn buồng của hoàng hậu; chính qua cái hành lang ấy mà ngài giáo chủ đến với Anne d Autriche bất cứ giờ nào.

Khi đến phòng ngủ, mà lối đi ấy dẫn tới, Bernouin gặp bà Beauvais.

Bà Beauvais và Bernouin là những kẻ tâm phúc mật thiết cùa những mối tình quá lứa ấy. Bà Beauvais đi báo tin giáo chủ đến với Anne d Autriche đang ở trong phòng cầu nguyện với vua trẻ Louis XIV. Anne d Autriche ngồi trong một chiếc ghế bành, khuỷu tay tì lên mặt bàn và đầu tỳ lên bàn tay, bà nhìn đứa con ấu chúa đang nằm trên tấm thảm giở xem một quyển sách lớn về trận mạc. Anne d Autriche là một hoàng hậu hơn ai hết biết buồn chán với vẻ tôn nghiêm, đôi khi bà ngồi ru rú hàng giờ như vậy trong phòng bà hoặc trong phòng cầu nguyện, không đọc sách cũng chẳng cầu nguyện.

Còn quyền sách mà vua đang chơi, đó là tập Quinte-curse đầy tranh vẽ thể hiện những sự nghiệp vĩ đại của Thánh Alexandre.

Bà Bôve xuất hiện ở cửa phòng cầu nguyện và báo tin giáo chủ Mazarin đến.

Cậu bé quỳ trên một đầu gối, cau mày nhin mẹ và nói:

- Sao thế, ông ta vào như vậy mà không xin bái yết ư?

Anne hơi đỏ mặt. Bà đáp:

- Trong cái thời buổi mà chúng ta đang sống này rất cần thiết lâ một quan tể tướng có thể đến bất kỳ lúc nào để trình báo với hoàng hậu những gì đã xảy ra, mà không kích thích sự tò mò hoặc những lời bình phẩm của tất cả triều đình.

Nhưng con thấy hình như ông de Richelieu không vào như thế đâu, - đứa bé ngang ngạnh đáp.

- Làm sao mà con nhớ ông de Richelieu làm nhưng gì? Dạo ấy con có nhỏ quả, con không biết được đâu.

- Con không nhớ, con đã hỏi và người ta đã nói cho con biết.

- Thế ai đã nói với con điều đó? - Anne hỏi với một cử chỉ khó chịu không giấu nổi.

- Con biết là không bao giờ được nói tên những người đã trả lời các câu con hỏi, - cậu bé đáp, - hoặc nếu không thì con sẽ không biết gì nữa cả.

Vừa lúc đó Mazarin vào. Ông vua nhỏ tuổi liền đứng hẳn dậy, cầm lấy quyển sách, gấp lại và đem đặt lên bàn, rồi đứng nguyên cạnh đó để buộc Mazarin cũng phải đứng.

Mazarin quan sát cảnh tượng đó bằng con mắt tinh ranh của mình và dường như muốn đòi giải thích cái chuyện xảy ra trước đó.

Ông cung kính cúi mình trước bà hoàng hậu và trịnh trọng khom lưng thi lễ với vua, vua đáp lại bằng một cái gật đầu khá ngang tàng: như một cái nhìn của bà mẹ có ý trách móc sự buông thả những tình cảm hằn thù mà tù hồi còn nhỏ vua Louis XlV đã dành cho ông giáo chủ, và cậu mỉm cười tiếp nhận những lời chúc tụng của ông tể tướng.

Anne d Autriche cố đoán trên nét mặt Mazarin nguyên nhân của cuộc viếng thăm bất ngờ này, vì thông thường, giáo chủ đi đến với bà khi mọi người đã rút lui hết.

Ông tể tướng khẽ gật đầu, hoàng hậu liền quay lại bảo bà Beauvais:

- Đến giờ đưa vua đi nằm rồi đấy, gọi Laporte đi

Trước đó bà hoàng đã hai, ba lần bảo cậu Louis rút lui mà cậu vẫn nũng nịu đòi ở lại, nhưng lần này cậu không nói một lời, chỉ bậm môi và tái mặt đi.

Lát sau Laporte vào.

Cậu bé đi thẳng ra với ông, mà không ôm hôn mẹ.

- Ô này, Louis! - Anne nói. - Sao con không hôn mẹ?

- Thưa bà, tôi nghĩ rằng bà giận tôi, bà đuổi tôi.

- Mẹ có đuổi con đâu, chẳng qua vì con mới bị thuỷ đậu, con hãy còn ốm, mẹ sợ thức khuya sẽ làm con mệt.

- Bà đã chẳng còn nỗi lo sợ ấy khi hôm nay bà bắt tôi đến Cung để ban những bản chiếu chỉ độc ác khiể1n nhân dân kêu ca biết bao nhiêu.

- Tâu Hoàng thượng. - Laporter muốn lái câu chuyện, bèn nói - ngài muốn tôi đưa cho ai cây đèn nến.

- Muốn đưa cho ai thi2 đưa, - cậu bé đáp, rồi to tiếng nói thêm - Miễn là không phải đưa cho Mancini

Mancini là cháu của Mazarin mà ông ta cắt đặt bên vua làm ngự đồng và vua Louis XIV trút lên đầu hắn ta một phần nỗi hằn thù với tể tướng.

Và vua đi ra, không hôn mẹ mà cũng chẳng hề chào giáo chủ.

- Hay lắm! - Mazarin nói. - Tôi thích được thấy người ta giáo dục Hoàng thượng trong nỗi ghê sợ sự giấu giếm...

- Tại sao thế? - Hoàng hậu hỏi một cách gần như rụt rè.

- Tôi thấy hình như việc vua đi ra vừa rồi không cẩn đến những lời bình luận, vả lại Hoàng thượng cũng chẳng buồn che giấu, ngài chẳng ưa gì tôi; dù sao điều đó cũng không ngăn cản tôi hểt lòng trung thành phụng sự ngài, cũng như phụng sự Lệnh bà.

- Ông giáo chú, tôi xin ông thứ lỗi cho cháu - Hoàng hậu nói - Cháu còn nhỏ chưa hiểu là phải mang ơn ông nhiều lắm.

Giáo chủ cười.

- Nhưng, - Hoàng hậu tiếp, - chắc hẳn ông đến vì một việc gì quan trọng, có chuyện gì vậy?

Mazarin ngồi xuống, hay đúng hơn là nằm vật ra cái ghế to, và vẻ buồn rầu, ông nói:

- Có chuyện là, rất có thể chúng ta sẽ buộc phải từ giã nhau ngay, trừ phi là bà tận tâm với tôi đến mức theo tôi đi sang Ý.

- Tại sao thế? - Hoàng hậu hỏi.

- Bởi vì, - Mazarin nói tiếp, - như vở ca kịch Thisbé nói: Tất cả thiên hạ hùa nhau vào chia rẽ tình duyên của đôi ta.

- Ông đùa đấy ư, thưa ông! - Hoàng hậu nói - cố thử lấy lại một chút phong thế cũ của mình.

- Chao ôi, không đâu, thưa Lệnh bà. - Mazarin đáp - tôi không hề bông đùa một chút nào, đáng lẽ tôi phải khóc mới đúng, tôi xin bà hãy tin điều đó; bởi vì, xin bà nhớ kỹ, có sao thì tôi mới nói: Tất cả thiên hạ hùa nhau vào chia rẽ tình duyên của đôi ta. Do bà tham dự vào cái toàn thiên hạ, tôi muốn nói rằng cả bà cũng bỏ tôi.

- Ông giáo chủ!

- Lạy chúa, hôm nọ tôi đã chẳng trong thấy bà cười rất dễ thương với quận công d Orléans đấy ư, hay đúng hơn là với điều mà ông ta nói với bà.

- Ông ta nói gì với tôi?

- Thưa bà, ông ta bảo: "Chính lão Mazarin của bà là vật chướng ngại, hắn cút đi là mọi việc đều tốt đẹp"

- Thế ông bảo tôi lúc ấy phải làm gì?

- Ồ! Thưa Lệnh bà, bà là hoàng hậu thì phải.

- Cái vương vị mỹ miều mà tên thư lại dỏm đầu tiên của Hoàng cung hoặc kẻ quý tộc quê kệch đầu tiên của Vương quốc cũng có thể làm tình làm tội bắt sao chịu vậy!

Tuy nhiên bà vẫn đủ mạnh để đẩy đi những kẻ không vừa lòng bà.

- Nghĩa là không vừa lòng ông. Ông ấy! - Hoàng hậu đảp.

- Tôi ư?

- Còn gì nữa! Ai đã đuổi bà de Chevreuse, người đã từng bị đày đoạ dưới triều trước?

- Một kẻ âm mưu muốn tiếp tục chống lại tôi bằng những mưu đồ mở đầu chống lại ông de Richelieu.

- Ai đã tống cổ bà de Hautefort, người bạn đến là tuyệt diệu ấy đã từ chối các ân sủng của vua để vẫn ở lại trong đám thị nữ của tôi?

- Một mụ ra vẻ đoan trang, mỗi buổi tối khi cởi bộ xiêm y cho bà thường bảo bà là mất linh hồn đi yêu một lão thầy tu; cứ làm như hễ là giáo chủ thì ắt phải là thầy tu ấy.

- Ai đã cho bắt ông de Beaufort?

- Một tên phá bĩnh chỉ tâm niệm có mỗi một điều là phải ám sát tôi!

- Ông gìáo chủ, ông thấy chưa, - Hoàng hậu nói, - rõ ràng những kẻ thù của ông là kẻ thù của tôi.

- Chưa hết, thưa Lệnh bà, nhưng bạn hữu của bà còn phải lả bạn hữu của tôi nữa chứ?

- Bạn hữu của tôi ư, ông? - Bà hoàng lắc đầu. - Than ôi! Tôi chẳng còn bạn hữu nữa.

- Sao bà lại không có bạn hữu trong cảnh vui sướng, khi có đầy bạn bè trong cơn hoạn nạn.

- Bởi vì. Ông ạ, trong cảnh sung sướng, tôi đã quên mất những bạn bè xưa, bởi vì tôi đã làm như nữ hoàng Marie de Médicis (2) khi từ cuộc lưu đầy lần thứ nhất trở về đã khỉnh rẻ tất cả những ai đã chịu khổ vì bà, và đến khi bị lưu đầy lần thứ hai đã chết ở Cologne, bị tất cả mọi người bỏ rơi kể cả con trai bà, vì đến lượt tất cả mọi người khinh rẻ bà.

- Thế thì, bà này! - Mazarin nói. - Chẳng phải đến lúc sửa chữa cái sai ư? Hãy tìm kiếm những ngưởi xưa nhất trong số những bạn bè của bà.

- Ông muốn nói gì hở ông?

- Không có gì khác ngoài điều tôi nói: hãy tìm kiếm.

- Than ôi! Tôi đã hoài công nhìn xung quanh mình, tôi chẳng có ảnh hưởng đối với ai cả. Ông thì bao giờ cũng được sủng thần đưa dẫn, hôm qua là Choisy, hôm nay là La Rivière, ngày mai sẽ là một người khác. Ông Hoàng thân thì có ông giáo chủ đưa đón, mà chủ gỉáo thì có bà de Guéménée đưa đón.

- Cho nên, thưa bà, tôi không bảo bà trông vào những bạn hữu hôm nay, mà trông vào những bạn hữu ngày xưa.

- Những bạn hữu ngày xưa ư? - Hoàng hậu hỏi.

- Phải, trong số những bạn hữu ngày xưa, trong số những người

"Ông ta muốn đi tới đâu" - Hoàng hậu lẩm bẩm và lo ngại nhìn giáo chủ.

- Phải, - Ông ta nói tiếp, - trong những hoàn cảnh nào đó cái tinh thần mạnh mẽ và tinh tế nó là đặc điểm của Lệnh bà, bà có thể nhờ sự giúp sức của bạn bè, đẩy lùi những cuộc công kích của kẻ địch thủ ấy.

- Tôi ấy ư! - Hoàng hậu nói, - tôi đã chịu khổ, tất cả chỉ có thế!

- Phải, - Mazarin nói, - giống như những người đàn bà vừa đau khổ vừa trả thù. Thôi này, ta hãy đi vào việc! Bà có biết ông Rochefort không?

Ông de Rochefort không phải là bạn của tôi, - Hoàng hậu nói, - mà trái lại, thuộc hàng những kẻ thù dai dẳng nhất của tôi, một trong những người trung thành nhất của giáo chủ de Richelieu. Tôi chắc là ông biết điều đó. Tôi biết rõ hắn đến mức là chúng tôi đã cho nhốt hắn vào ngục Bastille.

- Hắn ta đã ra chưa? - Hoàng hậu hỏi.

- Không, bà yên tâm, hắn vẫn ở đấy, tôi nói về hắn là để đi đến một người khác. Bà có biết ông d Artagnan không? - Mazarin vừa nói tiếp vừa nhìn thẳng vào mặt hoàng hậu.

Anne d Autriche bị một nhát vào giữa tim.

"Tên Gascone đã để lộ gì chăng?" - Bà lẩm bẩm.

Rồi bà nói to:

- D Artagnan? Xem đã, ờ, phải cái tên đó chắc quen. d Artagnan, một người lính ngự lâm trước có yêu một nữ tì của tôi, tội nghiệp con bé bị đầu độc chết cũng vì tôi.

- Tất cả thế thôi à? - Mazarin nói.

Hoàng hậu ngạc nhiên nhìn giáo chủ và nói:

- Nhưng mà, ông này, hình như ông đem tôi ra để làm một cuộc hỏi cung hay sao?

Với nụ cười muôn thuở và giọng nói dịu dàng của mình, Mazarin nói:

- Bất cứ trường hợp nào, bà cũng chỉ đáp lại theo ý thích riêng của bà.

- Ông trình bày rõ ràng nhũng ý muốn của ông đi và tôi sẽ trả lời tất - hoàng hậu bắt đầu mất kiên nhẫn nói.

- Thế thì, thưa Lệnh bà, - Mazarin nghiêng mình thi lễ và nói, - tôi muốn bà chia sẻ với tôi những bạn hữu của bà, cũng như tôi đã chia sẻ với bà chút ít kỹ xảo và tài năng mà Trời đã phú cho tôi. Các tình huống đang nghiêm trọng, và sắp phải hành động kiên quyết.

- Lại thế nữa - Hoàng hậu nói. - Tôi ngỡ rằng chúng ta sẽ hết nợ với ông de Beaufort.

- Vâng! Bà chỉ nhìn thấy dòng thác nó muốn lật nhào tất cả, mà bà không chú ý đến chỗ nước lũ. Trong khi đó ở Pháp có câu tục ngữ về nước lặng.

- Ông nói nốt đi, - Hoàng hậu bảo.

- Này nhé, - Mazarin nói tiếp - hàng ngày tôi chịu đựng những sự xúc phạm do các ông hoàng của bà, các kẻ hầu có tước vị của bà gây ra với tôi, tất cả những con rối không thấy rằng cầm các đầu dây của họ, và dưới cái vẻ nghiêm trang kiên nhẫn của tôi, họ không đoán được cái cười của người bị chọc tức thề với mình rằng một ngày nào đó sẽ là người mạnh nhất. Chúng tôi đã cho bắt ông de Beaufort, đúng; nhưng đó là kẻ ít nguy hiểm hơn tất cả, còn có ông Hoàng thân...

- Người chiến thắng de Rocroy!(3) Ông nghĩ đến điều đó à?

- Vâng, thưa bà, và luôn luôn; nhưng Patienza(4) như những người Ý chúng tôi nói. Rồi sau ông De Condé có ông quận công d Orléans.

- Ông nói gì thế? Vị đệ nhất hoàng thân, chú ruột của vua?

- Không phải đệ nhất hoàng thân, không phải chú ruột vua, mà là kẻ mưu phản hèn nhát, dưới triều đình cũ, bị tính bốc đồng và ngông nghênh thúc đẩy, những buồn bực hèn hạ gặm nhấm, lòng tham lam tầm thường xâu xé, ganh ghét tất cả những gì vượt hắn ta về mặt trung thực và dũng cảm, bực tức vì chẳng là cái thá gì, nhờ cái rỗng tuếch của mình làm tiếng vang cho tất cả những tin đồn bậy, làm linh hồn cho tất cả những âm mưu, ra hiệu tiến lên cho tất cả những con người trung hậu kia, họ dại dột tin vào lời nói của một thân vương mà hắn ta thì chối bỏ họ khi họ bước lên đoạn đầu đài. Không phải đệ nhất hoàng thân, không phải chú ruột của vua, tôi xin nhắc lại, mà là kẻ sát hại de Chalais , de Montmorency và de Cinq-Mars, ngày nay hắn thử diễn lại vẫn trò ấy và tưởng tượng mình sẽ thắng cuộc bởi vì hắn sẽ thay đổi đối thủ và bởi vì đáng lẽ có trước mặt mình một con người hăm doạ thì hắn có một con người mỉm cười. Nhưng hắn lầm, làm hại ông de Richelieu, hắn ắt thất bại, và tôi không có lợi gì để bên cạnh hoàng hậu một chất men bất hoà, với chất men đó ông cố giáo chủ đã khiến cho nhà vua điên tiết trong hai chục năm trời.

Anne đỏ mặt và giấu mặt trong hai bàn tay.

- Tôi không muốn làm Lệnh bà xấu hổ, - Mazarin trở lại một giọng bình tĩnh hơn nhưng đồng thời với thái độ cương quyết lạ lùng, nói tiếp. - Tôi muốn người ta kính trọng hoàng hậu và kính trọng tể tướng của bà, bởi vì trước mặt mọi người tôi chỉ là như vậy. Chính Lệnh bà biết rằng, không phải như nhiều người nói tôi không phải là một thằng hề Ý tới; Lệnh bà phải làm cho mọi người hiểu.

Uốn người dưới cái giọng áp chế ấy, hoàng hậu nói:

- Vậy thì tôi phải làm gì?

- Bà phải tìm trong ký ức tên của những con người trung thành và tận tụy, mặc dầu ông de Richelieu ra sức cản trở, đã để lại những vệt máu của họ suốt dọc đường đi, đề đem về dâng Lệnh bà cái đồ trang sức nào đó mà bà đã tặng ông de Buckingham.

Như bị một cái lò-xo thép làm bật lên, Anne đứng lên đường bệ và phẫn nộ và nhìn giáo chủ với cái uy phong và cao ngạo đã làm cho bà đầy quyền thế trong những ngày son trẻ, bà nói:

- Ông lăng mạ tôi đó hả ông?

- Cuối cùng tôi muốn rằng, - Mazarin nói nốt cái y nghĩ bị cử chỉ của hoàng hậu cắt ngang, - tôi muốn rằng ngày nay bà hãy làm cho chồng bà cái mà ngày xưa bà đã làm cho người yêu của bà.

- Lại cái điều vu cáo ấy nữa? - Hoàng hậu kêu lên - Thế mà tôi cứ tưởng nó đã chết và bị bóp nghẹt, bởi vì ông đã xá miễn cho tôi đến tận bây giờ, nhưng lúc này ông lại lên tiếng. Càng hay! Bởi vì lần này sẽ là chuyện giữa chúng tôi, và tất cả sẽ kết thúc, ông nghe rõ chưa?

Kinh ngạc trước sự phục hồi quyền lực này, Mazarin nói:

- Nhưng thưa Lệnh bà, tôi có đòi hỏi Lệnh bà thổ lộ với tôi tất cả đâu.

- Còn tôi, tôi muốn nói hết với ông! - Anne d Autriche đáp lại. Hãy nghe đây! Tôi muốn nói với ông rằng quả thật ở thời kỳ đó, có bốn trái tim tận tụy, bốn linh hồn trung thực, bốn thanh kiếm trung thành đã cứu hơn cả cuộc đời tôi, thưa ông, đã cứu danh dự cho tôi!

- A! Bà thú nhận, - Mazarin nói.

- Thưa ông, phải chăng chỉ có những kẻ có tội thì danh dự của họ mới bị tổn hại, còn người ta không thể làm mất danh dự của một người nào đó, nhất là một người phụ nữ, bằng những lời thị phi dè bỉu sao? Đúng, những lời thị phi dè bỉu nhắm vào tôi và tôi sắp bị ô danh, nhưng dẫu sao tôi xin thề, tôi không phải là kẻ có tội. Tôi xin thề...

Hoàng hậu tìm kiếm một vật linh thiêng để thề, bà mở cửa tủ nằm khuất sau một tấm thảm, lấy ra một tráp nhỏ bằng gỗ cây hồng khảm bạc, và đặt lên bàn thờ, rồi nói:

- Trên những thành tích thiêng liêng này, tôi xin thề rằng tôi có yêu ông de Buckingham, nhưng ông Buckingham không phải là tình nhân của tôi!

- Nhưng đó là những thành tích gì mà bà dùng để thề bồi, thưa bà? - Mazarin mỉm cười nói, - vì tôi xin nói trước với bà, với tư cách người La Mã, tôi thuộc loại người không tín ngưỡng, toàn thành tích là thành tích.

Hoàng hậu tháo một chìa khoá bằng vàng ở cổ và đưa cho giáo chủ. Bà bảo:

- Ông hãy mở ra và tự ông nhìn xem.

Mazarin ngạc nhiên cầm lấy chìa khoá và mở tráp, trong đó ông chỉ nhìn thấy một con dao bị gỉ ăn mòn và hai bức thư mà một bức có vết máu.

- Thế này là thế nào? - Mazarin hỏi.

- Thế này là thế nào ư, ông? - Anne d Autriche nói với cử chỉ nữ hoàng của bà và giơ một cánh tay hãy còn tuyệt mỹ, tuy bao năm tháng đã trôi qua, đặt lên cái tráp để mở, - tôi sẽ nói ông rõ. Hai bức thư ấy là hai bức thư duy nhất mà tôi đã viết cho Buckingham. Con dao ấy là con dao mà Filtơn đã đâm ông ấy. Ông hãy đọc mấy bức thư đó và sẽ thấy tôi có nói dối hay không?

Mặc dầu được phép như vậy, vì một tình cảm tự nhiên, đáng lẽ đọc thư, Mazarin đã cầm lên con dao mà Buckingham lúc gần chết đã rút ra khỏi vết thương của mình và qua Lanporter gửi đến hoàng hậu, lưỡi dao đã mòn hết vì máu biến thành gỉ; rồi sau một lát xem xét, trong khi đó khuôn mặt hoàng hậu biến sắc trắng bệch ra như tấm vải phủ bàn thờ mà bà tựa mình lên, ông đặt lại con dao vào trong tráp và bất giác rùng mình. Ông nói:

- Được rồi bà ạ, tôi tin lời thề của bà.

- Không, không - Hoàng hậu cau mày nói - đọc đi, tôi muốn thế, tôi ra lệnh thế, như tôi đã nhất quyết tất cả sẽ kết thúc lần này, và chúng ta sẽ không trở lại vấn để này nữa. - Rồi với một nụ cười khủng khiếp bà nói tiếp, - Ông cho rằng rồi đây, trưởc mỗi lời buộc tội của ông, tôi lại phải sẵn sàng mở tráp này ra hay sao?

Bị khuất phục bởi khí phách ấy, Mazarin tuân theo như một cái máy và đọc hai bức thư. Một bức là hoàng hậu xin lại ông Buckingham chuỗi hạt kim cương, bức này do d Artagnan mang đi và đưa đến kịp thời. Bức kia do Laporter mang đến cho quận công trong đó hoàng hậu báo trước là ông sắp bị ám hại, nhưng thư đến quá muộn.

- Được rồi, thưa bà, - Mazarin nói, - chẳng có gì phải trả lời điều đó.

- Có chứ, thưa ông, - Hoàng hậu nói và đậy tráp lại rồi đặt bàn tay lên nắp tráp. - Có chứ, có một điều gì đấy phải trả lời: ấy là tôi vẫn luôn luôn bội bạc với những người đã cứu tôi, tôi ấy, và đã làm tất cả những gì họ có thể làm để cứu ông ta: ấy là tôi chưa tặng gì cho cái ông d Artagnan trung hậu ấy mà ông nói đến ban nãy, ngoài bàn tay tôi đưa ra để ông ta hôn, và chiếc nhẫn kim cương này.

Hoàng hậu chìa bàn tay xinh đẹp về phía giáo chủ và chỉ cho ông ta xem một viên đá tuyệt diệu lóng lánh nơi ngón tay bà. Bà nói tiếp:

- Hình như ông ta đã bán nó đi trong một lúc túng thiếu; ông ta đã bán đi để cứu tôi lần thứ hai, vì để cử một mật sứ đến ông quận công và để bảo với ông rằng ông sắp bị ám sát.

- D Artagnan có biết chứ?

- Ông ta biết tất cả. Làm thế nào mà biết được? Tôi không rõ, nhưng cuối cùng ông ta đã bán chiếc nhẫn kim cương đó cho ông des Essarts, tôi thấy ông Essarts, đeo ở ngón tay và tôi đã chuộc lại, nhưng chiếc nhẫn kim cương này là của d Artagnan ông ạ. Tôi nhờ ông đưa lại cho ông ta, và vì ông có diễm phúc có bên cạnh mình một con người như vậy, ông cứ sử dụng ông ta.

- Cảm ơn bà- Mazarin nói - Tôi sẽ tận dụng lời khuyên.

Như rã rời bởi nỗi xúc động Hoàng hậu nói:

- Bây giờ ông có chuyện gì khác cần hỏi tôi không?

- Thưa bà, không, - Giáo chủ trả lời với giọng mơn trớn nhất của mình. - chỉ cần bà tha thứ cho những điều nghi kỵ bất công của tôi nhưng vì tôi yêu bà đến nhường nào, nên cũng chẳng lấy làm lạ nếu tôi ghen, dù ghen cả với quá khứ.

Một nụ cười khó hiểu lướt trên môi Hoàng hậu. Bà nói:

- Vậy thưa ông, nếu không có điều gì cần hỏi, xin ông để tôi yên, chắc ông hiểu rằng sau một cuộc xung đột như vậy, tôi cần ở một mình.

Mazarin nghiêng mình nói:

- Tôi xin cáo lui, thưa bà, bà có cho phép tôi lại đến không?

- Có nhưng ngày mai. Tất cả quãng thời gian ấy để tôi hồi phục, không phải là quá nhiều.

Giáo chủ cầm tay hoàng hậu, hôn một cách phong nhã, rồi rút lui.

Ông ta vừa ra khỏi, hoàng hậu đi sang phòng con trai và hỏi Laporter xem vua đi nằm chưa. Laporter lấy tay trỏ cậu bé đang ngủ.

Anne d Autriche trèo lên các bậc giường, ghé môi sát vầng trán cau lại của con trai và dịu dàng đặt lên đó một cái hôn; rồi bà đi lặng lẽ như đã đến, tự bằng lòng với việc bảo người hầu phòng:

- Laporter thân mến của tôi, hãy cố gắng làm cho vua vui vẻ hơn với ông giáo chủ, tôi và vua chịu ơn ông ấy nhiều lắm.

Chú thích:

(1) Anne d Autriche (1601 - 1666) - Công chúa Tây Ban Nha kết hôn với vua Pháp Louis XIII, bị tể tướng Richelieu chèn ép. Từ 1634, làm nhiếp chính cho con mình là vua Louis XIV, và chọn Mazarin làm tể tướng.

(2) Mariede Medicis (1573-1642 Hoàng hậu của Henri IV. Sau khi Henri IV qua đời bà làm nhiếp chính cho con trai là vua Louis XIII đã giúp bà chống lại ông quận công de Richelieu, và còn thắng ông ta nữa.

(3) chỉ Condé.

(4) Kiên nhẫn (tiếng Ý)

-*-*-*-

Chương 5

Người Gascon và người Ý

Trong thời gian ấy giáo chủ trở về phòng mình, thấy Bernouin đứng cạnh cửa. Ông hỏi xem có gi mới xảy ra không và có tin tức gì về tình hình bên ngoài không.

Nghe trả lời không, ông ra hiệu cho hắn ta lui.

Còn lại một mình, ông ra mở cửa hành lang, rồi cửa tiền sảnh; d Artagnan mệt mỏi nằm ngủ trên một cái ghế dài nhỏ.

- Ông d Artagnan! - Ông gọi, giọng dịu dàng.

D Artagnan không động đậy.

- Ông d Artagnan! - Ông gọi to hơn.

D Artagnan vẫn ngủ.

Giáo chủ tiến về phía anh lấy đầu ngón tay chạm nhẹ vào vai anh.

Lần này d Artagnan giật mình thức giấc và tỉnh dậy, đứng ngay đơ như một người lính trong hàng quân. Anh nói:

- Có tôi, ai gọi đấy?

- Tôi đây! - Mazarin nói, vẻ mặt rất tươi cười.

- Xin Các hạ thứ lỗi, - D Artagnan nói, - tôi mệt quá!

- Ông không phải xin lỗi tôi, - Mazarin nói, - vì ông mệt mỏi do phục vụ cho tôi.

D Artagnan ngắm cái vẻ duyên dáng của tể tướng.

- Ái chà! - Anh nhủ thầm, - không rõ có câu tục ngữ "điều hay đến ngay khi ngủ" có đúng không nhỉ?

- Ông theo tôi - Mazarin bảo.

- Này này - D Artagnan lẩm bẩm. - Rochefort đã giữ lời hứa với ta, nhưng không biết hắn mất biến đi đằng nào ấy nhỉ?

Và anh nhìn vào mọi ngóc ngách trong căn phòng mà chằng thấy bóng Rochefort đâu cả.

Mazarin vừa ngồi xuống ghế bành vừa sắp xếp lại và nói:

- Ông d Artagnan, bao giờ tôi cũng thấy ông là một con người trung hậu và phong nhã.

- Cũng có thể, - D Artagnan nghĩ, - nhưng ông ta đã mất bao nhiêu thời gian đề nói với mình điều đó. Ý nghĩ ấy không ngăn cản anh cúi sát đất đầu đáp lại lời khen ngợi của ông ta.

- Thế này nhé. - Mazarin nói tiếp - đã đến lúc cần tận dụng tài năng và giá trị của ông đấy!

Một ánh vui mừng vụt lóe lên, rồi tắt ngấm ngay trong cặp mắt người sĩ quan, vì anh không biết giáo chủ muốn đi đến đâu. Anh nói:

- Xin Đức ông cứ ra lệnh, tôi sẵn sàng phục tùng.

- Ông d Artagnan, - giáo chủ tiếp, - dưới triều cũ ông đã lập một số chiến công...

- Các hạ quá rộng lòng nhớ lại... Đúng thế, tôi có tham gia chiến tranh với khá nhiều thành tích.

- Tôi không nói về thành tích chiến tranh của ông, - Mazarin nói, - vì dù cho nó có gây được tiếng vang nào đó, nó cũng bị những chiến công khác vượt xa.

D Artagnan làm bộ ngơ ngác.

- Thế nào! - Mazarin nói, - Ông không trả lời à?

- Tôi được Đức ông bảo cho biết ngài muốn nói về những chiến công nào.

- Tôi nói về câu chuyện phỉêu lưu... Hề! Ông thừa biết tôi muốn nói gì.

- Chao ôi! Thưa Đức ông, không ạ, - D Artagnan sửng sốt đáp.

- Ông kín đáo, càng tốt. Tôi muốn nói chuyện phiêu lưu về Hoàng hậu, về chuỗi hạt kim cương, về chuyến viễn du mà ông đã thực hiện cùng với ba người bạn ông.

- Hề, hề - Chàng Gascon nghĩ - phải chăng đây là một cái bẫy? Ta phải vững mới được.

Và anh tạo trên nét mặt một vẻ kinh ngạc mà Mondori hoặc Bellerose, những tay hề xuất sắc nhất của thời ấy cũng phải ganh tị.

Rất tốt! - Mazarin cười nói. - Hoan hô! Người ta đã nói rất đúng với tôi rằng ông là người mà tôi cần. Thế nào? Ông sẽ làm điều gì tốt lành cho tôi nào?

- Tất cả những điều gì Các hạ ra lệnh cho tôi làm, - D Artagnan đáp.

- Ông sẽ làm cho tôi cái điều mà xưa kia ông đã làm cho một bà hoàng hậu chứ?

D Artagnan tự nhủ thầm: "Nhất định là người ta muốn bắt mình phải tuôn ra, cứ đợi đấy. Ông ta chẳng tinh khôn hơn Richelieu đâu, mẹ kiếp...". Anh nói:

- Cho một bà hoàng hậu ư, thưa Đức ông. Tôi không rõ Đức ông định nói gì.

- Ông không hiểu rằng tôi cần đến ông và ba người bạn của ông ư?

- Ba người bạn nào ạ?

- Ba người bạn ngày xưa của ông.

- Ngày xưa, thưa Đức ông, - D Artagnan đáp, - tôi không có ba người bạn, tôi có năm mươi bạn. Ở tuổi hai mươi, người ta gọi tất cả thiên hạ là bạn của mình.

- Được được ông sĩ quan này! - Mazarin nói - Tính kín đáo là một điều hay, nhưng ngày nay ông có thể sẽ hối tiếc vì đã quá kín đáo.

- Thưa Đức ông, Pythagore đã bắt môn đồ của mình giữ im lặng trong năm năm để dạy cho họ biết ngậm miệng.

- Còn ông đã giữ im lặng trong hai mươi năm. Thế là hơn một nhà triết học phái Pythagore mười năm lăm, tôi thấy thế là phải rồi: Vậy hôm nay hãy nói đi, vì rằng chính hoàng hậu đã giải lời thề cho ông rồi.

- Hoàng hậu ư? D artagnan nói với một vẻ kinh ngạc lần này không giả tạo nữa.

- Phải, hoàng hậu? Và để chứng thực rằng tôi nhân danh bà mà nói với ông, bà đã bảo tôi đưa cho ông xem chiếc nhẫn kim cương này mà bà cho rằng ông cũng biết, và bà đã chuộc lại ở ông des Essarts.

Và Mazarin giơ bàn tay về phía viên sĩ quan, anh thở dài khi nhận ra chiếc nhẫn mà hoàng hậu đã tặng anh buổi tối cuộc vũ hội ở toà thị sảnh.

- Đúng thật - D Artagnan nói, - tôi nhận ra chiếc nhẫn kim cưong này trước kia của hoàng hậu.

- Ông thấy rõ rằng tôi nhân danh bà hoàng hậu mà nói với ông. Vậy đừng đóng kịch nữa, mà hãy trả lời tôi. Tôi đã nói với ông, và tôi xin nhắc lại, vận hạnh của ông cũng trông vào đấy mà nên.

- Thưa Đức ông, thực tình tôi rất cần làm nên những chuyện lớn lao đó. Các hạ đã quên tôi quá lâu.

- Chỉ cần tám ngày để sửa chữa điều ấy. Này, ông thì đây rồi, nhưng còn các bạn của ông đâu?

- Thưa Đức ông, tôi không rõ.

- Sao, ông không biết gì về họ ư?

- Không, chúng tôi đã xa nhau lâu lắm rồi. Vì cả ba người đã rời quân ngũ.

- Thế ông sẽ tìm họ ở đâu?

- Ở bất cứ nơi nào họ sẽ đến. Việc ấy tôi lo.

- Tốt! Các điều kiện của ông?

- Tiền, thưa Đức ông, chừng nào mà những mưu sự của ta đòi hỏi. Tôi rất nhớ biết bao lần chúng tôi bị trở ngại vì thiếu tiền và không có nhẫn kim cương kia mà tôi buộc lòng phải bán thì hẳn chúng tôi đã phải ở lại giữa đường.

- Quỷ quái thật! Tiền, nhiều tiền lắm sao? - Mazarin nói. - Này ông sĩ quan, ông có biết rằng không có tiền ở trong các két bạc của nhà vua không?

- Xin Đức ông hãy làm như tôi, bán những hạt kim cương ở mũ miện; hãy tin tôi, không nên mặc cả, với những phương tiện nhỏ mọn người ta làm hỏng những việc lớn.

- Thôi này! - Mazarin nói, - chúng tôi sẽ tìm cách làm vừa lòng ông.

"Richelieu, - D Artagnan nghĩ, - hẳn là đã cho ta năm trăm pistoles tiền đặt cọc".

- Các ông sẽ theo tôi chứ?

- Vâng, nếu các bạn của tôi muốn vậy.

- Nhưng nếu họ từ chối, tôi có thể trông cậy ở ông không?

- Một mình thì tôi chẳng làm nên trò trống gì, - D Artagnan lắc đầu nói.

- Vậy đi tìm kiếm họ đi.

Tôi sẽ nói với họ như thế nào để khiến họ phụng sự Các hạ?

- Ông biết rõ họ hơn tôi. Tuỳ tính cách họ mà ông hứa hẹn.

- Tôi sẽ hứa hẹn gì?

- Rằng họ cứ giúp tôi như đã giúp hoàng hậu và sự trả ơn của tôi sẽ hậu hĩnh.

- Chúng tôi sẽ làm gì?

- Tất cả vì dường như ông biết làm tất cả.

- Thưa Đức ông, khi người ta tin cậy những người khác và muốn rằng họ cũng tin cậy vào mình thì người ta cho biết tình hình rõ hơn là Các hạ đã làm.

- Khi nào thời gian hành động đến sẽ hay, - Mazarin nói, - cứ yên tâm, ông sẽ biết tất cả ý nghĩ của tôi.

- Thế cho đến lúc ấy?

- Chờ đợi và đi tìm các bạn của ông.

- Thưa Đức ông, có lẽ họ không ở Paris, chẳc chắn là như vậy, phải đi xa mới được. Tôi chỉ là một viên trung uý ngự lâm nghèo xác xơ mà những chuyến đi thì tốn kém.

- Ý định của tôi, - Mazarin nói, - không phải là ông sẽ xuất hiện như một ông hoàng với tiền hô hậu ủng, kế hoạch của tôi cần bí mật và sẽ hỏng bét với những ngựa xe nghễu nghện.

- Thưa Đức ông, tôi chẳng thể đi với tiền lương của tôi: vì lương chậm đến ba tháng chưa trả, tôi cũng không thể đi được bằng tiền dành dụm lý do là từ hai mươi năm nay phục vụ trong quân đội, tôi chỉ dành dụm được những khoản nợ nần mà thôi.

Mazarin đứng đăm chiêu một lát như phải suy nghĩ một cách hết sức căng thẳng, rồi bước đến bên chiếc tủ ba lần khoá, ông lôi ra một cái túi, nhấc nhấc trên tay hai ba bận để ước lượng nặng nhẹ ra sao trước khi đưa cho d Artagnan.

- Anh cầm lấy chỗ này, - Mazarin thở dài và nói, - đây là cho chuyến viễn du.

D Artagnan nghĩ thầm: "Nếu là những đồng tiền vàng Tây Ban Nha hoặc những đồng êquy vàng thì chúng ta sẽ có thể cộng tác được với nhau đấy!" Anh chào giáo chủ và nhét bọc tiền vào túi áo rộng.

- Này thế là xong nhé? - Giáo chủ đáp lại. - Ông sẽ lên đường...

- Vâng, thưa Đức ông.

- Rất tốt. Nhân tiện, tên các bạn ông là gì nhỉ?

- Tên các bạn tôi ư? - D Artagnan nhắc lại, vẻ hơi băn khoăn.

- Phải, trong khi ông đi tìm họ, về phần tôi cũng sẽ cho dò hỏi, may ra biết thêm được chút gì.

- Ông bá tước De la Fére, tức Arthos, ông Du Vallon tức Porthos. Ông hiệp sĩ De Herblay, bây giờ là tu viện trưởng Herblay, tức Aramis.

Giáo chủ mỉm cười.

- Những vị quý tộc đăng vào ngự lâm quân dưới những tên giả để khỏi phương hại đến tên họ tộc. Kiếm dài nhưng hầu bao nhẹ, người ta biết điều đó.

- Nếu Chúa muốn rằng những tay trường kiếm kia chuyển sang phụng sự Các hạ. - D Artagnan nói, - thì tôi xin mạo muội bày tỏ một mong ước là, đến lượt cái hầu bao của đức ông nhẹ đi và hầu bao của họ tăng lên; bởi vì với ba con người kia và tôi, Các hạ sẽ khuấy động toàn nước Pháp và toàn châu Âu nữa, nên điều đó hợp ý ngài.

- Những tên Gascon này - Mazarin cười nói - cũng gần ngang với người Ý về tài huênh hoang.

- Dù sao, - D Artagnan nói với một nụ cười tương tự như bộ mặt giáo chủ - dù sao, họ cũng hơn về tài đấu kiếm. Và anh ra đi sau khi đã xin một giấy nghỉ phép được Mazarin cấp ngay và tự mình ký.

Vừa mới ra ngoài, anh bèn đến gần một ngọn đèn ngoài sân và nhòm vội vào cái túi.

- Những đồng êquy bạc! - Anh buông một câu khinh bỉ, - ta ngờ ngay mà. A, Mazarin, Mazarin, mi không tin cậy ta! Cóc cần! Điều này sẽ mang đến những tai hoạ cho mi!

Trong lúc ấy, ông giáo chủ xoa xoa tay. Ông lẩm bẩm:

- Một trăm pistol! Mất một trăm pistol ta có được một bí mật mà Richelieu có lẽ phải trả hai mươi nghìn êquy ấy là chưa kể cái nhẫn kim cương này, - Ông ta vừa nói tiếp vừa tình tứ liếc nhìn cái nhẫn mà đáng lẽ phải đưa cho d Artagnan, ông đã giữ lại, - chưa kể cái nhẫn kim cương này trị giá ít ra là mười nghìn livres).

Ông giáo chủ đi vào phòng mình mừng rơn về cái buổi tối này mà ông đã kiếm được món lãi đến là bở, đặt chiếc nhẫn vào trong một hộp tư trang đầy kim cương các loại; vì ông giáo chủ ham thích các loại ngọc thạch, và ông gọi Bernouin vào để cởi bỏ quần áo cho mình, chẳng bận tâm thêm nữa về những tiếng ồn ào vẫn tiếp tục dội từng cơn vào cửa kính và những tiếng súng vẫn, còn vang vọng trơng thành phố Paris, mặc dù lúc ấy đã hơn mười một giờ đêm.

Trong khi đó d Artagnan lần về phía con đường Tiquetonne nơi quán "Con dê cái nhỏ". Ta hãy nói vài lời về d Artagnan làm thế nào mà lại chọn nơi trú ngụ ấy.

Chú thích:

(1) Tiền cũ của Pháp, một pistol bằng ba êquy và bằng mườl livres

-*-*-*-

Chương 6

D'Artagnan ở tuổi bốn mươi

Than ôi! Từ hồi mà trong cuốn tiểu thuyết "Ba người lính ngự lâm, chúng tôi từ biệt d Artagnan ở 12 phố Phu Đào Huyệt đến nay đã diễn ra biết bao sự việc và nhất là đã trôi qua biết bao năm trời.

D Artagnan đã không bỏ lở các cơ hội, nhưng các cơ hội đã bỏ lỡ d Artagnan còn ở trong tuổi thanh xuân và thơ mộng của mình; đó là một trong những bản chất tinh tế và linh lợi nó dễ dàng hấp thụ các phẩm chất của người khác. Arthos cho anh tính cao thượng, Porthos lòng hăng hái, Aramis - vẻ hào hoa phong nhã. Ví phỏng d Artagnan tiếp tục cuộc sống với ba người ấy, anh sẽ trở thành một người cao siêu. Arthos từ giã anh đầu tiên, để lui về cái khoảnh đất nhỏ mà anh thừa kế ở mạn Blois, Porthos là người thứ hai chia tay anh để kết hôn với bà biện lý của mình, cuối cùng Aramis là người thứ ba từ biệt anh để đi hẳn với giới tu hành và trở thành tu viện trưởng.

D Artagnan như đã đã hòa tương lai của mình vào tương lai của ba người bạn, bắt đầu từ khi ấy trở thành lẻ loi và yếu đuối, không có can đảm để theo đuổi một nghề nghiệp trong đó vớỉ điều kiện mỗi người bạn của anh sẽ nhường cho anh, nếu có thể nói như vậy, một phần chất điện khí mà họ đã thu nhận của của trời.

Như vậy, dù trở thành trung uý ngự lâm quân, d Artagnan chỉ càng thấy mình trơ trọi hơn, anh chẳng phải con nhà gia thế như Arthos để các nhà danh giá rộng mở đón tiếp anh. Anh cũng chưa đủ huênh hoang như Porthos để khiến người ta tưởng anh cũng quen biết giới thượng lưu. Anh cũng không phải khá là lịch thiệp như Aramis để vừa đứng vững trong cái phong nhã bẩm sinh vừa rút ra vẻ phong nhã từ chính mình. Có thời kỷ niệm tuyệt diệu về bà Bonacieux(1) đã in vào tâm trí người trung uý trẻ trung một chút thơ mộng nào đó, nhưng gìống như kỷ niệm trên đời này, cái kỷ niệm có thể tiêu tan ấy cũng dần dần bị xoá nhòa; cuộc sống doanh trại thật phũ phàng, ngay cả đối với những tư chất quý phái. Trong hai bản chất trái ngược nhau tạo thành cá tính của d Artagnan, cái bản chất vật chất dần dần lấn át, và cứ nhẹ nhàng ít một ít một không thể nhận thấy. D Artagnan vốn luôn luôn sống cuộc đời doanh trại, cuộc đời đồn trú, luôn luôn trên mình ngựa, đã trở thành (tôi không biết thời ấy gọi thế nào) như thời nay người ta gọi là một lính già thực thụ.

Không phải vì thế d Artagnan mất đi cái tinh khôn sơ khai, không đâu. Trái lại, có lẽ cái tinh khôn ấy càng tăng thêm, hoặc ít ra là đáng chú ý gấp đôi dưới một cái vỏ hơi thô lỗ; nhưng cái tinh khôn ấy anh đã áp dụng cho những chuyện nhỏ nhặt, chứ không phải cho những việc lớn của cuộc đời; cho hạnh phúc vật chất, cho thứ an lạc như lính tráng thường hiểu, nghĩa là có chỗ ở tốt, có bữa ăn ngon và có cô chủ nhà tử tế.

Và d Artagnan đã tìm được cả mấy thứ đó từ sáu năm nay ở phố Tiquetonne tại quán mang tên de La Chevrette"Con dê cái nhỏ".

Trong thời gian đầu ở quán này, bà chủ người Flamande trạc hai lăm hai sáu tuổi đẹp và tươi trẻ, say mê anh một cách lạ lùng. Sau mấy chuyện tình tự, bị người chồng khó chịu ngăn trở, d Artagnan đến chục lần làm ra bộ sắp đâm kiếm xuyên suốt người ông ta đến nơi; một buổi sáng nọ người chồng đã biến mất, chuồn đi hẳn sau khi đã bán lén dăm chai rượu vang và mang theo tiền bạc cùng tư trang. Người ta tưởng ông ta chết; nhất Ià người vợ tự phỉnh mình bằng cái ý nghĩ ngọt ngào là mình goá bụa, càng dũng cảm bảo vệ ý kiến cho rằng ông ta đã qua đời. Cuối cùng sau ba năm cố ra sức giữ gìn cho mối quan hệ khỏi bị tan vỡ, d Artagnan thấy rằng mỗi năm chỗ trú ngụ của anh và bà chủ của anh càng thú vị hơn bao giờ hết, vì cái nọ làm tăng thêm ảnh hưởng cho cái kia, bà chủ đưa ra một yêu cầu quá đáng là trở thành vợ, và tỏ ý muốn d Artagnan lấy bà ta.

- Á à? Xì! - D Artagnan trả lời. - Lấy hai chồng ư, bà thân mến? Thế nào, bà không nghĩ đến điều đó sao?

- Nhưng mà ông ấy chết rồi, tôi chắc chắn như vậy.

- Đó là một tay rất ngang ngạnh và hắn sẽ trở về để treo cổ chúng ta.

- Thế thì, nếu hắn về, ông sẽ giết luôn hắn đi, ông dũng cảm và khéo léo thế kia mà!

- Ghê chưa, bà bạn thân mến? Đấy cũng là một cách khác để được treo cổ.

- Như vậy, ông từ chối yêu cầu của tôi ư?

- Ô hay! Làm gì mà quyết liệt thế!

Bà chủ quán xinh đẹp đau khổ lắm. Bà rất muốn d Artagnan không những làm chồng bà, mà làm Chúa của bà nữa, đó là một trang nam nhi tuấn tú, một binh sĩ hiên ngang.

Vào năm thứ tư của mối quan hệ ấy xảy ra cuộc viễn chinh đến Franche-Comté. D Artagnan được cử vào đoàn quân ấy và sửa soạn lên đường. Thế là diễn ra những đau khổ xé lòng, những dòng lệ rơi. bất tận, những nguyện thề thủy chung long trọng, tất nhiên tất cả là từ phía bà chủ. D Artagnan thì vốn quá là ông hoàng, nên không thể không hứa hẹn gì, cho nên anh hứa sẽ làm những gì có thể làm được để thêm phần vẻ vang cho tên tuổi của anh.

Về mặt này, ai còn lạ gì tinh thần quả cảm của d Artagnan. Anh liều thân một cách tuyệt vời, và dẫn đầu đại đội mình để công kích, anh bị một viên đạn xuyên qua người và ngã sóng soài trên trận địa.

Người ta trông thấy anh rơi từ trên mình ngựa xuống mà không thấy anh trở dậy, nên chắc là anh đã chết, và tất cả những người hy vọng kế tục chức vụ của anh đều nói phứt rằng anh chết rồi, người ta dễ tin điều mà người ta mong ước; như ở trong quân đội, từ các ông tướng sư đoàn mong ước cái chết của vị tướng tổng tư lệnh cho đến những người lính trơn mong ước cái chết của thày cai, mọi người đã mong ước cái chết của một người nào đó.

Song d Artagnan không phải loại người dễ chịu bị giết như vậy.

Sau khi bị ngất và nằm trong cái nóng nực ban ngày, anh hồi tỉnh nhờ cái mát mẻ ban đêm, anh lần vào một làng, đến gõ cửa ngôi nhà đẹp nhất và được đón tiếp như mọi người Pháp bị thương ở mọi nơi, mọi lúc. Anh được nâng niu, chăm sóc, chữa chạy, và khỏe khoắn hơn bao giờ hết, một buổi sáng nọ, anh lên đường về Pháp, về nước rồi anh lên đường đi Paris, rồi thì anh về giữa phố Tiquetonne.

Nhưng d Artagnan thấy căn phòng mình bị chiếm bởi một cải mắc áo treo trọn bộ y phục đàn ông chỉ thiếu thanh kiếm đặt sát tường.

Anh được biết nhà đã nuôi thằng ở mới, con hẩu mới, bà chủ nhà đang, đi dạo chơi.

- Bà ta đi một mình à? - D Artagnan hỏi.

- Với ông ấy ạ.

- Vậy là ông ấy đã trở về ư?

- Chắc thế - cô hầu thật thà trả lời.

D Artagnan tự nhủ thầm: "Nếu có tiền, ta sẽ ra đi ngay, nhưng vì không có tiền, ta phải ở lại đây và làm theo lời khuyên của bà chủ nhà của ta bằng cách ngăn cản những toan tính linh hoạt vợ chồng của kẻ trở về hãm tài kia".

Anh vừa kết thúc bản độc thoại ấy, điều đó chứng tỏ trong những hoàn cảnh trọng đại không có gì tự nhiên bằng độc thoại, thì cô hầu đang rình cửa bỗng kêu lên:

- A này? Đúng là bà chủ đang trở về với ông ấy.

D Artagnan đưa mắt ra xa nhìn ngoài đường, quả nhiên thấy ở ngay con đường Montmartre, bả chủ đi về và bám vào cánh tay của một người lính Thụy Sĩ rất đồ sộ, hắn ta đi cứ núng na núng nính với những điệu bộ gợi nhớ một cách thú vị hình ảnh Porthos trong đầu người bạn thân thiết cũ.

- Đức ông chồng đấy ư? - D Artagnan tự nhủ - Ô, ồ! Dường như hắn đã lớn vồng lên!

Và anh ngồi lại phòng ở một chỗ rất dễ nhìn thấy.

Bà chủ nhà bước vào chợt nhận ra d Artagnan và khẽ kêu lên một tiếng.

Nghe tiếng kêu nho nhỏ ấy, d Artagnan biết rằng bà đã nhận ra anh, bèn đứng dậy, chạy đến ôm hôn bà ta rất trìu mến.

Tên Thụy Sĩ ngơ ngác nhìn bà chủ quán đang tái nhợt cả người.

Trong lúc bối rối cực kỳ, bà nói:

- À! Ông đấy à! Ông cần gì ở tôi thế?

Không mảy may bị chưng hửng trong vai trò mình đang đóng, d Artagnan nói:

- À! Ông đây là anh em họ bà à? Ông đây là anh bà à?

Và chẳng đợi bà trả lời, anh nhảy ra ôm tên Thụy Sĩ, hắn cứ để mặc anh làm, vẻ mặt lạnh như băng.

- Ông này là thế nào? - Hắn hỏi.

Bà chủ đáp lại bằng những tiếng nghẹn ngào.

- Người Thụy Sĩ này là thế nào? - D Artagnan hỏi.

- Ông ấy sắp cưới tôi, - bà chủ trả lời giữa hai cơn giật.

- Vậy là chồng bà cuối cùng đã chết rồi à?

- Chuyện đó can hệ gì đến ông? - Người Thụy Sĩ nói.

- Can hệ lắm chứ? - D Artagnan đáp - Vì ông không thể cưới bà ta mà không được sự đồng ý của tôi và vì...

- Vì sao? - Người Thụy Sĩ hỏi.

- Vì tôi không cho. - Người lính ngự lâm đáp.

Tên Thụy Sĩ mặt đỏ lên như hoa mẫu đơn, hắn bận quân phục rất bảnh mạ vàng, d Artagnan choàng một chiếc áo choàng xẫm, tên Thụy Sĩ cao sáu bộ(2), d Artagnan không hơn năm bộ, người Thụy Sĩ coi như ở nhà mình, d Artagnan như một kẻ đột nhập.

- Ông có đi ra khỏi đây không? - Người lính Thụy Sĩ hỏi và giậm mạnh chân như một người bắt đầu tức giận thực sự.

- Tôi ấy à? Không đâu? - D Artagnan nói.

- Ồ chỉ có việc đi tìm kẻ trợ lực - một thằng ở nói, hắn chỉ có thể hiểu là cái người nhỏ bé này muốn tranh chỗ với người hộ pháp kia.

Cơn giận bắt đầu lên đến cổ, d Artagnan liền túm lấy tai thẳng ở mà quát:

- Mày, mày phải đứng yên tại chỗ và không được động đậy, nếu không tao sẽ dứt đứt cái mà tao đang cầm đây. Còn về phía ông, vị con cháu lẫy lừng của hoàng đế Guillaume Tell, ông hãy gói ghém quần áo của ông đang để trong phòng tôi và gây phiền cho tôi, và đi ngay lập tức mà tìm kiếm một quán trọ khác.

Tên Thụy Sĩ phá ra cười ầm ĩ.

- Tôi ấy à? - Hắn nói - Mà vì sao?

- A, được lắm! - D Artagnan nói. - Tôi thấy là ông hiểu tiếng Pháp. Thế thì ông hãy đi chơi một vòng với tôi, và tôi sẽ giải thích cho ông sau.

Bà chủ quán biết rõ d Artagnan là một tay kiếm giỏi, nên bắt đầu khóc lóc và bứt tóc bứt tai.

D Artagnan quay lại phía người đẹp đang khóc than và bảo:

- Thế thì bà hãy đuổi hắn đi.

Tên Thụy Sĩ phải mất một lúc mới hiểu ra đề nghị mà d Artagnan đề ra với hắn, hắn nói:

- Chà. Trước hết ông là ai mà dám đề nghị tôi đi chơi với ông một vòng.

- Tôi là trung uý ngự lâm của Hoàng thượng - D Artagnan đáp. - do đó tôi là thượng cấp của ông. Tuy nhiên không phải là vấn đề cấp bậc ở đây mà là phiếu phân phối chỗ ở. Ông biết thủ tục rồi. Ông hãy đi lấy phiếu của ông. Ai trở lại đây trước sẽ lấy lại phòng của mình.

D Artagnan dẫn tên Thụy Sĩ đi, mặc những lời than vãn của bà chủ quán; trong thâm tâm bà cảm thấy lòng mình nghiêng về phía mối tình xưa; nhưng cũng không bực mình vì dạy một bài học cho anh chàng ngự lâm quân kiêu căng kia đã xúc phạm đến bà khi từ chối lấy bà.

Hai địch thủ đi thẳng đến đường hào Montmartre.

Khi đến nơi thì trời đã tối, d Artagnan lịch sự đề nghị tên Thụy Sĩ nhường phòng cho mình và đừng đến đấy nữa; hắn lắc đầu từ chối và rút kiếm ra.

- Thế thì ông hãy nằm lại ở đây, - D Artagnan nói - chỗ trú ngụ này tồi lắm, nhưng không phải lỗỉ của tôi, mà chính ông đã muốn vậy.

Nói xong, đến lượt anh tuốt kiếm và chạm kiếm với địch thủ.

Anh gặp phải một tay cứng cựa, nhưng sự mềm dẻo của anh vượt mọi sức mạnh. Thanh trường kiếm của tên người Thụy Sĩ không lúc nào chạm được vào kiếm của người ngự lâm. Tên Thụy Sĩ xơi hai nhát kiếm trước khi nhận biết được vì quá rét, tuy nhiên bỗng chốc do mất máu và đuối sức đi trông thấy hắn buộc phải ngồi xuống.

- Đấy nhé! - D Artagnan nói - Tôi đã bảo trước mà. Ông đã đi quá trớn và đến là bướng bỉnh! Cũng may, ông chỉ phải nằm độ mười lăm ngày thôi. Hãy ở đây, tôi sẽ cho thằng hầu mang quần áo đến cho ông. Tạm biệt, Nhân tiện xin mách ông hãy đến quán Con Mèo Mơn Trớn ở đường Montorgueil, ở đấy sẽ được nuôi dưỡng đầy đủ, nếu vẫn là bà chủ quán cũ. Vĩnh biệt nhé!

Rồi anh hí hửng trở về, sai đưa quần áo đến cho tên Thụy Sĩ. Tên hầu thấy hắn vẫn ngồi đúng chỗ mà d Artagnan để hắn lại và táng đởm kinh hồn vì lòng gan dạ vững vàng của người địch thủ.

Tên hầu, bà chủ quán và cả nhả kính trọng d Artagnan như người ta kính trọng thần Hercule, nếu ông trở lại trần gian để bắt đầu lại mười hai kỳ tích của ông ta.

Nhưng khi còn một mình với bà chủ nhà, anh nói:

- Bây giờ bà hiểu rõ khoảng cách từ một tên lính Thụy Sĩ đến một nhà quý tộc, còn về phàn bà, bà đã cư xử như một con mụ chủ quán. Mặc kệ bà, nhưng vì cách cư xử ấy bà làm tôi mất uy tín với khách khứa giao thiệp của tôi, tôi sẽ không trọ ở đây nữa, tôi chẳng ở cái nơi, mà mình khinh rẻ. Ơ này, thằng hầu! Cho mang va-li của ta đến khách sạn Bồn ái ân ở đường Bourdonnais. Vĩnh biệt bà!

Khi tuôn ra những lời lẽ ấy, d Artagnan tỏ ra vừa oai nghiêm vừa ái ngại. Bà chủ quản phục xuống dưới chân anh, vừa xin lỗi vừa giữ anh lại bằng một sự hung tợn ngọt ngào. Còn biết nói thế nào nữa! Cái chĩa nướng thịt lại quay, cái chảo rán lại xèo xèo, mỹ nhân Madeleine khóc lóc, d Artagnan cảm thấy cái đói, cái rét và tình yêu cùng đến với anh, anh tha thứ, và đã tha thứ thì anh ở lại.

Sự tình d Artagnan đến ở quán "Con dê cái nhỏ" Tiquetonne là như thế đấy.

Chú thích:

(1) Constance de Bonacieux - vợ một người buôn hàng xén trong tập "Ba người lính ngự lâm", là thị tỳ trung thành của hoàng hậu Anne d Autriche và là tìth nhân của d Artagnan, sau bị Milady đầu độc chết.

(2) Đơn vị đo chiều dài cũ bằng khoản ba hai centimeter

-*-*-*-

Chương 7

D'Artagnan gặp khó khăn, nhưng một người quen biết của chúng ta đến giúp anh

D Artagnan trở về vừa đi vừa đăm chiêu suy nghĩ. Anh thấy hào hứng khi mang túi tiền của giáo chủ Mazarin và khi nghĩ đến chiếc nhẫn kim cương đẹp trước kia đã từng là của anh và có một lát anh đã trông thấy nó lấp lánh ở ngón tay ông tể tướng. Anh tự bảo:

"Giá cái nhẫn kim cương ấy lại rơi vào tay mình, mình sẽ bán ngay lấy tiền, mình sẽ mua hết bất động sản ở chung quanh lâu đài của cha mình, ngôi nhà đẹp thật đấy, nhưng về công trình phụ chỉ có một mảnh vườn lớn gần bằng cái nghĩa trang. Những Kẻ Vô Tội. Ta sẽ ngồi nhà và đàng hoàng ngồi đợi một nàng thừa kế giàu có say mê cái tốt mã của ta và đến lấy ta; rồi ta sẽ có ba cậu con trai, ta sẽ nuôi dạy đứa lớn thành một đại thần như Arthos, đứa thứ hai - một chàng lính bảnh bao như Porthos, đứa thứ ba - một tu viện trưởng lịch sự duyên dáng như Aramis. Thực tình mà nói, như thế còn tốt hơn cuộc sống hiện nay của ta, nhưng khốn thay lão Mazarin là một tên đê tiện, chẳng có hảo ý nhường lại cái nhẫn kim cương ấy cho ta".

Không biết d Artagnan sẽ nói thế nào khi anh biết rõ rằng hoàng hậu đã nhờ Mazarin đưa lại cái nhẫn ấy cho anh?

Về đến phố Tiquetonne, anh thấy có tiếng ồn ào và một đám tụ tập lớn ở quanh nhà anh.

- A, a! - Anh nói. - Hay là cháy ở quán "Con dê cái nhỏ"? Hay là chồng của nàng Madeleine xinh đẹp dứt khoát trở về.

Chẳng phải chuyện này cũng chẳng phải chuyện nọ. Đến gần, d Artagnan mơi rõ là người ta tụ tập không phải ở trước nhà anh mà trước nhà bên cạnh. Người ta kêu la om xòm, người ta vác đuốc chạy và dưới ánh đuốc, d Artagnan nhận ra những bộ quân phục.

Anh hỏi xem có chuyện gì xảy ra.

Người ta cho biết là có một thị dân cùng với hai chục người bạn đã tấn công một cỗ xe có các vệ sĩ của tể tướng đi hộ tống, nhưng có viện binh ập đến, đám thị dân bỏ chạy. Tên cầm đầu đám ấy trốn vào một nhà ở giáp quán và lính đang sục sạo trong nhà ấy.

Hồi còn trẻ, có lẽ d Artagnan đã chạy tới chỗ anh nhìn thấy những bộ quân phục và giúp sức cho bọn lính chống lại đám thị dân; nhưng bây giờ anh đã ngán tất cả những cơn nóng đầu ấy rồi. Vả lại, trong túi đang có một trăm pistol của ngài giáo chủ, anh chẳng muốn mình phiêu lưu vào trong một đám đông.

Anh chẳng hỏi gì thêm và bước vào quán.

Xưa kia, bao giờ d Artagnan cũng muốn biết rõ tất cả, giờ đây bao giờ anh cũng biết rõ khá nhiểu.

Anh thấy nàng Madeleine xinh đẹp không chờ đợi anh, vì tưởng anh ở đêm tại cung Louvre như anh đã dặn. Thấy anh trở về bất ngờ, bà mừng rỡ và nồng nhiệt đón tiếp anh, càng mừng hơn vì bà vừa mới trải qua một cơn sợ hãi hết hồn về việc đang xảy ra ở ngoài phố, mà bà thì không có một người lính Thụy Sĩ nào để bảo vệ cho bà.

Cho nên bà muốn bắt chuyện với anh và kể lể việc đã xảy ra; nhưng d Artagnan bảo bà cho mang bữa ăn tối lên phòng anh và kèm theo một chai rượu vang Bourgogne lâu năm.

Bà Madeleine xinh đẹp được dạy cho quen với cách tuân lệnh kiểu nhà binh, nghĩa là theo một cử chỉ ra hiệu. Lần này d Artagnan lại còn hạ cố nói nên lời, thành ra anh được bà tuân lệnh nhanh gấp hai lần.

D Artagnan cầm chìa khóa và cây nến đi lên phòng mình. Để khỏi ảnh hưởng tới việc cho thuê phòng, anh tự bằng lòng với một phòng ở tận tầng tư. Vì tôn trọng chân lý, chúng tôi buộc phải nói thẳng ra rằng căn phòng ở ngay sát dưới ống máng và ở dưới mái nhà.

Đó là chiếc lều Asin(1) của anh. D Artagnan ở lì trong buồng mỗi khi anh muốn trừng phạt Madeleine bằng sự vắng mặt của mình.

Sự quan tâm đầu tiên của anh là nhét túi tiền vào ngăn một cái bàn cổ mà khoá còn mới, anh cũng chẳng cần kiểm tra xem số tiền là bao nhiểu, rồi một lát sau, bữa cơm tối được dọn ra, chai rượu vang đem đến, anh cho tên hầu đi ra, đóng cửa và ngồi vào bàn.

Không phải suy nghĩ như người ta tưởng; nhưng d Artagnan nghĩ rằng chỉ có thể làm tốt mọi việc bằng cách làm lần lượt từng việc một. Anh đang đói, anh ăn, rồi sau bữa ăn anh đi nằm. D Artagnan cũng chẳng phải loại người cho rằng ban đêm thường đem đến cho người ta nhiều điều khuyên bổ ích: ban đêm d Artagnan ngủ khì.

Nhưng trái lại buổi sáng, trong người tỉnh táo, tinh khôn hẳn, anh tìm thấy những cảm hứng hay nhất. Từ lâu anh chẳng có cơ hội để suy nghĩ vào buổi sáng, nhưng ban đêm anh vẫn ngủ.

Sớm tinh mơ, anh thức giấc, nhảy khỏi giường với một quyết tâm thật là lính và vừa đi lững thững quanh buồng, vừa ngẫm nghĩ.

- Năm 43 - anh nói - khoảng gần tháng sáu, khi cố giáo chủ qua đời mình nhận được lá thư của Arthos. Ở đâu nhỉ! Xem nào... à! Đó là tại cuộc bao vây Besançon, mình nhớ ra rồi... mình đang ở trong hào? Cậu ta nói gì nhỉ? Cậu ấy ở một mảnh đất nhỏ, phải, đúng thế, một mảnh đất nhỏ; nhưng ở đâu? Mình đọc đến đấy thì có cơn gió cuốn bay đi. Giá như ngày xưa là hắn mình sẽ đi tìm, mặc dù gió cuốn lá thư ra một chỗ trống trơn.

Nhưng tuổi trẻ là một thiếu sót lớn... khi người ta không còn trẻ nứa. Mình đã để cho lá thư bay đi đến chỗ quân Tây Ban Nha, mang theo địạ chỉ của Arthos mà chúng chẳng cần đến và lẽ ra phải trả lại mình chứ. Vậy là không nghĩ đến Arthos nữa. Xem nào... Porthos. Mình đã nhận được bức thư của cậu ta, cậu ấy mời mình đến dự một hội săn lớn trong vùng đất đai của cậu ấy, vào tháng Chín năm 1646. Rủi thay. Hồi ấy mình đang về quê ở Bearn vì ông bố mình mất, lá thư đuổi theo mình, khi mình đi thì nó lại đến. Rồi nó lại theo mình và đến Montmédy mấy ngày sau khi mình rời thành phố này. Cuối cùng nó tới tay mình vào tháng Tư, nhưng lại là tháng Tư năm 1667 mà giấy mời đến dự vào tháng chín cuối năm 1646, cho nên chẳng còn tác dụng gì. Nào ta hãy tìm bức thư ấy và chắc nó phải có tước hiệu trang ấp?

D Artagnan mở một cái hòm nhỏ cũ kỹ nằm ở góc buồng đầy những gỉấy tờ liên quan đến đất đai của d Artagnan, từ hai trăm năm nay giấy tờ ấy hoàn toàn ra khỏi gia đình anh, và anh thốt ra một tiếng kêu mừng rỡ: anh vừa nhận ra một nét chữ to đùng của Porthos và ở dưới có mấy dòng chữ nhỏ li ti do bàn tay khô héo của bà phu nhân xứng đáng của cậu ta viết.

D Artagnan không buồn đọc chơi lại lá thư, anh biết nó viết gì, anh xem vội địa chỉ.

Địa chỉ là: ở lâu đài du Vallon.

Porthos đã quên béng một chỉ dẫn khác. Trong niềm kiêu hãnh của mình, anh ta tưởng tất cả thiên hạ đều phái biết cái lâu đài mà anh ta đã lấy tên mình đặt cho nó.

"Quỷ bắt cái thằng huênh hoang này? - D Artagnan nói, - bao giờ nó cũng vẫn thế! Tuy nhiên mình cần bắt đầu từ cậu ta, chắc nó chẳng cần đến tiền nong, nó đã thừa kế tám trăm nghìn livres của ông Coquenard (2). Này, đó là người cần nhất mà mình đang thiếu. Arthos uống rượu lắm vào chắc đến đần độn người ra rồi. Còn Aramis hẳn đang chìm ngập trong việc cầu nguyện!

D Artagnan lại đưa mắt nhìn bức thư của Porthos.

Dưới thư có một dòng tái bút như sau:

"Cùng với chuyến thư này, tôi viết cho Aramis, anh bạn xứng đáng của chúng ta ở tu viện của anh ta".

"Ở tu viện của anh ta! Ừ, nhưng mà tu viện nào? Có đến hai trăm tu viện ở Paris và ba nghìn tu viện ở nước Pháp. Lại nữa khi vào tu viện cậu ta có thể đồi tên đến ba lần. A! Ví phỏng mình thông thái về thần học và chỉ cần nhớ cái chủ đề các luận án cậu ta tranh cãi rất hay với với ông linh mục Montdidie ở Crèvecoeur và ông tăng viện trưởng dòng Jesus, mình sẽ biết cậu ta thuộc phái nào. Và từ đó suy ra cậu ta thờ phụng thánh nào. Kể ra nếu mình đến ông giáo chủ, xin ông ta cấp cho một giấy thông hành có thể vào bất cứ tu viện nào, kể cả tu viện các nữ tu sĩ nhỉ! Đó cũng là một ý hay và có khi mình sẽ tìm thấy cậu ta. Ở đấy giống như Asin... Ô, nhưng mà như thế khác gì thú nhận ngay từ đầu sự bất lực của mình, và ngay từ việc đẩu tiên mình đã đi đứt trong tâm trí của giáo chủ.

Những quan to chỉ biết ơn khi nào người ta làm cho họ cái việc không có thể. Họ sẽ bảo chúng ta rằng: "Nếu là việc có thể thì tôi tự làm lấy mình cũng được". Và những quan to nói phải. Nhưng hãy đợi tí và xem nào. Mình cũng đã nhận một bức thư của cậu ta, người bạn thân thiết, đúng thế nên cậu ta mới nhờ mình một việc nhỏ và mình đã giúp. À, đúng rồi, nhưng mình đã nhét cái thư ấy vào đâu chứ?

D Artagnan ngẫm nghĩ một lát, rồi tiến về phía cái mắc áo treo những áo cũ của anh. Anh tìm chiếc áo khoác ngắn của mình dùng năm 1646, và do là một chàng trai có trật tự ngăn nắp, anh thấy nó được móc ở một cái đinh. Anh móc túi áo ra một mảnh giấy, đúng là thư của Aramis. Thư viết:

"Anh d Artagnan, xin anh biết cho rằng tôi đang có chuyện xích mích với một người quý tộc, hắn đã hẹn tôi chiều nay đến quảng trường Hoàng cung. Vì tôi là một người tu hành và việc ấy có thể hại cho tôi nếu tôi cho người khác biết, ngoài một người bạn thật tin cậy như anh, nên tôi viết cho anh để nhờ anh làm người trợ thủ cho tôi.

Anh sẽ đến đường Neuve-Sainte-Catherine; tới ngọn đèn thứ hai bên phải, anh sẽ thấy địch thủ của anh. Tôi sẽ cùng địch thủ của tôi ở dưới ngọn đèn thứ ba.

Tận tình với anh, Aramis!"

Lần ấy chẳng có đến lời từ biệt. D Artagnan cố nhớ lại kỷ niệm ấy. Anh đi đến chỗ hẹn, gặp địch thủ như đã dặn và anh chẳng biết tên, tặng hắn một nhát kiếm nên thân vào cánh tay, rồi anh đến chỗ Aramis thì Aramis cũng đã kết thúc cuộc đấu của mình rồi và đang đi đến với anh. Aramis nói:

- Xong rồi, tôi chắc là đã giết chết tên hỗn láo. Nhưng bạn thân mến ơi, nếu anh cần đến tôi thì anh biết rằng tôi hết lòng tận tụy với anh.

Nói xong Aramis bắt tay anh và biến đi dưới những ô cửa tò vò.

Thế là về chỗ ở của Aramis, d Artagnan cũng chẳng biết rõ hơn chỗ ở của Porthos và Arthos. Vấn đề bắt đầu trở nên rối rắm, thì anh nghe như có tiếng một tấm kính ở phòng anh bị đập vỡ. Lập tức anh nghĩ ngay đến túi tiền ở trong bàn và lao ngay vào phòng.

Anh không lầm: lúc anh vào bằng cửa chính thì có một người vào qua cửa sổ.

- A! Tên khốn nạn! - D Artagnan kêu lên, anh tưởng đó là một kẻ trộm và vớ lấy thanh kiếm.

- Ấy thưa ông? - Người kia kêu lên. - Lạy trời, xin ông hãy tra kiếm vào bao và chớ giết tôi mà không nghe tôi nói! Tôi không phải là một tên ăn trộm, trái lại, tôi là một thị dân hẳn hoi, có nhà cửa đàng hoàng. Tôi tên là... Ơ này, nếu tôi không lầm thì ông là ông d Artagnan.

- Còn cậu, Planchet hả! - Viên trung uý kêu lên.

- Để hầu hạ ông, nếu tôi còn làm được, - Planchet mừng quýnh lên nói.

- Có thể lắm, - D Artagnan đáp, - nhưng mà làm thế quái nào mà cậu lại chạy trên mái nhà vào lúc bảy giờ sáng giữa tiết tháng Giêng này?

- Thưa ông, ông cần biết rằng - Planchet nói, - nhưng xét ra có lẽ ông không nên biết.

- Ô hay, sao thế! Nhưng trước hết hãy đặt một cái khăn trước ô kính và kéo rèm lại.

Planchet vâng lời và khi làm xong, d Artagnan hỏi:

- Thế nào?

Tên Planchet khôn ngoan đáp:

- Thưa ông, trước hết, ông đối với ông Rochefort thế nào.

- Rất tốt! Sao vậy? Rochefort ư, cậu có biết rằng ông ta bây giờ là một trong những người tốt nhất của tôi không?

- A, càng hay.

- Nhưng giữa Rochefort với cái cách đột nhập vào phòng tôi thì có liên quan gì với nhau hả?

- Ấy đấy thưa ông? Cần phải thưa với ông rằng ông de Rochefort...

- Mẹ kiếp! - D Artagnan kêu - Tôi thừa biết ông ấy ở ngục Bastille.

- Nghĩa là ông ta đã ở đó, - Planchet đáp.

- Thế nào? Ông ta đã ở đó! - D Artagnan kêu lên. - Phải chăng ông ta có diễm phúc thoát rồi?

- A, thưa ông, - đến lượt Planchet kêu lên, - nếu ông gọi đó là diễm phúc, thì mọi sự đều ổn, vậy phải nói với ông rằng, hình như hôm qua người ta cho người đến Bastille đem ông Rochefort đi.

- Mẹ kiếp, ta biết thừa, bởi vì chính ta tới kiếm ông ấy.

- Nhưng không phải ông đã đưa ông ta trở lại đó, thật may cho ông; bởi vì nếu tôi nhận ra ông trong đoàn hộ tống thì ông hãy tin rằng bao giờ tôi cũng kính trọng ông quá.

- Nói nốt đi, con khỉ! Nào, thế rồi sao?

- Ấy! Thế rồi khi đến giữa phố Hàng Sắt, nhân xe chở ông Rochefort đi qua một đám dân chúng và bọn lính áp giải hành hạ những người thị dân, thế là người ta ồn ào lên; người tù nghĩ cơ hội thật là thuận tiện, bèn tự xưng tên và kêu cứu. Lúc ấy tôi đang ở đó, tôi nhận ra tên ông bá tước de Rochefort và nhớ rằng chính ông ấy đã cử tôi làm viên đội trong trung đoàn Piémont, tôi bèn nói to lên rằng người tù này là bạn của quận công de Beaufort. Mọi người liền nổi dậy, chặn ngựa lại, đánh tan đoàn áp giải. Trong khi tôi mở cửa xe, ông Rochefort nhảy xuống đất lẫn vào đám đông. Khốn thay khi ấy một đội tuần tra đi qua, chúng hợp với toán vệ sĩ và tấn công chúng tôi. Tôi vừa đánh vừa rút về phía phố Tiquetonne, tôi bị đuổi riết phải trốn vào một nhà ở cạnh nhà này; bọn chúng đã bao vây, sục sạo nhưng uổng công. Tôi đã gặp ở tầng năm một người tốt bụng giấu tôi giữa hai tấm nệm. Tôi đã nằm lại trong chỗ ẩn nấp của tôi, hoặc gần như thế, cho đến sáng, và nghĩ rằng đến chiều họ lại bắt đầu những cuộc lục soát, tôi đánh liều bò lên ống máng, tìm kiếm một lối vào sau đó một lối ra trong một ngôi nhà nào đó không bị canh gác. Câu chuyện của tôi là thế đấy và thưa ông, xin lấy danh dự mà thề rằng tôi sẽ rất thất vọng nếu nó làm ông chán tai.

- Không đâu, - D Artagnan nói, - thực sự tôi rất mừng là Rochefort đã được tự do, nhưng cậu có biết rõ điều này không: nếu cậu rơi vào tay những người của nhà vua, cậu sẽ bị treo cổ không dung tha.

- Mẹ kiếp, tôi biết lắm chứ! - Planchet nói- Đó chính là điều làm cho tôi sợ hết hồn, và đấy, về sau tôi rất mừng khi gặp lại ông; bởi vì nếu ông mà muốn giấu tôi thì chẳng có ai làm việc đó tốt hơn ông.

- Phải, - D Artagnan nói, - tôi không đòi hỏi gì hơn, dù rằng tôi chỉ phải hy sinh không hơn không kém cái chức vị của tôi, nếu như người ta biết rằng tôi đã cho một tên phiến loạn ẩn náu.

- Ôi, thưa ông, xin ông biết cho rằng tôi có thể liều mạng vì ông.

- Cậu có thể thêm hẳn vào là cậu liều mạng rồi, Planchet ạ. Tôi chỉ quên những điều tôi cần phải quên, nhưng còn điều này, tôi muốn nhớ lại: Cậu ngồi xuống đây, bình tĩnh mà ăn đi, bởi vì tôi nhận thấy cậu nhìn những món ăn thừa của bữa ăn của tôi với một cái nhìn biểu hiện cảm xúc nhất.

- Vâng, thưa ông, bơi cái tủ buffet của nhà bên cạnh rất hiếm của chất bột, và vì trưa hôm qua tôi mới ăn có một lát bánh với mứt. Mặc dầu tôi chẳng chê các của ngọt khi nó đến đúng nơi đúng chốn, tôi thấy bữa ăn tối hơi nhẹ.

- Khổ thân cậu! - D Artagnan nói. - Bình tâm lại đi.

- Ôi, ông ơi, ông đã cứu mạng tôi hai lần, - Planchet nói.

Rồi anh ta ngồi xuống bàn và ăn nghiến ngấu như những ngày nào ở phố Phu đào huyệt.

D Artagnan tiếp tục đi đi lại lại, anh cố moi trong óc xem có cách nào tận dụng được Planchet trong những tình huống hiện nay của anh. Trong lúc đó Planchet ra sức hoạt động để bù lại những giờ đã mất.

Cuối cùng anh ta trút một hơi thở phào khoan khoái của một người đói lả báo hiệu rằng sau khi được chén một đợt đầu tiên và chắc dạ, anh ta tạm ngừng một chút.

D Artagnan nghĩ đến lúc bắt đầu cuộc lục vấn, bèn nói:

- Nào, ta hãy tuần tự: cậu có biết Arthos ở đâu không.

- Không, ông ạ, - Planchet đáp.

Đồ quỷ! Cậu có biết Porthos ở đâu không.

- Cũng không.

- Đò quỷ! đồ quỷ! Còn Aramis?

- Cũng không nốt.

- Đồ quỷ! đồ quỷ! đồ quỷ!

- Nhưng, - Planchet nói với vẻ láu cá, - tôi biết Bazin ở đâu.

- Sao, cậu biết Bazin ở đâu à?

- Thưa vâng.

- Thế hắn ở đâu nào?

- Ở Nhà thờ Đức Bà.

- Làm gì ở Nhà thờ Đức Bà?

- Làm phụ thủ.

- Bazin phụ thủ ở nhà thờ Đức Bà? Cậu chắc chắn như vậy ư?

- Hoàn toàn chắc chắn, tôi đã trông thấy anh ta, tôi đã nói chuyện với anh ta.

- Hẳn là hắn ta phải biểt hắn ta ở đâu chứ?

- Chắc thế.

D Artagnan ngẫm nghĩ, rôi lấy áo choàng và thanh kiếm, anh sửa soạn đi ra.

- Ông ơi, - Planchet với vẻ mặt thiểu não nói, - Ông bỏ rơi tôi thế này ư? Xin ông nhớ rằng, tôi chỉ còn hy vọng ở ông thôi.

Nhưng người ta sẽ chẳng đến đây tìm cậu đâu, - D Artagnan bảo.

Anh chàng Planchet thận trọng nói:

- Cuối cùng người ta đến, ông nhớ cho rằng đối với những người trong nhà không trông thấy tôi vào, tôi ắt là một kẻ trộm.

- Đúng đấy, - D Artagnan nói. - Này thế cậu có nói được một thổ ngữ nào không?

- Tôi còn biết hơn ấy chứ, thưa ông, - Planchet đáp. - Tôi nói một ngôn ngữ, ngôn ngữ Flamant.

- Cậu học nó ở nơi quái quỷ nào thế?

- Ở Artois, nơi tôi đã dự cuộc chiến tranh hai năm. Ông nghe xem: Goeden morgen, mynheer! ltk ben begeeray te weeten the ge sond hects omstand.

- Nghĩa là gì?

- Chào ông! Tôi nóng lòng muốn biết tình trạng sức khỏe của ông thế nào?

- Nó gọi đấy là ngôn ngữ? Nhưng không sao! - D Artagnan nói, - thế mà tuyệt đấy?

D Artagnan đi ra cửa gọi một thằng hầu và bảo nó mời bà Madeleine xinh đẹp lên.

- Ông ơi, ông làm gì đấy, - Planchet nói, - Ông định trao cái điều bí mật của chúng ta cho một người đàn bà sao?

- Cứ yên tâm, bà ta sẽ chẳng hé nửa lời.

Lúc ấy bà chủ quán vào. Bà tươi cười chạy đến, tưởng rằng sẽ thấy d Artagnan một mình, nhưng vừa nhác thấy Planchet, bà kinh ngạc lùi lại.

- Bà chủ thân mến của tôi, - D Artagnan nói, - tôi xin giới thiệu ông anh của bà từ xứ Flandre đến, tôi nhờ ông ấy đến giúp việc tôi mấy ngày.

- Anh tôi! - Bà chủ nói, giọng mỗi lúc một sửng sốt.

- Hãy chào cô em đi, master Peter.

- Vilkom zueter! - Planchet nói.

- Goeden day, broer! - Bà chủ ngạc nhiên đáp lại.

- Câu chuyện là thế này! - D Artagnan nói. - Ông đây là anh bà, có thể bà không biết. Ông ấy từ Amsterdam đến. Trong khi tôi đi vắng, bà sẽ sắm sửa quần áo cho ông ấy; khi tôi về, nghĩa là độ một giờ nữa, bà sẽ giới thiệu ông ta với tôi và theo sự gửi gắm của bà. Mặc đầu ông ta sẽ chẳng nói một tiếng Pháp nào, do tôi chẳng có gì từ chối bà, tôi sẽ nhận ông ta vào giúp việc cho tôi, bà hiểu chứ!

- Nghĩa là tôi đoán ra điều ông mong muốn và chỉ cần có vậy, - Madeleine nói.

- Bà là một người phụ nữ quý hoá, bà chủ xinh đẹp của tôi ạ, và tôi tin cậy ở bà.

Nói xong, d Artagnan làm hiệu riêng với Planchet, rồi ra để đi đến Nhà thờ Đức Bà.

Chú thích:

(1) Asin - một danh tướng á thần trong thần thoại Hy Lạp, trong cuộc chiến tranh thành Troa dựng lều trú quân gần thành

(2) chồng cũ đã chết của vợ Porthos

-*-*-*-

Chương 8

Một nửa đồng Pistol có thể có những ảnh hưởng khác nhau đến một số phụ thủ và Lễ phục sinh

D Artagnan đi lên Cầu Mới, tự chúc mừng đã gặp lại được Planchet; bởi vì vừa có vẻ giúp được một việc cho chàng trai xứng đáng ấy, trong thực tế d Artagnan cũng được cậu ta giúp cho một việc. Quả thật lúc này không có gì khoái hơn cho anh bằng một người hầu dũng cảm và thông minh.

Đúng là Planchet rất có thể sẽ chẳng ở giúp việc anh lâu; nhưng khi giành lại vị trí xã hội cũ ở phố Lombards; Planchet vẫn là người chịu ơn d Artagnan; do cho hắn ẩn náu ở nhà mình, anh đã cứu mạng cho hắn hoặc gần như thế, và d Artagnan sẽ chẳng phiền lòng có những quan hệ trong giới thị dân vào lúc họ chuẩn bị cuộc chiến tranh với triều đình. Đó sẽ là một nội ứng trong hàng ngũ địch, và đối với một người tinh tế như d Artagnan, những chuyện vặt vãnh nhất có thể dẫn đến những đại sự.

Thế là trong cái thư thái tinh thần ấy, khá hài lòng về sự tình cờ và về bản thân mình, d Artagnan tới Nhà thờ Đức Bà. Anh bước lên bậc thềm, vào trong nhà thờ và đến trước một người giữ đồ thánh đang quét tước một giáo đường nhỏ, anh hỏi xem có biết ông Bazin không.

- Ông Bazin phụ thủ ấy à? - Người đó hỏi lại.

- Chính ông ấy.

Ông ta đang hầu lễ messe ở kia kìa, gần tiểu thánh đường Đức Mẹ đồng trinh.

D Artagnan sướng run người, vì dù cho Planchet đã nói, anh tưởng như chẳng bao giờ gặp lại Bazin; nhưng bây giờ anh đã nắm một đầu dây, anh bảo đảm sẽ đi tới đầu dây kia.

Anh đến quỳ ở trước tiểu giáo đường để khỏi mất hút người của mình. May thay đó là một lễ messe nhỏ và sẽ xong nhanh thôi. Đã quên hết những cầu nguyện và chẳng buồn cầm một quyển kinh, d Artagnan xem xét Bazin.

Bazin mặc bộ y phục của mình, có thể nói với tất cả vẻ trịnh trọng và toàn phúc. Có thể hiểu rằng bác đã đạt tới, hoặc gần như vậy, thượng đỉnh của những tham vọng, và cái thanh nạm bạc bác cầm trong tay cũng danh giá như cây gậy chỉ huy mà tướng Condé chĩa hoặc không chĩa vào những phòng tuyến quân thù ở trận Fribourg.

Thể xác bác đã thay đổi, nếu có thể nói, hoàn toàn tương tự bộ y phục. Toàn thân bác tròn xoay như là đã Sanoan hoá(1). Còn mặt bác ta, nhưng chỗ gồ lên đã biến mất. Bác vẫn có cái mũi, nhưng đôi má béo phị lên đã kéo sang hai bên một phần của mũi; cái cằm chảy tuột xuống cổ; đó không phải là mỡ mà như phù nề nó che kín cả mắt, tóc thì cắt vuông và theo kiểu thánh thần che khắp vầng trán xuống sát lông mày. Cần phải nói ngay rẳng cái trán của Bazin ngay thời còn để trần trụi cũng chỉ có cao một đốt rưỡi.

Ông phó mục sư làm xong lễ messe cùng lúc d Artagnan hoàn tất việc quan sảt của mình. Ông nói những lời chú giải thánh lễ, và trước sự sửng sốt của d Artagnan, ông vừa rút lui vừa ban phước và mọi người quỳ mà nhận lễ. Nhưng sự kinh ngạc của d Artagnan chấm dứt khi anh nhận ra ở vị tư tế chính ông giáo chủ, nghĩa là Jean-François de Gondy, nổi tiếng, hồi ấy dự cảm thấy vai mà ông đã sắm, bằng cách vung ra những của bố thí, ông bắt đầu làm cho mình rất được lòng dân. Nhằm mục đích tăng thêm cái dân tâm ấy, thỉnh thoảng ông lại đi làm những lễ messe buổi sớm mà chi có đám dân chúng đến dự.

D Artagnan quỳ gối như những người khác nhận giáng phước và làm dấu; nhưng vào lúc Bazin đi qua, mắt ngước lên trời và khúm núm bước sau cùng, thì d Artagnan níu lấy gấu áo bác.

Bazin cúi xuống nhìn và nhảy phắt ra đằng sau y như trông thấy một con rắn.

- Ông d Artagnan - Bác kêu lên, vade retro, Satanas (2).

- Này, bác Bazin thân mến ơi, - viên sĩ quan cười nói, - bác đón tiếp người bạn cố tri như thế này hay sao!

- Thưa ông, - Bazin nói, - những người bạn hữu thật sự của người tín đồ Thiên chúa giáo là những người giúp cho họ được cứu rỗi, chứ không phải những kẻ đi làm chệch hướng của họ.

- Tôi chẳng hiểu bác nói gì, bác Bazin ạ, nhưng tôi không thấy vì sao tôi lại có thể làm một vật chướng ngại cho sự cứu rỗi của bác được.

- Ông quên rồi sao, - Bazin đáp, - suýt nữa ông đã mãi mãi phá hoại sự cứu rỗi của ông chủ tội nghiệp của tôi và cũng tại ông, nên ông ta mới tự làm tội mình ở lại ngự lâm quân, trong khi thiên hướng lôi cuốn ông ta thật mãnh liệt đến Nhà thờ.

- Bác Bazin thân mến ơi, - D Artagnan nói tiếp, - bác cần thấy rõ ràng ở các nơi mà bác gặp tôi đấy, tôi đã thay đổi nhiều nhiều về mọi mặt: tuổi tác đem đến cho người ta lý trí, và do tôi không hề nghĩ rằng chủ của bác đang làm việc cứu rỗi của mình, tôi mới đến đây muốn bác cho biết ông ấy ở đâu để nhờ, ông ấy giúp đỡ bảo ban cho tôi làm cái việc cứu rỗi của tôi.

- Đúng hơn hãy nói thẳng ra rằng để dẫn ông ấy trở về nơi trần tục. May thay, - Bazin nói tiếp, - tôi chẳng biết ông ấy ở đâu cả, mà chúng ta đang ở trong một thánh thất, tôi không dám nói dối.

Thất vọng đến cùng cực, d Artagnan kêu lên.

- Trước hết, - Bazin nói, - Aramis là cái tên mất ơn Chúa, trong Aramis người ta thấy Simara là một cái tên ma quỷ, và phúc thay cho ông đã từ bỏ mãi mãi tên đó rồi.

Quyết ý kiên nhẫn đến cùng, d Artagnan nói:

- Cho nên tôi đi tìm không phải là Aramis mà là tu viện trưởng d Herblay. Thế nào, bác Bazin thân mến, hãy bảo cho tôi biết ông ấy ở đâu?

- Ông d Artagnan, ông không nghe thấy rằng tôi đã trả lời ông là tôi không biết hay sao?

- Vâng, chắc thế, nhưng về điều này, thì tôi dám cam đoan rằng không thể như thế được.

- Ấy thế mà là sự thật đấy ông ạ, sự thật thuần tuý, sự thật của Chúa.

D Artagnan thấy rõ là không thể moi gì được ở Bazin; hiển nhiên là Bazin nói dối, nhưng bác ta nói dối đến kiên quyết, nên có thể dễ dàng đoán ra rằng bác ta sẽ không thay đổi điều đã nói dối.

- Thôi được, Bazin! - D Artagnan nói, - vì bác chẳng biết chủ bác ở đâu thì thôi ta không nói đến nữa, chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn tốt, và bác hãy cầm lấy đồng nửa pistol này để uống mừng cho sức khỏe của tôi.

- Thưa ông, tôi không uống, - Bazin vừa nói vừa oai vệ đẩy tay viên sĩ quan ra, - cái ấy chỉ hợp với người thực tế.

- Không thể cám dỗ nổi? - D Artagnan lẩm bẩm - Mình thật là xúi quẩy! - D Artagnan mải suy nghĩ, buông áo Bazin ra, thế là Bazin lợi dụng ngay để vội đánh tháo về phía kho đồ thánh. Sau khi đóng cửa lại, bác mới cảm thấy an toàn.

D Artagnan đứng yên lặng, suy tư mắt đang đăm đăm nhìn vào cánh cửa đã đặt một rào chắn giữa anh và Bazin, thì cảm thấy có ai đụng nhẹ vào vai mình.

Anh quay lại và sắp thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc, cái kẻ đã đụng ngón tay vào anh vội đưa ngón tay ấy lên môi ra hiệu im lặng.

- Anh ở đây, Rochefort thân mến! - Anh khẽ nói.

- Suỵt! Rochefort bảo. - Anh có biết tôi tự do rồi không.

- Tôi biết ngay từ đầu.

- Ai nói?

- Planchet.

- Sao Planchet à!

- Tất nhiên? Chính cậu ta cứu anh.

- Planchet! Quả vậy, tôi ngỡ đã nhận ra hắn ta, bạn thân mến ạ; điều đó chứng tỏ rằng, làm ơn không bao giờ mất đâu.

- Thế anh đến đây làm gì?

- Tôi đến cảm ơn Chúa về sự giải thoát may mắn của tôi, - Rochefort đáp.

- Rồi còn gì nữa chứ? Vì tôi đoán chừng chưa phải đã hết.

- Rồi nhận mệnh lệnh của ông chủ giáo xem bọn tôi có thể làm một chút gì chọc cho lão Mazarin điên người lên.

- Đồ bướng bỉnh! Rồi anh lại đến bị tống vào Bastille nữa cho mà xem.

- Ồ! Về cái đó thì tôi cảnh giới. Tôi xin cam đoan với anh thế!

- Ngoài trời tốt biết bao! - Rochefort thở hít đầy nồng ngực và nói tiếp.- Cho nên tôi sẽ đi dạo ở đồng quê, làm một chuyến về tỉnh lẻ.

- Này, - D Artagnan nói, - tôi cũng vậy!

- Và không tọc mạch, co thể hỏi anh đi đâu chăng?

- Đi tìm các bạn tôi.

- Bạn nào?

- Những bạn mà hôm qua anh hỏi thăm ấy.

- Arthos, Porthos và Aramis à! Anh đi tìm kiếm họ?

- Phải.

- Nói danh dự đấy chứ?

- Thế chuyện ấy có gì lạ?

- Không. Hơi kỳ. Thế ai nhờ anh đi tìm họ?

- Anh cũng thừa biết.

- Phải đấy.

- Khốn thay tôi chẳng biết họ ở đâu cả.

- Mà anh không có một cách gì để biết tin tức họ ư? Đợi tám ngày nữa, tôi sẽ cho anh biết về họ.

- Tám ngày lâu quá, cần phải tìm ra họ trước ba ngày.

- Ba ngày thì ngắn quá, - Rochefort nói, - mà nước Pháp lại rộng mênh mông.

- Có sao! Anh biết chữ "cần phải" với chữ đó có thể làm được khối việc.

- Thế bao giờ anh bắt tay vào việc tìm kiếm.

- Tôi đang làm đây.

- Chúc anh may mắn!

- Còn anh, chúc anh lên đường bình an! Có thể chúng ta sẽ gặp nhau trên các nẻo đường.

- Chưa chắc.

- Biết đâu đấy? Rủỉ may, may rủi, biết thế nào.

- Từ biệt nhé!

- Hẹn gặp lại! Tiện đây, nếu lão Mazarin nói với anh về tôi, anh hãy nói với hắn rằng tôi nhờ anh bảo cho hắn, hãy biết chờ xem, không lâu đâu, liệu tôi có như hắn nói, là quá già nua để hành động hay không?

Và Rochefort chia tay với một trong những nụ cười ma quái ngày xưa đã từng khiến d Artagnan rợn người; nhưng lần này d Artagnan nhìn theo chẳng chút lo âu và đến lượt anh mỉm cười với một nỗi buồn man mác mà chỉ có kỷ niệm ấy mới có thể in lên gương mặt anh. Anh nói:

- Đi đi, con quỷ, mày muốn làm gì thì làm, chẳng can hệ đến ta: không có một chàng Constance thứ hai ở trên đời đâu!

Khi quay trở lại, anh thấy Bazin sau khi cởi bỏ bộ quần áo tu hành đang nói chuyện với người coi giữ đồ thánh mà d Artagnan đã hỏi han khi mới bước vào nhà thờ. Bazin tỏ ra rất xao động và đang giơ những cánh tay to nần nẫn và ngắn cũn cỡn làm đủ các động tác. D Artagnan hiểu rằng chắc chắn bác ta đang dặn dò người kia phải hết sức kín đáo với anh.

Lợi dụng lúc hai người đó đang bận rộn, d Artagnan lùi ra khỏi nhà thờ và đi đến nấp ở góc phố Canettes . Đứng ở đó mà nhìn thì nếu Bazin đi ra ngoài không thể lọt qua mắt anh được. Năm phút sau, d Artagnan đã đến vị trí. Bazin xuất hiện ở sân trước giáo đường. Bác ta nhìn khắp xung quanh để yên trí không bị quan sát, nhưng bác không thể nhìn thấy viên sĩ quan chỉ thò mỗi cái đầu ra ở góc một ngôi nhà cách đó năm chục bước. Yên tâm với những biểu hiện đó, bác đánh liều ra phố Đức Bà. D Artagnan vọt ra khỏi chỗ nấp và vừa kịp trông thấy bác đi qua phố Juiverie, sang phố Calandre và đi vào một ngôi nhà trông bề ngoài giản dị. Cho nên viên sĩ quan không hề nghĩ rằng vị phụ thủ xứng đáng kia lại không ở trong căn nhà đó.

D Artagnan chẳng buồn đến hỏi nhà ấy. Người gác cổng, nếu có, hẳn phải được báo trước rồi; còn nếu không có thì hỏi ai được. Anh đi vào một quán rượu ở góc phố Saint-Eloi và phố Calandre gọi một lượng d hypocras (3). Loại rượu này pha chế phải mất đứt nửa tiếng đồng hồ. D Artagnan có đủ thì giờ rình Bazin mà chẳng khiến ai nghi ngờ.

Anh trông thấy ở trong quán một thằng lỏi trạc mười hai đến mười ba tuổi vẻ linh lợi mà anh ngờ đã nhìn thấy trước đó hai mươi phút trong bộ quần áo lễ. Anh hỏi chuyện nó và do thằng nhỏ học việc phụ trợ tế chẳng có gì mà phải giấu giếm, anh biết nó làm từ sáu giờ đến chín giờ sáng nghề lễ sinh và từ chín giờ sáng đến nửa đêm nghề hầu bàn.

Trong khi anh nói chuyện với thằng nhỏ, người ta dắt đến cửa nhà Bazin một con ngựa. Con ngựa đóng yên cương sẵn sàng. Một lát sau Bazin xuống.

- Này ông ta đi đâu vậy? - D Artagnan hỏi.

- Ơ? Tôi biết đâu đấy?

- Nửa pistol nếu mày biết được! - D Artagnan bảo.

- Cho tôi ấy à? - Thằng bé nói, mắt ánh lên vui mừng, - nếu tôi biết Bazin đi đâu. Chẳng khó gì đâu! Ông không giỡn tôi đấy chứ?

- Không, danh dự sĩ quan. Đây, đồng nửa pistol.

Và anh chìa ra đồng tiền cám dỗ, nhưng chưa đưa cho nó.

- Tôi sẽ đi hỏi bác ta.

- Đó là một cách để chẳng biết được gì cả, - D Artagnan nói. - Đợi bác ta đi, rồi sau đó. Mẹ kiếp! Hỏi han, lục vấn, dò xét. Đó là việc của mày, đồng nửa pistol vẫn đó. Và anh lại bỏ tiền vào túi.

- Tôi hứa - thằng bé nói với nụ cười ranh mãnh chỉ có ở bọn nhóc Paris, - Thế thì, ta đợi xem.

Chẳng phải đợi lâu, năm phút sau, Bazin đi nước kiệu nhỏ, dùng cán ô thúc ngựa.

Bazin bao giờ cũng có thói quen mang ô thay cho roi ngựa.

Bác vừa mới ngoặt góc phố Juiverie thì thằng nhóc đã lao theo như con chó săn đuổi theo mồi.

D Artagnan lại ngổi vào bàn chỗ anh đã ngồi khi mới vào, hoàn toàn chắc chắn rằng trước mười phút anh sẽ biết điều mình muốn biết.

Quả nhiên trước cả thời gian dự kiến, thằng nhỏ trở về.

- Thế nào! - D Artagnan hỏi.

- Thế là đã biết rồi, - thằng bé đáp.

- Thế bác ta đi đâu?

- Đồng nửa pistol vẫn dành cho tôi chứ?

- Tất nhiên rồi. Trả lời đi.

- Cho tôi xem nào. Đưa tôi xem có phải tiền giả không?

- Đây!

- Ông chủ ơi. - thằng bé nói, - Ông khách đây cần đổi tiền lẻ.

Người chủ đang ở quầy, đưa tiền lẻ và cầm lấy đồng nửa pistol.

Thằng nhóc bỏ tiền lẻ vào túi nó.

D Artagnan trông cái trò xảo trá của thằng nhóc, bật cười và nói:

- Nào bây giờ nói đi, bác ta đi đâu?

- Bác ấy đi Noisy.

- Tại sao mày biết?

- À mẹ nó! Cũng chẳng cần phải ma lanh lắm đâu. Tôi đã biết rằng con ngựa là của bác hàng thịt thỉnh thoảng vẫn cho bác Bazin thuê. Tôi cũng đã nghĩ rằng bác hàng thịt chẳng khi nào cho thuê ngựa mà lại không hỏi người ta dẫn nó đi đâu, dù rằng tôi chẳng tin là bác Bazin có thể làm con ngựa bị quá sức.

- Và bác ta đã trả lời mày và Bazin...

- Đi Noisy. Với tuồng như việc ấy đã thành lệ, cứ mỗi tuần vài ba lần đi tới đó.

- Thế mày có biết Noisy không?

- Biết chứ! Tôi có bà mẹ nuôi!

- Ở Noisy có tu viện nào không?

- Một cái oách là khác, tu viện dòng Jésuites .

- Tốt! - D Artagnan thốt lên, - không còn ngờ gì nữa?

- Vậy ông hài lòng chứ?

- Ừ! Mày tên là gì?

- Friquet.

D Artagnan giở sổ ra ghi tên thằng nhỏ và địa chỉ quán rượu.

- Ông ơi, - thằng bé hỏi, - liệu có còn kiếm được những đồng nửa pistol khác nữa không?

- Có thể, - D Artagnan đáp.

Và do đã nắm được điều muốn biết, anh trả tiền lượng hypocras mà anh chẳng dụng môi, và vội vàng trở về đường phố Tiquetonne.

Chú thích:

(1) Một chức thầy tu hầu chủ giáo thường sống an nhàn, cho nên có những câu tục ngữ: "hớn hở như mặt Sanoan", "béo quay như Sanoan"

(2) Cút đi, quỷ Satan.

(3) Thứ rượu vang pha trộn với đường, quế, đinh hương và đun nóng lên.

-*-*-*-

Chương 9

D'Artagnan đi tìm Aramis ở tận đẩu đâu, cuối cùng lại gặp anh ta ngồi ngay trên lưng ngựa sau Planchet

Khi trở về, d Artagnan trông thấy một người ngồi ở góc lò sưởi. Đó là Planchet, nhưng Planchet thay hình đổi dạng hẳn, nhờ những quần áo cũ, mà người chồng để lại khi bỏ trốn, đến nỗi chính d Artagnan cũng khó mà nhận ra.

Madeleine giới thiệu cậu ta với anh trước mặt bọn đầy tớ. Planchet nói với anh một câu tiếng Flamant rất chúa, viên sĩ quan đáp lại vài lời chẳng thuộc ngôn ngữ nào cả, và cuộc mặc cả ngã giá. Người anh của Madeleine vào giúp việc d Artagnan.

Kế hoạch của d Artagnan được sắp đặt rất chu đáo: anh không muốn đi ban ngày đến Noisy sợ bị lộ. Anh hãy còn thời giờ, Noisy cách Paris có ba, bốn dặm, trên đường đi Meaux.

Anh bắt đầu ăn bữa sáng rất ngon, điều đó có thể là không tốt khi người ta muốn hoạt động bằng cái đầu nhưng lại là sự dự phòng rất tuyệt khi muốn hoạt động bằng thân thể. Xong, anh thay đổi y phục, sợ rằng cái áo trung uý ngự lâm quân sẽ gây nên nghi ngờ; rồi anh lấy ra thanh kiếm khỏe nhất và chắc nhất trong số ba thanh kiếm mà anh chỉ đem theo những ngày đại sự. Khoảng hai giờ, anh cho thắng ba con ngựa, và với Planchet theo sau, anh đi ra lối qua Villette.

- Ở nhà bên cạnh quán "Con dê cái nhỏ", người ta vẫn lục soát rất gắt gao để truy tìm Planchet.

Đi cách Paris một dặm rưỡi, d Artagnan cảm thấy mình do sốt ruột nên ra đi quá sớm, bèn dừng lại cho ngựa thở; quán bên đường đầy những người vẻ mặt bất hảo như sắp mưu toan một chuyến đi đêm. Một người khoác áo choàng xuất hiện ở cửa, nhưng nhìn thấy một người lạ, hắn giơ tay làm hiệu và hai tên uống rượu đi ra ngoài để bàn bạc với hắn.

Còn d Artagnan tiến lại phía bà chủ quán với vẻ vô tư, tán dương rượu vang của bà nó vốn làm từ một đồng nho kinh khủng của Montreuil, hỏi vài câu về Noisy và được biết rằng ở trong làng có hai ngôi nhà thờ bề thế: một nhà của Đức ông tổng giám mục Paris, ở đó hiện giờ có cháu gái ông là bà công tước De Longueville, nhà kia là một tu viện dòng Giêduyt và theo tục lệ là sở hữu của những vị cha cố danh giá ấy, không sợ nhầm lẫn đâu.

Bốn giờ, d Artagnan lại lên dường, rong bước một vì anh chỉ muốn tới nơi khi trời tối hẳn. Lúc người ta rong ngựa thong thả vào một ngày mùa đông, trời âm u giữa một phong cảnh bằng lặng, thì chẳng có gì dáng làm hơn là - như La Fontaine nói làm như con thỏ ở trong hang của nó: nghĩ ngợi. Vậy là d Artagnan nghĩ ngợi, và Planchet cũng thế. Tuy nhiên, như ta sẽ thấy, những mơ tưởng của họ khác.

Một tiếng nói của bà chủ quán đã truyền một phương hướng đặc biệt vào dòng suy nghĩ của d Artagnan. Tiếng ấy là tên bà De Longueville.

Quả thật, bà Longueville có đủ mọi cái cần thiết để làm người ta phải nghĩ đến đó là một trong những mệnh phụ lớn nhất của vương quốc, đó là một trong những phụ nữ xinh đẹp nhất của triều đình.

Kết hôn với lão quận công De Longueville mà bà không yêu, lúc dầu bà bị coi như tình nhân của Coligny, ông này vì bà mà bị giết trong cuộc đấu kiếm với quận công de Guise ở quảng trường Hoàng cung.

Rồi sau người ta đồn về sự thân mật hơi quá đáng của bà với anh ruột của bà là hơàng thân Condé, chuyện đó gây phẫn nộ trong những người sùng đạo sợ tội với Thượng đế ở trong triều. Cuối cùng, người ta còn nói một mối thù thực sự và sâu sắc kế tiếp mối thân tình ấy; và hồi ấy, người ta vẫn cứ đồn bà công tước De Longueville có liên hệ về chính trị với hoàng thân De Marcillac con của lão quận công De la Rochefoucauld, do đó bà trở thành kẻ thù của quận công De Condé, anh bà.

D Artagnan suy nghĩ đến tất cả những điều đó. Anh nghĩ rằng khi xưa ở cung Louvre anh thường thấy bà Longueville đi qua trước mặt anh, rạng rỡ và chói lọi. Anh nghĩ đến Aramis, chẳng hơn gì anh, xưa kia là tình nhân của bà de Chevreuse; đối với triều đình trước bà de Chevreuse như thế nào thì đối với triều đình này bà De Longueville cũng như vậy. Và anh tự hỏi tại sao ở trên đời này có nhiều người đạt tới tất cả những gì họ mong ước, người này về mặt tham vọng, kẻ kia về mặt ái tình, trong khi có những người khác hoặc vì tình cờ hoặc vì vận rủi, hoặc do trở ngại tự nhiên, do thiên nhiên đã đặt vào họ, khiến họ ở lại nửa đường trong mọi ước vọng của mình.

Anh buộc phải tự thú nhận rằng mặc dầu tất cả trí tuệ của mình, tất cả sự khéo léo của mình, chắc chắn là anh thuộc và sẽ vẫn thuộc loại những kẻ sau rốt kia. Anh nghĩ đến đỏ thì Planchet đến gần và nói:

- Ông này, tôi đánh cuộc là ông nghĩ đến cùng một điều như tôi.

- Tôi hoài nghi đấy, Planchet? - D Artagnan nói. - Nhưng cậu nghĩ đến gì cơ chứ?

- Thưa ông, tôi nghĩ đến những bộ mặt bất hảo đang nhậu nhẹt ở trong quán rượu mà chúng ta vừa dừng lại đó..

- Cậu lúc nào cũng thận trọng!

- Đấy là bản năng, ông ạ.

- Thế thì thử xem trong hoàn cảnh như thế này, bản năng cậu nói với cậu thế nào?

- Ông ạ, bản năng nói với tôi rằng những kẻ kia tụ tập ở trong cái quán ấy nhằm một mục đích xấu, và tôi ngẫm nghĩ đến cái điều mà bản năng của tôi nói với tôi trong cái xó tối tăm nhất của chuồng ngựa. Khi một gã khoác áo choàng bước vào chuồng ngựa có hai tên khác theo sau.

Thấy câu chuyện của Planchet phù hợp vớí những quan sát của mình, d Artagnan nói:

- A, a? Thế nào?

- Một người trong bọn họ nói:

"Chắc chắn hắn ta ở Noisy hoặc sẽ đến đó tối nay, bởi vì tôi nhận ra tên hầu của hắn".

"Anh có chắc không? - Người khoác áo choàng hỏi.

"Thưa hoàng thân chắc ạ.

- Thưa hoàng thân à? - D Artagnan ngắt lời.

- Vâng, thưa hoàng thân. Nhưng ông hãy nghe đã.

" Nếu nó đến đấy, dứt khoát ta phải hành động thế nào chứ? - Một tên uống rượu nói.

"Phải hành động thế nào ấy à? - Ông hoàng hỏi.

"Hắn không phải kẻ dễ để người ta tóm như thế đâu. Hắn sẽ đẩu kiếm.

- Thế thì phải làm như hắn ta, tuy nhiên cố bắt sống nó. Anh có thừng để trói nó không, và một túm giẻ để bịt miệng nó lại.

"Chúng tôi có đầy đủ.

" Phải chú ý, rất có thể hắn sẽ cải trang làm một kỵ sĩ.

" Ồ vâng! Xin Đức ông cứ yên tâm.

"Với lại tôi cũng sẽ ở đó và tôi sẽ hướng dẫn các anh.

"Ngài bảo đảm là công lý...

- Tôi xin bảo đảm tất, - Ông hoàng nói.

- Thế thì tốt, chúng tôi sẽ cố làm hết sức mình.

Nói xong, bọn họ ra khỏi chuồng ngựa.

- Này! - D Artagnan nói, - chuyện đó thì có can hệ gì đến chúng ta? Đó là một trong những kế hoạch mà người ta vẫn làm hằng ngày.

- Ông có chắc rằng việc đó không phải nhằm chổng lại chúng ta không?

- Chống lại chúng ta? Tại sao?

- Ấy, xin hãy nhớ lại câu nói của họ. "Tôi nhận ra thằng hầu của hắn", hẳn là nói về tôi.

- Gì nữa?

- "Hắn phải ở Noisy hoặc sẽ đến đó tối nay", một tên khách nói, hẳn là nói về ông.

- Rồi sao nữa?

- Rồi ông hoàng thân nói: "Phải chú ý là rất có thể hắn cải trang là kỵ sĩ", điều này không nghi ngờ gì nữa, bởi vì ông mặc kỵ sĩ chứ không phải là ngự lâm quân; xin hỏi, ông nói sao?

- Chao ôi, Planchet thân mến của tôi? - D Artagnan thở dài. - Tôi xin nói rằng tôi không còn phải khốn khổ ở cái thời mà các ông hoàng muốn cho ám sát tôi. Ôi! Các ông hoàng ấy, đó là thời xa xưa rồi. Cậu hãy yên tâm, những người ấy chẳng thù oán gì ta đâu?

- Ông chắc thế chứ?

- Tôi cam đoan vậy.

- Thế thì tốt rồi; ta không bàn chuyện ấy nữa.

Và Planchet lại lùi lại đi sau d Artagnan với niềm tin cậy tuyệt vời mà bao giờ anh cũng có đối với chủ anh, và mười lăm năm xa cách vẫn không hề phai nhạt.

Cứ thế đi được gần một dặm. Planchet tiến gần lại d Artagnan và nói:

- Ông này!

- Gì đấy? - D Artagnan hỏi.

- Này, ông thứ nhìn về phía kia xem hình như có bóng người đang đi trong đêm tối thì phải. Ông nghe xem, hình như có tiếng vó ngựa ấy.

- Vô lý! D Artagnan nói. - Đất ướt nhão vì mưa, tuy nhiên, như cậu nói, tôi thấy hình như có cái gì đó.

Và họ dừng lại để nhìn và nghe ngóng.

- Nếu không nghe tiếng chân ngựa, ít ra cũng nghe tiếng ngựa hí; này này!

Quả nhiên có tiếng một con ngựa hí vọng qua không gian và bóng tối, đập vào tai d Artagnan.

- Đó là những người của ta đi dã ngoại, - anh nói, nhưng chẳng can hệ gì đến ta, ta cứ tiếp tục đi thôi.

Và họ lại lên đường.

Nửa giờ sau họ tới những căn nhà đầu tiên của Noisy, lúc ấy khoảng tám giờ rưỡi đến chín giờ tối.

Theo thói quen ở nông thôn, mọi người đã đi nằm, và trong làng không còn có một ánh lửa.

Mái nhà nhấp nhô ở hai bên đường nổi bật trên nền trời xám, chốc chốc một con chó canh sủa lên sau một cánh cửa, hoặc một con mèo hoảng hốt vội vã rời lòng đường chạy đến núp trong một đống củi, và cặp mắt sợ hãi vẫn sáng lẩp lánh như những hòn ngọc xanh lè.

Dường như đó là những sinh vật duy nhất sống ở làng này.

Đến giữa xóm, cứ cho là như vậy, có một khối nhà tối sẫm nổi lên giữa hai ngõ, án ngữ khu chính, hai cây bồ đề lớn ở trước nhà dang rộng những cánh tay khẳng khiu. D Artagnan chú ý xem xét ngôi nhà. Anh bảo Planchet.

- Đây chắc hẳn là lâu đài của tổng giám mục, nơi ở của phu nhân De Longueville kiều diễm. Nhưng còn tu viện ở đâu nhỉ?

- Tu viện ở đầu làng, - Planchet nói, - tôi biết mà.

- Này Planchet,- D Artagnan bảo - phóng thẳng đến đó đi, còn tôi sẽ siết lại đai ngựa, và khi quay về cậu sẽ cho tôi biết rõ còn cửa sổ nào có ánh đèn ở chỗ cái ông thầy tu Giêduyt không?

Planchet tuân lời và lao vào bóng tối. D Artagnan nhẩy xuống đất siết lại đai ngựa.

Năm phút sau, Planchet trở lại. Anh nói:

- Ông ạ, chỉ mỗi cửa sổ ở phía tường trông ra ngoài đồng là có ánh đèn thôi.

- Hừm! - D Artagnan nói. - Nếu ta là Fronde ta sẽ gõ cửa đây và chắc chắn sẽ có nơi trú tốt, nếu ta là thầy tu ta sẽ gõ cửa đằng kia, và chắc chắn sẽ có một bữa ăn tối ngon. Còn trái lại, ở giữa lâu đài và tu viện, rất có thể chúng ta sẽ nằm trên mặt đất, chết khát và chết đói.

- Đúng đấy Planchet đáp, - giống như con lừa của Buridăng nổi tiếng. Trong khi chờ đợi, ông có muốn tôi gõ cửa không?

- Suỵt! D Artagnan nói. - Cửa sổ duy nhất có ánh đèn thì lại vừa mới tắt.

- Ông có nghe thấy không? Planchet nói.

- Có tiếng động gì ấy nhỉ?

Đó là tiếng ồn ào của một cơn dông đang đến gần, cùng lúc ấy hai toán kỵ sĩ, mỗi toán độ mười người, túa ra từ hai ngõ men theo ngôi nhà, và bịt chặt mọi lối thoát, bao vây d Artagnan và Planchet.

- Ái chà? - D Artagnan vừa nói vừa tuốt kiếm và nấp sau con ngựa của mình, còn Planchet cũng làm động tác như vậy - Có lẽ cậu nghĩ đúng đây, và họ định công kích chúng ta thật chăng?

- Nó kia rồi, bắt lấy nó!

Các kỵ sĩ vừa nói vừa xông vào d Artagnan, kiếm tuốt trần.

- Chớ để nó thoát, - một giọng nói to.

- Không, xin Đức ông yên tâm.

D Artagnan cho là đến lúc anh phải xen vào câu chuyện. Anh nói bằng giọng Gascogne:

- Ơ này, các ông! Các ông muốn gì, các ông cần gì?

- Rồi mày sẽ biết! - Các kỵ sĩ đồng thanh quát lên.

- Dừng lại! dừng lại! - Người được gọi là Đức ông kêu lên, - Dừng lại! Không phải là tiếng nó.

- À, ra thế! Này các ông, - D Artagnan nói, - phải chăng ngẫu nhiên mà người ta phát rồ lên ở Noisy. Tuy nhiên hãy coi chừng, vì tôi xin báo trước rằng kẻ đầu tiên sấn lại vừa tầm dài thanh kiếm của tôi, mà thanh kiếm của tôi thì dài đấy, tôi sẽ rạch thủng bụng ra.

Người thủ lĩnh tiến lại:

- Anh làm gì đấy? - Ông ta nói bằng một giọng kiêu kỳ và như quen chỉ huy.

- Thế còn chính ông? - D Artagnan nói.

- Nên tỏ ra lễ độ, nếu không ta sẽ nện cho ra trò; vì dù không muốn tự xưng tên, ta cũng muốn được kính trọng theo thứ vị.

- Ông không muốn xưng danh, bởi vì ông chỉ huy một cuộc mai phục, - D Artagnan nói, - nhưng tôi đây, tôi đi du ngoạn yên lành với tên hầu của tôi, tôi không có lý do như ông để giấu tên.

- Thôi, thôi, ông tên là gì?

- Tôi nói tên ra để ông còn biết mà tìm lại, thưa ông, thưa Đức ông hay thưa Hoàng thân, tuỳ ý ông thích gọi thế nào cũng được, - chàng xứ Gascogne của chúng ta không muốn có vẻ lùi bước trước một lời doạ nạt, bèn nói, - Ông có biết ông d Artagnan không?

- Trung uý ngự lâm quân của nhà vua?

- Đúng thế.

- Phải.

- Vậy thì, chàng xứ Gascon tiếp tục, - Ông phải nghe nói đó là một tay kiếm vững vàng và điêu luyện chứ?

- Ông là ông d Artagnan à?

- Tôi đây.

Thế ra ông đến đây để bảo vệ cho hắn ư?

- Hắn? Hắn nào?...

- Kẻ mà chúng tôi tìm kiếm.

- Dường như, - D Artagnan nói, - không có nghi ngờ gì nữa đến Noisy tôi tưởng như đã tiếp cận vương quốc của những lời bí ẩn.

- Này, trả lời đi, - vẫn cái giọng kiêu ngạo ấy cất lên. Ông chờ hắn ở dưới những của sổ này phải không? Ông đến Noisy để bảo vệ hắn phải không?

- Tôi chẳng đợi ai hết, - D Artagnan nói, anh đã bắt đầu nổi nóng, - tôi chẳng tính bảo vệ ai ngoài tôi ra, mà cái tôi ấy tôi sẽ báo vệ mãnh liệt đấy, xin báo để ông rõ.

- Được rồi, ông đi khỏi đây đi, rời khỏi chỗ này đi.

Cái mệnh lệnh đó ngược lại với kế hoạch của d Artagnan, nên anh đáp:

- Đi khỏi đây ư? Không dễ đâu, vì tôi mỏi rã người ra rồi và con ngựa của tôi cũng vậy, trừ phi ông sẵn sàng đãi tôi một bữa ăn tối và cho tôi ngủ ở đâu đó quanh đây.

- Đồ lếu láo!

- Này! - D Artagnan nói. - Xin ông giữ mồm giữ miệng, vì nếu ông còn nói một câu tương tự, thì dù ông là hầu tước, công tước, hoàng thân, hay vua chăng nữa, tôi cũng sẽ tống câu ấy trở vào bụng ông, ông nghe rõ chưa?

- Thôi, thôi, viên chỉ huy nói, - không thể lầm lẫn được, đúng là một Gascogne, và do đó không phải là kẻ ta đang tìm. Việc của ta tối nay thế là hỏng rồi, ta rút thôi. Chúng ta sẽ lại gặp nhau, tiên sinh d Artagnan ạ, - viên chỉ huy cao giọng nói tiếp.

- Vâng, nhưng không bao giờ với lợi thế như thế này,- chàng Gascogne nói mỉa, - vì khi gặp lại tôi, có lẽ ông sẽ đi một mình và giữa ban ngày ban mặt.

- Được lắm, được lắm! - Giọng nói cất lên. - Nào, các ông lên đường.

Và đám người vừa lầu bầu vừa la gắt gỏng, biến trong bóng tối, trở về phía Paris.

D Artagnan và Planchet còn đứng một lát giữ thế thủ, nhưng, tiếng động tiếp tục xa dần, họ tra kiếm vào bao.

D Artagnan bình thản bảo Planchet:

- Cậu thấy chưa, đồ ngu, không phải họ công kích chúng ta mà.

- Thực tình tôi chẳng hiểu gì! Nhưng không sao. Điều can hệ đối vôi tôi là vào tu viện jésuites. Vậy thì, ta lên ngựa và đến đó gõ cửa. Thế nào thì thế chứ? Mẹ kiếp, họ có ăn thịt ta đâu mà lo?

D Artagnan trèo lên yên.

Planchet vừa mới lên yên, thì một khối nặng bất ngờ rơi bịch xuống đằng sau con ngựa khiến nó khuỵu xuống.

- Ối ông ơi, - Planchet kêu lên, - có một người ngồi sau mông ngựa tôi.

D Artagnan quay lại và quả nhiên trông thấy hai bóng người trên con ngựa của Planchet.

- Vậy đúng là ma quỷ theo đuổi chúng ta, - anh kêu lên và rút kiếm chuẩn bị tấn công kẻ mới đến.

- Không, d Artagnan thân mến của tôi ơi, không phải ma quỷ đâu! Aramis đây!

Planchet phi nước đại lên, đến đầu làng thì rẽ bên trái.

Và Planchet mang Aramis trên mông ngựa, phóng nước đại, d Artagnan theo sau, anh bắt đầu ngờ như mình đang mơ một giấc mơ kỳ ảo và chẳng ăn nhập gì với nhau cả.

-*-*-*-

Chương 10

Tu viện trưởng d'Erblay

Đến đầu làng Planchet rẽ sang bên trái như Aramis đã dặn và dừng lại dưới một cửa sổ có ánh đèn, Aramis nhảy xuống đất và vỗ tay ba lần. Tức thì cửa sổ mở ra, và một cái thang dây buông xuống.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - nếu bạn muốn lên tôi sẽ rất vui mừng được tiếp đón.

- Ối chà! - D Artagnan nói. - Thì ra người ta về nhà anh bằng cách ấy à?

- Quá chín giờ tối rồi thì mẹ kiếp, dứt khoát phải như vậy chứ! - Aramis nói. - Lệnh của tu viện là loại nghiêm ngặt nhất đấy, mẹ kiếp!

- Xin lỗi anh bạn thân mến, - D Artagnan nói, - hình như vừa rồi anh có nói mẹ kiếp!

- Cậu tin là có thể lắm chứ. Bạn thân mến ơi, cậu không thể tưởng tượng được rằng trong những cái tu viện phải gió này người ta nhiễm biết bao nhiểu thói xấu xa, những dàn nhà thờ này đều có những cung cách độc ác và tôi buộc phải chung sống với họ! Thế cậu không lên à?

- Cậu đi trước, tôi theo sau.

Giống như vị cố giáo chủ nói với vua đã khuất: "Để chỉ đường cho Hoàng thượng", Aramis nhanh nhẹn leo thang và loáng một cái đã tới cửa sổ

D Artagnan lên sau, nhưng thong thả hơn, rõ ràng cái kiểu đường đó anh không quen bằng bạn.

Aramis nhận thấy sự vụng về ấy, bèn bảo:

- Xin lỗi, nếu tôi biết trước có vinh dự được cậu đến thăm, tôi sẽ mang cho cái thang của bác làm vườn đến, còn đối với riêng tôi, cái thang này là đủ rồi.

Khi thấy d Artagnan leo gần đến nơi, Planchet nói.

- Thưa ông, cái trò này rất hợp với ông Aramis cũng hợp với ông, và quá lắm nó cũng còn hợp với tôi, nhưng hai con ngựa chúng không thể nào leo thang được ạ

- Cậu dẫn chúng xuống nhà kho, anh bạn ạ, - Aramis vừa nói vừa trỏ cho Planchet một thứ xưởng mọc lên ở dưới đồng, - Ở đó có rơm và lúa mạch cho ngựa.

- Thế còn cho tôi? - Planchet hỏi.

- Cậu sẽ trở lại dưới cửa sổ, vỗ tay ba lần và chúng tôi sẽ chuyển thức ăn xuống. Yên tâm đi,! Ở đây chẳng lo chết đói đâu. Thôi, đi đi.

Rồi Aramis rút thang dây lên, đóng cửa sổ.

D Artagnan ngắm căn phòng.

Chưa bao giờ anh thấy một căn phòng vừa chinh chiến hơn vừa lịch sự hơn. Ở mỗi góc phòng bày những binh khí chiến lợi phẩm, có thể xem và cầm những gươm, kiếm đủ loại, và bốn bức tranh lớn về giáo chủ Lorraine, giáo chủ de Richelieu, giáo chủ La Valette và tổng giám mục De Bordeaux trong các bộ quần áo trận mạc. Ngoài ra thực sự chẳng có một cái gì chứng tỏ đây là chỗ ở của một tu viện trưởng; các bức rèm căng bằng gấm Damas, các tấm thảm từ Alençon, và nhất là cái giường với tràng kỷ thêu ren và tấm mến đắp chân, có vẻ giường của một tiểu thư hơn là giường của một người đàn ông đã nguyện đi tới thiên cung bằng con đường tiết dục và hành xác.

- Cậu xem tệ xá của tôi, - Aramis nói. - Ôi, bạn thân mến thứ lỗi cho tôi nhé. Biết làm thế nào? Mình ở như một kẻ tu hành. Nhưng cậu để mắt tìm kiếm gì thế?

- Tôi tìm xem ai đã ném thang xuống cho cậu, tôi chẳng nhìn thấy ai cả, mà thang thì chẳng tự rơi xuống được?

- À, Bazin đấy mà.

- A, A! - D Artagnan kêu lên.

- Nhưng, - Aramis nói tiếp, - Bazin là một tay được huấn luyện tốt, hắn thấy tôi về không phải một mình nên đã kín đáo rút lui. Bạn thân mến ngồi xuống đi và ta cùng nhau trò chuyện.

Aramis đẩy cho d Artagnan một cái ghế bành lớn và anh bạn chống khuỷu tay duỗi người ra.

- Trước hết cậu ăn tối với tôi chứ? - Aramis hỏi.

- Vâng, nếu cậu sẵn lòng, - D Artagnan nói, - và tôi rất vui lòng, vì thú thật, đường sá khiến tôi đói cồn cào cả lên.

- Ôi, khổ thân anh bạn? - Aramis nói. - Cậu sẽ phải ăn kham khổ đấy vì không biết có khách mà.

- Liệu tôi có bị đe doạ phải xơi trứng tráng như dạo ở Crèvecoeur và những lá cù lác không? Phải chăng như thế mà ngày xưa cậu gọi là rau mồng tơi ư?

- Ôi! Phải hy vọng chứ, - Aramis nói, - với sự giúp dỡ của Chúa và Bazin, chúng ta sẽ kiếm được cái gì đó hay hơn trong chậu thức ăn của các cha Jésuites tôn kính. Bazin, anh bạn tôi ơi, Bazin, ra đây nào.

Cánh cửa mở và Bazin xuất hiện, nhưng vừa thoạt trông thấy d Artagnan, bác thốt lên một tiếng than giống như một tiếng kêu thất vọng.

- Bác Bazin thân mến ơi, - D Artagnan nói, - tôi rất thú vị được xem bác nói dối với một vẻ chững chạc biết chừng nào, ngay ở trong một giáo đường.

- Thưa ông, - Bazin đáp, - tôi học được ở các cha Jésuites tôn kính rằng có thể được phép nói dối khi nói dối với một ý đồ tốt.

- Tốt lắm, tốt lắm, Bazin. - Aramis bảo - D Artagnan đang chết đói đây và tôi cũng vậy, bác hết sức cố gắng cho chúng tôi ăn tối, và nhất là đem rượu ngon cho chúng tôi.

Bazin cúi đầu vâng, lệnh, thở dài đánh thượt một cái rồi đi ra.

- Bây giờ còn lại riêng chúng ta, Aramis thân mến ơi, - D Artagnan vừa nói vừa đảo cặp mắt nhìn căn phòng, rồi dừng nơi chủ của nó và kết thúc ở bộ y phục, - Cậu cho tôi biết cậu từ chỗ quỷ quái nào đến khi cậu rơi phịch xuống mông ngựa đằng sau Planchet.

- Mẹ kiếp. - Aramis nói. - Cậu trông thấy rành rành rồi, từ trên trời.

- Từ trên trời! - D Artagnan gật đầu nhắc lại.

- Tôi thấy cậu có vẻ đi lên đó hơn là từ đó trở về.

Với cái vẻ hợm mình d Artagnan chưa bao giờ thấy khi còn ở ngự lâm quân, Aramis nói:

- Bạn thân mến ơi, nếu tôi không từ trên trời xuống, thì it ra tôi cũng từ thiên đường tới; điều đó giống nhau lắm.

- A ha! Thế là các nhà bác học đã rõ rồi nhé, - D Artagnan bảo, - cho đến nay người ta không thể đồng ý với nhau về vị trí xác thực của thiên đường, người thì đặt nó trên Ararat (1), người thì đặt nó giữa sông Tigre và sông Ophra (2), dường như người ta cứ đi tìm nó ở tận đâu đâu trong khi nó lại ở rất gần. Thiên đường ở ngay Noisy-le-Sec, trên địa điểm lâu dài vị tổng giám mục Paris. Người ta ở đó đi ra không bằng cửa chính mà bằng cửa sổ, người ta xuống không bằng các bậc đá hoa cương của cầu thang cuốn, mà từ trên cành cây bồ đề, và vị thần cầm thanh kiếm rực lửa bảo vệ thiên đường hình như đã đổi cái tên thiên đình Gabiren ra cái tên hạ giới hoàng thân Marcillac.

Aramis bật cười nói:

- Cậu luôn là người vui tính, và cái chất hài hước trí tuệ mang tính chất Gascogne của cậu vẫn không rời cậu. Phải, cậu nói kể cũng phần nào đúng đấy, song ít ra cậu phải loại trừ ý nghĩ cho rằng tôi yêu bà De Longueville.

- Gớm chưa! Tôi nghi lắm đấy? - D Artagnan nói. - Sau một thời gian dài yêu bà de Chevreuse, dễ thường cậu không đem lòng si mê kẻ tử thù ghê gớm nhất của bà ta đâu nhỉ?

- Phải, đúng đấy, - Aramis nói với vẻ ngán ngẩm, phải, cái bà công tước tội nghiệp ấy, xưa tôi đã yêu tha thiết, và phải thừa nhận rằng bà đã rất có ích cho chúng ta; nhưng làm thế nào được? Bà ấy đã phải rời nước Pháp. Cái lão giáo chủ gian ác đó thực là một đối thủ ghê gớm? - Aramis ngước nhìn lên bức chân dung của tể tướng cũ và nói tiếp - Lão đã ra lệnh bắt giữ bà và dẫn đến lâu dài Loches, lão toan cho chém đầu bà ấy, tôi nói thực đấy nhưng đã đối xử tốt với Chalais, Montmorency và Cinq-Mars; bà ta đã cải trang làm đàn ông và trốn đi cùng cô hầu phòng, cái cô Ketty tội nghiệp ấy. Tôi còn nghe nói đã có một chuyện tình cờ kỳ lạ xảy đến với bà ấy ở một làng nào đó tôi không rõ, với một ông linh mục nào ấy tôi cũng không biết, mà bà xin nghỉ trọ. Ông ta chỉ có một phòng và tưởng bà ta là một kỵ sĩ nam nên đã cho nghỉ chung phòng. Ấy vì bà ta mặc y phục nam giới hợp một cách không tưởng tượng được, cái bà Mari thân thương ấy. Tôi chỉ biết có một phụ nữ mặc y phục nam hợp đến thế cho nên người ta đã làm một khúc ca về bà ta: Laboatxie hãy nói đi! Cậu có biết không nhỉ?

- Không đâu, cậu thử hát nghe xem nào, bạn thân mến.

Và Aramis hát với giọng phóng túng nhất:

Laboissière hãy nói đi!

Tôi có giống nam nhi?

Quả tình tôi xin nói,

Bà cưỡi ngựa thật giỏi

Hơn cả bọn chúng tôi.

Bà sống giữa gươm dao

Trong trung đoàn vệ sĩ

Như một chàng dự bị.

- Hoan hô! - D Artagnan nói. - Cậu hát bao giờ cũng rất tuyệt. Aramis thân mến ạ, và tôi thấy kinh kệ đã không làm hỏng giọng của cậu.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - cậu nên nhớ là... cái thời tôi còn là ngự lâm quân, tôi đi gác càng ít càng hay; bây giờ tôi làm tu viện trưởng tôi đọc kinh lễ càng ít càng tốt. Nhưng thôi, ta nên trở lại với bà công tước tội nghiệp ấy.

- Bà nào? Bà công tước de Chevreuse hay bà công tước De Longueville?

- Bạn thân mến ơi, tôi đã nói với cậu rằng không có cái gì giữa tôi và công tước De Longueville đâu, những chuyện tán tỉnh có lẽ, và chỉ thế thôi. Không, tôi nói về bà công tước de Chevreuse. Sau khi vua mất, bà ấy ở Bruxelles trở về, cậu có gặp bà ta không nhỉ?

- Có hẳn chứ, mà bà vẫn còn rất xinh đẹp.

- Phải, - Aramis nói. - Hồi ấy tôi cũng có gặp lại bà ấy một đôi lần; tôi đã đưa nhiều lời khuyên rất tốt mà bà không biết lợi dụng. Tôi sẵn sàng chết để nói với bà ấy rằng Mazarin là tình nhân của hoàng hậu; bà ấy không muốn tin tôi và bà ấy biết rõ Anne d Autriche và Anne thì kiêu hãnh để có thể nói đi yêu một tên đê hèn như vậy.

Rồi trong khi chờ đợi, bà lao vào vụ âm mưu của quận công de Beaufort và tên đê hèn kia đã bắt giam ông quận công de Beaufort và lưu đầy bà de Chevreuse.

- Cậu biết rằng bà ta đã được phép trở về à? - D Artagnan hỏi.

- Ừ, và biết cả bà ta đã trở về rồi... Bà ấy còn làm một điều dại dột nào đó.

- Ờ, nhưng lần này bà ta sẽ nghe theo lời khuyên của cậu?

- Ồ, Aramis bảo, - lần này tôi chẳng gặp lại bà ấy; bà ấy đã thay đổi quá nhiều.

- Đâu có được như cậu, Aramis thân mến ạ, bởi vì cậu vẫn như xưa, cậu vẫn có bộ tóc đen, vẫn có thân hình duyên dáng, vẫn có đôi bàn tay như tay phụ nữ nay trở thành những bàn tay giáo chủ tuyệt đẹp.

- Ừ, đúng đấy, - Aramis nói, - tôi tự chăm chút mình nhiều.

- Cậu biết không, trông mình cũng già hơn tuổi, mình sắp ba mươi bảy tuổi rồi.

- Cậu nghe đây, bạn thân mến! - D Artagnan mỉm cười nói. - Do gặp lại nhau, ta nên thoả thuận với nhau một điều chính là tuổi tác mà chúng ta sẽ có từ rày về sau.

- Thế là thế nào? - Aramis hỏi.

- Thế đấy, - D Artagnan nói tiếp, ngày trước tôi là em út của các cậu kém cậu hai hay ba tuổi, và nếu tôi không tính lầm thì nay đã tròn bốn mươi tuổi rồi đấy

- Thật vậy ư? - Aramis nói. - Thế thì tôi nhầm, bởi vì bạn thân mến ơi, bao giờ cậu cũng là một nhà toán học tuyệt vời. Như vậy là theo tính toán của cậu, tôi đã bốn mươi ba tuổi! Chết thật, chết thật! Bạn thân mến ơi, chớ có đi nói ra ở dinh Rambouillet mà hại to cho tôi đó.

- Yên tâm, - D Artagnan nói, - tôi chẳng đến đấy đâu.

- À mà cái con vật Bazin làm gì thế? Có mau mau lên không, ông mãnh ơi, chúng tôi đang điên lên vì đói khát đây.

Bazin lúc này vừa giơ cao hai tay lên trời, mỗi tay cầm một chai rượu.

- Cuối cùng,- Aramis nói, - chúng ta đã sẵn sàng phải không?

- Vâng, thưa ông, ngay bây giờ, nhưng cũng phải có thời gian để tôi đem lên tất cả...

Bởi vì bác vẫn tin tưởng cái áo dài phụ nữ ở trên vai, - Aramis ngắt lời, - và suốt ngày mê mải ở sách kinh. Nhưng tôi bảo trước cho mà biết rằng nếu bác cứ miệt mài đánh bóng mọi thứ thánh đường mà quên mất cách lau chùi thanh kiếm của tôi thì tôi sẽ đem tất cả những tranh thánh của bác ra đốt một ngọn lửa thật to để đem quay bác lên cho mà xem.

Bazin phẫn nộ làm dấu thánh bằng chai rượu mà tay bác đang cầm.

Còn d Artagnan kinh ngạc hơn bao giờ hết về giọng nói và cung cách của tu viện trưởng d Erblay. Chúng tương phản dữ dội với cung cách của anh lính ngự lâm Aramis, anh cứ trợn tròn mắt lên trước mặt bạn mình.

Bazin vội vã phủ bàn bằng một tấm khăn Damas và bày lên đó bao nhiêu thứ mạ vàng, thơm phức, ngon lành mà d Artagnan cứ ngẩn người ra nhìn ngắm.

- Nhưng cậu còn đợi một người nào đó phải không? - Viên sĩ quan hỏi.

- Đâu! Aramis nói. - Bao giờ tôi cũng để một suất dự phòng, với lại tôi biết là cậu đi tìm tôi.

- Ai bảo cậu?

- Thày Bazin chứ còn ai. Bác ta tưởng cậu là ma quỷ bạn thân mến ạ, và đã chạy tới đây để báo trước cho tôi biết mối nguy hiểm đang đe doạ linh hồn tôi, nếu tôi lại đàn đúm bậy bạ với một sĩ quan ngự lâm quân.

- Ồ thưa ông, - Bazin kêu lên và chắp hai tay lại, vẻ van lơn.

- Thôi, đừng đạo đức giả nữa? Biết rằng tôi không ưa thế. Tốt hơn hết bác mở cửa sổ ra, thả một cái bánh, một con gà và một chai rượu cho Planchet, bạn của bác, hắn đang mệt phờ ra vì vỗ tay đến nửa giờ đồng hồ rồi.

Quả thật, sau khi đem rơm và lúa mạch cho ngựa ăn, Planchet đã trở lại dưới cửa sổ và làm hiệu đến hai ba lần.

Bazin vâng lệnh, buộc vào đầu dây ba thứ đã nói và ròng xuống cho Planchet, hắn chẳng đòi hỏi gì hơn, lập tức rút ngay về nhà kho.

- Bây giờ ta vào chén nào, - Aramis bảo.

Hai người bạn ngồi vào bàn, và Aramis bắt đầu cắt xé gà giò, chim trĩ, chân giò muối và với sự khéo léo thật sự của phép ăn ngon.

- Ghê thật? - d Artagnan nói, - Cậu bồi bổ mới khiếp làm sao?

- Ờ cũng khá tốt. Nhờ ông giáo chủ, tôi được toà thánh La Mã cho miễn trừ những ngày ăn chay vì lý do sức khỏe của tôi. Về người nấu nướng, tôi dùng người đầu bếp cũ của De Lafollone, cậu biết chứ? Bạn cũ của ông giáo chủ, cái lão phàm ăn ấy cứ sau mỗi bữa là cầu độc mỗi câu kinh: "Lạy Chúa, xin ban cho tôi cái ân là tiêu hoá thật tốt cái mà tôi đã chén thật ngon".

- Ấy thế mà cũng không tranh khỏi chết vì bội thực đấy,- D Artagnan nói với một vẻ cam chịu, - người ta chẳng trốn được số mệnh.

- Này, xin cậu bỏ qua cho câu tôi sắp hỏi nhé, - D Artagnan nói tiếp.

- Thế nào, cậu nói đi, cậu biết giữa chúng mình với nhau chẳng có gì là tọc mạch.

- Vậy cậu trở lên giàu có, phải không?

- Ồ, lạy Chúa, không đâu. Tôi kiếm được mười hai nghìn livrres một năm, không kể một khoản lãi nhỏ nhặt chừng một nghìn êquy mà ông hoàng thân dành cho tôi.

- Thế mười hai nghìn livres ấy cậu kiếm bằng cách gì, - D Artagnan hỏi, - bằng thơ ca của cậu à?

- Không, tôi đã từ bỏ thơ ca rồi, trừ phi thỉnh thoảng làm đôi bàì hát chúc rượu, vài bài xonnê(3) tán tỉnh hoặc thơ trào phúng vô thưởng vô phạt. Tôi làm nhưng bài thuyết pháp, anh ạ.

- Sao, những bài thuyết pháp?

- Ồ! Mà những bài thuyết pháp phi thường, cậu biết không. Ít ra là tôi thấy như vậy.

- Mà cậu thuyết giáo ư?

- Không, mà tôi đem bán.

- Bán cho ai?

- Cho những đồng nghiệp nào của tôi muốn trở thành những nhà đại hùng biện.

- Thật thế ư? Thế sao cậu không mưu đồ vinh quang cho bản thân cậu?

- Có chứ! Nhưng bản chất đã thắng tôi. Khi tôi lên bục giảng mà tình cờ có một người phụ nữ xinh đẹp nhìn tôi là tôi nhìn lại, nếu người ấy cười, tôi cũng cười theo. Và thế là tôi nói loạn xạ: đáng lẽ nói về những hình phạt dưới địa ngục thì tôi lại nói về những lạc thú trên thiên đường. Hề! Cậu này, thế rồi một hôm tại nhà thờ Saint-Louis ở Marais... một việc đã xảy đến với tôi. Một tay kỵ sĩ cười nhạo thẳng vào mặt tôi, tôi bèn ngừng giảng để nói với hắn rằng nó là một tên ngu ngốc. Dân chúng ùa ra để nhặt đá, nhưng lúc ấy tôi rất khéo léo lái tư tưởng của đám người dự rằng chính hắn là kẻ mà người ta ném đá. Hiển nhiên là ngày hôm sau hắn đến ngay nhà tôi, tưởng rằng có chuyện gì với một tu viện trương giống như một tu viện khác.

D Artagnan ôm bụng cười và hỏi:

- Thế cuộc viếng thăm của hắn rồi sau ra sao?

- Rồi chúng tôi đã hẹn nhau cuộc gặp gỡ vào buổi chiều hôm sau ở quảng trường Hoàng cung! Ê! Mẹ kiếp, cậu đã biết chút nào rồi.

- Có lẽ, tình cờ mà tôi đã giúp làm trợ thủ cho cậu chống lại cái tên hỗn xược ấy không? - D Artagnan hỏi lại.

- Đúng thế. Cậu đã thấy tôi đã cho nó như thế nào?

- Nó có chết không?

Tôi chẳng biết nữa. Nhưng dù sao tôi cũng đã xá tội cho nó " in articulo mortis"(4). Giết chết thể xác mà không giết chết linh hồn thế là tốt rồi.

Bazin làm dấu thất vọng tỏ ý muốn nói rằng bác ta có lẽ tán thành cái đạo lý ấy, nhưng phản đối mạnh mẽ cái giọng nói ra điều ấy.

- Này, ông bạn Bazin, - Aramis nói, - bác không biết tôi đã nhìn thấy bác ở trong tấm gương kia và lần này là lần chót, tôi cấm bác không được có động tác tỏ vẻ tán thành hoặc phản đối. Thôi, bác hãy làm ơn dọn rượu vang Tây Ban Nha cho chúng tôi, rồi bác trở về. Với lại ông bạn d Artagnan có điều bí mật gì đó muốn nói với tôi. Có phải không d Artagnan?

D Artagnan gật đầu và Bazin, sau khi đặt rượu vang lên bàn, bèn rút lui.

Còn lại hai người bạn ngồi đối diện với nhau, im lặng trong giây lát. Aramis dường như chờ đợi một sự tiêu hoá êm ái.

D Artagnan chuẩn bị lời khai đề. Mỗi người khi trông thấy người kia nhìn mình vội liếc nhìn xuống phía dưới bụng-

Aramis là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng.

Chú thích:

(1) Vùng núi lửa ở Thổ Nhĩ Kỳ

(2) Hai con sông ở vùng Tây Á

(3) Thể thơ mười bốn câu mười hai vần chia làm bốn đoạn: bốn, bốn, ba, ba câu.

(4) Lúc sắp chết. (Tiếng La-tinh)

-*-*-*-

Chương 10

Tu viện trưởng d'Erblay

Đến đầu làng Planchet rẽ sang bên trái như Aramis đã dặn và dừng lại dưới một cửa sổ có ánh đèn, Aramis nhảy xuống đất và vỗ tay ba lần. Tức thì cửa sổ mở ra, và một cái thang dây buông xuống.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - nếu bạn muốn lên tôi sẽ rất vui mừng được tiếp đón.

- Ối chà! - D Artagnan nói. - Thì ra người ta về nhà anh bằng cách ấy à?

- Quá chín giờ tối rồi thì mẹ kiếp, dứt khoát phải như vậy chứ! - Aramis nói. - Lệnh của tu viện là loại nghiêm ngặt nhất đấy, mẹ kiếp!

- Xin lỗi anh bạn thân mến, - D Artagnan nói, - hình như vừa rồi anh có nói mẹ kiếp!

- Cậu tin là có thể lắm chứ. Bạn thân mến ơi, cậu không thể tưởng tượng được rằng trong những cái tu viện phải gió này người ta nhiễm biết bao nhiểu thói xấu xa, những dàn nhà thờ này đều có những cung cách độc ác và tôi buộc phải chung sống với họ! Thế cậu không lên à?

- Cậu đi trước, tôi theo sau.

Giống như vị cố giáo chủ nói với vua đã khuất: "Để chỉ đường cho Hoàng thượng", Aramis nhanh nhẹn leo thang và loáng một cái đã tới cửa sổ

D Artagnan lên sau, nhưng thong thả hơn, rõ ràng cái kiểu đường đó anh không quen bằng bạn.

Aramis nhận thấy sự vụng về ấy, bèn bảo:

- Xin lỗi, nếu tôi biết trước có vinh dự được cậu đến thăm, tôi sẽ mang cho cái thang của bác làm vườn đến, còn đối với riêng tôi, cái thang này là đủ rồi.

Khi thấy d Artagnan leo gần đến nơi, Planchet nói.

- Thưa ông, cái trò này rất hợp với ông Aramis cũng hợp với ông, và quá lắm nó cũng còn hợp với tôi, nhưng hai con ngựa chúng không thể nào leo thang được ạ

- Cậu dẫn chúng xuống nhà kho, anh bạn ạ, - Aramis vừa nói vừa trỏ cho Planchet một thứ xưởng mọc lên ở dưới đồng, - Ở đó có rơm và lúa mạch cho ngựa.

- Thế còn cho tôi? - Planchet hỏi.

- Cậu sẽ trở lại dưới cửa sổ, vỗ tay ba lần và chúng tôi sẽ chuyển thức ăn xuống. Yên tâm đi,! Ở đây chẳng lo chết đói đâu. Thôi, đi đi.

Rồi Aramis rút thang dây lên, đóng cửa sổ.

D Artagnan ngắm căn phòng.

Chưa bao giờ anh thấy một căn phòng vừa chinh chiến hơn vừa lịch sự hơn. Ở mỗi góc phòng bày những binh khí chiến lợi phẩm, có thể xem và cầm những gươm, kiếm đủ loại, và bốn bức tranh lớn về giáo chủ Lorraine, giáo chủ de Richelieu, giáo chủ La Valette và tổng giám mục De Bordeaux trong các bộ quần áo trận mạc. Ngoài ra thực sự chẳng có một cái gì chứng tỏ đây là chỗ ở của một tu viện trưởng; các bức rèm căng bằng gấm Damas, các tấm thảm từ Alençon, và nhất là cái giường với tràng kỷ thêu ren và tấm mến đắp chân, có vẻ giường của một tiểu thư hơn là giường của một người đàn ông đã nguyện đi tới thiên cung bằng con đường tiết dục và hành xác.

- Cậu xem tệ xá của tôi, - Aramis nói. - Ôi, bạn thân mến thứ lỗi cho tôi nhé. Biết làm thế nào? Mình ở như một kẻ tu hành. Nhưng cậu để mắt tìm kiếm gì thế?

- Tôi tìm xem ai đã ném thang xuống cho cậu, tôi chẳng nhìn thấy ai cả, mà thang thì chẳng tự rơi xuống được?

- À, Bazin đấy mà.

- A, A! - D Artagnan kêu lên.

- Nhưng, - Aramis nói tiếp, - Bazin là một tay được huấn luyện tốt, hắn thấy tôi về không phải một mình nên đã kín đáo rút lui. Bạn thân mến ngồi xuống đi và ta cùng nhau trò chuyện.

Aramis đẩy cho d Artagnan một cái ghế bành lớn và anh bạn chống khuỷu tay duỗi người ra.

- Trước hết cậu ăn tối với tôi chứ? - Aramis hỏi.

- Vâng, nếu cậu sẵn lòng, - D Artagnan nói, - và tôi rất vui lòng, vì thú thật, đường sá khiến tôi đói cồn cào cả lên.

- Ôi, khổ thân anh bạn? - Aramis nói. - Cậu sẽ phải ăn kham khổ đấy vì không biết có khách mà.

- Liệu tôi có bị đe doạ phải xơi trứng tráng như dạo ở Crèvecoeur và những lá cù lác không? Phải chăng như thế mà ngày xưa cậu gọi là rau mồng tơi ư?

- Ôi! Phải hy vọng chứ, - Aramis nói, - với sự giúp dỡ của Chúa và Bazin, chúng ta sẽ kiếm được cái gì đó hay hơn trong chậu thức ăn của các cha Jésuites tôn kính. Bazin, anh bạn tôi ơi, Bazin, ra đây nào.

Cánh cửa mở và Bazin xuất hiện, nhưng vừa thoạt trông thấy d Artagnan, bác thốt lên một tiếng than giống như một tiếng kêu thất vọng.

- Bác Bazin thân mến ơi, - D Artagnan nói, - tôi rất thú vị được xem bác nói dối với một vẻ chững chạc biết chừng nào, ngay ở trong một giáo đường.

- Thưa ông, - Bazin đáp, - tôi học được ở các cha Jésuites tôn kính rằng có thể được phép nói dối khi nói dối với một ý đồ tốt.

- Tốt lắm, tốt lắm, Bazin. - Aramis bảo - D Artagnan đang chết đói đây và tôi cũng vậy, bác hết sức cố gắng cho chúng tôi ăn tối, và nhất là đem rượu ngon cho chúng tôi.

Bazin cúi đầu vâng, lệnh, thở dài đánh thượt một cái rồi đi ra.

- Bây giờ còn lại riêng chúng ta, Aramis thân mến ơi, - D Artagnan vừa nói vừa đảo cặp mắt nhìn căn phòng, rồi dừng nơi chủ của nó và kết thúc ở bộ y phục, - Cậu cho tôi biết cậu từ chỗ quỷ quái nào đến khi cậu rơi phịch xuống mông ngựa đằng sau Planchet.

- Mẹ kiếp. - Aramis nói. - Cậu trông thấy rành rành rồi, từ trên trời.

- Từ trên trời! - D Artagnan gật đầu nhắc lại.

- Tôi thấy cậu có vẻ đi lên đó hơn là từ đó trở về.

Với cái vẻ hợm mình d Artagnan chưa bao giờ thấy khi còn ở ngự lâm quân, Aramis nói:

- Bạn thân mến ơi, nếu tôi không từ trên trời xuống, thì it ra tôi cũng từ thiên đường tới; điều đó giống nhau lắm.

- A ha! Thế là các nhà bác học đã rõ rồi nhé, - D Artagnan bảo, - cho đến nay người ta không thể đồng ý với nhau về vị trí xác thực của thiên đường, người thì đặt nó trên Ararat (1), người thì đặt nó giữa sông Tigre và sông Ophra (2), dường như người ta cứ đi tìm nó ở tận đâu đâu trong khi nó lại ở rất gần. Thiên đường ở ngay Noisy-le-Sec, trên địa điểm lâu dài vị tổng giám mục Paris. Người ta ở đó đi ra không bằng cửa chính mà bằng cửa sổ, người ta xuống không bằng các bậc đá hoa cương của cầu thang cuốn, mà từ trên cành cây bồ đề, và vị thần cầm thanh kiếm rực lửa bảo vệ thiên đường hình như đã đổi cái tên thiên đình Gabiren ra cái tên hạ giới hoàng thân Marcillac.

Aramis bật cười nói:

- Cậu luôn là người vui tính, và cái chất hài hước trí tuệ mang tính chất Gascogne của cậu vẫn không rời cậu. Phải, cậu nói kể cũng phần nào đúng đấy, song ít ra cậu phải loại trừ ý nghĩ cho rằng tôi yêu bà De Longueville.

- Gớm chưa! Tôi nghi lắm đấy? - D Artagnan nói. - Sau một thời gian dài yêu bà de Chevreuse, dễ thường cậu không đem lòng si mê kẻ tử thù ghê gớm nhất của bà ta đâu nhỉ?

- Phải, đúng đấy, - Aramis nói với vẻ ngán ngẩm, phải, cái bà công tước tội nghiệp ấy, xưa tôi đã yêu tha thiết, và phải thừa nhận rằng bà đã rất có ích cho chúng ta; nhưng làm thế nào được? Bà ấy đã phải rời nước Pháp. Cái lão giáo chủ gian ác đó thực là một đối thủ ghê gớm? - Aramis ngước nhìn lên bức chân dung của tể tướng cũ và nói tiếp - Lão đã ra lệnh bắt giữ bà và dẫn đến lâu dài Loches, lão toan cho chém đầu bà ấy, tôi nói thực đấy nhưng đã đối xử tốt với Chalais, Montmorency và Cinq-Mars; bà ta đã cải trang làm đàn ông và trốn đi cùng cô hầu phòng, cái cô Ketty tội nghiệp ấy. Tôi còn nghe nói đã có một chuyện tình cờ kỳ lạ xảy đến với bà ấy ở một làng nào đó tôi không rõ, với một ông linh mục nào ấy tôi cũng không biết, mà bà xin nghỉ trọ. Ông ta chỉ có một phòng và tưởng bà ta là một kỵ sĩ nam nên đã cho nghỉ chung phòng. Ấy vì bà ta mặc y phục nam giới hợp một cách không tưởng tượng được, cái bà Mari thân thương ấy. Tôi chỉ biết có một phụ nữ mặc y phục nam hợp đến thế cho nên người ta đã làm một khúc ca về bà ta: Laboatxie hãy nói đi! Cậu có biết không nhỉ?

- Không đâu, cậu thử hát nghe xem nào, bạn thân mến.

Và Aramis hát với giọng phóng túng nhất:

Laboissière hãy nói đi!

Tôi có giống nam nhi?

Quả tình tôi xin nói,

Bà cưỡi ngựa thật giỏi

Hơn cả bọn chúng tôi.

Bà sống giữa gươm dao

Trong trung đoàn vệ sĩ

Như một chàng dự bị.

- Hoan hô! - D Artagnan nói. - Cậu hát bao giờ cũng rất tuyệt. Aramis thân mến ạ, và tôi thấy kinh kệ đã không làm hỏng giọng của cậu.

- Bạn thân mến ơi, - Aramis nói, - cậu nên nhớ là... cái thời tôi còn là ngự lâm quân, tôi đi gác càng ít càng hay; bây giờ tôi làm tu viện trưởng tôi đọc kinh lễ càng ít càng tốt. Nhưng thôi, ta nên trở lại với bà công tước tội nghiệp ấy.

- Bà nào? Bà công tước de Chevreuse hay bà công tước De Longueville?

- Bạn thân mến ơi, tôi đã nói với cậu rằng không có cái gì giữa tôi và công tước De Longueville đâu, những chuyện tán tỉnh có lẽ, và chỉ thế thôi. Không, tôi nói về bà công tước de Chevreuse. Sau khi vua mất, bà ấy ở Bruxelles trở về, cậu có gặp bà ta không nhỉ?

- Có hẳn chứ, mà bà vẫn còn rất xinh đẹp.

- Phải, - Aramis nói. - Hồi ấy tôi cũng có gặp lại bà ấy một đôi lần; tôi đã đưa nhiều lời khuyên rất tốt mà bà không biết lợi dụng. Tôi sẵn sàng chết để nói với bà ấy rằng Mazarin là tình nhân của hoàng hậu; bà ấy không muốn tin tôi và bà ấy biết rõ Anne d Autriche và Anne thì kiêu hãnh để có thể nói đi yêu một tên đê hèn như vậy.

Rồi trong khi chờ đợi, bà lao vào vụ âm mưu của quận công de Beaufort và tên đê hèn kia đã bắt giam ông quận công de Beaufort và lưu đầy bà de Chevreuse.

- Cậu biết rằng bà ta đã được phép trở về à? - D Artagnan hỏi.

- Ừ, và biết cả bà ta đã trở về rồi... Bà ấy còn làm một điều dại dột nào đó.

- Ờ, nhưng lần này bà ta sẽ nghe theo lời khuyên của cậu?

- Ồ, Aramis bảo, - lần này tôi chẳng gặp lại bà ấy; bà ấy đã thay đổi quá nhiều.

- Đâu có được như cậu, Aramis thân mến ạ, bởi vì cậu vẫn như xưa, cậu vẫn có bộ tóc đen, vẫn có thân hình duyên dáng, vẫn có đôi bàn tay như tay phụ nữ nay trở thành những bàn tay giáo chủ tuyệt đẹp.

- Ừ, đúng đấy, - Aramis nói, - tôi tự chăm chút mình nhiều.

- Cậu biết không, trông mình cũng già hơn tuổi, mình sắp ba mươi bảy tuổi rồi.

- Cậu nghe đây, bạn thân mến! - D Artagnan mỉm cười nói. - Do gặp lại nhau, ta nên thoả thuận với nhau một điều chính là tuổi tác mà chúng ta sẽ có từ rày về sau.

- Thế là thế nào? - Aramis hỏi.

- Thế đấy, - D Artagnan nói tiếp, ngày trước tôi là em út của các cậu kém cậu hai hay ba tuổi, và nếu tôi không tính lầm thì nay đã tròn bốn mươi tuổi rồi đấy

- Thật vậy ư? - Aramis nói. - Thế thì tôi nhầm, bởi vì bạn thân mến ơi, bao giờ cậu cũng là một nhà toán học tuyệt vời. Như vậy là theo tính toán của cậu, tôi đã bốn mươi ba tuổi! Chết thật, chết thật! Bạn thân mến ơi, chớ có đi nói ra ở dinh Rambouillet mà hại to cho tôi đó.

- Yên tâm, - D Artagnan nói, - tôi chẳng đến đấy đâu.

- À mà cái con vật Bazin làm gì thế? Có mau mau lên không, ông mãnh ơi, chúng tôi đang điên lên vì đói khát đây.

Bazin lúc này vừa giơ cao hai tay lên trời, mỗi tay cầm một chai rượu.

- Cuối cùng,- Aramis nói, - chúng ta đã sẵn sàng phải không?

- Vâng, thưa ông, ngay bây giờ, nhưng cũng phải có thời gian để tôi đem lên tất cả...

Bởi vì bác vẫn tin tưởng cái áo dài phụ nữ ở trên vai, - Aramis ngắt lời, - và suốt ngày mê mải ở sách kinh. Nhưng tôi bảo trước cho mà biết rằng nếu bác cứ miệt mài đánh bóng mọi thứ thánh đường mà quên mất cách lau chùi thanh kiếm của tôi thì tôi sẽ đem tất cả những tranh thánh của bác ra đốt một ngọn lửa thật to để đem quay bác lên cho mà xem.

Bazin phẫn nộ làm dấu thánh bằng chai rượu mà tay bác đang cầm.

Còn d Artagnan kinh ngạc hơn bao giờ hết về giọng nói và cung cách của tu viện trưởng d Erblay. Chúng tương phản dữ dội với cung cách của anh lính ngự lâm Aramis, anh cứ trợn tròn mắt lên trước mặt bạn mình.

Bazin vội vã phủ bàn bằng một tấm khăn Damas và bày lên đó bao nhiêu thứ mạ vàng, thơm phức, ngon lành mà d Artagnan cứ ngẩn người ra nhìn ngắm.

- Nhưng cậu còn đợi một người nào đó phải không? - Viên sĩ quan hỏi.

- Đâu! Aramis nói. - Bao giờ tôi cũng để một suất dự phòng, với lại tôi biết là cậu đi tìm tôi.

- Ai bảo cậu?

- Thày Bazin chứ còn ai. Bác ta tưởng cậu là ma quỷ bạn thân mến ạ, và đã chạy tới đây để báo trước cho tôi biết mối nguy hiểm đang đe doạ linh hồn tôi, nếu tôi lại đàn đúm bậy bạ với một sĩ quan ngự lâm quân.

- Ồ thưa ông, - Bazin kêu lên và chắp hai tay lại, vẻ van lơn.

- Thôi, đừng đạo đức giả nữa? Biết rằng tôi không ưa thế. Tốt hơn hết bác mở cửa sổ ra, thả một cái bánh, một con gà và một chai rượu cho Planchet, bạn của bác, hắn đang mệt phờ ra vì vỗ tay đến nửa giờ đồng hồ rồi.

Quả thật, sau khi đem rơm và lúa mạch cho ngựa ăn, Planchet đã trở lại dưới cửa sổ và làm hiệu đến hai ba lần.

Bazin vâng lệnh, buộc vào đầu dây ba thứ đã nói và ròng xuống cho Planchet, hắn chẳng đòi hỏi gì hơn, lập tức rút ngay về nhà kho.

- Bây giờ ta vào chén nào, - Aramis bảo.

Hai người bạn ngồi vào bàn, và Aramis bắt đầu cắt xé gà giò, chim trĩ, chân giò muối và với sự khéo léo thật sự của phép ăn ngon.

- Ghê thật? - d Artagnan nói, - Cậu bồi bổ mới khiếp làm sao?

- Ờ cũng khá tốt. Nhờ ông giáo chủ, tôi được toà thánh La Mã cho miễn trừ những ngày ăn chay vì lý do sức khỏe của tôi. Về người nấu nướng, tôi dùng người đầu bếp cũ của De Lafollone, cậu biết chứ? Bạn cũ của ông giáo chủ, cái lão phàm ăn ấy cứ sau mỗi bữa là cầu độc mỗi câu kinh: "Lạy Chúa, xin ban cho tôi cái ân là tiêu hoá thật tốt cái mà tôi đã chén thật ngon".

- Ấy thế mà cũng không tranh khỏi chết vì bội thực đấy,- D Artagnan nói với một vẻ cam chịu, - người ta chẳng trốn được số mệnh.

- Này, xin cậu bỏ qua cho câu tôi sắp hỏi nhé, - D Artagnan nói tiếp.

- Thế nào, cậu nói đi, cậu biết giữa chúng mình với nhau chẳng có gì là tọc mạch.

- Vậy cậu trở lên giàu có, phải không?

- Ồ, lạy Chúa, không đâu. Tôi kiếm được mười hai nghìn livrres một năm, không kể một khoản lãi nhỏ nhặt chừng một nghìn êquy mà ông hoàng thân dành cho tôi.

- Thế mười hai nghìn livres ấy cậu kiếm bằng cách gì, - D Artagnan hỏi, - bằng thơ ca của cậu à?

- Không, tôi đã từ bỏ thơ ca rồi, trừ phi thỉnh thoảng làm đôi bàì hát chúc rượu, vài bài xonnê(3) tán tỉnh hoặc thơ trào phúng vô thưởng vô phạt. Tôi làm nhưng bài thuyết pháp, anh ạ.

- Sao, những bài thuyết pháp?

- Ồ! Mà những bài thuyết pháp phi thường, cậu biết không. Ít ra là tôi thấy như vậy.

- Mà cậu thuyết giáo ư?

- Không, mà tôi đem bán.

- Bán cho ai?

- Cho những đồng nghiệp nào của tôi muốn trở thành những nhà đại hùng biện.

- Thật thế ư? Thế sao cậu không mưu đồ vinh quang cho bản thân cậu?

- Có chứ! Nhưng bản chất đã thắng tôi. Khi tôi lên bục giảng mà tình cờ có một người phụ nữ xinh đẹp nhìn tôi là tôi nhìn lại, nếu người ấy cười, tôi cũng cười theo. Và thế là tôi nói loạn xạ: đáng lẽ nói về những hình phạt dưới địa ngục thì tôi lại nói về những lạc thú trên thiên đường. Hề! Cậu này, thế rồi một hôm tại nhà thờ Saint-Louis ở Marais... một việc đã xảy đến với tôi. Một tay kỵ sĩ cười nhạo thẳng vào mặt tôi, tôi bèn ngừng giảng để nói với hắn rằng nó là một tên ngu ngốc. Dân chúng ùa ra để nhặt đá, nhưng lúc ấy tôi rất khéo léo lái tư tưởng của đám người dự rằng chính hắn là kẻ mà người ta ném đá. Hiển nhiên là ngày hôm sau hắn đến ngay nhà tôi, tưởng rằng có chuyện gì với một tu viện trương giống như một tu viện khác.

D Artagnan ôm bụng cười và hỏi:

- Thế cuộc viếng thăm của hắn rồi sau ra sao?

- Rồi chúng tôi đã hẹn nhau cuộc gặp gỡ vào buổi chiều hôm sau ở quảng trường Hoàng cung! Ê! Mẹ kiếp, cậu đã biết chút nào rồi.

- Có lẽ, tình cờ mà tôi đã giúp làm trợ thủ cho cậu chống lại cái tên hỗn xược ấy không? - D Artagnan hỏi lại.

- Đúng thế. Cậu đã thấy tôi đã cho nó như thế nào?

- Nó có chết không?

Tôi chẳng biết nữa. Nhưng dù sao tôi cũng đã xá tội cho nó " in articulo mortis"(4). Giết chết thể xác mà không giết chết linh hồn thế là tốt rồi.

Bazin làm dấu thất vọng tỏ ý muốn nói rằng bác ta có lẽ tán thành cái đạo lý ấy, nhưng phản đối mạnh mẽ cái giọng nói ra điều ấy.

- Này, ông bạn Bazin, - Aramis nói, - bác không biết tôi đã nhìn thấy bác ở trong tấm gương kia và lần này là lần chót, tôi cấm bác không được có động tác tỏ vẻ tán thành hoặc phản đối. Thôi, bác hãy làm ơn dọn rượu vang Tây Ban Nha cho chúng tôi, rồi bác trở về. Với lại ông bạn d Artagnan có điều bí mật gì đó muốn nói với tôi. Có phải không d Artagnan?

D Artagnan gật đầu và Bazin, sau khi đặt rượu vang lên bàn, bèn rút lui.

Còn lại hai người bạn ngồi đối diện với nhau, im lặng trong giây lát. Aramis dường như chờ đợi một sự tiêu hoá êm ái.

D Artagnan chuẩn bị lời khai đề. Mỗi người khi trông thấy người kia nhìn mình vội liếc nhìn xuống phía dưới bụng-

Aramis là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng.

Chú thích:

(1) Vùng núi lửa ở Thổ Nhĩ Kỳ

(2) Hai con sông ở vùng Tây Á

(3) Thể thơ mười bốn câu mười hai vần chia làm bốn đoạn: bốn, bốn, ba, ba câu.

(4) Lúc sắp chết. (Tiếng La-tinh)

-*-*-*-

Chương 11

Mạt cưa - mướp đắng

Aramis nói:

- D Artagnan, cậu nghĩ gì thế, và điều gì đã khiến cậu mỉm cười vậy?

- Bạn thân mến ơi, tôi nghĩ rằng khi cậu còn là lính ngự lâm cậu luôn luôn hướng về tu viện trưởng, con bây giờ đã là tu viện trưởng, hình như cậu lại hướng mạnh về ngự lâm quân.

- Đúng thế, - Aramis cười nói, - D Artagnan ạ cậu biết đấy người là một sinh vật toàn những mâu thuẫn. Từ khi tôi là tu viện trưởng, tôi chỉ mơ toàn những trận mạc.

- Điều ấy thấy rõ qua đồ đạc bày biện của cậu: cậu có kia những thanh trường kiếm đủ các dạng và cho những thị hiếu khó tính nhất. Cậu chơi kiếm vẫn tốt chứ?

- Tôi ấy à, tôi chơi tốt như cậu ngày xưa, và còn tốt hơn là khác. Suốt ngày tôi chỉ tập kiếm, thôi mà.

- Với ai?

- Với một thầy dạy kiếm tuyệt diệu mà bọn tôi có ngay ở đây.

- Sao, ở đây à?

- Phải, ở đây, ngay trong tu viện này, bạn thân mến ạ. Có đủ mọi thứ ở trong tu viện Jésuites.

- Thế có lẽ cậu giết đức ông de Marcillac, nếu ông ta đến một mình tấn công cậu, chứ không phải là cậu đấu với hai chục người.

- Hoàn toàn đúng, kể cả trường hợp hắn cầm đầu cả hai chục người, nếu như tôi kịp rút gươm ra mà không bị phát hiện.

- Xin Chúa xá tội, - D Artagnan nói rất khẽ, - mình thấy cậu trở thành Gascogne(1) hơn cả mình. - Rồi cao giọng - Này Aramis thân mến, cậu hỏi vì sao tôi đến tìm cậu ư?

- Không, tôi không hỏi cậu, - Aramis nói với vẻ ranh mãnh, - tôi đợi cậu đến nói điều đó.

- Vậy thì, tôi đến tìm cậu chỉ độc có mỗi chuyện là để hiến cậu một cách giết chết ông de Marcillac, khi nào cậu thích, dù ông ta có là ông hoàng chăng nữa?

- Này, này, này, - Aramis nói, - đó cũng là một ý kiến hay đấy...

- Mà tôi mới cậu lợi dụng nó, anh bạn thân mến ạ. Nhưng này, với cái chức tu viện trưởng được một nghìn êquy và mười hai nghìn livres mà cậu kiếm được do bán các bài thuyết pháp, cậu có giàu có không? Cậu hãy trả lời thành thật đi.

- Tôi ấy à? Tôi nghèo xác xơ như thánh Job, và moi cả túi lẫn hòm ra, tôi chắc cậu cũng không thấy nổi một trăm pistol ở đây.

D Artagnan tự nhẩm thầm: Ghê chưa! Một trăm pistol hắn gọi như thế là nghèo xác như một thánh Job! Nếu như lúc nào mình cũng có được một số tiền như thế, mình sẽ thấy mình giàu sụ như Crésus. Rồi anh nói to:

- Cậu có tham vọng không?

- Như Enceladet(3)?

- Vậy thì, bạn ơi, tôi mang đến cho cậu cái thứ để cậu trở nên giàu có, hùng mạnh, và tự do làm bất cứ điều gì cậu muốn.

Một bóng mây thoáng qua trên trán Aramis nhanh như bóng mây trôi qua cánh đồng lúa tháng Tám, nhưng nhanh đến mấy, d Artagnan vẫn nhận thấy.

- Cậu nói đi. - Aramis bảo.

- Thêm một câu hỏi trước đã. Cậu có làm chính trị không?

Một tia chóp lóe lên trong đôi mắt Aramis cũng nhanh như bóng mây đã lướt qua trán anh, nhưng nhanh đến mấy cũng không lọt khỏi mắt d Artagnan.

- Không. - Aramis đáp.

- Thế mọi điều tôi đề ra đều hợp với cậu, bởi vì lúc này cậu không có chủ nào ngoài Thượng đế, - chàng Gascon cười nói.

- Có thể lắm.

- Aramis thân mến ơi, có khi nào cậu nhớ tới những chuỗi ngày đẹp đẽ thời thanh xuân mà chúng ta đã trải qua trong vui chơi, chè chén và choảng nhau không?

- Có chứ, chắc chắn như vậy, và nhiều lần tôi đã luyến tiếc nó. Đó là một thời sung sướng, delectabile tempus (2).

- Này, bạn ơi, những ngày tươi đẹp ấy có thể sống lại, cái thời sung sướng ấy có thể lại đến? Tôi lĩnh sứ mệnh đi tìm các bạn đồng đội của tôi, và tôi muốn bắt đầu từ cậu, cậu là linh hồn của cả đội.

Aramis cúi mình xuống, với vẻ lịch sự hơn là thân ái. Rồi anh nói bằng một giọng như sắp chết và vật mình ra ghế bành.

- Tôi lại tham gia vào chính trị ư? D Artagnan thân mến ơi, cậu xem tôi đang sống bình thường và thoải mải. Chúng ta đã từng nếm sự vong ân của các vị đại thần, cậu biết đấy!

- Đúng thế, - D Artagnan nói, - nhưng có thể các đại thần hối hận là đã vong ân.

- Trường hợp ấy lại là chuyện khác. Chà? Nhất tội nhất xá, vạn tội vạn xá. Vả chăng cậu có lý ở một điểm ấy là nếu lòng ham muốn xui chúng ta dây vào công việc quốc gia thì tôi nghĩ cũng đã đến lúc rồi đó.

- Làm thế nào mà cậu biết điều đó, vì cậu có quan tâm đến vấn đề chính trị đâu?

- Ô, lạy Chúa! - Aramis đáp. - Cá nhân tôi không làm chính trị, nhưng tôi sổng trong một thế giới mà người ta làm chính trị. Vừa trau dồi thi ca, vừa đeo đẳng tình ái, tôi kết thân với ông Sarazin là người của ông chủ giáo, vấ với ôngDe Bois - Robert, ông này nếu không là của ông giáo chủ de Richelieu thì không là của ai hoặc là của tất cả thiên hạ, tuỳ ý cậu, thành thử ra phong trào chính trị tôi không quên bẵng hẳn.

- Tôi hoài nghi đấy, - D Artagnan nói.

- Hơn nữa, anh bạn thân mến ơi, - Aramis nói tiểp, - cậu chớ coi những điều tôi sắp nói với cậu là lời của một gã thầy tu ở ẩn, một kẻ nói như một tiếng vang, nhắc lại thuần tuý và đơn giản cái gì mà hắn nghe thấy. Tôi nghe nói trong lúc này giáo chủ Mazarin đang lo sốt vó về cung cách biểu diễn các vấn đề. Dường như ông ta không có được trong sự chỉ huy của mình tất cả niềm kính trọng mà ngày xưa người ta đã tỏ ra đối với ông ngáo ộp cũ - vị cố giáo chủ - mà cậu nhìn thấy chân dung đây này; bởi vì anh bạn ạ, muốn nói gì thì nói, phải thừa nhận rằng đó là một con người vĩ đại.

- Ý tôi không trái ý cậu về điều đó đâu, Aramis thân mến ạ, chính ông ta đã phong tôi làm trung uý.

- Ý kiến ban đầu của tôi là hoàn toàn ủng hộ ông giáo chủ hiện nay. Tôi tự nhủ rằng một vị tể tướng chẳng bao giờ được người ta yêu mến, nhưng với thiên tài mà người ta thừa nhận cho ông này, ông ta cuối cùng sẽ chiến thắng các kẻ thù của ông và làm cho người ta phải sợ hãi mình, điều đó theo tôi có lẽ còn tốt bằng mấy là làm cho người ta yêu mến mình.

D Artagnan gật đầu, vẻ như muốn nói rằng anh hoàn toàn tán thành cái phương châm đáng ngờ ấy.

- Ỷ kiến ban đầu của tôi là như vậy đấy, - Aramis nói, - nhưng vì tôi dốt đặc cán mai về tất cả những khoa ấy và vì cái tính nhún nhường mà tôi luôn tự nhận đặt ra cho tôi luật lệ là chớ có tin cậy vào sự suy xét của chính mình, cho nên tôi đã được thông tỏ. Vậy thì! Bạn thân mến ạ...

- Vậy thì, - Aramis nói tiếp - tôi cần phải sỉ nhục tính kiêu ngạo của tôi, tôi cần phải thú nhận rằng tôi đã lầm.

- Thật thế ư?

- Phải, tôi đã được thông tỏ, như đã nói với cậu, và đây là câu trả lời của nhiều người khác hẳn nhau về thị hiếu và tham vọng: ông de Mazarin không phải là một người thiên tài như tôi tưởng.

- Chà! - D Artagnan thốt lên.

- Không. Đó là một con người vô giá trị, trước là người hầu của giáo chủ Bentivoglio, tiến phát bằng âm mưu, một kẻ bạo đạt, một kẻ vô danh, hắn sẽ chỉ làm ở Pháp một con đường đảng phái. Hắn sẽ tích luỹ hàng đống tiền vàng, xoay thả cửa hoa lợi của nhà vua, sẽ chi cho riêng mình tất cả những trợ cấp mà cố giáo chủ de Richelieu chi cho thiên hạ, nhưng hắn sẽ chẳng bao giờ cai trị bằng pháp luật của kẻ mạnh nhất, của người vĩ đại nhất. Ngoài ra hình như vị tể tướng ấy chẳng phải nhà quý tộc cả phong cách lẫn tâm địa. Đó chỉ là một thứ thằng hề, một thứ Pulcinello, một thứ Pantalon (5). Cậu có biết rõ hắn không? Tôi, tôi không biết hắn.

- Hừ! - d Artagnan nói. - Điều cậu vừa nói cũng đúng một phần nào đấy.

- Chao ôi! Cậu làm cho tôi hãnh diện quá, bạn thân mến ạ, nhờ chút thông tuệ tầm thường mà tôi vốn có, tôi có thể tương ngộ với một người như cậu đang sống ở triều đình.

- Nhưng cậu chỉ mới nói với tôi về cá nhân ông giáo chủ chứ chưa nói về phe phái và những nguồn lực lượng của ông ta.

- Đúng đấy. Ông ta có hoàng hậu theo ông ta.

- Tôi thấy đó là một cái gì đáng kể đấy.

- Nhưng ông ta không có được nhà vua.

- Một đứa bé ấy mà!

- Một đứa bé sẽ trưởng thành trong bốn năm.

- Nói hiện tại ấy chứ!

- Ừ, thì chưa phải tương lai, ngay hiện tại, ông ta không có cả nghị viện lẫn dân chúng, nghĩa là tiền bạc; ông ta không có cả giới quý tộc lẫn các vị hoàng thân, nghĩa là thanh gươm.

D Artagnan gãi tai, anh buộc phải thú nhận rằng điều Aramis suy nghĩ không những nhìn xa trông rộng mà còn đúng đắn nữa.

- Này, anh bạn tội nghiệp của tôi ơi, nếu như tôi vẫn được trời phú cho chút mẫn tiệp thông thường, tôi sẽ nói với cậu rằng có lẽ tôi đã lầm khi nói chuyện với cậu một cách cởi mở như vậy, bởi vì cậu, cậu có vẻ nghiêng về phía Mazarin.

- Tôi ấy à! - D Artagnan kêu lên. - Tôi ấy à Aramis? Không hề, không một chút nào cả.

- Cậu đã chẳng nói về sứ mệnh là gì?

- Tôi đã nói về sứ mệnh ư? Thế thì tôi nhầm đấy. Tôi tự nhủ với mình giống như cậu nói: kìa xem các công chuyện đang rối rắm cả lên. Vậy thì ta hãy ném chiếc lông chim theo gió, gió cuốn theo chiều nào thì ta đi về đó và chúng ta sống lại cuộc đời phiêu lưu. Chúng ta đã là bốn hiệp sĩ dũng cảm, bốn trái tim thân thương gắn bó; nay ta lại gắn bó không những bốn trái tim chưa hề bao giờ xa cách, mà cả vận hạnh và lòng quả cảm của chúng ta nữa. Thời cơ rất tốt để đoạt lấy một cái gì quý giá hơn cả một báu vật kim cương.

- D Artagnan ơi, cậu nói chí lý, bao giờ cũng chí lý, mà bằng chứng là tôi có cùng một ýghĩ như cậu, song le đối với tôi là người không có cái tr tưởng tượng sôi nổi và phong phú như cậu, ý nghĩ ấy đã khơi gợi cho tôi rằng: ngày nay tất cả mọi người đều rất cần nhưng phụ tá; người ta đã đưa ra với tôi nhưng đề ghị trong đó toát ra một cái gì đó như những chuyện chọc trời khuấy nước của chúng ta ngày xưa, và tôi xin thẳng thắn thú nhận với cậu là ông chủ giáo đã cho mọi người nói với tôi như vậy.

- Ông de Gondy, kẻ thù của giáo chủ ấy à? - D Artagnan kêu lên.

- Không, bạn của nhà vua, - Aramis nói, - bạn của nhà vua, cậu hiểu chưa! Này nhé, vấn đề là phụng sự Đức vua, đó là bốn phận của người quý tộc.

Nhưng bạn thân mến ơi, vua lại đi cùng với ông Mazarin.

- Trên thực tế chứ không phải tự nguyện, bề ngoài chứ không phải thật tâm, và đó chính là cái bẫy mà những kẻ thù của vua giăng ra với cậu bé.

- Ra thế! Nhưng đó là một sự thật, là một cuộc nội chiến mà cậu đề xuất với tôi đấy, Aramis thân mến ạ.

- Cuộc chiến tranh vì nhà vua.

- Nhưng nhà vua sẽ đứng đầu quân đội trong đó có Mazarin.

- Nhưng nhà vua sẽ một lòng với quân đội do ông de Beaufort chỉ huy.

- Ông de Beaufort ư? Ông ấy đang bị giam giữ ở Vincennes.

- Tôi đã nói Beaufort à? - Aramis nói, - Ông de Beaufort hoặc một người khác, ông de Beaufort hoặc ngài Hoàng thân(6).

- Nhưng Hoàng thân sắp đi đến quân đội, ông ấy hoàn toàn cùng cánh với ông giáo chủ.

- Hề, hề! - Aramis cười nói. - Họ có cùng nhau bàn luận một số công việc đúng vào lúc này. Nhưng với lại nếu không phải Hoàng thân thì sẽ là ông De Gondy...

- Nhưng ông De Gondy sắp thành giáo chủ rồi, người ta đang xin mũ cho ông ấy.

- Dễ thường không có những ông giáo chủ cực kỳ hiếu chiến đó sao? - Aramis nói. - Cậu thử nhìn quanh xem, bốn ông giáo chủ cầm đầu quân đội cũng ngang tài ông De Guébriant và ông De Gassion.

- Ồ, một ông tướng gù lưng.

- Mặc áo giáp vào thì chẳng ai nhìn thấy cái bướu. Hơn nữa, cậu hãy nhớ rằng Alexandre thọt chân và Annibal thì chột mắt.

- Cậu thấy có những lợi thế gì lớn trong phe phái ấy? - D Artagnan hỏi.

- Tôi thấy có sự che chở của những ông hoàng mạnh thế.

- Với sự cấm chỉ của chính phủ.

- Bị bác bỏ bởi các viện và những cuộc bạo loạn.

- Tất cả những cái đó có thể làm được, như cậu nói, nếu người ta thực hiện việc tách rời nhà vua khỏi mẹ.

- Có thể sẽ đạt được.

- Không bao giờ, - D Artagnan kêu lên, lần này anh trở lại niềm tin của mình. - Aramis bạn ạ, tôi xin hỏi cậu, cậu là người hiểu biết Anne d Autriche cũng rõ như tôi. Có bao giờ cậu tin hoàng hậu lại có thể quên rằng con trai bà là sự an toàn, là bảo chứng, là vị thủ thần của bà, của tài sản và cuộc đời bà không? Phải làm sao cho bà cùng với con bỏ Mazarin mà đi sang phía hoàng thân, nhưng cậu biết rõ hơn ai hết là có đâu những lý do mạnh mẽ để bà chẳng bao giờ bỏ ông ta đâu.

- Có thể cậu nói đúng, - Aramis trầm ngâm nói, - vì thế tôi sẽ không giao ước.

- Với họ, - D Artagnan nói, - nhưng còn với tôi.

Không với ai hết. Tôi là linh mục, làm chính trị để làm gì! Tôi không đọc một quyển sách kinh nào hết; tôi có một đám bạn bè nho nhỏ, mấy thằng cha tu viện trưởng hóm hỉnh và mấy phụ nữ kiều diễm; các công chuyện càng rối ren thì các vụ lẻn chơi càng ít bị tai tiếng; tôi chẳng cần dây vào những vụ kia mà mọi sự vẫn tuyệt diệu; này bạn thân mến ơi, dứt khoát ta sẽ không dây vào nữa đâu.

- Này, bạn thân mến ơi. - D Artagnan nói. - Thì cái triết lý của cậu làm tôi xiêu lòng, xin thề đấy, và chẳng biết cái con mòng tham vọng quỷ quái nào đã châm đốt tôi thế nhỉ? Tôi có một khoản trợ cấp đủ sống, ông de Treville tội nghiệp ấy già yếu rồi, khi nào ông chết tôi có thể trở thành đại uý; đó là một chiếc gậy thống chế cực oai đối với một thiếu sinh Gascogne và tôi cảm thấy mình gắn bó với cương vị của chiếc bánh đạm bạc nhưng là bữa hàng ngày. Đáng lẽ chạy theo những cuộc phiêu lưu, ôi dào? Tôi sẽ nhận lời mời của Porthos, sẽ đi săn trong vùng đất đai của cậu ấy, cậu biết rằng Porthos có đất đai chứ?

- Sao lại không? Tôi biết chứ. Mười dặm rừng, đầm lầy với thung lũng; cậu ấy là lãnh chúa của núi non và vùng đồng bằng, và cậu ta đang kiện cáo linh mục Noyon về những quyền thái ấp.

"Tốt - D Artagnan tự nhủ, - đó là điều ta cần biết; Porthos ở vùng Picardi".

Rồi anh nói to:

- Và cậu ta đã lấy lại cái tên cũ Du Vallon rồi chứ?

- Còn thêm vào đó tên Bracieux, một khoảnh đất đã được phong nam tước, nói thật đấy!

- Thành thử chúng ta sẽ thấy Porthos là nam tước.

- Tôi không hoài nghi. Bà nam tước Porthos thật tuyệt vời!

Hai người bạn cùng bật cười.

- Như vậy là, - D Artagnan nói tiếp, - cậu không muốn sang với Mazarin?

- Cậu cũng không muốn sang với các hoàng thân?

- Không. Chúng ta chẳng sang với ai cả, và chúng ta vẫn là bạn, chúng ta sẽ chẳng phải là phe giáo chủ, cũng chẳng là người Fronde.

- Phải đấy, - Aramis nói. - Chúng ta là ngự lâm quân.

- Với cả chiếc áo thầy dòng. - D Artagnan nói.

- Nhất là với chiếc áo thầy dòng! - Aramis kêu lên. - Có thế mới duyên dáng.

- Vậy thì xin từ biệt nhé, - D Artagnan nói.

- Tôi không dám giữ cậu, bạn thân mến ạ, vi tôi không biết sẽ để cậu nằm ở đâu, mà tôi không thể thất thố mời cậu chia sẻ một nửa cái nhà kho với Planchet được - Với lại đây cách Paris không đầy ba dặm; ngựa nghẽo nghỉ ngơi rồi, và chỉ độ non một tiếng đồng hồ là tôi sẽ về đến nhà.

- Và d Artagnan rót cho mình một cốc rượu vang cuối cùng.

Chúc mừng thời xưa của chúng ta. " Anh nói.

- Đồng ý, - Aramis nói, tiếc thay đó là một thời đã qua "fugit irreparabile tempus..."(7)

- Ô hay, - D Artagnan nói. - Có thể trở lại. Dù sao, nếu cậu cần đến tôi, xin cứ đến phố Ticơton, khách sạn "Con dê cái nhỏ".

- Còn tôi, ở tu viện thày dòng Jésuites: từ sáu giờ sáng đến tám giờ tối qua lối cửa chính, từ tám giờ tối đến sảu giờ sáng, qua lổi cửa sổ.

- Từ biệt bạn thân mến.

- Ồ! Tôi không từ giã cậu như vậy, để tôi đưa cậu đi.

Và Aramis lấy gươm và áo choàng.

D Artagnan tự nhủ thầm: "Cậu ấy muốn chắc chắn là ta đi thật".

Aramis huýt sáo gọi Bazin, nhưng Bazin ngủ ở tiền sảnh trên đống thức ăn thừa của buổi tối, và Aramis buộc phải lắc tai bác để đánh thức dậy.

Bazin dang tay ra, dụi mắt và định ngủ tiếp.

- Này, này, ông trạng ngủ, lấy thang ra mau lên.

Bazin vừa ngáp đến trật quai hàm vừa nói:

- Cái thang vẫn để ở cửa sổ.

- Cái khác vậy, cái thang của bác làm vườn ấy, bác không thấy là d Artagnan lên thang đã khó, xuống thang còn khó hơn ấy à?

D Artagnan sắp bảo Aramis rằng anh xuống rất thạo thì một ý nghĩ chợt đến làm anh im bặt.

Bazin thở dài đánh thượt một cái và ra đi tìm thang. Lát sau, một cái thang gỗ tốt và chắc chắn đã được đặt dựa vào cửa sổ.

- Thế chứ, - D Artagnan nói - cái gọi là một phương tiện giao thông? Một phụ nữ có lẽ trèo được một cái thang như thế này đấy nhỉ.

Một cái nhìn sắc như dao của Aramis như muốn tìm kiếm ý nghĩ của bạn mình thấu tận đến đáy lòng, nhưng d Artagnan chịu đựng cái nhìn ấy với vẻ thật thà tuyệt diệu.

Vả lại vừa lúc ấy anh đặt chân lên bậc thang đầu tiên và bước xuống.

Lát sau anh tới đất. Còn Bazin đứng ở cửa sổ.

Aramis bảo bác:

- Cứ ở đấy, tôi về ngay.

Hai người lần đến nhà kho, gần tới nơi thấy Planchet đi ra dắt theo hai con ngựa.

- Vừa hay - Aramis nói, thật là một tên hầu năng nổ và chu đáo, chẳng như cái gã lười Bazin, không còn được tích sự gì khi là người nhà thờ. Planchet, đi theo chúng tôi, chúng ta vừa đi vừa trò chuyện đến tận đầu làng.

Quả vậy, hai người đi qua suốt làng, nói những chuyện bâng quơ rồi khi đến mấy ngôi nhà cuối cùng, Aramis nói:

- Thôi, đi nhé, bạn thân mến, cứ theo cái nghề của cậu, vận may đang cười với cậu đấy, đừng có để vuột mất; nên nhớ rằng vận may là một cô gái giang hồ và nên đối xử cho thích hợp; còn về phần tôi, tôi an phận trong cảnh hèn mọn vả trong tính lười nhác của tôi, xin vĩnh biệt!

- Thế là dứt khoát hẳn đấy à!- D Artagnan nói. - Điều tôi đề nghị với cậu không hợp ý cậu ư?

- Trái lại, rât hợp ý tôi. - Aramis nói, - nếu như tôi là một người giống như người khác. Nhưng, tôi xin nhắc lại, thật ra tôi là một hỗn hợp những mâu thuẫn: điều hôm nay tôi ghét, ngày mai tôi sẽ tôn thờ và vice versa(8). Cậu thấy rõ tôi không thể hứa hẹn như cậu chẳng hạn, với những ý nghĩ định đoạt hẳn hoi.

"Tào lao, đồ thâm hiểm, - D Artagnan tự nhủ thầm, - trái lại mi là người duy nhất biết chọn lấy một mục đích và đi tới đó một cách thầm lặng"

- Thôi, vĩnh biệt nhé, bạn thân mến, - Aramis nói, - và cảm ơn về nhưng ý đồ tuyệt diệu của cậu, và nhất là về những kỷ niệm tốt đẹp mà sự hiện diện của cậu đã làm thức tỉnh trong tôi.

Họ ôm hôn nhau. Planchet đã lên ngựa. D Artagnan trèo lên yên, rồi họ còn siết tay nhau lần nữa. Hai kỵ sĩ thúc ngựa và rời xa về phía Paris.

Aramis vẫn đứng yên lặng giữa lòng đường cho đến lúc hai người mất hút.

Nhưng đi được độ hai trăm bước, d Artagnan dừng phắt lại, nhẩy xuống đất, ném cương ngựa vào tay Planchet, rồi lấy mấy khẩu súng ngắn ở bao yên ngựa giắt vào thắt lưng mình.

- Ông ơi, ông làm gì thế? - Planchet hốt hoảng nói.

- Dù cho hắn có xảo quyệt đến mấy đi nữa, - d Artagnan nói, - tôi cũng làm cho người ta không thể bảo rằng tôi đã mắc lừa hắn. Cậu ở đây và chớ có động đậy; nhưng cậu hãy nép xuống vệ đường và đợi tôi nhé

Nói xong d Artagnan băng mình sang bên kia đường hào chạy men theo đường cái, đâm thẳng qua cánh đồng để vòng quanh làng.

Trước đó anh đã trông thấy một khoảng trống chỉ có một hàng rào che nằm giữa ngôi nhà bà de Longueville và tư viện Jésuites.

Một giờ trước đó có lẽ khó mà tìm lại hàng rào, nhưng trăng vừa mới mọc, và dù rằng chốc chốc lại bị mây che phủ, ngay trong lúc tối tăm, người ta vẫn có thể trông rõ và tìm lại đường đi.

D Artagnan bèn đi tới hàng rào và nấp mình sau đó. Khi đi qua trước ngôi nhà nơi đã xảy ra cuộc xung đột mà chúng tôi đã kể trên, anh nhận ra vẫn cái cửa sổ lúc này lại sáng lên, anh tin rằng Aramis chưa trở về nhà mình, và khi nào trở về, anh sẽ không về một mình.

Quả nhiên, một lát sau anh nghe thấy tiếng những bước chân đi tới gần và hình như có cả tiếng nói chuyện rầm rì.

Tới đầu hàng rào, những bước chân dừng lại.

D Artagnan quỳ một đầu gối xuống đất, tìm chỗ nào dày nhất để nấp.

Vừa lúc đó hai người đàn ông xuất hiện trước sự kinh ngạc hết sức của d Artagnan. Nhưng nỗi ngạc nhiên của anh đã tan biến khi nghe thấy một giọng nói dịu dàng, du dương, một trong hai người đàn ông ấy là đàn bà cải trang làm kỵ sĩ.

- Cứ yên tâm, ông René thân yêu của tôi, - giọng dịu dàng nói - Việc như thế sẽ không diễn lại nữa đâu; tôi đã phát hiện ra một đường hầm đi qua dưới mặt đường phố và chúng ta chỉ có việc nhấc một trong những viên đá lật ở ngay trước cửa nhà để mở một lối ra cho ông.

- Ồ thưa bà quận chúa, - một giọng khác cất lên và d Artagnan nhận ra là của Aramis - tôi xin thề với bà rằng nếu như danh tiếng của chúng ta không phụ thuộc vào tất cả những thứ không đề phòng ấy và tôi chỉ mạo hiểm có tính mạng của tôi thôi...

- Phải, phải, tôi biết, ông dũng cảm và phiêu lưu như một người thuộc xã hội thượng lưu phải thế; nhưng ông không phải chỉ thuộc về một mình tôi đâu, mà ông còn thuộc về tất cả đảng của chúng ta. Vậy ông nên thận trọng, nên khôn ngoan.

- Thưa bà, - Aramis nói, - bao giờ tôi cũng tuân theo khi người ta biết ra lệnh cho tôi bẳng một lệnh ngọt ngào đến thế.

Anh cầm lấy tay bà ta mà hôn âu yếm.

- Ấy? Người kỵ sĩ có giọng dịu dàng kêu lên.

- Sao vậy? - Aramis hỏi.

- Thế ông không trông thấy gió thổi tung mũ của tôi ư?

Và Aramis băng mình theo chiếc mũ bay đi. D Artagnan lợi dụng hoàn cảnh ấy tìm một chỗ rào thưa thớt để có thể nhận rõ người kỵ sĩ khả nghi. Đúng lúc ấy trăng có lẽ tò mò như viên sĩ quan chui ra khỏi mây và nhờ ánh sáng tọc mạch ấy, d Artagnan nhận ra cặp mắt to xanh biếc, mớ tóc vàng óng và mái đầu thanh cao của bà công tước De Longueville.

Aramis tươi cười trở lại một cái mũ trên đầu và một cái mũ cầm tay, và cả hai tiếp tục đi về phía tu viện thầy dòng Jésuites.

D Artagnan vừa đứng lên vừa phủi quần vừa nói: "Hay lắm, bây giờ ta nắm được cu cậu rồi, cu cậu là frondeur và là tình nhân của bà De Longueville".

Chú thích:

(1) Người Gascogne có tính huênh hoang, liều lĩnh.

(2) Crésus - vua xứ Liđi (Tiểu Á) thế kỳ thứ sáu trước Công nguyên, nổi tiếng giàu có, người ta đồn là do khlai thác cát có vàng ở sông Păcton.

(3) Ăngxơiat theo thần thoại Hy Lạp, một trong những người khổng lồ đã công kích núi Ôlempơ nơi trú ngụ của các vị thần.

(4) Thần khoái lạc. (Tiếng La-tinh).

(5) Tên những vai hề và múa rối của sân khấu.

(6) chỉ Hoàng thân de Condé.

(7) Thời gian qua không trở lại (Tiếng La-tinh)

(8) Ngược lại (Tiếng La-tinh).

-*-*-*-

Chương 12

Ông Porthos Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds

Theo những thông tin lấy ở nơi Aramis, d Artagnan vốn đã biết rằng Porthos theo tên dòng họ gọi là Vallon, nay - từ tên đất đai nên phải được gọi là De Bracieux và do cái đất đai De Bracieux ấy đang kiện tụng với linh mục Noyon.

Như vậy là d Artagnan phải đi tìm kiếm đất đai ấy ở quanh vùng Noyon, tức là trên biên giới xứ Ils de France và xứ Picardie.

Hành trình của anh được quyết định nhanh chóng anh sẽ đi đến tận Dammartin nơi tách ra hai con đường, một đi Soissons, một đi Compiègne. Ở do anh sẽ thăm hỏi về vùng đất đai Bracieux và tuỳ theo câu trả lời mà anh sẽ đi thẳng hoặc rẽ về bên trái.

Planchet còn chưa thật yên tâm về sự trốn tránh của mình, tuyên bố rằng anh sẽ đi theo d Artagnan đến cùng trời cuối đất, dù có đi thẳng hay rẽ sang trái.

Tuy nhiên anh van lơn ông chủ cũ là nên đi vào buổi chiều tối vì đêm tối có nhiều bảo đảm hơn. D Artagnan bèn bảo anh nên bảo cho vợ anh biết để ít ra cũng giúp chị yên tâm về số phận của chồng mình. Nhưng Planchet tỏ ra rất sáng suốt trả lời rằng anh chắc chắn là vợ anh sẽ không chết vì lo ngại không biết anh đi đâu còn anh vì biết cái miệng của chị mắc bệnh bép xép, nên anh sẽ chết vì lo ngại nếu như chị biết điều đó.

D Artagnan thấy những lý lẽ ấy là chí lý đến nỗi anh không nài ép thêm, và vào khoảng tám giờ tối, khi sương mù bắt đầu dày đặc trong đường phố, anh khới hành từ quán "Con dê cái nhỏ", theo sau là Planchet ra ngoài kinh đô qua cửa ô Saint-Denis.

Nửa đêm, hai lữ khách đến Dammartin.

Không thể hỏi thăm vì muộn quá rồi. Chủ quán Thiên Nga Chữ Thập đã đi nằm.

Sáng hôm sau anh gọi chủ quán đến. Đó là một trong số những người Normands quỷ quyệt chẳng nói có cũng chẳng nói không và lúc nào cũng tưởng mình bị hớ khi trả lời thẳng vào câu người ta hỏi.

Tuy nhiên, cho rằng mình đã hiểu là phải đi theo con đường thẳng, d Artagnan lại lên đường theo lời chi dẫn mập mờ ấy. Chín giờ sáng anh đến Nanteuil và dừng ở đó để ăn sáng.

Lần này chủ quán là một người Picard thật thà tốt bụng, lại nhận ra Planchet là người đồng hương, nên anh cần hỏi gì là bác ta chỉ dẫn rất dễ dàng. Lãnh địa Bracieux ở cách Villers-Cotterêts, anh đã hai ba lần đi theo triều đình đến đó, vì hồi ấy đây là một nơi nhà vua ngự. Anh liền đi tới thị trấn ấy và vào cái quán anh thường nghỉ tức là quán Cá Heo Vàng.

Những tin tức thu lượm được ở đây là đáng hài lòng nhất. Anh được biết ấp Bracieux ở cách thị trấn bốn dặm, nhưng không phải tìm Porthos ở đấy. Đúng là Porthos có những chuyện kiện cáo với ông linh mục ở Noyan về khoảnh đất Pierrefonds giáp giới đất của anh, và bực bội rầy rà về cái mớ tố tụng tư pháp mà anh chẳng am hiểu tí gì, để chấm dứt, anh đã mua phăng đất Pierrefonds, thành thử anh đã điền thêm cái tên mới ấy vào những tên cũ của mình. Bây giờ tên anh gọi là Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds và anh ở tại điền sản mới của mình. Không có danh tiếng nào khác, rõ ràng anh đang nhằm danh tiếng của hầu tước de Carabas.

Còn phải đợi đến hôm sau, vì ngựa đã mệt sau một cuốc mười dặm trong ngày. Kể ra cũng có thể lấy ngựa khác, nhưng phải xuyên qua cả một cánh rừng lớn, mà Planchet, ta còn nhớ, chẳng thích thú gì những cánh rừng đêm tối.

Còn một điều nữa Planchet không thích là lên đường khi bụng đói: cho nên khi tỉnh dậy d Artagnan đã thấy bữa ăn sáng dọn sẵn sàng. Không có cách gì để phàn nàn về một sự chu đáo như vậy, cho nên d Artagnan ngồi vào bàn chén. Chẳng cần phải nói cũng biết Planchet khi đã nhận lại chức trách cũ thì cũng nhận lại tính khiêm nhường cũ và ăn thừa các thức ăn của d Artagnan cũng chẳng xấu hổ gì hơn bà De Motteville và bà De Fargis khi dùng các thức ăn thừa của Anne d Autriche.

Như vậy là không thể khởi hành vào Khoảng tám giờ. Không còn sợ nhầm lẫn, phải theo đường từ V Villers-Cotterêts đi Compiègne và khi ra khỏi rừng thì rẽ bên phải. Buổi sáng mùa xuân đẹp trời, chim hót trên những cây đại cổ thụ, những chùm nắng xuyên qua các khoảnh rừng giống như những tấm màn kim tuyến lóng lánh.

Ở những quãng khác, ánh sáng khó khăn lắm mới lọt qua vòm lá rậm rạp, và mấy chú sóc khi trông thấy người liền thoăn thoắt chuyền dưới những gốc cây sến già vẫn chìm trong bóng tối. Thiên nhiên vào buổi sớm ấy đã toát ra hương thơm ngạt ngào của có cây hoa lá làm khoan khoái lòng người. Chán ngán cái mùi vị uế tạp của Paris, d Artagnan tự nhủ rằng, khi mang ba cái tên đất đai xuyên tiếp vào nhau như que chả, chắc hắn người ta phải sướng điên trong một thiên đường như thế, rồi anh lắc đầu nói: "Ví phỏng ta là Porthos và d Artagnan đến nói với ta lời đề nghị mà ta sắp nêu ra với Porthos thì ta chưa biết ta trả lời d Artagnan như thế nào".

Còn Planchet chẳng hề suy nghĩ gì hết, anh đang để cái dạ dày tiêu hoá.

Ra đến ven rừng, d Artagnan trông thấy con đường mà người ta đã chỉ dẫn cho và những ngọn tháp của một toà lâu đài lãnh địa đồ sộ nằm tại cuổi đường.

- A, a! - Anh lẩm bẩm. - Hình như toà lâu đài này thuộc về dòng họ Orléans xưa; liệu Porthos có điều đình với quận công De Longueville không?

- Ông ơi, - Planchet nói, - thực tình đây là những đất đai rất tốt; và nếu nó thuộc về ông Porthos thì tôi sẽ chúc mừng ông ấy mới được.

- Gớm nhỉ? - D Artagnan bảo, - cậu chớ có gọi Porthos, gọi Du Vallon cũng không được, phải gọi ông ấy là de Bracieux hoặc de Pierrefonds. Nếu không cậu sẽ làm hỏng chuyện đi sứ của tôi đấy.

Toà lâu đài thoạt tiên thu hút cặp mắt anh, nhưng đến gần, anh mới hiểu ra là bạn anh không thể ở đấy được, cái tháp mặc dầu vững chắc và trông như mới xây, hở toang hoác như bị mổ bụng. Trông như một người khổng lồ nào đó đã băm chém chúng bằng những nhát rìu. Tới cuối con đường, d Artagnan thấy mình bao quát một thung lũng kỳ diệu và trông thấy ở dưới đáy thung lũng một mảng hồ xinh đẹp ngủ dưới chân mấy ngôi nhà tản mác đó đây, bình dị, lợp ngói hoặc rơm, chúng như công nhận một lãnh chủ cao nhất một toà lâu đài tráng lệ xây dựng vào khoảng dầu triều vua Henri IV trên nóc có những chong chóng nhà bạo chúa.

Lần này, d Artagnan không nghi ngờ gì đấy là nơi ở của Porthos. Con đường dẫn thẳng đến toà lâu đài tráng lệ ấy, nó so với ông tổ nó là toà lâu đài trên núi kia cũng tựa như một chàng công tử bột thuộc đảng phái quận công d Enghien so với một trang hiệp sĩ mình bọc đầy giáp sắt thời vua Charles VIl. D Artagnan cho ngựa đi nước kiệu và men theo con đường, Planchet điều chỉnh bước đi của ngựa mình theo ngựa ông chủ.

Mười phút sau, đã đến đầu lối đi trồng đều đặn những cây phong đẹp dẫn đến một cổng sắt có những đầu nhọn và thanh ngang đều mạ vàng. Ở giữa con đường có một người kiểu như lãnh chúa vận y phục xanh và vàng như cổng rào, cưỡi trên lưng một con ngựa trận to lrớng. Bên phải và bên trái ông ta là hai tên hầu quần áo thêu những vạch ngang dọc khắp mọi chiều; vô số những nông dân cục mịch xúm xít lại chào ông ta hết sức cung kính.

- A! - D Artagnan tự bảo. - Phải chăng đấy là ông Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds? Ôi, lạy Chúa! Ông ta đã khép mình nhỏ lại từ khi không còn gọi là Porthos nữa.

- Không thể là ông ấy được, - Planchet đáp lại câu mà d Artagnan tự nói với mình. - Ông Porthos cao gần sáu bộ, còn ông này chưa đến năm bộ.

Nói xong, d Artagnan thúc ngựa đến chỗ con ngựa chiến con người danh giá và các tên hầu. Lần lần đi tới gần, anh như nhận ra những nét quen quen của nhân vật ấy.

- Jésus lạy Chúa tôi? - Về phía mình Planchet cũng ngỡ nhận ra người ấy, liền kêu lên - Chẳng lẽ lại có thể là hắn ta?

Nghe tiếng kêu ấy, người cưỡi ngựa chậm rãi quay lại và với một vẻ cao sang, hai lữ khách liền trông thấy đôi mắt ốc nhồi lóe sáng lên hết cỡ, bộ mặt đỏ lửng và nụ cười đến là hùng hồn của Mousqueton.

Quả thật đó là Mousqueton, Mousqueton béo núc ních những mỡ, sụn xuống vì sức khỏe dồi dào, húp híp vì an lạc. Trái với bác Bazin đạo đức giả, khi nhận ra d Artagnan, Mousqueton tuột từ lưng ngựa xuống đất và ngả thấp mũ tiến đến gần viên sĩ quan, thành thử những sự cung kính của cử tọa quay hẳn một phần tư vòng sang ông mặt trời mới đang che lấp mặt trời cũ.

- Ông d Artagnan, ông d Artagnan! - Mousqueton tràn trề hoan hỉ gọi mãi lên trong đôi má phì nộn của mình. - Ông d Artagnan. Ôi! Vui mừng biết bao cho Đức ông và ông chủ Du Vallon de Bracieux de Pierrefondss của tôi?

- Cái cậu Mousqueton tốt bụng này? Chủ cậu có ở đây chứ.

- Ông đang ở trên lãnh địa của ông ấy.

- Nhưng kìa, cậu thật là bảnh bao, cậu thật là béo tốt, cậu thật là tươi tắn! - D Artagnan tiếp tục tỉa tót không biết mỏi những đổi thay mà hạnh vận đã mang lại cho cái thằng cha chết đói năm xưa.

- À vâng, ơn Chúa! - Mousqueton nói. - Thưa ông, sức khỏe của tôi cũng kha khá.

- Thế cậu không nói gì với bạn Planchet của cậu đấy ư?

- Với bạn Planchet của tôi! Hoạ chăng là cậu ấy à? - Mousqueton kêu lên, hai tay dang ra và lệ tràn đôi mắt.

- Chính tôi đây, - Planchet vẫn thận trọng nói, - nhưng tôi muốn xem cậu có giở trò kiêu hãnh hay không?

Giở trò kiêu hãnh với một người bạn cố tri! - Không bao giờ! Planchet ạ. Cậu không nghĩ như vậy hoặc là cậu không hiểu Mousqueton.

- Tốt lắm! - Planchet vừa nói vừa xuống ngựa và đến lượt mình giơ tay về phía Mousqueton.

- Cậu chẳng giống như cái thằng chó chết Bazin ấy, hắn đã bỏ mặc tôi hai tiếng đồng hồ trong cái nhà kho chẳng thèm làm bộ nhận ra tôi nữa.

Rồi Planchet và Mousqueton ôm chầm lấy nhau chứa chan tình cảm khiến mọi người đứng đấy đều hết sức xúc động và tưởng rằng Planchet là một lãnh chúa nào đó cải trang và họ càng đánh giá đến mức cao nhất địa vị của Mousqueton.

Khi gỡ mình ra khỏi cái ôm riết của Planchet, anh chàng Mousqueton đã cố gắng vô ích để tiếp giáp hai bàn tay của mình sau lưng bạn, Mousqueton nói:

- Và thưa ông d Artagnan, bây giờ xin ông cho phép tôi vào, vì tôi không muốn ông chủ tôi hay tin ông đến do người khác báo chứ không phải là tôi, ông chủ sẽ không tha thứ cho tôi về tội lỗi đã để cho người khác vượt lên trước.

- Ông bạn thân mến ấy, - D Artagnan nói, anh muốn tránh gọi Porthos bằng cả tên cũ lẫn tên mới, - thì ông bạn thân mến ấy vẫn không quên tôi.

- Quên! Ông tôi mà quên? - Mousqueton kêu lên. - Nghĩa là, thưa ông, không có ngày nào chúng tôi không ngong ngóng chờ tin ông được phong làm thống chế, hoặc thay ông De Gatxiông, hoặc thay ông De Batxompie.

D Artagnan để lớn vởn trên môi mình một trong những nụ cười sầu thảm đã từng sống sỏt ở nơi sâu thăm nhất trong lòng mình qua nỗi thất vọng của những năm tuổi xanh.

- Còn các ông, những tiện dân kia, - Mousqueton nói, hãy ở bên bá tước d Artagnan và ráng sức cung kính ngài, chờ tôi vào trình với Đức ông về việc ngài đến.

Trong khi Planchet còn lanh lẹn hơn, nhảy lên ngựa một mình thì Mousqueton phải chờ hai người từ tâm giúp để leo lên mình một con ngựa chiến lực lưỡng, và cho ngựa chạy chậm chậm rãi, điều đó chứng tỏ anh chiếu cố cái lưng hơn là những cái căng của con vật bốn chân này.

- Ái chà? Thế là điềm tốt đây! - D Artagnan nói.

- Ở đây chẳng có gì bí mật, chẳng có gì giấu giếm che đậy, chẳng có chính trị, người ta cười sằng sặc, người ta khóc vì vui mừng tôi chỉ trông thấy những gương mặt rộng một aune (1) thật thế, tôi thấy dường như ngay cả thiên nhiên cũng mở hội, cây cối đáng lẽ phủ lá và hoa thì lại ngợp đầy những dải băng nhỏ xanh xanh hồng hồng.

- Còn tôi, - Planchet nói, - dường như đã ngửi thấy mùi thơm ngon nhất của thịt quay, trông thấy những nồi niêu xếp thành những hàng rào danh dự để đón chúng ta đi qua. Ôi! Thưa ông, không biết ông De Pierrefonds phải thuê đầu bếp nào khi mà xưa kia mới chỉ có tên là Porthos ông ấy đã thích ăn và ăn thật ngon.

- Đừng nói nữa? - D Artagnan bảo. - Cậu làm tôi sợ đấy. Nếu sự thật giống bề ngoài, thì ta toi công rồi. Một con người sung sướng đến thế sẽ chẳng bao giờ ra khỏi hạnh phúc của mình và ta sẽ thất bại với hắn như đã thất bại với Aramis.

Chú thích:

(1) aune :Thước ngày xưa bằng 1,183 mét.

-*-*-*-

Chương 13

Khi gặp lại Porthos, d'Artagnan đã nhận ra rằng của cải là không làm nên hạnh phúc.

D Artagnan vượt qua rào sắt và đến trước toà lâu đài, anh vừa nhảy xuống đất thì một thứ người khổng lồ xuất hiện trên bậc tam cấp. Công bằng mà nói, ta nên gạt sang một bên tình cảm ích kỷ, d Artagnan mừng rỡ khi thấy cái vóc dáng cao lớn và gương mặt thượng võ gợi cho anh nhớ tới một con người dũng cảm và tốt bụng.

Anh chạy đến bên Porthos và nhào vào vòng tay anh ta; tất cả bọn tôi tớ vây tròn lại ở một khoảng cách cung kính và nghếch mắt nhìn vẻ tò mò khúm núm. Mousqueton đứng ở hàng đầu, quệt nước mắt, tội nghiệp cậu ta từ sau khi nhận ra d Artagnan và Planchet, cậu ta cứ khóc mãi vì vui mừng.

Porthos nắm cánh tay bạn và kêu lên bằng một giọng từ bậc nam trung chuyển sang nam trầm:

- A? Gặp lại cậu thật là mừng, thế ra cậu, cậu vẫn không quên tôi ư?

- Quên cậu ư? Ôi, Du Vallon thân mến, quên sao được những chuỗi ngày tươi đẹp nhất của tuổi thanh xuân, bè bạn chí tình và những nỗi gian nan nguy hiểm đã cùng nhau vượt qua! Ấy, trông thấy cậu, là bao nhiêu kỷ niệm tình bạn xưa của chúng ta lại hiện lên trong tâm trí mình.

- Ờ, ờ! - Porthos vừa nói vừa vân về ria mép, cố trả lại cho nó cái vẻ đỏm dáng đã bị mất trong cánh cô đơn.

- Ờ ờ, hồi ấy chúng ta đã làm bao nhiêu việc long trời lở đất và chúng ta cũng đã gây cho ngài giáo chủ tội nghiệp ấy biết bao chuyện đau đầu.

Và anh thở dải, d Artagnan lặng nhìn anh.

- Dù sao, - Porthos nói tiếp, giọng rầu rĩ, - tôi cũng xin chào mừng bạn thân mến, cậu sẽ giúp tôi tìm lại niềm vui; ngày mai chúng ta sẽ đi săn hoãng ở trong những cánh rừng cũng rất tuyệt; tôi có bốn con chó săn lévriers vào loại nhanh nhẹn nhất tỉnh và một bầy chó săn có một không hai ở trong vòng hai mươi dặm.

Và Porthos lại thở dài lần nữa.

"Ồ, ồ! - D Artagnan nhủ thầm, phải chăng con người tráng kiện, khoẻ mạnh này không thật sung sướng như cái vẻ bề ngoài của hắn sao?" Rồi anh nói:

- Nhưng trước hết, cậu giới thiệu với tôi bà Du Vallon đã, vì tôi còn nhớ một bức thư mời mọc mà cậu đã hạ cố viết cho tôi và ở dưới thư bà ấy có nhã ý viết thêm mấy dòng.

Một tiếng thở dài thứ ba của Porthos. Anh nói:

- Bà Du Vallon mất đã hai năm rồi, và cậu thấy tôi vẫn còn buồn rười rượi. Chính vì vậy nên tôi đã rời lâu đài Du Vallon ở gần Corbeil để đến mảnh đất Bracieux, sự thay đổi ấy dẫn đến việc tôi mua vùng đất đai này. Tội nghiệp bà Du Vallon, - Porthos nói tiếp và cau mặt vẻ thương tiếc, - đó không phải là một người đàn bà tính khí rất dửng dưng, song cuối cùng bà ấy cũng vẫn quen dần với những cung cách của tôi và chiều những yêu cầu, vòi vĩnh nho nhỏ của tôi.

- Như thế là cậu giàu có và tự do nhỉ? - D Artagnan hỏi.

- Chao ôi! - Porthos nói, - tôi goá vợ và có bốn chục nghìn livres niên thu... À, cậu có muốn ta ăn lót dạ bây giờ không?

- Muốn quá đi chứ, - D Artagnan nói, - buổi sớm mát trời đã khiến tôi đói bụng rồi đó.

- Đúng, - Porthos nói, - khí trời chỗ tôi thì tuyệt diệu.

Họ bước vào lâu đài, từ trên xuống dưới toàn là mạ vàng, các đường viền mạ vàng, các đường gỗ mạ vàng, gỗ ghế bành mạ vàng.

Một bàn ăn dọn sẵn đang đợi.

- Cậu xem, - D Artagnan nói, - tôi xin chúc mừng cậu, vua cũng không được một bữa như thế này.

- Ừ, - Porthos bảo, - nghe đâu Mazarin nuôi nấng vua rất tồi. Nếm thử món sườn này đi, d Artagnan thân mến, cừu nhà tôi nuôi đây.

- Cậu có những con cừu non quá, mình xin có lời khen ngợi.

- Ấy, cừu nuôi trong những cảnh đồng cỏ của tôi đấy mà, những đồng cỏ tuyệt diệu.

- Cậu tiếp thêm cho tôi nào.

- Không, hãy nếm thử con thỏ này mà tôi đã bắn hôm qua ở một trong những bãi cỏ thả thỏ của tôi.

- Gớm chưa! Khẩu vị thật đặc biệt! - D Artagnan nói. - Chà, chà! Dễ thường cậu nuôi thỏ toàn bằng rau thơm, rau mùi?

- Thế còn rượu của tôi, cậu thấy thế nào. - Porthos hỏi. - Ngon chứ?

- Tuyệt!

- Rượu quê ấy mà.

- Thật ư?

- Phải, một sườn đồi nhỏ hướng Nam ở đằng kia, trên núi của tôi nó cho hai mươi muy(1).

Lần thứ năm Porthos lại thở dài. D Artagnan vẫn đếm những tiếng thở dài của bạn. Tò mò muốn đi sâu vào vấn đề, anh nói:

- Ôi chao! Bạn thân mến ơi, dường như có điều gì khiến cậu buồn phiền. Chẳng may cậu có đau ốm gì chăng?... Sức khỏe của cậu...

- Rất tốt cậu ạ, tốt hơn bao giờ hết, tôi có thể đâm chết một còn bò.

- Hay là buồn chuyện gia đình...

- Gia đình ư? May thay tôi chỉ có một mình ở trên đời.

- Thế điều gì khiến cậu thở dài thườn thượt?

- Bạn thân mến ơi, tôi sẽ thành thật với cậu, tôi không sung sướng.

- Cậu mà không sung sướng ư, Porthos? Cậu có một toà lâu đài, những cánh đồng cỏ, rừng núi bao la; lại bốn chục nghìn livres niên thu, vậy mà rốt cuộc cậu không hạnh phúc?

- Bạn thân mến ơi, đúng là tôi có tất cả những thứ đó, song tôi sống một mình giữa tất cả những thứ đó.

- A! Tôi hiểu rồi: xung quanh toàn những bọn dân ngu, nhìn họ cậu thấy danh giá mình bị mất mát.

Porthos hơi tái mặt, và nốc cạn thật nhanh một cốc rượu . Anh nói:

- Không phải thế đâu, mà trái lại, cậu tưởng tượng xem đó là những bọn quý tộc nông thôn, ai cũng có một tước vị nào đó và còn muốn đi ngược gia phả lên tận Pharamond, Charlemagne, hay ít ra đến Hugues Capet. Vào lúc khởi đầu, tôi đã là người đến sau chót, do đó tôi phải chạy vạy, tôi đã làm việc đó, nhưng bạn thân mến ơi, như cậu biết đấy, bà Du Vallon...

Nói ra những lời ấy, Porthos như nghẹn ngào.

- Bà Du Vallon. - anh nói tiếp, - có thể là một gốc quý tộc; trong cuộc hôn nhân đầu tiên, d Artagnan ạ, tôi thiết tưởng điều này chẳng có gì mới đối với cậu, bà ta lấy một ông biện lý. Người ta cho chuyện đó là đáng lộn mửa. Họ đã nói là lộn mửa. Cậu hiểu chứ, đó là một tiếng giết chết ba chục nghìn người. Tôi khác, nhưng họ không coi tôi là bạn họ. Thành thử tôi không có bạn bè, tôi sống lẻ loi, tôi chán nản, tôi buồn phiền.

D Artagnan mỉm cười, anh nhìn thấy kẽ hở của áo giáp và anh chuẩn bị nhát đâm.

- Nhưng mà, rốt cuộc, - anh nói, - cậu sinh ra thế nào là do cậu chứ vợ cậu làm sao mà thay đổi được?

- Phải, nhưng cậu hiểu cho rằng, vì không phải là dòng dõi quý tộc lâu đời như họ hàng Coucy họ tự bằng lòng là những Sires(2) hoặc dòng họ Rohan họ không muốn là công tước, tất cả những bọn kia đều là tử tước, nhưng khi vào nhà thờ hay đến các lễ hội họ đều được coi trọng hơn tôi, tôi nói vào đâu được... Ôi! Giá như tôi chỉ là...

- Nam tước, phải không? - D Artagnan nói nốt câu của bạn.

- A! - Porthos kêu lên, mặt hớn hở - A! Giá như tôi là nam tước?

"Tốt rồi! - D Artagnan nghĩ. - Ta thành công rồi".

Rồi anh cao giọng bảo:

- Thế thì bạn thân mến ơi, chính cái tước hiệu mà cậu ao ước ấy, hôm nay tôi mang đến cho câu đây.

Porthos nhảy bật lên một cái làm rung chuyển cả gian phòng hai ba chai rượu bị mất thăng bằng lăn ngay xuống đất vỡ tan tành.

Mousqueton nghe tiếng chạy đến và người ta trông thấy bóng Planchet tay cầm khăn ăn, miệng căng phồng.

- Đức ông gọi tôi à ? Mousqueton buột miệng hỏi

Porthos ra dấu bảo Mousqueton hãy dọn dẹp những chai vỡ .

- Tôi rất vui thấy cậu vẫn dùng thằng hầu ấy, - D Artagnan nói.

- Nó là quản gia của tôi đấy, - Porthos đáp.

Rồi anh cao giọng:

- Nó đã làm việc đánh chén, thằng ranh ấy, người ta trông rõ rồi, nhưng, - anh hạ giọng nói tiếp, - nó quyến luyến tôi lắm và có cho vàng nó cũng sẽ chẳng chịu rời tôi đâu.

- "Và nó gọi chủ nó là đức ông", - D Artagnan nghĩ thầm.

- Ra ngoài kia đi. Mouston. -Porthos bảo.

- Cậu gọi Mouston à? À phải, gọi tắt, gọi Mousqueton thì dài quá.

- Phải, - Porthos nói, - với lại gọi như thế thì từ ngoài một dặm người ta ngửi thấy cái chức đội trưởng ky binh của nó. Thôi, đợi thằng ranh ấy vào, chúng ta sẽ còn bàn công việc.

- Ừ d Artagnan bảo, - nhưng ta gác câu chuyện lại sau, vì người làm của cậu có thể nghi ngờ; biết đâu chẳng có dọ thám ở trong vùng, Porthos ạ, cậu đoán xem, đó là những việc nghiêm ngặt.

- Ghê nhỉ! - Porthos nói, - thế để dễ tiêu hoá chúng ta đi quanh vườn nhé

- Được thôi.

Và nhân hai người đã ăn lót dạ đầy đủ, họ bắt đầu dạo quanh khu vườn tuỵệt đẹp Nhưng lối đi trồng cây dẻ và cây bồ đề bao quanh một khoảng rộng ít nhất là 30 acpăng(3). Đến mỗi ô kiểu ngũ điểm dầy những cây lớn và cây con lại thấy những chú thỏ chạy biến trong các bụi hạt dẻ và nô đùa trong các đám cỏ cao.

Thực tình, - D Artagnan nói, - khu vườn phù hợp với tất cả phần còn lại; và nếu những bãi thả có bao nhiêu thỏ, ao hồ có bấy nhiêu cá thì cậu sẽ là một con người hạnh phúc. Porthos thân mến ạ, chỉ cần cậu vẫn giữ cái sở thích săn bắn và có thêm cái hứng thủ đi câu.

- Bạn ơi, - Porthos nói, - Tôi dành việc đi câu cho Mousqueton đó là một thú vui quê mùa; nhưng thỉnh thoảng tôi đi săn; nghĩa là khi nào tôi buồn chán, tôi ngồi trên một chiếc ghế đá hoa cương này, tôi sai đem súng và mang con Gredinet, con chó cưng của tôi đến và bắn thỏ.

- Thế thì thú vị quá còn gì, - D Artagnan nói.

- Phải, thú vị quá! - Porthos đáp lại với một tiếng thở dài.

D Artagnan không đếm những tiếng thở dài nữa.

Rồi thì, Porthos nói thêm:

- Gredinet chạy đi nhặt thỏ và tự nó mang đến cho đầu bếp, nó được dạy quen rồi...

- Ô con chó hay tuyệt! - D Artagnan nói.

- Thôi, hãy gác chuyện con Gredinet lại, - Porthos bảo, - nếu cậu thích, tôi sẽ biếu cậu vì tôi cũng bắt đầu chán rồi. Ta trở lại với công việc của chúng ta.

- Rất sẵn sàng, - D Artagnan đáp, - tuy nhiên, bạn thân mến ơi tôi xin báo trước để cậu khỏi bảo tôi mưu phản cậu, cần phải thay đổi cuộc sống hiện nay.

- Thế là thế nào?

- Là cầm lại dây cương, giắt kiếm xông vào các cuộc phiêu lưu, và như hồi xưa, để lại vài mảnh da thịt ở dọc đường; rốt cuộc là cậu biết đấy, cái phong cách ngày xưa.

- Chà! Gớm nhỉ! - Porthos kêu lên.

- Phải. Tôi hiểu rồi, cậu đã làm mình hư hơn bạn thân mến ạ, bụng cậu đã phát phì, cổ tay không còn độ dẻo dai mà bọn vệ sĩ của ngài giáo chủ đã bao phen được nếm mùi.

- A, cổ tay còn tốt lắm, tôi xin cam đoan với cậu, - Porthos vừa nói vừa giơ một bàn tay ra trông nần nẫn như miếng vai cừu.

- Càng hay.

- Như vậy là chúng ta gây chiến à?

- Ồ! Lạy Chúa đúng thế.

- Mà chống lại ai?

- Bạn ơi, cậu có theo đuổi chính trị không thế?

- Tôi ấy à! Không mảy may nào.

- Thế cậu theo Mazarin hay theo các hoàng thân?

- Tôi chẳng theo ai cả.

- Nghĩa là cậu theo chúng ta. Càng hay, Porthos ạ, đó là vị trí tốt nhất để tiến hành các công việc. Này bạn thân mến ạ, tôi xin nói với cậu rằng tôi đến đây là do ý ông giáo chủ đấy.

Tiếng ấy tác động rõ ràng đến Porthos, cứ như vẫn đang là năm 1640 khi nói đến ông giáo chủ thật sự.

- Ô, ô? - Anh nói. - Các hạ muốn gì ở tôi?

- Các hạ muốn lấy cậu vào giúp việc.

- Thế ai nói về tôi với ông ta?

- Rochefort. Cậu có nhớ không?

- Nhớ, mẹ kiếp! Cái thằng cha hồi ấy đã gây cho chúng ta bao nhiêu chuyện rắc rồi và khiến chúng ta phải long đong trên các nẻo đường, cái thằng cha mà cậu đã tặng cho ba nhát kiếm, mà cũng xứng đáng đây chứ.

- Nhưng cậu có biết hắn đã trở thành bạn của chúng ta không? - D Artagnan nói.

- Không, tôi không biết. Ô! Hắn không có thù hằn gì đâu.

- Cậu lầm rồi, Porthos ạ, - D Artagnan nói. - Chính là tôi không thù hằn.

Porthos không hiểu lắm, nhưng ta còn nhớ, hiểu biết không phải là chỗ mạnh của anh. Anh nói tiếp:

- Thế cậu bảo chính bá tước De Rochefort đã nói về tôi với giáo chủ à?

- Phải, và hoàng hậu nữa.

- Sao, hoàng hậu à?

Để cho chúng ta tin, tự bà ấy đã đưa cho giáo chủ cái nhẫn kim cương trứ danh mà cậu biết đấy, tôi đã bán cho ông des Essarts, và chẳng hiểu thế nào lại trở về với hoàng hậu.

- Nhưng tôi thấy, - Porthos nói, - là một người có lương tri lẽ ra bà ấy nên trao cái nhẫn lại cho chúng ta thì hay hơn.

- Mình cũng nghĩ vậy, - D Artagnan nói, - nhưng biết làm thế nào? Vua chúa và hoàng hậu, đôi khi có những tính đồng bóng lạ lùng. Rốt cuộc thì do họ là những người giữ của cải và danh vọng, phân phát tiền bạc và chức tước, cho nên người ta tận tụy với họ.

- Phải, người ta tận tụy với họ, - Porthos nói, - như vậy là hiện nay cậu đang tận tụy...

- Với vua, với hoàng hậu và với tể tướng, và thêm nữa tôi bảo đảm về sự tận tuỵ của cậu.

- Và cậu nói rằng cậu có đặt vài điều kiện cho tôi.

- Điều kiện tuyệt diệu, bạn thân mến ạ, tuyệt diệu. Trước hết cậu có tiền, phải không? Bốn mươi nghìn livres, cậu đã bảo tôi vậy.

Porthos đâm nghi ngờ.

- Ồ! Bạn ơi - anh nói, - mình chẳng bao giờ có quá nhiều tiền. Bà Du Vallon đã để lại một khoản thừa kế rắc rối, tôi chẳng giỏi giang gì, thành thử tôi sống hơi lần hồi...

"Hắn sợ mình đến vay tiển". D Artagnan nghĩ bụng. Rồi anh nói:

- A! Bạn ơi, nếu cậu túng bẩn thì càng hay!

- Sao lại càng hay? - Porthos hỏi.

- Vì muốn gì, các hạ sẽ cho: đất đai, tiền bạc, tước vị.

- A, a! - Nghe tiếng cuối cùng này, Porthos trợn tròn mắt kêu lên:

- Dưới thời tể tướng,

- D Artagnan nói tiếp - chúng ta không biết lợi dụng vận hạnh, tuy đó cũng là dịp tốt. Tôi không nói về của cải cho cậu vì cậu có bốn mươi nghìn livres niên thu; và dường như cậu là người hạnh phúc nhất trên đời.

Porthos thở dài.

- Dù sao! - D Artagnan nói tiếp, - mặc dù số bốn mươi nghìn livres niên thu của cậu và cũng có thể do số bốn mười nghìn livres niên thu của cậu, tôi thấy hình như một tước miện nho nhỏ vẽ trên thành xe của cậu sẽ làm nên khối chuyện đấy. Hề hề!

- Phải lắm! - Porthos đáp.

- Vậy thì, bạn thân mến, hãy giành lấy nó, ở đầu lưỡi gươm của cậu. Chúng ta sẽ không làm tổn hại gì nhau. Mục tiêu của cậu là một tước vị; mục tiêu của tôi là tiền bạc. Mong rằng tôi sẽ kiếm được kha khá để xây dựng lại cơ ngơi d Artagnan mà tổ tiên tôi nghèo túng đi vì những cuộc thập tự chinh đã để điều tàn từ thời ấy và để mua ba chục d arpents đất xung quanh, tất cả chỉ cần có vậy, rồi tôi rút lui về đấy, và chết yên lặng ở đấy.

- Còn tôi, - Porthos nói, - tôi muốn là nam tước.

- Cậu sẽ được như vậy!

- Thế cậu không nghĩ đến các bạn khác của chúng ta nữa hay sao! - Porthos hỏi.

- Có chứ, tôi đã gặp Aramis.

- Thế Aramis mong muốn gì? Làm giám mục chăng?

Không muốn làm Porthos thất vọng, d Artagnan nói:

- Aramis, cậu hãy tưởng tượng hắn đã trở thành thầy tu và jésuite, hắn sống như một con gấu, hắn từ bỏ tất cả, và chỉ nghĩ đến sự cứu rỗi. Những điều chào mới của tôi đề không thể lay chuyển cậu ấy

- Thôi kệ, - Porthos nói, - cậu có trí tuệ. Còn Arthos thế nào?

- Tôi chưa gặp anh ta, nhưng sau khì rời đây, tôi sẽ đi tìm ngay.

- Cậu có biết anh ta ở đâu không?

- Ở gần Blois, trong một danh địa nhỏ mà anh ta thừa kế, cũng chẳng biết của bà con nào.

- Tên gọi là gì?

- Bragelonne. Cậu hiểu không, Arthos quyền quý như hoàng đế và thừa kế một danh địa mang tước bá! Anh ta sẽ làm gì với những tước bá ấy? Tước bá de la Fére, tước bá de Bragelonne?

- Với những tước vị ấy mà không có con cái, - D Artagnan nói.

- Ơ? - Porthos kêu. - Tôi nghe nói anh ta nhận một đứa bé trai làm con nuôi, mặt rất giống anh ta.

- Arthos, Arthos của chúng ta, một người đức hạnh như Scipion.

- Cậu có gặp lại anh ấy không?

- Không.

- Thế ngày mai tôi sẽ đến cho anh ta biết về tình hình của cậu.

- Nói riêng với nhau, tôi sợ rằng đam mê rượu chè có thể đã làm cho anh ta bị huỷ hoại và già sọm.

- Phải, đúng đấy, - Porthos, - anh ấy uống tợn lắm.

- Với lại đó là anh cả của bọn ta - D Artagnan nói.

- Mới mấy năm nay thôi, - Porthos nói tiếp - cái dáng bộ uy nghiêm khiến anh ta già đi nhiều.

- Phải, đúng thế. Vậy nếu chúng ta có Arthos càng hay, bằng không thì thôi. Hai đứa chúng ta cũng bằng mười hai người.

- Phải rồi, - Porthos cười nhớ đến những chiến công xưa của mình, - Nhưng nếu có bốn chúng ta thì sẽ bằng ba mươi sáu người ấy chứ; mà nếu công việc gay go gian khổ như cậu nói, thì lại cần đủ như vậy. Gay go đối với bọn lính mới thật, nhưng đối với chúng ta thì không.

- Có lâu dài không?

- Ấy, có thể là ba bốn năm đấy.

- Sẽ choảng nhau nhiều chứ.

- Mình hy vọng như vậy.

- Càng hay, rốt cuộc thì càng hay? - Porthos kêu. - Cậu không thể tưởng tượng rằng từ khi tôi ở đây đến giờ xương cốt lắm lúc muốn bung ra. Đôi khi ngày chủ nhật đi lễ nhà thờ ra, tôi phóng ngựa băng qua các đồng ruộng, đất đai của những người ở giáp ranh để tìm một chuyện gây sự nho nhỏ nào đó, vì tôi cảm thấy cần thiết, nhưng bạn thân mến ơi, chẳng có cóc gì cả. Hoặc là người ta kính nể tôi, hoặc là người ta sợ hãi tôi chắc hẳn như thế, người ta để mặc cho tôi cùng đàn chó giày xéo đồng linh lăng, vượt trên tất cả thiên hạ, và tôi trở về càng phiền muộn hơn, chỉ, có thế thôi? Cậu hãy cho tôi biết ít ra ở Paris đánh nhau có dễ hơn chút nào không?

- Bạn thân mến ơi, về chuyện đó thật là tuyệt: chẳng còn chiếu chỉ, của còn vệ sĩ của tể tướng(4), chẳng còn de Jussac với lũ cảnh sát(5). Lạy Chúa. Cậu có biết không, dưới một ngọn đèn đường, trong một quán rượu, ở khắp mọi chỗ, anh là một người Fronde, người ta tháo gươm ra, thế là xong. Ông De Guise đã giết chết ông De Coligny.

- Ở ngay giữa quảng trường Hoàng cung, thế mà chẳng sao cả.

- A? Tình hình bây giờ hay đấy! - Porthos nói.

- Và rồi chẳng bao lâu nữa, - D Artagnan nói tiếp, - sẽ có những cuộc chiến đấu hẳn hoi, có súng đại bác, có những đám cháy thật muôn màu muôn vẻ.

- Vậy thì, tôi quyết định.

- Cậu hứa với tôi chứ?

- Dứt khoát rồi. Tôi sẽ tìm Mazarin mà đâm chém. Nhưng mà...

- Nhưng mà sao?

- Nhưng mà ông ta phải phong cho tôi là nam tước.

- Trời ạ. - D Artagnan nói. - Cái đó được quyết định trước tôi đã nói với cậu như vậy và tôi xin nhắc lại tôi bảo đảm cho cái nam tước của cậu.

Sau câu hứa hẹn ấy, Porthos vốn không bao giờ hoài nghi lời của bạn mình, bèn cùng bạn trở về toà lâu dài.

Chú thích:

(1) 1 muy bằng 274 lít

(2) Một tước hiệu phong kiến ban cho một số lãnh chúa.

(3) 1 d'arpent bằng từ 0,2 đến 0,5 ha.

(4) Thời tể tướng Richelieu, người ta ban hành những chiếu chỉ cấm đấu kiếm và cho các vệ sĩ, đi lùng bắt ai vi phạm sẽ bị chém đầu.

(5) Trong chuyện "Ba chàng lính ngự lâm", Jussac là đội trưởng vệ sĩ của tể tướng Richelieu toan bắt d Artagnan đang đấu kiếm với mấy chàng ngự lâm quân, thì hắn củng đồng đội bị d Artagnan cùng các chàng ngự lâm quân đánh bại hoàn toàn.

-*-*-*-

Chương 14

Nếu Porthos không hài lòng vì hoàn cảnh của mình thì Mousqueton lại rất thoải mái với địa vị của hắn. Điều ấy được chứng minh như thế nào?

Trên đường trở về lâu đài, trong khi Porthos đang bơi trong những giấc mơ Nam tước, d Artagnan ngẫm nghĩ đến sự khốn khổ của cái bản chất con người tội nghiệp kia luôn luôn không hài lòng về cái nó có và luôn luôn ham muốn về cái nó không có. Ở vào địa vị của Porthos, hẳn d Artagnan sẽ thấy mình sung sướng nhất trần đởi, và Porthos còn thiếu cái gì để hạnh phúc nhỉ? Mấy chữ cái đặt trước những tên họ của cậu ta và một cái tước miện nho nhỏ sơn lên trên thành xe của cậu ấy.

D Artagnan tự nhủ thầm: "Như vậy là suốt đời ta có trông bên phải, ngó bên trái cũng chẳng bao giờ nhìn thấy gương mặt của một người hoàn toàn sung sướng".

Anh đang suy nghĩ cái điều triết lý ấy, thì Thượng đế dường như muốn đưa ra cho anh một điều cải chính.

Vào lúc đó Porthos rời anh để sai bảo bác đầu bếp, anh thấy Mousqueton tiến lại. Trừ một thoáng gợn như một áng mây mùa hạ điểm trên vẻ mặt đúng hơn là che ám nó, thì gương mặt của chàng trai thật thà ấy tỏ ra là của một con người hoàn toàn sung sướng.

- Kia, cái mà mình đang tìm kiểm, - D Artagnan tự nhủ, - nhưng than ôi! Cái thằng nhỏ tội nghiệp ấy chưa biết vì sao ta lại đến đây.

Mousqueton đứng cách xa. D Artagnan ngồi xuống ghế và ra hiệu cho hắn lại gần. Được phép, Mousqueton tiến đến và nói:

- Thưa ông, tôi xin ông gia ân cho một điều.

- Nói đi, anh bạn.

- Thưa, tôi không dám, tôi e ông sẽ nghĩ rằng phú quý đã làm tôi hư hỏng.

- Vậy là cậu sung sướng phải không? - D Artagnan nói.

- Sung sướng đến thế là cùng, tuy nhiên ông có thể làm tôi sung sướng hơn nữa.

- Cứ nói đi, nếu điều đó tuỳ thuộc tôi, thì xong ngay thôi mà...

- Ôi, thưa ông, điều ấy chỉ tuỳ thuộc ông thôi.

- Tôi nghe đây.

- Thưa ông, cái điều ân huệ mà tôi xin ông là đừng gọi tôi là Mousqueton nữa(1), mà gọi là Mouston. Từ ngày làm quản lý cho đức ông, tôi đã dùng cái tên sau, nó chững chạc hơn và để cho bọn dưới quyền tôi kính trọng tôi hơn. Thưa ông, ông biết đấy, sự lệ thuộc là tối cần thiết đối với bọn tôi tớ.

D Artagnan mỉm cười nghĩ "Porthos thì muốn kéo dài tên mình ra còn Mousqueton thì muốn rút ngắn tên mình lại".

- Thưa ông, thế nào ạ? - Mousqueton run bần bật hỏi.

- Thế thì được thôi, Mousqueton thân mến ạ, - D Artagnan bảo.

- Cậu cứ yên tâm, tôi sẽ không quên điều thỉnh cầu của cậu đâu; và nếu cậu thích, tôi cũng sẽ không gọi cậu bằng cậu hay mày nữa.

Mousqueton đó bừng mặt lên vì vui sướng nói:

- Ôi, nếu ông ban cho tôi điều vinh dự đến thế, thì thưa ông tôi sẽ độí ơn ông suốt đời, nhưng như thế liệu có phải là đòi hỏi quá đáng không ạ?

D Artagnan bụng dạ bảo: "Chao ôi! Như thế thì có thấm tháp gì so với những nỗi ưu phiền bất ngờ mà ta mang đến cho cái thẳng quỷ tội nghiệp này, nó đã đón tiếp ta chu đáo".

Khuôn mặt Mousqueton trở lại thanh thản như trước và nở ra như một bông hoa thược được, hắn hỏi:

- Thế ông còn ở chơi, lâu với chúng tôi chứ ạ?

- Ngày mai tôi đi, anh bạn ạ, - D Artagnan đáp.

- Ôi thưa ông, - Mousqueton nói, - thì ra ông đến chỉ đem lại cho chúng tôi những nỗi luyến tiếc sao?

- Tôi e là như vậy đó, - D Artagnan nói rất khẽ đến nỗi Mousqueton không nghe thấy khi chào và rút lui.

Một niềm ân hận xuyên qua tâm trí d Artagnan, mặc dầu con tim anh đã chai cứng.

Anh không hối tiểc dẫn dắt Porthos vào một con đường mà cuộc sống và tài sản của anh sẽ bị tổn hại, vì Porthos sẵn lòng mạo hiểm tất cả những thứ ấy cho cái tước hiệu nam tước mà anh ao ước giành được từ mười lăm năm nay. Nhưng còn Mousqueton không ao ước gì, ngoài việc được gọi tên là Mouston, thì há chẳng phải là tàn nhẫn khi dứt anh ta ra khỏi cuộc sống thú vị trên cái vực sung túc của anh ta sao? Ý nghĩ ấy đang làm anh bận tâm thì Porthos xuất hiện.

- Ta vào bàn ăn đi. - Porthos bảo.

- Sao, ăn à? - D Artagnan hỏi. - Mấy giờ rồi?

- Ồ bạn thân mến ơi, một giờ rồi đấy.

- Trang ấp của cậu là một thiên đường. Porthos ạ, người ta quên cả thời gian. Tôi đi theo cậu, nhưng tôi không đói đâu.

- Đến đây, nếu như người ta không thể lúc nào cũng ăn thì người ta có thể lúc nào cũng uống được, đó là một câu châm ngôn của Arthos đáng thương mà tôi đã nhận ra tính vững chắc của nó kể từ khi tôi buồn chán.

Bản năng Gascogne làm cho d Artagnan luôn luôn có tiết độ, anh có vẻ không thật tin tưởng như anh bạn mình vào cái định lý không cần chứng giải của Arthos, song anh vẫn làm cái gì mình có thể làm để giữ mình ngang hàng với chủ nhà.

Tuy nhiên, trong khi nhìn Porthos ăn và anh cũng ra sức uống, ý nghĩ về Mousqueton trở lại tâm trí d Artagnan và nó càng mãnh liệt khi mà Mousqueton không tự mình hầu bàn, việc ấy có lẽ thấp hơn địa vị mới của hắn, nhưng chốc chốc lại xuất hiện ở cửa và bày tỏ lòng biết ơn của hắn đối với d Artagnan bằng độ tuổi và gốc gác những loại rượu mà hắn sai mang ra hầu.

Do đó, khi ăn tráng miệng, d Artagnan ra hiệu cho Porthos bảo bọn đầy tớ ra ngoài, còn lại hai người bạn với nhau, d Artagnan nói:

- Porthos này, ai sẽ theo cậu đi các chiến trận?

- Ấy Mousqueton chứ còn ai. - Porthos trả lời một cách tự nhiên.

Một đòn đối với d Artagnan: anh đã trông thấy nụ cười đôn hậu của viên quản lý chuyển thành một cái nhăn nhó đau khổ.

- Nhưng, - D Artagnan đáp, - Mousqueton chẳng phải còn non trẻ gì nữa, bạn thân mến ạ, hơn nữa hắn đã phát phì như ông phễnh và có khi hắn đã mất đi thói quen của công việc hoạt động.

- Mình biết, - Porthos nói, - nhưng tôi dùng hắn đã quen, vả lại hắn chẳng muốn rời tôi đâu, hắn yêu mến tôi quá chừng.

"Ôi! Lòng tự tôn mù quáng?" d Artagnan nghĩ.

- Vả chăng, chính cậu, - Porthos nói, - cậu đã chẳng luôn luôn vẫn dùng một cái thằng hầu đấy sao? Cái thằng tốt bụng, can đảm và thông minh... tên nó là thằng gì nhỉ?

- Planchet. Tôi đã gặp lại nó, nhưng nó không phải là thằng hầu nữa.

- Thế nó là gì?

- Này nhé! Cậu biết đấy, với một nghìn sáu trăm livres mà nó kiếm được trong cuộc bao vây thành La Rochelle(2) do mang bức thư đến cho Lord de Winter(3) hắn đã dựng một cửa hàng nhỏ ở phố Lomba, và trở thành chủ hiệu mứt kẹo.

- A! Nó là chủ hiệu mứt kẹo phố Lombards à? Thế vì sao nó lại đi hầu cậu?

- À nó đang phải trốn tránh, - D Artagnan đáp, - và nó sợ bị nguy hại.

Và chàng ngự lâm quân kể lại cho bạn nghe chuyện anh đã gặp lại Planchet như thế nào.

- Bạn thân mến ơi, - Porthos nói, - có phải vì người ta nói với cậu rằng một hôm Planchet tổ chức cứu thoát Rochefort nên cậu đã che giấu hắn phải không?

- Không hẳn như vậy. Nhưng biết làm thế nào, các biến cố làm thay đổi con người.

- Không còn gì đúng hơn, - Porthos nói, - nhưng có cái không thay đổi, hoặc thay đổi thành tốt hơn, đó là rượu vang. Cậu thử nếm thứ này xem, đó là chính cống nho gốc Tây Ban Nha mà anh bạn Arthos của chúng ta rất thích, vang Xérès đấy.

Vừa lúc ấy viên quản lý đến hỏi ý kiến ông chủ về thực đơn ngày hôm sau và về chuyến đi săn dự định.

- Mouston này, - Porthos nói, - binh khí của ta vẫn còn tốt đấy chứ?

D Artagnan bắt đầu gõ nhịp trên bàn để che giấu sự lúng túng của mình.

- Binh khí của đức ông ấy à? - Mousqueton hỏi, - binh khí nào cơ ạ?

- Thằng quỷ! Cái bộ yên cương ấy.

- Yên cương nào ạ?

- Yên cương trận mạc chứ còn gì.

- À, thưa đức ông, vâng. Tôi chắc là như vậy.

- Ngày mai cậu phải bảo đảm đấy, và nếu cần thì lau chùi cẩn thận. Ngựa đua tốt nhất của ta là con nào?

- Con Vulcain ạ?

- Thế con trường sức nhất?

- Con Bayard ạ?

- Còn cậu, cậu thích con nào?

- Thưa dức ông, tôi thích con Rustaud; đó là một con ngựa hay, tôi dùng thật là hợp tuyệt diệu.

- Lực lưỡng phải không?

- Đó là giống Normand lai với Mecklembourg, cứ là đi cả ngày lẫn đêm.

- Việc của ta đó. Cậu cho ba con vật ấy ăn uống, nghỉ ngơi cho khỏe, cậu lau chùi binh khí cho ta; thêm nữa các súng ngắn cho cậu và một con dao săn.

- Thưa đức ông, chúng ta làm một cuộc viễn du à? - Mousqueton hỏi vẻ lo lắng.

Cho đến lúc ấy, d Artagnan mới chỉ bâng quơ gõ nhịp, bây giờ anh đập một nhịp hành khúc.

- Còn hơn thế nữa kia, - Porthos nói.

- Chúng ta làm một cuộc viễn chinh ư, thưa ông? Viên quản lý nói, mặt từ màu hồng chuyển sang trắng bệch.

- Chúng ta trở lại phụng sự, Mouston ạ? - Porthos vừa đáp vừa cố vấn bộ ria mép để lấy lại cho nó cái vẻ vũ dũng đã mất.

Những lời ấy vừa mới buông ra thì Mousqueton đã bị một cơn run rẩy làm rung rinh và đôi má xệ to tướng trắng nhợt như đá; hắn ta nhìn d Artagnan, vẻ trách móc nhẹ nhàng khó tả mà viên sĩ quan không thể chịu đựng mà không cảm thấy rầu rĩ trong lòng; rồi hắn ta loạng choạng với giọng nghẹn ngào, hắn nói:

- Phụng sự! Phụng sự trong quân đội nhà vua.

- Phải và không phải. Chúng ta lại đi vào trận mạc, tìm kiếm mọi chuyện phiêu lưu, rốt cuộc là sống lại cuộc đời xưa kia.

Cái tiếng cuối cùng đập vào Mousqueton như một tiếng sét. Chính cái xưa kia đến là khủng khiếp ấy nó làm nên cái bây giờ đến là êm đềm!

- Ôi lạy Chúa! Tôi đang nghe cái gì thế nhỉ? - với một cái nhìn còn van vỉ hơn cái nhìn trước, Mouston nói với d Artagnan.

- Biết làm thế nào được, Mouston tội nghiệp của tôi ơi, - D Artagnan nói, - cái số mệnh...

Mặc dầu d Artagnan đã cẩn thận không gọi xếch mé và cho tên hắn cái kích thước mà hắn khao khát, Mousqueton vẫn bị một đòn không kém, và cái đòn khủng khiếp đến nỗi hắn bước ra mà lòng dạ rối bời, quên cả khép cửa lại.

- Cái thằng Mousqueton hiền lành ấy, nó bực tức vì vui mừng đấy mà, - Porthos nói với giọng mà Don-Quichotte phải dùng để động viên Sancho buộc lại yên cương con lừa khi đi làm một chiến trận cuối cùng.

Còn lại hai người, họ xoay ra bàn chuyện tương lai và xây đắp hàng nghìn lâu đài trên bãi cát. Rượu vang ngon của Mousqueton đã khiến họ trông thấy ở d Artagnan một viễn cảnh ngời sáng những đồng tiền vàng và đồng pistol, ở Porthos là dải băng xanh lơ và tấm áo choàng công tước. Thực tế là họ ngủ gục ngay trên bàn ăn khi người ta vào mới họ sang giường ngủ.

Tuy nhiên từ hôm sau d Artagnan đã làm cho Mousqueton vững dạ hơn, anh nói rằng chắc chắn chiến tranh sẽ chỉ diễn ra ở trung tâm Paris vả đến tầm lâu đài Vallon ở gần Corbeil, đến Bracieux ở gần Melun, và đến Pierrefonds ở giữa Compiègne và Villers-Cotterêts.

Nhưng, tôi thấy hình như xưa kia... - Mousqueton rụt rè nói.

- Ồ, bây giờ người ta không làm chiến tranh theo kiểu ngày xưa. Bây giờ là chuyện ngoại giao. Cứ hỏi Planchet mà xem.

Mousqueton đi hỏi Planchet bạn cũ của mình thì Planchet xác minh mọi điểm mà d Artagnan nói; song le anh ta nói thêm rằng trong cuộc chiến tranh này, các tù binh có nguy cơ bị treo cổ.

- Gớm nhỉ! - Mousqueton nói, - có lẽ tôi thích cuộc vây thành La Rochelle hơn.

Còn Porthos, sau khi đã cho giết một con hoẵng để đãi khách, sau khi dẫn khách đi thăm từ cánh rừng lên núi, rồi từ núi đến ao hồ của mình, sau khi đã cho xem tất cả các chó săn, chó đàn và con Gredinet của mình, rốt cuộc là tất cả những gì mình có, và cho làm lại ba bữa ăn thịnh soạn nhất, anh hỏi d Artagnan những lời chỉ dẫn cuối cùng và ông khách buộc lòng phải từ giã bạn để tiếp tục lên đường.

- Này, bạn thân mến ơi! - Vị sử giả nói: - Tôi phải mất bốn ngày để đi từ đây đến Blois, một ngày ở lại đây, ba hoặc bốn ngày trở về Paris. Vậy một tuần nữa cậu ra đi với bộ hạ nhé; cứ đến phố Tiquetonne, khách sạn "Con dê cái nhỏ" và đợi tôi trở về.

- Đồng ý. - Porthos nói.

- Còn tôi, - D Artagnan nói, - tôi sẽ đi một chuyến chẳng hy vọng gì đến chỗ Arthos; nhưng mặc dầu tôi tin rằng anh ta đã trở thành bất lực, ta vẫn cứ phải đối đãi tử tế với bạn bè.

- Nếu tôi đi với cậu, - Porthos nói, - có lẽ cũng hay cho mình đấy.

- Rất có thể, và tôi cũng vậy, - D Artagnan nói, - nhưng cậu sẽ chẳng còn thì giờ để sửa soạn đâu.

- Đúng thế. - Porthos nói. - Vậy cậu đi nhé và can đảm lên; còn tôi, tôi đang hăng hái có thừa.

- Thế thì tuyệt lắm? - D Artagnan nói.

Và họ chia tay nhau trên con đường ranh giới của lãnh địa Pierrefonds mà Porthos muốn tiễn bạn đến chỗ tận cùng của nó.

D Artagnan đi theo con đường Villers-Cotterêts và tự nhủ: "Ít ra ta cũng không bị lẻ loi. Cái thằng quỷ sứ Porthos ấy vẫn còn sung sức ghê. Nếu Arthos cũng đến thì hay lắm, chúng ta sẽ có ba người để cười vào mũi Aramis, cái thằng thày tu lắm số đào hoa ấy".

Đến Villers-Cotterêts, anh viết thư cho tể tướng: "Thưa Đức ông tôi đã có một người để dâng lên Các hạ và anh ta giá trị bằng hai mươi người. Tôi sẽ đi Blois, bá tước de La Fére ở lâu đài Bragelonne gần quanh thị trấn ấy".

Rồi anh lên đường đi Blois, vừa đi vừa trò chuyện với Planchet, hắn là một niềm vui lớn đối với anh trong chuyến viễn du này.

Chú thích:

(1) Mousqueton nghĩa là khẩu súng trường. Đó là tên mà Porthos đặt cho người hầu từ xưa, khi mới vào làm.

(2) La Rochelle-một thành phố cảng ở tây bắc nước Pháp trước do những người theo đạo Tin lành chiếm giữ chống lại chính quyền trung ương, họ được nước Anh chi viện.

(3) Lord de Winter là một nhà quý tộc Anh, anh chồng của Milady trong tập truyện trước. Sau một cuộc đấu kiếm thua, được d Artagnan tha chết, ông trờ thành bạn thân của anh.

-*-*-*-

Chương 15

Hai cái đầu thiên thần

Đó là một chặng đường dài, nhưng d Artagnan không hề lo ngại. Anh biết rằng những con ngựa đã hồi sức ở những máng ăn đầy ắp của lâu đài lãnh chúa de Bracieux. Anh vững tâm lao đi bốn năm ngày đàng, với Planchet trung thành đi theo.

Như chúng tôi đã nói, để chống những nỗi buồn chán dọc đường, hai người ấy lúc nào cũng đi bên cạnh nhau và chuyện trò suốt. Dần dà d Artagnan cởi bỏ cái mã ông chủ và Planchet cởi bỏ cái lốt thằng hầu. Là một kẻ tinh ranh sâu sắc, từ khi sống cuộc đời trưởng giả ngẫu nhiên hắn thường luyến tiếc những bữa ăn ngon lành mà rẻ tiền trên đường thiên lý cũng như những cuộc chuyện trò và đám bạn bầu danh giá của các nhà quý tộc và tự cảm thấy mình có một giá trị nào đó, hắn đau lòng thấy mình bị giảm giá khi tiếp xúc thường xuyên với những kẻ có tư tưởng tầm thường.

Thế là chẳng mấy chốc hắn tự nâng mình lên hàng bạn tri kỷ của con người mà hắn vẫn gọi là ông chủ. Đã từ bao nhiêu năm d Artagnan không cởi mở tấm lòng. Vậy khi gặp nhau, hai con người ấy hợp với nhau một cách tuyệt vời.

Vả chăng, Planchet không phải là một kẻ bạn đường phiêu lưu hoàn toàn tầm thường; hắn thường có những ý hay, không tìm kiếm hiểm nguy nhưng hắn không lùi bước trước những trận đánh, như d Artagnan đã có nhiều dịp chứng kiến. Cuối cùng, hắn đã từng là lính và binh nghiệp nâng cao người ta lên; rồi thì, còn hơn tất cả những điều đó, nếu Planchet cần đến anh thì hắn cũng không phải là kẻ vô dụng đối với anh. Thế là với tư cách hai người bạn tốt mà d Artagnan và Planchet đi đến vùng Blois.

Dọc dường, trở lại cái ý nghĩ vẫn ám ảnh anh hoài, d Artagnan lắc đầu nói:

- Tôi biết rằng việc tôi vận động Arthos là vô ích và vô nghĩa nhưng tôi vẫn cứ phải cư xử như vậy đối với người bạn cố tri, anh ấy có bản chất cao thượng và hào hiệp hơn tất cả mọi con người.

- Ôi! Ông Arthos là một người quý tộc đường hoàng! - Planchet nói.

- Có phải không nào? - D Artagnan nháy lại.

- Ông ấy rắc tiền bạc như mưa, - Planchet nói tiếp, - tuốt kiếm ra với vẻ vương giả. Chắc chắn ông còn nhớ trận đấu kiếm với bọn người Anh ở trong sân tu viện Carmes chứ? Chao ôi, hôm ấy trông thấy ông Arthos sao mà đẹp đẽ uy nghi đến thế khi ông bảo với địch thủ: "Thưa ông, ông đã bắt tôi phải xưng tên với ông, thôi thì mặc kệ ông, vì rằng tôi buộc lòng phải giết ông!". Lúc ấy tôi đứng gần nên nghe thấy ông ấy nói thế. Đúng từng tiếng lời của ông ấy. Và cái ánh mắt ấy, ông ơi lúc ông Arthos đâm trúng địch thủ như ông ấy đã nói" và địch thủ ngã xuống không kêu được rnột tiếng. Ôi! Thưa ông, tôi xin nhắc lại, đó là một nhà quý tộc đường hoàng.

- Phải rồi, - D Artagnan nói, - tất cả những điều ấy đúng như kinh Phúc âm, nhưng ông ta đã mất đi tất cả những phẩm chất ấy vì một khuyết tật.

- Tôi có nhớ, - Planchet nói, - Ông ấy thích uống rượu hay nói đúng hơn là ông ấy uống quá nhiều rượu. Nhưng không uống như những người khác Đôi mắt ông ta chẳng nói gì hết khi ông ấy đưa cốc lên môi. Thực ra, không bao giờ sự im lặng lại nói rõ đến thế. Còn tôi, hình như đã nghe ông ấy lẩm bẩm: "Rượu ơi, hãy vào đi và xua tan những nỗi u buồn trong ta". Và cái cách ông ta đập vỡ một chân cốc hoặc một cổ chai! Chỉ có ông ta mới có cái phong điệu ấy.

- Thế thì hôm nay - D Artagnan nói, - một cảnh tượng đáng buồn đang chờ đợi chúng ta. Con người quý tộc thanh cao với cặp mắt kiêu hãnh ấy, chàng kỵ sĩ đẹp trai thật xuất sắc trong quân ngũ ấy mà người ta thường lấy làm lạ làm sao không cầm một cây gậy chỉ huy mà chỉ cầm một thanh kiếm tầm thường, than ôi! Con người ấy sẽ trở thành một lão già lưng gù, mũi đỏ, mắt như khóc. Chúng ta sẽ gặp ông ta nằm vật trên một bãi cỏ nào đó và nhìn chúng ta bằng con mắt mờ đục và có khi chẳng nhận ra chúng ta nữa. Planchet này, - D Artagnan nói tiếp, - xin Chúa chứng giám, tôi sẽ trốn tránh cảnh tượng buồn thảm ấy còn hơn là cố chứng tỏ lòng kính trọng của mình đối với cái bóng lẫy lừng của vị bá tước de La Fére quang vinh mà chúng ta đã yêu mến xiết bao.

Planchet gật đầu mà không nói một lời, người ta dễ dàng nhận rõ anh đang chia sẻ những nỗi lo âu của ông chủ.

- Thế rồi, - D Artagnan lại nói, - sự suy sụp vì Athos bây giở già rồi, cảnh túng quẫn, có lẽ thế vì ông ta lơ là với chút ít của cải vốn có.

- Và cái tên của nợ Grimaud câm lặng hơn bao giờ hết và say bí tỷ hơn cả chủ mình... này, Planchet ơi, tất cả những điều ấy xé nát lòng tôi.

- Tôi thấy dường như mình đã đến nơi, - Planchet nói với giọng thương cảm, - và tôi trông thấy ông ấy kia kìa miệng thì lắp bắp, đi thì chân nam đá chân chiêu.

- Tôi phải thú nhận rằng, - D Artagnan nói, - tôi chỉ sợ Arthos nhận lời tôi trong một lúc say cuồng chiến. Nếu vậy đối với Porthos và tôi sẽ là một tai hoạ lớn và nhất là một điều rắc rối thật sự; nhưng ngay trong cơn bí tỷ đầu tiên của ông ấy, chúng ta sẽ từ giã, thế là xong. Lúc nào tỉnh, ông ấy sẽ hiểu ra.

- Thưa ông dù sao, - Planchet nói, - chúng ta cũng sẽ hiểu rõ tình hình ngay bây giờ đây. Những bức tường cao vút kia rực đó ánh mặt trời tà chắc hẳn là tường của thị trấn Blois.

- Chắc thế, - D Artagnan đáp, - và những ngọn tháp nhọn hoắt chạm trổ thắp thoáng ở trong rừng phía bên trái kia giống như những cái tôi nghe tả về lâu đài Chambord

- Chúng ta sẽ vào trong thị trấn chứ? - Planchet hỏi.

- Dĩ nhiên, để hỏi thăm.

- Ông này, nếu chúng ta vào đó, tôi khuyên là ta nên nếm thử vài cốc kem mà tôi đã nghe nói đến rất nhiều nhưng khốn thay người ta lại không thể mang lên Paris được, mà phải ăn ngay tại chỗ.

- Cứ yên tâm, ta sẽ làm một chầu, - D Artagnan đáp.

Vừa lúc ấy một cỗ xe loại nặng thắng mấy con bò chở gỗ đốn tại những cánh rừng tươi tốt của vùng này đưa đến cửa sông Lois từ một con đường nhỏ đầy vết bánh xe đi ra đường cái mà hai kỵ sĩ đang đi.

Một người đàn ông đi theo cầm một cây sào cắm đinh ở đầu dùng để thúc lũ bò chậm chạp.

- Này anh bạn ơi! - Planchet gọi người chăn bò.

- Các ông cần gì đó?

Người nông dân nói từ ngôn ngũ đặc biệt thuần khiết của dân vùng này, nó ắt phải làm cho các nhà sính tu từ thành thị trường Sorbonne và phố Đại học Tổng hợp phải hổ thẹn.

- Chúng tôi tìm nhà ông bá tước De La Fére, - D Artagnan nói, vậy ông có biết tên ông ấy trong số những vị lãnh chúa ở quanh đây không?

Nghe nói cái tên đó, người nông dân ngả mũ ra mà đáp:

- Thưa các ông, gỗ này là của ông ấy đấy, tôi đốn gỗ trong dám rừng già và chở đến lâu đài.

D Artagnan không muốn hỏi han thêm bác nông dân, anh rất sợ phải nghe từ miệng một người khác điều mà chính anh đã nói với Planchet.

- Lâu đài? - D Artagnan bụng bảo dạ, - Lâu đài! - A! Ta hiểu rồi! Arthos không kiên lòng, giống như Porthos anh ta bắt nông dân gọi anh ta là Đức ông và gọi túp lều của mình là lâu đài; cái anh chàng Arthos thân mến ấy có bàn tay khắc nghiệt nhất là khi đã nốc rượu.

Những con bò đi chậm chạp, d Artagnan và Planchet đi sau cỗ xe và sốt ruột vì cái nhịp điệu ấy.

D Artagnan hỏi người chăn bò.

- Đúng là đường này phải không? Chúng tôi cứ đi mà không sợ lạc chứ?

- Ồ, lạy Chúa! Đúng đấy ạ, - Bác chăn bò nói, - Ông cứ việc đi trước, chẳng có gì phải đi theo những con bò chậm ri chậm rì này cho khổ. Đi bộ nửa dặm là thấy toà lâu đài ở phía bên phải; đứng ở đây chưa trông thấy đâu, vì vướng một rặng cây bạch dương che khuất. Lâu đài ấy không phải là Bragelonne mà là La Vallière . Ông hãy bỏ qua và đi thêm độ ba tầm súng trường sẽ thấy một toà nhà lớn mái lợp lá đen đứng trên một gò đất rợp bóng những cây phong đồ sộ thì đấy là lâu đài ngài bá tước de La Fére.

- Nhưng nửa dặm ấy có dài không? - D Artagnan hỏì, vì trên đất Pháp tươi đẹp của chúng ta chỗ nào cũng toàn dặm là dặm cả, mà chẳng dặm nào giống nhau.

- Mười phút đi đường ông ạ, với những cái chân nhanh nhẹn của con ngựa ông cưỡì.

D Artagnan cảm ơn người chăn bò, rồi phóng đi ngay lập tức.

Nhưng rồi bụng chẳng muốn mà lòng cứ bối rối với ý nghĩ gặp lại con người đặc biệt kia đã từng quý mến anh xiết bao, đã từng qua những điều khuyên bảo và qua tấm gương của mình góp phần giáo dục anh trở nên một người quý tộc, anh cho ngựa đi chậm dần lại, đầu cúi xuống như một người mơ mộng.

Planchet cũng đã tìm thấy trong cuộc gặp gỡ và thái độ của bác nông dân một chất liệu cho những suy nghĩ nghiêm trang. Ở Normandie hay Franche- Comté , Artois hay Picacdie là những nơi anh từng ở lâu, chưa bao giờ anh gặp những người dân quê lại có đáng điệu thanh thoát như thế, lời ăn tiếng nói thuần khiết như thế.

Anh tưởng như mình đã gặp một nhà quý tộc nào đó thuộc phải như anh, nhưng vì duyên do chính trị đã buộc phải cải trang như anh.

Chợt đến một chỗ đường quanh, lâu đài La Vallière hiện ra trước mắt các lữ khách như bác chăn bò đã nói, rồi đi bộ một phần tư dặm nữa, một toà nhà trắng xoá có những cây phong bao quanh, nổi bật lên trên nền một lùm cây um tùm mà mùa xuân đã rắc lên những bông hoa tuyết.

Bình thường d Artagnan ít xúc động, nhưng trông thấy cảnh tượng này, anh cảm thấy một nỗi xao xuyến lạ lùng thấm sâu vào đáy lòng mình; trong suốt cuộc đời mình những kỷ niệm tuổi thanh xuân mạnh mẽ biết bao. Không có cùng những cảm tưởng ấy, trông thấy chủ mình xao động đến thế, Planchet ngẩn người ra, hết nhìn d Artagnan lại nhìn ngôi nhà.

Người lính ngự lâm tiến thêm mấy bước và đến trước một cổng rào sắt gia công với một thị hiếu khác hẳn lối đúc thời bấy giờ.

Qua cổng rào, nhìn thấy những vườn rau được chăm sóc cẩn thận một cái sân rộng lớn có nhiều ngựa đang giậm chân do những tên hầu mặc quần áo dấu khác nhau dắt, và một cỗ xe thắng hai con ngựa của vùng này.

- Chúng ta nhầm rồi, hoặc là người ấy đã lừa chúng ta. D Artagnan nói, - không thể nào Arthos lại ở đây được. Lạy Chúa!

Hay là anh ấy chết rồi và trang ấp này thuộc về người khác cùng họ với anh. Này Planchet, cậu xuống ngựa và đi vào hỏi xem sao, thú thật tôi chẳng có can đảm vào hỏi đâu.

Planchet xuống ngựa. D Artagnan bảo:

- Cậu nói thêm rằng có một vị quý tộc đi qua muốn được vào chào ngài bá tước de La Fére và nếu cậu thấy hài lòng, với những tin tức lượm được thì hãy nói rõ tên tôi nhé.

Planchet nắm cương dắt ngựa đến cổng, kéo chuông và tức khắc có một người làm, tóc bạc phơ, tuổi đã cao mà lưng vẫn thẳng đi ra và tiếp Planchet.

- Xin hỏi có phải ngài bá tước de La Fére ở tại đây không? - Planchet nói.

- Phải đấy, ông ạ, đúng ở đây, - người hầu không mặc áo dấu trả lời Planchet.

- Một vị lãnh chúa về hưu phải không?

- Đúng thế.

- Và có một người hầu tên là Grimaud? - Planchet lại hỏi, với thói quen thận trọng anh không sợ thừa tin tức.

- Ông Grimaud lúc này không có ở nhà, - người hầu đáp, bác ta không quen với những cách hỏi như vậy và bắt đầu nhìn Planchet từ đầu đến chân.

Planchet mặt mày rạng rỡ kêu lên:

- Thế thì đúng bá tước de La Fére mà chúng tôi tìm kiếm. Vậy xin bác mở cửa cho tôi vì tôi muốn báo tin với ngài bá tước rằng ông chủ tôi là một vị quý tộc, bạn của ngài, đang ở kia và muốn đến chào ngài.

- Thế sao ông không bảo tôi sớm? - Người đầy tớ nói. - Còn vị chủ của ông đâu?

- Ông ấy đi sau tôi.

Người đầy tớ mở cổng và đi trước. Planchet theo sau và ra hiệu cho chủ mình. D Artagnan tim đập hồi hộp hơn bao giờ hết, cưỡi ngựa đi vào sân.

Lúc Planchet bước lên bậc thềm, anh nghe thấy từ trong một căn phòng thấp, một tiếng vọng ra:

"Ơ này! Vị quý tộc ấy đâu, sao lại không dẫn vào đây".

Giọng nói ấy vang lên đến tận tai d Artagnan và đánh thức trong lòng anh muôn vàn tình cảm, muôn vàn kỷ niệm đã lãng quên.

Anh vội vã xuống ngựa, trong khi Planchet nụ cười trên môi tiến vào chỗ chủ nhân ngôi nhà.

- Tôi biết anh chàng này mà! - Arthos xuất hiện trên ngưỡng cửa và nói.

- Ồ, vâng, thưa bá tước, ông biết tôi và tôi cũng biết rõ ông. Tôi là Planchet, thưa bá tước, Planchet, ông biết rõ...

Nhưng anh đầy tớ thật thà đó không nói gì được hơn, dung mạo bất ngờ của nhà quý tộc đã khiến anh xúc động biết chừng nào.

- Sao? Planchet ư? - Arthos kêu lên. - Thế ông d Artagnan ở đây à?

- Tôi đây, bạn ơi! Tôi đây, Arthos thân mến ơi! - D Artagnan nói lắp bắp và hầu như lảo đảo cả người.

Nghe câu nói đó, một nỗi xúc động rõ ràng lần lượt xuất hiện lên gương mặt đẹp đẽ và những đường nét bình thản của Arthos. Anh tiến nhanh mấy bước về phía d Artagnan, mắt vẫn không rời bạn và trìu mến ôm chặt bạn trong vòng tay. D Artagnan qua cơn bối rối, cũng ôm chặt lấy Arthos với một niềm thân ái long lanh thành những giọt lệ trong đôi mắt.

Arthos cầm lấy tay bạn, siết chặt trong tay mình và dẫn bạn vào phòng khách có nhiều người đang quây quần. Mọi người đều dứng dậy. Arthos nói:

- Tôi xin giới thiệu ông hiệp sĩ d Artagnan, trung uý ngự lâm quân của Hoàng thượng, một người bạn tận tụy của tôi, một trong những nhà quỷ tộc dũng cảm nhất và đáng mến nhất mà tôi được quen biết từ xưa.

Theo tục lệ, d Artagnan tiếp nhận những lời chúc mừng của cử tọa, nhiệt liệt chúc mừng lại và cùng ngồi dự, và trong khi cuộc trò chuyện tạm ngừng một lát lại tiếp tục rôm rả, thì anh ngồi ngắm Arthos.

Lạ lùng thật? Arthos chỉ hơi già đi. Cặp mắt đẹp toát ra khỏi cái quầng nâu xám do những đêm thức và những cuộc chè chén say sưa tạo thành trông to hơn và lóng lánh như mặt hồ tinh khiết hơn bao giờ hết; khuôn mặt hơi dài và được tăng thêm vẻ uy nghi bù cho cái mất đi về nét sôi động nhiệt tình; bàn tay mềm mại, lộng lẫy dưới ống tay áo thêu ren, giống như những bàn tay nào đó trong các bức họạ của Titien et de Van Dick (1) thân hình anh mảnh dẻ hơn xưa, hai bắp vai thanh và rộng nói lên một sức mạnh hiếm có, mái tóc đen dài điểm mấy sợi xam xám, rủ xuống đôi vai một cách phong nhã và lượn sóng như một nếp uốn tự nhiên; giọng nói anh vẫn tươi mát như mới ở tuổi hai mươi lăm, hàm răng đẹp còn nguyên vẹn và trắng muổt đem cho nụ cười một vẻ duyên dáng khôn tả.

Tuy nhiên, các vị khách của bá tước qua vẻ lạnh nhạt khó nhận biết của cuộc đàm luận hiểu rằng hai người bạn thân đang nóng lòng mong mỏi được ngồi riêng với nhau. Cho nên với tất cả cái nghệ thuật và phép lịch sự ngày xưa, họ sửa soạn ra về, cái việc trịnh trọng của những người ở xã hội thượng lưu, khi có mặt của những người thượng lưu. Nhưng vừa lúc ấy có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài sân và nhiều người cùng nhao nhao lên:

- A! Raoul trở về.

Nghe đến tên Raoul, Arthos nhìn sang d Artagnan và như vừa rình xem cái tên ấy có gây nên vẻ tò mò nào trên nét mặt bạn mình không. Nhưng d Artagnan chưa hiểu ra sao, anh còn chưa ra khỏi nỗi chói ngợp. Cho nên gần như cái máy anh quay lại, thì thấy một cậu thiếu niên tuấn tú trạc 15 tuổi, ăn vận giản dị nhưng với một thị hiếu hoàn mỹ, bước vào phòng khách và với vẻ duyên dáng ngả chiếc mũ dạ đính những chiếc lông chim dài đỏ thắm.

Vậy mà nhân vật mới lạ này hoàn toàn bất ngờ, đập vào mắt anh. Cả một loạt ý nghĩ mới mẻ ập đến tâm trí anh và bằng mọi nguồn thông minh sắc sảo của anh, đã cắt nghĩa sự thay đổi của Arthos cho đến lúc này vẫn tỏ ra không lý giải được. Một sự giống nhau kỳ lạ giữa vị quý tộc và đứa nhỏ cắt nghĩa cho anh sự bí mật của thời tái sinh này. Anh đợi chờ xem xét và nghe ngóng.

- Anh đã trở về đấy ư, Raoul? - Bá tước nói.

- Thưa ông, vâng, - cậu thiếu niên cung kính đáp, và tôi làm tròn nhiệm vụ mà ông giao cho.

- Nhưng có chuyện gì đấy, Raoul? - Arthos băn khoăn hỏi - Trông anh tái nhợt và có vẻ xao xuyến.

- Thưa ông, - cậu thiếu niên đáp, - chả là vì có một tai họa xảy đến với cô bé láng giềng của chúng ta.

- Với cô De La Vallière ấy à? - Arthos vội hỏi.

- Chuyện gì thế, - vài tiếng người hỏi.

- Cô ấy đi dạo chơi với bà vú Marceline ở khu vườn các bác tiều phu đang đẽo những cây gỗ, thì tôi cưỡi ngựa đi qua trông thấy bà và dừng lại. Lúc ấy cô ta đang đứng trên một đống gỗ, thấy tôi, cô ấy toan nhẩy xuống nhưng bị trượt chân không tài nào dậy nổi. Tôi cho rằng cô ấy bị trẹo mắt cá chân.

- Ôi, lạy Chúa? - Arthos nói.- Thế bà de Saint-Remy, mẹ cô đã biết chưa?

- Không ạ, bà de Saint-Remy đang ở Blois, chỗ bà quận công d Orléans. Tôi e rằng việc chỉ sơ cứu cho cô ta không được tốt, nên chạy về xin ông chỉ bảo.

- Raoul, cho đưa ngay cô ấy ra Blois? Hay tốt hơn hết là tự anh lấy ngựa và chạy ra ngoài ấy.

Raoul cúi mình.

- Nhưng Louise đang ở đâu? - Bá tước hỏi.

- Thưa ông, tôi đã mang đến đây và để nằm ở chỗ vợ bác Charlot; trong khi chờ đợi, bà ấy cho cô bé ngâm chân vào nước lạnh giá.

Câu chuyện ấy đã tạo cái cớ cho các vị khách của Arthos đứng lên và xin cáo từ, riêng lão công tước de Barbé tỏ ra là chỗ thân tình từ hai chục năm nay với nhà La Vallière đi ra thăm cô bé Louis, cô ta đang khóc, nhưng khi trông thấy Raoul thì lập tức chùi ngay đôi mắt diễm lệ và nhoẻn miệng cười.

Cụ công tước bảo đưa cô bé Louise đến Blois bằng cỗ xe ngựa của mình. Arthos nói:

- Cụ dạy phải đấy, cô bé sẽ đến với mẹ sớm hơn. Còn anh, Raoul, tôi chắc anh đã hành động dại dột và việc này có phần lỗi của anh đấy.

- Ồ, thưa ông, không ạ, tôi xin thề như vậy! - Cô gái kêu lên, còn cậu thiếu niên thì tái mặt đi, vì nghĩ rằng mình có thể là nguyên nhân của tai nạn.

- Ôi thưa ông tôi xin cam đoan rằng... - Raoul lẩm bẩm.

- Nhưng anh vẫn cứ phải đi đến Blois, - bá tước ân cần nói tiếp, và anh xin với bà de Saint-Remy thứ lỗi cho anh và cả tôi nữa, rồi trở về đây.

Gò má cậu thiếu niên tươi trở lại; sau khi đưa mắt hỏi ý bá tước, anh ôm cô gái trong đôi cánh tay đã vạm vỡ, cái đầu xinh đẹp của cô vừa nhăn nhó lại vừa tươi cười ngả vào vai anh, anh nhẹ nhàng đặt cô vào trong xe. Rồi nhảy lên ngựa với vẻ phong nhã và khéo léo của một kỹ sĩ thành thạo, anh chào Arthos và d Artagnan, rồí phóng nhanh, đi kèm cạnh cỗ xe ngựa, đôi mắt anh vẫn đăm dăm nhìn vào trong xe.

Chú thích:

(1) Những danh hoạ thời Phục hưng ở Ý và xứ Flamant.

-*-*-*-

Chương 16

Lâu đài Bragelonne

Trong suốt cả màn kịch ấy, d Artagnan van ngồi yên: mắt lơ láo, miệng há hốc; những điều anh dự đoán một đằng lại diễn ra một nẻo đến nỗi anh cứ ngẩn ra vì kinh ngạc.

Arthos nắm tay anh và dẫn ra vườn.

- Trong lúc người ta sửa soạn bữa ăn, - Arthos cười nói, - bạn ơi chắc cậu không phật lòng làm sáng tỏ một chút điều bí ẩn đã khiến cậu mơ màng đến thế.

- Đúng đấy, ông bá tước ạ, - D Artagnan nói, dần dần anh cảm thấy Arthos đã lấy lại cho mình cái uy thế quý phái to lớn mà anh vốn có từ xưa Arthos nhìn anh và cười dịu dàng, nói:

- D Artagnan thân mến của tôi ơi. Trước hết ở đây chẳng có ông bá tước nào hết. Nếu như ban nãy tôi gọi cậu là hiệp sĩ chẳng qua là để giới thiệu với các vị khách của tôi để họ biết cậu là ai, còn đối với cậu d Artagnan ạ, tôi hy vọng rằng bao giờ tôi cũng vẫn là Arthos: người bạn đường, người bạn thân của cậu. Cậu thích nghi thức trịnh trọng phải chăng vì cậu không yêu mến tôi bằng ngày xưa.

- Ôi! Lạy Chúa chứng giám! - Chàng Gascogne nói với vẻ hăm hở chân thành của thời niên thiếu hiếm thấy bộc lộ ở người đứng tuổi.

- Vậy chúng ta nên trở lại thói quen cũ, và để bắt đầu chúng ta nên thành thực. Mọi thứ ở đây đều làm cậu ngạc nhiên phải không?

- Ngạc nhiên vô cùng.

- Nhưng điều làm cậu ngạc nhiên nhất,- Arthos cười nói, - chính là tôi phải không, thú nhận đi.

- Thú thật như vậy!

- Tôi vẫn còn trẻ, có phải không. Mặc dầu tôi đã bốn chín tuổi rồi, tôi vẫn dễ nhận ra được phải không?

- Trái hẳn lại cơ đấy? - D Artagnan sẵn sàng vi phạm điều mà Arthos căn dặn là phải thành thực, - anh chả còn trẻ trung gì đâu.

- A! Mình hiểu, - Arthos hơi đó mặt nói, - mọi cái đều có kết thúc, d Artagnan ạ. Sự cuồng điên cũng như mọi thứ khác.

- Lại còn sự thay đổi về tài sản nữa chứ, hình như vậy. Anh ở thật là tuyệt; tôi đoán toàn nhà là của anh.

- Phải, bạn ạ, đó là gia sản nhỏ mà tôi đã nói với cậu là tôi được thừa kế khi rời quân ngũ.

- Anh có vườn tược ngựa xe, bầy chó.

Arthos cười và nói:

- Vườn rộng hai mươi acpăng trên đó trồng rau và làm nhà phụ.

Ngựa tôi có hai con, dĩ nhiên không kể con ngựa cộc của thằng hầu, đàn chó thì chỉ có bốn con chó canh rừng, hai con chó săn đuổi, và một con săn đón. Mà cái bầy chó xa xỉ ấy, - Arthos mỉm cười nói thêm, - chẳng phải của tôi.

- Phải, tôi hiểu, - D Artagnan, - Đó là dành cho cậu thiếu niên, cho Raoul.

Và d Artagnan nhìn Arthos với một nụ cười gượng.

- Bạn ơi, cậu đã đoán ra! - Arthos nói.

- Và cậu thiếu niên đó là khách, là con nuôi hoặc bà con họ hàng gì chăng? A! Anh đã thay đổi nhiều đấy, Arthos, thân mến?

- D Artagnan thân mến ơi, - Arthos bình thản đáp, - cậu thiếu niên ấy là một đứa trẻ mồ côi mà mẹ nó đã bỏ rơi tại nhà một vị linh mục xã khốn khổ; tôi đã nuôi nấng dạy dỗ nó.

- Chắc nó mến anh lắm nhỉ?

- Tôi nghĩ rằng nó yêu quý tôi như cha đẻ.

- Nhất là rất hàm ơn phải không?

- Ồ, về chuyện ân huệ, - Arthos nói, - thì đều như nhau thôi, tôi hàm ơn nó cũng bằng nó hàm ơn tôi; tôi không nói điều ấy với nó, nhưng tôi nói với cậu, d Artagnan ạ, tôi vẫn là người mang ơn nó.

- Thế là thế nào? - Chàng ngự lâm ngạc nhiên.

- Ôi lạy Chúa! Đúng như vậy. Chính nó đã tạo cho tôi sự đổi thay mà cậu đã thấy đấy. Tôi khô héo như một cái cây lẻ loi chẳng bám tí nào vào đất, chỉ có một tình thân thương sâu sắc mới có thể khiến tôi bám rễ vào cuộc đời. Một cô nhân tình ư? Tôi quá già rồi. Cho nên thằng bé ấy đã giúp tôi tìm thấy lại tất cả những gì đã mất.

- Tôi đã không còn can đảm để sống cho tôi, tôi đã sống vì nó. Những bài học cho một đứa trẻ thì có quá nhiều rồi, tấm gương thì tốt hơn.

- Tôi đã cho nó một tấm gương, d Artagnan ạ. Nhưng ở cái tuổi suy tàn này mình vẫn phải làm hết sức để cho Raoul trở thành một người quý tộc hoàn hảo nhất.

D Artagnan nhìn Arthos lòng càng thêm kính phục. Họ đi dạo trong một vòm cây râm mát lấp lánh những tia nắng lọt xiên của mặt trời tà. Một tia nắng vàng chiếu sáng gương mặt Arthos và cặp mắt anh như phản chiếu lại ngọn lửa ấm áp và yên ả của trời chiều mà chúng đã thu nhận.

Ý nghĩ về Milady(1) chợt đến với d Artagnan. Anh hỏi:

- Và anh hạnh phúc chứ?

Con mắt cảnh giác của Arthos xuyên sâu đến tận đáy lòng d Artagnan và như đọc được cả ý nghĩ của bạn. Anh nói:

- Cũng hạnh phúc như một tạo vật của Chúa được phép hạnh phúc ở trên cõi trần này. Nhưng này, d Artagnan, cậu hãy nói trọn ý nghĩ của cậu đi, vì cậu chưa nói hết.

- Anh thật là kinh khủng, Arthos ạ, và chẳng ai giấu được điều gì.

- Thế thì tôi xin hỏi xem có khi nào anh cảm thấy những cơn nguy hiểm bất ngờ giống như...

- Như những niềm hối hận à? - Arthos tiếp lời - Tôi nói nốt câu của cậu. Đúng và không đúng, tôi chẳng hối hận, vì người đàn bà ấy tôi nghĩ là xứng đáng với hình phạt đã chịu, tôi chẳng hối hận vì nếu như chúng ta để cho nó sống chắc hẳn nó vẫn tiếp tục công cuộc phá hoại, nhưng bạn ơi, điều đó không có nghĩa là tôi có niềm tin rằng chúng ta có quyền làm cái việc chúng ta đã làm. Có lẽ máu nào đổ ra cũng đòi hỏi sự đền tội, cô ta đã đền tội của mình rồi, có thế rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ phải đền tội.

- Arthos ạ, đôi khi tôi cũng nghĩ như anh đấy, - D Artagnan nói.

- Người đàn bà có một thằng con trai phải không?

- Phải.

- Cậu có nghe nói đến nó bao giờ không?

- Không.

- Nó cũng phải hai mươi ba tuổi rồi. - Arthos lẩm bẩm, tôi thường nghĩ đến người thanh niên ấy, d Artagnan ạ.

- Lạ nhỉ, tôi thì quên hẳn!

Arthos mỉm cười buồn bã.

- Thế Lord de Winter(2) cậu có được tin tức gì về ông ấy không?

- Tôi biết ông ta được vua Charles đệ nhất(3) rất là sủng ái.

- Ông vua ấy đã đi theo số phận của mình lúc này cũng chẳng ra gì. D Artagnan này, - Arthos nói tiếp.

- Chuyện ấy trở lại điều mà tôi đã nói với cậu ban nãy.

- Ông ta đã làm đổ máu Straffort, máu kêu trả máu. Thế còn hoàng hậu?

- Hoàng hậu nào?

- Bà Henriette Anh quốc, con gái vua Henri IV ấy.

- Bà ta đang ở cung Louvre, anh biết đấy.

- Phải, ở đấy bà ta thiếu đủ thứ, phải không? Trong những ngày giá rét nhất của mùa đông này, người ta nói là con gái bà ta ốm cứ phải nằm suốt, vì không có củi sưởi? Cậu có hiểu điều đó không? - Arthos nhún vai nói. - Con gái của vua Henri IV rét run lên vì thiếu củi! Tại sao bà không đến xin trú ngụ ở nhà bất kỳ ai trong chúng ta, mà lại đi cầu xin cái lão Mazarin? Bà ta phải được đầy đủ chứ?

- Anh có biết bà ấy à, Arthos?

- Không, nhưng mẹ tôi có thấy bà ta hồi nhỏ. Tôi đã chẳng nói với cậu rằng mẹ tôi là cung nữ của hoàng hậu Marie de Médicis là gì?

- Đâu nào, Arthos, anh có nói những chuyện ấy bao giờ đâu.

- A! Lạy Chúa, có chứ, cậu thấy đấy, - Arthos nói, nhưng cũng phải có dịp chứ.

- Porthos có lẽ chẳng kiên nhẫn chờ đợi như thế đâu, - D Artagnan cười, nói.

- Mỗi người một tánh ý, d Artagnan thân mến ạ. Mặc dầu một chút huênh hoang, Porthos có những đức tính rất tốt. Cậu có gặp lại anh ta không?

- Tôi mới chia tay cách đây năm ngày.

Rồi với cái hào hứng mang tính Gascogne, d Artagnan kể lại tất cả những sự xa hoa tráng lệ của Porthos ở lâu đài Pierrefonds; và vừa công kích bạn mình, anh vừa bắn vài ba mũi tên vào cái ông Mouston trứ danh ấy.

Mỉm cười với cái nét mặt vui vẻ gợi nhớ những ngày xa xưa, Arthos nói:

- Tôi rất thú vị là hồi xưa tình cờ chúng ta đã lập nên một hội những người bạn bè đến nay vẫn còn gắn bó chặt chẽ với nhau, mặc dầu đã hai mươi năm xa cách. D Artagnan này, tình bạn bắt rễ thật sâu trong những trái tim chân thật; cậu tin lời tôi chỉ có những kẻ độc ác mới phủ nhận tình bạn, vì họ chẳng hiểu gì về nó cả. Thế còn Aramis?

- Tôi cũng đã gặp, - D Artagnan đáp, - nhưng cậu ta tỏ vẻ lạnh nhạt với tôi.

- A, cậu đã gặp Aramis, - Arthos vừa nói vừa nhìn d Artagnan, vẻ dò xét - Bạn thân mến ơi, thì ra là một cuộc hành hương thật sự mà cậu tổ chức đến ngôi đền của Tình bạn như các nhà thơ có thể nói.

- Phải đấy, - D Artagnan lúng túng đáp.

- Cậu biết đấy - Arthos nói tiếp, - Aramis vốn tính lạnh lùng, với lại cậu ta luôn luôn bận rộn về những chuyện đàn bà.

- Tôi tin rằng hiện giờ cậu ta đang mắc vào một chuyện đàn bà hết sức phức tạp.

Arthos không đáp.

"Anh ta không tò mò", d Artagnan nghĩ.

Không những Arthos không đáp, mà anh còn lái sang chuyện khác. Anh tỏ rõ cho d Artagnan thấy là đã về gần đến lâu đài và nói:

- Cậu thấy đấy trong một giờ đồng hồ đi dạo, chúng ta đi gần một vòng quanh lãnh ấp của tôi.

- Mọi thứ ở đây đều mỹ lệ và nhất là mọi thứ đều sực nức hơi hướng nhà quý tộc của nó, - D Artagnan đáp.

Vừa lúc ấy có tiếng vó ngựa.

- Raoul trở về, - Arthos nói, - chúng ta về xem tình hình cô bé tội nghiệp thế nào?

Quả nhiên cậu thiếu niên xuất hiện ở cổng rào và đi vào trong sân, người phủ đầy bụi, rồi nhảy xuống đất, trao ngựa cho người chăn. Cậu đến chào bá tước và vị khách.

Arthos đặt tay lên vai d Artagnan và nói:

- Ông đây là hiệp sĩ d Artagnan mà anh vẫn thường nghe tôi nói đến đấy, Raoul ạ.

Raoul lại cúi chào cung kính hơn và nói:

- Ông bá tước đã nói đến tên ông trước mặt tôi như một tấm gương mỗi lần ông muốn dẫn chứng về một người quý tộc gan dạ và hào hiệp.

Lối khen tụng nho nhỏ ấy chẳng khỏi làm d Artagnan cảm động, anh thấy lòng mình nhẹ nhàng xao xuyến. Anh giơ bàn tay cho Raoul mà bảo:

- Anh bạn trẻ của tôi ơi, tất cả những lời người ta khen ngợi tôi phải trở về với ông bá tước đây, bởi vì ông đã giáo dục tôi mọi điều, và chẳng phải lỗi tại ông nếu như người học trò không biết lợi dụng đầy đủ. Nhưng ông sẽ bù đắp ở anh, tôi chắc chắn như vậy. Raoul, tôi thích phong thái của anh, thái độ lịch sự của anh đã làm tôi cảm kích.

Arthos mừng rỡ hơn người ta tưởng. Anh nhìn d Artagnan vẻ biết ơn, rồi mỉm cười với Raoul - một nụ cười kỳ lạ mà trẻ con lấy làm hãnh diện khi nhận được.

Cái trò kịch câm ấy không thoát khỏi cặp mắt d Artagnan và anh tự bảo: "Bây giờ thì ta biết chắc như cua gạch rồi..."

- Thế nào! - Arthos nói, - ta hy vọng rằng tai nạn ấy không có hậu quả gì nghiêm trọng.

- Thưa ông, cũng chưa biết thế nào, thầy thuốc chưa thể nói gì do chỗ đau sưng to; tuy nhiên ông ấy cũng lo bị chấn thương ở một chỗ gân nào đó.

- Thế anh không nấn ná lại lâu hơn ở nhà bà Saint-Remy à?

- Tôi sợ về trễ giờ ăn, - Raoul đáp - như vậy sẽ để ông phải chờ đợi.

Vừa lúc ấy một thằng nhỏ nửa nông dân, nửa người hầu đến thưa là bữa ăn đã dọn ra.

Arthos dẫn khách vào một phòng ăn giản dị, nhưng cửa sổ một phía mở ra vườn và một phía mở ra một nhà kính trồng hoa rực rỡ.

D Artagnan đưa mắt nhìn bộ đồ ăn: bát đĩa đẹp thật, trông rõ là đồ bạc cổ của gia đình. Trên tủ dựng bát đĩa là một bình dựng nước bằng bạc lộng lẫy, d Artagnan ngắm mãi.

- Ô! Làm thánh thật! - Anh nói.

- Phải, - Arthos đáp, - đó là một tác phẩm lớn của một nghệ sĩ florintin tên là Benvenuto Cellini

- Thế còn trận chạm trán đó là trận gì?

- Trận Marignan . Đó là lúc một vị tổ tiên của tôi đưa kiếm cho vua Françoise đệ nhất vì kiếm của ngài vừa bị gẫy. Nhờ dịp ấy mà Enguerrand de La Fère, ông tổ của tôi được tặng huân chương Saint-Michel. Ngoài ra mười lăm năm sau nhà vua không quên đã chiến đấu ba tiếng đồng hồ nữa bằng thanh kiếm của ông bạn Enguerrand mà kiếm không gãy, cho nên đã tặng cho ông cái bình kia và một thanh kiếm mà có lẽ hồi xưa cậu đã trông thấy ở nhà tôi, và nó cũng là một đồ kim hoàn rất đẹp đấy. Đó là thời của những người khổng lồ, Arthos nói. - Chúng ta đây, chúng ta là những thằng lùn bên cạnh những con người đó. D Artagnan ta ngồi xuống và ăn đi. Tiện đây, - Arthos bảo thằng nhỏ vừa đưa món xúp ra, - gọi bác Charlot đến.

Thằng nhỏ đi ra và một lát sau bác đầy tớ mà hai người khách đã hỏi lúc mới đến đây bước vào.

- Bác Charlot thân mến ơi, tôi dặn riêng bác về Planchet, người hầu của ông d Artagnan, trong suốt thời gian anh ta ở đây: Anh ta thích rượu vang ngon, mà bác thì có chìa khoá hầm rượu đấy. Lâu nay anh ta ngủ trên ván cứng hẳn không chê một cái giường êm ái. Tôi mong bác hãy chăm lo đến việc ấy nhé.

Charlot cúi mình và đi ra.

- Charlot cũng là một người trung hậu; - bá tước nói, bác ấy giúp việc tôi mười tám năm rồi.

- Anh nghĩ đến mọi việc, - D Artagnan nói, - và tôi xin cảm ơn anh về Planchet, Arthos thân mến.

Cậu thiếu niên trợn tròn mắt khi nghe tên ấy và nhìn xem có đúng là d Artagnan nói với bá tước không.

- Cái tên ấy có vẻ kỳ lạ đối với anh phải không, Raoul? - Arthos cười nói - đó là biệt danh của tôi trong quân, ngũ khi ông d Artagnan cùng với hai người bạn dũng cảm và tôi, chúng tôi lập những chiến tích ở thành La Rochelle dưới thời ông cố giáo chủ và ông De Bassompierre, ông này sau cũng chết rồi. Ông d Artagnan chiếu cố giữ cho tôi cái tên bè bạn ấy và mỗi lần nghe nói đến lòng tôi rất hân hoan.

- Cái tên lừng lẫy lắm đấy, - D Artagnan nói, - và một hôm nó đã mang vinh dự khái hoàn.

- Thưa ông, thế là thế nào ạ. - Raoul hỏi, vẻ tò mò một cách ngây thơ.

- Thật tình tôi chẳng biết gì cả, - Arthos nói.

- Anh đã quên cái đồn Saint-Gervais và tấm khăn ăn mà ba vết dạn đã làm nên lá cờ. Trí nhớ tôi tốt hơn của anh, tôi vẫn còn nhớ và tôi sẽ kể cho chàng trai này nghe.

Và anh kể lại tất cả câu chuyện về cái đồn cũng như Arthos đã kể cho anh nghe câu chuyện về ông cụ tổ.

Nghe chuyện, chàng thiếu niên thấy như đang diễn ra một trong những chuyện binh đao do Tasse ou l Arioste kể và nó thuộc về nhưng thời hiệp sĩ thần kỳ.

- Nhưng Raoul này, - Arthos nói, - có điều d Artagnan không nói cho anh nghe ông ấy là một trong những tay kiếm cự phách nhất của thời ấy; bắp chân sắt, cổ tay thép, ánh mắt tinh xác và cái nhìn nảy lửa đấy lả cái mà ông phô ra với địch thủ. Ông ấy mười tám tuổi, hơn anh có ba tuổi Raoul ạ, khi tôi thấy ông ấy đã xuất trận lần dầu tiên và đấu với những người đã được thử thách.

- Và ông d Artagnan là người chiến thắng chứ? - Chàng thiếu niên nói, mắt long lanh trong suốt câu chuyện ấy và như muốn hỏi thêm những tình tiết.

- Tôi cho là đã giết chết một tên? - D Artagnan vừa nói vừa đưa mắt hỏi Arthos. - Còn tên nữa, tôi đã tước vũ khí hoặc đánh bị thương, tôi không nhớ nữa.

- Phải, cậu đánh nó bị thương. Ô, cậu là một võ sĩ ghê gớm.

- Này, thế mà tôi cũng chưa mất mát lắm đâu, - D Artagnan nói tiếp với một nụ cười Gascogne đầy tự mãn, - ngay gần đây thôi.

Thấy Arthos đưa mắt nhìn anh im bặt.

- Raoul này, - Arthos nói, - anh thường tự cho mình là một tay kiếm giỏi và tự phụ có thể một ngày nào đó chịu một nỗi thất vọng tàn nhẫn. Tôi muốn anh hiểu rằng người nào kết hợp được tính bình tĩnh với tài lanh lẹn khôn khéo thì thật là nguy hiểm, vì không bao giờ tôi có thể giới thiệu với anh một thí dụ hiển nhiên hơn: nếu ông d Artagnan không mệt, anh hãy xin với ông, ngày mai cho anh một bài học.

- Ơ kìa, Arthos thân mến, chính anh là một ông thầy giỏi, nhất là về mặt những phẩm chất mà anh khoe về tôi. Này, mới sớm nay thôi, Planchet nói với tôi về trận đấu kiếm trứ danh ở trong sân tu viện Carmes với Lord de Winter và đồng bọn. A! Chàng trẻ này, - D Artagnan nói tiếp, - có một tay kiếm đâu đây mà tôi vẫn thường gọi là đệ nhất của vương quốc đấy.

- Ồ tôi đã làm hư bàn tay mình với thằng nhỏ này đấy - Arthos nói.

- Có những bàn tay không bao giờ hư đâu, Arthos thân mến ạ, - D Artagnan nói, - nhưng làm hư rất nhiều những bàn tay khác.

Cậu thiếu niên muốn cuộc chuyện trò kéo dài suốt cả đêm, nhưng Arthos đã nhắc rằng vị khách ắt là mệt và cần nghỉ ngơi.

D Artagnan chối từ vì lịch sự, nhưng Arthos ép anh về phòng dành cho anh. Raoul dẫn khách đến đó. Và do Arthos đoán rằng Raoul có thể sẽ nấn ná thật muộn bên d Artagnan để bắt anh kể tất cá những chuyện dũng lược thời trai trẻ của họ, một lát sau anh tự đến tìm và kết thúc buổi tối tốt lành ấy bằng một cái bắt tay rất thân mật và lời chúc chàng ngự lâm quân ngủ ngon.

Chú thích:

(1) Milady, trong tập truyện trước đã từng là vợ của Arthos, sau trở thành gián điệp nguy hiểm của Richelieu, cuối cùng bị các chàng ngự lâm quân giết.

(2) Anh chồng của Milady.

(3) Charles I (1610-1649), vua các nước Anh, Scot và Ireland. Đi theo con đường độc tài chuyên chế nên vấp phải sự chống đối mạnh mẽ đưa đến nội chiến. Bị bại trận rồi bị nộp cho quân của Cromwell, sao đó bị xử chém.

-*-*-*-

Chương 17

Phép xã giao của Arthos

Artagnan đi nằm để được được một mình suy nghĩ đến tất, cả những điều mắt thấy tai nghe trong buổi chiều tôi nay hơn là để ngủ.

Do bản chất tốt và ngay thoạt đầu đối với Arthos đã có một cảm tình bản năng nó dẫn đến một tính bằng hữu chân thành d Artagnan vui mừng được gặp lại một con người nổi bật về trí dũng, chứ không phải là một gã say rượu đần độn mà anh chờ đợi nom thấy say mềm nằm vật vạ trên một đống phân; anh chẩp nhận mà không quá phản kháng cái ưu thế bất biến của Arthos đối với mình, và thay cho lòng ganh ghét và thất vọng có thể làm phiền muộn một bản chất kém khoan dung, rốt cuộc anh chỉ cảm thấy một niềm vui chân thành và trung thực khiến anh mang những kỳ vọng thuận lợi nhất cho cuộc thương lượng của mình.

Tuy nhíên anh không thấy Arthos thành thực và minh bạch về mọi điểm. Cái cậu thíếu niên mà anh ta nói là con nuôi và giống anh như đúc ấy là thế nào nhỉ? Việc trở lại cuộc sống của xã hội thượng lưu và vẻ thanh đạm cường điệu mà anh nhận thấy ở bàn ăn là thế nào?

Một điều bề ngoài có vẻ vô nghĩa là sự vắng mặt của Grimaud mà xưa kia Arthos không bao giờ xa rời, và tên hắn ta cũng không hề được nhắc đến mặc dầu có những chuyện đã hé đề cập tới, tất cả những điều đó khiến d Artagnan băn khoăn. Như vậy là anh không còn được bạn mình tin cậy, hoặc giả Arthos đã bị vướng mắc vào một sợi dây vô hình nào đó, hoặc là đã được báo trước về chuyến viếng thăm của anh.

Anh không thể không nghĩ đến Rochefort, đến điều mà ông ta nói với anh ở nhà thờ Đức bà. Phải chăng Rochefort đã đến nhà Arthos trước anh? D Artagnan không có thì giờ để mắt vào những việc nghiên cứu lâu la. Nên anh quyết là ngày hôm sau đi đến một sự lý giải. Cái tài sản ít ỏi được Arthos ngụy trang khéo léo báo hiệu lòng ham muốn xuất hiện và tiết lộ chút tham vọng còn sót lại dễ dàng bị đánh thức dậy. Sức mạnh về tinh thần và sự rành rọt về tư tưởng của Arthos khiến anh một con người dễ xúc cảm hơn kẻ khác. Tính hoạt động vốn có của anh được nhân đôi vì nhu cầu riêng, anh sẽ càng hăng hái gấp bội bước vào những kế hoạch của quan tể tướng.

Những ý nghĩ ấy khiến d Artagnan thao thức mặc dầu rất mệt mỏi; anh vạch ra những kế hoạch công kích và dù biết Arthos là một đối thủ đáng gờm, anh ấn định hành động vào ngày hôm sau, sau bữa ăn lót dạ.

Tuy nhiên anh cũng tự chủ về một mặt khác, trên một trường đấu khá mới mẻ phải tiến lên một cách thận trọng, nghiên cứu trong nhiều ngày những hiểu biết của Arthos, theo dõi và tìm hiểu những thói quen mới của anh ta; qua việc tập đấu kiếm hoặc đi săn với cậu thiếu niên, thử moi ở cậu những tin tức gián tiếp mà anh còn thiếu, để nối liền chàng Arthos ngày xưa với chàng Arthos ngày nay; điều ấy chắc dễ dàng vì rằng người thầy giáo nào chẳng lây lan một phần con người mình sang tâm trí học trò. Nhưng bản thân d Artagnan vốn là một chàng trai rất tinh ma, ngay lập tức anh hiểu rằng những rủi ro gì sẽ chờ đợi anh trong trường hợp một sự không kín đáo hoặc vụng về có thể làm lộ tẩy những cuộc vận động của anh trước con mắt lão luyện của Arthos.

Rồi có cần nói đến điều này nữa không? D Artagnan sẵn sàng dùng mưu mẹo chống lại tính giảo quyệt của Aramis hoặc thói huênh hoang của Porthos, nhưng anh hổ thẹn nếu phải lắt léo với Arthos, con người thẳng thắn và trung hậu. Anh thấy dường như trong khi công nhận anh là bậc thầy của họ về khoa học xã giao. Aramis và Porthos sẽ càng coi trọng anh hơn nữa, còn Arthos thì trái lại sẽ coi thường anh.

- A! Tại sao cái tên Grimaud câm lặng lại không có đây nhỉ? - D Artagnan nghĩ - Trong cái im lặng của hắn có khối điều mà ta có thể hiểu. Grimaud có một sự im lặng thật là hùng hồn. Trong khi đó những tiếng ồn ào lần lượt tắt dần trong ngôi nhà, d Artagnan đã nghe đóng các cửa giả; những tiếng chó sủa chốc chốc vang lên đáp lại nhau trong thôn xóm cũng im ắng, cuối cùng một con hoạ mi lạc lõng trong một lùm cây có lúc hót lên những cung điệu du dương giữa đêm thâu cũng ngủ nốt; trong lâu đài chỉ còn tiếng bước chân bình thản và đều đều ở phía dưới phòng anh; anh đồ chừng đó là phòng của Arthos. Anh ngẫm nghĩ:

- Anh ta đi đi lại lại và suy nghĩ, nhưng suy nghĩ đến cái gì cơ chứ? Đó là điều không thể biết được.

Người ta có thể đoán ra cái khác, chứ không thể đoán ra điều ấy.

Cuối cùng chắc hẳn Arthos đi nằm, vì cái tiếng động cuối cùng ấy cũng tắt ngấm.

Im lặng và mệt mỏi hùa với nhau đã thắng d Artagnan, đến lượt anh nhắm mắt lại và hầu như ngay lập tức anh thiếp đi.

D Artagnan không phải là người ngủ nhiều. Bình minh vừa mới nhuốm vàng các tấm rèm, anh đã nhảy ra khỏi giường và mở cửa sổ.

Qua tấm mành anh thấy như có người lảng vảng ở ngoài sân và tránh gây tiếng động. Theo thói quen không khi nào để lọt qua một vật nào trong tầm nhìn của mình mà không biết chắc đó là cái gì, d Artagnan chăm chú nhìn không gây tiếng động và nhận ra chiếc áo chẽn màu đỏ và bộ tóc màu nâu của Raoul.

Chàng thiếu niên, vì đúng là cậu ta, mở chuồng ngựa dắt ra con ngựa màu hồng nhạt mà hôm qua cậu đã cưỡi, tự mình thắng yên cương với vẻ nhanh nhẹn và khéo léo như người kỵ sĩ thành thạo nhất rồi cho con ngựa đi ra theo lối bên phải của con đường nhỏ, kéo ngựa ra ngoài, đóng cửa lại sau mình, rồi qua mép bờ tường, d Artagnan trông thấy cậu ta phóng đi như mũi tên, cúi mình dưới những cành nở hoa rủ lòng thòng của những cây phong và cây keo.

Từ hôm qua d Artagnan đã thấy đó là con đường dẫn đi Blois.

- Hề! Hề! - Chàng Gascon nói, - lại một thằng nhóc bắt đầu biết đi tán gái, nó chẳng giống Arthos luôn thù hằn phái đẹp. Không phải nó đi săn vì chẳng mang súng ống và chó; cũng không phải được đi sai làm việc vì nó có vẻ len lén. Len lén giấu ai cơ? Ta hay bố nó?... Mà ta chắc chắn rằng bá tước là bố nó... Mẹ kiếp về chuyện này ta sẽ rõ, vì ta sẽ nói thẳng với Arthos.

Trời sáng dần, tất cả những tiếng động mà ban đêm d Artagnan nghe lần lượt tắt ngấm bây giờ lại nối tiếp nhau bừng dậy: con chim trên cành cây, con chó trong chuồng bò, đàn cừu ngoài cánh đồng. Những con thuyền neo trên bờ sông Loire cũng sống động lên, rời bến và trôi theo dòng nước. D Artagnan cứ đứng thế ở cửa sổ để khỏi làm ai thức giấc, rồi khi đã nghe tiếng các cửa của toà lâu đài mở ra, anh vuốt lại mái tóc, vân vê lại chòm ria, theo thói quen phủi vành mũ bằng ống tay áo chẽn và đi xuống. Vừa mới bước qua bậc thang cuối cùng anh đã nom thấy Arthos đang cúi xuống đất với cái vẻ của một người đang tìm một đồng tiền trên cát.

- A! Xin chào chủ nhân thân mến, - D Artagnan nói.

- Chào bạn thân mến. Đêm qua ngủ ngon chứ?

- Tuyệt, Arthos ạ, như cái giường của anh, như bữa ăn tối của anh, nó đã dẫn tôi đến giấc ngủ, như sự tiếp đãi của anh khi gặp lại tôi. Nhưng kìa, sao anh nhìn cái gì chăm chú thế? Hay là tình cờ anh trở thành nhà tài tử chơi hoa tuy líp đấy?

- Bạn thân mến ơi, không nên vì thế mà cậu giễu cợt tôi nhé. Ở nông thôn các thị hiếu thay đổi nhiều lắm và người ta yêu thích mà không hay biết tất cả những cái đẹp được. Chúa làm nảy ra từ lòng đất và rất bị coi thường ở thành thị. Tôi đang nhìn những cây hoa iris ( Huệ tím ) tôi đặt bên cạnh cái bể này đã bị giẫm nát sớm nay. Bọn làm vườn là những tay vụng về nhất đời. Cho ngựa đi kéo nước xong trở về họ để chúng giẫm lên cả các vạt đất trồng cây.

D Artagnan mỉm cười. Anh nói:

- Anh tưởng thế à?

Và anh dẫn bạn theo dọc lối đi in đầy những vết chân giống hệt những vết chân đã giẫm lên những cây iris.

- Arthos xem này, cả những vết ở đây nữa, - D Artagnan thản nhiên nói.

Ù nhỉ mà những vết chân còn mới nguyên.

- Mới nguyên, - D Artagnan nhắc lại.

- Sáng sớm nay, ai mới đi ra ngoài nhỉ? - Arthos băn khoăn tự hỏi, - hay là một con ngựa đã xổng chuồng?

- Không thể như vậy được, - D Artagnan nói, - vì những bước chân rất đều và thư thả.

- Raoul đâu rồi? - Arthos kêu lên. - Sao tôi không trông thấy nó nhỉ.

- Sụyt! - D Artagnan đưa một ngón tay lên miệng và cười .

- Có chuyện gì vậy. - Arthos hỏi.

D Artagnan kể lại điều anh đã trông thấy và theo dõi sắc mặt của chủ nhân.

- A! Bây giờ tôi đoán ra rồi, - Arthos khẽ nhún vai nói, - thằng bé tội nghiệp lại đi đến Blois.

- Để làm gì?

- Ồ, lạy Chúa! Để hỏi tin tức về con bé La Vallière. Cậu biết đấy, con bé bị ngã trật chân hôm qua.

- Anh nghĩ thế à? - D Artagnan nói, vẻ không tin.

- Không những tôi nghĩ mà tôi chắc chắn như vậy. - Arthos đáp, - Anh không nhận thấy rằng Raoul nó phải lòng à?

- Chà! Phải lòng ai? Con bé bảy tuổi ấy à?

- Bạn thân mến ơi, ở cái tuổi của Raoul, trái tim nó đầy chan chứa đến nỗi nó phải cho tràn ra một vật nào đó dù là mộng hay thực. Cho nên, tình yêu của nó cũng nửa là mộng nửa là thực.

- Anh đùa đấy ư? Sao? Con bé nhỏ tí ấy à?

- Anh đã không nhìn ư? Đó là một tạo vật xinh đẹp nhất đời: mái tóc hoe ánh bạc, cặp măt xanh thế mà đã vừa linh lợi vừa thẫn thờ.

- Nhưng anh nói gì về mối tình đó?

- Tôi chẳng nói gì hết, tôi cười và mặc kệ Raoul; nhưng những nhu cầu đầu tiên ấy của con tim rất khẩn thiết, những nỗi tương tư chan chứa ở những người trẻ tuổi ấy nó êm ái mà đồng thởi cũng đắng cay đến mức nó như thường mang tất cả những đặc điểm của một mối tình si. Tôi còn nhớ hồi ở tuổi Raoul, tôi say mê một pho tượng Hy Lạp mà đức vua Henri IV cho cha tôi và tôi nghĩ đến phát điên lên vì đau khổ khi người ta bảo tôi rằng câu chuyện về Pygmalion chỉ là một chuyện hoang đường(1).

- Đó là vô công rồi nghề. Anh không giao đủ việc cho Raoul và tự nó kiếm chuyện đấy.

- Chẳng có việc gì khác. Cho nên tôi đã nghĩ cho nó đi khỏi nơi đây.

- Anh làm thế là tốt.

- Chắc thế, nhưng việc đó sẽ làm nó tan nát cõi lòng và nó sẽ đau khổ như với một mối tình thực sự. Từ ba bốn năm rồi khi ấy chính nó cũng là một đứa trẻ, nó đã quen trang điểm và ca ngợi cái thần tượng bé bỏng ấy mà một ngày nào đó nó sẽ đi tới tôn thờ nếu như nó ở lại đây. Hai đứa trẻ ấy suốt ngày cùng mơ mộng với nhau và chuyện trò hàng nghìn điều nghiêm túc cứ như là những tình nhân thực sự hai mươi tuổi. Từ lâu bố mẹ của con bé La Vallière đã buồn cười về chuyện này, nhưng gần đây ông bà ấy đã bắt đầu cau mày rồi đó.

- Chuyện trẻ con vớ vẩn! Nhưng Raoul cũng cần được giải khuây; nên nhanh chóng cho nó đi khỏi đây nếu không thì, mẹ kiếp, chẳng bao giờ anh làm cho nó nên người được.

- Tôi định gửi nó đến Paris.

- A! - D Artagnan kêu lên.

Và anh nghĩ rằng thời kỳ chiến tranh đã đến.

- Nếu anh muốn, - anh nói, - chúng ta có thể tạo một vận mệnh cho cậu thiếu niên ấy.

- A! - Đến lượt Arthos kêu lên.

- Tôi cũng muốn hỏi ý kiến anh về một điều này ra trong khối óc tôi.

- Nói đi.

- Anh có nghĩ là đã đến lúc lại ra làm việc không?

- Thì cậu đã chẳng đang làm việc đấy ư, d Artagnan?

- Tôi muốn nói công việc hành động. Cuộc đời xưa kia chẳng còn gì cám dỗ anh nữa sao? Và nếu như những lợi ích thật sự đang chờ đợi anh, anh chẳng vui lòng lại bắt đầu những chiến công của thời trai trẻ chúng ta ở đại đội của tôi hoặc đại đội của anh bạn Porthos ư?

- Thế là cậu đưa ra với tôi một đề nghị? - Arthos nói.

- Rõ ràng và thẳng thắn.

- Để lại vào trận?

- Phải.

- Của ai và chống lại ai? - Arthos hỏi đốp lại ngay và nhìn chàng Gascon bằng con mắt thật sáng suốt và thật nhân hậu.

- A! Quỷ thật? Anh vội vã thế?

- Và nhất là minh bạch: Cậu nghe đây, d Artagnan, chỉ có một nhân vật hay nói đúng hơn một lợi ích vì đó mà một người như tôi xem ra còn có thể có ích: đó là lợi ích của nhà vua.

- Chính xác như vậy đấy, - chàng ngự lâm nói.

- Phải, chúng ta hãy thông với nhau, - Arthos nghiêm trang nói tiếp - nếu như cậu hiểu lợi ích của Mazarin là lợi ích của nhà vua, thì chúng ta nên thôi không tìm cách hiểu lẫn nhau nữa.

- Tôi không nói chính xác, - chàng Gascon lúng túng đáp.

- Này, d Artagnan, - Arthos nói, - ta đừng chơi cái trò lập lờ ấy: sự ngập ngừng và những kiểu loanh quanh của cậu cho tôi thấy rõ cậu từ phía nào đến. Cái lợi ích ấy quả thật người ta không dám lớn tiếng thú nhận, nhưng khi người ta chiêu mộ cho nó thì tai cụp xuống và giọng nói lúng túng.

- A! Arthos thân mến của tôi, - D Artagnan kêu.

- Ê! - Arthos nói tiếp - Cậu biết rõ là tôi không nói cậu, cậu là hòn ngọc của những người dũng cảm và táo bạo, tôi nói với cậu về cái lão người Ý bần tiện và mưu mô, về cái đứa thô bỉ đang cố đặt lên đầu nó một cái vương miện mà nó ăn cắp ở dưới một tám gối, về cái thằng bần tiện nó gọi đảng phái của nó là đảng phái của nhà vua và tính đến bắt giam các thân vương mà không dám giết họ như ông giáo chủ của chúng ta, vị giáo chủ vĩ đại đã làm; một tên biển lận cân các đồng êquy vàng và giữ những đồng tiền bị cắt xén vì dù rằng chuyên cờ bạc bịp hắn vẫn sợ nhỡ ngày hôm sau thua bạc; cuối cùng, một tên vô lại nó hành hạ hoàng hậu, theo người ta nói chắc như vậy với lại cũng mặc kệ bà ta! Và trong ba tháng nữa hắn sẽ gây ra một cuộc nội chiến chống lại chúng ta để giữ gìn những khoản lương bổng của nó. Đây là vị minh chủ mà cậu đề nghị với tôi ư, d Artagnan? Xin đa tạ nhé!

- Anh nóng nảy hơn xưa đấy, xin Chúa tha tội! - D Artagnan nói. - Năm tháng đã không làm nguội lạnh đi mà hun nóng dòng máu anh. Ai bảo anh đó là minh chủ của tôi và tôi muốn áp đặt cho anh?

"Chết thật! - Chàng Gascon tự nhủ. - Ta chẳng dại gì mà trao những bí mật cho một người không sẵn lòng đến thế".

- Bạn thân mến ơi, - Arthos nói tiếp, thế bây giờ những đề nghị ấy là gì?

- Ôi lạy Chúa! Chẳng có gì đơn giản hơn: Anh sống trong điền địa của anh và hình như anh lấy làm sung sướng trong cảnh sống xuềnh xoàng mạ vàng của mình. Porthos có năm sáu chục nghìn livres niên thu thì phải; Aramis lúc nào cũng có mười lăm bà công tước giành nhau vị tu giáo cũng như ngày xưa tranh giành nhau chàng ngư lâm quân; đó cũng còn là một đứa con cưng của số mệnh; nhưng còn tôi tôi làm cái thá gì ở cõi đời này? Tôi mang tấm áo giáp và miếng da trâu từ hai mươi năm nay, bảm chặt lấy cái chức vị quèn này, không tiến không lùi mà cũng chẳng sống nổi. Tóm lại là tôi chết!

Vậy mà khi đối với tôi là chuyện hồi sinh lại đôi chút, thì tất cả các anh đều nhao nhao bảo tôi là: Đó là một tên bần tiện? Đó là một thằng vô lại! Một đứa thô bỉ! Một lão xáu xa? Ồ, mẹ kiếp tôi đồng ý với các anh lắm, nhưng các anh hãy tìm cho tôi một kẻ khá hơn, hoặc là làm sao cho tôi có nguồn thu nhập đồng niên đi?

Arthos ngẫm nghĩ mấy giây đồng hồ, và trong mấy giây ấy, anh hiểu ra mưu mẹo của d Artagnan, cậu ta lúc đầu đi quá trớn nay ngắt đi để che giấu trò chơi của mình. Anh thấy rõ ràng những đề nghị bạn đưa ra với anh là có thật và được bày tỏ một cách đầy đủ nhất, dù anh chỉ mới hơi lắng tai nghe:

"Được? Anh tự bảo, d Artagnan là của Mazarin".

Từ lúc ấy, anh giữ gìn cực kỳ thận trọng.

Về phía mình, d Artagnan chơi chặt chẽ hơn lúc nào hết.

- Nhưng rốt cuộc cậu có ý kiến gì?- Arthos hỏi.

- Tất nhiên. Tôi muốn nghe lời khuyên của tất cả các anh và tính xem nên làm cái gì đó, vì nếu có người này mà thiếu người kia, chúng ta bao giờ cũng khập khiễng.

- Đúng thế. Cậu nói với tôi về Porthos; vậy cậu đã định đoạt cho cậu ấy đi tìm kiếm hạnh vận chưa?

- Hạnh vận ấy, cậu ta có rồi mà.

- Chắc hẳn cậu ta có; nhưng con người ta sinh ra như vậy đấy, bao giờ cũng ao ước một điều gì. Thế Porthos ao ước gì nào?

- Được là Nam tước.

- À phải rồi? Tôi quên mất, - Arthos cười nói.

"Phải rồi, - D Artagnan ngẫm nghĩ. Nhưng ta nghe ở đâu ấy nhỉ? Hay là anh ta liên lạc với Aramis? - A! Nếu ta biết điều đó thì ta sẽ biết tất cả?"

Cuộc trò chuyện chấm dứt ở đây, vì lúc ấy Raoul về.

Arthos muốn mắng nhẹ một câu, nhưng thấy cậu thiếu niên buồn rũ rượi, anh không có can đảm và chỉ hỏi xem có chuyện gì.

- Tình trạng cô bé láng giềng của chúng ta có nặng lên không?- D Artagnan hỏi.

- Ôi thưa ông,- Raoul hầu như nghẹn ngào vì đau đớn nói. - Cô bé ngã thế là nặng đấy, tuy bên ngoài không thấy biến dạng, nhưng thầy thuốc lo ngại rằng cô ta sẽ bị tàn tật suốt đời.

- A! Thế thì ghê gớm lắm!- Arthos nói.

D Artagnan toan đùa một câu, nhưng nhìn thấy Arthos chia sẻ tai họa đó, anh ghìm lại.

- Ôi, thưa ông, điều làm tôi ân hận nhất, - Raoul nói tiếp,- là tai hoạ ấy lại do chính tôi gây nên.

- Sao lại anh, Raoul?- Arthos hỏi.

- Không nghi ngờ gì nữa. Chẳng phải vì muốn chạy đến với tôi mà cô bé ấy đã nhảy từ trên đống gỗ cao xuống, đấy thôi?

- Raoul thân mến của tôi ơi, - D Artagnan nói, - chỉ còn có một cách là anh hãy cưới cô ta để đền tội.

- Ôi chao, thưa ông.- Raoul nói, - Ông đùa trên một nỗi đau khổ thực sự, thế là không tốt đâu.

Raoul đang cần ở một mình để khóc cho đã, bèn đi vào phòng mình và đến lúc ăn sáng mới ra.

Hoà khí giữa hai người bạn rất tốt, nên không vì cuộc xô xát buổi sớm mà bị phai lạt; cho nên họ ăn lót dạ một cách thật ngon lành, chốc chốc, nhìn cậu bé Raoul tội nghiệp, mắt ướt mọng ra và lòng nặng trĩu, ăn cho qua bữa.

Vào cuối bữa ăn, có hai bức thư đến, Arthos đọc hết sức chăm chú và không tránh khỏi rùng mình nhiều lần. D Artagnan nhìn bạn đọc thư, từ phía bên này bàn sang phía bên kia, với con mắt xuyên thấu anh thề rằng không còn hồ nghi gì nữa, anh đã nhận ra nét chữ nhỏ li ti của Aramis. Còn bức thư kia là chữ đàn bà, viết dài và rắc rối.

Thấy Arthos có vẻ muốn ngồi một mình để phúc đáp thư hoặc suy nghĩ, d Artagnan bảo Raoul:

- Ta đi quanh ra phòng binh khí một lát, nó sẽ làm anh khuây khỏa đấy.

- Cậu thiếu niên nhìn Arthos vẻ dò hỏi và được đáp lại bằng một dấu hiệu ưng thuận.

Cả hai ngươi đi sang một gian phòng thấp có treo những thanh kiếm tập, mặt nạ, găng tay, áo giáp và các thứ dụng cụ đấu kiếm.

Chừng mười lăm phút sau, Arthos đến và hỏi:

- Thế nào?

- Arthos thân mến ạ, đã ra vẻ tay kiếm của anh rồi đó, - D Artagnan nói, - và nếu có thêm tính bình tĩnh của anh nữa thì tôi chỉ còn có chúc mừng anh ta mà thôi.

Cậu thiếu niên hơi xấu hổ. Có một vài bận cậu chạm được vào tay hoặc chân d Artagnan thì ngược lại cậu bị đâm tới hai chục lần vào giữa thân mình.

Vừa lúc ấy, bác Chatlot vào đưa cho d Artagnan một bức thư khẩn do một phái viên mang đến.

Bây giờ đến lượt Arthos liếc nhìn.

D Artagnan đọc thư không để lộ một cảm xúc nào, và khi đọc xong anh khe khẽ gật đầu.

- Này bạn thân mến ơi, - anh nói, - công việc phụng sự là như thế này đây. Thật tình anh không muốn tham gia lại là đúng: ông De Treville(1) ốm và đại đội không thể thiếu tôi được, thành thử việc nghỉ phép của tôi mất toi.

- Cậu trở về Paris à? - Arthos vội vã hỏi.

- Ôi, lạy Chúa. Phải! - D Artagnan đáp - Thế còn anh, anh không đến đấy ư?

Arthos hơi đỏ mặt và đáp:

- Nếu tôi đến đó, tôi sẽ rất sung sướng được gặp cậu.

D Artagnan đứng ra cửa và gọi to:

- Ơ này, Planchet! Mười phút nữa ta sẽ ra đi, cho ngựa ăn lúa mạch đi nhé.

Rồi quay lại phía Arthos, anh nói:

- Tôi thấy dường như còn thiếu cái gì ở đây và tôi rất lấy làm tiếc phải từ giã anh mà không được gặp lại bác Grimaud hiền lành ấy.

- Grimaud à! - Arthos nói, - À, phải đấy, tôi cũng lấy làm lạ sao không thấy cậu hỏi về hắn ta. Tôi đã cho một người bạn mượn rồi.

- Ai mà có thể hiểu nổi những dấu hiệu(2) của hắn? - D Artagnan nói.

- Tôi cũng hy vọng, - Arthos đáp.

Hai người bạn ôm hôn nhau thân mật.

D Artagnan bắt tay Raoul và bắt Arthos hứa nếu đến Paris sẽ ghé thăm, mà nếu không đến thì cũng viết thư cho anh, rồi anh lên ngựa.

Planchet bao giờ cũng chính xác. D Artagnan cười nói với Raoul:

- Anh không đi cùng với tôi ư, tôi đi qua Blois đấy.

Raoul quay lại phía Arthos, anh ngăn cậu ta bằng một dấu hiệu khó nhận thấy.

- Thưa ông, không ạ, - cậu thiếu niên đáp, - tôi ở lại với ông bá tước.

- Thế thì xin từ biệt cả hai, hai người bạn tốt của tôi, - D Artagnan vừa nói vừa siết tay họ một lần cuối, - và cầu Chúa phù hộ cho các bạn giống như chúng ta thường nói với nhau mỗi lần từ biệt nhau dưới thời vị cố giáo chủ.

Arthos giơ tay chào, Raoul cúi mình thi lễ và d Artagnan cùng Planchet lên đường.

Bá tước nhìn theo họ, tay vịn lên vai cậu thiếu niên đã cao gần bằng anh; phút chốc họ đã khuất sau bức tường.

- Raoul, - bá tước bảo, - tối nay chúng ta đi Paris.

- Sao!- Cậu thiếu niên nói, mặt tái nhợt.

- Anh hãy đến nhà bà Saint-Remy nói những lời từ biệt của tôi và của anh. Tôi sẽ đợi ở đây lúc bảy giờ.

- Cậu thiếu niên cúi chào với vẻ đau khổ xen lẫn biết ơn, rồi đi ra thắng ngựa.

Còn d Artagnan vừa đi khuất đã móc bức thư ở trong túi ra đọc lại:

"Trở về Paris ngay lập tức J. M.".

- Bức thư thật khô khan, - D Artagnan lẩm bẩm và nếu như không có một dòng tái bút, có lẽ ta cũng chẳng hiểu gì, nhưng may thay lại có dòng tái bút. Và anh đọc cả dòng tái bút trứ danh ấy, nó làm cho anh phớt qua cả cái khô khan của bức thư.

"Tái bút. Hãy đến ông trưởng kho bạc của nhà vua ở Blois, xưng tên ông ra và đưa bức thư này cho ông ta xem: ông sẽ được lĩnh hai trăm pistoles".

D Artagnan nói:

- Dứt khoát là ta thích cái lối văn xuôi này và ông giáo chủ viết hay hơn ta tưởng nhiều. Nào Planchet, chúng ta hãy đến thăm ông trưởng kho bạc của nhà vua, rồi thì ta phóng.

- Về Paris ư, thưa ông?

- Về Paris.

Rồi cả hai người cho ngựa phi nước đại.

Chú thích:

(1) Theo truyền thuyết của đảo Syprơ, Pygmaliông là một nhà điêu khắc, ông tạo nên bức tượng nàng Galatê rồi si mê ngay bức tượng ấy. Sau nữ thần Aphrôdít ban phép cho bức tượng thành người sống và Pygmaliông lấy nàng Galatê

(2) Đại uý chi huy ngự lâm quân của nhà vua từ trong tập truyện "Ba người lính ngự lâm".

(3) Grimaud là người hầu của Arthos có thói quen sai bảo hắn việc gì toàn bằng dấu hiệu và cử chỉ. Grimaud làm theo hoặc đáp lại cũng bằng cử chỉ và dấu hiệu và thường câm lặng suốt ngày.

-*-*-*-

Chương 18

Ông de Beaufort

Chuyện gì xảy ra và nguyên nhân nào đã buộc d Artagnan phải trở về Paris?

Một buổi tối theo lệ thường, Mazarin đến chỗ hoàng hậu vào giờ mà mọi người đã rút lui hết. Khi đi qua gần gian phòng lính gác có một cửa trông ra tiền sảnh. Ông ta nghe tiếng nói oang oang ở trong phòng. Muốn biết xem bọn lính nói về vấn đề gì, ông rón rén đến gần và theo thói quen đẩy cửa hé ra và thò đầu vào.

Có một cuộc bàn luận giữa các vệ sĩ. Một người nói:

- Còn tôi, tôi xin cam đoan rằng như Croysel đã tiên đoán điều ấy thì nó chắc chắn cứ như là đã xảy ra rồi. Tôi không biết ông ta, nhưng tôi đã nghe nói ông ta không chỉ là một nhà chiêm tinh học mà còn là một nhà pháp sư nữa.

- Ghê thật, bạn thân mến ơi, nếu ông ta là bạn bè của cậu thì coi chừng. Cậu giúp ông ta một việc tai hại đấy.

- Sao lại thế?

- Bởi vì người ta có thể kết án ông ta được chứ.

- Ô hay? Ngày nay người ta không thiêu sống phù thủy.

- Không! Vậy mà cách đây không lâu lắm ông cố giáo chủ đã cho thiêu Urbain Grandier. Tôi cũng biết đôi điều. Hồi ấy tôi đứng canh ở dàn hỏa và tôi đã trông thấy ông ấy bị thiêu.

- Bạn thân mến ơi, Urbain Grandier không phải là phù thủy mà là một nhà bác học, đó lại là chuyện khác. Urbain Grandier không tiên đoán tương lai. Ông ta biết quá khứ, đôi khi điều ấy còn tệ hơn nữa.

Mazarin gật đầu vẻ đồng tình, nhưng muốn biết rõ điều tiên đoán mà người ta đang bàn luận, ông ta đứng nguyên một chỗ.

Người lính vệ nói tiếp:

- Tôi không bảo cậu rằng Croysel là một phù thủy nhưng tôi nói với cậu rằng nếu như ông ta công bố trước điều tiên đoán của mình thì đấy là một cách để nó không thực hiện được.

- Tại sao?

- Rõ ràng như vậy đấy. Nếu tôi với cậu đánh nhau mà tôi bảo cậu: "Tôi sẽ đâm cho cậu hoặc một nhát thẳng hoặc một nhát xiên" thì cậu đỡ ngay được chứ còn gì nữa. Vậy nếu Croysel nói khá to để ngài giáo chủ nghe thấy là: "Trước ngày ấy, ngày ấy, người tù ấy sẽ vượt ngục" thì hiển nhiên là ông giáo chủ sẽ có cách đề phòng để tù nhân không xổng ra được.

Một lính vệ khác nằm ngay trên chiếc ghế dài có vẻ đang ngủ và mặc dầu bề ngoài có vẻ ngủ thật những vẫn không bỏ sót một lời của câu chuyện bật ra nói:

- Ôi lạy Chúa! Các cậu tưởng người ta có thể thoát được số mệnh mình ư? Nếu trời đã định rằng ông quận công De Beaufort phải trốn thoát thì ông De Beaufort sẽ trốn thoát, và mọi sự đề phòng của ông giáo chủ đều chẳng có tác dụng gì cả hết.

Mazarin rùng mình. Ông ta là người Ý, có nghĩa là mê tín; ông ta vội vã đi qua giữa những người lính vệ, họ trông thấy ông liền ngừng ngay câu chuyện.

- Các ông nói chuyện gì thế? - Mazarin hỏi với vẻ mơn trớn, - hình như về chuyện ông de Beaufort vượt ngục phải không?

- Ô, không ạ, thưa Đức ông? - người lính không cả tin nói, - lúc này ông ấy không thể vượt được ngục được đâu. Người ta chỉ nói là ông ta sẽ vượt ngục.

- Thế ai nói như vậy?

Người lính quay về phía người kể chuyện mà bảo:

- Này Saint - Laurent, cậu nhắc lại câu chuyện của cậu đi.

- Thưa Đức ông, - người lính vệ nói, - tôi kể với ông này rất thuần tuý và giản đơn cái mà tôi nghe nói về điều tiên đoán của một người tên là Croysel cho rằng ông de Beaufort dù có bị canh gác cẩn mật đến đâu, ông ta sẽ trốn thoát trước ngày lễ Pentecote.

- Thế cái tên Croysel ấy là một kẻ mộng tưởng hay thằng điên? - Giáo chủ vẫn tươi cười hỏi.

- Không đâu, - người lính vệ vẫn bám chắc vào niềm tin của mình nói, - Ông ta đã đoán trước nhiều điều và những điều đó đã xảy ra, thí dụ như việc hoàng hậu sinh con trai, ông Coligny sẽ bị giết trong trận đấu kiếm với quận công de Guise cuối cùng là việc ông giáo chủ sẽ được phong giáo chủ... Ấy đấy hoàng hậu đã không chỉ sinh một con trai đầu lòng mà hai năm sau lại sinh một cậu nữa, và ông de Coligny đã bị giết.

- Phải rồi, - Mazarin nói, - nhưng mà ông chủ giáo vẫn chưa thành giáo chủ.

- Vâng, thưa Đức ông, - anh lính vệ nói, - nhưng ông ta sẽ trở thành giáo chủ.

Mazarin cau mặt như muốn nói: ông ta chưa mang chiếc mũ đó. Rồi ông nói thêm:

- Bạn ơi, như vậy theo ý ông thì ông de Beaufort nhất thiết phải thoát à?

- Thưa Đức ông. - Người lính đáp, - ý kiến của tôi đúng là như vậy, đến nỗi bây giờ Các hạ có ban cho tôi cái chức của ông De Chavigny, nghĩa là cai quản lâu đài Vincennes, tôi cũng sẽ không dám nhận. Chà! Còn như sau ngày lễ Pentecôte, đó lại là chuyện khác.

Không có gì đáng tin cậy hơn là một niềm tin mãnh liệt, nó tác động đến nhĩmg người không tin, mà Mazarin như chúng tôi đã nói mới là kẻ không tin, ông ta là người mê tín. Nên ông ta bước ra vẻ đăm chiêu tư lự.

- Đồ keo kiệt! - Người vệ sĩ đứng tựa ở tường nói. - Lão ta làm ra vẻ không tin ở vị pháp sư của cậu, Saint-Laurent ạ, để khỏi phải cho cậu cái gì đấy thôi, nhưng về đến nhà là lão ta sẽ lợi dụng ngay cái điều tiên đoán của cậu cho mà xem.

Quả thật, đáng lẽ tiếp tục đi đến phòng của hoàng hậu, Mazarin trở về văn phòng mình, gọi Bernouin đến và ra lệnh ngày hôm sau từ mờ sáng phải cho đi gọi ngay viên cảnh sát mà ông ta cắt đặt ở bên cạnh ông de Beaufort về, và khi hắn về đến nơi phải lập tức đánh thức ông ta dậy.

Không còn hoài nghi gì nữa, người lính vệ đã chạm ngón tay vào vết thương nhức nhối nhất của ông giáo chủ, ông de Beaufort ngồi tù từ năm năm nay, và không ngày nào Mazarin không nghĩ rằng ông ấy có thể sẽ ra khỏi nơi đó lúc này hoặc lúc khác. Người ta không thể giữ làm tù nhân suốt đời một cháu nội của Henri IV mới suýt soát ba mươi tuổi. Nhưng dù ông ta ra tù bằng cách nào chăng nữa thì trong thời gian bị giam giữ, ông đã tích lũy hận thù sâu sắc đến chừng nào đối với kẻ đã bắt giam ông trong khi ông đang giàu có can trường, vinh quang, được phụ nữ yêu mến, được cánh đàn ông sợ sệt; bắt giam ông để tước khỏi cuộc đời ông những năm tháng tươi đẹp nhất, bởi vì sống ở trong tù thì cũng như không tồn tại!

Trong khi chờ đợi, Mazarin cho tăng cường giám sát ông de Beaufort.

Song giống như kẻ hà tiện trong truyện ngụ ngôn, Mazarin không thể ngủ yên bên cạnh kho vàng của mình. Biết bao lần đang đêm lão choàng dậy vì mơ thấy người ta cướp mất ông de Beaufort của lão. Thế là lão hỏi ngay tin túc về ông ta, và mỗi tin lượm được lão đều đau đớn khi nghe nói tù nhân vẫn chơi bời, ca hát, ông thường dừng lại luôn để nguyền rủa rằng lão Mazarin sẽ trả giá đắt về những trò giải trí mà lão bắt buộc ông ta phải chơi ở lâu đài Vincennes.

Ỷ nghĩ ấy choán hết tâm trí tể tướng trong giấc ngủ, cho nên bảy giờ sáng khi Bernouin vào phòng để đánh thức ông ta dậy thì câu đầu tiên của ông ta là:

- Này, có chuyện gì thế? Ông de Beaufort có trốn khỏi Vincennes không?

- Thưa Đức ông, tôi không tin như vậy, - Bernouin, vẻ bình tĩnh đạo mạo của hắn không tự mâu thuẫn bao giờ, - nhưng dù sao ngài cũng sẽ được tin về ông ta ngay bây giờ, vì viên cảnh sát La Ramée mà ngài cho gọi sáng nay ở Vincennes đã đến ngoài kia và đang đợi lệnh của Các hạ.

- Mở cửa và cho hắn vào đây, - Mazarin vừa nói vừa sắp xếp lại nệm gối để ngồi ngay tại phòng mà tiếp khách.

Viên sĩ quan vào. Đó là một người cao to, má sệ, mặt tươi tỉnh, hắn có một vẻ bình thản khiến Mazarin lo lắng. Lão lẩm bẩm:

- Cái thằng cha này trông đúng là một thằng ngu.

Viên cảnh sát đứng im lặng ở cửa.

- Mời ông vào! - Mazarin bảo.

Viên cảnh sát tuân lệnh.

- Ông có biết ở đây người ta đồn gì không? - Mazarin nói.

- Thưa Các hạ, không.

- Thế này này! Người ta đồn rằng ông de Beaufort đã trốn khỏi Vincennes, nếu không thì cũng sắp trốn khỏi. Mặt mày viên sĩ quan ngớ ra vì kinh ngạc. Hắn đồng thời mở cả hai mắt ti hí và cái miệng rộng hoác để hít lấy hít để câu nói đùa mà Các hạ đã vinh dự ban cho hắn; rồi không giữ lâu được vẻ nghiêm trang đối với một giả thiết như vậy hắn phá ra cười, cười sằng sặc đến rung cả các chân tay hộ pháp y như là đang lên một cơn sốt dữ dội.

Mazarin trong bụng khấp khởi mừng vì sự thổ lộ thiếu cung kính ấy, nhưng vẫn giữ vẻ trang nghiêm.

Khi La Ramée đã cười thoả thuê và chùi nước mắt rồi, hắn cho rằng đến lúc phải nói và xin lỗi về sự vui vẻ thất lễ đó, hắn nói:

- Trốn thoát ư, thưa Đức ông! Thế Các hạ không biết là ông de Beaufort đang ở đâu ư?

- Có chứ, tôi biết rằng ông ta đang ở trong cái tháp tòa lâu đài Vincennes.

- Đúng vậy, thưa Đức ông ở trong một căn phòng có tường dày đến bảy bộ với các cửa sổ có chấn song sắt đan chéo, mỗi thanh to bằng cánh tay ấy.

- Ông này, Mazarin nói, - cứ kiên nhẫn người ta đục xuyên mọi bức tường, và với một mảnh dây cốt đồng hồ người ta cưa được song sắt.

- Nhưng Đức ông không biết rằng bên ông ta có tám lính gác, bốn ở tiền sảnh, và bốn ở trong phòng, họ không lúc nào rời ông ta cả.

- Nhưng có lúc ông ta ra khỏi phòng, chơi bóng vụt, bóng ném chứ!

- Thưa Đức ông, đó là những trò giải trí cho phép tù nhân chơi. Tuy nhiên nếu Các hạ muốn, thì sẽ cấm ông ta.

- Không đâu, không đâu, - Mazarin nói, lão sợ rằng cấm cả các trò giải trí đó thì nếu như có bao giờ ra khỏi tù, tù nhân càng căm giận lão hơn nữa. Nhưng ta muốn hỏi xem ông ta chơi với ai.

- Thưa Đức ông, ông ta chơi với viên sĩ quan trực gác, hoặc với tôi hoặc với các tù nhân khác.

- Khi chơi, ông ta không đến gần tường lũy ư?

- Thưa Đức ông, Các hạ không biết lường luỹ thế nào ư? Tường lũy cao sáu mươi bộ, và tôi hoài nghi rằng ông de Beaufort khá là chán đời để mạo hiểm nhảy từ trên cao xuống cho gẫy cổ.

- Hừm! - Giáo chủ bắt đầu yên tâm nói - Ông La Ramée thân mến, vậy ông nói là...

- Trừ phi ông de Beaufort có phép biến thành con chim nhỏ, tôi xin bảo đảm về ông ta.

- Hừ coi chừng! Ông vội vã quá đấy, - Mazarin nói - Khi các vệ sĩ dẫn de Beaufort đến Vincennes, ông ta có nói to với họ rằng ông ta thường nghĩ đến trường hợp ông ta bị tù, và trong trường hợp ấy, ông ta đã kiếm được bốn mươi cách để vượt ngục.

- Thưa Đức ông, - La Ramée đáp, - nếu trong bốn mươi cách ấy có một cách tốt, thì ông ta đã ở ngoài từ lâu rồi.

- Thôi, thôi, không đến nỗi tồi như mình tưởng, - Mazarin lẩm bẩm.

La Ramée nói tiếp:

- Với lại Đức ông quên rằng ông De Chavigny là người cai quản lâu đài Vincennes, mà ông ta lại không phải là chỗ bạn bè của ông de Beaufort.

- Ừ nhưng khi ông De Chavigny vắng mặt?

- Khi ông ta vắng mặt thì có tôi.

- Nhưng khi chính ông cũng vắng mặt.

- Khi tôi cũng vắng mặt, thì tôi đã có người thay thế là một gã rất hầm hố trở thảnh một viên phó cảnh sát của Hoàng thượng, và tôi xin bảo đảm với ngài là anh ta canh gác rất nghiêm mật. Từ khi tôi nhận anh ta vào giúp việc tôi đã ba tuần nay, tôi chỉ quở trách anh ta có một điều là quá khắt khe với tù nhân.

- Thế con chó ngao đó là ai? - Giáo chủ hỏi.

- Một ông Grimaud nào đó, thưa Đức ông.

- Trước khi đến Vincennes giúp việc anh, hắn ta làm gì?

Theo lời người giới thiệu hắn ta với tôi thì hắn ở tỉnh lẻ, do tính bướng bỉnh hắn đã làm một việc bậy bạ gì đó, và tôi nghĩ rằng hắn sẽ chẳng bất bình khi được thoát tội dưới bộ quân phục của nhà vua.

- Thế ai đã giới thiệu hắn ta với ông?

- Viên quản lý của ông quận công de Grammont.

- Theo ý ông thì có thể tin cậy vào đó chứ?

- Như tin vào chính tôi, thưa Đức ông.

- Hắn ta có phải là người ba hoa không?

- Giêsu, lạy Chúa tôi! Thưa Đức ông, một thời gian dài tôi cứ tưởng hắn câm cơ đấy? Hắn chỉ nói và đáp bằng các dấu hiệu, hình như người chủ cũ của hắn đã dạy hắn như vậy.

- Vậy thì, ông Ramée thân mến ơi, - giáo chủ nói, - Ông hãy bảo hắn ta rằng nếu hắn canh phòng cẩn thận và nghiêm ngặt, người ta sẽ nhắm mắt làm ngơ cho những việc hắn lẩn trốn ở tỉnh, người ta sẽ khoác lên người hắn một bộ quân phục khiến hắn sẽ được kính nể, và trong bộ quân phục ấy sẽ có dăm đồng pistoles để uống rượu chúc mừng sức khỏe nhà vua đấy.

Mazarin rất rộng rãi về những lời hứa hẹn, thật trái hẳn với bác Grimaud thật thà mà Ramée tán dương, bác ta nói it mà làm nhiều.

Tể tướng còn đặt ra với La Ramée một lô câu hỏi nữa về người tù, về cách cho từ nhân ăn uống, ở và ngủ.

Những câu trả lời của viên sĩ quan đáng hài lòng đến mức tể tướng hầu như yên tâm và cho hắn lui.

Lúc ấy cũng đã chín giờ sáng rồi, cho nên ông ta dậy hẳn, xức hương thơm, vận quần áo và đi sang chỗ hoàng hậu để nói rõ những duyên cớ gì đã giữ ông ở lại phòng mình tối hôm qua. Hoàng hậu sợ ông de Beaufort chẳng kém gì tể tướng sợ ông ta, và hầu như cũng mê tín như tể tướng, bà bắt ông nhắc lại từng câu từng chữ tất cả những lời hứa hẹn cam đoan của Ramée và tất cả những lời viên cảnh sát tán dương người giúp việc của mình. Rồi khi tể tướng đã nói xong, bà thầm thì với ông:

- Than ôi! Tiếc rằng chúng ta chẳng có một Grimaud ở bên cạnh mỗi hoàng thân!

- Hãy kiên nhẫn, - Mazarin nói với nụ cười theo đúng kiểu người Ý của mình, - việc ấy sẽ đến trong một ngày nào đó, nhưng trong khi chờ đợi...

- Thì sao? Trong khi chờ đợi.

- Tôi vẫn có những biện pháp đề phòng.

Sau đó ông đã viết thư gọi d Artagnan trở về gấp.

-*-*-*-

Chương 19

Ở tháp lâu đài Vincennes ông quận công de Beaufort giải trí như thế nào?

Người tù khiến ngài tể tướng khiếp đảm đến thế và những cách vượt ngục của ông khiến cả triều đình mất ăn mất - ngủ chẳng hồ nghi gì mấy về tất cả nỗi hãi hùng ấy do chính ông gây nên trong Hoàng cung.

Thấy mình được canh gác một cách tuyệt vời như vậy, ông hiểu rằng những mưu toan của ông là vô ích. Tất cả sự trả thù của ông chỉ là văng ra vô vàn những lời chửi rủa nhiếc móc lão Mazarin. Ông đã thử làm mấy ca khúc, nhưng rồi lại thôi ngay. Thực ra, ông de Beaufort không những không được trời phú cho cái tài làm thơ mà ngay biểu hiện bằng văn xuôi thôi ông cũng chật vật nhất trần đời. Cho nên Blot, người đặt các bài hát đương thời, đã nói về ông ta:

"Nơi trận mạc, người người kiêng sợ

Ông tung hoành, hò hét sấm vang

Nhưng buồn thay khi cần biện luận

Ông đúng ngây như chiếc cán tàn.

Gaxtông kia chẳng hề lúng túng

Mỗi khi ra diễn thuyết đăng đàn

Hỡi Beaufort sao không có lưỡi

Còn Gascogne chẳng thấy tay dang?"

Như vậy, ai cũng hiểu rằng người tù chỉ còn xoáy vào với những lời chửi rủa nhiếc móc.

Quận công de Beaufort là cháu ruột của vua Henri IV và bà Gabrielle d Estrées, cũng tốt bụng, cũng dũng cảm, cũng kiêu hãnh và nhất là cũng mang tính Gascon như ông nội, nhưng lại ít chữ nghĩa hơn rất nhiều. Sau khi vua Louis XIII chết, có một thời gian ông được coi là sủng thần, là người tin cẩn, đệ nhất triều thần cơ đấy, nhưng rồi đến một hôm ông phải nhường chỗ cho Mazarin và xuống hàng thứ hai; hôm sau nữa, do ông nóng đầu lên phẫn nộ về sự thay bậc đổi ngôi ấy và dại dột nói ra mồm, hoàng hậu đã cho bắt và đưa ông đến lâu đài Vincennes, vẫn do bàn tay Gitaut mà chúng ta đã thấy xuất hiện ở phần đầu câu chuyện và sẽ còn có dịp gặp lại. Dĩ nhiên, nói hoàng hậu là nói Mazarin. Không những người ta gạt bỏ được con người ông và những kỳ vọng của ông, mà người ta không bàn bạc đến ông nữa, và từ năm năm nay ông ở một gian phòng hiểm yếu chẳng vương giả cho lắm trong cái tháp lâu đài Vincennes.

Khoảng thời gian ấy ắt đã làm chín mùi những ý nghĩ của bắt kỳ ai khác, nhưng đã trôi qua trong đầu óc của ông de Beaufort mà không tạo nên một sự đổi thay nào cả. Thật vậy, một người khác có lẽ suy nghĩ rằng nếu ông ta đã không chấp nhận chống lại tể tướng, khinh thường các hoàng thân, và đi một mình, như giáo chủ De Retz nói, không có tùy tùng nào khác ngoài mấy kẻ đa sầu luôn có vẻ người mộng tưởng, thì từ năm năm nay, ông ta có lẽ đã được tự do hoặc có những người bảo vệ. Nhưng suy xét ấy chắc hẳn cũng không hiện ra trong tâm trí ông quận công mà việc giam giữ lâu dài trái lại chỉ càng củng cố thêm trong ông tinh thần loạn nghịch và hàng ngày ông tể tướng nhận những tin tức về ông không còn gì khó chịu hơn.

Sau khi thất bại về thi ca, ông de Beaufort thử về hoạ. Ông dùng than vẽ những nét đặc điểm của giáo chủ; nhưng vì tài năng khá tồi về môn nghệ thuật này không cho phép đạt tới sự giống hệt để người ta khỏi phải hoài nghi về nguyên bản của bức chân dung, ông đề xuống dưới: "Ritratto dell illustrissimo facchino Mazarini". Ông De Chavigny được báo trước đã đến thăm quận công và yêu cầu ông tìm trò giải trí khác, hoặc ít ra thì vẽ những chân dung không đề chú thích. Ngày hôm sau trong phòng đầy những chú thích và chân dung.

Kể ra ông de Beaufort cũng như mọi tù nhân rất giống trẻ con ở chỗ cái gì người ta càng ngăn cấm thì càng như xúi giục.

Ông De Chavigny được báo về sự gia tăng các bức vẽ trông nghiêng. Ông de Beaufort không tự tin lắm để vẽ cái đầu nhìn thẳng trước mặt, đã biến căn phòng mình thành một gian triển lãm thật sự.

Lần này viên giám ngục chẳng nói chẳng rằng; nhưng một hôm thừa lúc ông de Beaufort đi chơi ném cầu, hắn cho xoá sạch các bức vẽ và sơn lại căn phòng bằng thuốc màu trơn.

Ông de Beaufort cảm ơn De Chavigny đã có lòng tốt sơn lại các bức vách cho ông; và lần này ông chia gian phòng thành nhiều ngăn và mỗi ngăn dành cho một nét trong cuộc đời của Mazarin.

Ngăn thứ nhất để vẽ nhà đê tiện đại danh Mazarin đang nhận một trận roi đòn của giáo chủ Bentivoglio mà Mazarin là đày tớ.

Ngăn thứ hai, nhà đê tiện đại danh Mazarin đang sắm vai d Ignace de Loyola trong vở bi kịch cùng tên.

Ngăn thứ ba, nhà đê tiện đại danh Mazarin đang ăn cắp chức tể tướng của ông De Chavigny mà ông này tưởng đã nắm chắc trong tay.

Cuối cùng ở ngăn thứ tư, nhà đê tiện đại danh Mazarin từ chối cấp khăn trải giường cho Laporte hầu phòng của vua Louis XIV và nói rằng đối với một ông vua nước Pháp ba tháng thay khăn trải giường một lần là đủ lắm rồi.

Đó là những dàn dựng lớn chắc chắn vượt quả tài năng của người tù cho nên ông ta đành chỉ vẽ các khung và viết các dòng chữ.

Nhưng các khung và các dòng chữ đủ khiến ông De Chavigny nổi cáu, ông báo trước cho ông de Beaufort là nếu không từ bỏ những bức tranh dự định, thì ông sẽ tước hết mọi phương tiện thực hiện. Ông de Beaufort đáp lại rằng vì người ta tước của ông cái cơ hội nổi danh trong binh nghiệp, ông phải tìm kiểm nó trong hội hoạ và đã không thể là một Bayard hoặc một Trivulce(1), ông muốn trở thanh một Michel - Ange hoặc một Rahaoul(2).

Một hôm ông de Beaufort ra sân dạo chơi thì ở phòng người ta lấy hết lửa của ông, cùng đi với lửa là than cùng với than là tro, thành thử khi trở về ông không tìm được một mẩu vụn nào để làm bút vẽ cả.

Ông de Beaufort chửi rủa, la hét om sòm và nói rằng người ta muốn làm ông chết vì rét, vì nước và ẩm thấp, như Puylaurens, thống chế Ornano và ông trụ trì tăng viện Vendôme đã chết. De Chavigny bảo rằng ông chỉ cần hứa từ bỏ vẽ hoặc hứa là không vẽ những bức tranh lịch sử là người ta sẽ cấp củi và các thứ để nhóm lửa cho ông. Ông de Beaufort không muốn hứa và đành phải chịu không có lửa sưởi suốt cả mùa đông.

Đã thế, trong một buổi người tù đi ra ngoài, người ta cạo hết các dòng chữ, và căn phòng trắng trần trụi không còn một vết tích gì của bức hoạ vẽ trên tường.

Ông de Beaufort bèn mua lại của một tên gác ngục một con chó tên là Pistache, chẳng có gì để phản đối những tù nhân có chó, ông De Chavigny cho phép con vật bốn chân thay đổi chủ. Có khi hàng mấy giờ đồng hồ liền, ông de Beaufort ở lì trong phòng với con chó.

Người ta ngờ rằng trong những lúc ấy người tù bận vào việc huấn luyện con chó, nhưng không rõ ông ta dạy nó làm gì. Một hôm xem chừng con chó đã được huấn luyện đầy đủ, ông de Beaufort mời De Chavigny và các sĩ quan ở Vincennes đến dự một buổi đại công diễn ở phòng mình. Các tân khách đến, gian phòng được chiếu sáng với tất cả số nến mà ông kiếm được. Các tiết mục bắt đầu.

Người tù bóc một mảnh thạch cao ở tường và vạch ở giữa phòng một đường thẳng dài màu trắng coi như một sợi căng. Nghe mệnh lệnh đầu tiên của chủ, Pistache đi đến vạch phấn, đứng thẳng trên hai chân sau và hai chân trước cầm một cái que phủi quần áo, nó bắt đầu đi theo vạch phấn với tất cả những điệu uốn éo mà một người đi trên dây vẫn làm, rồi sau hai ba lần đi thắng đi lui dọc theo vạch phấn, nó trả cái que cho ông de Beaufort và lại bắt đầu biểu diễn đi trên dây mà không có gậy thăng bằng.

Con vật thông minh được hoan hô nhiệt liệt.

Cuộc biểu diễn được chia làm ba phần: phần thứ nhất xong, chuyển sang phần thứ hai.

Trước hết là nói xem mấy giờ.

Ông Chavigny, hãy giơ đồng hồ ra cho Pistache coi. Bây giờ là sáu giờ rưỡi.

Pistache giơ một chân lên và hạ xuống sáu lần và đến lần thứ bảy thì nó giơ chân lên mà không hạ xuống. Không có thể rõ ràng hơn nữa, một cái đồng hồ bóng mặt trời cũng không thể trả lời tốt hơn; ai nấy đều biết rằng đồng hồ bóng mặt trời có nhược điểm là chỉ bảo giờ được khi mặt trời chiếu sáng.

Tiếp đến là nhận xét trước tất cả mọi người xem ai là kẻ gác ngục cừ nhất trong tất cả các nhà tù ở nước Pháp.

Con chó đi vòng quanh cử toạ ba lượt rồi đến nằm phủ phục một cách cung kính nhất trần đời dưới chân ông De Chavigny.

De Chavigny làm ra vẻ thấy cái trò này hay hay và cười gượng; nhưng cười xong thì ông cắn môi và bắt đầu cau mày.

Cuối cùng ông de Beaufort đặt ra cho Pistache một câu hỏi thật khó mà giải đáp, tức là: Tên kẻ cắp khét tiếng nhất thiên hạ là ai?

Lần này Pistache đi quanh phòng nhưng không dừng lại trước người nào cả và tiến ra phía cửa nó cào cào vào cánh cửa và rên ăng ẳng.

- Các ngài hãy xem, - hoàng thân nói, - con vật thông minh này không tìm thấy ở đây cái mà tôi hỏi, nó muốn đi tìm kiếm ở bên ngoài. Nhưng xin các ngài yên tâm, không vì thế mà không có câu trả, lời cho các ngài đâu. Pistache, - hoàng thân tiếp tục, - anh bạn thân mến của tôi, lại đây? - Con chó vâng lời, hoàng thân lại tiếp - Tên kẻ cắp khét tiếng nhất thiên hạ, có phải là viên bí thư của nhà vua Le Camus không, cái người khi đến Paris chỉ có hai mươi livres mà bây giờ có mười triệu đấy?

Con chó lắc đầu ra hiệu không phải.

Hoàng thân lại nói tiếp.

- Có phải ông Tổng giám thu d Emery không, cái người đã cưới vợ cho con trai là Thoré và cho hắn ta ba trăm nghìn livres niên thu và một dinh cơ mà so với nó thì lâu đài Tuileries chỉ là căn nhà nát và cung Louvre là một túp lều tơi tã ấy?

Con chó vẫn lắc đầu.

- Cũng vẫn không phải hắn à? - Hoàng thân nói, - Nào hãy tìm cho kỹ: phải chăng nhỡ may ra là nhà đê tiện đại danh Madarini di Pitxini?

Con chó gật đầu lia lịa đến chín mười lần ra hiệu là phải.

Cử toạ này cũng không dám cười gượng.

Ông de Beaufort nói:

- Thưa các ngài, các ngài thấy đấy, nhà đê tiện đại danh Madarini di Pitxini là kẻ đại bợm khét tiếng nhất thiên hạ; chính con Pistache nói, ít ra là như vậy.

Sang một trò khác. Lợi dụng lúc đang im phăng phắc, quận công de Beaufort giới thiệu chương trình phần thứ ba của buổi biểu diễn:

- Thưa các ngài, tất cả các ngài đều nhớ rõ là ông quận công De Guise đã dạy cho tất cả các con chó ở Paris biết nhảy mừng cô de Pông mà ông đã công bố là mỹ nhân của các mỹ nhân? Ô! Thưa các ngài, thế thì có nghĩa lý gì, vì những con vật ấy tuân theo một cách máy móc, không còn biết phân liệt (ông de Beaufort muốn nói phân biệt) giữa những người mà chúng phải nhảy mừng với những người mà chúng không được làm như vậy. Pistache sẽ chứng minh cho các ngài cũng như cho các ngài giám ngục rằng nó vượt hơn các đồng chủng của nó. Xin ông De Chavigny làm ơn cho mượn cây gậy của ông.

De Chavigny đưa cây gậy cho ông de Beaufort.

De Beaufort để cây gậy nằm ngang cách mặt đất một bộ, rồi báo:

- Pistache, anh bạn của tôi, để tôi được vui lòng, hãy nhảy mừng bà de Montbazon đi.

Mọi người cười ồ: ai cũng biết khi de Beaufort bị bắt, ông ta đang là tình nhân công khai của bà de Montbazon.

Pistache mừng rỡ nhảy qua gậy chẳng khó khăn gì.

- Nhưng này - Ông De Chavigny nói - hình như Pistache cũng làm đúng như những con đồng chủng của nó khi nhảy mừng cô de Pons.

- Chờ tí, - hoàng thân nói, - Pistache, anh bạn của tôi, nhảy mừng hoàng hậu đi.

Và ông nhấc gậy cao thêm sáu tấc.

Con chó cung kính nhảy qua cây gậy.

Ông quận công lại nâng cao cây gậy thêm sáu tấc nữa và bảo:

- Pistache, anh bạn của tôi, hãy nhảy mừng đức vua đi.

Mặc dầu cây gậy khá cao, con chó lấy đà và nhảy qua một cách nhẹ nhàng.

Lần này ông quận công hạ cây gậy xuống gần sát đất và bảo:

- Bây giờ chú ý, Pistache, anh bạn của tôi, nhảy mừng nhà đê tiện đại danh Mazarini di Piscina. xem nào.

Con chó quay đít lại phía cây gậy.

- Ô hay? Thế là thế nào? - Ông de Beaufort vừa nói vừa vẽ một vòng cung từ đuôi đến đầu con vật, và lại giơ cây gậy ra, bảo - nhảy đi nào, ông Pistache.

Nhưng cũng như lần trước, Pistache quay nửa vòng và chổng đít lại phía cây gậy.

Ông de Beaufort làm động tác và nhắc lại câu nói ấy, nhưng lần này Pistache không chịu nổi nữa; nó giận dữ nhảy xổ vào cây gậy, giằng ra khỏi tay hoàng thân và lấy răng cắn gẫy.

Ông de Beaufort cầm lấy hai đoạn gẫy từ mõm con chó, và với vẻ thật trang nghiêm ông vừa trả lại De Chavigny vừa hết lời xin lỗi và tuyên bố rằng ba tháng nữa sẽ công diễn một buổi khác, Pistache chắc hẳn sẽ học được nhiều trò mới.

Ba ngày sau, con Pistache bị đầu độc chết.

Người ta tìm kiếm thủ phạm, nhưng chả ai biết rằng thủ phạm sẽ chẳng tìm ra. Ông de Beaufort cho đắp một cái mộ với tấm bia đề: "Nơi yên nghỉ Pistache, một trong những con chó thông minh nhất chưa từng có bao giờ!"

Chằng nói gì được về lời bàn tán ấy và ông De Chavigny không thể ngăn cản.

Nhưng ông quận công bèn nói bô bô rằng người ta đã thử một liều thuốc độc cho con chó của ông trước khi dùng cho ông. Rồi một hôm sau bữa ăn trưa, ông lăn ra giường kêu đau bụng và bảo chính là Mazarin đã cho đầu độc ông.

Trò tinh nghịch mới mẻ này đến tai ông tể tướng làm ông sợ hết hồn. Cái tháp lâu đài Vincennes có tiếng là độc địa. Trong căn phòng mà ông Puylaurens, thống chế Ornano và vị phó trụ trì tăng viện Vendôme bị chết, bà De Rambouillet đã từng nói căn phòng này đáng giá một liều thạch tín mạnh và câu nói ấy đã rất thiêng. Thế là ông giáo chủ ra lệnh rằng người tù không được ăn gì hết nếu người ta không thử trước rượu và thịt.

Thế là viên cảnh sát La Ramée được cắt đặt làm người nếm thức ăn bên cạnh người tù.

Trong khi đó De Chavigny vẫn không tha thứ cho ông quận công về những trò xấc xược mà vì đó con chó Pistache vô tội của ông đã được đền tội, Chavigny là một thủ hạ của ông giáo chủ đã qua đời, thậm chí người ta còn đồn đại là con đẻ của ông ta nữa, như vậy ắt hắn hắn phải bộc lộ ra phần nào tính bạo hành: hắn bắt đầu gây sự lại với ông de Beaufort, hắn lấy đi tất cả những dao sắt và đĩa bạc mà người ta để cho ông ta dùng và thay bằng các dao bạc và đĩa gỗ. Ông de Beaufort khiếu nại, Chavigny sai người trả lời ông rằng hắn vừa mới nghe tin ông tể tướng nói với bà De Vendôme rằng con trai bà sẽ ở trong tháp của lâu đài Vincennes suốt đời, ông sợ rằng nghe cái tin thảm khốc đó người tù của ông có thể đi đến mưu toan tự tử. Mười lăm hôm sau, ông de Beaufort trông thấy hai hàng cây nho bằng ngón tay út trồng ở hai bên con đường dẫn đến sân chơi cầu ông hỏi trồng để làm gì thì được trả lời là để sau này cho ông hưởng bóng mát.

Cuối cùng một buổi sáng người làm vườn đến tìm ông, và chẳng có vẻ đùa tí nào, báo cho ông biết là người ta định trồng cho ông măng tây. Ai cũng biết những cây măng tây bây giờ trồng phải mất bốn năm nhưng thời ấy, kỹ thuật làm vườn còn kém, trồng phải mất năm năm. Phép lịch sự ấy khiến ông de Beaufort tức điên lên.

De Beaufort nghĩ đã đến một trong bốn mươi kế sách của ông, và thoạt đầu ông thử cái đơn giản nhất là hối lộ La Ramée; nhưng La Ramée đã phải mua cái chức phó quan cảnh sát mất một nghìn năm trăm êquy hắn bám chặc lấy chức vụ ấy. Cho nên đáng lẽ nghe theo người tù, hắn tức tốc bảo ngay cho De Chavigny, lập tức De Chavigny cắt tám người ngay trong phòng ông hoàng thân tăng gấp đôi số lính canh và tăng gấp ba số vọng gác. Tù hôm ấy ông hoàng chỉ còn được đi lại như những ông vua trên sân khấu với bốn lính đằng trước, bốn lính đằng sau, không kể những tên đi áp giải.

Ông de Beaufort lúc đầu giễu cợt cái việc nghiêm cẩn ấy nó trở thành một trò giải trí của ông. Luôn mồm ông nhắc đi nhắc lại: "cái này mua vui cho tôi, cái này giải vây cho tôi"! (ý ông muốn nói: cái này giải khuây cho tôi, nhưng ai cũng biết rằng ông thường không nói ra được những điều ông muốn nói). Rồi ông tiếp: "Với lại, khi nào tôi muốn thoát khỏi những điều vinh dự mà các ông dành cho tôi, tôi vẫn còn ba mươi chín kế khác nữa".

Nhưng cái trò giải trí ấy cuối cùng trở thành một mối bực bội.

Do huênh hoang ông de Beaufort chịu đựng tốt được sáu tháng: nhưng qua sáu tháng ròng quay đi quay lại lúc nào cũng thấy tám người, khi mình ngồi xuống, họ cũng ngồi xuống, mình đứng lên họ cũng đứng lên theo, mình dừng lại họ cùng dừng lại, thì ông bắt đầu cau mày và đếm ngày tháng.

Hình phạt mới này dẫn đến sự thâm thù gay gắt đối với lão Mazarin. Ông hoàng thân không ngớt mồm chửi rủa từ sáng đến tối và chỉ nói đến món tai Mazarin ninh nhừ, nghe mà rùng mình.

Quan tể tướng biết tường tận mọi chuyện diễn ra ở Vincennes, nhưng đành tảng lờ, lấy mũ nỉ che tai.

Một hôm, ông de Beaufort tập hợp bọn lính canh lại, và mặc dầu cái tật diễn đạt khó khăn của mình đã trở thành truyền thuyết, ông đọc một bài diễn văn đã được chuẩn bị trước, thực vậy, ông nói:

- Hỡi các ông, lẽ nào các ông cam lòng nhìn một người cháu nội của đức minh quân Henri IV bị người ta trút lên đầu những lăng mạ và kỷ nhục (ý ông đình nói sỉ nhục)? Mẹ kiếp chứ! Như ông nội tôi thường nói, hầu như tôi đã trị vì ở Paris, các ông biết chứ. Trong suốt một ngày tôi trông coi vua và Hoàng đệ. Hoàng hậu lúc ấy mơn trớn tôi và gọi tôi là con người trung thực nhất vương quốc: tôi sẽ đi đến cung Louvre, tôi sẽ vặn cổ lão Mazarin, các vị sẽ là người hộ vệ của tôi, tôi sẽ phong tất cả các vị là sĩ quan và cấp bổng lộc khá. Mẹ kiếp chứ! Đi đằng trước, bước.

Nhưng dù có thống thiết đến mấy, bài diễn thuyết của cháu nội vua Henri IV chẳng hề làm xúc động những quả tim bằng đá; không một tên nào nhúc nhích. Thấy thế, ông de Beaufort bảo chúng là đồ đê tiện và coi chúng là những kẻ thù tàn ác.

Hằng tuần De Chavigny đến thăm quận công vài ba lần; đôi khi ông quận công lợi dụng lúc ấy để dọa dẫm.

- Này ông, - quận công nói, - nếu như một ngày kia, ông trông thấy một đội quân người Paris mình đầy giáp sắt và tua tủa súng ống đến để giải thoát cho tôi thì ông sẽ làm gì?

- Thưa Đức ông, - Chavigny vừa đáp vừa củi rạp mình chào ông hoàng, - tôi có hai chục khẩu đại bác đặt trên các thành lũy và ba mươi ngàn quả đạn đặt trong các hầm hào; tôi sẽ bắn phá họ ra trò.

- Phải, nhưng mà khi ông bẳn được ba chục ngàn phát, thì họ đã chiếm được cái tháp lâu đài, và tháp bị chiếm, tôi buộc lòng phải để mặc họ treo cổ ông, và hẳn là tôi rất lấy làm phiền lòng.

Và đến lượt mình, hoàng thân chào De Chavigny một cách lịch sự nhất.

- Nhưng thưa Đức ông, - Chavigny lại nói, - về phía tôi tôi thấy tên phản loạn đầu tiên nào bước qua ngưỡng cửa đường hào hoặc đặt chân lên tường thành, tôi rất tiếc là buộc lòng phải tự tay giết ngài, vì tôi được giao trách nhiệm đặc biệt trông coi ngài và phải nộp ngài hoặc sống hoặc chết.

Và hắn lại cung kính:

- Chào Điện hạ.

- Phải - quận công nói tiếp, - nhưng vì chắc chắn rằng những con người trung hậu ấy chỉ đến đây sau khi đã treo cổ Giulio Mazarin thì hẳn là ông sẽ chẳng đụng đến tôi và để cho tôi sống vì sợ rằng dân thành Paris sẽ cho bốn con ngựa xé xác ông ra, như thế còn khó chịu gấp trăm lần ông bị treo cổ ấy chứ, có phải không?

Những câu chuyện bông đùa xỏ ngọt ấy thường kéo dài mươi mười lăm phút, hai mươi phút là cùng, nhưng bao giờ cũng kết thúc thế này.

De Chavigny quay ra phía cửa và gọi:

- Ơ này! La Ramée đâu?

La Ramée vào và Chavigny bảo:

- La Ramée, tôi đặc biệt dặn ông về ông de Beaufort: hãy đối xử đối với ông ấy bằng mọi cung cách xứng đáng với tên tuổi và địa vị của ông ấy, nhưng không vì thế mà được rời mắt khỏi ông ta một chút nào.

Rồi hắn nói vừa rút lui vừa chào ông de Beaufort bằng một vẻ lễ phép giễu cợt khiến ông bầm gan tím ruột.

Vậy là La Ramée trở thành người cùng mâm bắt buộc, người hộ vệ vĩnh cửu của hoàng thân cái bóng của thân thể ông. Nhưng phải nói rằng La Ramée là một người sống vui nhộn, một thực khách thật thà, một cây rượu nổi tiếng, một tay cầu thủ giỏi, thâm tâm cũng tốt thôi, và đối với ông de Beaufort chỉ có mỗi một khuyết điểm là không thể mua chuộc được, thì bầu bạn với hắn trở thành một nỗi tiêu khiển hơn là một sự mệt mỏi đối với hoàng thân.

Khốn nỗi đối với thày đội La Ramée lại không như vậy. Mặc dù được nhốt cùng với tù nhân tối quan trọng đến thế, thày cũng coi là một niềm vinh dự nào đó, nhưng nỗi vui thú được sống trong cảnh thân thuộc với cháu nội Henri IV đại đế chẳng bù lại nổi thú vui giá như thỉnh thoảng thày được về thăm gia đình mình.

Người ta có thể vừa là phó cảnh sát xuất sắc của nhà vua, vừa là cha hiền chồng thảo. Song thày La Ramée yêu quí vợ và con cái mà thày chỉ được nhác trông từ trên tường lũy cao ngất, mỗi khi vợ con thày đến và đi dạo ở bên kia các bờ hào để tạo cho thày niềm an ủi phu thê và phụ tử tình thân. Rõ ràng là quá ít ỏi đối với thày và La Ramée cảm thấy rằng cái nết vui tính của mình mà trước kia thày coi như nguyên nhân của sức khỏe tốt mà không tính đến trái lại nó có thể chỉ là kết quả nó sẽ không bền vững dưới một chế độ như thế này đâu. Niềm tin ấy chỉ càng lớn lên trong tâm trí La Ramée khi mà dần dần, môi quan hệ giữa ông de Beaufort và De Chavigny ngày càng trở nên gay gắt và họ chấm dứt hẳn việc gặp gỡ nhau. La Ramée liền cảm thấy trách nhiệm đè nặng lên đầu lên cổ mình và đích thực vì những nguyên do mà chúng tôi vừa mới giải thích, La Ramée tìm cách làm nhẹ gánh và hắn sốt sắng chấp nhận điều đề nghị của bạn thân làm quản lý cho thống chế de là kiếm cho hắn ta một thủ hạ.

Hắn lập tức trình với De Chavigny, viên giám mục trả lời là chẳng hề phản dối, miễn là cái tên thủ hạ ấy vừa ý ông ta.

Chúng tôi coi là hoàn toàn vô ích việc mô tả bức chân dung thể xác và tinh thần của Grimaud cho các bạn độc giả. Chúng tôi hy vọng nếu như các bạn không quên tập đầu của bộ truyện này, ở anh ta chẳng có sự thay đồi nào ngoài việc tăng thêm hai mươi tuổi, việc ấy chỉ khiến anh ta càng thêm lầm lì và im lặng mà thôi, dù rằng Arthos từ khi bản thân mình có sự thay đổi đã cho phép Grimaud hoàn toàn tự do nói năng.

Nhưng hồi ấy đã có đến mười hai hay mười lăm năm Grimaud câm lặng, và một thói quen lâu đến mười hai hay mười lăm năm thì trở thành một bản năng thứ hai.

Chú thích:

(1) Những danh tướng Pháp thế kỷ XVI.

(2) Những danh hoạ Ý thời phục hưng.

-*-*-*-

Chương 20

Grimaud vào cuộc

Với vẻ ngoài thuận lợi của mình, Grimaud đến trình diện ở cây tháp lâu đài Vincennes. De Chavigny tự phụ có con mắt không bao giờ lầm lẫn; điều ấy có thể khiến người ta tin rằng ông ta đích thực là con đẻ của giáo chủ de Richelieu mà lòng tự phụ cũng là muôn thuở. Ông ta chăm chú ngắm kẻ đến xin việc và suy đoán rằng lông mày sít vào nhau, môi mông dính, mũi khoằm và lưỡng quyền cao gồ của Grimaud là những đặc trưng hoàn hảo. Ông ta chỉ hỏi mười hai câu. Grimaud đáp lại có bốn. Ông liền bảo:

- Đây là một tay xuất sắc, tôi đã nhận xét trước như thế mà. Anh hãy đến nói với ông La Ramée chấp nhận và bảo ông ấy rằng anh vừa ý tôi về mọi điểm.

Grimaud quay gót và sang dự cuộc kiểm tra khe khắt hơn của La Ramée. Điều khiến La Ramée khó khăn hơn, chính là vì De Chavigny biết là có thể dựa vào hắn ta và hắn ta thì muốn có thể dựa vào Grimaud.

Grimaud có đúng những phẩm chất có thể làm xiêu lòng một viên sĩ quan cảnh sát đang mong muốn có một người phụ cảnh sát; cho nên sau một nghìn câu hỏi mà mỗi câu chỉ được đáp lại bằng có một phần tư câu. La Ramée mê mẩn về cái tính hà tiện lời ấy, bèn xoa xoa hai bàn tay và tuyển dụng Grimaud luôn.

- Mệnh lệnh? - Grimaud hỏi.

- Đây. Không bao giờ để tù nhân một mình, tước của hắn mọi đồ dùng nhọn sắc, không cho hắn làm hiệu với những người ở ngoài hoặc chuyện trò quá lâu với bọn lính canh.

- Hết à? - Grimaud hỏi.

- Hết với lúc này thôi. - La Ramée đáp. - Nếu có những hoàn cảnh mới thì sẽ có những mệnh lệnh mới.

- Được - Grimaud đáp.

Và hắn đi vào phòng quận công de Beaufort.

Ông quận công đang chải râu, ông để cả râu tóc mọc dài cốt để chơi khăm Mazarin bằng cách phơi bày sự khổ cực và phô ra vẻ mặt ốm o của mình.

Nhưng vừa mới mấy hôm trước đây, đứng trên tháp cao ông ngỡ như nhận ra ở trong một cỗ xe bóng bà De Montbazon kiều diễm mà kỷ niệm bao giờ cũng thân thương với ông, thì ông lại không muốn mình xuất hiện với bà cũng giống như Mazarin; cho nên trong niềm hy vọng gặp lại bà, ông đã hỏi mượn một cái lược bằng chì và được đồng ý.

Ông de Beaufort hỏi mượn lược bằng chì, vì giống như mọi người có tóc hoe vàng, ông có bộ râu hung đó; chải lược bằng chì râu sẽ đen lại.

Grimaud bước vào vừa nhìn thấy cái lược ông hoàng vừa đặt trên bàn, hắn cầm lấy chiếc lược và vái chào.

Quận công kinh ngạc nhìn nhân vật kỳ dị ấy.

Nhân vật đó bỏ lược vào túi.

- Ơ này? Thế là thế nào? - Quận công kêu lên - Cái thằng bố láo này là ai vậy?

Grimaud, chẳng nói chẳng rằng, nhưng lại cúi chào lần thứ hai.

- Mày câm à? - Quận công hỏi.

Grimaud ra hiệu là không.

- Thế mày là gì nào. Trả lời đi, tao ra lệnh cho mày đấy.

- Lính canh, - Grimaud đáp.

- Lính canh? - Quận công nói. - Được, bộ sưu tập của ta chỉ thiếu có bộ mặt đáng treo cổ này. Ơ! La Ramée, có một kẻ nào đây này!

La Ramée nghe gọi chạy đến. Không may cho hoàng thân - La Ramée tin cậy ở Grimaud, sắp đi Paris, ông ta đã ra đến sân, lại quay trở lên bực dọc và hỏi:

- Gì thế, hoàng thân?

- Tên kẻ cắp này là thế nào, nó lấy cái lược của tôi và bỏ vào trong túi - Ông de Beaufort hỏi.

- Đó là một tên lính gác của Đức ông. Một anh chàng đầy uy tín mà tôi chắc rằng ngài cũng sẽ coi trọng như ông De Chavigny và tôi.

- Tại sao nó lại lấy cái lược của tôi?

- Quả vậy, - La Ramée nói, - tại sao anh lại lấy cái lược của Đức ông?

Grimaud rút lược ở túi ra, đưa mấy ngón tay lên và vừa nhìn vừa trỏ cái răng lược to, hắn chỉ thốt ra có mỗi một tiếng:

- Nhọn.

- Đúng thế, - La Ramée nói.

- Cái tên súc sinh ấy bảo gì? - Quận công hỏi.

- Nó bảo rằng mọi đồ dùng nhọn đều cấm Đức ông dùng.

- Thế đấy? La Ramée này. Ông điên đấy à? Chính ông đưa cho tôi cái lược ấy cơ mà.

- Thưa Đức ông, tôi đã sai lầm, đưa cái lược cho ngài, tôi đã vi phạm chính mệnh lệnh của tôi.

Hoàng thân giận dữ nhìn Grimaud, hắn đã đưa chiếc lược cho La Ramée.

- Ta thấy trước rằng cái thằng vô lại này sẽ làm bực mình ghê gớm, - hoàng thân lẩm bẩm nói.

Thực vậy, trong ngục tù không có tình cảm trung gian. Vì vậy tất cả mọi thứ, người và vật, đều hoặc là bạn anh, hoặc là kẻ thù của anh, người ta yêu và ghét đôi khi do lý trí, nhưng thường thường do bản năng.

Do cái duyên do hết sức đơn giản là vừa thoạt nhìn, Grimaud đã vừa lòng De Chavigny và La Ramée, những đức tính của hắn trước mắt viên giám ngục và viên quan cảnh sát là ưu điểm thì trước mắt người tù là khuyết điểm, cho nên trước tiên hắn ắt không vừa lòng ông de Beaufort.

Tuy nhiên Grimaud không muốn thẳng thừng công kích người tù; hắn cần không phải một sự hiềm ghét tạm thời mà một sự hằn thù thật dai dẳng.

Cho nên hắn rút lui để nhường chỗ cho bốn tên vệ sĩ vừa mới ăn sáng xong tiếp tục công việc ở bên hoàng thân.

Về phía hoàng thân còn phải làm một trò bông đùa mới mà ông ta rất trông cậy vào nó: ông đã bảo mang đến những con tôm cho bữa ăn sáng hôm sau và mong dùng thì giờ ban ngày làm một cái giá treo cổ nhỏ xíu để treo cái con đẹp nhất ngay giữa phòng. Cái màu đỏ của tôm chín sẽ khiến người ta không còn phải nghi ngờ gì sự ám chỉ, và như vậy ông sẽ thích chí được treo cổ hồng y giáo chủ bằng tượng trưng trong khi chờ đợi lão ta bị treo cổ thật sự, mà chẳng ai có thể trách ông đã không treo vật khác ngoài con tôm.

Ngày hôm ấy dùng để chuẩn bị cho việc hành hình. Trong từ người ta trở thành trẻ con và ông de Beaufort có tính cách dễ thành trẻ con hơn bất kỳ ai. Ông đi dạo như thường lệ, ông bẻ vài ba cành cây để dùng vào trò chơi và sau khi tìm kiếm ông nhặt được một mảnh thủy tinh vỡ, việc đó có vẻ làm ông thích thú nhất. Về nhà ông tháo sợi vải ở khăn tay.

Không một chỉ tiết nào thoàt khỏi con mắt dò xét của Grimaud.

Buổi sáng hôm sau, cái giá treo cổ đã xong và để trông rõ nó, ở giữa gian phòng, ông de Beaufort dùng mảnh thủy tinh vỡ để vót nhọn một đầu cọc.

La Ramée xem ông làm với vẻ tò mò của một người cha đang nghĩ rằng có lẽ mình sắp phát hiện ra một đồ chơi mới cho lũ con, còn bốn tên vệ sĩ thì nhìn với cái vẻ vô công rồi nghề thời ấy cũng như bây giờ làm nên đặc điểm chủ yếu của bộ mặt người lính.

Lúc Grimaud vào, hoàng thân vừa mới đặt mảnh thủy tinh xuống mặc dù ông chưa vót xong cái chân cột; nhưng ông dừng lại để buộc sợi chỉ vào đầu cột.

Ông liếc nhìn Grimaud, mắt vẫn còn vương một chút bực bội từ chiều hôm trước, nhưng rất hi hả về kết quả tất yếu của sáng kiến mới của mình ông không còn chú ý đến chuyện khác.

Song, khi ông buộc xong một nút ở đầu dây này và một thòng lọng ở đầu dây kia, ông nhìn sang một đĩa tôm và đưa mắt chọn một con tôm bệ vệ nhất, và ông quay lại để tìm mảnh thủy tinh, thi mảnh thủy tinh đã biến mất.

- Ai lấy mảnh thủy tinh của tôi? - Ông hoàng cau mày hỏi.

Grimaud ra hiệu là hắn lấy.

- Sao? Lại là mày à? Sao mày lấy của tao?

- Ờ - La Ramée hỏi. - Sao ông lại lấy mảnh thủy tinh của Điện hạ?

- Sắc bén- Đúng thế, thưa Đức ông!

La Ramée nói:

- Chà! thật ghê chưa. Chúng ta kiếm được một thằng cha quý hoá.

- Này ông Grimaud, - hoàng thân nói, - vì lợi ích của ông, tôi van ông đó, hãy cẩn thận chớ có bao giờ đứng ở trong tầm tay của tôi.

Grimaud cúi chào và đứng xa ra đầu phòng.

- Thôi, thôi, Đức ông, - La Ramée nói, - đưa tôi cái giá nhỏ của ông, tôi sẽ vót nhọn bằng con dao của tôi.

- Ông ấy à? - Quận công cười nói.

- Vâng, tôi; thế chẳng phải ngài cần việc ấy sao?

- Đúng vậy.

- Này, làm đi, - quận công nói tiếp, - thế thì càng ngộ. Cầm lấy, ông La Ramée thân mến.

La Ramée không hiểu tý gì về lời cảm thán của hoàng thân, ra sức vót lấy vót để cái chân cọc.

- Được rồi, - quận công nói, - bây giờ ông đào một lỗ nhỏ ở dưới đất kìa trong khi tôi đi kiếm kẻ chịu nạn.

La Ramée quỳ một chân xuống đào đất.

Trong lúc ấy, hoàng thân treo một con tôm vào sợi len. Rồi ông cắm cái giá ở giữa gian phòng và phá lên cười.

La Ramée cũng cười như nắc nẻ, chẳng hiểu mình cười vì cái gì.

Và bọn vệ sĩ cũng đồng thanh cười theo.

Riêng Grimaud không cười.

Hắn đến gần La Ramée và chỉ cho xem con tôm đang quay đi quay lại ở đầu dây, rồi nói:

- Giáo chủ!

- Bị treo cổ bởi Điện hạ quận công de Beaufort và bởi thày Jacques Chrysostome La Ramée, phó quan cảnh sát của nhà vua. - Hoàng thân vừa nói vừa cười dữ dội hơn lúc nào hết.

La Ramée kêu lên một tiếng kinh hoàng và nhảy bổ vào cái giá treo cổ mà hắn ta nhổ lên, bẻ vụn ra từng mảnh và vứt qua cửa sổ, hắn toan làm thế với cả con tôm do hắn đang nổi khùng, thì Grimaud liền đỡ lấy luôn.

- Ăn ngon đấy - hắn nói và bỏ con tôm vào túi.

Lần này ông quận công thích thú vô cùng với trò chơi đó, nên ông cũng hầu như tha thứ cho Grimaud về cái vai hắn đóng. Nhưng trong ngày hôm ấy ông suy nghĩ về cái ý đồ của tên lính canh và kỳ thực ý đồ ấy có vẻ xấu xa, cho nên ông cảm thấy mối hằn thù của ông đối với hắn tăng lên rõ rệt.

Nhưng trước sự thất vọng lơn lao của La Ramée, câu chuyện con tôm vẫn có tiếng vang rộng rãí trong tháp đài và cả ra bên ngoài. De Chavigny trong thâm tâm ghét cay ghét đắng tể tướng, rắp lòng kể lại giai thoại ấy cho vài ba người bạn có thiện ý, họ đem loan truyền ngay tức khắc.

Ông de Beaufort được hai ba ngày khoan khoái.

Tuy nhiên, ông quận công chú ý thấy trong đoàn vệ sĩ có một người có vẻ mặt tử tế, và Grimaud càng làm ông bực bội bao nhiêu thì ông càng mơn trớn người kia bấy nhiêu. Nhân một buổi sáng ông đã gặp riêng được người ấy và đi tới chỗ nói chuyện nêng với hắn một lát, thì Grimaud bước vào, nhìn xem tình hình đã diễn ra, rồi cung kính đến gần tên vệ sĩ và hoàng thân, hắn nắm lấy cánh tay tên vệ sĩ.

- Ông muốn gì ở tôi? - Quận công hỏi một cách tàn nhẫn.

Grimaud dẫn tên vệ sĩ đi ra mấy bước và trở ra cửa mà bảo:

- Đi ra.

Tên vệ sĩ tuân theo.

- Ôi! - Hoàng thân la lên - Ông thật là không chịu nồi, tôi sẽ trừng trị ông.

Grimaud chào cung kính.

- Này ông gián điệp; tôi sẽ dần gãy xương ông! - Hoàng thân giận dữ hét lên, Grimaud vừa chào vừa bước lùi.

- Ông gián điệp, - quận công nói tiếp - tôi sẽ tự tay bóp chết ông...

Grimaud vẫn vừa chào vừa lùi.

Ông quận công nghĩ thôi thì chấm dứt mọi chuyện ngay cho xong, nói tiếp:

- Và như vậy không chậm quá một phút đâu.

Rồi ông giơ hai bàn tay co quắp về phía Grimaud, hắn ta đành đẩy tên vệ sĩ ra ngoài và đóng cửa lại sau mình.

Cùng lúc hắn cảm thấy hai bàn tay của hoàng thân hạ xuống hai vai hắn giống như hai gọng kìm bằng sắt; đáng lẽ kêu cứu hoặc tự vệ hắn chỉ từ từ đưa hai ngón tay chỉ trỏ lên ngang môi và vừa tô điểm gương mặt mình bằng một nụ cười duyên dáng nhất của mình, hắn vừa khe khẽ nói một tiếng:

- Sụyt!

Ở Grimaud thì đó là một điều hiếm hoi hơn cả một cử chỉ, một nụ cười và một lời nói khiến Điện hạ dừng phắt ngay lại, kinh ngạc đến tột bực.

Lợi dụng lúc đó, Grimaud rút từ lớp áo lót một bức thư xinh xinh có giấy niêm phong quyền quý, mặc dầu để lâu trong áo Grimaud vẫn còn thoang thoảng mùi hương, và đưa cho ông quận công mà không nói một lời.

Quận công mỗi lúc một ngạc nhiên hơn, buông Grimaud ra, cầm lấy bức thư và nhận ra nét chữ, ông kêu kêu:

- Của bà de Montbazon à?

Grimaud gật đâu.

Quận công vội xé phong bì, đưa tay lên mắt, ông bị chói ngợp biết chừng nào, và đọc những dòng sau đây:

"Ông quận công thân mến, ông có thể hoàn toàn tin cậy ở cái anh chàng trung thực sẽ đưa lại ông bức thư này, bởi vì đó là một người hầu của một vị quý tộc thuộc phe chúng ta. Ông ấy đã bảo đảm về hắn do đã được thử thách hai mươi năm trung thành. Hắn đã bằng lòng vào giúp việc viên quan cảnh sát của ông và cùng nhốt mình với ông ở Vincennes để sửa soạn và giúp vào việc vượt ngục của ông mà chúng tôi đang lo liệu.

Thời kỳ giải thoát sắp tới gần; ông hãy kiên tâm và can đảm lên khi nghĩ rằng, mặc dù thời gian và sự vắng mặt, tất cả các bạn bè của ông vẫn giữ gìn những tình cảm mà họ đã trao cho ông.

Người vô cùng và mãi mãi thân thương của ông, Marie De Montbazon"

Tái bút - Tôi ký cả tên, bởi vì e rằng mình sẽ quá tự phụ khi nghĩ rằng sau năm năm vắng mặt, ông vẫn nhận ra những chữ đầu của tên họ tôi".

Ông quận công đứng ngẩn ngơ một lát. Cái mà ông tìm kiếm từ năm năm nay mà không thể chứng minh, tức là một người đầy tớ, một người giúp việc, một người bạn, bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống vào lúc mình ít chờ đợi nhất. Ông nhìn Grimaud, vẻ ngạc nhiên và trở lại với bức thư, ông đọc lại từ đầu đến cuối.

Ôi, nàng Marie thân yêu, - ông lẩm bẩm nói khi đã đọc xong, thì ra chính nàng mà ta đã nhác thấy ở trong cỗ xe. Sao, nàng vẫn còn nghĩ đến ta sau năm năm xa cách ư? Mẹ kiếp! Đây là một sự thủy chung mà người ta chỉ thấy ở trong truyện Astrée(3). Rồi ông quay về phía Grimaud, bảo:

- Còn bác, con người trung hậu của tôi ơi, bác bằng lòng giúp chúng tôi đấy à?

Grimaud gật đầu.

- Và vì vậy mà bác đến đây ư?

Grimaud lại gật đầu.

- Và chính tôi muốn bóp cổ bác ư? - Quận công kêu than.

Grimaud hơi mỉm cười.

- Này đợi tí, - quận công bảo.

Và ông lục tìm trong túi.

- Đợi tí! Ông nói tiếp và làm lại cái thí nghiệm vô hiệu quả ban đầu - không thể nào một sự tận tụy như vậy đối với một vị cháu nội của Henri IV mà lại không được ân thưởng.

Cứ chỉ của quận công de Beaufort cáo giác cái ý định tử tế nhất trên đời. Nhưng một trong những điều phòng ngừa ở Vincennes là không để tiền cho tù nhân.

Nhìn thấy sự thất vọng của quận công, Grimaud rút từ trong túi ra một bao đầy tiền vàng đưa cho ông và bảo:

- Đây là cái mà ngài tìm.

Quận công mở bao tiền và muốn dốc hết ra tay Grimaud, nhưng bác lắc đầu.

- Xin cảm ơn Đức ông, tôi đã được trả công. - Bác vừa nói vừa lùi ra.

Quận công đi từ kinh ngạc nọ đến kinh ngạc kia.

Ông giơ hai bàn tay ra. Grimaud bước tới và cung kính hôn tay ông. Những phong cách quý phái của Arthos đã lây sang cả Grimaud.

- Thế bây giờ chúng ta sẽ làm gì? - Quận công hỏi.

- Bây giờ lả mười một giờ sáng, - Grimaud nói - Đến hai giờ xin Đức ông rủ La Ramée ra chơi cầu và ném vài ba quả vọt qua tường thành.

- Rồi sao nữa?

- Rồi... Đức ông đi đến gần tường và gọi một người đàn ông đang làm ở dưới hào nhờ họ ném cầu lại cho.

- Tôi hiểu, - quận công nói.

Gương mặt Grimaud rạng rỡ vẻ thoả mãn: thói quen ít dùng đến lời nói đã khiến cho việc chuyện trò của bác thành khó khăn.

Bác làm một động tác để rút lui.

- Ái chà! - Quận công nói - Thế bác không chịu nhận cái gì ư?

- Tôi muốn Đức ông hứa với tôi một điều.

- Điều gì? Nói đi...

- Đó là khi chúng ta chạy trốn, bất cứ lúc nào và ở chỗ nào, tôi cũng đi đầu tiên; vì nếu người ta bắt được Đức ông, điều rủi ro lớn nhất đối với ngài là bị giam lại vào tù; còn nếu như người ta bắt được tôi điều rủi ro xoàng nhất đối với tôi là bị treo cổ.

- Đúng quá đi rồi, - quận công nói - xin lấy danh dự nhà quý tộc ra mà thề, điều ấy sẽ được thực hiện như bác đòi hỏi.

- Bây giờ, - Grimaud nói, - tôi chỉ xin Đức ông có một điều là ngài hãy tiếp tục ban cho tôi niềm vinh dự là căm ghét tôi như trước.

- Tôi sẽ cố gắng. - quận công đáp.

Có tiếng gõ cửa.

Quận công nhét bức thư và bọc tiền vào túi và nằm lăn ra giường. Ai cũng biết đó là cung cách của ông trong những lúc phiền muộn nhất. Grimaud ra cửa: đó là La Ramée vừa mới ở chỗ tể tướng về, nơi đã diễn cảnh gặp gỡ mà chúng tôi đã kể.

La Ramée đưa mắt dò xét nhìn quanh mình, mà vẫn nom thấy những biểu hiện hục hặc giữa người tù và người canh tù, hắn ta cười đầy vẻ thởa mãn trong lòng.

Rồi quay về phía Grimaud, hắn nói:

- Tốt, anh bạn ạ, tốt! Anh vừa được nói đến rất đúng chỗ, và tôi hy vọng chẳng mấy chốc anh sẽ có những tin tức chẳng đến nỗi khó chịu đối với anh đâu.

Grimaud chào với cái vẻ mà bác cố làm cho lịch sự và rút lui, đó là thói quen của bác khi cấp trên vào.

- Thế nào, Đức ông! - La Ramée vừa nói vừa cười hô hố, - ngài cứ giận dỗi mãi cái thằng cha tội nghiệp ấy ư?

- À! La Ramée đấy à? - Quận công nói, - thực tình ông đến đúng lúc. Tôi đã nằm lăn ra giường và quay mặt vào tường để cưỡng lại cái ý định giữ lời hứa của tôi là bóp cổ tên phản trắc Grimaud.

La Ramée muốn dùng một câu bóng gió hóm hỉnh về cái tật câm lỳ của kẻ phụ tá cho mình, nói:

- Tuy nhiên tôi ngờ rằng hắn lại có thể nói điều gì rất khó chịu với Điện hạ.

- Chắc mười mươi như vậy! Một thằng câm phương Đông. La Ramée ạ, tôi xin thề là ông đến đúng lúc, và tôi rất nóng gặp lại ông.

- Đức ông tốt bụng quá! - La Ramée phồng mũi về lời khen, nói.

- Phải, - Quận công nói tiếp, - thực ra hôm nay tôi cảm thấy một sự vụng về mà ông nom thấy cũng hay.

- Vậy chúng ta sẽ làm một ván cầu chứ? - La Ramée bất giác nói.

- Nếu ông muốn.

- Xin tuân lệnh Đức ông.

- La Ramée thân mến ơi, - Quận công nói - nghĩa là ông là một người rất hay và có lẽ tôi muốn ở lại Vincennes mãi mãi để hưởng cái thú là sống suốt đời với ông.

- Thưa Đức ông, - La Ramée nói, - Tôi cho rằng những nguyện ước của ngài thực hiện được hay không chẳng phải do nơi ông giáo chủ đâu.

- Sao lại thế? Gần đây ông có gặp ông ta không?

- Ông ấy mới cho tìm tôi sớm hôm nay.

- Thật à? Để nói với ông về tôi ư?

- Thế ông bảo còn nói với ai nữa? Đức ông ạ, thực ra ngài là cơn ác mộng của giáo chủ.

Quận công mỉm cười chua chát.

- A! - Ông nói - La Ramée, nếu ông chấp nhận những đề nghị của tôi!

- Kìa, đức ông! Chúng ta lại bàn về chuyện đó sao! Nhưng ngài phải thấy rõ là ngài chẳng biết điều.

- La Ramée, tôi đã nói với ông và tôi xin nhắc lại rằng tôi sẽ làm cho ông giàu có.

- Bằng cái gì cơ? Chỉ mới ra khỏi tù là của cải của ngài sẽ bị tịch thu.

- Chỉ mới ra khỏi tù là tôi sẽ làm chủ Paris.

- Sụyt! Sụyt! Thế nào... Chẳng lẽ tôi lại có thể nghe nói những điều như thế ư? Thật là một câu chuyện hay ho mà người ta dám bàn với một sĩ quan của nhà vua. Thưa Đức ông, tôi thấy rõ là phải kiếm thêm một Grimaud thứ hai.

- Thôi! Không nói chuyện ấy nữa. Như vậy là có vấn đề giữa tôi với anh và giáo chủ? La Ramée ạ, một ngày nào đó lão ta cho gọi anh thì anh phải để cho tôi mặc quần áo của anh. Tôi sẽ đi thay anh, tôi sẽ bóp cổ lão, và xin lấy danh dự nhà quý tộc mà thề nếu đó là một điều kiện, tôi sẽ tự mình trở lại nhà tù.

- Này Đức ông, tôi thấy cần phải gọi Grimaud đến.

- Tôi sai rồi. Thế lão ta đã nói gì với anh cái đồ nghiệp chướng(2) ấy?

- Xin truyền lại Đức ông cái từ ấy vì nó vần với tể tướng(3). - La Ramée nói với vẻ hóm hỉnh, - Ông ấy nói gì với tôi ư? Ông ấy bảo tôi phải giám sát ngài.

- Tại sao phải giám sát tôi? - Quận công lo lắng hỏi.

- Bởi vì một nhà chiêm tinh học tiên đoán là ngài sẽ trốn thoát.

- A! Một nhà chiêm tinh học đoán vậy à? - ông quận công bất giác rùng mình.

- Ôi! Lạy Chúa! Có thể! Cái bọn pháp sư ba láp ấy chúng cứ việc tưởng tượng ra để làm khổ những người thật thà. Tôi xin lấy danh dự mà nói như vậy.

- Thế anh đã trả lời Các hạ đại danh như thế nào?

- Là nếu cái lão chiêm tinh ấy soạn ra các quyển lịch thì tôi khuyên Các hạ chớ có mua.

- Tại sao?

- Bởi vì nếu ngài có muốn trốn thoát thì ngài phải biến thành con chim sơn ca hoặc con chim sẻ đó.

- Buồn thay, anh nói rát có lý. Thôi La Ramée, ta đi chơi một ván cầu nào.

- Thưa Đức ông, xin ngài thứ lỗi cho, nhưng ngài phải cho tôi nửa giờ nữa.

- Sao vậy?

- Bởi vì Đức ông Mazarin dòng dõi dù chẳng ghê gớm gì, nhưng vẫn kiêu hãnh hơn ngài và ông ấy đã quên không mời tôi ăn sáng.

- Vậy thì, anh có muốn để tôi bảo dọn bữa ăn sáng lên đây cho anh không?

- Không! Xin trình với Đức ông rằng cái người bán bánh ngọt ở trước mặt lâu đài, mà người ta gọi là cha marteau...

- Thế thì sao?

- Này nhé, cách đây tám hôm ông ta đã bán cửa hàng của mình cho một người làm bánh ngọt ở Paris, nghe đâu ông này được các thày thuốc khuyên là nên nghỉ ở nơi đồng quê thoáng đãng.

- Ơ hay! Thế thì có liên can gì đến tôi nào?

- Khoan đã, Đức ông; thành thử ra cái lão hàng bánh quái ác ấy cứ lúc nào cũng bày ra ở quầy hàng cơ man nào là những thứ làm người ta thèm rõ dãi.

- Đồ tham ăn?

- Ôi lạy Chúa! - La Ramée nói - Đức ông ơi, thích ăn ngon không phải là tham an. Bản tính con người ta là tìm kiếm sự hoàn hảo trong những cái bánh ngọt cũng như trong các thứ khác. Cũng xin thưa với Đức ông rằng khi trông thấy tôi dừng chân trước quầy hàng của hắn, cái lão chủ hiệu bánh ngọt quỷ quyệt ấy, mồm đầy bột mon men đến và bảo tôi rằng: "Ông La Ramée ơi, tôi cần phải có khách hàng trong đám tù nhân của lâu đài. Tôi đã mua cửa hiệu này của người chủ trước, chẳng qua vì hắn ta bảo đảm với tôi rằng hắn cung cấp bánh cho lâu đài; vậy mà, ông La Ramée ơi, tôi xin lấy danh dự mà thề rằng, từ khi tôi mở cửa hiệu đến nay đã tám hôm rồi, mà ông De Chavigny chẳng hề sai mua cho tôi lấy một cái bánh nhỏ".

Tôi bảo lão rằng:

- Chắc hẳn ông De Chavigny sợ rằng bánh trái cây của bác không ngon...

- Bánh của tôi mà không ngon. Thế thì ông La Ramée ơi, tôi mong rằng ông sẽ phán xét cho, và ngay bây giờ đây này...

- Không được đâu, tôi trả lời, nhất thiết tôi phải trở về lâu đài.

- Nếu ông vội thì xin ông cứ về, nhưng mời ông nửa giờ nữa trở lại đây.

- Nửa giờ nữa à?

- Vâng. Ông đã ăn sáng chưa?

- Thực tình là chưa.

- Thế thì đây, một cái bánh nướng sẽ đợi ông cùng với một chai rượu vang Bourgogne lâu năm...

- Và thưa Đức ông vì tôi cũng chưa ăn gì? Chắc ngài hiểu cho rằng được Điện hạ cho phép.

Và La Ramée nghiêng mình.

- Thôi đi đi, của nợ ạ, - quận công nói, - nhưng hãy chú ý là tôi chỉ cho có nửa giờ thôi đấy.

- Liệu tôi có thể hứa hẹn với người kế tục cho cha Marteau về sự chiếu cố của Đức ông không ạ?

- Được miễn là ông ta đừng có cho nấm vào trong bánh, anh biết đấy, - hoàng thân nói thêm, - những cây nấm ở vùng Vincennes chết người đối với gia đình tôi đấy.

Không nhận thấy ý bóng gió, La Ramée đi ra và năm phút sau, viên sĩ quan trực gác vào mượn cớ bầu bạn với hoàng thân để làm rạng rỡ thêm cho ông, nhưng kỳ thực là để thi hành mệnh lệnh của tể tướng là không được rời mắt khỏi người tù.

Nhưng trong năm phút ngồi một mình, quận công có đủ thời giờ để đọc lại bức thư của bà de Montbazon, nó chứng tỏ cho người tù thấy rằng bạn bè ông không quên ông và lo liệu việc giải thoát cho ông. Bằng cách nào, ông chưa rõ, nhưng ông tự hứa là sẽ làm cho Grimaud nói ra, dù bác ta có câm lì. Càng biết rõ tính nết Grimaud, ông càng tin cậy bác nhiều hơn, và ông hiểu rằng bác ta bày đặt ra tất cả những trò hành hạ vặt vãnh đối với ông chẳng qua là để cho bọn lính canh khỏi nghi ngờ rằng bác có thể thông đồng với quận công.

Mưu chước ấy khiến quận công đánh giá rất cao trí tuệ của Grimaud, và ông nhất quyết tin cậy hoàn toàn ở bác.

Chú thích:

(1) Tiểu thuyết thôn đã của Ônorê d Uyêcphê (1607-1628) về chuyện ái tình giữa Xeladông và nàng Axtre.

(2) (3) Trong nguyên bản: chữ cuistre (đê tiện) vần với chữ ministre (tể tướng)

-*-*-*-

Chương 21

Chiếc bánh nướng của người kế tục cha Marteau chứa đựng cái gì?

Chiếc bánh nướng của người kế tục cha Marteau chứa đựng cái gì?

Nửa giờ sau La Ramée trở về vui vẻ và hoạt bát như một người đã ăn ngon và nhất là uống tốt. Hắn thấy rõ là - bánh rất ngon và rượu vang thật là tuyệt diệu.

Trời đẹp và cho phép tiến hành cuộc chơi dự định. Trò chơi cầu dài, tức là chơi ở ngoài trời rộng rãi. Như vậy đối với ông quận công chẳng có gì dễ dàng hơn là làm theo điều Grimaud dặn dò, nghĩa là ném bóng ra ngoài hào rãnh.

Tuy vậy khi mà hai giờ chưa điểm thì quận công chưa đến nỗi vụng về quá, vì hai giờ là giờ quy định. Nhưng cho đến lúc ấy ông vẫn cứ bị thua mấy ván, điều đó cho phép ông phát cáu và liên tiếp đánh hỏng như người ta thường bị trong trường hợp tương tự.

Cho nên, khi hai giờ đúng vang lên, các quả bóng bắt đầu văng ra phía ngoài hào trước nỗi vui mừng lớn của La Ramée, hắn ghi mười lăm điểm mỗi lần bóng của hoàng thân trật ra ngoài.

Ném trật ra ngoài tới tấp đến nỗi chả mấy chốc thiếu bóng. La Ramée toan bảo người nào đó ra ngoài hào nhặt bóng. Nhưng quận công nhận xét rất chí lý rằng làm như vậy mất thì giờ, và tiến gần đến tường thành, chỗ ấy như viên quan cảnh sát nói cao ít nhất là năm mươi bộ, thì ông chợt nom thấy một người đàn ông đang làm lụng ở một trong số nghìn mảnh vườn nhỏ mà các người nông dân khai khẩn ở bên kia bờ hào.

- Ê! Anh bạn này! - Quận công kêu lên.

Người đàn ông ngầng lên, và quận công suýt bật ra một tiếng kêu kinh ngạc. Người đàn ông ấy, người nông dân ấy, người làm vườn ấy, chính là Rochefort mà quận công tưởng vẫn còn ở trong nhà tù Bastille.

- Có chuyện gì ở trên ấy đấy? - người đàn ông hỏi.

Bác làm ơn ném các quả bóng lên cho chúng tôi, - quận công bảo.

Người làm vườn gật đầu và ném bóng lên; La Ramée và các vệ sĩ đi nhặt. Một quả bóng rơi đúng chân quận công, và vì quả bóng ấy rõ ràng gửi ông, nên ông bỏ vào túi.

Rồi ra hiệu cám ơn với người làm vườn xong, ông quay trở lại cuộc chơi.

Nhưng rõ ràng là quận công vớ phải một ngày đen đủi, các trái bóng tiếp tục bay lung tung; đáng lẽ phải rơi vào trong giới hạn của sân chơi thì hai quả lại văng ra ngoài hào; nhưng vì người làm vườn không còn ở đấy nữa để ném trả bóng, nên mất bóng, rồi quận công tuyên bố rằng ông xấu hổ vì vụng về đến thể và ông không muốn chơi nữa.

La Ramée khoái chí vì đã đánh bại hoàn toàn một vị thân vương.

Ông hoàng trở về nhà và đi nằm; hầu như ông nằm suốt ngày từ khi người ta tước hết sách vở của ông.

La Ramée lấy quần áo của hoàng thân đi, lấy cớ là nó đầy bụi phải mang đi chải, nhưng thực ra là để yên trí rằng ông ta không đi đâu được. Một con người đến là cẩn thận như La Ramée!

May thay hoàng thân đã kịp giấu quả bóng dưới cái gối ngang.

Cửa vừa đóng là quận công dùng răng xé ngay cái vỏ quả bóng vì người ta không để cho ông một dụng cụ sắc cạnh nào, ông vẫn phải ăn bằng những con dao bạc có lưỡi gập lại được nhưng không cắt được.

Dưới lượt vỏ là một bức thư viết mấy dòng sau đây:

"Thưa Đức ông, các bạn bè của ngài vẫn quan tâm, và giờ giải thoát ngài sắp tới. Ngày kia ngài hãy đòi ăn một cái bánh do người làm bánh mới đã mua cửa hiệu của người chủ cũ, và chính là Noirmont đầu bếp của ngài, chỉ mở cái bánh khi nào có một mình ngài, tôi hy vọng ngài sẽ hài lòng cái đựng bên trong.

Kẻ môn hạ luôn luôn tận tụy với Điện hạ, dù ở ngục Bastille hay bất cứ đâu.

Bá tước de Rochefort!

Tái bút. - Điện hạ có thể tin cậy ở Grimaud về mọi mặt, đó là một người rất thông minh và hết lòng tận tụy với chúng ta".

Từ khi quận công de Beaufort từ bỏ vẽ tranh người ta đã trả lại lửa cho ông. Ông tiếc ngẩn tiếc ngơ mà đốt thư của bà De Montbazon, và sắp sửa đốt cả quả bóng, thì chợt nghĩ rằng nó có thể có ích để gửi thư trả lời Rochefort.

Ông bị canh riết lắm, vì vừa mới nghe tiếng cử động của ông, La Ramée vào. Hắn hỏi:

- Đức ông cần gì thế?

- Tôi rét, - quận công đáp, - nên tôi khơi lửa lên cho ấm. Bạn thân mến ạ, ông biết đấy, các căn phòng của Tháp đài Vincennes nổi tiếng là lạnh lẽo. Người ta có thể giữ băng ở đấy và lượm được diêm tiêu Puylaurens, thống chế Ornano và vị phó trụ trì cậu của tôi đã chết ở trong những căn phòng, mà như là bà De Rambouillet nói, về phương diện ấy, đáng giá với lượng thạch tín của nó.

Và ông quận công lại nằm kềnh ra giường và giúi quả bóng xuống dưới gối. La Ramée hơi mỉm cười.

Thực ra hắn cũng là một người tốt và rất mến người tù lừng lẫy này và có thể sẽ rất khổ tâm nếu tai họa xảy ra đến với ông. Mà những tai họa liên tiếp này xảy ra với ba nhân vật mà quận công vừa mới nêu tên là không thể chối cãi được.

- Đức ông ạ, - hắn nói, - không nên buông mình vào nhưng ý nghĩa như vậy. Chính là những ý nghĩ đó giết chết người ta, chứ không phảì diêm tiêu đâu.

- Này, bạn thân mến ơi, - quận công nói, - Ông thật là tử tế, giá mà tôi được như ông đi ăn bánh nướng và uống rượu vang Bourgogne ở hàng cái người kế tục cha Marteau ấy, thì tôi sẽ khuây khoả.

- Đức ông ơi, thực tế là bánh nướng của lão ấy là loại bánh trứ danh và rượu vang thì là thứ rượu đáng tự hào.

- Dù sao thì hầm rượu và bếp núc của lão cũng hơn đứt của ông De Chavigny.

- Vậy thì thưa Đức ông, - La Ramée sa vào bẫy nói, - Ai cấm ngài nếm thử. Vả chăng tôi cũng đã hứa rằng ngài sẽ là khách hàng.

- Anh nói phải đấy, - quận công đáp - nếu tôi phải tù chung thân ở đây như lão Mazarin đã có lòng tốt sai nói cho tôi biết, thì tôi cũng cần phải tạo cho mình một sự giải trí trong những ngày già nua, tôi cũng phải trở nên tham ăn chứ.

- Thưa Đức ông, - La Ramée nói, - hai tin đó là một lời khuyên hay, chẳng phải là vì thế mà ngài sẽ già nua đi đâu.

"Hay, - quận công de Beaufort nói riêng với mình, - bất cứ người nào, để mất trái tim và linh hồn của mình, nếu không mắc hai thì cũng đã mắc một trong bảy đại tội(1) từ sự hoa lệ của trời; dường như tội của thày đội La Ramée là tham ăn. Được chúng ta sẽ lợi dụng nó".

Rồi ông nói to:

- Này, La Ramée thân mến ơi, ngày kia là ngày lễ phải không?

- Đúng đấy, lễ Pentecôte.

- Ngày kia, anh có thể cho tôi một bài học không?

- Về cái gì cơ?

- Về phàm ăn.

- Xin vui lòng, thưa Đức ông.

- Nhưng là một bài học giữa hai người thôi, chúng ta sẽ cho bọn vệ sĩ đi ăn ở căng tin của De Chavigny, còn chúng ta sẽ làm một bữa tối ở đây mà tôi để ông điều khiển.

- Hừm? - La Ramée thốt lên.

Lời mời thật cám dỗ. Dù rằng tể tướng có nghĩ đến điều bất lợi khi gặp La Ramée, thì hắn ta cũng là một tay lão luyện biết hết những cạm bẫy mà một tù nhân giăng ra. Ông de Beaufort đã sửa soạn bốn mươi kế để vượt ngục; bữa ăn này liệu có che giấu một mưu mô nào không?

Hắn suy nghĩ một lát, nhưng kết quả của những suy nghĩ là tự hắn đặt thức ăn và rượu và như vậy chẳng ai có thể trộn bột gì vào thức ăn hoặc nước gì vào rượu.

Còn chuốc rượu cho hắn say ư, ông quận công chẳng thể có ý đồ ấy, và hắn bật cười với ý nghĩ ấy, rồi một ý nghĩ đến với hắn và hoá giải tất cả.

Quận công theo dõi bản độc thoại thầm của La Ramée bằng con mắt khá lo âu theo chừng những biểu hiện trên nét mặt hắn, nhưng cuổi cùng gương mặt viên cảnh sát rạng rỡ hẳn lên.

- Thế nào, - quận công hỏi - được chứ?

- Thưa Đức ông, được, nhưng với một điều kiện.

- Điều kiện gì.

- Grimaud sẽ hầu bàn cho chúng ta.

Không có gì tuyệt hơn đối với hoàng thân.

Tuy nhiên ông có khả năng biểu lộ một sự khó chịu ra mặt và kêu lên.

- Cút mẹ cái thằng Grimaud của ông đi. Nó sẽ làm hỏng cả buổi liên hoan.

- Tôi sẽ ra lệnh cho nó đứng đằng sau Điện hạ và không cho nó chẳng sủa lấy một lời, Điện hạ sẽ không trông thấy nó, không nghe thấy nó, và với một chút thiện ý thôi, Điện hạ sẽ tưởng tượng như nó ở cách xa ngài đến trăm dặm...

- Bạn thân mến ơi - quận công nói. - Ông có biết tôi đã nhìn thấy rất rõ ràng cái gì trong chuyện này không? Đó là ông nghi ngờ tôi.

- Thưa Đức ông, ngày kia là lễ Pentecôte rồi.

- Thì sao? Lễ Pentecôte có liên quan gì đến tôi. Dễ thường ông sợ rằng Thánh linh sẽ giáng thế dưới hình dạng một lưỡi lửa để mở các cửa nhà tù của tôi ra chăng?

- Không ạ, nhưng tôi đã kể với ngài cái điều mà lão pháp sư quái ác kia tiên đoán.

- Hắn tiên đoán gì?

- Rằng chẳng quá ngày lẽ Pentecôte, ngài sẽ ra khỏi lâu đài Vincennes.

- Thế anh tin ở bọn pháp sư à? Đồ ngốc!

- Tôi mà quan tâm đến những chuyện ấy ư? - La Ramée vừa nói vừa búng ngón tay - Nhưng chính Đức ông Giulio ông ta lo ngại, với tư cách người Ý, ông ta mê tín dị đoan.

- Quận công nhún vai. Rồi với một vẻ thực thà đóng kịch rất giỏi ông nói:

- Thôi được! Tôi đồng ý Grimaud, vì không thể cũng không xong. Nhưng tôi không muốn ai nữa ngoài Grimaud; anh sẽ đảm đương tất. Anh đặt bữa ăn thế nào tùy anh, tôi chỉ yêu cầu một món duy nhất là một cái bánh nướng như anh đã nói với tôi. Anh nhớ nói là đặt cho tôi để vị kế tục cha Marteau làm cho khéo hơn, và anh hứa hẹn với bác ta về sự chiếu cố của tôi không những suốt trong thời gian tôi ở tù, mà cả sau này khi tôi ra tù nữa.

- Ngài vẫn tin là ngài sẽ ra tù à? - La Ramée hỏi.

- Ấy chết? - Hoàng thân đáp, - có chăng là đến khi nào Mazarin chầu trời. Tôi kém lão ta mười lăm tuổi, ông vừa cười vừa nói thêm - Đúng là ở Vincennes người ta sống mau hơn.

- Đức ông! - La Ramée kêu lên, - kìa Đức ông!

- Hay là người ta chết sớm hơn, cũng vậy thôi! - Quận công nói tiếp.

- Thưa Đức ông, tôi đi bảo dọn bữa tối đây.

- Anh có cho rằng anh có thể sử dụng người học trò của anh vào việc gì không?

- Tôi hy vọng chứ, thưa Đức ông.

- Nếu anh còn có thì giờ, - quận công lẩm bẩm.

- Đức ông nói gì vậy? - La Ramée hỏi.

- Đức ông bảo là anh chớ dè sẻn túi tiền của ông giáo chủ, ông ta rất muốn đảm nhiệm tiền trợ cấp của chúng ta.

La Ramée dừng lại ở cửa và hỏi.

- Đức ông muốn tôi cắt ai đến với ngài.

- Ai cũng được, trừ Grimaud.

- Viên sĩ quan vệ sĩ nhé?

- Với bàn cờ của hắn nữa.

- Vâng.

Và La Ramée đi ra.

Năm phút sau, viên sĩ quan vệ sĩ vào và quận công de Beaufort có vẻ đang chìm đắm sâu xa trong những tính toán tuyệt vời của nước cờ.

Tư tưởng con người ta thật là kỳ lạ, và một dấu hiệu, một lời nói, một hy vọng gây nên trong đó những biến đổi như thế nào. Quận công ở tù năm năm rồi. Một cái nhìn về phía sau khiến thấy năm năm ấy tuy trôi chậm thật nhưng dường như còn không dài đằng đẵng bằng hai ngày, bằng bốn mươi tám giờ nó đang ngăn cách ông với thời điểm ấn định cho cuộc vượt ngục.

Rồi lại có một điều đặc biệt làm ông bận tâm ghê gớm đó là cuộc vượt ngục tiến hành như thế nào. Người ta đã làm cho ông hy vọng kết quả, nhưng lại giấu ông những chi tiết cụ thể chứa đựng trong cái bánh nướng bí hiểm. Những bạn bè nào chờ đợi ông? Thế ra sau năm năm tù đầy ông vẫn còn bè bạn ư? Trong trường hợp ấy ông là một hoàng thân được biệt đãi.

Điều kỳ lạ hớn nữa là ông quên rằng ngoài bạn bè ra, có được một người đàn bà vẫn nhớ đến ông; đúng là bà ta có lẽ không phải nhất nhất trung thành với ỏng rồi nhưng bà ta không quên ông, thế cũng là nhiều rồi.

Như vậy là có quá nhiều hơn mức cần thiết những điều khiến ông quận công phải bận tâm. Trong cuộc chơi cờ và trong cuộc chơi ném cầu, cũng vậy, và buổi chiều đến lượt viên sĩ quan lại đánh bại ông như La Ramée đã đánh bại ông ban sáng.

Song những cuộc thất bại liên tiếp của ông cũng có lợi, đó là nó dẫn ông hoàng tới tận tám giờ tối; thế là lợi được ba tiếng đồng hồ.

Rồi thì đêm sẽ đến và cùng với ban đêm là giấc ngủ.

Ít ra quận công nghĩ như vậy, nhưng giấc ngủ là một vị thần tính khí bất thường và đúng vào lúc người ta vời đến thì nó lại bắt người ta chờ đợi đến tận nửa đêm, trằn trọc mãi trên tấm nệm giống như thánh Laurent trên giá sắt lò lửa. Cuối cùng ông thiếp đi.

Nhưng rạng sáng là ông tỉnh giấc. Ông đã mơ những giấc mơ kỳ quặc: ông thấy mình mọc cánh, tất nhiên là ông muốn bay. Thoạt tiên, cánh đỡ ông bay vù vù nhưng đến một độ cao nào đó, chỗ tựa kỳ lạ ấy đột nhiên bị hẫng, đôi cánh ông bị gẫy và ông thấy hình như mình lăn xuống những vực thẳm không đáy, ông chợt tỉnh dậy, trán đẫm mồ hôi và mình mẩy rã rời như đã rơi từ trên trời xuống thật.

Ông ngủ tiếp, để rồi lại lang thang trong một mê cung toàn là những giấc mơ rất hung dữ; cứ vừa chợp mắt là linh hồn ông vươn theo một mục đích duy nhất: vượt ngục, lại bắt đầu tìm cách vượt ngục. Người ta tìm thấy một đường hầm dẫn ra ngoài Vincennes; ông dẫn mình vào con đường ấy, và Grimaud tay cầm đèn bước đi trước ông; nhưng dần dần đường hầm hẹp lại, tuy nhiên ông quận công vẫn tiếp tục đi; cuối cùng đường hầm chặt bó lại đến nỗi kẻ đào tẩu cổ gắng đi xa hơn cũng uổng công: hai bên thành tường co hẹp lại và ép chặt lấy ông; ông muốn gọi bác ta đến giúp ông ra khỏi cái lỗ hẻm này nó đang siết ông đến ngạt thở, nhưng không làm sao mà thốt lên được một lời. Thế là ở phía đầu đường nơi ông đi vào có tiếng bước chân của những người đuổi theo ông, nó không ngừng tiến gần lại, ông bị phát hiện rồi, của còn hy vọng trốn thoát.

Những thành tường như đồng tình với kẻ thù của ông, ông càng muốn chạy, chúng càng ép chặt lấy ông. Cuối cùng ông nghe tiếng La Ramée rồi ông trông thấy hắn. Hắn giơ bàn tay ra và đặt lên vai ông mà cười phá lên. Ông bị tóm lại và dẫn đến căn phòng thấp có vòm cong nơi thống chế Ornano, Puylaurens và cậu của ông đã bỏ mạng; ba nấm mồ lù lù ở đấy, gồ lên trên mặt đất, và một cái hố thứ tư mở toang hoác ra chỉ còn đợi một xác người.

Cho nên lúc trước quận công cố sức để ngủ bao nhiêu, thì đến khi tỉnh dậy cố sức để thức bấy nhiêu; và khi La Ramée vào hắn thấy ông nhợt tái và phờ phạc đến nỗi hắn phải hỏi xem ông có bị ốm không.

Một vệ sĩ nằm trong phòng, nhưng không ngủ được vì đau răng do ẩm thấp, nói:

- Quả thật, Đức ông qua một đêm hoảng loạn lắm và hai ba lần ngủ mê cứ kêu cứu hoài.

- Đức ông làm sao thế? - La Ramée hỏi.

- Chỉ tại cậu thôi, đồ ngốc ạ! - quận công nói. - Những chuyện vớ vẩn hão huyền về vượt ngục của cậu hôm qua ám ảnh tôi và khiến tôi nằm mơ thấy mình chạy trốn và khi chạy trốn thì bị ngã gẫy cổ.

La Ramée bật cười và nói:

- Đức ông thấy đấy, đó là một sự cảnh cáo của Trời; cho nên tôi mong rằng ngoài giấc mơ, Đức ông chớ bao giờ phạm những điều dại dột như vậy.

Quận công lau mồ hôi vẫn còn ròng ròng trên trán, mặc dù ông đã tỉnh hẳn và nói:

- La Ramée thân mến ơi, anh nói đúng đấy, tôi chỉ còn muốn nghĩ đến uống rượu và ăn thôi.

- Sụyt! - La Ramée nói.

Rồi hắn kiếm cớ cho bọn vệ sĩ lần lượt đi ra.

- Thế nào? - Quận công hỏi khi còn lại hai người với nhau.

- Này nhé bữa tiệc tối đã được đặt rồi, - La Ramée nói.

- A! Thế gồm những gì nào? Nào, ông đầu bếp của tôi? - Quận công nói.

- Đức ông đã hứa là tin cậy ở tôi cơ mà.

- Thế có một cái bánh nướng chứ?

- Dĩ nhiên rồi! Như một cái tháp ấy.

- Do người kẻ tục cha Marteau làm?

- Đặt bác ta làm mà.

- Thế anh có bảo là đặt cho tôi không?

- Có

- Bác ta trả lời sao?

- Là sẽ làm hết sức để vừa lòng Điện hạ.

- Hay lắm! - Quận công vừa nói vừa xoa xoa tay.

- Ghê thật. Đức ông ngoạm vào thói tham ăn như thế đấy! Từ năm năm nay, tôi chưa bao giờ thấy ngài mặt mày hoan hỉ như lúc này.

Quận công thấy rõ mình chưa thật làm chủ được mình. Nhưng vừa lúc ấy ông hiểu rằng nghe như có tiếng ở ngoài cửa và ông hiều rằng làm những ý La Ramée bây giờ là việc cấp bách, thì Grimaud vào và ra hiệu với La Ramée là bác có điều gì muổn nói với hắn.

La Ramée đến gần Grimaud nghe bác nói thầm thì.

Trong khi đó, quận công tĩnh tâm lại.

Ông nói:

- Tôi đã cấm người ấy hiện diện ở đây nếu không được tôi cho phép cơ mà.

- Thưa Đức ông. - La Ramée nói, - cần tha thứ cho hắn, vì chính tôi gọi hắn đến.

- Thế tại sao anh lại gọi hắn đến, bởi vì anh biết rằng hắn làm tôi phật lòng.

- Xin Đức ông nhớ lại điều đã thỏa thuận, - La Ramée nói - và hắn còn phải hầu chúng ta trong bữa tiệc trứ danh ấy chứ. Đức ông quên mất bữa tiệc ấy rồi à?

- Không đâu, nhưng tôi quên mất Grimaud.

- Đức ông biết rằng không có hắn thì không có bữa tiệc.

- Thôi được, tuỳ ông làm thế nào thì làm.

- Lại đây anh chàng, - La Ramée bảo, - và nghe tôi nói đây.

Grimaud bước lại gần với vẻ mặt nhăn nhó nhất. La Ramée nói tiếp:

- Đức ông ban cho tôi vinh dự là là mời tôi ăn bữa tối mai chỉ có tôi với ngài thôi.

Grimaud ra hiệu như muốn nói rằng bác ta chẳng thấy gì có liên quan đến bác trong việc này cả.

- Có chứ, có chứ, - La Ramée nói - trái lại việc này liên quan đến việc anh đấy; bởi vì anh sẽ có vinh dự là hầu tiếp chúng tôi, chưa kể là dù chúng tôi có chén ngon miệng và nốc đã khát đến mây thì chắc chắn vẫn còn cái gì đó ở dưới đáy đĩa và đáy chai và cái gì đó ấy là phần anh.

Grimaud cúi mình ra hiệu cảm ơn.

- Và bây giờ, thưa Đức ông - La Ramée nói, - xin Đức ông thứ lỗi, hình như ông De Chavigny sẽ vắng mặt mấy ngày, và trước khi đi, ông ta đã báo trước là sẽ có những mệnh lệnh ban cho tôi.

Quận công thử trao đổi một cái nhìn với Grimaud, nhưng mắt Grimaud cứ trơ như đá.

- Đi đi! - quận công bảo La Ramée, - và cố gắng về cho thật sớm.

- Đức ông muốn phục thù ván cầu hôm qua chăng?

Grimaud khẽ gật đầu một cái khó mà nhận thấy.

- Phải, - quận công nói, - nhưng hãy coi chừng La Ramée thân mến ạ, ngày ngày nối tiếp nhau nhưng chẳng giống nhau đâu, thành ra hôm nay tội quyết định sẽ giã cho anh một trận ra trò.

La Ramée ra. Grimaud mắt theo dõi theo, còn toàn thân không xê dịch đến một ly; rồi khi nhìn thấy cửa đóng lại, bác vội vã rút ở túi ra một cái bút chì và một mảnh giấy.

- Xin Đức ông viết đi, - bác nói.

- Nhưng viết gì cơ?

Grimaud giơ một ngón tay ra hiệu và đọc:

"Mọi thứ sẵn sàng vào tối mai. Các anh hãy cảnh giới từ bảy giờ đến chín giờ và có sẵn hai ngựa cưỡi. Chúng tôi sẽ xuống bằng lối cửa sổ thứ nhất của hành lang..."

- Rồi sao nữa? - quận công hỏi.

- Rồi thế nào ư, Đức ông? - Grimaud ngạc nhiên hỏi.

- Thế là hết à?

- Đức ông còn muốn nói gì thêm nữa. - Grimaud đáp, bác bao giờ cũng muốn sự gọn gàng nghiêm ngặt nhất.

Quận công ký.

- Bây giờ, - Grimaud nói - Đức ông có còn quả bóng không hay mất rồi?

- Bóng nào?

- Quả bóng đựng bức thư ấy.

- À còn. Tôi nghĩ là có thể nó còn có ích cho chúng ta. Bóng đây.

Quận công moi quả bóng ở dưới gối ra và đưa cho Grimaud mỉm cười một cách khoan khoái nhất.

- Để làm gì? - quận công hói.

- Thưa Đức ông, - Grimaud nói, tôi sẽ khâu mảnh giấy vào trong quả bóng, và lúc nào chơi cầu, ngài sẽ ném quả bóng xuống hổ.

- Nhỡ bị mất thì sao?

- Đức ông cứ yên tâm. Sẽ có người nhặt.

- Một người làm vườn phải không? - Quận công hỏi.

Grimaud gật đầu.

- Vẫn người hôm qua à?

Grimaud lại gật đầu.

- Bá tước de Rochefort phải không?

Grimaud gật đầu luôn ba cái.

- Nhưng, này, - quận công nói, - ít ra hãy cho tôi biết vài chi tiết về cách chúng ta trốn ra như thế nào chứ?

- Tôi bị cấm tiết lộ, - Grimaud đáp, - ngay cả trước lúc thực hiện.

- Nhưng ai sẽ đợi tôi ở bên kia bờ hào?

- Thưa Đức ông, tôi không biết gì cả.

- Nhưng ít ra thì cũng cho tôi rõ cái gì đựng ở trong cái bánh nướng trứ danh ấy chứ, nếu như bác không muốn tôi phát điên lên.

- Thưa Đức ông, trong đó có hai con dao găm một sợi dây có nút và một quả lê cay đắng(2).

- Tốt lắm, tôi hiểu rồi.

Đức ông thấy là sẽ có cái dùng cho mọi người.

- Chúng ta dùng hai con dao găm và sợi dây - quận công nói.

- Và chúng ta cho La Ramée xơi trái lê cay đắng, - Grimaud tiếp lời.

- Grimaud thân mến của tôi ơi, - quận công bảo - bác không hay nói, nhưng khi bác nói thì phải công nhận rằng bác nói ra vàng ra bạc.

Chú thích:

(1) Theo đạo Gia-tô, bảy đại tội là: ngạo mạn, ghen ghét, biển lận, dâm đãng, tham ăn, giận dữ, lười nhác.

(2) Một dụng cụ hình trái lê có lò-xo đem tọng vào trong mồm thì nó gang cả hai hàm ra khiến không thể kêu la được.

-*-*-*-

Chương 22

Một cuộc phiêu lưu của Marie Michon

Cùng với thời gian mà quận công de Beaufort và Grimaud toan tính vượt ngục, thì có hai người cưỡi ngựa và một thằng hầu theo sau đi vào Paris bằng phố cửa ô Saint-Marcel.

Hai người đó là bá tước De La Fère và tử tước De Bragelonne.

Đây là lần đầu tiên chàng thanh niên đến Paris và Arthos chẳng tô son vẽ phấn gì cho kinh đô, người bạn cố tri của mình, khi đưa chàng trai trẻ vào xem bằng phía ấy. Thật vậy cái làng Touraine cuối cùng trên chặng đường còn ưa nhìn hơn Paris trông ở phía mặt đối diện với Blois. Cho nên phải nói rằng thật xấu hổ cho cái thành phố từng được ca tụng này, nó gây một tác dụng tồi tệ cho chàng trai trẻ.

Arthos vẫn giữ cái vẻ vô tư lự và thanh thản của mình.

Là người dẫn đường cho người bạn đổng hành của mình trong cái mê cung mênh mông này, khi tới Xanh Mêda, Arthos đi theo phố Bưu Trạm rồi phố Cực Hình, phố Hào,Vaugirard, Saint - Médard, rồi phố , khi tới phố Férou thì đi vào. Đến giữa phố, Arthos ngước mắt lên mỉm cười và chỉ cho chàng trai trẻ xem một ngôi nhà có vẻ ngoài sang trọng và nói:

- Này Raoul, đây là một ngôi nhà mà tôi ở bảy năm êm đềm nhất và phũ phàng nhất của đời mình.

Chàng thanh niên mỉm cười theo và cúi chào ngôi nhà, lòng hiếu thảo của cậu đối với người đỡ đầu cho mình biểu lộ trong mọi hành động của cuộc sống.

Còn đối vôi Arthos, như chúng ta đã nói, Raoul không những là trung tâm mà, không kể những kỷ niệm cũ ở trung đoàn, còn là đối tượng duy nhất của tình yêu thương và người ta hiểu lần này trái tim Arthos có thể yêu tha thiết và sâu sắc đến nhường nào.

Hai lữ khách dừng chân ở phố Chuồng Bồ Câu cũ, chỗ có biển quán Con Cáo Xanh. Arthos biết quán rượu này từ lâu, hàng trăm lần anh đã đến đây cùng các bạn, nhưng từ hai mươi năm nay đã có bao nhiêu đổi thay ở trong quán, bắt đầu từ những người chủ.

Các lữ khách trao ngựa cho mấy tên hầu, và do ngựa thuộc giống quý, họ dặn dò phải trông nom thật chu đáo, chỉ cho ăn rơm và lúa mạch và rửa ngực và chân ngựa bằng rượu vang ấm. Họ đã đi hai mươi dặm trong ngày. Trước tiên phải săn sóc ngựa của mình như những kỵ sĩ thực thụ thường làm, sau đó họ gọi hai phòng cho họ:

- Anh đi tắm rửa và sửa soạn quần áo đi, - Arthos nói, - tôi sẽ giới thiệu anh với một người quen.

- Hôm nay ư thưa ông? - Chàng thanh niên hỏi.

- Nửa giờ nữa.

Chàng trai trẻ cúi chào.

Có lẽ kém chịu đựng mệt nhọc hơn Arthos, một con người như bằng thép, Raoul thực sự muốn xuống tắm trong dòng sông Sein mà anh từng nghe nói đến rất nhiều, song vẫn cho rằng kém đứt sông Loire, sau rồi đi nằm một lát; nhưng vì bá tước de La Fére đã nói vậy nên cậu chỉ biết vâng lời.

- À này, Raoul, - Arthos nói, - anh ăn vận chăm chút vào nhé, tôi muốn người ta thấy anh đẹp trai.

- Thưa ông, - chàng trai trẻ mỉm cười đáp, - tôi hy vọng rằng không phải là chuyện hôn nhân. Ông biết tôi đã hứa hẹn với Louise.

Arthos cũng mỉm cười và nói:

- Không đâu, cứ yên trí, mặc dù tôi sẽ giới thiệu anh với một phụ nữ.

- Một phụ nữ ư? - Raoul hỏi

- Phải, và tôi mong rằng anh sẽ yêu mến người ấy.

Chàng thanh niên nhìn bá tước thoáng băn khoăn; nhưng thấy Arthos, mỉm cười, anh cũng vững dạ.

- Người phụ nữ ấy bao nhiêu tuổi ạ? - Tử tước De Bragelonne hỏi.

- Raoul thân mến của tôi ơi, - Arthos nói, hãy nhớ rằng câu hỏi như vậy từ nay về sau chớ bao giờ lặp lại. Khi anh có thể đoán tuổi trên nét mặt một người đàn bà, thì tuổi người ta là vô ích, còn khi đã không thể đoán mà hỏi thì là tọc mạch.

- Người ấy có xinh đẹp không?

Cách đây mười sáu năm, bà ta không những được coi là xinh đẹp nhất, mà còn là người phụ nữ duyên dảng nhất nước Pháp.

Câu trả lời ấy làm cho cậu tử tước yên tâm hoàn toàn. Arthos không thể có một dự định nào về cậu ta và về một người đàn bà đã được coi là xinh đẹp nhất và duyên dáng nhất nước Pháp một năm trước khi cậu ra đời.

Raoul bèn về phòng mình và với cái tính làm dáng rất hợp với tuổi trẻ, anh làm theo những lời dặn dò của Arthos, nghĩa là ra sức trang điểm cho nó có vẻ đẹp đẽ bảnh bao nhất. Mà cũng là chuyện dễ dàng thôi đối với một con người mà thiên nhiên đã tạo ra sẵn như vậy. Khi cậu lại ra mắt, Arthos đón nhận với nụ cười cha con mà vừa qua anh đã đón tiếp d Artagnan, nhưng nó đượm một niềm vẻ trìu mến sâu xa hơn.

Arthos liếc nhìn chân, tay và tóc Raoul, ba cái dấu hiệu của chủng tộc, giòng giống, mái tóc đen nhành rẽ ngôi giữa theo kiểu thời bấy giờ và buông rũ thành búp khuôn lấy gương mặt có nước da hơi sạm; những đôi găng bằng da hoẵng màu xam xám hoà hợp với cái mũ dạ và làm nổi bật hai bàn tay thanh tú, tao nhã, còn đôi ủng đồng màu với găng và mũ, bó khít đôi bàn chân nhỏ nhắn như chân đứa trẻ mười tuổi.

- Nào, - Arthos lẩm bẩm - nếu nàng không hãnh diện về nó thì đúng là nàng khó tinh.

Lúc ấy là ba giờ chiều, nghĩa là giờ thích hợp cho những cuộc viếng thăm. Hai người đi dọc phố Grenelle sang phố Cây Hồng, vào phố Saint Dominique, và dừng lại trước một dinh thự nguy nga ở trước mặt dinh Jaccobins, và trên có gia huy dòng họ De Luynes.

- Đây rồi, - Arthos nói.

Anh bước vào toà nhà với bước đi đĩnh đạc đường hoàng chứng tỏ cho tên gác cổng Thụy Sĩ rằng người khách vào có quyền như vậy.

Anh bước lên bậc thềm gặp một thằng hầu ăn mặc quần áo dấu ngày lễ. Anh hỏi xem bà công tước de Chevreuse có nhà không và có thể tiếp ông bá tước de La Fère không.

Một lát sau tên hầu ra và nói rằng mặc dầu bà công tước de Chevreuse không được hân hạnh quen biết bá tước de La Fère, nhưng bà vẫn xin mời ông vào.

Arthos theo tên hầu đi qua một dãy dài các gian phòng và cuối cùng dừng lại trước một cửa đóng. Đây là phòng khách. Arthos ra hiệu cho tử tước Bragelonne đứng nguyên tại chỗ.

Tên hầu mở cửa và trình báo là bá tước de La Fère đến.

Bà de Chevreuse mà chúng tôi đã nói đến luôn trong truyện Ba người lính ngự lâm nhưng chưa có dịp đưa lên sân khấu lúc này vẫn được coi như một phụ nũ tuyệt đẹp. Quá vậy, hồi ấy bà đã bốn tư bốn lăm tuổi rồi, mà nom cứ như mới băm tám băm chín; tóc vẫn hoe vàng, cắp mắt to thông minh và linh hoạt mà những âm mưu luôn luôn mở rộng ra và ái tình luôn luôn khép lại, và cái vóc người yểu điệu khiến nhìn đằng sau vẫn như cô thiếu nữ hồi nào cùng với Anne d Autriche nhảy qua cái hào ở Tuileries, cái hào năm 1683 đã cướp đi ngôi báu nước Pháp của một kẻ kế vị.

Vả chăng đó bao giờ cũng vẫn là tạo vật cuồng điên ấy, nó đã ném lên những cuộc tình duyên của mình một dẩu ấn độc đáo đến nỗi những cuộc tình duyên ấy hầu như trở thành một vinh hiển cho gia đình mình.

Bà đang ở trong một khuê phòng mà cửa sổ trông ra vườn. Theo mốt mà bà de Rambouillet đưa ra khi xây dựng dinh thự của mình, khuê phòng ấy chăng một tấm Damas màu lơ thêu hoa hồng và cành lá kim tuyến. Với tuổi của bà de Chevreuse thì ở trong một khuê phòng như vậy là đỏm dáng quá nhất là trong tư thế của bà lúc này, nghĩa là nằm trên một chiếc ghế dài và tụa đầu vào tấm thảm.

Bà cầm một quyển sách hé mở và một cái nệm dỡ cánh tay cầm sách.

Nghe tên hầu báo, bà hơi nhấc mình dậy và tò mò nhô cái đầu ra.

Arthos xuất hiện.

Anh vận đồ nhung tím với những thêu ren cùng màu; các dây tua bịt bạc đánh nâu, áo choàng không có chút thêu kim tuyến nào và một chiếc lông chim giản dị màu tím cắm trên chiếc mũ dạ đen.

Chân anh dận đôi ủng bằng da đen, ở thắt lưng đeo thanh kiếm có cái chuôi lộng lẫy mà Porthos hồi xưa đến phố Fréjus đã từng ngắm nghĩa thèm thuồng nhưng Arthos không bao giờ muốn cho mượn cả.

Những tấm thêu ren làm thành cái cổ áo gập xuống của chiếc sơ mi; những dải đăng-ten cũng rũ xuống đôi ủng.

Trong tất cả con người của vị khách vừa mới được trình báo dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ với bà de Chevreuse, toát lên một vẻ quý tộc thượng lưu khiến bà hơi nhổm dậy và ra hiệu một cách duyên dáng mời khách ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh bà.

Arthos thi lễ và ngồi xuống. Tên hầu sắp sửa rút lui thì Arthos ra hiệu giữ hắn lại. Anh nói bà công tước:

- Thưa bà, tôi không được bà quen biết mà dám mạo muội đến trình diện tại quý dinh thự, nhưng đã đạt kết quả vì bà đã chiếu cố tiếp tôi. Bây giờ tôi xin bà ban cho nửa giờ hội kiến.

- Thưa ông, tôi đồng ý, - bà de Chevreuse trả lời với nụ cười duyên dáng nhất.

- Nhưng chưa hết đâu, thưa bà. Ôi! Tôi thật là tham lam quá, tôi biết mà! Cuộc hội kiến mà tôi yêu cầu là một cuộc hội kiến riêng giữa hai người và trong khi ấy có một điều mong mỏi thiết tha là không bị ngắt quãng.

- Lúc này tôi không tiếp cả, - bà công tước de Chevreuse bảo với tên hầu. - Thôi, ra đi.

Tên hầu đi ra.

Một lát im lặng, trong đó hai nhân vật ngay từ lúc thoạt nhìn đã nhận ra nhau ngay là thuộc dòng dõi cao sang, nên ngắm nghía nhau mà chẳng một ai hề thấy lúng túng, bối rối.

Bà công tước de Chevreuse đầu tiên phá tan sự im lặng.

- Thế nào, thưa ông, - bà mỉm cười nói, - Ông không thấy rằng tôi nóng lòng mong đợi ư?

- Còn tôi, thưa bà, - Arthos nói, - tôi nhìn với vẻ thản phục và hâm mộ.

- Thưa ông, - bà công tước nói, - xin ông thứ lỗi tôi muốn được biết ngay tôi nói chuyện với ai. Ông là người trong triều đình đó là điều không thể chối cãi, thế mà tôi chưa hề gặp ông trong cung bao giờ. Phải chăng ông mới ở nhà ngục Bastille ra?

- Thưa bà, không phải, - Arthos cười đáp, - nhưng có lẽ tôi đang ở trên đường dẫn tới đó.

- A! Trong trường hợp ấy, ông hãy mau mau nói rõ ông là ai và đi đi, - bà công tước nói với giọng vui vẻ rất duyên dáng ở bà, - bởi vì tôi đã bị liên lụy khá nhiều như thế rồi, và chẳng còn muốn để mình bị nguy hại thêm nữa.

- Tôi là ai ư, thưa bà? Người ta đã báo tên tôi là bá tước de La Fère. Bà chẳng biết cái tên ấy bao giờ. Ngày xưa tôi mang một tên khác mà có lẽ bà đã biết đấy, nhưng chắc bà đã quên rồi.

- Ông cứ nói đi.

- Ngày xưa, - bá tước de La Fère nói, - tôi tên gọi là Arthos.

Bà de Chevreuse giương to mắt kinh ngạc. Như bá tước nói hiển nhiên là cái tên ấy chưa bị xoá hẳn trong ký ức bà dù rằng nó lẫn lộn trong bao nhiêu kỷ niệm cũ.

- Arthos à? Khoan đã... - Bà nói.

Và bà đặt hai ngón tay lên trán như muốn bắt hàng nghìn ý nghĩ thoáng qua trong đó phải dừng lại giây lát để có thể nhìn rõ ràng trong cái đám lóng lánh và tạp sắc ấy.

- Bà có muốn tôi giúp dỡ một chút không? - Arthos mỉm cười nói.

- Vâng, - bà công tước mệt mỏi vì tìm kiếm đáp, - xin ông vui lòng...

- Cái tên Arthos ấy gắn liền với ba người linh ngự lâm trẻ tuổi tên là d Artagnan, Porthos và...

Arthos ngừng lại:

- Và Aramis, - bà công tước vội vã nói.

- Và Aramis, đúng thế, - Arthos nói tiếp, - vậy là bà không hoàn toàn quên cái tên ấy?

- Không, - bà nói - không đâu, Aramis tội nghiệp! Đó là một nhà quý tộc tuyệt diệu, tao nhã, kín đáo và làm thơ hay, tôi ngờ rằng ông ấy đã gặp bước không may.

- Tồi tệ nhất ấy; ông ta là tu viện trưởng.

- À à! Khổ chưa? - Bà de Chevreuse vừa nói vừa lơ đễnh nghịch nghịch chiếc quạt. - Thật vậy, thưa ông, tôi xin cảm ơn ông.

- Cảm ơn về cái gì, thưa bà?

- Về việc đã nhắc lại với tôi kỷ niệm ấy, nó là một trong những kỷ niệm êm ái nhất thời thanh xuân của tôi.

- Thế bà có cho phép tôi nhắc lại một kỷ niệm thứ hai không, - Arthos hỏi.

- Nó cũng gắn với người kia à?

- Có và không?

- Thật tình, xin ông cứ nói nữa đi, - bà de Chevreuse nói - với một người như ông, tôi mạo hiểm tất cả.

Arthos cúi mình. Rồi nói tiếp:

- Aramis liên hệ với một cô bán quần áo trẻ tuổi ở thành Tour.

- Một cô bán quần áo trẻ tuổi ở thành Tour? - Bà Chevreuse lặp lại.

- Vâng, một cô em họ của ông ta, tên gọi Marie Michon.

- À! Tôi biết cô ta, bà de Chevreuse kêu lên, - chính ông Aramis từ trận vây thành La Rochelle đã viết thư cho cô ấy để báo trước về một cuộc âm mưu tiến hành chống ông Buckingham tội nghiệp ấy.

- Đúng thế, - Arthos nói - bà có vui lòng cho phép tôi nói về cô ta không?

Bà de Chevreuse nhìn Arthos, rồi nói:

- Vâng, miễn là ông đừng nói nhiều điều không hay về cô ấy.

- Tôi sẽ là một kẻ bội bạc, - Arthos nói - và tôi coi sự bội bạc không phải như một khuyết điểm hoặc một tội ác mà là một điều xấu xa, như thế còn tồi tệ hơn.

- Thưa ông, ông mà bội bạc với Marie Michon ư?- Bà de Chevreuse vừa nói vừa thử đọc trong cặp mắt của Arthos. - Nhưng tôi làm sao lại có thể thế được? Chưa bao giờ ông quen riêng cô ta.

- Ồ, thưa bà, biết đâu đấy? - Arthos nói tiếp - Có một câu tục ngữ dân gian nói rằng chỉ có núi non mới không gặp nhau? Và những câu tục ngữ dân gian đôi khi đúng không thể tưởng tượng được.

- Ôi, nói tiếp đi, ông ơi, nói tiếp đi! - Bà de Chevreuse cuồng quít nói, - bởi vì ông không thể tưởng tượng rằng cuộc trò chuyện này làm tôi thích thú biết chừng nào.

- Bà cổ vũ tôi, - Arthos nói - vậy tôi xin nói tiếp. Cô em họ Aramis, cô Marie Michon ấy, rốt cuộc là cô bán quần áo trẻ tuổi ấy, mặc dầu địa vị tầm thường, cô quen biết những người cao sang nhất; cô gọi những mệnh phụ lớn nhất trong triều là bạn bè mình, và hoàng hậu dù kiêu hãnh đến mấy với tư cách vừa là người Áo vừa là người Tây Ban Nha, cũng gọi cô là em gái mình.

- Than ôi! - Bà de Chevreuse khẽ buông một tiếng thở dài và hơi nhíu đôi lông mày, động tác chỉ riêng bà có và nói. - Từ ấy đến nay đã bao sự đổi thay.

- Và Hoàng hậu rất đúng, - Arthos nói tiếp, bởi vì cô ta hết lòng tận tụy với bà đến mức làm trung gian cho bà với anh của bà ấy là vua Tây Ban Nha.

- Do việc ấy cô ta bị quy vào một trọng tội, - bà de Chevreuse nói.

- Đến nỗi, - Arthos nói, - ngài giáo chủ ngài giáo chủ thực sự kia cơ một buổi sớm nọ đã quyết định cho bắt cô Marie Michon tội nghiệp và đưa hẳn đến lâu đài Loches. May thay chuyện ấy không thể làm bí mật, đến mức nó không thoát ra ngoài được. Trường hợp ấy đã được dự phòng: nếu Marie Michon bị một mối nguy hiểm nào đó đe doạ, hoàng hậu sẽ phải gửi tới cho cô một cuốn sách kinh nhật tụng đóng và bọc bằng nhung xanh.

- Đúng thế thưa ông? Ông biết thật là tường tận.

- Một buổi sáng, cuốn sách xanh được hoàng thân Marcillac mang tới. Không còn thì giờ nữa. May thay, Marie Michon và một nữ tỳ của cô tên là Ketty mặc quần áo đàn ông hợp một cách tuyệt vời. Hoàng thân cấp cho Marie Michon một bộ quần áo kỵ sĩ và cho Ketty một bộ quần áo thằng hầu, giao cho họ hai con ngựa thật tốt, và hai kẻ chạy trốn nhanh chóng rời khỏi thành phố Tour về phía Tây Ban Nha. Họ run sợ trước mỗi tiếng động nhỏ, men theo những con đường quanh co vì không dám đi theo đường cái và khi nào không gặp hàng quán thì tìm nhà xin nghỉ trọ.

- Thực hoàn toàn đúng vậv, - bà de Chevreuse vỗ tay kêu lên - Nhưng thật là lạ lùng.

Bà ngừng bặt.

- Rằng tôi đã theo dõi hai người chạy trốn từ đầu đến cuối cuộc hành trình, phải không? - Arthos nói. - Không đâu, thưa bà, tôi sẽ chẳng lạm dụng thời giờ của bà như vậy, mà tôi chỉ đi theo họ tới một làng nhỏ vùng Limousin, ở giữa Tulle và Angoulême, một làng nhỏ tên là Roche - l Abeille.

Bà de Chevreuse thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và nhìn Arthos với vẻ sửng sốt khiến anh lính ngự lâm cũng mỉm cười.

- Khoan đã, thưa bà, Arthos nói tiếp, - bởi vì điều còn lại để nói với bà sẽ khác hẳn điều mà tôi đã nói.

- Thưa ông, - bà de Chevreuse nói, - tôi ngỡ ông là một thày phù thủy, tôi sẵn sàng nghe tất cả, nhưng thực ra..., thôi, không sao, xin ông cứ tiếp tục.

- Lần ấy, ngày sao mà dài lê thê và mệt mỏi thế, trời thì rét, đó là ngày mười một tháng Mười. Trong làng không có hàng quán hay lâu đài nào, nhà ở của nông dân thì tiều tụy bẩn thỉu. Marie Michon là một người rất quý phái giống như hoàng hậu chị cô, cô đã quen với hương hoa và áo quần là lượt; cô bèn quyết định xin nghỉ trọ ở nhà một mục sư.

Arthos ngừng một lát.

- Ồ! Nói tiếp đi, - nữ công tước nói, - tôi đã bảo trước ông là tôi sẵn sàng chờ đợi mọi chuyện mà.

- Hai lữ khách gõ cửa, lúc ấy đã muộn, vì mục sư đã đi nằm, bảo họ cứ vào họ vào vì cửa không đóng. Trong các làng người ta sống rất tin cậy. Một ngọn đèn thắp trong buồng mục sư. Marie Michon, đóng vai một chàng kỵ sĩ tuyệt diệu nhất trần đời, đẩy cửa, thò đầu vào và xin nghỉ trọ.

- Rất sẵn sàng, chàng kỵ sĩ trẻ ạ, - mục sư nói, - nếu như anh vui lòng với bữa tối còn lại của tôi và với nửa căn phòng này của tôi.

Hai lữ khách trao đối với nhau một lát, vị mục sư nghe họ cười phá lên, rồi ông chủ hay nói đúng hơn bà chủ đáp:

- Cám ơn mục sư tôi nhận lời.

- Vậy thì các bạn ăn đi và cô giữ thật yên lặng, - mục sư nói, - bởi vì tôi cũng đã chạy cả ngày và chẳng phiền lòng nếu được ngủ đêm nay.

Rõ ràng bà de Chevreuse đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt và từ sửng sốt đến rụng rời; nhìn Arthos gương mặt bà có một vẻ biểu hiện không thể nào tả nổi; người ta thấy như là muốn nói, song lại ím lặng, sợ bỏ sót một lời nào của người đối thoại.

- Rồi sao nữa? - Bà hỏi.

- Rồi sao ư? - Arthos nói - đúng là chỗ khó nói nhất.

- Nói đi, nói đi, cứ nói đi! Có thể nói với tôi tất cả. Vả chăng chuyện ấy không can hệ gì đến tôi, đó là chuyện của cô Marie Michon.

- À đúng thế! - Arthos nói - Vậy xin kể tiếp. Marie Michon ăn cùng với con hầu, và ăn xong, theo điều đã được cho phép, cô trở vào căn phòng nơi vị chủ nhà nghỉ, còn Ketty ngả lưng trên chiếc ghế bành ở ngăn đầu tiên, tức là nơi họ vừa ăn.

- Thưa ông, - bà de Chevreuse nói, trừ phi ông là ma quỷ hiện hình, thực tình tôi không hiểu, làm thế nào mà ông biết rõ từng chân tơ kẽ tóc như vậy.

- Cái cô Marie Michon ấy thật là một người đàn bà kiều diễm, - Arthos nói tiếp, - đó là một trong những tạo vật điên cuồng, trong đầu óc luôn luôn có những ý nghĩ lạ lùng nhất, đó là một trong những sinh vật sinh ra để làm tình làm tội tất cả chúng ta chừng nào chúng ta còn tồn tại. Nhân nghĩ rằng chủ nhà là một vị mục sư, cô gái đỏng đảnh nảy ra ý nghĩ rằng giữa muôn vàn những kỷ niệm vui tươi mà mình đã sẵn có, thì đây có khi sẽ là một kỷ niệm thú vị cho tuổi già của cô là đã làm tội một kẻ tu hành.

- Bá tước ơi, xin thề là ông làm cho tôi kinh hãi lắm!

- Than ôi! - Arthos lại tiếp, - vị mục sư tội nghiệp chẳng phải là một ông thánh Ambroise, mà cô Marie Michon, tôi xin nhắc lại, là một tạo vật đáng yêu quý.

Bà công tước nắm lấy tay Arthos mà kêu lên:

- Ông ơi, hãy nói ngay lập tức cho tôi biết làm sao mà ông biết hết ngọn ngành chuyện ấy, nếu không tôi sẽ gọi một thày tăng ở tu viện Vieux - Augustins đến để trừ tà cho ông.

Arthos bật cười nói:

- Thưa bà chằng có gì dễ hiểu hơn. Một kỵ sĩ, được trao một sứ mệnh quan trọng đến xin ngủ trọ ở nhà mục sư một tiếng đồng hồ trước khi cô ấy đến, và đúng lúc ấy, mục sư được mời đi tới chỗ một kẻ sắp chết, ông ta vội rời không những khỏi nhà mình mà rời khỏi làng đi suốt đêm. Thế là người của Chúa đầy lòng tin cậy ở vị khách trọ của mình, mà vị khách này cũng là một nhà quý tộc, nên ông đã bỏ lại cho khách cả nhà cửa, bữa ăn tối và phòng nghỉ. Như vậy là Marie Michon đã ngỏ lời xin nghỉ trọ không phải với vị mục sư mà với khách của mục sư.

- Thế người kỵ sĩ ấy, vị khách ấy, vị quý tộc ấy đã đến trước cô ta là ai?

- Chính tôi, bá tước de La Fère, - Arthos vừa nói vừa đứng dậy và cung kính chào nữ công tước de Chevreuse.

Nữ công tước qua một lát kinh hoàng, rồi bỗng bật cười nói:

- Ôi! Thực tình mà nói, thật là kỳ khôi và cái cô Marie Michon điên dại ấy đã tìm thấy hơn cả điều mình mong ước. Bá tước thân mến, hãy ngồi xuống và kể tiếp đi nào.

- Bây giờ còn lại điều tôi tự buộc tội mình. Tôi đã nói với bà rẳng, chính tôi tôi cũng đi vì một sứ mệnh cấp bách; từ mờ sáng tôi đã lặng lẽ ra khỏi phòng, để mặc cho người bạn đồng phòng của tôi ngủ tiếp. Trong gian ngoài, cô hầu cũng vẫn ngủ, đầu ngả trên ghế bành, trông thật xứng đáng với bà chủ. Khuôn mặt xinh đẹp của cô ta làm tôi chú ý, tôi tiến gần lại và nhận ra cô bé Kettty mà anh bạn Aramis của chúng tôi đã thu xếp cho theo hầu bà ta. Do đó mà tôi biết được rằng người lữ khách kiều diễm là...

- Marie Michon? - Bà de Chevreuse vội vã cướp lời.

- Marie Michon, - Arthos nhắc lại - Thế là tôi ra khỏi nhà, đến chuồng ngựa, thấy ngựa đã thắng yên cương và tên hầu của tôi đã sẵn sàng, chúng tôi ra đi.

- Thế không bao giờ ông quay trở lại cái làng đó à? Bà de Chevreuse hấp tấp hỏi.

- Thưa bà, một năm sau.

- Thế sao?

- Tôi muốn thăm lại mục sư tử tế ấy. Tôi thấy ông đang bận về một chuyện mà ông chẳng hiểu gì cả.

Trước đó tám ngày, ông nhận được một chiếc nôi nhỏ trong có đứa con trai ba tháng với một túi đầy tiền vàng và một mảnh giấy ghi mấy dòng chữ đơn giản "11 tháng Mười, năm 1633".

- Đó là ngày xảy ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ ấy, - bà de Chevreuse nói.

- Phải, nhưng ông mục sư không hiểu gì ngoài việc đêm hôm ấy ông đã ở bên cạnh một kẻ sắp chết, bởi vì Marie Michon cũng đã rời khỏi nhà mục sư trước lúc ông trở về.

- Ông biết không, năm 1643 khi Marie Michon trở về Pháp đã cho hỏi ngay tin tức về đứa trẻ, bởi vì đang lẩn trốn cô không thể trông nom nó được; nhưng sau về Paris cô ấy muốn được nuôi nấng dạy dỗ nó ở bên mình.

- Thế vị mục sư nói gì với cô ta? - Đến lượt Arthos hỏi.

- Ông ấy cho biết là một vị lãnh chúa mà ông không quen biết đã có ý muốn nhận nuôi nó, bảo đảm tương lai cho nó và đã mang nó đi theo.

- Sự thật là như vậy.

- A! Tôi hiểu rồi? Vị lãnh chúa ấy chính là ông đây, chính là cha thằng bé?

- Sụyt! Đừng nói to thế bà ơi, nó ở ngoài kia.

- Nó ở ngoài kia à? - Bà de Chevreuse kêu lên và vội vàng đứng dậy - Nó ở kia, con trai của tôi, con trai của Marie Michon ở kia! Tôi muốn gặp nó ngay bây giờ!

- Xin bà hãy chú ý đừng để nó biết rõ cha nó và mẹ nó, - Arthos ngắt lời.

- Ông đã giữ kín điều bí mật, và ông đã dẫn nó tới đây vì nghĩ ràng nó sẽ làm cho tôi sung sướng. Ôi, xin cảm ơn, xin cảm ơn ông!

Bà de Chevreuse vừa kêu lên vừa nắm chặt lấy tay Arthos và cố đưa lên môi hôn.

- Xin cảm ơn! Ông là một tấm gương cao quý.

Arthos vừa rút bàn tay vừa nói:

- Tôi dẫn nó đến đây với bà, để đến lượt bà cũng làm cho nó một cái gì. Cho tới nay tôi đã trông nom việc giáo dục nó và tin rằng đã khiến nó trở thành một người quý tộc hoàn tất, nhưng đã đến lúc tôi thấy mình buộc phải sống trở lại cuộc đời lang thang và nguy hiểm của người đảng phái. Ngay ngày mai tôi sẽ lao vào một công việc phiêu lưu và có thể bị giết chết; thế là sẽ chỉ còn có bà để đẩy nó vào thế giới thượng lưu mà nó được gọi đến để giành một vị trí.

- Ồ! Ông yên tâm? - Bà công tước nói. - Tiếc thay lúc này tiền nong tôi không còn mấy, nhưng cái gì còn lại của tôi là của nó; còn về vận hạnh và tước vị của nó thì...

- Về điều này bà khỏi phải lo: tôi đã cho nó thừa hưởng lãnh địa Bragelonne mà tôi thừa kế, lãnh địa ấy sẽ cho nó nhận tước vị tử tước và mười nghìn livres niên thu.

- Thưa ông, - nữ công tước nôi, - tôi xin lấy linh hồn mình ra mà thề rằng ông là một nhà quý tộc chân chính! Nhưng tôi đang nóng lòng gặp chàng tử tước trẻ tuổi của chúng ta. Cậu ta đâu?

- Ở ngoài phòng khách kia, tôi sẽ bảo nó vào.

Arthos toan bước ra cửa, thì bà de Chevreuse ngăn lại.

- Nó có đẹp không? - Bà hỏi.

Arthos mỉm cười đáp:

- Nó giống mẹ nó.

Cùng lúc anh mở cửa và ra hiệu cho chàng trai trẻ vào, cậu xuất hiện ở ngưỡng cửa.

Bà de Chevreuse không thể ngăn mình thốt lên một tiếng kêu lên mừng rỡ, khi trông thấy một chàng kỵ sĩ tuấn tú đến thế, thật vượt mọi kỳ vọng mà niềm kiêu hãnh của bà có thể ấp ủ.

- Tử tước, lại gần đây, bà công tước de Chevreuse cho phép anh hôn tay bà.

- Cậu thiếu niên bước lại với một nụ cười duyên dáng, rồi ngả mũ, quỳ đầu gối xuống đất và hôn tay bà de Chevreuse.

- Thưa bá tước, - cậu quay về phía Arthos mà nói, - phải chăng vì muốn nương nhẹ tính nhút nhát của tôi mà ông nói rằng đây là nữ công tước de Chevreuse, và đúng ra là hoàng hậu phải không ạ?

- Bà de Chevreuse cầm lấy tay cậu, kéo ngồi xuống bên cạnh mình và nhìn cậu bằng cặp mắt long lanh mừng vui và nói.

- Không phải đâu, tử tước ơi. Tiếc thay tôi không phải là hoàng hậu, vì rằng nếu là hoàng hậu thì ngay lúc này đây, tôi sẽ làm cho anh tất cả những gì mà anh xứng đáng, nhưng nào, - bà khó lòng tự ghìm mình áp đôi môi lên vầng trán đến là thanh khiết của cậu và nói tiếp - Nào anh thích làm nghề gì?

Arthos đứng ngây ra nhìn hai người với vẻ sung sướng khôn tả.

Bằng một giọng vừa êm ái vừa vang vang, Raoul nói:

- Thưa bà, đối với một quý tộc, hình như chỉ có một nghề, đó là binh nghiệp. Ông bá tước đã dạy dỗ tôi với một ý định là làm tôi thành một người lính, tôi chắc thế, và ông đã để cho tôi hy vọng là sẽ giới thiệu tôi với một vị nào đó ở Paris có thê tiển cử tôi với ngài Hoàng thân.

- Phải tôi hiểu, một binh sĩ trẻ như anh mà phục vụ dưới quyền một vị tướng như ông ta thì thật là hợp quá.

- Nhưng này, khoan đã... quan hệ cá nhân giữa tôi với ông ta không được tốt lắm, do những chuyện xích mích giữa bà de Montbazon, mẹ ghẻ tôi, với bà de Longueville; nhưng qua hoàng thân de Marcillac là bạn cũ của tôi, ông sẽ giới thiệu anh bạn trẻ của chúng ta với bà de Longueville, bà sẽ viết một bức thư cho anh bà, ông hoàng thân, ông ấy yêu mến bà ta quá tha thiết nên không thể không làm ngay tức khắc cho bà tất cả những gì bà đòi hỏi.

- Thế là mọi chuyện được thu xếp rất tuyệt, - bá tước nói - Song bây giờ liệu tôi có dám dặn dò bà một điều khẩn gấp bậc nhất không? Tôi có lý do để mong muốn rằng chiều ngày mai tử tước không ở Paris nữa.

- Thưa bá tước, ông có ý muốn rằng người ta biết là ông quan tâm đến anh ta không?

- Tốt hơn hết đối với tương lai của anh ta có lẽ là đừng để ai biết rằng anh ta đã từng quen biết tôi.

- Ôi, thưa ông! - Chàng trẻ kêu lên.

- Bragelonne này, - bá tước nói, anh biết rằng tôi không bao giờ làm điều gì mà không có lý do.

- Vâng, thưa ông, - chàng trai trẻ nói, - tôi biết rằng ở ông là sự khôn ngoan cực điểm, và tôi sẽ tuân lời ông như tôi đã từng quen làm như vậy.

- Thôi, bá tước cứ để anh ấy cho tôi, - nữ công tước nói. - Tôi sẽ cho đi tìm hoàng thân de Marcillac, may ra lúc này ông ấy đang ở Paris, và tôi sẽ không rời anh ta chừng nào công việc chưa xong.

- Tốt lắm, thưa bà công tước, xin đa tạ bà. Hôm nay tôi cũng có nhiều nhiều việc phải làm và lúc trở về, tức là khoảng sáu giờ chiều, tôi sẽ đợi tử tước ở khách sạn.

- Tối nay ông làm gì?

- Chúng tôi sẽ đến tu viện trưởng Scarron vì có thư cho ông ấy và cũng sẽ gặp một người bạn ở đấy.

- Được rồi, - bà công tước nói, - tôi sẽ qua đấy một lát, vậy ông chớ từ giã phòng khách này trước khi gặp tôi.

Arthos chào bà de Chevreuse và sửa soạn ra đi.

- Ơ này, ông bá tước, - bà công tước cười nói - người ta từ giã bạn bè một cách nghiêm khắc đến thế ư?

- A!- Arthos lẩm bẩm và hôn tay bà.

- Nếu như trước đây tôi đã biết sớm rằng Marie Michon là một con người tuyệt vời đến thế!

Anh vừa rút lui vừa thở dài.

-*-*-*-

Chương 23

Tu viện trưởng Scarron

Ở phố Tournelles có một ngôi nhà mà tất cả những phu khiêng kiệu và tất cả những thằng hầu ở Paris đều biết, tuy nhiên đó chẳng phải nhà của một vị đại thần hay một nhà tài chính. Người la không ăn, không chơi và không nhảy múa ở đấy bao giờ.

Ngôi nhà đó là của ông Scarron nhỏ bé.

- Ở nhà ông tu viện trưởng sắc sảo hóm hỉnh ấy, người ta vui cười thoả thích; người ta tuôn ra bao nhiêu tin tức; những tin ấy nhanh chóng được bình luận, xé vụn ra và chế biến hoặc thành truyện, hoặc thành những bài thơ trào phúng, đến nỗi ai cũng muốn đến chơi một lát với ông Scarron nhỏ bé, nghe ông nói và rồi đi kể lại những điều ông đã nói. Có nhiều người nóng lòng đến đấy để nói lời của mình và nếu nó có kỳ cục, thì họ vẫn là những kẻ được hoan nghênh.

Ông tu viện trưởng bé nhỏ Scarron được coi là tu viện trưởng chăng qua vì ông sở hữu tu viện, chứ hoàn toàn không phải ông thuộc giới chức nhà thờ; xưa kia ông là một trong những kẻ hưởng lộc thánh đỏng đảnh nhất của thành phố Meung nơi ông ở. Nhân một hôm hội giả trang, ông định mua vui một cách cực điểm cho cái thành phố tử tế này mà ông là linh hồn. Ông bèn sai tên hầu bôi mật ong vào khắp người ông, rồi trải một cái nệm lông ra, ông lăn mình vào trong đô thành thử ông biến thành một loài chim kỳ cục nhất chưa từng thấy.

Ông bắt đầu đến viếng thăm các bạn trai và bạn gái trong bộ quần áo lạ đời ấy. Lúc đầu, người ta theo dõi với vẻ kinh ngạc, rồi với những tiếng la ó, rồi những kẻ thô lỗ chửi rủa ông, trẻ con ném đá vào ông, cuối cùng ông phải bỏ chạy để tránh những quả đạn.

Ông chạy trốn rồi mà mọi người vẫn đuổi theo: săn, dồn, ép mọi bề.

Scarron chẳng còn cách nào thoát là nhảy xuống sông. Ông bơi như một con cá, nhưng nước giá như băng. Scarron đang nhễ nhại mồ hôi, bị nhiễm lạnh đột ngột, khi sang đến bờ bên kia thì bại liệt.

Người ta thử tìm mọi cách đã biết để khôi phục hoạt động chân tay cho ông; chữa chạy khiến ông đau đớn quá đến nỗi ông tống khứ tất cả các thày thuốc và tuyên bố rằng ông thích bệnh tật hơn. Rồi ông trở về Paris nơi danh tiếng con người trí tuệ của ông đã được thiết lập ông cho làm một cái ghế đi động theo sáng kiến của mình. Một hôm ông ngồi trong chiếc ghế ấy và đến thăm hoàng hậu Anne d Autriche, bà hoàng cảm phục trí tuệ của ông đã hỏi ông có mong muốn một tước vị gì không.

- Thưa Hoàng hậu, - Scarron đáp - có một tước vị mà tôi rất tham vọng.

- Tước vị gì? - Hoàng hậu hỏi.

- Thưa, tước vị bệnh nhân của người, - tu viện trưởng đáp.

Và Scarron đã được phong là Bệnh nhân của Hoàng hậu với một khoản trợ cấp một nghìn năm trăm livres.

Tuy nhiên, một hôm phái viên của giáo chủ đã nói cho biết rằng ông đã sai lầm vì tiếp đãi ông chủ giáo.

- Tại sao vậy? - Scarron hỏi, - đó chẳng phải là một người dòng dõi hay sao?

- Có chứ.

- Đáng mến không?

- Không chối cãi được.

- Thông tuệ không?

- Khốn thay, ông ấy quá thừa.

- Vậy thì cớ sao ông lại muốn tôi thôi không gặp gỡ một người như vậy? - Scarron hỏi.

- Bởi vì ông ta nghĩ xấu.

- Thật ư? Nghĩ xấu về ai?

- Về ông giáo chủ...

- Sao lại thế nhỉ? - Scarron nói. - Ông Gilles Despréaux nghĩ xấu về tôi tôi vẫn tiếp tục gặp gỡ ông ta, thế mà ông lại bắt tôi không được gặp ông chủ giáo chỉ vì ông ta nghĩ xấu về một người khác ư? Không thể được!

Câu chuyện ngừng ở đấy, còn Scarron vì bực tức, càng gặp gỡ ông de Gondy nhiều hơn.

Buổi sáng hôm chúng ta đến đúng vào kỳ hạn phát tiền quỹ, theo lệ thường. Scarron sai tên hầu mang phiếu đến quỹ trợ cấp để lĩnh lương quý nhưng ông được trả lời:

"Nhà nước không còn tiền cho tu viện trưởng Scarron".

Lúc tên hầu mang thư trả lời đó về nhà thì có quận công de Longueville đang ở chơi, ông đề nghị sẽ cấp cho Scarron một khoản trợ cấp to gấp đôi khoản trợ cấp mà lão Mazarin cắt đi của ông, nhưng lão bại liệt ranh ma không nhận. Thế là chỉ đến bốn giờ chiều tất cả thành phố đều biết tin về việc giáo chủ cắt lương Scarron.

Hôm ấy lại đúng vào ngày thứ năm, ngày tiếp khách của tu viện trưởng; người ta ùn ùn kéo đến nhà ông, và người ta ủng hộ phong trào La Fronda một cách điên cuồng ở khắp nơi trong thành phố.

Arthos đi đến phố Saint-Honoré gặp hai người quý tộc mà anh không quen, họ cũng đi ngựa như anh, có một tên hầu đi theo như anh và đi cùng đường với anh.

Một trong hai người đó ngả mũ ra và nói với anh:

- Thưa ông, ông có tin rằng cái lão Mazarin đê tiện ấy đã cắt tiền trợ cấp của ông Scarron đáng thương ấy không?

- Đó là một việc đại vô lý, Arthos vừa đáp vừa chào lại hai người kỵ sĩ.

Người ban nãy lại nói:

- Người ta thấy rõ ông là người trung thực và cái lão Mazarin ấy là một tai vạ thật sự.

- Chao ôi! Thưa ông, - Arthos đáp - Ông nói điều ấy với ai vậy?

Và họ chia tay nhau hết sức lễ phép.

- Chúng ta đến đó tối nay thật là vừa hay, - Arthos nói với tử tước - Chúng ta sẽ chúc mừng con người tội nghiệp ấy.

Nhưng ông Scarron là ai mà làm náo động cả kinh thành Paris lên thế - Raoul hỏi. - Một ông thượng thư bị thất sủng chăng?

- Ô, lạy Chúa, không phải đâu, tử tước ạ, - Arthos đáp, - đó chỉ là một vị quý tộc nhỏ bé rất thông tuệ, bị thất sủng với ngài giáo chủ chăng qua là vì đã làm một bài thơ gì đó chống lại ông ta.

- Các nhà quý tộc có làm thơ không? - Raoul ngây thơ hỏi - tôi e rằng như vậy là tự hạ mình.

- Phải đấy, tử tước thân mến ạ, khi làm thơ tồi, - Arthos cười đáp, - nhưng nếu làm thơ hay thì lại càng rạng rỡ. Hãy xem ông de Rotrou đấy Tuy nhiên, - Arthos nói tiếp với cái giọng khi người ta ban một lời khuyên bổ ích, - tôi cho rằng không làm thơ thì hơn.

- Thế ông Scarron có phải là thi sĩ không? - Raoul hỏi.

- Phải, tử tước được báo trước rồi đấy: đến nhà ông ấy là phải chú ý rất cẩn thận, chỉ nói năng bằng cử chỉ, hoặc tốt hơn hết là lắng nghe thôi.

- Thưa vâng, - Raoul đáp.

- Anh sẽ thấy tôi chuyện trò nhiều với một vị quý tộc trong số bạn tôi: đó là tu viện trưởng De Herblay mà anh vẫn thường nghe tôi nói đến.

- Tôi có nhớ, thưa ông.

- Thỉnh thoảng anh đến gần chúng tôi như muốn nói chuyện, nhưng chớ nói, và cũng chớ có nghe. Làm thế cốt để những kẻ quấy rầy khỏi làm phiền chúng tôi thôi.

- Được ạ, tôi sẽ tuân theo ông từng điểm một.

Arthos đi thăm hai nơi ở Paris. Rồi đến bảy giờ hai người đi về phía phố Tournelles. Đường phố tắc nghẽn những phu trạm, ngựa và bọn đầy tớ đi bộ, Arthos đi lách qua để vào và chàng trẻ tuổi theo sau.

Người đầu tiên đập vào mắt Arthos khi vào là một người ngồi trong một chiếc ghế lớn lắp bánh xe lăn có che một cái tán bằng thảm thêu, dưới tán thấy động đậy một thân hình bọc trong một tấm mền gấm với khuôn mặt nhỏ nhắn hãy còn trẻ cười cợt nhưng thỉnh thoảng tái nhợt đi, song cặp mắt lúc nào cũng biểu lộ một tinh thần linh hoạt, thông minh và duyên dáng. Đó là tu viện trưởng Scarron luôn luôn tươi cười, giễu cợt.

Chung quanh cái thứ lều lưu động ấy, chen chúc một đám các vị quý tộc và các phu nhân. Căn phòng rất tinh tươm và bày biện tao nhã. Trên những ô cửa sổ lớn buông những tấm rèm bằng lụa thêu hoa màu sắc trước kia sặc sỡ nay đã hơi phai lạt; thảm phủ tường giản dị nhưng nhã nhặn. Hai tên hầu rất lễ phép và được huấn luyện quen với những phong cách lịch sự hầu hạ rất khéo léo.

Vừa chợt thấy Arthos, Aramis chạy ra ngay nắm lấy tay anh và giới thiệu với Scarron, chủ nhân tỏ ra rất vui mừng và cung kính đối với vị khách mới và nói một câu chúc mừng rất hóm hỉnh với cậu tử tước. Raoul ngẩn người vì chưa được chuẩn bị với những chuyện ứng đối văn hoa, song anh thi lễ rất tao nhã. Sau đó Arthos được Aramis giới thiệu với hai ba lãnh chúa và được họ chúc mừng. Sự ồn ào lắng dần và cuộc chuyện trò lại tiếp tục lan rộng.

Sau khoảng bốn năm phút để trấn tĩnh và nhận diện tỉ mỉ, Raoul thấy cửa mở và một tên hầu báo có cô Paulet đến.

Arthos chạm vào vai tử tước và bảo:

- Hãy nhìn kỹ người phụ nữ này, vì đó là một nhân vật lịch sử: chính vua Henri IV đến nhà bà ta khi bị ám sát.

Raoul rùng mình: từ mấy hôm nay, lát lát một tấm màn lại vén lên cho anh thấy một quang cảnh lịch sử: người đàn bà vẫn còn trẻ và vẫn còn đẹp, đang vào kia đã từng biết Henri IV và nói chuyện với ngài.

Ai nấy tíu tít bên cạnh bà khách mới đến vì bà vẫn còn thời thượng lắm. Đó là một phụ nữ cao, vóc người thanh tú và yểu điệu có mái tóc rậm vàng óng như Raphaen vẫn hằng yêu thích và Titien thường vẽ cho các nàng Madeleine của mình. Cái màn hung hung hoang dã ấy hoặc có lẽ cái vẻ vương giả mà bà ta đã chinh phục được ở các phu nữ khác đã khiến bà giành được biệt danh Sư tử cái(1).

Những phu nhân mỹ miều ngày nay nhằm đạt tới danh hiệu phong lưu đài các ấy sẽ hiểu rằng chẳng phải nó từ nước Anh tới như có lẽ họ tưởng, mà chính từ người đồng hương xinh đẹp và trí xảo của họ, cô Paulet.

Cô Paulet đi thẳng đến chỗ Scarron, giữa những tiếng rì rầm nổi lên từ tứ phía lúc cô vào.

- Thế nào, ông tu viện trưởng thân mến? - Cô nói giọng bình thản, - Vậy, ông nghèo túng phải không? Chúng tôi vừa mới biết chuyện đó chiều nay ở nhà bà de Rambouillet, ông de Grasser nói với chúng tôi.

- Vâng, nhưng Nhà nước bây giờ lại giàu lên, - Scarron đáp: - Ta cũng phải biết hy sinh cho đất nước mình chứ!

Chợt một người phái Fronda mà Arthos nhận ra là nhà quý tộc anh đã gặp ở phố Saint Honoré nói:

- Ngài giáo chủ sắp mua thêm cho mình một nghìn năm trăm livres, phấn sáp và nước hoa một năm đấy.

- Nhưng còn Nàng Thơ nàng sẽ nói gì? - Aramis nói bằng giọng ngọt xớt của mình, - Nàng Thơ cần đến sự xuềnh xoàng mạ vàng chăng? Bởi vì cuối cùng:

Si Virgilio puer aut tolerabile desit.

Hospitium caderent omnes a crinibus hydri(2).

- Hay! - Scarron vừa giơ tay ra cho cô Paulet vừa nói, - nhưng nếu tôi không còn con giao long của tôi nữa thì ít ra tôi cũng còn con sư tư cái của tôi.

Tối hôm ấy, mọi lời nói của Scarron đều có vẻ tuyệt diệu. Đó là đặc ân của sự ngược đãi. Ông Ménage (3) có những cảm hứng bột phát.

Cô Paulet sắp đến chỗ của mình mọi khi, nhưng trước khi ngồi xuống, từ trên tầm cao của mình, cô đưa mắt lướt một cái nhìn vương hậu xuống tất cả cử toạ và dừng lại ở Raoul.

Arthos mỉm cười bảo Raoul:

- Anh được cô Paulet chú ý đấy, tử tước ạ, đến chào cô đi. Cứ tự nhiên như mình là một người dân tỉnh lẻ chất phác; nhưng chớ có đã động đến chuyện vua Henri nhé.

Tử tước đỏ mặt tiến lại phía Sư tử cái, và lẫn vào ngay với đám lãnh chúa quây quanh chiếc ghế.

- Thế là đã hình thành hai nhóm rõ rệt: một nhóm vây quanh ông Ménage, và một nhóm xúm quanh cô Paulet. Scarron chạy từ nhóm này sang nhóm kia, điều khiển chiếc ghế có bánh xe ở giữa đám đông ấy một cách khéo léo hết sức, chẳng khác một người hoa tiêu lão luyện dẫn một con thuyền giữa mặt biển lởm chởm những đá ngầm.

- Lúc nào chúng ta nói chuyện với nhau? - Arthos hỏi Aramis.

- Lát nữa, - Aramis đáp: Lúc này chưa đông khách lắm, ta dễ bị chú ý.

Vừa lúc ấy cửa mở và một tên hầu báo có ông chủ giáo đến.

Nghe vậy, tất cả mọi người đều quay ra, vì cái tên ấy đã trở thành rất nổi tiếng

Arthos cũng nhìn ra. Cho đến nay anh mới chỉ nghe tên tu viện trưởng Gôngdy mà chưa biết người.

Anh trông thấy đi vào một người nhỏ nhắn, đen đủi, xấu xí, cận thị tay chân vụng về đủ thứ trừ việc tuốt kiếm và rút súng, thoạt tiên ông ta đi đến một cái bàn mà ông suýt xô đổ, nhưng với tất cả những cái đó ông có một cái gì cao ngạo và hãnh diện trên gương mặt. Đến sát Scarron, ông mới nhận ra và nói:

- Thế nào, tu viện trưởng, ông bị thất sủng rồi hả?

Lời nói ấy như câu kinh lễ được nhắc đến trăm lượt trong buổi chiều nay rồi, và Scarron đã phải trả lời đến câu thứ một trăm về vẫn một chủ đề ấy. Cho nên ông im bặt đi, nhưng rồi một cố gắng tuyệt vọng đã cứu ông. Ông nói:

- Ngài giáo chủ Mazarin rất muốn nghĩ tới tôi.

- Kỳ diệu nhỉ? - Ménageơ kêu lên.

- Nhưng rồi ông làm thế nào để tiếp tục đón chúng tôi? Ông chủ giáo nói tiếp. - Nếu thu nhập của ông tụt xuống, buộc lòng phải cử ông làm chanoine(4) ở nhà thờ Đức bà.

- Ô! Không đâu, - Scarron nói, - tôi làm luỵ cho ông nhiều quá.

- Hay là ông có những nguồn nào khác mà chúng tôi không biết?

- Tôi sẽ vay hoàng hậu.

- Nhưng hoàng hậu chẳng có gì cho riêng mình đâu, - Aramis nói, - bà ấy chẳng sống dưới chế độ cộng đồng đó sao?

Ông chủ giáo quay lại cười với Aramis và giơ một đầu ngón tay ra hiệu thân mật. Ông nói:

- Xin lỗi tu viện trưởng thân mến của tôi, ông bị muộn, và tôi phải tặng ông một món quà.

- Quà gì vậy? - Aramis hỏi.

- Một cái dải mũ.

Ai nấy quay về phía chủ giáo, ông rút ở túi ra một dải lụa hình dáng kỳ lạ.

- A!- Scarron nói, - một cái dải Fronda.

- Đúng thế, - chủ giáo nói, - Ở La Fronda, người ta làm đủ mọi thứ. Cô Paulet này, tôi dànhl cho cô một cái quạt ở La Fronda. De Herblay, tôi sẽ cho ông người bán găng tay của tôi, bác ta làm găng ở La Fronda; còn ông, Scarron: tôi sẽ cho ông người hàng bánh của tôi với tín dụng vô thời hạn; bác ta làm bánh ngon tuyệt vời cho La Fronda.

Aramis cầm dải lụa quấn quanh mũ.

Vừa lúc ấy cửa mở và một tên hầu kêu to:

- Bà công tước de Chevreuse!

Nghe tên bà de Chevreuse, tất cả mọi người đứng dậy.

Scarron vội vã lăn chiếc ghế bành của mình ra phía cửa. Raoul đỏ mặt lên. Arthos ra hiệu cho Aramis và anh này đến nép sau một khuông cửa sổ.

Giữa những lời chúc tụng cung kính đón bà vào, nữ công tước de Chevreuse đưa mắt tìm kiếm một người hay một vật gì. Cuối cùng bà nhận ra Raoul và mắt bà rực sáng lên; bà nom thấy Arthos và trở nên mơ màng; rồi nhìn thấy Aramis ở bên cửa sổ, bà để lộ sau cái quạt một vẻ bất ngờ khó nhận biết.

- Tiện đây, - bà nói như để xua đuổi những ý nghĩ đang xâm chiềm đầu óc mình mà mình không muốn, - xin hỏi, cái ông Voiture tội nghiệp ấy ra sao rồi? Ông Scarron có biết không?

Vị lãnh chúa đã hỏi chuyện Arthos ở thành phố Honoré nói:

- Sao? Ông Voiture ốm à? Và có chuyện gì nữa?

Ông chủ giáo nói:

- Ông ta mải chơi bài không bảo tên hầu mang áo đến thay, thành thử bị cảm lạnh và sắp chết.

- Ở đâu thế?

- Ôi lạy Chúa! Ở chỗ tôi. Cứ tưởng tượng xem ông Voiture tội nghiệp đó đã có một lời nguyền long trọng là không chơi bài bạc nữa. Sau ba ngày không giữ nổi, ông ta lần đến toà tổng giám mục để tôi giải lời nguyền đó cho ông. Khốn nỗi lúc ấy tôi đang bận việc rất quan trọng với ông tham nghị Broussel tử tế ấy ở tít sâu trong phòng tôi thì Voiture chợt thấy hầu tước de Luynes đang ngồi ở bàn đợi một chân bài. Hầu tước gọi và mời Voiture ngồi vào bàn. Voiture đáp rằng không thể chơi, nếu tôi không giải lời nguyền cho ông ấy. Luynes mượn danh nghĩa tôi mà cam kết và nhận tội về mình. Voiture ngồi vào bàn chơi, thua mất bốn trăm êquy, khi ra về thì cảm lạnh, đi nằm để không còn dậy được nữa.

Aramis lấp ló sau tấm rèm cửa sổ hỏi:

- Ông Voiture thân mến ấy ốm đến thế kia à?

- Hỡi ôi! - Ông Ménage đáp, - Ông ta ốm nặng lắm, và con người vĩ đại ấy có lẽ sắp từ giã chúng ta, deserel Orbem(5)

- Hừ, ông ấy mà chết ư! - Cô Paulet nói với vẻ châm biếm. - Ông ấy chẳng muốn chết đâu? Ông ta có đầy cung phi xung quanh như ông vua Thổ Nhĩ Kỳ. Bà de Saintot chạy đến nấu cháo, bà Renaudot sưởi mền chăn cho ông; và ông ta lại chẳng có đến cả bạn gái của chúng ta, nữ hầu tước de Rambouillet gửi thuốc sắc đến hay sao.

- Nàng Parthenie thân mến của tôi, - Scarron cười nói, - cô không yêu mến ông ta?

- Ồ oan cho tôi quá, bệnh nhân thân mến của tôi ạ! Tôi chẳng ghét ông ta mấy đâu và tôi sẽ vui lòng cầu kinh cho linh hồn ông được yên nghỉ.

Bà de Chevreuse từ chỗ ngồi nói với:

- Bạn thân mến ơi, chẳng phải không dưng mà người ta tặng bà cái biệt danh Sư tử cái, và bà công kích dữ quá.

- Thưa bà, dường như bà ngược đãi quá đáng một nhà thơ lớn - Raoul đánh liều lên tiếng.

- Ông ta mà là một nhà thơ lớn à? Này, tử tước ơi người ta thấy rõ là ông từ tỉnh lẻ đến như ông nói với tôi ban nãy, và ông chưa trông thấy ông ta bao giờ. Ông ta là một nhà thơ lớn ư? Hê, ông ta chưa cao đến năm bộ.

- Hoan hô! Hoan hô! - Một người cao lớn, có bộ ria kiêu hãnh và một thanh kiếm đồ sộ nói. - Hoan hô, nàng Paulet kiều diễm? Đã đến lúc đặt lại cái ông Voiture bé nhỏ ấy vào đúng vị trí của mình.

- Tôi lớn tiếng tuyên bố rằng tôi cho là tôi giỏi về thi ca, và tôi luôn luôn thấy thơ ca của ông ta dở lắm.

- Cái vị anh hùng rơm ấy là ai thế, thưa ông? - Raoul hỏi Arthos.

- Ông Scudéry.

- Tác giả Clédi và Grand Cyrus vĩ đại ấy à?

- Mà ông ta soạn chung với cô em gái lúc này đang nói chuyện với cái cô xinh đẹp ngồi gần ông Scarron ở kia kìa.

Raoul quay đầu lại và quả nhiên nom thấy hai khuôn mặt mới vừa vào: Một thật kiều diễm, thật mảnh mai, thật ủ dột, đóng khung trong mái tóc đen lánh với cặp mắt nhung giống như những cánh hoa pensée tím ngắt phía dưới lóng lánh một đài hoa vàng óng; khuôn mặt kia là một bà có vẻ đỡ đầu cô gái, vẻ lạnh lùng, khô héo và úa vàng, một khuôn mặt thực thụ của một bà già khó tính hoặc sùng tin, Raoul tự hẹn với mình sẽ không ra khỏi phòng khách khi chưa nói chuyện với cô thiếu nữ mắt nhung; do một ý nghĩ trớ trêu cô ta vừa mới gợi nhớ đến Louise, mặc dầu cô chẳng giống chút nào cô bé Louise tội nghiệp mà anh bỏ mặc đau đớn ở lâu đài La Vallière, và ở giữa cả cái thế giới thượng lưu này anh đã lãng quên trong chốc lát.

Trong lúc ấy Aramis xích đến gần vị chủ giáo, ông ta với vẻ cười cợt khi nói vào tai anh ta mấy tiếng. Mặc dầu có sự kiềm chế, Aramis cũng không ngăn nổi một động tác nhẹ.

- Cười đi! - Ông de Retz bảo anh, - người ta nhìn chúng mình đấy.

Rồi ông rời anh để lên chuyện trò với bà de Chevreuse đang có một đám đông vây quanh.

Aramis giả bộ cười để đánh lạc hướng mấy thính giả tọc mạch, và nhác thấy Arthos lại đến đứng ở chỗ cửa sổ ban nãy anh đã đứng, sau khi ném vài lời sang trái sang phải, anh chẳng phải vờ vịt gì nữa mà đến thẳng chỗ Arthos.

Vừa giáp mặt nhau là hai người chuyện trò ngay kèm theo bao nhiêu cử chỉ.

Raoul bèn đến gần họ theo như Arthos đã dặn.

Arthos cao giọng nói:

- Đó là một bài thơ ngắn của ông Voiture mà ông tu viện trưởng đó cho tôi nghe và tôi thấy là không thể so sánh.

Raoul đứng một lát gần họ, rồi ra hoà mình trong nhóm bà de Chevreuse có cô Paulet và cô Scudéry đứng hai bên.

Này - Ông chủ giáo nói, - tôi xin phép không hoàn toàn đồng ý với ông de Scudéry; tôi thấy trái lại, ông de Voiture là một nhà thi sĩ thuần tuý. Ông ta hoàn toàn thiếu những tư tưởng chính trị.

- Vậy thế nào? - Arthos hỏi.

- Ngày mai, - Aramis vội vã đáp.

- Mấy giờ?

- Sáu giờ.

- Ở đâu?

- Ở Saint Mandé.

- Ai bảo cậu?

- Bá tước de Rochefort.

Chợt có một người nào đó đến gần.

- Còn những tư tưởng triết lý? Chính đó là những cái thiếu ở ông Voiture đáng thương kia, tôi thì tôi tán thành ý kiến của ông chủ giáo: thi sĩ thuần tuý.

- Phải đấy. - Ông Ménage nói, - về thi ca, chắc chắn ông ta kỳ tài rồi, song sau này, hậu thế khi khâm phục ông thì cũng trách ông một điều, ấy là đã đưa vào cấu tạo của thơ một sự tự do phóng túng quá đáng; ông ta giết chết thi ca mà không biết.

- Giết chết, từ ấy đúng đấy. - Scudéry nói.

- Nhưng văn chương của ông ta thật là kiệt tác! - Bà de Chevreuse nói.

- Ồ! Về phương diện ấy, - cô Scudéry nói, - đó là một người lẫy lừng thật sự.

- Đúng - Cô Paulet đối đáp, - nhưng chừng nào ông ta còn bông phèng, bởi vì trong thể văn thư tín nghiêm túc thì ông ta thật thảm hại, và nếu ông ta không nói các điều ra một cách sống sượng, thì các bạn cũng phải thừa nhận rằng ông ta nói rất dở.

- Nhưng it ra cô phải đồng ý rằng cách bông đùa của ông ta không thể bắt chước được.

Ông Scudéry vân về ria mép mà nói:

- Hẳn như thế; duy tôi thấy là cái khôi hài của ông ta miễn cưỡng và sự bông đùa của ông ta thì quá suồng sã, đọc Thư cá Chép cá Meung của ông ấy mà xem.

Chưa kể những cảm hứng tuyệt diệu nhất của ông ta thường đến từ dinh Rambouillet, - Ménage nói tiếp. - Cứ xem élide và Alcidalis.

Aramis đến gần đám đông và cung kính chào bà de Chevreuse, bà đáp lại bằng một nụ cười duyên dáng, còn tôi, tôi cáo buộc ông ta là đã tự do quá trớn đối với các đại thần. Ông ta thường không phải với bà hoàng thân với ông thống chế d Albert, với ông de Schomberg, với cả hoàng hậu nữa.

- Sao? Với hoàng hậu à? - Scudéry vừa hỏi vừa bước chân phải lên như đứng thủ thế. - Mẹ kiếp! Tôi không biết điều đó. Mà ông ta cư xử không phải với hoàng hậu như thế nào?

- Ông không biết bài "Tôi nghĩ" của ông ta sao?

- Không, - bà de Chevreuse nói.

- Không, - cô Paulet nói.

- Quả vậy, tôi cho rằng hoàng hậu chỉ truyền cho ít người biết thôi, nhưng tôi, tôi nắm chắc trong tay.

- Và ông thuộc chứ?

- Tôi chắc là có nhớ.

- Nào? nào! - mọi người nhao nhao lên.

Aramis kể:

- Chuyện ấy xảy ra trong trường hợp như thế này. Ông de Voiture ngồi trong cỗ xe của hoàng hậu, bà cùng ông ta đi dạo chơi tay đôi trong rừng Fontainebleau. Ông ta làm ra vẻ đang ngẫm nghĩ để hoàng hậu hỏi xem ông ta nghĩ gì. Y như rằng, điều đó diễn ra.

Hoàng hậu hỏi:

- Ông de Voiture, ông đang nghĩ gì thế?

Voiture mỉm cười và giả vờ suy nghĩ năm giây để người ta tương rằng ông ứng khẩu thành thơ và đáp:

"Tôi nghĩ rằng sau bao tháng năm ròng

Nàng bị đoạ đày gian khổ bất công

Số mệnh đã thưởng cho nàng xứng đáng

Nào danh dự, nào vinh quang xán lạn;

Nhưng khi xưa trong cảnh ngộ đáng thương

Chắc nàng còn sung sướng trăm đường

Tôi không nói rằng vì nàng đã yêu đương.

Dù vần gieo đến là thích hợp".

Scudéry, Ménage và cô Paulet nhún vai.

- Khoan đã, khoan đã. - Aramis nói, - có ba đoạn cơ mà!

- Ồ! - Cô Scudéry nói, - hãy nói là ba khúc, đây bất quá là một ca khúc.

"Tôi nghĩ thương thần ái tình tội nghiệp

Hằng cấp cho nàng vũ khí của mình

Nhưng giờ đây bị đuổi khỏi cung đình

Chẳng còn cung tên, chẳng còn vẻ mỹ miều say đắm,

Ngồi cạnh nàng đây, ơi nữ hậu Marie,

Nghĩ mà buồn chăng thể làm chi

Khi nàng đã phũ phàng bạc đãi

Những kẻ hy sinh vì nàng mà không hề sợ hãi".

- Ô! về cái nét sau cùng này, - bà de Chevreuse nói, - tôi không biết nó có nằm trong các quy tắc của thi ca không, nhưng tôi xin miễn thứ cho nó vì đó là sự thật, và bà de Hautefort, bà de Sennecey nếu cần sẽ đồng ý với tôi, chưa kể ông de Beaufort.

- Này, này, - Scarron nói, - điều ấy chẳng còn can hệ gì đến tôi nữa đâu; kể từ sáng hôm nay tôi chẳng còn là bệnh nhân của hoàng hậu nữa.

- Thể còn khúc cuối - Cô Scudéry bảo, - còn khúc cuối nữa. Nào!

- Có đây - Aramis nói - khúc này có ưu thế là nói rõ cả tên riêng, thành thử không còn lầm vào đâu được nữa.

"Chúng tôi đây - những nhà thi sĩ,

Mang trong đầu những ý nghĩ cuồng điên

Tâm trạng nàng đang hớn hở hồn nhiên

Hay ủ dột, suy tư trầm lắng,

Nàng sẽ làm gì nếu chốn này vắng lặng

Thấy hiện lên de Buckingham,

Và ai sẽ là người thất sủng

Ngài quận công hay ông cố Vincent(6)".

Đến đoạn cuối cùng này chỉ có một tiếng kêu thốt lên về sự xấc xược của Voiture.

Nhưng mà - cô thiếu nữ mắt nhung thì thào, - khổ một nỗi là riêng tôi, tôi thấy những câu thơ ấy tuyệt diệu.

Đó cũng là ý kiến của Raoul, anh ta sán đến gần Scarron và đỏ mặt nói

- Thưa ông Scarron, xin ông làm ơn bảo cho tôi biết người phụ nữ trẻ tuổi kia là ai mà một mình một ý kiến chống lại tất cả cuộc hội họp trứ danh này.

- A! A! - Chàng tử tước trẻ tuổi của tôi ơi, - Scarron nói. - Tôi chắc rằng anh mong muốn đề nghị với cô một tên minh tiên công và phòng ngự phải không?

Raoul lại đỏ mặt đáp:

- Xin thú thật là tôi thấy những vần thơ ấy rất hay.

- Mà hay thực đấy chứ, - Scarron nói, - nhưng sụyt! Giữa những nhà thơ với nhau, họ chẳng nói như thế đâu:

- Nhưng tôi. - Raoul nói, - tôi chẳng có vinh dự là thi sĩ, và tôi xin hỏi ông

- Đúng đấy: người phụ nữ trẻ ấy là ai chứ gì? Đó là cô Ấn Độ xinh đẹp.

- Thưa ông, xin ông thứ lỗi, - Raoul đỏ mặt nói, - Ông nói thế tôi cũng chẳng rõ gì hơn trước. Than ôi, tôi là dân tỉnh lẻ.

- Có nghĩa là anh chưa biết gì về cái thứ văn chương kiểu cách ở đây nó ròng ròng ở cửa miệng mọi người. Càng hay! Chàng tuổi trẻ ạ, càng hay! Đừng tìm hiểu làm gì, mất thì giờ thôi; và khi nào anh hiểu thì cũng nên hy vọng rằng người ta chẳng nói cái kiểu văn hoa ấy nữa.

- Vậy thì xin ông thứ lỗi, - Raoul nói, - xin ông hãy rủ lòng nói cho tôi biết người mà ông gọi là cô gái Ấn Độ xinh đẹp ấy là ai thế?

- Phải, chắc hắn đó là một trong những người đàn bà kiều diễm nhất hiện nay, cô Françoise d Aubigné.

- Phải chăng cô ấy thuộc dòng họ ông Agrippa danh tiếng, bạn của vua Henri IV ?

- Cháu gái nội ông ta đấy. Cô ấy từ Martitique đến, chính vì thế mà tôi gọi là cô gái Ấn Độ xinh đẹp(7).

Raoul trợn tròn mắt, và nó gặp cặp mắt của vị phu nhân trẻ đang mỉm cười.

Người ta tiếp tục bàn tán về Voiture.

Cô d Aubigné lân la đến bên ông Scarron như để tham gia vào câu chuyện của ông với chàng tử tước trẻ, cô nói:

- Thưa ông, ông không tán thưởng những người bạn của ông Voiture tội nghiệp à? Ông nghe xem họ vừa ca ngợi vừa vặt lộng ông ta! Người này tước mất của ông lương tri, người kia tước mất tính độc lập người khác... Thế thì, lạy Chúa? Họ để lại cái gì cho ông ta, cho cái bộ hoàn chính lừng lẫy ấy? Theo cách nói của cô de Scudéry.

Cả Scarron và Raoul đều cười rộ. Cô gái Ấn Độ xinh đẹp tự mình cũng ngạc nhiên về tác động do mình gây ra, cúi mặt xuống và lấy lại cái vẻ chất phác của mình.

- Đấy là một người thông tuệ, - Raoul nói.

Arthos vẫn đứng ở khung cửa sổ nhìn bao quát toàn cảnh nụ cười khinh khi đọng trên môi.

Bà de Chevreuse bảo ông chủ giáo:

- Ông gọi hộ bá tước dờ La Fère; tôi cần nói chuyện với ông ấy.

- Nhưng tôi, - chủ giáo đáp - tôi lại cần người ta tin rằng không nói chuyện với ông ta. Tôi rất mến và khâm phục ông ấy, vì tôi có biết về những cuộc phiêu lưu cũ của ông, ít ra là vài chuyện nhưng tôi chỉ tính đến chào ông ta vào sáng ngày kia.

- Tại sao lại sáng ngày kia? - Bà de Chevreuse hỏi.

- Chiều mai bà sẽ biết, - Ông chủ giáo cười nói.

- Ông Gondy thân mến ơi, - bà công tước nói. - kể ra ông nói cứ như là tử vi ấy.

Rồi bà quay về phía Aramis và gọi:

- Ông De Herblay, ông có vui lòng tối nay làm hộ vệ cho tôi một lần nữa không?

- Có gì vậy, bà công tước? -Aramis đáp. - Xin sẵn sàng tối nay, ngày mai và mãi mãi; xin bà cứ ra lệnh.

- Thế thì ông hãy tìm hộ tôi bá tước de La Fère, tôi muốn nói với ông ấy.

Aramis đến chỗ Arthos, rồi cùng trở lại với anh.

Bà công tước đưa một bức thư cho Arthos và nói.

- Thưa bá tước, đây là cái mà tôi đã hứa với ông. Người được chúng ta che chở sẽ được tiếp đãi chu đáo.

- Thưa bà, - Arthos nói, - anh ta sẽ sung sướng được chịu ơn bà.

- Về phương diện ấy ông chẳng có gì phải ganh tị với anh đâu vì rằng chính tôi, tôi nhờ ơn ông mà được biết ông ta, - người đàn bà ranh mãnh đáp và nở một nụ cười gợi nhớ đến Marie Michon cho cả Aramis và Arthos.

Nói xong bà đứng dậy và gọi xe của mình. Cô Paulet đã về rồi và cô Scudéry cũng ra về.

Arthos bảo Raoul:

- Tử tước, anh hãy đi theo bà công tước de Chevreuse, hãy nói với bà cho anh vinh hạnh đỡ bà lên xe, rồi cảm ơn bà.

Cô gái Ấn Độ xinh đẹp đến chỗ Scarron để xin cáo lui.

- Cô đã về cơ à? - Ông nói.

- Tôi là một trong những người cuối cùng ra về, ông thấy đấy.

- Nếu ông có những tin tức về ông de Voiture, nhất là những tin tốt lành, xin ông làm ơn gửi cho tôi vào ngày mai.

- Ồ, ông ta có thể chết bây giờ, - Scarron đáp.

- Thế là thế nào? - Cô thiếu nữ mở mắt hỏi.

- Bài tán dương ông ta đã làm xong rồi.

Và họ vui cười chia tay nhau; cô thiếu nữ ngoái đầu lại để nhìn người bại liệt đáng thương với vẻ thích thú, còn người bại liệt dõi theo cô bằng con mắt tình tứ.

Các nhóm khách thưa thởt dần. Scarron không làm ra bộ nhìn thấy một số tân khách đã chuyện trò bí mật với nhau, thư từ đã đến với nhiều người, và buổi tối hội họp dường như có một mục đích bí mật nó đi trệch khỏi chuyện văn chương mà họ đã bàn cãi om sòm.

Những điều đó có can hệ gì đến Scarron? Bây giờ người ta cứ việc hoạt động thoải mái cho phong trào La Fronda ở ngay nhà ông; vì từ sáng hôm nay như ông đã nói, ông không còn là bệnh nhân của hoàng hậu nữa rồi.

Còn về Raoul, quả nhiên anh đã đưa bà công tước ra tận xe của bà, bà ngồi và đưa bàn tay cho anh hôn; rồi do một trong những cơn ngẫu hứng cuồng điên đã khiến bà thật đáng yêu quý và nhất là thật nguy hiểm, bà đột nhiên ôm lấy đầu anh và hôn lên trán mà nói:

- Tử tước ơi mong rằng những điều chúc mừng của tôi và cái hôn này sẽ mang lại hạnh phúc cho anh.

Rồi bà đẩy anh ra xa và bảo người xà ích đánh xe đến dinh Luynes. Cỗ xe đã lăn bánh, bà de Chevreuse còn giơ tay ra hiệu với anh một lần cuối qua cửa xe, Raoul quay trở vào cứ ngẩn người ra.

Arthos hiểu rõ những gì đã diễn ra và mỉm cười.

- Tử tước, lại đây, - anh nói, - đã đến lúc anh rút lui rồi đấy; ngày mai anh đi đến quân đội của Ngài hoàng thân, chúc anh ngủ ngon đêm cuối cùng của người thành thị.

- Tôi sẽ là người lính ư? - Chàng thanh niên hỏi. - Ôi! Thưa ông xin hết lòng cảm ơn ông!

- Xin từ biệt bá tước, tôi trở về tu viện của tôi, - tu viện trưởng De Herblay nói.

- Xin từ biệt tu viện trưởng, - Ông chủ giáo nói - ngày mai tôi giảng kinh và tối nay có đến vài chục bài phải tham khảo.

- Xin từ biệt quý vị, - bá tước nói, - còn tôi, tôi sẽ ngủ hai mươi bốn giờ liền, vì mệt mỏi lắm.

Ba người chào nhau sau khi trao đổi với nhau một cái nhìn cuối cùng. Scarron liếc mắt theo dõi họ qua các ô cửa phòng khách.

Chẳng có ai trong bọn họ sẽ làm như họ nói đâu. Scarron lẩm bẩm với nụ cười ranh ma của mình. Nhưng họ cứ việc làm, những con người quý tộc trung hậu! Biết đâu họ chẳng làm thế nào để trả lại trợ cấp cho ta?..., Họ thì họ có thể vung cánh tay lên, thế là quá nhiều; còn ta, than ôi! Ta chỉ có cái lưỡi, nhưng ta sẽ cố gắng chứng minh rằng đó là một cái gì đáng kể.

- Ơ này? Champenois, mười một giờ điểm rồi đấy. Đến đẩy ta về giường nào. Quả tình cái cô tiểu thư d Aubigné ấy thật là kiều diễm

Nói rồi, kẻ bại liệt tội nghiệp ấy biến vào trong buồng ngủ, cánh cửa khép lại sau lưng ông ta, và những ngọn đèn sáng lần lượt tắt dần trong căn phòng khách ở phố Tournelles.

Chú thích:

(1) chỉ một người đàn bà phong lưu đài các.

(2) Nếu thằng bé không dành cho Viếcgin một nơi ở tử tế, thì mọi người sẽ rơi từ cái bờm của con giao ong (tiếng La-tinh)

(3) Một học giả Pháp (thế kỷ XVII), soạn những sách về ngôn ngữ và làm thơ.

(4) Thày tu giúp việc trợ giáo.

(5) Từ giã thế gian. (Tiếng la-tinh).

(6) cha Vincent là linh mục nghe xưng tội của hoàng hậu

(7) Hồi thế kỷ XVI, Christope Colone khám phá ra châu Mỹ tưởng là đã đi tới Ấn Độ, nên người ta quen gọi dân bản xứ là người Ấn Độ. Martinique là một hòn đào ở Trung Mỹ.

-*-*-*-

Chương 24

Saint-Denis

Arthos trở dậy vào lúc trời vừa rạng sáng và mặc quần áo. Qua nước da xanh tái nhiều hơn thường ngày và những dấu vết mất ngủ còn đọng lại trên gương mặt anh, rất dễ thấy rõ là hầu như suốt đêm anh không chợp mắt. Trái với thói quen của một người vững vàng và dứt khoát ấy, sáng nay ở toàn bộ con người anh có một cái gì đó chậm chạp và lưỡng lự.

Anh đang sửa soạn cho sự ra đi của Raoul và tìm cách tranh thủ thời gian. Trước tiên, anh tự mình trau chuốt thanh kiếm rút ra từ chiếc bao da ướp hương, xem xét chuôi kiếm có ngay ngắn không và lưỡi kiếm có gắn chặt vào chuôi không.

Rồi anh bỏ vào đáy chiếc va-li dành cho chàng trẻ tuổi một túi nhỏ đựng đầy tiền louis. Anh gọi Olivain, một thằng hầu theo anh đi từ Blois, sai hắn xếp rương quần áo trước mặt mình, chăm lo chu đáo mọi thứ cần thiết cho một chàng thanh niên sắp ra trận. Cuối cùng, sau gần một tiếng đồng hồ giải quyết những việc tỉ mỉ ấy, anh mở cửa dẫn đến phòng tử tước và nhẹ nhàng bước vào.

Mặt trời đã rực rỡ rọi vào căn phòng qua những ô cửa sổ rộng rãi mà đêm qua Raoul về muộn đã quên không buông rèm. Cậu vẫn còn ngủ, đầu gối một cách duyên dáng lên cánh tay. Mớ tóc dài đen lánh phủ nửa vầng trán thanh tú và lấm tấm hơi nước ẩm ướt đang lăn thành giọt long lanh trên gò má của đứa trẻ mệt. Arthos đến gần, mình cúi xuống trong tư thế đầy về âu sầu trìu mến, anh ngắm hồi lâu cậu thiếu niên miệng đang mủm mỉm, mí mắt he hé, mà những giấc mơ hẳn là êm đềm và giấc ngủ nhẹ nhàng; vị thần hộ mệnh cậu đã đặt biết bao âu yếm và mến thương vào trong sự canh gác thầm lặng của mình. Dần dà Arthos bị cuốn vào cơn mộng mê say trước cái thời thanh xuân đến là phong phú và trong sáng này. Tuổi thanh xuân của chính anh cũng lại hiện ra, mang theo tất cả những kỷ niệm ngọt ngào như hương thơm hơn là những tư tưởng.

Từ cái quá khứ ấy đến hiện tại là một vực thẳm. Nhưng trí tưởng tượng có cánh bay của thiên thần và tia chớp: nó vượt qua biển cả mà ta suýt bị chìm đắm, qua những bóng đêm mà áo giác của ta cũng tan biến, qua hang sâu mà hạnh phúc của ta bị nuốt chửng. Anh nghĩ đến cả chặng đầu của cuộc đời anh đã bị tan nát bởi một người đàn bà; và anh kinh hoàng nghĩ đến ái tình nó sẽ tác động đến thế nào đối với một tư chất vừa thanh tú vừa cường tráng như vậy.

Nhớ lại tất cả những gì mà mình đã phải chịu đựng, anh nhìn trước tất cả nhưng gì mà Raoul có thể sẽ phải chịu đựng và một niềm thương cảm trìu mến, sâu xa trào lên trong tim anh và toả ra cả cái nhìn ướt lệ của anh trùm lên cậu thiếu niên.

Vừa lúc ấy Raoul bừng tỉnh giữa cái cơn thức giấc trong trẻo không một gợn mây, không bóng tối và không mỏi mệt nó đặc trưng cho một số tư chắt tinh tế như loài chim. Đôi mắt Raoul dừng lại ở đôi mắt Arthos và chắc hẳn cậu hiểu rõ những gì đã diễn ra trong trái tim con người ấy đang chờ đợi sự tỉnh giấc của cậu như một tình lang chờ đợi phút tỉnh giấc của tình nương, vì rằng cái nhìn của cậu đến lượt mình chan chứa một niềm yêu thương vô bờ bến.

- Ông đứng đấy ư, thưa ông? - Cậu kính cẩn nói. - Sao ông không đánh thức tôi?

- Phải, Raoul, tôi đứng đây, - bá tước đáp. - Thấy anh ngủ ngon, tôi muốn để anh ngủ thêm chút nữa, anh bạn ạ; ngày hôm qua thức khuya quá, hẳn là anh rất mệt.

- Ôi thưa ông, ông tốt quá! - Raoul nói.

Arthos mỉm cười và hỏi:

- Anh thấy trong người thế nào?

- Thưa ông tuyệt diệu ạ, hoàn toàn lại sức và dễ chịu.

- Thế là anh còn lớn nữa đấy, - Arthos tiếp tục nói với vẻ quan tâm cha con và vẻ nhã nhặn của một người đứng tuổi đối với cậu thiếu niên - và ở tuổi anh sự mệt mỏi cũng gấp đôi.

Thẹn thùng vì bao sự ân cần ấy, Raoul nói:

- Ôi! Thưa ông, xin ông thứ lỗi cho; một lát nữa tôi sẽ ăn mặc xong ngay mà.

Arthos gọi Olivain và quả nhiên chỉ mười phút sau, với tính đúng giờ giấc mà Arthos từng trải trong quân ngũ đã truyền lại cho cậu con nuôi, chàng trai trẻ đã sẵn sàng. Cậu bảo tên hầu:

- Bây giờ anh sửa soạn hành trang cho tôi đi.

- Hành trang của anh đang đợi anh, Raoul ạ, - Arthos nói. - Tôi trực tiếp đôn đốc việc soạn va-li, và chẳng còn thiếu gì nữa. Cả va-li anh với rương hòm của thằng hầu chắc hẳn đã xếp lên ngựa rồi, nếu như người ta làm theo lệnh tôi.

- Thưa bá tước, - Olivain nói, - mọi thứ đều đã làm theo ý ngài, và ngựa cũng đang đợi.

- Thưa ông, - Raoul kêu lên, - thế mà tôi thì ngủ trong khi ông hết lòng trông nom đến tất cả những việc nhỏ nhặt ấy! Ôi, thưa ông, thật tình là ông ban cho tôi nhiều ân huệ quá.

- Như vậy là anh cũng yêu mến tôi một chút đấy chứ? Tôi hy vọng ít ra là như thế, - Arthos nói với giọng trìu mến.

Raoul tự kiềm chế gần như đến ngạt thở để khỏi bộc lộ nỗi xúc động của mình bằng một cử chỉ bồng bột thân thương và kêu lên.

- Ôi thưa ông! Ôi! Xin Chúa chứng giám tôi hết lòng yêu quý ông và tôn kính ông.

- Này, anh xem có quên cái gì không. - Arthos vừa nói vừa giả bộ tìm kiếm xung quanh để che giấu nỗi xúc động của mình.

- Thưa không ạ, - Raoul nói.

Tên hầu đi tới gần Arthos với vẻ ngập ngừng và nói nhỏ:

- Cậu tử tước không có kiếm, vì tối hôm qua ngài bá tước đã bảo tôi lấy đi thanh kiếm mà cậu đã bỏ ra.

- Được, - Arthos nói, - điều ấy tôi lo.

Raoul không tỏ ra nhận thấy cuộc đối thoại ấy. Cậu đi xuống, chốc chốc lại nhìn bá tước để xem phút chia tay đã tới chưa, nhưng Arthos vẫn tỏ vẻ điềm nhiên.

Đến bậc tam cấp. Raoul trông thấy ba con ngựa.

- Ô thưa ông, ông tiễn tôi ư? - Cậu nói, mặt mày rạng rỡ hẳn lên. Niềm vui mừng ánh lên trong mắt Raoul và cậu nhẹ nhàng nhảy lên mình ngựa.

Arthos cũng thong thả lên ngựa sau khi đã nói khẽ một lời với tên hầu, nên đáng lẽ đi theo sau ngay thì hắn trở lên nhà. Raoul mừng rỡ được bá tước đi cùng, nên không nhận thấy hoặc làm ra bộ không nhận thấy gì hết.

Hai người quý tộc ra Pont Neuf, đi dọc các kè hay đúng hơn như hồi ấy người ta gọi là mảng Pépin, và đi men theo các bức tường của toà Biệt trang lớn Grand Chatelêt . Họ vào phố Saint-Denis thì tên hầu đuổi kịp.

Họ đi đường rất im lặng. Raoul cảm thấy rõ ràng phút chia tay đang đến; cả ngày hôm qua bá tước bảo ban làm mọi thứ liên quan đến cậu. Hơn nữa, những cái nhìn của ông tăng bội phần trìu mến, và vài lời ông bật ra chan chứa yêu thương. Chốc chốc một suy nghĩ hoặc một điều khuyên nhủ thốt ra thì lời lẽ đầy vẻ ân cần lo lắng.

Sau khi qua cửa ô Saint-Denis, và tới ngang tầm toà Récollets, Arthos liếc nhìn con ngựa của từ tước và nói:

- Raoul, tôi vẫn thường bảo anh phải đề phòng điều này và chớ có quên, vì đó là một khuyết điểm lớn của một người cưỡi ngựa. Nhìn xem! Con ngựa của anh đã mệt rồi, sùi cả bọt mép ra, trong khi con ngựa của tôi vẫn như mới ở chuồng ra. Anh ghì hàm thiếc mạnh quá làm cho nó cứng cả mõm; và hãy chú ý, anh sẽ không thể làm nó vận động với sự lanh lẹn cần thiết. Sự an toàn của người kỵ sĩ đôi khi nằm trong sự tuân theo lẹ làng của con ngựa. Tám ngày nữa, anh hãy nhớ tới điều đó, vì anh sẽ không phải vận động trong một trường đua ngựa mà là trên một bãi chiến trường.

Rồi để điều nhận xét ấy khỏi mang một vẻ quan trọng nặng nề đột nhiên Arthos nói tiếp:

- Raoul xem kìa, cánh đồng đẹp thế kia; săn bắn chim đa đa thì tuyệt.

Raoul được một bài học tốt và tỏ ra rất khâm phục, vì nó được đưa ra một cách tế nhị dịu dàng biết chừng nào.

- Hôm nọ tôi còn chú ý một điều nữa, - Arthos nói, - đó là khi dùng súng ngắn, tay anh duỗi thẳng quá, nên bắn mất chính xác. Vì anh bắn mười hai phát thì trượt ba.

- Còn ông thì cả mười hai phát đều trúng đích, - Raoul cười đáp. - Bởi vì tôi gập cánh tay và tì lên khuỷu tay.

- Raoul, anh có hiểu rõ điều tôi muốn nói không?

- Dạ, có ạ. Theo lời khuyên, tôi đã tập một mình và đã thành công mỹ mãn.

- Này, - Arthos nói tiếp, - cũng như khi tập đấu kiếm, anh công kích đối phương dữ quả. Ở tuổi anh thường mắc khuyết điểm ấy, tôi biết lắm; những cử động của thân mình khi công kích thường làm trệch đường mũi kiếm; và nếu anh phải đương đầu với một địch thủ bình tĩnh, hắn sẽ chặn đứng anh từ nước kiếm đầu tiên anh chơi như vậy, bằng một miếng gỡ đơn giản hoặc bằng ngay một nhát đâm thẳng.

- Vâng, như ông vẫn thường làm như vậy, nhưng chẳng ai có được lòng quả cảm và sự lanh lẹn khéo léo như ông.

Chà, một cơn gió mát! - Arthos nói, - đó là một kỷ niệm của mùa đông. Nhân tiện, dặn anh thêm; nếu anh đi ra tuyến lửa, mà anh sẽ ra thôi, vì anh đã được tiến cử với một vị trưởng rất mê thuốc súng, thì hãy nhớ rằng trong một cuộc chiến dấu đặc biệt, như thường hay xảy ra đối với những người kỵ binh chúng ta, hãy nhớ kỹ là đừng bao giờ bắn trước cả. Kẻ nào bắn trước ít khi trúng địch thủ, bởi vì hắn nổ súng chẳng qua vì sợ mình sẽ bị mất súng trước một kẻ thù có súng; khi nào hắn bắn, anh hãy cho ngựa của mình chồm lên; cái động tác ấy đã hai ba lần cứu tôi thoát chết rồi đấy.

- Tôi sẽ ứng dụng, dù chỉ là để tạ ơn.

- Ơ này! - Arthos kêu, - phải chăng kia là những kẻ săn bắn trộm bị người ta bắt giữ? Ờ, đứng rồi. Raoul, lại còn một điểm quan trọng nữa: nếu anh bị thương trong một cuộc công kích, nếu anh ngã ngựa và còn chút sức lực, thì rời ngay khỏi con đường mà trung đoàn anh đi, nếu không nó có thể trở lại và anh sẽ bị giày xéo dưới vó ngựa. Bất cứ trường hợp nào, nếu bị thương, anh viết thư ngay cho tôi, hoặc nhờ người viết; chúng tôi rất thông thạo về những vết thương, - Arthos vừa nói thêm vừa mỉm cười.

- Xin cảm ơn ông. - Cậu thiếu niên rất xúc động đáp.

- A! Chúng ta đến Saint-Denis rồi! - Arthos lẩm bẩm.

Quả thật lúc ấy họ đến cổng thị trấn có hai lính canh. Một tên nói với tên kia:

- Hình như lại một nhà quý tộc trẻ tuổi nữa sắp sung vào quân đội.

Arthos quay đầu lại, bất cứ cái gì liên quan đến Raoul, dù gián tiếp anh đều thích thú.

- Do đâu mà anh đoán biết được? - Arthos hỏi.

- Thưa ông, - tên lính canh đáp, - do cái dáng vẻ của cậu nhà. Với lại cậu cũng đến tuổi rồi. Đó là người thứ hai trong ngày hôm nay.

- Thế sáng nay cũng có một người trẻ tuổi như tôi đến đây à? - Raoul hỏi.

Vâng, thực vậy, một người vẻ mặt cao sang và trang bị ngựa rất oách, ra dáng con nhà gia thế.

- Đó sẽ là một bạn đồng hành của tôi đó, thưa ông, - Raoul vừa đi vừa nói, - Nhưng than ôi! Anh ta sẽ không làm tôi quên được người mà tôi bị mất.

- Raoul, tôi không chắc anh sẽ đuổi kịp anh ta đâu, - Arthos nói, - bởi vì tôi cần nó, chuyện với anh tại đây, và cái điều tôi nói cũng chiếm khá thời gian, nên nhà quý tộc ấy sẽ đi trước anh đấy.

- Dạ xin tuỳ ý ông.

Vừa trò chuyện, họ vừa đi qua các phố đông nườm nượp nhân ngày lễ rồi đến trước một giáo đường cổ trong đó đang cầu lễ misa đầu tiên.

- Raoul, ta xuống ngựa đi, - Arthos bảo. - Olivain giữ ngựa cho chúng tôi và đưa tôi thanh kiếm.

Arthos cầm lấy thanh kiếm, rồi hai nhà quý tộc đi vào nhà thờ.

Arthos dâng nước thánh cho Raoul. Trong trái tim người cha có một chút gì như mối yêu thương ân cần của một tình lang đối với tình nương của mình vậy.

Cậu thiếu niên chạm vào tay Arthos, chào và làm dấu thánh.

Arthos nói một câu gì đó với lnột người canh gác, hắn cúi mình và đi về phía những hầm mộ táng.

- Lại đây Raoul, - Arthos bảo, - chúng ta đi theo người này.

Người canh mở cổng rào những ngôi mộ vua chúa và đứng ở bậc trên còn Arthos và Raoul đi xuống. Phía dưới sâu của cầu thang nhà mồ được chiếu sáng bởi một cây đèn bạc đặt ở bậc cuối cùng.

Ngay bên dưới cây đèn ấy có một nhà táng chân chống bằng gỗ sồi, phủ một tấm mùng lớn bằng gấm tím thêu hoa huệ vàng.

Lòng đầy ưu sầu và vẻ uy nghiêm của nhà thờ vừa đi qua chuẩn bị sẵn cho chàng thiếu niên đi đến tình huống này, cậu bước xuống thong thả và trang trọng, rồi bỏ mũ đứng nghiêm trước di hài của vị vua cuối cùng. Vị vua ấy chỉ phải đi theo tổ tiên khi kẻ kế vị ông đến nối gót ông, và dường như ông nằm đó để nói với niềm kiêu hãnh của con người đôi khi rất dễ phẩn khich khi ở trên, rằng: "Hỡi cát bụi trần gian, ta đợi người!"

Một lát im lặng.

Rồi Arthos giơ ngón tay chỉ vào cỗ quan tài và nói:

- Cái phần mộ vô định này là của một con người yếu hèn và không quyền thế vậy mà lại có một triều đại đầy những biến cố lớn lao. Vì ở trên ông vua, có trí tuệ của một người khác canh giấc, giống như cây đèn kia canh giấc bên trên cỗ quan tài này và chiếu sáng nó.

- Người kia là vua thực sự, Raoul ạ; người này chỉ là một bóng ma và người kia đặt linh hồn mình vào đó(1). Song le cái quyền uy quân chủ ở nước ta nó mạnh mẽ biết chừng nào, con người kia chẳng được vinh dự có một nấm mồ dưới chân của kẻ mà vì họ ông ta đã đem cả cuộc đời để tạo nên niềm quang vinh. Bởi vì, Raoul, hãy nhớ lấy điều này, nếu như người ấy đã làm cho nhà vua nhỏ bé thì ông ta đã làm cho vương vị lớn lao hơn, và trong cung điện Louvre cất giữ hai điều: vua thì chết và vương vị không chết, Raoul này, triều đại ấy đã qua đi, vị tể tướng mà ông chúa của mình hết sức kiềng nể, sợ hãi và căm ghét, khi xuống mồ đã kéo theo mình cả nhà vua mà ông không muốn để còn sống một mình, chắc hẳn vì ngại rằng nhà vua sẽ phá hoại sự nghiệp của ông ta, bởi vì nhà vua chỉ có thể kiến thiết khi có ở bên cạnh mình hoặc Chúa trời hoặc anh linh của Chúa. Vậy mà trong khi ấy, cả thiên hạ coi cái chết của tể tướng như một giải thoát.

Những người đương thời thật là mù quáng, và chính tôi, đã có mấy lần ngang nhiên ngăn cản những ý đồ của con người vĩ đại ấy. Ông nắm cả nước Pháp trong tay mình và tuỳ theo ông siết chặt lại hay buông tay ra mà bóp nghẹt nó hoặc cho nó thở thoải mái.

Nếu như trong cơn giận dữ khủng khiếp của mình, ông đã không nghiền nát tôi ra, tôi và các bạn thân của tôi, chắc hẳn là để hôm nay tôi có thể nói với anh rằng: này Raoul hãy luôn luôn biết phân biệt nhà vua và vương vị; vua chỉ là một con người, vương vị là ý thức của Chúa; khi nào anh hoài nghi không biết cần phải phụng sự ai, thì hãy bỏ đi cái vỏ ngoài vật chất mà giữ lấy cái nguyên lý vô hình, là tất cả.

Tuy nhiên Chúa muốn làm cho cái nguyên lý ấy có thể sờ thấy được và cho nó hiện thân vào một con người. Raoul ơi, tôi nhìn tương lai của anh dường như qua một đám mây. Tôi tin rằng tương lai anh sẽ sáng sủa hơn của chửng tôi.

Chúng tôi đã có một tể tướng mà không có vua; trái hẳn lại, anh có một ông vua mà không có tể tướng(2). Vậy thì anh có thể phụng sự, yêu mến và kính trọng đức vua. Nếu như ông vua ấy là một bạo chúa vì mọi sự toàn năng đều có cái choáng váng thúc đẩy nó đi đến bạo quyền - thì anh hãy phụng sự, yêu mến và kính trọng vương vị, nghĩa là cái điều không bao giờ sai lầm, nghĩa là ý thức của Chúa trên cõi trần này, nghĩa là cái tia lửa trời nó làm cho hạt bụi trở thành lớn lao và thần thánh đến nỗi chúng ta, những nhà quý tộc cũng vào hạng danh gia thế phiệt, cũng thành chẳng có nghĩa lý gì trước cái hình hài nằm ở bậc cuối cùng của cầu thang này, giổng như hình hài ở trước ngai vàng của Đấng cứu thế.

- Thưa ông, tôi sẽ tôn thờ Chúa - Raoul nói - Tôi sẽ kính trọng vương vị, tôi sẽ phụng sự Đức vua, và nếu như phải chết, tôi sẽ cố gắng chết hoặc vì Đức vua, hoặc vì vương vị, hoặc vì Chúa. Ông hiểu tôi rõ ràng chứ?

Arthos mỉm cười và nói:

- Anh là một thiên bẩm cao quý. Đây là thanh kiếm của anh.

Raoul quỳ một chân xuống đất.

Arthos nói tiếp:

- Thanh kiếm này đã được cha tôi, một nhà quý tộc trung hậu mang. Đến lượt tôi lại mang nó và đôi lần tôi đã làm rạng rỡ nó khi chuôi kiếm ở trong lòng bàn tay tôi và bao kiếm đeo ở bên sườn tôi. Raoul, nếu như bàn tay anh hãy còn yếu đề sử dụng thanh kiếm này thì càng hay, anh sẽ có thêm thì giờ để tập tành và để chỉ tuốt nó ra khi nào nó cần phải trông thấy ánh mặt trời.

Raoul đón nhận thanh kiêm từ tay bá tước và nói:

- Thưa ông, tôi chịu ơn ông về mọi thứ; tuy nhiên thanh kiếm này là tặng vật quý báu nhất mà ông đã cho tôi. Tôi xin thề với ông rằng tôi sẽ mang nó với tư cách một người biết ơn.

Rồi cậu kính cẩn ghé môi hôn lên chuôi kiếm.

- Tốt lắm, - Arthos nói, - tử tước hãy đứng lên và chúng ta ôm hôn nhau.

Raoul đứng dậy và xúc động tràn trề, nhào mình vào cánh tay Arthos.

Bá tước cảm thấy trái tim mình như tan ra, lẩm bẩm.

- Thôi vĩnh biệt, và hãy nhớ tới tôi.

- Ôi vĩnh viễn! Vĩnh viễn? - Chàng trẻ kêu lên. - Ôi, tôi xin thề như vậy, và nếu có điều bất hạnh xảy ra với tôi thì tên ông sẽ là cái tên cuối cùng tôi thổt ra, sẽ là kỷ niệm của tôi, ý nghĩa cuối cùng của tôi.

Arthos vội vã đi lên để che giấu nỗi xúc động của mình. Anh lấy một đồng tiền vàng cho người canh mộ, cúi mình trước bàn thờ, rồi rảo bước ra cổng nhà thờ. Olivain chờ ngoài đó cùng với hai con ngựa kia.

Arthos trỏ tấm dải đeo gươm của Raoul và bảo:

- Olivain, buộc lại vòng thanh kiếm, nó hơi trễ xuống quá. Được rồi. Bây giờ anh đi theo tử tước cho đến khi nào Grimaud đuổi kịp các anh; bác ấy đến thì anh từ giã tử tước. Raoul, nghe đấy chứ? Grimaud là một người lão bộc đầy lòng quả cảm và thận trọng: bác ấy sẽ đi theo anh.

- Thưa vâng, - Raoul đáp.

- Nào lên ngựa, tôi muốn được trông thấy anh ra đi.

Raoul tuân lệnh và nói:

- Xin vĩnh biệt ông! Xin vĩnh biệt người che chở kính yêu của tôi.

Arthos vẫy tay chào, vì không dám nói nên lời, còn Raoul cất mũ và đi xa dần.

Arthos đứng lặng im và nhìn theo cho đến lúc Raoul khuất sau chỗ đường rẽ.

Rồi ném cương ngựa vào tay một người nhà quê, anh lững thững bước lên bậc, trở vào nhà thờ, đến một góc tối tăm nhất và cầu nguyện.

Chú thích:

(1) chỉ tể tướng Richelieu và vua Louis XIII

(2) chỉ vua nhỏ Louis XIV và Mazarin.

-*-*-*-

Chương 25

Một trong bốn chước vuợt ngục của ông de Beaufort

Thời gian trôi đi đối với người tu giống như đối với những kẻ đang lo chạy trốn; tuy nhiên nó trôi chậm chạp hơn.

Trái hẳn với những người khác khi có một quyết định mạo hiểm thì rất hăng hái nhưng lại nguội lạnh dần khi thời điểm thực hiện tới gần, quận công de Beaufort mà tinh thần quả cảm sôi sục đã trở thành ngạn ngữ, lại bị cột lại trong sự trì trệ của năm năm tù túng, ông quận công như xô đẩy thời gian ở phía trước mình và hết lòng mong mỏi giờ hành động đến. Trong cuộc vượt ngục lẻ loi của mình, ngoài những dự định mà ông nuôi dưỡng cho tương lai, phải thu nhận rằng đó là những dự định hãy còn rất mơ hồ và không chắc chắn, còn bắt đầu có một sự trả thù nó làm dãn nở con tim ông. Trước tiên việc chạy trốn của ông là một việc tai hại đối với De Chavigny mà ông thù hằn vì những hình phạt nho nhỏ hắn đã bắt ông phải chịu, rồi nó là một việc còn tai hại hơn nữa đối với Mazarin mà ông ghê tởm do chính những lời chửi rủa thậm tệ ông dành cho lão.

Rõ ràng là có những tỉ lệ phân minh giữa những tình cảm mà ông de Beaufort dành cho giám ngục và tể tướng, cho kẻ thủ hạ và người chủ.

Ông de Beaufort còn biết rõ chân tơ kẽ tóc tình hình bên trong Palais Royal và chẳng lạ gì những quan hệ giữa hoàng hậu và giáo chủ. Từ trong tù, ông dàn dựng tất cả những vận động kịch tính ấy, nó sắp sửa diễn ra, khi từ văn phòng tể tướng đến phòng riêng Anne d Autriche vang lên tiếng đồn rằng ông de Beaufort tẩu thoát rồi? Tự nói với mình điều ấy, ông de Beaufort khẽ mỉm cười, tưởng như mình đã ở bên ngoài rồi, đang thở hít không khí đồng nội và rừng cây, hai chân kẹp chặt mình một con ngựa lực lưỡng và hét to lên: "Ta tự do rồi!"

Đúng là khi trở về với mình, ông vẫn ở giữa bốn bức tường dày, trông thấy La Ramée đứng cách mười bước đang quay quay hai ngón tay quanh nhau, và ở ngoài tiền sảnh, những tên lính gác đang cười đùa hoặc uống rượu.

Sự bất định của ý tưởng con người thật ghê gớm: vật duy nhất khiến quận công lãng ý khỏi cảnh tượng khả ố đó chính là bộ mặt cau có của Grimaud, bộ mặt mà thoạt đầu tiên ông thù ghét và rồi sau đó trở thành tất cả mối kỳ vọng của ông. Đối với ông, Grimaud giống như một Antinios(1).

Chẳng cần phải nói rằng tất cả điều đó là một trò của trí tưởng tượng dữ dội của người tù. Grimaud bao giờ cũng vẫn thế. Cho nên bác đã giành được lòng tin cậy hoàn toàn của cấp trên là La Ramée, lúc này có lẽ hắn còn tin cậy ở bác hơn là ở chính mình, vì như chúng tôi đã nói, La Ramée thấy trong thâm tâm mình có một điểm yếu nào đó đối với ông de Beaufort.

Cho nên gã La Ramée tốt bụng ấy coi như một lễ hội bữa tiệc đêm xoàng xĩnh đối ẩm với người tù của mình, La Ramée chỉ có một khuyết điểm là tham ăn; hắn đã thấy rõ là bánh rất ngon, rượu vang tuyệt diệu.

Người thay thế cha Marteau lại đã hứa với hắn một chiếc bánh nướng nhân thịt chim trĩ, chứ không phải nhân thịt gà vịt, và rượu Chambertin, chứ không phải rượu Mâcon. Tất cả những thứ đó được tôn cao bởi sự hiện diện của vị hoàng thân trứ danh này, ông ta thực ra rất tốt bụng, đã nghĩ ra bao nhiêu ngón kỳ khôi xỏ Chavigny và bao nhiêu trò đùa chua cay chống lại lão Mazarin. Tất cả những cái đó làm cho ngày lễ Pentecôte đẹp đẽ sắp tới đối với La Ramée trở thành một trong bốn kỳ lễ lớn trong năm.

Vậy nên La Ramée ngóng đợi sáu giờ tối, sốt ruột chẳng kém gì ông quận công.

Ngay từ sáng hắn đã lo toan mọi việc tỉ mỉ và chỉ tin cậy ở bản thân mình, đích thân đến thăm người kế nghiệp của cha Marteau. Bác chủ hiệu mới vượt xa chủ cũ; bác ta trỏ cho cho Ramée xem một cái bánh nướng khổng lồ thật sự, trên mặt trang trí gia huy của ông de Beaufort, bánh hãy còn rỗng, nhưng bên cạnh để sẵn một con trĩ và hai con đa đa châm rất sang trọng nên trông giống như những cái nùn gài kim.

La Ramée trông mà ứa nước miếng, và trở về phòng quận công, vừa đi vừa xoa xoa hai bàn tay.

Càng may hơn nữa, như chúng tôi đã nói, De Chavigny tin cậy ở La Ramée, nhân có chút việc đã ra đi từ buổi sáng, thành thử La Ramée trở thành phó cai quản tòa lâu đài.

Còn Grimaud tỏ ra cau cau có có hơn bao giờ hết.

Buổi sáng ông de Beaufort đã chơi với La Ramée một ván cầu; qua một dấu hiệu của Grimaud, ông hiểu rằng phải chú ý đến mọi việc.

Grimaud bước đi đằng trước, vạch ra con đường mà buổi tối họ sẽ phải đi theo. Cuộc chơi cầu diễn ra trong một khoảng đất rào ở cái sân nhỏ của lâu dài.

Đó là một nơi khá vắng vẻ chỉ đặt lính canh khi ông de Beaufort chơi cầu; vả chẳng do tường thành cao lắm, việc đề phòng như thế dường như cũng là thừa.

Có ba cửa phải mở trước khi đến sân bóng: mỗi cửa có chìa khoá khác nhau.

Khi đến sân, Grimaud đi như một cái máy đến ngồi cạnh một ụ súng buông thõng chân ra phía ngoài tường. Hiển nhiên là sẽ buộc thang dây ở chỗ ấy.

Tất cả động tác ấy, quận công de Beaufort hiểu hết, còn La Ramée chẳng hề biết tí gì.

Ván cầu bắt đầu. Lần này ông de Beaufort số đỏ, có thể nói ông muốn ném vào đâu là trúng đấy. La Ramée bị thua trắng.

Bốn tên lính gác ông de Beaufort theo dõi ông và đi nhặt bóng.

Cuộc chơi kết thúc, ông de Beaufort tha hồ cười về sự vụng về của La Ramée và cho bọn lính hai đồng louis để chúng cùng bốn tên khác đi uống rượu chúc mừng ông.

Bọn lính gác xin phép La Ramée, hắn đồng ý, nhưng chỉ cho đi buổi tối thôi. Cho đến lúc ấy La Ramée quan tâm đến những chi tiết quan trọng; do phải chạy việc hắn muốn rằng nhân viên không lúc nào được rời mắt khỏi người tù.

Còn ông de Beaufort thì tỏ ra để cho tên lính canh dọn dẹp các thứ giúp ông thì ông vừa ý hơn là tự mình làm. Cuối cùng chuông đồng hồ điểm sáu giờ. Mặc dầu bảy giờ mới bắt đầu, bữa ăn dọn xong xuôi. Trên tủ buýp-phê bày cái bánh to tướng có gia huy quận công, trông cái vỏ bánh vàng óng cũng đủ rõ là bánh nướng vừa chín tới.

Các món khác của bữa tiệc cũng như vậy.

Mọi người đều sốt ruột, bọn lính gác thì chờ đi uống rượu, La Ramée đợi ngồi vào bàn ăn, còn ông de Beaufort nóng lòng tẩu thoát.

Chỉ riêng Grimaud vẫn thản nhiên như không. Có thể nói Arthos xưa kia đã huấn luyện bác vì đã tiên đoán trường hợp đại sự này.

Có những lúc ngồi nhìn bác, quận công de Beaufort tự hỏi phải chăng mình đang nằm mơ, và cái bộ mặt lầm lì như đá kia có thật giúp việc mình không và có lẽ sẽ linh hoạt lên khi nào thời điểm tới.

La Ramée cho bọn lính gác ra và dặn chúng uống mừng sức khỏe hoàng thân, rồi sau khi chúng đi khỏi, hắn khoá các cửa lại, bỏ chìa khoả vào túi, trỏ vào bàn ăn như muốn nói với hoàng thân:

- Tôi đã sẵn sàng, bắt đầu lúc nào xin tuỳ Đức ông.

Hoàng thân nhìn Grimaud, Grimaud nhìn đồng hồ.

Mới gần sáu giờ mười lăm, cuộc vượt ngục ấn định vào bảy giờ, như vậy là còn phải chờ bốn mươi lăm phút nữa.

Để tranh thủ mười lăm phút, hoàng thân mượn cớ cuốn sách hay muốn đọc nốt chương xem dở. La Ramée tới gần nhìn qua vai hoàng thân xem sách gì mà lôi cuốn ông đến nỗi chưa chịu ngồi vào bàn ăn, khi bữa tiệc đã dọn xong.

Đó là cuốn "Bình luận" của César mà chính La Ramée đã kiếm cho ông xem cách đây ba hôm, trái với lệnh của Chavigny.

La Ramée tự nhủ từ nay sẽ không đi ngược lại những quy chế của lâu đài nữa.

Trong khi chờ đợi, hắn đi mở các nút chai và ra ngửi chiếc bánh.

Sáu giờ rưỡi, quận công đứng lên và nói với vẻ trịnh trọng:

- Dứt khoát César là con người vĩ đại nhất thời xưa.

- Đức ông thấy vậy ư? - La Ramée nói.

- Phải.

- Còn tôi, - La Ramée nói, - tôi thích Annibal(2).

- Tại sao vậy, thày La Ramée? - Quận công hỏi.

- Bởi vì ông ta không để lại những bình luận. - La Ramée vừa nói vừa cười hô hố.

Quận công hiểu câu nói bóng gió và ngồi vào bàn vừa ra hiệu cho La Ramée ngồi xuống đối diện với mình.

Viên phó quan cảnh sát không để mời đến lần thứ hai.

Không có bộ mặt nào biểu đạt rõ rêt hơn bộ mặt một kẻ tham ăn khi ngồi trước một mâm cỗ ngon; do đó khi La Ramée nhận đĩa xúp từ tay Grimaud, khuôn mặt hắn ta lộ ra một vẻ tràn trề hạnh phúc.

Quận công mỉm cười nhìn hắn.

- Mẹ kiếp! - Ông kêu lên. - La Ramée này, anh có biết rằng nếu có ai nói rằng lúc này ở nước Pháp có một kẻ nào sung sướng hơn anh, tôi sẽ không tin.

- Thực tình, Đức ông nói đúng đấy, - La Ramée nói, - Còn tôi, xin thú nhận rằng khi đói bụng thì không cái gì nhìn ngoạn mục hơn là một mâm cỗ ngon lành, và nếu như ngài nói thêm rằng, cái người làm vinh dự cho bữa tiệc này là cháu nội của Henri đại đế, thì, thưa Đức ông, ngài sẽ hiểu rằng cái vinh dự mà người ta được hưởng sẽ nhân đôi cái thú vị mà người ta được nếm.

Đến lượt mình, hoàng thân cúi mình, và một nụ cười khó nhận biết thoáng trên mặt Grimaud đang đứng sau lưng La Ramée.

- La Ramée thân mến của tôi ơi, thực ra chỉ có anh mới khéo đặt một lời tán tụng.

Trong niềm xúc động chứa chan của tâm hồn mình, La Ramée đáp:

- Không đâu, thưa Đức ông, thật tình tôi nghĩ thế nào nói thế, chẳng có gì gọi là tán tụng trong điều tôi vừa nói đâu.

- Thế ra ông gắn bỏ với tôi lắm à? - Quận công hỏi.

- Nghĩa là, - La Ramée đáp, - tôi sẽ không nguôi lòng nếu như Điện hạ ra khỏi lâu đài Vincennes.

- Thật là kỳ cục cái cách chứng minh nỗi ưu phiền của anh (ý hoàng thân muốn nói ưu ái).

- Nhưng thưa Đức ông, ngài sẽ làm gì ở bên ngoài cơ chứ? Cơn điên giận nào khiến ngài xích mích với triều đình có thể sẽ đưa ngài đến ngục Bastille chứ không phải Vincennes nữa. Ông De Chavigny chẳng phải người dễ ưa, tôi đồng ý, - La Ramée vừa nói tiếp, vừa nhẩm nháp một cốc rượu vang madère, - nhưng ông Du Tremblay thì còn tệ hại hơn.

- Đúng đấy? - Quận công nói, ông thích thú với câu chuyện xoay vần và chốc chốc lại nhìn đồng hồ mà chiếc kim chạy chậm chạp đến nản lòng.

- Ngài trông đợi gì ở người em của một lão thày tu nuôi nấng Ờ trong trường dòng của giáo chủ de Richelieu! Chà Đức ông hãy tin ở lời tôi rằng cũng còn đại phúc và nhờ có hoàng hậu vẫn còn mong điều lành cho ngài, ấy là tôi nghe đồn như vậy, nên bà mới có ý đưa ngài tới đây, ở đây còn có dạo chơi, đánh cầu, ăn uống tử tế và không khí thoáng đãng.

- Kể ra, - hoàng thân đáp, - La Ramée này, cứ nghe anh nói thì tôi thật là bạc bẽo vì một lúc nào đó đã có ý nghĩ ra khỏi đây phải không?

- Ồ, thưa Đức ông, bạc bẽo quá đi chứ! - La Ramée nói tiếp, - nhưng Điện hạ có bao giờ nghĩ tới điều ấy một cách nghiêm túc đâu.

- Có chứ, - quận công đáp, - và tôi phải thú thật với anh rằng, có thể đó là một điều điên rồ, tôi chẳng bảo là không, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn còn nghĩ đến đấy.

- Vẫn bằng một trong bốn mươi mưu kế à, thưa Đức ông?

- Ờ, phải đấy.

- Đức ông ơi, -La Ramée nói, - vì rằng chúng ta đang lúc thổ lộ tâm can với nhau, xin ngài hãy nói cho tôi biết một trong bốn mươi chước tẩu mà Điện hạ nghĩ ra.

- Vui lòng thôi, - quận công nói, - Grimaud, đưa chiếc bánh nướng đây...

- Tôi xin nghe, - La Ramée nói và ngả người trên chiếc ghế bành vừa nâng cốc và liếc nhìn ánh mặt trời chiếu qua chất hồng ngọc lỏng chứa trong cốc.

Quận công ngước nhìn đồng hồ, còn mười phút nữa là điểm bảy giờ.

Grimaud đem bánh đến trước hoàng thân, ông cầm con dao lưỡi bằng bạc định cắt cái nắp bánh ra; nhưng La Ramée sợ dao cùn sẽ làm hỏng cái bánh đẹp đẽ kia bèn đưa con dao có lưỡi thép của mình ra.

- Cảm ơn La Ramée? - Quận công nói và cầm lấy dao.

- Thế nào, thưa Đức công? - Viên quan cảnh sát nói, - cái mưu kế trứ danh ấy thế nào.

- Có cần phải nói với anh cái mưu kế mà tôi trông cậy nhất, cái mưu kế mà tôi đã quyết định đem dùng đầu tiên không nhỉ?

- Vâng, vâng, cái ấy đấy, - La Ramée đáp.

Quận công bèn một tay moi chiếc bánh, tay kia cầm dao cắt khoanh một vòng và nói:

- Thế thì ông La Ramée ơi, trước tiên tôi ước ao có một chàng trai tử tế như ông làm kẻ canh giữ tôi đấy.

- Được, ngài đã có rồi đấy. Rồi sao nữa, thưa Đức ông?

- Tôi xin tự chúc mừng về việc đó.

La Ramée cúi chào:

- Tôi tự nhủ rằng, - hoàng thân nói tiếp, - một khi đã có ở bên mình một chàng trai tử tế như La Ramée, tôi sẽ cố gắng làm sao để anh ta nhờ một người bạn của tôi mà anh ta không biết rõ mối quan hệ với tôi, tiến cử cho một người trung thành tận tụy với tôi và có thể thông đồng với tôi để chuẩn bị cho tôi vượt ngục.

- Nào! Nào! - La Ramée nói, - tưởng tượng không đến nỗi tối ấy.

- Có phải không nào? - Hoàng thân lại nói - giả dụ người đầy tớ của một vị quý tộc nào đó là kẻ thù của lão Mazarin, như bất cứ quý tộc nào cũng cần phải như vậy.

- Sụyt! Đức ông ơi, ta đừng nói chuyện chính trị, - La Ramée bảo.

- Khi tôi đã có người đó ở bên mình, - quận công nói tiếp, - chỉ cần anh ta khôn khéo một chút và gây được lòng tin của kẻ canh giữ tôi, hắn dựa vào anh ta, trông cậy ở anh ta, thế là tôi sẽ có được tin tức ở bên ngoài.

- À phải, - La Ramée nói, - nhưng làm thế nào mà có được tin tức ở bên ngoài.

- Ồ! Chẳng có gì dễ dàng hơn, - quận công de Beaufort đáp - chẳng hạn lúc chơi ném cầu.

- Lúc chơi ném cầu à? - La Ramée hỏi, hắn bắt đầu chăm chú hết sức vào câu chuyện của quận công.

- Phải, này nhé, tôi ném quả bóng xuống hồ, một người ở sân đó nhặt lấy quả bóng đựng một bức thư. Đáng lẽ ném trả tôi quả bóng mà tôi đánh rơi từ trên tường thành, người ấy ném cho tôi một quả bóng khác; quả ấy chứa một bức thư. Như thế là chúng tôi đã trao đổi được ý kiến với nhau mà chẳng nhìn thấy gì hết.

- Quỷ quái thật! - Quỷ quái thật? - La Ramée vừa kêu lên vừa gãi gãi tai. - Đức ông nói ra điều ấy với tôi, hay đấy, tôi sẽ giảm sát những kẻ nhặt bóng.

Quận công mỉm cười.

- Nhưng mà, - La Ramée nói tiếp, - tất cả những cái đó, rốt cuộc là một kế để liên lạc tin tức mà thôi.

- Tôi thấy như thế là nhiều rồi.

- Nhưng chưa đủ.

- Anh thứ lỗi cho nhé. Giả dụ tôi bảo một người bạn rằng: "Vào ngày này, giờ này..., anh sẽ có mặt ở bên kia bờ hào với hai con ngựa dắt theo".

- Được? Rồi sao nữa? - La Ramée nói với vẻ hơi lo lắng - trừ phi các con ngựa ấy có cánh để bay lên tường luỹ và tìm ngài...

- Ồ, lạy chúa! - Hoàng thân lững lờ nói, - chẳng cần ngựa mọc cánh để bay lên tường thành, mà tự tôi, tôi sẽ có cách xuống.

- Cách gì?

- Một cái thang dây.

- À, La Ramée gượng cười nói, - cái thang dây chẳng dễ gửi đi như lá thư vào trong quá bóng.

- Nhưng nó được gửi vào vật khác.

- Vào vật khác? Vào vật khác! Vào cái gì?

- Trong một cái bánh nướng chẳng hạn.

- Trong một cái bánh nướng? - La Ramée hỏi.

- Phải. Hãy giả thiết một điều như thế này, - quận công nói - Giả thử bác đầu bếp của tôi, bác Noirmont đã mua lại cửa hiệu của cha Marteau...

- Thì sao? - La Ramée run bắn lên hỏi.

- Thì La Ramée vốn là kẻ phàm ăn, nhìn các bánh nướng của bác chủ hiệu, thấy chúng ngon lành hơn bánh của các vị chủ trước, bèn đến mời tôi nếm thử. Tôi nhận lời với điều kiện là La Ramée cùng ăn với tôi. Để được thoải mái hơn. La Ramée đã tống bọn vệ sĩ đi và chi giữ lại Grimaud để hầu bàn chúng tôi. Grimaud là người mà một anh bạn tôi đã cử cho tôi, tên đầy tớ ấy đã thông đồng với tôi và sẵn sàng giúp tôi làm việc. Thời điểm vượt ngục đã ấn định vào bảy giờ. Vậy thì đến bảy giờ kém mấy phút...

- Bảy giờ kém mấy phút? - La Ramée nhắc lại, mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên trán.

- Đến bảy giờ kém mấy phút, - quận công vừa nói tiếp, vừa gắn luôn lời nói với hành động, - tôi bóc cùi bánh nướng ra. Tôi thấy ở trong đó có hai con dao găm, một thang dây và một cái nhét miệng. Tôi dí một con dao găm vào ngực La Ramée mà bảo: "Anh bạn tôi ơi, tôi rất khổ tâm, nhưng nếu anh động đậy, nếu anh kêu lên một tiếng, thì anh toi mạng đấy!".

Như chúng tôi đã nói, khi thốt lên những tiếng cuối cùng này, ông quận công đã gắn hành động vào lời nói. Quận công đứng cạnh hắn, dí mũi dao vào ngực hắn với một giọng không cho phép kẻ nghe giữ một chút hoài nghi nào về quyết định của ông.

Trong khi ấy, Grimaud vẫn im lặng lôi từ trong cái bánh ra con dao găm thứ hai, cái thang dây và trái lê cay đắng.

La Ramée đưa mắt theo dõi vật đó với một nỗi kinh hãi tăng dần.

Hắn nhìn quận công với một vẻ hoảng hốt, giá vào lúc khác chắc đã khiến ông hoàng thân phải phì cười, và hắn kêu lên:

- Ôi! Đức ông ơi, ngài chẳng nỡ lòng nào giết tôi.

- Không, nếu như anh không chống lại việc đi trốn.

- Nhưng thưa Đức ông, nếu tôi để ngài trốn, thì tôi sẽ là một kẻ khuynh gia bại sản.

- Ta sẽ đền bù cái giá mua chức việc của anh.

- Thế ngài quyết định dứt khoát rời lâu đài à?

- Mẹ kiếp! Còn phải hỏi.

- Tất cả những điều tôi có thể sẽ nói với ngài chằng làm ngài thay đổi quyết định ư?

- Tối nay, ta muốn tự do.

- Nếu tôi tự vệ, nếu tôi gọi người, nếu tôi kêu lên thì sao?

- Lời thề của quý tộc, ta sẽ giết người.

Lúc ấy, chuông đồng hồ vang lên.

- Bảy giờ, - Grimaud nói, cho đến lúc ấy bác chưa thốt nửa lời.

- Bảy giờ, - quận công nói, - anh xem ta muộn rồi đấy.

La Ramée cử động một cái như để chiếu lệ. Quận công chau mày và viên quan cảnh sát cảm thấy mũi dao găm sau khi xuyên qua quần áo sắp sửa chích vào ngực hắn.

- Thôi được, thưa Đức ông, - hắn nói, - như thế đủ rồi. Tôi sẽ không động đậy.

- Ta mau lên nào, - quận công nói.

- Đức ông ơi, xin gia ân một điều cuối cùng.

- Điều gì? Nói đi, mau lên.

- Xin Đức ông trói chặt tôi lại.

- Tại sao lại trói?

- Để người ta khỏi tưởng tôi là kẻ đồng loã với ngài.

- Đưa tay ra? - Grimaud bảo.

- Không phải đằng trước, trói quặt tay ra đằng sau cơ.

- Lấy gì mà trói? - Quận công hỏi.

- Lấy thất lưng của ngài ạ - La Ramée nói.

Quận công tháo dây lưng đưa Grimaud, bác liền trói tay La Ramée lại theo cách làm vừa lòng hắn.

- Giơ chân ra? - Grimaud bảo.

La Ramée giơ chân, Grimaud lấy một tấm khăn xé ra thành mảnh và cột La Ramée lại.

- Bây giờ đến thanh kiếm. - La Ramée nói, - buộc đốc kiếm của tôi lại!

Quận công dứt một dải băng quần cụt của mình để thực hiện điều mong mỏi của kẻ hộ vệ.

- Còn bây giờ cho tôi xin quả lê cay đắng, - La Ramée tội nghiệp nói. - Nếu không họ sẽ xử tội tôi vì tội đã không kêu lên, ấn sâu vào Đức ông ơi, ấn sâu vào.

Grimaud sắp sửa thực hiện điều ao ước của viên cảnh sát, thì hắn ra hiệu như muốn nói điều gì.

- Nói đi, - quận công bảo.

- Bây giờ, nếu như vì ngài mà có tai họa gì xảy ra với tôi, thì xin Đức ông chớ quên rằng tôi có một vợ và bốn con nhỏ.

- Cứ yên tâm! Ấn sâu vào, Grimaud!

Trong một giây đồng hồ, La Ramée bị bịt miệng, nằm lăn ra đất, vài ba cái ghế bị lật đổ để có dấu hiệu chiến đấu. Grimaud móc trong túi áo viên cảnh sát ra tất cả các chìa khoá, trước tiên mở cửa phòng, đi ra và khoá hai vòng lại. Rồi hai thày trò vội đi ra hành lang dẫn đến cái sân cầu nhỏ. Họ liên tiếp mở và đóng lại ba lần cửa. Sự nhanh nhẹn làm rạng rỡ tài khéo léo của Grimaud. Cuối cùng họ ra đến sân chơi cầu. Sân hoàn toàn vắng vẻ không có lính canh, cũng chẳng có ai ở các cửa sổ.

Quận công chạy đến bờ tường và trông thấy ở phía bên kia hào ba kỵ sĩ với hai con ngựa dắt tay. Quận công ra hiệu với họ, đúng là họ đến đón ông.

Trong lúc ấy, Grimaud buộc dây leo. Không phải thang dây mà là một cuộn dải lụa với một cái que ngắn để ngồi lên và tụt dần xuống.

- Xuống đi, - quận công bảo.

- Thưa Đức ông, tôi xuống trước à? - Grimaud hỏi.

- Tất nhiên rồi, - quận công đáp. - Nếu người ta bắt được tôi, tôi cũng chỉ ngồi tù lại là cùng; còn nếu người ta tóm được bác thì bác bị treo cổ.

- Đúng đấy, - Grimaud nói.

Lập tức Grimaud cưỡi lên cái que, bắt đầu cuộc xuống nguy hiểm, quận công nhìn theo bất giác kinh hoàng; khi xuống được ba phần tư bức tường thì bất ngờ dây dứt. Grimaud ngã lộn xuống hào.

Quận công thốt kêu lên một tiếng, nhưng Grimaud chẳng hề kêu ca; vậy mà chắc hẳn bị thương nặng lắm, vì bác vẫn nằm sóng soài ở chỗ mình rơi xuống.

Một người lập tức tụt xuống hào buộc Grimaud vào một dây và hai người kia kéo Grimaud lên.

Người đứng dưới hào nói:

- Đức ông cứ xuống đi, chỉ cách có khoảng mười lăm bộ và bãi cỏ êm lắm.

Quận công đã hành sự. Công việc đối với ông khó khăn hơn vì của còn thanh đỡ; ông phải xuống bằng sức đôi tay mà từ trên cao năm chục bộ. Nhưng như chúng tôi đã nói, ông quận công lực lưỡng, khéo léo lại rất bình tĩnh, sau có gần năm phút ông chỉ còn cách mặt đất mười lăm bộ, ông buông dây ra và nhảy xuống chẳng đau đớn gì cả.

Ông leo ngay lên bờ hào và thấy Rochefort. Hai người quý tộc kia ông không quen. Grimaud bị ngất được buộc lên một con ngựa.

- Thưa các ông, - hoàng thân nói, - sau này tôi sẽ cảm tạ các ông; còn bây giờ không thể để mất một phút nào. Ta phải lên đường, nào lên đường! Ai quý mến tôi hãy theo tôi!

Rồi ông nhảy phốc lên mình ngựa, phi nước đại, hít không khí vào đầy lồng ngực và hét lên với một nỗi vui mừng khôn tả:

Tự do!...Tự do?...Tự do!...

Chú thích:

(1) Một chàng thanh niên Hy Lạp rất đẹp trai, trước là nô lệ sau là sủng thần của hoàng đế Harđiêng.

(2) Annibal (247-183 trước Công nguyên) - một danh tướng xứ Cactagiơ đã từng chinh phục Tây Ban Nha và Ý.

-*-*-*-

Chương 26

D'Artagnan đến kịp thời

Ở Blois d Artagnan lĩnh số tiền mà Mazarin đang mong muốn gặp lại anh đã quyết định gửi lại cho anh để dùng vào những việc sau này.

Từ Blois đến Paris đối với một kỵ mã bình thường phải đi mất bốn ngày. D Artagnan đi đến buổi chiều thứ ba đã tới cửa ô Saint-Denis Ngày trước thì anh chỉ đi mất hai ngày. Chúng ta đã thấy Arthos khởi hành sau anh ba giờ mà đã đến trước anh hai mươi tư giờ.

Planchet đã mất thói quen về nhưng cuộc dạo chơi bắt buộc này; d Artagnan trách hắn về tính nhu nhược.

- Ồ! thưa ông, bốn mươi dặm trong ba ngày! Tôi thấy thật là hãnh diện cho một gã bán hàng bánh kẹo.

- Cậu có thật sự trở thành một gã bán hàng không, và bây giờ khi chúng ta đã gặp nhau, cậu có nghiêm chỉnh tính đến việc sống vật vờ trong cửa hiệu của cậu nữa không?

- Ồ! Planchet đáp, - thực ra chỉ có ông là được tạo ra cho một cuộc sống hoạt động. Hãy xem ông Arthos kia; ai bảo đảm đó là một người thích tìm kiếm chuyện phiêu lưu mà chúng ta đã biết. Bây giờ ông ấy sống như một vị quý tộc trang chủ thực thụ, một lãnh chúa nông thôn thật sự. Này ông ạ, kể ra chỉ có một cuộc sống yên bình là đáng ao ước.

- Đồ đạo đức giả! - D Artagnan nói, - người ta thấy rành rành là cậu đang về gần đến Paris, và ở Paris chỉ có một sợi dây thừng và cái giá treo cổ đang chờ cậu.

Thật vậy, câu chuyện trao đổi đến đây thì hai lữ khách tới cửa ô. Nhớ rằng mình sắp đi qua những phố mà mình đã nhẵn mặt, Planchet kéo sụp mũ xuống, còn d Artagnan thì vểnh ria lên nhớ tới Porthos chắc đang đợi anh ở phố Tiquetonne. Anh nghĩ đến những bữa ăn rôm rả ở Pierrefonds.

Rẽ quanh góc phố Montmartre, anh trông thấy ở một khung cửa số khách sạn "Con dê cái nhỏ", Porthos vận một áo chẽn lộng lẫy màu da trởi thêu đầy ngân tuyến và đang ngáp đến trật quai hàm, thành thử khách qua đường ngắm nghía với một vẻ khâm phục cung kính nào đó vị quý tộc đến là bảnh bao và giàu có ấy dường như đang chán ngấy cảnh giàu có và sang trọng của mình.

D Artagnan và Planchet vừa rẽ sang phố nhà thì Porthos cũng nhận ra họ và kêu lên:

- Ê! d Artagnan! Cảm ơn Chúa! Cậu đấy à?

- A! Chào bạn thân mến, - D Artagnan đáp.

Tức thì một nhóm lêu lổng xúm quanh những con ngựa mà mấy tên hầu quán vừa cầm lấy dây cương và vây quanh mấy kỵ sĩ đang hếch mũi lên trời trò chuyện; nhưng một cái cau mày của d Artagnan và vài ba cử chỉ hăm doạ của Planchet được những người chứng kiến hiểu ý liền xua đám người đang bắt đầu quây đông lại, vì càng không hiểu vì sao họ lại tụ tập thì họ lại càng kéo đến.

Porthos đã xuống đến ngưỡng cửa. Anh nói:

- A! Bạn thân mến ơi, ngựa của tôi ở đây thì khốn mất.

- Thật thế! - D Artagnan đáp, - tôi cũng lo ngại cho lũ ngựa cao quý ấy.

- Và tôi cũng vậy, tôi cũng hơi khó chịu, - Porthos nói, rồi đung đưa mình trên chân với cái vẻ dương dương tự mãn về bản thân mình, anh nói tiếp - Và nếu như bà chủ quán không khá hoà nhã và biết bông đùa thì có lẽ tôi sẽ tìm một chỗ trú chân khác.

Mỹ nhân Madeleine đã đến gần cuộc đối thoại ấy, vội lùi lại đằng sau một bước và tái nhợt như xác chết khi nghe những lời nói của Porthos; bởi vì bà ngỡ cái cảnh tên lính Thụy Sị lại tái diễn. Nhưng bà hết sức kinh ngạc thấy d Artagnan không cau mày, và đáng lẽ bực bội, thì anh lại cười nói với Porthos:

- Phải mình hiểu, bạn thân mến ạ, không khí phố Tiquetonne sao bằng không khí thung lũng Pierrefonds được; nhưng cứ yên tâm, mình sẽ cho cậu đi kiếm một không khí tốt hơn.

- Khi nào thế?

- Thực tình cũng sắp rồi đấy, tôi hy vọng như vậy.

- A, càng hay!

Thán từ ấy của Porthos được nối tiếp ngay bằng một tiếng rên rỉ khe khẽ và sâu văng ra từ góc cửa.

D Artagnan vừa đặt chân xuống đất liền trông thấy nổi sừng sững trên tường cái bụng to kềnh càng của Mouston, mồm hắn rầu rĩ buột ra những tiếng ta thán trầm trầm.

- Còn cậu nữa, ông Mouston thân mến ơi, phải chăng cậu đã được đặt không đúng chỗ vào trong cái khách sạn còm nhom này? - D Artagnan hỏi với giọng giễu cợt cũng có thể vừa là thông cảm vừa là chế nhạo.

- Hắn thấy bếp núc tồi tệ quá, - Porthos nói.

- Ô này! - D Artagnan nói, - thế hắn chẳng đích thân làm bếp như ở Chantilly đó sao?

- A, Thưa ông! Ở đây chẳng như ở đằng kia tôi có ao hồ của ông hoàng để câu những con cá chép béo ngậy, và những khu rừng của Điện hạ để đánh bẫy những con chim đa da thơm thịt. Còn cái hầm rượu tôi đã thăm thú kỹ càng, nhưng thực ra chẳng có bao nhiêu.

- Mouston ơi, - D Artagnan nói, - thực tình tôi ái ngại cho cậu, nhưng lúc này tôi có một việc tối ư cấp bách phải làm.

Rồi kéo riêng Porthos ra và bảo:

- Du Vallon thân mến ơi, cậu đã ăn mặc chính tề thế là hay rồi, tôi sẽ dẫn cậu ngay tức thì đến quan tể tướng.

- Ô kìa! Thật thế ư? - Porthos nói và trố mắt ra nhìn.

- Đúng thế, bạn thân mến ạ?

- Một sự trình diện à?

- Điều ấy làm cậu hoảng sợ ư?

- Không, nhưng nó làm mình xúc động.

- Ồ! Cứ yên tâm; cậu chẳng phải va chạm với tể tướng xưa kia đâu, ông này sẽ chẳng quật ngã cậu trước uy phong của ông ấy.

- Cũng thế thôi, cậu hiểu chứ, triều đình mà!

- Này bạn ơi, bây giờ chẳng còn có triều đình nữa.

- Thì hoàng hậu!

- Tôi nói rằng không có hoàng hậu nữa. Hoàng hậu ư? Cậu cứ tin chắc rằng chúng ta sẽ không trông thấy hoàng hậu.

- À cậu bảo là đi ngay bây giờ đến hoàng cung à?

- Ngay bây giờ. Song, để khỏi bị muộn, tôi mượn cậu một con ngựa.

- Xin tuỳ thích: cả bốn con ngựa đều để cậu sử dụng.

- Ồ lúc này tôi chỉ cần một con thôi.

- Chúng ta mang theo Mouston cũng chẳng sao.

- Còn Planchet hắn có lý do riêng để không đến triều đình.

- Tại sao thế?

- À hắn bất bình với Các hạ.

- Mouston, - Porthos bảo, - thắng yên cương vào con Vulcain và Bayard.

- Thưa ông, còn tôi, tôi lấy con Rustaud chứ?

- Không, lấy một con ngựa sang trọng, lấy con Phébus hay Superbe ấy, chúng ta đi dự lễ hội mà.

- À, Mousqueton thở phào nói, - thế ra chỉ là một cuộc viếng thăm thôi ư?

- Ê, lạy Chúa, đúng thế, Mouston ạ, chẳng có chuyện gì khác. Nhưng mà ta cứ đề phòng cho súng ngắn vào trong các bao; cậu sẽ thấy ở yên của tôi súng nạp đạn sẵn sàng.

Mousqueton thở dài, hắn khó hình dung những cuộc viếng thăm nghi lễ gì mà phải vũ trang đến tận răng.

Ân cần nhìn người đầy tớ cũ của mình rời bước, Porthos nói:

- Thực tế cậu nói có lý, d Artagnan ạ, cho Mouston đi theo là đủ, hắn rất đẹp mã.

D Artagnan mỉm cười.

- Thế còn cậu, - Porthos hỏi, - cậu không thay quần áo mới à?

- Không đâu, tôi cứ để nguyên như thế này.

- Nhưng cậu đầm đìa mồ hôi và bụi bậm, giày cậu đầy bùn thế kia?

- Bụi dường càng chứng tỏ mình gấp gáp trở về theo lệnh của tể tướng.

Vừa lúc ấy Mouston trở lại với ba con ngựa trang bị đầy đủ sẵn sàng. D Artagnan lại lên yên như anh ta đã nghỉ ngơi tám hôm rồi.

- Ơ này, - anh bảo Planchet, - thanh trường kiếm của ta...

- Còn tôi, - Porthos trỏ vào thanh kiếm nhỏ trang trí có đốc kiếm mạ vàng mà nói, - tôi có thanh kiếm chầu vua.

- Bạn ơi, hãy cầm lấy thanh trường kiếm.

- Vì sao?

- Tôi cũng không biết nữa, nhưng nên luôn luôn mang nó, tin ở tôi:

- Thanh trường kiếm của ta đâu, Mouston! - Porthos bảo.

- Ôi thưa ông, - Mouston nói, - thế là cả một bộ đồ chiến tranh; chúng ta đi trận rồi còn gì? Vậy thì ông cứ bảo tôi ngay, để tôi còn phòng bị.

- Mouston ơi, - D Artagnan nói, - với chúng ta, những chuyện phòng bị bao giờ cũng tốt. Cậu không có trí nhớ tốt hoặc cậu đã quên rằng chúng ta chẳng có thói quen đi đến để chơi vũ hội hay dạ khúc.

- Than ôi, đúng là tôi đã quên thật rồi! - Mouston vừa nói vừa vũ trang cho mình từ đầu đến chân.

Họ phi khá nhanh và đến Cung giáo chủ vào khoảng bẩy giờ mười lăm. Phố phường đông đúc vì là ngày lễ Pentecôte, và đám đông ngạc nhiên nhìn hai chàng kỵ sĩ mà một đến là bảnh bao như vừa mới lấy ở trong hộp ra, còn chàng kia thì lấm những bụi bậm cứ y như vừa mới ở chiến trường về.

Mouston cũng thu hút cái nhìn của bọn lêu lổng và do cuốn tiểu thuyết Don Quichotte lúc ấy đang thịnh hành tràn lan, nên một vài người bảo rằng đó là Sancho(1) sau khi mất chủ đã tìm thấy hai ông chủ khác.

Đi tới tiền sảnh, d Artagnan như về đến nhà mình. Đúng phiên đội ngự lâm của anh trực gác. Anh cho gọi người môn vệ đến và đưa cho hắn xem lá thư của tể tướng gọi anh trở về không thể chậm một giây phút. Môn vệ cúi mình và vào chỗ Các hạ.

D Artagnan quay về phía Porthos và như thấy bạn mình đang xao xuyến hồi hộp. Anh lại gần ghé tai và bảo:

- Can đảm lên, anh bạn dũng cảm của tôi ơi, đừng có hốt hoảng; tin tôi, con mắt của phượng hoàng nhắm lại rồi, chúng ta chỉ còn có chuyện với một con diều hâu tầm thường thôi. Hãy đứng thẳng người như hôm ta đánh chiếm đồn Saint-Gervais, và khẽ chào chớ có cúi mình quá trước cái lão người Ý ấy, để lão khỏi có một ý nghĩ không hay về cậu.

- Được rồi! Được rồi! - Porthos đáp.

Tên môn vệ lại xuất hiện và nói:

- Xin mời các ông vào. Các hạ đang đợi.

Quả nhiên, Mazarin đang ngồi ở văn phòng riêng, hí húi gạch bỏ tới mức tối đa trên một bản danh sách các tên người được hưởng trợ cấp và lợi nhuận. Ông khẽ liếc nhìn d Artagnan và Porthos vào, và mặc dầu mắt ông đã lóe lên nỗi vui mừng khi nghe tên môn vệ vào báo, ông không tỏ ra xúc động.

- A! Ông đây à, ông trung uý? - Giáo chủ nói - Ông đã về gấp, thế là tốt; xin hoan nghênh ông.

- Xin đa tạ Đức ông, theo lệnh Đức ông tôi đã có mặt cùng với ông Du Vallon, một bạn thân cũ của tôi, ông ngụy trang cái gốc quý phái của mình dưới cái tên Porthos.

Porthos chào tể tướng.

- Một kỵ sĩ lộng lẫy, - Mazarin nói.

Porthos quay đầu sang phải, sang trái và làm những động tác với đầy vẻ hãnh diện.

- Thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - đây là tay kiếm cừ nhất vương quốc, có khối người biết mà không nói ra hoặc không thể nói ra.

Porthos cúi chào Mazarin.

Mazarin yêu thích những người lính đẹp đẽ cũng giống như vua Frédéric de Prusse sau này yêu thích họ.

Ông ta ngồi ngắm những bàn tay gân guốc, đôi vai to rộng và con mắt chăm chăm của Porthos. Ông dường như đang có ở trước mặt mình kẻ cứu nạn cái ngôi tể tướng của mình và của vương quốc đẽo bằng da bằng thịt. Điều ấy nhắc ông nhớ lại cái hội ngự lâm cũ gồm những bốn người. Ông hỏi:

- Thế còn hai ông bạn kia của các anh đâu?

Porthos mở miệng, tưởng có dịp đến lượt mình nói một lời.

D Artagnan đưa mắt ra hiệu và nói:

- Mấy ông bạn kia của tôi lúc này đang bận, họ sẽ đến sau.

Mazarin ho húng hắng. Ông hỏi:

- Thế còn ông đây rỗi rãi hơn họ, ông sẵn lòng trở lại phụng sự chứ?

- Vâng, thưa Đức ông, - D Artagnan nói, - và đó là thuần tuý do lòng tận tụy, vì rằng ông de Bracieux giàu có.

- Giàu có ư? - Mazarin hỏi, đối với lão ta chỉ riêng từ đó bao giờ cũng có ưu thế gây ở lão một sự kính nể lớn lao.

- Năm chục nghìn livres niên thu, - Porthos đáp.

Đó là điều đầu tiên anh thốt ra.

- Thuần tuý vì tận tụy, - Mazarin lại nói với nụ cười quỷ quyệt; thế là với lòng tận tụy thuần túy ư?

- Có lẽ Đức ông không tin lắm ở cái từ đó phải không ạ? - D Artagnan hỏi.

- Còn ông, ông Gascon thì sao? - Mazarin hỏi, tì hai khuỷu tay lên bàn và tỳ cằm lên hai bàn tay.

D Artagnan đáp:

- Tôi thì tôi tin ở lòng tận tụy như tin ở một cái tên rửa tội chẳng hạn, nó dĩ nhiên có một tên đất đai đi theo. Chắc chắn là bản chất người ta ít nhiều đều tận tụy; song cuối cùng của sự tận tụy đó bao giờ cũng phải có một cái gì đó chứ.

- Thế bạn của ông chẳng hạn, ông ta ao ước cái gì ở cuối sự tận tụy của mình?

- A! Thưa Đức ông, bạn của tôi có ba mảnh đất đai rất đẹp: mảnh đất Vallon ở Corbeil; mảnh đất Bracieux ở Soissonnais và mảnh đất Pierrefonds ở Valois. Mà, thưa Đức ông, bạn tôi mong ư? Rằng một trong ba mảnh đất ấy được phong Nam tước.

- Chỉ có thế thôi ư? - Mazarin nói, mắt ông ta lóe lên một nỗi vui mừng khi thấy rằng mình có thể khen thưởng đền bù lòng tận tụy mà chẳng mất xu nào. - Chỉ có thế thôi ư; việc có thể sẽ thu xếp được đấy.

- Tôi sẽ là Nam tước! - Porthos vừa kêu lên vừa tiến lên một bước.

D Artagnan lấy tay giữ Porthos lại và nói:

- Tôi đã bảo ông rồi mà, và Đức ông cũng vừa nhắc lại điều đó.

- Thế còn ông d Artagnan, ông mong ước cái gì?

- Thưa Đức ông, - D Artagnan đáp, - đến tháng Chín tôi này là tròn hai mươi năm ngài giáo chủ de Richelieu phong tôi làm trung uý.

- Ừ, và ông muốn rằng giáo chủ Mazarin phong ông làm đại uý chứ gì?

D Artagnan nghiêng mình thi lễ.

- Ôi dào! Tất cả những điều đó không phải là điều không thể được - Mazarin nói. - Người ta sẽ xem xét các ông ạ, người ta sẽ xem xét. Bây giờ thì ông Du Vallon, ông thích công việc gì ở thành phố hay ở nông thôn?

Porthos mở miệng định trả lời. D Artagnan vội đáp:

- Thưa Đức ông, cũng như tôi, ông Du Vallon thích công việc phi thường, nghĩa là những sự nghiệp nổi tiếng là điên rồ và không thể làm được.

Lời huênh hoang ấy không làm Mazarin phật lòng, ông ta trầm ngâm. Rồi nói:

- Tuy nhiên, tôi thú thật với ông là tôi cho gọi ông đến để giao cho ông một chức vụ tĩnh tại. Tôi đang có một số điều lo ngại.

Chợt ông ta kêu lên:

- Ơ này! Cái gì đó?

Quả thật, một tiếng động vang lên ngoài tiền sảnh và hầu như cùng lúc ấy cửa văn phòng bật mở. Một người nhìn đầy bụi chạy bổ vào phòng và kêu:

- Ngài giáo chủ đâu? Ngài giáo chủ đâu?

Mazarin tưởng người ta muốn ám sát mình vội lùi lại làm lăn cái ghế bành. D Artagnan và Porthos cùng xông ra đứng giữa giáo chủ và kẻ mới đến.

- Ê, ông kia? - Mazarin nói. - Có chuyện gì vậy mà ông xông vào đây như vào trong cái chợ thế?

- Bẩm Đức ông, - viên sĩ quan bị quở trách nói, - tôi xin nói một câu thôi, rất gấp và bí mật. Tôi là M. de Poins, sĩ quan thị vệ, đang làm việc ở tháp lâu đài Vincennes.

Viên sĩ quan mặt tái mét và bơ phờ đến nỗi Mazarin tin ngay là hắn mang một tin tức quan trọng lắm, bèn ra hiệu cho d Artagnan và Porthos nhường chỗ cho kẻ đưa tin.

D Artagnan và Porthos lui ra một góc phòng.

- Ông nói đi, nhanh lên, - Mazarin bảo, - có chuyện gì vậy?

- Bẩm Đức ông - người đưa tin nói - có chuyện là ông de Beaufort vừa mới trốn khỏi lâu đài Vincennes.

Mazarin thét lên một tiếng và mặt tái xanh tái xám hơn cả kẻ báo cái tin kia, lão rơi mình xuống chiếc ghế bành và gần như ngất xỉu.

- Vượt ngục rồi à? - Ông hỏi, - Ông de Beaufort vượt ngục rồi à?

- Bẩm Đức ông, tôi trông thấy ông ta chạy trốn từ trên sân thượng.

- Thế sao ông không bắn?

- Vì xa quá tầm súng ạ.

- Thế ông De Chavigny làm gì?

- Ông ta vắng mặt.

- Còn La Ramée?

- Người ta thấy ông ta bị trói ở trong phòng của tù nhân, bị nhét giẻ vào miệng và có một con dao găm ở bên cạnh.

- Nhưng còn cái người phó của ông ta đâu?

- Hắn ta là đồng loã với quận công và cùng bỏ trốn với ông ấy.

Mazarin thốt ra một tiếng rên rỉ.

- Thưa Đức ông! - D Artagnan tiến lên một bước về phía tể tướng và nói.

- Cái gì cơ? - Mazarin hỏi.

- Tôi thấy hình như Các hạ bỏ phí một thời gian quý báu.

- Thế là thế nào?

- Nếu Các hạ ra lệnh cho người ta đuổi theo tù nhân thì còn có cơ đuổi kịp. Nước Pháp rộng lớn, nơi biên giới gần nhất là sáu mươi dặm.

- Thế ai đuổi theo hắn ta? - Mazarin kêu lên.

- Tôi! Mẹ kiếp!

- Vả ông bắt được hắn chứ?

- Tại sao không?

- Ông bắt giữ quận công de Beaufort được vũ trang, tại trận ư?

- Nếu Đức ông ra lệnh cho tôi bắt quỷ dữ, tôi sẽ nắm sừng nó lôi về đây.

- Tôi cũng vậy, - Porthos nói.

- Ông cũng vậy à? - Mazarin kinh ngạc nhìn hai người mà nói. - Nhưng quận công sẽ không đầu hàng đâu, nếu không, có trận kịch chiến.

- Thì chiến đấu chứ sao? - D Artagnan đáp, mắt nảy lửa. - Đã lâu lắm rồi, chúng ta chưa đi đánh nhau phải không Porthos?

- Chiến đấu! - Porthos nói.

- Và các ông tin rằng bắt được hắn?

- Vâng, nếu như chúng tôi có ngựa tốt hơn.

- Thế thì có lính tráng gì ở đây, các ông cứ lấy mà chạy ngay đi.

- Đức ông ra lệnh chứ?

- Tôi ký lệnh đây, - Mazarin vừa nói vừa lấy tờ giấy viết mấy dòng.

- Xin Đức ông viết thêm rằng chúng tôi có thể lấy tất cả những con ngựa mà chúng tôi sẽ gặp trên đường.

- Được rồi, được rồi, - Mazarin nói - Công vụ của Đức vua! Cầm lấy và chạy đi.

- Tốt! Thưa Đức ông.

- Này, ông Du Vallon, - Mazarin nói, - cái tước vị nam tước của ông nằm trên mông ngựa của quận công de Beaufort; chỉ cần tóm lấy ông ta. Còn ông, ông d Artagnan thân mến của tôi ơi, tôi chẳng hứa hẹn gì cả với ông, nhưng nếu ông mang quận công về dù sống hay chết, thì ông muốn gì cứ việc đi hỏi.

D Artagnan cầm tay bạn mà bảo:

- Lên ngựa nào, Porthos!

- Có tôi đây - Porthos đáp lại với vẻ bình tĩnh tuyệt vời.

Rồi họ xuống cầu thang lớn, vơ lấy những lính vệ mà họ gặp trên đường đi và kêu lên: "Lên ngựa đi! Lên ngựa đi!".

Độ một chục người tập họp lại.

D Artagnan và Porthos nhảy lên con Vulcain và Bayard:

Mouston cưỡi con Phébus.

- Đi theo tôi! - D Artagnan la lên.

- Lên đường! - Porthos nói.

Và họ thúc đinh ngựa vào sườn những con tuấn mã quý phái phóng theo phố Saint-Honoré như một trận cuồng phong.

- Này, ông Nam tước! Tôi đã hứa với ông việc diễn tập ông xem tôi đã giữ lời đấy.

- Vâng, thưa đại uý, - Porthos đáp.

Họ ngoái đầu lại: Mouston vã mồ hôi hơn cả ngựa, đi ở cự ly cần thiết. Theo sau Mouston, mười lính vệ phóng nước đại.

Các thị dân kinh ngạc đi ra ngưỡng cửa, và những con chó hoảng sợ vừa chạy theo các kỵ sĩ vừa sủa váng lên. Đến góc nghĩa trang Saint-Jean, d Artagnan xô ngã một người đàn ông; nhưng đó là một sự cố nhỏ nhặt chẳng đáng để bắt dừng lại những con người gấp gáp đến thế. Toán ngựa phi tiếp tục con đường cứ như là chúng có cánh.

Than ôi! Chẳng có biến cố nào nhỏ nhặt ở trên đời này, và chúng ta sẽ thấy rằng cái biến cố này tưởng đến làm mất cả nền quân chủ.

Chú thích:

(1) Păngsa Xăngsô người hầu của Don Quichotte.

-*-*-*-

Chương 27

Con đường cái lớn

Họ cứ phóng như thế suốt dọc ngoại ô Saint-Antoine và con đường cái Vincennes; chẳng mấy chốc họ ra khỏi thành phố, rồi đến cánh rừng, rồi thấy làng xóm.

Các con ngựa mỗi bước chạy như càng thêm phấn khích, mũi chúng bắt đầu đó rực như những lò than hồng. D Artagnan thúc đinh vào bụng ngựa, vượt trước Porthos hai bộ là cùng. Mouston đi sau độ hai quãng. Các lính vệ tuỳ xa gần tuỳ theo sức ngựa của họ.

Từ trên một gò cao, d Artagnan trông thấy một nhóm người dừng lại ở bên kia bờ hào, trước mặt phần ngọn tháp trông sang Saint-Maur. Anh hiểu rằng người tù trốn qua phía ấy và có thể anh sẽ lượm được tin tức ở đó. Năm phút sau anh đã tới nơi, và bọn lính lần lượt đến sau.

Đám người ở đấy rất rộn rịch, họ nhìn sợi dây bẫy còn treo lủng lăng ở cái ụ súng và đứt ở cách mặt đất hai mươi bộ. Họ đo chiều cao của tường và trao đổi với nhau biết bao nhiêu lời phỏng đoán.

Trên bờ tường thành cao nhưng lính canh đi đi lại lại, vẻ hoảng sợ.

Một toán lính do một viên đội chỉ huy, xua đám thị dân khỏi chỗ ông quận công đã lên ngựa.

D Artagnan phóng thẳng đến chỗ viên đội.

- Thưa ngài sĩ quan, - viên đội nói, - không ai được dừng lại ở đây.

- Lệnh ấy không phải cho tôi, - D Artagnan nói, - đã có ai đuổi theo những kẻ chạy trốn chưa?

- Thưa có rồi, nhưng tiếc thay họ lại có ngựa tốt hơn.

- Họ có mấy người?

Bốn người khỏe mạnh và một người thứ năm bị thương được mang theo.

- Bốn người - D Artagnan vừa nói vừa nhìn Porthos - cậu có nghe thấy không, Nam tước? Họ chỉ có bốn người thôi.

Một nụ cười làm rạng rỡ gương mặt Porthos.

- Thế họ đi được bao lâu rồi?

- Thưa ngài sĩ quan, hai giờ mười lăm phút.

- Hai giờ mười lăm phút, chẳng có nghĩa lý gì. Chúng ta có ngựa tốt hơn, phải không Porthos?

Porthos thở dài, anh nghĩ đến cái gì đang chờ đợi những con ngựa đáng thương của anh.

- Rất tốt! - D Artagnan nói, - bây giờ hãy cho biết họ đi phía nào?

- Về điều này, thưa ngài sĩ quan, cấm nói ạ.

D Artagnan rút tờ giấy ở trong túi ra.

- Lệnh của Đức vua, - anh nói.

- Thưa ngài sĩ quan, xin ngài gặp nói với ông tổng quản.

- Ông tổng quản ở đâu?

- Ở trong làng...

Cơn giận dữ bốc lên mặt d Artagnan, trán anh cau lại, thái dương đỏ bừng.

- A! Tên khốn kiếp! - Anh bảo viên đội. - Ta cho là mi muốn nhạo ta đó. Đợi đấy.

Anh mở tờ giấy ra, một tay đưa cho viên đội, tay kia rút khẩu súng ở trong bao ra và lên đạn.

- Lệnh của Đức vua, ta bảo cho mi biết. Đọc đi và trả lời, nếu không ta bắn vỡ sọ. Họ đi theo đường nào?

Viên đội thấy rõ là d Artagnan nói nghiêm chỉnh.

- Đường đi Vendômois, - hắn đáp.

- Đi ra cửa ô nào?

- Cửa ô Saint-Maur.

- Nếu mi lừa dối ta, tên khốn kiếp, - D Artagnan bảo, - thì ngày mai mi sẽ bị treo cổ!

- Còn ông, nếu ông đuổi kịp họ, thì cũng sẽ chẳng còn về để treo cổ tôi, - viên đội lầu bầu nói.

D Artagnan nhún vai, ra hiệu cho toán lính và thúc ngựa.

- Lối này cơ, các ông ơi, lối này cơ!- Anh vừa la lên vừa đi về phía khu vườn đã chỉ.

Nhưng lúc này khi ông quận công trốn thoát rồi, người gác cổng đã tính nên đóng chặt cửa hai lần khoá.

Thế là phải cưỡng bức bác ta mở cửa cũng như đã cưỡng bức viên đội, và lại mất thêm mười phút nữa. Vật chướng ngại cuối cùng vượt qua, toán binh sĩ lại tiếp tục phóng đi với tốc độ như trước.

Nhưng các con ngựa chẳng tiếp tục chạy với sự hăng hái như nhau; vài con không chịu đựng lâu được cuộc đua điên loạn ấy, một giờ sau ba con dừng lại, một con ngã quỵ. D Artagnan không ngoái đầu lại nên cũng chẳng biết. Porthos nói lại với anh, vẻ bình thản.

- Miễn là còn hai chúng ta đến được, - D Artagnan nói, - chỉ cần thế thôi, vì họ chỉ có bốn người.

- Đúng thế - Porthos đáp.

Và anh thúc đinh vào bụng ngựa.

Trong hai tiếng đồng hồ, mấy con ngựa phi mười hai dặm không nghỉ; chân chúng bắt đầu run, bọt mép chúng sùi ra bắn cả vào áo chẽn của các kỵ sĩ, trong khi mồ hôi thấm vào dưới quần cụt của họ.

Porthos nói:

Ta hãy nghỉ một lát để những con vật khổn khổ này thở.

- Ta hãy giết chết chúng, trái lại, ta hãy giết chết chúng, và đi tới nơi, - D Artagnan đáp. - Tôi trông những dấu vết còn mới, họ qua đây chưa đầy mười lăm phút.

Quả thật, bờ đường bị vó ngựa xới lên; những vết chân trông rõ dưới những tia nắng cuối cùng.

Họ tiếp tục đi, nhưng được hai dặm thì con ngựa của Mouston ngã lăn ra.

- Thôi! - Porthos nói, - con Phébus toi rồi!

- Tể tướng sẽ trả cậu một nghìn pistol.

- Ồ, - Porthos nói, - tôi còn trên tài nữa kia.

- Ta lại đi thôi, và phi nước đại!

- Ừ nếu chúng ta có thể.

Quả nhiên con ngựa của d Artagnan không chịu đi xa hơn, nó không thở nữa. Một mũi đinh thúc cuối cùng đáng lẽ đẩy nó đi lên thì làm nó ngã xuống.

- A! Chết cha rồi! - Porthos kêu lên, con Vulcain bị bầm máu ở chân?

- Mẹ kiếp! - D Artagnan vừa kêu vừa túm lấy tóc mình day lòng bàn tay, - Ta phải dừng lại vậy! Đưa ngựa của cậu cho tôi, Porthos! Ơ này? Nhưng cậu làm cái trò quỷ quái gì thế?

- Ôi, mẹ kiếp! Tôi ngã bây giờ - Porthos nói, - hay đúng hơn là con Bayard qụy.

D Artagnan muốn đỡ anh dậy, trong khi Porthos cố rút chân ra khỏi bàn đạp, nhưng anh trông thấy máu ộc ra ở mũi con ngựa.

- Thế là ba con rồi! - anh nói. - Bây giờ thế là hết tất cả rồi.

Vừa lúc ấy một tiếng ngựa hí vang lên.

- Sụyt! - D Artagnan nói.

- Cái gì đấy?

- Tôi nghe tiếng một con ngựa.

- Chắc là ngựa một ngươi nào đó trong bọn mình theo kịp.

- Không đâu, - D Artagnan nói, - Ở phía trước cơ mà.

- Thế lại là chuyện khác.

Porthos nói và đến lượt mình giỏng tai về phía mà bạn trỏ.

Mouston sau khi bỏ lại con ngựa trên đường cái lớn, đi bộ đuổi theo chủ và vừa đến nơi nói:

- Thưa ông, còn Phébus không thể chịu đựng nổi, và...

- Im nào! - Porthos bảo.

Quả nhiên một tiếng hí thứ hai theo ngọn gió đêm thoáng qua.

- Đấy là từ phía trước chúng ta, cách đây trăm mét.

- Đúng đấy, ông ạ, - Mouston nói, - quả là ở cách ta năm trăm mét có một ngôi nhà đi săn thỏ.

- Mouston, cầm lẩy súng ngắn, - D Artagnan bảo.

- Tôi cầm ở tay rồi, ông ạ.

- Porthos cầm lấy súng cậu ở trong bao.

- Đây rồi.

- Được! D Artagnan nói và cũng lấy súng của mình ra. - Bây giờ cậu hiểu chứ, Porthos?

- Không rõ lắm.

- Chúng ta đi vì công việc của nhà vua.

- Thì sao?

- Vì công việc nhà vua, chúng ta đòi mấy con ngựa.

- Đúng thế. - Porthos nói.

Vậy thì không nói một lời và vào việc luôn.

Cả ba người đi trong đêm tối lặng im như những bóng ma. Đến một chỗ đường ngoặt, họ trông thấy một ánh lửa ở giữa lùm cây.

- Nhà kia rồi? - D Artagnan khẽ nói. - Porthos, cậu cứ để mặc mình và làm theo nhé. Họ luồn lách từ cây này sang cây khác và đến cách nhà hai mươi bước mà không ai nhìn thấy. Đến đó, nhờ có ngọn đèn treo ở nhà kho, họ nhận ra bốn con ngựa rất đẹp mã. Một tên đầy tớ đang băng cho chúng.

Bên cạnh là đống yên cương.

D Artagnan bước sấn tới và ra hiệu cho hai đồng đội đứng sau mình mấy bước.

- Tôi muốn mua những con ngựa này, - anh bảo.

Tên này quay lại, kinh ngạc nhưng chẳng nói chẳng rằng.

D Artagnan quát:

- Mày không thấy à, đồ vô lại?

- Có chứ, - tên này đáp.

- Tại sao mày không trả lời.

- Bởi vì ngựa này không phải để bán.

- Thế thì lấy đi vậy, - D Artagnan nói.

Và anh đặt tay lên con ngựa gần nhất. Hai đồng đội đồng thời làm theo anh.

- Ấy các ông ơi! - Tên hầu la lên - Chúng vừa mới chạy sáu dặm mà vừa mới tháo yên cương chưa được nửa giờ.

- Nghỉ nửa giờ là đủ rồi, - D Artagnan nói, - và chúng chỉ càng thêm hăng thôi.

Tên coi ngựa gọi người ra giúp mình. Một người kiểu như quản lý ra đúng vào lúc d Artagnan và đồng đội đặt yên lên lưng ngựa.

Viên quản lý toan to tiếng.

- Bạn thân mến ơi, - D Artagnan nói, - nếu anh kêu một tiếng, tôi bắn vỡ sọ anh ra.

Và anh trỏ cái nòng súng ngắn mà anh đặt ngay dưới cánh tay để tiếp tục công việc.

- Nhưng ông ơi, - viên quản lý nói, - Ông có biết rằng những con ngựa này là của ông de Montbazon không?

- Càng hay, - D Artagnan nói, - như vậy chắc hẳn phải là ngựa tốt.

Viên quản lý lùi dần mấy bước toan ra cửa và nói:

- Này ông, tôi xin báo trước là tôi sẽ gọi người nhà ra.

- Và tôi cũng sẽ gọi người của tôi, - D Artagnan nói, - tôi là trung uý ngự lâm quân của nhà vua, tôi có mười lính đi theo, và này, anh có nghe thấy họ đang phi không? Ta xem nào.

Người ta chẳng nghe thấy gì hết, nhưng viên quản lý sợ rằng nghe thấy thật.

- Xong chưa, Porthos? - D Artagnan hỏi.

- Tôi xong rồi.

- Còn cậu, Mouston.

- Tôi cũng vậy.

- Thế thì ta lên ngựa và đi thôi.

- Cứu tôi với! - Viên quản lý kêu - Cứu tôi với, các đầy tớ và súng ống ra đây.

- Lên đường? - D Artagnan bảo, - sẽ có nổ súng Và cả ba người phi như gió.

- Cứu tôi với! - Viên quản lý gào lên, trong khi tên coi ngựa chạy sang toà nhà bên cạnh.

D Artagnan cười phá ra và bảo:

- Cẩn thận không có lại bắn vào ngựa của chúng mày đấy.

- Bắn! - Viên quản lý đáp lại.

Một ánh sáng như tia chớp soi sáng đường; rồi đồng thời với tiếng nổ, ba người kỵ sĩ nghe tiếng đạn réo và tan đi trong không trung.

- Chúng bắn như những tên hầu, - Porthos nói, - Thời ông de Richelieu, người ta bắn khá hơn. Cậu còn nhớ con đường Crèvecoeur không, Mousqueton?

- A, ông ơi, cái mông bên phải nay vẫn còn đau.

- D Artagnan ơi, cậu có chắc là đuổi đúng đường không? - Porthos hỏi.

- Mẹ kiếp! Cậu không nghe thấy họ nói gì à?

- Nói gì cơ?

- Rằng những con ngựa này là của ông de Montbazon.

- Thế thì sao?

- Ông de Montbazon là chồng bà de Montbazon.

- Sao nữa?

Mà bà de Montbazon lại là tình nhân của ông de Beaufort.

- A! Mình hiểu rồi, - Porthos nói, - bà ta đã xếp đặt các trạm thay ngựa.

- Đúng thế.

- Và chúng ta chạy theo quận công bằng những con ngựa mà ông ta vừa mới rời ra.

- Porthos thân mến ơi, cậu thật là thông minh tuyệt vời đấy! - D Artagnan nói, giọng nửa nạc nửa mỡ.

- Ô chà! - Porthos nói - thế mà mình vẫn như thế này đấy thôi.

Họ phóng như vậy một tiếng đồng hồ, mấy con ngựa sùi bọt mén trắng xoá, và máu từ bụng chảy ra.

- Hừ! Mình nhìn thấy gì kia nhỉ? - D Artagnan nói.

- Cậu thật là may mắn nếu cậu trông thấy cái gì đó trong đêm tối mù mịt như thế này - Porthos nói.

- Những đốm lửa.

- Tôi cũng trông thấy, - Mouston nói.

- A, a? Có lẽ chúng ta đuổi kịp họ.

- Hay! Một còn ngựa chết! - D Artagnan vừa nói vừa kéo con ngựa của mình ra khỏi chỗ nó vừa nhảy tránh, - dường như bọn họ cũng mệt bở hơi tai ra rồi.

Porthos cúi rạp mình xuống bờm ngựa và nói:

- Hình như có tiếng một toán kỵ sĩ.

- Vô lý

- Mà đông nữa kia.

- Thế thì lại là chuyện khác.

- Lại một con ngựa nữa. - Porthos nói.

- Chết à?

- Không, ngắc ngoải.

- Có yên cương hay tháo ra rồi?

- Có yên cương.

- Thế thì đúng là họ đấy.

- Can đảm lên! Ta sẽ tóm lấy họ.

- Nhưng mà nếu họ đông, - Mouston nói, - không phải ta tóm họ, mà chính họ tóm ta.

- Ô hay? - D Artagnan nói, - họ tưởng chúng ta mạnh hơn họ, bởi vì chúng ta truy đuổi mà, cho nên họ sẽ sợ hãi và tản mát ra.

- Chắc chăn đấy! - Porthos nói.

- A! Các cậu có trông thấy không nào? - D Artagnan kêu lên.

- Phải rồi, lại những đốm lửa, đến lượt tôi cũng trông thấy, - Porthos nói.

- Tiến lên! Tiến lên nào? - D Artagnan nói, giọng the thé, - sau năm phút nữa chúng ta sẽ được cười.

Và họ lại lao đi. Những con người giận dữ vì đau đớn và vì ganh đua, bay trên con đường tối, ở giữa dường người ta đã bắt đầu nhận thấy một đám đông dài dặc hơn và đen sẫm hơn khoảng còn lại của chân trời.

-*-*-*-

Chương 28

Gặp gỡ

Họ còn phóng mười phút nữa như vậy.

Chợt có hai chấm đen tách ra khỏi mảng tối, tiến lên, to dần và càng to ra càng rõ hình thù hai kỵ sĩ.

- Ô, ô! - D Artagnan nói, - họ tiến đến chúng ta đấy.

- Mặc xác những kẻ đi đến, - Porthos nói.

- Ai đi kia? - Một giọng ồ ồ hô lên.

Ba kỵ sĩ vẫn lao, chẳng dừng lại mà cũng chẳng trả lời tuy nhiên người ta nghe thấy tiếng kiếm rút ra khỏi vỏ và tiếng cò súng lách cách của hai bóng đen.

- Ngậm dây cương vào miệng! - D Artagnan bảo.

Porthos hiểu y và cả hai người lấy tay trải rút súng ngắn ở bao dưới yên ra và lên cò súng.

- Ai kia? - Lại một tiếng quát vang lên. - Không được tiến thêm một bước nếu không sẽ chết!

Porthos hầu như bị nghẹt thở vì bụi và miệng nhai dây cương như ngựa nhai hàm thiếc, đáp:

- Ghê nhỉ! Chúng ta đã thấy khối chuyện ghê gớm hơn thế!

Anh vừa dứt lời, thì hai bóng đen chặn đường lại và dưới ánh sao lấp lánh những nòng súng đang hạ thấp xuống.

- Lùi lại ngay? - D Artagnan quát to, - nếu không chính các ngươi sẽ chết!

Hai phát súng ngắn đáp lại lời doạ ấy, nhưng hai người công kích đã xông lên nhanh đến nỗi cùng lúc đó đã nhào vào địch thủ.

Một phát súng thứ ba vang lên do d Artagnan bắn sát đầu họng súng và kẻ thù của anh ngã gục. Còn Porthos va vào địch thủ của mình mạnh đến nỗi mặc dầu thanh kiếm của anh đã bị gạt ra, anh đã hất hắn ngã lăn ra cách ngựa anh mười bước.

- Kết liễu đi, Mouston, kết liễu đi!- Porthos bảo.

Và anh lao lên phía trước cùng bạn mình đã lại tiếp tục cuộc truy lùng.

- Thế nào? - Porthos hỏi.

- Tôi đã bắn vỡ sọ nó, - D Artagnan đáp, - còn cậu?

- Tôi chỉ xô ngã nó thôi, nhưng này...

Một tiếng súng trường nổ: đó là Mouston khi đi qua đã thi hành lệnh của chủ mình.

- Nào! Nào? - D Artagnan nói - Việc trôi chảy đấy và chúng ta đã tiền đầu có lợi!

- A! A! - Porthos nói, - những tay chơi khác kìa! Quả nhiên, hai kỵ sĩ khác tách ra khỏi tốp chính đã nhanh chóng xông ra chặn đường.

Lần này d Artagnan chẳng đợi họ cất tiếng hỏi mình.

- Tránh ra! - Anh la lên trước. - Tránh ra!

- Anh muốn gì? - Một người hỏi.

- Ông quận công! - Cả Porthos và d Artagnan cùng gầm lên.

Một tiếng cười bật ra đáp lại, nhưng nó chấm dứt ngay trong một tiếng rên rỉ: d Artagnan đã đâm xuyên vào thân kẻ đã cười.

Hai tiếng nổ vang lên đồng thời. Porthos và địch thủ của mình đã bắn nhau.

D Artagnan quay lại thấy Porthos bên cạnh.

- Hoan hô Porthos! - Anh nói, - hình như cậu đã giết chết nó.

- Tôi chắc rằng chỉ bắn trúng ngựa của nó thôi.

Bạn thân mến ơi, biết làm thế nào! Chẳng ai bắn bách phát bách trúng, và khi đã đặt bạc thì chẳng nên than vãn. Ô! Mẹ kiếp! Con ngựa của tôi nó làm sao thế này?

- Nó sắp qụy rồi, - Porthos nói và dừng ngựa mình. Quả nhiên, con ngựa của d Artagnan vấp một cái và khuỵu chân xuống, rồi nó rên rỉ và lăn kềnh ra.

Nó đã bị địch thủ đầu tiên của d Artagnan bắn vào ngực từ nãy.

D Artagnan thét lên một tiếng chửi rủa to đến sập trời.

- Ông có muốn một con ngựa không? - Mouston hỏi.

- Mẹ kiếp? Có chứ, ta cần một con! - D Artagnan reo lên.

- Đây ông? - Mouston nói.

- Làm thế nào mà cậu dắt được hai con ngựa? - D Artagnan vừa nói vừa nhảy lên một con.

- Chủ của chúng chết rồi. Tôi nghĩ chúng có thể có ích cho ta, nên tôi lấy đi.

Trong lúc ấy Porthos nạp đạn vào súng.

Chợt d Artagnan kêu:

- Báo động! Có hai tên khác.

- Ái chà! Thế thì chúng sẽ tiếp tục ra cho đến ngày mai chắc? - Porthos nói.

Quả thật hai kỵ sĩ khác đang tiến nhanh lại.

- Ô, ông ơi, - Mouston nói, - cái thằng mà ông quật ngã nó trở dậy.

Tại sao cậu không kết liễu như thằng trước?

- Tôi đang lúng túng vì dắt hai con ngựa, ông ạ.

Một phát súng nổ, Mouston kêu lên đau đớn:

- Ôi, ông ơi, ở bên hông kia, đúng bên mông! Cái phát bên này sẽ làm thành đôi câu đối với phát ở trên đường Amiens hồi xưa. Porthos quay lại như một con sư tử, nhào vào tên kỵ sĩ đã mất ngựa đang chực tuốt kiếm, nhưng trước khi gươm hắn ra khỏi vỏ, thì Porthos đã dùng đuôi gươm của mình giáng một đòn khủng khiếp xuống đầu hắn khiến hắn đổ kềnh ra như con bò dưới nhát búa của người đồ tể.

Mouston vừa rên rỉ vừa tụt khỏi mình ngựa, vết thương không cho phép hắn ngồi trên yên.

Trông thấy các kỵ sĩ, d Artagnan đã dừng lại và nạp đạn vào súng ngắn, thêm nữa, con ngựa mới lại có một khẩu súng trường móc ở yên.

- Có tôi đây? - Porthos nói, - Chúng ta đợi hay là công kích?

- Công kích, - D Artagnan bảo.

- Công kích, - Porthos nói.

Họ thúc đinh vào bụng ngựa.

Mấy kỵ sĩ chỉ còn cách hai chục bước.

- Theo lệnh Đức vua, hãy để chúng ta đi qua - d Artagnan kêu lên.

- Nhà vua chẳng có gì để làm ở đây cả? - Một giọng âm vang đáp lại, nó như thoát ra từ một đám mây, vì rằng người kỵ sĩ đến với một cơn lốc bụi bao quanh.

- Được rồi, hãy xem nhà vua có đi qua được mọi chỗ không, - D Artagnan lại nói.

- Nào? - Vẫn một giọng ấy nói.

Hai phát súng ngắn nổ đồng thời, một do d Artagnan, một do địch thủ của Porthos. Viên đạn của d Artagnan làm bay mũ kẻ thù của anh; viên đạn của địch thủ kia xuyên qua họng con ngựa Porthos, nó ngã vật ra rên rỉ.

- Lần cuối cùng, các anh đi đâu? - Vẫn giọng lúc nãy hỏi.

- Đi đến quỷ sử! - D Artagnan đáp.

- Được, cứ yên tâm, các anh sẽ đến đó như ý muốn.

D Artagnan nhìn thấy nòng một khẩu súng trường hạ xuống. Anh không còn thì giờ moi bao súng ra nữa, và chợt nhớ đến một lời khuyên của Arthos hồi xưa. Anh cho ngựa chồm lên.

Viên đạn bắn trúng giữa họng con ngựa, d Artagnan thấy hẫng dưới chân mình, và với một sự nhanh nhẹn kỳ lạ anh nhảy phắt sang một bên.

- Ái chà! Vẫn cái giọng ngân vang và châm biếm ấy nói, - đó là cái lò mổ ngựa chứ không phải một cuộc chiến đấu của con người mà ta làm ở đây. Hãy đấu kiếm! Ông ơi, hãy đấu kiếm.

Và người ấy nhảy xuống ngựa.

- Đấu kiếm, được lắm!- D Artagnan đáp, - đó là việc của tôi!

Và nhảy hai bước, d Artagnan đã tới sát địch thủ và hai thanh kiếm, đã chạm nhau ngay. Với sự khéo léo thông thường của mình, d Artagnan giơ kiếm theo thế ba cách phòng ngự anh ưa thích.

Trong khi đó Porthos quỳ sau con ngựa của mình, nó đang giậm chân trong cơn giãy chết, anh cầm mỗi tay một khẩu súng ngắn.

Cuộc chiến đấu đã bắt đầu giữa d Artagnan và địch thủ của mình. Anh tấn công dữ dội theo thói quen; nhưng lần này anh đã gặp một cách đánh và một bàn tay khiến anh phải suy nghĩ. Hai lần trở sang thế bốn, d Artagnan lùi một bước lại phía sau; địch thủ vẫn đứng yên; d Artagnan tiến lên và lại xoay kiếm sang thế ba.

Hai ba nhát đánh lung tung không kết quả, lửa tóe ra thành chùm từ các thanh gươm.

Cuối cùng, d Artagnan nghĩ đã đến lúc dùng miếng nghi binh hay nhất của mình; anh dẫn dắt rất khôn khéo, thực hiện nhanh như chớp: và đâm với sức mạnh ghê gớm mà anh tưởng như không ai chống đỡ nổi.

Nhưng nhát kiếm đã bị chặn đứng.

- Mẹ kiếp? - Anh kêu lên với cái giọng Gascon của mình.

Nghe tiếng kêu ấy, địch thủ của anh nhảy lùi lại đằng sau, và nghiêng cài đầu trần cố phân biệt qua màn đêm khuôn mặt của d Artagnan.

Về phần d Artagnan, sợ có một sự nghi binh, anh đứng ở thế phòng ngự.

Porthos nói với địch thủ của mình:

- Hãy coi chừng, tôi còn hai khẩu súng đã nạp đạn.

- Thêm lý do để anh có thể bắn trước, - địch thủ đáp.

Porthos bắn luôn, hai đấu thủ kia cùng kêu lên.

- Arthos! - D Artagnan gọi.

- D Artagnan! - Arthos gọi.

Arthos nâng kiếm lên; d Artagnan hạ kiếm xuống.

- Aramis? - Arthos kêu lên - Đừng bắn!

- A! A! Cậu đấy à, Aramis? - Porthos nói.

Và anh quăng súng đi.

Aramis bỏ súng vào bao và nhét gươm vào vỏ.

Arthos giơ tay ra phía d Artagnan mà nói.

- Con trai của tôi!

Đó là cái tiếng ngày xưa anh thường gọi d Artagnan trong những lúc âu yếm.

- Arthos ơi! - D Artagnan vặn vẹo bàn tay anh và nói, - anh bảo vệ ông ta à? Còn tôi thì đã thề rằng sẽ mang ông ta về hoặc sống hoặc chết? Ôi! Tôi bị mất thể diện rồi!

Arthos phanh ngực mình ra và bảo:

- Hãy giết tôi đi, nếu như danh dự của cậu cần thiết đến cái chết của tôi.

- Ôi khốn khổ thân tôi? Khốn khổ thân tôi - D Artagnan kêu la. - Ở trên đời này chi có một người có thể ngăn cản tôi; và chắc hẳn là định mệnh đã đặt người ấy trên con đường tôi đi. A! Tôi sẽ nói với giáo chủ thế nào bây giờ?

Một giọng nói át cả chiến trường đáp lại:

- Này ông! Ông hãy nói với giáo chủ rằng ông ta đã cử đi để chống lại tôi, hai người duy nhất có thể quật ngã bốn người, đánh giáp lá cà mà không phân thắng bại với bá tước de La Fère và hiệp sĩ De Herblay, và chỉ đầu hàng trước năm chục người thôi.

- Hoàng thân! - Arthos và Aramis cùng kêu lên và làm một cử chỉ tiết lộ quận công de Beaufort, còn d Artagnan và Porthos lùi một bước lại phía sau.

- Năm mươi kỵ sĩ - D Artagnan và Porthos lẩm bẩm.

- Các ông hãy nhìn xung quanh xem, nếu như các ông còn hoài nghi. - Quận công nói.

D Artagnan và Porthos nhìn quanh mình; quả thật các anh đang hoàn toàn bị vây chặt giữa một toán người cưỡi ngựa. Quận công nói tiếp:

- Nghe tiếng các ông đánh nhau, tôi cứ tưởng các ông có hai chục người, và tôi trở ra với tất cả những người đi theo tôi, vì chạy trốn mãi cũng chán, và cũng thèm đến lượt mình tuốt kiếm ra một chút. Không ngờ các ông chỉ có hai người.

- Đúng đấy, thưa Đức ông, - Arthos nói, - nhưng ngài đã nói, hai người bằng hai mươi người.

- Nào, các ông, nộp kiếm đi? - Quận công bảo.

- Nộp kiếm của chúng tôi ư? - D Artagnan ngẩng đầu lên và hỏi lại, anh nói, - nộp kiếm của chúng tôi ư? Không bao giờ!

- Không bao giờ! - Porthos cũng nói.

Mấy người trong đám đông động đậy.

- Đức ông đợi một chút, - Arthos nói, - cho tôi xin nói đôi lời.

Và anh đến gần hoàng thân, ông ta cúi xuống và nghe anh nói thầm mấy câu.

- Xin tuỳ ý bá tước, - hoàng thân nói, - tôi chịu ơn ông quá nhiều nên không thể từ chối điều thỉnh cầu đầu tiên của ông.

Rồi hoàng thân bảo những người tuỳ tùng của mình:

- Các ông hãy giãn ra. Còn các ông d Artagnan và Du Vallon, các ông được tự do.

Mệnh lệnh lập tức được thi hành, và d Artagnan cùng Porthos thấy mình là trung tâm của một vòng tròn rộng rãi.

- Bây giờ, D Herblay hãy xuống ngựa và đến đây, - Arthos nói.

Aramis xuống và đến gần Porthos, còn Arthos đến gần d Artagnan. Thế là cả bốn người lại đoàn tụ.

- Các bạn ơi, - Arthos nói, - các bạn có tiếc là chưa đổ máu của chúng ta không?

- Không. - D Artagnan đáp, - tôi tiếc là trông thấy chúng mình chống lại nhau mà từ xưa chúng ta đoàn kết là thế? Tôi tiếc rằng chúng ta gặp nhau ở hai phe đối lập. Ôi! Chúng ta sẽ chẳng còn làm nên trò trống gì nữa?

- Ôi lạy Chúa? Thôi, thế là hết! - Porthos nói.

- Thế thì, hãy đi với tôi, - Aramis nói.

- Đừng nói vậy, D Herblay? - Arthos bảo, - không ai lại đưa ra những đề nghị như thế với những người như các ông đây. Nếu các ông ấy vào phe Mazarin tức là ý thức của các ông đã thúc đẩy các ông về phía ấy; cũng như ý thức của chúng ta đã thúc đẩy chúng ta về phía các hoàng thân.

- Trong khi chờ đợi, chúng ta là kẻ thù của nhau còn gì, - Porthos nói - trời ạ! Có ai ngờ như thế này bao giờ không?

D Artagnan không nói gì, mà buông một tiếng thở dài.

Arthos nhìn hai bạn và nắm lấy tay họ.

- Các ông ơi, - anh nói, - việc này nghiêm trọng lắm, và lòng tôi đau đớn như các ông đâm nát nó ra.

- Phải, chúng ta đă xa cách nhau, đó là sự thật hiển nhiên, sự thật đáng buồn; song chúng ta chưa hề tuyên chiến với nhau; có thể chúng ta sẽ đưa ra những điều kiện, một cuộc hội đàm cuối cùng là rất cần thiết.

- Về phần tôi tôi đòi hỏi cuộc họp đó, - Aramis nói.

- Tôi chấp nhận, - D Artagnan nói, vẻ hãnh diện.

Porthos cúi đầu tỏ về tán thành.

- Vậy ta hẹn nhau, -Arthos nói, - Ở một nơi thuận tiện với tất cả chúng ta, và trong một cuộc hội kiến cuối cùng, chúng ta quy định dứt khoát lập trường và thái độ mà chúng ta phải giữ và cư xử đối với nhau.

- Được! - Ba người kia đều nói.

- Thế các bạn tán đồng với tôi chứ? - Arthos hỏi.

- Hoàn toàn.

- Vậy ở đâu?

- Quảng trường Hoàng gia (1) có tiện không? - D Artagnan hỏi.

- Ở Paris ư?

Arthos và Aramis nhìn nhau. Aramis gật dầu.

- Được rồi, Quảng trường Hoàng gia.

- Thế bao giờ?

- Tối mai, nếu anh muốn.

- Anh có trở về không?

- Mấy giờ?

Mười giờ tối, được chứ?.

- Hay lắm.

- Từ đấy, - Arthos nói, - sẽ ra vấn đề hoà bình hay chiến tranh, nhưng ít nhất danh dự của chúng ta được cứu vãn, các bạn ạ.

- Than ôi! - D Artagnan lẩm bẩm, - danh dự người lính của chúng ta bị mất.

- Này, d Artagnan ơi, - Arthos nghiêm trang nói, - tôi thề rằng cậu đã làm tôi đau lòng thấy cậu nghĩ đến điều ấy trong khi tôi nghĩ đến một điều là chúng ta đã chạm kiếm đánh lại nhau. Phải, - anh vừa đau khổ lắc đầu vừa nói tiếp, - phải đó, tai hoạ rơi vào chúng ta, lại đây Aramis.

- Còn chúng ta, Porthos ơi, - D Artagnan nói, - chúng ta hãy mang nỗi nhục của mình về cho tể tướng.

- Và nhất là nói với lão ta rằng tôi không đến nỗi quá già để làm một con người hành động.

Một tiếng nói cất lên, và d Artagnan nhận ra tiếng Rochefort.

- Này, các ông, tôi có thể làm được chút việc gì cho các ông? - Hoàng thân nói.

- Thưa Đức ông, làm chứng cho những gì chúng tôi đã làm và có thể làm được.

- Yên tâm, điều ấy sẽ được thực hiện. Xin tạm biệt các ông; sau một thời gian nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau, tôi hy vọng như vậy, ở giáp Paris, và có khi ở ngay thành phố Paris nữa, và lúc ấy các ông có thể phục thù.

Nói xong, quận công giơ tay chào, cho ngựa phi nước đại cùng với đoàn tuỳ tùng biến vào trong bóng đêm, tiếng họ tan vào trong không trung.

Còn lại có d Artagnan và Porthos trên đường cái lớn cùng với một người tay dắt hai con ngựa.

- Ô! Ai thế này? - D Artagnan kêu lên, - Grimaud đấy phải không?

- Grimaud!- Porthos nói.

Grimaud ra hiệu với hai người bạn là họ không lầm.

- Ngựa của ai thế? - D Artagnan hỏi.

- Ai cho chúng tôi? - Porthos hỏi.

- Bá tước de La Fère.

- Arthos, Arthos! - D Artagnan lẩm bẩm, - anh nghĩ tới mọi điều, anh thực sự là một nhà quý tộc.

- Hay quá? - Porthos nói, - tôi đã sợ là phải cuốc bộ.

Và anh nhảy lên yên. D Artagnan đã lên yên rồi.

- Bây giờ bác đi đâu? - D Artagnan hỏi. - Bác từ giã chủ bác à?

- Vâng, - Grimaud đáp, - tôi đi theo tử tước de Bragelonne đến đội quân ở Flandre.

Rồi họ im lặng đi mấy bước trên con đường lớn về phía Paris; nhưng bỗng nhiên họ nghe thấy những tiếng than vãn như vọng từ một cái hào.

- Cái gì thế? - D Artagnan hỏi.

- Mouston đấy! - Porthos nói.

- Phải đấy, thưa ông, tôi đây, - một tiếng nói ai oán cất lên, trong khi một cái bóng đứng lên trên bờ đường.

Porthos, chạy ngay tới viên quản gia của mình mà anh thật sự yêu mến. Anh hỏi:

- Cậu bị thương có nguy hiểm không hả Mouston thân mến của tôi?

- Mouston à? - Grimaud giương đôi mắt kinh ngạc mà thốt lên.

- Thưa ông, tôi không thấy là không nguy hiểm đâu, nhưng vết thương rất là khó chịu.

- Thế cậu không lên ngựa được à?

- Trời ơi, ông bảo tôi cái gì vậy!

- Cậu đi bộ được không?

- Tôi sẽ cố, cho đến ngôi nhà đầu tiên.

- Làm thế nào bây giờ? D Artagnan nói. - Mà chúng ta phải trở về Paris ngay.

- Tôi xin đảm nhiệm Mouston, - Grimaud nói.

- Cảm ơn Grimaud của tôi! - Porthos nói.

Grimaud đặt chân xuống đất và giơ tay ra đỡ người bạn cũ của mình, anh đón bác mà nước mắt lưng tròng.

Grimaud không thể hiểu đích xác rằng những giọt nước rnắt ấy là do vui mừng gặp lại bác hay là do vết thương đau quá gây nên.

Còn d Artagnan và Porthos lặng lẽ tiếp tục con đường trở về Paris.

Ba giờ sau có một người như kiểu phu trạm mình cuốn đầy bụi vượt qua hỏi; đó là người do quận công sai mang đến cho tể tướng một bức thư như quận công đã hứa, chứng nhận những điều mà Porthos và d Artagnan đã làm.

Mazarin trải qua một đêm thật tệ hại khi nhận được thư ấy, trong đó hoàng thân đích thân báo rằng mình đã tự do và sẽ tiến hành một cuộc tử chiến chống lại lão.

Tể tướng đọc đi đọc lại mấy lần rồi gấp thư lại và bỏ vào túi.

Ông nói:

- Điều an ủi ta là dù d Artagnan đã bắt hụt hoàng thân, ít ra khi đuổi theo lão ta, hắn đã đè nát Broussel. Dứt khoát tên Gascogne là một người quý giá và trong tất cả những cái vụng về của hắn, hắn cũng giúp ích cho ta.

Giáo chủ ý muốn nói đến cái người mà d Artagnan đã xô ngã ở góc nghĩa trang Saint-Jean Paris, và đấy chẳng phải ai khác là ông tham nghị Broussel.

Chú thích:

Quảng trường Hoàng gia : Place Royale

-*-*-*-

Chương 29

Bốn bạn sửa soạn gặp lại nhau

Ngồi trong sân khách sạn."Con dê cái nhỏ" (1), Porthos trông thấy d Artagnan từ Cung giáo chủ trở về, mặt dài thuỗn ra và nhăn nhăn nhó nhó. Anh hỏi.

- Thế nào, d Artagnan trung hậu của tôi ơi, ông ta tiếp đãi cậu tồi lắm phải không?

- Thực tình là thế đấy? Người gì mà như lợn ấy! Cậu đang làm gì thế, Porthos?

- À, cậu thấy đó, tôi chấm bánh quy vào một cốc rượu vang Tây Ban Nha. Cậu cũng làm như vậy đi.

- Cậu nói phải. Gimblou, một cốc đầy?

Tên hầu bàn được gọi bằng cái tên du dương ấy mang cốc rượu đến, và d Artagnan ngồi uống bên cạnh bạn.

- Chuyện ấy diễn ra như thế nào?

- Ôi dào! Cậu biết đây, nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Tôi bước vào, ông ta nguýt mắt nhìn tôi; tôi nhún vai và nói: "Thế đấy! Thưa Đức ông, chúng tôi chẳng phải là những người mạnh hơn".

- Phải, tôi biết cả rồi, nhưng hãy kể chi tiết cho tôi nghe.

- Porthos, cậu hiểu rằng tôi không thể kể chi tiết mà không nói ra tên các bạn chúng ta, mà nói tên họ ra là làm hại họ.

"Mẹ kiếp! Thưa Đức ông, - tôi nói, - họ những năm mươi người mà chúng tôi chỉ có hai".

"Ừ, nhưng điều đó không ngăn cản có những phát súng bắn lẫn nhau, theo như tôi nghe nói lại, - Ông ta nói".

"Sự thực là, bên này bên kia đều có vài loạt đạn nổ".

"Thế nhưng thanh kiếm đã trông thấy ánh mặt trời chứ? - Ông ta nói thêm".

"Nghĩa là ban đêm ạ, thưa Đức ông".

"Ái chà! Tôi tuởng ông là Gascon cơ mà, ông bạn thân mến?"

"Tôi chỉ là Gascon khi tôi thành công thôi, thưa Đức ông".

Câu trả lời làm vừa lòng ông ta, vì ông ta bật cười, ông ta nói tiếp:

"Điều đó dạy tôi là phải cho các lính vệ những con ngựa tốt hơn, bởi vì nếu như họ đuổi kịp các ông và mỗi người đều có thể làm được như ông và bạn của ông, thì có thể ông đã giữ đúng lời hứa và mang hắn về đây hoặc chết hoặc sống".

- Ơ này! Nếu chuyện như vậy thì tôi thấy cũng chẳng đến nỗi dở đâu, - Porthos nói.

- Ồ, Lạy Chúa! Không đâu, bạn thân mến ơi, đó chỉ là một cách nói thôi. - Rồi d Artagnan bất chợt nói - Không thể tưởng tượng được, những cái bánh quy này hút mật ghê thật? Cứ như là những miếng bọt biển ấy! Gimblou đâu, một chai nữa!

Chai rượu được mang đến rất nhanh chứng tỏ anh được cửa hàng kính nể như thế nào. Anh nói tiếp:

- Cho nên lúc tôi cáo lui, thì ông ta gọi lại. Ông ta hỏi tôi:

"Các ông có ba con ngựa bị chết hoặc bầm máu chân phải không?"

"Vâng, thưa Đức ông".

"Chúng đáng giá bao nhiêu?"

- Ấy - Porthos nói, - tôi thấy có lẽ là một dịp khá tốt đấy chứ!

"Một nghìn pistol, - tôi trả lời".

- Một nghìn pistol? - Porthos kêu lên. - Ô, ồ! Nhiều quá đấy; nếu ông ta sành về ngựa, chắc ông ta phải mặc cả.

- Thực tình là lão ta muốn mặc cả lắm đấy, cái lão đê tiện ấy vì lão nhảy bật lên một cái kinh khủng và nhìn tôi trừng trừng. Tôi cũng nhìn lại, lão hiểu ra và thò tay vào tủ lão lấy phiếu ra nhà băng Lyon.

- Để lĩnh một nghìn pistol à?

- Một nghìn pistol chẵn, không thêm một đồng nào; cái lão keo kiệt ấy!

- Thế cậu lấy chưa?

- Đây rồi.

- Thực tình mình thấy ông ta làm thế nào là thoả đáng rồi!

- Thoả đáng! Với những người không những vừa mới mạo hiểm tính mạng mình mà còn giúp ích lão ta một việc lớn mà gọi là thoả đáng ư?

- Một việc lớn à, việc gì thế! - Porthos hỏi.

- Chà, hình như tôi đã cho ngựa đạp phải một ông tham nghị của nghị viện.

- Sao? Cái người nhỏ nhắn, đen đen mà cậu đã xô ngã ở góc nghĩa trang Saint-Jean phải không?

- Đúng thế, bạn thân mến ạ. Này, ông ta như cái gai trước mắt giáo chủ đấy. Khốn nỗi, tôi lại không đè bẹp ông ta. Có khi ông ta sẽ trở lại và còn cản trở lão.

- Này cậu, - Porthos nói, - Chính tôi đã rẽ ngựa để nó khỏi giẫm lên người ông ta! Có lẽ để lần khác?

- Đáng lẽ lão ta phải trả tiền tôi về ông tham nghị mới phải, cái lão mặt mo ấy?

- Chà! Nếu ông ta không bị đè bẹp hẳn...

- A! Nếu là ngài giáo chủ de Richelieu, chắc hẳn ngài sẽ nói: "Năm trăm êquy về một ông tham nghị!".

- Thôi không nói chuyện ấy nữa. Porthos này, mấy con ngựa ấy của cậu đáng giá bao nhiêu?

- Ồ, bạn ơi, nếu Mouston tội nghiệp có đây, hắn sẽ nói với cậu giá tiền tính đến đồng, hào và xu lẻ.

- Không sao! Cậu cứ nói đi, tính đến mười êquy lẻ. - Vulcain và Bayard mỗi con giá chừng hai trăm pistol, và cứ cho là con Phébus giá một trăm rưởi nữa đi, tôi cho là ta định sát giá đây.

- Vậy thì còn dư ra bốn trăm rưởi pistol, - D Artagnan nói với vẻ khá hài lòng...

- Ừ - Porthos nói, - nhưng còn yên cương?

- Đúng quá đi rồi. Yên cương giá bao nhiêu?

- Coi là cả ba bộ một trăm pistol đi...

- Được một trăm pistol, - D Artagnan nói, - Vị chi là còn dư ba trăm rưởi pistol.

Porthos gật đầu tán thành.

- Bây giờ ta đưa ông chủ quán năm mươi pistol đề trả chi phí của chúng ta? - D Artagnan nói, - còn ba trăm pistol ta chia nhau.

- Chia đi, - Porthos bảo.

- Việc nhỏ nhặt! - D Artagnan lẩm bẩm, tay nắm những tờ bạc của mình.

- Hừ? - Porthos nói, - lại vẫn chuyện ấy à. Nói đi.

- Gì cơ?

- Ông ta không đả động gì đến tôi ư?

- À, có chứ, - D Artagnan vội reo lên, anh sợ làm bạn mình nản nếu bảo rằng tể tướng chẳng hề nhắc đến bạn một tiếng. - Có chứ!

- Ông ta nói...

- Ông ta nói gì? - Porthos hỏi.

- Khoan đã, để tôi nhớ lại đúng lời ông ta. Ông ta nói rằng: "Về phần bạn ông, thì ông hãy báo ông ta cứ yên tâm chẳng có gì quản ngại".

- Tốt! - Porthos nói, - như thế là rõ như ban ngày rồi, ông ta vẫn tính phong mình là Nam tước.

Vừa lúc ấy chuông đồng hồ nhà thờ gần đó điểm chín giờ.

D Artagnan giật mình.

- A! Đúng rồi, - Porthos nói, - Bây giờ chín giờ mà cậu nhớ chứ, đến mười giờ là ta có cuộc hẹn ở quảng trường Hoàng gia.

- Thôi, im đi, Porthos! - D Artagnan la lên với vẻ nóng nảy, - cậu đừng nhắc lại cái kỷ niệm ấy nữa; chính nó làm cho tôi bực bội khó chịu từ ngày hôm qua. Tôi chẳng đi đâu.

- Tại sao thế? - Porthos hỏi:

- Bởi vì thật là điều đau lòng phải gặp lại hai con người ấy, họ đã làm hỏng công việc của chúng ta.

- Mà họ có lợi thế gì đâu, - Porthos nói. - Lúc ấy tôi vẫn còn một khẩu súng đã nạp đạn còn các cậu thì đã đứng đối mặt nhau, kiếm trong tay.

- Phải, - D Artagnan nói - nhưng nếu như cuộc hẹn hò này che giấu một điều gì.

- Ồ - Porthos nói, d Artagnan, cậu không nên tin như vậy.

Đúng thế, d Artagnan không tin rằng Arthos có thể dùng mưu gian; song anh tìm cớ để không đi đến nơi hẹn.

- Phải đến đấy chứ, - vị lãnh chúa de Bracieux đường bệ nói tiếp. - Họ có thể cho là chúng ta sợ hãi. Này, bạn thân mến ơi, chúng ta đã dám chọi với năm mươi kẻ thù trên đường cái lớn; chúng ta cũng sẽ chọi tốt với hai anh bạn trên Quảng trường Hoàng gia.

- Phải phải, - tôi biết, - D Artagnan nói - nhưng họ đã phải theo các hoàng thân mà không bảo cho chúng ta biết trước. Arthos và Aramis đã chơi tôi một vố làm tôi hết sức kinh ngạc. Hôm qua ta đã khám phá ra sự thật; hà tất gì hôm nay chúng ta còn phải đi tìm hiều điều khác nữa.

- Cậu thật sự nghi ngờ à? - Porthos hỏi.

- Về Aramis thì đúng vậy, từ khi hắn làm tu viện trưởng, bạn thân mến ơi, cậu không thể hình dung hắn bây giờ thế nào đâu. Hắn nhìn chúng ta vướng trên con đường dẫn dắt đến chức giám mục, cho nên có lẽ hắn sẽ chẳng phiền lòng nếu cần phải thủ tiêu chúng ta.

- A, về Aramis thì lại là chuyện khác, - Porthos nói, - và tôi chẳng lấy làm lạ.

- Ông de Beaufort cũng có thể đến lượt mình thử bắt chúng ta lắm chứ.

- Ô hay! Ông ta đã bắt được chúng mình và lại thả ra cơ mà. Với lại, chúng ta sẽ đề phòng, mang đủ vũ khí và mang theo Planchet với cây súng trường của hắn.

- Planchet là Fronde - D Artagnan nói.

- Vứt mẹ nó những cuộc nội chiến đi? - Porthos kêu lên, - người ta không còn có thể tin cậy ở bạn bè hay người hầu nữa. A! Nếu như Mouston có đây! Còn có một người không bao giờ rời bỏ ta.

- Phải, chừng nào mà cậu còn giàu có. Này! Bạn thân mến ơi, chẳng phải là những cuộc nội chiến chia rẽ chúng ta; chẳng qua vì chúng ta không còn ở tuổi hai mươi nữa; vì những niềm hăng hái chân thành của tuổi trẻ đã mất đi rồi để nhường chỗ cho tiếng thì thầm của quyền lợi, cho hơi thở của tham vọng, cho những lời khuyên bảo của lòng ích kỷ. Phải, cậu nói có lý, ta cứ đi đến đó, Porthos ạ, nhưng ta phải vũ khí đầy đủ.

- Nếu không, họ sẽ bảo rằng chúng ta hoảng sợ. Ơ này, Planchet đâu?

Planchet xuất hiện.

- Thắng yên cương vào ngựa đi, và mang theo khẩu súng trường.

- Nhưng thưa ông, trước tiên, chúng ta đi chống lại ai?

- Chẳng chống lại ai cả, - D Artagnan nói, - đó chỉ là một sự đề phòng trường hợp ta bị tấn công.

- Ông biết không, người ta muốn giết chết cái ông tham nghị Broussel tử tế, người cha của dân tộc ấy.

- A, thật ư? - D Artagnan nói.

- Thật ạ. Nhưng ông đã được trả thù đích đáng, vì ông ta được mang trở về nhà trong tay dân chúng. Từ hôm qua, nhà ông ấy chẳng lúc nào vơi người: ông chủ giáo, ông de Longueville, hoàng thân de Côngty đã đến thăm ông Broussel. Bà de Chevreuse và bà de Vendôme cũng đã cho ghi tên mình đến thăm đấy. Và bây giờ, khi nào ông ta muốn...

- Khi nào ông ta muốn, thì sao?

Planchet bèn cất tiếng hát:

"Một cơn gió Fronde

Nổi từ sớm tinh mơ

Chắc là nó gầm thét

Chống lại Mazarin

Một cơn gió Fronde

Nổi từ sớm tinh mơ..."

D Artagnan thì thầm với Porthos:

- Tôi chẳng còn ngạc nhiên về chuyện này nữa, khi bảo Mazarin đã rất mong là tôi cán chết hẳn vị tham nghị của lão thì hơn.

- Thưa ông, - Planchet nói,

- Vậy ông hiểu rằng nếu như ông bảo tôi mang súng đi để làm một công việc gì đó giống như việc người ta đã mưu hại ông Broussel, thì...

- Không, cứ yên tâm. Nhưng cậu nghe nhưng chi tiết ấy ở đâu thế?

- Ồ! Từ nguồn đáng tin cậy. Tôi nghe Friquet. nói.

- Friquet. à? - D Artagnan nói, - Tôi biết cái tên đó.

- Đó là con trai bà đầy tớ nhà ông Broussel; một thằng nhóc rất nhộn mà tôi xin bảo đảm với ông rằng không một cuộc bạo loạn nào nó chịu mất phần đâu.

- Có phải cái thằng lễ sinh ở nhà thở Đức Bà không? - D Artagnan hỏi.

- Đứng nó đấy; Bazin che chở cho nó.

- A, a! Tôi biết, - D Artagnan nói. - Và là thằng hầu quầy ở quán rượu phố Calandre chứ gì?

- Đúng thế

- Thằng lỏi con ấy làm gì cho cậu? - Porthos hỏi.

- A - D Artagnan đáp, - nó đã cho tôi nhiều tin tức hay, và nếu có dịp, chắc nó sẽ còn cho nữa.

- Cho cậu, người đã suýt cán chết chủ nó ư?

- Đúng vậy.

Vào lúc ấy, Arthos và Aramis đi vào Paris, bằng lối cửa ô Saint-Antoine. Họ nghỉ ngơi ở dọc dường và vội vã đi để khỏi lỡ cuộc hẹn.

Chỉ có Bazin đi theo họ.

Ta còn nhớ rằng, Grimaud ở lại để săn sóc Mouston và đuổi kịp cậu tử tước trẻ de Bragelonne đang đi đến đội quân Flandre.

- Bây giờ, - Arthos nói, - chúng ta cần vào một quán trọ để mặc quần áo thị dân, cất súng ống, kiếm gươm và giải giáp cả tên hầu của chúng ta nữa.

- Ồ! Không làm thế được đâu, bá tước thân mến ơi, và việc này, tôi xin anh cho phép không những tôi không tán thành anh, mà còn thử khiến anh theo ý với tôi.

- Tại sao vậy?

- Bởi vì đây là một cuộc hò hẹn chiến tranh mà chúng ta đang đi tới.

- Cậu muốn nói gì thế, Aramis?

- Tôi muốn nói rằng Quảng trường Hoàng gia là sự tiếp diễn của con đường cái lớn Vendôme chứ chẳng phải cái gì khác.

- Thế nào? Các bạn của chúng ta...

- Đang trở thành những kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta. Arthos, tin ở tôi, chúng ta phải phòng ngừa, và nhất là anh hãy phòng ngừa.

- Ô! D Herblay thân mến của tôi!

Ai bảo anh rằng d Artagnan không đổ tất cả thất bại của hắn lên đầu chúng ta và không báo trước cho giáo chủ biết? Ai bảo anh rằng giáo chủ không lợi dụng cuộc hẹn hò ấy để cho tóm cổ chúng ta?

- Sao? Aramis, cậu nghĩ rằng d Artagnan và Porthos tiếp tay cho một sự ô nhục như vậy ư?

- Arthos thân mến ơi, giữa bạn bè với nhau thì anh nói đúng, đó là một sự ô nhục; nhưng giữa những kẻ thù địch thì đó là một mưu kế.

Arthos khoanh tay và để gục cái đầu tuấn tú xuống trước ngực.

- Biết làm thế nào được, Arthos ơi? Con người ta sinh ra như vậy, và không phải bao giờ cũng ở tuổi hai mươi. Anh thấy đấy, chúng ta đã làm tổn thương một cách tàn nhẫn lòng tự ái nó điều khiển mù quáng những hành động của d Artagnan. Hắn bị bại trận. Anh đã chẳng nghe hơi thở than tuyệt vọng trên đường sao? Còn về Porthos, danh hiệu Nam tước của hắn có lẽ tuỳ thuộc ở sự thành công của việc này. Thế đây? Hắn đã gặp chúng ta cản trở con đường đi của hắn và sẽ chưa được là Nam tước lần này đâu. Ai bảo anh rằng cái tước, thứ năm trứ danh ấy không dựa vào cuộc hội kiến chiều nay của chúng ta? Ta nên đề phòng, Arthos ạ.

- Nhưng nếu họ đến mà không mang vũ khí thì sao? Thật xấu hổ cho chúng ta biết chừng nào.

- Cứ yên tâm, bạn thân mến ơi, tôi xin cam đoan rằng sẽ không như vậy đâu. Vả chăng chúng ta có cớ để nói thác là chúng ta đi du hành tới và chúng ta là kẻ phiến loạn? Một cớ nói thác cho chúng ta! Cần phải dự kiến trường hợp chúng ta cần xin lỗi d Artagnan và Porthos!

- Ôi! Aramis Aramis ơi, - Arthos vừa buồn rầu lắc đầu vừa nói tiếp xin lấy linh hồn ra mà thề rằng cậu làm cho tôi thành kẻ khổ sở nhất trần đời. Cậu làm thất vọng một trái tim đã không hoàn toàn chết ở tình bạn. Này, Aramis, tôi xin thề là thà người ta dứt nó ra khỏi lồng ngực của tôi còn hơn. Aramis, cậu đi đến đó thế nào thì tuỳ cậu. Còn tôi, tôi sẽ đi mà không mang vũ khí.

- Không, tôi sẽ không để anh đi như vậy đâu: Sẽ không còn là một con người, không còn là Arthos, không còn là Bá tước de La Fère nữa mà anh phản bội bằng sự yếu đuối ấy; đây là cả một đảng phái mà anh thuộc vào nó và nó tin cậy ở anh.

- Thôi thì đành làm theo lời cậu vậy, - Arthos buồn rẩu đáp.

Và họ tiếp tục đi.

Qua phố Bước Con La (1), vừa đến hàng rào sắt của bãi vắng, họ trông thấy ở dưới cửa tò vò, chỗ phố Sainte Catherine đổ ra, ba kỵ sĩ.

Đó là d Artagnan và Porthos đang bước đi, áo choàng bị chuôi kiếm vén lên. Planchet đi đằng sau họ, súng trường thõng xuống đùi.

Nhìn thấy d Artagnan và Porthos, Arthos và Aramis xuống ngựa.

Phía bên kia cũng vậy. D Artagnan nhận thấy ba con ngựa kia đáng lẽ do Bazin giữ thì lại buộc ở các vòng của cổng tò vò và anh bảo Planchet cũng làm như thế.

Rồi họ tiến đến gần nhau hai người này đối diện với hai người kia, và chào nhau lễ phép.

Chợt Arthos trông thấy nhiều người dừng chân và nhìn bọn họ, giống như đây là một trong những cuộc đấu kiếm trứ danh vẫn còn sống động trong trí nhớ những người dân Paris, nhất là những người ở gần Quảng trường Hoàng gia, Anh nói:

- Này các ông ơi, các ông thích chúng ta trò chuyện với nhau ở đâu?

- Cổng rào khoá, - Aramis nói, - nhưng nếu như các ông thích mát dưới bóng cây và một sự tĩnh mịch không thể vi phạm, thì tôi sẽ lấy chìa khoá ở dinh Rôhan và chúng ta sẽ toại nguyện.

D Artagnan phóng tầm mắt vào trong bóng tối của quảng trường, và Porthos thử chui dầu vào hai song sắt để dò bóng đêm.

Với cái giọng thanh cao và dễ thuyết phục, Arthos nói:

- Nếu các ông thích một nơi khác, thì xin cứ tự chọn.

Aramis lập tức tránh ra và dặn dò Arthos chớ đứng một mình ở trong tầm tay d Artagnan và Porthos; nhưng kẻ được ban lời khuyên răn ấy chỉ cười vẻ khinh khi và tiến một bước về phía các bạn cũ đang đứng nguyên tại chỗ.

Quả thật Aramis đã đến gõ cửa dinh Rôhan; một người hiện ra cùng với anh, nói.

- Thưa ông, ông thề với tôi chứ?

- Cầm lấy, - Aramis đưa ra một đồng louis và bảo.

- A! Vị quý tộc của tôi, ông không muốn thề à? - Người gác cổng vừa nói vừa lắc đầu.

- Ô, có gì mà thề với thốt cơ chứ, - Aramis nói. - Tôi chỉ khẳng định với bác rằng cho đến giờ phút này các ông kia vẫn là bạn chúng tôi.

- Phải rồi, tất nhiên? - Arthos, d Artagnan và Porthos lạnh lùng nói.

D Artagnan đã nghe thấy cuộc đối thoại và hiểu rõ.

- Cậu có thấy không? - Anh hỏi Porthos.

- Thấy cái gì nhỉ?

- Hắn không muốn thề.

- Thề cái gì?

- Người gác cổng kia muốn Aramis thề rằng chúng ta vào Quảng trường Hoàng gia không phải để đánh nhau.

- Không thấy.

- Thế thì phải cẩn thận.

Arthos không rời mắt khỏi hai người đang nói.

Aramis mở cổng và né ra để d Artagnan bước vào.

Khi vào, chuôi kiếm của d Artagnan mắc vào cổng rào, buộc anh phải phanh áo choàng ra. Thế là anh để lộ cái báng súng ngắn bóng loáng ánh trắng.

Aramis bèn một tay chạm vai Arthos, một tay trỏ cho anh xem khẩu súng đeo ở đây lưng d Artagnan.

- Chao ôi! Phải rồi, - Arthos nói và buông một tiếng thở dài não ruột. Và là người thứ ba đi vào. Aramis vào cuối cùng và đóng cổng lại. Hai kẻ hầu ở bên ngoài; nhưng do họ cũng ngờ vực lẫn nhau, nên đứng cách xa nhau.

Chú thích

Bước Con La: Pas-de-la-Mule

-*-*-*-

Chương 30

Quảng trường Hoàng gia

Họ lặng lẽ đi tới trung tâm quảng trường; nhưng do lúc ấy mặt trăng vừa ra khỏi đám mây, họ nghĩ rằng ở chỗ bãi trống trải này họ sẽ dễ bị người ta trông thấy, họ bèn đến chỗ mấy cây bồ đề bóng tối dày dặc hơn.

Có các ghế dài kê rải rác; bốn kẻ du ngoạn dừng lại trước một cái ghế. Arthos ra hiệu, d Artagnan và Porthos ngồi xuống. Arthos và Aramis đứng yên trước mặt họ.

Sau một lát im lặng, mỗi người đang cảm thấy lúng túng không biết bắt đầu giải thích thế nào đây, thì Arthos lên tiếng:

- Các anh ơi, một chứng cớ về sức mạnh của tình bằng hữu cũ của chúng ta là sự có mặt của chúng ta ở nơi hò hẹn này. Không một ai vắng mặt, không một ai có gì để trách móc cả.

- Thưa bá tước, - D Artagnan nói - xin hãy nghe đây, thay cho những lời tán tụng mà có lẽ chẳng có ai trong chúng ta đây xứng đáng, chúng ta hãy phát biểu như những người chân thành.

- Tôi không mong gì hơn, - Arthos đáp. - Tôi là người thẳng thắn, các anh hãy nói thẳng thắn. Các anh có điều gì cần trách tôi hoặc tu viện trưởng D Herblay không?

Có đấy - D Artagnan nói, - khi tôi có vinh dự được gặp anh ở lâu đài Bragelonne, tôi đã đưa ra với anh những đề nghị mà anh đã hiểu rõ. Đáng lẽ trả lời tôi như với một người bạn, thì anh đã chơi tôi như một đứa trẻ, và cái tình bằng hữu mà anh tán dương ấy tan vỡ không phải do cuộc chạm kiếm tối hôm qua mà do sự nguỵ trang của anh ở trong lâu đài mình.

- D Artagnan! - Arthos nói với một giọng trách móc nhẹ nhàng.

- Anh cần ở tôi sự thẳng thắn, thì đấy! - D Artagnan nói - Anh hỏi tôi nghĩ gì thì tôi đã nói rồi. Và bây giờ, ông tu viện trưởng D Herblay, tôi cũng sẵn sàng hầu tiếp ông. Tôi cũng đã hành động với ông như vậy và ông cũng đã lạm dụng tôi.

- Ông lạ lùng thực đấy, ông ạ, - Aramis nói - Ông đến tìm tôi để đưa ra những đề nghị, nhưng ông đã nói với tôi chưa nào? Không, ông thăm dò tôi, có thế thôi. Này, tôi đã nói với ông thế nào nhỉ? Rằng Mazarin là một tên đê tiện và tôi chẳng phụng sự nó đâu. Tất cả chỉ có thế. Tôi có nói với ông rằng tôi không phụng sự một người khác đâu? Trái lại, tôi đã nói để ông hiểu rằng, tôi đứng về phía các hoàng thân. Nếu tôi không lầm thì chúng ta còn nói đùa rất thoải mái về trường hợp rất có khả năng là ông nhận nhiệm vụ của giáo chủ giao là bắt giữ tôi. Vậy thì tại sao chúng tôi không thể là người có đảng phái? Ông có bí mật của ông, cũng như chúng tôi có bí mật của chúng tôi; chúng ta đã không trao đổi bí mật với nhau, càng hay điều đó chứng tỏ là chúng ta biết giữ bí mật.

- Tôi có trách gì ông đâu, - D Artagnan nói, - chẳng qua vì bá tước de La Fère nói về tình bạn bè, cho nên tôi mới xem xét cách đối đãi của ông thôi.

- Và ông thấy gì ở đó? - Aramis kiêu ngạo hỏi.

Máu dồn lên mặt, d Artagnan đứng phắt dậy và đáp:

- Tôi thấy đúng là một cách đổi đãi của một môn đệ những thầy dòng Jésuites.

Thấy d Artagnan đứng lên, Porthos cũng đứng dậy. Thế là cá bốn người đều đứng sừng sững hằm hè trước mặt nhau.

Nghe câu trả lời của d Artagnan, Aramis giơ tay như muốn sờ vào đốc kiếm.

Arthos ngăn anh lại.

- D Artagnan này, - anh nói, - tối nay anh đến đây vẫn còn tức giận sục sôi về cái việc tình cờ tối hôm qua của chúng ta.

D Artagnan, tôi tin rằng lòng anh khá quảng đại để cho một tình bằng hữu hai mươi năm ròng rả có thể chống lại ở anh một sự thất bại của lòng tự ái trong khoảnh khắc. Nào, hãy nói điều đó với tôi đi. Anh thấy có điều gì khiển trách tôi không? Nếu tôi có lỗi, tôi sẽ nhận lỗi.

Cái giọng nghiêm nghị và du dương ấy của Arthos bao giờ cũng có ảnh hưởng đến d Artagnan như xưa, trong khi giọng của Aramis trở nên chua cay và kêu gào trong những lúc bực mình càng chọc tức anh. Cho nên anh đáp lại Arthos:

- Ông bá tước ơi, tôi tưởng rằng ông có điều tâm sự nói với tôi ở lâu đài Bragelonne, và còn ông, - anh nói tiếp và trỏ sang Aramis, - Ông cũng có điều tâm sự với tôi ở tu viện, hẳn là tôi đã chẳng lao vào một cuộc phiêu lưu mà các ông chắc sẽ cản đường tôi. Tuy nhiên vì rằng tôi kín đáo, chớ có vội cho tôi là một đứa ngu ngốc.

Nếu như tôi muốn đi sâu để phân biệt những người, mà ông D Herblay đón tiếp bằng cái thang dây với những người mà ông đón tiếp bằng chiểc thang gỗ, thì ắt là tôi đã bắt ông ta phải nói với tôi rồi.

Trong bụng ngờ rằng d Artagnan đã rình rập mình và trông thấy mình đi cùng bà de Longueville, Aramis giận tím mặt và la lên:

- Sao ông đi dây vào việc người khác?

- Tôi chỉ dây vào việc gì can hệ đến tôi, và tôi biết giả bộ không trông thấy những cái gì không can hệ đến tôi. Nhưng tôi ghét những kẻ đạo đức giả, và trong cái loại đó tôi xếp những ngự lâm quân đi làm tu viện trưởng và những tu viện trưởng đi làm ngự lâm quân.

Rồi quay sang phía Porthos, anh nói tiếp:

- Ông đây cũng đồng ý với tôi.

Porthos từ nãy chưa nói gì, chi đáp lại bằng một tiếng nói và một cử chỉ.

Anh nói "Phải" và cầm kiếm ra tay.

Aramis nhảy lùi lại một bước và tuốt kiếm ra. D Artagnan khom lưng lại, sẵn sàng công kích hoặc tự vệ

Arthos bèn giơ bàn tay ra với cái dáng bộ chỉ huy tối thượng chỉ ở anh mới có, anh thong thả rút cả thanh kiếm và vỏ cùng một lúc, tì kiếm lên đầu gối và bẻ gẫy lưỡi kiếm ngay trong bao, rồi vứt hai mẩu sắt sang phía bên phải.

Rồi quay về phía Aramis, anh bảo:

- Aramis, bẻ gẫy kiếm anh đi.

Aramis lưỡng lự.

- Cần phải làm như vậy, - Arthos bảo. Rồi với một giọng nhỏ hơn và dịu dàng hơn, anh nói - Tôi muốn như vậy.

Aramis, mặt càng tái hơn, nhưng bị khuất phục bởi cử chỉ ấy, bị đánh bại bởi tiếng nói ấy, anh cũng dùng tay bẻ gẫy cái lưỡi thép dẻo, rồi khoanh tay lại đợi, người run lên vì tức giận.

Động tác ấy khiến d Artagnan và Porthos phải lùi lại; d Artagnan chưa rút kiếm, Porthos tra kiếm vào bao.

Arthos từ từ giơ bàn tay phải lên trời mà nói:

- Chúng ta đang đứng trước Chúa, Chúa đang nhìn chúng ta và nghe chúng ta trong cảnh trang nghiêm của đêm nay, tôi xin thề là không bao giờ thanh kiếm của tôi chạm vào kiếm của các anh, không bao giờ con mắt tôi nhìn các anh bằng cái nhìn giận dữ; không bao giờ trái tim tôi có một nhịp đập thù ghét các anh. Chúng ta đã cùng sống với nhau, cùng ghét và cùng yêu. Chúng ta đã đổ ra và cùng hoà máu của chúng ta, và có lẽ, anh nói thêm, - giữa chúng ta có một mối dây liên hệ còn mạnh mẽ hơn cả tình bạn, có lẽ có cái hiệp ước của tội ác; bởi vì cả bốn chúng ta, chúng ta đã buộc tội, xét xử và giết một con người mà cớ lẽ chúng ta không có quyền trừ bỏ khỏi thế gian này, dù rằng dường như nó là người của địa ngục, chứ không phải người của trần gian(1). d Artagnan, bao giờ tôi cũng yêu mển anh như con trai tôi. Porthos, chúng ta đã từng ngủ bên cạnh nhau mười năm; Aramis là anh em của các anh cũng như là anh em của tôi, bởi vì Aramis đã yêu mến các anh như tôi vẫn yêu mến các anh, như tôi sẽ yêu mến các anh mãi mãi. Lão Mazarin có thể là cái cóc khô gì đối với chúng ta, những người đã từng chống lại cả bàn tay và trái tim của một con người như Richelieu? Hoàng thân này hay hoàng thân nọ cũng là cái gì đối với chúng ta, những người đã từng giữ vững vương miện trên đầu một bà hoàng hậu? d Artagnan, tôi xin lỗi anh vì đã chạm kiếm với anh hôm qua; Aramis cũng làm như vậy với Porthos. Và bây giờ nếu có thể, các anh hãy cứ thù ghét tôi đi, còn tôi, tôi xin thề rằng dù các anh có thù ghét tôi, tôi vẫn chỉ mang lòng quý trọng và tình bằng hữu đối với các anh mà thôi. Bây giờ, Aramis, hãy nhắc lại lời tôi, và nếu như các anh đây muốn, và anh cũng muốn, thì chúng ta sẽ từ giã các bạn cũ của chúng ta mãi mãi.

Một lát lặng yên trang trọng. Rồi Aramis cất tiếng. Vầng trán anh bình thản và cái nhìn trung hậu, nhưng giọng nói vẫn còn vang lên một chút run run xúc động, cuối cùng, anh nói:

- Tôi xin thề là tôi không còn thù ghét gì những người đã từng là bạn tôi, tôi rất tiếc là đã chạm kiếm với anh đấy, Porthos ạ. Cuối cùng tôi xin thề là không những thanh gươm của tôi sẽ không chĩa vào ngực các anh nữa, mà từ trong đáy lòng thầm kin nhất của tôi sau này cũng sẽ không bao giờ còn bóng dáng của những thù địch đối với các anh nữa. Lại đây, Arthos.

Arthos toan rút lui. Nhưng d Artagnan bị cuốn hút vào một cơn phấn khích không cưỡng nổi, nó tiết lộ bầu nhiệt huyết và tâm hồn thẳng thắn bẩm sinh của anh, anh vội kêu lên:

- Ô không, không! Các anh đừng đi! Các anh đừng đi, bởi vì tôi, tôi cũng phải thề. Tôi thề rằng tôi sẽ hy sinh đến giọt máu cuối cùng, đến mảnh da thịt cuối cùng để giữ tấm lòng quý trọng đối với một con người như anh, Arthos và tình bằng hữu đối với một con người như anh, Aramis.

Rồi anh nhào vào trong vòng tay của Arthos.

- Con trai của tôi! - Arthos vừa nói vừa siết bạn vào ngực mình.

- Còn tôi, - Porthos nói - tôi khỏng thề thốt gì hết, nhưng tôi đang nghẹn ngào đây, mẹ kiếp! Nếu như phải đánh nhau với các anh thà tôi để mình bị đâm xuyên suốt người còn hơn, vì rằng ở trên đời này tôi chỉ có yêu mến các anh mà thôi.

Và chàng Porthos ruột ngựa vừa nhào vào vòng tay Aramis vừa khóc lên rưng rức.

- Các bạn ơi, - Arthos nói, - đó là điều tôi hy vọng, đó là điều tôi chờ đợi ở hai tấm lòng như các anh. Phải, tôi đã nói và tôi xin nhắc lại số phận của chúng ta ràng buộc với nhau một cách không thể nào thay đổi, dù rằng chúng ta có đi theo một con đường khác. Tôi tôn trọng quan niệm của anh, d Artagnan; tôi tôn trọng niềm tin của anh, Porthos; nhưng dù chúng ta có chiến dấu cho những mục đích trái ngược nhau chúng ta vẫn coi nhau là bạn, các tể tướng, các hoàng thân, các vua chúa sẽ qua đi như một con thác, cuộc nội chiến như một ngọn lửa, nhưng chúng ta, chúng ta có sẽ tồn tại không? Tôi dự cảm là có đấy.

- Đúng rồi, - D Artagnan nói, - chúng ta hãy mãi mãi là ngự lâm quân, và hãy giữ làm một lá cờ duy nhất, cái tấm khăn trứ danh ở đồn Saint-Gervais mà vị giáo chủ vĩ đại đã cho thêu lên ba bông hoa huệ.

- Phải rồi, - Aramis nói, - là người phe giáo chủ hay Fronde, chăng can hệ gì đến ta? Chúng ta lại tìm những người trợ lực cho các cuộc quyết đấu, những bạn bè tận tụy cho những công việc nghiêm, trọng, những bạn vui vầy cho những thú vui.

- Và mỗi khi mà chúng ta gặp nhau trong một cuộc hỗn chiến, - Arthos nói, - chi cần nói một tiếng: "Quảng trường Hoàng gia" là chúng ta đưa kiếm sang tay trái và giơ tay phải ra nắm tay nhau; dù ở giữa một cuộc chém giết điên loạn cũng vậy?

- Anh nói thật mê hồn? - Porthos bảo.

- Anh là con người vĩ đại nhất, - D Artagnan nói, - và riêng anh, anh vượt chúng tôi hàng chục cái đầu.

Arthos mỉm cười với nỗi vui mừng khôn tả.

- Như thế là thoả thuận rồi nhé, - anh nói. - Nào, các anh giơ tay ra. Các anh có còn là tín đồ chút nào không?

- Đúng thế! - D Artagnan nói.

- Chúng ta sẽ là tín đồ trong dịp này, để trung thành với lời thề của chúng ta, - Aramis nói.

- A! - Porthos nói, - tôi sẵn sàng viện bất cứ ai mà các anh muốn đưa ra để thề, cả thánh Mahomet(2) cũng được. Quỷ bắt tôi đi, nếu tôi nói sai rằng chưa bao giờ tôi sung sướng như lúc này.

Và chàng Porthos tốt bụng chùi đôi mắt vẫn còn ướt:

- Các anh có ai mang một cây thánh giá nào không? - Arthos hỏi.

Porthos và d Artagnan nhìn nhau lắc đầu như những người bị bất ngờ.

- Aramis mỉm cười và móc ở ngực ra một chiếc thập tự kim cương đeo vào cổ bằng một chuỗi ngọc trai.

- Có đây, anh nói.

- Vậy, Arthos lại nói, - chúng ta hãy thề trước cây thánh giá này, dù nó có bằng chất gì thì vẫn là một cây thánh giá. Chúng ta xin thề là dù thế nào đi chăng nữa chúng ta sẽ đoàn kết mãi mãi và lời thề ấy không những ràng buộc bản thân chúng ta mà còn ràng buộc cả con cháu chúng ta nữa! Lời thề ấy có hợp ý các anh không?

- Có! - Mọi người cũng nói.

- A! Đồ xỏ lá! - D Artagnan ghé sát tai Aramis mà nói thầm.

- Cậu cho chúng tớ thề trên cây thánh giá của một nữ Fronde.

Chú thích:

(1) chỉ Milady

(2) Thánh của Đạo.

-*-*-*-

Chương 31

Bến phà sông l'Oise

Chúng tôi hy vọng rằng độc giả đã không quên bẵng - người lữ khách trẻ tuổi mà chúng tôi đã để lại trên con đường đi Flandre.

Đến lúc không còn trông thấy người đỡ đầu của mình đứng ở trước ngôi nhà thờ cổ vương giả đưa mắt theo dõi mình, Raoul thúc ngựa phi lên trước hết để tránh khỏi những ý nghĩ đau buồn của mình và sau nữa để giấu Olivain nỗi xúc động đang làm mình biến sắc.

Tuy nhiên một tiếng đồng hồ phóng nhanh chẳng mấy chốc xua tan những đám mây u ám đã làm rầu rĩ trí tưởng tượng đến là phong phú của chàng tuổi trẻ. Nỗi vui thú lạ lẫm được tự do - thú vui có cái ngọt ngào của nó, ngay cả đối với những kẻ chưa từng đau khồ vì sự lệ thuộc của mình - mạ vàng cho Raoul trời và đất, và nhất là cái chân trời xa xăm và xanh biếc của cuộc đời mà người ta gọi là tương lai.

Song le sau nhiều lần thử chuyện trò với Olivain, anh nhận ra rằng những ngày dài đằng đẵng cứ trôi qua như thế cũng buồn lắm, và lời nói của bá tước thật là ngọt ngào, thật là dễ nghe, thật là thú vị lại hiện lên trong trí nhớ anh về những thành phố mà người ta đi qua, và về những nơi đó thì chẳng ại còn có thể cung cấp cho anh những tin tức quý báu như anh đã thu được ở Arthos, người hướng dẫn thông thái nhất và vui tính nhất.

Một kỷ niệm khác lại khiến Raoul buồn rầu: đến Louvre, anh đã trông thấy khuất sau một rặng cây phong, một toà lâu đài gợi nhớ da diết lâu đài ở La Vallière đến nỗi anh dừng lại để ngắm nghía đến mười phút, rồi vừa thở dài vừa tiếp tục ra đi, chẳng buồn trả lời Olivain đã kính cẩn hỏi anh vì sao lại chú ý đến thế. Cái vẻ của những vật bên ngoài là một dây dẫn bí hiểm nó nối với những sợi tơ của trí nhớ và dôi khi đánh thức những sợi tơ ấy dậy ngoài ý muốn của chúng ta; một khi sợi dây ấy thức tỉnh thì giống như sợi dây của Ariane(1) nó dẫn dắt trong một mê cung tư tưởng, nơi người ta lạc lối do lần theo cái bóng của quá khứ mà người ta gọi là kỷ niệm. Cho nên việc nom thấy toà lâu đài ấy đã quẳng Raoul trở lại phía Tây năm mươi dặm và đưa anh đi ngược lại cuộc đời mình từ lúc chia tay với cô bé Louise cho đến khi anh mới gặp cô lần đầu, và mỗi bụi cây sồi, một cái chong chóng nhìn thấy trên cao, một mái ngói đá đen đều nhắc nhở anh là đáng lẽ trở về với các bè bạn thuở ấu thơ thì anh mỗi lúc một xa rời hơn và cũng có thể anh đã xa rời họ cho đến mãi mãi.

Lòng buồn rầu, đầu nặng trĩu, anh sai Olivain dắt ngựa đến một cái quán nhỏ mà anh vừa trông thấy trên đường còn cách xa độ nửa tầm súng trường. Còn anh nhảy xuống đất và dừng chân dưới một lùm cây dẻ đang nở hoa rất đẹp xung quanh vo ve từng đàn ong mật.

Ngay tại đây có một cái bàn như đặt sẵn để viết, anh dặn Olivain bảo chủ quán mang đến cho anh bút mực và giấy viết thư.

Olivain tuân lệnh, còn Raoul ngồi xuống tỳ khuỷu tay lên bàn, cặp mắt mơ hồ chìm vào trong phòng cảnh mê hồn rải rác những cánh đồng xanh và lùm cây, thỉnh thoảng lại rắc hoa như tuyết rơi xuống người anh.

Raoul ngồi đấy đến gần mười phút thì đã năm phút đắm mình trong mộng; chợt trong khoảng thời gian mà cặp mắt lơ đãng của mình bao quát, anh thấy ngọ nguậy một khuôn mặt đỏ gay, một chiếc khăn quấn quanh mình, một khăn vắt trên cánh tay, mũ vải màu trắng đội đầu tiến lại gần, mang đến cho anh gíấy bút và mực.

- A, a! - cái quái tượng hiện hình nói - tuồng như tất cả các nhà quý tộc đều có những ý nghĩ giống nhau: chỉ cách đây mới mười lăm phút một vị lãnh chúa trẻ, cưỡi ngựa tốt như ông dáng mạo cao kỳ như ông tuổi trạc bằng ông, cũng nghỉ chân trước bụi cây này, sai mang bàn ghế ra đây và đã ăn ở đây với một bác già có vẻ là viên quản lý của ông ta xơi gọn một cái bánh nướng không để lại một mẩu và nốc cạn một chai rượu vang Mâcon không để lại một giọt; nhưng may thay chúng tôi vẫn còn loại rượu ấy và bánh ấy, và nếu ông muốn sai...

- Không, không, ông bạn ơi, - Raoul mỉm cười nói, xin cảm ơn ông, lúc này tôi chỉ cần đến những thứ đã bảo ông: song tôi sẽ rất sung sướng nếu mực thật đen, bút thật tốt, được như vậy tôi sẽ trả ông tiền bút bằng giá chai rượu và tiền mực bằng giá cái bánh nướng.

- Thế thì thưa ông, - chủ quán nói, - tôi sẽ cho tên đầy tớ của ông cái bánh và chai như vậy là ông sẽ được kèm thêm bút và mực không phải trả tiền.

- Tùy ý ông, Raoul nói, anh bắt đầu cuộc tập sự của mình với cái tầng lớp thật đặc biệt này của xã hội, trước kia khi còn trộm cướp trên những đường cái lớn thì nó thông đồng với chúng ta, và từ khi không còn trộm cướp thì nó tha hồ thay thế chúng.

Chủ quán yên tâm về khoản tiền thu, đặt giấy và bút mực lên bàn. Cũng may là bút cũng khá tốt, và Raoul hạ bút viết.

Chủ quán đứng trước anh và ngắm nghía với niềm thán phục bất ý khuôn mặt tuyệt đẹp vừa nghiêm trang vừa dịu dàng. Sắc đẹp bao giờ cũng đã và sẽ là một hoàng hậu.

Lúc ấy Olivain ra xem Raoul có cần gì không, thì chủ quán nói:

- Không phải một thực khách như ban nãy đâu, ông chủ trẻ của anh không đói đâu.

- Trước đây ba hôm, ông tôi ăn vẫn ngon, nhưng biết làm thế nào, từ hôm kia đến giờ ông ấy chăng thiết ăn uống.

Rồi Olivain và chủ quán quay về tiệm. Theo thói quen của những tên đầy tớ mãn nguyện về thân phận của họ, Olivain kể cho chủ quán nghe tất cả những gì hắn có thể nói về người quý tộc trẻ.

Trong khi ấy thì Raoul viết:

"Thưa ông, Sau bốn giờ đi đường, tôi dừng lại để viết cho ông, bởi vì lúc nào tôi cũng thấy thiếu ông, và lúc nào tôi cũng chỉ chực quay đầu lại như để trả lời khi ông nói với tôi. Tôi thật bàng hoàng trước sự ra đi của ông và thật đau lòng về sự chia ly của chúng ta, đến nỗi chỉ biểu hiện được một sự nhỏ nhoi là tất cả những gì tôi cảm thấy là trìu mến và biết ơn đối với ông. Thưa ông, ông sẽ tha thứ cho tôi, vì rằng lòng ông rất hào hiêp, ông đã hiểu cả những gì diễn ra trong lòng tôi.

Mong ông hãy viết thư cho tôi, bởi vì những lời khuyên nhủ của ông là một phần của cuộc đời tôi. Tiếp thêm nữa, nếu tôi dám nói với ông, tôi rất lo lắng, hình như chính ông, ông cũng đã chuẩn bị cho một cuộc phiêu lưu nguy hiểm nào đó mà tôi đã không dám hỏi ông, vì ông chẳng nói với tôi gì cả. Cho nên ông thấy đấy, tôi rất cần có tin tức của ông. Từ khi không có ông ở bên cạnh, lúc nào tôi cũng sợ sai hỏng. Thưa ông, ông đã nâng đỡ tôi mạnh mẽ biết chừng nào và bây giờ tôi xin thề rằng tôi thấy mình rất lẻ loi. Thưa ông, nếu ông có tin tức gì ở Blois, xin ông làm ơn nói cho tôi nghe vài lời về cô bạn gái nhỏ La Vallière của tôi, khi chúng ta ra đi, sức khỏe của cô ấy có điều đáng lo ngại. Thưa với ông và người che chở thân mến của tôi, mong ông hiểu cho rằng những kỷ niệm trong cái thời tôi được sống bên ông đối với tôi quý báu và cần thiết biết chừng nào. Đôi khi, tôi hy vọng rằng ông cũng nghĩ đến tôi và nếu trong một lúc nào đó, nếu ông cảm thấy thiếu tôi, mong nhớ tôi một chút, thì tôi sẽ vô cùng sung sướng nghĩ rằng ông đã cảm thấy tình yêu thương và lòng tận tuy của tôi đôi với ông, và rằng tôi đã biết làm cho ông hiểu những điều đó trong thời gian tôi có diễm phúc được sống bên ông".

Thư viết xong, Raoul thấy mình thanh thản hơn, anh nhìn kỹ xem Olivain và gã chủ quán có rình trộm mình không và đặt một cái hôn lên mảnh giấy, một cái vuốt ve xúc động và thầm lặng mà trái tim của Arthos có thể đoán ra khi mở phong thư.

Trong khoảng thời gian ấy, Olivain đã nốc chai rượu và ăn xong cái bánh nướng; ngựa cũng đã ăn uống nghỉ ngơi. Raoul ra hiệu gọi chủ quán đến, ném một đồng êquy lên bàn, lên ngựa và khi đến Senlis thì bỏ thư vào bưu trạm.

Chầu nghỉ ngơi đã cho phép người và ngựa tiếp tục đi, đường không dừng lại. Đến Verberie, Raoul sai Olivain hỏi tin tức về người quý tộc trẻ tuổi đi trước họ; người ta cho biết là có trông thấy anh ta đi qua trước đó bốn mươi lăm phút, nhưng vì cưỡi ngựa rất tốt như gã chủ quán đã nói, cho nên đi rất nhanh.

- Chúng ta hãy cố đuổi kịp vị quý tộc ấy, - Raoul bảo Olivain - - Ông ấy cũng đến quân đội như chúng ta, và đó sẽ là bạn đường thú vị.

Bốn giờ chiều thì đến Compiègne. Raoul nghỉ chân và ăn thấy ngon miệng. Anh lại hỏi thăm về người quý tộc trẻ đi trước mình.

Cũng như Raoul, anh ta dừng ở khách sạn "Quả chuông và cái chai" (2 )là quán sang nhất ở Compiègne, rồi lại tiếp tục lên đường và nói rằng muốn đến ngủ ở Noyon.

- Ta đến ngủ ở Noyon, - Raoul nói.

- Thưa ông, - Olivain kính cẩn đáp, - cho phép tôi nhận xét rằng sáng nay ta đã làm cho ngựa mệt nhoài rồi. Tôi thiết nghĩ ta ngủ lại đây để sáng mai đi sớm thì tốt hơn. Chặng đường đầu tiên đi mười tám dặm là vừa rồi.

- Bá tước de La Fère muốn rằng tôi phải đi gấp, - Raoul nói, - và tôi cần phải theo kịp Hoàng thân vào buổi sáng hôm thứ tư. Vậy ta hãy cố đến Noyon, chặng này cũng chỉ bằng ta từ Blois đến Paris thôi mà. Tám giờ tối là tới nơi. Ngựa sẽ được nghỉ suốt đêm và sáng mai năm giờ ta sẽ lại lên đường.

Olivain chẳng dám phản đối; nhưng hắn vừa đi theo vừa lầu bầu nói qua kẽ răng:

- Này này, hãy vứt cái hăng hái ngày đầu tiên ấy đi. Ngày mai, thay cho hai mươi dặm một ngày cậu sẽ đi mười dặm, ngày kia năm dặm và sau ba ngày nữa cậu sẽ nằm giường. Đến đây thì chắc hẳn cậu phải nghỉ thôi. Tất cả các cậu thanh niên ấy đều là những tay huênh hoang khoác lác thực sự.

Ta thấy rõ là Olivain không được dạy dỗ ở trường học của các Planchet và Grimaud.

Quả tình Raoul thấy mệt rồi; song anh muốn thử sức mình, và được nuôi dưỡng bằng những nguyên tắc của Arthos, chắc chắn là đã nghe nói hàng nghìn lần những chặng đường hai mươi dặm, anh không muốn mình ở dưới tầm người mẫu của mình. d Artagnan, con người thép ấy, dường như thân thể chỉ toàn những gân cốt và bắp thịt đã khiến anh rất khâm phục.

Thế là anh lại tiếp tục đi và mặc dầu những lời nhận xét của Olivain, anh càng thúc ngựa mau hơn, và đi theo một con đường nhỏ dẫn đến một bến phà sẽ ngắn hơn đi đường cái một dặm như người ta đã nói chắc với anh; khi đến đỉnh một ngọn đồi, anh trông thấy trước mặt là con sông. Một nhóm người cưỡi ngựa đứng ở bờ sông và sẵn sàng xuống phà. Raoul không còn hồ nghi là trong đám ấy có chàng quý tộc trẻ và tuỳ tùng. Anh cất tiếng gọi nhưng còn xa quá; thế là ngựa đang mệt phờ anh cũng thúc nó phi nước đại; nhưng một quãng nhấp nhô lên che lấp dám lữ khách, và khi anh lên đến một chỗ cao hơn thì đã thấy phà rời bến đi sang bờ bên kia.

Đã lỡ không kịp sang phà cùng với đám lữ khách, Raoul dừng lại đợi Olivain.

Vừa lúc ấy có tiếng kêu vang lên từ ngoài sông. Raoul quay lại xem và phải lấy tay che mắt vì bị chói nắng xế chiều.

- Olivain! - anh kêu lên, - ta nhìn thấy cái gì ở ngoài kia nhỉ?

Một tiếng kêu thứ hai nổi lên còn chói tai hơn nữa.

- Ôi, ông ơi - Olivain nói, - dây kéo phà đứt và phà bị trôi.

- Nhưng cái gì ở dưới nước kìa? Nó đang giãy giụa.

- À, đúng rồi! - Raoul vừa nói vừa chăm chăm nhìn vào một điểm ở trên sông mà tia nắng mặt trời chiếu lên rực rỡ thì thấy một con ngựa và một kỵ sĩ.

- Họ đang chìm, - Olivain kêu lên.

Đúng thế và Raoul cũng vừa mới cảm thấy chắc chắn một tai nạn xảy ra và một người sắp chết đuối. Anh nới tay cương, thúc đinh vào bụng ngựa, nó đau quá và cảm thấy không vướng víu gì nữa bèn nhảy vọt qua một hàng lan can bao quanh bến đò và rơi tõm xuống sông làm nước và bọt bắn tung tóe ra xa.

- Ôi! Lạy Chúa? - Olivain kêu lên. - Ông làm cái gì thế, ông ơi!

Raoul điều khiển con ngựa đến phía kẻ khốn khổ đang bị nguy ngập. Đó chẳng qua là một trò tập dượt quen thuộc đối với anh.

Được nuôi nấng bên bờ sông Lois có thể nói anh được ru trên sông nước; hàng nghìn lần anh bơi qua sông và hàng trăm lần anh cưỡi ngựa bơi qua. Arthos lo xa đến thời cho cậu tử tước vào lính đã rèn cho cậu dày dạn trong tất cả những cuộc tập dượt đó.

- Ôi, lạy Chúa, - Olivain lại thất vọng kêu lên, - nhìn thấy ông thế này, bá tước sẽ nói sao?

- Bá tước sẽ làm như tôi, - Raoul đáp và thúc mạnh con ngựa.

- Nhưng còn tôi, còn tôi! Tôi sang bằng cách nào? - Olivain thất vọng, mặt tái mét, vừa kêu to vừa hoa chân múa tay ở trên bờ sông.

- Nhảy xuống đi, đồ nhút nhát? - Raoul bảo và vẫn bơi.

Rồi anh nói với người lữ khách đang giãy giụa ở cách anh hai chục bước.

- Cố gắng lên, ông ơi, tôi đến giúp ông đây.

Olivain tiến lên, lùi lại, cho ngựa chồm lên, cho nó quay vòng cuối cùng sợ xấu hổ, hắn băng lên như Raoul đã làm, nhưng cứ lải nhải mãi: "Tôi chết mất! Chúng ta toi mạng rồi".

Trong khi ấy, chiếc phà trôi xuôi vun vút theo dòng nước và người trong phà kêu la om sòm.

Một người đàn ông tóc hoa râm nhảy từ trên phà xuống và bơi ráo riết về phía kẻ đang chìm, nhưng ông ta tiến chậm chạp vì phải bơi ngược dòng.

Raoul tiếp tục bơi và tiến nhanh rõ rệt, nhưng con ngựa và người kỵ sĩ mà anh không rời mắt cứ chìm đi trông thấy: con ngựa chỉ còn hở lỗ mũi trên mặt nước, còn người kỵ sĩ đã bỏ dây cương và vùng vẫy tay giơ lên, đầu đã ngã ra phía sau. Chỉ một phút nữa thôi là tất cả mất hút.

- Cố lên! Cố lên! - Raoul gào to.

- Muộn quá rồi? - Muộn quá rồi! - Người thanh niên lẩm bẩm.

Nước trào qua đầu anh và dập tắt tiếng nói trong miệng anh.

Raoul nhào ra khỏi con ngựa của mình mà anh để nó tự xoay xở, và bơi ba bốn sải đã tới bên chàng quý tộc. Anh túm ngay lấy cái dây buộc hàm thiếc ngựa và nâng đầu nó lên khỏi mặt nước; con vật thở dễ hơn, và dường như hiểu rằng người ta đến cứu, nó gắng sức lên.

Đồng thời Raoul nắm lấy một tay người thanh niên và đẩy anh lên bờm ngựa, anh ta vội vàng bám chặt lấy đúng như người sắp chết đuối. Biết chắc rằng anh ta sẽ không buông ra nữa, Raoul chỉ còn lo cho ngựa, anh dẫn nó bơi về phía bờ đối diện, cắt chéo dòng nước và chậc chậc lưỡi để khuyến khích nó.

Bỗng nhiên con ngựa vấp vào một mô đất ngầm và chạm chân lên cát.

- Thoát rồi! - Chàng quý tộc bất giác lẩm bẩm, rồi buông bờm ngựa ra trườn từ trên yên ngựa xuống vòng tay Raoul.

Chỉ còn cách bờ có mười bước, Raoul vác kẻ bị nạn đã ngất đi vào bờ, đặt lên bãi cỏ, cởi dây cổ áo, tháo các khuy và kẹp áo chẽn.

Một phút sau người đàn ông tóc hoa râm đã tới bên anh.

Olivain cuối cùng cũng tới được bờ sau bao nhiêu lần làm dấu thánh và những người trên phà cũng ráng sức chống vào bờ nhờ một chiếc sào vớ được ở trong phà.

Nhờ sự săn sóc của Raoul và của người nhà chàng kỵ sĩ, sự sống trở lại trên đôi má nhợt nhạt của kẻ sắp chết, đôi mắt anh mở ra lúc đầu ngơ ngác, nhưng rồi liền sau đó nhìn chằm chằm vào người đã cứu mình.

- A! Ông ơi, - anh kêu lên, - Chính ông là người tôi đang tìm đây: không có ông thì tôi chết rồi, ba lần chết rồi.

- Nhưng người ta sống lại chứ, ông thấy đấy, - Raoul đáp, - và chúng ta cũng chỉ phải một mẻ tắm thôi.

Người tóc hoa râm nói:

- Ôi, thưa ông, đội ơn ông nhiều lắm?

- A, kìa ông, ông Arminges quý hoá của tôi! Tôi làm ông sợ hết hồn phải không? Ông là gia sư của tôi, tại sao ông không dạy tôi bơi giỏi hơn.

- Ôi thưa bá tước, - Ông già nói, - nếu ông có mệnh hệ nào, tôi sẽ chẳng bao giờ dám ra mắt ngài thống chế.

- Nhưng chuyện ấy xảy ra như thế nào nhỉ? - Raoul hỏi.

Người được tôn là Bá tước đáp:

- A, thưa ông, xảy ra một cách thật là đơn giản. Chúng tôi ra được non một phần ba sông thì dây phà đứt. Người đi phà kêu la và nhốn nháo làm cho con ngựa của tôi hoảng sợ và nhảy xuống nước.

- Tôi bơi kém quá nên chẳng dám lao xuống sông. Đáng lẽ lựa theo những cử động của con ngựa thì tôi lại làm cho nó tê liệt và tôi đang chết đuối một cách tao nhã nhất đời thì ông đến vừa đúng lúc để kéo tôi lên. Cho nên thưa ông, nếu ông vui lòng, thì từ nay trở đi chúng ta sẽ là những kẻ sống chết có nhau.

- Thưa ông, - Raoul cúi mình thi lễ, - tôi sẽ hết mình làm kẻ bộ hạ của ông, tôi xin đảm bảo như vậy.

- Tôi là bá tước de Guise, - chàng kỵ sĩ nói tiếp, - cha tôi là thống chế Grammont. Và bây giờ ông biết rõ tôi rồi, xin ông ban cho tôi vinh dự được biết ông là ai?

- Tôi là tử tước de Bragelonne, - Raoul đáp và đỏ mặt lên vì không thể nói tên của cha mình như bá tước de Guise đã nói.

- Thưa tử tước, gương mặt ông, lòng tốt của ông và tinh thần quả cảm của ông thu hút tôi đến với ông, ông đã nhận tất cả lòng biết ơn của tôi. Chúng ta hãy ôm hôn nhau, tôi cầu xin tình bạn của ông.

Raoul ôm bá tước mà nói:

- Thưa ông, tôi đã hết lòng yêu mến ông rồi đó. Tôi mong ông hãy coi tôi như một người bạn tận tụy.

- Bây giờ tử tước đi đâu? - De Guise hỏi.

- Đi đến quân đội của ngài Hoàng thân, bá tước ạ.

- Tôi cũng vậy, - chàng thanh niên mừng rỡ kêu lên.

- À? Hay lắm, chúng ta sẽ cùng đi bắn phát súng đầu tiên.

- Tốt lắm, các ông hãy thương yêu nhau? - Viên quản lý nói.

Cả hai đều trẻ tuổi, chắc hẳn có cùng một ngôi sao dẫn đường và ắt phải gặp nhau.

Hai chàng thanh niên mỉm cười với niềm tin cậy của tuổi trẻ.

- Và bây giờ, - viên quản lý nói,

- Các ông phải thay quần áo, lúc bọn đầy tớ ra khỏi phà, tôi đã sai chúng về sửa soạn, chắc giờ đã tới khách sạn. Quần áo và rượu vang làm ấm người lên đấy. Ta về đi.

Hai chàng trai chẳng có gì để phản đối đề nghị đó; trái lại còn thấy là tuyệt diệu. Họ liền lên ngựa, cùng nhìn nhau và ngắm nghía nhau: quả thật đó là hai kỵ sĩ phong nhã có vóc người dong dỏng và mảnh dẻ, khuôn mặt cao quý với vầng trán rộng, cái nhìn dịu dàng mà kiêu hãnh, nụ cười trung hậu mà tinh ranh. De Guise có lẽ mười tám tuổi, nhưng chẳng lớn hơn Raoul mới mười lăm tuổi.

Bằng một động tác bất ngờ, họ giơ tay ra với nhau, và thúc ngựa, cùng đi bên nhau quãng đường từ bờ sông đến khách sạn; một người thấy rằng cuộc đời mà mình suýt mất thật tử tế và tươi cười, còn người kia thì cảm ơn Thượng đế đã cho mình sống khá đủ để làm được một điều gì khiến người đỡ đầu của mình vui lòng.

Còn Olivain, hắn là kẻ duy nhất không thoả mãn hoàn toàn về hành động đẹp đẽ của chủ mình. Hắn vắt nước các cánh tay áo và đuôi áo của mình và tiếc rằng một cuộc nghỉ ngơi ở Compiègne chắc hẳn không những tránh cho hắn khỏi tai nạn vừa mới thoát mà còn tránh cho hắn cả những chứng sưng phổi và tê thấp dĩ nhiên sẽ đến.

Chú thích:

(1) Theo thần thoại Hy Lạp, Ariane là người con gái đã cho Têdê một cuộn dây để đi khỏi lạc khi vào mê cung giết con quái vật Minôtô.

(2)Khách sạn Quả chuông và cái chai = Hôtel de la Cloche et de la Bouteille,

-*-*-*-

Chương 32

Cuộc đụng độ nhỏ

Thời gian lưu lại Noyon ngắn ngủi. Ai nấy đều ngủ say. Raoul đã dặn đánh thức anh nếu Grimaud đến nhưng Grimaud không đến.

Những con ngựa chắc hẳn quý trọng tám tiếng đồng hồ nghỉ ngơi tuyệt đối lại có ổ rơm tử tế. Bá tước de Guise tỉnh dậy lúc năm giờ khi Raoul đến chúc mừng buổi sớm. Mọi người ăn lót dạ vội vàng và đến sáu giờ đã đi được hai dặm.

Cuộc chuyện trò của chàng bá tước trẻ tuổi với Raoul thật là thú vị. Cho nên Raoul lắng nghe nhiều và bá tước trẻ tuổi kể mãi. Anh lớn lên ở Paris nơi Raoul mới đến có một lần. Ở trong cung đình mà auh chưa bao giờ thấy, những chuyện điên rồ của đôi thị đồng hai cuộc quyết đấu mà anh đã tìm được cách tham gia, mặc dầu có những sắc dụ cấm đoán và nhất là bị ông thầy ngăn cản, là những chuyện khơi dậy cao độ trí tò mò của Raoul. Raoul mới đến chơi có nhà ông Scarron và kể ra với Guise những người mình đã gặp. Guise biết tất cả mọi người: bà de Neuillan, cô d Aubigné, cô de Scudéry, cô Paulet, bà de Chevreuse. Anh giễu cợt tất cả mọi người một cách hóm hỉnh; Raoul chỉ lo anh ta giễu cợt cả bà de Chevreuse mà anh có một mối thiện cảm thật sự và sâu sắc; song do linh tính hoặc do quý mến nữ công tước Chevreuse, anh ta chỉ nói toàn điều hay về bà.

Những lời tán dương ấy làm tăng gấp bội tình cảm của Raoul đối với bá tước.

Rồi đến mục những chuyện tán gái và yêu đương. Về phương diện này nữa, Bragelonne chỉ có nghe nhiều hơn là nói. Raoul đã từng nghe bá tước de La Fère nói nhiều về triều đình, nhưng từ cái thời Arthos biết nó đến nay, nó đã thay đồi bộ mặt rất nhiều rồi. Cho nên tất cả câu chuyện của bá tước de Guise đều mới lạ đối với người bạn đồng hành. Chàng bá tước trẻ hay nói xấu và hỏm hỉnh đem tất cả mọi người ra điểm mặt. Anh kể những chuyện yêu đương cũ của bà Longueville với Coligny, và cuộc đấu kiếm của Coligny ở quảng trường hoàng gia, một cuộc đấu bất hạnh với ông ta mà bà de Longueville nhìn qua một cơn ghen tuông. Rồi những chuyện tình ái mới của bà với hoàng thân de Marcillac, người ta đồn rằng ông này ghen với bà ta đến nỗi muốn cho giết tất cả mọi người, kể cả tu viện truởng D Herblay là giám đốc của ông ta. Lại chuyện yêu đương giữa hoàng thân de Galles với Quý nương mà sau này người ta gọi là đại Quý nương từ đó rất là nổi tiếng do cuộc hôn nhân bí mật của bà với ông Lauzun. Ngay cả hoàng hậu cũng không được buông tha, và giáo chủ Mazarin cũng có phần trong cuộc chế giễu.

Một ngày qua nhanh như một giờ. Viên quản lý của bá tước là người vui tính, thuộc xã hội thượng lưu, thông thái đến tận gốc, như cậu học trò của ông nói; nhiều lần gợi cho Raoul nhớ đến sự uyên bác sâu xa và cái tính giễu cợt hóm hỉnh và cay độc của Arthos, nhưng còn về cái duyên dáng, tế nhị và cái vẻ quý phái ngoại quan thì chẳng thể nào so sánh được với Bá tước de La Fère.

Những con ngựa được nương nhẹ hơn hôm qua, đến bốn giờ chíều dừng lại ở Arras. Đã đến gần chiến địa rồi, người ta quyết định nghỉ lại ở thị trấn này cho đến ngày hôm sau nữa; các biệt đội Tây Ban Nha đôi khi lợi dụng đêm tối hành quân đến tận vùng phụ cận Arras.

Quân đội Pháp đóng từ Pont-à-Marc đến Valenciennes và quanh lại Douai. Người ta đồn rằng ngài Hoàng thân đích thân ở Béthune.

Quân đội địch rải từ Cassel đến Courtray và do chúng toàn cướp phá và hãm hiếp, nên những người dân khốn khổ vùng biên giới rời bỏ những chốn nhà cửa hẻo lánh của họ, đến ẩn náu trong các thị trấn kiên cố. Arras đầy những người lánh nạn.

Người ta nói cuộc chiến đấu sắp tới chắc là có tính quyết định cho đến lúc này sự vận động của Hoàng thân chỉ là để chờ viện binh mà cuối cùng tất sẽ tới. Các chàng thanh niên mừng cho mình đã đến vừa đúng dịp.

Họ cùng ăn và ngủ cùng buồng. Họ ở vào lứa tuổi đánh bạn với nhau rất nhanh chóng, cứ như là đã quen nhau từ thuở mới lọt lòng và không bao giờ có thể xa rời nhau nữa.

Buổi tối dành cho chuyện chiến tranh. Bọn đầy tớ lau chùi vũ khí. Các chàng thanh niên nạp đạn sẵn vào súng ngắn đề phòng trường hợp xô xát và họ chợt tỉnh giấc, chán nản thất vọng, vì cả hai đã nằm mơ thấy mình đến đã quá muộn để tham gia chiến dấu.

Buổi sáng hôm đó có tin đồn rằng Hoàng thân de Condé đã rời khỏi Béthune để rút về Carvin nhưng vẫn đề quân đồn trú ở thị trấn đầu tiên ấy. Nhưng vì tin tức ấy chưa có gì xác thực, hai chàng thanh niên quyết định cứ tiếp tục đi về Béthune, cùng lắm thì dọc đường rẽ chếch sang bên phải và đi đến Carvin.

Viên quản lý của bá tước de Guise thuộc làu vùng này; ông đưa ra ý kiến là đi theo một đường tắt ở giữa hai con đường đi Lens và Béthune; đến Ablen sẽ hỏi thăm tin tức. Đường đi thế nào sẽ ghi lại cho Grimaud.

Mọi người lên đường khoảng bảy giờ sáng.

De Guise trẻ người và hung hăng, bảo Raoul:

- Chúng ta đây có ba chủ và ba tớ; đầy tớ của ta trang bị khí giới đầy đủ nhưng đầy tớ của anh xem chừng khá bướng bỉnh.

- Tôi chưa biết vào việc thì nó sẽ ra sao. - Raoul đáp nhưng nó là người Brơtông, điều ấy hứa hẹn đấy.

- Phải, phải - de Guise nói - tôi tin rằng khi cần thì nó sẽ nồ súng; còn tôi có hai người chắc chắn, họ đã đi chiến trận với cha tôi; như vậy chúng ta có sáu chiến sĩ cả thảy; ví phỏng ta gặp một toán du kích nhỏ số người bằng ta hoặc nhiều hơn chăng nữa, thì chúng ta có công kích không, Raoul?

- Có chứ, - tử tước đáp.

- Ơ này, các chàng thanh niên ơi? Ơ này! - víên quản lý xen vào câu chuyện. - Các ông bàn bạc hay đấy nhỉ, Chúa ơi! Thế còn những điều dặn dò của tôi, bá tước nghĩ sao? Ông quên rằng tôi đuợc lệnh đưa ông an toàn đến chỗ Hoàng thân ư? Vào quân đội rồi, ông có muốn liều thân thế nào, xin tùy ý, nhưng từ đây đến đó, tôi xin báo trước rằng với tư cách chỉ huy quân đội, tôi ra lệnh rút lui và quay lưng lại cái lông mũ lính đầu tiên mà tôi trông thấy.

De Guise và Raoul đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Vùng đất đai này phủ khá nhíều cây cối, thỉnh thoảng lại gặp những toán nông dân rút lui, lùa đàn gia súc và mang vác hoặc chở trong xe những đồ vật quý giá nhất.

Đoàn lữ hành đến Ablanh không gặp biến cố gì. Ở đây họ hỏi thăm và được biết Hoàng thân quả thật đã rời Béthune và đóng ở giữa Cambrin và Venthie. Thế là họ để lại bản đồ lại cho Grimaud, họ đi một đường tắt sau nửa giờ thì đến bờ một con suối nhỏ, suối này chảy ra sông Lys.

Phong cảnh thật đẹp, ngang dọc những thung lũng xanh biếc như ngọc bích. Chốc chốc con đường họ đi lại xuyên qua một khu rừng nhỏ. Đề phòng một cuộc mai phục, đến mỗi khu rừng, viên quản lý lại cho hai tên đầy tớ của bá tước đi trước coi như đội tiền vệ. Viên quản lý và hai chàng thanh niên là đội quân chính, còn Olivain với khẩu súng trường trên đầu gối và mắt canh chừng, làm hậu vệ.

Từ một lát rồi đã nom thấy một cánh rừng khá rậm rạp ở phía chân trời. Còn cách rừng đó trăm bước, ông Arminges đã cẩn thận như mọi khi cử hai đầy tớ của bá tước đi lên trước.

Hai tên đầy tớ vừa khuất trong các bụi cây, hai thanh niên và viên quản lý đi sau gần ba trăm bước chuyện trò vui vẻ, Olivain đi phía sau, cũng cách quãng chừng ấy, thì bất thình lình năm sáu tiếng súng trường vang lên. Viên quản lý kêu dừng lại, hai chàng thanh niên tuân lệnh và ghìm cương ngựa. Cùng lúc ấy thấy hai tên đầy tớ phi ngựa quay trở lại.

Nóng lòng biết nguyên nhân của loạt súng nổ ấy, hai thanh niên thúc ngựa đến đón hai đầy tớ. Viên quản lý đi theo sau.

- Các anh có bị ngăn giữ lại không? - Hai thanh niên vội vã hỏi.

- Không ạ, - bọn đầy tớ đáp, - có thể là chúng tôi cũng chưa bị trông thấy, những phát súng nổ phía trước chúng tôi một trăm bước, gần nơi rậm rạp nhất của khu rừng, và chúng tôi quay lại để xin ý kiến.

- Ý kiến của tôi, - Ông Arminges nói, - mà cũng cần phải thế là chúng ta rút lui, trong khu rừng ấy có thể có mai phục.

Bá tước hỏi bọn đầy tớ:

- Các anh không trông thấy gì ư?

- Tôi thấy, - một tên đáp, - hình như có mấy kỵ sĩ mặc quần áo vàng luồn lách trong lòng suối.

- Đúng đấy, - viên quản lý nói, - chúng ta sa vào toán quân Tây Ban Nha rồi. Trở lui, các ông ơi, trở lui!

Hai thanh niên đưa mắt hỏi ỷ kiển nhau, và vừa lúc ấy người ta nghe thấy một tiếng súng lục nổ và hai ba tiếng kêu cứu.

Hai thanh niên bằng một cái nhìn cuối cùng tin chắc rằng họ đều ở trong tư thế không lùi được, và vì viên quản lý đã cho ngựa quay lại, cả hai đều thúc ngựa tiến lên.

Raoul kêu:

- Olivain, theo tôi!

Còn bá tước de Guise kêu:

- Urbain và Blanchet , theo tôi!

Và trước khi viên quản lý hết kinh ngạc thì họ đã biến vào trong rừng.

Vừa thúc ngựa, hai chàng thanh niên vừa cầm lăm lăm súng trong tay.

Năm phút sau, họ tới nơi có vẻ đã phát ra tiếng động, cho ngựa đi chậm lại và tiến lên thận trọng.

- Suỵt! - De Guise nói - Bọn kỵ binh.

Đúng, ba tên cưỡi ngựa và ba tên đã xuống đất.

- Chúng làm gì? Anh có thấy không?

Có, hình như chúng lục soát một ngươi bị thương hoặc chết rồi.

- Đó là một cuộc ám sát hèn nhát nào đó, - de Guise nói.

- Vậy mà chúng là những người lính đấy. - Bragelonne đáp.

- Phải, nhưng là bọn du kích, nghĩa là bọn cướp đường.

- Công kích nào! - Raoul bảo, - Công kích nào? - De Guise đáp...

- Các ông ơi - Viên quản lý khốn khổ kêu lên - Này, các ông ơi! Nhân danh Trời...

Nhưng các thanh niên nào có nghe. Họ đua nhau phóng, và những tiếng kêu la của viên quản lý càng tổ làm thức tỉnh bọn Tây Ban Nha.

Lập tức ba tên du kích cưỡi ngựa xông đến các chàng thanh niên, còn ba tên kia tiếp tục lột nốt số đồ vật của hai người lữ khách, vì rằng khi đến gần, hai thanh niên thấy rõ là có hai người bị nạn, chứ không phải là một.

Còn cách mươi bước de Guise bắn trước nhưng trượt: một tên Tây Ban Nha xông đến nổ súng vào Raoul, anh cảm thấy cánh tay trái đau rát như bị roi quất. Cách bốn bước, anh nhả đạn và tên Tây Ban Nha bị trúng giữa ngực giơ tay lên và ngã vật ra sau mông ngựa, con ngựa quay ngoắt lại và chạy đi mang theo tên lính.

Cùng lúc ấy, Raoul trông thấy như qua một đám mây một nòng súng trường chĩa vào anh. Chợt nhớ đến lời dặn của Arthos, bằng một động tác nhanh như chớp anh cho ngựa chồm lên, súng nổ.

Con ngựa nhảy sang bên cạnh, loạng choạng ngã kềnh ra đè lên chân Raoul.

Tên lính Tây Ban Nha lao tới cầm nòng súng toan dùng báng súng đập vỡ đầu Raoul.

Trong tư thế của mình, Raoul không thể rút kiếm ra khỏi vỏ, cũng không thể rút súng ra khỏi bao. Anh trông thấy báng súng quay quay trên đầu mình và bất giác nhắm mắt lại, thì Guise nhảy một phát đến sát tên Tây Ban Nha và dí súng vào họng nó.

- Đầu hàng ngay! - anh bảo nó, - nếu không thì chết!

- Khẩu súng trường rơi khỏi tay tên lính và nó đầu hàng ngay lập tức Guise gọi một đầy tớ đến giao cho coi tên tù binh và dặn nếu nó lăm le muốn chạy trốn thì cứ bắn vỡ sọ nó ra, rồi anh xuống ngựa và đến với Raoul.

Mặc dầu mặt còn tái xanh do cơn xúc động không tránh khỏi của một sự việc đầu tiên như vậy, Raoul cười nói:

- Thực tình tôi thấy anh trả nợ mau quá và không muốn chịu ơn tôi lâu. Không có anh thì... - Raoul nhắc lại lời bá tước, - tôi chết rồi, ba lần chết rồi.

- Tên địch của tôi chạy trốn, - de Guise nói, - đã giúp tôi dễ dàng đến cứu anh. Nhưng mà anh bị thương có nặng không? Tôi thấy anh máu ra đầm đìa kìa.

- Tôi thấy như một vết xước da ở cánh tay. Hãy giúp tôi rút chân ra khỏi con ngựa đã, và tôi hy vọng chẳng có gì cản trở chúng ta tiếp tục lên đường.

- Ông Arminges và Olivain đã xuống đất và cố nhắc con ngựa lên, nó đang giẫy chết. Raoul rút được bàn chân ra khỏi bàn đạp và cẳng chân ra khỏi mình ngựa, một lát sau mới đứng lên được.

- Không gãy xương chứ? - De Guise hỏi.

- Nhờ trời, không, - Raoul đáp. - Nhưng còn những người bị bọn khốn nạn ám sát thì sao?

Chúng ta đến muộn quá; chúng đã giết chết họ rồi và bỏ chạy, mang theo những thứ cướp được. Hai đầy tở của tôi đang ở bên mấy xác chết.

Raoul nói:

- Ta hãy ra xem họ chết hẳn chưa để cấp cứu cho họ. Olivain này ta chiếm được hai con ngựa, nhưng ngựa tôi mất rồi. Anh hãy lấy con ngựa tốt nhất mà dùng và đưa tôi con ngựa của anh.

Và họ đi đến chỗ những kẻ bị nạn.

-*-*-*-

Chương 33

Vị mục sư

Hai người nằm sóng sượt: một người bất động, mặt úp xuống đất bị ba vết đạn xuyên, Nằm chết trong vũng máu của chính mình. Người kia được hai người đầy tớ đỡ cho tựa lưng vào gốc cây, mắt ngước lên trời, hai tay chắp lại đang ra sức cầu kinh... bác ta bị một vết đạn bắn gãy xương đùi Hai chàng thanh niên thoạt tiên đến chỗ người chết và nhìn thật kinh ngạc.

- Đây là một linh mục đã thế phát. - Bragelonne nói.

- Ôi! Bọn khốn kiếp! Chúng dám đụng đến các vị sứ giả của Chúa!

Urbain, một cựu binh đã từng đi tất cả các chiến trận với quận công - giáo chủ, nói:

- Lại đây, ông ơi. Đối với người kia thì chẳng làm gì được nữa rồi, còn người này có thể còn cứu được.

Kẻ bị thương mỉm cười buồn bã nói:

- Cứu tôi ư! Thôi, hãy giúp cho tôi chết.

- Ông có phải linh mục không? - Raoul hỏi.

- Không, thưa ông.

- Tại vì người đồng hành tội nghiệp của ông có vẻ là một linh mục, Raoul nói.

- Đó là vị linh mục xứ Béthune đấy, ông ạ; ông ta mang các kinh thánh và kho báu của tăng hội đến gửi ở nơi chắc chắn; bởi vì Hoàng thân rời bỏ thị trấn hôm qua và có thể ngày mai quân Tây Ban Nha tới. Do người ta biết rằng các toán quân địch chạy khắp nơi và nhiệm vụ thì nguy hiểm, chẳng ai dám đi cùng, thế là tôi tình nguyện.

- Và thế là bọn khốn nạn tấn công các ông; bọn khốn nạn đã bắn vào một vị linh mục.

Kẻ bị thương nhìn quanh mình và nói:

- Các ông ơi, tôi đau lắm, tuy nhiên tôi vẫn muốn được mang đến một nhà nào đó.

- Để ông được cấp cứu à? - De Guise hỏi.

- Không để tôi được xưng tội.

- Nhưng có lẽ, - Raoul nói, - Vết thương của ông không đến nỗi nguy hiểm như ông tưởng đâu.

- Ông ơi, - kẻ bị nạn nói, - Hãy tin tôi, đừng để mất thì giờ, viên đạn đã bắn vỡ cổ xương đùi và chui lên tận ruột.

- Ông là thầy thuốc à? - De Guise hỏi.

- Không, - kẻ sắp chết nói, - nhưng tôi biết chút ít về các vết thương, mà vết thương của tôi thì chết người đấy. Hãy cố mang tôi đến chỗ nào đó có thể kiếm một linh mục; hoặc phiền các ông đón một, linh mục đến đây và Chúa sẽ thương cho hành động vị thánh ấy; chính là phải cứu vớt linh hồn tôi, chứ thể xác tôi thì đã mất rồi.

- Không thể chết vì làm một việc thiện! Và Chúa sẽ cứu giúp ông.

Kẻ bị nạn gom tất cả sức mình lại như muốn đúng dậy và nói:

- Các ông ơi, nhân danh Chúa Trời? Xin đừng mất thì giờ vào những lời lẽ vô ích; hoặc giúp tôi đi tới làng nào gần nhất, hoặc hãy thề trước sự cứu rỗi linh hồn mình rằng các ông sẽ gửi đến tôi vị mục sư hay một vị linh mục, vị giáo sĩ đầu tiên nào mà các ông sẽ gặp. - Rồi với giọng tuyệt vọng, bác ta nói thêm - Nhưng có lẽ chẳng ai dám tới đâu vì người ta biết rằng quân Tây Ban Nha nhan nhản ở đây, và tôi sẽ chết mà không được xá tội. Lạy Chúa tôi Lạy Chúa tôi! - Kẻ bị thương rên la với cái giọng thảm thiết khiến các chàng thanh niên phải rùng mình - Người không cho phép điều ấy hay sao? Thế thì thật là khủng khiếp?

- Này ông, hãy bình tâm. - De Guise nói. - Tôi xin thề là ông sẽ có được niềm an ủi mà ông yêu cầu. Chỉ cần ông bảo cho tôi biết ở đâu có một ngôi nhà để đến xin cấp cứu và một làng xóm để đến tìm một linh mục.

- Xin cảm ơn, cầu Chúa ban ơn cho ông! Cứ đi theo đường này độ nữa dặm có một tửu quán và đi thêm non một dặm nữa sẽ thấy làng Greney. Ông hãy tìm đến vị linh mục; nếu vị linh mục vắng nhà ông hãy vào tu viện các giáo sĩ Augustins tức là cái nhà cuối cùng của xóm ở bên tay phải và dẫn đến cho tôi một thày cả cũng được! Mục sư hay linh mục đều được cả, miễn là họ đã nhận được ở nhà thờ hiển linh của chúng ta quyền xá tội khi lâm chung.

- Ông Arminges ơi, - de Guise bảo, - Ông hãy ở lại bên kẻ khốn khổ này và trông nom sao cho ông ta được mang đi thật êm ái. Hãy sai làm một cái cáng bằng cành cây, xếp tất cả áo choàng của chúng ta lên đấy; hai đầy tớ sẽ khiêng cáng, đứa thứ ba sẽ thay thế người nào, mệt. Còn tử tước và tôi sẽ đi tìm linh mục.

- Bá tước cứ đi, - viên quản lý nói, - nhưng lạy Chúa! Xin ông đừng có mạo hiểm.

- Cứ yên tâm. Vả lại hôm nay chúng tôi đã tai qua nạn khỏi rồi, ông đã biết cái định lý: Non bis in idem(1).

- Hãy cố gắng lên, ông ạ! - Raoul bảo kẻ bị thương, chúng tôi đi thực hiện ý nguyện của ông đây.

- Cầu Chúa phù hộ cho các ông! - Kẻ sắp chết đáp lại với giọng biết ơn khó tả.

Và hai thanh niên phóng nước đại theo hướng đã chỉ, còn viên quản lý trông nom việc làm cáng.

Sau mười phút, hai thanh niên trông thấy quán rượu.

Không xuống ngựa, Raoul gọi chủ quán báo trước sẽ có người bị thương đến và bảo bác ta sửa soạn mọi thử cần thiết để cứu chữa tức là một cái giường, vải, băng và ngoài ta nếu biết ở vùng lân cận có thầy thuốc, nhà giải phẫu hoặc nhà thủ thuật nào thì cho mời đến, và anh sẽ chịu mọi phí tổn.

Chủ quán trông thấy hai nhà quý tộc trẻ ăn vận sang trọng, nên họ yêu cầu gì là gã hứa nhận hết, và hai kỵ sĩ sau khi trông thấy gã bắt đầu chuẩn bị việc đón tiếp, lại ra đi và vội vã phóng về phía Greney.

Đi được hơn một dặm họ nom thấy xóm làng với mấy ngôi nhà đầu tiên lợp ngói đỏ nổi bật mạnh mẽ trên những bụi cây xanh. Chợt họ bắt gặp đi về phía họ một mục sư tồi tàn cưỡi ngựa, trông cái mũ rộng vành với cái áo dài bằng len màu xám, họ đoán đó là một thày dòng Augustins. Lần này sự tình cờ dường như gửi đến cho họ cái mà họ đang tìm kiếm.

Họ đến gần mục sư.

Đó là một người đàn ông trạc hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, nhưng những việc kiêng khem tiết dục đã làm cho ông ta trông già đi. Nước da tái, nhưng không phải tái săn thì đã đẹp, mà lại vàng bủng, tóc ngắn chỉ dài hơn cái vành mũ quanh trán một tí màu hoè hoe và cặp mắt mâu xanh nhạt như thẫn thờ.

- Thưa ông, - Raoul nói với lễ phép thông thường, - Ông có phải giáo chức không?

- Sao ông lại hỏi tôi điều đó - Kẻ lạ mặt nói với một vẻ thản nhiên gần như bất lịch sự.

- Hỏi để biết, - bá tước de Guise kênh kiệu nói.

Kẻ lạ mặt lấy gót chân thúc con la và tiếp tục đi.

De Guise nhảy một cái đến trước mắt y và cản đường. Anh nói:

- Ông hãy trả lời đi. Người ta đã hỏi ông một cách lịch sự và mọi câu hỏi đều đáng được trả lời.

- Tôi cho rằng tôi được tự do nói hoặc không nói tôi là ai với hai người đầu tiên đến và có ngẫu hứng tra hỏi tôi.

De Guise cố ghìm cơn giận dữ khiến anh muốn nện gẫy xương viên mục sư. Anh nói:

- Trước hết, chúng tôi không phải là những kẻ đến đầu tiên; bạn tôi đây là tử tước de Bragelonne, còn tôi là bá tước de Guise. Sau nữa, chẳng phải vì ngẫu hứng mà chúng tôi hỏi ông như vậy. Vì rằng ở đằng kia có một kẻ bị thương và sắp chết đang đòi hỏi sự cứu giúp của nhà thờ. Nếu ông là giáo sĩ, thì nhân danh lòng nhân đạo, tôi yêu cầu ông đi theo tôi và đến cứu giúp người ấy nếu ông không phải là giáo sỹ thì lại là chuyện khác. Tôi xin báo trước để ông biết rằng, nhân danh phép xã giao mà dường như ông hoàn toàn không biết đến, tôi sẽ trừng trị ông về thái độ hỗn xược của ông.

Nước da tai tái của viên mục sư trở nên nhợt nhạt, và hắn mỉm cười một cách đến lạ lùng khiến Raoul từ nãy vẫn không rời mắt khỏi hắn cảm thay nụ cười ấy siết chặt trái tim anh như một sự lăng nhục.

- Chắc là một tên gián điệp Tây Ban Nha hoặc Flamand gì đây? - Anh vừa nói vừa đặt tay lên báng súng.

Một cái nhìn hăm doạ giống như một tia chớp đáp lại Raoul.

- Thế nào? Ông trả lời chứ? - De Guise bảo.

- Tôi là linh mục, các ông ạ, - người trẻ tuổi đáp. Và mặt hắn ta trở lại vẻ thản nhiên như cũ.

Raoul bỏ súng vào bao, và tạo cho lời lẽ của mình một giọng cung kính không phải thốt ra từ đáy lòng, anh nói:

- Vậy thì thưa cha, nếu là linh mục, cha sắp có dịp để hành nghề như bạn tôi đã nói. Một kẻ bị thương khốn khổ sắp đến và sẽ dừng ở cái quán gần đây; ông ta cầu xin sự cứu giúp của một thiên sứ; người của chúng tôi đi theo ông ta.

- Tôi sẽ đến đấy, - mục sư nói.

Và hắn thúc con la cái đi.

- Nếu ông không đến đấy, - De Guise bảo, - thì hãy nhớ rằng chúng tôi có những con ngựa có thể đuổi kịp con la cái của ông, một sức mạnh có thể tóm bắt ông ở bắt cứ chỗ nào; và khi ấy tôi xin thề là bản án của ông sẽ được thi hành ngay; ở đâu chẳng tìm được một cái cây và một sợi dây thừng.

Mắt viên mục sư lại chớp lửa lên lần nữa, nhưng rồi thôi hẳn; hắn nhắc lại câu: "Tôi sẽ đến đó", rồi lên đường.

- Ta đi theo hắn, - de Guise nói, - như thế chắc chắn hơn.

- Tôi cũng định nói với anh như vậy, - Bragelonne đáp.

Và hai chàng thanh niên lên đường, lựa bước theo sau gã mục sư cách độ một tầm súng ngắn.

Chừng năm phút sau, gã mục sư quay đầu lại để xem có bị theo dõi không.

- Anh thấy không, - Raoul nói, - chúng ta làm thế này là rất đúng!

- Cái mặt thằng cha mục sư ấy mới kinh tởm làm sao! - Bá tước de Guise tiếp lời.

- Kinh tởm, - Raoul đáp, - và nhất là sự biểu hiện mới ghê chứ. Tóc thì vàng, mắt thì mờ đục, môi thì cứ hé ra nói là biến đi đâu mất...

De Guise ít bị những chi tiết ấy đập mạnh hơn Raoul, vì Raoul thì chú ý quan sát, còn de Guise thì nói nhiều hơn. Anh đáp:

- Phải, phải, khuôn mặt hắn thật lạ lùng, những bọn mục sư ấy tuân theo những cách tu hành làm hư hại con người; nhịn đói đến xanh xao, lấy roi vọt tự hành xác đến trở thành đạo đức giả, và vì, ra sức khóc than những phúc lợi của cuộc đời mà họ đã để mất đi và chúng ta thì được hưởng, nên mắt họ trở thành mờ xỉn.

- Cuối cùng, - Raoul nói, - con người tội nghiệp kia sắp có mục sư đến rồi. Nhưng có Chúa chứng giám! Kẻ sám hối hình như có một bụng dạ tử tế hơn là kẻ đi nghe xưng tội. Còn về tôi xin thú nhận là tôi quen nhìn các vi linh mục theo một dung mạo khác hẳn cơ.

- A! Anh có hiểu không? - De Guise nói. - Lão này là một trong những thày dòng lang thang chuyên đi ăn xin trên những đường cái lớn cho đến ngày nào đó một lộc thánh từ trên trời rơi xuống với họ.

Đó phần lớn là người nước ngoài: người Ecossais, người Irlandais, người Danois. Thỉnh thoảng người ta có chỉ cho tôi xem bọn ấy.

- Cũng xấu xí như thế ư?

- Không, gớm ghiếc phải chăng thôi.

- Cực thay cho kẻ bị thương tội nghiệp ấy phải chết trong tay một gã thày tu như vậy.

- Ô hay? - de Guise nói, - việc xá tội không phải do kẻ nói ban cho mà do từ Chúa. Tuy nhiên anh có muốn tôi nói với anh điều này không? Tôi thích thà chết không sám hối, còn hơn là dây với một kẻ nghe xưng tội như thế. Anh đồng ý với tôi phải không, tử tước? Mà tôi thấy anh vuốt ve cái báng súng như có ý định đập vỡ đầu hắn ra.

- Phải, bá tước ạ, thật là một điều kỳ lạ và nó đến bắt chợt, anh ạ nhìn con người ấy tôi cảm thấy một nỗi ghê sợ khó tả. Đã có lần nào anh thấy một con rắn ngóc mình lên trên đường anh đi chưa?

- Chưa bao giờ, - de Guise đáp.

- Thế mà tôi, tôi đã gặp ở trong cánh rừng Blaisois của nhà tôi.

- Tôi còn nhớ lần đầu tiên một con rắn cuộn khúc nó nhìn tôi bằng cặp mắt mờ xỉn, đung đưa cái đầu và thè lè cái lưỡi, tôi đứng ngây ra, tái mặt và như bị mê đi cho đến lúc bá tước de La Fère...

- Ông bố anh à? - De Guise hỏi.

- Không, vị đỡ đầu của tôi, - Raoul đỏ mặt đáp.

- Hay lắm.

- Cho đến lúc bá tước de La Fère bảo tôi "Bragelonne, tuốt kiếm ra". Chỉ đến lúc ấy tôi mới chạy tới con rắn đúng lúc nó dựng đứng mình trên cái đuôi, miệng rít phì phì, để lao vào người tôi, tôi vội chém nó đứt đôi mình ra. Lạ thật anh ạ. Tôi xin thề là có cảm giác giống hệt như thế khi trông con người kia lúc hắn hỏi: "Tại sao các ông lại hỏi tôi điều đó?" và hắn nhìn vào tôi.

- Thế thì anh phải tự trách mình đã không chém cho nó đứt đôi người ra như con rắn.

- Phải, Pomme-de- Pintình cũng gần như vậy, - Raoul đáp.

Lúc ấy họ đi đến cái quán nhỏ và trông thấy ở đầu đường đằng kia toán người cáng kẻ bị thương do ông Arminges dẫn đầu cũng đang đi tới. Hai người khiêng kẻ sắp chết, người thứ ba dắt ngựa.

Hai chàng thanh niên thúc ngựa phóng lên.

De Guise đi sát bên người thày dòng Augustins và bảo:

- Đây là người bị thương; xin ngài mục sư làm ơn nhanh lên một chút.

Còn Raoul tránh gã thầy dòng ra hết mép đường bên kia và quay mặt đi với vẻ ghê tởm.

Như vậy là hai chàng thanh niên đi trước người nghe xưng tội chứ không phải đi sau nữa. Họ đi đến đón người bị thương và bảo cho biết cái tin hay ấy. Kẻ bị nạn nhổm người lên để nhìn theo hướng trỏ và trông thấy mục sư đang thúc con la gấp bước đi tới, rồi bác ta lại rơi mình xuống tấm nệm, mặt sáng lên một tia mừng rỡ.

- Bây giờ đây, - Hai chàng thanh niên nói - chúng tôi đã làm cho ông tất cả những gì chúng tôi có thể làm, và do chúng tôi vội đến đội quân của Ngài Hoàng thân, chúng tôi, phải tiếp tục lên đường, Vậy ông thứ lỗi cho chúng tôi nhé. Người ta đồn sắp có đánh nhau rồi, chúng tôi chẳng muốn ngày mai mới có mặt.

- Hãy đi đi, các vị lãnh chúa trẻ tuổi của tôi, - kẻ bị thương nói, và cầu cho cả hai ông được ban phước lành vì có lòng thương người.

Pomme-de- Pinthật là như các ông nói, các ông đã làm tất cả những gì có thể làm cho tôi; tôi chỉ có thể nói với các ông một lần nữa: Chúa phù hộ cho các ông và những người thân thiết của các ông.

De Guise bảo viên quản lý:

- Chúng tôi đi phía trước, ông sẽ đuổi theo chúng tôi trên đường Cambrin.

Chủ quán đứng ở của và đã chuẩn bị mọi thứ, giường, băng, vải xé, và một tên coi ngựa đã đi tìm thày thuốc ở Lens là thị trấn gần nhất.

- Được rồi, - chủ quán nói, - mọi thứ sẽ được làm như ông mong muốn. Nhưng ông ơi, - gã nói tiếp với Bragelonne - Ông không dừng lại chốc lát để băng bó vết thương của ông hay sao?

- Ồ, vết thương của tôi chẳng sao đâu, - Tử tước đáp - Đến chặng nghỉ sau băng bó cũng được. Chỉ có điều yêu cầu ông là nếu ông có thấy một kỵ sĩ qua đây và hỏi thăm ông tin tức về một thanh niên cưỡi con ngựa hồng có một đầy tớ đi theo, thì ông làm ơn bảo rằng đã gặp tôi hẳn hoi, nhưng tôi đã tiếp tục lên đường và tính sẽ ăn trưa ở Mazingarbe và ngủ ở Cambrin.

- Để cho chắc chắn, tôi sẽ hỏi tên người ấy và nói rõ tên ông, như thế có hơn không - Chủ quán nói.

- Phải đấy, cẩn tắc vô áy náy, - Raoul đáp, - tôi là tử tước Bragelonne, còn bác ta là Grimaud.

Lúc ấy kẻ bị thương đến từ phía này và mục sư đến từ phía kia. Hai chàng thanh niên lùi lại để cho cáng đi qua. Mục sư cũng nhảy xuống đất và sai dẫn con la cái ra chuông ngựa mà không tháo yên cương.

- Ông mục sư ơi, - De Guise nói, - Ông hãy giúp cho con người tử tế ấy xưng tội cẩn thận, và đừng lo gì về những khoản chi phí của ông và của con la mọi thứ đều thanh toán rồi.

- Xin cảm ơn ông! - Gã mục sư đáp với cũng nụ cười khiến Bragelonne rùng mình.

Linh tính cảm thấy như không thể chịu nổi sự có mặt của gã thày dòng Augustins, Raoul bảo:

- Ta đi thôi, bá tước; ở đây tôi cảm thấy khó chịu.

- Lần nữa xin cảm ơn các vị lãnh chúa trẻ trung tuấn tú, - kẻ bị thương nói - và xin đừng quên tôi trong những lời cầu nguyện?

- Cứ yên tâm! - De Guise vừa nói vừa thúc ngựa đuổi theo Bragelonne đã đi trước hai chục bước.

Lúc ấy hai người đầy tớ đã khiêng cáng vào trong nhà. Chủ quán và vợ đã chạy đến, đang đứng trên bậc cầu thang.

Kẻ bị thương như đang lên những cơn đau dữ dội; song bác ta chỉ bận tâm xem ông mục sư có theo vào không.

Vừa trông thấy cái người mặt tái nhợt và máu me đầm đìa ấy, người đàn bà nắm chặt lấy cánh tay chồng.

- Kìa! Mình làm sao thế? - Chủ quán hỏi. - Phải chăng tình cờ mình thấy khó ở?

- Không, nhưng trông kìa? - Người vợ nói và chỉ kẻ bị thương cho chồng.

- Chết chửa, ông ta có vẻ đau dữ.

- Không phải tôi định nói như vậy, - người vợ vẫn run bắn lên nói tiếp, - tôi hỏi ông có nhận ra người này không?

- Người này ư, khoan đã...

- A! Hình như ông đã nhận ra, - người vợ nói, - vì ông cũng đang tái mặt đi kìa.

- Thật vậy! - Chủ quán kêu lên. - Tai hại cho nhà ta! Đó là tên đao phủ cũ xứ Béthune.

- Đao phủ cũ xứ Béthune! - Gã mục sư trẻ lẩm bẩm và đột nhiên dừng lại, để lộ trên gương mặt một cảm giác ghê tởm đối với kẻ sám hối.

- Ông Arminges đang đứng ở cửa, nhận thấy vẻ lưỡng lự ấy bèn nói:

- Ông mục sư ơi, dù làm đao phủ hoặc đã từng làm đao phủ, kẻ khốn khổ kia vẫn cứ là một con người. Vậy ông hãy giúp cho hắn cái việc cuối cùng mà hắn yêu cầu ở ông, và việc làm của ông chỉ càng thêm xứng đảng mà thôi.

Gã mục sư không đáp lại gì cả, mà tiếp tục lặng lẽ đi về phía căn buồng thấp nơi hai người đầy tớ đã đặt kẻ sắp chết lên giường.

Trông thấy người của Chúa đến gần giường kẻ bị nạn, hai đầy tớ đi ra và đóng cửa lại.

Arminges và Olivain đang đợi họ. Cả bốn người lên ngựa, đi nước kiệu theo con đường màRaoul và dờ Guise đã đi và mất hút ở đằng xa.

Khi viên quản lý và đoàn tuỳ tùng đã đi khuất, thì một lữ khách mới dừng lại trước cửa quán.

- Thưa ông cần gì ạ? - Chủ quán nói mà vẫn còn run và tái người đi vì điều vừa mới phát hiện.

Lữ khách ra hiệu muốn uống, rồi đặt chân xuống đất, và chỉ vào con ngựa ra hiệu kỳ cọ.

- Quỷ nợ ở đâu ấy? - Chủ quán lẩm bầm, - hình như lão này câm.

- Thế ông muốn uống ở đâu. - Gã hỏi.

- Ở đây - lữ khách nói và chỉ vào một cái bàn.

- Ta lầm rồi, - chủ quán tự nhủ - hắn không hoàn toàn câm.

Và gã cúi mình rồi đi lấy một chai rượu vang và bánh quy đem đặt trước mặt vị thực khách ít lời này.

- Ông có cần gì khác nữa không? - Gã hỏi.

- Có chứ.

- Thế ông cần gì?

- Cần biết xem ông có trông thấy một vị quý tộc trẻ tuổi cưỡi con ngựa hồng và có tên đầy tớ theo hầu đi qua đây không?

- Tử tước Bragelonne phải không? - Chủ quán hỏi.

- Đúng thế!

- Thế ra ông là Grimaud?

Lữ khách gật đầu.

A, thế thì vị chủ trẻ tuổi của ông mới ở đây cách mười lăm phút, ông ấy sẽ ăn trưa ở Mazingarbe và sẽ ngủ ở Cambrin.

- Đây đến Cambrin bao xa?

- Hai dặm rưỡi.

- Cảm ơn.

Yên trí sẽ gặp chủ trước khi trời tối, Grimaud có vẻ bình thản hơn lau mồ hôi trán, rót rượu ra cốc và uống lặng lẽ.

Bác vừa mới đặt cốc xuống bàn và toan rót cốc thứ hai, thì một tiếng kêu khủng khiếp phát ra từ căn buồng có gã mục sư và kẻ sắp chết.

Grimaud đứng bật dậy.

- Cái gì vậy? - Bác hỏi - Tiếng kêu ở đâu ra?

- Từ buồng kẻ bị thương, - chủ quán đáp.

- Kẻ bị thương nào? - Grimaud hỏi.

- Người đao phủ cũ xứ Béthune, vừa mới bị bọn du kích Tây Ban Nha ám sát. Hắn được mang đến đây và đang xưng tội với một thầy dòng Augustins. Chắc là hắn đau dữ lắm.

- Đao phủ cũ ở Béthune à? - Grimaud lẩm bẩm, nhớ lại những kỷ niệm xưa... - Một người độ năm sáu mươi tuổi, cao lớn, lực lưỡng, da ngăm ngăm, râu tóc đen phải không?

- Phải đấy, trừ râu đã hoa râm và tóc đã bạc. Ông biết hắn à? - Chủ quán hỏi.

- Tôi có trông thầy một lần, - Grimaud đáp; nhớ lại cái cảnh cũ trán bác sa sầm lại.

Vợ chủ quán chạy ra run như cầy sấy, hỏi chồng:

- Ông có nghe thấy không?

- Có, - Chủ quán đáp và lo ngại nhìn về phía cửa.

Vừa lúc ấy vang lên một tiếng kêu không to bằng tiếng kêu đầu tiên, nhưng kèm theo một tiếng rên rỉ kéo dài.

- Phải xem đó là cái gì, - Grimaud nói.

- Nghe như tiếng một người bị chọc tiết, - chủ quán nói.

- Giêsu! - Người đàn bà vừa nói vừa làm dấu thánh.

Ta biết rằng Grimaud nói ít mà làm nhiều. Bác băng mình về phía cửa buồng, lắc thật mạnh, nhưng nó được chốt ở phía trong.

- Mở ra? - Chủ quán la lên, - mở ra ông mục sư ơi, mở ra ngay!

Chẳng có ai trả lời.

- Mở ra, nếu không ta phá cửa? - Grimaud nói.

Vẫn im lặng.

Grimaud đưa mắt nhìn quanh và trông thấy một cái kẹp sắt tình cờ vứt ở một xó nhà. Bác vồ lấy và trước khi chủ quán kịp phản đối, thì bác đã nạy cánh cửa bật vào trong.

Căn buồng ngập máu chảy qua tấm nệm; kẻ bị thương không nói được nữa và rên rỉ, gã mục sư đã biến đâu mất.

- Mục sư - Chủ quán kêu - Mục sư đâu rồi?

Grimaud xông ra phía cửa sổ nhìn ra sân.

- Nó đã trốn ra lối này.

- Ông cho là như vậy à? - Chủ quán hốt hoảng nói.

- Thằng nhỏ đâu, hãy ra chuồng ngựa xem có con la của mục sư không?

- Không thấy con la đâu nữa ạ!

Grimaud đến gần kẻ bị thương, nhìn những nét thô kệch và hằn rõ kia nó gợi nhớ lại một kỷ niệm thật là khủng khiếp.

Sau một giây lát suy ngẫm ảm đạm và âm thầm, cuối cùng bác nói:

- Không còn hồ nghi gì nửa. Chính là hắn ta.

- Hắn còn sống không? - Chủ quán hỏi.

Không trả lời, Grimaud mở cái áo chẽn của người bị nạn để sờ tim xem, còn chủ quán thì bước lại gần.

Nhưng đột nhiên hai người lùi lại, chủ quán hét lên một tiếng kinh hãi, còn Grimaud thì tái mặt đi.

Một lưỡi dao găm cắm phập đến tận gốc vào phía ngực bên trái của gã đao phủ.

- Chạy đi gọi cấp cứu ngay, - Grimaud bảo, - tôi sẽ ngồi canh ở đây.

Chủ quán ra khỏi buồng, ngơ ngác như kẻ mất hồn; còn người vợ thì nghe tiếng chồng kêu đã chạy bạt vía.

Chú thích:

(1) Tiếng La-tinh: một việc không lặp lại hai lần.

-*-*-*-

Chương 34

Xá tội

Việc ấy diễn ra như thế nào?

Chúng ta đã thấy chẳng phải do tự nguyện, mà trái hẳn lại, vì miễn cưỡng mà gã mục sư phải đi theo kẻ bị thương được gửi gắm cho gã một cách đến là kỳ cục. Có lẽ hắn đã tìm cách chạy trốn nếu có thể được; nhưng những lời dọa nạt của hai người quý tộc, đám tuỳ tùng ở ngay cạnh họ và chắc đã được dặn là chẳng nên tỏ ra ác ý quá đã khiến gã mục sư đóng vai người nghe xưng tội cho đến nơi đến chốn. Và khi đã vào buồng rồi, hắn đến bên giường kẻ bị thương.

Bằng một cái nhìn mau lẹ đặc biệt ở những kẻ sắp chết do đó không có thì giờ để mất, gã đao phủ ngắm nghía khuôn mặt của kẻ sẽ là người an ủi mình; rồi tỏ vẻ kinh ngạc nói:

- Thưa cha, cha hãy còn trẻ thế?

- Những người mặc chiếc áo như của tôi không có tuổi, viên mục sư khô khan đáp.

- Chao ôi! - Kẻ bị thương nói, - xin cha hãy nói năng với tôi nhẹ nhàng hơn một chút; tôi cần có một người bạn trong lúc lâm chung này.

- Ông đau đớn lắm à? - Mục sư hỏi.

- Vâng, nhưng đau đớn linh hồn nhiều hơn thể xác.

- Ta sẽ cứu vớt linh hồn cho ông, - người trẻ tuổi nói, - nhưng có thật ông là đao phủ xứ Béthune như những người kia nói không?

Chắc hắn sợ rằng cái tiếng đao phủ sẽ xua đi những việc giúp cuối cùng mà mình cầu xin, kẻ bị nạn vội vàng nói:

- Nghĩa là tôi đã làm nghề ấy, nhưng bây giờ thì không làm nữa tôi đã bỏ nghề mười lăm năm rồi. Tôi vẫn còn dự những cuộc hành quyết, nhưng tự tôi không làm, ồ, không!

- Vậy là ông kinh sợ cái nghề của ông à?

Gã đao phủ buông một tiếng thở dài, rồi nói:

- Chừng nào mà tôi còn hạ thủ nhân danh pháp luật và công lý thì cái nghề của tôi vẫn cho tôi ngủ yên vì được núp dưới bóng công lý và luật pháp. Nhưng từ cái đêm khủng khiếp mà tôi được dùng làm công cụ cho một cuộc trả thù riêng và tôi đã vung dao với lòng căm ghét lên một tạo vật của Chúa, thì từ ngày ấy...

Gã đao phủ ngừng lời và lắc đầu một cách tuyệt vọng.

Mục sư ngồi ở chân giường kẻ bị thương bắt đầu quan tâm đến câu chuyện kể ra một cách thật lạ lùng.

Với tất cả sức bật của một nỗi đau khổ từ lâu dồn nén lại nay cuối cùng bộc lộ ra, kẻ sắp lìa đời kêu lên:

- Ôi, tôi cũng đã cố dập tắt nỗi hồi hận bằng hai mươi năm làm việc thiện; tôi đã lột bỏ tính tàn bạo tự nhiên cho những kẻ đổ máu; trong mọi cơ hội, tôi đã liều thân để cứu tính mạng của những kẻ lâm nguy và tôi đã giữ gìn cho cõi trần những kiếp người để đổi lại những kiếp sống mà tôi đã cướp đi. Chưa phải đã hết: của cải thu được trong việc hành nghề của tôi, tôi đem chia cho những kẻ nghèo. Tôi chăm đi lễ nhà thờ, những người trước lẩn tránh tôi đã quen nhìn tôi. Mọi người đã tha thứ cho tôi, vài người còn yêu mến tôi nữa. Nhưng tôi chắc rằng Chúa đã không tha thứ cho tôi vì rằng cái kỷ niệm về cuộc hành quyết ấy cứ theo đuổi tôi mãi, và dường như đêm nào tôi cũng thấy hiện lên trước mặt tôi quái tượng của người đàn bà ấy.

- Một người đàn bà! Thế ra ông đã ám sát một người đàn bà? - Mục sư kêu lên.

- Thì ra ông cũng vậy? - Gã đao phủ nói - Ông đã dùng một từ nó vang bên tai tôi: ám sát? Vậy là tôi đã ám sát, chứ không phải hành quyết. Vậy tôi là một kẻ sát nhân, chứ không phải là một kẻ xử tội!

Hắn nhắm mắt lại và buông ra một tiếng rên rỉ. Hẳn là sợ hắn chết mà không nói thêm được gì, mục sư vội vàng bảo:

- Tiếp tục đi, tôi không biết gì về chuyện đó cả. Khi nào ông kể hết, Chúa và tôi sẽ phán xử.

Như sợ mở mắt ra là lại trông thấy một vật gì đó hãi hùng, gã đao phủ vẫn nhắm mắt kể tiếp:

- Ôi thưa cha, nhất là ban đêm mà tôi đi qua sông thì nỗi kinh hoàng mà tôi không thể thắng nổi lại càng tăng gấp bội; lúc ấy bàn tay tôi nặng trĩu cứ như vẫn còn cầm thanh đao; nước sông trở thành màu máu, và tất cả những tiếng nói của thiên nhiên, tiếng cây cối xào xạc, tiếng gió thổi rì rào, tiếng sóng vỗ ì ộp, tất cả hoà thành một tiếng khóc than, tuyệt vọng, kinh hồn thét vào tai tôi: "Hãy để cho công lý của Thượng đế phán xử"

- Mê sảng? - Mục sư lẩm bẩm và lắc đầu.

Đao phủ mở choàng mắt, cố xoay mình về phía mục sư và nắm lấy cánh tay mà nói:

- Mê sảng, ông bảo thế à? Ồ, không đâu, vì rằng đó là buổi tối, vì rằng tôi đã ném xác người ấy xuống sông, vì rằng những lời lẽ mà niềm hối hận nhắc lại với tôi những lời lẽ ấy chính tôi đã thốt ra trong niềm kiêu hãnh; sau khi là công cụ của công lý con người, tôi tưởng rằng mình đã trở thành công cụ của công lý Thượng đế!

- Nhưng này, chuyện ấy xảy ra thế nào nhỉ? - Mục sư hỏi.

- Vào một buổi tối một người đàn ông đến tìm tôi, đưa cho tôi xem một tờ lệnh, tôi đi theo ông ta. Bốn vị lãnh chúa khác chờ tôi. Họ che mặt tôi và dẫn tôi đến. Tôi vẫn dành quyền phản đối, nếu như công việc mà họ bắt tôi làm tỏ ra không đúng. Chúng tôi đi chửng năm sáu dặm đường, buồn thảm, lặng lẽ và hầu như chẳng nói một lời. Cuối cùng qua cửa sổ một căn nhà tranh nhỏ, họ trỏ cho tôi trông thấy một người đàn bà đang ngồi tì tay lên bàn và bảo tôi: "Đó là người cần phải hành quyết".

- Kinh khủng! - Mục sư nói. - Và ông đã tuân theo?

- Thưa cha, người đàn bà ấy là một con quái vật: người ta nói mụ đã đầu độc người chồng thứ hai của mình mưu toan ám sát anh chồng mình, ông này cũng có mặt trong số những người ở đây; mụ vừa mới đầu độc chết một thiếu phụ trẻ là tình địch của mụ, và người ta còn nói là trước khi rời nước Anh, mụ còn sai người đâm chết vị sủng thần của vua.

- Buckingham? - Mục sư kêu lên.

- Phải, Buckingham, đúng thế.

- Người đàn bà ấy là người Anh phải không?

- Không, là người Pháp, nhưng lấy chồng ở Anh.

Mục sư tái mặt đi và lau mồ hôi trán, rồi ra cài chốt cửa lại. Đao phủ tưởng gã bỏ rời mình lại nằm vật ra giường mà rên rỉ.

- Không, không, tôi đây - mục sư nói và vội vàng trở lại bên giường. - Kể tiếp đi, những người đàn ông ấy là ai?

- Một là người ngoại quốc, người Anh thì phải. Bốn người kia là người Pháp và mặc binh phục ngự lâm quân.

- Tên họ là gì? - Mục sư hỏi.

- Tôi không biết. Song bốn vị công hầu kia gọi người Anh là Milordr.

- Người đàn bà ấy có đẹp không?

- Trẻ và đẹp! À phải, nhất là đẹp. Tôi vẫn còn như trông thấy bà ta lúc quỳ dưới chân tôi, bà ta cầu nguyện, đầu ngửa ra đằng sau. Từ đấy tôi không bao giờ hiểu nổi làm sao mà tôi lại chém một cái đầu xinh đẹp và tái xanh đến thế.

Mục sư như bị một nỗi xúc động lạ lùng: chân tay run lên bần bật; miệng muốn hỏi một câu mà không dám.

Cuối cùng sau một cố gắng mãnh liệt, gã nói:

- Tên người đàn bà ấy là gì?

- Tôi không biết. Như tôi đã nói, bà ta lấy chồng hai lần. Một lần ở Pháp, một lần ở Anh.

- Ông bảo bà ta còn trẻ à?

- Hai mươi lăm tuổi.

- Xinh đẹp à?

- Mê hồn.

- Tóc hoe vàng?

- Phải.

- Tóc rậm phải không, và xoã xuống ngang vai?

- Phải.

- Mắt có nét biểu hiện tuyệt vời phải không?

- Khi nào bà ta muốn. Ồ, phải đúng như thế.

- Giọng nói dịu dàng kỳ lạ.

- Làm thế nào mà ông biết được.

Đao phủ chống tay lên giường và đưa mắt kinh hãi nhìn chằm chằm vào mục sư đang tái nhợt đi.

- Và ông đã giết bà ta? - Mục sư nói - Ông đã làm công cụ cho những kẻ hèn nhát ấy, chứng không dám tự mình giết bà ta! Ông đã không thương hại cái tuổi trẻ ấy, cái nhan sắc ấy, cái sự yếu đuối ấy!

- Ông đã giết người đàn bà ấy!

- Than ôi! - đao phủ lại nói, - Thưa cha, tôi đã nói rằng người đàn bà ấy, dưới cái vỏ thiên thần ấy, che giấu một linh hồn địa ngục, và khi tôi trông thấy mụ ấy, khi tôi nhớ lại tất cả những tội ác mà mụ ta đã gây ra với bản thân tôi...

- Với ông à? Thế bà ta đã có thể làm gì với ông? Nào!

Mụ ta đã quyến rũ và làm hại em tôi là một linh mục mụ cùng với hắn trốn khỏi tu viện.

- Với em ông à?

- Phải. Em trai tôi là tình nhân đầu tiên của mụ, mụ là nguyên nhân cái chết của em tôi. Ôi, thưa cha, xin cha đừng nhìn tôi như vậy! Ôi! Vậy tôi là kẻ phạm tội ư? Ôi! Cha không tha thứ cho tôi ư?

Mục sư sửa lại nét mặt cho nghiêm và nói:

- Có chứ, có chứ! Tôi sẽ tha thứ cho ông, nếu ông kể cho tôi nghe tất cả!

- Ôi! - Đao phủ kêu. - Tất cả! Tất cả! Tất cả!

- Thế thì hãy trả lời. Nếu như bà ta đã quyến rũ em ông... ông nói là bà ta quyến rũ em ông chứ gì?

- Vâng.

- Thể thì ông phải biết rõ tên thời con gái của bà ta chứ?

- Ôi lạy Chúa! - gã đao phủ kêu lên! - Hình như tội sắp chết đến nơi rồi. Xá tội, cha ơi! Xá tội!

- Hãy nói tên bà ta! - Mục sư bảo. - Và ta sẽ xá tội cho.

- Bà ta tên là... lạy Chúa hãy thương con? - đao phủ lầm bầm. Và hắn nằm vật ra giường, tải mét, rùng mình như người sắp chết hẳn.

Gã mục sư cúi mình xuống tên đao phủ như muốn dứt ra cái tên ấy từ lưỡi hắn nếu hắn không muốn nói.

Gã bảo:

- Tên bà ta là gì? Tên bà ta!... Nói đi nếu không thì không có xá tội gì hết.

Kẻ sắp chết như gom hết sức mình lại.

Cặp mắt mục sư lóe sáng.

- Anne de Bueil? - kẻ bị thương lẩm bẩm.

- Anne de Bueil! - Mục sư kêu lên và vừa đứng bật dậy vừa giơ hai tay lên trời, - Anne de Bueil? Mi nói đúng Anne de Bueil phải không?

- Phải, phải, chính tên bà ta, và bây giờ hãy xá tội cho tôi, vì tôi đang chết đây.

- Ta xá tội cho mi! - Gã mục sư kêu lên với một cái cười ghê rợn làm dựng đứng tóc gáy kẻ sắp chết. - Ta xá tội cho mi ư? Ta không phải là linh mục?

- Ông không phải là linh mục ư? - Tên đao phủ kêu lên - Thế ông là vậy?

- Ta sẽ nói cho mi biết, tên khốn kiếp!

- Ôi, lạy Chúa! Lạy chúa!

- Ta là John Francis de Winter!

- Tôi không biết ông? - Đao phủ nói.

- Đợi đấy, đợi đấy mi sẽ biết về ta: ta là John Francis de Winter; còn người đàn bà ấy....

- Sao! Người đàn bà ấy...?

- Là mẹ của ta.

Tên đao phủ thét lên tiếng kêu thứ nhất, tiếng kêu khủng khiếp mà người ta nghe thấy trước tiên.

- Ôi! Hãy tha thứ cho tôi, hãy tha thứ cho tôi - hắn lẩm bẩm, - nếu không phải là nhân danh Chúa thì ít ra là nhân danh ông, nếu không phải là với tư cách linh mục thì ít ra với tư cách con trai bà.

- Tha thứ cho mi ư? - Gã mục sư quát - Tha thứ cho mi ư? Chúa có lẽ làm như vậy, nhưng ta thì không bao giờ?

- Vì lòng thương, - tên đao phủ vừa nói vừa giơ tay về phía gã.

- Không có lòng thương đối với kẻ đã không có lòng thương. Mi hãy chết mà không được sám hối, chết tuyệt vọng và bị đày xuống địa ngục!

Rồi rút từ trong áo dài ra một con dao găm, hắn đâm vào ngực tên đao phủ mà nói:

- Này, xá tội của ta đây!

Đó là lúc người ta nghe tiếng kêu thứ hai yếu ớt hơn tiếng kêu thứ nhất và kèm theo một tiếng rên rỉ dài.

Tên đao phủ nhổm người lên, rồi ngã vật xuống giường. Còn gã mục sư chẳng rút con dao ra khỏi vết thương, chạy tới cửa sổ, mở ra, nhảy xuống vườn hoa, tuồn ra chuồng ngựa, chộp lấy con la, chuồn ra cổng sau, phóng một mạch cho đến một khóm rừng, cởi bỏ cái áo mục sư, lấy ở va-li ra một bộ đồ kỵ sĩ mặc vào, đi bộ đến bưu trạm gần nhất, lấy một con ngựa và dong cương phóng thẳng trên con đường về Paris.

-*-*-*-

Chương 35

Grimaud nói

Grimaud đứng một mình bên cạnh người đao phủ. Chủ quán đi gọi cấp cứu; vợ bác cầu nguyện.

Một lát sau kẻ bị thương mở mắt.

- Cứu giúp tôi với? Cứu giúp tôi với! - hắn lẩm bẩm.

- Ôi, lạy Chúa? Lạy Chúa! Thế là tôi chẳng tìm được ở trên đời này một người bạn đã giúp tôi sống hoặc giúp tôi chết hay sao?

Và hắn cố đưa bàn tay lên ngực; bàn tay đụng phải cái đốc dao găm.

A! - Hắn nói như một người chợt nhớ ra. Và lại để cánh tay rơi xuống bên mình.

- Hãy cố gắng nhé - Grimaud bảo - đang cho đi gọi cấp cứu.

- Ông là ai thế? - Kẻ bị nạn giương trừng trừng đôi mắt nhìn Grimaud và hỏi:

- Một người quen cũ, - Grimaud đáp.

- Ông ư?

Kẻ bị nạn đang cố nhớ lại nét mặt người đang nói với mình và hỏi:

- Chúng ta đã gặp nhau trong hoàn cảnh nào nhỉ?

- Một đêm cách đây hai mươi năm; ông chú tôi đã đến tìm ông ở Béthune và dẫn ông đến Armentières.

- Tôi nhận ra ông rồi, - đao phủ nói, - Ông là một trong số bốn người hầu.

- Phải rồi.

- Ông từ đâu đến đây?

- Tôi đi qua đường và dừng lại ở quán này để cho ngựa nghỉ ngơi. Người ta kể cho tôi nghe rằng người đao phủ xứ Béthune bị thương đang nằm ở đây, thì ông thét lên hai tiếng. Nghe tiếng đầu tiên chúng tôi chạy lại, nghe tiếng thứ hai chúng tôi phá cửa vào.

- Thế còn mục sư - đao phủ hỏi, - Ông có trông thấy mục sư không?

- Mục sư nào?

Mục sư ngồi trong buồng này với tôi ấy.

- Không, hắn không còn đây nữa? Hình như nó đã trốn qua cửa sổ. Phải chăng chính hắn đã đâm ông?

- Phải.

Grimaud toan đi ra.

- Ông định làm gì thế? - Kẻ bị nạn hỏi.

- Phải đuổi theo nó.

- Phải đề phòng cẩn thận đấy, - đao phủ nói.

- Tại sao vậy?

- Hắn trả thù và hắn đã làm được. Giờ đây tôi hy vọng Chúa sẽ tha thứ cho tôi, bởi vì đã có sự chuộc tội.

- Ông cắt nghĩa xem nào, - Grimaud nói.

- Người đàn bà kia mà các ông và chủ của các ông sai tôi giết...

- Milady?

- Phải rồi, Milady, đúng thế, các ông gọi như vậy mà.

- Có liên quan gì giữa Milady và gã mục sư.

- Mẹ của nó đấy.

Grimaud lảo đảo và nhìn kẻ sắp chết bằng con mắt mờ xỉn và ngậy dại.

- Mẹ của nó đấy! - Bác nhắc lại. - Phải, chính mẹ nó.

- Thế nó biết điều bí mật ấy à?

- Tôi ngỡ nó là mục sư, nên khi xưng tội đã bộc lộ ra chuyện ấy.

- Khốn khổ chưa? - Grimaud kêu lên, tóc bác đẫm mồ hôi khi nghĩ đến việc bộc lộ ấy có thể gây ra những hậu Pomme-de- Pinnhư thế nào. - Khốn khổ chưa! Ông không nói ra tên ai chứ?

- Không, vì tôi chẳng biết một tên nào cả, trừ cái tên thời con gái của mẹ hắn, và cũng vì cái tên ấy mà hắn đã nhận ra mẹ mình nhưng hắn biết rằng ông bác của hắn ở trong số những người xử tội.

Và kẻ bị nạn lại xỉu đi vì kiệt sức. Grimaud muốn giúp và đưa bàn tay đến cán con dao.

- Đừng có đụng vào - đao phủ nói, - nếu rút con dao ra là tôi sẽ chết ngay.

Grimaud vẫn giơ ra, rồi bỗng nhiên đập vào trán mình mà nói:

- A! Nếu như bây giờ mà kẻ ấy biết những người kia là ai, thì chủ mình nguy to.

- Gấp lên, gấp lên nào! - Người đao phủ kêu lên, hãy báo gấp cho ông chủ biết nếu ông ấy còn sống; hãy bảo cho các bạn của ông ấy nữa. Hãy tin rẳng cái chết của tôi sẽ không phải là sự kết thúc của câu chuyện phiêu lưu khủng khiếp ấy đâu.

- Hắn đi đâu? - Grimaud hỏi.

- Về phía Paris.

- Ai đã ngăn hắn lại?

Hai nhà quý tộc trẻ đang đi tới quân đội. Một người được bạn kia gọi là tử tước de Bragelonne.

- Và chính người thanh niên ấy đã dẫn gã mục sư đến cho ông à?

- Phải.

Grimaud ngước mắt lên nhìn trời nói:

- Phải chăng đó là ý Chúa?

- Tất nhiên rồi, - kẻ bị thương nói.

- Thế thì kinh hãi thật, - Grimaud lẩm bẩm. - Tuy nhiên mụ đàn bà ấy cũng đáng kiếp. Ý kiến ông không phải thế nữa sao?

- Vào lúc chết, - gã đao phủ lại nói, - người ta thấy tội ác của các kẻ khác chẳng thấm vào đâu so với những tội ác của mình.

Và hắn kiệt sức, nhắm mắt lại.

Grimaud đang bị giằng co giữa lòng thương hại không cho bác để mặc người đó không được cứu chữa và nỗi lo sợ giục giã bác phải đi ngay để mang cái tin mới mẻ này đến cho bá tước de La Fère thì nghe có tiếng động ở hành lang và trông thấy chủ quán trở về cùng với nhà phẫu thuật mà cuối cùng người ta đã tìm được Nhiều người tò mò đi theo sau; tin đồn về sự biến lạ lùng này bắt đầu lan rộng.

Nhà phẫu thuật đến gần kẻ bị nạn hình như đã ngất.

- Trước hết phải rút con dao ra khỏi ngực đã - Ông ta vừa nói vừa lắc đầu một cách đầy ý nghĩa.

Grimaud nhớ đến điều tiên đoán mà kẻ bị thương vừa mới nói lúc nãy và quay mặt đi.

Nhà phẫu thuật phanh chiếc áo chẽn ngoài, xé áo sơ-mi và để lộ ngực trần của nạn nhân ra.

- Chúng tôi đã nói là lưỡi dao cắm ngập đến tận cán.

Nhả phẫu thuật cầm mỏm chuôi dao; ông từ từ rút ra và kẻ bị nạn mở mắt ra trừng trừng trông đến thật kinh hãi. Khi lưỡi dao rút ra hẳn, một đám bọt hồng hồng trào ra quanh miệng kẻ bị thương, rồi lúc người ấy thở, một dòng máu từ vết thương vọt ra. Kẻ bị thương nhìn chằm chằm vào Grimaud với một vẻ biểu hiện rất lạ lùng, buông ra rnột tiếng rên bị tắc nghẹn và tắt thở ngay lập tức.

- Thế là Grimaud nhặt lấy con dao găm đầy máu me nó làm cho tất cả mọi người kinh sợ rồi bác ra hiệu gọi chủ quán đến, trả tiền với sự hào phóng thật xứng đáng với chủ mình và lên ngựa.

Lúc đầu Grimaud toan quay trở lại Paris ngay; nhưng rồi bác nghĩ Raoul sẽ lo lắng về sự vắng mặt kéo dài của bác; bác nhớ là Raoul ở cách chỗ bác lúc này có hai dặm, trong mười lăm phút là bác sẽ tới, rồi vừa đi vừa trở lại vừa giải thích cũng chẳng đến một tiếng đồng hồ; thế là bác cho ngựa phi nước đại và mười phút sau bác đã đến quán Con la đội miện, cái quán duy nhất ở Mazingarbe.

Mới trao đổi mấy câu với chủ quán, bác đã biết chắc là đã theo kịp người mình đang tìm.

Raoul đang ngồi bàn ăn cùng với bá tước de Guise và viên quản lý nhưng câu chuyện phiêu lưu buồn thảm ban sớm vẫn để lại trên hai vầng trán trẻ một nêt ưu sầu mà sự vui nhộn của ông Arminges vững vàng hơn họ do đã quen nhìn thấy những cảnh tượng như vậy, cũng không xua tan nổi.

Bỗng nhiên cửa mở và Grimaud xuất hiện, mặt tái xanh, người đầy bụi bậm và vẫn áo còn nhuốm máu của kẻ bị thương khốn khổ.

- Grimaud, bác Grimaud hiền lành của tôi ơi, - Raoul reo lên, - cuối cùng, bác đến đây rồi. Xin lỗi các ông nhé, đây không phải người hầu mà là một người bạn.

Rồi đứng lên và chạy tới bác, anh nói tiếp:

- Bá tước thế nào? Ông có nhớ tôi chút nào không? Bác có gặp bá tước từ sau khi chúng tôi chia tay nhau không? Bác trả lời đi. Về phần tôi cũng có rất nhiều điều nói với bác đấy. Này chỉ mới ba ngày thôi mà đã xảy đến với chúng tôi bao nhiêu là chuyện rắc rối. Ơ, nhưng mà bác làm sao thế? Trông bác tái mét đi? Lại máu nữa kìa! Máu ở đâu ra?

- Pomme-de- Pinthật là có máu! - Bá tước de Guise nói và đứng dậy. - Bác có bị thương không, ông bạn của tôi?

- Không đâu, ông ạ, - Grimaud đáp, - đây không phải là máu của tôi:

- Thế máu của ai? - Raoul hỏi.

- Đó là máu của kẻ khốn khổ mà ông đã để lại ở quán hàng và hẳn đã chết ở trong tay tôi.

- Ở trong tay bác? Cái người ấy à! Nhưng bác có biết đó là ai không?

- Có - Grimaud đáp.

- Đấy là đao phủ cũ ở Béthune.

- Tôi biết.

- Bác quen hắn à?

- Tôi quen hắn.

- Hắn chết rồi ư?

- Rồi.

Hai thanh niên nhìn nhau.

- Biết làm thế nào, các ông ơi, - Arminges nói, - đó là quy luật chung, và đã làm đao phủ người ta chẳng vì thế mà được miễn bị đao phủ giết. Cái lúc tôi trông thấy vết thương của hắn, tôi đã có ý nghĩ không hay về nó rồi, và các ông biết đấy, đó là quan niệm riêng của hắn bởi vì hắn cứ nằng nặc đòi một mục sư.

Nghe tiếng mục sư, Grimaud tái mặt.

Giống như mọi người ở thời ấy và nhất là ở lứa tuổi như mình, Arminges không chấp nhận sự mẫn cảm giữa hai công việc, ông nói:

- Thôi, thôi, ta vào bàn ăn đi!

- Vâng, ông nói phải đấy! - Raoul đáp. - Nào Grimaud, bác bảo họ dọn cho bác ăn đi; cứ đặt, cứ gọi và sau khi bác đã nghỉ ngơi, ta sẽ nói chuyện.

- Không, ông ạ, không, - Grimaud nói - tôi không thể dừng lại đây một lát nào cả, tôi cần phải trở lại Paris.

- Thế nào, bác trở lại Paris ư? Bác lầm rồi, chính Olivain mới trở về, còn bác, bác ở lại.

- Trái lại, chính Olivain mới ở lại còn tôi đi về. Tôi đến đây chỉ cốt để báo cho ông biết điều đó.

- Nhưng do đâu mà có sự thay đổi ấy.

- Tôi không thể nói với ông được.

- Bác hãy nói rõ đi.

- Tôi không thể nói rõ được.

- Này, bác đùa đấy ư?

- Ông Tử tước biết rằng tôi không đùa bao giờ.

- Ừ, nhưng tôi cũng biết rằng Bá tước de La Fère đã nói là bác sẽ ở lại với tôi, còn Olivain sẽ trở lại Paris. Tôi sẽ theo lệnh của bá tước.

- Trong trường hợp này thì không, ông ạ.

- Tại sao mà bác không tuân lời tôi ư?

- Vâng, thưa ông, cần phải như thế.

- Vậy là bác vẫn khăng khăng?

- Vậy là tôi cứ đi; chúc ông Tử tước may mắn.

Grimaud chào và quay ra cửa. Raoul vừa tức giận vừa lo lắng, chạy theo và nắm tay giữ bác lại.

- Grimaud, - Raoul kêu lên - Hãy ở lại, tôi muốn vậy.

- Thế là, - Grimaud nói, - Ông muốn tôi để mặc bá tước bị giết hay sao?

Grimaud chào và sắp sửa đi ra, Tử tước vội nói:

- Grimaud, bạn của tôi ơi, bác sẽ không ra đi như vậy, bác sẽ không để mặc tôi trong một nỗi lo lắng dường này. Grimaud, nói đi, nói đi nào, nhân danh Chúa trời! và Raoul lảo đảo rơi mình xuống chiếc ghế bành.

- Ông ơi, tôi có thể nói với ông một điều thôi, bởi vì bí mật mà ông hỏi không thuộc về tôi. Ông đã gặp mục sư phải không?

- Phải.

Hai chàng thanh niên nhìn nhau hoảng hốt.

- Ông dẫn hắn đến bên người bị thương?

- Phải.

- Ông có thì giờ để nhìn hắn chứ?

- Phải.

- Và nếu có bao giờ gặp lại hắn, có thể ông sẽ nhận ra hắn chứ?

- Ồ, có chứ, tôi xin thề như vậy, - Raoul đáp.

- Cả tôi nữa, - de Guise nói.

- Vậy thì nếu có bao giờ gặp hắn, - Grimaud nói, - dù bất cứ ở đâu, trên đường cái, trong phố xá, tại nhà thờ, ở chỗ nào có hắn và có các ông, thì hãy giẫm chân lên xéo nát hắn, không thương hại, không dung tha, như ông sẽ làm đối với một con rắn, một con rắn hổ mang một con rắn độc; hãy nghiền nát nó ra và chỉ bỏ đi khi nào nó chết hẳn. Chừng nào nó còn sống thì tôi thấy tính mạng của năm con người còn bấp bênh lắm.

Rồi không nói thêm một lời, thừa lúc mấy người còn đang ngơ ngác và kinh hoàng về cái điều bác vừa kể, Grimaud băng mình ra khỏi phòng.

- Này bá tước ơi, - Raoul quay về phía de Guise và nói - tôi đã chẳng nói với anh rằng cái tên mục sư ấy gây tác động với tôi đúng như một con rắn là gì!

Hai phút sau có tiếng ngựa phi nước đại trên đường cái. Raoul chạy ra cửa sổ xem.

Đó là Grimaud lên đường về Paris. Bác vẫy mũ chào tử tước và phút chốc đã khuất ở góc đường.

Trên đường, Grimaud suy nghĩ về hai điều: thứ nhất là cứ cái đà chạy này thì ngựa không đi nổi mười dặm.

Thứ hai là bác không còn tiền.

Nhưng Grimaud càng nói ít thì tưởng tượng càng phong phủ.

Đến bưu trạm đầu tiên mà bác gặp, bác bán phăng con ngựa đi và lấy tiền đi xe trạm.

Chú thích:

- Con la đội miện= Mulet-Couronné

-*-*-*-

Chương 36

Đêm trước trận đánh

Chủ quán đã đem Raoul ra khỏi những sự suy tư u ám khi bác vội vã bước vào căn phòng nơi vừa diễn ra cảnh tượng mà chúng tôi đã kể; bác la lên:

- Quân Tây Ban Nha! Quân Tây Ban Nha!

Tiếng kêu ấy khá nghiêm trọng để buộc mọi sự bận tâm phải nhường chỗ cho sự bận tâm mà tiếng kêu ấy ắt gây ra. Hai chàng thanh niên hỏi han tin tức và được biết rằng quả thật quân thù đang tiến qua Houdin và Béthune.

Trong khi ông Arminges sai bảo gia nhân sửa soạn cho những con ngựa đã được nghỉ ngơi sẵn sàng lên đường, hai chàng thanh niên trèo lên mấy cửa sổ cao nhất của ngôi nhà bao quát vùng chung quanh và.Quả nhiên trông thấy ở phía Hersin và Lens hiện lên một đoàn rất đông bộ binh và kỵ binh. Lần này không còn phải là một toán du kích lẻ tẻ nữa, mà là cả một đội quân.

- Thế là không còn cách nào khác hơn là nghe theo những lời chỉ bảo khôn ngoan của ông Arminges và vừa đánh vừa rút lui.

Hai thanh niên vội vàng xuống nhà. Ông Arminges đã lên ngựa. Olivain dắt hai con ngựa của hai anh, và bọn gia nhân của Bá tước de Guise đang canh giữ cẩn thận tên tù binh Tây Ban Nha, hắn cưỡi trên lưng một con ngựa nhỏ mà người ta vừa mới mua theo ý của nó. Để cẩn thận hơn nữa, họ trói tay nó lại.

Toán nhỏ ấy chạy nước kiệu theo đường đi Cambrin nơi họ tưởng sẽ tìm thấy hoàng thân nhưng tù hôm qua ông không còn ở đấy và đã rút về La Bassée vì một tin tức sai đã báo cho ông biết là quân địch phải qua sông Lys ở Estaire.

Quả thật do bị lầm về những tin tức đó, hoàng thân de Condé đã cho rút quân mình khi Béthune, tập trung mọi lực lượng của mình ở vùng giữa Vielll - Chapelle và Venthie. Sau khi đích thân ông cùng với thống chế Grammont đi quan sát suốt dọc trận tuyển, ông vừa mới trở về và ngồi vào bàn ăn, hỏi han các sĩ quan ngồi gần về những tình hình mà ông đã sai họ thu thập; nhưng chẳng ai có được những tin tức xác thực. Quân đội địch đã biến đi đâu từ bốn mươi tám giờ và dường như đã tiêu tán mất rồi.

Không bao giờ một quân đội địch lại rất gần và do đó rất là đe doạ bằng khi nó bỗng nhiên biến mất hoàn toàn. Cho nên hoàng thân vừa trở nên cau có và băn khoăn trái với thói quen của mình thì một sĩ quan trực vào bảo rằng có người nào đó xin gặp thống chế Grammont.

Quận công đưa mắt xin phép hoàng thân và đi ra.

Hoàng thân nhìn theo, dán mắt vào cánh cửa, chẳng ai dám ho he, sợ làm ông lãng ý khỏi mối bận tâm của mình.

Bất thình lình một tiếng động vang lên. Hoàng thân vội vàng đứng dậy và giơ bàn tay về phía có tiếng động. Tiếng động ấy quá quen thuộc đối với ông, đó là tiếng súng đại bác.

Ai nấy đều đứng cả dậy.

Vừa lúc ấy cửa mở, thống chế Grammont mặt mày rạng rỡ bước vào và nói:

- Thưa Đức ông, Điện hạ có vui lòng cho phép con trai tôi, bá tước de Guise và bạn đồng hành là tử tước de Bragelonne vào để đem đến cho Điện hạ những tin tức về quân địch mà chính chúng ta đang tìm kiếm và chính họ đã lượm được?

- Thế là thế nào nhỉ? - Hoàng thân vội vã nói. - Tôi cho phép chứ. Không những tôi cho phép và tôi còn mong muốn nữa. Bảo họ vào đi.

Thống chế đầy hai thanh niên đến trước mặt hoàng thân. Hoàng thân chào họ và bảo:

- Các ông hãy nói đi, nói trước đã; rồi sau chúng ta hãy chúc mừng nhau theo tục lệ. Điều cấp bách nhất đối với tất cả chúng ta bây giờ là biết được quân địch ở đâu và đang làm gì.

Dĩ nhiên là bá tước de Guise lên tiếng không những vì anh lớn tuổi hơn mà còn vì anh được cha mình giới thiệu với hoàng thân. Và lại anh đã quen hoàng thân từ lâu, còn Raoul thì mới gặp lần đầu.

Anh kể cho hoàng thân nghe điều họ đã trông thấy từ quán Mazingarbe.

Trong lúc ấy, Raoul nhìn vị tướng trẻ mà đã lừng danh về nhưng trận Roroy, Fribourg et và Nordlingen.

Từ sau khi cha mình và Henri de Bourbon chết, Louis de Bourbon , hoàng thân de Condé được người ta gọi tắt theo thói quen thời bấy giờ là Ngài Hoàng thân là một người trẻ trạc hai mươi sáu hai mươi bảy tuổi, mắt sắc như mắt phượng hoàng; agl occhi griphani, như nhà thơ Dante nói, mũi khoằm, tóc dài bồng bềnh thành búp, tầm vóc nhỏ nhưng rắn rỏi, có tất cả những phẩm chất của một nhà chiến tranh vĩ đại, tức là cái nhìn sắc sảo, quyết định nhanh chóng, tinh thần dũng cảm truyền thuyết. Điều đó chẳng ngăn cản ông đồng thời là người phong nhã và trí tuệ, đến nỗi ngoài cuộc cách mạng mà ông đã làm trong chiến tranh bằng những yếu lĩnh mới mà ông đưa vào đó, ông còn làm cách mạng ở Paris trong hàng ngũ những vị công hầu trẻ ở triều đình mà ông là người thủ lĩnh tự nhiên.

Và đối lại với những người phong nhã của triều đình cũ mà Bassompierre, Bellegarde và quận công d Angoulême là những người mẫu, người ta gọi các vị công hầu trẻ kia là những ông chúa nhỏ bé.

Mới nghe vài lời đầu tiên của bá tước de Guise và theo hướng có tiếng súng đại bác, hoàng thân đã hiểu cả.

Quân địch ắt đã qua sông Lys ở Saint-Venant và tiến về Lens hắn là với ý đồ chiểm thị trấn này để tách quân đội Pháp ra khỏi nước Pháp. Tiếng đại bác mà người ta nghe thấy chốc chốc nổ vang át cả những tiếng nổ khác của những khẩại bác cỡ nòng lớn đáp lại những đại bác Tây Ban Nha và Lorrain.

Những toán quân đó là thuộc lực lượng nào? Phải chăng chỉ là một đội dùng để nghi binh? Hay đó là toàn thể quân đội?

Đó là câu hỏi cuối cùng của hoàng thân mà de Guise không thể nào trả lời được.

- Do đó là câu hỏi quan trọng nhất đó cũng là câu hỏi mà hoàng thân muốn có được một câu trả lời chính xác, rõ ràng và chắc chắn.

Đứng trước mặt Hoàng thân, Raoul bị một tình cảm nhút nhát rất tự nhiên xâm chiếm ngoài ý mình. Lúc ấy anh cố vượt qua và tiến lại hoàng thân, anh nói:

- Về vấn đề này. Hoàng thân có cho phép tôi mạo muội đưa ra vài lời may ra có giúp ngài được chút nào không?

Hoàng thân quay lại và như bao trùm toàn thân chàng thanh niên trong một cái nhìn; ông mỉm cười nhận ra ở chảng một đứa trẻ suýt soát mười lăm tuổi.

Hoàng thân bèn dịu bớt cái giọng cộc lốc và rành rọt của mình và như đang phải nói với một phụ nữ, ông bảo:

- Tất nhiên rồi, ông cứ nói đi nào.

Raoul đỏ mặt đáp:

- Đức ông có thể tra hỏi tên tù binh Tây Ban Nha.

- Các ông bắt được một tù binh Tây Ban Nha à! - Hoàng thân reo lên.

- Vâng, thưa Đức ông.

- A, đúng rồi? - de Guise nói, - tôi đã quên đi mất.

- Có gì đâu, chính bá tước đã bắt nó mà, - Raoul mỉm cười nói.

Vị thống chế già quay lại phía tử tước, tỏ vẻ biết ơn về lời chúc mừng ấy đối với con trai mình, còn hoàng thân thì nói:

- Chàng thanh niên nói đúng đấy! Dẫn tù binh ra đây.

Trong lúc ấy Hoàng thân gọi riêng de Guise ra, hỏi anh về việc tên tù binh ấy bị bắt như thế nào, và hỏi xem chàng thanh niên kia là ai.

Rồi hoàng thân trở lại phía Raoul và nói:

- Này ông, tôi biết rằng ông có mang một bức thư của em gái tôi bà de Longueville, nhưng tôi thấy rõ là ông thích tự giới thiệu mình hơn bằng cách nêu cho tôi một ý kiến hay.

- Thưa Đức ông, - Raoul đỏ mặt đáp - Tôi không muốn Đức ông phải bỏ dở một cuộc chuyện trò thật là quan trọng như câu chuyện ngài đã trao đổi với Bá tước. Thưa, bức thư đây ạ.

- Được rồi, - hoàng thân nói, - Ông sẽ đưa tôi sau. Tù binh đây rồi, ta hãy nghĩ đến việc cấp bách nhất.

Người ra dẫn tên du kích đến. Đó là một tên trong bọn lính đánh thuê thời ấy vẫn còn, chúng bán máu cho bất kỳ ai muốn mua và già đời trong chuyện mưu mô và cướp phá. Từ lúc bị bắt, nó không nói nửa lời đến nỗi những người đã giữ nó cũng chẳng biết nó thuộc quốc gia nào nữa.

Hoàng thân nhìn nó với vẻ nghi ngờ khó tả.

- Mày là người nước nào? - Hoàng thân hỏi.

Tên tù binh trả lời bằng vài tiếng nước ngoài.

- A! Hình như nó nói tiếng Tây Ban Nha, Grammont, ông nói được tiếng Tây Ban Nha không?

- Thưa Đức ông, thực tình là rất ít.

- Còn tôi chẳng biết tí nào, - hoàng thân cười nói.

Rồi quay nhìn những người xung quanh, ông nói tiếp:

- Này các ông, ở đây có ai nói tiếng Tây Ban Nha và phiên dịch giúp cho tôi được không?

- Thưa Đức ông, tôi ạ, - Raoul đáp.

- A! Ông nói được tiếng Tây Ban Nha à?

- Thưa cũng tàm tạm, để thực hiện mệnh lệnh của điện hạ trong dịp này.

Trong suốt thời gian ấy, tên tù binh vẫn thản nhiên cứ như là hắn không hiểu gì hết về điều người ta đang bàn.

Raoul nói tiếng Tây Ban Nha bằng cái giọng xứ Castillan thuần tuý nhất:

- Đức ông muốn hỏi anh là ngươi nước nào?

- Ich bin ein Deutscher, - Tên tù binh đáp.

- Nó nói cái quỷ gì thế? - Hoàng thân hỏi. - Và cái tiếng nói lố lăng ấy là tiếng gì?

- Thưa Đức ông nó nói nó là người Đức, - Raoul đáp, - tuy nhiên tôi hoài nghi vì giọng nó dở quá và phát âm sai bét.

- Thế ông cũng nói được tiếng Đức nữa à? - Hoàng thân hỏi.

- Vâng, thưa Đức ông - Raoul đáp.

- Đủ để hỏi cung nó bằng tiếng ấy chứ?

- Vâng ạ.

- Vậy thì hỏi nó đi.

Raoul bắt đầu cuộc hỏi cung nhưng thực tế đã củng cố nhận định của anh. Tên tù binh không hiểu hoặc giả vờ không hiểu Raoul nói gì với hắn. Về phía mình Raoul cũng không hiểu rõ những câu trả lời của nó pha trộn hẩu lốn tiếng Flamand và Alsacien. Tuy nhiên giữa tất cả những cố gắng của tên tù binh để lẩn tránh một cuộc hỏi cung đúng qui cách. Raoul nhận ra cái giọng tự nhiên của người đó. Anh nói:

- Non siete Spagnuolo, non siet Tedesco; Siete Italiano (1).

Tên tù binh làm một động tác và cắn môi.

- A! Cái tiếng này thì tôi thạo lắm, - hoàng thân de Condé nói.

- Và vì rằng nó là người Ý, tôi sẽ tiếp tục cuộc hỏi cung. Cảm ơn Tử tước nhé, - Hoàng thân cười và nói tiếp - Từ giờ phút này, tôi cử ông làm người phiên dịch của tôi.

Nhưng tên tù binh không sẵn sàng trả lời bằng tiếng Ý cũng như bằng các thứ tiếng khác; nó chỉ muốn lảng tránh các câu hỏi mà thôi.

Cho nên nó chẳng biết gì hết, từ số lượng quân địch, tên họ những người chỉ huy, cho đến ý đồ của cuộc tiến quân.

- Thôi được, - Hoàng thân nói, ông hiểu những nguyên do của sự không biết ấy, - người này bị bắt trong lúc đang cướp phá và ám sát; hắn đã có thể chuộc mạng sống bằng cách nói ra, nhưng hắn không muốn nói. Hãy dẫn nó đi và đem bắn.

Tên tù binh tái mặt; hai người lính đã dẫn nó đến, mỗi người túm một tay nó và đưa ra cửa; còn hoàng thân thì quay lại với thống chế Grammont dường như đã quên hẳn mệnh lệnh ông vừa mới ban ra.

Tới ngưỡng cửa, tên tù binh dừng lại: hai người lính chỉ biết thi hành mệnh lệnh, muốn lôi nó ra đi tiếp.

- Khoan đã, - tên tù binh nói bằng tiếng Pháp - Thưa Đức ông, tôi xin nói.

- A, a! - Hoàng thân cười nói, - tôi biết rõ thế nào rồi cũng đến đấy mà. Tôi có một bí quyết kỳ diệu để gỡ những cái lưỡi này, các chàng thanh niên hãy tận dụng nhé, để sau này đến lượt mình còn chỉ huy.

- Nhưng với điều kiện là, - tên tù binh nói tiếp, - Điện hạ hãy thề là để tôi sống.

- Ta lấy đanh dự quý tộc mà thề, - hoàng thân nói.

- Vậy Đức ông hãy hỏi đi.

- Đội quân vượt qua sông Lys ở chỗ nào?

- Giữa Saint-Venant và Aire.

- Ai là người chỉ huy?

- Bá tước de Fuensaldagna, tướng général Beck và đích thân Đại công thân vương.

- Đội quân có bao nhiêu người?

- Mười tám nghìn người và ba mươi sáu khẩu đại bác.

Nó tiến về đâu?

- Về Lens.

- Các ông thấy chưa - Với vẻ đắc thắng, Hoàng thân vừa nói vừa quay lại phía thống chế Grammont và các sĩ quan khác.

- Vâng, thưa Đức ông - thống chế nói, - ngài đã đoán đúng tất cả những gì mà thiên tàỉ của con người có thể đoán được.

Hoàng thân nói:

- Hãy nhắc Le Plessis, Bellièvre, Villequier et d Erlac, và hãy nhắc tất cả các toàn quân ở bên kia sông Lys rằng họ phải sẵn sàng để hành quân đêm nay; rất có khả năng ngày mai chúng ta tấn công quân thù.

- Nhưng, thưa Đức ông, - thống chế Grammont nói, - xin ngài nhớ cho rằng có tập hợp tất cả những người của chúng ta lại, cũng chỉ đạt xấp xỉ con số mười ba nghìn người.

- Ông thống chế ơi, - hoàng thân nói với cái nhìn tuyệt vời mà chỉ ông mới có, - chính là với những đội quân nhỏ mà người ta giành những trận thắng lớn.

Rồi quay về phía tên tù binh, ông bảo:

- Dẫn người này đi và phải canh giữ cẩn thận. Tính mạng nó trông vào những tin tức nó đã cung cấp: nếu tin tức đúng nó sẽ được tự do, nếu sai thì nó sẽ bị bắn.

Người ta dẫn tù binh đi.

- Bá tước de Guise, - Hoàng thân nói,

- Đã lâu rồi anh không được gặp cha anh, hãy đến với cha anh đi. Còn anh, - ông nói tiếp với Raoul, - Nếu anh không mệt quá thì hãy đi theo tôi.

- Đến cùng trời cuối đất thưa Đức ông! - Raoul reo lên, anh cảm thấy một niềm nhiệt thành mới lạ, đối với vị tướng trẻ tỏ ra rất xứng đáng với danh tiếng của ông.

Hoàng thân mỉm cười; ông ghét những kẻ xu nịnh, nhưng rất yêu quý nhưng người nhiệt tâm.

- Này anh bạn, - Ông nói, - anh giỏi về góp ý kiến, điều ấy vừa được thử thách; ngày mai chúng ta sẽ xem anh hành động thế nào.

- Thế còn tôi, thưa Đức ông, - Thống chế nói, - tôi sẽ làm gì?

- Ông ở lại đây để tiếp nhận các toán quân hoặc tự tôi sẽ lại tìm họ hoặc tôi sẽ cử một người liên lạc về để ông dẫn họ đến cho tôi.

- Hai mươi vệ sĩ có ngựa tốt nhất, đoàn tuỳ tùng của tôi chỉ cần thế thôi.

- Ít quá đấy - thống chế nói.

- Thế là đủ rồi, - Hoàng thân đáp. - Bragelonne, anh có ngựa tốt không?

- Con ngựa của tôi bị giết sáng nay tạm thời tôi cưỡi con ngựa của tên hầu.

- Anh hãy hỏi và tự mình chọn ở trong chuồng ngựa của tôi con ngựa nào vừa ý anh nhất. Đừng có sĩ diện hão nhé hãy lấy con ngựa mà anh thấy là tốt nhất ấy. Tối nay anh có thể cần dùng đến nó và ngày mai thì chắc chắn đấy.

Raoul chẳng đợi bảo đến hai lần anh biết rằng đối với cấp trên nhất là khi các vị cấp trên đó lại là Hoàng thân, thì sự việc lễ phép cao nhất là tuân theo không chạm trễ và đừng có lý sự gì cả. Anh xuống chuồng ngựa, chọn một con ngựa andalou màu vàng nhạt, tự mình thắng yên cương cho nó - vì Arthos đã dặn anh là trong lúc nguy hiểm thì đừng có giao những việc quan trọng ấy cho ai cả. Rồi anh đến với hoàng thân lúc ấy đã lên ngựa.

- Bây giờ, -Hhoàng thân bảo Raoul.

- Anh hãy đưa tôi bức thư mà anh mang theo.

Raoul đưa thư cho hoàng thân.

- Anh hãy đi bên tôi nhé, - Ông bảo.

Hoàng thân thúc ngựa, móc dây cương vào chuôi kiếm như ông vẫn thường làm khi muốn tay mình được tự do, bóc phong thư của bà Longueville và phi nước đại trên con đường đi Lens, đi theo có Raoul và đỏàn tuỳ tùng nhỏ, trong khi những phái viên phái đi gọi các toán quân thì phóng băng băng theo các hướng ngược nhau.

Hoàng thân vừa phi ngựa vừa đọc. Một lát sau ông nói:

- Người ta nói những điều hay nhất về anh, tôi chỉ nói với anh một điều, đó là theo chút ít mà tôi đã trông thấy và nghe thấy, tôi nghĩ còn nhiều hơn người ta nói với tôi.

Raoul cúi mình.

Trong khi đó, toán người đi cứ mỗi bước tiến về Lens thì tiếng đại bác nghe càng gần lại. Mặt hoàng thân dán chặt về phía tiếng súng như mắt một con chim mồi. Dường như mắt của ông có sức mạnh xuyên quạ các rặng cây đang giăng ra trước mặt ông và bịt kín chân trời. Chốc chốc hai lỗ mũi của hoàng thân lại dãn ra như là ông háu ngửi mùi thuốc súng và ông thở phì phò như con ngựa của mình.

Cuối cùng người ta nghe tiếng đại bác gần quá và thấy rành rành là mình chỉ còn cách trận địa chừng một dặm. Pomme-de- Pinvậy, đến chỗ ngoặt của con đường thì trông thấy cái làng nhỏ Annay

.Dân làng hết sức bối rối, lộn xộn, tin đồn về những sự tàn bạo của bọn Tây Ban Nha lan rộng và khiến ai nấy đều sợ hãi; đàn bà đã chạy trốn, đi về Vitry, có mấy người đàn ông ở lại.

Trông thấy hoàng thân, họ chạy đến, một người nhận ra ông và nói:

- A, Đức ông, ngài đến đánh đuổi tất cả lũ Tây Ban Nha đê tiện và lũ kẻ cướp Lorain phải không?

- Phải, nếu anh muốn làm người dẫn đường cho tôi.

- Rất sẵn lòng, Đức ông ạ. Điện hạ muốn tôi dẫn ngài đến đâu?

- Đến một chỗ nào cao để tôi có thế nhỉn thấy Lens và các vùng xung quanh.

- Tôi làm được.

- Tôi có thể tin ở anh anh là một người Pháp tốt chứ?

- Thưa Đức ông tôi là lính cũ ở trận Rocroy.

- Này cầm lấy, - hoàng thân vừa nói vừa đưa cho người lính túi tiền của mình, - đây là thưởng cho chiến công Rocroy. Bây giờ anh có muốn một con ngựa không hay là thích đi bộ?

- Đi bộ, Đức ông ạ trước tôi ở bộ binh mãi. Vả lại tôi tính dẫn Đức ông đi qua những con đường mà ngài phải xuống ngựa.

- Đi nào, - Hoàng thân nói, - Ta chớ nên để mất thì giờ.

Người nông dân chạy trước con ngựa của hoàng thân; rồi ra khỏi làng một trăm bước bác ta đi vào một con đường mòn ở cuối một thung lũng nhỏ xinh đẹp. Trong khoảng nửa dặm họ đi như vậy dưới lùm cây. Những phát súng đại bác vang lên rất gần, đến nỗi cứ mỗi tiếng nổ người ta tưởng như sắp nghe thấy tiếng Pomme-de- Pinđạn rít trên không. Cuối cùng người ta thấy một lối nhỏ rời con đường đang đi để bám vào thành núi. Bác nông dân đi vào lối ấy và mời hoàng thân đi theo mình. Hoàng thân xuống ngựa, bảo người phụ tá và Raoul cũng làm như vậy, dặn những người khác đợi lệnh của ông và phải đề phòng thủ thế cẩn thận, rồi ông bắt đầu leo lên lối dốc.

Mười phút sau đến một toà lâu đài cổ hoang tàn, nó bao quanh ngọn một Pomme-de- Pinđồi, đứng trên đó nhìn được bao quát cả vùng chung quanh. Cách xa độ một phần tư dặm trông thấy rõ Lys đang ở thế nguy, và phía trước Lens là cả đạo quân thù.

Nhìn thoáng một cái hoàng thân đã bao quát khoảng không gian mở ra trước mắt ông từ Lens cho đến Vitry. Một lát sau đã díễn ra trong trí óc ông tất cả kế hoạch của một trận đánh vào ngày hôm sau ắt là nó sẽ cứu nước Pháp lần thứ hai khỏi cuộc xâm lăng.

Ông lẩy bút chì, xé một tờ giấy trong cặp và viết.

"Ông thống chế thân mến,

Trong một giờ nữa Lens sẽ rơi vào tay quân địch. Ông hãy đến chỗ tôi, mang theo tất cả quân đội. Tôi sẽ tới Vendin để bố trí quân. Ngài mai chúng ta sẽ chiếm lại Lens và đánh bại quân thù!"

Rồi quay lại phía Raoul, ông bảo:

- Đi đi phi thật nhanh và trao bức thư này cho ông de Grammont

- Raoul cúi mình cầm mảnh giấy đi nhanh xuống núi, nhảy phốc lên ngựa và phi nước đại.

Mười lăm phút sau anh đã về tới chỗ thống chế.

Một phần lực lượng đã tới nơi. Người ta đợi phần còn lại từng giây từng phút.

Thống chế De Grammont dẫn đầu tất cả số lục quân và kỵ binh có sẵn và đi theo đường Vendin, để lại quận công Châtillon để chờ số quân còn lại và đưa họ đi sau.

Tất cả pháo binh đều đã sẵn sàng và lên đường.

Bảy giờ tối thì thống chế đến chỗ hẹn. Hoàng thân đang đợi.

Như ông đã đoán trước, Lens rơi vào tay quân địch gần như ngay sau khi Raoul đi. Việc ngừng pháo kích cũng đã nói lên sự kiện đó.

Người ta chờ đêm tới. Trời càng tối dần thì những toán quân mà Hoàng thân gọi cũng lần lượt tới nơi. Họ đã được lệnh là tuyệt đối không đánh trống thổi kèn.

Chín giờ thì tối hẳn. Tuy nhiên một ánh hoàng hôn cuối cùng còn chiếu sáng cánh đồng.

Đoàn quân do hoàng thân dẫn đi bắt đầu hành quân lặng lẽ.

Đi tới bên kia Annay thì trông thấy Lens; vài ba ngôi nhà đang cháy và một tiếng xôn xao âm thầm chỉ rõ sự hấp hối của một thành phố bị chiểm lĩnh dội đến tai những người lính.

Hoàng thân cắt đặt vị trí cho mỗi người; thống chế de giữ đầu cánh trái và phải dựa vào Méricourt; quận công de Châtillon ở trung tâm; cuối cùng hoàng thân ở phía trước Annay hình thành cánh phải.

Trật tự của trận đánh ngày hôm sau phải giữ nguyên như trật tự các vị trí đã bố trí đêm hôm trước. Mỗi người khi tỉnh giấc phải ở đúng nơi mà mình cần hành động.

Cuộc vận động được thực hiện trong yên lặng như tờ và với sụ chính xác cao nhất. Mười giờ ai nấy đã giữ vị trí của mình, mười giờ rưỡi hoàng thân đi kiểm tra các vị trí và ban mệnh lệnh cho ngày hôm sau.

Ba điều được căn dặn kỹ càng nhất cho tất cả các chỉ huy, và họ phải lo sao cho tất cả binh sĩ tuân theo nghiêm ngặt. Thứ nhất là các đơn vị phải trông nhau mà hành quân cho đúng, sao cho kỵ binh và bộ binh ở trên cùng một tuyến và mỗi đơn vị giữ đúng các khoảng cách của mình.

Thứ hai là đi công kích chỉ đi bước thường.

Thứ ba là để quân địch nổ súng trước.

Hoàng thân giao de Guise cho cha anh, và giữ Bragelonne ở với mình, nhưng hai thanh niên xin cho ngủ cùng với nhau đêm nay và được chấp thuận.

Một tấm lều được dựng lên cho họ bên cạnh lều của thống chế.

Ban ngày mệt nhọc thế, mà chẳng cậu nào buồn ngủ.

Vả chăng đêm trước của một trận đánh bao giờ chẳng là một điều trang nghiêm và trịnh trọng, ngay cả đốì với những người lính già cũng vậy, huống hồ là cả hai thanh niên lần đầu tiên đi ra nơi chiến trường khủng khiếp ấy.

Đêm trước một trận đánh, người ta nghĩ đến trăm điều lãng quên cho đến lúc ấy lại vụt lên trong trí óc. Đêm trước một trận đánh, những người dưng trở thành bạn bè và bạn bè trở thành anh em.

Chẳng cần phải nói rằng nếu như người ta giữ ở trong tim một tình cảm nào đó trìu mến hơn thì dĩ nhiên tình cảm ấy sẽ đạt tới mức phấn khích cao nhất mà nó có thể đạt.

Chắc rằng hai thanh niên ấy mỗi người đều cảm thấy một tình cảm nào đó, vì rằng một lát sau mỗi người ra ngồi ở một góc lều và tì lên đầu gối để viết.

Thư văn lai láng, bốn trang giấy lần lượt đầy những dòng chữ nhỏ li ti và sít nhau. Chốc chốc hai thanh niên lại nhìn nhau mỉm cười. Họ hiểu nhau mà không nói gì cả; hai tư cách phong nhã và dễ thương ấy sinh ra để thông cảm với nhau mà chẳng nói thành lời.

Viết thư xong, mỗi người bỏ thư của mình vào hai lần phong bì, chỉ khi nào xé phong bì ngoài cùng ra người ta mới biết được thư viết cho ai. Rồi cả hai tiến lại gần nhau, trao đổi các phong thư và mim cười.

- Nếu như sự bất hạnh đến với tôi. - Bragelonne nói.

- Nếu như tôi bị giết, - de Guise nói.

- Cứ yên trí, - cả hai cùng nói.

Rồi họ ôm hôn nhau như hai anh em. Xong mỗi người trùm áo choàng mà ngủ cái giấc ngủ trẻ trung và duyên dáng của những cánh chim, những bông hoa và những em bé.

Chú thích:

(1) Tiếng Ý: Mày chẳng phải người Tây Ban Nha, chẳng phải người Đức, mày là người Ý.

-*-*-*-

Chương 37

Một bữa ăn ngày xưa

Cuộc hội kiến thứ hai của bốn chàng ngự lâm quân cũ không long trọng và rần rộ như cuộc đầu tiên. Với lý lẽ bao giờ cũng trội hơn của mình, Arthos phán đoán rằng bàn ăn sẽ là trung tâm tụ họp nhanh chóng nhất và đầy đủ nhất. Và vào cái lúc mà bạn bè anh kiêng nể sự tao nhã và tiết độ của anh chàng dám đá động đến một trong số những bữa thịnh soạn ngày xưa ăn ở quán Pomme-de- Pin hoặc quán Parpaillot, thì anh là người đầu tiên đề nghị gặp nhau quanh một bàn ăn thật đàng hoàng và mỗi người có thể buông theo tính tình và phong cách của riêng mình, sự buông thả tự nhiên ấy đã duy trì sự thông cảm và hoà hợp nó khiến các anh được người ta gọi là những người bạn nối khố.

Lời đề nghị thật là thú vị đối với mọi người nhất là d Artagnan, anh đang khao khát thấy lại những bữa ăn ngon và niềm vui vẻ chuyện trò của thời trai trẻ; bởi vì đã từ lâu, tâm hồn tinh tế và khoái hoạt của anh chỉ toàn gặp những thoả mãn nửa vời, những thức ăn tồi, như anh thường nói. Porthos vào lúc có cơ làm Nam tước rất vui mừng có được cơ hội để nghiên cứu ở Arthos và Aramis lời ăn tiếng nói và các cung cách của những người cao sang. Aramis muốn qua d Artagnan và Porthos để biết tin tức trong hoàng cung và trong mọi cơ hội muốn giành cho mình những người bạn thật là tận tụy ngày xưa và từng hỗ trợ anh trong các cuộc quyết đấu với những đường kiếm đến là nhanh nhẹn và không ai có thể thắng nổi.

Còn về Arthos, anh là người duy nhất không có chút gì chờ đợi hoặc thu nhận ở những người kia, mà chỉ được thúc đẩy bằng một tinh thần cao thượng giản đơn và tình bạn bè thuần tuý.

Thế là họ thỏa thuận với nhau rằng mỗi người sẽ cho biết địa chỉ rất rõ ràng của mình và khi nào một người cần đến thì cuộc hội họp sẽ được triệu tập tại nhà một chủ quán nổi tiếng ở phố Monnais có tấm biển đề L Ermitage. Cuộc hẹn dầu tiên ấn định vào thứ tư sau, đúng tám giờ tối.

Đúng ngày hôm ấy, bốn người bạn đến rất đúng giờ và mỗi người từ một phía. Porthos cần thử một con ngựa mới, d Artagnan rời phiên gác ở cung Louvre, Aramis đã phải đi thăm một bà sám hối của mình trong xóm, còn Arthos đã thuê nhà ở phố Guénégaud, hầu như ở sát gần, họ rất bất ngờ gặp nhau ở ngay cửa quán L Ermitage, Arthos từ Cầu Mới ra, Porthos từ phố Gỗ xẻ đến, d Artagnan từ phố Hào Saint-Germain-L Auxerrois - và Aramis từ phố Béthisy tới.

Những lời lẽ đầu tiên trao đổi giữa bốn người bạn đúng là do cố ý làm bộ dạng cho nên có phần hơi gượng gạo và ngay bữa ăn cũng bắt đầu với một vẻ tẻ nhạt, cứng ngắt thế nào ấy. Người ta thấy rõ là d Artagnan cố gượng để cười, Arthos để uống, Aramis để kể chuyện và Porthos để im tiếng. Arthos nhận thấy sự lúng túng ấy và đề có phương thuốc cứu chữa ngay anh gọi mang đến bốn chai rượu sâm-banh.

Trước tiếng gọi ấy ban ra với vẻ điểm tĩnh thông thường của Arthos, người ta thấy khuôn mặt chàng Gascon dãn ra, và vầng trán Porthos rạng rỡ hẳn.

Aramis ngạc nhiên. Anh biết rằng Arthos không những không uống rượu nữa, mà còn cảm thấy phần nào ghê sợ rượu.

Aramis càng ngạc nhiên gấp bội khi thấy Arthos rót rượu đầy phè và uống với niềm hào hứng xưa kia. D Artagnan rót rượu ra cốc và cạn ngay; Porthos và Aramis chạm cốc nhau. Loáng một cái, bốn chai rượu đã rỗng không. Dường như các thực khách vội vã tuyệt giao với những ẩn ý của mình.

Thoáng một cái môn thuốc đặc hiệu ấy đã xua tan đến những bóng mây nhỏ nhất còn đọng lại trong lòng họ. Bốn người bạn bắt đầu nói to hơn, chẳng đợi người này dứt lời, người kia đã lên tiếng, và mỗi người ngồi ăn theo kiểu mình thích. Chẳng mấy chốc, thật là điều ghê gớm. Aramis tháo hai sợi dây ngù buộc áo chẽn của mình, thấy vậy Porthos cởi phăng tất cả dây áo của anh.

Những trận đánh, những chặng đường dài, những nhát gươm nhận được và ban đi là những điều tươi mát đầu tiên của cuộc chuyện trò. Rồi người ta chuyển sang nhưng cuộc đấu tranh ngấm ngầm chống lại người mà bây giờ người ta gọi là vị giáo chủ vĩ đại.

- Thực tình - Aramis cười nói. - là đã khá nhiều lời ca tụng những người đã chết rồi, bây giờ ta hãy chê bai người sống một chút.

- Tôi muốn chê bai lão Mazarin một ti, có được không?

- Được chứ! - D Artagnan bật cười nói - được chứ. Cậu cứ kể chuyện đi, nếu hay tôi sẽ tán thưởng.

Aramis bắt đầu kể:

- Mazarin đang cần liên minh với một vị đại hoàng thân. Lão yêu cầu ông ta gửi cho lão bản liệt kê những điều kiện theo đó hai người có thể kết giao được. Hoàng thân vốn ghét thương lượng với một kẻ thô bỉ như lão, đành miễn cưỡng làm bản liệt kê và gửi cho lão. Trong bản đó có ba điều kiện không vừa lòng Mazarin, lão đề nghị ông từ bỏ ba điều kiện ấy để đổi lấy mười nghìn êquy.

- A, a! - Cả ba người bạn reo lên, - chẳng đắt đâu, và lão chẳng sợ bị cột vào lời nói hớ đâu. Thế hoàng thân bảo sao?

Hoàng thân lập tức gửi ngay năm mươi nghìn livres cho Mazarin và yêu cầu lão đừng bao giờ viết cho ông nữa và còn sẵn sàng biếu thêm hai mươi nghìn livres nếu như lão cam kết là không bao giờ nói gì với ông nữa.

- Thế Mazarin làm gì?

- Lão tức giận chứ? - Arthos hỏi.

- Chắc là lão cho đánh đòn người đưa thư? - Porthos hỏi.

- Lão nhận số tiền phải không? - D Artagnan nói.

- Cậu đoán đúng, Artagnan ạ, - Aramis bảo.

Và tất cả phá ra cười ầm ĩ đến nỗi chứ quán chạy lên và hỏi xem các ông ấy cần gì. Gã cứ tưởng họ đánh nhau.

Trận cười rồi cũng yên.

- Có thể cho ông de Beaufort một đòn không nhỉ? - D Artagnan hỏi, - Tôi rất muốn đây.

- Cứ làm đi, - Aramis nói, anh biết đến tận gan ruột cái anh chàng Gascon thật là tinh ma và thật là dũng cảm này, hẳn không bao giờ chịu lùi một bước trên bất cứ đấu trường nào.

- Anh thấy thế nào, Arthos? - D Artagnan hỏi.

- Tôi lấy danh dự quý tộc mà thề, - Arthos đáp, - nếu cậu nói dấm dớ thì chúng tôi sẽ cười cho đấy.

- Tôi xin bắt đầu, - D Artagnan nói - Một hôm trong lúc chuyện trò với một người bạn của Ngài Hoàng thân, ông de Beaufort kể với người ấy rằng; có một lần ông tranh luận với De Chavigny về những cuộc tranh chấp đầu tiên giữa Mazarin và nghị viện. Thấy Chavigny gắn bó với tể tướng mới, mà chính hắn xưa kia đã từng ra sức ôm chân tể tướng cũ, ông de Beaufort bực lắm và đã đánh cho hắn một trận ra trò.

"Người bạn ấy biết ông de Beaufort vốn có bàn tay rất nhẹ nhàng, nên sửng sốt về việc đó và vội chạy đến kề lại cho Ngài Hoàng thân nghe. Câu chuyện lan rộng ra ngay và ai nấy đều quay lưng lại Chavigny. Hắn rất thắc mắc về thái độ lạnh nhạt chung ấy của mọi người, nhưng người ta ngại cho hắn biết nguyên do. Cuối cùng có một người đánh bạo nói với hắn rằng mọi người rất lấy làm lạ vì sao hắn để cho ông de Beaufort thụi hắn, dù ông ta có là hoàng thân chăng nữa.

"Thì ai nói là Hoàng thân de Beaufort thụi tôi? - Chavigny hỏi.

"Thì chinh Hoàng thân chứ ai, - người bạn đáp.

"Người ta bèn đi ngược nguồn tin và tìm thấy người mà hoàng thân đã kể cho nghe chuyện ấy, ông ta lấy danh dự ra thề là đã nói sự thật, lại còn nhắc lại và khẳng định nữa.

"Chavigny phẫn uất về một chuyện vu cáo như vậy mà hắn chẳng hiểu tí gì, tuyên bố với bạn bè là hắn thà chết, chứ không thể chịu dựng một sự lăng nhục đến thế. Cho nên hắn cử hai người làm chứng đến gặp hoàng thân, với nhiệm vụ là hỏi ông xem có đúng là ông có nói rằng ông đã thụi De Chavigny không.

"Tôi đã nói như thế, - Hoàng thân đáp, - và tôi xin nhắc lại, vì đó là sự thật.

"Thưa Đức ông, - một người nhà Chavigny bèn nói, - Xin phép cho tôi được thưa với Điện hạ rằng, những cú đánh vào một người quý tộc làm hạ phẩm giá của cả người đánh lẫn người bị đánh. Vua Louis XIII trước kia đã không muốn dùng những người quý tộc làm hầu phòng để có quyền đánh đập hầu phòng.

"Ơ kìa, - ông de Beaufort ngạc nhiên hỏi, - nhưng mà ai đã bị đánh đòn và ai nói đến chuyện đánh đòn cơ chứ?

"Thì chính Đức ông bảo là đã đánh...

"Đánh ai?

"Ông de Chavigny.

"Tôi ấy à?

"Thì ngài đã chẳng thụi ông de Chavigny rồi sao, ít ra là theo như ngài nói.

"Đúng vậy.

"Ồ! Nhưng ông ta cải chính.

"À ra thế, - hoàng thân nói, - tôi đã thụi cho ông ta ra trò, mà nguyên văn lời tôi nói như thế này. - Ông de Beaufort nói với tất cả về oai nghiêm mà các cậu đã biết đây!

"Ông Chavigny thân mến ơi, ông thật là đáng chê trách vì đã giúp sức cho một tên vô lại như lão Mazarin kia".

"A! Thưa Đức ông, - nhân chứng thứ hai reo lên, tôi hiểu rồi, chắc là ý ngài muốn nói quở trách.

"Quở trách với thụi(1) thì có sao nào? - Hoàng thân nói - chẳng phải cũng đúng cả ư? Quả các nhà soạn chữ nghĩa của các ông thực là thông thái rởm!

Mọi người cười đến vỡ bụng về điều sai lầm ngôn ngữ học đó của ông Beaufort mà những sai lầm loại ấy bắt đầu trở thành truyền thuyết. Cũng như thừa nhận rằng ý thức đảng phái đã bị loại trừ lẫn nhau ra khỏi các cuộc hội họp thân mật này, d Artagnan và Porthos có thể chế giễu các ông hoàng với điều kiện là Arthos và Aramis có thể thụi cho lão Mazarin.

- Thực tình - D Artagnan nói với hai bạn, - các anh muốn điều ác cho Mazarin cũng đúng thôi, bởi vì về phía lão ta, tôi xin thề rằng lão cũng chẳng muốn điều lành cho các anh.

- Lạ nhỉ! Thật không? - Arthos nói. - Nếu tôi biết rằng, cái lão đê tiện ấy biết tên tôi, thì có lẽ tôi sẽ phải đổi tên, vì sợ rằng người ta sẽ tưởng là tôi quen biết hắn.

- Lão ta không biết anh do tên tuổi, mà do việc làm của anh. Lão biết rằng có hai người qui tộc tham gia một cách đặc biệt vào vụ vượt ngục của ông de Beaufort và đang ráo riết cho tìm kiếm; tôi xin bảo đảm với anh như vậy.

- Cho ai đi tìm kiếm?

- Tôi.

- Sao, cậu à?

- Phải, mới sáng nay thôi lão cho gọi tôi đến để hỏi xem có tin tức gì chưa?

- Về hai người quý tộc ấy à?

- Phải.

- Thế cậu trả lời thế nào?

- Là tôi chưa có tin tức gì, nhưng tôi ăn cùng với hai người họ có thể cung cấp tin cho tôi.

- Cậu bảo lão ta thế à? - Porthos hỏi với cái cười hô hố nở nang trên khuôn mặt to bè của anh. - Hoan hô! Thế việc ấy không làm cho anh lo sợ à, Arthos?

- Không? - Arthos nói, - chẳng phải tôi sợ việc tìm kiếm của Mazarin.

- Thế anh hãy cho tôi biết một chút anh sợ cái gì nào? - Aramis hỏi.

- Chẳng sợ gì đâu, ít ra là trong hiện tại thật đấy.

- Thế còn trong quá khứ? - Porthos vặn lại.

- A! Trong quá khứ lại là chuyện khác - Arthos thở dài nói, - trong quá khứ và trong tương lai...

- Phải chăng anh lo sợ cho Raoul của anh? - Aramis hỏi.

- Không? - D Artagnan nói - chẳng ai chết trong trận đầu tiên đâu.

- Trận thứ hai cũng vậy, - Aramis nói.

- Cả trận thứ ba cũng thế thôi, - Porthos nói. - Và lại khi người ta bị giết thì người ta khỏi chết, chứng cớ là chúng ta vẫn còn cả đây.

- Không, Arthos nói, - cũng không phải chuyện Raoul làm tôi lo ngại bởi vì tôi hi vọng rằng nó sẽ cư xử như người quý tộc và nếu nó bị giết thì chắc là chết một cách dũng cảm, nhưng này, nếu như tai hoạ ấy đến với nó, thì... - Arthos đưa bàn tay lên vầng trán tái xanh.

- Thì sao? - Aramis hỏi.

- Thì tôi sẽ coi cái tai hoạ ấy như một sự chuộc tội.

- A, a! - D Artagnan nói, - tôi biết anh định nói gì rồi.

- Và tôi cũng vậy, - Aramis nói - nhưng không nên nghĩ đến chuyện đó, Arthos ạ: quá khứ đã qua rồi.

- Tôi không hiểu, - Porthos nói.

- Chuyện ở Armentières ấy mà, - D Artagnan khẽ nói.

- Chuyện ở Armentières nào nhỉ? - Porthos hỏi.

- Milady...

- A! Phải rồi, - Porthos nói, - tôi quên bẵng đi mất rồi.

Arthos nhìn anh bằng con mắt sâu xa và hỏi:

- Cậu đã quên chuyện ấy rồi ư?

- Thực tình, - Porthos đáp, - chuyện ấy cũng xa xôi lắm rồi.

- Điều ấy chẳng đè nặng lên lương tâm cậu hay sao?

- Quả là không! - Porthos nói.

- Thế, còn cậu, Aramis?...

- Ấy thỉnh thoảng tôi cũng có nghĩ đến, nhưng giống như một trong những điều khó xử nó có tính cách giúp cho sự nghị luận nhiều hơn.

- Còn cậu thì sao, d Artagnan?

- Tôi thú thật là khi nào nghĩ lại thời kỳ khủng khiếp ấy, tôi chỉ nhớ đến kỷ niệm về tấm thân lạnh giá của bà Bonacieux tội nghiệp mà thôi. Đúng, đúng, biết bao lần tôi thương tiếc nạn nhân, nhưng không bao giờ hối hận đối với kẻ ám sát nàng.

Arthos lắc đầu, vẻ hoài nghi.

- Anh hãy nhớ rằng, - Aramis nói, - nếu như anh chấp nhận công lý của Trời và sự tham gia của nó vào các việc ở trên đời này, thì người đàn bà ấy đã bị trừng phạt theo ỷ Chúa. Chúng ta chỉ là nhưng công cụ, có thế thôi.

- Thế còn sự tự do ý chí thì sao, Aramis?

- Quan toà làm gì nào? Ông ta có tự do ý chí của mình và kết tội mà chẳng sợ hãi gì. Đao phủ làm gì nào? Hắn làm chủ cánh tay của hắn và chém mà không ân hận.

- Đao phủ... - Arthos lẩm bẩm.

Và người ta trông thấy anh dừng lại ở một kỷ niệm.

- Tôi biết là chuyện ấy kinh hoàng thật, - D Artagnan nói - nhưng khi nghĩ rằng chúng ta đã giết những người Anh, những người dân thành La Rochelle, bọn Tây Ban Nha, Rochelais cả người Pháp nữa, họ chẳng làm điều gì ác nào khác ngoài việc nhằm bắn chúng ta nhưng bắn hụt họ chẳng có điều sai lầm nào khác ngoài việc chạm kiếm với chúng ta và không kịp đỡ, tôi xin tự biện giải cho mình trong vụ giết người đàn bà ấy, xin lấy danh dự mà thề như vậy.

- Còn tôi, - Porthos nói, - bây giờ các anh nhắc lại chuyện ấy. Arthos ạ, tôi thấy quang cảnh ấy hiện lại rành rành như lúc mình đã chứng kiến: Milady ở chỗ kia, anh ở đấy (Arthos tái mặt); còn tôi ở chỗ d Artagnan đang ngồi đây. Tôi đeo bên mình một thanh kiếm sắc như nước... Aramis, cậu còn nhớ thanh kiếm ấy chứ? Cậu vẫn gọi nó là Balizarde mà. Thật đấy, tôi xin thề với cả ba anh rằng nếu như không có gã đao phủ xứ Béthune ở đấy... Xứ Béthune phải không nhỉ?... Phải, nếu không có hắn ở đấy, thi thực tình tôi đã chém cổ con mụ phản trắc ấy một nhát đứt phăng không cần làm lại, mà dù có phải làm lại đi nữa... Đó là một mụ đàn bà độc ác.

Với các giọng điệu triết lý vô tư mà anh có từ khi đi tu nhà thờ và trong đó chất vô thần nhiều hơn tin tưởng ở Chúa, Aramis nói:

- Mà nghĩ đến tất cả những chuyện ấy làm gì kia chứ. Việc gì đã xong là xong rồi. Việc ấy chúng ta sẽ xưng tội vào lúc lâm chung và Chúa sẽ hiểu rõ hơn chúng ta đó là một tội ác, một lỗi lầm hay là một hành động đáng khen thưởng. Các anh bảo tôi có hối hận không ư? Thực tình là không. Xin thề trên danh dự và trên cây thánh giá vả tôi chỉ ân hận vì người ấy là đàn bà.

- Cái điều đáng yên tâm nhất trong tất cả câu chuyện ấy, - D Artagnan nói, - là nó không còn để lại một dấu tích gì.

- Mụ ấy có một đứa con trai, - Arthos nói.

- À phải, tôi biết rõ, - D Artagnan nói, - và anh cũng đã nói với tôi: nhưng ai biết nó bây giờ ra sao? Rắn chết thì hết đời ổ trứng? Anh tưởng rằng de Winter bác của nó đã nuôi nấng con rắn con đó sao? De Winter sẽ kết tội đưa con trai như đã kết tội mẹ nó.

- Thế thì, - Arthos nói, - thật tai hoạ cho de Winter, bởi vì đứa con chưa thấy làm gì.

- Thằng bé ấy chết rồi, không thì quỷ bắt tôi đi, - Porthos nói. - Theo d Artagnan nói thì ở cái xứ sở khốn khổ ấy, sương mù lúc nào cũng dày đặc, ít ra thì...

Vào cái lúc mà câu kết luận ấy của Porthos có lẽ sắp tô lại niềm vui trên những vầng trán ít nhiều u ám ấy, thì có tiếng động vang lên ở cầu thang và có tiếng gõ cửa.

- Cứ vào - Arthos bảo.

- Thưa các ông, chủ quán nói - có một tên hầu có việc rất gấp xin gặp một trong các ông ở đây.

- Gặp ai? - Cả bốn người cùng hỏi.

- Gặp vị nào là bá tước de La Fère.

- Tôi đây, - Arthos nói, - thế tên hầu ấy tên là gì?

- Grimaud.

- A! - Arthos tái mặt thốt lên. - Hắn đã về rồi ư? Có chuyện gì xảy ra với Bragelonne rồi chăng?

- Cho hắn vào! - D Artagnan bảo. - Cho hắn vào!

Nhưng Grimaud đã lên hết cầu thang và đang đợi ở thềm; bác lao vào trong phòng và ra hiệu bảo chủ quán đi ra.

Chủ quán đóng cửa lại. Bốn người bạn đợi chờ. Vẻ xáo động của Grimaud, khuôn mặt tái mét và ròng ròng mồ hôi bụi bậm lẩm đầy quần áo bác, tất cả báo hiệu rằng bác mang đến một tin quan trọng và khủng khiếp nào đó.

- Thưa các ông, - bác nói - người đàn bà ấy có một đứa con, đứa con ấy đã thành người lớn; hổ cái có một hổ con, con hổ ấy đã được thả ra, nó sẽ tìm đến các ông, phải đề phòng!

Arthos nhìn các bạn với một nụ cười buồn thảm.

Porthos tìm thanh kiếm ở bên mình, nó được treo ở tường.

Aramis vớ con dao; d Artagnan đứng dậy và hỏi:

- Bác định nói gì vậy, Grimaud?

- Con trai của Milady đã rời nước Anh, nó đang ở Pháp, đi đến Paris nếu không phải là nó đã có mặt ở đây rồi.

- Quái quỷ thật! - Porthos nói, - bác có chắc chắn không?

- Chắc! - Grimaud đáp.

Một lát im lặng dài tiếp đón điều tuyên bố ấy.

Grimaud thở hổn hển, mệt rã rời ra và ngồi phịch xuống ghế. Arthos rót một cốc sâm-banh và đưa bác.

- Ồ! Dù sao, - D Artagnan nói, - nếu nó còn sống, nếu nó đến Paris: thì chúng ta cũng đã thấy lắm chuyện ghê gớm hơn thế! Nó cứ việc đến!

- Phải, - Porthos vuốt ve bằng ánh mắt thanh kiếm treo trên tường và nói - Chúng ta chờ đợi, nó cứ việc đến.

- Vả chăng nó cũng chỉ là một đứa trẻ con, - Aramis nói.

- Trẻ con? - Grimaud nói. - Ông có biết cái thằng trẻ con ấy đã làm gì không? Cải trang làm mục sư hắn đã khám phá ra tất cả câu chuyện do nghe đao phủ xứ Béthune xưng tội, và sau khi đã nghe xong, sau khi đã biết rõ tất cả, để xá tội, hắn đã cắm vào tim kẻ sám hối lưỡi dao găm này đây. Các ông xem, lưỡi dao vẫn còn đó lòm và ẩm ướt, vì nó được rút ra khỏi vết thương chưa đầy ba mươi tiếng đồng hồ.

Và Grimaud quẳng lên giường con dao mà gã mục sư đã để quên trong vết thương của tên đao phủ.

D Artagnan, Portox và Aramis đứng bật dậy và thình lình chạy cả ra chỗ để kiếm.

Riêng Arthos vẫn ngồi ở ghế, bình tĩnh và trầm ngâm.

- Grimaud, bác bảo là hắn mặc áo mục sư à?

- Vâng, mục sư Augustins.

- Người như thế nào?

- Theo chủ quán nói thì hắn trạc vóc người tôi, gầy, da tai tái, mắt xanh nhạt và tóc hoe vàng.

- Và hắn không gặp Raoul chứ? - Arthos hỏi.

- Trái lại họ đã gặp nhau và chính Tử tước đích thân dẫn hắn đến bên giường kẻ sắp chết.

Arthos không nói một lời, đứng dậy và đến lượt mình ra lấy thanh gươm.

- Ái chà! Các cậu ơi! - D Artagnan gượng cười nói, - các cậu có thấy rằng chúng ta có vẻ giống như các tiểu thư liễu yếu đào tơ không? Thế nào mà chúng ta, bốn người đàn ông đã từng đương đầu với những đội quân mà chăng hề phải chau mày, bây giờ lại run sợ trước một đứa trẻ con ư!

- Ừ! Arthos nói, - nhưng đứa trẻ con ấy nhân danh Chúa mà đến.

Và họ vội vã ra khỏi khách sạn.

Chú thích:

(1) De Beaufort có tật nói hay lẫn những từ gần giống nhau: Gourmer là thụi, đánh; còn Gourmander là quở trách, la mắng.

-*-*-*-

Chương 39

Bức thư của Cromwell

Vào lúc bà Henriette rời tu viện Carmélites để đi đến Hoàng cung thì một kỵ sĩ xuống ngựa ở trước cung vua và báo cho lính gác rằng y có một việc đại sự cần nói với tể tướng Mazarin.

Mặc dầu giáo chủ vẫn thường hay lo sợ, nhưng vì cần được nghe những ý kiến và tình hình nhiều hơn, nên ông ta vẫn dễ gần. Không phải ở ngưỡng cửa đầu tiên người ta gặp khó khăn thực sự; cửa thứ hai cũng qua được khá dễ dàng, nhưng ở cửa thử ba, người lính gác và môn lại, còn có gã Bernouin trung thành canh giữ, con chó ngao mà không một lời lẽ nào có thể làm xiêu lòng không một cành nguyệt quế nào, dù nó có bằng vàng đi nữa, có thể mê hoặc.

Như vậy là ở cửa thứ ba, kẻ nào đến cầu khẩn hoặc yêu cầu một cuộc yết kiến phải chịu một cuộc lục vấn rành rọt.

Người kỵ sĩ buộc ngựa ở hàng rào ngoài sân, leo lên cầu thang lớn và hỏi các lính gác ở gian phòng đầu tiên:

- Cho tôi gặp tể tướng Mazarin.

- Cứ vào! - Lính gác đáp mà không cần hếch mũi lên khỏi các quân bài hoặc những quân xúc xắc mà họ đang chơi, lại còn hí hửng để cho người ta hiểu rằng mình không phải làm nhiệm vụ của những tên hầu.

Người sĩ vào gian phòng thứ hai được canh gác bởi lính ngự lâm và môn lại. Y nhắc lại yêu cầu của mình. Một môn lại tiến đến và hỏi:

- Ông có mang thư tiếp kiến không?

- Tôi có mang, nhưng không phải thư của tể tướng Mazarin.

- Vào đi và hỏi ông Bernouin!

Viên môn lại nói và và mở cánh cửa thứ ba.

Chẳng biết do tình cờ hay do vẫn đứng ở chỗ thường lệ, Bernouin đứng sau cánh cửa và đã nghe thấy tất cả. Hắn nói:

- Chính tôi là người ông tìm đây. Ông mang thư của ai đến Các hạ?

- Của tướng Olivier Cromwell(1), - Kẻ mới đến nói, - nhờ ông nói lại tên đó với Các hạ và ra cho tôi biết Các hạ có thể tiếp tôi hay không?

Y đứng dậy trong một tư thế vừa âm thầm vừa kiêu hãnh rất đặc biệt với những thánh đồ thánh giáo.

Sau khi đưa con mắt tra xét lên toàn thân người trẻ tuổi, Bernouin vào trong văn phòng và truyền đạt lại những lời nói của sứ giả.

- Một người mang thư của Olivier Cromwell à? - Mazarin hỏi, - và người ấy như thế nào?

- Thưa đức ông, một người Anh chính cống, tóc hung vàng, hung hung đúng hơn là hoe vàng, mắt xanh xám, xám đúng hơn là xanh, phần còn lại là kiêu ngạo và cứng cỏi.

- Bảo hắn đưa thư.

Bernouin từ văn phòng ra tiền sảnh nói:

- Ông hỏi bức thư.

Người trẻ tuổi đáp:

- Đức ông xem thư mà không có người mang thư. Nhưng để ông tin rằng tôi thực sự là người mang thư, xin hãy nhìn xem.

Bernouin nhìn dấu niêm phong thấy bức thư đúng là của tướng Olivier Cromwell, hắn sắp sửa quay vào văn phòng, thì người trẻ tuổi nói:

- Hãy nói thêm rằng tôi không phải là một người mang tin bình thường mà là một phái viên đặc biệt.

Bernouin vào, sau mấy giây lại ra, giữ cửa mở và bảo:

- Mời ông vào.

Mazarin cần đến tất cả những sự đi đi lại lại ấy để hồi phục khỏi cơn xúc động mà việc bảo tin có bức thư gây nên. Nhưng tâm trí ông có minh mẫn đến đâu, ông vẫn không tin được lý do gì đã khiến Cromwell muốn liên lạc với ông.

Người trẻ tuổi xuất hiện ở ngưỡng cửa văn phòng, một tay cầm mũ, một tay cầm phong thư.

Mazarin đứng dậy và nói:

- Ông có mang thư uỷ nhiệm với tôi à?

- Thưa Đức ông, thư đây, - người trẻ tuổi đáp.

Mazarin cầm bức thư, mở dấu niêm phong và đọc,

"Ông Mordaunt là một thư ký của tôi sẽ trình bức thư giới thiệu này lên Các hạ giáo chủ Mazarin ở Paris. Ngoài ra viên thư ký này còn mang đến các hạ một bức thư mật thứ hai.

Olivier Cromwell"

- Rất tốt, ông Mordaunt ạ, - Mazarin nói, - Ông hãy đưa tôi bức thư thứ hai và ngồi xuống đây!

Người trẻ tuổi rút ở trong túi ra bức thư thứ hai đưa cho giáo chủ, rồi ngồi xuống.

Tuy nhiên đang mải suy nghĩ, giáo chủ cầm thư rồi mà chưa bóc, lật đi lật lại trong tay; nhưng rồi để đánh lạc hướng kẻ mang tin, ông ta bắt đầu lục vấn y theo thói quen của mình, và do kinh nghiệm, ông tin chắc rằng ít người giấu nổi ông điều gì khi ông đã vừa hỏi vừa nhìn vào mặt. Ông nói:

- Ông Mordaunt này, ông còn trẻ lắm đối với cái nghề đại sứ hóc búa này mà nhiều khi những nhà ngoại giao kỳ cựu nhất cũng thất bại đây.

- Thưa Đức ông, tôi hai mươi ba tuổi, nhưng Các hạ lầm khi nói rằng tôi trẻ. Mặc dầu tôi không có được sự khôn ngoan của ngài, nhưng tuổi tôi thì hơn ngài đấy.

- Thế là thế nào? - Mazarin nói. - Tôi không hiểu ý ông.

- Thưa Đức ông, tôi nói rằng những năm tháng khổ đau phải tính gấp đôi, mà từ hai mươi năm nay tôi đau khổ.

- À phải, tôi hiểu rồi, - Mazarin nói, - vì không có của cải; ông nghèo khổ có phải không?

Rồi ông nói thêm với mình: "Bọn làm cách mạng nước Anh toàn là những đồ khố rách áo ôm".

- Thưa Đức ông, lẽ ra tôi phải có một tài sản là sáu triệu đồng, nhưng người ta đã tước đoạt mất của tôi.

- Thế ra ông không phải là một người trong đám bình dân à? - Mazarin ngạc nhiên hỏi.

- Nếu tôi mang tước hiệu, Tôi sẽ là "Lord"; nếu tôi mang họ tôi, ắt ngài đã từng nghe thấy là một trong những dòng họ lẫy lừng nhất Anh quốc.

- Vậy tên họ ông là gì? - Mazarin hỏi.

- Tên tôi là Mordaunt, - Người trẻ tuổi nghiêng mình đáp.

Mazarin hiểu rằng phái viên của Cromwell muốn giữ kín cuộc vi hành của mình.

- Ông im lặng một lát, nhưng trong lúc ấy ông nhìn vào người lạ với sự chú ý còn lớn hơn cả lúc mới đầu.

Người thanh niên vẫn thản nhiên.

- Quỷ bắt cái bọn thanh giáo này đi - Mazarin khẽ nhủ thầm - Chúng như tượng đá tạc ấy.

Rồi ông cao giọng:

- Ông vẫn còn bà con thân thích chứ?

- Thưa Đức ông còn một người.

- Người ấy đã giúp đỡ ông chứ?

- Đã, ba lần tôi đến cầu xin sự giúp đỡ, thì ba lần ông ta sai đầy tớ ra đuổi tôi.

Mazarin hy vọng dùng lòng thương giả dối để người trẻ tuổi rơi vào bẫy của mình, bèn nói:

- Ôi, lạy Chúa? Câu chuyện của ông tôi thấy thật đảng quan tâm! Thế ông không biết mình ra đời thế nào à?

- Mãi tận gần đây tôi mới biết rõ.

- Còn trước đó thì sao?

- Tôi tự coi mình như một đứa con hoang.

- Vậy là ông chưa hề biết mặt mẹ mình à?

- Có chứ, thưa Đức ông. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi đến thăm tôi ba lần ở nhà bà vú nuôi; lần cuối cùng mẹ tôi đến tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm nay.

- Ông có trí nhớ tốt nhỉ? - Mazarin nói.

- Ồ, đúng thế, thưa Đức ông, - người thanh niên nói với một cái giọng thật kỳ lạ nó khiến cho giáo chủ cảm thấy một cơn rùng mình chạy khắp các mạch máu.

- Thế ai nuôi dưỡng ông? - Mazarin hỏi.

- Một bà vú người Pháp; khi tôi lên năm tuổi bà ấy đuổi tôi đi vì chẳng có ai trả tiền công cho bà, và bà ấy bảo tôi biết tên người thân thích kia mà bà thường nghe mẹ tôi nói đến.

- Rồi ông ra sao?

- Tôi khóc lóc và đi ăn xin trên những đường cái lớn. Một vị thượng thư ở Kingston nhặt tôi về dạy dỗ tôi theo đạo Tân giáo, truyền cho tôi tất cả trí thức của mình và còn giúp đỡ tôi trong việc tìm lại gia đình.

- Những cuộc tìm kiếm ấy ra sao?

- Đều vô hiệu quả; ăn nhờ may rủi mà thôi.

- Ông tìm ra tình hình mẹ ông bây giờ thế nào rồi?

- Tôi được biết rằng mẹ tôi đã bị ám sát bởi chính cái kẻ thân thích ấy, hắn được bốn người bạn giúp sức. Và tôi cũng được biết rằng vua Charles I đã tước danh hiệu quý tộc và tước cả tài sản của tôi nữa.

- A! Bây giờ thì tôi mới hiểu vì sao ông phụng sự ông Cromwell. Ông thù ghét nhà vua.

Mazarin kinh ngạc khi người thanh niên thốt ra những lời lẽ ấy với vẻ mặt ma quái. Mặt những người khác thường đỏ gay lên vì bị bốc máu, nhưng ở y mặt lúc ấy vàng như sắc mặt và trở nên nhợt nhạt.

- Ông Mordaunt ạ, câu chuyện của ông thật là khủng khiếp và làm tôi xúc động mạnh mẽ, nhưng cũng may cho ông là ông phụng sự một vị chúa tể toàn năng. Ông ấy hẳn là sẽ giúp ông trong việc tìm kiếm. Chúng tôi cũng sẽ có những tin tức cung cấp cho ông.

- Thưa Đức ông, đối với một con chó nòi tốt, chỉ cần chỉ cho nó một đầu đường săn là chắc chắn nó sẽ đi tới đầu kia.

- Nhưng cái người thân thích mà ông kể với tôi ấy, ông có muốn tôi nói với ông ta không? - Mazarin nói, toan kiếm một người bạn bên cạnh Cromwell.

- Cảm ơn Đức ông, tự tôi sẽ nói.

- Nhưng ông đã chẳng nói rằng ông ta bạc đãi ông đó sao?

- Lần sau tôi gặp, ông ta sẽ đốì xử với tôi tốt hơn.

- Ông có cách làm siêu lòng ông ta à?

- Tôi có cách khiến ông ta phải sợ tôi.

Mazarin nhìn người thanh niên nhưng một tia chớp lóe ra từ đôi mắt anh ta khiến ông cúi đầu xuống và ông sẽ lúng túng nếu tiếp tục một câu chuyện như vậy, ông bèn mở phong thư của Cromwell.

Dần dần mắt của người thanh niên trở lại khép lại và lờ đờ như thường lệ và y lại rơi vào một giấc mộng sâu xa.

Sau khi đọc được mấy dòng, Mazarin thử nhìn trộm xem Mordaunt có rình nom vẻ mặt ông không, và nhận thấy về thản nhiên của y, ông khẽ nhún vai mà nói.

- Những công việc của ông, ông cứ nhờ những người khác làm giúp đồng thời với công việc của họ. Nào, xem bức thư này nói gì.

Chúng tôi xin in nguyên văn bức thư ra đây:

"Kính gửi Các hạ

Đức ông giáo chủ Mazarini.,

Thưa Đức ông, tôi muốn được biết các ý định của ngài về những công việc hiện nay ở nước Anh. Hai vương quốc chúng ta ở quá gần nhau nên nước Pháp không thể không quan tâm đến tình hình nước chúng tôi, cũng như chúng tôi không thể không quan tâm đến tình hình nước Pháp. Những người dân Anh hầu như hoàn toàn nhất trí chống lại chính thể chuyên chế tàn bạo của vua Charles và bè đảng.

Do lòng tin cậy chúng tôi, tôi được đặt đứng đầu phong trào ấy, tôi đánh giá rõ ràng hơn ai hết bản chất và hậu quả phong trào. Giờ đây tôi đang làm chiến tranh và tôi sắp mở một trận đánh quyết định với vua Charles. Tôi sẽ thắng bởi vì hi vọng của dân tộc, của ý của Chúa đứng về phía tôi. Tôi thắng trận này nhà vua sẽ chẳng còn chút tự lực nào ở Anh hay ở Scotland. Nếu không bị bắt hoặc bị giết, ông ta sẽ tiếp nhận hoàng hậu Henriette rồi và chắc hẳn là vô tình đã duy trì một nội chiến không dứt trong đất nước tôi. Nhưng bà Henriettetetetete là con gái nước Pháp thì sự tiếp đãi của nước Pháp là phải. Còn về vua Charles, vấn đề lại khác hẳn. Tiếp nhận và giúp đỡ ông ta là nước Pháp phán đối những hành động của nhân dân Anh và làm phương hại một cách hết sức cơ bản đến nước Anh và nhất là đến tiến trình mà chúng tôi muốn tạo ra cho chính phủ của mình; một tình trạng như vậy cũng ngang với hành vi thù địch hiển nhiên...".

Lúc này rất đỗi lo lắng vì thái độ trong bức thư, Mazarin ngừng đọc và lại nhìn trộm người thanh niên. Y vẫn mơ màng.

Mazarin đọc tiếp:

"Thưa Đức ông, như vậy thật là gấp bách, tôi cần phải biết sự thể ra sao về những sở kiến của nước Pháp. Lợi ích của nước Pháp và nước Anh dù rằng được lái theo những hướng trái ngược, nhưng lại gần nhau hơn là người ta có thể tưởng. Nước Anh cần có sự yên tĩnh nội bộ để hoàn tất việc loại trừ ông vua của mình; nước Pháp cần sự yên tĩnh đó để củng cố ngai vàng của ông vua non trẻ, các ông cũng như chúng tôi cần đến nền hoà bình nội tại ấy mà chúng ta có thể đạt tới nhờ sức mạnh của chính phủ chúng ta.

Những cuộc tranh chấp của ngài với nghị viện, những mối bất hoà âm ỉ của ngài với các hoàng thân, họ hôm nay chiến đấu vì ngài và ngày mai sẽ chiến đấu chống lại ngài, lòng kiên nhẫn của dân chúng được chỉ huy bởi ông chủ giáo, ông chủ tịch Blancmensnil và ông tham nghị Broussel, cuối cùng tất cả sự hỗn loạn ấy trải qua những bậc thang khác nhau của quốc gia buộc ngài phải xem xét với tinh thần lo ngại về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra với nước ngoài. Bởi vì khi ấy nước Anh phấn khích cuồng nhiệt vì những tư tưởng mới có thể sẽ liên minh với Tây Ban Nha, nước này vốn đang thèm thuồng sự liên minh ấy. Cho nên, thưa Đức ông, biết rõ tính thận trọng của ngài và lập trường hoàn toàn cá nhân của ngài mà những biến cố đã tạo nên như ngài, nay tôi thiết nghĩ ngài sẽ cho rằng tốt hơn hết là tập trung lưc lượng của mình vào nội bộ vương quốc Pháp và để mặc Chính phủ mới của nước Anh với lực lượng của họ. Sự trung lập ấy chi cốt để tách xa vua Charles khỏi lãnh thổ Pháp, và không giúp đỡ cả về vũ khí, tiền bạc hay quân đội cho cái ông vua hoàn toàn xa lạ với quí quốc kia.

Bức thư của tôi như vậy là hoàn toàn bí mật, và cũng vì thế mà tôi gửi tới ngài qua tay một người tâm phúc tin cẩn; bức thư sẽ đi trước, bằng một tinh thần mà Các hạ sẽ lường ra, những biện pháp mà tôi sẽ áp dụng tuỳ theo các sự kiện diễn biến.

Olivier Cromwell nghĩ rằng tốt hơn hết là bày tỏ lẽ phải với một đầu óc thông minh như Madarim hơn là với một bà hoàng hậu chắc chắn hơn đáng khâm phục về tính kiên nghị nhưng lại quá qui phục những thành kiến hão huyền về dòng dõi và về quyền lực thần linh.

- Xin kính chào Đức ông. Nếu trong mười lăm ngày mà tôi không nhận được trả lời thì tôi sẽ coi như bức thư của tôi vô hiệu.

Olivier Cromwell"

- Này ông Mordaunt, - Tể tướng cất cao giọng như muốn đánh thức con người đang mơ mộng, - bức thư trả lời của tôi sẽ càng làm vừa lòng tướng Cromwell hơn, nếu như tôi càng chắc chắn hơn là người ta sẽ không biết rằng tôi sẽ viết ra nó. Vậy ông hãy đợi lấy thư ở Boulogne-sur-Mer - trên bờ biển, và hãy hứa với tôi rằng ông sẽ đi ngay sáng mai.

- Thưa Đức ông, tôi xin hứa, - Mordaunt đáp, - nhưng Đức ông sẽ bắt tôi đợi bức thư ấy bao nhiêu ngày?

- Nếu trong mười ngày mà ông không nhận được thì ông có thể ra đi.

Mordaunt cúi chào.

- Chưa xong đâu ông, - Mazarin nói, - những cuộc phiêu lưu đặc biệt của ông làm tôi rất xúc động; hơn nữa bức thư của Ngài Cromwell khiến ông trở thành quan trọng trước mắt tôi với tư cách đại sứ. Nào, tôi xin nhắc lại, hãy nói đi tôi có thể làm gì cho ông?

Mordaunt ngẫm nghĩ một lát, rồi sau một chút do dự dễ nhận thấy, sắp mở miệng để nói, thì Bernouin hấp tấp đi vào ghé vào tai giáo chu thì thầm:

- Bẩm Đức ông, hoàng hậu Henriettetetetete, có một vị quý tộc người Anh đi theo, lúc này đang vào Hoàng cung.

Mazarin nảy bật người trên ghế, cử chỉ ấy không thoát khỏi mắt người trẻ tuổi, và ông vội kìm hãm chuyện kín ấy mà chắc hẳn ông suýt tuôn ra.

- Này ông, - giáo chủ nói, - Ông nghe tôi dặn rồi chứ. Tôi ấn định nơi hẹn với ông ở Boulogne-sur-Mer, vì rằng tôi nghĩ đối với ông, mọi thành phố ở Pháp cũng như nhau mà thôi, nếu ông muốn một thành phố khác thì cứ nêu ra. Nhưng chắc ông cũng dễ dàng hiểu rằng bị bao bọc như tôi giữa những thế lực mà tôi chỉ có thể thoát ra bằng sự kín đáo, tôi muốn rằng mọi người không hay biết gì về sự có mặt của ông ở Paris.

- Thưa Đức ông, tôi sẽ đi ngay,

Mordaunt vừa nói vừa đi mấy bước ra phía cửa mà mình đã vào, thì giáo chủ gọi giật lại:

- Này, ông ơi! Không đi lối ấy! Xin ông đi theo hành lang, rồi ra nơi tiền phòng. Tôi muốn rằng người ta không nom thấy ông đi ra, cuộc hội kiến của chúng ta phải được giữ bí mật.

Bernouin đưa Mordaunt sang phòng bên cạnh, trao cho một tên môn lại và trỏ cho anh ta một cửa ra.

Rồi hắn hấp tấp trở lại để dẫn hoàng hậu Henriettete vào căn phòng giáo chủ, bà đã đi qua dãy hàng lang kính.

Chú thích:

(1) Olivier Cromwell (1599-1658) nghị sĩ Anh, sau trở thành thủ lĩnh của phong trào chống đối chế độ quân chủ chuyên chế. Lãnh đạo quân khởi nghĩa đánh bại đội hoàng gia ở Nadơby (1645) và xử tử vua Charles I. Cuộc khởi nghĩa của Cromwell có tính chất cách mạng dân chủ tư sản và tác động rộng rãi đến phong trào cách mạng ở nhiều nước châu Âu Đức

-*-*-*-

Chương 40

Mazarin và bà Henriette

Giáo chủ tể tướng đứng dậy và vội vã đi ra đón bà hoàng hậu nước Anh. Ông gặp bà ở quãng giữa hành lang dẫn đến văn phòng mình.

Ông càng tỏ vẻ cung kính bà hoàng hậu không có tùy tùng mà cũng chẳng có trang điểm này hơn, khi tự mình cảm thấy rõ ràng có điều gì đáng chê trách về tính biển lận thiếu nhân tâm của mình.

Song những người đến cầu khẩn lại tài bắt gương mặt mình biểu hiện được mọi vẻ, và người con gái của Henri IV vừa tươi cười đi tới người mà mình căm ghét và khinh bỉ.

- Chà! Vẻ mặt mềm mỏng làm sao! - Mazarin tự nhủ. - Phải chăng bà ta đến vay mượn mình tiền?

Và ông ta liếc một cái nhìn lo ngại về phía cái két bạc của mình, ông cũng vội quay cái nhẫn của mình vào phía trong để che giấu cái mặt kim cương lộng lẫy mà ánh hào quang của nó hẳn sẽ thu hút cặp mắt người ta lên đôi bàn tay vốn đã nuột nà của mình.

Khốn nỗi cái nhẫn ấy không cho phép mầu giúp ông tàng hình như chiếc nhẫn của Gygès(1) khi người mang nhẫn xoay nó.

Lúc này Mazarin ao ước tàng hình quá đi, vì ông ta đoán rằng bà Henriette đến để yêu cầu ông một cái gì đó mà một bà hoàng bị ông đối xử tàn tệ như vậy lại xuất hiện với nụ cười trên môi, Chứ không phải với lời doạ dẫm thì rõ ràng là bà ta đến để cầu xin.

- Thưa ngài giáo chủ - Bà khách uy nghi nói, - lúc đầu tôi có ý định nói về việc đã xui khiến tôi đến đây với hoàng hậu em gái tôi, nhưng tôi lại suy nghĩ rằng những vấn đề chính trị can hệ trước hết đến đàn ông.

- Thưa bà - Mazarin nói, - thực là Lệnh bà làm tôi rối với những lời lẽ biệt đãi êm tai đó.

"Hắn thật là nhã nhặn, - bà hoàng nghĩ, - hay là hắn đoán được ý định của ta".

Tới văn phòng của mình, giáo chủ mời hoàng hậu và khi bà đã yên vị trong chiếc ghế bành ông nói:

- Xin Lệnh bà ban lệnh cho kẻ tôi tớ cung kính nhất của Lệnh bà.

- Than ôi! Thưa Đức ông, - Hoàng hậu nói, - tôi đã mất đi thói quen ra mệnh lệnh và mắc thói quen cầu khẩn. Tôi đến đây để cầu khẩn ông và rất sung sướng nếu lời cầu khẩn của tôi được ông chấp nhận.

- Tôi xin nghe, thưa bà, - Mazarin nói.

- Thưa ông giáo chủ, đây là câu chuyện về cuộc chiến tranh mà chồng tôi duy trì chống lại những phần tử phiến loạn. Có lẽ ông không biết rằng người ta đang đánh nhau ở bên Anh - hoàng hậu nói với nụ cười buồn rầu, - và sắp tới đây người ta sẽ đánh nhau còn quyết liệt hơn từ trước đến giờ.

- Thưa bà, tôi hoàn toàn không biết, - Mazarin nói và kèm theo một cái nhún vai nhè nhẹ. - Chao ôi! Những cuộc chiến tranh của chúng tôi đã choán hết thời giờ và tâm trí của một tể tướng khốn khổ bất lực và suy nhược như tôi.

- Thế này nhé, - Hoàng hậu nói, - tôi xin báo với ông giáo chủ rằng Charles đệ nhất, chồng tôi nay mai sẽ thắng một trận quyệt định. - Trong trường hợp thất bại, - Mazarin làm một động tác, - Ấy phải phòng trước mọi chuyện, - hoàng hậu nói tiếp, - ngài muốn rút lui sang Pháp và sống ở đấy như một người bình thường. Ông thấy thế nào về dự định ấy?

Giáo chủ lắng nghe mà không một thớ thịt nào trên nét mặt tiết lộ cảm xúc mà ông nhận thấy; suốt lúc nghe mà ông vẫn giữ nguyên nụ cười giả tạo, vuốt ve. Đến khi hoàng hậu nói xong, ông mới đáp bằng cái giọng mượt mà nhất.

- Thưa bà, bà cho rằng nước Pháp bản thân nó đang xáo động và sục sôi như thế này lại có thể là một cái bến yên lành cho một ông vua bị truất ngôi hay sao? Vương miện chẳng đã vững chắc gì trên đầu vua Louis XIV làm sao ông ta có thể chịu đựng nổi một trọng lượng gấp đôi?

- Về cái gì can hệ đến tôi, thì trọng lượng ấy đã chẳng lấy gì làm nặng lắm đâu, ông giáo chủ ạ, - Hoàng hậu ngắt lời với một nụ cười đau đớn, - và tôi chẳng đòi hỏi người ta phải làm gì cho chồng tôi nhiều hơn so với tôi đâu. Ông thấy rằng chúng tôi là những vua chúa rất khiêm tốn đấy chứ.

- Ấy, thưa bà, - giáo chủ vội cướp lời để cắt đứt những điều giải thích có thể tiếp theo, - về bà thì lại là chuyện khác, bà là một người con gái của Henri IV của đức vua vĩ đại và tuyệt vời ấy...

- Điều ấy không ngăn cản ông từ chối tiếp đón con rể của Người, có phải không, thưa ông? Tuy nhiên, ông cũng nên nhớ lại rằng vị vua vĩ đại, tuyệt vời ấy có lần bị phế truất giống như chồng tôi sắp sửa bị, đã cầu cứu nước Anh, và nước Anh đã chấp thuận; nói cho đúng thì hoàng hậu Elidabet chẳng phải cháu gái của Người?

- Peccato(2) - Mazarin nói, ông ta cãi bữa trước cái lý luận thật là đơn giản ấy. - Lệnh bà không hiểu tôi: Lệnh bà nhận xét sai những ý định của tôi, và như vậy chắc chắn là tôi diễn đạt bằng tiếng Pháp dở quá.

- Vậy thì xin ông cứ nói tiếng Ý. Hoàng hậu Marie de Médicis mẹ của tôi đã dạy cho chúng tôi thứ tiếng ấy trước khi bị giáo chủ tể tướng tiền bối của ông đưa đi chết trong cảnh lưu đày. Nếu như còn lại chút gì, của đức vua Henri IV vĩ đại và tuyệt vời mà ông nói đến lúc nãy ấy, chắc chắn là Người sẽ rất lấy làm ngạc nhiên vì sao sự khâm phục sâu xa đối với Người lại chẳng dính dáng gì mấy đến lòng thương đối với gia đình của Người như vậy.

Mồ hôi hột đổ trên trán Mazarin. Rồi chẳng nhận lời đề nghị của hoàng hậu là thay đổi ngôn ngữ, ông nói:

- Thưa bà, trái lại sự khâm phục ấy là to lớn và hiển nhiên, đến nỗi nếu như vua Charles I - xin Chúa phù hộ cho ngài tránh khỏi mọi tai hoạ - mà đến nước Pháp, thì tôi sẽ xin hiến toà nhà tôi, toà nhà riêng của tôi cho ngài; nhưng chao ôi! Đó sẽ là một nơi rút lui ít an toàn. Một ngày nào đó, dân chúng sẽ đốt cháy ngôi nhà đó như đã đốt cháy nhà thống chế Ancre. Tội nghiệp thay Concino Concini (3). Mà ông ta chỉ muốn có điều hay của nước Pháp (4).

- Đúng đấy thưa Đức ông, cũng như ngài ấy mà? - Bà hoàng nói châm biếm.

Mazarin giả bộ không hiểu ý nghĩa kép của câu mà chính ông ta vừa nói ra, và tiếp tục thương vay khóc mướn cho số phận của Concino Concini.

Bà hoàng hốt hoảng quá kêu lên:

- Nhưng thưa ngài giáo chủ, rốt cuộc ngài trả lời cho tôi thế nào chứ?

Mỗi lúc một áo não thêm, Mazarin nói:

- Thưa Lệnh bà, Lệnh bà có cho phép tôi đưa ra một lời khuyên nhủ không? Tất nhiên là trước khi mạo muội làm việc đó, tôi xin bắt đầu phục xuống dưới chân Lệnh bà để làm tất mọi điều gì khiến Lệnh bà vui lòng.

- Ông hãy nói đi, - Hoàng hậu đáp. - Lời khuyên của một người khôn ngoan như ông chắc chắn là phải tốt.

- Thưa bà, xin hãy tin tôi, đức Vua phải chống cự đến cùng.

- Thưa ông đức Vua đã làm như vậy, và trong trận đánh này đưa ra những lực lượng ít ỏi hơn lực lượng địch rất nhiều chứng tỏ đức Vua không tính đến đầu hàng mà không chiến đấu. Nhưng cuối cùng, trong trường hợp Vua sẽ bại trận thì sao?

- Thế thì thưa bà, trong trường hợp ấy, tôi biết rằng tôi đưa ra một ý kiến với Lệnh bà là liều lĩnh, nhưng ý kiến của tôi là đức Vua không nên rơi bỏ vương quốc của mình. Người ta sẽ lãng quên nhanh chóng những ông vua vẳng mặt; nếu vua mà rời sang Pháp thì mục đích và lợi ích của ngài sẽ đi đứt.

- Nhưng mà, - Hoàng hậu nói, - nếu đó là ý kiến của ông và nếu ông thật sự quan tâm, thì xin ông gửi ngay cho nhà vua chút ít viện trợ về người và tiền bạc; bởi vì tôi tôi chẳng còn làm gì được cho chồng tôi nữa; để giúp chồng, tôi đã bán đến hạt kim cương cuối cùng. Bây giờ tôi chẳng còn chút gì hết, ông biết đấy. Ông biết còn rõ hơn bất cứ ai. Nếu như còn đồ tư trang nào, chắc hẳn là mùa đông này tôi đã mua củi về sưởi cho tôi và con gái tôi rồi.

- A! Thưa bà, - Mazarin nói - Lệnh bà không hiểu gì mấy về điều mà bà yêu cầu. Đến lúc mà một ông vua phải cần đến viện trợ từ nước ngoài để đặt lại mình lên ngôi, thì có nghĩa là thú nhận rằng mình chẳng còn có một chỗ dựa nào trong tình cảm của bầy tôi của mình nữa.

Bực bội phải theo dõi cái trí xảo tinh vi trong cái mê cung những từ ngữ mà ông ta đang lạc vào đó, hoàng hậu nói:

- Xin ông giáo chủ hãy đi vào việc thực tế: Hãy trả lời cho tôi là có hay không? Nếu vua ở lại nước Anh, ông có gửi viện trợ cho không? Nếu vua sang Pháp, ông có tiếp nhận không?

- Thưa Lệnh bà, - giáo chủ làm ra vẻ chân thành nhất nói, - tôi hy vọng sẽ chứng tỏ với Lệnh bà lòng tận tụy của tôi và ý muốn của tôi kết thúc một công việc mà Lệnh bà đang canh cánh bên lòng. Sau đó tôi nghĩ Lệnh bà sẽ chẳng còn hoài nghi tinh thần sốt sắng của tôi phụng sự Lệnh bà.

Bà hoàng cắn môi và tức tối cựa quậy trong chiếc ghế bành. Rồi bà nói:

- Vậy thì ông sẽ làm gì? Nào, nói đi.

- Ngay bây giờ tôi sẽ đến xin ý kiến hoàng hậu và sau đó đưa vấn đề ra trình nghị viện.

- Với nghị viện mà ông đang xung đột phải không? Ông sẽ giao cho Broussel tường trình chứ gì? Thôi đủ rồi, ông giáo chủ ạ, đủ rồi. Tôi hiểu ông hoặc đúng hơn là tôi đã sai lầm. Chà! Hãy đi ra nghị viện, vì rằng từ cái nghị viện ấy - kẻ thù của các vị vua - đã gửi tới người con gái của đức vua Henri IV vĩ đại và tuyệt vời mà ông khâm phục vô cùng ấy, những viện trợ duy nhất giúp bà ta mùa đông này khỏi chết đói và chết rét.

Dứt lời bà hoàng đứng lên với một vẻ phẫn nộ đường bệ.

Ông giáo chủ chắp hai tay giơ về phía bà mà nói:

- A! Thưa Lệnh bà, thưa Lệnh bà, Lệnh bà hiểu sai tôi rồi, lạy Chúa!

Nhưng hoàng hậu Henriette chẳng thèm quay lại phía kẻ đang rơi những giọt nước mắt cá sấu ấy, bà đi ngang qua văn phòng, tự mình mở cửa, và ở giữa đám vệ sĩ đông đảo của Các hạ, đảm cận thần đang xun xoe nịnh hót, giữa cảnh xa hoa của vương vị đối địch, bà đến nắm tay de Winter đang đứng lẻ loi một mình. Tội nghiệp bà hoàng hậu đã mất ngôi, trước mặt bà ta mọi người vẫn nghiêng mình thi lễ, vì nghi thức mà thôi, nhưng thực tế chi còn có một cánh tay mà bà có thể vịn lên được.

- Thôi kệ! - Mazarin nói khi còn lại một mình, - Điều đó làm phiền cho ta quá, và phải sắm vai này thật là hóc búa. Nhưng ta đã nói gì rõ ràng với cả bên này và bên kia đâu. Hừ! Cromwell là một tay săn đuổi các nhà vua quyết liệt, ta thương cho các tể tướng của hắn, nếu như hắn dùng tể tướng, Bernouin đâu!

Bernouin vào.

- Hãy nhìn xem cái người trẻ tuổi mặc áo chẽn đen, tóc ngắn mà lúc nãy anh dẫn vào đây, có còn ở trong cung không?

Bernouin đi ra. Trong khi vắng mặt hắn, giáo chủ xoay cái mặt nhẫn ra phía ngoài để lau hạt kim cương và ngắm nghía nước sáng của nó, và do một giọt lệ vẫn còn đọng ở trong mắt khiến mắt mờ khó nhìn, ông ta lắc lắc cái đầu cho giọt lệ rơi xuống.

Bernouin vào cùng với Comminger bữa nay đến phiên gác, Comminger nói:

- Thưa Đức ông, tôi dẫn người trẻ tuổi mà Các hạ hỏi ra ngoài.

Anh ta đến gần tấm kính hành lang và nhìn một vật gì đó với vẻ kinh ngạc, chắc là bức hoạ của Raphael vì nó treo đối diện cánh cửa. Sau đó anh ta mơ màng một lát và đi xuống cầu thang. Tôi thấy anh ta đã lên một con ngựa màu xám và đi ra khỏi sân hoàng cung. À, nhưng Đức ông không đến chỗ hoàng hậu ư?

- Để làm gì?

- Ông de Gitaud bác của tôi, vừa nói mới nói rằng Hoàng thượng nhận được những tin tức mới của quân đội.

- Được tôi sẽ sang ngay.

Vừa lúc ấy xuất hiện. Ông ta được hoàng hậu sai đến tìm giáo chủ.

Comminger đã nhìn rõ vì Mordaunt đã làm đúng như hắn ta kể. Khi đi qua hành lang song song với hành lang kín lớn, anh ta đã gặp gỡ de Winter đang đứng đợi hoàng hậu Henriette.

Nhìn thấy ông, anh ta dừng phắt lại, không phải để ngắm nghía bức hoạ của Raphael, mà như bị mê mẩn trựớc một vật khủng khiếp.

Mặt anh ta dãn nở ra toàn thân ớn lạnh. Đường như anh ta muốn vượt qua bức tường bằng kính ngăn cách mình với kẻ thù. Nếu như Comminger trông thấy anh ta nhìn de Winter với con mắt căm thù như thế nào, thì sẽ chẳng còn nghi ngờ gì rằng vị công hầu người Anh kia là kẻ tử thù của anh ta.

Nhưng anh ta dừng lại.

Chắc là để ngẫm nghĩ. Vì rằng đáng lẽ để mình bị lôi cuốn theo cử chỉ ban đầu là xông thẳng tới Milord de Winter, thì anh ta lững thững bước xuống cầu thang, cúi đầu đi ra khỏi cung, nhảy lên yên và thúc ngựa đi đến góc phố Richelieu, và mắt chăm chú nhìn phía hàng rào, anh ta đợi cỗ xe của hoàng hậu ra sân.

Chẳng phải đợi lâu, vì hoàng hậu ngồi với Mazarin khoảng mười lăm phút, nhưng mười lăm phút đợi chờ ấy bằng một thế kỷ đối với kẻ chờ đợi.

Cuối cùng cỗ máy nặng nề mà người ta gọi là cái xe rít lên qua cổng sắt, và De Winter vẫn cưỡi ngựa, cúi xuống cánh cửa xe để nói chuyện với Hoàng hậu.

Mấy con ngựa chạy nước kiệu trên đường đến cung Louvre và đi vào đó. Trước khi đi khỏi tu viện Carmélites, bà Henriette đã dặn con gái đợi bà ở cung Louvre nơi họ đã sống khá lâu và chỉ rời khỏi đó bởi vì cảnh khốn cùng của họ dường như càng nặng nề hơn trong những căn phòng vàng son lộng lẫy.

Mordaunt đi theo cỗ xe và khi thấy cỗ xe đi vào dưới cổng tò vò tôi tối, anh ta cùng ngựa đi áp sát vào thành tường có bóng tối trải trên đó, và đứng lặng im giữa những đường gờ của Jean Goujon(5), giống hệt một bức phù điêu người cưỡi ngựa.

Anh ta đợi chờ như đã đợi chờ ở Hoàng cung.

Chú thích:

(1) vua xứ Liđi, thế kỷ VII trước Công nguyên.

(2) Tiếng Ý: Một sự lầm lẫn nhỏ.

(3) Concini: người gốc Ý, làm thống chế Pháp, bất tài và tham lam, đã khiến các đại thần nổi loạn Năm 1967, vua Louis XIII phải ra lệnh bắt giam. Concini chống cự và đã bị giết chết.

(4) Chữ Pháp "bien" có nghĩa là điều thiện, điều hay và cũng có nghĩa là của cải, tài sản. Đáng lẽ phải nói "Concini chỉ muốn điều hay cho nước Pháp", Mazarin lại nói "chỉ muốn điều hay của nước Pháp" thì chữ "bien" sẽ bị hiểu là "Conxini chi muốn của cải của nước Pháp".

(5) Nhà kiến trúc và điêu khắc người Pháp.

-*-*-*-

Chương 41

Vì sao những kẻ khốn khó đôi khi coi sự tình cờ như thiên mệnh

- Thế nào, thưa Lệnh bà? - de Winter hỏi sau khi hoàng hậu đã cho các đầy tớ lui ra.

- Thế đấy, Milord ạ, điều tôi dự đoán đã xảy ra.

- Ông ta từ chối à?

- Tôi đã chẳng nói trước với ông như vậy là gì?

- Nhưng còn hoàng hậu, bà có gặp không?

- Vô ích. - Bà Henriette buồn bã lắc đầu nói. - Chẳng bao giờ hoàng hậu lại nói có, khi giáo chủ đã nói không. Ông không biết rằng cái lão người Ý ấy chi đạo tất cả ở bên trong cũng như ở bên ngoài hay sao? Hơn nữa, tôi trở lại điều đã nói với ông, tôi sẽ chẳng ngạc nhiên rằng chúng ta đã bị Cromwell vượt trước rồi. Giáo chủ rất lúng túng trong khi nói với tôi, nhưng rất kiên quyết trong ý định từ chối. Rồi nữa, ông có nhận xét thấy sự nhốn nháo trong hoàng cung không những kẻ đến người đi hối hả tất bật? milord này, phải chăng họ đã nhận được tin tức gì mới.

- Không phải từ nước Anh đâu, thưa bà, tôi đã làm rất chu đáo và khẩn trương, nên chắc chắn rằng không bị kẻ nào vượt trước. Tôi ra đi cách đây ba ngày, tôi đã đi qua một cách thần kỳ giữa đám quân đội thanh giáo, tôi dùng xe trạm cùng với tên hầu Tony, và ngựa mà chúng tôi cưỡi chúng tôi mua ở Paris. Vả lại trước khi phải mạo hiểm một chút gì, tôi tin chắc là đức vua chờ đợi thư trả lời của Lệnh bà.

- Milord ạ, - hoàng hậu tuyệt vọng nói, - Ông hãy trình lại với đức vua rằng tôi không thể làm gì được, tôi đã đau khổ như Ngài, hơn Ngài nữa, tôi mà buộc phải ăn miếng bánh lưu đày, và đi xin trú ngụ ở những nơi người bạn giả dối họ cười nhạo nước mắt của tôi, và ông hãy thưa rằng về phần thánh thể của Ngài. Ngài cần phải hy sinh một cách dũng cảm và chết như một ông vua. Tôi sẽ chết ở bên cạnh Ngài.

- Thưa Lệnh bà! Thưa Lệnh bà! - de Winter kêu lên. - Lệnh bà phó mình cho sự ngã lòng, mà có lẽ chúng ta còn một chút hy vọng đó.

- Milord ơi! Chẳng còn bạn bè nào ở trên đời này nữa, ngoài ông ra? Ôi, lạy Chúa! Lạy Chủa. - Bà Henriette kêu than và ngước mắt lên trời - Ông đã thu phục tất cả những trái tim hào hiệp ở trên đời này chưa?

- Thưa bà, tôi hy vọng là chưa, - de Winter trầm ngâm đáp, - tôi đã có lần nói với bà về bốn con người.

- Ông định làm gì với bốn người

- Bốn con người tận tụy, bốn con người quyết tử có thể làm được nhiều lắm chứ, xin lệnh bà hãy tin tôi, và những con người mà tôi nói với bà đây trong một thời đã làm biết bao nhiêu là việc.

- Thế bốn người ấy bây giờ đâu?

- À! Đó là điều tôi chưa rõ. Từ gần hai mươi năm nay tôi mất tin của họ, nhưng trong mọi hoàn cảnh mà đức Vua lâm nguy, tôi đều nghĩ tới họ.

- Những người ấy là bạn của ông à?

- Một người trong bọn họ đã cầm tính mạng tôi trong tay và đã trả lại tôi; tôi không biết ông ta còn là bạn tôi không nhưng ít ra, từ đấy, tôi vẫn là bạn của ông ấy.

- Những người ấy đều ở Pháp ư, Milord?

- Chắc thế.

- Ông hãy nói tên của họ; có khi tôi đã từng nghe và tôi có thể giúp ông tìm kiếm.

- Một người tên là hiệp sĩ d Artagnan.

- Ô, Milord? Nếu tôi không lầm, hiệp sĩ d Artagnan là trung uý thị vệ tôi đã nghe nói đến cái tên ấy; nhưng hãy cẩn thận đó, tôi sợ rằng người ấy hoàn toàn theo giáo chủ...

- Trong trường hợp ấy, đó là tai hoạ cuối cùng của chúng ta - de Winter nói, - và tôi bắt đầu tin rằng chúng ta thật sự bị trừng phạt.

- Thế còn những người khác nữa, Milord? - Hoàng hậu nói, - bà bám víu vào chút hy vọng cuối cùng như kẻ bị đắm tàu bám vào mảnh ván vỡ.

- Người thứ hai tôi tình cờ nghe được tên ông vì trước khi đánh nhau với chúng tôi, bốn vị quý tộc ấy đã nói tên của họ, người thứ hai tên là bá tước de La Fère. Còn hai người kia, thói quen gọi bằng biệt danh đã khiến tôi quên mất tên thật.

- Ôi, lạy Chúa! - Hoàng hậu nói, - cần cấp bách tìm kiếm họ, bởi vì ông cho rằng những vị quý tộc xứng đáng ấy có thể rất có ích cho đức vua...

- Vâng! Vâng! - De Winter nói - vì rằng vẫn là những người ấy.

- Xin bà hãy nghe kỹ điều này và hồi tưởng lại ký ức. Không biết bà có được nghe kể chuyện rằng hoàng hậu Anne d Autriche xưa kia đã từng được cứu thoát khỏi một nỗi nguy hiểm lớn nhất mà chưa hoàng hậu nào trải qua?

- Có, nhân những chuyện yêu đương của bà ta với ông de Buckingham, và tôi cũng không rõ lắm, về những chuỗi hạt kim cương gì đó.

- Đúng đấy, thưa bà. Những người kia chính là những kẻ đã cứu bà ta, và tôi cười ái ngại khi, nghĩ rằng nếu như tên họ của nhưng nhà quý tộc ấy mà bà không hề biết, thì hoàng hậu đã quên đi, trong khi đáng lẽ bà ta phải phong họ làm những đại thần đầu tiên của vương quốc.

- Vậy thì phải tìm kiếm họ, Milord ạ! Nhưng bốn người hay đúng hơn là ba người thì có thể làm gì được nhỉ? Vì tôi đã nói với ông rằng không nên tin cậy ở ông d Artagnan.

- Thế là bớt đi một tay kiếm dũng mãnh, nhưng vẫn còn ba tay kia, chưa kể tôi. Mà bốn người tận tụy xung quanh đức vua, để canh giữ vua khỏi quân thù, che chở vua trong trận mạc, giúp đỡ vua bằng những ý kiến, hộ giá vua khi chạy trốn, như thế cũng là đủ, không phải để giúp vua chiến thắng, nhưng đủ để cứu vua nếu vua bại trận, giúp vua vượt biển, và dù Mazarin có nói gì thì nói, một khi đã lên đến bờ biển Pháp, thì quân vương của Lệnh bà sẽ kiếm được chẳng thiếu chỗ ẩn náu và nương tựa giống như loài chim biển tìm được chỗ ẩn náu trong những cơn giông tố.

- Milord ơi, hãy tìm kiếm những nhà quý tộc ấy đi, và nếu tìm thấy họ và họ đồng ý cùng với ông sang Anh, thì ngày, nàọ chúng tôi trở lại ngôi báu, tôi sẽ tặng mỗi người trong bọn họ một lãnh địa tước công ngoài ra còn thêm vàng đủ để mua cả cung Đại sảnh trắng. Đi tìm kiếm đi, Milord, đi tìm kiếm đi, tôi van ông đấy!

- Thưa bà, tôi sẽ tìm kiếm, - de Winter đáp, - và chắc là tôi sẽ kiếm được, nhưng tôi không có đủ thời giờ. Lệnh bà quên rằng đức vua đang chờ đợi thư trả lời của Lệnh bà, và đợi chờ khắc khoải đó sao?

- Thế là chúng ta đi đứt rồi! - Hoàng hậu kêu lên với sự bùng ra của một trái tim tan vỡ.

Vừa lúc ấy cánh cửa mở, cô gái Henriette xuất hiện. Với sức mạnh tuyệt vời là tính chất anh hùng của những người mẹ, bà hoàng cố nuốt nước mắt và ra hiệu cho de Winter nói lảng sang chuyện khác.

Nhưng phản ứng ấy dù mạnh mẽ đến đâu cũng không lọt khỏi mắt cô công chúa trẻ; cô dừng ở ngưỡng cửa, buông một tiếng thở dài mà nói với hoàng hậu:

- Cớ sao mẹ cứ luôn luôn khóc lúc vắng mặt con thế, hả mẹ?

Hoàng hậu chỉ mỉm cười không đáp.

- Này ông de Winter ơi! - bà nói, - tôi đã lợi được một điều là chỉ còn là nửa hoàng hậu thôi; ấy là các con tôi gọi tôi là mẹ, chứ không gọi là Lệnh bà nữa.

Rồi quay về phía con gái bà nói:

- Henriette con muốn gì nào?

- Thưa mẹ, - Cô công chúa trẻ nói, - Một kỵ sĩ vừa mới vào cung Louvre và xin đến bái yết Hoàng thượng; ông ta từ bên quân đội đến và nói có bức thư của thống chế de Grammont trình lên mẹ, con chắc như vậy.

- A! - Hoàng hậu bảo de Winter, - đó là một người trung thành với tôi, nhưng Milord thân mến ơi, ông có nhận thấy rằng chúng ta được phục dịch bạc bẽo đến nỗi chính con gái tôi phải làm công viêc báo tin và dẫn người không?

- Xin bà hãy tội nghiệp cho tôi, - de Winter nói, - bà làm tôi đến nát lòng.

- Henriettete, người kỵ sĩ ấy thế nào? - Hoàng hậu hỏi.

- Thưa mẹ con nhìn qua cửa sổ, thấy đó là một thanh niên xấp xỉ mười sáu tuổi và người ta gọi là tử tước de Bragelonne.

Hoàng hậu mỉm cười và gật đầu, nàng công chúa trẻ ra mở cửa và Raoul xuất hiện trên ngưỡng cửa.

Anh bước ba bước đến phía hoàng hậu và quỳ xuống.

- Thưa Lệnh bà, - anh nói - tôi mang đến Lệnh bà một bức thư của người bạn tôi, bá tước de Guise, ông ta nói là có vinh dự được là kẻ hầu hạ của Lệnh bà; bức thư này mang một tin tức quan trọng và những lời chào cung kính của ông ta.

Nghe nói tên bá tước de Guise má nàng công chúa ửng đó; hoàng hậu nhìn cô có chiều nghiêm khắc. Bà nói:

- Henriettete, sao con lại nói là thư của thống chế de Grammont?

- Thưa mẹ con tưởng như vậy. - Cô gái lắp bắp.

- Đó là lỗi tại tôi thưa bà, - Raoul nói, - Quả thật tôi đã báo tin là từ chỗ thống chế Grammont đến; nhưng do bị thương ở cánh tay phải nên ông không viết được và đã sai bá tước de Guise viết thay.

- Thế ra có đánh nhau? - Hoàng hậu hỏi và ra hiệu cho Raoul đứng dậy.

- Vâng, thưa bà, - chàng thanh niên đáp và đưa bức thư cho de Winter ông ta đã tiến lên để nhận và trao lại thư cho hoàng hậu.

Nghe tin một trận đánh đã nổ ra, nàng công chủa há miệng để hỏi một điều gì đó làm cô quan tâm, nhưng rồi lại ngậm miệng không thốt ra một lời, trong khi nét ửng đó trên má cô dần dần biến mất.

Hoàng hậu nhìn thấy tất cả những cử chỉ ấy và chắc hẳn tấm lòng mẫu tử của bà đã diễn giải ra, và quay lại phía Raoul bà hỏi:

- Không có điều gì xảy ra với ông bá tước trẻ de Guise chứ? Vỉ rằng, ông ta không những ở trong số những người phụng sự chúng tôi như ông ta đã nói với ông, mà còn là chỗ bạn bè của chúng tôi nữa.

- Không sao ạ, thưa bà, - Raoul đáp. - Trái lại trong ngày hôm ấy ông ấy còn giành được một vinh quang to lớn, ông ấy đã có vinh dự được Ngài Hoàng thân ôm hôn ngay tại chiến trường.

Nàng công chúa vỗ hai tay vào nhau, nhưng rồi xấu hổ vì đã để mình bị lôi cuôn theo cách biểu hiện nỗi vui mừng như vậy, cô hơi quay mặt đi và cúi xuống một bình cắm đầy hoa hồng như để hít mùi hương.

- Nào, hãy xem bá tước nói gì, - Hoàng hậu bảo.

- Tôi có vinh dự được thưa với Lệnh bà là bá tước viết nhân danh phụ thân ông.

- Vâng.

Hoàng hậu mở phong thư và đọc:

"Thưa Lệnh bà và Hoàng hậu,

Không có vinh dự được tự mình viết cho bà do bị thương ở bàn tay phải, tôi phải nhờ con trai tôi viết, bá tước de Guise mà bà đã biết là một kẻ tôi tớ của bà giống như cha nó, để thưa với bà rằng chúng tôi vừa mới thắng trận ở Lens, và chiến thắng ấy nhất định sẽ tạo quyền lực cho giáo chủ Mazarin và hoàng hậu trong những công việc của châu Âu. Nếu Lệnh bà tin ở lời khuyên của tôi, thì xin Lệnh bà tranh thủ cơ hội này đến chính phủ của nhà vua để yêu cầu sự giúp đỡ đối với phu quân tôn kính của bà.

Tử tước de Bragelonne, người có vinh dự được chuyển bức thư này đến Lệnh bà là bạn của con trai tôi mà ông ta đã cứu mạng. Đó là một nhà quý tộc mà Lệnh bà có thể hoàn toàn tin cậy, trong trường hợp Lệnh bà có điều gì cần dặn miệng hoặc viết gửi cho tôi. Tôi rất vinh dự được tỏ lòng kính trọng...

Thống chế de Grammont".

Do có chuyện giúp đỡ công việc cho bá tước, Raoul không tránh khỏi quay đầu lại phía nàng công chúa trẻ tuổi và anh đã nhìn thấy trong mắt cô một biểu hiện vô cùng biết ơn Raoul. Không còn hồ nghi gì nữa, con gái vua Charles I đã yêu bạn anh.

Trận Lens đã thắng - Hoàng hậu nói. - Ở đấy người ta vui mừng, người ta thắng trận! Phải, thống chế de nói đúng, điều đó làm thay đổi bộ mặt các công việc của họ; nhưng các bạn ạ, tôi rất sợ rằng nó chẳng giúp ích gì cho công việc của chúng ta, nếu không chừng còn làm hại. Cái tin này mới mẻ, ông ạ, - Hoàng hậu nói tiếp, - Tôi xin cám ơn ông đã khẩn trương mang đến cho tôi; không có ông, không có bức thư này, thì có lẽ đến ngày mai ngày kia, tôi mới là kẻ cuối cùng ở Paris biết tin này.

- Thưa Lệnh bà, - Raoul nói, - cung Louvre là cung thứ hai tin tức này đến; chưa ai biết tin này đâu. Tôi đã thề với bá tước de Guise là sẽ mang thư này đến Lệnh bà trước cả khi đến ôm hôn vị đỡ đầu của tôi.

- Vị đỡ đầu của ông cũng họ Bragelonne như ông ư? - Milord de Winter hỏi - Ngày xưa tôi cũng có quen một ông Bragelonne, ông ấy còn sống chứ?

- Không, thưa ông, ông ta chết rồi. Vị đỡ dầu của tôi là là bà con thân thích của ông ta đã giúp tôi thừa kế lãnh ấp mà ông ta mang tên.

Hoàng hậu không khói quan tâm đến chàng thanh niên tuấn tú và hỏi:

- Này ông, vị đỡ đầu ông tên là gì?

Chàng thanh niên cúi mình đáp:

- Thưa bà, bá tước de La Fère.

De Winter giật bắn người kinh ngạc; còn hoàng hậu nhìn anh mà tươi tinh mặt mày. Bà reo lên:

- Bá tước de La Fère! Có đúng là ông nói cái tên họ ấy không?

Còn de Winter không tin ở điều mình nghe nữa. Đến lượt ông reo lên:

- Bá tước de La Fère! Ôi! Ông ơi, hãy trả lời tôi đi, tôi van ông đấy. Bá tước de La Fère mà tôi quen có phải là một lãnh chúa tuấn tú và dũng cảm làm ngự lâm quân của vua Louis XIII và nay đã khoảng bốn bảy, bốn tám tuổi không?

- Thưa ông, hoàn toàn đúng như vậy.

- Và phụng sự dưới một biệt danh?

- Dưới cái tên Arthos. Mới gần đây thôi, tôi có nghe ông d Artagnan là bạn ông gọi ông bằng tên ấy!

- Đúng rồi, thưa bà, đúng rồi. Ơn trời! - de Winter nói, rồi hỏi Raoul - Ông nhà ở Paris à?

Rồi lại trở về với hoàng hậu, ông nói:

- Hãy hy vọng, hãy hy vọng nữa. Thượng đế tuyên bố ủng hộ chúng ta, bởi vì đã cho tôi gặp lại vị quý tộc ấy một cách thật là thần kỳ, ông ấy bây giờ ở chỗ nào, ông làm ơn chỉ cho tôi với.

- Bá tước de La Fère ở phố Guénégaud, khách sạn Grand-Roi-Charlemagne..

- Cám ơn ông. Nhờ ông nói với vị bạn cao quý ấy là hãy nán ở nhà, lát nữa tôi sẽ đến ôm hôn ông ấy.

- Thưa ông, tôi xin vui lòng tuân lệnh ông, nếu như Hoàng hậu đây cho tôi cáo lui.

- Hãy đi đi, tử tước Bragelonne, - Hoàng hậu nói, - Và hãy yên lòng về niềm thân ái của chúng tôi.

Raoul cung kính cúi mình trước hai bà chúa, chào de Winter và đi ra.

De Winter và hoàng hậu tiếp tục trò chuyện một lát nói thì thầm để cô công chúa không nghe thấy, nhưng sự đề phòng ấy là vô ích, vì cô ta đang trò chuyện với những suy nghĩ riêng tư của mình.

Đến lúc de Winter xin cáo lui, Hoàng hậu nói:

- Hãy nghe đây, Milord, tôi còn giữ cây thánh giá bằng kim cương này, nó là của mẹ tôi, và tấm hình thánh Misen này, nó là của chồng tôi, hai thứ đáng giá khoảng năm mươi nghìn livrơ. Tôi đã thề rằng thà chết đói bên cạnh những của tin quý báu này, chứ không cầm bán. Nhưng giờ đây hai đồ tư trang này có thể có ích cho chồng tôi hoặc cho những người bảo vệ ngài, cần phải hy sinh tất cả cho niềm hy vọng ấy. Ông hãy cầm lấy, và nếu cần tiền cho chuyến viễn chinh, thì cứ bán đi, đừng ngại gì cả, milord ạ, cứ bán đi. Nhưng nếu ông có cách để giữ nó lại thì xin milord hãy nhớ rằng tôi coi như ông đã giúp cho tôi một công vụ lớn nhất mà một nhà quý tộc có thể làm cho một bà hoàng hậu, và đến ngày thành đạt của tôi, người nào mang tấm hình và cây thánh giá này đến cho tôi sẽ được tôi và các con cái của tôi ban phước.

- Thưa bà, - de Winter nói, - Lệnh bà sẽ được phụng sự bởi một người tận tụy. Tôi sẽ đưa gửi ở nơi chắc chắn hai vật này mà tôi sẽ không nhận nếu như còn lại chút của cải của gia tài cũ của tôi; nhưng tài sản của tôi đã bị tịch thu, tiền mặt đã cạn, và chúng tôi cũng đã phải đem cầm bán tất cả những gì mình có, trong một giờ nữa tôi sẽ đến chỗ bá tước de La Fère và ngày mai Lệnh bà sẽ có một thư trả lời dứt khoát.

Hoàng hậu giơ tay ra, de Winter cung kính hôn lên. Rồi bà quay về phía con gái mà nói:

- Milord ơi, ông có nhiệm vụ đưa lại cho con bé này một cái gì đó của cha nó.

De Winter ngạc nhiên, chẳng hiểu hoàng hậu định nói gì.

Cô bé Henriette bèn tiến lại, vừa mỉm cười vừa đỏ mặt và giơ trán về phía vị quý tộc. Cô nói:

- Ông hãy nói với cha tôi rằng, dù là vua hay kẻ lẩn trốn, dù chiến thắng hay chiến bại hùng cường hay nghèo khó, bao giờ Người vẫn có ở tôi một đứa con gái ngoan ngoãn và thân thương.

- Thưa bà, tôi hiểu, - de Winter đáp và đụng môi lên trán cô Henriette.

Rồi ông ra đi, không có ai đưa đường, đi qua những gian phòng hoang vắng, tối tăm, vừa đi vừa lau những giọt nước mắt, mà chai sạn như ông suốt năm mươi năm trong cuộc sống cung đình, ông cũng không ngăn nổi rơi lệ trước sự bất hạnh vương hầu vừa thật là trang nghiêm vừa thật là sâu sắc.

-*-*-*-

Chương 42

Bác và cháu

Con ngựa và người hầu của Winter đợi ông ở ngoài cổng. Ông đi về phía nơi ở của mình vẻ tư lự và chốc chốc lại quay lại ngắm nhìn bề mặt của cung Louvre lặng lẽ và tồi tăm chợt ông nom thấy một kỵ sĩ có thể nói là tách ra khỏi bức tường và đi theo sau ông cách một quãng; ông nhớ lại rằng khi ra khỏi Hoàng cung, ông cũng đã nom thấy một cái bóng như vậy.

Người hầu của de Winter theo sau một vài bước cũng dõi nhìn theo tay kỵ sĩ ấy với vẻ lo ngại.

- Tony, - vị quý tộc gọi và ra hiệu cho tên hầu đến gần.

- Thưa Đức ông, tôi đây.

Và tên hầu đến ngay bên cạnh chủ.

- Anh có nhìn thấy người kia đang theo dõi chúng ta không?

- Thưa Đức ông có ạ.

- Hắn là ai thế?

- Thưa, tôi không biết ạ; tuy nhiên tôi thấy hắn đi theo chúa công từ Hoàng cung, dừng lại ở cung Louvre để đợi ngài ra, rồi từ cung Louvre đi theo ngài.

- Một tên do thám nào đó của giáo chủ chăng? - de Winter nói riêng với mình, - Này ta cứ làm như không biết hắn theo dõi.

Rồi thúc ngựa, ông dấn sâu vào trong mê lộ các phố xá dẫn đến khách sạn ông nghỉ ở phía đầm lầy.

Đã từng ở lâu quảng trường Hoàng gia, Milord de Winter rất tự nhiên trở về gần nơi ở cũ.

Kẻ lạ mặt cho ngựa phi nước đại.

De Winter đến khách sạn và lên phòng mình, tự nhủ là phải quan sát tên gián điệp. Nhưng ông vừa mới đặt đôi găng và cái mũ lên bàn, thì ông trông thấy trong chiếc gương trước mặt một người hiện lên ở ngưỡng cửa.

Ông quay lại thì Mordaunt đã ở trước mắt ông.

De Winter tái mặt và đứng yên còn Mordaunt đứng ở ngưỡng cửa vẻ lạnh lùng hăm doạ và giống hệt bức tượng nhà võ sĩ.

Một giây lat im lặng băng giá giữa hai người.

- Này ông - de Winter nói- tôi tưởng rằng đã làm cho ông hiểu rằng sự quấy nhiễu này làm tôi mệt mỏi. Hãy rút lui đi hoặc tôi sẽ gọi người đuổi ông ra ngay. Tôi không phải là bác của ông. Tôi không quen biết ông!

- Bác của tôi- Mordaunt đáp lại bằng giọng khàn khàn và giễu cợt - Ông lầm rồi, lần này ông sẽ không đuổi như ông đã làm ở London, ông chẳng dám. Còn việc chối bỏ tôi là cháu của ông, ông nghĩ đến việc đó hai lần, khi mà bây giờ rôi đã biết được khối điều mà cách đây một năm tôi chưa biết.

- Điều mà ông biết được can hệ gì đến tôi đâu! - de Winter nói.

- Ồ! Can hệ lắm chứ. Ông bác của tôi ạ, tôi chắc chắn như vây và lát nữa ông sẽ đồng ý với tôi ngay, - hắn nói thêm với một nụ cười làm ớn lạnh các mạch máu của người nghe. - Khi tôi đến nhà ông lần đầu tiên ở London là để hỏi ông về tài sản của tôi ra sao; khi tôi đến lần thứ hai là để hỏi ông cái gì đã bôi nhọ tên họ tôi. Lần này tôi đến đây là để hỏi ông một vấn đề khủng khiếp khác hẳn mọi vấn đề kia, để nói với ông như Chúa nói với kẻ giết người đầu tiên: "Cain, mày đã làm gì thằng em Abel của mày?(1)". milord, ông đã làm gì em gái của ông, người em gái là mẹ của tôi ấy?

De Winter lùi bước trước ánh mắt nảy lửa ấy.

- Mẹ ông ư? - Ông nói.

- Phải mẹ tôi, - người thanh niên đáp và gật mạnh đầu.

De Winter cố gắng vùi mình trong ký ức để tìm một nỗi căm thù mới và ông kêu lên:

- Cứ đi tìm kiếm xem bà ta ra sao, đồ khốn kiếp, và hãy xuống hỏi địa ngục có lẽ địa ngục sẽ trả lời ông đấy!

Người thanh niên liền tiến bước cho đến lúc mặt đối mặt với de Winter. Với nét mặt nhợt nhạt vì đau đớn và căm giận và giọng nói trầm trầm, Mordaunt, khoanh tay nói:

- Tôi đã hỏi tên đao phủ ở Béthune, và tên đao phủ Béthune đã trả lời cho tôi biết.

De Winter ngồi phịch xuống ghế như bị sét đánh và muốn trả lời mà không được.

- Đúng thế, phải không? - Mordaunt nói tiếp, - Với từ đó mọi việc được cắt nghĩa, với chiêc chìa khoá đó, vực thẳm mở ra. Mẹ tôi được thừa kế chồng bà và ông đã ám sát mẹ tôi! Tên họ tôi bảo đảm cho tôi tài sản của cha tôi thì ông đã tước bỏ tên họ của tôi. Rồi khi đã tước bỏ tên họ của tôi, ông tước đoạt luôn cả tài sản của tôi. Bây giờ thì tôi chẳng còn lấy làm lạ vì sao ông từ chối thừa nhận tôi. Khi người ta đã là kẻ cưỡng đoạt mà gọi kẻ bị người ta làm cho nghèo khổ bằng cháu thì thật là khó coi, cũng như khi người ta đã là kẻ giết người mà đi gọi kẻ bị người ta làm cho mồ côi bằng cháu!

Những lời lẽ ấy gây một tác dụng trái hẳn lại điều mà Mordaunt chờ đợi. De Winter nhớ lại Milady là một con quái vật như thế nào. Ông trở lại trầm tĩnh và trịnh trọng, chịu dựng cái nhìn phẫn khích của người thanh niên bằng cái nhìn nghiêm khắc của mình. Ông nói:

- Ông muốn đi sâu vảo cái điều bí mật ghê gớm ấy phải không?

- Thế thì được! Hãy hiểu rõ người đàn bà mà hôm nay ông đến đòi thanh toán với tôi. Người đàn bà ấy chắc chắn đã đầu độc em trai tôi. Và để thừa kế tôi mụ định ám sát cả tôi nữa; tôi có chứng cứ. Ông sẽ nói gì về điều đó?

- Tôi sẽ nói đó là mẹ tôi!

- Mụ ấy đã dùng bàn tay của một con người trước kia vốn tử tế, đứng đắn và trong sạch để đâm chết quận công de Buckingham đáng thương. Ông sẽ nói gì về tội ác đó mà tôi có đủ bằng chứng?

- Đó là mẹ tôi!

- Trở sang Pháp, đến tu viện các nữ tu sĩ Augustins ở Béthune, mụ đã đầu độc một thiếu phụ được một kẻ thù của mụ yêu mến. Tội ác ấy có khiến ông tin ở công lý của sự trừng phạt không? Tôi có bằng chứng về tội ác ấy?

- Đó là mẹ tôi! - Gã thanh niên gào lên đến lần thứ ba mà lần sau đều mạnh mẽ hơn lần trước.

Cuối cùng chứa chất đầy những tội giết người, những chứng dâm loạn, nhơ nhuốc trước mọi người và vẫn còn hung hăng đe doạ như một con báo khát máu, mụ đã quỵ trước búa rìu của những con người mà mụ đã làm cho khổ sở, mặc dầu họ chẳng hề làm tổn hại cho mụ một chút nào. Mụ đã tìm được những quan toà mà những âm mưu hại người xấu xa của mụ đã triệu đến. Và cái người đao phủ mà ông đã gặp, người đao phủ đã kể lại tất cả cho ông, ông chắc như vậy, nếu người đao phủ ấy đã kể hết cho ông, hẳn là ông ta đã phải nói rằng ông ta đã run lên vì vui sướng khi trả thù mụ về nỗi hổ nhục và vụ tự sát của em trai ông ta. Là người đàn bà hư hỏng, là người vợ ngoại tình, là đứa em bất mục, sát nhân, đầu độc, ghê tởm đối với mọi người biết mụ, đối với mọi dân tộc đã đón nhận mụ trong lòng mình, mụ ta chết bị cả đất trời nguyền rủa. Đấy, người đàn bà ấy là như vậy đó!

Một cơn nức nở còn mạnh hơn cả ý chí của Mordaunt xé họng anh ta và dồn máu lên khuôn mặt nhợt nhạt; anh ta nắm chặt tay, mặt ròng ròng mồ hôi tóc dựng tua tủa trên trán như tóc Hamlet anh ta thét lên vì điên giận nghiến ngấu:

- Ông hãy im đi! Đó là mẹ tôi! Những sự phóng túng của bà, tôi không biết; những tật xấu của bà, tôi không hay, những tội ác của bà, tôi không rõ! Nhưng điều mà tôi biết, ấy là tôi có một người mẹ ấy là năm người đàn ông hùa nhau chống lại một người đàn bà, giết chết bà một cách lén lút, giữa đêm khuya lặng lẽ, như những kẻ hèn nhát! Điều mà tôi biết là ông đã ở đó, thưa ông, là ông có mặt ở đó, ông bác của tôi ạ, và ông cũng nói như những kẻ khác và còn cao giọng hơn là khác: Mụ ta cần phải chết! Vậy thì tôi báo trước cho ông biết, ông hãy nghe cho kỹ những lời này và nó phải được khắc sâu trong trí nhớ của ông để ông không bao giờ quên: Vụ giết người này đã cướp đi của tôi tất cả, vụ giết người này đã làm cho tôi hư hại, tàn ác không nguôi, tôi đòi phải thanh toán món nợ này với ông trước hết, rồi đến những kẻ đồng loã của ông khi nào tôi biết rõ chúng.

Lửa căm thù trong ánh mắt, bọt sùi ra bên mép, nắm tay giơ ra, Mordaunt đã tiến thêm một bước, một bước khủng khiếp và đe dọa về phía de Winter.

De Winter đặt bàn tay lên chuôi kiếm và nói với nụ cười của người đã từng ba mươi năm đùa giỡn với cái chết.

- Ông muốn ám sát tôi phải không? Thế thì tôi sẽ thừa nhận ông là cháu tôi, vì ông đúng là con trai của mẹ ông.

Mordaunt cố bắt những thớ thịt trên khuôn mặt mình, những cơ bắp trong người mình trở lại vị tri cũ và lặn đi, rồi nói:

- Không, tôi sẽ không giết ông. Ít ra là trong lúc này, bởi vì mất ông tôi sẽ không phát hiện ra những kẻ kia. Nhưng khi nào tôi biết rõ chúng, thì ông hãy run sợ; tôi đã đâm tên đao phủ xứ Béthune, tôi đã đâm hắn không thương hại, không dung tha, mà đấy là kẻ phạm tội ít nhất trong tất cả bọn ông.

Dứt lời người thanh niên đi ra và xuống cầu thang một cách bình thản để khỏi bị chú ý, rồi khi xuống đến thềm dưới, anh ta đi qua trước mặt Tony, hắn đang cúi mình xuống lan can và chỉ đợi một tiếng kêu của chủ là lên ngay với ông.

Nhưng de Winter không gọi. bải hoải, rã rời, ông vẫn đứng nguyên và lắng tai nghe; rồi chỉ đến lúc nghe tiếng vó ngựa xa dần, ông mới buông mình xuống ghể mà nói:

- Lạy Chúa Xin cảm ơn Người, vì hắn mới chỉ biết có mình tôi.

Chú thích:

(1) Cain là con đầu của Adam và Eva, đã giết em trai thứ là Abel vì ghen tị với Abel được chúa Trời cưng hơn.

-*-*-*-

Chương 43

Tình phụ tử

Trong khi cái cảnh khủng khiếp kia diễn ra ở nhà Lord de Winter, thì Arthos ngồi bên cửa sổ phòng mình khuỳnh tay tì lên bàn đầu nghiêng trên bàn tay, đang nghe cả bằng tai và bằng mắt Raoul kể lại những chuyện phiêu lưu trong chuyến viễn du và những chi tiết của trận đánh.

Khuôn mặt tuấn tú và thanh cao của vị quý tộc biểu hiện một niềm hạnh phúc khôn tả trước câu chuyện kể bằng những nỗi xúc động đầu tiên thật là tươi mát và thuần khiết. Arthos nuốt từng âm thanh của giọng nói ấu thơ đã biết say sưa với những tình cảm đẹp đẽ giổng như người ta thưởng thức một khúc nhạc du dương. Anh đã quên đi những gì là u ám trong quá khứ, là vẩn vũ trong tương lai.

Dường như sự trở về của đửa trẻ thân yêu ấy đã biến cả những nỗi lo sợ kia thành những niềm hy vọng. Arthos sung sưởng, sung sướng như chưa từng bao giờ được như vậy.

- Bragelonne, thế anh đã chứng kiến và tham dự vào trận đánh lớn ấy à? - Người lính cựu ngự lâm hỏi.

- Thưa ông, vâng.

- Anh nói trận đánh gay go lắm phải không?

- Ngài Hoàng thân đã thân chinh công kích mười một lần.

- Đó là một nhà quân sự vĩ đại, Bragelonne ạ.

- Đó là một vị anh hùng, thưa ông. Tôi không rời mắt khỏi ngài một lúc nào. Ôi! Thưa ông, thật là đẹp đẽ biết bao được có tên gọi là Condé... và được mang tên Ngài như vậy!

- Bình tĩnh và huy hoàng phải không?

- Bình tĩnh như trong một cuộc duyệt binh và huy hoàng như trong một lễ hội. Khi chúng tôi tiếp cận quân thù là vẫn đi bước thường; có lệnh cẩm chúng tôi nổ súng trước và chúng tôi cứ tiến thẳng đến quân Tây Ban Nha, chừng ở trên một điểm cao súng kẹp bên đùi. Đến cách chúng ba chục bước. Hoàng thân quay lại phía binh lính mình và nói: "Hỡi các con, các con sắp phải chịu một loạt đạn điên cuồng, nhưng sau đó hãy yên trí, các con sẽ làm có chúng nó". Lúc ấy chiến trường im phăng phắc cả ta và địch đều nghe rõ những lời đó. Rồi vung kiềm lên ngài hô: "Thổi kèn lên!".

- Hay, hay... Trong trường hợp như vậy, anh cũng sẽ làm như thế chứ, Raoul?

- Tôi e khó, thưa ông, yì tôi thấy điều ấy thật là đẹp đẽ và lớn lao quá. Khi còn cách hai chục bước, chúng tôi thấy những nòng súng trường chỉa xuống như một đường kẻ lấp lánh vì phản chiểu ánh nắng mặt trời. "Đi bước thường, các con, đi bước thường, - Hoàng thân nói, - Đây là lúc..."

- Anh có sợ hãi không, Raoul? - Bá tước hỏi.

- Thưa ông, có chứ, - chàng thanh niên thật thà đáp, tôi thấy lạnh buốt trong tim và khi nghe tiếng "Bắn!" bằng tiếng Tây Ban Nha trong hàng ngũ địch, tôi nhắm nghiền mắt lại và nghĩ đến ông.

- Thật chứ, Raoul - Arthos nói và siết chặt tay anh.

- Thưa ông, vâng. Cùng lúc ấy một tiếng nổ dữ dội vang lên tưởng như địa ngục đang mở ra và những ai không bị giết đều cảm thấy lửa nóng rát. Tôi mở mắt ra, ngạc nhiên thấy mình không chết hoặc ít ra, cũng bị thương; một phần ba đội kỵ binh ngã lăn ra đất, tơi tả máu me. Lúc ấy tôi gặp ánh mắt Hoàng thân; tôi chỉ còn nghĩ đến một điều là ngài nhìn tôi. Tôi thúc ngựa va xông vào giữa hàng ngũ quân thù.

- Hoàng thân có nói gì với anh không?

- Khi Hoàng thân sai tôi đi theo theo đội ngũ Paris với ông de Châtillon mang tin tức này và những lá cờ địch thu được về dâng hoàng hậu. Ít ra Hoàng thân đã nói với tôi như thế này: "Cứ đi đi, quân địch sẽ không tập hợp được trong vòng mười lăm ngày. Từ giờ đến đó tôi chưa cần đến anh. Anh hãy về ôm hôn nhưng người mà anh yêu mến và yêu mến anh. Và hãy nói với cô em de Longueville của tôi rằng tôi cảm ơn cô về món quà mà cô tặng tôi khi giao anh cho tôi. Và thưa ông, tôi đã về đây

Raoul nói thêm và nhìn bá tước với nụ cười yêu thương sâu sắc vì tôi nghĩ răng ông sẽ rất vui lòng gặp lại tôi.

Arthos kéo chàng thanh niên về mình và hôn lên trán anh như đối với một cô con gái.

- Như thế là, - Arthos nói, - anh đã được vang danh lên rồi đó, Raoul ạ! Anh đã có những công tước là bạn bè, một vị thống chế Pháp quốc làm cha nuôi, một thân vương là chỉ huy và trong cùng một hôm trở về anh được hai bà Hoàng hậu tiếp đón: thật là tuyệt diệu đối với một lính dự bị

- À! Thưa ông, - Raoul bỗng nhiên reo lên, - Ông làm tôi nhớ đến một việc mà tôi lãng quên trong lúc vội vã kể lại những chiến công của mình. Ấy là trong lúc ở chỗ Hoàng hậu Anh quốc, có một vị quý tộc khi tôi nói đến tên ông đã thốt lên một tiếng reo kinh ngạc và mừng rỡ. Ông ấy nói là bạn của ông, hỏi địa chỉ của ông và bảo sẽ đến thăm ông.

- Tên ông ta là gì?

- Thưa ông tôi không dám hỏi ông ta nhưng mặc dầu ông ta nói năng rất lịch sự, qua giọng nói, tôi đoán ông ta là người Anh.

- A! - Arthos kêu lên.

Và đầu anh cúi xuống như để tìm một kỷ niệm. Rồi khi anh ngầng đầu lên: sự hiện diện của một người đứng trước cánh cửa hé mở đập vào mắt anh. Ông ta nhìn anh với vẻ cảm động.

- Lord de Winter - Bá tước reo lên - Ôi, bạn của tôi!

Và hai nhà quý tộc ôm hôn nhau giây lát. Rồi Arthos nắm lấy hai bàn tay ông nhìn ông và hỏi:

- Ông có điều gì vậy. Tôi đang vui vẻ ba nhiêu thì trông ông buồn rầu bấy nhiêu?

- Phải đúng thế, bạn thân mến ạ, và tôi có thể nói là hơn thế nữa kia; vì rằng trông thấy ông nỗi lo sợ của tôi còn tăng lên gấp đôi.

Và de Winter nhìn xung quanh mình như để tìm sự vắng vẻ.

Raoul hiểu rằng hai người bạn càn nói chuyện riêng nên tự rút lui ra ngoài một cách lặng lẻ:

- Nào, bây giờ còn có hai ta - Arthos nói - Ta hãy nói chuyện về ông.

- Trong khi có riêng mình chúng ta, hãy nói chuyện về chúng ta. - Lord de Winter đáp - Hắn đang ở đây!

- Ai?

- Con trai Milady.

Arthos lại lần nữa bị xúc động bởi cái tên nó theo đuổi anh như một tiếng vang không tránh khỏi, ngập ngừng một lát, khẽ chau mày rồi nói bằng một giọng bình thản.

- Tôi có biết.

- Ông biết rồi à?

- Phái, Grimaud đã gặp hắn ở quãng giữa Béthune và Arras và bác chạy ngay về đây để báo cho tôi biết về sự xuất hiện của hắn.

- Grimaud biết hắn à?

- Không, nhưng bác ta đã đứng bên giường một người sắp chết có biết hắn ta.

- Người đao phủ Béthune! - Winter kêu lên.

- Ông biết chuyện đó à? - Arthos ngạc nhiên hỏi.

- Hắn vừa mới rời khỏi chỗ tôi, - Winter đáp, - hắn đã nói hết với tôi rồi! Bạn ơi, thật là một cảnh ghê gớm! Sao chúng ta không bóp chết đứa con cùng với mẹ nó nhỉ!

Giống như mọi bản chất cao thượng. Arthos không truyền lại cho người khác những ấn tượng buồn phiền mà anh cảm nhận. Trái lại, anh hấp thụ chúng vào mình và bắt trả lại thay vào chỗ chúng những hy vọng và niềm an ủi. Dường như những đau khổ riêng tư của anh khi ra khỏi tâm hồn được biến thành những nỗi vui mừng cho những người khác.

Nỗi kinh hoàng tự nhiên mà anh cảm thấy lúc ban đầu bị sự suy luận xua tan, anh nói:

- Ông lo sợ cái gì cơ chứ? Chúng ta ở đây chẳng phải để tự bảo vệ mình sao? Cái gã trẻ tuổì ấy phải chăng là một kẻ ám sát chuyên nghiệp, một tên uống máu người không tanh? Hắn có thể đã giết đao phủ Béthune trong một cơn cuồng loạn, nhưng giờ đây cơn thịnh nộ của hắn đã nguôi.

De Winter mỉm cười buồn bã lắc đầu và nói:

- Ông không còn biết cái máu của nó nữa sao?

- Ô hay! - Arthos gượng cười nói. - Sang thế hệ thứ hai nó đã mất bớt tính hung bạo rồi. Vả chăng, bạn ơi, Thượng đế đã báo trước cho chúng ta để đề phòng rồi. Chúng ta chẳng thể làm gì khác hơn là chờ đợi. Ta hãy chờ đợi. Nhưng, như tôi nói lúc đầu ấy, ta hãy nói về ông đi. Cái gì đã dẫn ông tới Paris?

- À một vài việc quan trọng mà ông sẽ biết sau. Nhưng sao tôi nghe nói bên chỗ Hoàng hậu Anh quốc rằng ông d Artagnan thuộc phe Mazarin. Xin bạn hãy tha thứ cho cái tính thẳng thắn của tôi. Tôi chẳng thù ghét mà cũng chẳng chê trách gì giáo chủ, và ý kiến của ông đối với tôi bao giờ chẳng là thiêng liêng. Liệu ngẫu nhiên mà ông có ở phe giáo chủ không?

- Ông d Artagnan đang ở trong quân ngũ, - Arthos nói. - Ông ta là người lính và phải phục tùng quyền lực thiết chế. Ông d Artagnan không giàu có và cần sinh sống bằng cấp bậc trung uý của mình. Những nhà triệu phú như ông ở Pháp hiếm lắm, Milord ạ.

- Than ôi. - De Winter nói, - tôi cũng nghèo bằng và còn nghèo hơn ông ta. Nhưng ta hãy trở lại chuyện ông đi.

- Nào! Ông muốn biết tôi có phải người phe Mazarin không ư? Không, nghìn lần không- Cũng xin Milord tha thứ cho các tính thẳng thắn của tôi.

De Winter đứng lên và siết chặt Arthos trong vòng tay mình.

- Xin cảm ơn Bá tước, - Ông nói, - Xin cảm ơn về cái tin vui này.

- Ông có thấy tôi vui mừng và trẻ hẳn ra không? À! Ông không phải người phải Mazarin - Hay lắm! Với lại điều kiện ấy là không thể có được Nhưng, xin lỗi ông lần nữa nhé, ông có tự do không?

- Ông muốn nói tự do là thế nào?

- Tôi muốn hỏi ông có vợ không?

- A! Về chuyện đó thì không - Arthos mỉm cười nói.

- Nghĩa là cái cậu thiếu niên thật là khôi ngô, thật là phong nhã, thật là duyên dáng kia...

- Là một đứa trẻ mà tôi nuôi nấng từ bé, mà nó cũng không biết biết cả cha nó nữa.

- Tốt lắm. Ông vẫn như xưa. Arthos oai phong và hào hiệp.

- Nào, Milord, ông cần hỏi gì tôi?

- Ông vẫn còn Porthos và Aramis là bạn chứ?

- Và thêm vào d Artagnan, Milord ạ. Chúng tôi vẫn là bốn người bạn hết lòng vì nhau như xưa kia; nhưng nếu là chuyện phụng sự giáo chủ hay chống lại ông ta, là người Mazarin hay Fronde, thì chúng tôi chỉ có hai thôi.

- Ông Aramis cùng phe với d Artagnan à? - Lord de Winter hỏi.

- Không, - Arthos nói, - Ông Aramis cho tôi cái vinh hạnh là chia sẻ niềm tin với tôi.

- Ông có thể giúp tôi liên lạc với người bạn đến là phong nhã và trí tuệ ấy không?

- Tất nhiên, khi nào ông thấy thích hợp.

- Ông ta có thay đổi gì không?

- Ông ta làm tu viện trưởng, có thế thôi.

- Ông đã làm tôi kinh hãi đấy. Nghề nghiệp ấy buộc ông ta từ chối những chuyện mưu đồ lớn.

- Trái hẳn lại, - Arthos mỉm cười nói, - Chưa bao giờ ông ta lại mang chất ngự lâm quân nhiều đến thế kể từ khi ông ta là tu viện trưởng và ông sẽ tìm thấy ở ông ta một Galaor thực sự. Ông có muốn để tôi bảo Raoul đi tìm ông ấy không?

- Cảm ơn Bá tước có thể sẽ không tìm thấy ông ấy ở nhà vào giờ này Nhưng ông có thể đảm bảo về ông ta...

- Như về chính tôi.

- Ông có thể hẹn ông ấy đến với tôi vào mười giờ sáng mai trên cầu cung Louvre được không?

- À, à! - Arthos nói ông có một cuộc đấu kiếm.

- Vâng, thưa Bá tước, một cuộc đấu kiếm đẹp đẽ, một cuộc đấu kiếm mà tôi hy vọng các ông sẽ có mặt.

- Chúng ta sẽ đi đâu. Milord?

- Tới chỗ Hoàng hậu Anh quốc. Lệnh bà có sai tôi giới thiệu các ông với Lệnh bà, bá tước ạ!

- Hoàng hậu biết tôi sao?

- Chính là tôi biết ông.

- Bí ẩn. - Arthos nói. - nhưng không sao, khi mà ông đã hiểu cách phải xử trí thì tôi không hỏi gì thêm đâu. Milord. Ông có ban cho tôi cái vinh hạnh được ăn tối cùng ông không?

- Cám ơn Bá tước, - de Winter nói - xin thú thật là cuộc viếng thăm của gã thanh niên ấy khiến tôi mất cả đói và chắc chắn là mất cả ngủ nữa. Hắn đến Paris để thực hiện một việc gì đó? Chẳng phải hắn đến để gặp tôi vì hắn không biết chuyến đi của tôi. Bá tước ạ, gã thanh niên ấy làm tôi kinh hãi, trong người nó có một tương lai đầy máu.

- Hắn làm gì ở bên Anh?

- Đó là một trong những tin đồ cuồng nhiệt nhất của Olivier Cromwell.

- Cái gì đã gắn nó với lý tưởng ấy? Mẹ và bố nó đều là tín đồ Gia-tô giáo cơ mà?

- Hắn căm thù nhà vua.

- Căm thù nhà vua?

- Phải, vì nhà vua đã tuyên bố hắn là đứa con hoang, tước đoạt hết của cải của hắn và cấm hắn mang họ de Winter.

- Thế tên hắn là gì?

- Mordaunt.

- Một tên thanh giáo cải trang làm mục sư, đi lang thang một mình trên các đường cái nước Pháp.

- Ông bảo hắn cải trang làm mục sư à?

- Phải, ông không biết sao?

- Tôi chỉ biết những điều nó nói ra mà thôi.

- Xin Chúa tha thứ nếu tôi có báng bổ, cũng vì vậy và do tình cờ hắn đã nghe lời xưng tội của đao phủ xử Béthune.

- Vậy thì tôi đoán ra cả rồi: hắn do Cromwell phái đến.

- Phái đến ai?

- Đến Mazarin; và hoàng hậu đã đoán đúng, chúng tôi đã bị vượt trước; bây giờ mọi việc đều sáng tỏ ra với tôi rồi. Xin tạm biệt bá tước, hẹn ngày mai.

Trông thấy Lord de Winter xao xuyến vì một nỗi lo ngại mà ông không muốn để lộ ra, Arthos nói:

- Trời tối lắm mà hình như ông không có người hầu.

- Tôi có Tony, một đứa rất tốt, nhưng thật thà.

- Ơ này! Olivain, Grimaud, Blaisois, hãy mang súng trường theo và gọi tử tước lên đây.

Blaisois là gã thanh niên cao lớn trông nửa thằng hầu nửa nông dân mà chúng ta đã thoáng trông thấy ở lâu đài Bragelonne lúc hắn vào báo là bữa trưa đã dọn xong, và Arthos đã lấy tên tỉnh nhà đặt tên cho hắn.

Năm phút sau, Raoul vào.

- Này tử tước, - Arthos bảo, - anh hộ tống Milord về khách sạn của ông và không được để ai lại gần nhé!

- A! Thưa bá tước, - Winter nói, - Ông coi tôi là người thế nào vậy?

- Như một người khách nước ngoài chưa hề biết Paris, - Arthos đáp, và tử tước sẽ dẫn đường.

De Winter siết tay anh.

- Grimaud, - Arthos bảo, - bác dẫn đầu đoàn và coi chừng tên mục sư đấy?

Grimaud rùng mình rồi gật đầu và vừa chờ đợi lên đường vừa vuốt ve báng súng với một vẻ hùng hồn im lặng.

- Xin hẹn gặp lại bá tước ngày mai.

- Vâng, thưa Milord.

Toán người đi theo phố Saint Louis. Olivain run như Sosie(1) khi thấy một tia sáng khả nghi. Blaisois khá vững vàng vì hắn không biết là đang có một mối nguy hiểm nào đó. Tony hết nhìn trái lại nhìn phải, nhưng chẳng thể nói một lời, vì không biết tiếng Pháp.

Grimaud, theo lệnh Arthos dẫn đầu đoàn người tay cầm đuốc, tay mang súng, đi tới trước khách sạn ông de Winter ở, lấy tay đấm cửa và khi thấy có người ra mở cửa rồi, thì chào Milord mà chẳng nói câu nào.

Lượt trở về cũng vậy: Cặp mắt sắc của Grimaud không nhìn thấy gì khả nghi ngoài một bóng đen nấp ở góc phố Guénégaud và đường kế. Cái kẻ rình mò đêm ấy khiến bác chú ý. Bác thúc ngựa về phía nó thì cái bóng đã biến mất trong một ngõ hẻm mà bác nghĩ chẳng dại gì dấn mình vào đó.

Người ta báo cáo với Arthos về việc hoàn thành chuyến đi; và do lúc ấy đã mười giờ đêm, ai nấy trở về phòng mình.

Sáng hôm sau khi mở mắt ra thì chính bá tước đến lượt mình trông thấy Raoul ở chân giường. Chàng thanh niên đã ăn mặc chỉnh tề và đang đọc một cuốn sách mới của Chapelain.

- Dậy rồi à, Raoul? - bá tước hỏi.

- Vâng, thưa ông, - chàng thanh niên hơi ngập ngừng đáp, - Đêm qua tôi khó ngủ.

- Raoul! Anh mà khỏ ngủ ư? - Arthos hỏi. - Có điều gì khiến anh bận tâm chăng?

- Thưa ông, ông sắp sửa nói rằng tôi vừa mới về chưa được bao lâu mà đã vội vã từ biệt ông, nhưng...

- Anh chỉ được nghỉ có hai ngày mà thôi à?

- Trái lại, thưa ông, tôi được nghỉ những mười ngày, song không phải là tôi muốn trở lại trại ngay đâu.

Arthos mỉm cười:

- Vậy thì tử tước đi đâu, trừ phi đó là một điều bí mật! Anh hầu như đã thành người lớn rồi đó, bởi vì anh đã tham gia những trận chinh chiến đầu tiên, và anh có quyền muốn đi đâu thì đi, mà không cần phải hỏi tôi.

- Thưa ông, - Raoul đáp - Chừng nào mà tôi còn có diễm phúc có ông làm người che chở, tôi sẽ không bao giờ cho rằng mình có quyền tự giải thoát khỏi một sự bảo hộ thật là thân thiết đối với tôi. Tôi chỉ muốn về qua Blois một hôm thôi. Ông nhìn tôi và sắp cười.

- Không, trái lại - Arthos vừa nói vừa nén một tiếng thở dài. - Tôi không cười đâu, tử tước ạ?

- Vậy ông cho phép chứ ạ? - Raoul vui mừng reo lên.

- Chắc chắn là như thế, Raoul.

- Trong thâm tâm ông không buồn phiền chứ?

- Không chút nào cả. Tại sao tôi buồn phiền về cái điều nó làm cho anh thích cơ chứ?

- A! Ông tốt bụng quá? - Chàng thanh niên thốt lên và làm một động tác như muốn nhảy lên bả lấy cổ Arthos, nhưng sự cung kính ngăn anh ta lại.

Arthos giang tay ra với anh.

- Như vậy tôi có thể đi ngay chứ?

Raoul đi mấy bước chợt nói:

- Thưa ông, tôi nghĩ đến một điều, ấy là bà công tước de Chevreuse rất tốt đối với tôi, chính nhờ bà mà tôi được giới thiệu với Hoàng thân.

- Và anh đến cảm ơn bà chứ gì?

- Nhưng thưa ông, việc ấy cũng do ông quyết định.

- Raoul, anh hãy ghé qua Luynes và hỏi xem bà công tước có tiếp anh được không. Tôi rất vui lòng thấy anh không quên giữ lễ tiết. Anh hãy kêu Grimaud và Olivain đi theo.

- Cả hai ư, thưa ông? - Raoul ngạc nhiên hỏi. Rồi anh chào và đi ra.

Nhìn Raoul đóng cửa lại và nghe anh gọi Grimaud và Olivain với cái giọng vui mừng và ngân vang, Arthos thở dài.

- Từ giã ta nhanh quá, - Arthos vừa nghĩ vừa lắc đầu, nhưng nó tuân theo quy luật chung. Bản chất đã sinh ra như vậy, nó nhìn về phía trước. Dứt khoát là nó yêu con bé ấy, nhưng có phải vì yêu người khác mà nó yêu ta kém đi không?

Arthos tự thú nhận rằng mình không ngờ đến sự ra đi vội vã ấy; nhưng Raoul thật là vui sướng, đến nỗi mọi thứ trong tâm trí Arthos bị xoá nhoà đi trước cái duyên cớ ấy.

Đến mười giờ mọi thứ đã sẵn sàng cho việc ra đi. Khi Arthos nhìn Raoul lên ngựa thì thấy một tên hầu do bà de Chevreuse phái đến chào anh. Hắn được sai đến nói với bá tước de La Fère rằng bà công tước đã biết tin cậu thanh niên được bà che chở đã trở về và biết cả tinh thần thái độ của cậu trong chiến trận ra sao, bà rất vui lòng gửi đến cậu những lời chúc mừng.

- Hãy thưa với bà công tước, - Arthos đáp, - rằng tử tước đang lên ngựa để đi đến dinh Luynes.

Rồi sau khi lại dặn dò Grimaud rất cẩn thận, Arthos giơ tay ra hiệu cho Raoul có thể đi.

Vả chẳng suy nghĩ đi suy nghĩ lại, Arthos thấy rằng để cho Raoul xa Paris lúc này có lẽ cũng chẳng gì tai hại.

Chú thích:

(1) Người giống hệt mình (nhân vật trong kịch của Plôtơ và Môlie)

-*-*-*-

Chương 44

Lại một Hoàng hậu cần sự giúp đỡ

Ngay từ sáng Arthos đã báo tin cho Aramis. Anh giao thư cho Blaisois tên đầy tớ duy nhất còn ở nhà. Hắn tìm thấy Bazin mặc áo phụ thủ hôm ấy đang phiên trực ở Nhà thờ Đức Bà.

Arthos đã dặn Blaisois cố gặp riêng Aramis. Nhưng hắn vốn là một tên gà tồ ngốc nghếch chỉ biết sai gì làm nấy nên đã tìm hỏi tu viện trưởng d Herblay. Bazin thì khăng khăng nói là chủ mình không có nhà, còn Blaisois thì nằng nặc đòi gặp khiến Bazin phát khùng. Thấy Bazin mặc lễ phục của người nhà thờ, Blaisois tưởng rằng bác ta có mọi đức tính của bộ quần áo ấy tức là tính kiên nhẫn và lòng nhân từ Thiên chúa giáo, cho nên hắn chẳng ngại ngùng lắm vì những lời chối từ và muốn vào phía trong.

Nhưng Bazin bao giờ cũng là người hầu của ngự lâm quân khi máu đã bốc lên hai con mắt ốc nhồi của bác, liền vớ lấy một cái cán chổi và vụt túi bụi vào Blaisois mà bảo:

- Anh đã lăng mạ nhà thờ, anh bạn ạ, anh đã lăng mạ nhà thờ.

Nghe tiếng ồn ào khác thường ấy, Aramis thận trọng hé cánh cửa phòng ngủ ra và xuất hiện.

Thế là Bazin kính cẩn dựng cái chổi lên như bác đã thấy tên lính gác Thụy Sĩ dựng cây giáo lên ở Nhà thờ Đức Bà. Còn Blaisois vừa nhìn con chó ngao với vẻ trách móc vừa móc túi lấy bức thư đưa cho Aramis.

- Của bá tước de La Fère phải không? - Aramis hỏi. - Tốt lắm.

Rồi anh trở vào chẳng buồn hỏi duyên cớ của tiếng ồn ào đó.

Blaisois rầu rĩ trở về khách sạn Grand-Roi-Charlemagne. Arthos hỏi hắn tình hình và hắn kể lại câu chuyện vừa xảy ra.

- Đồ ngốc - Arthos cười nói - Thế mày không báo là do tao sai mày đến à?

- Thưa, không ạ.

- Thế khi Bazin đã biết rõ rồi, thi hắn nói sao?

- A, thưa ông, bác ta xin lỗi đủ điều và bắt tôi phải uống cạn hai chén rượu muscat và ăn mấy cái bánh quy nhúng rượu ngon tuyệt. Nhưng cũng vậy thôi, bác ta ác như quỷ. Thể mà cũng làm phụ với thủ ,

- Được - Arthos nghĩ, - Aramis đã nhận thư ta rồi thì bận đến mấy cũng sẽ đến.

Mười giờ, với tính chính xác đã thành thói quen, Arthos đã có mặt ở cầu Louvre. Cùng lúc ấy, Milord de Winterr đến.

Họ đợi gần mười phút, Milord de Winter bắt đầu lo Aramis không đến.

- Yên trí, - Arthos nói anh đăm đăm nhìn về phía đường Bến phà.

- Yên trí, kìa một tu sĩ đang nện một quả đấm vào mặt một người đàn ông và cúi chào một người đàn bà chắc hắn là Aramis rồi

Quả thật đúng là Aramis. Một gã thị dân trẻ đang đứng ngơ ngẩn giữa đường và làm vấy bùn lên người anh, anh tống cho hắn một quả đấm bắn xa đến mười bước. Cùng lúc một trong những kẻ sám hối của anh đi qua, và vì đấy là một thiếu phụ trẻ và đẹp, anh chào cô ta bằng nụ cười duyên dáng nhất.

Lát sau Aramis tới.

Chúng ta biết chắc rằng anh và Milord de Winter ôm hôn nhau da diết.

- Ta đi đâu bây giờ? - Aramis hỏi, - có phải sẽ đánh nhau ở chỗ kia không? Mẹ kiếp. Sáng nay tôi không mang kiếm, tôi phải về nhà lấy mới được.

- Không, - Lord de Winter đáp - chúng ta đến thăm Lệnh bà Hoàng hậu Anh quốc.

- A! Hay lắm! - Aramis nói, rồi anh ghé tai Arthos và hỏi - Cuộc viếng thăm có mục đích gì vậy?

- Thực tình, mình cũng không biết gì cả. Có lẽ người ta yêu cầu chúng ta một sự biểu thị nào đó.

- Phải chăng về cái việc phải gió ấy? - Aramis nói.

- Trong trường hợp ấy, tôi chẳng muốn đến làm gì, vì đến lại để nhận mấy lời giáo huấn; mà từ khi tôi ban những lời giáo huấn cho kẻ khác thì tôi chẳng muốn nhận làm gì.

- Nếu là như vậy, thì Milord de Winter sẽ chẳng dẫn chúng ta đến Hoàng hậu, vì ông ấy cũng sẽ có phần. Ông ấy cùng phe với chúng ta đấy.

- À có thế thật. Vậy thì ta đi nào.

Đến cung Louvre, Milord de Winter đi vào trước, vả chăng cũng chỉ có mỗi một người gác cổng. Trong ánh sáng ban ngày, Arthos, Aramis và cả người Anh đều có vẻ nhận xêt thấy cảnh tiêu điều kinh khủng của cư xá mà một lòng từ thiện bủn xỉn dành cho bà hoàng hậu khốn khổ. Những gian phòng thênh thang trơ trụi chẳng còn đồ đạc tường long lở lác đác những đoạn đường gờ thếp vàng vẫn còn cầm cự trước sự bỏ hoang, các cửa sổ không còn đóng lại được và mất cả kính; không có thảm rải, không có lính canh, không có người hầu: đó là cái đầu tiên đập vào mắt Arthos và anh lặng lẽ nhắc cho bạn biết bằng cách lấy khủy tay hích vào người bạn và trỏ cho bạn mình xem cảnh tượng khốn cùng hiện ra trước mắt.

- Mazarin ở tốt hơn nhiều, - Aramis nói.

- Mazarin hẩu như là vua, - Arthos nói, - còn bà Henriette hầu như không phải là hoàng hậu nữa.

- Arthos này, - Aramis nói, - anh không thiết đấy thôi, chứ nếu anh muốn tỏ ra có chất hóm hỉnh thì tôi tin chắc rằng anh sẽ có nhiều hơn cái lão de Voiture khốn khổ ấy.

Arthos mỉm cười.

Hoàng hậu có vẻ chờ đợi sốt ruột lắm, vì mới nghe tiếng động đầu tiên ở gian phòng kế trước gian trong mình, bà đã đích thân ra khỏi ngưỡng cửa để đón những cận thần trong cơn hoạn nạn của bà.

Bà nói.

- Mời vào, và xin có lời hoan nghênh các ông.

Các nhà quý tộc vào và vẫn đứng; nhưng hoàng hậu ra hiệu ngồi và Arthos làm theo. Anh vẫn nghiêm trang và điềm tĩnh, nhưng Aramis tỏ vẻ giận dữ: cái cảnh cùng quẫn vương giả ấy khiến anh phẫn nộ, cặp mắt anh xem xét mỗi dấu vết mới của sự khôn khó mà anh nhận thấy.

- Ông xem xét cảnh xa hoa của tôi đấy ư? - bà Henriette nói và đưa cặp mắt buồn rầu nhìn quanh mình.

- Thưa bà, - Aramis nói - xin Lệnh bà miễn thứ, chứ tôi không thể che giấu nỗi bất bình khi nhìn thấy người ta đối xử với con gái của vua Henri IV ở trong cung đình nước Pháp như thế này.

- Ông đây không phải là kỵ sĩ à? - Hoàng hậu hỏi Milord de Winter.

- Ông đây là tu viện trưởng D Herblay - de Winter đáp.

Aramis đỏ mặt.

- Thưa bà, - Aramis nói, - tôi là tu viện trưởng, đúng thế, nhưng bất đắc dĩ chưa bao giờ tôi có thiên hướng làm tu viện trưởng, cái áo choàng tu sĩ này của tôi chỉ dính vào bằng một chiếc cúc và tôi luôn luôn sẵn sàng trở lại làm ngự lâm quân. Sáng nay do không biết có vinh dự được vào yết kiên Lệnh bà, nên tôi khoác quàng khoác quấy bộ y phục này, nhưng không phải vì thế mà kém là một người mà Lệnh bà sẽ thấy là tận tụy nhất để phụng sự Lệnh bà trong bất cứ công việc gì mà Lệnh bà sai khiến.

- Ông hiệp sĩ D Herblay, - de Winter nói tiếp, - là một trong những ngự lâm quân dũng cảm của đức Hoàng thượng Louis XIII mà tôi đã kể với Lệnh bà... - Rồi quay về phía Arthos ông nói - Còn đây là bá tước de La Fère cao quý mà danh tiếng lẫy lừng Lệnh bà đã biết rõ.

- Thưa các ông, - Hoàng hậu nói - cách đây mấy năm, tôi có ở quanh mình những nhà quý tộc, những kho vàng, những quân đội; tôi chỉ vẫy tay một cái là tất cả được dùng cho công việc của tôi. Còn bây giờ, các ông hãy nhìn quanh tôi xem điều này hẳn làm các ông bất ngờ, nhưng để thực hiện một ý đồ cứu vớt cuộc đời tôi, tôi chỉ có Milord de Winter, một người bạn hai mươi năm và các ông đây mà tôi mới gặp lần đầu và chỉ biết là những người đồng bào của mình.

- Thưa Lệnh bà, - Arthos cúi rạp mình nói, - Thế là đủ rồi, nếu như tính mạng của ba con người có thể chuộc lại tính mạng của Lệnh bà.

- Xin đa tạ các ông, - Hoàng hậu nói tiếp. Nhưng xin các ông hãy nghe đây, tôi không những là hoàng hậu khốn khổ nhất là còn là người mẹ bất hạnh, người vợ tuyệt vọng nhất. Các con tôi ít ra là hai người, quận công d York và công chúa Charlotte đều ở xa tôi và phơi mình ra trước những đòn của kẻ thù vả bọn tham vọng. Đức vua chồng tôi thì đang kéo lê lết bên Anh một cuộc sống vô cùng đau khổ mà chắc sẽ không ngoa khi nói chắc với các ông rằng chồng tôi tìm kiếm cái chết như một điều đáng ao ước. Đây các ông xem bức thư mà chồng tôi nhờ Milord de Winter mang đến cho tôi. Hãy đọc đi.

Arthos và Aramis xin lỗi.

- Cứ đọc đi mà, - Hoàng hậu nói.

Arthos cất cao giọng đọc bức thư mà chúng ta đã biết và trong đó vua Charles hỏi xem liệu ông có được đón nhận ở Pháp hay không.

- Thế nào? - Arthos hỏi sau khi đọc xong thư.

- Thế đấy! Lão ta từ chối, - Hoàng hậu đáp.

Hai người bạn trao đổi với nhau một nụ cười khinh bỉ.

- Thưa bà, thế bây giờ phải làm gì ạ? - Arthos hỏi.

- Các ông có chút lòng thương cảm đối với bao nỗi khổ cực như thế không? - Hoàng hậu xúc động nói.

- Tôi xin thưa với Lệnh bà rằng: Lệnh bà muốn ông D Herblay và tôi phải làm gì để phụng sự Lệnh bà, chúng tôi xin sẵn sàng.

- Ôi! Quả thật ông là một tấm lòng cao quý! - Hoàng hậu reo lên với một giọng nói ra bằng lòng biết ơn, trong khi Milord de Winter nhìn bà như có vẻ muốn nói: Tôi đã chẳng bảo đảm với bà về hai vị này đó sao?

- Thế còn ông? - Hoàng hậu hỏi Aramis.

- Về tôi thì thưa bà, - Aramis đáp, bất kỳ ông bá tước đi đâu, dù là đi đến chỗ chết, tôi cũng đi theo mà không hỏi vì sao; nhưng khi đã là việc phụng sự Hoàng thượng, thì tôi xin đi trước bà tước,

Aramis nói thêm và nhìn hoàng hậu với tất cả vẻ duyên dáng của tuổi trẻ.

- Các ông ơi, - hoàng hậu nói, - cơ sự đã như vậy, các ông lại sẵn lòng tận tụy giúp đỡ một bà hoàng khốn khổ mà cả thiên hạ ruồng bỏ; thế thì đây là việc cần làm giúp tôi. Nhà vua bây giờ ở một mình với mấy nhà quý tộc mà ngày ngày ông sợ mất dần đi, ở giữa đám người Scotland mà ông nghi kỵ mặc dầu chính ông cũng là người Scotland. Từ khi Milord de Winter rời Đức vua tôi không còn sống nữa, các ông ạ. Ô. Có lẽ tôi đòi hỏi quá nhiều chăng, bởi vì tôi chẳng có danh vị gì để đòi hỏi. Xin các ông hãy sang nước Anh, tìm đến với nhà vua, làm bạn với vua, làm những người canh giữ vua, hãy đi bên cạnh vua trong trận mạc, đi bên vua cả ở trong nhà nơi cạm bẫy ngày càng dày thêm và còn nguy hiểm hơn rất nhiều mọi rủi ro của chiến tranh. Và thưa các ông, để đổi lại sự hy sinh của các ông tôi xin hửa không phải là thưởng công cho các ông đâu, vì điều đó sẽ xúc phạm các ông, mà là yêu mến các ông như một người chị và quý trọng các ông hơn tất cả những ai ngoài chồng tôi và các con tôi; tôi xin thề trước Chúa trời như vậy?

Và hoàng hậu từ từ và trang trọng ngước mắt lên trời.

- Thưa Bà, - Arthos hỏi, - bao giờ phải đi?

- Ông bằng lòng chứ - Hoàng hậu vui mừng reo lên.

- Vâng, thưa Bà. Song le Lệnh bà đường như quá xa khi hứa hẹn ban cho chúng tôi một tình thân hữu cao hơn nhiều những công lao của chúng tôi. Khi chúng tôi phụng sự một ông hoàng thật khốn khổ và một bà hoàng thật đức hạnh tức là chúng tôi phụng sự Chúa. Thưa bà, chúng tôi xin dâng cả linh hồn và thể xác cho bà.

Hoàng hậu xúc động đến rơi nước mắt, nói:

- Ôi các ông ơi, đây là giây phút vui sướng và hy vọng đầu tiên mà mấy năm nay tôi mới lại được cảm thấy. Phải rồi, các ông phụng sự Chúa, và khả năng của tôi quá hạn chế để nhận ra một sự hy sinh như vậy, cho nên chính Chúa sẽ thưởng công cho các ông. Chúa sẽ đọc trong lòng tôi tất cả những gì tôi hàm ơn Chúa và các ông. Hãy cứu lấy chồng tôi, hãy cứu lấy đức vua. Và dù rằng các ông không mẫn cảm với cái giá mà các ông xứng đáng vì một hành động cao đẹp trên mặt đất này, thì hãy cho tôi hi vọng được gặp lại các ông để tự tôi cảm ơn các ông. Trong khi chờ đợi, tôi ở lại đây. Các ông có điều gì cần dặn dò tôi không? Từ giờ phút này tôi là bạn của các ông và bởi vì các ông làm những công việc của tôi, tôi phải chăm lo việc của các ông.

- Thưa bà, - Arthos nói, - tôi không yêu cầu Lệnh bà cái gì ngoài những lời cầu nguyện.

- Còn tôi, Aramis nói, - tôi chỉ có một mình ở trên đời và chỉ có Lệnh bà đề phụng sự.

Hoàng hậu giơ tay cho hai người hôn và nói nhỏ với de Winter:

- Milord ạ, nếu thiếu tiền, xin ông đừng do dự gì cả, hãy lấy những đồ châu báu mà tôi đã đưa cho ông, tách những hạt kim cương ra và đem bán cho một hàng Do Thái, có thể sẽ được năm sáu chục nghìn livres; nếu cần cứ tiêu đi nhưng những vị quý tộc ấy phải được đối xử như họ xứng đáng, nghĩa là như những ông vua.

Hoàng hậu đã chuẩn bị hai bức thư: một do bà viết, một do công chúa Henriette con gái bà viết. Bà đưa cho Arthos và Aramis mỗi người một bức đề phòng trường hợp họ bị tách rời nhau, thì họ đều có cái để vua nhận ra, rồi họ rút lui.

Xuống đến chân cầu thang, Milord de Winter dừng lại nói:

- Các ông đi một ngả, tôi một ngả để người ta khỏi nghi kỵ và chín giờ tối nay chúng ta gặp nhau ở cửa ô Saint-Denis. Chúng ta sẽ dùng ngựa của chúng ta chừng nào chúng ta còn đi được, rồi sau ta sẽ đi xe trạm. Lần nữa xin cám ơn các bạn thân mến, cảm ơn nhân danh tôi và cám ơn nhân danh hoàng hậu.

Ba nhà quý tộc siết tay nhau Bá tước de Winter đi đường Saint Honoré, còn Arthos và Aramis đi với nhau.

Khi còn lại riêng hai ngươi bạn, Aramis hỏi:

- Này Bá tước thân mến, anh nói thế nào về việc này?

- Xấu lắm - Arthos đáp, - Rất xấu.

- Thế sao anh lại chấp nhận với vẻ nhiệt tình như vậy?

- Cũng như tôi sẽ luôn luôn chấp nhận sự bảo vệ một nguyên tắc lớn, d Herblay thân mến ạ. Các ông vua chỉ có mạnh nhờ quý tộc, nhưng quý tộc chỉ có thể lớn lên nhờ các ông vua. Cho nên ủng hộ nền quân chủ tức là chúng ta ủng hộ chính mình.

- Chúng ta đi sang bên kia để cho người ta ám sát mình à? Tôi căm ghét bọn Anh, chúng thô lỗ như tất cả những kẻ uống bia.

- Thế ở lại đây có hơn gì không nào? - Arthos nói, - để rồi chúng ta sẽ vào nghỉ một chầu ở nhà ngục Bastille hoặc lâu đài Vincennes do đã giúp đỡ cuộc vượt ngục của ông de Beaufort hay sao? A! Hãy tin tôi, Aramis ạ, thực tình chẳng có gì phải luyến tiếc. Chúng ta tránh nhà tù. Và chúng ta hành động như những người anh hùng, việc lựa chọn thật dễ dàng.

- Đúng thế; nhưng bạn thân mến ạ, dù sao cũng phải trở lại vấn đề đầu tiên này thật dớ dẩn nhưng thật cần thiết đấy: anh có tiền không?

- Chừng đâu như một trăm pistol mà bác quản lý trang trại gửi cho tôi hôm trước khi Bragelonne đi, nhưng tôi đã phải để năm chục cho Raoul: một nhà quý tộc trẻ tuổi phải sống cho đàng hoàng chứ.

- Thế là còn lại có gần năm chục pistol. Còn cậu?

- Tôi thì chắc chắn có soát hết các túi và mở hết các ngăn kéo cũng sẽ chẳng thấy mười louis đâu. May thay Milord de Winter giàu có.

- Milord de Winter tạm thời bị phá sản bởi vì Cromwell hưởng các khoản thu nhập của ông ta.

- Thế mới biết có Nam tước Porthos thì hay biết chừng nào, - Aramis nói.

- Thế mới biết không có d Artagnan đáng tiếc biết bao nhiêu, - Arthos nói, Một túi tiền đầy căng

- Một thanh kiếm kiêu hùng?

- Hay là ta rủ bọn họ đi.

Bí mật này không phải của chúng ta, Aramis ạ, - Arthos nói - Hãy nghe tôi, đừng đưa ai vào trong chuyện riêng của chúng ta. Với lại chạy vạy như vậy chúng ta sẽ tỏ ra không tin ở chính mình. Chúng ta tiếc vậy thôi, nhưng đừng nói ra...

- Anh nói có lý. Từ giờ đến tối anh làm gì?

- Tôi buộc phải thu xếp hai việc.

- Liệu những việc ấy có thu xếp đuợc không?

- Ấy! Phải thu xếp cho xong chứ!

- Việc gì vậy?

- Trước hết là một nhát kiếm với ông chủ giáo mà tối hôm qua tôi gặp ở nhà bà de Rambouillet và tôi thấy ông ta lên giọng với tôi một cách lạ kỳ.

- Vớ vẩn! Một sự xích mích giữa các tu sĩ với nhau! Một cuộc đấu kiếm giữa đồng minh với nhau.

Biết làm sao được, bạn thân mến ông ta hay đấu kiếm và tôi cũng vậy; ông ta hay giao thiệp với đàn bà, tôi cũng vậy; chiếc áo thày tu đè nặng ông ta, tôi cũng thấy chán chiếc áo của mình. Đôi khi tôi ngỡ ông ta là Aramis và tôi là chủ giáo, chúng tôi giống nhau biết chừng nào. Cái thứ người giống tôi như đúc ấy làm tôi chán ngán và lo ngại. Với lại hắn ta là một kẻ gây rối có thể sẽ làm hỏng đảng phái ta. Tôi tin rằng nếu tôi cho hắn một cái tát như sáng nay tôi đã làm với cái gã thị dân vấy bẩn lên người tôi, thì sẽ làm thay đổi bộ mặt của các công việc đấy.

- Còn tôi, Aramis thân mến ơi, - Arthos bình thản nói, - tôi cho rằng điều đó chỉ làm thay đổi bộ mặt của ông de Retz thôi(1). Như vậy hãy tin tôi mọi việc thế nào cứ để nó thế. Vả chăng các ông chẳng còn là của mình nữa; anh thuộc về hoàng hậu Anh quốc còn ông ta thuộc về La Fronde. Vậy thì, nếu việc thứ hai mà anh tiếc là không thể hoàn thành, nếu như chẳng quan trọng hơn việc thứ nhất...

- Ồ! Việc ấy quan trọng lắm chứ.

- Thế thì hãy làm luôn đi.

- Tiếc thay tôi không được tự do vào cái giờ tôi muốn: Vì là tối nay cơ, đúng tối nay.

- Tôi hiểu, - Arthos mỉm cười nói, - Nửa đêm phải không?

- Gần như vậy.

- Biết làm thế nào bạn thân mến ơi, đó là những việc tự nó thu xếp được, và anh sẽ thu xếp được, cốt là khi nào trở về sẽ có lời xin lỗi tử tế.

- Phải nếu tôi trở về.

- Mà nếu không trở về thì đã sao! Cần phải biết điều một chút chứ. Này Aramis thân mến ơi, cậu chẳng còn phải ở tuổi hai mươi đâu.

- Rất tiếc, mẹ kiếp! A! Giá như mình còn ở tuổi đó nhỉ?

- Ừ, Arthos nói, - thì cậu sẽ làm khối chuyện điên rồ! Nhưng ta phải chia tay nhau thôi. Tôi còn phải viếng thăm một vài chỗ, viết một lá thư. Cậu sẽ đến rủ tôi lúc tám giờ hoặc tốt nhất, tôi đợi cậu đến cùng ăn tối lúc bảy giờ nhé!

- Được lắm? - Aramis nói. - Tôi phải đi thăm hai chục nơi và viết chừng ấy lá thư nữa.

Nói rồi, họ chia tay nhau Arthos đi thăm bà de Vendôme, ghi tên trước ở nhà bà de Chevreuse và viết cho d Artagnan bức thư sau đây:

"Bạn thân mến,

Tôi cùng Aramis đi làm một việc quan trọng. Tôi muốn đến từ biệt cậu nhưng không có thời gian. Đừng quên rằng tôi viết đây để nhắc lại rằng tôi yêu mến cậu biết chừng nào.

Raoul đang đi Blois và không biết về chuyến đi của tôi. Vắng mặt tôi cậu gắng trông nom nó cẩn thận nhé, và nếu chẳng may trong ba tháng tới mà không nhận được tin tức của tôi, thì cậu hãy bảo nó mở một gói gửi cho nó ở Blois để ở trong cái hộp bằng đồng thau của tôi mở bằng cái chìa khoá mà tôi gửi cậu.

Nhờ cậu ôm hôn Porthos thay cho Aramis và tôi.

Xin tạm biệt và có thể là vĩnh biệt".

Và anh sai Blaisois mang thư đi.

Đến giờ hẹn, Aramis tới. Anh mặc quần áo kỵ sĩ và mang bên mình thanh kiếm cũ mà anh đã từng rút ra luôn và giờ đây hơn bao giờ hết anh sẵn sàng tuốt ra khỏi vỏ.

- A này, - anh nói, - Dứt khoát là chúng ta sai lầm, nếu cứ thế này mà ra đi không để lại một lời chào từ biệt Porthos và d Artagnan.

- Việc ấy tôi đã lo làm rồi bạn thân mến ạ. Tôi đã ôm hôn cả hai người cho cậu và cho tôi.

- Bá tước thân mến ơi anh thật là một người tuyệt vời, anh nghĩ đến mọi việc.

- Thế nào! Cậu đã quyết định đi chuyến này chứ?

- Dứt khoát rồi! Và bây giờ nghĩ lại tôi thấy rời Paris lúc này là hay.

- Tôi cũng vậy, - Arthos đáp, - Song le tôi vẫn tiếc không đến ôm hôn d Artagnan được. Nhưng cái thằng quỷ sứ tinh ma lắm, nó sẽ đoán ra dự định của chúng ta.

Cuối bữa ăn, Blaisois trở về.

- Thưa ông, đây là thư trả lời của ông d Artagnan.

- Ta có bảo phải lấy thư trả lời đâu, đồ ngu? - Arthos nói.

- Cho nên tôi có đợi đâu ạ và ra về, nhưng ông ấy gọi lại và đưa tôi cái này.

Và hắn giơ ra một cái túi nhỏ bằng da tròn căng và kêu xủng xoảng.

Arthos mở túi và lấy ra một lá thư nhỏ, thư viết:

"Bá tước thân mến,

Khi người ta viễn du, nhất là lại lâu tới ba tháng thì chẳng bao giờ có đủ tiền. Do nhớ đến những thời quẫn bách của chúng ta, tôi gửi tới anh một nửa túi tiền của tôi, đó là tiền tôi bóp nặn được của lão Mazarin, vậy tôi xin anh hãy dùng sao cho xứng đáng nhé.

Còn chuyện nói rằng chúng ta không gặp nhau nữa, tôi chẳng tin chút nào đâu; khi người ta có một trái tim và tay kiếm, như anh, người ta đi đâu cũng lọt. Vậy thì xin tạm biệt, chứ không vĩnh biệt...

Chẳng cần phải nói rằng từ cái ngày gặp Raoul, tôi đã yêu nó như con của mìnhh: tự nhiên hãy tin rằng tôi thật lòng cầu Chúa không trở thành cha nó, dù rằng tôi lấy làm hãnh diện về một đứa con trai như nó.

D Artagnan của anh!

Tái bút - Tất nhiên là năm mươi louis tôi gửi anh là của anh cũng như của Aramis, của Aramis cũng như của anh!"

Arthos mỉm cười và cái nhìn đẹp đẽ của anh nhoà một giọt lệ.

D Artagnan mà anh luôn luôn yêu mến thân thương thì bao giờ cũng vẫn yêu quý anh, dù cậu ta là thuộc phái Mazarin.

Aramis dốc túi tiền ra bàn và nói:

- Và đây năm chục đồng louis tất cả đều mang hình vua Louis XIII. Thực tình xin hỏi bá tước, anh dùng tiền này làm gì, giữ lại hay gửi trả?

- Giữ lại chứ. Aramis và nếu không cần đến thì vẫn giữ cái gì được vui lòng tặng thì phải được vui lòng nhận. Cậu hãy cầm lấy hai mươi lăm đồng, Aramis ạ, và đưa tôi hai mươi lăm.

- Càng hay, tôi rất vui mừng thấy anh cùng ý kiến với tôi. Bây giờ thì ta đi chứ?

- Đi lúc nào tuỳ cậu, nhưng cậu không mang người hầu đi à?

- Không, cái tên Bazin ba bị ấy đã dại dột đi làm phụ thủ như anh biết đấy, thành thử hắn không rời nhà thờ Đức Bà được.

- Thôi được, cậu cứ lấy Blaisois mà tôi cũng chẳng cần đến vì đã có Grimaud.

- Xin vui lòng, - Aramis nói.

Vừa lúc ấy, Grimaud xuất hiện ở ngưỡng cửa.

- Sẵn sàng, - Bác nói vẫn với cái kiểu vắn tắt như mọi khi.

- Ta đi thôi, - Arthos bảo.

Quả thật, ngựa đã thắng đầy đủ yên cương đang chờ đợi. Hai người hầu cũng vậy.

Đến góc đường kè, họ gặp Bazin đang chạy vội đến thở dốc ra.

- A! Thưa ông, - Bazin nói. - Nhờ trời tôi đến còn kịp.

- Có chuyện gì đấy?

- Ông Porthos vừa ra khỏi nhà và để lại cái này mà bảo rằng việc rất gấp, tôi phải đưa đến cho ông trước khi ông ra đi.

Aramis cầm lấy cái túi Bazin đưa vào nói:

- Tốt, nhưng cái gì đây?

- Khoan đã, thưa ông tu viện trưởng, có một cái thư.

- Nhà mi biết là tôi bảo nhà mi rằng, nếu không gọi tôi là hiệp sĩ mà cứ gọi khác đi thì tôi sẽ dần gãy xương nhà mi ra. Nào, đưa thư đây.

- Làm thế nào mà đọc được? - Arthos nó - Trời tối đen như hũ nút này này.

- Đợi tí, - Bazin nói.

Bazin bật lửa châm vào ngọn nến nhỏ mà bác vẫn dùng để thắp các cây sáp. Dưới ánh nến Aramis đọc:

"D Herblay thân mến,

D Artagnan thay mặt anh và bá tước de La Fère ôm hôn tôi và cho biết là các anh có việc đi một chuyến đâu vài ba tháng. Vì biết tính anh không thích hỏi mượn bạn bè tôi xin đưa anh hai trăm pistol, anh cứ dùng và sẽ hoàn lại tôi khi nào có dịp. Chớ ngại là tôi bị túng, nếu tôi cần tiền tôi sẽ bảo một trong mấy lâu đài của tôi gửi ra. Riêng ở Bracieux tôi có hai mươi nghìn livres vàng. Tôi không gửi anh nhiều hơn vì rằng anh sẽ không nhận một số tiền quá lớn. Tôi viết cho anh bởi vì Bá tước de La Fère bao giờ cũng có cái gì đó làm cho tôi hơi sờ sợ một cách bất ý mặc dầu tôi hết lòng yêu quý. Đã đành rằng cái mà tôi gửi tặng anh đồng thời cũng là tặng bá tước. Tôi mong anh hãy tin rằng bao giờ tôi cũng vốn là người bạn tận tụy của anh.

Du Vallon de Bracieux de Pierrefonds".

- Này, - Aramis nói, - anh nói thế nào về chuyện này?

- D Herblay thân mến ơi, tôi nói rằng hầu như sẽ là một điều phạm thánh, nếu ta nghi ngờ Thượng đế, trong khi chúng ta có những người bạn chí thiết như vậy.

- Vậy thế nào bây giờ?

- Vậy thì chúng ta sẽ chia nhau những đồng pistol của Porthos như đã chia những đồng louis của d Artagnan.

Việc chia tiền diễn ra dưới ngọn nến của Bazin, xong hai người bạn lên đường.

Mười lăm phút sau, họ tới cửa ô Saint-Denis nơi de Winter đang chờ họ.

Chú thích:

(1) ông chủ giáo de Gondy

-*-*-*-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro