Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

truyen song ngu anh viet

Cô bé bán diêm

Hans Christian Andersen

Đêm giáng sinh năm ấy trời thật lạnh. Đã mấy ngày liền tuyết rơi liên miên, như hối hả điểm trang cho thành phố vẻ thánh khiết để đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Cứu Thế ra đời.

Em bé tay ôm bao giấy đầy những hộp diêm, vừa đi vừa cất giọng rao mời. Lạnh thế mà bé phải lê đôi chân trần trên hè phố. Đôi dép cũ rích của bé sáng nay bị lũ nhóc ngoài phố nghịch ngợm dấu đi mất. Trời lạnh như cắt. Hai bàn chân của

bé sưng tím cả lên. Bé cố lê từng bước sát dưới mái hiên cho đỡ lạnh, thỉnh thoảng đôi mắt ngây thơ ngước nhìn đám đông hờ hững qua lại, nửa van xin, nửa ngại ngùng. Không hiểu sao bé chỉ bán có một xu một hộp diêm như mọi ngày mà đêm nay không ai thèm hỏi đến.

Càng về đêm, trời càng lạnh. Tuyết vẫn cứ rơi đều trên hè phố. Bé bán diêm thấy người mệt lả. Đôi bàn chân bây giờ tê cứng, không còn chút cảm giác. Bé thèm được về nhà nằm cuộn mình trên chiếc giường tồi tàn trong góc để ngủ một giấc cho quên đói, quên lạnh. Nhưng nghĩ đến những lời đay nghiến, những lằn roi vun vút của người mẹ ghẻ, bé rùng mình hối hả bước mau. Được một lát, bé bắt đầu dán mắt vào những ngôi nhà hai bên đường. Nhà nào cũng vui vẻ, ấm cúng và trang hoàng rực rỡ. Chỗ thì đèn màu nhấp nháy, chỗ có cây giáng sinh với những quà bánh đầy mầu. Có nhà dọn lên bàn gà tây, rượu, bánh trái trông thật ngon lành. Bất giác bé nuốt nước miếng, mắt hoa lên, tay chân run bần bật, bé thấy mình lạnh và đói hơn bao giờ hết. Đưa tay lên ôm mặt, bé thất thểu bước đi trong tiếng nhạc giáng sinh văng vẳng khắp nơi và mọi người thản nhiên, vui vẻ, sung sướng mừng Chúa ra đời...

Càng về khuya, tuyết càng rơi nhiều. Bóng tối, cơn lạnh lẫn cơn đói như phủ lên, như quấn vào hình hài nhỏ bé ốm yếu. Bé vào núp bên vỉa hè giữa hai dẫy nhà cao để tránh cơn gió quái ác và tìm chút hơi ấm trong đêm. Ngồi nghỉ một lát, chợt nhớ ra bao diêm, bé lấy ra một cây, quẹt lên để sưởi cho mấy ngón tay bớt cóng. Cây diêm cháy bùng lên thật sáng, thật ấm, nhưng chỉ một lát thì tắt mất, làm bé càng bực mình hơn trước. Bé thử quẹt lên một cây diêm thứ hai. Khi cây diêm cháy bùng lên, bé thấy trước mặt mình một bàn đầy thức ăn, những món đặc biệt của ngày lễ giáng sinh. Bé mừng quá, đưa tay ra chụp lấy thì ngay lúc ấy cây diêm tắt, để lại bé trong bóng tối dầy đặc, với cái lạnh bây giờ càng khủng khiếp hơn. Bé sợ quá, sợ lạnh, sợ tối, vội vàng lấy bao giấy đổ diêm ra hết, rồi cứ quẹt lên từng cây một, hết cây này đến cây khác. Trong ánh sáng của mỗi cây diêm bé thấy mình được về nhà, được gặp lại người mẹ thân yêu. Mẹ âu yếm bế bé đến gần bên lò sưởi, mặc cho bé chiếc áo choàng dài thật ấm, thật đẹp, xong nhẹ nhàng đút cho bé từng miếng bánh ngon. Mẹ trìu mến ôm bé vào lòng, vuốt ve, hỏi han đủ chuyện. Mồi lần que diêm tắt, hình ảnh người mẹ thân yêu tan biến, bé hoảng sợ, vội vàng quẹt lên một que khác, mẹ lại hiện ra. Cứ như thế, tay bé cứ say sưa quẹt hết mớ diêm này đến mớ diêm khác. Rồi như người điên, bé lấy que diêm châm vào cả hộp diêm. Khi ánh lửa bùng lên, bé thấy mẹ cúi xuống bế bé lên, mang bé bay bổng về nơi đầy tiếng hát, đầy những người thân yêu, bé không còn thấy lạnh, thấy

đói gì nữa.

Sáng hôm sau, những người trong phố tìm thấy em bé đáng thương nằm chết bên cạnh đống diêm vãi tung tóe trong ngõ hẻm.

The Little Match Seller

IT was terribly cold and nearly dark on the last evening of the old year, and the snow was falling fast. In the cold and the darkness, a poor little girl, with bare head and naked feet, roamed through the streets. It is true she had on a pair of slippers when she left home, but they were not of much use. They were very large, so large, indeed, that they had belonged to her mother, and the poor little creature had lost them in running across the street to avoid two carriages that were rolling along at a terrible rate. One of the slippers she could not find, and a boy seized upon the other and ran away with it, saying that he could use it as a cradle, when he had children of his own. So the little girl went on with her little naked feet, which were quite red and blue with the cold. In an old apron she carried a number of matches, and had a bundle of them in her hands. No one had bought anything of her the whole day, nor had any one given here even a penny. Shivering with cold and hunger, she crept along; poor little child, she looked the picture of misery. The snowflakes fell on her long, fair hair, which hung in curls on her shoulders, but she regarded them not.

Lights were shining from every window, and there was a savory smell of roast goose, for it was New-year's eve- yes, she remembered that. In a corner, between two houses, one of which projected beyond the other, she sank down and huddled herself together. She had drawn her little feet under her, but she could not keep off the cold; and she dared not go home, for she had sold no matches, and could not take home even a penny of money. Her father would certainly beat her; besides, it was almost as cold at home as here, for they had only the roof to cover them, through which the wind howled, although the largest holes had been stopped up with straw and rags. Her little hands were almost frozen with the cold. Ah! perhaps a burning match might be some good, if she could draw it from the bundle and strike it against the wall, just to warm her fingers. She drew one out-'scratch!' how it sputtered as it burnt! It gave a warm, bright light, like a little candle, as she held her hand over it. It was really a wonderful light. It seemed to the little girl that she was sitting by a large iron stove, with polished brass feet and a brass ornament. How the fire burned! and seemed so beautifully warm that the child stretched out her feet as if to warm them, when, lo! the flame of the match went out, the stove vanished, and she had only the remains of the half-burnt match in her hand.

She rubbed another match on the wall. It burst into a flame, and where its light fell upon the wall it became as transparent as a veil, and she could see into the room. The table was covered with a snowy white table-cloth, on which stood a splendid dinner service, and a steaming roast goose, stuffed with apples and dried plums. And what was still more wonderful, the goose jumped down from the dish and waddled across the floor, with a knife and fork in its breast, to the little girl. Then the match went out, and there remained nothing but the thick, damp, cold wall before her. She lighted another match, and then she found herself sitting under a beautiful Christmas-tree. It was larger

and more beautifully decorated than the one which she had seen through the glass door at the rich merchant's. Thousands of tapers were burning upon the green branches, and colored pictures, like those she had seen in the show-windows, looked down upon it all. The little one stretched out her hand towards them, and the match went out.

The Christmas lights rose higher and higher, till they looked to her like the stars in the sky. Then she saw a star fall, leaving behind it a bright streak of fire. 'Some one is dying,' thought the little girl, for her old grandmother, the only one who had ever loved her, and who was now dead, had told her that when a star falls, a soul was going up to God. She again rubbed a match on the wall, and the light shone round her; in the brightness stood her old grandmother, clear and shining, yet mild and loving in her appearance. 'Grandmother,' cried the little one, 'O take me with you; I know you will go away when the match burns out; you will vanish like the warm stove, the roast goose, and the large, glorious Christmas-tree.' And she made haste to light the whole bundle of matches, for she wished to keep her grandmother there. And the matches glowed with a light that was brighter than the noon-day, and her grandmother had never appeared so large or so beautiful. She took the little girl in her arms, and they both flew upwards in brightness and joy far above the earth, where there was neither cold nor hunger nor pain, for they were with God.

In the dawn of morning there lay the poor little one, with pale cheeks and smiling mouth, leaning against the wall; she had been frozen to death on the last evening of the year; and the New-year's sun rose and shone upon a little corpse! The child still sat, in the stiffness of death, holding the matches in her hand, one bundle of which was burnt. 'She tried to warm herself,' said some. No one imagined what beautiful things she had seen, nor into what glory she had entered with her grandmother, on New-year's day.

Cô bé bán diêm

Hans Christian Andersen

Một bà mẹ

Hans Christian Andersen

Một bà mẹ đang ngồi cạnh đứa con nhỏ. Bà rất buồn vì lo nó chết mất. Đứa bé xanh rớt, mắt nhằm nghiền đang thoi thóp. Thấy nó rên r ỉ rất thiểu não, bà cúi xuống sát mặt nó, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa. Một ông già nghèo khổ, chùm kín trong tấm chăn rách bước vào. Bên ngoài tuyết phủ khắp nơi, gió vun vút quất vào mặt.

Ông già rét run cầm cập, ngồi xuống ru đứa bé. Mẹ nó đương nhóm lò hâm lại cốc sữa. Xong việc bà quay lại ngồi vào chiếc ghế cạnh ông già, nhìn đứa bé ốm yếu vẫn đang thoi thóp thở. Bà hỏi:

- Liệu nó có việc gì không? Thượng đế có tha bắt nó đi không?

Ông già - chính là thần chết lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba hôm nay, bà không ngủ, người rã rời. Bà thiếp đi một tí, rồi chợt rùng mình vì rét bà choàng dậy.

- Đâu rồi nhỉ? Bà hoảng hốt kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và đứa con bà biến đâu mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn tích tắc trong xó nhà.

Bà mẹ tội nghiệp vùng dậy chạy ra ngoài gọi con.

Một bà cụ mặc áo dài đen, ngồi giữa đám tuyết trên sân bảo bà mẹ:

- Tôi thấy thần chết mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió. Đã cướp ai đi, lão không bao giờ mang trả lại.

Bà mẹ khẩn cầu:

- Xin cụ bảo tôi lão đi đường nào. Tôi sẽ đuổi kịp. Bà cụ đáp:

- Được! Nhưng muốn ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả những bài hát mà chị đã ru con chị. Ta đã được nghe chị hát ru con chị nhiều, ta rất thích. Ta là thần đêm tối. Ta đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị ru con.

Bà mẹ van vỉ:

- Tôi xin hát tất cả, sau đó bà chỉ đường giúp để tôi đuổi theo thần chết đòi lại đứa con tôi. Nhưng thần đêm tối chẳng nói gì. Bà mẹ vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, vừa nức nở vừa hát, tiếng nấc át cả lời hát.

Nghe hát xong, Thần đêm tối bảo:

- Rẽ sang phải rồi đi vào rừng thông tối om kia. Thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Đến giữa rừng, gặp một ngã ba, bà mẹ phân vân không biết rẽ trái hay phải. Chỉ có một bụi gai không hoa, không lá, tuyết phủ đầy, cành nặng trĩu là xuống đến mặt đất. Bà mẹ hỏi:

- Có biết thần chết đem con ta đi lối nào không? Bụi gai trả lời:

- Có nhưng muốn tôi chỉ, bà phải ủ tôi vào lòng cho ấm lên. Tôi đang rét cóng, sắp thành băng đến nơi.

Bà mẹ ôm bụi gai vào lòng để sưởi ấm cho nó. Ngực bà gai đâm toé máu. Bụi gai nóng lại trổ hoa xanh tốt ngay giữa đêm đông giá lạnh. Được sưởi ấm rồi, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, chẳng thấy có một bóng thuyền. Mặt hồ lớp băng mỏng quá không giẫm lên để đi được, nước hồ lại quá sâu không lội qua được. Bà mới cúi xuống để uống hết nước hồ. Bà cũng biết việc ấy là quá sức mình, nhưng vì quá đâu khổ. Bà mong thượng đế cứu giúp.

Hồ nước bảo bà:

- Không làm thế được đâu. Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai. Hai mắt bà là hai viên ngọc trai rất rất trong. Bà hãy khóc cho đến lúc rơi hai mắt xuống. Tôi sẽ đưa bà đến một cái nhà kính là nơi thần chết vun trồng các cây hoa, mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở, nước mắt tầm tã, hai mắt theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ hoá thành hai viên ngọc.

Bà được hồ nước nâng bổng lên và thoắt một cái đưa đến một ngôi nhà kỳ lạ, chẳng biết đấy là một quả núi với hang sâu rừng thẳm hay là một công trình tuyệt hảo, tuyệt mỹ của con người. Mắt bà không còn nên không trông thấy gì, bả hoi:

- Có thấy thần chết đem con tôi đi đâu không? Một bà già canh vườn ươm của thần chết nói:

- Thần chết chưa về đến đây. Bà làm thế nào mà đến được nơi này? Ai đã giúp bà?

- Thượng đế giúp - bà mẹ trả lời - Người đã thương tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi ở đâu.

Bà già nói:

- Tôi không biết mặt con bà. ở đây nhiều cây lắm. Mỗi cây tượng trưng sinh mệnh một con người. Chúng cũng có tim, tim chúng đập. Bà cứ lại gần các cây, nghe nhịp tim đập chắc bà sẽ nhận ra cây nào mang sinh mệnh con bà. Nhưng bà muốn tôi hướng dẫn thì bà trả ơn tôi cái gì nào?

- Tôi còn gì để cho bà nữa đâu! Bà mẹ trả lời.

- Bà có mớ tóc đen nhánh - bà già nói - bà cho tôi và nhận lại mớ tóc bạc của tôi. Đổi nhau mà.

- Nếu chỉ có thế thôi thì được - bà mẹ vội trả lời, rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của thần chết. Nơi đây có rất nhiều cây cỏ đủ loại. Có những cây mộc lan hương mảnh dẻ, những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây xanh tươi, cây khô cằn, rắn quấn quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền, kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây mỗi hoa mang một tên người, tượng trưng một kiếp người.

Có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ tí đang sắp làm vỡ chậu. Ngược lại có những cây bé con lại trồng trên những vuông đất rộng phủ rêu xanh mượt. Người mẹ đau khổ rạp xuống từng gốc cây, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn vàn trái tim ấy bà nhận ra nhịp đập của trái tim con bà.

- Con tôi đây rồi! Bà reo lên,chìa tay trên một gốc kỵ phù nhỏ màu lam ốm yếu thân nghẹo sang một bên.

Bà già ngăn lại:

- Đừng đụng vào hoa. Cứ đợi ở đây. Thần chết sắp về. Không cho Thần nhổ cây hoa này.

Ngay lúc đó một làn gió lạnh buốt nổi lên. Thần chết đã đến. Thần hỏi:

- Sao ngươi lại tìm được đến đây? Mà lại đến trước ta?

- Ta là mẹ! Bà mẹ trả lời.

Thần chết vươn bàn tay dài ngoẵng về phía cây hoa mảnh dẻ, bà mẹ vòng đôi bàn tay giữ lấy không cho Thần chết lấy.

- Ngươi không chống lại được ta đâu! - Thần chết nói và hà hơi vào tay bà mẹ, bà thấy lạnh buốt - Ta cũng chỉ tuân theo lệnh của thượng đế mà thôi. Ta trông nom khu vườn của người mang theo những cây cỏ ở đây lên trông trong vườn của thượng đế theo lệnh người. Còn sau đó trên ấy ra sao ta không biết.

- Giả con cho tôi! - Bà mẹ van xin và định túm lấy tay hai cây.

Thần chết bảo:

- Chớ đụng vào! Ngươi nói rằng ngươi đau khổ mà ngươi lại muốn làm cho một người mẹ khác phải đau khổ hay sao?

Bà mẹ đau thương buông hai cây hoa ra.

Thần chết nói thêm:

- Đây là đôi mắt của ngươi, ta thấy lón lánh dưới đáy hồ ta vớt lên đấy. Ngươi hãy nhận lại. Và nhìn xuống đáy giếng gần đấy. Ta sẽ cho ngươi biết tên hai đứa trẻ có hai hai bông hoa ấy. Ngươi sẽ thấy rõ cả cuộc đời và quá khứ và tương lai của chúng, thấy rõ tất cả những gì mà ngươi định huỷ hoại.

Bà mẹ nhìn xuống đáy giếng. Bà thấy một trong hai bông hoa ánh lên niềm vui đầy hạnh phúc, còn bông hoa kia thì hoàn cảnh trầm luân, khổ ải.

Thần chết nói:

- Cả hai kiếp hoa đều do Thượng Đế định đoạt cả Người mẹ hỏi:

- Thế hoa nào là hoa hạnh phúc, hoa nào là hoa bất hạnh? Thần chết đáp:

- Ta không thể tiết lộ thiên cơ. Nhưng một trong hai bông hoa ấy chính là của con ngươi, là hình ảnh tương lai của nó.

Bà mẹ gào lên:

- Hoa nào trong hai hoa ấy là của con tôi? Hãy bảo cho tôi biết. Nếu đời nó sau này sẽ đau khổ thì hãy mang nó đi, mang ngay về Thiên đường. Xin hãy tha thứ cho những lời tôi cầu nguyện. Xin hãy quên đi tất cả cả, coi như tôi đã mê sảng.

Rồi bà vặn tay vào nhau, quỳ xuống cầu khẩn:

- Xin thượng đế đừng nghe lời con nếu con có cầu khẩn những lời sai trái với ý người.

Rồi bà gục đầu xuống ngực:

Và thần chết mang đứa bé đến cái xứ sở xa lạ ấy.

The Story Of A Mother

A mother sat there with her little child. She was so downcast, so afraid that it should die! It was so pale, the small eyes had closed themselves, and it drew its breath so softly, now and then, with a deep respiration, as if it sighed; and the mother looked still

more sorrowfully on the little creature.

Then a knocking was heard at the door, and in came a poor old man wrapped up as in a large horse-cloth, for it warms one, and he needed it, as it was the cold winter season! Everything out-of doors was covered with ice and snow, and the wind blew so that it cut the face.

As the old man trembled with cold, and the little child slept a moment, the mother went and poured some ale into a pot and set it on the stove, that it might be warm for him; the old man sat and rocked the cradle, and the mother sat down on a chair close by him, and looked at her little sick child that drew its breath so deep, and raised its little hand.

'Do you not think that I shall save him?' said she. 'Our Lord will not take him from me!'

And the old man--it was Death himself--he nodded so strangely, it could just as well signify yes as no. And the mother looked down in her lap, and the tears ran down over her cheeks; her head became so heavy--she had not closed her eyes for three days and nights; and now she slept, but only for a minute, when she started up and trembled with cold.

'What is that?' said she, and looked on all sides; but the old man was gone, and her little child was gone--he had taken it with him; and the old clock in the corner burred, and burred, the great leaden weight ran down to the floor, bump! and then the clock also stood still.

But the poor mother ran out of the house and cried aloud for her child.

Out there, in the midst of the snow, there sat a woman in long, black clothes; and she said, 'Death has been in thy chamber, and I saw him hasten away with thy little child; he goes faster than the wind, and he never brings back what he takes!'

'Oh, only tell me which way he went!' said the mother. 'Tell me the way, and I shall find him!'

'I know it!' said the woman in the black clothes. 'But before I tell it, thou must first sing for me all the songs thou hast sung for thy child! I am fond of them. I have heard them before; I am Night; I saw thy tears whilst thou sang'st them!'

'I will sing them all, all!' said the mother. 'But do not stop me now--I may overtake him-- I may find my child!'

But Night stood still and mute. Then the mother wrung her hands, sang and wept, and there were many songs, but yet many more tears; and then Night said, 'Go to the right, into the dark pine forest; thither I saw Death take his way with thy little child!'

The roads crossed each other in the depths of the forest, and she no longer knew whither she should go! then there stood a thorn-bush; there was neither leaf nor flower

on it, it was also in the cold winter season, and ice-flakes hung on the branches.

'Hast thou not seen Death go past with my little child?' said the mother.

'Yes,' said the thorn-bush; 'but I will not tell thee which way he took, unless thou wilt first warm me up at thy heart. I am freezing to death; I shall become a lump of ice!'

And she pressed the thorn-bush to her breast, so firmly, that it might be thoroughly warmed, and the thorns went right into her flesh, and her blood flowed in large drops, but the thornbush shot forth fresh green leaves, and there came flowers on it in the cold winter night, the heart of the afflicted mother was so warm; and the thorn-bush told her the way she should go.

She then came to a large lake, where there was neither ship nor boat. The lake was not frozen sufficiently to bear her; neither was it open, nor low enough that she could wade through it; and across it she must go if she would find her child! Then she lay down to drink up the lake, and that was an impossibility for a human being, but the afflicted mother thought that a miracle might happen nevertheless.

'Oh, what would I not give to come to my child!' said the weeping mother; and she wept still more, and her eyes sunk down in the depths of the waters, and became two precious pearls; but the water bore her up, as if she sat in a swing, and she flew in the rocking waves to the shore on the opposite side, where there stood a mile-broad, strange house, one knew not if it were a mountain with forests and caverns, or if it were built up; but the poor mother could not see it; she had wept her eyes out.

'Where shall I find Death, who took away my little child?' said she.

'He has not come here yet!' said the old grave woman, who was appointed to look after Death's great greenhouse! 'How have you been able to find the way hither? And who has helped you?'

'Our Lord has helped me,' said she. 'He is merciful, and you will also be so! Where shall I find my little child?'

'Nay, I know not,' said the woman, 'and you cannot see! Many flowers and trees have withered this night; Death will soon come and plant them over again! You certainly know that every person has his or her life's tree or flower, just as everyone happens to be settled; they look like other plants, but they have pulsations of the heart. Children's hearts can also beat; go after yours, perhaps you may know your child's; but what will you give me if I tell you what you shall do more?'

'I have nothing to give,' said the afflicted mother, 'but I will go to the world's end for you!'

'Nay, I have nothing to do there!' said the woman. 'But you can give me your long black hair; you know yourself that it is fine, and that I like! You shall have my white hair instead, and that's always something!'

'Do you demand nothing else?' said she. 'That I will gladly give you!' And she gave her her fine black hair, and got the old woman's snow-white hair instead.

So they went into Death's great greenhouse, where flowers and trees grew strangely into one another. There stood fine hyacinths under glass bells, and there stood strong-stemmed peonies; there grew water plants, some so fresh, others half sick, the water-snakes lay down on them, and black crabs pinched their stalks. There stood beautiful palm-trees, oaks, and plantains; there stood parsley and flowering thyme: every tree and every flower had its name; each of them was a human life, the human frame still lived--one in China, and another in Greenland--round about in the world. There were large trees in small pots, so that they stood so stunted in growth, and ready to burst the pots; in other places, there was a little dull flower in rich mould, with moss round about it, and it was so petted and nursed. But the distressed mother bent down over all the smallest plants, and heard within them how the human heart beat; and amongst millions she knew her child's.

'There it is!' cried she, and stretched her hands out over a little blue crocus, that hung quite sickly on one side.

'Don't touch the flower!' said the old woman. 'But place yourself here, and when Death comes--I expect him every moment--do not let him pluck the flower up, but threaten him that you will do the same with the others. Then he will be afraid! He is responsible for them to our Lord, and no one dares to pluck them up before he gives leave.'

All at once an icy cold rushed through the great hall, and the blind mother could feel that it was Death that came.

'How hast thou been able to find thy way hither?' he asked. 'How couldst thou come quicker than I?'

'I am a mother,' said she.

And Death stretched out his long hand towards the fine little flower, but she held her hands fast around his, so tight, and yet afraid that she should touch one of the leaves. Then Death blew on her hands, and she felt that it was colder than the cold wind, and her hands fell down powerless.

'Thou canst not do anything against me!' said Death.

'But our Lord can!' said she.

'I only do His bidding!' said Death. 'I am His gardener, I take all His flowers and trees, and plant them out in the great garden of Paradise, in the unknown land; but how they grow there, and how it is there I dare not tell thee.'

'Give me back my child!' said the mother, and she wept and prayed. At once she seized hold of two beautiful flowers close by, with each hand, and cried out to Death, 'I will

tear all thy flowers off, for I am in despair.'

'Touch them not!' said Death. 'Thou say'st that thou art so unhappy, and now thou wilt make another mother equally unhappy.'

'Another mother!' said the poor woman, and directly let go her hold of both the flowers.

'There, thou hast thine eyes,' said Death; 'I fished them up from the lake, they shone so bright; I knew not they were thine. Take them again, they are now brighter than before; now look down into the deep well close by; I shall tell thee the names of the two flowers thou wouldst have torn up, and thou wilt see their whole future life--their whole human existence: and see what thou wast about to disturb and destroy.'

And she looked down into the well; and it was a happiness to see how the one became a blessing to the world, to see how much happiness and joy were felt everywhere. And she saw the other's life, and it was sorrow and distress, horror, and wretchedness.

'Both of them are God's will!' said Death.

'Which of them is Misfortune's flower and which is that of Happiness?' asked she.

'That I will not tell thee,' said Death; 'but this thou shalt know from me, that the one flower was thy own child! it was thy child's fate thou saw'st--thy own child's future life!'

Then the mother screamed with terror, 'Which of them was my child? Tell it me! Save the innocent! Save my child from all that misery! Rather take it away! Take it into God's kingdom! Forget my tears, forget my prayers, and all that I have done!'

'I do not understand thee!' said Death. 'Wilt thou have thy child again, or shall I go with it there, where thou dost not know!'

Then the mother wrung her hands, fell on her knees, and prayed to our Lord: 'Oh, hear me not when I pray against Thy will, which is the best! hear me not! hear me not!'

And she bowed her head down in her lap, and Death took her child and went with it into the unknown land.

Họ lên đường, người lớn dắt tay người bé và bác đàn ông lại mỉm cười vì bác chằng hề phật ý đến gặp chị Blanchotte, nghe đồn chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng, và trong thâm tâm bác cũng tự nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ rất có thể lỡ lầm nữa.

Họ đến trước một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

Đứa trẻ nói:

- Đây rồi.- Và em gọi to : - Mẹ ơi!

Một thiếu phụ xuất hiện và người thợ bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước lên thềm ngôi nhà nơi cô đã bị một kẻ khác lừa dối. E dè, bỏ mũ cầm tay, bác ấp úng:

-Đây thưa bà, tôi dắt về trả bà cháu bé bị lạc ở gần sông.

Nhưng Simon nhảy lên ôm lấy cổ mẹ và vừa nói với mẹ, vừa khóc trở lại:

-Không mẹ ạ, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố.

Hai má thiếu phụ đỏ ửng và tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn ấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Người đàn ông xúc động vẫn đứng đó, không biết bỏ đi thế nào cho phải. Nhưng Simon bỗng chạy đến bên bác, nói với bác:

-Chú có muốn làm bố cháu không ạ.

Im bặt như tờ. Chị Blanchotte lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn, dựa người vào tường, hai tay ôm lấy ngực. Thấy người ta không trả lời mình, em bé nói tiếp:

-Nếu chú không muốn, cháu quay trở lại sông cho chết đuối.

Bác thợ coi như chuyện đùa và cười đáp:

-Có chứ, chú muốn vậy.

Em bé liền hỏi:

-Thế chú tên là gì, để cháu trả lời chúng nó khi chúng nó muốn biết tên chú.

-Philip.- Người đàn ông đáp.

Simon im lặng một giây, để ghi nhớ cái tên ấy trong óc, rồi, hoàn toàn khuây khoả, em chìa hai tay nói:

-Thế nhé! Chú Philip, chú là bố cháu đấy.

Bác thợ nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, rút lui rất nhanh.

Ngày hôm sau, khi em đến trường, một tràng cười ác ý đón em, và lúc tan học, khi thằng kia muốn lặp lại chuyện cũ, Simon ném vào mặt nó những lời nói này, như ném một hòn đá:

-Bố tao ấy, bố tao tên là Philip.

Tứ phía bật lên những tiếng la hét thích thú:

- Philip là gì?... Philip nào? ... Philip là cái gì?...mày lấy ở đâu ra Philip của mày thế?

Simon không trả lời gì hết; và một mực tin tưởng sắt đá, em đưa mắt thách thức chúng, sẵn sàng chịu hành hạ còn hơn là trốn chạy chúng. Thầy giáo giải thoát cho em và em trở về với mẹ.

Suốt ba tháng ròng, bác thợ cao lớn thường tạt qua nhà chị Blanchotte, và đôi khi bác đánh bạo nói chuyện với chị, khi thấy chị ngồi khâu bên cửa sổ. Chị trả lời bác nhã nhặn, lúc nào cũng nghiêm trang, chẳng bao giờ cười với bác và không bao giờ để bác vào nhà. Tuy nhiên, cũng hợm mình đôi chút như mọi người đàn ông, bác cứ tưởng tượng rằng chị hay đỏ mặt hơn thường lệ, mỗi khi trò chuyện với bác.

Nhưng một thanh danh đã bị mai một thật khó mà gây dựng lại và cũng rất đỗi mong manh, đến mức, mặc dù chị Blanchotte ngại ngùng giữ gìn, trong vùng đã thấy đồn đại.

Còn về Simon thì em rất yêu ông bố này và hầu như chiều nào, xong việc em cũng đi chơi với bố. Em đến trường đều đặn và đi qua giữa các bạn học, hết sức đàng hoàng, không bao giờ đáp lại chúng.

Thế mà một hôm cái thằng khốn nạn đã tấn công em đầu tiên bảo với em:

-Mày nói dối, mày chẳng có bố nào tên là Philip.

-Sao lại thế? - Simon rất xúc động hỏi.

Thằng kia xoa hai tay vào nhau. Nó tiếp:

-Bởi vì nếu mày có bố thì ông ấy phải là chồng của mẹ mày.

Simon mất bình tĩnh trước tính chính xác của lập luận ấy, tuy vậy em vẫn trả lời:

-Nhưng cứ là bố của tớ.

Thằng kia cười khẩy bảo :

-Có thể lắm, nhưng không phải bố của mày hẳn hoi.

Chú bé con chị Blanchotte cúi đầu xuống và vừa mơ màng vừa đi về phía lò rèn của cụ Loison, nơi bác Philip làm việc.

Cái lò rèn này như ẩn mình dưới bóng cây. Bên trong rất tối, chỉ có ánh lửa đỏ của một cái lò cực lớn bập bùng chiếu sáng năm bác thợ rèn để cánh tay trần đang nện xuống đe ầm ầm dữ dội. Họ đứng, hứng ánh sáng đỏ như quỷ thần, mắt nhìn chăm chăm vào thanh sắt nóng bỏng mình đang khảo đả; và niềm suy tưởng nặng nề của họ lên xuống theo nhịp búa.

Simon vào, không ai trông thấy, và em rón rén đến kéo áo bác thợ. Bác quay lại. Công việc bỗng dừng, cả mấy người đàn ông cùng nhìn, hết sức chăm chú.

Thế là, giữa sự im lặng bất thường đó, cất lên giọng nói nhỏ nhẹ của Simon:

-Bố Philip này, lúc nãy thằng con bác Michot bảo con rằng bố không phải là bố của con hẳn hoi.

Bác thợ hỏi:

-Sao lại thế?

Chú bé trả lời với tất cả sự ngây thơ của chú:

-Vì bố không phải là chồng của mẹ.

Không ai cười hết. Philip vẫn đứng, trán úp vào mu những bàn tay to lớn tỳ ở cán búa dựng trên đe. Bác mơ màng. Bốn người bạn nhìn bác, và bé tí xíu giữa những vị khổng lồ này, Simon lo lắng chờ đợi. Đột nhiên bác thợ rèn lớn tuổi nhất, đáp ứng ý nghĩ của tất cả mọi người nói với Philip:

-Dù thế nào, Blanchotte vẫn là một cô gái tốt bụng, trung hậu và mặc dầu gặp chuyện không hay, vẫn can đảm và nền nếp, cô ấy sẽ là một người vợ xứng đáng, với một người đàn ông tử tế.

-Đúng như vậy- Ba người kia nói.

Bác thợ tiếp:

-Cái cô gái ấy, nếu có lầm lỡ, thì lỗi ở cô chăng? Họ hứa sẽ cưới cô, và tôi biết khối bà khác giờ đây rất được coi trọng cũng từng làm như thế.

-Đúng như vậy. - Ba người đàn ông đồng thanh đáp .

Bác lại tiếp:

-Thật tội nghiệp, cô ta đã vất vả biết bao nhiêu để một mình nuôi dạy con và đã khóc biết bao nhiêu từ cái ngày chỉ bước ra khỏi nhà để đến nhà thờ, những điều ấy chỉ có riêng Chúa biết mà thôi.

-Cũng lại đúng như vậy - Những người khác nói .

Thế là người ta chỉ còn nghe thấy tiếng bễ thổi lửa trong lò. Philip đột ngột cúi xuống với Simon:

- Về bảo với mẹ là tối nay bố sẽ đến nói chuyện với mẹ.

Rồi bác nắm vai em bé đẩy ra ngoài.

Bác trở lại với công việc, và năm lưỡi búa nện xuống đe cùng một nhát đập. Họ cứ rèn như vậy cho đến tối, mạnh mẽ, tươi vui, cũng như những lưỡi búa hài lòng thoả mãn. Và giống quả chuông lớn tiếng trầm của một ngôi nhà thờ, trong các ngày lễ vang dội lên trên tiếng reo của những quả chuông khác, lưỡi búa của Philip cũng vậy , nó át tiếng ầm ầm của những lưỡi búa khác, và cứ từng giây lại giáng xuống rộn ràng inh ỏi. Và bác, mắt sáng rực, đứng giữa các tia lửa, rèn rất say sưa.

Trời đầy sao khi bác đến gõ cửa nhà chị Blanchotte. Bác mặc áo khoác ngày chủ nhật, sơ mi mới và râu tóc đã sửa sang. Thiếu phụ bước ra thềm và bảo bác vẻ phiền muộn:

-Thưa ông Philip, ông đến lúc đêm hôm thế này quả thực không phải lắm.

Bác muốn trả lời, bác ấp úng và bối rối đứng trước chị. Chị tiếp :

-Mà ông cũng biết rằng không nên để người ta bàn tán về tôi nữa.

Thế là bác nói, hết sức đột ngột:

-Thì có sao đâu nếu cô chịu làm vợ tôi!

Không ai trả lời bác, nhưng bác tưởng tượng như trong bóng tối căn phòng, có người gục xuống. Bác bước vào thật nhanh: và Simon nằm trên giường, nghe thấy tiếng hôn và mấy lời mẹ thì thầm rất khẽ. Rồi đột nhiên, em thấy mình được bế bổng lên trong tay bác và bác nhấc bổng em trên hai cánh tay hộ pháp, hét lên bảo em:

-Nói với các bạn học của con rằng bố con là Philip Remy, bác thợ rèn, và bố sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt con.

Ngày hôm sau, thấy trường đã đông chật và giờ học sắp bắt đầu, Simon đứng dậy, mặt tái nhợt, môi run run: "Bố tớ ấy, - em nói rành rọt, - bố tớ là Philip Remy, bác thợ rèn, và bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ".

Lần này chẳng người nào cười nữa, vì cái nhà bác Philip Remy, thợ rèn, thì biết rõ lắm rồi, và đấy thật là một ông bố, mà ai có được cũng phải lấy làm tự hào

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: