Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

TRUYỆN NGẮN TÁC GIẢ NỔI TIẾNG(P2)-LENGHIA

VỢ

Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lo ngày, lo đêm. Sao cho chóng trả được món nợ cướị Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đụng vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt!
Vợ anh là con bác khán thủ làng trên. Anh là phu tuần. Hai người lấy nhau, cả hai làng, ai cũng khen là vợ chồng kén chọn được chỗ xứng đáng. Nhưng thực ra, vợ anh lấy anh cũng vì đôi bên là chỗ "thanh khí", nghĩa đen là bén "tiếng" quen "hơi"nhau trước mãị Rồi bất đắc dĩ, bác khán sợ anh như những hạng Sở Khanh, mới ép anh phải lấỵ Số trời có khác!
Trước kia, anh nghĩ đã sinh ra làm con trai, tất nhiên là phải cưới vợ cho hợp lẽ tạo hóạ Nhưng cưới được vợ thì tốn kém quá. Tiền nọ, tiền kia, tiền ăn uống, ít ra mất hàng chục. Nghĩ đến cái hàng chục, anh lại lắc đầu, lè lưỡi, muốn chịu thua, đành vô phép tạo hóa làm trai tơ suốt đời vậỵ Vậy mà giá nói cho anh biết ở Hà Nội bây giờ, người ta cưới vợ phải dẫn những kim cương, những vàng ngọc, dùng những áo thêu, giày vá, đi những ô tô, máy bay, tốn kém đến hàng nghìn, thì quyết anh không tin, cho là chuyện hoang đường ở nước nào, đời nào kia đấy! Lấy vợ mà phải lo đến hàng trăm, không đủ méo mặt ra rồi à? Vả vợ cũng là người, nào phải cái quái mà làm hại nhiều như thế?
Thế nhưng, trời sinh ra thế, anh ba Cốc nghĩ đến cưới thì sợ, nhưng nghĩ đến vợ thì thích. Bởi vậy, anh mới lân la trò chuyện với chị Ba bây giờ. Trước chuyện to ở đám đông, sau chuyện nhỏ ở chỗ vắng. Rồi sau nói thầm ở một nơi kín. Vì anh chị nói thầm khẽ quá, nên bác khán nghe tiếng, bắt anh phải lo cưới cho được chị về.
Bởi vậy, anh Cốc quyết bắt chẹt bố vợ, cố mặc cả. Sau, anh lấy được vợ hạ giá hơn người ta, chỉ có mười lăm đồng bạc.
Mười lăm đồng bạc một cô vợ xinh! Mười lăm đồng bạc một cô vợ yêu! Thích nhỉ! Nếu vào địa vị chúng mình thì phải biết là đáng mừng! Nhưng vào anh ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm quanh năm, làm ăn vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng, thì đến mười lăm hào cũng đủ lo méo mặt, chứ nói gì đến mười lăm đồng bạc! Nhưng mười lăm đồng bạc tiêu vào một việc bổn phận làm người, thôi, anh cũng cố vay mượn của các bà con thân thuộc, nói khó với người ta, nên được gần đủ.
Ngày hẹn cưới sắp đến. Bác khán thúc mãi anh, anh mới lo được chẵn chục bạc. Anh cứ đánh liều đưa sang bên nhà gái cho xong chuyện. Còn năm đồng, anh xin chịu lại ông nhạc, hẹn đến mùa tới thì trả nốt.
ý anh định rồi sau này, khi đã là bố con, anh có thể lấy cảm tình mà xí xoá món nợ. Nhưng không được. Bố vợ anh láu hơn, bắt anh phải viết văn tự cẩn thận. Phải, thời buổi kinh tế khó khăn, như thế là bác khán đã nhân nhượng lắm rồị Chứ như người khác, đố anh có đón dâu nổi ngày hôm ấỵ Anh thử lên Hà Nội, thửa một thức hàng mà xem. Nếu anh đặt được ít tiền trước, rồi không có đủ để trả nốt, thì anh chớ hòng mang đồ về. Mà vợ cũng là đồ chứ saỏ Lấy vợ mà được "biên bông" như anh, là may đấỵ
Nhưng rồi anh ba Cốc lo lắm. Cưới được lâu ngày bao nhiêu, thì hẹn trả chóng đến bấy nhiêụ Vụ gặt xong, mà anh ỳ xác ra, thì quyết anh chẳng yên được.
Anh đã tính chán rồị Đến ngày mùa, hai vợ chồng làm nai lưng cật lực, chưa chắc đã đủ tiền để trang trải các món nợ ông chủ, huống chi là năm đồng bạc nợ ông nhạc! Anh định nếu rồi không cười trừ được, thì anh cũng đành xin khất lạị Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy goá chồng, còn thiệt bằng mười!
Nhưng ở đời, tính một đường nó thường đi một nẻọ Vợ anh khuyên anh nên trả cái món năm đồng ấy trước, anh lại chẳng nghẹ Khi hẹn đến ngày, bác khán cứ gọi anh đến mà đòi nằng nặc. Trước còn ngọt ngào dỗ dành sau bác biết anh chỉ còn bộ răng nhe ra đấy thôi, bác liền đâm ra nói nặng. Không chịu nổi những điều đau đớn, anh đành lẩn mặt. Bố vợ cho gọi, anh cứ thoái thác cớ nọ cớ kia, không đến nữạ
Mấy lần bác khán gọi anh ba Cốc không được, thì tức. Bác mới gọi chị Ba đến. Bác chửi, đánh cho một trận thật đau, bắt phải về đòi chồng cho kỳ được món tiền năm đồng ấỵ
Chị Ba sợ bố, về đòi chồng nằng nặc. Nhưng vợ đòi nợ chồng thì một cái hôn là đủ xí xoá. Vợ anh bảo:
- Nếu mình không giả được, thì ông bắt tôi về.
Nghe câu nói dọa vô lý, anh chẳng sợ một tí nàọ Dù bố vợ anh có bắt vợ anh về thực, thì chẳng qua như cái lối chủ nợ bắt đồ, cốt để làm oai, khiến anh phải lo cho kịp. Như thế là dạị Đồ vật thì không biết đi, không biết trốn, chứ đồ người nào phải vật vô tri vô tình. Giữ sao nổỉ Chẳng lẽ bác khán xỏ chạc vào mũi con gái mà buộc suốt ngày vào chân giường, để nuôi cơm báo cô mãỉ Chỉ cho ba hôm, bác xót ruột lại phải thả con ra ngaỵ Lúc ấy anh cứ chịu khó nghe chửi một trận nữa là trôi việc.
Nhưng anh đoán không đúng. Bố vợ anh chưa tịch ký vợ anh, đã áp đảo đến nhà anh mà chửi rủạ Ngày nào tấn kịch ấy cũng diễn ra độ nửa giờ. Mà bao giờ anh cũng đóng một vai tuồng câm.
Song, già néo đứt dâỵ Anh cứ thấy ông bà ông vải ngày nào cũng bị mời lên ăn vật chẳng ngon, thì anh động tâm. Cho nên, đến lúc bác khán bảo nếu anh không trả thì bác bắt con gái về, anh đâm khùng, liền đáp lại:
- Thì nó đấy, ông muốn đem nó đi đâu thì đem!
Chị ba Cốc thấy bố đẻ và chồng xử với nhau cạn tàu ráo máng, thì chỉ thút thít. Chứ bênh bên nào cũng tộị
Hôm sau, đi đâu về, chị ấy nói với anh một chuyện, nghe buồn quá:
- Anh ơi, tôi lấy anh chốc đà một năm tròn. Tôi không ngờ đâu chỉ vì có năm đồng anh thiếu mà sinh chuyện. ông nhất định bắt tôi về. Anh nghĩ thế nàỏ
Anh Ba cau mặt, thở dài:
- ông dọa thế, chứ ông chả nỡ.
- Không phải chuyện dọạ Nội nhật ngày mai, nếu anh không giả được, thì ông không đắn đo nữa đâụ
- Thì nhà cứ tạm về, tôi sẽ thu xếp saụ
- Thu xếp sau thì chậm quá. Nghe như ông đã định liệu công việc cả rồị
- ông đi kiện tôi à? Lý vậy, nhưng còn tình nữa chứ?
Anh ba Cốc tin ở chữ tình, nên bằng chân như vạị
Phải, bác khán nghĩ đến tình bố vợ con rể, nên không nỡ kiện thưạ Nhưng bác bắt con gái về, không cho ở với anh ba Cốc nữạ
Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm. Rồi nửa tháng, đến một tháng. Anh nóng ruột, nhớ vợ, long tong chạy ngược chạy xuôi để vay tiền chuộc. Nhưng không ai tin mà cho anh mượn nữạ Anh bèn liều đến nhà ông nhạc, lạy van, khóc lóc. Nhưng bác khán một mực lắc đầu, sai con trai đuổi anh ra khỏi cửạ Rồi từ hôm sau, cấm không cho anh vào nhà.
Anh định đâm ì. ì mãi, thì tất cũng có một ngày ông nhạc giữ vợ anh chán, rồi cũng hồi tâm mà nghĩ lại, cho vợ chồng anh ăn ở với nhaụ
Nhưng trong khi đương thi hành cái chương trình ì, thì anh nghe tin rằng người bạn trăm năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bảy, để gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước!
PTBNS số 5; 1-4-1937

THỊT NGƯỜI CHẾT

Vì mới chết lần này là lần đầu, nên anh Xích chưa có lịch duyệt về khoản ấỵ
Thực vậy, nếu chết ở tỉnh, thì ai láu, nên chọn vào đêm thứ sáụ Như thế, vợ con có vừa vặn thì giờ để cáo phó lên báọ Và đến chủ nhật, cất đám, có đủ các cụ, các quan, các ông, các bà, thân bằng cố hữu đi đưa đông. ở nhà quê, nếu chết vì tai nạn, người khôn ngoan bao giờ cũng tránh ngày chủ nhật hoặc ngày lễ, thì sự khám xét, tống táng mới mong chóng được.
Nhưng khốn nỗi, xưa nay, không ai chết đến lần thứ hai để được bài học kinh nghiệm về cách chết. Vì vậy, vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch.
Nhất là anh Xích, một dân quê vô học, nên càng ngu dại nữạ Anh đã vô ý mà chết đuối ngay vào đêm thứ bảy vừa rồị
Nguyên cha anh, ông Cứu, thầu của làng cái đầm sen ngay giáp lũy trẹ Ðến mùa này hoa nở, ông phải làm chòi nhỏ ở giữa đầm, hai bố con cắt lượt nhau ra ngủ đó để canh.
Chiều hôm ấy, anh Xích đã đánh chén ở đình, say bí tỉ. Ðến xẩm tối, anh vừa về đến nhà, đã bị ông Cứu giục mang điếu và gối ra chòị
Anh lao đao đi, rồi không hiểu sao, sáng sớm hôm sau, không thấy về. Và đến độ tám giờ, xác anh đã nổi lên, trôi lềnh bềnh vào gần bờ.
Người ta đoán nhiều cớ về cái chết nàỵ Nhưng tựu trung, chỉ hai thuyết có thể hợp lý được:
Một là, anh Xích vì say quá, loạng choạng chở thúng bị ngã vào chỗ sâụ
Hai là, đang đêm anh ngủ mê, vô ý cựa, đến nỗi anh lăn tòm xuống nước.
Chứ những tiếng đồn anh ta tự tử vì việc gia đình, hoặc bị kẻ thù đánh chết đều không thể tin được.
Hương lý tò mò, hỏi dò hai bên hàng xóm nhà ông Cứu, xem hôm trước hai cha con có to tiếng gì với nhau không. Họ cố ý nhận xét rất kỹ lưỡng cái thây người xấu số. Nhưng không ai tìm ra được một chứng cứ gì khả nghị Và khi được tin dữ dội con ông Cứu bị nạn, cả làng ra tận bờ đầm xem. Ai cũng phàn nàn, thương tiếc người con trai tử tế, hiền lành. Và trông cái xác chết còng queo ngâm dưới nước, đố ai cầm lòng cho đậụ
Bà Cứu tru tréo lăn lộn, mấy lần toan nhảy tùm xuống ôm lấy con. Nhưng bà bị người ta giữ lạị Trong lúc như điên cuồng, bà chửi cả ông lý trưởng không cho bà vớt anh Xích lên, để đặt lên bờ. Bởi vì bà mếu máo và chắp tay lạy lấy lạy để mọi người và nói:
- Nó đau lòng lắm, các ông các bà ơi!
Nhưng người ta khuyên:
- Ðể quan về khám, làm biên bản xong, bà muốn làm ma to cỗ lớn thế nào mặc bà. Chứ bây giờ, bà đừng nên đụng đến anh ấỵ Ngộ độc anh ấy lên bờ, rồi mình mẩy xây xước chẳng hạn, thì quan nào cho chôn? Vả chết đuối, sao nằm trên bờ được?
Bà Cứu không tin, gắt:
- Không cho chôn thì quan giữ làm gì?
- Giữ để chờ đốc-tờ về khám. Như thế, lại lâu rạ
Bà nghe hiểu, xỉ mũi, lau nước mắt, và ngồi xổm cạnh cái quan tài rỗng không, dưới bóng cây, đành lòng chờ đợị
Bà mong được phép chôn con như mong mẹ về chợ. Người nhà bà lên huyện trình quan ngay từ sáng, nhưng đến bây giờ, không hiểu sao, chưa thấy về. Ðường lên huyện không xa, chẳng rõ vì sao lại có sự chậm chạp thế này được.
Nhưng một giờ. Lại hai giờ. Lại ba giờ.
Bà Cứu không còn sức và nước mắt để chờ, để khóc nữạ Bà hết đứng lại đi loanh quanh, không dám trông chỗ con nằm.
Rồi bà ngồi xổm xuống đất, gục mặt vào đầu gối để nghe ngóng. Bà đợi một hiệu còi ô-tô của quan. Những lúc có tiếng xay lúa ù ù, bà khấp khởi lắng tai, và thở dài vì mừng hụt.
*
* *
Mặt trời chói lọi, rọi tia lửa xuống đất.
Thây anh Xích bắt đầu đổi khác. Chân tay co quắp hơn. Tóc lỏa tỏa như món rễ bèo Nhật Bản.
Gió hiu hiụ Làn sóng rập rờn liếm vào thân anh kêu óc ách. Anh rập rình như nằm trên giường lò xọ
Rồi tự nhiên, cái xác lật ngửa lên. Con người trước kia hiền lành là thế, nay biến thành con bò thui: bụng phềnh to, má phềnh to, mặt phềnh tọ Ðôi mắt híp lại, như bị kéo dài ra tận mang taị Tứ chi rúm ró. Ai trông thấy bộ dạng nhăn nhó, dọa nạt của người chết, mà khỏi rợn tóc gáy được?
Từ lúc ấy, người thân thích đến thăm thưa dần. Rồi sau hết, không ai dám lại gần đấy nữạ Những khách đi đường vì vô tình hoặc bất đắc dĩ phải qua, đều che nón, ngậm miệng, và đến chỗ xa, rùng mình một cái mới nhổ toèn toẹt.
ông Cứu ở nhà để chờ quan về khám, cũng chẳng kém nóng ruột. ông như chết một nửa người mà vẫn phải tiếp khách đến hỏi thêm mỗi lúc một đông. ông chỉ muốn được yên, để nằm nhoài ra mà kêu gào, vật vã cho hả nỗi phụ tử tình thâm. ông lại lo lắng, không hiểu vợ ông ngồi ngoài bờ đầm, có ai canh giữ cẩn thận, hay lại chẳng nén nổi lòng thương, mà liều mình quá, thì ông thêm một nỗi ân hận nữa suốt đờị
Họ hàng chạy đến mỗi người giúp một việc. Người bầy ở dưới nhà ngang một bàn thờ cỏn con, lấp láy có đôi nến trắng. Người lược may đồ khâm liệm và xé khăn cho lũ em.
Rồi đến khi được biết rằng là ngày chủ nhật, cả buổi hầu sáng, quan không ra công đường, vì đêm trước ngài nhảy đầm trên tỉnh, ba bốn giờ sáng mới về. Và đến chiều, cổng huyện đóng, vì là ngày nghỉ; thì ở nhà ông Cứu trợn mắt, kêu rú một tiếng, và ở cạnh lũy tre, bà Cứu ngã vật xuống đất, ngất đi đến năm phút đồng hồ.
Cả làng phải chờ.
Họ hàng sắp sửa việc ma chay xong, ai nấy về nhà để sáng hôm sau lại đến làm giúp. Người không thân thích lại bắt đầu công việc như cũ, chờ lúc kèn trống nổi lên thì đưa anh Xích ra đồng. ông Cứu cho người vực bà Cứu về. Hai vợ chồng già nằm chết gí ở hai giường, chờ cuộc khám xét của quan phụ mẫụ Tử thi chờ chôn, mỗi lúc một trương to, rập rềnh cạnh cái quan tài đang ngoác miệng chờ việc. Cảnh vật im ả như cũng chờ để nghe ngóng tin. ánh nắng cứ lẳng lặng rọi xuống. Cây cối mệt nhọc, cành gục lả.
Nhưng giữa nơi yên lặng, chìm đắm trong sự buồn thảm ấy, có một chỗ đầy vẻ hoạt động. Ngay ở quãng tử thi mà người đồng loại kinh tởm khi nhìn thấy, hoặc ghê sợ khi đến gần, thì những loài vật khác giống tỏ vẻ âu yếm, thiết tha lạ lùng. Dưới nước, lũ cá mương vui vẻ, nô giỡn với nhau, chui vào kẽ nách, lỗ tai, đớp thật nhanh, rồi chạy nhào biến mất. Rồi lại đớp. Rồi lại chạỵ Trên không, vo ve đàn ruồi nhặng, rủ nhau đậu đen kịt vào mặt mũi, chân tay, mải miết hút chất đồ ăn bổ. Thỉnh thoảng, chiếc lá tre vàng vằn vèo từ trên đâm bổ xuống, làm động cuộc kiếm ăn đang bình yên, thì vò một tiếng, lũ ruồi nhặng bay tản đị Nhưng khoảng khắc, lại bậu vào, làm thành những quầng đen trên tấm xác xám ngoẹt.
Rồi buổi chiều, một mùi nồng nặc, hăng hăng đã bay thoang thoảng đến được chỗ xa xạ Trên ngọn tre, xào xạc tiếng cánh bay, con quạ đen cố quặp hai chân vào một cành ẻo lả, vẫy đuôi để giữ thăng bằng cho vững chãi, rồi chao mắt thèm thuồng xuống mồị Rồi một con nữa cụp cánh, đậu ở cành cây khác, lên tiếng khàn khàn gọi nhaụ Chẳng mấy chốc, hai ba con nữa bay lạị
Một con vỗ cánh, bay sà xuống trước, đứng lên bụng thây người để thám hiểm. Thấy được bình yên, cả lũ theo nhau, mổ rỉa từng nơi một.
Như thế, anh Xích vô tình là ân nhân của đàn cá, ruồi, nhặng, quạ. Chân tay vẫn co quắp như dọa, mặt mũi vẫn nhăn nhó như nát, nhưng anh vẫn bị rỉa, bị hút, bị đớp như thường.
Thịt người chết, ai hay cũng là món đồ ăn quý hóạ
*
* *
Cho đến tận chín giờ sáng hôm sau, còi ô-tô đằng xa bỗng thét váng.
Ðàn quạ hết vía, vừa bay vừa kêu xa xả. Lũ ruồi nhặng, hốt hoảng vội trốn cho xạ Ðàn cá mương thấy nguy, lộn nhào mỗi con chui vào một xó.
Thì lúc ấy, trên bờ đầm, quan huyện tư pháp là một, cụ lục sự là hai, cậu lính lệ là ba, cùng trịnh trọng làm việc, và cùng trịnh trọng khạc nhổ. Cậu lệ cầm gậy, lật đi lật lại tử thị Quan và nha ghé mắt xem xét từng li từng tí và biên chép. Hương lý, vợ chồng ông Cứu, cùng họ hàng, người làng, ai nấy khoanh tay im lặng, nuốt đờm, nhìn chằm chặp vào xác chết. Người thở dàị Người lau nước mắt.
Khám nghiệm xong, quan truyền lính đuổi cả người tò mò ra xạ Và trước cảnh thương tâm, ngài ôn tồn hỏi ông Cứu:
- Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá lẫn hoa có được đến dăm trăm không?
Thấy quan hỏi câu phiếm, không dính dáng gì đến vụ chết đuối, ông Cứu đành phải đáp:
- Dạ
- Anh cấy hai mươi mấy mẫủ
- Lậy quan lớn, hai mươi hai mẫụ
Quan gật gù:
- Thôi được, để cho anh biết rằng tôi rõ gia tư nhà anh lắm. Còn việc khám xét hôm nay, thì tôi không thể cho chôn ngay được. Vì tôi xét trong người tên Xích, có nhiều vết khả nghị Tôi phải bẩm tỉnh xin đốc-tờ về khám cho cẩn thận.
ông Cứu như sét đánh, run cầm cập, nhăn nhó kêu:
- Lạy quan lớn...
ông huyện lắc đầu:
- Nó bị bức tử. Phải có đốc-tờ mổ xẻ nó ra mới rõ được.
Bỗng có một tiếng tru lên, bà Cứu ôm mặt, lanh lảnh khóc:
- ối con tôi!
Tiếng khóc của người mẹ trước thi hài đứa con chết đuối đã chương, làm ai cũng phải cảm động. Nhưng trái lại, nó không làm chuyển nét mặt của quan tư pháp. Ðến đây, ông là đại diện cho Pháp luật. ông đã từ người bằng thịt bằng xương biến thành pho tượng bằng sắt đá lạnh lùng.
Vậy là sắt đá, tất không thể cảm được những tiếng khóc ẻo lả của người mẹ mất con, hoặc những tiếng kêu nài mềm yếu của người cha oan uổng. Cảm được sắt đá, duy chỉ có một vật. Vật ấy cố nhiên phải rắn, tuy chẳng được rắn bằng sắt, cũng phải rắn hơn đá. Mà vật rắn ấy, nhà ông Cứu không thiếụ Nó làm bằng loài bạc.
Thấy ông huyện lặng nhìn tử thi đương xông lên một mùi khắm lằm lặm, ông Cứu não ruột nói:
- Xin rước quan về nhà nghỉ cho đỡ nắng.
ông huyện chẳng biết vô tình hay cố ý, lấy tay xua ruồi, và khạc nhổ, rồi đáp:
- ừ, kẻo ở đây tởm lắm. Nó đã trương to, mà ruồi, nhặng, cá, quạ cứ xán vàọ Lại còn phải phơi nắng, đợi thầy thuốc mổ xẻ nữa, thì biết bao giờ mới được chôn!
Rồi vừa đi, ngài vừa bảo ông lục sự:
- Ðích là một án mạng, chứ không đúng như những lời trình trong giấy đâụ
ông Cứu tiến lại gần, nhỏ nhẻ thưa:
- Lạy quan lớn, còn vong hồn con con kiạ Nếu có thế nào; con cam chịu tội trước cửa quan lớn. Xin quan lớn cho phép con mai táng, con xin hậu tạ quan lớn.
Quan quay lại, nhìn ông Cứu bằng đôi mắt dịu dàng của một người có trái tim dễ cảm. Ngài hỏi:
- Anh định tạ tôi bao nhiêủ
- Lạy quan lớn, con xin khấn một nén.
Quan cười:
- Anh phải biết cứ tiền dầu xăng khứ hồi ô-tô tôi về đây cũng đáng một nén rồị
ông lục sự đi rảo cẳng lên, nói:
- Bẩm quan lớn việc này to chứ chẳng phải vừạ
Rồi ông cau mặt, trách ông Cứu:
- Cơ nghiệp anh như thế, mà anh muốn chôn ngay con anh, anh không tạ ơn quan nổi một bách hay saỏ
Rồi luôn mồm, ông thưa với ông huyện:
- Bẩm quan lớn, nghề dân ta họ vẫn ngu dại làm vậy, muốn chạy việc, lại cứ muốn không mất tiền.
ông Cứu nhăn nhó, nói khẽ với ông lục:
- Nhờ cụ bẩm với quan hộ, một bách thì tôi không sao lo được. Tôi xin tạ một nửạ
ông lục xua tay và trợn mắt, như ngăn cản một câu nói dại dột:
- Chết! Anh nói mới dễ nghe làm sao!
Rồi ghé tai ông Cứu, ông thầm thì:
- Này, chỗ thân, đằng này cam đoan xin hộ cho bằng được. Nhưng ít ra anh cũng cứ lo lấy bát thập, còn thập nguyên, cho đằng này ăn với chứ?
ông Cứu cũng thầm thì:
- Khốn như hiện hay không có đủ.
Thì hãy cứ hứa đi, mai kia lên tạ sau cũng được kia mà. Ðằng này nhận chọ Chứ anh đang tâm để con anh thế được à?
ông Cứu yên lặng, thở dàị
Quay lại phía sau, ông thấy vợ ông đương lăn lộn. ông không thể cầm được nước mắt, vội vàng mặc cả mấy câu nữa, rồi bằng lòng khấn quan bảy mươi đồng.
*
* *
Và một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngợ
Chúng nó biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon của chúng.
1938

THẬT LÀ PHÚC

Chú lính cơ Ván-cách(Số hiệu lính 24, nguyên từ tiếng Pháp vingt-quatre), cứ buổi chiều, ngồi trên phản trong trại, trông ra ngoài mành mành, thì cũng cho đôi mắt được một bữa tiệc no nê bằng cuộc ngắm những chị đi gánh nước ở giếng trong huyện.
Trong các chị gánh nước đó, chú chú ý nhất một chị, là "ma phăm" anh hàng bánh giò ở cổng huyện, tên là Tam.
Cứ kể ra, chị Tam trông cũng tình thực! Cái quần sồi đen nhánh, cái áo cánh hồ lơ, cái thắt lưng đỏ phấp phới bay theo gió, cái bộ xà tích lủng lẳng đập vào đùi, đã làm cho Ván-cách ta say lử cò bợ! Không những thế, chị Tam lại còn có cái bộ mặt "gioong"! Mỗi khi chị gánh hai thùng nước nặng mà đi qua trại, thì mắt cố nhìn thẳng, mũi cố cầm hơi, tay nguẩy đằng sau, đầu nghiêng bên cạnh, cố kéo cái hò áo cho kín ngực, tuy mất vẻ tự nhiên, nhưng mũm mĩm như quả đào Vân Nam mới trẩy, khiến cho Ván-cách ta chết cũng vớ vội lấy cái đàn bầu, mà tẳng tẳng vài tiếng. Nhiều khi thấy chị Tam hớn hở, chú chỉ phàn nàn có một câu rằng:
- Hoài của! Giá mình "sú-vơ-nia" cho nó ít giấy ráp để đánh đôi thùng rõ sáng, thì thực là bảnh chọẹ
Nói nôm ra, chú Ván-cách cũng muốn chim chị Tam đáo để. Có bận chú định ngồi trong mành mành, ví cho chị Tam một câu rõ haỵ Giá chú biết làm thơ, làm văn thì hẳn đã nghĩ được một bài trường thiên rõ dài để tặng! Khốn nhưng chú chỉ quen thói tộp ngực lần lưng dân, cho nên chỉ học được mốt chim gái của bạn đồng nghiệp, thẳng như nòng súng, là giữ nón, chắn đường, hoặc nắm cổ tay mà bắt nói một câụ
- Van nhà, nhà buông em ra!
Nhưng mà người anh em chỉ dám "tiểuđi", thế thôi, chứ mà thầy quản đồn này nghiêm khắc lắm, lỡ chú bị "lập-gioòng", hoặc bạt tai thì phải biết! Cho nên, lắm lúc gặp cơ hội tốt, mà chú nghĩ đến hình phạt nhà binh, chú đành phải "đê mi tua" ngay!
Còn một kế sau cùng, chú nghĩ đã chín lắm, là nhân ngày lĩnh lương, hoặc gặp buổi bóp nặn được thằng dân nào, chú quyết bỏ hẳn ba hào chỉ, ra hàng chị Tam đánh một bữa bánh giò rõ no, thế là "a-lê", tha hồ tán chuyện!
Buổi tối hôm ấy, trong túi chú Ván-cách xủng xoảng có tiền. Chú bèn búi tóc yên ngựa cho thực nền, gài cái lược xương trắng cho thật khéo, chít cái khăn lượt cho thật vố, vuốt ít nước hoa cho thật thơm, rồi soi gương đằng trước, đằng sau, ngắm nghía mãi, mới thay quần, gài khố, bóc gói thuốc lá mới, phì phèo, huýt còi đi "la mát".
Lúc bấy giờ đã vào chín giờ khuyạ Nhà hàng phố đã đóng cửa kín mít. Chú Ván-cách lượn qua nhà chị Tam mấy lượt, thổi bài kèn "la vầy" rõ lẳng để đánh tiếng, rồi dòm qua lỗ liếp. Chị ngồi một mình, đương chẻ lạt. Chú ngắm nghía thế một lúc lâu, đắn đo, không biết thằng chồng đi đâu, nhưng cứ liều gõ cửạ Chị Tam đương lúi húi, bèn ngẩng đầu lên hỏi:
- Aỉ
- Tôi đây! Cho tôi mua ít bánh giò!
Chị Tam đứng dậy vừa nâng hé cái liếp ra, Ván-cách đã lách được vào rồị
- Chào chị, "mămđen" còn bánh giò không?
- Thưa thầy, hôm nay phiên chợ, nên nhà còn ít thầy mua giùm cho cháụ
- Được! Còn bao nhiêu mang cả ra đâỵ Anh ấy nhà chị đâủ
- Thưa thầy, chạy đâu ấy ạ.
Ván-cách được dịp tốt, "a la văng" ngay đến trước mặt chị Tam, vừa cười vừa lả lơi nói:
- "Cẩm-ma-lách" với nhau cả, thầy với cháu gì! Đừng nói thế, phải tội!
Nói xong, chú sấn ngay vào, nắm lấy cổ tay người yêu một cách âu yếm:
- Nhà ơi!
Thế rồi mắt chú lim dim như lúc ngắm súng. Chị Tam nhanh thoăn thoắt, giật ngay ra, lùi lại mấy bước:
- ô hay! Thầy quyền làm cái trò gì thế nàỷ Tôi kêu to bây giờ!
- Mình ơi, tôi yêu mình lắm!
Vừa nói, chú vừa sấn vào, ôm lấy chị Tam, đẩy ngã xuống đất, rồi cũng ngã theọ..
- ối giời đất ôi! Thầy quyền làm gì tôi thế nàỷ
Tiếng kêu rầm hàng phố. Thình lình, anh Tam ở đâu chạy về đến nơị
Hẳn các ngài đã đoán trước ngay rằng máu ghen của anh Tam mà đùng đùng nổi lên, thì chú quyền Ván-cách sẽ bị trói gô vào chân giường, và phải trận đòn nát da tan thịt.
Thế nhưng anh Tam tuy hơi tức đầy lên cổ, mà cũng cố nén ngaỵ Anh sợ Ván-cách là người Nhà nước lại có sức, có quyền hơn anh, mà anh thì hèn hạ. Chi bằng thôi, thu xếp cho êm là hơn cả. Cho nên anh chỉ lấy lời ngọt ngào mà nói với Ván-cách, chứ không dám lôi thôị
Vậy mà Ván-cách nào phải người biết điềụ Thấy Tam chịu nước lép, chú lại làm già, sấn đến, tát cho Tam mấy cáị
Ngờ đâu Tam giữ được cái chầy giã giò, giơ lên đỡ. Ván-cách tưởng Tam đánh, quờ tay, giật phắt ngay được chầỵ Rồi giơ thẳng cánh: "A, đê, toa, hấp!". Sống mũi Tam máu chảy đầm đìa! Tam ngã quay ra, miệng kêu rầm làng xóm.
Nghe tiếng kêu cứu, người phố kéo lại rất đông, mới gỡ được đám đánh nhaụ Nhưng Ván-cách vẫn còn hung hăng, trỏ vào mặt Tam mà mắng:
- Mày láo! "Tăng xương"! Mày không biết ông là ai à?
Hàng phố thấy chuyện bất bình, ai cũng thương hại vợ chồng Tam bị bắt nạt một cách vô lý. Lúc ấy, Ván-cách đã về rồi, nên nhiều người xui Tam đi trình ngay quan huyện, để ngài trừng phạt kẻ hay... lấy thịt đè ngườị
- ừ, cậy là lính huyện mà vào hiếp vợ người ta, lại còn đánh người ta, thì pháp luật nào dung?
- Phải đi kiện mới được, bắt nạt thế, ai chịu nổi!
- Cứ kiện đi, đã có tôi làm chứng. Nếu cứ để nó quen thói, thì nay nó hiếp vợ anh, mai nó tha gì vợ tôỉ
Sau một lúc bàn ra bàn vào, mãi anh Tam mới dám đội khăn, mặc áo, đi vào huyện
Quan ở trong nhà tự Ngài đương đánh tài bàn. Thấy đương đêm có ầm ầm tiếng kêu, ngài cũng đoán là có chuyện gì to xảy ra đó. Nhưng vì chưa có ai báo, thì chưa chắc đã to bằng ván bài phải báo của thầy thừa ù sửu bàn thiếu lưng!
Quan cười ha hả. Các cậu lệ thấy quan vui, cũng tủm tỉm liếc nhaụ Bỗng có tiếng rì rào ngoài cửa, và người kéo lố nhố đầy sân. Cậu lệ đang hầu nước bài, phải ngấc mắt lên nhìn mãi, đến nỗi phải chửi, vì quan bàn quân ăn quân đánh mà không biết.
Lúc ấy, tiếng xôn xao càng to, nên quan biết tất là đám kêu to ngoài phố khi nãỵ
Thật may cho anh Tam vì trình quan ngay vào lúc ngài đương vuị Đáng lẽ phải chờ đến buổi hầu sáng hôm sau mới được vàọ
Quan cho cậu lệ hỏi chuyện, thì thấy cậu dắt anh Tam vàọ Giá lúc ấy quan không mải nhìn quân bài dưới chiếu, hẳn ngài đã thấy anh Tam mặt mũi bê bết máu mệ
Tam vái chào, khúm núm gãi đầu, chắp tay, bẩm hết cả nỗi vợ bị hiếp là thế, mình bị đánh là thế. Câu chuyện rất dài, nên anh phải kể làm ba bốn nấc mới hết, vì thỉnh hoảng quan cắt ngang mà hỏi vặn:
- Khoan! Cửu văn đấy có phải không? Chíu... Gượm! Gì? Sao không xướng to lên?
Khi câu chuyện bẩm xong, thì vừa hết ván bàị Quan ngẩng đầu lên nhìn anh Tam, rồi cho gọi chị Tam vàọ Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn trời, khiến cho hai vợ chồng nhà hàng bánh giò phải thất đảm. Rồi ngài nghiêm nét mặt lại, như có ý muốn nghĩ để phân xử cho công minh.
Lúc đó, ngoài sân tối mù mù. Người đứng xem đằng xa cố ngậm miệng, nín hơi, để nghẹ
Một lúc, ngài sang sảng tiếng truyền xuống, như ông Long thần ban hạnh phúc cho chúng sinh mà dạy rằng:
- Đáng lẽ đương đêm chúng bay đánh nhau, thì không biết nếp tẻ ra sao, ông hãy bỏ tù hăm bốn giờ cái đã. Nhưng ông tha cho về mà làm ăn lương thiện, không được lôi thôi nữạ Vả lại vợ mày mặt mũi thế kia, chắc hẳn cũng có thế nào với nó, thì nó mới thế chứ? Thôi ông cho về. ông đang bận.
Một tiếng "dạ" dài, anh Tam thụp xuống đất lạy tạ quan hai lạỵ Đoạn anh lom khom lui ra, nét mặt vui vẻ như người biết an phận, rỉ tai nói với vợ:
- May quá! Suýt nữa thì phải ngồi tù. Thật là phúc! Lạy quan lớn ngàn năm!
Annam tạp chí, số 17, 1931

THẰNG ĐIÊN

Trời nắng, cái nắng mới, làm cho người ta khó chịu, dễ sinh giận dữ, gắt gỏng với cả mọi ngườị
Trên con đường nhựa Hải Phòng - Hà Nội, đen như con rắn nằm nhoài không cựa quậy, anh đĩ Mùi đi chợ về, quẩy một gánh nặng những khoai lang. Đi đã năm cây số, nên mồ hôi anh nhễ nhại, ướt cả áo, lấm tấm trên trán, trên mũi, và trên cằm...
Anh đang rảo cẳng bước cho chóng hết nốt hai cây số nữa, thì trông thấy ở cạnh đường, một cái ôtô hòm liệt máy, đứng đó. Nhân có bóng cây mát, anh nghỉ chân, hạ gánh khoai xuống, ngồi ở vệ đường. Anh phanh áo ngực, rồi lấy nón, vừa quạt, vừa nhìn cái xe chết.
Đằng mũi xe, một ông độ bốn mươi tuổi, mặt mũi phương phi, áo khăn chững chạc, đương loay hoay, chữa hết máy này, sang máy khác, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Trong xe, một người đàn bà, cũng trạc tuổi ấy, ăn mặc cũng sang trọng, thỉnh thoảng lại thò đầu ra hỏi:
- Thế nào, xe có chạy được không?
- Chẳng ăn thua gì.
Một chốc, người đàn ông trèo lên xe, vẫy anh đĩ lại gần, và nói:
- Này bác, tôi nhờ bác đẩy hộ đi mấy bước.
Vốn quen tính giúp đỡ, anh đĩ chẳng quản công. Anh bèn ì ạch dun xe đi được vài bước. Nhưng người ngồi trên xe thất vọng, nói:
- Thôi, cảm ơn bác.
Rồi quay lại nói với người đàn bà:
- Thôi đành chịụ Hết cách rồị
Anh đĩ nhìn hai vợ chồng người này - vì anh chắc là hai vợ chồng - thấy có ý lo lắng, thì anh cũng ái ngại thaỵ Đã được dịp làm quen, anh mới dám tò mò bóp cái lốp xe, sờ vào mặt kính, mó các máy móc, rồi ngó vào trong xẹ Anh thấy hai cái va ly to lắm.
Người vợ nói:
- Làm thế nào về cho kịp được?
Người chồng băn khoăn, móc túi xem đồng hồ, trả lời:
- Phiền quá! Mười hai giờ rồị Đành phải đi bộ đến ga cho kịp xe lửạ Nếu may mà gặp xe hàng thì lên vậỵ
- Nhưng ai coi xe chỏ
- Bà ở lại, tôi về một mình, kẻo lỡ việc.
- Nhưng hai va ly nặng lắm, mang thế nào nổỉ
Hai vợ chồng nhìn hai cái va ly, rồi cùng quay ra phía anh đĩ Mùi, như trong óc cùng nảy ra một ý nghĩ giống nhau vậỵ
Rồi người vợ vẫy người chồng lại gần, ghé tai nói thầm như bàn nhau một việc gì. Đoạn người chồng gọi anh đĩ:
- Này bác, bác có thể gánh thuê cho tôi hai cái va ly này đến ga được không?
Anh đĩ nhìn hai cái va ly, rồi nhìn hai thúng khoai lang. Anh gãi gáy, ra ý nghĩ ngợi, rồi bảo:
- Có nặng không, thưa ông?
- Hơi nặng. Nhưng gánh thì cũng cân.
Anh đĩ nhấc thử lên xem, thấy cũng vừa sức. Anh gật đầu:
- Được, ông để nhà cháu gánh giúp.
Anh đĩ đặt hai chiếc va ly lên hai thúng, rồi ghé vai vào, gánh đị Người đàn ông theo saụ Còn người đàn bà thì ở lạị
Gánh nặng. Trời nắng. Anh đĩ mệt thở hơi taị Người đàn ông đi trước, vừa nực, vừa nhọc, vì từ thuở bé, chưa từng bị khổ như thế này bao giờ. Nhưng thấy anh nhà quê rụt cổ, nhăn mặt vì gánh nặng, nên ông ta cũng ái ngại:
- Có nặng không, bác?
- Bẩm ông, nặng ạ. ông đi đâủ
- Tôi đi lên tỉnh.
- Thưa thế ông ở đâu tả
- Tôi ở ngay tỉnh.
- Thế thì thích lắm nhỉ. Tỉnh có nhiều phố vui lắm. Ngày trước, cháu đã được lên tỉnh một lần.
Anh đĩ thấy ông ấy nói chuyện dễ dãi, nên vì cũng muốn quên gánh nặng, đường xa, trời nóng, mới hỏi thêm:
- Ngoài tỉnh chắc bây giờ vui vẻ hơn trước, ông nhỉ?
- Phải, hôm nào bác rỗi, lên tỉnh mà chơị
- Cháu chẳng quen ai, mà cũng chẳng có việc gì mà lên. Đi một mình, nhỡ lạc chết.
Thấy bác nhà quê thực thà, ông kia chẳng hẹp gì mà không tỏ hết cái tử tế với người giúp mình, bèn nói:
- Được, khi nào lên tỉnh, bác cứ lại nhà tôi chơị Nhà bác ở đâủ
- Nhà cháu ở gần ga, cách một cây số. Qua làng cháu rồi mới đến gạ
- Vậy ra bác phải đi thêm cho tôi một thôi đường nữa à?
- Vâng, nhưng chẳng ngạị Cháu làm ăn vất vả quen đi rồị
- Thôi được, tôi sẽ đãi bác hai hào cho bõ công.
- ông đừng cho, cháu không lấy đâụ Nhân thể chuyến gánh, thì cháu giúp ông, chứ công sá gì.
- Bác không lấy, tôi không bằng lòng. Bác cầm về mua quà cho cháụ
- Không. Người ta ăn ở với nhau, cốt giúp nhau lấy tình, chứ tiền mà làm gì?
Người ấy thấy anh đĩ nói với mình một cách nghĩa hiệp, thì ngợi khen mãị Từ lúc ấy, hai người nói chuyện thân mật như bạn. Khi tới ga, ông ta cứ lấy ra hai hào đưa anh đĩ. Anh đĩ cười, lắc đầu:
- ông đừng làm thế. Hai hào chứ hai đồng cháu cũng không lấy đâụ
ông ta lại nằn nì:
- Bác cứ cầm cho tôi bằng lòng. Tôi biết là công bác to hơn thế này kiạ
- Không mà, cháu đã nói là ăn ở với nhau cốt lấy tình, chứ tiền mà làm gì.
Khi xe lửa đến, ông ta nắm tay anh đĩ, và nói:
- Bác thực có bụng tốt ít có. Bác là một người đáng quí, không bao giờ tôi quên. Khi nào bác lên tỉnh, nhớ lại nhà tôi chơị Tôi sẽ đưa đi xem phố. Nhà tôi ở phố Bờ Sông, số 36. Nhớ nhé. Thôi, chào bác, cảm ơn bác.
- Vâng, không dám. Chào ông ạ.
+
+ +
Một câu mời dơị Một câu hứa vượn. Ai ngờ đến cuối năm ấy, anh đĩ Mùi có tiền, lên tỉnh sắm tết.
Mua các khoản xong, anh mới đi xem các phố xá. Anh nhớ người khách qua đường, nhớ gánh va ly mấy tháng trước, cũng muốn tìm xem nhà người ấy ở đâụ Nhưng nào anh có nhớ phố và số nhà để hỏi thăm đến.
Đi hết phố này sang phố khác, nhà nào anh cũng ngắm, cũng nhận kỹ lắm. Vì không mấy khi lên tỉnh, lại được rảnh rang, nên anh chẳng chịu lỡ dịp mà chẳng đi cho khắp. Anh dừng chân trước hiệu cân gạọ Anh dừng chân trước xưởng ôtộ Anh xem cái cột đong dầu ét xăng, chiếc vàng, chiếc đỏ. Rồi anh đến phố Bờ Sông. Anh thấy một nhà có hàng rào sắt. Nhân có bóng cây, anh đứng nghỉ.
Anh đưa mắt vào trong nhà để nhìn. Người đi lên đi xuống tấp nập, người nào người nấy ăn mặc rất lịch sự.
Anh ngắm nghía các câu đối, hoành phi, sơn son thếp vàng. Anh nhìn các bồn cây, lá hoa bay tơi tả.
Bỗng anh thấy ở trong nhà có tiếng gắt toang toang, mà đầy tớ thì chạy cuống quít. Rồi có một người đứng ở hè, nét mặt hầm hầm. Anh thoạt trông người ấy, lấy làm ngờ ngợ. Nhìn kỹ, thì té ra chính là cái ông hỏng ôtô độ trước.
Vậy thì anh đĩ Mùi quen ông ấy rồị Anh nghĩ lại cái việc anh đã giúp ông ấy, những câu ông ấy nói chuyện rất tử tế, dễ dãi, cùng những lời ông ấy khen anh và mời anh. Nay anh đã tìm thấy nhà ông ấy, không lẽ anh lại không vào một tý hay saọ Vì mấy khi anh đã lên đến tỉnh?
Anh đĩ đứng hẳn ở giữa cổng để nhìn vào cho cẩn thận. Anh sợ trông lầm chăng. Anh ở nhà quê quen, trông người trên tỉnh, thường thấy người nào cũng sang trọng giống người nàọ
Anh thấy ông kia cũng nhìn anh một lúc. Nhưng quái, sao không thấy ông ấy gọỉ Hay là hôm nay anh đội khăn và mặc áo dài, nên trông khác, mà ông ta chưa nhận ra chăng?
Anh bèn giơ tay ra vẫy, và gọi:
- ông ơi!
Lạ quá, anh thấy ông ấy quay trở vàọ Và tiếng gắt mắng lại to hơn ban nãỵ Rồi bỗng có người đầy tớ ở trong chạy ra, hất hàm hỏi anh:
- Đi đâủ Vào đây làm gì?
- Tôi quen ông kiạ Tôi vào chơị
- Ai chơi với màỷ Thằng điên!
- Tôi không điên đâụ Tôi quen thật đấỵ
- Đừng láo! Liệu không tao báo đội sếp đưa vào nhà thương. Cút đi!
- Anh hỏi lại ông ấy mà xem. Tôi không điên đâụ Tôi quen ông ấỵ ông ấy mời tôi đến chơi thật đấy mà.
- Mày đừng giở thói điên ra đâỵ Cút đi!
Người đầy tớ vừa nói, vừa dắt tay anh đĩ, lôi ra cổng.
- Mày là thằng điên. Chỗ này không phải là chỗ mày đến nói láọ ông ấy bảo tao đuổi mày đi, vì mày điên, nghe chưa!
- Tôi quen thật. ông ấy nhờ tôi gánh va ly lên ga đấy, cái ngày ông ấy hỏng ôtô ấy mà.
Người đầy tớ nhìn qua nét mặt anh đĩ, rồi hỏi:
- Anh nói thực?
- Tôi nói dối làm gì? ông ấy không mời, sao tự nhiên tôi dám đến. Tôi không điên đâụ ông ấy tử tế lắm.
Người đầy tớ lại nhìn anh đĩ một lượt nữa, thấy bộ mặt anh quá thực thà, thì thương hại, nên mỉm cười, vỗ vai anh, và ôn tồn giảng:
- ồ! Thế thì anh chẳng điên là gì? Lúc người ta hỏng ô tô khác, lúc người ta ở nhà tiếp khách khác. Chứ anh tưởng người ta lúc nào cũng như lúc nào à? Thôi, anh về đi là khôn...
PTBNS số 48; 1-12-1939

THẰNG ĂN CẮP

Phải đòn trận này thì nó cạch đến già! Nhưng đáng kiếp lắm! Ai thương? Ai bảo mới nứt mắt ra đã đi ăn cắp?
Người ta kháo nhau:
- Quân ấy tinh quái lắm! ấy, nó cứ giả vờ đói khát để ăn xin, trát bùn vào mặt, vào người, lử thử lừ thừ, làm như thằng ốm, nhưng hễ rình nhà nào vô ý, là thừa cơ thó ngay, rồi lẩn mất, nhanh như cái cắt!
Người ta gờm mặt nó! Người ta sợ nó! Hễ nó lảng vảng đến, người ta ngờ, người ta canh, người ta giữ, coi nó như một con chó đóị
Một hôm, nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong.
Thấy nó, bà hàng rau đứng dậy, quẩy gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn lại túi tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán sốt đưa mắt cho bác bán khoaị
Họ thì thào:
- Thằng ăn cắp.
Trông nó đáng sợ thật. Hai mắt trắng dã, lấm la lấm lét, tóc thì bồng lên như tổ quạ. Da đen thui thủị Mặt rạn như men lọ cổ.
Hai tay thọc vào túi cái áo tây tàng, xơ xác như tổ đỉa, nó đứng nhích ra chỗ bóng nắng, dún dẩy cho ấm.
Nó nhìn gánh bún riêụ Nó nhìn mẹt bánh đúc. Nó nhìn rổ khoai lang. Cơ chừng nó thèm. Nó thèm vì nó đóị
Thấy nó ám, các bà chẳng dám đuổi, nhưng bụng mong nó cút ngay đị
Nó đứng một lúc. Rỗi quá. Nó chìa bàn tay ra xin, xin bằng những câu văn sách thuộc lòng, chứ không cố lấy giọng nằn nì khốn nạn:
- Cắn cỏ lạy bà, con đói khát, bà làm phúc thí bỏ cho con đồng cơm bát cháọ
Thấy nó giở giọng, các bà giữ riết ruột tượng, túi tiền, thức hàng.
- Để bận sau, đi mà xin chỗ khác.
Nó nhăn bộ răng trắng như bầu ra, cười láu cá.
Gớm chết!
Nó cười gì? Ai biết được! Hay là nó chế các bà lần này quá khinh nó? Vì nó tham cơ hội mà xin đó thôị
Nó làm bộ, lắc túi cho các bà nghe thấy tiếng xu kêu loẻng xoẻng! Ranh con thực! Nó lại đứng yên. Nó ngắm. Hai mắt chòng chọc vào cái nồi bún riêu khói bốc lên ngùn ngụt, vào cái nồi bánh đúc ngon lành, vào cái rổ khoai tròn trĩnh như "ông ỷ". Nó chảy nước dãị Nó thèm. Vì nó đói thực.
Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng trinh, và một bát cơm nguộị Bát cơm ấy, chưa đủ sức đền vào chỗ nhịn chiều hôm quạ Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt! Ăn không ra bữa đã quen từ thuở bé. Nó chỉ thấy đóị Chứ không thấy cồn càọ Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô hàng ôm khư khư lấy mẹt vào lòng, xua lấy xua để:
- Chưa bán mở hàng đấy! Khỉ ạ!
Nó lại lê dịch sang kề nồi bún riêu:
- Lạy bà, con ăn mày bà một bát.
- Ba mươi sáu cái nõn nường! Mỗi bát mấy đồng xu của người ta đấy! Thôi đi! Dơ!
Nó lại mó vào củ khoai lang, tủm tỉm cườị
Bà ấy vội hất tay nó ra, và mắng:
- Bà thì tát cho một cái bây giờ, đừng láo!
Bà hàng lê chắc chẳng đời thuở nào nó dám động đến hàng mình, là thứ xa xỉ phẩm, đùa nó rằng:
- Một hào một quả, bỏ tiền đây, tao bán chọ
Nó cười, lắc đầụ
Bà ấy ném vào lòng nó một mảnh vỏ quýt. Nó đỡ được, bỏ vào mồm, nhai gau gáụ
Rồi nghĩ thế nào, nó đứng dậỵ Tay nó đếm xu trong túi, nói với bà hàng bún riêu:
- Bà bán cho cháu một bát.
- Mày có tiền không?
Nó gật đầu, mạnh bạọ Rồi đắc chí, nó lắc túị Bà ấy múc cho nó một bát đầỵ Nó ăn. Phù phù! Nóng! Xuỵt xoạt! Cay! Ngon quá.
Ai cũng yên bụng. Không ai để ý đến nó nữạ Họ nghênh xe đạp. Họ nhìn ô tộ Họ pha trò. Họ cười ha hả.
Nó vẫn ăn. Ngon quá!
+
+ +
Năm phút...
Mười phút...
Bỗng chốc:
- ối ông đội sếp ơi! Thằng ăn cắp! Ai đuổi hộ tôi!
Bọn bán hàng nhốn nháọ Chạy tứ tung. Quang gánh vướng. Người ngã. Hàng đổ. Bát vỡ.
- Bắt lấy nó!
Thằng ấy cắm đầu cắm cổ chạy, nhanh như mũi tên.
- Giời ơi! Nó kia kìa! Ai đuổi hộ tôi!
Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba bốn người, sáu bảy ngườị..
- Bắt lấy thằng ăn cắp!
Rồi hàng chục ngườị Rồi không đếm được bao nhiêu người nữạ Họ chạy huỳnh huỵch. Họ làm như bắt giặc!
Ai cũng kéo cả ra đường để nhìn theọ
Một thằng chạỵ Mấy trăm người đuổị Bụi mù!
Bà ấy chạy sau rốt. áo lấm. Khăn xổ. Tóc rũ. Ngửa mặt lên mà kêu:
- ối ông đội sếp ơi!
Mọi người hỏi nhaụ
- Ai mất gì?
Người bảo:
- Nó cắt đứt ruột tượng của người kiạ
Người bảo:
- Nó lần túi người ta! Chà thằng oe con gớm thật!
Rồi lại thêm mấy chục người nữa đuổi theo thằng ăn cắp.
- Thằng ăn cắp! Bắt lấy nó! ối ông đội sếp ơi! Nó ăn cắp của tôi!
- Kìa, ông đội sếp đến thực. Bỏ mẹ!
ông ấy cắm cổ, gò lưng, bấm chuông liên thanh, đạp xe đuổi theọ
Nó vẫn chạy như khoàng cả hai chân lên vaị Chạy hăng quá!
Nhưng người đuổi chạy nhanh hơn.
Bà ấy thì lạch bạch như con vịt, kêu không ra tiếng, mỗi lúc một xa nó, xa nó đến sáu bảy mươi thước.
- Khổ thân tôi, giời đất ơi!
Đến ngã tự
May quá. Một ông chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, nghe tiếng kêu, đâm bổ ở trong nhà ra, tóm ngay được cổ nó. Nó cúi xuống, mồ hôi trơn, ông ấy suýt nắm trượt. Nhưng liền vớ ngay được cánh tay nó.
Nó giằng rạ ông ấy khỏe như vâm, quật ngay nó xuống đánh oách, ngã sấp xuống đường đá, sây sát cả người, máu mê bê bết. ông ấy vồ được nó.
- Nó ăn cắp gì?
- Nó giật khăn.
ức! Một cái đá vào mạng mỡ.
- Chạy nữa đi!
Hự! Một quả tống vào ngực.
Nó méo mặt, không thở được! Đành chịu nằm yên.
Người ta chạy tới dần.
- Nắm chặt lấy nó!
Nhưng chẳng nắm, nó cũng chẳng chạy được.
Huỵch! Huỵch! Bốp! Bốp!
- Này chừa này! Ăn cắp này!
Ai cũng phải giã cho cẩn thận, để bõ lúc chạy mửa mật bắt nó!
Nó lạỵ Nó van. Nhưng ai thả Dại gì mà tha thằng ăn cắp?
Họ càng ghét, túm lại, đánh như mưạ
- Cho đáng kiếp! Nó giật đôi khuyên vàng của người ta
Họ lại đánh túi bụi, không tiếc taỵ
- Mười ba mười bốn tuổi đầu, đã dám lần lưng, lấy của người ta năm đồng bạc, rồi lại đánh người ta!
Họ lại tức dữ. Lại cho thêm một trận.
Nó đau quá. Nằm sóng soài, không nói được nữạ Hai mắt lừ đừ, khốn nạn như con chó bị trói giật bốn cẳng ra đằng sau lưng.
Họ khám túi nó.
Tang vật nó tẩu đi đâu rồỉ
- Mày để đồ ăn cắp ở đâủ
- Nó có đảng!
Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụị Họ lại tát. Họ lại đá. Không tiếc taỵ Rồi lại hô:
- Đánh chết nó đi!
Nó cũng gần chết thực.
Những mũi giầy, những ngọn gân bò, những quả đấm, những nhát gậy, làm nó đau ê ẩm cả mình. Phen này có sống cũng thành tật!
Nó cựạ Nó nhăn. Nó ôm bụng.
Đám đông càng ùn lên. Xe pháo tắc tị không đi được. ông đội sếp lôi tay nó dậy:
- A lê! Lên Cẩm!
Nó mềm như sợi bún, không dậy được.
- Nó giả vờ đấy!
Lại mấy cái móng giò. Lại mấy cái tát. Để đợi người khổ chủ còn đương ỳ ạch chạy theo ở đằng xạ
Bà ấy mệt quá. Không lê được một bước. Không kêu được một tiếng. Cơ chừng tiếc củạ Cơ chừng hết sức. Cơ chừng hết hơị Không biết mất cái khăn, đôi khuyên, hay năm đồng bạc? Không biết bị nó đánh có đau không? Chờ bà ấy đến sẽ rõ.
- ông... bà... giữ... lấy... nó... cho... tôi!
- Có thả nó cũng không chạy được, mau lên!
Bà ấy vẫn chạỵ Bà ấy vẫn kêụ Bà ấy vẫn thở. Thảm quá!
Vòng người đứng giãn rạ Bà ấy đến. Hổn hển thở chẳng được.
- Phải, nó đây rồị
Bà ấy vồ lấy nó, vả lấy vả để.
Bà ấy đánh cứ tưởng mạnh. Nó cũng không biết đaụ Nó mê lên rồị
Bà ấy kiệt sức, ôm chầm lấy nó, rồi ngã sóng soài ngay cạnh.
- Giả tao đây!... Giả... tao... đây!
Nó không thở được. Nó nhăn.
- Nó lấy gì của bà?
- Các ông đưa... nó lên... Cẩm... hô... tôi!
- Bà mất gì?
Bà ấy cố trả lời, nói rời rạc như người sắp tắt thở:
- Nó ăn của tôi... hai xu... bún riêu... rồi... nó quịt... nó chạy!
 

Kép Tư Bền.
Tiểu thuyết thứ bảy xuất bản, 1935

SÁNG,CHỊ PHU MÕ

Rửa xong bát đĩa, Sáng cầm đèn hoa kỳ vào buồng, đặt trên mặt hòm, rồi mở màn, bảo mẹ:
- Bu ở nhà, con đi đằng này một tý nhé.
Bà già như đã đoán được ý con, cựa mình nằm quay mặt ra ngoài, rên rỉ, nói:
- Thôi, con ạ, không thuốc thang gì nữa đâụ Đừng đi vay mượn, rồi lại mắc nợ. Bu đã qua cầu ấy, bu sợ lắm.
Sáng thở dài, sờ lên đầu mẹ, rồi nhăn nhó, nói:
- Thế này mà bu cứ không chịu uống thuốc. Bu sốt nặng hơn ban trưa đây mà.
- Tại bu đắp nhiều chăn đấỵ Cứ để vậy, rồi khỏị Bu không muốn để nợ cho con đâụ
- Bu đừng tiếc tiền. Hôm kìa, hôm kia, bu uống luôn hai chén, nên đã gần khỏị Giá bu cứ để con đi xoay xỏa, lấy tiền cân hai chén nữa, thì chắc hôm nay cất cơn rồị
Mẹ Sáng cảm động, lắc đầu, nắm lấy tay con:
- Bu thấy tình cảnh nhà thế này, bu chả muốn thuốc thang tí nào cả. Uống chén nào vào mồm, đeo nợ chén ấy, thì uống làm gì.
- Nợ thì rồi giả, chứ có ăn không uống không của ai mà bu ngạị Vả lại con giật tạm của các chị ấy, chứ có vay của ông cai Nhã đâụ
- Mày nói dốị Bu lại không rõ tất cả các phu phen làm ở mỏ này hay saọ Ai thừa tiêu cho mày giật mượn được. Thầy mày ngày xưa làm ở đây hơn hai mươi năm, thật là ăn tiêu vắt cổ chày ra nước, thế mà lúc bị sập lò chết đi, còn để lại món nợ, giả mãi mới hết.
Sáng thở dài, đáp:
- Bu để yên con nói cho mà nghẹ Có phải con hỏi mượn một người đâu, mà bu chắc rằng không có. Con vay mỗi chỗ một tí, cho nên dễ, bu ạ.
- Thế rồi lấy gì mà giả?
- Rồi kỳ lương này, con trang trải thế nào cũng xong. Bu cứ yên tâm.
Bà già lắc đầu, thương hại con, hổn hển thở:
- Tao bảo mày cứ không nghẹ Vừa trưa hôm nay, tao thấy mày bàn nhau với chị Nhân là vay ông cai Nhã kia mà. Nợ ai, chứ nợ lão ấy thì khổ đấy, con ạ.
- Con biết rồị Con đã bảo con không vay ông ấy đâu mà.
- Nhưng mà cũng không được vay đâu cả. Liệu mà nghỉ ngơi, rồi đi ngủ, sáng mai còn đi làm.
Rồi bà than thở một mình:
- Hai hôm nay, gạo đã phải đi vay rồi, bây giờ lại còn cắt thuốc cho mẹ. Nhục quá, nghèo ơi là nghèo!
Bỗng hai dòng lệ ứa ra, làm ngập đuôi mắt, rồi từ từ chảy xuống mang tai, bà nằm quay vào trong, thở những hơi dài thống thiết.
Sáng buồn rầu, nói:
- Bu cứ uống thử thêm hai chén nữạ Bởi vì, nếu tiếc tiền, rồi sốt nặng hơn, thì làm thế nào!
Mẹ Sáng đập tay gắt:
- Đấy, tao kệ màỵ Mày khó bảo quá!
- Được, bu cứ kệ con.
Nói đoạn, Sáng thu dọn trong nhà, hạ các liếp cửa xuống, vặn nhỏ đèn lại, rồi lách ra đường.
+
+ +
Cũng giờ ấy, cai Nhã chờ cho các ký lục trên nhà giấy về hết, mới vào báo cho chủ Nhì biết tin mừng:
- Thưa ông, tối hôm nay, xơi cơm xong, ông có bận việc gì không?
- Không, anh muốn gì?
Nhã ghé gần lại, ti hí đôi mắt lươn, nói nhỏ:
- Cái con bé xưa nay ông vẫn ước ao, tối nay, tôi sẽ dắt vào cho ông.
ông chủ tươi cười, vuốt vểnh bộ râu ngược lên, rồi khoanh tay trên bàn, hất hàm hỏi:
- Con bé nào thế nhỉ?
- Con bé tên là Sáng, vẫn ngồi bên cạnh bà già ở đầu phía tay trái nhà máy ấy mà. Chả có lần ông khen nó đẹp là gì.
ông chủ chợt nghĩ ra, gật gật, đáp:
- Phải, tôi nhớ ra rồi, cái con bé có bộ ngực to bằng ngần này ấy chứ gì?
Hai thầy trò nhìn nhau, cười híp mắt. Nhã nói:
- Chính đấy, tôi vẫn bảo nó là vì ông nhân từ, thương đến ngày xưa cha nó chết về công việc của sở, nên mới ban ơn cho nó vào làm.
- Thế rồi saỏ
- Tôi xem ý nó, thì nó không như những đứa khác. Nghĩa là nó không nhí nhảnh, dễ dãi đâụ
- Thế bây giờ?
- Bây giờ là tôi làm ơn cho nó.
- Anh làm ơn cho nó?
- Phải, vì mẹ nó ốm.
- Saỏ
- Để tôi nói hầu ông nghẹ Ban nãy nó tìm tôi, hỏi vay tôi mấy đồng bạc mua thuốc cho mẹ. Xin ông biết rằng lần này là lần đầu mà nó nhờ tôi về tiền nong.
- Thế nó phong lưu à?
- Không, ông tính làm phu đủ ăn là may lắm, chứ còn thừa thãi sao được. Giá nó không vì mẹ ốm, phải tiêu bất thường và vay loanh quanh bạn hữu không được, thì chưa khi nào nó chịu nói với tôị
- Đó là sự thực, hay nó tìm dịp đến gần anh?
- Tôi mong đó là nó nói dối, thì cách hành động của tôi mới có kết quả. Nhưng, thưa ông, mẹ nó ốm thực.
- Thế anh bảo nó thế nàỏ
- Tôi bảo nó là tôi không có sẵn, nhưng tôi có thể đưa nó đến mượn tiền ông. Nó sợ ông, không dám đi, nhưng tôi đã cắt nghĩa cho nó nghe rồị
ông chủ cười, khen:
- Tốt lắm.
- Phải, dịp tốt đến cho ông trong khi bà về Hà Nộị Tối nay, tôi sẽ lên đâỵ Nhưng điều cần nhất, là ông nên xử trí cho khéo, kẻo con bé ấy tai quái và liều lĩnh lắm.
- Không ngạị
- Tôi nên dặn trước ông thế, vì con Sáng này không như những con trước tôi dắt đến cho ông đâụ
- Được rồị Tôi cảm ơn anh.
+
+ +
Khoảng hơn tám giờ tối, Sáng lo lắng, theo cai Nhã đi trên con đường bò quanh sườn đồi, lên nhà chủ. Chị chẳng biết việc vay tiền chủ có kết quả gì không. Chị liều mà nghe lời Nhã, theo vào chủ để vay tiền. Chị chỉ mong mẹ chị có thuốc uống. Chị biết Nhã vẫn dắt gái đến cho chủ, thì rồi đây, thế nào chị cũng bị mang tiếng. Song, chị chỉ cốt lương tâm biết mà thôị
Đến cổng, Nhã tặc lưỡi, nói:
- Nghề thế, chị nghe chưa, mình đi làm thì phải chiều ý chủ. Tôi thấy chị cứ khủng khỉnh với người trên, như thế không nên.
- Thì cụ bảo cháu làm thế nàỏ
- ồ, cái đó chị nghĩ thì ra chứ. Giá như chị năng đi lại với chủ, có phải lần này chị chả phải nhờ đến tôi mới vay được chủ hay không.
Sáng hiểu ý, không đáp. Chị nhìn xuống chân đồi, chỗ tối om, có những mái nhà tranh xám, là xóm thợ thuyền.
Tới thềm, Nhã bảo:
- Chị chờ đây, tôi vào nói trước đã.
Sáng đứng lại, thở mạnh một cái:
- Chào! Mệt! Giá cụ lên một mình nói hộ cháu cũng được, cháu đỡ phải leo dốc.
Sáng đứng một mình, ngắm cái nhà cao lồng lộng. Chị lạy trời cho chủ bằng lòng cho chị vay lương. Một lát, Nhã vui vẻ ra, vẫy Sáng:
- Được rồị Chủ bảo chị vào mà ký nhận lấy tiền.
Sáng mừng rỡ, trống ngực nổi mạnh:
- Thế cụ vào với cháu chứ?
- Không cần!
Sáng ngần ngại, rồi nói:
- Cụ chờ cháu ở đây nhé.
Cai Nhã trợn đôi mắt trắng dã, gắt:
- Có mau lên không, bắt ông ấy chờ à?
+
+ +
Sáng vừa vào, ông chủ đã làm ngay như mọi bận. ông đến cửa, vặn khóa, bỏ thìa vào túi, và nhăn nhở cười, ôm thốc lấy người con gáị Không nếp tẻ gì cả. Bởi vì ông yên trí là hạng này chỉ là những vật cho ông tiêu khiển khi vắng vợ. Họ với ông cách nhau một trời một vực, thì nói chuyện làm gì cho mất thì giờ. ông là chủ kia mà, cần gì phải tán tỉnh lôi thôị
Nhưng lần này khác. Bỗng ông bị cưỡng kịch liệt.
Sáng quằn quại trong cánh tay ông, kêu to:
- ô hay, ông này mới hay chứ! Tôi vay ông tiền mua thuốc cho bu tôi, sao ông lại làm thế nàỷ
ông chủ không hiểu tiếng, nên mặc kệ. Hai bắp tay ông nổi lên, ông hết sức ghì chặt lấy Sáng, và ghé môi vào má chị. Sáng càng giãy giụạ Chị giận, mặt đỏ bừng bừng. Chị hết sức chống cự lại con quỷ dâm dục. Rồi biết mình yếu hơn, chị nắm được râu ông ta, rứt mạnh, và kêu to hơn, rồi gầm lên:
- ối giời ôi! ông buông tôi ra!
Nhưng đầu tóc chị xổ ra rũ rượị Mà ông chủ vẫn nói những điều bằng giọng dỗ dành. Người ông ta nóng ran, mồ hôi mướt rạ Và vì thế, hai cánh tay trơn như phết mỡ.
Sáng thở hồng hộc. Máu hăng chị sôi lên sùng sục. Chị quào mặt ông chủ, và luồn tuột được đầu ra ngoàị Song, nhanh như chớp, ông chủ lại vồ ngay được chị, làm chị ngã giúi xuống, bị cả sức nặng của cây thịt vạm vỡ nằm đè lên trên.
Biết thế nguy, Sáng hết sức lăn lộn một chập nữạ Chị đạp chân, cựa tay:
- ông buông tôi ra! ông đểu lắm! Tôi tự tử bây giờ!
Song, cuộc vật lộn càng hăng háị Gần đạt đến đích, ông chủ không thạ
Độ năm phút sau, khi hết hơi sức, và biết rằng không thể cưỡng hơn được nữa, chị mới quyết liệt. Chị đã không khỏe để trừ dâm thần, thì chị đành huỷ hoại thân chị để lánh nạn. Chị bèn giơ mười đầu ngón tay cấu mạnh vào cổ họng. Rồi nhăn nhó, chị nằm sóng soài, mệt lử.
ông chủ thấy tấn tình kịch biến thành bi kịch, vội vàng buông người con gái khó bảo ra, và đứng dậỵ
Sáng thở hổn hển rồi im lịm.
ông ta vắt hai tay ra sau, lặng ngắm Sáng. Lúc bấy giờ, ông ta có thể làm gì Sáng cũng được. Song, ông ta đứng yên.
Có lẽ ông ta động tâm, ông ta lau mồ hôi trán, giật khục tay và thở dàị
Hình như lòng nhân đạo trở về với ông tạ
ông ta lắc đầu, vẻ mặt hối hận, lấy hai tay lật Sáng lạị Một tiếng rên rỉ làm ông ta thương hại kẻ yếu hèn.
Trong buồng yên lặng.
Nghĩ ngợi một lát, chòng chọc nhìn Sáng, bỗng ông ta móc túi, lấy ví. Rồi lẳng lặng, ông ta mở ví, thọc bàn tay vào trong ngăn. Giơ ra ánh đèn, ông tìm và bóc tờ giấy bạc năm đồng.
Nhưng vừa lúc ấy, Sáng cựa một cái, rồi ngồi nhổm dậy, thở, hai tay tựa xuống gạch.
Chị không chết, mà cũng chẳng làm sao cả.
ông chủ vẫn nhìn chị. ông đã bớt sợ. Và do đó, bớt thương hạị Bàn tay ông ta vẫn để nguyên trong ngăn ví.
Trong khi ấy, Sáng không dám nhìn ông. Mặt tái xanh, chị quấn món tóc rối, nhặt chiếc khăn rơi, rồi vội vàng đứng dậy ra phía cửa sổ, trèo qua tường và nhảy phắt ra ngoàị
Và cũng trong khi ấy, ông chủ tươi tỉnh, rút bàn tay ra, gấp ví lại, và bỏ vào túị ông nhìn theo Sáng, nét mặt mừng rỡ.
ông mừng rỡ, chẳng phải thấy Sáng vẫn lành mạnh như thường.
ông mừng rỡ là vì đỡ mất toi món tiền suýt nữa vô cớ đền vết thương cho con bé bướng bỉnh.

Tiểu thuyết thứ bảy số 263; 1939

RĂNG CON CHÓ NHÀ TƯ SẢN

Lúc ấy, độ sáu giờ chiềụ Một cái ô tô đằng xa chạy lạị ánh sáng hai ngọn đèn pha chiếu tóe đến chân trờị Xe qua cầu, đến trước cái nhà tây có giậu sắt thì còi bóp ran như ếch kêu và dừng lạị Khi ô tô chưa đỗ hẳn, thì đã thấy con chó nhảy vọt từ trên xuống đất, ngoe nguẩy đuôi vừa sủa, vừa chồm lên hai người đương bước xuống. Hai người đó, một người là chủ nhà này, còn một người là khách.
Đèn xe tắt. Cửa xe đóng. Chủ khách bước vào nhà. Họ đều âu phục, mặc lối đi săn, trên đôi ghệt còn bê bết những bùn, vai đeo súng, tay xách xâu chim nặng trĩụ Con chó chạy trước, vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa vẫy đuôi, vừa ẳng.
Chủ mời khách vào xa lông. Buồng này bày biện đúng kiểu tân thời, toàn đồ bằng gỗ lát đánh bóng nhoáng. Tường nhà quét vôi xanh, gạch chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng sông ánh sáng cũng xanh xanh. Cứ trông buồng khách, cũng đủ đoán tất ông chủ nhà này là một nhà giàu, ăn chơi lịch thiệp.
Bà chủ vừa trang điểm xong, ra ngồi đó để tiếp khách. Trên chiếc ghế thứ tư, con chó nhảy tót lên, ngồi chồm chỗm, thè lưỡi, nhìn hết người nọ đến người kiạ
Người đời ai được phú quý cũng hay khoe củạ Cho nên, dù khôn ngoan khéo léo hơn người, ông chủ nhà này cũng mắc phải cái bệnh ấỵ Nay cái dinh cơ này, cái ô tô này, cái bộ buồng khách, buồng ăn này, đối với ông, đã là cũ rồi, khoe lắm cũng chán miệng, cho nên ông nói đến cái mớị Cái mới đây, là con chó Lụ
- ấy, chính nó là giống Bleu d Auvergne đấy, bác ạ. Tôi mua nó mất ba trăm bảy mươi đồng. Cái người Tây bán nó cho tôi, vì nể tôi lắm, mới để rẻ thế. Cứ kể ra thì những hơn bốn trăm kia! Cũng có con đẹp hơn thế này, những hơn năm trăm. Nhưng kể ra An Nam mà đã dám bỏ ra ngót bốn trăm bạc để mua chó, thì đã là ngông lắm rồi! Vả lại, người mình mấy ai chơi chó sành, cho nên mua con nhiều tiền quá cũng phí mất. Này, bác ngắm kỹ nó mà xem. Giống chó này tai to, mũi lúc nào cũng ướt ướt, chân cao và to, lốm đốm. ấy, không biết nhận xét thì lầm với giống khác đấỵ Con này, tôi chỉ yêu về cái đầu vuông như chữ điền, này, nét ngang đây nhé nét sổ đây nhé,, thần tình không? Con nào được cái bụng thon, mõm ngắn, nhất là hai lườn phình ra như lườn dê thế này, là khoẻ và nhanh lắm đấỵ Hẳn ban nãy, bác đã thấy cái dáng nó oai vệ là ngần nào rồi đấy nhỉ. Có phải bao giờ nó cũng đi trước tôi mười thước không? Cứ lấy thước mà đo, cũng chả sai mấy tí đâụ Lúc đi như thế, cái mắt nó đưa đưa cái mũi nó ngửi ngửi, trông đẹp đáo để. Khi nào nó đánh hơi thấy chim nấp ở trong bụi, thì nó gục đầu xuống, khẽ ngỏng ngỏng cái đuôị Thế là tôi biết hiệụ Lúc tôi lắp đạn xong, tôi "chutt!" một tiếng, thì nó chồm ngay vào con chim. Anh chim bay ra, "Pan!" thôi còn chạy đằng trời! Mười lượt như thế cả mười, chẳng sai một lượt nào!
Lúc ấy, con Lu ngồi trên ghế, đối diện với chủ, chúm chúm cái mõm để nghe chuyện.
- Không những nó săn giỏi, mà giữ nhà, tìm đồ đánh mất cùng tàị Bây giờ bác thử đưa cái kính của bác cho nó ngửi hơi một lúc, rồi bác giấu vào trong vườn, tôi bảo nó tìm cho mà xem.
Được ông bạn cũng là người hâm mộ chó, cho nên thử biệt tài con Lụ Quả nhiên, chưa được năm phút, con Lu đã ngoạm cái kính, ngoe nguẩy đuôi, đưa trả khách.
ông chủ đắc chí, cười ha hả, vuốt ve, vỗ mãi má nó, rồi bế nó vào lòng, hôn lấy hôn để, vui thú như được cậu con hay chữ vậy!
- Tôi nuôi nó cẩn thận lắm. Tôi không cho nó ăn dưới đất bao giờ. Cho nên nó quen thói sạch sẽ và khôn ngoan lắm. Thế mới biết cái giống chó Tây nó cũng hơn cái giống chó An Nam mình thực. Chó An Nam thì lông đã xấu, lại hay ăn bẩn, đã ăn bẩn lại hay cắn càn. Lắm bận, nó lừ lừ ở đằng sau mình, rồi đớp trộm ngay một miếng vào quần, mới nan du chứ! Con này, hễ đã lên tiếng thì y như có kẻ gian vào nhà. Nó chồm hẳn lên mặt mà cắn, thằng trộm nào vô phúc vào nhà này thì hẳn là mất chỗ đội nón! Nhưng chỉ từ mười giờ đêm trở đi, nó mới sủa mà thôị
Lúc ấy, cơm bưng lên, để trên bàn ăn. Chủ khách đang mời nhau lại ngồi, thì con chó đã nhảy tót lên bàn, chồm chỗm ngồi trước chủ.
- Con Lu này được cái lễ phép lắm. Tôi dạy mãi mới được đấỵ Này, đĩa đồ ăn của nó đây nhé, cơm trộn với thịt, ngon lành thế này, nhưng tôi chưa cho ăn, thì đố dám ăn. Ngay khuất mắt mình cũng vậỵ
ông chủ cầm đĩa đồ ăn của con chó, mang ra sân đằng trước. Khách và con vật đi theo saụ
Con Lu vẫy đuôi, ra dáng mừng rỡ. ông chủ để đĩa cơm ở giữa sân. Con Lu cúi cổ xuống ngửị Nó sắp ăn, thì chủ nó mắng ngay bằng tiếng tây:
- Tăng xông1
Thấy không được phụng dưỡng tử tế như mọi khi, con Lu từ từ lui rạ
- Ta không cần phải coị Lúc ta ăn xong, mà đĩa này nó vẫn không dám đụng đến đâụ Thôi, mời bác vào xơi cơm.

--------------------------------------------------------------------------------
1. Liệu hồn.
--------------------------------------------------------------------------------

Lúc bấy giờ, giá ông chủ có ý một tí, thì chắc đã thấy một vật gì đen đen, lù lù ở ngay ngoài cổng. Đó là một người ăn mày, ngồi bó giò ở đấỵ Người ấy đội cái nón toạc tung cả cạp, đã đóng khố, lại mặc cái áo rách cụt cả taỵ Thành ra bốn chân tay khẳng khiu, đen thui thủi, dài ngoằng ngoẵng. Cái bị bẹp há hốc miệng, nằm chờ bên cạnh cái dạ dày lép kẹp.
Người ăn mày chờ đấy từ lâụ Thấy trong nhà lạch cạch tiếng đũa bát, mùi đồ xào theo chiều gió đưa ra, hắn gào lên xin, mà cũng chẳng có ai nghe tiếng. Lúc hai người ra sân, hắn lạy van vã bọt mép. Nhưng hai ông còn đương dở bận chơi với chó, không ai để ý đến ngườị
Người ăn mày biết thế, nên lại cố lấy sức để gào tọ Nhưng cái tiếng hết hơi của hắn đập đến màng tai ông chủ, thì ông chủ trợn mắt, hầm hầm quát:
- Làm gì mà léo nhéo lên thế? Làm át cả câu chuyện của người ta! Bước ngay! Không ông đá cho một cái thì chết bây giờ!
Người khốn nạn im thin thít. Chủ khách bèn vào buồng ăn cơm.
Lúc ấy, hai con mắt người ăn xin chòng chọc nhìn vào đĩa cơm của con chó. Hắn thèm quá. Nước dãi chảy ròng ròng, không nuốt kịp. Muốn vào ăn trộm một miếng, nhưng chỉ sợ con chó cắn cho một miếng thì chết! Hắn thấy con chó cứ đứng gần đĩa cơm mà không ăn, thì không hiểu ra làm saọ Hắn tưởng con chó chê cơm nhạt, không thèm ăn, thì hắn muốn đánh đổi số phận hắn cho con chó nhà giàu!
Giá con chó biết tiếng người, hẳn hắn đã lân la đến gần để đánh bạn, rồi kể lể nỗi đói khát, có lẽ, chỗ anh em, con chó cũng động tâm mà lấy tình "nhân đạo" nhường cho hắn đĩa cơm ấỵ Hay là vì hắn xù xù ngồi đó, cho nên con chó phải đứng canh chăng? Hắn liền lẩn ra sau cái cột cổng để dòm vàọ Một lúc, quả hắn thấy con chó lừ lừ ra nằm chỗ khuất bóng ở cạnh tường.
Được dịp may, người ăn mày đánh liều dồ ra, tiến gần lại mấy bước. Nhưng con chó lập tức đứng dậy, cũng tiến gần lại mấy bước, vừa đi vừa gừ. Thằng người giương hai mắt nhìn con chó, con chó cũng giương hai mắt nhìn lại thằng ngườị Thành ra đĩa cơm ở giữa, người tiến thì chó cũng tiến, người lui thì chó cũng luị Hai bên hầm hè nhau, người lườm chó, chó lườm người đều cùng giữ miếng nhau, như hai kẻ thù không đội trời chung vậỵ
Cứ như thế, không bên nào chịu bên nàọ Độ hơn mười phút, người ăn mày cùng thế, nghĩ ngay được một kế. Tay hắn vớ được hòn đá to tướng, thu thu đằng sau, chạy tọt lại đĩa cơm, rón một miếng rõ nhanh, đút tỏm vào mồm.
Nhưng con chó nhanh hơn. Nó cũng chồm vọt lại, nhẩy xổ lên, há mồm, nhe răng ra cắn. Người ăn mày giơ thẳng cánh tay, nhằm giữa mồm con chó, uỵch hòn đá một cái rõ mạnh. Con chó ẳng lên một tiếng, rồi nhanh như chớp, nó vật được kẻ thù xuống đất, giơ hai chân ra cào mặt và móc mồm. Nhưng nó bị ngay một cái đấm nữa vào đầụ Nó chịu buông thằng người ra, nằm sóng soài, ẳng rầm lên.
ông chủ đương ăn cơm, nghe tiếng chó kêu, vội bỏ cả bát đũa, lẫn vợ, lẫn khách, ông cầm đèn hấp tấp chạy ra:
- Thôi chết rồi! Con Lu làm sao thế này! ối giời ơi! Nó gãy hai cái răng rồi! Khổ tôi quá!
Thế rồi thét người nhà váng lên, ông bế con Lu vàọ Còn mình thì chạy ra cổng xem ai đánh chó. Bỗng ông trông thấy ở đằng xa, có cái bóng đen đen, chạy nhanh tít, ông bèn bấm đèn ôtô để chiếu theo, thì trông rõ người ăn mày ban nãy đương chạỵ
- à, mày đánh gãy răng chó ông, ông chỉ kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!
Nói đoạn, ông tắt đèn pha, phóng xe hết sức nhanh để đuổi theọ..
Viết 12-1929
(Đăng Annam tạp chí số 23 - 1931
với nhan đề Răng con vật nhà tư bản).

NGỰA NGƯỜI VÀ NGƯỜI NGỰA

Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đa ('ng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?
Trông anh ấy có vẻ "đói" khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn lang thang phố nọ sang phố kia thế? Mà hàng phố, nhà nào nhà nấy đóng cửa cả rồi, còn mấy ai ra ngoài đường làm gì, mà còn hòng một "cuốc" tất niên?
ấy thế! Trả xe cho xong quách, về nhà hú hí với vợ con có hơn không, tội gì! Vợ anh, con anh, đương chờ anh ở cửa đó nọ. Năm hết tết đến rồi. Còn mấy giờ đồng hồ nữa thôi, chứ còn lâu la gì?
ấy, giá trong túi có nặng cái đồng tiền, thì chả phải bảo, anh ta cũng về nhà cho xong quách, việc gì còn phải vơ vẩn vẩn vơ như thế này! Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.
Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.
Quái, không hiểu cái ngày nay là ngày gì, mà từ chiều đến bây giờ, anh ấy mới được có hai hào chỉ! Ban chiều, khách áo gấm, áo nhung, đi nhan nhản ở đường, mà mời mỏi miệng, cũng không có một ai lên xe, nữa là bây giờ! Bực nhất là thỉnh thoảng lại lẹt đẹt tràng pháo nổ, làm cho anh ấy nóng cả ruột gan. Nghĩ đến cái cảnh tết nhà giàu mà thèm rỏ dãi. Họ quăng tiền đi về dịp tết, thi nhau tiền trăm bạc nghìn để xa phí vô ích, mà mình thì lo méo mặt mấy hào bạc gạo ngày mai không xong.
Thỉnh thoảng, anh ta dỏng tai quay cổ, xem có ai gọi ở đa ('ng xa không. Thì chỉ thấy đánh đẹt, lòe một cái ở giữa đường, làm cho anh ta giật mình đánh thót. Giật mình, rồi lại thở dài, ngán cho cái đời bấp bênh, lắm lúc muốn quẳng phăng cái xe đi, làm nghề khác. Nhưng bỏ nghề này thì xoay ra nghề gì?
Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà thương Phu? Doãn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn.
- Xe!
- Đây!
Ba chân, bốn cẳng, anh ấy chạy vội lại phía có người gọi, hạ hai càng xuống.
- Bà về đâu?
Một bà trạc độ ngót ba mươi tuổi, mình mặc xa tanh nâu, đầu quàng khăn bịt trắng, bỏ giọt xuống tận bụng, đứng ở đầu hè:
- Anh có đi giờ không?
- Bà đi mấy giờ?
- Một giờ.
- Xin bà sáu hào.
- Sao anh lấy đắt thế? Hai hào!
- Thưa bà, xe ngày tết vẫn thế, vả lại bây giờ còn ai kéo nữa, mà bà giả rẻ thế. Con kéo một chuyến, rồi cũng đi giả xe, về ăn tết đây!
Bà khách thấy anh xe nói ra ý không thiết kéo, nên quay lưng đi.
- Này, bà giả bao nhiêu?
- Hai hào là đắt rồi, ngày dưng chỉ có hào rưỡi một giờ thôi.
- Thôi, năm hào rưỡi, bà có đi, không thì thôi.
- Thôi.
Bà khách lại quay lưng đi, lần này thì đi thẳng.
Anh xe vắt chân chéo kheo, chỏng càng lên trời mà nhìn theo mãi một lúc. Anh đoán có lẽ người này cũng là khách kiết, nên mới trả rẻ quá như vậy. Thôi thì người già thì ta non. Anh chạy theo và gọi:
- Này, mời bà lên xe!... Hai... hàọ..! Xin bà hai hào rưỡi.
Bà khách vừa bước chân lên sàn xe, thấy anh xe vòi hai hào rưỡi, vội nhảy tọt ngay xuống đất:
- Không hai hào thì thôi.
- Thôi, đây, mời bà lên.
Bà khách vạch cổ tay áo, xem đồng hồ:
- Chín giờ năm nhé, nhưng kể là chín giờ đúng cũng được.
Anh xe kéo giờ, nên cũng chỉ chạy "dưỡng lão" thôi, đít nhổm mạnh, mà bước ngắn. Vì thì giờ là tiền bạc, chậm phút nào là tiền phút ấy.
Trước anh xe tưởng bà khách đi có việc gì, cho nên còn chạy. Sau thấy bà cứ trỏ vơ vẩn hết phố nọ sang phố kia, mà chả đỗ ở phố nào cả, thì mới đoán có lẽ là cánh "ăn sương" chi đây. Anh bèn đi bước một. Nhiều lúc muốn hỏi thực, nếu có phải giăng há thì mình giới thiệu cho một món sộp đáo để.
Nhưng lỡ không phải thì họ mắng cho và không trả tiền thì khổ.
Qua chợ Đồng Xuân, vòng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đông, bà khách bỗng hỏi:
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.
- Được.
- À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.
Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá, bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để ca ( n.
Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới đánh bạo hỏi một câu rõ khôn:
- Bà tìm ai, thưa bà?
- Tôi tìm người quen.
- Người quen bà ở phố nào?
- Anh cứ kéo đi.
Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành, Hàng Vải Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn không tìm thấy ai quen.
- Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lòng kéo tôi giờ nữa không?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo. Hàng phố càng thấy thưa người đị Các cửa đóng kín mít. Đi một lúc, qua Ngõ Trạm, vòng sang Hàng Điếu, rồi rẽ sang Hàng Bồ. Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà khách cắn hạt dưa thôi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đì đẹt pháo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.
Anh xe mới nghĩ: "Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười ba ('ng trăm năm nay".
Rồi anh nghĩ đến vợ con anh, mà phấn chấn trong lòng, như có cái sức gì nó xúi giục anh quên khổ để vui lòng làm việc vậy.
"Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm. Nhưng ta sẽ làm ra dáng không mệt nhọc, để vợ chồng con cái ăn tết với nhau cho hể hả".
Anh vừa nghĩ thế, vừa kéo về phía nhà thương Phu? Doãn. Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại, nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.
Bà khách có ý luống cuống, nói:
- Chết! Anh hỏi tiền tôi bây giờ à? Anh chịu khó kéo tôi một giờ nữa đi.
- Thôi khuya rồi, cháu phải về nhà.
- Này, chả nói giấu gì anh, tôi cũng đi kiếm khách từ tối đến giờ. Có anh biết đấy. Có gặp ai hỏi han gì đâu. Tôi định nếu có khách thì hỏi vay tiền trước để giả anh. Nhưng chẳng may gặp phải cái tối xúi quẩy thế này, thì tôi biết làm thế nào?
- Thế cô đi xe tôi từ chín giờ, cô không giả tiền tôi à?
- Bây giờ thì tôi biết làm thế nào?
- Tôi kéo cô lên Cẩm.
- Lên Cẩm thì tôi cũng đành lên với anh, chứ tôi biết làm thế nào!
- Thế mà cũng vác mặt mặc cả xe giờ, lại còn vay tiền người ta mà mua thuốc lá với hạt dưa!
- Nhà tôi ở ngay đầu ngõ Hàng Bún, khi nào anh đi qua, thì tôi giả tiền anh chứ gì!
- Chứ gì! Một trăm ngõ Hàng Bún, ai biết ngõ nào mà tìm!
- Tôi không có tiền đâu, chả tin anh khám mà xem.
- Tôi không khám, cô giả tiền tôi cho tôi về!
- Đây, hay là phu la, áo, đồng hồ đây, anh muốn lấy thức gì thì lấy.
- Tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?
- Thôi này, đừng cáu làm gì. Tôi bảo, cảnh tôi cũng như cảnh anh, cũng là đi kiếm khách cả. Nhỡ phải một tối thế này, thì chịu vậy, chứ biết làm thế nào?
- Thế sao cô không bảo thực tôi từ trước, để tôi kéo cô qua các nhà săm để hỏi, cô còn sĩ diện mãi.
- Nào ai biết cơ sự nó ra thế này. Thôi, này, tôi nói thế này thì anh nghe. Nếu bây giờ anh bỏ tôi ở đây, thì tôi không có tiền giả anh, sự ấy đã đành rồi, nhưng mà anh thiệt. Vậy anh cố kéo tôi nữa, may tôi có khách thì tôi có tiền, mà anh cũng không phải phàn nàn nữa.
- Tôi thật là nợ nần gì cô kiếp trước hay sao, mà nay tôi khổ với cô như thế này. Đầu năm mà đã rấp! Rắc rối!
- Anh đừng nói thế, ai muốn thế này làm gì!
Bất đắc dĩ, con ngựa người lại phải kéo con người ngựa vậy.
Nhưng lần này thì thật là không buồn bước lên nữa. Chán quá!
Rõ số đâu mà số ăn mày thế này!
Anh xe vừa đi, vừa thở dài. Khách cũng vừa đi, vừa thở dài. Càng đi, càng thấy phố vắng tanh, vắng ngắt. Thỉnh thoảng mới gặp một người tùm hum cái áo ba đờ xuy, mà đi có ý vội vàng.
Buồn thay! Đàn muỗi vo vo bay, đùa nhau xung quanh ngọn đèn. Lá cây sột soạt rụng, đuổi nhau ở trên đường nhựa.
Anh xe dắt xe đi diễu qua các cửa nhà săm để xin việc cho cô ả. Nhưng lúc ấy đã hai giờ sáng rồi cho nên ế! May sao, đến đầu phố Hàng Gai, thì gặp một người ăn mặc ra dáng ăn chơi, đang tất tả cúi đầu đi. Cô ả dử mồi, đánh liều gọi lại, vờ vĩnh hỏi thăm đường. Nhưng khốn nạn, anh chàng này lắc đầu, và cứ rảo cẳng bước đều:
- Tôi không biết, cô hỏi thăm anh xe này cũng được. Tôi còn vội đi mời đốc tờ cho vợ tôi ốm đây!
Hai cái thở dài thất vọng theo đuôi nhau, rồi không ai nói thêm một lời nàọ Anh xe lại từ từ tiến bước.
- Cô làm thế này thì tôi chết mất!
- Thôi anh bằng lòng vậy.
- ấy cũng may cho cô, vớ vẩn mãi ở ngoài phố thế này mà gặp mật thám hoặc đội con gái thì khốn!
- Mật thám tôi cũng chả sợ, đội con gái tôi cũng chả cần, vì tôi có "ba tăng".
Đi một lúc lâu, chẳng gặp một ai cả, cô ả bảo anh xe:
- Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
- Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
- Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
- ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
- Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
- Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
- Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.
Anh xe bụng bảo dạ, thôi thì cầm bằng như mất tất cả buổi đêm nay là cùng. Nhưng ta chịu khó kéo nó về, may xem có cái gì thì ta lấy, còn hơn về không. Thật là đò nát đụng nhau.
- Nhà cô ở đâu?
- Trên Hàng Bún.
Anh xe vừa kéo, vừa lẩm bẩm nói một mình:
- Không có tiền, cũng leo lên xe mà ngồi, chỉ sĩ diện hão thôi, lại còn tí tách hạt dưa, với phì phèo thuốc lá mà không biết ngượng!
Cô ả đành chịu mặt dày cho anh xe mắng một ít câu cho bõ hờn, cứ ngồi im như phỗng.
Lúc ấy, gió bấc thổi căm căm, buốt đến tận xương. Nhà hàng phố đã thấy có người dậy. Nhưng họ dậy có phải để đi tìm gái đâu!
Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo:
- Anh hãy ghé vào đây một tý cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không.
Anh xe hơi có hy vọng, đỗ lại để cho cô ả vào. Rồi vì mệt lử, anh ngồi phịch xuống sân xe, tựa lưng vào thành, vừa chờ, vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn.
Một lúc lâu, một tràng pháo nổ vang trời, làm anh giật mình. Anh sực nghĩ đến cô ả, không biết cô ta vào đấy làm gì mà lâu thế. Hay có lẽ đã có món khách nào chăng. Nhưng thế nào cũng phải trả tiền cho mình về đã chứ, lại bắt mình chờ đến sáng hay sao? Anh gõ cửa gọi.
Người bồi săm ra.
- Ông ơi, tôi hỏi thăm ông, người con gái quấn khăn quàng trắng vào đây ban nãy, nằm ở buồng nào?
- Chả có buồng nào có khách cả.
- Thế người con gái ấy đâu?
- Ra ngay từ bao giờ rồi, còn đâu mà hỏi?
- Thôi chết tôi rồi, ra cửa nào?
Người bồi lấy ngón tay cái, hất ngang về phía cổng sau. Anh xe choáng người như nghe tiếng sét đánh. Anh bàng hoàng như chợt tỉnh giấc chiêm bao.
Người bồi săm nói xẵng:
- Đi cho người ta đóng cửa. Ai bảo anh xông nhà cho tôi? Năm mới đừng bí beng!
- Ông ơi!...
Người bồi giúi vai anh xe, đẩy ra, rồi đóng ập cửa lại. Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi.
Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch...
 

11-2-1931

HAI THẰNG KHỐN NẠN

Năm 1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Nhất là khi nước đã rút rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi nữa.
Cỏ tàn khắp cánh đồng xa,
Bên làng hoang huỷ mấy nhà lơ thơ,
Đầu đường mẹ bế con thơ,
Người tìm sang Bắc, kẻ đưa về Đoài.
Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm. Gia tài tuy chẳng được là bao, nhưng đến cái cảnh tai bay vạ gió mà sạch sành sanh, thì dẫu ông vua đời xưa mất nước, hay thằng bé bây giờ mất tiền, cái tâm lý cũng đau đớn ngang nhau vậy.
Không những thế, vợ bác lại mới chết về bệnh dịch, để cho bác một dứa con trai mới biết ngồi. Cái cảnh gà sống không còn mồi mà nuôi con mới đáng đau lòng. Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy.
Đêm hôm trước, bác ngồi nghĩ mà rớt nước mắt. Của chìm của nổi đã không còn gì, nhịn cơm từ sáng nhường con đã lả cả dạ dày. Nếu mai cũng thế này nữa, thì bố chết đói, con chết đói. Âu là trong nhà còn một thứ của nổi nữa, đem bán nốt đi chăng?
Bác Lan nghĩ thế thì làm thế. Bác xin được cái thúng sứt cạp bện đôi quang và chẻ cái đòn gánh. Sáng sớm, gánh thằng bé con đi. Một bên quang là một tảng gạch để thăng bằng thúng hàng bên kia. Một bên quang là một cái thúng đựng hàng. Trên cái thúng, tùm hum manh chiếu rách che hàng cho đỡ nắng.
Bác đi lang thang làng này, làng khác, qua chợ nọ, chợ kia. Nhưng chỉ thấy có người xem, mà không thấy có người mua.
Bác Lan đói quá, mắt đã mờ. Thằng bé con trần truồng trong thúng, nằm ngả ra, mồm miệng bê bết những dãi, mũi và vỏ khoai lang. Đi đường, bác gặp toàn bọn khóc dở mếu dở như bác cả. An ủi nhau cũng chỉ có một câu:
- Này, bác đến nhà ông nghị Trinh, may ông ấy hiếm hoi, thì ông ấy mua cho.
Đi lần mãi mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã sắp xẩm tối. Đứng ở cổng, trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn, sập gụ, tủ chè, gương đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng.
Bác Lan đánh liều gọi cổng. Anh bếp ở trong chạy ra:
- Nhờ cậu vào bẩm với ông bà rằng có người bán con đương ở cổng.
Cậu bếp hỏi han một vài điều ra dáng tử tế, săn sóc, nhanh nhẹn lắm, rồi mới đi vào.
Bác Lan, vì cái đói khát cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ dăm phút nữa thì bụng sẽ được no đầy. Nhưng tưởng tượng thế là lầm. Độ một giờ sau, bác thấy một người mặt mũi phương phi, cổ rụt, bụng phệ môi trề mà không râu, mặc quần áo lụa, phe phấy cái quạt, ra vườn chơi.
Bác đoán là ông Nghị, bèn đánh tiếng. Thì quả là ông Nghị thực. Vì nghe giọng nói hách dịch lắm:
- Sao không giật chuông gọi người nhà nó vào bẩm?
Bác Lan kể nỗi cơ cực, và ngỏ ý dạm bán đứa con. Ông Nghị nhìn qua bác, nhìn qua đứa bé, rồi nói:
- ừ, để rồi tao nói chuyện với bà sẽ hay. Chờ đây, tao ra ngay.
Nghe câu ấy, bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như được no một nửa vậy.
Hơn nửa giờ nữa, ông bà Nghị mới ra.
Bác Lan chào, rồi cũng những câu khi nãy, bác nói với bà Nghị. Bà Nghị ra ý cảm động. Bà bế đứa con vào lòng, ngắm nghía mãi.
Ông Nghị thấy bà có vẻ vừa ý, bèn hỏi giá:
- Mày định bán bao nhiêu, nói cho thực.
- Bẩm tùy ông bà cho.
Người bán không nói giá, người mua không biết giá, thì làm thế nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người như chúng ta đấy, khéo nuôi, khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên đấy. Một trăm nhé! Hai trăm nhé! Năm trăm nhé!
Ông Nghị thấy bác Lan lưỡng lự, không muốn nói giá, thì đương ngồi xổm ở trước cái thúng, bỗng ông đứng phắt dậy:
- Đáng lẽ anh cho không tôi, tôi cũng không lấy, vì tôi phải nuôi nó cho anh. Nhưng thôi, việc phúc đức, tôi cho anh ba hào, cầm lấy!
Vừa nói, ông vừa móc túi lấy tiền đưa. Bác Lan gãi tai thở dài. Có lẽ không ngờ đâu cái giá trị một thằng bé con có thế mà thôi.
- Thưa ông...
- Tôi không nói lôi thôi. Ông với ênh gì! Tôi không quen mặc cả. Ba hào không bán thì thôi!
Nói xong ông quay lưng vào, gọi bà đi, và đóng cổng lại.
Bác Lan vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Chờ mãi cũng không thấy có người ra trả thêm xu nào.
Nửa giờ sau, bác không thể nào nhịn nổi được cái dạ dạy rỗng tuếch từ hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa, còn hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường. Nghĩ vậy, bác giật chuông. Một lát, ông Nghị ra.
- Thế nào? Anh có định bán như thế không mà gọi?
- Thôi, lạy ông, ông thương phận nào, con nhờ phận ấy.
- Thương là thế nào! Nói cho dứt khoát. Bằng lòng bán ba hào không?
Bác Lan mỉm miệng, gượng cười một cách rất chua chát:
- Vâng!
Ông Nghị đưa bác vào trong nhà. Làm giấy má xong, ông còn xem xét đứa bé rất kỹ càng. Khi thấy sau lưng nó có nhiều nốt ruồi quá, thì ông có ý không bằng lòng, chê bai mãi rằng xấu. Xấu thì phải bớt tiền. Cho nên khi trả, ông không cho bác cả ba hào, mà phạt hai xu nốt ruồi!
Bác Lan lạy van mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai xu, thì chưa chắc đã được, mà không khéo thì bị trả tiền lại. Nghĩ nực cười, mình đã khốn nạn, lại gặp phải một thằng khốn nạn hơn, thì thôi, chịu cầm hai hào tám vậy.
Bác bế đứa con lần cuối cùng, hôn hít, dặn dò mãi, mới dứt. Khi ra ngoài cổng, bác đi không nỡ, tình cha con vướng vít, bác nghĩ muốn trả lại hai hào tám mà lấy con về.
Bác đứng lại, quay nhìn trong nhà ông Nghị, thì thấy kẻ bưng chậu nước, người lấy xà phòng, người tìm khăn mặt. Bà Nghị thì tự tay tắm cho đứa bé, ra dáng âu yếm, nâng niu. Bác nhìn mà cũng hả tấm lòng, nỗi đau đớn cũng như tiêu tan vậy.
Còn ông Nghị, hai mắt vẫn nhìn cái lưng nốt ruồi, nét mặt còn như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy. Một chốc, ông ra ý hối hận, nói với vợ:
- Bà ạ, hoài của, giá bớt hẳn năm xu, nó cũng phải chịu.
- Sao ông nghiệt thế! Tiền hàng vạn lo nghị viên không tiếc, mà mấy xu này lại tiếc hay sao?
Ông Nghị đang tức hơi, phát gắt mà rằng:
- Tiêu những món đáng tiêu thì còn tiếc cái gì! Thằng bếp đâu! Mày chạy đi tìm thằng bán con ban nãy, bảo nó giả tiền tao mà lấy lại con lập tức!
Bác Lan giật nẩy mình, co cẳng, ù té chạy bán sống bán chết, vừa chạy vừa đếm:
- Một, hai. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám...
 

Viết 7-6-1930
Annam tạp chí số 12; 1930

NGẬM CƯỜI

làng tôi bây giờ sở dĩ được yên ổn, là nhờ lòng can đảm, nghĩa hiệp của anh cu bản, đã liều mình khám phá ra cái tổ trộm cướp ở cánh rừng thông.
sáu tháng về trước, luôn một dạo, những lúc đêm khuya, tĩnh mịch, không có trăng, ít người dám đưa mắt ra ngoài sân tối mịt. nghe ngọn gió rít qua khe liếp cũng đủ trợn! hễ có tiếng chó rồ lên sủa khan ở xóm bờ sông, là ngay từ đứa bé lên hai cũng biết giật mình. nó khóc thét lên, ôm chầm lấy mẹ... mẹ nó vỗ, xoa, ru khe khẽ để lắng tai nghe. rồi nếu một hồi tù và dậy lên, thì ông già vặn to ngọn đèn hoa kỳ, ngồi nhổm dậy, húng hắng ho, hoặc hút thuốc lào, cho đỡ vẻ lặng lẽ.
nhưng bỗng vẳng nghe ở đâu kêu cướp, rồi trống đánh liên thanh, tiếng khóc như ri, tù và rúc, chó sủa lạc tiếng, liền liền nhau từ làng này đến làng khác, dài hàng mấy cây số, thì người cứng bóng vía đến đâu cũng phải lạnh run lên, đánh thức cả nhau dậy, ngồi đến suốt sáng.
mười tối thì đến bốn năm tối kinh khủng như thế. mà bọn cướp rất tài, ban ngày chúng khéo lẩn lút trong cánh rừng thông. các nhà chuyên trách mấy lần cho lính vào sục cũng không bắt được.
+
+ +
lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. chị cu bản đương ngồi nhặt rau trong bếp, thì chồng về. nét mặt hăm hở, anh nói:
- này u nó, quan đã cắt tôi rồi.
chị ngơ ngác:
- cắt gì?
- cắt đi bắt tổ cướp rừng thông?
xám ngắt mặt, chị gắt:
- quan bắt thầy nó vào chỗ chết mà cũng nghe à?
anh cu vênh mặt, kiêu căng, đáp:
- chỉ nói dại! việc gì mà chết. chính tôi tình nguyện với quan để xin đi!
chị cu oà lên khóc:
- thầy nó nỡ bỏ mẹ con tôi chết đói hay sao? khổ quá! tôi biết trông cậy vào ai được? thầy nó đừng đi!
ba đứa bé, ngơ ngác nhìn cha mẹ, cũng oà lên khóc.
anh cu cảm động, an ủi vợ:
- u nó cứ yên lòng. thế nào sáng mai tôi cũng về. nếu tôi không ra tay, rồi quân cướp cứ nhũng nhiễu mãi, vùng này còn ai làm ăn gì được!
- Đành vậy, nhưng lỡ ra...
- thì cũng đành chứ sao? tôi làm việc ích cho mọi người mà u nó cũng cứ ngăn cản.
- làm ích cho nhà giàu, chứ những hạng như mình thì lo gì bị cướp? tôi chỉ sợ lỡ ra, thì một nách ba con mọn, tôi biết làm thế nào?
- u mày đừng dở hơi! việc gì mà lo xa như thế? tôi sẽ được thưởng. quan hứa rồi. nếu thành công, ta không phải vất vả như thế này nữa.
- thôi, tôi van thầy nó đừng dại dột. tôi không để cho thầy nó đi đâu.
anh cu quắc mắt, nói:
- việc quan nào phải việc trẻ con! u nó không được nói thế.
chị cu lại oà lên khóc, túm chặt lấy áo chồng. anh cu giằng ra, mắng:
- u nó không được giữ. quan và lính chờ tôi ngoài đình kia. Để tôi đi, kẻo chậm.
- không! không đi! thầy nó hãy ăn cơm đã, vội gì.
- không cần. Đã có cơm của quan. tôi phải đi ngay bây giờ mới kịp.
nói đoạn anh cu nhất định dứt áo ra đi. anh ôm ba con vào lòng, xoa đầu, dặn dò mấy câu, rồi ra cổng. chị cu bế con, khóc lóc theo chồng. nhưng vẫn thản nhiên, anh cu coi nhẹ nghĩa vợ chồng, tình cha con. Đến đầu làng, anh rỉ tai nói với khán thủ kéo chị cu trở lại.
+
+ +
sự thành công của anh cu bản đã làm cho vợ anh goá chồng! Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cướp lũ lượt bị giải lên huyện. nhưng anh cu bản bị bỏ mạng. thương thay!
từ bấy giờ, trên đầu chị một tấm khăn tang, kẽ nách chị ba mụn con mọn. Đoạn trường lắm lúc nghĩ mà buồn tênh...
cả làng ai cũng ái ngại cho chị cu bản và ngậm ngùi thương hại con người trọng nghĩa mà khinh thân.
bọn nhà giàu được ăn no ngủ yên. họ mổ gà mổ chó ăn mừng. họ khen quan huyện tốt với dân, biết hy sinh một người để cứu nhiều người. họ xui chị cu bản bế cả ba đứa con lên kêu quan phụ mẫu thương đến tình cảnh nheo nhóc của chị mà cho một món tiền bồi thường.
quan huyện rất tử tế. ngài nói:
- nhà chị không phải kêu, bổn phận ta là phải bẩm lên quan trên xét đến người có công. cứ về mà chờ đợi ít lâu. rồi chị sẽ không phải phàn nàn về sự ân thưởng đích đáng của chồng chị.
+
+ +
Ôm tấm mong mỏi, chị cu bản vui vẻ về nhà, kể chuyện cho mọi người nghe. ai cũng có bụng mừng thay cho chị.
thường khi làm ăn vất vả, được bữa nay, lo bữa mai, chị lại nhớ thương chồng. nhưng chị lấy ngay cái hy vọng ra để tự an ủi. nếu được thưởng, chị dùng món tiền để sinh lợi, thì chắc được đủ ăn suốt đời.
năm hôm, mười hôm. cái trò mong vẫn hay thấy lâu. chứ chị biết đâu lá đơn của chị còn phải qua tòa này sở nọ, có khi nó đi chậm và hay nghỉ như ông cụ già.
rồi nửa tháng, lại một tháng. chị cu bản càng ngày càng quẫn bách. cơm chẳng đủ nuôi con. nhà dột, không ai giọi hộ. sân rêu, cỏ mọc, chị chẳng có lúc nào sửa sang. mấy đứa bé bêu rếch. nhưng biết làm thế nào? nếu chị ở nhà trông nom chúng, thì ai đi làm lụng kiếm miếng cho mà ăn? giá chúng lớn, độ lên bảy lên tám cả, thì chị đã cho một đứa đi ở, để đỡ phải nuôi. khốn nhưng thằng lớn mới lên năm tuổi.
rồi nữa, một tháng, hai tháng. người ta thấy chị cu bản rách rưới. không ai không phàn nàn cho chị. mặt mũi chị hốc hác, đen đủi, xấu xa. người ta hỏi thăm, chị đều trả lời:
- nay mai, tôi sẽ có món tiền thưởng.
thưởng. cái đó không thể không có. chắc lắm rồi. quan đã hứa thế. nhưng hôm nay chị chưa có gì cả. chị nóng ruột. khổ. nhưng, nhất định chị chờ cái tương lai.
ở ngoài, họ đồn chán lên đấy. có người mong chị được thưởng một nghìn bạc. có người đoán chị được lương ăn suốt đời. có người ở xa, lại nói dựng đứng ngay rằng đã gặp chị lên tỉnh lĩnh hai nghìn ở kho bạc.
nhưng sự thực chửa có thế. sự thực thì chị cu bản vẫn tự an ủi bằng cái hy vọng những khi đầu tắt mặt tối, và khóc thầm những lúc nhà vắng đêm khuya. chị nhớ lại hôm chồng hăm hở đưa quan lính vào chỗ tổ cướp. chị nhớ lại lúc trông thấy xác chồng nằm co ro trên vũng máu để tự nhiên chị thành góa bụa, với ba mụn cơn thơ. chị đau đớn. nhưng chợt chị nghĩ đến lời quan huyện hứa, quả quyết sẽ được bồi thường về công của chồng chị. trời ơi, bao giờ nhỉ? bao giờ cái đói, cái rách, cái khốn quẫn nó tha cho chị mà đừng dọa nạt chị nhỉ? bỗng chị nhìn lên vách. thấy bóng chiếc khăn ngang, chị cảm động, thút thít khóc.
+
+ +
một hôm, chị cu bản hăm hở chạy sang nhà tôi. tôi không thấy tay chị cầm chiếc rá. mặt chị cũng không nhăn nhó như mọi khi. chị giơ tờ giấy có dấu son đỏ loè, nhờ tôi xem hộ, và hỏi:
- Ông lý đưa tôi tờ sức, nói rằng quan bảo tôi đi lĩnh thưởng phải không?
tôi mừng thầm cho chị. chị lại hỏi:
- có phải không? bao nhiêu, hở cậu?
xem xong, tôi nhìn chị, rồi khẽ đáp:
- phải, thưởng, anh ấy được truy tặng cửu phẩm bá hộ, chị ạ.
- chứ không phải tiền à?
- không!
bỗng chị cu bản xám mặt lại. chị run bắn lên, rồi mếu máo khóc. chị giật lấy tờ giấy, chạy ù ra cổng, quên đứt rằng đáng lẽ chị phải vui vẻ cho chồng chị ở chín suối được ngậm cười.
 

tiểu thuyết thứ bảy số 188; 1938.

KÉP TƯ BỀN

Các ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên Kép Tư Bền. Ấy anh ta chỉ nổi tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu, chẳng cần nói một câu khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn một cái điệu bộ cỏn con của anh ta, các khán quan cũng đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ tay đôm đốp.
Anh ta ở Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay. Vì anh ta có tài riêng mà tính lại thích tự do, nên anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào. Nhưng hễ rạp nào khéo dùng anh một độ, là cũng đông khách. Cho nên, tối nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy kép Tư Bền đóng vai giễu là cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm, phải mang tiền về không, phàn nàn rằng rạp chật quá!
Cho nên những tối hát có anh giúp, thì các hý viện đều trưng lên là buổi hát đặc biệt.
Nhưng đã hơn một tháng nay, anh không diễn ở đâu cả. Vì đã hơn một tháng nay, cha anh ta ốm. Đã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái gác tối om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm Công, cái tiếng rền rĩ của ông cụ cũng hòa lẫn với tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà làm anh Tư Bền phải rầu gan nát ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn. Bệnh cha anh càng ngày càng nặng, thuốc thang chữa chạy, nào anh có quản ngại gì. Nhưng cái số tiền để dành của một vai kép dần dần cũng đi bài tẩu mã, đến nỗi anh phải đi vay trước của các ông chủ rạp hát ít nhiều.
Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta chơi. Sau một vài câu hỏi thăm chiếu lệ, ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món nợ:
- Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào thư thả, tôi sẽ đi làm và nộp sau.
Ông chủ bĩu môi, nói:
- Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả, tôi sẽ đem ra tòa đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ:
Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn đấy. Vậy cậu liệu liệu mà đi làm ăn chứ?
- Vâng, tôi định thế...
- Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Vậy cậu ra giúp tôi vai chính. Vì phi cậu, không còn ai xứng đáng.
- Diễn vở mới thì phải học, thưa ngài?
- Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.
- Trong nửa tháng! Chà!
Anh Tư Bền nhắc lại ba tiếng đó, nhưng trong anh lẩn vẩn nghĩ ngợi biết bao nhiêu điều: Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời, mỗi ngày anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Cha anh ốm. Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Nghĩ vậy anh đáp phắt:
- Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà!
Rồi anh trỏ vào màn và nói tiếp:
- Cha tôi yếu, tôi phải ở nhà.
Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò tay ra cái ghế đẩu kê cạnh, để với lấy cái ống nhổ. Nhưng lật bật cầm không vững, cụ đánh rơi ngay xuống sàn gác, đờm rãi nổi lềnh bềnh.
Anh Tư Bền giật mình, chạy lại đỡ cha:
- Sao ông không gọi con?
Rồi anh đỡ lấy chổi quét chỗ nước lênh láng đi, đoạn nét mặt rầu rầu, anh nói.
- Đó, ông coi, vắng tôi sao đặng.
- Không, cậu cứ nhận lời giúp tôi, tôi sẽ sai người đến trông nom hộ cậu.
- Đa tạ ông, nhưng tôi không yên tâm.
Lúc ấy, trong màn có tiếng keng keng của chiếc đũa đập vào bát sứ. Đó là hiệu gọi. Anh Tư Bền lật đật chạy lại gần cha. Giọng khàn khàn của ông cụ sai anh rót chén nước.
Nhân muốn gây cảm tình, ông chủ rạp Kịch trường lại gần giường, mở màn, rồi hỏi:
- Chào cụ, cụ có biết tôi là ai không.
Ông già giương hai mắt lên. Rồi như đã nhận biết, bèn nhăn bộ răng ra cười, cái cười khó đăm đăm, và gật gật mấy cái, rồi run lẩy bẩy, giơ tay ra bắt.
Các ngài đừng tưởng rằng ông cụ quen gọi lối tây, nên mới bắt tay đâu. Đến phải nhăn bộ răng ra cười còn là sự bất đắc dĩ nữa là. Nay sở dĩ ông cụ phải bắt tay, vì là tiếp khách theo lối lịch sự của những người mà con mình có nhờ vả.
- Cụ cũng không yếu lắm nhỉ. Sao cậu Tư Bền không nhận lời cho tôi?
Ông cụ hất hàm, có ý hỏi.
- Tôi sắp cho tập vở mới, định nhờ cậu ấy sắm vai chính.
Ông cụ lại nhăn răng ra cười và gật, nhưng anh Tư Bền nói ngay với cha.
- Ông mệt lắm, con phải ở nhà.
Ông cụ cau mặt. Chỉ có anh Tư Bền hiểu. Bởi vì ông cụ chẳng muốn vì mình mà con làm trái lòng người chủ nợ. Ông chủ dỗ dành, nói:
- Cậu cứ giúp tôi đi. Cậu mà nhận lời, thì món tiền ấy, cậu để đến bao giờ cũng được. Còn tiền hỏa hồng khi diễn tấn "Ông huyện ba phải" này, cậu cứ lấy cả để thuốc thang cho ông cụ.
Cái sức làm cho anh kép Tư Bền có thể nghĩ đến sự bỏ cha ốm một mình là ở câu nói ấy. Mà cha anh cũng vì câu nói ấy mà nở nang cả lồng xương ngực. Ông cụ cố thở mạnh mấy cái cho khoan khoái trong lòng.
- Cậu nghĩ sao?
- Nhưng nửa tháng trời! Ai trông nom cho cha tôi?
- à, thôi, thế này thì cậu bằng lòng nhé. Cậu cứ ở nhà mà học vở. Đến hôm diễn thử lần cuối, cậu hãy đến rạp cũng được. Vì tôi biết cậu thông minh và có tài hơn người khác. Tội chi, có dịp trổ tài, vả lại để cho thiên hạ nhớ mong lâu cũng không tiện!
Nghe câu nói sau cùng như được ăn miếng bánh thánh, anh Tư Bền có vẻ nghĩ ngợi. Anh nhìn cha. Ông cụ thấy con còn ngần ngừ, thì lộ ra vẻ không bằng lòng. Cụ nhăn mặt, cố cất lên cái tiếng khàn khàn để gắt:
- Nhận lời đi!
Nói xong, lại ho sù sụ.
Anh Tư Bền cảm động, nhìn ông chủ rạp Kịch trường và trả lời.
- Vâng!
Ông chủ vì chờ cái tiếng vâng này mất nhiều công quá, nên sợ nó không được chắc chắn. Đến hôm diễn, mà cha anh Tư Bền có làm sao, anh cứ vắng mặt ở rạp hát, thì lỡ bét. Ông bắt anh làm giấy giao kèo.
Bà con sính xem hát, hôm đó thấy ôtô quảng cáo chạy rong khắp phố để thả chương trình, và vải căng ở các ngã tư, đều nô nức rủ nhau đi xem buổi biểu diễn đặc biệt, có Tư Bền sắm vai chính.
Tối đến, cửa rạp Kịch trường đèn thắp sáng trưng như ban ngày, chiếu rõ cái cảnh người đứng lô nhô như luống hoa trăm hồng ngàn tía, bướm ong chờn vờn. Trên thềm, dưới bậc, giữa đường, non nghìn thiếu niên nam nữ túm tụm lại, tìm chỗ để đứng ngắm nhau cho đỡ nóng ruột lúc chờ đợi. Tiếng nhạc hòa trong rạp, du dương trầm bổng, chứa chan biết bao tình tứ ái ân, như câu, như kéo, làm cho người ta quên hẳn, mà bất giác moi túi lấy tiền mua vé.
Rồi cái làn sóng người dần dà tràn vào trong. Trên các hàng ghế, chỗ nọ nhắc lại câu bông lơn của kép Tư Bền, chỗ kia bắt chước điệu bộ của kép Tư Bền. Ai nấy đều nóng ruột sốt lòng, mong cho chóng đến giờ mở màn sân khấu, để được cười, được vỗ tay, được học thêm vào lối pha trò mới, để mai làm nhếch mép người yêu.
Vinh dự thay, anh kép Tư Bền! Nhưng mà khốn nạn thân anh! Người ta biết đâu rằng hiện giờ này, ở nhà, cha anh đương dở chứng khò khè, chỉ chờ từng phút để thở một hai hơi nữa là hết nợ, và ở trong buồng trò, anh cũng đương nẫu ruột nhầu gan. Thật vậy, ai ngó vào trong buồng trò mới thấy được cái khổ tâm của anh Tư Bền. Anh ngồi ủ rũ trước cái gương, bụng thì rối beng, mặt thì nhăn nhó, nhưng tay vẫn phải sờ vào hộp phấn hồng để đánh mặt, quệt vào đĩa mực để bôi nhọ cái mồm. Rồi anh phải mặc trái cái áo lụng thụng thêu, lận đôi hia xanh và đội cái cánh mũ chuồn ngược. Anh đóng vai này, trông ra phết giàu sang sung sướng. Chốc nữa, anh còn phải làm cho chủ anh bằng lòng, các bạn anh trông anh mà gắng sức, các khán quan được một phen cười vỡ bụng vỗ rát tay kia mà! Nhưng mà cha anh Tư Bền sắp chết! Ban nãy lúc anh ở nhà ra đi, đã thấy nguy lắm rồi. Thôi! nhưng mà mặc kệ. Anh phải quên đi, mà bông, mà đùa, mà pha trò trên sân khấu, cho chúng tôi cười, hét lên mà cười, cười đến nỗi lăn ra cả đất chứ?
* * *
Một hồi chuông vừa dứt, màn kéo lên. Một tràng vỗ tay đôm đốp như pháo nổ để hoan nghênh ông chúa khôi hài. Anh Tư Bền lững thững bước ra, cúi đầu chào, rồi đứng thần người ra như phỗng một lúc. Tiếng reo, tiếng hò, tiếng vỗ tay lại làm dữ hơn trước! Mà khách quan thấy anh ăn mặc ngộ nghĩnh, cái mồm bôi nhọ nhem, thì ai nhịn cười được! Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm, và cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già! ác thật! Vai anh Tư Bền hôm ấy cứ phải đứng trên sâu khấu. Nhất là anh phải làm nhiều điệu bộ hơn mọi khi. Lắm lúc còn phải rặn ra mà cười ha hả!
Hết cảnh đầu. Sao mà lâu thế! Anh được nghỉ một chốc, mới nhờ người về xem tình hình cha anh ra làm sao. Rồi anh lại phải ra trò. Anh lại phải hò, phải hét phải dằn từng tiếng, phải ngân từng câu, phải làm những điệu bộ, phải cười ha hả như cảnh thứ nhất. Người xem hát thì cứ trông thấy anh là cũng đủ cười rồi. Nào họ có để ý và nhìn rõ đâu được cái vẻ lo âu của anh, nó hiện ra ở trước mắt. Bỗng khi anh đương phệnh phạo trên sân khấu, khi người ta đương vỗ tay đôm đốp, thì anh nghe thấy có người ở trong phòng nói ra:
- Nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi!
Cha anh cấm khẩu rồi! Đành vậy, nhưng chính là bây giờ mới nhiều cái vui trò. Khán giả dưới kia, hàng mấy nghìn con mắt, đương chăm chắm vào anh và im phăng phắc. Họ chỉ chờ anh há miệng là họ được lăn ra mà cười và vỗ tay mà thôi.
Cảnh thứ hai cũng lâu như cảnh đầu, mãi mới hết. Lúc anh đang ngồi thừ trong buồng trò, thì anh lại nhận được tin báo nữa, là hiện nay cha anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi.
Còn gì đau đớn hơn cái tin ấy nữa! Anh Tư Bền bỗng ứa hai hàng nước mắt, rồi khóc nức nở:
- Cha ơi!
Ông chủ thấy vậy, sợ quá. Anh mà bỏ dở vở kịch đương vui thì nguy. Ông cố khuyên giải, và cấm không ai được báo tin gì cho anh biết hết.
Sân khấu bài trí đã gần xong. Ông chủ bắt anh đánh lại tý phấn cho thêm xuân sắc, và sửa lại bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn. Ông thấy anh vừa dắt lại dải áo, vừa sụt sịt mếu máo, thì bắt anh im đi, chùi nước mắt. Rồi ông đẩy anh ra sân khấu. Anh lại phải hò, hét, ngâm, cười, múa, nhảy, để mua gượng lấy những tràng vỗ tay. Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền, đi đôi với cái bông lơn, cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên. Mà càng thấy vắng bặt tin nhà, ruột anh càng nhàu như dưa, xót như muối.
Cái cảnh cuối cùng mà anh cho là lâu tới, thì khán giả cho anh là chóng quá. Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào, thì cả rạp vỗ tay đôm đốp thật dài, dài mãi. Anh tưởng phen này quyết hết nợ, quyết được về cạnh giường bệnh của cha để nhìn mặt cha một lượt sau cùng trước khi tắt nghỉ, thì ở hàng ghế hạng nhất, người ta kêu ầm:
- Bis! Bis! (1)
Ông chủ rạp lại cho kéo màn lên. Anh Tư Bền lại phải giấu bộ mặt rầu rầu mà anh thích - vì nó hợp với tâm lý anh hơn, - để vui vẻ mà diễn lại đoạn cuối lượt nữa.
Rồi khi bài kèn chào nổi lên, hồi vỗ tay sau cùng như làm vỡ rạp. Cái màn từ từ buông xuống. Anh cúi đầu thong thả chào. Nhưng bao nhiêu người, chẳng để chậm thì giờ, đã tranh nhau chạy lên gần anh. Người thì tặng hoa, người thì bắt tay, người thì véo mũi, người thì khen. Làm cho anh ruột càng như thiêu đốt.
Khi không còn phải thở dài để hoan nghênh những cái hoan nghênh của công chúng, anh Tư Bền mới lật đật chạy vào buồng trò, cởi vội mũ áo và rửa quàng mặt mũi.
Lúc ấy, trong khi anh đang rối beng nghĩ đến cha anh, không biết bây giờ đã lạnh tới đâu, thì một người bạn hát chạy đến, vội vã ấn vào tay anh tập giấy bạc của ông chủ để sẵn cho anh, và nói:
- Mau mà về. Anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn thân anh quá!
1933

CÔNG DỤNG CỦA CÁI MIỆNG

mẹ chồng chị cu sứt chết vừa nãy. tin ấy chẳng mấy chốc bay đi khắp làng.
ở nhà quê, có việc gì cỏn con xảy ra mà người ta không biết ngay tức khắc? huống hồ mẹ chị cu sứt ốm liệt giường liệt chiếu đến dăm hôm nay và cấm khẩu từ lúc gà gáy.
cho nên, cần gì phải đăng cáo phó trên báo, các cụ, các quan, các ông, các bà cùng thân bằng cố hữu mới biết?
thật vậy, trên từ "các cụ" lý trưởng, thư ký, giữa đến "các quan viên" hàng xã, rồi đến "các ông các bà" hàng xóm, dưới đến "thân bằng cố hữu" cùng đinh của anh cu ngày xưa, chỉ trong một loáng, miệng nọ truyền sang miệng kia, ai nghe tin đau đớn cũng điềm nhiên và cho là có thêm một chuyện mới để gặp người quen thì nói.
rồi họ tỏ cảm tình với người quá cố.
"thân bằng cố hữu" thì bảo nhau để sửa soạn:
- này, có liệu trốn đi không, kẻo chị ấy đến nói khó nhờ khênh đòn lại nể, mất công mà chẳng được gì.
"các ông" thì phê bình:
- già mà nghèo, không có tiền uống thuốc, thì chỉ ốm một trận xoàng cũng đủ ngoẻo.
"các bà" thì dài lời hơn. Đại khái:
- ối giời ôi thế à? thế thì bà ngồi đây nhé, để tôi chạy ù lại đằng ấy, giao hẹn với chị cu sứt là mẹ chị ấy còn vay của tôi năm đấu gạo độ trong năm đấy.
hoặc:
- ngày xưa, ông ấy (tức là chồng người chết) có phúng ông tôi ba hào thật, nhưng lúc ông ấy chết, bà tôi đã phúng lại những ba hào với một cành cau, cau dạo ấy đắt. thế mà khi bà tôi mất đi, bà ấy làm ăn còn khá, tôi chả thấy bà ấy phúng lại cái gì, thì việc gì bây giờ tôi phải phúng giả nợ.
"các quan" thì nhìn nhau, lắc đầu một cách nhạt nhẽo:
- nhà nào chứ nhà ấy thì suông, còn có cóc khô gì mà mời chúng ta nữa.
"các cụ" thì tức lắm. cụ lý bảo cụ ký:
- mẹ kiếp, không khéo cụ lại mất giấy mực khai báo toi. làm thư ký mà từ đầu năm, trong làng chỉ rặt những đám chết thế này thì lấy gì mà hút. thật là quá quắt, cụ nhỉ?
+
+ +
nước ta là nước văn hiến. ai cũng bảo thế. bởi vậy, những việc quan, hôn, tang, tế, đều phải làm theo lễ nghi. trong nhà, lỡ ra có người chết, đố ai không mở sách ra tra, hoặc hỏi han người quen việc, xem phải làm những gì.
- chẳng may bà cháu nằm xuống, nhờ bác bảo hộ tôi nên thế nào.
chị cu, nước mắt chạy quanh, rẽ hàng rào râm bụt, hỏi bác đĩ tư câu ấy. bác đĩ nghĩ một lát, rồi đáp:
- thôi thì tùy gia phong kiệm, mà tử đắc táng vi vinh. nhà bác chẳng có gì, thì kiếm bộ áo cho tốt, rồi ngày mai, rước cụ ra đồng.
- vâng, nhưng mà tôi ăn mặc ra làm sao.
- thì cứ phải xổ gấu chứ, bởi vì ông cụ về trước bà cụ kia mà.
- thế còn các cháu?
- thằng cu phải xô gai để chống gậy thay bác giai, và cũng phải trở ba năm đấy.
chạnh nhớ chồng và nghĩ đến cảnh goá bụa, chị cu sụt sịt. bác đĩ ngăn:
- ấy, chớ, phải may xong áo, lập xong bàn thờ mới được khóc. bây giờ trong nhà cứ phải im phăng phắc như lúc bà cụ hãy còn mới được.
+
+ +
người quan tâm đến cái chết của mẹ chồng chị cu sứt, thì ngoài bác đĩ tư ra, cố nhiên là còn có cụ thư ký.
nghe tin bà ta chết, cụ thở vắn thở dài, gắt gỏng vợ con ỏm tỏi. song, cụ chưa thất vọng hẳn.
cụ chiêu một hớp nước vối nóng, thở phì một cái, khói thuốc phiện loãng phi thẳng ra miệng. cụ tháo diện tẩu, và, trong khi chờ cho nguội để nạo, cụ vén quần lên, gãi đùi sồn sột.
- Ơ hay, nó đi đã về chưa, mày?
cụ hỏi vậy. nhưng không ai trả lời.
nóng ruột, cụ lấy cái giẻ để đệm tay, rồi vừa ngước mắt lên xà nhà để nghĩ ngợi, vừa cầm móc để nạo. tiếng xái sào sạo long, rồi đến tiếng sắt quèn quẹt ở phía trong tẩu đã nhẵn thín. cụ dốc miệng tẩu vào chén, gõ vào diện cồm cộp, rồi lại đánh. cụ nạo, nạo mãi, nạo quèn quẹt, dễ thường đến chảy máu tẩu.
cụ lập bàn tĩnh lúc này khí thất thường. mọi ngày, cụ vẫn xơi thuốc vào lúc cơm xong.
nhưng hôm nay, cụ cần hút ngay buổi sáng. một là để khuây khoả sự buồn bực về chức vụ: Độ này, sinh chả có, giá thú chả có, chỉ độc một số tử "chó chết". hai là còn mấy điếu xái của khách thuốc thết cụ chánh tổng tối qua, có lẽ vẫn còn dùng được, cụ hút đi cho đỡ phí của. ba là cụ để cho chị cu sứt đến trình khai tử cho mẹ chồng, cụ lấy sự ăn tiêu xa xỉ ra làm chứng, để bảo ngọt chị phải biện cái lễ xứng đáng.
bỗng anh người nhà về, nói:
- thưa cụ, đích là chết rồi.
- mày thấy tiếng khóc chưa?
- chưa.
- sao mày biết là chết?
- con hỏi thăm.
- thăm ai?
- ngay chị cu sứt ạ.
- tốt. thế mày không xui chị ta biện cái gì để đi trình à?
- không ạ.
cụ cau mặt:
- Đồ khỉ!
+
+ +
trong tang gia đã nổi lên những tiếng khóc thảm thiết.
người đàn bà góa xõa tóc, gục đầu bên cạnh cái thây ma mà tru lăn tréo lộn.
cái thây ma ấy bây giờ đã cứng đờ trong lần vải liệm trắng, bên cạnh đặt bát cơm, quả trứng luộc, có cắm chiếc đũa bông và dăm nén hương.
- ối mẹ ơi, cực nhục lòng con, mẹ đi đâu mẹ bỏ con bơ vơ như chim mất tổ...
rồi nhớ đến chồng, chị gào:
- ối anh ơi, anh đi đâu để vợ con anh mất trông cậy, để thân tôi cực nhục trăm chiều, anh ơi là anh ơi!
nhưng bỗng một tiếng quát:
- im miệng.
chị cu ngẩng dậy, hếch cái mũ mấn ra để nom. chị xỉ mũi, lau vào gót chân rồi quệt đôi mắt đẫm lệ:
- lạy cụ ạ.
cụ thư ký - không biết đã sẵn sàng ở đó từ lúc nào - mặt hầm hầm, trỏ ba toong vào mặt chị, hất hàm hỏi:
- ai cho phép mày khóc?
- lạy cụ, mẹ con chết thì con khóc.
rồi không nhịn được nỗi thương tâm, chị ti tỉ:
- mẹ ơi!
hai mắt long lên, cụ ký giơ năm đầu ngón tay:
- Ông thì vả vỡ tan họng mày ra bây giờ! mẹ mày chết, mày đã trình báo gì tao chưa, mà đã dám khóc?
- ối mẹ ơi, tôi có miệng thì tôi khóc, chứ ông cấm thế nào được tôi.
cụ ký cáu tiết, hung hăng đập gậy vào chiếc quan tài, còn rỗng không, nhìn tên người nhà, quát:
- thằng xiệng, mày vả vỡ miệng nó ra cho ông. lôi nó ra đình kia. khóc à!
 

tiểu thuyết thứ bảy số 306; 1940

TẾT ĂN MÀY

Lời dẫn của người sưu tầm
Truyện ngắn sau đây của Vũ Trọng Phụng tuy thảng hoặc có được nhắc đến trong một số bài nghiên cứu từ khoảng những năm 1950 trở lại đây, nhưng chắc chắn là bạn đọc không thể thấy văn bản tác phẩm này trong các sưu tập, tuyển tập Vũ Trọng Phụng xuất bản trong thời gian trên.
Có lẽ sau lần đăng báo duy nhất, năm 1936, truyện này chưa hề được in lại.
Truyện không chỉ cho nghe tiếng thở dài về thế tình đen bạc, một cảm hứng thường gặp trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, mà còn đáng chú ý với đời nay ở sự miêu tả sinh hoạt ca trù tại đô thị VN đầu thế kỷ 20.
Gần đây do tìm lại được văn bản phóng sự "Vẽ nhọ bôi hề", ta biết thêm rằng nhà văn rất quan tâm đến trạng thái nghệ thuật và đời sống người nghệ sĩ trong xã hội đương thời ông. Truyện ngắn này xác nhận thêm điều đó.
Để có thể giới thiệu tác phẩm này với bạn đọc hôm nay, tôi phải cảm ơn Peter Zinoman và Nguyễn Nguyệt Cầm, chính hai bạn đã gửi từ Berkeley (California, Hoa Kỳ) về cho tôi bản chụp truyện ngắn này.
Lại Nguyên Ân


Tết ăn mày
Một giờ đêm. Đứng trên bao lan một nhà, nhìn xuống con đường Khâm Thiên, ta thấy một mối cảm giác khó tả. Phố xá vắng vẻ một cách đáng buồn. Mặt đường nhựa, bị một lớp bùn cát lấp, bảo cho mọi người biết một cách hãi hùng rằng xuân sắp đến.
Khi nghĩ rằng muốn sửa soạn nghinh xuân thì người ta phải lo trăm công nghìn việc để được lòng ông chủ nợ, được lòng gia đình, được lòng tổ tiên, được lòng cả kẻ tôi tớ trong nhà nữa, thì người ta phải giật mình đánh thót một cái, và nghĩ đến cuộc hành lạc vô nghĩa ấy để tự hỏi: "Có thể như thế được chăng?". Trong những trường hợp ấy kẻ lãng mạn cũng thoáng nghĩ đến cái phận sự sống một đời ích kỷ và hiền lành của kẻ trưởng giả, và những anh tầm thường cũng trở nên thi sĩ. Cho nên người ta buồn vì ngoài phố chỉ còn mấy tiếng rao rời rạc của mụ hàng nem, buồn vì mấy cái xe tay mui buông kín mít cứ ở nguyên một chỗ để chổng đít ra đường!
Bên trong, khách làng chơi đã lộ sự mệt nhọc. Chiếu rượu vừa bế mạc xong. Bọn trẻ rủ nhau thành từng cặp một, nằm ngồi ngả nghiêng rải rác khắp gian phòng. Họ nói ái tình. Họ nói lảm nhảm. Và họ văng tục. Vì rằng họ chỉ đến đây thời mới được tự do nói nhảm và văng tục.
Còn bọn già thì nằm quanh khay đèn với mấy cô đào rượu và bà chủ. Những cụ này không văng tục, cũng không nghịch đểu. Họ là bọn hóa điên. Họ nói chuyện đứng đắn, chuyện công việc. Và than ôi! Họ lại lo cả tết nữa! Ấy là lúc ra đi, có người đã mặc cả là đi chơi cho đỡ buồn.
***
Giống người thật là một giống hay khoe. Hôm nay, một tiểu thư thấy, nhà trước cửa, cô kia mới may một bộ áo tân thời. Ba hôm sau, cô này cũng phải may một bộ áo tân thời lại tân thời hơn cả của cô kia. Cho nên thấy một quan viên ngáp và nói: "Chết chửa, bỏ mẹ thật, 25 tết rồi!" thì cô đào cũng ùa nhau nói chuyện tết. Họ cũng khoe. Họ lại khoe cả những cái "vỡ lọ cổ" nữa. Cái đó cũng không lạ gì mấy vì chưng đối với Cúc Nương, chúng tôi đã vẽ râu, đã bạt râu năm lần bảy lượt, đã có phen có anh phải để râu như râu Trương Phi, và rồi lại cạo được cho nhẵn nhụi như mặt anh Mã Giám Sinh.
Cúc Nương đã nói đến nhân tình thế thái trong những ngày tết.
Ngày tết của cô đầu
Những khi lên voi
Và những lúc xuống chó

Cúc Nương đã nhắc đến những ngày thịnh thời của nghề đàn phách, những ngày mà ả đào còn ở phố Hàng Giấy, Thái Hà ấp. Thời ấy, không phải là ai cũng đi hát được. Một chầu chay điểm một ít lê táo, vài chai sâm-banh của khách làng chơi đem đến, lại không một ai ngủ lại (điều đó can hệ lắm), khách chi cho ít nhất cũng hai chục đồng. Đi hát là một cái vinh dự, vì đi hát thì phải biết đánh trống. Thời ấy người ta đi ả đào thì thấy sung sướng như chàng đa tình đi qua một cửa hiệu tạp hóa, phải lòng mê mệt cô bán hàng mà rồi được phép vào chuyện trò thân mật với người yêu. Cô đầu giữ được nhân phẩm của mình, làng chơi cũng không dám giở những thủ đoạn gậy gạch.
***
23 tháng chạp.
Mua mấy con cá chép nhỏ làm ngựa ông Táo, tiễn ông Táo lên chầu Trời rồi, chị em cũng như những gia đình nền nếp, tấp nập đi giục thợ may, đi mắng thợ kim hoàn, đi sắm cành đào, thủy tiên. Hơn những gia đình trưởng giả, ngoài việc sắm chè, mứt, mọi thứ cao lương mỹ vị, chị em còn xuống Gô Đa ký những giấy li-ve-rông" rượu sâm-banh từng hòm. Pháo cũng nhiều, vì đốt pháo tức là đốt cho tan nát lưng khách làng chơi. Ông Thổ Công mang những chuyện ấy lên khoe với Trời và không dám tâu nộp những chuyện nhơ bẩn gì khác.
Buổi chiều mồng một, Cúc Nương đã từng thấy những chiếc xe hơi đến đỗ trước nhà mình như trước dinh một bà quan to. Có lẽ người ta đã ký văn tự 30 phân với Tây đen, song những cái ấy, chị em không phải lo hộ. Muốn có tình thì phải có tiền. Hồi đó, ái tình trên cái thị trường son phấn còn bán được bằng giá rất cao. Quan viên thi nhau diện xe hơi đến nhà. Quan viên uống nước chè, cắn vài hạt dưa. Quan viên mở rượu sâm-banh. Quan viên nói bông lơn vài câu. Rồi quan viên phong bao cho ba chục bạc, năm chục, hay gọn một "cái đỉnh" (*). Và, vì lẽ đời nó thế, con gà tức nhau tiếng gáy, quan viên mở hàng như vậy mà lại còn hối hận, còn sợ có thằng khác phong bao oai hơn mình. Hồi đó đi hát cô đào thì sẽ bán nhà. Nhưng mà không mắc bệnh hoa liễu.
Cúc Nương thở dài, chép miệng:
- Cứ tiền pháo khi xưa cũng bằng mấy cái tết bây giờ!
***
Bây giờ Cúc Nương đã đến lúc danh vọng về chiều.
Đó là nạn khủng hoảng. Đó là nạn nhân mãn. Đó là nạn ế chồng. Đó là nạn lãng mạn. Đó là cái nạn nhà đăng xing.
Khách hàng không hỏi mua giọng hát nữa. Làng chơi đã đổi hẳn thị dục. Làng chơi cần cái đẹp, cái mới, cái dễ. Cho nên đáng lẽ cùng với mấy cô em danh ca cũng xong, nay Cúc Nương phải mộ thêm một ít cô tân thời biết uống rượu, biết vấn tóc trần cho đẹp, biết đánh răng cho trắng nõn, biết ca mấy câu Trường tương tư, Văn thiên tường, biết khiêu dâm. Cô đầu "xách đèn" và không biết trò chuyện "đếch gì" cả. Và, thêm vào số ấy, lại phải có độ hai món hàng "chanh cốm" thì mới thật là đầy đủ. Cái số nhân viên trong "sở" đã phải mượn đông đến như thế thì có phải bà chủ không thể lo tết cho người làm nữa không? Ai lo phận người ấy.
- Anh ơi, tết nhất đến nơi, anh nỡ để em xơ xác ra thế này à?
- Anh ơi, anh đã làm gì để tỏ lòng yêu em hay là chưa?
- Việc lo ăn lo mặc cho em là việc của bà chủ chứ?
- Vẫn biết thế, khốn nhưng em không có lắm nhân tình! Nếu em có vài người nhân tình luôn luôn đến hát thì em đã chả phải nhờ anh.
Chị xịu mặt nói thế. Anh, muốn chừng nghe cũng có lý, không nói gì nữa. Chị đưa thêm một mũi kiếm:
- Nếu em giả dối với anh thì em đã chẳng xơ xác như thế này, anh ạ.
- Được rồi, để anh nghĩ đã.
- Anh cứ sắm cho em đi, em sẽ trả sau.
Quan viên hiểu ngầm cái nghĩa chữ ấy lắm. Đêm ấy người ta cho nhau ái tình. Sáng hôm sau, quan hẹn đến 26 xuống hát tất niên sẽ có quà tết một thể. Quan viên lại còn kêu như thế thì càng khỏi phải xông đất đầu năm, lợi hơn. Chị em nghĩ thật, tưởng bở nữa. Ngày một ngày hai, chị em cứ chờ: Hôm nay người ta rao cá ông Táo. Mai người ta vác cành đào nghễu nghện qua đường. Ngày kia, người ta vênh váo ngồi xe với những chậu cúc tướng. Ngày kía, người ta rao lá giong gói bánh chưng. Ngồi thục tay vào lòng dưới ánh đèn măng-xông, chờ những khách làng chơi tưởng tượng, chị Lan thấy cái quần nhiễu trắng của mình vẫn là cái quần nối hai lần cạp, cái khăn san vẫn là cái khăn san có ba lỗ thủng bằng ba đồng xu. Vậy mà chị Tình, chị Hiền, chị Mai thì được bà chủ sắm cho nào áo mới giày mới khăn mới. Các chị ấy là cô đầu có "mặt hàng". Mỗi chị ít ra cũng có một số nhân tình là năm bảy ông.
Ngáp dài một cái, chị Lan xúc cảm "kể chuyện" một câu:
- Chém cha... cái số... chung ư ư ư tình!
Thật đặc giọng nhà thổ ế.
***
Hai giờ chiều mồng một.
Năm quan viên vào chúc mừng nhặng cả lên, ăn uống choáng cả lên, hôn hít rầm cả lên. Cuộc đời như vậy thật là: vui vẻ, trẻ trung, tân tiến, hoạt động, trào phúng, và xã hội nữa. Một quan hô:
- Đầu năm thiên thủ, chúng mày ơi, phải có sâm-banh cho nó hùng.
Một quan khác:
- Hùng gì? Bà chủ chỉ đốt mừng chúng mình có một ngón tay pháo.
Một quan khác nữa:
- Thế thì chúng ta mỗi thằng chỉ làm một hến sâm-banh thôi.
- Nhưng mà có sâm-banh không? Có không?
Bà chủ dịu dàng:
- Sao lại không? Đối với các anh là làng chơi đi xe hơi xuống xông đất thì chẳng phải đòi chúng tôi cũng phải đè cổ xuống mà mời sâm-banh.
Cả bọn nhao nhao lên:
- Thế thì đè đi! Thế thì đè đi! Còn chờ gì nữa?
Bốp, bốp, nút chai bắn vọt lên trần nhà. Tiếng săng tê ỏm tỏi. Các quan loạng choạng đi ra. Một quan đã bắc ghế lên mắc vào cái đinh ở cửa hai thước tây pháo. Năm quan ra ngoài đường. Cô đầu ở trong nhà cả. Một quan đánh diêm. Quan khác lấy ma-ni-ven vặn máy xe.
Tạch tạch tạch tạch! Pháo cứ nổ ran lên! Khói cứ um cả nhà! Năm quan lên cả xe. Xe chạy.
Trong cơn biến loạn, có người kêu: "Trời ơi! Họ quên không mở hàng! Họ chưa mở hàng!". Nhưng mà làm thế nào? Cái cửa bằng cái lỗ mũi, tràng pháo lại đương nổ. Khói cứ um lên. Cô đầu tối mắt, ngạt mũi, còn bận bưng mồm ho sù sụ như sặc thuốc lào vậy.
Năm phút sau bà chủ kêu:
- Đồ chó!
Hai chị em bênh nhân tình:
- Không, chắc là các anh ấy quên.
Đến chiều tối, lại một bọn khác. Lại những sự xã giao như lúc hai giờ. Rồi thì, trước khi ra đi, một quan để trên cơi giầu một phong giấy đỏ. Mười phút sau, bà chủ giở ra thấy một tá chinh Bảo Đại. Với một cái thư nữa.
Trong thư, sự tử tế của loài người đã nói:
- "Cái giá trị của các chị chỉ đáng có thế. Các chị thử nghĩ lại xem, đã tử tế với chúng ta như thế nào. Nhớ lại xem!".
Cúc Nương nhớ lại những chầu hát cũ. Một lần, nàng đã nhầm trót để cho hai cô em vào tiếp hai chú Chiệc ở gác trong. Một hôm khác, ba quan ngủ lại, chẳng may có ba cô em lại cùng "đại tang" cả.
***
- Ngày xưa quan viên tìm cô đầu.
- Bây giờ cô đầu hạ mình quá với quan viên.
- Cô đầu không thành cô đầu, quan viên không thành quan viên.
- Nói tóm lại thì quan viên cũng chó mà cô đầu cũng chó!
Cúc Nương nói thế thì một người hỏi đùa:
- Chó ở những lúc ngủ với nhau ấy à?
Tiếng cười rầm một hồi. Rồi Cúc Nương nói:
- Chán bỏ mẹ! Thời buổi này cái gì cũng hỏng! Tết nhất lắm chỉ như đồ ăn mày!
***
Hỡi cô gái giang hồ! Đây là ngày tết. Ngày hôm nay là ngày thiên hạ tưng bừng đón chào xuân mới. Trước ban thờ khói trầm nghi ngút, đèn nến sáng trưng, cô gái ngồi với tráp giầu, sửa soạn chè nước tiếp khách và sẵn sàng đỏ mặt lên nhận những câu chúc đắt chồng, vào dịp xuân sang.
Cô gái giang hồ có biết những cái dĩ vãng tốt đẹp ấy chăng? Hay cô mê mệt vào cuộc truy hoan để chờ khi thấy mặt ta thì lại làm cho ta bồi hồi và giật mình bằng những câu như: "Nay mai anh xuống hát cho một chầu tất niên để em kiếm cái tết nhé!".

MỘT ĐỒNG BẠC

Thời xưa, khi loài người chưa đến nỗi phải sống chen chúc nhau trong những căn nhà rộng như hang chuột của cái thế kỷ tiến bộ này, cổ nhân cũng đã có những câu như "trạch lân xử" và "bán anh em xa mua láng giềng gần" để thuyết minh về cái liên lạc hệ trọng giữa những người sống gần gũi nhau, đề phòng những lúc nguy nan, tối lửa tắt đèn, hoạn nạn, dễ cầu cứu nhau.
Ngày nay, nhờ nạn nhân mãn, những thuế thổ trạch quá nặng, bọn người ít tiền chúng ta đã không còn biết cái tình liên lạc của "láng giềng", để mà hiểu rõ cái gì là cái hệ trọng của người "ở chung" đối với ta, lại thân mật hơn ông láng giềng thuở trước. Vì những lẽ cần kính trọng nhau, để dễ cần dùng lẫn nhau, cần lấy lòng nhau vào nhiều dịp, nhất là không thể giấu giếm, đậy điệm những cái xấu đi, cho nên những gia đình kim thời phải ở thuê chung nhau một nhà, đối với nhau quả là thân thiết hơn cả họ hàng nữa.
Nói thế rồi, bây giờ tôi mới xin kể một chuyện của tôi đối với một gia đình đã "trạch lân xử" với gia đình nhà tôi. Đọc rồi, độc giả nên sẽ tha thứ cho tôi, vì tôi đã là một kẻ khốn nạn.
*
* *
Kể từ khi ấy đến nay, tính ra đã bốn năm tròn. Nghĩa là sau khi sống chung đụng nhau một thời gian khá dài, hai gia đình chúng tôi mỗi bên dọn nhà đi một phương, đã bốn năm nay cách biệt hẳn nhau. ở cái thời buổi mà ai cũng sống hấp tấp, vội vàng này, những điều thiêng liêng đáng ghi nhớ thế nào đi nữa, thì rồi người ta cũng dễ quên khuấy ngay đi... Có phải thế không? Cho nên bốn năm trời xa nhau, tôi chẳng còn nhớ gì đến người ta nữa, mặc lòng xưa kia tôi đã cư xử và được đáp lại như anh em ruột thịt, tưởng chừng cái thân tình quý hóa ấy sẽ sống trường cửu trong ký ức của đôi bên mãi mãi.
Còn về phần người ta, liệu người ta có nhớ gì đến chúng tôi chăng? Có lắm. Bởi cớ nếu không, ắt đã chẳng có câu chuyện này...
Chỉ phiền một nỗi là khi người ta làm cái việc để tỏ rằng còn nhớ đến chúng tôi, thì người ta đã túng bấn, nghèo khổ, chẳng còn được như trước nữa. Vả lại, theo thường lệ, sở dĩ loài người ăn ở tử tế được với nhau, ấy chỉ là vì chưa làm gì đến nỗi để cho quyền lợi xung đột nhau mà thôi. Nếu cả hai bên ai cũng theo đuổi được cái điều kiện nay ăn miếng chả mai trả miếng bùi, một bên có đi thì bên kia cũng phải có lại để cho được toại lòng nhau, thì làm gì xã hội lại sẽ chẳng cứ mãi mãi là cảnh Bồng lai? Than ôi, cái áo rách nó mới đắc tội làm sao, và khi người ta tìm đến chúng tôi, thì chẳng may cái áo người ta đã rách!
Những tư tưởng ái nhân như kỷ cũng đôi khi làm rung động lòng tôi, lúc ấy nó mới biến mất đi đâu, để nhường chỗ lại cho cái tính đa nghi, cân nhắc, cái ích kỷ tổ truyền!... Vì chưng nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến mình và quyền lợi của mình, sự ấy nó cũng tự nhiên và có nhiều thú vị riêng của nó, thí dụ nói xấu và vu oan là một cách giồng cây đức của nhiều nhà làm báo chân chính chẳng hạn, cho nên khi người ta mặc áo rách và mang trên mặt tất cả những nét lo âu của sự túng bấn thì tôi chỉ còn kịp so vai một cái để lẩm bẩm rằng: "Lại tống tiền là cùng đây chứ gì!" y như một tay nhà giàu đã thấy phiền và chán nản ở cái sự cứ phải bỏ tiền ra thi ân...
Nhưng, bạn đọc đại lượng ơi, hãy khoan một chút, để tôi được thuật ra đây ít ra một vài điều gì nó tỏ cái thân tình của chúng tôi ngày trước đã.
*
* *
Người chồng là một thiếu niên đồng tuế với tôi. Địa vị trong xã hội thì thường thường bực trung, vì là một thư ký nhà buôn lương tháng độ bốn chục. Lối đánh giá con người vào thời buổi bây giờ chỉ là lục lọi đến số tiền lương tháng nhiều hay ít, chứ có phải kể đến học thức, nhân phẩm gì đâu! Nhưng nếu phải giới thiệu ông láng giềng của tôi kỹ hơn nữa, thì tôi xin nói đó là một người học thức trung lưu, đạo đức trung lưu, tài sản trung lưu; nghĩa là, nói tóm lại, là một người chẳng đủ làm cho ai sợ nhưng cũng chẳng để cho ai khinh được.
Còn người vợ, thì rất xứng đôi với chồng: nhan sắc bình thường, nhân phẩm trung đẳng, còn học thức thì, theo như công lệ, cố nhiên là không có chút nào rồi.
Cặp vợ chồng ấy rất tương đắc với vợ chồng chúng tôi. Tình lân lý của đôi bên cứ theo thời gian mà càng ngày càng thêm bền chặt bằng cách biếu xén nhau mọi của ngon vật lạ, mời mọc, thết đãi nhau luôn luôn, và cả hai bên đều lấy thế làm thỏa mãn, dẫu rằng sau khi tôi thấy vợ tôi được nhận một thứ thực phẩm đầu mùa hoặc hóa vật kỷ niệm gì, thì tôi lại giật mình đánh thót một cái, băn khoăn kiếm cách đền lại. Và khi được trả lại, tôi cũng chỉ thấy họ tươi cười cảm ơn mà nhận, ra vẻ sung sướng một cách rất thành thực, thế thôi. Thật vậy, những trò giả dối ấy, chúng tôi vui lòng tự mình lừa dối mình để coi nó là những hành vi chân thật. Không bao giờ chúng tôi lại chịu thú nhận rằng thế là đã làm khổ nhau, và chỉ có thể tử tế được bằng cách cứ làm khổ nhau mãi mãi mà thôi. Điều chẳng cần nói ra đây, là sau những cử chỉ rất anh hùng ấy, thì cả hai bên đều mắc nợ, vì lương tháng hai bên cố nhiên không đánh thăng bằng được cột thu và cột chi.
Do những lẽ ấy, trước còn xưng hô nhau: thưa ông, thưa bà. Rồi, sau một thời kỳ "bác bác tôi tôi" đến cách gọi nhau là anh chị, như ruột thịt chân tay. Cuối cùng, hai thằng nam nhi chúng tôi lại thân mật đến "mày tao" với nhau nữa, những khi không có mặt hai người đàn bà. Ký Bích - tên người bạn - với tôi tưởng chừng đã có thể từ đó sẽ sống chết có nhau.
Tôi còn nhớ rõ như mới hôm qua, một lần phát tài, vợ chồng ký Bích mời vợ chồng chúng tôi đi lễ chùa Hương mà anh thì có bộ Âu phục màu gỗ hồng rất đúng mốt, mà chị thì nhờ cái áo nhung đỏ mới may, tự nhiên xinh đẹp khác thường như là đột nhiên biến thành cô tiên, tuy đó có thể chỉ là một tiên nga trung lưu. Chúng tôi đã đủ sung sướng, hả hê vì thấy được quý hoá, để hai tháng sau phải lo méo mặt thết lại bạn thân ba ngày nghỉ mát Sầm Sơn rồi mới ăn ngon, ngủ yên được.
Nhưng mà... cảm động và đáng nhớ hơn nữa, là thái độ của anh và chị Bích đối với con tôi, đứa con gái đầu lòng. Chị Bích thường chểnh mảng cả việc bếp nước để lên giúp vợ tôi, hoặc kiên tâm ngồi ẵm con tôi như một người vú em có lương. Khi con tôi đến lúc biết hóng chuyện, những khi đi làm việc, anh Bích đã nhiều phen để nguội cả cơm canh vì mải lên "yêu cháu một lát". Bao giờ tôi lại quên được những lời thông thường rất thi vị mà anh "nói ngọng" sau khi quệt ngón tay trỏ vào má con bé, đại khái những:
- Cháu gái tôi, ồ là, tôi "êu" nó lắm cơ! à, cháu tôi cười rồi! Bác "êu" cái má bánh "đúng" này này! Bác "êu" cái miệng bé bé này này! Bác "êu" cái cằm quả táo này này! Bé ơi, bé êu êu quí quí của bác ơi!... A hà cười! Thích quá, thích quá!
Rồi anh ký Bích hôn hít con bé mãi không thôi, làm nó cứ cười toe toét, và làm cho tôi cảm thấy cả cái hạnh phúc của một thằng đã là "bố trẻ con" mà con gái lại trông hay hay, mẫm mụi, nghĩa là tóm lại theo một câu nói riêng thì là "trông cứ như con chó Cún".
Những lúc như thế, tôi đã rõ rằng tình bằng hữu, tình lân lý của con người ở đời, dẫu sao, cũng chẳng phải chỉ là những danh từ điêu trá của văn chương đâu!
*
* *
Thế rồi, ngày hôm ấy...
Giữa lúc tôi đương đứng cạo râu trước gương, sắp sửa để đến chỗ hẹn với một người bạn ở tỉnh xa về chơi mà tôi có bổn phận tiếp đãi thật long trọng, thì chị Bích bước vào nhà. Vợ tôi lúc ấy lại đi đâu vắng...
Chị Bích làm cho tôi giật mình... Thật là bất ngờ quá đỗi! Cái áo the nâu của chị, vừa rách lại vừa bạc, trông mới thảm hại làm sao! Đôi guốc mòn gót, quai cao su lốp ôtô lộn ngược mà chị kéo lê sền sệt, cả gót chân thừa ra ngoài, trông mới khổ sở làm sao! Thật là khác hẳn bà ký Bích ngày xưa, bao giờ ra phố cũng áo lụa hoặc áo nhung rất lịch sự.
Tôi ngạc nhiên đến nỗi cứ ngẩn mặt ra, quên cả cạo râu, quên cả mời khách ngồi. Tưởng bị tôi khinh, chị ta sau khi hỏi rằng vợ tôi có nhà không, cũng đứng đấy, mặt cúi xuống để lúng túng, để bẽn lẽn và có lẽ để khổ sở nữa. Tôi bèn đẩy ghế mời chị ta ngồi, và không gọi pha nước mới, tôi chỉ rót ra đấy một chén nước chè cũ pha đã hai lần. Tôi bực mình cũng như bao nhiêu người đương lúc vội ra đi mà bị có khách đến ám. Rồi tôi cứ tự do cạo râu trước gương, sau khi hỏi qua loa một câu vô duyên:
- Thế nào, dạo này hai bác có phát tài không?
Thấy chị Bích hổ thẹn đáp cũng vô lý như câu hỏi:
- Không dám ạ, cảm ơn bác.
Đến lúc ấy tôi mới nhớ ra không biết ai đã nói với tôi rằng vợ chồng ký Bích, từ khi không còn ở chung với tôi, đã lâm vào cảnh khổ sở, và đã có hai con... Chồng thì đương làm ăn yên lành bỗng bị sở loại, vợ thì cứ ốm luôn, hai đứa con cũng lại hay sài... Nghe đồn hình như bây giờ cái gia đình ấy đem nhau ra nheo nhóc ở một gian nhà lá ngoài bãi Phúc Xá, và anh ký Bích bây giờ phải bán bánh tây cà phê ban đêm, và chỉ ban đêm thôi: Anh hổ thẹn, sợ cắp thúng và xách lò đi ban ngày gặp bạn hữu, họ mạc... Phải, phải chính thế, tôi nhớ ra rồi! Người đã thuật chuyện ấy là bạn của cả Bích, lẫn tôi. Và nói thế là để thương hại chứ không phải để nói xấu...
Nhớ lại như thế, tôi bỗng lại giật mình. Tôi tự nhủ: "Liệu hồn! Lại bị tống tiền rồi đây!" Rồi tôi thấy phiền quá, vì chị Bích làm cho tôi sợ hãi quá, nhất là không biết đến bao giờ mới để tôi ra đi cho thoát.
Khổ thật! Râu cạo mãi cố nhiên cũng phải đến lúc hết nhẵn, tôi đành cất dao đi, và quay lại, ngồi xuống ghế đối diện chị ta. Và chẳng nhẽ lại không nói gì, tôi đành mở mồm:
- Mời bác xơi tạm chén nước.
- Dạ, vâng.
Đáp xong, chị Bích uống chén nước một hơi, y như một người đương đói lắm. Chẳng phải là một kẻ vô lương tâm hoàn toàn, tôi bỗng thấy hổ thẹn về cái lãnh đạm của tôi. Và thay đổi thái độ:
- Thế ít lâu nay hai bác làm ăn ra sao? Tôi chẳng biết nhà đâu mà đến chơi! Mà hai bác cũng không năng đến chơi với chúng tôi, thì tôi còn biết gì được!
Mắt chị ta bỗng quắc lên vì sung sướng và hy vọng. Than ôi, con người ta khi đã lâm vào cảnh nghèo, có ai mà lại không hèn! Cái hạnh phúc của chị ta, lúc ấy nó có được chỉ vì thấy tôi nói một câu giả dối ra vẻ săn sóc, là chẳng kém một cung phi đã già đời nằm dài trong lãnh cung mà một hôm được thấy cái xe dê của vị quân vương. Đối với chị ta, lúc ấy tôi là một vị thiên phúc chi tinh vậy! Bây giờ chị mới đủ can đảm ngập ngừng kể lể:
- Thưa bác, một hôm em gặp bác gái ở Đồng Xuân, nói rõ phố và số nhà rồi hẹn lại chơi, cho nên hôm nay em mới dám đến đây... Thưa bác, từ dạo ấy thì nhà em mất việc vì sở loại bớt người... Từ đấy tìm mãi việc làm không được. Em thì cứ hay ốm yếu luôn, lại đẻ được hai cháu, mà hai cháu cũng cứ sài đẹn luôn luôn... Hiện giờ thì túng kiết khổ sở lắm. Xưa kia, ở chung với bác, được trăm phần thì nay không được lấy một phần... Chẳng dám nhìn mặt ai nữa, chẳng dám tìm đến ai nữa. Nếu bác gái không bảo lại đây thì em cũng không dám đường đột lại đây thế này đâu. .. Dạ bẩm thế bao giờ bác gái mới về ạ?
Tôi đáp cho phải phép:
- Đến chiều nhà tôi mới về... Chết nỗi, thế mà tôi không biết rằng hai bác vận hạn nhiều thế.
Chị Bích giương to đôi mắt đăm đăm nhìn mãi tôi. Có lẽ đương cầu Trời cho tôi bảo cứ ngồi đấy mà đợi vợ tôi vì thấy tôi thắng bộ vào như thế, chị rất hiểu là tôi sắp ra đi có việc.
Còn tôi, lúc ấy, thì tôi nghĩ gì?
Tôi có nhớ đến cái tình chung chạ nặng hơn hàng xóm láng giềng của chúng tôi khi xưa không? ừ, cái thân tình gần như ruột thịt những ngày vui cũ, tôi có còn nghĩ gì đến hay không?
Tuy cũng có đấy, nhưng nhớ để rồi quên ngay. Vì tôi còn bận tâm lo bạn tôi đương vì đợi tôi mà sốt ruột, bận tâm giận vợ tôi sao lại hẹn nguy hiểm thế, và nhất là bận tâm vì áy náy không biết khu xử ra sao... Tiền! Than ôi, lại chỉ những chuyện tiền!
Bao nhiêu cái gì là ích kỷ, là đê hèn, là chó má, là tàn nhẫn, lúc ấy đều thức dậy cả trong cái tấm lòng khốn nạn của tôi. Cúi đầu xuống, tôi bĩu môi nghĩ về vợ chồng ký Bích: "Sướng lắm thì khổ nhiều!" ấy thế là những sự thù tạc, biếu xén, quà bánh, thết đãi của vợ chồng ký Bích khi xưa đã làm cho tôi thấy là vinh dự, đáng quý hoá, thì bây giờ chỉ khiến tôi thấy đó là kiểu cách, lôi thôi, phiền phức, giả dối, khó chịu, và nhất là tai hại, hầu như là đã khiến cho vợ chồng tôi vì đối đáp lại những cái ấy mà đã có hồi khuynh gia bại sản nữa! Tôi thấy họ đáng kiếp, không đáng thương tí nào.
Nhưng mà vợ tôi đã gọi người ấy đến; rõ mới tội nợ!
Thì... không mất tiền không xong! Tôi đành hỏi ngay:
- Bác cần tiêu bao nhiêu?
Cố nhiên là chị Bích nghĩ mãi mới đáp:
- Nếu được bác giúp cho độ ba đồng bạc thì cháu bé cũng sống mà vợ chồng tôi cũng đỡ phải lo trong một tháng.
Lúc ấy, túi tôi có thừa năm đồng. Nhưng mà, như trên đã nói, tôi còn phải thết đãi người bạn. Ngay bây giờ, chúng tôi rất cần đi ăn, đi chơi! Nếu không, tôi sẽ chẳng ra giống người, vì ông bạn tỉnh xa của tôi đã đối với tôi chu đáo, ân cần lắm! Thế rồi đáng lẽ đưa ra cho chị Bích vay hai đồng thì, không hiểu sao tôi chỉ đưa ra có một đồng. Và tôi bỗng nói khác hẳn như đã muốn:
- Thôi đây này, có đồng bạc cho cháu ăn quà, bác cầm lấy... Chúng tôi tuy vậy dạo này cũng túng, chẳng có gì đâu... Đây là tôi cho cháu nhé, chứ không phải chuyện nợ nần gì cả.
Tôi đã dùng cái lối rất cổ điển: cho hẳn, để mà "rào đường". Vì tôi sợ nhất cái chuyện sẽ bị quấy nhiễu về sau! Vì cho thì một đồng đã là to: còn cho vay thì lại là ít quá, không được tử tế như cho hẳn.
Chị Bích cầm tiền, cảm ơn, bẽn lẽn ra về.
Chị hài lòng chưa? Đủ sướng rồi hay còn cho là ít? Tôi cũng không biết.
Chỉ biết hôm ấy, tôi đã tự đắc như một nhà từ thiện, vì lẽ cố nhiên tôi coi đồng bạc ấy của tôi là rất to!
Quả như vậy, từ đấy trở đi, không bao giờ chị Bích còn dám bén mảng đến cửa nhà tôi nữa. Tôi đã rất thành công trong cái sự rào đường một người bạn nghèo. Rồi thì, chẳng cần phải lâu ngày, chuyện ấy cũng chóng bị quên đi... Nhưng về phần chị Bích thì không. Chưa có nghìn vàng dễ thường không bao giờ chị ta dám nghĩ đến sự đền ơn bát cơm Siếu mẫu, dẫu rằng người thi ơn kia, quả thật đã chẳng có cái từ tâm của Siếu mẫu.
Vài tháng sau đó...
Bữa ấy nhằm một buổi sáng chủ nhật, tôi cùng mấy người bạn đã lên một toa xe điện chạy từ Bạch Mai về Bờ Hồ. Khi đến chợ Hôm, chợt thấy chị Bích ẵm con, bước lên. Đêm trước chúng tôi vừa mới thực hành cái truỵ lạc chủ nghĩa. Vừa đem thi thố mấy ngón tài hoa, như nốc rượu, hút thuốc phiện, đùa gái, văng tục, và nói xấu những người bạn thân vô phúc đêm ấy không có mặt tại một tổ quỷ nào đó ở xóm Vạn Thái, cho nên sáng hôm nay, mặt chúng tôi đều bơ phờ, hốc hác, thiên hạ cứ thoáng nhìn cũng đủ rõ là bọn này đã từ cái chốn ác hại nào mà chui ra... Lại thêm lúc chi tiền, chúng tôi đã bị một ả đào lè nhè xin thêm mãi, cho nên lúc ấy tôi đương bực mình cực điểm, thấy rằng cuộc đời đã bị đầu độc, mà chưa biết bao giờ mới có một cuộc vui nào khác nữa đến tẩy độc cho... Âu cũng là nhằm ngày đen đủi của chị Bích vậy.
Trông thấy chị lên xe, tôi lại giật mình, nhưng không thể lánh mặt được, tôi đành ngả mũ chào chị, và cố nhiên cái vẻ mặt lúc ấy là phải lãnh đạm. Cái áo the nâu của chị lại rách hơn trước một chút nữa. Và bây giờ thì chân chị - hai bàn chân xưa kia xinh và trắng - xéo lấm, vì chắc đôi guốc đã không còn dùng được rồi. Còn đứa con chị ẵm trong tay thì xanh xao, gầy quá, đầu thì lấm tấm có mụn trốc, cặp môi thì đã thâm như của một dân bẹp tai! Lúc chị Bích sắp nâng một bên vạt áo lên để giới thiệu con, tôi bỗng có cái cảm tưởng lạ lùng y như người ta lúc sắp được thấy, trong cuốn sách phóng sự, bao nhiêu điều xấu xa bí mật sắp bị phơi ra dưới ánh sáng vậy. Thật thế, không gì thất vọng bằng một cái mặt trẻ con mà lại không đủ cái hay, cái kháu, để mời chào ta một cái hôn... Tuy vậy, tôi cũng nhớ ngay đến thời xưa, khi con gái tôi mới đẻ, nó đã được chị Bích quý hóa như thế nào. Và tôi đã hỏi mấy câu qua loa về đứa bé, để rồi ngắt chuyện, xin diêm thuốc các bạn hữu cùng ngồi quanh đấy, ý muốn cho chị Bích mau lấy áo đậy con lại.
Xe điện chạy chậm quá thật! Mười cây số mỗi giờ, giữa một tỉnh to như Hà Thành! Thật là một cái hổ thẹn của văn minh! Vì rằng, than ôi! Tuy tôi đã im lặng lờ hẳn đi, nhưng chị Bích đã bắt đầu kể lể!... Chị nói rõ về cảnh nheo nhóc, mọi điều tai biến, mọi sự đói khát, đau khổ, mà cái số phận ác hại đã hành hạ gia đình nhà chị từ bấy đến nay... Tôi thở dài. Tuy chị không kết luận bằng cách xin giúp đỡ, nhưng tôi cũng đủ thông minh để hiểu lắm.
Lúc bấy giờ thì tôi phẫn uất đến cực điểm. Tôi cho tôi như một con giun, ai xéo lắm ắt tôi cũng biết quằn! Đi hát, lúc chi tiền bị kè nhè là đồ keo, lúc về giữa đường lại bị có kẻ muốn tống tiền, tôi tưởng như vậy thì từ tâm đến bằng Đức Phật Tổ cũng phải cáu, dẫu rằng Phật Tổ không đời nào đi hát... Đáng lẽ có thể bảo chị Bích là không biết điều, ở chỗ "cứ thấy bở thì đào" như một kẻ bất nhã nào khác, tôi chỉ muốn nhắc cho chị đừng quên cái đồng bạc trước của tôi. Chẳng nghĩ xa xôi, tôi hỏi thẳng:
- Từ lần ấy, bác có gặp nhà tôi nữa không?
Vô tình chị đáp ngay:
- Dạ, có gặp một lần ạ.
- Bác không nói gì cho nhà tôi biết về cái đồng bạc tôi giúp bác đấy chứ?
Chị Bích ngơ ngác nhìn tôi mãi như ngạc nhiên vì sợ tôi lại nỡ ngờ cái lòng thực thà hoặc biết nhận ơn của chị. Rồi chị tức khắc đáp:
- Dạ, có đấy ạ. Tôi có nói ngay rằng đã được bác cho vay một đồng.
Tôi sung sướng lắm, và cau mặt hỏi nữa:
- Bác đã nói là tôi cho vay à?
Chị Bích liền gật đầu:
- Bẩm vâng.
Tôi tắc lưỡi, cau mặt hơn nữa, khẽ nói tha thiết:
- Rõ khổ quá! Thì sao bác lại không nói là tôi cho hẳn cháu? Mà tốt hơn nữa thì bác đừng nói gì, có hay không! Chẳng nói bác ắt cũng thừa biết đấy, bụng dạ đàn bà nhỏ nhen như cái lỗ kim... Thế là rồi nhà tôi nó sẽ không bao giờ quên là bác đã nợ nó cái đồng bạc ấy.
Tôi kết luận bằng cái so vai, và một cái thở rất dài.
Từ đấy, chị Bích có một nét mặt ủ rũ đặc biệt nó khiến chị ta không ngồi thẳng lên được nữa, như một con chim bị đạn. ắt đó là chị hối hận, tiếc rẻ cái lòng nhân đức ghê gớm của tôi, và phân vân lo sợ về cái "bụng dạ lỗ kim" của vợ tôi.
Đến chợ Đồng Xuân, chị ẵm con bước xuống. Trong cả thời gian ngồi cạnh nách tôi, chị ta tịnh không dám bén mảng đả động đến chuyện tiền.
*
* *
Cách đấy sáu tháng nữa, quả vậy, đúng sáu tháng.
Nhằm lúc cuối năm, vợ chồng tôi đi lên chợ Đồng Xuân mua vài giò thuỷ tiên... Đương lúi húi mặc cả trước một bàn hoa, tình cờ lúc nghển lên, chúng tôi trông thấy chị Bích đương đi từ cổng chợ ra, cách chỗ chúng tôi đứng độ mươi thước. Tức thì vợ tôi vui vẻ gọi:
- Bác Bích! Bác Bích ơi!... Bích!
Một tay bế con, một tay cắp cái rổ trong đó có vài cây dưa cải và một cái mũ thổ công đáng giá hai xu, tuy chỉ có thế thôi, chị Bích cũng quay lại một cách rất khó khăn, chỉ vì buổi chợ quá đông người. Đến khi nhìn thấy rõ chúng tôi rồi, thì...
Thì chị Bích lại vờ như không nhìn thấy nữa, ôm con và ôm rổ cúi đầu quay đi thẳng, trước còn bước chậm, sau thoăn thoắt rõ nhanh, và sau cùng, thì chạy hẳn!
Than ôi, chỉ vì một đồng bạc! Cái đồng bạc nhân đức rất đắc tội ấy! Chị Bích lẩn mặt, chạy trốn, sợ bị đòi tiền.
Một đồng bạc! Chỉ vì nó, mà một người đã có cái can đảm chạy trốn một người, sau khi cả hai người, vào lúc còn như nhau, đã sống bao nhiêu năm trời chung đụng với nhau, rau cháo có nhau, yến tiệc có nhau, thân thiết với nhau hơn ruột thịt, tay chân!
*
* *
Bạn đọc ơi, viết đến dòng này, tôi lại thấy cả tấm lòng khốn khổ và khốn nạn của tôi nôn nao lên... Chính thế đó, vì trước bàn giấy của tôi có một cái gương Psyché, và khi tôi chợt ngưng bút để nhìn cái hình thù và cái người ngợm của tôi trong gương, thì tôi buồn nôn, thì tôi ghê tởm cả cho chính tôi, vì rằng, trừ một bọn nịnh sằng vẫn gọi tôi là danh sĩ, là văn hào, thì, trong thiên hạ, than ôi lại vẫn có một số người đứng đắn kia nỡ lòng khen tôi là "một người tử tế".
Tôi hối hận lắm, tôi khổ sở lắm, vì rằng từ đấy, không bao giờ chúng tôi còn dịp nào gặp vợ chồng Bích đâu nữa, và nhất là vì giữa cái hôm chị ta chạy trốn vợ chồng chúng tôi ấy, thì lại nhằm vào một bữa hãn hữu mà vợ tôi đã nói: "Rõ tội nghiệp chị Bích quá nhỉ? Cậu ạ, em chỉ định tâm hễ gặp chị ấy thì thế nào cũng giúp thêm chị ấy vài đồng, nhất là vào dịp Tết này".
Nhưng mà từ bấy đến nay, thời gian đã đem đến cho lòng người cái gì là cái quên. Sự gì thì rồi ta cũng có ngày quên đi, cho dẫu là ái ân, cho dẫu là đau thương, cho dẫu là hối hận.
Bởi cái cớ ấy, cho nên tuy lương tâm tôi đã mang nặng một vết thương tình cảm để đôi khi bứt rứt hàng giờ, mà từ đó, tôi cũng chẳng làm nổi một việc thiện nào thiện hơn cái việc ác này, tuy rằng nếu cố gắng tinh thần thêm chút nữa, tôi chẳng thiếu gì những dịp để thực hiện rất nhiều cái đức ái nhân như kỷ mà tôi có thể có được, hơn ai...
Vì sao? Vì khi ta có tiền thì ta chẳng nghĩ đến cái nhân, và khi phải nghĩ đến cái nhân, thì ta lại chẳng có tiền. Cho nên sự đời chung qui chỉ là những vòng chạy trong đèn cù, luẩn quẩn, loanh quanh, vì ta không thể nào khác được, nếu không cứ việc sống thản nhiên để mà tầm thường và khốn nạn.
Tạp chí Tao Đàn,
số 2, ngày 16.3.1939

MỘT CON CHÓ HAY CHIM CHUỘT

Hôm ấy, cụ Bá ông quả quyết mở ví tiền để trả cho anh lái chó cái giấy bạc một đồng. Cụ sung sướng cực điểm vì rằng con Vện mà cụ mới mua đấy, theo ý cụ, là một con chó có... dị tướng: béo tốt, chân thấp, mồm và tai vừa nhọn vừa ngắn, mặt trùn trùn gẫy gập như mặt giơi, lông đã hung hung lại có vằn đen như lốt hùm.
Cụ đã khoe với cả xóm rằng ai nuôi được thứ chó ấy ắt sẽ có nhiều dịp phát tài - giống chó cũng có tướng như giống người, mà con Vện của cụ thì lại quý hơn các thứ chó huyền đề hoặc là tứ túc mai hoa vì nó có tướng ngũ đoản.
*
* *
Chẳng hiểu cụ Bá xem tướng con Vện có đúng hay không! Sau khi có nó ba bốn ngày, chưa cho cụ được dịp phát tài đâu, nó đã vồ lấy ống chân cụ Bá bà mà ngoạm luôn cho một ngoạm. Tuy rằng mấy cái răng ngập vào thịt cũng không sâu cho lắm, nhưng cụ bà bị toạc mất hai tấc váy lĩnh: cái triệu chứng hao tài!
Có lẽ tướng ngũ đoản cũng chẳng đáng quý bằng cái váy lĩnh nên chi cụ ông, mặc dầu đã hết sức can ngăn và hạch lại cụ bà rằng "Mới thả cũi nó một ngày nó chưa quen hết người trong nhà, ai bảo bà đã đi về khuya lại không đánh tiếng", cụ cũng chẳng giựt nổi của cụ bà cái đòn ống to tướng lúc ấy cứ giáng xuống lưng con Vện như mưa...
- Này cắn trộm! Này phản chủ với bà!
- ẳng ẳng ẳng ẳng!
Con Vện trong lúc chịu đòn, chỉ biết kêu có thế, nước mắt chảy ra ràn rụa, trông cũng đáng thương hại lắm.
Thất bại trong cuộc làm thầy kiện cho con chó có dị tướng ấy, cụ Bá ông hậm hực mất đến vài ngày, và khách hàng của cụ, từ đó cũng phải một phen kệch. Bốn chiếc răng nanh chẳng dám dùng đến nữa, từ đấy, hễ thấy người lạ mặt, con Vện chỉ đành gừ gừ một cách cho phải phép, hay là, quá lắm, cũng chỉ đến gâu gâu rất suông. Cái bực tức ấy thật chẳng khác gì cái bực tức của những ông quan viên nào đi che tàn, xuống xóm những tưởng sẽ được hưởng thế nọ... thế này, mà kỳ chung chỉ được có một chầu chay thôi vậy!
*
* *
Vẫn biết cắn là một tính thiên bẩm của loài chó thật song le, bất cứ lần nào, hễ Vện ta vừa rụt chân, rụt cổ, ngứa mồm nhe nanh, hừ một cái, là tức khắc bị những người suỵt suỵt ầm lên, cho nên nó nghĩ ngay đến cái đòn ống, lại cho rằng sự mình bị quát mắng là một điều áp chế, nó chui ngay vào gậm phản mà nằm rồi nhìn thế sự bằng cặp mắt bàng quan. Nếu nó biết nói, ắt nó đã làm một câu: "Chặc! Thì ông mặc kệ".
Dần dần, nó chỉ biết đến bữa thì ăn, ăn xong tìm chỗ nào cao ráo, ít ruồi, ít muỗi, đánh một giấc, cái đầu đặt giữa hai chân trước như người nào đến cái tuổi mũ ni che tai... Nhưng mà các cụ nhà ta đã bảo rằng nhàn cư vi bất thiện.
Cứ ngày nào cũng đủ hai bữa, sáng ngủ đến 9 giờ mới dậy, buổi trưa nào cũng la siết1 một giấc, cuộc đời như vậy cũng tẻ ngắt. Vện ta phải nghĩ đến cách tán gái cho qua thời giờ. Đã không phải vất vả đến thân lúc nào lại được ăn chơi mặc thích, Vện càng ngày càng béo tốt, lông cứ mượt mà như nhung. Trông cũng có vẻ công tử bột lắm. Bộ mã đã bảnh bao cố nhiên trên đường tình dễ đắc thắng: cái tiếng chơi bời của Vện chỉ trong ít lâu đã lừng lẫy cả xóm: Vện đã nặn thêm ít nhiều xuất đinh cho cái "xã hội có mõm" và hễ cứ nhà nào có chó cái là phải thấy tiếng "quấy khóc" của đàn chó con lau nhau. Thì ra Vện cũng có số đào hoa như Người vậy.
*
* *
Nếu có ai được mục kích công tử Vện tán gái thì mới rõ tâm lý phụ nữ, với những cái thế lực của những bộ mã giẻ cùi.
Không có mùi soa nhưng lại thích cái mốt quay quay mùi soa đằng sau gái nó là cái mốt của bọn đệ tử đảng "Càn Long" ở Hà thành, trước mặt gái, Vện ta cũng vẫy cho đuôi luôn luôn phe phẩy, loanh quanh vài vòng thè lưỡi, ghé mũi, hết sức bầy tỏ tấm lòng khuyển mã, ấy chỉ có thế mà các "tiểu thư" Vàng, Bông, Cún, Mực, cô nào dữ và "lắm điều" vào bậc nhất, và có răng nanh nhọn nhất, cũng không nỡ cự tuyệt con... người có duyên một cách lạ ấy, cũng cảm ngay. Thật vậy, Vện chẳng bị tẽn hoặc bị cự tuyệt bao giờ.
Trò đời vẫn thế: thấy ai hơn mình là phải ghen ghét. Những chó vô duyên khác thường họp đàn họp lũ nhau rồi đến tận nhà cụ Bá gây sự với Vện luôn thôi! Không hề gì, cũng là hạng "có một vài miếng" nên Vện cũng chẳng sợ. Lắm khi một mình cự địch với ba bốn cũng vẫn thắng trận như thường. Cho nên từ các cô êu đài các đến các cô êu nghèo hèn, không một "mẻng" nào mà lại thoát cái phong tình của Vện. Không phải con chó ấy tham lắm, nhưng những khi chim chuột những hạng không có nhan sắc, dễ thường nó muốn thực hành cái lý thuyết: Mùi nhang đã trải, mùi dầu thử chơi! Nói cho đúng ra, Vện lại còn muốn được đời khen mình là yêu bình dân, vì sự thực thì Vện cũng có óc "hoạt đầu" dữ lắm.
*
* *
Nhưng mà có một lần, cái đàn những anh tình địch của Vện đông quá; dễ đến mười mõm ấy; thảy đều vây quanh lấy Vện mà vồ, mà nhá, khiến cho, không chống cự nổi nữa, Vện phải hộc tốc chạy về nhà, chui tọt vào gậm giường đứng giữ thế thủ cẩn thận rồi nhe nhanh gừ gừ ra ý thách:
- Chúng mày có giỏi, vào đây với ông!
Đàn kia.. không có con nào dám vào, chỉ đứng ngoài mà gầu gầu rầm lên ra ý chửi bới và văng tục.
Thật cũng chẳng may cho Vện quá, vì ngày hôm ấy cụ Bá có giỗ tổ, giữa lúc ấy lại nhằm lúc cụ bà đương xới cơm cúng, và cụ ông đương kính cẩn khấn khứa trước bàn thờ.
Bỗng dưng thấy tiếng chó sủa kinh thiên động địa, nhìn ra lại thấy toàn một lũ "đầu trâu mặt ngựa" đương đứng xúm nhau giữa cửa để chõ mõm vào mà tự do chửi rủa tàn tệ, mà dưới gầm thì là Vện, biết ngay lại chuyện ghen tuông chi đó, bực mình và sợ bất kính trong lúc cúng tế, cụ Bá ông quên cả chân mình đương có bít tất bông trắng nõn, nhẩy ngay xuống đất vớ cái lau màn, ra dẹp tan lũ "ưng khuyển" rồi mới quay vào giọt cho Vện một trận không tiếc tay.
Thói thường chó đen giữ mực, Vện cũng chẳng chừa.
*
* *
Đêm ấy, một đêm giăng thanh gió mát, nhân khi cao hứng, Vện phá rào chui ra ngoài đi với tình nhân. Giữa lúc hai bên chỉ non thề biển nặng lời trên con đường nhỏ giáp với lũy tre quanh làng nó cũng là một thứ "con đường Cổ Ngư"(1) chẳng hạn, thì một chú Cược thừa cơ chui qua cái chỗ hở ở giậu, vào sân tự do lấy mất cái chậu thau đồng.

------------------------------------------------
1. Tên cũ của đường Thanh Niên (Hà Nội) bây giờ.

------------------------------------------------

Thấy sột soạt tiếng động lúc trộm đã chui ra, cụ Bá gọi Vện mãi chẳng thấy đâu, phải lật đật ra sân soi thì... hỡi ơi nông nỗi!
Cách đấy vài phút, Vện lại chui qua lỗ hổng mà vào, hai mắt lấm lét nhìn trộm chủ, ra vẻ lo sợ chẳng hiểu đương đêm soi đèn và gọi mình làm gì thế kia... Thấy Vện có vẻ khả nghi, cụ Bá nhìn đến hàng rào rồi thất kinh chạy đến chỗ hổng. Rành rành một mảng lông mắc gai theo cái triều lưng của Vện lúc chui ra vẫn còn sờ sờ ở đó, cụ biết ngay ra là thủ đoạn của Vện, là nhờ Vện thì chú Cược mới được thừa cơ!
Giữa lúc cụ đương tiếc đứt ruột, cô Khoang, một con chó trông có quý tướng lắm, tứ túc mai hoa, "gót sen đẹp nõn", thật đáng gọi là... hoa khôi của làng êu, cũng chui qua giậu mà vào. Cô vào gừ gừ một câu nũng nịu những tiếng oanh thỏ thẻ muốn đại khái nói; "Giữa lúc này, gió mát trăng thanh mà chàng nỡ bỏ em, vậy thì chàng không coi cái ái tình cao thượng của đôi ta ra sao nữa ư?" Còn Vện giữa lúc ấy đã là một kẻ phạm nhân, mà cũng cứ tự do mơn trớn tình nhân, không coi mặt cụ Bá vào đâu sất cả!
Chẳng thèm nghĩ đến "cặp uyên ương" cụ Bá bèn lấy gậy vụt cho cả đôi một cách phàm phũ. Giận đến cực điểm, lại đau đớn về nỗi mắc lừa cái tướng ngũ đoản, cụ quả quyết chỏ tay lên vầng giăng mà thề độc: hễ có khách là trị tội, bắt Vện phải chịu... giềng hình!
*
* *
Khách lại là chúng tôi.
Muốn an ủi cụ Bá, chúng tôi phải nói chế đi rằng:
- Chó ngũ đoản chẳng hiểu có lợi gì cho người nuôi không, nhưng mà chén thì kể cũng đường được.
Trong lúc giốc bầu say tỉnh, chúng tôi chợt nhớ đến lúc con chó Khoang sang xem cuộc hành hình người yêu của nó. Ôi, thật là một sự chung tình đáng làm gương cho giai nhân tài tử ở đời soi chung!
Thấy con Vện bị trói chặt bốn chân, tiết ở cổ ứa ra như suối, con Khoang vẫn cứ chạy quanh cái chỗ gớm ghiếc ấy để liếm vào mình mẩy con Vện ra ý thương xót. Còn Vện thì nước mắt ràn rụa, khóc như một người thật. Nếu biết nói như người, hẳn nó đã nói: "Em ơi, anh chết vì em đấy! Thôi cũng là dịp cho anh tỏ dạ hy sinh tính mệnh để phụng sự ái tình!".
Nhưng những tư tưởng tốt đẹp ấy chỉ được phô diễn bằng mấy tiếng:
- ẳng ẳng ẳng ẳng!
Đông Dương tạp chí,
số 20; ngày 25.9.1937

MỘT CÁI CHẾT

Bẩy giờ tối.
Hai chúng tôi, cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố thì trời bỗng đổ cơn mưa như trút.
Phải bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đã uể oải, mắt đã thấy mờ thì cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh xầm một cái tung ra.
Giật mình, chúng tôi ngơ ngác nhìn lên thì một ông lão ăn mày vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá, chống nạng lê vào.
- Lạy ông, lạy bà... bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng...
- Không sẵn! Đi đi!!! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được...
Đã bực mình sẵn, lại thấy ông lão xông xáo quá đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu. Ông lão cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi lủi thủi bước ra, để lại chỗ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào:
- Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đã đuổi.
Tôi mỉm cười một cách nhạo báng. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý.
- Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc, lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra mắng đuổi hắt đi rồi đóng cửa đánh xầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa. Thế mà cũng chỉ vì một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đã được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương.
Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp.
Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa to.
- Hồi ấy, cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi còn nhớ mồn một như mới hôm qua.
Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cai lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một, học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt dìu. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo.
Gia thế thầy cai tôi không được rõ. Vì có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân hòm đến thì, trên chỏm mũ trắng điểm vành băng đen, thằng Hợi - con thầy - đã ngót hai năm trở mẹ.
Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên thì người, tôi cũng nhớ được ngay. .. Anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, ăn nói lễ phép, đến trường học hành đã chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quý con trai, sợ cảnh dì ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến.
Nhưng xem ý tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Chắc anh cũng chẳng lạ gì, một đứa trẻ, rất ngoan mà không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như trăm nghìn người bố khác, chỉ vì cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu.
Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói... nó đầy đoạ con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ vì bổn phận mà đối với người nghèo hèn, buôn thúng bán mẹt đã bị họ coi như kẻ tử thù.
Mỗi lần thầy cai đi "sơ vít"(1) qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc vì nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lão bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho hòm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc vì bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rõ rẹo vào mặt nó mà rằng: "Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ".

--------------------------------------------------------
1. Service: Thi hành công vụ (tiếng Pháp) - B.T.

--------------------------------------------------------

Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi còn thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rõ được cái cảnh thương tâm ấy.
Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, vì càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu lòng tôi thế lắm.
Nhưng có lẽ anh đã nóng ruột rồi, câu chuyện "đuổi ăn mày" anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây.
Buổi tối hôm ấy, cũng vào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng ta như hôm nay, chỉ khác là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy thì rét như cắt.
Cái nhà chênh vênh hứng gió, cửa trông thẳng ra bờ sông, chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng mình.
Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng quên mất một mảy may: cửa đóng kín im im, ngồi chùm đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều gì, mắt nó thường không nhìn đến sách. Thầy cai thì ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hoả lò than đỏ rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rỏ dãi.
Chợt có người khẽ gõ vào cửa mấy tiếng rồi đánh "huỵch" một cái như có vật gì rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra thì thầy cai giơ tay ngăn lại, cầm khăn ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi lông mày sâu róm lại, lên tiếng dõng dạc:
- Ai hỏi gì...?
Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gõ vào cánh cửa.
Thầy cai lộn tiết, quát:
- Hỏi gì, nói lên!!!
Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển:
- Lạy ông lạy bà, ông bà cứu con, vừa đói vừa rét thế này con chết mất...
Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu là một người ăn mày. Trong lúc đó túi tôi cũng có sẵn vài xu rúc rích, vừa toan mở cửa cho thì con người vô lương tâm kia đã lên giọng quát tháo ầm ầm:
- Bước ngay! Đi nhà khác! Đây không sẵn...!
Anh tính, người ta đang đuổi thế mà mình lại cho tiền chả hoá ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút.
- ối trời ơi! Con lạy ông... ông... không thương, con chết mất!!!
- à... Quân này lại muốn ra gan... Muốn sống thì xéo đi không lại vào bóp sớm.
Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc:
- ối trời đất ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cứu con không...?
.......
Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy thì không thể nào kể được. Tôi không ngờ lão ta nỡ đứng phắt dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh "rào" một cái rồi khoanh tay đứng nhìn.
Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo sau một tiếng thở dài... trừ ngọn gió ào ào thổi mạnh, bốn bề lại im phăng phắc.
Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù mãi đến nửa đêm. Nằm trong chăn, thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt mình đã ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, tôi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghĩ mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm.
Hôm sau, nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho, thằng Hợi ở nhà, còn tôi đi học.
Đến trưa, cắp cặp về, đã thấy nó đứng cửa, mắt đỏ hoe:
- Anh ơi, hãy ra đây mà xem đã...
Rồi chẳng để tôi kịp hỏi, nó đã xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra bãi, trèo qua dải đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn:
- Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết... Nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ...!
Lời nói lạnh lùng của một ông lão trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh:
- Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq).
Rồi mấy người đàn bà cười ồ.
Chẳng để ý đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy mình, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được.
Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu.
Trời vẫn rét, gió vẫn thổi ào ào.
Trong miệng cái cống tròn bằng xi măng một cái xác ông lão ăn mày nằm còng queo, hai chân co lên bụng, còn hai tay vẫn như ôm lấy bị gậy. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy chòm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái thân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà đã bị một chậu nước lạnh đuổi đi...?
Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nhìn lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác. Nào ngờ, nó cũng nghĩ như tôi, rầu rầu nét mặt mà rằng:
- Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ.
Lời nói của một đứa trẻ ngây thơ ấy theo sau một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao... Một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ bao nỗi đắng cay, ý vị...
Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe "măng ca" đến xe cái xác ấy đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô hình xô đẩy, lòng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn. Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng thì nó cười, cái cười giả dối ấy, tôi còn nhớ mãi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đã nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay, nào ngờ chỉ vì chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi còn phải lắm phen ân hận.
Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ còn xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ "service" thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào, tôi thấy thằng Hợi đã nằm kín mít trong chăn. Tưởng cũng như mọi khi, thấy rét thì đi ngủ, tôi đến bên giường khẽ lật chăn ra, ý muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Thật một đời tôi, chưa bao giờ tôi phải một phen lo sợ mà cảm động như lúc bấy giờ.
Đây này, anh...! Trái tim tôi đã thấy đập thình thình, chẳng khác gì lúc ấy, lật cái chăn ra, tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó thì lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng mình ghê sợ.
Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ, ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy gì, tôi đưa mắt nhìn ra bàn thì bộ chén để úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái. Tôi vội cầm đến thì còn thấy cặn...
Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hãy còn sực nức đưa lên.
Không biết sao, lúc bấy giờ tôi đã toan chạy đâm bổ ra ngoài đường kêu cứu mà rồi tôi lại quay vào, ôm lấy cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa... Mặt mũi nó trắng trẻo, phương phi, trông mà thương, mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào lòng xác một đứa em.
Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in cặp môi tôi vào trán nó mà hôn... như hôn một người yêu đang ngủ... thì mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi còn nhớ mãi đến giờ, hai con mắt ấy lờ đờ mà nhìn tôi như người ngái ngủ. Bỗng nó trợn mắt lên, há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: anh! anh!...
Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói được điều gì thì, chừng như thuốc độc đã thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mắt giãy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngặt cổ xuống giường... bọt mép sùi ra...
Chuyện về sau thế nào, tưởng anh đoán lấy cũng hiểu.
Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lão ăn mày nên tôi kể chuyện lại anh nghe...
Mars 1931
Ngọ báo, số 1077,
ngày thứ hai 16.3 và thứ ba 17.3.1931

LẤY VỢ XẤU

Vì có "việc quan", bữa ấy tôi phải vào tòa xứ Hà Ðông. Tôi bước chân vào công đường lúc 9 giờ sáng, phải ngồi khoanh tay đợi trên một chiếc ghế dài mãi cho đến 11 giờ. Cụ phán buồng giấy ấy, theo những thông lệ thiêng liêng của nước Việt Nam cố hữu, đã tiếp tôi bằng sự nhăn nhó, sự gắt gỏng, để mà, sau cùng, bảo tôi đến chiều thì quay trở lại để cụ tiếp một lần nữa. Tôi đã vâng vâng dạ dạ như một người công dân hiểu rõ cái quyền hạn vô hạn của một quan phán đầu tòa là thế nào.
Khi ra khỏi vườn hoa của tòa sứ, tôi phải đành đi tìm một hàng cao lâu. Và, tại đó, tôi đã tình cờ được gặp anh Doãn, một người bạn đồng học cũ ở lớp nhất một trường sơ học.
Anh ta có bộ âu phục rất chải chuốt. Xưa kia, lúc còn cắp sách, anh ta cũng đã có tính làm đỏm như một cô con gái, và mãi cho đến bây giờ, tính ấy cũng không thay đổi, sau một chặng đường mà anh ta đã đi trong mười năm. Cái cổ áo không xộc xệch một tị, đôi mũi giầy không có một hạt bụi, cái ca vát rất hợp thời trang, với cái khuy áo cài vào tử tế, đủ tỏ rằng anh thận trọng y phục lắm. Chính anh Doãn nhận được ra tôi là ai, và đã đến bên bàn tôi, giơ tay ra, kính cẩn như người ta muốn hỏi chuyện một khách lạ chưa quen biết một lần nào.
- Thưa ông, ông chắc còn nhớ tôi, tôi là Doãn, trường Sinh Từ...
- à à! Anh Doãn! Vẽ chuyện lắm! Việc gì còn xưng hô kiểu cách...
Mới có đến đấy, một người đàn bà to lớn đã bước vào, ngơ ngác đứng sau lưng anh. Doãn bèn quay lại, giới thiệu tôi là bạn; giới thiệu người đàn bà là vợ. Sau khi kéo ghế ngồi rồi, vợ anh Doãn gọi ngay một ấm chè Long Tỉnh, thạo đời như một người đàn ông "cơm hàng cháo chợ, vợ cô đầu". Tôi nhìn người đàn bà ấy, thấy đó là một sự trái ngược với người bạn cũ. Thật vậy, đó không phải là một cặp vợ chồng tốt đôi. Tức thì tôi nhớ lại tất cả những đức tính buổi xưa của Doãn.
Anh ta vốn thông minh, lại rất có óc mỹ thuật. Không kể về y phục của Doãn xưa kia đã được cả trường khen là sang trọng, ngay đến một cái bút chì, một hộp thuốc vẽ của anh, cũng đều là những đồ dùng đắt tiền và lọc lõi vô cùng. Ngoài cái chức là một thiếu niên sành sỏi, Doãn hồi ấy lại còn được chúng tôi gọi là một chàng Don Juan. Thật thế, anh có tài ngôn ngữ, có tài văn chương, nên chim gái rất thạo. Những thiếu nữ si mê anh phần nhiều là những gái đẹp có tiếng, vì cô nào không là hoa khôi thì anh ta không thèm bắt chim! Anh đã thường khoe chúng tôi những giấy viết thư tình của anh với những cái phong bì kiểu cách, đáng bảy xu một chiếc. Trong những lúc ấy, trước sự kính phục ghê gớm của chúng bạn, anh Doãn thường đứng ưỡn ngực, chỗ cái xe đạp Peugeot grand luxe khác của anh mà rằng: "Chúng mày xem! Phi hơn người thì thôi, tao không thèm chơi".
Bây giờ thấy anh ngồi với một người vợ không có "mỹ thuật" chút nào cả, lại thấy cái tính cầu kỳ của anh vẫn không thay đổi, tôi chợt nhớ ngay đến câu phương ngôn: "Sướng lắm thì khổ nhiều". Ðó là một sự nhãn tiền quả báo.
Vợ anh, thật vậy, là một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai. Hai con mắt nhỏ, đôi gò má cao, cặp môi phàm phũ, dáng người thô tục, những ngón tay tròn và dài như những quả chuối ngự. Như vậy mà lại đi ăn mặc tân thời! Răng trắng nữa, trời ạ! Cái áo dài lượt thượt mầu xanh, cái quần nhiễu trắng trai lơ, đôi giầy cao gót có quai kiểu gái nhảy, với mẩu khăn vành dây, ngần ấy thứ lại càng làm lộ cái mỹ miều của sự thô tục, lại càng làm tăng cái choáng lộn của sự kệch cỡm. Ðã thế, trong khi chuyện trò, thỉnh thoảng lại chêm vào một vài câu tiếng tây, ra ý khoe khoang mình vốn là nữ học sinh. Tôi bỗng có cái cảm tưởng man mác rằng người đàn bà này, những lúc nhà vắng, hẳn đã huýt còi như một ông lính tây say rượu, hoặc là đã hát ầm ĩ bài J ai deux amours, bài Les gars de la marine... vân vân.
Tôi không ngạc nhiên ở chỗ anh Doãn lấy vợ xấu. ở đời, tôi đã từng thấy cái câu "thánh nhân hay đãi khù khờ" hiện ra nhiều sự thực và càng những thằng "thiên tinh địa quỷ" như Doãn mới lại càng... chết; anh ta muốn chừng như cũng đoán nổi cái ý nghĩ kín đáo ấy trong lòng tôi.
Trong khi còn nói những chuyện nắng mưa theo khách sáo, chưa kịp gọi món ăn nào cả, vợ anh Doãn đã làm ngay một câu:
- Thôi, tôi đói lắm, cho tôi xin bát mì, rồi tôi còn đi đằng này! Hai ông xơi rượu thì cứ việc mà kề cà...
- Vâng, xin mời bác cứ tự nhiên cho tiện công việc.
Thế rồi người đàn bà ấy ăn uống nhồm nhoàm, và ho, và ợ nữa, như một người đàn ông bình dân xứng đáng. Lúc ăn xong bát mì, người đàn bà cầm hai cái đũa quệt ngang cặp môi như một bà lão nhà quê!
Sau khi vợ anh ra phố mua bán, Doãn bèn hỏi tôi:
- Chắc anh rất ngạc nhiên khi thấy một người như tôi mà lại đi lấy một người vợ như thế ấy?
Tôi vội vàng ngừng đũa, làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Sao? Sao anh lại hỏi tôi thế nhỉ?
Có lẽ sự vờ vĩnh của tôi không được tự nhiên mấy nên anh Doãn mỉm cười mà rằng:
- Chà! Cái thằng mới sính đóng kịch làm sao! Thôi, trong chỗ chúng ta, tôi cho phép anh cứ việc nói thẳng những điều anh nghĩ.
Tôi bèn nói:
- Vợ chồng là duyên số. ở đời này không phải hễ mình muốn thì là được và không muốn thì là thoát.
Doãn gật đầu:
- Thật thế. Và, tôi xin kể vì lẽ gì mà tôi lại lấy nhà tôi.
Tôi giơ tay ngăn lại:
- Khoan đã! Thế anh có yêu vợ anh không? Vợ chồng anh có được hưởng hạnh phúc không? Nếu không, xin đừng kể chuyện.
- Có chứ! Chúng tôi yêu nhau và hưởng hạnh phúc cũng như những cặp vợ chồng chẳng biết hạnh phúc và ái tình là cái gì.
Từ đây trở đi là lời anh Doãn:
- "Trên một chuyến tàu từ Lào Cai về Hà Nội, cách đây hai năm... Cũng như số đông thiếu niên, mỗi khi đi xe lửa, tôi dạo một lượt từ toa đầu đến toa cuối cùng với cái hy vọng trông thấy một mỹ nhân để mình bắt chuyện làm quen, ngỡ hầu quên được cái vô vị của mấy trăm cây số phong cảnh với những tiếng bánh xe xình xịch nghiến trên đường sắt nó khiến ta mệt mỏi vô cùng, buồn ngủ vô cùng. Cả chuyến hỏa xa ấy, than ôi, chỉ có một người đàn bà là đẹp nhưng mà lại có chồng cùng đi theo. Còn thì phần nhiều là dân quê cả.
Tôi chán nản kiếm một chỗ rộng rãi, rồi thấy... nhà tôi trước mặt tôi. Hồi ấy, người đàn bà ấy còn ăn mặc lối cổ: khăn nhung, giầy láng kiểu mõm nhái, có đuôi gà, và có ba trăm hột vàng ở cổ. Cái "nhan sắc" của người ấy thì như anh vừa trông thấy đó, ta chẳng rườm lời mà làm gì. Tôi nghĩ đến đám phụ nữ có nhan sắc, được đời kính trọng... Tôi đã bảo tôi: "Tạo hóa thật là bất công. Những người xấu như thế này, hẳn sẽ không bao giờ được hưởng ái tình. Xưa nay ta yêu người đẹp đã nhiều để mà nhận thấy rằng sự yêu đương của họ cũng nhiều khi vô vị lắm. Âu là ta thử yêu một người xấu xí xem ra làm sao!" Thế là tôi đến ngồi bên cạnh người ấy, lân la hỏi chuyện.
Sau nửa tiếng đồng hồ, tôi được biết rằng đó là con gái một nhà buôn bán khá giầu ở Lào Cai. Cô ả có việc về Hà Nội chừng độ một tuần lễ, và khi về Hà thành, sẽ đến ở nhà một người trong họ. Như thế, nếu chúng tôi muốn có một cuộc giăng hoa, cô ả rất có đủ thời gian! Và tôi lại nhận thấy ở người đàn bà này một sự thông minh, một sự từng trải, nhiều duyên thầm, mà tôi chưa từng thấy ở những phụ nữ có nhan sắc. Ðó không phải là điều quái lạ. Người con gái đẹp chỉ trông thấy chung quanh mình những kẻ nịnh hót mà thôi. Vì anh nào cũng hiếu sắc nên bọn đàn ông chúng ta thường thấy những đức tính ở bọn gái đẹp mà chính họ không có. Cho nên chúng ta hết sức chiều đãi họ, nâng niu họ, khiến họ chẳng phải chịu khó nhọc mảy may trong mọi cuộc phấn đấu với đời, thành ra người đàn bà đẹp dễ trở nên quá đỗi kiêu ngạo, tưởng mình không có điều gì khuyết điểm nữa; do đó, những cái xấu, những cái khó chịu, mà chúng ta thấy ở những mỹ nhân, những khi ta thấy chán yêu. Trái lại, người đàn bà xấu bao giờ cũng giữ gìn và cư xử thế nào để cho một khi người đàn ông nào đã đem lòng yêu mình thì không thể nào chán được mình nữa. Vợ tôi chính thuộc vào hạng đàn bà xấu ấy. Cho nên, về sau, tôi được hưởng của vợ tôi những sự săn sóc mà tôi đã phải đem cung cho bọn gái đẹp, những khi tôi yêu... Xưa kia tôi đã thấy cái thú vị trong sự nâng niu đàn bà thì, bây giờ, được đàn bà nâng niu, tôi càng thấy nhiều thú vị hơn nữa.
"Hôm ấy, về đến Hà thành, chúng tôi đã cùng nhau ăn một bữa cơm ở một khách sạn, điều ấy dĩ nhiên! Rồi chúng tôi lại vào một căn phòng trọ nữa, than ôi, điều ấy cũng lại dĩ nhiên! Và, khi thấy người đàn bà ấy đã dâng cái tân tiết cho tôi, tôi cảm động lắm. Tôi đã hôn đi hôn lại vào cái mặt xấu xí ấy mấy lần, với một vài ngấn lệ ở mặt tôi. Và sự xúc cảm mạnh ấy không đủ ngăn chúng tôi yêu nhau hai ngày liền nữa.
"Lúc đầu, tôi không hứa si tình cũng như không hứa hôn sự. Cô ả đã yêu tôi trong một cơn rạo rực của xác thịt, cũng như tôi, tôi đã yêu cô ta sau một phút điên dại, vô lý của linh hồn. Cho nên, trước khi chia tay nhau, tôi hỏi: "Này em, nếu rồi em... có mang thì làm thế nào?" Tôi đã có thể hỏi một câu sống sượng như thế như hỏi một ả giang hồ, hay một "chị em" dễ dãi, vì sự thực, một người xấu, chẳng khi nào được hưởng cái ái tình thành thực của tôi. Nghe thấy thế, cô ả bỗng tái xám cả mặt. Thì ra cô ả không hề nghĩ đến sự có mang! Nhớ ra thì quá muộn! Cái ấy không lạ gì: thời buổi nào cũng có hàng mấy triệu phụ nữ quên rằng có thể có mang được, sau khi đã phó thác thân thể mình cho một anh đàn ông.
"Những giọt nước mắt bắt đầu chảy ra. Cô ta bưng mặt khóc, khóc, và khóc... Sau cùng, chỉ biết thổn thức nói: "Nếu thế thì... họ hàng sỉ vả, bố mẹ đuổi khỏi nhà, rồi nhục nhã, rồi khổ, phải, rồi khổ!" Thì ra cô nàng nhũn nhặn đến bực không dám có hy vọng lấy tôi nữa, và cũng không dám thử hỏi một câu để có được một hy vọng bâng quơ nguy hiểm ấy nữa. Cô biết mình xấu xí, không đáng lấy một người như tôi, và không dám cả nghĩ đến sự đòi bồi thường sau cái thiệt hại do tôi gây ra. Dễ thường cô ả coi cái phút ngứa ngáy xác thịt của tôi như là một thứ đặc ân cho mình nữa. Tôi lại hỏi: "Sao lại tin tôi đến như thế? Tôi đã là đứa không ra gì, cô cũng lại hư đốn nữa!". Cô ả thở dài, đáp: "Nếu không yêu anh thì thôi chứ cả một đời em, chắc rồi cũng chẳng ai thèm yêu đến thứ em. Thôi thì thà rằng sẽ phải khổ một đời vì đã quá yêu một phút!". Tôi đã cảm động về sự thành thực ấy một cách rất sâu xa như là chưa bao giờ tôi cảm động đến thế.
"Cuộc ái ân chốc lát ấy, rồi sau tôi cũng quên đi, và chỉ thỉnh thoảng nó mới lại đến ám ảnh tôi như một chút ký ức nhỏ mọn trong một giây phút mà thôi. Tôi tưởng không bao giờ còn gặp cô gái Lào Cai ấy nữa.
"Năm tháng sau, một hôm tôi nhận được một phong thư như thế này: "Thưa ông, tôi chờ ông ở hiệu cao lâu Ðông Hưng, vào khoảng 11 giờ ngày 20. Tính mệnh tôi ở trong tay ông, xin ông bỏ chút thời giờ quý hóa đến cùng một kẻ khốn khổ". Tôi ngạc nhiên lắm, vì tôi không nhớ đến cô gái Lào Cai nữa. Nhất là cách xưng hô ông tôi lại làm cho tôi tưởng người viết thư là đàn ông. Tôi rùng mình, nhớ đến những ông bạn cũ nghiện hút muốn làm tiền mình. Rồi tôi đến chỗ hẹn.
"Ðó là cô gái Lào Cai!
"Cô nàng lúc ấy đã có một cái bụng to một cách đáng kính trọng lắm. Chúng tôi vào ngồi trong quầy. Cô ả chỉ dám gọi tôi là ông chứ không dám xưng hô anh em, như hồi xưa".
"Cô ta nước mắt chan hòa, nói ấp úng trong khi tôi ngồi thản nhiên cắn hạt dưa. Cô ta vẫn nhũn như trước, vẫn sợ hãi tôi như trước, vẫn ôm một mối tình vô hy vọng như trước: "Thưa ông, nếu ông là người đại lượng thì ông nên cứu sống lấy tôi, vì đứa con bé trong bụng này chính là con ông... Nếu không tôi phải tự tử, đứa bé phải chết, vì bố mẹ tôi đã biết, họ hàng tôi sắp biết, mà nếu họ hàng biết thì tôi không sống được nữa, vì bố mẹ tôi nghiêm lắm! Xin ông làm phúc cứu lấy một người khốn khổ nhất đời! Làm lẽ thứ mười, tôi cũng xin vâng, miễn là họ hàng nhà tôi được nhận trầu cau của ông! Vả lại tôi cũng không đến nỗi ăn hại ông...".
"Tôi xua tay, chán nản. Tôi nghĩ: Hạng gái hư hỏng ấy thì mình lấy sao được! Nó ngủ được với mình thì nó sẽ cũng ngủ được với thằng khác! Mình không làm nó chửa hoang thì thiên hạ cũng sẽ làm cho nó chửa hoang! Thế thôi!
"Nhưng đứa bé trong bụng... con tôi! Cứ như sự kêu khóc ấy, cứ như lòng thành thực ấy, người đàn bà này mà nói đến sự tự tử đó chẳng là lời dọa nạt! Do thế, tôi nghĩ lại... Nếu ai cũng lý luận như tôi thì trong đời chẳng còn ai lấy nhau vì tình, chẳng làm gì có những cuộc tiền dâm hậu thú nữa, bởi có kẻ bạc tình nào cũng đã lý luận y như tôi! Phải chăng người đàn bà nào đã quá tin một anh đàn ông không thể khác được! Trong một phút mà linh trí tôi sáng suốt khác thường, tôi đã thấy mình hèn mạt, ích kỷ, khốn nạn! Tuy nhiên, tôi còn thử thách: "Có chắc rằng đứa bé ấy chính là con tôi không?" Ðến đây, cô ả nức nở, buông xuôi hai tay, hoàn toàn thất vọng: "Giời ơi, nếu ông hỏi thế thì thôi, tôi chỉ còn có một cách là tự tử!". Cái thành thực ấy khiến tôi không còn phải nghi ngờ lôi thôi.
"Tôi còn hỏi vặn nhiều câu, nhưng lần nào, cô ả dại dột ấy cũng chỉ tỏ ra là người thành thực cực điểm.
"Ấy thế là... một người cầu kỳ, khó tính như tôi, đã cam đoan rằng nếu không lấy được cô gái đẹp nhất Hà thành thì xin thề là sẽ không lấy vợ, mà tôi, sau cùng đi lấy phải cô gái xấu xí nhất Bắc kỳ!"
Câu chuyện nói xong thì bữa rượu cũng vừa tàn. Chúng tôi bước ra, tôi để đi đến tòa xứ Hà Ðông, Doãn để đi đến nhà ông cậu vợ mà vợ anh chờ anh tại đó.
Tôi an ủi:
- Thôi, đó cũng là duyên số, không cần thiết phải lấy vợ đẹp, chỉ cần có nhân ngãi đẹp. Vả lại, như anh đã nói, đáng lẽ anh phải nâng niu vợ thì mới thấy thú vị, thì bây giờ anh lại được thấy cái thú vị ở chỗ vợ anh nâng niu anh. Thế cũng đủ là hạnh phúc.
Nhưng anh Doãn bĩu mồm:
- Bẩm không ạ! Thưa ông, nó chỉ chiều đãi tôi có mấy tháng đầu mà thôi. Bây giờ, có con với nhau rồi, vợ tôi chẳng cần gì nữa. Nó đã bắt đầu nặng lời với tôi, nghe chị em ăn mặc rất lố lăng, và ghen lắm, ồ! Ghen lắm, hễ tôi đi chơi khuya là thế nào cũng đập phá đồ đạc chạy ra đường kêu cứu "ông bà hàng phố", ăn ở rõ ra một vị đức phụ chính thất có nhiều quyền và biết tự trọng!

a hôm ấy đã định tâm xin phép "xách khăn gói" lên đường.
Giữa lúc khách xin ra đi, chủ nhất định giữ lại, chưa ngã ngũ ra sao, chợt thấy chó sủa vang lên với tiếng người nhà quát chó ầm ĩ. Rồi một người đã đứng tuổi, mặt đỏ bừng nhiệt khí của thần rượu, bước vào. Bạn tôi quay ra tiếp khách, tôi cũng phải giữ lễ, lại ngồi xuống ghế, lặng im.
Đây, câu chuyện của hai bên:
- Gớm, ông anh bận gì mà cho nó sang mời năm bảy lượt cũng chửa chịu sang cho.
- Tôi đã xin đến chiều sang mà lại...
Ông khách đó tức khắc hiểu ý, quay lại phía tôi mà rằng :
- Hay là nhân tiện chẳng mấy khi ngài về, mời ngài dời gót ngọc lại tệ xá xơi chén rượu nhạt mừng cho ông tôi thì chúng tôi lấy làm hân hạnh quá. Thế nào? Ông anh bảo thế có tiện không ?
Tôi chưa biết đáp ra sao, cũng chưa hiểu đầu đuôi thế nào,bạn tôi đã đỡ lời hộ:
- Vâng, để tôi xin nói với anh tôi. Nhưng dù sao cũng xin cho đến bữa chiều ...
Ông kia ra ý rất hài lòng:
- -Vâng, thì đến chiều. Miễn các ông anh nhận lời cho là đủ. Thật là may quá ! Thôi, thế tôi xin phép ...
- Kìa, hãy ngồi chơi uống chén nước đã ...
- Thôi, tôi phải về thu xế cho bọn khách ấy trổ tài cống hiến chư vị trong làng đây !
- Cái gì ? Bọn khách nào trổ tài?
- Kìa, thế ông anh chưa biết à? Bọn khách làm trò quỉ thuật mà lại...
- Thế à? Lôi ở đâu về thế? Sao bảo hát chèo ?
- Không, hát chèo sợ tẻ và thường quá. Nhân tiện có bọn khách đang kiếm ăn ở phủ nên tôi thuê về nhà làm trò cho thêm vui. Này , ôi chà ! Họ lắm cái giỏi lắm!
- Thích nhỉ! Thế thì nhất! Nhưng bao giò? Họ đã về chưa?
- Rồi! Đang sắp sửa đấy ... Hay là mời hai ông anh cùng sang một thể ?
- Thôi được, bác cứ về. Dăm phút nữa thì chúng tôi đi.
Khi ông ta đi rồi, bạn tôi mới " giới thiệu vắng mặt " đó là ông thủ quĩ, nhà đang có việc mừng vì ông bố ăn khao bảy mươi.
Tôi chưa kịp trách bạn tôi sao đã vội nhận trước khi biết ý tôi thế nào, bạn tôi đã nói chặn :
- Nhận cũng phải. Người ta là người trung hậu tử tế, mình phải nể lời. Vả lại ... có ngại gì ? Trước lạ thì sau quen !...
Rồi bạn tôi ra với lấy cái khăn trên mắc áo
oOo
Gần khắp mặt già trẻ lớn bé trong làng tề tựu cả ở sân nhà ông thủ quĩ để chờ sẵn cuộc cầu vui cho mắt.
Các cụ ngồi đạo mạo trên những bộ ghế trải chiếu cạp điều, người lớn với trẻ con đứng thành một ô vuông, mấy chú khách thì đang soạn mọi thứ đồ dùng, thỉnh thoảng lại khoan tay lục hòm để võ về vuốt ve một con bú rù (*) và một con chó.
Đến lúc đồ lề đã bày ra la liệt đâu đấy rồi, ông thủ quĩ ra giữa sân, đứng cạnh một chú khách cởi trần trùng trục, đầu trọc lốc, hai mắt nhỏ tí như mắt lươn nhưng bắp thịt ở ngực với tay nổi như những khúc rắn quấn khắp người , rồi ông lên tiếng :
- Thưa các cụ, các ông, các bà đã có lòng yêu đến mừng cho cụ tôi, tôi thật cảm tạ lắm. Đáng lẻ chúng tôi xin hiến các cụ với các quan viên hàng xã một buổi tối xem hát chèo, nhưng vì nghĩ rằng chèo là sự thường và sợ tẻ nên tôi phải mời mấy chú này về trổ tài ở đây. Những chú này có võ nghệ, có nhiều thuật rất tài tình, lại có nội công nữa. Một chú sẽ cầm thiết côn đập vào ngực mình cho mà xem. Rồi chú ta lại lấy dao nhọn đâm vào cánh tay nữa. Xong chú ấy sẽ hiến thụ thuốc cao để rịt đòn... Các chú sẽ trổ tài về võ nghệ và nội công ( ông quay hỏi chú khách ), có phải nội công không ?
Chú kia gật đầu :
- Nội koòng, nội koòng, pải !
Một cụ râu ba chòm phán :
- Nếu đích là nội công thì mới thật là giỏi chứ nếu quỉ thuật là có khóe riêng rồi, là không giỏi...
Một cụ khác, có ria mép, thêm :
- Nội công hay không nhưng nếu sau phải lấy thuốc cao rịt thì cũng chẳng có gì là phi thường.
Ông thủ quĩ hơi có ý bất mãn :
- Nếu các cụ không tin những nhời tôi tiến dẫn thì cứ việc xem xét cho kỹ lưỡng mọi vật dụng đi. Đây, thiết côn, đây dao, với thuốc cao nữa này... Tôi xin cam đoan cuộc này là một cuộc vui ít có.
Một cụ cao niên hơn cả đỡ lời :
- Đây chỉ có cụ Tỳ, cụ Phế là hai vị danh sư thì mới đủ tư cách...
Bọn người làng cũng vội :
- Chính thế, nhân tiện hai cụ xem hộ cả thuốc cao cho chúng con.
Cụ lang Phế, cụ lang Tỳ - hai cụ hoài nghi lúc nãy - cùng vội vàng xuống ghế ton ton ra khám xét ngay.
Cụ lang Phế cầm cái thiết côn :
- Cái này không rỗng ruột đấy chứ? À, không.
Cụ lang Tỳ bĩu môi:
- Không, đã chắc là không à ?
- Con dao này có lò xo ở chuôi không ? À , không thật.
- Phải khám cho kỹ vào chứ !
- Thuốc cao đây à ? Dễ thường không phải ...
- Đưa tôi xem nào ! Chả thuốc cao thì còn là ...
Cụ Phế thấy ông đồng nghiệp khó chịu, phát gắt :
- Cụ làm gì lối thế? Cụ coi tôi là thằng ngu ư? Dễ thường chỉ một mình cụ biết nghề thuốc !
- Thế này mà bảo là không phải thuốc cao!
- Thôi, tôi chịu ông rồi mà!... Ở vùng này chỉ có một ông biết nghề thuốc!
- Biết hay không biết mặc xác tôi ! Anh không phải cà ...
- Thì việc gì anh phải khoe giỏi? Đám ma nhà chị hai Vòm lăn đường mẹ mới ngày hôm kia ... Anh bốc thuốc tài hơn tôi thật chứ lại ! ....
- A! a!... Nhưng bà cụ mẹ chị ta thọ đã ngoài sáu mươi rồi. Anh muốn đổ tại tôi ư? Thôi , sao anh không nhắc đến chuyện con đĩ Chắt anh bốc có hai thang mà lăn ra chết?
- Hai thang? Hai thang? Đứa nào ngoa ngôn thì giời đánh nhé ? Ai bảo nó sốt lại đi ăn chuối tiêu vào !... Hai thang à? Thế anh chỉ bán có một gói thuốc đau bụng mà thàng nhiêu Toét suýt bỏ mạng thì sao? Thế mà cũng đòi là lang? Lang thế mấy lúc mà tù mọt gông! Lang băm ấy à!
- Lang băm? Có lẽ! ... nhưng không làm đọa thai người ta nào thì thôi!
- À! Anh này to gan nhỉ? Nói nốt đi, nói nốt đi xem nào?
- Chứ lại sợ à? Sẽ nói tại tòa sứ cho mà xem...
- Này không phải dọa... Quan tỉnh sẽ trói anh lại có ngày. Dễ không có người đau mắt nhờ anh đánh mộng rồi nổ con ngươi ra đấy ư?
- Số nó mù thì ai biết làm thế nào ? Anh có muốn tôi nói rõ tên thằng bé sài suyễn mà anh cứ bốc mãi thuốc chữa dạ dày không ?
- Anh là thằng khốn nạn nhé. Cả nhà chánh hội Bầu mắc ghẻ ruồi mà anh dám nấu cho nó thuốc timla anh quên rồi à?
( Cả nhà chánh hội Bầu kéo nhau ra về)
- Thế còn nhà trưởng Toe thì sao? Nó hôi nách mà chữa mãi bằng lá ô nhĩ trong sáu tháng trời à?
( Trưởng Toe đẩy ba người, đỏ mặt chạy)
- Sáu tháng? Thế trong hai năm sao anh không chữa cho tan cái hạch ở háng cô Thoa đi?
( Cô Thoa trước khi chạy, kêu to : Đồ khốn nạn!)
- Anh có muốn tôi kể đến cái mụ góa chồng mà ngày nào anh cũng lại đốt ngải cứu ở mông đít không ?
- Anh không sợ tôi réo tên con bé mới mười lăm tuổi mắc bệnh đau tức mà anh cứ lấy rượu thuốc để xoa vú nó à? Lang gì? Dê già thì có!...
Người xem bỏ chạy gần hết. Chỉ còn hai anh giai làng tuổi còn lấc cấc, bò lăn ra giữa sân không dậy được, vì cười...
Chú khách giơ hai tay lên giời :
- Tỉu nà ma cái lổ phồ! Ngổ ti về cái nội koòng!...
Trong mấy chục năm giời, thật chỉ có độc một lần này tôi xem được một "cuộc vui ít có".

BỘ RĂNG VÀNG

Cha vừa mất, hai quý tử nọ không lo việc tang lễ mà lại lao ngay vào cuộc chia tài sản. Thật khốn nạn, người con bất hiếu còn cạy mồm người chết để lấy răng vàng. Bằng ngòi bút tài hoa, sắc sảo, tác giả lên án mạnh mẽ thói vô luân trong xã hội Việt Nam thuở còn bị thực dân phong kiến cai trị và để cho người đọc hôm nay những điều cần phải suy nghĩ về đạo lý làm người.
Ông cụ già ngót tám mươi tuổi đầu ấy đã hứa với chúng cái chết của mình ba tháng nay rồi, mà ba tháng nay rồi, ông cụ cứ nằm lỳ giữa giường để rên đấy, ăn đấy, và thi hành mọi việc cần dùng ở đấỵ..
Cụ thật là người keo kiệt, đến lúc hấp hối rồi mà vẫn còn đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành, hau háu chi ly từng đồng xu nhỏ một, chẳng chịu rời chùm chìa khóa, mở tủ, lấy văn tự địa đồ chia của cho con.
Đến bây giờ thì ông cụ quả thật chết rồi, nhẹ nợ!...
Ông cụ chết rồi, thì thằng cả, thằng hai với vợ chúng xúm nhau vào vồ lấy chùm chìa khóa, tính việc chia gia tài.
Chúng hãy để mặc cái thây ma nằm đấy. Cả hai ngày hôm ấy chúng bận bù đầu vào trăm công, nghìn việc. Thằng hai nhường cho anh bộ đồ thờ với yếu thư bàn độc, thì kỳ kèo ép anh phải bỏ tiền ra lo cho bố, thết đãi hàng xã, hàng tổng thì phải lấy lại hai con lợn nái của mình.
Tối hôm sau, cái chết của ông cụ, họ hàng cũng không một ai được biết, vì chúng... tính toán chưa xong.
Đến độ nửa đêm mọi việc đã thương lượng thực với nhau đâu vào đấy cả. Lên giường nằm nghỉ, thằng cả mơ màng đến những cảnh phóng túng chơi bời cũng như thằng hai, sướng bằng mở cờ trong bụng định những việc mưu danh, cầu tước, mua lấy một chân chức sắc trong làng.
Bốn vợ chồng chúng xì xào to nhỏ với nhau, khúc khích với nhau, duy chỉ một mình ông cụ, một cái thây ma phủ dưới một cái chăn đơn, nằm đờ với ngọn đèn dầu to không bằng hạt đỗ. Vì không có chúc thư để lại, cái chết kia là cái chết bất thình lình, chúng đã giấu kín ngày giờ với họ hàng, làng nước thì chúng kêu gào khóc lóc làm chi?
Vợ chồng thằng cả muốn như ngủ rồi, thì vợ chồng thằng hai rón rén đẩy cửa lôi nhau ra ngoài chuyện kín.
Thằng hai óc lý tài sáng suốt hơn thằng cả, nhớ rõ ra rằng trong lúc sinh thời, ông bố muốn thay vào hàm răng cái còn cái gẫy, đã lên tỉnh, vào nhà giồng răng vàng.
Chúng cứ xì xào cãi lẫy với nhau, con vợ nhất định rẫy rụa không nghe, kêu rằng trong nhà có kẻ qua đời, người sống muốn cho kẻ chết được thiêng liêng phù hộ cho mình, thường còn lắm khi bỏ vàng vào miệng. Nên khi thấy chồng bàn lấy bộ răng trong mồm bố ra để bán, nó chẳng bằng lòng...
Thằng chồng phát gắt mà rằng:
- Cái đời đàn bà chúng mày sao mà ngu thế? Chết rồi, thì việc cúng giỗ chẳng qua là việc dối lừa thiên hạ, bộ răng vàng ấy đem bán đi không được chục bạc hay sao? Mày không nghe ông mặc kệ mày, miễn sao mày đừng để cho vợ chồng anh cả biết. Ông làm gì thì mặc xác ông!
Rồi nó nguây nguẩy quay vào, để cho vợ một mình đứng đấy.
Trong nhà có người chết, ngoài sân lại thêm đom đóm bay liệng lập lòe, cây cau, cây chuối cọ lá sột sạt vào nhau, con vện thình lình cắn bóng một cách tức bực buồn rầu, nghe sợ đến rủn người đi được.
Chị vợ bỗng giật mình hoảng sợ, hấp tấp chạy vào những toan ngăn chồng không cho làm thế, nhưng khi đến cửa buồng, nhìn vào thây ma trơ trơ nằm đấy thì chị ta lại sợ, không dám bước vào.
Nó biết vợ nó phải lánh mặt đi rồi thì nó cứ việc tự do hành động. Nó nhìn sau nhìn trước, lắng tai nghe kỹ, thấy vợ chồng anh mình đã ngáy mới yên trí, rón rén đến bên giường bố chết, lật cái chăn ra.
Để một tay giữ trên đôi mắt người đã qua đời, còn một tay nó bóp lấy hàm, cố vành cho được. Thấy hơi răn rắn, nó liền dùng hết sức, cố vành mồm kẻ chết móc ra được bộ răng vàng. Như người sốt rét phải chậu nước lạnh dội vào mình, nó bỗng run lên bần bật. Bộ răng vàng rơi lăn xuống đất nó cũng không kịp nhặt, vì khi nhìn lại đôi mắt của kẻ qua đời đã bị bàn tay phũ phàng kia làm cho lật hẳn mi lên. Mà cái mồm, một cái mồm không răng trông sâu hoăm hoẳm mà tối om om, sau khi đã bị vành thì thôi, nhất định không thèm ngậm lại. Người chết hình như trợn mắt, há mồm, nguyền rủa thằng con bất hiếu, trông đáng sợ vô cùng.
Nó đứng ngây ra đấy kinh khủng mà nhìn không chớp mắt một hồi, rồi sau khi rú lên một tiếng, bưng mặt đẩy cửa chạy đi.
Nghe thấy tiếng kêu ghê gớm lạ lùng hai vợ chồng anh đều ngồi nhỏm dậy, chúng không hiểu nguyên do sao cả, chỉ nhìn nhau một cách kinh ngạc rồi rón rén xuống đất, bước đến cửa phòng người chết, đứng đấy nhìn vào. Cái thây ma trợn mắt há mồm như đang chửi rủa.
Hai vợ chồng sợ quá đứng sát nách nhau mà run lập cập, trống ngực đánh thình lình. Giữa cái lúc bối rối tâm thần, mơ màng đến những chuyện "quỉ nhập tràng" của bộ Liêu trai, không biết nên đứng ỳ ra đấy hay cuống cẳng bỏ chạy đi đâu, thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm giường nhờ ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh.
Cái việc thằng em vào đây, rú lên rồi ôm đầu bỏ chạy, nó hiểu rõ ra ngay.
Nhìn ra sau lưng, thấy vợ chồng thằng em đã đứng tái mặt đấy rồi, thì nó lên giọng đàn anh, mắng trùm: "Chúng mày thực là bất hiếu".
Người đàn bà kia cố cãi cho ra lẽ, kêu rằng dễ hết lời ngăn cản mà chồng chẳng chịu nghe nào. Rồi chị ta xin lỗi cho chồng, những mong được lượng ông giữ kín những chuyện nhơ nhuốc trong nhà, cứ việc lắp lại hàm răng vào mồm cho bố.
Nhưng thằng anh lại không làm như thế, sau khi không có cách nào vuốt mắt, đậy mồm cho người đã mất thì nó chỉ đành trùm chăn lên một cách gọn gàng. Rồi nó quay lại mắng đứa em dâu:
- Chú thím đã định lừa tôi như thế, thì bộ răng này, sau khi tôi bán được, mong rằng chú thím đừng nhớ đến chuyện chiạ..
Sau cùng, thì một cách tự nhiên, nhanh nhẹn nhất đời, nó cúi xuống nhặt bộ răng vàng, bỏ túi.

ĂN MỪNG

Bữa nay cụ Phán Uyên, đã được hiểu rõ cái gì là cái vinh quang, những đồ mừng quý giá, những tấm câu đối đỏ treo la liệt khắp tường, đã đủ an ủi về số tiền bỏ ra. Cái cảnh "ăn uống ầm ầm" hai hôm nay không khiến cụ sốt ruột nữa. Đọc những chữ chúc mừng rất văn chương bằng dạ đen trên nền đỏ, cụ mới khám phá ra rằng: chao ôi thì ra mình xưa nay vẫn có nhiều đức tính mà chính mình không biết, để mà sướng như một kẻ chết được lắm câu đối khóc có thể được thỏa cái vong hồn... Thật là linh đình, và vui vẻ. Thật là vinh dự cho tổ tiên.
Trong hai ngày ăn uống thì hôm qua để cho họ hàng và con cháu trong nhà. Chính hôm nay mới là để mời khách ở tỉnh. Đây, bàn các bạn đồng sự của cụ, phần nhiều là nhà nho, số đông đã có nhiều phẩm hàm, huy chương. Tô điểm cho dăm đám người ấy có một quan Bố và một quan Phủ, họ bên nhà vợ của cụ, và đã làm cho cụ tăng thêm sĩ diện. Kia là bàn các ông cũng tai to mặt nhớn thuộc tân học, bạn hữu của "anh tham" nghĩa là vào hàng con cháu cụ mà thôi. ở buồng xép bên cạnh thì các cô đốc, cô giáo, bạn hữu của con gái cụ vậy. Ai cũng về dự tiệc vui vẻ và đông đủ. Thì phải biết cái cách xử thế xưa nay cụ là tròn trĩnh thế nào! Một khi cụ đã về làng thì cũng phải thế nào cho đẹp mặt với người làng! Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! Nghĩ như thế, cụ lại kiêu ngạo như một đứa bé con...
- Chúng mày đâu cả rồi! Rõ thế đấy! Ngần ấy con người để sai bảo mà gọi lấy thêm có một ít dấm nữa cũng không đứa nào đi lấy được đấy!
Lời gắt của cụ lẫn lộn mất vào tiếng đàn, tiếng trống, tiếng hát, tiếng phách... Cụ nhìn trước nhìn sau, lắc đầu thở dài... Vì có ba tên người nhà thì hai đứa đương bưng những bát cỗ mới hâm cho những bàn ở xa, còn một đứa thì đương chới với, buộc bánh pháo dài vào ống máng. Cụ toan tiến bước xuống phía nhà bếp thì chợt một bàn tay nắm cụ lại, trước một câu nói sốt sắng thế này:
- Cụ ơi, cụ hãy vào đây với con!
Đó là một khách trẻ tuổi, mà cụ không nhớ rõ tên, âu phục chải chuốt khiến cụ kính nể lắm.
- Con tấp tểnh cũng làm được một bài hát để mừng cụ, chẳng biết hay dở như thế nào, xong cũng xin mạn phép các quan khách đây một phen...
Người ấy mời cụ ngồi xuống ghế, đưa ra một bài thơ bằng mực đen giấy trắng, lại nhét luôn cả cái dùi trống vào tay cụ nữa, nói tiếp:
- Bài hát mừng cụ thì xin cụ thưởng thức mấy tiếng trống cho chúng con cùng nghe.
Thẹn quýnh cả người, cụ Phán Uyên đẩy cái trống ra, ấp úng:
- Văn chương của ông... thì xin... để phần ông, vì thật tình, tôi cũng không biết đánh trống cô đầu.
Rồi cụ giương mục kỉnh lên đọc bài hát nói ấy; xong mỗi câu lại thấy mặt cụ vui tươi thêm lên. Sau cùng, cũng không biết bình phẩm dài lời, cụ chỉ đưa trả tác giả bài hát với cái dùi trống và từ chối:
- Hay lắm! Nhưng mà tiếc rằng tôi không biết đánh trống, để xin ông cho nghe... Văn hay lắm!
Khi đưa cho đào nương mảnh giấy, cụ rất hổ thẹn, thấy rằng mình quê mùa một cách đáng giận, và thú ả đào quả thật là một thứ văn chương tao nhã thật, chứ không phải chỉ là những trò bậy bạ như người ta vẫn nói xưa nay.
Cố nhiên, tác giả những câu hát nói kia nhất quyết chối từ. Cuối cùng, danh dự thưởng văn về tay người cao chức nhất bàn tiệc, là quan Bố Chánh, ông anh họ nhà vợ của cụ chủ. Quan Bố gọi cụ Phán đến ngồi bên mình, rót một cốc rượu nhỏ để trước mặt cụ, giao hẹn bằng một thứ tiếng đồng sang sảng, nghiêm nghị và đáng sợ như những lệnh ban ra giữa công đường:
- Đây, cứ mỗi tiếng chát thì ông lại cạn một cốc rượu, vì mỗi tiếng chát của tôi không những là thưởng một câu văn mà thôi, nhưng còn đồng ý với tác giả để ca tụng cái cảnh phú quý, an nhàn của ông nữa.
Mọi người vỗ tay, rồi có đến hàng mấy chục người nữa vỗ tay theo. Bên buồng xép ở tận trong kia, đám phụ nữ cũng bỏ đũa bát để đứng thấp thoáng trong mành nhìn ra, chú ý đến cái đại sự ấy nó làm tăng phần trang trọng cho cuộc vui tuy vậy trước vẫn tẻ ngắt. Cụ Phán Uyên xoa tay xin lỗi một cách hiền lành đáng tức cười:
- Bẩm, mỗi tiếng chát lại một cốc rượu thì có lẽ cũng nhiều quá, vậy xin cho xong bài thì hãy cho một cốc.
Tuy có một vài cụ phản đối lại cụ phán để về bè với quan Bố nhưng sau cùng các quý khách cũng biết nể cái sức khỏe của mái tóc hoa râm. Rồi thì cô đào e hèm dọn giọng, rồi bác kép vặn lại dây đàn, rồi quan Bố tom tom tom cho khách ngừng đũa lắng tai nghe để trở nên một cử toạ nghiêm chỉnh.
Cành mai hạc đậu thêm xinh,
Bốn mươi năm nữa, khang ninh còn dài,
Ngày xuân cảnh thế tươi cười,
Đào nguyên há để riêng người ngày xưa!
Gia nhân chinh cát,
Trên tiệc đào kẻ trước dắt người sau...
Cuộc trăm năm trời có hẹn ai đâu?
Con hạc trắng bấy lâu về bến Nhuệ,
Mai cốt cách mai già mai vẫn thế
Đào nhởn nhơ đào thắm vẻ thêm xuân.
Lắng tai nghe tiếng chúc lẫn cung đàn,
Cất chén cúc mừng người trên thọ tịch,
Khách bạch ốc nào ai tiên trích
Xin dang tay "giật phịch" quả đào tiên...
Cõi trần cũng có Đào nguyên.
Quan Bố ngất ngưởng đánh luôn: tom tom tom chát tom!
Đoạn cụ gật gù nói rõ to:
- Hay thật đấy chứ! Văn chương như thế mới gọi là tân thời... "Xin dang tay giật phịch quả đào tiên". Thế có lẳng lơ không? Chuyến này thì cụ phán nhà tôi sẽ vì câu thơ ấy mà cải lão hoàn đồng!
Quan Bố ngừng một lát, trông trước nhìn sau, rồi vẫy tay gọi một cô trong bốn cô đào rượu mải tiếp cho các quan khác gần đấy:
- Này, cô kia! Cô áo đỏ kia! Lại đây đỡ hộ chén rượu cho chủ nhân cạn hộ đi.
Khi cô đào trẻ tuổi đến đứng bên cụ phán, bẽn lẽn nâng cốc rượu thì nhanh như cắt, quan Bố đã nắm lấy một bên cánh tay cụ phán mà quệt một cái vào ngực cô ả, để rồi cười nức nở cắt nghĩa:
- Này thì đây: xin dang tay giật phịch quả đào tiên! Các ngài đã thấy chưa?
Lúc ấy cụ Phán Uyên đương mải hớp chén rượu, cho nên khi cụ vội lôi được tay ra, cái cử chỉ bó buộc kia cũng đã xong hoàn toàn. Cụ thẹn đỏ cả mặt, sung sướng, đến ứa nước mắt, vì lúc ấy, cử toạ khen cụ sốt sắng như khi họ đi xem đá bóng mà gặp lúc có quả vừa sút vào gôn. Cụ vội vàng đứng lên chạy tuy không biết định chạy đi đâu, như người muốn đi trốn. Sau cùng, cụ đánh trống lảng bằng cách gọi đầy tớ ra mà mắng:
- Lấy thêm ít dấm tây vào bàn này! Sao mày đốn thế, mày để tao gào rát cả cổ!
Tuy nhiên giọng gắt của cụ thật tình lúc ấy cũng không dữ tợn là mấy, vì cụ vẫn còn thấy rõ cái cảm giác dịu dàng về một bên ngực cô đào trẻ nó chưa tiêu tan hẳn mà lại còn như đọng quyện lại ở cả năm đầu ngón tay già nua đã mấy chục năm rồi chẳng còn biết gì là mùi xuân.
Chợt thấy quan Phủ gọi cụ rồi nói một hồi dài:
- Này chủ nhân ơi! Nhà nho là thâm lắm đấy nhé! Thôi xin các ngài cũng đừng ai nỡ ép duyên ông anh tôi nữa. Ông anh tôi đã trình bày cái cảnh ngộ éo le, khó xử, của ông anh tôi, ra với thiên hạ rồi! Đấy các cụ xem: quan Bố tôi vừa mới ép duyên xong thì ông anh tôi tức khắc gọi người nhà lấy thêm dấm. Chao ôi, thế thì ông anh tôi đã đủ thâm trầm hay chưa? Vì rằng trong Kiều có câu: Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng!
Rất nhiều người lại vỗ tay ran, cười to đến vỡ nhà vỡ cửa. Một cụ bảo cô đào non áo đỏ:
- Này em ơi, thôi thế thì em cứ cam chịu ở trầm luân khổ hải thôi chứ người quân tử chẳng vớt em đâu!
Một người trẻ tuổi đứng lên nói:
- Thưa các cụ trăm điều chẳng qua chỉ tại tác giả cái bài hát nói ấy.
Ông khách âu phục trẻ tuổi từ nãy ngồi lặng im vừa thẹn vừa kiêu ngạo về cái bài văn của mình, đương lắng tai nghe xem có ai thì thào chỉ trích gì không, bấy giờ đành phải đứng lên, đón đỡ:
- Bẩm các cụ, chúng tôi không ngờ rằng cụ Bố tôi đây ngài lại hiểu bài văn ấy một cách kỹ đến thế để mà đem lý thuyết thực hành ngay như thế.
Quan Bố cười khà khà, lên râu bảo thiếu niên:
- Thế thì đôi ta tri kỷ lắm chứ còn gì nữa! à quên, xin các cụ thưởng một cốc cho tác giả bài văn hữu tình. Chị áo đỏ đâu, chị lại mời ông ấy cho tôi một cốc nữa.
Lại vỗ tay...
Nhưng chợt một ông khác, cũng trẻ tuổi, mặt đỏ nhất tất cả, đứng lên trịnh trọng nói:
- Bẩm trên các cụ, dưới các ông...
Mọi người giật mình lắng tai nghe biết là sắp có chuyện. Ông kia tiếp:
- Quan Bố chánh thưởng tác giả bài hát nói ấy cốc rượu là vì nó có tính cách hữu tình. Tôi cũng xin hoan nghênh. Nhưng mà xong rồi thì tôi xin các cụ và các ông cho tôi phạt nhà thi sĩ ấy ba chén vì đó là một nhà thi sĩ tham lam! Vì sao? Vì cụ phán nhà tôi đây bữa nay chỉ có khánh thành nhà mới thôi, vậy mà bài hát mừng có câu mừng cả tiệc thượng thọ nữa, thì, cái lối "tiện dịp" như thế là có hại cho tôi, vì sang năm đúng sáu mươi mà cụ phán tôi không khao thượng thọ nữa thì là lỗi ở nhà thi sĩ ấy. Vậy thì phải phạt.
Tác giả bài hát nhìn quanh một lượt thấy trong dăm chục quan khách có một số đông gật gù biểu đồng tình với ông phản đối kia, thì rất lấy làm lo, bèn cãi:
- Tôi xin uống ba chén rượu ông phạt! Nhưng nếu sang năm cụ Phán tôi lại khao thượng thọ nữa, thì ông sẽ đáp tôi ra sao? Và có lẽ ông chưa nghe kỹ bài hát!
Ông kia gân cổ lên, hùng hồn chẳng kém:
- Tôi cho ông phạt trước tôi ba chén nữa, sau khi ông uống ba chén mà các cụ phạt ông!
Nhiều người lên tiếng xôn xao, không chịu nhận trách nhiệm về ba chén rượu phạt ấy, ông kia lại nói:
- Sao tôi lại chưa nghe kỹ! Ông chả có câu: "Cất chén chúc mừng người trên thọ tịch" là gì! Vậy ông thử đọc tất cả câu đối đây xem có ai mừng thọ tịch không?
Có một người cãi hộ:
- Nhưng mà thọ tịch ở đây là ý phụ không phải ý chính!
Tham Châu vỗ vai ông kia, khẽ gắt:
- Thôi đi, tôi van ông nữa, ông đừng gây sự thế! Ông say lắm rồi! Và ông uống ít chứ!
- Thưa chú, tôi chưa say, và trước mặt công chúng thế này, xin chú đừng mắng tôi! Chú còn là đàn em biết chưa!
Ông ấy vừa nói được có thế thì đã đưa tay lên giữ cổ, khòm lưng xuống, rồi nôn ồng ộc ngay ra đấy như một cái ống máng! Thiên hạ ghê tởm quay nhìn đi chỗ khác và nhà thi sĩ thì khẽ so vai một cái hả hê. Đầy tớ mau quét dọn, trong khi Tham Châu nhăn nhó ôm xốc ông quý khách ấy vào bàn đèn thuốc phiện:
- Các ông mau tiêm cho ông ấy một điếu cho giã rượu... Rõ khổ quá, cứ uống như một cái phễu!
Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng,
số 1; tháng 12. 1939

NHÁI-TÔ HOÀI

Đi chợ, đi ăn phải chọn, phải mặc cả, hỗ giá cao chỗ giá thấp, người mua lúc nào cũng lo bị hớ, người bán thì lúc nào cũng thề bồi, cha chết mẹ chết con chết, ngày nào cũng làm con chó ăn cứt nếu nói điêu, nếu gian dối, trong khi đương nói điêu, đương gian dối. Ấy là quang cảnh chợ búa hôm xưa và hôm nay vẫn thế.
Ai còn nhớ trên dốc Hàng Than ngày trước chỉ có một cửa hiệu bánh cốm Nguyên Ninh, các làng cũ quanh Hàng Than cũng không có nghề gia truyền về bánh cốm. Ấy thế mà bây giờ thì không những ở dốc Hàng Than mà còn ở nhiều phố cũng quảng cáo “Bánh cốm gia truyền dốc Hàng Than”. Tên hiệu hai chữ thế nào cũng nhái chữ Nguyên hay chữ Ninh hay cả hai chữ, nhưng nhập nhằng là Nguyên Ninh mà nào bánh cốm có ra làm sao. Cái hộp thì in giả lạt đỏ buộc, miếng bánh bọc giấy bóng, còn bánh thì các cụ bĩu môi: “Mỏng như cái lưỡi mèo”.
Cái nghề làm chả cá ở phố Hàng Sơn gốc của nhà họ Đoàn, sách báo đã nói rõ nhà ấy, chỉ có nhà ấy, có lẽ vì thế mà không ai lộn sòng, xưng mấy đời chả cá. Nhưng chẳng qua cũng bởi bán món tươi sống, nhỡ ế đôi ba hôm thì lỗ vốn chết không kịp ngáp, nếu dễ dàng hơn chắc người ta cũng dễ dàng nhái lắm. Lại còn không có cũng bịa ra, ấy là cái phở “gia truyền Nam Định”. Cái nhà phở Thìn Bờ Hồ cũng thường thôi. Thế mà lắm nơi treo bảng “Phở Thìn Bờ Hồ”. Thật ra ông phở Thìn được tiếng phở chỉ vì cái hồi ấy máy bay Mỹ hay đến giội bom Hà Nội (ông chủ quán chim quay Tiểu Lạc Viên nửa đêm nghe bom ném cầu Long Biên, ông đứt mạch máu não). Người chơi khuya không tìm đâu ra được bát phở ăn đêm, chỉ có quán ông Thìn dám bán phở quá 12 giờ đêm. Có khi đương ăn phải bưng cả bát phở chạy sang bên Bờ Hồ đứng trong hố cá nhân ăn nốt. Tôi cũng đã là người ham ăn, nhiều đêm phải ăn chạy bom ở hàng ông Thìn, trong khi ban chiều máy bay ném bom bi cả xuống cây đa đền Bà Kiệu.
Bánh cốm nhái chữ Ninh, chữ Nguyên, bánh đậu xanh có chữ Hương ở Hải Dương, lại phải kể đến nhái nhãn hiệu nước khoáng. Có hồi, nước khoáng Lavie (La vie, tiếng Pháp: sự sống), thấy nhan nhản nước khoáng La ville (La ville, tiếng Pháp: thành phố) thật vô nghĩa. Nhưng lại còn vô nghĩa và dã man đến độ nhái bạt mạng: La viol (viol, tiếng Pháp: cưỡng dâm). Cái nước khoáng Viol chỉ thấy lập lờ một dạo rồi biến. Chắc có người chửi thằng ăn cắp dốt và liều quá.
Chỉ có làm giả bột ngọt Azimoto, rượu vang Boócđô thì bị phạt và ra toà, còn pháp luật chưa để mắt tới nhái, trong khi nhái cũng là hàng giả. Lại cái bánh dầy Quán Gánh, lại cái tương Bần. Có phải cả vùng Quán Gánh làm bánh dầy đâu. Ngày trước, bánh dầy nhân đậu Quán Gánh ngon thật. Nhưng chỉ có mỗi một bà hàng nước vối ngồi ở Quán Gánh làm bánh dầy bán kèm với trứng vịt luộc.
Bây giờ ven quốc lộ qua Quán Gánh dài dài có đến trên hàng cây số treo bảng “Bánh dầy Quán Gánh”. Bánh dầy xếp la liệt, cao có ngọn mà tuyệt nhiên không thấy khách ngồi ăn bánh dầy uống nước vối như ngày xưa.
Bởi vì bánh dầy bày bán cho khách qua đường ngày nay không phải khách bộ hành, không phải là ông hay tôi đi xe đạp, xe máy qua mà là các xe chở khách, xe vận tải Bắc Nam đỗ xuống mua. Khách phía Nam rời thủ đô muốn mua cái gì đặc sản Hà Nội đem đi. Không phải cái báu ngọc gì đâu, mà chỉ là những vặt vãnh mà trong kia hiếm không có, như quả sấu, gói ô mai mơ, thì bánh dầy Quán Gánh cũng là một món quà thời thượng. Chỉ có khách xa quý Hà Nội lắm mới tải đi cả phố bánh dầy thế được.
Cái tương Bần đựng vào những can xăng vàng choé - vùng Bần có tiếng tương ngon, nhưng cũng không bao giờ có cả phố bán tương Bần như bây giờ. Ngày trước, cả Hà Nội chỉ có một nhà bán tương Cự Đà ở vùng phố cổ. Các ông các bà hàng quán ấy mà có đôi chút lương tâm thì may ra còn được ăn tương tử tế, nếu không thì chỉ gặp những thủ đoạn chợ búa bất nhân. Cũng dễ lắm, bởi vì khách mua tương rồi đem đi xa cả mấy ngày đường. Lại là khuất mắt mà.
Bất giác, nhớ một chuyện đểu. Hồi ấy, các ga xe lửa còn cho hàng quà các thức bán lên tàu và đi quanh hai bên cửa sổ. Toa ăn của tàu thì nhà tàu chơi ác, cho mọc ngay sau cái đầu máy, lặn lội trèo qua hàng chục toa người mới lên tới toa ăn thật rắc rối, khó nhọc. Nhiều hành khách cũng như tôi, đành với tay ra cửa sổ, mua cái bánh chưng, bánh dầy thế cũng xong bừa.
Chỗ ấy quãng qua ga Đồng Vân. Tôi với tay ra cửa sổ, mua cái bánh trưng. Tàu chạy, bóc bánh ăn, ở trong là một cục đất sét. Cục đất nặn cũng nong nóng như vừa mới vớt ở nồi ra. Từ cái bánh chưng, bánh dầy, lọ tương, lọ nước khoáng cỏn con đến những chuyện to dự án B, dự án C và những công trình lớn thì thế nào, có ăn cắp, có làm giả không, có chứ, bởi nó cũng là dây dợ họ hàng của những kẻ mua người bán ngoài chợ quen ăn không nói có và cái thói thề bồi xoen xoét đương xảy ra.
(Chữ nhái, tôi vẫn cho là một tiếng thường dùng ở phía Nam. Nhưng tra Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sến không có. Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân thì viết: Nhái: bắt chước, nhái mẫu hàng, nhái một thứ hàng. Bạn nào biết gốc tích rõ hơn, xin trao đổi).

NHÀ NGHÈO

Họ thường cãi nhau vì những cớ rất nhỏ nhen, không có nghĩa. Cái đó cũng đã thành một thói quen. Lúc nào họ ngứa miệng, muốn to tiếng, là to tiếng liền. Hàng xóm bốn bên bị nghe chán cả tai, không buồn nghe nữa.
Cũng như thế, hôm nay hai vợ chồng anh Duyện cãi nhau làm ầm lên. Ðầu tiên, có gì đâu! Khốn nạn, câu chuyện rắc rối chỉ chớm như thế này:
Anh Duyện thì nằm trong nhà, ghếch hai chân lên cột, ư ử mấy câu Kiều lẩy: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh mấy là ghét nhau. Anh ngâm đương có hứng. Cái cột nhà rung lạch cạch với hai bàn chân. Chị Duyện ngồi đụp áo ngoài sân. Bỗng nhiên, không hiểu việc gì, chị ta muốn tìm cái Gái. Trông ngoài đầu ngõ không có. Chị gọi:
- Gái ơi!
Không có tiếng đáp. Chị réo:
- Ơ ơi... Gái ... ơi ơi ... Gái ...
Vẫn im. Chị lại réo:
- Ơ ơi ... Gái ... Cha đẻ mẹ con chết dẫm, ngã xuống ao xuống chuôm nào rồi !
Ðương ngâm vịnh có người làm rầm rĩ, hỏng mất thú. Anh Duyện nói trõ ra:
- Làm cái gì mà nhặng lên thế! Có im đi không?
Chị không im. Chị nói thêm:
- Người ta gọi nó mà cũng cấm hả?
Chưa thôi, chị lại đay:
- Nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng, được cái tích sự gì !
Cái chỗ này mới là cái tức. Vợ anh bảo anh nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng. Ra ý mỉa anh không đi làm bữa nay, vô tích sự đấy. Này, trời ! thực con đàn bà kia ăn nói những điều phụ công phụ của quá đỗi. Cả năm anh đi làm quần quật. Họa có ngày “đằng ấy” người ta hết việc, mới được nghỉ như hôm nay. Rỗi rãi thì anh nằm một tý, chứ sao. Nó láo quá. Anh ta bèn mắng:
- Tao bảo cho con què biết rằng hai cái bàn tay này mà rời việc ra đọ mươi bữa, thì mẹ con nhà chúng mày rã họng ra! Ðừng có...
Anh cũng không biết “đừng có” thế nào nữa. Anh im. Chị Duyện đáp rằng:
- Người ta làm lắm người ta ăn nhiều chứ! Ðây què thì đây cũng làm sao. Thử sờ lên gáy mà xem.
Thế là người ta đã nói cạnh nhau. Chị Duyện vốn có tật ở chân bên phải từ thuở lọt lòng. Không bước được ngay ngắn chị đi tập tõng, tập tõng như con vịt què. Ðã mang tật lại là con nhà nghèo, nên ngót ba mươi tuổi chị mới lấy chồng. Mà chồng cũng chẳng được ra hồn chồng. Anh Duyện nguyên là người ở đâu đến ngụ cư ở đấy. Ngụ cư đi làm mướn, chứ cũng chẳng danh giá gì, lại thêm lưng có cái bướu. Bướu đi thực ưỡn ngực mà nom vẫn như đeo thè lè chiếc nậm rượu giữa lưng. Khi anh gặp chị, thì đôi bên đã là cảnh xế muộn chợ chiều cả rồi, cũng dư dãi mà lấy nhau tự nhiên. Và họ sinh con đẻ cái với nhau cũng thực là dư dãi và tự nhiên. Hai năm một, ba năm đôi thắm thoát có mấy lứa mà đã ríu rít được những ba đứa. Con Gái, con bé đầu lòng. Rồi thằng Cường, thằng Chân. ấy là bỏ mất hai đứa về sau, nếu không, còn lít nhít những năm đứa. Thêm ba miệng con ăn, cũng đã là khổ lắm rồi. Nhiều khi vợ chồng cãi nhau om sòm lên cũng chỉ vì vấn đề mấy đứa trẻ nhãi ăn không ngồi rồi đó. Con Gái nhớn, đã biết nhiều lần cha mẹ cãi nhau, nó hóc thút thít. Thằng Cẳng thì dắt thằng Chân, xúm lại xem. Chúng nó đứng tây ngây. Mắt nghếch lên, hai tay chắp ngoạt sau mông, ra điều nghe ngóng.
Bữa nay, hai vợ chồng cãi nhau, thì chúng đi chơi vắng. Nhưng đến lúc cơn bão cãi nhau nổi hăng chúng ở đâu lù lù đãn nhau về. Con Gái cõng thằng Chân. Thằng bé ngất ngưởng ngủ, ngoẹo một bên đầu, dãi và nước mũi chẩy lòng thòng. Thằng Cẳng chập chững đi sau lưng chị. Nó giả cách đương làm quan. Cầm cái roi lá nó cứ phết đen đét vào cánh tay chị Gái, và chửi rầm rĩ. Nhưng vào đến trong sân, nghe tiếng bố mẹ nói to, Gái đứng yên mà Cẳng thì tưng hửng, Chỉ có thằng Chân vẫn ngủ khò khè. Lúc ấy, cáu quá anh Duyện vừa nói nặng vợ một câu.
Anh vừa nói xong, thì người vợ vừa trông thấy lũ con dẫn nhau vào, chị ta liền lu luoa:
- Ấy đấy, chúng mày về mà nghe bố chúng mày chửi tao.
Cáu, anh Duyện văng:
- Ừ, ông chửi cha con què đấy.
Lập tức mụ Duyện ôm mặt, khóc tỉ tỉ. Rồi mụ lên điệu kể lể. Nhưng không phải là kể lể với chồng, hay với ba đứa con, mà là kể lể nỉ non với cái bức vách trước mặt. Mụ khóc kể rằng:
- Ối thiên địa trời đất ơi! ối cha ơi! ối mẹ ơi! tôi ăn ở với người ta chẳng gì cũng năm bẩy mặt con, con sống, con chết có, mà nỡ nào người ta réo ông réo cha tôi lên. Cái thân tôi cực nhục trăm đường.
Tôi buộc bụng nuôi con... hu ... hu ...
- Mày đẻ lắm thì mày nuôi nhiều ....
- Ối ông cả bà lớn ơi! ... A bấy lâu tôi nằm (ở) với ... chó đấy a ...
Anh Duyện đùng đùng chạy ra, định thụi.
- Chó này!
Nhưng anh chưa thụi, vợ anh đã lăn kềnh ra. Tay chân múa lên đành đạch. Miệng rền rĩ:
- Anh đánh chết tôi đi! Anh đánh chết tôi đi !
Hai đứa con thấy bố làm dữ, sợ quá ôm díu lấy nhau khóc inh ỏi. Nằm trên vai chị, bị thức giấc, thằng Chân cũng bật khóc theo. Cả một góc xóm vẳng lên những con chó, nằm rồi chẳng biết chuyện gì, cũng hóng mõm cắn xuống. Anh Duyện tức lắm rồi, cơn nóng kéo đến đầu anh. Những chiếc gân xanh ở xung quanh trán và cổ nổi chiếc đũa lên. Giậm hai chân bạch bạch, anh quát:
- Ông giết chết cả lũ! Ông giết chết cả lũ, rồi ông đâm cổ ông xau. Những của nợ kia, ông xửa chúng mày trước, rồi đến con mẹ chúng mày.
Những của nợ khiếp vía, bíu nhau, chạy miết. Chị Duyện cũng lật đật trở dậy, ôm váy lạch đạch ra ngõ. Duyện quay vào bếp, tìm được con dao phay hồng hộc chạy ra, thì cái sân đã không còn ai. Anh quẳng con dao đánh “choeng” một tiếng xuống đất.
- Từ giờ đến chiều ông bắt được đứa nào thì ông giết chết tươi. ối trời ôi! Chúng mày làm khổ ông! Ông mà đến nỗi thân tàn ma dại thế này, cũng vì chúng mày. Chứ một mình ông đâu đến nỗi.
Ngoài ngõ có tiếng nheo nhéo đáp vào:
- Nào tôi ăn tàn phá hại gì của ai? Nào tôi bòn rút của chìm của nổi gì của ai? Một lời nói một đọi máu, ăn nói còn có trời đất, có quỷ thần hai vai chứ!
Thế này thì Duyện uất đến chết đuợc. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng có thứ gì khả dĩ đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột, toàn những đồ gỗ đau tay. Có con dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi.
Ngoài cửa, con mụ lắm điều lại la trời, la đất. Trời ở đâu mà la. Ðất thì giẫm dưới chân đó. Kêu lắm mỏi miệng. Nhưng mà như chọc dao vào trong óc anh. Vụt một ý, anh Duyện cũng kêu rất lớn:
- À, mày đã khỏe to họng, ông đốt nhà cho mà xem.
- Anh đốt nhà thì hàng xóm bắt vạ anh.
- Thì ông đi ngồi tù cho chúng mày đi ăn mày cả lượt....
Mụ vợ đứng ngoài bờ rào, ngó thấy chồng hăm hở, hục hặc đi tì lửa, vội kêu chóe:
- Ối ông cả bà lớn ôi! Nó đốt nhà... Thằng Duyện nó đốt nhà ... Nó ...
Chẳng có ông cả bà lớn nào chạy đến. Ai cũng đi làm muộn, cửa ngõ đóng trở ra. Nhưng rồi loanh quanh mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt được nhà.
Thì ra, bởi vì nhà không có một chút lửa. Ðã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Biết vậy, chị Duyện yên trí, lại sắp hờ trời hờ đất. Xong đã nào thôi.
- Mày tưởng ông sợ? Ông đi xin lửa cho mà xem.
Có lẽ anh toan chạy đi xin lửa thực. Và chị vợ cũng sửa soạn kêu nữa. Nhưng trên không trung, từ ban nẫy, ông trời bao la đương đau bụng, xám xịt lại. Bụng ông sôi ục ục, reo róc róc. Bấy giờ bỗng nổi gió giật, lạnh ngắt, rồi đổ xuống một trận mưa lớn.
Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời đất rất ít mưa. Nhũng đã có trận nào thì mưa rõ cho ra chuyện.
Trận mưa đó thực to. Trời đen kịt. Nước xối xuống rào rào, trắng xóa. ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài rít lên đập đùng đùng. Những mảng sân thấp, nước ngập lưng thềm. Ðược độ một lúc lâu, mưa dần dần ngớt. Những đám mây nước tảng mỏng bay nhanh như biến. Mặt trời ló ra. Trời đát sáng ngời. Mầu lá cây xanh mướt. Nhũng con chim sáo sậu nhanh nhẩu bay linh tinh, hót từng hồi véo von thực dài. Mưa tạnh.
Bấy giờ khắp làng bầy ra một cảnh lạ mắt. ở các ngõ lố nhố chạy ra từng đám người. Ðàn ông thì cởi trần trùng trục, đánh chiếc khố đơn. Ðàn bà phong thanh cái yếm, đội sùm sụp chiếc nón. Còn trẻ con thì trần truồng như những viên đá cuội. Người ta chạy đổ xô ra các ngách cống, các bờ ruộng và các luống vườn. ở tay mỗi người lcầm một cái giỏ. Họ chen nhau, chạy tới tấp.
à, trời vừa mưa xong. ở những mặt sân đất, sôi bong bóng. Trong các lỗ giun ngập nước quằn quại tòi lên. Trong các bụi cây rối và ướt, từng đàn nhái và từng đàn chẫu nhảy ra. Nhờ có trời mưa ngập nước, con giun con sâu nhoi lên, chúng ra kiếm ăn. Những con nhái cốm mình lấm tấm xanh. Những con nhái chỉ dòng dọc trắng chạy suốt lưng. Những ông nhái cụ, to và đen nhũ con cóc, nhẩy oai vệ và chậm chạp. Chẫu cũng đủ các hạng to nhỏ. Nhũng chúng lớn hơn nhái, da dê bóng mỡ, thân hình có chạnh, có góc rõ ràng. Ðôi mắt lồi cườm lơ láo. Vòng chân xếp lại, nhẩy thoăn thoắt, rất nhẹn. Chúng đớp kiến và giun nhanh quá. Cái mồm há ra đỏ hây, tép một cái lại ngậm. Tép, tép, tép. Chúng đớp nhoay nhoáy. Chúng kéo ra kiếm ăn.
Và người ta cũng kéo đi cả đàn cả lũ để bắt nhái và bắt chẫu.
Không hẹn, mà cha, con, chồng, vợ nhà Duyện cũng ặp nhau trong cái đám đông đi bắt nhái bắt chẫu này. Mưa tạnh, chị Duyện chẳng biết trú ở đâu xon xon chạy về lấy giỏ. Thì chị đã thấy khuyết hai cái rỏ treo trên đầu bếp. Anh Duyện và cái Gái đi ra vườn rồi. Thằng Chân và thằng Cẳng đã được con bé nhốt cẩn thận vào bầm phản, bốn bề chắn gỗ kín đáo. hai đứa trẻ loanh quanh cứ bò lấp ló như hai con chó con. Chị và bố chúng đi bắt nhái. Anh Duyện đã quên giận vợ, nghĩ đến bữa cơm chiều nhiều hơn. Bữa cơm mà cái thịt nhái nướng thơm phức, chấm với muối ớt, nhai dòn rau ráu, ngon tuyệt.
Chị Duyện cung cúc vác giỏ chạy. Người ta đã đổ ra nhiều quá không bắt mau, hết mất. Chị gặp chồng. Cái thằng phải gió đó chịu khó vồ nhái ra ráng. Mặt nó không sưng sỉa lên nữa. ấy vậy mà lúc nãy nó đã hùng hổ định giết con, giết vợ và đốt nhà.
Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái giỏ đã được lưng lửng. ở trong nhái xô nhau oe oé. Con Gái nhe hai hàm răng súu đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lư mư vác giỏ xuống một vệ ao gần đấy. Trong khi mẹ nó tất tả đi ra miệt đầu đình.
Gái rón rén bước. Nó vạch xem từng ngọn cỏ. Những cây cỏ nước xanh om, vươn cao ngọn, lòa xòa cứa vào người, khiến nó ngứa ngáy khó chịu. Nhưng mỗi lần túm hoặc vồ được một chú nhái bẻ gẫy hai chân sau bỏ tót vào giỏ, thì nó lại cười tủm một mình. Nó lần theo vệ ao, khuất sau mấy rặng dứa dại lởm chởm. Nhái nhẩy lõm bõm xuống nước. Những chòm dứa xòe những cẳng tay gai góc ra xung quanh.
Cuộc bắt nhái đã vãn. Ai nấy ra về. Anh Duyện xách giỏ về trước. Thứ đến chị Duyện. Thằng Chân và thằng Cẳng phải tù trong gầm phản đang khóc be be. Chị Duyện đưa cái giỏ nhái của mình cho chồng rồi chạy lại giỡ gạch, bế hai đứa con ra. Chị nựng con cho chúng nín. Anh Duyện ngồi ngẩn ngơ nhìn hai giỏ nhái. Nét mặt anh đờ đẫn. Có lẽ anh đương tưởng tượng đến bữa nhắm thú vị chiều nay. Bỗng chị Duyên nói:
- Này, con Gái chưa về nhỉ? Nhà đi gọi nó xem...
Giọng chị ả dịu lại. Chính anh Duyện cũng không còn tưởng tượng đượct rằng lúc nẫy mình vừa cãi nhau kịch liệt với vợ. Anh đứng dậy, đi ra ngõ. Vừa đi, anh vừa lẩm bẩm: “Tiên nhân con tuyệt tự, đi đâu thì chết dấp ở đáy”. Rồi anh gọi:
- Ớ! Gái!....
ở trong sân, vợ anh nói với ra:
- Nó đi về phía ao nhà ông cả Tràng ấy. Ðẻ mẹ con ranh con!
Anh Duyện lội xuống bờ ao nhà ông cả Tràng, về phí có nhiều cây dứa dại, thì anh trông thấy cái Gái. Nhưng anh thấy cái Gái nằm gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lũng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo lại. Vừa lúc ấy, miệng nó ngoáp ngoáp mấy cái; đôi mắt lộn lòng trắng lên mấy lần. Rồi nhắm hẳn. Chân tay nó duỗi ra. Con bé giẫy chết rồi.
Người bố nhìn đứa con giẫy chết rú lên một tiếng quái gở. Tuy cuống lắm, nhưng anh cũng còn nhìn tháy ở ngay bên vệ ao trên lớp bùn phẳng mới nguyên một lối bò dài như cái sào lúa còn hằn lại.
Duyện cúi lay xác con bé. Anh nghĩ chợt rằng bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra. Thương ơi! bây giờ nó bỏ nó đi. Hai hàng nước mắt nhỏ ròng ròng. Anh ghé vai, xốc con bé lên. Hai tay nó còn mềm hơi nóng. Nhưng hai chân đã cứng nhẵng. Anh cõng xác con, chạy về.

Tô Hoài, Bến Ray, Tháng Chạp 1942

ĐI CÂU

Bây giờ sang Bắc xuống Phòng hay lên Sơn, bên đường chốc lại thấy trong cánh đồng có một cái đầm nước có hàng rào lũy tre.
Quanh bờ, lác đác những túp lều, như lều kéo cá, nhưng không có gọng vó. Những cái lều con con như thế người ta gọi đùa mà thật là lều câu cá ôm. Tức là tay đôi nào đến thuê lều cáu cá, thuê cả cần câu và mồi cẩn thận rồi dắt nhau trèo lên lều, làm những gì trong ấy không biết, cũng chẳng thấy cái đầu cần câu nào thò ra.
Quanh thành phố bây giờ mới có cái thú thư giãn câu ôm, lều ôm, chứ đã mấy năm trước tôi lên chơi Suối Hai xem vườn cò ở Ngọc Nhị. Vào trong đồi tre, đồi vầu đến những chỗ rậm cây cò đậu cò bay xào xạc, cũng thấy những túp lều lợp lá cọ lấp ló cao cao. Chòi canh cò hay chòi đuổi dơi, không phải, mà chẳng hỏi chủ vườn cũng biết ngay ở chỗ khuất khuất vắng vắng ấy là cái chòi người ôm người xem cò. Và chủ nhật, thanh niên đi chơi thắng cảnh Sơn Tây, ngủ đêm lại ở Suối Hai, ở Ao Vua đông vui lắm, ở Kim Bôi trên Hoà Bình và cả ngoài đảo Cát Bà xa xôi những đám trai gái thành phố múa hát và ngủ với nhau bên rừng như thế.
Cũng là thú giải trí mới cho người đô thị đến với cỏ cây sông nước.
Thương những đứa trẻ thành phố bây giờ, con dê lại bảo là con bò, gà trống gà mái tất tật đều là con gà. Quanh năm chúng nó chỉ trông thấy con kiến, con gián, con thạch sùng và con chuột. Và sợ con chuột lắm. Một hôm, có con chuột dưới cống chui lên phòng trên gác. Cả bố nó cũng hãi chuột. Bố nó đóng cửa buồng rồi ra thuê bác chữa xe đạp ở đầu phố vào đánh. Lũ trẻ ngồi ngoài cửa nghe ngóng, hồi hộp, đến lúc bác ấy xách đuôi con chuột ra, chúng nó ôm mặt không dám nhìn.
Đến chỗ đầm cá, hỏi những cây bạch đàn, cây nhãn, cây xoan, cây hoa hồng bụt, chẳng đứa nào biết là cây gì cả. Chỉ nhớ có cây dừa vì đã trông thấy cây dừa ở tranh truyện Tấm Cám - cô Tấm trèo cau bị mẹ Cám chặt đổ, thì cây cau cũng lưa thưa cao lêu đêu như cây dừa ở bờ đầm này. Và vườn có đầm câu cá, trẻ con gọi cái đầm là cái hồ vì từ thuở bé chỉ trông thấy cái hồ Tây, cái hồ Gươm mà cũng chỉ thỉnh thoảng mới thấy.
Đi câu, chúng tôi đi cả nhà. Xe máy người nọ đèo người kia. Ông cháu, con cái đến hơn chục mống. Những nơi câu cá có cây và đầm rộng đi cũng xa, cách cầu Chương Dương hay Cầu Giấy có đến hơn hai mươi cây số. Và là nơi câu cá thật. Nhưng tò mò và để ý cũng thấy thấp thoáng có những lều con con ở đằng cuối khuất trong giàn mướp bụi trâm bầu. Thời buổi lắm chụp giật này, đâu cũng mở “nhà nghỉ”, đâu cũng có nhà ngủ, phải nhanh nhẹn lên, một vốn bốn lời, ai mà chịu bỏ. Những cái nhà sàn tre nứa ba gian, chân tre đứng trên mật nước. Có thể một người mấy người chung cũng được. Chúng tôi thuê cả ba gian nhà thảnh thơi, trẻ con câu người lớn đi dạo, nằm khểnh. Tôi thì ngồi uống bia, nhìn sang mấy cái nhà sàn lơ thơ cái kín cái hở ở bờ đầu bên kia. Đông người lắm, cũng cắm hờ cái cần câu ngoài đầu sàn, nhưng không có ai ngồi câu. Trong nhà người ta đương xúm xít sát phạt nhau. Không biết tá lả hay xóc đĩa.
Trẻ con nhà tôi thuê mấy cái cần câu, chủ đầm đến móc mồi rồi ném một nắm thính xuống mặt nước nhử cá. Nhưng có lẽ cá cũng biết khinh trẻ con, cái phao nhấp nháy, giật lên thấy mất mồi. Chỉ có cá mài mại, thờn bơn đến rỉa. Có một ông ngồi câu đằng kia, bên gốc dừa. Ông không thuê lều, không giả vờ chõ cần câu trên sàn ra. Ông ngồi trong bóng cây, ông có đủ đồ câu mà đồ lề sang trọng vẻ nhà nghề lắm. Xe máy dựng bên. Cái ghế gấp. Cái túi mồi. Chiếc cần câu Nhật nuột nà vàng xẫm, nhiều đốt không biết đốt trúc thật hay chất dẻo,  từng khấc đánh đai vòng kền. Cái cần câu sặc sỡ như cái gậy trẻ con treo bùa túi chỉ ngũ sắc mùng năm tháng năm tết sâu bọ sắp tới. Nghe nói cái cần câu Nhật này đắt lắm, những hơn một triệu bạc. Ông hút thuốc lá, ngồi chỉnh chệ, ung dung, ông đội mũ vải chốc lại giựt được cá, cá to. Những con trắm cỏ phàm ăn ngoạm mồi rồi lôi miết phao. Mặc dầu chốc nữa ra về, cả cái túi cá câu được nhà chủ đầm đều nhấc đặt lên cân. Bởi  vì cá đầm của người ta nuôi. Ông phải trả tiền chỗ cá ông vừa câu được Không sao mất tiền mà được cái vui câu được cá. Tôi cắt nghĩa với lũ trẻ con là ông ấy sát cá. Có người sát cá, có người vô duyên với cá. Ngày trước, ở trong làng, tao đi câu cả buổi may ra mới giựt được con cá rô ranh. Tao không sát cá. Tôi nghĩ loăng quăng, những con cá trắm cỏ ông kia câu được, chúng nó toi mạng cũng vì mê cái cần câu Nhật chăng. Tôi lại nhớ năm trước nhà thơ Thợ Rèn cũng hay đi câu ở hồ Thiều Quang. Ông nhà thơ ấy hao hao giống ông này, ông nhà thơ trào phúng đội mũ phớt, đeo kính râm, đi giầy vải cái quần soóc có bít tất lửng đủ lịch sự che khéo đôi cẳng ống sậy. Ông cầm cái cần câu Tây, cái cần câu Tây mua bên Paris chứ không phải cái cần câu mảnh tre vót nhà quê ta. Tôi không còn nhớ cái cần câu Tây và bút danh ông ấy là công nhân rèn, chẳng biết những con cá trắm cá chép trong hồ có nể ông, có mê cái cần câu hiên ngang, ông Thợ Rèn có câu được nhiều cá, ông có sát cá như cái ông ngồi dưới gốc dừa kia không. Để hôm nào tôi phải hỏi lại.
Bọn trẻ nhà tôi câu chán rồi đùa chán rồi lăn ra ngủ.
Đã lâu, bữa trưa hôm ấy mới được bữa ăn ngon miệng. Nhà chủ đầm bưng lên cái mâm đồng cổ kính. Chai rượu gạo Mễ Trì, đậm giọng và say êm. Mấy món cá rán, canh cá thơm thơm không xệt xệt mùi mỡ ôi của các của hàng đặc sản trong thành phố, ngửi đã lợm giọng. Và các khúc cá trong đầm không dầy u lên và nát nhẽo như cá chuối, cá trắm nuôi trong bể.

(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)

CON KHƯỚC BẠC MÁ

Trời đổ mưa mấy hạt, rồi tạnh. Xòe bàn tay thấy mưa bụi lăn tăn. Sáng ra, búi cây cúc tần bờ rào phủ sương trắng mờ. Đã sang tháng chín, vào thu rồi.
Những đàn ri sừng, ri đá, đàn chim ngói ra ăn lúa sớm. Chúng bay loạn xạ ngang trời... Bây giờ mùa nào cũng có vụ, con chim cũng không biết đỗ xuống, ăn đâu.
Trẻ con đã xếp cần câu. Những cái nơm, cái đó đem gác bếp. Bây giờ lại vót lồng bẫy, vá lưới, đi tìm bãi bẫy chim ngói.
Đấy là hình ảnh kỷ niệm tuổi thơ tôi những năm lên chín lên mười.
Mười mấy năm sau, khi thành phố được giải phóng, tôi trở lại. Thấy như lạ mắt, làng xóm và cánh đồng im lặng không bóng người. Một cái lô cốt xi măng đồ sộ há hoác bốn phía trổ lỗ châu mai. Dấu vết tuyến phòng thủ quanh thành phố của tướng Đờ Lát còn lại bây giờ trơ vơ tang thương.
Chẳng bao lâu con đường dọc ngang khắp nơi, như bàn cờ trên cánh đồng. Những khu nhà năm tầng y hệt nhau mọc lô nhô, đấy là những khu nhà tập thể. Người các nơi được đưa tới và các xóm cũ, xóm mới ở chen nhau lẫn lộn.
Những con đường cánh đồng quây lại đã thành phố phường. Người ta không nói xuống phố hay là ra Kẻ Chợ như trước kia, mà thói quen mới, người phố ta bảo nhau đi Bờ Hồ, đến phố Hàng Ngang.
***
Con đường vắt qua cái lô cốt Đờ Lát, bây giờ sang bên kia là đường lớn ồn ào người qua lại. Không ai nhớ đấy xưa kia là con đường tắt bờ ruộng, bây giờ xe đạp, xe máy và các thứ ô tô qua. Cái phố náo động tiếng xe đến nửa đêm chưa vãn. Ngày đêm rối loạn trong những tiếng động xé tai. Vừa rồi, tôi đi nghỉ ở suối nước nóng Kim Bôi trên Hoà Bình. Trong rừng thanh vắng có những quán hàng treo bán chim cảnh. Ô những con chim bẫy được, bán cho người thành phố đem về chơi. Năm trước, tôi đã đem ở Sài Gòn ra một con chim gáy ở Đồng Tháp Mười. Bạn dặn con chim kén nước lắm, nhưng thành phố chỉ có nước máy. Được vài hôm con chim chết trong lồng, cóng nước vẫn đầy nguyên.
Tôi thích nuôi một con chim, một con chào mào, một con hoạ mi một con chim gì đó cho vui nhà.
Mà lại nhớ chỗ xóm này xưa kia chỉ có vườn cây hồng bì, cây na, cây lựu yên tĩnh và tiếng chim tôi muốn mơ màng lại như ngày xưa. Rõ khéo lẩn thẩn những như ngày xưa, bây giờ làm gì có ngày xưa. Nhưng mà tôi cứ ngờ ra thế. Những con chim cảnh của người Mường nuôi rồi đen bán nhưng vẫn phải chọn cẩn thận chứ. Nghe nói bây giờ lắm kẻ bất lương bẫy chim rừng ra bán ở dọc đường. Con chim chỉ mới đem về đến nhà đã chết. Không, tôi chọn con đã thuần.
Tôi mua được một con khướu bạc má, con khướu đã dạn người. Có người qua lại khướu vẫn hót râm ran. Ngày trước nuôi hoạ mi chọi hay nuôi khướu hót, khướu nói đều công phu lắm. Nghe đồn thế chứ trẻ con bấy giờ thì chỉ nuôi mỗi con ri đá ăn thóc, con chim vành khuyên ăn chuối. Có đứa bảo con chào mào từ bé cho ăn cơm trộn muối, chào mào quen ăn mặn, không đi đâu xa được.
Con khướu chỉ ăn gạo trộn lòng đỏ trứng gà tốn kém lắm. Những khướu bây giờ thật dễ nuôi. Khướu ăn cám trứng, hàng chim nào cũng có bán cám trứng. Còn những thức ăn cầu kỳ hơn nhiều, bây giờ nuôi cá vàng thức ăn cho cá chuốc tận Hồng Kông, Ma Cao cũng được chứ sao. Con khướu bạc má của tôi ở rừng Kim Bôi về ăn cám trứng. Khướu mổ cám độp độp, khướu cất tiếng kêu quắc quắc. Hay quá, thế là được rồi. Ăn no, khướu bạc má đậu chơi trong lồng dưới giàn kim ngân.
Bây giờ cũng đương mùa thu. Những dãy hoá lý đã héo khô cả. Chỉ còn kim ngân lá vẫn xanh trên giàn cho đến giêng hai nở hoa vàng hoa bạc khi có mưa bụi xuống.
Con khướu bạc má nghiêng tai, đứng yên. Khướu trừng mắt rồi lại cất chân kêu quắc quắc. Suốt buổi sáng con khướu chỉ kêu những tiếng rừng quắc quắc như tiếng xe chạy ngoài đường. Quắc quắc...
Tiếng xe chạy rầm rập. Buổi sáng, buổi chiều. Xe tải, xe buýt, xe máy, náo loạn, đinh tai. Con khướu trừng trợn, nhảy, lại kêu quắc quắc. Đến tận tối con khướu vẫn chỉ kêu một tiếng nhố nhăng ấy, nó còn quắc quắc có chừng đến nửa đêm. Sáng ngày ra, mới bảnh mắt, khi có tiếng xe rộ lên con khướu trong chuồng lại hét quắc quắc...
Suốt mấy ngày mấy ngày vẫn thế. Tôi mất ngủ vì con khướu. Tôi chẳng bao giờ có thể biết đấy là khướu nhớ quê hay là khướu chửi mắng tôi.
Một đêm, bỗng nghe tiếng khướu hót nho nhỏ. Tôi rón rén bước ra ngoài hè. Trời sáng trăng, gió mát lồng lộng, ngoài đường đã vắng hẳn tiếng xe.
Có ai để ý đêm khuya trong bóng cây thường nghe tiếng chim líu ríu. Phảng phất như xa nhừ gần, như tay đôi, như một mình, như nàng chim từ qui rừng này gọi chàng chim từ qui cuối rừng. Đấy là lúc bao nhiêu tâm sự, đấy là lúc bóng trăng và bóng tối các hình bóng quấn quít tan rã ẩn hiện như chiêm bao. Có lẽ cũng là những mơ ước kỳ thú của muôn loài trên thế gian. Có phải thế không. Con khướu của tôi đậu ở mặt chuồng, tiếng lâm râm như hót, như tỉ tê. Như con chích choè xuống ngòi nước cất tiếng xa xa mỗi buổi chiều lặng lẽ. Như con vạc đi ăn đêm về vừa trống canh ba, buông từng tiếng vào chân tre, lúc này thảnh thơi nhất, có ánh trăng và sáng điện như ban ngày, con khướu thủ thỉ nho nhỏ.
Sáng hôm sau, vẫn chỉ nghe tiếng khướu quắc quắc những tiếng quái gở, trong khi các thứ xe từng đoàn rùng rùng rít qua ngoài kia. Con khướu bạc má hình như rạc người ra. Rồi khướu phờ phạc hẳn. Cái đầu nó trụi dần như hòn bi. Một bên cánh sã xuống. Lông rụng lả tả, mỗi buổi sáng vơ được hàng nắm, thật tham thương. Thế nào đây, con chim có thể chết đến nơi. Con chim mất tiếng hót rồi. Con chim chỉ còn rú lên hai tiếng quắc quắc.
Nhưng ngoài kia, trông lên trời mùa thu vẫn xanh thẳm, hoa lộc vừng rụng lăn tăn buông xuống đỏ hây từng đám trên mặt hồ. Tôi phải thả Con khướu bạc má thôi. Thôi cho nó bay đàn về phương trời của nó. Hôm sau, tôi ra chỗ treo lồng. Chim đã là cái xác chết còng queo. Những điều tốt đẹp, mơ màng của tôi đều vô ích. Con chim đã chết rồi. Tôi lên đường gần Bách Thao mua một con khướu bạc má khác.
Bác bán chim bảo:
- Ông yên trí. Con khướu này chén được cả thịt bò.
Tôi không dám kể chuyện con khướu ở rừng Kim Bôi về chỉ nghe tiếng động tàu xe ồn ào mà chết. Tôi cho con khướu này một miếng thịt bò tái. Nó xốc hai mỏ, nuốt chửng.
Cả buổi, tôi không nghe tiếng quắc quắc. Nhưng cũng không nghe có tiếng hót. Có lẽ con này đã quen tai với tiếng động thành phố. Có lẽ con chim vốn ăn thanh cảnh, bây giờ lại chén cả thịt. Nó không phải là con khướu biết hót, nó không hót nữa. Tôi lại đâm ra buồn.

10-2003
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)

CON KHỈ CON DÊ

Ở nước ta, hầu như ở đâu có triền núi đá thì đấy có suối nước khoáng, suối nước nóng. Chỉ ra khỏi Hà Nội ngược lên sáu mươi cây số đã gặp suối nước nóng Kim Bôi, cũng xuống xuôi chừng ấy đường đã đến suối nước nóng Kênh Gà.
Bên nước Gruzia trong dãy núi đá kia chảy ra dòng suối nước nóng cỏn con mà người ta đã xây dựng ra các nhà nghỉ, nhà chữa bệnh, nào bể bơi, nào bồn ngâm nước, nào bể đắp bùn. Quanh năm, khách trong nước, ngoài nước đến chơi đến nghỉ đông nhiều vô kể, hốt bạc vô kể. Ở nước ta chẳng thiếu, nhưng du lịch và y tế chưa mấy nơi với tới. Ở Kim Bôi, nơi có suối nước nóng chảy ra, là Mớ Đá. Bên kia cánh đồng, xóm ở trong đồi, gọi là Mớ Đồi. Có ông khách nghỉ nói giễu: “Bao giờ có thêm suối nước nóng Mớ Đời nữa thì bấy giờ Kim Bôi mới đầy đủ chỗ chơi, chỗ an dưỡng được”. Bởi tuy rằng nước và thiên nhiên thì của trời cho nhưng phải có người lo toan và đắp tiền vào thì mới ra được mọi thứ lưu luyến khách.
Có một lần kia, nhà thơ Hoàng Trung Thông và tôi đi Sơn La. Bấy giờ má bay cũng hầu như hàng ngày ném bom tỉnh lỵ. Các cơ quan đều tránh vào trong núi. Khách được đưa đến ở lán trong vách núi của người làng chạy vào đấy. Cái suối nước nóng chảy ngang bên chân chúng tôi.
Nước nóng trong hốc đá tuôn ra. Khi lên bờ khói trắng bốc nghi ngút nước chay một quãng dài quanh sang bên kia núi, hoà vào suối cái. Cá lúc nhúc bơi vào làn nước ấm. Mỗi sớm, người trong xóm chỉ ra một quãng đồng đã được một mẻ cá. Xóm ấy quang năm năn canh cá, cá muối, cá nướng, đàn bà con gái trắng ngần đẹp thướt tha chẳng khác người suối Mường Kim bên Mùa Căng Chải. Cả đến đàn khỉ trên núi xuống, thỉnh thoảng lại được miếng xương cá, khỉ cũng béo tròn như con cun cút. Mấy hôm, ngày nào chúng tôi cũng ra cái hũm đá nằm ngâm nước cả buổi. Chẳng biết được bổ béo thế nào nhưng ở trong nước suối nóng ra, mình mẩy “nhẹ nhàng như ở động tiên trở về trần gian”.
Bao nhiêu năm qua, Hoàng Trung Thông cũng về cõi âm rồi, tôi chợt nổi húng muốn trở lại cái suối nước nóng ngày ấy. Đến Sơn La thì dễ đường thông thoáng và xe vào tận cái xóm ngày trước chạy bom. Chỉ có lối vào cái suối nước nóng thì không có đường. Hôm sau: tôi đi với một chú bé trong nhà, quần buộc túm lại mà xà phòng vẫn phải xát lên tận bẹn, không vắt bò lên. Lại còn phải bôi xà phòng quanh cổ để “vắt xanh trên cây không nhảy xuống bám được . Đường này bỏ đã lâu. sẵn các giống vắt lắm”.
Đánh đường vào rừng hoang, chú bé phải vừa đi vừa chặt cỏ tranh, có lát mở lối. Không ngờ vào đến suối bây giờ lại xa thế này. Tôi ngơ ngẩn ngồi trên một tảng đá. Khói nước nóng trắng mờ cả những cành lau ngả quanh. Bỗng thấy đụng đậy trong cỏ, tôi trông thấy mấy cái đầu con khỉ, mắt trố thô lố nhô ra. Thấy người: những cái đầu khỉ lại rụt vào. Rồi làn cỏ lung lay dài dài ra phía đằng kia, thì ra một đàn khi có mấy chục con kéo đi - chắc là bắt cá. Chúng thung dung không biết sợ người, con nào cũng mướt lông, béo mẫm - như ngày trước.
Tối ấy tôi ngủ trong xóm. Tôi nói với cụ chủ nhà:
- Ở trong núi có nhiều khỉ quá.
Chỉ có hai người với nhau mà ông già người Thái ấy vẫn nói thì thào:
- Ấy a. Ông đừng nói vối với ở đây có khỉ.
- Làng nuôi khỉ à?
- Không, trời nuôi thôi. Nhưng mà ai biết người ta về săn hết mất. Cả chín châu mười mường này có còn con khỉ nào đâu. Ông đừng nói với ai nhé.
Tôi nào biết nói với ai, mà tôi cũng chẳng buồn nói với ai.
Mấy hôm sau, tôi trở về suối nước nóng Mớ Đá ở Kim Bôi dưới Hoà Bình. Tôi cũng chẳng thiết cái nhà nghỉ nửa vời chẳng ra du lịch, chẳng ra công đoàn này, chỉ vì tôi cũng không còn hơi sức đâu để bò theo đám trẻ bây giờ ngày chủ nhật đi cắm trại ngủ rừng nữa rồi.
Cửa buồng tôi trông vào chân núi. Buổi chiều xuống nhà ăn từ lúc tan giờ hành chính để cho nhà bếp còn về. Cơm rượu rồi tôi ra ngồi nhìn lên những mỏm núi đá bắt đầu mờ mờ sương. Tôi lại trông thấy một đám mấy con khỉ đen nhờ nhờ chui trong bụi cây lên đứng trên mỏm đá. Y hệt đàn khỉ trong suối nước nóng trên Sơn La.
Tôi kêu lên:
- Ơ con khỉ. Con khỉ
Chú nhà buồng người Mường nhìn lên theo tay tôi trỏ, chú nói:
- Con dê đấy, ông ạ. Ông vừa ăn thịt dê lúc nãy. Bây giờ chẳng ở đâu còn khỉ. Đàn dê xóm Mớ Đá người ta nuôi, tối rồi dê đương về chuồng.
Tôi nhớ năm 1948, cách đây vừa nửa thế kỷ, có lần ở châu Đà Bắc về, tôi đi qua dốc Cun ngoài kia. Dốc Cun rừng lau, có tiếng lắm hổ, ban ngày không ai dám đi qua dốc Cun một mình. Tối ấy ngủ ở lán với bộ đội, nghe kể chiều hôm qua có con hổ ra vồ ăn thịt mất một anh bộ đội đứng gác. Tôi kể cho anh nhà buồng câu chuyện ngày trước hổ về vồ người ở dốc Cun. Anh im lặng một lát rồi nói:
- Bây giờ ở ngoài dốc Cun chỉ lắm ô tô, xe máy đâm chết người thôi.
Câu chuyện ngắt quãng ở đây. Từ suối nước nóng đến con khỉ, con hổ, con dê, cái ô tô, miên man rồi, xin dừng lại.

(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004)

CÁI ÁO TẾ

Lúc nào lão Đợ cũng cởi trần, đóng cái khố một, bằng mảnh bẹ chuối khô quấn đuôi lươn. Ngày trước lão cao lực lưỡng, bây giờ hai hõm vai nhô ra như cái mấu đòn gánh. Người ta hay đùa lão Đợ kiếp trước ông là ông Thiên Lôi phải trời đày xuống trần nên mới khỏe chịu nắng chịu gió thế.
Nghe dễ là gần sáng. Tiếng sấm đầu đông ùn ục như trời sôi bụng. Áp tháng chín, sấm cạn. Thế này là trái tiết, người ta dễ ốm, con cua con ếch thì lo xa tránh rét nghe sấm đã ẩn vào trong hang cả rồi.
Bao nhiêu năm đến giờ chẳng nhớ, chẳng buồn nhớ. Thuở ấy, nhà Đợ có hai cái nan, một nan vợ một nan chồng. Nan vợ thêm thằng con trai mới lên ba. Hai cái nan xuôi ngược, tối đâu ghé đấy, cũng quanh quẩn chẳng xa hơn quãng sông con. Năm kia, chẳng may nhà nó ốm rồi chết. Người chồng lên bờ, xin làng một nấm đất đắp ngôi mộ. Rồi làm túp lều lấn sang bên cạnh. Lại vỡ thêm mảnh đất, vun luống cải, luống rau. Chỗ ấy hõm vào một quãng bờ, như cái đìa nước. Trong vũng nước sinh sôi mọi thứ cá mú, thế là không phải lần hồi ngoài sông nữa.
Chẳng bao lâu, tháng Nhõn đã xốc vác được. Nhõn đi kiếm ăn theo nước lên ngược. Có chuyến đẩy về cả bè củ nâu đem xuống bán dưới bến Nứa ngoài Kẻ Chợ. Từ ngày ấy vẫn nửa lều nửa nhà, với mảnh vườn rách đâu vá đấy, chẳng bao lâu và bây giờ bác Đợ đã thành lão Đợ.
Lão Đợ ngồi dậy, ưỡn lưng vươn vai. Trở trời mưa nắng với con cá, cũng lắm khi bận tới con người. Tiếng sấm muộn này có khi có chuyện đây, lão lấy cái giỏ giắt vào lưng khố. Chiếc nan chân liền của lão vẫn cắm ngoài mép nước. Hai tay như hai cái vây cá ve vẩy đẩy nan lướt ra. Suốt dải bờ, tiếng óc ách, óc ách như dế kêu, nhảy nhảy trong tai. Như đã trông thấy trong bờ có đến hàng trăm, mấy trăm con chạch chấu đương ngoe nguẩy đào bùn làm lỗ ẩn vào hang.
Lão Đợ cúi xuống, nghiêng cái nan vào bờ. Bắt chạch dịp này dễ ăn. Chẳng phải câu kéo, nơm vó, chỉ việc quơ tay. Chốc lát đã được lưng giỏ. Bỗng có tiếng gọi trên bờ, sau cái nan khuất chổng đuôi.
- Bố cu Đợ đấy phải không?
Đứa nào lếu láo dám réo tên cái lão ra. Chắc chỉ lại lão từ Hoả mới dám chớt nhả thế. Lão Đợ quay cái nan, nhìn vào thì đúng ông từ Hoả. Hẳn ông thủ từ ra đình thắp hương. Hôm nay mồng một. Ông thủ từ giữ đình. Khi nào ra đình, ông từ cũng xách đôi guốc mộc gốc tre, ông chỉ xỏ guốc nghiêm chỉnh khi đi vào đình.
Ông từ Hoả ra bờ đầm, ngồi thụp xuống, thì thào:
- Nhích cái nan vào về nhà, nói cái này.
Gì thế, cái này là cái gì, cả năm cả đời lão Đợ chẳng có cái gì phải nói ghé tai, lão chẳng hay nghĩ ngợi loăng quăng. Lão Đợ vẩy tay, quay cái nan vào, thò tay móc lôi ra một con chạch chấu chúi trong bùn.
Lão Đợ làm rốn bắt mấy con chạch nữa rồi lão cũng tạt nan về sớm. Lão Đợ vác ngửa cái nan lên đổ chạch vào thúng sơn, được vừa lưng thúng, có con nhảy cả ra ngoài. Lão chọn mấy con chạch to, đem xuống cầu ao.
Con chạch vàng nhẫy, chỉ mổ moi rồi xiên vào mấy đọt tre tươi. Ông lão vào nhà chất củi rồi cời bếp than, đặt cá lên nướng.
Ông từ Hoả bước tới, kêu:
- Cái giống chạch phải được nước mưa cuối thế này, ăn mới lẳn thịt, thơm điếc mũi!
Một mảnh lá chuối đựng muối với mấy quả ớt vàng chóe. Hũ rượu nút lá chuối đặt cạnh. Hai cái bát đàn ăn cơm uống rượu lẫn lộn, tất cả bày ra mái hiên. Ông Đợ và ông Hoả đều cười nói ồn ào: “Khéo vẽ! Bày ra rồi lại phải dọn. Cứ thế này, ăn xong chỉ việc đứng dậy”.
Nhưng ông từ Hoả cẩn thận, xuống cầu ao khoả cái chân, nhưng rồi lại chân đất đi lên. Ông ngồi vào đầu mấu cái ống bương kê làm ghế, trong khi lão Đợ mở nút vò rượu.
Ông từ Hoả chép chép miệng:
- Rượu nhà nấu, cá muốn ăn lúc nào thì đi bắt. “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, cái lão này phong lưu đến nơi rồi.
- Phong lưu có hơn thằng mõ không?
Ông Hoả trợn mắt:
- Ấy chết, ai lại ví von giồng cây chuối ngược thế. Phải nói ngay thế này. Sáng hôm qua, tôi ngồi chẻ đóm, tôi nghe rõ ông ổng. Mà các cụ vặc nhau như mổ bò, ngoài cửa đình còn nghe à uôm như đất vào tai. Có cụ bảo, cái lão Đợ mà làm chủ tế thì cả làng này đi ăn mày. Có cụ nói ác nữa: cái thằng chết trôi sông phải lên bờ chôn nhờ đất thiên hạ mà bây giờ làm chủ tế à. Ấy vậy mà các bố ấy cứ bàn quẩn đầu bắt đuôi, có nhẽ phải xuống tận bể Đông hỏi ông Hà Bá thế nào mà vẫn chỉ thấy lão Đợ vẫn chỉ còn lão Đợ làm được chủ tế.
Lão Đợ ngây mặt ra:
- Thế còn ai làm được?
Ông từ Hoả gật gù:
- Chỉ còn lão Đợ thôi. Tính chẻ hoa ra rồi, cấn cái rồi. Đếm mặt năm sáu mươi thì đã xuống lỗ cả. Thế mà lão Đợ dư sáu mươi vẫn lội ao lội sông ùm ùm, được là thế ấy. Bảo rằng lão thằng ngụ cư, thế thì tông tích cả làng này ai chả là tháng ngụ cư, ai chả là ở dưới sông bò lên, chứ cứ đâu cái ông lão Đợ. Có cụ chết cười lại bênh ông. Độ nhà ấy song toàn, trên thuận dưới hoà. Người ta đốp cho, bà lão ấy ngỏm từ đời ông ba mươi, lấy ai ra mà cãi nhau, đánh nhau, làm sao mà chẳng song toàn. Cứ lý sự kéo co cả buổi...
Ông từ Hoả tợp một ngụm rượu, cười khè khè:
- Thế là ông lão được chân chủ tế. Sướng chưa?
Lão Đợ buông sõng:
- Chẳng thấy sướng chỗ chó nào.
Ông từ Hoả uống cạn bát rượu, đứng dậy hét:
- Không được láo, nói thế thánh vật đấy!
Lão Đợ lẳng lặng ra xé mảnh lá chuối, gói nốt mấy con chạch nướng, đưa cho ông từ Hoả. Ông từ vẫn hầm hầm mặt giận lão Đợ báng bổ thần thánh nhưng vẫn cầm gói cá, lập cập bước ra. Hai ông lão này hay dỗi nhau từng lúc, quá trẻ con.
Lão Đợ ngồi lại một mình. Trước mặt, chỉ còn mấy cái que xiên cá nham nhở. Lão Đợ cắn cả nửa quả ớt rồi uống nốt bát rượu, sau lão nằm kềnh ra nền đất. Cái đầu lơ thơ tóc một búi túm đằng gáy gối lên mấu tre vừa ngồi.
Lão không say, cũng không buồn ngủ. Lão đương nghĩ vẩn vơ về cái việc chủ tế, tế chủ không biết ra làm sao.
Xem rước, xem tế thì lão xem rồi, xem nhiều rồi khi sang tháng ba rồi tháng chín, ngoài đình có kỵ thánh đều có lễ, có tế, có năm lại rước chạ. Chốc đã mấy chục năm qua. Đến cái năm Đợ được vào làng được cắt chân đinh vác cái thùng lùng theo bác khán thủ đi tuần, đi hộ đê, đóng hàng giáp, việc làng, lấy phần, đấy mới thật ra trai làng. Xem hội đứa nào làng lạ bắng nhắng, đánh nhau ngay.
Thế mà có điều là đình đám làng này chẳng ra gì Xem hội to thì rủ nhau lên phủ, sang tỉnh khác. Những miền lắm của, voi gỗ ngựa đá thờ, đao đình vảy rồng, cột trụ có con nghê sành. Làng này chỉ có đình cột xoan, cột mít, mái lá cọ. Năm gian đình bày mỗi cái cuốn thư, chiếc kiệu long đình sơn then đã loang lổ trơ gỗ mộc cả bốn chân. Không thấm vào đâu với những cột đình sơn son thếp vàng, những dải y môn buông tua điều quanh long đình kiệu bát cống, lại con ngựa bạch có bánh xe...
Chuyện về của cải những đình chùa nhà hàng xứ người ta thì biết thế nào kể xiết. Thạo đi xem hội thiên hạ rồi. Đi xem hội thiên hạ mà nô nức chen chân, có khi cơm nắm cơm đùm trẩy hội vài ba ngày mới tới mà vẫn nô nức.
Ấy như hội làng thanh bạch mà vẫn có cái nghiêm hội làng. Trong gian ở hậu cung thấy bảo có các đạo sắc phong thần của nhà vua, nhà chúa. Mọi người đều thuộc sự tích ông thánh làng ta. Thánh cũng như người làng, ai cũng cởi trần, đeo giỏ đi bắt ếch. Thánh làng ta thấy bảo cũng thế. Rồi ngài nổi tướng theo vua đi đánh giặc. Gặp giờ linh, ngài hoá.
Ngài thiêng lắm. Đến ngày kị, hàng giáp mổ lợn, mổ trâu, mặc lòng, bao giờ trên bàn thờ, dưới tay ngai cũng phải buộc đôi ếch - phải vào tận chân núi kiếm ếch hương về nuôi vỗ béo hàng tháng. Làng lại kiêng những huý. Con ếch được gọi là “ông ộp”, mà phải nói nhẹ nhàng như khấn, sợ to tiếng, ngài quở.
Lão Đợ đương gờ gờ mắt nghĩ lơ mơ về đức thành hoàng. Lão nghĩ cũng lạ: ông thánh cởi trần, ông thánh đeo cái giỏ, thế thì ta là ông chủ tế tế ông thánh là phải rồi. Cứ nghĩ về ông thánh, về ông chủ tế, lão Đợ tan mất cơn buồn ngủ. Lão Đợ đứng lên đậy tàu lá chuối lên mặt cái thúng sơn, ở trong đám chạch chấu đương ngoi lúc nhúc. Lão cắp thúng cá đem ra chợ hôm ngoài bến, như mọi khi đi nan về. Một lúc, lão Đợ bán hết cá, đã úp cái thúng không lên đầu, đội về. Trông thấy ông từ Hoả đang cắm cúi bấm chân gánh thùng nước. Chiếc đòn gánh lắc lư, hai cái thùng tre ghép, mặt đậy hai chiếc lá bàng, nước sóng sánh nhẹ nhẹ. Cơn say ban trưa còn lại hay chân lão vốn chân vòng kiềng cho nên thùng lắc.
Lão Đợ đã quên chuyện bực bội. Lão hỏi bô bô:
- Gánh nước cúng à?
Ông từ Hoả nhìn lên cũng trả lời mau miệng:
- À nước tắm đình.
Rồi lại thì thào:
- Sắp đến rằm.
Chẳng biết quên hay chợt nhớ ra, lão Đợ cười khơ khớ:
- Ờ nhỉ?
Lão Đợ rút trên đầu, cái xâu mấy con chạch nhét trong đít thúng, lại đưa cho ông từ:
- Cầm về tối uống rượu nhé.
Rồi ông tự nhiên chuyển sang chuyện khác, như hỏi giữa giời:
- Chẳng biết làm chủ tế nó ra thế nào...
Ông từ Hoả cầm xâu cá, nói:
- Đã có ông bồi tế giúp một tay. Không thấy mọi khi đấy à.
Ông từ Hoả đã gánh nước vào khuất chân tre cổng đình. Lão Đợ vừa đi vừa gõ ngón tay lên nóc cái thúng sơn trên đầu, bắt chước như đánh trống tế. Đã có ông bồi tế? Đã có ông bồi tế giúp một tay. Lão bước nhấp nhểnh. Cái lạt xâu tiền bán cá buộc bên mép khố kêu róc rách, róc rách.., tế chủ tế chủ..

Một hôm, có mấy cụ hương kéo đến nhà lão Đợ. Bác khán thủ đi với hai trai tuần, một người bưng cái mo cau, trong đựng mấy miếng trầu, một rẻ cau, một be rượu, bác khán hai tay ôm cái tráp gỗ mộc. Ông từ Hoả đã mách cho lão Đợ biết làng đem rượu và trầu cau với áo tế đến, thế là làng đã có lời mời rồi.

Bác khán đặt cái mâm chõng xuống giữa nhà rồi để ra cái tráp, hệt cái hòm thợ mộc. Rồi mở cái mo trầu cau đã têm sẵn lên trên mặt tráp phủ vuông vải điều. Cụ hương hai tay nhấc vuông vải, mở tráp.
Trong tráp, gấp sẵn cái áo tế. Hằng năm, mỗi hôm tế ngoài đình, ông tế chủ được mặc áo tế, làng nước ai cũng biết cả. Áo thụng tế không phải áo nâu da bò, không phải áo lương áo kép nhà giàu đâu, áo thụng của làng là của thần, của thánh chỉ ông tế chủ mới được xỏ tay. Làng chỉ sắm được có một cái. Cụ nào lên lão được kén vào chân chủ tế được lộc mặc. Quanh năm, cái áo tế được cất trong tráp để vào hòm gian ở hậu cung.
Tráp vừa mở, mấy con gián cuống quít bò ra. Anh trai tuần giơ gót chân day con gián. Cụ hương kêu to:
- Ấy chết. Lạy thánh. Không được! Không được làm thế.
Cụ hương nhẹ tay rũ cái áo tế rồi xóc lên. Cái áo thụng the quyến hoa chanh nhuộm lam, đã ngả bạc, nhưng gấu áo, gấu tay còn đứng nếp.
Cụ hương vuốt áo như nói một mình, nhủ khấn:
- Lạy thánh xá cho, áo lễ làng ta lắm nào cũng mới nguyên như năm nào.
Rồi cụ nói với ông Đợ:
- Hôm kị thánh có chạ dưới lên góp lễ, cụ chủ tế mặc áo thụng đứng lên cho chạ anh chạ em người ta trông vào.
“Ối dào, mấy chục năm nay tớ vẫn giữ chân đánh trống tế đến bây giờ mới được lượt chân chủ tế Chẳng lạ gì cái chạ dưới mà phải trông vào trông ra. Bất quá lại khiêng cái long đình gẫy chân, có bó nhang đen, có nải chuối xanh để bàn thờ, với đấu xôi nén, năm nào cũng cỗ chay. Chẳng có gì mà phải lo, được rồi!”.
Lão Đợ quen miệng hay nói “được rồi”, mà cũng chẳng để ý được cái gì. Khi mọi người đã về, lão Đợ ngồi đờ ra một lúc. Lão cầm cái áo tế đưa lên mũi ngửi, lại nói “được rồi”. Lão không để áo ra mặt đất mà trải lên đống lá chuối khô vuốt từng tà áo, gấu áo nhăn nheo. Không biết áo tế đã bao nhiêu đời các cụ xỏ tay có chỗ lồng tay ào. Áo nhẹ như bấc, rộng thênh thang, giơ hai tay lên đỉnh đầu hạ hai tay xuống, những vạt áo lam mờ phất lên như làn gió mát. Lão có cam tưởng như ông quan, lại như ông thần.

Lão Đợ vẫn đứng nghiêm, hai bàn tay đặt trước bụng. Lão đương nhớ lại những lần ra đình xem tế.
Ông từ Hoả ở đâu đến, chưa thấy người đã thấy tiếng.
- Tế một mình à? Lão này tập tế. Rồi có người đến tập cho, ra đình thử mới hệt.
Lúc ông từ Hoả vào đến trước cửa, hấp háy mắt ngắm lại, ông từ kêu choang choác:
- Ối giời ôi, tế cởi truồng. Chết chết, phải tội, phải tội lòi con ngươi ra.
Cái lão nửa đời này chỉ được cái vu vạ. Lão vẫn đóng cái khố đuôi lươn đấy thôi. Nhưng mà nhìn lại, lão Đợ cũng giật thót mình. Lão trông xuống cái vạt áo thụng thưa như mành mành, rõ ra cái cẳng chân, cái đầu gối như gốc tre, cái ống nứa. Thế này thì khác nào chưa mặc quần! Ông từ Hoả ngồi xuống, rút đằng sau lưng ra một cái quần. Ồ cái quần mồi của ông từ vẫn mặc những ngày sóc, ngày vọng lên đình thắp hương. Ông từ nói:
- Phải mặc cái này nước được. Chứ đến chỗ lễ bái mà tô hô ra thế kia thì hàng chả ngả vậ đấy. Mặc thử xem nào.
Cái quần lá toạ của ông từ Hoả, quần vai gốc dấn bùn rồi nhuộm cậy, màu bùn màu cậy như cái mo nang, chó cắn phải gãy răng. Không bước của con cái đùa nào biếu hay là của làng may cho ta năm ông ta giữ chân thủ từ, ông từ Hoả chỉ mặc cái quần này ngày tết nhất và những hôm làng có việc mà thôi. Thế là ông từ tốt bụng với lão Đợ lắm.
Lão Đợ đút ống quần luồn cái khố vào trong, ông từ Hoả toan quát lên, nhưng lão Đợ đã mặc cả quần cả áo thụng rồi lão quat đầu xuống hỏi:
- Tôi mặc mất quần ông rồi, hôm làng vào đám ông mặc quần nào?
- Không phải lo, không lo.
Rồi ông sửa sang cái quần chùng cho ông Đợ. Ông từ Hoả đã vứt cái dây chuối khô làm dải rút. Ông thắt vặn hai lá toạ quần lại. Ông làm thoăn thoắt nhừ bác phó may thử áo. Lão Đợ cứ đứng giơ hai tay áo thụng, có ý kính nể vẻ tháo vát của ông từ Lão thủ từ lo việc lễ bái đã mấy năm, bắt con cá con mú thì lão vụng nhưng việc đèn hương lão co chừng khéo. Đằng nào cũng được được rồi.  Lão Đợ cười:
- Đứng ngay lưng lên xem nào?
Lão Đợ đứng ngay người. Hai vai áo thụng nhô ra, cong cong như cánh con dơi. Thành thử trông lão hốc hác to lớn, oai lạ. Lão Đợ không nhận thấy, thế nhưng ông từ Hoả ngắm nghía ông bạn già đóng bộ vào rồi cũng phải nghĩ thầm: ông này đứng chân tế chủ, lạy thánh mớ bái, thánh phù hộ đây.
Lão Đợ sốt ruột:
- Thế nào, xong chưa?
Rồi lão thõng hai bàn tay xương xầu gầy khô xuống cái vạt trước áo lam, nhăn nhó:
- Rặm quá, như có đàn rệp bò trong bẹn.
Ông từ Hoả cười khe khé:
- Cả đời có mặc áo quần đâu mà biết con rận con rệp. Đừng nói nhảm, việc đình chùa nhà thánh không dám khuất mắt đâu, người ta phải đập rồi phơi mấy nắng rồi đấy.
Ông từ Hoả kéo cái quần sồi lão Đợ đứng mặc đem gập lại, đặt cẩn thận xuống dưới cái áo tế trong tráp, lão Đợ cứ đứng trơ ra cho ông từ lột, lát sau như chợt tỉnh, lại hỏi lẩn thẩn:
- Ông từ cũng phải vào hậu cung thắp hương mà không có quần mặc thì...

Ông từ Hoả nhăn nhó vẻ khó chịu:
- Cứ lo con bò trắng răng, đã bảo đâu khắc có đấy rồi.
Cũng chẳng biết “đâu khắc có đấy rồi” là thế nào, lão đâm ra cuống, đến lúc lại nghe yên tâm nói thế, ông Đợ lại yên tâm vu vơ, lại thấy ông từ Hoả mới là tay tháo vát.
Bỗng nhiên lúc này, lão Đợ có ý mong thằng Nhõn. Đã biết là thằng Nhõn đi, năm nào đến kị thánh làng thì Nhõn cũng nhớ về. Nó bảo: “Ông thánh làng ta thiêng lắm phải về lễ tạ thánh mới cho ăn lộc”. Chả cứ nó, nhiều người đi làm ăn xa cũng về hội làng. Cái lệ, cái nết làng nước thế. Năm nay, lão Đợ được giữ chân chủ tế, lão càng có ý ngóng con. Mấy lần ra bến, lão Đợ lại nhắn người buôn bè đường ngược. Rồi chiều chiều tha thẩn ra bờ sông. Lão Đợ càng mong.
Cái ngày thằng Nhõn còn bé, ông lão cũng đã đi kiếm ăn trên rừng. Bây giờ Nhõn lại theo nghiệp ông. Vào rừng kéo gỗ mướn, đến vụ thì đẩy bè củ nâu xuôi bến Nứa dưới Kẻ Chợ. Con sông này chỉ lên một ngày đường nước đã sang đồng đất đường rừng. Xẩm tối, từ ngoài bến, hôm ấy Nhõn về. Cái đòn ống buộc cái bu đựng hai con gà trống. Những con gà, gà nhà làng Mường cũng chẳng khác gà rừng, mã tía, đuôi xòe dài như đuôi công, chốc lại cong cổ gáy the thé.
Từ bờ rào ngoài đường cái trông vào nhà, Nhõn đã oang oang:
- Lạy bố. Nhà ta có cái tráp đẹp thế kia.
Lão Đợ ra đến trước mặt Nhõn, thì thào quát khẽ:
- Làm gì mà réo như đánh mõ thế. Cái áo tế, nghe ra chưa, cái áo tế.
- Người lên bến trên ấy đã khoe cả vùng biết bố làm tế chủ rồi. Tối nay thịt gà cúng cụ.
Lão Đợ nói:
- Chỉ thiếu có cái quần, thì ông từ Hoả cho mượn. Phúc đức chưa.
Nhõn nói:
- Được rồi. Mai kia lên Mường nhuộm đôi quần vải chàm, cái quần chàm mới hợp với màu áo lam tế.
Ông lão như khoe, lại như đánh đố con:
- Lại còn đi tập tế, ối cái rắc rối quá.
Nhõn cứ nói dễ như bỡn:
- Không phải đi đâu cả. Tôi biết rồi. Ra ngoài ông đồ Bùn, hỏi các thứ. Trẻ con xem tế cũng đã thuộc cả. Hương.., bái... Cúc cúng bái... Năm nào chẳng thế.
- Lạy thánh, thằng này chỉ bố láo!

Nhõn cười ầm lên. Một mình Nhõn đã nhộn cả nhà.
Lão lại ngồi nhẩm từng thứ. Cứ lỉnh kỉnh mà rối cả ruột. Mà phải đi mượn chứ, ai lại đi sắm để ngày sau làm tế chủ, rõ rồ. Quấn cái khăn lượt, mượn đâu ra cái khăn lượt. Rồi mai kia thằng Nhõn lên ngược, may cho ông đôi quần chàm, à cái thắt lưng chàm nữa.
Còn đôi hia, các cụ tế chủ mọi năm đi hia, nhuộm bùn rơm rồi tết bện lại, như cái chổi lúa, thế thì trông không được mắt, không được. Không, không, ta sẽ làm đôi hia cho ra hồn.
Lão Đợ xuống ngắm nghía dưới bờ tre. Lão chọn một cây tre chết róc đã vàng ửng xác xơ. Lão cúi xuống tận gốc rồi đào bật cả chòm rễ cây tre chết đứng, bửa đôi ra.
Chỉ nửa buổi, đã đẽo xong đôi guốc gộc tre, gọi là đôi guốc, đôi giày, đôi hia gộc tre cũng được. Nó không cần quai, thúc vào mũi nó hùm hụp như cái gáo dừa. Nung cái đinh lên, dùi một bên một lỗ, như hai con mắt trổ ngoài mũi thuyền. Cái gót thì đẽo tròn, để nguyên cả tảng. Thế là được đôi hia vạn đại.

Xong rồi, lão Đợ đem vùi đôi hia gộc tre còn mộc xuống bùn ao.
Hôm ấy, trống đình đánh liên hồi từ sáng sớm. Tế ở đình có chạ dưới lên góp lễ - như mọi năm. Trẻ con các xóm đã nháo nhác từ hôm qua. Các bác hương, bác nhiêu, chú trai tuần mặc áo năm thân, búi tóc chít khăn xúm xít giải chiếu mộc, chiếu hoa khắp các gian trong đình, cả hai bên tả vu hữu vu, vào tận hậu cung. Mái lá tối như hũ nút, chỉ thấy những chấm hương đỏ ngòn, cây hương đen thơm ngào ngạt.
Các bác, các cô cũng ra đông. Cả những chị con mọn cũng vừa xốc con bú vừa chạy te tái. Đàn bà con gái không được vào đình, không được lướn phướn nhòm ngó chổng mông vào cửa đình. Tất cả đứng tụ lại thành đám ngoài gốc đa, xem cái long đình của chạ dưới vừa lên. Những bà già ở các xóm ra, chốc lại lẩm nhẩm chắp tay vái vào trong cánh cửa đình đã mở toang, khói hương lùa ra xanh rờn từng đám.
Ông chủ tế ra ông chủ tế, lão Đợ đã như đồng thuộc. Chả là lão cao lêu nghêu lại to xương, quai hàm, bả vai nhô, cái áo thụng phơ phất như cánh phướn nhà chùa. Lão chít cái khăn lượt vểnh từng vố Cái quần nhuộm cậy buông lửng xuống trên đôi guốc gộc tre lênh khênh như ông lão đi cà kheo. Cả đám tế chỉ mỗi một mình cụ chủ tế được mặc áo thụng. Rõ ra dáng ông tướng, ông quan hầu thánh, quan hầu thành hoàng.

Lão Đợ xách đôi guốc gộc tre vào đến sân đình rồi đặt xuống, đi vài bước làm phép, rồi lại tụt ra bước chân không.
Cái trống cái kê nghiêng đã nổi ba hồi một. Kiệu long đình của chạ dưới rước lên đã đỗ gốc đa ngoài mái hiên.
Nhõn hôm nay ăn mặc bảnh chọe, không như mọi khi cởi trần vác cái đòn ống đẩy bè.

Nhõn chít khăn lượt. Nhõn mặc chiếc áo nâu năm thân đứng ngay sau lưng ông chủ tế. Chẳng phải đã được cắt đặt thế nào, Nhõn cứ tự nhiên đứng lẫn vào với chân ba bốn người bồi tế. Tối qua, Nhõn còn dặn bố. “Bồi tế người ta xướng thế nào thì ông mặc kệ, ông cứ nghe tôi nói sau lưng ông mà làm. Người ta bảo bái thì tôi xướng quỳ xuống. Người ta bảo bình thân thì tôi bảo đúng chắp tay ngay người, người ta lại xướng hương thì nghe tôi bảo đứng lên, ấy cứ thế mà làm...
Người đông xướng: Tiên tước. Nhõn giục: Buộc lên. Lão Đợ ngay người thủng thỉnh bước lên. Người tây xướng: Độc chúc. Nhõn nói sau lưng bố: Đưa văn tế cho nó đọc. Cụ chủ tế cầm một tờ giấy lệnh gấp đôi, vái rồi đưa cho bác đồ Bùn đọc văn tế.

Giọng bác đồ lanh lảnh... Từ Liêm huyện, Hoài Đức phủ...
Trong đình, ngoài đình im phăng phắc. Một hồi trống, một câu xướng: Nghệ ẩm phục vị. Đến câu này, thằng Nhõn chưa giục, ông Đợ đã thuộc. Ông Đợ quỳ xuống. Hai người bồi tế hai tay bưng chén rượu và cơi trầu. âm phúc... Cụ tế chủ nhận chén rượu, vái một vái lên bàn thờ rồi ngửa mặt uống một hơi. Lại vái một vái, cầm miếng trầu ăn. Uống rượu ăn trầu, không biết từ lúc nào, ông Đợ đã thuộc ngay.
Lễ tất. Nhõn nói vào sau lưng ông Đợ: “Xong rồi”. Rồi lại nói: “Nhớ đi ra thì phải lùi, không được đi chổng đít vào. Thế thế”.
Lão Đợ đã biết rồi, lão Đợ lùi đúng đến chỗ lão xếp đôi guốc gộc tre.
Suốt buổi tế hương đốt nghi ngút trong hậu cung ra ngoài các án thư. Chốc chốc, tiếng trống rền rĩ từng hồi. Tiếng đông xướng tây xướng, tiếng độc văn, giọng kim giọng thổ ồn ào. Người tế, người xem tế từ trong ra ngoài, ai đứng đâu nguyên đấy, có lúc im phăng phắc. Trẻ con thao láo mắt nhìn vào Có tiếng trẻ bỗng khóc thét. Người mẹ bế xốc lên, chạy huỳnh huỵch.

Ông tế chủ đã xong việc đi sang gian bên, ngồi với các quan viên chạ dưới. Mỗi cụ xơi một miếng trầu rồi uống ba tuần rượu chay. Năm ngoái có con gà, ván xôi nhưng năm nay làng dưới đã lên có lời trước, chạ em đuối quá, không lo được, mà lệ làng thì phải giữ, quan anh đánh cho chữ đại xá. Ở đằng sau cái long đình có tiếng gọi:
- Ông tế chủ! Lạy ông tế chủ!
Lão Đợ ngẩn mặt ra nhìn mấy người khiêng kiệu. Lố nhố một bọn chân đất, vai trần, trai kiệu đóng cái khố bao. Lão Đợ nhận ra các quan viên chạ dưới. Lão nhớ mặt cái người già hơn lão, ngày ngày vẫn chỉ đào chuột, đi đơm cá. Những người bạch đinh, chân trắng này vẫn phải đi khiêng kiệu, cũng là giai già mới được cắt đấy. Hôm nào lão Đợ chẳng đụng mặt với các lão ấy cất vó, xách giỏ đi dưới bãi.
Lão nói:
- Cụ được chân tếch, hơn đàn em rồi, sướng nhỉ?
Sướng chứ. Nhưng mà bắt con chạch chấu dễ nhằn hơn, có cái be cay đấy không?
Lão kia cười khì khì, lôi trong đáy long đình ra một vò rượu.
- Lạy cụ, trông khăn áo đi hia gộc tre thế cũng biết là cụ khó nhọc mướt mồ hôi rồi. Cụ làm một ngụm giải cảm.
Lão Đợ, hai tay áo thụng xắn lên, bưng vò, ừng ực liền mấy hơi. Rồi quệt tay chùi mép. Lão kia cú ngóc lên nhìn rồi chắp tay vái: “Trông cụ có tướng lắm!”. Lão Đợ nói: “Tướng cướp à?”, rồi lại giơ cái ống tay áo lên chùi mép lần nữa rồi mới thủng thỉnh vào đám các chạ trong đình cũng đương tíu tít rượu suông.
Cái long đình bốn người khiêng. Bốn người chân trắng đi túc trực đám rước, lại lõng thõng về làng bên. Tuy năm nay chẳng bày vẽ nhưng chạ nào có cái lễ, thì phải có rượu rồi chẳng biết người ta biện rượu ra ở đâu, cả đến những người khiêng cũng lắc lư, như kiệu bay. Cái long đình gỗ mộc tả tơi như cái võng vong đám ma mà cũng bay, cũng bay. Chốc chốc trống đánh tong tong, tế trong đình rồi, bây giờ người bay kiệu bay.
Lão Đợ bảo ông từ Hoả:
- Đóng cửa đình rồi về vào nhà tôi nhé!
Ông từ Hoả cười khì khì:
- Xong ngay đây.

Ông từ Hoả cầm cái bầu khoá đuôi chuột to bằng quả mướp, đặt vào then rồi rút khoá, buộc thắt lưng. Thằng Nhõn đi trước, hai tay cung kính bưng một xâu những con ếch thờ của cụ tế chủ được phần. Nhưng lúc nãy Nhõn đã bẻ cả xương đùi cho những con ếch mất giãy. Cả mấy người đều chếnh choáng.

Lão Đợ, mỗi tay cầm một chiếc guốc gộc tre. Cái áo thụng đã cởi vắt lên vai. Ông từ Hoả rút cái áo thụng, gấp lại cắp xuống nách, nhưng lão Đợ không biết.
Lão Đợ nhìn mấy con ếch bóng nhãy thằng Nhõn xách trong cái lạt tre. Chốc nữa, những “Ông ộp” này được hoá kiếp đi rồi thành thần. Ông thánh làng ta đi bắt ếch rồi theo vua đi đánh giặc. Thành hoàng làng ta hàng trăm năm hàng nghìn năm có công rồi hiển thánh, bói ra khoa thấy lẫy lừng. Ông thành hoàng làng ta hiển thánh sinh ra cái hèm thịt ông ộp. Hôm hội nhà ai cũng có một giỏ ông ộp, cả làng ăn cỗ om, cỗ rán ông ộp. Ông thành hoàng làng cũng ăn tiệc ông ộp. Vừa hay, gió heo may nổi, con chạch chấu chúi xuống bùn, con ếch vào ngủ trong mà, ếch đi tránh rét nằm ngủ đông như cua, tha hồ nhà nào cũng có cỗ “Ông ộp”.
Lão Đợ đã về đến trước đống rơm. Lão ngước mắt lên mới thấy vàng mặt trời. Bỗng dưng lão trông thấy một ông râu quai nón đi vào. Ông lão râu quai nón đóng khố bao, lại đeo cái giỏ bên mông, tay chăm chăm con dao bảy sáng nhoáng ông lão đi nhanh như gió nổi dào dạt qua đống rơm, rồi lại biến mất.
Đích là người về rồi, người về rồi. Lão Đợ giật cái áo tế ở nách lão từ Hoả, cuống quít mặc vội. Lão lúng túng quên cả chít khăn.
Lão Đợ giục Nhõn:
- Nhanh lên! Đèn nhang lên! Ngài về! Ngài về!
Lão Đợ đi guốc gộc tre, mặc áo thụng nằm phủ phục xuống giữa cổng. Ông từ Hoả cũng nghển đầu lên rồi cũng thụp xuống sau lưng lão Đợ. Thằng Nhõn ra rút một nắm hương đen đặt vào đống rấm. Hai ông lão cúi móp xuống đất. Mắt ông lão trừng trừng nhìn lên rồi nhắm lại, hai người cũng nói lẫn lộn, loác choác, như ngủ mê, lại rì rào như khấn:
- Đấy, đấy Ngài cởi trần thắt lưng điều, ngài cầm con dao bảy, ngài chỉ dao về đằng kia, đưa quân ngài trảy về đằng kia. Nhõn ơi! Mày đem thả ngay xâu con ộp xuống sông, cho ngài lấy lương ăn. Ngài đang đánh giặc to lắm. Ông Hoa ơi, trong bếp còn mấy vò rượu ông khuân ra cho tôi. Ngài đi ngoài kia, đấy tiếng tù và, lại tiếng tù và... đấy đấy.
Hai ông già cứ nghi ngóp rót rượu ra bát lồi ừng ực uống, rồi lại ngóc đầu lên.  Ông từ Hoa ơi? - Đấy, đấy ngài...

Lúc ấy,  Nhõn đi ném cả xâu ếch xuống sông. Nhà tối om, Nhõn nhóm lên một đống củi. Nhõn cũng trông thấy loạn cả mắt trong ánh lửa nhảy nhót. Thánh đã biết ta bẻ hết chân những con ếch thờ rồi. Nhõn quỳ xuống, sợ dựng tóc gáy. Rồi Nhõn rà rà vào bếp cắp một hũ rượu. Nhõn lại chạy xuống bến. Cái bè củ nâu ba cây luồng vẫn nẹp đấy Nhõn cởi chão néo đẩy cái bè băng ra giữa dòng. Không biết Nhõn lại ngược hay xuôi Kẻ Chợ. Xâu ếch chết rồi. Nhõn sợ đánh mất xâu ếch của thánh. Nhõn vẫn thấy quân đi ồn ào trên kia.

Bây giờ thì xung quanh đã im ắng. Ông từ Hoa định về ngoài đình, ông vẫn nhớ đường. Người say bao giờ cũng nhớ đường về nhà, về đến nhà ngủ thiếp đi lúc trở dậy mới không biết ở đâu. Ông Hoả lại vẫn trông thấy cái áo thụng rớt dãi ọe ra ướt hết ngực áo lão Đợ. Thế thì ông phải đem về, giặt ngay. Chẳng có thì cái áo thụng ố ra, nó bị chuột cắn, nó bị gián nhấm, cơ chừng mà thánh vật chết, mà phải làng bị vạ.
Ông từ Hoả lò lồm cồm đến chỗ lão Đợ. Ông run rẩy lần tay cởi cái dải áo.
Lão Đợ nhắm mắt nói khao khao:
- Đứa nào?
- Từ Hoả đây.
- Thằng kẻ trộm à?
Ông từ Hoa rên hừ hừ:
- Áo thụng ố hết rồi phải đem ra ao đình giặt.
Lão Đợ ngồi dựng lên:
- Áo này áo thánh, tôi là chủ tế tôi phải rước áo về đình cho ông từ người ta giặt. Phải thế mới được.
Lão Đợ cởi trần, hai tay bưng cái áo tế lên trước mặt. Lão Đợ cũng không nhận ra ông từ Hoả vẫn đi sau lưng.
Đã ra tới đầu ao làng tối om. Nhưng con đường này, tảng đá, hòn gạch bờ bụi các người đi cả đời đã thuộc nhẵn.
Hai người say vẫn đi. Rồi lão Đợ giơ cái áo nâng lên ngang mặt, đưa cho ông từ Hoa.
Rồi lão Đợ quay về tay không. Hai ông lão đường đi đường về như đi trong đường mê mà ai cũng về được cả.
Đến ngõ, lão Đợ trông thấy cây rơm, cây rơm là đến nơi rồi. Lão lăn ra ngủ dưới chân cây rơm. Mờ sáng hom sau, ngoài đình viếng đập cửa chan chát:
- Từ Hoả ơi, từ Hoả!
Ông từ Hoả mắt nhắm mắt mở ra mở cưa. Nhòm ra, lão Đợ cái mặt rượu bây giờ nhợt nhạt bệch ra. Lão Đợ lơ láo thì thào.
- Mất cái áo tế rồi. Lạy thánh mớ bái hay là quân ngài lấy tôi gọi thằng Nhõn hết hơi. Mất cái áo tế mất...
Ông từ Hoả lẳng lặng vào, lão Đợ bước theo đến chỗ cái mái vảy chỗ cái sân đất bên hậu cung. Ở mảng sáng chỗ sợi mây chăng ra, cái áo thụng vừa được ông từ phơi lên, nước còn nhỏ giọt. Lão Đợ quỳ xuống vái cái áo tế. Ông từ Hoả nói như phân trần, lại như phàn nàn:
- Dớt dãi cả ra áo phải giặt ngay, không có thì phải tội chết.
Lão Đợ thở dài thượt một cái:
- Thế mà lo sốt vó từ gà gáy.
Lão Đợ dửng dưng bước ra, lão nói:
- Tôi phải ra sông bảo thằng Nhõn lấy cái nan xuống đìa kiếm mấy “Ông ộp”, hôm nay mới được làm cỗ kị thánh.

MÕ BỐN

Bác Bốn ở tận đâu đến không biết. Có người tình cờ trông thấy bác một mình từ cổng đồng đi vào. Cái khác mắt một chút, đương giữa ngày mùa, xóm làng quảy mạ, vác gầu nhộn nhịp, bác Bốn gánh, một bên hai hòn gạch vồ, một bên cái rọ lót rơm, trong đặt đứa bé độ lên ba. Đứa bé ngồi nhòm nhõm, hai tay víu mép rọ, mắt thao láo tròn xoe nhìn ra.
Đấy là bác Bốn và cái Muống. Bác nhặt được con bé ở gốc cây nào. Hay là vợ bác bỏ bác, hay là vợ bác chết, vợ bác ra làm sao, nào ai biết được ngọn ngành cái người đàn ông quảy đứa bé với hai hòn gạch vồ cho cân, người ấy đi đâu, đến đâu. Người ta ai cũng có cái phận, cái may cái rủi, cái được, cái hẫng, bác Bốn cũng thế. Đầu làng có con sông chảy qua, những gò rác lù lù nhô lên mấy cái cọc cột phơi lưới tôm hay là cái khung mái lều chợ. Thế là bác Bốn thấy được, dẫu sao cũng trông thấy cái sống cái ăn. Bác Bốn dễ tin vậy. Tre pheo bốn bên xanh ngắt. Trong dòng nước, trong bùn có con mài mại, con lươn, con trạch. Thì ta đan cái nơm, cái đó, thì ta vót cái cần câu. Bác Bốn đặt gánh rọ. Bác Bốn ở lại chỗ ngoài cổng đồng. Nơi hoang vắng đầu đồng, trong làng chẳng nhà nào dám ra chỗ trống không ở với ma đói cô hồn. Bác Bốn cắm que như đánh dấu chỗ. Rồi vào tam quan đình tìm chỗ ẩn trong chùm rễ đa xù xì cái đã.
Bác Bốn nhòm vào cửa đình. Thấy ngoài bậc thềm một ông lão búi tóc củ hành chon chỏn, gầy lõm hai xương bả vai. Ông lão đương cắm cúi đan cái lờ cá.
Bác Bốn nói to:
- Lạy cụ từ, cụ cho bố con cháu ngả lưng nhờ gốc đa ngoài kia...
Ông lão vẫn giơ tay giữ cái lạt. Bác Bốn đã trở ra, ông lão mải làm - hay là lão nghễnh ngãng. Bác Bốn cũng chỉ ở tạm gốc đa tam quan một đêm rồi ra gò rác cắm cái cọc và bác đi làm mọi cái bác đã định hàng ngày. Bác đan đó, bác tết ống lươn. Vơ vẩn dần dà rồi cũng kiếm ra miếng ăn. Năm tháng đi qua không đếm được, chỉ biết mới ngày nào cái Muống còn ngồi trong rọ, chẳng bao lâu Muống đã nhỉnh dần, đã đẹp gái. Rồi cứ chập tối cái Muống đi đặt ống lươn trong cửa cống rồi cả ngày Muống ra bờ đìa thả trùm hớt tôm muỗi. Bác Bốn đã thông thuộc các xóm, trong làng, các nhà ở túm tụm vào nhau, cả làng tứ phía vây um tùm những khoanh tre kiên cố chống cướp. Ngoài kia, dọc sông chỉ có cái chợ hôm chốc lát. Không một cái lều giạt đến. Đằng cổng đồng có cái bãi tha ma của làng.
Cứ đến tháng ba, làng cúng thần có hội lệ. Làng thịt trâu chia cho các giáp. Xóm đình có một giáp, chiều hôm trước, trương tuần đã dắt về một con trâu què, đem buộc vào búi rễ đa.
Bác Bốn hỏi:
- Bao giờ thì xóm ngả trâu?
Trương tuần chép miệng:
- Tối mai thui.
- Đã gọi thợ thui chưa?
Trương tuần lại chép miệng:
- Vẽ chuyện, chúng tớ mổ lấy.
Bác Bốn cười, xun xoe nói:
- Cho tớ một tay. Chỉ xin công một cái vó què thôi.
Trương tuần nói:
- Trưa mai vật trâu, thui ngay ở bãi cỏ bờ sông này. Làm được không?
- Đã bảo tớ là đồ tể mà.
Trưa hôm sau, bọn trai làng khuân ra tấm ván, con dao bầu, cái chã đựng tiết, lại cả mấy gánh rơm chất lên. Mọi người xúm lại xem bác Bốn mổ trâu đông như đám trong sân đình đang đào lỗ cắm cờ kỳ, đánh trống ngũ liên giục giã râm ran.
Có một lũ kéo ra bờ sông hóng thuyền phường chèo Bắc.
Bác Bốn buộc tròng lọng trão vào rễ đa, kéo một cái con trâu ngã chỏng bốn vó. Cái rọ buộc mõm khuýp sừng trâu xuống, bác liếc má dao lên cỏ, rồi chọc tiết, con trâu rống ò ò. Giội nước, cạo lông, làm lòng xong đâu đấy, bác Bốn đội cả con trâu đã mổ phanh lên giữa bãi, chất rơm thui. Một mình bác làm tất, gọn như mổ con ếch.
Hàng giáp được chia thịt, ai cũng khen thợ thui khéo, các mảng nách chân, khoeo đùi, khoanh cổ chín vàng đều như nhau. Cỗ trâu các giáp không bao giờ được ngon mã thế.
Một hôm, cụ từ ra bảo bác Bốn:
- Làng đương khuyết chân mõ, cụ chánh cho gọi mày đấy. Bố con sướng rồi, từ giờ được vào ở sau đình, khỏi lo chạy mưa nắng ngoài bãi.
Từ đấy, bác Bốn làm chân mõ làng, mõ Bốn. Mõ Bốn vẫn chạy vạy sấp ngửa đơm đó, chợ búa như mọi khi, chỉ thỉnh thoảng quét rác, mở cửa đình cho cụ từ. Làng có việc thì đánh cái mõ tre đi rao các xóm... Chiềng làng nước... Chiềng làng chiềng chạ... Bác Bốn cũng không nghĩ trong đời lại có khi đi làm, mõ nhưng cũng chẳng sao. Người ta làm gì mà chẳng được.
Có điều Cái Muống đã lớn như thổi. Có hôm bố bận chạy việc làng, Muống xách giỏ cua, mớ ốc, một mình ra chợ chiều, mừng nó đã đỡ đần được. Nhưng bác Bốn có nỗi lo khác. Cái lo âm thầm mà nặng chịu, không như cái lo đói. Trai gái đến tuổi thì bố mẹ phải lo toan dựng vợ gả chồng, làm con người thì phải lần lượt đến những đận như thế.
Nhưng mà cái thân con cua con cáy bây giờ lại cõng cái đời thằng mõ đi hầu thiên hạ thì tính sao được vuông tròn cho thân mình, khi cái con người ta sai đi đâu được đến đấy. Bao nhiêu năm đến ngụ đất này bố con bác Bốn chưa hề được bước chân vào cửa nhà ai.
Nhiều khi, bác Bốn với cái Muống đi chợ - chỉ ở ngoài chợ thì mới không ai biết ai, lại có khi sang tận chợ tổng bên kia. Chợ vãn người hay chợ đông, đi như hóng cái may mà cũng chẳng khi nào thấy gặp phúc bắt được của rơi. Nhưng mà cái Muống thì đã nhớn rồi. Nghĩ vu vơ càng lo. Nhớ những năm 1940, tôi lại nhớ đến Khổng Văn Cu(1) - thật tên cái anh mõ ở làng đồng chiêm thế, đi làm mõ mà có họ với ông Khổng Tử, người mõ cuối cùng làng Nghĩa Đô. Anh Cu đã đứng tuổi, vóc dáng bảnh bao, khoẻ mạnh thế mà cũng chưa bao giờ kiếm được một mủn vợ.
Lại nhớ dạo ấy thường về chơi quê Nam Cao ở làng Đại Hoàng, làng vùng ven sông cuối tỉnh Hà Nam. Chúng tôi nghe chị Nam Cao kể chuyện con gái lão mõ làng này còn dễ trông hơn nhiều cô gái đương thì trong làng. Có hôm tôi ra bờ sông, qua lều nhà mõ, thấy một cô gái mảnh dẻ, trắng trẻo mặc áo cánh chồi vấn khăn nâu non đỏ hoe như con gái làng hay chít khăn đỏ, cô ngồi trước cổng bán mía cây. Chị Nam Cao bảo cô ấy đấy. Đã ngoài ba mươi rồi, chắc là ế, con nhà mõ mà. Truyện ngắn Tư cách mõ của Nam Cao viết bấy giờ không đả động đến người con gái cao số ấy, nhưng rõ ràng anh miêu tả và lý sự về những thân phận người đi làm mõ.
Làng Hạ còn một tối hát chèo ngoài sân đình đêm nay. Dường như các xóm đổ cả đi xem kẻo rồi lại phải đợi sang năm đến dịp mới lại có chèo hát. Nhiều người rốn đứng đến tan chiếu hát gần nửa đêm.
Đương còn trăng cuối tháng. ánh trăng suông quyện sương mờ bàng bạc trên bóng lăn tăn cành tre non mới nở lá. Người từ cánh đồng vào đầu xóm cười nói xôn xao. Chẳng biết trong đám có những bọn ở đám xóc đĩa cuối xóm ra, có những tay đôi từ chặp tối đã lẻn xuống bờ tre bây giờ tan hát mới nhập nhoà lẫn vào đám người về các xóm. Người ta còn đương bàn tán, bắt chước và kể lại những đào kép vừa ra vai. Nàng Châu Long con mắt chín lừ. Chú tiểu đồng cầm roi giả cách dắt ngựa khéo quá. Ông Lưu Bình vinh quy xênh xang bước vào cổng nhà quan huyện họ Dương...
Bỗng nhớn nháo một đám đằng kia chạy lại.
- Những tiếng cười nói, bỗng hoá ra những tiếng kêu hốt hoảng. Cái gì, cái gì thế? Kẻ trộm à?
- Quân ăn sương khéo chõm vào lúc cả làng vắng nhà?
- Không, không...
- Thế thì cái gì?
- Giai gái!
Có một người cất giọng hát tuồng:
- Giai trên gái dưới ra sao nào, quân bay!
Tiếng cười hô hố.
- Không phải! Không phải!
- Thế thì cái chó gì mà ầm làng lên thế?
- Bắt được con nhà hương Sạ với cái Muống.
- Cái Muống nhà mõ Bốn ấy à?
- Lại còn cái Muống nào nữa!
- Thế thì loạn rồi. Đem trôi sông thôi.
Cả xóm người chạy lộn ra ngoài điếm canh. Sau bờ tre đã rừng rực ánh đuốc. Chen vào trong điếm, rõ ràng trông thấy mỗi bên cột trói đứng một ngòi. Thằng Sạ mặt xanh lét, cái Muống tóc bết kín mặt, đứt một bên cổ yếm váy bê bết bùn, hai đứa lấm như vùi chắc chúng nó trốn xuống đìa nước, mới bị lôi lên.
Lệ làng không có điều khoản cấm trai gái son rỗi tằng tịu với nhau. Chỉ ngả vạ đứa lộn chồng, đứa chùa hoang. Những dính với nhà mõ lại là cái điều xấu xa xưa nay không ai dám phạm. Dây đến đồ mõ, đến đứa ngụ cư cha căng chú kiết thì tội nặng tội nhẹ không biết đến thế nào. Tuỳ ở quan làng. Thế nhưng cũng lại trương phiên khán thủ bắt tội bắt vạ thế nào cũng được lắm khi chẳng phải bận đến các quan làng.
Ấy thế vẫn cứ phải hỏi lấy lệ. Ngay lúc ấy khán thủ vào nhà ông chánh. Ông chánh ở cuộc rượu tan hát về vừa ngất ngưởng nằm lên cái tràng kỷ. Ông chánh hờ mắt mơ màng nghe người khán thủ lẩm bẩm "trình cụ". Ông chánh ngóc đầu lên quát:
- Làng này bắt lính còn chưa xong bắt ngay thằng Sạ đi chuyến này. Được được, con đĩ nhà mõ Bốn thì đem trôi sông, tống hẳn đi cho khỏi bẩn làng. Cút về mà làm thế.
Tuần tráng lục đục hối hả suốt đêm.
Bác khán thủ cầm gậy đến ngõ nhà ông hương, đứng ngoài cổng, hét vào:
- Trên huyện truyền thằng Sạ phải lên ngược đi lính chuyến này. Ở nhà lo xống áo lương ăn ba tháng cho kịp ngày đợi lên huyện.
Bác mõ Bốn ở nhà thì chẳng biết gì cả.
Nhà ở sau đình, trước sân có chiếu hát mà bác rượu vào đã đi nằm từ chập tối.
Tuần đinh đẵn tre, chẻ lạt, chặt cả chục cây chuối đóng bè. Phải thả bè cho nó trôi sông từ mờ đất, không được để người nào trông thấy. Mấy ông chức dịch đã chạy ra quát như thế.
Gà gáy sang canh ba. Mấy người tuần trở dậy vào điếm bật hồng đốt đuốc lên. Chỉ thấy hai cái cột chơ vơ. Những nút thừng rơi loằng ngoằng dưới mặt đất. Chúng nó cắn đứt cả dây thừng.
Cái Muống, thằng Sạ đã trốn mất.
                                         ***
Nửa đêm kia có hai bóng người len lén vào tam quan trong đình. Nén hương đen cả đêm thơm thoảng như mùi mật. Đĩa đèn dầu lạc đã lụt bấc còn leo lét xanh loè. Cụ từ ngồi tựa lưng vào cột, không biết cụ thức hay cụ vẫn quen ngủ ngồi.
- Lạy cụ từ.
Tiếng rè rè hỏi lại:
- Đứa nào?
- Lạy cụ từ, bố cháu đâu?
- Thằng mõ Bốn hả?
- Vâng ạ.
- Nó ra nằm tha ma ngoài cổng đồng rồi.
Giữa cơn mưa rào ào ạt đầu mùa hạ, thấp thoáng những đốm ma trơi xanh lơ trên các ngôi mả mới ngoài cổng đồng. Hai bóng người quỳ trong cơn mưa nặng hạt, chắp tay vái vào bóng tối bãi tha ma.

KHU DU KÍCH 99

Khu du kích chống Pháp trong kháng chiến có mật danh là 99. Một vùng rừng núi hiểm trở bắt đầu từ huyện Phù Yên, Bản Thải xuống qua sông Đà quanh đến bến Pac Lừm và Pac Ngà. Vùng Pac Lừm và Pac Ngà bây giờ ở trong vùng sẽ xây dựng thuỷ điện Sơn La. Khi ấy, giấy tờ trong giao thông thường viết tắt hai chữ PP, người đọc quen nhầm là 99 rồi thành tên. Đường giao thông bí mật khu 99 từ Phú Thọ, Yên Bái vào Sơn La, Lai Châu suốt qua hậu địch Tây Bắc, các làng và các chiến khu người Mường, người Thái, người Dao, người Mông.
Bấy giờ là năm 1952 bộ đội ta đương tiến quân vào giải phóng Tây Bắc. Trận đầu tiên tiêu diệt quân khu Nghĩa Lộ rồi sang giải phóng Phù Yên. Đại quân tập trung ở cửa Vạn, vượt sông Đà tiến sang châu Mộc.
Các khu du kích tấp nập đi tải lương, tải đạn, tải thương phục vụ mặt trận. Là phóng viên báo, tôi cũng tham dự mọi công tác phục vụ chiến trường. Tôi đương đi đôn đốc dân công trên các làng người Mông trong những rặng núi khu du kích 99. Suốt ngày, máy bay địch bắn phá, ném bom hai bên sông trong khi ở trên núi người Mông ăn Tết Nguyên Đán.
Theo phong tục cái Tết đầu năm của người Mông thật ngày rộng tháng dài có khi hàng tháng. Bấy giờ trên nương đã gặt xong, thóc và ngô đã cất vào kho rồi. Thế là cả xóm cả làng nhà nhà mổ lợn làm cỗ uống rượu, các đầu làng rộn rã những người chơi, thổi sáo, nhảy khèn, đánh pao. Những cuộc vui và những đám cỗ được ăn lần lượt từng nhà. Hôm nay nhà này ăn Tết, ngày mai đến lượt nhà khác lại mời khắp xóm đến, ăn thịt uống rượu rồi vui chơi cả ngày cả đêm cho đến khi ngoài trời có mưa mới, các ruộng quanh núi ngập trắng nước, bấy giờ mới cày nương làm mùa. Và bấy giờ mới hết Tết.
Nhưng cái tết năm ấy khác thường. Máy bay địch bắn phá suốt cả đêm. Trong đêm tối âm u, máy bay điên cuồng thả bom. Cứ chỗ nào có ánh lửa là bom dội xuống. Nhưng đêm rét buốt giữa rừng thì không thể làng xóm nào vắng được lửa sưởi những cây gỗ pơ mu làm củi sưởi thơm ấm khắp nơi. Bom ném xuống nhà cháy rừng rực. Cả các xóm Xín Vàng, Háng Chú, chớp bom sáng trắng vách đá.
Ngoài dốc đầu núi, từng đoàn ngựa thồ người dắt lùi lùi xuống. Những con ngựa thồ đi lặng im trong chớp bom như sét đánh. Người ngoảnh lại không biết lửa bom vào rừng hay lửa cháy nhà. Tờ mờ sáng bỗng nhiên im phăng phắc. Không nghe tiếng đàn vượn trên núi gọi sáng như mọi khi. Bốn phía sương đùn như mây trắng mù mịt. Bỗng tiếng chó sủa tang tang. Trong các khe cạn, người trốn bom lũ lượt chạy ra. Cùng lúc ấy, đàn ngựa bên mép núi đá lũ lượt đi lên. Những con ngựa trễ tràng trên lưng chất cao những bao tải không còn một túi ngô, bây giờ là những cái tải xếp không, dẹp đét, mấy người rúc vào, ngồi núp trong tải tránh rét, những con chó cũng ẩn vào đấy. Chó sủa lắc rắc trong bước chân móng ngựa vấp đá.
Suốt ngày hôm ấy không một tiếng bom.
Được tin bộ đội đã sang sông, nửa đêm chiếm được đồn Bản Hoa, đại quân đã tràn qua châu Mộc rồi.
Ngoài đầu xóm, các sân chơi pao, chơi quay có người đãra lúi húi dọn đá nham nhở. Người già nhìn lên trời, nói:
- Nước mưa chưa về. Ta lại ăn Tết nốt thôi.

CÁI GIẬM

Mới năm nào, các vùng Nghĩa Đô, Cổ Nhuế còn là làng mạc và cánh đồng. Những gò luống nhấp nhô, con đường đất đỏ, hai bên lưa thưa những cây sòi, đằng xa, có cái cầu ngói dưới bóng cây đề cổ thụ. Người trong làng qua lại thưa thớt. Mùa đông tới gió bấc hun hút thổi trên cánh đồng vắng lặng, có đàn quạ tránh rét bay qua.
Bây giờ đã khác. Bốn phía, không còn đâu những chân tre đồng cổng cuối làng, những xứ đồng cao khi mùa đông tới, những bãi lá khúc mọc hoang nở hoa vàng như hoa cải trong vườn, cái lô cốt nửa chìm nửa nổi của Pháp của thời chiến tranh còn lại mọi khi thấy lù lù ở bên cạnh đìa nước xanh om những đám lá ngổ bây giờ chỉ còn trong tưởng tượng.
Nơi mới mọc lên la liệt những dãy nhà năm tầng, người ta gọi là những khu tập thể. Đó là những phố mới, người ghép đến ở thành tên phố, tên phường có các cửa hàng, cửa hiệu và những chợ cóc, chợ xanh. Quang cảnh tương tự thế này hầu như ở chỗ nào cũng mọc ra ở làng chài Vụng Quất bên biển Đông, ở cửa Chân Mây miền Trung, hay ở Long Hải, ở Mông Dương xa xôi... Buổi sáng, cả quãng hè phố thành những nơi bán cái ăn sớm. Chẳng còn mấy ai ăn cơm rang, cơm nguội ở nhà, người không ra hàng thì mua về, những bánh cuốn, bún ốc, phở, xôi ngô, cháo sườn và đến cả cà phê cũng cho vào túi ni lông mang về được đủ thứ vừa mọi túi tiền, hợp với người già và trẻ con. Cách sinh sống và mọi cái thay đổi theo hoàn cảnh.
Buổi chiều, ra quán bia hơi. Những hàng bia hơi mậu dịch phải xếp hàng rồng rắn đã biến mất từ nhiều năm nay. Bây giờ xó nào cũng có bia hơi. Người ta bảo cái lúa hublon làm men bia tận nước Tiệp nước Đức bây giờ đem sang sẵn lắm. Mà chẳng cần thế, nhà máy hoa quả đóng hộp ở Bạch Mai cũng làm được bia hơi cái men những qua đu đủ, quả chuối, cả sắn, cả ngô cũng thay được men hublon. Tôi đã được uống các thú bia ấy. Không phải chỉ uống bia suông với củ lạc, cái nem chua mà có cả bè bạn vui, gọi mang đến cả thịt chó thành bửa nhậu đàng hoàng. Sáng và chiều, các phố mới ở cánh đồng xưa đều nhộn nhịp tấp nập, lâu lâu mới ra đường thấy ngỡ ngàng.
Ấy thế mà cũng vào lúc chiều tà tà đi qua đứng lại thấy trước mặt những bọn các cô gái đi đánh giậm không biết ở đâu về hay ở truyện cô tích ra. Hơi bia làm mắt hoáng tưởng tượng thế thôi, thật thì các cô đi đánh giậm ở nhùng vùng đầm ao còn sót lại bên cạnh những nhà mới xây ngăn đằng kia. Những cô gái trong làng đi đánh giậm về, ra bán chợ chiều. Mỗi cô vác trên vai cái giậm, và cái giỏ con tép, con rô ron, con nhái thì đeo thắt lưng cạnh sườn. Hệt như ngày xưa cái cán giậm nhô ra đằng trước phơi vắt cái áo hoa cộc tay cái quần thâm lúc nãy lội bùn. Khi lên bờ, các cô đã thay cái áo sơ mi trắng, quần phăng hồng. Những vẫn vai vác giậm, đeo giỏ. Cả chục cô lẳng lặng đi.
Nhìn quần áo thì ngỡ là mới, nhìn cái giậm và bộ quần áo lội nước phơi trên cán thì tưởng lại gặp những cô nàng trong kỷ niệm mấy chục năm trước. Ai biết quanh đây vẫn còn lạch nước, có ruộng trằm, người trong làng vẫn đi mót đi bòn cái ăn như thửa nào. Có các quận các phường đô thị mới lan ra quanh thành phố vẫn còn thấy những cảnh trái ngược tương tự. Những cái đầm cái chuôm được quây lưới ni lông người ta nuôi ốc mít bán cho các hàng ốc hấp, bún ốc ở Tây Hồ. Còn bao nhiêu người từ Thanh Hoá ra, ở Thái Bình lên ngày ngày xuống hồ Tây mò hến, xúc ốc bươu ốc vặn, đêm đến trên vỉa hè các quán nhậu chân gà nướng, có cả ốc luộc chấm muối gừng nhắm rượu. Những cô đi đánh giậm ở những vùng nước còn lại ở đầm Sét, đầm Linh Đường. Và suốt đêm, những chiếc ba gác người đẩy người làm bò từ Hà Đông ra, trên chất những chiếc bồ nan lồng vào nhau chồng chất dài ngoằng như những khẩu đại bác “vua chiến trường”. Xe không nặng nhưng kềnh càng không được đi ban ngày, đấy là những cái bồ, cái bịch, cái nan làm cho ngoại thương đựng dứa, đựng chuối và hoa quả xuất khẩu.
Có khi nào bạn chợt thấy những chiếc xe đạp sau lưng chất một gò ngất nghểu những cái ống đánh lươn, cái lờ bẫy cá diếc, xe đạp qua các phố dọc dài nhốn nháo những người những xe bên hồ Hoàn Kiếm. Nếu để ý chắc là ngày ngày vẫn thấy. Cái phong lưu hôm nay mới chỉ là ăn xổi. Giàu nghèo và cũ mới còn lổn nhổn khắp nơi.
(Tạp văn, truyện ngắn Tô Hoài, nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004

NGHÈO-NHẤT LINH

Mình đã đỡ chưa?
Thấy vợ ngồi dựa vào tường, mắt có ngấn lệ, Trọng không biết là nàng khóc hay vì tại trong nhà đầy khói. Chàng thở rất khó, ngồi ghé vào đầu phản, hai khuỷu tay chống nặng nề xuống đùi và bàn tay bỏ thõng, có vẻ mệt nhọc. Tuy trời nóng như hâm, mồ hôi ra ướt đầm áo trong mà Trọng cũng không buồn cởi áo bành tô xanh đầy vết dầu xe ôtô.
Nhìn qua cái mành rách sang góc nhà bên kia, Trọng thấy bác Phác, người đàn bà bán hàng rong ở chung với chàng cũng đương ngồi, hai khuỷu tay chống vào đùi có vẻ ngẫm nghĩ. Trọng thấy buồn cười nên vội vàng ngồi khác kiểu đi: ở trong một cái nhà lúc nhúc hơn mười gia đình, lúc ăn lúc ngủ, ai cũng nhìn thấy ai, nên Trọng luôn luôn khó chịu, cử động không được tự do.
Người đàn bà đột nhiên chửi lên mấy tiếng, rồi tiếp theo một tràng dài:
- Đôi guốc bà vừa để đây, ngoảnh đi một cái, hừ đã mất biến! Vật thứ không là bao, nhưng mà tức chứ! Hừ, ở lẫn với những quân ăn cắp!... Xin đừng ai chạnh lòng. Tôi mất của thì tôi nói, chẳng ông bà nào cấm được tôi.
Trọng biết là người ấy nói đã lâu rồi, mà nói câu ấy có lẽ đã hơn vài chục lượt. Họ vừa ngồi nghỉ cho đỡ mệt, nay lại bắt đầu. Vì chiều nào, những người ở trong nhà cũng tìm dịp to tiếng với nhau, nên chàng không để ý. Nhưng đến lúc thấy người đó mon men lại gần chiếc mành, cúi nhìn xuống gầm cái giường của chàng, vừa nhìn vừa nói: "Vụt một cái biến mất, nhậy thực!" như có ý đổ cho vợ con chàng lấy đôi guốc, thì chàng không giữ được giận, muốn chạy ra nắm tóc người ấy dúi xuống thềm gạch cho bõ tức. Chàng lẩm bẩm:
- Hừ, quá lắm. Dám nghi cho mình ăn cắp.
Nhưng chàng vẫn ngồi yên: hai tay nổi gân bám chặt lấy thành giường. Chàng trấn tĩnh lại ngay, tự bảo:
- Mình hãy còn giữ những thói của cuộc đời sang trọng cũ. Nếu cứ tức giận họ thì tức giận cả ngày.
Quay lại, thấy vợ vẫn ngồi yên trong góc giường. Trọng đoán là nàng không biết chuyện. Bảo thấy chồng nhìn mình chăm chú, nên nhếch mép hình như nàng phải cố hết sức, phải khó nhọc lắm mới nhếch nổi một nụ cười đón chồng.
Trọng đau đớn nghĩ đến rằng vợ chàng con một nhà gia thế, lấy chàng không phải vì tình yêu, cũng không phải vì chàng có tài cán, mà chỉ vì cha mẹ nàng ham cái gia tài của chàng. Hơn sáu năm ở với nhau, lúc nào chàng cũng nhận thấy lòng khinh rẻ của vợ đối với mình, mặc dầu lòng khinh rẻ ấy rất kín đáo. Ngờ đâu nay nàng ngồi kia, mình mặc chiếc áo cánh vá vai, chiếc quần lĩnh bạc màu, gày gò, ốm yếu, ở lẫn với những người nghèo cùng mạt trong xã hội, mà lại còn nghèo hơn họ.
Xảy ra như vậy chỉ vì mấy cái tai nạn dồn dập đến một cách bất ngờ. Chàng không biết lo xa, quá tin ở của cải mình. Sau khi gia tài khánh kiệt, chàng sống vất vơ vất vưởng, ngửa tay xin anh em quen thuộc mỗi người một ít để nuôi vợ, nuôi hai đứa con đẻ và hai đứa cháu bồ côi cha mẹ mà chàng đã nhận làm con nuôi. Như thế được mấy tháng, sau không ai giúp nữa, chàng đưa vợ đến đây, thuê một cái giường năm hào một tháng và đã kiếm được việc làm ở một nhà chữa ôtô.
Một người gánh nước đi ngang qua, nước bắn vào bàn chân làm chàng giật mình. Chàng nhìn cái nền gạch long lở ướt sũng nước, nhìn những làn khói tỏa ở các bếp hỏa lò ra, lẩm bẩm:
- ở thế này chỉ vài tháng là ho lao.
Trước kia, khi còn có nhà cho thuê, chàng chỉ cốt thu về nhiều tiền, không bao giờ cho thế là vô nhân đạo. Nay chàng mới nhận thấy một cách rõ rệt, tuy rằng cách cho thuê ấy đã giúp chàng có nơi trú ngụ bằng một giá rất rẻ.
Chàng cần đến, nhưng chính vì sự cần ấy mà việc cho thuê như vậy là độc ác. Chàng ngẫm nghĩ:
- Nếu phen này ta có nhà cho thuê thì ta nhất định bỏ.
Chàng mỉm cười nói:
- Phen này!
Tự nhiên chàng thấy vui vẻ và nghĩ thầm:
- Bây giờ mình đâm ra có lòng tốt, lạ chưa.
Chàng nhận thấy chàng trước kia tàn ác, mà tàn ác chỉ vì vô tâm và ích kỷ. Bây giờ chàng mới biết không ai muốn giúp mình lúc nghèo, chỉ vì lúc giầu mình không nghĩ đến ai. Chàng sung sướng, mà cái sung sướng ấy mới lạ lắm, chàng thấy vụt có cái quan niệm cao quý về nhân phẩm của mình. Trọng ngửng lên nhìn vợ, mà lần đầu chàng nhìn vợ không có ý thẹn lại có vẻ hơi kiêu. Mấy đứa con chàng ở ngoài chạy vào, cười nói, đứa nào cũng thở hồng hộc. Trọng âu yếm hỏi:
- Các con đi chơi đâu về?
- Chúng con đá bóng ở bờ sông vui quá.
Trọng nhìn những gò má hồng hào, lẩm bẩm:
- Chỉ ít lâu nữa là hết cả hồng.
Thấy một đứa kêu đói, chàng mới sực nhớ đến giờ nấu cơm. Chàng cho tay vào túi áo, vân vê ba đồng hào một cách âu yếm, vì ba hào chỉ ấy là tiền của chàng kiếm ra lần đầu tiên. Nó lại quý nữa là vì không có nó tất chàng và vợ con phải nhịn đói.
Tuy trước kia giàu có hàng nghìn, hàng vạn, mà bây giờ chàng mới thấy mình "có tiền". Chàng kều mấy hào chỉ ở đáy túi vào lòng bàn tay và nắm lấy thật chặt.
+
+ +
Trọng thấy tiếng guốc của mình nện trên gạch hè đường kêu to một cách khó chịu vì chàng đi guốc chưa quen. Chàng tưởng như tiếng guốc xui bảo mọi người để ý đến mình. Trước khi rẽ vào một cái hàng cơm, chàng tự nhiên quay đầu nhìn lại phía nhà ở, có vẻ một người vụng trộm. Chàng rẽ vào đấy ăn quà sáng để lấy sức làm việc, trong khi vợ con chàng phải nhịn. Chàng không muốn ăn ở nhà một mình trước mặt vợ con.
Vào hàng, Trọng mua một xu xôi đậu đen, vì chàng đoán thứ quà đó no lâu. Chàng lấy đũa xắn từng miếng chấm muối vừng rồi nhai thong thả, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ, nghe ngóng. Chàng gật gù lẩm bẩm:
- Càng nhai lâu càng thấy bùi miệng.
Bà hàng tưởng chàng khen xôi của mình thổi khéo, liền mời:
- Bác ăn xu nữa!
Trọng không ngờ xôi đậu đen lại ngon đến thế; chàng đặt đũa xoa hai tay với nhau, có vẻ khoan khoái, bảo bà hàng: - Bà cho tôi thêm một xu. Bà lấy ở đáy rá cho nóng.
Trọng lấy làm tiếc rằng một thức ngon thế này mà ăn vụng trộm, vợ con không được hưởng. Chàng cảm động nghĩ đến những cái vụng trộm khác, trốn vợ đi hát mở từng chai sâm banh, và lấy làm lạ rằng những lúc đó sao không áy náy bằng khi ăn có hai xu đậu đen chấm muối vừng rang mặn.
Công việc của chàng cả ngày hôm ấy là nằm dưới gậm ôtô thay "láp" xe. Trên má chàng, những giọt mồ hôi hòa với dầu máy từ từ chạy xuống tai, xuống cổ. Mới đầu, chàng tưởng không sao chịu nổi, nhưng sau chàng nghiệm ra rằng sự nóng bức càng tăng lên, sự khó chịu càng bớt dần. Nếu chàng là một người giàu có đứng ở ngoài, tưởng tượng phải làm việc như vậy, tất ghê sợ lắm, cho cuộc đời là khốn nạn, không đáng sống, không có nghĩa lý gì. Trước kia, chàng cũng tưởng thế, vì chính chàng giàu có; trước kia không thiếu thứ gì, không bao giờ phải mệt nhọc đến thân mà không lúc nào chàng được yên tĩnh, luôn luôn tự hỏi sống để làm gì, và cố tìm một cái nghĩa cho sự sống của mình, của mọi người mà không tìm ra.
Bây giờ cái băn khoăn ấy đã mất hẳn. Chàng thấy công việc chàng có nghĩa lắm, vì nhờ nó mà chàng và vợ con chàng được no bụng. Cái nghĩa ấy không cao thượng gì cho lắm, nhưng nó có. Còn hơn là trước kia chàng không biết làm gì để sống, tuy bụng lúc nào cũng no. Bây giờ chàng mới hiểu rằng xã hội khốn nạn không phải là xã hội những người làm việc, tuy làm việc một cách khốn khổ.
Đương khi những ý nghĩ ấy lộn xộn trong óc, Trọng vẫn không quên cắn răng lấy hết sức xoay "bù loong". Mồ hôi chẩy ròng ròng trên cánh tay chàng. Mồ hôi chảy cả vào mắt làm chàng hoa mắt nhìn không rõ. Chàng thấy hiện ra một cốc nước chanh với một miếng nước đá trong veo, chàng đã uống bên bờ biển Đồ Sơn một buổi chiều mùa hạ năm nào...
+
+ +
Trọng chúi đầu vào một góc màn nằm duỗi thẳng chân tay, thiu thiu ngủ.
Hé mắt nhìn qua vải màn, chàng thấy lấm tấm ở các góc nhà tối om những ngọn lửa đèn Hoa Kỳ xanh lè nhỏ bằng hạt thóc. Một vài tiếng ho, tiếng khạc nhổ, rồi lại đến những tiếng ngáy đều đều, tiếng vo ve của những con muỗi chui qua lỗ màn rách bay vào. Hơi nóng làm mờ những ngôi sao ló trong khung cửa sổ. Không có một làn gió nhẹ; vải màn rủ nặng nề xuống chiếu. Trọng tưởng như nằm trong một cái địa ngục tối, và tưởng thấy thấm vào người hơi nóng của một cái vạc dầu để gần đó. Chàng gục đầu vào cánh tay, nhắm chặt mắt lại và muốn đắm mình trong giấc ngủ như một người đắm mình trong cõi chết.
Nửa đêm Bảo thức giấc ngồi dậy. Nàng vừa phe phẩy quạt, vừa đưa mắt nhìn chồng, rồi chép miệng nói:
- Ngủ gì mà quên cả thay quần áo.
Trọng nằm ngủ cứ để nguyên cả quần áo làm việc: một cái quần tây nát nhầu và một cái áo "sơ mi" rách vá vai, dầu dây be bét.
Bảo dịu dàng ngắm nghía chồng nằm ngủ mê mệt; thấy đứa con cựa quậy, nàng chỉ lo sợ chồng tỉnh giấc, mất một giấc ngủ rất cần để lấy lại sức mai làm việc.
Nàng ngồi lại gần chồng, gượng nhẹ nhắc đầu chồng, đặt lên đùi mình. Lần đầu nàng thấy yêu người chồng đã vì nàng làm lụng vất vả suốt ngày, không có một lời than vãn.
Nàng giơ tay phải quạt rất nhẹ, còn tay trái âu yếm vuốt ve những làn tóc ướt đầm mồ hôi của chồng. Nàng thấy thổn thức trong dạ, rồi tự nhiên nước mắt ứa ra chẩy ướt đầm hai bên má. Nàng không giữ được nữa, cúi xuống hôn một cái lên trán chồng, và như người mê man, nàng ôm lấy chồng, gục đầu vào vai, không nghĩ gì đến mồ hôi và mùi dầu máy khét ở quần áo chồng xông ra nồng nặc. Trọng thức dậy hơi lấy làm lạ về cử chỉ khác mọi ngày của vợ; chàng hiểu và sung sướng ngẫm nghĩ:
- Có lẽ lần đầu tiên mình và vợ mình biết thế nào là tình yêu.
Tuy hiểu vậy nhưng chàng không nói ra, chỉ hỏi:
- Hôm nay em làm sao thế, em Bảo?

Rút từ tập truyện ngắn Tối tăm,
Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1936

NÔ LỆ-NHẤT LINH

Một làng yên tĩnh ở vùng Thanh Sơn, đất ít núi nhiều, có con sông trong và mát xuôi dòng chẩy ra trường giang. Chỗ thung lũng thời cấy lúa, mưa thuận gió hòa, đời đời con cháu an cư lạc nghiệp.
Có một người muốn mở đồn điền xin khai khẩn; Nhà nước cho tạm khẩn từ mốc A đến mốc B, phu đồn cứ việc kéo dây thẳng để phân địa giới. Chính giữa trong đồn điền có ít ruộng của dân làng mà gần khắp là ruộng của một chàng nông phu kia.
Dân làng kêu ca, ông chủ đồn điền dỗ ngọt, cho các kỳ mục trong làng một bữa chén no say rồi phân giải rằng:
- Không, các ông không sợ, tôi đến đây các ông chỉ có lợi chứ không có hại, vì tôi trồng cà phê, các đàn em trong làng ai không việc làm tôi dùng cho cả, kiếm bát cơm mà ăn, còn ruộng của các ông trong đồn điền thời các ông cứ vào mà cầy cấy chứ tôi lấy làm gì mà tôi lấy thế nào được!
Kỳ mục mỗi người được năm đồng, khoan khoái ca tụng rồi giải tán; dân làng cũng không kêu ca kiện tụng gì; sống ở đời cơm no, áo mặc, ăn ở với nhau cho hòa hợp, thế là đủ chứ có biết đâu đến cái mánh khóe là thế nào; những dân ấy ta thường gọi là dân ngu.
Lệ Nhà nước xin đồn điền, trong ba tháng không có ai kêu ca thời được khẩn, và trong ba năm thời một phần ba miếng đất mình xin phải có trồng cây cối rồi.
Trong lúc đó dân làng vẫn vào trong đồn điền cầy cấy làm ăn như thường, chàng nông phu kia thấy lúa tốt thời mừng, thấy thóc nhiều thời hởi dạ, mà ruộng ở trong đồn điền không sợ cướp bóc gì lại càng vững tâm nữa.
ít lâu cà phê đã lên cao, một năm, một năm rưỡi. Ông chủ đồn điền ra lệnh cấm không cho ai qua lại vì trâu bò giẫm chết cà phê. Vì ông không nghĩ đến cái quyền mà dân làng được vào cầy cấy nên ông làm thế cũng là có lý lẽ lắm. Những người khỏe không phải là nhẫn tâm mà làm hại kẻ dưới đâu, nhưng chỉ tại không thèm để ý mà vô cớ làm hại đấy thôi. Nhưng kẻ dưới thì dẫu cho ông nhẫn tâm hay là ông vô ý cũng không làm gì được, phận nhỏ phận hèn, phải cắn răng mà chịu vậy.
Dân làng sợ thanh thế nên không dám nói gì, chàng nông phu kia tâng hẩng.
Dần dần những ruộng cầy cấy trước kia thành hoang điền, cỏ non tốt um, tưởng chừng chưa thấy lưỡi cầy nhát cuốc bao giờ. Chàng nông phu ta ngày ngày nhớ ruộng xin phép vào đồn điền, đứng trên đồi cà phê xanh tốt mà nhìn xuống ruộng mình, thấy ngọn cỏ cao dần, lòng đau như cắt: thỉnh thoảng thấy ông chủ đồn đứng xa xa, sai bảo mấy người phu, tiếng nói oai quyền dõng dạc như ông chúa tể một vùng ấy, chàng nông ta có ý sợ hãi, lại sực nghĩ tới mấy năm trước, ruộng mình mình cấy, đường mình mình đi, nghênh ngang ai nạt ai cấm.
Hồi ấy Hội đồng ủy viên xét đồn điền đến khám. Ông chủ đồn điền bèn tiếp đãi cẩn trọng đưa đi xem cà phê: xem đến khu ruộng ấy thời tuyệt nhiên là đất bỏ hoang rồi liền ghi vào biên bản là đất của đồn điền.
Nhà đồn làm trên đỉnh đồi cao rộng rãi mát mẻ, các hội viên đi từ sáng đã thấy mỏi mệt, ông chủ liền mời lên mở rượu giải khát, rồi làm việc: trí nhận xét các hội viên cũng theo hơi cháo ám mà tiêu tán đi hết; đến khi sâm banh nổ, thời chẳng chút áy náy rằng đã làm một việc bất công.
Vài năm sau, chàng nông phu kia chỉ còn ít thửa ruộng ở ngoài làm không đủ ăn. Đâu là những lúc thóc lúa gánh về đầy vựa đầy sân, đâu là những lúc cơm trắng cá tươi, vợ con hớn hở? Dần dần còn ít thửa ruộng cũng bán nốt; năm sau vợ chết, mấy đứa con, bò nheo bò nhóc. ở làng không tìm được việc làm phải đưa con lên chốn rừng xanh núi đỏ; hay lang thang ba bốn tháng trời rồi lại bỏ về chốn quê hương.
Nhân lúc ấy đồn điền đã có hoa lợi, cần nhiều người vào hái "cà", anh đã quẫn bách, nói với người cai xin vào làm phu trong đồn điền, coi ông chủ như thần như thánh, ca tụng, tâng bốc, hễ gặp đâu thời cúi rạp xuống tận đất. Ông chủ mắng một tiếng thời mặt cắt không được giọt máu, khen cho một câu thời bay bổng lên tận trời xanh! Cứ ai vào làm thời ông chủ lại cho một thửa ruộng mà làm ăn, ruộng ấy là ruộng của làng trước. Ân huệ mưa móc xiết bao!
Chàng nông phu trước kia tự do, bây giờ đem thân nô lệ một người.
Buổi chiều đến, thấy ngọn đèn sáng trên đồi, tiếng chó tây cắn người inh ỏi, anh em ngồi quanh bếp nói với nhau: "ấy, đèn ông chủ", "ấy, chó ông chủ".

Rút từ tập truyện ngắn Người quay tơ,
Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1927

LÒNG TỬ TẾ

Trời vừa mưa xong, đường phố lầy lội. Bên cạnh những cửa hàng đầy tơ lụa màu rực rỡ, Sửu cúi đầu đi thong thả, hai con mắt đỏ ngầu và đầy rử nhìn thẳng ra trước, không để ý đến một vật gì. Trông hình dáng chỉ biết đó là một người nghèo khổ, chứ không hiểu thuộc về hạng nào. Có lẽ người đó đã làm đủ nghề: đi ở, kéo xe... nhưng hiện nay chắc không có nghề gì, vì người bẩn thỉu và ốm yếu quá. Hai con mắt nhìn một cách dại dột, mồm bao giờ cũng há hốc và hai bàn tay lúc nào cũng run run bảo cho ta biết rằng người đó chỉ còn có việc là đi hành khất để chờ ngày vào nhà điên.
Một cơn gió thổi mạnh, Sửu vội giơ tay lên giữ lấy cái mũ đội trên đầu, một cái mũ dạ màu xám rộng thênh thang đội úp xuống che gần khuất hai con mắt. Muốn tránh một người quét hè, Sửu đi rẽ xuống đường. Vừa lúc đó một người mặc âu phục rất sang, đầu tóc chải mượt và đôi giầy bóng loáng, đi vội ở trong một hiệu thợ cạo ra, giơ tay vẫy một cái xe cao su. Vì hai bên cùng vội cả, nên người ăn mặc sang trọng và người ăn mặc rách rưới đụng vào nhau một cái thật mạnh. Người vận âu phục kêu lên một tiếng to, dẩy Sửu ra, mắng mấy câu theo lệ thường, rồi toan bước lên xe. Nhưng đến lúc nhìn xuống thấy mũi giầy của mình bị bàn chân đầy bùn của người kia làm bẩn be bét, thì chàng ta không giữ nổi giận được nữa. Chàng giơ thẳng tay bớp tai người nghèo kia một cái, làm cho chiếc mũ dạ tung ra, rơi ngay vào cái xe tay, trên tấm thảm cao su để chân. Chàng cho thế là đủ giận bèn phủi tay, nhấc hai ống quần cho khỏi mất nếp, và ngồi lên giục phu kéo đi. Thấy cái mũ ngay dưới chân, chàng toan hất xuống trả, nhưng không biết nghĩ được một điều gì hay hay, chàng mỉm cười lấy cái mũi giầy còn sạch thọc vào mũ rồi đặt lên cái mũi giầy lấm bùn cọ đi cọ lại như người đánh giầy.
Chàng lấy làm khoan khoái, ngắm nghĩa mũi giầy bóng trở lại gần như trước. Nhìn cái mũ dạ dúm dó, bẩn thỉu, chàng hơi hối hận, nhưng vội tặc lưỡi nói một câu để tự an ủi:
- Chắc thằng cha mới ăn cắp được của ai... Đáng kiếp!
Rồi chàng bảo người kéo xe:
- Cho anh cái mũ này.
Sửu bị cái tát tai đứng lặng hồi lâu cho khỏi choáng váng, rồi lắc lư cái đầu tìm xem mũ mình rơi đâu. Một người tài xế thương hại bảo:
- Mũ rơi vào xe ông ta rồi còn đâu.
Sửu nhìn theo cái xe chạy đã xa, không hiểu và lẩm bẩm tự hỏi:
- Thầy ấy lấy mũ của tôi?
Rồi Sửu lại cắm đầu đi, mắt nhìn thẳng ra trước một cách dại dột, mồm há hốc và hai tay run run... Trong lúc đó thì ở đầu phố một thầy đội xếp thong thả đi lại phía Sửu, cầm cái gậy lỏng lẻo bằng hai ngón tay và nghịch đưa đi đưa lại như một quả lắc đồng hồ. Đó là cử chỉ thông thường của thầy mỗi khi thầy sắp có dịp ra oai. Đứng xa, tuy thầy đội không nhìn rõ, nhưng thầy đã "đoán" ra được hết. Thầy đoán rằng người ăn mặc rất sang kia vào hiệu mua hàng, lúc ra bắt gặp tên này ăn cắp mũ, liền bợp tai giằng lại cái mũ kia rồi tha... Nhưng thầy thì thầy không tha. Thầy không tha không phải vì bổn phận bắt buộc, nhưng thầy muốn tỏ cho mọi người biết rằng mình tinh mắt. Đến lúc nhìn rõ Sửu thì thầy không còn nghi ngờ gì nữa: những điều phỏng đoán của thầy đã hiển nhiên biến thành sự thực, sự thực có một không hai.
Sửu thấy thầy đội xếp đến gần mình, theo thói quen, đi khép nép tránh sang một bên. Thầy đội chạy săm lại nắm lấy tay Sửu và nghiến răng bóp thật chặt. Thầy nhìn mặt Sửu thấy đáng ghét một cách lạ lùng và bóp chặt thêm một tí nữa cho bõ ghét.
- Về bóp! Hừ, quân bay bạo gan thực, dám giở thói ăn cắp ra trước mắt ông.
Sửu hốt hoảng, lúng túng nói:
- Thầy ấy lấy mũ của con...
Thầy đội trợn mắt, vụt một cái ngang lưng Sửu và nhếch mép cười nhạt:
- à, ra thầy ấy ăn cắp mũ của mày. Quân này to gan thật!
Cái trí khôn lu mờ của Sửu báo cho Sửu biết rằng phân trần không có lợi. Sửu bèn van lơn:
- Con lạy thầy, thầy tha cho con.
Thầy đội cười một cách đắc chí:
- Tha thế nào được, con ơi!
Người tài xế lúc này tiến đến gần nói:
- Ông đội tha cho nó, nó oan. Nó dẫm phải giầy ông kia, ông ấy cho nó cái tát cũng đã đáng đời lắm rồi. Nó lại mất thêm cái mũ... cái mũ khổ ấy mà...
Một vài người đứng gần đó cũng xin hộ.
Nghe mọi người nói, thầy đội lấy làm khó chịu vì mình đoán sai cả và thầy nhìn mặt Sửu càng thấy đáng ghét hơn trước. Thầy lấy ngón tay trỏ hất cằm Sửu lên và nói:
- Cái mặt gian chưa. Ngữ này thì thế nào cũng có ngày ông cho tù mọt.
Thầy đội quay ra nói với mọi người, vẻ mặt vui tươi để tỏ rằng mình sẵn lòng khoan dung:
- Lần này các ông các bà xin hộ thì tôi tha cho nó. Lần sau nó phải liệu mà chừa đi.
Bỗng thầy nhìn cái đầu bù tóc của Sửu, nghĩ ngay được một câu để che ngượng:
- Cái mũ ấy mà không ăn cắp của ai thì tao cứ đi đằng đầu. Cũng may phúc cho mày khi lấy cái mũ ấy lại không gặp tao... Bây giờ thì cút đi ngay.
Nói xong, thầy cầm gậy gõ mạnh vào đốt ngón tay Sửu hai cái. Sửu đau quá, nhưng không dám nhăn mặt, không dám kêu, vì Sửu sợ rằng biết đâu không vì một tiếng kêu mà thầy lại đổi ý kiến không tha nữa.
Thấy thầy đội quay lưng đi, Sửu mừng quá...
Yên lặng như một cái bóng, Sửu cắm đầu đi, mồm há hốc và hai tay run run, nhưng lần này hai con mắt Sửu không dại dột nữa... lại sáng lên một cách khác thường. Trong lúc mừng, Sửu luôn mồm lẩm bẩm:
- Suýt nữa thì vào bóp, may quá, gặp được thầy đội tử tế.
Sửu quên cả đau tay, quên cả mất mũ, chỉ nghĩ đến cái mừng được thoát khỏi bóp. Thấy có cái ngõ con, Sửu vội vàng rẽ vào, yên tâm rằng đã đi khuất mắt thầy đội. Sửu cười và nói một mình:
- Sao lại gặp được thầy đội tử tế đến thế!
Câu ấy vì nhắc đi nhắc lại mãi, dần dần biến ra:
- Sao người ta lại tử tế đến thế.
Lúc đó cái óc tối tăm của Sửu như có ánh sáng chiếu rọi làm cho Sửu lần đầu tiên trong cuộc đời khốn nạn của mình nhận thấy một cách rõ ràng cái lòng tử tế của người đời!
- Suýt nữa thì vào bóp!
Nghĩ đến đó, Sửu vô tình quay nhìn lại...
Mấy hôm sau, Sửu bị bắt vì không có chỗ ở và nghề nghiệp nhất định. ở nhà pha được ít lâu, thầy thuốc khám nghiệm bảo Sửu có bệnh điên. Thầy thuốc chỉ biết rằng Sửu có bệnh điên là tại cha mẹ trước kia mắc bệnh giang mai. Không ai biết Sửu điên hẳn vì cái bớp tai của người mặc quần áo sang trọng làm cho khối óc đã yếu sẵn bị rung chuyển mạnh quá... hay nói cho đúng, chỉ vì đôi giầy bông bị lấm bùn.
Được cái bệnh điên của Sửu rất lành, không hại đến ai. Cả ngày, Sửu lúc nào cũng mỉm cười sung sướng và thỉnh thoảng lại lẩm bẩm nói một mình:
- Sao người ta lại tử tế đến thế!
Còn như người ta có tử tế như Sửu tưởng hay không thì đó lại là câu chuyện khác.

ĐẦU ĐƯỜNG XÓ CHỢ

Từ năm Thầy tôi mất, anh chị tôi rời bỏ chốn quê nhà đi tha hương cầu thực, đến ở một túp lều tranh ở ngay đầu chơ. C.. Bắt đầu từ đó, tôi bỏ cái đời cũ là cái đời một cậu con quan ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời riêng mới cho tôi: tôi gọi là một cái đời đầu đường xó chợ. Năm ấy tôi mới mười ba tuổị
Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái xã hội quý phái của tôi ngày trước: nhà gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộ bán nồi đất.
Từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những gian nhà xiêu vẹo, tối tăm, bẩn thỉu. Trước nhà một cái rãnh dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối, giẻ rách.
Thật là một xã hội xấu xa, mà xấu xa vì nghèo khổ quá. Tự nhiên tôi đem lòng mến những đứa trẻ cùng trạc tuổi tôi của những gia đình hèn hạ ấy: Cái Nhớn, thằng Cu, con Tẹo là bạn tôi cả. Tôi đã trông thấy chúng nó ăn cả bữa cơm có dúm muối, vài quả cà thâm hay đĩa rau sam luộc; tôi đã thấy chúng nhặt những gốc mía người ta vứt đi mà chia nhau hít cho đỡ thèm, nên tôi thương. Chiều mát tôi đi với chúng ra đồng, xem chúng đặt những cái lờ vào các lạch con để bắt tôm cá. Chúng được nhiều tôm cá, tôi cũng mừng hộ và tôi đợi đến bữa cơm của chúng để xem trong mâm có được thêm đĩa cá rôi kho hay mấy con tôm đỏ nào không.
Người mà tôi quý nhất hồi đó là chi. Hiên, vợ một người phu xe ở xế cửa nhà tôị
Nguyên anh chị tôi được lĩnh một cái ty bán thuốc phiện, nên chi. Hiên thường lui tới mua thuốc cho chồng. Lần đầu tôi trông thấy chị ta, tôi đem lòng thương hại ngay. Bây giờ tôi mới rõ rằng tôi có cái cảm tình đó vì chi. Hiên còn trẻ, xinh và có duyên, lại lấy phải anh chồng nghiện ngập, xấu xí.
Nhưng chi. Hiên thì không nghĩ như tôi. Cả ngày chỉ cặm cụi ngồi đan lờ trong khi chồng đi kéo xe vắng. Hôm nào chị bán lời được một hào, chị mua cho chồng một hào thuốc thì chị lấy làm vui vẻ, sung sướng lắm.
Chị không nghĩ gì đến thân chị, có cái ao nâu đã bạc, đã vá tay, vá vai, vá lưng mà chị không chịu để dành tiền may áo mớị
Trí non nớt của tôi không sao hiểu được các hành động của chị đối với một người chồng nghiện ngập, hèn hạ như thế.
Một hôm, tôi sang bên nhà chị, thấy chị ngồi gục đầu vào cánh tay, bên cạnh mấy chiếc lờ đan dở. Tôi vào chị ngẩng lên nhìn, hai con mắt như có ngấn lệ. Tôi vừa định quay ra thì chị tay vẫy tôi lại gần nói khẽ:
- Này cậu, cậu có một hào, cậu cho tôi vay vài hôm tôi trả.
- Tôi làm gì có tiền cho bác vay! Bác vay làm gì?
Chi. Hiên lẳng lặng chỉ vào trong buồng. Tôi hỏi:
- Bác trai đau phải không? Ốm hay sao mà rên dữ thế?
- Cậu ạ, hai ngày hôm nay, nó lên hai cơn sốt rét, không đi kéo xe được. Nhà không có tiền, tôi phải nhịn cơm từ hôm qua, nhưng nguy nhất là hết tiền mua thuốc. Ðã ốm mà cơn nghiện lên thì chết mất. Hay cậu về nhà ăn cắp ở nhà một hào chỉ cho tôi vaỵ
Tôi mỉm cười, lắc đầu:
- Chiều tối bác mang tiền lại mua thuốc, tôi thêm cho ít nhiều thì họa may... còn tiền thì tôi không thể nào có được.
Vừa lúc ấy con gà trống to của anh chị tôi nuôi lởn vởn đến bên cạnh mẹt vừng của chi. Hiên phơi trước cửa. Chi. Hiên tay xua con gà miệng nói đùa:
- Giá được con gà này mà bán thì chồng tôi tha hồ hút.
*
Ðã khuya, nhà tôi đóng cửa đi ngủ, bỗng có người gọi mua thuốc.
Tôi nhanh nhẹn cầm cây đèn Hoa Kỳ ra vì tôi biết chắc đấy là chi. Hiên mua thuốc cho chồng.
Qua khung cửa bán thuốc, một cái bàn tay thò vào cầm một cái vỏ hến trong có một hào chỉ đã nhẵn mặt. Chị tôi cầm lấy đồng hào nhìn đi nhìn lại rồi nói:
- Ðưa hào khác thì bán, hào này nhẵn mặt lắm không tiêu được.
Tôi lo lắm, và tôi chắc chi. Hiên đứng ngoài còn lo gấp mấy. Tôi vội bảo chị tôi:
- Thôi, chị cứ nhận cho người ta, mai trả nhà đoan cũng được.
Tôi không dám nói rõ vì tôi biết chị tôi ghét vợ chồng nhà này lắm.
Khi chị tôi cân thuốc xong, quay lưng đi, tôi vội cầm cái que thuốc rỏ thêm vào trong hến một giọt. Lúc đưa cho chi. Hiên, tôi bảo khẽ:
- Thêm cho rồi đấy nhé.
Tôi vừa đóng xong cái cửa bán thuốc thì ở ngoài bỗng có tiếng kêu:
- Chết tôi rồi, cậu cho mượn cái đèn, đổ hết cả rồi!
Tôi đưa đèn ra xong rồi nhìn qua khe cửa thấy một cảnh tượng không bao giờ tôi quên được: hến thuốc đổ sấp xuống đất, thuốc bắn tung ra thành từng chấm đen nhánh. Chi. Hiên cúi xuống lật cái hến lên; cái hến chỉ còn rây một ít thuốc; trong lúc hấp tấp chị lấy ngón tay quệt thuốc dưới đất cho vào hến, nhưng thuốc lẫn cả với đất còn hút gì!
Không làm sao được, chị nhặt cả những hòn đất có rây thuốc để vào bàn tay - rồi chị cứ ngồi đấy khóc thút thít. Sau thấy chị tôi giục đem đèn vào, tôi phải để mặc chi. Hiên ngồi khóc trong bóng tối. Tôi vừa đặt mình xuống giường nằm thì vẳng có tiếng người cãi nhau, tôi chắc là ở nhà chi. Hiên, chồng chị đương đánh mắng chị tạ
Sáng hôm sau, tôi sang nhà chi. Hiên sớm, thấy chị ngồi dựa vào tường, đầu tóc bù xù, vẻ người mệt mỏi, trên trán có một chỗ sưng tím lên. Tôi không thấy cái lờ nan đan dở để đấy, liền hỏi:
- Bác bán lờ đi rồi phải không?
- Không, tôi cất ở dưới bếp.
- Thế hào chỉ hôm quả
Chị ta thấy tôi hỏi đường đột, nhìn tôi có vẻ sợ hãi, nói một cách hoảng hốt:
- Tôi vay của ... Không! người ta trả nợ tôị
- Bác mà có người nợ tiền?
- Ấy nợ cũ ... đã lâụ
Vừa nói đêm đấy thì nghe bên nhà tôi có tiếng người nói to, con nhỏ nhà tôi chạy ra ngơ ngác, như tìm một vật gì. Tôi hỏi thì nó trả lời:
- Nhà mất con gà, con gà trống thiến to nhất...
Chi. Hiên hỏi tôi:
- Con gà nào thế cậu nhỉ?
- Ấy con gà hôm qua nó sang đây mổ vừng của bác ấỵ
- Chi. Hiên thốt nhiên nói:
- Chết tôi rồi! Gà nhà cậủ
Tôi hỏi:
- Làm sao mà chết?
Chi. Hiên luống cuống như định nói lại thôi, nhưng cái trí non nớt của tôi đã hiểu rõ, đã đoán ra hết. Tôi ngắm lại chị ta thấy vẻ mặt tái mét, nửa vì đói, nửa vì lo mà tôi đem lòng thương hại vô cùng. Vì hết lòng với chồng phải đi ăn trộm gà lại bị chồng mắng. Tự nhiên tôi muốn tìm cách chống chế cho người đã ăn cắp gà nhà tôi. Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo chị ta:
- Ðược! Bác đừng lo, bác để mặc tôi!
Rồi tôi về nhà chạy thẳng ra cổng sau nhìn xuống sông, bảo chị tôi rằng:
- Nhà mất gà phải không, thôi đừng tìm nữa vô ích, hôm qua tôi thấy con gà giống con gà nhà ta đậu ở dưới thuyền buôn nồi đất. Bây giờ họ đi họ cuỗm đi rồi. Còn biết ai mà hỏị
Tôi lấy làm tự đắc rằng đã tìm ra một kế hay và rất mừng cái kế đó hiệu nghiệm, vì chị tôi coi như mất hẳn con gà rồi, không cho người đi tìm nữạ
Tôi còn bé không hiểu rằng giúp đỡ một người ăn cắp thế là tốt hay xấu, tôi chỉ biết rằng trong lòng tôi lúc bấy giờ vui vẻ lắm, vui vẻ vì cứu thoát được một người khổ sở, đáng thương.
Về sau, tôi càng ngày càng cách biệt với cái xã hội đầu đường xó chợ ấỵ Ðến nay đã gần hai mươi năm, cái cảnh đời cũ đã lờ mờ trong trí nhớ, nhưng câu chuyện của chi. Hiên thì không bao giờ tôi quên được.
Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thuở còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa.

HAI CHỊ EM

Bà xã Vực có hai cô gái đầu lòng: Bìm và Lạch. Bìm hơn Lạch hai tuổi, nhưng trông già hơn nhiều: người nàng béo chắc, chân tay to, mắt nhỏ và hơi toét. Hai mí mắt hùm hụp, đôi má bánh đúc và cặp môi dầy làm cho nét mặt Bìm có vẻ nặng nề, đần độn. Bìm suốt ngày làm lụng vất vả, thức khuya dậy sớm, ăn uống kham khổ nhưng cứ một ngày một béo đen ra. Bìm không hay nói, không cãi lại ai bao giờ, lúc nào cũng lì lì, vui buồn không lộ ra nét mặt. Bà Xã rất yêu Bìm, và tuy Bìm mới hai mươi tuổi bà đã cho là con ế chồng, ngày đêm lấy làm buồn và thương con. Bà tự an ủi rằng con mình tuy xấu, nhưng được cái tính nết tốt, đứng đắn và chăm chỉ công ăn việc làm.
Cùng xóm có ông lý Thịnh, nhà giầu, cầy cấy trên hai mươi mẫu. Ông Lý, bà Lý hiếm hoi chỉ có một người con trai, năm ấy mười ba tuổi. Bà xã Vực biết rằng ông Lý cần người làm nên rất hy vọng Bìm được về làm dâu nhà ấy. Bà Lý cũng đã để mắt tới Bìm và dò tính nết Bìm rất cẩn thận; chỉ có một con nên bà thận trọng trong việc kén chọn nàng dâu. Có người chê Bìm chậm chạp. Bà đáp:
- Chậm nhưng mà chắc chắn. Tướng người như thế được việc.
Trong lúc nói câu ấy, bất giác bà nghĩ đến mấy con trâu ở chuồng nhà bà.
Hôm mới sang hỏi, bà Xã xin khất để còn dò ý con. Thật ra bà không cần hỏi, vì bà biết chắc rằng thế nào Bìm cũng bằng lòng. Bìm nghe người ta nói chuyện nên biết tin. Nàng không hề nghĩ đến người chồng mới mười ba tuổi của nàng; cậu bé con ấy không kể đến. Việc chính là việc nàng về làm dâu nhà bà Lý. Làm dâu một nhà giàu ấy, Bìm cho là rất hân hạnh.
Hôm đón dâu vì một việc hiểu lầm suýt xảy ra sự lôi thôi.
Sau khi mặc cả hai, ba phen, bà Xã yên trí rằng nhà trai sẽ nộp cưới đủ tám chục bạc. Nhà trai lại tưởng bà Xã bằng lòng sáu chục.
Trước mặt hai họ đông đủ, ông Xã phàn nàn về việc đó và xin hoãn ngày cho dâu về. Sau một hồi bàn tán thương lượng, ông Xã bằng lòng vậy vì nhà trai có hứa sau sẽ nộp đủ số bạc.
- Xin ông bà nghĩ tình cho trẻ, cho chúng thành vợ thành chồng là điều cần nhất. Đợi mãi mới chọn được ngày tốt, để xin đón dâu. Sau sẽ xin chu tất.
Vợ chồng ông Xã biết trước rằng con đi thì tiền không về nữa, và tự cho là mắc lừa. Bà Xã thương con, sợ hỏng việc nên đành chịu mất số hai chục bạc. Bà bảo thầm chồng:
- Thôi thầy nó ạ. Già néo đứt dây.
Vì thế dây không đứt. Chỉ đứt những dây chăng ngang trên đường làng từ nhà ông Xã đến nhà ông Lý để mở lối cho Bìm về nhà chồng, cho Bìm lấy một cậu bé mười ba tuổi sau khi đã bán thân bằng một số tiền sáu chục bạc.
Bà Xã chỉ cốt lo xong việc cho con gái lớn; đối với Lạch, biết rằng không sao răn bảo được, bà đã coi như một đứa con bỏ đi. Bìm đứng đắn bao nhiêu thì Lạch lẳng lơ bấy nhiêu. Lạch không biết nghe lời ai cả. Lạch như con chim vành khuyên đẹp mã, nhảy nhót luôn chân, ai trông cũng muốn yêu. Hai con mắt nàng trông ai cũng hình như đưa tình và đôi môi nàng nói với ai cũng như trao đổi những lời ân ái. Lạch hát rất hay; những đêm thu trăng sáng, không nơi nào là không có tiếng nàng. Nàng đứng lẩn trong bóng cây, những quãng đường vắng, hát ghẹo trai làng đi qua, rồi cười khúc khích, lấy làm sung sướng. Nàng không có tính nết đứng đắn, nên gặp người đàn ông nào nàng cũng coi thường. Thấy chị sắp lấy Ngẩu, con ông Lý, nàng ôm bụng cười lăn. Có lần gặp Ngẩu, Lạch ẩn vào một bụi cây, đợi Ngẩu đi quá gọi:
- Em Ngẩu ơi, vào đây chị bảo tí ti.
Rồi nàng kéo cậu bé vào, lấy hai tay xoa đầu một lúc, lại thả cho đi.
Không phải nàng biết nghĩ cho việc lấy chồng như vậy là vô lý; nàng vốn có bản tính ngang tàng nên thấy việc ấy buồn cười quá, như nàng, nàng không sao kham nổi. Bà Xã vẫn bảo:
- Con này ngày sau chỉ đi làm đĩ... Chị mày còn cho tao được mấy chục bạc, chứ mày rồi thì tao mất nhờ lại mang tiếng xấu lây.
Cách đó ít lâu, Lạch theo một phường hát chèo đi lang thang hết làng này đến làng khác. Kiếm không đủ tiền, Lạch bỏ nghề hát chèo. Nhờ có nhan sắc và giọng hát hay, Lạch trở nên một danh ca của một xóm bình khang gần Hải Phòng.
Trong lúc đó, Bìm vẫn sống yên lặng ở nhà ông Lý. Nàng giữ đủ bổn phận một cô nàng dâu, nghĩa là suốt ngày làm vất vả để hầu hạ nhà chồng.
Bốn giờ sáng, Bìm đã dậy để băm bèo, đun cám cho lợn ăn và thổi cơm cho những người đi làm. Rồi cả ngày trông nom những việc trong nhà, hầu hạ cơm nước bố chồng, hầu chồng và các em gái bé. Những khi nhà có việc, ngày giỗ ngày tết, một mình nàng, con dâu trưởng, phải cáng đáng mọi việc; đầu tóc đầy tro bụi, mặt mày nhem nhuốc, mình mặc chiếc áo vá và chiếc váy đụp không bao giờ giặt, Bìm hết ngồi trước bếp lửa nóng vần cơm, lại chạy bưng các món ăn hầu những bô lão đến uống rượu, mắt đỏ gay. Quanh năm suốt tháng, công việc của nàng không bao giờ thay đổi. Nàng không bao giờ được nghỉ ngơi và cũng không bao giờ cần phải nghỉ.
Sau ngày cưới mấy tháng, nửa vì Ngẩu đã quen Bìm không sợ hãi như trước, nửa vì bố mẹ chồng bắt buộc nên hai vợ chồng đã ngủ chung một buồng. Nhưng Bìm làm việc suốt ngày mệt mỏi, vào đến giường chưa đặt mình đã ngáy; Ngẩu sợ lạnh ngủ rúc vào nách vợ để tìm hơi nóng như một đứa bé nằm trong lòng mẹ.
Một lần trên quãng đường vắng, Bìm gặp một người đàn ông. Nàng không hối hận, nàng chỉ sợ thôi, và khi về đến nhà thấy sự nguy hiểm đã qua, chắc rằng không ai hay, và nếu có con cũng là con của Ngẩu, nên Bìm coi như là một việc thường đã xảy ra. Nàng không hề áy náy trong lương tâm.
Như một con gà trống thiến, như một con lợn không tư tưởng lẫn lộn trong nơi bẩn thỉu mà vẫn béo tốt, Bìm một ngày một béo hơn, mắt Bìm một ngày một toét thêm ra.
Ông Lý có nuôi trong nhà một ông đồ để dạy dăm ba đứa trẻ trong làng học chữ nho. Ngẩu cũng có học, học để biết dăm ba chữ xem nổi văn tự và gia phả.
Nhiều khi trong lúc vợ Ngẩu đứng cho lợn ăn, mặt mũi chân tay bẩn thỉu không kém gì những con lợn trong chuồng, mà đời nàng với đời những con lợn kia biết đằng nào có giá hơn, đáng sống hơn, thì trên nhà tiếng Ngẩu ê a như tiếng ở thời cổ đưa lại:
- Đại học chi đạo... đại học chi đạo, đại học chi đạo, a... Tại minh minh đức, tại tân dân, đại học chi đạo ư a... tại tân dân... âm a...
Rồi Ngẩu vừa đọc vừa dịch ra tiếng An Nam:
- Đại học chi đạo ư... a... tại tân dân... ở mới dân, tại tân dân,... ở mới dân.
Bìm không còn nghĩ gì tới người em gái đốn mạt đã bỏ nhà đi. Có ai nhắc tới thì nàng thầm mắng em:
- Con đĩ!
Nàng coi như là không có người em ấy nữa.
Lạch không những chỉ làm nghề ả đào. Khách làng chơi đêm nào cũng rủ nàng đến các tiệm khiêu vũ; ít lâu nhờ có bạn trai dạy nhảy nàng bỏ nghề cũ làm một vũ nữ cho một tiệm nhảy ở Hải Phòng. Đêm đến, trong lúc Bìm ở nhà quê nằm ngáy bên cạnh một đứa bé bẩn thỉu, mình đắp một mảnh chiếu rách, thì dưới ánh đèn xanh đỏ, Lạch tươi đẹp như bông hoa, ôm một chị em bạn cùng nghề nhảy lượn theo điệu đàn du dương, đợi khách chơi đêm. Quặt tay ra sau vai, Lạch vừa nhảy vừa đùa, nhí nhảnh. Thỉnh thoảng thích chí, nàng ngả nghiêng đầu theo dịp đàn, chân đạp mạnh xuống nền gạch, rồi ôm bạn quay vòng mấy lượt. Nàng cất tiếng hát theo bài đàn, rồi bất giác nhớ lại những đêm trăng ở nhà quê, nhớ lại những bụi tre khóm ổi, cảnh cũ của đời ngây thơ nay đã xa lắc; nàng cảm động se sẽ ngâm:
Khi đi trúc chửa mọc măng,
Khi về trúc đã cao bằng ngọn tre.
Một ngày kia tình cờ có người nhân tình đưa nàng đi chơi ôtô về qua làng; Lạch xin phép bạn về thăm nhà và dặn bạn khi quay về đón ở quán nước đầu xóm. Bà Xã thấy con về, ôm mặt khóc:
- Sao mày không chết đường chết chợ ở đâu cho rảnh, còn bén mảng về đây làm gì cho tao thêm nhục.
Thấy Lạch, bà lại nghĩ đến Bìm và tự an ủi rằng hỏng em, nhưng được chị. Lạch nói:
- Con xin phép u sang thăm chị con và anh con... xem đã nhớn được tí nào chưa. Anh gì nhỉ, u nhỉ?
Lạch cất tiếng cười rồi nói tiếp:
- à, con nhớ ra rồi... Anh Ngẩu, Ngẩu!
Bà Xã vội can:
- Thôi, mày đừng sang đấy bêu xấu tao, bêu xấu chị mày.
Lạch không nghe lời mẹ. Lúc sang tới nhà ông Lý, Bìm đang ngồi bắt chấy cho mẹ chồng cạnh đống rơm. Lạch vén áo, ngồi trên bức tường thấp bao bọc khu vườn cảnh. Dưới ánh nắng, chiếc áo lụa màu vàng và chiếc quần cẩm nhung của nàng bóng loáng. Mùi nước hoa bay thoảng.
Bìm hỏi gọn một câu lãnh đạm:
- Cô về chơi.
Bìm ngượng quá, cúi mặt, bới tóc mẹ chồng một lúc rồi rứt trứng chấy đưa lên miệng cắn: - Gớm! Đầu bu lắm chấy quá.
Ngẩu đương ngồi ở trước hiên nghêu ngao đọc "đạo thánh hiền là rộng,... đạo thánh hiền là rộng", thấy người lạ mặc áo đẹp, vội chạy ra, rồi sợ hãi đứng ở xa, bên cạnh một đàn lợn con thả rong vừa mút ngón tay, vừa trố mắt nhìn. Lạch trông thấy Ngẩu, mỉm cười, nhắm một bên mắt lại, nháy mắt chế giễu quen như độ còn ở nhà. Nàng toan cất tiếng cười, nhưng phải cố giữ lại.
Lâu không thấy bà Lý và chị mời vào trong nhà, Lạch đứng lên cáo từ.
Bìm đưa mắt nhìn theo dáng đi õng ẹo của Lạch, bĩu môi. Nàng hết sức ngượng mặt với mẹ chồng vì có người em làm đĩ. May quá, lúc đó nàng bắt được con chấy to, liền đặt vào lòng bàn tay mẹ chồng, nói để che ngượng:
- Bu nà! Con chấy kềnh đó nà.
+
+ +
Bạn tôi kể xong câu chuyện, kết luận:
- Lẽ cố nhiên là Bìm được trọng vọng và Lạch bị khinh rẻ. Nhưng đời một người bán thân bằng số tiền mấy chục bạc để về làm nô lệ một đứa bé hỉ mũi chưa sạch, đời một người vẫn được tiếng là con hiền, dâu thảo, đứng đắn, nết na, cái đời lương thiện ấy khốn nạn quá, bẩn thỉu quá đến nỗi tôi lưỡng lự không biết có thể đặt lên trên đời Lạch, một con đĩ, được không? Đời Lạch tuy xấu xa nhưng còn là đời một người, và Lạch tuy làm đĩ, nhưng còn biết mình làm đĩ, không u lì như một con trâu người ta trả tiền lôi đi vì nó được việc. Bìm khinh Lạch, nhưng thật ra Bìm không có quyền ví mình với Lạch, một người đã có hơn nàng cái giá trị làm một người.
- Nhưng đó là chuyện thật?
- Không hẳn là chuyện thật. Song như Lạch rất ít mà như Bìm, ở xã hội quê ta thiếu gì. Tôi kể anh nghe câu chuyện này vì tôi vừa thấy một cậu bé toét mắt, trọc đầu, ước độ mười tuổi mà có vợ hơn ba năm, và mới đây vào tiệm khiêu vũ ở Hải Phòng tôi đã được thấy một cô cắt cỏ lẳng lơ ôm một bạn gái nhảy lượn dưới ánh đèn như hai con thiêu thân. Cô cắt cỏ - tôi tạm gọi là cô Lạch - có hai con mắt đẹp nhưng nhiễm đầy vẻ buồn ảo não hình như đương nhớ tới quê hương, mong mỏi một cảnh đời khác mà không sao được. Tôi tưởng nghe thấy tiếng cô ta bảo tôi, đau đớn tuyệt vọng:
- Em thế này để khỏi phải sống như chị em!

Rút từ tập truyện ngắn Tối tăm,
Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1936

CHẾT DỞ

Khương chống hai tay xuống chiếu, lê dần người ra một góc giường, rồi giơ tay mở ngăn kéo bàn. Chàng cúi mặt nhìn vào trong ngăn kéo, nhưng vì buồng tối, không nom rõ, nên chàng cho tay vào lục lọi, năm ngón tay xòe ra quờ quạng bốn góc. Tìm một lúc lâu, chàng đậy ngăn kéo lại, có vẻ thất vọng. Khương nhớ rõ một hôm có vứt vào ngăn kéo một điếu thuốc lá hút dở, thế mà nay biến đâu mất. Chàng cau mày lẩm bẩm:
- Chắc lại thằng nhỏ khốn nạn ấy nó xoáy của mình rồi.
Bỗng Khương chợt thấy một mẩu thuốc lá nằm gọn ở chân cái mễ. Chàng cầm lên, thổi mạnh cho hết bụi, để vào mũi ngửi.
- Thuốc lá Ănglê. Chắc là của thằng cha Hạp lại thăm mình hôm nọ.
Khương nhỏm dậy và lấy ngón tay cời thuốc cho tơi. Chàng nhìn dúm thuốc trong lòng bàn tay, vui mừng nói:
- Cũng được một điếu nhỏ.
Móc túi một lúc lâu, Khương lấy ra một tập giấy thuốc lá, ngồi loay hoay quấn. Chàng làm công việc ấy rất thong thả như có ý kéo dài cái thời kỳ chờ đợi được hút một điếu là rất ngon.
Từ ngày bị liệt hai chân - đến nay đã gần bẩy năm - Khương lúc nào cũng quanh quẩn bên giường.
Không làm việc gì cả, nên chàng lấy cái nghiện thuốc lá làm một cái thú độc nhất để khuây khỏa nỗi buồn. Nhà chàng nghèo dần; chàng còn sống được đến bây giờ là nhờ ở người vợ có ít lưng vốn mở một cửa hàng bán gạo tẻ.
Khương đánh diêm châm điếu thuốc lá, nhưng vì thuốc ẩm, hút mỏi mồm cũng không được tí khói nào. Giấy ướt nước bọt, rách tung; Khương nhổ mạnh cho những sợi thuốc khỏi bám lấy môi rồi tức mình quẳng điếu thuốc đi.
Khương nằm im một lúc, toan gọi thằng nhỏ, thì có tiếng vợ chàng thét ở ngoài nhà. Chàng định bảo thằng nhỏ xin tiền mua thuốc lá, nhưng thấy vậy, chàng đành nhịn thêm đợi lúc khác. Nửa giờ sau, nghe ngóng biết là ở ngoài cửa hàng không có khách nào, Khương khẽ gọi:
- Nhỏ ơi!
Không thấy thằng nhỏ vào, và biết là nó bận luôn tay, nên Khương cứ thỉnh thoảng lại gọi khẽ một tiếng, may ra lọt vào tai nó chăng. Sau cùng, thấy thằng nhỏ vào, chàng ngập ngừng dặn:
- Em ra xin mợ tiền mua cho cậu bao thuốc lá.
Lúc thằng nhỏ ra ngoài nàng cất tiếng hỏi, chàng đã đoán trước được những lời của vợ chàng:
- Cậu mày hút gì mà hút lắm thế. Cậu mày hút nửa, thì mày cũng hút vào đấy một nửa. Đánh mãi cũng không chừa được thói ăn cắp của chủ.
Theo sau lời nói, một tiếng cốp mạnh lên đầu thằng nhỏ, nhưng Khương chỉ để ý đến tiếng mở tráp và tiếng xu, hào chạm nhau. Đưa tiền rồi, vợ chàng còn lẩm bẩm nói một mình:
- Hút vào chỉ tổ ho, chứ có được tích sự gì đâu.
Thằng nhỏ vào buồng, nửa như đặt, nửa như vứt bao thuốc lá trên nắp cái ấm giỏ, rồi bước vội ra ngay. Khương không nhận thấy cử chỉ khinh thị ấy của đầy tớ, chàng chỉ khó chịu về nỗi phải lê mãi mới tới cái giỏ để lấy bao thuốc. Chàng trân trọng mở bao ra, quấn một điếu thật to, rồi nằm ngửa hút luôn mấy hơi dài.
Khói thuốc khi bay ngang qua những tia nắng xiên chếch từ khe cửa sổ xuống đất hiện rõ ra những đám mây, rồi một lúc sau lại biến mất vào trong bóng tối gian phòng. Khương đau đớn nghĩ đến cái thời kỳ cường tráng từ năm hai mươi nhăm đến năm ba mươi tuổi, cái thời kỳ còn chứa chan hy vọng về cuộc đời, lúc nào cũng hoài bão những công cuộc to lớn, bồng bột chí khí hùng dũng. Học trường Luật được hai năm, Khương bị đuổi, rồi từ đấy, chàng bắt đầu hành động. Vợ chàng, người đàn bà cằn cỗi, chua ngoa, ngồi bán gạo ở cửa hàng hồi đó, còn là cô Liên, một thiếu nữ mảnh dẻ dịu dàng, hai con mắt đẹp lúc nào cũng như đương mơ một giấc mơ xuân. Liên lấy chàng chỉ vì phục chàng là người có chí rộng. Nhưng nay cái chí khí của chàng, cũng như cái sắc đẹp của Liên không khác gì làn khói thuốc lá đã bay qua tia nắng biến vào bóng tối đen.
Từ khi bị chân tê liệt, tuy vẫn nghĩ đến những việc hoài bão cũ nhưng Khương dần dần thấy không tha thiết nữa, cho những việc ấy là không cần. Chàng thờ ơ với mọi việc, thờ ơ với cả vợ chàng là người chàng tưởng yêu đến khi nhắm mắt. Vợ chàng cũng không yêu chàng nữa, và sau bảy năm vất vả, khổ sở, nàng chỉ coi chồng như một cái bao nặng trên vai, muốn vứt đi nhưng không nỡ.
Khương chỉ mong vợ bỏ hẳn mình, vì có thế, chàng mới có can đảm định liệu lại đời chàng. Còn có người nuôi cơm ăn, thì chàng còn như thế này mãi, vì chàng đã hết cả nghị lực, không thể tự mình vùng dậy được.
Khương quấn luôn điếu thuốc lá thứ hai hút tiếp; trong phòng khói um như có sương mờ. Chàng thấy rức đầu và rạo rực trong người. Tiếng vợ chàng the thé mắng đầy tớ ở ngoài nhà khiến chàng bịt tai lại. Tuy vậy, chàng cũng vẫn nghe rõ và lần này khác hẳn mọi lần, chàng lại để ý nghe.
- Vừa mới thấy bóng ở đây đã chạy rúc vào buồng ngủ. Ngủ gì mà ngủ lắm thế. Tao nuôi mày để mày ườn thây ra ngủ và ăn hại tao à?
Vợ chàng hứ lên một tiếng dài rồi tiếp theo:
- Sao mà cái số tôi số khổ sở thế này. Những tội, những nợ nặng chình chịch cả người.
Khương xoay mình úp tai xuống gối nằm yên như người không muốn nghĩ ngợi gì cả. Nhưng trí chàng vẫn cứ quanh quẩn nghĩ về mấy tiếng mắng:
- Mình bịt tai thì mình chỉ không nghe thấy. Nhưng những tiếng ấy vẫn có.
Chàng vùng ngồi dậy, máu rực lên làm chàng nóng bừng mặt.
Chàng cất tiếng gọi:
- Nhỏ!
Liên chạy ngay vào, vì thấy tiếng chồng gọi to khác thường, đoán là có việc gì nguy kịch:
- Gì thế, cậu?
- Mợ ngồi xuống đây, tôi nói câu chuyện.
Liên nhìn quanh quẩn biết là không xẩy ra việc gì, liền gắt:
- Cậu làm gì mà rối lên thế?
- Mợ ngồi xuống đây đã nào?
- Cậu muốn nói gì thì cứ nói ngay đi. Tôi đương giở bận...
Khương nói như quát:
- Thì tôi bảo mợ ngồi xuống!
Liên cũng quát lại:
- Cậu muốn mắng tôi đấy, có phải không? ồ lạ chưa?
Khương hạ giọng xuống:
- Tôi tưởng khi mợ mắng đầy tớ, thì mợ cũng nên nghĩ đến tôi mà liệu giữ gìn lời nói. Mợ cũng phải có ý tứ một chút chứ?
- Bây giờ cậu lại cấm đoán không cho tôi mắng đầy tớ nữa sao. Tôi giận thì tôi nói cho sướng mồm, tôi không rỗi hơi đâu mà nghĩ đến ai cả... Khổ tôi chưa, muốn yên thân mà người ta không cho tôi yên thân. Thế này thì chết đi cho rảnh.
Khương đợi cho vợ im hẳn rồi cố lấy giọng ôn tồn nói:
- Mợ khổ thì tôi cũng không sung sướng gì. Nhưng mợ nên nghĩ lại ngày trước mà thương tôi. Sao vợ chồng mình...
Khương muốn nhắc lại cái thời kỳ hai người yêu nhau ngày xưa, nhưng nhìn vợ thấy nét mặt lạnh lùng, hai con mắt khô khan, chàng biết rằng không bao giờ, không bao giờ nữa, còn mong sống lại được những ngày hạnh phúc đã qua.
Liên không hiểu chồng định nói gì, trước khi quay ra, nàng cười gằn, nói:
- Làm người ta mất cả thì giờ! Chả được tích sự gì, chỉ được cái nhắng hão.
Hai tiếng "nhắng hão" khiến Khương uất người lên, vì nhắc Khương nghĩ đến cái tính hăng hái của chàng nay đã nhụt. Chàng muốn ngoài chàng ra không ai được nhận thấy sự trụy lạc của tâm hồn mình. Chàng nghiến răng, nắm tay giơ lên trước mặt vợ:
- Mợ phải biết, nếu tôi không tàn tật...
Nhưng dáng dấp hùng hổ của Khương chỉ làm cho Liên cười nhạt:
- Cậu không phải dọa. Cậu dọa nhiều lần rồi. Cậu tưởng tôi sợ cậu lắm hay sao...
Nàng đi ra lẩm bẩm:
- Anh hùng rơm!
Khương nắm cái nắp ấm toan ném theo vợ. Nhưng chàng lại hạ tay xuống. Chàng tự bảo:
- Có hơn được gì đâu. Nó cũng đã khổ chán vì mình. Giờ nó thành ra khốn nạn như vậy, đâu phải lỗi tại nó.
Khương chán nản, nằm vật xuống giường. Chàng cố nhấc hai chân lên, nhưng không thể được.
- Mình cũng như thằng chết rồi!
Mắt chàng bỗng để ý đến con dao díp, lưỡi thuôn thuôn nhọn vì đã bị mài nhiều lần. Con dao đó chàng mua từ ngày còn khỏe mạnh, và đã nhiều lần dùng để hộ thân, vì độ ấy chàng có bao nhiêu người thù, người sợ chàng! Nhìn cái mũi dao nhọn hoắt, chàng lại nhớ những hôm hội họp với các bạn ở nhà ả đào dùng mũi dao để mở những hộp thuốc phiện mới mua về. Chàng còn như trông thấy rõ trước mắt bàn tay của cô đào yểu điệu tìm chỗ chích, rồi mũi dao cắm xuống, làm phọt lên một ít thuốc phiện đỏ sẫm như máu đào. Khương bất giác với con dao díp, lấy ngón tay trỏ vờn lưỡi để thử xem sắc, nhụt. Chàng nắm chặt cán dao trong lòng bàn tay, đưa lên gần cổ. Chỉ một cái chích nhẹ vào gáy, một ít máu phọt ra, thế là hết. Văng vẳng bên tai chàng mấy tiếng:
- Anh hùng rơm! Anh hùng rơm!
Chàng sẽ yên lặng không kêu một tiếng nào để tỏ cho vợ biết rằng mình cũng có can đảm, cái can đảm cuối cùng, biết chết một cách lặng lẽ.
Bỗng chàng sợ hãi, hai con mắt mở to chăm chú nhìn bàn tay nắm con dao. Cánh tay tự nhiên ngả dần dần xuống chiếu và bàn tay mở ra; con dao lăn trên mấy ngón tay rồi rơi khẽ xuống nền đất. Khương lẩm bẩm bằng tiếng Pháp:
- Không! Ta không thể được.
Cánh cửa sổ hé mở bị một cơn gió đóng sập lại. Trong buồng tối om. Khương thấy lạnh cả người; những câu nhiếc của vợ, sự nhát gan lúc định quyên sinh đã làm cho chàng trông thấy rõ cái chết của tâm hồn chàng. Chàng cảm thấy cái chết ấy ghê sợ bằng mấy mươi cái chết thật, vì nó bắt chàng phải sống mãi, sống để mà biết.
Khương duỗi hai tay, nhìn lên mái nhà. Một tia nắng lọt qua khe lá làm chàng nghĩ đến cảnh vui sống của cuộc đời bên ngoài. Chàng tưởng tượng các ngọn cây đương phấp phới ánh sáng, ngả nghiêng đùa với gió và những đám mây trắng đương nhẹ nhàng trôi trên trời xanh cao...
Mấy cô con gái vừa đi ngang qua vừa nói chuyện. Khương tưởng tượng họ đẹp lắm, người nào cũng khỏe mạnh, má rám hồng vì nắng, và mắt trong sáng vì phản chiếu ánh trong trẻo của trời thu.
Một tiếng cười giòn sau một câu nói đùa, Khương nghe như là ở trên cõi sống đưa xuống, mà cái buồng tối này chàng tưởng như là một cái áo quan lớn để chôn sống chàng.

Rút từ tập truyện ngắn Tối tăm,
Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1936

SỐNG DỄ LẮM-NGUYỄN HUY THIỆP

Trường Sư phạm tỉnh miền núi mở lớp tập huấn cho giáo viên vùng cao vào cuối tháng 7. Có 11 người và họ đều là những giáo sinh trẻ lần đầu đi dạy học. Bạn đọc ở đô thị chắc hiểu ít về các trường học vùng cao cách đây ba, bốn mươi năm.Tôi chỉ có thể nói với bạn rằng không ở đâu buồn tẻ hơn và ít vụ lợi hơn ở đấy, còn việc hình dung và dành tình cảm cho nó ra sao tuỳ bạn.
Cuối tháng 7, ở Tây Bắc mưa nhiều và những đợt lũ quét bất ngờ có thể gây nên những tai hoạ không thể lường trước được. Người ta cử ông giáo Chi mang những tài liệu sách vở đến giảng cho lớp tập huấn nhưng trên đường từ tỉnh lị về trường, khi qua suối, ông giáo Chi bị nước cuốn sạch đồ đạc. Mười một giáo sinh ra đón ngài thanh tra giáo dục, họ nửa khóc nửa cười khi thấy một ông già gày gò, mình trần thân trụi ướt như chuột lột đang ngồi rét run cầm cập.
Tất cả những nghi lễ và dự định cho lớp tập huấn giáo dục bỗng vứt đi hết vì lí do bất ngờ, những qui định ứng xử giữa ông giáo Chi và đám trẻ bỗng xoay ra hướng khác hẳn. Ông giáo Chi được các cô con gái thân mật gọi là " bố " mặc dầu ông nửa đùa nửa thật nói rằng mình thích được coi là " bạn thân " hoặc " anh giai " hơn. Các cô con gái trổ tài may vá và ông giáo Chi lập tức có ngay hai bộ quần áo được " cải tạo " từ đám quần áo cũ của họ. Hai cậu con trai không tỏ ý thân thiện gì với " bố ", dưới mắt họ ngài thanh tra giáo dục " xuống cấp ", trở thành một tay dấm dớ chẳng ra gì.
Tuy nhiên, đúng ngày đúng giờ, lớp tập huấn giáo dục vẫn được bắt đầu như thường lệ, y như qui định của Bộ giáo dục tận mãi Thủ đô. Ông giáo Chi vốn xuất thân là lính, ông coi nhiệm vụ trên hết và không có gì ngăn cản ông làm nhiệm vụ được giao.
Không có giấy bút gì, ông giáo Chi đĩnh đạc đứng lên bục giảng có các cô con gái vây quanh, hai cậu con trai bất đắc dĩ phải ngồi cùng, không phải vì nể ông giáo mà vì nể các cô con gái.
- Dạy học là nghề sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi bắt đầu bài giảng của mình.
- Nếu lương ít, lại không có thực phẩm thì làm sao ? Ở các vùng cao lấy đâu ra chợ ? - Các cô giáo trẻ lần đầu sống xa nhà lo lắng hỏi ông.
- Phải trồng rau chứ ! - ông giáo Chi trả lời. Nuôi lấy vài con gà... Ngày xưa, tớ (ông giáo Chi xưng " tớ " chứ không xưng " bố ")... tớ nuôi cả lợn. Chiều ba mươi Tết thịt lợn, đánh tiết canh... thật không có gì vui như thế... vui như Tết !
- Tất cả là do tự nhiên điều chỉnh hết ! - ông giáo Chi nói - Mình cứ sống thôi ! Sống dễ lắm ! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống...Cũng cần phải biết một ít kĩ năng, như cách thiến gà... Phải biết một số cây thuốc cầm máu, biết phân biệt các thứ nấm độc...Tớ có kinh nghiệm không nên tin cái gì đẹp đẽ quá...
Ông giáo Chi đưa bọn trẻ vào rừng, ông chỉ cho họ cách tìm các cây rau ăn được, các cây thuốc, cách tìm phương hướng khi lạc rừng nhờ vào việc xác định rễ ở các gốc cây. Buổi tối, họ ngồi tập hát, ông giáo Chi dạy họ bài hát về nghề dạy học :
" Tôi không quên những giờ lên lớp đầu tiên
Khi bước về ngôi trường xa
Trang sách trắng tinh
Với nét phấn đơn sơ vụng về
Đừng hỏi vì sao tôi yêu dấu... "
- Dạy học không có gì khó cả ! Sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi lại nói - Mình cứ hình dung mình là đứa bé, đứa bé cần gì thì dạy thứ ấy... đừng dạy nó thứ không cần...
- Sống dễ lắm ! - Ông giáo Chi lại nói - Giáo dục... nghĩa là tha bổng... Hễ có tội là tha... trẻ con không có tội gì... Sống nghĩa là sai lầm, là mắc tội... Mình phải yêu mạng sống của chúng như yêu mạng sống của mình...
- Thế còn tình yêu ? - Những cô gái trẻ náo nức hỏi.
- Tớ không biết... - ông giáo Chi lúng túng trả lời - Nhưng có sự hi sinh... nghĩa là cay đắng...Tình yêu là mang cho nhau lời nguyện cầu tốt đẹp, những cử chỉ thân tình âu yếm, dục vọng, lòng ham sống... tóm lại là cảm giác...
- Nói dối ! - Một trong hai cậu con trai sầm mặt lại, chửi thề rồi nói khẽ qua kẽ răng. Đấy là Dân, tay thanh niên sinh ra ở thành phố - Nó hơn thế nhiều...
- Cậu thì bao giờ cũng coi cậu đúng còn mọi người là dối trá hết ! - Ông giáo Chi buồn bã nói
- Cậu không dạy học được.Cậu chỉ đi chiếm đoạt và áp chế người...Cậu giống " sếp " của tôi.
- Để xem - Anh chàng Dân trả lời - Nhưng dạy học đâu có phải là nghề tốt nhất trên đời phải không ?
- Tớ không biết ! - Ông giáo Chi thừa nhận - Có lẽ thế thật !
- Nhưng chúng ta đang nói chuyện về tình yêu cơ mà ? - Các cô giáo trẻ vẫn không bằng lòng với cách giải thích của ông giáo Chi.
- Hỏi làm gì ? Rồi trước sau ai cũng biết hết... - Cậu con trai tên là Hiếu bẽn lẽn chen vào. Khác với Dân, anh chàng Hiếu là một thanh niên nông thôn rụt rè.
- Đúng đấy ! Trước sau gì ai cũng biết hết... Rồi sẽ được ăn đòn cả thôi ! Đừng có vội ! Đừng có sốt ruột ! - Anh chàng Dân nói xong thì cười nửa miệng.
Các cô gái trẻ đòi ông giáo Chi kể về tình yêu. Ông giáo Chi từ chối mãi không được, cuối cùng ông đành nói :
- Có lẽ tớ đã yêu rất sớm... - Ông giáo Chi đỏ mặt thú nhận - Từ khi tớ còn là học trò...Mà người tớ yêu lại là cô giáo. Cô giáo đi vào lớp, tớ ngắm nghía như muốn nuốt chửng cô ta. Sau này tớ rất xấu hổ, rất ân hận...
Hai cậu con trai tỏ vẻ khinh bỉ đứng lên bỏ ra khỏi lớp. Ông giáo Chi ngồi im. Ông biết ông đã dại dột nói ra điều không nên nói. Ông là một nhà giáo dục thất bại. Các cô gái an ủi ông :
- Bố lại bịa, phải không ? Sao bố lại đi bịa như thế để cho người ta coi thường bố ? Chúng con biết bố có một tình yêu cao thượng, có phải không ?
- Ừ ừ... - Ông giáo Chi trả lời - Cao thượng... riêng tư... nhưng tớ có lỗi... tớ ích kỉ... mà lại hèn...Cô ấy là người rất kiên nhẫn mà cuối cùng cũng phải chán tớ.
- Cũng tại bọn đàn bà hay đòi hỏi cơ ! - Các cô gái than thở - Người ta vẫn nói đàn bà với tiểu nhân là một...
- Không phải thế đâu... - Ông giáo Chi cười đau đớn - Đấy là Khổng Tử. Ông ấy là tay say mê chính trị, hắn không có tình yêu, hắn yêu lễ hơn cả tình yêu... mà tình yêu là thứ vô lễ nhất. Tình yêu rốt ráo thậm chí còn là vô luân...
- Thế cũng phải dạy cho bọn trẻ con những điều như thế phải không ? - Các cô gái lại hỏi.
- Phải dạy chứ ! - Ông giáo Chi nói - Nhưng tốt nhất cứ để tự nhiên điều chỉnh là hơn... Sống dễ lắm ! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống.Có điều phải trung thành với công việc... Đừng có như hai thằng trời đánh kia ! Tớ thề rằng chúng nó sẽ phản bội nghề dạy học. Cô nào yêu chúng rồi sẽ đau khổ... Chúng nó thì có dạy ai ?Bọn đàn ông, tớ biết rất rõ... Một phần cũng bởi tại giới nữ các cô kích động nữa cơ, chúng nó là bọn láo khoét, không có phúc đức gì đâu... " Phúc đức tại mẫu ", đã hiểu chưa ? Không hiểu thì rồi sẽ hiểu.
Trong lớp học có Mạ là cô gái mà ông giáo Chi yêu mến nhất. Cô gái nhà nghèo, bỏ quê lên vùng cao dạy học, lúc nào cũng nhường nhịn mọi người, lúc nào cũng tranh làm những việc nặng. Mạ ít tuổi nhất lớp nhưng cô lại có vẻ đàn chị nhất lớp. Sớm mồ côi, phải nuôi hai em nhỏ nên Mạ sớm tháo vát hơn người.
- Con ạ... Sao mày cứ đi làm tranh việc của người khác như thế ? - Ông giáo Chi hỏi cô.
- Con không biết... tại số con nó thế...
- Thôi cũng được... - Ông giáo Chi ngậm ngùi thở dài - Nhưng cũng phải thương lấy thân mình.Thương người là rồi rước hoạ vào thân...
Cứ như thế, từng ngày một, trong nửa tháng trời ông giáo Chi truyền cho đám giáo sinh trẻ những kinh nghiệm, những nguyên tắc sơ khai về giáo dục theo cách của ông. Ông đã từng sống một mình trong gian khó, phải đấu tranh với cái đói, sự hiểm nguy. Ông là giáo viên tiểu học, một viên chức thấp nhất trong ngành giáo dục, ông rất dễ bị tổn thương, rất dễ bị người khác sỉ nhục hoặc coi thường, ông nói ra những kinh nghiệm của ông để bảo vệ thân phận, bảo vệ miếng ăn cũng như nhân cách của ông. Đơn giản mà kiên quyết, không có chút gì khoa trương và khoan nhượng hết.
- Không nên tin ai ! Sống dễ lắm ! Trong gian khó mà tin người là chết ! Tất cả mọi người có khả năng phản bội, kể cả phản bội những đức tính cao quí nhất, vì thế mới có cái chết chứ... Chỉ có một sự bất tử duy nhất là huyền thoại... trong huyền thoại thì tình yêu là thứ huyền thoại vĩ đại và cay đắng nhất...
Khi lớp học tan thì mọi người đã thân thiết với nhau lắm, thậm chí anh chàng Dân còn khoe rằng đã hôn được tất cả các cô gái ở trong lớp học. Họ ghi vào sổ tay của nhau những lời chúc tụng tốt đẹp, những bài thơ... Các cô con gái chép cho nhau cả những bài hát để khi về trường dạy lũ trẻ con... Rồi khóc lóc... Rồi chia tay... Rồi tiễn nhau ra bờ suối. những cánh chim bay đi. Vùng cao xa mờ trong mây núi. Các thày cô giáo trẻ tuổi bịn rịn lên đường, vừa háo hức, vừa sợ hãi, cả vui với buồn lẫn lộn. Ông giáo Chi lội suối trở lại tỉnh lị báo cáo với trên về việc mở lớp " tập huấn " của mình.
- Không có tài liệu ! Không có sách vở ! Không có chương trình ! Mình trần thân trụi ! Thế ông làm những trò gì cho những giáo sinh ở vùng cao ấy ? - Người ta hỏi ông.
- Tôi nhen lửa... nghĩa là thổi vào lòng họ vài ngọn gió... Tôi bảo họ sống dễ lắm ! Chỉ có thế thôi !
Người ta cười phá lên :
- Ngọn gió ! Thật là đồ ngu ! Đồ dối trá ! Sống dễ lắm ! Ông đã làm hỏng toàn bộ phương pháp. Rồi ông sẽ biết thế nào là sống dễ lắm !
Ông giáo Chi bị cách chức, bị chuyển đi làm việc khác. Người ta bảo ông :
- Mắt xích giáo dục, ông già ạ, trong chuỗi mắt xích giáo dục thì ông đã làm cho mắt xích vùng cao mất toi, chẳng ra cái gì...
Ông giáo Chi ngậm ngùi xếp đồ đạc vào chiếc ba lô bạc màu ngày trước của ông. Người lính già cảm thấy lòng mình tan nát. Ông đành thôi việc về quê. Sống dễ lắm chẳng phải là một câu nói đùa cửa miệng cho vui sao ? Vùng cao xa xôi trong ông chỉ còn mơ hồ là những đám mây trắng trong dãy núi xa xôi, tiếng cười vô tư lự của đám giáo sinh trẻ tuổi, hình ảnh cô bé Mạ năm nào, cái cô giáo cấp một chịu thương chịu khó có thân hình gầy gò bé nhỏ trông chẳng khác gì một đứa trẻ chăn trâu ở trong xóm núi...
Ba mươi năm sau, ông giáo Chi khi ấy đã thành một ông lão quá tuổi " thất thập cổ lai hi " chỉ loanh quanh nơi vườn nhà. Một hôm ông có khách, khách là hai mẹ con nhà kia từ nơi xa xôi đến chơi. Chưa bao giờ ông vui như thế : cô giáo Mạ ngày nào đưa con gái về thành phố đi thi đại học ghé lại thăm thày giáo cũ.
Ông giáo Chi cười không thành tiếng :
- Thế nào ? Vẫn còn nhớ ta ư con ? Sống dễ hay khó hả con ?
Cô giáo Mạ vừa lôi trong túi xách ra những gói quà đặt lên mặt bàn vừa cười :
- Kể cũng thất điên bát đảo nhưng xét cho cùng thì sống dễ lắm ! Bố có nhớ không ? Lớp học ngày ấy có 11 người... chết mất một nửa rồi... Ông Dân bây giờ lên chức to lắm nhưng không còn làm trong ngành giáo dục. Ông Hiếu nghiện nặng, nghiện thuốc phiện, bị đuổi khỏi ngành vì đi sàm sỡ với cả học trò...
- Tớ biết ngay mà ! - Ông giáo Chi than thở - Thằng Dân tham vọng quá, nghề dạy học là nghề quá bé nhỏ với nó. Những tên lưu manh bao giờ cũng phải khua khoắng ở nơi đất rộng có người chen chúc. Thằng Hiếu thì tình cảm quá, không thắng được những bản năng...Chà ! Lũ đàn ông ! Thày bậy thày bạ ! Phúc đức gì lũ chúng mày !
Ông giáo Chi khổ sở, bận rộn với những ý nghĩ trong đầu y như trước mặt ông đang có 11 đứa con giống như ở trên lớp học vùng cao ngày nào.Ông mỉm cười với người học trò mà ông yêu mến nhất, đứa con gái trung thành của ông :
- Hãy kể chuyện đi, con gái... Sống dễ là như thế nào ?
- Cũng đói... Cũng rét... Cũng khổ đủ đường nhưng rồi cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống...
- Thế những đứa khác thế nào ?
- Cũng thế...Bố còn nhớ con bé Thảo không ?
- Cái con bé trắng trẻo, vẫn hay nói lắp chứ gì ?
- Đúng rồi ! Nó yêu ông Dân...Tình yêu đơn phương... Nó bỏ vào rừng, nó cứ đi mãi, nó sa vào tổ ong đất rồi chết. Chỗ ấy mặt đất rất sạch, lại rất phẳng phiu, bên trên không có một ngọn cỏ nào... Cái hố toàn ong là ong sâu hơn bốn mét...
- Khổ ! đã bảo không được tin vào cái gì sạch sẽ cơ mà ! - Ông giáo Chi rên rỉ, nước mắt ròng ròng - Cái con bé xinh thế ! Thật tội nghiệp ! Thế bây giờ mộ nó ở đâu ?
- Vẫn ở trên ấy, bố ạ... Bố còn nhớ dãy núi Đầu Hổ không ? Nó nằm ở đấy 30 năm rồi...
- Thế những đứa khác thế nào ?
Cô giáo Mạ ngồi im một lát như muốn nhớ lại từng người bạn cũ ngày xưa, cô nói :
- Được cái không ai bỏ nghề dạy học... Nhưng hễ đứa nào dính đến yêu đương là chết... Khổ thế đấy ! Đứa nào an phận thủ thường thì cũng vung vinh hơn người...
- Ta đã bảo mà ! - Ông giáo Chi gật đầu - Cứ để cho tự nhiên điều chỉnh là hơn ! Cứ mơ mộng hão huyền là chết... Đừng có lãng mạn viển vông gì cả... Thế còn con ? Con gái của con năm nay thi vào đại học ? Thế bố nó đâu ? Bố nó làm gì ?
Cô giáo Mạ đưa mắt nhìn cô con gái.Cô con gái biết ý bẽn lẽn đi ra ngoài sân.
- Bố nó ngày xưa cũng là thanh tra giáo dục - Cô giáo Mạ thì thào - Anh ấy đi về trường con có mỗi một lần... cũng y như bố, buồn cười, mình trần thân trụi...
Ông giáo Chi cảm thấy nghẹt thở, nước mắt chảy ra ràn rụa. Ông cười không thành tiếng :
- Ừ... Vậy nó là thanh tra giáo dục...Thế nó nói gì ?
- Không nói gì cả...
- Thằng ông mãnh ! Thế là nó khôn...
- Được cái thật thà...Mà khoẻ lắm ! Cứ như lực điền...
- Đúng rồi...Tất cả là ở cảm giác...
- Hồi ấy mùa thu...Hoa cúc nở vàng như mê như man trong thung lũng. Mật ong thì nhiều vô kể... Lũ học trò mang đến cho con bao nhiêu là hoa với mật ong...
- Ừ ừ... ta hiểu... Thế cũng xơi chứ ?
- Vâng... Ăn tham không tưởng tượng được. Toàn mật ong rừng thuộc loại ác chiến...
- Có phải nó đặc sánh mà lại vàng như ánh nắng ở dưới mặt trời phải không ?
- Vâng... vàng như hổ phách... Mà trong suốt.
Cô giáo Mạ ngồi lặng im một lát không nói năng gì. Mãi lúc sau ông giáo Chi mới húng hắng ho. Ông nói nho nhỏ :
- Ở vùng cao ấy, con ạ, không khí rất sạch, rất tốt cho trẻ con đấy !
Cô giáo Mạ như bừng chợt tỉnh, mỉm cười :
- Vâng... được cái không khí thì sạch lắm. Hồi đẻ con bé, con tự làm lấy hết... tự cắt rốn cho nó, tự may vá lấy...
- Thế lúc ấy không có ai à ?
- Không có ai... May mà cũng không nhiễm trùng... Hôm ấy trời mưa rất to...
Ông giáo Chi đỡ lấy chén nước mà cô giáo Mạ vừa rót cho ông, ông nói :
- Con bé của con xinh lắm ? Thế nó ngoan chứ ? Có hiếu chứ ?
- Vâng... Được cái cháu nó cũng ngoan, cũng biết thương mẹ. Con nghĩ thi được đại học thì thi, không được thì thôi...
- Ừ... phải nói với nó là sống dễ lắm... đừng làm nó sợ...
- Con hiểu... - Cô giáo Mạ tần ngần nhìn ông giáo Chi, tự dưng nước mắt ứa ra - Bố già rồi... Thế bố có còn nhớ gì về những nơi ở ngày xưa của bố hay không ?
Ông giáo Chi gật đầu, ông nói rất khẽ cứ như là ông tự nói để cho mình nghe :
- Có... nhớ chứ ! Toàn núi là núi nhỉ ? Mà toàn núi xanh mây trắng...
Một lúc sau, hai mẹ con cô giáo Mạ từ biệt ông giáo Chi để trở về nhà, trở về trường học cũ của họ. Giống như ngày xưa : lại nước mắt, những lời ly biệt...
Ông giáo Chi tiễn người học trò rồi mà cứ thẫn thờ tần ngần đến suốt mấy tiếng đồng hồ. Hôm sau, hôm sau nữa ông cứ lơ lửng như người mất hồn. Nhiều lúc, ông giáo Chi bỗng thấy người mình tựa như nhẹ bỗng, nhẹ đến nỗi tưởng như có thể bay lên được kia ! Chao ôi ! Ước gì ông có thể bay lên trời được ! Như những ngọn gió ! Nếu bay lên được thì ông sẽ bay đến những dãy núi xanh xa xôi tít tắp kia, nơi ấy lẩn khuất trong mây trắng và sương mù, nơi ấy không khí rất sạch và khoáng đạt, nơi mà hoa cúc dại nở vàng rực rỡ như mê như man đầy trong những thung lũng hoang vắng không có một bóng người nào.
Phải ! Điều cốt nhất là phải không có một bóng người nào ! Như thế thì sống dễ lắm ! Nhất định rồi ông sẽ về đấy mà ! Ông sẽ về đấy... Ông nghĩ như thế ? Cho ngày mai...Mai...

Hà Nội, tháng 12.1999

THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ

Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Ði trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung Ðông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về.
Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.
Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa.
Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lấp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo: "Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người". Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau : "Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái". Nhà chú Phụng toàn phụ nữ : mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gáị Chú Phụng đùa :"Chú đẹp giai nhất nhà".
Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quì dạy cấp một ở làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quì. Ông giáo Quì có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là "đồ gàn", lại bảo ông là "lão dê già", "Quì dê". Ông giáo Quì có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị đâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quì lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì.
Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo.
Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ.
Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt.
Ðường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi :"Anh Nhâm !". Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi :"Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội".
Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê.
Tôi cầm bức điện đọc :"Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày... ". Tôi hỏi cái Mị :"Chiều nay à ?". Cái Mị gật đầu.
Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi :"Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé". Tôi bảo :"Nhà cháu đang gặt". Dì Lưu bảo : "Ðể đấy đã. Gặt ở khoảnh nào ?". Tôi bảo :"Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng".
Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo :"Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi". Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lòng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở ra. Tôi bảo :"Em kiếm nứa đi". Cái Mị bảo :"Em có rồi. Mai anh làm nhé". Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo :"Mai đấy". Tôi bảo :"Ừ". Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói: "Sao lại bưu cục S.N.N ? Thế là nghĩa lý gì ?". Mẹ tôi bảo :"Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc". Tôi bảo cái Mị :"Em về đị Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn".
Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Ðất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách.
Ðến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Ðông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi :"Mày về luôn chứ ?". Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà.
Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ.
Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo.
Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo :"Cháu cầm lấy ít tiền". Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn cân thóc. Dì Lưu hỏi : "Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không ?". Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra.
Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này.
Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện ly. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ của tôi mông lung.

Tôi nghĩ
Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao tháng ngày trôi đi
Bao kiếp người trôi đi
Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được
Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này
Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi
Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi
Nhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi
Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê
Tôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ
Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng
Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng
Tru lên như con sói hoang
Tôi gắng gặt một lượm sống
Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ
Tôi hú gọi trên cánh đồng người
Tôi nhặt những ánh mắt đời
Hòng dõi theo ánh mắt tôi
Dõi vào cõi ý thức
Cõi ý thức mênh mông xa vời
Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi.
Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát-xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi :"Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người ? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em ?". Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hành quần áo, giầy dép, đường sữa, thuốc lá. Ô tô chạy xuôi chạy ngược.
Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.
Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to :"Tàu về". Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên :"Tàu về". Tiếng còi tàu hâm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng rao hàng chen nhau :"Nước đây ! Ai bánh nào ! Ai nước nào ! Ai bánh nào ! Ai nước nào !".
Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngỗn ngang ở ngay bậc cửa. Ðây là ga lẻ. Ðồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh.
Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này. Ðấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên.
Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.
Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo : "Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không ?". Tôi bảo :"Vâng". Quyên cười :"Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu ? Anh tên gì ?". Tôi bảo :"Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng". Quyên hỏi: "Thế anh có họ hàng gì với tôi không ?". Tôi bảo :"Không". Quyên gật đầu :"Tốt. Cô Lưu thuê anh à ?". Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn.
Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa.
Quyên hỏi :"Nhà anh cấy bao nhiêu sào ? Mỗi sào bao nhiêu thóc ? Ðược bao nhiêu tiền ?". Tôi bảo :"Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư". Quyên nhẩm :"Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người". Tôi bảo : "Có ai chỉ nghĩ đến ăn".
Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo :"Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu" . Tôi bảo :"Ðể lúc nào qua chùa con xin". Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quì bảo :"Ðấy là thú của kẻ biết đời". Sư Thiều bảo :"Có lấy ít sen về cắm lọ không ?". Ðầm sen của chùa mùa này nhiều hoa.
Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo :"Tôi muốn đi thuyền". Tôi gọi sư Thiều.
Sư Thiều ghé thuyền vào.
Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra.
Sư Thiều bảo :"Chìu người lụy ta". Tôi cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không.
Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi : "Ngon không ?". Quyên bảo :"Ngon".
Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo.
Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: