Truyen ngan van nghe cong an-Lenghiabk05
Vận may cuối đời
Từ quầy thuốc Tây bước ra, ông Bách đứng đón xe về nhà. Một thằng bé khoảng mười tuổi, mặt mày sáng sủa đến bên ông nài nỉ:
- Ông ơi, ông mua giúp con vài tờ vé số…
- Thôi mày ơi, tao không ăn thua với nhà nước.
- "Ăn thua" gì ông? Kiến thiết mà… Mua vé số mừng xuân, tết này vô độc đắc, ông tha hồ dẫn bà đi du lịch.
- Tía mày. Chắc trúng không?
Ông Bách thấy thằng nhỏ nói chuyện dễ thương nên buông lời chọc.
- Trúng mà…
- Trúng thì mày đem về cho cha mày để tết này lĩnh thưởng.
- Cha mẹ con chết hết rồi… Họa may phần số ông trúng độc đắc.
- Dẹp đi mày. Phần số gì…
Nghe thằng nhỏ nói mà ông tức cười. Ông mua vé số từ trước ngày miền Nam giải phóng, nếu chịu để dành có đến cả tấn giấy chớ không ít. Phần số, họa may gì với năm con số lộn xuôi, lộn ngược đó. Ngay cả lô đầu tiên có hai con số mà đánh đề hoài cũng không trúng. Có thể ví cái phần số trúng độc đắc với sự mong ước "Cò ỉa vô miệng chai" lắm.
Thằng nhỏ đang trố mắt nhìn nắm tiền trên tay ông với cái nhìn xúi giục. Nghe ông nạt với giọng cáu gắt, nó riu ríu quay đi, miệng còn lẩm bẩm than thở:
- Bữa này "ôm" nữa rồi…
- Ê, này nhỏ!
Ông Bách gọi giật thằng nhỏ lại vì ông thấy tội nghiệp. Nó bán không hết vé số, giờ này mà còn ôm cả cọc, lỗ thấy cha, không gạo ăn nữa. Chuyện đời mà… Thằng nhỏ nghe gọi, mừng húm, quay lại với nét mặt tươi như cô gái đang tươi cười trong tấm vé số mừng xuân trên tay.
- Đây, chừa lại mấy ngàn đi xe, còn bao nhiêu cho mày đó…
Thấy ông đẩy cọc vé số lại và đưa cho nắm tiền, thằng nhỏ chợt hiểu, nó mừng rơn, hấp tấp quay đi. Đi được dăm bước, nó khựng lại, rồi do dự đến bên ông.
- Dạ, nhưng bà con đánh chết. Bà dặn, bán vé số chớ không phải đi xin…
- À… Cái này thì bà mày nói đúng, trúng ý tao quá. Phải sống có liêm sỉ. Có được mấy người nghĩ như bà mày hả? Hì… hì… phải tao với bà mày còn trẻ… Đâu… đâu, đưa đây… Mười, mười một, mười hai, mười ba ngàn tất cả. Đủ rồi đó! Cho bà mày tờ loại hai ngàn, tao lấy hai tờ loại năm ngàn có lịch để coi ngày chơi…
- Đi không bác Độ?
- Ơ… đi. Tới ngã ba ông Độ nghe!
Ông vừa trả lời vừa nhảy lên chiếc xe lam mà anh tài xế vừa rà thắng chạy sát bên mình. Thằng nhỏ nhe hàm răng trắng cười nhìn theo ông với cái nhìn biết ơn. Bàn tay nhỏ nhắn của nó giơ lên vẫy vẫy từ biệt…
Xe bon bon trên đường tráng nhựa, ông Bách chợt cười khì khi nhớ tới lời dặn dò thừa thãi của mình vừa rồi. Anh tài xế này biết gọi biệt danh của ông, ắt phải biết chỗ dừng cho ông xuống. Từ lâu, người ta gọi cái ngã ba bên hông nhà của ông là "ngã ba ông Độ", bởi vì họ gọi ông là "ông Độ, bác Độ, chú Độ…" ngỡ như "Độ" là tên cúng cơm của ông. Thật ra, cha mẹ đặt cho ông cái tên Bách với mong ước ông sống vững vàng như loài cây bách. Nhưng thiên hạ gán cho cái tên của ông thêm chữ "Độ" bởi vì ông ưa bày trò cá độ với bất cứ chuyện gì.
Hồi còn trai tráng đi gánh đất thuê với mấy anh bạn, ông bị họ khinh khi dáng người nhỏ nhắn yếu ớt. Ông thách họ làm đua. Cùng một khối lượng, cùng bắt đầu một lượt, ai gánh đất xong trước sẽ được hưởng luôn phần công của người thua. Vậy là, có khi ông làm một ngày thành hai, ba ngày, có khi ông phải làm thí công cho người ta. Có bận, cuốc đất mướn giữa đồng nắng cháy, ba bốn đứa mệt lả, phải ngồi nghỉ ở bờ ruộng. Nói chuyện tào lao, khích bác nhau một hồi, ông thách cả bọn phun nước miếng ăn tiền công ngày hôm đó. Thế là, gạch mức để ngồi và lần lượt phun. Ông ngồi tập trung tư tưởng nghĩ tới chuyện ăn me chua chấm nước mắm ruốc cho nước miếng tích tụ nhiều trong miệng đủ để "vận nội công" phun mạnh một cái thật xa. Tài năng thì được thưởng, đâu phải trò "cờ gian, bạc lận". Nói chuyện cá độ thì thiên hạ ban cho ông cái tên "Bách Độ" cũng thật xứng đáng, bởi ông đã từng bày ra hàng trăm trò cá độ. Ví như: Mưa hay nắng, ngắn hay dài, dai hay bở, dở hay ngon, giòn hay béo, méo hay tròn, còn hay hết, chết hay sống, trống hay mái, đái mau - lâu, đầu hay đít v.v… Nói chung, trò nào cũng có điều kiện phụ kèm theo cụ thể. Bất chợt, rút một tờ giấy bạc trong túi bạn ra thì đã có bao nhiêu trò cá độ, nếu muốn. Hãy đoán thử xem con số đầu tiên hay con số cuối cùng của dãy số trên tờ giấy bạc là số chẵn hay là số lẻ? Hoặc số đầu, số cuối số nào lớn, hoặc cộng tất cả các con số ấy lại được mấy nút? Bao nhiêu đó đủ hơn thua rồi.
Mải nghĩ ngợi, xe đến nhà, ông Bách mới giật mình. Đứa cháu thấy ông về vội dọn cơm ra và hỏi:
- Mua được không ông?
- Được… Ờ…
Ông Bách trả lời và chợt nhớ thằng Đậu đang hỏi chuyện mua số đề nhưng ông lại trả lời chuyện mua thuốc. Cám cảnh cô độc của ông, thằng Đậu - cháu một người hàng xóm đến đây ở được mấy tháng nay. Ông Bách đã nghĩ đến chuyện mai hậu, việc thờ phụng chỉ còn mong có nó.
- Chút nữa xổ số, khui ra con số mười (10) là công của con bàn đó. Mà… Ông nhớ rõ là "thằng" hay "con"?
- "Thằng" mà… Tao chiêm bao thấy rõ ràng thằng nhỏ lạ hoắc, trần truồng ngồi ở đầu cầu phía trên nước mà ị, cứt trôi xuống từng cục, từng cục cong cong như… trái me. Tao còn đánh thêm con số không - một (01) nữa, lỡ nó lộn ngược sao…
- Ờ… vậy cho chắc ăn. Ở truồng thì thấy rõ "cái ấy" chắc ông nhìn không lầm đâu. Chớ nếu là con gái thì chỉ cần đánh con số không - không (00) thôi. Cầu trời lần này cho ông trúng, gỡ nợ, thua hoài phát rầu. Chắc tới giờ rồi, để con bắt radio nghe ông.
Hai ông cháu vừa ăn cơm vừa lắng nghe buổi mở số truyền thanh đang giới thiệu thành phần tham dự... Họ ăn một cách tự nhiên nhưng không giấu vẻ chờ đợi. Cả hai ông cháu ngưng đũa, ngưng nhai và dường như nín thở nghe cô phát thanh viên đọc…"Các vé tận cùng bằng số ba - một, tức ba mươi mốt…". Hai ông cháu thở dài và im lặng phút giây. Chợt ông Bách bật lên:
- Mẹ nó. Ngu ơi là ngu. Vậy mà bàn không tới…
- Bàn sao cho tới, chiêm bao của ông không linh mà…
- Mày quên là tao bảo cứt thằng nhỏ trôi xuống bên mình tức là lộc trời từng cục, từng cục cong cong như con tôm chứ đâu phải cong như trái me… Lúc mày bàn tao đã mường tượng nghi nghi như vậy mà. Số đề, con tôm là ba mươi mốt (31) mày quên rồi sao.
Ông Bách ra vườn sau xem người ta xây cái kim tĩnh tới đâu rồi. Cái gò đất vườn sau đã được ông chọn làm nơi an nghỉ ngàn đời của mình giờ đây cây trái đã xanh um. Ông lấy việc chăm sóc vườn tược giải khuây cho vơi nỗi sầu. Bà Bách vội ra đây nằm trước đã được ông lo cho thật chu đáo. Còn phần mình, ông không muốn phiền toái đến ai nên cũng đã sớm sắm một cái áo quan và đang xây kim tĩnh đàng hoàng. Sợ sau này con cháu làm ăn không khá đổ thừa tại rễ cây xuyên qua mồ mả vợ chồng ông rồi không để cho ông với bà yên nghỉ, nên ông đã thuê người đổ bê tông một lớp dày hơn ba tấc bao quanh. Những cây xoài, mít, nhãn, dừa ở đây đã có trái ăn. Khi trồng ông mong cây trái lôi cuốn con cháu thường xuyên lui tới, vợ chồng ông sẽ đỡ cô đơn. Vậy mà… tụi nó có cần gì tới cây trái của ông đâu. Chưa chết, nhưng ông đã gánh lấy bất hạnh của tuổi già: sự cô độc. Ông Bách ngồi xuống bên nấm mộ của vợ, đưa tay nhổ mấy bụi cỏ vừa mới nhú, miệng thì thầm:
- Bà đừng lo cho tôi nữa. Cũng tại bà không ưa chuyện đánh số đề, nếu không, giờ đây bà linh thiêng về gọi cho tôi một con số, tôi đánh trúng, gỡ nợ, đỡ khổ biết bao. Nhưng trúng số, dư giả mà cô đơn thì có sung sướng gì. Thôi bà đừng vướng bận chuyện đời nữa. Tôi đã sắp xếp chu đáo tất cả, không để dây dưa mang nợ tới kiếp sau đâu. Mà, tôi cũng không để lâm vào cảnh phải bán cả cái gò đất dành cho tụi mình yên nghỉ, bà đừng sợ. Miếng đất trong kinh Trâu, tôi đã bán được hai cây vàng, giấy tờ làm xong, hẹn ra giêng sẽ trả, tôi ghi rõ, vàng trả cho thằng Hai, tôi không muốn mang nợ nó. Hứ, nó tưởng tiền trả nợ tôi thiếu người ta, là có đủ quyền lên giọng dạy đời tôi. Đó là điều sỉ nhục đối với tôi, làm sao tôi chịu được. Tôi phải trả cho nó, dứt khoát.
Tụi nó xấu hổ vì có người cha như tôi à? Ngay cả con của tụi nó là cháu nội, cháu ngoại của mình, tụi nó cũng không cho lui tới, chúng sợ lây bệnh cờ bạc mà. Tụi nó đâu phải từ đất nẻ chui lên. Tuy tôi chẳng phải là quan lớn để chúng nó dựa hơi được cất nhắc, trọng vọng nhưng phải đâu tôi là dân trôi sông, lạc chợ, dân trộm cướp để tụi nó xấu hổ đến vậy. Bà thấy có ai dám khinh khi tôi không. Dù gì, tôi với bà cũng là cha mẹ chúng nó. Ngay cả lúc này, dù tụi nó đã xa lánh tôi nhưng tôi vẫn để ý cuộc sống từng đứa như thuở chúng còn chập chững đi. Nó bỏ mình, chớ làm sao mình bỏ tụi nó được…
Ai mà chẳng có cái tật. Thằng Hai mê đá banh từ nhỏ. Mỗi lần nó bị trặc tay, trặc chân, mình lo thang thuốc, băng bó. Vậy mà, cấm nó được một ngày, thấy ngồi nhà với vẻ mặt ủ dột, mình chịu không nổi đành cho nó ra sân nữa… Cái đam mê của nó dù mình không ưa, dù mình là cha mẹ có quyền răn đe, cấm đoán, nhưng cấm nó, nó buồn, mình buồn theo, chịu sao nổi… Lạy trời, con mình có ba đứa, còn số đề tôi có tới một trăm con! Một trăm con này cho tôi biết vui, biết buồn, biết chờ, biết đợi… Tôi đã bị cái bệnh cá độ nhiễm lâu trong cơ thể thành tật mất rồi. Không có chờ đợi, không có hồi hộp, không có mừng rỡ hớn hở, không có thất vọng não nề… tim tôi đập để làm gì? Bệnh còn chữa chớ tật có chết mang theo…
- Làm gì mà âu sầu đó ông Độ? Nhớ bả nữa hả? Trời ơi, đàn bà góa thiếu gì, kiếm bà nào cô đơn về làm bạn cho vui…
- Bầu bạn gì nữa? Bảy mươi rồi chớ còn trẻ sao? Đang lo chỗ nằm bên bả đây.
Ông Bách đứng dậy và giãi bày với anh bạn già cùng xóm.
- Ông còn khỏe chán. Đến năm hai ngàn chưa chắc đã chết, lo chi sớm. Ở đâu trong đài nói, tám mươi còn cưới vợ được mà…
- Sớm gì nữa? Thầy bói nói tôi không qua được rằm tháng giêng năm tới đó. Bởi vậy tôi phải lo chu đáo, không để phiền phức cho người còn sống.
- Trời đất! Ông tin mấy cha thầy bói được à?
Ông Sáu Rọm vừa nói, vừa cười, bằng cái miệng móm mém chẳng còn cái răng nào cố bập bập điếu thuốc đang cháy ở trên môi. Hai ông cùng vào nhà.
- Tin chớ sao không? Anh có dám cá với tôi không. Nếu tôi không qua khỏi rằm tháng giêng năm tới, tôi mần heo đãi anh. Còn lỡ, tui chết, anh mần heo đãi lại tui, chịu hông?
- Thánh thần ơi! Ông muốn mần heo đãi tui và bà con mừng thọ tuổi bảy mươi thì đãi. Cá độ làm gì. Làm sao tui thua được. Lỡ tui có thua, ông chết nhăn răng có còn đâu để mà ăn cá độ.
- Ờ, vậy mà tui muốn cá với anh đó. Tôi chết, con heo của anh thành của tôi đãi bà con, tôi không nợ mọi người. Nè, chịu không, ngoéo tay cái coi.
- Chịu liền, ngoéo thì ngoéo, nè…
Ông Sáu cười tít mắt, cầm chắc phần thắng trong tay với trận cá độ này. Còn ông Bách cười hài lòng, vì không ngờ mình còn có thể chơi một trò xứng đáng, dẫu biết rằng đây là trận cá độ cuối cùng.
Từ lúc giao thừa tới giờ, đã xế chiều ngày mùng một, ông Bách nhậu li bì, nhậu liên tục mà không biết say. Hết người này tới người khác đến chúc tết, ông giữ họ lại vui với ông một cách xả láng. Ông uống cho thiệt đã, uống như khát từ đời nào, mặc dù rượu ông mua có nồng độ cao. Ông muốn say đi để quên, để chôn vùi nỗi buồn tủi đang xâm chiếm trong tâm hồn ông. Tụi nó bỏ ông thiệt mà. Cả ba đứa, chẳng đứa nào đến với ông, với má nó để thắp nén nhang đầu năm cho bả vui cười nơi chín suối. Tại ông không nghe lời khuyên của chúng hay tại lòng con người thời hiện đại bị xơ cứng đi. Đã bao đêm, ông thức dậy, lọm khọm nhóm bếp, đun nồi nước pha trà và ngồi uống một mình chờ trời sáng. Chỉ có con chó già liếm láp chân ông nhưng nó không biết nói. Đôi mắt già nua, lờ mờ cứ rót nước chảy ra ngoài ly, bỏng cả bàn tay, nhưng ông không thấy đau đớn bằng nỗi đau cô độc đang hành hạ tâm hồn ông. Và, ông nhớ tất cả, từng chuyện nhỏ nhặt về những kỷ niệm xa xưa từ thời lũ con còn đỏ hỏn. Ông đã từng cõng từng đứa trên cổ đi dạo khắp làng. Mỗi bận đầy tháng, thôi nôi, ông tổ chức linh đình, đãi cả làng, cả xóm, có cả múa lân… Có con gà điều, thắng luôn mấy độ, người ta đòi đổi một cặp bò nghé, ông không chịu. Thằng hai buộc dây kéo ra sân banh chơi, lôi lết đến gãy đùi con gà, tức sôi gan nhưng thấy nó biết lỗi đứng khóc, ông không nỡ đánh đòn. Đau con gà, sao còn bắt đau cả thằng nhỏ… Cả ba đứa tụi nó cứ đeo lấy ông đòi đi theo coi đá gà, đá cá lia thia và vòi quà mỗi khi ông đi đâu về. Còn bây giờ, ông chỉ còn có… con chó.
- Uống đi cha! Trầm ngâm hoài, bộ tính mần heo đãi sớm. Chờ qua rằm tháng giêng cũng lâu thiệt…
Sáu Rọm đã lôi ông ra khỏi ưu tư phiền muộn.
- Trời ơi, anh khéo lo, từ nào tới giờ, tôi luôn giữ chữ tín. Phần anh, chị sáu có chịu con heo không?
- Hì hì… Anh có chữ tín còn tôi không à? Bả không cho còn có ngoài chợ thiếu gì… Nhưng làm sao mà tui thua được. Anh nhậu từ hôm qua đến giờ chưa xỉn thì đời nào mới chết…
Nhựa nhựa nói chuyện với nhau, hai ông già quá ư tâm đắc. Mấy người khác xỉn quá nằm lăn ra sàn, ói mửa tùm lum. Kệ, tối thằng Đậu đi chơi về sẽ dẹp. Can rượu ông mua sẵn, có thể uống cả tuần chưa hết. Ngoài ngõ, có tiếng xe lam dừng, hai ông già ngó ra như đang chờ thêm một người bạn nhậu. Nhưng, bước xuống xe là một bà già với một thằng nhỏ. Bà già nói gì đó với cô gái bán thuốc lá ở góc đường rồi ngó vô nhà ông và kéo thằng nhỏ đi vô. Thằng nhỏ đang nắm tay bà già còm cõi đi lụm cụm, nó thấy ông vội buông tay bà già ra, chạy ào vô, miệng la:
- Trúng... trúng... trúng, độc... độc... rồi...
Ông Bách sững sờ nhớ rõ mình chưa… uống mà. Gói thuốc vẫn còn nằm tận dưới chân cái lư đồng trên ban thờ, chờ ông ăn tết hết. À… tại thằng nhỏ thấy ông xỉn, mặt tái xanh nên ngỡ vậy. Mà sao trông nó quen quen, ông không nhớ con cái nhà ai. Bà già đã bước vô tới, gật đầu chào hai ông già, tay run run khi mở cái ghim tây đang cài chặt túi áo vải để móc ra gói giấy. Bà bóc lấy mấy tờ vé số và cái miệng móm mém nói đứa quãng:
- Số… cho… ông cho… trúng độc… độc đắc rồi…
Thằng nhỏ nhảy tưng tưng với nụ cười dễ thương làm ông nhớ lại và hiểu tất cả. Ông Bách nghe tim mình thót lại, hồn như thoát khỏi thân xác ông, còn cơ thể như đã nhiễm quá nhiều men rượu, giết chết cảm xúc để ông không chết ngất đi trước niềm vui bất ngờ này. Ông thầm nhủ, mình hãy bình tĩnh, đưa mắt cảnh giác nhìn quanh và gật đầu trước những con người thân quen. Ông bước đi như mộng du nhưng còn thực hiện được ý nghĩ của mình. Hãy đến bên ban thờ, tấm vé số mừng xuân có mặt in lịch năm mới với cô gái cười tươi. Phải mất mấy phút sau, khi ông Sáu tuyên bố ông Bách thật sự trúng độc đắc hai trăm năm mươi triệu đồng, ông Bách mới hoàn hồn.
Những người xỉn được lôi dậy, nhảy múa, đổ rượu vào miệng và đổ cả lên đầu một cách điên cuồng. Ông Bách vò đầu thằng nhỏ, hôn lên mái tóc khét nắng của nó mà chợt nhớ đến lũ cháu của mình.
- Trời tối rồi, đèn nhà ông để đâu, tôi đốt giùm cho.
- À… bà chị đốt giùm tôi. Đèn, hộp quẹt để trên bàn thờ đó. Hai bà cháu chị cùng tụi này chơi tết ở đây nghen…
Ông Bách nhìn bà già gầy guộc, nhỏ thó đang đốt đèn chợt nhớ đến câu nói đùa của mình với thằng nhỏ hôm nào. Và, ông cũng không quên câu nói chơi với ông sáu Rọm về một người "bạn già" nào đó… Ông bật cười khó hiểu. Ông bước đến chiếc lư đồng trên bàn thờ, lấy bốn vỉ thuốc quăng ra cửa sổ, bật cười ha hả. Ông nói rổn rảng:
- Anh Sáu ơi, tui thua anh rồi. Lần đầu tiên trong đời tôi toan ăn gian, nhưng ông Tổ cá độ không cho ăn nên cũng đáng giải nghệ luôn. Phần số vậy mà…
Ông lại cười ha hả. Đôi mắt ông ngập tràn hạnh phúc khi thấy thằng nhỏ và bà của nó đang nhìn mình trìu mến. Thế đó "cò đã ỉa vô miệng chai" rồi. Phải đâu ông là dân cờ bạc?
rể
- Phạm Phương –
Đêm nọ, dưới ánh sáng trăng, tôi gặp một cái bóng mờ.
Dưới trăng, từng đường gân thớ thịt của người đàn ông ấy hiện ra. Cái bóng hơi gù xuống khi lượn qua một vòm hoa thiên lý.
Tôi đợi. Trong ánh sáng lõa lồ của vầng trăng đong đưa trước gió. Hắn đến.
Hắn đến. Hắn đến rồi!
… Và tôi chìm vào say đắm…
Hắn là anh rể tôi, tức là chồng chị gái tôi. Ngày đầu hắn về ra mắt. Tôi nhìn hắn vài giây rồi quay mặt bước đi. Đằng sau có tiếng bố mẹ tôi nghiêm nghị mà như giải thích với hắn: Nó yêu chị lắm, nghe chị lấy chồng nên nó buồn đấy mà. Họ cùng cười.
Hắn không đẹp trai, có một nốt ruồi khá to ở chân mày, là một người đàn ông trầm lặng. Chị tôi cũng không đẹp, là người phụ nữ an phận thủ thường. Họ cưới nhau ngày đầu tháng. Trời không có trăng. Tối om. Ít gió.
Hắn không có nhà, nhưng là người có học. Bố mẹ tôi quý hắn. Hắn đồng ý ở rể. Căn phòng lớn ở lầu trên cùng, cửa sổ to bằng mặt tiền. Mở cửa ra là đầy gió trăng. Chị tôi ghét gió, cửa ấy đóng im ỉm suốt ngày.
Từ khi về ở rể, ngoài thời gian đánh cờ với bố và ăn cơm, cứ đi làm về nhà là hắn chui vào phòng. Chị tôi cũng vậy.
Họ có vẻ thỏa mãn.
Rồi chị tôi có bầu. Cái thai làm chị tôi trở nên khổ sở, gầy rạc người, hết ốm nghén lại mệt nhọc… Đứa con sinh ra, chị tôi tưởng chết. Nó lớn lên, được 2 tuổi, hắn vẫn ở rể. Chị lại có bầu, lại ốm, lại khổ sở. Tôi bảo hắn: anh đừng chọc cái của nợ của anh vào người chị tôi nữa. Hắn cười, bảo: Dì cứ lấy chồng đi sẽ biết. Dạo ấy, tôi 20 tuổi.
Rồi tôi 30, hắn vẫn ở rể nhà tôi.
Tôi gặp chàng, người yêu đầu tiên của tôi, năm 29 tuổi. Chàng hơn tôi 4 tuổi, là một nhà thơ. Chàng làm thơ, tôi mất đời con gái. Chàng bỏ đi, thế giới của tôi chỉ có công việc nhàm chán, hai ông bà già, một người chị đã sồ sề, hay mặc quần ngủ đi lại trong nhà, hai đứa cháu gái đần độn chỉ biết mè nheo và HẮN.
Tôi ghét hắn. Ai cũng biết điều đó.
Hắn đã bước vào tuổi trung niên, từng đường nét càng ngày càng xấu xí, khó coi. Tôi càng ghét hắn hơn. Nhiều lần chị tôi bảo, đó là chồng chị, em đừng làm thế. Tôi cười, cứ làm như là em cướp chồng chị vậy. Chị bảo, có ai cướp hắn đi thì chị còn cám ơn, nhưng chị không muốn người ấy là em. Chị thở dài.
Nhưng đêm nào cũng nghe thấy tiếng họ rúc rích ở tầng thượng. Hầu như là những ngày không trăng.
Chị vẫn thỏa mãn.
Đêm ấy, ngày rằm nhưng trời mưa. Tôi uống rượu xong, khóa chặt cửa, khỏa thân chạy ra ban công ướt đẫm. Tôi ngồi thu lu dưới làn nước ướt tận vào lòng đau. Hắn ở ban công tầng thượng nhìn xuống. Trân trối.
Từ đó, hắn hay nhìn trộm tôi trong những lúc ăn cơm hay vô tình chạm mặt.
Hắn mò ra vườn gặp tôi trong một buổi tối, trăng tròn. Hắn chỉ nhìn tôi, đôi tay hắn mò vào eo tôi rồi từ từ lướt xuống dưới. Tôi mê đi. Trong nhà, tiếng nhõng nhẽo của cháu gái, tiếng dỗ dành của chị tôi. Tất cả đều chìm vào ảo tưởng. Đối với tôi, giờ đây chỉ còn mùi của dĩ vãng về chàng - mùi đàn ông.
Tôi bỏ đi sau lần đó 2 ngày, có viết thư lại cho bố mẹ và chị gái, bảo rằng, con muốn đi xa. Từ bấy đến giờ đã vài năm qua đi, không ai tìm tôi cả.
Bên cạnh, đứa con tôi, một đứa con trai không đẹp, có nốt ruồi to ở chân mày. Chắc chắn, nó sẽ trở thành người có học vì nó rất thông minh.
Và, tôi cũng không có nhà cửa để lại cho nó.
Dòng yêu
- Phạm Phương -
Nhà có ba người.
Ba cô gái. Tất cả đều chưa chồng.
Không hẳn thế.
Một người sắp cưới vào cuối năm nay. Cô tên Tuyền, thường hay thở dài sau khi cười. Ai cũng nói cô sướng trước khổ sau, là người có số khổ. Cô chỉ cười xòa.
Tôi mới chia tay người yêu. Mối tình bình lặng và dứt cũng dễ như người ta cắt một sợi bún khi làm món bún riêu. Tôi tự nhủ và cười: bún riêu ăn ngon, nhưng bún nát thì thường ế. Tình yêu của tôi giống như một bán bún riêu nát. Ế hết buổi chợ trời, ế hết những ngày yêu nhau, ngay cả khi say đắm như kẻ đói cần ăn thì bát bún ấy vẫn cứ ế ẩm. Thảm thương thay cho tình yêu, khi nó chết tôi vẫn mỉm cười.
Người cuối cùng là Chị, 28 tuổi. Không đẹp nhưng vững vàng. Như kim tự tháp chẳng mang chút thẩm mỹ nào nhưng nó vẫn nổi tiếng. Ở chị gợi cảm giác tin tưởng. Tôi cho rằng tất yếu của mọi thứ là tất yếu vô nghĩa. Cái đơn giản nhất là cái có nghĩa nhất. Xét trên quan điểm ấy thì chị rất đẹp.
Nhà có ba người, không gia đình, nghèo và độc lập nên nhiều khi đồng cảm. Đồng cảm nho nhoi như những củ khoai ăn lúc đêm khuya, như cái nhìn chợt bắt gặp trong khi thay quần áo. Ba người phụ nữ bắt gặp nhau trong cả những thèm thuồng giới tính rất con người.
Buổi sáng, chị bước ra khỏi nhà trước tiên, chị đi làm. Tuyền bước sau chị, phi xe máy xuống đường rồi rồ ga biến mất. Tà áo Tuyền bay phần phần như bị ma ám. Nhức nhối đến vỡ òa ra trong làn nước mưa nhợt nhạt.
Tôi là một tác giả trẻ, một biên kịch của vài sân khấu nho nhỏ. Tôi không làm giờ hành chính nên cứ thẩn thơ đi ra đi vào, hết viết rồi lại buồn, hết buồn rồi lại viết. Một vòng tròn luẩn quẩn mà giới nghệ sĩ như tôi thường hay mắc phải. Để đến lúc chìm đắm quá nhiều sinh ra điên khùng lúc nào không hay.
Người yêu tôi, dáng người mập mạp, thấp đậm. Mùi đàn ông ở anh làm tôi phát điên. Chúng tôi ngủ với nhau ngay đêm thứ 2 sau ngày gặp mặt. Trước đó, tôi vẫn là gái trinh.
Tôi không ra máu.
Anh cười, ôm lấy tôi, ngủ vùi trên ngực, lẩm bẩm điều gì không rõ.
Giờ thì chúng tôi đã chia tay. Vào một ngày mưa, tôi nói: mình bỏ nhau đi. Anh trợn mắt nhìn tôi. Cái trợn mắt bất lực. Tôi bỏ đi.
Ô hay! Đôi con mắt một mí, đầy gợi cảm ấy cứ bám mãi theo tôi. Như con nước rượt đuổi nhau trên khúc sông dữ dội sóng gió.
Tôi vẫn cứ bước đi.
Tuyền sắp cưới. Người yêu của Tuyền cũng rất mập, cao và to con. Nụ cười đờ đẫn trên khuôn mặt tròn như bánh bao quá lửa. Tia nắng xuyên qua làn tóc mỏng của gã như một điềm báo gở vào ngày sắp có sao chổi bay qua. Tôi cười với hắn.
Tối nào, Tuyền cũng gọi điện cho người yêu để tán chuyện. Cô vui. Họ có một đôi sim để gọi nhau miễn phí. Tuyền nói, người yêu đòi, nhưng cô không chịu, vì sợ. Tôi hỏi, sợ gì, sắp cưới rồi mà. Tuyền bảo, tao còn mặt mũi. Ô hô, mặt mũi nào mà chả như nhau. Trên đời này nhiều người sống vì mặt mũi quá nên nó mới bầy hầy và đạo đức giả như thế này đây. Vất mẹ cái mặt mũi của mày đi, thích thì choảng. Tôi định nói thế, nhưng thôi, tôi cũng còn mặt mũi.
Chị yêu anh họ tôi, kém chị 4 tuổi, rất trẻ và đẹp trai. Sự đẹp trai ấy thành ra một cái gông khoác vào cổ ông anh tội nghiệp của tôi. Họ cãi nhau suốt ngày. Nhưng, chẳng bao giờ bỏ được nhau.
Mẹ tôi tức cô ruột của anh nói: Phải bỏ.
Bà ngoại tôi tức bà nội anh nói: Phải bỏ.
Và anh bỏ. Nhưng thỉnh thoảng họ vẫn dẫn nhau đi chơi. Sau đó, lại cãi nhau, lại bỏ. Một vòng tròn luẩn quẩn như tôi.
Người yêu tôi đến tìm tôi khi trời mưa. Anh nói, muốn làm tình. Tôi bảo, đã chia tay rồi. Anh bảo, chia tay cũng vẫn có thể làm tình. Và tôi theo anh. Trong lúc làm tình, tôi khóc. Trời đất quay cuồng, tuyệt vọng. Tôi khóc như mưa.
Tuyền và người yêu chia tay khi sắp đến ngày cưới. Hắn không chịu được cảm giác khi đưa người yêu lên giường mà cô ấy không để lại một đám máu nhỏ. Hắn cho rằng Tuyền không còn trinh. Người yêu tôi đã quay trở lại, nói rằng: nếu em là đàn ông chắc đã “nhảy tàu huýt sáo” vài chục lần. Tôi bảo: Ừ, sao anh biết?! Rồi cười.
Tuyền chết đúng vào ngày mà đáng lẽ cô cưới. Chết vì một vết cắt nhỏ ở cổ tay. Khi chết, nước khô lại trên khóe mắt như vệt mắt của một con ngựa Lệ Điển, là giống ngựa quý nhưng chẳng ai dám cưỡi vì sợ hại đến thân. Người yêu Tuyền cũng đến đưa tang, khóc như mưa. Ai cũng phải thương cảm.
Chị và anh họ tôi qua lại vài năm, sau đó anh tôi lấy vợ. Chị vẫn chưa chồng.
Nhà này, giờ có hai người chưa chồng và một con ma chưa chồng.
Tất cả đều bình thản.
Những kẻ vô can (truyện ngắn)
Chúng tôi gồm đủ mọi thành phần cùng sống trong một khu chung cư, luôn bằng lòng với cuộc sống của mình. Những buổi chiều sau giờ làm hoặc vào ngày nghỉ, đám đàn ông lại tìm đến nhau tụ tập tại một quán cóc.
Chúng tôi uống bia cỏ, nếu là mùa hè, còn mùa đông thì lai rai với nhau bằng loại rượu rẻ tiền. Dù là bia hay rượu thì cũng chỉ là cái cớ để tụ tập. Chúng tôi uống và cười hô hố, thây mặc đủ thứ chuyện trên trời dưới bể xảy ra xung quanh. Chúng tôi bảo nhau nghĩ làm gì cho nó mệt óc, nhất là những chuyện chẳng liên can gì tới mình. Đương nhiên là không liên can. Ở đâu đó người ta đang tàn sát nhau bằng bom tự tạo quấn vào người; ở đâu đó hàng chục hàng trăm người mất nhà cửa vì bão lũ; ở đâu đó người ta vét nhẵn túi người nghèo bằng những thủ thuật phù thuỷ của đám quan chức; ở đâu đó ông chồng chặt vợ mình làm ba khúc, tỉ mẩn dóc thịt xương để riêng, đóng bao tải rồi thản nhiên bỏ đi uống rượu, chờ trời tối mới đem quẳng xuống sông; ở đâu đó ông bố ném con ba tháng tuổi xuống giếng vì nó là con gái; ở đâu đó, ở đâu đó, ở đâu đó… cứ là hàng ngàn sự vụ kinh thiên động địa.
Chúng tôi nghe, đọc và biết cả nhưng việc giải quyết chúng thuộc về người khác. Phải có ai đó được trả lương để chịu trách nhiệm chứ. Mỗi người sinh ra trên đời chỉ cần làm tốt công việc của mình là hoàn thành nghĩa vụ với xã hội. Chúng tôi chỉ tụ tập sau khi từ nơi làm việc về. Việc duy nhất của chúng tôi là nhậu, xả ra cho hả, bày cho nhau những kinh nghiệm tình dục và chờ ngày hôm sau để lặp lại y như vậy. Việc đó chẳng làm hại đến bất cứ ai trên cõi đời này.
Tuy thế vẫn còn một người trong cái cộng đồng nho nhỏ của chúng tôi không nghĩ và không sống như vậy. Ngày nào chúng tôi cũng gặp anh ta trong dáng vẻ của người luôn nghĩ ngợi về một điều gì đó. Tên anh chàng là Viện. Anh ta vẫn sống độc thân và làm nghề dạy học. Trong khi phần lớn những người giỏi giang như anh, có bằng tiến sỹ luật và thông thạo ba ngoại ngữ, đều giàu có, thì có vẻ Viện sống rất đạm bạc. Khách ra vào nhà anh ta hầu hết là những học sinh nghèo đến hỏi bài, hoặc những người muốn anh chia sẻ về một oan trái nào đó, muốn nhờ anh bênh vực trong một vụ án mà họ bị đẩy vào thế đơn độc. Sở dĩ chúng tôi biết điều đó vì có vài người từ nhà anh ta ra liền ghé vào quán bia và kể cho nghe.
Theo lời họ thì Viện luôn sẵn lòng giúp đỡ bất cứ ai nhưng hiệu quả thường không như mong muốn. Có thể vì thế mà mặt anh ta lúc nào cũng đăm chiêu, chằng chịt vết nhăn, già nua và bất an, dấu hiệu của người ngủ ít. Anh ta cũng không mấy khi nhập cuộc cùng với chúng tôi cho dù cũng khá nhiều cơ hội để làm điều đó. Mỗi khi có ai đó gọi toáng tên Viện cùng lời mời mọc, anh ta đều nhã nhặn cảm ơn và lặng lẽ đi qua. Những người đi chợ sớm thường rất sợ gặp Viện. Họ sợ gặp một người mà mặt lúc nào cũng khó đăm đăm thì không bán được hàng. Họ không giấu diếm ý định tránh anh. Anh ta biết cả điều đó nên thường chủ động loại trước cho cả họ và mình khỏi rơi vào tình huống khó xử.
Chúng tôi không thích lối sống tách biệt có vẻ lập dị của Viện nhưng cũng không ghét anh, không rủ rê mà cũng không bài xích. Anh cứ việc sống tách mình như anh muốn, cứ việc đăm chiêu như một lão già khốn khổ thích mua dây buộc mình, cứ việc đau khổ vì những chuyện của thiên hạ. Chúng tôi chẳng vì thiếu anh mà kém hào hứng trong những cuộc tụ tập.
Cho đến một hôm, có thể nói là vô cùng hiếm hoi, chúng tôi thấy Viện lảo đảo từ đâu đó trở về. Tôi phải nhắc lại là hiếm hoi lắm mới có một lần chúng tôi được chứng kiến Viện say rượu. Anh đã uống khá nhiều, có thể nhận ngay ra điều đó từ những cử chỉ và lời nói của anh, nhưng vẫn nhập cuộc với chúng tôi, điều không ai ngờ. Hôm đó anh sống khác hẳn thường ngày. Anh nói nhiều, nói to, nói vung chí mạng, tức là không cần giữ ý, kiêng kỵ gì cả. Anh kể cả những chuyện mà người khôn ngoan không nói ở chỗ đông người. Anh tỏ ra ác khẩu khi chửi kẻ nào đó dốt nát, chỉ giỏi đón ý cấp trên, coi ông ta là loại tiểu nhân hạ tiện sống ngày nào tốn cơm dân ngày ấy. Sau mỗi lần như vậy anh lại ngửa cổ dốc chén. Sau đó anh cầm úp chiếc chén trong lòng bàn tay, mặt cúi xuống, tóc tai xoã xợi.
Rồi bỗng Viện khóc. Anh khóc không thành tiếng nhưng nước mắt tuôn ra cùng với nước mũi nhỏ thành giọt xuống chân. Rồi anh nấc lên, không cần giữ ý gì với mọi người. Đàn ông nói chung khi họ khóc trông rất tang thương. Nhưng anh lại là một người đàn ông có bản lĩnh, có đẳng cấp nên những giọt nước mắt của anh như quánh lại, phải bị một áp lực lớn nhường nào mới có thể ép được chúng chảy thành dòng thế kia. Mọi người đang bán trời không văn tự bỗng trở nên ngượng ngập. Thực ra thì không ai biết mình phải làm gì. Không ai biết nỗi đau ghê gớm nào đang làm khổ con người sống khép mình kia. Quá lắm thì chỉ đến phỏng đoán anh bị mụ đàn bà cáo cụ nào đó xỏ mũi, làm cho mê muội, vơ vét sạch rồi bất ngờ lạnh lùng cho một cú nốc ao.
Nhưng cũng chỉ là phỏng đoán thế thôi.
Tất cả chúng tôi cứ để mặc cho anh khóc. Sau khi xả ra bớt những đau đớn, anh lau mặt, xỉ mũi rồi gượng cười xin lỗi mọi người, giục mọi người tiếp tục. Anh cầm một chén rượu giơ lên cao, giọng đầy vẻ bụi đời: “Nào, uống đi các anh em, cho nó trôi mẹ nó tất cả nỗi ê chề, nhục nhã của kiếp làm người đi. Xét cho cùng thì cũng đáng kiếp…”. Anh nói đến thế thì kịp nén xuống để dừng lại. Giá như anh dừng lại ở đó sẽ chẳng có chuyện gì. Nhưng có lẽ cảm thấy chưa đã, nhất là sau khi thấy mọi người có vẻ bàng quan với thái độ của mình, anh buột nốt: “Cũng bởi tại chúng ta chỉ là một lũ hèn mạt”.
Anh ngửa cổ dốc tuột chén rượu vào họng. Rồi lừ lừ nhìn mọi người, giục họ cũng hết mình như anh. Nhưng cuộc vui lần đầu có anh tham gia của chúng tôi chưa kịp bùng nổ, như nó phải vậy, đã bị chính anh đổ cho một thùng nước lạnh, không thể cứu vãn được nữa. Không ai còn đủ hồn nhiên để uống tiếp. Câu nói sau cùng của anh chạm vào cõi lòng của mỗi người theo một mức độ khác nhau. Chúng tôi lặng lẽ giải tán.
Sau bận đó, Viện có vẻ hối hận vì cơn bốc đồng, càng cẩn thận trong giao tiếp. Mọi người thì dường như đều bị anh làm cho sứt mẻ tâm hồn một chút nên thấy mặt anh là cứ như thấy mình sắp bị phán xét, bị vạch trần. Thoạt đầu chỉ thế thôi. Cả một lũ hèn mạt chứ đâu chỉ riêng mình mà chạnh lòng. Nhưng sau đó mọi người cứ thấy ngấm đòn dần và đau đớn lắm, một nỗi đau đớn lan truyền tập thể. Tức là người nọ tìm thấy sự đồng cảm, gắn bó với người kia qua câu hạ nhục của Viện. Nó y như một cú tát thẳng vào mặt, chẳng còn gì là ý tứ, sĩ diện nữa.
Nhiều người chữa vết đau bằng cách rủa lại Viện. Hắn là cái thá gì mà dám bảo người khác hèn mạt. Chẳng qua cũng chỉ là một gã vô tích sự, trí thức rởm, anh hùng lỗ miệng… Nếu giỏi giang thì đã chả đến nỗi không kiếm nổi một con vợ. Nhiều người khác cứ thấy nỗi căm tức Viện lớn dần trong người, tìm thấy cả trăm ngàn lý do để mong cho anh chết đi. Hắn chết đi cho thiên hạ dễ sống! Chỉ cứ thấy cái mặt hắn đã bị ám rồi. Ai bắt hắn phải như vậy cơ chứ? Bao nhiêu năm người ta sống trong yên hàn, vui vẻ như lúc nào cũng có hội, nay vì hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy mình có tội. Rồi nghi kỵ nhau và nghi kị cả chính mình! Ngay cả những người không có mặt khi Viện buột nói ra câu sái lòng kia cũng cảm thấy mình bị cạnh khoé, hăng hái đột xuất trong việc tìm cách chống lại anh. Lần đầu tiên, vì câu nói của Viện mà đám đàn ông chúng tôi phải đau đầu nghĩ ngợi, phải đối mặt với đủ thứ cật vấn, đó là điều mà chúng tôi không thể tha thứ cho anh. Anh là kẻ dám cả gan phá vỡ cuộc sống yên ổn, vô lo vô nghĩ của chúng tôi, khiến cho nó mang một bộ mặt khác, một bộ mặt mà chúng tôi đều ghét.
Thế là tất cả chúng tôi quyết tâm về hùa trừng phạt Viện. Chúng tôi sẽ lấy lại danh dự bằng cách khiến anh phải hối tiếc. Muốn vậy, muốn thẳng tay ra đòn, trước hết phải đẩy Viện sang phía đối đầu. Việc đó cực kỳ đơn giản: Chỉ cần coi anh là kẻ thù chung. Anh xuất hiện ở đâu là lập tức ở đó bị những ánh mắt, lời nói đầy ác ý chĩa vào bằng tinh thần chiến đấu một mất một còn. Cách thông thường là ai đó nói to lên câu vờ mắng mỏ những người còn lại nhưng ai cũng hiểu đó là câu chửi thẳng vào Viện, khoáy sâu vào nỗi niềm riêng tư của anh.
- Lui ra cho người hùng đi, một lũ hèn mạt!
- Chúng mày chỉ đáng đêm đêm úp mặt vào háng vợ thôi, sống thêm làm gì cho tốn đất.
- Một bầy vô tích sự kia, về nhà đóng cửa lại mà thủ dâm…
v.v...
Viện biết là anh không thể nào sửa chữa được nữa. Chưa ai lấy lại được lời mình đã nói bao giờ. Còn đám đàn ông chúng tôi thì quyết không cho anh cơ hội để sửa chữa, không chấp nhận bất cứ thông điệp xin lỗi nào, vùi dập nó không cần ý tứ. Chỉ cần thấy nó sắp hé ra là chúng tôi chủ động xúm vào dập tắt một cách không thương xót. Mọi người cùng có một mục đích là chống lại Viện cho nên cảm thấy thân thiết nhau hơn. Chúng tôi tìm thấy niềm an ủi lớn của sự liên kết bất ngờ ấy. Vì để trừng phạt Viện, chúng tôi sẵn sàng hy sinh cả những điều mà trước đây là rất khó.
Thay vì tụ tập chỉ để tán phét, nốc bia rượu, chơi bài hoặc bình luận về những chuyện chẳng can hệ gì, giờ đây bất cứ cuộc tụ tập nào của đám đàn ông cũng đều có một chủ đích là nhằm vào việc rửa mối nhục bị Viện gây cho. Chúng tôi quyết bắt kẻ từng coi chúng tôi là một lũ hèn mạt phải ngấm nỗi nhục bị ruồng bỏ. Qua đó chúng tôi cho anh ta thấy chúng tôi không hề hèn mạt. Chúng tao không hề hèn mạt. Chúng tôi còn muốn cho cả thiên hạ thấy: Rất nhiều người trước đây không ưa nhau, thậm chí thù nhau, thì nay đều tìm thấy ở nhau một chỗ dựa, sẵn sàng bỏ qua để tạo ra sự gắn kết. Và chúng tôi phát hiện ra rằng, từ ngày lập chiến tuyến chống lại Viện, đẩy anh ra xa, chúng tôi tìm thấy cảm giác yên tâm. Chúng tôi yên tâm rằng mình không đến nỗi nào. Do đó chúng tôi đều nhất trí với nhau Viện là một người quá nguy hiểm.
Viện bắt đầu ngấm đòn. Chúng tôi thấy rõ như vậy ở dáng đi cô độc của anh mỗi khi từ đâu đó trở về. Không còn những lời trêu ghẹo đưa đón, không còn cả những nụ cười thừa thãi. Thay vào đó là những lời thì thào cố ý để anh nghe thấy, trong đó lời nào cũng như tẩm đẫm thuốc độc. Chúng như những mũi tên vô hình chĩa thẳng vào Viện, nhằm tim anh rồi bật dây cung.
Có hôm vừa thấy anh trong dáng đi hơi cúi xuống, tất cả cười ầm lên, ngữ điệu đểu cáng một cách không giấu diếm. Một người không cần tinh ý lắm cũng dễ dàng nhận ra cái lối cười đó thường dành cho một con khỉ trong vườn bách thảo khi nó xuất hiện. Nhiều người còn chỉ trỏ vu vơ, làm trò để rồi sau đó lại là một trận cười cùng những lời la hét rất đáng sợ cho bất cứ ai. Người ta khó mà không phát điên khi sống trong không khí như vậy. Nhưng đó là mục đích của chúng tôi: Anh ta sẽ phải phát điên, sớm muộn cũng sẽ xảy ra điều đó. Chúng tôi công khai mong cho Viện đến một kết cục như vậy. Anh phải bị trừng phạt thì chúng tôi mới an lòng trở lại cuộc sống thường ngày được.
Cứ như vậy, ngày nào mọi việc cũng diễn ra với chỉ độc một kịch bản. Đám đàn ông bị Viện coi là lũ hèn mạt chúng tôi cảm thấy chiến thắng đang ở rất gần. Nếu Viện không treo cổ thì trước sau anh ta cũng phải khuân vác từng bó sách vở dọn nhà bỏ đi nơi khác, hoặc quỳ xuống trước tất cả chúng tôi, dập đầu nhận mình là kẻ hèn hạ nhất và xin được tha thứ. Và nếu một trong hai tình huống đó xảy ra thì cũng là một cảnh cực kỳ hay có thể ghi lại để xem nhiều lần. Vì thế những cuộc tụ tập nhằm vào Viện càng thu hút nhiều người và mức độ chế nhạo càng khủng khiếp hơn.
Cho đến một hôm, vẫn kịch bản ấy, diễn viên ấy, những lớp trò ấy… nhưng không khí hạ sát thì nóng hừng hực. Đây sẽ là trận cuối - chúng tôi, không ai nói ra miệng nhưng đều hiểu mong ước của nhau và cùng đặt quyết tâm như vậy. Đón lõng giờ Viện trở về, đám đàn ông chúng tôi, không cần phải hô hào, đã tụ tập sẵn để nguyền rủa và la hét. Mọi việc sẽ chỉ dừng lại khi Viện chui tọt vào căn phòng của anh và ở tịt luôn trong đó cho đến sáng hôm sau, y như một con thỏ trước bầy cáo. Không ai phải luyện giọng, nhẩm lại những điều sẽ nói vì nó quá quen thuộc.
Một bất ngờ không ai tính đến là Viện trở về nhà muộn hơn mọi ngày. Điều đó hoá ra là bất hạnh lớn của anh. Mọi thứ đã tích điện đến mức chỉ chờ để phóng sét. Vì thế khi anh xuất hiện và cúi mặt bước nhanh qua khoảng sân luôn khiến anh bị phơi mình trước đám đông, thì tất cả chúng tôi đổ dồn ánh mắt vào anh với tất cả sự hả hê của mối căm tức sắp được giải toả và ngay lập tức chúng tôi nghe thấy một tiếng nổ, y như tiếng nổ của quả pháo đất, làm bắn toé lên những mảnh vụn ngũ sắc. Chúng tôi đều tận mắt thấy điều đó nhưng có đến hàng chục giây không ai trong số chúng tôi kịp định tâm để hiểu chuyện quái quỷ gì vừa xảy ra. Vì thế chúng tôi còn tưởng Viện chơi trò phù thuỷ khi anh tự thu nhỏ lại. Bởi sau tiếng nổ rõ ràng anh vẫn còn bước thêm mấy bước. Ô, hắn có phép biến hình kìa, ai đó còn thì thào như vậy. Nhưng rồi chúng tôi cũng nhận ra Viện không biến mất mà biến dạng thành một đống vỡ nát với tim, gan, lòng, phổi… bắn tung toé ra xung quanh.
Sau này báo chí và trong một vài thuyết trình khoa học, người ta gọi hiện tượng của Viện là Người tự nổ tung và gán cho nó những nguyên nhân bí ẩn. Có người còn kỳ công sưu tầm và đưa ra một thống kê trên thế giới chỉ mới xảy ra vài ba trường hợp như vậy. Nguyên nhân của nó hiện vẫn thách thức các nhà khoa học tìm câu trả lời.
Chẳng hiểu sao, không ai bảo ai nhưng tất cả chúng tôi đều nhanh chóng có trong tay những tư liệu ấy. Lý do của những cuộc tụ tập giờ đây là để giúp nhau làm điều đó. Mỗi người có cả bó tướng, lấy ra từ bất cứ nguồn tin nào, luôn ôm kè kè bên mình. Và chúng cứ kềnh càng thêm mỗi ngày. Gặp nhau, hễ có từ hai người trở lên là chúng tôi đưa ra khớp nhau xem ai phát hiện thêm nguồn tin mới, đôi khi chả mấy liên quan đến vụ nổ kỳ lạ kia. Giờ đây, dù đi đâu, làm gì, kể cả khi lên giường với vợ, mỗi chúng tôi cũng đem theo chúng bên mình như bằng chứng chúng tôi là những kẻ vô can trước cái chết tan thây của Viện.
Vẫn cái giọng hóm có phần cay nghiệt và cái nhìn sắc sảo, Tạ Duy Anh đã tóm được nhân vật sống biệt lập, tách mình khỏi đám đông, sống trong một cõi lạ, bất lực luôn đăm chiêu, luôn giày vò, luôn đau khổ vì những chuyện bất công ngang trái ở đời. Tác giả lại ném nhân vật của mình vào đám đông giữa con mắt thờ ơ, dửng dưng của NHỮNG KẺ VÔ CAN.
Nhà văn diết dóng luận bàn, triết lý, bóc trần thói hư tật xấu của đám đông như bóc từng lớp vỏ củ hành. Thủ pháp nghệ thuật phi lý Người tự nổ tung có ý nghĩa luận đề tố cáo thói hư tật xấu của đám đông từ vô tích sự, tự sướng, dửng dưng với nỗi bất hạnh của người đời đến liên kết với nhau thích thú trả thù, hành hạ, vày vò, dập tắt mọi cơ hội hòa nhập, ruồng bỏ đồng loại một cách độc địa… mà vẫn không biết mình làm ác.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh
Truyện ngắn Người nhặt giẻ
Tôi thường thấy người đàn ông ấy ở đó, cúi cúi nhặt nhặt thứ gì bên đường, thỉnh thoảng ngước thẳng về phía mặt trời chói chang đang chực rơi xuống núi rồi cười, nụ cười không có tiếng, làm cho những mảng da mặt đen thui càng nhăn nheo và quái dị. Mấy lọn tóc loăn xoăn rũ xuống gò má cao, che mất một phần trán nhô cao, hai hốc mắt như cố tình, lại hõm xuống.
Lão không mấy khi nhìn lên, còn tôi không phải lúc nào cũng đi qua thị trấn. Nhưng hôm đó, tôi đã thấy rất rõ khi lão nằm quắt như con tôm ươn trên đường, máu tứa ra trên đầu và cổ, cạnh cột mốc có ghi chữ Quốc lộ 1A, Sa Huỳnh 556 km. Cạnh đó, hai chiếc xe tải nằm chồng lên nhau.
Người đàn ông ấy không chết. Tôi cũng không biết đó là hạnh phúc hay bất hạnh cho lão ta. Cái chết nhiều khi là một món quà mà đày đọa mãi, trầy trật mãi người ta mới được nhận. Tôi hoài nghi về những gì đã thấy. Chắc lão không phải con người. Không là người mới có thể nhỏm dậy và bò đi nhanh như thế, khi vũng máu đang loang ra thành hình một con trùng lớn, khi những vết thương vẫn đang tiếp tục chảy máu và những công an viên chun mũi, chạy theo giữ lão lại. Giá như có tiếng kêu khóc, giãy đạp, chửi đổng ăn vạ hay rên rỉ đòi đi bệnh viện, đòi gọi người nhà…
Mặc kệ tôi đứng nhìn, lão ta trườn nhanh, nhanh hơn, nhanh hơn nữa. Và mắt long lên sợ hãi. Không ú ớ, không kêu gào, chỉ là tiếng người sượt trên máu, máu chạt lên người. Đoạn đường đang thi công dở. Đá xay, xi măng, nhựa đường bốc lên mùi hôi hỗn tạp. Mùi máu tanh tưởi. Và tôi, tôi không biết mình đã gây ra một vụ tai nạn. Không sợ hãi, không hoang mang, cũng không tiên lượng những gì sắp xảy tới. Đúng là tôi đã chà bánh xe lên người ông ta, đã làm ông ta ngã, và những sọt bắp cải trên chiếc xe tải của tôi đã tung tóe xuống dưới ruộng, trên mặt đường và vào cả vũng máu tươi đỏ loét. Tôi rơi vào trạng huống kỳ lạ mà một lái xe tải đã trên dưới chục lần gây tai nạn, người đã vài lần vào tù vì đánh người trọng thương bởi một xích mích nhỏ chưa bao giờ trải qua. Còn ông ta chỉ trườn và trườn nhanh hơn. Khuôn mặt ấy thôi miên tôi. Những centimet ông ta nhích dần, nhích dần thôi miên tôi, ánh nhìn khiếp đảm thôi miên tôi…
Những sọt bắp cải chắc chắn đã mất hết. Một số bị nhúng máu tươi, một số bị dân ven đường ùa ra nhặt. Tôi không thể chửi thề, không thể văng tục, không thể huơ tay múa chân, không thể run rẩy sợ hãi… Tôi đã làm ông ta nằm kia, ông ta là nạn nhân, và tôi, gần như một kẻ sát nhân đứng đó, trân trân nhìn vũng máu.
Cái chết thành hình. Một thể xác hôi hám, bẩn thỉu, còng queo. Lão ta quá xứng đáng để chết. Đời một lão già như lão thì có gì thú vị. Sao lão ta cứ bò trườn và chạt chượt vào trí não tôi, làm nảy sinh những thắc mắc kỳ quái khó lý giải? Về phần những thiệt hại, tôi có thể tự an ủi mình bởi vô số lý do hợp lẽ. Bắp cải là của công ty. Hợp đồng bảo hiểm có ghi rõ những điều khoản cần đảm bảo, trong đó có trách nhiệm của ông ta về cả những vũng máu. Nắng sẽ làm chúng khô lại nhanh chóng. Lão già chưa thật già, nhưng sự sống của lão thì không có gì phải nuối tiếc. Người nhặt giẻ, ha ha, người nhặt giẻ. Lão nhặt rồi búi lại từng búi bằng nắm tay, treolên người.
Tôi đồ rằng lão còn treo cả lên thành cầu, những bụi cây hai bên đường, những cột mốc, tất cả những thứ có chiều cao mà người ta có thể dễ dàng nhận thấy những búi giẻ, thành quả của lão. Bộ quần áo lão đang mặc tựa như phục trang của diễn viên ăn mày trong đoàn ca nhạc - tạp kỹ có bao giờ được giặt? Những ngón tay cáu bẩn, những móng chân sắp thối… Rõ ràng cuộc sống của một thằng lái xe tải Bắc Nam như tôi xứng đáng hơn nhiều để mà nuối tiếc. Vài quán cơm quen, cốc bia, cuộc làm tình mươi phút với cô dọn bàn quán cơm thị tứ Voi. Mùi mồ hôi tôi đâu có hơn gì người đàn ông đang bò trườn kia, nhưng ít ra bốn ngày tôi cũng tắm một lần, hoặc ở Sài Gòn, hoặc ở Hà Nội.
Ba tư tuổi, mấy chục tháng ngồi tù, những hảo hữu giang hồ thành Vinh, Thanh Hóa và vài cô tiếp viên tứ xứ. Một ông bố nát rượu, suốt ngày hát rống những bài nhạc vàng cổ lỗ sĩ, ngôi nhà năm về năm không nằm bên bờ con sông đục ngầu cứ chực cuốn tõm những gì sơ sẩy. Thực ra, đó không phải bố đẻ tôi, ông ta là cha dượng. Mẹ tôi sinh tôi ra ở đây. Nghe ông nói thì mẹ tôi hình như quê gốc ở tận miền Trung, mang bụng chửa vào đây rồi đẻ tôi bên bờ sông này. Bà sinh tôi ra, như vứt bỏ được nghiệp chướng oan gia của một người đàn bà đẹp cạn lòng mà ngu dạ. Đền ơn cha dượng bằng vài tuần ăn nằm rồi bà cắp nón ra đi. Vật duy nhất bà để lại là chiếc võng lót dành cho tôi được đan khá đẹp bằng những mảnh giẻ xé ra từ chiếc áo ngoài của bà cùng với lời nhắn là bà đi tìm bố tôi, tìm để trả thù, rồi sẽ quay về tạ tội với ông.
Bố dượng tôi sống một mình trong ngôi nhà ấy đã gần ba chục năm. Mồ côi. Bơi giỏi và khỏe rượu, ông tự nuôi sống mình không khó, sáng bắt cá, chạng vạng kéo vó tôm, nuôi tôi bằng nước tôm giã nấu với sắn non. Nhiều lần tôi đã ngã dại, nhưng không chết. Có lẽ sức tôi hơn người vì không lớn bằng hơi đàn bà mà bằng hơi rượu. Hàm ơn ông, tôi gọi ông bằng bố.
Tôi cũng ngầm trả ơn ông bằng cách làm theo tất cả những gì ông nói. Đời thằng đàn ông chỉ có rượu và đàn bà, rượu để uống còn đàn bà để làm khổ. Tôi cố uống rượu, và cố làm khổ đàn bà. Tôi không khó để nốc chơi vài chai rượu gạo vàng khé như nước đái bò của đất này. Còn đàn bà, tôi chẳng cần làm gì cả. Tự họ làm khổ họ khi đến với tôi.
Sáng cởi trần đi khắp làng bứt dừa mướn, mặc kệ lũ con gái che nón đỏ mặt liếc lên, tối đến nằm dài ra bờ sông. Mấy đứa con gái mới lớn trong làng đêm đêm trốn tiếng chó sủa ra tìm tôi. Lội ngược vó bè, có đêm vui với vài ba cô, lòng tôi trống rỗng tự hỏi, thế nào là tình yêu và sự trả thù? Ngày xưa mẹ tôi có ra bờ sông thế này không, miền Trung chắc ít sông ít rạch? Cha ruột tôi chắc cũng cao mét tám, cũng ngực đỏ rực nước chè quá lửa, cũng mắt một mí nhưng mày như con sâu róm hệt tôi bây giờ. Lúc chỉ ngoài hai mươi, tôi đã biến cả chục cô gái thành đàn bà bởi cái bụng dưới đầy lông lá, hay bởi những đêm bàn chân dậy thì vấp phải cái cột vó bè mà giật ngửa bên sông. Tuyệt nhiên không ai trong số đó to bụng ra. Tôi không có con. Không có lấy một đứa dù đui què mẻ sứt. Hay tại mẹ tôi đã tìm được cha tôi và trả thù ông bằng thứ gì đó man rợ đến nỗi giờ này tôi khát nước mà không có ai múc, rơi đũa mà không có ai nhặt?
Ba tư tuổi, bỏ lên Sài Gòn, lái xe tải cho cai mối rau quả có tiếng, mỗi tháng chục triệu, mỗi tội cai chủ lại là đàn bà không chồng…. Tôi không còn thèm đàn bà. Tôi muốn có một gia đình và một đàn những đứa con nheo nhóc. Tôi đủ sức lo cho cái gia đình ấy ba bữa cơm, thỉnh thoảng còn có thể cho mẹ con chúng ra Hà Nội nghiêng ngó chút đỉnh. Nhưng tất cả chỉ là…
Người đàn ông kia bao nhiêu tuổi? Tôi không biết. Không thể đoán được tuổi của đôi mắt trũng sâu như hai vỏ ốc đang nhìn xoáy vào tôi kia. Tôi muốn lão ta chết đi. Nhưng lão ta chỉ trườn đi, như sợ một điều kỳ quái gì đó mà không ai có thể bảo vệ lão, kể cả xe cứu thương, kể cả bốn công an viên và tất nhiên, tôi thì càng không thể. Tôi muốn lão chết ngay đi, thủ tục sẽ nhanh hơn, tiền bồi thường nếu không giảm đi thì dẫu sao cũng chỉ phải chi trả một lần, nhanh gọn. Vậy mà sao ông ta cứ trườn? Nhanh hơn, nhanh hơn, mà ánh mắt lại sợ hãi hơn khi tôi nhìn ông ta? Tôi là phạm nhân. Tôi mới có quyền sợ hãi. Tôi thực sự không biết điều gì đang xảy ra với ông ta, với cả tôi nữa. Mọi thứ quái dị và ngớ ngẩn ấy cứ ấp lấy tôi…
Điên. Sao tôi không nghĩ ra đó là phản ứng của một người điên? Có lẽ những gì xảy ra quá nhanh khiến tôi không tìm ra được một lý giải phù hợp. Đúng là chỉ có người điên mới bỏ trốn khi bị tai nạn…
Rồi mọi việc đơn giản và nhanh chóng hơn tôi tưởng tượng. Chiếc xe kia được xác nhận là nguyên nhân gây ra tai nạn, tôi chỉ là nạn nhân của nó và người đàn ông đang bò trườn dưới đất. Chiếc xe tránh ông ta, lao vào xe tôi và xe tôi chồm lên lão.
Không trách nhiệm. Đống bắp cải được bồi thường. Ký vào một lô giấy tờ và thế là xong, chưa tới một tiếng đồng hồ. Luật pháp và thời gian không ghét ai, cũng không chờ ai cả.
Còn lão và những vũng máu? Anh công an trẻ tuổi nói nhỏ, đủ để tôi và gã lái phụ nghe thấy:
- Cái lão điên ni rứa mà cao số. Giả chết đi có phải tốt hơn không. Vừa có người chôn cất tử tế, lại đỡ tiếng lão tâm thần nhặt giẻ…
Ông ta điên thật. Ha ha. Tôi hả hê vì ý nghĩ lão ta bị tâm thần thực sự. Chiếc xe tải sau một lúc sửa chữa lại chuẩn bị tiếp tục hành trình. Vệt máu tươi dưới bánh xe mờ dần đi chỉ sau vài vòng lăn. Đến Hà Nội thì chắc chắn nó đã biến mất…
“Tin ngắn. Chiều ngày… tháng... năm 2009, tại km… quốc lộ 1A, thuộc địa phận thị trấn Kỳ Anh, tỉnh…, đã xảy ra một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng giữa hai xe tải làm một người bị thương nặng. Nạn nhân là một nam giới khoảng 55 tuổi, cao khoảng 1m80, chưa xác định rõ danh tính. Theo người dân nơi xảy ra tai nạn, đó là một người tâm thần, thường đi dọc quốc lộ và nhặt giẻ. Nạn nhân đang được cấp cứu tại bệnh viện Kỳ Anh. Hiện công an huyện đang tích cực tìm kiếm gia đình và người thân của nạn nhân
Bạc rác (truyện ngắn)
Chuyện thằng Còi đen nhẻm ngày ngày vật vờ sống nhờ bãi rác Nam Sơn bỗng dưng nhặt được bọc tiền lớn làm mọi người sửng sốt. 30 triệu đồng, số tiền mà trong mơ hàng nghìn người nhặt rác ở đây cũng không thấy nó rơi vào tay mình chứ đừng nói một thằng nhóc không nhà, không cha mẹ.
Số tiền đủ để thằng bé từ bỏ nghiệp “ăn rác” đi kiếm một việc “ngon” hơn. Vậy mà thằng Còi giấu nhẹm, không cho ai biết nó cất hay gửi số tiền ấy ở đâu, vẫn ngày ngày hì hụi bên đống rác từ ba giờ sáng tới trưa.
Hàng nghìn người sống bằng nghề bới rác bắt đầu xôn xao đồn thổi về thằng bé, nhưng chính nó cũng chẳng nhớ quê quán mình ở đâu, bố mẹ ra sao. Chỉ biết khi nó sáu bảy tuổi gì đó, bố mẹ quyết định ra thành phố kiếm việc làm, mang theo nó. Tàu đến ga Hà Nội, bố mẹ bảo nó ngồi chờ ở hàng ghế dành cho khách chờ tàu để đi lấy đồ đạc. Thằng bé ngoan ngoãn ngồi đó cả tiếng đồng hồ vẫn không thấy bố mẹ quay lại, nó khóc nấc lên, ai hỏi gì cũng lắc đầu quầy quậy. Vừa đói vừa khát, nó cứ ngồi ở đó gần hai ngày trời, gặp ai tốt bụng cho cái gì ăn cái đó, mà vẫn không thấy bố mẹ quay lại tìm.
Tuyệt vọng, nó lết đôi bàn chân nhỏ xíu lang thang khắp nơi trong cái thành phố đầy lạ lẫm này, kiếm hay đi xin bất cứ thứ gì ăn được. Ban đầu còn sợ hãi, sau cũng quen dần. Nó gặp bọn trẻ con bán báo, đánh giầy rồi xin đi theo, ban đêm ngủ co quắp ngoài ghế đá công viên. Tạm bợ bữa đói bữa no cũng được năm năm.
Một lần nhìn thấy chiếc xe rác sơn xanh đỗ ngay cạnh chỗ nó đang ngồi gặm bánh mì có cái áo len lành lặn vứt trên cùng, nó trèo lên nhặt lấy. Lên đến nơi, nó ngạc nhiên khi thấy có nhiều thứ để nhặt hơn nó tưởng. Lụi hụi bới tới khi xe chạy mà không kịp nhảy xuống, thế là mặc kệ, nằm luôn trên ấy đánh một giấc, chỉ giật mình tỉnh dậy khi bị đổ ụp xuống, lấp trong một đống rác thải nồng nặc mùi. Thằng bé từ bỏ ý định quay lại thành phố, ngày ngày kiếm ăn bên đống rác khổng lồ, có khi tới lúc già cũng chẳng lo không có gì để nhặt. Lúc ấy thằng Còi khoảng mười hai tuổi.
Lúc mới tới, nó đi lang thang khắp bãi, bạ cái gì nhặt cái đấy, cũng chẳng ai nói hay có tranh chấp lộn xộn gì, vì toàn là dân cùng đinh với nhau cả. Nhưng từ khi có quy định phải trên mười sáu tuổi mới được vào nhặt rác vì mức độ độc hại và nguy hiểm, nó cứ phải chui lủi, nhặt nhạnh ở rìa bãi. Sau người ta hỏi nó bao nhiêu tuổi, thằng Còi cứ khai bừa là mười sáu. Vì giấy tờ nó chẳng có, lại đen nhẻm, gầy đét như que củi, nhìn cái mặt chẳng rõ tuổi, người ta cũng bỏ qua. Hàng nghìn người thêm một thằng nhóc thì ăn nhằm gì. Thế là nghiệp “ăn rác” của nó đường đường chính chính được công nhận. Nó ăn ngủ ngay rìa bãi rác nên chẳng phải xếp hàng đợi chờ gì, cứ tầm ba giờ sáng là ùa vào bãi cùng những người khác. Có những ông bà hơn nó mấy chục tuổi, lóc cóc đạp xe tới xếp hàng từ một rưỡi, hai giờ sáng, ngồi bắn thuốc lào hay buôn chuyện rôm rả, chờ dài cổ tới giờ bãi mở cửa.
Nó thường lê la với hai vợ chồng nhà ở tận Vĩnh Phúc mà nó hay gọi là cô chú, cứ tầm hai giờ sáng chở nhau tới, ngồi giở cơm nắm muối vừng hay khoai lang luộc ra ăn ngon lành ngay cạnh bãi rác. Vợ tên Hà, chồng là Mùi, cả hai thường chia cơm và khoai cho nó một tí gọi là đỡ phải tội, nhưng nó thích lắm, lần nào cũng ăn ngấu nghiến. Có hôm cả ba người cùng bới một chỗ, bỗng nhiên cô Hà kéo được bọc gì gói cẩn thận, tưởng người ta lỡ vứt đi thứ gì còn dùng được nên hí hửng mở ra. Khi cái gói bung ra thì cô gào lên kinh hãi, trong ấy là đứa trẻ con đẻ non bị vứt đi, đang bắt đầu phân hủy. Hai vợ chồng với thằng Còi chôn cất xong thì trời sáng. Vì vụ ấy mà cô chú ấy nghỉ bới rác mất mấy ngày, còn thằng bé thì cũng dè chừng hơn khi thấy món đồ gì bất thường. Chẳng vậy mà khi bới đống giấy báo lộn xộn thấy tập tiền dày cộp rơi ra, nó còn tưởng mình hoa mắt, cứ nghĩ tiền âm phủ, khi biết tiền thật thì gào rú lên rồi chạy biến đi, hôm sau mới thấy quay lại.
Mọi người trong bãi rác cứ mỗi lần gặp thằng Còi lại hỏi đùa xem nó đã tiêu hết ba mươi triệu chưa mà vẫn vạ vật ở cái chốn chết người này, hay cất để chuẩn bị đi hỏi vợ. Nó nhăn nhở cười, nhe hàm răng trắng trên khuôn mặt đen nhẻm, chẳng nói gì. Có mấy thằng du côn nghe chuyện cũng đón đường định lột của thằng bé, nhưng chẳng bao giờ sờ thấy dấu vết mớ tiền trong người nó, trừ vài tờ bạc lẻ bán phế liệu bới được. Lần nào nó cũng chỉ nhe răng cười rồi chối đây đẩy, lủi nhanh như cuốc, dọa nạt hay đánh cũng chẳng ăn thua gì. Nó cứ nhe nhởn như cái thằng ất ơ, đi theo dõi cũng chịu, chả biết tiền nó cất đâu. Chán rồi bọn du côn cũng nghĩ chắc mọi người vống lên, chứ đào đâu ra ba mươi triệu cho nó nhặt. Mà có chừng ấy tiền còn chui rúc ở đây thì chỉ có bị thần kinh.
Thế rồi cái ngày người ta nghĩ thằng Còi đi một nơi nào đó để tiêu tiền cũng đến. Nó bỏ lại bãi rác sau lưng, ra Hà Nội, nhưng không phải đi tìm một cuộc sống mới mà là đi tìm ông bố bà mẹ đã vô tình bỏ quên nó ở sân ga năm xưa. Chẳng biết cuộc tìm kiếm đi đến đâu, bố mẹ năm xưa có còn nhớ từng sinh ra nó trên đời không nữa, nhưng lâu lắm rồi, xóm rác không còn thấy nó.
***
Bẵng đi một thời gian, hai vợ chồng người Vĩnh Phúc nọ quay lại bãi rác tìm thằng Còi nói lời cám ơn. Mọi người ngạc nhiên, hỏi ngọn ngành câu chuyện. Thì ra công việc bới rác bấy lâu nay khiến người vợ bị ung thư phổi giai đoạn đầu, tưởng sẽ khó sống vì không có tiền chạy chữa thì không ngờ thằng Còi ôm bọc tiền tới, bảo là cho cô mượn lấy tiền điều trị. Cả hai không dám nhận nhưng nó dúi vào tay rồi chạy biến, nói cháu cầm lại một ít ra Hà Nội tìm bố mẹ. Tất cả nhìn nhau im lặng, tiếng ho khù khụ vì mùi rác lẩn quất trong đêm mù hơi bẩn bốc lên, thứ mùi đặc quánh không thể bay xa. Có ngôi sao vụt nháy sáng trên bầu trời rồi biến mất. Chẳng còn ai gặp lại thằng Còi để chỉ chỗ cho vợ chồng nọ nói lời cảm ơn.
***
Hà Nội đỏng đảnh đón thằng Còi như một người xa lạ. Lang thang mấy ngày trời khắp ga Hà Nội, biết là chẳng để làm gì cả, mọi chuyện qua lâu quá rồi, nó chẳng còn nhớ gì nữa. Thằng Còi cứ nghĩ rằng, bố mẹ “quên” mình ở đấy thì sẽ có lúc nhớ ra. Hay nó tự phỉnh nịnh mình như vậy không biết nữa. Thuê một chỗ trải chiếu trong căn phòng trọ rẻ tiền, nó xin làm trông xe cho một quán bar nhộn nhạo. Dứt mình khỏi bãi rác, nó lại quăng mình vào một bãi rác khác, với hy vọng mong manh về ông bố bà mẹ chưa từng xuất hiện trong giấc mơ.
Ở trung tâm thành phố, trong một ngôi nhà bốn tầng khang trang, nhân lúc vợ đi vắng, người chồng lục tung góc phòng bừa bộn, tìm cho được mớ giấy báo có bọc tiền ba mươi triệu trong đó, số tiền định mua cho bồ bộ trang sức sau khi cô đồng ý uống thuốc ra thai. Đó là ngôi nhà của hai vợ chồng gần chục năm trước bỏ đứa con nơi ga tàu.
Truyện ngắn : Đất Đai
Đã hai tháng, ông Trực không ra khỏi nhà. Hai tháng thằng cu Luận không còn cơ hội chọc ghẹo ông già. Ông Trực và cu Luận gặp nhau là choảng. “Tổ cha mày”, ông Trực thường chửi khi gặp thằng Luận. Thằng Luận rất láu cá.
Mỗi khi biết ông Trực chuẩn bị ra khỏi nhà, nó chạy đón đầu kiếm kế chọc ghẹo. Có hôm nó leo lên cành cây ô ma vắt ngang đường làng, ngồi đợi. Ông Trực chống gậy đi bộ đến nhà ông sui gia có việc. Đến đoạn có cây ô ma, nước từ trên trời tia rót òn òn xuống chiếc mũ phớt. Ngước lên, nước nóng hổi bắn xối vào mặt ông Trực. Ông há miệng định chửi khi phát hiện ra thằng Luận, nước xộc thẳng vào miệng. Thằng Luận cười hi hí rồi vọt lên ngọn cao. Ông Trực lượm cục đá cuội định chọi, nhưng rồi ghìm cơn giận lại, ông sợ ném rớt thằng Luận là mang họa. Ông Trực bèn chửi. Mỏi miệng, ông nhịp gậy xuống mặt đường:
- Tổ cha ông nội mày. Mẹ mày đốn mạt, không biết dạy mày.
Thằng Luận không có cha. Hai mẹ con nó sống cạnh nhà ông Trực. Sáng nào nó cũng chứng kiến cảnh ông Trực tập thể dục. Khoảng năm giờ là ông dậy. Ông cầm cái xuổng đi dọc hàng rào dâm bụt và xéo đều đều. Nhát một, nhát một theo hướng từ Bắc vào Nam. Khu vườn nhà ông Trực là do ông bà của ông, địa chủ nổi lên thời Pháp thuộc để lại. Vườn rộng nhất làng, hơn hai mẫu tây.
Phía đông vườn nhà ông giáp đường làng, với ranh giới được trồng hàng dâm bụt. Mỗi sáng ông thọc cái xuổng ấy xuống từng gốc cây, ngoáy ngoáy vài cái rồi nạy cái gốc cho dịch ra phía ngoài. Lâu ngày rễ cây dâm bụt ăn ra ngoài. Mỗi năm, hàng cây nhích ra vài phân. Mẹ thằng cu Luận cứ chép miệng, nói không biết đến lúc chết, cả đời ông Trực lấn được bao nhiêu mét đất.
Nhưng mẹ cu Luận vẫn thấy cái bờ rào đó cong dần, cong dần. Nó như cánh cung đang chịu sức kéo của một tay cung không mạnh mẽ nhưng đầy kiên trì. Nó cong dần theo năm tháng. Đất vườn của mẹ con cu Luận cũng bị lấn theo kiểu ấy. Cây mít vườn lặc đặc vài trái cong queo, do cha cu Luận trồng khi còn sống. Vậy mà 10 năm sau khi cha cu Luận chết, cây mít đã tịnh tiến đến giữa hàng rào. Vài năm nữa cây mít sẽ sang hẳn bên vườn nhà ông Trực. Hàng rào nhà cu Luận không trồng dâm bụt mà là một hàng tre. Tre cứ mục đi, sau mùa lụt lớn ông Trực lại thuê người rào lại, lấn ra. Mẹ cu Luận lại chép miệng, mình rủi ro sống kề nhà ông Trực, nên đừng cãi vã làm gì. Mà có cãi cũng khó thắng, bởi bằng chứng đâu.
Ông Trực vợ mất, ông có ba người con, tất cả là trai. Ông trai cả khùng khùng tên Phước, già mà chưa vợ. Ông giữa tên Lộc, thông minh. Trước giải phóng, ông Lộc học đến đệ nhị, giờ đã có vợ hai con. Ông con út đẻ mót sau giải phóng, tên Điền người ốm nhom, học hết lớp 12, ở nhà cưới vợ. Không biết cái tên Điền ông Trực đặt cho con trai út hàm ý gì, nhưng hàng xóm thì bảo điền là đất, vì ông Trực vô cùng mê đất. Đất ở quê ai chẳng quý. Mà đất ở đâu chả quý. Ở thành phố, miếng đất bằng cái nắp cống giá đã bằng cả sào đất ở quê. Xứng với câu tấc đất tấc vàng. Cho người dân quê vài triệu bạc, họ còn phải suy tính để đồng tiền sinh sôi, còn cho họ đất đai, thì mảnh vườn, đám ruộng đã gắn kết sinh tồn đến thuộc lòng.
Hai tháng nay, không khí nhà ông Trực nặng nề như chờ sẵn đám ma. Mấy ông con trai đã chuẩn bị hậu sự và cứ phải nhìn cha mình vẫn trong tư thế người khum, tay bó gối. Tư thế đó đã không thay đổi từ khi ông Trực cùng ông con trai tên Lộc trở về từ một phiên tòa. Phiên tòa ấy xử vụ tranh chấp đất. Không phải tranh chấp mấy chục thước vuông đất ông Trực đã lấn của hàng xóm và đường làng mấy chục năm nay bằng cách xỉa xuổng, mà là hai lô đất mặt tiền quốc lộ Một nằm trên thị trấn. Hai lô, mỗi lô giá gần tỉ bạc. Hai lô đất này là của ông Hường, anh em thúc bá với ông Trực. Ông này là một thương gia sắc sảo trước 1975. Thời đó ông Hường có quen biết nhiều người trong chính quyền và quân đội. Năm 1974, tình hình cho thấy sự thất bại của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, ông Hường tìm cách chuyển vợ con sang Mỹ. Riêng bà con gái đầu đang có chồng sống ở Đà Lạt dứt khoát không chịu theo cha mẹ và thằng em. Trước khi đi, ông Hường xuống nhà ông Trực nhờ ông Trực quản giùm đất và nhà mình. Hai bên giao kết bằng cách viết giấy, buộc trước khi xử lý, bán hay cho thì ông Trực phải báo cho ông Hường biết trước.
Hai lô đất gần hai trăm rưỡi mét vuông, có giá hơn cả hai mẫu đất ở quê ông Trực. Căn nhà trên đất trước thuộc loại lớn, nhưng mấy chục năm không người ở nên đã hư hỏng. Sau trận lụt năm 1986 nó sụp móng, xệ vách. Ba mươi mấy năm, chuyện sẽ tiếp tục như thế nếu như hôm mồng một tết vừa rồi ông Lộc, con trai giữa, không thỏ thẻ cùng cha là phải hợp thức quyền sử dụng hai lô đất này. Ông Trực lừng chừng. Nhưng đêm đó ông đã gọi riêng ông Lộc lên nhà. Hai cha con bàn bạc suốt mười ngày tết. Những giấy tờ liên quan, ông Trực giao cả cho ông con trai. Ông Lộc nghiên cứu rất kỹ. Không thể tẩy xóa để sửa nội dung cái tờ giấy trao quyền do ông Hường viết. Sau hai ngày bóp trán, ông Lộc chịu thua, thầm phục tài ông Hường. Chặt chẽ đến từng câu chữ, đúng là tay thương gia có tiếng đất Quảng một thời. Ông Lộc biết ông Hường đã chết bên Mỹ năm ngoái, nhưng ông Hường đã ghi rất rõ, nếu tôi chết hoặc mất sự sáng suốt thì ông Đàm Minh Trực phải được phép của người thừa kế.
Ông Lộc chuyển sang phương án giả chữ viết. Ba đêm tập viết bằng bút có giọt kim tinh đầu mũi, những nét chữ giả đã giống. Ông Lộc bắt đầu viết nội dung định sẵn. Loại giấy viết cũng được chọn lựa kỹ, hơi trắng hơn loại giấy pơ-luya thời Mỹ bao cấp. Gần nửa tháng viết - bỏ, viết - bỏ, đến tờ thứ 58 ông Lộc ngừng lại, có vẻ đắc ý. Nhưng xem lại tờ thứ 58 lại không giống bằng tờ thứ 56 nên cuối cùng ông Lộc quyết định lấy tờ số 56. Văn phong trong tờ giấy giả, ông Lộc cũng làm giống với văn phong của ông Hường. Chỉ khác nội dung. Theo tờ giấy giả, ông Trực được toàn quyền sở hữu miếng đất 240 mét vuông ngang đường Một, và tất nhiên sở hữu luôn ngôi nhà. Ông Hường là người tặng tự nguyện, vô điều kiện. Ông Lộc dùng từ sở hữu đất, chứ không dùng từ sử dụng. Vì từ thời ông Diệm cho đến thời ông Thiệu, đất đai đều tư hữu, còn bây giờ là đất đai do nhà nước chủ sở hữu, người dân nào cũng chỉ được quyền sử dụng. Bấy nhiêu từ ngữ ấy đủ để biết ông Lộc tuy làm ruộng nhưng không hề hớ hênh trong lúc soạn giấy tờ giả. Cái khó nhất là làm sao cho tờ giấy này cũ đi, mực cũng phải như qua từng ấy năm tháng, ba mươi mấy năm trời. Ông Lộc bắc nồi nấu nước, đổ cà phê vào pha loãng, sau đó ông bỏ tờ giấy vào ngâm. Lửa vẫn liu riu khoảng gần chục phút, ông vớt tờ giấy ra, đem gác dàn bếp cho vừa đủ khô. Cũng cái thứ cà phê ấy, nhưng pha đậm đặc với mật mía và nghệ vàng ông Lộc đem nhỏ giọt lên giấy vài chỗ trông giống như nước đái gián. Độ cũ của tờ giấy gần như hoàn hảo.
Ông Trực cứ bó gối ngồi ở gian bếp nhìn ra khoảng trống ở cái cửa sổ song gỗ. Những thanh gỗ sọc xuống, khoảng cách đều nhau. Mấy ông con trai và mấy bà con dâu cứ đến đút cháo lỏng vào miệng ông. Nhưng qua tháng thứ hai thì ông Trực không thèm há miệng. Ông vẫn bó gối ngồi. Ông cứ lơ mơ mãi về phiên tòa. Thất bại của cha con ông rất bất ngờ. Mọi việc đang êm xuôi. Sổ đỏ đang trình chủ tịch huyện ký. Nhưng không rõ sao đột ngột có đơn tranh chấp của bà Phương, con gái của ông Hường từ trên Đà Lạt gửi về. Ông Trực nghi bà Miên nhà bên cạnh đã báo cho bà Phương khi thấy người của Phòng Tài nguyên - Môi trường xuống đo đất làm sổ cho ông Trực. Nhưng cha con ông Trực vẫn tin là không sao.
Phiên tòa xử tranh chấp dân sự được mở. Giấy tờ hồ sơ đã đủ bộ. Con trai ông Trực cũng đã đút lót mấy tay tòa án huyện. Lót ít thôi, vì ông Lộc biết nếu lót nhiều, mấy tay này sẽ đòi hỏi. Kết thúc phiên tòa, cha con ông Trực thắng. Bà Phương mặt bình thản cười cười với cha con ông Trực. Chắc bà chỉ kiện cho vui chứ nhà giàu sụ, tiền Mỹ gửi về tấp nập thì mảnh đất này thấm gì. Nhưng không ngờ bà Phương tiếp tục có đơn yêu cầu mở phiên phúc thẩm. Lần này là tòa tỉnh xử. Ông Lộc lại phải trổ tài ngoại giao. Và đồng tiền đi trước nên cha con ông Trực lại tươi cười như đã nắm chuôi dao.
Phiên tòa phúc thẩm mở. Gần đúng giờ, cha con ông Trực bước đến sảnh, một người đàn ông trên năm mươi tuổi tướng tá sang trọng đến bắt tay. Ông Trực ngờ ngợ. Té ra là ông Tâm, con trai trưởng ông Hường từ Mỹ về. Cha con ông Trực thấy bất an. Và những giấy tờ gốc ông Tâm mang về đã lật ngược thế cờ. Trời đổ sầm khi ông Trực nghe chánh tòa tuyên án. Ông Lộc phải bế cha ra taxi chở về. Từ đó, đêm cũng như ngày, ông Trực không hề chịu ngả lưng. Ông cứ tư thế bó gối mà ngủ ngồi.
Hôm chết, hai tay ông Trực vẫn quàng qua gối. Người cũng cà khum. Chỉ có khác là lúc không còn sức lực, ông ngã người ra, tắt thở. Cái vòng tay bên phải vẫn nằm hờ chỗ cổ tay trái. Mắt ông Trực vẫn mở. Cặp mắt không có điểm nhìn. Nó bao quát, và đầy thất bại. Cặp mắt sâu hóm đó không nhìn vào ông Phước con cả, cũng không nhìn ông Lộc trai thứ, thằng út Điền cũng không nốt. Cặp mắt vô định như lúc sống. Nó vẫn nhìn đâu đó ra hàng dâm bụt có rễ ăn ra đường, có những cái hoa đỏ, nhị mềm thòng đung đưa. Nó nhìn đâu đó qua cây mít đặc nhà thằng Luận. Và nó cũng có thể nhìn xa xăm lên tận phía tây, phía thị trấn.
Ba ông con trai lần lượt đến vuốt mắt cha, cặp mắt vẫn vô định nhìn đâu đâu. Con dâu, cháu nội, rồi bà con thân thích đến vuốt thử cũng đành lắc đầu bước ra. Cặp mắt vẫn thế. Người vẫn cà khum thế. Ông thầy liệm bắt tay vào việc. Ông phun rượu 60 độ lên xác ông Trực, định kéo hai cánh tay ra khỏi gối, nhưng không được. Thầy liệm bảo người nhà đi mua cồn 90 độ về phun, nắn, đè…, cũng không được. Một ông thầy liệm khác được gọi đến trợ sức cũng bó tay. Giờ Mùi, giờ liệm tốt nhất cho ông Trực đã qua từ lâu. Mọi cố gắng đều thất bại. Hàng xóm đã tính đến việc xả gỗ đóng hòm vuông cho ông Trực. Nhưng, cái hòm đã mua không thể trả lại được. Để lại thì hai cái hòm trong một đám tang, là điều tối kị. Những tiếng thở dài chồng lấn, nối nhau.
Thằng cu Luận đi bẫy cò ngoài đồng về, tạt ngang qua, nghe người lớn xầm xì. Nó bước lại đập vào tay ông thầy liệm:
- Cắt gân!
Ông thầy liệm giật mình. Ông dang tay định cho thằng nhỏ một bạt tai vì có hành động mất dạy, nhưng ông chợt hiểu ra điều gì đó, như tia sáng. Những người đàn ông đang tụm lại gần đó cũng đã nghe rõ hai tiếng cộc lốc từ miệng thằng cu Luận. Họ hội ý với gia đình. Và quyết định. Chiếc dao lam lạnh ngắt trong tay, ông thầy liệm rạch vào màng da nhăn nheo dưới khớp gối ông Trực. Vài mảnh máu rời rạc, quạnh khô chỗ vết cắt. Lần lượt các gân chi được cắt. Cồn 90 độ phun vào, tay chân ông Trực đã duỗi ra được phần nào, nhưng nó vẫn còn cong. Thầy liệm vội vã đưa ông Trực vào hòm vì thời gian đã lẹm vào đầu giờ Dậu, giờ xấu.
Xác ông Trực được đưa vào hòm. Hai đồng xu được đặt lên mắt của ông Trực. Đó cũng là cách mà thằng cu Luận tư vấn. Nó bảo trong phim thành Troy, khi Hécto và Asin chết, người ta cũng làm thế. Thời đó ở châu Âu người ta dùng tiền vàng, còn giờ thì lấy đồng tiền kẽm cũng được. Làm theo lời cu Luận, mọi người bớt ái ngại về cặp mắt chết không chịu nhắm của ông Trực.
Nhiều đứa trẻ cùng tuổi với cu Luận đến giành nhau cầm cờ ngũ sắc cho đám tang. Cu Luận thì không. Nó bỏ chạy lên phía trước khi có tiếng trống động quan. Nó leo lên cành ô ma vắt ngang đường. Nhành ô ma mà nó thường hay trèo lên chờ sẵn để chọc ghẹo ông Trực. Nó ngồi nấp trong lùm lá xanh. Đám tang ông Trực đến gần. Chiếc bàn lược đỉnh rồng lướt ngang. Lần này ông Trực và cu Luận chạm mặt nhau mà không có tiếng chửi.
Đám tang thưa người vừa qua khỏi, cu Luận ngã người nằm dọc theo nhánh ô ma. Nó nhìn lên bầu trời xanh qua một vòm trống. Một bầy chim gần chục con bay từ hướng đông vào. Cu Luận không rõ chim gì, nhưng chúng đã in hình lên cả một khoảng trời xanh. Quá đẹp, cu Luận nhép miệng cười với bầu trời.
Phẹt. Một thứ gì đó ướt nhẹp, đăng đắng rơi trúng miệng cu Luận. Cu Luận lại cười, vì nhớ đến thằng bạn bắn chim, bắt cá với nó thường bảo, đứa nào bị chim ỉa trúng miệng là gặp hên.
Khúc quanh (truyện ngắn)
Con đê ngoằn ngoèo như rắn lượn, lấn sâu vào cánh đồng rồi đột ngột mất hút ở đầu đằng kia, ngay khúc quanh kỳ dị đó. Một con đường đất đỏ bụi mù từ con đê lừ lừ dẫn vào ngôi trường làng bé nhỏ, đằng sau là khu tập thể còn tồi tàn gấp nhiều lần.
Nói là khu tập thể nhưng cả dãy nhà cấp bốn lụp xụp chỉ có hai gian có người ở. Cuối dãy, chị tôi 28 tuổi, xinh đẹp, có một con, vừa bỏ chồng, mới dọn ra. Ở đầu hồi là một phụ nữ thấp bé rất khó đoán tuổi, bụng chửa vượt mặt, lao công của trường. Nghe đâu quá ngang tàng, mẹ chồng chưa kịp đuổi chị ta đã dọn phắt ra đây. Khi mới đặt chân đến, tôi đã định đi ngay nhưng nhìn thấy đôi mắt trũng sâu thảng thốt của chị, tôi đành nán lại. Đêm hôm ấy chị ôm chặt lấy tôi, cả hai đều trằn trọc không ngủ được. Đêm yên tĩnh đến nỗi hai chị em giật mình vì tiếng thở dài của nhau. Chị bảo những đêm như thế này, chị cứ khóc cho đến sáng thì thôi. Tôi vờ im, nước mắt chảy dài ướt đầm bên gối.
Vì hay phải qua căn nhà đầu hồi để ra giếng, nên tôi thường nhìn thấy và gặp chị Oánh, người phụ nữ đặc biệt đó. Chị ta thường hăng tiết chửi tơi bời những cô cắt cỏ vô ý cắt phải vài cọng rau muống nhà chị, hay các mụ sồn sồn ở xóm bên dám nói nhiều hơn chị. Thấy tôi, chị ta xoắn lại, kể đủ chuyện trên giời dưới đất, giọng dẻo như kẹo kéo.
- Ối giời cô ơi - chị trề môi dài giọng - phải chửi họ trước khi họ kịp chửi mình. Ở đời ở hiền gặp đần.
Nhìn cái dáng lũn cũn, nặng nhọc của chị trên chiếc xe đạp “cào cào”, tôi bật cười cay đắng.
Nhà chị Oánh còn có một bà già nữa. Mới đầu tôi tưởng mẹ đẻ của chị, sau mới biết đó là người chị thuê trông đứa con đầu lòng trong những ngày chị ở cữ. Chị ta bé loắt choắt mà mắn. Mới dọn ra đây hơn một năm, chồng giận, chỉ thỉnh thoảng ghé qua, thế mà chị đã kịp nạo thai đến hai lần, rồi có mang tiếp đứa này.
Mỗi sáng hay xẩm tối, khi không còn ai để chửi, chị ta quay ra chửi đứa con đầu của mình. Con bé chắc nịch, lầm lì, nghịch ngợm và khó bảo như một hòn đá. Bà Mía, bà ô-sin già, thì cả ngày lầm lũi như một chiếc bóng. Tôi hầu như không nghe thấy tiếng bà. Chỉ mỗi khi tôi đi qua chào, bà ngước lên rất dè dặt hỏi rồi lại mải mốt, cắm cúi vào những công việc chẳng bao giờ rời khỏi tay.
“Tôi già rồi, nói lẫn cẫn, chỉ sợ lỡ lời bị cô ấy mắng cho thì dại”. Sau này, khi đã quen do có những khi tôi xách hộ bà xô nước hay nhặt hộ mớ rau, bà mới nói với tôi như vậy. Nhưng dường như, còn điều gì đó khác khiến bà sống lặng lẽ, âm thầm
Những buổi trưa, khi cơm nước xong, tôi thường đi vơ vẩn và thấy bà Mía hay mang chiếc khung nho nhỏ ra gốc phượng già rủ bóng lên ao cá rộng trước sân trường, cần mẫn tết chiếc võng còn dở. Một buổi sáng, ông bảo vệ chặt cành táo ở đầu giếng để xây chuồng lợn, tôi thấy bà lui cui vặt hết những quả táo non cho vào cái rá con, chia mấy quả cho con chị Oánh nghịch rồi trút tất cả vào một cái túi ni-lông, đem giấu trong búi sợi xác rắn sau khung võng.
Trưa hôm ấy, như thường lệ, bà lại ra ngồi gốc phượng tết võng, dáng người bé nhỏ, gầy guộc, tấm lưng còng dính sát vào hai đầu gối mảnh như hai ống sậy. Tôi lân la bắt chuyện. Bà ngước lên hỏi bằng cái giọng líu lo đến buồn cười:
- Thế cô không đi bảo học à?
Người ở đây vẫn gọi đi dạy học là bảo học. Hóa ra từ mấy hôm nay bà vẫn tưởng tôi là giáo viên mới về. Tôi vớ lấy chiếc ghế con ngồi xuống cạnh bà, giải thích:
- Không bà ạ, cháu chỉ đến chơi với chị cháu vài hôm thôi. Thế bà không ngủ trưa à?
Bà thủng thẳng:
- Không, tôi chả ngủ được. Người già khó ngủ lắm. Tôi ra đây cho mẹ con cô ấy ngủ.
Câu chuyện có vẻ thân thân, tôi lại lân la hỏi bà về cách tết võng. Bà giải thích cặn kẽ cách xoắn dây, tết mắt võng, khoảng cách giữa các mắt. Đang vừa làm vừa nói chuyện bỗng bà ngừng phắt lại, lom khom đi như chạy ra cổng trường gọi với:
- Này cái Hoa ới, lại đây bà cho cái này.
Một đứa bé nhếch nhác, tóc loe hoe như râu ngô quay trở lại. Họ nói với nhau ríu rít những gì nghe không rõ. Bà là người làng bên, giọng rất đặc trưng. Khi nói chuyện với làng khác thì còn chậm rãi để họ nghe chứ đã nói với người cùng làng thì người ngoài chịu. Một lúc sau, bà hồ hởi, tất tả quay lại khung võng moi ra túi táo ban sáng dúi vào tay đứa bé vừa kịp theo đến. Con bé liếc nhìn tôi một cái, vội vàng cầm lấy, líu ríu vài câu rồi chạy thẳng. Trên đôi môi già nua của bà lão thoảng một nụ cười, đôi mắt hấp háy, rạng rỡ. Tôi hỏi:
- Cháu nội hay cháu ngoại bà đấy?
Bà cúi đầu làm tiếp, thủng thẳng:
- Nội ngoại gì đâu, đứa cháu hàng xóm đấy mà. Tôi làm gì có cháu.
Tôi ngạc nhiên:
- Thế bà...
Bà cố gắng nói rành rọt:
- Chả biết ngày xưa sao thầy u đặt tên tôi là Mía, giờ tôi như cây mía bị ép hết nước ấy cô ạ.
Bà lão quay ra nhìn tôi, vuốt quết trầu rồi kể.
Bà lấy chồng từ năm 17 tuổi. 10 năm ở nhà chồng sinh hai lần đều không nuôi được. Chồng bà đi lấy vợ bé, liền trong ba năm đẻ ba đứa, một cặp sinh đôi. Những đứa con lớn lên tai ngược chẳng khác gì mẹ, lại được gia đình chồng bạc ác hậu thuẫn, hùa vào hành hạ, bóc lột bà như con ở. Bà cắn răng chịu đựng, lầm lũi làm, cung phụng nhà chồng vì nghĩ đến tình nghĩa với ông bao nhiêu năm. Năm kia, khi ông qua đời, mẹ con vợ bé đánh đuổi bà đi, chiếm luôn nhà cửa, đất đai cùng bao nhiêu công sức cả đời nai lưng quần quật của bà. Bà lặng lẽ cắp nón đi ở hết nhà này đến nhà khác.
- Đi ở thế này chả sung sướng gì đâu! Mấy người khác đều không nhận vì cô ấy trả công ít, lại khó tính, nhưng tôi muốn chăm cho cô ấy như chăm con, chăm cháu - bà ngậm ngùi - Mới lại, cũng đành thế thôi vì còn chỗ đâu mà về. Khỏe còn thế chứ ốm đau rồi nay mai nằm xuống thì biết thế nào...
Bà lặng lẽ cúi xuống, những mắt võng bện chắc với nhau, chiếc võng mỗi lúc một dài thêm ra. Tôi nao nao nhìn ra nắng đông hoe vàng, khúc đê quanh dầy như bức tường thành dâng ngang bầu trời... Chợt giật mình vì tiếng chị Oánh the thé:
- Bà Mía đâu rồi, lại lỉnh đi xó nào đến lú lẫn không gọi người ta dậy. Muộn mẹ nó giờ quét lớp rồi.
Hai tuần sau tôi trở lại. Khu tập thể đã có thêm vài người đến ở, sáng chiều rì rầm tiếng chuyện trò, khói bếp vẩn quanh mái ngói rêu phong. Trên mỗi khuôn mặt đều đượm một vẻ ưu tư riêng, đôi khi cáu bẳn vô cớ. Mắt chị tôi càng thâm quầng, hốc hác như ngã nước. Chị Oánh thấy tôi chào, ngẩng lên, nhếch mép rồi mải mốt cúi xuống vo gạo, cái bụng to chềnh ễnh khiến chị ta cứ phải lom khom. Tôi thảng thốt nhìn quanh, chiếc khung võng chỏng chơ góc hè, cái võng vẫn đang dở dang, con bé gái tha thẩn nhặt cọng cỏ đút vào miệng, chị Oánh tru tréo:
- Mả cha mày, đâm vào mồm bây giờ, ăn bẩn thế à?
Chị tôi đưa cho con gà tết bằng rơm mới còn vàng ươm:
- Bà Mía gửi đấy. Bà ấy đi rồi. Mấy hôm ốm nặng chẳng làm được, chị Oánh chửi rát tai. Tao định đi đón bà ấy nhưng chẳng biết ở đâu. Vả lại còn mình đây, chị ấy đấy, ai nỡ làm thế...
Mắt tôi nhòa đi. Gốc phượng già rùng mình trút một mảng lá vàng lấm tấm trên mặt ao. Khúc đê quanh dầy sừng sững dâng ngang bầu trời xám xịt bọc kín tầm nhìn
Vườn chuối
Người ta nói rằng tất cả những người có tiền ở cái làng này đều đã bị nó xin đểu. Tôi chưa thấy nó sờ đến tôi. Tôi cứ phấp phỏng thế nào.
Ai trong làng cũng biết tôi phải di chuyển bằng xe lăn và rất nhiều người biết rằng tôi không thiếu tiền bởi em trai tôi ở Đức vẫn thường xuyên gửi ngoại tệ mạnh cho tôi qua bưu điện. Cánh đàn ông ngồi uống nước nói với nhau: “Con mẹ cụt đó phúc lớn thật, cứ việc ngồi yên một chỗ mà hứng của”. Cánh đàn bà ngồi buôn dưa lê hặm hụi: “Nó lắm tiền thế tiêu gì cho hết, thằng đàn ông nào muốn bán “cái ấy” cho nó phải đòi giá cao vào”. Những lời ấy ngẫu nhiên bay đến tai tôi, tôi chẳng thấy buồn bực gì. Tôi biết bực đôi chân cụt của tôi hay bực sự chu cấp dào dạt của em tôi?
Tại sao nó không tìm đến tôi để xin tiền mua heroin? Câu hỏi đó dội lên trong đầu tôi lúc nào là y như rằng lúc ấy hai bánh xe lăn của tôi đang lăn đi bỗng đứng khựng như bị khóa. Tôi tính tới rất nhiều lý do, trong đó có lý do tôi cụt chân. Một con nghiện nặng đến độ đứng giữa đường chặn xe, kề dao vào cổ người ta đòi tiền, ngồi giữa chợ tự chích thuốc liệu còn có khả năng để chút lòng trắc ẩn thắng cơn đói thuốc hay không? Chắc là không. Sớm muộn gì nó cũng tìm tới tôi thôi, có lẽ là đợi tới đợt gửi tiền sắp tới của em tôi, hốt một mẻ ra trò để chạy thuốc dài dài.
Nhà tôi nằm trên rẻo bờ sông giáp với cánh đồng Duôm, nơi hoang vu nhất của cái làng đang thị tứ hóa thần tốc. Trước đây ở rẻo bờ sông ngoài nhà tôi còn có ba gia đình khác sinh sống nhưng dần dà họ bỏ đi cả bởi người ta đi xem bói ở đâu thầy bói cũng nói rẻo đất này nghịch, lắm ma quỷ nhiều hồn oan, ai định cư ở đây sớm muộn sẽ gặp chuyện chẳng lành. Không phải là tôi không để ý đến chuyện thủy thổ mà vì tôi không thể bỏ hoang đất của ông bà cha mẹ. Hơn nữa, tôi đã bị ôtô cán đứt cả hai chân khi tôi hai mươi hai tuổi và kể từ đó đời tôi đâu có thiếu những chuyện chẳng lành. Tôi đâm nhờn với những chuyện chẳng lành như một con bệnh nhờn thuốc.
Từ ngày chuyện chích choác của nó bay đến tai tôi, tôi mắc chứng khó ngủ. Thường tôi nằm trên giường căng tai hốt lấy mọi tiếng động mơ hồ vang lên trong đêm tối. Tôi thấy hệ thống an ninh, nói đơn giản là cổng cửa nhà tôi, tuềnh toàng quá. Cánh cổng được ghép bằng những đoạn gỗ xoan từ ngày bố mẹ tôi còn sống ngấm mưa ngấm nắng bao năm trời, cơ hồ dùng tay mà gỡ từng đoạn gỗ ra không khó. Cửa giữa bằng gỗ tốt có khóa trong nhưng các chấn song cửa sổ thì đều lung lay như răng bà lão cả lượt.
Đã có lần tôi bị cảm, chóng mặt không dậy được, ú ớ gọi hàng xóm và người hàng xóm gần nhất của tôi ở bên kia sông đi cầu khỉ sang, mở cổng, vặn song cửa sổ chui vào trong nhà tôi chỉ mất có mười phút. Một người bình thường mà chỉ cần mười phút để qua sông và có mặt ở gian giữa nhà tôi, còn tôi mỗi sáng mất chí ít hai mươi phút để đổi vị trí từ giường sang xe lăn! Tôi phải làm gì để khắc phục sự thiếu an toàn đó?
Với người khác, nuôi một con chó có thể là giải pháp đơn giản, nhưng tôi thì sợ chó không thể tả nổi bởi chính mắt tôi đã chứng kiến bố tôi bị lên cơn điên đến chết vì chó dại cắn. Làm lại cổng cửa là việc tôi không đặt ra bởi tôi muốn giữ nguyên trạng ngôi nhà như khi em tôi ra đi để một ngày nào đó em tôi trở về người cũ không thấy thì cũng còn thấy cảnh xưa. Cái đơn xin mắc điện thoại của tôi hình như đã tới tận bưu điện huyện nhưng nó cần phải đợi được tập hợp với bốn mươi chín cái đơn như thế nữa của các hộ trong xã người ta mới giải quyết một đợt. Chứng khó ngủ của tôi rồi cũng đi đến mãn tính.
Tối đến tôi thường lăn xe ra bờ sông ngắm trăng, ngắm sông hoặc ngồi im lặng căng mắt nhìn vào đêm tối và thú tiêu khiển không cần dùng tới tiền ấy kích thích trí tưởng tượng của những cái đầu mê tín trong làng. Cái bóng kỳ dị của tôi trên xe lăn loang trên mặt đất gần cây bồ kết già phía bên trái cây cầu khỉ được tin là hồn ma của Văn Cô (một người con gái từng sống ở rẻo bờ sông sau khi chết yểu được coi là rất thiêng) xõa tóc cầm quạt múa. Tôi bị người ta nhìn thành ma kể cũng buồn nhưng quả là có những lúc tôi thấy mình còn sống đấy nhưng đơn độc quá, lủi thủi chẳng khác một hồn ma. Tôi mà ra ma thì số tiền mặt để trong nhà và số tiền tôi gửi trong ngân hàng chẳng hơn gì tiền âm phủ.
Tối hôm ấy là tối mùng ba âm lịch. Trăng câu liêm mỏng quẹt như một mẩu giấy màu vàng được dính lên da trời đen thẫm. Tôi ngồi dưới gốc cây bồ kết ngắm vầng trăng và cố xác định xem so với trăng lá lúa tối hôm trước thì trăng hôm ấy lớn thêm được bao nhiêu. Sự khác biệt rất mơ hồ, và có lẽ ngoài tôi và những nhà nghiên cứu vũ trụ ra chẳng ai thèm để ý. Soạt. Một tiếng động như tiếng tuốt lá chuối khô của một người đi nhà xí quên mang giấy vang đến tai tôi. Tôi quay đầu nhìn về phía bụi chuối gần bờ sông nhất trên khu đất hoang của nhà Hoàn Râu. Trong ánh trăng lờ mờ tôi nhìn thấy một thứ gì đó đen đen đang giãy giụa rất dữ dội, như thể một con gì đó rất to, rất dài đang quằn quại trong cơn đau đẻ hoặc đang giãy chết, nhưng con vật gì mà to và dài như thế chứ? Con người. Bộ óc tôi không đến nỗi không đủ nhạy để suy đoán ra đó là một con người. Người nào, làm sao lại nằm dưới đất cát mà giãy giụa như thế? Tôi đưa tay lăn chiếc xe ra khỏi bóng cây bồ kết, gắng sức lái nó vượt lên khỏi một mô đất cao để đến sát bụi chuối. Những tiếng rên rỉ, khóc lóc và những tiếng chửi thề bị mặt đất hãm bớt âm lượng nhưng vẫn dội vào tim tôi gây cảm giác đau đớn.
- Ai làm sao mà lăn lộn thế? - tôi cất tiếng hỏi với hàm ý muốn giúp đỡ.
- Đ. mẹ! Mặc kệ bố.
- Giáo! Ôi trời, đến thế này kia ư? Về nhà về cửa mà nằm chứ.
- Bà... im mẹ... mồm đi. Nó vừa rủa tôi vừa cong người ôm lấy một gốc chuối như muốn bắt chước điệu bộ của một con trăn quấn cây và rồi nó giãy một cái thật mạnh. Phập! Cây chuối đổ xuống đè lên người nó. Nó ôm cây chuối lăn một vòng, đè nghiến lên thân cây và ngoạm. Giãy, lăn và ngoạm, những động tác hung tợn và mất sức.
- Cô gọi ai đưa cháu về nhé?
Nó lại chửi, chửi trong lúc giãy, lăn và ngoạm. Tôi bấu chặt những ngón tay vào bánh xe lăn, ngực thắt lại.
- Hay là để cô đưa...
Nó bắt ý tôi rất nhanh.
- Đ. mẹ, câm mồm đi. Bố mày... đã quyết rồi. Đứa nào... ngăn... bố mày phay cả nhà.
- Quyết cái gì cơ? - không bắt nổi ý nó tôi hỏi vẻ ngớ ngẩn.
- Để bố mày yên.
Tôi không nói gì nữa, không thể rời mắt khỏi nó và không thể nhịn khóc.
Trước khi trời sáng tôi biết rằng bụi chuối nhà Hoàn Râu đã bị quật đổ, còn những thân chuối nát bấy ra sao thì chỉ sáng hôm sau tôi mới rõ. Đến trưa có người ở bên kia sông mách với Hoàn Râu. Anh ta vượt cầu khỉ sang khu đất bỏ hoang của mình, quay mặt về phía nhà tôi chửi bậy đến nỗi tôi ngỡ râu trên cằm anh ta trước thứ ngôn ngữ bốc mùi ấy sẽ rụng tiệt.
Đêm hôm sau trăng tỏ hơn một chút khiến cho cảnh giãy giụa quằn quại đập vào nhãn quan tôi rõ hơn. Tôi ngồi im trên xe lăn, nhớ lại cảm giác đau đớn khủng khiếp khi tôi bị ôtô nghiến đứt chân. Tôi khóc thầm, nước mắt chảy ròng ròng. Bụi chuối thứ hai tan nát và số phận của bụi chuối thứ ba cũng được định đoạt ngay trong đêm tiếp theo. Hoàn Râu cứ nhè giữa trưa vác mồm đến chửi. Từ điển ‘’đen’’ của anh ta quả là độc nhất vô nhị.
Sợ nó mất trận địa đêm thứ tư, tôi đón lõng nó đề nghị:
- Tay Hoàn nó hung lắm, đe rình là sẽ rình đấy. Đừng ở đây nữa, cô để cổng đấy, cháu cứ vào vườn sau của cô lúc nào cháu muốn. Ở đấy toàn chuối là chuối, cháu cần phải làm gì cứ làm.
Nó không nói gì, lặng lẽ lê bước vào vườn sau nhà tôi ngồi đợi cơn nghiện lên. Rồi nó cũng hé răng xin tôi để cổng cả ban ngày cho nó để ông bà già nhà nó khỏi phải dùng đến dây xích xích nó vào chân giường.
Tôi không cần phải để ý đếm xem nó ra vào vườn nhà tôi bao nhiêu lần bởi vườn chuối của tôi đã cho biết tất cả những gì tôi muốn biết. Từng khóm chuối lần lượt đổ xuống ngổn ngang, tan nát: những mảnh lá và thân chuối trộn với đất văng khắp nơi, mảnh còn tươi lẫn với những mảnh đang phân hủy thâm sì, nhũn nhoét. Vườn sau tan hoang không còn một mống chuối, mùi hăm hăm thôi thối bay vào nhà qua cửa sổ. Tôi cho phép nó mở trận địa ở vườn trước.
Sau độ mươi hôm vườn trước cũng bốc mùi hăm hăm như vườn sau. Tôi bảo tôi sẽ hỏi mua cả vườn chuối của nhà chị Mạnh ở rìa đồng cho nó chiến đấu. Nó nói nó không cần trận địa mới. Nắng gắt nửa tháng liền, vườn sau hết mùi, nó trở lại đó. Cơn thèm thuốc của nó thưa hơn và bớt quyết liệt đi nhiều. Nó không cần giãy, không cần lăn nhưng những lúc không chịu nổi nó vẫn cần găm răng vào đâu đó và nó chọn hai cánh tay lúc nào cũng để trần. Nó sắp cai được rồi, sắp cai được rồi. Tôi nói cho nó biết dự cảm đó của tôi trong một lần bôi cồn lên những vết thương ở cánh tay nó và người bưu tá đến đưa giấy lĩnh tiền cho tôi đã nhìn thấy cảnh đó.
Em tôi gửi cho tôi một nghìn đôla. Tôi gửi bảy trăm đô vào khoản tiết kiệm ở ngân hàng, số còn lại tôi đổi sang tiền Việt mang về nhà. Tôi bảo nó:
- Cháu cai được rồi đấy, bây giờ cần bồi dưỡng thể lực. Cầm ít tiền mua thịt thăn hay trứng mà ăn.
Tôi rút xấp tiền từ dưới đệm lót của xe lăn đưa cho nó. Nó xua tay:
- Cháu không cần bồi dưỡng đâu. Thoát cái của nợ ấy là cháu khắc khỏe. Cô đem mà gửi ngân hàng, nhỡ đâu em cô chết độp ở bên Đức thì cô khỏi phải lăn xe đi ăn xin.
- Ừ, nhưng...
- Đ.mẹ, cất đi - nó gắt.
Người ta đồn đại không hay về tôi và nó. Trí tưởng tượng của những người rỗi hơi vẫn bị dẫn dắt bằng sự mê tín và giờ đây còn được dẫn dắt bằng sự nhẫn tâm nữa. Một hôm tôi đi mua vài thứ lặt vặt ở tiệm tạp hóa gần chợ, có kẻ đã nói ngay sau lưng tôi: “Tiền Tây nó mạnh thật, mua được cả một thằng trai tơ cho một mụ gái già què cụt”. Tối hôm ấy thấy nó đến, tôi bảo:
- Cháu khỏi hẳn rồi, đừng luẩn quẩn ở đây mãi. Tối rỗi rãi thì ở nhà xem tivi, chuyện trò với ông bà già.
Nó bắt ý tôi rất nhanh:
- Cô đuổi khéo cháu chứ gì? Cô sợ những đứa thối mồm nói bậy phải không? Đ.mẹ chúng nó, nói về cháu thì không sao nhưng đứa nào mà nói xấu cô trước mặt cháu thì cháu phay cả nhà nó ngay.
- Cháu phải cai cả cái ấy đi.
- Cái gì cơ?
- Chửi đệm.
- Đ.mẹ, sao mình nhiễm lắm thứ khốn nạn thế không biết. Cai, cai - nó tự vả vào mồm mình đôm đốp.
Dĩ nhiên nó đã quyết là làm được. Cai chửi đệm dĩ nhiên dễ hơn cai ma túy nhiều. Nó không chửi đệm, nó nói tôi dễ bắt ý nó hơn.
Nó khỏe hẳn rồi, vẫn đến chơi với tôi. Tối đến nó đẩy xe lăn đưa tôi ra gốc bồ kết bên bờ sông ngắm trăng. Nó ngồi bệt xuống vệ cỏ, gạ tôi kể chuyện đời tôi cho nó nghe, và cứ nài tôi kể chi tiết chuyện tôi bị xe cán đứt chân (tất cả mọi người đều tránh gợi chuyện này trước mặt tôi). Tôi kể tất cả với nó và lạ lùng là kể xong tôi thấy nhẹ nhõm như thể vừa đem chuyện đau đớn ấy quăng xuống sông cho trôi theo dòng nước để lòng không còn vướng bận gì nữa hết. Nó hỏi tôi:
- Cô cụt ngủn thế có chán đời không?
- À... có chứ.
- Cô kiếm việc gì mà làm cho quên cô ạ. Hay là cô đợi cháu lấy vợ đẻ con mang đến cho cô trông. Lúc nó bé cô ôm nó trên xe lăn, lúc nó lớn nó đẩy xe đưa cô đi khắp làng.
Tôi cười trong nước mắt.
Có lần tôi hỏi nó:
- Ai mách cháu trong cây chuối có chất cai nghiện?
Nó cười khì khì:
- Làm quái gì có cô. Hồi trước em cháu bị bệnh nặng, cả nhà cháu phải cắt bữa để dành tiền mua thuốc cho nó. Có bận cả ngày cháu chẳng thấy nhà cháu nhóm bếp lần nào, ai đi đâu kiếm được cái gì cho vào bụng thì kiếm. Cháu chui sang vườn chuối nhà bà cháu, vít nõn chuối xuống nhai, hết nõn cháu bẻ cả thân chuối non. Cháu chưa thấy thứ gì làm cháu dễ chịu như cái của ấy.
- À... Cô cứ tưởng...
- Cô tưởng có thể đem cây chuối lên báo để phổ biến chứ gì?
Nó bắt ý tôi đến tài.
Hôm ấy là mười hai tháng chạp. Không khí tết đã mon men đến khu trung tâm xã nơi có những cửa hàng san sát. Nó bỗng dưng nảy ra ý tưởng đưa tôi đi cắt tóc ngắn. Nó bảo mái tóc dài của tôi đẹp nhưng khiến người ta tưởng tôi là ma. Tôi thấy nó nói phải liền đồng ý để nó đẩy xe đưa tôi ra tiệm cắt tóc gần chợ. Đến nơi nó xốc nách chuyển tôi ra chiếc ghế của tiệm, giúp thợ cắt tóc khoác chiếc khăn trắng quanh vai tôi rồi ngồi lên chiếc xe lăn của tôi vắt chân chữ ngũ cầm một tờ báo đọc lầm rầm. Cái cảnh nó với tôi ở cùng nhau như thế chắc chắn khiến những người qua đường xì xào nhưng tôi chẳng buồn nghĩ tới việc đó mà chỉ căng mắt nhìn vào gương đề phòng tay thợ cắt tóc mới đến xã tôi hành nghề cố tình cắt tóc tôi quá ngắn. Chúng tôi đang ai có việc nấy như thế thì đột nhiên có tiếng còi xe môtô rất lạ rú lên.
- Công an, công an chúng mày ơi!
Bọn trẻ con ở hai bên đường ríu rít gọi nhau chạy theo chiếc xe môtô. Tay thợ cắt tóc vẫn chăm chú xẻo từng lọn tóc của tôi vứt xuống đất. Tôi vẫn soi gương. Nó vẫn lầm rầm đọc báo. Mười phút trôi qua. Mọi chuyện vẫn giống hệt mười phút trước. Bỗng tiếng còi xe cảnh sát lại rú lên, mỗi lúc một to, kèm theo đó là tiếng động cơ xe ù ù. Chiếc xe cảnh sát đỗ lại trước cửa tiệm cắt tóc. Xe đứng yên mà còi xe vẫn gào thét nhức óc. Ba công an và mấy người của xã ập vào trong tiệm. Đầu óc tôi đơ. Hình như họ đọc, chắc là có đọc một cái lệnh hay một quyết định gì đó. Còng số tám bập vào tay nó kêu đánh cạch. Nó bị kéo đứng dậy. Đi, ai đó thúc lưng nó. Tôi tỉnh táo trở lại.
Tôi ngoái cổ ra van xin: “Thằng bé cai được rồi, khỏi hẳn rồi mà, xin đừng bắt nó đi. Nó cai được rồi, tôi xin bảo đảm”. Mấy người công an không ai nói gì. Ông trưởng công an xã quay đầu lại nhìn tôi bằng ánh mắt không thể hiện gì khác ngoài sự khinh rẻ như thể tôi đã hóa thành con bọ hung bẩn thỉu. Thì ra hai năm trước nó dính vào một vụ cướp xe máy. Giờ công an bắt được kẻ cầm đầu và kẻ đó khai ra nó.
Nó cùng đồng bọn bị đưa ra tòa xét xử. Nó lãnh án ba năm tù, bị giam trong một trại tù ở miền Trung. Nó đi tù được một năm thì bố nó đổ bệnh rồi mất. Giờ mẹ nó đang ốm liệt giường. Có vẻ như từ khi nó vào tù, nó chưa có người thân nào vào thăm.
Tính cho đến hôm nay tôi đã đợi nó ba năm bảy tháng. Có kẻ rỗi hơi trong làng đã tìm đến tôi kể chuyện ở tù của những con nghiện với dụng ý không được tốt đẹp cho lắm. Người ấy nói rằng những kẻ nghiện và những tên côn đồ bị tống vào tù ở chung với nhau thường hà hiếp nhau, mài giũa nhau, đến nỗi khi ra trại nhiều đứa hung hăng hơn, sa đọa hơn, hỏng hẳn. Tôi không tin những lời ấy.
Tôi sẽ vẫn tiếp tục đợi nó. Tôi đợi nó về thực hiện cái kế hoạch thuê khu đất vườn hoang trên rẻo bờ sông để cải tạo thành trang trại. Tôi đợi nó về lấy vợ, đẻ con để tôi được ôm con nó trên xe lăn. Và khi nào con nó lớn, con nó sẽ đẩy xe lăn đưa tôi đi khắp làng.
Những khóm chuối trong vườn nhà tôi và trên khu đất bỏ hoang nhà Hoàn Râu đã tái sinh, đã sinh sôi, lá thì xanh đến là xanh, thân thì bụ đến là bụ. Loài cây ấy chứa một vị ngọt mà chỉ riêng nó biết.
Giải thoát
Lão Bốn Nham nay bảy sáu tuổi, sống cùng vợ tại một hẻm nhỏ khu phố Bà Triệu. Vào một đêm khuya, chiếc bình thủy tinh cắm hoa trên bàn thờ Phật của lão bị ngã đổ. Vợ chồng lão giật thót. Lão nhỏm dậy bật điện, thấy miểng chai vung vãi khắp nhà. Lão bực tức gom hoa đang vung vãi ném ra ngoài. Bà vợ lui cui quét dọn miểng chai, chép miệng tiếc hùi hụi.
Mím môi nhìn quanh quất như quyết tìm cho ra thủ phạm, lão giơ cao ngón tay gõ gõ vào không gian, miệng lảm nhảm:
“Làm đổ được cái bình lớn như thế này, ắt con chuột phải lớn”.
Bà vợ cãi:
“Sao ông biết là con chuột? Con mèo thì sao?”.
Lão Bốn Nham gãi gãi chót mũi, mặt trầm tư, giọng đầy vẻ phân tích:
“Con mèo ít khi làm ngã đổ vật gì. Nó là giống săn đêm siêu phàm. Tốc độ nhưng cẩn trọng, nhẹ nhàng mà quyết đoán. Chỉ có con chuột. Chuột. Chỉ cái giống mắt ti hí, mỏ nhọn, phá phách, tham ăn ấy, mới chạy ào ào không ngó trước ngó sau”.
Bà vợ nói, giọng gắt gỏng vì mất ngủ:
“Ông gài bẫy bắt nó đi. Tôi nướng, nấu cháo cho heo”.
Lão Bốn Nham nói, giọng lạnh băng:
“Sáng mốt, heo của bà sẽ được thưởng thức món cháo chuột”.
Quét dọn xong, vợ chồng lão tắt điện đi ngủ. Vợ chồng lão rất tiếc cái bình thủy tinh, nhưng không nói gì nữa, nuốt tiếc vào bụng. Người già thường lắm lời, nhưng vợ chồng lão lại ít lời, đôi khi cả ngày không có lấy một tiếng.
Chiếc bình thủy tinh cắm hoa của lão Bốn Nham tuổi đời của nó đã gần 40 năm. Kể ra, một vật dụng thủy tinh mà được tuổi thọ như thế quả cũng hiếm. Nằm trên giường, lão suy nghĩ: Cái bình của mình bị chết vì một con chuột mình chưa biết mặt mũi. Nó là thủ phạm phải tìm ra và trừng trị. Lão lẩm nhẩm trong miệng: “Không thể gài cạm. Dính cạm, nó sẽ lôi đi mất. Phải dùng lồng sắt. Chỉ có lồng sắt mới nhốt được nó. Ngay cọp beo mà vào lồng sắt cũng bó tay, huống gì thứ chuột”.
Đột ngột, câu đồng dao hồi thơ ấu hiện về trong trí lão. Câu đồng dao ấy toát lên sự ma quái, dị thường, khiến người ta phải e ngại, đề phòng... “Mũi tai diện mạo cứ tưởng là dơi/ Đến khi qua đời lại giống con ụt/ Lúc ngồi co rút trông giống con mèo/ Đến khi leo trèo lại giống con sóc/ Lúc nó bươi móc lại ngỡ con chồn...”.
“Ối trời, quái quỷ. Một con vật đa hình thể như thế, ta càng không thể đùa - Lão lẩm bẩm lớn tiếng hơn - Ừ, càng không thể đùa... thì ta không đùa”.
***
Sáng hôm sau, lão Bốn Nham trực chỉ đến tiệm An Toàn mua ngay cái lồng sắt, loại bẫy sập, quyết bắt con chuột ấy. Lão rất hài lòng cái lồng này. Cái lồng khá nặng, rất chắc chắn, đặc biệt nắp sập rất mạnh. Lão mua ngay cái lồng ấy.
Đêm xuống. Lão gài lồng, đặt chắn đường luồn sát tường, ngay dưới bàn thờ Phật. Trong bẫy lồng sập, lão treo lơ lửng một trái chuối chín đã bóc vỏ.
Đặt bẫy lồng xong, lão tắt điện, đi nằm sớm. Trong đêm đen, lão chờ đợi tiếng bẫy sập. Không gian yên tĩnh. Lạ thật, không gian lúc nào cũng yên tĩnh khi mình lắng nghe một âm thanh chờ đợi. Lão Bốn Nham đang chờ đợi...
Vợ chồng lão Bốn Nham hoàn toàn không mở miệng nói đến việc đặt bẫy lồng này. Vợ lão thường bảo lão: “Loài chuột nghe được tiếng người đấy ông ạ. Mình bàn bạc việc gì, mưu định chuyện gì, chúng nó biết ráo cả”. Và, chính lão cũng thường bảo bà: “Loài chuột rất hay thù vặt. Nó sẽ trả thù theo kiểu của nó”.
***
Rất khuya lão Bốn Nham mới chợp mắt. Đang ngủ chập chờn, lão đột ngột giật mình vì tiếng bẫy sập. Một tiếng “chách”, đanh và gọn, vang lên rất rõ trong đêm yên tĩnh. Lập tức, lão bật dậy, đi đến vách tường bật đèn.
Căn nhà sáng trưng ánh điện. Lão tiến đến đường luồn, dòm vào cái lồng, rồi chợt giật lùi như có ai thình lình xô ngược lại. “Chính con chuột xô chớ ai xô!” - một thoáng rất nhanh, lão nghe có ai nói vào tai lão như vậy. Lão đứng xa, há hốc mồm nhìn con chuột trong lồng.
Nó to còn hơn con mèo mướp. Trong cái lồng sắt, con chuột to lớn không tỏ ra sợ hãi gì cả. Nó đang bình thản ăn trái chuối. Vừa ăn chuối vừa nhìn lão. Đôi mắt tròn, hắt ánh điện của nó, toát lên sự ác độc đến ma quái. Hai chiếc răng trước của nó vẩu ra, vàng khè và to quá khổ, trông rất kinh tởm. Nó mà cắn vào da thịt người, ắt bị ung thư...
“Mày làm vỡ bình hoa nhà tao, mày còn ngang nhiên xơi chuối của tao à?” - Lão lẩm bẩm - “Hừ, mày trêu cả ông nữa à?”. Dứt lời, lão giật mình, vì vừa hiểu ra rằng, những lời nói ấy là để che đậy nỗi sợ hãi. Chính là nỗi sợ hãi của lão khi trực diện với con chuột đang thản nhiên ăn chuối trong lồng.
Dưới ánh điện sáng choang, trong lồng sắt con chuột vẫn ăn chuối, vẫn nhìn lão như nhìn một đồ vật, không hề nao núng. Ánh mắt của con chuột làm lão lạnh sống lưng. Con chuột này đã thành tinh rồi.
Lão đột ngột cau mày. Một ý nghĩ lạ lùng nữa lại hiện ra. Giống như thể nhà này là nhà nó, không phải nhà lão. Lão mím môi, mắt long lên, cố làm ra bạo dạn: “Ăn nữa không, tao đi lấy thêm?”. Lập tức, lão lại nghe trong lỗ tai mình tiếng trả lời: “Ăn!” của con chuột. Tiếng trả lời rất đanh, nhưng lại nhỏ và lạnh đến mơ hồ.
Lão Bốn Nham giật mình. Lão lấm lét nhìn con chuột. Hóa ra, sự cố tình kéo dài thời gian của lão vừa rồi, chính là để đàn áp nỗi sợ càng lúc càng tăng lên trong lão, một nỗi sợ sắp đóng băng.
Con chuột đã ăn xong trái chuối. Nó đứng yên một chặp, nhìn lão, nhìn xoáy vào lão. Lão quay mặt qua chỗ khác... Rồi lão lén nhìn lại nó. Lão thấy nó bò tới, nhưng bị lồng sắt cản đường. Đột ngột, nó lùi lại và tông thẳng tới... Tông thẳng tới... Với sức mạnh những cú tông, con chuột đã kéo cái lồng sắt trườn ra giữa nhà. Lão Bốn Nham lùi lại, áp lưng vào vách tường thủ thế. Lão nhìn chăm chăm vào cái lồng, gọi lớn, giọng run run:
“Bà ơi, bà ơi!... Ra đây!
Lẹ lên!”.
Bà Bốn Nham nghe tiếng, lật đật đi ra. Bà nhìn thấy con chuột đang tả xung hữu đột, làm cái lồng sắt trườn, quay tứ tung giữa nhà. Bà hoảng vía, hai tay ôm ngực, nói lập bập:
“Cha mẹ ơi... Sống dậy mà coi ngài chuột nè. Làm sao bây giờ?... Tôi trốn vô phòng đây... Ôi, cha mẹ ơi... Sống dậy mà coi ngài chuột nè...”.
Bà Bốn Nham chạy biến vào buồng, cài chặt chốt cửa. Bà quá sợ con chuột phá tung lồng, đuổi theo bà.
Thấy bà vợ hốt hoảng bỏ chạy, lão Bốn Nham lập tức mở toang cửa như một phản xạ đào tẩu. Mở xong cửa, lão cứ giật lùi, giật lùi, nhìn con chuột hung hãn, lồng lộn đang tìm cách thoát ra.
Lão run run thò tay tắt điện, không dám nhìn nữa. Lão phóng như bay ra sân.
Nằm trên chiếc võng gai, lão không dám thõng chân xuống đất.
Lão đã giao nhà cho con chuột.
***
Ngoài sân vườn, lão Bốn Nham nằm trên võng lắng tai nghe ngóng. Trong nhà tối om, yên lặng như tờ. Không biết bao lâu, lão đã lịm ngủ. Khi tỉnh dậy, lão căng óc suy nghĩ cách để giết chết con chuột trong lồng.
Không thể lấy que sắt đâm vào. Lão lắc đầu. Ghê khiếp lắm. Chỉ có cách dìm cái lồng xuống nước. Đúng. Dìm sâu chiếc lồng trong vại nước, chuột cũng chết ngay.
Nhưng làm cách nào xách cái lồng đến vại nước? Nhìn cái lồng cũng đã thấy tởn gáy, huống chi xách nó...
Nhưng... phải có cách, có cách... - Lão gật đầu trong đêm - Dùng que sắt uốn móc câu, móc cái lồng xách đi. Đúng thế.
Phải can đảm lên Bốn Nham! Hãy can đảm lên nào Bốn Nham!
***
Lão ra hiên sau, tìm cái que sắt, bẻ ngoặt một đầu thành hình móc câu. Xong đâu đấy, lão bước vào nhà, thò tay bật đèn.
Trong nhà sáng choang. Lão dòm quanh quất, không thấy cái lồng sắt đâu cả. Người lão như bị mất trọng lượng, hụt hẫng. Lão nhìn xuống chân mình. Vẫn còn nền nhà. Lão cố định thần, rồi lại nhìn quanh quất. Cũng vẫn không thấy cái lồng sắt đâu cả.
Lão lấm lét dòm khắp nơi, dòm xuống gầm đi-văng, gầm xa-lông, tuyệt nhiên không thấy cái lồng đâu cả. Quái. Chuột thần, chuột thánh chăng?
Lão gọi vợ:
“Bà ơi. Cái lồng sắt mất
rồi. Bà ra đây xem. Không
có chuột!”.
“Ông nói láo” - Tiếng bà Bốn Nham từ trong buồng vọng ra.
“Tôi nói láo, tôi làm con bà. Ra đây xem. Không có chuột!” - Lão Bốn Nham lại gọi.
Bà Bốn mở cửa, rón rén đi ra phòng khách. Mặt bà căng thẳng, nhợt nhạt.
“Nó đi đâu?” - Bà hỏi.
“Không biết” - Lão trả lời, mắt vẫn lắm lét nhìn quanh - “Tôi kiếm khắp nơi không thấy”.
Bà hỏi dồn:
“Ông nhìn lên trần nhà chưa?”.
Nghe thế, Bốn Nham lật đật nhìn lên trần nhà:
“Cũng không thấy”.
Đột ngột, như bởi linh tính, lão Bốn Nham vớ lấy cây đèn pin xách tay, cẩn thận bước xuống tam cấp, lia ánh pin ra ngoài vườn.
Trong ánh sáng chói chang của chiếc đèn pin no điện, hiện ra một quang cảnh làm lão sững sờ, đứng bất động như tượng.
Nơi cuối đường dẫn ra vò nước, một đàn chuột to đùng đang cùng nhau cắn vào chiếc lồng sắt, lôi đi. Úy trời! Không thể tưởng tượng nổi!
Có đến mấy chục con chuột to khỏe đang hợp lại cắn chiếc lồng kéo đi...
Bốn Nham định thần, dụi mắt, gọi nhỏ:
“Bà ơi! Ra đây! Mau lên!”.
Bà vợ rón rén bước ra. Nhìn quang cảnh giải thoát đồng bọn của bầy chuột, bà há hốc mồm, lắp bắp:
“Cha mẹ ơi... Sống dậy mà coi nè. Sống dậy mà coi nè... Cha mẹ ơi”...
***
Trong ánh sáng đèn pin, đàn chuột vẫn đang nỗ lực giải thoát chiếc lòng sắt. Chúng không hề hoảng sợ trong ánh sáng đèn pin chói chang.
Chẳng biết vì lý do gì, bà Bốn Nham đột ngột chắp hai tay, khom người xuống vái lia vái lịa đàn chuột...
Lão Bốn Nham cũng đã tắt pin. Lão cũng chắp tay, vái lia vái lịa.
Cả hai vợ chồng như đã mất hết khả năng suy nghĩ...
Trong khi bầy chuột vẫn đang ra sức lôi chiếc lồng đi càng lúc càng xa...
Truyện ngắn của Ngô Phan Lưu
Con đường bụi đỏ
Hắn về quê thưa dần, thưa dần, và rồi đã lâu hắn chẳng về quê nữa. Hắn yêu miền quê của hắn da diết. Những khi buồn, hắn thường mang một chai rượu nhỏ rủ tôi chui qua cái lỗ thông hơi lên tầng thượng khu nhà trọ uống suông cùng hắn. Câu chuyện bao giờ cũng chỉ xoay quanh những kỉ niệm về một ngôi làng nào đó mà qua giọng kể của hắn có lẽ cũng na ná như ngôi làng của tôi vậy.
Nhưng chắc nó ở xa lắm lên trong những câu chuyện ấy, ngôi làng hiện lên cứ mờ mờ ảo ảo chỉ rõ nhất là một con đường bụi đỏ mờ mịt sau những trận mưa rào mùa hạ. Khi đã được đôi chén, cái chất men say tạm xua đi sự rụt rè cố hữu trong hắn, hắn hào hứng kể bao nhiêu chuyện, nhiều lúc rất vụn vặt. Chẳng mấy khi tôi quan tâm đến chúng nhiều như chuyện hắn với thằng em trai bắt dế ở đồi thì hắn lại lan dần sang quê hắn chỗ nào nhiều dế và bắt dế thì phải bắt bằng cách đổ nước mới thú. Hay chuyện hồi nhỏ hắn hay đi quét lá tre với bà nội. Mùa lá tre, cả một ngôi làng bồng bềnh trong hơi sương mơ hồ bỗng chốc từ trên mênh mông đổ ập xuống nắng cuối thu vàng rực nhưng se se lạnh. Qua những câu chuyện ấy tôi chỉ biết thêm rằng: “À! Hắn cũng có một người em trai và người bà nội!”. Thế thôi! Hắn ít khi cười to, ngay cả những lúc chỉ có tôi và hắn, trước khi cười bao giờ hắn cũng lén nhìn đâu đó. Có lần đang vào chuyện, bất chợt giọng hắn trùng xuống, đôi mắt lẫn vào góc khuất nào đó sâu hút hắt. Tôi thoáng rùng mình. Không hẳn là tôi sợ. Mà cũng có cớ để sợ chứ. Kẻ ít nói như hắn ai biết bên trong lòng chất chứa những gì. Có khi chính cái sự nội tâm ấy nhiều lúc làm con người ta nổi điên ấy chứ. Hắn xin tôi một điếu thuốc, chưa bao giờ tôi thấy hắn hút thuốc. Nhưng cách bật lửa châm thuốc của hắn thì thật điệu nghệ như bất kì một kẻ nghiện thuốc sành sỏi nào. Từ khi quen hắn, tôi vẫn không dám hỏi hắn yêu cái vùng quê ấy hơn tất cả những người đàn bà thì tại sao hắn không thu xếp trở về một đôi lần mà đêm nào cũng uống rượu suông bới lật lại những dĩ vãng tuổi thơ như thế! Nhưng tôi không dám hỏi mà cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hỏi hắn vì như thế có để làm gì đâu.
Chúng tôi trọ trong cùng một khu nhà tồi tàn ven đô. Cả thảy có năm phòng chia làm hai tầng nhà lối thông nhau bằng một cái cầu thang không bao giờ biết đến chút ánh sáng mặt trời. Tôi cũng chẳng biết trong cái hang của mình có bao con người chui rúc. Trời tờ mờ sáng, họ đã rút sạch. Trời bắt đầu vào khuya, mới lách cách có tiếng mở cổng. Đèn không bật, họ đổ vật xuống giường như những bóng ma. Không ai biết họ làm gì và họ cũng chẳng cần biết ai làm gì. Hắn ở bên cạnh phòng tôi, một mình với một khoảng tối triền miên. Căn phòng không bao giờ có ánh sáng, duy nhất có ô của sổ bằng bàn tay thì lại bị che kín bởi bức tường lớn nhà hàng xóm. Hầu như cũng chẳng bao giờ tôi gặp hắn và biết hắn trọ sát phòng mình. Cửa phòng của tôi luôn im ỉm khóa. Nếu tuần nào tôi không phải đi viết bài thì chỉ ngồi ở nhà cắm đầu vào bàn phím cặm cụi viết. Bất chợt một hôm, hắn gõ cửa phòng tôi muốn mượn một quyển sách để đọc. Tôi cũng chẳng hiểu sao hắn lại biết tôi có sách mà mượn. Tôi hỏi hắn muốn mượn sách gì. Hắn rụt rè nhìn quanh rồi khẽ khàng bảo tôi sách về những con đường bụi đỏ. Tôi lắc đầu. Hắn lại nài nỉ sách về cái gì đó có cánh đồng, có lá tre, hắn còn kể ra một loạt, đại khái là về một làng quê. Hiểu ý, tôi mỉm cười đưa cho hắn quyển “Trẻ làng” tôi vừa in. Từ đó, hắn thân tôi.
Hắn leo lên trước, bíu tay vào thanh sắt nhảy mạnh lên sân thượng. Khi tôi leo lên, hắn đã ngồi thu mình lại, hai tay bó gối nhìn lặng về phía ánh trăng. Khuôn mặt hắn co lại, mảng da rìa tai nổi những đám sần lớn. Tôi dụi dụi mắt nhìn lại. Đã lâu tôi không trò chuyện với hắn. Tôi còn rất nhiều việc phải làm, phải kiếm tiền để vật lộn với cuộc sống thị thành khắc nghiệt này. Hắn lại bắt đầu câu chuyện với ngôi làng liêu trai ấy. Những đứa trẻ con tóc đỏ như râu ngô phờ phạc cuối mùa đuổi trâu về trong ráng chiều cháy ngùn ngụt như một mồi rơm bất thường. Còn đêm thì quê tôi lạnh lẽo lắm. Những linh hồn vật vờ đi lại trên những con đường bụi đỏ. Tiếng tru dài não nề của đàn chó hoang từ vạt rừng bên vọng lại. rì…rào, rì…rào! Cứ như vậy hắn kể, hắn lẩm nhẩm, rồi lảm nhảm nói một mình chẳng cần biết tôi có nghe hay không nữa. Trong hắn chắc phải có một nỗi ám ảnh ghê gớm. Màu đỏ loang đầy những câu chữ của hắn. Hắn từ từ ngồi dậy, tiến lại một đống củi phía góc sân thượng. Giờ tôi mới để ý. Có lẽ hắn đã nhặt đống gỗ vụn trên tum, xếp vào đó từ trước. Hắn tiến lại khe cửa móc ra một chai nhựa nhỏ, rải từ từ thứ nước lệt sệt lên đó, có lẽ một chai xăng thì phải. Mọi việc diễn ra lặng lẽ. Hắn im bặt không nói gì nữa, những cử chỉ chậm chạp, đôi mắt như tê dại đi. Tôi có cảm giác tất cả ánh trăng như đang dồn lại chảy đầy trên mặt, trên cổ và trên người hắn. Phút chốc, người hắn méo mó, chực tan ra cùng ánh trăng. Gió bỗng nổi lên, thổi ào ào. Vẫn những cử chỉ rất không bình thường, hắn quẹt một que diêm, ngắm nghía như chuẩn bị quăng vào đống củi. Tôi thấy bực mình vì những gì đang diễn ra trước mắt. Thật không đâu, mình lại bị lôi vào cái hoàn cảnh rùng rợn này. Nhẽ ra, tôi phải ngồi bật dậy, tỏ thái độ khó chịu rồi chui tọt qua lỗ tum về phòng thì thay vào đó tôi cứ ngồi như trời trồng. Đôi chân tê cứng không thể nhúc nhích được. Bàn tay không chịu nghe theo sự chỉ đạo của tôi. Tôi đờ mắt nhìn theo hắn trong tâm trạng hoảng loạn và tự dằn vặt mình. Biết đâu hắn sẽ quay tôi trên ngọn lửa kia hay ít ra cũng sẻ từng mảng thịt tôi mà nướng chín. Chỉ có trời mới biết. Mà tôi đã biết hắn làm cái gì đâu. Hắn làm cái gì để sống nhỉ? Không! Không làm gì hết. Hắn đói quá chăng? Tất cả những thứ hiện lên trong đầu tôi chỉ vì một lí do tôi nghĩ hắn đã phát điên. Bùng! Ngọn lửa bật cháy hừng hừng sáng lóa sân thượng. Hắn ngồi xuống nhẹ nhàng rồi vẫy tôi. Tôi giật nảy mình. Cái vẫy tay của hắn yếu ớt lạ lùng. Thoáng qua mắt tôi những vệt da bong lỗ chỗ trên tay hắn. Lại chỗ hắn, tôi thở phào. Thì ra hắn không điên.
Hắn bảo ngày xưa, ngày hắn còn rất bé, bố hắn thường chất một đống củi giữa nhà vào những ngày chớm lạnh với một ấm trà xỉn miệng. Mẹ hắn ngồi đối diện, tranh thủ đan quần áo len cho anh em hắn. Hai anh em đùa nhau ầm ĩ căn nhà nhỏ ấm áp ánh lửa. Nghe giọng kể nâng niu từng câu chữ của hắn, tôi bỗng thấy nhớ da diết quê nhà. Tự nhiên tôi nghĩ đến con đường bụi đỏ của hắn. Hắn tìm gì ở con đường bụi đỏ ấy? Hay chăng đó chỉ là ám ảnh của một con đường về. Cũng đã lâu rồi tôi chưa về quê. Cái nghề mài bút kiếm ăn này nay đây mai đó, muốn về chẳng có bao giờ mở mắt. Những con đường dẫn đến muôn ngả. Tôi thì tôi luôn khát khao những con đường trải nhựa phẳng lừ dẫn đến một chốn đô hội phồn hoa. Trong những cái truyện ngắn tôi viết ra, con đường bụi đỏ chỉ còn trong giấc mơ tuổi thơ, giấc mơ thì đẹp, đẹp vì trong sáng. Nó không giống như vẻ đẹp của đàn bà, những vẻ đẹp ngập ngụa nhục cảm. Hắn ném một thanh củi nhỏ vào giữa đống lửa rồi rụt vội bàn tay bè bè khoanh vào trước ngực một cách vụng về. Hắn ngẩng đôi mắt nhìn tôi chằm chằm. Tôi ngạc nhiên. Đôi mắt hắn đầy vẻ van xin, mà hắn thì đã van xin tôi điều gì bao giờ đâu. Hắn nhấp nhổm liên tục. Tôi biết là hắn muốn nói gì đó. Nhưng rồi hắn yên lặng xin tôi điếu thuốc rít những hơi dài. Tôi có cảm tưởng người hắn trùng xuống, xo vai, bó gối nhìn vào cõi xa xăm.
Chúng tôi chui xuống khỏi cái lỗ nhỏ khi đống lửa tàn và trời đã quá khuya. Tôi xuống trước. Hắn lưỡng lự một chút chưa muốn xuống như còn tiếc nuối một điều gì đó. Tôi biết hắn tiếc điều mà mới chỉ nói ra bằng ánh mắt. Tôi muốn chặn lại những điều hắn muốn nói bằng cách vờ bình thản trở về phòng. Tôi cảm nhận được sự thất vọng trong tiếng uể oải của cánh cửa phòng hắn. Những điều hắn muốn nói chắc chắn là một sự không bình thường. Và tốt nhất là hãy sống với những cái bình thường trước khi hối hận.
Buổi chiều ngày hôm sau, lúc tôi leo lên cái cầu thang ọp ẹp thì bà chủ nhà cũng vừa khóa cái phòng của hắn vừa càu nhàu khó chịu. Vừa thấy có bóng người bà chửi vung lên như có chỗ trút ấm ách. Một quân dở điên dở dại. Một quân lừa lọc. Đấy cậu vào mà xem. Nói rồi bà mở đánh tách ổ khóa, mở toang cánh cửa phòng hắn. Trống hoác. Nguội tanh. Vừa đưa mắt lướt qua căn phòng,tôi thót tim muốn khuỵu xuống. Trên bức tường vôi bê bết sơn đỏ quệt xiên sẹo thành bức tranh nghiêng ngả quá dị. Một con đường lớn đỏ thẫm chạy ngoằn nghoèo. Những vệt sơn chưa chảy được xuống nền nhà đã vội co lại như máu khô. Phía cuối con đường thấp thoáng nhiều mái nhà đổ nát. Những hình người đứng ngồi ngổn ngang hướng về con đường như đang khao khát ngóng một cái gì đó. Những đôi mắt được tô đậm bằng thứ sơn đỏ thành ra chỉ còn hốc mắt đờ dại. Phía sau, bà chủ nhà vẫn luôn mồm xỉa xói. Nhưng hai tai tôi ù đi. thiếu chút nữa tôi đổ vật xuống giường khi chợt thấy trên con đường bụi đỏ ấy, thấp thoáng hắn xách cái ba lô nhàu nát lầm lũi đi. Trong tôi thoáng hiện lên những vết sần trên cánh tay hắn trong ánh lửa thấp thoáng đêm qua. Tôi đã gặp những vết sần ấy ở đâu đó! Thôi đúng rồi một làng phong tôi đã đi qua. Hắn đã được đẩy ra khỏi ngôi làng tật nguyền ấy, để sống. Thảo nào hắn thèm một con đường bụi đỏ đến vậy. Con đường tìm trở lại cõi chết nhưng được sống những ngày thanh thản. Bất giác tôi nhớ đến đôi mắt của hắn đêm qua. Đôi mắt mời gọi. Hắn muốn mời tôi về quê hắn một lần chăng?
Có lẽ nội nhật nay mai tôi phải về quê. Quê tôi cũng có một con đường bụi đỏ. Chỉ có điều tôi thì ruồng rẫy con đường ấy còn hắn lại miên man đi tìm. Có phải vì thế mà hắn đã không thể cất lời mời tôi một lần đi trên con đường bụi đỏ của hắn… Biết đâu, chỉ là biết đâu thôi, một ngày nào đó hắn sẽ đọc được câu truyện này. Tôi muốn cảm ơn hắn. Chính nhờ có hắn mà tôi tìm lại được hạnh phúc bỏ quên của mình. Cầu chúc cho hắn những tháng ngày bình an trên con đường bụi đỏ.
Mẹ con người làm thuê
Bữa tối. Con bé út sáu tuổi nhà tôi cứ ngồi bằm bằm cái thìa vào bát cơm đến vữa nát, thỉnh thoảng mới đưa lên miệng nhai uể oải. Tôi gắp thức ăn cho nó, nó ngúng nguẩy bỏ trả lại. Bực quá, tôi quát, rồi lại giật mình lo lắng sờ trán con. Vẫn mát nguyên. Nhưng sao nó lại ăn uống uể oải thế nhỉ?...
Tôi gặng hỏi. Nó bảo: "Con không thích ăn cơm, con thích ăn bánh cơm cơ". "Sao lại bánh cơm? Chắc là bánh tẻ phải không? Bánh đó chỉ để ăn quà thôi, chứ đến bữa vẫn phải ăn cơm". "Không, bánh cơm ngon lắm, cắt bằng chỉ, từng miếng thế này này, chấm với muối vừng". "à, đó là cơm nắm, con ăn ở đâu mà biết là ngon?". "Con ăn ở nhà cô ăn mày, cô ấy cho con ăn lúc chiều". Tôi buông đũa, thở hắt, vỡ nhẽ, trong lòng thấy tức dồn: "Cô ăn mày ở đâu?". "ở cửa hàng nhà bác Trâm".
Tôi đi làm cả ngày, tối đến bận túi bụi việc nội trợ. Xong việc cũng đã tám, chín giờ tối nên chẳng để ý gì đến chuyện ngoài phố. Chiều hôm sau, tôi cố gắng về sớm và rắp tâm để ý đến người "ăn mày" mà con tôi đã nói, cũng là để yên lòng về miếng cơm con tôi đã ăn có đảm bảo vệ sinh không. Tôi sang cửa hàng đồ gỗ nhà chị Trâm. Đó là gian hàng chỉ để cho thuê mà không có người ở. Không thấy cô ăn mày nào cả, nhưng trong một góc khuất của cửa hàng, tôi thấy có một vài bọc nilông xếp gọn như đồ đạc của ai gửi. Tôi hỏi, chị Trâm bảo: "Đó là đồ của mẹ con nhà chị làm thuê". Chị Trâm chép miệng: - Hôm đó buổi sáng tôi đến sớm vì có khách lấy hàng, thì thấy ở hè có một người đàn bà đang ngồi với vẻ mặt bồn chồn nhìn đống chăn vẫn chưa kịp dọn. Chị ta thấy tôi vội vã đứng lên, khúm núm xin lỗi. Tôi đang vội nên không có thì giờ căn vặn, chỉ khoát tay: "Mau dọn nhanh để tôi còn mở cửa hàng". Chị ta cuống cuồng lay lay đống chăn. Một đứa bé còn đang ngái ngủ phụng phịu ngồi dậy. Chưa đến giờ nhân viên đến làm việc, nên thấy tôi vất vả, chị ta ra tay giúp đỡ. Xong xuôi, tôi quay ra vẫn thấy mẹ con người phụ nữ ôm đống quần áo tần ngần nhìn ra đường.
Tôi hỏi: "Thế mẹ con định đi đâu?". "Dạ, chúng cháu chẳng biết đi đâu, quê cháu vừa bị bão lụt trôi hết nhà cửa, bố mẹ anh em cũng bị lũ cuốn, chẳng biết ai còn ai mất, may hôm đó hai mẹ con cháu đi chơi bên làng khác nên mới sống sót". Dào, nghe cái luận điệu ấy phát nhàm rồi, bây giờ, cái gì mà người ta chẳng đổ cho bão lụt. Nhưng thôi, nếu chưa có chỗ ở thì tôi cho ngủ tạm ở hè này (cái hè cửa hàng có mái hiên che khá rộng), sáng sáng giúp tôi dọn hàng ra, chiều dọn vào, tôi trả tiền công cho. Thế là chị ta mừng quýnh.
Người đàn bà cùng đứa con gái sau khi cửa hàng đóng cửa là lại lúm xúm thổi lửa nấu cơm. Ăn đâu, còn đâu nắm lại dành cho cả ngày hôm sau. Ra thế nên mới có cơm nắm. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là không phải đồ cơm thừa canh cặn nhặt nhạnh tứ xứ. Mà con tôi thích cũng phải, nó chưa bao giờ được ăn cái món quen thuộc của những người nghèo.
Mải chuyện, tôi chợt thấy một phụ nữ với đứa con gái khoảng 5, 6 tuổi bước vào đến sân. Người đàn bà chỉ trên dưới 30, nhưng trông bầm dập, nhàu nhĩ. "Đúng là mẹ cú đẻ con tiên". Tôi bỗng sực nhớ câu nói lúc nãy của một người hàng xóm đứng hóng chuyện. Nhìn kỹ đứa bé, tôi thấy quả nó xinh thật. Chị phụ nữ dắt con vào đến sân thì đẩy nó ra. Con bé ý tứ lui về một góc hè, nhẫn nại ngồi đợi mẹ dọn dẹp hàng cho chủ. Con bé trông thật đáng yêu, khiến tôi muốn bắt chuyện. "Cháu mấy tuổi rồi?". "Dạ, năm tuổi ạ”. "Cháu đã đi học chưa?". Nó im lặng một lúc rồi lúc lắc cái đầu, đôi mắt trong veo nhưng buồn xa xăm. Tôi không dám hỏi thêm. "Nhà cô ở gần đây, lúc nào cháu sang chơi với con gái cô nhé". Con bé bỗng ngước đôi mắt nhìn tôi rất lạ. Rồi tôi cũng quên bẵng chuyện mẹ con nhà chị làm thuê. Nhưng con gái tôi thì đã trở thành bạn thân của cô bé ấy từ lúc nào. Mỗi khi tôi về nhà, bao giờ cũng nhận ra hình như có ai đó vừa đi khỏi. Tôi hỏi con gái: - Con đưa bạn về nhà chơi à, ai thế? - Bạn Thương, con cô ăn mày. - Thế sao không bảo bạn ở lại chơi nữa. - Bạn ấy sợ mẹ mắng. - Mẹ không mắng đâu, à với lại mẹ bạn ấy không phải người ăn mày. - Mẹ ơi, bạn ấy bảo bạn ấy không có bố, chỉ có mẹ thôi, sao lại không có bố hả mẹ. - Có lẽ bố bạn ấy ở xa mà bạn ấy không biết. - Đêm bạn ấy phải ngủ dưới đất, lạnh lắm mẹ ạ. Con cho bạn ấy ngủ nhà mình được không mẹ? - Cũng được, nhưng liệu bạn ấy có đồng ý không, vì dù sao ngủ với mẹ cũng thích hơn. - Thì cho cả mẹ bạn ấy ngủ nữa. Tôi đành ậm ừ, không biết trả lời ra sao.
Người đàn bà ấy vẫn sáng sáng dọn dẹp cho chị chủ đồ gỗ, rồi dắt theo con đi làm thuê cho những nhà cần giúp việc theo kiểu gặp gì làm nấy. Tối lại dắt con về vỉa hè để qua đêm. Dần dà cũng thành người quen của phố, gặp nhà ai có đám, chị ta đến giúp, công xá không quản, ai đưa bao nhiêu cũng được, có nhà chỉ gói cho vài đồ thừa của bữa tiệc vừa tan, chị ta cũng cảm ơn. Hình như miếng ăn cái mặc cũng đã tạm ổn, nên nom chị ta cũng sáng ra đôi chút. Các nét đẹp tiềm ẩn được đánh thức, khiến không ít cặp mắt đàn ông đánh chéo mỗi khi đi qua. Đứa con gái không phải hằng ngày lẽo đẽo theo mẹ đi làm nữa mà nó đã tự nhiên chơi với bọn trẻ trong phố. Tôi thuê gia sư về dạy con để cháu chuẩn bị vào lớp một, bé Thương cũng được học ké. Tối tối mẹ nó vẫn đón về ngủ nơi góc nhà trong cửa hàng đồ gỗ. Hai mẹ con đã được chủ cửa hàng cho ngủ trong nhà.
Một hôm tôi hỏi: - Sao cô không kiếm lấy một người chồng để có nơi nương tựa, cô còn trẻ mà. Nếu cô muốn tôi sẽ giúp cho. Tôi nói vậy không phải vô tình, vì ông chú họ tôi đang nhờ tôi làm mối cho một người đàn bà để chăm lo cho tuổi già. Ông đã trên 60 tuổi, vợ bị ung thư chết đã mãn tang, con cái ở riêng cả. Một mình ông ở trong căn nhà rộng rinh 3 tầng. Tôi vô tình kể chuyện mẹ con chị làm thuê ở phố, ông ưng lắm, bởi nghe tôi bảo rất siêng năng, chịu khó lại rất biết điều, cả phố ai cũng quý. Thế là ông chú cứ nài nỉ tôi làm mối. Tiền của thì ông không thiếu, chỉ mong người đàn bà ấy đem lại cho ông hạnh phúc.
Sau khi nghe tôi ướm vậy, chị phụ nữ không tỏ ra vồ vập, mà lại buồn bã thở dài: "Dạ, cháu mạt phúc chẳng dám làm phiền ai đâu. Cháu sống thế này để nuôi con là tốt lắm rồi ạ". Tôi cũng chỉ hơn chị ta có vài tuổi nhưng chị cứ xưng cháu với tôi, nhiều khi cũng ngượng, nhưng sau rồi thành quen. Tôi nghĩ chắc chị ta tự ti nên cứ kiên trì thuyết phục. Chứ như hoàn cảnh chị kiếm đâu được một ông chồng còn khỏe mạnh lại có một gia tài đáng giá như vậy, khối gái tân còn mê nữa là... Nhưng chị ta vẫn chối, chính thế tôi càng tin tưởng ở phẩm chất của người đàn bà này nên kiên trì để gắn kết cho ông chú họ tôi, khỏi rơi vào tay một kẻ đào mỏ nào đó.
Thuyết phục bằng viễn cảnh sung sướng không ăn thua, tôi chuyển sang chuyện đứa con để đánh vào điểm yếu của chị ta. Nào là, nó sẽ có cha có mẹ, có nhà cửa đàng hoàng, còn học hành tương lai nữa chứ. Mỗi lần nghe thế, chị lại ngồi ngẩn ra, im lặng. Thế là tôi thông báo cho ông chú họ. Được cái ông chú tôi cũng là tay tinh tế trong tình trường. Một thời gian ngắn, đã thấy chị ta đi lại nhà ông chú, bảo là để dọn dẹp, rồi mẹ con đã nhiều lần ở lại ăn cơm với ông chú. Cuối năm ấy cũng vào mùa cưới như bao đôi trẻ, người đàn bà vô gia cư ở phố tôi lên xe hoa về nhà chú tôi làm vợ.
Tôi mừng cho hai người. Dẫu sao cả hai đều được toại nguyện. Chỉ con bé Thương là buồn, vì chắc nó phải xa bạn thân. Nhưng rồi một hôm, ông chú tìm gặp tôi phàn nàn: "Cô ta còn trẻ mà chẳng mặn mà với chuyện giường chiếu, lại cứ nhất mực đòi dùng bao cao su". Tôi an ủi ông chú: "Chắc cô ấy đã một lần dại dột phải nuôi con một mình nên bây giờ sợ. Vả lại chú cần con cái làm gì, trai gái đầy đủ cả rồi". "Là tôi nghĩ cho cô ấy thôi, có một đứa con chung vẫn tốt hơn". Tôi đem điều này ra khuyên giải chị ta: "Nên có một đứa con chung cho nó gắn bó. Nhà cửa, tiền nong thì ổn cả rồi, mà ông chú tôi còn khỏe lắm". Chị ta nghe vậy chỉ im lặng. Tôi nghĩ chị ta chắc ưng rồi, nên không bàn gì thêm. Bẵng đi một thời gian, tôi bận không đến thăm ông chú, tôi nghĩ chắc mọi chuyện đã tốt đẹp. Vậy mà chủ nhật tới thăm ông chú, vừa vào nhà tôi đã thấy một không khí khác hẳn. Mở cửa cho tôi là một bà già giúp việc chứ không phải chị ta. Bà không trả lời câu hỏi của tôi về vợ ông chú. Chú tôi đang tỉa cây trong vườn. Ông không chào hỏi tôi đon đả như mọi lần mà chỉ gật đầu, rồi lặng lẽ đi vào nhà. Tôi giật mình, biết có chuyện nên bước hấp tấp. Mãi một lúc lâu chú tôi mới thủng thẳng: "Cô ấy bỏ đi rồi... Thật không ngờ. Mẹ kiếp, đúng là phường đứng đường".
"Chú đừng nói vậy, chú chưa biết rõ thực hư thế nào thì đừng đổ oan cho người ta". "Chứ không à, chỉ có loại gái ấy mới dám bỏ con bỏ chồng mà đi theo giai". "Thế con bé đâu ạ?". "Tôi cho thằng cả nuôi rồi, lớn tý nữa là có thể trông em đỡ đần cho vợ chồng nó, đỡ phải mướn ôsin". "Không được, nó không phải người ở". "Thế cháu bảo chú phải làm gì, nuôi báo cô cho con mẹ nó à. Vả lại từ hôm mẹ nó đi, nó khóc cả ngày, không chịu ăn, ai mà dỗ được. Nuôi cho là tốt lắm rồi, mất tiền mua mâm mà có được đâm thủng đâu".
Tôi giận tím mặt, không ngờ chú tôi lại thô bỉ đến thế: "Chú mua mẹ nó chứ không mua nó, mà thực ra... Thôi, chú phải trả lại con bé cho cháu" - Tôi nói rồi vùng vằng bỏ về, trên đường nung nấu ý nghĩ phải cứu con bé. Tôi giả vờ đến nhà chú em họ, bảo đưa con bé đến nhà tôi chơi rồi giữ rịt luôn, không trả về cho ông chú nữa. Vả lại khi chú tôi đến, con bé cứ túm chặt lấy tôi không chịu rời, đôi mắt nó vừa sợ hãi vừa căm hờn.
Tôi được bé Thương kể, đêm nào nó cũng nghe tiếng chửi bới đánh đập của ông bố dượng, và thường là mẹ nó ngủ co quắp trên sa lông phòng khách mỗi buổi sáng. Tôi nghĩ chắc người đàn bà đó bỏ đi vì lý do đó, nhưng vẫn không hiểu nổi sao chị ta lại có thể bỏ mặc con lại một mình. Trong lòng tôi cũng dấy lên nỗi uất ức vì thất vọng.
Tôi chặc lưỡi, trời cho tôi con bé vừa xinh lại ngoan, tôi sẽ nuôi nó như con gái. Nếu một ngày kia mẹ nó quay lại tìm thì tôi cũng sẽ trả như làm một việc phúc đức thôi. Bé Thương đã bước vào lớp một, tôi lên phường làm thủ tục nhận con nuôi và giấy khai sinh cho cháu lấy họ của chồng tôi.
Một hôm, tôi nhận được bức thư không có tên người gửi, dấu bưu điện ở một tỉnh xa lắc. Tôi bóc thư và biết được đó là thư của mẹ cái Thương. Trong thư, chị ta nói rõ đang ở đâu, nhưng không nói nguyên nhân ra đi và đang làm gì. Chị ta có một yêu cầu nhắc đi nhắc lại là tôi phải giữ kín điều bí mật này với tất cả mọi người, kể cả con gái chị ta. Cuối thư chị ta có một yêu cầu khẩn thiết là mong gặp tôi, chị ta sẽ nói rõ tất cả mọi chuyện. Tôi cũng tò mò muốn biết sự thật nên đã lần tìm đến cái địa chỉ mà người đàn bà dặn trong thư.
Đó là một ngôi chùa, nhưng lại rất đông trẻ con. Khi tôi đến, chúng đang chơi đùa trong sân rất tự nhiên, vẻ mặt đứa nào cũng buồn buồn. Té ra khi hỏi tôi mới được biết, đây chỉ là những đứa trẻ nhiễm HIV bị bỏ rơi, hoặc mồ côi cả cha lẫn mẹ. Chẳng lẽ chị ta lại ở đây để chăm sóc những đứa trẻ bất hạnh này mà bỏ lại đứa con đáng thương của mình?
Gặp lại người đàn bà, lòng tôi trào lên nỗi tức giận. Nhưng chị ta thì không giấu nổi vẻ vui sướng. Chị nói chị đã biết chuyện tôi đang nuôi con gái chị nên rất cảm động. Chính vì thế, gặp được tôi chị có cảm giác như được gặp lại con gái mình. Và rồi qua một đêm tâm sự với người đàn bà đó, tôi đã được biết rõ chị là ai.
Tâm - tên người đàn bà đó, thuở thiếu thời là một cô gái chân quê nhan sắc. Cô đã bị một chàng sinh viên thực tập tại làng quê của cô cướp đi cái trinh tiết bằng một tình yêu đầu đời đầy đam mê say đắm. Cô đã ngây thơ đi tìm chàng sinh viên nơi chốn phồn hoa đô hội và hành trang chỉ vịn vào có mỗi lời hứa quá ngọt ngào. Thế rồi cái gì đến phải đến với một cô gái quê non nớt nơi giăng đầy cạm bẫy. Cô biết mình có thai với chàng sinh viên đó nhưng không muốn bỏ đi mà quyết tâm giữ lại. Cuộc đời cô sang trang từ đó.
Bơ vơ chốn thị thành, cô đã phải làm tất cả mọi việc để sinh nhai và lo cho đứa con sắp ra đời. Khi sinh con được một thời gian, cô phải gửi con và bước vào đời làm gái. Lần đó cô được một người Hàn Quốc yêu cầu cô làm gái bao cho ông ta trong thời gian ông ta làm việc tại Việt Nam. Cô được nuôi con trong nhà của ông ta, được ăn ngon mặc đẹp, tiện nghi đầy đủ, chỉ phải phục vụ ông ta mỗi đêm và lo những bữa ăn tối theo yêu cầu thực đơn của ông. Tâm cảm thấy như vậy cũng ổn, cho đến một buổi ông ta tuyên bố chấm dứt hợp đồng để về nước trước dự định. Tâm không bị bất ngờ cho lắm vì điều này cô đã xác định từ trước, nhưng điều bất ngờ nhất, một bất ngờ choáng váng là một người bạn Việt của ông ta đã báo cho cô biết ông ta vừa đi khám bệnh và nhận được xét nghiệm bị HIV.
Tâm bỏ chốn phồn hoa đô hội dắt díu con đi khắp các tỉnh để làm thuê và dạt đến cái phố nhỏ của tôi. Cô kể rằng cô không muốn lấy chồng vì không muốn đổ bệnh cho ai, nhưng vì hám một tương lai ổn định cho con gái nên đã đồng ý về ở với ông chú tôi. Đêm tân hôn hôm đó thật bão táp vì cô đã kiên quyết bắt ông phải dùng bao cao su. Ông không chịu và đã đánh cô ngay đêm đầu tiên, rồi nhiều đêm sau nữa, cũng chỉ vì điều đó. Thực ra cô bỏ đi cũng hoàn toàn không phải vì điều đó, có điều cô đã nhầm khi hy vọng ông sẽ thương con cô.
Tâm ngậm ngùi nói trong nước mắt: "Bây giờ, chị là ân nhân của em, rồi ở thế giới bên kia em sẽ phù hộ cho chị. Em sẽ được chôn cất ở đây, sẽ được chăm sóc và hương khói. Em chỉ mong một điều: Con em sẽ quên em và nó sẽ không bao giờ được biết về quá khứ của mẹ nó. Nó sẽ không bao giờ được biết nó là con của một cô gái mại dâm và bị nhiễm HIV. Chị sẽ gột sạch gốc tích của con em. Chị nhé!".
Con bé Thương bây giờ đã 18 tuổi, nó hầu như đã quên hẳn người mẹ đẻ của nó mà nó vẫn âm ỉ oán giận. Nó yêu thương tôi như mẹ đẻ cũng như tôi đã yêu thương nó thật lòng. Sắp tới, nó đang chuẩn bị đi dự thi hoa khôi của tỉnh và theo như nhiều người tiên đoán, con bé còn đi xa nữa, vì một vẻ đẹp hút hồn đến ma mị. Tôi canh chừng con bé Thương như báu vật, bởi tôi sợ một phiên bản có thể xảy ra. Nhưng trước khi con nuôi tôi bước vào cuộc thi, tôi đã nhiều đêm mất ngủ. Không phải vì lo cho con không được giải mà vì tôi nghĩ đến một ngôi mộ nằm khô lạnh trên một quả đồi nơi miền xa thẳm ấy.
Sáng nay, mẹ con tôi đã lên đường. Thương không hiểu được vì sao tôi lại rủ nó đi thăm một người bạn của tôi ở một tỉnh xa tít như thế. Nhưng nó không căn vặn vì nó vẫn thường nghe lời tôi. Qua cửa sổ con tàu, phóng tầm mắt về phía những dãy núi xa mờ, tôi thì thầm: "Tâm ơi, tha lỗi cho tôi, tôi phải đưa con gái chị đi gặp mẹ đẻ của nó để nó phải biết được nó có một người mẹ đẹp đến nhường nào
Chuyện chưa kịp kể
Mấy hôm nay, thiên hạ chưa ngớt bàn tán về cái chết của lão Hợi. Lão nằm chết cứng queo qua một đêm ngay trước cổng nhà lão, trên tay còn cầm chặt chiếc dép nhựa tổ ong với gương mặt tức tưởi. Có người độc mồm bảo lão bị ma bắt...
Những ngày nghỉ, Lân thường tạt qua nhà hàng xóm chơi, lúc hầu bác Tài ván cờ tướng, lúc bàn chuyện xe pháo thời thượng với mấy ông đồng niên… Lân quan hệ hàng xóm cũng là vì sắp lên chức đến nơi. Hàng xóm biết mặt thật, nhưng người ta có nhắc đến với vai trò đảng viên quan hệ tốt với quần chúng nơi cư trú không lại là nhẽ khác. Chính cái lão Hợi là cái lão phức tạp nhất ở khu xóm này. Từ vài tháng nay, lão bị ma quấy quả, không ngủ được nên người gầy xọm đi. Đi ngủ làm một cút tửu mà ngủ cũng chẳng yên, hễ đặt mình là lại nghe thấy tiếng ném gạch, sỏi trên mái nhà. Lão tỉnh dậy, bước ra sân nghe ngóng thì tiếng động lại im bặt. Vợ lão đi xem bói, thầy bảo về sắm lễ rồi tạ đất, tạ mộ cho cẩn thận sẽ qua.
Mụ vợ vốn là người không tín và cũng ít cúng bái, lại tiếc tiền mời thầy về cúng, sắm lễ như thầy dặn. Được một tháng nay yên ổn, giờ ma nó lại đến hành. Mà chỉ hành mỗi lão thôi mới nhục chứ. Lão gọi mụ dậy nghe ngóng. Mụ ngái ngủ ngáp liên tục, ra sân nhòm ngó rồi chửi đổng mấy câu cho lão yên lòng. Có hôm, mụ tè một bãi ra sân, vặt cành dâu rẩy khắp sân rồi quay vào bảo lão: "Đầu ông có lẫn không đấy! Nốc rượu cho lắm vào mà thần kinh rồi đấy!".
Nói xong, mụ tếch lên giường, đánh một giấc đến sáng nhẹ tênh. Sáng dậy, cắp làn đi chợ đến trưa mới về. Mụ cứ béo phây phây ra, còn lão cứ còm cõi đến nhược người.
Đến cái hôm rồi, lão nghe rõ có tiếng người đàn bà bế con khóc nỉ non ở đầu cổng nhà lão. Lão bước ra quát tháo, chửi bới thì lại im lìm chỉ có tiếng gió đưa đẩy mấy cái cây cảnh trước sân. Lão lại gọi mụ dậy. Mụ ờ ờ, dụi mắt, nghe ngóng. Lại có tiếng "cạch" một cái từ phía sau nhà. Lần này thì vợ lão cũng nghe thấy thật. Mụ lồm cồm ra khỏi màn, thắp nén hương rồi lầm rầm khấn.
Sáng hôm sau mụ đi tìm thầy xem xét. Thầy phán: "Hồi trẻ, ông nhà bà có ăn nằm với một người đàn bà, khiến người ta mang bầu rồi bỏ chạy. Thế là mẹ con nhà người ta uất quá tự vẫn. Giờ mẹ con người ta về hành đó thôi!". Nói xong, mặt thầy lạnh te…
Vừa thương chồng vừa nhen lên lòng ghen tuông, mụ trở về hỏi dồn lão có chuyện đó không? Lão ú ớ bảo không nhớ được. Mụ càng điên tiết…
*
Hồi hai nhà chưa kín cổng cao tường, nhà Lân và nhà lão Hợi cũng chung một một hàng rào găng gai.
Lão Hợi là người cần mẫn nhất xóm. Việc đồng áng nặng nhọc trông cả vào tay lão. Vợ lão chỉ dược cái "giỏi đẻ". Năm con "vịt giời" liền tù tì, lại thêm mấy bận sảy thai. Có lần bên này rào, Lân nghe rõ cô dân số xã đến vận động, lão cười hơ hớ: "Ơ hay! Đẻ là việc của nhà tôi, chả ảnh hưởng gì đến các anh các chị sất!". Bất ngờ lão vỗ mông cô cán bộ trẻ: "Ngon vậy, đẻ giúp anh thằng cu". Cô này kêu oai oái, xấu hổ tím mặt.
Nhớ lần bên nhà lão có tiếng léo nhéo vui vẻ. Lân nghiêng mắt nhìn qua hàng rào, thấy cái Thêm đặt rổ rau lợn xuống thềm, tay xách con ếch lên khoe:
- Thầy ơi, con ếch này làm thế nào thầy?
- Ờ, béo phết đấy, làm chả với lá lốt con ạ.
Lúc sau, mùi chả ếch nướng lá lốt toả sang thơm nức đến phát thèm. Lát sau, nghe cái Thêm thút thít:
- Con ếch đó là con bắt về chứ, thầy ăn hết rồi!
- Thôi con ạ, thầy mày đang uống rượu...
Dưới chân hàng rào cắm thêm cành dâu từ bao giờ đã lên xanh và ra quả chín. Mùa dâu chín đến bất ngờ. Những quả dâu đầu tiên như con sâu xanh rồi rụng tua phấn, ngả sang màu trắng rồi ửng hồng, chín thẫm. Bọn trẻ hai nhà thi nhau ra vặt ăn không hết. Từng cái lưỡi sẫm đỏ vị ngọt chua của dâu, gặp nhau lại trò chuyện vui như sáo. Bố Lân mang về mấy cân đường, mẹ làm si-rô dâu ngon lắm. Nước dâu ngọt uống sướng tận cuống họng. Có đôi khi uống xong, liếm mép còn thấy vị chua thanh ngòn ngọt. Cứ đợi bố mẹ đi vắng, mấy anh em Lân mới chắt ra cái bát. Cả bọn xì xụp chơi trò bán hàng nước. Tiền bằng lá cúc tần mua nước si-rô. Chỉ loáng một cái bát nước si-rô đã hết. Trong tay em gái Lân chỉ còn toàn lá cúc tần. Nó cầm cái bát nhẵn thín, chưng hửng, tiếc rẻ. Bà mẹ biết chuyện mắng cho mấy đứa con dại khờ một trận, cấm không cho chơi với mấy đứa con nhà lão Hợi khôn vặt, láu cá.
Ruộng nương mãi chẳng đủ ăn, lão quyết đổi sang nghề đi mua đồng nát. Lão đứng đâu là cả đám trẻ con tụ tập vây quanh đó. Đứa nào cũng có vài thứ chìa ra cho lão. Đầu quấn chiếc khăn đỏ, bụng buộc ngang lưng chiếc khăn len, tay cầm kiếm múa liên hồi, khi dừng miệng hát những điệu chèo cổ, lão hát đi hát lại đến mức bọn trẻ chẳng hiểu đó là tích chèo nào nhưng đều thuộc: "Tạo hoá xoay vần í i/ Qua cơn bĩ cực, có ngày thái lai/ Trời chung trời chẳng riêng ai/ Vun trồng cây đức ắt tài nên nhân/ Hễ ai có phúc có phần/ Giầu nghèo tại số, gian truân bởi trời...ớ ơ...".
Bọn trẻ khoái chí vỗ tay ầm lên. Chỉ cần lão xuất hiện ở đầu phố, lũ trẻ lếch thếch cắp theo những đứa em nhỏ bên sườn kéo đến, dù không bán gì nhưng được một chầu xem chèo hả hê. Người lớn nhìn lão múa may mua vui cho đám trẻ con, đều lắc đầu. Có người độc mồm bảo lão bị ma ám, bởi lão từng bị chết ngất ở một bãi tha ma cuối thị trấn vì rình bắt một con cú mèo... Cũng lại có người ra vẻ đầy am hiểu, bảo lão bị say nắng thôi mà.
Chỉ khổ nhà Lân, vào những ngày nắng, lão đem lông ngan, lông vịt ra phơi, bốc mùi khum khủm không chịu nổi.
Chuyện đó qua rồi. Trẻ con hai nhà lớn tướng cả. Lũ "vịt giời" nhà lão cũng bay đi hết.
Đất đai nhà lão rộng rãi lắm. Lão về khai hoang khu đất này sớm nhất nên vây đất tha hồ. Giờ người ở đâu ùn ùn kéo đến chật hết cả xóm. Lão bán đất và rủng rỉnh tiền tiêu.
Hồi mới có tiền, lão sang bàn với gia đình hàng xóm việc xây tường rào.
Từ đó, hai nhà cách biệt nhau bằng bức tường.
*
Mấy hôm nay, thiên hạ chưa ngớt bàn tán về cái chết của lão Hợi. Lão nằm chết cứng queo qua một đêm ngay trước cổng nhà lão, trên tay còn cầm chặt chiếc dép nhựa tổ ong với gương mặt tức tưởi. Có người độc mồm bảo lão bị ma bắt.
Lân là người nán lại cuối cùng trong số những người hàng xóm tiễn đưa lão đến nghĩa địa. Bên nấm mộ vừa đắp xong, bà Hợi đang đốt mấy bộ quần áo tơi tướp, cả cái sọt tre sắp mục nát. Gạt cái đuôi xe honđa bằng giấy cho cháy hết, bà sụt sùi lẩm bẩm: "Ông ơi, tôi gửi cho ông cái xe này, có nhớ nghề đi cho đỡ khổ ông ơi...". Khi mọi thứ đã hóa tro bụi, lả tả theo gió về cõi âm, có một vật không thể cháy hết, nó quăn cục lại, lăn lộn, sùi nhựa khét lẹt. Đó là đôi dép lê cáu bẩn.
Cái đôi dép nhựa nặng trịch mà cách nay mấy đêm, Lân đã chứng kiến lão cay cú ném qua cổng sắt nhà lão, nhằm cánh cửa kính kêu đến uỳnh!... Lân lại tần ngần trước những khoảnh hàng rào bằng cúc tần, râm bụt khoanh lại những ngôi mộ đã xây và ngẫm đến chuyện thế gian, đến nguyên do cái chết của lão mà thăm thẳm trong lòng Lân có một điều bí mật chưa kịp nói với lão…
Chiều ấy, tan sở, Lân ngồi lai rai với mấy thằng bạn học cũ, trong đó có Tâm làm công an. Nó hào hứng kể về vụ phá án tháng trước. Tội phạm bây giờ có kiểu hoạt động rất tinh vi. Chúng có đường dây móc ngoặc với nhau hẳn hoi. Đêm, đợi đến thời khắc người ta ngủ say, chúng bắt đầu ném sỏi lên mái nhà, vào cửa, tạo tiếng động thăm dò chủ nhà. Chủ nhà ngó nghiêng một lúc, thấy không có động tĩnh gì, quay vào ngủ tiếp. Nắm bắt được tâm lý của chủ nhà đã mệt và cũng chả thèm để ý gì đến tiếng động nữa, chúng bắt đầu hành động. Lân liên tưởng: Nhà lão Hợi mang tiếng giàu, lại chỉ có hai ông bà già, nên chắc bọn trộm tìm cách phao tin nhà có ma. Có điều, vì vợ chồng lão Hợi thuộc dạng khó ngủ, lại kẹt xỉ nên chúng khó moi tiền cúng bái, đành "bó tay chấm com" mà thôi.
Lân định bụng hôm sau sẽ sang nhà lão Hợi nói chuyện về thủ đoạn mới của bọn trộm, cốt để lão quên đi chuyện "con ma" mà lão hình dung.
Vừa về tới cổng, Lân chạm mặt lão Hợi. Lão loạng choạng đi về trong cơn say. Thoáng thấy bóng Lân (chắc lão nghĩ là…ma), lão hậm hực khom người xuống, rút chiếc dép nhựa nặng trịch giơ lên, lùi lấy đà. "Vút, binh!". Vài giây sau vẫn chưa có động tĩnh gì, lão cúi xuống rút nốt chiếc còn lại... Còn Lân, người dựa vào tường, cái xe đổ đến ruỳnh. Lân lảo đảo trong lơ mơ. Kệ thôi, cho nó đổ. Việc quan trọng là phải móc ra được cái điện thoại, bấm số ưu tiên bằng một phím cố định. Nhưng màn hình vừa lóe sáng đã vụt tắt ngúm. Lân cố nhấn thêm vài lần khởi động nữa, cuối cùng chỉ hiện được dấu chấm than hết pin! Sau đó Lân choáng váng, không còn nhớ mình đã vào nhà bằng cách nào. Và đó là lần cuối Lân gặp lão, chưa kịp nói về con ma ám lão thì lão đã ra… ma
Vợ chồng cọc cạch
Đối với thành phố thì họ là một cặp vợ chồng rất kỳ quặc: vợ thì to đùng còn chồng thì nhỏ thó. Nhưng họ sống ở nông thôn, nơi mà sự tương phản ấy không gây nên ấn tượng đặc biệt nào ở những người đàn ông vốn thích chọn vợ có thể cùng một lúc đảm đương mọi phận sự: vừa nội trợ, vừa phục dịch chồng, vừa nuôi con.
Chính Masa là một người vợ như vậy. Nàng lực lưỡng, cao lớn, hồng hào và mắn đẻ. Nàng dậy từ lúc gà gáy và làm quần quật suốt ngày; nào cuốc xới vườn tược, nào vắt sữa bò, nào hầu hạ chồng, nào chăm sóc năm đứa trẻ.
Thế mà nàng vẫn luôn bị chồng, một anh chàng cục mịch, làm thì qua quít mà nốc rượu thì tì tì, đánh đập liên hồi. Vợ chả có tội gì cũng bị ăn đòn. Chẳng qua để cốt chứng minh rằng anh ta là một gã mugich mạnh mẽ! Thế thôi. Còn Masa thì nhẫn nhục chịu đựng cách "âu yếm" của chồng vì cho rằng cần phải thế.
Và họ đã sống với nhau như vậy suốt mười năm trời và sẽ tiếp tục sống kiểu ấy nếu như không xảy ra một sự việc. Mà sự việc là như thế này: Có một đoàn xiếc đến biểu diễn ở vùng khỉ ho cò gáy của họ. Toàn thể bà con dân làng nô nức đi xem. Buổi biểu diễn thật là vui. Trẻ con thích thú la hét ỏm tỏi và ôm bụng mà cười vì những trò của mấy anh hề mặc những bộ quần áo sặc sỡ. Còn cánh đàn bà thì nín thở theo dõi chàng lực sĩ dám bạo gan thò đầu vào tận miệng con sư tử khổng lồ. Sau đó chàng diễn viên dạy thú điển trai đánh vật với một con gấu nâu đồ sộ. Cánh đàn ông thì đố nhau xem ai thắng ai và đặt cược một chai rượu Vodka loại xịn. Mấy cô thôn nữ xì xào bàn tán và lo sợ cho tính mạng của chàng diễn viên. Nhưng thú và người đã được tập luyện kỹ càng. Chàng lực sĩ tất nhiên là đã thắng. Anh ta đến bắt tay con gấu kếch xù và đề nghị những chàng trai làng ra thử làm một keo vật với chú gấu. Cánh nam giới không hiểu sao lại lặng im như thóc và cụp mắt xuống đất. Còn mấy ả thì chằm chằm nhìn vào gáy bọn đàn ông.
- Không có ai tự nguyện à? Vậy người nào dám "xung phong" thì sẽ nhận được số tiền thưởng là 100 rup - Chàng diễn viên xiếc nhử đám khán giả. Tất cả mọi người ồ lên vì kinh ngạc khi thấy Masa xắn tay áo, thổi lọn tóc màu nâu xõa xuống trán, rồi hăng hái tiến lại phía đối thủ bốn chân. Và thế là cuộc đọ sức bắt đầu. Có lúc con gấu nằm đè lên trên, có lúc Masa hất được nó xuống. Masa là một phụ nữ đẫy đà nhưng nhanh nhẹn. Nàng loay hoay "tay bo" với con gấu một hồi và cuối cùng dùng mẹo quật đối thủ ngã chổng kềnh. Tiếng vỗ tay nổi lên như sấm. Mọi con mắt ngưỡng mộ đều hướng về người phụ nữ nông dân bình dị. Chàng diễn viên dạy thú không còn cách nào khác là trao cho người thắng cuộc tờ giấy bạc 100 rup, một số tiền không phải là nhỏ đối với nông thôn thời bấy giờ.
Sau buổi biểu diễn, đoàn xiếc rời khỏi địa phương và hai vợ chồng lặng lẽ trở về nhà: chồng thì nhỏ thó, vợ thì to đùng. Và hôm nay anh chồng rất đỗi tự hào về cô vợ khỏe mạnh, đường bệ và xinh đẹp của mình. Ở nhà, anh ta mới ngỏ lời với vợ: "Ôi Masa yêu quý, không biết bao nhiêu lần tôi đã tẩn bu nó thế mà bu nó không lần nào đánh trả". Cô vợ cúi đầu khẽ đáp: "Em có thể giáng trả mình lắm chứ, nhưng em thương đàn con, nhỡ chúng trở thành bồ côi bồ cút thì thật là tội nghiệp".
Rất có thể ở thành phố họ bị coi là một cặp vợ chồng kỳ quặc, nhưng hai người lại sống ở nông thôn
Nhà tù của mẹ
Hắn mò về nhà trong một đêm tối trời, mưa lây nhây. Con chó thấy bóng người hực lên một tiếng, chực sủa. Nhận ra chủ, nó rít lên mừng. Cái điệu mừng rít của nó ngày trước vẫn làm hắn bực thì lúc này, hắn thấy thật hữu ích bởi hắn đang cần kín tiếng.
Mẹ hắn lập cập mở cửa ngay sau khi hắn cất tiếng gọi lần thứ hai. Thấy hắn, bà khuỵu hẳn xuống. Hắn vội phủ phục trước bà: "Con lạy mẹ, mẹ tha tội bất hiếu cho con". Như sực tỉnh, người đàn bà nhanh chóng trở về vai trò như một mái mẹ có trách nhiệm phải bảo vệ đứa con yêu bằng mọi giá. Bà kéo hắn đứng dậy, đẩy nhẹ vào trong, nói như mệnh lệnh: "Đi vô, nhanh!" rồi ló đầu ra ngoài dáo dác nhìn. An tâm, cảnh diễn ra nơi khung cửa nhà bà vừa rồi chỉ có hai mẹ con, con chó và màn đêm chứng kiến. Bà đóng kín hai cánh cửa còn cẩn thận lắc lắc rồi mới quay vào.
Hai mẹ con hắn đã qua cơn xúc động. Tình thế lúc này không cho phép người ta xúc động lâu mà phải tỉnh táo để xử trí. Vẫn không bật đèn. Mưa chuyển sang nặng hạt, bầu trời như sà thấp xuống để dòm ngó và hóng hớt một câu chuyện cỡ thâm cung bí sử đang xảy ra trong nhà. Căn nhà tối đen, cảm nhận rõ nhất là hơi thở và hơi ấm từ hai con người. Mẹ hắn đến, rờ nắn hắn, bờ vai, khuôn mặt, mái tóc, cẳng chân, cẳng tay, tất cả đều lành lặn và trọn vẹn như sản phẩm bà rút ra từ ruột mình ba mươi năm về trước.
- Con về thăm mẹ, ngủ ở nhà với mẹ một đêm, thấy được mẹ rồi, con yên tâm ngày mai ra đầu thú. Con không chịu nổi đời sống trốn chạy, chui rúc nữa mẹ à - Hắn lên tiếng sau cú nuốt ực cục nghẹn dâng trong cổ.
- Đầu thú? - Mẹ hắn hỏi lại trong trạng thái như vô thức.
- Con biết, con không thể tiếp tục trốn chạy. Chịu tội sớm con sẽ về sớm phụng dưỡng mẹ. Con lạy mẹ, mẹ tha tội bất hiếu cho con - Hắn lại hực lên, tuột xuống ghế, vái mẹ như tế sao.
Trong bóng tối, hắn thấy rõ đôi mắt người mẹ rực lên: "Ra đầu thú, có phải ngồi tù không con?". "Dạ có". "Không!" - Người đàn bà dứt khoát dằn mạnh tiếng - "Con không thể là thằng tù, con không được là thằng tù. Cứ trốn tạm trong nhà, để dài dài mẹ tính".
Mẹ hắn, người đàn bà quê mùa, góa chồng năm ba mươi tuổi tần tảo nuôi thằng con trai duy nhất ăn học thành người. Hắn luôn là niềm tự hào của mẹ. Gần chục năm đi làm, con đường kiếm ăn của hắn lên như diều gặp gió, hắn mở công ty, mua nhà mặt phố, đổi xe theo mốt, sống thử cùng cô bạn học từ thuở hàn vi. Hắn sửa lại căn nhà cấp bốn cho mẹ; tháng gửi về dăm, mười triệu đồng để yên tâm với chữ Hiếu và xả thân với cuộc sống thị thành.
Hắn đã trốn chạy tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cùng với giỏ tiền, hắn lên một phố cao nguyên. Người nắm vững các nguyên tắc về điều tra hình sự như hắn biết cách không để lại dấu vết trên con đường trốn nợ của mình. Hôm nay, hắn lén về thăm mẹ, mong muốn nói với mẹ những lời tạ lỗi rồi ra đầu thú. Nhưng hắn không ngờ sự việc lại diễn ra theo chiều hướng này. Thôi, mẹ đã quyết vậy, cũng đành ở lại ít bữa rồi tính.
Hắn được mẹ sắp xếp cho ở trong gian phòng vốn dĩ được thiết kế như một kho nhỏ. Đây là căn phòng trong cùng, tối và ít dưỡng khí.
Một tuần.
Hắn lôi rượu ra uống. Ba tháng trốn chạy, đây là lần đầu hắn uống rượu. Rượu người hứa hôn đầu đời của hắn giả lễ. Hai hôm sau ngày hắn về nhà, nàng đến. Nàng ngồi bên mẹ cả giờ đồng hồ. Hai người đàn bà ngồi khóc, khóc tiễn đưa một mối quan hệ ràng buộc mà theo quan niệm dân gian, nàng đã kết thúc một đời chồng. Và hắn đã là người đàn ông không vợ.
Mười ngày đã trôi qua.
Hắn đọc hết cả đống sách có sẵn trong nhà; đọc đến cả những cuốn sách giáo khoa ngày xưa. Hắn chỉ dám mò ra ngoài lúc đêm, gian hơn cả kẻ trộm vì hắn sợ… trộm thấy. Trộm quê là trộm quen, không chừng thấy cái dáng lù lù của hắn, trộm còn la lên báo Công an đến xích cổ hắn lại. Mười ngày, bao nhiêu phiền phức đã phát sinh từ chuyện hắn trốn biệt trong nhà
Hắn sống như con chuột chũi. Không, hắn sống tệ hơn con chuột chũi, không được ra ngoài, thậm chí không mon men ra đến cửa sổ. Sống trong phòng kín nhưng nhiều khi không được thắp đèn. Tivi, đài được mở thật nhỏ. Xem đá bóng không được la. Biết có người đến nhà mà không được chào hỏi, chuyện trò. Hắn đi vệ sinh ra bô rồi mẹ hắn đem đổ như hồi hắn là trẻ con. Chao ôi là nhục nhã.
Có lần hắn bị bệnh, cái cần cổ ngứa rát như có ai cột chùm bùi nhùi đặt vào cuống họng rồi kéo lên, kéo xuống. Hắn thèm được ho, ho rũ rượi cho đã, nhưng phải kìm lại. Trời ạ, hắn không thể tưởng tượng có ngày thèm ho mà không được ho. Hôm ấy đại diện nhiều ngành trong xã đến thăm và động viên mẹ hắn. Người ta phát hiện ra cái quần cụt và cái áo ba lỗ của hắn được phơi toòng teng trong góc khuất nhà tắm. Người ta xót xa cho người đàn bà phải mang quần áo con ra phơi cho đỡ nhớ và phải mở các phương tiện nghe nhìn với âm lượng thật lớn cho nhà có tiếng người…
Ngoài mẹ, con chó cưng là thực thể thứ hai biết bí mật trong ngôi nhà của hắn. Nó được mẹ hắn đưa về từ phố sau khi người ta niêm phong ngôi nhà. Con vật khôn lạ. Nó nhanh chóng hiểu và thích nghi với nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống thậm thụt thập thò của ông chủ. Nó biết chạy vào phòng, dùng mõm dụi vào hắn, báo khi có khách đến nhà; nó nhăm nhăm đứng canh nơi khung cửa không cho bất cứ ai bước qua nếu như mẹ hắn chưa mời; nó biết khóc, bỏ ăn suốt mấy ngày khi nàng đến. Nhiều lúc nó vào an ủi hắn theo cách của một con chó. Tất cả lỗi là do hắn, hắn độc ác và tàn nhẫn đến nỗi bắt cả con chó cũng phải buồn.
Thân hình của hắn bắt đầu phình ra. Hắn biết, riêng chuyện mẹ hắn mua và chế biến thực phẩm phục vụ con trai cũng không giản đơn. Bà đổ lỗi cho con chó ăn khỏe mỗi khi ai đó vô tình hỏi tại sao bà nấu nồi cơm to còn đồ ăn lại tươm tất đến vậy. Ra để hắn có đủ lượng dinh dưỡng mà tồn tại với đời, hắn phải mượn danh sức ăn của một con chó! Và ý định đầu thú lại cồn cào trong người hắn.
Hai tuần.
Không lẽ hắn sống mãi như vầy? Hắn thèm khí trời, thèm mưa, thèm nắng, thèm điện thoại, thèm Internet, thèm đủ thứ, thèm lắm lắm rồi. Mẹ ơi, con sợ con làm liên lụy đến mẹ mất.
Hai mươi ngày.
- Mẹ ơi, cho con ra đầu thú nha mẹ! Con hành hạ mẹ nhiều quá rồi.
- Nhưng dòng giống nhà mình không thể có kẻ ngồi tù. Mẹ sẽ chết mất nếu con ra đầu thú. Mẹ sẽ chết mất nếu người ta đến còng tay con. Con đừng ra đầu thú, mẹ van xin con đấy, mẹ cấm con đấy. Cứ để đấy, dài dài mẹ tính.
- Mẹ ơi nhưng con mẹ nhất định phải ngồi tù. Mà mẹ cực khổ nuôi con sống kiểu này, con có khác thằng tù được nuôi là bao nhiêu?
Hắn sẽ trốn đâu, làm gì nếu không tiếp tục sống như vầy. Hắn không quen làm việc nặng nên giải pháp đến một vùng đất thâm sơn cùng cốc để khai hoang tạo dựng cuộc sống mới là điều không thể. Đến một thành phố đông đúc nào đấy trà trộn vào đám công nhân cũng không được vì hình ảnh tên lừa đảo là hắn đã quá quen thuộc với mỗi cán bộ cỡ tổ trưởng tổ dân phố trở lên. Ra nước ngoài sinh sống, hắn không thể bỏ quê cha đất tổ, bỏ người mẹ già tận tụy, bỏ người cha liệt sĩ hy sinh nơi biên giới Tây Nam luôn nhìn hắn cười nghiêm nghiêm giữa nghi ngút khói.
Nhưng ra đầu thú, đi ở tù, nghĩ đến đó hắn thấy rùng mình.
Hắn hiểu rõ thế nào là kiếp tù. Hắn đã quá say máu, quá điên cuồng với khát vọng làm giàu: cổ phiếu, đất đai, vay nóng... Với tất cả, hắn đều thất bại; tất cả diễn ra trong cùng một thời điểm. Hắn tính, tỷ mẩn tính xem mình còn gì, mất gì..
Hắn mất hết tiền, mất bạn bè, những mối quan hệ, uy tín bản thân và uy tín của những người cùng nghề. Hắn còn làm tổn thương đến lòng tự hào của dòng họ, của ngôi làng, của mái trường nơi đã ghi dấu hình bóng hắn. Hắn còn mẹ, đó là tài sản lớn nhất, mà cũng có thể hắn vẫn còn nàng. Trong lúc tu ừng ực chai rượu thứ hai, nghe rõ đường đi của thứ chất lỏng chạy rân rân trong mạch máu, hắn nghe rõ tiếng nàng, mồn một bên tại: "Nếu như anh ấy dũng cảm ra đối mặt với lỗi lầm của mình, con vẫn lại là dâu con trong nhà và đợi chờ anh ấy". Chao ơi tình yêu của đàn bà.
Nhưng lần nào hắn quyết cũng là lần mẹ hắn quỳ mọp dưới chân hắn để van xin và cũng để ra lệnh: "Để dài dài mẹ tính".
Nhưng mẹ tính được gì, hắn tính được gì.
Hắn vẫn nhớ như in lần mẹ hắn làm dữ với ông Trưởng Công an xã khi ông khuyên bà nếu thấy hắn nên thuyết phục ra đầu thú. Bà cho rằng con bà tội gì phải trốn; con bà đang làm ăn xa để kiếm tiền trả nợ người ta; rằng con trai bà nhất định sẽ thành công bởi lẽ nó đã từng gây dựng cơ đồ từ hai bàn tay trắng. Hắn đã rập dầu vào tường, mong nó vỡ ra để không nghe, không nhớ, không biết.
Ôi, lòng mẹ!
Có lần mẹ hắn lên cơn sốt cao. Toàn thân bà hầm hập nóng, có những biểu hiện chuẩn bị cho một cơ co giật. Nhưng cặp mắt bà vẫn nhìn hắn, đầy uy quyền và quắc sáng: Mẹ sẽ tự xoay xở được, rồi mẹ sẽ hết bệnh, con không được phép đi ra ngoài; hãy nhớ, con không được phép ra ngoài. Và hắn tiếp tục thu vào trong phòng để những người hàng xóm tốt tính đến chăm sóc mẹ. Người ta xót xa người đàn bà góa có con mà cô độc. Người ta an ủi bà nhưng nói khéo thế nào vẫn thấy tổn thương. Sao hắn hèn mọn thế, sao hắn tệ bạc thế, và sao hắn nghe lời mẹ một cách mê muội thế.
Sắp được một tháng. Hắn ăn không thấy ngon nữa, cái miệng đắng nghét, còn mái tóc đã chuyển sang muối tiêu.
Mẹ ơi, sống mãi như vầy con sẽ thành một thằng điên mất! Mẹ ơi, con cũng đang bị bỏ tù nhưng trong nhà tù của mẹ. Nhà tù không bị đói, bị lạnh, bị nóng; không có đại ca, đại bàng, chỉ có Tòa án lương tâm ngày nào cũng triệu con ra phán xét. Mẹ ơi, con hiểu mẹ làm như vầy chỉ bởi yêu con.
Ừ, con trai lớn mà lúc nào cũng mẹ à, mẹ ơi!
Có những lúc giật mình thức giấc, hắn thấy mẹ ngồi bên chăm chú nhìn hắn, ánh nhìn vừa lạ, vừa quen. Giá như hắn và nàng có một đứa con, hẳn trong cơn sóng gió này mẹ hắn sẽ đỡ chông chênh. Mẹ ơi, mẹ giận con nhiều lắm phải không mẹ? Thôi nào, con trai mẹ phải vững vàng; con trai mẹ không được khóc.
Mẹ thương con, mẹ che chở cho con. Mà cũng vì thương con, cho con ra đầu thú nha mẹ!
Lần đầu tiên hắn được thấy những giọt nước mắt của mẹ. Nhưng hắn hiểu, điều đó vẫn chưa đồng nghĩa với việc mẹ đồng ý cho hắn ra đầu thú.
*
Có lẽ mẹ con hắn cần phải cảm ơn con rắn. Buổi sáng, khi còn lơ mơ, hắn thấy một hình thù dài nhằng, lớn cỡ ngón tay cái, màu xanh biếc trườn vào cửa sổ để ngỏ. Rắn lục! Bản năng sinh tồn lấy hết ý tứ trong con người hắn; hắn rú lên như đứng trước thảm họa. Đây là loài rắn cực độc rất khó nhận biết của vùng rừng núi. Căn phòng nhỏ, một cánh cửa thoát hiểm duy nhất, không có vật phòng vệ, tình huống quá bất ngờ. Không thoát ra ngoài đồng nghĩa với chịu chết. Con vật dài nhằng, xanh biếc đang le le cái lưỡi chẻ đen sì trêu ngươi hắn. Là con nhà nông nhưng hắn chỉ biết có ăn học. Trước những tình huống loại này, đám bạn quê của hắn sẽ dễ dàng vờn với con vật, nắm đuôi, xoay tròn và đập mạnh xuống đất. Nhưng với hắn thì khác; hắn chỉ được dạy cách phân biệt nguy hiểm và không nguy hiểm bởi người thầy dạy là mẹ, một người đàn bà lúc nào cũng nơm nớp sợ mất con. Không có thời gian để do dự, quần đùi, mình trần trục, hắn lao ra khỏi phòng. Ra đến phòng khách, vẫn trong khu vực bí mật nhưng nỗi khiếp sợ không cho phép đôi chân hắn dừng lại, hắn tiếp tục lao ra sân, trong khi miệng vẫn không ngớt la lớn: "Rắn lục! Rắn lục". Mẹ hắn chưa nhìn thấy con rắn lục cũng từ bếp lao ra, la phụ họa cho con trai.
Rất nhanh chóng, những người đàn ông hàng xóm đổ sang nhà hắn để ứng cứu. Mối quan tâm chung lúc này là nguồn nguy hiểm cao độ đang trốn trong nhà hắn chứ không phải kẻ trốn lệnh truy nã. Hắn nhanh chóng nhập cuộc, chỉ điểm chỗ đó, như thế. Những người đàn ông hồn nhiên và tốt tính chia việc, hướng dẫn cho nhau cách bắt con vật nguy hiểm sao cho an toàn và mọi việc được giải quyết trong vòng năm phút.
Lúc mọi người còn say sưa với chiến công, tính toán về độ dài, cân nặng, mức độ nguy hiểm của con rắn lục, hắn tranh thủ đứng hít thở khí trời. Dưới nắng sớm, hắn có cảm giác lâng lâng như say, như mê. Gần một tháng chui trốn trong nhà khiến toàn thân hắn trắng như được tẩm bột. Quanh hắn, mùi hương của đất trời, của cuộc sống quấn quýt: Hăng hắc là mùi hoa cà phê; thoang thoảng là mùi lúa đang thì con gái; nồng nàn là hương ngọc lan; nằng nặng là mùi của chuồng gia súc, gia cầm gần đó... Những mùi này, mọi ngày len vào trong gian phòng tối, được sàng lọc qua hàng loạt ô cửa khép kín đều có chung một mùi ẩm mốc, hôi hám và khó chịu.
Đúng lúc ấy, con chó cưng liên tục dúi cái mõm ướt vào hắn, rít khẩn thiết. Nó là con vật thông minh, tận tụy và trung thành. Trống ngực hắn thình thịch đập. Vậy là đã lộ! Nhưng rồi trong hắn vỡ òa một ý nghĩ: "Cảm ơn mày, tao đã nghĩ kỹ rồi. Tao chán kiếp chuột chũi rồi. Tao phải xa mày thôi. Ở nhà nhớ ngoan, nhớ nghe lời bà. Rồi tao sẽ về, sẽ huấn luyện mày trở thành một anh chàng bốn chân ra trò đấy".
Lúc hắn đang vỗ về con chó thì ông Trưởng Công an xã đi ngang qua. Hắn đứng dậy lí nhí chào. Ông nhìn hắn, chẳng ai tỏ vẻ hốt hoảng hay ngạc nhiên. Vẫn cái giọng oang oang đi trước người như mọi khi ông đến chơi nhà nhưng hôm nay giọng nói ấy không làm hắn co lại nữa: "Sao, ông tướng, ở cữ chán rồi phải không?".
Hắn cúi xuống, ngượng ngùng gãi gãi mái đầu bù xù
Ngõ hai nhà và cái lỗ thủng
Hơn mười năm trước, nhờ đa mưu túc trí, lão đã khiến cho tay hàng xóm bây giờ phải tức đến ứa máu. Ngày ấy gã được giao thụ lý vụ án mà lão là một trong số những bị can. Đơn kiện lão được gửi lên đến tận Trung ương. Những đứa kiện lão hầu hết là người trong nhà máy. Chúng nó kiện lão tham nhũng, nhận hối lộ, thiếu trách nhiệm khiến nhà máy tan nát, đẩy hàng ngàn công nhân đến cảnh khốn cùng...
Lão vừa ở phường về. Các ông Ủy ban đã giải quyết tất cả những yêu cầu lão đặt ra trong lá đơn kiện. Thằng cha hàng xóm đã đuỗn mặt ra và phải đặt bút ký vào biên bản. Theo tinh thần của biên bản, muộn nhất là ngày mai gã phải mua nguyên vật liệu về xây bịt cái lỗ thủng xuyên từ khu nhà ổ chuột nhếch nhác sang khu đô thị mới khang trang và mẫu mực nhất trong phường. Chỉ có điều lão không ngờ thằng cha hàng xóm ấy lại chính là "tay" Công an đã đặt bút ký vào bản kết luận điều tra đưa lão vào tù hơn mười năm trước. Đúng là "trái đất tròn"!
Nói cho đúng thì nhà lão và nhà tay hàng xóm ấy nằm song song với nhau trong một cái ngõ cụt. Nhà lão là một ngôi biệt thự ba tầng tọa lạc trên đám đất hơn ba trăm mét vuông. Mặt tiền là cả một khoảng vỉa hè và đoạn đường nhựa nội bộ của khu đô thị mới có thể đậu dăm chiếc ôtô con cả ngày mà không bị ai làm phiền. Còn nhà của tay Công an vốn là hai gian cấp bốn cuối một dãy tập thể ngày xưa, mới cơi nới thêm một tầng thấp tè. Mặt tiền của cả dãy nhà tập thể là cái hẻm, cũng là hẻm cụt, chỉ đủ hai chiếc xe máy tránh nhau. Bức tường đầu hồi của nhà tay Công an mặc nhiên trở thành hàng rào tự nhiên, hàng rào lịch sử, ngăn cách giữa khu dân cư cũ với khu đô thị mới. Thành ra, dọn về đây ở đã gần một năm mà lão không thật tỏ tường người nào bên nhà hàng xóm của mình. Tận đến tháng trước, khi căn phòng cơi nới của gian nhà ấy trổ chiếc cửa sổ hướng ra đô thị mới, lão mới loáng thoáng nhìn thấy một thằng bé gầy ngẳng, trạc tuổi con gái lão. Thằng bé ấy cũng hay thức khuya như con gái lão. Nhiều đêm thức giấc đi tiểu, lão thấy phòng của hai đứa vẫn sáng đèn. Có lần lão còn nhìn thấy thằng bé ấy đứng bên song cửa ngóng sang bên này.
Việc hàng xóm trổ cửa sổ "chiếu tướng" phòng con gái, khiến lão khó chịu nhưng không thể bắt bẻ. Chỉ đến khi hàng xóm đục cái lỗ phía góc bức tường đầu hồi thông ra con đường của khu đô thị lão mới điên tiết. Vì cái lỗ thủng ấy mà khoảng không gian ngõ cụt mặt tiền như sân riêng của nhà lão đã trở thành sân chơi công cộng. Chiều chiều, bọn trẻ con như lũ chuột nhắt từ khu dân cư chui ra "diễn" đủ thứ trò. Mấy lần, từ trên ban công tầng hai nhìn thấy quả bóng của lũ trẻ rơi vào cây mai chiếu thủy trước cổng mà lão thấy buốt đến tận óc. Tối đến, đám đàn ông, đàn bà quần áo lôi thôi lếch thếch từ khu ổ chuột lũ lượt vượt qua cái lỗ thủng sang đi bộ dưỡng sinh. Trước khi về họ còn dàn hàng trước con ngõ cụt sực nức hoa lan, hoa mai trước nhà lão để nhảy nhót, uốn éo, trò chuyện từ con cá lá rau đến chuyện nước Ý sắp vỡ nợ. Phải mất cả tuần mất ngủ nghĩ nát óc như cái thuở mắc vào vòng lao lý lão mới đặt bút viết đơn. Có điều, cái thuở hơn mười năm trước là lão nghĩ cách đối phó với việc người ta kiện lão. Còn bây giờ là việc lão nghĩ cách kiện người ta. May sao cả hai lần nghĩ suy, tính toán đường đi nước bước kỹ càng, lão đều đã đạt được mục đích...
Hơn mười năm trước, nhờ đa mưu túc trí, lão đã khiến cho tay hàng xóm bây giờ phải tức đến ứa máu. Ngày ấy gã được giao thụ lý vụ án mà lão là một trong số những bị can. Đơn kiện lão được gửi lên đến tận Trung ương. Những đứa kiện lão hầu hết là người trong nhà máy. Chúng nó kiện lão tham nhũng, nhận hối lộ, thiếu trách nhiệm khiến nhà máy tan nát, đẩy hàng ngàn công nhân đến cảnh khốn cùng. Là người trong cuộc, lão biết những điều người ta tố cáo đều đúng sự thật, thậm chí còn chưa hết lỗi lầm mà lão đã gây ra. Bắt đầu là chuyện lão bày trò "xóc ốc" thay đổi nhân sự, điều chuyển vị trí công tác để người ta phải thậm thụt mang phong bì đến tận nhà lão cậy nhờ, xin xỏ. Vì cái sự bố trí lại nhân sự mà nhà máy bắt đầu làm ăn đi xuống.
Chẳng sao, lão đổ thừa cho cơ chế và công nghệ lạc hậu. Mà công nghệ lạc hậu thì phải mạnh dạn đổi mới. Sau một vài chuyến đi nước ngoài tham quan, học tập, lão quyết định nhập cả một dây chuyền sản xuất ở một nhà máy từ nước ngoài về. Lão không ngờ chuyến đi nhận hàng cuối cùng lại là kết quả của chuỗi những tính toán lừa đảo của đối tác mà kẻ tiếp tay là gã trưởng phòng đối ngoại do lão vừa bổ nhiệm - nói cho chính xác là lão "bán" với giá cao nhất trong số những kẻ muốn "mua". Chính lão được tận mắt nhìn cái dây chuyền ấy đang sản xuất ra sản phẩm.
Trước khi đặt bút ký vào hợp đồng mua dây chuyền ấy về, lão đã hội ý với tập thể lãnh đạo ở nhà và cả đám tùy tùng đi cùng. Trong lễ ký ấy, lần đầu tiên lão biết thế nào là vị thế của một trưởng đoàn khi làm việc với công ty nước ngoài. Sau tiệc chiêu đãi, đích thân thằng giám đốc đối tác đưa lão đi thư giãn. Đây là lần đầu tiên lão được biết ở nước ngoài người ta "làm ra làm, chơi ra chơi"! Không phải một mà là hai cô gái trẻ cực kỳ xinh đẹp chiều chuộng lão đủ ngón nghề như thể các cung tần mỹ nữ phục vụ vua chúa ngày xưa
Về nước, lập tức lão phải đôn đáo đi lạy lục một số ngân hàng vay bằng được mấy chục triệu đô để chuyển cho đối tác. Việc vay tiền, lão cũng phải "xé rào" bằng cách bí mật "lại quả" cho mấy ông chức sắc mấy cái ngân hàng cho vay hàng tỷ đồng. Tất nhiên việc xé rào này lão cũng đưa ra bàn bạc tập thể, buộc mọi người phải đồng thuận. Những khoản "lại quả" này đành phải "biến báo" vào giá thành lắp đặt hay công vận chuyển dây chuyền sản xuất mới. Trước khi dây chuyền sản xuất mới bắt đầu vận hành, phía đối tác nước ngoài còn mời lão đi tham quan thêm ở một nước thứ ba. Thêm một lần nữa lão lại bất ngờ về các kiểu ăn chơi và khoản tiền "hoa hồng chữ ký" nửa triệu đô mà đối tác tặng riêng cho lão. Phía đối tác giải thích rằng đó là "thông lệ" bên họ và đâu đó ở Việt Nam cũng có khoản tiền 10 phần trăm "lại quả" sau khi nhận được một công trình xây dựng hay công trình giao thông nào đó. Và bọn đối tác có cách chuyển tiền về cho lão thật kín đáo và tuyệt đối an toàn.
Có tiền, lão đã nhờ thằng em trai cất giữ giúp. Em trai lão vốn ma lanh trong giới buôn bán bất động sản, đã quy đổi ngay nửa triệu đô thành nhà, thành đất. Chuyện này vợ con lão không hề biết. Vì thế, tận đến ngày lão ra tù, vợ con vẫn đinh ninh là lão chỉ mắc hai tội là: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và làm trái nguyên tắc gây thất thoát lớn. Tội "thiếu trách nhiệm" và tội "làm trái nguyên tắc" là hiển nhiên nên từ khi bị bắt cho đến khi ra tòa, lão đã khai báo rất thành khẩn.
Điều lão không ngờ được là dây chuyền sản xuất vài chục triệu đô nhập từ nước ngoài về chỉ vận hành được vài ba tháng là trục trặc. Vì cái sự trục trặc mà lão phải tiếp tục vay ngân hàng thêm tiền tỷ để sửa chữa. Rốt cuộc, cuộc cách mạng "đổi mới công nghệ sản xuất" đã biến nhà xưởng thành những ngôi nhà hoang đựng đống sắt vụn mà đối tác thải ra. Hàng ngàn công nhân mất việc, không lương dồn phẫn uất vào những cuộc "tụ họp hành lang" bới lông tìm vết. Có đứa đi nước ngoài cùng lão bắt đầu "soi" lại thời gian biểu của từng người trong đoàn ở nước ngoài. Rồi những lá đơn kiện lão bắt đầu xuất hiện. May mà tất cả những quyết định mua bán ở nước ngoài đều được bàn bạc tập thể nên tội "thiếu trách nhiệm" của lão cũng giảm nhẹ được phần nào. Nhưng bỗng một hôm, trong buổi lấy cung, tay Công an hàng xóm bây giờ đột nhiên vặn vẹo lão về việc có hay không việc đối tác nước ngoài "lại quả" cho riêng lão như đơn tố cáo. Tay hàng xóm đã khiến lão suýt "đứng tim" khi lục vấn về chuyện đối tác mời riêng lão đi nước thứ ba. Hình như gã đã biết được điều gì. May mà lão đa mưu, túc trí nên phán đoán ra rằng gã chưa có chứng cứ cụ thể về khoản tiền hoa hồng nửa triệu đô mà lão đã nhận. Vậy là sau hàng chục buổi xét hỏi, không tìm được chứng cứ lão nhận tiền của đối tác, cơ quan Công an đành tạm khép lại việc điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát...
Hôm nay tình cờ gặp lại nhau, biết lão đang ở trong ngôi biệt thự dăm chục tỷ, tay hàng xóm sẽ nghĩ gì và làm gì nhỉ? Lại nghĩ, lúc còn đương chức đương quyền đã chẳng làm gì được lão, huống hồ bây giờ là Công an về hưu. Nghe mấy ông phường nói, năm ngoái chính quyền đã phải tạo điều kiện giúp đỡ gã vào chân đội trưởng đội bảo vệ của siêu thị mới mở trong phường để có thêm thu nhập nuôi con học thêm, học nếm gì đó...
Miên man nghĩ ngợi một lúc, lão bình tâm trở lại rồi mở tủ lạnh lấy chai rượu ngon mang lên chiếc ghế dài bên cạnh mấy chậu cây cảnh quý trên sân chơi tầng hai đợi con gái ở trường về lo cơm nước. Sự yên tĩnh, men rượu và hương các loài hoa quý đã đưa lão vào giấc ngủ...
Tiếng xôn xao ở dưới ngõ khiến lão chợt tỉnh. Đã xế chiều. Chắc lũ trẻ lại chui ra đá bóng đây. Nhưng hóa ra không phải. Đó là tiếng gạch, tiếng bay của thợ xây. Lại có cả tiếng trẻ con, người lớn mà lão nghe câu được, câu chăng. Lão nhỏm dậy, đi ra nép sau cây Sanh bẩy tán nhìn xuống. Thì ra tay hàng xóm đang xây bịt cái lỗ thủng trong sự nhao nhao phản đối của mấy người trong khu dân cư ổ chuột. Tay hàng xóm phải giơ biên bản do phường mới lập buổi sáng cho mọi người xem. Mọi người vẫn không chịu. Họ cho rằng suy cho cùng cái lỗ thủng ấy chẳng hề ảnh hưởng gì đến mỹ quan và an ninh trật tự của đô thị mới. Họ còn lớn tiếng nói rằng sẽ kéo đến phường kiện. Vì từ ngày khu đô thị mới mọc lên trên cái đầm và cánh đồng vốn là chỗ thoát nước của cả vùng khiến mỗi khi mưa xuống, con hẻm trở thành rãnh nước lội ngang đầu gối. Tay hàng xóm thông báo rằng phường đang có kế hoạch bê tông hóa cả con hẻm lên ngang bằng đường nhựa của đô thị. Mọi người lại nhao nhao nói rằng, tôn được cái hẻm thì mưa xuống nước càng đọng lâu trong nhà. Tay hàng xóm lại phải giải thích:
- Sự thể đã thế rồi, nhà nào nhà nấy phải tự tìm cách khắc phục. Ai có tiền thì tự tôn nền lên. Ai chưa có tiền thì mua máy bơm, mua ống nhựa dẫn nước ngập từ trong nhà ra tạm cái hố ga của đô thị cạnh nhà tôi...
Xem ra tay hàng xóm này có vẻ kỷ cương và biết điều ra phết. Nghe gã giải thích, mọi người lảng dần. Nhưng trước khi bỏ đi có đứa còn buông một câu:
- Bác cứ xây bít, sẽ có tối chúng tôi giả vờ là trẻ con nghịch ngợm ra phá...
Tay hàng xóm cười hiền lành:
- Ấy chết. Đây là tường bếp nhà tôi. Tôi đâu ngờ việc hiến một mảng tường cùng cái góc bếp này cho cả khu tiện việc đi lại sinh hoạt lại gây phiền phức đến thế. Các bác mà phá là mọi sự lại đổ lên đầu tôi. Hàng chục ông bà chủ các biệt thự bên đô thị mới cùng ký vào đơn kiện tôi chứ có ít đâu. Thôi thì xóm mình muốn ra khu đô thị tập tành, lại đi theo lối cũ vậy.
Nghe tay hàng xóm nói câu ấy, lão mỉm cười mãn nguyện rồi lặng lẽ rời cây bẩy tán vào phòng.
Vừa lúc ấy con gái lão về. Đứa con gái là niềm tự hào, là niềm an ủi lớn nhất đời lão. Ngày lão đi tù nó mới mười tuổi. Cái hôm tòa tuyên án xong, vợ con lão đón ở hành lang phòng xử khóc như mưa như gió. Khi lão bước lên chiếc xe thùng chở phạm, mẹ nó gào lên rằng: "Anh vì nhà máy mà gặp nạn. Mẹ con em tin anh vẫn là người tốt". Có lẽ vì niềm tin ấy mà vợ lão đã dạy dỗ nó thành đứa con hiền thục giỏi giang như ngày hôm nay. Cũng vì niềm tin ấy mà khi ra tù lão đã phải bàn với thằng em vẫn đứng tên chủ ngôi biệt thự này và bố con lão chỉ là người họ hàng ở nhờ và trông coi giúp.
Ngày ra tù, lấy lý do là xấu hổ với bà con khu phố cũ, lão về ở luôn ngôi biệt thự của thằng em trai. Trong bữa cơm đoàn viên, thằng em nói rằng, ngôi biệt thự này mua chỉ để chờ được giá sẽ đẩy đi. Vì thế nó nhờ anh trai đến trông nom giúp. Lão đồng ý với điều kiện: "Chú phải đăng ký tạm trú cho hai bố con tôi về ở cùng". Thằng em chấp thuận và đứng ra lo liệu mọi thủ tục giấy tờ. Vậy là từ sau hôm ấy, vợ lão vẫn trụ lại ngôi nhà cũ. Còn bố con lão mặc nhiên được hưởng mọi thứ tiện nghi trong ngôi biệt thự của chú em giàu có. Con gái lão thuộc diện hoa khôi của một trường đại học, lại đang sống trong ngôi biệt thự sang trọng khiến bọn con trai nhà giàu cứ như từ trên trời rơi xuống trước ngõ. Mấy tháng trước, chiều nào cũng những chiếc ôtô hạng sang đến đậu ở cái ngõ cụt này. Lão không dám ra mở cổng hay tiếp khách cùng con gái, sợ lũ trẻ hỏi đến quá khứ. Lão chỉ đứng trên ban công tầng hai, nép bên cây Sanh bẩy tán quan sát mà thấy sướng râm ran trong lòng. Đứa nào đến cũng có quà, có hoa mang từ ôtô xuống. Đứa nào cũng ăn diện ngất trời. Nhưng không hiểu sao, gần một tháng nay, chẳng thấy chiếc ôtô nào đến nữa. Hay chúng nó đã biết sự thật về lão. Hay con gái lão đã chọn được một đứa nào trong số đó. Hay tại cái lỗ thủng và lũ trẻ nghịch ngợm chiếm chỗ đậu xe của chúng. Những chiếc xe tiền tỷ mà bị lũ trẻ làm xước sơn hay làm vỡ đèn thì mất toi hàng chục triệu. Hay là... Lão còn đang tự vấn như vậy thì con gái lão từ trong nhà để xe bước ra phòng khách với vẻ mặt ỉu xìu. Lão muốn nó vui trở lại, liền hỏi:
- Con có thấy cái hố đen trước cửa nhà mình vừa bị bịt lại rồi không?
Con gái lão hỏi lại:
- Hố đen nào, thưa bố?
Lão chỉ sang phía bức tường hàng xóm:
- Cái lỗ thủng như cái hố đen ngòm mà chiều chiều "lũ chuột nhắt" khu bên kia chui sang bên này phá phách đấy thôi.
Con gái nhìn lão như nhìn người xa lạ. Lát sau nó mới thốt lên:
- Sao bố lại nói thế. Con thấy những đứa trẻ khu bên ấy cũng đáng yêu đấy chứ.
- Đáng yêu cái nỗi gì. Con có biết vì chúng nó mà những chiếc ôtô tiền tỷ không dám đậu trước cổng nhà mình nữa không?
- Bố nhầm rồi! Những chiếc ô tô không đến nhà mình nữa là do con yêu cầu... Là vì con đã có người yêu...
- Con đã có người yêu? Có phải thằng bé đẹp trai như diễn viên điện ảnh đi xe Camry ba chấm, lần nào đến cũng mang theo một bó hồng vàng và một hộp quà thắt nơ hồng không? Bố thấy thằng bé ấy có vẻ lịch thiệp và xứng với con nhất.
- Thưa bố, không phải những người ấy mà là một anh ở khu bên kia thôi.
Lão ngạc nhiên hỏi lại con gái mà như tự hỏi mình:
- Khu bên kia? Chuyện hoang đường! Bố không thấy một thằng nào sánh được với những chàng trai đã đến chơi cái nhà này.
Con gái lão ngồi xuống ghế và trả lời một cách tự tin:
- Thưa bố, nếu bố biết được trong số những đứa trẻ mà ban nãy bố gọi là lũ chuột nhắt, có đứa vừa vượt qua cuộc thi tháng của "Đường lên đỉnh Olympia". Có đứa đã có nhiều thơ đăng trên Báo "Hoa học trò". Có đứa đoạt giải nhì học sinh giỏi toán toàn quốc. Có đứa...
Đến lượt lão nhìn con gái như nhìn người xa lạ rồi ngắt lời nó:
- Cứ cho là như thế đi. Nhưng bố muốn biết về người yêu của con...
- Anh ấy cũng từ những đứa trẻ ấy lớn lên. Bẩy năm trước anh ấy từng đoạt giải nhì học sinh giỏi tin học toàn quốc. Bây giờ anh ấy đang là giảng viên ở trường con.
- Sao bố chưa thấy nó ló mặt sang nhà mình bao giờ nhỉ?
- Chúng con chỉ trò chuyện với nhau ở trường và chat qua mạng.
- Vậy gia cảnh của nó thế nào?
- Chúng con đến với nhau đâu phải vì gia cảnh? Mà, trong số hàng chục chàng trai đã đến với con, chỉ riêng anh ấy là biết cảm thông và chia sẻ với hoàn cảnh của nhà mình thôi.
- Sao, nó đã biết gì về nhà mình?
- Trước khi nhận lời yêu anh ấy, con đã nói rất thật. Rằng bố mới được trả lại quyền công dân. Rằng ngôi biệt thự này là của chú ruột đang chờ bán...
Một lần nữa lão lại phải ngắt lời con gái:
- Nhưng nhà nó ở chỗ nào? Bố mẹ nó làm gì?
Con gái lão nhìn sang ngôi nhà trước mặt. Gương mặt nó như rạng lên. Nhưng đôi mắt nó lại rơm rớm lệ. Lát sau nó mới nghẹn ngào mà nói rằng:
- Bố anh ấy vừa phải xây bịt lại cái lỗ thủng mà ban nãy bố gọi là hố đen ấy. Thực ra chính con là người đưa ra gợi ý để người yêu con bàn với gia đình anh ấy hiến chút đất để khu bên ấy có một lối sang bên này. Con muốn mọi người bên ấy đi lại, tập tành không phải đi vòng gần hai cây số như trước nữa. Con muốn được ngắm, được làm quen với những đứa trẻ lam lũ mà ẩn chứa bao tài năng. Chính chúng nó mai sau sẽ làm giàu cho đất nước này chứ không phải những thiếu gia chỉ quen đốt tiền của bố mẹ...
Lão ngớ người ra một lúc rồi mới lắp bắp hỏi thêm được một câu:
- Vậy chúng mày đã yêu nhau đến mức nào rồi?
- Thưa bố, đủ để chúng con có thể sống chết vì nhau...
Đến thế rồi cơ à! Cứ nhìn vào đôi mắt của con gái, đủ biết điều nó vừa nói là từ gan ruột. Lão không thể nói gì với con gái vào lúc này. Có lẽ lão sẽ lại phải mất ngủ, phải nghĩ ngợi nhiều hơn hai lần trước mới hy vọng tìm ra được một cách ứng xử đúng đối với đứa con gái mà suốt cuộc đời này lão luôn sẵn sàng sống chết vì nó
Người đốt vôi
Xóm Lò Vôi gọi chú là Lường "ma". Nhung không biết tại sao lại có cái biệt danh sởn da gà ấy. Cho đến một hôm Nhung bắt gặp chú đi từ nghĩa địa Mả Mới về, vai vác tấm ván nặng trịch. Thứ ván quan tài mà người bốc mả sau khi mang cốt đi vẫn vứt la liệt ở miệng huyệt. "Tao mang về nhóm lò cho đỡ phí. Thứ này đượm lửa lắm". Nghe đến đấy, người Nhung lạnh ngắt, trời đất xung quanh xoay như chong chóng...
Ngày gia đình Nhung chuyển về đây thì nghề đốt vôi, từng là kế sinh nhai chủ yếu của người dân nơi này đã qua thời cực thịnh từ lâu. Cả xóm chỉ còn mỗi chú Lường là thỉnh thoảng vẫn lên lò. Chú bảo đốt vôi để hoài niệm. Nghe thế, thằng Thiêm - em trai Nhung, bĩu môi: "Khói than bùn với khí đá bốc lên khét lèn lẹt, cứ như cầm bình gas xì vào mũi người ta. Có ngày toi đời vì ung thư phổi. Rõ là hâm". Nhung không nghĩ chú hâm. Nhiều người, nhất là người đứng tuổi, thường sống bằng nỗi nhớ nhung về những tháng ngày đã qua.
Chú Lường thuộc loại dị tướng. Người chú lùn xoẳn một mẩu. Đầu to như quả bí ngô. Tóc quăn tít, hai mắt lồi ra. Cộng với màu da đen đến không thể đen hơn, nhìn chú người ta nghĩ ngay đến một sản phẩm bị nung quá lửa. Tóm lại về hình thức chú thuộc loại xấu. Xấu đến mức vô lý. Thậm vô lý.
Xóm Lò Vôi gọi chú là Lường "ma". Nhung không biết tại sao lại có cái biệt danh sởn da gà ấy. Cho đến một hôm Nhung bắt gặp chú đi từ nghĩa địa Mả Mới về, vai vác tấm ván nặng trịch. Thứ ván quan tài mà người bốc mả sau khi mang cốt đi vẫn vứt la liệt ở miệng huyệt. "Tao mang về nhóm lò cho đỡ phí. Thứ này đượm lửa lắm". Nghe đến đấy, người Nhung lạnh ngắt, trời đất xung quanh xoay như chong chóng. Tối ấy, cô lên cơn sốt, mơ toàn ác mộng. Trong cơn mơ, Nhung thấy chú Lường tay cầm những mảnh quan tài, phe phẩy tựa diễn viên chèo múa quạt, nhảy nhót như lên đồng bên những lỗ huyệt cũ. Đận ấy, Nhung nằm liệt giường hơn nửa tháng mới nhúc nhắc dậy đi loanh quanh trong nhà được. Chưa bao giờ cô ốm nặng như thế.
Ông Tơ bà Nguyệt khéo chơi khăm. Xấu như chú Lường lại lấy được cô vợ đẹp. Đi nhiều, gặp nhiều, là người chịu khó quan sát, suy ngẫm nhưng chưa bao giờ Nhung thấy câu "đũa mốc chòi mâm son" lại đúng như thế với trường hợp của chú. Thôi thì ông Trời có mắt, không lấy hết của ai cái gì bao giờ. Dì Hoà - vợ chú - là người đàn bà đẹp. Mặt hoa da phấn, cặp môi hơi trễ gọi tình, đôi mắt biết nói, cộng với dáng người nói như thanh niên thời nay là "chuẩn không cần chỉnh", dì Hòa trở thành thỏi nam châm đối với bất cứ người đàn ông nào. Thời trẻ, dì từng tuyên bố: "Thanh niên xóm Lò Vôi không mống nào lọt mắt tôi". Thế mà cuối cùng dì làm mọi người ngã bổ chửng vì lấy chú Lường.
Tất cả chỉ tại một thằng bật bông.
Nhưng chuyện ấy mãi sau này Nhung mới biết.
Chú Lường thuộc tuýp đàn ông "váy vợ bầu trời bao la". Trăm thứ bà giằn trong gia đình, từ chuyện lớn như mua đất, làm nhà đến bé như cây kim, sợi chỉ đều một tay dì Hòa lo.Việc của chú Lường chỉ đơn giản là gật. Đúng gật. Sai gật. Không đúng không sai cũng gật. Gật vì chả bao giờ chú quan tâm chuyện vợ làm là đúng hay sai. Cái gia đình tưởng chừng như ông chẳng bà chuộc, mọi thứ đều ở thái cực khác nhau ấy giữ được sự bình yên cũng là nhờ những cái gật vô tội vạ của chú Lường.
Nhưng đời chả ai học được chữ ngờ.
Cặp chồng cú - vợ tiên ấy cãi nhau to.
Chú Lường văng tục, đòi gí của quý vào mặt vợ. Còn dì Hòa, lần đầu Nhung nghe chuyện dì đem cái hình thức xấu xí, thậm chí cả chuyện thâm cung bí sử vợ chồng ra hạ nhục chú Lường. Dì bảo chú Lường thuộc lại đàn ông không nên "cơm cháo" gì. Ai cũng hiểu "cơm cháo" mà dì vừa nói không phải theo nghĩa… cơm cháo thông thường.
Nguyên do chỉ vì cái lò vôi.
Trong vòng nửa giờ chú Lường đi vắng, vật thể "hoài niệm" của chú chỉ còn là một bãi đất trống. Dì Hoà thuê máy ủi san phẳng di tích cuối cùng của xóm Lò Vôi.
Chú Lường nổi khùng, định làm loạn.
Dì Hoà quyết không nhượng bộ, như từ xưa đến nay vẫn thế.
Xóm Lò Vôi nín thở chờ đợi.
Rốt cục, chả biết dì Hòa đã làm gì, nói gì nhưng mèo lại hoàn mèo, mọi thứ đâu về đó. Chú Lường vẫn là người đàn ông biết nghe lời vợ, dù có uất ức chút ít.
Dì Hòa thuê máy ủi về san phẳng lò vôi của chồng không phải chỉ để cho vui. Dì chưa bao giờ làm việc gì chỉ để vui cả. Nhưng dì làm để mua vui cho người khác. Và thu tiền.
Quán cà phê đèn mờ mới mọc lên có cái tên nghe cực kỳ văn học: Bạch Vân thư quán.
Nhưng thực tế chẳng lãng mạn chút nào. Đời vẫn thế, đôi khi tên chẳng liên quan gì đến bản chất chủ thể. Nhất là trong thời buổi người người, nhà nhà đang lao như thiêu thân vào cuộc đua hình thức, coi hình thức là thứ trên hết, không có hình thức kha khá một tí thì cứ làm như không thể sống nổi với đời.
Bà chủ quán xinh đẹp lúng liếng đi ra đi vào cùng với đám em út mắt xanh mỏ đỏ lượn lờ trở thành thứ mồi câu không thể cưỡng được của lũ đàn ông no cơm ấm cật, dậm dật mọi nơi, tối tối rửng mỡ từ bên kia thị xã phóng xe qua cầu… hóng mát.
Thiên hạ có tiền nghĩ ra lắm kiểu ăn chơi quái đản. Hóng mát mà lại chui vào những ô quán vừa kín vừa bé tin hin như tổ tò vò. Mát mẻ đâu chả biết, chỉ thấy mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi phờ phạc như vừa vật nhau với ma. Nhung chơi với chị Phấn Béo, chủ hiệu thuốc tây bên kia cầu. Có hôm gặp nhau, chị bô bô: "Con mụ Hòa chủ quán Bạch Vân thế mà gớm, mỗi tháng nó thầu của chị những mấy trăm cái bao cao su cơ em ạ". Nghe thế, Nhung vội chạy vào nhà vệ sinh nôn thốc nôn tháo như thể vừa ăn phải mùn thớt. Có người còn ác mồm ác miệng bảo nếu khách có nhu cầu thì bà chủ cũng có thể hạ mình làm nhân viên như thường. Miễn là biết chơi đẹp.
Từ dạo nhà mở quán đèn mờ, dăm thì mười họa Nhung mới thấy chú Lường một lần. Gặp ai chú cũng cúi gằm mặt, cố bước thật nhanh. Dân xóm Lò Vôi nhìn chú như thể con bệnh truyền nhiễm, tránh càng xa càng tốt. Khác với chồng, dì Hòa đi đâu cũng vác bộ mặt câng câng khó ưa. Đứng giữa chợ, tay huơ huơ miếng thịt lợn mông sấn to tướng, dì lớn tiếng tuyên bố: "Có cung ắt phải có cầu, tôi buôn ba vạn chín nghìn, chả ảnh hưởng đến ai sất. Ai có mồm người ấy giữ lấy… mà dùng. Cấm xía vào việc nhà người khác".
Chẳng ai dại gì dây vào tổ ong bò vẽ. Khó coi đến mấy thì cũng nhắm mắt cho qua, sai phạm đã có chính quyền xử lý, lớ xớ lại thiệt thân. Dân xóm Lò Vôi người nào cũng nghĩ thế.
Ngày qua ngày, Bạch Vân thư quán vẫn nhộn nhịp khác thường. Lắm chuyện cười ra nước mắt cũng từ cái quán ấy mà ra.
Một hôm, lão Xoắn say đi chăn bò dưới chân núi Chóp Nón. Mải cắm đầu theo mấy ván cờ tướng nên để lạc mất con bê. Lão vác dao quắm đi tìm. Chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào lại chui vào vườn chú Bường. Mấy con mắt xanh mỏ đỏ tưởng là khách. Thế là a lê hấp, một hai ba cả đám nhào ra. Lão Xoắn bảo tôi đi tìm bò lạc. Anh ơi bò lạc đây rồi còn tìm đâu xa nữa. "Anh" già, sức yếu, nhân tay nguều ngoào như nhện nước, bao nhiêu sinh lực trôi theo rượu hết nên chỉ phản kháng bằng mồm. Thế là các em vật "bò lạc" ra giường, may mà chưa kịp hành sự thì bà chủ về. Lão Xoắn thoát nạn yêu tinh nhưng hậm hực lắm. Hôm sau uống say lão cứ đứng ở cổng Bạch Vân thư quán mà chửi như hát. Chanh chua chuối chát tầm dì Hòa cũng im thin thít. Im là phải, vừa sai lại vừa chả dại gì dây vào lão Chí Phèo xóm Lò Vôi. Tránh voi chả xấu mặt nào. Dì khôn chán. Nhung nghĩ, với chồng dì cũng có cái đức nhường nhịn ấy thì chú Lường được nhờ to.
Bữa nhà Nhung làm giỗ ông nội, bố cô mời cả chú Lường. Phần vì là hàng xóm, phần nữa bố Nhung cũng không ác cảm với chú. Đám giỗ tan, mọi người về hết mới thấy chú xách chai rượu lò dò sang. Mẹ cô dọn mâm ra, chú không ăn, chỉ cắm mặt uống tì tì. Gần hết chai rượu, chú ngẩng lên, mắt đỏ đọc như bị giội nước. Chú khóc. Hai vai run lên từng đợt theo tiếng nấc, khuôn mặt nhăn nhúm, đau đớn, khổ sở đến cùng cực. Bố cô phải an ủi mãi chú mới thôi. Trước lúc về chú thở dài não nề rồi bảo: "Đời em kể như xong. Nhưng còn thằng Thịnh con em. Em chỉ có mỗi nó. Nó đang tuổi ăn tuổi lớn, đi ra đi vào bị cái cảnh nhơ nhớp ấy úp vào mặt thì anh bảo nên người sao được".
Thằng Thịnh 16 tuổi, cái tuổi bắt đầu trổ mã, lớn lộc ngộc, ngày đi học, tối về đón khách, trông xe, thậm chí có hôm thay mẹ xếp "lịch làm việc" cho đám mắt xanh mỏ đỏ. Chú Lường không lo thằng con hư hỏng mới là chuyện lạ…
Nhưng lo như chú thì cũng chỉ bằng không. Ai có việc người nấy, mọi sự vẫn chỉ như nước chảy bèo trôi.
Dăm ba lần dì Hòa bị chính quyền xã gọi lên làm việc. Lên rồi lại về, bộ mặt dì vẫn câng câng như cũ. Cái vẻ câng câng vênh váo đầy thách thức của kẻ đang thắng thế, ý muốn nói: Tôi cứ thế đấy, ai làm gì được tôi thì làm, coi chừng sứt răng mẻ trán, chẳng phải đầu thì cũng phải tai.
Trong nhà, dì Hoà coi chú Lường như kẻ chết rồi. Có hôm, Nhung tận mắt chứng kiến dì xỉa xói vào mặt đức lang quân: "Ông muốn đi đằng trời đằng đất nào thì đi. Khuất càng lâu càng tốt, ở nhà chỉ tổ kỳ đà cản mũi, hỏng việc". Đàn ông mà có người nhịn nhục được như chú Lường kể cũng hiếm. Ngày này qua ngày khác, chú vật vờ như bóng ma. Thỉnh thoảng chú rủ lão Xoắn đi uống rượu. Uống say, chân nam đá chân chiêu, hai người đàn ông ôm nhau khóc. Chú Lường sụt sịt như gái sắp về nhà chồng: "Ông Xoắn, chỉ có ông mới hiểu được cháu thôi. Đời cháu đúng là nhục… nhục hết chỗ nói ông ạ". Lão Xoắn thở khò khè, nói không ra hơi: "Thôi, đừng khóc. Cái giá của vợ đẹp đấy con ạ. Người đẹp là yêu tinh, rõ chửa?".
Người đẹp là yêu tinh.
Nhưng không phải cứ yêu tinh thì muốn làm gì cũng được.
Tức nước vỡ bờ.
Hôm ấy mất điện. Tháng 11 ta, rét căm căm. Gió bấc thổi qua nóc nhà ù ù như bão, lại thêm mưa phùn nên khí trời càng buốt. Cơm tối xong, hầu hết mọi người đều lên giường, chui vào chăn ấm. Tivi không, đài đóm không, tối như hũ nút, cộng thêm cái rét kim châm thì tốt nhất là chui vào chăn cho nó lành. Có các vàng vào lúc ấy cũng chẳng ai dại gì mà ra đường.
Nhưng rồi tất cả phải nhao ra khỏi nhà. Như tổ kiến bị giội nước sôi.
Bạch Vân thư quán bốc hỏa, lửa cháy sáng rực cả một góc trời.
Đám khách phong tình với lũ cave đang lúc hành sự bị bà hỏa viếng thăm bất ngờ cứ để nguyên hiện trạng bán sống bán chết bỏ chạy ra ngoài. Trông qua, giống như đang xem một bộ phim về thời tiền sử hoặc đứng trước một lễ hội khỏa thân nào đó tận châu Âu, châu Mỹ.
Dì Hòa xõa tóc chạy quanh gào khóc thảm thiết. Có ai đó hét lạc giọng: "Còn thằng Thịnh ở trong nhà". Nhung thoáng thấy bóng chú Lường lao vào đám cháy. Ngọn lửa tựa con quái vật há cái miệng tham lam, nóng rực như muốn nuốt chửng cái bóng loắt choắt của chú. Trong chốc lát, chú Lường bế đứa con trai chạy đến cửa. Thanh xà cháy dở đổ ụp xuống. Chú vươn mình ra, che cho thằng Thịnh. Chú Lường gục xuống. Những tiếng la thất thanh đồng loạt cất lên. Đám khói đen đặc bao trùm lên tất cả. Chỉ có tiếng khóc của dì Hòa là nghe thật ai oán, thê lương…
Thằng Thịnh thoát chết nhưng chú Lường không qua khỏi. Cái chết của chú khiến xóm Lò Vôi bàng hoàng. Người ta đặt chú lên bãi cỏ, bên cạnh cái cơ ngơi vừa bị hỏa thần thiêu rụi. Mọi người xúm vòng trong vòng ngoài. Ngọn lửa đã làm thân thể chú bị biến dạng, trông rất đáng sợ. Nhưng có một chỗ ai cũng nhận ra, bí mật ghê gớm của đời chú bây giờ mọi người mới biết: Bộ phận để duy trì nòi giống của chú là thứ vô dụng, chẳng khác gì hoạn quan trong triều đình phong kiến ngày xưa. Lão Xoắn trực tiếp khâm liệm cho chú. Lão quắc mắt với những kẻ tò mò xung quanh: "Nhìn gì? Lạ lắm phỏng? Đây biết từ lâu rồi. Hồi bé, nó đi tắm sông. Nhảy từ trên bờ xuống, bị cọc tre xiên vào, không có tôi vác chạy hơn chục cây số lên bệnh viện thì "xanh" từ lâu rồi". Rồi lão khóc rống lên: "Lường ơi! Mồ cha không khóc, khóc tổ mối. Sao lại phải thiệt mạng vì con của kẻ khác, cái thằng bật bông đểu giả ấy, tao còn lạ gì"… Nhung nghĩ chắc lão đau lòng mà khóc thế thôi, chứ trong trường hợp ấy chẳng ai nỡ lòng đứng nhìn thằng bé bị nướng chín trong đám cháy.
Cháy nhà ra… bí mật. Bây giờ, mọi người mới biết thằng Thịnh là giọt máu rơi của gã bật bông dẻo mỏ nào đấy. Chơi hoa thưởng nguyệt xong gã xa chạy cao bay. Chú Lường chỉ như thứ bình phong giúp dì Hoà giấu đi tiếng xấu chửa hoang. Để có được cú thoát hiểm ngoạn mục ấy, bố mẹ dì đã phải nhờ lão Xoắn ra tay. Lão vốn là chỗ thân tình với gia đình chú Lường. Với lão, dăm bữa cơm no rượu say là xong tất. Kể cũng lạ, người ta nói rượu vào lời ra, lão say sưa tối ngày nhưng tịnh chưa ai nghe thấy lão hở ra dù chỉ là tí ti về những bí mật động trời kia của vợ chồng nhà Lường - Hòa. Chú Lường chết rồi, người ở xóm Lò Vôi bây giờ mới ngỡ ngàng tự hỏi không biết chú lấy đâu ra động lực để mười mấy năm nay nhịn vợ như nhịn cơm sống, yêu thương con kẻ khác như con đẻ của mình, thậm chí còn chết thay nó. Hóa ra Lường "ma" không chỉ có hình thức xấu xí, chỉ biết đốt vôi và nghe lời vợ. Điều này thì bây giờ không ai là không biết. Nhưng sự thật về chú Lường không chỉ có thế.
Chính chú là kẻ đã phóng hỏa đốt Bạch Vân thư quán.
Hôm ấy, chú Lường tận mắt thấy thằng Thịnh cắn thuốc lắc với mấy ả cave. Chú nhảy vào can ngăn thì bị thằng con trong cơn phê thuốc cầm dao chọc tiết lợn đuổi chạy quanh nhà.
Giọt nước nhỏ ấy đã làm tràn ly.
Ung nhọt tồn tại lâu nay giữa xóm Lò Vôi cuối cùng cũng có người gỡ bỏ.
Chỉ có điều chú Lường đã làm theo cách không thể tiêu cực hơn và phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Người đốt vôi cuối cùng dưới chân núi Chóp Nón đã chết. Một cái chết buồn thảm.
Sau đận ấy, bố Nhung vào vận đỏ, làm ăn trúng mánh liên tục, kiếm đủ tiền chuộc lại căn nhà trong thị xã. Cả gia đình cô rời xóm Lò Vôi. Thi thoảng có việc, Nhung lại qua cầu trở lại nơi cô đã sống những ngày tạm bợ ấy. Tạm bợ nhưng không thể quên. Cái xóm nhỏ dưới chân núi Chóp Nón bây giờ chẳng còn ai đốt vôi để hoài niệm nữa. Dì Hòa đưa thằng Thịnh phiêu bạt nơi nào không ai biết. Mỗi lần đi ngang căn nhà cũ của chú Lường, Nhung lại thấy như có mùi thoang thoảng của khí đá và than bùn bốc lên. Mùi của mẻ vôi mới lên lò. Có tiếng chim "bắt cô trói cột" từ khu vườn hoang cất lên nghe ai oán. Nhung giật mình mới biết đó chỉ là ảo giác
Cho một cốc trà đặc
Căn bệnh nghiện nước chè của tôi phát sinh ở một hoàn cảnh như thế này: Bấy giờ là vào những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, thời kỳ mà tìm được một mẩu bánh mỳ khô đã là quý lắm rồi. Một hôm, không biết bố tôi kiếm đâu ra một ống bơ to nước trà. Ông thả vào đấy mấy vỏ bánh mỳ khô, ngoáy lên rồi cho tôi uống. Khi ấy tôi mới độ chín tháng tuổi. Thế là nghiễm nhiên tôi trở thành nghiện nước trà.
Thật không diễn tả hết được cái nghiện nước trà ấy làm tôi nhiều phen khốn đốn. Hôm ấy vào buổi sáng, vì phải đi tiếp đến một nơi rất xa nên tôi dậy rất sớm. Ở khách sạn ai cũng biết tôi nghiện nước trà. Họ thường mang liền cho tôi mấy cốc. Trước khi ra khỏi phòng, tôi đã kịp uống hết bốn cốc.
Chắc các bạn đã biết công dụng lợi tiểu của nước trà. Cứ vào bốn cốc thì phải cho ra một cốc. Vì sợ nhỡ ôtô, nên tôi cứ để nguyên bốn cốc trong bụng, tôi phóng nhanh xuống dưới nhà. Gặp ông chủ khách sạn là một người vui tính và tốt bụng mà tôi mới quen biết, ông liền nói với tôi:
- Hãy còn thời gian từ giờ cho đến lúc xe chạy. Mời ông một cốc trà nhé!
Tôi uống với ông ta cốc thứ năm.
- Tôi biết ông thích uống trà lắm - Ông chủ khách sạn nói - Vậy mời ông một cốc nữa!
Quả thực nước trà của ông ta rất ngon. Thế là thành sáu cốc. Tôi định xin phép đứng dậy thì vừa hay, một phụ nữ trung niên bước vào.
- Thưa ngài, tôi là người hôm qua được ngài tiếp chuyện bằng điện thoại đấy ạ! - Bà ta giới thiệu.
Bà ta hóa ra là nhà thơ, nhà viết tiểu thuyết kiêm viết kịch. Bà đưa tặng tôi mấy tác phẩm của mình.
- Xin lỗi bà dùng trà hay café ạ? - Tôi hỏi.
- Xin ông một cốc trà!
Chẳng lẽ chỉ gọi nước trà cho bà ta thôi thì thật bất lịch sự. Nên tôi lại phải cạn với bà ta.
Tôi bắt đầu cảm thấy hơi khó chịu sau khi dùng cốc thứ bảy.
- Cuộc sống ở đây mới buồn làm sao? - Cuối cùng bà ta nói sầu não.
- Vâng, nhất là lúc này tôi lại càng cảm thấy buồn... - Tôi nói - Giá như tôi trút bỏ được nỗi buồn này... Ôi! Tôi khó diễn đạt quá!.. Khó nói quá!..
- A! Thì ra ông...
Bà ta chưa kịp nói hết câu thì có ba người khác tiến đến chỗ chúng tôi. Đó là một tay bác sĩ của tỉnh và hai tay luật sư. Lại phải tiếp đãi họ. Vậy là cốc thứ tám đã cạn. Lúc này tôi cảm thấy cực kỳ là khó chịu rồi.
- Theo ý ngài, có cách gì giảm nhẹ gánh nặng cho dân chúng lúc này? - Viên luật sư hỏi.
Trời ơi! Làm sao có đầu óc để nghĩ đến chuyện đó nữa cơ chứ, trong khi chính tôi đang cần giảm nhẹ gánh nặng trong người!
- Tôi cần phải ra ngoài.
- Ngài định nói gì ạ? - Tay bác sĩ ngơ ngác hỏi.
- À, chắc là ngài muốn nói phải đi ra khỏi biên giới nước ta. Phải, chúng ta nên cho thanh niên đi du học... - Tay luật sư trả lời thay tôi - Vì có nhiều cái chúng ta phải học hỏi ở họ!
Nói xin lỗi các bạn, lúc này tôi đã buồn cứng cả người rồi, chẳng cần lịch sự gì nữa. Thôi kệ! Tôi bảo họ:
- Xin lỗi các vị một chút...
- Ngài làm sao thế?
- Tôi cũng không biết nữa, tôi cảm thấy... y như có gì nó...
-...Đè nặng trong người phải không? Thì tình cảnh nước nhà như vậy ngài bảo ai mà chẳng đau lòng...
Thấy mặt tôi lấm tấm mồ hôi, tay luật sư hỏi:
- Ngài khó chịu à?
- Vâng, tôi hơi khó chịu.
- Tôi có thuốc đây, ngài uống sẽ hết ra mồ hôi ngay!
- Thôi, tôi không uống đâu.
Mọi người đồng thanh nói:
- Ngài uống đi ạ!
Gần như họ ép tôi phải uống mấy viên thuốc và cốc nước:
- Tôi không chịu nổi nữa đâu!...
- Ngài vẫn thấy khó chịu ạ?
Tôi lảo đảo định đi ra thì có người vào thông báo ôtô sắp chạy. Tình trạng mỗi lúc một thêm nguy ngập: gần hai mươi vị trí thức của tỉnh mà tôi mới quen biết ra tiễn tôi. Trong lúc chờ đợi tài xế bơm lốp xe, họ lại mời uống trà. Cốc thứ mười làm tình trạng tôi hoàn toàn nguy kịch. Tôi không giữ sĩ diện nữa, hỏi thẳng xem nhà vệ sinh ở đâu thì được biết ở cách đây khá xa. Đúng lúc đó người tài xế đã bơm xong lốp xe bước vào:
- Mời các vị lên ôtô cho!
Cái bộ dạng của tôi thảm hại quá thể lúc này, vậy mà tôi vẫn phải mỉm cười với người tiễn tôi. Một nụ cười méo xẹo.
Tổng cộng là năm tiếng đồng hồ, chúng tôi mới đến nơi. Trên đường đi, có lúc dừng chân, tôi cũng đã bị mời thêm một cốc trà thứ mười một...
Hội nghị chưa khai mạc.
- Mang trà lại đây nhé!...
- Mang thêm trà lại đây nhé!..
- Mời ngài xơi nước!...
...Uống hết cốc thứ mười sáu, tôi bỗng cười phá lên như điên... Về đến khách sạn, tôi lăng ngay chiếc cặp vào góc phòng và hỏi người bảo vệ:
- Chỗ đi tiểu ở đâu?
Anh ta đưa tôi ba tờ kê khai. Tôi đặt trước mặt anh ta tờ giấy khai sinh và nói:
- Đây, anh giữ lấy làm kỷ niệm! Tôi van anh đấy, chỗ đi vệ sinh ở đâu?
Ở phía cuối hành lang có một cánh cửa ghi số 00, tôi đập cửa nhưng cửa đã khóa. Tôi liền mở cánh cửa bên cạnh. Đó là phòng ngủ. Thôi thì đành vậy...
Chao ôi! Thật là nhẹ nhõm cả người! Tôi thản nhiên bước xuống cầu thang, tới gần tiệm café, khoan khoái thả người vào chiếc ghế và cất tiếng gọi người hầu bàn:
- Này anh bạn! Cho một cốc trà đặc nhé! Càng đặc càng tốt
Cuộc đi săn cuối cùng
Rừng cây bây giờ không còn hào phóng như xưa nữa. Những chuyến đi săn ngày một khó khăn. Phường săn ở bản Nà Loòng đã tan rã. Nhiều thanh niên trong phường săn giờ chuyển sang làm việc cho những đầu nậu gỗ ở dưới xuôi. Chỉ việc vào rừng chặt gỗ chở ra đường cái cho các đầu nậu là xong. Tiền công rất hậu hĩnh. Càng nhiều cây bị cắt, thú rừng càng ít đi...
Vàng A Sinh đạp chân lên đám lá còn đẫm hơi sương. Vào rừng đi săn phải đi từ sớm. Sáng sớm, rừng cây còn chưa tỉnh giấc, không khí còn trĩu nặng hơi sương, mùi người chưa bay xa được, con thú khó đánh hơi thấy để mà đề phòng.
A Sinh đi qua đồi Rậm.
Thời xưa, rừng cây bát ngát mênh mông.
Thời xưa, đồi Rậm còn nằm sâu trong tim rừng.
A Sinh còn nhớ mỗi lần đi săn, từ đường mòn đến đồi Rậm để cắm trại nghỉ ngơi có khi phải mất cả ngày. Bây giờ, đường mòn ngày càng lấn sát vào tim rừng, xe cộ đi lại rầm rầm. Từ chỗ dừng xe vào đến đồi Rậm chỉ mất có vài tiếng. Nơi đây lúc trước hoang vu là thế, cây cối rậm rạp mướt mắt, giờ đồi trọc lóc, trơ trọi một màu đất đỏ chói lói.
A Sinh tìm đến gốc Cụt nghỉ ngơi. Cái gốc Cụt này vẫn còn y nguyên. Vẫn còn cái hốc dưới gốc cây như cái lần anh bắt được con Sứt.
Xa xa từ đâu đó trong rừng bỗng có tiếng hú rền vang.
Chẳng lẽ đó là tiếng hú của chó sói?
Từ lâu lắm rồi, quanh rừng Nà Loòng làm gì còn chó sói?
A Sinh nghiêng tai nghe. Có lẽ chỉ là tiếng gió rít qua những lùm cây lúp xúp.
Anh nhớ tiếng hú của con Sứt. Nó nguyên là chó sói. Không hiểu sao nó bị chó mẹ bỏ lại nằm lăn lóc ở gốc Cụt. Lần đó, A Sinh nghỉ chân ở đồi Rậm, bỗng anh nghe thấy tiếng rên i ỉ. Lần theo tiếng kêu đến gốc Cụt, anh phát hiện ra một con chó sói con đang bị kiến bu đầy mình. Anh phủi kiến, nhấc con sói con lên. Con chó có hai mắt sáng, chân tay bụ bẫm, ức nở rộng, trông chẳng khác gì chó nhà. Một bên tai con sói con đã bị kiến gặm sứt một mảng, máu chảy rươm rướm. Thấy có người nhấc mình lên, con chó lưỡi thè lè. Anh quan sát thấy đốm lưỡi nó đen ngòm. Theo những tay sành xem tướng thì đây là một con chó thông minh. Suy nghĩ một lúc, A Sinh bỏ con chó lên gùi. Anh mang nó về bản Nà Loòng cho nó canh nhà.
Vì tai nó đã bị sứt một miếng nên anh gọi nó là con Sứt.
*
Vàng A Sinh vẫy tay. Con Đốm chạy vọt lên. Dáng chạy băng băng.
Dáng chạy của con Đốm rất khác với con Sứt. Con Sứt chạy lúc nào cũng như đang dè chừng một điều gì đó. Nó có tật vừa chạy, vừa ngoái lại nhìn xung quanh. Điệu bộ của nó lúc nào trông cũng có vẻ gian gian.
Con Sứt được A Sinh nuôi dạy rất nghiêm khắc. Nó trở thành chó giữ nhà. Về cơ bản, nó là một con chó ngoan. Thực ra nó chẳng khác gì những con chó giữ nhà khác là mấy. Nhưng A Sinh vẫn ám ảnh. Dù sao con Sứt vẫn là chó sói. Trong con người nó vẫn là dòng máu sói. Không cẩn thận, thú tính của nó nổi lên là hậu quả khôn lường.
A Sinh thể hiện quan điểm rõ ràng với con Sứt. Anh dạy nó bằng đòn roi. Con chó mắc bất cứ lỗi nhỏ nào là anh trừng trị thẳng tay. Sủa linh tinh, đánh! Chạy lang thang không trông nhà, đánh! Cắn nhau với chó hàng xóm, đánh! Kể cả thấy nó léng phéng nhìn đàn gà với đôi mắt gian gian là A Sinh cũng vác roi ra vụt cho nó một trận không thương tiếc.
Bản Nà Loòng vẫn thường tổ chức đi săn. A Sinh cũng thuộc phường săn của bản. Nhưng mỗi khi đi săn thú, không bao giờ anh cho con Sứt đi theo. Anh sợ việc chạy đuổi theo những con thú bị thương sẽ làm sống lại thú tính săn bắt của nó. Chỉ khi nào đi rừng, đặt bẫy, anh mới cho nó đi theo…
Vàng A Sinh bước đến truông Cấm.
Con Đốm vẫn cần mẫn chạy phía trước. Thỉnh thoảng nó lại sục vào bụi rậm. Chắc nó đánh hơi thấy con sóc hay con chuột nào đó. Nó đánh hơi rồi ngoái lại nhìn anh như chờ đợi xem anh có ra lệnh cho nó bắt đầu một cuộc săn nhỏ hay không. Anh xua tay sùy sùy. Thế là nó nhảy ra khỏi bụi rậm, quay trở lại con đường mòn giữa rừng.
Hồi xưa, vào đến truông Cấm là đã vào rất sâu trong tim rừng rồi.
Người dân bản Nà Loòng đặt tên nơi đây là truông Cấm bởi chỗ này rừng cây rậm rạp, rất nhiều thú dữ. Nhiều khi phường săn vào đến đây, quan sát xung quanh, họ còn thấy có những dấu chân hổ to bằng cái bát in hằn trên nền lá ẩm mục.
Mấy năm nay, những câu chuyện về hổ đã ít đi nhiều. Hổ bị mọi người săn đuổi ráo riết, dần dần bị tận diệt. Người ta gọi hổ là Chúa sơn lâm. Thế nghĩa là số phận của hổ đã bị định đoạt. Từ ngàn xưa, những gì bị tôn vinh là Vua, là Chúa rồi khắc sẽ bị săn đuổi. Chúa tể của rừng xanh chỉ là danh xưng người ta gọi cho có vẻ kính trọng. Còn trên thực tế, họ sẵn sàng săn lùng tiêu diệt, lột da để làm thảm, nấu xương để làm cao, bẻ nanh, bẻ vuốt để làm vật trang trí.
Những con hổ cuối cùng cũng đã rời khỏi cánh rừng.
Có lẽ rồi chúng sẽ chỉ còn xuất hiện ở những câu chuyện kể bập bùng bên bếp lửa.
Truông Cấm cũng không phải là nơi cấm địa nữa.
Làm gì còn hổ nữa đâu mà sợ?
Tuy nhiên nhiều người vẫn e ngại khu vực truông Cấm. Hổ không còn nhưng lại có chó sói.
Ba năm trước…
Lần đó, A Sinh cùng con Sứt đi rừng hái thuốc. Đến truông Cấm, bỗng nhiên con Sứt lông gáy dựng đứng. Mắt nó nhìn thẳng vào lùm cây trước mặt, sủa dữ dội. Lùm cây động đậy. Rồi xung quanh cây cối rung rung. Những chiếc tai nhọn hoắt như từ dưới đất mọc lên, rẽ cây tiến lại gần phía A Sinh. Một đàn chó sói xuất hiện bất ngờ, dễ chừng phải hơn chục con. Chúng lập tức bao quanh hai con mồi, mắt nhoáng lửa, răng nanh nhe ra trắng ởn. Con Sứt vừa sủa vừa lùi về phía chân A Sinh tìm sự che chở. A Sinh tay phải rút nỏ, tay trái cầm chắc con dao rừng.
Một con sói lao đến. A Sinh buông lẫy nỏ. "Tách!", con sói bị mũi tên đâm xuyên qua ức đổ gục xuống. Cả đàn sói lập tức ào lên. A Sinh không kịp lắp tên, vội cầm chặt dao rừng nhằm lũ sói chém mạnh. Một con sói nữa bị dao chém thẳng vào đầu nằm lăn ra đất. Bỗng "goằm!", anh bị một con sói vòng ra đằng sau cắn vào đùi anh. Mấy con sói phía trước vội nhao đến. A Sinh khua dao rối rít, vừa giẫy chân cố hất con sói ra. Hàm răng chó sói sắc như dao, máu anh chảy xuống ấm cả một bên đùi.
Con Sứt từ đâu lao đến như một mũi tên, húc vào con sói. Con Sứt và con chó sói cuốn chặt lấy nhau lăn lông lốc ra xa. Cả đàn sói lập tức nhao đến cắn con Sứt túi bụi. A Sinh thấy tình hình không ổn vội quay đầu chạy về phía bản. Con Sứt cố gắng chặn đường cho anh một cách tuyệt vọng.
A Sinh chạy thục mạng.
Đàn chó sói không đuổi theo anh nữa, quây vào con Sứt.
Tiếng chó sủa xa dần, xa dần…
Chạy về đến bản Nà Loòng, A Sinh mới tin rằng mình thoát chết. Anh vội cùng phường săn vào rừng bắt lũ sói. Đến truông Cấm, chỉ thấy máu me be bét. Người ta bảo rằng con sói nào chết, đồng bọn sẽ ăn thịt chúng luôn.
Chắc con Sứt cũng đã bị lũ chó sói ăn tươi nuốt sống rồi.
Vàng A Sinh tìm đến bụi rậm chỗ con Sứt đánh nhau với đàn chó sói. Lùm cây vẫn còn nguyên đó. Con Đốm đang chạy đến chỗ bụi cây ngửi ngửi. A Sinh nói to: "Có ngửi thấy mùi con Sứt không?". Con Đốm ngoái lại nhìn anh ngơ ngác…
*
Đã gần đến chỗ Vàng A Sinh đặt bẫy.
Ngày xưa, chỉ cần đặt bẫy ở rìa rừng là cũng có thể bắt được thú. Giờ thú rừng ngày càng ít đi. Muốn hiệu quả, phải vào tận sâu trong tim rừng, bẫy phải được ngụy trang khéo léo mới mong bắt được thú. Thú rừng ngày càng ít đi. Bản năng sinh tồn khiến chúng ngày một khôn ngoan hơn, cảnh giác hơn. Mỗi lần đặt bẫy, A Sinh thường đặt một chùm vài cái bẫy chặn nhiều lối đi lại của thú rừng. Thế mới mong bắt được chúng.
Rừng cây bây giờ không còn hào phóng như xưa nữa. Những chuyến đi săn ngày một khó khăn. Phường săn ở bản Nà Loòng đã tan rã. Nhiều thanh niên trong phường săn giờ chuyển sang làm việc cho những đầu nậu gỗ ở dưới xuôi. Chỉ việc vào rừng chặt gỗ chở ra đường cái cho các đầu nậu là xong. Tiền công rất hậu hĩnh. Càng nhiều cây bị cắt, thú rừng càng ít đi.
A Sinh vẫn đi săn thú bởi vì người ta trả giá cho thú rừng cao hơn trước. Mỗi chuyến đi rừng, chỉ cần vài con thú dính bẫy là anh cũng có thể đem bán, đủ tiền cho gia đình trang trải một thời gian.
Con Đốm đang chạy với tốc độ bình thường phía trước, bỗng nó nhổm lên mô đất, mũi hít hít theo hướng gió. Rồi nó sủa to một tiếng, chạy thẳng đến chỗ đặt bẫy. A Sinh vui mừng. Chắc bẫy đã sập. Thế là có tiền rồi. Anh hăm hở chạy theo con Đốm. Nhìn ra vị trí đặt bẫy, A Sinh thấy xác một con chó sói cái. Con Đốm đang cắn chặt vào gáy khiến con sói cái giật giật lên giãy chết.
A Sinh tiến lại gần.
Bỗng từ trong lùm cây có tiếng chân chạy rập rạp. Một con chó sói to lớn rẽ lùm cây bước ra, miệng nó còn đang càm một con sóc nhỏ. A Sinh đoán đây là con sói đực. Chắc đôi sói này đi cùng nhau, con sói cái dính bẫy, đói quá nên con sói đực bắt sóc về cho nó ăn.
Thấy con sói cái bị con Đốm cắn chết, con sói đực sững lại trong giây lát. Con Đốm nhả gáy ra rồi định cắn tiếp vào phía bụng con sói cái. Sói đực gầm lên một tiếng rồi lao như một cơn lốc, húc thẳng vào mình con Đốm. Hai con chó cắn xé nhau quyết liệt. Con Đốm có vẻ thất thế hơn, bị con sói đực đè ngửa ra.
A Sinh lập tức giương nỏ. "Phực!". Mũi tên xé gió bắn ra găm thẳng vào đùi con sói đực khiến nó ngã lăn ra. Con Đốm lập tức nhỏm dậy chồm lên mình con sói, tợp một miếng chí mạng. Con sói vội nghiêng má tránh miếng đớp khỏi chỗ hiểm. Miếng đớp của con Đốm táp thẳng vào mắt con sói. Chỉ chờ có vậy, con sói nhanh như cắt giương hàm răng sắc ởn đớp một phát chí mạng vào cuống họng con Đốm. Con Đốm tru lên thê thiết, gục xuống, máu từ cuống họng nó trào ra ồng ộc.
Con sói đực lẩy bẩy đứng lên, chạy chồm vội về phía con sói cái. Bỗng "pặp!", tiếng bẫy khô khốc vang lên. Chân trước của nó đã dính vào một chiếc bẫy của A Sinh. Nó gầm lên những tiếng uất hận. A Sinh thấy con sói đực đã dính bẫy, anh bình tĩnh bước lại gần phía con sói cái. Thì ra đó là một con sói đang nuôi con. Ngực nó căng sữa. Dưới bụng nó là hai con chó sói con còn đang hì hụi rúc tí chó mẹ. A Sinh đá đá vào hai con sói con. Chúng đau đớn kêu lóc chóc.
Con sói đực thấy A Sinh đá lũ con của mình, nó lập tức sủa lên một tiếng vang động. Tiếng sủa quen quen. A Sinh chăm chú nhìn con sói đực. Một bên mắt của nó đã bị con Đốm cắn thủng, máu chảy tràn trề khuôn mặt.
Khuôn mặt nó trông quen quen.
Chẳng lẽ…?
Đúng là con Sứt rồi. Cái tai bị kiến gặm sứt của nó vẫn thế.
Con Sứt giương mắt nhìn chủ cũ, sủa lên mấy tiếng thân thiện, ánh mắt đầy van xin.
A Sinh nhìn xác con Đốm. Anh nghiến răng: "Đồ chó phản chủ!". Đoạn anh giương nỏ lên nhắm thẳng về phía con Sứt. Mấy con chó sói con lúc nãy đang ngủ, vừa bị anh đá giờ đã tỉnh dậy, chồm lên xác con sói mẹ sủa chóc chóc. A Sinh đặt ngón tay lên lẫy nỏ.
Bỗng con Sứt gầm lên một tiếng. Nó vặn người há to mồm đớp một phát đứt lìa cái chân đang dính bẫy của nó. A Sinh khiếp hãi. Con Sứt nhao đến như một tia chớp, đâm bổ vào ngực anh. A Sinh chới với ngã ngửa ra sau. Con Sứt chồm lên giơ hai hàm răng nanh sát cổ họng anh gừ gừ. A Sinh ngước mắt nhìn con Sứt. Mắt nó man dại vằn tia đỏ lựng. Máu ở cái chân bị cắn đứt của nó chảy thẫm đẫm lên ngực anh. A Sinh lắp bắp: "Sứt! Sứt! Tao đây! Tha cho tao!".
Trong chốc lát, ánh mắt hoang dại của con chó sói như giãn ra. Rồi nó bước ra khỏi ngực anh, tập tễnh đi về phía hai con chó con. Nó hít hít xác con chó sói cái, ngửa cổ lên trời tru lên một tiếng thê thiết.
A Sinh vùng dậy. Con Sứt ngoàm gáy hai con sói con, quay lại nhìn A Sinh. Anh đã kịp nhặt lấy chiếc nỏ, lắp tên vào và ngắm thẳng về phía con Sứt.
Người và sói nhìn nhau yên lặng có lẽ đến vài phút.
Hai con sói con dường như cảm nhận được cái chết của mẹ, chúng rên lên ư ử nghe não nuột rồi ngửa mặt lên trời tru lên những hồi dài.
A Sinh bỗng nhớ đến tuổi thơ mồ côi của mình.
A Sinh nhớ đến cảnh đứa con ở nhà đang rúc đôi bầu vú nhõng nhẽo của mẹ.
Anh thất thần buông nỏ xuống.
Con Sứt vẫn càm gáy hai con chó con, mắt nhìn anh nhoang nhoáng ướt rồi tập tễnh đi khuất dần sau những bụi cây rậm rạp…
A Sinh thu dọn xác con Đốm và con chó cái rồi chậm rãi lê bước về phía bản Nà Loòng.
Đó là lần cuối cùng anh đi săn
Nhặt vợ
Bao nhiêu kế chuẩn bị để đối mặt với anh con trai của ông bỗng thành vô nghĩa khi cô con dâu ra mở cửa. Cái nụ cười thường trực của nó nhoẻn ra như vầng trăng khuyết bỗng méo lại như mảnh trăng tàn cuối tháng, khi ông giới thiệu: "Đây là cô Nền, cô ấy sẽ về ở với bố". Nói xong, ông trút phào một hơi thở. Thôi thì cứ trắng phớ ra như vậy cho nó nhẹ người. Cô con dâu bỗng chốc câm bặt, lẳng lặng bỏ lên phòng riêng, không hề hỏi thêm ông câu nào...
Chỉ còn hơn chục cây số nữa là về đến nhà, ông hồi hộp âu lo. Từng cây số đang lùi dần, lùi dần, mà xe khách gì chạy như lên thiên đàng thế này... Ông lén trút một hơi thở dài thật từ tốn, từ tốn vì ông không muốn người đàn bà đang gục vào bờ vai ông thức giấc. Những địa danh quá quen thuộc đang trôi dần qua ô cửa kính xe. Ông sốc người lại cho thẳng thớm, như kiểu sửa mình để bước vào cuộc họp, đó là cái cảm giác đã lâu rồi ông không còn gặp lại nữa. Những cuộc họp kiểm điểm thường diễn ra vào dịp cuối năm, bao giờ cũng rất căng thẳng. Mặc dù đa phần ông được khen, nhưng, lúc nào ông cũng giật thột khi nghe đến chữ "nhưng". Người ta bảo có tật thì giật mình, ông soát xét lại cũng chẳng có tật gì, sao ông vẫn hay giật mình? Làm quản lý nó khổ thế, chả khác gì đứng trên chiếc ghế cao mà ở dưới có thằng đang giữ, ngộ nhỡ nó thả tay ra là mình ngã chổng kềnh. ấy vậy mà khối kẻ vẫn thích. Ông mỉm cười nhớ lại cái quãng đời làm sếp của mình, tâm đắc vì mọi cái đều ổn. Không tham ô, gái gú, không sơ sểnh ký tá, có chăng thỉnh thoảng nhận chút quà biếu của cấp dưới hoặc dăm ba cái phong bì gọi là cảm ơn của các đối tác. Tuy nhiên chính vì cái đó mà lắm khi cũng làm ông giật thột. Song, nếu không có những cái phong bì đó chắc gì gia đình ông thoát khỏi cái nghèo thâm căn cố đế. Có đổi lại chút ít nơ ron thần kinh âu cũng là điều xứng đáng. Khổ nỗi khi ông có nhà cao cửa rộng, có miếng ăn miếng để thì bà vợ lại lăn ra ốm, ốm quặt ốm quẹo và nhè đúng cái lúc ông vừa rũ áo chốn quan trường thì bà ấy lại về với gia tiên. Tất nhiên, đám tang của vợ ông vẫn đông đúc, đầy đủ các ngành trên chức dưới. Dẫu sao ông cũng không đến nỗi cô quạnh như một số vị quan về hưu. Thậm chí ông còn được đám nhân viên tiếc rẻ: "Lãnh đạo như bác bây giờ cũng hơi hiếm".
Ông lại hít một hơi thở dài, ưỡn ngực cho thẳng tư thế. Chắc chỉ ít phút nữa là tới nhà. Ông sẽ phải đối mặt với ánh mắt của thằng con trai duy nhất. Bây giờ chỉ ánh mắt nó mới làm ông lo ngại. Nó là bản sao của ông về tất cả. Được học hành bài bản, nó tiến nhanh hơn ông trên con đường quan lộ, mới ba mươi tuổi đã là trưởng phòng một cơ quan báo chí lớn của tỉnh. Gì chứ cái chức phó tổng biên tập là trong tầm tay. Bố con ông rất hợp tính nhau. Sau buổi cơm nước bao giờ cũng nhâm nhi tí thời sự. Nó có ánh mắt nghiêm khắc giống hệt ông, cái ánh mắt đã từng rèn nó mỗi bước đi. Bây giờ chính ánh mắt ấy sẽ lại phán quyết ông.
Người đàn bà vẫn ngủ say tít như đã tìm được bến đỗ. Ông mỏi nhừ bên vai nhưng vẫn không dám cựa. Tay phụ xe đảo mắt lại phía ông hỏi: "Bác xuống đoạn nào, chuẩn bị đi, xe không đỗ lâu đâu". Ông không thèm trả lời, ai chả biết là phải chuẩn bị rồi. Ông là ông vẫn ức khi nãy hắn đon đả chỉ cho ông cái ghế cạnh tay lái, rồi còn hí hởn chào mời: "Bác ngồi trên này khỏi say, con gái bác ngồi sau cũng được". Ông lầm lỳ không nhận cái ghế tốt đó mà kéo người đàn bà xuống dãy ghế phía dưới. Nhất quyết ông không thèm nhận những đặc ân dành cho người cao tuổi. Ông mới chỉ hơn sáu mươi thôi mà, nếu so về sức vóc, ông còn trẻ hơn tuổi nhiều. Về hưu không có sự đón đưa và thưởng thức những của ngon vật lạ như lúc đương chức nhưng ông lại có vẻ khỏe ra. Không phải thức khuya dậy sớm, không có những cú thần kinh căng thẳng nên da dẻ ông nhẵn nhụi hồng hào. Chiều đến, tung tẩy cái vợt cầu lông ra khuôn viên đầu phố đánh với mấy ông bạn hàng xóm, cười nói thả phanh, văng tục sướng mồm, ông thấy đời cũng đáng sống chứ không bi quan như cái lúc sắp phải rời ghế. Phải cái, lâu nay ông đâm ghiền cái món internet. Thằng con trai biết bố đói thông tin nên lúc đầu chịu khó đem về cho ông đủ thứ báo, nhưng rồi sau chừng như không đủ kiên nhẫn để sưu tầm các loại báo mà ông đòi hỏi, nên nó đã vác về cái máy vi tính và dạy ông sử dụng. Lúc đầu ông cũng chóng mặt vì những enter, những shift, những del... nhưng khi đã biết cách lướt web rồi thì ôi chao, ông như kẻ nghèo ngợp trong kho châu báu. Ông ngồi lỳ trước máy đến nỗi lúc đứng dậy phải khom khom một lúc mới đứng thẳng nổi. Ông khoái nhất là gõ vào cái google muốn xem cái gì là được cái ấy. Mà khi chỉ có mình ông ở nhà, ông có thể tự do lang thang trên mạng, xem từ thượng vàng đến hạ cám. Tin tức mãi cũng chán, rồi sang đến giải trí, rồi những vấn đề nhạy cảm mà cái thời làm sếp ông luôn phải chặn cái barie đối với các nhân viên. Bây giờ thì ông có thể tự do lặn ngụp trong cái hồ cấm ấy mà chả phải sợ ai. Ôi chao là những đường cong, những đường cong lại còn quằn quại, rên rỉ nữa chứ, nó thôi thúc cái sinh lực đàn ông của ông bao nhiêu năm phải uốn theo cái ghế lãnh đạo, bây giờ được bật tung ra như cái lò so, ấy thế mới khổ. Rời cái máy ra là ông rã rời, thấy nôn nao như người thèm ăn mà không biết ăn gì. Rồi ông mắc chứng khó ngủ...
Anh con trai, dù công việc bù đầu nhưng vẫn rất quan tâm tới bố. Anh nhận ra sức khỏe của bố có vấn đề. Thế là đúng dịp công đoàn cơ quan tổ chức chuyến đi du lịch lên Móng Cái, có ghé sang Trung Quốc vài ngày, anh nhường luôn suất của mình để bố đi. Thực ra đi du lịch thì ông cũng không ham, nhưng ông tặc lưỡi "Thay đổi một tí không khí cũng có cái hay".
Lúc đầu cũng tại cái tính hay ôm việc vào mình của ông. Ông nhớ lúc đó ông đang thưởng thức các món ăn Trung Quốc tại một nhà hàng bình dân ở một thành phố giáp biên của nước bạn thì buồn đi đại tiện. Ông ra hiệu cho cô nhân viên người Hoa chỉ cho ông nhà vệ sinh. ú ớ một hồi, cô ta cũng đưa ông ra phía sau cửa hàng. Té ra ta hay Tàu cũng thế cả. Trong căn bếp tối tăm ẩm thấp là một dãy nhà vệ sinh. Ông cảm thấy ngượng ngùng vì phải chui vào nhà vệ sinh trước cái nhìn của mấy cô gái bản xứ đang làm bếp. Chẳng ai hỏi ai, với lại ngôn ngữ cũng bất đồng, nhưng khi ông bước ra muốn rửa cái tay để tiếp tục ngồi vào bàn ăn thì lúng túng không tìm được chỗ vòi nước nào còn trống. Bỗng một cô gái đang ngồi trước một chậu rửa bát to tướng ngẩng lên nhìn ông, rồi né người nói một câu tiếng Việt xanh rờn như đang ở quê cha đất tổ: "Bác lại đây mà rửa này". Ông quên cả cảm ơn vì ngạc nhiên. Khi ông rửa xong đã thấy cô gái đưa cái khăn mặt trắng tinh lại để ông lau tay. Chừng như biết ông muốn hỏi han, cô nhìn ông chờ đợi. "Cô là người Việt Nam à?". "Vâng". "Sang bên này...lấy chồng à?". "Vâng". Ông chưa kịp hỏi thêm thì cô gái đã ghé sát lại phía ông, nói nhỏ: "Bác ơi, cứu cháu với! Cháu bị bán sang bên này, may mà trốn được. Cháu đang trốn trong nhà hàng này chẳng dám ló mặt ra ngoài, bác cho cháu theo về Việt Nam với".
Thật may cho cô gái đã tìm được đúng người cần nhờ. Sau một thoáng ngỡ ngàng, ông quyết ngay: "Được, tôi sẽ gặp chủ cửa hàng, tìm cách đưa cô về". Sau khi hội ý với trưởng đoàn và được mọi người trong đoàn ủng hộ, ông đã điều đình với chủ cửa hàng để cô được nghỉ việc. Chỉ khi ra đến cửa khẩu mới gặp rắc rối, nhưng may được cái tài thao lược vốn là năng khiếu của ông nên mọi việc lại xuôi chèo mát mái. Cô gái, nói đúng hơn là một thiếu phụ đã nghiễm nhiên ngồi cùng xe với đoàn đi du lịch của ông. Về đến Hà Nội, đoàn nghỉ lại trong một khách sạn theo đúng lịch trình, mai mới đi sớm. Đáng lý là ông có thể chào tạm biệt người thiếu phụ rồi, nhưng ông lại nghĩ: "Bây giờ trời cũng đã tối, để cô ta về tận Thái Bình liệu có còn xe không?". "Thôi vào trong này nghỉ tạm cùng với đoàn chúng tôi mai hãy về" - Ông gọi người thiếu phụ đang tần ngần bước đi.
Sáng hôm sau, khi đã xách va ly bước lên xe cùng với đoàn du lịch rồi, nghĩ sao ông lại tụt xuống. Ông nói với trưởng đoàn: "à tôi phải đi thăm mấy ông bạn đồng ngũ cái đã, đoàn cứ về trước". Thực ra cái lý do chính đáng là ông nhìn thấy bộ mặt thẫn thờ và ánh mắt buồn thiu của người thiếu phụ khi vẫy tay đưa tiễn ông. Phải đưa cô ta về tận nơi tận chốn, thế mới gọi là có trách nhiệm chứ. Ông nghĩ vậy. Lúc mọi người bắt tay ông để về trước, một thằng cha trong đoàn ghé tai ông nói nhỏ: "Bác nên cẩn thận đấy, dẫu sao cũng gái nhặt mà". Ông tím lịm mặt mày. Bố láo, nó nghĩ ông sẽ làm gì chứ. Phải như nhân viên cơ quan ông thì ông đã cho nó cái bạt tai rồi.
Quay trở lại với người đàn bà, ông đâm bẳn gắt: "Sao còn đứng ngây ra đấy, chuẩn bị đi, tôi sẽ đưa cô về tận nhà". Người đàn bà bỗng rơm rớm nước mắt, ngước nhìn ông như cầu khẩn: "Cháu không thể về quê được bác ạ. Cháu phải ở lại đây kiếm việc làm chứ về quê ... thì nhục lắm. Cháu đã bỏ quê đi lâu rồi, bao giờ có tiền mới trở về được". "Ôi chà, cô tưởng kiếm được việc làm ở cái đất thủ đô này dễ lắm à, trừ phi... Thôi thế này nhé, tôi sẽ giúp cô. Tôi có nhiều người quen ở đây, chắc họ sẽ giúp, lao động đơn giản thì cũng không khó lắm".
Thế là ông lại đeo thêm một việc nữa, đi tìm việc cho người đàn bà. Ông tất tả đi cho đến tối mịt mới về. Toàn những ông bạn mà thời còn đương chức, họ thân thiện với ông lắm, cứ hò hò, hẹn hẹn giúp này giúp nọ, nhưng ông chưa có lần nào phải cần đến họ cả, chỉ có bây giờ... "Vâng vâng, có gì đến mai em gọi lại", "Chân tạp vụ bây giờ cũng khó lắm anh ạ". Ông lại tìm đến mấy ông bạn doanh nghiệp. "Không có nghề gì ư, có xe máy không? Không thì gay đấy, thôi, bác cứ yên tâm, em sẽ cố gắng thu xếp sau". Sau sau, biết đến bao giờ, ông còn lạ gì những lời hứa kiểu đấy. Ông ngán ngẩm trở về. Trời lại tối sập xuống, chẳng còn đi đâu được nữa. Ông ân hận bỗng nhiên lại mua dây buộc mình. Nếu không thì bây giờ ông đã vui vẻ quây quần bên con cháu rồi. Nhìn cái mặt như tàu lá héo của người đàn bà, ông đâm chạnh lòng: "Thôi, đến mai tôi đưa cô về quê tôi, chắc chắn tìm việc dễ hơn". Ông toan lôi cái va ly kéo ra khỏi phòng thì cô ta hốt hoảng ngăn lại: "Bác đi đâu ạ, ở lại đây cũng được mà. Phòng có hai giường mà bác, cháu coi bác như ...cha". Ông nghĩ bụng, ừ cô ta còn kém thằng con trai ông đến vài tuổi, có gì đâu mà ngại, việc gì phải đi thuê thêm phòng cho nó tốn kém.
Ông vào phòng tắm xì xọp kỳ cọ trong làn nước ấm của chiếc vòi hoa sen, thật sảng khoái. Ông trở ra với bộ quần áo ngủ bằng lụa tơ tằm màu mỡ gà, rất hợp với làn da hồng hào săn chắc của ông. Đây là bộ quần áo đứa con dâu đi Thái Lan về tặng mà ông rất thích, nó vừa nhẹ nhàng mềm mại lại vừa tôn được cái vẻ sang trọng quý phái của đấng nam nhi luống tuổi. Nhìn sang giường bên vẫn thấy người đàn bà trẻ ngồi thu lu. Ông giục: "Vào tắm đi, rồi đi ngủ sớm, mai hãy hay". Ông lên giường buông màn duỗi thẳng chân tay cho khoan khoái và bắt đầu thở đều đều theo thói quen cho dễ ngủ. Người đàn bà vào phòng tắm và ở trong đó khá lâu, hình như ông đã chợp mắt được một lúc, khi tỉnh dậy vẫn thấy cửa phòng tắm đóng kín. Ông lo lắng định gọi thì chợt thấy mùi xà phòng thơm thoang thoảng sộc vào mũi. Một bóng người lướt qua giường ông nghe thơm mùi hồ của bộ quần áo ngủ mới cứng. Tiếng công tắc đèn cái tách, bóng tối tràn ngập căn phòng, một lúc mới lờ mờ hiện lên cái dáng dài manh mảnh của người đàn bà đang duỗi ra trên giường. Trong bóng tối, ông thả sức căng mắt nhìn sang. Cô ta nằm nghiêng quay lưng lại phía ông, nhưng chính cái đường cong chết người ấy lại đánh thức ông. Cái đường cong đã từng làm ông khó thở bao nhiêu đêm, nay hiển hiện ra trước mắt, trong bóng tối lờ mờ lại càng huyền ảo thôi thúc.
Ông bắt đầu thở dốc. Trong phút chốc ông quên mất vai trò của người hiệp sĩ cứu mỹ nhân, mà chỉ thấy đang là một thằng đàn ông với bản năng giống đực ngùn ngụt. Ông tung màn bước sang giường người thiếu phụ không chút ngại ngần, như dòng nham thạch của núi lửa đã được tích tụ từ hàng ngàn năm trào ra không gì ngăn nổi. Bản nhạc câm chỉ bằng những động tác nhịp nhàng nhuần nhị nhưng không kém phần quyết liệt. Khi dòng nham thạch đã cháy thành than, ông mới soài người ra và chợt nhận ra cô ta không hề chống cự, hay là cô đang chịu ơn ông? Không, vì hình như cô còn hưởng ứng là đằng khác. Có lẽ đây là cuộc mây mưa mỹ mãn nhất trong đời ông. Kể cả khi đang là thanh niên, ngay trong đêm tân hôn ông cũng không được cái cảm giác cùng lên mây như bây giờ. Bà vợ ông là một người đàn bà khép kín lại yếu đuối, nên những cảm xúc của bà đã bị nhét chặt trong cái cơ thể không mấy hấp dẫn. Cả một đời vợ chồng của ông bao nhiêu năm thực ra chỉ là làm tròn đạo.
Để khẳng định sự nhiệt thành của người đàn bà đang nằm bên cạnh, ông quay lại ôm cô ta, áp cái đầu bù xù dấp dính mồ hôi của cuộc mây mưa vừa qua vào bộ ngực đang nóng hầm hập của mình. "Tôi...có làm cô giận không? Nếu giận cho tôi xin lỗi". Không có tiếng trả lời, chỉ có vòng tay cô ta vòng qua người ông xiết lại, và ngực ông đang rỉ ra thứ nước âm ấm chảy tràn xuống lưng. "Ơ, ơ, cô khóc đấy à. Tôi đã làm cô...". "Không không, cháu, à em hạnh phúc lắm. Ông biết không. Hai năm trời sống với người chồng xứ người, thật là cực hình. Hắn bị bệnh bất lực nên đêm đêm hắn hành hạ em bằng đủ mọi cách. Hắn bắt em phải làm tình với đủ mọi vật dụng, đủ mọi kiểu cách để hắn xem cho thoả mãn. Rồi khi không thỏa mãn hắn cắn xé em như chính em là nguyên nhân khiến cho hắn không thực hiện được. Ban ngày, gia đình hắn nhìn em bằng con mắt hằn học vì em chưa có con. Em... em chưa bao giờ được như thế này".
Trời ơi, thật thế sao? Ông chẳng muốn hỏi thêm, ông thấy mình như bỗng dưng được một món quà mà Thượng đế vừa ban cho. Tự nhiên ông đâm tiếc cái thời gian đời người của mình còn ít quá. Nhưng muộn còn hơn không, nếu cô ta đồng ý, ông sẽ... Nghĩ vậy ông lại thấy rạo rực, lại muốn được trùm lên cô ta một lần nữa...
"Ơ, ơ, này, cho tôi xuống đây". "Nói rồi mà bác không chuẩn bị, thôi bác về bến nhé". "Anh thông cảm, nhà tôi ngay gần đây, xe về bến thì xa quá". Người đàn bà bừng tỉnh líu ríu theo ông xuống xe. Tay phụ lái lướt cái nhìn tinh quái: "Đỡ ông ấy xuống kìa cô". Không còn nể nang, ông lườm tay phụ lái một cái sắc như dao bài.
Bao nhiêu kế chuẩn bị để đối mặt với anh con trai của ông bỗng thành vô nghĩa khi cô con dâu ra mở cửa. Cái nụ cười thường trực của nó nhoẻn ra như vầng trăng khuyết bỗng méo lại như mảnh trăng tàn cuối tháng, khi ông giới thiệu: "Đây là cô Nền, cô ấy sẽ về ở với bố". Nói xong, ông trút phào một hơi thở. Thôi thì cứ trắng phớ ra như vậy cho nó nhẹ người. Cô con dâu bỗng chốc câm bặt, lẳng lặng bỏ lên phòng riêng, không hề hỏi thêm ông câu nào. Lúc ông đi qua phòng nó để đưa người thiếu phụ lên phòng thay đồ, thì nghe có tiếng nói qua điện thoại: "Anh về ngay nhá, bố nhặt ở đâu về một người đàn bà ấy. Đúng là trẻ không chơi già đổ đốn".
Ngay lập tức anh con trai đã có mặt ở nhà. Anh hỏi han chuyến đi du lịch của bố với cái mặt lạnh tanh. Ông đâm sốt ruột gọi anh vào phòng riêng: "Bố sẽ lấy vợ, lấy cô ấy đấy, con thấy thế nào". Cái mặt anh con trai trắng bệch: "Con không phản đối, có điều...". "Bố hiểu rồi, vợ con không đồng ý chứ gì. Thôi được, bố và cô ấy sẽ ở riêng". "Không, ý con là, con muốn người mẹ kế của con không phải là cô ta". Cuộc đấu lý của hai bố con không kém phần gay gắt nhưng không ồn ào, và không phân thắng bại. Người thiếu phụ vẫn được sắp xếp cho một phòng riêng trên tầng chót để nghỉ ngơi. Phải tế nhị thế chứ, bao giờ chính thức hãy hay, ông nghĩ vậy, rồi ông sẽ cố dàn xếp con cái sau...
Ông ngủ say như chết, chắc mấy ngày đi lại mệt, khi tỉnh dậy nhà đã vắng hoe. Ông sực nhớ đến người thiếu phụ, vội chạy lên, thấy cửa phòng không đóng. Ông giật mình thấy căn phòng trống không, giường chiếu khá gọn gàng. Một mảnh giấy để ngay trên gối: "Chào ông, em phải đi để ông được yên ấm với gia đình. Cảm ơn ông rất nhiều". Ông vội nhìn đồng hồ, cô ta chưa thể đi xa được.
Có một dạo, cả thành phố xì xào bàn tán về một dòng tin quảng cáo trên truyền hình nhắn tìm bố với lời lẽ thống thiết của người con trai mà tên lại trùng khít với tên của người Phó Tổng biên tập tờ báo lớn nhất tỉnh. Nghe nói chỉ vì cái tin nhắn đó mà anh phó tổng lao đao suýt mất chức
Cô gái đ
Cô gái dở khóc dở cười, đi lang thang hết phố này sang phố khác. Cô mặc chiếc quần bò Levis cũ bạc màu, đôi chỗ sờn rách và một chiếc áo mút đỏ chói kiểu may ô ba lỗ của đàn ông. Mái tóc cô rối tung, bết lại xõa xuống bờ vai trần trắng nõn. Khuôn ngực cô căng tròn đầy đặn. Đôi chân thon dài, chắc lẳn. Đám con gái qua đường liếc nhìn cô với vẻ vừa ngượng ngùng, vừa tiếc rẻ cho một cơ thể cân đối, gợi cảm, lại ở cùng với một cái đầu ngơ ngơ, tâm thần...
Sự bẩn thỉu, bụi bậm vì lê la sương gió không làm mất đi ở cô gái vẻ đẹp của thời xuân sắc. Một đám trẻ con ùa ra từ một trung tâm dạy ngoại ngữ, bám theo cô gái. Chúng gọi nhau í ới: "Chúng mày ơi!... Ra xem Miss điên. Miss điên này!". Bà già bán hàng nước gần cổng trường, lẩm bẩm: "Miss điên? Miss điên là cái quái gì? Con điên thì gọi thẳng là con điên, vẽ chuyện. Mít với mung, bố ai hiểu là cái gì!".
Hàng phố kháo nhau cô gái tên là Thủy, nhà ở phố H., đã tốt nghiệp đại học, từng làm ở một tổng công ty lớn trong thành phố. Người ta nói: Nếu như tổng công ty nơi cô gái làm việc có tổ chức thi hoa hậu, thì người giành vương miện chắc chắn sẽ là cô. Khách quan mà nói, cô quả thực là một người con gái đẹp. Thân hình cô nở nang, những đường cong trên cơ thể như có ma lực hút hồn cánh đàn ông. Nước da cô trắng ngần. Đôi mắt mơ màng, ươn ướt, một đôi mắt biết nói.
Hồi Thủy còn là gái chưa chồng, có lần ông trưởng phòng kế hoạch nơi Thủy làm việc, hơn Thủy hai mươi mấy tuổi đã nửa đùa nửa thật: "Nói chuyện với em chỉ năm phút là anh đã bủn rủn cả người…Nhìn em, anh thấy tiếc đời quá, giá như anh được gặp em sớm!".
Nhiều chàng trai chưa vợ trong cơ quan, thật ra là cả mớ những bác già tóc muối tiêu, cháu nội cháu ngoại đàng hoàng… còn âm thầm ôm ấp bóng hình Thủy trong tim, mơ ước được ôm Thủy trong vòng tay dù chỉ một lần.
Thói thường, bụt chùa nhà không thiêng. Nhiều chàng lời gần lời xa ngỏ ý, nhưng đều bị Thủy làm ngơ. Đùng một cái, Thủy cưới chồng - một chàng trai Thủy mới quen chưa đầy năm qua một người bạn giới thiệu. Anh chồng làm giám đốc một công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên thầu xây dựng và buôn bán vật liệu sắt thép. Bố mẹ chồng để lại cho vợ chồng Thủy một căn hộ chung cư cao cấp rộng hơn trăm mét vuông, đồ đạc tiện nghi trong nhà không thiếu thứ gì. Tấn - chồng Thủy - lái con "Méc" màu đen láng bóng đưa đón Thủy đi làm hàng ngày. Thủy mặc váy, bước từ trên ôtô xuống, đài các, sành điệu. Ai cũng ngắm nhìn Thủy, thầm khen: Con bé tốt số, lấy được thằng chồng cao to, đẹp trai, dáng "đại gia"… Đúng là trai tài, gái sắc! Bố mẹ chồng Thủy nghỉ hưu, về quê dưỡng lão. Căn hộ chung cư ở khu đô thị mới chỉ có hai vợ chồng Thủy. Trước hôm về quê, bà mẹ chồng gọi riêng Thủy ra cửa thang máy, thì thào: "Mẹ nói thật, thằng Tấn mới chỉ học hết lớp 12, lớn người nhưng dại nết. Thằng chồng nó dại thì con vợ phải khôn. Con liệu mà bảo ban, khuyên can nó. Nghĩa vợ chồng "sống gửi thịt, chết gửi xương". Nó nóng, con nhịn đi. Một sự nhịn, chín sự lành. Mẹ coi con như con gái ruột, mẹ mới nói
Cưới nhau năm trước, năm sau Thủy sinh bé Quý. Thằng bé trắng trẻo, bụ bẫm, xinh trai. Quý giống mẹ như tạc. Tướng mạo nó khá. Tai to, mặt lớn, nhân trung dài và sâu. Bà nội bảo nó là con quý tử. Cuộc sống gia đình Thủy cứ thế trôi đi êm đềm, ngọt ngào và là mơ ước của nhiều cô gái trong thành phố.
Khi thằng Quý được hơn một tuổi, Thủy nhận thấy chồng bắt đầu có nhiều điều thay đổi. Anh đưa đón Thủy thưa thớt hơn trước. Sáng, Tấn lái ôtô đi rất sớm, khuya muộn mới nghiêng ngả mò về nhà, người sặc sụa mùi bia rượu. Thủy hỏi, Tấn lè nhè: "Đi tiếp khách đối tác!". Thủy im lặng chịu đựng, tự nhủ: Làm ăn thời thị trường, đàn ông thường ăn nhậu, có khi ký kết hợp đồng trên bàn tiệc là chuyện thường tình. Hàng ngày, cô vẫn là quần áo, đánh giày, chuẩn bị đồ phòng tắm như mọi khi cho Tấn. Có đêm, Tấn về nhà trong trạng thái say mềm. Anh đẩy cửa rồi lao thẳng vào phòng tắm nôn thốc nôn tháo. Thủy cuống cuồng đỡ chồng, đưa vào giường, bôi vôi vào gan bàn chân, pha nước chanh cho Tấn uống. Thủy vẫn im lặng. Cô cố kìm nén, không nặng lời, trách móc Tấn điều gì. "Một sự nhịn…" - Cô lại nhớ tới lời dặn của bà mẹ chồng.
Chịu đựng chừng sáu tháng, Thủy thấy chồng vẫn đi về thất thường, say bét nhè triền miên. Một buổi sáng, Thủy dọn trứng tráng, bánh mỳ bơ, pha cà phê rồi giục chồng dậy ăn sáng. Tấn có vẻ sảng khoái, mãn nguyện, ngồi ăn ngon lành. Đặt ly cà phê trước mặt chồng, Thủy nhẹ nhàng:
- Em có khuyết điểm, lỗi lầm gì, anh cứ nói thẳng với em. Nếu em sai, em sẽ sửa… chứ anh cứ đi đêm về hôm, say sưa tối ngày, bỏ mặc hai mẹ con ở nhà, sống chết thế nào anh không cần biết… Em không thể chịu được!...
- Chẳng có gì hết !...Tôi đi tiếp khách đối tác, thế thôi! Ở nhà với mẹ con cô thì đến cháo cũng chẳng có mà húp!
Thủy bất lực. Cô lại tiếp tục sống trong cảnh lạnh lẽo cùng bé Quý. Cô thực sự không thể lý giải nổi vì sao Tấn lại đổ đốn như vậy. Một đêm, thấy Tấn ngật ngưỡng về nhà, nhưng chắc uống ít nên chỉ ở mức tây tây. Vào giường, Thủy lại gặng hỏi lý do vì sao Tấn đối xử với vợ con như vậy. Tấn quay mặt vào trong, im lặng. Thủy thút thít, vòng tay ôm riết lấy thân hình vừa quen thuộc vừa lạ lẫm của chồng. Cô áp chặt hai bầu ngực căng tròn, nóng hổi vào lưng chồng. Lâu lắm rồi Thủy mới được thấy lại cảm giác ấm áp với chồng như vậy. Tấn gạt tay vợ: "Thôi, thôi! Hôm nay tôi mệt, không có hứng". Thủy hẫng hụt, bẽ bàng. Cô úp mặt xuống gối khóc một mình. Với Thủy, đêm hôm ấy thật dài.
Một chiều, Thủy đi làm về gặp mưa giông bất chợt. Cơn mưa kéo dài cả tiếng đồng hồ. Phố phường ngập nước mênh mông như dòng sông. Hai mẹ con ôm nhau quàng áo mưa, lội bì bõm lần từng bước về nhà. Về tới nhà, đặt con ngồi xuống ghế, Thủy bỗng bật khóc rưng rức. Chưa lúc nào Thủy cảm thấy cần Tấn như lúc này. Anh ta có hình dung cảnh hai mẹ con Thủy ướt sượt từ đầu đến chân. Thủy bấm số di động của chồng. "Số máy này hiện không liên lạc được, xin quý khách vui lòng…". Thủy bấm vài lần nữa. Vẫn không liên lạc được. Bé Quý lạnh, nó run run: "Ai đánh mà mẹ khóc? Sao bố không lái ôtô đón con với mẹ?". Thủy vuốt nước mắt thay quần áo cho con. Cô thấy ớn lạnh. Một cảm giác nghèn nghẹn dâng lên cổ khiến cô thấy khó thở. Mình có làm gì nên tội, mà sao đời mình lại rơi vào tình cảnh khốn khổ như thế này?
Đêm, Tấn khật khưỡng về nhà. Thủy mặc chiếc váy ngủ mỏng tang màu hồng nằm xem tivi trên giường. Bé Quý ngủ ở phòng bên cạnh. Chẳng nói chẳng rằng, Tấn lao lên giường như một con mãnh thú. Anh hôn như mưa lên mặt, lên cổ, lên ngực Thủy. Mùi rượu nồng nặc. Bị bất ngờ, Thủy không kịp xoay xở. Sau khi thỏa mãn, Tấn lăn quay ra ngủ, ngáy khò khè như mèo rên. Thủy cảm thấy ê chề, đau đớn. Sự khao khát của Thủy dường như không được đáp ứng. Thay vào đó là sự cưỡng bức đơn phương của một gã say ích kỷ.
Năm bé Quý hơn ba tuổi, Thủy dường như cũng đã quen với cảnh sống hai mẹ con thui thủi sớm khuya. Cô tuyệt không gặng hỏi Tấn thêm lần nào về lý do anh đi sớm về khuya. Tấn đôi khi say rượu trở về nhà vẫn lao vào Thủy ngấu nghiến, rên rỉ, thậm chí hét váng nhà lên giữa đêm. Ngược lại, Thủy im lặng, miễn cưỡng chịu đựng trong đớn đau pha lẫn tủi nhục. Tình yêu là như vậy sao? Một sự chiếm đoạt để thỏa mãn thú tính của ông chủ với vật sở hữu thì đúng hơn.
Lạnh lẽo, nặng nề, vô cảm và luôn có cảm giác bị cưỡng bức…Thủy mặc dù đã quen với cảnh sống ấy, nhưng mọi sự chịu đựng bao giờ cũng có giới hạn. Cuộc đời, cái gì thiếu hụt thường con người ta sẽ tự đi tìm lấy để bù đắp, khỏa lấp nỗi trống trải.
Thủy gạt u sầu, trưng diện các loại váy, tham gia các cuộc nhậu nhẹt, tập tọng uống rượu với bè bạn trong tổng công ty. Được cái, Thủy "nhập cuộc" nhanh. Cô uống rượu, uống bia chỉ qua lần thứ ba là tửu lượng đã không thua kém cánh đàn ông cùng mâm là mấy. Hôm sinh nhật Thủy, cô pha rượu lẫn bia, rót đầy cốc thủy tinh, cụng với cả phòng. Ông Trường, trưởng phòng của Thủy lén rót đầy nước khoáng Lavie vào cốc của mình rồi cụng ly với cô: "Anh chúc em hạnh phúc, mãi xinh đẹp và yêu đời!". Thủy nốc quá nửa cốc rượu, giọng lè nhè:
- Hạnh phúc!... Hạnh phúc là cái quái gì? Với tôi, hạnh phúc là cái không có thật! Làm gì có hạnh phúc trên đời này! Thôi, uống đi! Uống mừng ngày ra đời của cái thân phận khốn khổ khốn nạn này! Nào… zô! Một trăm phần trăm! - Dứt lời, cô ngửa cổ nốc cạn cốc rượu. Lão Trường sấn đến trước mặt Thủy, nói to: "Anh sẽ cùng cạn với em! Chỉ có anh là hiểu và hết mình với em thôi! Nào, cạn! Chúc mừng sinh nhật!".
Uống cạn cốc Lavie, lão Trường bắt chặt tay Thủy. Lão còn giả say, đưa tay choàng vai Thủy và ghé môi hôn vào má cô.
Sau bữa tiệc sinh nhật, Thủy lừ đừ, đứng không vững. Lão Trường có lẽ chỉ chờ có thế. Lão dìu Thủy ra xe ôtô, vừa đi vừa lẩm bẩm:
- Khổ thế, đã bảo uống vừa thôi, có nghe anh đâu! Không sao, anh sẽ đưa em về tận nhà…
Lên xe, Trường vừa cầm lái vừa hỏi Thủy: "Anh đưa em về đâu bây giờ?". Thủy ngả ngốn ở băng ghế sau, trả lời trong hơi thở gấp sặc sụa mùi rượu: "Về đâu cũng được… sếp muốn đi đâu thì cứ đi!". Lão Trường bụng mở cờ, vòng xe chạy thẳng vào một khách sạn ở cuối ngã năm. Với Trường, thân hình ngon nghẻ của Thủy lão đã để ý, mơ ước được ôm ấp từ nhiều năm nay. Trường dìu Thủy lên phòng, đỡ cô nằm lên giường, lấy khăn nước ấm lau mặt, lau người cho cô. Lão từ từ cởi áo Thủy, bầu ngực trắng ngần lồ lộ của cô làm ánh mắt Lão sáng lên. Lão nuốt nước bọt, cố kìm nén. Lão dùng hai bàn tay xoa nhè nhẹ hai cánh tay, cổ, bụng, rồi hai bầu vú nẩy căng của Thủy. "Dễ chịu chưa em?" - Lão hỏi khe khẽ. Thủy vẫn nhắm nghiền đôi mắt, giọng thì thào: "Dễ chịu… thế, thế… anh… giúp… em… nhé!". Lão Trường lần tay xuống dưới, cởi quần bò của Thủy. Cô nằm im, để mặc cho lão muốn làm gì thì làm…
Sau đêm ở khách sạn, Trường có vẻ quan tâm, săn sóc Thủy một cách thực lòng. Lão tìm cơ hội để đón đưa cô, mời đi ăn tối, mua cho cô quần áo và cả đồ chơi cho bé Quý.
Thủy biết Trường có vợ ở quê, nhưng không hiểu sao, cô vẫn đồng ý và chấp nhận tất cả những chiều chuộng, săn đón từ lão. Có đêm, nằm định thần suy nghĩ, Thủy thấy Trường cũng rất đàn ông, có vẻ thật lòng và cư xử dễ chịu. Nhưng Trường có vợ rồi? Kệ! Mình có định lấy anh ta làm chồng đâu. Có Trường bên cạnh những lúc trống trải như thế này, cô thấy đỡ cô đơn, và cũng… hay hay!
Tấn thấy vợ khang khác, bèn hỏi: "Cô đi đâu mà về khuya thế?". Thủy thủng thẳng: "Đi tiếp đối tác dự án". Tấn cười xì, không hỏi gì thêm. Linh cảm có điều gì đó bất ổn, Tấn gằn giọng: "Tôi cấm cô lằng nhằng với bất kỳ thằng đàn ông nào!...Tôi chỉ nghe dư luận là cô cặp bồ thì đừng trách tôi ác !...". Thủy khóc rấm rứt. Cô bật lại: "Anh thử nhìn lại mình xem, anh đối xử với vợ con có xứng đáng là người chồng không?".
Tấn nguýt vợ, ôm gối ra đivăng nằm hút thuốc. Không khí trong nhà Thủy ngày càng căng thẳng. Thủy bỗng nhớ đến Trường, nhớ giọng nói ngọt ngào với những cử chỉ vuốt ve âu yếm của lão mỗi khi bên nhau.
*
Một buổi chiều…
Thủy đón con sớm hơn mọi ngày. Cô không đưa bé Quý về nhà mà đưa thẳng đến cơ quan mình. Các phòng ban bắt đầu lục tục khóa cửa ra về. Bị giam hãm trong nhà trẻ suốt cả ngày, bé Quý như con chim non sổ lồng, chạy nhảy tung tăng khắp các ngõ ngách trong cơ quan mẹ. Thủy bảo con: "Con chơi loanh quanh trong cơ quan, cấm chạy ra ngoài đường. Mẹ lên phòng làm việc một lúc rồi hai mẹ con đi ăn cơm, cả ăn kem nữa".
Bé Quý chạy ngược chạy xuôi khắp sân. Nó leo lên các tầng nhà, trèo cả lên những đống cát, đống gạch, nơi cánh thợ xây đang thi công dở dang dãy nhà bốn tầng dành cho phòng kỹ thuật. Sắt thép ngổn ngang, vôi vữa từng đống bừa bộn, từng chồng bê tông chất cao ngất…Tất cả đám nguyên vật liệu ấy bỗng trở thành "sân chơi" rất hấp dẫn đối với bé Quý. Nó trèo lên đống cát mà ngỡ như đang đứng trên đỉnh núi. Đứng trên tấm bê tông, bé Quý làm như đang đứng trên sân khấu. Nó tự giới thiệu tiết mục đơn ca rồi bi bô: "Em sẽ là mùa xuân của mẹ… Em sẽ là màu nắng của cha…".
Kẻng tan tầm đã lâu. Dưới sân, bé Quý vẫn mải mê chạy nhảy, vẫn say sưa với các trò chơi mà nó tự bày ra. Các phòng ban trong cơ quan đã khóa cửa. Chỉ còn cánh cửa phòng kế hoạch là chưa khóa, nhưng đóng im ỉm. Trong phòng, Trường đang bế Thủy trên đùi. Lão hôn Thủy một hồi rồi rút trong túi áo ra một sợi dây chuyền vàng: "Anh tặng em, kỷ niệm tròn một năm chúng mình yêu nhau". Thủy ôm riết lấy Trường, hôn vào môi lão một nụ hôn chùn chụt thật dài. Những chiếc nút áo của Thủy dần dần bung ra bởi bàn tay luống cuống của Trường. Lão ôm thật chặt tấm thân ngà ngọc, mũm mĩm của người con gái một con vào lòng, dụi đầu vào vai, vào ngực cô. Thủy ngã người nằm xuống bàn, giọng yếu ớt: "Ôi!... Anh… Anh làm gì em thế này!?".
…Đúng vào cái giờ phút định mệng ấy, ở dưới sân, bé Quý vẫn chơi một mình quanh quẩn bên đống vật liệu xây dựng. Bỗng nó trượt chân ngã nhào xuống cái hố vôi mới tôi còn sôi sùng sục!... Nó thét lên một tiếng rồi tắt lịm. Nghe tiếng kêu lạ, mấy ông bảo vệ cơ quan ngơ ngác không rõ chuyện gì. Mãi ít phút sau, họ mới phát hiện ra, chạy vào cứu đưa bé Quý đi bệnh viện. Nhưng đã quá muộn! Bé Quý không bao giờ còn chạy nhảy, còn hát ca được nữa…
*
Tấn như điên như dại. Anh như một gã câm bẩm sinh. Ai hỏi gì anh cũng im lặng, cặp mắt vô hồn đầy lòng trắng. Tấn bán ôtô, tuyên bố giải thể công ty, ôm theo một ít tiền, vàng, khăn gói đi đâu không ai biết nữa. Có người nói Tấn lên mạn ngược làm thuê và nghiện rượu nặng. Người lại bảo Tấn tìm về quê lão Trường rắp tâm "thịt" vợ con lão để trả thù! Lại có tin Tấn bay vào miền Nam cùng cô "bồ" cũ hòng thoát khỏi những ân hận, u uất và sầu thảm ở cái thành phố này. Tất cả cũng chỉ là phỏng đoán, đồn thổi. Tấn đi đâu? Có lẽ chỉ anh ta là biết chính xác.
Lão Trường trưởng phòng, sau vụ ấy vội vã làm đơn xin nghỉ hưu trước tuổi, dọn đồ về quê. Sau đó xin xã cho làm "chân" quản lý, hương khói ở đình làng. Vào cữ rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, người ta thấy lão Trường len lén đem hương hoa, bánh kẹo lên nghĩa trang thành phố sì sụp trước mộ bé Quý rất lâu…
*
…Cô gái điên "mặc quần bò" vẫn lang thang khắp các phố phường. Theo sau cô là năm, bảy đứa trẻ chừng tám, chín tuổi. Thỉnh thoảng, chúng gọi nhau í ới: "Ra xem cô điên mặc quần bò chúng mày ơi!". Cô gái dừng lại nhìn bọn trẻ. Lũ trẻ con chạy dạt vào ngõ, đề phòng cô gái điên ném gạch ném đá. Số là năm ngoái, một bà điên qua đường đã đuổi theo lũ trẻ, ném gạch trúng vào đầu một đứa trong bọn. Chúng tưởng ai điên cũng hung dữ nên đề phòng. Cô gái điên này có vẻ hiền lành. Cô không thủ gạch đá trong tay, không rượt đuổi bọn trẻ bám theo. Cô chỉ nhìn lừ lừ vào mặt từng đứa một rồi ngồi phệt xuống chân cột đèn ở đầu phố. Một lát, cô giơ tay vẫy vẫy lũ trẻ: "Lại đây… các con ơ... ơi! Lại đây cho mẹ chiều mẹ yêu nào !...".
Thoạt đầu, lũ trẻ còn sợ sệt. Sau, thấy có vẻ an toàn, lũ trẻ bảo nhau rút ra khỏi ngõ. Chúng đùn đẩy nhau về phía cô gái điên. Đôi mắt cô gái điên bỗng nhìn xoáy vào một thằng bé trắng trẻo. "Lại đây!... Mẹ cho kẹo cao su này !...". Nói rồi, cô móc từ túi quần ra mấy chiếc kẹo cao su, dứ về phía thằng bé. Lũ trẻ đẩy thằng bé lên phía trước. Thằng bé mạnh dạn hơn, mắt mở to rạng rỡ, nhìn chăm chắm vào chiếc kẹo cao su. Khi còn cách cô gái điên chừng vài bước, nó giơ tay lên đón chiếc kẹo cao su một cách thận trọng. Cô gái điên tươi cười, khuyến khích: "Cầm lấy, ăn đi, con… Mẹ yêu con, mẹ cho con, cho con tất cả cuộc đời này mà !...". Thằng bé nhìn vào đôi mắt cô gái điên, nó từ từ lùi lại như người thủ thế. Bỗng nó ném trả chiếc kẹo, quay ngoắt đi: "Không ăn đâu! Kẹo có thuốc mê, ăn vào để mẹ mìn bắt đi à?". Cô gái điên tiu nghỉu, đánh rơi mấy chiếc kẹo xuống đất…
Thoắt cái, lũ trẻ đã biến đi đâu hết. Bên chân cột đèn chỉ còn lại cô gái điên "mặc quần bò" ngồi một mình. Đôi mắt cô buồn dại, ươn ướt. Một giọt nước mắt nóng hổi từ khóe mắt cô rỏ xuống đám cốt trầu đã khô trên nền gạch lát hè nom tựa như một cục máu. Phía xa xa, lũ trẻ con đang chơi trò đuổi bắt, tiếng cười đùa ríu rít: "Ra xem miss điên chúng mày ơi!". Cô gái điên nặng nề nhấc cái thân xác đứng dậy, loạng choạng bước đi trong cảnh phố phường nhộn nhịp xe cộ vào giờ tan tầm…
Đổi đời
Tên cúng cơm của anh là Huy, Nguyễn Văn Huy, nhưng bạn bè thân thiết lại đặt cho anh cái biệt danh kỳ lạ "Sáu Huy Hoàng". Gọi riết thành quen, đến hàng xóm láng giềng và ngay cả anh cũng lắm lúc quên cả tên gốc của mình…
Thây kệ, gọi sao cũng được, miễn trong cách gọi đó thiên hạ không coi thường mình, huống chi đó là cách gọi như một sự tưởng thưởng, một sự ngợi ca ví von mà anh có thể tự hào bởi cuộc đời mình đã không lụi tàn mà đã lật sang trang khác - huy hoàng hơn .
Rời quân ngũ với một cái chân phải chỉ còn hai ngón và một bàn tay phải đã mất ngón út, chỉ còn bốn ngón (anh được gọi thứ Sáu chỉ vì cả tay và chân chỉ còn lại sáu ngón), chân trái cụt tới đùi, tay trái cũng mất cả bàn tay, còn lú ra hai đầu xương, anh được xếp loại thương binh 1/4, tỉ lệ thương tật 81%. Huy về nhà và biết rằng mình đã thành gánh nặng cho vợ con. Cái dáng người cao lớn, vạm vỡ ngày nào của anh nay đi phải chống nạng gỗ lệch một bên; cánh tay trái chìa ra hai đầu xương có lúc cũng phải dùng tới như để giữ lưng quần khi anh thay quần áo, để chống đỡ nhè nhẹ khi anh trở mình. Có đêm anh thao thức trách trời, trách đất sao bãi mìn đó không giết chết anh đi, để vợ con anh được hưởng tiêu chuẩn chính sách gia đình liệt sĩ mà không phải chịu gánh nặng chăm sóc, nuôi dưỡng anh, một con người tàn phế đến ngay chuyện thực hiện thiên chức làm chồng anh cũng không tự mình làm được. Bảo sao Thu - mẹ ruột con Hiền không bỏ anh ra đi cho được?
Những ngày đầu, anh về nhà, vợ anh cố làm ra vẻ tự nhiên để tránh cho anh mặc cảm là người sống thừa, là gánh nặng. Anh quanh quẩn lê lết khiến sàn nhà bằng gỗ láng bóng. Bước ra khỏi nhà, anh chống nạng đi tới, đi lui chẳng làm được chi. Thế rồi, nghe lời bạn bè thúc giục, vợ anh bàn tính bán năm công đất để lấy tiền làm vốn đi mua bán quần áo "nghĩa địa", thứ hàng quần áo cũ người ta đóng thành từng kiện loại 50 ký, hay 100 ký đưa vào nước mình qua đường biên giới. Anh ở nhà lo chăm sóc con cho vợ đi mua bán.
Thu đi buôn một thời gian, mỗi chuyến mỗi lời khiến cho cuộc sống gia đình đỡ hơn những ngày làm ruộng. Nhưng ngày mỗi ngày, Huy cảm thấy Thu dần dần tuột khỏi tầm tay của mình. Thu càng ngày càng ăn diện hơn. Trong sinh hoạt vợ chồng, anh cũng có những ham muốn tột cùng, nhưng không có khả năng thực hiện trách nhiệm làm chồng một cách trọn vẹn, nên thường gây cho Thu cảm giác khó chịu đến cáu gắt, dần dần Thu lạnh lùng lẩn tránh. Huy đã tự trách mình không làm được gì giúp vợ con mà còn nảy lên trong đầu những băn khoăn lo lắng vô cớ trước những chuyến đi xa năm bảy ngày mới về của vợ. Và điều anh lo lắng đã thành sự thật: Thu đã bỏ đi biệt xứ, theo một người đàn ông khác không chút luyến tiếc khi bé Hiền còn thơ dại. Đau đớn hơn, cô ấy đã mang đi cả vốn liếng duy nhất của gia đình anh vì ruộng đất đã không còn… Số tiền chính sách hàng tháng ít ỏi không đủ để anh cùng mẹ già và đứa con nhỏ dại sinh sống. Trước kia, má anh ở nhà còn đảm đương chuyện chăm sóc bé Hiền, khi vợ anh bỏ đi, bà đi bán khoai lang, anh phải cố gắng trông chừng con. Bản thân anh, với một chân, một tay còn lại, tất cả chỉ có sáu ngón, anh tự chăm sóc cho mình đã khó huống chi phải chăm sóc cho con. Nhưng anh cố giảm bớt gánh nặng cho má. Mỗi khi ăn, khi uống, khi tắm rửa, thay đồ… cho mình, cho con, biết bao lần anh đã rơi nước mắt.
Có lần, rối trí, anh lén lấy ít tiền chính sách để mua vé số. Anh mua chút hy vọng mỏng manh biết đâu có ngày vô lô độc đắc thì gia đình anh sẽ đổi đời, má anh đỡ vất vả và con anh còn có chút tương lai. Lần đầu, anh bất ngờ trúng giải bảy, giải tám gì đó. Những ngày tiếp theo, anh tiếp tục dốc số tiền ít ỏi vào trò chơi may rủi. Hy vọng thì vẫn phải hy vọng, nhưng vốn liếng anh chẳng có bao nhiêu nên chẳng mấy chốc mà nợ chồng thêm nợ, lãi mẹ đẻ lãi con, đến độ anh chỉ còn nước trông mong trúng số độc đắc mới có thể trả được… Người cho vay một phần vì ham lời, một phần cũng tin rằng anh không bao giờ quỵt nợ…
Thật đúng như vậy, gia đình anh tuy nghèo nhưng chưa bao giờ để mất uy tín với xóm làng, cho nên khi các chủ nợ đòi quá, chuyện đổ bể, mẹ anh đã kêu người ta bán đi căn nhà để trả nợ và cắn răng dựng căn chòi tre lá ở trên nền đất cũ. Xót xa, hối hận, anh thấy rõ tội lỗi của mình đã làm khổ mẹ khổ con. Đêm đó, anh thức giấc, lẳng lặng cầm gói thuốc chuột trên tay với ý nghĩ sẽ tự kết liễu cuộc đời mình. Anh lết tới manh đệm để nhìn mẹ già và con dại lần cuối. Bé Hiền đã được năm tuổi, nó đang ngủ ngon lành, đầu gác trên cánh tay khẳng khiu của bà nội. Huy nhận ra, mẹ anh mấy năm nay già nhanh hơn, ốm yếu, còm cõi… Anh chết đi rồi, má sẽ đỡ lo cho anh… Nước mắt ứa ra, lăn dài trên khuôn mặt khắc khổ của anh. Huy chợt băn khoăn, má anh sẽ sống được bao lâu nữa? Và bà có đủ sức chịu đựng không khi anh từ giã cuộc đời này. Nếu không may, bà có mệnh hệ nào thì con anh sẽ ra sao? Nhìn bé Hiền hồn nhiên trong cơn mê ngủ đã lòn tay vào áo, sờ ngực bà nội mà Huy không cầm được nước mắt… Anh lẳng lặng lết ra hiên nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời đầy sao, tự nguyền rủa mình: "Chết lúc này là trốn tránh trách nhiệm, là hèn nhát, là không phải con người"… Huy đã quăng gói thuốc chuột xuống con mương bên cạnh nhà và lết vào mùng, nằm gác tay lên trán với biết bao ý nghĩ miên man…
Ngày con Hiền vào lớp Một, Huy được xã cất cho một căn nhà tình nghĩa, cột vuông, mái lợp thiếc, kín mưa, kín nắn. Chỉ tội căn nhà trống hoác, không giường, không tủ gì… Anh bảo như vậy cho tiện vì mình què quặt. Thật ra cả nhà chỉ trông cậy vào tiền chính sách của anh và chút ít tiền lời từ sề khoai lang của má anh, đâu dư dả chi mà mua sắm. Nhỏ Hiền đến trường được miễn tất cả các khoản đóng góp, lại còn được tặng cặp sách, tập vở, viết… đã an ủi anh phần nào. Anh giúp mẹ việc trông nhà, nấu nồi cơm; hằng ngày bé Hiền theo bà nội đến trường, bà mang theo sề khoai lang bán cho học trò và lo chuyện chợ búa. Một hôm, anh đang ngồi bên bếp lửa, bé Hiền hớt hơ hớt hải chạy về cho anh hay, má anh xỉu ở cổng trường, người ta đưa ra trạm xá của xã rồi. Huy chống nạng dắt con đến trạm xá thăm má và cảm nhận được những khó khăn chồng chất sắp đến khi má anh ngã bệnh.
- Không sao đâu, đừng lo, má chỉ bị cảm thường. Chỉ cần tĩnh dưỡng vài ngày sẽ khoẻ…
Huy bần thần nhìn má, nhỏ bé, còm cõi trên giường bệnh mà không khỏi xót xa. Má anh gần đây ít ngủ, ít ăn và ngày ngày phải vất vả bán buôn. Hằng ngày bà đội sề khoai lang trên đầu ngược xuôi trên con đường làng, lúc nắng chang chang, khi thì mưa gió lạnh lẽo… Đáng ra, ở tuổi này má phải được nghỉ ngơi… Huy nói lời cảm ơn Hạnh - cô gái đã đưa mẹ mình vào trạm xá.
Ở cái làng nhỏ bé này, ai chẳng biết Hạnh, con bà Năm xóm trong. Hạnh có một quá khứ đầy tai tiếng nên ít ai chịu giao du thân mật. Mới tuổi mười bảy, Hạnh ham coi cải lương và có một lần đoàn cải lương về diễn ở đình làng, đoàn hát đi, cô bé đã khăn gói trốn theo anh chàng diễn viên phụ thường đóng vai quân hầu với bao ước mơ hão huyền… Sau hai năm trời phiêu bạt theo "tiếng gọi tình yêu", Hạnh bị anh chàng nghệ sĩ phụ bạc và quay về làng với đứa con èo uột. Đứa nhỏ đã mất khi chưa kịp biết nói. Có lẽ, đã từng trải với đời nên khi về làng, Hạnh bất chấp dư luận gièm pha. Với gánh xôi trên vai, ngày ngày cô đi khắp ngõ ngách của làng. Hạnh và má anh gặp nhau hằng ngày nên hai người quen biết và thân thiết với nhau.
Hôm sau, khi đưa má anh về nhà, Hạnh mua đồ, nấu cơm và ăn một cách tự nhiên cùng với cả nhà anh. Huy thấy trong đôi mắt của má mình ánh lên tia hy vọng mỗi khi nhìn Hạnh. Ăn cơm xong, Hạnh dọn dẹp và rửa chén, mặc cho anh và má mình cản ngăn. Cô nàng còn bạo miệng:
- Bác và anh không chê, tui về làm dâu nhà này liền…
Hạnh về rồi, bỗng nhiên anh có cảm giác trống vắng. Bé Hiền nhờ anh ôn bài xong đã ngủ. Anh nghe tiếng mẹ già trở mình, biết bà vẫn còn thức, anh nhỏ nhẹ thưa:
- Má yếu lắm rồi, thôi đừng đi bán hàng rong nữa, lỡ có bề gì…
-Tao không đi bán thì làm sao mà sống… Hàng xóm láng giềng cũng chỉ giúp được đôi lần, đâu ai nuôi mình được. Còn vay mượn để mà ăn thì cũng sẽ tới ngày bán cả căn nhà này đi. Phải chi còn mẹ con Hiền…
-Thôi má đừng nhắc đến Thu nữa… Con cũng không oán trách gì cô ấy đâu. Ai đâu chịu đựng nổi số kiếp phải gánh lấy gia đình mình.
- Có đó… có con Hạnh muốn gánh đó… - Má anh trả lời tỉnh queo, y như nói đùa. Anh thở dài, nhỏ giọng:
- Cô ta nói vui vậy thôi. Thân thể con tật nguyền như vầy còn làm chồng, làm cha gì được. Má con Hiền cũng vì vậy mà bỏ đi…
- Đó là với đứa vô lương tâm… Con Hạnh lỡ lầm một lần, bị miệng đời dè bỉu, chớ nó là đứa tốt bụng, giỏi giang… Nó mà thiệt bụng ưng mày là tao có chết cũng yên lòng…
Sáng hôm sau, gánh xôi ngang nhà, Hạnh đưa vô ba gói và hỏi má anh muốn ăn gì cô ta đi chợ giùm… Nhìn Hạnh với chiếc nón lá che trên đầu, gánh gánh xôi trên vai bước từng bước nhịp nhàng trên con đường làng, mái tóc đen dài kẹp hờ phía sau che bớt lưng áo ướt mồ hôi với giọng rao ngọt ngào "Ai mua xôi…" mà lòng Huy xôn xao. Bán xong, trưa về, Hạnh ghé lại làm cá, nấu cơm, nấu canh và cùng cả nhà Huy ăn tự nhiên. Má anh vui miệng nói:
- Mày có chịu làm má con Hiền không Hạnh?
-Y, chỉ sợ cha con nó không chịu thôi… Thứ mất nết như con ai mà thèm bác ơi!
Hạnh nói với giọng tỉnh bơ và bưng mâm chén ra sau bếp rửa; xong, cô còn mang thau đồ dơ đi giặt và kêu con Hiền ra cho cô tắm rửa, kỳ cọ. Huy lẳng lặng nhìn dáng hình nở nang, đầy đặn của Hạnh trong bộ đồ bà ba đen; thân hình "gái một con trông mòn con mắt" làm anh chợt đỏ mặt khi ý nghĩ thèm muốn len lén hiện trong đầu. Nhưng nhớ đến cảnh cáu gắt, bực bội của Thu sau mỗi lần ái ân mà lòng anh chạnh lại. Cảm giác buồn bực, bất lực chán chường. Mấy hôm sau, má anh khỏi bệnh, bà lại nấu khoai đi bán. Hạnh tới nhà gặp anh, giọng cáu gắt:
- Sao lại để cho bác Hai đi bán khoai vậy?
- Thì… thì…
- Anh không tính được cách nào sao? Anh không thấy bác ấy lụm cụm thế nào đâu. Phải kiếm cách khác kiếm sống chứ…Anh còn là con của bác ấy, là cha của con Hiền, có phải là thứ bỏ đi đâu…
Hạnh bỏ dở câu nói và trề môi nhìn anh với cái nhìn khinh khiến anh thấy bị sỉ nhục, nhưng quá đột ngột, anh không kịp đối đáp lại.
-Thì…
-Thì cái gì hả. Anh là đàn ông mà không biết tính gì hết. Cụt tay, cụt chân chớ có phải khùng điên gì sao mà không còn làm ăn được… Nhà ngay ngã ba đường, mượn một số vốn mua ba thứ lặt vặt về bán. Xóm này, nhà nào cũng có lúc cần chút đường, chút muối, tiêu tỏi, bột ngọt, dây chì, đinh… các thứ. Nói thiệt, nhà tui ngay ngã ba này, tui đóng cái tủ bán thuốc lá, bán đá bào, bán vé số cũng thu lời gấp ba lần đi bán dạo. Anh cứ tự cho mình là thứ bỏ đi thì còn làm được gì… Anh phải biết sống cho ra sống chớ.
Hạnh về rồi, Huy mới tự trách mình. Anh phải đâu lú lẫn mà không biết tính toán. Nhưng bản thân anh không thắng được cái mặc cảm tật nguyền của mình nên không dám làm gì hết. Đã bao lần, anh Chín bên Đảng ủy xã, chú Tư ở Hội Cựu chiến binh gợi ý kêu anh tìm chuyện làm ăn, họ sẽ hỗ trợ cho, nhưng anh cứ sợ mình làm không được, mang nợ …
Huy khép cửa nhà, chống nạng đi đến Ủy ban xã. Sau khi nghe anh trình bày, anh Chín cười ha hả và kêu anh Dũng, Chủ tịch Ủy ban qua bàn ngay… Trước mắt, Hội Cựu chiến binh cho anh mượn một số vốn, Ủy ban sẽ đưa gia đình anh vô diện vay vốn xóa đói giảm nghèo…
Từ đó, anh cùng má trông coi cái tiệm tạp hóa phục vụ tiêu dùng cho bà con trong ấp. Anh làm được tất cả mọi chuyện cân đong, đo đếm. Má anh đi mua hàng, chợ búa, bếp núc cũng không vất vả lắm. Anh phục và mang ơn Hạnh vô cùng. Từ khi rời quân ngũ, gặp anh, ai cũng ân cần chia sẻ, động viên, nhưng chưa ai dám nói nặng lời như Hạnh. Cái cô gái "mất nết" ấy hung dữ quá, hèn chi không ai dám lấy. Cũng vì lần bị sỉ nhục đó mà anh thức tỉnh, chịu nhìn lại mình: Anh đâu phải đồ bỏ đi…
Tiệm tạp hóa của Huy đã phất lên nhanh chóng, nhất là lúc Hạnh chịu về làm bà chủ. Nhớ cái hôm cúng ông bà mâm cơm và ra mắt láng giềng cô dâu mới, má anh khấn vái cầu ông bà phù hộ cho vợ chồng anh hạnh phúc. Anh Chín nói vui: - Mày với con Hạnh thành vợ thành chồng, sớm có cháu cho bà Hai ẵm bồng, cho con Hiền có em nghen…
Chú Tư "cựu chiến binh" còn tếu:
- Chà chà, thằng Huy bây giờ về sau sẽ ngon lành cho coi. Hổng biết "súng ống" để lâu có còn xài được không nữa…
Huy đỏ mặt ngượng ngùng không dám nhìn ai, nhưng Hạnh đã lém lỉnh đáp lại: - Để lâu thì để lâu, báng súng sứt mẻ thì nhằm nhò gì. Còn nòng súng, còn cò, còn đạn là còn bắn được mà… Không tự bắn được thì tui giúp cho, không lo đâu chú ơi…
Quả thật, hổng lâu sau, má anh đã được bồng ẵm thằng Hậu. Con Hiền đã có em… và anh được bà con hàng xóm đặt cho biệt danh: "Anh Sáu Huy Hoàng
Tình mẫu tử
Vào đúng lúc lão Ngỗ thất thểu ngoặt sang phố Đường Sắt thì bất chợt gặp Con Điên từ ngõ Hạ đi ra. Đầu tóc rũ rượi, trên mình không một mảnh vải che thân, Con Điên đang nghêu ngao bài hát "Ta chèo thuyền vào Thiên Thai mua ba mươi sáu nụ cười…", thoắt nhìn thấy lão Ngỗ, nó sững lại, nhìn chằm chằm vào thằng bé. Rồi, như có sự linh cảm của người mẹ mách bảo, nó lao đến như một con báo cái, giằng phắt đứa trẻ trong tay lão ăn mày...
Từ mấy chục năm trước, tuy là vùng hẻo lánh, góc thành phố này đã hội đủ các điều kiện thuận lợi cho một khu buôn bán sầm uất: Bến xe, ga tàu, chợ và một con sông nhỏ có cây cầu bê tông nối hai bờ. Chính vì thế, vừa chớm bước vào thời kinh tế thị trường, con người như chợt bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Thị dân đủ loại xoay như chong chóng với các thương vụ lỗ lãi, ít ai để ý đến một người đàn bà điên chẳng biết từ đâu mới đến chợ được dăm tháng. Cũng không ai hỏi rõ tên tuổi, quê quán, chỉ áng chừng chị ta chưa đến ba mươi, có khuôn mặt dễ ưa, da trắng, tóc dài, phải cái bàn tay bàn chân thô tháp, gân guốc như đàn ông. Dân chợ gọi là Con Điên. Con Điên ban ngày đi lang thang. Tối, tá túc ở một chiếc lều nào đó trong chợ. Gã quét chợ nhiều lần đuổi, có lúc đã phải dùng đến gậy. Con Điên túm đầu gậy trừng mắt (đôi mắt bồ câu rất đẹp) bảo:
- Đừng cậy thế đàn ông bắt chẹt kẻ yếu nhá ! Đây mà thỉnh Quan Âm Bồ Tát thì cả nhà anh phải sa xuống chín tầng địa ngục.
Buổi chiều, khi chợ đã vãn người, Con Điên tha thẩn lượm lá bánh, nhặt những hạt gạo còn sót lại, vừa ăn vừa nghêu ngao một bài hát cổ mà giọng điệu nghe buồn nẫu ruột:
Ly khách…chén rượu đắng nước mắt
Trăm năm, cuộc bể dâu, hồn phiêu diêu…
Khiếp nhất là lúc Con Điên lên cơn. Khi ấy tựa như có ma quỷ nhập vào bắt mất hồn, mắt nó long sòng sọc giống như con nhang bị đồng ốp, phút chốc lại thảng thốt, bí hiểm như người mắc bệnh hoang tưởng. Sau cơn vật vã khoảng nửa giờ, Con Điên bắt đầu xé quần áo, và rồi, trong tình trạng rã rời cả thể xác lẫn tinh thần như thế, nó lang thang trên đường phố. Trước cảnh ấy, những người đứng đắn cúi đầu nhìn đi nơi khác. Mấy mụ nạ dòng chanh chua chuyên ngồi lê đôi mách đầu đường xó chợ nguýt dài, tỏ ý ghê tởm. Còn lũ choai choai vô học, không biết xấu hổ là gì thì nhìn chòng chọc vào những chỗ đáng lẽ không nên phô ra trước bàn dân thiên hạ của Con Điên, cười hô hố.
Khi tỉnh, Con Điên không khác gì một phụ nữ bình thường. Cái vẻ dịu dàng đầy nữ tính trong cách ứng xử của nó làm người ta động lòng trắc ẩn. Đôi lúc các bà các cô còn nhờ Con Điên gánh hàng từ sân ga vào chợ. Thù lao cho nó là cặp bánh mỳ, chiếc bánh chưng hoặc dăm ba nghìn.
Bẵng đi mấy tháng không thấy Con Điên, dân chúng ai cũng nghĩ có thể nó đã được đưa vào bệnh viện tâm thần hoặc lang thang đến khu khác của thành phố. Ai ngờ, một hôm Con Điên trở về chiếc lều quen thuộc với cái bụng to kềnh. Con Điên có chửa. Cả phố đồn ầm lên. Các bà các cô ngạc nhiên thì ít mà tò mò muốn biết gã đàn ông nào là tác giả của cái bụng ấy thì nhiều. Từ tò mò đến miệt thị, khinh bỉ. Họ nhìn nó bằng cặp mắt ghẻ lạnh. Mà kể cũng đúng thật. Một con điên có chửa, thật ngược đời (!?).
Vậy mà Con Điên, mỗi khi vào chợ, nó ưỡn cái bụng thúng ra, mặt vênh vênh, hai tay vung vẩy, mắt luôn nhìn thẳng, phớt tất, coi như thiên hạ không có ai. Từ khi có chửa, Con Điên không hát nghêu ngao hoặc xé quần áo, vừa chạy vừa cười sằng sặc trên đường phố nữa. Những biểu hiện của giới tính, một thứ ân huệ mà Tạo Hóa ban cho người đàn bà đã trở lại thấp thoáng trên gương mặ
Vào một tối mùa đông mưa phùn gió bấc, Con Điên trở dạ. Những cơn đau bụng dữ dội quặn lên khiến nó gần như phải bò vào trú tạm trong chiếc lều của bà bún ốc. Chợ chiều đã tan từ lúc mặt trời xế bóng. Người đàn bà khốn khổ vừa thở dốc vừa gào đến nghẹn giọng. Gió lạnh hun hút. Mưa xiên. Những hạt nước nhỏ li ti buốt như kim châm. Tiếng rên rỉ đứt quãng của sản phụ lẫn trong tiếng gió rít… Đúng vào thời khắc thập tử nhất sinh như thế, chẳng hiểu có phải do số phận đem đến hay không, một người đàn bà cầm đèn từ trong chợ đi ra. Đó là bà Dần, bán hàng nước ở cuối phố Thợ Rèn, gần cầu Bê Tông. Nghe tiếng rên, bà hàng nước xách đèn chai lại gần. Khi nhìn thấy Con Điên lăn lộn, miệng hớp hớp như cá mắc cạn, bà giật mình kêu lên:
- Con Điên… Trời phật! Nó sắp đẻ…
Phải đến gần một khắc bà Dần mới đưa được Con Điên về nhà. Cũng may, trước đây đã có mấy năm làm nghề nữ hộ sinh nên bà biết phải làm gì trong tình trạng sản phụ đã vỡ ối và gần như kiệt sức thế này. Thật ra, ca đẻ cũng không đến nỗi khó vì thằng bé ra thuận chiều. Suốt đêm ấy, bà Dần phải cắt tấm chăn cũ rồi khâu lại làm tã lót cho thằng bé. Bà lấy bộ quần áo cánh của mình đưa cho Con Điên:
- Chị mặc vào rồi cho con bú. Nó khát sữa rồi đấy.
- Con cám ơn bà…Không có bà cứu, mẹ con con chết mất.
- Dào ôi ! ơn với huệ gì. - Bà Dần vừa nhai trầu vừa thủng thẳng bảo - Tên nhà chị là gì? Liệu có còn nhớ được không ?
- Dạ… Tên con là Nhài.
- Còn quê ở đâu?
- Con không biết quê ở đâu bà ạ - Nhài nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc khá lâu rồi nói tiếp - Hình như ở làng… Rồng.
- Nhưng làng Rồng ở huyện nào, tỉnh nào?
- Bà để con nghĩ đã. Thật tình…lâu ngày rồi con quên mất.
Bà Dần thở dài nhìn người thiếu phụ:
- Thôi, thế này, tôi chỉ có một mình. Nhà có hai gian, một gian bán quán, kể ra thì chật nhưng ăn hết nhiều chứ ở hết mấy. Mẹ con chị tạm thời cứ ở lại đây, khi nào cháu nó cứng cáp rồi sẽ tính sau, chứ chị mà tha lôi nó đi khắp nơi thì gay lắm.
Nghe vậy, người đàn bà điên bật khóc, nước mắt chảy tràn xuống hai gò má xanh xao.
- Nào ! Có bằng lòng không thì nói. Đừng khóc nữa.
- Con thật muôn ngàn đội ơn bà…
- Thôi được rồi - Bà Dần nhẹ nhàng bảo - Chị không biết tôi nhưng tôi biết chị từ lâu rồi, nhất là những lúc chị lang thang ở chợ hát những bài không đầu không cuối ấy. Này, tôi hỏi thật, dạo này thỉnh thoảng còn lên cơn không?
Nhài nhìn bà hàng nước chớp chớp mắt:
- Từ khi có mang đến giờ con chưa lên cơn lần nào…
- Vậy thì…may ra…- Bà Dần khẽ gật đầu - Cầu mong Đức Phật phù hộ độ trì cho hai mẹ con tai qua nạn khỏi.
Nói điều ấy, trong thâm tâm bà Dần thấp thỏm niềm hy vọng. Có thể bệnh của chị ta chỉ là điên tình, bây giờ kiếm được mụn con, tức là trạng thái tâm lý vốn bị ức chế phần nào đã được giải toả, may ra khỏi được chăng…
Nhìn cảnh ngộ của mẹ con Nhài, bà Dần bất giác nghĩ đến thân phận mình…
Chuyện xảy ra từ mấy chục năm trước. Dịp ấy vào tháng bảy năm Mậu Tý, nước lên to, đê Trung Hà vỡ. Cả mấy tổng vùng Yên, Giáp bên hữu ngạn sông Yên ngập trắng nước. Dân trong hạt đói to phải kéo nhau đi tha hương kiếm việc làm. Bà Dần, lúc ấy còn là cô gái mười chín tuổi theo người làng ra thành phố, lần hồi mấy năm, lúc thì đi làm con sen, lúc gánh nước thuê, có khi đói vàng mắt phải liều đi ăn xin. Năm hai mươi ba tuổi, bà gặp một anh xích lô nghèo. Hai người cùng cảnh, thương nhau thật lòng rồi nên vợ nên chồng. Sau hòa bình, bà được khu phố cử đi học lớp nữ hộ sinh. Gần chục năm làm việc ở trạm xá, bà đã đón không biết bao nhiêu cô bé, cậu bé chào đời. Vậy mà đến lượt mình, ông bà mong đến mỏi mắt vẫn chẳng có lấy một mụn con. Đến năm bốn mươi mốt tuổi, bà bàn với ông kiếm đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Đang tìm thì dịp may đến bất ngờ.
Hôm ấy cũng vào cữ rét như thế này, có một người phụ nữ chừng hai bốn hai nhăm tuổi đi xích lô đến trạm xá. Cô ta đã đến tháng đẻ, đau bụng mấy ngày rồi mà đứa bé chưa chịu ra. Bà Dần hỏi ở phố nào, cô ta bảo là công nhân nhà máy cơ khí, chồng là bộ đội mới đi B. Cô đã nhờ về Hải Dương đón mẹ nhưng bà cụ bị ngã gẫy chân không ra được. Lúc ấy cứu được một mạng người là quý nên bà Dần không mấy quan tâm đến chuyện cô gái nói thật hay nói dối mà cứ bắt tay vào việc. Ngôi thai ngược, bà phải vất vả đến hơn một tiếng đồng hồ mới đưa được con bé ra. Vì không có thân nhân bên cạnh, bà Dần tự nguyện giúp đỡ hai mẹ con sản phụ như là chăm sóc con gái mình. Thiếu phụ có vẻ ít sữa. Đến ngày thứ năm, con bé khóc dữ quá, cô ta bảo:
- Bà trông cháu giúp con. Con ra mua hộp sữa để cháu ăn thêm rồi còn phải tạt qua Chợ Giời kiếm mấy cái tã…
Bà Dần vui vẻ bảo:
- Mấy hôm trước, lúc qua ga Hàng Cỏ tôi cũng thấy có người bán tã lót trẻ sơ sinh. Mua ở đấy rẻ hơn Chợ Giời.
Người mẹ trẻ ôm đứa bé, thơm lên má nó rồi đứng tần ngần mãi khiến bà Dần phải giục:
- Cứ đi đi rồi chốc lại về với con bé…
Chị ta xách túi bước ra đến cửa còn quay lại nhìn con mãi rồi mới vẫy một chiếc xích lô.
Ở nhà, bà Dần chờ đến chiều, đến tối, đến cả tuần sau không thấy người mẹ trở về. Bà tìm vào nhà máy cơ khí hỏi, người ta cho biết, nhà máy không có nữ công nhân nào như thế. Bị lừa mà bà Dần mừng ra mặt. Bà bảo với chồng:
- Trời mang nó đến cho nhà mình đấy.
Đứa bé gái được đặt tên là Nguyệt, sau này lớn lên coi ông bà như cha mẹ đẻ. Năm 90, Nguyệt hai mươi mốt tuổi, lấy chồng là một công nhân ngành địa chất. Mấy năm sau, hai vợ chồng đưa nhau vào lập nghiệp ở thị xã Buôn Mê Thuột. Bà nhớ con đứt ruột nhưng chỉ biết thở ngắn than dài. Còn hai vợ chồng già, những tưởng nương tựa vào nhau lúc tuổi xế bóng. Ai ngờ, trời chẳng chiều người, cuối năm ngoái, ông mắc chứng cảm hàn rồi đột ngột qua đời, chẳng dặn lại được gì. Bà đau đớn khóc chồng và khóc luôn cho thân phận cô đơn của mình.
Bây giờ trong căn nhà chật hẹp cạnh bờ sông lại có tiếng trẻ con khóc, bà Dần vui lắm. Những vết nhăn nheo trên gương mặt khắc khổ một nắng hai sương lam lũ của bà dường như giãn ra. Bà đặt tên đứa bé là thằng Phúc, những mong cuộc đời nó sau này gặp nhiều may mắn. Khi bé Phúc được hai tháng, Nhài bảo bà Dần:
- Mẹ con cháu không thể ăn bám bà mãi được. Con bàn thế này, từ ngày mai, bà ở nhà trông cháu để con chạy chợ kiếm thêm chút ít vào việc chi tiêu gia đình.
Bà Dần lắc đầu :
- Con cứ ở nhà để cháu nó cứng cáp lên đã. Trước mắt, cái quán này vẫn có thể nuôi được cả nhà.
Nhài khẩn khoản:
- Con biết bà thương cháu nhưng chẳng lẽ mẹ con cứ sống nhờ vào đồng vốn để dành của bà. Bà cứ trông thằng Phúc cho con. Nhất quyết con phải chạy chợ.
- Nhưng mà… - Bà Dần ngập ngừng - Thôi cũng được. Mẹ chỉ sợ ở chợ Ga người ta biết…
- Bà ơi ! - Nhài mỉm cười bảo - Con biết ý bà rồi. Con sẽ đi chợ Hôm, chợ Mai, chợ Bưởi chứ không ra ga để các bà ấy nhận mặt đâu.
- Ờ, thế cũng phải - Bà Dần gật đầu - Chị đã muốn thế thì mẹ cấm cũng chẳng được.
Nhài chạy chợ. Cuộc sống của gia đình khá hẳn lên. Cô chỉ đi buổi sáng, chiều ở nhà trông con, bán quán giúp bà Dần. Từ ngày sinh con, Nhài đẹp hẳn ra. Cặp mắt bồ câu lúng liếng làm cánh đàn ông chết mệt. Quán đông khách, hàng bán chạy. Bà Dần mừng ra mặt.
Thắm thoắt mẹ con Nhài đã ở với bà Dần hơn một năm. Thằng Phúc hay ăn chóng lớn phổng phao như một chú ngỗng non. Một hôm có gã đàn ông ăn mặc nhếch nhác, trông như dân bụi vào quán uống nước chè và hút thuốc lào. Thấy gã có vẻ khả nghi, nhìn thằng Phúc chòng chọc, bà Dần ngầm để ý. Lúc trả tiền nước, nó bỗng nhiên hỏi:
- Thằng bé này là con Con Điên phải không bà ?
- Chết, sao các bác độc mồm thế? - Bà Dần nghiêm giọng - Nó là cháu ngoại tôi đấy.
- Bà chỉ khéo giấu - Gã cười nhạt - Rõ ràng nó là con Con Điên. Bà rước về, sau này nó lại xé quần áo chạy ra đường như mẹ nó thì…
Nghe chướng tai, bà Dần nóng tiết mắng cho thằng cô hồn có cặp chân vòng kiềng, đi cà nhắc một thôi một hồi. Nó cười hềnh hệch rồi ra khỏi quán. Từ đấy bà Dần luôn phải cảnh giác. Những lúc Nhài đi chợ, nếu có việc cần kíp, bao giờ bà cũng mang cháu sang gửi hàng xóm.
Bẵng đi một thời gian, không thấy thằng bụi đời đến quấy rầy, bà đã hơi yên tâm. Lần ấy, bà đem chuyện nói với Nhài, cô bảo:
- Chúng nó rỗi mồm trêu bà đấy. Mặc kệ chúng.
Hôm ấy Nhài đi chợ Bưởi sớm. Bà Dần thương cô con nuôi vất vả, lựa lúc chưa bán hàng mang chậu quần áo xuống chân cầu giặt. Thằng Phúc còn đang ngủ, gọi dậy thì lại phải dắt cả nó đi, bà Dần bèn khóa cửa lại cho chắc. Vả lại bờ sông gần nhà, chỉ giặt một loáng là xong.
Khác với mọi lần, hôm nay bà thấy bụng dạ bồn chồn. Giặt vội, bà bê chậu quần áo cố sức leo hai mươi chín bậc đá, vừa leo vừa thở như kéo bễ. Đến nhà, bà chợt sững người. Cửa đã bị mở và thằng Phúc biến mất…
…Vừa về đến nơi, thấy hàng xóm đầy nhà, Nhài đã sinh nghi. Khi biết tin thằng Phúc mất tích thì cô quẳng quang gánh, lặng lẽ vào gian buồng ngồi bó gối, nhìn đăm đăm vào góc tường, nơi có giọt nắng tròn như hòn bi ve từ lỗ thủng trên mái rọi xuống. Ai hỏi cũng không nói. Chiều tối, bà Dần tỉnh lại, vào buồng vừa khóc vừa nói:
- Lỗi tại mẹ. Đáng ra mẹ đem gửi cháu thì không đến nỗi. Bà con dân phố đã báo công an, thế nào rồi người ta cũng tìm được…
Mặc cho bà Dần dỗ dành an ủi, mấy ngày liền Nhài chỉ im lặng, không ăn, không ngủ, ngồi nguyên một tư thế như pho tượng đá lạnh toát, không sinh khí. Sáng ngày thứ tư, Nhài chợt nhìn thấy tấm ảnh phóng to chụp thằng Phúc lúc sáu tháng tuổi treo trên tường, cô đứng dậy gỡ xuống vừa nhìn hình con vừa thổn thức. Bà Dần hồi hộp theo dõi, nghĩ rằng mấy ngày qua, vì quá thương con, Nhài mắc chứng trầm cảm, giờ khóc được tức là cơn kịch phát đã qua. Bà khấp khởi mừng thầm. Bất chợt một chuỗi cười ré lên, vừa man dại vừa đau đớn, nghe đến rợn người. Bà hốt hoảng định kéo Nhài vào giường thì cô hất mạnh tay ra, xé tung tấm áo đang mặc, vò rối đầu tóc, chạy bổ ra đường.
*
Phía đông bắc thành phố, cách chợ Ga chừng bảy, tám cây số, có một khu dân cư nằm sát bờ sông Cái với những mái lều tùm hum được lợp bằng đủ các thứ vật liệu phế thải lượm từ bãi rác về. Đó là xóm Liều.
Xóm Liều có hai gia đình cả vợ chồng con cái đều sống nhờ vào bị gậy. Một trong hai gia đình có đứa con gái chừng hai tuổi tên là Nụ. Con bé tỏ ra rất được việc mặc dù nó quắt queo, da xanh nhợt, đầu to, trán gồ, chân tay teo tóp như ống sậy. Hằng ngày, vào tầm bảy, tám giờ, con Nụ được bế vào chợ Cửa Tây hoặc ra bến xe Liên Tỉnh. Bố nó là người đàn ông dị dạng, quần áo vá chằng vá đụp, miệng dẻo quẹo:
- Lạy ông, lạy bà ! Quê cháu vỡ đê, mẹ cháu bị nước cuốn… ông bà nhón tay làm phúc…
Nhìn cảnh ấy, dẫu người có trái tim sắt đá đến mấy cũng mủi lòng mở cái hầu bao lép kẹp của mình. Có buổi chưa tan phiên chợ, cái bị cói (mà dân hành khất gọi là túi "càn khôn") đã lưng lửng những gạo, ngô, bánh giò, bánh mì…Ngày hôm sau, vẫn đứa bé ấy nhưng người mang nó đi lại là bà vợ. Bà ta xấp xỉ năm mươi, da mặt sần sùi như bị bệnh phong, địu con Nụ trên lưng, giọng ngọt xớt:
- Nhà hàng xóm bị cháy, bố cháu xông vào cứu mấy đứa trẻ chẳng may bị bỏng chết. Cháu thì bệnh tật…phải muối mặt mang con đi hành khất…Lạy ông, lạy bà, lạy cô lạy cậu…bớt chút gọi là…
Tối tối, những chiếc bị cói được đổ ra, cả nhà xúm vào "kiểm kê". Một hôm, gã láng giềng cũng dân xóm Liều tên là Đỗ Thập nhìn thấy cảnh đó bèn nói nửa đùa nửa thật:
- Nhà bà cho tôi mượn con bé Nụ mấy hôm.
Mụ ăn mày (Xóm Liều gọi là bà Tiêu) sẵng giọng:
- Con bé là hòn vàng của nhà này đấy, muốn mượn phải…trả phần trăm hoa hồng.
- Gớm, bà chị riết gióng quá!
- Nói thật đấy. Mỗi ngày chú đưa tôi ba chục, mà cũng chỉ cho thuê ba ngày thôi.
Tối ngày thứ hai, Đỗ Thập mang con Nụ trả bà Tiêu cùng với tiền "lệ phí". Bà mẹ sờ trán con Nụ thấy nóng như hòn than liền trừng mắt nhìn hắn:
- Chúng mày bắt nó bêu nắng suốt ngày chẳng trách nó sốt. Thôi nhé, ngày mai thì cắt, tự đi kiếm lấy mà "đớp".
- Kìa, bà chị! Nó nóng sơ sơ thôi mà…
- Cút đi ! - Bà Tiêu tức giận quát - Con cái chúng mày đẻ ra đâu mà chúng mày xót.
Đỗ Thập lủi thủi về lều, bụng nghĩ thầm "Ước gì mình có được một đứa bé…".
Mấy hôm sau, Đỗ Thập tình cờ gặp lại thằng Ngõa Chột ở Chợ Giời. Ngõa Chột từng bị bắt vì cưỡng hiếp một nữ công nhân, chịu án mấy năm, đưa về nhập trại Ba Sao. Mãn hạn, gã chẳng còn mặt mũi nào vác mặt về cố hương, đành nhắm mắt đưa chân phiêu bạt theo đám du thủ du thực khắp các nẻo đông đoài kiếm sống bằng nghề hành khất. Thấy thằng bạn tù đang cơn quẫn bách, Đỗ Thập bảo:
- Mày biết không, con Nhài ngày trước ở trại Tuyên Quang mới đẻ được thằng bé hơn một năm.
- Sao bảo nó bị điên sau vụ bị tay nào đó cưỡng dâm?
- Hình như khỏi rồi.
- Mày chỉ phịa. Trông nó nhếch nhác như thế bố thằng nào dám…
- Chính mắt tao trông thấy nó bế thằng con trai ở quán nhà mụ hàng nước phố Lò Rèn. Này, tao vừa nghĩ ra một kế.
- Kế gì?
- Tìm cách tóm được thằng bé thì chúng mình mới mong sống ở đất này được. Cứ nhìn vợ chồng mụ Tiêu thì biết. Nhà ấy có tiền gửi về quê mua vàng …
- Nhỡ nó phát hiện ra báo công an thì sao? Tao sợ đi trại lắm rồi.
Đỗ Thập cau mặt:
- Mày ngu thật. Ai người ta tin một con điên. Với lại ta chỉ "mượn tạm" nó kiếm ăn vài tháng rồi lại giả, sợ gì. Chỉ cần mày đứng ngoài canh chừng và nhất là đừng để lộ cái giọng trọ trẹ ra, còn mọi việc để tao lo.
Kể từ lúc hai thằng bàn nhau, sau mấy chuyến thăm dò, rình rập nắm được quy luật đi lại của Nhài và bà Dần, lựa đúng lúc bà xuống sông giặt quần áo, Ngõa Chột nấp ở gốc xà cừ cảnh giới, Đỗ Thập dùng chìa vạn năng mở khoá, dấp ête vào mặt thằng Phúc rồi bế nó đi.
Bắt được bé Phúc, Đỗ Thập lập tức rủ Ngõa Chột rời xóm Liều. Chúng kéo nhau xuống bến ôtô Nghĩa Phương vừa để tránh bị công an sờ gáy vừa tìm cơ hội làm ăn. Tại bến xe phía Nam, thằng Thập gom được hơn chục hành khất. Gã tập trung cả nhóm lại rồi tuyên bố:
- Thằng bé này là con trai tôi. Mẹ nó cũng dân bị gậy nhưng tháng trước bị ôtô của một ông "kễnh" cán chết. Tôi thì mắc chứng thấp khớp, đi lại khó khăn… Bây giờ thế này…Ai có nhu cầu thuê thằng bé thì đăng ký. Thời gian tính theo giờ, còn giá cả thì thỏa thuận…
Nghe vậy, cánh ăn mày ngẩn ra một lúc rồi bỗng nhao nhao xô đến:
- Tôi… tôi…thuê trước.
Từ đấy, thằng Phúc được cánh ăn mày mang đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Nó còn bé tí, chẳng biết gì. Người ta tha lôi đến đâu thì nó đến đấy, cho gì nó ăn nấy, có khi cả tuần không được tắm rửa. Sau ba tháng, người nó quắt lại. Một lần, vì tham lam, mụ Gắm, tuy đã ních đủ các thứ xin được đầy chặt bị, vẫn cứ cắp thằng bé thập thững dọc phố Khách không chịu về. Đáng lẽ, vào giờ ấy là đến phiên lão Ngỗ Hiếng. Chờ mãi, sốt ruột, lão bổ đi tìm thì chạm ngay mụ hành khất. Lão già giằng lấy thằng bé, sừng sộ:
- Quá hai tiếng rồi đấy. Ăn dầy vừa chứ. Tối nay nhà chị phải trả cả tiền cho thằng Thập.
- Còn lâu nhá! - Mụ Gắm nguýt dài - Mà này, hình như nó đang sốt. Đừng mang nó đi nữa.
- Nhà chị nói hay nhỉ - Lão Ngỗ quắc mắt - Đợi mấy hôm mới đến lượt, bây giờ bảo mang nó về, ngày mai tao lấy gì nhét vào mồm?
Lão xốc nách thằng bé tha đi. Thằng bé đã mệt lắm. Nó không còn đủ sức khóc mà chỉ thở khò khè như bị suyễn. Trán nó nóng hầm hập, mồ hôi nhớp nháp khắp người. Nắng gắt. Cả thành phố như đang lên cơn sốt. Mặt đường nhựa nhão ra. Cái nóng trên trời, cái nóng dưới đất hầu như hút kiệt sức lực con người. Lão ăn mày vừa bế thằng bé bước lếch thếch, vừa thở. Chiếc bị cói rách kéo trễ một bên vai.
Vào đúng lúc lão Ngỗ thất thểu ngoặt sang phố Đường Sắt thì bất chợt gặp Con Điên từ ngõ Hạ đi ra. Đầu tóc rũ rượi, trên mình không một mảnh vải che thân, Con Điên đang nghêu ngao bài hát "Ta chèo thuyền vào Thiên Thai mua ba mươi sáu nụ cười…", thoắt nhìn thấy lão Ngỗ, nó sững lại, nhìn chằm chằm vào thằng bé. Rồi, như có sự linh cảm của người mẹ mách bảo, nó lao đến như một con báo cái, giằng phắt đứa trẻ trong tay lão ăn mày. Sự việc xảy ra quá nhanh. Khi lão Ngỗ còn đang ngớ người ra thì Con Điên đẫ ẵm thằng bé chạy dọc phố Đường Sắt với tốc độ của một vận động viên điền kinh. Chừng nửa giờ, hai mẹ con đến chợ Cửa Đông. Chạy vã đường dài dưới nắng tháng sáu đã thấm mệt, Con Điên mang thằng bé vào quán bà Bún Ốc. Lúc ấy đã xế trưa, chợ tan từ lâu. Nhìn thấy Con Điên bế đứa bé, những người mua hàng quen biết trước đây thương tình, có ai đó vứt cho bộ quần áo tàng tàng. Chiều xuống, hàng phố có người báo cho bà Dần. Được tin, bà hớt hải chạy ra. Con Điên vẫn ôm chặt thằng bé trong lòng không cho ai động đến nó. Bà Dần lách đám đông lại gần:
- Nhài ơi ! Đưa cháu mẹ bế cho rồi mẹ con mình cùng về…
Mắt Con Điên hoàn toàn vô cảm, nhìn trừng trừng vào bà Dần như là chưa từng quen biết bao giờ. Hai vành môi cắn chặt. Đến lúc ấy bà Dần mới hiểu chuyện gì đã xẩy ra. Thằng bé đã chết. Bà lóng ngóng định gỡ đứa trẻ ra khỏi vòng tay người mẹ thì Nhài bỗng òa lên khóc, không phải tiếng khóc của người điên mà là giọng nức nở, nghẹn ngào của một người phụ nữ bất hạnh:
Con ơi
Vợ chồng nhà Hạo
Nhà Hạo gần ngã tư làng. Đang trưa vợ chồng lại ầm ĩ đánh chửi nhau. Giấc ngủ bị đánh thức, dân làng ngơ ngác:
- Hình như có đám đánh nhau?
- Đúng rồi, nhà Hạo ấy mà!
Họ lại nằm xuống, tiếp tục giấc ngủ trưa, đợi chiều đỡ nắng ra đồng...
Nhà ấy đánh nhau như cơm bữa. Cứ khoảng năm ngày có một trận đòn nhỏ, mười ngày có một trận đòn to. Trận nhỏ với cường độ thấp thì chỉ xảy ra trong phạm vi xung quanh bờ ao nhà Hạo. Hạo cầm gậy, cầm đòn gánh, có lần cầm chầy giã cua rượt đuổi Mão vợ anh, y đèn kéo quân. Trận to thì cường độ cao hơn. Mão lao ra ngã tư làng chọn một ngả vừa chạy vừa kêu:
- Bà con ơi, thằng "bát tầu thịt" nó giết tôi, tôi đi tự tử đây.
Ngã tư nơi gặp nhau của hai con đường. Đường ngang: Một ngả lên núi, một ngả ra cánh đồng, rất khó chọn chỗ tự tử. Đường dọc: Một ngả ra sông, một ngả ra đường quốc lộ, chỗ nào cũng có thể chọn được cái chết, chết đuối, hoặc chết do lao vào ôtô, xe máy. Mão vừa chạy, vừa kêu đi tự tử, nhưng không chọn đường dọc bao giờ. Chị thường chọn ngả chạy lên núi, vừa chạy vừa nhìn lại giữ một khoảng cách đủ để anh chồng tức tối mà không làm gì được. Mão leo thoăn thoắt lên lưng chừng núi nhìn xuống. Hạo đuổi đến chân núi mệt quá, nhìn lên chửi đổng vài câu, rồi lững thững quay về. Dân làng hỏi:
- Anh Hạo đi đâu về đấy?
Hạo giơ gậy lên:
- Tôi vừa đánh cho con Mão một trận, nó láo quá.
- Thế chị ấy đâu rồi?
- Gớm, có lê về được đến nhà cũng phải tối.
Hạo ngẩng cao đầu hất tóc về sau, đĩnh đạc bước những bước dài. Mão xuống núi vào xóm mượn cuốc ra đồng. Hết một trận đòn to.
Hạo thuộc dòng họ Đào Văn, dòng họ lớn chiếm gần nửa làng. Thời trẻ anh có mấy biệt danh: "Bát tầu thịt", "Cá khô". Tất cả những biệt danh ấy đều đúng, vì anh nhỏ bé gầy gò, lại bị bệnh hen xuyễn, cứ thời tiết thay đổi là kéo nhị, kéo hồ. Tính tình Hạo như ễnh ương nhỏ bé, nhưng lúc nào bụng cũng trương lên, để hù dọa nên gái làng ghét. "Lành đồn xa, dữ đồn xa" - Hạo đã hỏi năm bảy đám, mà không đám nào thành. Anh rể Hạo thiếu úy quân đội có quân phục để ở nhà, Hạo tự ý đóng bộ chỉnh tề, đến tán cô Mão tận cuối huyện. Thấy chàng thiếu úy tuy nhỏ bé nhưng nói chuyện hay, Mão ưng liền. Không ít lần sau này Hạo vỗ ngực:
- Tôi lấy vợ từ lúc tìm hiểu đến lúc cưới, chưa đầy ba bảy hai mốt ngày.
Mão thì than thở:
- Tưởng ông ấy là thiếu úy thật, ai ngờ là thiếu úy rởm. Bây giờ ván đã đóng thuyền còn biết kêu ai?
Vợ chồng Hạo như đôi đũa lệch, nhưng lại là sự bù trừ hoàn hảo, sự se duyên đầy nhân ái của ông trời. Mão khỏe mạnh đảm đang, mọi việc đồng áng đều đến tay chị. Hạo không mấy khi ra đồng, anh chỉ quanh quẩn ở nhà nuôi con gà, con vịt. Một ngày khỏe, chín ngày cò cử. Để giữ vị thế của mình, Hạo như con cá lúc nào cũng phải giương vây. Mùa màng gặt xong lúa phơi khô quạt sạch đổ vào hòm gian, anh sập khóa giữ chìa. Mùa lạc những củ mẩy được nhặt riêng ra, anh bảo:
- Mẹ con mày cân lên xem được bao nhiêu, rồi cất đi cho tao.
Chuyện lớn chuyện nhỏ, tất thảy đều phải hỏi ý kiến của Hạo. Nếu không hỏi sẽ có một trận đòn xảy ra, mức độ tùy vào sự phản ứng của Mão. Thật không may, Mão lại có tính hay cãi, nên đòn nhỏ đòn to cứ xảy ra đều đều. Dân làng đã nhiều lần khuyên:
- Kệ "thằng cá khô" nói thế nào thì nói, mày cãi làm gì, để nó đánh cho?
Mão thông thốc giãi bày:
- Nhưng chịu thế đếch nào được hở bác, mới nghe hắn nói đã lộn cả ruột lên, vừa tức vừa buồn cười. Hôm qua có gì đâu: Đi làm về mệt vừa ngồi xuống mâm cơm, hắn đã lải nhải: "Là người làm ruộng phải biết tính toán trồng cây gì, nuôi con gì chứ?". Em tức quá vặc lại: "Thế ông là kỹ sư nông nghiệp chắc? Nuôi gia cầm thì dịch cúm, nuôi bò bê thì lở mồm long móng. Ông giỏi, ông bảo tôi nuôi con gì?". Thế là hắn đánh em. Các bác rơi vào hoàn cảnh em các bác mới biết. Ai đời có hôm đang ngủ trưa hắn gọi con bé lớn dậy hỏi: "Mày có biết cái cầu đá làng ta có mấy nhịp không?". Con bé ú ớ: "Con không biết", thế là ăn mấy cái tát. Hắn bảo: "Suốt ngày đi trên cầu mà không biết cầu bao nhiêu nhịp, vậy thì mày biết cái gì?". Em điên tiết lên: "Ông dở người à, chúng tôi đi làm, không có thời gian mà đi đếm nhịp cầu đá". Thế là hắn đánh em.
Có người hỏi đùa:
- Thế tối vợ chồng có ngủ chung không?
Mão thật thà:
- Có chứ, chúng em có li thân đâu!
Dân làng cười xao xác:
- Đúng là vợ chồng phường chèo.
Bệnh hen của Hạo chữa tứ phương, lang gần, lang xa rồi đến các bài thuốc truyền miệng uống dầu hỏa, ăn trứng vịt ngâm nước giải bốn chín ngày, đều không khỏi. Cứ thay đổi thời tiết, hoặc có vùng áp thấp gần bờ, là anh nằm bẹp. Nhiều đêm Mão phải cõng chồng uỳnh uỵch chạy sang bệnh xá. Có lần Mão hỏi:
- Ông còn sức đánh tôi nữa không?
Hạo vẫn nghiến răng đe dọa:
- Ông mà khỏi sẽ cho mày một trận.
Mão lộn ruột, đặt luôn Hạo xuống gốc cây:
- Thế thì mặc, ông tự mà đi lấy, tôi dại gì cõng ông, để khỏi ông lại đánh tôi.
Hạo thở dốc, xuống thang:
- Thôi, tôi xin mình.
Vợ chồng Hạo có ba con, hai gái một trai, đứa nào cũng xinh xắn khoẻ mạnh. Đã nhiều lần can bố đánh mẹ, hai đứa chị ôm chặt lấy bố, thằng em trai giằng lấy gậy ném xuống ao. Rồi cả ba đứa phi ra ngã tư, mỗi đứa một ngả. Hạo bực tức đứng giữa ngã tư, không biết đuổi đứa nào, chửi:
- Sư bố chúng mày, có giỏi chiều về đây.
Chiều không đứa nào về, bếp nước lạnh tanh. Đói bụng Hạo ra ngã tư gọi con về. Thằng út ra điều kiện:
- Bố không được đánh, chúng con mới về:
- Mả cha chúng mày, ai thèm đánh lũ ranh con.
Khói chiều lại tỏa trên mái bếp nhà Hạo. Đứa nhặt rau đứa vo gạo, thấy bố đi ra khỏi ngõ con lớn trề môi:
- Đúng là đồ ễnh ương.
*
... Mão đã ra đến ngã tư, đầu tóc rũ rượi, không khoẻ như mọi lần, tiếng kêu của chị nhỏ hơn. Mão chạy theo đường ngang, ngả ra cánh đồng. Trời nắng chang chang, rạ rơm phơi hai bên đường cứ quấn lấy chân, làm chị ríu lại. Hạo đang đến gần, anh vác chiếc đòn gánh hung hăng gào thét:
- Hôm nay thì ông cho mày chết. Mày tưởng chạy mãi được sao?
Những bước chân của Mão chậm dần, chị khuỵu xuống, chắp hai tay quay về phía Hạo:
- Thôi, tôi xin mình, mình tha cho tôi.
Hạo vờ không nghe thấy, cầm đòn gánh bổ xuống.
Mão né người tránh được lại vùng dậy, vừa chạy vừa thở dốc...
Mão người làng Yên Thái tận cuối huyện. Nhà bốn chị em gái, Mão là thứ hai. Các cụ nói: "Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần", quả không sai. Bốn chị em nhà Mão chịu thương chịu khó làm lụng. Đều với một lộ trình thuở bé sáng đi học, chiều chăn trâu cắt cỏ. Lớn lên làm việc đồng áng, rảnh rỗi đi đồng nát ve chai, lông gà lông vịt. Nhà Mão không thua kém bất cứ nhà nào có đầy đủ các bậc mày râu. Mười tám tuổi lần lượt bốn cô đi lấy chồng. Mão về nhà chồng, cả làng không ai đi đồng nát, cô xấu hổ nên mỗi lần đi phải nhìn trước nhìn sau, không thấy ai mới lên xe, cắm đầu cắm cổ đạp nhanh ra khỏi làng. Hạo không muốn cho Mão đi. Anh bảo:
- Làm cái nghề ấy nhếch nhác. Cô mà đi cô liệu hồn.
Mão vẫn đi. Những lần đầu chị còn giấu chồng, nhưng từ lần thứ ba trở đi, Mão không giấu nữa, bởi mỗi lần đi về, không con cá thì cân thịt, Hạo nhìn thấy nước miếng đã tứa ra, anh quên hết những lời đe nẹt. Chiều đến còn ra tận ngã tư làng đón vợ:
- Hôm nay mẹ mày có mua được tý gì cải thiện không?
Mão nguýt dài:
- Đúng là đồ háu ăn.
Hạo cười hì hì.
Mão lành hiền giản dị, chị không biết nói dối, tính tình cứ tuồn tuột, như người ta dốc ngược chiếc thùng đựng nước. Chuyện của vợ chồng chị như chuyện của làng. Mão bảo:
- Vì đạo làm vợ chứ một tay xách nặng như Hạo, thì em chỉ ẩy cho một cái là ngã lăn quay.
... Mão đã chạy đến giữa cánh đồng, chị rẽ vào bờ mương nhỏ. Hạo lại sát đến, đòn gánh bổ xuống trúng vào vai Mão, chị lúi chúi ngồi xuống chắp tay:
- Tôi xin mình.
Hạo vẫn hùng hổ giơ cao đòn gánh. Mão bật dậy chạy tiếp. Hạo lao theo. Đã đến đoạn cuối của bờ mương, nơi bị đào đứt đoạn bùn đất lép nhép. Không còn chỗ chạy, Mão ngồi bệt xuống:
- Tôi lậy mình, mình tha cho tôi.
Hạo mặt đỏ phừng phừng nghiến răng, vừa bổ đòn gánh xuống người Mão vừa hét:
- T...h...a...n...à...y...
Mão né người tránh, rồi bất ngờ đứng dậy lao tới ôm lấy Hạo, nâng bổng lên lăng mạnh. Hạo như hòn đá lăn xuống đoạn mương đào, lóp ngóp nhìn lên ngạc nhiên. Mão đứng trên bờ nhìn xuống:
- Anh chỉ là thằng đàn ông vô tích sự. Hôm nay tôi cảnh cáo để anh biết. Vì làm vợ mà tôi phải chịu.
Hạo loay hoay dưới bãi bùn không sao nhấc chân lên được. Người lấm từ đầu đến chân. Mão chạy xuống:
- Đưa tay đây.
Hạo đưa tay nắm lấy tay Mão. Mão kéo mạnh, Hạo bật lên bờ.
Hai người đi về. Mão mệt mỏi rã rời. Hạo tả tơi như con cò gặp bão, nhưng vẫn nghiến răng:
- Về nhà ông cho mày chết.
Mão nghe tiếng quay lại, cầm cái đòn gánh lúc trước của chồng giơ lên:
- Ông nói cái gì?
- Tôi có nói gì đâu.
Trưa mùa hè nắng ngằn ngặt. Cánh đồng vắng tanh chỉ có vợ chồng Hạo bước thấp bước cao trên bờ mương nhỏ.
Kể từ cái buổi trưa ấy, lâu lắm không thấy Hạo đánh vợ. Bờ ao nhà anh cỏ tốt lút bờ. Đứa con gái lớn bảo:
- Từ ngày bố không đánh mẹ chạy vòng quanh ao, bò có thêm miếng cỏ. Dân làng không mất giấc ngủ trưa.
Hạo nghe thấy nghiến răng:
- Chúng mày liệu hồn. Ông ...
Anh bỗng im bặt, vì thấy Mão đang mang quang gánh ra bờ ao cắt cỏ. Hạo chợt nhớ cái bãi bùn lép nhép hôm nào, tức quá. Anh quát vợ:
- Nhớ bỏ cỏ xuống ao cho cá, quên thì liệu hồn, ông không để yên đâu.
Mão nhìn chồng cười mỉm
Người giàu nhất làng
Từ khi trong túi có tiền rủng rỉnh, bố tôi nổi trội giữa đám đông, nom dáng bố oách ra trò. Bố thường vỗ ngực cho mình là người giàu nhất làng. Bố là người đầu tiên đi xe đạp trong thôn, người đầu tiên nằm khểnh trên giường xem vô tuyến truyền hình, người đầu tiên dùng bếp hơi ga, người đầu tiên mắc điện thoại…
Đứng thứ nhất càng nhiều, bố càng căng thẳng, chỉ sợ nhà ai đó bất thình lình mua về một thứ gì ông chưa có, chạm đến cái mác giàu nhất làng của bố, cho nên bố thường dặn tôi sau khi đi học về hãy để ý xem nhà nào lại mua thêm đồ gì mới.
Hôm ấy tan học về, tôi đi qua trước cửa nhà ông Đỗ Đại Thúc, đã vô tình nhìn thấy Đỗ Đại Thúc đang để một chiếc xe máy kiểu 125 mới toanh, đầu tôi bỗng tối sầm, thầm kêu: "Toi rồi, phen này bố già toi rồi".
Chiếc xe máy đầu tiên toàn thôn lại do gia đình Đỗ Đại Thúc mua trước. Suýt nữa tôi phát khóc, ba chân bốn cẳng hộc tốc chạy về nhà nói với bố cái tin đáng sợ này. Bố ngã ngửa ra ghế, hình như có ai đó rút mất cột sống, toàn thân co rúm, mồm nói lảm nhảm như mê sảng:
- Không thể, không thể. Ta biết vốn tiếng nhà Đỗ rỗ, làm sao có thể mua được xe máy 125? Ta giàu nhất làng cũng không dám mua xe máy 125, nhiều lắm cũng chỉ mua được một con 70, ông ta, ông ta… Như phát điên, bố tôi nhảy khỏi ghế, túm chặt tôi nói to:
- Rút cuộc mày nhìn rõ không hả? Đó là cái xe đạp hay xe máy?
Tôi bị bố dọa suýt nữa són ra quần, vội vàng nói:
- Đúng thật mà, con còn sờ vào xe, trên xi lanh dầu có ghi chữ số 125 hẳn hoi.
Tôi chưa dứt lời, bố đã xông lên nhà gác như một trận gió. Một lúc sau bố đi xuống, trong tay cầm một giấy chứng minh và quyển sổ tiết kiệm.
Sau hai tiếng đồng hồ, từ thị trấn bố đẩy về một chiếc xe máy kiểu 125 mới toanh. Vừa về đến thôn, bố đã cất giọng rõ to hát kịch Tứ Xuyên, khiến người già trẻ con toàn thôn nhao nhao đổ ra đường đón xem. Vừa trông thấy chiếc xe máy của bố, toàn thôn ai cũng ngạc nhiên sửng sốt. Tiếng trầm trồ xu nịnh không ngớt bên tai, khiến bố sung sướng quá không biết mình họ gì tên gì.
Bố đủn chiếc xe máy không xăng vào trong sân. Tôi vừa nhìn vừa nói: - Xe máy bố mua tốt quá, còn bóng, còn mới hơn xe máy nhà Đỗ Đại Thúc.
Như sờ mông con trâu con bò, bố vừa vuốt ve chiếc xe máy vừa nói:
- Bố vay ngân hàng 5.000 đồng, cộng thêm 4.000 đồng trong sổ tiết kiệm nhà mình, mới mua được nó về đây. Nhân khi chưa có mấy người biết nhà Đỗ rỗ mua xe máy, bố dốc hết vốn liếng, lại vay thêm, cố mua cho bằng được để già trẻ cả thôn vẫn còn coi bố là thứ nhất. Ha ha, 9.000 đồng, đáng lắm, hoàn toàn xứng đáng! Ta thà đập chảo bán sắt cũng quyết không thể làm kẻ thứ hai đệm lưng cho người.
Bố vui sướng như một trẻ nhỏ, tôi cũng hớn hở không kém.
Hôm sau tan học về, tôi đi qua cửa gia đình Đỗ Đại Thúc, được ông gọi lại bảo:
- Kim Oa ơi, bố cháu giỏi thật, lại mua xe máy rồi, gần một vạn đồng cơ đấy!
Tôi đáp:
- Có gì đâu thưa ông, chẳng phải nhà ông cũng đã có rồi sao?
Đầu tiên ông Đỗ Đại Thúc sững người, sau đó ông cười lớn:
- Nhà này ngay cái xe đạp cũng không mua nổi, đâu có dám xa xỉ mong mua xe máy?
Trong lòng hậm hực, tôi thầm nghĩ, mình đã nhìn tận mắt, ông ấy còn chối cãi, định che giấu mình chăng? Tôi liền nói:
- Trưa hôm qua cháu đi qua cửa nhà ông chẳng phải đang để một chiếc xe máy là gì? Khi ông đi vào trong nhà, cháu còn sờ vào xe mấy cái.
Nghe tôi nói hình như ông chủ nhà đã hiểu ra ngay:
- À, cậu muốn nói cái xe máy ấy hả? Lần đầu tiên tôi mới được sờ vào nó. Thằng cháu họ nhà tôi ở thành phố về thăm quê đến chơi nhà, chiếc xe ấy của nó đấy, mãi sáng nay mới phóng về thành phố.
Nghe ông Đỗ Đại Thúc nói xong, tôi như bị bắn một phát súng, người choáng váng, trời đất tối sầm, ăn phải một đòn đau. Tôi khóc như ma gào.
Không bao lâu, khi bố tập đi xe máy, đã đâm vào một cậu bé choai choai, nhà tôi phải bồi thường đến khuynh gia bại sản. Từ đó trở đi, gia đình tôi từ một hộ giàu nhất đã trở thành nghèo nhất làng. Bố tôi bỗng già khọm hẳn đi, già đến hai mươi tuổi
Giữ nghề
Lão Áy đưa hai tay xoa xoa, vuốt vuốt ngón chân cái tuy đã đỡ sưng nhưng vẫn còn nhức, sau tiếp tục nắn hai khuỷu vai, hai đầu gối, lấy ngón tay day day những hạt cứng to bằng hạt lạc lổn nhổn quanh khớp gối. Vừa rồi lão phải đi viện đến hơn chục ngày. Tay bác sĩ điều trị nói lão bị bệnh gút, tức bệnh thống phong, dặn lão ăn uống kiêng khem, nhất là thức ăn giàu đạm. Bệnh của lão, bệnh của nhà giàu. Nghe vậy lão bực mình, nhưng không dám cãi, vì vào viện, họ là bác sĩ, mình là bệnh nhân...
Nhà lão mới khá giả được vài năm nay. Đời bố mẹ lão nghèo rớt mồng tơi, lại đù đờ hiền hành đến cam chịu. Cái bệnh gút chả biết, chứ thống phong lúc nhỏ, lão nghe nói bệnh giời đày bọn quan lại, vua chúa hà hiếp dân nó mới sinh ra thôi. Đời lão có ăn, có hại ai đâu. Lão nhớ cách đây ba tháng, ba ngày liền lão thổi kèn đám ma, ngày thứ tư ăn cỗ cưới, nửa đêm ngón chân cái lão sưng đỏ, đau rức không chịu được. Thằng con cả đưa lão đi trạm xá xã, đúng ca trực của ông y sĩ Xi chẩn đoán lão bị viêm khớp cấp, tiêm cho mũi chống viêm, sáng sau phát cho mươi viên coticoid gì ấy, về uống vài ngày, hết sưng, tưởng khỏi, đến vừa rồi tái phát. Đi bệnh viện huyện làm xét nghiệm lão mới biết ở xã chẩn đoán nhầm bệnh, uống sai thuốc. Không điều trị tốt, thành bệnh mãn tính, có mà trời chữa. Bệnh viện còn dặn uống hết đợt thuốc, cho lão đi tuyến trên xét nghiệm chức năng gan, thận, mỡ, máu...
Láo Áy uống xong liều thuốc, định nằm nghỉ thì tay Dẫn bước vào:
- Nghe bác mới đi viện về, em sang thăm sức khỏe.
- Cám ơn! Chú ngồi uống nước. Vừa rồi công việc ở nhà thế nào chú?
- Dạ! Từ hôm bác đi viện, ở nhà em phải đứng ra nhận mười hai đám, chỉ kham được bảy, còn năm đám xem chừng hèn hèn ắng ắng, em bán cho đội lão Cánh. Thời kỳ này tiết khí thay đổi đột ngột, người đông, các cụ già chết nhiều. Mà cứ gì cụ già, bây giờ thực phẩm vệ sinh kém, ô nhiễm môi trường, cỗ bàn nhiều, rượu chè, tai nạn giao thông, HIV, chích hút... thôi thì đủ kiểu chết - Cứ thế, tay Dẫn nói một thôi một hồi…
- Chết nhiều ít là việc xã hội. Thu tiền thổi kèn, việc chúng mình - Lão Áy nói - Thế vừa rồi có đám nào khá không?
- Có nhiều! Điển hình là đám ma cụ Quyết, mẹ ông Quét xóm Ngõ Cả. Phải nói là đám này tang chủ rực thu. Thợ kèn cũng nặng túi.
- Nghĩa là thế nào? - Lão Áy hỏi.
- Đám này họ to, con cháu đông, con trai trưởng phòng, con gái giám đốc, thậm chí cả cháu dâu, cháu rể đều có tai, có mặt trong tỉnh, trong huyện. Lễ viếng toàn đi đúp đến mười lễ một lần thổi. Từ mười hai giờ trưa hôm trước, thổi qua đêm, đến tám giờ sáng hôm sau, lúc đưa cụ ra đồng chưa hết lễ! - Dẫn kể.
Lão Áy há hốc mồm, mở to mắt:
- Úi, úi...chà...chà...
- Chưa hết - Dẫn nói - Lúc thanh toán một triệu tiền cọc, bẩy trăm tích kê, mỗi chiếc năm ngàn đồng, vậy là ba triệu rưỡi; chèo đò, giáo ngựa qua đêm năm trăm ngàn đồng, chưa kể lộc lễ bánh kẹo, xôi thịt. Em quyết định hồi lại tang chủ một trăm ngàn đồng. Tang chủ nhận xong lại cung kính lễ phép thưởng lại mình ba trăm ngàn đồng. Xưa nay em mới thấy tang chủ thưởng thợ kèn... Hôm nay em thay mặt đội kèn biếu bác năm trăm ngàn đồng, gọi là chút lộc, bác bồi dưỡng cho khỏe, còn làm chỗ dựa cho chúng em.
Dẫn toan về, lão Áy nói:
- Khoan đã! Chú hãy ở lại tôi...Tôi...muốn nói!
Như chợt suy tư, lão Áy nhìn trần nhà, xong nhìn Dẫn, cái nhìn sâu thẳm, xa xăm như cầu khẩn:
- Chú Dẫn ạ! Đời tôi! À mà… Tôi vừa đổi đời được mấy năm, bây giờ coi như đã hết đời!
- Bác nói sao?
- Bệnh tôi nó hỏa vượng khí từ tâm, từ cốt, mà người chết hàn khí từ nhục toát ra, bây giờ tôi mà đi đám rồi có lúc chết bất đắc kỳ tử! Ôi thôi, từ nay lìa nghiệp...
- Không bác ạ! Em tin rằng từ nay bác càng phất nghiệp, đổi đời. Bác yên tâm đi. Chào bác, em về...
Dẫn về, lão Áy ngồi đăm chiêu nghĩ ngợi...
Trời phú cho lão giọng hát hay, khiếu kèn sáo, khỏe mạnh, lại đẹp trai. Mười sáu tuổi học hết cấp 1, nghỉ học, lão tham gia đội cày... Ngày đi cày lấy công điểm, tối về lại học thổi kèn đám ma, Lão kèn tốt, sáo hay, nhị giỏi, trống rền, được chủ nhiệm hợp tác xã chuyển hẳn sang đội nhạc hiếu của xã. Mỗi đám lão cũng được năm mươi điểm như các tay thợ lâu năm. Được ba năm ở đội kèn, năm 1969 có lệnh, lão lên đường nhập ngũ.
Hết ba tháng luyện quân, anh em trong đơn vị lên đường đi chiến đấu. Lão được chuyển sang quân nhạc thuộc Bộ Tư lệnh. Trên cho học thêm lớp nhạc lý ngắn ngày, lão được biên chế vào đội quân nhạc cho đến lúc ra quân. Những ngày lễ hay những ngày đón các đoàn khách, lão đứng trong đoàn quân nhạc, hùng dũng thổi kèn đồng. Những khi có hãng thông tấn đưa ảnh đội quân nhạc lên mặt báo, trông lão cũng oách lắm. Gia đình, bà con làng xóm cũng phải tự hào về lão. Cuối năm 1975, lão ra quân. Như thế cũng là may rồi. Chiến tranh ác liệt, cùng đi với lão, ở xã Ngọ Xá này mấy người trở về. Trong suốt thời gian ấy lão chỉ ôm chiếc kèn đồng, chứ biết đến đạn súng mấy khi. Lão tính về địa phương sẽ lập đội nhạc tang...
Liên tục mấy năm mất mùa đói kém. Hợp tác xã nông nghiệp Ngọ Xá nát như tương, cán bộ quản lý kém, mất lòng tin, cung cách sản xuất trì trệ... Đội kèn trước kia của hợp tác xã bị giải thể. Đông con, hai vợ chồng lão nai lưng làm ruộng, lại còn tranh thủ hàng xay, hàng xáo. Một tuần hai buổi lão lên tít tận Xuân Lương, Núi Mỏ mua ngô, mua sắn về bán ăn chênh lệch giá. Cuộc sống quá vất vả. Vợ lão đẹp gái là thế mà lúc đó gầy tong teo, hai má hóp lại, cằm giô ra. Tối ngủ sờ ngực, sờ mông vợ cứ thuồn thuỗn, nhão nhách, chân tay toàn những mấu đốt giáp như cá rô đực. Không hiểu sao giai đoạn đói kém mà lại ít người chết. Cả hai xã Ngọ Xá và Ngô Lập mới có một đội kèn tang. Thi thoảng có người chết, tay Dẫn lại giới thiệu lão cùng đi thổi kèn. Mỗi đám lúc về lão được chia năm cân thóc, hoặc ba cân gạo, cứu đói cho vợ con...
Khoán mười, tiếp đến thời kỳ Đổi mới, mở cửa, Nhà nước miễn thuế nông nghiệp cho dân, đời sống khấm khá hơn. Người sống đổi đời, người chết cũng đổi đời. Thời cơ đến, lão Áy gọi tay Dẫn đến bàn phương án mới...
- Chú Dẫn - Lão Áy nói - Bây giờ đời sống dân trí cao, nhiều người giàu có, thành đạt. Những người già qua đời, bây giờ con cháu mới có điều kiện để báo hiếu, thậm trí cả sám hối nữa. Người sống sướng, người chết cũng sướng theo. Tôi bàn với chú ta thành lập ngay đội nhạc tang. Tôi lo nhạc lý nhạc công, chú lo nhân sự.
- Đối tượng thế nào hả bác? - Dẫn hỏi.
- Chú xem tay nào có năng khiếu thổi kèn, hát hay, nói tốt, nhất là được thêm cô giáo dạy văn bỏ nghề, hát được càng tốt...
Đội nhạc tang được thành lập: Trưởng đoàn Ngọc Áy, phó đoàn Trường Dẫn, trợ lý Hoa Lan cùng tốp nhạc công kèn, trống, đàn bầu, nhị sáo...nhanh nhạy, năng động, tập chưa đầy tháng đã thuần thục, đi vào hoạt động. Nhạc tang phải não nuột, thê lương sầu thảm. Điệu sáo lâm khốc phải ăn nhịp với tiếng trống lúc giục giã, lúc đổ hồi, đặc biệt là âm thanh kèn, nhị. Dàn nhạc tang của lão đã hòa âm phối khí thì cả bầu trời mênh mang cũng chất chát thảm sầu. Trẻ làm ma, già làm hội. Đám chết trẻ nhạc kèn não nề, đau xót, phiêu linh, còn đám chết già, nhạc có lúc phải pha chút rộn ràng, giục giã nhịp đi. Từ mười giờ đêm đến lúc chuyển cữu là mục chèo đò giáo ngựa, cải biên thêm điệu hát chèo, hát văn, hát xẩm cho người chết nghe. Lão luôn luôn nhắc điệu đò khê để con cháu thả tiền vào thuyền...
Đám ma đầu tiên lão thổi là đám ma bà Ốc, bên xóm Luộc. Chồng bà chết sớm, nhà nghèo xác xơ, hai con trai đi cửu tít miền Nam, bà ở với cô con gái dở người. Phải cảm, bà chết đột ngột, tuổi chưa đầy năm mươi. Qua ngày thứ hai, con trai chưa về, đội sản xuất phải đứng ra lo ma. Xong việc, đội trưởng thay mặt gia đình và bà con thanh toán tiền kèn trống. Lão bảo thông cảm với hoàn cảnh tang chủ, lão thổi hảo tâm, từ thiện, không lấy tiền cọc, chỉ lấy ít tiền chèo đò chi uống nước cho anh em. Đội trưởng thay mặt tang chủ và xã viên cám ơn lão rối rít. Ngày hôm sau, trong chương trình phát thanh "người tốt việc tốt", việc làm của lão được truyền đi khắp xã.
Không rõ do đồn thổi, hay hữu xạ mà âm thanh của lão cứ dẫn truyền khắp vùng. Nào là thổi hay, bài bản, ăn mặc chỉnh tề, đồng phục đen, đeo phù hiệu, giá lại rẻ. Đặc biệt cô dẫn chương trình vừa đẹp, vừa nói hay, giọng hát ngọt như văn công... Từ xã Ngọ Xá đến Hòa Mục, Châu Sơn, Ngô Lập... nhà nào có người vừa tắt hơi, tang chủ cho người đi mời lão ngay, sợ chậm nhỡ có đám khác họ đón trước là mình dở bét. Lão Áy thì nghĩ: Sinh có hạn, tử bất kỳ. Người chết không thể để lâu được, khâm liệm có giờ. Hôm nào có hai hay nhiều đám mời, lão lại rà xem đám này có "máu mặt" không, bấy giờ lão mới trực tiếp xuất quân. Còn lại lão sai tay Dẫn bán lại cho đội lão Cánh xã bên. Ngày đầu mới vào nghề, có người dè bỉu lão: Nghề đàn hát kèn trống "xướng ca vô loài", rõ là vơ đũa cả nắm. Hành nghề này lão mới thấy tính "ưu" của nó. Vốn ít, ngày công có tiền trăm, lại được trọng vọng. Đi buôn bán, thợ thuyền... thậm chí cả nghề đánh đĩ nhiều khi còn bị lừa, bị quỵt, chứ thổi kèn đám ma lúc nào cũng tiền tươi thóc thật, chẳng ai chịu lão một xu. Cái nghề đi sâu sát tận tông ti dân chúng, hiểu nhiều, biết nhiều, khôn ra nhiều...
Có lần đi thổi đám ma bố tay Sự bên xóm Sinh Tân, cán bộ có cỡ ở tỉnh, lão thấy con cháu sao mà đông thế không biết. Các cụ bảo "con độc, cháu đàn". Bố mẹ tay Sự sinh được hai chị em, thế mà lúc chết, con cháu đông nghịt. Thương cụ, con cháu khóc lăn lộn thảm thiết. Khách khứa, bè bạn các nơi, ôtô xe máy chật đường làng. Đoạn từ cổng vào nhà lại xa, những lúc dồn lễ, anh em trong đoàn liên tục thay nhau phồng mồm, trợn mắt thổi kèn tưởng đứt hơi. Tối đến lão nghe thấy ban tổ chức nói với tang chủ: Trên trăm vòng hoa, mà đường vào nghĩa địa ôtô không đi được, cái lo nhất là tìm người vác vòng hoa... Khi đưa cụ ra đồng xong, gia đình và Hội Người cao tuổi ở lại cúng vong hồn người chết. Về trước, lão lân la hỏi mấy người trong xóm, được biết mấy năm trước xin việc, xét tuyển công chức còn dễ, ông Sự giúp được nhiều người lắm, bây giờ họ trả ơn đáp nghĩa. Mấy cô, mấy cháu khóc to là con nuôi, em nuôi của bác Sự. Lại có ông rỉ tai lão Áy: "Bố ông ấy chết thì thế đấy, chứ ông ấy mà chết thì...có mà… đợi đấy".
Cái nghề thổi kèn thế mà hay. Lão Áy đã đổi đời, kể ra đời cũng nhiều nghịch lý. Khi về địa phương, có lúc lão đi thổi cho đội văn nghệ, nghĩa là thổi, hát cho người sống nghe mà có mấy khi được hậu đãi đâu, cùng lắm là được bữa ăn tươi, một bó hoa, hay tràng vỗ tay, đơn giản vậy thôi. Thế mà bây giờ ngày nào cũng thổi, kiếm tiền trăm, tiền triệu, ăn trên, ngồi chốc, mâm cao cỗ đầy. Tang chủ từ dân đến quan, to bé ở chỗ nào chả biết, chứ ở đám ma đều phải nể lão. Rõ ràng đây là lộc của người chết, lão thổi cho người chết nghe, người chết hậu đãi lão. Mà nghĩ cũng buồn cười, người chết nằm trong quan tài kia, phần hồn đã lìa khỏi xác về cõi thiên đường, còn phần xác lũ vi khuẩn yếm khí đang phân hủy. Mặc kệ, những người sống chẳng cần biết, họ khóc, cười, hát, gào, ăn uống, chạm cốc... Còn cánh lão kèn trống xong thì thu tiền...
Đổi đời, có của ăn của để, lão Áy đầu tư quần áo, trang thiết bị, loa đài, điện thoại di động cho anh em. Năm kia lão mua liền hai lô đất mặt đường, vừa rồi cất nhà, môđen ngang ngửa với mấy tay đi Hàn, đi Nga, thương gia cùng dãy phố. Vợ lão ngày càng phây phây, phốp pháp...
*
- Chú Dẫn, cô Lan! May quá tôi chưa kịp điện cô chú đã đến. Uống nước! Ta vào chuyện ngay nhé!
- Bác Áy ạ - Dẫn nói - Khách hàng của mình ngày càng nhiều. Trong xã, trong huyện, ngoài huyện...Bây giờ bác đứng ra phụ trách chung, em và Hoa Lan làm trợ lý, còn anh em trong đội là nhân viên, ta thành lập một tổ hợp gọi là: Dịch vụ "Làm vui lòng người chết". Bác yếu, ở nhà điều hành chung. Em trực tiếp đưa đoàn đi thổi…Nhiều việc ta bán cho đội tay Cánh, tay Cam.
- Ý cô Lan thế nào? - Lão Áy hỏi.
- Em đồng ý - Hoa Lan nói - Tới đây ta mở thêm lớp nhạc tang, với đại lý "Đồ dùng cho người đã chết". Em đảm bảo với hai bác, làm được ta sẽ phất lên thật lực...Mua thêm chiếc ôtô 6 chỗ ngồi, anh Dẫn đã có bằng lái, khi đi đám cả đoàn gọn một chuyến...
Lão Áy vỗ đùi đánh đét, reo lên "Hay, hay". Quên cả cái đau đang hành hạ, lão cười ngạo nghễ...
Từ xa người đi đường đã nhìn thấy trước cửa, giáp tầng hai nhà lão Áy chiếc biển quảng cáo dài gần chục mét, cao hơn hai mét, tươi bóng màu sơn mới. Một đầu vẽ chiếc loa kèn thật to, đầu kia vẽ hình vàng mã, giữa nổi bật dòng chữ lớn: "NGỌC ÁY - LÀM VUI LÒNG NGƯỜI CHẾT". Người qua đường ai cũng phải ngước nhìn. Những người hiếu kỳ dừng hẳn xe lại, ngắm nghía vài ba phút. Có người tò mò vào tận nơi xem ở đây mua gì, bán gì... Nhà hàng "Làm vui lòng người chết" ngày càng đông khách, người ta mua vàng mã, mua tiểu bằng sành, sứ, nhà mồ bằng đá, bằng sứ...Tầng hai lão Áy cải tạo thành phòng cách âm, gắn máy điều hòa nhiệt độ, dành cho việc học và tập nhạc tang. Mỗi đợt học, lão nhận từ mười đến mười lăm học viên. Lão trực tiếp hướng dẫn nhạc lý; Trường Dẫn giúp lão hướng dẫn học viên thực hành nhạc cụ; Hoa Lan dẫn trình, họa lời; vợ lão theo dõi sổ sách, chấm buổi học thu tiền.. Nhà lão Áy ngày nào cũng đông nườm nượp. Hàng đá lấy từ Ninh Bình, hàng sứ lấy từ Quảng Ninh, vàng mã từ Hà Nội. Những người đăng ký học kèn nhạc ngày một nhiều...
Thời gian này, lão Áy đau người nhiều, đầu cứ ùng oàng, ve kêu trong tai, mặt mày có lúc hỏa bốc bừng bừng, hai con mắt căng căng, tức tức, nhìn một hóa hai, lúc quên lúc nhớ... Đi khám, bác sĩ bảo lão bị áp huyết cao, nước tiểu có vấn đề... Lão biết điều gì đang đến.
Lão cố hoàn thành bản nhạc khóc, hát cho người chết nghe. Những dòng nhạc lão kẻ đều tăm tắp, khóa Son đầu dòng, rồi lão điền các nốt Sòn - Đố - La - Rề - Pha - Mí... Rồi viết lời Tò - tí - te - tò - te tí... Đang viết, Trường Dẫn và Hoa Lan bước vào.
- Chào Bác! - Hoa Lan nhìn lão một lúc rồi nói - Bác Áy! Hôm nay em trông bác thất thần sắc. Bác mệt thì đi nghỉ, công việc để chúng em làm cho.
- Ấy không! Có việc cần bàn với cô chú đây - Lão Áy nói - Con người ngày càng đông, đất ngày càng chật, mà nhiều người lại cậy tiền, cậy của thi nhau chiếm đất xây mồ to, mả lớn như động, như đình, nay mai cạn chỗ chôn. Người chết đem hỏa táng, chúng ta phải làm thế nào để đổi đời, chứ không đổi nghề.
- Chúng ta phải quyết giữ nghề - Trường Dẫn nói!
Hoa Lan lên tiếng:
- Hiện nay người ta đã xây "Đài hóa thân. Nghĩa là nhà để đốt xác người chết. Trước khi đốt họ cũng làm các thủ tục như ở quê đưa ma, vậy là vẫn còn trống kèn. Xác đốt xong, tro được cất vào lọ, lưu tại đài hóa thân, có người trông nom chăm sóc. Hàng năm người nhà được đến thắp hương, người ta sẽ ghi âm, ghi hình, lập trình đưa vào máy tính, phát lên mạng. Người nhà lúc nào muốn xem, muốn nghe, bật máy tính lên mà coi. Các đài hoá thân hoàn vũ rồi sẽ thi nhau mọc lên, thay các nghĩa địa...
- Cô giỏi thật, sành điệu thật - Lão Áy gật gù - Đã đến lúc tôi đổi đời thật, cô chú sau cũng vậy, ta đổi đời chứ quyết không đổi nghề... Ngày mai, mình sẽ nối mạng quảng cáo nghề. Cái biển kia cứ để nguyên dòng chữ: Dịch vụ "VUI LÒNG NGƯỜI CHẾT" ở hàng dưới. Dòng trên sửa là: "TRỌNG ÁY, HOA LAN, TRƯỜNG DẪN"
Ông trời có mắt
Hắn hằng mong ước rượu ngon, gái đẹp cùng những cuộc du hí xa xỉ… Nhưng giờ đây tất cả đã chấm dứt sau song sắt xà lim. Trọn mười bốn tháng ròng như con hổ vằn bị nhốt trong ngăn chuồng tám thước vuông chật hẹp… Còn giới quản giáo ít ai ngờ rằng người tù mang số 432 có thể đào thoát khỏi khu canh giữ cực kỳ hiện đại. Vậy mà điều đó đã xảy ra trong một đêm thanh vắng, thỏa ước nguyện khao khát tự do của tên tù đang thụ án chung thân cấm cố về tội cố sát tình địch.
Đầu đuôi thế này:
Louis Hingerlo, bạn tù mới đã luống tuổi cũng là tay trùm lừa đảo trong các thương vụ tài chính xuyên quốc gia, đã bí mật gõ ám hiệu qua vách xà lim khoe với đồng nghiệp 432 ở buồng bên về thông tin mới thu thập, rằng vào mỗi tối thứ sáu hằng tuần, tại khuôn viên trước cửa nhà tù thường đậu một cỗ Volvo thể thao màu mận chín, thuộc sở hữu của cô bạn gái viên giám đốc trại tù. Chìa khóa luôn cắm sẵn trên ổ điện, chắc cô nàng chủ quan rằng chẳng kẻ chuyên thổi xế hộp nào dám cả gan đột nhập chốn này…
- Thế tới tận lúc nào thì cặp tình nhân ấy mới chịu chia tay? - Tù nhân số 432 gõ ám hiệu hỏi, vẻ sốt ruột.
Hắn được giải đáp là thường vào lúc khuya muộn, viên giám thị thân chinh tiễn người đẹp ra tận chỗ đậu xe trong trạng huống hết sức bịn rịn, trước khi cô nàng tóc hung nhấn ga quay về Paris…
- Đó là kiểu xe hai cửa với hai chỗ ngồi đời cuối - L.Hingerlo bổ sung thêm - Hãy thực thi sứ mệnh về với tự do của những chàng trai quả cảm…
"Lại thêm một chân dài tóc hung" - Hắn thầm liên tưởng đến cô nhân tình Eva ưa lăng nhăng, vợ của tay bạn thân Raul và cũng là nguyên nhân khiến hắn khử tên tình địch Dalbo, bất chấp nạn nhân là quý tử của một quan chức đang tại vị ở một quận trung tâm Paris. Dù sao cũng phải tận dụng nguồn tin bổ ích mà bạn tù già vừa cung cấp. Được vậy mới lại có dịp tha hồ tung tăng giữa đám người đẹp xinh như mộng chứ.
Ngay đêm đó hắn âm thầm bẻ gãy chiếc chân giường khuất phía trong. Với kinh nghiệm của một tay chuyên trộm xe các loại, chẳng khó khăn gì hắn đã biến đoạn thanh chằng inox thành một cái móc sắt và một chiếc dũa cực bén.
Xẩm tối ngày thứ sáu, nhằm đúng giờ giao ca của đám lính gác, tù nhân 432 nhanh chóng đu lên ô cửa thông gió bằng sợi dây xé vội từ tấm ga trải giường. Chỉ sau vài nhát dũa, ba cây sắt to bè cắm dọc khung cửa đã bị bẻ cong. Hắn chui người qua khoảng trống nhỏ xíu…
Ơn trời! Do nhịn ăn và thức trắng suốt ba ngày qua nên thân hình hắn đã sút đi phân nửa, chật vật mãi rồi cũng lọt qua dãy tường đá nặng nề. Hắn buông người cho cơ thể rơi tự do, trước khi chuyển sang tư thế tiếp đất bằng hai đầu gối. Chỉ có cách ấy mới loại trừ được những chấn thương trầm trọng, kinh nghiệm từ hồi còn chăm tập thể hình bên ngoài đã mách bảo hắn.
Bất chợt những hồi chuông báo động điện tử rú lên liên hồi…
"Nếu cỗ xe không hiện diện đúng như Louis thổ lộ thì sao? - một ý nghĩ thoáng qua đầu người tù mang số 432 - Hiển nhiên cuộc đào thoát ngoạn mục này ắt biến thành trò cười cho thiên hạ".
Kẻ đào tẩu rớt xuống đám cỏ khuôn viên, cố ghìm nén những tiếng rên vì đau… Còn đám lính canh đinh ninh rằng hắn đang ẩn nấp đâu đó, do không thể lết đi đâu được sau cú nhảy kinh hoàng. Cả hệ thống camera bảo vệ cũng được huy động soi rọi dò tìm từng centimet quanh chân tường nhà tù. Không một ai tình cờ phát hiện ra khiếm khuyết lớn nhất, rằng cỗ xe hơi màu đỏ đã "không cánh mà bay"…
*
Hắn phóng một mạch về nhà tên bạn thân từ hồi còn để chỏm. Chỉ có Raul mới dám cưu mang kẻ vượt ngục lúc thế cùng.
Lặng lẽ tấp vào dưới một tán cây xum xuê, gã tù xổng trại vội vã phóng lên cầu thang nhà bạn. Raul xuất hiện tức thì ngay sau tiếng chuông cửa.
- Đã tự giải thoát được rồi đấy à? - Chủ nhân ngập ngừng thay lời chào.
- Xem ra cậu có vẻ ngạc nhiên - Tù nhân 432 chặn họng - Tớ đâu phải là kẻ đầu tiên chạy trốn khỏi nơi giam cầm.
- Thì đúng vậy! - Raul đáp, giọng gay gắt - Nhưng kẻ duy nhất mà tớ muốn người ta bắn bỏ lúc vượt ngục lại chính là cậu… Thôi, mọi chuyện để sau. Giờ hãy vào tắm rửa và thay đồ đi đã. Cái con số 432 án ngữ trên người cậu nom thật phát khiếp!
- Cảm ơn thịnh tình từ anh bạn nối khố - Vị khách nói vẻ ôn hòa - Nhưng dù sao tớ rất căm những kẻ nói xấu sau lưng, chắc họ thêu dệt đủ chuyện khi tớ vừa khuất sau hàng song sắt chứ gì?
Raul nghiến chặt quai hàm suốt thời gian vị khách bất đắc dĩ tẩy rửa cơ thể trong buồng tắm, bởi cô vợ Eva có thể đường đột trở về vào bất cứ lúc nào; cho dù chính thức lúc này nàng đang làm ca chiều tại một quán bar… Chủ nhân sợ phải mục kích cảnh khó xử khi Eva tái ngộ cùng kẻ đào tẩu. Vả lại, Raul đâu muốn trở thành nạn nhân như anh chàng Dalbo xấu số…
- Lúc này tớ không muốn gặp Eva chút nào sất! - Vị khách vừa bật máy sấy tóc vừa quả quyết như muốn lấy lòng chủ nhà.
- Tớ rất hiểu tâm trạng cậu - Raul phân bua - Trước mắt hãy tạm lánh đâu một thời gian cái đã, ngõ hầu việc truy lùng tạm lắng xuống. Tớ còn mấy nghìn euro trong ví ấy, cậu cứ lấy mà dùng.
- Một lần nữa xin cảm ơn sự chu đáo của bạn đồng niên từ thời để chỏm.
- Từ nãy tới giờ tớ chỉ phân vân mãi một điều, rằng làm sao mà cậu trốn khỏi được cái nhà tù cực kỳ nghiêm cẩn ấy?
- Hãy bình tâm ngồi xuống để nghe cho rõ chuyện.
Tù nhân 432 thuật lại vắn tắt những ám hiệu của cựu doanh gia Hingerlo, nhấn mạnh vai trò chiếc xe của cô bạn viên tân giám đốc đẹp trai.
- Cậu nói là cỗ Volvo thể thao hai cửa màu mận chín đời sau cùng phải không?
- Chính thế!
- Thế còn bảng số?
- Biển Paris chính hiệu "con nai vàng".
Quỷ thật, Raul trộm nghĩ, chẳng lẽ… Đường đường chính chính cả "kinh thành ánh sáng" chỉ có độc một chiếc, do đích thân Raul cất công sang tận xứ Thụy Điển đặt làm riêng. Còn nếu trùng với một du khách lãng tử nào đó, thật phi lý nếu kẻ ấy chỉ mê thăm thú ngôi nhà tù mới xây đều đặn hàng tuần?... Đồ quỷ cái! Đích thị là Eva rồi!... Té ra nàng đâu có chừa thói trăng hoa sau khi mục sở thị cảnh Dalbo bị bắn nát óc. May phúc qua sự đào tẩu của tù nhân 432 mới hiểu thêm bản chất của bà xã vốn hằng ngày đầu gối tay ấp.
Eva xuất hiện trên ngưỡng cửa ứng đúng thời gian biểu cố hữu. Nàng ôm chầm lấy chồng giọng thổn thức:
- Raul, anh yêu! Hôm nay là một ngày cực may với đôi ta… Em suýt ngất xỉu lúc tan ca, khi bảo vệ quán bar cho hay là cỗ xe màu mận chín anh mới mua tặng em đã bị trộm nẫng mất… Nhưng quả là ông trời có mắt! Em vừa bước xuống xe bus đã không thể tin vào mắt mình, kề ngay trạm xe gần nhà mình là chiếc Volvo thân yêu không sơ sẩy chút gì. Nó ngoan ngoãn đậu dưới tán cây sát hiên nhà, như nóng lòng chờ chủ nhân cho những cuộc hành trình mới
Câu cá
Nhà Cục trưởng Hạ rộng lắm, nhà cao bốn tầng, sau nhà còn có một mảnh vườn thênh thang nên đào một cái hồ nho nhỏ. Cục trưởng Hạ rất thích câu cá, cứ đến cuối tuần ông lại rủ bạn bè về ngoại ô câu cá. Lần nào câu cũng được cả chục cân ăn chẳng hết nên lại đổ xuống hồ sau nhà nuôi. Thỉnh thoảng mọi người cũng đến biếu ông cá nên hồ cá nhà ông ngày càng nhiều.
Vào một ngày thứ bảy, Cục trưởng Hạ gọi điện rủ cậu Trịnh, Chánh Văn phòng cơ quan đến nhà câu cá: "Lần này chúng ta khỏi phải đi đâu xa xôi, cứ ở nhà tôi mà câu vô tư". Trịnh ngẩn người ra, hỏi: "Gì cơ ạ? Câu ở nhà anh á?". Thế rồi Trịnh vội vàng phi xe đến nhà Cục trưởng Hạ. Đến nhà sếp, Trịnh thấy sếp đang ngồi trên chiếc ghế đặt ở ban công tầng hai, bên cạnh có chiếc cần câu thả xuống cái hồ cá dưới nhà. Lưỡi câu chưa chạm tới nước cá đã thi nhau nhảy lên đớp.
Trịnh cười xun xoe: "Sếp tiện quá còn gì, chẳng phải đi đâu vẫn giải sầu tốt." Cục trưởng Hạ thực thà nói: "Cậu Trịnh này, tôi đường đường là Cục trưởng, còn cậu cũng là cán bộ lãnh đạo, chúng ta cứ kéo nhau đi ra ngoài sẽ khiến mọi người phải vất vả. Thực sự là cái tôi thích không phải là cá mà là hồ, cậu hiểu không? Chúng ta không thể làm hỏng hình ảnh của mình vì những con cá? Sau này tôi cứ mua cá về nuôi trong hồ, còn cậu khi nào thấy ngứa ngáy chân tay thì cứ đến nhà tôi mà câu?".
Hôm ấy, Trịnh câu được đầy một túi lưới cá. Trịnh hỏi: "Sếp ơi túi nhiều cá quá rồi, hay là thả hết xuống hồ nhé, hay là cho vào bếp xử lý?". Cục trưởng Hạ cười nói: "Cá trúng mồi sống làm sao nổi mà thả xuống hồ? Cậu xách về nhà mà ăn". Trịnh ngại ngùng nói: "Cá đắt như thế, cả túi cá đến cả triệu bạc sếp ạ". Cục trưởng Hạ lại cười nói: "Ôi dào, chỗ anh em cả có gì đâu, cũng chỉ là vài con cá thôi mà". Trịnh lúng túng một hồi rồi cầm túi cá ra về.
Chủ nhật tuần sau Trịnh lại đến nhà sếp Hạ câu cá. Cũng vẫn thế, câu được một chốc đã được một túi cá đầy ự. Sếp Hạ lại bảo Trịnh mang cá về nhà. Trước khi về, Trịnh rút khỏi túi một chiếc phong bao nho nhỏ nhét vào túi sếp. Cục trưởng Hạ ngăn lại và nói: "Này cậu, cậu làm thế có ý gì?". Trịnh nói: "Sếp toàn phải mua cá về thả, cá lại đắt nữa chứ. Lần trước em đã cầm không rồi mà. Hơn nữa có đi câu ở ngoài em cũng phải bỏ tiền ra chứ". Cục trưởng nghe tới đó không… giằng co nữa. Trịnh hớn hở cầm túi cá ra về.
Sau này, người đến nhà sếp Hạ câu cá ngày càng đông, mà toàn những người đến nhờ vả sếp. Ban công tầng hai vốn chẳng rộng rãi gì, giờ thêm đống người chen chúc càng chật chội. Dù vậy, nhưng ai ai cũng hớn hở, người hút thuốc, người nói chuyện, người uống trà... Ai đến muộn thì đành phải ngồi chờ ở phòng khách tầng một.
Vài năm sau, sếp Hạ bị cách chức vì dính dáng đến một vụ ăn đút lót. Cuối tuần chẳng còn khách nào đến nhà sếp nữa. Ban công tầng hai bỗng trở nên rộng thênh thang, cần câu bị bỏ xó một chỗ bám đầy bụi. Hồ cá không còn cá nữa, giờ thành một hồ nước tù, bốc mùi tanh ngòm.
Một chủ nhật nọ, ông Hạ đang ngồi thần người ra nhìn hồ cá thì chuông điện thoại reo vang. Đó là điện thoại của cậu Trịnh. Cậu Trịnh giờ đây đang ngồi ở vị trí của ông Hạ trước kia. Ông Hạ nói: "Trịnh à, ấy quên, rất xin lỗi anh, Cục trưởng Trịnh đấy ạ, sếp gọi có việc gì thế?". Đầu dây bên kia, sếp Trịnh nói: "Anh Hạ đấy à, xin cho hỏi cậu cả nhà mình có nhà không?". "Cậu cả nhà mình" - tức con trai ông Hạ giờ đang là "lính" của sếp Trịnh.
Ông Hạ vội cười nói: "Cháu nó không có nhà ạ". Sếp Trịnh ngần ngừ đôi giây rồi nói: "Việc cũng không có gì, chỉ là muốn rủ cậu cả đến nhà tôi câu cá". Ông Hạ ngẩn người ra một lát và nói: "Gì cơ? Câu cá ở nhà sếp á?". "Đúng thế, chẳng phải là tốt lắm sao?" - Sếp Trịnh hỏi lại. Ông Hạ vội cười trừ rồi nói: "À không, tốt lắm chứ, nếu sếp không chê thì tôi đến nhà sếp câu được không?". Sếp Trịnh nói: "Được sếp cũ đến thì còn gì bằng!".
Ông Hạ gác điện thoại, cầm túi cần câu lên đi thẳng. Nhưng đến cửa như quên cái gì đó vội vàng quay vào, hóa ra là quên chiếc phong bì
Phố bờ sông
Dạo này tôi thấy Bính “béo” rất hay đến quán của vợ tôi, lúc nào tôi về là chị ta lại vội vàng đứng dậy, trên bàn chỉ có chai nước khoáng. Chả lẽ bà ta nghiện nước khoáng của vợ tôi? Sau bữa cơm, tôi nghiêm mặt hỏi vợ: "Chị Bính đến quán làm gì, đừng nói là đến uống nước khoáng đấy nhé, nói thật đi kẻo đến lúc hối không kịp đâu". Mặt vợ tôi tái ngắt: "Không, em không đụng đến thứ ấy, thật mà"...
Phố bờ sông là cái tên mà dân bản địa quen gọi chứ nó cũng có cái tên đẹp hẳn hoi, khi mà người ta quyết định biến cái bờ sông đầy rác rưởi ấy thành một con phố. Nhưng biến gì thì biến chứ dân ở đây vẫn cứ là dân sông nước. Bởi thế nên phố ở đây vẫn chỉ là nửa quê nửa tỉnh, thuộc dạng dân sống không lương, nghĩa là làm đủ nghề tự cung tự cấp. Gốc gác của họ là từ những anh dân quê đi bốc vác thuê, dựng tạm những căn lều nứa lá ngồi hút thuốc lào vặt, đánh tá lả chờ thuyền về mà bốc hàng. Lâu dần họ bám đất bám thuyền, rồi lập thành cái xóm bờ sông. Khi thành phố mở rộng, cái xóm bờ sông thành phố, cũng nhà cửa san sát, đất đai cũng lên vù vù. Vợ tôi khi mua căn nhà ở đây đã vận dụng con mắt của một nhà buôn bất động sản, phán: "Nhà hơi chật một tý nhưng thế đất đẹp, ngay mặt phố chính lại quay ra hướng bờ sông. Đúng là nhất cận thị, nhì cận giang còn gì. Em đi dạy, nhiều thời gian rỗi, có thể tranh thủ mở một quán bán hàng được". Tôi cũng tặc lưỡi chiều vợ. Với tôi, có căn nhà riêng, thoát khỏi cảnh "chó chui gầm chạn" là tốt lắm rồi.
Khi tiền trao cháo múc, tôi đến để dọn dẹp nhà cửa, thì có người bảo tôi: "Sao lại đến cái phố liều ấy mà ở, người ta đang phải bỏ của chạy lấy người mà mình lại đâm đầu đến". Tìm hiểu kỹ tôi mới biết, đây là phố tập trung của dân nghiện hút, cờ bạc và gái mại dâm, thôi thì đủ mọi tệ nạn xã hội. Một con phố hầu như vắng bóng dân đi làm nhà nước. Tự nhiên gia đình tôi lại lọt thỏm vào. Tôi bắt đầu chán ngán, nhưng cũng thương vợ vì nhận thấy trên gương mặt nàng đang hiện rõ sự ân hận. Thôi đã chót phải chét, vợ chồng tôi bàn nhau quyết sống chung với lũ.
Dọn sang nhà mới ở được vài ngày, vợ tôi đã tính mở quán bán hàng. Vốn ít lại bán tranh thủ thì chỉ còn cách mở một quán giải khát nhỏ, nhỉnh hơn quán nước một tý. Bán dăm ba chai bia, nước ngọt, bánh kẹo, thuốc lá… Tôi giúp vợ chở về một cái tủ kính bày các mặt hàng trên và thêm dăm bộ bàn ghế nhựa. Thế là xong một cái quán, đúng kiểu phố bờ sông. Chưa có biển quảng cáo, nhưng cửa mở toang hoang, đèn điện sáng trưng cũng đủ hiểu đây là một cái quán rồi. Đang dịp nghỉ hè, vợ tôi có thể trông quán cả ngày. Nàng ngồi thong dong sau quầy kính, có vẻ ra dáng một bà chủ lắm. Tôi ẩn trong nhà ngó ra xem ngày khai trương ra sao.
Có một vài thanh niên tóc tai vàng hoe đi qua, ngó vào với cặp mắt tò mò gian giảo, tôi đâm cảnh giác.
- Cho bao ba số - Một giọng khàn khàn đùng đục vang lên đầy hách dịch.
Tôi giật mình quay ra. Trời, suýt nữa thì tôi bật kêu lên tên một nghệ sĩ hài quen thuộc vẫn thấy trên truyền hình, chà y chang, cứ như là chị em sinh đôi
Dạ, dạ - Tiếng vợ tôi lúng túng - Nhà em không có chị ạ, em mới dọn chưa mua đủ hàng, chị thông cảm dùng vina vậy nhé.
- Không, tôi không dùng thứ ấy - Chị ta ngồi phịch xuống ghế, chùm cái mông phì nhiêu kín chiếc ghế nhựa con loại rẻ tiền khiến bốn chân nó oằn lại như thằng bại liệt. Chị ta ngó nghiêng quán hàng và nhận xét cứ như một đạo diễn trường quay:
- Cô đóng lấy một cái hộp đèn quảng cáo để ra ngoài hè kia kìa, từ xa người ta mới biết. Treo thêm vài cái tranh bắt mắt bọn thanh niên, mà mua thêm vài loại thuốc nữa, chứ chỉ có vina, ở đây chó nó hút.
- Dạ, vâng vâng - Giọng nói của vợ tôi bắt đầu run run. Ngồi trong nhà, tôi chuẩn bị tư thế, nếu có xảy ra điều gì thì sẵn sàng ra ứng cứu.
- Chị uống gì không ạ?
Chừng như sực nhớ ra mình đã vào quán mà chưa mua gì, chị ta mới à à:
- Cho chai nước khoáng, tôi bị tiểu đường, không uống đồ ngọt.
Nghe tiếng vợ tôi lân la hỏi chuyện làm thân, chị ta bắt đầu bắn liên thanh:
- Cứ gọi tôi là Bính “béo”, cả phố ai cũng biết, nhà cuối phố, nhưng trong ngõ. Cô mở quán này là bán được đấy, nhưng phải mua thêm hàng. ở đây chúng nó hút toàn loại nặng đô.
- Vâng, để em sẽ bổ sung thêm.
- Cần hàng gì, tôi đi lấy hộ cho.
- Dạ, em lấy hàng của chị bạn quen trên phố rồi ạ.
Hôm sau quán hàng dọn từ sáng đến tối mà vẫn chẳng có ma nào vào, vợ tôi ỉu xìu như cái bánh đa nhúng nước. Nghĩ đến lời khuyên của chị Bính, vợ tôi tất tả đi đặt cái biển quảng cáo, rồi mua thêm mấy tấm tranh treo trong nhà, trông cũng ra dáng một cái quán giải khát lắm. Tối đó có hai thanh niên khệnh khạng bước vào:
- Cho hai nâu hai điếu.
Vợ tôi ngẩn ra hỏi lại:
- Vina hay ba số?
- ơ bà này, thuốc cuốn.
Vợ tôi đang lúng túng, thì một thằng giơ tay can:
- Mới, chưa có đâu.
- Mẹ kiếp, thế thì vào làm đ. gì, phắn.
Chúng đứng dậy đi ra, một thằng tiện chân đá luôn chiếc ghế bắn vào góc nhà. Tôi định chạy ra, nhưng vợ tôi vội xô tôi vào tít trong nhà.
Sáng sớm, mở cửa ra, vợ tôi đã la toáng lên:
- Chúng nó vặn mất cái bóng đèn compac vẫn treo ngoài hè rồi anh ạ.
Tôi còn ngái ngủ, càu nhàu:
- Có mỗi cái đèn mà ầm cả lên.
Vợ tôi vẫn ồn ĩ:
- Đêm qua bọn trộm nó rình mò nhà mình đấy, xem có mất mát gì không?
- Cửa nả vẫn khoá mà.
Tôi mở cửa hành lang tầng hai để tập vài động tác thể dục, bỗng phát hiện cái cục nóng của chiếc máy điều hòa nhiệt độ đã biến mất. Đúng là kiểu lấy trộm của bọn nghiện, không từ một cái gì.
Tôi đến cơ quan, vẫn bê nguyên cái cục tức đến bàn làm việc. Mọi người lại được dịp khuyên can, tốt nhất là nên chuyển đi, không ở được với cái phố liều ấy đâu. Tôi càng bi quan vì không thể cứ một chốc một nhát mà chuyển đi được.
Tôi đi làm về đã thấy Bính “béo” ngồi thù lù một đống trong nhà, vẻ mặt hằm hằm ra chiều tức giận:
- Được rồi, tôi sẽ nhờ bọn đàn em tìm xem thằng nào chơi bẩn thế.
- Thôi chị ạ, có đáng là bao đâu, kẻo chúng nó lại thù thì chết.
- Dám, đụng vào Bính “béo” này mà được à, không thì cũng phải dằn mặt cho chúng nó biết thế nào là lễ độ chứ. Hề hề, chị có hàng rồi đây này, lấy ít điếu mà bán thử nhé.
- Dạ, thuốc gì à chị?
- Thuốc lá chứ còn thuốc gì, loại này mới đủ đô cho chúng nó hút.
- Dạ, dạ, em... em không quen bán thứ này chị ạ.
- Cứ bán đi, trước lạ sau quen, có phải mất tí vốn nào đâu mà lo, bán chạy lắm, mà lãi lại hơn đứt mấy bao vina kia ấy chứ - Bính “béo” dúi vào tay vợ tôi bao ba số, nom mới cứng, nhưng lại bảo vợ tôi - Thuốc cuốn đấy, không phải ba số đâu. Bóc ra bán lẻ, trăm một điếu nhé.
Tôi thấy vợ tôi cầm bao ba số mà tay run run, nhưng không dám nói gì thêm, cứ thấy "dạ dạ vâng vâng", rồi nhét sâu trong ngăn kéo đựng tiền. Chờ đến khi Bính “béo” đi khỏi, tôi trở ra hỏi, vợ tôi ấp úng. Tôi nghiêm mặt:
- Em mà bán thứ ấy là phạm pháp đấy.
- Em biết rồi, nhưng cầm cho chị ấy bằng lòng, rồi từ chối sau.
Tôi đe vài câu nữa rồi mới yên tâm đi ngủ.
Quả sau cái đận mất trộm ấy, nhà tôi yên thật sự, việc bán hàng của vợ tôi cũng suôn sẻ, khách đông dần lên, chủ yếu là thanh niên, thường trà lá nhậu nhẹt vào buổi tối. Tôi canh chừng cho vợ được vài hôm, rồi cũng lên phòng lo việc riêng. Thỉnh thoảng trong bữa cơm, có hỏi chuyện tình hình bán chác của vợ, thấy vợ tôi hồ hởi khoe: "Bán hàng dạo này được lắm anh ạ". Tôi sực nhớ đến bao thuốc của Bính “béo”. Vợ tôi bảo:
- Trả lại cho chị ấy rồi.
- Chị ấy không nói gì à?
- Không, chỉ hơi khó chịu chút thôi.
Tôi nghĩ bụng, người ta cứ dọa thế, chứ ở đây cũng đâu đến nỗi.
Ông tổ trưởng dân phố từ chiều đã sang mời tôi rất trịnh trọng: "Tối nay, bảy rưỡi chú sang họp nhé, hôm nay có cả Công an phường về dự. Có gì chú cứ phát biểu". Cơm nước xong tôi đóng bộ chỉnh tề đi họp, vợ tôi nhìn theo với con mắt như dò xét. Cuộc họp dân phố hôm nay quả có khác, sau chiếc bàn chủ tọa được phủ khăn hoa là một Đại úy Cảnh sát, và ông tổ trưởng dân phố. Nội dung cuộc họp cũng có vẻ khác. Mọi hôm, chỉ có ông tổ trưởng nói, chủ yếu là nhắc nhở bà con giữ gìn vệ sinh khu phố, không để hàng quán lấn lòng hè đường, không gây mất trật tự an ninh khu phố… vv và vv… Trên cứ nói, ở dưới cứ bàn chuyện rôm rả, nào nhà ông nọ thằng con bỏ đi đến gần tuần nay không thấy về, nào nhà bà kia thằng chồng say rượu đánh vợ đến phải đi cấp cứu… Mọi khi tôi cũng ngồi làm vì, được một lúc thì bỏ về vì biết ngồi lại cũng chẳng có tác dụng gì. Nhưng hôm nay có Công an về dự chắc mọi người phải khác. Cuộc họp hôm nay, theo như ông tổ trưởng tổ dân phố nói là để cơ quan Công an phối hợp với dân chúng triệt phá các ổ tệ nạn xã hội, chủ yếu là buôn ma túy lẻ. "Các đồng chí Công an rất cần đến sự giúp đỡ của nhân dân, nhân dân là tai mắt không thể thiếu được trong các cuộc phá án. Chính vì vậy mà có đồng chí ở Công an thành phố về dự để nghe trực tiếp những lời phản ánh của bà con phố ta. Nếu ai có những tin tức, hoài nghi về những phần tử dính líu đến buôn bán nhỏ lẻ chất ma túy, nghiện hút... thì xin mật báo về cho các đồng chí Công an theo một đường dây nóng là... Mọi phát hiện của bà con sẽ được các đồng chí Công an ghi nhận và khen thưởng. Hôm nay chỉ là những lời phát biểu của bà con về nội dung này" .
Sau lời của ông tổ trưởng, rồi lời khích lệ của anh đại úy Cảnh sát, cả phòng đông nghịt người mà im phăng phắc như trước giờ tuyên án, đến một tiếng ho nhỏ cũng không. Tôi nóng mặt, cảm giác như có toàn bộ các cặp mắt trong phòng đang đổ dồn về phía tôi. Dẫu sao thì tôi cũng là dân trí thức duy nhất trong phố. Vả lại, gì chứ, cái bao "ba số" hôm ấy thì tôi đã được tận mục sở thị rồi, nó sẽ là một hạt trong chuỗi những bằng chứng về đường dây buôn bán ma túy nhỏ lẻ. Tôi đứng bật dậy, bắt gặp một ánh mắt lóe lên như tia hàn điện. Tự nhiên tôi lại thấy hơi rờn rợn, nhưng đã trót đứng lên rồi thì phải nói. Tôi đã nói một cách rất chung chung, không có một phát hiện nào mới mẻ. Tôi nhớ đến giọng nói của Bính “béo”: "Dám đụng đến Bính “béo” này mà được à". Khi bước về gần đến nhà thì một giọng khàn đục vang lên lạnh cả gáy: "Chú Minh là dân trí thức có khác, phát biểu hay lắm".
Dạo này tôi thấy Bính “béo” rất hay đến quán của vợ tôi, lúc nào tôi về là chị ta lại vội vàng đứng dậy, trên bàn chỉ có chai nước khoáng. Chả lẽ bà ta nghiện nước khoáng của vợ tôi? Sau bữa cơm, tôi nghiêm mặt hỏi vợ: "Chị Bính đến quán làm gì, đừng nói là đến uống nước khoáng đấy nhé, nói thật đi kẻo đến lúc hối không kịp đâu". Mặt vợ tôi tái ngắt: "Không, em không đụng đến thứ ấy, thật mà". Tôi không tin, miệng vợ tôi lại méo sệch khi tôi nổi giận: "Chị Bính đến là là... vì vì em cho chị ấy ngồi nhờ thôi". "Có nghĩa là lấy địa điểm để mua bán ma túy đúng không?". "Anh đừng báo Công an nhé, mình buôn bán yên ổn ở đây là cũng nhờ chị ấy đấy. Mà chị ấy cũng tội, đang phải nuôi một thằng con trai ăn học đại học. Có mỗi một thân một mình lại bệnh tật. Chị ấy trước là gái đứng đường đấy, hết đát về tay không, chẳng có lấy một mảnh đất nương thân, lại không chồng không con… à, thằng con trai ấy là con của bạn chị ấy thời làm gái, chị ta chết vì “ết”, may mà thằng con không việc gì. Chị Bính nuôi từ hồi nó mới hai tuổi, giờ đang học Đại học Kinh tế quốc dân".
Từ sau hôm có cuộc họp, chị Bính có vẻ hay bắt chuyện với tôi chứ không len lét đứng dậy ra về như mọi khi gặp tôi nữa. Một hôm, tôi nghe chị ta tâm sự với vợ tôi, vẻ mặt buồn bã chứ không câng câng tợn tạo như mọi khi, té ra là chị đang nói chuyện về thằng con trai. Đúng là đàn bà, dù là một con cáo thì khi nói về con cũng thành một con nai hiền lành: "Thằng cu nhà chị đang đi thực tập làm luận án tốt nghiệp rồi mà chả có xe máy, toàn phải đi xe đạp, vất vả quá. Chị đang dồn mua cho nó chiếc xe, mãi vẫn chưa đủ. Vừa rồi phải trả tiền nhà cả cục, mất cả chục triệu người ta mới cho thuê tiếp, lại móm mất một ít".
Tôi đang ở trong nhà giả vờ đi ra vô tình nghe được. Tôi bảo: "Chị còn thiếu nhiều không? Tôi đang cầm của cơ quan ít tiền, mãi đến cuối năm mới phải thanh toán, chị có mượn tôi cho vay, cuối năm trả". Cái mặt dày dày của chị nghệt ra như tảng thịt nhão: "Ô thế thì may quá, chú cho chị vay, chị trả cả vốn lẫn lãi". "Không, tôi có phải người cho vay lấy lãi đâu, giúp chị thôi, tiền để không ấy mà". Vợ tôi tròn mắt nhìn, cứ như tôi không phải là tôi. Tối đến cô ấy còn căn vặn, cho rằng lâu nay tôi có quỹ đen, song vì cho chị Bính vay, nên rồi nàng cũng "tha" cho.
Vài hôm sau, tôi về nhà đã thấy chị Bính cùng thằng con trai ngồi đợi. Vừa thấy tôi, chị đã oang oang cái giọng vịt đực:
- Tôi với cháu đợi chú mãi, hôm nay chú đi làm về muộn thế. Tôi đưa cháu sang cảm ơn chú đây. Cháu mua được xe rồi, mai cháu mang xe ra Hà Nội, sang chào chú luôn.
- Có gì mà phải ơn với huệ. Giúp nhau khi túng thiếu là chuyện bình thường, khi nào nhà em cần lại nhờ chị.
- Được, vô tư đi, chị lúc nào cũng sẵn sàng giúp cô chú.
Tôi nghe tin chị Bính bị tai nạn giao thông, mà lại tai nạn lúc 5h sáng khi chị đi bộ tập thể dục. Vô lý, mới 5h sáng thì đường còn vắng chứ đông đúc gì đâu, tại sao xe máy lại tông chị được. May mà chị chỉ bị gãy chân, đang phải bó bột tại bệnh viện. Vợ tôi chuẩn bị bao nhiêu quà cáp để vào thăm chị, còn tôi thì chẳng còn tâm trí đâu.
Chị nằm bẹp trên giường, thân thể như một khối thịt không xương, nhưng mặt thì lại tươi tỉnh. Vừa nhìn thấy vợ chồng tôi, chị đã cười toe toét:
- Chị không sao, chưa chết được đâu, chúng nó làm gì được chị.
Tôi nắm tay chị, cười mãn nguyện:
- Chúng nó sa lưới hết rồi chị ạ, chị khỏi lo đi, công đầu là của chị đấy. Các anh lãnh đạo trên Công an thành phố đang chuẩn bị xuống thăm chị đấy, thể nào chị cũng có thưởng.
- Nếu có thưởng, được ít nào chị sẽ trả đỡ cho chú.
- Không phải trả đâu, đó là tiền của các anh Công an mà.
Tôi liếc sang vợ, cứ thấy nàng mắt chữ A, mồm chữ 0, ú a ú ớ. Tôi kéo nàng ra về, để chị chuẩn bị tiếp các anh Công an. Chị vội vàng gọi lại dặn:
- Cô chú đừng báo gì cho thằng cháu nhà tôi nhớ, cứ để cháu tập trung ôn thi tốt nghiệp.
Vừa ra khỏi bệnh viện, vợ tôi đã giằng tôi lại, bắt phải giải thích cho bằng được. Tôi cũng không vừa, cứ thủng thẳng bước, trả lời tưng tửng: "Thế mới gọi là hình sự chứ
Bão không từ phía biển
Một tràng dài những uất ức, tủi hờn, cay đắng, căm giận bùng ra, không dừng lại, không thể hãm được. Tuồng như chỉ còn cách bắt những kẻ đã làm cái tội tày trời là dám lén lút quan hệ bất chính kia phải gọt đầu bôi vôi, voi giày ngựa xéo, hoặc ném đá, tùng xẻo đến chết may ra mới hả lòng hả dạ. Chao ôi là cái lòng tự trọng của người đàn ông bị xúc phạm, sự đau đớn của đức ông chồng khi biết mình bị phản bội mới đáng sợ làm sao. Mọi chuyện người ta đều có thể làm…
Nửa đêm. Chuông điện thoại bàn dồn từng hồi gắt gỏng. Giờ này chắc chả ai dư hơi tán gẫu, buôn dưa lê. Ắt có chuyện quan trọng. Quan trọng đến mức không dừng lại được, phải dựng người khác dậy lúc đang say giấc nồng thường là chuyện không hay. Đầu tôi thoáng qua những ý nghĩ xui xẻo. Đức ông chồng đi công tác miền Trung, đứa con gái theo lớp du lịch Sapa, ông bác ruột ở quê ốm đã lâu ngày. Tất cả mọi tai họa đều có thể đến sau cái âm thanh không mong đợi đang réo rắt kia. Chân tay nhũn ra, người vã mồ hôi, tôi dồn hết can đảm nhấc ống nghe. "Alô, chị à, em bị cắm sừng chị ạ. Nhục ơi là nhục. Con vợ lăng loàn của em cặp bồ, theo trai mà em không biết. Nó coi em là con kiến, là thứ bù nhìn ruộng dưa. Em thì em giết tất, cho cả đôi gian phu dâm phụ kia chầu trời mới rửa hết cái nhục này. Thằng Thuần chưa phải là đứa mù mắt, thích làm gì thì làm. Giết tất…giết tất…giết tất…".
Một tràng dài những uất ức, tủi hờn, cay đắng, căm giận bùng ra, không dừng lại, không thể hãm được. Tuồng như chỉ còn cách bắt những kẻ đã làm cái tội tày trời là dám lén lút quan hệ bất chính kia phải gọt đầu bôi vôi, voi giày ngựa xéo, hoặc ném đá, tùng xẻo đến chết may ra mới hả lòng hả dạ. Chao ôi là cái lòng tự trọng của người đàn ông bị xúc phạm, sự đau đớn của đức ông chồng khi biết mình bị phản bội mới đáng sợ làm sao. Mọi chuyện người ta đều có thể làm…
Tác giả của cú điện thoại ấy là thằng Thuần, em trai tôi.
Nó hiền lành, chân chỉ hạt bột. Hiền đến mức người làng gọi nó là Thuần đất. Cả đời chưa thấy nó nặng lời, to tiếng gây sự với ai bao giờ. Thế mà hôm nay cục đất lên tiếng, gằm ghè, hăm dọa, tưởng như có thể ăn tươi nuốt sống mọi thứ trong chốc lát. Thói đời hiền thường đi đôi với cục. Người cục tính khi đã nổi xung lên thì không thèm biết gì, không cần suy bì trắng đen, hơn thiệt, trời cũng chỉ bằng cái vung trong chạn bếp. Cứ làm phứt một phát cho xong rồi đến đâu thì đến.
Lo sợ thằng em cả giận mất khôn, sáng hôm sau tôi ra bến xe sớm, quày quả về quê
Làng tôi đã qua vụ gặt tháng mười. Những thửa ruộng trơ gốc rạ, xám xịt, buồn tẻ. Gió mùa hoang hoải thổi. Khói đốt đồng cay cay khoé mắt. Sông Ngàn vào mùa nước cạn, có chỗ trơ đáy, trông lở loét như người hoại thư lâu ngày. Chưa có lúc nào tôi về quê trong tâm trạng nặng trĩu như lần này.
Nhà em tôi cửa giả toang hoác, im lặng đến rợn người. Đồ đạc, mâm bát, xoong chảo nằm ngổn ngang giữa mảnh sân gạch. Thứ vỡ, thứ méo mó. Tất cả như vừa trải qua trận bão. Em tôi ngồi bất động trong góc giường. Gương mặt hằn lên sự đau đớn cùng cực. Qua một đêm mà trông nó già đi chục tuổi. Thấy tôi, Thuần uể oải đứng dậy đi thu dọn nhà cửa. Dáng nó còng xuống như dấu hỏi, gầy gò và cam chịu. Tự nhiên tôi trào nước mắt. Gần bốn chục tuổi đời rồi, em tôi chưa được hưởng lấy một ngày sung sướng, nhàn hạ. Cái số trời hành như đeo gông ấy, không biết còn theo nó đến bao giờ?
Đẻ thằng Thuần được 3 ngày thì mẹ tôi mất vì băng huyết. Nhà lít nhít 6 đứa con. Tôi là chị cả, năm ấy mới 9 tuổi. 9 tuổi nhưng gầy gò chỉ bằng đứa lên 5. Hằng ngày bất đắc dĩ phải diễn cái cảnh mèo con tha chuột cống, lê la khắp làng trên xóm dưới đến những nhà có con nhỏ xin sữa rơi sữa rớt cho em. Thuần như cây mạ gieo phải thửa ruộng cạn, không đủ nước, cứ còi cọc, vàng vọt, khô khỏng đến là thương.
Giàu con út, khó con út, lớn lên các anh các chị đứa đi làm ăn xa, đứa xây dựng gia đình. Việc nhà dồn hết vào tay Thuần. Bố tôi ba lần tai biến, đến lúc mất, ông nằm liệt giường tổng cộng 5 năm 8 tháng tròn. Tất cả đều ở Thuần, từ "đầu vào" cho chí "đầu ra". Anh chị ai cũng mải làm ăn, chăm chút cho cái niêu cơm của mình, dăm thì mười họa mới tạt về, có đỡ đần em thì cũng chỉ là muối bỏ bể. So với trai làng, em tôi muộn vợ cũng vì cái hoàn cảnh rất riêng ấy.
Ngày thằng Thuần xây dựng gia đình, tôi mừng ít hơn lo.
Đám cưới em tôi không có họ nhà gái. Cô dâu cười ngượng nghịu, lạc lõng trong bộ váy cưới tân thời, tay kẹp đôi nạng gỗ di chuyển khó nhọc bên cạnh chú rể mặt ngời lên niềm hạnh phúc khôn tả. Lành - em dâu tôi bị liệt, đi lại rất hạn chế. Nhà 2 người nhưng chỉ có một đôi chân lành lặn. Linh cảm đàn bà mách bảo cho tôi biết chờ đợi em tôi phía trước là rất nhiều giông bão. Là người trong cuộc, thằng Thuần chắc cũng chẳng khó khăn gì mà không mường tượng ra điều ấy. Nhưng buồn thay, ở đời có những thứ người ta biết trước mà không thể tránh, thậm chí không muốn tránh. Nhất là khi người ta đang ngây ngất trong thứ men say đầy ma lực của cái gọi là tình yêu. Mà em tôi thì yêu vợ vô cùng.
Con tạo khéo trêu ngươi nhưng cũng khéo công bằng. Bù lại cho phần thân dưới èo uột, nửa trên của Lành tràn đầy sinh lực. Săn chắc. Tròn lẳn. Mỡ màng. Hấp dẫn đến ma mị. Từ bắp tay cho đến bầu vú. Tất cả căng ra, ngần ngật, lúc nào cũng như chực muốn bật khỏi lớp áo mỏng, muốn tự do tung tẩy để ngầm khẳng định rằng tôi cũng hấp dẫn lắm, đáng yêu lắm, rằng trời không lấy hết của ai cái gì bao giờ, mất cái này thì phải được bù đắp bằng cái khác.
Những năm sau khi bố tôi mất, Thuần theo bạn vào mạn Thanh Hoá, Nghệ An, rồi Hà Tĩnh buôn bán nông sản. Lạc, đậu, khoai, chuối, bưởi, cam, quýt, mùa nào thức nấy. Bất cứ gì có lãi là buôn. Trên những chuyến tàu chợ lúc nào cũng len chặt người, hàng, với đủ thứ mùi đặc trưng từ Trung ra Bắc ấy em tôi gặp Lành. Trời xui đất khiến, bao nhiêu người đàn ông đi tàu đã uống thứ nước chè đặc cắm tăm từ cái ấm bất ly thân của con bé bị liệt ấy không nghiện thì em tôi lại cứ như ăn phải bùa mê thuốc lú. Theo Lành nói lại thì con bé lớn lên không biết cha mẹ, anh em, quê hương bản quán ở đâu. Những chuyến tàu chợ Vinh - Hà Nội trở thành mái ấm của nó, là thứ phương tiện để nó bán nước chè, kẹo lạc, thuốc lá cùng trăm thứ bà rằn khác để mưu sinh và bấu víu lấy cuộc đời. Ngày Thuần đưa người yêu về giới thiệu, tôi đã khóc. Vừa thấy thương cả hai đứa, vừa trách ông Tơ bà Nguyệt sao lại nỡ oái oăm chắp nối đường duyên cho em tôi một mối tình đầy trắc trở đến thế…
Lấy nhau năm trước, năm sau chúng sinh con đầu lòng. Rồi cứ thế sòn sòn năm một, quanh đi quẩn lại đã có một đàn 4 đứa con. Thuần mướt mải, đầu tắt mặt tối kiếm cơm nuôi cả đoàn tàu há mồm. Nhà đông người, miệng ăn núi lở, ráo mồ hôi là hết tiền. Là đói. Là phải khất nợ học phí của con. Là không có tiền mua thuốc cho vợ. Là thiếu đủ thứ. Làm ăn, buôn bán không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái. Cũng có khi lỗ chỏng vó, lâm vào cảnh nợ nần, giật gấu vá vai. Nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy thằng Thuần cáu hay nặng lời với vợ con bao giờ. Dù chỉ là một nét buồn phiền thoảng qua trên khuôn mặt cũng không.
Lành yêu chồng bằng tình yêu tôn thờ pha lẫn sự hàm ơn đối với người đàn ông đã hào phóng dang tay che chở cuộc đời mình. Đó là thứ tình cảm nảy nở từ trong sâu thẳm trái tim đàn bà. Nó đâm chồi nảy lộc thành lời nói ngọt ngào, ánh mắt yêu thương, cử chỉ ân cần, gìn giữ, nâng niu, trân trọng, thậm chí cả thái độ khó chịu, hậm hực của sự ghen tuông. Tất cả những cung bậc biểu cảm ấy của vợ đều khiến em tôi hài lòng, mãn nguyện.
Dù còn những lo toan về vật chất, cơm áo gạo tiền thì đó vẫn là một hạnh phúc viên mãn.
Những tưởng không gì chia cắt nổi cái gia đình được vun đắp bằng tình yêu ấy.
Nhưng hiểm họa đến bất ngờ, ở một vị thế không ai nghĩ đến.
Em dâu tôi ngoại tình.
Người đàn bà tật nguyền yêu chồng bằng tình yêu hiếm có ấy đã xây dựng một mối quan hệ khác ngoài người bạn đời đầu gối tay ấp, chia ngọt sẻ bùi bao năm.
Sét đánh giữa trời quang.
Thằng Thuần như kẻ đang đi trên mặt đất bằng phẳng bất ngờ bị rơi tõm xuống hố sâu không đáy. Hun hút. Đen đặc. Vô định.
Mấy đứa trẻ được gửi sang nhà bà bác nên bữa trưa hôm ấy chỉ có hai chị em. Mâm cơm nguội lạnh, đắng ngắt. Thuần chống đũa ngồi như pho tượng. Giọng nó nghèn nghẹn, khó nhọc tựa có bàn tay vô hình nào đó đang chẹn ngang yết hầu: "Nhục lắm chị ạ, rồi thì cả làng sẽ biết, em chỉ còn nước bỏ đất này mà đi. Không biết chúng nó lén lút với nhau từ bao giờ. Chiều qua, em ra ga tàu rồi. Nhưng ở trong Thanh điện chưa gom đủ hàng, đành phải trả vé. Về đến nhà, đã nhập nhoạng tối mà bếp núc vẫn lạnh ngơ lạnh ngắt. Hỏi mấy đứa trẻ mẹ đâu thì được trả lời là mẹ chống nạng đi lên đồi chè sau nhà được một lúc rồi bố ạ. Những hôm bố đi vắng, thỉnh thoảng mẹ vẫn lên đồi vào lúc sâm sẩm, lại còn dặn là không được nói cho ai biết, kể cả bố.
Sinh nghi, em ngược dốc theo hướng tay con bé chỉ. Nói thật, kể cả ác quỷ hiện hình thì em cũng không bất ngờ bằng. Ban đầu em còn chẳng tin vào mắt mình. Nhưng không tin sao được? Đôi nạng gỗ nằm chỏng chơ trên mặt đất, còn con vợ em đang ôm lấy một thằng đàn ông mà khóc rưng rức. Em gào lên. Thằng đàn ông buông con đàn bà, ba chân bốn cẳng phóng xuống chân đồi. Em đuổi theo, vấp phải gốc chè ngã dúi dụi. Lồm cồm bò dậy được thì nó đã biến mất. Em vớ cái nạng gỗ, định đập chết con vợ lăng loàn. Nhưng nhìn thấy đôi chân teo tóp của nó, không hiểu sao lại kìm được. Mặc cho nó vừa khóc vừa vái như tế sao, em bỏ đi. Cả đêm nó không về nhà. Em cũng không tìm, mà tìm làm gì nữa hả chị. Bát nước đổ xuống đất rồi, liệu có đầy lại được không?".
Chẳng có giọt lệ nào trên khuôn mặt đau đớn của em tôi. Nhưng tôi biết nó đang khóc. Nước mắt đàn ông chảy ngược vào trong.
Bữa ăn kết thúc mà không ai động đũa. Mâm cơm còn nguyên.
Tôi thấy gia đình bé nhỏ của em mình đang rơi vào vùng tâm bão. Cơn bão đến bất ngờ, không có dấu hiệu báo trước nhưng rất dễ hình dung được quy mô tàn phá, hậu quả nặng nề mà nó sẽ để lại.
Thuần nói đúng, bát nước hắt xuống đất, làm sao đầy lại được.
Cả đêm không ngủ, tờ mờ sáng hôm sau, tôi bật dậy khỏi giường, định bụng ra chợ, mua bán, sắm sanh chút ít làm mâm cơm. Trước hết là dâng lên bàn thờ bố mẹ, cầu mong cho em tôi qua cơn bĩ cực, sau nữa là gọi mấy đứa trẻ về. Tan đàn xẻ nghé, chỉ có trẻ con là chịu thiệt. Đang giữa đông, rét căm căm. Sương giăng như sữa, cách dăm bước chân đã không thấy gì. Không thấy gì nên khi chạm phải một bóng người nằm phủ phục giữa ngõ, tôi rụng rời tay chân, mất hết hồn vía, mồm miệng cứng đơ không thể thốt thành lời.
Lành - em dâu tôi.
Người nó lạnh ngắt, run bần bật vì rét. Tóc xoã ra, rũ rượi. Cặp môi tím tái mấp máy:
- Chị ơi! Em cắn rơm cắn cỏ lạy chị… Không phải như anh Thuần nghĩ đâu… chị thương em… thương các cháu… xin chị cứu lấy gia đình em…
Lành ngất xỉu trên tay tôi, phần do cảm lạnh, phần vì bị kiệt sức.
Sự việc đã rành rành, chả nhẽ em tôi trông gà hoá cuốc?
Không dám đưa Lành vào nhà, tôi bế sang bà bác, đánh cảm, rồi mua cháo nóng về bón. Gần trưa, Lành tỉnh táo, tuy giọng nói còn có phần yếu ớt:
- Xin chị tin em! Có trời phật chứng giám, em không phải là thứ đàn bà hư hỏng.
Trời phật ở xa, còn em trai tôi người trần mắt thịt nhưng ở gần. Biết nghe ai bây giờ?
- Em biết, bây giờ anh Thuần không tin em, chị cũng không tin em, cả làng này không ai tin em. Nhưng xin chị kiên nhẫn, em sẽ tự gội rửa được mối oan này - Giọng Lành như van lơn.
Tôi gật đầu. Mắt em dâu tôi có lửa cháy. Từ trong vô thức, tôi bỗng tin Lành không phải là người đàn bà hư hỏng. Nhưng dù gì đấy vẫn chỉ là thứ xúc cảm không thể nắm bắt, sờ nắn được trong khi chuyện Lành ôm người đàn ông xa lạ thì lại có thật. Hoàn toàn có thật. Ngay cả Lành, khi nghe tôi gặng hỏi cũng công nhận điều đó.
Tự nhiên, tôi thấy mình rối trí, như kẻ lạc đường, rơi vào một mê cung rối rắm không biết nên theo hướng nào.
Chiều hôm đó, theo thỏa thuận từ trước, Lành dẫn tôi đi gặp một người.
Đó là kẻ đã ôm Lành trong buổi chiều muộn và bị em trai tôi bắt gặp.
Anh ta có khuôn mặt nhàu nhĩ, cặp mắt trắng dã toát lên ánh nhìn dài dại, môi thâm sì, khuôn mặt vô cảm, thân hình gầy guộc, khẳng khiu trông qua tựa cái cây bị thối rễ, gần cạn nhựa sống, chỉ tồn tại để chờ ngày thành một thứ củi mục vô dụng. Cảm nhận đầu tiên thoáng qua đầu tôi là chỉ một kẻ tâm thần mới rời bỏ gia đình vì thứ nửa người nửa ngợm này. Nhưng đời lắm chữ ngờ, đâu phải thứ gì cũng như mình nghĩ. Nhất là tình cảm con người, vốn dĩ nhiều khi rất xa vời sự kiểm soát của lý trí.
Câu nói đầu tiên của người đàn ông xa lạ làm tôi ngã bổ chửng:
- Thưa chị, tôi là anh ruột của Lành!
Để bổ sung, tăng thêm sức nặng cho thông tin động trời kia, Lành gật đầu xác nhận một cách dứt khoát.
Hai tai tôi ù đặc, mắt nhoè đi, người bềnh lên, nhẹ bẫng như bị rút hết trọng lượng.
Chưa bao giờ tôi nghe chuyện gì khó tin hơn. Nhưng khó tin, không có nghĩa là không có thật. Bằng chứng được trưng ra. Giấy khai sinh, học bạ, ảnh chụp gia đình từ bé đến lớn. Tất cả được Lành âm thầm cất giấu, bảo quản bao năm nay. Những thứ mà tôi chưa được thấy bao giờ, cũng chưa nghe em dâu tôi nói đến bao giờ nhưng đều là giấy trắng, mực đen, dấu đỏ, muốn không tin cũng khó.
Người đàn ông cất giọng một cách khó nhọc:
- Em tôi đã giấu chị, giấu chồng. Âu cũng là điều dễ hiểu và cảm thông được, đúng không? Chẳng ai muốn có một người anh trai nghiện ma túy lâu năm, phải đi tù vì tội tàng trữ, sử dụng và buôn bán heroin cả. Gia đình tôi tan nát theo những cơn nghiện của tôi chị ạ. Tôi kề dao vào cổ bố, cướp cả số tiền ông chắt bóp bao năm trời để chữa bệnh cho em. Bố tôi uất, ốm chết. Mẹ tôi phiền não rồi cũng theo chồng về chín suối. Cỏ trên mộ đấng sinh thành chưa kịp xanh, tôi gọi người bán nhà cửa, vườn tược, bỏ mặc đứa em gái tật nguyền, theo bạn nghiện lang thang, vạ vật hết chỗ này đến chỗ khác cho đến khi tiêu hết tiền phải quay sang bán lẻ heroin, lấy mỡ nó rán nó, rồi đi tù. Gần chục năm trong trại, tôi cai nghiện và hiểu ra nhiều điều. Cách đây 3 năm, tôi được tha. Lần tìm mãi cũng biết em gái đã lấy chồng, yên bề gia thất. Tôi mừng rơi nước mắt. Tự hứa là sẽ không bao giờ xuất hiện trong đời em tôi nữa. Nhưng rồi tôi bắt buộc phải gặp Lành. Bởi vì tôi biết mình sắp chết. Tôi bị AIDS, đã giai đoạn cuối rồi chị ạ. Mong chị hiểu cho, gặp em nhưng không muốn em mang tiếng có một người anh có HAT. Miệng lưỡi người đời, đâu phải ai cũng cảm thông được. Thành thử anh em tôi cứ phải áo gấm đi đêm.
Câu chuyện ngắt rời từng quãng, xen giữa là tiếng sụt sịt của Lành. Kể xong, người đàn ông thở hắt ra nặng nhọc. Cả ba chúng tôi đều khóc…
Buổi chiều trên triền đê, gió thốc lên từng hồi lạnh ngắt. Phía thượng nguồn sông Ngàn những đám mây tụ lại, đen đặc. Trời vần vũ. Cứ như là sắp bão. Kỳ lạ thay, bão giữa mùa đông. Bão không từ phía biển
Nghịch tử
Bỗng nhiên Long thấy tức. Tưởng người tử tế còn giúp, thì ra cũng chỉ là hạng con gái nhạt phèo mà thôi. Vui đâu chầu đấy. Đúng là nghịch tử. Con gái gì mà ôm ấp con trai ngay ban ngày ban mặt. Dạo nọ tự nhiên ra bắt quen, rồi báo báo chí chí, không biết có nên cơm cháo gì không nữa. Từ nay mặc xác, nhờ vả gì cũng mặc xác...
Con Tuyền nhà ở bãi Thành vừa đen vừa còi. Nhưng mắt nó đẹp và miệng thì cười duyên duyên. Ánh trăng mùa xuân chiếu chênh chếch bên hè phố, đủ soi rõ cái cổ áo màu đỏ chành trên ngực con gái. Nó mặc quần đùi, chân kéo lê đôi giày há mõm cùng với rổ ốc đã được vợt sạch dưới cái vòi nước sát cạnh con mương mà lũ bạn chúng nó quen mồm gọi là Cống Thối. Bên này hè phố bụi bặm, đèn đường đỏ quạch đọng trên những rổ vỏ ốc, những cái tăm đã dùng xỉa lên màn đêm thứ hương đặc sệt cay thoang thoảng mùi những con ốc thối… Mẹ nó đang đon đả luộc tiếp những mẻ ốc. Bà đon đả với lũ ốc thì đúng hơn, vì đôi mắt lờ đờ của người thiếu ngủ không thể nhìn khách ăn mà khích lệ được. Chỉ có đôi tay bà là khích lệ họ gọi thêm những đĩa những bát tô.
Con Tuyền biết mẹ mình yếu lắm rồi. Nửa đêm nó choàng tay qua người mẹ thấy người lạnh đến rút xương. Mùi mồ hôi lạnh ngấm xuống gối, tanh tanh ốc.
Đêm mẹ nó chỉ mơ thấy rong rêu. Những loài rong rêu bám theo giấc mơ nặng nề của người đàn bà quanh năm không biết niềm vui phấn son.
Con Tuyền bảo:
- Sau này con kiếm thằng chồng có tiền lo cho mẹ. Mẹ khỏi bán ốc đêm đêm nữa. Con cũng không thích bán ốc. Con không thích làm đứa con gái bán ốc nuôi thân.
Mẹ nó bĩu môi:
- Làm sao mà mày khẳng định sẽ lấy được thằng chồng dư dả.
- Sao con không lấy được - Tuyền cãi - Con dù sao cũng hạng hoa khôi xóm bãi này. Đầy thằng có tiền mắt toét môi thâm muốn mà con còn không thèm nhìn lấy một cái ấy chứ.
Mẹ nó cười:
- Tao bán ốc cả ngày đêm, có thấy thằng nào ra hồn tán tỉnh mày đâu. Toàn thằng trốn vợ đi ốc với tình nhân tình ngãi. Thằng thì nghiện, thằng thì cờ bạc. Khéo không lại rài rạc đời, con ạ.
Nó nằm im lặng một lúc rồi lại thì thào với mẹ:
- Con sẽ ôn thi đại học mẹ ạ.
Mẹ nó húng hắng ho rồi bảo:
- Thi có nổi không hay lại chỉ tổ tốn tiền. Cứ kiếm thằng chồng là xong, khỏi học hành thi cử. Đẻ cho tao một đứa cháu, lớn lên phụ bà ngoại bán ốc.
Con Tuyền cáu:
- Mẹ định bán ốc gia truyền đấy à? Con không bao giờ muốn mẹ bán ốc. Lại là bán ốc ở khu bãi nữa chứ, Cống Thối bên cạnh. Cuộc đời thật hết biết chữ ngờ. Đi đâu bọn bạn bè cũng bảo con Tuyền ốc, nghe nhức hết cả tim. Mẹ, hình như nhà mình ngày xưa có làm hương?
- Có, nhưng bị thất truyền rồi.
- Vậy sao?
Nằm trong bóng đêm, con Tuyền nghĩ đông nghĩ tây. Thỉnh thoảng có tiếng xe ầm ì ngoài đường và rồi có tiếng đám thanh niên chơi đêm rú xe chạy trốn cảnh sát cơ động đang rượt đuổi.
Mấy hôm sau Tuyền bớt xén chút tiền của mẹ, đi tân trang đầu tóc, móng tay móng chân. Nó kiếm được 2 bộ quần áo hàng thùng khá "khủng", mặc vào trông tây tây bụi bụi. Nó quyết định rẽ thẳng ra giữa ngã ba, chỗ có cái bục gỗ tròn, trên có anh cảnh sát khá trẻ và đẹp trai.
Nó chào:
- Em chào anh.
Anh cảnh sát hỏi:
- Cô có việc gì?
Nó cười:
- Em không hỏi đường anh đâu. Em cũng không cần gì. Em chỉ thấy anh đứng giữa đường nắng nôi thế này thì em chào.
Nó cười rõ tươi. Anh cảnh sát trẻ tuổi không nỡ mất lịch sự cũng cười:
- Vâng, cám ơn cô, tôi đang làm nhiệm vụ.
- Em biết. Anh làm tốt nhé. Nhưng… thực ra là em đang muốn nhờ anh một việc.
- Việc gì?
Anh cảnh sát đang bận nên hơi khó chịu.
- Em đang chuẩn bị thi vào trường báo chí, em cần tư liệu để viết bài gửi vào hồ sơ xin thi tuyển.
Nghe nói chuyện báo chí thì anh cảnh sát lại thấy nể nể.
- Em sẽ nhờ người chụp ảnh anh đang điều khiển giao thông. Sau ca trực anh cho em gặp để hỏi vài câu thôi, được không ạ?
- Cũng được.
- Thế anh cho em số di động của anh đi.
Thế là con Tuyền chạy ra cửa hiệu chụp ảnh gần đấy thuê thợ chụp theo sự đạo diễn của nó. Nó có được một bức ảnh rất ấn tượng và có được số di động của Long, chàng cảnh sát trẻ tuổi của chốt cảnh sát giao thông Y.
Khi Tuyền hỏi Long về tình hình giao thông trật tự thì nảy sinh ra những vấn đề khác. Chẳng hạn việc phối hợp với cảnh sát cơ động. Nhất là trong thời điểm hiện tại, khi cả nước tăng cường công tác thanh tra giao thông, người không tuân thủ quy định khi tham gia giao thông sẽ bị phạt nặng. Long hứa sẽ giới thiệu cho Tuyền thêm mấy anh bạn bên cảnh sát cơ động. Như thế mới có thể có đủ tư liệu để viết một bài báo.
Tuyền kiếm cái băng đỏ xin đứng cùng Long một vài buổi. Đứng đây mới thấy hết ghét các anh cảnh sát mấy lần phạt lũ bạn bè Tuyền vượt đèn đỏ hay không đội mũ bảo hiểm. Chúng bị giữ xe, xin xỏ mãi cũng chỉ được tha xe, còn giấy tờ thì giữ đến đồn trình báo đủ thủ tục mới được lấy về.
Đứng đây mới thấy nhiều điều mà cô bé chưa bao giờ biết. Chẳng hạn có những người thật nhu mì điềm đạm, có những người nóng tính sẵn sàng văng ra đủ thứ với người giữ trật tự. Có tay chỉ lượn phố cả ngày, đầu tóc vàng chóe, vài ba chục lai phẩy ngo ngoe trên cái đầu trống rỗng, chỉ chờ đèn đỏ là vụt xe qua trêu tức cảnh sát. Có người ngày đi qua cả chục lần chở nặng hàng. Có kẻ cặp bồ đun đẩy nhau qua, mắt nhìn xiên xéo, hai xe hai hàng long thong nghe ngóng. Lại có thằng bé bán bánh khúc gia truyền, không hiểu được gia truyền từ nhánh nào đời nào, không hiểu nhân bánh có nhồi thịt chuột hay thịt lợn quai xanh không, hôm được ngồi, hôm phải đuổi, chạy nhong nhóc mấy xó cũng bán được hết cả thúng.
Tuyền đứng ở giữa ngã ba đâm vui. Gương mặt cô rạng ngời nắng. Đen và nắng. Nắng và đen. Hai thứ trộn lẫn làm nóng sực cả góc nhà vào ban tối.
Bài báo Tuyền viết về anh cảnh sát trẻ tuổi và những câu chuyện nơi ngã ba giao thông được công an thành phố lấy làm câu chuyện điển hình. Long bị anh em cùng đội trêu chọc lúc giải lao. Nhân thể Long chưa có vợ, mấy anh bạn đun đẩy: Cô bé ấy được đấy, đen thì càng giòn, đi điều tra lý lịch đi. Long mặt đỏ lên như quả gấc chín nhừ.
Ra ngã ba làm nhiệm vụ, thấy Tuyền đến, Long bảo:
- Thôi, tôi xong nhiệm vụ với cô rồi. Giờ cô đi học đi, cứ đứng mãi đây không ổn.
Tuyền nghệt mặt ra, không hiểu sao hôm nay Long lại khó tính thế. Cô trình bày:
- Em đã xong loạt bài để nộp dự thi đâu. Anh còn hứa giới thiệu em với bên cơ động cơ mà.
- Thì tôi sẽ giới thiệu. Cả thể giới thiệu cô đến chốt giao thông khác nữa.
- Vâng, thế thì tốt quá. Nhưng…
Tuyền ngập ngừng. Cô thấy ưng ức thế nào. Còn Long thì suýt nữa để thoát mấy anh chàng choai choai đầu đinh không đội mũ bảo hiểm đang rú ga chạy qua chốt. Long chạy vội ra... Mấy cậu choai định rũ áo thoát. Nhưng Tuyền đã kịp thời chạy ra đứng ngăn luôn phía trước. Mà nếu chúng có chạy thì cô cũng đã kịp nhớ số xe để báo cho chốt trên.
Giúp Long giải quyết mấy cậu choai, nhưng Tuyền vẫn ấm ức lắm. Khi không bị đuổi khéo, Tuyền cắn cắn môi nghĩ cách bật lại Long. Tưởng mình là cảnh sát giao thông thì không bị ai bật chắc.
Hôm sau Tuyền rủ thằng Linh con bà bún ngan đầu ngõ lượn phố. Thằng Linh có cái mũ bảo hiểm xịn nhưng làm vành lưỡi trai, nhìn xa như mũ mềm. Nó đội lên đầu, ngồi lên xe vẹo cả một bên bánh. Nó nặng những 75 kí lô, người toàn mùi bún chua chua trộn lẫn mùi mỡ ngan. Tuyền ngồi sau xe cảm thấy phí hoài nhan sắc (dù sao cô cũng thuộc hàng hoa khôi xóm bãi), nhưng chí đã quyết. Cô ôm eo Linh khiến Linh nhột nhột thích thích. Nó nghiêng đầu điệu bộ, hỏi:
- Đi đâu?
Tuyền chỉ tay:
- Ra ngã ba chỗ mọi khi tớ hay đứng ấy.
- Có đi đâu nữa không?
- Lượn vài vòng qua đấy, xong tính tiếp.
Linh nghi ngờ:
- Lượn vài vòng như kiểu đua xe ấy à? Tớ ngại lắm.
Tuyền nhăn nhó:
- Mới thế đã ngại. Đã gì mà ngại. Ai bảo lượn như đua xe. Chỉ gần như đua xe thôi. Tớ đang làm báo, phải lấy cảm giác của đối tượng mới viết hay được.
Linh tin ngay, hớn hở lao lên mặt phố.
Khi chiếc xe vừa chớm ngã ba nơi Long đứng thì Tuyền bắt đầu ngả người ôm chặt Linh. Linh bị đột ngột, run tay, mồ hôi toát ra nhưng không dám đi chậm. Chiếc xe lạng lách qua dòng người, không nhanh không chậm, không vi phạm gì, chỉ ngứa mắt những người tử tế đang đi từ tốn. Long cũng nóng mắt, định chặn cái xe hỏi giấy tờ thì nhìn ra Tuyền đang ôm chặt cậu con trai to lù như con trâu mộng. Bỗng nhiên Long thấy tức. Tưởng người tử tế còn giúp, thì ra cũng chỉ là hạng con gái nhạt phèo mà thôi. Vui đâu chầu đấy. Đúng là nghịch tử. Con gái gì mà ôm ấp con trai ngay ban ngày ban mặt. Dạo nọ tự nhiên ra bắt quen, rồi báo báo chí chí, không biết có nên cơm cháo gì không nữa. Từ nay mặc xác, nhờ vả gì cũng mặc xác.
Cái xe lạng đi lạng lại qua cái ngã ba vài vòng. Tuyền chán ôm cái lưng hôi của Linh, ngãng tay ra, phán:
- Cà phê thôi.
Cà phê cùng Tuyền thì Linh chưa bao giờ dám mơ. Con gái bán ốc, vậy mà nhìn Tuyền thì Linh quên mất cái tên Tuyền ốc. Linh lúp cúp theo Tuyền vào cái quán cà phê sừng sững ngay ngã ba.
Tuyền cố tình đi chậm vào quán cho Long nhìn thấy. Nhưng hình như anh không buồn nhìn. Bực thật.
Ngày hôm sau lại diễn ra cảnh ấy. Linh thấy nghi nghi, giống như Tuyền đang giăng bẫy cho con nhện nào đó rơi vào.
Hôm ấy Tuyền đang đãi ốc dưới bến sông. Linh đứng trên bờ gọi:
- Tuyền ơi, nhanh lên, có anh cảnh sát đang tìm kìa.
Tuyền nghe hai tiếng cảnh sát đã nhảy phốc lên bờ. Một người cảnh sát trẻ như anh Long chạy tới:
- Cô là Tuyền phải không?
- Vâng, có việc gì ạ?
- Long nó nhờ tôi đưa cho cô cái thư.
- Anh Long? Anh ấy đâu ạ?
- Long đi công tác biệt phái rồi.
- Ơ?
Tuyền ngạc nhiên, cứ tưởng cảnh sát giao thông thì cứ phải đứng mãi ở cái chốt được phân công chứ, nếu không làm sao thông thuộc được các luồng xe mà điều khiển?
- Chúng tôi thực ra mới ra trường, nên cũng phải thuyên chuyển. Long bảo giấy này giới thiệu cho cô mấy địa chỉ cần đến để cô viết báo gì đó.
Tuyền ỉu xìu, tưởng thư viết gì cho mình.
Bẵng đi vài tháng...
Tuyền được tin Long bị tai nạn phải cấp cứu. Hóa ra anh cũng chỉ đi sang khu vực phố mới ở quận bên cạnh. Khi anh đang điều khiển giao thông thì một chiếc xe do người lái xe say rượu lao tới chèn nát cả bục gỗ. Long bị đẩy ngã nhào, đầu đập xuống mặt đường. May mà chiếc xe không chèn lên người anh.
Tuyền hớt hải chạy đến bệnh viện của công an tìm.
Long nằm, băng trắng toát, vậy mà anh vẫn mỉm cười được với cô.
Tuyền nhăn nhó:
- Lại còn cười được?
Bạn bè Long dãn ra. Tuyền lúng túng, luýnh quýnh, không biết nên làm gì, rót nước hay bóc cam cho anh. Nhìn Long, Tuyền bỗng muốn khóc, nước mắt cứ chảy tràn trên gò má. Long giơ tay ra nắm tay Tuyền:
- Nghịch tử, nhớ phải thi đỗ nhé.
Tuyền gật. Rồi nói lí nhí:
- Anh nhớ phải khỏe nhanh đấy.
Long ngúc ngoắc cái đầu, bảo Tuyền cứ yên tâm.
Rồi hai người im lặng, không biết nói gì nữa.
Lúc ấy, tiết trời đang có mưa xuân. Những hạt mưa rơi nhẹ trên những thảm cỏ làm làn bụi mờ đi, chìm lút xuống đáy hồ. Những tiếng xe chạy ngoài phố cũng như êm ả hơn, nhẹ nhàng hơn.
Hình như hai người không nhìn thấy gì, cũng không nghe thấy gì.
Tuyền nghĩ, mình nhất định sẽ thi đỗ. Sẽ xin cho mẹ đi làm hương để mẹ vui, không bán ốc nữa.
Long nghĩ, khỏi rồi ra viện sẽ đến chơi nhà Tuyền. Cái đồ nghịch tử xóm bãi, không hiểu Tuyền có biết là anh đã nghĩ đến cô rất nhiều không
Lối về
Gốc xà cừ cạnh đường lớn là nơi hắn và cô ả làm việc hàng ngày. Chỗ ấy lúc nào cũng rầm rập xe qua lại, bụi bay mù trời. Chính sự xô bồ, hỗn tạp ấy đã đem lại công việc để hắn và cô ả kiếm sống qua ngày. Hắn làm nghề đóng sửa giày dép, còn cô ả đứng vẫy khách làng chơi tìm của lạ.
Thường thì người ta chỉ nhìn thấy hắn cùng với cô ả vào lúc sẩm tối. Hắn làm việc từ sáng cho tới tối. Còn ả thường đi làm từ chập tối cho tới lúc khuya. Những lúc ấy, nhìn hắn và cô ả giống như hai hình ảnh đối lập. Hắn gầy nhỏ, quăn queo như cành củi khô, suốt ngày ngồi lủi thủi bên đống giày dép lộn xộn. Chỉ có khuôn mặt là trông khá khôi ngô. Hắn ngồi trên phiến đá nhỏ, quần áo bạc phếch, đội mũ lụp xụp, mặt cúi gằm, cặm cụi lau chùi, đục đẽo. Vẻ mặt thoáng những nét mệt mỏi, bơ phờ của một ngày làm việc vất vả. Ánh mắt hắn đượm buồn, nỗi buồn thấm thía lúc cuối ngày hay đó cũng là nỗi tủi hờn cho một kiếp đời lầm lũi. Còn ả lúc nào cũng hớn hở, tươi rói trong những lớp phấn son. Đôi bàn tay đưa đi đưa lại vuốt ve bờ vai trần xương xẩu và khuôn mặt đã thoáng những nét tàn phai. Ả đứng ở bên kia gốc cây, áo quần súng sính, mắt la mày liếc, uốn éo gọi mời.
Hắn và ả cứ lặng lẽ với cuộc mưu sinh chẳng giống nhau ấy giữa nơi phố phường tấp nập. Hắn kiên nhẫn ngồi đợi, có người thuê là chúi mũi vào làm. Còn ả săm sắn đứng chờ, có khách là nhảy tót lên xe đi luôn. Có lẽ hắn và ả sẽ chẳng bao giờ quen nhau nếu không có những hôm cả hai cùng ế ẩm. Hắn ngồi ủ rũ bên đống đồ nghề lỉnh kỉnh, nhem nhuốc cố đợi cho hết tối. Ả đứng bên kia mỏi chân quá, thỉnh thoảng lại dựa lưng vào gốc cây ngáp liên hồi. Buồn ngủ, ả lôi thuốc ra hút. Nhưng tìm mãi không thấy bật lửa đâu, ả bèn lượn qua chỗ hắn. Ả đứng chéo chân trước mặt hắn, nói hờ hững:
- Có lửa không? Cho xin một tẹo hút thuốc!
Hắn chẳng thèm ngước nhìn, ánh mắt khinh khỉnh. Ả vẫn nhơn nhơn, khiêu khích. Bao năm bám sống nơi vỉa hè đã cho cả hắn và ả sự lì lợm và cái vẻ khinh đời. Nhưng có lẽ không muốn ả cứ đứng trơ trơ như thế trước mặt hay vì một chút rộng lượng còn sót lại mà hắn đã nhún nhường. Hắn đành thò tay vào túi móc ra chiếc bật lửa kiểu cổ sáng choang. Ả à lên một tiếng ngạc nhiên, đôi mắt như giãn to hơn. Có lẽ ả không ngờ một gã như hắn lại có chiếc bật lửa xịn như thế. Ả cúi xuống chìa điếu thuốc ngậm trong miệng ra đón lấy ngọn lửa từ tay hắn. Ả dừng lại một lúc để hít một hơi dài cho điếu thuốc bắt lửa. Mùi nước hoa, mùi phấn son nồng nặc phả ra từ người ả khiến hắn thoáng ngơ ngẩn. Ả chống nạnh, mắt lim dim rít thuốc rồi ngửa cổ lên trời nhả khói rất điệu nghệ. Ả hất hàm về phía hắn:
- Hút thuốc này bao giờ chưa? Làm một điếu không?
Hắn thèm muốn nhỏ dãi cái hơi thuốc lá xịn của ả nhưng vẫn lắc đầu. Ả cười khảy bỏ đi.
Ả và hắn dần quen mặt nhau. Thi thoảng ả vẫn sang chỗ hắn xin lửa. Có khi là xin cả thuốc hút. Nhưng hắn không có. Hắn bỏ thuốc lâu rồi. Thế là ả bĩu môi, nguýt dài một tiếng. Ả lượn lờ loanh quanh chỗ hắn ngó nghiêng mấy chiếc giày cao gót treo trên giá. Ả lật giở, săm soi rồi lại làu bàu bình phẩm. Hắn vẫn coi như không. Đó là việc vẫn thường diễn ra từ khi hắn đến chỗ này. Cũng có lúc ả vu vơ đá chuyện. Thường là những câu chuyện giật gân vẫn diễn ra hàng ngày trên phố. Hắn nghe lõm bõm câu được, câu không, ậm ừ cho qua chuyện.
Rồi có lần ả vừa bước lên vỉa hè thì bị trẹo chân. Chân ả khuỵu xuống, đau điếng. Chiếc váy lửng của ả bị sẻ một đường ngang đùi. Ả ngồi bệt xuống vỉa hè, chẳng biết xử lý ra sao. Phố đêm nhập nhoạng. Người qua đường thản nhiên. Ai mà thèm để ý đến một đứa như ả chứ. Ả ngồi nhăn nhó ngay trước mặt hắn. Khuôn mặt mếu máo tèm lem khi những lớp phấn son dày đặc bị nước mắt truội đi, ánh mắt như cầu khẩn. Hắn nhìn ả một hồi lâu…Và hắn nhỏm dậy quẳng cho ả chiếc áo dài để quấn ngang bụng. Hắn nắn lại chân cho ả. Chiêu này hắn học lỏm được lúc ở trong tù. Chỉ một lát là ả đỡ đau ngay. Rồi hắn cắm cúi đóng cho ả chiếc gót khác. Hắn lầm lũi không nói một tiếng. Ả ngồi ngây ra ngắm nhìn khuôn mặt khá sáng sủa của hắn. Lần đầu tiên ả thấy hắn không còn là một gã nhếch nhác, lầm lì. Cũng lần đầu tiên, hắn thấy ả không chỉ đáng ghét mà còn rất đáng thương.
Có những hôm trời nóng hầm hập, công việc ế ẩm, hắn và ả ngồi kể cho nhau nghe câu chuyện về cuộc đời mình. Quê hắn ở một miền đồng đất xa xôi. Ngày xưa, hắn cũng từng là sinh viên đại học, cũng bảnh bao lãng tử lắm. Nhưng hắn a dua theo bạn bè đề đóm, hút hít, trộm cắp rồi đi tù. Trong tù, hắn được một ông giám thị cùng quê cải hối và dạy cho cái nghề sửa chữa giày dép để phòng thân. Khi ra tù, hắn mặc cảm, trốn biệt gia đình, ra thành phố lang thang kiếm sống. Còn ả ngày xưa cũng xinh đẹp có tiếng ở làng. Nhưng gia đình khốn khó, ả bỏ học giữa chừng ra thành phố kiếm việc làm. Từ chỗ làm ở quán gội đầu ả chuyển sang làm nghề bán thân. Rồi đời ả trượt dài trong u tối. Giờ quá lứa, ả bị đẩy ra đường, cò con vật vờ kiếm sống bằng nghề cũ.
Đường phố nhập nhoạng sáng tối. Khoảng lặng bao trùm lấy hai người. Hắn nhìn ả xót xa. Còn ả khẽ ngậm ngùi. Hai kiếp người, hai số phận nổi trôi chạm phải nhau giữa dòng đời xuôi ngược. Câu chuyện ảm đạm phảng phất như khói thuốc quẩn quanh. Một sự đồng cảm mong manh làm cả hắn và ả bối rối. Nhưng cuộc sống vẫn trôi qua như nó vẫn từng thế…
Một ngày, trời bỗng nổi gió mùa. Gió lạnh tràn về vần vũ trên tán xà cừ xác xơ. Phố phường âm u, buốt giá. Người qua đường vắng thưa. Hắn và ả vẫn phải đi làm. Hôm ấy, ả rúm ró trong bộ quần áo mỏng tang. Khuôn mặt tái nhăn vì sương gió. Ở bên kia gốc cây, hắn ho sù sụ theo từng đợt gió lùa. Hắn bị viêm hô hấp kinh niên. Cơn ho ngày một dày hơn. Ả sốt ruột qua chỗ hắn:
- Có ma nào nó thèm đến vào giờ này nữa! Chưa kiếm được đồng nào có khi lại lăn ra đó rồi. Về đi thôi! Khỏe lại đi làm tiếp!
Thực ra hắn cũng biết như thế. Nhưng hắn vẫn muốn ngồi lại thêm lúc nữa, cho dù không hiểu vì cái gì nữa. Chỉ khi ả giục lần thứ hai hắn mới ngần ngừ một lát rồi miễn cưỡng ra về.
Nghỉ mấy hôm, hắn đi làm trở lại trong niềm vui nho nhỏ của cả hai. Hắn sốt ruột mong cho mau đến tối. Còn ả vẫn đi làm bình thường nhưng cố ý đi sớm hơn… Có những hôm, cả hai mệt mỏi tựa lưng vào gốc cây, cùng lắng nghe tiếng thở của nhau. Nó rất gần mà lại rất xa. Một chút bâng khuâng, một chút suy tưởng nhen lên trong lòng. Và rồi lại cùng thở dài thất vọng.
Dù cuộc sống còn cực khổ nhưng hắn vẫn thấy yên lòng vì đã thoát khỏi con đường lầm lạc. Còn ả, giờ vẫn chìm đắm trong cõi u tối. Cũng có lúc ả bỏ không đi khách. Nhưng được mấy hôm lại thôi vì ả còn phải nuôi thân, còn phải gửi tiền về nhà chữa bệnh cho mẹ. Cũng có lúc, hắn lo cho tương lai của ả. Nhưng rồi hắn và ả lại bị kéo tuột về với nhịp sống hối hả, đua chen. Để rồi lại vội vã liếc chào nhau mỗi người mỗi hướng, lo toan sinh kế.
Cuộc sống của ả và hắn cứ trôi qua như thế. Cho đến một hôm, hắn buột miệng hỏi ả:
- Thế cứ định sống thế này mãi sao?
Ả không trả lời. Nén tiếng thở dài, ả rút thuốc lá ra đốt. Hắn lơ đãng nhìn theo làn khói thuốc toả ra từ phía ả. Chậm rãi, hắn nói:
- Tuần sau tôi về quê.
- Về quê thì lấy gì mà sống? - Bất chợt ả hỏi.
- Mình còn sức khỏe, lo gì không có kế sinh nhai. Còn hơn cứ lay lắt mãi ở đây…
Ả cúi đầu im lặng. Câu chuyện bỏ lửng giữa chừng. Hai dáng người rệu rã quay lưng vào nhau. Bóng đêm thâm quầng trong khoé mắt. Hắn lặng lẽ bỏ về…
Sáng hôm sau, báo đưa tin một vụ giết người, cướp của tại nhà nghỉ. Nạn nhân là một cô gái làng chơi. Hắn nóng ruột. Cả ngày hắn loanh quanh như ngồi trên đống lửa, chỉ mong cho nhanh đến tối. Hôm ấy ả không đi làm. Mấy hôm sau nữa cũng vậy. Hắn hoang mang. Lo lắng. Hắn định tìm đến cái nơi có vụ giết người ấy nhưng suy nghĩ kỹ rồi lại thôi. Hắn và ả có là gì đâu? Cũng như bao mảnh đời sáng tối nổi trôi ngoài kia, gặp nhau chỉ như gió thoảng. Và biết đâu ả bận không đi làm được. Hay ả có việc khác rồi? Hắn thấy hối tiếc là chưa một lần biết tên thật và chỗ ở của ả. Không biết giờ này ả đang ở nơi đâu?...
Chủ nhật, hắn vẫn đi làm. Hắn ở lại chỗ làm cho tới khuya.Và cô ả vẫn không tới. Lòng hắn dần dịu đi. Mọi cái đều có thể xảy ra. Dù sao đó cũng là cách sống mà ả đã chọn, cho dù nó không được đẹp đẽ cho lắm. Hắn trầm ngâm đốt thuốc một mình. Đã lâu rồi hắn mới hút thuốc. Hắn thẫn thờ nhìn vầng khói xanh xao bay lơ lửng. Hắn nghĩ đến cô ả. Có cái gì đó trống vắng trong lòng. Hắn nhớ cái dáng lơ đãng đốt thuốc của ả. Cả cái vẻ u sầu thoáng qua trên vầng trán nhợt nhạt của ả. Tất cả giờ chỉ như khói thuốc hư vô.
Hắn nhắm mắt lại, hình dung ra khuôn mặt cô ả. Thấy nó thật dịu dàng và thanh thản nếu như không có những lớp phấn son. Và hắn thấy cô ả cười. Nụ cười rạng rỡ như ngôi sao lấp lánh phía đằng xa. Hắn chợt nhận ra phía đó có quê hương của hắn. Nơi đó, hắn từng có những tháng ngày tươi đẹp. Nơi đó, từng có một người con gái yêu thương hắn…Hắn còn bố mẹ già và những đứa em đã lớn. Hắn tin rằng mọi người sẽ không quay lưng lại với hắn. Hắn sẽ về với ruộng đồng, cây cỏ để sống thanh đạm suốt quãng đời còn lại.
Hôm sau, hắn về quê. Hành trang nhẹ bẫng
Góa phụ váy đen
Trong chuyện làm ăn và cả trong tình trường, gã rất thích thú với hai thuật ngữ "đi tắt đón đầu", "tay không bắt giặc". Một chiếc chìa khóa vạn năng, câu thần chú "Vừng ơi mở cửa ra" trong truyện "Alibaba và 40 tên cướp". Dường như gã đã thực hiện sách lược "đi tắt đón đầu", "tay không bắt giặc" từ trước khi hiểu rõ, thấu triệt về nó...
Khi còn lái xe kiêm thư ký cho thủ trưởng giao thông ở tỉnh, gã đã ý thức được, có "đi tắt đón đầu", "tay không bắt giặc" mới là người có tư duy mới. Rồi tới lúc điện thoại di động thịnh hành, gã nhanh chóng xin được một cái, nhanh chóng luyện khả năng nhắn tin và sử dụng triệt để các chức năng của điện thoại di động. Gã học lỏm, học ké, nhờ người này chỉ bảo, nhờ người kia hướng dẫn. Tiếp đến, Internet băng đồng ruộng tràn vô mọi nhà. Gã nhanh chóng làm chủ được máy tính giống như thuần hóa được ngựa xích thố. Không đi tắt đón đầu, không tay không bắt giặc thì là cái gì? Trong thời gian thuần hóa máy vi tính, gã đã lờ mờ nhận ra đây là một công cụ sản xuất siêu hạng, một tài sản khổng lồ, một thứ vũ khí cực kỳ lợi hại. Có nó, giống như Tôn Ngộ Không có cây thiết bảng như ý và phép cân đẩu vân.
Mọi việc làm ăn, mọi thú vui sướng đều nằm ở trong đó. Sau cái màn hình mịn màng phẳng lặng như tấm lưng trần của đàn bà trong độ xuân sắc là tất cả thế giới. Con chuột "Cân đẩu vân" giúp gã đi khắp nơi, gặp gỡ trao đổi với mọi thứ người. Với vốn tiếng Anh dùng để chạy xe taxi, gã không đủ công lực để tiến tới những chân trời mới. Nhưng, với những vùng quê ta hay những nơi "Tây ta lẫn lộn", cái vốn Anh ngữ nói ít hiểu nhiều của gã cũng đủ sức khoan sâu mở rộng.
Gã đổi tên trung tâm dịch vụ Kim Xuân thành Công ty Dịch vụ "Năm châu bốn biển". Tên của biển hiệu tuy có dài nhưng lạ mắt lạ tai. Trên thị trường chăm sóc con người, những tên biển hiệu Toàn cầu, Thế giới, Mỹ Việt, Âu Việt, Á Châu xuất hiện la liệt. Cuộc cạnh tranh hội nhập toàn cầu không có chỗ đứng, lối đi cho kẻ chậm lụt, ù lì. Gã không phải là thứ "bò nhai lại". Gã phải đi tắt đón đầu, tạo cơ hội mới. Tên biển hiệu dài cũng có giá trị riêng. Âm điệu của tên gọi rất trữ tình và gợi cảm. Người ta đã quá quen với cái ngắn, gặp cái dài duyên dáng ắt sẽ dễ nhớ, nhớ lâu. Với lại, khi mở trang web, cái tên "Namchaubonbien" tuy khó đọc nhưng tạo được ấn tượng.
Thế giới này ngày càng vội vàng hấp tấp. Thiên hạ coi tốc độ là trên hết. Thuật ngữ "Thông tin là quyền lực, tốc độ là sức mạnh" đã phổ biến sâu rộng trong thiên hạ. Người ta không có nhiều thời gian để tìm hiểu tất cả. Giống như việc đọc báo, họ chỉ quan tâm chú ý bài viết có cái tít ấn tượng. Thuộc tính tò mò trong đời sống sinh hoạt cũng là một thuộc tính của việc làm ăn. Khi nâng cấp từ Trung tâm lên Công ty, gã đã có ý định mở rộng hoạt động, tìm thị trường và hàng hóa mới. Kinh doanh du học hay xuất khẩu lao động ngày càng khó khăn. Đầu ra, đầu vào gặp rất nhiều vật cản. Thủ tục hành chính mỗi lúc một chặt chẽ hơn. Độ rủi ro cao, chi phí phát sinh tăng lên, kiếm lời từ thị trường này không khác gì "ngậm ngải tìm trầm".
Một ngày nọ, trong lúc sục sạo tìm mối làm ăn, gã gặp một nickname "Góa phụ váy đen" với lời bày tỏ:
"Từ thiên kim tóc dài
Đến góa phụ váy ngắn
Chìa khóa tới thiên đường
Kẹp giữa đen và trắng"
Bỗng nhiên gã nhớ tới cuộc vật lộn dữ dội với một "má mì" da trắng có ria mép, chủ của 8 "đứa con" gái gọi hạng cao cấp chuyên phục vụ cho những đại gia và khách nước ngoài. Ở tuổi 40 bắt đầu "sổ dinh dưỡng", mọi thứ đều căng tràn, mọi thứ đều bốc khói, gã gặp chị ta, thấy ưa. Tiếng nói thách thức cất lên như còi xe cứu hỏa: "Có sức chịu một giờ liên tục sẽ biếu không, thậm chí còn khuyến mãi tiếp. Không chịu nổi, nhả ra "hai chai"!”. Gã chấp nhận. Dâm tính của người đàn bà có ria mép này thuộc loại siêu hạng. Phần dưới bụng của chị ta quả thật là một kiệt tác về cái đẹp của tạo hóa. Một cái đẹp của rừng rậm nhiệt đới trong hoàng hôn. Tao nhã, dữ dội, bí ẩn và hoành tráng. Cái đẹp của một loài sư tử trắng mặt đen. Một cái đẹp không dành cho người yếu tim. Nhớ lại cũng như nhìn đi - Thiên hạ nói vậy. Gã gửi tới "Góa phụ váy đen" đôi lời tán tỉnh kẹo kéo: "Trắng đen là chuyện của trời/ Thiên đường nằm ở nụ cười trắng đen".
Góa phụ váy đen hồi âm ngay tức thì: "Đàn bà là thứ chi chi/ Mặc quần, mặc váy có gì khác nhau?".
Gã đối lại bằng câu văn vần tiếu lâm hiện đại đang thịnh hành ở các quán nhậu: "Đường sạch gì mà buông dài váy/ Giường bẩn gì mà tốc váy lên". Chat lại: "Hi, hi". Sau cuộc chat, gã gặp Góa phụ váy đen. Một người đàn bà dài ngoẵng. Ngực lép, mông nhọn, giống hươu cao cổ nhiều hơn. Sức hấp dẫn của Góa phụ váy đen chủ yếu ở đôi mắt nâu đắm đuối. Ở thời tiền mãn kinh, Góa phụ váy đen thích được vuốt ve mơn trớn. "Chỉ thế thôi! sung sướng cũng có số đo của nó". Góa phụ váy đen học thức uyên thâm không thể lường trước được.
Tinh thông bốn ngoại ngữ Anh, Nga, Trung, Hàn. Sống xê dịch khắp nơi với chiếc laptop. Góa phụ váy đen đầy bí ẩn này là "thần đèn" của gã. Bà ta vạch lối chỉ đường cho gã làm dịch vụ môi giới du lịch, giải trí. Nghề kinh doanh này đúng là thứ "tay không bắt giặc" vốn ít lời nhiều. Kinh tế phát triển, mức sống người dân nâng lên. Giới trung lưu ngày càng tăng. Giới đại gia ngày càng nhiều. Nhu cầu vui chơi giải trí, nhu cầu du lịch trong và ngoài nước luôn song hành với tốc độ tăng trưởng. Người nước ngoài đến nước ta tấp nập. Người nước ta đi nước ngoài cũng nhộn nhịp. Nhu cầu sống rất phong phú đa dạng. Lượng tăng, chất cũng tăng. Lúc bấy giờ những dịch vụ do Nhà nước quản lý về việc này rất ít và làm việc theo kiểu quan liêu, hành chính. Bởi vậy giới kinh doanh tư nhân phải nhảy vào cuộc. Các sản phẩm sống vui, sống khỏe lũ lượt ra đời như nấm mọc sau mưa, như mưa lũ tràn về.
Công ty "Năm châu bốn biển" của gã không trực tiếp làm ra bất kỳ một sản phẩm nào cả. Gã chỉ làm môi giới ăn hoa hồng. Dù thứ hoa hồng này gai nhọn tua tủa, nhưng các công ty, doanh nghiệp du lịch trong và ngoài nước vẫn gắn bó máu thịt, vẫn cầu cạnh, năn nỉ gã tiếp tục hợp tác.
Thật ra, điều hành mọi việc là do Góa phụ váy đen. Người đàn bà này có rất nhiều đối tác làm ăn ở nước ngoài và trong nước. Tuy nhiên, rất rất ít người biết mặt Góa phụ váy đen. Người đàn bà bí ẩn hững hờ nói: "ít người biết mình mới sống vui, sống dai". Điều này xem ra hơi vô lý ở tất cả các ngóc ngách của thị trường. Ai cũng phải công nhận bí quyết đầu tiên cho thành đạt cuộc sống và làm ăn là nhanh chóng để nhiều người biết, càng nhiều càng tốt. Gã hỏi lại: "Tại sao vậy?". Góa phụ váy đen thủng thẳng bâng quơ: "Cây cao sống già cỗi/ Cỏ dại xanh nhởn nhơ".
Nghe câu nói, gã hưng phấn đột ngột. Gã là thứ chuộng của lạ, cứ thấy cái gì lạ là nổi hứng tìm hiểu. Gã đè Góa phụ váy đen, tính tốc váy lột quần lót. Người đàn bà bí ẩn thở dài nói trỏng: "Quá lố rồi, tốp lại!". Tiếng nói vừa dứt, thân xác người đàn bà bí ẩn giống như con trăn tuột ra khỏi vòng tay của gã. Nhanh như chuyển kênh truyền hình, gã sững sờ kinh ngạc. Gã đã gặp rất nhiều đàn bà, đủ loại từ bình dân đến trí thức. Đã được ăn và bị ăn đủ thứ đắng cay chua ngọt của đàn bà. Gặp người này, gã cảm thấy mọi sự hiểu biết về đàn bà của gã đều chỉ là con số không.
Góa phụ váy đen đóng laptop lại, lạnh lùng nói: "Lời khuyên cuối cùng cho anh: Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đối tác có giới hạn của đối tác. Làm ăn cũng như đánh cá, chớ có đuổi cùng, tận diệt. Hãy biết dừng lại đúng lúc".
Người đàn bà bí ẩn biến mất cùng với số tiền được chia theo đúng hợp đồng. Cũng chẳng còn Góa phụ váy đen trên mạng nữa. Công việc làm ăn của "Năm châu bốn biển" cũng suy sụp, lụn bại
Ngõ phố ồn ào
Người lớn trẻ con đứng xem cười rộ lên. Lại thêm một nhân vật nữa. Bà tổ trưởng tổ hòa giải hóa ra cùng loại đùi sành, ngực đá, má sắt tây, lông dây thép, ăn nói có hạng, kém gì đương sự. Nhưng tiếc thay, quái kiệt vậy mà vừa dứt lời bà cũng phải quay lưng, ba chân bốn cẳng đánh bài ù té quyền...
Thuật nghiến răng, quai hàm cứng như sắt nguội, giật mạnh cánh tay vợ, rít:
- Tiên sư con đĩ! Mày ăn gì vào mồm mà nói đứng dựng ngược thế, hả!
Cú giật bất ngờ và quá mạnh, vợ Thuật dẫu thù lù một khúc thịt đặc cũng mất thăng bằng, ngã lăn chiêng xuống đất. Giật mình, con Mích vàng, mặt sư tử, bị xích ở góc cửa, đuôi phơ phất bông lau, chống chân ngồi dậy, ngỏng cổ phát một tiếng gâu cáu kỉnh. Và Mướp ta đang ngủ trên nóc chạn bật mình tót vội lên xà nhà. Kinh nghiệm rồi, những lúc vợ chồng nhà này nổi cơn cáu giận, đã chót mang thân phận chó mèo, tốt nhất là tránh cho xa!
Vợ Thuật vốn nòi tình lại là con ông đô vật xứ Đoài, có sức vóc, nên vừa chạm đất thị đã chống tay rún chân phắt dậy ngay được. Hai con mắt ti hí sáng quắc. Cặp má bánh đúc của thị hăm đỏ. Khuôn mặt tướng đàn ông của thị hằm hè. Xoe xoe hai ống tay áo, thị cất tiếng thé thé:
- Giỏi! Giỏi! Mày chơi quân sự thì bà cũng liều chết với mày đây! Nào, xông vào đây! Bà chỉ kẹp một cái là mày gãy cổ đấy, con ạ.
Mích sủa óc óc tiếng ngực. Sau cáu giận vì tỉnh mộng là nỗi sợ tai họa. Mướp đã vọt lên mái nhà, ngồi xuống đàng hoàng trong tư thế quan hổ đấu. Thì vừa lúc, hai vợ chồng Thuật, hai cái tuổi Dần, đã xông vào nhau, díu lấy nhau rồi lại bật ra, vờn miếng nhau như hai đô sắp vào keo vật. Ngoài cổng, thoáng cái đã bu đầy người. Đứng ở trên cùng, đối diện trực tiếp với cặp đô vật, tức vợ chồng Thuật, là bà Thìn, tổ trưởng tổ hòa giải, mặt hoa da phấn, tuổi đã xồn xồn. Trên cái thế lớn của kẻ bề trên, bà khoan thai, ngọt ngào:
- Thôi, cô Thuật! Một sự nhịn là chín sự lành, cô ơi. Chồng giận thì vợ bớt nhời, cơm sôi nhỏ lửa suốt đời không khê, cô ạ.
Đang cơn say máu, vợ Thuật không để bà tổ trưởng nói thêm đã chống phắt hai tay lên hông, quăng quắc:
- Vợ chồng đ. gì nó. Tôi vất vả sớm hôm mà nó không biết điều. Ngày nó ngủ chỏng cần câu lên giời. Đêm nó lần mần gạ gẫm, không được thì nó văng củ quéo củ muỗm ra.
Thuật đỏ gắt mặt, quát:
- Tịt cái mỏ quạ mày lại. Tao gạ gẫm mày hay mày rống rít lên như con hổ cái, hở?
Quay ngang quay ngửa loè xòe mấy dải áo dài xanh đỏ như áo bà đồng, bà Thìn cười he he:
- Đêm tối như đít chảo thế, biết ma nào nó ăn cỗ bây giờ. Thôi, thế thì huề. Huề! Tản giái! Giải tán
Lệnh bà tổ trưởng không có hiệu nghiệm. Đám đông đứng nguyên tại chỗ, lại ngoạc miệng cười à à. Màn mới mở. Diễn viên mới nhập vai, biết đầu cuối câu chuyện thế nào mà giải tán!
Quả nhiên câu chuyện giờ mới khai triển, vợ Thuật thõng tay, hất hàm:
- Ốm đau gì nó. Ốm đau gì mà con ca ve Ngọ nó vừa ra hiệu một cái là ton tót đánh cái xe đi chở nó ngay.
Ra cái điều hiểu biết, bà tổ trưởng bước tới vỗ vỗ vai vợ Thuật:
- Em ơi, một cái lạ nó bằng một tạ cái quen cơ, em ạ.
Như bị cù, đám đông bu ở cổng lại cười òa òa như nước chảy. Thấy mình như bị lỡm, vợ Thuật hất tay bà Thìn, gắt:
- Bà cũng là một cái lạ đấy. Muốn nó thử không?
- Này, tao đáng tuổi bà thằng Tí Tồ nhà mày đấy nhé. Ăn nói cho đàng hoàng nghe, con.
Bà tổ trưởng vắt tay lên sườn, vênh mặt mím môi. Vợ Thuật bĩu mỏ, dài giọng, văng:
- Bà! Bà gì! Bà sờ l. chó, mó l. mèo thì có.
Thật là được dịp, từ nãy vẫn im, Thuật dấn lên một bước, nhệch nhạc:
- Bà tổ trưởng và bà con xem, nó hỗn láo như thế đấy! Đến bà tổ trưởng nó cũng không còn nể mặt. Tôi bị viêm phổi ốm cả tháng nay. Nó bỏ mặc không lo ăn uống thuốc thang gì. Ngày đã vậy, đêm vứt con cho tôi giữ, nó lại đi, có hôm mười giờ còn chưa về, biết nó cờ bạc trai gái thế nào! Tôi mới bảo chị gái tôi lên khuyên nhủ nó.
- Này - Không để Thuật nói hết, vợ Thuật đã nhảy lên, cướp lời - Này, cái con mắt ốc nhồi, môi chuối mắn ấy, nó có xót mày thì bảo nó lên đây mà bưng bô đổ vịt, thuốc thang, cháo lão cho mày nhé. Mà nó có mặt thì tao đi! Tao đi! Tao không một giờ một phút sống chung với cái con đạo đức giả ấy nhé!
Thuật quay lại đám đông, như phân bua:
- Thật là quá đáng! Đấy, bà con xem. Chị tôi khuyên nhủ điều hay lẽ phải để nó thành người vợ hiền, người con dâu hiếu thảo. Thế mà nó dám nói: "Xin lỗi mày, mày thông cảm nhé! Tao đ. cần lời khuyên của mày. Cút mẹ mày đi!".
- Cút mẹ chúng mày đi - Nhìn thẳng vào mặt bà tổ trưởng, vợ Thuật nhe nhe răng đay lại câu chồng vừa nói - Cả bà nữa, bà về mà khuyên cái thằng chồng già máu gái của bà đi. Tối nào mà chả gặp nó hấp hổm với con bớp già ở ngoài công viên Thủ Lệ kia kìa.
Ái chà chà! Thế này thì đúng là quá đáng thật rồi! Gài mấy dải áo vào cạp quần, bà tổ trưởng quên ngay chức phận hòa giải, nhảy đánh thách vào sân nhà Thuật, tay vỗ đồm độp, mép sùi bọt:
- Này, con kia. Có mặt tao ở đây mà mày còn… Không nể bố mẹ mày, tao đè mày xuống, đút… vào mồm mày cho mày biết thế nào là lễ độ nhé.
Người lớn trẻ con đứng xem cười rộ lên. Lại thêm một nhân vật nữa. Bà tổ trưởng tổ hòa giải hóa ra cùng loại đùi sành, ngực đá, má sắt tây, lông dây thép, ăn nói có hạng, kém gì đương sự. Nhưng tiếc thay, quái kiệt vậy mà vừa dứt lời bà cũng phải quay lưng, ba chân bốn cẳng đánh bài ù té quyền.
Rút nhanh thôi! Đám đông cũng lập tức quay đầu theo bà tổ trưởng và theo nhau bỏ chạy. Dại gì ở nơi hàm chó vó ngựa này. Bởi vì lúc này, vợ Thuật đã rút được chiếc đòn gánh ở trên nóc cái bể nước, giơ cao trong tư thế chém bổ. Còn Thuật thì vớ được cái bơm xích lô giơ lên ngang đầu che chắn, rồi xông tới:
- Con đàn bà hung ác kia! Ông giết mày rồi ông đi tù!
Cuộc đấu từ vật tự do tay không đã chuyển sang thành trận chiến côn quyền. Vợ Thuật nhảy tót lên trên cái bể nước, dộng cạch cạch đầu đòn gánh, hét khàn khàn:
- Đừng có trêu vào ba máu sáu cơn nhà bà. Đưa đơn li dị ra đây bà ký ngay cho mà xem!
Vở kịch lại sang một màn mới. Chạy được mấy bước, cả đám người và bà tổ trưởng lại quay lại, ôm bụng cười nôn ruột. Cái con vợ Thuật tai quái điên thật rồi. Nó tưởng nó là đàn ông, các vị ạ.
Thuật vứt cái bơm lên thềm, nhặt con dao dựa, chỉ mặt vợ:
- Cút mẹ mày đi với thằng nào thì đi đi! Đừng để tao trông thấy mặt nữa, con kia!
Trên nóc nhà, Mướp vẫn đóng vai quan sát viên, ung dung tự tại. Chỉ thương cho Mích vàng càng lúc càng kinh hoảng, giật dây xích chồm lên sủa oang oảng. Mích kinh hoảng là phải. Vì đã một lần Thuật cầm con dao với cái mặt quắt dữ tợn như thế. Lần ấy Mích giật đứt xích chạy ra vì trông thấy con chó cái trắng nhà bà Thìn từ đâu đến đang mon men ở ngoài cổng. Và Mích đã hiểu con dao nguy hiểm đến thế nào.
Tuy nhiên lần này thật may mắn! Lần này có gậy có dao, nhưng hai cái tuổi hổ, hai cơn khùng nộ mà không có cuộc xung sát sứt đầu mẻ trán. Đó là bởi vì có ba anh trai cờ đỏ mới xuất ngũ về còn giữ nguyên được tinh thần quả cảm của người chiến sĩ, đã lên tiếng dọa rằng: Có muốn chúng tôi gọi Cảnh sát 113 không? Lại khôn khéo giật được hung khí, tức chiếc đòn gánh và con dao dựa từ tay hai kẻ hung đồ này. Và cuộc sung sát thế là đã được cản ngăn.
Xung sát đã được cản ngăn, nhưng tiếc thay, cuộc khẩu chiến lại được bắt đầu. Oái oăm thế, vì khẩu chiến chỉ cần đến cái mồm, mà cái mồm lại là một bộ phận không tách rời được của cơ thể con người ta. Không tịch thu được.
Vợ chồng Thuật, chồng đạp xích lô, vợ bán hàng quà vặt ở ga xe lửa, vắt mũi không đủ đút miệng, nhưng giao du với đủ loại tứ chiếng giang hồ, hằng ngày nhập tâm cả một kho tàng từ ngữ tục tĩu, nên trình độ chửi bới, rủa xả nhau xứng đáng xếp bậc cao thủ.
Ngõ ẩm thực, không có những chuyện như loại chuyện này, những phở, bún, bánh cuốn, bún chả mất đi một phần cái ngon cái "hấp dẫn". Ăn và nghe chuyện và tham gia vào câu chuyện là cái nếp sống của đám thực khách đa sự chiếm số đông trong cư dân ngõ này. Lúc này, đóng vai người chứng kiến duy nhất của lịch sử, bà Thìn được hưởng đặc quyền tự do chứ không phải giữ gìn tư cách như khi làm nhiệm vụ hòa giải. Bà cười he he, bà cười khành khạch. Rồi bà tặc lưỡi:
- Hãy đợi chiều nay xem thế nào. Không khéo vợ chồng nhà này tan cửa nát nhà chứ chẳng chơi đâu.
Tan cửa nát nhà! Chứ còn gì! Nghe bà tổ trưởng nói vậy, ngõ phố ồn ào lo ngại lắm. Từ hai hôm nay được là người hàng xóm của vợ chồng Thuật, tôi đã trở thành trung tâm của nỗi lo ngại và hồi hộp của bao người trong ngõ phố này. Và lúc này, khi từ công ty trở về, đi qua cái cổng nhà chung của tôi và vợ chồng Thuật, thật rất bất ngờ, tôi đã rơi vào một cơn sụt hẫng không đón chờ. Là bởi vì tôi đã dự đoán, tôi đã đón đợi không phải là vẻ vô tư, thản nhiên của mảnh sân, bờ tường, cùng sự êm ả tĩnh lặng của cảnh quan. Biến đi đâu cả rồi những hỗn âm náo động?
Cửa nhà Thuật mở toang hai cánh, chứng tỏ Thuật nằm ở trong nhà. Cánh cửa bên trái là đôi dép nhựa màu tím sạch sẽ đặt cạnh cái chổi đót cán dài tựa vào bờ tường. Đối diện, trên nền xi măng đánh màu xanh bóng, Mích khoanh tròn một khối bông tơ vàng hươm hật hờ cái đuôi xù đánh nhịp, lim dim mắt, chập chờn trong giấc mộng yêu đương có bóng hình con chó cái màu trắng. Mích, vệ sĩ của sự yên bình, nó trung thành với vũ điệu cái đuôi thường ngày. Chính nó cũng không ngờ là mình đã đánh nhịp cho tiếng nói véo von của một người phụ nữ trẻ ẵm đứa con nhỏ đang qua cổng, bước lên thềm, ngay lúc sau đó khi tôi vừa đi qua:
- A! Con mèo Mướp! Tí Tồ có thấy con mèo Mướp ở trên mái nhà nhà mình không? Con meo con mẻo con mèo/ Ai dạy mày chèo, mày chẳng dạy tao. Nào, để mẹ gọi con mèo Mướp xuống chơi với Tí Tồ nhé. Miu miu...
Vợ Thuật đã về. Tay cắp nón, tay ẵm thằng bé con, ục ịch nhưng thị bước thoăn thoắt, trong khi cái miệng thì dẻo kẹo, vui vẻ ngọt ngào vô cùng. Tôi vội lánh mặt vào nhà phấp phỏng như mặt hồ thu trước cơn gió thổi.
Cử chỉ đặt thằng bé lên thềm sau khi chúm môi gọi miu miu của vợ Thuật chưa nói lên điều gì. Cũng vậy thôi khi thị sửa lại áo quần và chỉnh lại đôi dép cho thằng bé. Ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi. Luật tạo hóa là vậy. Cứ tuần tự chẳng phải dậy, rồi thằng Tí Tồ sẽ đi, sẽ biết nói và sẽ biết chửi nữa cho mà xem! Nhưng lúc này, thằng Tí Tồ bị sởi chạy hậu nên mười một tháng rồi còn chưa đi được. Vì chân nó còn yếu lắm. Vì vậy mẹ nó phải dẫn nó vào tới cửa, rồi mới buông tay:
- Tí Tồ đi vào nhà mình đi, con!
Chân Tí Tồ khuỳnh khuỳnh. Thằng này lớn lên chân sẽ vòng kiềng, chữ bát hẳn thôi. Nó có yếu thật, nhưng nó cũng khôn ngoan, và cảm nhận được tình âu yếm và sự khích lệ trong lời mẹ, nên rời tay mẹ, nó liền lẫm chẫm bước mấy bước, rồi ập ngay vào bức tường ngăn.
- Hoan hô Tí Tồ! Tí Tồ của mẹ giỏi quá! Tí Tồ đi sang giường bố gọi bố Thuật dậy cho mẹ xem nào.
Tim tôi thót lại, thắt nghẹt, chênh vênh một nỗi vui chen lẫn lo ngại. Chiếc cầu đã từ bờ bên này hướng sang bờ bên kia. Nó hướng thẳng sang, dứt khoát sang, trong tiếng giục liên tiếp của vợ Thuật với đứa nhỏ hết sức tự nhiên và thương mến:
- Tí Tồ đi sang giường bố gọi bố Thuật dậy cho mẹ xem nào!
- Ô ô ô... ại ại ...
Thằng Tí Tồ đã cất tiếng. Đó chỉ là những âm tiết đầu tiên của quá trình tập nói. Và tôi bây giờ mới thật sự rơi vào trạng thái luận suy căng thẳng. Nhưng sự việc giản dị hơn nhiều.
- Ấy, ấy, đau tóc bố! Bố dậy rồi! Bố dậy rồi đây, Tí Tồ!
Trời ạ! Đó là tiếng kêu rối rít khàn rè giọng thuốc lào của Thuật. Thuật đã thức và quay ra, quàng tay qua vai thằng bé, kéo nó lại gần, rồi hôn chun chút vào má nó liên hồi. Rồi y cao giọng:
- Thế Tí Tồ của bố ở nhà trẻ có ngoan không. Mẹ Tí Tồ đã mua Bim Bim cho Tí Tồ chưa?
Đứng ở ngoài cửa, tay nắn nắm búp tóc sau gáy, như chỉ chờ có vậy, vợ Thuật liền cất tiếng:
- Mua rồi! Không có thì có chịu về khối ra đấy. Mà sao nhà trẻ cho thằng bé ăn đói thế không biết!
Ôi, tự nhiên và thân mật làm sao! Tự nhiên và thân mật như vốn nó là vậy. Vốn nó là vậy. Chứ không có câu chuyện đổ quán xiêu đình sáng nay. Càng không có chuyện tan đàn xẻ nghé. Và làm gì có chuyện đổ máu! Vợ Thuật là con người hiện hữu đây, chứ y đâu có phải là người đàn bà đanh đá, tai quái sáng nay. Cũng vậy thôi, Thuật đâu có phải là kẻ đã tham gia cuộc xung sát bằng bơm xe và dao dựa, cũng không có cuộc khẩu chiến giằng dai sau đó!
Chẳng có gì khác thường xảy ra cả. Tự nhiên và thân mật, bước vào buồng trong, vứt cái nón xuống sàn, vợ Thuật nhìn chồng, hai má ứ đỏ, giọng nhẹ tênh tênh:
- Bố Tí Tồ đã đỡ chưa? Em mua thịt quay Hàng Buồm về cho mình đấy. Cả chân gà nướng Quảng Châu nữa!
Chống tay ngồi dậy, Thuật gãi cái đầu rậm kêu: đỡ rồi, và ngước lên nhìn vợ, mặt y lập tức ngây đờ:
- Ơ, mới làm đầu à? Trông là lạ!
Một lần nữa, chỉ chờ có vậy là vợ Thuật ghé mông xuống bên chiếc giường chồng đang ngồi. Bây giờ thị mới bỏ cái mũ nilông chụp mái tóc mới uốn từ hiệu làm đầu về. Thị để tóc kiểu mới, ngắn ngủn kiểu ca sĩ đang thịnh hành, như con trai, kiểu đầu này khiến hai má y phinh phính trẻ ra. Và đưa tay lên nắn nắn mấy búp tóc phía sau, thị khịt khịt cái mũi tẹt:
- Có được không? Bạn hàng nó cứ giục. Chỉ sợ trẻ quá!
Vừa nói, vợ Thuật vừa cười lỏn lẻn và lăn tăn ánh mắt nhìn chồng. Thị nhìn chồng như lần đầu được thấy hắn. Cái nhìn ấy nói rằng: Thị thật hạnh phúc vì có một mái nhà, có một người chồng và một đứa con. Thị yêu chồng thị. Yêu nhiều là khác và đó là một tình yêu tự nhiên và chân thật, không câu nệ, giả dối, màu mè. Một tình yêu mang tính thực dụng, trần thế, đơn giản nhưng mạnh mẽ vững bền. Và đó là điều quan trọng, chủ yếu, còn tất cả những chuyện khác chỉ là phù du, chốc lát, thoáng qua, là hệ quả nhất thời, là bên ngoài và không cần để bụng, chẳng cần nhập tâm. Mà để bụng, nhập tâm làm gì! Một mình mình có khi còn tự tức tối dằn dỗi với mình. Huống chi đây là hai người, một đàn ông, một đàn bà. Huống chi cuộc sống vốn cực nhọc, khốn khó rồi! Kiếm sống và nuôi dạy con cái, sinh tồn là cả một công cuộc gian nan, cần có sự kết liên bền chặt vĩnh viễn của cả vợ lẫn chồng, chứ đâu có phải động một tý là tính chuyện chia lìa và để bụng giận hờn.
- Ơ kìa, anh làm cái gì đấy!
Thốt nhiên, vợ Thuật hẩy tay chồng, khe khẽ kêu, nhưng hình như thị bị bịt mồm. Thị kêu ráo riết như bị ngạt: "Để đến tối! Để đến tối. Ơ kìa! Rối hết tóc em rồi. Ốm gì mà ốm thế! Tí Tồ ra kia chơi với con miu nhé! Nhưng mà cửa rả toang hoang thế kia, bà Thìn bà ấy vào thì... mặt mo. Ái, đau! Để em nằm lui vào! Ứ ừ, vừa vừa thôi, không mệt rồi lại cáu!".
- Mặc kệ!- Thuật chồm lên, hấp hổm, vập mặt xuống ngực vợ.
Vợ Thuật cố nghển dậy đẩy ngón tay vào trán chồng, đay đả nồng nàn:
- Này, cái mặt! Sáng nay trông cứ như mặt giặc. Tối qua người ta kêu mệt, người ta không cho, thế là gây sự, ai còn lạ!
Ngoài cửa, Mích chống chân ngồi dậy. Nghe tiếng vợ Thuật rẫy, quẫy, đạp, kêu hức hức, rên hừ hừ, rồi đấm lưng chồng thình thịch, Mích lại hắt hơi đánh xịch và gầm gừ trong họng. Con người thật là giống rất lạ, vừa chửi nhau, đánh nhau buổi sáng đấy mà bây giờ đã lại âu yếm nhau. Mà yêu nhau kiểu gì mà như vật nhau thế!
Bên nhà, tôi nằm im, tôi muốn mình ngừng thở
Tiểu hổ
Bao nhiêu đêm nó phá giấc ngủ. Mái ngói, sân thượng thiếu gì, cứ nhè mái tôn nhà tôi. Sau cái gừ ngắn là hai tiếng phì phì rồi lăn xả vào nhau cắn xé. Mái tôn bung lên doành doành, rồi tiếng ré nhoằng nhoằng trên mái nhà như sét đánh. Một hai giờ đêm, lựa lúc mình ngon giấc nó mới hành động, cứ thế đến sáng không tài nào chợp mắt.
- Hôm nay thì mày phải đền tội.
Tôi gí đầu dây điện vào lỗ mũi con mèo. Cái mũi như cục cao su giật liên hồi, sống lưng vồng lên, tứ chi co rút, căng ra, tự xé xác bởi bốn cái đinh đóng câu rút trên tấm gỗ lim to bằng cái thớt.
- Nhớ ai đây không? - Tôi chỉ vào vết sẹo như dòng nhạc kẻ trên mặt mình.
Tối hôm ấy nó lịch kịch trong bếp, hẳn là định vét sạch âu mỡ như lần trước. Tôi khép cửa toan bắt sống, thì… phốc một cái, nó đạp vào mặt tôi, phóng vút đi. Vuốt má không thấy gì, ngồi vào mâm cơm vợ con hét toáng lên: "Máu! Máu!". Sờ mặt, bàn tay đỏ như nhúng vào thuốc nhuộm. Về sau cứ thấy nó trên mái nhà là tôi trừng mắt dọa, nó không chạy, ngoái lại thôi miên tôi. Tròng mắt xanh lè phóng ra luồng điện sinh học áp đảo kẻ thù. Người ta kể có lẽ thật, người chết chưa kịp vuốt mắt, chỉ cần con mèo đen nhảy qua, thân ma có thể bật dậy. Thi thôi miên với mèo thì thua là cái chắc. Lần nào tôi cũng chớp mắt trước. Ức quá quẳng ngay cho nó cái chổi. Hôm nay tình yêu làm hắn sơ hở. Mải làm tình trên mái nhà, đuôi thõng xuống. Tôi túm lấy giật mạnh, quay liền mấy vòng đầu đập đôm đốp vào tường rồi mới căng ra xét hỏi.
Tôi đè gáy hắn xuống, cái mặt tròn vo buộc phải ngẩng lên, cằm tì trên thớt.
- Mở mắt ra, mở ra! Giỏi thôi miên nữa đi!
Bao nhiêu đêm nó phá giấc ngủ. Mái ngói, sân thượng thiếu gì, cứ nhè mái tôn nhà tôi. Sau cái gừ ngắn là hai tiếng phì phì rồi lăn xả vào nhau cắn xé. Mái tôn bung lên doành doành, rồi tiếng ré nhoằng nhoằng trên mái nhà như sét đánh. Một hai giờ đêm, lựa lúc mình ngon giấc nó mới hành động, cứ thế đến sáng không tài nào chợp mắt.
- Sướng chưa con, sướng chưa? Sư… ướng!
Mỗi lần hô "sư…ướng!" tay tôi lại gí điện. Con vật giật bắn, giãy giụa, toàn thân run lên bần bật.
- Thôi tha cho nó - Người hàng xóm lặng lẽ đứng sau tôi từ lúc nào, cầu xin.
Cái cười nửa miệng của ông khiến tôi hơi ngượng, càng tỏ ra say máu và thô bạo hơn.
- Thà anh cứ cho nó một nhát dao… - Ông hàng xóm xót xa.
Tôi quệt mồ hôi, thở.
- Làm điếu đã.
Ông chìa bao thuốc moi sẵn mấy điếu. Khói thuốc khiến tôi bình tâm. "Phúc tổ cho mày" - Tôi làu bàu. Thằng nhỏ nhà tôi khiếp vía nép vào góc nhà giờ mới thò đầu ra.
- Đi đi! Chuyện người lớn - Tôi xua.
- Phải. - Ông hàng xóm đồng tình - Không nên để trẻ con chứng kiến cái cảnh này.
Thằng bé nhìn con mèo.
- Bố! Hình như mèo nhà mình!
Đã lâu, bà nhà tôi rước về một con mèo bằng nắm tay, nó kêu suốt đêm y như trẻ con khóc. Nó rúc vào chăn rên hừ hừ, lông bám đầy mồm đầy mũi tôi, làm ho mấy tuần liền. Nó phóng uế nhây nhớt, chua loét, cào bung cả đệm. Tôi nện cho một trận, nó bỏ đi biệt tăm. Đây là mèo hoang, mướp cả, con nào chả vậy. Mà mèo nhà mình thì cũng phải xử. Ông hàng xóm nhìn tôi tra tấn con mèo thì thương, nhưng lại muốn làm thịt. Tôi tuyên bố hành hình xong đem chôn, ông giãy nảy:
- Chết thật, phải xem lại vốn văn hóa ẩm thực của anh. Con mướp đến ba ký rưỡi thế này mà định vứt đi thì…
Lần đầu tiên tôi được xem làm mèo. Ông túm đuôi nhấc ngược con mèo, nhúng đầu vào xoong nước gần sôi vừa bắc ra, rồi từ từ cho ngấm ướt toàn thân. Mang ra ngoài, tay trái ông cầm đuôi xoay lật con mèo, tay phải dùng chiếc đũa cả bằng tre gạt xước ngược lông con vật. Đũa ông đi đến đâu, nước sôi tôi rưới đến đó. Ông bảo nước nóng quá cũng không được, lông mèo sẽ chắc lại. Loáng cái, con mèo sạch lông trắng sáng hơn sứ Trung Hoa. Ông ngẩng lên:
- Thui bằng gì bây giờ đây?
- Rơm.
- Cũng được, nhưng chưa thể gọi là sành điệu. Nhà có cái chổi xuể nào hy sinh đem ra đây.
Than chổi xuể rực hồng bắn ra tiếng nổ lách tách cùng tro trắng như phấn áp gần sát da mèo, quạt liên tục. Thịt mèo nở căng, da ngả màu nâu quế thơm phức, càng xa càng thơm, bấy giờ mới xả thịt, róc xương. Thịt cứ để nguyên tấm, khía phía trong, xát bột ngọt, hồ tiêu, riềng ớt giã nhỏ với nước mắm ngon; xong đâu đấy cuộn cả tấm thịt lại, tuyệt đối không được để rách da, bó chặt trong mo cau, cho vào nồi áp suất, giữ ở một trăm mười lăm độ chừng một giờ. Vớt ra chờ nguội xắt khoanh đặt lên đĩa. Những khoanh giò hình bông hoa bốn cánh. Chỗ lõm giữa các cánh đặt một lá chanh vàng ươm, lúc ăn nhai như ăn rau gỏi. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ, khi bó giò ông bó luôn bốn ống tre kẹp ngoài, giò vừa chặt, khoanh giò lại hõm vào ở các cạnh. Giò mèo chấm muối tiêu ớt là nhất. Thấy thịt trắng tôi nghĩ ăn như thịt thỏ, nào ngờ đúng như thịt gà, nhưng thơm ngon, chắc thịt hơn nhiều. Thằng nhỏ nhà tôi sợ không ăn, dại.
Được vài miếng, ông bạn đặt ly rượu đế xuống, hốt hoảng:
- Ơ… Bộ lòng anh vứt của tôi đâu rồi?
- Chôn chứ còn gì nữa. Tốt nhất là phi tang, vợ tôi mà biết là rách việc lắm.
- Ông giết tôi rồi! Dồi trường (dạ con) gọi nó bằng cụ.
Ai biết, ruột mèo dai đến nỗi chuyên dùng làm dây néo đập lúa, dây ná, dây nỏ, dây khoan thuyền và cát gút (chỉ phẫu thuật) mà luộc lên lại ngon, giòn hơn cả dồi trường. Uổng quá!
- Nghe nói ở biên giới mấy chục ngàn một con mèo phải không ông? - Tôi hỏi.
- Mấy chục ngàn một ký hơi bói không ra. Cả con ấy à? Đừng sờ!
- Thái Bình nhà nào nuôi được con mèo thưởng những bảy mươi ngàn đồng?
- Hình như thế.
Miệng thì nhai thịt mèo, mồm chúng tôi phán lợi ích của nó: Nào là giống vật làm cảnh tuyệt vời, nào tính trung bình một con mèo bắt được bao nhiêu chuột một ngày, phân loại mèo, hội chợ mèo… Trong Đại chiến II quân đội Anh huấn luyện những đội biệt động mèo, chúng luồn qua cống rãnh, vọt lên mái nhà, chui vào cửa sổ đưa mật thư. Từ xa, chúng đã đánh hơi thấy mùi quân Đức, chó thua. "Hay, hay!" - Tôi vỗ đùi khoái trá. Câu chuyện xoay sang mèo đen, cao tiểu hổ trị thấp khớp…
Thằng nhỏ tự nhiên hỏi:
- Bố ơi, con phải làm bài văn "Tả con mèo nhà em".
Ông bạn tôi chậc lưỡi hất hàm:
- Thì cứ thấy thế nào tả thế.
- Ấy chết! - Tôi buột miệng rồi nhanh trí gà ngay cho một đoạn:
"Nhà em có một con mèo… mướp. Lông nó mịn như nhung. Mỗi khi em đi học về, nó sà vào lòng như người bạn tâm tình. Em ôm nó vuốt ve và cảm thấy hơi ấm truyền sang mình. Em yêu mèo vì…".
Từ bữa con mướp bị hành hình, cấm con mèo nào dám bén mảng. Được mấy đêm yên giấc thì lại đến nạn chuột. Chuột lúc nhúc, chuột đầy nhà, cắn nát quần áo, mùng mền, gối đệm, đục thủng vách, khoét tủ búp-phê giữa ban ngày. Chập tối nằm xem ti-vi trên giường mà bị nó cắn chảy máu chân. Có con chỉ bằng cái hạt mít, leo thoăn thoắt trên dây phơi khăn mặt. Đặt bẫy không ăn thua. Đánh bả thì chúng chết chui lủi trong xó xỉnh, thối hơn cóc chết. Có keo dính chuột nhưng không thấy chuột dính, chỉ dính người. Ông bạn hàng xóm sang chơi thấy chuột nhặt cơm giữa nền nhà, xua không thèm chạy, ngang nhiên như nhà của chúng.
- Nhà anh nuôi chuột đấy à? - Ông hỏi.
- Đâu có. Cho nó ít cơm nguội kẻo chúng đói đục khoét lung tung, đêm nó làm loạn không ngủ được.
- Anh lầm, giờ tý là giờ của chúng. Mà đã là loài gặm nhấm thì phải gặm phải nhấm, răng mọc dài ra hàng ngày, buộc phải tìm cách mài đi. Dây điện nó cũng chẳng từ.
Ông bàn đến thịt chuột: Những con vật càng giàu đạm chết càng thối. Bột cóc là thuốc trị suy dinh dưỡng trẻ em. Chuột thua gì cóc, thịt ăn lại ngon. Quê ông cỗ cưới dù mổ trâu mổ bò mà trên mâm thiếu đĩa thịt chuột thì không thể gọi là cỗ to. Con gì cũng có sinh có tử, nhưng con người đụng đến loài gì là loài ấy tuyệt chủng. Từ con cua con ốc đến rắn rùa ba ba… Tiêu diệt chuột tốt nhất là ăn luôn nó. Cái miệng con người gớm thật. Dạ dày là mồ chôn xác súc vật kia mà.
Ông trổ tài thịt chuột. Đơn giản hơn mèo nhiều. Luộc, ướp lá chanh, ép. Thịt chuột thơm ngọt, khi ăn không bị ám ảnh mặc cảm như ăn thịt mèo. Song dù ngon mấy ăn mãi cũng chán, hơn nữa đâu phải loại chuột nào cũng ăn được. Một hôm bắt gặp tôi ngồi tư lự trên sa-lông, ông cười:
- Đã tìm ra phương án tối ưu chưa?
- Tôi vừa đọc một tài liệu nói rằng có thể gây bệnh thương hàn cho chuột chết hàng loạt.
- Liệu nó có lây sang người không? - Ông lại cười nhìn tôi. - Tốt nhất, theo tôi là anh vẫn cứ phải nuôi lấy một con mèo. Chọn được con như con mướp hôm nọ thì yên tâm. Anh đã thấy nó quất đuôi trên mái tôn chưa? Đấy, những con mèo như thế là hay chuột phải biết
Tên lỗ mãng
Nhân viên văn thư vào báo cáo với tôi:
- Ngoài phòng đợi có một người khách đang ngồi, nom lạ lắm. Gã không yêu cầu cho vào gặp giám đốc, cũng không phàn nàn tại sao chúng ta giải quyết công việc chậm chạp thế. Tôi phải làm gì bây giờ đây?
- Gã đợi lâu chưa? - Tôi hỏi.
- Ngồi khoảng hai tiếng đồng hồ rồi, chẳng yêu cầu gì hết.
Cứ để cho hắn ngồi thêm một tiếng nữa, rồi hắn sẽ sốt ruột. Sau một giờ nhân viên văn thư lại vào, tay anh chàng run run:
- Chưa bao giờ lại thấy như vậy - Nhân viên văn thư nói - Gã ngồi điềm tĩnh, đọc đi đọc lại tờ báo phải đến ba lần, lịch sự đến độ kinh tởm!
Tôi thân chinh đi ra phòng đợi. Đúng là có một người đang ngồi, gã nhìn qua cửa sổ, mỉm cười. Tôi hỏi gã như chưa hề biết gì cả:
- Anh phải đợi hơi lâu nhỉ?
- Không sao - Gã đáp một cách thô lỗ.
Tôi bực mình:
- Anh muốn vào gặp giám đốc chắc? Có việc quan trọng phải không?
- Chuyện vặt - Gã nói.
Tôi đâm ra khó xử. Tôi chạy vào phòng giám đốc báo cáo. Giám đốc lệnh cho anh ta vào.
Gã hơi cự tuyệt, nhưng tôi cùng nhân viên văn thư nắm lấy tay gã rồi dắt vào phòng. Giám đốc nói với gã gay gắt:
- Anh không thấy là tôi đang rất bận hay sao?
- Thì tôi lại đợi tiếp - Gã đáp một cách lỗ mãng và định bước ra ngoài.
- Đứng lại! - Giám đốc hô - Anh nộp đơn đi.
- Muộn hơn có được không? - Hắn đáp một cách vô liêm sỉ.
- Không có muộn miếc gì hết! - Giám đốc quát, mặt đỏ phừng phừng - Hoặc là anh nộp đơn ngay, hoặc là tôi giải quyết tuốt tuột cho anh mà không cần đơn từ gì hết!
Lúc này gã nhìn ra cửa sổ và nói:
- Thôi, có lẽ để dịp khác vậy, vì bây giờ trời cũng đã tạnh rồi. Tôi vào đây chỉ để trú mưa. Chào các ông.
Và gã bước ra ngoài. Đúng là một tên lỗ mãng
Canh bạc cuối đời
Năm lão sáu mươi lăm tuổi đã dắt về một người đàn bà. Trước giờ, chuyện của lão đã bị hàng xóm soi mói kỹ. Từ chuyện vợ bỏ, chuyện lão đối xử với con không bằng người dân… Giờ, chuyện có một người đàn bà mới ở cái tuổi quá lục tuần càng làm kinh náo hơn. Người ta bàn tán nhiều hơn. Và hắn được hết người này đến người khác rỉ tai về hậu họa mà người đàn bà lạ hoắc kia sẽ mang đến...
Lão cõng thằng con trai, khập khiễng đi dạo chơi khắp xóm. Thằng con lão lắc lư trên lưng lão, hát: "Nhong nhong nhong ngựa ông đã về"… Thỉnh thoảng nó đánh vào vai, vỗ vào đầu lão như người ta quất ngựa. Nó vô tư, giáng phát nào phát nấy vào người lão đau điếng. Lúc cõng nó đi, thấy con reo mừng, lão cũng vui vẻ, khều khào hát: "Nhong nhong nhong"… Sau, nó đánh đau quá, lão quát: "Bố tiên sư mày, nhẹ nhẹ thôi". Thằng con lão chẳng thèm để ý, bố nó là ngựa mà, thế là nó cứ quất ngựa. Cái đầu, cái vai lão đã rệu rã quá rồi, không chịu nổi mấy cái đánh nhẹ hều của thằng con. Lão bực mình, buông tay. Thằng con rơi uỵch từ trên lưng lão xuống. Nó khóc thét. Người trong xóm nhìn thấy, khịt mũi, bụm miệng cười. Bà Hai Can đi ngang, thấy vậy vờ xuýt xoa:
- Cháu nội ông làm sao mà khóc dữ quá vậy?
Lão quắc mắt:
- Cháu cái giống khỉ nhà bà!
Bà Hai Can bước vội, không quên để lại cái cười nhếch mép. Lão kéo thằng con dậy, dọa dẫm cho nó thôi khóc. Thằng con làm như chẳng biết sợ lão, càng khóc rống lên. Thế là lão khòm lưng xuống, dỗ:
- Nín đi, leo lên, tao làm ngựa cho mày cưỡi.
Vừa về đến nhà, lão thả thằng con xuống, ngồi phịch vào chiếc ghế để ngoài sân, lão thở dồn. Thằng con lão lui cui chạy tới chạy lui. Chơi chán, nó chạy lại trước mặt lão vòi ăn. Lão đứng dậy, xuống bếp hì hụi. Đôi lần lão tự rủa mình. Già rồi cực thân với con cái. Xong cơm, lão tắm cho thằng con rồi đem nó đi gửi. Thằng con lão mình mẩy sạch sẽ, trông nó cũng kháu khỉnh ra phết. Thôi thì xem như lão hãy còn phúc đức. Lão ráng chăm cho nó, mai này nó làm mát mày mát mặt. Lão tự nghĩ, tự cười thầm trong bụng. Lão vuốt mái tóc chín phần bạc, một phần đen của mình.
Sau đó, lão vào phòng, chui xuống gầm giường và kéo cái rương ra. Cái rương cũ nhưng là cả một gia tài kếch xù, đủ để nuôi thằng con cho đến lúc lớn và thoải mái để lão vung vào những cuộc tình. Không ai biết lão lại có một gia tài ngầm như thế. Người ta chỉ biết lão có nhiều ruộng đất do mẹ lão để lại. Và chi tiêu hằng ngày của lão cùng thằng con là nhờ vào số tiền mà lão cho thuê đất. Lão lấy một ít vàng, đem ra tiệm bán. Lão cũng ranh mãnh, không bao giờ làm chuyện cho người ta chú ý. Lão bán vàng, lúc tiệm này, lúc tiệm khác. Lão ít khi nào ghé một tiệm nhiều lần, lão luôn có cảm giác không an toàn. Xong, lão cầm tiền và đến địa chỉ quen thuộc
Lão bước vào quán khi trời chập choạng tối, đèn ở đây chưa thắp, tù mù. Mà hình như ít khi nào chỗ này lại sáng đèn. Trừ những lúc có động. Mụ chủ quán nhận ra lão ngay, lão là khách quen, mà lại là khách dễ tính nữa. Thấy lão ngồi vào chiếc ghế mây, mụ chạy tới, ồn ã:
- Anh, lâu quá mới thấy anh ghé.
Lão nhướng mày, cái mí mắt tuổi già sầm sập, chảy xệ, không nhấc lên được tí nào. Mụ chủ quán chỉ vào đám đàn bà đang ngồi quây quần ở chiếc bàn cách đó không xa, mụ nào cũng gần sắp hết đát, teo tóp hoặc chảy phì.
- Anh chọn lấy một cô nhé!
Lão khòm khèm:
- Ừm… ừm… tương đối, mới!
Mụ chủ cười giòn. Trên mặt mụ mặc dù đã có lớp phấn dày như khối thạch cao trát lên mà vẫn còn hiện ra lồ lộ những nếp nhăn to, nó ùn nhau lại theo nụ cười làm cho khuôn mặt trông tởm như quỷ sứ. Ừ, khuôn mặt của một kẻ chuyên buôn bán xác thịt người. Mụ nhếch mép, nghĩ: "Vậy là sắp có kẻ được đổi đời". Bởi ít khi nào đến đây mà lão đề nghị một điều gì, cái lần đề nghị với ba từ ngắn gọn là cách đây năm năm về trước.
Mụ hướng mắt về phía chậu cây, nơi một người đàn bà có vẻ nhà quê đang ngồi chờ nhập tịch vào vương quốc hương phấn. Mụ lại cười, giọng nho nhỏ đủ cho một mình lão nghe:
- Đấy, loại phù hợp với tiêu chuẩn của anh. Cô ta vừa vào, chưa được duyệt. Nhưng nếu anh thích thì phước cho cô ấy quá.
Lão nhìn về phía người đàn bà, khe khẽ gật đầu. Lão là khách hàng dễ tính nhất từ trước đến giờ của mụ, nói sao lão cũng đồng ý.
Người đàn bà rụt rè bước theo sau lão. Đi qua một hành lang có những căn phòng san sát. Phòng số 11, lão tra chìa khóa vào và mở cửa ra. Người đàn bà bước vào, dè dặt. Lão quay người, đóng cửa. Lão thì thào với người đàn bà. Lâu rồi lão mới có cảm giác mình trẻ lại như thế. Người đàn bà lúng túng. Một lúc lâu, người đàn bà tiến về phía giường, leo lên ngồi trên ấy và giữ nguyên một tư thế. Lão nhắc:
- Em không biết làm gì nữa à?
Người đàn bà trố mắt nhìn lão. Lí nhí:
- Anh phải làm chứ em làm sao mà làm?
- Khỉ thật! Nhưng hay đó…
Lão cười, đi lại, ngồi cạnh bên người đàn bà. Chưa vội vàng gì, lão còn nhiều thời gian.
Lão quay sang nhìn người đàn bà. Khuôn mặt nhìn nghiêng, mớ tóc mai lòa xoà trước trán, trông cũng đẹp. Mà, lão chẳng quan tâm lắm. Ngày xưa khi còn trẻ, cái đẹp đối với lão quan trọng biết nhường nào. Nhưng giờ thì lão thấy điều đó không còn quan trọng nữa. Người đàn bà ngả lưng xuống giường, nằm rất tự nhiên. Lão liếc nhìn. Chần chừ. Rồi lão vuốt chân người đàn bà, nhẹ nhàng.
- Em không biết phải làm thế nào nữa? - Lão hỏi.
- Anh muốn làm gì thì làm. Cứ xem em như vợ anh.
Người đàn bà nhắm nghiền mắt lại. Lão cũng chẳng thèm quan tâm điều đó. Lão bắt đầu cởi từng chiếc nút áo của người đàn bà ra. Làn da rám nắng với bầu ngực căng đầy của người đàn bà làm lão gật đầu, khen thầm. Lão ngắm nhìn thân thể người đàn bà trần truồng sau khi đã lột bỏ các lớp áo quần. Người đàn bà vờ ngủ. Lão say sưa.
Trời vào đêm, lòng lão rạo rực. Trước mắt lão là một người đàn bà với hơi thở phập phồng. Người đàn bà, ôi, lão nhận ra còn rất trẻ. Khuôn mặt lại đẹp. Lão nhẹ nhàng đưa tay vuốt má, người đàn bà đã ngủ, ngủ thật say. Ngủ trong tư thế trần truồng làm cơ thể lạnh run, co ro, người đàn bà chuyển tư thế. Và lão không thể làm gì hơn với một người đã ngủ. Lão chỉ vuốt ve, lướt trên từng vùng da mát lạnh của người đàn bà.
Sáng, lão bỏ đi rất vội, về với thằng con trai trong khi người đàn bà chưa tỉnh giấc. Lão đặt lên đó, những tờ 100 ngàn xanh lè. Ra đến quầy, mụ chủ nhìn lão, cười:
- Anh vừa lòng chứ?
Lão không nói gì, khò khè ho rồi bỏ đi một mạch.
Những ngày sau, xóm thấy lão dẫn về một người đàn bà. Người ta lại bắt đầu xầm xì. Mọi chuyện tái diễn như cách đây năm năm. Thằng con trai lớn của lão đã rất lâu không về nhà đột nhiên xuất hiện. Thằng ấy là một gã có máu man man, vì thế lão đã tống cổ hắn ra khỏi nhà từ khi mẹ hắn bỏ theo trai. Tuy nhiên, hắn không thuộc dạng điên hẳn, lúc tỉnh, lúc mơ. Khi hắn bị đuổi đi, hắn biết lượm ve chai để tự nuôi sống mình. Mà hắn có đi đâu xa, hắn đến sống vất vưởng trên khu đất của lão. Ra vào xóm, hai cha con đụng nhau đôm đốp mà cứ làm lơ, ngoảnh mặt quay đi. Lão cũng ác, giàu thế mà để thằng con người chẳng ra người, ma không ra ma. Hàng xóm thương hắn, một gã khùng nhưng tốt bụng. Công việc hằng ngày của hắn là lượm ve chai, nhưng trên suốt dọc đường đi lượm ve chai, hắn lượm cả rác người ta quăng. Vì thế con đường của xóm, lúc nào cũng sạch sẽ. Hàng xóm xúm nhau nói ra nói vào, xúi hắn về nhà sống mà hưởng, tội gì. Hoặc ít ra, về xin một ít tiền làm vốn để sống. Hắn về, bảo:
- Bố cho tôi ít tiền.
- Để làm gì? - Lão quắc mắt hỏi.
- Để sống - Hắn đáp.
- Mày sống chết mặc mày! Tao không quan tâm.
Nghe câu đó, hắn nổi máu điên, chỉ thẳng ngón tay vào mặt lão:
- Sao ông ác thế? Hơn hùm beo, rắn độc…
- Mày cút khỏi đây, theo con mẹ mày mà sống.
- Tôi sẽ đi, nhưng ông sống không yên đâu - Hắn gườm gườm mắt, dọa dẫm rồi bước đi.
Vậy là hai cha con lão cứ đối địch nhau như thế suốt mấy chục năm, khi hắn bốn mươi, bốn mốt tuổi, cho đến khi sắp thành một lão già, vẫn thế. Hắn nghe người ta nói những cái xấu xa của lão, hắn nhớ. Đôi lúc nghe một ai đó nói về nhà mà sống cho đỡ cực tấm thân, hắn lại về. Nhưng rồi nói với nhau được dăm ba câu, hắn nổi điên, lão nổi điên, hai người quay ngoắt lại với nhau, dọa dẫm nhau, chửi rủa nhau. Riết rồi nhà lão, giống như một sân khấu kịch để người ta xem rồi góp ý, rồi chỉnh sửa.
Năm lão sáu mươi lăm tuổi đã dắt về một người đàn bà. Trước giờ, chuyện của lão đã bị hàng xóm soi mói kỹ. Từ chuyện vợ bỏ, chuyện lão đối xử với con không bằng người dân… Giờ, chuyện có một người đàn bà mới ở cái tuổi quá lục tuần càng làm kinh náo hơn. Người ta bàn tán nhiều hơn. Và hắn được hết người này đến người khác rỉ tai về hậu họa mà người đàn bà lạ hoắc kia sẽ mang đến. Thế là cùng lúc với sự xuất hiện của người đàn bà, hắn thường xuyên về nhà. Chỉ là để chửi rủa một hai câu rồi bỏ đi. Liên tục như thế. Hắn chửi những điều mà hắn nghe người ta dạy, chửi người đàn bà, chửi cả bố hắn. Nhiều lần, lão dùng gậy tống cổ thằng con đi. Hắn chẳng sợ, đứng yên cho lão đánh, miệng vẫn cay nghiệt đay nghiến người đàn bà.
Có lẽ vợ kế của bố hắn không chịu nổi sự sỉ vả của hắn, nhất là sau khi sinh thằng con trai. Ngày nào hắn cũng bị tiêm nhiễm chuyện mẹ kế sẽ thu gom hết gia tài nhà hắn, thằng con trai của bà sau này, khi bố hắn chết sẽ là người nắm quyền, còn hắn, cuộc đời mãi mãi là con số 0 nên hắn càng tấn công bạo. Mẹ kế hắn sợ quá, ở với con được vài tháng rồi lẳng lặng bỏ đi. Mọi chuyện đâu vào đó.
Hàng xóm thôi nói ra nói vào. Chỉ mừng thầm trong bụng, cười nhạo ra mặt, lão già sắp ngất ngư rồi mà còn chăm con, ẵm cái. Cho phải tội cái thói… Đời phải như thế mới sáng mắt.
Không ai nói gì nữa, hắn thôi, không về nhà chửi bới
Ai là người thật thà?
Trưởng phòng Hậu cần họ Chu được người dưới quê biếu hai con vịt. Vợ ông đem nhờ nhân viên nhà bếp làm thịt hộ. Ông Triệu - một nhân viên nhà bếp - nhấc vịt lên, nói:
- Một đực, một cái. Con đực thì gầy quá. Con cái lại sắp đẻ. Chi bằng cứ để đây chúng tôi dùng cơm thừa canh cặn nuôi giúp chị một thời gian...
Vợ Trưởng phòng họ Chu nghe vậy cho là phải, mới bảo ông Triệu: "Thôi thì, mọi việc tôi cậy nhờ cả ở anh".
Từ đấy, cứ đến cuối tháng ông Triệu lại đem đến nhà Trưởng phòng họ Chu 30 quả trứng. Tháng nào cũng đều đặn như vậy. Vợ Trưởng phòng thấy vậy rất cảm kích. Một lần, bà tỉ tê với chồng:
- Cái ông Triệu này quả là người chu đáo. Vịt đẻ, chỉ cần mỗi tháng ông ta mang tới cho nhà mình mười lăm, hai mươi quả là được rồi. Đằng này cứ mang tất tật. Người đâu mà thật thà. Trước đây, chẳng phải có lần anh nói anh đang định thay nhân viên thu mua ở nhà bếp? Vậy sao không bố trí để ông Triệu làm việc đó?
Ít ngày sau, ông Triệu trở thành nhân viên thu mua của nhà bếp.
Ông Triệu chuyển sang công việc mới, việc chăm nom hai con vịt được giao cho Tiểu Đinh.
Ngay ngày đầu nhận việc, từ sáng sớm Tiểu Đinh đã ra cho vịt ăn và... nhặt trứng. Tuyệt nhiên không có quả nào. Tiêu Đinh lật vịt lên, kiểm tra đi kiểm tra lại, song tất cả vẫn chỉ có vậy.
Cậu cố chờ thêm một ngày nữa.
Cuối cùng Tiểu Đinh hiểu ra sự thể. Cậu bừng bừng nổi giận, tính đến ngay nhà Trưởng phòng để bóc mẽ việc làm gian dối của ông Triệu. Nhưng cậu đủ khôn ngoan để kìm lại được.
Học theo cách của ông Triệu, đến cuối tháng, Tiểu Đinh vẫn lại mang trứng tới nhà Trưởng phòng họ Chu. Nhưng lần này, số trứng không còn là 30 quả mà đã tăng lên 60.
Vợ Trưởng phòng họ Chu thấy vậy ngạc nhiên hỏi:
- Sao ông Triệu nói trong hai con vịt, chỉ có một con là đực?
- Không, không phải. Cả hai con đều là vịt... cái.
Vợ Trưởng phòng họ Chu bực lắm. Tối đến, bà đem chuyện nói với chồng:
- Thì ra từ trước tới giờ, chúng ta bị cái lão Triệu ấy "qua mặt". May mà có Tiểu Đinh thật thà...
Trưởng phòng họ Chu đồng tình với nhận xét của vợ. Ít ngày sau, ông cất nhắc Tiểu Đinh lên thay vị trí của ông Triệu.
Việc chăm nuôi hai con vịt được giao lại cho Tiểu Ngải.
Sớm ấy, Tiểu Ngải ra cho vịt ăn và thu trứng. Thật ngạc nhiên là trong lồng tịnh không có một quả trứng nào.
Tiểu Ngải đành phải đến nhà Trưởng phòng họ Chu kể lại sự tình.
Vợ chồng Trưởng phòng họ Chu nghe vậy bán tín bán nghi. Thật lạ, tại sao chỉ có hai con vịt mà lúc thì đẻ 30 trứng một tháng, lúc lại 60 trứng. Và bây giờ thì không quả nào? Nên hiểu việc này thế nào?
Trưởng phòng họ Chu bèn cho bắt hai con vịt về nhà để vừa nuôi, vừa quan sát.
Một ngày nọ, trong lúc vợ ông đang sờ sờ nắn nắn đít vịt thì một người ở quê ra chơi, thấy vậy ngạc nhiên hỏi:
- Vịt bị sao vậy?
- À, tôi kiểm tra xem nó có trứng không ấy mà.
Người này tròn mắt ngạc nhiên:
- Chị làm sao thế? Hai con vịt này tôi biếu anh chị để làm thịt ăn chứ có phải để nuôi lấy trứng đâu? Nó là vịt đực, làm sao đẻ được?
Những kẻ làm thuê
Từ một bài toán khó, hắn nghiễm nhiên trở thành gia sư không chính thức cho thằng em khó bảo của tôi. Để rồi, cứ tối tối hắn lại đến. Chẳng còn ai nhận ra cái gã thợ phụ lóng ngóng buổi sáng nữa. Không hiểu sao hắn lại thích cùng thằng Tít leo lên cái mái nhà đang làm dở nằm bò ra giữa những vôi vữa học bài. Ngồi trong phòng mát mẻ với điều hòa nhiệt độ lại không muốn. Bộ hắn khùng chắc. Ấy thế mà bố mẹ tôi lại quý hắn ra mặt.
Một buổi tối, cả nhà đang ngồi ăn cơm, mẹ bàn:
- Hè năm nay, nghe tivi nói sẽ có nhiều đợt nắng nóng. Phòng của cu Tít chắc nóng lắm. Hay là nhà mình làm chống nóng trên mái. Anh thấy thế nào?
Cu Tít - tên cúng cơm của thằng em trai tôi - nhanh nhảu:
- Hoan hô mẹ!. Ý kiến tuyệt vời đấy. Mọi năm cứ đến mùa hè là con không sao chịu nổi. Thật khủng khiếp "Ngột làm sao, chết uất thôi" - Nó ngân nga câu thơ của thi sĩ Tố Hữu rồi quay sang bố - Bố làm cho con đi nhé. Mùa hè sắp đến rồi.
- Ừ. Mấy mẹ con muốn làm thế nào cũng được, nhưng ngày mai bố lại đi công tác rồi.
- Em định bàn với anh như thế này, căn phòng đó mình không xây chống nóng nữa mà mua thêm ít luồng làm cái mái nghiêng, lợp kín vừa có tác dụng chống nóng vừa để đựng những thứ linh tinh khi nhà có công việc.
- Nhất trí. Sáng chủ nhật này, mẹ con em tiến hành đi. Nguyên vật liệu em ra đầu phố, thứ gì cũng có. Ở đấy có cả chợ lao động, em thuê người về làm luôn. Nhớ chọn những người đứng tuổi, có tay nghề.
Dặn dò thế thôi chứ thực ra bố tuỵệt đối tin tưởng vào mẹ trong mọi chuyện. Cái nhà này ngày xưa khi xây chẳng một tay mẹ trông coi, quán xuyến đó sao. Bố thì quanh năm suốt tháng đi công tác, thỉnh thoảng mới đảo qua nhà làm sao lo hết được mọi chuyện.
Sáng chủ nhật, tôi còn đang mơ màng thì mẹ đã mở cửa phòng:
- Dậy đi con. Mau ăn sáng rồi còn chở mẹ đi công việc.
- Có việc gì vậy mẹ?
- Ơ hay, con quên mất việc bố giao cho mẹ con mình rồi à?
- Vâng. Con dậy ngay đây.
Vừa dắt xe ra cửa, mẹ đã dặn:
- Con nhớ ghé qua chợ lao động để mẹ tìm người đã.
Tôi lượn một vòng rồi dừng lại bên đường. Dưới bóng mát của hai cây cổ thụ, từ lâu ở đây đã trở thành nơi những người dân quê tập trung chờ đợi người có công việc đến thuê làm theo giờ hoặc theo buổi. Vừa thấy tôi dừng xe, cả đám người ào ra. Những khuôn mặt khắc khổ. Những bộ quần áo lao động bạc màu. Những đôi dép tổ ong cũ nát. Tôi chợt bắt gặp một đôi mắt mở to, chờ đợi. Liếc nhanh sang tôi, hắn quay sang khẩn khoản với mẹ tôi:
- Cô ơi, cô có việc gì cho cháu làm với. Cháu đang rất cần có việc làm ạ.
Rất cần. Đã đứng ở đây thì ai mà chẳng cần việc làm cơ chứ. Nhưng cái dáng kia thì chỉ thích hợp với việc làm người mẫu thôi, sao có thể làm phu hồ hay bốc vác được. Ai mà dám thuê. Tôi nhắc khéo mẹ:
- Mẹ nhớ lời bố dặn đấy.
- Ừ. Mẹ biết rồi.
Cuối cùng mẹ chọn một bác thợ xây đứng tuổi, bàn bạc công việc với ông ta. Đám đông còn lại thất vọng quay lại gốc cây. Kẻ im lặng, người bàn tán, người dõi mắt vào dòng người hối hả ngược xuôi, hy vọng một ai đó dừng xe. Để rồi hy vọng. Để rồi lao ra nhao nhao xin việc. Để rồi thất vọng nhìn chiếc xe rồ máy, để lại đằng sau đám khói khét lẹt, mù mịt.
Mẹ con tôi về đến nhà một lát thì bác thợ già cũng đến, theo sau là bốn người nữa. Lại cái gã thư sinh trói gà không chặt kia. Kìa. Hắn lại còn nhìn mình tủm tỉm cười nữa. Định làm quen chắc. Rõ dơ. Ai hơi đâu... Cái đồ... Nói của đáng tội, cái mặt hắn cũng không đến nỗi nào. Mà sao hắn lại phải làm những việc này cơ chứ? Thôi. Mặc xác hắn với việc phu hồ của hắn.
Đầu giờ chiều, mẹ bảo:
- Con nấu cho mẹ nồi chè, khoảng ba giờ mang lên sân thượng cho các bác thợ. Chiều mẹ lại có công việc rồi.
- Mẹ cứ kệ họ. Không có chè ăn, họ vẫn cứ phải làm cơ mà.
- Sao con lại có những suy nghĩ như thế nhỉ? Mẹ thất vọng về con đấy. Đành rằng không có gì cho thêm thì họ cũng cứ phải làm. Nhưng đó là tình người, con ạ. Mình có tốn kém thêm một chút cũng không sao. Họ làm vất vả cả ngày. Phải biết cảm thông, san sẻ với mọi người, con ạ.
Mẹ thì lúc nào cũng thế. Thôi đành vậy. Bỏ đỗ vào nồi áp suất đun cho chóng nhừ, xong việc, tôi khệ nệ bưng nồi chè lên tầng hai. Vừa thấy tôi ló mặt lên đầu cầu thang, hắn vội vã chạy xuống, cứ như là đã đợi tôi từ lâu lắm:
- Cô bé, để anh giúp một tay nào.
Chẳng để tôi kịp phản ứng, hắn đỡ lấy cái nồi trên tay tôi. Cô bé... Làm như người ta còn bé lắm ấy. Mà ai cho hắn xưng anh cơ chứ. Cái ngữ này chỉ bằng... tuổi tôi là cùng.
Tôi đến bên bác thợ già:
- Bác ơi, mẹ cháu bảo mang chè lên cho các bác đây ạ. Mời các bác dừng tay ăn cho mát.
Bác thợ nhìn tôi cười đôn hậu:
- Cảm ơn mẹ con cháu. Cháu bao nhiêu tuổi rồi, đã đi làm chưa hay còn đi học?
- Dạ cháu đi làm được hai năm rồi bác ạ. Cháu là giáo viên.
- Thảo nào - Bác quay sang hắn nháy mắt với cái nhìn thật lạ. Chẳng hiểu bức thông điệp của bác già như thế nào mà hắn nhún vai, quay đi tủm tỉm - Nào, cháu có rỗi thì ngồi xuống đây, bác cháu ta nói chuyện. Ơ kìa Dũng, giúp cô bé này một việc, xuống phòng ăn lấy bát lên đây chứ.
Phong thái, cách nói năng của bác đâu phải là của người lao động quanh năm đầu tắt mặt tối kia chứ. Tôi tò mò ngồi xuống bên ông:
- Bác làm... cái việc này đã lâu chưa ạ?
- Bác làm từ khi bằng tuổi hai đứa mày ấy.
Ơ hay, sao bác lại thế. Khi không lại kéo cả hai đứa vào nữa. Rõ thật là... Tôi đứng lên định cáo lui thì chợt bác hỏi:
- Này, cái ông hàng xóm nhà cháu bên kia - Bác chỉ tay sang nhà bên cạnh - có vẻ khó tính thật. Lúc nãy, ông ta mở cửa gờm gờm nhìn sang bên này, nhổ toẹt một bãi nước bọt rồi đóng sập cửa lại.
Tôi bật cười:
- Ông ta chuyển đến đây nửa năm rồi, bác ạ. Dọn về hôm trước, hôm sau ông ta làm lại hệ thống hàng rào đến một con kiến cũng không chui lọt. Chẳng bao giờ ông ta hỏi han ai, cũng không cho ai vào nhà. Năm thì mười họa ông ta mới có khách.
- Khách thường là những ai, cháu có biết không?
- Dạ, cháu cũng không để ý đâu. Họ chỉ đến một lúc rồi đi thôi. Mà đa phần là đàn ông. Trông họ lì lợm lắm. Mà chẳng hiểu sao dạo này ở khu phố nhà cháu xảy ra nhiều vụ mất trộm lắm. Những ngõ nhỏ, bác không biết đâu, đầy bơm tiêm đấy. Bọn cháu bây giờ có đi chơi cũng không dám về nhà muộn đâu.
- Có lẽ đó là một con người lập dị - Hắn xen vào - Này, cô bé, cái sân thượng bên ấy hướng đông nam chắc buổi tối ông ta hay lên đây hóng mát, chuyện trò. Ngồi ở đấy nói chuyện chắc là rất thú vị đấy.
- Ai mà thèm nghe chuyện của ông ta kia chứ. Ừ, mà cũng có lần ông ta đưa khách lên đây. Họ cãi nhau ghê lắm. Ở bên này nghe rõ mồn một
Thợ xây phố huyện
Anh Bay, thợ xây giỏi. Anh Bay có nhiều đức tính tốt đẹp. Anh Bay có tâm hồn sâu lắng. Anh Bay có một gia đình êm ấm. Hỡi ôi! Còn cần nói thêm gì nữa nhỉ, anh Bay à, nếu chiều nay, thủ trưởng chúng tôi lục xấp hồ sơ lưu tồn ra, không đưa cho chúng tôi xem một văn bản, mà thoạt nhìn tất cả chúng tôi đều không khỏi bàng hoàng.
Anh Bay là một tên tội phạm đang bị truy nã!
Nghề nghiệp nào thì cũng là do nhu cầu xã hội mà hình thành và phát triển. Nghề nghiệp nào thì cũng có người tay nghề cao và kiêu hãnh vì nó. Như ông Luy cắt tóc ở phố huyện này đã hơn bốn chục năm, hiển nhiên là theo cách nói của thầy địa lý Tả Ao, ông có thể tự hào là đã đè đầu vít cổ chẳng trừ một gã đàn ông nào, kể từ ông quan đầu huyện, tới đứa trẻ học mẫu giáo. Thầy giáo Đô bảy mươi tuổi thì còn phải kể; có ai ở độ tuổi dưới năm mươi cả gái lẫn trai ở phố huyện này không qua tay thầy rèn cặp! ấy thế! Thành ra anh thợ xây tên Bay năm nay ba mươi bảy tuổi, có quyền tự hào mà nói rằng, chính tay ta đã lập nên thị trấn huyện lỵ này.
Anh Bay có ngoa ngôn thì cũng chỉ một tí thôi. Vì thật ra, anh chỉ là một trong số ba người thợ xây có tay nghề bậc cao tham gia vào việc hình thành cái đời sống đô thị sầm uất ở cái huyện trung du hẻo lánh này. Huyện lỵ này, hai mươi năm trước buồn tẻ, hắt hiu lắm. Nó chỉ có độc một đường phố với dăm ba căn nhà gạch cấp bốn dùng làm công sở, còn thì toàn nhà vách trát toóc si, lợp lá gồi. Một cửa hàng sửa chữa xe đạp. Một cửa hàng hợp tác xã mua bán. Một hiệu cắt tóc. Một tiệm may vá. Một trường tiểu học tường đất, mái gianh. Vắng vẻ, không một tiếng động cơ. Thành ra, chó cả đàn vằn vện có thể thiu thiu ngủ hoặc chơi đùa, cắn nhau í oẳng giữa đường phố đang lúc ban ngày.
Nhưng rồi, nàng công chúa phố huyện trung du được đánh thức. Anh Bay kể:
- Thì chính tôi là người được bà Bin thuê đến để hoàn thiện tòa nhà khách sạn năm tầng đặt tên Mộng đẹp của bà, chứ ai! Dạo đó tôi mới từ dưới xuôi lên đây lập nghiệp. Khách sạn Mộng đẹp là tòa nhà cao tầng đầu tiên ở phố huyện này. Sau đó mới đến Nhà hàng Hoa Hồng. Tiếp đó là nhà khách huyện ủy, trụ sở Công ty Đại Nam chuyên bán xe máy Honda. Và...
Anh Bay dừng lời, mặt gồ ghề khổ ải đần ra, trong khi giơ bàn tay chai sần lên, miệng lần nhần, tay bấm đốt. Anh đang nhớ, đang kể lại tên những ngôi nhà mà anh đã để lại dấu ấn tài năng. Đài liệt sĩ anh hùng. Nhà hàng Mimôda. Công ty du lịch Nam Sao. Hiệu ảnh Mỹ Lợi. Cửa hàng bách hoá Đất Việt. Chi nhánh ngân hàng Vietinbank. Đại lý điện thoại di động Vinaphone... Nghĩa là càng về sau càng như nấm sau mưa, ùn ùn mọc lên, hết công trình này đến tòa cao ốc kia, đến mức không thể nhớ được; đến mức như đang ngủ chợt bừng thức, nhìn xuống phố xá thấy như lạc đến một đô thị ở một hành tinh xa xôi nào!
Anh Bay là thợ xây bậc tột cùng. Cò vạc ăn từng thung, anh kể, anh cùng các bạn nghề cùng loại, chỉ nhận làm ở khâu hoàn thiện công trình. Chứ công việc xây thô, như đào móng, đắp nền, dựng cột, đổ trần... là anh không có làm. Tay nghề của anh chỉ dùng vào việc trát áo vách, bả hoa văn, kẻ đường gờ, sơn quét tường trong nội thất và trang trí mặt tiền công trình. Tường nhà thợ xây thô dù có làm mấp mô đến đâu, qua tay anh cũng phẳng phiu như bào rũa, soi đèn huỳnh quang cũng không thấy bóng.
Anh Bay, thợ xây lành nghề, để lại dấu ấn tài năng của mình gần như ở tất cả các công trình kiến trúc, từ đài liệt sĩ anh hùng, các công sở nhà nước, cho đến các căn nhà dân như nhà ông Luy cắt tóc, nhà cụ giáo Đô. Động đến vôi vữa thì dù là công trình nhỏ mọn như cái nhà tắm, cái mái vẩy, người ta cũng không quên anh. Đó là vì đã giỏi giang về nghề nghiệp, anh Bay lại được bà con dân phố cảm mến tin yêu vì đức độ hiền lành, cẩn trọng, đặc biệt là thật thà, không biết đến sai ngoa, điêu trá bao giờ. Cứ trông hình dáng của anh cũng thấy tính nết anh.
Dong dỏng, xương xương, anh cao chừng mét bảy. Anh có gương mặt trái xoan, gò mũi dọc dừa, hai con mắt trầm sâu, rất ưa nhìn; mặc dầu là với đặc điểm không trộn lẫn là đôi lưỡng quyền cao, nên trông hơi khắc khổ. Đầu năm nay, anh đến nhận việc sửa chữa mấy căn buồng trong cơ quan Công an huyện. Gần một tháng làm ở đây, anh được mọi người mến mộ. Hỏi chuyện anh mới biết nhà anh ở ngoại vi phố huyện. Anh có vợ và hai con gái. Hai con gái anh đang học trường tiểu học, cả hai đều xinh xắn và rất ngoan. Nhớ nhất là nhiều hôm anh say mê cặm cụi làm đến quên cả ăn uống nghỉ ngơi. "Biết đến bao giờ lại gặp cô em thời ấu thơ, Một phút gần nhau để rồi mãi mãi lìa xa...". Đó là câu hát của anh những khi anh làm việc một mình trong thanh vắng.
*
Anh Bay, thợ xây giỏi. Anh Bay có nhiều đức tính tốt đẹp. Anh Bay có tâm hồn sâu lắng. Anh Bay có một gia đình êm ấm. Hỡi ôi! Còn cần nói thêm gì nữa nhỉ, anh Bay à, nếu chiều nay, thủ trưởng chúng tôi lục xấp hồ sơ lưu tồn ra, không đưa cho chúng tôi xem một văn bản, mà thoạt nhìn tất cả chúng tôi đều không khỏi bàng hoàng.
Anh Bay là một tên tội phạm đang bị truy nã!
Chà! Anh Bay! ảnh tên tội phạm đang bị truy nã trên toàn quốc hơn chục năm nay, sao mà giống hình anh Bay thế!
Ôi! Sao lại có chuyện bất ngờ đến khó tin như thế nhỉ?
Nhưng mà, buồn thay và ác hại thay, cuối cùng thì sự thật vẫn là sự thật. Các điều tra viên của chúng tôi tung đi khắp nơi trở về đều chung một kết quả thật ngao ngán. Lê Văn Bay chính là tên Trần Văn Lang, một tên lưu manh khét tiếng ở đất Nam Định. Mười ba tuổi khởi nghề đạo chích. Mười bảy tuổi đứng đầu một băng trộm cướp trên các chuyến tàu Nam Định - Vinh. Táo tợn, có lần giật một dây chuyền vàng hai lượng của một nữ doanh nhân, lao qua cửa sổ toa tàu đang tăng tốc, được đồng bọn suy tôn “Anh hùng thiết xa lộ”. Bị tóm cổ, ra tòa, lĩnh án tù 15 năm, tại Trại giam Ba Sao, nhưng mới thụ án được 5 Năm, đã dùng cưa cưa chấn song sắt, lấy chăn bông chùm lên dây điện trên ngọn tường nhà giam, vượt ngục; tiếp đó chuồn vào nam, mai danh ẩn tích ở Lâm Đồng, cải đổi tên họ, lý lịch, đóng vai một người làm thuê ở một trại hoa; cho tới mười năm gần đây bỗng biến mất; thì ra, anh hùng thiết xa lộ đã biến thành Lê Văn Bay thợ xây lành nghề phố huyện trung du này.
Trần Văn Lang, tên tội phạm táo tợn trốn tù. Lê Văn Bay, người thợ xây lành nghề hiền lành, cần mẫn, thật thà. Gian ác và thuần lương. Sự ghép đôi trùng khít thật khó tin hóa ra lại là một sự thật không thể chối cãi. Và cuối cùng, thì chúng tôi rơi vào trạng thái thật hồi hộp: Trong cuộc truy bắt này, chúng tôi sẽ gặp ai đây? Trần Văn Lang hay Lê Văn Bay?
*
Nỗi hồi hộp càng tăng lên khi tôi và Thiếu úy Quang, một sĩ quan trẻ, tiếp cận một quả đồi xanh um cây trái với một không gian tĩnh lặng hoàn toàn. Theo con đường đất đỏ đánh bậc, hai bên hoa mười giờ tím hồng nở tung tóe, chúng tôi chậm rãi đi lên, và nhận ra đâu đó vọng lại đôi ba tiếng gà mẹ gọi con tục tục dưới mấy lùm cây vải. Trinh sát đã cho biết, giờ này, hai đứa con gái của Bay đi học. Vợ Bay đi làm cỏ săn ở trên nương cách nhà hơn cây số. Chỉ có Bay ở nhà để sửa sang cái chuồng bồ câu mới bị bão làm đổ. Trở ngại chăng, có thể chỉ là một con chó tên Vàng.
Quả nhiên, qua cái cổng tre, bước vào mảnh sân đất nện trước ngôi nhà hai tầng mái bằng, chúng tôi đã thấy Vàng. Vàng, một con chó nòi ta, lông xù, mặt lút trong bờm tóc nửa nâu nửa vàng, lạ thay, không một tiếng sủa, lại tiến lại phía tôi và Quang, đuôi bông lâu ngoáy đều đều như đón một người quen.
Xịch! Có lẽ là tiếng hắt hơi của Vàng, đã khiến Bay đang kì cạch sửa chữa chiếc chuồng chim ở bên trái nhà, quay lại và đứng dậy.
- Chào hai anh ạ.
- Chào anh!
Chùi vội tay vào bên hông chiếc quần bảo hộ màu tím than, Bay tiến lại, ngả bàn tay vào cửa căn nhà, miệng vồn vã và thoáng chút ngỡ ngàng khi mời chúng tôi vào nhà.
"Có hơi khác thường!" - Lướt qua nét mặt Bay, tôi thầm nghĩ, và giữ vẻ thản nhiên:
- Thôi, nước nôi làm gì. Lên thăm anh, nhân thể hỏi anh chút chút về cách nuôi, chăm sóc chim bồ câu.
- Dạ. Nuôi bồ câu thì chỉ nguyên nghe tiếng nó gù, trông nó mớm mồi cho nhau cũng thích lắm rồi. Nhưng nhà mái gianh thì nó phá chả mấy lúc mà nát nhà. Với lại đến lúc phải làm thịt nó thì hãi lắm, các anh ạ.
- Sao mà hãi?
Quang chen một câu hỏi. Bay gãi đầu, nhìn tôi, ngập ngừng:
- Dạ, cắt tiết nó là một chuyện. Nhưng cái giống này nó sống dai lắm, nên trước khi cắt tiết còn phải làm một thao tác là bịt mũi cho nó chết ngạt đã.
- Thế thì kinh thật!
- Em chẳng bao giờ dám làm việc ấy. Thành ra chuyến này các cháu nó bảo, chuyển sang nuôi thỏ. Nuôi thỏ tiện lắm, hai anh ạ. Đồng rừng ở đây, lá sắn dây thật vô thiên lủng. Mà thịt thỏ các nhà hàng dưới phố huyện đặt giá được lắm ạ.
Chó Vàng đang nghếch mặt hóng chuyện ba người bỗng quay ra cổng gừ gừ mấy tiếng trong cổ họng. Bay quát khẽ một câu. Tưởng là hai con gái đi học về. Hóa ra không phải. Chắc là có con cầy con cáo nào lảng vảng qua lại ở đâu đó thôi. Từ thị trấn huyện lỵ vẳng lại mấy tiếng trống bèn bẹt như tiếng đập mẹt. Bay nói, còn chừng ba mươi phút nữa hai cháu gái mới đi học về; rồi lại khẩn khoản mời tôi và Quang vào nhà uống nước. Quang tiếp tục phát huy sở trường là rất có tài khơi chuyện, lại mở đầu bằng việc hỏi han việc học hành của hai con gái Bay, rồi thao thao về chuyện ông anh mình lá số tử vi cho biết là rất giàu, vì vậy lấy vợ đẻ liền hai ả tố nga...
Tuy nhiên tới đây thì cả chúng tôi và Bay đều hiểu: Câu chuyện sắp đến một bước ngoặt. Làm gì mà không hiểu. Vì cùng với cuộc gặp không lời hẹn, cũng chẳng nói gì đến lý do, tiếp đó là cả một loạt những câu chuyện về chim, về thỏ... đầy ngẫu hứng mà cả hai bên đều hiểu đó chỉ là những lời giao đãi ngoài lề, là bước đệm tầm phào, để cuối cùng cái mục đích thật sự phải xuất hiện.
Hai con mắt ngong ngóng của Bay nói lên sự mong đợi không giấu nổi lo âu của anh ta. Còn Quang thì lúc này lại giả tảng như kẻ ngoài cuộc, đưa cái nhìn gần như là vu vơ ra xung quanh, sau khi đã kín đáo đánh tia mắt cho tôi, ngầm bảo tôi: Thủ trưởng hành động đi! Thật sự là theo phân công, Quang làm nhiệm vụ cảnh giới. Và như vậy tia mắt Quang còn là tín hiệu thông báo cho tôi biết, ngoại cảnh đã hoàn toàn thuận lợi. Chó Vàng nếu bị coi là chướng ngại thì đã chạy xuống chân đồi rồi.
Vậy thì tôi sẽ hành động ngay đây. Nhưng sẽ là thế nào bây giờ nhỉ? Chẳng một giáo trình nào dạy ta xử lý từng tình huống cụ thể cả. Công an là nghề của những bất ngờ. Dĩ bất biến ứng vạn biến là cái quy tắc đã thành nếp sống. Trong giây phút cân não tưởng như căng thẳng vì cuộc đấu trí, lạ lùng thay, lúc này đây tôi lại thấy toàn bộ cơ thể và hệ thống thần kinh mình bỗng trở nên dịu dàng mềm mại hẳn đi. Và, chẳng có dự liệu gì hết, thật tự nhiên, tôi tiến lên một bước và nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng và thân mật như bạn bè, tôi đặt một bàn tay lên một bên bờ vai gầy gùa của Bay:
- Anh Lang này!
Trời! Tôi gần như buột miệng. Vì đáng lẽ phải gọi anh ta là Bay, Lê Văn Bay, người thợ xây quen thuộc của phố huyện, thì lạ chưa kìa, tôi lại đột ngột xướng lên cái tên Lang, Trần Văn Lang, tên trộm cướp khét tiếng năm nao ở Thành Nam trốn tù.
Kinh ngạc và thích thú hiện lên ở cả cặp mắt vốn tươi roi rói nhưng cũng thấm đẫm cảnh giác của Quang. Một sự lỡ mồm cố ý. Một trò chơi trí tuệ. Một đòn cân não. Dù là gì thì cũng là quá bất ngờ và hiệu quả của nó thì không thể lường được.
Sau này, khi câu chuyện đã kết thúc, hồi tưởng lại sự việc, tôi thật sự vô cùng lúng túng khi phải giải thích căn nguyên của hành động này. Tôi đã nghiền ngẫm, đã suy tính, đã tìm tòi để có hành động này? Không! Đơn giản hơn nhiều, đó gần như chỉ là một ngẫu sự, nghĩa là trong một tích tắc một ánh chớp bí ẩn đã xuất hiện và khéo léo kết hợp cả sự từng trải lẫn khôn ngoan của nghề nghiệp; trong đời, tôi đã có tới hai mươi năm chuyên làm công việc đi truy bắt những tội phạm xổng tù. Và tôi không thể ngờ. Ngay sau khi nghe thấy tôi gọi tên Lang của mình, Bay bỗng lui ra một bước, rồi toàn thân run rẩy như lên cơn sốt, và không để tôi nói: Xin lỗi anh Bay, tôi gọi nhầm, anh ta đã sụp xuống dưới chân tôi và khóc òa:
- Thưa hai anh công an, thế thì em biết rồi. Em xin nhận hết tội lỗi. Em thua các anh rồi ạ!
*
Bất ngờ nối tiếp bất ngờ. Câu chuyện tưởng là có thể khép lại, không ngờ lại chuyển sang một trang mới. Đó là bởi vì, khi Quang bước tới, tay cầm cái còng thép, những tưởng rằng, với một kẻ đã tự giác nhận tội như Bay thì việc khóa tay anh ta sẽ là một việc thật dễ dàng.
Vậy mà không! Đứng dậy trong hai tay nâng đỡ của tôi, nhìn thấy cái còng thép, Bay liền giật lui một bước, rồi nghẹn ngào:
- Hai anh! Xin hai anh cho em nói một câu: Đừng khóa tay em, em không trốn chạy đâu!
Đừng khóa tay em, em không trốn chạy đâu! Lặp lại lời khẩn cầu nọ liên tiếp hai ba lần, và khi nhìn thấy cái lắc đầu nhẹ nhàng nhưng kiên quyết của Quang thì một lần nữa, cả tấm thân gầy gùa của Bay lại rụi xuống mặt đất, ngay cạnh chân tôi. Mặt anh chảy dài ra, nhợt nhạt như một cây nến trắng. Đừng khóa tay em! Yêu cầu gì mà lạ lùng và khó hiểu đến vậy. Bay đã nhận tội. Bay không mảy may chống đối. Vả chăng, chúng tôi dám làm điều gì trái với điều lệnh.
- Anh Bay này. Anh đã tự giác nhận tội. Anh ...
- Không! Thiếu tá ơi! Thiếu tá cho em nói...
Nghển lên, chụp lấy tay tôi, Bay ngắt lời tôi bằng một tiếng gào nho nhỏ nhưng vô cùng tha thiết. Dưới chân quả đồi, vọng lên tiếng chó Vàng sủa tang tang. Từ thị trấn huyện lỵ dội về một hồi tiếng trống trường lúc này sao nghe thật đanh rảnh. Và tôi có cảm giác, chính là tiếng trống trường đã trở thành một nhân tố giục giã khiến Bay bỗng trở nên sợ hãi đến thất thần. Lập cập đứng dậy trên đôi chân run lẩy bẩy, từ khuôn miệng mếu xệch của anh, tôi nhận ra những tiếng nói mếu máo nhưng ráo riết liên hồi và vô cùng thống thiết.
- Thưa các anh công an. Em không oán trách Chính phủ. Tội em lớn lắm! Em xin chấp nhận mọi hình phạt. Em chỉ xin được hưởng một ân huệ nhỏ nhoi cuối cùng đó thôi. Đó là vì thưa hai anh, trong con mắt của hai đứa con gái em, em luôn là người bố lao động lương thiện, chăm chỉ thật thà. Và hơn mười năm nay em đã quyết từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi. Em đã cải tạo bản thân. Em muốn mình là hình ảnh một công dân tốt trong con mắt hai đứa con em, trong con mắt bà con dân phố. Hai anh giúp em đi. Trống tan trường đã điểm rồi! Trời! Hai con gái em chúng sắp về đến nơi rồi! Một lần nữa em xin hai anh thỉnh thị cấp trên chiếu cố cho em. Em hứa...
Mọi việc tới đây thế là đã rõ ràng. Còn cần nói thêm gì nữa! Cấp trên ở cơ quan đi công tác xa hết rồi. Thỉnh thị ai bây giờ. Vả chăng có cần đến thế không? Con người là thế. Về căn bản đó là con người hướng thiện, cảnh giác là cần, nhưng lại rất cần tin tưởng ở con người.
Trưa ấy, Bay đóng cửa nhà, dặn dò chó Vàng, rồi cùng tôi, Thiếu úy Quang đi xuống phố huyện. Thong dong đi qua phố huyện, hai bàn tay chai sần vôi vữa của Bay ve vẩy tự nhiên. Chúng tôi gặp hai con gái Bay ở cổng trường. ở nhà ngoan nhé! Bố đi có việc đây! Cùng với lời dặn con, Bay giơ tay lên vẫy vẫy.
Có phải là...người
Đời tài xế
Gã là lái xe. Không ngày nào gã đến cơ quan với bộ mặt tươi tỉnh bởi những chuyện gã cho là dở hơi của sếp ngày hôm trước gây ra vẫn còn âm ỉ trong người. Gã luôn cằn nhằn với con mẹ sề rằng, không biết kiếp trước mình ăn ở thế nào mà kiếp này cả đời phải gắn bó với một lão "dở ông dở thằng" ngày ngày đè đầu cưỡi cổ mình.
Con mẹ sề nhà gã cười khành khạch, bảo gã đừng có tin vào kiếp luân hồi. Bao nhiêu thằng ác như Lý Thông mà con cháu nó như ông hoàng bà chúa đấy thôi. Mới tí tuổi đầu những cậu ấm cô chiêu của các ông ấy sống như người trên giời, còn mình như lũ mọi. Gã trợn mắt lên thét vào mặt mụ vợ:
- Đừng có láo! Người ta đều có số kiếp cả. Mày tưởng người lắm tiền nhiều của mà sướng à?
Mụ vợ gã im thin thít như con ốc thối. Gã gọi vợ dù thân mật hay bực tức chỉ một đại từ nhân xưng duy nhất là mày. Gã cho thế là đơn giản và hiệu quả vì dù sao gã còn hơn ối người, kể cả lão sếp hói ra ngoài thì vênh vang quyền cao chức trọng mà về nhà nem nép như rắn mồng năm. Cặp kè với sếp như đôi tình nhân đã bao năm nên gã hiểu sếp từ chân tơ tới kẽ tóc. Chỉ cần sếp nhíu mày một cái là gã biết phải làm gì. Sếp khoái khẩu món gì gã phục vụ tận tình, cung cấp đầy đủ, còn gã chả chơi. Gã biết trò chim chuột của những thằng thừa mứa mọi thứ, chỉ thiếu một chút tình của người đầu gối tay ấp mới phải tìm chỗ để mà giải quyết.
Người ấy của sếp hiểu và khinh chồng, gã biết thế, nên làm gì có sự ân tình thực lòng. Sếp hiểu và cay cú. Những lúc chỉ có hai thầy trò chén chú chén anh, nghĩa là khi sếp không có nhu cầu với loại chân dài thì gã phải hầu sếp. Sếp uống mới hăng làm sao. Hết ly này tới ly khác. Mặt sếp đỏ lựng như cổ gà chọi, mắt đục như nước gạo chua và giọng nói thì khê khê nồng nồng như bỗng rượu. Sếp giảng giải cho gã nghe về thế thái nhân tình, về chuyện thằng A. thằng B. định chơi sếp. Nó còn đến nhà khi sếp vắng nhà. Láo! Đột nhiên sếp quát lên đập bàn cái "rầm" và ôm lấy mặt. Đột nhiên sếp ôm chầm lấy gã mà hôn hít, mà sờ soạng khắp người. Gã cảm thấy buồn nôn nhưng cố chịu đựng. Sếp khóc! Tại sao đời tao lại khổ thế hả Nhất? Mày có cách gì giúp tao không? Tiền tao để làm gì? Tao làm cho ai? Tại sao vắng mày là tao thấy bần thần cả người. Con vợ tao nó không thực lòng như mày. Tao thèm được ôm mày vào lòng, được vuốt ve mày mỗi khi gần vợ tao. Tao làm sao thế hả Nhất? Tao có phải người đồng tính không?
Gã thấy ghê ghê khi bàn tay sếp lần mò khắp người gã. Cuộc sống dạy gã nhiều điều song một điều chắc như đinh đóng cột rằng còn khuya gã mới tôn trọng sếp.
Với gã, con mẹ sề là nhất nên đi đâu gã cũng chỉ chăm chắm về nhà. Con mẹ sề không còn cái vẻ mơn mởn như loại gái sếp cần nhưng nó có bộ ngực ấm như chiếc lò sưởi mùa đông. Rúc vào đó gã thấy một cảm giác rất lạ, an bình và hạnh phúc. Vợ gã là người giỏi chịu đựng. Đang vui như Tết gã bỗng cáu lên vì vài lời chen ngang của vợ. Thế là vợ gã lại im thin thít, lỉnh ra chỗ con gái. Ngoài đời gã không quát được ai thì về nhà gã phải giải tỏa bằng cách quát tháo vợ cho giãn cổ họng và nở phổi.
Vợ chồng gã chỉ có mỗi một mụn con gái. Lạy trời nó xinh đẹp hơn người, ít ra là ở cái xóm thợ nghèo này. Người nó thon thả, cao, chân dài như mấy cô trên tivi. Gã thường tự hào nói nếu con gái nhà mình mà mặc những đồ thời trang như các cô người mẫu thì nó chẳng thua kém. Mụ vợ gã trợn mắt lên:
- Ông đừng có mơ! Con nhà này sinh ra không phải đi đú đởn nhá. Con nhà lành không cần đứa nào chăn dắt. Nhà này không thiếu cơm ăn áo mặc mà phải để nó phơi người trước bàn dân thiên hạ nhá!
Vợ gã thật bạo mồm. Gã trợn mắt:
- Này! Nói đã chưa hả? Nó mặt hoa da phấn, nó là con vàng con bạc nhà này thật nhưng có điều kiện thì phải để nó vươn ra với đời. Có ôm nó cả đời được không? Hả?
Thấy gã trợn mắt lên với đôi tròng màu trắng thì mụ vợ gã lại tịt ngòi. Mụ đi vào lẩm bẩm:
- Vươn ra với đời! Có mà gửi trứng cho ác. Không đời nào, nhá!
Gã không nghe thủng câu nói của vợ, chứ không thì... Nhà này không ai dám bày tỏ công khai chính kiến ngoài gã. Gã đã phải xả thân vì gia đình này thì gã cũng phải có đặc quyền gì chứ.
Sếp của gã là người chịu chơi, giao tiếp rộng và làm việc tùy hứng như nghệ sĩ. Nếu sếp rắn như đinh thì gã cũng "chào thân ái và quyết thắng" từ lâu, nhiều lúc gã lẩm bẩm như thế. Trong lòng gã luôn rủa thầm sếp là kẻ vô nhân đạo. Răng gã nghiến kèn kẹt... Làm thằng đầy tớ khổ thế đấy. Thì kia, đang tay ga phơi phới mong mỏi gặp con mẹ sề thì bỗng gã giật mình vì giọng nói trịch thượng:
- Quay lại mau! Anh có thằng bạn bên du lịch nó gọi.
Thế là cái xe quay ngoắt 180 độ đến chỗ ông bạn của sếp. Mất mấy tiếng gà gật, thầy trò gã mới quay được chiếc xe bóng lộn trở lại đường cũ. Người gã lại lâng lâng vì sắp được sà vào lòng con mẹ sề. Sếp cũng ngả người ra sau thiu thiu. Ngoài trời nắng chói chang đang nhảy nhót trên mặt đường nhựa. Hàng cây sáng nay xanh ngăn ngắt tươi mới vì được sương đêm tiếp sức giờ thỉu đi rũ rượi dạt theo chiều thổi của ôtô hai bên đường. Chuông điện thoại của sếp bỗng reo vang. Sếp à ừ một hồi với người đầu dây bên kia. Sếp nhíu mày và hơi gắt: "Tôi biết rồi, không cần nói nhiều". Chắc bà chị lại chỉnh huấn điều gì. Gã vẫn được chứng kiến nhiều cuộc đàm thoại như thế. Người cuối cùng xuống nước là sếp.
- Nhất! Mày cho xe vào chỗ em Hoa cho tao.
Lại cuộc tạt té vô bổ. Lại tuột mất cơ hội được rúc vào đôi bầu vú ấm nóng của con mẹ sề. Lại là những cái ngả ngốn động chạm dù không muốn gã cũng phải chứng kiến. Bực quá đi mất! Không biết đến khi nào mới về đến nhà? Những suy nghĩ cứ quay cuồng trong đầu. Gã nghiến răng trèo trẹo rồi thốt lên hoàn toàn vô thức:
- Chết tiệt!
- Mày vừa nói gì thế?
Gã nghe giọng bè nhè của sếp mà giật thót.
- Vừa có một thằng tóc vàng lướt qua đầu xe. Anh nằm ghế không nhìn thấy.
- Nhưng lần sau không được nói bậy nữa. Lái xe cho tao khác với lái cho mấy thằng nông dân, nghe chưa? Ăn nói cho có văn hóa không người ta lại bảo trò nào thầy ấy.
- Dạ!
Một cú rẽ bất ngờ. Em Hoa là chỗ đi lại của sếp vài năm nay. Gã thấy sếp chỉnh lại trang phục cẩn thận, còn ngả người ra chiếc gương chiếu hậu để sang sửa cái dung nhan khó coi. Gã nhìn sếp quen đến nỗi chẳng bao giờ để ý bộ mặt của sếp ra sao, nhưng gã hay được nghe lời bình phẩm của cánh lái xe thân cận. Họ bảo mặt sếp hãm tài. Họ bảo đáng lẽ gã phải thế chỗ của sếp mới đúng. Gã cười xòa. Tao thì chúng mày tính làm gì.
Giám đốc Hoa bị một phen bất ngờ khi thấy chiếc xe bóng lộn của tổng giám đốc đột ngột xuất hiện. Chị cuống quýt gọi văn phòng. Phải là thứ rượu sếp thích, phải là đồ nhắm gần gũi với thiên nhiên. Kể ra giờ này tìm được mấy bộ chân chó đen không phải dễ. Sếp luôn tự cho mình là người tinh tế và ghét thói trần tục, song rất khoái khẩu với món chân chó đen. Một ông thầy Tàu xem tử vi nói chân chó đen hợp với mạng sếp, có thể ăn quanh năm. Chân chó đen vừa bổ vừa giải được xúi. Hôm ấy gã cũng được một chầu. Vì vậy đi kiểm tra dưới đơn vị, gã hay rỉ tai các sếp bé. Không ít lần gã được món kha khá từ thông tin quý giá ấy. Dần dần sở thích của sếp ai cũng biết, thành ra gã không được khoản phụ thu ấy nữa.
Gã thấy sếp hôm nay không mấy thích thú với món khoái khẩu. Những cái chân chó nằm im lìm cạnh đĩa rau thơm còn nguyên mặc dù Hoa đã mời chào đến mấy lần. Gã đưa tay định với chiếc chân chó bẻ ra bóc từng miếng nhỏ thì sếp đưa tay ngăn lại. Thấy sếp như thế, mọi người không dám tiếng ra tiếng vào. Ai cũng có vẻ thắc mắc về việc sếp tự nhiên không ra nhà hàng bên cạnh mà yêu cầu ngồi tại cơ quan. Đến giờ ăn mà sếp vẫn ngồi với bộ mặt khó đăm đăm. Chính gã cũng thầm ngạc nhiên.
Chờ cho không khí căng hết cỡ, nỗi thấp thỏm hiện rõ trên từng khuôn mặt, sếp đằng hắng vài tiếng rồi cao giọng:
- Hôm nay tôi đến đơn vị ta mà không báo trước là mong muốn sáng tỏ một số điều. Tuần trước tôi nhận được mấy lá đơn đề cập đến nhiều sai phạm của công ty ta. Tôi muốn các đồng chí trực tiếp trả lời một cách trung thực nhất, thẳng thắn nhất. Tất nhiên những gì thuộc về phía tổng công ty thì tôi sẵn sàng nhận lỗi. Các đồng chí đồng ý cả chứ? Đồng chí Hoa cho tôi biết công ty đã xuất bao nhiêu sản phẩm trong quý I? Số sản phẩm bị loại, số còn tồn? Số đơn vị cá nhân quan hệ trực tiếp với công ty ta. Tôi muốn đồng chí Chính cho xem hóa đơn chứng từ và vốn của ta còn tồn đọng ở đâu? Còn bao nhiêu? Tôi muốn đồng chí Tân trình bày về nhân sự và đào tạo cán bộ kế cận. Số cán bộ nhân viên chính thức, số nhân công thời vụ. Tôi muốn đồng chí An.....
Sếp nói một mạch không nghỉ. Ai nấy mặt mũi tái đi và ỉu xìu như bánh đa gặp nước. Chính gã cũng không hiểu sao sếp lại phủ đầu chuyến viếng thăm tưởng sẽ rất thân thiện này bằng những lời lẽ căng thẳng như thế chứ? Mấy khi sếp phải bày tỏ quan điểm đường đột thế này đâu, chớ kể đây là công ty em Hoa của sếp. Chính gã cũng không ngờ
Món nợ tiền kiếp
Sau khi giảm biên chế, đúng ra như chồng của người ta thì nhanh chóng kiếm việc gì đó làm, lương ít hay lương nhiều gì cũng được, miễn là có được tiền phụ vợ nuôi con. Đằng này, mới trên ba lăm tuổi, to cao, vai u thịt bắp, khỏe như voi, vậy mà anh chẳng chịu làm gì cả, lại quay sang làm thơ!
Có lần, anh hùng hồn tuyên bố trước câu lạc bộ thơ của mình: "Mình đến với thơ như cái duyên, cái nghiệp, như món nợ tiền kiếp. Giờ đây, giả sử mình có muốn quay về con người bình thường cũng không được, vì đầu óc đã quen với tư duy sáng tác rồi. Mình sẽ theo thơ đến cùng!...".
Người "kích thích" anh sáng tác không phải ai xa lạ mà chính là thằng bạn thân của anh. Lần đó, do gã mới in được tập thơ, có điện thoại mời anh đi nhậu. Trong bàn tiệc, gã trịnh trọng lấy trong ca táp ra một tập thơ, bỏ trên bàn nhậu, sau đó gã lấy cây bút ghi vào đầu trang sách dòng chữ: "Thân tặng bạn…". Ở dưới dòng chữ, gã điệu nghệ múa bút ký tên mình, cử chỉ trông giống như những người nổi tiếng ký tên cho các fan ham mộ.
Anh dè dặt hỏi: "Cậu in tập thơ này kiếm được bao nhiêu?". Gã vờ nói giọng khiêm tốn: "Các bài thơ mình đã "ăn" tiền báo hết rồi, giờ đây đóng thành tập, đem bán, kiếm thêm chút ít". Anh đang thất nghiệp, hỏi tới: "Một bài thơ cậu làm trong bao lâu? Báo đăng, họ trả cho mình bao nhiêu tiền?".
Gã bảo: "Có khi cao hứng mình làm nửa tiếng là xong! Báo đăng họ cho mình 50, 70, 100 nghìn đồng, tùy tờ báo! Nhưng đối với người làm thơ, tiền bạc chỉ là vật chất phù du, không là gì cả. Ngày xưa vào khoảng năm 216, 220 gì đó, ở bên Trung Quốc, Tào Tháo có hai đứa con trai tên là Tào Phi và Tào Thực, đều là người có tài thơ ca xuất chúng. Nhưng Tào Phi không tài bằng Tào Thực, trong lòng luôn ấm ức. Sau khi lên ngôi vua, Tào Phi nhỏ nhen tìm nhiều cách để hại Tào Thực, đã vậy còn ghen tuông Tào Thực với vợ mình tên là Chân Thị nữa.
Một lần, vì lòng đố kị và ghen tuông, Tào Phi ra lệnh cho Tào Thực trong vòng bảy bước chân phải làm xong một bài thơ, nếu không được thì chém đầu. Trong vòng bảy bước, Tào Thực làm bài thơ như sau: "Đốt cành đậu nấu đậu/ Đậu ở trong nồi khóc/ Sinh ra cùng một gốc/ Sao lại nỡ đốt nhau".
Bài thơ nói lên cảnh cốt nhục tương tàn, thật tuyệt vời làm sao. Bài thơ ở nước người ta xa vời vạn dặm, lâu lơ lâu lắc, vậy mà vẫn lưu truyền sang nước mình. Người làm thơ cốt là chuyển tải cái hay, cái đẹp của con chữ, lưu danh muôn đời, chứ không phải vì tiền…".
Sau khi nhậu với bạn về, đêm khuya, anh rảnh rỗi lấy tập thơ bạn tặng ra chăm chú đọc. Anh đọc xong tập thơ liền ném xuống đất, kiêu ngạo nghĩ, tưởng chuyện gì khó khăn, chứ ráp câu ráp chữ cho đúng vần điệu như thế này, vừa nhanh vừa có tiền, vừa lưu danh muôn thuở anh cũng làm được. Từ đó trở đi, duyên nợ thơ ca đến với đời anh.
Anh là người đàn ông có cá tính mạnh mẽ, đã quyết thì làm, đã làm thì làm tới nơi tới chốn. Anh làm thơ giống như công chức nhà nước làm việc, chỉ khác là công việc của anh độc lập, không bị đám đông rảnh rỗi buông chuyện nói xấu, chèn ép đấu đá. Sáng nào cũng vậy, đúng 7 giờ anh ngồi vào bàn viết, bắt đầu công việc của mình, làm thơ!
Có khi anh ngồi vào bàn viết suốt buổi sáng, nhưng tinh thần mệt mỏi, không có hứng thú, không viết được chữ nào. Những lúc như vậy, anh thường hay ép xác anh tạo ra hứng thú cho bằng được. Anh xuống nhà bếp pha ly cà phê đen đắng, rồi trở lại bàn viết vừa uống cà phê, vừa hút thuốc vừa tạo hứng thú cho mình.
Trước đây lúc chưa làm thơ, anh không biết uống trà, chỉ uống cà phê sữa, thuốc hút mỗi ngày năm sáu điếu. Song từ ngày làm thơ anh uống nước trà đậm đặc, cà phê đen đắng, thuốc hút nhiều vô kể. Nhà nhỏ, phòng viết của anh gần nhà tắm, muỗi sinh rất nhiều, chỉ chờ gặp người là bay đến đốt! Nhưng cũng may, nhờ anh hút thuốc lá khói nhiều, không còn con muỗi nào sống nổi nữa.
Có lúc cao hứng anh làm xong bài thơ rất nhanh, song hôm sau đọc lại, thấy thiếu thiếu chưa ổn, chưa hay, nhưng không biết thiếu chỗ nào? Thế là đêm đến anh lại tiếp tục suy nghĩ, dùng bút gạch ngang, gạch dọc, lại sửa chữa tiếp. Đối với anh, làm được một bài thơ hay đem dến cho người đọc, thật vất vả làm sao!
Lúc hoàn thành đứa con tinh thần vừa ý mình, anh thấy trong người như vừa trút bỏ gánh nặng, nhẹ nhõm. Anh cầm bài thơ ngâm nga, đi qua đi lại một mình, đọc rất nhiều lần mà không chán. Song đứa con tinh thần đẹp đẽ ngon lành như vậy, một mình thưởng thức thì không đủ, phải để mọi người cùng thưởng thức và nhận xét.
Anh không biết vi tính nên phải thuê người đánh máy, rồi photo ra năm, bảy bản gởi đi cho các báo, tạp chí trong nước, tốn tới mấy chục nghìn tiền tem thư. Gởi xong, anh bắt đầu sống trong hồi hộp và chờ đợi. Có ai sống trong chờ đợi mới hiểu được nổi khổ của người chờ mong.
Trước đây anh không quan tâm đến lão đưa thư trong xóm, nay nhất cử nhất động của lão anh đều để ý. Song lần nào gặp lão, anh cũng hỏi: "Có ai gởi gì cho mình không?". Lão lịch sự nói: "Không, bạn à.". Ôi, nghe cái chữ "không" của lão mà lòng anh thất vọng, đau đớn làm sao!
Có lần, tác phẩm của anh được đăng báo, người ta gởi báo biếu và chỉ trả cho tám chục nghìn nhuận bút, nhưng anh vui mừng không thể tả. Anh nhắn tin, điện thoại cho bạn bè gần xa, bảo đó là tác phẩm hay nhớ mua mà đọc. Bạn bè ở gần chia vui, đùa bảo: "Chúc mừng nghen! Có tiền nhuận bút, vô mánh, khao đi!...".
Anh vui lắm, liền sai vợ đi chợ, mua cặp gà nấu cháo, lấy thịt làm gỏi, rủ ba thằng bạn làm thơ đến nhà nhậu, đàm đạo thơ ca thâu đêm. Cuộc nhậu này tốn bốn trăm mấy, gấp sáu lần tiền nhuận bút của bài thơ, chưa kể công vợ anh lom khom làm mồi nhấm. Đã vậy, sáng hôm sau ngủ dậy trong nhà mất cái hộp quẹt ga nhóm lửa, vợ anh nhăn nhó: "Bạn bè anh đến nhà nhậu, không đóng góp đồng nào, còn lấy cắp cái hộp quẹt ga của em".
Anh bênh bạn, nói: "Văn nghệ sĩ mà, ai làm việc đó! Chắc là cầm nhầm...". Vợ anh quả quyết: "Nhầm làm sao được, cái hộp quẹt em sợ bị mất, có buộc sợi dây thun xung quanh. Vậy mà, bạn anh cũng chôm cho được!...". Anh lại mặc cảm chuyển sang hướng khác, trách móc: "Bây giờ anh làm không ra tiền, hễ bạn bè anh đến nhà chơi là em tìm cách nhăn nhó, nói mất cái này, cái nọ, không cho đến!...". Vợ anh hoàn toàn không có ý đó, rất tức. Nhưng để êm ấm trong gia đình nên chị im lặng cho yên chuyện.
Nhà anh chị ở chung cư. Vợ chồng đám cưới xong cha mẹ hai bên cho tiền mua căn nhà. Chị đi dạy, anh đi làm ở công ty H. Vợ chồng tích cóp nuôi hai đứa con nhỏ ăn học xong, dư mỗi tháng được vài triệu. Nay anh thất nghiệp, chị biết anh đang buồn nên không dám nặng lời.
Có điều anh hoàn toàn không hề có ý tìm việc, lại xem việc làm thơ là công việc chính cao cả của mình. Mà làm thơ không đủ nuôi cái miệng cà phê, thuốc lá, nhậu nhẹt bạn bè của anh, lấy gì phụ giúp gia đình. Đã vậy tính khí anh thất thường, nói năng lúc nào cũng thơ ca, chữ nghĩa cao siêu. Mỗi lần ăn cơm, chị nghe anh nói mấy thứ đó thấy mệt làm sao!
Ban đầu chị buồn bã nghĩ, thôi thì, số phận mình không may có chồng làm nhà thơ thì đành chịu chứ biết sao bây giờ. Nhưng ngày này qua tháng nọ, anh vẫn say mê, cặm cụi, kiên nhẫn, đắm chìm trong con chữ. Cà phê thuốc lá ép xác mình quá nhiều, người anh xanh xao gầy rạc đi. Chị rất lo. Chị lo kinh tế gia đình một phần, một phần lo sức khỏe của anh. Chị tìm cách khuyên nhủ chồng.
Ngày trước nhà chị có đặt báo, tạp chí chuyên đề hạnh phúc gia đình. Trong tạp chí, người ta khuyên đại loại thế này: "Muốn khuyên nhủ chồng phải lựa lời, lựa lúc mà khuyên. Cách tốt nhất là sau một ngày bận rộn, đêm về tâm hồn thư thả, vợ chồng nằm với nhau, trước lúc ái ân mới nhỏ to khuyên nhủ chồng…".
Chị thấy cách này hay, chị quyết làm theo sách báo. Buổi chiều, chị đi chợ mua đồ về nấu ăn ngon hơn mọi lần. Đến giờ ăn tối, chị ân cần rót cốc rượu thuốc đem ra tận bàn ăn cho anh. Bình thường, chị chăm sóc anh như đứa con lớn xác lớn tuổi, nhưng hôm nay cử chỉ quan tâm hơn hẳn mọi ngày. Sau khi ăn tối xong, chị ngọt ngào, hạ giọng nhắc khéo: "Đêm nay mình ngủ sớm nhé. Em đi tắm đây!...".
Lúc vợ chồng nằm với nhau, anh đang vui vẻ dịu dàng vuốt ve chị, chuẩn bị tính làm vụ kia thì chị chặn lại, nói: "Anh, em tính khuyên anh một việc…". Anh ân cần hỏi: "Việc gì vậy em?". Chị thủ thỉ:"Anh hãy thương em, đừng làm thơ nữa được không?...". Bỗng dưng, anh đổi giọng nói lớn: "Nếu là người vợ hiền, em biết anh làm thơ khổ sở, đúng ra em phải động viên tinh thần anh chứ! Đằng này em luôn tìm cách nói này nói nọ, không cho là sao?...".
Chị thấy chồng say thơ quá nặng rồi, nói thương mình không ăn thua gì, liền chuyển sang con: "Nếu tình trạng như thế này, con mình lớn lên tiền đâu đi học đại học. Hơn nữa, anh phải ráng làm, về sau con mình có chút ít tài sản…". Anh gắt: "Bây giờ anh cố gắng ngày đêm làm thơ, in sách, để lưu danh muôn đời sau, đó là tài sản lớn quý giá cho con rồi, còn gì!...". Gắt xong, anh nóng giận quay mặt vô vách. Chị im lặng, buồn bã quay mặt ra hướng cửa. Thật uổng công khuyên nhủ...
Vì con, vì chồng, vì mình, vì cái mái ấm gia đình vững bền chị quyết định khuyên nhủ chồng cho bằng được. Nếu mình khuyên không xong thì nhờ phía gia đình chồng khuyên. Có lần vợ chồng về quê ăn giỗ, mẹ chồng, em gái cùng chị đang ngồi lặt rau dưới bếp, chị toan tính nhờ mẹ và em gái khuyên nhủ chồng về việc làm thơ. Song chưa kịp nói, đứa em gái bì bồ: "Chị sướng thật! Anh Hai là người giỏi giang, sau khi nghỉ việc, liền chuyển sang làm nhà thơ. Hôm bữa truyền hình có quay câu lạc bộ thơ, anh Hai điện thoại về, em xem, thấy anh Hai oai phong thật!...".
Chị tính nói đó là câu lạc bộ thơ của các cụ hưu trí, về già không biết làm gì, làm thơ, giải khuây, không đem lại tiền bạc mà ngược lại phải đóng tiền hội phí nữa. Nhưng chưa kịp nói thì mẹ chồng tự hào về con trai mình: "Trong mấy đứa con, mặc dù không giàu, nhưng mẹ nhận xét thằng Hai vẫn là đứa giỏi giang nhất!...". Chị đành im lặng luôn. Đã vậy, lúc ngồi vào bàn tiệc, mấy cụ nông dân biết anh nhà thơ trên tỉnh về, nhìn anh kính cẩn lắm, còn đọc thơ cho anh góp ý nữa. Trên đường về nhà, tuy chị ngồi đằng sau lưng anh, song chị cảm thấy lòng mình trống trải, cô đơn vô cùng, không biết tại do buồn hay gió bụi dọc đường mà lệ cứ chảy tuôn ra hai bên khóe mắt.
Năm hết tết đến rồi. Chồng vẫn miệt mài làm thơ, chẳng quan tâm gì đến gia đình. Nhìn người ta vui vẻ hối hả đi mua sắm cho chồng con, cho gia đình, nhìn lại cảnh nhà mình mà rơi nước mắt! Chị buồn quá, đến nhà đứa bạn thân chơi. Bạn bè lâu rồi không gặp, chị tính tâm sự cho đỡ buồn. Mới đến nhà, nó gặp chị ríu ra ríu rít, mừng húm! Sau một hồi nhỏ to, nó quay sang hỏi chuyện gia đình. Chị lắc đầu, than:
- Sau khi nghỉ việc, chồng tao tối ngày lo làm thơ, chẳng quan tâm gì đến vợ con. Mọi tiền bạc thiếu đủ trong gia đình, đều phủ lên người tao gồng gánh hết. Tao buồn lắm!…
- Chồng mày làm thơ còn đỡ! Lúc đau bệnh, tối lửa tắt đèn, còn có đàn ông bên cạnh. Chứ chồng tao, thì!...
Nói xong, bỗng dưng nó thay đổi sắc mặt lại, nhìn xa xăm ra hướng cửa sổ, buồn man mác. Trông nó sao mà thiểu não quá! Chị thương bạn, vội hỏi:
- Chồng mày làm sao?
- Chồng tao bỏ đi tu rồi!...
- Vợ chồng ăn nằm với nhau đã mấy mặt con, sao lại bỏ đi tu?
Nó chậm rãi kể:
- Không biết nữa! Tao có khuyên ngăn nài nỉ như thế nào ổng cũng không nghe. Ổng nói tất cả mọi thứ trên thế gian này, đều là vô thường và ảo tưởng hết! Ổng còn nói, căn cơ duyên nợ với hồng trần đã dứt, giờ giác ngộ gởi thân cho chùa!... Có lần tao dắt con vào chùa thăm, ổng khuyên các con và tao không nên gọi cha hoặc chồng, mà gọi bằng thầy!...
Chị nóng nảy ấm ức thay bạn, vung tay nói lớn:
- Nếu đi tu thì đừng có vợ! Đằng này đã có vợ, có con rồi, trốn tránh trách nhiệm bỏ đi tu là sao? Thôi, mày nghe lời tao, ly dị chồng quách đi cho rồi!
Nó lắc đầu, chối đây đẩy:
- Không được đâu, mày ạ! Nếu có chồng sinh ra con ông con bà, con cái nó khổ tội nghiệp! Hơn nữa mình là phụ nữ Việt Nam, bỏ chồng, bà con lối xóm người ta nói!…
- Thế bây giờ mày tính làm sao?
Nó bảo:
- Mỗi người một số phận! Thôi thì, chữ duyên, chữ phận cuộc đời mình không may, đành cam chịu, tảo tần nuôi con thôi chứ biết làm sao bây giờ!?...
Trên đường về nhà, nghĩ đến hoàn cảnh của bạn, chị thấy lòng mình sao cứ nghẹn ngào, thương quá! Song chị nghĩ đến hoàn cảnh của mình, cũng tám, mười như nhau, có hơn gì bao nhiêu đâu mà giúp đỡ bạn. Thôi trưa rồi, chạy xe nhanh nhanh về nấu cơm cho chồng, chứ ảnh làm thơ không được, còn không có cơm ăn, ảnh bực mình, ảnh la chết!
Gốc quê
Ngày còn công tác, ông Công ít khi về làng. Bận công việc cũng có. Ngài ngại những lời trầm trồ cũng có. Nếu có về ông cũng chỉ loáng thoáng đây đó một tí rồi lại quanh quẩn bên vợ con. Về nhà là thăm nhà, lo việc nhà. Có lần xã thôn mời ông ra nói chuyện thời sự, chuyện xã hội, ông lắc đầu quầy quậy. Chuyện này đã có các anh chuyên môn trên huyện, trên tỉnh chỉ đạo và triển khai.
Ông không dám múa rìu qua mắt thợ. Ông bị trách là người tận trên trung ương mà không sành hết việc thiên hạ là quan liêu, hoặc giả là coi thường nơi chôn nhau cắt rốn. Dân làng có uy tín ông, có vẻ vang tự hào về ông mới có những lời mời ấy. Ông nhăn mặt, lắc đầu, ngậm bồ hòn làm ngọt thanh minh rằng nghề của ông là nghề đánh án nên không sâu sắc về những chuyện kia lắm, đành phải có lỗi với bà con vậy chứ đâu dám có những điều như bà con nghĩ... Còn chuyện đánh kẻ xấu, diệt đứa ác thì ông có hàng tệp hồ sơ nhưng kể ra với mọi người liệu có hay ho gì khi làng xóm đang trên ấm dưới êm như thế này!
- Cháu chào cụ ạ!
- Không dám. Ông Đại tá về chơi! Hôm rồi thấy ông Đại tá trên truyền hình cả làng mình ai cũng nức nở!
- Cụ ơi cháu là Công, Công có vợ tên là Mái đây ạ!
- Vưỡn! Vinh dự lắm lắm! Lúc nào rảnh mời ông Đại tá qua nhà tôi chơi xơi nước!
- Dạ, cháu đa tạ cụ! Cụ cứ nói thế cháu ngại lắm ạ!
- Có gì khuất tất đâu mà ngại. Ông không là đại tá thì ai là đại tá ở cái làng này? Tôi thưa vậy không phải ư?
- Dạ... không dám ạ! Xin cụ cứ gọi con là Công cho nó thân tình ạ! Cổ nhân mình đã dạy hết quan hoàn dân mà thưa cụ!
- Hừ hừ... ông đáo để thật!
Ai vênh vác chứ như ông Công thì lúc nào cũng như lúc nào. Mặc sắc phục cũng như không mặc. Ông và một số người như ông có là ít đi nữa thì cũng là gì so với số đông đâu. Làm nhỏ, làm to hay là gì gì cũng chỉ là người của một giai đoạn, của một thời. Bà con mình, quê hương làng xóm mình mới là mãi mãi.
Cũng chính vì thế mà mỗi lần về quê dự lễ tổ, khi anh em họ hàng xúm đến hỏi, ông Công chỉ cười trừ. Có người bảo ông dại. Nhiều chức nhiều quyền thế không biết khoe chỉ có thiệt. Mình là người có thương hiệu hẳn hoi cơ mà. Mặc áo gấm có cân đai đàng hoàng chứ có phải vá chằng vá đụp đâu mà sợ. Cứ ngang nhiên ban ngày mà bước, việc quái gì cứ phải đi đêm. Ông đâu có đi đêm nhưng phải đi ngày kiểu đó ông không bao giờ muốn!
Ruột thịt mỗi người một lời, một ý. Toàn là ý kiến của các bậc bề trên của ông Công cả, nhưng lời lẽ xem ra cũng dè dặt giữ ý trước người làm to. Tịnh không một người lớp dưới dám hỏi ông cho dù về mặt cốt nhục rất gần gũi. Họ nể và họ sợ nên cứ từ xa mà đứng nhìn. Nghĩ vậy ông thấy lo cho chính mình!
Chuyện đối đáp qua lại của anh em nhà ông Công ở sân nhà thờ họ một lần có lễ trọng là thế này.
- Quần áo Công an đâu chú không mặc lại đi mặc sơ-vin thế này...?
- Em về làng kia mà bác...
- Chính thế. Về làng mình kia mà. Cả họ nhà ta mới có chú làm đến đại tá mà lại là Đại tá Công an hẳn hoi. Chú không mặc thì ai mặc! Người hoạt động trong ngành tình báo phản gián kia mà. Lại cả hình sự nữa. Oách lắm chứ. Công hôm nay đã khác Công ngày xưa nhiều rồi. Chú không muốn thấy thì chúng tôi phải thấy...
- Sao khác được ạ. Công lúc nào cũng là Công. Em lúc nào cũng là em của các bác. Tá úy là ở chỗ làm việc. Nơi này tá úy với ai ạ...
- Thì ít ra chú cũng phải mặc vào cho chúng tôi có chỗ mà tự hào, có chỗ mà nói chuyện chứ... Loanh quanh mãi. Lần sau về là phải diện bộ quần áo cấp tá vào cho cả họ mừng đấy. Lần sau chú về thể nào họ cũng đón cả thợ ảnh với thợ quay camêra về quay nữa. Thiên hạ chơi sang mình cũng phải biết chơi sang.
Thử hỏi cả cái xứ này đã có họ nào có người làm đến Đại tá Công an chưa? Chú nên vì cả họ mình mà làm. Chú phải biết rằng trước khi chú là người của đất nước thì chú đã là người của làng. Cụ thể hơn là người của cái họ này. Chi tiết hơn nữa là người chung cụ nội với tôi...
Ngài Đại tá Công an của làng là thế đấy. Ông chẳng bao giờ chịu phô mình trước dân làng. Với mọi người trong họ cũng như ngoài làng ông lúc nào cũng củ mỉ cù mì như củ khoai, khúc sắn.
Câu cửa miệng quen thuộc dù là ở đâu, nơi làng xóm hay chốn công sở của ông Công bao giờ cũng là "Quan nhất thời dân vạn đại".
Hôm ông Công về nghỉ, cơ quan cho hẳn một chuyến xe con, loại xe Nhật sang trọng, ông chối đây đẩy, mãi sau thủ trưởng cấp trên nói như ra lệnh, ông mới bằng lòng.
Chiếc xe oai vệ đó chỉ đưa được ông đến chỗ đường cái nhựa có lối sỏi nhẵn mịn dẫn về làng là ông nhất quyết đòi xuống.
Cậu lái xe trẻ càu nhàu một cách cung kính:
- Bố làm thế là chết con.
Ông Công thân tình:
- Mày cứ nói đây là nguyện vọng của tao.
- Ai người ta tin con cơ chứ?
- Có gì mà không tin...
Cậu lái xe giãi bày:
- Thôi ạ! Có phải ai cũng như bố đâu. Anh em lại bảo con ngại, con lười, con tìm cách đẩy bố xuống đường. Con là đứa không có trước có sau!
Ông Công cười thành tiếng:
- Mày nói như tao là ngố không bằng.
- Thế thì bố phải nghe con.
- Nhưng đây là theo sự chỉ đạo tự nguyện của chú Công cơ mà.
Cậu lái xe lắc đầu khổ sở:
- Chú Công ơi, chú thông cảm cho cháu. Cháu còn có người to hơn chú chỉ đạo cháu nữa kia. Để chú phải đi bộ hàng mấy cây số từ đây về làng là cháu dễ bị kỷ luật như chơi...
Ông Công mách nước cho cậu lái xe:
- Cháu cứ nói là đường xấu xe không vào được.
- Khổ quá. Cụ không hiểu là loại xe này đi được trong mọi hoàn cảnh à? Cụ mà bỏ xe xuống đi bộ là con cho xe bò theo cụ đấy.
- Chớ chớ...
- Con cứ đấy...
- Thôi thế này vậy. Mày đi cùng chú. Đi bộ thôi. Con mang chiếc xe ra chỗ cái quán có cây muỗm kia kìa, con gửi cho chú. Xe công an người ta không dám đụng vào đâu, đừng ngại.
- Sao phải thế ạ?
- Lệnh đấy. Lý do nói sau. Nhanh lên. Cho hành lí của chú xuống rồi quay về đây mang giúp chú. Hôm nay chú sẽ bảo cô ấy chiêu đãi thằng cháu một bữa thịt chó luộc đặc sản của làng ăn ngon quên chết.
Cậu lái xe phải làm theo ý ông Công, tuy trong bụng vẫn ăm ắp nỗi bực dọc, khó chịu. Thậm chí cậu ta còn nghĩ dại về ông là chưa kịp lĩnh sổ hưu chính thức mà đã dở chứng.
"Ai cấm được lính nghĩ về thủ trưởng của mình thế nào. Nghĩ tốt thì được nhờ, nghĩ dở thì phải chịu".
Ông Công đọc được nét bi hài ở cái khuôn mặt trẻ trung ấy. Cho dù cậu ta có cho mình là điên dại đi nữa thì ông vẫn phải làm theo cái ý của mình. Mà cái ý của ông lại trùng với cái lý của làng.
Đất lề quê thói.
Đi đâu thì đi, sống ở đâu thì sống, ông luôn luôn phải dựa vào câu ấy để nuôi mình trong công việc chung cũng như công việc riêng. Trong cơ quan ông có đồng đội. Về với dân ông có lòng người.
Không có gì là thiệt cả khi ta được ở giữa mọi người.
Cậu lái xe đi bộ quay trở lại, ông Công đã rút sẵn điếu thuốc ra khỏi bao vui vẻ nói với người mà ông hay gọi là thằng cháu:
- Mời cu cháu điếu thuốc lá thơm mừng cho chú hạ cánh an toàn về làm lại thảo dân.
- Cháu xin chú...
- Cầm luôn cả bao cho tiện.
- Cháu cám ơn chú.
Nhìn cậu lái xe trẻ hút điếu thuốc một cách ngon lành bên đống đồ đạc sắp phải mang vác ông biết là nó đã nguội cơn bực tức rồi. Đến lúc này ông mới bá vai người lính trẻ, trầm giọng nói:
- Chắc cu cháu bực ông chú lắm thì phải?
- Dạ... không ạ!
- Mày... lại còn giấu...
Cậu lái xe xúc động:
- Lâu rồi con coi cụ như cha con ở nhà.
- Chú biết chứ. Phải xa chúng mày tao nhớ lắm. Nhưng cơ quan của nhà nước đâu phải là cái giường cái ghế của nhà mình mà tìm cách ngơi nghỉ cho đến hết đời. Ai cũng đến lúc phải về. Đến tuổi là phải về. Nên về...
Ngừng lời chốc lát ông Công nói tiếp:
- Ngày chú ra đi là con dân của làng, ngày chú trở về cũng phải là con dân của làng.
Ngưng lời chốc lát ông Công chầm chậm nói tiếp:
- Để chú kể cho cháu nghe câu chuyện này của làng chú...
Mặt ông Công tự nhiên nghiêm trang lại. Giọng ông có vẻ ấm trầm hơn. Tiếng ông như muốn lắng xuống.
Câu chuyện của ông kể có vẻ rất xa xăm mà lại như gần gũi. Gương mặt người lính trẻ công an mang quân hàm trung úy như bị hút vào câu chuyện của ông...
Làng ông ngày xưa có một hôm được lệnh của huyện quan sức là phải chuẩn bị cờ trống đón rước quan Thượng trên tỉnh về thăm quê. Lệnh như vậy là nghiêm và quan trọng lắm.
Chức dịch làng rối rít việc chuẩn bị đón quan.
Cổng chào bằng lá dừa được dựng lên ở phía đường quan về làng.
Trẻ con được huy động ra quét ngõ. Phân lợn, phân chó bậy bạ đây đó được dọn sạch. Cờ hội giữa sân đình được dựng lên. Cả làng nhộn nhịp như vào đám...
Chỗ cổng chào thì...
- Cho thêm lá dừa vào. Chỗ cổng nhỏ hai bên ấy phải xén tỉa cho cẩn thận...
- Ông ơi... Chỉ quan ông về hay cả quan bà ạ?
- Tao có là quan đâu mà tao biết.
- Cái bà cụ Thĩm thế mà sướng. Quanh năm cúi mặt với ao rau muống mà có con làm đến quan Thượng...
- Bà cụ cũng lạ. Nghe nói quan ngài xin được đón cụ lên tỉnh lên phủ mà cụ bảo tao tương cà mắm muối quen rồi. Mày làm quan chứ mẹ có làm quan đâu mà mẹ đi. Quan nói mẹ vất vả nuôi con giờ đến lúc hưởng lộc. Bà cụ chửi yêu quan: "Cái con mẹ anh, tôi nuôi con làm quan để giúp dân chứ có phải để kiếm lợi từ quan đâu". Mẹ quan thế mới là mẹ chứ...
- Đúng là dại...
- Dại chán ra đấy. Bà cụ khôn thì có. Của nả ăn mãi rồi cũng hết. Mà già rồi thì ăn được bao nhiêu. Phúc đức thì để đến muôn đời cũng chả bao giờ cạn.
Trong đám trẻ dọn phân rơi, phân vãi thì...
- Đám cứt chó này là cứt chó của nhà cu Chít nhá. Ông đếch dọn cho mày đâu.
- Không phải. Con Mực nhà tao ốm, bị xích mấy hôm nay rồi. Đây đích thị là đống cứt chó của con Vàng nhà ông lý trưởng. Sớm nay nó ị tao nhìn thấy mà...
- Ôi thế thì phải dọn thôi. Chả nhẽ bắt ông ấy ra dọn...
- Ông ấy có dọn khối ra đấy. Bố tao bảo chỉ có dân là phải dọn thôi. Các quan mình là hay yếu bụng mà...
Trong sân Văn Chỉ, mấy anh chàng tuần đinh đang vuốt vuốt lại cái võng đào đã cũ chuyên dùng đi đón quan xưa nay của làng, tán vui...
- Cứ mang cái chõng tre ra buộc thêm cáng vào khiêng ngài có khi lại mát lưng hơn dính thân vào cái võng gai nhiều.
- Chả cần phải nhiêu khê như thế. Cứ mỗi đứa ghé vai cõng ngài một quãng có khi lại đỡ tốn võng, tốn cáng...
- Lèo ồi...
Có tiếng người từ ngoài sân Văn Chỉ đi vào:
- Không phải võng cáng gì cả.
- Chúng con lạy cụ ạ.
- Không dám. Tôi có lời chào các ông Trương, cậu Trương. Chư vị đi làm việc làng đi thôi. Thằng Ba nhà tôi nó về từ tối hôm qua rồi. Hai thầy trò đi xe ngựa xuống chỗ đường cái quan rồi đi tắt về làng.
Bà cụ xua tay như có ý bảo mọi người thôi làm việc này và nói tiếp:
- Gớm đã mệnh hệ gì đâu. Mới nhức đầu sổ mũi tí tẹo mà đã vội xin nghỉ việc nước về hầu mẹ. Lại làm phiền đến làng đến xóm nữa. Chỉ chiều nay cho ăn xong bữa cơm là tôi đuổi nó đi thôi...
Nói rồi bà cụ quay về…
Lát sau ở trên đường cái quan chỗ rẽ về làng có bà quan Thượng vì bận troong nom cửa hàng ở phố, hôm nay giờ mới về thăm mẹ chồng ốm được. Bà đứng đó như chờ. Xe ngựa chỉ chở bà quan đến được đấy.
- Nhỏ...
- Bà dạy gì con ạ.
- Mày đã nhắn tuần đinh ra võng bà về chưa?
- Bẩm bà... con đã nói từ lúc nãy kia ạ.
- Vậy mà chưa thấy. Sao mà lâu thế!
- Có ngay đây ạ..
Hai tay tuần đinh khiêng võng hớt hải từ xa chạy tới.
Họ vừa thở vừa nói...
Bà Thượng chau mày mắng:
- Gì mà chậm như rùa thế?
- Bẩm bà... Bà tha tội...
Bà Thượng vừa ghé đít vào võng thì giật mình bởi một tiếng quen quen từ đâu vang vang:
- Khoan...
- Ơ...
Một người từ đám bụi rậm ven đường đi lên.
Bà Thượng giật mình khi nhìn thấy chồng.
Ông Thượng nhẹ nhàng bảo vợ:
- Mợ xuống võng đi rồi theo tôi đi bộ về làng. Trước nay các cụ làng mình chưa có lệ này bao giờ. Kể cả quan Trạng ở kinh về, vợ chồng cũng phải đi bộ từ ngoài cánh đồng vào. Đất lề quê thói. Ai to hơn cái nơi sinh ra mình được. Mấy anh lý dịch làng này hỏng quá. Đã nói là các cụ truyền dạy rồi mà vẫn tự tiện làm. Các anh không coi ai ra gì à? Ô hay... mấy chú tuần đinh này...
- Bẩm quan...
- Nghe tôi hay là nghe vợ tôi nào. Mình là người làng với nhau cả. Ta cùng đi bộ về thôi mợ. Bà sáng nay còn nhắc con vợ thằng Ba đấy...
Thế là quan ông quan bà bên nhau đi bộ về làng. Lẽo đẽo theo sau là mấy anh lý dịch trong làng mặt cúi gầm lúi húi bước.
...
Ông Công dừng lời nhưng tay vẫn để trên vai người chiến sĩ trẻ:
- Đấy... chuyện có thật của làng chú được nghe ông mình kể lại đấy. Cháu nghĩ xem...
Mặt cậu lái xe rạng ra:
- Thôi bố... Con hiểu rồi. Ta về làng đi. Bố để cái valy kia con xách cho. Bố đeo giúp con cái ba lô cóc này...
Chuyến hưu quan về lại làng của ông Công là vậy đấy.
Nhưng chưa phải đã hết đâu.
Nghe nói mấy ông anh trong họ còn huy động con cháu quần là áo lượt ôm hoa ra tận cổng làng đón nhưng đón hụt. Sau đó mọi người hể hả kéo nhau đến nhà ông Công chơi và "phê" cho ông một trận. Chả là, học tập ông quan Thượng xưa, thầy trò ông Công đã tìm lối tắt qua ruộng để về nhà, phải lúc lâu sau mọi người mới biết chuyện!
Xe phải đợi người
Lão Cảnh mấy năm nay chăn nuôi phát tài. Khi người ta có tiền, cái lưng cũng thẳng mà giọng nói cũng to hơn. Một lần, lão lên thành phố chơi, nào là nhà hàng cao cấp, nào là vũ trường, nào là bấm huyệt xoa bóp rồi karaoke. Ba ngày ăn chơi thoả thích, vãn cảnh thưởng thức không thiếu thứ gì.
Buổi chiều trước hôm về, lão đến bến xe mua vé xe cho chuyến đi lúc 6h30' sáng hôm sau. Buổi tối lão không đi đâu, nằm lì trong khách sạn xem bộ phim truyền hình nhiều tập "Thủy Hử" phát trên tivi. Do thức khuya, sáng hôm sau tỉnh dậy nhìn đồng hồ, thôi hỏng rồi đã 6h31', lão vội vàng ra bến xe thì xe đã chạy rồi.
Lão Cảnh tìm trưởng bến hỏi: "Tôi chưa đến sao ông đã cho xe chạy?". Trưởng bến xem vé xe, nhìn lão Cảnh, nghĩ: "Ông lão nhà quê này thần kinh hay sao?". Chỉ vào đồng hồ đeo tay, ông ta nói sẵng: "Quá 10 phút rồi, ông còn nghĩ xe chúng tôi phải đợi ông à?". "Mấy phút có làm sao đâu?". "Một phút cũng không được. Xe không phải đợi người, ông hiểu chưa? Nếu ai cũng đến chậm như ông chúng tôi cũng phải đợi thì có loạn à?". "Được, không đợi thì thôi!" - Lão Cảnh vứt cái vé xe lên bàn nói: "Thế thì ta trả vé đấy?". Trưởng bến nói: "Không trả lại được đâu, bây giờ chúng tôi nhận khoán, hạch toán từng xe, với lại việc nhỡ xe là do ông nên ông phải chịu". Nghe trưởng bến nói vậy, lão Cảnh càng thêm bực, lão cầm tờ vé xe lên xé nát vụn và nói: "Mấy đồng bạc vé xe có là gì, ít đi viện một lần là có thể mua mấy chục cái vé, nhưng tôi thực sự xem các anh nói "xe không đợi người" là đúng hay sai". Nói xong lại đến chỗ bán vé mua vé xe.
Sáng hôm sau, 6h sáng lão Cảnh đã đến phòng đợi. 6h25', lão qua cửa soát vé vào bến, nhưng không lên xe ngay mà đứng cạnh đấy nhìn. 6h30', trên xe vẫn không có người, lái xe nói: "Đợi thêm một tý" nhưng đến 6h40' vẫn không có ai lên xe, lại đợi đến 6h46' cũng vẫn thế, không có ai lên xe cả. Lúc này lão Cảnh nhìn thấy trưởng bến đang đi đến, lão vội vàng lên xe hướng về phía trưởng bến nói thật to: "Này, các anh làm thế nào thế, xe 6h30', bây giờ đã gần 6h50' vẫn còn chưa chạy". Trưởng bến vội nói: "Ông lão ơi, đừng nổi nóng, đợi thêm một tý nữa xe chạy ngay thôi". "Thế rốt cuộc các anh đợi gì?". "Đợi người chứ đợi gì".
"Trưởng bến ơi, anh không đúng rồi, hôm qua tự anh nói "xe không đợi người", thế mà hôm nay lại đợi người đấy, chính sách của các anh thay đổi nhanh quá". Trưởng bến nhìn kỹ, hóa ra là ông lão nhà quê hôm qua. Thôi, không phải là ông lão tầm thường rồi mà là một người ghê gớm. Thế là trưởng bến vội vàng giải thích với lão Cảnh: "Ông lão ơi! Xin lỗi lão hôm nay là tình hình đặc biệt, chúng tôi bán 45 vé xe này cho một tập thể, bây giờ mới đến có một người nên phải đợi một tí vậy".
Lão Cảnh vui vẻ ra mặt, lão móc ra một tập vé xe, khua khua trước mặt trưởng bến: "Anh thấy chưa, toàn bộ vé xe này là tôi mua. Chỉ vì tôi cần anh nói một câu "xe phải đợi người" thôi. Thôi, không phải đợi nữa, cho xe chạy đi!".
Xe chạy rồi, người lái xe hỏi lão Cảnh: "Bác có rất nhiều tiền à?". Lão nheo mắt cười: "Con gà tức nhau tiếng gáy, con người ghen nhau cái tiếng, tiêu mất ít tiền có là cái gì". Nói xong, lão Cảnh cười, tiếng cười của người thắng trận
Bà mẹ Cao Lan
Hắn nhẩm tính, đã trốn gần nhà bà cụ tính đến đêm nay là đêm thứ năm. Hắn đoán bà cụ chủ nhà là người dân tộc thiểu số vì hễ mở miệng là nói toàn những tiếng đâu đâu. Cứ như là ngoại ngữ. Cũng có lúc vào đêm khuya, bà nói chuyện với ai đó bằng tiếng Kinh, nghe rõ mồn một.
Thi thoảng mấy người nào đó lại cười khùng khục, khùng khục… kiểu cười của người móm răng ngất ngây, vui hết cỡ. Hắn nằm ở lùm cây cạnh ao sâu, nghe chuyện cũng thấy buồn cười mà không dám hé môi. May là mới chớm đông, đêm nằm còn chưa lạnh.
Nhiều ngày nay hắn đã được bữa no nào đâu, nhưng đói thì không sợ. Ngủ là quên được. Sợ nhất là ánh đèn pin và tiếng chó sủa. Có ánh đèn là có người kéo đến căn nhà hẻo lánh này. Có tiếng chó sủa là hình như có ai đó, có thể là người, có thể là ma thoắt ẩn thoắt hiện. Người trốn truy nã như hắn không biết đâu mà lần. Hắn sợ bị bắt bỏ tù bất cứ lúc nào.
Hắn vừa thi đại học xong, chưa biết đỗ đạt thế nào thì "dính" chưởng. Buổi chiều hôm ấy, mấy đứa rủ nhau đi xem điểm trên mạng, thình lình quen được một em tuổi 16 có ních nêm khá mời gọi "Nàng tiên cô đơn". Thế là hứng lên, cả tốp rủ cô bé đi dự sinh nhật đứa bạn vào chiều tối phía bên kia triền sông.
Trong sinh nhật thì mở nhạc nhảy một tý. Thì có sao đâu. Nhưng nhảy "máu" quá, có đứa đưa thuốc lắc vào, cả bọn cùng uống. Uống xong lắc càng "máu hơn", không biết trời đất là gì. Quá nửa đêm "Nàng tiên cô đơn" rủ cả bọn đi nhà nghỉ. Ba trai, một gái đi qua đêm. Hắn đã 19 tuổi, chuyện ngủ kiểu này đâu phải lần đầu, nhất là bố mẹ hắn đều là những cán bộ giàu có thường đi công tác vắng nhà. Tiền lại không lúc nào thiếu…
Cứ nghĩ cô bé cũng vui vẻ, tự nguyện, hẳn chẳng có việc gì xảy ra. Thế nhưng gia đình cô bé 16 tuổi ấy khởi kiện, đến lúc ấy ba anh chàng tốt nghiệp phổ thông mới tá hỏa là mình phạm luật. Tất cả đều bỏ trốn khi biết công an thành phố khởi tố vụ án. Bây giờ ngồi ngẫm lại thấy việc phạm tội sao đơn giản vậy. Liều một tý, quên và say một tý, làm việc không nghĩ suy gì, thế là vào tù.
Hắn chỉ biết bỏ trốn và bây giờ nằm ở bụi cây bên một ngôi nhà miền đồi heo hút này. Chắc bố mẹ hắn đang sai quân đi đến các nhà quen thân, ruột thịt ở quê để tìm. Hắn chả dại mà đến đấy. Lâu nay báo chí toàn kể vanh vách lính hình sự thường cứ phục kích ở những nơi ấy mỗi khi cần truy bắt tội phạm là gì. Còn một ít tiến, hắn trốn lên Thái Nguyên, hình như đây là huyện Phú Lương thì phải.
Mà đúng làng Phấn Mễ, nơi có những đống than phế thải chất cao như núi. Những chuyến tàu chở than nặng nề, ì ạch đi lại suốt đêm. Đã một tuần ở đây, hắn nghiệm ra rằng, nếu không có tiếng tàu than nghiến vào đường ray ấy, có lẽ cái xóm miền núi này hẳn đã chết vì buồn, nhất là những ngày rét rin rít từng cơn từ rừng xa thổi về. Hết veo tiền trong túi, ban ngày hắn phải đi bốc than thuê cho một giếng tự phát.
Ban đêm hắn mò về lùm cây cạnh bờ ao này để ngủ. Những thúng than cám đã sớm nhuộm hắn thành một kẻ làm thuê lam lũ và đen đúa, khác hẳn vẻ bảnh trai chưa vướng bụi trần của hắn trước đây. Cũng may chẳng ai hỏi chứng minh thư, nhưng nếu ai tinh ý chỉ cần nhìn cái bắp chân trắng bong của hắn khi ống quần được xắn lên sẽ biết chắc kẻ này vừa từ thành thị quá giang về đây có thể vì những lý do không hay ho gì cho lắm.
Đêm qua, hắn nghe bà cụ trong nhà nói chuyện với một người đàn ông. Chuyện gì mà dài lắm, nói khuya lắm. Cứ rúc rích, rỉ rả không dứt, chứng tỏ người khách này sẽ ngủ lại. Gần sáng, hắn lóng tai nghe.
- Tết này, con định về làm thượng thọ cho mẹ.
Im lặng. Không có tiếng trả lời.
- Ý mẹ thế nào? Còn hơn tháng nữa là mẹ đã chín lăm rồi nhỉ? .
Thì ra là tiếng anh con trai của bà cụ. Người này có lẽ cũng trạc tuổi ông già mình, cỡ năm mươi, năm nhăm gì đó. Anh này hẳn ở xa về thăm mẹ nên nghỉ lại để bàn chuyện sinh nhật sinh nhiếc gì cho bà cụ luôn. Có hiếu ra phết, hắn thầm khen. Một lúc bà cụ thủng thẳng:
- Sống được là tốt. Trời cho khỏe là mừng. Tiền đâu mà bãy vẽ ra, con.
- Có chứ - Người con nói - Con cháu, bạn hữu… mỗi người góp một tý, chúc thọ mẹ. Mẹ ở một mình, đêm hôm biết thế nào.
- Phui phủi cái mồm anh. Đợi năm năm nữa một trăm làm luôn. Quanh nhà mình, có người còn thiếu ăn, mẹ là lão thành, 60 năm tuổi Đảng, linh đình ăn uống sao đành. Để tiền giúp cho họ nương sắn chả hay hơn. Con lại là công an…
Hắn chột dạ. Thôi bỏ mẹ, con bà cụ là công an! Không biết công an vùng nào, có phải bộ phận bắt kẻ trốn tránh như mình không? Hắn toát mồ hôi, thở gấp, tim đập thình thịch. Tiếng bà cụ nhỏ lại:
- Con phải nhắc cả vợ con và các cháu nữa. Nhớ lời mẹ, làm gì thì làm, phải giữ gìn. Của thiên hạ nhiều lắm. Đừng tham.
- Mẹ dặn hàng trăm lần. Quên sao được…
Hắn chỉ dám nghe đến thế rồi nín thở chầm chậm bò ra khỏi "hang ổ" là những lùm cây hoa vông vang kín mít. Hắn đi về phía những đoàn tàu đang hú còi đòi than trước khi chuyển bánh. Hắn tìm một toa đen dự trữ leo lên ngủ trong tiếng gió thổi thông thống. Bụi than dính vào người biến hắn nhòa đen như những toa tàu…
Nhưng đêm nay, sau ba ngày vật vờ, hết sợ, hắn lại quay về lùm cây vông vang cạnh bờ ao, tìm về chiếc ổ rơm kín mít để ngủ. Chỗ này cách bãi than chừng cây số đường đồi, có qua một bãi tha ma, đi về đều vắng lặng như chốn không người. Hắn vẫn phòng nếu có công an tìm đến bãi than thì ở trong này sẽ như "căn cứ địa", không biết đâu mà lần.
Nhà bà cụ lại có khách. Thêm một hiện tượng bất thường nữa khiến hắn càng cảnh giác. Ánh lửa bập bùng trong bếp với mùi sắn thơm lừng khiến hắn thèm rỏ dãi. Cơn đói lại cồn cào trong bụng. Theo bản năng, hắn bò sát đến gần ánh lửa. Thật lạ, càng gần ánh lửa, hắn lại như càng thấy rét hơn, có lẽ 0cửa, thấy một bà lão ngồi trên chiếc ghế đang cời than thêm củi. Một anh con trai khoác chiếc áo kiểu blu-dông lên tận cổ, nhìn không rõ tuổi.
Có lẽ là cái anh hôm nọ. Biết đâu anh ta ở lại làm nhiệm vụ vây bắt mình? Lửa cháy to hơn, hắn ghé mắt nhìn, đoán bà cụ chủ nhà khoảng ngoài chín mươi tuổi như câu chuyện tối nọ hắn đã nghe trộm. Nhưng khuôn mặt hiền lắm, thuộc diện cả tin, có thể lừa dối được.
- Mẹ không muốn tổ chức thượng thọ à?
Suýt nữa hắn reo lên. Giọng này khác, thì ra anh này không phải là ông công an hôm nọ. Con cái nhà này có hiếu thật, toàn bàn chuyện thượng thọ. Chả bù cho mình, chưa hề biết ngày sinh của ông bô bà bô là ngày nào. Mình cũng là đứa mất dạy, lần đầu tiên hắn tự mắng mình.
Bà cụ thủng thẳng:
- Hôm kia anh Tỵ về, mẹ đã nói rồi. Các con nghe mẹ. Không làm gì cả. Bố mất sớm, thương mẹ là nhớ lời mẹ dặn. Năm ba rồi, nhớ nổi không? - Bà cụ quay sang anh con trai.
- Sao lại không! Của thiên hạ nhiều lắm. Đừng tham - Anh con trai cười khì khì…
- Cha bố anh. Chỉ được cái nhớ dai… Chín rồi, đổ sắn ra - Bà cụ vừa cười khì khì, vừa sai con.
Những củ sắn bở, bốc đầy hơi, thơm lừng, trong cái rổ sao mà ngon đến vậy. Anh con trai cầm lên thổi phù phù, cho vào miệng. Càng nhìn, hắn lại càng thèm, cái thứ mà hồi ở Hà Nội, hắn chưa một lần để ý.
- Mai con mang mấy cân về Hà Nội cho các cháu. Mọi bận về đây, thằng cu, con tĩn thích lắm. Ăn đến kỳ say.
Anh con trai nói:
- Con phải lên mạn Hà Giang. Chưa về được. Có mấy đứa vừa trốn trại hôm qua.
Trời ơi, lại là công an. Hắn sợ hãi luống cuống định rời cửa bếp thì tiếng bà cụ đã níu chân hắn lại:
- Bắt được chúng nó đừng đánh đập, con ạ. Tội người ta.
- Không đánh, không chịu được. Mất công, mất việc. Tức lắm. Đánh cho nhớ!
- Anh nói thế là không được - Bà cụ đổi cách xưng hô với con - Mẹ bảo anh và bảo cả thằng Tỵ rồi, nghề này đừng dùng quyền mà đánh người khác. Người ta cũng là người cả. Xưa mẹ bị Pháp nó bắt. Đánh đau lắm, nhưng không khai. Đến bây giờ vẫn thù đấy. Các con mà đánh đau, bắt khai sai là làm điều ác. Mà làm điều ác…
Anh con trai cười to, cướp lời mẹ:
- Làm điều ác thì không sửa được. Làm sai thì sửa được. Mẹ đã dạy như thế mà. Đúng không? Con đùa mẹ thôi. Xưa là có tạt tai, đá đít mấy cái. Bây giờ dân chủ rồi, đánh người là bị kỷ luật luôn. Kể cả họ là tội phạm. Mẹ yên tâm.
Có vẻ như bà cụ nuốt phải miếng sắn bị nghẹn nên một lúc sau mới nói:
- Mẹ chưa tin.
Hắn rón rén đi, không dám nghe hết câu chuyện. Về lại ổ rơm, lần đầu tiên hắn thấy buồn. Buồn khủng khiếp. Nằm gối đầu lên hai khuỷu tay, hắn cứ nôn nao. Hình như hắn thèm một hơi ấm của bếp lửa. Và tự nhiên thấy nhớ mẹ…
Nhớ cái thuở được nằm cuộn tròn trong lòng mẹ ríu rít kể chuyện ở trường. Nhớ cái lần được ngồi trên cổ bố chơi công viên. Giờ xa, xa lắm rồi. Không biết bây giờ hai người đang tìm mình ra sao. Thế nào mẹ cũng khóc, mẹ sẽ rũ người ra gọi thảm thiết tên thằng Ngọc là mình, có khi ngất lên ngất xuống.
Xưa nay một ngôi nhà chỉ có bố mẹ và thằng Ngọc này, không thiếu cái gì, thành ra hiếm khi hắn nghĩ nhiều về bố mẹ. Lần đầu xa ngôi nhà giữa phố, thấy thương mẹ quá. Mình đã dại lắm rồi. Hắn thao thức, nước mắt chảy nóng rát cả mặt…
Lại mấy ngày trôi qua. Đêm nay bếp nhà bà cụ lại đỏ lửa. Nghe trộm thành quen, cả tò mò nữa nên hắn bò lại sát cái bếp hôm nọ.
- Cái ao lâu nay còn cá không, bác?
Giọng ông này hơi lạ, hắn chưa từng nghe bao giờ. Chắc bà con quen biết gì đó. Tiếng người khách nói tiếp:
- Hôm nọ chúng cháu gặp mặt những người con của làng ta làm ở Công an Hà Nội. Hơn chục trai gái đều là người Cao Lan đấy bác (người khách nói một câu tiếng dân tộc, hắn không hiểu. Chỉ nghe bà cụ cùng người khách cười vang nhà. Chắc là vui lắm). Mọi người nhắc tới bác đấy.
Có người kể, năm 1967, bà chủ nhiệm Triệu Thị Văn triệu tập đại hội hợp tác xã tại nhà mình. Đại hội toàn thể phải đến mấy trăm người. Nhưng tự nhiên tối hôm trước, bà cụ mò mẫm đi khắp xã thông báo dời địa điểm họp vào hang. Sáng sau, lúc đại hội đang diễn ra thì nhà bác bị bom Mỹ giội tan nát. Hố bom thành ao thả cá bây giờ. Mọi người khen bác có giác quan thứ sáu. Nếu không xã mình dễ có ngày giỗ chung. Nhỉ?
Thằng Ngọc nhíu mày nghĩ: Ông này lại là công an. Hay là họ phát hiện ra mình, dồn dập đổ về đây nhỉ? Không lẽ… Hắn thấy lo lo. Hay là mình vượt biên đi. Khoan, để nghe nốt...
Bà cụ cười khì khì:
- Có giác quan nào đâu. Chúng nó ác thì mình phải dè chừng với nó. Đời bác 96 tuổi, Pháp thì sang bắt giam, Mỹ thì đem bom đến phá nhà. Ức không để đâu cho hết. Thế nên bác dạy con bác phải biết ơn Đảng, ơn Bác Hồ, phải sống làm việc tốt. Của thiên hạ nhiều…
- … Đừng tham! Hơn chục anh em công an là người Cao Lan cứ gặp nhau là nhắc lại câu nói của bác.
- Ô, thế các anh cũng biết à? Già này ngượng quá… Khì khì…
Thằng Ngọc ngồi nghe lại thấy buồn cười. Người dân tộc nói chuyện mộc mạc, hiền ru. Thế mà làm công an được, kể cũng lạ. Có thể họ to khoẻ, vật nhau với tội phạm lúc nào cũng thắng. Im lặng một lúc lâu, có cảm giác người khách đang tìm cách nói với bà cụ một điều gì hệ trọng lắm. Ngoài rừng gió thổi kéo từng cơn trên không trung vắng lặng. Hình như có tiếng thin thít nơi đầu lưỡi của người khách bị rét thì phải. Chỉ có bếp lửa là lập lòe sáng. Một lúc, tiếng người khách thảng thốt:
- Thưa bác. Hôm nay cháu thay mặt anh em đồng hương Cao Lan về Phấn Mê chúc thọ bác. Đội hình sự chúng cháu ra "nghị quyết" hàng năm sẽ cử người về mừng sinh nhật các mẹ của anh em. Hôm nay, anh Tỵ có chuyện…
- Năm nay, lần đầu thằng Tỵ không về. Có việc gì xảy ra với cháu?
- Dạ. Anh ấy đi bắt bọn cướp đêm. Bị chúng bắn bị thương…
- Bị thương? - Tiếng bà cụ kêu thất thanh.
- Vâng. Hôm qua Bệnh viện Việt - Đức đã mổ. Mấy anh em chúng cháu tiếp một ít máu là tỉnh. Anh ấy gửi quà cho bác đây.
Có tiếng loẹt xoẹt như mở một hộp xốp nào đấy. Không có tiếng bà cụ đáp lại. Hắn thấy thương bà lão. Tiếng người khách:
- Khi tên cướp bóp cò súng, Anh Tỵ vẫn xông vào nó. Lính hình sự chúng cháu được dạy như thế. Trước tội phạm, mình phải xông lên. Mình mà lùi lại, nó bắn cả mình, bắn cả anh em. Mình xông lên, nó sợ phải chùn tay.
Bà lão lặng im. Có thể bà chưa hết lo để nghe những chuyện như thế. Bỗng bà đứng dậy nói:
- Sắp có chuyến tàu về Hà Nội. Cháu cho bác về dưới đó thăm thằng Tỵ.
- Đi ngay hở bác. Dạ vâng. Để cháu đưa bác đi.
Hai người rời khỏi bếp, lên nhà trên lục xục một lúc, có lẽ tìm quần áo đồ đạc gì đó. Rồi họ tắt đèn, khóa cửa bếp đi ra ngõ, rì rà rì rầm chuyện gì nghe cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Có tiếng còi tàu, không rõ tàu khách hay tàu chở than. Căn nhà của bà cụ chìm vào bóng tối mênh mông…
Còn lại một mình, thằng Ngọc ngồi rất lâu sát sau bếp lửa còn hơi nóng. Ngồi mãi, ngồi mãi cốt để đón hơi ấm sót lại từ bếp lửa bà cụ vừa nhen tối nay. Khuya lắm, khi đàn chim lạ mỏi mệt bay qua rừng kêu toang toác, hơi lạnh như dập dồn ập tới, có lẽ vì trong bếp than củi đã nguội dần, hắn miễn cưỡng đi về phía bờ ao. Hơn chục ngày nay, bây giờ hắn đã được đi thẳng người trong vườn nhà bà cụ mà không phải bò hay rón rén.
Hắn được tự do trong phút ấy, nhưng sao mà buồn bã thế. Hắn thấy cô đơn khủng khiếp giữa bóng tối dày đặc này. Thế là từ nay, không còn bà lão ở nhà, không còn ánh lửa lập lòe khe cửa, không còn tiếng bà lão chuyện trò cùng khách, không còn tiếng cười khì khì vui chuyện. Đâu còn phải trốn ai, nhưng lần này về ổ rơm, hắn lại nằm không ngủ được, ngồi bó gối nghĩ miên man.
Càng khuya tiếng gió rít càng mạnh, cái lạnh khác thường ùa về thấu đến xương. Có tiếng còi tàu xa xa vọng tới. Vậy là bà lão đi thật rồi. Hay là mình cũng đi. Đi về với mẹ. Vừa nghĩ hắn vừa gọi thầm tên mẹ trong nóng hổi của nước mắt đang giàn giụa...
Cánh cửa khép hờ
Hắn ba mươi, trai ba mươi tuổi đang xoan. Nàng bốn mươi, nghĩa là đã ở bên kia dốc của cuộc đời. Nhưng, thật ra nhìn trực diện, hai người không có sự chênh lệch. Nhất là lại nhìn qua gương. Tấm gương Tàu cỡ đại soi rất thật mặt đặt ở trong buồng đã có lúc như vô tình in bóng cả hai người. Hai người trong gương như vô tình díu lại với nhau. Và hắn lợi dụng ngay tình thế, quờ tay, chạm vào ngực nàng.
"Ngực Phượng như sen mùa hạ" - Một câu nói hình tượng mang dấu vết nghề nghiệp buột ra từ miệng hắn. Hắn vẫn thường xưng là họa sĩ. Nói cho đúng, hắn mới tập tọng vào nghề, và học ở Đại học chưa đầy hai năm thì đã bị đuổi vì chưa học nghề đã học ăn bớt. Lườm hắn đầy vẻ coi thường, Phượng chuyển mình, xoay người, đi ra phía cửa sổ. Và sững lại, nàng nhận ra, cả hai ô cửa trổ ra ngoài hiên đều đã khép chặt.
Cửa sổ, cả hai ô đều đã đóng chặt, cả cửa chớp, lẫn cửa kính. Sao lại thế? Thì chính là nàng đã cài chốt, vặn clêmôn chứ ai. Trong khi cửa ra vào ở tầng dưới nhà nàng lại khép hờ, chỉ cần xoay nhẹ quả đấm là then cài bật ra và người ngoài có thể nghiêng mình nhẹ nhàng lọt vào.
"Thứ Bảy này, mình đến, lúc hai giờ chiều. Phượng nhớ để cửa!". Sao lại là thứ Bảy? Có phải chính là nàng đã mách bảo hay gã sinh viên bất trị mặc cái quần bò lem luốc ấy đã dạn dày kinh nghiệm lợi dụng đàn bà con gái. Thứ Bảy, ngày nghỉ thứ nhất cuối tuần. Cái ngõ vắng hoe. Lúc này, ông già bà cả chưa ra khỏi giấc ngủ trưa, trong khi trẻ con đã có mặt tất cả ở sân bóng. Và người lớn thì bận rộn tíu tít nơi chợ búa. Thời gian chứa ở trong nó những thuộc tính tăm tối, bí ẩn. Cái thân hình cao lểu nghểu của hắn bỗng phồng ra như cái bánh mì trong lò, đầy vẻ tự tin và thích thú. Làm sao mà không thích thú, vì không khí trong căn buồng ấm nồng thơm tho hơi phụ nữ. Trong khi ngoài kia, gió mùa đông bắc ào ạt lọt vào ngõ nhỏ, từng luồng dài, kêu u u, thật ma quái.
"Cô Phượng ơi!"
Vậy mà bỗng nhiên, như buột ra từ hơi gió lớn, tiếng một đứa trẻ. Đang chải đầu, nàng thót mình nhận ra đó là tiếng thằng Róm con ông anh nàng. "Cô Phượng ơi, cô có nhà không, mở cửa cháu vào mới!" Thằng Róm, định vào nhà nàng làm gì? Đi đá bóng về, muốn xin nước uống? Hay nó cần lấy thức ăn bố nó gửi trong tủ lạnh nhà nàng? Hoặc đơn giản hơn: "Cô ơi, cho cháu năm nghìn cháu đi chơi bốn mươi phút điện tử!". Một ngày Róm qua lại nhà nàng không biết bao nhiêu lần. "Mày là ma hay sao mà ám tao suốt ngày thế!". Trách nó, nhưng bao giờ nàng cũng chiều nó, thuận theo ý nó. Nó là cái nhân tố không thể thiếu trong đoạn đời cô đơn hiện thời của nàng.
Nhưng lúc này thì nàng im lặng. Nàng không trả lời Róm. Nàng giả tảng là nhà không có người, là nàng đi vắng. Vì sao lại như thế nhỉ? Vì sự có mặt của hắn trong buồng riêng của nàng nếu thằng Róm biết được, sẽ là đầu mối của bao điều dị nghị? Không! Nàng đang là người phụ nữ tự do. Nàng quen thân với không ít đàn ông. Và do vậy, điều ong tiếng ve về nàng không ít. Nhưng nàng đâu có ngại. Cái chính là nàng muốn bảo vệ hắn? Hắn, gã đàn ông trẻ, để ria mép, mặt như mặt chim, có cái gồ mũi cao, đôi mắt rủ bóng hàng mi sâu trầm, hun hút sức quyến rũ. Hắn, từ đâu đến, định gia nhập vào cơ cấu đời nàng, dụ dỗ nàng vào cuộc phiêu lưu ái tình?
"Hôm nay là sinh nhật của Phượng!". Cuối cùng thì ra, những bông hoa hồng Đà Lạt vàng thắm vương giả hắn mang tới đã cất tiếng. Nàng lạnh lùng, thực tình không muốn nhận hoa. Đến một lúc nào đó, con người không muốn nhắc đến tuổi tác. Thời gian, lúc này không hơn không kém, chính là sự phản bội. Nhưng mà tại sao hắn lại biết ngày sinh của nàng?
"Cô Phượng ơi! Mưa rồi, cất quần áo đi!".
Lại tiếng thằng Róm. Chẳng lẽ nó biết Phượng đang ở trong nhà, đang ẩn náu, trốn tránh, đang quyết đóng trọn vai kẻ đồng lõa với gã đàn ông đàng điếm nọ, đang ngồi im nghe mưa lạnh bắt đầu gõ từng hạt trên mái nhà. Mưa gõ đều đều, nhanh dần rồi hòa cùng một giọng mỗi lúc một ầm ĩ. Mưa gây náo động. Mưa giăng màn. Mưa đứng về phía nàng và gã con trai xưng danh nghệ sĩ.
Quả nhiên, nghe mưa đổ rào rào một hiệp âm ráo riết và khùng nộ, Phượng lại thấy yên lòng như được ẩn mình vào một góc khuất kín đáo. "Có được một chốn nương thân, ngày hai bữa no đủ, đã là hạnh phúc hơn 75 phần trăm dân số toàn nhân loại rồi đấy!". Nàng nhớ tới một thông tin và thở ra thật nhè nhẹ trong cảm giác an toàn. Cảm giác an toàn tan hòa trong tiếng mưa mỗi lúc một xối xả. Nàng nhận thấy như thế ở mình và cả ở hắn. Lúc này, trong bình tĩnh, hắn ưa nhìn hơn. Trong giấc ngủ, những kẻ gian ác cũng biến thành hiền hậu. Vóc dáng hắn thanh mảnh. Cái mũi quặp mỏ diều. Mái tóc rễ tre, phủ một vùng trán âm u và đôi mắt đẹp dịu lắng. Nghịch mắt là cái sẹo ở sau mang tai.
"Đàn ông là phải có sẹo!". ấy thế, hắn thanh minh, rồi trợn trừng. Đàn ông là phải vào cuộc tranh giành. Không thế sao gọi đàn ông! Nàng phì cười vì nghe cái định nghĩa về đàn ông nọ. Và chợt nhớ tới ông Lựa ở nhà hát của nàng, một lão già bẩn thỉu, mặt dài, răng ngựa, đen nhẻm đến mức được mệnh danh là thục dưới đáy biển, thế mà cùng lúc có tới ba cô mê mẩn. "Lão ấy gấu biển lắm!" - Ba cô nói. Hồi đó nàng không hiểu, cứ tưởng họ chê lão. Hóa ra đàn bà thích đàn ông là thích cái họ không có, họ khuyết thiếu, thích cái bạo liệt, tợn tạo, liều lĩnh của đàn ông.
Phượng chơi với Hiến lâu chưa?
Bạn học từ hồi học tiểu học.
Không hiểu là...
Cái gì cơ?
Không hiểu cô ả có biết mình xấu đến ma chê quỷ hờn không?
Không có đàn bà nào tự cho là mình xấu hơn người khác.
Nhưng, còn người đẹp...
Im lặng, Phượng bỗng thấy câu chuyện đã tới chỗ nghẽn mạch, rất khó nói. Vì cặp mắt dịu trầm của hắn lúc này bỗng như phát sáng hau háu đầy vẻ thèm thuồng. Ngực nàng, như hai trái lê, trái táo chín mọng hay sao mà hắn nuốt nước bọt ừng ực. Chả lẽ hắn đói? ừ, nếu hắn đói thì nàng đã có cả một tủ lạnh đầy thức ăn ở tầng dưới rồi. Bánh mì gối. Patê. Xúc xích. Dưa chuột muối và bia Tiger. Quả nhiên dự đoán của nàng đã không sai. Hắn dốc cả lon bia vào miệng. Hắn nhai nhồm nhoàm. Vừa ăn hắn vừa nhìn nàng, cái nhìn của con chó mỗi khi được chủ nhà cho ăn một bữa ngon. Nghĩa là cũng như lần trước, hắn đang rất đói khát. Và điều đó tố cáo hắn là một gã trai nghèo kiết, quen thói ăn bám người khác, còn hiện thời chắc chắn là hắn vô nghề nghiệp, đang ăn nhờ gửi đậu ông anh trai và chị dâu ở đâu đó trong thành phố này.
Mọi việc diễn ra không có gì là bất ngờ cả!
Và cũng như lần trước, khi nàng thu dọn đồ ăn, dao dĩa đĩa bát đem xuống tầng dưới rửa, trở lên thì đã thấy hắn cởi giày, duỗi dài thân hình một cây chuối hột trên cái giường rộng mét rưỡi của nàng.
Dậy! Dậy đi! Muộn rồi!
Nghe tiếng gọi lần thứ hai của Phượng, hắn mới choàng dậy. Mưa đã chuyển làn điệu thành cơn mưa phùn lâm râm. Hai ô cửa kính đã tối mờ. Hắn đưa mắt và quờ tay lên chiếc máy điện thoại ở đầu giường. Nàng chỉ kịp kêu: "Sao lại gác máy?" thì hắn đã nắm được cổ tay nàng. Nàng cố cưỡng và không hiểu sao thấy mình bỗng yếu ớt, mềm lả như một ngọn cỏ. Nàng cố gỡ ra khỏi vòng tay hắn và một cái hôn tàn bạo, đầy nước bọt từ mồm hắn mà không được. Vì nàng đã ngã xuống mặt giường, rồi thấy bàn tay hắn đặt lên hàng khuy áo trên ngực mình, và nàng chỉ còn kịp kêu:
Không được qua đêm đâu đấy!
*
Không được ở qua đêm!
Lời hẹn đã được thực hiện nghiêm chỉnh. Nhưng về phương diện dục tình, các cuộc đổi trao, dâng tặng thân xác cho nhau đã được thực hiện bình thường, đều đặn và thỏa đáng. Suốt một năm trời đã là vậy. Suốt một năm trời, cứ thứ Bảy nàng đến nhà hát diễn xong suất buổi sáng, là vội vàng trở về nhà từ buổi trưa, mở khóa, lọt vào rồi khép hờ cửa ra vào tầng dưới, và tiếp đó leo lên tầng trên, đóng chặt hai ô cửa sổ. Suốt một năm trời, nàng gọi hắn là anh yêu dấu, hắn gọi nàng là em thân yêu và cả hai quấn quýt với nhau đến mức tưởng như sẽ không bao giờ có thể gần gụi một thân thể, một hơi hướng nào khác.
Trớ trêu thay, điều bí mật đau đớn của ái tình chính là vậy, là ở sự quen thuộc và tình trạng không muốn đổi thay. Và dẫu biết mình không sai, đã bỏ chồng là một gã đàn ông bất lương đã trên mười năm nay, hiện thời là một cá thể tự do về phương diện ái tình, dẫu hiểu rằng phiêu lưu sẽ đem lại điều thích thú hơn là cuộc sống phẳng lặng, trong nàng vẫn gờn gợn cái cảm giác như nàng đã vi phạm lề luật của đời sống, rằng cuộc sống của nàng không thể như thế mãi được, nó phải đổi khác và ổn định. Nàng đang sống nửa vời, dang dở, nàng đang ở giữa một vòm trời nửa hồng nửa xám
Đã có lý do
Một vị lãnh đạo xuống huyện làm việc. Việc xong xuôi vừa đúng trưa. Lãnh đạo nói với lái xe: "Hai thầy trò ăn cơm với nhau thì tẻ quá. Chi bằng ta đi tìm một vị lãnh đạo nào đó ăn nhờ ở đậu anh ta một bữa cho vui".
Lái xe nói, không dưng tìm đến nhà người ta đòi ăn, làm vậy "yếu thế" quá. Phải có mẹo. Lãnh đạo hỏi mẹo gì? Lái xe nói, thủ trưởng cứ để tôi lo. Nói rồi bác tài liền phóng xe đi ngược đường một chiều. Lãnh đạo chưa kịp ngăn, đã bị cảnh sát giao thông chặn lại. Lái xe đã vi phạm luật, lại còn già mồm cãi. Viên cảnh sát giao thông nổi giận đùng đùng, thu bằng lái tại chỗ, bắt đưa xe về Đội Cảnh sát Giao thông chờ xử lý. Lãnh đạo chứng kiến tận mắt cả quá trình xảy ra sự việc, trách lái xe đi liều. Nào ngờ, vừa ra khỏi Đội Cảnh sát Giao thông, lái xe cười nói với lãnh đạo: "Em đã biểu diễn xong, bây giờ đến lượt thủ trưởng". Lãnh đạo chợt hiểu, cười ha ha, vỗ vai lái xe, sau đó rút điện thoại di động, bấm một chuỗi con số, nói to:
- Chào người anh em. Mình xảy ra sự cố trên địa bàn của người anh em, xe con bị cảnh sát giao thông bắt giữ, người anh em xem giải quyết thế nào?
Phía đầu dây bên kia nói ngay:
- Cứ tà tà, cứ tà tà, đừng sốt ruột. Bây giờ đang trưa, chúng ta ăn cơm xong hãy hay. Anh đang ở chỗ nào, tôi sẽ đến đón ngay.
Lãnh đạo nói rõ vị trí mình đang đứng. Chẳng bao lâu, một chiếc xe con đỗ ngay trước mặt, những người "anh em" từ trên xe xuống, sốt sắng bắt tay. Xong đâu đấy, mọi người cùng lên xe đi vào khách sạn.
Vừa uống rượu, người "anh em" vừa rút máy điện thoại di động, bấm một dãy chữ số, nói oang oang:
- Cậu lập tức kiểm tra xem lúc khoảng mười hai giờ, anh chàng nào trực ban trên đoạn đường X. Anh ta đã giữ một chiếc xe, số biển xe là… Cậu mau mau đem bằng lái xe đến nhà ăn của khách sạn… Nhớ đem theo một ít tiền. Bởi vì các cậu giữ bằng lái nên mới có chuyện bữa cơm này. Oan có đầu nợ có chủ, cậu không thể không thanh toán.
Một lúc sau, một viên cảnh sát giao thông cầm bằng lái xe đến khách sạn, cung kính trao trả cho lái xe. Mấy anh em lại được một trận cười, sau đó họ nâng ly cùng cạn chén bởi tinh thần hết lòng vì nghề nghiệp của viên cảnh sát giao thông
Chuyện của một thời đã qua
Mảnh đất ấy khi về tay cô hàng chuyến, không hoang dại như cũ nhưng không hiếm chuyện phiền lòng. Cô này chuyên xuôi ngược đò giang, buôn trên bán dưới. Nào măng tươi, măng khô, vỏ ăn trầu miền ngược. Nào thuốc lào, vải tấm, mắm muối dưới xuôi. Làng Phẩm lại gần sông tiện xe ngựa, xe ba gác lại qua. Tại đây còn có một cái chợ vào loại to nhất vùng nữa rất tiện cho việc buôn bán. Cô hàng chuyến tìm đến chỗ này cư ngụ, câu đầu tiên thưa gửi với quan viên làng cứ ngọt xớt như mía lùi:
- Dạ thưa trên có các cụ cao niên, dân làng! Với nhà cháu thì nơi ở mà bề trên dành cho đứa ăn gửi nằm nhờ này là quý hóa lắm ạ. Đắc địa lắm ạ.
Mới đầu là vậy. Lễ phép tử tế. Thấy ai chị ta cũng chào cũng hỏi, kể cả trẻ con. Rồi sau, cả làng Phẩm này ai cũng như có họ hàng với cô hàng chuyến tên Lời ấy.
Lời chạc tuổi bốn mươi, đã qua ba đời chồng, có chín con gái chia đều với ba gã. Với người chồng nào Lời cũng nói họ là người đàn ông duy nhất của đời mình. Rằng đời con gái ai cũng chỉ nên có một lần đò. Nhưng rồi số phận bắt chị ta phải có người tiếp theo. Lời có thêm một cách bào chữa mới. Có lội nước rồi mới biết nước ấm, nước lạnh. Xuống đò đến lần thứ hai, thứ ba rồi mới biết chuyến đò trước đó chưa phải là nhân duyên của mình. Mỗi lần qua sông chỉ sinh toàn con gái, Lời chặc lưỡi đổ tại cho ông giời. Người bắt con cao số con phải chịu. Lắm con càng nhiều phúc. Nhưng...
Sinh con riêng bề, một đàn một lũ như vịt như ngan. Vịt mái, ngan mái. Nếu quả nó là con vật cứ nuôi cho béo rồi đẻ trứng bán chợ tha hồ hốt của. Đằng này chúng nó lại là người. Ba lần đò rồi mà thân gái vẫn chòng chành. Kẻ cầm lái đã bỏ đi. Trơ vơ một con nái sề với đời. Cô Lời thề với trời đất rằng phải đẻ cho bằng được, kiếm cho bằng được thằng cu mới thôi. Nghĩ vậy cô lân la tìm đến nhà thầy thống Lặc được đồn là có tiếng nhất vùng.
Thầy thống Lặc bảo số cô Lời là số sinh ra để nhặt của rơi của vãi mà giàu. Tin lời thầy phán, Lời kiếm nghề đi buôn chuyến. Nay thuyền, mai bè, buôn chỗ nọ lấy chỗ kia, nhặt từng đồng từng cắc của thiên hạ bỏ vào túi mình mà nên rủng rỉnh tiền của.
Thầy thống Lặc còn dạy rằng, đường tình duyên hạnh phúc của Lời là chẳng thuộc về riêng ai. Thầy còn bảo thường thường người được ăn lộc rơi lộc vãi là người nặng tình với cả thiên hạ. Mạnh mồm hơn, thầy thống còn phán muốn có con trai Lời phải ăn nằm một cách thành tâm với cái người mà cô chẳng biết mặt biết tên thì mới có thể nên hoa đậu quả theo ý muốn được. Người ấy không phải là người thường đâu. Đặc biệt lắm lắm. Người của duyên của số kia mà.
Có ước sẽ thành. Có cầu sẽ được. Mình cao số cho nên càng phải dốc lòng, dốc sức kiếm tìm. Lời mừng mừng trong bụng, hỏi thầy thống Lặc:
- Con người trần mắt thịt thế này làm sao mà tìm?
- Người ta thì có mắt đấy. Con cứ tin lời thầy đi.
- Nhưng phải làm thế nào? Cái chuyện ấy ấy.
Thầy thống Lặc cười cười, lấy tay đấm đấm vào cái lưng còng của mình thì thào úp mở:
- Nói trước thì thiêng làm sao được. Tôi đã nói là thành tâm mà.
Lời chỉ biết thành tâm là thành tâm thôi. Còn thành tâm cái ấy phải như thế nào thì cô ta không biết. Người biết là thầy thống Lặc thì thầy lại giấu.
Cái mặt thầy cứ kín kín hở hở thế kia thì chỉ có hỏi thầy mới ra chuyện, Lời nghĩ và thưa:
- Khó quá thầy ạ. Thầy biết mà thầy chả nói. Thầy dạy con là thành tâm nhưng phải thành tâm như thế nào thì thầy không dạy. Cứ một hai thầy bảo con làm. Nếu thầy không giúp làm thì con làm làm sao được.
Thầy thống Lặc trợn mắt:
- Tôi giúp?
- Vâng ạ. Còn thầy bảo cứ làm thế, làm thế thì con làm làm sao. Muốn đi buôn con phải có vốn chứ ạ.
Thầy thống Lặc vỗ vỗ tay vào mặt trống:
- Có, có cả. Vốn cho tín chủ. Không có đò, tín chủ làm sao qua sông. Không có lộc ban làm sao nên hương nên hoa được.
Lời chắp tay xuýt xoa, lễ phép:
- Con xin thầy. Thầy ra tay giúp con. Khó khăn thế nào con cũng chịu.
Thầy thống Lặc cười dễ dãi:
- Chẳng có gì khó đâu nếu con biết nghe lời thánh dạy, thầy dặn. Tâm luôn luôn phải thành. Tâm có thành đức mới ứng. Lộc này là lộc quý lộc hiếm nên ngài chỉ cho ai biết nghe lời, vâng lời. Từ nay con phải một lòng với thầy. Thầy bảo gì con phải nghe. Thầy cũng chỉ vì thương con mà dồn sức cho việc này. Nếu con có gì không vừa lòng thì con cứ nói.
- Con xin nghe ạ!
Từ đấy cô hàng buôn chuyến tên Lời một lòng tin lời thầy thống Lặc.
Một tháng ba mươi ngày thì có đến một nửa thời gian Lời đến nhà thầy đặt lễ, dâng hương. Thầy thống dặn Lời là thánh nhà thầy ngài ngự tại Sơn Lâm có thiên nhiên trong lành, kỳ thú nên người ưa những kẻ sạch sẽ, vậy trước lúc đến lễ người, con phải tẩy trần mình bằng nước lá thơm cho cẩn thận. Ngài cũng ưa những món thịt rừng thịt thú. Cho nên mỗi lần đến thầy dâng lễ bao giờ Lời cũng mang nhiều thứ của ngon vật lạ mua từ các phiên chợ miền ngược về dâng cúng. Hôm thịt nai, thịt thỏ. Có buổi mật ong rừng, mật gấu rừng…
Lời siêng lễ.
Cô hàng chuyến chẳng vắng buổi nào theo lời thầy thống Lặc hẹn hò.
Lễ cúng thầy thống Lặc dành riêng cho cô Lời thường có đến cả buổi. Hôm nào sau lễ thầy cũng cho Lời uống một thứ nước đặt trên bàn cúng được thầy gọi là Linh Sơn Thủy Dược. Thầy nói đây là loại nước thiêng lấy từ núi cao ngài ban để cho tín chủ uống vào đặng mà sau đó cầu gì sẽ được nấy.
Mỗi lần sau khi uống thuốc Lời lại được Thầy đưa vào nằm ngay ở cái ổ lá rừng phơi khô nhưng mềm và dẻo được thầy gọi là Mộc Linh Thảm. Thầy cho Lời ngả mình trên ổ lá thiêng ấy và nói:
- Ta phải làm thế này gọi là phép ngọa sàng để cho con thoát tục nhập thân vào nơi huyền bí. Ta không thể nói hết được bằng lời. Con hãy nhắm mắt lại thật hết lòng, nhập thân để mà được nhận phúc lộc ngài ban.
Thế là, chỉ chốc lát sau lời thầy nói, cô Lời lạc ngay vào chốn thầy rủ rê. Lạ quá, cứ sau mỗi lần được uống nước thầy ban, ngả mình trên đệm lá một chốc là Lời thiếp đi lúc nào không hay. Trong sự thiếp đi ấy, Lời thấy mình như được mây trắng, mây vàng ấp ôm.
Màu mây ấy cứ tựa tựa như màu áo lễ của thầy thống Lặc.
Cứ thế, cứ thế Lời thành người nghiện lễ. Không đi không được. Chưa đến ngày lễ đã thấy nhớ và mong cho ngày ấy sớm đến.
Đến vài tháng sau Lời thấy người mình nặng nề dần ra. Cái việc hàng tháng đàn bà thường thấy cũng không còn thấy nữa khi đến kỳ. Lời biết là hoa đã đậu quả, rễ đã lên chồi nên sửa một cái lễ rất hậu đến tạ ơn thầy.
Thầy thống Lặc liu riu mắt, cầm tay Lời hổn hển nói:
- Con có lòng thành nhất tâm nhất dạ với đấng tối cao. Bề trên lại là người đức cao vọng trọng, suốt đời tu nhân tích đức, lập nghiệp vì các đệ tử. Giờ đã thành hoa đậu quả. Phúc lớn rồi Lời ơi. Cầu gì được nấy. Trên đời này mấy ai đã có được cái phúc ấy như con. Thầy cũng đã từng cúng lễ, làm thuốc làm thang cho mấy bà mấy cô giờ đến con mới thật là linh ứng.
Thầy khẽ đặt tay vào cái bụng đã nhô cao của Lời bảo:
- Phúc lộc vô cùng. Quý nhân đây. Quý nhân đây!
Lời về mổ gà đồ xôi cúng trời, cúng đất ăn mừng.
Cô nàng nghỉ đi hàng chuyến để ở nhà nuôi dưỡng cái mầm sống trong bụng được thầy phán là quý tử sau này có thể làm nên nghiệp lớn.
Sẽ đến ngày Lời khai hoa kết quả. Lời sẽ có một thằng cu bụ bẫm có con chim xoắn như quả ớt chỉ thiên. Ba lần đò rồi, đến lần này nữa mình mới thật sự làm được điều mình muốn, Lời nghĩ vậy và râm ran chờ ngày...
Làng xóm ai cũng vui lây cùng Lời.
Có người bảo:
- Nếu được như thế thì ghê lắm. Gái ba đời chồng mà vẫn nên danh nên giá. Mẹ hĩm vô duyên úp chín cái lá lốt lên mặt mà lại có lúc ngẩng cao đầu được nhờ ân đức của người bề trên. Cái nhà ông thầy thống ấy thế mà tài. Chả trách mà người ta, đâu chỉ có làng mình, cứ nối mồm nhau truyền tụng…
Rồi cũng đến ngày cô Lời buôn chuyến trở dạ.
Lạ Lùng.
Đẻ con đứa thứ mười, quen dạ lắm rồi nhưng đau đến mức nào mà miệng cô ấy kêu to đến vậy. Cái trống cái của làng có đánh hết sức cũng không to bằng.
- Thầy ơi là thầy... thầy cứu con với...
- Ối... thầy ơi con chết mất...
Đẻ con dạ mà đau hơn bị đòn thù. Đúng là sự lạ. Chắc chắn đứa trẻ phải là... cái gì khiếp lắm. Hay cô Lời sắp sinh hạ cho đời một kỳ nhân!
Đúng vậy. Mừng quá sau khi tiếng "oe oe" của nó vỡ ra trên bụng mẹ.
- Con trai...
Lời nghe tiếng bà đỡ reo to mà rạng rỡ cả mặt. Không có hạnh phúc nào bằng hạnh phúc này kể từ khi Lời biết làm người đến giờ.
- Ô...
- Cái gì?
- Sao thế này?
Lời đang nằm trên giường ngơ ngác.
Rồi sự ngơ ngác ấy thành nỗi đau vật vã. Đứa trẻ sinh ra như chẳng phải là trai mà cũng không hẳn là gái. Ngực nó có lông. Tay chân nó có cái đến sáu ngón. Mắt nó cái ngưỡng thiên, cái ngưỡng địa. Nhìn hình hài con, mẹ lạnh hết cả người.
Lời vượt đau khổ cắn răng nuôi con.
Đứa trẻ càng lớn càng giống cái ông thầy thống già mõm tên Lặc đoán tướng đoán số cho cô. Giống nhất là cái miệng mỏng, rộng, đôi môi nhỏ trông như cái vành nón cùng với đôi mắt khi mở mà vẫn như đang nhắm. Bao nhiêu của nả công sức cung phụng cho một đức tin để cuối cùng phải ăn nằm với một đứa buôn thần bán thánh, rồi đẻ ra quái nhân dị dạng. Lời đau đớn quằn quại.
Cả đời người đàn bà buôn ngược bán xuôi, tiền nong dư dả nhưng mọi cái như trắng tay khi đứa trẻ thứ mười ra đời. Cái tâm thành rất hiếm hoi vì một khát khao tốt đẹp của một kẻ buôn chuyến đã bị thói tráo trở dập vùi.
Nhưng hối thì đã muộn rồi. Bánh đúc đã bày sàng. Cơn đau vẫn là cơn đau của người mẹ. Dẫu thế nào thì cũng là giọt máu của mình. Tất cả là từ cái thói dâm dê lưu manh của thống Lặc mà ra. Thầy gì. Gã là kẻ buôn chuyến đểu giả trước những ước mơ tốt đẹp nhất của một người đàn bà.
Vốn là gái lăng loàn, Lời không chịu nỗi đau này mãi.
Có lần Lời định mang cả cái thùng dầu to đến đổ vào cái chỗ cúng bái của tay thống Lặc nhưng bị lộ phải bỏ chạy. Gã thầy cúng biết chuyện nên cứ tối đến là đóng kín cửa, không muốn tiếp ai cả mặc dù mỗi lần tiếp đều có lễ, có mầu.
Một sớm thầy thống Lặc thức dậy thấy có cái bị rách treo lủng lẳng trước nhà, lại có mùi gì thum thủm bay ra. Gã thầy cúng đỡ cái bị xuống thì nhận ra đứa trẻ. Qua một đêm lạnh nó khóc khản cổ rồi ỉa đái vung vãi trong bị. Đứa trẻ chỉ còn thoi thóp rồi ra đi trên tay của người đã ban phúc ban lộc cho nó và mẹ nó. Thống Lặc lặng lẽ chôn con bên cạnh gốc cây khế chua ở góc vườn.
Mấy ngày sau người ta thấy bát nhang trên điện thờ của gã thầy cúng nọ bốc cháy đùng đùng, lan tiếp lửa sang các đồ thờ. Sau đó cơ ngơi gã chỉ còn là một cái xác nhà đen sì với mấy bức tường gạch cháy thui, vàng ởn, chỗ lành chỗ vỡ như mảng da người bị bệnh lở. Bát hương vỡ toác, cái chỗ nọ, cái chỗ kia. Nơi thờ tự được coi thiêng nhất vùng của thầy thống Lặc thành đám tro than nham nhở...
Sau vụ cháy ít ngày…
Thầy thống Lặc bỏ nghề. Cứ trưa trưa, chiều chiều người ta lại thấy gã mặc cái áo cúc vải, quần cháo lòng, khăn xếp không đội đầu mà buộc dây treo lủng lẳng trước ngực. Lặc lang thang đến những hàng chuối, hàng bánh nhìn mọi người ăn. Gã không ngỏ một lời xin nhưng sau đó lại nhặt những vỏ chuối, lá bánh vừa đi vừa liếm một cách ngon lành.
Biết thói sĩ của thằng dở người nên có người thương tình, ăn chuối không hết cả quả, ăn bánh chừa lại hai đầu rồi khẽ vứt ra đường chờ cho gã đến nhặt lấy ăn khi vắng người qua lại.
Thường thường khi đã no bụng rồi, gã Lặc rồ, tay múa may như lên đồng, miệng lung bung, lung bung như người đánh trống cho đến lúc mệt lả đi mới gục mặt xuống đất, đôi chân ve vẩy như đuôi chó và rống lên một giọng kêu rú vẻ như tiếng thú, tiếng người chen nhau...
Cô hàng chuyến Lời mặt héo như quả trám trắng phơi nắng lâu ngày khi mà vào một hôm, chín cô con gái cùng mẹ khác bố lúc nhúc kéo đến tận nhà quỳ ngay giữa sân gọi:
- Mẹ?
Người mẹ ra trợn mắt nhìn các con.
Đứa nào đứa nấy không nói không rằng đều vái mẹ chín vái.
Mẹ chúng hỏi:
- Các đứa làm cái gì thế?
- Lễ mẹ.
- Tao đã chết đâu mà chúng mày cúng?
- Bà bây giờ sống cũng như chết bà Lời ạ.
- Láo.
- Cả cái lão thầy lừa lọc kia cũng thế. Nó đang ăn lá bánh, ăn vỏ chuối ngoài chợ kia kìa. Người không muốn làm người lại muốn làm con vật.
- Chém cha cái quân huênh hoang. Bỏ trôi sông cả họ nhà nó.
- Cả bà nữa, cũng nên chui vào rọ đi.
Bọn trẻ đồng loạt thét lên như thế. Nói rồi cả lũ bỏ đi. Cái sân rộng là thế giờ quang quẻ như vừa được quét.
Cô Lời buôn chuyến phải bỏ làng mình ra đi là vì như thế.
Cô đến mãi tận làng Phẩm xa làng mình đến trăm cây số tìm chỗ làm ăn. Mới đầu ai cùng nghĩ đây là người thất cơ lỡ vận tìm đất sinh nhai. Đất làng Phẩm có lành chim mới tìm đến đậu.
Cô nàng buôn chuyến tưởng thoát thai làm kiếp khác nên mặt mày da dẻ lại đỏ đớn ra. Gái bốn mươi mà trông đến mòn cả con mắt mấy gã đàn ông góa vợ, lỡ lứa ở làng Phẩm. Tay đội Chấn cũng người làng Phẩm, làm lính trên huyện, chết vợ, biết cô hàng chuyến nên có tâm để ý.
Nhân một lần cô nàng đi trên ngược về có mang theo "cơm đen" (thuốc phiện) bị lính đoan bắt được, đội Chấn đứng ra xin:
- Nó bị lừa thôi.
- Bẩm...
- Không nói nhiều.
- Nhưng...
- Nhưng cái mả bố chúng mày. Tao là nhất hay "nhưng…" là nhất? Tha...
- Dạ...
- Tao đã nói là tha kia mà...
- Thưa... thưa... nhỡ ra... quan trên...
- Tổ sư bố chúng mày. Ông nói rồi! Ai to nhất ở đây. Quan hay tao? Cởi trói cho cô ấy ra ngay không bỏ mẹ chúng mày với tao bây giờ. Việc để đấy tao sẽ giải quyết. Ai cho rượu cho thịt chúng mày?
Đội Chấn vừa nói vừa giơ súng dứ dứ vào mặt bọn đàn em:
- Muốn ra ao múc nước lã về uống à!
Bọn lính vội cởi trói cho Lời rồi nháy nhau lủi mất.
Đội Chấn nắm lấy tay Lời:
- Sao dại thế?
- Em cảm ơn ngài đội.
- Cảm thôi à? Phải đền anh nữa đấy...
Lời hết sợ, cười duyên:
- Gì em cũng bằng lòng.
Sau chuyện này cô Lời ăn ở với đội Chấn như vợ chồng.
Lời vẫn tính nào tật ấy, mỗi lần lên ngược lấy hàng lại mang "cơm đen" về. Đội Chấn biết chuyện nhưng cho qua vì món hàng này vốn ít, lãi nhiều. Về sau dân làng Phẩm vỡ chuyện vì có mấy anh bẹp ở làng sinh tật đánh vợ, đánh con rồi ăn cắp gà cắp lợn của nhà bán đi để lấy tiền mua thuốc của vợ chồng nhà Lời.
Một sớm, khi vợ chồng nhà Lời chưa kịp ngủ dậy đã thấy thanh la não bạt gõ quanh nhà. Họ mở cửa ra thì thấy rất đông dân làng Phẩm đứng vây quanh. Tay ai cũng cầm gậy, cầm chổi xể. Cạnh họ có một cái chõng tre trên đặt một người nằm thẳng đơ, thân gầy guộc như que củi đang hấp hối. Quanh cái chõng tử thần ấy là người nhà họ than khóc om lên lẫn với tiếng thanh la, não bạt.
Vợ chồng Lời biết chuyện chẳng lành vơ vội mấy thứ quý giá lẩn ra lối sau lội ào qua ruộng lúa đang xanh chuồn mất dạng...
Người làng than van cho số kiếp một mảnh đất không lành. Ai cũng thừ người ngán ngẩm. Nó đã bị làm xấu đến mức không còn gì xấu hơn. Già làng từng nước mắt lưng tròng nấc lên, đứng bên mảnh đất ấy chọc chọc ba toong ba lần vào nó mà thét lên đau đớn:
- Oan nghiệt, oan nghiệt!
*
Bãi đất oan nghiệt xưa nay đã khác nhiều. Nghe nói sau hôm đuổi cổ vợ chồng Lời đi rồi dân làng lấy vôi bột tẩy uế khắp nơi. Một thời gian sau đó Già Làng mang từ đâu về một cây đa giống. Cây được trồng ở chính giữa bãi đất cùng một cái lễ giải hạn do chính người cầm đầu đi chân đất, mặc áo thô cùng dân làng quỳ trước nhang đèn cung thỉnh tạ tội trước Trời Phật và Thành Hoàng. Sau chuyện này làng Phẩm cứ yên bình dần…
Cây đa trồng nếu tính chi li năm nay đã ngót chín chục tuổi nhưng trông vững chãi và sung sức lạ thường. Nó thường là nơi vui chơi của trẻ nhỏ trong làng, chỗ trú mưa trú nắng cho kẻ qua đường. Người trồng cây nay chẳng còn nhưng chuyện cũ về cái bãi oan nghiệt được cải tà quy chính cháu con còn nhớ mãi...
Cái két bạc
Hắn bước về phía chiếc két bạc. Tiếng chìa khóa tra ổ vang lên lạnh lẽo. Âm thanh lách cách của kim khí như mũi dùi xuyên thấu tận xương. Nàng xoay người vào phía tường. Có tiếng sột soạt lẫn tiếng lạch cạch quen thuộc. Cái dáng ngồi xổm của hắn trông cần mẫn đến tội nghiệp.
Hắn không muốn ra khỏi chăn trong lúc trời rét thế này. Nghe nàng nhắc, cái đầu húi cua của hắn khẽ rung lên như bị điện giật. Giọng của nàng hắn đã nghe quá quen tai, có khác gì tiếng chổi cùn quét sân mỗi sáng. Hắn nhắm mắt, ý nghĩ miên man. Con người ta sao cứ nhất thiết phải thức dậy khi vẫn còn muốn ngủ?
- Buổi sáng không khí trong lành, đầu óc sẽ sáng suốt nếu dành khoảng vài chục phút hít thở hoặc vận động thân thể.
Nàng nói như thể mình là một giáo viên thể chất. Nhìn hắn ngủ với vẻ vô lo, nàng chép miệng: "Hệt đứa trẻ sống lâu năm". Muốn hắn phải bắt lời, nàng nhắc lại ý đó bên mâm cơm. Hắn ngưng nhai thức ăn, hai má phồng như ngậm hai quả bóng: "Sao lúc đó mình chẳng nghe thấy nhỉ?". Nàng thở dài. Ánh mắt xa xăm. Lại có người tính cách kỳ cục. Cái đầu húi cua kia nghĩ gì, có trời biết? Chưa bao giờ nàng thấy hắn nổi cáu, phiền muộn hay hoan hỉ. Sáng nay thì khác. Tiếng thở dài làm hắn thoáng ngây, hướng cặp mắt sắc như hai vết chém nhìn nàng. Chẳng lẽ không ưa thức dậy sớm mà làm người khác phiền lòng? Vẻ mặt phảng phất buồn như phủ lớp sương của nàng, khiến hắn cảm giác não mình có gợn.
Hắn luôn mang trên môi nụ cười nhẹ nhõm và vẻ mặt tự tại? Cuộc sống giới hạn tối đa các mối quan hệ, bên một phụ nữ có khuôn mặt dễ coi, tuy nàng hay thở dài nhưng ít đòi hỏi, có đôi mắt buồn tựa hoàng hôn cuối thu. Mối quan hệ không ra vợ chồng, cũng chẳng ra nhân ngãi cứ lỏng lẻo, bùng nhùng như trong gai rợ.
Có lúc nàng đã nghĩ rất nhiều, nhưng không cách nào thoát ra. Tài gì mà hắn lại có thể ràng buộc con người ta lệ thuộc vào mình như một thứ keo dính? Cho đến bây giờ nàng vẫn chưa thể lý giải. Còn hắn, luôn chỉ nghĩ cách nào có lợi, ít tốn công sức, tiền của, chứ không có thói quen tự kiểm điểm. Cuộc đời ngắn lắm. Thời gian đâu cho những chiếc răng tự vấn gặm nhấm. Đôi lúc hắn đọc thấy trong mắt nàng ý muốn được chính thức mối quan hệ vợ chồng. Khi ấy hắn lẳng lặng xoay lưng về phía nàng như muốn truyền thông điệp hãy đừng làm mọi chuyện rối lên. Nàng chỉ còn biết nhìn hắn, thở dài.
Nàng biết có thời gần hai chục năm hắn từng lăn lộn tìm vận may ở các bãi vàng, dần dà có được ngôi vị ông chủ của ba mỏ. Một ngày hắn tự đặt mìn đánh sập tất cả các hầm, rồi biến mất tăm. Đêm ấy, đám dân độn thổ giật nảy mình bởi những tiếng nổ lớn. Hôm sau thức dậy, tất cả đã bằng địa. Hắn thì như mọc cánh cùng với công nợ bay mất hút. Các bưởng thợ, những tay anh chị cộm cán chỉ còn biết nghiến răng đến chẹo hàm. Có kẻ oán hờn thề "Bắt được ông sẽ nhai thằng này cả cứt".
Dân xóm Cáp chẳng ai biết hắn từ đâu đến. Hắn sống khép mình như kiều dân ngoại bang ở thành phố miền núi phía bắc này. Ngay cả giọng nói của hắn cũng chưa ai có may mắn được nghe. Tuy thế mỗi khi ra cửa, gặp ai hắn vẫn có thói quen dừng lại, gật đầu chào, không tỏ ra thân thiện, cũng không xa cách.
Thị thành người tứ xứ, đủ các hạng và chẳng nghề ngỗng gì sất, là một cái chảo thắng cố, hay giống nồi cháo cơm nguội trộn với các loại rau củ. Con người thị thành ít quan tâm đến nhau, điều đó rất thích hợp. Trong ngôi nhà bốn mươi mét vuông, thụt giữa một ngõ nhỏ, thoạt đầu mỗi sáng thức dậy, mở mắt hắn nhìn thấy ánh nắng lọt qua khe cửa rọi vào tận đầu giường. Nằm buồn, miên man nghĩ, cuộc sống không thể cứ thế mãi, phải có gì đó thay đổi chút ít.
Hắn tìm được nàng, một phụ nữ xinh đẹp, muộn chồng, làm nghề đan áo thuê, nhà ngay đầu ngõ. Hồi đầu, mỗi lần đi qua con ngõ hẹp, tường gạch cũ mục, ẩm ướt rêu xanh, tới nhà nàng, hắn chậm bước, ngắm dáng ngồi đan áo của nàng bên ô cửa sổ song gỗ. Đẹp như tranh vẽ ấy! Hắn nghĩ vậy, rồi bỏ đi. Thoạt đầu nàng cho đấy là sự thường của đám dân lạ mới nhập xóm. Sau, nàng quen dần với cái dáng đùi đũi tần ngần ngoài cửa sổ.
Hình như nàng có chút cảm tình với vẻ tò mò vô hại như loài ấu trùng của hắn nữa kia. Nàng ban cho hắn nụ cười. Đầu hắn lóe hy vọng. Hắn bắt đầu chú ý tới vẻ ngoài bản thân. Cử chỉ cũng trở nên nắn nót. Dần dà nàng thấy bối rối trước ánh nhìn của con ấu trùng khổng lồ. Ánh nhìn như có lửa, truyền sang nàng cảm giác rạo rực.
Nàng phấp phỏng với niềm khao khát không thể tỏ bày. Ấy là mùi đàn ông biết bao bí ẩn, khuyến khích trí tò mò trong nàng từ quá lâu rồi. Giờ không lý do gì bắt nàng phải chờ đợi hơn nữa. Bỏ qua khoảng cách tuổi tác, cả dáng vẻ nặng nề, nàng hân hoan đón nhận lời cầu hôn của hắn. Đinh ninh hắn từ nay vĩnh viễn thuộc về mình. Từ nay mình được sở hữu một tài sản quý báu nhất trong đời khiến nàng tràn ngập niềm vui.
Ngày đầu nàng đỏ mặt khi hắn lấy ngón tay ra hiệu cởi áo. Cả việc này hắn cũng không muốn đụng tay sao? Hắn biến vào thân thể nàng như một kẻ khát gặp dòng sông ăm ắp nước. Nghe hắn nói, của nàng to hơn những phụ nữ khác. Nàng tròn mắt: "Còn những ai khác nữa kia?". Hắn bảo "Từ xưa rồi. Bằng này tuổi chưa biết đến chuyện đó là thằng đàn ông đần". Trái tim nàng chợt đau nhói. Nàng thở dài, hơi thở bị giam hãm khẽ trôi như tiếng chổi tre phất nơi cuối ngõ.
Giờ mọi thứ đã trở nên cũ kỹ. Đôi lúc nàng thấy thương nhớ gì đó nhưng rồi không dám nghĩ xa hơn. Tự mình cả. Nàng thoáng buồn. Con người ta có lẽ ai cũng một thời lãng mạn. Ngày ấy đã vĩnh viễn xa rồi.
Buổi sáng đi chợ, hắn chìa cho nàng những tờ tiền còn nguyên góc, và nhắc: "Nhớ chi tiêu tiết kiệm". Nàng đưa tay đón với vẻ ngoan ngoãn. Vẫn biết thân phận lệ thuộc, nhưng mỗi khi nghe hắn lặp lại câu nói như một mệnh lệnh, nàng thấy gáy mình gai gai, trộm nghĩ, thật khó hiểu, tận bây giờ vẫn chưa thể tin nhau sao? Nàng nhìn hắn, cố liên tưởng, nhưng chỉ lờ mờ thấy một hang sâu, trong đó không biết ẩn chứa những gì?
Không nên ẩn mãi trong nhà. Hắn nói với nàng: "Ra ngoại ô đi, không khí ngoài đó tốt đấy. Lề đường có thể tự do vệ sinh, bớt được khối tiền nước xả bồn". Thế mà nàng tưởng, hắn đã hiểu ra lợi ích của việc vận động thân thể. Hắn đi trước, nàng khoan thai thả bộ phía sau. Chẳng nên vội vàng. Hắn cúi đầu cặm cụi bước. Thỉnh thoảng hơi dừng lại như có ý chờ, nhưng khi nàng sắp tới gần, hắn lại sải bước dài, tạo khoảng cách vừa đủ, không xa, không gần. Sao lại thế? Tài sản của nàng có giống ai trên thế gian? Chẳng gì nàng cũng là của hắn kia mà? Có là vợ chồng hay là thứ gì nhỉ? Nàng cố nghĩ nhưng sao thấy xa vời.
Qua một ngã tư, chợt có tiếng động cơ xe máy rú lên, rồi tiếng va đập khô khốc. Hắn nhảy tót vào lề đường. Phía sau, một thằng trẻ choai, tóc đỏ lửa, ngồi trên chiếc SH phóng như tên bay, lao vào chiếc xe ngựa ngược chiều. Nó và chiếc SH văng xuống vệ đường. Hình như tóc đỏ lửa còn sống, nhưng bị thương khá nặng, máu vãi trên mặt đường. Nàng hốt hoảng chạy về phía tóc đỏ. Hắn nắm tay áo nàng kéo lại "Đừng", rồi lôi nàng đi. Nàng thảng thốt. Mặt hắn sắt lạnh.
Con đường tịnh không bóng người. Tóc đỏ chợt kêu la ôi ối. Tiếng kêu của đứa trẻ mới vỡ giọng nghe như những mảnh thủy tinh cứa vào da thịt. Nàng giật tay ra khỏi tay hắn chạy đến. Có mấy người đi đường dừng lại. Hắn nhổ bãi nước bọt xuống mặt đường, bước đi.
Dưới ánh chiều sắp tàn, nàng chợt để ý cái gáy lấm tấm mồ hôi của hắn. Lần đầu tiên nàng nhìn kỹ hắn từ phía sau. Cổ hắn mập và ngắn tới mức hai tai sắp chạm vai. Nàng từng nghe nói, tướng mạo này là hạng nhiều tiền lắm của, nhưng cũng là kẻ chắc tay. Ba năm sống chung nàng đã thực hưởng điều đó. Nàng đâu có quan tâm. Chỉ mong được sống yên thân bên một người đàn ông bình thường, cho dù xấu hơn thế, miễn là người đàn ông. Hy vọng ngày nào đó, khi có con, mọi chuyện sẽ thay đổi. Đích thị sẽ có một gia đình thật sự.
Đêm. Hắn đưa tay tắt điện, đè lên thân thể nàng, chằm bặp, hôn hít vào chỗ kín. Hắn mải mê lặp đi lặp lại động tác. Bao lần như thế nàng không thể nhớ. Chỉ biết nàng đã phải chịu đựng đến căng người, hệt như bị con trăn khổng lồ trườn lên. Khi nàng rên rỉ cũng là lúc hắn lật ngửa người, phơi cái bụng chảy mỡ. Điều nàng muốn, hắn chẳng quan tâm. Nàng như thể rơi xuống hố sâu. Toàn thân căng cứng bởi khao khát bị chế ngự. Hắn co một bên chân mập ú xỏ vào chiếc quần lót rộng thình rồi bảo: "Thế đã, thế đã! Phải dành cho thời điểm tốt nhất". Thời điểm tốt nhất ư? Nàng bẻ gập chiếc gối che đầu, những muốn lấp kín bẽ bàng. Cũng để khỏi phải nhìn, hay nghe thấy những gì sắp diễn ra.
Hắn bước về phía chiếc két bạc. Tiếng chìa khóa tra ổ vang lên lạnh lẽo. Âm thanh lách cách của kim khí như mũi dùi xuyên thấu tận xương. Nàng xoay người vào phía tường. Có tiếng sột soạt lẫn tiếng lạch cạch quen thuộc. Cái dáng ngồi xổm của hắn trông cần mẫn đến tội nghiệp.
Điều không dễ nói
Bước sang tuổi sáu tám, ông Thành giao hết việc kinh doanh cho các con, lui về căn biệt thự ở ngoại ô nghỉ ngơi. Gần tuổi sáu mươi, bà Hoa vẫn đi chợ, thổi cơm cho chồng. Một hôm ông bảo vợ: "Bà phải tìm người giúp việc, bao nhiêu tuổi rồi mà cứ thích xách làn đi chợ, ngày mấy bữa vào bếp thổi cơm, ăn xong lại phải rửa bát. Bà định làm việc ấy đến già hay sao?".
Bà Hoa nghĩ: "Vẽ chuyện, nhà có hai vợ chồng già, ăn uống đáng bao nhiêu mà phải mướn ôsin". Nhưng rồi bà vẫn chiều theo ý chồng. Bà ướm hỏi:
- Ông định thuê người thế nào?
- Người thế nào thì bà phải biết chứ, cốt sao họ khỏe mạnh, chăm chỉ và biết nghe lời.
- Vậy bảo cái Na cháu ông ở quê ra làm nhá!
Ông lừ mắt:
- Bà hay nhỉ. Mình thuê người hầu, cái Na nó là cháu, bắt nó hầu sao tiện. Bà cứ tìm người dưng, mình sai bảo thoải mái.
Chỉ một tuần sau, dưới quê giới thiệu cô Đào lên làm ôsin cho chủ doanh nghiệp Thành Hoa. Khi tìm được ôsin, bà Hoa cũng bắt đầu vui chơi theo chúng bạn. Chiều chiều bà mặc áo phông, quần sóc trắng, đi giày thể thao, vác vợt đến câu lạc bộ. Tối bà mặc váy lửng đi giày cao gót đến sàn khiêu vũ. Gặp người quen bà cười nói rổn rảng.
Một hôm bà từ sàn nhảy trở về, thấy cửa phòng chồng đóng chặt, bên trong có tiếng quật quã, đèn vẫn sáng. Bà đập cửa thật mạnh, gọi to:
- Ông Thành, ông làm gì trong ấy? Con Đào đâu?
Lát sau cửa mở. Chồng bà cởi trần, mặc mỗi chiếc quần đùi, nằm dạng chân trên giường. Cô Đào khép nép bên cánh cửa. Đảo mắt qua, bà quát:
- Các người làm gì thế này? Định ăn vụng à? Láo toét!
Vẫn nằm trên giường, ông Thành nói vọng ra:
- Bà đừng suy bụng bà ra bụng người nhá. Bà đi nhảy nhót tôi có cấm bà đâu. Tôi đây đang tập thể dục, gân cốt rệu rã hết rồi, nhờ cô Đào cô ấy mátxa cho máu huyết lưu thông, chứ làm gì mà bà bảo ăn vụng. Bà mới là người láo toét - Rồi ông nghiêm giọng - Cô Đào đâu, vào làm tiếp đi, còn phía lưng, cô đã xoa bóp đâu.
Bà Hoa trợn mắt định chạy lại bên giường, thì ông ngồi phắt dậy, quát:
- Bà đi ra, để cô ấy làm việc.
Đào đứng yên không nhúc nhích vì đôi mắt bà chủ đang long lên như muốn giội lửa xuống người cô. Ông chủ gắt:
- Cô muốn bị đuổi việc à?
Bà chủ sầm sầm bước ra khỏi phòng, quăng lại một câu đắng ngắt: "Mày cứ xoa cho ông ấy mạnh vào".
Ngay sáng hôm sau, bà xỉa tiền trả hết tháng lương cho Đào, bảo cô trở về làm ruộng. Ông Thành bực lắm nhưng đành chịu. Mấy ngày sau ông dịu giọng bảo bà: "Phải nghĩ thoáng ra một tý. Tôi còn trai trẻ gì đâu, gần bảy mươi tuổi rồi, sức lực đã dành cho bà hết. Nếu bà không bằng lòng cho ôsin nó mátxa cho tôi thì tôi ra nhà hàng đấy, đừng trách nhá". "Được, ông cứ ra nhà hàng cho khuất mắt. Đừng làm cái trò ma ăn cỗ trước mặt tôi
Ông cười nhạt: "Đúng là đàn bà, vừa dại vừa ngu. Cái con bé nhà quê ấy nó đấm bóp cho chồng thì ghen, còn ở nhà hàng các em mắt xanh mỏ đỏ nó âu yếm, rồi nó nắn bóp thì lại ưng. Được! Nếu một tuần nữa mà bà không tìm cho tôi con hầu khác thì tôi sẽ đi ra hiệu mátxa. Đừng có tức". Câu nói này làm bà hoang mang. Bà tự nhủ: “Nếu để ông ta đi nhà hàng thì cái bọn cave nó sẽ nặn cho cạn túi, mà lại mang tiếng với thiên hạ”. Bà bảo: "Này, thế vợ ông không biết đấm bóp hay sao? Ông mỏi những chỗ nào, tôi sẽ…".
Bà chưa nói hết, ông cắt ngang: "Bà muốn làm việc của ôsin à? Rõ vớ vẩn. Để chúng nó đấm bóp cho chồng, còn mình đi nhảy cha cha cha có hơn không. Nghe nói bà nhảy đẹp lắm. Nói cho bà biết, đừng có ghen tầm phào như thế. Tôi mà giăng hoa thì đã giăng hoa lâu rồi. Bây giờ bà không chiều ý tôi là tôi kiếm bồ nhí, đẻ thêm đứa con trai, bà còn thiệt đơn thiệt kép". "Tôi thách ông đấy". "Thách hả? Nhớ nhé, đừng có khóc khi phải chia tài sản ra thêm mấy phần".
Bà Hoa phàn nàn cùng các con: "Giờ bố mày đổ đốn như thế đấy, cứ phải ôsin đấm bóp mới nghe". Các con thoáng hơn, chúng khuyên can: "Mẹ nên chiều bố một chút. Các cô ấy đấm bóp thì đã sao. Sức khỏe của bố mới là quan trọng". Không lâu sau bà Hoa tìm được ôsin mới. Cô này khoảng 40 tuổi, người nhỏ nhắn, trắng trẻo, là phụ nữ đơn thân, yếu đuối và chậm chạp. Chỉ sau hai ngày, ông Thành đã cho nghỉ việc.
Ông bảo vợ: "Bà đừng chơi khăm tôi nhá. Cái con ấy nó biết làm gì, quét cái nhà không sạch, cơm nó nấu nhão nhoét, bà ăn có ngon không. Tay nó lạnh như tay người chết, động vào tôi, gai ốc tôi nổi hết cả lên". Người thứ ba đến làm việc được mấy ngày, chưa bị ông bà chủ đuổi, cô ta tự ý xin thôi với lý do: "Cháu tưởng chỉ thổi cơm, lau nhà với giặt quần áo thì cháu làm được, còn xoa bóp cho ông chủ thì cháu chịu". Đang bí bách thì có người mách, cô Khương ở làng Bì đang tìm việc. Bà Hoa cùng con gái lớn đến ngay làng Bì. Khương đắn đo một lát rồi vui vẻ nhận lời:
- Cháu đồng ý, nhưng cháu nói trước, ông bà là chủ lại lớn tuổi hơn, có quyền bảo ban cháu, nhưng nếu xúc phạm cháu là cháu bỏ việc đấy.
Bà Hoa xuề xòa:
- Sao có chuyện ấy, cháu giúp bác thì cháu cũng là thành viên trong nhà, bác coi như người ruột thịt, không phân biệt như nhà khác đâu.
- Vâng, cháu mong được như thế, hàng tháng cháu muốn được ứng trước nửa số tiền lương.
Điều này bà Hoa không thích lắm, nhưng cũng gật đầu:
- Được rồi, lĩnh trước cả tháng cũng được, miễn là cháu làm tốt. Vậy mai cháu đi làm ngay nhé!
Lúc về bà Hoa bảo với con gái:
- Con bé này gớm thật, nó dám mặc cả mặc lẽ, có việc mà làm, có cơm mà ăn là tốt quá rồi, còn tinh tướng.
Cuộc thỏa thuận giữa mẹ con bà Hoa với cô Khương tưởng đã suôn sẻ, thế mà sau một tuần làm việc, cô nằng nặc xin nghỉ. Ban đầu, bà bảo Khương sáng đi chợ, thổi cơm, chiều dọn dẹp nhà cửa, thế là hết việc. Bây giờ ông chủ yêu cầu Khương phải nán lại tới chiín giờ tối để xoa bóp thêm phần bụng cho ông. Đó là việc mới phát sinh. Cô bảo: "Cháu tưởng chỉ làm từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối thôi, chứ tới 9 giờ thì cháu về với con cháu vào lúc nào. Hơn nữa việc này bà không thỏa thuận trước với cháu".
Ông chủ bảo: "Cô có thể về nhà vào buổi chiều, còn tối thì phải ở đây. Tôi tăng cho cô năm trăm ngàn tiền lương nữa". Bà chủ lừ mắt: "Tăng cái gì! Cô ra ngoài kia mà hỏi mấy bà bán phở, bán xôi buổi sáng xem các bà ấy dậy từ mấy giờ, kể cả các bà bán rau dưa cũng thế, đều phải dậy từ ba giờ sáng, đạp xe ra đầu cầu, tranh cướp nhau để có rau tươi, về ngồi bán lẻ cả ngày. Cô hỏi họ xem mỗi ngày họ lãi bao nhiêu, một tháng có bằng nửa lương cô không?".
Khương nhũn nhặn: "Vâng, cháu biết lương của cháu cao hơn mấy bà bán rau. Nhưng cháu không muốn làm nữa, tối cháu phải ở nhà với con cháu. Ông bà thuê người khác vậy". Bà chủ ức lắm, định bảo: "ừ mày về thì về. Vô khối người thất nghiệp kia, muốn xin làm mà tao đã nhận đâu". Ông chủ nghiêm giọng: "Cô Khương ạ, cô cứ nghĩ kỹ đi, chúng tôi chẳng ép cô đâu. Đây là chúng ta thỏa thuận.
Nếu cô thấy thỏa đáng và có lợi thì cố gắng mà làm. Năm trăm tôi tăng thêm ấy, cô trích ra độ hai trăm, nhờ bà thím hay bà bác tối sang ngủ với các cháu. Nói gì thì nói, cô phải biết rằng giúp việc vợ chồng tôi ở đây là cô sướng gấp trăm lần các bà bán rau. Đừng làm cao quá". Khương đồng ý ở lại. Cô cũng tính toán chi li. Vậy tổng số tiền lương của cô là hai triệu rưỡi, cũng là cao so với những người lao động bình thường khác.
Đúng như ông chủ nói, làm việc ở đây tiếng là hầu hạ người ta, nhưng còn dễ chịu hơn hồi ở Đài Loan nhiều. Và cũng còn hơn đi làm chỗ khác, vì hàng ngày cô còn tranh thủ về nhà được vài tiếng, mua thức ăn cho các con và nhắc nhở chúng học bài. Bà chủ tuy tiếc năm trăm ngàn nhưng rồi cũng êm xuôi, vì Khương nhanh nhẹn, tháo vát, đi chợ ào một cái đã về, mua con tôm con cá nào cũng tươi roi rói, cân cam cân quýt đặt lên cân lại, chỉ thấy tươi chứ không đuối hoa nào.
Có lúc bà nghĩ, con người sành sỏi thế này, sao phải đi làm ôsin nhỉ. Lúc vui chuyện, bà hỏi dò, Khương ý tứ trả lời: "Cũng do số phận thôi bà ạ. Để đi lao động bên Đài, cháu phải vay mất bao nhiêu tiền. Mới được hơn một năm thì ở nhà chồng cháu không may mắc trọng bệnh, chữa mất khối tiền, rồi anh ấy mất. Thế là cháu phải bỏ dở hợp đồng lao động, về trông nom hai đứa con. Cháu về đến nhà chỉ còn hai bàn tay trắng. Số tiền vay đi lao động vẫn còn nợ nguyên. Hoàn cảnh vậy nên… ai thuê gì cháu cũng làm". Bà nghĩ bụng: "Thảo nào mày tham thế. Phải thêm mấy trăm ngàn mày mới nghe".
Việc cơm nước chợ búa Khương thạo đã đành, việc mátxa cho ông chủ Khương còn thạo hơn. Khương biết xoa, biết day, biết ấn vào những chỗ nào để người được xoa sảng khoái. Trước mặt bà chủ, cô cứ day, cứ ấn thoải mái vào các huyệt, các khớp của ông, rồi lật trở ông bên này, bên kia, xem ra rất đúng nghề mátxa. Những ngày đầu bà vẫn ngủ chung phòng với ông, ngồi xem cô mátxa, hơi chướng mắt nhưng không tức.
Bà chép miệng: "Thôi mặc ông ấy. Nó khỏe, chứ mình có mà rã tay". Sau bà chuyển sang buồng bên cạnh để ngủ cho yên giấc. Còn ông chủ thì khỏi phải nói. Ông cứ thầm cảm ơn vợ và con gái đã tìm cho ông một con hầu "hết ý". Lúc đầu Khương xưng cháu, sau thấy họ gọi mình là con, cô cũng xưng con, vì cô chỉ lớn hơn con trai ông vài tuổi. Lần đầu tiên ông Thành bắt cô dậy lúc ba giờ sáng để xoa bụng cho ông, cô ngần ngại, đã vậy ông lại cứ bắt cô day mạnh từ rốn xuống dưới.
Cô rụt rè, ông mắng: "Cô đừng có nghĩ bậy. Tôi là ai thì cô biết rồi đấy, vợ tôi còn hơ hớ, với lại tôi rất nhiều tiền, muốn cô tiên nào mà chẳng được. Tôi thuê cô làm việc này là vì tôi bị táo bón, đi ngoài rất khó. Bác sĩ bảo phải chịu khó xoa bóp bụng để tiêu hóa dễ hơn. Cô thông chưa?". Khương nghĩ, nếu chỉ có vậy thì mình làm được, so với hồi ở Đài Loan chuyên lo việc lau chùi đại tiểu tiện cho hai ông bà già thì việc này còn sạch sẽ hơn nhiều.
Vậy là Khương yên tâm xoa bụng cho ông chủ mỗi tối nửa giờ, có hôm đến hàng tiếng, khi nào ông bảo thôi mới được nghỉ. Ông chẳng ngượng ngùng gì, thản nhiên bảo: "Mày muốn làm thế nào thì làm, cứ sáu giờ sáng tao phải đi ỉa được, phải tống hết chất bã ngày hôm qua ra".
Có lần Khương xin nghỉ mấy ngày, về mãi dưới quê, cả ông và bà đều thấy hẫng hụt. Việc bếp núc ngày xưa giờ trở nên xa lạ, bà nấu canh chua thành canh mặn, tỏi ớt chẳng biết nó chạy đằng nào. Còn ông thì lửng thửng như người tương tư. Ông nhớ bàn tay ấm nóng của Khương, nhớ cả mùi mồ hôi nồng nồng, riêng biệt của cô. Khương vắng mặt ba ngày, ông bảo: "Bà xem số điện thoại của con hầu ở đâu, gọi nó về đi". "Nó xin nghỉ những năm ngày cơ mà". Ông quát: "Năm sáu gì. Cứ gọi nó về".
Khương biết thân phận của mình, cố gắng không để ông bà chủ chê trách điều gì. Hàng xóm đã quen cứ tầm hai giờ chiều thấy Khương áo phông, quần bò, kính mát, phóng xe máy vèo qua (ông Thành cho phép cô được dùng chiếc xe máy cũ của ông), oách như bà chủ doanh nghiệp trẻ. Họ xì xào: "Con này là phò chuyên nghiệp của nhà triệu phú", người khác bảo: "Có khi là vợ bé của ông ta, phò gì mà đi đâu cũng kè kè bên cạnh".
Việc chính của Khương là chợ búa, cơm nước, nhưng mỗi lần đi làm từ thiện, hoặc đi thăm nơi này, nơi khác, ông Thành đều bắt Khương lên ôtô đi cùng. Tiếng đồn đến tai, bà Hoa bảo ông: "Ngày xưa ông vẫn đi một mình, giờ sao phải dắt díu". Ông bảo "Tôi cho nó đi để nó điếu đóm, chả lẽ tôi bắt bà làm việc ấy à?". Người bạn thân nhất nghe bà phàn nàn, liền cười phớ lớ: "Ôi dào, nó đi đâu với chồng bà thì cũng chỉ là con hầu, đứa ở. Nó là thứ hoa bìm, hoa muống ngoài bờ dậu, chứ hoa hồng, hoa cúc đâu mà bà phải bận lòng".
Biết vậy nhưng thấy Khương ngày một béo hơn, trắng hơn và trẻ hơn, bà càng thấy gợn lên điều bất ổn. Các cụ bảo "mỡ treo miệng mèo, làm sao nó từ". Bà kéo Khương vào phòng riêng, nói như ra lệnh: "Từ nay khi xoa bóp cho ông ấy, mày phải mặc quần áo bảo hộ lao động, không được mặc áo phông, quần lửng nữa". Và bà lùng mua kỳ được hai bộ quần áo xanh công nhân, bắt Khương mặc hằng đêm. Khương phải làm theo. Với trang phục ấy, thao tác xoa bóp vất vả hơn nhiều. Dù có máy điều hòa, mồ hôi cô vẫn đầm đìa lưng áo.
Rồi cái gì phải đến đã đến… Hôm ấy Khương đang nhẹ nhàng xoa vùng bụng dưới cho ông, đột nhiên ông vùng dậy ôm chầm lấy cô,vật xuống giường. Khương hét lên. Ông vội buông tay ra. Khương nhảy khỏi giường, nghiêm giọng: "Ông làm thế, con lại xin nghỉ việc". Ông Thành bần thần rồi cười gượng: "Tao đã làm gì đâu… nhưng mà cô nên chiều tôi, chẳng mất gì…". "Không! Con mà muốn thế, thì con chẳng phải nấu cơm, rửa bát với đấm bóp cho ông thế này".
Ông lại cười nhạt: "ừ, tao cũng biết mày đứng đắn, chứ mày đã bán mình cho trăm thằng thì có nằm ềnh ra đấy, tao cũng chẳng thiết. Thôi, về ngủ đi, không ưng tao cũng chẳng ép". Câu nói ấy làm Khương yên lòng. Vài hôm sau ông lại bất ngờ ôm chầm lấy Khương. Cô kêu to: "Bà ơi, cứu con với!".
Ông hổn hển nói: "Mày cứ gọi bà ấy đi. Bà ấy mà đến bây giờ, lại chả xé xác mày ra, chứ cứu với vớt gì". Khương không sao chống lại được, đành chịu đựng. Sáng hôm ấy ông dậy muộn hơn mọi ngày. Khương khóc sưng cả mắt. Bà chủ hỏi: "Mày làm sao thế. Ong đốt à?". "Vâng! Con muốn thưa chuyện với bà, xin nghỉ việc từ ngày mai". Láng máng hiểu ra chuyện gì, bà nói: "Mày hỏi ông ấy chưa. Tao chả là cái đinh gì. Nếu ông ấy ưng thì mày nghỉ".
Khi nghe Khương xin nghỉ, ông Thành bảo: "Mày dỗi à. Gái hai con chứ trinh tiết đâu mà làm cao. Thôi, cứ ở lại làm, tao đền cho một triệu. Từ nay mỗi tuần cho tao một lần, tao đền bù xứng đáng". Nói rồi ông mở tủ, vứt một nắm tiền lại phía Khương. Cô lẳng lặng cầm tiền, đứng dậy.
Chờ hai ngày, không thấy Khương nghỉ việc như đã nói, bà Hoa nghi ngờ: "Phải làm sao con này nó mới khóc sưng mắt chứ, nó không nghỉ việc chắc vì thằng dê già ấy đã tống cho nó khối tiền". Tức giận, bà hầm hầm chạy vào phòng Khương, giật hết mấy cái áo phông, quần lửng vứt ra sân, tiện có đống vữa thợ xây đang làm dở, bà dầm hết đám quần áo vào đó. Khương đi chợ về, mấy người thợ xây vừa đẩy cô ra cổng vừa nói: "Tránh đi đã, bà ấy đang lên cơn điên đấy". Chờ cơn điên của bà chủ dịu xuống, Khương lẳng lặng lôi mớ quần áo đem giặt, cái thì sạch, cái thì đành vứt bỏ. Cô bặm môi, nuốt nỗi uất ức vào trong.
Một tuần trôi qua, tối nọ, Khương lại bị ông chủ vật xuống giường. Khương nhẹ nhàng bảo: "Đợi con vào toa lét một lát đã". Ông Thành nghĩ, con ngựa này thuần phục nhanh đáo để, mới có một lần đã quen rồi. Khi Khương quay lại, ông Thành đã trần như nhộng, cô nói to: "Ông tha cho con, con sợ lắm, bà biết chắc giết con mất".
Ông cười nhạt: "Sợ gì, bà ấy ngủ say như chết. Với lại bà ấy có vào đây, anh sẽ tống cổ đi. Sao chưa cởi quần áo ra, lại phải để anh lột như lần trước à?". Bỗng nhiên có tiếng động mạnh rồi hai cánh cổng sắt bị đẩy ra. Hai bóng đen thấp thoáng trong sân. Cùng lúc ấy có tiếng bà Hoa kêu thất thanh ở phòng bên: "Ông Thành ơi, cướp nó vào nhà". Rồi bà lu loa: "Con Khương! Mày đóng cổng giả thế nào mà lại mở toang thế kia?".
Lúc này, Khương đã được hai bóng đen dẫn ra ngoài. Ông Thành hoảng hốt vồ lấy điện thoại gọi cho con trai. Rất lâu sau mới có tiếng đáp lời ông. Tiếng cậu cả nồng đặc: "Nhà bị trộm á? Sao bố không gọi cho công an. Con đến thì làm được gì. Bố gọi ngay cho 113 đi. Mà thôi để con gọi". Đã bực càng bực thêm, ông lại quát vợ: "Sao bà dốt thế, không biết đường gọi hàng xóm, làm toáng lên chứ".
Hai ông bà còn đang trách cứ lẫn nhau thì xe cảnh sát 113 đã ập tới, bấm còi ngoài cổng. Đèn trong nhà, ngoài sân được bật sáng choang. Ông Thành lật đật chạy ra, bụng rủa thầm thằng con trai: "Nó làm rách việc, bọn trộm chắc đã chạy tám đời rồi còn đâu". Ông đành nói với cảnh sát rằng con trai ông hiểu nhầm, chứ chẳng có trộm cướp nào. Lúc lâu sau con trai, con gái ông mới kéo đến.
Con trai ông bảo: "Phải thuê bọn đầu gấu trị con phò này. Chắc nó thông đồng với bọn trộm. Nó có trốn lên trời cũng không thoát". Con gái ông gạt đi: "Thôi. Giờ nó đã cao chạy xa bay, có bắt được cũng chẳng ích gì". Cả nhà bàn bạc rất lâu, cuối cùng thống nhất phương án không cho nhiều người biết chuyện trộm đột nhập vào nhà giữa đêm hôm.
Bữa sáng hôm ấy không còn ôsin, bà Hoa thân chinh đi mua phở cho chồng. Bà nhô ra cổng vừa lúc cô công an trẻ giơ tay bấm chuông nhà bà. Sẵn bực dọc, bà gắt: "Cô làm gì đấy. Chuông inh ỏi, để yên cho nhà tôi ngủ. Có việc gì mà bấm chuông?". Cô công an đặt vào tay bà tờ giấy, trịnh trọng nói: "Công an phường mời ông bà lên trụ sở để giải quyết đơn tố cáo của cô Khương về việc chồng bà cưỡng bức cô ta". "Con Khương á? Giời ơi, nó vừa dẫn trộm vào nhà tôi, công an các vị phải bắt nó mang về đây cho tôi chứ, sao lại gọi nhà tôi lên trụ sở". Cô công an trẻ ôn tồn: "Có chuyện ấy à, vậy sao ông bà không trình báo? Cô Khương hiện đang có mặt tại công an phường. Mời ông bà có mặt đúng giờ ghi trong giấy này". Bà Hoa rụng rời, chạy vội vào nhà, gần như khóc: "ới ông ới, nó vừa ăn cướp vừa la làng, cuỗm được tiền rồi, nó lại làm đơn tố cáo mình đây".
Dù không muốn nhưng ông Thành, bà Hoa buộc lòng phải đến trụ sở Công an phường. Trước khi đi ông điện cho các con. Ông muốn các con ông có mặt đông đủ để gây áp lực cho công an, nếu họ tin lời tố cáo của Khương.
Vừa nhìn thấy Khương, bà Hoa chửi té tát:
- Cha tổ con phò, cha tổ con ăn cướp. Mày là đồ ăn cháo đá bát. Mày…
Cô công an trẻ nghiêm giọng nhắc nhở:
- Yêu cầu bà trật tự để chúng tôi làm việc. Bà không được ăn nói tùy tiện.
Nghe xong lá đơn tố cáo của Khương, bà Hoa ngồi chết lặng. Hóa ra mấy cái áo phông cũ bà vứt vào đống vữa, giờ nó tố cáo bà hủy hoại tài sản của nó. Còn cái việc ông ấy cưỡng bức nó thì bà bán tín bán nghi. Mấy đứa con ông bà đứng ngoài ngó qua cửa sổ, nhao nhao phản đối: "Nó nói láo". Ông Thành đứng lên, vẻ đĩnh đạc: "Cô đừng gắp lửa bỏ tay người nhé. Tôi bỏ tiền ra thuê cô đấm bóp chân tay cho đỡ nhức mỏi, mà cô dám vu khống là cưỡng bức sao. Cô thật không biết điều. Tôi đề nghị các đồng chí công an bắt giữ cô này về tội vu khống và tội ăn cướp".
Khương vẫn nhẹ nhàng: "Thưa ông bà, con là phận làm thuê, làm mướn. Nhưng con bỏ sức lao động để kiếm tiền chính đáng, chứ phẩm hạnh của con, tài sản của con, con phải giữ gìn. Các anh chị công an và ông bà cần bằng chứng, con có đây". Khương nhanh nhẹn mở máy điện thoại, bật băng ghi âm. Tiếng ông rõ mồn một: "Sợ gì, bà ấy ngủ say như chết… Sao chưa cởi quần áo ra, lại phải để anh lột như lần trước à?".
Các con ông Thành bảo nhau "rách việc rồi" và lần lượt bỏ về. Khương bỗng bật khóc, giọng tức tưởi: "Ông bà đừng cậy lắm tiền mà coi thường người khác quá đáng. Tôi nói để ông bà biết (giờ cô không xưng con nữa), khi chồng tôi còn sống, anh ấy yêu tôi nồng thắm, mà chuyện ân ái chưa bao giờ anh ấy dám ép buộc tôi. Vậy mà ông…". Cô khóc nức nở, dường như nỗi nhục nhã và uất ức ẩn sâu, giờ mới có dịp bung ra.
Khi người nữ công an bước ra ngoài, bà Hoa thút thít khóc, vừa khóc vừa chì chiết: "Hóa ra ông đã lừa tôi". Hình dung ngay cảnh ra tòa sẽ thế nào, bà Hoa nỉ non: "Cô Khương ơi, tôi xin cô. Chúng tôi biết chúng tôi sai rồi. Tôi thay mặt chồng tôi xin nhận lỗi với cô...". Khương đay đả: "Ông bà thông cảm cho. Bất đắc dĩ tôi phải làm thế để đòi lại danh dự của mình..
Ngõ hẻm
Về hẻm sâu này đã dăm năm, lại không thuộc típ người xông xáo nên cứ giờ tan tầm là Hãn về nhà với một lũ công việc không tên. Vợ Hãn sang Đức đã gần mười năm. Hai thằng con quỷ sứ, một thằng đang học năm thứ ba Trường Ngoại thương, một thằng năm nay sẽ thi đại học. Vợ Hãn tham tiền hay chính gã cũng tham tiền, không dễ khẳng định! Chỉ biết ba cha con gã chẳng mấy khi hết khó khăn…
Cô vợ, mấy năm nay thi thoảng lại gọi điện về. Lần nào Hãn nhấc máy cũng nghe tiếng than khóc, kêu khổ từ "bên kia thế giới": "Em nhớ nhà lắm, em khó khăn lắm" hoặc "Em mất hết rồi"… Nhiều lần, nghe lại điệp khúc ấy, vừa nãy cũng thế, Hãn quát lên trong máy: "Lần nào cũng kêu khóc than vãn… Nghe mãi chán rồi, khổ sao không về đi. Cô tưởng ba cha con tôi ở nhà sướng lắm à!". Rồi Hãn dập máy đánh cốp, mặt căng như mặt trống mới bưng!
Hãn trở ra salông, để nguyên cả giày, vật mình xuống. Không khí buổi sáng thứ Bảy yên tĩnh! Thi thoảng có tiếng xe máy, xe đạp văng vẳng. Nhà Hãn có một cái sân chừng hai chục mét vuông, dăm mét mới ra tới ngõ, và đó là ưu điểm duy nhất hợp với bản tính không thích ồn ã của gã. Đang mung lung trong dư âm bực bội về cú điện thoại khi nãy thì nghe tiếng đập cổng! Hãn bật dậy, ra sân. Tiếng cô hàng xóm nhanh nhảu:
- Anh Hãn ơi, có việc phiền anh đây.
Mở cổng ra là Hãn thấy ngay cái mặt "xưa như trái đất" của cô hàng xóm. Lấp ló sau vai cô là một thiếu nữ trẻ măng, bẽn lẽn cười hiền.
- Có việc chi đây! Sao hôm nay rảnh rỗi thế? - Hãn gắng gượng xã giao. Khi hai người phụ nữ đã yên vị trong nhà, cô hàng xóm cất giọng vào việc:
- Đây là Ngà, nhà ngoài phố, đầu ngõ mình. Thấy nhà anh có cái sân rộng, muốn thuê làm kho anh ạ.
- Thoải mái đi, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về an ninh đâu nhé. Ngõ mình bọn nghiện hút qua lại nườm nượp!
- Được rồi, được rồi…- Cô gái lạ vút cái trở lên nhanh miệng, giọng rất nhẹ! Bây giờ nhìn kỹ, Hãn thấy mặt cô này đã có nhiều nếp nhăn, ẩn khéo trong lớp son phấn. Cũng phải ba mấy rồi chứ không còn trẻ trung như lúc mới thấy.
- Anh yên trí đi, em chỉ gửi những cái xe máy cho hiệu cầm đồ ngoài phố nhà em thôi. Em không để anh chịu thiệt đâu anh à…
- Thì tôi cũng có nói thiệt hơn gì đâu! Ai chứ người quen của cô Nguyệt thì phải tin chứ! Mà nhà tôi có thứ gì quý đâu, nếu cần thì cả gian dưới này nữa đấy! - Hãn thật thà, có lẽ một phần thấy mặt mũi cô Ngà cũng không đến nỗi nào, duyên lặn là đằng khác…
Ngay sáng đó, Hãn trao cho Ngà một bộ chìa khóa cổng cửa, rồi Ngà và cô hàng xóm ào ào dắt một lũ xe máy vào sân, gần chục chiếc, trong đó có một cái Spacy còn khá mới…
Buổi trưa, hai thằng con của Hãn vừa vào sân đã trố mắt:
- Bố ơi, nhà mình hôm nay nhiều xe thế?
- Cô Ngà cầm đồ ngoài phố gửi đấy, các con ra khóa, vào cũng phải khóa cẩn thận đấy! Của người khác cũng phải có ý thức như của mình, đừng để mang tiếng.
Hai thằng con miệng vâng vâng, dạ dạ nhưng mắt thì sáng lên như đèn. Chúng tủm tỉm nháy nhau ra điều đã thấy "anh bố mình có gì thay đổi đây"…
Chiều tối, cô Ngà lại dắt thêm vài chiếc xe mới vào "nhập kho". Cô vừa tạt vào nhà ngồi, dăm câu ba điều với "anh chủ kho" cho phải phép, điện thoại cầm tay của cô bỗng nổi nhạc "ính eeng". Một lát nghe Ngà nói với chủ máy bên kia: "Đúng rồi, cái Spacy hả…, mở cốp xem hả… được rồi, để cô xem…". Ngà đứng phắt dậy, ra sân, mở túi xách tìm chìa khóa, mở cốp cái Spacy… Ngà bỗng ồ lên một tràng như vỡ òa cảm xúc:
- Anh ơi, ra mà xem này, toàn đô là đô…
Hãn tò mò ra sân, nhìn qua vai cô Ngà thấy cái gói nilon nhỏ, lờ mờ sập tiền Mỹ dưới đáy cốp. Ngà mang vào nhà, giở ra đếm đi đếm lại, đúng chẵn mười ngàn! Ngà lại bật điện thoại: "Vẫn còn y nguyên mười ngàn cháu à. Bố cháu tới lấy luôn hả? Từ từ để cô ghi họ tên và số chứng minh bố cháu. Thế cháu đang ở đâu. Trời ơi là trời…Cửa Lò à? Bố tiên sư mày, còn cười à, con gái với chả con lứa. Yên tâm với cô Ngà đi…". Ngà cụp máy, quay ra nói với Hãn:
- Con với chả cái, chơi bời đến thế là cùng, đặt xe lấy mươi triệu đi hú hí với trai mà không biết trong cốp xe bố cất hơn trăm triệu…
*
Việc cô Ngà suôn sẻ với cái "sân kho" nhà Hãn đã mấy tháng. Hãn biết thêm, cô Ngà đã ba bảy, chưa chồng, sau một lần thất tình… Bỏ việc công nhân nhà máy dệt mồng tám tháng ba, về xoay đủ nghề. Bây giờ ngoài quản lý cửa hiệu cầm đồ còn kiêm cả "thư ký lô đề", mà hiếm khi dám đi chơi xa vì tiếc tiền: "Ai cho mình mỗi ngày mấy trăm ngàn đồng hả anh! Mỗi ngày chỉ mất vài tiếng thu tiền, nộp bảng, sổ sách… vào cuối chiều, tội gì…". Tỉ tê tháng ngày, Hãn đã hiểu thế nào là lô, thế nào là đề… nhưng bản tính gã vốn nhút nhát, chỉ theo dõi và nghiên cứu chơi chơi thôi chứ chưa hề tham gia bao giờ, và vì có dịp này, Hãn "hiểu thêm… đời những con người thị dân trong vòng xoay đô hội…!".
Từ bao giờ ánh mắt, nụ cười, đến giọng thưa lời gửi của Ngà khiến Hãn tự nhiên thấy gần gũi… đồng cảm… Hãn không lấy tiền thuê sân nên Ngà không biết tìm ra cách "tế nhị" nào để "bù đắp"! Hai thằng con vẫn học hành tiến bộ, mà từ dạo có cô Ngà lui tới, chúng phấn chấn ra mặt, nhất là thấy cửa nhà luôn gọn gàng sạch sẽ. Cô Ngà hay "ngứa mắt" khi thấy cảnh bừa bộn! Rồi từ lúc nào chẳng rõ, cô hay đỏ mặt hơn, thỉnh thoảng cô ra chợ làm một bữa ăn tươi mà cả ba bố con nhà Hãn thấy "có phần vui vẻ hợp lý"…Thỉnh thoảng Ngà mời cả vợ chồng cô hàng xóm dẫn mối sang làm tý cay cay rồi cùng "ba hoa xít tốc" chuyện trong ngõ ngoài phố.
Một ngày thứ bảy, hai thằng con Hãn đi thăm ông bà ngoại trên Bắc Ninh. Quãng gần trưa Ngà lại dắt cái Spacy của con bé "dại trai" bữa trước vào cổng. Thấy Hãn có nhà, cô mở cửa bước vào:
- Lại con bé Hương Ly, bố nó làm lãnh đạo Hải quan thành phố mà; lắm tiền nhiều của lại càng "ham công tiếc việc". Không cầm cho nó cũng khổ, uy tín lớn về cái lần mười ngàn đô trong cốp dạo nọ… nên nó còn mách cho một lô bạn bè con VIP tới… Hai thằng nhà anh hôm nay đi đâu?
- Chúng lên thăm ngoại từ sáng rồi em ạ!- Hãn trả lời.
- Thế anh ăn gì chưa?
- Anh ăn phở lúc sáng rồi.
- Em ra chợ nhá, anh thích ăn gì để em mua nào? Hôm qua em vừa trúng quả, có một con bạc sộp, chơi một dàn lô hơn chục triệu, tối đến tịt hết, chủ đề cho em hẳn một triệu, chưa kể hoa hồng… Mà dạo này thu nhập từ cửa hàng cầm đồ cũng khá, bạn bè con Hương Ly cắm xe liên tiếp anh à!- Ngà vừa nói vừa long lanh mắt nhìn Hãn.
- Ăn gì chẳng được, em ăn gì anh ăn nấy, anh "dễ nuôi" mà - Hãn hì hì cười. Không khí hôm nay mát mẻ, ngõ hẻm im ắng! Sẵn rượu "tắc kè ngâm" trên tủ, Hãn lôi ra chẳng hỏi han, rót đầy hai ly, giọng lưỡi ra chiều cám cảnh:
- Rượu ngon mà thiếu bạn hiền em ơi… Nâng cốc cho đỡ sầu nào - Ngà toét miệng cười, tự nhiên cũng cao hứng một trăm phần trăm… đến mấy ly liền. Tới khi mặt mũi hai kẻ "cô đơn" đều đến độ tưng bừng, Hãn mạnh dạn "phát biểu":
- Sao em không lấy chồng đi, Ngà?
- Ai lấy em bây giờ?
- Đầy thằng muốn mà!
- Bậy, những thằng tốt mà em thích thì chết hết cả rồi, bây giờ em chỉ mong có một đứa con gái, chẳng cần chồng cũng được!
- Láo! - Hãn đỏ mắt nói.
- Em mà nói láo thì em làm con… cún, hê hê!
- Thế thì anh, anh cũng đang mong một đứa con gái đây, nhưng chưa có chỗ… gửi! Ha ha…- Hãn cười như thằng ngớ ngẩn, mặc dù rượu đã bắt đầu ngấm nhưng gã vẫn thấy ngượng khi nói câu ấy. Còn Ngà thì lập tức chuyển ghế, nhào sang ôm lấy cổ Hãn, cô gắn môi mình vào môi Hãn chặt đến nỗi làm Hãn ngạt thở phải đưa tay cù vào nách Ngà làm cô nhột quá ngắt ra… Cả hai cùng cười! Rồi họ lại sà vào nhau, ôm ấp ve vuốt… Say khướt cả lũ, họ bỏ bê mâm bát, dìu nhau lên gác… Cả hai đều là loại "tiên tửu". Cứ thế, họ để nguyên cả quần áo dày dép ôm nhau ngủ. Trong mơ, Hãn thấy mình đang ôm một cô gái! Rồi bàn tay cô gái vuốt ve mặt gã… Choàng tỉnh giấc, Hãn thấy Ngà đang trong tay mình, nàng đắm đuối nhìn… Không ai nói với ai thêm câu nào, hai kẻ "thiếu đói" như bị ma ám tự lột hết áo quần… Tấm thân nõn nà tròn trịa, săn chắc của người phụ nữ lỡ thì đã đưa Hãn lên "chín tầng mây, mười tầng trời… "lúc nào chẳng rõ!...
Một năm trời trôi qua, từ cái lần sân thành "bãi cất xe máy", hai thằng con nhà Hãn ngày càng thích nhỏ to, thì thào với cô Ngà!... Rồi bẵng mấy ngày không thấy thằng lớn về nhà! Hãn đã phát huy hết khả năng thông tin mình có, vẫn chẳng tăm hơi…Chiều tối, Ngà vác cái bụng đã kềnh càng vào nhà, mặt chảy ra, ngập ngừng:
- Em có tội với anh rồi anh ơi… Em đã tin vào giải trình đi buôn đĩa của thằng Phước… Nó đang học đại học Ngoại thương mà…Bị bắt và mất hết trên Lạng Sơn rồi… hu… hu!- Ngà khóc thành tiếng khi đã đóng kín cửa - Bây giờ biết làm sao hả anh ơi? tiền em cũng mất hết vào "dự án" của thằng lớn rồi…
Nước mắt Ngà trào ra. Hãn lảo đảo như say rượu… Tiếng reng reng điện thoại bàn lại nổi lên. Hãn uể oải lê ra phía máy, nhấc tai nghe, đầu dây bên kia lại giọng cô vợ từ bên Hămbuốc: "Anh ơi, lần này thì phải về thật, em lại mất sạch rồi, chỉ còn đủ tiền vé máy bay bay về thôi, ngày kia em về nước!”. Hãn buông cái tai nghe rơi đánh "đốp" xuống nền gạch!
Ngoài hẻm nhỏ, không một tiếng động nhỏ! Mùa đông lại đang về
Không hẹn mà gặp
Xóm núi gồm mươi nóc nhà bình lặng yên ả, nằm sát chân ngọn Mẫu Sơn, dân chưa đủ đầu người phục vụ chạy vặt cho nhu cầu khu du lịch bờ biển sát nách đó. Giặt chăn ga gối đệm, chợ búa đón hải sản tươi sống, phục dịch nhà buồng, nhà bàn, chạy xe ôm đưa đón hàng từ khách sạn này sang nhà nghỉ kia, thường trực hăm bốn trên hăm bốn... Ôi a, trăm thứ việc không tên làm sao kể xiết.
Trong số những cư dân bản địa nhao ra kiếm sống ở khu du lịch biển có Ty. Cái nghèo đẩy Ty ra đó từ rất sớm, khi Ty mới ngoài hai mươi, một nách hai con thơ, quần lúc nào cũng xếch ngược một ống.
Ty vốn tên cúng cơm là Tỵ. Sợ xấu thị bỏ bớt dấu nặng từ hồi dậy thì, biết làm dáng. Nhưng Ty không hiểu các mỹ nhân tuổi Tỵ rất có duyên thầm. Duyên thầm đến nỗi Ty sập bẫy ngay khi chưa học xong lớp tám. Gia đình vội cho làm đám cưới qua quýt với anh thợ xây, chuyên đóng cọc móng, nhà cùng xóm, tên Nang. Qua quýt cũng để Ty mau chóng còn tới hộ sinh xã, cho ra đời đứa con gái đẹp như ngọc nữ. Đứa bé may mắn không bị vứt vào bờ bụi là phúc cho nó.
ở chốn sơn cùng thủy tận, với anh chồng khỏe mạnh hơi đần đù, ngày đêm chỉ biết cắm mặt quai vồ đóng cọc móng thật lực, nếu Ty không khéo đảm đang, có mà rã họng sớm. Đóng cọc móng tính ba ngàn một đầu cọc tre, gặp lớp đất thổ cư rắn đanh cứ gọi bỏ bố. Ráo mồ hôi hết tiền. Chưa biết chừng phát ho lao, tiền thuốc không đủ cứu, nói gì nuôi vợ con?
Nhưng được cái tiến độ xây dựng khách sạn nhà hàng khu du lịch biển đang leo thang vùn vụt. Nhờ vậy Nang làm không thấu việc. Những ngày ấy hai đứa trẻ một trai một gái nhà Nang -Ty ăn thịt nhờn mép, cười khanh khách, đùa nghịch suốt ngày. Nhưng sau một đận Nang bị sưng gan nặng, thằng bố vai u thịt bắp bắt buộc phải bỏ nghề quai vồ, hai đứa con không quen sống kham khổ, cũng giống hệt bố chúng ruồi bâu mép chả buồn đuổi.
Bấy giờ tất cả gánh nặng đổ lên đầu người đàn bà. Nuôi ba cái miệng ruồi đậu đó, chưa kể thuốc men, Ty quay như chong chóng. Thị bỗng trở thành người khổng lồ dưới cái lốt mảnh mai nhỏ nhắn đến tội nghiệp. Vừa thấy thị cất rượu cho quán cơm bình dân, lại đã thấy thồ sò huyết, dưa hấu cho khách sạn cuối bãi, rồi tranh thủ nhận chở mấy xe cải tiến gạch trong xóm, trước khi bịt khăn nửa mặt quét vôi ve ở hiệu cắt tóc mới mở.
Có người nửa đùa nửa thật bảo:
- Làm đến phát cuồng phát dại thế, chả mấy nỗi tò tí te mày ơi!
Đừng hòng, giời nghiệt ngã chưa cho phép thị được hưởng ân huệ tò tí te đâu. Ngược lại càng bắt thị phải khỏe để gánh tiếp tội nợ. Cứ xem, tuy nhịn miệng nhường chồng con, người ngợm thị vẫn thon thả, bắp thịt tròn lẳn, săn cứng tựa củ sắn cái, trông ngon mắt đáo để.
Không thế tha lôi sao nổi tạ tư đến tạ sáu gạo mỗi buổi sáng, bằng cái xe đạp thồ rệu rão, rồi những leo lên dốc, tụt xuống dốc con đường xóm núi gập ghềnh? Chiều đến, nhọ mặt người mới thấy thị đèo hai thùng nước gạo đầy khự, mua gom tại các quán ăn về nuôi đàn lợn hơn chục con ở nhà.
Hai giờ sáng, thị lại mắt nhắm mắt mở ra chợ tạm đón sọt nấm rơm. Chợ tạm ngay chân cầu Rào, nơi người ta đổ về mua cất hàng từ nửa đêm gà gáy. Chưa tỏ mặt người chợ đã tan. Mua mười sáu bán mười tám. Thế này, chỉ ngót giờ đồng hồ sau, riêng khoản nấm thị cầm chắc năm chục tiền lãi trong túi. Giao xong sọt nấm, quay xe về cửa hàng xay xát chở gạo cũng vừa.
Hôm nay những ai gọi gạo nhỉ? Nhất định buổi trưa tranh thủ ghé qua nhà Thắm chọn sách vở cho lũ trẻ vào năm học mới. Chết thôi, sắp mất đứt tiền triệu cho năm học mới. Lấy đâu ra bây giờ. Chả nhẽ không cho thằng cu Đang đến lớp. Nó háo hức chờ đợi cả tháng nay đấy...
- Này, con mẹ Phương đang nhờ tao thuê hộ người đến giặt giũ cho nhà nghỉ Thiên Phương đấy - Noàn, bạn chợ Đêm với Ty mách nước - Tí về chợ, rẽ vào gặp mụ ấy xem.
Nghe đến công việc thị lập tức tỉnh như sáo. Chờ mua thêm ít khoai tây, thị phóng xe về ngay khu du lịch bãi biển cách cầu Rào gần hai chục cây số.
Sau khi trả khoai, trả nấm, phân phối tạ tư gạo khắp thị xã, thị mới ghé vào nhà nghỉ Thiên Phương, dè dặt hỏi thăm:
- Bà chủ có nhà không, các cô ơi!
Các cô đây là mấy em chân dài, buổi sáng chưa có việc làm, còn ngồi cả dãy rỉa lông rỉa cánh, đón hàng quà đi rong.
Tức thì một người đàn bà phốp pháp, mặt bự son phấn từ gian trong đi ra, hách dịch hỏi:
- Hỏi gì?
Thị biết ngay đấy là bà chủ.
- Thưa bà, người ta mách nhà nghỉ cần người giặt giũ, có phải không ạ?
Thị rụt rè hỏi, vừa kín đáo quan sát cái mặt bự thịt, đôi mắt hơi nhỏ, hai cánh mũi khoằm diều hâu phập phồng như đang ngửi thị dò xét.
- A, đúng rồi. Vậy em vào đây. Dựa xe vào gốc cây bên đường kia kìa.
Ty không ngờ cái giọng bà chủ lập tức ngọt ngào dịu dàng. Bà ta còn đưa bàn tay mũm mĩm sực nức nước hoa vuốt lên vai áo Ty.
- Nói nhanh với em nhá, nhà hàng cần người giặt giũ đầu tầm sáng, cuối tầm chiều, cơm một bữa trưa, không giải quyết ngày nghỉ, ngày lễ. Lương triệu ba, nhận được thì nhận em ạ. Khối người muốn làm nhưng tôi cần người thật thà, xốc vác. Làm việc tốt mỗi tháng lương còn được thưởng thêm dăm bảy chục. Nhà lại có máy giặt, không nặng nhọc gì lắm
Đoản mệnh
Không hiểu sao lão như vậy mà lãnh đạo chẳng có ý kiến gì. Bởi vì lãnh đạo cũng ăn đủ ở lão rồi. Lão lại có cái tài o bế, lão chăm sóc lãnh đạo khéo léo tới mức chẳng ai nghĩ đấy là nịnh, mà họ chỉ nghĩ rằng, đấy là sự thân thiện, cởi mở và chân thành. Thế rồi cứ cái đà đó, lão xin đi học nâng cao, để mong được bằng bạn bằng bè, để được đề bạt…
-Cô có ra mà lau mủi cho con bé đi không, nhìn mủi dải nó thế mà cô đứng đó trang điểm à? - Cái giọng khê nồng của lão làm cô vợ khó chịu.
Giọng cô ta đanh lại:
- Ông có bỏ ngay cái giọng khu bốn đẩy ra khu ba đẩy vào đó đi không? Ở Hà Nội mấy chục năm rồi mà vẫn cứ mủi, dải…
Rồi cô ta cong cớn:
- Ông đi mà lau. Giờ về hưu rồi thì chỉ còn mỗi một việc ở nhà trông nom con bé và đưa nó đi mẫu giáo. Làm sao có lau mũi mà không làm được. Tôi còn phải chuẩn bị đi làm. Thích vợ trẻ à? Thích có con để trói à? Đây chẳng trói đứa nào thì thôi, chứ đừng nghĩ trói con này.
Vẫn cái giọng đay nghiến:
- Trói à, chỉ khi đương chức đương quyền thôi, còn bây giờ ngồi bệt thì hãy đợi đấy. Cái giá phải trả cho cái trò thích chơi chống bỏi của ông đấy.
Thế rồi cô ta giật cái túi xách treo trên mắc, ngoảy đít bỏ đi, mặc kệ lão với con bé đang khóc đòi mẹ.
Cô ta đi rồi, lão đến chỗ con bé, vừa dỗ dành vừa lau mặt cho nó, đưa nó đi mẫu giáo. Bây giờ thì lão thấy ân hận về cái sự muộn màng này. Lão ngại đưa con bé đến trường, vì ai thấy lão dắt con bé cũng ngoái lại nhìn. Người không biết thì nghĩ đó là ông đưa cháu đi học, người biết thì lắc đầu chép miệng.
Cái ngày đầu tiên lão đưa con bé đến trường mẫu giáo, các cô giáo cứ hỏi thăm: "Bố mẹ cháu đâu mà để ông đưa đi học thế này?". Lão ngượng quá, nói lý nhí: "Bố mẹ cháu đi làm".
Chiều lão đi đón, vừa đứng ở cửa lớp, con bé nhìn thấy lão, nó reo to, bố ơi, bố ơi… Các cô giáo mắt tròn xoe. Ơ đấy là bố con à, cô cứ tưởng là ông cơ đấy.
Lão lại ngượng.
*
Lão nhớ, lão tiếc, lão ân hận vẫn là cái sự muộn màng. Cô vợ hai này, tuy còn trẻ nhưng cũng đã qua một đời chồng và có một đứa con gái gửi tận quê để ông bà ngoại nuôi, còn cô ta dạt lên Hà Nội kiếm ăn, gặp lão và lấy liền để làm chỗ dựa. Và cũng từ cái ngày đó, các con lão chẳng nhìn ngó đến lão nữa.
Chúng chẳng nhìn ngó đến lão là phải, cô ta chỉ hơn con gái lão có vài tuổi. Để bù lại cái sự "hy sinh" tuổi xuân của cô, lão xin cho cô ta vào làm hộ lý ở một bệnh viện và không những thế mà lão còn đưa cả anh chị em nhà cô ta về làm ăn sinh sống ở đất Hà Nội này. Đấy, cái thằng anh trai của cô ta, một tý tuổi đầu mà lão cũng vẫn phải một câu "anh", hai câu "anh".
Lão lo cho hắn vào cơ quan của lão để làm trợ lý huấn luyện lái xe. Cơ quan của lão là một trung tâm dạy lái xe. Từ ngày lão về hưu, hắn lên làm huấn luyện chính, hắn có thèm nhìn đến mặt "thằng em rể" này nữa đâu. Lão đã thấy "ngấm đòn", đòn này còn ác hiểm hơn đòn thù.
Lão đã lên chức ông ngoại vài năm nay và cũng sắp sửa có cháu nội rồi. Sau khi lão lấy vợ, các con lão buồn, tứ tán mỗi người một phương. Đứa con gái lão lấy chồng tận Hà Giang và sinh con đẻ cái ở đó. Thằng con trai thì xin chuyển vào làm việc tận Tây Nguyên, lấy luôn vợ ở trong đó, lão gần như mất liên lạc. Lão cô đơn, đáng lẽ đến cái tuổi này lão phải được hưởng thú điền viên con cháu, nhưng lão lại phải lặng lẽ chăm sóc đứa con mà cũng chẳng biết có phải con của lão nữa không?!
Ai nhìn con bé, thay vì phải nói nó giống lão thì lại nói giống mẹ như đúc. Nếu mà nó giống mẹ nó như đúc thì lão chẳng có gì phải lăn tăn, nhưng lão càng ngắm, càng thấy nó giống cái lão trưởng phòng khám của cô ta. Cả làng cả tổng này ai mà chẳng biết là cô ta cặp bồ với lão trưởng phòng lâu rồi, chỉ có mỗi mình lão là mãi sau này mới biết. Nhiều lúc cãi nhau, cô ta cứ cong mồm lên nói rằng, đứa con gái đó không phải con lão, lão đau lắm…
Những ý nghĩ không định hình vương vất trong lão ngày càng lớn dần lên, lúc nào cũng chỉ chực vỡ bung ra, trong khi hàng ngày lão cứ phải chịu đựng, phải chăm sóc, phải yêu thương... làm lão khó chịu. Nhưng rồi lão tặc lưỡi: "Cá vào ao ai người nấy được". Nhiều khi lão muốn mang cái băn khoăn đó để hỏi tội cô vợ cho ra nhẽ, nhưng lão không dám, vì nó trẻ, nó khỏe, nó đanh đá và anh em nhà nó đề huề, còn lão thì chẳng có ai.
Bố mẹ lão chết hết, chỉ có mỗi người em gái, lại đi lấy chồng xa. Quê hương bản quán còn gì đâu nữa mà về, lão bán sạch để lấy tiền mua một căn nhà nho nhỏ ở Hà Nội này rồi. Khi mà vợ chồng lão chia tay, lão để lại tất cả cho hai đứa con bù lại vợ lão trả cho lão một khoản tiền. Bạn bè lão cứ hay chọc ngoáy lão rằng, đấy là tiền đền bù "phí tuổi trai".
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro