Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyen ngan Pham Ngoc Tien-Lenghiabk05

Cuộc đỏ đen số phận

Lượn đúng một vòng quanh nhà, mắt dớn dác đảo mọi xó xỉnh, gã trai mới thủng thẳng dừng lại trước mặt ông Thành:

- Chào ông Khếch!

Ông Thành giật thót người. Gã trai này ông không quen. Sự xuất hiện đường đột từ lúc gã hùng hổ đạp chân chống chiếc xe máy to đùng ở giữa sân, đến cái điệu bộ tự nhiên, cái nhìn như nuốt chửng mọi thứ trong nhà của gã làm ông Thành ớn ớn xương sống. Gã trai tay vân vê mấy cái lông dài lượt thượt trên cái nốt ruồi đen sạm, to bằng đồng xu dưới cằm, nhìn ông chằm chằm:

-  Thế nào, ông Khếch không nhận ra thằng này ư?

Ông Thành cố hết sức mở thật to đôi mắt đang đỏ ngầu vì cơn sốt quái quỷ hành hạ ông từ sáng đến giờ. Ông lắp bắp:

- Tôi không quen anh. Mà tôi cũng không phải tên là Khếch.

Ha… ha… ha – Gã trai phá lên cười – ông Khếch. Trời ơi là trời, là ông khốt, là ông bô. – Gã xấn đến, ôm chặt lấy ông, hôn túi bụi vào mặt, vào cổ.

Ông Thành muốn hét thật to. Song lưỡi ông như co ngắn lại ú ớ.

- Anh là ai? Tôi xin anh. Tôi đang sốt.

Gã trai buông ông:

- Sốt là còn nhẹ, nhiều thằng còn sướng phát rồ, phát dại. Sáu mươi triệu bạc. Đúng là một cuộc đổi đời. Ông Khếch vờ vịt hỏi thằng này là ai. Vội quên nhau thế?

Gã trai lại nhào đến, ôm lấy ông Thành, giọng rên rỉ: “Bố ơi, bộ xổ số bố luộc của con trước giờ quay hôm qua vào rồi. – Hai con bát táp ba con tứ. Sáu mươi triệu”. – Gã buông ông Thành lẩm bẩm một mình “Toàn số phò, tưởng trút được của nợ, gỡ lấy vốn; nào ngờ… Mà nhiều nhặn gì cho cam, có bốn vé hai nghìn đồng bọ. Rõ đồ ăn mày, con người ta đúng là có số thật”.

Ông Thành lồm cồm từ trên giường bước xuống:

- Anh nói cái gì?

- Còn cái gì, ông trúng sáu mươi triệu, lủi một mạch, làm thằng này tìm hụt hơi, muốn chết luôn. – Gã bỗng nổi xung – cái lộc thiên hạ được hưởng, tưởng ông cũng phải san sẻ cho thằng này vài “chỉ” mới phải đạo. Đằng này ông định “tí hút con mẹ hàng lươn”.

Ông Thành nặng nhọc rơi mình xuống chiếc ghế dựa:

- Khốn nạn. Tôi ốm từ đêm đến giờ, có biết chuyện gì đâu.

Mắt gã trai xoe xoe:

- Báo đây, so đi. – Gã quẳng ra bàn tệp bạc còn nguyên nếp – Trăm tờ năm thiên đấy. Bố chắc cũng mướp, con tạm ứng trước để bố ăn mừng. Rồi thì lúc lĩnh thưởng, bố con mình thanh toán sòng phẳng.

*

*     *

Ông Thành trúng giải đặc biệt sáu mươi triệu đồng! Cái ngõ nhỏ của ông xôn xao. Tin đồn nhanh hơn bất cứ thứ điện tín khẩn cấp nào. Nhanh đến nỗi chỉ hai ngày sau con gái lớn của ông lấy chồng quê, xa đến bảy mươi cây số đã tay xách, nách mang, con bồng con dắt tìm về chia vui với bố. Dân ngõ chợ này chỉ không bàn chuyện chính trị, còn thì họ đàm tiếu đủ mọi chuyện trên trời, dưới biển. Hàng tháng trời người ta xì xầm to nhỏ về chuyện con gái cưng ông tổ trưởng dân phố, xinh đẹp là thế đã từng vào vòng chung kết thi hoa hậu, bỗng mắc một căn bệnh nan y, bụng bị chướng phình, dù chưa có chồng. Sau phải tìm vào tận thành phố phía Nam để thuốc thang chạy chữa. Người ta nhắc nhở nhau ròng rã hàng năm trời tấm gương tày liếp con trai ông Phát buôn thuốc nhuộm, háo sắc trúng mỹ nhân kế, mất cả xe máy lẫn đồng hồ, tiền bạc. Nửa đêm mò về nhà trần trụi trên thân chỉ còn đóng mỗi manh xà lỏn. Vân vân và vân vân. Còn lần này, cái giải sáu mươi triệu, bỗng dưng về tay ông Thành, thực sự là một chấn động dữ dội, tác động trực tiếp đến đời sống tinh thần của tất cả mọi công dân trong ngõ. Và dân trong ngõ đâm ra hào phóng. Những nhà ky bo nhất cũng sa sả súc ấm thay bã, không hề đắn đo giá một lạng trà ngon bây giờ không dưới một ngàn bạc. Người ta còn mời cả nhau uống rượu. Trong cơn hào hứng như say còn có chút ít lòng ghen tị. Lão Phát buôn thuốc nhuộm sau khi lừ lừ quật hết bốn chén tống rượu thuốc, phát biểu cụt lủn: “Sâu bọ lên làm người.”. Lão ít nói. Dân buôn bự vốn sẻn nhặt từ lời nói, chỉ có những thằng túi rỗng mới hay múa mỏ đa ngôn. Câu nói của lão không được hưởng ứng. Ông cả Đoạt, nhà buôn vải, mới bị công an kinh tế chặn bắt mất một xe hàng lậu, đang nghi con lão Phát chỉ điểm, đốp chát: “Ai là sâu bọ? Cả cái ngõ này đã ai làm to bằng ông ấy. Một thời lên xe xuống ngựa, tiền của như nước. Chẳng qua sa cơ, anh hùng đâm ra nhỡ bước.”. Lão Phát trợn mắt: “Nịnh hả… Định cá kiếm chắc.”. Cơn bốc máu của hai vị hảo hán giàu nhất phố may mà có người can kịp.

Đêm hôm ấy nhờ trời trôi qua rất bình yên. Mọi người đã yên ngủ. Chỉ còn mỗi mình ông Thành thao thức. Nghe rõ cả tiếng mọt nghiến rỉ rả. Bất giác ông lấy bộ xổ số ra ngắm nghía. Những tờ giấy mỏng manh. Cô gái trong tấm vé có khuôn mặt thật đẹp. Bà ấy ngày xưa cũng đẹp. Hình như cô gái xổ số đang cười. Nụ cười sáu mươi triệu đáng giá lắm. Còn bà? Tội nghiệp quá. Ông sẽ sàng tiến lại phía bàn thờ. Phút chốc, khói nhang tỏa nghi ngút.

*

*     *

Ông bà lấy nhau từ ngày còn kháng chiến chín năm. Con người ta âu cũng là do cái duyên trời se, đất định nên mới xui khiến cái đêm trăng vành vạnh năm ấy, bỗng dưng chuyển trời dông gió ầm ầm, mây đen mù mịt. Ông Thành trong đội biệt động tiềm nhập vào thành trinh sát, bất ngờ bị trúng đạn của lũ lính lê dương bốt gác Đầu Cầu bắn cầm canh. Mọi việc diễn ra sau đó thật đơn giản. Ông bị thương nằm rên rỉ ở mép nước được bố con người thuyền chài tốt bụng cứu đưa lên thuyền băng bó, chữa chạy. Một đêm nằm bằng trăm năm nghĩa, cảm cái đức của gia đình thuyền chài ân nhân, ông Thành gắn luôn cuộc đời mình vào với số phận của con thuyền mong manh, cùng cô chủ trẻ trung thùy mị. Hòa bình, họ đưa nhau vào thành phố. Cuộc sống thật hạnh phúc. Thời gian thấm thoắt trôi. Anh chiến sĩ Vệ quốc trở thành quản đốc rồi một giám đốc tài ba. Giới công thương thành phố không mấy ai không biết đến tiếng tăm của giám đốc Thành. Ông là người đột phá, xông xáo tìm ra những cách làm ăn mới. Một quá khứ vinh quang cộng với một thực tại oanh liệt, đã đẩy ông lên đến đỉnh vinh quang của thành đạt, sau ba mươi năm làm quản lý, từ thấp lên cao.

Vậy mà, đến một lần… chắc rồi ông sẽ chẳng bao giờ quên cái ngày thê thảm ấy. Mới chỉ cách đây có hai năm chứ mấy. Phải rồi, đấy là chuyện ông đi công cán Sài Gòn với tay Doanh quản trị. Mãi sau này ông mới vỡ nhẽ: Mọi tai ương hiểm họa đều do bàn tay thằng ấy sắp đặt cả. Cái ngày ông chủ trương giải thể toàn bộ phòng ban để áp dụng chế độ làm việc trợ lý, có người ngay thẳng đã can ông đừng dùng Doanh vào chức ấy. Tướng nó là tướng Bàng Quyên, mặt dơi, tai chuột… Vậy mà ông không nghe! Chung quy cũng tại vì miệng lưỡi nó ngọt quá. Chết nỗi, ngọt đúng vào lúc ông đang háo. Lần thì nó bảo ông cần phải có bộ sa lông cẩm lai đệm mút để tiếp khách cho sang: “Anh có mát mặt thì cả cái xí nghiệp này cũng được thơm lây.”. Thơm lây thật. Bộ sa lông của nhà nó còn đẹp bằng mấy bộ của ông. Lần thì nó thủ thỉ: “Kỷ nguyên này là kỷ nguyên của tivi màu và casset cục. Tội gì mà anh dùng đồ cổ mãi. Mang tiếng lậu hủ. Mình có xin xỏ ai đâu”. Nói thế rồi thì hôm sau nó khuân về cho ông đầy đủ. Tất nhiên nó cũng phải có. Rồi kiện cáo ầm ầm lên sở, lên thành. Vụ ấy uy tín của ông đủ dập tắt mọi tai tiếng. Còn nhiều lần khác nữa. Vợ ông là người nhân đức, nhìn cái gì cũng thành ra nhân đức, mà cũng không ít lần phải bảo:

- Tôi thấy chú Doanh cứ gian gian thế nào ấy. Con ngươi đã nhỏ lại hay đảo. Ông phải cẩn thận. Đồ đạc nhà mình dạo này sắm sanh nhiều. Tôi lo lắm.

Ông cười:

- Bà lẩm cẩm, “lo bò trắng răng”. Thằng ấy là tâm phúc của tôi đấy. Có kiềng là kiềng mấy thằng trợ lý ở ngạch kế hoạch, tài vụ, tổ chức. Bọn ấy mới hay nhiễu nhương khuynh đảo, sểnh là chết. Phải để mắt đến. Chứ còn thằng Doanh. Cứ cho là nó gian gian đi. Bất quá cũng chỉ là thằng đầu sai, phục dịch. Nay đặt tiệc tùng, tiếp khách, mai sắm sanh mua bán vớ vấn, quản mấy thứ đồ công, vương tướng gì mà phải sợ!

Ông đã lầm. Và ông đã bị Doanh đánh gục ở chuyến đi công cán Sài Gòn ấy. Hai thầy trò trọ tại một khách sạn tư doanh có cái tên ỡm ờ “Chiêu Anh Quán”. Nghe cái tên ông đã thấy gờn gợn. Đầu hai thứ tóc rồi, chiêu anh, chiêu em gì, kỳ cục quá. Nhưng Doanh gạt ngay: “Anh cứ cổ hủ. Đổi mới rồi! Đây là một thành phần kinh tế bung ra đấy. Mình không ủng hộ coi như là gián tiếp bóp chết đổi mới.”. Ông ầm ào cho qua. Của đáng tội, nhân viên ở đây toàn trẻ đẹp, chú chú, con con đến là ngọt. Thì đã bảo, ông chết vì ngọt. Cả ngày công cán mệt mỏi, chiều về được xả láng tắm hơi, rồi lại được phục vụ xoa bóp kể cũng thú vị. Đã thế cô nhân viên matxa miệng cứ ngọt thơi lởi: “Được phục vụ mấy chú là tụi con mãn nguyện lắm. Mấy chú cả đời cách mạng, dãi gió, dầm sương, cực nhọc. Bây giờ đất được thái bình mới được tí chút xả hơi, hưởng thụ. Tụi con hết mình phục vụ các chú.”. Nghe ngon lành quá. Người ông cứ ran lên như phải bỏng. Ông nhắm nghiền mắt. Có các vàng ông cũng chẳng dám mở mắt nhìn. Rồi thì vài ngày sau, trong một lần yến tiệc quá đà, chính cái cô phốp pháp chỉ đáng tuổi con ông ấy, đã quần ông ngay trên giường ngủ của ông. Ông chuếnh choáng đến mấy ngày. Rồi cơn chuếnh choáng cũng hết. Ông đủ nghị lực để dằn vặt, ân hận, xỉ vả mình. Ông bỏ chuyến công cán, vội vã bay ra Bắc như là để chạy trốn. Và bất hạnh ập xuống không ngờ. Chỉ mươi ngày sau vụ “Chiêu Anh Quán” đổ bể, chấn động cả nước. Loạng quạng thế nào người ta vớ được cả ảnh ông ở đấy. Trong danh sách báo chí nêu ra những phần tử “quan lại cách mạng” biến chất, ăn chơi đàng điếm có cả tên ông. Oan thì không oan, nhưng mà ức. Đã hết đâu, thằng Doanh chuyến ấy dùng séc khống rút ra mấy trăm triệu đánh quả, bị bắt, nó đổ hết tội cho ông. Suýt nữa tay ông cũng bị còng. Thằng Doanh bị tù, ông cũng bị cách tuột hết mọi thứ. Công lao cả đời coi như xong gọn. Rồi cũng qua những ngày lận đận ấy. Đúng lúc ông tưởng mình đã nguôi ngoai, thì bà lâm bệnh. Nhanh lắm, chỉ chưa đến tuần lễ. Một buổi sáng bà gọi ông đến bên nói dịu dàng: “Mình ạ! Tôi rất thương và hiểu mình. Mình mất hết là phải. Tôi cũng có lỗi trong đấy. Thời buổi nhiễu nhương này, thiện ác lẫn lộn, thật giả nhập nhằng, người không kiên tâm là gục ngã. Tôi không trách mình đâu. Cũng muốn cùng mình gánh chịu những cực nhọc còn lại. Nhưng sức tôi đã kiệt. Mình ráng sống…”. Ông òa khóc. Bà đã lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng với khuôn mặt đầy ưu tư, phiền muộn. Ông ôm mặt khóc rất lâu.

*

*     *

Cái tin trúng số độc đắc quả có cánh bay kỳ diệu.

Đến sáng hôm thứ ba, nhà ông Thành đã tề tựu đông đủ. Ông có ba đứa con. Cô lớn năm nay xấp xỉ bốn mươi tên là Bích, học hành dang dở. Mới chớm lớn đã dính vào yêu đương. Rồi thì tiếng gọi tình yêu mạnh đến nỗi, cô dứt bỏ tất cả theo chồng không chút luyến tiếc về tận Hà Nam Ninh. Anh chồng quê tốt đấy, lành đấy, có sức khỏe đấy, nhưng cũng chỉ là anh giáo cấp ba trường huyện, nửa quê, nửa tỉnh. Bích tông tênh cho qua ngày với cái chân văn thư huyện, lương chỉ đủ ăn quà sáng cho một mình cô. Lương nhà giáo chả được bao lăm. Tóm lại là cực vì nghèo. Song trời sinh voi ắt trời sinh cỏ. Mấy chục năm nay cứ tháng tháng, vợ chồng cô đều đặn về nhà. Tất nhiên là phải có viện trợ. Cái đận ông Thành làm ăn khấm khá, cô Bích cũng mượn gió bẻ măng kiếm được ít đồ dùng tàm tạm đủ mát mặt với dân phố huyện. Đùng một cái xảy ra biến cố trên. Sau khi chịu tang mẹ, Bích biết là không thể vơ bèo, vạt tép được nữa. Cả năm trời, trừ ngày giỗ mẹ, còn thì cô cam chịu cảnh lặng tiếng im hơi. Có ai đó ngầm mai mỉa thái độ dửng dưng nước lã qua sông, cô thản nhiên bảo: “Thời buổi chạy cho đủ ăn đã… Tiền đâu mà tàu xe đi lại. Thôi đành… thương để trong lòng”. Ông Thành biết cả. Mặc cảm tội lỗi khiến ông chấp nhận thái độ lạnh lùng của con mà không dám một lời oán thán. Bây giờ thấy con về, ông mừng mừng, tủi tủi.

Sau Bích là Hưng. Con trai, lại kẹp giữa bà chị và cô em nên Hưng được nuông chiều và sung sướng từ nhỏ. Trước kia, khi còn quyền chức, những lúc tiệc tùng vui vẻ, ông thường cười khà khà bảo với thuộc cấp: “Đẻ thế là cả một nghệ thuật…”. Hưng lấy vợ muộn. Bộ đội về, học xong đại học mới cưới. Cô vợ làm ngành du lịch xem chừng cũng rủng roẻng. Khi bà đi xa, ông lực cùng thế kiệt, của nả chả còn, lúc ấy là lúc cô con dâu phát huy thế mạnh. Cả gia đình đang quen sống phong lưu giờ trông cả vào sự xoay sở của mỗi mình cô. Thế là sinh chuyện, cô đâm ra bẳn gắt. Lạ lùng là Hưng bỗng xoay 180 độ, ngả theo vợ. Những lúc nghe vợ Hưng bóng gió, ám chỉ này nọ, ông Thành thường lặng lẽ lui vào buồng trong chịu bề nhẫn nhục. Lúc ấy trong niềm đắng cay ân hận, lòng ông không khỏi pha chút đau đớn thế sự nhân tình. Một hôm vợ chồng thằng Hưng đùng đùng rút về bên ngoại, chả thèm hỏi ông lấy nửa lời. Nghe nói bên ấy chúng nó được chia một ngôi nhà rộng rãi. Kể ra, nếu không có sự gì thì cũng là mừng cho con. Đằng này ông hiểu: Ông là nỗi nhục, là gánh nặng… Ông vác cái bơm ra đường. Bơm vá xe đạp để kiếm thêm đồng, cũng là việc ông muốn tự hành mình bởi nghĩ tới bao sai sót nặng nề ông đã gây nên. Cũng còn may cho ông là cô con gái út, tuy ít tuổi nhưng nó cảm thông được nỗi đau của bố. Năm nay nó ra trường đây. Nó học đại học Tổng hợp, ngành Văn. Học văn là học cách làm người. Học làm người bao giờ cũng khó. Nó bảo ông: “Bố làm thế, thật tội nghiệp. Nhưng thôi tùy bố. Mỗi người có một cách giải thoát.”. Ông sững sờ. Hóa ra bọn trẻ bây giờ không phải đứa nào cũng hỏng. Hiểu được nỗi đau của người khác, đó là nhân cách. Chính cái hôm ông mua bộ xổ số, là hôm Ngọc ở trường về, khoe ông tờ báo in truyện ngắn đầu tay của nó. Cầm tờ báo ông còn run hơn cả nó…

Hưng là người về sau cùng. Tuy nhà chỉ cách vài dãy phố, nhưng biết tin muộn nên mất gần trưa hai vợ chồng Hưng mới vội vã, hoảng hốt chạy về. Vứt chiếc xe đạp lăn kềnh ngoài ngõ, mặt tái nhợt, Hưng lắp bắp câu gì không rõ. Chưa ai kịp trả lời, nhưng thấy cảnh nhà đông đúc, Hưng đã đoán biết tin bố trúng số là hoàn toàn có thật. Cô con dâu, tay gạt gạt mồ hôi bết bệt ở lọn tóc mai, phân trần:

- Nhà con đi công tác vắng, mãi sáng nay về nên biết tin muộn. Bây giờ mới sang được. Bố…

Ông Thành gật đầu xua tay.

- Không sao. Bố mua một bộ số trúng độc đắc. Vé vẫn còn đây. Dẫu sao cũng phải đợi các con. Đông đủ cả rồi – Ông cố nén nhưng hơi thở dài vẫn phào ra – Hoàn cảnh nhà ta các con đều biết. Phận bố coi như đã xong. Bộ xổ số, thôi thì tùy các con định liệu với nhau.

Ông run rẩy, mặc dù cơn sốt đã dứt. Cổ ông có một cái gì như nghẹn tắc. Hưng không để ý đến thái độ của bố, láu táu:

- Thôi, bố nhắc lại chuyện cũ làm gì. Đời còn dài, ai cũng phải sống cả. Cái gì qua đi là chôn luôn. Nhà ta trời cho lộc. Đã có lộc, cứ hưởng cái đã. Theo con, bố không nên đi bơm xe nữa. Cái Ngọc sắp ra trường rồi. Tiếng tăm cần phải giữ, còn kiếm cho nó tấm chồng xứng đáng. Con một ông bơm xe, có tiền triệu, nghe nó vẫn thế nào ấy.

Ngọc đang lúi húi ở góc nhà làm gì đấy, dường như không chịu nổi, lạnh lùng nói: “Cảm ơn anh. Anh cứ lo đàng hoàng cái phận của anh đi.”. Như không nhe thấy, Hưng nuốt nước bọt đánh ực, rút tờ báo, mắt sáng lấp lánh. “Một xe DD, một Mô-kích – Hưng lẩm bẩm một thôi dài – Mẹ kiếp! Toàn hàng cắt cổ. So với giá “luộc” ở sốp mất đứt hai triệu bạc. Đám xổ số gớm thật, chặn đầu chặn đuôi đủ cả – Hưng vứt tờ báo – Phải đi đăng ký ngay bố ạ. Sớm sủa còn có thời gian chọn lựa. Tống ít tiền kẻo “nó” cho mình toàn hàng “đểu” thì toi. Mà cũng không cần quay tivi, ti viếc làm gì.”. Đoạn Hưng quay sang nhìn xéo về phía Bích:

- Thế còn ông giáo làng đâu, sao không về cho đủ bộ. Mà nghe tin nhanh thế, chắc chưa kịp tập tành “máy miếc”. Tập nhanh đi, để còn rước về làng cái “kích ớt” cho oách.

Dường như chỉ đợi có thế, Bích đốp chát luôn:

- Này nói cho mà biết. Mẹ mất thì còn bố. Nhà phải có tôn ti trật tự. Đừng hỗn láo, hàm hồ. Nhà tôi về đây là về với bố. Chứ còn cái mặt anh chị, có các vàng đây cũng chẳng thèm.

Vợ Hưng mát mẻ. Cô là hướng dẫn viên du lịch nên bao giờ cũng mát mẻ:

- Vâng! Vàng thì có đấy. Sáu mươi triệu là ba mươi cây. Thoải mái đào…

Đến đây thì Bích òa lên:

- Khổ thân tôi chưa. Mẹ ơi, sao mẹ vội vã đi, để nhà không còn nóc.

Ông Thành vuốt ngực, cố nén một cơn đau dữ dội đang trào lên lồng ngực. Nhưng ông im lặng. Ngọc bước ra giữa mọi người, cô nói như mếu:

- Thôi nhục thế đủ rồi… Các người đi đi. Mang hết tất cả đi…

*

*     *

Phái đoàn của cư dân trong ngõ do chính lão Phát “nhuộm” dẫn đầu sang chúc mừng ông Thành. Vụ cãi vã hôm qua giữa lão và Cả Đoạt kết thúc bằng một trận rượu say túy lúy do lão hào phóng đãi. Thôi thì, chín bỏ làm mười, hàng xóm láng giềng cả. Phải xử hòa với Cả Đoạt là lão thua thiệt đấy, ấm ức đấy, nhưng mà thôi, vui vẻ. Ông Thành bối rối trước thịnh tình của hàng xóm. Bích lăng xăng, mời chào khách khứa. Hưng phóng luồng mắt nghi ngại ra xung quanh. Thêm nữa, một đoàn khách ở quê ông cũng vừa ra kịp. Mà lại toàn là các bậc vị cao trong tộc họ cả, thế mới lạ kỳ chứ! Chuyện họ hàng phải nghiêm chỉnh, vớ vẩn là phiền. Họ Phạm của ông Thành ở làng Mộc to lắm. Các chi, cành của nó như rễ cây đại thụ lan tỏa khắp trong làng, ngoài xóm. Cụ tổ của họ làm quan đến thượng thư, tiếng tăm suốt cả mấy miền. Trải mấy mươi đời, giờ đến lượt ông Thành là cành trưởng, quản cả tộc họ. Ngày còn đương chức, thi thoảng ông đánh xe con về làng. Chức giám đốc chưa phải đã là ghê gớm, còn cách xa một trời, một vực so với tổ tiên, ví như hòn cuội với tảng đá. Dẫu sao cũng còn tàm tạm gọi là lên xe, xuống ngựa, bởi vậy chức trưởng tộc của ông cũng chưa đến nỗi phải bẽ bàng với làng xóm. Khốn nạn. Lúc ông mất tất cả, trở thành ông lão bơm xe dở điên, dở dại, thì sự thế trở nên nan nguy quá. Người nối dõi thượng thư lại chỉ là một kẻ bơm xe tầm thường. Suy vi quá. Mạt vận quá. Sau một chầu họp cả họ, có kèm rượu ngang nhắm với đậu phụ luộc chấm mắm tôm, các chi, các cành quyết định truất ngôi tộc trưởng của ông… Vòm trần xoay chuyển. Bỗng dưng ông có món tiền lớn. Cái án truất ngôi kia, họ hàng hẳn chưa quên. Nhưng khốn một nỗi cái miếu tổ của họ dạo này xơ xác quá, cần phải tu sửa. Mà tu sửa ắt phải có tiền. Thế là đoàn khách quê ấy, áo mũ chỉnh tề, khăn gói lặn lội đến nhà ông Thành để bàn chuyện đại sự. Hưng mắt vằn vằn đỏ, không biết vì men rượu hay tức tối vì món tiền lớn có cơ bị chia xẻ, nói không úp mở:

- Xin lỗi các cụ! Các cụ ra chơi thế này là quý hóa vô cùng. Rượu ngon đấy các cụ cứ xơi. Nhưng mà tôi, tôi bảo thật. Cái miếu thờ cụ thượng thư ấy, nó đã tàn thì trả quách về thiên cổ. Sang sửa làm gì cho mệt. Lo là lo cho người sống đây này. Tôi đây! Tôi cũng là cành trưởng. Rồi còn thằng đích tôn này nữa – Hưng chỉ vào đứa con trai bốn tuổi – chả đợi các cụ truất, bố con tôi cũng xin kiếu. Tộc trưởng với chả họ trưởng, toàn những danh vị hão huyền, đã không được lợi còn tốn kém, rách việc. Tôi xin kiếu.

Ầm ĩ như chợ vỡ, người mắng, kẻ can hỗn loạn. Mãi sau trật tự mới được lập lại. Hưng đã tỉnh táo.

- Thôi mọi chuyện rồi sau phân xử. Bây giờ thế này – Hưng quay sang ông Thành – Bộ vé con đã để trên bàn thờ. Trước khi mang đi đăng ký, bố thắp thêm một tuần hương cho vong linh mẹ con đỡ tủi. Xin mẹ hãy về chứng giám…

Ông Thành tay run run, mắt rân rấn. Ông nghẹn ngào. Khấn gì bây giờ? Mãi sau ông mới lắp bắp được mỗi một câu: “Tội nghiệp…”. Hương cháy. Những đốm lửa nhỏ xíu như đom đóm lập lòe. Mùi hương trầm ngạt, u tịch.

Hưng kính cẩn nghiêng mình trước ban thờ. Mọi người lặng lẽ như thể cần phải trang nghiêm để chứng kiến một thời khắc trọng đại. Hương đã tắt. Bỗng Hưng hét lên man dại rồi lao sầm cả cái thân hình lực lưỡng vào đứa con trai bốn tuổi. Thằng bé đổ sập xuống. Trên tay nó là bộ xổ số bị xé làm đôi. Chẳng hiểu vì sao bộ xổ số lại bay rớt từ ban thờ xuống, rơi đúng vào chỗ thằng bé đang tha thẩn chơi. Nãy giờ, nó bị tất cả mọi người lãng quên. Mặt nó tái mét vì đau đớn và sợ hãi. Nó còn bé quá, không hiểu được những tờ giấy nó vừa nghịch ngợm xé, trị giá những sáu mươi triệu. Từ tay thằng bé, những mảnh vé số lả tả rớt xuống nền nhà. Hưng vút ra ngoài đường vừa chạy, vừa hét. Vợ Hưng lạch bạch đuổi theo, cố níu giữ chồng. Bích vừa khóc vừa lăn lộn. Ngọc nhào đến ôm chặt lấy thằng cháu. Ngần ấy con người thoáng chốc sững sờ, chết lặng. Chỉ có mỗi ông Thành lững thững bước ra sân. Bỗng ông khựng lại, lạnh buốt người. Trước mặt ông đường đột xuất hiện chiếc xe máy to đùng. Gã trai hùng hổ đạp chân chống xe. Mắt gã dớn dác đảo mắt một vòng rồi toét miệng cười:

- Chào ông Khếch!…

Quả muộn

ụ phó Nhiễu lặng lẽ rời con cháu ra đi vào năm bảy mươi nhăm tuổi. Ở làng Kình, sống đến tuổi ấy được coi là trên mức thượng thọ. Người sống đến thượng thọ lúc nằm xuống được dân làng đưa tiễn trọng thể theo nghi thức đại tang. Nghĩa là sau khi nhắm mắt được nghỉ lại trong nhà đủ ba ngày, được cả làng đến viếng rồi mới phải vĩnh viễn xuống nằm ở cánh đồng Mả – nghĩa địa của làng. Còn nhiều thứ khác nữa. Chẳng hạn vì đủ niên hạn để quy tiên nên được cưỡi xe rồng. Loại xe tang này sơn son thếp vàng, chạm trổ rồng rắn tinh vi, mái uốn cong rất đẹp, chỉ dành cho những người già đạt mức thượng thọ. Vì là đại tang nên có kèn trống réo rắt đủ ba ngày. Các đám khác chỉ được lúc nhập quan và hạ huyệt. Lại nữa, trong đám đại tang, con cháu được đốt pháo ăn mừng và hội nhạc hiếu được quyền cử những khúc nhạc vui. Đấy là lệ làng.

Cụ phó Nhiễu ra đi vào một ngày cuối tháng Tám ta. Tiết thu nhưng trời hừng hực nóng. Tịnh không có một chút gió nào phe phẩy. Những tán bưởi, lá lùm lùm rũ xuống. Thoảng nhật vài quả bưởi muộn mằn còn sót lại sau đợt Tết Trung thu, vỏ đã bắt đầu sạm và quắt lại. Làng Kình không trồng tre mà chỉ trồng toàn những bưởi. Bưởi trong vườn, ngoài ngõ, bao bọc kín xóm dưới, chòm trên. Giống bưởi làng Kình quả chỉ nhỏ bằng cái bát điếu nhưng nổi tiếng khắp vùng. Vào vụ đại trà bắt đầu từ tháng Năm ta kéo đến rằm tháng Tám, bưởi làng Kình kìn kìn theo xe thồ và quang gánh tràn vào chợ huyện và các chợ trên tỉnh. Bưởi làng Kình quý không phải chỉ vì ngon mà còn vì thời vụ thu hoạch của nó sớm. Từ tháng Năm ta khi bưởi thiên hạ mới chỉ tàn hoa, kết quả thì bưởi làng Kình quả đã tròn căng, vỏ xanh rờn, ruột trắng phốp, cùi mỏng tang, múi xếp chật tép, mòng mọng nước. Mùa bưởi của làng Kình chỉ kéo đến rằm tháng Tám là vãn. Lúc ấy thiên hạ mới bắt đầu rầm rộ vụ bưởi. Quả sớm đã là quý, nhưng những quả bưởi làng Kình sống sau vụ rằm gọi là đợt quả muộn, chịu nắng táp và gió bão, dai dẳng đeo trên cành qua mùa đông rét mướt để đến tiết xuân bỗng chín ửng, vỏ lại tròn căng, da vàng láng nõn nà và ngọt như cam đường mới là những quả bưởi đặc biệt quý. Cái gì quý bao giờ cũng hiếm. Cả vùng này ngày Tết Âm lịch người ta tranh giành nhau mua bằng được quả bưởi làng Kình, coi như đấy là cái lộc lớn để bày trên mâm ngũ quả thờ cúng tổ tiên. Cũng lạ, giống bưởi làng Kình khác thiên hạ, muốn trồng không thể chiết cành mà phải bứng cây con sinh sôi từ chính những quả bưởi muộn mằn ấy. Mà cũng không được bứt quả xuống. Những quả giống là những quả tự chín nẫu trên cây, cuống mục ruỗng rơi rớt xuống vỡ toác. Hạt bưởi từ quả chín rơi vung vãi tự nảy mầm thành cây. Người ta bứng lấy những cây con cứng cáp. Giống bưởi quý cứ thế nhân ra và cũng chỉ sinh sôi được trên đất làng Kình. Giống ấy mang sang đất khác trồng, sống tuy có tươi tốt đấy nhưng như người tịt đẻ, bói mờ mắt cũng chẳng đào đâu ra quả. Người gây giống bưởi quý này cho làng Kình chính là cụ phó Nhiễu. Cây bưởi tổ của làng Kình vẫn còn sống xum xuê trong vườn nhà ông Cửu, con trai cả của cụ. Cây bưởi ấy cụ trồng từ thời trai trẻ.

*

*     *

Đám ma cụ phó Nhiễu linh đình như một ngày hội ở làng Kình. Có dễ phải đến dăm chục năm nay ở làng Kình không có đám ma nào to như vậy. Ấy là nghe lời cụ cả Doạch ở đầu làng bảo thì biết thế, chứ dân làng kể cả các loại tuổi tác sàn sàn dăm sáu chục cũng chịu. Ngần ấy thời gian, dài lắm. Mà con người  ta thường chỉ đắm đuối vào đường sinh, ít ai ngẫm ngợi nhiều đến sự tử. Phải quá, sống mới khó, mới cần, chứ còn chết đến nắm đất, hòn bia là xong. Nhưng mà đám ma cụ phó Nhiễu to thì phải bảo là to. Cả làng đi đưa đám chẳng thiếu một ai. Lý do không phải ở đấy. Ông cụ sống tốt nết với xóm làng nên nghĩa tử là nghĩa tận, dân làng đưa cụ đi, âu cũng là lẽ thường tình. Cái làm nên đám ma khác thường và to dăm chục năm nay mới có của đám cụ phó Nhiễu chính ở sự nườm nượp những chiếc xe to, nhỏ đủ loại vào, ra như mắc cửi. Suốt đêm hôm qua, cả làng đèn đuốc sáng choang, dân quân đi lại rậm rịch vác đá, chuyển đất, sang sửa lại đường xá. Có thế hôm nay xe lớn, nhỏ mới dễ dàng vào được phúng viếng để vong linh cụ phó Nhiễu được mát mẻ nơi chín suối. Vẫn theo lời cụ cả Đoạch thì xe cộ chỉ là một nhẽ. Ngày xưa, ở làng có đám ma quan tuần phủ Hoàng Hữu Sinh, xe cộ cũng nối nhau dài đến tận khúc đê quai, cách làng hai cây số. Nhưng xe cộ ngày ấy thấm tháp gì. Rặt loại xe kéo, xe tay, thoảng nhật mới có một chiếc xe hơi chạy phành phạch, phả khói mù mịt, so làm sao được với bây giờ. Cái quan trọng hơn cả quyết định phẩm cấp đám ma cụ phó Nhiễu là hoa. Hoa chăng suốt trong nhà, ngoài ngõ. Hoa nhiều đến nỗi chưa đến lễ hạ huyệt, người nhà cụ phó đã mang vô số vòng xuống rải ở bãi Mả. Thành thử nhờ lộc cụ phó Nhiễu, những công dân thiên cổ trú ngụ ở bãi Mả được thơm lây. Nhiều người bảo: Chết danh, chết giá như thế có mà chết đời vẫn sướng. Sướng thật. Cụ phó Nhiễu ở làng xưa nay có là vương tướng quái gì đâu. Chẳng qua cũng chỉ là một ông lão mù lòa, gàn dở. Kể cả cái thời mắt còn tinh tường, cụ cũng chỉ là một lão nông thuần túy. Quanh năm suốt tháng lưng phơi trần với trời, với ruộng. Chữ “phó” gắn cùng tên là dân làng gọi kèm lâu thành quen chứ bản thân cụ có làm phó phiếc gì đâu.

*

*     *

Cụ phó Nhiễu có ba người con. Ở thời điểm về với đất, cụ đang ở với người con trai thứ. Ông này theo nghiệp bố làm nghề nông. Cũng là loại người tần tảo một nắng, hai sương. Tuy nghèo nhưng tính ông hiền lành như đất cục. Cụ phó Nhiễu phải ở với con thứ là điều bất đắc dĩ. Xưa nay, làng Kình vốn nghiêm minh về lề luật. Có thế nào bố mẹ già cũng đều phải cậy nhờ nơi con trưởng. Chuyện ấy nói sau. Con gái út của cụ phó Nhiễu, cả tỉnh này phải biết tiếng. Năm nay, cô đã ở tuổi bốn mươi. Hồi trẻ cô có sắc đẹp quyến rũ đến mê hồn. Cô đi đến đâu thơm tựa hương bưởi ngan ngát đêm trăng. Trai làng say cô như điếu đổ. Hồi ấy cứ nói đến cô Bưởi là khối chàng trai đờ đẫn. Tóc Bưởi dài, buông ra phải chấm gót. Con nhà nông dầu dãi nhưng da cô trắng còn hơn cả gái thị thành. Da đã trắng lại mịn như bột nếp lọc. Sắc đẹp đưa cô vượt qua được biên giới làng Kình. Điều mà xưa nay gái làng Kình chịu không vượt qua nổi, đành cứ phải quẩn quanh lấy chồng nhà. Bưởi đẹp đến nỗi không tính được số trai làng từng tan nát con tim một thời, giờ đã con bồng con dắt, song mỗi lần thấy Bưởi về làng vẫn cay đắng, dù đang làm gì cũng phải nhào đến quán bà Tư Thời làm một cút giải phiền, tiện thể mượn hơi men để than thân, trách phận. Có một chuyện thật mà như hoang đường. Anh chàng Kích, con nhà Hai Thính lái trâu, giàu có nhất làng, say mê Bưởi đến phát cuồng, phát dại. Công tử Kích con nhà giàu thật đấy nhưng khổ nỗi người lùn tè, lại còn thêm tật lắp bắp nói ngọng vì ngắn lưỡi. Năm ấy, Bưởi hình như mười chín, hai mươi thì phải. Kích diện quần “si”, áo “lon” xẻ tà trắng bốp, chân đánh dép nhựa Tiền Phong quai hậu, tay loang loáng đồng hồ Poljot mạ vàng, suốt ngày tí tởn lượn quanh nhà Bưởi. Diện như Kích thời ấy là đáng kính nể. Tuy giàu nhưng Kích nhát, mất bao nhiều tiền chè, thuốc cho thằng Mai con nhà Sâm “săn chuột” để mối manh vẫn xôi hỏng bỏng không. Hỏng là phải, ngữ Kích có dát vàng đầy người, Bưởi cũng chẳng thèm. Thế là anh chàng Kích si tình đâm ra liều lĩnh. Gọi liều lĩnh cho oai chứ thời ấy bố bảo dám dọa dẫm, côn đồ như bây giờ. Trong cơn say tỉnh, Kích nhân một đêm trăng sáng trèo tót lên cây bưởi tổ nhà cụ phó Nhiễu. Người Kích trát đầy bùn đất ngụy trang như lính đặc công, nép mình trong tán lá rậm rạp mặc gai góc, kiến, muỗi đâm đốt tê tái. Kích nín thở chờ. Chả là gần gốc bưởi có giếng khơi. Kích mò mẫm biết được Bưởi hay tắm đêm ở đấy. Có nhà tắm quây cót hẳn hoi, nhưng từ trên cao nhìn xuống cái gì chả thấy. Trăng sáng lồ lộ, tấm thân ngọc ngà của Bưởi cũng lồ lộ. Kích khoái trá lắm. Trong cơn thỏa mãn, bỗng cái lưỡi tật nguyền lắp bắp thành tiếng ú ớ. Bưởi nhìn lên, thấy một đống ngòm ngòm, chẳng biết người hay ma liền hoảng hốt bỏ chạy. Loạng quạng thế nào Kích bị tụt tay rơi bịch xuống. Chân nọ bắt chéo vào chân kia gãy đến cốp. Người Kích như quả bưởi già chín dập. Đận ấy, Kích phải nằm bệnh viện tính ngót nửa năm trời, thuốc thang chạy chữa đi tong vừa trọn một cặp trâu sừng. Ra viện, lọc cọc nạng gỗ, nhưng Kích chẳng oán thán, ngược lại mặt còn vênh vang đầy tự hào. Nhìn cũng là một kiểu chiếm đoạt. Kích bảo: “Con bé ấy coi như tớ đã duyệt”. Cuối năm ấy, Bưởi đi lấy chồng.

Ông Cửu là con lớn của cụ phó. Thời kháng Pháp làm liên lạc của tỉnh đội. Sau hòa bình là cán bộ của sở Thương nghiệp. Năm nay ông đã ở tuổi năm nhăm và là một trong những cán bộ nắm trọng trách của tỉnh. Ông là giám đốc một sở. Đường quan chức của ông khá thuận buồm xuôi gió. Nhất là sau khi ông gả cô Bưởi cho ông bạn đồng ngũ, lúc ấy đang là phó ban Tổ chức tỉnh ủy. Như trên đã kể, Bưởi đẹp dù rằng học hành dang dở. Học vấn là cái thỏ gì so với sắc đẹp trời cho của người đàn bà. Em rể ông Cửu tuổi có cao một tí (suýt soát tuổi ông) thì cũng chỉ hơn Bưởi có mươi lăm tuổi, thấm tháp gì. Bù lại là cái sự nghiệp vòi vọi như núi Thái Sơn. Bây giờ ông ấy là cán bộ chủ chốt của tỉnh. Cô Bưởi ngày xưa dù đẹp đến đâu, tiếng tăm cũng chỉ quẩn quanh trong làng là cùng. Bất quá, sau vụ Kích nhìn trộm bị gãy chân, tiếng tăm có lan trong vùng thật, cũng lại sao được với địa vị phu nhân bây giờ. Nhờ con cái thành đạt, cụ phó Nhiễu được mát mặt với bà con trong làng, ngoài xóm. Chỉ riêng về ông Cửu, chức vụ ấy đủ được tiêu chuẩn xe con, đón rước hàng ngày. Ngày trước, lúc là cán bộ thường, từ tỉnh lỵ về làng Kình cách dăm cây số, ông Cửu vẫn nhoay nhoáy đạp xe sáng đi, tối về ngon xoét. Cô Bưởi ở với chồng dưới tỉnh. Thi thoảng cũng đánh xe về thăm bố. Cụ phó Nhiễu thế là sướng. Thử hỏi còn gì hơn?

Song đời người ít ai được trọn vẹn. Lẽ ra bây giờ cụ còn an nhàn ngồi hưởng lộc để ngắm nghía con cháu công thành danh toại. Không thể khác được, nếu như vào cái năm gần hòa bình năm tư ấy, cụ không trúng một căn bệnh hiểm nghèo, mù cả hai mắt. Năm ấy cô Bưởi còn nhỏ. Ừ, thì mù không nhìn thấy gì đi, đã sao đâu, nếu bà lão còn. Khốn khổ cho cụ phó, năm ấy Bưởi đến tuổi cập kê thì vợ cụ chả biết đi bắt cua cáy thế nào bị rắn độc cắn chết. Thế là hết! Một mình cụ phó đơn độc. “Giàu hai con mắt” đúng thế, thật tội, mắt lành nguyên, mở trong tróng mà chỉ nhìn thấy rặt màu đen, âu cũng là cái phận bạc bẽo kiếp trước quả báo về, kiếp này phải gánh chịu. Nhưng vẫn còn an ủi là cụ tuy nghèo khó một đời, dù sao cũng nuôi dạy con cái trưởng thành cả. Chúng nó thành đạt tử tế há chẳng có một phần công lao của cụ hay sao. Cụ ở với người con lớn. Lệ làng phải thế. Con nào với cụ cũng vậy thôi. Người mù sống lắt lay, vật vờ như cái bóng, được ngày nào biết ngày ấy. Vốn là người siêng năng, tuy mù nhưng cụ phó Nhiễu còn làm được khối việc mà người lành mắt sáng cũng phải lắc đầu thán phục. Cả làng Kình này, chả có nhà nào không dùng rổ rá do đôi tay cụ sờ sẫm đan nên. Tuy chẳng nhìn thấy gì, song cụ chưng cất rất giỏi từ hoa bưởi được thứ tinh dầu đặc biệt. Cứ thử nấu chè đỗ đen hoặc nấu bột sắn ta xem, mỗi bát chỉ cần chấm đầu tăm một chút tinh dầu của cụ là thơm lựng, ăn vào chẳng thể nào quên. Vợ ông Cửu trước lúc về hưu làm tổ trưởng cấp dưỡng ở nhà ăn tỉnh. Hầu hết các cửa hàng giải khát ở thị xã đều đặt vợ ông Cửu để mua thứ tinh dầu đặc biệt kia. Tiền chắc chắn không nhiều, nhưng như thế có nghĩa là cụ vẫn còn “tay làm hàm nhai” được, sống thế vẫn ích chán. Tuy vậy, trái với dân làng tưởng, cụ phó Nhiễu sống rất khổ. Khổ vì nghèo hèn còn cắn răng chịu được. Cụ phó khổ, oái ăm, lại vì con cái phương trưởng cả. Anh cu Tiêu, con trai thứ chả nói làm gì. Người ấy lành quá, suốt đời chỉ quẩn quanh với hộc lúa, bồ khoai, ăn nói thì nhát một như gióng cày, nhưng ăn ở thì trước sau đều vẹn. Trước đây, anh ở nhà ngang, bây giờ vợ chồng ông Cửu dùng làm bếp. Sau vì chị em dâu không hòa thuận, anh xin hợp tác xã cái ao hoang ở rìa làng. Cứ vượt thổ dần dần rồi mãi cũng thành một cơ ngơi nho nhỏ. Vợ chồng anh con rể tuy cũng chẳng xa xôi gì nhưng là phận con gái, con rể, nên đối với cụ tuy có chu đáo nhưng là kiểu chu đáo đúng tinh thần “dâu con, rể khách”. Thỉnh thoảng cụ được vợ chồng con gái đánh ô tô về tận làng đón rước lên tỉnh chơi. Không nhìn thấy gì, nhưng cụ cũng đoán rằng chúng nó bây giờ sống sung sướng lắm. Cứ suy từ các món của ngon, vật lạ chúng nó đãi đằng thì biết. Nhưng những lần như thế chỉ được một, hai ngày là cụ thấy chán, nằng nặc đòi về. Ai đời ở nhà con cái mà xa lạ quá chừng. Cụ buồn bã chân tay muốn làm một cái gì đấy cho đỡ ngứa ngáy nhưng chúng nó không cho. Nhà chúng nó khách khứa kìn kịt. Ai đến cũng lễ phép một điều “thưa cụ” hai điều “trình cụ” nhưng cụ biết họ gọi thế cho phải phép với ông con rể mà thôi. Ngay cả mấy đứa cháu ngoại cũng chả lần nào cụ được sờ sẫm chúng nó. Cụ biết. Lẽ ấy thì cụ biết. Cụ đã nghèo lại mù, quà cho cháu sang nhất cũng chỉ là quả bưởi hin hin mà chúng nó thì đã quen ăn sung, mặc sướng. Con Bưởi, cụ biết, nó cũng hiếu thảo đáo để. Thấy tình cảnh cụ chắc nó xót xa lắm. Nhưng mà khuôn nào thì phép ấy, chả trách làm gì. Cụ chẳng đến nỗi ngu đần để không hiểu điều đơn giản ấy. Mà thôi, vợ chồng nó làm to thế mà vẫn đối xử bình đẳng thân ái với cụ là tử tế lắm rồi. Có lẽ tại người già hay mặc cảm. Con gái cụ đi lấy chồng thì theo chồng là phải. Ngày xưa, lúc nó còn con gái, nó chẳng nhất nhất nghe lời cụ và các anh nó là gì. Cái đận nó lấy chồng, lúc ấy cụ bà đã khuất, cụ thì dở sống, dở chết, mọi điều hệ trọng đều quyết ở trong tay anh cả Cửu. Lúc nghe anh cả quyết định phải lấy anh chàng bây giờ, thấy anh ta hơn những mười lăm tuổi, mà nó xinh đẹp thế đó đã giãy nảy từ chối lại còn định uống cả thuốc trừ sâu để chống. Vậy mà chỉ vài lời phân tích cương quyết, kèm theo một lần bỏ bữa chỉ sòng sọc hút thuốc lào trừ cơm của anh cả, nó đã phải tuân lời… Nhưng theo lệ làng cụ nhất thiết phải ở với con cả. Bà con dâu trước là dân công hỏa tuyến gặp ông Cửu ở mặt trận, rồi nên vợ nên chồng. Người không có chữ, dù dựa vào thế chồng mạnh đến mấy, chuyển cơ quan nào cũng chỉ làm được đến chân cấp dưỡng. Cụ phó mù trước khi thấy mặt con dâu, chỉ đoán người qua tiếng nói. Suốt cả ngày giọng bà ta lanh lảnh như còi. Chuyện đối xử của vợ chồng ông cả thì dài dòng, chỉ biết họ đối với cụ rất là khinh bạc. Cụ nghiến răng chịu khổ. Dù rằng cái khổ vì con cái khinh bạc là cái khổ khốn, khổ nạn nhất đời. Cụ phó ngày một thêm hiu hắt. Dân làng Kình mãi mãi truyền tụng nhau nghe chuyện này. Dạo ông Cửu đã lên giám đốc sở Thương nghiệp, ngày ngày có xe đón rước. Đến bữa cơm bao giờ cụ phó Nhiễu cũng xơi riêng ở góc nhà. Đồ ăn, thức uống bày cả trên chiếc mâm gỗ có từ ngày xưa. Bữa ấy nhà có thịt gà. Cụ không nhìn thấy, nhưng ơn trời người mù mũi và tai bao giờ cũng thính. Tiếng băm chặt lách cách. Mùi thịt ngầy ngậy. Từ nhỏ đến giờ phàm đã là miếng ăn cụ không bao giờ để ý. Mà để ý làm gì, “miếng ăn quá khẩu thành tàn”. Cơm nước thế nào, cụ cũng cố cho xong. Chả hiểu bữa cơm ấy sao cụ run tay thế. Cụ đã mù lại già, tay run chẳng lạ. Có điều vì tay run, cụ gắp trượt thức ăn, đũa gõ xuống mâm kêu cộc cộc. Con dâu trưởng của cụ độc địa đốp chát luôn: “Sốt ruột lắm ông ạ. Có cái gì mà ông cứ gõ loạn nhà ra thế. Mở mắt trông thiên hạ kia kìa, sắp chết đói cả lũ. Nhà mình có ăn là phúc rồi, ông đừng có mà đòi hỏi, cạnh khóe.”. Khốn nạn, cụ phó Nhiễu tiếp tục ngồi ăn hết bữa. Lúc dọn mâm bát cho cụ, thấy vẫn còn nguyên đĩa rau rền luộc và bát tương đầy, con giai trưởng – ông Cửu cũng đã ăn xong, mặt đỏ phừng phừng, tăm xỉa toanh toách, chiêu ngụm trà Thái đặc chát – im lặng. Tủi quá, cụ phó Nhiễu không đành được phải chuyển sang ở nhà anh con thứ. Ông Cửu chẳng buồn giữ, chỉ bảo: “Quyền ông. Ông thích ở đâu thì tùy. Mặc xác lệ làng. Cổ hủ mãi rồi, phải cách mạng hết. Có điều ông làm thế là bôi nhọ thanh danh gia đình cán bộ.”. Sang với nhà anh cu Tiêu, tuy có ăn đói một tí nhưng thoải mái. Đến bữa cả nhà quây quần, có gì ăn nấy, vui vẻ ấm cúng. Cụ lại đỡ quạnh quẽ bởi có thằng cháu mau miệng, quý ông, thao thoắng kể chuyện suốt ngày. Cụ đâm hối, biết thế sang đây từ trước, đỡ nhục. Nhưng rồi cụ lại buồn, đã bảo người già cả nghĩ, dỗi hờn như trẻ con mà lỵ, dù sao phải ở với con thứ vẫn là trái lẽ, còn làng xóm, họ hàng. Cụ đã bảy nhăm tuổi rồi, sống được bao nhiêu nữa…

Một hôm cụ phó Nhiễu thèm ăn bưởi. Người già là thế, những cái thèm kỳ cục, bưởi bòng tưởng chỉ con nít ưa thích. Nhà anh cu Tiêu đất mới nên bưởi trồng mới chỉ tầm tầm. Đang lứa bói nên không giữ được đợt quả muộn. Bấy giờ đã là gần cuối tháng Tám ta. Cụ gọi cháu: “Cháu sang bảo bác bứt cho ông một quả.”. Thằng cháu vụt đi ngay. Thật không may, bác Cửu nó đang đi bài quyền thể dục cho sảng khoái tinh thần, hưng phấn cơ thể trước bữa cơm chiều. Giá nó đi sớm mươi phút, hoặc giả ông nó sai chậm nửa giờ có lẽ bác nó đã không buông sẵng: “Hết bưởi rồi, bảo ông thế”. Nó chạy về. Ông nó lặng người, mãi sau mới thẽ thọt: “Cháu đếm hộ ông cây bưởi to còn bao nhiêu quả.”. Thằng cháu chạy đến sát bờ rào nhìn vào. Bác nó trừng mắt: “Chưa về còn đứng đấy làm gì?”. Nó đáp: “Ông bảo đếm xem bao nhiêu quả.”. Bác nó gầm lên: “Già rồi, đốc chứng. Bảo ông đừng có nhiễu.”. Nó về ngay. Nó cần gì phải đếm. Ngày nào nó chả cùng bọn trẻ con rập rình lấy sào chọc trộm. Nó nói phứa: “Còn nhiều lắm ông ạ, đến bảy, tám chục quả.”. Nó cũng không quên nói lại lời của bác nó. Thằng bé vô tình không nhìn thấy mắt ông nó giàn giụa. Cụ phó Nhiễu lần lần rút tờ bạc năm trăm đưa cho cháu: “Cháu chịu khó lên đầu làng bảo cụ cả Đoạch bán cho ông một quả. Ông thèm lắm!”.

Nghe tiếng chân cháu đã đi xa, cụ phó Nhiễu đứng dậy thay bộ quần áo mới con gái vừa biếu. Lòng cụ rưng rưng. Cây bưởi ấy, cây bưởi đầu tiên của làng Kình chính tay cụ trồng. Cụ mang nó về mãi tận mạn ngược, chăm chút mãi. Nó là cây bưởi tổ của làng Kình, từ nó đã sinh ra đàn đàn lớp lớp bưởi con bưởi cháu. Cây bưởi quý ấy có đến tết ta cũng chưa hết quả. Bây giờ mới qua rằm tháng Tám được dăm hôm. Cụ trồng nó có dễ đã dăm chục năm. Kỳ lạ thật, giống bưởi làm sao có thể sống dai đến thế. Phải đến năm chục năm. Không, hơn chứ, cụ trồng cây vào dịp đón cụ bà về cùng ở. Đúng! Ngày ấy có cụ cả Đoạch biết. Chao ôi, thời gian, cụ cả Đoạch là người bạn gái thân thiết, “con chấy cắn đôi” của cụ bà. Thế là lớp người xưa đã rụng rơi gần hết. Cụ phó Nhiễu miên man suy nghĩ đủ mọi sự trên đời. Trí não cụ bây giờ sao mà minh mẫn thế. Bỗng chốc cụ nhìn thấy tất cả, tất cả…

Thằng cháu đi lên đầu làng. Cụ cả Đoạch biếu ông nó hai quả bưởi không lấy tiền. Tiện gặp thằng bạn cùng xóm, nó thịt ngay một quả. Ông nó dặn chỉ mang về có một, thế thôi. Quả bưởi ôm trước ngực, tờ bạc cầm nơi tay, nó tong tả chạy về. Đã chạng vạng tối. Cả nhà nó hôm nay mải mê trên thửa ruộng khoán chưa về. Đến cửa, nó bỗng khựng lại kêu không thành tiếng. Quả bưởi từ ngực thằng bé chuội xuống, từ từ lăn vào giữa nhà rồi dừng hẳn. Phía trên quả bưởi, chỉ cách có gang tấc, đôi chân trần của ông nó buông lõng thõng. Nó òa khóc: “Ông ơi! Ông làm sao thế, xuống đi ông, xuống mà ăn bưởi.”.

Hàng xóm chạy sang. Chị bí thư xã, nhà gần, sang đầu tiên. Kế đó là mấy người đều đảng viên cả. Chị bí thư gấp gáp: “Các đồng chí chứng kiến. Ông cụ thắt cổ chết. Ta biết với nhau là đủ. Gia đình cán bộ, không nên làm ồn ào to chuyện, cần phải giữ…”. Xác cụ phó Nhiễu nhanh chóng được hạ xuống. Thằng cháu nhặt lấy quả bưởi, sấn đến, nhào vào người ông. Mọi người gạt nó ra. Cụ phó Nhiễu được đưa lên nằm ngay ngắn ở chiếc chõng tre. Chả còn gì để mà sang sửa. Cụ đã chuẩn bị tươm tất, quần áo chỉnh tề. Chị bí thư tay vuốt mắt cho cụ, miệng vừa khấn lầm rầm, vừa nấc: “Ông ơi, ông sống linh chết thiêng xin ông nhắm mắt. Lạy ông. Ông đừng nhìn thế, tội lắm.”. Mắt ông cụ dịu lại, nhưng cứ rời tay vuốt lại mở trừng trừng. Dấp đến lít rượu mắt cụ vẫn mở trừng trừng. Lạ thật. Con người ta chết vẫn mở mắt.

Mọi công việc của một đám đại tang thường được tiến hành suôn sẻ. Riêng đám cụ phó Nhiễu có hơi khác một chút, bởi trường hợp cụ là ngoại lệ. Chả gì các con cụ, trừ anh cu Tiêu còn thì toàn là cán bộ hàng huyện, hàng tỉnh cả. Vậy thì phạm vi đám ma không còn thuộc về họ nhà ông Cửu nữa. Cũng không chỉ nội trong làng Kình, nó lớn hơn, lớn hơn rất nhiều. “Rồi thì lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo huyện sẽ về để đưa đám.” – chị bí thư thầm nghĩ. Chả đắn đo một chút nào, chị lệnh ngay cho lực lượng dân quân cấp tốc triển khai sửa sang đường xá, tỉa tót lại bộ mặt của làng. Ban nhạc hiếu của hợp tác xã gồm toàn nhân công lao động loại hai lập tức được điều đến, cử ngay những bài hùng tráng nhất. Phụ trách nhóm lao động được ưu tiên làm cái ông việc nhàn hạ này chính là Kích, lái trâu ngày trước. Bây giờ dân làng gọi là “Nhòm Văn Què”. Sau vụ ngã gãy chân đêm ấy, có đến hai mươi năm rồi, Kích vẫn giữ vẹn nguyên được sự thỏa mãn của kẻ chiếm đoạt được cô Bưởi, dù chỉ là bằng mắt. Chính vì thế trong đám tang cụ phó, Kích hết sức thành tâm và nhiệt tình. Đám tang chỉ hơi có trục trặc một chút đó là sự căng thẳng giữa ông Cửu và em trai. Ý ông Cửu muốn tổ chức đám tang ở nhà mình. Như thế có nghĩa xác cụ phó phải chuyển sang nhà ông Cửu để nhập quan làm lễ phát tang. Căng lắm, hai người phải lôi nhau ra tận rìa đồng để thảo luận. Kín đáo thế là khôn ngoan, bí mật của gia tộc chẳng phải bỡn. Ông Cửu bảo: “Nghĩ nhanh lên để tao còn quyết.”. Anh cu Tiêu xưa nay đầu óc chưa có gì phải nghĩ ngợi, trả lời luôn “Chết đâu, chôn đấy. Anh cứ mặc tôi đưa ông đi.”. Ông Cửu ngọt nhạt: “Mày ngu thế, định muối mặt tao với con Bưởi chắc.”. Không đợi em phản ứng, ông bồi luôn: “Ông ở với tao mãi không sao. Về với mày mới được dăm bữa đã phải thắt cổ chết. Này! – Ông gầm lên – Không phải là tao và con Bưởi thì công an đã về còng tay mày rồi. Đồ ngu!”. Anh cu Tiêu gục xuống. Đau đớn quá, nhưng anh chẳng nói thêm được một lời nào. Còn nói gì nữa, nước mắt trào ra, anh tấm tức khóc. Nước mắt ấy chắc chắn không phải dành cho cái chết của cụ phó Nhiễu.

Mọi chuyện thế là xong xuôi cả. Ngay đến cả cây bưởi già người ta cũng đeo cho nó một vòng khăn tang bằng giấy trắng. Người ta ồn ã. Kèn trống lúc thì réo rắt, lâm ly, lúc thì vui tươi hùng tráng. Ông Cửu, cô Bưởi niềm nở tiếp khách phúng viếng. Anh cu Tiêu xô khăn kín mít, cúi gằm gằm, đầu chẳng ngẩng lên. Chị bí thư xã đọc điếu văn. Sắp đến giờ đưa cụ phó Nhiễu xuống huyệt. Lúc ấy ở giữa làng, một chiếc xe con màu đen bóng lộn đang chạy bị ách lại. Ông cụ Thưởng, ngoại tám mươi, già nhất làng Kình, khăn mặt vắt vai, tay gậy lọc cọc, đi giữa đường. Còi xe pim pim. Vị cán bộ xuống xe. Cụ Thường bảo:

- Ngài về dự tang?

- Vâng!

- Ngài có biết ông phó chết vì lẽ gì không?

Vị cán bộ cười:

- Tuổi các cụ quy tiên là sướng rồi.

Cụ Thưởng dừng tay gậy.

- Chết khổ, chết sở. Chết như thế chúng tôi thèm vào chết!

- Cụ bảo sao?

Ông cụ Thưởng dạt ngay sang vệ đường, chắp tay cung kính:

- Trình ngài. Ông ấy thắt cổ chết.

Chiếc xe dừng lại trước nhà ông Cửu đúng mươi phút. Thời gian đủ để vị cán bộ, thủ trưởng của cả ông Cửu lẫn anh chồng cô Bưởi, thắp một tuần hương tiễn đưa cụ phó Nhiễu.

*

*     *

Nhanh lắm, trong chốc lát cụ phó Nhiễu đã nằm sâu dưới đất. Mộ cụ phủ đầy vòng hoa. Bãi Mả ngột ngạt vắng lặng. Mọi người đã về cả, chỉ còn lại hai người. Cụ cả Đoạch cố đắp vào mộ thêm một nắm đất. Lòng cụ bâng khuâng. Ông ấy đi rồi. Tội nghiệp. Mà sao ông ấy lại chào mình trước lúc đi. Người thứ hai chính là thằng cháu. Nó chưa muốn về. Nó cứ quẩn quanh mãi bên mộ ông. Bây giờ nó không khóc nữa. Nó chẳng hiểu gì cả. Nó ngồi rất lâu bên nấm đất. Bỗng nó thấy khát ghê gớm. Mắt nó sáng lên khi nhìn thấy trên mộ ông lẫn trong các vòng hoa là những quả bưởi thờ. Những quả bưởi muộn mằn rám nắng đã quắt lại. Nó vơ ào lấy một quả, hấp tấp chạy ngay đến bên một cái mả xây ở gần đấy. Nó đập mạnh quả bưởi vào thành mả sắc cạnh. Quả bưởi toác làm đôi. Nước bưởi tứa ướt kẽ tay nó. Nó hoặp miệng vào quả bưởi. Nó vẫn thường ăn như thế. Bỗng nó nhăn mặt. Đắng. Bưởi làng nó xưa nay vẫn ngọt mát cơ mà. Không may cho nó, quả bưởi thờ vân vi nhiều tay người đã nẫu. Đắng quá. Nó cáu tiết đập mạnh quả bưởi đã vỡ toác vào ngôi mả xây. Tung tóe những hạt bưởi trắng ơn ởn như răng người, vãi xuống mặt đất…

Hạt sẽ nảy mầm thành cây. Những hạt bưởi này có thành cây ngọt được chăng? Nếu được thì đó là điều trái quy luật ở làng Kình.

 Hà Nội 1990

Con rắn

Tối hôm ấy trời đẹp lạ lùng. Đang tiết đông, trời lúc nào cũng ngoen ngoét xám, mây sà thấp, mọng và ẩm, bất chợt như có một phép tiên, bầu trời hửng sáng hệt như một kẻ đại nhác đang ngủ vùi, chợt vùng thức dậy. Gió hu hu thổi. Mây táo tác dạt bốn góc trời, để lộ ra những vì tinh tú. Và trăng. Trăng mùa đông bao giờ cũng cô độc lạnh lùng. Giá như không có tiếng mèo hoang gào khản đặc ngoài vườn, hẳn Binh đã không được tận hưởng thời khắc hiếm hoi này. Binh mở ùa cửa sau. Làn gió tươi hút ập vào vội vạ, khiến anh mê lim chân tóc. Những vạt cây loang lổ ánh sáng trắng bạc của trăng và đèn dập dờn, dập dờn vũ điệu giao thoa giữa đất trời và cây cỏ. Có lẽ đây là lần đầu tiên, Binh thấy giá trị thực của ngôi nhà ngoại ô này. Cũng mới thôi, Binh chuyển chỗ ở chưa đến một năm. Ngôi nhà một tầng xinh xắn, vườn trước, vườn sau, xa nữa là hồ nước ì oạp sóng vỗ vào những lúc gió lộng, thật tuyệt vời. Vậy mà dạo Binh quyết định mua ngôi nhà này, vợ không mấy đồng tình. Bảo rằng phản đối thì không có, Hoạt chỉ ừ hữ và sắc mặt có phần kém vui. Chỉ thế thôi, tính Hoạt thế, vốn mềm mỏng, dịu dàng, chưa bao giờ Hoạt tỏ ra có cử chỉ nào cưỡng lại chồng một cách thái quá. Ngót hai chục năm chung sống, Hoạt luôn luôn đáp ứng mọi sở nguyện của Binh. Ai cũng bảo, số Binh thế mà sướng. Vợ thì thế, thời buổi này, được vợ chiều, là tiêu chuẩn đầu bảng, để đo đếm sự thành đạt và hạnh phúc của đàn ông. Con có mỗi đứa, vừa kịp lớn đã trúng suất học bổng đi du học tít cù tịt bên kia bán cầu. Mà có nhiều nhặn gì cho cam, hơn bốn chục tuổi đầu, dẫu chỉ là anh viết văn bình thường, được thế đã là quá tươm tất, quá mơ ước. Đấy cứ bảo tuổi Thân là vất vả đi. Binh tuổi Bính Thân. Thấy bảo tuổi này là khỉ chuồng, nghĩa là khỉ nhốt. Cái giống đã bị nhốt, dũng mãnh như sư tử, hùm beo cũng chẳng làm lên vương tướng gì. Nhưng với Binh lại là được. Không lên được voi thì cũng chẳng bao giờ phải xuống chuột, cứ thế Binh tầm tầm sống nhàn nhã. Ngẫm ra, cái tướng tinh khỉ chuồng này, ứng hợp với mệnh Binh. Chưa bao giờ Binh không hài lòng về số phận của mình.

Binh khoan khoái hít một hơi thuốc dài căng lồng ngực. Còn khoai khoái hơn thế, Binh phả một bụm khói to sụ. Khói tỏa vật vờ, Binh nhìn rõ những làn khói tan dần trong những kẽ sáng bạc. Chợt Binh dụi mắt. Có cái gì loằng ngoằng trong vệt sáng lấp loáng chỗ tán lá rùm ròa của cây nhãn. Vườn nhà Binh không rộng lắm. Anh giữ lại độc cây nhãn của chủ cũ. Cây nhãn chắc đã có từ thuở khưởm khươm nào, già cóc đế, nên vào vụ mong đến mỏi mắt, tịnh không bói ra một quả. Thế lại hay, không ra quả thì thành nhãn cảnh, quá tốt. Binh dụi mắt một lần nữa. Theo phản xạ, Binh hơi lùi lại. Đúng là có cái gì loằng ngoằng làm xao động đám lá thật. Bịch một cái, vật gì đó rơi xuống gốc nhãn, khiến Binh nhảy dựng. A, hóa ra một con mèo. Chính là con mèo hoang, ngoào khản đặc ban nãy. Con mèo nằm đứ đừ. Binh bật cười khoái trá, cho mày chết, đồ nặc nô rửng mỡ. Con mèo này, luôn quấy đảo sự tĩnh lặng của Binh đêm đêm. Nụ cười vụt tắt dở chừng, con mèo nằm chết lịm kia không chỉ có một mình. Phủ ngoài nó là những khúc bện nâu đen mốc thếch. Cái đầu ngóc lên, bạnh ra. Cặp mắt nhỏ bắt đèn đỏ sọc lơ láo chĩa hướng nhìn vào Binh. Trời ạ, một con rắn. Một con rắn hổ không chượi vào đâu được. Bây giờ Binh đã nghe rõ tiếng huýt nọc phịt phịt, đanh sâu và ghê rợn. Toàn thân tê cứng, ý nghĩ của Binh ngừng chuyển động. Có lẽ phải đến phút đồng hồ, Binh mới thoáng hồi cảm giác. Không dám cử động, Binh khẽ co duỗi những ngón tay để lấy lại ý chí. Binh ước lượng cửa và bất ngờ nhảy bật ngược. Anh kịp nhìn thấy con rắn vẫn nguyên vị. Vội vã, Binh cuống cuồng đóng chặt cửa. Đau điếng vì cú ngã dập mông vừa rồi, Binh thở dốc. Rắn, trời ơi rắn, thoát rồi. May mà thoát. Vốn dĩ Binh không ưa bất cứ loài vật nào. Kẻ không ưa được súc vật, đương nhiên là phải sợ chúng. Binh sợ nhất rắn. Đó là một loại, theo Binh, tởm nhất, kinh nhất. Thịt rắn đắt thế, dù ai đãi, Binh cũng không bao giờ dám nhận lời. Binh bật tất cả các công tắc đèn trong nhà. Sáng trưng như thanh thiên bạch nhật vậy mà cơn sợ vẫn níu nghẹt nhịp thở. Rắn, kinh khủng thật, nỗi khiếp sợ càng tăng khi Binh chỉ có một mình. Hoạt đi công tác từ sáng. Cô gọi điện về báo, đêm không ngủ ở nhà. Hoạt là kế toán một công ty, nên thường xuyên phải đi công cán. Đêm ấy Binh thức trắng.

Sáng hôm sau, can đảm lắm, Binh mới dám he hé cửa để nhìn ra gốc nhãn. Trống trơn một khoảng đất bằng lì. Hóa ra đêm qua con mèo không chết. Chúng nó phủ nhau, quá sợ, nên Binh đã lú lẫn, không nhớ ra điều này. Anh mở hẳn cửa lách ra, nhìn xăm soi một lượt cây nhãn. Cành lá bình yên đu đưa, ú ớ về giống vật, nhất là rắn, nhưng Binh thừa hiểu loại rắn hổ mang kia không thể lấy cây nhãn còi này làm hang ổ được. Bỗng dưng Binh đâm ngờ ngờ mình. Hay là đêm qua thần hồn nát thần tính, Binh nhìn nhầm. Có thể lắm, lúc đó của đáng tội Binh có nốc vã hai ly rượt thuốc thật. Chắc là nhầm. Chắc là ảo giác. Chứng bệnh khởi nguồn từ tính khí hấp lìm, Binh vẫn vơ nhận về mình. Có lẽ thế!

Song Binh vẫn kể lại chuyện này ở cơ quan. Phòng Binh có ba người. Đó là phòng biên tập văn nghệ. Ở ta, mấy trăm tờ báo từ Bắc chí Nam, dù không chuyên ngành, tờ nào cũng dành đôi trang cho văn chương nghệ thuật. Bởi thế văn học nước nhà được cứu sống một cách trực tiếp. Chứ không mấy ông nhà văn, nói ngút ngát đến tận mây xanh, nhưng thử rời cây bút xem, ngắc là cái chắc. Thì ngần kia đất dụng võ, chỉ cần chịu khó, cày sâu, cuốc bẫm, sống tươm tất là đằng khác. Binh là một trong số những người đó. Anh sống bằng ngòi bút. Tờ báo của Binh không một tẻo teo liên quan gì đến công việc của anh vẫn dành hẳn hai trang khổ lớn cho văn nghệ, tuần một kỳ, ung dung quá còn gì.

Binh đến cơ quan có khí muộn, phờ phạc vì mất ngủ. Cô phóng viên tập sự, cháu của ông tổng biên tập, lo lắng hỏi:

- Chú ốm à?

- Đại loại thế!

Binh trả lời hờ hững. Thoạt đầu Binh muốn giấu nhẹm việc đêm trước, sau thấy tưng tức bèn phọt ra. May, lúc đó tay Thạnh vừa đến kịp. Cả hai nghe và đều mủm mỉm cười.

- Chú Binh bịa tài thật!

Cô tập sự bảo thế. Còn Thạch nói ngược lại:

- Tin được. Rắn phủ mèo là chuyện thường. Nhưng anh nhìn nhầm. Hổ mang không có cái nết ấy!

Tự nhiên Binh nổi cáu. Nói như cô bé kia lại lọt tai. Còn Thạch xác nhận, oái ăm thay càng nhân lên cái tưng tức của Binh. Tay Thạnh này trẻ hơn Binh. Chính Binh nhận Thạnh về phòng, vì nể vợ, chứ không phải vì chuyên môn. Thạch là bạn học của Hoạt, họ gặp nhau trong kỳ hội trường năm ngoái. Được cái, Thạnh thạo việc, giao tiếp rộng, nên đỡ đần công việc cho Binh rất nhiều. Phải cố gắng lắm Thạnh mới chuyển về được. Đấy là do Binh nhượng bộ, nhận kèm thêm suất cô phóng viên trẻ kia, ông tổng biên tập mới chịu. Lại nói chuyện Binh cáu. Điều này là rất hiếm. Tính Binh vốn không thích ồn ào, cầm tinh khỉ có bắng nhắng một tẹo, quá lắm cũng chỉ cờn cợt vài tràng cười vô thưởng vô phạt. Thêm nữa Binh ít khi va chạm với ai, kẻ nào có lấn lượt Binh tí ti, anh cũng cố nhường nhịn. Người ta bảo Binh là kẻ trung dung, dĩ hòa vi quý. Có sao đâu, cốt yếu nhất Binh chỉ muốn yên thân làm việc của mình, không mấy quan tâm đến việc người khác. Binh gần như gầm lên:

- Ông nói cái gì?

Thạnh tái mặt, mắt đá sang cô tập sự. Mắt cô nàng lảng ngay không tiếp nhận luồng nhìn của Thạnh. Tiếng Thạnh yếu ớt, lõm bõm, đứt quãngƠ

- Em à, tôi… nói con rắn hổ mang…

Binh đập rầm cặp bản thảo xuống bàn, bụi bay mù phòng, anh thở hổn hển, tay ôm lấy đầu, nom rất chi là hoàn cảnh, tội nghiệp. Thạnh vội vã chuồn thẳng ra ngoài, nhưng Binh kịp nhìn thấy, nói với theo:

- Xin lỗi… tớ xin lỗi… tớ mệt quá…

Thạnh không dại gì quay lại. Cô tập sự cũng kiếm cách đi xuống văn phòng. Còn một mình. Binh thấy trống trải vô cùng, anh nhấc máy gọi số di động cho vợ.

*

*      *

Chiều ấy, sau khi nghe lại chuyện rắn rết của Binh, Hoạt cũng hệt như hai người ban sáng, mủm ma, mủm mỉm. Mặt Hoạt tươi tắn, da đỏ au, bất ngờ Binh thấy vợ đẹp lạ lùng. Ngót bốn mươi rồi còn gì, đàn bà tuổi ấy… lạ lùng thật. Hoạt dịu dàng:

- Anh nhìn em kỹ thế?

Binh thở dài:

- Em không tin à?

- Không tin!

- Anh nghĩ kỹ rồi. Đúng là có rắn thật, không thể nhầm.

- Kệ rắn!

Hoạt sà vào Binh. Quá nể vợ, nhưng Binh đang cực kỳ rã rời, mệt mỏi, anh né khéo:

- Anh ốm mất.

- Kệ ốm!

Hoạt bế bổng Binh lên giường. Nhưng Binh nhũn oặt lả đi, mắt thiêm thiếp như kẻ nhập đồng. Thấy thế, Hoạt có vẻ hoảng, chị vội nắn bóp, xoa xuýt người Binh. Rất nhanh chóng, Binh chìm vào một giấc ngủ miên mải.

*

*     *

Bẵng một thời gian, cái chuyện rắn rết kia đã ắng lịm trong Binh. Chưa quên hẳn, nhưng chính Binh cũng tin chuyện đó hoàn toàn không có thật. Con mèo hoang, tối tối vẫn nô giỡn với chúng bạn, bằng những điệu gào đực cái thê thảm. Dù vậy, Binh vẫn cẩn thận phát quang các tán nhãn. Đằng nào cũng là cây cảnh, cành lá tốt tươi mà làm gì. Chủ ý của Binh là để trơ trọi thế, rủi có rắn thật cũng biết đường tránh.

Cho đến một hôm, Binh đang ngồi viết ở nhà. Dạo này Binh dồn sức cho cuốn sách tâm huyết, nung nấu đã khá lâu. Nguyên Binh đã có dăm đầu sách, nhưng theo chính sự nhận biết của bản thân, đó chỉ là những cuốn sách làng nhàng. Binh cũng thừa biết cái sự nghiệt ngã của nghề nghiệp mình đeo đuổi, bởi vậy anh quyết tâm rất cao và khỏi nói, rất kỳ vọng ở cuốn sách này. Binh thức ngày, thức đêm, hao tổn thân thể và trí lực, vắt kiệt sức để nhả ra từng trang bản thảo. Việc cơ quan, thi thoảng Binh mới đảo qua để duyệt bài, còn tất tật, anh giao hết công việc cho Thạnh và cô tập sự. Hôm đó là chủ nhật. Quãng giữa trưa, cơm nước xong, Binh ngồi ngay vào bàn. Hoạt nhắc:

- Anh nghỉ trưa đi đã.

Binh khẽ lắc đầu. Anh vừa bất chợt chộp được một ý tưởng. Phải viết ngay, già rồi, lề mề một chút là nó chuội đi mất. Hoạt cũng khẽ lắc đầu, ái ngại nhìn chồng. Chị vào bếp hí húi cất cất, đun đun gì đó, rồi bưng ra một tách nước nghi ngút khói, vàng ươm:

- Sâm Cao Ly chưng cách thủy hòa với mật ong anh túc, anh uống đi, thuốc tiên đấy.

- Cám ơn em!

Binh nhận cốc sâm, cám ơn thật lòng vì xúc động, nhưng anh vẫn thoảng chau mày. Đấy là Binh khó chịu vì bị ngắt mạch nghĩ. Không phải sự săn sóc chu đáo bao giờ cũng tốt, ở trường hợp này, nó đồng nghĩa với sự quấy rối, phiền nhiễu. Hoạt nhận biết ngay, chị quá hiểu tính Binh.

- Hay là em đến cơ quan giải quyết ít việc vậy?

- Ừ, tùy em!

Binh đang mải mê công việc, thấy được giải phóng, vui vẻ chấp nhận. Anh vô tình không biết được mặt Hoạt ngẩn ra, buồn bã. Hoạt đi được một lúc, Binh đã soàn soạt viết kín ba bốn trang bản thảo. Tê cứng cánh tay, Binh mới chịu ngừng nghỉ. Anh nhìn cốc nước sâm, giờ đã nguội ngắt. Hơi lạnh, nhưng ngon tuyệt, sâm Cao Ly có khác, thêm mật ong anh túc, tác dụng tức thì. Binh cảm thấy khoan khoái vô cùng, anh lại cúi đầu xuống trang giấy. Bỗng soạt, rõ ràng là tiếng soạt thật sự dù rất khẽ, Binh giật mình nhìn phắt vào chân tường theo phản xạ. Anh kịp nhận thấy một vệt đen nhỏ lướt rất nhanh. Ngay lập tức anh nghĩ đến chuột. Cửa sau vẫn đóng kín, khốn khiếp thế, đúng là chuột rồi. Nhà Binh kín, đồ đạc thoáng, nên không có chỗ cho đám chuột tụ họp, rủi có con nào liều lĩnh vào nhà đều bị Binh săn đuổi, đập kỳ chết mới thôi. Soạt soạt, khốn kiếp thật, Binh vứt mạnh bút, đứng dậy, vươn vai, đành phải ngưng nghỉ công việc để chiến đấu với con chuột chán đời này vậy. Kia rồi, loáng thoáng sau góc tủ chính là nó. Mày tới số rồi, muốn chết tao cho chết. Binh vớ chiếc chày giã cua lăm lăm trong tay sấn đến. Nhưng không… Chiếc chày vuột khỏi tay, từ từ lăn nhẹ về phía sau. Mắt Binh trợn ngược. Ngay sau góc tủ ngồn ngộn những khoanh tròn xếp như cái rế. Chính giữa vươn ra khúc đầu bạnh phịt phịt. Rắn, trời ơi rắn, lại là rắn. Binh vơ vội chiếc chày tót lên giường. Con rắn uể oải trườn ra khỏi góc tủ. Cách Binh một quãng ngắn, nó dừng lại, cặp mắt lơ láo nhìn Binh. Sau giây phút hoảng hồn, Binh đã bình tĩnh trở lại. Anh vơ chiếc chăn len giơ cao làm mộc che kín người. Tay kia, Binh vẫn lăm lăm chiếc chày giã cua. Binh khe khẽ nhích dần vào phía trong. Con rắn cũng trườn dần, giữ đúng khoảng cách lúc ban đầu. Binh bất động, thủ thế. Con rắn vẫn nhìn Binh, nhẫn nại và ngáo ngơ. Trời ạ, tầm kia, sức ấy nó mà quăng lên, không biết Binh có chống cự nổi không. Gồng cứng người, Binh cố gắng không cử động. Cử động là chết. Binh ong ong ý nghĩ ấy như víu vào phép thần thông. Một phút, hai phút… Thời gian như ngừng trôi.

Vợ Binh về. Trong trạng thái mê dại, Binh bừng tỉnh. Anh hét lên:

- Kìa, dừng lại, rắn, rắn!

Vợ Binh bật cười khi nhìn thấy điệu bộ của Binh. Binh trân mắt, quái lạ có rắn rết nào đâu nhỉ? Đúng thật, con rắn đã biến mất từ lúc nào. Binh vẫn không dám bước xuống giường. Anh vớt vát:

- Rắn! Có rắn! Rõ ràng có rắn!

Vợ Binh sà đến bên chồng, ấp tay vào trán chồng:

- Anh ốm thật rồi!

Binh lầu bầu:

- Ốm gì! Rõ ràng có rắn.

Như để chiều chồng, hoặc giả để chứng minh Binh hoang tưởng, Hoạt lục lọi mọi xó xỉnh. Khỉ gió thật, đúng là không có rắn. Tuy vậy lần này, Binh không còn hoang mang, nghi hoặc như lần gặp rắn trước nữa. Không thể chượi vào đâu được, không còn nghi hoặc gì nữa, rõ rằng có một con rắn tồn tại trong nhà Binh.

*

*     *

Lần này, Binh im thít không chút kể lể chuyện rắn rết ở cơ quan. Đấy là Binh rút kinh nghiệm lần kể trước. Người ta tin hay không tin, Binh cũng chả được lợi lộc gì. Sau vụ va chạm với Thạnh, cậu ta chờn Binh hẳn. Đã mấy lần Binh rủ Thạnh đi uống bia hòa giải, nhưng kết quả có vẻ không mấy khả quan. Thạnh tìm mọi cơ hội để tránh mặt Binh. Nghe phong thanh đâu, Thạnh còn đang tính chuyện chuyển cơ quan nữa. Việc nếu xảy ra đúng thế, hẳn Binh sẽ vô cùng ân hận. Sau lần gặp rắn thứ hai, Binh cảnh giác hẳn. Cửa sổ phòng làm việc của Binh ở cơ quan, gần giáp với một lùm cây. Làm việc gì, thi thoảng mắt Binh vẫn đáo ra đấy dè chừng. Ngộ nhỡ rắn núp ở cây quăng vào có giời tránh. Sau, để chắc ăn, Binh đóng hẳn cửa lại. Phòng bịt kín có bí bức một tí cũng chẳng sao. Mấy lần cô tập sự ho sặc sụa vì khói thuốc lá của cánh đàn ông, đã mở cửa cho thoáng, Binh đều lẳng lặng đứng dậy đóng lại. Binh cũng nhìn thấy cú đá mắt đầy ngụ ý của Thạnh với cô tập sự, nhưng anh tảng lờ. Kệ xác, thân mình, mình giữ, đá thế chứ đá nữa cũng chẳng chết ai. Đương nhiên!

*

*     *

Đến một hôm, giữa tầm sáng, Binh đang hì hụi sửa bài cho số báo tới. Thạnh không thấy đến cơ quan. Cô tập sự, sau cú điện thoại gọi đến, nói với Binh, giọng cực kỳ lễ phép:

- Chú Binh ơi, cháu xin phép. Nhà cháu có việc bận…

Binh gật đầu dễ dãi, dù biết tỏng cô ta chả có việc gì bận cả. Thấy Binh tủm tỉm cười, cô tập sự đỏ mắt, phót đi ngay. Binh nhìn theo, lắc đầu. Bọn trẻ bây giờ lạ thật, yêu nhau rặt hẹn hò ban ngày, ban mặt. Chả bù… Ý nghĩ của Binh tắt lịm giữa chừng. Cái gì kia, trời cao đất dày ơi, rắn, lại rắn. Một cái đầu rắn bành bạnh, trồi lên từ đống bản thảo lai cảo. Tích tắc sau, đầu rắn đã vươn cao, lắc lư. Những khoanh rắn ngồn ngộn xếp. Mắt Binh bập vào mắt con rắn. Lần này Binh liệt cứng. Trong tư thế ngồi cố định, anh đã hoàn toàn hóa đá.

Cửa mở, Thạnh ào vào. Anh này suýt ngã ngửa vì hoảng hồn khi thấy mắt Binh đờ dại, trợn ngược, mồm há hốc, dớt dãi dểu xuống ướt sũng trang bản thảo trên bàn. Thạnh như quên phắt quan hệ đang băng giá giữa hai người, phi đến, lắc mạnh vai Binh:

- Anh Binh, anh làm sao thế?

Binh giật nẩy mình, thoát khỏi trạng thái mê mụ. Miệng Binh lào phào thốt ra hụt hụt như người không có lưỡi:

- Rắn… rắn… rắn…

Thạnh cắn môi, hỏi lại sau khi đã suy nghĩ:

- Anh thấy rắn ở đâu?

Anh ú ớ chỉ tay về phía đống bài lai cảo đã được chằng buộc. Trên cùng có một đoạn ni-lông màu xanh. Thạch cầm sợi dây ni-lông giơ lên ngắm nghía, rồi quay mặt cười. Ngay ngày hôm sau sự vụ của Binh đã loang toàn cơ quan. Ai nhìn thấy Binh cũng găng găng mặt. Đấy là họ cố gồng để kìm khỏi bật cười. Binh cũng không còn hơi sức đâu để ý nữa. Bây giờ Binh không còn hoài nghi tẻo teo nào. Việc rắn rết là hoàn toàn có thật.

*

*     *

Binh cho giải phóng đống bài lai cảo. Phòng làm việc được dọn quang quẻ. Nhưng chỉ sau một hôm con rắn lại xuất hiện. Vẫn nó, đen nâu mốc thếch, luôn phịt nọc đe dọa. Từ đấy, con rắn xuất hiện thường xuyên. Đến nước Binh phải hạ mình năn nỉ cả Thạnh, cả cô tập sự, không để anh ở một mình trong phòng. Lạ thế, con rắn quái đản này, chỉ xuất hiện những lúc vắng người, cả ở nhà hay cơ quan cũng vậy. Binh suy sụp hẳn. Ăn ngủ thất thường, đương nhiên là công việc cũng phải bỏ bễ. Ai cũng lo lắng cho Binh. Đích thân ông tổng biên tập gặp riêng Hoạt, để bàn việc đưa Binh đi bệnh viện chạy chữa. Chưa có kết luận, nhưng mọi người đều tin rằng, Binh bị điên ở thể hoang tưởng. Cơ quan cho Binh đặc quyền được làm việc tại nhà. Có điều Binh kiên quyết không đi bệnh viện. Anh thấy mình hoàn toàn tỉnh táo. Nhưng anh cũng chấp nhận đặc ân nghỉ hẳn ở nhà. Chỉ có Hoạt biết điều này, Binh lao vào viết như điên, như dại. Tập bản thảo cuốn sách mới ngày một dày thêm.

*

*     *

Hôm ấy, Hoạt đi công tác vắng. Quãng tầm tối, sau khi quật xong chén tống rượu thuốc, ăn quáng quàng bát mỳ nấu với hai quả trứng, Binh ngậm tăm ngồi vào bàn viết. Cửa sau đã đóng chặt. Từ dạo phát hiện ra con rắn ở cây nhãn, vía, Binh cũng không dám bén mảng ra vườn sau nữa. Anh viết soàn soạt. Vẫn ngậm chiếc tăm gộc, không ngẩng lên, Binh viết liền một mạch. Không biết thời gian là bao lâu, điều ấy không quan trọng, Binh đang tràn trề cảm hứng. Thậm chí chân Binh còn giậm giậm đánh nhịp. Chợt lạnh buốt, Binh vội rụt chân về. Chiếc tăm rớt khỏi miệng Binh, rơi choạch xuống trang giấy đặc chữ. Con rắn đã ú hụ khoanh ngay dưới bàn viết tự bao giờ. Binh đờ ra và ngay lập tức phản xạ vơ vội chiếc chày giã cua trên bàn. Chiếc chày này, Binh luôn kè kè để trên bàn. Nó có tác dụng gần như một chiếc chặn giấy. Mắt con rắn lành lạnh thoáng một vệt cười sẫm đen. Trời ạ, người Binh ngứa ran. Sao lần này nó lại tiến sát mình đến thế. Mắt kia, mình ấy… bỗng dưng Binh thấy máu trong người chuyển rần rật. Khác mọi lần, Binh không còn thấy quá sợ hãi. Binh từ từ đứng dậy, tay lăm lăm chiếc chày. Mắt con rắn lấp lánh, hình như nó lại cười. Người Binh run lên, rất từ từ dâng đầy một cảm xúc bi phẫn. Mẹ mày, mày cố tình giết tao phải không? Đã thế tao liều chết với mày một phen. Đằng nào cũng chết, bốn mấy tuổi rồi, sợ gì…

Cổ họng Binh gầm gào, bất ngờ phọt ra tiếng hét:

- Nào!

Đồng thời với tiếng thét, Binh nhảy bật lên và phang mạnh chiếc chày vào cổ con rắn. Kịch một cái, Binh ngã nhào. Chiếc chày phang đúng vào đầu gối bên trái của Binh. Đau quá, nước mắt Binh chảy ra. Binh vốn không chịu được đau, một cái gai đâm cũng khóc. Đấy là ngày nhỏ, còn bây giờ? Binh cắn răng chịu đựng. Chiếc chày giã cua tuột khỏi tay Binh, lăn ra góc nhà. Con rắn vẫn bình yên, ngóc cao cổ. Binh quờ quạng tìm thứ vũ khí khác. Anh lết trên sàn nhà dần về phía sau. Lưng Binh chạm vào giá sách. Đây rồi, mắt Binh lướt vào những cuốn sách đóng bìa cứng dày cộp nằm trên giá. Con rắn cũng đã tiến sát Binh. Một, hai, ba… Binh tới tấp ném những cuốn sách vào con rắn. Này Đại Việt sử ký toàn thư, này truyện Kiều, này Từ điển, này… Kết quả khá bất ngờ, con rắn bị gãy cổ gục xuống, toàn thân nó rùng rùng chuyển động dữ dội, rồi co quắp xoắn bện, rồi ngoãng ra, ngật ngửa. Binh reo lên, đang say mồi, Binh quên hẳn bên chân đau, nhảy bật đến bên bàn viết vơ cả chồng bản thảo viết dở, vụt túi bụi vào con rắn.

Lát sau, Binh dừng tay, thở hổn hển. Con rắn đã chết, nằm oải giữa đống sách, giấy, bề bộn. Binh dửng dưng nhìn cái bụng hêu hêu trắng của nó. Mắt Binh rợn đi. Anh ngồi lặng. Không có cảm giác hả hê của chiến thắng, Binh bệt xuống sàn nhà, đăm đăm nhìn vào xác rắn. Anh đang ở trong trạng thái hoàn toàn vô cảm.

Có lẽ nếu không có tiếng chuông điện thoại réo, Binh sẽ còn ngồi mãi như thế cho đến sáng. Anh đứng dậy, chậm rãi đi ra chỗ đặt máy, tay hờ hững nhấc ống nghe.

- Alô! Vâng! Sao? Mai Thị Hoạt! Đúng ạ! Tôi đợi! Vâng!

Binh đặt máy, mặt lộ vẻ lo lắng. Anh quay lại. Binh khững người. Con rắn đã biến mất. Chỗ nó nằm có một vũng máu đỏ sậm còn tươi rói. Binh rùng mình. Căn phòng phút chốc ngập tràn mùi tanh đến lợm mửa.

Đúng nửa đêm, Binh đến được khu hồ nghỉ Sơn Đại. Người của nhà nghỉ cho xe đón Binh tận nhà sau khi gọi điện báo. Họ dẫn Binh đến một căn phòng. Hai thi thể nằm trên chiếc giát giường đặt ở sàn nhà. Binh kéo mạnh tấm vải trắng đang phủ kín mặt người bị nạn. Tấm vải rớt khỏi tay Binh, Hoạt, đúng là Hoạt. Mặt Hoạt trắng bệch. Mắt mở cũng trắng bệch. Binh chụp tay vào mắt Hoạt. Có ánh mắt nhìn rát rạt một bên mặt Binh. Anh quay sang người bên cạnh. Tay Binh rời khỏi mắt Hoạt. Đó chính là Thạnh. Mặt cũng trắng bệch và mắt mở trừng trừng. Binh quay mặt đi không dám nhìn nữa. Anh nhận ra đó chính là mắt rắn. Tiếng của ai đó trong số rất đông người có mặt trong phòng thoảng bên tai Binh:

- Họ bị lốc lật thuyền khi đi ra đảo giữa, anh ạ. Bị từ tối. Vất vả lắm chúng tôi mới vớt được xác. Khu hồ này, chưa bao giờ có một tai nạn thảm khốc đến thế. Cũng may, chúng tôi tìm ngay được địa chỉ.

Lại tiếng một ai khác:

- Mời anh, ta về phòng nghỉ của họ để làm thủ tục.

Binh như một kẻ mộng du, lặng lẽ đi theo đám người kia về phòng nghỉ của Hoạt và Thạnh. Đầu óc anh lặng không một gợn nghĩ. Họ đã thuê phòng nghỉ ở đây từ sáng. Binh liếc mắt trên chiếc ga trắng tinh ở giường ngủ. Anh giật nảy mình. Ở giữa chiếc ga có một vũng máu đỏ sẫm còn tươi rói hệt như vũng máu ở nhà Binh, chỗ con rắn chết. Ngập tràn mùi tanh nồng. Binh gập người nôn thốc, nôn tháo.

*

*    *

Sau cái chết của Hoạt và Thạnh, Binh trở lại bình thường. Không bao giờ anh còn gặp lại con rắn nữa. Binh trầm hẳn đi, ít nói và sống lặng lẽ. Ở cơ quan, cô tập sự được chính thức ký hợp đồng, đôn lên thế chỗ của Thạnh. Phòng lại nhận một nam sinh viên vừa tốt nghiệp vào làm tập sự. Con mèo hoang không hiểu sao cũng chết cứng đơ dưới gốc cây nhãn vào đúng đêm hôm đó. Binh chôn nó dưới gốc nhãn. Mùa nhãn năm ấy, cây nhãn tự nhiên ra rất nhiều quả. Quả nào cũng tròn căng nõn nà, cùi mòng mọng nước. Binh hái một chùm đặt lên ban thờ Hoạt. Anh đau xót thắp hương cho vợ, lòng phân vân không biết đã nên báo cho con trai đang du học biết tin dữ này chưa? Cuốn sách của Binh đã được xuất bản và gây được sự chú ý của dư luận đúng như mong muốn của anh.

Hôm ông tổng biên tập đến thăm Binh, nhìn thấy cây nhãn lúc lỉu quả, đã tấm tắc:

- Binh này, cậu có cây nhãn quý quá. Nhưng được mùa nhãn là nước sông lên to lắm đấy, không khéo lại lụt như năm ngoái thì gay.

Binh im lặng không trả lời. Vì sao, chỉ có một mình anh biết.

Hà Nội, tháng 5 năm 2000

Khiết ghé mũi vào tường và hít. Vẫn còn nguyên vẹn mùi nồng nồng quyến rũ của vôi mới. Với gã đó là thứ mùi tuyệt vời nhất thế gian này. Gã mới dọn nhà được ba tuần lễ. Thả mình xuống chiếc đi văng đệm mút, gã khoan khoái châm thuốc. Khói phập phồng trắng mờ phòng khách sang trọng. Như một chốn bồng lai tiên cảnh nào đó. Phải, tất cả mọi thứ trước mắt cái gì cũng mờ mờ, ảo ảo như trong mơ. Một giấc mơ có thực của đời.

Tiếng chuông cửa reng ngập ngừng. Gã mỉm cười. Kiểu bấm rụt rè ấy đích thị là nàng. Không vội vã chút nào, gã sửa sang lại mái tóc. Sự đỏm dáng chẳng bao giờ là thừa, chuông lại đổ. Nhịp có ngắn hơn. Chắc là nàng sốt ruột. Đợi một tý em ạ. Đừng vội, anh đã phải đợi biết đến bao ngày. Gã vuốt nhẹ vào làn da nệm mềm mại. Nơi này, phải, chính nơi này ta sẽ hạ màn với nàng.

- Ai đấy?

- Còn ai nữa. Có nhanh lên không, anh Khiết.

Tiếng nàng gắt gỏng. Gã thong thả mở cửa. Giọng gã điệu đàng quá ngưỡng:

- Trời! Xuyên! Anh mong em quá. Nàng tiên của anh!

Nàng tiên ào vào. Xiêm y lộng lẫy. Hương thơm ngào ngạt. Cửa phòng đóng lại, nàng tiên mắt nhắm nghiền, đeo chặt vào người gã. Mắt gã mở trừng trừng. Mép gã nhếch lên. Mũi khịt khịt.

- Ôi nàng tiên của anh…

Gã dìu nhẹ nàng vào đi văng. Suýt nữa gã bật cười thành tiếng. Sẽ cười thật, nếu gã không buông nhanh nàng ra.

- Em uống chút gì nhé?

- Không! Đỏ như mặt trời ấy, thèm vào. Đến tối mịt vẫn đỏ. Bia với chả rượu, béo bổ gì, hôm nọ lão đã căn vặn suốt cả đêm. Hút chết.

- Thì em cứ nói thẳng ra. Sợ gì.

- Ai sợ. Nhưng phải đợi dịp nào đấy thuật tiện. À, hôm nay em không ở được lâu đâu.

- Tiếc nhỉ

Gã ôm choàng lấy người đàn bà. Đã hai con, nàng vẫn còn tươm chán. Ngữ này ra đường khối thằng đàn ông vẫn ngúc ngoắc yết hầu thèm rỏ dãi. Mà thôi. Gã lỏng tay buông nàng ra. Nàng chớp chớp mắt ngạc nhiên. Hệt như mắt thỏ, giỏi lắm, em ạ. Gã cười ngô nghê:

- Lát nữa nhé. Vầy vò nhàu quần áo, còn lộ bằng mấy mặt đỏ.

Nàng dẩu mỏ ra. Làn môi thoa son quá tay trông như màu gạch non làm bụng gã sôi lục bục. Gã thở hắt ra để kìm nén, bảo:

- Em đi tham quan nhà một tẹo đi?

- Ơ…

- Mới đến một lần em đã xem trên lầu đâu. Lên đi, vào cả toa lét nữa nhé. Đẹp lắm. Xem kỹ vào. Phải biết nhà mình có những thứ gì chứ.

Miệng nàng giãn ra bằng một nụ cười tươi tắn. Nàng đong đưa thân hình đã bắt đầu xệ vì tuổi tác và sinh nở. Sao nàng vô tư thế. Băm rưỡi rồi còn gì. Gã và nàng cùng tuổi. Gã rùng mình nhìn phía sau người đàn bà. Đã hơn chục năm. Ôi, thời gian…

*

*    *

Gã bước vào cuộc đời cũng chẳng đến nỗi nào, nếu không muốn nói là chững chạc. Thời sinh viên không tính. Quãng đời phóng túng ấy kể như vứt. Có chăng là mối tình lãng mạn với nàng. Nhưng thôi. Bắt đầu từ lúc gã băm bổ vào làm việc ở một công sở hành chính. Gã là kỹ sư kinh tế chuyên về kế hoạch hóa. Cái thứ nghề chất chưởng ấy nghe có vẻ bèo bọt, nhưng xin thưa, đừng có đùa. Điều ấy gã ý thức  quá rõ. Bởi vậy ngay từ đầu, gã tỏ ra mẫn cán tuyệt đối. Giá như không có cú pê-nan-ti nàng sút, hẳn gã đã thành này, thành nọ, chứ chẳng chịu vất vưởng mãi kiếp loong toong này. Mẹ khỉ, cùng học một lớp nhưng mãi đến năm thứ ba gã mới vợt được nàng. Nàng không đẹp đến mức nghiêng nước, nghiêng thành, nhưng cũng đủ làm mềm lòng tất cả đám đàn ông xúm xít. Nói thế nào nhỉ, à đó là thứ đàn bà ngùn ngụt ma lực, nếu thích có thể đốt cháy bất cứ tên đàn ông cứng rắn nào. Gã vợt được nàng, bởi gã cũng chẳng kém cạnh gì. Này nhé, tóc xoăn, mặt nhìn được, cao gần mét bảy, với sáu chục cân trọng lượng. Điểm cao đấy chứ. Gã biết mình chỉ có mỗi nhược điểm duy nhất là nghèo. Nghèo kiết xác. Nhưng ở vào cái tuổi đang phơi phới, điều đó nhằm nhè gì. Một chiếc xe cuốc đủ để gã vung vẩy với đời. Nàng thường ngồi trên khung xe cùng gã rong ruổi. Vài ba năm gần nhau, gã với nàng thân thiết lắm… Lẽ ra gã đã cưới được nàng nếu như… (khốn nạn thế, gã bị thủng lưới đúng vào lúc không ngờ nhất). Gã đã ước định ngày cưới với nàng. Khoan, phải kể một chút về sự nghèo của gã chứ nhỉ. Bởi nó là nguyên nhân dẫ đến cú phạt đền mà vị trọng tài cuộc đời thiên vị, dành cho nàng phần sút. Chẳng hạn, ngôi nhà của gã. Đúng lúc gã ra trường thì gia đình dắt díu nhau vào thành phố Hồ Chí Minh ở với ông anh cả mới được quân đội cấp nhà. Nghiễm nhiên mình gã được tọa hưởng ngôi từ đường tuy nhỏ hẹp nhưng lại ở mặt tiền phố cổ. Mặt đường, bây giờ mới quan trọng, chứ ngày ấy (năm tám mươi) cũng chẳng nghĩa lý gì. Lúc đăng quang gã mới nhận rõ hết tình cảnh nghèo nàn của mình. Hơn chục mét vuông nhà. Cái gác xép bằng gỗ gì đen nhức như mắt ma, trông mà hãi. Bàn ghế, giường tủ, có lẽ từ thời bố mẹ gã cưới nhau được mua theo tiêu chuẩn phân phối, trông mới thảm hại làm sao. Đến cái tường thì thật kinh khủng. Vôi ve chả biết được quét từ hồi nào, cóc cáy phát sợ. Cứ nhìn đám rêu phong loang lổ như bản đồ là gã ơn ớn sốt. Dịp ấy gã dọn dẹp toàn bộ nhà cửa. Gã không cắt nghĩa nổi, ngần ấy năm, cả gia đình gã gần chục con người làm sao có thể sống gọn ghẽ và đầm ấm trong ngôi nhà nhỏ bé ấy. Gã nữa, tuổi sinh viên vô tư, chưa bao giờ quan tâm đến cảnh sống nhà mình. Bây giờ, khi đã lên ngôi chủ soái, gã muốn làm một cuộc cách mạng, thẩy hết những thứ đồ mà gã gọi là tàn dư cũ. Nhưng biết lấy gì để thay vào. Gã nào có khấm khá, đồng lương nhân viên cũng chỉ còm cọm đủ sống tùng tiệm. Ngay đến cả nước ve tường, gã cũng lần lữa mãi mà chưa thực hiện nổi. Đành vậy, bản tính vô tư nên gã quên ngay công cuộc cách mạng. Nhưng nàng không quên. Lúc trước đã nói, nàng cùng một lớp với gã. Tốt nghiệp xong nàng liệng ngay tấm bằng vào tủ. Nàng bảo: “Việc làm không quan trọng. Quan trọng là vị trí làm việc.”. Vị trí là một từ nghĩa rất rộng, dù thông minh gã vẫn không hiểu nàng định nói gì. Đừng nghĩ nàng ỡm ờ. Nàng nghiêm chỉnh đấy. Gia đình nàng cũng làng nhàng, kinh tế bình ổn trong tiêu chuẩn. Khi đã công tác được hai năm, gã bàn chuyện hôn nhân. Nàng gật. Vẫn trẻ, gã biết thế, nhưng gã và nàng đã gắn bó, gã lại có một mình, tội gì đợi nữă. Nuôi ý định hôn nhân nên quả tình gã cũng có ý thức vun vén. Cái quạt 35W nho nhỏ, chiếc màn tuyn phân phối. Vài ba thứ đồ mới. Đại loại thế. Gã chậm chạp bóc từng tờ lịch, đợi ngày rước nàng về. Sau này, gã luôn tự nguyền rủa sự ngu ngốc của mình. Đấy là việc gã quá sốt sắng đến công ăn, việc làm của nàng. Sốt sắng vì trách nhiệm, chứ không phải vì sợ nàng ăn theo, như bọn xấu bụng thêu dệt. Do quan hệ công tác, gã kiếm được cho nàng một chân khá hợp với sở nguyện của nàng. Cơ quan ngoại thương ấy vừa gần nhà, lại có thu nhập khá hơn chút đỉnh so với các cơ quan khác. Nàng vui lắm. Nhưng chính cái vui ấy lại làm gã tắt lịm mọi mơ ước. Chỉ vài tháng đi làm nàng đã thay đổi. Gã nào có biết. Một hôm, trong vòng tay gã, nàng chợt chỉ lên tường nhà: “Phòng hạnh phúc mà mốc meo thế kia ư?”. Gã tỉnh queo: “Thì vài nước vôi là sáng chứ mấy”. Nàng cười khanh khách: “Tổ ấm mà trống huếch trống hoác thế này, gió lùa chết.”. Điều này thì không thể tỉnh được nữa, gã đành nín lặng. Rồi nàng thỏ thẻ vào tai gã: “Vội gì anh, ta hoãn lại nhé. Khấm khá rồi cưới.”. Thì còn biết nói gì, gã đành cười trừ. Làm sao gã biết mình đã vào bẫy của nàng. Muôn năm bụng dạ đàn bà.

Sau đấy nàng luôn tìm cách từ chối hợp lý những dịp ngồi khung xe của gã. Đã nói, bản tính gã vô tư, nên không mấy để ý. Mãi đến một hôm, vô tình gã bắt gặp nàng. Một chiếc xe Mô-kích màu đỏ ớt chạy vè vè trước mũi gã. Trời ơi, kẻ ngồi sau ôm chặt lấy gã lạ mặt nào đó chẳng phải ai khác chính là nàng. Nàng đang rất tươi, mái tóc mây bồng bềnh. Gã dụi mắt. Không thể nhầm được. Đúng là nàng. Nhiều năm sau, gã vẫn thấy trước mắt mình loang loáng cái ống bô mạ sáng phun ra những tia khói xanh mỏng manh. Không thể nhầm. Cuộc tình của gã, lẽ nào cũng kết thúc như làn khói vô tình kia.

*

*     *

Gã mủm mỉm cười một mình. Không hiểu sao nàng lên gác lâu thế. Càng tốt. Cứ mê mẩn đi em. Anh đang cần kéo dài niềm sung sướng của mình. Đồng lõa với ý nghĩ ấy, tay gã nhấc lên chai rượu ngoại màu hổ phách. Thì uống. Rượu cần thiết lắm chứ. Nó là điểm tựa của người đàn ông trong mọi nỗi vui buồn. Gã nhẩn nha chiêu từng ngụm nhỏ.

Sau cái hôm bắt gặp nàng. Gã tê dại mất mấy tuần lễ. Dường như nàng hiểu tâm trạng của gã. Có lẽ thế, nên nàng dịu dàng hết nức. Nàng đợi. Quả vậy, gã không thể thi gan cùng nàng được. Lại chính gã là người chủ động. Gã nói nhiều lắm. Gã hát bài ca năm tháng của mình. Hát mãi. Nàng kiên nhẫn nghe. Kiên nhẫn lau nước mắt. Đến lượt nàng:

- Anh giận em lắm phải không?

Trời ạ, thề có linh hồn A đam bất diệt, tất cả đàn ông ở tình thế ấy đều ngu ngốc im lặng. Gã cũng thế. Thân thể gã bất động. ý chí gã như bị tiêm nọc rắn, tê liệt hoàn toàn. Gã như một cái xác rỗng. Nàng nói. Bằng lời và nước mắt. Gã không biết nàng nói những gì. Chỉ biết rằng, cuộc tình của gã và nàng đã kết thúc. Cay đắng thế. Nàng nguỵ biện sự chia lìa bằng nhiều lý do. Nhưng dù đang mông muội gã cũng hiểu rất rõ nguyên nhân mất nàng. Còn có thể là cái gì khác!

- Anh yêu em lắm phải không?

Nàng tiếp tục thẽ thọt. Gã rùng mình. Điều ấy thì cần gì phải hỏi. Câu hỏi của nàng vô tình khơi thông mạch sống trong thân xác gã. Không kịp suy nghĩ, gã trả lời bằng cách vồ ấy nàng. Động tác của mãnh thú đang đói mềm chợt vớ được mồi ngon làm nàng hoảng sợ. Nàng giãy giụa. Gã thô bạo lột tuốt tuột quần áo của nàng. Người co rúm, nàng chống đỡ quyết liệt. Đúng vào lúc người nàng nhũn ra không kháng cự được nữa, nàng chỉ còn đủ sức van vỉ: “Em lạy anh. Tha cho em…” thì gã đột ngột dừng lại. Ham muốn trong gã tắt lịm. Cả ý nghĩ phá phách đời nàng để trả thù cũng không còn. Gã chán nản nhìn thân thể nàng không một mảnh vải. Tấm thân kia trong suốt những năm tháng yêu thương, gã đã gắng công gìn giữ để nàng được trinh bạch. Nếu muốn, cái quý giá nhất đời con gái của nàng đã thuộc về gã từ lâu. Gã quay lưng lại phía nàng. Không phải vì cao thượng, mà vì nỗi khinh bỉ dâng đến cùng với lòng tự trọng. Bất ngờ, cổ họng tắc nghẹn của gã phóng ra một âm thanh khô sắc:

- Cút!

*

*     *

Nhưng gã không quên được nàng. Ngày nàng cưới, gã nhục nhã, chui lủi như một con chó hoang rình rập xem bằng được cảnh rước dâu. Kìa, thằng đàn ông mặt mũi mới vênh vác, cao ngạo làm sao. Nó hơn gì gã ngoài suất Tây học và chiếc xe màu đỏ. Khốn nạn, cõi lòng gã gầm gào những tiếng hú hoang dại. Nàng nữa, khuôn mặt rạng ngời. Liệu có thật thứ hạnh phúc kia không? Thôi, vĩnh biệt.

Nhưng gã không quên được nàng. Viện đủ mọi thứ, cả mặc cảm yếu hèn, cả thù hận khinh bỉ, cả thứ nhân ái neo vào lòng cao thượng dối trá, nàng vẫn mồn một trong gã với đủ thịt xương kỷ niệm. Quá quắt thế, người đàn bà phản trắc ngự trị hẳn trong cõi hồn gã. Cố quên không thể quên. Được, vậy thì  gã nhớ. Sẽ nhớ. Mất một dạo chung chiêng, vờ vật như kẻ cô hồn, chán đủ thứ, gã bắt đầu hồi sinh. Hồi sinh với ham muốn mãnh liệt từ chính tấn kịch của mình: Tiền. Cần có nhiều tiền. Gã lấy ảnh nàng ghim chặt xuống bàn làm việc ở nhà bằng bốn cái đinh bốn góc. Tấn kịch của đời gã lúc nào cũng bày trước mắt, nhắc nhớ. Gã đã đóng đinh câu rút nàng trong góc hẹp nhất của trái tim mình. Để không bao giờ quên.

Gã làm hùng hục như trâu húc mả. Vốn là người được tạo hóa sinh ra để làm kiếp lương thiện, nên gã không thể chọn cách nào khác. Gã dồn hết sức mình vào công việc. Hơn chục năm trời gã ép xác, đè xuống mọi ham muốn để tích cóp. Kẻ nghèo thường bị giời đày thêm bằng cách cho mắc thêm nhiều thứ nghiện. Với gã điều đó ứng nghiệm. Trà, tửu, thuốc… chả có thứ gì gã chê. Gã chỉ gờm mỗi đàn bà. Món ấy gã cạch. Mọi người biết gã thất tình, cũng có ý thương hại, mối manh cho vài đám. Gã cười nhạt. Đủ rồi, xin cảm ơn. Nội chuyện tích cóp của gã đã khiến mọi người phải sợ. Gã không hề giấu giếm. Buổi trưa ở cơ quan, khi mọi người rủ nhau đi ăn cái này, cái nọ thì gã dọn dẹp bàn làm việc. Gã chỉ ăn lúc thấy cần thiết. Vốn người có sức vóc, nên gã ăn khỏe và nhanh đói. Nhưng đói cũng có một ưu điểm là dễ ngủ vì lả mệt. Gã chớp thời cơ mắt trĩu xuống là lập tức ngả mình ra bàn. Khoảnh khắc ấy phải chớp thật nhanh. Giấc ngủ thiêm thiếp đã đưa gã vượt qua được cơn hành hạ của dạ dày. Sau giấc ngủ, vì quá bữa nên bụng chỉ còn tưng tửng. Thế là thoát được một khoản chi. Hôm nào buộc phải ăn, gã cũng chỉ ăn qua quýt cho xong. Đặc biệt lắm mới dám gặm cái móng giò ninh dừ nhão ở hàng bún gánh. Thuốc lá cũng vậy, gã hút loại mời cũng chẳng ma nào động. Còn uống? Thú vui bia bọt đã thành mốt từ lâu cũng không hề làm gã bận lòng. Tửu lượng gã khá, nhưng vào những tình huống bắt buộc gã mới cho phép mình làm vài chén rượu đục lờ, đắng ngắt. Thứ rượu có lẽ chỉ đắt hơn chè chén một tý tẹo, bán ở hàng nước vỉa hè. Gã, dưới con mắt thiên hạ chỉ là một thằng dở điên dở dại không hơn, không kém. Nhưng chẳng vì thế mà gã nản lòng. Ngày làm lụng cật lực ở cơ quan, tối gã chong đèn dịch thêm tài liệu và làm tất thảy những việc gì khả dĩ. Đêm, trước khi đi ngủ, gã gạt mọi thứ trên bàn, ngồi thật lâu nhìn vào ảnh nàng. Tội nghiệp cho gã. Kết quả tích cóp cần mẫn kia đã mấy phen suýt thành số không vì biến chuyển của thời cuộc. Có lẽ đã biến gã thành kiếp dã tràng, nếu như không có cơ may tuyệt vời.

*

*     *

Gã gật gù nhấp nháp ly rượu mạnh. Có tiếng nước xối. Suýt nữa gã reo thành tiếng. Trời ạ, nàng tắm. Nàng gột rửa bụi trần để trở về với tình yêu ban đầu trong trắng. Không biết có phải vì cảm động mà gã thấy rưng rưng. Cơ may đến với gã chính từ ngôi nhà cóc cáy năm xưa nàng từ bỏ. Đã nói nhà của gã ở mặt phố cổ. Trời xui, quỷ khiến thế nào, cái phố vắng vẻ ấy trong thời mở cửa lại biến thành điểm nóng. Hết siêu thị lại đến nhà hàng, khách sạn liên tiếp mọc lên, thế vào những ngôi nhà lợp ngói ta cổ lỗ. Gã nhận được những lời gạ gẫm ngọt ngào. Không đắn đo gã đút túi một món tiền cực lớn. Gã ung dung tậu đất làm nhà. Thoắt cái từ phận điên dại, nghèo hèn, gã trở thành kẻ phong lưu, dư giả. Gã thích nghi nhanh lắm với hoàn cảnh mới. Chả dại gì gã ép xác nữa. Trước các bà, các cô, gã nghiễm nhiên là món hàng quý hiếm. Nhưng không, gã chỉ vờn vài đám để thử ma lực đồng tiền. Hiệu nghiệm lắm. Chính thế gã càng buồn. Gã nhớ về mối tình xưa. Có kẻ tò mò kháo rằng, gã xếp chặt tiền trên cái bàn cũ, chỉ để hở ra tấm hình bị đóng đinh bốn góc. Điều đó hoàn toàn đúng, gã không quên được nàng. Gã thường mò đến nhà hàng Hoa Lan đối diện nhà nàng để tiêu khiển. Khác với những kẻ đến đây để ăn nhậu và mê gái, gã thường ngồi một mình lặng lẽ nhìn sang nhà nàng. Gã bắt gặp kẻ chiến thắng năm xưa vẫn đèo nàng bằng chiếc xe cũ. Ống bô không còn sáng nữa mà nhọ nhem vì muội dầu và thời gian tàn phá. Gã nhếch mép khi thấy nàng ngự trên con ngựa già khói mù mịt. Đôi lần gã lượn xe trước nàng. Khỏi phải nói sự ngạc nhiên của nàng. Gã sung sướng khi thấy nàng bắt đầu chú ý đến sự xuất hiện khác thường của gã. Có lúc gã tưởng rằng mình là người đi câu kỳ dị, chỉ cần quăng mồi là bắt được con cá đã một lần bị sổng.

Một lần gã nhờ người tiếp viên đưa cho nàng phong thư chỉ vẻn vẹn có mỗi câu: “Kh… rất muốn gặp X,”. Người đàn bà tiếp viên nhận lời. Có lẽ phải nói đôi điều về người đàn bà này, vì chị có liên quan đến phần sau câu chuyện. Đó là người đàn bà duy nhất gã gửi gắm tâm sự. Chị ta có hoàn cảnh éo le. Nuôi con để chồng xuất ngoại. Tây, Tàu đâu chưa thấy đã mất chồng. Hơn thế hắn kia còn đuổi cả hai mẹ con ra khỏi nhà. Suất phục vụ nhà hàng này, người đàn bà làm thêm ngoài giờ để thêm thắt.

Thường thì gã ngồi im lặng, không chớt nhả, đùa cợt. Những cô gái trẻ mơn mởn không làm gã động lòng. Sở dĩ gã quen với người đàn bà vì chị rất khác những tiếp viên khác. Chị âm thầm như một cái bóng. Có lẽ chị ở dạng quan hệ thân thích với chủ nhà hàng, nên được ưu đãi không phải ngồi bàn. Một lần, quá đà, trong cơn say, gã có làm điều gì đó khiến chị nổi giận. Gã chỉ nhớ mang mãng, người đàn bà ấy nói rằng: “Không phải ai làm nghề này cũng đều mạt hạng như anh nghĩ cả. Và cũng đừng quên rằng không phải ai cũng có tiền là muốn gì được nấy.”. Đại ý thế. Trong chuếnh choáng gã vẫn còn đủ tỉnh táo để thấm thía một bài học. Sau lần ấy, gã hiểu chị. Nhờ người đàn bà mà việc tiếp cận với nàng được thuận lợi. Cũng phải vất vả mất một dạo, thư từ đi lại, nàng mới đồng ý gặp gã. Đấy là nàng ngại chuyện ngày xưa. Hôm ấy gã ngồi với nàng ở chân núi Nùng. Nơi trước kia gã và nàng có biết bao nhiêu kỷ niệm. Nàng bồi hồi lắm. Ai chả thế, họa có là sắt đá vô tri mới không mềm lòng khi cùng người xưa dạo miền ký ức. Nhất lại là miền ký ức đẹp. Cũng hệt như thuở ban đầu, gã ấp úng. Nàng có vẻ sướng. Gã khôn lắm. Gã biết cách thỏa mãn thói tự phụ cố hữu của đàn bà trong nàng. Dần dà nàng như được trẻ lại để trở về với đời thiếu nữ. Cái thời nàng yêu gã. Giọng nàng thỏ thẻ.

- Quên em đi, anh Khiết?

- Không quên được!

- Có giận em không?

- Không giận!

- Anh lấy vợ đi?

- Không muố lấy ai khác!

Gã không một lời nhắc đến cú sút năm xưa, như thể giữa gã và nàng cách trở vì một chuyện hoàn toàn khác. Gã thầm thì vào tai nàng: “Suốt đời anh chỉ yêu mỗi mình em.”.

Hôm sau, hôm sau nữa gã và nàng tiếp tục gặp gỡ. So với lần say mê trước, lần này cũng chẳng kém cạnh gì. Có lúc ngồi bên nàng, gã giật mình thon thót. Phải bứt tóc, cấu tai để định thần, gã mới tin rằng người đàn bà ngồi cạnh hiện tại không phải là cô gái của hơn mười năm về trước. Cũng có lúc gã phân vân. Hay là Xuyên vẫn nghĩ đến gã. Kiểu dáng nồng nhiệt kia chỉ có ở người mang tình yêu chân thành. Gã buồn vô cùng. Thật vậy, chính niềm u uẩn ấy lại giúp gã chế ngự được tình cảm của mình. Gã hết mực săn đón và chiều chuộng nàng. Hệt như ngày xưa. Khác chăng, gã buộc phải lén lút, rình rập. Vẫn biết chồng nàng nhu nhược, nhưng tránh là hơn, dại gì sừng sực để chuốc lấy họa. Có trời biết thằng đàn ông mọc sừng làm những gì. Khác nữa ở những món quà tặng. Thay vào mấy thứ đồ học trò vớ vẩn của tuổi lãng mạn như gói ô mai, quyển sổ, cây bút, bây giờ gã tặng nàng toàn thứ đắt tiền. Gã chả tiếc nàng một sở thích gì. Nàng háo hức nhận sự chăm sóc của gã. Rồi gã mời nàng đến nhà. Gã kín đáo quan sát thật kỹ nàng. Gã thích thú khi thấy nàng sửng sốt ra mặt. Vương quốc của gã đầy đủ vì sang trọng quá mức. Cứ gì nàng, khối kẻ khác cũng phải tuôn nước bọt ừng ực trước cơ ngơi ấy. Tất nhiên với những kẻ ham hố.

*

*     *

Đây là lần thứ hai nàng đến. Nàng và gã đã thân thiết lắm. Nàng có vẻ quá sốt ruột. Ngược lại gã vẫn đủng đỉnh. Hành vi của gã khiến nàng lầm tưởng gã vẫn giữ được chất khờ khạo cố gìn giữ tình yêu thanh sạch. Nhưng hôm nay thì khác. Gã quyết định.

Gã gật gù. Nàng đã xuống. Đúng là nàng đã tắm gội. Gã trợn tròn mắt. Nàng chăm chút tấm thân mình là để dành cho gã. Chứ không nàng trút bỏ quần áo làm gì. Chiếc khăn tắm quàng có vẻ chỉ để quàng vì thanh thiên bạch nhật. Nàng tựa vào đi văng, múm mím chờ đợi. Nàng long lanh cười. Bốn mắt giao nhau. Luồng mắt gã chắc phải nồng nàn lắm, nên chiếc khăn tắm quàng hờ chuồi ngay xuống. Trời ơi, trước mắt gã hiện nguyên hình tấm thân người đàn bà, gã từng yêu tha thiết. Chỉ cần gã nhào đến… có luồng điện bén từ gót chân rùng rùng chạy đến đỉnh tóc. Gã không ngờ lại có sự thể này. Muộn rồi, phải gấp rút quyết định. Gã đặt tờ giấy đánh máy trước mặt nàng, rồi từ từ xoay gót. Gã không đủ sức để chứng kiến.

Lúc gã ôm đống váy áo từ trên gác đi xuống, nàng vẫn ngồi. Bất động như hóa đá. Tờ giấy vẫn trên tay nàng. Mặt nàng bệch đi, trắng phờ. Mồ hôi rịn từng hạt. Nàng không nhìn gã. Không một tẹo phản ứng. Có vẻ nàng đã vô cảm. Gã chết trân nhìn nàng. Thân thể người đàn bà hai con, bây giờ với gã sao mà nhầu nhĩ, thảm hại. Gã chạm nhẹ vào người nàng. Tờ giấy từ tay nàng rơi xuống đất. Có gì đâu, trên đấy gã quy thành tiền những món quà tặng nàng. Số tiền xấp xỉ với giá trị chiếc xe mà ngày trước vì nó gã bị nốc ao. Gã muốn nói một điều gì đó. Chẳng hạn, thế là đủ, gã không muốn phá tan cuộc sống của nàng. Gã  dư sức làm điều đó. Tấn trò này chỉ để nàng thấy một điều: Tình yêu của gã không chết. Nhưng gã không thốt nổi, nàng vẫn im lặng. Chỉ khi gã đặt quần áo vào đùi, nàng mới bừng tỉnh. Nàng thong thả mặc quần áo. Rồi nàng ngước mắt. Trời ạ, không một chút sinh sắc. Lạnh lẽo, không có cả những ánh nhìn của sự sống. Đó không phải là mắt người. Mắt người không thế. Vẫn im lặng, nàng lừ lừ như một tảng băng trôi qua mặt gã. Đến cửa, nàng sững lại một lúc, gã nghe thấy tiếng nấc. Nàng vụt chạy khỏi nhà. Trăm phần trăm nàng đã òa vỡ. Nếu nàng còn một trái tim.

*

*     *

Câu chuyện đến đây có lẽ vừa đủ. Nó đã khép lại một chuyện tình. Một cuộc trả thù thì đúng hơn. Không thiếu những chuyện tình bất hạnh như thế. Sự bất hạnh của chính những người trong cuộc tự mang đến. Để hấp dẫn độc giả đúng với kiểu truyện này, người viết có thể dùng nhiều cách kết thúc. Chẳng hạn, người đàn bà giằng kéo giữa nhục nhã và hối hận đã phát điên. Người đàn ông cũng trong tình cảnh tương tự đã dìm mình vào bể rượu. Thì vẫn thế, rượu là điểm tựa của đàn ông trong mọi nỗi vui, buồn. Rồi một sự cố bất kỳ nào đó, ngẫu nhiên là ngôi nhà bốc cháy, thiêu luôn người đàn ông. Chiều chiều, người đàn bà điên trong trang phục E-va lại đứng hát bên ngôi nhà đổ nát trước một đám đông hiếu kỳ.

Có thể chấp nhận cái kết như thế. Nhưng thực tế câu chuyện lại diễn ra theo một hướng khác.  Lúc nàng đi rồi, gã hụt hơi ngã xuống đi văng. Lập tức gã rơi vào trạng thái trống rỗng. Thân thể gã duỗi ra, đầu nhẹ bẫng. Gã gắng sức vịn vào tường, lần từng bước đến chiếc bàn cũ. Khó nhọc lắm, gã mới tháo ra được tấm ảnh nàng. Gã bật diêm. Lửa cháy xòe xòe. Nàng quăn queo tan vào tàn giấy đen mốc. Kinh quá. Gã nôn thốc, nôn tháo. Vẫn còn nồng nồng, hăng hăng. Hóa ra là mùi sơn mới. Lại nôn. Gã nhào đến bàn, chụp lấy chai rượu.

Tối hôm ấy gã say khướt, mọ mẫm lần đến được nhà hàng và ngồi đúng vào chỗ quen thuộc. Có điều gã không nhìn về phía nhà nàng nữa. Gã rã rượi như con gà chiến vừa thoát khỏi cuộc đấu tơi tả. Trông gã như một người đã chết. Gã mời bằng được người đàn bà tiếp viên ngồi cùng. Chị không từ chối. Không biết họ đã nói với nhau những gì. Họ cũng đã chạm cốc. Người đàn bà không uống. Chị nhẹ nhàng gỡ lấy cốc rượu từ tay gã đổ tất cả vào chai. Khi những giọt rượu kết thành dòng màu hổ phách chảy xuống, gã thấy mình như tan ra, đắng ngắt. Bất thần gã òa lên như một đứa trẻ.

Gã còn lại đúng một nửa cuộc đời.

Mai Động 1991

Điếu văn cho người sống

Chiều ấy y thấy thật buồn. Trạng thái tinh thần này ít khi đến với y. Không phải y là người vô cảm. Trái lại là đằng khác, y đa cảm đến độ yếu đuối. Nhờ trời, cái yếu đuối ấy lại được ẩn giấu dưới vẻ bề ngoài mạnh mẽ của một sự nghiệp đã thành đạt cao vòi vọi. Cuộc đời y luôn may mắn. Mới bốn ba tuổi đã làm giám đốc một xí nghiệp lớn được vài bốn năm. Song đích thị chiều nay y buồn. Và thèm khát. Và căm hờn. Thèm khát điều gì, căm hờn điều gì y lơ mơ không hiểu. Bởi vậy chuông báo hết giờ reng inh ỏi, y vẫn lỳ trên ghế làm việc. Mồm nhàn nhạt, y châm hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Không phải để hút mà để phả những bụi khói mù mịt như thể vì thế y xả vợi được những nỗi niềm cắc cớ kia. Có tiếng gõ cửa. Y chồm người chỉnh lại tư thế. Địa vị y cần phải đàng hoàng. Cú chồm người là phản xạ quen thuộc.

- Thưa giám đốc, đã hết giờ giám đốc chưa về ạ.

Đó là chị Lịch lao công, một người đàn bà to đùng. To quá cỡ. Đã thế còn oang oang như lệnh vỡ, được cái tốt tính và lam làm. Chị dọn dẹp cơ quan sau giờ làm việc. Nghe nói đời tư của chị uẩn khúc, lận đận. Hồi trẻ chị cưu mang một người đàn ông cơ nhỡ, sau nên vợ, nên chồng. Hắn kia họ mạc, gia đình thất tán, sống lang thang may gặp nơi, gặp chốn thành người. Vậy mà đùng một cái gã bỏ vợ, bỏ con, cuỗm hết tiền bạc, tếch theo một ả gái non, biệt xứ mất tăm. Thương con chị ta gắng công lần tìm nhưng vô vọng đành nuốt hận làm ngơ.

Y không trả lời. Y lơ đễnh nhìn người đàn bà. Cũng có đến nỗi nào đâu nhỉ mà thằng chồng mất dạy bỏ mụ đi biền biệt – Y chạnh nghĩ – Thằng đàn ông đến ngu. Người lừng lững thế kia, thô một tý, đen một tý, xấu một tý, đã sao đâu, bù lại là khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu. Người phúc hậu là người cam chịu. Thống trị cả một tài sản thế không muốn. Y chép miệng. Y thấy thương hại người đàn bà. Y buông một câu không chủ định:

- Chị Lịch năm nay đúng tuổi bao nhiêu nhỉ?

Người đàn bà ngỡ ngàng. Chị thật sự lúng túng trước câu hỏi thân tình của vị giám đốc uy quyền. Mãi sau chị vẫn chưa thốt được thành lời. Dường như hiểu tâm trạng của người đàn bà, y rời khỏi bàn làm việc, tay đặt nhẹ lên vai chị:

- Là tôi hỏi chị đúng bao nhiêu tuổi?

Người đàn bà run rẩy từng đợt, từng đợt như thể người chị đang tiếp nhận một dòng điện cực mạnh phát ra từ bàn tay đặt hậm hờ trên vai chị. Bao nhiêu tuổi? Chị vẫn còn trẻ lắm. Ngoài ba mươi tuổi chứ mấy. Nỗi vất vả ám ảnh của một quãng đời bất hạnh đè nặng, có bao giờ chị lại nghĩ đến tuổi tác. Vậy mà ông ấy quan tâm đến. Tai chị ù đi. Kìa ông ấy lại hỏi gì nữa: “Độ này chị sống ra sao?”. Ôi chao ông giám đốc. Ông ấy tốt quá. Vậy mà chị đã nghĩ sai về ông. Quan tâm đến sự sống của người khác đó là nhân cách lớn. Sao chị không hiểu. Chị thấy giận mình. Có một lần vì chuyện mất mát gì đấy, ông giám đốc đã thử chị. Bằng cách để một chồng tiền lớn trên chặn sợi tóc, để qua đêm trong ngăn kéo nhỏ. Chị định sắp xếp lại và đóng ngăn kéo thì phát hiện ra sợi tóc. Chị đau đớn. Chị dằn vặt. Ông ấy thử chị. Ông ấy giăng bẫy chị. Chị nghèo. Song những cái không phải của mình chị chưa bao giờ hám. Lần ấy chị đổ vỡ vì ông. Chị câm lặng làm việc, cắn răng chịu đựng nỗi nhục bị ngờ vực coi nó như nỗi bất hạnh lớn trong đời, ngang hàng với việc chị bị chồng phản bội. Trời ạ, không phải thế. Ông ấy không thế! Sợi tóc là vô tình. Chị nén tiếng thở dài. Người chị càng run rẩy. Chị mơ hồ thấy có cả một cái gì đấy nghèn nghẹn dâng lên. Cảm giác không lạ lẫm nhưng mãnh liệt đòi hỏi. Đã lâu, kể từ ngày chồng bỏ đi chị chưa hề gần gũi một người đàn ông nào khác. Bàn tay đặt trên vai vô tình đánh thức những gì đã ngủ yên trong chị. Chị sắp òa khóc. Đúng là chị sẽ khóc thật sự vì hối hận, vì cảm động và vì cả cái cảm giác mơ hồ kia nữa. Nhưng thật may, đúng lúc ấy ông giám đốc đã trở về bàn làm việc và phán lạnh lùng:

- Tôi bận. Chị xuống nói hộ với lái xe chiều nay tôi tự về. Thế!

Chị lao công lật đật quay trở ra. Căn phòng trở lại yên ắng. Y lại châm thuốc hút. Lại buồn. Y cuốn tờ báo. Y thoáng thấy nụ cười tươi tắn của chính y trên tấm chân dung in báo méo xệch đi. Tờ báo y đã hân hoan đón đợi nó, vậy mà khi nó đến, khi đã đọc kỹ từng chữ, từng dòng, thay cho sự hân hoan là trạng thái buồn nản ập đến. Đó là tờ báo lớn nhất của thành phố in bài về xí nghiệp y. Không, về y thì đúng hơn. Bản thân y dù chỉ mới ngoài bốn mươi tuổi đã được mô tả như một điển hình của mẫu người lãnh đạo mới, có tri thức, có uy tín, đóng góp nhiều cho xã hội. Bài báo trang trọng đăng kèm ảnh y. Có thể coi bài báo như một bản tóm lược cuộc đời y. Tiếng tăm sẽ cồn lên nữa. Giữa thời buổi thông tin quảng cáo này, bài báo có một tác dụng không nhỏ đối với bản thân và xí nghiệp y. Y sẽ có thêm nhiều thuận lợi trên con đường tiến bước. Vậy mà lạ lùng khi cầm bài báo trên tay y lại buồn đến thế. Y xem đồng hồ và nảy một ý định. Mấy phút sau y nhấc điện thoại. Từ đầu dây bên kia vợ y cấm cẳn: “Sao, mỗi việc ấy thôi à. Anh nói hết chưa?”. Không hiểu sao giọng y vẫn nhỏ nhẹ: “Anh buồn…”. Tiếng cười cắt ngang của vợ y khùng khục rung cả máy: “Anh sắp bị cách chức à?”. Y thở hồng hộc sập mạnh điện thoại. Vợ y bao giờ cũng điểm trúng tim y, nhưng lần này cô ta quả là ngu ngốc. Y cầm tờ báo đã cuộn tròn, kiểm lại ví tiền rồi quày quả bước đi.

*

*     *

Đã lâu y không đi bộ ra đường. Quen tiếp cận với xã hội qua kính xe hơi nên bây giờ y thấy lạ lẫm. Cái gì cũng lạ lẫm. Người đâu mà đông đúc thế. Quá giờ tan tầm mà vẫn kìn kịt những người là người.Y chậm rãi bước. Không chậm cũng chẳng thể nào nhanh được giữa biển người ồn ã. Trời mùa đông sập tối rất nhanh. Y chỉ định đi dạo một lát để xua đuổi cái cảm giác yếu ớt đáng sợ kia, nhưng tiếng cười mỉa mai của vợ đã làm y thay đổi quyết định. Cứ đi rồi sẽ tìm đến nhà một người bạn nào đó tá túc qua đêm. Sống một đêm không phải của mình cũng tốt. Y nghĩ – Ý nghĩ ấy phần nào hâm nóng sự hăm hở thường nhật của y. Loanh quanh một lúc y thấy thấm mệt muốn nghỉ chân, kiếm cái gì man mát để uống. Đập vào mắt y là cảnh tượng náo nhiệt của một quán bia hơi vỉa hè. Những khuôn mặt nhầy nhẫy dưới ánh đèn nhấp nhoáng. Y định tạt vào nhưng thấy một mình lại thôi. Y ao ước bất chợt gặp một người quen nào đó để có thể quên mình chốc lát trong vại bia ngầu bọt. Y đang sẵn tiền. Vả lại y uống được. Hồi còn là nhân viên y cũng thích bù khú kiểu dân dã thế này. Sau vì thể diện chức vụ y phải dẹp cái thích thú thị dân kia để thay vào đó là những buổi liên hoan, tiệc tùng vương giả. Ngẫm cho cùng, thích nghi cũng là thứ quyền sống chính đáng tạo hóa dành cho con người.

Y vòng xa tránh hàng bia vỉa hè một cách cẩn trọng. Đến một quán kín đáo y lách mình bước vào. Đầu đêm chưa có khách, chỉ thấy vài ba nhân viên nhà hàng uể oải son phấn. Một ả tre trẻ, trời lạnh mà chỉ phong phanh độc mỗi tấm áo len hở ngực tiến ra, nhác trông thấy bộ dạng y, hỏi chẳng mấy mặn mòi:

- Anh dùng gì?

- Băm ba – Y sẵng giọng. Kiểu gọi trịch thượng của y lại làm ả phấn chấn. Ả nhỏn nhảnh: “Vâng, có ngay”. Y nhấm nháp từng ngụm nhỏ. Thật nhỏ. Y quen kiểu uống nhấm nháp như vậy. Cuốc dạo phố vừa rồi phần nào làm y vợi đi cảm giác hồi chiều giờ nó lại bùng đầy như cũ. Y thấy điên tiết. Y mở tờ báo đăm đắm nhìn chân dung mình. Những con chữ nhảy múa mời mọc y. Y nhắm mắt. Chẳng cần đọc y đã thuộc lòng bài báo bởi đó chính là cuộc đời y. Y nhấc lon bia ực một ngụm to tướng.

Giám đốc Trần Vũ là một con người nhiều nghị lực dũng cảm vươn lên từ những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất để kiến tạo xí nghiệp của mình”.

Sự nghiệp, cái đó thì y công nhận. Cái đó có thật. Cũng như hoàn cảnh. Đúng. Nhưng không phải hoàn cảnh nào cũng nghiệt ngã và cũng cần dũng cảm. Còn nghị lực thì trừu tượng quá. Nghị lực là cái gì?

Năm mười bảy tuổi, còn học kỳ hai là kết thúc đời học sinh phổ thông, y vẫn bé loắt choắt. Tạng người y thế. Bạn bè gọi y là “Vũ choắt”. Bởi y bé một phần. Phần nữa vì y tinh khôn và ranh như chuột nhắt. Tuy vậy y học dốt. Bấy giờ chiến tranh phá hoại đã lan đến thành phố của y. Chính vào dịp này toàn trường chuẩn bị chuyển về quê sơ tán thì y nảy một quyết định táo bạo. Làm đơn tình nguyện đi bộ đội. Phải nói đó là quyết định hết sức sáng suốt. Còn học kỳ nữa là thi tốt nghiệp, sức học thế làm sao y vượt qua được. Và điều này mới là quan trọng, lúc ấy đủ mười tám tuổi, muốn hay không y cũng phải nhập ngũ. Cùng lúc y đạt nhiều cái được. Y được đặc cách tốt nghiệp, đặc cách kết nạp Đoàn, được gắn tên trong bảng vàng của trường, trở thành tấm gương sáng về tinh thần yêu nước. Ngay cách thức tình nguyện của y cũng khác. Đám học sinh cùng lứa quá hăng hái xoẹt thẳng lưỡi lam vào ngón tay để lấy máu ký đơn. Còn y, y có cách riêng của mình. Vốn nhát lại sợ đau, chỉ nội chuyện cầm dao, y đã sợ đến tê tái cả da thịt nói gì đến cứa với cắt. Y tắm rửa thật sạch sẽ, kỳ cọ cánh tay đến trắng hồng, da dẻ mỏng tang mới thôi. Đợi đúng sẩm tối, giờ lũ muỗi háu đói sớn sác kiếm ăn, y xoa thêm ít rượu vào tay thơm lừng rồi buông màn, nín thở chìa cánh tay ra ngoài. Bầy muỗi nhao đến rất nhanh, bám đen đặc vào cánh tay. Y như mê đi vì căm giận và sung sướng. Hút đi, máu người đấy, thơm lắm. Hút đi. Hút thỏa thê bữa tiệc cuối đời rồi hóa thành kiếp khác, hỡi bầy quỷ ghê tởm. Y vận sức chuyển căng các thớ thịt. Những con muỗi lép xẹp mê mải ăn hút đang chín dần, căng mọng. Mạch máu y rần rật chuyển cương cứng bắp tay. Đến lúc ấy lũ muỗi ngu dốt mới cảm thấy tai họa, đập cánh loạn xạ hòng bay thoát nhưng đã muộn. Vòi của chúng đã bị giữ chặt trong da thịt y. Y hả hê vặt cánh từng con thả vào đĩa. Chốc lát cái đĩa đã lổn nhổn cơ man nào là muỗi chín ngòm. Như một đao phủ chuyên nghiệp y thong thả lấy bút sắt dằm từng con một. Máu, máu người chuyển hóa qua xác muỗi ánh lên sắc tươi đến lạ lùng. Chữ ký tờ đơn của y hồng nhất, đẹp nhất trong số tất cả các lá đơn tình nguyện lần ấy.

Sự nghiệp của đời y khởi đầu thế đấy. Vào bộ đội ở đơn vị huấn luyện y rất được chú ý. Biết vậy nên y gồng mình để sống. Thời đó mỗi khóa huấn luyện chỉ cấp tốc trong vài ba tháng để kịp bổ sung quân số cho chiến trường. Y tích cực rèn luyện. Tối tối đơn vị tập hành quân đeo đá để rèn sức, tuy yếu nhưng sọt đá của y bao giờ cũng nặng cân nhất. Vào cuối khóa huấn luyện, vì đeo đá quá sức một lần y bị trượt ngã. Ngã thật chứ không phải kịch cợp, vờ vịt. Đá văng làm ngón tay y dập nát. Nằm điều trị ở quân y viện đến tháng trời, lúc y trở về khung huấn luyện đã đón lớp tân binh mới. Nghiễm nhiên y trở thành cán bộ khung. Y nhiệt tình công tác lại tỏ ra tháo vát, có năng lực nên dù chẳng phải đánh đấm trận nào y vẫn vù vù tiến. Y được kết nạp Đảng. Thành tích của y xứng đáng. Sau ba năm phục vụ y buộc phải xuất ngũ vì lý do yếu sức khỏe. Đận ấy y lên tận chính uỷ đoàn huấn luyện xin ở lại phục vụ quân đội nhưng không được chấp nhận. Y hăng hái đến mức lúc ra quân tấm gương y vẫn còn được đơn vị nhắc mãi. Y chuyển ngành về một xí nghiệp lắp máy công nghiệp. Lúc đó chiến tranh đang ác liệt, mác cán bộ đã qua quân đội như y thật hiếm. Và cứ thế y tiến. Dạo mới chuyển ngành, xí nghiệp quan tâm cho y đi học để tạo nguồn cán bộ về sau. Y nhường suất ấy cho người khác. Y còn nhường nhịn những việc tương tự. Bằng những hành động ấy dần dà tạo nên cho y đức tính tốt đẹp sống vì người khác. Đấy là mọi người đánh giá. Còn với bản thân, y đã có chủ định. Y biết sức mình. Ham chữ húc đầu vào thi cử, với y quá là húc đầu vào đá. Y lặng lẽ làm việc. Khi y đã đảm nhiệm một chức vụ kha khá thì tổ chức buộc phải điều hòa cử y đi dự một lớp chuyên tu. Sau vài năm vừa học vừa công tác, y giật được mảnh bằng đại học ngon xoét. Chuyên tu, tại chức hay tập trung chính quy, bằng nào chả thế. Cái chính là con người sử dụng nó. Họa có điên mới so sánh bằng này bằng nọ. Thực tình bằng cấp y cũng chẳng mấy ham, song cái nghiệp lãnh đạo, học vấn chẳng ra gì thì đừng hòng thăng tiến. Không riêng gì y, khối vị làm đến cấp Bộ cũng phải đào tạo theo kiểu cân xứng ấy. Từ lúc giật được mảnh bằng, ở y đã hội tụ đầy đủ điều kiện quý giá của một cán bộ lãnh đạo. Hơn nữa y lại trẻ, rất trẻ. Y được cấp trên đánh giá cao. Khi được cử làm giám đốc xí nghiệp lắp máy này y chưa đầy bốn mươi tuổi.

Đây là sự nghiệp đấy. Bảo y biết vượt hoàn cảnh vươn lên quá đúng. Còn nghị lực… Suýt nữa y bật cười thành tiếng.

*

*     *

Trái với lệ thường, y tu bia ừng ực. Nốc nhiều quá bụng y bắt đầu sôi òng ọc. Phải độn cái gì thêm mới được. Y phẩy tay. Vẫn ả ban nãy giọng mượt mà như nhung:

- Anh cần gì nữa ạ?

- Có cái gì ăn? – Y hách dịch.

- Ở đây chúng em phục vụ toàn năng, cái gì cũng có – Ả cúi thấp gần như để lộ toàn bộ phần ngực trần núc níu – Chất tươi cũng có!

Một loạt tiếng cười rộ lên. Những âm thanh man dại, Y thảng thốt nhìn quanh. Vài ba đôi gắn vào nhau, ăn uống nhả nhớt. Thôi chết trúng vào “ổ” rồi. Y nghe nói nhiều đến quán hàng kiểu này, bây giờ mới tường. Y lúng túng định rút. Đúng lúc ấy một ả khác tiến ra. Đèn nhập nhoạng nhưng y vẫn tức thì nhận ra ả. Đó là thư ký cũ của y.

- Xin chào giám đốc. Vui mừng được đón ông ở chốn này.

- Xin lỗi. Tôi vô tình. Cô làm gì ở đây?

- Thì ông bảo em còn làm gì khác. Cuộc sống mà. Nói ông đừng giận. Ông thật lòng một hôm đi. Em sẽ chiều ông. Ở đây chẳng gì phải giữ gìn. Em là chủ đấy. Em quyết hết. Mà ông thì quá biết tính em rồi. Em chơi đẹp.

Ả cười vô tư. Răng lấp lóa. Sau bốn năm vẫn nụ cười ma quái, cám dỗ. Trời ạ, sao sắc đẹp của ả bền lâu đến vậy. Ả thuộc loại người mài sắc để sống vậy mà chẳng thay đổi gì cả. Tạo hóa quá bất công.

Ma lực của người đàn bà khiến những dòng chữ lại nhảy múa “Giám đốc Trần Vũ con người của nền kinh tế tiếp cận thị trường, làm ăn năng động, táo bạo. Tác phong đúng mực, sống liêm khiết, giữ vững phẩm chất đạo đức…”.

Tất cả những điều ấy bài báo nói hoàn toàn đúng. Chính nhờ ả thư ký này mà y nổi tiếng toàn ngành là con người mẫu mực về đạo đức sinh hoạt. Chuyện ấy nói sau. Còn về mặt năng động thì y có quyền tự hào. Trong lúc một loạt xí nghiệp có nguy cơ giải thể thì xí nghiệp y phồn thịnh hơn bao giờ. Quân tướng của y rải rác đủ bốn phương, tám hướng làm không bao giờ hết việc. Nhiều việc ắt đời sống phải lên. Dịp họp hành, tổng kết, sân cơ quan y nêm cứng xe máy các loại. Giá không có cái biển đề đề to tướng “Xí nghiệp lắp máy công trình” hẳn khách sẽ nhầm đây là cơ quan bao cấp kiểu “Vốtcô” hay “Hải quan” gì đấy. Bí quyết ư? Nhiều lắm nhưng phải cần bí mật. Kinh tế thị trường mà. Chỉ xin tiết lộ điều này. Chính y chủ động xé rào nâng tỷ lệ thưởng phần trăm A, B trong ký kết hợp đồng nên khách hàng xô nhau đến. Bản thân y liêm khiết chưa hề thò bút ký nhận một khoản tiền thưởng ngoại lệ nào, chỉ riêng điều đó y đã đủ uy tín để cấp trên cho qua cái khoản xé rào trái luật kia. Tất nhiên cái liêm khiết bây giờ cũng phải nhìn theo quan điểm mới. Đúng thế, quan trọng nhất là công việc chạy, còn mọi chuyện vặt vãnh bỏ qua. Đại loại thế, xí nghiệp y khoản nộp lợi nhuận đứng vào hạng nhất, nhì của thành phố nên chẳng ai dám suy bì kèn cựa. Uy tín của y là ở đấy.

Lại nói đến chuyện ả thư ký cũ. Bốn năm trước ả hai mươi tuổi và đẹp khủng khiếp. Lúc ấy y mới được đề bạt giám đốc. Ả là thư ký của giám đốc cũ. Chẳng hiểu sao ông ta tự nhiên lại nằng nặc xin về nghỉ. Sau đó thì y biết. Ông đã cắn câu ả và cú xin nghỉ vội vã là một cuộc chạy trốn nhằm cứu vớt cuộc đời. Ả đẹp. Đẹp hoàn chỉnh đến độ không thể tả từng chi tiết được. Đặc biệt ả có cặp mắt rất sáng. Không phải cái sáng trong tinh khiết mà là thứ ánh sáng lúc sắc lạnh lúc bừng bừng như có lửa. Thoạt đầu chỉ bằng trực giác y đã nhận biết ả là con thú non nhưng đã thành tinh trước tuổi. Và y hết sức đề phòng. Khổ nỗi giám đốc và thư ký phải cặp kè làm việc thường xuyên. Được mươi ngày y đã bị ả hút hồn. Những lúc gần gũi chỉ thoảng mùi da thịt của ả lan tỏa là cổ họng y tắc nghẹn và đầu óc thì mụ mị. Vốn thực tế nhưng y đã mắc bệnh léng phéng mơ tưởng. Ả kia đánh hơi rất nhạy. Ả cố đẩy nhanh tiến độ sập bẫy. Mắt ả dạn dĩ: “Phải thế thôi ông ạ. Cũng giống như vị giám đốc trước. Ông hàng đi. Không thiệt đâu!”. Y lảng tránh cái nhìn chết người ấy. Y sợ. Những lúc như thế y đâm oán vị giám đốc cũ, già khú đế còn ham hố gái giếc để lại tai họa cho y. Một hôm y thấy người tưng tửng khác thường. Suốt buổi sáng y cứ ngọ nguậy trên ghế chẳng làm được việc gì cho ra hồn. Y thấy rợn rạo. Ngọn lửa thèm khát âm ỉ cháy khiến người y phừng lên như phát sốt. Y nuốt khan đến chục bận. Môi y khô rát. Đến lúc chẳng biết ma xui, quỷ ám thế nào, y lọ mọ đút nhầm đầu lửa điếu thuốc đang hút vào môi thì ả tiến lại: “Ông ốm à?”. Rất tự nhiên ả áp tay vào trán y. Mát lạnh. Y nhắm mắt đến hàng phút. Y vẫn còn đủ sức gạt tay ả. Chẳng ngờ tay y văng phải lần ngực mềm mềm. Y nuốt ực nước miếng, xô ghế đứng dậy. Cũng chính lúc ấy trong óc y lóe lên lằn chớp: “Sự nghiệp!”. Thay cho động tác ngã nhào vào ngực người con gái đẹp, y lừ lừ đi vào nhà tắm thông với phòng làm việc. Y trút bỏ áo quần đâm thật mạnh “cục nợ” vào tường. Đau điếng! Và y xối nước như muốn rũ trôi giác cảm nhục dục đang tràn dâng. Thân thể y lừng lững trong gương tràn trề sức lực như một mãnh thú. Y đã mập nhiều lên so với hồi trẻ. Y đau đớn nhận thấy cảm giác kia càng bùng dữ dội. Chết mất.

Thấy y tóc tai rượi rã, ả nhoẻn cười thông cảm. Đã định thần y nói thật nhẹ:

- Cô về làm việc đi.

Ả ngây người. Ả vẫn tin mình cầm chắc phần thắng nên tiếp tục đùa cợt:

- Ông không thích em à?

Y lạnh lùng: “Cô hãy nghiêm chỉnh. Cô nên nhớ tôi là giám đốc!”. Ả vụt hiểu. Cơn giận giữ của một kẻ tự tin thấy ưu thế sắc đẹp của mình bỗng chốc tiêu tan, vô dụng, khiến ả hét lạc cả giọng:

- Giả dối! Ông cũng như ông giám đốc tiền nhiệm của ông thôi. Tôi đi guốc trong bụng các người. Ông không cần tôi. Vậy thì các vị tuyển thư ký trẻ đẹp làm gì? Giả dối! Tôi sẽ đi ngay khỏi đây. Thôi việc ngay lập tức, không làm phiền gì nếu ông trả lời trung thực: Ông có thèm khát tôi không?

Đến lượt y ngây người. Y ấp úng:

- Lấy gì làm bảo đảm lời cô?

- Tôi không phải là súc vật. Tôi là con người. Ông hiểu chưa. Tôi không thèm nuốt lời.

Im lặng đến rợn người. Y từ từ gục xuống bàn, vai rung bần bật, giọng đứt quãng phều phào: “Có. Tôi yêu cô. Nhưng không thể…”. Cơn tự ái của ả lập tức được xoa dịu. Ả nhoẻn cười hiền lành, nâng đầu y, nói thật dịu dàng: “Em cảm ơn ông!”.

Ả giữ đúng lời hứa. Ngay hôm sau ả cuốn xéo hẳn khỏi cơ quan, y liền bổ nhiệm vào chức vụ ấy một người đứng tuổi cùng giới. Y cũng không quên hùng hồn giải thích rằng, việc các vị lãnh đạo dùng thư ký trẻ đẹp là một sai lầm không thể tha thứ. Chuyện lan xa, y nổi tiếng toàn ngành là người có tư cách tốt. Sau đó lãnh đạo ngành ra hẳn một văn bản cấm dùng thư ký nữ đối với giới lãnh đạo mày râu. Đấy, chính nhờ ả mà y tạo thêm tăm tiếng.

Bây giờ ả choàng tay qua vai y lào phào: “Đừng ngại, ở đây an toàn lắm. Yêu em đi ông. Em muốn trả ông món nợ “trung thực” năm trước.”. Y rúm người. Y thấy sợ hãi vì cái nghĩa cử “ếch trả nghĩa cua” này, dù rằng bây giờ cũng như bốn năm trước, y thật sự muốn nghiến ngấu ả cho vợi cơn thèm khát. Y né mình tránh người đàn bà ma quỷ. Ả cười. Lần này là một nụ cười độ lượng: “Em biết. Ông vẫn thế. Người như ông không bao giờ hết sợ. Em thành thực tôn trọng ông.”. Y loạng quạng đứng dậy trả tiền. Mắt y nhớn nhác. Không có ai, y yên tâm bước lùi lũi khỏi quán.

*

*    *

Phải một quãng xa, y mới dám ngoái lại nhìn. Hú vía thật. Có cái gì như định mệnh xếp đặt bắt y gặp lại ả thư ký vào buổi tối này khiến y kinh hoàng. Ả nói đúng. Tận bây giờ y vẫn chưa hết sợ. Và tiếc. Y chạnh lòng nghĩ tới vợ. Y vẫn chưa quên tiếng cười mỉa mai của vợ hồi chiều. Vì thế, dù đã chán ngấy cuộc dạo chơi bất đắc dĩ, y vẫn cố lục tìm trong trí nhớ một địa chỉ khả dĩ để có thể tâm tình hết các đêm oan nghiệt này. Y ít bạn. Ở bất kỳ cương vị nào, y cũng được đánh giá là người tốt. Có lẽ vì thế nên ít bạn là phải. Cái tốt dễ bị tỵ hiềm. Nói thế, chứ trong cơ quan, y cũng có khối kẻ thân tín nhưng tâm sự với đám ấy quá là tự thít dây thòng lọng vào cổ mình. Y nghĩ đến bạn cũ. Lớp cùng trang lứa với y ở trường học đợt nhập ngũ vào chiến trường đã nằm lại gần như toàn bộ. Còn sót lại vài người cũng đã phiêu bạt tận đẩu đâu hết cả. Bỗng y suýt reo lên. Y đã nhớ ra một địa chỉ lý tưởng. Phải cái, người bạn ấy có phần điên dại. Sống thời này mà đầu óc cứ ngắc ngơ tận chín tầng mây. Thương binh hẳn hoi làm thơ có tiếng mà nhà cửa tuềnh toàng vợ con nheo nhóc “mướp” còn hơn cả mồng tơi đứt gốc. Thơ với thẩn thì “mướp” chẳng oan. Đã thế còn khí khái cao ngạo, khinh bạc tiền nong, chỉ một tợp rượu là coi Trời cũng chỉ ngang bằng với vung xoong quấy bột. Là bạn cũ nhưng hai người không hợp tính, ít thăm thú nhau. Có vài lần y thực lòng muốn giúp bạn nhưng bị Vũ (bạn y cũng tên Vũ – Nguyễn Vũ) bốp chát từ chối. Y cũng hiểu mỗi người mỗi nghiệp. Không nói ra nhưng y cũng mang máng biết bạn cám cảnh cái “nghiệp” của y. Dù vậy, y vẫn giữ mối quan hệ với Vũ.

Y đã đứng trước nhà bạn. Y không tin vào mắt mình. Người duy nhất để y có thể trao gửi đêm nay đã nằm trong chiếc quan tài đỏ chót đặt chính giữa nhà. Ngoài cửa, vòng hoa chen nhau xếp chật. Y thảng thốt hơn là đau đớn. Vợ Vũ, một người đàn bà gầy guộc nhàu nát, tất tưởi đón y vào. Ban nhạc hiếu gồm mấy người già có, trẻ có đang quây tròn bên cỗ tổ tôm, thấy có khách viếng vội vã bỏ cuộc chơi, tấu lên một bản khóc trầm buồn ngắn ngủi. Vợ Vũ mắt khô quầng, mệt mỏi:

- Nhà em phát bệnh đến tháng nay. Nằm liệt ở bệnh viện. Tối qua anh ấy nằng nặc đòi. May mà về kịp đến nhà chứ không đành mang tội với Trời.

- Vũ bị bệnh gì?

- Vẫn bệnh cũ. Em tưởng anh biết. Hồi ở chiến trường nhà em bị nhiễm độc da cam. Bệnh âm ỉ mấy năm nay. Tháng rồi mới phát. Nhanh lắm. Được cái nhà em tỉnh. Đau nhưng tỉnh. Đến chết vẫn tỉnh. Dặn dò vợ con, anh em khắp lượt.

- Ngày ấy tôi làm nhiệm vụ ở ngoài này – Y ấp úng giải thích – Lâu nay tôi bận quá không biết gì cả. Bây giờ cũng thế, tôi vô tình đi ngang qua. Thật tội.

Đến lúc này người đàn bà mới sụt sịt khóc. Sức lực của chị ta đã kiệt. Y thấy nao lòng. Lúc ấy có một đoàn khách đến viếng. Nhạc lại cử một bản trầm buồn ngắn ngủi. Họ xếp hàng một tiến vào. Từng người trịnh trọng đặt lên quan tài tờ giấy mỏng đặc chữ. Người sau cùng không đặt tờ giấy mà xếp lên trên một tờ báo thẳng thớm. Y ghé mắt nhìn. Tin buồn Vũ mất ngắn chỉ mươi lăm dòng. Ảnh Vũ ngày trẻ cười cợt. Ô hay, ảnh người chết sao lại cười? Phần dành cho Vũ chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ trên trang báo. Cần gì nhiều, ngần ấy cũng đủ tóm lược một cuộc đời con người đã từng sống và đã chết. Y kinh hoàng nhận ra đó chính là trang báo có bài viết về y. Khuôn hình y chơi vơi trên chiếc quan tài đỏ. Y nhìn vào ảnh mình, dửng dưng như nhìn người xa lạ. Chẳng hiểu sao y nhập vào đám khách viếng một cách tự nhiên. Họ là những người bạn thơ của Vũ. Họ tiễn Vũ bằng rượu và thơ. Những tờ giấy mỏng tang xếp trên nắp quan tài. Lần lượt từng người rót rượu ra chén, uống một nửa. Nửa còn lại vẩy quanh chỗ Vũ nằm. Rồi họ cất lên những lời tiễn biệt. Toàn những lời cao sang và đẹp đẽ để thỏa lòng người chết hay an ủi kẻ sống? Y không biết nên thương mình, thương bạn hay thương đám người kỳ dị kia. Y biết họ cũng rặt toàn người như Vũ. Tự tin và ngây thơ. Họ sống thực đấy mà mơ đấy. Họ tự ép xác mình cố siêu thoát khỏi những cảnh sống vật vã. Họ quẩn quanh giữa mơ và thực. Họ thuộc thế giới khác. Thật lòng y kính trọng những người người như Vũ. Nhưng không hiểu họ. Chẳng nhẽ cả lúc nằm xuống rồi, Vũ cũng chỉ cần những thứ mà lúc sống anh mê đắm. Cũng có thể. Y nhìn vào khuôn mặt vàng võ, gầy guộc của vợ bạn. Có một cái gì đấy gần như nỗi xót xa chưa từng có tràn dâng trong y. Y chẳng có thơ để tiễn bạn. Y rút ví dốc toàn bộ số tiền đang có. Ngần ấy con mắt nhìn. Vợ Vũ hoảng hốt: “Đừng, xin anh đừng làm thế!”. Giọng y thoắt cái trở nên trầm đục. Cái trầm đục chứa đựng nỗi đau đớn không ngờ. Nỗi đau đớn chưa từng đến:

- Tôi biết vong linh Vũ sẽ buồn tủi. Những đồng tiền này có thể không được sạch sẽ. Nhưng muốn sống sạch sẽ cần phải có nó. Bây giờ Vũ không cần nó nữa. Nhưng chị cần. Chị phải sống!

Tất cả im lặng. Chỉ có vợ Vũ sụp xuống quan tài chồng òa khóc.

*

*    *

Y lẫm lũi trở về nhà như một kẻ mộng du. Cái ý định qua đêm đã không thành. Y nguyền rủa những sắp đặt hết sức ngẫu nhiên đến lạ lùng của cái ngày chết tiệt này. Nỗi buồn trong y vẫn dâng đầy. Khuya lắm y mới về đến nhà. Vô tuyến đang phát đi bản tin cuối cùng. Vợ y đọc báo trong phòng khách. Tờ báo viết về y. Không hiểu sao y cũng mở tờ báo nghiến răng đọc:

Giám đốc Trần Vũ, con người của thành đạt và hạnh phúc…”.

Y thấy mình cáu vô lý. Đời y thành đạt, cái đó chắc như đinh đóng cột, chẳng còn gì phải bàn nữa. Tuổi ấy, sự nghiệp ấy khối kẻ phải mắt tròn, mắt dẹt ghen tỵ ao ước. Còn hạnh phúc? Hạnh phúc, tự thân nghĩa của nó vượt trên tất thảy bèo bọt, tầm thường, kể cả những sự nghiệp vĩ đại. Nó giản đơn là cái thế giới huyền ảo, ở đấy con người được thật sự sống – Sống tử tế và đẹp đẽ. Đau đớn thay cho y, chưa bao giờ y có được cuộc sống ấy. Trái với mọi người tưởng, y cô đơn, cái cô đơn đầy bất hạnh. Từ lâu y đã ý thức được điều đó và cố gìn giữ, đào sâu, chôn chặt. Vợ y, một người đàn bà có học nhanh chóng phát hiện ra chân tướng y và lập tức thất vọng. Cái thất vọng của một kẻ có học bao giờ cũng tàn nhẫn và đáng sợ. Vợ y liên tiếp theo đuổi những cuộc tình vội vã, kín đáo đầy ảo vọng để quên đi nỗi thất vọng thật sự. Nhưng y câm lặng. Cũng có lúc y dằn vặt, muốn tung hê đi những cái sừng nhục nhã ấy nhưng y lo sợ. Sợ cái gì chỉ một mình y biết.

Y trân trối nhìn vợ. Thấy thái độ khác thường của chồng, cô ta nhún vai. Rồi vợ y buông rơi tờ báo, nói cộc lốc:

- Điếu văn.

Có tiếng sét soẹt dữ dội. Y chồm tới:

- Cô nói cái gì?

Vợ y bật khỏi ghế, cười thành tiếng:

- Điếu văn của anh…

Y sững người. Miệng lắp bắp: “Cho tôi…”. Y chợt hiểu tất cả. Một nỗi buồn và thèm khát. Và căm hờn, cả những gì xảy ra trong cái ngày khác thường này nữa. Bằng một sức mạnh bị kìm nén được giải tỏa bất ngờ, y dang tay tát thẳng vào mặt vợ: “Một người sống !”. Y giáng tiếp cú thứ hai. Y biết mình buồn nản, thèm khát và căm hơn điều gì. Y nâng vợ dậy. Bất ngờ vợ y choàng lấy chồng tức tưởi: “Nếu anh thế này từ trước. Hẳn cuộc sống của chúng mình đã khác !”. Y lạnh lùng gỡ cổ tay vợ. Trạng thái buồn nản trong y biến mất. Cả thèm khát. Cả căm hờn. Tất cả tan biến vô nghĩa. Y bước nhanh ra khỏi nhà.

*

*    *

Vào lúc hết ca làm việc, chị lao công bỗng phát hiện phòng giám đốc bật sáng từ bao giờ. Chị đã tắt rồi cơ mà. Lạ lùng, chị đẩy cửa bước vào. Chị sững người khi thấy giám đốc của mình. Chị lúng túng chào. Vẫn giữ nguyên tư thế bất động trên ghế làm việc, y phóng luồng mắt đầy uy quyền vào người đàn bà nhưng lại hỏi bằng một giọng rất đỗi đầm ấm:

- Hồi chiều chị chưa trả lời tôi. Chị sống thế nào?

Người đàn bà run rẩy. Chị thấy mủi lòng. Mắt rân rấn, chị cố kìm nén để khỏi òa khóc. Nhưng cũng chính lúc ấy y đã lạnh lùng cắt ngang niềm cảm động của chị:

- Tôi bận. Chị có thể về.

Không đợi người đàn bà ra khỏi phòng, y cúi xuống trang báo mở trên bàn. Y nhìn thật kỹ tấm hình của một người chết và một kẻ sống.

Cả hai đang cười mãn nguyện.

Những mảnh đời ghép lại

-Trả con cho ta đây!

Y nặng nhọc từng bước chân trên nền sân bệnh viện. Cứ sau mỗi bước, y lại hét toáng lên như thế.  Rồi y lại phá lên cười sằng sặc. Sằng sặc chuỗi âm thanh man dại. Y khật khưỡng tiến sát cửa phòng cấp cứu, cặp mắt sòng sọc đỏ, vằn vèo đầy tia máu. Y chằm chặp nhìn vào cánh cửa đóng chặt. Y vung tay. Những ngón tay đen đúa, mỗi ngón khắc tên một chữ cái quắp thành nắm đấm dữ dằn. Khủng khiếp quá! Cả phòng cấp cứu nhớn nhác. Tiếng ai đó hổn hển: “Gọi điện đi. Báo công an khẩn cấp.”. Bác sĩ trưởng ca trực đêm, một người đàn ông nhỏ thó hỏi thẽ thọt:

- Hắn là ai đấy?

- Còn ai nữa! Chính hắn vác bệnh nhân này đến cách đây nửa giờ. Hình như hắn là bố. Thấy tình cảnh con mình…

- Chốt chặt cửa lại – Bác sĩ trưởng ra lệnh.

- Mở cửa! – Y gào. Y lắc mạnh cánh cửa. Y vung nắm đấm. Mọi người nhắm mắt. Nhưng y không đấm vào cửa. Y đấm vào lồng ngực vạm vỡ của mình. Đấm mạnh. Phát ra những âm thanh “binh bích, binh bích” đáng sợ. Y đấm vào mặt. Chiếc sẹo như một con rết lớn lua nhua vắt ngang gò má giần giật, giần giật. “Trả con cho ta” – Cánh cửa rung bần bật. Làm sao bây giờ? Mọi người run lẩy bẩy dạt vào góc phòng. Cánh cửa bỗng bật mở. Bóng một người vụt ra. Cô bác sĩ trẻ. Cô ta làm gì nhỉ? Y chồm lên kìa. Mọi người sững sờ. Muộn mất rồi. Nắm đấm của y đã vung đến gần cô bác sĩ. Bỗng cánh tay y giật khựng, thõng xuống. Cô bác sĩ mở cặp mắt nâu xinh đẹp nhìn gã đàn ông đang trong cơn hoảng loạn. Thoạt đầu cô sờ sợ. Còn bây khi đã đối mặt với y, tràn ngập trong cô là một cảm giác vững tin đến lạ thường. Không, chẳng có gì đáng sợ, cô đang đối mặt với một con người. Giọng cô dịu dàng, nhưng rành rọt như ra lệnh:

- Hãy lùi lại để chúng tôi tập trung cứu cháu.

Y giật phắt người như bất ngờ chạm phải một luồng điện cực mạnh. Mắt y bừng sáng:

- Chị đã bao giờ làm mẹ chưa? Chị trẻ thế. Xin hãy cứu cháu! Cứu lấy cuộc đời khốn khổ này.

Rồi y ngồi thụp xuống.

*

*     *

Y nằm bất động trên chiếc ghế băng kê ngoài hành lang phòng cấp cứu. Chả ai nỡ gọi y dậy, dù nội quy nghiêm ngặt của bệnh viện không cho phép bất cứ ai ngủ ở đấy. Rượu và những ức chế căng thẳng thần kinh khiến y mê mệt. Người ta thấy y nhếch mép cười trong giấc ngủ. Lạ kỳ, con người dữ dằn là thế mà nụ cười trong mơ đến là ngờ nghệch và có phần hiền hậu: Chắc điều gì làm y thích thú. Đúng vậy, mở đầu giấc mơ cuộc đời của y là một cảnh tuyệt vời. Y dẫn con vào công viên. Đứa con gái bốn tuổi lẫm chẫm chạy theo bố.

- Bố ơi, mỏi. Sao con lại phải chạy?

- Vì chân bố dài, chân con ngắn.

- Tại sao chân con lại ngắn?

- Vì con chưa lớn bằng bố.

- Ứ phải, con lớn rồi. Bố cho con ngồi trên vai.

Y công kênh con lên vai khiến con bé cười thành tiếng.

- Đấy, bố thấy chưa, con lớn, con cao hơn bố.

Cả hai cùng cười. Y sung sướng quá. Niềm sung sướng ấy rồi cũng thoảng qua nhanh để cuộc đời dằng dặc của y lủng củng hiện về trong giấc ngủ ngắn ngủi.

… Năm y lên bảy tuổi thì chiến tranh kết thúc. Quãng đời ấy chỉ lõng bõng trong trí nhớ của y, chả để lại hình ảnh gì đậm nét. Ngay cả đến cha y, một sĩ quan phòng nhì vào những ngày cuối cùng của chiến tranh đã bỏ rơi mẹ con y chạy vào Nam, y cũng chả nhớ mặt. Mà cũng chẳng cần nhớ. Con người bội bạc ấy, y căm thù đến xương tuỷ. Bao nhiêu năm đau khổ nếm trải trên đời, sau này nhâm nhi nghĩ lại y càng thấm thía rằng: Chính con người ấy là nguồn động lực quyết định xô đẩy cuộc đời y đến tận cùng vực thẳm. Số phận con người ta thế mà có thật. Y nghĩ. Một ông Thánh nào đấy vô hình nhưng sắp đặt rõ ràng cụ thể số phận từng người. Đời y sẽ khác, khác nhiều chứ, nếu như lão chủ hiệu tạp hóa đầu nhẵn tuột, bọn trẻ vẫn gọi là “Tư Hói” không chen vào cuộc đời mẹ con y. Chà, lão Hói. Đoạn đời này thì y nhớ. Có quên cũng phải cố nghiến răng mà nhớ. Lão Hói hơn đứt mẹ y hai chục tuổi. Khốn nạn thật. Vợ hắn, mụ già béo ních chả ốm đau gì bỗng quỷ thần xui khiến thế nào nhè đúng lúc ấy lăn đùng ra chết, giá mà mụ hoặc chết trước, chết sau – được cả – thì có lẽ đời y đâu đến nỗi. Đã bảo con người ta có số mà lỵ. Phát tang vợ được vài tuần, lão chủ hiệu đã năng lui tới nhà y. Đường ngang ngõ tắt trong nhà, lão lạ gì. Thì dân buôn có hạng không quen xếp bốt, nhà đoan thì còn quen ai nữa. Lão Hói thậm thụt được vài buổi, bọn trẻ con phố Chợ đã lêu lêu y rằng: “Ê, ê con thằng Tư Hói”. Biết quái gì đâu chuyện chồng vợ song y cũng cảm thấy làm con lão Hói là một điều sỉ nhục. Khùng lên y lăn xả vào giữa đám trẻ đấm đá liên hồi. Hăng quá đấm cả vào tường đến nỗi trật khớp phải bó bột mất đến tháng trời. Mẹ y, vốn có sắc, vung thân vào lão Hói chẳng qua cũng vì tiền. Tiền, thánh họ đồng tiền đen bạc. Những lúc nghĩ đến đoạn này y lại nghiến răng trèo trẹo. Tiền làm hư hỏng bao nhiêu đời người nữa vào chung số phận. Ví thử cha y cứ đi, nhưng đừng cuỗm hết tiền bạc, thì chắc gì mẹ y đã phải nhắm mắt lấy lão già hói đụt ấy. Đám cưới ngay đến bây giờ y vẫn nhớ như in. Lúc còn cha y, lão hói thường kính cẩn gọi y một điều “cậu”, hai điều “cậu”. Vậy mà quân sấp mặt, thánh họ nó, vừa lúc đón dâu xong, lão đã cho y lãnh đủ một cú song phi tanh hết mồm miệng. Lão đối xử với y như quân thù quân hằn. Y không được đến trường đi học. Chẳng phải vì y không do lão đẻ ra. Con đứt ruột của lão cũng thất học cả. Học làm gì, lão lăm lăm cái roi cá đuối (món cá ấy y phải sực suốt cả thời niên thiếu, khó chịu lắm):“Tao đây một chữ bẻ đôi không biết, song thử hỏi thiên hạ đã mấy người bằng tao.”. Đấy là lão hợm của, nhưng thôi, việc học hành y cũng chả thiết. Khổ nỗi y có được chơi đâu. Đổi đời rồi, chẳng còn nô lệ nữa, xã hội mới không cho phép thuê người làm công – khổ thân cho y – y phải thay thế vào chức danh phục dịch ấy. Hợp pháp quá, y quần quật suốt ngày toàn những việc nặng nhọc. Y tức lắm cha y đặt cho y cái tên Vũ Thành Hoàng chắc có ý mong y sau này có vai, có vế. Một ông Hoàng (kể cũng khổ thân), ông Hoàng “hụt” ấy phải bưng bô, đổ chậu cho cả con lão Hói. Số phận rồi, y biết thế, song y vẫn oán mẹ. Mẹ y mặc kệ cho lão Hói tư hữu y vô tội vạ, mặc dù bà ta sai khiến chồng răm rắp. Y oán trách mẹ y không có tình mẫu tử. Song nếu y biết rằng y đang là cái nôi chứa đựng sự căm giận người chồng phụ bạc mà mẹ y trút sang  bắt con gánh thay cha, thì y chả oán trách làm gì cho mệt xác. Y sống cơ cực dưới chế độ hà khắc của lão Hói. Lão đánh đập, chửi rủa, kể cả khi ăn uống, làm như thể vì y mà cơ nghiệp của lão rồi sẽ có ngày tàn sập. Quân ti tiện, lũ hút máu, y chửi. “Rồi mày sẽ biết tay tao”. Càng lớn, trong y càng nung nấu ngọn lửa trả thù. Ngọn lửa ấy tích tụ theo năm tháng. Y thèm khát cuộc sống tự do bên ngoài. Thèm khát bao nhiêu, y căm thù lão Hói bấy nhiêu.

Mười sáu tuổi y đã là một gã trai phổng phao. Y xa lánh tất cả. Mẹ y cũng thế thôi. Mà cũng có ai thèm đoái hoài đến y. Y phớt. “Nghĩa lý quái gì – Đôi lúc y tự hỏi – Mình là cái gì, sống để làm gì?”. Cuộc sống nghiệt ngã của gia đình tạo cho y bản tính lầm lỳ, ương ngạnh. Loại người như y tồn tại với những suy nghĩ đơn giản, thô thiển. Chưa bao giờ y tự chất vấn mình nổi tới ba câu. Bộ óc của y không được kiến trúc bằng một nền tảng cố định, nên không thiên hướng rõ rệt. Y lờ mờ hiểu rằng: Mẹ y sống vì tiền, lão Hói cũng thế, nhưng cột thêm mẹ y vào, còn bản thân thì y sài lắc. Vì cái gì y phải sống? Chịu! Y nhổ phì phì. Những lúc như thế cơn giận dữ trong y lại bùng lên dữ dội. Ngót chục năm qua y phục tùng Tư Hói. Y đã quen khuất phục như con voi sợ chiếc búa của người quản tượng. Chiếc roi cá đuối hằn vết vào tâm hồn y suốt quãng đời niên thiếu cơ cực. Mười sáu tuổi, y đã lớn, song cái ý niệm trả thù vẫn còn lờ mờ chưa hình thành rõ nét.

Một hôm, vẫn là vũ điệu cá đuối quen thuộc. Khác với mọi lần, cặp mắt y trợn trạo như muốn nuốt chửng Tư Hói. Thấy khác thường lão Hói điên máu gầm lên: “À, thằng không cha này, đồ chó ghẻ…”. Y muốn cãi lão một câu gì đó cho bớt tức, nhưng cổ họng y tắc nghẹn và có vị ngăn ngắt đắng. Biết nói gì? Tư Hói vẫn quất mạnh roi. Y nghiến răng…

Y nghiến răng lao cả cái thân hình mười sáu tuổi sắp được thời gian hoàn thiện toàn bộ vào cái hình hài như một con nộm nang ăm ắp mỡ của Tư Hói. “Trong ấy có một phần mỡ của tao.”, y chỉ kịp nghĩ được có vậy Tư Hói đã giãy đành đạch. Mẹ y lượt xượt từ trong nhà ra hãi quá ngất xỉu. Y không có ý niệm sợ. Sợ cái gì mới được chứ? Nỗi sợ hãi ám ảnh duy nhất đã nằm đấy rồi. Y nhìn người đàn bà từng đẻ ra y bằng một cái nhìn dửng dưng, lạnh lẽo. Cái gì đến, đã đến. Sự giận dữ trong y kết thúc.

*

*    *

Đoạn đời trong tù cũng chẳng có gì đọng lại nhiều trong trí não của y. Cái án giết người trong tuổi vị thành niên đã buộc y phải “tiêu” một quãng thời gian dài trong trại cải tạo ở một tỉnh mạn ngược. Trại nằm trong một thung lũng bằng phẳng và rộng rãi. Trong tù ngục của Tư Hói, tầm mắt của y bị giới hạn bởi những bức tường và đống công việc ngập đầu, ngập cổ, giờ được giải phóng, y thấy mãn nguyện và sung sướng.

Những ngày đầu y bị bọn ‘anh chị’ trong trại tẩn cho vô hồi kỳ trận. Song y cóc sợ. Những trận đòn tù kể cũng đau thật, nhưng bì sao được với đòn thù của Tư Hói quất xuống y. Vả lại để bù vào đòn roi, y tạo được cho mình sự vững chãi và lì lợm gấp bội. Cứ như thế, tháng năm trôi, y lừng lững lớn, lừng lững sống. Ở trong tù chỉ có hai sự kiện đóng cọc vào đời y, hằn sâu đến mức không bao giờ y có thể quên được cái ký ức vừa đau buồn, vừa may mắn ấy.

Sự kiện thứ nhất xảy ra quãng vài bốn năm sau khi vào trại. Năm ấy y hai mươi tuổi. Việc dính đến một người đàn bà. Chính người này đã đưa y từ một gã trai tơ mít đặc thành một người đàn ông thực thụ. Dạo ấy, do tính chăm chỉ và cũng có phần ngoan ngoãn cải tạo, y được cán bộ trại phân công ở nhóm tù tự giác, lại được làm nhà bếp mới béo chứ. Xin thưa, tù tự giác trong xã hội trại cũng nhàn hạ và bổng lộc chẳng khác gì các vị có chức sắc ở xã hội người đời. Tất nhiên, cái béo bở ở đây quy về miếng ăn cũng chỉ là miếng cháy, củ khoai thêm thắt. Quy về nhàn hạ cũng chỉ là bớt đi phần nào công việc cải tạo. Y được phân đảm nhiệm củi đốt cho nhà bếp. Rừng đấy, củi sẵn như rơm rạ ở đồng bằng, vơ đâu chả được. Công việc tuy có nặng, song y thừa sức khỏe, và y lại có điều kiện lang thang, vơ vẩn. Một hôm y lấy củi ở gần khu trại nữ. Giữa trưa, y nghỉ dưới một gốc đại thụ bên rừng. Bữa ấy, mẹ y gửi đồ tiếp tế, nên y dùng bữa có dềnh dàng một chút. Bỗng có một người đàn bà đường đột xuất hiện. Y giật thót mình. Nội quy trại khá nghiêm ngặt trong việc tiếp xúc giữa tù nhân khác giới. Cặp mắt người đàn bà dớn dác đảo bốn phía, rồi đắm đuối nhìn y. Y chẳng có cảm xúc gì, mặc dù đó là người đàn bà đứng tuổi, song có lẽ đẹp. Thánh họ, đàn bà là cái đếch gì, y chưa từng biết đến đàn bà, nên y dửng dưng là phải. Thấy ả nhìn mình chằm chặm, y lúng túng đưa chiếc bánh mỳ ăn dở còn đến phân nửa cho ả. Nào ngờ ả kia trừng mắt rít lên: “Thằng chíp con, tao bẻ gãy cổ mày bây giờ. Mày không biết tao à, nhìn đây !”. Ả tốc ngược áo lên đến tận cổ. Y chỉ kịp nhìn thấy hêu hếu một khoảng lùng nhùng trắng như bụng lợn cạo, thì ả kia đã sấn đến. Thấy y ngây người, giọng ả dịu lại, đứt quãng: “Chị là Lan, trưa mai lại đây nhé.”. Y ầm ào. Mai thì mai, sợ quái gì, y chẳng phải loại hèn. Hôm sau, y mò đến cùng với toàn bộ số đồ ăn mẹ y vừa tiếp tế. Rất nhanh, chỉ sau ít thời gian vụng trộm, y đã trở thành người đàn ông chính cống. Y tặng ả cả gói đồ không hề nuối tiếc. Cảm giác lạ lùng khiến y ngây ngất mãi. Sau trận đó y phát ốm đến mấy ngày liền. Ra thế, đời đâu phải chỉ toàn cực nhọc, y sung sướng nghĩ. Sau đó y không còn cơ hội nào để gặp lại người đàn bà ấy nữa. Nghe nói ả là một đầu gấu ở trại nữ. Ở ngoài đời, ả là một quái nhân lửa đảo chuyên nghiệp. Lại là thứ lừa đảo bằng thân xác đã đưa ối đấng mày râu vào tròng. Chết là phải, y chép miệng hà hít lại cái cảm giác tuyệt diệu lần đầu tiên y được biết. Niềm sung sướng ấy y nhấm nháp chẳng được bao lâu, thì tai họa ập đến. Cái sẹo lớn trên mặt y bây giờ là tặng phẩm lưu giữ của tai họa ấy. Thánh họ, có nhắm mắt y cũng không thể quên được khuôn mặt thằng đàn ông đã tạc tặng phẩm ấy lên mặt y. Đó là thằng Bình chột, nổi tiếng toàn trại bởi những thành tích bất hảo. Chẳng biết hắn gây án những gì, nhưng số tuổi đời hắn hiện có cũng chưa đủ để so với thời gian đã định cho hắn ngồi bóc lịch trong tù. Chết nỗi hắn lại si mê người đàn bà mà y vừa biết đến, mà lại si mê từ ngoài đời mới ác. Hôm ấy y ngủ trưa ngay tại nhà bếp. Thằng Bình chột chẳng biết bằng cách nào lọt được từ khu trọng án sang khu tự giác. Cũng chẳng biết bằng cách nào, hắn lại biết tường tận chuyện của y. Rách việc thế, giá như người khác, y đã gục ngay từ phát chém đầu tiên. Nhờ trời y có sức khỏe bật dậy ngay được. Máu phun từ mặt làm nhân lên cái vốn sức lực tàng trữ trong cơ thể y. Rất nhanh, y giằng được con dao. Cũng rất nhanh, không kịp nghĩ ngợi, y xả chéo lưỡi dao vào giữa mặt kẻ tử thù. Cái án giết người cũ chưa kịp xóa, y lại lĩnh thêm cái án giết người mới.

Y bị tống sang khu trọng án. Chẳng cần hiểu biết nhiều, y cũng đã nhận thấy đời y thế là hết. Hết phương cứu chữa. Song y đã gặp may. Cái may này liên quan đến cái chết của một người tù nguyên là thầy giáo phạm tội giết vợ. Đó là sự kiện thứ hai cách sự kiện thứ nhất gần hai chục năm trời. Sau này khi đã được tự do yên ổn sống, y càng thấm thía và biết ơn người thầy – tù bất hạnh. Đó là một người đàn ông gày gò, song bù lại ông có một khuôn mặt hết sức thánh thiện, cao đạo. Khu tù trọng án tập trung toàn tù mang án nặng. Vậy mà đám anh chị ấy hết sức kính nể người tù gầy yếu. Ở ông toát ra sức mạnh chinh phục. Riêng với y, ông hết sức tận tình dạy dỗ, chỉ bảo. Y được học chữ, điều mà trong tù ngục của Tư Hói y không dám mơ tưởng đến. Lẽ ra ông đã được tự do cùng với y, song số phận cao xanh định trước cho từng thân phận con người đã không thể cho ông điều ấy. Đấy là y chiêm nghiệm thế. Chứ không à, tại sao ông lại tự cứa ven mình, đúng vào ngày được tha để chịu chết, chứ nhất quyết không chịu trở về sống với đời? Lúc y phát hiện ra, ông đã đang hấp hối. Ông bảo danh dự buộc ông phải làm thế. Y hét ầm lên, danh dự là cái thứ gì mà ông phải khổ sở cả đời vì nó. Ừ, thì trước đây vì danh dự ông đã hành động giết chết con vợ phản bội thì y công nhận. Y thương ông lắm. Ông từng có một gia đình hạnh phúc. Đang dạy học, ông tình nguyện vào chiến trường đánh giặc. Vậy mà một gã Sở Khanh đã quyến rũ vợ ông. Biết chuyện ấy, ông buồn lắm, song ông đã tha thứ. Rồi ông trở về. Chị vợ chẳng chút ăn năn còn xúc phạm nhiều đến danh dự của ông. Ông vẫn nén chịu. Đấy là ông, chứ vào tay y xem, y đã cho phăng teo hết. Y nghe chuyện mà máu sôi sùng sục. Nhưng thầy y thì khác. Người tốt mới chịu nhiều thua thiệt. Tốt thế thì y đếch thèm. Y nhớ có lần một gã tù liều mạng nẫng của thầy trò y gói bánh mỳ khô dự trữ. Y tức lắm, song thầy y bảo: “Người ta cần mới hèn hạ thế, thôi quên đi.”. Nể thầy, y vâng dạ, song y đã định tâm phải tìm ra thủ phạm. Y đã giành lại được gói bánh, sau khi cho gã kia văng mất hai răng cửa. Từ hôm ấy, thầy không bao giờ đụng vào thứ gì y mang đến. Mãi sau y mới dàn xếp được chuyện ấy.

Lại nói đến chuyện cũ của thầy. Một đêm mưa gió, người vợ bạc tình nhẫn tâm đẩy thầy ra đường. Cũng chính trong đêm ấy việc những con thú đang quằn quại hoan lạc trên giường nệm của chính thầy đã thúc đẩy thầy hành động. Trước tòa, thầy nói: “Tôi hành động vì danh dự và lý trí kiểm soát. Tôi đáng tội chết, song tôi chết còn hơn là tôi phải sống hèn để chứng kiến bọn thú người kia tồn tại bất chấp đạo lý.”. Y vuốt mãi mắt thầy, dù thầy yên nghỉ thanh thản. Thế là thầy mãn nguyện. Trước khi quyết định chết, thầy còn cải tên cho y. Cán bộ trại đã chấp nhận. Từ đây y mang tên Vũ Thành Thiện. Chắc đó là ý nguyện của thầy. Y nhủ thầm sẽ gắng sống đúng ý nguyện ấy.

Cái chết của người bạn tù gây chấn động trong y. Y hiểu rằng những người như thầy mình không thể chấp nhận sống khi danh dự bị tổn thương. Giản đơn hơn, y hiểu cái chết ấy là sự trừng phạt, không tha thứ tội lỗi của chính mình. Tội lỗi, y rùng mình. Dù sao cũng qua rồi cái đoạn đời khốn khổ ấy, y đã bước vào cuộc đời mới với một cái tên hoàn toàn mới. Thành Thiện, có thể lắm chứ, y được ra tù và y có cả một quãng thời gian dài để gột rửa tội lỗi của mình. Còn bây giờ y phải sống, phải sống ra trò để bù lại những tháng năm uổng phí. Vĩnh biệt núi rừng. Y nhắm mắt. Một cuộc sống y chưa từng được sống đã sẵn sàng đón đợi y nhập cuộc.

Gia đình y đã tan tác hết cả. Y không nhận nổi ngôi nhà mà Tư Hói đã giam cầm y suốt tuổi thiếu niên khốn khổ. Mấy đứa con Tư Hói đã chia nhau cát cứ từng khoảnh của ngôi nhà cũ. Chúng xây lên từ đấy, những ngôi nhà khác nhau tuỳ theo khả năng của mỗi đứa. Sau khi Tư Hói chết, mẹ y lại tái giá với một người đàn ông khác. Cuộc hôn nhân ấy nghe nói sau cũng tan vỡ. Bây giờ mẹ y phiêu bạt đâu đâu, chả ai được biết. Lẽ ra, y chẳng về đấy làm gì. Nhưng thủ tục nhập hộ bắt buộc y không thể làm khác. Đầu tiên y cũng sờ sợ chúng trả thù. Y đã quá cẩn thận. Lũ con Tư Hói không mảy may nhắc lại chuyện cũ. Y có cảm giác hình như chúng quên mất chính y là người đã giết Tư Hói. Thậm chí chúng còn sốt sắng và có phần tử tế với y. Mãi sau này y mới vỡ lẽ, chẳng phải chúng tử tế gì, mà vì chúng sợ. Ra thế, nòi giống nhừ Tư Hói giỏi làm tiền. Chúng nó đều giàu có cả. Bởi vậy, chúng sợ kẻ tứ cố vô thân như y là phải. Tiền có sức mạnh riêng của nó khiến thù cha cũng chỉ là bèo bọt. Y chẳng lấy đó làm mừng, trái lại tràn ngập trong y là một cảm giác tủi hờn xen lẫn. Chao ôi, giá chúng chửi y vài câu, giá chúng đánh đập y vài trận, thì chí ít y cũng cảm thấy thanh thoát và ít nhiều trả được một phần nợ Tư Hói. Nhưng thôi, mặc mẹ đời, chúng thế thì y cũng chẳng cần phải day dứt. Mẹ y những năm tháng trước thi thoảng, có gửi đồ vào thăm nuôi y. Chẳng biết mẹ y có thương xót gì y không, nhưng trước khi đi xa, bà còn gửi lại lũ con Tư Hói cho y một số tiền. Lũ con Tư Hói làm một tiệc rượu mời y và trao lại toàn bộ số tiền ấy. Chúng bảo: “Việc đời trước cho qua. Còn bây giờ ai lo phận người nấy. Mày với chúng tao chẳng có máu mủ ruột rà. Uống đi, đặt cốc là chấm hết. Sau đây coi như không quen biết nhau. Vì tình xưa của mẹ mày, chúng tao trả đủ tiền gửi, còn gom thêm cho mày một ít làm vốn. Thế nhé, nào trăm phần trăm !”.

Uống thì uống, bữa ấy y nghiêng ngửa cùng chúng. Hay thật, coi như giữa y và chúng sòng phẳng nợ nần.

Vất vưởng mất một dạo, rồi y cũng kiếm được chỗ trú chân. Căn nhà nho nhỏ y đang ở bây giờ được cất dựng bằng số tiền của mẹ y và lũ con Tư Hói. Y mãn nguyện lắm. Gọi là nhà cho oách, thực ra nó chẳng thể sang hơn cái lán tù y ở trong trại. Với y, thế đã là hết sức may mắn. Trông thiên hạ kia kìa, khối kẻ còn bằng vạn y mà phải chịu cảnh lang thang cơ nhỡ. Y là cái thá đếch gì. Xóm liều y trú ngụ có vài chục nóc nhà cũng rặt loại tàng tàng như của y cả. Mà trong đấy, khối vị lại là cán bộ nhà nước hẳn hoi. Thử hỏi y còn muốn gì hơn. Được cái, nhà của y sát ngay mặt đường, nên việc kiếm sống có phần thuận lợi. Không kể sức khỏe, mấy chục năm trong trại y đã học được vô khối nghề, giờ có điều kiện thi thố, nên miếng ăn thường nhật chẳng phải là điều gì quá khó khăn. Từ ngày ra tù, y đã thử thách nhiều nghề, vào thời điểm câu chuyện này, y đang hành nghề sửa chữa xe đạp, xe máy. Vốn cơ khí, máy móc cũng là thứ y tầm được ở trong trại. Y chẳng phải là người thông minh, xong bù lại y lam làm chịu khó, giá cả phải chăng, nên rất được tín nhiệm. Thuộc loại người có tinh tướng, hình dong dữ dằn, thêm vào cái quá khứ bất hảo, nên mới đầu hàng xóm, láng giềng, kể cả dân anh chị, cũng ngại ngùng khi tiếp xúc với y. Lâu dần người ta nhận thấy y sống hiền lành, thật thà, mọi ứng xử đều trái ngược với vẻ hung tợn bên ngoài của hình thể. Y được mọi người quý mến. Tuy nhiên, tình cảm ấy vẫn bị ngăn một khoảng cách khá lớn bởi tính lầm lỳ, cục cằn thô lỗ của y. Nhưng thôi, điều ấy cũng chẳng sao, y sống được đã là phúc tổ. Trước đây xem, khi chủ nghĩa lý lịch còn nặng nề, bố bảo ai dám chờn vờn, đánh đu với thằng giết người. Cuộc sống của y vậy là tạm ổn định.

Y bốn mươi tuổi. Tuổi ấy lập thân cũng có khí muộn, song vẫn còn tốt chán. Mọi người mong y sớm có một gia đình. Có người thiện ý còn rắp tâm mối lái. Chuyện khác thì y gật, còn chuyện đàn bà… Y lầm bầm chửi tục “Thánh họ…”. Đàn bà y tiếp xúc chưa nhiều, nhưng thế là quá đủ. Y chẳng thèm nhắc đến chuyện cái sẹo trên mặt với mụ đàn bà đầu gấu trong trại. Nội chỉ một cú ăn quả lừa ngày mới ra trại đã đủ cho y kinh hồn táng tởm, khi nghĩ đến đàn bà. Giá kể không có chuyện ấy thì có thể chẳng cần mọi người giục giã, tự y đã quyết định được tổ ấm của mình.

Hôm ấy y vẫn còn nhớ lắm. Đòn đau nhớ đời mà lỵ! Đó là ngày đầu tiên tự do của y. Trong trạng thái hứng khởi, y tạt ngang, tạt ngửa không biết mệt khắp thành phố. Mọi cái với y đều lạ lẫm. Thực ra y đã bao giờ được sống một ngày thực sự đâu. Ở trong tù chẳng nói làm gì, cái xã hội ấy có một thứ trật tự riêng. Ngày nhỏ, ngọn roi của Tư Hơn còn chắc hơn cả bức tường thành ngăn y với thế giới bên ngoài. Y cảm nhận xung quanh hoàn toàn bằng thứ tri thức tạp nham, pha trộn, mót được trong tù. May cho y là người tù thầy giáo đã truyền cho y không ít những hiểu biết về con người, về cuộc sống, về thế thái thân tình. Thấy một người ăn xin, y sốt sắng móc ví đưa hẳn tờ bạc lớn. Ở trong tù do chịu khó lao động, dành dụm, dấn vốn của y cũng kha khá. Y không ngờ hành động nghĩa hiệp ấy đã quyết định không phải số phận cái ví tiền yểu số, mà còn quyết định cả một đoạn ngoặt cuộc đời y. Giá như người khác chắc chả đến nỗi vào tròng bọn lừa đảo. Đằng này đã nói y biết quái gì đâu. Trông y có tướng tinh đấy, nhưng mà cứ ngơ ngơ như bò đội nón lá đi giữa phố, chết là phải. Người dọn bữa tiệc đầu đời cho y là một ả còn rất trẻ. Nói trộm, nếu tốt số y cũng phải có con lớn bằng đấy. Mặt nó trát bự phấn. Y lồi mắt nhìn. Thấy y nhìn, nó cười khinh khích. Tưởng y thích, nó sấn đến. Y lắc mạnh vai, tránh vẫn không kịp. Y nhận thấy một bên vai ấm nóng bởi cả một vùng ngực đồ sộ áp vào. Y đỏ mặt. Ả kia bảo: “Thế nào, anh giai ?”. Người y rợn rạo. Y nuốt khan nhớ lại lần chung đụng duy nhất trong trại cách đã hai chục năm có lẻ. Y hỏi: “Thế nào là thế nào?”.

Ả kia nhỏng nhảnh:

- Là… khéo vẽ. Anh giai chắc mới ở “ấp” ra. Làm một tỵ cho đỡ nhớ đời. Nhé!

Y tặc lưỡi: “Tỵ thì tỵ, sợ đếch”. Lúc ấy trời đã tối quánh. Ả lôi tuột y vào một góc công viên. Y sờ soạng mãi vẫn chưa định được phương hướng. Thánh họ, đèn đóm đâu cả mà tối như hũ nút thế này. Mà con nhóc đâu rồi.

Ả kia lào phào:

- Em đây, – rồi nghiến ngấu siết chặt lấy y.

Bỗng “chát, cộp” mũ cối phang tới tấp, đèn pin loe lóe. Tiếng la hét ỏm tỏi:

- Nó đi với vợ tôi!

- Đánh bỏ mẹ nó đi!

- Đâu, rọi đèn vào mặt thằng cướp vợ! Đánh, đánh đi!

“Chát – cộp – chát”. Y loay hoay tránh đòn, miệng lắp bắp:

- Hượm, hẵng hượm đã, nhầm rồi…

Có tiếng chân chạy huỳnh huỵch. Bọn kia vội túa đi rất nhanh. Bóng hai ba cảnh sát vụt đến. Còn trơ khấc mỗi mình y đứng như tượng tạc. Bỗng y thót tim, cái ví đựng mồ hôi mấy chục năm lao động của y đã không cánh mà bay mất tiêu. Họa vô đơn chí. Tiền mất tật mang, y bị tóm cổ suốt cả đêm hôm ấy. May giấy tờ trại cấp y đã cẩn thận khâu vào lớp áo lót, nên còn giữ được. Y vất vả giải trình mãi mới được tha. Thật nhục, chẳng ai tin y bị lừa. Cái mặt y như thế, có đến thánh cũng chẳng lừa nổi, huống hồ… Sau cú ấy người y sụp hẳn. Đấy, đấy đàn bà đấy, thánh họ nó, hai lần y dính đến đàn bà là cả hai lần y lãnh đủ. Cả hai lần đời y đều suýt đi tong. Giờ thì y cạch. Cạch đến già, có các thêm vàng y cũng chắp tay vái. Tổ ấm, tổ iếc làm gì cho mệt xác. Cứ một mình khỏe chán. Y thu mình vào cái boong – ke của thân phận đơn độc. Sống, sống, sống. Tồn tại cùng y là niềm tủi hổ, mặc cảm vô bờ. Y sẽ tiếp tục sống như thế, nếu không có một chuyện xảy ra sau đấy ít lâu lại làm xoay chuyển cuộc đời y.

*

*    *

Nhà của y nằm kề sát bãi rác. Nguyên đây là vùng hồ ao liên tiếp. Rác thải lấp kín đến đâu liền được phủ đất quy hoạch thành đất đai, vườn tược đến đấy. Dạo y mở hàng sửa chữa xe đạp, trong bãi rác cũng có vài cư dân trường trú. Đấy là qua đứa trẻ y được biết, chứ chả bao giờ y để ý đến đám người suốt ngày hì hụi nhặt nhặt, cóp cóp này. Và cũng chẳng hơi đâu mà để ý, thời gian của y căng ra, quần quật cả ngày, có hở kẽ nào mà để ý, để iếc.

Thoạt đầu đứa bé gái không làm y bận tâm. Nó quãng gần bốn tuổi, bé loắt choắt, tóc cơm cớm và đi chân trần. Thời buổi này ở thành phố trẻ con đi đất ắt hẳn là con nhà cùng tận. Có dễ đến mấy hôm liền nó cứ lảng vảng phía bờ rào. Phải đến hôm vắng khách, y mới biết đến con bé. Nó cũng giông giống vô vàn đứa trẻ ăn xin lang thang rải khắp thành phố. Duy có cặp mắt của con nhóc long lanh sáng là phân biệt được nó khác với đám trẻ kia. Thấy nó xuất hiện nhiều, y đâm để ý. Hay nó định thuổng đồ nghề ? Không, nó quá bé, người thế và mắt đấy không thể ăn cắp được. Vậy thì nó muốn gì? Nghĩ ngợi thế, song y lại quên phắt. Y vốn không thích trẻ con. Loại người không yêu được đàn bà sao có thể yêu được con trẻ. Trẻ con, y lắc đầu. Ngay sát vách nhà y có một cặp, vợ bán tiết canh, lòng lợn, chồng làm nghề buôn thịt chó, còn rất trẻ đã sòn sòn cho ra lò ba đứa con trai kế nhau năm một. Giá có điều kiện chắc y đã bán quách nhà để tránh tai họa ba thằng quỷ sứ phá gia ấy. ban ngày chúng được nhốt trong nhà (chúng được tự do không biết tai họa còn đi đến đâu). Khỏi kể, chỉ nội cái chuyện chúng khoét vách câu chim sang nhà y mà phóng nước khai mù đã đủ làm y điên đầu. Phải con y chắc chúng đã bị bẻ cổ. Lại nói chuyện con bé. Nó vẫn cứ thi thoảng lởn vởn cạnh hàng rào nhà y. Một hôm…

Một hôm, mới đầu sáng, y đã vớ được món bở, vá liền lúc ba miếng săm xe máy bị đinh xiên chồng. Một ngày tốt. Thoáng thấy con bé, y hứng khởi vẫy nó vào. Nó giương to mắt thô lố nhìn y. Nhìn kìa, nó ngập ngừng. Nửa muốn vào, nửa như nó muốn chạy. Y đứng lên. Nó ù chạy thật. Chỉ ba bước chân y tóm được nó. Con bé vùng vẫy sợ hãi. Y dịu dàng vuốt tóc nó: “Đừng sợ, vào đây. Tao cho mày tiền ăn quà.”. Y rút tờ bạc năm trăm. Nó lắc. Mắt nó ngân ngấn. Y dúi tờ bạc vào tay nó: “Nhà mày ở đâu?”. Nó mếu máo không nói được thành tiếng. Ngán ngẩm, y thả nó ra con bé vù chạy vào bãi rác. Ra nhà nó ở đấy, thánh họ!

Sau lần ấy, con bé có phần dạn hơn. Nó đã dám mon men sát chỗ y làm. Thấy nó tha thẩn chơi, y mặc kệ. Dần dần con bé quen mui, không có hôm nào nó lại không đến cửa hàng y để nghịch. Hôm thì nó xếp xếp cờ-lê. Hôm thì nó xoay xoay mỏ lết. Có hôm nó bắt chước y nhún nhún chiếc bơm đạp chân. Y vẫn không thích nó. Nghe nó bập bõm kể, y biết nó ở với mẹ trong bãi rác. Từ nhà y, kiễng chân qua tường rào là nhìn thấy cái lều được quây bằng ni-lông, bằng chiếu rách và vô vàn các vật liệu khác. Mẹ nó thì y không biết. Chỉ thấy tụp hụp một thân hình không biết già hay trẻ suốt ngày lụi cụi chọc chọc, bới bới trong bãi rác. Người ấy mặt mũi bịt khăn kín mít, áo quần chằng đụp. Giá không biết đứa trẻ là con, y đã đoàn đấy phải là một bà lão. Ờ, có thể thật. Con cũng dăm bảy đường con, biết đâu đứa bé lại chẳng là con rơi, con nhặt. Mà thây kệ, đếch phải quan tâm gì. Tuy vậy, giữa y và con bé dần dần hình thành một quan hệ mà từ phía y rõ ràng ngày càng tăng mối thiện cảm. Đã nói con bé có cặp mắt sáng long lanh. Khuôn mặt nó nếu được rửa ráy sạch sẽ còn sáng sủa hơn nhiều. Không những thế, nó còn hết sức láu lỉnh. Y nhớ có lần nó nghịch quá làm đổ của y chai nhựa vá săm, bực mình y quát:

- Tao cấu đầu mày cho gà ăn bây giờ. Xéo!

Con bé xoe xoe mắt hỏi lại:

- Gà ăn được đầu trẻ con hả bác?

- Ăn tốt!

Nó thừ người ra ngẫm ngợi giây lát, rồi vụt reo lên:

- Ứ  phải! Chỉ có trẻ con ăn thịt gà thôi. Mẹ bảo thế. Hôm qua mẹ vừa cho Thơm ăn thịt gà – Rồi nó lại tiếp: – Mẹ không ăn thịt gà. Mẹ bảo người lớn không ăn được thịt gà, chỉ trẻ con ăn thôi. Thế gà có ăn được đầu mẹ không?

Y hứ hự. Y lắc đầu, bật cười. Rõ thật là trẻ con! Cứ thế, thời gian trôi, y chẳng nhớ là bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày, đứa trẻ với những trò nghịch vớ vẩn, những câu nói ngây thơ, láu lỉnh dần dần đưa y hòa nhập vào cái thế giới riêng của nó. Một thế giới y đã từng sống, nhưng chưa được biết. Có một lúc nhìn con bé, y đã nao nao lòng. Cứ nghĩ loại người như y đã chai cứng, tưởng chẳng có thể xúc cảm, trái tim đã băng lạnh, thậm chí không có cả cái gọi là tâm hồn nữa. Không, y vẫn có tất cả. Từ đáy sâu tâm can y, cứ mỗi ngày lại dâng lên thêm một chút ít nỗi niềm vừa xa xăm, vừa mơ hồ và hết sức buồn bã. Y cảm thấy mình đơn độc và bé nhỏ trước cuộc đời rộng lớn. Bấy lâu nay y đã sống một cuộc sống hết sức đơn giản, chẳng cần phải nghĩ suy, còn bây giờ con bé con bốn tuổi xuất hiện trước cuộc đời y bỗng dưng đào xới những gì còn tiềm ẩn, những gì đã xếp lặng trong y. Chao ôi, y nhận thấy mình chẳng có gì cả. Gia đình lớn của y từ lâu đã hoàn toàn tan vỡ. Y không có lấy một người thân, một mái ấm gia đình. Y thấy thèm khát ghê gớm, thèm khát điều gì, y cũng không cắt nghĩa được. Y chỉ biết được mang máng rằng hôm nào có đứa trẻ, nỗi trống vắng trong y phần nào được khỏa lấp và ngày ấy là một ngày làm việc với tâm trạng không đến nỗi buồn tẻ. Giữa y và đứa bé con hình thành một quan hệ không rõ ràng, nhưng mật thiết. Rất tự nhiên, y coi đứa trẻ như người thân duy nhất của mình. Đúng vậy, ngoài nó, y có còn ai thân thích nữa đâu. Y đặt phần mình phải có trách nhiệm với nó. Đã vài lần y sắm sửa đôi dép, bộ quần áo, thứ đồ chơi, song lần nào cũng vậy, chỉ được một lát con bé quày sang trả lại y tất cả. Lần thì nó bảo: “Trả bác, mẹ mắng Thơm hư, nhận quà không xin phép.”. Nói thế nhưng ánh mắt nó cứ dán vào thứ đồ chơi vừa phải gửi trả lại. Lần khác nó thủ thỉ: “Mẹ bảo thương Thơm lắm. Cũng muốn Thơm được đẹp, được chơi, nhưng bây giờ thì chưa được. Bác Thiện cất đi, giữ hộ Thơm nhé!”. Nghe nó nói mà y rầu cả ruột. Thương con bé, y đâm ghét người đàn bà là mẹ nó, người y chưa từng giáp mặt. Thánh họ, mụ có mất mát cái gì đâu, sao mụ gàn dở nỡ cấm đoán nó, trẻ con mới nứt mắt sao đã bị đày ải. Y chạnh nhớ đến tuổi thơ của mình. Ngày ấy có ma nào để ý đến y, ngó ngàng đến y. Được, y định bụng hôm nào rảnh phải vào nói cho mụ một trận, đồ độc ác, hành hạ con bé, vớ vẩn y sẽ cho biết tay. Định thế, song công việc thường nhật cứ làm y lần lữa mãi chưa đi được.

Bẵng đến hai hôm nay không thấy con bé sang, y cảm thấy bồn chồn. Đến ngày thứ ba y thực sự thấy lòng mình có lửa đốt. Hay là con bé làm sao? Nắng nôi thế này, lại giữa bãi rác hôi hám thế, đích thị là con bé ốm. Y buồn bã chân tay, chả thiết làm gì. Y kiễng chân về phía cái lều. Bãi rác lặng phắc. Vẫn thấy mẹ nó hí húi bới nhặt. Con bé đâu? Lóe trong y một tia giận dữ. Hay là mụ cấm không cho nó sang với y? Có thể lắm, y định lồng sang ngay, nhưng kìm được. Hẵng hượm, để đến chiều. Chạng vạng tối, y mò mẫm sang. Khá vất vả y mới đến sát được bên cái lều con sau khi vượt qua được vô số chướng ngại vật bẩn thỉu. Y thót tim khi thấy con bé đang i ỉ khóc. Hình như cả mẹ nó cũng khóc. Y thấy loáng thoáng bóng con bé in thu lu ở góc lều. Tiếng nó nấc đứt quãng trong nước mắt “Ứ, ứ, bắt đền mẹ… cho con sang bác Thiện.”. Một giọng phụ nữ tre trẻ, nghẹn ngào: “Con thương mẹ, ở đây với mẹ đừng đi chơi đâu.”. Rồi vẫn giọng nghẹn ngào ấy, như không phải nói với con bé. “Tội nghiệp con. Làm sao con hiểu được, mai ngày lớn lên, con ạ…” Y định sấn ngay vào. À con mụ này, ai làm gì con mụ? Chẳng qua y thấy thích con bé, thương nó vật vờ, khổ sở thế thôi. Y bỗng nhiên thốt lên thành tiếng. Y vừa kịp nhận trong thứ ánh sáng xám xịt của ráng chiều chạng vạng khuôn mặt người đàn bà là mẹ đứa bé. Thì ra đấy là một thiếu phụ còn trẻ. Không nhìn rõ lắm, song y lờ mờ cảm thấy đó là người đàn bà đẹp, tuổi cùng lắm chỉ đến ba mươi. Người đàn bà hoảng hốt vơ vội tấm khăn chụp mặt. Y đứng sững mấy giây, rồi định thần khom người chui vào lều:

- Cô đừng sợ, tôi tưởng con bé ốm, không thấy nó sang, nên sốt ruột đến xem binh tình thế nào.

Con bé thấy y, nó mừng quá bật dậy nhao ngay đến. Y ôm nó vào lòng. Trời sập tối hẳn. Chả đèn đóm gì, căn lều ngòm ngòm đen đến phát sợ. Ắng đi một lúc, người đàn bà mới lên tiếng:

- Mẹ con em cám ơn bác. Bác đã có lòng thương, xin bác hiểu giùm phận cháu… Vâng, không có nhà cửa, mời bác ngồi tạm.

*

*    *

Ra thế, số phận con người ta khác nhau và nỗi khổ cũng vậy. Y vẫn tưởng mình là tận cùng trong cái bể đầy cực nhọc. Nhưng không, chỉ so với số phận mẹ con người đàn bà nhặt rác này thì nỗi khổ của y chưa là cái gì.

Ừ, thì y khổ, điều đó công nhận. Với y, có lẽ số phận chẳng thể nào khác được. Y sống trong một gia đình hỗn tạp của một thời chỉ biết đến tiền và lạc thú. Cha mẹ y, Tư Hói nữa, chính là những kẻ đẩy y vào vòng trầm luân của cuộc đời khắc nghiệt.

Bây giờ đến cả oán thán họ y cũng không thèm. Oán làm đếch gì nữa, đời y đã đổi khác rồi, chí ít y cũng đã được làm người. Gạt đi cái quá khứ buồn đau và tội lỗi, y cũng đã có quyền sống tử tế. Y sẽ sống được như thế, bởi y đầy đủ khả năng và điều kiện để đoạn tuyệt được quá khứ.

Còn người đàn bà nhặt rác có cái tên là Thảo? Y rưng rưng cám cảnh cho số phận người đàn bà bất hạnh. Cô ta sinh ra lớn lên ở một làng quê vùng trung du. Y cũng chả biết là vùng nào. Nghe kể trước ngày bé Thơm ra đời, đời cô ta đâu cũng đến nỗi. Chỉ có nỗi phiền muộn là vợ chồng họ ở với nhau dăm năm vẫn chưa có con. Con với cái, thật tội, chắc bệnh tật gì đấy. Cả hai cùng hy vọng đến một ngày nào đó họ sẽ có một đứa con. Lạ nhỉ, cứ dính đến chuyện chồng vợ là nhăm nhăm chỉ muốn có con. Ờ mà phải, y chưa rành chuyện ấy, song cứ suy từ con bé Thơm ra thì đủ biết. Thích là phải, trẻ con ai cũng như nó thì đến gỗ đã cũng phải mềm lòng. Khổ nỗi, vợ chồng họ nghèo, dành dụm mãi chưa đủ tiền để tìm thầy chạy chữa. Chán thật, tiền biết thế nào đủ. Đúng dạo ấy người ta phát hiện ra vàng. Ngay tại mấy quả đồi trong xã. Vàng, y đã biết đến thứ kim loại đấy. Đó là thứ mẹ y gửi lũ con Tư Hói cho y lúc y mới ra tù. Y khốn khổ mãi, phải cò đi kéo lại, thử năm lần bảy lượt mới quy được thành tiền để mua ngôi nhà này. Thiên hạ dại thật, tiền giấy có nặng nề gì cho cam mà phải xô vào chuyển đổi, tàng giữ cái thứ vô hồn chỉ hơn sắt thép có một bậc kia. Lại nói chuyện đãi vàng. Anh chồng hăng hái sung ngay vào đội khai thác vàng của hợp tác. Đầu tiên cũng định kiếm chác chút ít, sau ham, ở miết trên bãi không về, vợ gàn không được. Vàng chưa thấy đâu, đã bị sập hầm chết ngỏm.

Chuyện dừng ở đấy cũng chẳng có gì, song nó mới chỉ là mở đầu vận hạn. Chôn cất chồng được ba ngày, thì tay trưởng ban khai thác vàng của hợp tác mò đến tìm Thảo. Từ lâu gã trai này đã si mê và không ít lần gạ gẫm cô chuyện giăng gió. Gã bảo: “Không có nhiều thì giờ. Tôi vào chuyện ngay. Chồng cô đã mồ yên, mả đẹp – Nói rồi, gã rút ra một tờ giấy đã nhàu nát: – Đây là biên nhận, chồng cô đã cầm vàng của hợp tác xã, ba chỉ cả thảy, giờ cô thay chồng bồi hoàn lại!”. Cô vợ trẻ đau khổ vì mất chồng, giờ mặt mũi tái dại, chân tay run rẩy, đúng rành rành chữ ký của chồng. Ba chỉ, có bán cả nhà cũng chẳng đủ ngần ấy. Cô lắp bắp: “Nhưng sao anh ấy không để lại gì cả?”. Gã kia phán: “Cái đấy cô phải biết hơn tôi.”. Cô vợ sụp xuống, òa khóc. Gã kia nhỏ giọng: “Thôi, đằng nào cũng xong xuôi cả rồi. Tôi định thế này. Tiền cô không có để trả. Nợ hợp tác thì cô biết đấy. Chỉ còn mỗi cách cô lấy tôi thì rũ sạch nợ nần!”. Cô vợ chồm lên: “Thằng đểu!”. Gã kia vẫn lạnh tanh: “Cũng được. Tuỳ cô!”.

Nghe kể đến đoạn này, y sôi tiết lắm. Thánh họ, thằng mất dạy, y mà vớ được thì ngữ ấy cứ gọi là xương phải nhừ hơn ninh nồi áp suất.

Trong khoảnh khắc tột cùng của sự đau khổ ấy, cô vợ quyết định: “Thôi được! Nào, ra bãi tha ma.”. Cô quỳ xuống trước mộ chồng, khấn vái hồi lâu, rồi quay mặt bảo gã: “Đưa tờ giấy đây. Loại người như anh đến chết tôi cũng không thèm lấy. Song vì vong linh người chết, tôi muốn anh ấy thanh thản khỏi lẩn quẩn nợ trần, tôi chấp nhận một phần cuộc đổi chác này!”. Gã kia run rẩy. Cô vợ tụt hết quần áo, nửa ngồi nửa nằm tựa lưng vào ngôi mộ hai tay dang rộng ra. “Nào, hèn thế, nhanh lên. Tôi thí cho anh một đêm nay. Sau đó thì cút,”. Hãi quã và nhục quá gã kia định chuồn. Song, trời ạ, đêm ấy trăng đầu tháng. Mờ ảo tấm thân người đàn bà đẹp gã từng ao ước. Một tích tắc. Thú tính trỗi dậy lấn lướt sự hèn hạ của danh dự bị làm nhục, gã chồm đến nghiến ngấu. Đêm hôm ấy, gã đã mãn nguyện với một cái xác.

Sau ngày ấy, cái Thơm thành hình. Cô đau khổ lắm, muốn tìm đến cái chết, song lại thương mẹ già đơn độc không ai phụng dưỡng. Cô tìm đến gã kia: “Tôi và anh thế là sòng phẳng. Tôi sẽ có con. Nói để anh biết, con tôi sinh ra từ sự ô nhục. Song thề với trời đất, nó sẽ không phải sống trong sự ô nhục ấy. Tôi sẽ đưa nó đi khỏi đây. Anh cố mà sống đến ngày nó trở về.”.

Và cô tìm đến bãi rác này. Cứ tháng tháng, cô lại mang tiền về nuôi mẹ.

Chuyện người đàn bà nhặt rác y được nghe kể tối hôm ấy làm y buồn lắm. Y cảm thông sự lánh mình của mẹ con họ (ngay cả lúc nói chuyện với y, cô vẫn giữ tấm khăn che mặt). Cẩn thận vậy là phải, ở thành phố không thế sao giữ được mình. Y cũng kể về cuộc đời của y cho cô nghe. Sau cùng y bảo: “Tôi cũng chẳng tốt đẹp gì, song có thể bảo vệ được mẹ con cô. Đừng ngại. Cứ cho cái Thơm sang tôi, đừng bắt nó ở trong này một mình, tội lắm. Rồi còn phải cho nó đi học nữa.”.

Y khật khưỡng ra về như người say rượu. Đau khổ là một thứ men mạnh hơn cả rượu mạnh. Y đóng cửa nghỉ liền mấy ngày. Từ đó, y tận tình chăm sóc con bé Thơm. Mẹ nó đã cho nó tự do sang nhà y chơi. Những lần cô ta về quê, nó còn được ngủ ở đấy. Y sung sướng lắm. Những hôm như thế, tự tay y chợ búa nấu nướng. Y mãn nguyện nhìn nó ăn, nhìn nó ngủ. Con bé bây nom phổng phao, sạch sẽ. Chẳng hiểu thế nào, hay có ai xui, nó toàn gọi y bằng “bố Thiện”. Lần đầu nó gọi thế, tim y thót một cái, nổi cả chân lông. Y không dám mơ đến điều ấy. Y cũng tránh phải gặp gỡ với mẹ nó. Có vài lần cô ta gấp việc, phải đến nhà y, song vẫn bịt mặt. Y biết, giữa cô ta và y có một khoảng cách lớn. Giá kể y vượt được qua khoảng cách ấy? Nghĩ thế, y đỏ mặt và không dám nghĩ tiếp nữa. Từ ngày có bé Thơm, y thay đổi hẳn tính tình. Mọi người thấy y vui vẻ và biết điều hẳn lên. Không còn ai ở xóm Liều e ngại y. Khách hàng quý mến tính tình vui vẻ và hào phóng của y nên cửa hàng ngày một đông khách. Y đã tấp tểnh nghĩ đến chuyện xây nhà. Tiền nong chuẩn bị cũng hòm hòm đủ. Y lại nhớ đến người tù thầy giáo. Thầy ơi, cái tên của thầy đặt đã sắp thành.

*

*   *

Nhưng chuyện đời đâu có suôn sẻ. Đúng hôm thường lệ hàng tháng người đàn bà nhặt rác về quê, chẳng hiểu sao con bé Thơm quằn quại đau bụng, rồi đi ngoài tuồn tuột. Y hoảng lắm. Y đã cho nó uống thuốc, song vẫn không đỡ. Thấy bảo đi ngoài chỉ có món thuốc phiện là linh nghiệm nhất. Y lập cập chạy sang nhà Thành Sái, trước là bạn đồng trại với y. Từ lâu y biết nó dính đến chuyện hút xách. Thấy y bảo: “Chú cho anh một nhanh lên”. Thành Sái phá lên cười sằng sặc: “Có ngay. Em biết thể nào cũng có ngày đại ca sang tìm em vì món này. Đã lắm. Tội gì không hưởng. Anh em mình có mà tu… hú.”. Y túm cổ Thành Sái lắc mạnh: “Thánh họ mày, đưa thuốc đây, nhanh lên.”. Gã kia thấy y đổi tính sợ quá. Cầm vội vê thuốc, y vứt trả tờ bạc năm nghìn, rồi chạy về cho con bé uống. Chẳng ngờ chỉ một lát, con bé đang nằm thiêm thiếp bỗng lên cơn vật vã, chân tay líu ríu. “Con ơi!”, y hét ầm lên, rồi cứ thế bế thốc nó chạy đến bệnh viện. Từ nhà y đến bệnh viện chỉ cách có dãy phố. Đưa bé Thơm vào phòng cấp cứu, y lại chạy lộn về nhà, chẳng biết để làm gì. Vừa lúc đó một gã to béo phương phi dắt chiếc xe máy mới khựng đến, tay chỉ vào lốp xe bẹp gí… “Ê, vá nhanh lên!”. Y nhắm mắt lại. “Trời ơi, con tôi, Thơm ơi…”. Y mở mắt, cái xe choáng lộn và một bàn tay múp míp đầy nhẫn vàng chóe. “Vá đi nhanh lên vội lắm.”. Y rùng rùng người. Thế là hết, con tôi. Nó đã lên cơn co giật, ai vá lại cuộc đời cho nó. Trời đất sụp đổ dưới chân y. Y với được chiếc búa, tiện tay đập một phát vỡ choang cửa kính hòm đồ. Y sấn đến bên chiếc xe máy vung búa. May gã to béo thấy y đập tủ, hết hồn, kịp nổ máy bất chấp lốp xịt phóng bạt tử thoát được. Y với bình rượu thuốc làm một chập. Trong trạng thái đờ đẫn, y khất khưởng đến bệnh viện, vừa đi, vừa gào thét.

*

*    *

“Trả con cho ta đây!”, mơ đến đấy thì y choàng tỉnh, vì có người gọi dậy. Y dụi dụi mắt, giật mình vì thấy lố nhố áo blu trắng. Y nhắm mắt lại. Hết thật rồi! Một nữ y tá có tuổi vỗ vào vai y: “Anh có phải là bố cháu bé không? Đã mấy chục năm làm ở bệnh viện này, tôi chưa thấy một người bố nào vô trách nhiệm như anh. Vào đi, vào với con đi, nó gọi đấy!”. Y bật ngay dậy. Vậy là nó đã được cứu sống. Thấy y, con bé chớp chớp mắt mệt nhọc: “Bố Thiện đi đâu, con gọi mãi”. Y không nói được lời nào. Từ phía cửa, một người thiếu phụ ào đến. Giọng con bé yếu ớt, run rẩy: “Mẹ ơi!”. Hai mẹ con áp mặt vào nhau mãi. Rồi thiếu phụ ngẩng lên nhìn y, mắt ngấn nước. Đó là một khuôn mặt đàn bà lần đầu tiên trong đời y gặp. Chiếc khăn choàng mặt thường ngày giờ xõa xuống ôm lấy hai bên bờ vai tròn trặn. Y nhìn người đàn bà, rồi nhìn sang đứa trẻ. Y chẳng nghĩ được điều gì, chỉ thấy lòng rưng rưng, chỉ thấy nghẹn ngào, từ lồng ngực một cái gì đó dâng lên, dâng mãi. Từ từ, khóe mắt y tràn ra những giọt nước mắt trong suốt, long lanh.

Y khóc.

Hõm nước cây si

Chùm 3 truyện ngắn Chạy trốn, Khoảnh khắc, Hõm nước cây si, tuy có cùng một nhân vật Hoán nhưng thực ra là những truyện ngắn độc lập. Khi in ra cách đây 20 năm, số phận của chúng cũng khác nhau. Mãi sau này tác giả mới tập hợp lại chúng trong cùng một tập truyện. Cảm ơn những ai đã quan tâm!

Cây si bến nước thường là nơi sản sinh ra những huyền thoại. Ở bến sông làng Kiện, dưới gốc cây si già đại thụ có ông lão sống một cuộc đời thực còn lạ kỳ hơn cả huyền thoại. Ấy là ông lão Miến. Tóc trắng như cước, đã ngoại bảy mươi cơ bắp vẫn săn như gân si. Quanh năm suốt tháng, trời hè nóng nực hay tiết đông căm căm, trên người ông lão chỉ bận mỗi bộ quần áo màu đen phênh phếch đầy dầu dãi và tang tóc. Suốt bốn mươi năm nay, ông lấy gốc si làm nhà. Ông sống cách biệt với mọi người. Không làng xóm, họ hàng, bất chấp mọi biến cố. Ông lão khoanh mình trong một vương quốc riêng biệt chỉ có túp lều dưới gốc si già và hõm sông xoáy suốt bốn mùa mang màu nước ngầu ngầu đục đỏ. Hõm sâu ấy có cái tên gọi kỳ cục là Hõm Ma Tươi.

Dân làng Kiện chẳng ai có thể xâm nhập vào nổi vương quốc của ông, ngoại trừ những lần tiếp xúc với ông qua cái bễ lò rèn. Nghề rèn là nguồn sinh nhai thường nhật của ông lão. Suốt bốn mươi năm nay, dân làng Kiện lớp này, lớp khác, trong bất kể một cuộc vui hoặc buồn, người ta phễu phão đủ mọi thứ chuyện về ông. Ông sống một mình cô độc như cây si cô độc ở bến sông. Ngần ấy thời gian đằng đẵng, ông sống âm thầm, thậm chí chẳng hé răng nói với ai lấy một lời. Mọi giao tiếp của ông với xung quanh, ngoài cặp mắt còn tinh anh nhưng hết sức lạnh lẽo là cái bảng giá được gắn cố định trên thân cây si đề rõ giá cả từng hạng mục công việc của nghề rèn. Ngay đến giá cả cũng hết sức kỳ cục. Nó được giữ nguyên chỉ thay đổi sau những lần đổi tiền của nhà nước và rẻ đến độ bèo bọt. Người làng Kiện trừ máy móc hoặc dụng cụ tinh xảo, còn thì đồ sắt thủ công đều phải nhờ vả qua tay búa và bễ của ông. Ông lão Miến như một thứ nhân công rẻ mạt nhất của hợp tác làng Kiện. Ông cũng chỉ làm cho người làng. Lớp người làng sau này đều nhất loạt bảo ông là một gã cuồng nhân lẩn thẩn. Có người bảo: “Ông ấy làm mà không cần tiền, hẳn kiếp trước phải è lưng trả nợ. Âu cũng là luật công bằng của tạo hóa.”. Chỉ còn những người cùng trang với ông lão Miến là hiểu phần nào. Số ấy bây giờ cũng đã rơi rụng về với thiên cổ gần hết, chỉ còn lại rất ít đủ đếm trên đầu ngón tay. Có ái ngại họ cũng chỉ còn biết chép miệng ngẫm ngợi: “Thôi thôi, cũng một kiếp người…”.

Rất nhiều chuyện được thêu dệt xung quanh cuộc sống quái dị của ông lão Miến. Nhiều người kể rằng, cứ tối tối sau một ngày làm việc cật lực, ông lại trầm mình xuống Hõm Ma Tươi, mò mẫm, tìm kiếm cái gì đấy rất lâu. Sau đó ông ngồi khấn cũng rất lâu trong lều. Có người tò mò cất công rình ngóng, quả quyết rằng: Ông ấy cầu khẩn các hồn ma vì ông ấy chết oan khuất. Còn nhiều chuyện khác nữa. Thế nhưng dân làng Kiện không lấy đó làm lạ. Cái gì trái lẽ, lâu dần cũng thành quen. Ngay cả đến bọn trẻ cũng dửng dưng trước sự tồn tại của ông lão. Ông như cái cây già thừa thãi của bến sông. Cuộc đời ông là vậy. Và chỉ có ông, duy nhất là ông mới lý giải nổi vì sao ông lại phải sống một cuộc đời như thế. Một cuộc đời đằng đẵng câm lặng.

*

*     *

Có lẽ cuộc đời ông lão Miến cứ như thế kéo đến ngày cuối cùng. Cũng chẳng sao, dân làng Kiện vốn sống đơn giản, những gì thuộc về ông, kể cả những bí ẩn mà chỉ mình ông gìn giữ, từ lâu đã không còn là điều bàn tán và lạ lẫm nữa rồi. Thế nhưng vào một ngày mùa đông của năm thứ bốn mươi trong quãng đời đơn độc sống với gốc cây si của ông lão Miến, lại xảy ra một điều bất ngờ khiến dân làng xầm xì mãi không thôi. Xầm xì là phải, ông lão, vợ con chết cả, họ hàng từ lâu coi như không còn, đã sống đơn côi một thời gian dài đến thế, giờ bỗng nhiên rước về ở đâu một gã trai phụ rèn lừng lững, khỏe mạnh, cặp mắt cũng đầm đẫn u buồn. Gã trai ấy tuổi ngoài bốn mươi, dáng vẻ từng trải. Một thứ từng trải chán chường. Sự kiện này nếu ở người khác thì rất bình thường nhưng với ông lão Miến thì dân làng coi hết sức hệ trọng và lạ lùng. Lạ chứ, vấn đề tạm trú, tạm vắng bây giờ không còn quá quan trọng nữa nhưng buộc lòng chính quyền xã vẫn phải cử cán bộ công an đến để xác minh người đàn ông mới nhập vào gia đình gốc si ấy. Giấy tờ của gã hợp lệ cả. Cũng chả đâu xa, người vùng này, ở bên kia sông cách có mấy chục phút chèo thuyền. Vì sao gã lại phiêu bạt đến gốc si? Chịu, gã lầm lì lắm, đố moi được tý gì ở gã. Còn vì sao ông lão Miến suốt mất chục năm nay đơn côi giờ lại dễ dàng tiếp nhận gã? Có hỏi sao trên trời cũng chịu. Hay là ông lão đốc chứng rồi? Có thể lắm. Chuyện về gã đàn ông lầm lì đến làm với ông Miến rộ lên được một chặp thì lụi hẳn. Làng Kiện xưa nay vẫn thế, chả có gì phiễu phão được lâu. Thế là phải, thời giờ còn để kiếm miếng đút miệng chứ.

Gã trai ấy tên là Hoán. Gã phiêu bạt lang thang đủ cả. Cứ nhìn nét mặt gã thì biết. Vốn cũng là người phiêu bạt, lại thêm nhiều năm sống tĩnh lặng nên cảm quan của ông lão Miến chính xác lắm. Chả thế mà ngay hôm đầu tiên, khi Hoán chỉ là cái xác mềm nhũn trước lều, ông lão đã mang máng đoán rằng đấy là một con người bất hạnh, đơn độc cần được cứu giúp và che chở. Ông đã không lầm. Hình như có một cái gì đó thuộc về số phận run rủi hai người đến với nhau. Ông dành sự chăm sóc đặc biệt cho Hoán. Trận cảm tối hôm ấy trong lúc Hoán rã rời tuyệt đối cả về tinh thần lẫn thể xác đã quật Hoán nằm liệt chiếu đến tuần lễ. Cũng may là Hoán còn lết được đến gốc si mới bất tỉnh, chứ không sự thể sẽ thế nào chỉ có trời mới biết. Mở mắt trong lần tỉnh đầu tiên, thấy dung nhan của ông lão tóc trắng, Hoán đã hoảng hốt tưởng rằng ông lão ấy không phải là con người cõi trần tục. Một thế giới khác rồi và thế là xong. Sự hoảng hốt qua đi để thoảng đến một niềm sung sướng nhẹ nhàng. Thế là xong tất cả, chấm dứt mọi khổ đau, u buồn, đày dọa, mọi dằn vặt, vấn vương. Nhưng không, trí óc con người dù ốm yếu vẫn là những sản phẩm siêu việt, Hoán lập tức nhận biết rằng, Hoán vẫn tồn tại trên cõi đời này… Hoán cựa mình trong cơn mê man. Hơi nước của tiết đông phả thành những bụm khói mù mịt tạo cảm giác ấm áp. Con sông này Hoán tắm từ tấm bé. Gần lắm rồi, quê hương. Hoán đã bỏ nhà đi ngót chục năm trời. Ký ức như một cuốn phim lướt nhanh trong trí tưởng tượng. Người mẹ già đã quá cố – Cô bạn gái hàng xóm – Người vợ cũ phản bội, kẻ đã đẩy Hoán chơi vơi mãi trong những tháng năm cùng cực – Thời thơ ấu – Quãng thời gian ở chiến trường – Rồi người đồng đội cũ. Chính Sơn đã đưa Hoán đến bờ biển rét mướt nọ. Vẫn biết mình hèn kém nhưng khoảnh khắc cuối cùng ấy, Hoán đã quyết định ở lại, Hoán không thể rời bỏ cực nhọc này, để liều lĩnh dấn thân vào cực nhọc vô biên khác mà Hoán chưa từng biết nhưng đã cảm nhận rõ ràng. Sau đêm ấy Hoán lại tiếp tục cuộc hành trình lang thang không định hướng. Như có một cái gì đó vô hình, cứ dẫn dắt Hoán ngày một lại gần hơn về nơi chôn nhau, cắt rốn. Gần hơn để rồi cứ mỗi ngày Hoán lại thảng thốt: Không, không thể về với xóm làng bằng hình hài khốn khổ và thứ hành trang lầm lỗi, tuyệt vọng này được. Nơi ấy đã sinh ra cho Hoán bao nhiêu điều tốt lành. Cứ thế, Hoán quanh quẩn và trận cảm đột ngột táp Hoán đến gốc si.

Phải đến mươi ngày sau Hoán mới tạm bình phục. Hoán nhìn ông già lạ lẫm, đầy biết ơn. Túp lều hoang sơ nhưng Hoán thấy có một cái gì đó rất gần gũi và quen thuộc. “Hãy ở lại đây với ta con ạ – Ông Miến bảo – Rồi sẽ tìm thấy điều mà con đang băn khoăn. Con trẻ dại và khờ khạo quá.”. Ông lão bỗng rưng rưng. Ông trìu mến nhìn gã trai đang ngơ ngác. Con trai của ta, nếu còn nó cũng bằng ngần này đấy con ơi…

*

*     *

Có một thời, ông lão Miến lẩn thẩn bây giờ từng là người danh giá nhất làng Kiện. Xa xưa lắm rồi, trước cả cái ngày ông về làm bạn với gốc si để bắt đầu một quãng đời bốn mươi năm đơn độc. Ngày ấy, anh Cai Miến còn được trọng vọng hơn cả đám chức sắc trong làng. Dân làng Kiện vốn nghèo, kiếm đâu ra được bạc tiền ở cái làng được lập trên khoảnh đất bồi quèn quèn chó ỉa ven sông này. Chủ nhân của cái làng nhỏ nhoi nghèo khó ấy rặt toàn là những hạng cùng đinh, dở sống, dở chết, hết phương làm ăn đành liều mạng cò kéo nhau về đây lập xóm, lập làng trên mảnh bãi hoang. Thôi thì tặc lưỡi lá rách đùm nhau cho qua ngày đoạn tháng. Cũng vì thế mà làng Kiện hèn kém, thua thiệt thiên hạ đủ mọi bề. Trai làng Kiện không thể lấy được gái bốn phương. Gái làng Kiện xinh đẹp đến mấy rời khỏi làng cũng chỉ chấp nhận phận thiếp thê hèn mọn bởi của nả hồi môn chả có. Tựu trung cũng chỉ vì làng nghèo. Nghèo đến nỗi mùa trống giong cờ mở, tầm sưu thúc thuế, làng Kiện được các loại quan lớn bé đặc cách bỏ qua. Tận cùng đến thế thì thôi, quan đã chê là đủ biết. Nghèo khó kéo theo hèn kém, dốt nát. Ăn chả đủ, chạy ăn hột thọt lên cổ không xong lấy đâu ra mà vọc vạch chữ nghĩa. Làng Kiện trải mấy đời lúc phình ra, dân cư đã ngót nghét ngàn xuất đinh, giật gấu, vá vai lập được đình làng vẫn không kiếm nổi một người biết gõ đầu trẻ. Nhục thế, đến mấu trên như lý trưởng tay lăm lăm triện đồng mà một chữ bẻ đôi không biết. Cả làng bói chả ra một người có máu mặt khả dĩ đua tranh được với thiên hạ. Vậy mà toạch một cái, anh cu Miến con nhà mõ Dong bỏ nhà đi kiếm ăn từ lúc còn để chỏm mười ba mười bốn, hơn chục năm sau bỗng lù lù trở về. Người cao to lừng lững, quần áo Tây là sắc cạnh, mặt mũi béo tốt phương phi đi đến đâu thơm lựng đến đấy. Đã thế chữ Tây, chữ Tàu đủ cả, nói gì cũng vanh vách. Thật là vinh quang cho làng Kiện.

Thoạt đầu, anh cu Miến bước từ trên xe ngựa xuống, người làng chả ai nhận nổi. Có những mấy người phu xe khuân lỉnh kỉnh va ly túi bọc. Dân làng từ người lớn đến trẻ con trố mắt nhìn. Người làng Kiện xưa nay cũng khối người đi đi, về về. Nhưng là loại cò hôi đi tha phương cầu thực, kiếm ăn lúc mùa màng thất bát, khấm khá lắm cũng chỉ đủ tay gậy, tay bị là cùng. Đằng này, ối giời ơi, mãi đến lúc anh cu Miến vanh vách đọc tên chào từng người thì dân làng nhất loạt ớ ra. Bỏ mẹ rồi, nhà mõ Dong mả táng hàm rồng gặp đại phúc. Phúc thật, đang đói lồi cả mắt. Mọi người nước miếng nuốt ừng ực. Ngay cả đến mõ Dong, mắt đánh mấy vành kèm nha, kèm nhèm, nhận ra con vẫn còn run lẩy bẩy, không dám tin là thật. Cu Miến về lúc chiều, chả lâu la gì chỉ đến sâm sẩm tối là cả làng Kiện thực sự vào ngày hội. Nhà mõ Dong vốn nghèo nhất làng. Nhà cửa xiêu vẹo, mục nát, hôi hám. Loáng cái đã sạch sẽ tinh tươm. Trẻ con trong làng đến xem chật ngõ. Đứa vét nhất cũng được mân mê trên tay cái kẹo giấy chữ loằng ngoằng, xanh xanh, đỏ đỏ. Thuốc lá Tây phả mùi khen khét. Mõ Dong xúng xính bộ cánh lụa mỡ gà mới khựng, guốc gỗ lộc cộc, khua khoắng mời mọc hết chòm trên xóm dưới. Tiền vào có khác, con lợn tạ nhà lý Trình đang được vỗ béo chờ Tết, bỗng chốc thủ lìa khỏi cổ, nằm chễm trệ trên mâm xôi, nghi ngút. Vườn nhà mõ Dong rải chật chiếu. Có dễ phải đến vài bốn chục mâm. Đèn bão treo lủng liểng, toàn đèn của các vị có máu mặt trong làng mang đến góp sáng. Sang thật. Giữa nền cái nhà vừa bị phá bằng địa, xếp một mâm chiếu trên. Mõ Dong ngất nghểu ngồi ngang hàng với lý Trình và ba bốn vị thuộc loại dân hạng nhất của làng. Bữa tiệc trùng phùng cu Miến khao làng hôm ấy kéo dài đến tận gần sáng. Mười lăm ngày sau, cu Miến đã dựng cho bố một nếp nhà gỗ ba gian, mái lợp ngói ta cẩn thận. Các đồ này, Miến tung tiền mua ở dưới tỉnh, chở ào ạt một buổi là xong. Thợ thuyền tấp nập khí thế bằng mấy đận làng cất đình. Mõ Dong bây giờ đã là Hương Dong, có suất trên ở chiếu đình. Một bước lên ông. Sướng thật. Quả là các cụ dạy không sai: “Con hơn cha, nhà có phúc”. Chỉ tiếc nhà mõ Dong giờ phiêu bạt tan tác hết cả, chỉ còn trơ khắc trụi lụi mỗi mình. Đại phước hưởng một mình cũng chán. Cái hôm Cai Miến sắp trở ra Hà Nội, Hương Dong đánh bạo hỏi: “Mày đi là nghiệp của mày. Nhưng phận làm con phải báo. Kiếm cho tao đứa cháu bế bồng.”. Miến gật gù: “Thầy bảo làng kiếm cho tôi một đứa. Nhưng phải sạch mắt.”. Cu Miến bấy giờ oai nhất làng. Tiền của như nước, đã thế còn danh giá chữ nghĩa đầy mình. Xoàng đâu, Miến là Cai lại là Cai nhà đèn mới oách. Tiền của đấy, nghề nghiệp ấy có ở Hà Nội đã sang trọng đủ bề, huống hồ ở làng. Gì chứ chuyện lấy vợ thì dễ ợt, tặc lưỡi là xong. Đám hỏi, đám cưới được tổ chức liền một ngày sau đó. Làng lại được một chầu phè phỡn. Dâu của Hương Dong tuổi vừa đôi tám, cũng con nhà hạng cùng đinh nhưng da trắng bóc, đẹp nhất làng. Cưới được mười ngày Cai Miến ngược ra Hà Nội.

Miến là Cai nhà đèn thật, chẳng phải cậy tiền phiệu phạo bịp đám dân quê. Đời thì dài mà kể thì ngắn. Chỉ biết trước khi thành cai như bây giờ, Miến phải trải qua một quãng đời khủng khiếp. Bỏ nhà đi từ lúc mười bốn, mười ba, Miến lang thang vất vưởng hơn chục năm trời khắp các đầu đường xó chợ. Đủ mọi nghề: ăn xin, ăn cắp, bán báo, đánh giầy, phu hồ, quét chợ, phu xe, phụ rèn. Nghề rèn Miến làm lâu nhất tít ở một chợ tỉnh mạn ngược. Tiền công ngày ba bữa rơm rèn. Lúc ấy Miến đã là một trai tráng vạm vỡ. Có một dịp may đến. Vợ chồng nhà thầu khoán nọ giàu có lắm ở Hà Nội nhân một chuyến công cán lên mạn ngược, cũng vô tình thôi nhìn thấy Miến đang quai búa. Miến khỏe mạnh, mặt mũi sáng sủa, lọt vào mắt vợ chồng nhà thầu khoán. Dò dẫm biết được gốc tích Miến, họ bèn bỏ vài chục bạc ra mua Miến. Rẻ chán. Lúc đầu cũng định dùng Miến làm đầy tớ sai phái phục dịch. Sau thấy Miến xốc vác việc nhà, lại hiền lành, ngoan ngoãn, tư chất cũng có phần thông minh bèn chuyển ý nhận làm con nuôi. Vợ chồng nhà ấy như  đôi đũa lệch. Chồng già yếu hom hem, sáu mươi mà cứ như bảy mươi, bảy mốt, vợ trẻ hơn, ngoài năm mươi nhưng vẫn còn hừng hực xuân sắc, khổ nỗi họ không có người nối dõi. Thế là anh cu Miến vớ bở. Bỗng chốc từ phận tôi tớ vọt thành công tử. Về chuyện này cũng là do Miến khôn ngoan, cưa sừng làm nghé, chứ ngần ấy năm phiêu bạt bụi đời kiếm đâu ra nữa tử tế mà ngoan ngoãn. Miến được học chữ, học nghề. Nhà thầu khoán giàu có xếp cho Miến một cái chân cai tập sự ở nhà đèn. Nghề điện chả cứ bây giờ, từ ngày xưa đã béo bở chán. Có tiền lại được chiều chuộng Miến bắt đầu tập tạch bàn đèn, con hát. Dấn vốn kha khá, lại được bố mẹ nuôi chu cấp, Miến bèn về thăm làng, làm nhà, mua chức sắc cho bố. Tiện dịp lại lấy vợ. Chả phải vì hiếu thảo để có người phụng dưỡng cha già hay vì tính đường nối dòng, nối dõi. Ngoài này Miến thiếu gì gái đẹp, đẻ bao nhiêu con mà chả được. Chẳng qua trong cơn chuếch choáng của cơn say vì được dân làng trọng vọng, Miến ngông lên lấy cho vui thế thôi. Vợ Miến đẻ con trai, Hương Dong mừng lắm, còn Miến thì dửng dưng như không. Đã bảo con cái là nghĩa lý quái gì, gửi về ít tiền là xong. Miến từ bé khổ nhục giờ thoát khỏi bùn đen, sung sướng phải hưởng đã. Năm con trai Miến được hai tuổi thì tai họa nối tiếp tai họa ập đến. Đầu tiên là cái chết của hương Dong. Từ ngày có tiền hương Dong sinh ra nghiện rượu. Nghiện nặng. Như người chết khát, rời mồm rượu là khát. Khát đến cháy ruột, cháy gan. Rượu tì tì. Một hôm hương Dong say quá, phải cảm chết đột tử. Thế mới biết đồng tiền báo hại chơi trò hai mặt. Những kẻ khốn khó vớ bẫm, đồng tiền càng nhiều báo hại. Sau này khi vỡ chuyện, dân làng Kiện bảo đó là do ông Trời quả báo. Chị Na, vợ Miến đánh dây thép mấy lần không thấy chồng về. Chôn cất bố xong, sốt ruột quá, liều mạng bồng con lóp ngóp ra Hà Nội. Miến có nhận được tin bố mất nhưng về làm sao được. Địa vị ông chủ bận rộn lắm chứ. Cả sản nghiệp của vợ chồng nhà thầu khoán bây giờ rơi vào tay mình Miến. Đầu đũa thế này: Bà vợ thầu khoán, chồng ốm yếu hom hem, lại đang tuổi hồi xuân. Hồi thế thôi chứ vốn dĩ bà là người đoan chính, tử tế chẳng bao giờ vương vấn chuyện lăng nhăng. Miến chẳng biết vô tình hay hữu ý cứ phô cái thân thể cường tráng như trêu ngươi bà. Không cầm lòng được, một hôm chồng đi vắng, bà mò vào với Miến. Con người vốn gốc gác là cầm thú nên nhiều khi bị tính thú lấn lướt. Thì quan hệ thế chả thú vật là gì. Cuộc loạn luân khốn nạn được ít lâu thì bại lộ. Thấy vợ bỗng đẹp phây phây, nói cười hơn hớn ông chồng sinh nghi liền dụng công rình rập bắt được quả tang. Thấy hai thân thể trần như nhộng quặp riết lấy nhau lăn lộn trên sập, máu ông sủi sùng sục. Phen này chúng mày chết, có chạy đằng trời. Bỗng ông há hốc mồm khi nhận ra kẻ gian phu lại chính là đứa con nuôi quý tử, người ông tự hào chọn làm thừa tự, đã di chúc, di chiếc đủ cả. Khốn nạn. Uất quá ông ú ớ miệng sùi bong bóng, cấm khẩu tức thời, ngã vật giãy đành đành như cá chép mắc lưới. Bà vợ nguyên dạng cầm thú chạy ra ôm chồng. Kịp làm sao được, ông đã tắt thở. Đã nói bà là người đoan chính chẳng may sa vào vòng lửa dục nên mắc lỗi. Quá đau xót bà điên dại, cứ thế không mảnh vải trên người chạy ra đường gào thét. Dân tình sau đó đồn đại rằng, nhà thầu khoán ốm yếu tiếc của giời, chơi trống bỏi, bởi quá sức nên bị trúng căn bệnh hiểm nghèo “hàn phong ngộ cảm”, bệnh lẽ ra chỉ bọn trai tơ mới mắc. Miến có thuê người đưa bà thầu khoán vào bệnh viện chạy chữa nhưng không cứu được. Tội nghiệp người giàu có thế, mà đến lúc chết vẫn không mảnh vải che thân. Nghiễm nhiên, Miến thành ông chủ kếch sù. Nhiều tiền Miến càng đàng điếm ăn chơi.

Hôm vợ Miến lọ mọ tìm đến nhà, đúng lúc Miến đang trong cơn hoan lạc. Bấm chuông mãi, chị Na mới thấy một ả phấn son lòe loẹt, áo quần xộc xệch, hở hang uể oải ra  mở cửa. Cũng lằng nhằng mãi ả mới chịu cho vào. Chị sững sờ người khi thấy huếch hoác giữa nhà mấy ả nằm tơ hớ, cả Miến trong cái đám ngổn ngang ấy. Đứa con hai tuổi rơi đến phịch, khóc ré. Chị không nói một lời nào, ôm con quày quả chạy ra bến, đáp xe lửa về làng. Ngay tối hôm ấy chị Na phóng lửa thiêu trụi ngôi nhà Miến làm, rồi ôm con trầm mình xuống sông. Có người làng đánh cá đêm nhìn thấy nhưng chịu không vớt được. Tin dữ đến, Miến về ngay, bỏ một món tiền lớn thuê người lặn, vớt tìm kiếm suốt dọc sông ra đến tận cửa bể mà không tìm thấy xác. Sự thể thành ra to tát, Miến đâm hối. Có là súc vật vào tình cảnh này cũng phải hối. Qua chín ngày đêm, vẫn chưa thấy kết quả. Hoàng hôn hôm thứ mười, Miến buồn nản và mệt mỏi tựa lưng vào gốc cây si nghỉ. Mặt trời đỏ thẫm từ từ lụi dần phía bên kia sông. Trong giây phút hấp hối cuối cùng nó cố hắt vung vãi những tàn nắng yếu ớt xuống mặt sông. Loang loáng một màu nước đỏ. Bỗng Miến thấy mặt nước trong hõm cây si động đậy, rồi hiện lên hai xác người. Miến lội ào xuống. Xác hai mẹ con được vớt lên. Tươi rói. Như không phải người chết. Càng như không phải người bị ngâm dưới nước đến mười ngày. Mắt của hai mẹ con mở bình thường nhìn Miến lạnh lẽo. Miến rú lên… Theo lệ làng người chết sông, vớt đâu chôn đấy. Xác hai mẹ con được chôn ngay cạnh gốc si. Thật lạ, từ hôm ấy cây si nước đang lặng tờ bỗng xoáy xiết và suốt bốn mùa ngầu ngầu đục đỏ. Dân làng từ đấy gọi là Hõm Ma Tươi.

*

*    *

Có một phép màu nhiệm nào đó đã giữ nguyên thi thể hai mẹ con người đàn bà xấu số để làm thức tỉnh những gì không cắt nghĩa được trong con người Cai Miến. Chôn cất vợ con xong, Cai Miến từ bỏ tất cả, làm nháo nhào một túp lều, khuân về một bộ nghề rèn và ở lì dưới gốc cây si từ đấy. Suốt bốn mươi năm với tâm trạng khắc khoải, ông kéo dài cuộc đời mình trong cô đơn và tĩnh lặng. Không phải để gột bớt lầm lỗi. Tội lỗi sao gột rửa được bằng thời gian và sự đầy đọa. Ăn năn bây giờ ích gì nữa. Tội ác ông gây ra chẳng bao giờ mong có thể rũ sạch được. Ông sống như là một sự trừng phạt. Phải, trừng phạt. Dân làng Kiện nói đúng. Cứ tối tối ông lại trầm mình xuống Hõm Ma Tươi. Không phải để tắm táp. Ông lặn ngụp hồi lâu trong đấy. Vợ con ông đã ngâm mình ở nơi này đến mười ngày. Đầu tiên vì quá đau đớn, ông như muốn chia sẻ và tìm kiếm niềm ân hận trong hõm nước xoáy xiết như thể hành động ấy làm vợi đi phần nào nỗi xót xa thân phận của những người xấu số. Dần dà theo thời gian, thói quen ấy thành nhu cầu cần thiết hàng ngày, không thể thiếu được như cơm ăn, áo mặc của ông lão. Cứ mỗi ngày vào buổi hoàng hôn, thời khắc mà bất chợt ông tìm gặp được vợ con, ông lại buông mình từ cội si xuống. Cứ thế dù là mùa hè nóng nực hay tiết đông căm căm, nước lạnh buốt tái tê. Ngâm mình hồi lâu ông lão lập cập bưng lên đặt trên bàn thờ hai bát nước sông. Ông chỉ cúng bằng thức ấy. Hương cháy đỏ, lập lòe là ông lão quỳ xuống chắp tay, ngước mắt chờ đợi. Thấp thoáng rồi hiện rõ hình ảnh vợ ông. Cô Na và đứa con hai tuổi. Mắt hai người nhìn ông lạnh buốt. Đã nhiều lần khẩn cầu song suốt bốn mươi năm nay tối tối hiện về, hai người vẫn chỉ lặng im nhìn ông. Họ gặp nhau mỗi tối trong đúng một tuần hương. Trong những giây phút ngắn ngủi ấy, ông ngước mắt bất động như một tín đồ thuần phục chờ đợi sự phán xét. Mắt ông chan chứa, vừa xót xa, vừa ân hận, nhục nhằn và van xin khẩn thiết. Cứ thế ông lão chờ đợi sự giải thoát từ những cặp mắt không hề oán trách, không hề căm hờn chỉ lạnh lẽo băng giá kia. Đằng đẵng vẫn chỉ là những cặp mắt lạnh lẽo. Vì thế ông câm lặng. Ông không được sử dụng cái quyền đơn giản nhưng tối thượng nhất của của loài người là tiếng nói. Trong bốn mươi năm cho đến nay ngày gặp Hoán chỉ có hai lần vì hoàn cảnh bắt buộc ông đành mở miệng. Lần thứ nhất sau hòa bình năm tư vào dịp cải cách, chính quyền gọi ông về trụ sở lục vấn về thời gian làm cai bóc lột. Lúc ấy ông đã ở gốc si được dăm năm. Ông im lặng gần hết một ngày. Vì tội ngoan cố không chịu mở miệng cung khai, suýt nữa ông bị giải lên huyện tập trung cải tạo. Rất may, dân làng Kiện đứng ra bảo lãnh cho ông. Làng Kiện trong kháng chiến không phải làng tề, nên tiếng nói của dân có nhiều trọng lượng. Mọi người bảo: “Làm cai chắc chắn là có bóc lột. Đã là bóc lột có đem bắn cũng đáng. Song hãy tha cho ông ấy. Vợ con chết oan khuất, ông ấy đang sống dở, chết dở. Nhục hơn cả chết.”. Ấy là dân Kiện tử tế, nghĩ đến đoạn hối lỗi về sau của ông nên làm phúc. Cũng trong lần ấy uỷ ban xã bắt ông phải rời gốc si để về làng sinh sống tập thể. Cực chẳng đã ông Miến đành phải nói run rẩy: “Xin hãy cho tôi được ở gốc si để đắp điếm phần mộ cho mẹ con cô ấy. Nếu phải rời đi, cầm bằng phận tôi đã hết.”. Dân làng Kiện lại xúm vào xin hộ: “Cái lò rèn của ông ấy coi như là đóng góp tập thể.”. Mà cũng đúng thế, ông làm cật lực cũng chỉ lấy đủ ngày bơ gạo, mớ rau. Mọi việc lần ấy xong xuôi cả.

Lần thứ hai, đang lúc chiến tranh bom đạn ùng oàng. Một tối ông đang thắp hương thì có một người đàn bà góa mò đến. Có lẽ chị ta không chịu nổi cảnh một mình đơn chiếc, hoặc giả quá mê mẩn người đàn ông kỳ dị, gần tuổi năm mươi vẫn tràn trề sức lực. Ông Miến đang trong lúc gặp vợ con mặc kệ chị ta lầm bầm bày tỏ. Nói một mình chán, chị ta sấn đến ôm chầm lấy ông vật ngã. Sức lực của người đàn bà nạ dòng mạnh đến không ngờ. Lồm cồm ngồi dậy, mắt vẫn ngước lên ban thờ, ông chỉ tay ra hai ngôi mộ ngoài cửa, nói thật khẽ: “Hãy vì hai con người bất hạnh nằm kia, xin để tôi yên.”. Người đàn bà bẽ quá lủi mất. Chỉ có thế, vẻn vẹn trong bốn mươi năm ông cất tiếng nói với người ngoài đúng có hai lần.

Còn lần gặp Hoán. Sau khi vất vả đưa được Hoán vào lều. Thấy tình cảnh Hoán ông ái ngại quá. Tối hôm ấy trong buổi thắp hương thường nhật, khi hương đã gần tàn ông vẫn cố vớt vát: “Na ơi, xin em hãy nán lại tý chút để anh nói đôi lời. Thằng bé ấy như con của chúng mình, cũng tuổi ấy. Nó cần được  cứu giúp và che chở. Hãy trả lời anh đi, có bằng lòng không, Na ơi?” ông ngước mắt chờ đợi. Sự chờ đợi của ông đã được đền đáp. Khóe mắt người đàn bà bất hạnh từ từ lăn xuống những giọt nước trong vắt. Ông hiểu vợ ông đã bằng lòng. Lần đầu tiên trong suốt bốn mươi năm, ông lão Miến đã tự mỉm cười.

*

*     *

Ông lão Miến bây giờ không câm lặng nữa. Ông đã nói lại bình thường. Sự lạ ấy dân làng Kiện nhanh chóng quên đi. Từ ngày có Hoán, lò rèn của ông trở nên tấp nập suốt ngày bếp than hồng rực, búa đánh chí chát. Bây giờ không chỉ dân làng Kiện, khách trong vùng đã dập dìu kéo đến rèn dao, đánh cuốc. Tài nghệ của ông lão Miến lâu nay đã lan truyền, ngặt vì ông chỉ làm cho làng Kiện nên mọi người đành chịu. Bỗng dưng ông lão đổi nết, khách được dịp đến nườm nượp. Đông lắm, hai thầy trò làm cật lực cũng không xuể việc. Hợp tác làng Kiện phải cử hẳn một kế toán viên đến trực tiếp làm việc giao dịch và thu tiền. Đã bảo, ông lão và Hoán bây giờ nữa chỉ cần bữa kiếm đủ bơ gạo, mớ rau là thôi.

Trong số khách hàng thường xuyên lui đến trở thành quen thân với thầy trò ông lão Miến có một cặp vợ chồng thuyền chài. Người khách cao tuổi chỉ kém ông Miến chút ít, thường cặp thuyền vào Hõm Ma Tươi để lên bờ thăm thú. Chị vợ ở dưới thuyền. Thấy bảo còn trẻ lắm, ngượng vì chồng già nên ít khi rời thuyền lên bờ.

Hoán cặm cụi làm suốt ngày và vẫn lầm lì, như cũ. Hoán bây giờ lòng có ấm áp đôi chút song nỗi buồn vẫn không nguôi. Thực tình cảm cái ơn cứu mạng của ông lão Miến thì Hoán ở lại, chứ còn mọi thứ tất tật với Hoán vẫn là vô nghĩa. Hoán chả thiết thứ gì, Hoán như con thú trọng thương, giờ nhìn cái gì cũng ra cạm bẫy, ngờ vực lánh xa mọi thứ. Về đây Hoán bỏ cả thói quen uống rượu. Ông lão Miến nghe nói ngày xưa khấm khá lắm mà giờ đây đạm bạc, uống chỉ rặt một tý nước sông. Vậy mà có một hôm bỗng dưng ông Miến bảo Hoán nghỉ hàng để tiếp cơm khách. Vẫn là người khách thuyền chài. Bữa ấy ông Miến uống thật say, cả người khách nữa. Hoán cũng thế. Trong chuếnh choáng của hơi men, Hoán linh cảm có một điều gì đó hệ trọng lắm sắp xảy ra. Linh cảm thế thôi chứ Hoán làm sao biết được.

*

*    *

Người đàn bà ít rời thuyền lên bờ chính là Mít, người bạn thiếu thời của Hoán, người đã từng vò võ chờ Hoán suốt những năm tháng chiến tranh để rồi hoàn toàn tuyệt vọng khi Hoán chiến thắng trở về với một người đàn bà khác. Mít không trách Hoán. Ngày ấy Hoán có hẹn hò gì với Mít đâu mà trách. Mít cũng chỉ tuyệt vọng. Sự đổ vỡ niềm tin của những người có tấm lòng son sắt bao giờ cũng khủng khiếp. Sau khi Hoán cưới Lài, Mít đóng cửa khóc ròng rã một ngày cho kỳ hết nước mắt. Rồi Mít bơi ra giữa sông. Mít đã có chủ định, ở đấy có chiếc thuyền con đánh cá của người đàn ông góa vợ làng bên. Chính là người khách rượu của ông lão Miến và Hoán. Ông tên là Côi. Mắt ráo hoảnh, Mít bảo: “Bác ơi, cháu là một người mất hết mọi thứ, không thể ở làng được nữa. Bác hãy cứu cháu. Lấy cháu làm vợ.”. Người đàn ông góa vợ tròn mắt: “Cháu nói gì lạ vậy. Bác già rồi mà cháu còn trẻ thế. Đừng uổng phí đời mình cháu ạ.”. Mít buông tay chìm dần xuống nước. Ông Côi hoảng hốt: “Đừng đừng… cháu hãy về đi, nghĩ thật kỹ, tuần sau ra đây.”. Là nói thế, ông Côi muốn Mít tĩnh trí nghĩ lại. Thật tội cho cô bé đáng thương. Ông hơn Mít những hai chục tuổi. Mà ông thì đã là người tàn phế. Chẳng phải ông góa vợ. Vợ ông bỏ đi chỉ vì ông không có khả năng giúp bà sinh đẻ. Mà bà thì muốn có con. Người phụ nữ ai chẳng muốn có con. Một trận cảm tai ác đã làm ông không còn là đàn ông nữa.

Tuần sau y hẹn Mít lại quay ra. Khuyên nhủ mãi không được. Sợ Mít liều, ông Côi đành phải chấp nhận. Bên ngoài là vợ chồng, bên trong họ sống với nhau bằng tình phụ tử. Mít đã quên đi mối tình của mình bằng cách chôn cuộc đời vào con thuyền và sông nước. Thấm thoắt đã hơn chục năm trời. Vào đúng lúc Mít đã an bài cuộc đời mình thì Hoán xuất hiện. Biết tình cảnh Hoán bị vợ phản bội phải sống vật vã lang thang, lòng Mít rung rinh. Rung rinh thế thôi chứ Mít khăng khăng không chịu  nghe lời cha nuôi để tìm Hoán. Mít không thể làm điều ấy khi mà xưa nay dân làng vẫn coi họ là đôi vợ chồng, tuy có chênh lệch nhưng sống với nhau hết mực hòa thuận. Đêm ấy ông Côi say rượu. Mít neo thuyền rồi dìu ông vào nhà. Mít cứ trằn trọc mãi. Hình ảnh Hoán chờn vờn, bất giác cô đưa tay lên vòng ngực trinh nữ rắn câng. Mít thiếp đi trong nỗi phập phồng đầy lo âu. Trong giấc ngủ chập chờn, cô mơ thấy tiếng của người cha tôn kính từ xa thẳm vọng về:

- Mít ạ, con hãy ngủ ngon. Ta không để lại cho con một lá thư vì đời ta chưa được học chữ bao giờ. Con ơi hãy tĩnh tâm mà suy xét. Con người không thể sống đơn độc, phải có lứa đôi. Ta đã chiêm nghiệm được điều ấy từ chính đau khổ của mình. Con hãy tìm đến với Hoán. Đừng vì ta nữa. Ta đi đây. Ta đã già rồi. Ta mang theo con thuyền sống chết cùng nó. Đừng trách ta con ạ. Ta chỉ mong con được hạnh phúc.

Mít bừng tỉnh. Cứ chân trần cô chạy ào ra bến sông. Không phải giấc mơ. Con thuyền đang từ từ rời bến. Cô chạy dọc theo mép sông gọi thổn thức: “Cha ơi…”. Trả lời cô là những tiếng vọng của mặt sông rền đầy gió. Gió và gió. Trời vằng vặc đầy sao.

*

*      *

Người làng Kiện đi đưa đám ma ông lão Miến rất đông. Xe chở cả xác của hai mẹ con cô Na về cải táng ở nghĩa địa làng. Hôm lão Miến đi nhanh lắm. Sau bữa rượu buổi chiều – Mặc dù say ông vẫn giữ nguyên nếp thường ngày. Khi những nén hương thắp lên ông Miến bỗng sửng sốt. Trước mắt ông bây giờ là một bà lão cùng một người đàn ông trạc tuổi Hoán. Bà lão bảo: “Mình không nhận ra con và tôi sao?” Ông Miến nghẹn ngào. Bà lão tiếp: “Thôi mình ạ. Tôi tha thứ cho mình!”. Ông Miến òa khóc. Đêm hôm ấy ông thức trắng bên hai ngôi mộ. Đến sáng ông gọi Hoán bảo:

- Ta chờ ngày này đã bốn mươi năm. Hôm nay là ngày cuối cùng. Bà ấy đã tha thứ cho ta. Vậy là linh hồn tội lỗi của ta đã được siêu thoát. Con hãy giúp ta sửa soạn. Còn con Hoán ơi, sau khi chôn cất ta xong con hãy quay trở về với Mít. Người bạn thuyền chài đã nói với ta tất cả và ông ấy đã giong buồm ra đi để các con được đoàn tụ. Hãy trở về với cô ấy. Trở về với quê hương của mình. Đừng dại dột nữa. Đời con đâu đến nỗi. Lỗi lầm của con so với tội ác của ta đã thấm thoắt gì. Hãy tin ta. Ta đã sống đến tột cùng tội ác và tột cùng ăn năn. Ta đã được tha thứ bởi ta đã trở về với gốc si và bến nước này. Ta đã mãn nguyện lắm rồi. Chỉ có trở về… Hãy nghe ta… trở về…

*

*     *

Huyền thoại về ông lão Miến đã kết thúc sau đám tang của ông. Mọi người chỉ thắc mắc rằng, ông lão Miến, con cháu chẳng có, ngoài gã phụ rèn tên là Hoán dân làng đã biết, hôm lễ đám mặc đồ tang tiễn thầy đã đành, còn xuất hiện một phụ nữ đứng tuổi, sô gai kín người, gục vào vai Hoán khóc thảm thiết. Có người bảo: “Đấy là hai vợ chồng.”. Cũng có người bảo: “Anh chồng bỏ đi phiêu bạt đã lâu giờ may mắn chị vợ tìm được.”. Có người lại nói: “Đấy là con gái riêng của ông Miến thất lạc. Mãi giờ tìm được bố. Ông Miến trước khi nhắm mắt đã tác thành cho con.”. Còn nhiều nữa, dẫu sao cũng chỉ là những lời phỏng đoán, đồn đại. Song có điều này là chính xác. Dân làng Kiện bây giờ muốn rèn rũa cái gì, phải vượt sông sang tận hợp tác xã cơ khí của làng Vực. Xa lắm, chất lượng lại tồi. Dân làng càng tiếc tay nghề tinh thông của ông lão Miến. Cây si bây giờ không có người ở, chim chóc về đầy ríu rít. Hõm Ma Tươi không còn xoáy xiết và ngầu bọt đục đỏ, nước đã trở lại trong xanh và hiền từ lặng lẽ. Trẻ con trong làng tụ tập dưới gốc si nghịch ngợm chán rồi rủ nhau ùm ùm, tắm táp ở hõm nước. Tối tối, nhiều đôi trai gái dập dìu tình tự lấy gốc si làm điểm hẹn. Từ đấy dân làng gọi bằng cái tên cũ: Hõm nước Cây si.

Khoảnh khắc

Không còn đủ sức để chạy nữa, Hoán chuếch choáng bước. Con đường nhựa thăm thẳm láng thứ ánh nắng vàng vọt, quái đản của mặt trời mùa đông rét mướt, hun hút nhấn từng bước chân chật chưỡng của Hoán. Suốt cả ngày nay, Hoán cứ như thế vừa chạy, vừa đi, lang thang vô định. Đi đâu? Hoán không biết nữa. Chỉ biết rằng Hoán đã bỏ lại phía sau một quãng đời. Ở đấy, hình bóng Lài – Người vợ với bao nhiêu yêu thương và hận thù một thời đã vĩnh viễn bị xóa nhòa. Liều thuốc đắng quên lãng, Hoán dùng nó để chạy trốn chính bản thân mình đã đẩy Hoán xuống tận đáy của sự khốn cùng. Ngót chục năm trời, nào ai có tù túng, giam hãm gì Hoán. Hay là nỗi tuyệt vọng, sự quạnh quẽ, cô độc của một người bị tước đoạt lòng tin, đã đẩy Hoán chơi vơi mãi trong cái bể mông lung của sự quên lãng. Thì cứ quên đi, cuộc chạy trốn không có kẻ săn đuổi.

Chập choạng tối, Hoán đi đến một cái ga xép. Nhà ga tồi tàn như một cái miếu thờ đã hết thời linh thiêng, chỉ lèo tèo vài hành khách nhỡ nhàng. Cảnh nhếch nhác của họ đưa Hoán trở về với thực tế. Trận rượu chiều qua và đêm truy hoan lầm lỗi với người vợ cũ phản bội, cộng thêm một ngày đường dở điên, dở dại đã vắt kiệt sức lực của Hoán. Hoán lê cái thân xác cồng kềnh trống rỗng ngồi nép sát hiên ga. Gió thổi, lạnh lẽo và rét mướt. Hoán run lên, răng đánh lập cập. Cái rét từ gió mùa chỉ làm da thịt Hoán tê tái, không tàn nhẫn bằng những đợt sóng run rẩy mỗi lúc phát ra một mạnh mẽ từ cái dạ dày lép kẹp. Hoán đói. Sao con người lại đa mang nhiều hiểm họa đến thế. Lạ lùng thay, vào lúc này, đáng lẽ mọi tinh lực còn lại của Hoán phải được huy động để được bấu víu vào – dù là tưởng tượng – một cái gì đó, khả dĩ tiêu hao phần nào cơn đói vật vã, thì Hoán lại phiêu diêu thả hồn mình vào trận lạc rừng đói khát gần hai mươi năm trước tại vùng Đa Quýt. Ở đấy Hoán gặp Lài, để rồi những bất hạnh ập xuống đời Hoán. Hỡi ôi, khoảng cách giữa hai lần đói là một quãng đời lầm lạc. Chỉ có con người tàn nhẫn với con người, tạo ra muôn vàn đau khổ. Hoán nghiến chặt răng. Nỗi căm giận của vết thương sau bao nhiêu đổ vỡ tưởng đã lành miệng bởi liều độc dược lãng quên, lại bật ra ứa máu. Mắt Hoán nhòa đi. Biết đi đâu, về đây bây giờ. Về làng ư? Hoán đã bỏ làng  xóm ra đi, Hoán không thể trở về với bộ dạng thảm hại như một kẻ hành khất thế này. Thà chết còn hơn. Ánh đèn pha ô tô quét ngang mặt đường làm lóe trong Hoán một dự định. Hoán bật dậy nhanh nhẹn đến không ngờ, nhao ra mặt đường. Chiếc xe vút qua để lại một khoảng đen đặc sẫm đến rợn người. Hoán bỗng bật cười. Thoảng đâu đó ngào ngạt mùi xào nấu thức ăn. Quầng sáng xanh lét của đèn măng sông dẫn Hoán đến một quán ăn chỉ có vài ba người khách đang xì xoạp, chan húp. Hoán dán mắt vào con gà treo lủng lẳng, mình nhoáng mỡ. Hoán lặng lẽ ngồi vào chiếc ghế trống ở góc nhà. Ngần ấy con mắt đổ dồn ra nhìn. Hoán sờ sẫm túi áo rồi túi quần. Túi rỗng không. Chủ quán, một gã đàn ông gầy guộc, đang băm chặt gì đấy, tay vẫn lăm lăm con dao phay to bản, tiến đến cách Hoán chừng một mét thì dừng lại. Mắt gã đảo suốt người Hoán. Bỗng gã rít lên:

- Con lạy ông. Ông có cút mẹ ông đi ngay không? Suốt cả ngày hàng ế ẩm, tối vẫn còn cháo ám. Đi ngay không bố mày cho một nhát bây giờ.

Hoán ngồi yên không nhúc nhích. Đám khách dáng chừng là dân lái xe đã ăn xong gọi chủ quán lại tính tiền. Một người giọng lè nhè: “Kệ nó!”. Đoạn y quay sang Hoán, tay chỉ vào bàn lổn nhổn xương xẩu lẫn thức ăn thừa: “Ê! đói hả? Vào đây, dọn sạch cũng đủ ấm cật đấy”. Hoán đứng phắt dậy. Cái đói bản năng không thể lấn át được nỗi nhục nhã lý trí. Trời ơi miếng ăn. Miếng ăn bẩn thỉu vì những đồng tiền bẩn thỉu. Như kẻ mộng du Hoán lùi lũi bước ra khỏi quán. Phải chi bây giờ Hoán có, dù chỉ là một ít tiền. Thinh không bỗng lòe sáng. Một vệt sao rời ngôi vút qua đêm. Tai họa lớn nhất trong mọi họa dành cho con người là  tiền.

*

*     *

Hoán gạt mạnh đám vỏ bia lon khỏi mặt bàn rồi bảo cô gái có bờ vai tròn lẳn, nãy giờ vẫn phục vụ  Hoán ăn uống lấy thêm rượu. Cô gái giọng nuột nà: “Còn bia mà anh.”. Hoán lắc tay. Bia Hoán chả thích. Uống ít chỉ thòm thèm, không đã. Uống nhiều vừa say lâu, vừa đái lắm. Quán ăn Hoán ngồi nằm tít trong hẻm ngõ. Sâu thế nhưng nó sang trọng và kín đáo. Từng đôi, từng đôi một vừa ăn uống vừa cớt nhả. Nãy giờ Hoán uống bia vì nể lời mời của cô phục vụ. Chẳng hiểu sao Hoán lại lạc vào ổ điếm trá hình này. Cả cái thành phố biển này nữa. Hoán không cắt nghĩa nổi. Đơn giản là Hoán đang sẵn tiền. Có tiền thích thì đi, đâu mà chẳng được. Sau cái lần đói nhục nhã đêm ấy, Hoán buộc phải thừa nhận một sự thực cay đắng: Lài bỏ Hoán vì tiền – Lẽ ấy đương nhiên Hoán đã biết – Chính vì thế mà bao lâu nay Hoán căm thù đồng tiền. Nhưng bọn người hạ nhục Hoán đã vô tình khơi dậy trong Hoán niềm khao khát mạnh mẽ phải có tiền. Vì sao? Hoán không cần lý giải. Hoán lộn trở lại cái làng ngoại ô, nơi Hoán đã náu ẩn suốt thời gian quên lãng cùng con lợn lai tội nghiệp. Hoán sang ông chủ đất năm xưa đã cưu mang Hoán. Chẳng vòng vo Hoán bảo: “Tôi đi, bác ạ. Cảm ơn bác đã bán cho tôi miếng đất. Bây giờ tôi cần tiền!”. Ông kia đáp: “Có gì đâu mà ơn huệ. Chuyện mua bán ấy mà. Anh đi tôi không giữ. Ta sòng phẳng. Tôi cũng đang cần nhà cho thằng út lấy vợ.”. Hoán bảo: “Thế là tốt cho cả hai.”. Ông kia hỏi: “Chú lấy bao nhiêu?”. Hoán đứng dậy: “Tuỳ bác!”. Mọi thủ tục mua bán diễn ra chóng vánh.

Cô gái điếm quàng tay qua vai Hoán bả lả: “Thôi không cần uống nữa anh nhé. Để sức còn…”. Từ sau lần gặp và được Lài trả nợ tình, nhất là khi đã bán nhà có tiền. Hoán sống lang thang, buông thả. Đôi khi quá đà, Hoán thấy ngường ngượng, nhưng rồi lại tặc lưỡi. Đời là thế. Chúng nó có yêu quý gì nhau đâu. Chẳng qua vì đồng tiền. Đấy, ngay cả Lài… Đã nghe rõ tiếng cô gái điếm. Hoán vẫn nhếch mép: “Còn cái gì nữa?”. Cô gái dứ dứ tay vào trán Hoán âu yếm: “Mặt này lại còn phải hỏi. Có mà ăn sống, nuốt tươi người ta…”. Hoán bia rượu đủ tầm đã bốc nhưng vẫn tỉnh táo, giọng lạnh tanh đến cay nghiệt: “Cô cần lắm à, phải trả bao nhiêu?”. Cô gái sững sờ. Chút nhân tính còn lại hiện lên khuôn mặt mới chỉ chừng mười tám đôi mươi của cô. Có lẽ vì hoàn cảnh, hay vì một ham hố dại dột nào đó đã quật cô ngã vào vũng bùn nhầy nhụa của sa đọa. Cũng vì thế mà chỉ một chút cỏn con nhân tính đã bốc gọn nỗi nhục nhã, để bày ra trọn vẹn niềm tự trọng con người. Cô dang tay tát thẳng vào mặt Hoán rồi òa khóc. Hoán chưa kịp phản ứng vì cái tát bất ngờ đã thấy vai bị ấn chặt bởi hai bàn tay rắn chắc. Có đến ba thằng thanh niên to lớn, nhâng nháo vây quanh Hoán. Chúng là vệ sĩ của quán. Một thằng gằn giọng: “Sao, định quậy à?”. Cú đấm mạnh bay tiếp theo nhằm giữa mặt Hoán. Hoán nảy người lên tránh. Cú đấm sạt qua cái túi căng phồng đựng tiền của Hoán làm bật mớ tiền giấy. Tiền rơi lả tả xuống nền nhà. Ba gã du côn ngây người trong giây lát rồi mắt chúng bừng sáng. Như hổ đói vồ mồi, chúng lao vào đống tiền. Sau một chuỗi bất ngờ, Hoán bừng tỉnh, lòng sục sôi căm giận. Căm giận tột độ là căm giận có hàm chứa niềm ghê tởm. Chúng mày nhặt gì đấy? Cả cuộc đời tao phải đánh đổi, để bây giờ chỉ còn lại những tờ giấy này. Chúng mày định cướp nốt sao? Gã lực điền – Một thời cày cuốc, từng là lính trinh sát, từng chỉ huy một đơn vị vào sinh, ra tử, phải chạy trốn cuộc đời chịu bao nhiêu tủi nhục, giờ đây uất hận dồn nén hét lên một tiếng man dại. Trong khoảnh khắc ba cây thịt đã quằn quại trên đống tiền. Những tờ giấy bạc, chốc lát nhuộm đỏ máu người. Hoán đứng dậy bất động. Khóe mắt Hoán từ từ đọng lại hai giọt nước tròn đục. Nước mắt của đàn ông hiếm hoi chỉ dành cho nỗi đau nhân tình. Chao ôi, sự sống là cái gì mà quyền lực gớm ghê, mãi mãi buộc con người nhục nhằn, tìm kiếm. Bây giờ, khi Hoán thoát ra được cảnh mịt mùng vô thức của kiếp sống quên lãng, trở về với cộng đồng bằng túi tiền phồng căng và niềm khao khát sống, những tưởng được đàng hoàng, nào ngờ một thực tế còn mù mờ hơn cả lúc trước. Có tiền, cần phải có tiền và Hoán đã có. Nhưng tiền để làm gì? Để làm cuộc viễn chinh kiếm tìm hạnh phúc? Khó khăn làm sao. Để hành hạ những kẻ khốn cùng như cô gái bán dâm hay những kẻ có cuộc đời lang thang, vô định như Hoán? Có tiền, Hoán vẫn thấy cô độc, vẫn thấy bọn người như Lanh và Lài cao xa vời vợi. Thậm chí Hoán còn tưởng tượng thấy chúng mỉm cười nhạo báng. Cuộc đời chua xót thật. Sống làm người mới khó làm sao.

Cả quán vẫn lặng như tờ. Có lẽ bọn khách hàng trụy lạc đã quá quen với cảnh này. Ba thằng du côn lồm cồm bò dậy, mắt vẫn lấm lét nhìn Hoán. Chỉ có một gã trung niên từ lâu ngồi một mình ở góc quán đứng lên. Gã cao lòng khòng. Da trắng nhưng là thứ trắng bợt bệnh hoạn của hạt gạo ngâm lâu dưới nước. Gã trân trối nhìn Hoán. Cái nhìn không giấu diếm sự ngưỡng mộ. Bỗng gã ào đến ôm chầm lấy Hoán: “Ơ kìa, đúng rồi anh Hoán”. Hoán dụi mắt. Sơn đấy ư? Bao nhiêu năm rồi, tao với mày mới gặp lại nhau.

*

*    *

Chiến tranh như một cơn lốc dữ dội, cuốn hút và kết tinh lại bao số phận con người. Sơn và Hoán cũng nằm trong cái quy luật ấy. Họ đã từng là đôi bạn thân thiết, gắn bó số phận mình với nhau. Sơn kém Hoán gần chục tuổi, thuộc thế hệ lính nhập ngũ sau giải phóng bảy nhăm. Sẽ chẳng có gì đặc biệt trong mối quan hệ ấy nếu như giữa hai người không có một kỷ niệm chảy bỏng, khảm sâu vào tâm linh mỗi người. Sau này kể quãng đời cùng cực nhất, khi mà Hoán cố tình quên đi tất cả, thì kỷ niệm ấy vào những lúc Hoán buồn bã nhất lại hiện về. Nó ám ảnh, thậm chí dằn vặt Hoán.

Đó là những ngày đầu của năm bảy tám, chiến tranh ở biên giới Tây Nam đã lan trên một quy mô lớn. Trung đội trinh sát do Hoán làm trung đội trưởng có nhiệm vụ tác chiến độc lập ở một thị trấn nhỏ cách tỉnh lị Hà Tiên có vài chục ki lô mét. Thị trấn kẹp sát đường biên. Suốt một tuần liền, trung đội của Hoán dằng dai với chừng một tiểu đoàn lính Pôn Pốt. Tiếng là thị trấn nhưng dân đã sơ tán hết cả. Các dãy phố bị trọng pháo 130 ly của địch chà đi, xát lại kỹ đến nỗi không còn một bức tường nào nguyên vẹn. Đến buổi chiều đầu tiên của tuần thứ hai, địch tăng cường quân, chặt đứt đường tiếp viện, vây chặt trung đội của Hoán. Nguy cơ bị tiêu diệt toàn bộ là không thể tránh khỏi. Trung đội Hoán gần như đã mất sức chiến đấu. Một nửa số chiến sĩ đã nằm xuống, lấy thị trấn vô danh làm quê hương vĩnh viễn. Cả thị trấn có mỗi một con lộ đi qua đã bị địch chốt chặt hai đầu. Từng đợt, từng đợt lính áo đen chân đất, nhung nhúc như ròi, liều mạng tiến công quyết chiếm bằng được thị trấn. Tình hình ác liệt, đòi hỏi phải có phương án chiến đấu thích hợp. Hoán chớp nhoáng hội ý các đảng viên. Một phương án được thống nhất. Toàn trung đội giữ vững trận địa đến tối sẽ chém vè xuống một con kênh, sau đó băng qua một khoảng sình rộng, rút ra hướng biển. Để  đơn vị rút lui an toàn cần phải có một người trang bị bị hỏa lực mạnh ở lại nghi binh thu hút địch. Không còn cách nào khác, lợi dụng lúc địch nghỉ tấn công, Hoán họp toàn đơn vị phổ biến nhiệm vụ. Ai sẽ là người người ở lại? Không còn nhiều thời gian, Hoán gằn giọng: “Lấy  tinh thần xung phong. Các đồng chí đảng viên, đoàn viên…”. Tiếng nói của Hoán, chìm sâu trong một bầu không khí lặng lẽ phủ đầy chết chóc. Hình ảnh Lài, người vợ Hoán mới cưới đợt phép vừa rồi, thoảng qua nhanh. Hoán nói tiếp: “Nhân danh chỉ huy đơn vị, tôi chỉ định…”. Một cái bóng lòng khòng vụt đứng dậy, cắt ngang chỉ lệnh của Hoán. Bất ngờ từ phía trận địa địch vọt lên chùm pháo sáng đỏ lừ. Người vừa đứng là Sơn. Trông Sơn như một bức tượng nham nhở được tạc từ bóng đêm đen ngòm, bởi thứ sánh sáng vàng vọt đáng sợ. Từ bức tượng người phát ra chùm âm thanh khô lạnh ngắn gọn: “Tôi xin chết!”. Lúc ấy Sơn là tân binh mới bổ sung và chưa phải là đoàn viên. Những người lính lặng lẽ bước qua trước bức tượng người. Hoán đi sau cùng đoàn quân. Lắc lắc tay Sơn. Hoán định nói một câu gì đó nhưng không thể diễn đạt. Sơn nói thật khẽ: “Đừng anh ạ. Đừng dùng quyền lực bắt con người phải tự nguyện chết. Cái chết giản đơn lắm. Nó không cần sự nhân danh mà chỉ cần sự tự nguyện đích thực. Thôi anh đi đi. Vĩnh biệt”.

Những tiếng súng nổ chát chúa từ trận địa của Sơn dội lại làm nhức nhối tim Hoán. Đơn vị đã rút lui an toàn “Cái chết cần sự tự nguyện địch thực!” – Lời trăng trối của Sơn như tiếng sét xoẹt qua đầu Hoán. Hoán chạy bổ trở lại trận địa. Suốt đêm ấy, trong bóng tối dày đặc, Hoán lần mò cõng được xác Sơn bê bết bùn máu về đơn vị. Chiến tranh vẫn xảy ra điều kỳ diệu. Một trạm phẫu thuật dã chiến đã cứu được Sơn. Họ tồn tại bên nhau cho đến khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc. Từ ấy đến nay…

*

*     *

Cuộc tàn sát nhân đạo nhất là cuộc tàn sát xảy ra trên bàn tiệc. Chỉ có hai người. Sơn bảo: “Em sơ tán mấy mẹ con về ngoại để mình tiện tâm sự. Vợ em mừng lắm. Ơn cứu mạng năm xưa em vẫn thường nhắc. Gặp anh, cô ấy nhận ra ngay.”. Hoán lạ lùng nhìn mâm cơm chỉ có mỗi con gì trắng ợt, trông như một con mực khổng lồ bốc khói nghi ngút. Chủ nhà rót rượu tràn hai cốc lớn, rồi cầm con dao rạch nó thành nhiều mảnh. Những cái vòi lua tua bị luộc chín quắn lại khiến Hoán rùng mình. Thoang thoảng mùi tanh tưởi của biển cả. Hoán nhăn mũi. Sơn cười ha hả: “Bạch tuộc đấy! Loài quỷ này dữ dằn và hết sức độc ác dưới biển. Nhưng đã lên mâm thì thiện, ác cũng như nhau hết, đều ngoan ngoãn, phục tùng. Giống này ăn được thì ngon lạ lùng. Nào ta nâng cốc mừng gặp lại.”.

Lòng rưng rưng chẳng biết Hoán mừng vui hay buồn tủi vì cuộc tái ngộ này nữa, Hoán kể hết với Sơn mọi tình tiết của quãng đời sau chiến trận. Hết Hoán rồi đến Sơn. Cả hai kiên nhẫn kể, kiên nhẫn nghe, kiên nhẫn uống từng chén rượu. Rượu tưới thẫm đẫm bầu không khí dồn ép của mạch chảy ký ức thời gian. Rượu đắng và lòng người cũng đắng. Mâm rượu cạn dần và tâm sự cũng vơi đi. Chỉ có nỗi buồn đọng lại, lớn dần lên. Chao ôi con người. Chao ôi cuộc đời. Sự sống thật nghiệt ngã. Hoán đã đành. Sự phản bội của vợ là cái cớ cụ thể, để Hoán căm thù, để Hoán quên lãng. Nhưng với Sơn? Sơn có tội tình gì. Những vết thương của trận chiến hôm nào vừa mới kịp lành miệng.

*

*     *

Em phục viên vào đầu năm tám mươi. Có tấm thẻ thương binh em dễ dàng xin được việc làm. Một chân bảo vệ làng nhàng ở một kho cảng làng nhàng. Rồi em lấy vợ. Cuộc đời thế là yên. Anh bảo còn mong muốn gì hơn nữa. Chiến tranh đã cướp đi của em non nửa sức lực trai tráng. Nửa sức lực còn lại đủ để em dập tắt những ước mơ cao vọng, để tự khuôn mình vào một cuộc sống thực tế, cho dù thực tế ấy là một cuộc sống đầy thua thiệt. Cái hôm đến nhận công tác mọi người lạ lẫm nhìn em. Một thằng người gầy khoẻo. Nó mặc một bộ đồ lính – lạ chưa kìa – chiến tranh đã hết từ lâu. Thương binh à, sao huy hiệu lại sơn đỏ thế? Mọi người cùng “à” lên một tiếng. Em không hiểu. Càng không hiểu sao bọn họ béo tốt đến thế. Từ trưởng kho đến nhân viên xép đều núc ních, da nhầy nhầy mỡ. Em rút bao Sông Cầu mới mua, dành cho buổi tiếp kiến, lúng túng bóc mời họ. Lại một tràng cười đồng loạt. Tay tổ trưởng bảo vệ vỗ vai em thân mật: “Cất đi chú. Ở đây không ai hút loại này đâu”. Tay kia hắn rút ra bao ba số còn nguyên vẹn: “Cầm lấy mời anh em.”. Anh biết  đấy, em có nghiện hút gì đâu. Thấy em lắc đầu, hắn bảo: “Cứ cầm. Chưa quen rồi sẽ quen. Đừng tự tách mình. Phải có ý thức tập thể. Chủ nghĩa xã hội đó chính là sức mạnh tập thể.”. Rồi hắn bóc thuốc mời mọi người. Em bắt gặp những ánh mắt kẻ cả. Hôm sau đúng vào ngày phát tiền. Vẫn tay tổ trưởng đưa cho em một nắm. Em bảo: “Tôi mới làm có một ngày”. Hắn cười: “Thì cầm lộc một ngày”. Đoạn hắn chép miệng nhìn em từ chân tới đầu: “Thằng em rồi sẽ khá lên.”. Em không hiểu. Trời ơi giá mà em hiểu thì sẽ đi ngay từ lúc ấy. Đi ngay thì đời em đâu đến nỗi. Cũng chẳng mất nhiều thời gian, em không biết cái tập thể ấy vì sao có sức mạnh. Có điều em vẫn không hiểu ngần ấy con người sao chẳng tìm thấy nổi một khuôn mặt tử tế. Mãi sau này em mới vỡ nhẽ. Quyền lực của đồng tiền ghê gớm thật. Nó không chỉ làm băng hoại linh hồn mà còn làm méo mó, biến dạng hình thể con người. Rồi điều gì sẽ đến, phải đến. Một hôm vào phiên em trực. Lúc ấy đã gần hết giờ. Kho vắng lặng. Chỉ còn mỗi chiếc xe tải ì ạch chở đầy hàng tiến ra phía cổng bảo vệ. Chắc là hàng quan trọng nên thấy cả nhân viên kho ra cùng. Em kiểm tra vận  đơn và đối chiếu hàng xuất. Bắt gặp ánh mắt bực tức của lái xe, em mang máng có điều gì ẩn khuất. Thấy thủ kho khoát khoát tay, lòng tự ái trong em trỗi dậy. Đã thế em kiểm tra thật kỹ. Cuối cùng em phát hiện có đến gần chục kiện hàng dôi ra ngoài vận đơn. Em đã nhã nhặn mời lái xe vào phòng bảo vệ. Nào ngờ thằng cha còn rất trẻ ấy không những không sợ hãi mà còn văng một câu tởm lợm: “Mẹ… chúng mày ăn dày quá, gặm đến tận cả dây khố. Có còn để chúng tao kiếm mảnh xương, hột cháo hay không?”. Đoạn hắn tháo chiếc đồng hồ Nhật sáng loáng vứt vào tay em rồi nhảy lên ca bin nổ máy. Trắng trợn quá. Em cố kìm nén để khỏi quăng chiếc đồng hồ vào giữa bộ mặt bẩn thỉu ấy. Em quát vào mặt hắn: “Xuống xe!”. Tay thủ kho mặt nhợt nhạt như giấy bản chạy đến trước mặt em, miệng lắp bắp gì đấy. Tiếng ồn ào rộ lên. Em kiên quyết lập biên bản, giữ hàng. Nhưng phải đến mấy đêm liền em mất ngủ vì sự việc xảy ra sau đó. Chiếc xe vẹn nguyên hàng hóa vẫn dũng cảm bò được qua ba – ri – e của em. Chiếc đồng hồ đáng nhẽ phải ở cổ  tay em lại không cánh bay sang tay của phụ trách bảo vệ kho. Thì ra tất cả chúng nó đều nằm trong một băng chuyền. Cái băng chuyền khốn nạn bòn rút của cải từ những cái kho vô tận. Chúng no đủ là phải.

Tiếp theo nhiều lần khác nữa, nhưng không một lần nào em đạt kết quả. Liên tiếp em nhận được những lời khuyên nhủ thậm chí xa xôi, dọa nạt của đồng nghiệp. Thú thật, cũng có lúc em hoang mang, nghĩ đến cảnh nghèo khổ của mình, nghĩ đến những gì mình đã để lại ở chiến trường. Tội gì mà đơn độc. Tội gì mà không kiếm chác. Của chung cả, có cá nhân ai mất mát gì. Chúng nó đấy, có đứa nào mất đi đâu một giọt máu mà chúng vẫn nhởn nhơ, sung sướng, vẫn nhân danh này, nhân danh nọ. Thậm chí có lần tay trưởng kho còn bảo thẳng vào mặt em: “Cậu là con người tốt đấy. Nhưng cậu thử nghĩ xem, cái tốt phải biết dùng đúng hoàn cảnh. Nếu không nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi.”. Nhâng nháo hơn y bảo: “Mình đã đề nghị chi bộ xem xét trường hợp của cậu.”. Lúc ấy tự nhiên em nghĩ đến những người của trung đội mình đã nằm xuống ở thịt trấn đường biên năm nào. Từng khuôn mặt đồng đội còn in đậm trong em. Nhục nhã quá, em muốn hét to lên mà cổ họng cứ tắc nghẹn. Đảng nào dung thứ sự nhân danh của chúng mày. Đảng gì lũ chúng mày, bọn sâu mọt. Tĩnh trí, em biết có phản ứng bọn người này cũng chẳng ích gì. Khôn ngoan hơn, em lần từng đầu mối và thu thập bằng cớ. Em quyết định bằng mọi giá phải phanh phui ổ chuột ghê tởm này. Em viết một lá đơn dài, liệt kê cặn kẽ mọi chi tiết rồi lên gặp trưởng ban thanh tra Cảng. Ông trưởng ban tiếp đơn của em. Ông đọc kỹ. Trời lạnh mà trán ông vã mồ hôi. Ông ngồi thừ rất lâu. Sốt ruột quá em giục: “Thế nào bác?”. Ông bảo: “Tôi biết cả. Xin cảm ơn đồng chí!”. Có tiếng chân người, mắt ông dớn dác nhìn ra cửa, rồi ông đút nhanh tờ đơn của em vào ngăn bàn. Thất vọng, em xin lại đơn. Ông già ấy, nhìn người em biết chắc là người tốt. Cũng như ở đơn vị kho của em, không phải ai cũng hỏng hết. Nhưng có lẽ vì họ quá sợ hãi vòng kiểm tỏa của một thế lực vô hình nào đấy, hoặc vì cuộc sống, miếng cơm, manh áo đành phải nhắm mắt chấp nhận. Em trực tiếp xin gặp lãnh đạo Cảng. Một vị to béo trong ban giám đốc tiếp em đúng tinh thần dân chủ và cởi mở. Khác với thái độ cẩn trọng của ông thanh tra, vị lãnh đạo Cảng hồ hởi. Lắc mạnh vai em: “Cậu khá lắm, đã đổ xương máu ở chiến trường, về đây vẫn phát huy truyền thống. Khá lắm!”. Em biết đâu rằng bước ngoặt của đời em lại được quyết định ngay trong ngày hôm ấy.

Buổi chiều, khi em đạp xe gần về đến nhà, một bọn người lạ hoắc xông vào đấm đá em túi bụi. Vừa đánh chúng vừa chửi: “Đơn này. Đơn này. Cho mày đội đơn xuống âm ty mà kiện. Kiện cụ khoai. Khôn ăn cái… dại ăn cứt! Rõ là đồ kiến!”. Chúng đánh cho đến khi em ngất xỉu. Trận đòn thù ấy phải đến hai tháng trời điều trị trong bệnh viện em mới biết mình còn sống. Ra viện, em về kho. Những bộ mặt ghẻ lạnh. Trưởng kho bảo: “Chúc mừng cậu đã yên ổn. Có điều sức khỏe cậu yếu quá, không kham nổi công việc!”. Hắn ta đưa em tờ quyết định do chính vị giám đốc gặp em ký. Quyết định chuyển trả em về Sở thương binh xã hội để bố trí công việc phù hợp với cống hiến sức khỏe. Đất sụt lở dưới chân em. Mắt em hoa lên. Làn đạn ác liệt bắn trúng tim. Trong khoảnh khắc em chợt hiểu tất cả. Trời ơi, sao con người lại tàn nhẫn thế này. Em có đòi hỏi gì cao sang đâu. Chỉ muốn được sống tử tế, làm người tử tế vậy mà không được sống. Chúng nó không cho sống. Lúc ấy giá em có một khẩu súng thì nửa sức còn lại của đời em sẽ ý nghĩa biết bao nhiêu. Người em run lên bần bật. Run không phải vì sợ hãi. Còn gì nữa đâu mà sợ hãi. Bọn đê tiện ấy đã đẩy em đến giới hại cuối cùng. Em ngước nhìn trời cao. Mây lang thang và mặt trời lắc lơ, vòi vọi. Khoảnh khắc ấy, em cảm nhận đầy đủ sự bất lực. Tất cả thế là hết. Lúc ấy giá như em cứ chuyển về Sở thương binh xã hội có lẽ cũng chẳng sao. Nhưng còn bọn người này và trận đòn thù. Em chỉ là một người bình thường làm sao có thể lớn vượt được tầm của bản thân mình. Thù hận với em, lúc ấy lẽ tất phải có. Em xé tan nát tờ quyết định và nhổ vào giữa mặt bọn chúng: “Chúng mày hãy nhớ lấy. Rồi chúng mày sẽ phải trả giá. Trả giá bằng chính cái chúng mày thèm khát.”. Em về nhà bảo vợ: “Anh phải đi tù vài năm”. Vợ em thảng thốt: “Anh định giết người?”. Lúc ấy vợ em sắp sinh cháu đầu. Em bảo: “Giết chúng là hóa kiếp cho chúng. Sao dễ thế. Chúng nó thèm tiền, giết chúng bằng tiền!”. Vợ em sụp xuống: “Vậy là anh ăn cướp?”. Em lắc: “Sạch sẽ hơn ăn cướp. Có điều phải nhẫn nhục!”. Vợ em thốt thêm được mỗi câu: “Anh điên mất rồi.”. Rồi ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Cười rợn lắm, kinh khủng vô cùng. Em nhảy bổ, tát mạnh vào mặt cô ấy. Tát thật đau, tội nghiệp quá. Nhưng biết làm sao, đành phải lấy đau đớn này để chế ngự đau đơn khác. Cuối cùng cô ấy cũng dứt được cơn cười và bật khóc. Nước mắt là thứ thuốc linh nghiệm nhất dành cho đau khổ tột cùng.

Em tổ chức một dây vượt biên. Giả vờ thế thôi để kiếm tiền. Thu gom được một số vàng, em chôn cất phần lớn, đưa vợ một ít để vợ sinh nở và nuôi con. Xong xuôi cả, em tìm cách báo công an. Ngay lập tức em bị bắt. Lúc ấy tội vượt biên lớn lắm. Tòa xét xử vẫn luận công để trừ tội. Cái mác thương binh giúp em chỉ phải lĩnh có ba năm tù. Thời gian trôi vèo. Mãn hạn, em đào số vàng chôn khi trước lấy làm vốn. Cái đích vạch ra đã thực hiện được phần nửa, em lao vào cuộc sinh tử quyết liệt với đồng tiền. Ý nghĩ trả thù ngày đêm nung nấu. Em phất rất nhanh. Giàu có chỉ là một nhẽ. Cái chính là phải tạo thanh danh. Em không tiếc tiền để lao vào những phi vụ hiểm nhất. Càng không tiếc tiền để gây dựng thế lực – vẫn biết đó là thứ thế lực nhơ nhuốc nhất. Lúc bấy giờ, thành phố này động trời là thằng Sơn ngông nghênh. Càng lao sâu vào tội lỗi, cuộc đời càng đáng buồn anh ạ. Buồn vì mình nhơ nhuốc quá, vẫn có không ít kẻ trọng vọng, ngưỡng mộ. Buồn vì con người luôn thù hận, chém giết lẫn nhau, chỉ để giành lấy những điều vô nghĩa. Em chỉ kể anh chuyện trả thù tay trưởng kho cũ. Lúc em đã giàu có và tiếng tăm thì tay ấy đã ngoi lên vị trí lãnh đạo Cảng. Một buổi sáng em sộc vào phòng làm việc của hắn. Có lẽ hắn nhận ra em ngay, song vẫn giả tảng như không biết. Em nói luôn: “Tôi đến để cảm ơn ông.”. Hắn lúng túng: “Tôi không biết anh là ai.”. Máu em bắt đầu sủi: “Vậy thì để tôi nhắc lại. Tôi là cái thằng các ông đánh đến hộc máu. Đã bị các ông xua đuổi đến nỗi phải vào tù. Nhưng tôi cám ơn ông vì sự đểu cáng ấy đã thúc đẩy tôi giàu có.”. Mắt hắn dại đi: “Anh Sơn. Đừng nhắc đến chuyện cũ làm gì. Chúng ta ai cũng đều trải qua cái thời ấu trĩ.”. Em hét lên: “Câm ngay! Mày đã biết thằng Sơn này thì hãy nghe cho rõ.”. Em vứt ra bàn một gói tiền: “Đây là thứ mày thèm khát. Tiền đấy. Cái tiên đề cuộc sống của chúng mày. Có nó, chúng mày tạo dựng nhà cửa, vây cánh, quyền lực, lạc thú… tất cả. Vì nó mày vùi dập cuộc sống của bao người lương thiện, trong đó có tao. Cầm lấy. Đấy là cái giá tao trả mày. Hãy đếm cho kỹ và cút ngay khỏi thành phố này. Tao không muốn nhìn thấy bộ mặt bẩn thỉu của mày.”. Em ngồi đấy hả hê nhìn nó đếm tiền. Nó cút ngay anh ạ. Những kẻ tạo dựng mọi thứ trên sức mạnh đồng tiền ấy, biết rất rõ luật đời, nó sòng phẳng nhận giá.

*

*     *

Hoán nén tiếng thở dài. Mâm rượu đã cạn. Chỉ còn lại những mẩu thịt tơi tả nằm lẫn với đám rau gia vị xơ xác gây cho Hoán cảm giác hết sức khó chịu. Giá Hoán đừng gặp Sơn. Phải chi Hoán đừng run rủi đến quán ăn ấy thì đâu đến nỗi phải khó nhọc ngồi đây. Những lời tâm sự như lưỡi dao vạch vào ruột gan Hoán. Tàn nhẫn quá. Hoán như tên tội phạm nhẫn nhục cúi đầu trước tòa. Kỳ lạ, Sơn có là quan tòa đâu, Sơn cũng là tội phạm đấy chứ. Gánh nặng của đời chất lên đôi vai mỏi mệt của Hoán đã quá đủ, giờ đây Sơn ơi, mày lại chất thêm lên đấy những gì nữa? Hoán kiệt lực mất rồi. Dường như Sơn nhận thấy sự thảng thốt tuyệt vọng của Hoán. “À. Còn điều này nữa anh ạ. Chắc anh không tin. Bao nhiêu năm nay mặc dù có nhiều tiền, vợ chồng em sống nhọc nhằn lắm, vất vả lắm. Mọi thứ phù phiếm, những đồng tiền vô nghĩa, cả cơ nghiệp bề thế này nữa, tất cả chỉ là tấm bình phong để em tồn tại. Tồn tại mà như là không tồn tại. Cái đắc thắng thỏa mãn của kẻ trả được thù riêng sao bằng nỗi dằn vặt đau đớn của người bị buộc phải sống trái với đạo lý. Làm người ai không muốn mình thênh thang cõi lòng. Nhưng đời đã vậy, cưỡng làm sao. Đôi lúc tuyệt vọng, em muốn tung hê tất cả, cùng vợ con chạy về một vùng quê hẻo lánh nào đấy để yên ổn nương thân. Nhưng như thế nghĩa là phó mặc đời. Hèn hạ quá, chẳng tội gì phải thế. Vẫn biết mình sống thừa, dù sao em cũng vẫn bớt được cho đời vài ba kẻ ác, như cái bọn ở kho cũ của em. Nhưng mà chua chát lắm. Có lần một vị chức sắc trong phường đi cùng một bà hảo tâm, đến em quyên tiền tu bổ cho một cái đền chùa gì đấy mới được công nhận, xếp hạng. Cái người hảo tâm ấy là một tín đồ sùng bái vào thần thánh, ăn chay, niệm Phật suốt tháng, nhưng ở ngoài đời là một kẻ buôn bán lừa lọc nhất, đê tiện nhất. Bà ta bảo: “Xin chú hảo tâm đóng góp.”. Em cười nhạt: “Tiền tôi không thiếu. Nhưng đền chùa là chốn linh thiêng, lấy làm gì những đồng tiền nhơ nhuốc.”. Bà  ta bảo: “Chú cứ vẽ, tiền nào chả là tiền. Cốt là ở cái tâm.”. Em nói: “Có tâm tức là không có tiền. Người có tâm ăn chả đủ. Còn hảo tâm là đổi tâm lấy tiền.”. Mặt bà ta đỏ lên: “Sốt ruột quá, chú không góp thì để tôi đi.”. Em bảo: “Bà quyên tâm thì để cả nhà tôi đến lao công, quét tước đền miếu. Bà quyên tiền thì đây. Nhưng tôi nói rồi đấy. Nhơ nhuốc lắm.”. Lần ấy mình em góp bằng cả chợ cộp lại. Chuyệt vặt, em quên ngay. Nào ngờ một lần đi qua em thấy tên mình được khắc nhũ vàng trên biển treo cửa đền nọ. Trời ơi, vì những đồng tiền nhơ nhuốc mà tên tuổi được ghi danh. Đời là thế, không đau làm sao được. Nhưng cũng còn niềm an ủi là mình không giống chúng nó. Đau đấy, nhưng là cái đau vượt tầm cầm thú. Nỗi đau âm ỉ như ngọn dùi đỏ xuyên qua ngày tháng. Thời gian trôi, cứ mỗi ngày qua đi lại tích cóp thêm một chút ít niềm hy vọng. Cái hy vọng mỏng manh nhưng chứa đựng trong nó một niềm tin có thật. Tin chứ. Thật bất hạnh nếu như chỉ có một khắc một giờ, làm rơi vuột mất lòng tin. Sống cho ai, vì ai? Cứ mỗi sáng vào lúc mặt trời chưa thức dậy, em lại lang thang. Ban mai thật tinh khiết, đến ngọn gió cũng trong lành. Bao nhiêu lầm lỗi, bao nhiêu tủi hờn, bao nhiêu xảo trá, mưu mô đều đã cất lại trong đêm dài thăm thẳm. Lúc ấy, vào khoảnh khắc đầu tiên, nếu em chợt gặp ánh mắt khinh bỉ của một người nào đó thì đấy là lời phán xét: Niềm tin có thật. Đối với em đó là một ngày đáng sống. Đáng sống chứ. Chừng nào con người biết khinh bỉ thì còn được quyền sống tử tế. Khinh bỉ phần nào, vợi đi khổ đau, nhục nhã phần ấy. Cũng may là em luôn gặp những cái nhìn ấy. Những cái nhìn cứu cánh để em đợi chờ. Chờ gì ư? Đó chính là niềm tin ấy. Giông bão rồi sẽ qua đi và nếu em không còn đủ sức lực để chờ đợi thì con cháu em, chúng nó sẽ được thấy, chúng sẽ được sống, có quyền được sống!”.

Hoán lảo đảo đứng dậy. Con bạch buộc bị nghiền nát trong dạ dày Hoán chợt quẫy mạnh. Những cái vòi lua tua, quờ quạng. Nó đi tìm lại sự sống. Từ miệng Hoán một cái vòi kinh khủng khiếp phọt ra. Hoán gục xuống mâm. Hoán vẫn kịp nhận thấy Sơn đứng lòng khỏng, bất động. Trông Sơn như một bức tượng người…

*

*    *

Vào một đêm mùa đông rét mướt. Trời sùi sụt. Vợ chồng Sơn đèo Hoán bằng xe máy ra bờ biển. Lọ mọ một lúc trong đêm đen đặc quánh, họ đến được nơi con thuyền đang neo đợi. Sơn bảo: “Biển động có nguy hiểm, nhưng chắc thoát lọt.”. Hoán lùi lũi bước. Đây rồi con thuyền đen ngòm ngòm đang dềnh lên, dạt xuống, vật vã trên sóng. Gió rít hay là biển rít mà không trung toác bởi thứ âm thanh quái gở roèn roẹt như có trộn thêm mạt sắt. Đến sát mép nước, Hoán dừng lại. Sóng táp ào lên người Hoán. Vợ chồng Sơn bỗng quỳ thụp xuống: “Em lạy anh. Có mấy vái gọi là… Chúng em lễ sống anh trước lúc ra đi. Anh có mệnh hệ gì, đừng trách thằng Sơn này đẩy anh vào chỗ chết.”. Hoán từ từ quay mặt ra biển rồi lại từ từ hướng trở lại đất liền. Khoảnh khắc. Trời tối quá. Đêm mông lung không biến bờ giới hạn. Sao Hoán lại gặp Sơn nhỉ? Có định mệnh đâu. Trời ơi Sơn, con người bị tước đoạt hết mọi thứ ấy, sao vẫn sống để bấu víu vào một cái gì đó Hoán không thể biết. Niềm tin ư? Nó là cái gì? Nó nhân danh cái gì mà phán xét Hoán dữ dội vậy, Hiện tại Hoán có tiền, nhiều là đằng khác. Thậm chí nếu cần Hoán vẫn có thể giành giật lại được người vợ cũ hoặc chiếm đoạt một người vợ mới. Vậy mà sao Hoán vẫn đơn độc, vẫn chui lủi, lang thang? Sao Hoán như con thuyền không có bến bờ neo cắm? Sơn nói có đúng không? Nếu đúng thì sự thật quá ư tàn nhẫn: “Anh là kẻ cùng đường rồi. Tuyệt vọng, đúng thế. Cái chết cần sự can đảm. Ngay cả cái dấu chấm giản đơn nhất đời ấy cũng không thể dành cho những kẻ hèn nhát. Đừng băn khoăn nữa. Cũng đừng hỏi vì sao. Anh không thể tìm được câu trả lời. Không có cách nào khác. Anh đi đi. Ơn cứu mạng năm xưa em xin trả. Em sẽ lo cho anh vượt biển được chu toàn. Anh phải đi. Mảnh đất chật hẹp nghèo khó này, dẫu còn nhiều đau thương, dẫu chưa đủ cả lẽ công bằng, dẫu phải chấp chứa cả những loại người sâu mọt nhất, nhưng sẽ không bao giờ, không bao giờ có chỗ cho loại người hèn nhát. Những kẻ không dám sống, không dám tin, không định nổi hướng đi cho mình. Hèn nhát tự huỷ hoại. Huỷ hoại bản thân. Huỷ hoại cuộc đời. Đi đi cho đất đai này được thanh thản.”.

Khoảnh khắc. Hoán đăm đắm nhìn về phía vợ chồng Sơn vừa mất hút. Biển bỗng lặng. Gió bỗng im. Xa lắc phía chân trời đen kịt chợt hiện một vầng sáng mỏng manh yếu ớt. Phía ấy là thành phố. Xa nữa có một làng quê. Một bà mẹ. Vầng sáng chung chiêng, thoi thóp, thoi thóp như ngọn nến trên bàn thờ sắp tắt, như khuôn mặt già nua, tóp teo của mẹ. Mẹ ơi! – Đấy là những cảm nhận cuối cùng của Hoán về Tổ quốc. Hoán xoay người lại. Biển đen kịt. Gió lại gào xé từng đợt, từng đợt. Con thuyền lắc lư, lắc lư trên những cuộn sóng vật vã. Sóng dềnh lên, con thuyền ngòm ngòm như một ngôi mộ nổi, hé cửa mời Hoán vào, Hoán lạnh buốt người.

May mắn và bất hạnh thay cho con người có những khoảnh khắc để lựa chọn. Với Hoán đây là khoảnh khắc cuối cùng. Khoảnh khắc quyết định.

Chạy trốn

Con vật dài quãng mét tư, mét rưỡi, và chiều cao có dễ đến gần mét. Cân nặng của nó xấp xỉ tạ mốt, tạ hai. Ước đoán thế thôi chứ nó chưa được vinh hạnh bước lên bàn cân bao giờ. Thế là may, đối với giống lợn, cái cân là bản án tử hình tuyệt đối. Đồ sộ thật. Nó đi trên đường, bốn chân sải đều đặn, không nhanh, không chậm, đầu cúi gằm gặm. Trước đây nó cũng ngang ngửa nhìn hết xa, gần, trên , dưới. Bây giờ, bọn trẻ con hàng lũ hàng đàn chạy theo chỉ trỏ trêu chọc, thậm chí ném đá, túm đuôi tạo cho nó phản xạ chấp nhận tư thế yếu hèn như vậy. Nó đi. Mọi chuyển động của cơ bắp đều ẩn lặng kín đáo dưới làn da hồng bợt phủ một lớp lông khô cứng. Không có một thớ thịt thừa nào được phô phang trên cái thân thể tròn lẳn, rắn chắc. Bụng dưới của nó thắt vào, cặp mông ụn ra đầy đặn nhưng không núc ních, xồ sệ như mấy ả, mấy anh lợn thịt. Cái đuôi dài như một túm cỏ bờ lau phơ phất luôn phe phẩy và thỉnh thoảng hứng chí hay tức giận, nó quật đen đét vào hai bên thành mông. Nó là con lợn đực nhận sứ mạng vinh quang đi lai tạo giống nòi.

Nó đi vào phố thường xuyên, trừ những hôm nó mệt, chủ nó mệt, hoặc thiên tai, hoặc không có khách, còn thì chuyến đi bao giờ cũng khởi hành vào lúc sáng sớm. Chủ nó luôn đi song song bên cạnh nhưng lùi về phía sau chút ít. Sợi dây thừng từ tay chủ quấn một vòng quanh cổ nó, chỉ mang tính quy ước tín hiệu, điều khiển các động tác như đi, dừng, rẽ trái hoặc phải. Do hoàn cảnh, nó thích nghi nhanh chóng và tỏ ra hiểu biết mệnh lệnh của chủ một cách chính xác, tuyệt đối. Phải công nhận nó là con vật tinh khôn khác hẳn với bản chất ngu đần của giống nòi. Có thế nó và chủ mới kiếm nổi miếng ăn giữa cái thành phố ồn ào, náo nhiệt giữa thời “gạo châu, củi quế ” này.

Chủ nó tên Hoán. Cả cái làng ngoại ô, nơi đôi bạn trú ngụ ít người biết rõ gốc tích Hoán. Họ chỉ biết mang máng rằng Hoán từ một miền quê tới đây mấy năm về trước, mua khoảnh đất nho nhỏ, trên đấy dựng căn nhà lá con con. Ngày ấy hộ khẩu chuyển dịch nơi nọ, vùng kia còn dễ dàng. Vài năm đầu Hoán làm thuê ở một hợp tác xã cơ khí cấp cao với cái nghề thợ rèn. Bản tính lầm lì tránh giao tiếp, hầu như Hoán không bộc lộ gì, kể cả tâm sự với mọi người xung quanh. Ngày đầu, “hiện tượng Hoán – người đàn ông vạm vỡ, da sạm đen” gây nhiều nghi vấn đối với chính quyền địa phương. Sau nhiều lần dò dẫm, xác minh, lý lịch Hoán tạm sáng tỏ và có thể tóm tắt như sau: Sinh năm 1947-Bộ đội phục viên-Thất chí vì bị vợ phản bội, bỏ quê ra thành phố sinh sống –Thái độ chính trị: không sai phạm – bạn bè thân thích không rõ – Các mối quan hệ khác: không có.

Hoán không va chạm với ai và mặc dù không giao tiếp nhưng mọi người nhận thấy Hoán sòng phẳng và hào phóng trong lĩnh vực tiền bạc. Hoán sẵn sàng giúp đỡ người khác đến đồng bạc cuối cùng. Có lần một gã ăn mày chuyên nghiệp giả dạng khách quê mất cắp lần đến nhà Hoán. Vốn chẳng lạ gì gã, Hoán vẫn vứt ra cả một nắm tiền. Số tiền lớn đến nỗi gã ăn mày đã cầm gọn, bàn tay vẫn còn run rẩy. Hoán khinh khỉnh nhìn. Gã nọ ngước mắt, miệng lắp bắp: “Con xin ông” rồi bỏ chạy thục mạng. Dân xóm tưởng trộm, túa ra giữ hắn lại. Tiền rơi lả tả, mặt gã ăn mày nhợt nhạt. Hoán lừng lững bước ra, buông mỗi câu cụt lủn, khiến mọi người tản đi nhanh chóng: “Tiền! Mẹ kiếp! Của tôi đấy. Tôi cho hắn! ” Đại loại như thế, phong cách của Hoán lạ kỳ khó hiểu. Sống kín đáo cách biệt nên ít người ưa Hoán. Nhưng cũng chẳng ai ghét vì Hoán có làm phương hại đến ai đâu mà ghét. Sau một lần vì chuyện gì đấy bị chủ xưởng cơ khí mắng nhiếc thậm tệ, sau khi tặng cho chủ cú bạt tai kinh hồn, Hoán bỏ hẳn nghề. Vài năm gần đây Hoán trở thành người nuôi và đi lai lợn giống.

Con vật Hoán gây từ giống thuần chủng Ấn – Âu có vóc lớn lai tạo với lợn Móng Cái quắt người dẻo dai và tinh khôn. Khách hàng của Hoán thường tìm đến đặt tiền trước, cho địa chỉ và hẹn ngày đợi Hoán dắt lợn giống đến. Hoán chưa hề sai hẹn, giá cả phải chăng và con lợn giống tốt nên uy tín tăng rất nhanh. Hoán có sẵn một bản danh sách địa chỉ, căn cứ vào đấy Hoán hoạch định cho từng chuyến đi. Ấy là nói đến bây giờ chứ còn như có một dạo thành phố không thể quen được cảnh tượng những loài vật đi lại nghênh ngang ngoại trừ những con bò được thắng trong những cỗ xe ậm ạch, chậm chạp chở hàng hóa. Ngày ấy xe bò còn là thứ phương tiện ích lợi, rẻ tiền và cuộc sống còn chưa đến nỗi nào để tất cả mọi nhà phải xô vào để tăng gia cải thiện như bây giờ. Mọi người ào ạt nuôi gà vịt và các thú gia cầm khác. Họ tận dụng đủ mọi xó xỉnh làm diện tích chăn nuôi. Hoán bây giờ có dễ chịu hơn, kiếm được miếng ăn không đến nỗi cầu cạnh. Lợn được nuôi nhiều ắt phải đẻ lắm. Nghề lai lợn đếm trên đầu ngón tay may đủ chục người. Nhưng mà điều ấy chả tác động nhiều đến Hoán. Anh không cần tiền. Đấy là lẽ hiển nhiên. Tiền mà làm gì. Đồng tiền dù sạch sẽ đến đâu ít nhất cũng đã một lần làm đời Hoán tan nát. Thì đấy, vợ Hoán chả vì tiền mà phản bội Hoán, bỏ đi theo trai là gì. Hoán căm thù lắm. Căm thù đến mức không bao giờ Hoán dành dụm tiền trong người. Có đồng nào Hoán xào đồng ấy. Tiền bây giờ chỉ còn duy nhất là thứ phương tiện giúp Hoán sinh nhai thường nhật. Tuy kiếm được nhưng Hoán luôn luôn không có tiền. Chả thế, một lần nhân lúc nghỉ trưa, Hoán buộc tạm con vật vào gốc bàng, trước hiệu cơm bình dân trên đường phố. Đấy là phố lớn lại là trục giao thông có đầy đủ các biển cấm. Việc xuất hiện lù lù một con vật to đùng, ắt hẳn làm nhiều người khó chịu. Anh cảnh sát trật tự yêu cầu Hoán giải phóng ngay chướng ngại vật ấy. Đang dở bữa cơm, Hoán làm ngơ. Từ lâu, Hoán đã tạo cho mình một thói quen đặc biệt: Câm lặng, thây kệ tất cả. Nhắc nhở vài lần, anh cảnh sát tức mình rút biên lai để phạt. Lúc ấy Hoán mới rời hàng cơm, đủng đỉnh đi lại gốc cây cởi dây buộc, con vật uể oải quật đuôi, đứng dậy. Anh cảnh sát nói thật to:

-Đi đâu, vi phạm trật tự công cộng, nộp phạt đã.

Hoán giương mắt nhìn. Cặp mắt lồi ra khó hiểu. Anh cảnh sát cáu thật sự:

-Biên lai đây. Một nghìn!

Lúc ấy Hoán mới thủng thẳng lộn túi áo:

-Làm gì có tiền mà phạt. Nó đấy. Phạt nó! – Hoán chỉ vào con lợn.

-Nhưng anh nuôi nó. Anh là chủ! – Anh cảnh sát tức điên lên.

-Không có ai là chủ cả. Còn nuôi ư? Chính nó nuôi tôi – Hoán trả lời bình thản, khuôn mặt không một mảy may rung động.

Tội của Hoán lẽ ra đáng đưa về trụ sở xử lý. Nhưng đúng, Hoán không có tiền thật. Túi sạch trơn. Nhưng lý do khiến người cảnh sát lùi lại cất biên lai vào xà-cột vì chợt nhìn thấy mắt Hoán. Một người điên khùng – anh ta nghĩ – Hơn thế nữa, cặp mắt trong suốt, lạnh lẽo như không có hồn, hệt như cái ao sâu mùa đông nhìn thấy những chiếc lá mục rữa nằm phăng phắc dưới đáy. Không phải một người điên. Mắt người điên dại hơn nhưng không đáng sợ bằng mắt Hoán. Mắt của người đang sống nhưng hồn đã chết tận đâu đâu.

Một hôm như thường lệ, Hoán cùng con vật đi vào thành phố theo chương trình đã định sẵn. Bữa ấy Hoán mệt, người mỏi dừ, con vật hiểu chủ, dù đương sức nó cũng uể oải, lười nhác nhấc từng bước chân một. Đã hẹn trước, Hoán không muốn bỏ dở chuyến đi. Từ ngoại ô vào đến đây, ít cũng phải kiếm đủ bữa mới về. Thực hiện xong hợp đồng, ngồi nghỉ ở quán nước, nhẩn nha uống bát nước chè xanh, Hoán lim dim muốn ngủ, bỗng giật mình vì bàn tay êm ái, nhẹ vỗ lên vai. Gã đàn ông đứng sừng sững phía sau, toét miệng cười. Nụ cười hiền lành và thân thiện. Lòng Hoán đã dịu đi đôi chút sau cú giật mình bực bội.

-Chào chú em. Chú em sang bên, anh có chuyện muốn nói.

Hoán hơi ngạc nhiên. Giá như mọi ngày hẳn Hoán đã cáu bẳn theo cách riêng của mình là lỳ mặt, im lặng. Nhưng hôm nay, trước cử chỉ khác thường của gã đàn ông, Hoán đâm ra dễ tính, lẳng lặng đứng dậy đi theo gã. Họ bước vào một quán giải khát sang trọng, dù cả Hoán và gã đàn ông đều lôi thôi, cẩu thả. Một khay lớn bày những vại bia tăm tắp, bọt sủi từ đáy cốc lên như vôi sống gặp nước, được bưng ra theo lời gọi dứt khoát của gã đàn ông. Hoán lồi mắt. Cảm giác ngơ ngác biến mất nhanh chóng đẩy Hoán chơi vơi trong tâm trạng sờ sợ. Giọng gã đàn ông nhỏ nhưng đanh, phá bầu không khí đang dần lạnh toát:

- Nào ta nâng cốc. Anh là Lanh. Chú đừng ngạc nhiên. Gia đình của chú thế nào, anh biết tường tận. Vì sao? Chú chẳng cần quan tâm. Anh chỉ có một đề nghị thế này. Ta sẽ hợp tác làm ăn. Con giống của chú tốt đấy. Nó sẽ mang lợi cho cả anh lẫn chú. Chú ngạc nhiên hả? Không sao. Uống đi rồi theo anh, mọi chuyện sẽ rõ ràng.

Phải mất một lúc lâu, Hoán mới định thần được. Ngôi nhà nom bên ngoài tường mùng mục, rêu phủ ẩm ướt, nhưng bên trong tráng lệ một cách xa xỉ ít ngờ. Những năm còn bộ đội, Hoán đã từng ở Sài gòn, từng đến Phnôm Pênh, từng được sống trong những căn nhà hiện đại, tiện nghi chẳng thiếu thứ gì. Nhà cửa những nơi ấy gấp có đến trăm lần ngôi nhà này cũng chưa đủ làm Hoán ngạc nhiên. Điều gây cho Hoán lạ đến độ thảng thốt là toàn bộ những phòng ở tầng một của gã đàn ông đều vuông vức, tường quét ve sáng, nền lát gạch men, tất cả rộng có đến trăm mét vuông, chứa cơ man nào là lợn. Các loại lợn, từng cỡ một, ụn ịn đều nhau tăm tắp. Hoán mê mẩn nhìn những con lợn hồng hào, no đủ, được tắm rửa sạch sẽ. Chất nông phu trong Hoán nổi lên kích thích lòng say mê nghề nghiệp. Tại sao không gọi là nghề? Hoán chả đang làm cái việc tăng sản đầu lợn là gì. Thoạt đầu Hoán tưởng đây là một xí nghiệp chăn nuôi quốc doanh. Nhưng rồi Hoán vỡ nhẽ ngay. Làm gì có xí nghiệp quốc doanh nào lại đầu tư tốn kém, nhất là chăm nom đàn lợn tử tế đến thế. Điều thắc mắc của Hoán được giải đáp nhanh chóng. Gã đàn ông đã trút bỏ vẻ khù khờ bình dân ban đầu. Trong cơ ngơi của mình, gã đi lại sấn sổ, hoạt bát đường bệ như một vị tướng lĩnh có đầy đủ trong tay những đạo quân mạnh mẽ:

-Của anh hết đấy. Anh tự sản, tự tiêu. Chăn nuôi, đó là một nghề sạch sẽ nhất. Không lụy phòng thuế, chẳng sợ thương nghiệp. Lợn xuất chuồng bắc lên cân, nhà nước hay tư thương cũng là con hàng hết. Ai trả tiền cao anh bán, không chạy vạy, luồn cúi, nguyên tắc ấy không bao giờ bị lệ thuộc.

Những lời của gã đàn ông bùng nhùng trong cái đầu vốn đang bùng nhùng của Hoán. Nhưng rồi Hoán cũng hiểu. Trước đây, chủ nhà lợn này vốn là một giám đốc xí nghiệp, vướng mắc gì đấy bị hạ bệ. Từ hai con lợn bột, sau một năm gã gột thành hai tạ lợn thịt. Bỗng dưng gã vớ được món bở và trong tâm can gã nung nấu một quyết định. Gã đâm đơn xin về hưu. Xin hưu trong lúc có chức có quyền và chưa đến tuổi là một hành động cao cả được xã hội hoan nghênh nhiệt liệt. Gã lấy luôn nhà ở thành chuồng nuôi. Sau vài vụ gã phất lớn. Gã bỏ tiền mua đất xung quanh, xây lên tầng, củng cố nhà nuôi. Kinh tế càng khó khăn, chính sách chăn nuôi càng được mở rộng. Gã thuê người làm công, mở mang cơ sở, đầu tư tiền vốn, học hỏi kỹ thuật. Thấy Hoán ngơ ngẩn, lệt bệt, bước vòng quanh, mắt dán vào đàn lợn, gã cười hềnh hệch, mắt tít như hai sợi chỉ đăm:

-Trông sạch mắt chứ chú? Nhưng cũng không ngon ăn đâu – Gương mặt gã thoắt biến đổi méo xệch, răng nghiến kèn kẹt – Cũng đổ mồ hôi, sôi nước mắt đấy. Rồi chú sẽ thấy. Không ít kẻ dòm ngó. Mẹ! Lúc mình rách, vợ con cũng khinh. Lúc mình có máu mặt, hết phường đến quận, hai vụ công trái vừa rồi, anh cúng đủ bạc triệu.

Rồi hắn lại toét miệng cười. Hoán nghe nhưng chẳng cần hiểu. Mọi thứ với Hoán từ ngày rời quê đều trở thành vô nghĩa. Những ngày đầu đi qua suôn sẻ. Gã chủ hài lòng lắm. Hoán xốc vác, có sức khỏe, việc gì cũng làm. Quần quật cả ngày tịnh không có lời kêu ca. Lạ thế. Nếu cần phải nghĩ, chính Hoán cũng thấy lạ. Được mươi ngày nom Hoán khác hẳn. Hồng hào, sạch sẽ. Gã chủ chẳng cần tính toán bỏ ngay khoản tiền sắm sửa mẽ ngoài cho Hoán. Bộ cánh mới thời trang, bảnh chọe thay thế hẳn bộ đồ lính phênh phếch. Đến giờ nghỉ, Hoán xúng xính trong bộ pi-ja-ma kẻ sọc. Bỗng dưng Lanh – gã chủ – vớ được người làm công tận tụy. Gã bảo:

-Anh biết chú hận cái gì. Xử như chú thiệt thân lắm. Anh đây, đường vợ con cũng vô cùng lận đận. Nhưng anh khác chú. Anh phớt tất. Mẹ, cứ có tiền là xoay chuyển được hết, kể cả thời cuộc. Cơ ngơi này anh ở với con vợ mới. Vợ cũ anh cho re. Lúc đầu nó cũng làm dữ lắm. Nhưng tiền vào, im hết. Mỗi tháng anh quẳng cho nó một “sợi”. Ngồi mát nuôi con hóa sướng. Bọn nhóc thỉnh thoảng về đây “quậy” luôn. Nhưng anh đã có cách. Bọn trẻ bây giờ tinh ranh nhưng rẻ vô cùng. Sau lưng gọi bố bằng thằng, nhưng chỉ bộ bò mốc là vâng vâng, dạ dạ. Chú yên tâm – Gã thân mật đặt tay lên vai Hoán – Mới vài ngày nhưng anh rất tin chú. Anh sẽ dựng vợ cho chú. A ha…Chú có tiền, đàn bà sẽ bu đến như ruồi tìm mật, bất kể chú là loại người gì.

Phải đến phút sau, Hoán mới hiểu gã chủ nói gì. Sao hắn biết rõ về mình đến thế nhỉ? Nhưng hắn không hiểu. Hoán đâu có cần tiền, càng không cần vợ. Hoán ở đây chỉ vì mê mẩn đàn lợn. Đẹp quá. Có chục con lợn nái, nước non gì, nhưng đàn lợn đụn địn trăm con, đẹp còn hơn cả tranh lợn làng Hồ.

Nhìn chúng ăn, nhìn chúng ngủ, Hoán cảm thấy vui sướng. Khối nhọt u trong lòng Hoán dần dần thoai thoát. Lâu lắm rồi Hoán dửng dưng với người khác. Nhưng bây giờ – qua đàn lợn – Hoán bỗng manh nha tin cậy gã đàn ông mới gặp. Gã là ai thế nhỉ? Sao gã biết rõ nỗi niềm sâu kín của Hoán? Ngay cả Hoán cũng đã quên mất rồi. Đoạn đời cũ đã bị chôn vùi. Thậm chí cả đến nhớ lại Hoán cũng chả thiết. Vậy mà bây giờ ở đây, trong cơ ngơi của Lanh, đến bữa cơm, nhâm nhi hươu rượu, đoạn đời ấy lại hiện lên mồn một, rõ ràng, mạch lạc.

Ngày ấy lâu rồi. Làng quê Hoán vùng châu thổ sông Hồng trù phú. Hoán mồ côi cha. Mẹ ở vậy nuôi con. Hai mẹ con đều có sức, ở đồng bãi lo gì miếng ăn. Năm Hoán 18 tuổi – năm 1965 – bom Mỹ đánh vào làng đúng lúc nghỉ đêm. Một phần ba số dân làng ngủ yên vĩnh viễn. Hoán làm đơn xin nhập ngũ mặc dù Hoán là con độc trong diện chính sách. Mẹ tiễn Hoán đến hết làng. Cả Hoán, cả mẹ, nước mắt ròng ròng. Còn một người nữa cũng chùi nước mắt. Cô Mít hàng xóm. Hoán biết thỉnh thoảng Mít hay đỏ mặt liếc trộm Hoán. Hoán cũng thế. Một ngày không gặp Mít, Hoán bồn chồn. Chỉ thế thôi chứ cả Hoán lẫn Mít chưa bao giờ nói với nhau điều gì ngoại trừ công việc và đoàn thể. Hoán đi. Mít dúi vội vào tay Hoán một chiếc mùi-soa mềm phảng phất hương bưởi vườn vừa cất. Rất nhanh, bàn tay nóng ấm lướt qua đời Hoán như một lời hẹn khó quên. Nhiều năm sau Hoán vẫn còn cảm giác thấy màu hồng lan nhanh trên khuôn mặt Mít lúc ấy. Màu hồng rực rỡ tụ lại ở đôi lúm đồng tiền ngồ ngộ. Hoán ở chiến trường miền Đông một lèo. Hết chiến tranh, Hoán sẽ về nuôi mẹ, cưới Mít. Đời sẽ là thế nếu như Hoán không bị trận lạc rừng khủng khiếp chỉ xảy ra trước hòa bình 75 có một năm tròn. Hoán không duy tâm nhưng sau này Hoán chiêm nghiệm rằng: âu con người ta cũng có số thật. Đúng là có số. Hoán bị lạc ở vùng rừng Đa Quýt chỉ cách tỉnh lỵ Phước Long có một thôi tắt rừng, ở đấy đơn vị Hoán đang cùng chiến dịch vây ép tiến công chiến lược. ác thế. Tổ chốt trinh sát của Hoán bất ngờ bị một đại đội dù ngụy tấn công. Chốt chỉ có ba người và một máy vô tuyến 15 oát. Sau khi phát tín hiệu cấp cứu, tổ trưởng hủy máy và ra lệnh cho toàn tổ rút lui để bào toàn lực lượng. Về sau Hoán mới biết ở hai hướng kia, đồng đội của Hoán đã hy sinh ngay từ loạt đạn đầu tiên. Hoán may mắn rút an toàn theo lòng suối cạn địch chưa kịp phát hiện. May mắn ấy chính là cái số Hoán chiêm nghiệm, khiến Hoán phải điên đảo cả quãng đời về sau.. Hoán cứ theo dòng suối, lần lần, mò mẫm suốt đêm. Đến sáng Hoán mới biết là mình đã lạc xa đơn vị. Phải lộn lại. Hoán đi vòng tránh xa cái chốt dù địch mới cắm. Địa hình lạ, mất đến ba ngày nhịn đói nhịn khát Hoán vẫn chưa tìm được đơn vị. Chính lúc ấy cơn sốt rừng quật xuống. Lính B2 ai chả mang thứ tài sản bắt buộc là những mầm sốt dai dẳng trong người. Trận sốt hành hạ Hoán gần một tuần lễ. Và Hoán đã chắc chắn phơi xác nếu không may mắn gặp Lài – nữ giao liên binh trạm – đang về nơi tập kết để ra Bắc hưởng chính sách. Mãi mãi Hoán nguyền rủa cái lán hoang, nơi Hoán nằm phục bệnh ở giữa rừng miền Đông ấy. ở đấy, Hoán đã vĩnh viễn xóa đi hai đồng tiền rực rỡ của Mít, để lần đầu tiên trong đời, Hoán run rẩy trao cho Lài – ân nhân của mình – nụ hôn đắng ngắt dư vị sốt rét. Nước mắt giàn rụa, Hoán vuốt đi vuốt lại mái tóc thưa, sạm phếch của Lài. Sau mỗi lần vuốt, ngón tay Hoán lại run run nhặt ra những sợi tóc bợt bạt. Hoán phủ mãi niềm thương cảm lên khuôn mặt gầy guộc của Lài.

-Anh chỉ có một mẹ già. ảnh anh đây đằng sau đã ghi địa chỉ. Thỉnh thoảng em đến thăm mẹ nhé.

-Ứ ! Ghét ghê, sao lại thăm? Em về ở luôn với mẹ, chăm sóc mẹ, chờ anh.

Hoán hực khẽ trong cổ. Đầu váng vất. Lồng ngực reo bần bật. Tim thúc thình thịch.

-Điêu!

-Em thề! Đứa nào nói điêu, đứa ấy chết!

Hoán ôm chặt lấy Lài. Giữa cánh rừng già năm ấy, Lài đã nhận của Hoán lời hẹn ước tin cậy nhất. Giải phóng miền Nam gần một năm Hoán mới khoác ba lô trở về làng. Lài chờ Hoán thật. Hai mẹ con cạn kiệt nước mắt vì không có tin tức Hoán. Tổ chức cưới xong, hết phép Hoán lại tiếp tục vào đơn vị. Nhiệm vụ của đơn vị Hoán còn khá nặng nề ở biên giới Tây Nam. Mãi đên năm 1979 Hoán mới phục viên. Mẹ Hoán đã mất. Đau thật đấy nhưng dù sao cũng hợp lẽ, già rồi ai chả phải một lần chết. Đau hơn cả là Hoán mất Lài. Trước đấy nhiều lần, trong những kỳ phép và qua đường thư từ, Lài luôn giục Hoán về hẳn. Về làm sao được, Hoán không phải là người dễ dàng bỏ đồng đội, những người gắn bó sống chết với Hoán. Hoán về. Nhà cửa lạnh tanh, cỏ mọc đầy vườn. Hoán đọc đi đọc lại suốt cả ngày trời, hàng trăm lần lá thư Lài để lại. Đọc mà chả nhớ gì hết, chả biết gì hết. Hoán chỉ mang máng rằng, Lài sống vò võ một mình, khổ quá, cực quá, tay làm miệng ăn không đủ. Cực ấy còn chịu được nhưng Lài không chịu xiết nỗi đơn côi, niềm quạnh quẽ của người đàn bà đã có chồng nhưng biền biệt cách xa. Tệ quá, mình tệ quá! – Hoán lẩm bẩm. Hoán thở dài. Hoán ở lỳ trong nhà đến tuần lễ. Rồi Hoán sẽ nguôi ngoai, sẽ gây dựng lại cuộc sống bị gián đoạn. Hiển nhiên là như thế, sự mất mát nào cũng có giới hạn, nếu như đến tuần lễ sau Hoán không biết đích xác rằng: Lài bỏ đi không phải vì thiếu Hoán bên cạnh mà vì lý do hoàn toàn khác. Lài đi theo một gã đàn ông giàu có ở thành phố. Anh họ Hoán kể rằng: “Có gặp thím dạo Tết béo đẹp lắm. Thím cứ dúi vào tay một tập tiền. Chối mãi không được. Tiền anh vẫn để dành, để anh về lấy chú xem. Thím ấy phúc đức thật!”. Hoán trừng mắt khiên ông anh họ vốn là người nhu mì, thật thà, yếu đuối, sợ dúm ró người. Hoán tin. Ai chứ anh họ Hoán từ bé đến lớn tịnh không biết nói dối bao giờ. Hoán lồng lên như voi rừng trúng đạn. Hoán xé nát bức thư cuối cùng của Lài. Chưa hả, Hoán giật phắt tấm ảnh cưới lồng kính treo trên vách, lia thẳng xuống ao. Tấm ảnh ấy ngày cưới Hoán mất một buổi đạp xe xuống tận thị xã tô màu cho đẹp. Chao ôi lòng người thật độc địa. Hoán từng đi đó đây và cũng chả ngu đần gì để không nhận thấy những chuyện như thế ở đời vô khối. Nhưng với Lài – Hoán gầm lên – Hoán lấy Lài vì nghĩa. Thiêng liêng hơn cả tình yêu, đấy là nghĩa cả. Một người như Lài từng ở chiến trường, từng vào sống, ra chết. Duyên chồng vợ gắn liền bên hòn tên, mũi đạn, phần sống ít phần chết nhiều, tưởng phải gắn bó keo sơn, mãi mãi ăn đời ở kiếp. Nào ngờ. Máu trong Hoán sôi sùng sục. Sao ngày ấy bọn lính dù không phục kích ở suối cạn cho Hoán một phát chết quách cho rồi? Dần dà Hoán tĩnh trí lại. Hoán cười chao chát. Thôi lẽ đời cũng phải, ân trả ân, oán trả oán. Cô Mít dù Hoán không hứa hẹn nhưng chả đợi Hoán mười mấy năm trời đó sao. Con gái có thì, tuổi xuân ném vào thời gian chờ đợi mòn mỏi, đến khi vỡ mộng cô Mít phải gạt nước mắt đi lấy một người đàn ông góa làng bên cho yên bề, yên phận. Đấy cô Mít có oán trách Hoán một lần nào không? Vậy thì tại sao Hoán phải điên giận vì Lài. Thiếu gì đàn bà, Hoán đâu đã phải là loại đàn ông bị xếp xó. Đầu ong ong. Hoán đi xuống cánh đồng Mả thắp hương trên mộ mẹ. Tiện gặp trâu cày. Hoán lội xuống thử vài đường. Mùi bùn sục nao nao. Thấp thoáng bóng các bà, các cô làm cỏ, tát nước. Đầu Hoán lại quay cuồng. Mùi bùn ấy Hoán đã từng nhớ nhung khao khát. Và kia nữa tấm lưng ong dưới lần vải gụ rịn rịn mồ hôi. Mít…Lài… không phải. Hoán vùng bỏ chạy. Quá khứ tích tụ trăm nghìn kỷ niệm đau xót dồn dập như trọng pháo nã vào đầu Hoán. Hoán ốm liệt. Phục bệnh xong. Hoán lần mò xuống ủy ban xã gặp tay bạn cùng nhập ngũ giờ là phó chủ tịch thường trực. Vị cán bộ xã tròn mắt khi Hoán bày tỏ ý định bỏ làng ra đi. Anh ta thuyết phục mãi. Hoán vẫn nhất mực khăng khăng. Hoán về nhà gọi người anh chi trên sang nói gọn lỏn:

- Hương hỏa nhà tôi, mả chẳng được dài nên phúc đức thất tán. Tôi đã quyết dịnh. Anh cho cháu sang đây ở. Trông cậy vào anh đèn khói cho nhà đỡ lạnh lẽo phải tội.

Người anh rơm rớm nước mắt:

-Thím ấy trót phụ bạc cũng vì hoàn cảnh. Chú đừng đi. Khổ đâu bằng nỗi khổ tha phương, ở nhà còn anh, còn em, còn hàng xóm láng giềng.

- Biết thế nhưng tôi không chịu nổi – Hoán thở dài – Còn nó, hoàn cảnh gì, con nặc nô tệ bạc, xin đừng ai nhắc đến.

Mắt Hoán lại hoa lên. Hoán gạt mớ đom đóm đỏ nhìn xuống tay mình. Trong ấy là những sợi tóc rụng của Lài bợt bạt vì sốt rét.

Chao ôi, đời người đen bạc. Đôi lúc Hoán cũng chạnh nhớ đến làng xóm. Nhưng yếu đuối ấy tan rất nhanh trong những ngày lầm lụi kế sau của Hoán. Hoán sống được bằng chính sự quên lãng mọi vướng víu của kỷ niệm buồn thảm. Quên, quên hết. Đời giả dối, người lọc lừa. Hoán tự chốt chặt cánh cửa trái tim mình. Không tiếp xúc, không quan hệ, có chăng chỉ là mưu cầu cho miếng ăn tồn tại. Hoán không tìm Lài và cũng không đến với bất cứ một người đàn bà nào khác. Thấm thoắt đã gần chục năm trời…

Bữa cơm tối nay, Hoán cạn hết hươu rượu. Miệng vẫn nhàn nhạt, thòm thèm. Hoán vốn không uống được nhiều, mặc dù ngày nào Hoán cũng uống. Rượu với Hoán không phải là liều thuốc giải sầu mà chỉ như một thói quen cố hữu của cảnh sống nhếch nhác. Hoán rót thêm một hươu nữa tu thẳng. Đắng. Buồn thế. Gã chủ đi rồi. Gã đi một chuyến dài ngày vào phía Nam, hình như để áp-phe một cú gì đấy. Gã dặn dò Hoán kỹ lưỡng về mọi công việc cần thiết. Vợ gã về hồi chiều, Hoán chưa biết mặt. Nghe mấy người làm công nói ả cũng biền biệt suốt, hết vào Nam lại ra Bắc. Phải thôi, dân buôn nhiều tiền đâu có tiếc thời gian, sức lực để đẻ thêm thật nhiều tiền nữa. Càng uống Hoán càng thấy buồn. Nỗi buồn lớn dần khiến rượu nhạt thếch. Hoán lại trở về với tâm trạng chán chường. Niềm hứng khởi của mấy ngày gần đây với đàn lợn và niềm tin dè dặt vào gã chủ kỳ lạ đã biến mất trong Hoán “ Toàn bọn chó đểu, sạch sẽ gì? – Hoán lẩm bẩm –hóa ra cùng một phường ăn cắp” . Chiều nay tình cờ giúp người lái xe “công nông” chuyển gạo nhập kho để nghiền thành cám ăn cho lợn? Hoán phát hiện ra những bao gạo trắng muốt. Gạo ở đâu ra nhiều thế? Tinh loại gạo ngon. Cơm niêu nước lọ gần chục năm trời ở cái thành phố này, Hoán biết gạo đâu phải là thứ thừa thãi, dành cho gia súc. Vốn chẳng tò mò nhưng thấy gã lái xe tóc bợn gáy bết bệt đất cát mồ hôi, luôn mồm giục vác nhanh, khiến Hoán ngứa ngáy miệng:

-Cứ tà tà, trộm cắp gì đâu mà vội.

-Hả? – Gã lái xe tức thì quăng bịch bao gạo vãi tung tóe. Giọng gã xoe xoe đầy tức giận: – Gạo của đám xế lương thực đường dài “chọc tiết” . Không trộm cắp lấy đâu ra giá rẻ như bèo? Gạo người ăn chẳng đủ. Hừ … cao đạo …. Này nói cho mà biết… ông mà tố thì rũ tù cả nút.

Hoán cụp mắt nín thít. Thân phận tôi tớ làm công biết gì mà nói? Công đoạn nhập gạo trước đây do lão chủ đảm nhiệm. Hoán lặng lẽ gom chỗ gạo rơi rồi bỏ về nhà. Buổi tối Hoán bỏ việc nằm bệt. Bây giờ Hoán không còn khái niệm tự hào bản thân nhưng thực tình lâu nay Hoán vẫn sống bằng chính sức lao động của mình. Nằm chán, Hoán vòng xuống chuồng nuôi. Con lợn lai thấy chủ, cào cào hai chân trước, rít ư ử. Hình như cặp mắt nó nhòe nhòe. Hoán thấy thương nó. Dẫu là con vật nhưng nó với Hoán nặng tình nặng nghĩa. Mình có lỗi – Hoán nghĩ – tưởng giam thân vào chỗ tử tế, nào ngờ… Chao ôi, đắng quá. Hoán cứ ngồi nhâm nhi mãi. Người buồn đến với rượu như kẻ mù tìm cây gậy dắt. Đúng lúc người Hoán bồng bềnh, đầu ngất ngưởng như cái bong bóng chứa khí thì có tiếng bước chân nhè nhẹ. Tiếng cánh cửa bị chốt lại còn nhẹ hơn thế. Mùi thơm ngầy ngậy lan tỏa nhanh chóng át hẳn hơi rượu nồng nặc. Hoán xoay người nhìn lại. Một người đàn bà. Hoán bỗng giật bắn người, chồm hẳn dậy, vọt qua mâm cơm. Cảm giác say tan biến như bọt xà phòng. Hoán giật mạnh tóc mai để định thần. Không phải ảo giác. Người đàn bà mũm mĩm thơm tho, hồng hào đứng trước mặt Hoán chính là Lài. Cổ họng Hoán tắc nghẹn. Bất ngờ quá, Hoán đứng chôn chân. Lài nhoen nhỏen:

-Anh không ngờ em ở đây phải không?

Giọng nói thân quen sau bao xa cách cay đắng làm Hoán thức tỉnh. Thì ra là mày! Con phản bội ! Đồ đĩ điếm ! Mày đẩy ụp một đời tao, tao sẽ băm vằm mày. Khát vọng trả thù mãnh liệt. Nhưng lạ chưa kìa, vừa tiến được một bước chân, Hoán đã dừng phắt, tay buông thõng. Lài khóc. Những giọt nước mắt lã chã. Sạch sẽ thay nước mắt đàn bà. Nó tẩy rửa mọi thứ. Nó làm tắt ngấm ngọn lửa phẫn nộ cháy bùng trong Hoán. Giọng Lài thẽ thọt. Lài kể, kể hết. Rằng mẹ chết, Lài một thân một mình. Tiếng rằng quê chồng nhưng có khác gì đâu đất khách quê người.. Lài bơ vơ quá. Rồi Lài đi không phải vì làng xóm đối xử tệ bạc. Quê Hoán nổi tiếng ưu ái các gia đình chính sách. Lài đi lúc đầu cũng chỉ định làm một công việc nhì nhằng gì đấy làm cho qua ngày, đợi Hoán. Lài gặp Lanh. Thấy Lài ốm o, nhếch nhác. Lanh thương tình nhận vào làm hợp đồng. Lúc ấy Lanh là giám đốc xí nghiệp xây dựng. Sung sướng gì kiếp phụ nề. Lương ít ỏi, mặt dầu dãi nắng mưa. Khổ thế nhưng Lài vẫn cặm cụi, hơn thế lại lam làm, chịu khó. Giám đốc Lanh động lòng trắc ẩn. Lành được làm tạp dịch cơ quan. Rồi biên chế chính thức. Rồi được cất nhắc văn thư. Nhàn nhã, người cũng đổi khác. Mầm sốt tiệt nọc, Lài phổng phao, da dẻ dịu lại, tóc lại trổ đầy đặn, mượt mà. Đùng một cái xí nghiệp rầm rĩ giám đốc “có vấn đề” với văn thư. Vợ Lanh dẫn con đến làm um xí nghiệp. Rồi thanh tra, rồi kiểm điểm, kết cục Lanh tạm thời bị đình chỉ chức vụ giám đốc. Thế là phải, đạo đức bao giờ chả là tiêu chuẩn hàng đầu của phẩm chất lãnh đạo. Oan thế. Lài kêu cứu để Lanh khỏi vì mình mang lụy. Ai tin? Biết đâu được ma ăn cỗ. Vợ Lanh trỏ mặt Lài: “ Gái đĩ già mồm. Bà thì cho tan tành xác pháo”

Một đêm mưa gió, Lài tìm đến với Lanh. Chịu ơn sâu Lài biết lấy gì mà trả. Thôi thì lấy tình đáp nghĩa. Đằng nào thì cũng đã chịu tiếng tăm. Lài cắn răng theo Lanh, và dần dà cơ nghiệp này được xây dựng.

Hoán kiên nhẫn nghe Lài kể lể. Lài vẫn nhớ đến Hoán ư? Thì đấy Lài chả lập mưu để Lanh đón cái gã lái lợn kiết xác về đây là gì? Chao ôi, Lài định nối duyên chồng vợ với Hoán bằng cách ấy ư? Sấm sét nổ trong đầu Hoán.

-Thế còn Lanh, ông chủ lợn, chồng cô ?

-Hắn đi suốt. Từ ngày có tiền hắn chỉ biết đến tiền thôi. Xưa tốt là thế Bây giờ vợ con hắn còn bị bỏ mặc. Thân em thấm tháp gì.

- Cô nói vẫn nhớ tôi ? – Hoán gặng – Sao biết tôi ở đây cô không đến ?

- Để làm gì ? Để chúng mình tiếp tục sống nghèo ? Không! Cơ nghiệp này không thể để mặc cho mình hắn hưởng. Chúng mình đã mất tất cả chẳng nhẽ không được cái gì? Em van anh! Hãy nghe em! ở đây anh sẽ sống sung sướng. Em sẽ bù đắp cho anh tất cả!

Người lảo đảo. Hoán hoang mang đến cùng cực. Lài xáp đến. Hình ảnh Lanh thoáng nhanh. Một giây ám ảnh. Rồi thì thằng đàn ông trong Hoán đã chiến thắng.

Hoán tỉnh dậy lúc gà gáy sáng. Đầu nặng như đeo đá. Lài nằm bên cạnh ngáy đều đặn. Trong ánh điện Hoán thấy rõ khuôn mặt Lài. như không có chuyện gì xảy ra. Lài ngủ bình thản, đầy thỏa mãn… Hoán lập cập tìm bình nước lọc tu ừng ực. Lại ngắm. Thân hình ngồn ngộn phơi dưới ánh điện trắng đục. Hóan thấy lờm lợm. Cuộc đời thế này ư? Sao con người chuộc lỗi lầm giản đơn đến thế? Trời ơi, lấy lầm lỗi chuộc lại lầm lỗi, cuộc đời công bằng thật. Lanh cướp mất Lài của Hoán và bây giờ Hoán giật lại Lài. Đằng nào hơn? Đằng nào cũng thế. Bảo rằng Hoán khổ thì Lanh chắc sướng hơn chưa? Lanh cũng mất đấy chứ! Có ai được mà không mất? Lòng dạ Hoán rối bời. Có một cái gì bất ổn tràn ngập trong lòng Hoán. Người đàn bà nằm kia không phải là Lài. Lài của Hoán đã chết từ lâu rồi. Bỗng có tiếng đập cửa dồn dập. Lài đang ngủ say chồm dậy, vơ vội quần áo mặc. Hoán mở cửa, Lanh chạy ào vào, thở hổn hển:

-Mất mẹ nó hết rồi! – Bỗng Lanh gầm lên – Khốn nạn chưa kìa, mất cả chuyến hàng, thoát được về đây lại gặp cảnh này.

Lanh nhìn Hoán. Cái nhìn lạ lùng. Làm sao có thể tin được con vợ giàu sang quý phái của mình lại ăn nằm nhanh đến thế với gã lai lợn bẩn thỉu. Lài đã tỉnh hẳn, mặt hốt hoảng. Hoán đứng sừng sững như cột điện chôn giữa ruộng nước. Ngày xưa Từ Hải chết đứng cũng chỉ như thế này là cùng. Có lẽ đau đớn hơn cả là Lanh, mắt gã từ xoe xoe trở thành bất động. Phải mất đến một lúc âm thanh dồn tắc nghẹn trong cuống họng Lanh mới phào ra được. Cụt lủn mỗi câu: “Súc vật”! Hoán vẫn đứng như thế không ân hận chẳng sợ hãi. Lanh nhắc lại cặp từ trần trụi vừa rồi lần nữa. Bất ngờ Lài nhảy bổ vào giữa hai người. Giọng rin rít hướng về Lanh: “Ai là súc vật? Anh có biết ai đây không? Đây là chồng tôi. Chính anh, cả tôi nữa, đã cướp mất của anh ta cuộc sống. Không vợ con, gia đình, không một nơi ẩn náu. Súc vật! Những thằng người như tôi và anh có hơn gì súc vật.”. Lài sụp xuống òa khóc. Hai người đàn ông mắt hướng vào nhau. Nét bối rối xuất hiện. Nước mắt Lài chảy xuống làm sụt lở từng mảng đất dưới chân Hoán. Súc vật! Chao ôi, Lanh và Lài đều đúng cả. Bấy lâu nay, tuy không ý niệm nhưng Hoán vẫn mang máng rằng Hoán và con vật khốn khổ chung một kiếp sống. Một kiếp sống mong manh, mơ hồ, mọi thứ xảy ra trong tiềm thức sâu thẳm, không định hướng là gì nữa Hoán không biết, chỉ đến bây giờ Hoán mới được thức tỉnh. Súc vật. Hoán đã từng nhiều năm ở chiến trường oanh liệt, Hoán đã từng được sống đẹp đẽ. Vậy mà mất hết. Vì cái gì? Hoán trân mắt hết nhìn Lanh lại nhìn Lài. Không một mảy may căm giận, không một mảy may xót xa. Hoán có cảm giác như người vừa trả xong món nợ. Quãng đời cũ vinh và nhục, sướng và khổ, thù hận căm ghét, mọi thứ đều tan biến vô nghĩa. Hoán nhìn thật kỹ Lài. Cái nhìn lạnh lẽo khủng khiếp khiến cả Lanh và Lài đều rùng mình, nhắm mắt. Mớ đom đóm đỏ lại xòe bay trước mắt. Hoán xòe tay. Chỉ có những nốt sần chai trên bàn tay thô ráp. Không còn nữa những sợi tóc rụng bợt bạt. Hoán quay người chậm rãi đi ra cửa. Tiếng lịch kịch mở cổng sắt của Hoán làm con vật tỉnh giấc chồm ngay lên thành chuồng. Hoán nhìn con vật. Mãi đến bây giờ lòng Hoán mơi trào lên nỗi xót xa. Thôi mày ở lại đây nhé. Đây là chỗ của mày. Dường như hiểu tất cả nó tru lên một tiếng dài thê thảm. Tiếng tru khao khát tiếc nuối. Không thể dừng được, Hoán vùng bỏ chạy. Tiếng con vật thảm thiết đuổi dài đằng sau: “Dừng lại đi. Tàn nhẫn thay con người. Vì cái gì mà các người độc ác đánh đổi mọi thứ. Dừng lại đi…”

Hoán chạy thục mạng ngược lại hành trình đôi bạn vẫn đi vào thành phố kiếm ăn. Từ hôm ấy, mọi người không còn ai thấy Hoán nữa. Số phận Hoán lập tức bị lãng quên. Có ai đó nhớ lại chỉ tiếc rằng: Có một con lợn lai tốt giống đến thế đã không còn tồn tại.

Mõ làng Kình

Thánh họ!

Thằng Khoái chất chưởng hai bước dọc, một bước ngang trên con đường đá dẫn vào chợ Đông của làng Kình. Nó đang say. Trời tối đen, lấp lóe ánh điện vàng vọt hắt đến từ các nhà dân trong làng nhưng khu chợ vẫn ngòm ngòm hoang hắt. Con đường đá đã được bê tông hóa bề mặt bằng phẳng nhờ vố làng Kình bán ruộng năm kia vẫn khiến thằng Khoái vấp suýt ngã mấy lần. Ấy là vì cái thân hình lỏng ngỏng của nó đang mất cân bằng nghiêm trọng. Rượu, rượu đấy mà, phải tròm trèm tẩn ngót hai cút ruợu thuốc ở nhà lão Khuếnh rồi quất thêm mấy vại bia cỏ quán con Lư thì làm gì mà chả mất trọng lượng. Người nó cứ nhẹ bầng bẫng như bấc, có lúc thằng Khoái còn tưởng nó đang bay, giật mình phải dừng lại ngồi thụp xuống soàn soạt cào cái thủ tóc ngắn tũn nham nhở và giật giật túm râu cằm lơ thơ để định thần. Cứ mỗi lần vấp, dù không cố tình nó lại vuột ra cái câu đệm cửa miệng có một không hai làm nên thương hiệu của nó.

Thánh họ! Không ít lần ông chú Khuếnh trưởng thôn của nó đã nổi điên vì câu chửi đệm này. Ấy là những lần vì câu chửi đó mà mấy việc tày đình chú cháu nó lén lút làm bị bại lộ. Cái đận thằng Khoái nhận lệnh chỉ huy đám thằng Cò đeo khăn bịt mặt tẩn cảnh cáo một thằng trai làng Kịch sang tìm hiểu gái làng Kình. Thằng kia bị dần nhừ tử, chịu chết không thể biết kẻ nào đánh mình thì cái mồm báo hại của thằng Khoái chẳng hiểu sao lại phọt ra đúng cái từ khốn ấy. Thế có khác gì lạy ông tôi ở bụi này. Thánh họ! Rồi cái vố đêm áp năm dạo Tết trước, thằng Khoái trét bùn vào người hóa trang, lặn lội dùng thuốc sâu đánh bả ao cá nhà thằng Tu gỗ. Việc trót lọt nhưng đến lúc đang chuồi ra khỏi ao trong bộ dạng sùng sũng bùn đất, vô tình gặp đám người làng Kịch truy đuổi kẻ nào đó dắt trộm trâu, nó buộc phải trốn vào trong ruộng lúa bị đỉa, bị muỗi xúm vào đánh hội đồng, tức khí thằng Khoái lại buột ra câu chửi trời đánh kia thế là bị tóm đứ đừ tại trận. Thật là chưa khảo đã xưng, tình ngay lý gian, nó buộc phải khai ra cái vố thuốc sâu để tránh tội trộm trâu, lộ bem hết cả. Đận ấy lão Khuếnh tức điên lên vả đôm đốp vào mặt nó:

-Tiên nhân mày, thánh họ là cái thứ gì hử?

Biết là cái gì thì chả đến cái thá nó dùng. Chính bản thân nó cũng không biết mình dùng từ bao giờ. Câu chửi đệm chẳng giống ai, cả làng nghe mãi cũng quen nhĩ, thậm chí thấy vui tai dù không có bất cứ ai dùng theo nó. Giống thằng Khoái là một điều xỉ nhục ở làng Kình.

Mãi rồi thằng Khoái cũng mò về được cái điếm canh chợ, thực chất là một cái lều gạch nó chiếm dụng làm nhà ở từ lâu. Chiều nay ông chú Khuếnh trưởng thôn hết thời của nó triệu tập đám lâu la lại nhà uống ruợu. Chỉ mỗi mình thằng Khoái đến. Lũ thằng Cò nghe tin lão Bài, mụ Đương ra đầu thú công an huyện chắc là sợ thọt hột lên cổ, tịnh chẳng thấy một mống nào lai vãng đến. Thằng Khoái thì khác. Đầu óc dẫu có ngu ngơ đến mấy nó vẫn biết cái sự vắng mặt kia là điều chẳng nên làm. Nó biết tỏng không đến cũng chẳng xong, ông chú yêu tinh đời nào chịu để nó yên, vả lại quen miệng rồi, đến đó được đớp, được hít đã mồm, lại được tiếng trung thành tội gì không đến. Quả nhiên, trái với lệ thường chú Khuếnh của nó không hề buông một lời chửi mắng chỉ rặt vỗ về rất đỗi dịu ngọt, đãi đằng nó một mâm rượu tú hụ, thậm chí lão còn tung ra một nhời động trời mà có chết ngay tắp lự hoặc là bố nó đội mồ sống lại thằng Khoái cũng chả dám tin. Và sướng quá, nó tót ngay ra quán con Lư quất thêm mấy khiệp bia cỏ để ăn mừng.

Vừa loạng quạng đẩy cánh cửa liếp khép hờ, móc chiếc bật lửa ga soi tìm cái công tắc điện thì thằng Khoái thấy nhoáng nhoàng một bóng người ngồi thu lu đen thẫm trên chiếc chõng tre giữa nhà. Không kịp hét lên, nó đã đổ vật xuống vì sợ. Cái khối đen thẫm ấy chẳng phải ai khác chính là ông chú trưởng thôn của nó. Lão Khuếnh!

Thánh họ! Thằng Khoái lầu bầu rồi lồm cồm bò dậy. Phải mọi khi xem nó đã bị chửi té tát nhưng bây giờ thì không. Lão Khuếnh chỉ nhếch mép cười nhạt:

-Nốc vã lắm vào, nhìn kìa khướt cò bợ thế kia thì làm thế chó nào được việc nhớn.

Thằng Khoái chợt hăng máu:

-Việc gì cháu cũng sực được hết. Thánh họ!

Lão Khuếnh cười nhạt chìa ra chiếc sổ đỏ. Thằng Khoái mắt sáng rực:

-Chú không bỡn cháu?

-Tao không còn thì giờ để bỡn hiểu không. Thứ này sẽ là của mày.

Người thằng Khoái run bần bật. Vì ruợu, dĩ nhiên nhưng cái chính là vì chiếc sổ đỏ kia. Hồi chiều, chú Khuếnh nó đang dưng bảo thương nó cũng là họ Phạm cả nhưng mày là thằng cơ nhỡ, chú sẽ cho mày ngôi nhà này. Nghĩa là ngôi nhà lão Khuếnh đang ở, bề thế cỡ nhất nhì làng Kình. Sướng nhưng thằng Khoái cóc tin. Vẫn biết chú nó đang sa cơ nhưng tin thế quái nào được, cả một cơ ngơi thế kia. Nhưng bây giờ…

-Tao sẽ viết văn tự cho mày quyền sở hữu ngôi nhà của tao. Đây sổ đỏ đây.

Thằng Khoái chìa tay đón. Run run. Vừa chạm vào được tấm bìa thì tay lão Khuếnh rụt phắt.

-Mày phải làm một việc này, gọi là có đi có lại.

Lão Khuếnh ấn vào tay thằng Khoái chiếc can nhựa một lít đựng đầy thứ nước vàng nhờ nhờ. Rượu, một can rượu này thì bõ bèn gì, lớn bằng mười thế này cũng chấp. Thằng Khoái nắm chắc chiếc can.

-Xong béng, chơi ngay!

Lão Khuếnh cười hậc hậc trong họng.

-Xăng đấy, mày phải đốt nhà thờ họ đêm nay. Đốt nhà thờ họ, hiểu chưa?

Mắt Khuếnh xanh lẹt, vòng vèo những tia sáng ma quái. Thằng Khoái lùi lại, chiếc can rời khỏi tay rớt bịch xuống nền nhà. Nó tỉnh hẳn tựa hồ như có phép thần, trong người nó tiệt không còn một giọt rượu. Thánh họ!

*

* *

Ba năm trước, làng Kình xảy ra một việc, sau này dân làng gọi đó là sự biến lịch sử. Ấy là đận làng bầu trưởng thôn. Ông Bát tộc trưởng họ Phạm, dòng họ có nhà thờ tổ lâu năm và to nhất làng Kình được xã hiệp thương bầu vào chức vụ thôn. Cũng lúc đó lão Khuyếnh, người họ Phạm chi dưới đang dưng đùng đùng đứng ra ứng cử. Lão Khuếnh hơn chục năm trước từng làm đến phó chủ nhiệm hợp tác xã Kình Hợp bị cách chức vì biển thủ công quỹ. Chao ôi là rách việc, cái chức vụ trưởng thôn xưa nay nào có ma nào mết giờ cùng lúc hai người trong một họ nhảy ra tỷ thí đã là sự lạ, thêm nữa dân làng Kình vốn chất phác không ai thù ghét gì những cũng chưa dễ quên cái phốt tham ô kia của lão Khuyếnh, thành thử cả làng ộn ạo lên vì chuyện này. Ông Bát rành rành là người tử tế được mọi người kính trọng, chưa bầu nhưng đã chắc đến tám chục phần trăm chiến thắng. Nhưng không, nhẽ đời cứ thuận chiều như vậy thì còn nói làm gì. Lão Khuyếnh, sau hơn chục năm mất chức vẫn hậm hị vì cú cản đường hoạn lộ ấy. Thâm tâm lão coi khinh tất cả đám cán bộ làng xã. Đám ấy chẳng qua là một lũ bất tài vớ được vận, cầm được cờ trong tay mà thôi, người giỏi phải là Khuếnh. Và cái ghế trưởng thôn dẫu cò con thì cũng là cơ hội cuối đời cho lão thể hiện mình.

Gió hun hút lùa vào gian nhà trống hoác. Người thằng Khoái rung như nhập đồng. Mắt nó hút vào chiếc can nhựa đang chình ình giữa nhà. Thánh họ! Nó lại buột chửi. Ông chú họ quý hóa của nó đã biến đi từ lúc nào. Đốt nhà thờ? Tại sao lại phải đốt? Trí óc mịt mùng của nó không tài nào hiểu được. Đã đành là lão Khuếnh đã bại trận trước bác Bát trưởng họ nhưng cái nhà thờ thì có liên quan gì đến những việc ấy. Nhà thờ họ! Từ nhỏ ngôi nhà tôn nghiêm ấy đã gắn bó với thằng Khoái. Dẫu chỉ là đứa mồ côi phải ở ngoài chợ nhưng có đận nào việc họ trong nhà thờ thằng Khoái lại vắng mặt.

Lạnh, lạnh quá, chả còn mấy nả nữa là Tết. Tay thằng Khoái như vô thức lần mò chạm vào lần vỏ can nhựa lạnh ngắc. Phát ra tiếng óc ách của thứ nước chết người kia. Thánh họ, sao lại là xăng mà không phải là ruợu. Chỉ cần một cú quẹt…

Cái đận bầu cử, thằng Khoái được chú Khuếnh nó triệu đến. Vài ba chén rượu, cộng với mấy lời ngọt nhạt là thằng Khoái biết tỏng chú nó muốn gì. Đầu đặc nhưng từ bé đến lớn nó rặt một mình lê la đầu làng cuối chợ nên những việc thế này nó tinh lắm. Khi bố nó mất vì một tai nạn nơi đất khách nó mới chỉ lên bẩy tuổi, lúc đó nó cũng có nhà có cửa hẳn hoi. Sau vì mẹ nó lấy chồng rồi hai vợ chồng dắt díu bán nhà, bán cửa mang nó đi tít cù tận một xứ mạn ngược. Lẽ ra thằng Khoái đã không phải vất vưởng thế này nếu như mẹ nó không tự nhiên phát bệnh chết ngỏm. Thế là hết, mới chục tuổi đầu nó thành người bơ vơ không ai thân thích khi ông chú dượng lại rước về một người đàn bà mới. May là thằng Khoái còn nhớ tên quê nên mới mọ mẫm mò về được làng Kình. Bấy giờ nghèo quá, họ Phạm dẫu lớn cũng không ai cưu nổi thằng Khoái. Thêm nữa vốn lông bông, lại phiêu dạt xứ người, ở đậu nhà người nên thằng Khoái đích thị là một đứa bất kham. Đất cát bấy giờ dễ dàng, họ Phạm cắt cho thằng Khoái một miếng sát nhà thờ cử người trong họ luân phiên chăm sóc hẳn hoi nhưng rút cục không thể ai chịu được nó. Nói công bằng nó cũng chả chịu để ai làm chân giám hộ hờ như vậy. Thằng Khoái lần mò ra chợ. Nơi đó dễ dàng kiếm được những miếng ăn ngay tắp lự. Và rồi nó ở miết chiếm luôn cái điếm canh chợ cũ làm nhà cứ thế sống đến bây giờ yên ổn hơn ba chục tuổi đầu.

Thằng Khoái được lão Khuếnh giao nhiệm vụ cùng một lũ lâu la rặt những thằng bất hảo trong làng. Đó là những thanh niên hoặc lêu lổng hoặc vô công rồi nghề, lười biếng nhưng lại thích ăn hút. Loại này thời nào cũng nhiều vô kể. Đám vệ binh đời mới này thấy lợi lập tức bập ngay vào lão Khuếnh. Chúng cùng với cánh thân tín của Khuếnh vừa dùng tiền mua chuộc các suất bầu cử bằng giá phiếu bầu cụ thể là hai yến thóc, vừa dọa nạt đánh bả gà chó, đốn cây phá ruộng với những ai không ủng hộ. Tiền tươi thóc thật, khối người chép miệng nhận lời vì tham, số khác đành bỏ phiếu cho Khuếnh với cái nhẽ không dây với hủi cho yên thân. Và thế là lão Khuếnh đắc cử.

Đội tự quản, phải rồi đội tự quản. Thánh họ! Đó là một trang đời mới của thằng Khoái. Cũng chả biết tự quản là cái gì nhưng rõ ràng nó được đeo băng đỏ làm chân trật tự khu chợ, quyền bính ngang hàng với nhân viên thu thuế chợ của xã. Đang ở phận làm thuê dẫu có ngang ngược đến mấy trừ những lúc tắt mắt thó thuổng củ khoai, chén rượu còn thì nó cũng phải lao động è cổ. Trong chợ, ai cần mang vác gánh gồng chỉ cần gọi Khoái, Khoái là nó vọt đến ngay, nhanh như điện. Nó làm hùng hục, sáng chiều quét dọn chợ cộng thêm với những việc sai bảo lặt vặt đảm bảo đủ một cuộc sống lam lũ nhưng cũng chẳng đến nỗi nào. Dân cư trong làng từ nhỏ đã quen gọi nó là mõ, thằng mõ Khoái. Mõ thì đã sao, miễn là có miếng đút miệng đủ sống. Chưa bao giờ thằng Khoái lại phải vân vi vì cái chức mõ ấy. Nhưng thời thế đã đổi, thân phận của nó đã đổi. Nhất là sau cái vố chú lão Khuếnh lập mưu bán đất.

Đận đất cát này thằng Khoái phục lão Khuếnh sát đất. Tù mù lừa trên dối dưới thế nào mà chỉ ít ngày lão Khuếnh với sự trợ giúp của tay Bài đã huy động được từ mỗi khẩu mấy chục mét vuông thành miếng đất mỡ màng mấy hecta ven đường tỉnh lộ. Thời buổi đất quý hơn vàng, lão Khuếnh thậm thụt móc nối với một doanh nghiệp sân sau của đám quan hàng tỉnh bán đứt thu về một khoản tiền khổng lồ. Dăm bẩy tỉ thôi nhưng đó là một cái giá khủng khiếp ở làng Kình. Có tiền lão chia ngay cho dân làng theo suất đinh đóng đất.

Thằng Khoái cũng được chia một suất. Nó sắm hẳn chiếc bìu bằng vải có dây thắt hẳn hoi nhét số tiền tự dưng mà có vào đó, dắt hẳn trong bẽm quần cho chắc. Thánh họ, đời lên hương rồi. Có tiền, thằng Khoái mon men đến quán con Lư, nghe nói là ca ve trên thành phố giải nghệ về mở quán bia cỏ. Ca ve cũng tốt, dù sao đã về làng là nó muốn hoàn lương. Thân phận thằng mõ may mà còn có con ca ve dạt về để vá víu thành đôi nếu không chắc nó chết già thành kiếp trai tân chứ chả bỡn. Cũng dần lên, dập xuống chết đi sống lại bao bận thằng Khoái mới được con Lư chấp nhận. Cái lý của con bé lúc nhận lời làm thằng Khoái choáng. Ai đời nó dám bảo, thôi thì mạt cưa đành gặp mướp đắng vậy, thân tôi khốn nạn đã đành giờ lại choàng phải ông thì đúng là không còn trời đất gì cả. Nghe nói thế, thằng Khoái có chút tự ái nhưng rồi cái đầu đất của nó lập tức lóe sáng. Thánh họ, kể cả kẻ cắp gặp bà già đây cũng chấp nhé, miễn là được sờ soạng, hôn hít, được đực được cái…khe khe.

Thằng Khoái nhấc hẳn chiếc can lên. Óc ách. Mới đây thôi lão Khuếnh đã hứa sẽ làm đám cưới cho nó và con Lư. Nó sẽ có một gia đình. Ui chao, gia đình. Mới nghĩ đến đó thằng Khoái đã sướng mê lịm. Nó sẽ được làm chồng. Con Lư làm vợ. Rồi con cái nữa nhé. Thánh họ, mõ đấy, thì đã sao nào. Chiều nay lúc ngang qua chợ Đông, đám dân chợ đã xỏ xiên chửi đổng kiếp mõ của nó. Thằng Khoái biết ông chú Khuếnh của nó đã hết thời. Sau nhiệm kỳ trưởng thôn hai năm rưỡi đầu tiên, bán đất trót lọt, cầm cự đấu đá với chính quyền lần hồi, lão Khuếnh không được ra ửng cử tiếp. Thằng Khoái không hiểu vì sao chú nó cay cú đến thế, không được bầu trưởng thôn thì đã chết ai. Vậy mà chú nó phá bầu cử, tiếp tục bám chức vụ. Khổ nỗi bác Bát trưởng họ lại được cử làm trưởng thôn lâm thời. Hai trưởng thôn giằng co, nồi da nấu thịt, họ Phạm rồi làng Kình hệt như bị trận bão lớn tràn qua. Bao nhiêu chuyện đau lòng.

Nằm trong chăn thằng Khoái biết rõ chú Khuếnh nó, ngoài thì cao đạo thế thôi chứ cái vụ bán đất, ngoài việc chi phí làm đường làng, xây miếu, chia tiền cho các hộ bán đất, chú nó cũng vớ bẫm. Đám thằng Bài con Đương còn tệ hơn, can tội ăn chặn hỏa hồng những mấy trăm triệu bị chính chú Khuếnh nó phát giác, khống chế. Vỡ lở hết rồi, phen này thì lũ ấy tù mọt gông. Đám thằng Bài sợ dân làng Kình hơn sợ pháp luật đã phải đâm đầu vào công an huyện đầu thú. Còn chú Khuếnh nó…

Thằng Khoái bỗng đứng bật dậy, không làm theo chắc chắn nó sẽ bị lão Khuếnh trả thù. Mà thằng Khoái thì vô kể tội. Dẫu bác Bát đã tuyên bố khoan hồng cho đám ăn theo như nó và bọn thằng Cò nhưng lão Khuếnh mà tố tội nó ra thì có giời cứu. Cái sổ đỏ nữa, cả đời nó không nhà không cửa. Giờ sắp lấy vợ, chỉ bật đến quẹt một cái, có giời biết. Thánh họ!

Thằng Khoái nhấc can xăng. Bây giờ cái can nhẹ bầng bẫng.

*

* *

Nhà thờ họ Phạm sầm sẫm trong đêm. Thằng Khoái dò dẫm đến. Đường đi lối lại thông tỏ, chó má thuộc hơi biết tên, nó dễ dàng lẻn vào ngách sau hậu cung. Bắt đầu từ đây. Rưới một lượt xăng và châm lửa thế là xong. Tay thằng Khoái lần vào chiếc nút. Run quá, sao lại thế này. Nhà thờ. Cái sổ đỏ. Chập chờn chao đảo quay cuồng. Nó nghiến chặt răng vận sức, chiếc nút chuyển từ từ. Bỗng thằng Khoái dừng tay. Có tiếng chân người. Tiếng bật công tắc đến tách. Đèn sáng. Thằng Khoái nép sát người vào cửa. Nó đã nhìn rõ hai người. Chính là chú Khuếnh và bác Bát.

-Ông muốn gì?

Đấy là tiếng bác Bát. Thằng Khoái nhìn rõ cái nhếch mép của chú Khuếnh.

-Đừng nghĩ tôi đã cùng đường. Các người không làm gì nổi tôi đâu.

-Nói đi, ông ra nhà thờ giờ này làm gì? Ông muốn gì?

-Muốn gì à? Tôi muốn ông và cả cái họ Phạm này tàn lụi. Làng Kình nữa. Tất cả lụi tàn.

-Sao ông hiểm độc thế? Ai đã làm gì ông nào. Họ Phạm và làng Kình này đã cưu mang ông.

Tiếng Khuếnh gầm lên.

-Tôi cóc cần. Tôi muốn thế. Hãy đợi đấy, không lâu nữa đâu, tai ứng sẽ giáng xuống các người.

Ông Bát cũng gằn giọng, tiếng vổng dần.

-Vậy thì nghe đây, trước nhà thờ tiên tổ, tôi tuyên bố kẻ lạc loài là ông từ giờ bị tước bỏ họ Phạm. Ông đúng là kẻ lạc loài khác máu tanh lòng. Họ Phạm đã cho ông tên họ, rút cục ông vẫn chỉ là đứa con nuôi bất nhân lấy oán trả ân…

Tai thằng Khoái ù đi. Lão Khuếnh là con nuôi. Lão Khuếnh không phải là người họ Phạm. Thảo nào lão dám đốt nhà thờ. Thánh họ. Cái sổ đỏ mờ dần trong mắt nó chuyển sang màu đen kịt. Thằng Khoái xách can xăng vùng chạy một mạch về quán bia cỏ con Lư.

Đang ngủ, con Lư vùng dậy. Chưa kịp nói gì thì thằng Khoái đã òa lên khóc. Con Lư giằng lấy can xăng đưa lên mũi ngửi, giậm chân bành bạch:

-Nốc lắm vào say thế kia cơ mà. Xăng! Đêm hôm lại định đi đốt nhà ai thế? Hay là định đốt mình?

Thằng Khoái chợt quỳ xuống ôm lấy chân người yêu.

-Tôi định đốt nhà thờ họ đổi lấy cái nhà của lão Khuếnh để cưới mình. Nhưng không, tôi là người họ Phạm. Tôi là người họ Phạm. Không bao giờ, không bao giờ…Thánh họ!

Ruợu hồi lại trong máu thằng Khoái khiến nó nổi cơn say gào khóc thê thảm. Con Lư gỡ tay thằng Khoái xa xót nhìn nó. Bất chợt con Lư ngồi thụp xuống, ôm thốc lấy thằng Khoái dúi đầu nó vào bộ ngực đồ sộ như người mẹ dỗ dành con trẻ khát sữa. Tiếng con Lư bật ra rưng rưng:

-Đồ mõ!

*

* *

Làng Kình hôm sau bình thản đón nhận tin lão Khuếnh đã bỏ trốn trong đêm. Áp Tết, thằng Khoái rời bỏ cái điếm chợ dọn về nhà con Lư ở. Một đám cưới nho nhỏ do ông Bát trưởng tộc họ Phạm ở làng Kình đứng ra tổ chức ngay sân nhà thờ họ./.

Tuyệt phả

Chưa bao giờ lịch sử họ Hoàng ở làng Hạ lại diễn ra lễ nhập phả ảm đạm đến thế. Tiết thu, trời trong văn vắt, nắng hanh hao, mây vón lại, nén thành lớp, ẩn rệp phía núi xa mờ. Bỗng nhiên trời đùng đùng đổi tính. Không phải bão. Bão thì nói làm qué gì. Thứ cuồng phong ấy từ xửa xưa đã bất trị. Sự đùng đùng này nhẹ thôi, tựa như thói đỏng đảnh của kẻ có quyền ban phát, hứng lên đùa chơi một tẹo. Trời mà, làm gì chả được. Thế mới phiền. Đang đâu mưa lâp phây, rây đủ ba ngày. Gió đông bắc bị nhốt gần năm, xổng cũi. Không mạnh, nhưng cũng rì rì như cối xay vớ phải thóc lép ngày mùa màng thất bát. Chưa lạnh, nhưng cứ dầm mưa xem, cũng sụt sịt tê cả lưỡi. Mới đầu tháng Tám ta, chối thế. Điều này có trái cựa hơn. Suốt ba ngày mưa, trời xám xịt hẳn đành một nhẽ, đằng này cứ ung ủng, đỏ bầm. Mưa dăng thành màn lờn lợt, lờn lợt hệt như có máu loang. Nước hứng được trong như nước mưa thường cũng chả ai dám dùng. Cả làng xậm xị:

- Điềm trời rồi! Họ Hoàng nguy mất!

Họ Hoàng xưa nay nhất thống ở làng Hạ. Mấy họ khác cũng lớn ra trò nhưng đều phải ngước mắt nhìn. Đất làng Hạ này, từ thời củ tỉ âm ti chả nói làm gì. Lâu quá, bố ai nhớ được. Kể từ ngày họ Hoàng dạt đến lập nghiệp, tinh đất chỉ độc phát cho họ ấy. Đấy là nhờ cuốn gia phả lưu giữ từng đời, nên lớp người làng hậu sinh mới biết được tỉ mỉ họ Hoàng phát như thế nào. Cũng phải thôi, người họ khác, kẻ ác tâm, cay cú, cũng chẳng dám suy bì. Người ta con dòng, cháu giống, công lại đẻ ra công, kèn cựa nỗi gì được. Nguyên tổ họ Hoàng là một ông quan triều Nguyễn, chức cũng bé thôi, lập được công lao gì đấy được phong tặng. Đất làng Hạ, trên bến, dưới thuyền, ruộng vườn màu mỡ, ông quan kia bèn khoanh đất phong, neo lại lập nghiệp. Đời nọ nối đời kia, chả đời nào họ Hoàng không rạng rỡ. Đến đời gần nhất, họ Hoàng vẫn giữ được vai vế. Tuy nhiên, so với đời trước có khí kém một tẹo. Điều ấy cũng chẳng sao, nếu như không xảy ra chuyện tày đình này.

Họ Hoàng ở làng Hạ có hai chi: Hoàng Vũ và Hoàng Viết. Nguyên ông quan triều Nguyễn lúc nhận đất phong có cắm riêng một khoảnh đất, nguyện rằng: Nếu trời để mắt cho ta nhìn thấy con cái công thành, danh toại, sẽ lập đền, đúc tượng để con cháu thờ phụng. Quả nhiên hai con trai ông đều vinh hiển. Người lớn đậu tiến sĩ, nức tiếng một vùng văn hay, chữ tốt. Người nhỏ có công đánh cướp, dẹp yên suốt dải Hoàng Giang được phong làm đô tướng. Đền thờ họ Hoàng bởi vậy đặt tượng của hai ông văn võ. Ông văn mặt trắng, râu dài. Ông võ mắt phượng, mày ngài, phừng phừng sát khí. Ông quan tổ họ, thành thử chỉ có một bài vị và chiếc ngai rỗng ở giữa đền. Hai chi họ Hoàng cùng tồn tại song song ở làng Hạ. Mỗi chi phát theo ngạch riêng của mình. Có điều, cả hai chi đều dùng chung một tộc phả, không suy bì trên dưới. Đó cũng là một điều lạ, hiếm có ở một dòng họ lớn.

Lễ nhập phả cách rách lắm. Con cháu cả họ tề tựu không thiếu một ai ở nhà thờ tổ. Trống thúc như làng có hội. Lễ này chỉ có, khi một trưởng chi khuất bóng, cần phải cử người thay thế. Bây giờ mới là lúc ghi chép các việc vào gia phả. Lần nhập này dành cho chi Hoàng Vũ. Nói lần nhập phả này ảm đạm bởi không chỉ thời tiết quái đản mà còn vì lẽ nữa, người lên vai chi trưởng, oái ăm thay lại chỉ là thằng bé mười bảy tuổi. Vì sao cả một chi họ lớn đến thế, quyền bính lại rơi vào tay một thằng oắt con? Không riêng gì chi Hoàng Vũ mà cả họ Hoàng coi đấy là nỗi nhục.

*

* *

Từ tinh mơ, trưởng chi Hoàng Viết đã lọ mọ ra nhà thờ tổ để kiểm tra công việc. Rạp đã căng đủ, bàn ghế sẵn sàng, đèn đuốc tinh tươm. Công việc chuẩn bị coi như ổn. Trời vẫn lất phất mưa, nhưng đã dịu đi nhiều. Gớm, bảnh mắt đã có vô số trẻ con trong họ chầu chực. Bọn này thính lắm, nhạy còn hơn cả ruồi bắt được hơi mật. Thấy ông, bọn trẻ tản ngay. Tiếng của chúng láo pháo:

- Lão Mộc!

- Lão cụt vòi đến, chuồn đi, chúng mày ơi!

Ngày thường, ông đã phì cười, thậm chí đùa với chúng, nhưng hôm nay thì ông cáu. Cáu thật sự, ông gầm tưởng rách cả họng:

- Cút ngay!

Ông Mộc bước vào sân. Con lợn lai ngót một tạ đã chọc tiết, nằm oải ở góc sân, miệng ngoác ra vô tư, bất chấp nồi nước sôi ùng ục, hơi bốc nghi ngút ở bên cạnh. Đúng là lợn chết không sợ nước sôi. Ông Mộc dắng:

- Phương phưởng lên nhé, sắp khai lễ rồi.

Chả ma nào trả lời, mỗi ông lão Boong độc thân, giữ nhà thờ tổ lúi húi chất củi vào bếp. Xúm xít ở gian giữa một đám thanh niên bâu vào cỗ bài Tây. Bọn này lại đỏ, đen sát phạt đây. Khốn nạn, cái làng Hạ của ông độ rày đổ đốn, bài bạc liên miên. Ông Mộc quát:

- Thôi, giải tán, xong lễ tha hồ mà choảng nhau, bây giờ ai về việc nấy.

Đám cờ bạc dùng dằng. Thằng Hùng, tóc đỏ quạch, cợp gáy, mắt vằn lên:

- Đéo gì mà ồn ã! Lễ với chả lạt, sáng không xong thì chiều.

Ông Mộc bước đi ngay. Lòng ông quặn tưởng đứt từng khúc ruột. Thằng Hùng chính là người hôm nay được nhập vào tộc phả làm trưởng chi Hoàng Vũ. Bỗng ông Boong níu tay ông Mộc, thầm thào:

- Tôi thấy lạ lắm. Cái gò hình như cụng cựa. Mấy hôm rày, đêm nào lân tinh cũng phụt sáng, khiếp quá đi mất. Lạy trời! Còn điều gì nữa đây.

- Cụ có thắp hương đều không?

- Vẫn đều đặn, già này không dám sao nhãng.

- Cụ cho con xin nắm hương.

Ông Mộc bệt trước gò đất. Sè sè một cái nấm, to hơn mộ thường. Ông thắp hương khấn. Buồn bã vô chừng. Nấm đất này có trước cả nhà thờ họ Hoàng. Lâu lắm rồi, dạo ấy dân làng Hạ còn chưa phải cắp rá đi xin thiên hạ. Chuyện thế này: Một chiều đúng vào 30 Tết, có một người già, chân tay lẩy bẩy không biết từ đâu đến, dạt vào làng. Tay bị, tay gậy, người này lần mò hết xóm dưới, ngõ trên. Không một nhà nào cho, ai cũng xua đuổi lão ăn mày. Tất cả còn đang chuẩn bị cho bữa cỗ tất niên. Đang dưng lại có gậy, có bị đến nhà, hãm thế, xua đi là phải. Người già mò ra đình. Chức sắc trong làng tụ cả ở đấy. Thế này thì quá quắt thật, hai tuần đinh lực lưỡng được lệnh điệu lão ăn mày ra khỏi làng ngay tắp lự. Sáng hôm sau người ta thấy lão già chết còng queo ở ngay rìa làng. Chưa kịp chôn cất thì trời động. Mùng một Tết mà sấm chớp ầm ầm. Thây lão già, mối đùn thành gò, chỉ một ngày đã rắn câng như đá ong. Chưa hết, năm ấy hỏa hoạn xảy khắp làng. Mùa lũ, nước ngập trắng đồng, lại thêm đê vỡ, cả làng Hạ, coi như sạch bách của nả. Đến đúng Tết, nhiều nhà vét không còn hột thóc, phải vác rá đi ăn xin thiên hạ. Từ đấy, ngôi mả mối của lão ăn mày thành gò ông Địa, không bao giờ ngớt hương khói. Làng phải cử hẳn một người chăm sóc việc cúng lễ để trừ hậu họa cho cả làng. Đến lúc ông tổ họ Hoàng cắm đất xây nhà thờ họ thì ở làng Hạ, ăn xin đã trở thành một nghề bắt buộc. Nhà khá giả, mỗi năm vẫn phải cử người vác rá để thiên hạ nhón tay làm phúc. Người nghèo khổ, ngửa tay đành một nhẽ chẳng nói làm gì. Ông tổ họ Hoàng cắm nhà thờ họ ngay cạnh gò ông Địa. Hôm động thổ, cũng lễ lạt, hương khói. Đoạn, ông chỉ tay vào gò:

- Ta tuy là hậu sinh cũng xin được đôi lời phải trái cùng Người. Dân làng Hạ mắc lỗi không cứu Người trong cơn cùng phẫn. Vì lỗi ấy mà cả làng phải chịu họa tay gậy, tay bị. Vẫn biết ân oán phân minh là phải đạo. Nhưng Người biết một mà không biết hai, bởi gốc của đạo là nhân. Người lấy nỗi hận riêng để làm nhục trăm họ sao gọi là quân tử được. Nay họ Hoàng ta về đây lập nghiệp, nếu Người lấy nhân làm gốc không quấy nhiễu, di lụy đến dân làng thì nắm xương tàn của Người còn chỗ để cúng tế. Nhược bằng… đừng trách ta vô phép.

Như có một phép mầu, ngôi mộ mối sau đó lún xuống nhỏ lại như bây giờ. Người họ Hoàng đảm luôn cho làng việc hương khói gò ông Địa. Từ đó mưa thuận, gió hòa, làng Hạ ngày một sung túc, trù phú. Có điều, trừ người họ Hoàng, các họ khác vẫn lác đác có người phải tay gậy, tay bị. Có người vì sinh kế. Có người vì thói quen. Có cả người vì mê tín sợ ông Địa trả thù hơn là muốn chuộc lỗi của tiền nhân. Làng Hạ nổi tiếng khắp vùng trước hết vì cái nghề chả mấy cao quý kia.

*

* *

Đám bạc giải tán. Thằng Hùng mắt đỏ kè, vuốt vuốt, xếp những tờ bạc nhàu nát:

- Đen còn hơn cuốc. Đi tong mất trăm bạc. A! Bác Mộc, cháu mệt quá, nghỉ một lúc nhé.

- Nhưng sắp đến giờ lễ rồi.

- Ui dào, cứ vẽ vời mãi. Giờ nào lễ là do mình. Bổng lộc gì mà giờ với giấc. Tôi đi ngủ đây. Ai thích cứ việc làm.

Nó dông thẳng. Ông lão Boong lắc đầu:

- Tôi lo lắm! Họ nhà mình mạt thế này, tội to lắm đấy. Hôm trước, tôi thấy cụ tổ hiện về quở trách.

- Thôi được, cụ cứ chuẩn bị gia phả cho con đi.

- Vâng. Thôi mọi việc ở cả tay anh. Lo liệu bề nào là do anh định đoạt.

Đúng thế, gánh nặng của dòng họ giờ đây chất cả lên vai ông Mộc. Bất giác mắt ông nhòe đi, vì nước mưa hay vì lệ trào cũng không biết nữa. Chi Hoàng Vũ, thằng Hùng thì thế, lỗ mỗ, thất học, suốt ngày lêu lổng. Cũng chả trách nó. Nó trẻ, lại cùng lúc phải chịu ba cái tang lớn. Còn chi Hoàng Viết của ông? Có cách nào khác nữa, thôi đành mang tội với tổ tông.

Năm 1965 chàng trai Hoàng Viết Mộc vừa tốt nghiệp cấp 3 trường huyện thì chiến tranh phá hoại lan đến vùng quê yên tĩnh này. Cùng bạn bè trang lứa, Mộc hăng hái tình nguyện lên đường nhập ngũ. Buổi tiễn đưa, ông bố – cựu vệ quốc đoàn, đang là trưởng ban thi đua tỉnh cứ dặn dò mãi:

- Họ Hoàng ta có truyền thống yêu nước, cả nhà đều đi theo cách mạng. Con phải xứng đáng cái danh ấy. Sau này, hết chiến tranh, con là trưởng phải cố gánh vác công việc dòng họ.

Năm 1975, sau một lèo ở chiến trường. Mộc về làng với vô số viết thương trên người và tấm huy hiệu thương binh đỏ chói. Việc đầu tiên Mộc sang chi Hoàng Vũ bàn với ông chú tu sửa đền thờ tổ. Ông này bằng trang với bố Mộc, là ông nội thằng Hùng bây giờ, đang bị ốm nặng. Trước đây ông tham gia du kích nổi tiếng vì thành tích phá tề, diệt ác. Ông chú gật gù:

- Cháu nghĩ phải lắm. Không gì bằng cái gốc của mình. Hiềm một nỗi tao gần đất, xa trời, lực cùn, sức kiệt. Để thủng thẳng rồi bàn với em nó.

Em nó tức là con của ông chú. Ba đứa con trai cả thảy. Đứa lớn đi lính cùng đợt với Mộc – thằng Hồng, tiểu đoàn phó vận tải Trường Sơn, giờ chuyển ngành làm đội trưởng đội xe hàng hóa của tỉnh. Nghe xong, thằng Hồng thong thả móc bao Capstan (cái thời Tam Đảo, Sông Cầu bán phân phối, người hút loại thuốc kia là xịn lắm):

- Tôi với ông đều là lính cả. Chết thì đã xanh mồ. Sống cũng đã đỏ ngực. Bao nhiêu năm chiến trường, giờ là lúc phải nghĩ đến làm ăn kinh tế để ấm thân. Việc tu bổ, ôi dào cốt là mình đây này, nhà cao, cửa rộng mới bõ. Còn các cụ, phong kiến ấy mà, thờ cúng thế nào xong thôi, vẽ vời làm gì cho nhọc xác.

- Không được. Đấy là tổ tiên, dòng dõi của mình!

- Hả? Tổ tiên hả? Mấy ông quan ấy có sống lại cũng xoay xở hết. Còn dòng dõi! Hí! Hí! Nghe nói, ông bị mảnh pháo tiện bay mất ông “tam sự” rồi kia mà?

Ngực ông Mộc dâng đầy nước:

- Đấy là chuyện riêng của tôi, đừng ai thọc vào. Việc đền thờ tôi đã quyết. Chi Hoàng Vũ không tham gia thì thôi.

- Chết, ông anh đừng nóng. Tôi nói thế thôi. Ông một chi, tôi một chi. Ta bình đẳng. Đây, tiền đây. Không làm không sao, nhưng đã làm phải thật oách. Chơi cho ra chơi. Tiền tôi không thiếu.

Việc nhà thờ tổ suôn sẻ. Bố của Hồng mất đúng vào đận ấy. Lễ nhập phả phải tiến hành cùng lúc cho cả hai chi. Hoàng Vũ Hồng tung tiền làm một lễ nhập phả tưng bừng. Đã lâu lắm họ Hoàng lại được dịp mát mặt. Đúng là con cháu thơm, tiên tổ được nhờ.

Xong mọi việc, Mộc gặp riêng người em trai đang học khoa Văn, Đại học Tổng hợp:

- Chú Thỏa! Anh bàn với chú một việc hệ trọng. Nhà mình mấy bà chị gái không tính, còn hai anh em. Chú phải đẻ cho anh một đứa con trai để nối dõi.

Đang đi học, chưa vợ, Thỏa trợn tròn mắt:

- Anh nói cái gì? Chị Mạc người yêu anh, đợi anh đằng đẵng cả chục năm trường, sao anh không cưới, lại bắt em cưới, lại bắt em phải đẻ?

Mộc vạch quần:

- Chú nhìn đây!

Thỏa rú lên. Giọng Mộc vẫn lạnh ngắt:

- Anh bị pháo giập lúc cắt lộ 4, chiếm Tân An. Mảnh pháo tiện đứt “cái kia”. Đã tưởng chết, may cứu được. Bây giờ phải dùng vòi cao su để tiểu tiện.

- Trời! Còn chị Mạc?

- Anh đã dứt khoát rồi. Người đàn bà, việc sinh con, đẻ cái là việc hệ trọng. Vẫn biết cô ấy, chờ đợi ngần ấy năm, phải là người son sắt thế nào, nhưng để làm đàn ông, anh cũng không có khả năng, huống hồ… Dùng dằng mãi, Mạc mới chịu. Anh đành mang tội với người ta. Tuần sau cô ấy đi thoát ly.

- Chị ấy yêu anh lắm.

- Biết, nhưng làm thế nào được. Sau này, nếu cô ta không lấy chồng, anh sẽ có trách nhiệm. Thế nhé?

- Nhưng…

- Không nhưng gì cả. Chú sẽ lấy vợ làng, mọi việc gia đình tôi lo liệu hết. Chú cứ yên tâm học tập.

- Sao anh không đi học? Anh học giỏi thế, đã muộn đâu.

- Để làm gì? Chú học, con chú học thế là đủ.

Thỏa bưng mặt khóc:

- Vâng! Em xin vâng lời anh!

Đám cưới được tiến hành ngay sau đó. Vợ Thỏa, người xóm dưới, xinh xắn, khỏe mạnh. Tất nhiên khỏe mạnh là tiêu chuẩn đầu tiên của ông trưởng chi Hoàng Viết. Ngày Thỏa tốt nghiệp đại học về nhận công tác ở một tờ báo trên Thủ đô thì vợ sinh con. Một đứa bé gái ba ký rưỡi. Thỏa có vẻ buồn. Mộc gạt đi:

- Con gái đầu lòng là tốt rồi. Đừng vớ vẩn phụ công thím ấy.

Năm năm sau, Thỏa đã là phóng viên có tiếng. Danh của Thỏa đã bay về tận làng Hạ. Người làng trầm trồ “Đúng là con dòng cháu giống”. Vợ Thỏa đẻ. Lại con gái. Ba cân tám. Vợ Thỏa nựng con:

- Sao không thêm “cái ngẩu” để bác Mộc mừng.

Thỏa mắng át:

- Cô nói gì thế? Nghe thấy bác Mộc thêm buồn.

Miệng mắng, nhưng bụng Thỏa rất thương vợ. Lạ thế, đám cưới chấm nhưng lại chả tù mù tẹo nào. Thỏa rất hợp vợ. Dĩ nhiên, tình yêu nảy nở nhanh. Người có học như Thỏa không tình yêu, sao sống nổi với vợ một ngày. Thỏa nói đúng. Bác Mộc buồn thật. Người sọm hẳn, Mộc già nhanh trông thấy. Mộc ít khi ở nhà, hay ra nhà thờ tổ ngồi với lão Boong. Lão Boong, người gàn gàn, độc thân từ nhỏ, thấy Mộc thế bấm bụng không dám nói. Lão biết nỗi đau của Mộc. Bấy giờ là những năm tám mươi đầy cam go. Một hôm, Thỏa ra nhà thờ tổ tìm Mộc. Thấy anh mình im lìm bất động trước bàn thờ dòng họ, lòng Thỏa cồn lên. Thỏa đặt tay lên vai Mộc:

- Sức nhà em còn, bằng mọi giá, em sẽ đẻ cho anh một đứa cháu trai.

Thỏa rùng mình khi thấy mặt anh mình như nặn bằng sáp, nhập nhòa trong khói hương mờ ảo.

- Em biết đang trong thời buổi khó khăn, nhưng trời sinh voi sinh cỏ, lo gì.

Mộc từ từ xoay người, vít đầu em trai lại gần mình, buông từng tiếng. Giọng không đủ sinh khí để lạnh nữa, mà nghèn nghẹn, đầm đẫm nước:

- Tôi cấm! Sức khỏe của thím, sự nghiệp của của chú, tương lai của các cháu, tôi cấm!

Người Mộc như òa vỡ. Mộc ôm lấy Thỏa:

- Con cháu họ Hoàng ở làng Hạ, này còn đông lắm. Chú đừng nghĩ ngợi đến anh, mà tổn hại cho mọi đường.

Chuyện này, chẳng hiểu tại sao lại lan ra ngoài. Kẻ nào đó đặt bài vè rõ dài để trẻ con ê a:

Ve vẻ vè ve

Cái vè lão Mộc

Giữ vai đốc tộc

Lại cụt mất vòi

Muốn có con voi

Thành ra con ếch 

Sau chuyện đó, Mộc trở lại bình thường, cần mẫn như xưa, hết lòng vì gia đình, tộc họ.

Lại nói đến Hoàng Vũ Hồng. Chức đội trưởng vận tải hàng hóa tỉnh khiến Hồng bốc lên nhanh chóng. Dạo đó, chỉ là lái xe thường cũng đủ bẫm. Nhà nào có phúc mới vớ được ông rể là lính xế. Hồng có hai em trai đều nhét vào đội xe hết. Chi Hoàng Vũ át hẳn chi Hoàng Viết đang lận đận. Ba anh em xây nhà mái bằng to nhất làng. Tiền bạc nghe nói không để đâu cho hết. Sập gụ, tủ chè, xa lông… trong nhà không thiếu thức gì. Hồng cưới cô vợ làm kế toán đội. Đẻ đợt đầu đã trúng phóc thằng Hùng. Mừng không để đâu cho hết. Được một dạo, dù đã giàu nứt vách, song vì quá ham tiền, ba anh em dây vào buôn hàng quốc cấm bị tóm cả đám. Phút chốc nước lã ra sông hết. Vợ Hồng vơ váo tiền bạch tếch mất tăm để lại thằng Hùng cù bơ cù bất. Ra tù, Hồng mở cửa hàng sửa chữa xe đạp, xe máy, lại cưới cô vợ mới. Cô này là người làng, nom khù khù như gấu, mắn đẻ, sòn sòn cho ra lò một lô xích xông con gái. Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai, gia cảnh Hồng đã sa sút càng kiệt quệ. Vài năm gần đây, thất chí Hồng bỏ nhà đi làm ăn xa, mong phục lại cơ nghiệp. Hì hụi thế nào, đánh quen được với đám đào vàng ở mạn ngược, cũng nhì nhằng kiếm được. Tiền bạc, lại đồng ra đồng vào xủng xoẻng. Giá kể biết dừng ở đấy cũng không đến nỗi. Hồng vác về nhà nửa lọ vàng cốm, chiêu tập hai ông em trai lái xe dạo trước cùng một số trai tráng ham giàu lập băng, xưng bưởng, lên núi khai thác riêng. Lời huênh hoang chưa ráo nước bọt thì lũ ập về cuốn đi cả lán. Ba anh em chết thảm thương không tìm thấy xác. Nghiễm nhiên thằng Hùng mười bảy tuổi lên vai chi trưởng Hoàng Vũ sau cái chết của cha và chú.

*

* *

- Bố sư khỉ, mưa dai thế không biết!

Lão Boong lầu bầu. Chẳng qua lão xót bộ cánh bằng tơ màu vàng Thỏa mới biếu đang xúng xính trên người, chứ lão ngán gì mưa. Họ mạc đã tề tựu đông kín nhà thờ tổ. Đông lắm, phải căng thêm tấm bạt lớn ngoài sân mới đủ chỗ. Tùng tùng… trống từng nhịp lúc khoan thai, lúc hối hả, lúc liên hồi. Trẻ con la hét ầm ĩ. Người lớn dù đang đau buồn vì cái chết của ba anh em Hồng vẫn không giấu được nét hồ hởi. Chuyện, gần hai chục năm nay mới lại có một lễ nhập phả. Vợ con của mấy người chết, khăn trắng rợp như đàn cò đậu. Ông Mộc hét lạc cả giọng:

- Trật tự, trật tự nào. Cụ Boong biện gia phả lên ban đi. Mời các cụ vào làm lễ.

Bỗng có tiếng thất thanh:

- “Khổ chủ” đâu?

Ờ nhỉ mỗi vai quan trọng nhất là trưởng chi Hùng lại vắng mặt. Vẫn tiếng ông Mộc:

- Đứa nào về nhà gọi đi!

Đứa em gái sát Hùng te tái chạy đi ngay. Chỉ một loáng đã thấy nó lộn trở lại, nước mắt đầm đìa, mếu máo:

- Nó đánh cháu!

Một bên má con bé hằn đủ năm đầu ngón tay. Ông Mộc thở dài. Đám lễ lại nhốn nháo như ong vỡ tổ. Đích thân ông Mộc phải về gọi, nhưng không dám dùng quyền bề trên để quát nạt. Làm thế, nó Chí Phèo lên chỉ có dại mặt. Xưa nay, nó nào có được dạy dỗ. Bố thì chỉ biết đến tiền, con hỏng là phải. Thằng Hùng xét về mặt ngỗ ngược, ham hố lại chả bằng mấy cha chú nó. Nứt mắt đã không tha hàng xóm từ củ khoai đến con gà, con chó. Bây giờ nó còn đánh đu với đám choai choai ở thị xã. Toàn dạng bất hảo cả, thôi, cứ tránh thì hơn. Ông Mộc phải ngọt ngào phân tích, thậm chí năn nỉ, nó mới chịu đi. Ông chặc lưỡi: “Gì thì gì, cứ phải xong việc”.

Thằng Hùng đánh bộ quân phục Tầu, xanh mướt như lá chuối, khệnh khạng đi vào. Mắt nó gườm gườm không sót một ai. Đám các cụ thở phào nhẹ nhõm. Nó mà không ra coi như buổi lễ không thành.

Tùng! Tùng! Tùng!… Trống thúc dồn dập hơn. Lão Boong run run lật cuốn gia phả bìa bọc da. Mực cũng đã mài xong. Màn lễ tổ tiên cũng đã kết thúc. Ngoài kia mùi xào nấu ngào ngạt bay vào tận chính điện. Tiếng chặt thịt côm cốp xen vào nhịp trống. Nghe rõ ai đó nuốt nước bọt ực ực. Lão Boong dõng dạc:

- Trưởng chi Hoàng Vũ Hùng lạy tạ tổ tiên chín lạy.

Thằng Hùng lạy, rõ là miễn cưỡng. Cụ trưởng lễ(cao tuổi nhất họ) giọng lạc đi:

- Bắt đầu nhập, viết này…

- Nhưng ai viết? – Lão Boong xen vào.

- Khổ, thằng Thỏa chứ còn ai. Nó là nhà văn, chữ tốt. Viết này… năm… tháng… ngày…. Hoàng Vũ Hồng cùng… đi đào vàng ở Kim Bắc bị lũ cuốn chết mất xác…

Oà một lượt, đàn cò trắng đang đậu phất phới. Cái chết đau đớn bỗng dưng bị khơi lại ở chốn linh thiêng làm cho các thân nhân không thể cầm lòng. Tiếng khóc, tiếng hờ, thống thiết cất lên:

- Ối anh ơi, bỏ vợ, bỏ con đi đâu không về…

- Ối cha ơi là cha…

Thằng Hùng đang quỳ cũng đứng phắt dậy.

- Im cái mồm đi. Khóc mãi còn chưa chán. Suốt ruột!

Dáng chừng cả nhà đều sợ nó, tiếng khóc, tiếng hờ bặt ngay. Thằng Hùng trừng mắt vào cụ trưởng lễ:

- Chết là hết, việc gì phải kỹ càng thế. Thối!

Cụ trưởng lễ không thay đổi nét mặt:

- Đấy là lệ tộc, di từ tiên tổ lại. Không ai được cưỡng.

Thằng Hùng nổi đóa:

- Vứt mẹ cái lệ ấy đi. Ba mạng người thêm cả ba con lợn tạ ngoài kia, chưa đủ hay sao mà còn bắt bẻ luật lệ.

Im lặng đến rợn người. Họ Hoàng chưa bao giờ phải chứng kiến cảnh này, lặng phắc như trúng gió độc hết lượt. Tiếng cụ trưởng lễ âm âm:

- Chi trưởng Hoàng Vũ Hùng không được hàm hồ, vô lễ kẻo mắc tội với tổ tiên. Nào, tiếp tục nhập phả.

Có cảm giác hai con ngươi trắng dã của thằng Hùng sắp bật ra khỏi hốc mắt. Nó lừ lừ tiến sát mặt cụ trưởng lễ. Cả Mộc và Thỏa vội chạy lại phòng bất trắc. Bỗng thằng Hùng hét lên. Kinh lắm, như không phải tiếng người:

- Này, thì tổ tiên này. Này, thì gia phả này. Hão! Thằng này cóc cần làm chi trưởng. Hão! Lúc đói nhăn răng nào có thấy tổ với tiên.

Thằng Hùng điên mất rồi. Mắt nó bây giờ hệt như mắt trâu chết ở sân đấu. Vừa hét nó vừa chồm giật cuốn gia phả trên ban thờ. Mộc và Thỏa xô vào giật lại. Nó hích hai người ngã bổ chửng. Không một ai dám xông vào nữa. Cụ trưởng lễ run lẩy bẩy:

- Hùng! Hùng… gia phả… gia phả…

Không hét nữa, thằng Hùng cười sằng sặc:

- Này thì gia phả – Chạy ra chỗ bếp lửa đang đun nồi nước xuýt sùng sục, nó vứt tuốt tuột những mảnh rời vào bếp. Than ôi, da thuộc, giấy dó gặp lửa hồng, than đượm, phút chốc lịch sử họ Hoàng ở làng Hạ thành than khói. Tất cả ngây ra. Chỉ có lão Boong lăn lộn trên mặt sân nhầy nhụa bùn đất. Lão vừa liều mạng thọc tay vào bếp để cứu gia phả. Lửa đã chặn tay lão lại.

Trời vẫn lây phây, lây phây. Mưa đã dịu đi nhiều, nhưng vẫn dăng màn lờn lợt, lờn lợt. Có thêm lửa ám vào, vệt máu loang trong màn mưa càng rõ.

*

* *

Hết mưa trời lại sáng. Hết nắng trời lại mưa. Dân làng Hạ ồn ã một dạo vì những sự kiện dồn dập đến với họ Hoàng sau đó. Sét đánh sạt mái nhà thờ tổ họ Hoàng phía ông quan võ mắt phượng, mày ngài đứng lẫm liệt. Lão Boong bị lửa táp khoèo một tay, miệng cấm khẩu, tuy vậy vẫn lo được việc hương đèn. Thằng Hùng bỏ nhà đi hẳn, nhập với bọn cướp ở Hà Nội bị công an bắt. Thỏa được điều về phụ trách báo văn nghệ tỉnh. Hai đứa con Thỏa, đứa lớn thi đậu vào Trường Tổng hợp, khoa Văn. Đứa nhỏ đoạt giải nhất văn “Hương cốm” học trò. Cả hai tạm coi như nối được nghiệp bố. Mộc đang ốm liệt giường thì Mạc về, sau gần hai chục năm lưu lạc. Có đứa con gái quãng mười tuổi giống Mạc như in. Có ai đó tò mò. Mạc trả lời tỉnh queo: “Con của anh Mộc”. Sau đó Mạc đón Mộc về ăn ở như vợ chồng. Đó là cặp đầu tiên của họ Hoàng lấy nhau không có đám cưới. Còn chuyện này mới lạ: mối ở đâu tụ về nhiều vô kể, đùn gò ông Địa. Lão Boong tất tả vẫn không diệt xuể. Gò bị mối đùn cao vồng, to khụ, lấn sang cả đất nhà thờ tổ họ Hoàng. Vụ giáp hạt, lẫn trong đoàn hành hương đi ăn xin thiên hạ của làng Hạ, có cả người thuộc chi Vũ họ Hoàng. Tất nhiên, đó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử của mình, họ Hoàng phải cắp rá./.

Bèo dạt mây trôi

Đông đang tàn.

Trời hửng, nhưng vẫn rét căm căm. Có thể nhìn thấy những vệt nắng mỏng manh, nhờn nhợt. Lũ cây xếp hàng dọc đường Thanh Niên, trút hết lá từ dạo nào, giờ nhẫn nhục chìa những thân cành khô khẳng chờ đợi mùa xuân đến. Không có gió, mặt hồ Tây phẳng như trải tấm voan mỏng mờ ảo. Lạnh, nhưng bờ hồ không đến nỗi quạnh vắng. Từng đôi, từng đôi một khoác tay nhau nhàn tản. Đó là những người yêu nhau thật sự. Chứ không ai dại gì đầy đọa thân xác lên đây hứng rét. Phần lớn các đôi đi vào những nhà hàng nổi có vỏ ngoài mốc thếch, thô kệch, như những cái hộp xếp cạnh nhau, chềnh ềnh nuốt gọn một dải hồ. Cạnh rìa, khu nhà thuyền vắng lặng. Mới mở cửa lại sau kỳ nghỉ đông, nhà thuyền chỉ hạ thuỷ mươi chiếc thuyền đôi. Khách đã thuê hết. Nhân viên nhà thuyền, một thanh niên quắt quặt, mặt mũi thâm tái cấm cẳn với đôi khách vừa đến. Họ là cặp đứng tuổi hiếm hoi trong chiều đông này.

- Hết thuyền rồi! – Tay gã xoeng xoẻng quấn vòng dây xích vào cửa. Miệng gã phào ra vu vơ – Rét bỏ bố…

Người khách đàn ông quay mặt ra hồ, chân đã dợm bước. Người khách đàn bà vẫn đứng trước cửa sắt, đôi mắt đựng đầy nài nỉ. Không biết gã nhà thuyền thấy gì mà chợt đổi thái độ. Gã tháo vòng xích, giọng chùng hẳn xuống:

- Chỉ còn thuyền bốn người, mái chèo rời, thuê không?

Vẫn không nói, thiếu phụ lặng lẽ gật.

Loay hoay đến mấy phút chiếc thuyền mới rời được khỏi cầu thuyền.

- Đi đâu? – Người đàn ông mệt mỏi, mắt vẫn nhìn xuống hồ.

- Thì đi – Người đàn bà mặt lạnh tanh như mặt hồ màu tro ướt, trả lời cũng chả mấy mặn mòi. Hai cái chèo vung lên. Họ ngồi bên nhau, nhưng so lệch một hàng ghế. Đây là thuyền của bốn người.

*

* *

Thuyền trôi. Kia là chùa Trấn Quốc. Người đàn bà lẩm nhẩm. Đường gạch dẫn vào chùa vẫn còn. Quanh chùa chẳng biết ai cấp vốn, đã thấy kè từ bao giờ hàng cọc ngăn để vượt thổ. Đất đắp ngổn ngang, nham nhở. Người đàn bà khe khẽ lắc đầu. Chợt buột mồm::

- Lại đất. Đâu đâu cũng đất. Thời buổi…

Người đàn ông quay sang quàu quạu:

- Dễ thường nhà chùa không cần đất. Hừ!

- Không…

Giọng thiếu phụ buông lửng. Chẳng đâu vào đâu. Hai mái chèo vẫn vung đều đặn. Không đều sức nên con thuyền lắc lư, chậm chạp. Chậm chạp, nhưng nó vẫn lừ ngừ tiến. Kia nữa, Tây Hồ. Nhà thấp thoáng. Biệt thự đấy. Nơi ấy, xưa không phải ai cũng được vào. Giờ thì khác. Cứ xuỳ ra một hai trăm ngàn là có vườn địa đàng trọn ngày đêm. Người đàn bà chép miệng. Gã cũng đã mò lên đấy. Chắc thế. Có điều người cùng ăn trái cấm không phải là mình. Người đàn ông mắt liếc xéo sang như đọc được ý nghĩ ấy, giận dữ vì oan ức, vụt mạnh mái chèo xuống nước.

- Ối!

Thiếu phụ kêu to khiến người đàn ông giật mình đánh rơi mái chèo. May mà rơi vào lòng thuyền. Mắt người đàn bà rơm rớm. Đám bèo bằng cái mâm cơm bị vụt trúng tơi tả. Lớp bèo gốc úa vàng mục rã ra cùng với đám rễ bùng nhùng đen mốc. Những thân bèo đeo lá xanh mướt dập dềnh.

Người đàn ông chép miệng:

- Tưởng gì?

Người đàn bà vớt lên một cánh bèo. Lần này nước mắt chị ứa ra thật. Tay chị run run vuốt khe khẽ vào lớp lá mỏng. Miệng chị chợt thốt ra:

- Ngày xưa…

Người đàn ông quay ngoắt lại. Người đàn bà vội buông rơi cánh bèo, bịt lấy mồm. Không kịp nữa rồi. Cái thì ấy có ở tất cả muôn loài.

*

* *

Ngày xưa. Người đàn ông quàu quạu này còn là một gã trai vô tư. Được một buổi bơi thuyền là cười hơn hớn. Gã lành lắm. Lại nghèo rớt. Được cái tốt bụng. Cái tốt suốt mười năm chung sống, người đàn bà vẫn ngờ ngợ. Hình như gã tốt chỉ vì nghèo. Đúng thế, thì còn cái gì khác ngoài lòng tốt để phân phát.

Ngày xưa. Người đàn bà đẹp lắm. Rõ là duyên phận tại trời. Không hiểu sao mình lại từ chối tất cả để nhận lời gã thật dễ dàng. Bắt đầu cũng từ một buổi chiều bơi thuyền thế này. Hôm ấy gã lấy mái chèo khều áp vào mạn thuyền một khóm bèo lạc. Bèo Hồ Tây mùa nào cũng cao ngồng, xanh mướt. Những thân bèo run rẩy. Lá bèo chấp chới. Chị reo thật khẽ:

- Ôi, dễ thương quá. Những cánh bèo mỏng manh. Chúng vẫy gọi nhau đấy.

Gã cười khì:

- Vẫy em thì có.

Chị nghe rõ tiếng thở dài lẫn trong câu than thở của gã: “Giá mình dược như cánh bèo vẫy vẫy”. Chỉ có thế chị đã cảm động. Không hiểu sao chị liều mình hôn nhẹ lên cánh bèo, khiến gã mặt đỏ lựng, xấu hổ.

Tiếng gã gắt gỏng cắt ngang luồng suy nghĩ của chị:

- Này, chèo đi đâu bây giờ?

Người đàn bà không đáp. Chị đang mụ mị. Tiếng người đàn ông căng nhức:

- Đi đâu? Cô lại đang hối hận ngày xưa phỏng?

Gã nói đúng. Không bao giờ gã nhầm cả. Gã đoán trúng mọi thầm kín của chị. Có vẻ thích thú, gã rút thuốc lá ra châm. Bụm khói to sụ trùm kín khoang thuyền. Người đàn bà ho sặc sụa. Chị vươn người định giật phắt điếu thuốc đang vắt vẻo trên mép gã. Nhưng lại thôi, ích gì. Tất cả đã muộn mằn.

Người đàn bà vảy mạnh mái chèo. Gà “à” lên một tiếng nho nhỏ và như nổi xung, gã thoăn thoắt vung tay liên tục. Con thuyền là là về phía bờ tây. Im lặng mất một lúc. Dường như cả hai đều thi gan nhau. Lại gã là người bỏ cuộc. Gã sốt ruột:

- Bắt đầu đi chứ?

- Vâng.

Nhưng bắt đầu từ cái gì. Mọi chuyện có vẻ đã xong xuôi cả. Không hợp nhau. Thế thôi. Không thể chịu đựng nổi nhau nữa. Thế thôi. Những gì cần, cả hai đã nói. Hai đứa con. Mười năm chung sống. Cũng có thời gian hạnh phúc và sau này sự nhàm chán, nghi kỵ chen vào. Tất cả chỉ có thể và bây giờ là quyết định chia tay vĩnh viễn. Dù sao cũng cần phải nhẹ nhàng – Người đàn bà nghĩ – Có một thời mình yêu gã đến thế. Thật ngu ngốc! Thuyền vẫn trôi. Đến lượt người đàn ông tự vấn. Cô ta đòi hỏi gì nữa ở mình nhỉ? Sự tận tuỵ. Cả lòng trung thành. Những thứ ấy có thừa. Thị muốn gì nhỉ? Gã cay cú vì thị từng tuyên bố thị mất, còn mình được. A ha, sao thị không hỏi mình. Mình sẽ trả lời, thị được cả đấy. Cả hai đều được. Thị được một tấm chồng, còn mình được sự phiền muộn. Rất cân bằng. Mười năm trời, mình nai lưng ra làm đủ mọi việc để vực gia đình. Cũng mười năm thị cật lực để vực mình từ trâu thành nghé. Nhưng mọi chuyện nào có đến nỗi gì mà dẫn đến kết cục này. Chắc không phải vì kinh tế. Thị không thuộc loại người hám tiền. Nếu hám chẳng đời nào thị lấy gã. Hay tại gã dạo này tỏ ra mệt mỏi, bẳn gắt. Có thể. Nhưng mặc kệ.

- Nào, muộn rồi. Bắt đầu đi. Cô muốn gì nữa?

Muộn thật. Vẫn chiều, nhưng nắng đã tắt. Bầu trời lại lười nhác sà xuống thấp, gà gật ngủ. Gió không biết từ đâu thổi mạnh dần. Người đàn bà không đáp. Tờ đơn chị đã để sẵn trong xắc. Chị biết cả hai đều sẵn sàng. Dù lúc viết đơn chị không tìm được một lý do cụ thể nào. Nhưng điều này thì chị thấy. Gã đã quá mệt mỏi. Cả chị nữa. Không dám mơ một miền yên tĩnh nào khác, mà đơn giản chỉ cần thoát, thoát càng nhanh, càng tốt. Dù chẳng biết thoát để làm gì.

Một đám bèo lừ lừ trôi đến. Chị quơ tay định đón. Chị thích bơi thuyền. Vì thế chị thích luôn những cánh bèo yếu ớt. Bèo Hồ Tây cả bốn mùa đều sẵn. Chị đã ngẫm nghĩ mãi trước khi quyết định buổi bơi thuyền cuối cùng này. Chị không ngờ gã chấp nhận một cách bình tĩnh. Cả hai đều hiểu rằng, kết thúc bằng một thú vui, nên thơ đến thế quả là đau đớn. Nhưng làm sao được. Bàn tay chị sắp chạm vào những cánh bèo mơn mởn chợt rụt phắt. Chị thấy một đám bèo lớn nữa cũng lừ lừ xô thẳng vào thuyền. Lại một đám nữa rất to đang lừng lững như sóng dâng đến. Mắt chị xanh rờn. Chị ngoắt nhìn vào phía bờ. Đây hình như là quãng Quảng Bá thì phải. Chỉ cách bờ non trăm mét, nhưng như có một phép phù thuỷ, cả vùng nước vừa quang đãng là thế giờ đã ken sít chặt bèo. Những đám bèo tiếp tục dạt về. Rất nhanh, con thuyền đã bị bèo vây kín. Người đàn ông ớn lạnh xương sống gạt mạnh mái chèo. Con thuyền như bị nêm cứng, không hề nhúc nhích. Những thân bèo đuồn đuỗn ngồng lên thách thức. Cả những cánh bèo. Mỏng mảnh thế, mới phút trước chúng còn đáng thương nhường nào, vậy mà… Sao chị lại có thể yêu chúng được nhỉ? Chị gạt tiếp. Cố mãi, nhưng con thuyền vẫn trơ lỳ. Nó đã bất lực đầu hàng đám bèo. Chị giận dữ kéo từng túm bèo vứt ra xa. Lộ ra một khoảng nước tròn nhỏ. Trong buốt. Có cả một bầu trời tun hủn ở đấy. Mây lậm lừ trôi. Chị hoảng hốt ngẩng nhìn. Cả bầu trời xám mọng cũng muốn ập hẳn xuống. Chị có cảm giác tất cả đang dồn sức bủa vây chị. Chị phóng mắt sang gã. Máu chị như sôi lên. Nãy giờ gã thỏa mãn tận hưởng nỗi sợ hãi của chị. Trời, gã lại lấy thuốc ra châm. Đồ đểu, không kìm giữ được, chị chồm người giật phắt điếu thuốc. Bị bất ngờ, con thuyền nghiêng hẳn về một phía. Nước ào vào. May mà gã kịp đẩy chị ngã ngồi xuống ghế chứ không cầm bằng là thuyền lật. Cú đẩy quá mạnh làm văng chiếc kính của chị xuống hồ. Chị vô vọng quờ tay theo. Không kịp. Thế là thôi, cận bốn đi-ốp, còn mắt mũi gì nữa. Người đàn bà thấy chập chờn trước mắt mình rặt sương và khói.

- Cô xuống cuối ngồi im để cân thuyền. Phải gạt bèo trở ra. Không còn cách nào khác.

Uất nghẹn cổ nhưng người đàn bà buộc phải nghe lời. Con thuyền nhích từng mét. Người đàn bà run cầm cập. Lạnh quá. Cú nước tràn ban nãy làm giầy chị ướt sũng. Nhưng chị lạnh vì sợ. Giữa rừng bèo, con thuyền thật bé nhỏ. Mắt chị lồi ra. Phía trước, gã áp hẳn xuống mũi thuyền. Hai tay gã quăng quật từng túm bèo lớn. Có lúc gã cáu, văng một tràng dài tục tĩu. Chị phớt lờ như người điếc. Mặc gã. Gã lần lượt cởi áo véc, áo len, rồi đến sơ mi. Chị thấy người gã loáng nhoáng mồ hôi. Gã thở hồng hộc. Tấm lưng to bè choán kín mũi thuyền. Lại có lúc gã quăng mạnh, văng cả bèo vào người chị. Chị rùng mình. Chùm rễ bèo lùng nhùng làm chị nhớ lại bộ râu yêu ma của quỷ lùn Tréc-nô-mo trong cổ tích. Ngày nhỏ cứ nghĩ đến đoạn ấy là chị sợ rúm người. Nỗi sợ bây giờ tăng lên gấp đôi. Chị thấy mình thật dại. Bỗng dưng lại kéo gã vào cuộc chơi ngu ngốc này. Hình như gió thổi mạnh hơn. Rừng bèo vẫn dày đặc. Nếu trời tối? Ý nghĩ này làm nghẹn cứng tim chị. Mắt chị hoa lên. Trong mớ đom đóm đỏ, chị nhận thấy có một chiếc cầu vồng trắng mỏng mảnh. Chị dụi mắt. Hóa ra đấy là tia nước như sợi chỉ từ một lỗ châm kim ở sườn thuyền văng vào. Chết mất. Nếu thuyền thủng? Trời ơi, chị nghĩ đến con. Đứa lớn mới lên chín. Chúng nó sẽ ra sao nếu không có cả chị và gã. Không, nếu thuyền chìm gã có thể thoát được. Gã khỏe thế, lại biết bơi. Nhưng chắc gì gã sẽ bỏ rơi chị. Gã đuểnh đoảng, cục cằn nhưng tốt bụng. Cứ cho là không còn gì nữa, chị là người dưng đi, gã cũng không bỏ mặc chị. Chị biết thế. Nhất định gã sẽ cứu và thế là cả hai cùng chết. Chị sợ hãi bật thành tiếng kêu:

- Con ơi!

Chắc tiếng kêu của chị thê thảm lắm, nên gã dừng tay. Giọng gã nghèn nghẹt:

- Đừng sợ! Sắp ra được rồi!

Gã lại tiếp tục công việc. Con thuyền vẫn nhích từng mét. Chị so vai cố thu mình thật nhỏ. Không còn kính, nhưng chị vẫn nhìn thấy mồ hôi rịn ra nhấp nhánh trên lưng gã. Trong rối bời sợ hãi, chị thấy lòng mình se se. Bất chợt chị thấy thương gã. Chị muốn giúp gã một việc gì đó. Nhưng chị bất lực ngồi im. Chị càng cố thu mình nhỏ lại, càng thấy mình yếu ớt và nỗi sợ hãi kia càng dâng. Chị không dám nhìn ra xung quanh nữa. Điều đó chỉ làm chị thêm vô vọng. Mắt chị gần như dán vào tấm lưng trần của gã. Ở tình thế này, đó là chỗ bấu víu duy nhất. Không hiểu sao chính vào lúc ấy, lúc chị như mê đi vì tột cùng hoảng sợ, lúc những thân bèo lớn vọt như chông ken sít, chị bỗng bay lên được. Mừng quá, chị mếu máo cười. Chị đáp xuống một vùng hồ lặng. Nước trong văn vắt. Con thuyền chị ngồi là một chiếc lá bèo xanh, đẹp tuyệt vời. Và gã. Đúng là gã của cái thời ngu ngốc…

Chị bừng tỉnh. Có tiếng thuyền máy phành phạch. Loa pin vang vang:

- Thuyền số 4 chú ý. Chúng tôi đang tiến vào. Hãy bình tĩnh rẽ bèo về hướng chúng tôi.

Tim chị reo lên. Thuyền cứu hộ đã đến. Thế là thoát. Chị thấy trời sập tối rất nhanh. Không biết con thuyền loay hoay trong đám bèo bao lâu. Khi mũi thuyền cập được vào mạn chiếc ca nô của nhà thuyền, chị hụt hơi gần như ngất xỉu. Còn gã. Gã đổ vật xuống sàn thuyền. Chị quên mất tình cảnh của mình. Tiếng chị sẽ sàng:

- Mặc áo vào đi anh, kẻo lạnh!

*

* *

Lúc hai người rời khỏi nhà thuyền, thành phố đã sáng đèn. Họ thập thõm bước cạnh nhau dưới hàng cây khô khẳng. Ven hồ một khóm bèo lạc bầy, yếu ớt run rẩy cố nép vào bờ. Cả hai đều vội vã quay mặt, không nhìn. Họ im lặng lẫn vào vô số đôi yêu nhau đang tìm nơi tình tự.

Mùa Đông đang tàn.

Người mẫu

Chiếc xe Minxk 125 phân khối màu xanh lục dừng đột ngột ném họa sĩ Việt xuống ngã ba Vốc cùng với một đám bụi vàng rực. Chiều hè bán sơn địa nóng đến ngột thở. Nắng đặc quánh. Gã xe ôm thoắt cái tót lên xe, chân thả vắt vẻo, miệng phì phèo điếu thuốc lá:

- Nào ông nhẩu nhẩu lên, để tôi còn làm cuốc trở lại.

Việt mở ba lô. Rất nhanh, anh đưa cho gã xe ôm bức chân dung của gã, gã toét miệng cười, răng bắt nắng lấp lóa:

- Mẹ khỉ, giống đấy chứ.

Tự bao giờ một đám đông hiếu kỳ đã bu đen như kiến. Tựa như quá phấn khích, gã xe giơ cao tờ giấy nguệch ngoạc mấy nét chì phác, hãnh diện xổ ra một tràng ông ổng:

- Tiền công một “cuốc” xe từ Khâu Bạt về đấy. Lão không có tiền, trả bằng cái này. Cũng bõ!

Gã nổ máy phóng đi. Tiếng của gã bõm vào đám bụi mù mịt:

- Lão ấy là thợ vẽ!

*

* *

Ngã ba Vốc quả đúng như Việt tưởng tượng. Nơi đó vừa là hậu cứ vừa là tổng hành dinh của vùng vàng Khâu Bạt. Vài ba chục cái lán tạm dựng ngổn ngang trên vùng đồi đỏ quạch. Vốn xưa là vùng hoang vắng, dân cư thưa thớt. Chỉ có bãi vàng cách đấy hàng chục cây số nó mới trở nên sầm uất. Các toán khai thác đều tập kết ở đây. Có đủ mọi thứ trên đời. Từ cây kim, sợi chỉ đến món hàng sống cao cấp là gái. Tại ngã ba này các bưởng (chủ) vàng đóng đô điều hành việc khai thác và tiêu thụ thành quả bằng mọi trò tiêu khiển.

Ngã ba Vốc trở thành một địa danh nổi tiếng khắp vùng. Chính vì thế mà họa sĩ Việt đã quyết định kết thúc chuyến đi thực tế của mình ở ngã ba quỷ này. Suốt một tháng trời, anh đã lang thang khắp mọi ngóc ngách ở bãi vàng Khâu Bạt. Anh đã sống với đủ loại người. Những mẫu đời thực lam lũ, cuồng dại trong cơn khát đổi đời đã lần lượt hiện lên trong phác thảo của anh. Việt hài lòng về chuyến đi. Sự mạo hiểm của anh đã được đền bù. Trong một tháng, Việt xuất hiện như một thành viên chính thức của dân vàng. Anh sống bằng những bức ký họa chân dung. Một cuốc xe, một đêm ngủ, một bữa ăn… cái giá đổi ấy quả là mạt hạng, nhưng bù lại anh đã lượm được vô vàn điều quý giá giúp cho nghề nghiệp.

Việt bước vào cái lán án ngữ chính giữa ngã ba. Đập vào mắt anh trên sạp nứa rộng, quây chục thằng người đang say mê sát phạt. Đấy là đám “bưởng” đang làm cái việc theo cách gọi của chúng là chia lại thu nhập. Những cái lưng bè bè. Những khuôn mặt nhễ nhại. Vàng, tiền bày la liệt. Tiếng đĩa bát xóc lanh canh. Bầu không khí sệt lại bởi mồ hôi, bởi khói thuốc, bởi âm thanh hỗn tạp, tục tĩu. Một đám nữa ở góc lán nằm ngồi ngả ngốn quây lấy bộ bàn đèn. Tiếng rầm rì của con nghiện hòa vào tiếng rít vo vo của ống điếu thành thứ âm hưởng ma quái mời gọi.

Cạnh cửa, cô gái có khuôn mặt rất xinh, nhưng buồn thiu thỉu, đang chăm chú vào quyển sách chắc là tình ái rẻ tiền ướt át. Cô thậm chí không thèm cả ngước mắt nhìn người khách lạ mới vào. Việt ngỡ ngàng. Lập tức cảm giác chông chênh xa lạ ùa ngập. Cũng may đám bạc vừa lúc giải tán. Việt nhác thấy nhiều khuôn mặt thẫn thờ. Có lẽ đấy là bọn đã trắng tay. Anh thấy chạnh lòng. Nhưng không, sự trắc ẩn là thừa. Trên những khuôn mặt ấy chỉ là sự câm lặng vô hồn, ngoài ra anh chẳng thấy gì khác. Phải thôi, được, thua là lẽ đời của chúng. Trên chiếu bạc còn lại mỗi một gã trung niên còi cọc, cao ngoằng ngoẵng như cây sào dựng ăng ten. Gã vun hết tiền, vàng thành một đống, rồi gẩy tay hách dịch:

- Này!

- Dạ! – Cô gái mặt buồn uể oải bước lại.

- Cất chỗ này đi.

Cô gái trút tất cả vào bao tải và vẫn uể oải cô ném nó vào chiếc hòm gỗ to tướng khóa lại. Gã còi tiến đến chỗ Việt:

- Chào họa sĩ.

Việt ngạc nhiên. Không phải vì gã lạ mặt chào mình, mà chính vì sự kỳ dị của gã. Cắm trên cái hình hài loằng ngoằng ấy là một bộ mặt to xệ đến phát sợ. Tựa như gã mượn đầu của ai đó. Chừng như đoán ra ý nghĩ của Việt, gã cười rất hiền lành:

- Vàng thế đấy, ông ạ. Trước tôi cũng to con chẳng kém cạnh gì ông. Nhưng vàng đã róc thịt tôi. Hôm nay thì khác rồi. Ông thấy đấy – gã dằn giọng – Chủ quán!

Một thằng người nữa bước ra.

- Mang gì phục vụ ông này – Quay sang Việt, gã hể hả – Tù binh của tôi đấy. Hắn vừa đánh canh bạc sạch đời. Thân hắn và tất cả quán này đã bị nướng sạch. Tôi là chủ.

Gã kê hai cổ chai “Vạn Lực” vào nhau. “Phựt”, Việt giật này mình. Nút chai bắn ra cực mạnh găm chặt vào mái lán. Bọt bia trào ra như sâm banh.

- Nào, uống đi. Tôi đã nghe nói nhiều về ông. Những một tháng ông ở trong bãi cơ mà. Thôi, ngắn gọn thế này nhé. Ông xem cái mặt tôi có gì đáng để ông phí giấy bút không. Nếu được coi ông như là khách của tôi. Ông cứ thoải mái. Ở đây ông muốn dùng gì tuỳ ý. Cả của nợ này nữa – Gã vỗ đét vào mông cô gái,cười khành khạch.

Việt ngạc nhiên thực sự. Vẻ mặt cô gái không hề thay đổi. Dường như sự đổi ngôi kia chẳng tác động gì đến cuộc sống của cô. Đến tận bây giờ anh mới nhận rõ mặt cô gái. Một cấu trúc hoàn thiện đến độ không thể xét nét được điểm gì. Đặc biệt là đôi mắt. Nó thăm thẳm đáng ngờ.

- Thế nào? – Tiếng gã còi bứt anh ra khỏi mắt cô gái.

- Được. Bắt đầu chứ.

- Ấy chết! Quan bác cứ nghỉ ngơi đi. Mà quan bác phải dùng bữa đã. Nhưng thôi, tuỳ quan bác!

Việt khẽ nhún vai trước giọng nói nhún nhường giả khượt của gã trùm. Giá không có một tháng lang thang trong bãi vàng hẳn anh đã nhổ toẹt vào mặt gã. Nhưng không, đến bây giờ cảm giác ghê tởm cũng không còn. Tuồng như anh đã hóa thân thành một con người khác để hòa nhập vào đám chúng sinh nhốn nháo của trần gian vàng. Anh nhìn thẳng vào mặt gã còi. Cái đầu của gã lắc lư. Cặp mắt lồi ra. Rất nhanh Việt đã bắt gọn khuôn mặt ấy bằng những chấm phá khinh mạn.

Gã xem rất kỹ. Cặp môi thâm tái nhành ra:

- Cũng được. Tôi làm đúng giao ước. Ông sẽ ở lại đây bao lâu tuỳ thích – Gã dằn giọng – Chủ quán, xếp hắn nghỉ ở nhà sàn và chính em gái ông phục vụ.

Cô gái dẫn anh về nhà nghỉ. Ngôi nhà sàn cũng chỉ là một cái lán tạm có chân. Chính là chỗ trú ngụ của còi. Nhà hẹp, nhưng đầy đủ tiện nghi. Có cát xét chạy bằng máy phát. Cả vi-đi-ô. Một bộ bàn đèn, đồ ăn thức uống ê hề. Chính cô gái mặt buồn phục vụ mọi việc. Hình như trước đây ả cùng ở đây. Thấy có cả đồ lót phụ nữ treo ở góc nhà. Cơm nước xong Việt giở sổ ghi chép. Ngọn đèn điện vàng nhập nhòa làm anh khó chịu. Nó khơi lại những day dứt của anh.

Năm hai mươi tuổi, Việt chiến đấu ở một đơn vị cao pháo, mặt trận Đông Nam Bộ. Ngày ấy cách đây tròn hai mươi năm. Mê say hội họa, ngoài hành trang chiến trận, Việt kè kè bên mình bộ đồ nghề mang từ Hà Nội. Những lúc rảnh rỗi, Việt thường lang thang để làm cái việc cả đơn vị gọi là: “Vẽ vời, tiểu tư sản”. Chính vào một lần đi như thế anh đã chấm dứt binh nghiệp để trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp có danh tiếng. Rất tình cờ và may mắn bội phần.

Đó là một chiều muộn mùa hè, bình thường như những buổi chiều khác của miền Đông. Đơn vị Việt ém sát dòng sông Đak Quýt. Chiến dịch đang ác liệt. Cả một vùng rừng già nguyên sinh đã bị bom đạn băm nát tơi bời. Chiều ấy, Việt cắp giá vẽ đi dọc sông. Cảnh đổ nát hoang tàn đã quá quen thuộc chả gợi gì trong anh một chút cảm xúc gì. Chợt Việt dừng chân. Ở đoạn giao nhau giữa suối Đak Bốc đổ vào sông Đak Quýt như có một phép lạ vẫn nguyên những tầng cây rậm rịt. Một hõm sông nước lặng phắc, trong vắt. Tiếng chim lảnh lót. Rồi mặt trời đổ xuống giữa sông. Nước loang loang đỏ. Cây xanh thẫm. Việt nín thở. Anh rón rén đi sát mép nước. Thật rón rén, anh sợ rằng một tiếng động bất kỳ sẽ làm vụt tan khoảng khắc thanh bình này. Người anh ran lên. Tim đập thòm thọp. Anh run rẩy căng giá vẽ.

Rất nhanh chóng anh ngợp mình vào dòng suối cảm xúc đang ào ạt tuôn về. Những gì hiện hữu vừa thực vừa ảo. Mong manh và mơ hồ, nó như ranh giới giữa chiến tranh và yên bình. Đúng lúc Việt sắp sửa chớp được cái ranh giới mỏng mờ ấy, anh chợt giật mình buông rơi bút vẽ. Có tiếng người. Việt quài tay xuống thắt lưng theo phản xạ chiến trận. Nhưng không, Việt kịp nhìn thấy khuôn mặt con gái nhô trên mặt nước. Anh vội vã quay mặt. Mắt anh bập vào phía sau kè đá. Vương vãi quần áo quân phục, khẩu AK báng gấp, mũ tai bèo và chiếc bồng vằn vện của cánh giao liên miền. Hóa ra, ban nãy vì hồi hộp, anh đã không kịp biết ở bến nước này có người đang tắm. Tiếng cô gái trẻ thoảng là là trên mặt nước:

- Xin lỗi anh một chút thôi.

Việt ngây người vì bất ngờ. Anh đã định bước đi, nhưng chân ríu lại. Việt vừa kịp nhìn thấy phần ngực trần của cô gái như dát bạc lồ lộ dưới làn nước hồng đỏ. Cô giao liên thoáng nhận thấy cái nhìn của Việt, vội khoanh tay che ngực. Mặt cô ngước lên, đanh lại:

- Anh đi qua dốc đá kia, nhanh lên!

Việt bật cười và như để trêu cô gái anh “tuân lệnh” rõ to và cố tình vùng chạy thật nhanh. Qua đỉnh dốc đá, Việt bất ngờ bị quật ngã bởi một quầng lửa chói lòa. Nhoáng nhoàng những quầng lửa khác. Pháo cực nhanh 175 ly từ tiểu khu Phước Long đã chụp trúng hõm nước.

Phải đến ba tháng sau anh mới rời khỏi quân y viện. Anh mọ mẫm lần tìm dọc sông. Những tầng cây đã bị băm vằm. Giữa hoang tàn đổ nát, anh vẫn nhận ra được khúc sông ấy. Thi thể tan nát của người con gái lạ được đồng đội anh gom nhặt, chôn cất ngay cạnh sông, chỗ kè đá Việt ngồi bữa trước. Một ngôi mộ xếp toàn bằng đá lạnh lẽo, xám mốc. Anh vun những cành củi khô đốt trên đỉnh mộ. Việt lầm rầm: “Chị ơi, chị tên gì? Ở đâu? Bao nhiêu tuổi? Xin chị hãy về nhận chút lòng biết ơn của tôi.”. Khói củi và nước mắt như làm Việt già đi đến chục tuổi. Anh đăm đắm nhìn xuống mặt sông. Tiếng nói của người con gái vọng về. Khuôn mặt xinh đẹp hiển hiện. Bất giác Việt quay mặt. Cả một vùng đổ nát đang rầm rì lan tỏa màu xanh. Sự sống đang hồi sinh. Việt nhìn thật kỹ mặt nước. Kìa, vẫn còn phần ngực trần như dát bạc lồ lộ dưới làn nước hồng đỏ. Việt đứng phắt dậy. Tất cả những gì xảy ra trong hoàng hôn ấy ùa về. Việt vùng chạy về đơn vị. Ngay hôm ấy anh hoàn thành bức tranh “Nữ chiến sĩ miền Đông”. Một dòng sông nhỏ. Bờ kia tốt tươi những tầng cây. Bờ này hoang tàn đổ nát. Một ngôi mộ xám. Một bầu trời xanh. Nữ chiến sĩ không phải đang tắm mà là quân phục chỉnh tề. Khẩu AK hậm hờ một bên vai, nòng súng hướng vào kè đá. Chiếc mũ tai bèo thả quai, buông trễ. Chiến sĩ nghiêng mình soi bóng xuống mặt sông xanh phắc. Suối tóc mượt mà thả dài… Bức tranh đoạt giải nhất tranh chiến sĩ toàn quốc. Ngay năm ấy, Việt được điều về học trường Mỹ thuật. Khi Việt nhận tấm bằng tốt nghiệp thì chiến tranh kết thúc. Anh được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Có điều lạ, sau đấy anh sáng tác rất khó khăn. Đến tận bây giờ, dù đã vẽ rất nhiều, tác phẩm của anh có lẽ vẫn duy nhất chỉ bức tranh ấy. Và điều đó ám ảnh anh. Chuyến đi thực tế này một phần cũng vì ám ảnh đó.

*

* *

Nếu không bắt gặp gương măt buồn bã đến thế, hẳn Việt đã quên ngay cô gái. Lúc Việt đang hí húi sửa lại mấy bức phác thảo ghi được ở bãi vàng thì cô gái sán đến cạnh anh. Hình như cô vừa tắm xong, người sực mùi xà phòng. Việt nhăn mũi. Cô gái như không cần biết đến cái nhăn mũi khó chịu ấy, bằng một thứ tự nhiên dạn dĩ cô quàng tay qua vai anh bả lả:

- Anh làm thợ vẽ à?

Việt gạt tay cô gái:

- Còn cô làm gì?

Chẳng ngờ câu hỏi ấy làm cô gái run bắn người:

- Làm tiền.

Việt choáng váng. Anh cũng không ngờ cô gái lại tức giận đến thế.

Giọng cô rít lại:

- Bổn phận của tôi phải phục vụ ông. Người ta đã trả tiền cho tôi làm việc ấy. Xin ông đừng giễu cợt.

Gương mặt cô gái tái ngắt. Ngay trong cơn giận giữ vẻ buồn thiu vẫn giữ nguyên trạng. Không đành được anh đẩy khẽ cô vào màn:

- Thế hả? Vậy thì ngủ đi, cô bé ạ!

Cô gái nín lặng không nói gì.

Đến khuya Việt mới dừng tay. Đang ngó quanh quất tìm kiếm chỗ nghỉ, mắt anh chợt dừng ở chỗ cô gái. Cô nằm thoải mái trong trang phục Eva thời lập địa.

Một thân hình trên mức đẹp. Da trắng mịn màng. Mọi đường nét sống động, mềm mại đến tinh xảo. Và cái khuôn mặt đến cả giấc ngủ cũng không xua được vẻ vời vợi buồn kia, lạ kỳ, lại trùng hợp với khung cảnh này đến thế. Việt không nén được tiếng thở dài sườn sượt.

Trong anh có cái gì tựa như cuộn sóng vật vã. Ham muốn dâng lên bóp nghẹt nhịp thở. Họng Việt nghèn nghẹn. Bốn mươi tuổi, nhưng anh ít xúc cảm với phái nữ. Đã thử vài cuộc tình, nhưng đều thất bại. Anh không giải thích được tình trạng của mình.

Cô gái thức giấc. Cái nhếch mép như mời gọi. Việt lập cập chui vào màn. Anh đổ xuống bên cạnh khối thịt mát lạnh. Cô gái lần bàn tay anh áp vào ngực mình. Như có một luồng điện cực mạnh hất tung tay Việt. Việt trân mắt. Ngực cô gái phập phồng. Kỳ lạ, hiển hiện trước mắt anh bộ ngực trần của cô gái trong tranh như dát bạc lồ lộ dưới làn nước hồng đỏ. Như người lên cơn sốt, Việt van vỉ:

- Mặc quần áo vào đi, em. Mặc đi…

*

* *

Tên cô gái là Thoan. Hai mươi tuổi. Trẻ thế, nhưng Thoan đã có ba năm thâm niên ở Vốc. Cơn lốc vàng đã cuốn không thương tiếc Thoan vào vòng xoáy của nó. Nhà nghèo, nhưng yên ấm. Chính gã chủ quán đã nhẫn tâm bán rẻ cuộc đời em gái mình.

Đang đi học. Thoan bị ép phụ bán hàng cho anh. Rực rỡ như bông hoa ban mai giữa vùng vàng hỗn độn, làm sao Thoan tránh được bầm giập. Một đêm vò xé, với lọ vàng vụn đánh đổi, Thoan đã bị cướp đi cái trị giá ngàn vàng của đời con gái trắng trong.

Uất hận, Thoan lao vào sống cuồng loạn như thiêu thân bổ vào ánh sáng, để trả thù. Trả thù đời? Đời rộng lắm. Để trả thù mình thì đúng hơn. Như con lăn, Thoan lông lốc từ thằng đàn ông này sang thằng đàn ông khác. Cô câm lặng, mòn mỏi như ngọn đèn dầu đốt mình đến cạn kiệt. Đã có lúc cô nghĩ đến cái chết để giải thoát.

Song, trái với lẽ của tạo hóa, càng tàn phá, sắc đẹp của cô càng rực rỡ lên, bốc lửa. Như là sự trừng phạt, Thoan mãi phải âm thầm, chịu đựng. Khi Việt đến, anh trai cô đã nướng sạch cơ nghiệp vào bài bạc. Thoan thành nô lệ của gã còi. Cô ngạc nhiên khi một kẻ hung bạo và giàu có bậc nhất vùng vàng lại đặc biệt ưu đãi lão thợ vẽ vất vưởng, lơ ngơ từ đâu đến. Càng ngạc nhiên khi anh, người đàn ông đầu tiên từ chối cô. Chưa có thằng đàn ông nào ở vùng vàng gặp Thoan lại không nuôi ý định chiếm đoạt. Đầu tiên sự biệt lệ ấy làm Thoan tức giận. Khi nghe lời van vỉ của anh, Thoan bật dậy. Đừng nghĩ trong ô nhục không có tổn thương của danh dự. Chỉ khi nghe những lời này, Thoan mới dịu đi cơn phẫn uất.

- Em có một thân hình đẹp tuyệt vời, là đàn ông, anh biết. Có điều, chẳng phải vì anh không thích, mà là…

Anh dỗ dành cô như người lớn dỗ dành một đứa trẻ, từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác, khiến Thoan cảm động. Và trong nỗi tủi hổ của một tâm hồn đã chai cứng, vật vờ lang thang, bất ngờ tìm được chỗ bấu víu, cô vừa khóc, vừa kể lại đoạn đời cay đắng của mình. Việt lắng nghe đầy bao dung. Anh không ngờ cuộc đời cô gái lại khốn khổ đến vậy. Cuối cùng Việt bảo:

- Chả lẽ em cứ định sống mãi thế này?

- Thì anh tính còn biết làm gì khác. Em làm sao thoát khỏi chúng được. Đến cả người ruột thịt của mình cũng nhẫn tâm. Mà biết thoát đi đâu.

Đôi khi lòng trắc ẩn làm vụt lóe những điều táo bạo. Phải đưa cô gái thoát khỏi hang quỷ này. Ý nghĩ chạy trốn đến với Việt. Tự nhiên như sự đời ắt phải thế. Song cuộc giải thoát không đơn thuần chỉ xuất phát từ lòng trắc ẩn. Nó đồng thời đến cùng với mẫn cảm nghề nghiệp. Thân hình Thoan như một món quà quý của tạo hóa, hẳn sẽ là khuôn hình lý tưởng cho những giờ vẽ mẫu ở trường. Nhưng trước hết hãy đưa cô gái thoát khỏi đây đã.

Có lẽ đang đắm trong cái bẫy đời đen bạc, chỉ rặt sự lường gạt, hèn hạ, nên chỉ một chút cảm thông, một xíu ân tình đã đủ làm Thoan cấy cho mình niềm tin trọn vẹn vào người đàn ông lạ. Không hẳn là nhắm mắt, phó mặc. Thoan mơ hồ cảm thấy rồi đây cuộc đời cô sẽ rẽ sang một lối ngoặt. Chưa biết nó thế nào, chí ít cũng thoát khỏi cảnh ê chề nhục nhã này đã. Điều đó làm cô vững tâm gửi gắm hành trang hai mươi tuổi đời của mình vào anh. Người đàn ông này khác với mọi gã đàn ông cô đã gặp.

Ngay đêm ấy Việt dẫn Thoan trốn khỏi ngã ba Vốc.

*

* *

Việt ở tầng năm của một khu nhà cao tầng. Vương quốc riêng của anh cũng đủ hai phòng, nhưng chật chội vì bề bộn. Có Thoan, chỉ vài ngày sau ngôi nhà đã biến đổi hẳn. Gọn gàng, rộng rãi và sạch sẽ. Những ngày đầu Thoan không dám ra ngoài, đến quẩn quanh ở hành lang cũng sợ.

Cẩn thận, Việt dặn Thoan nói thác là em họ ở quê ra. Điều ấy là thừa, cả khu nhà này đều không lạ Việt. Anh sống lặng lẽ nhưng đứng đắn, chưa hề có điều tiếng gì. Thâm tâm mọi người đều mong Việt có nơi, có chốn. Bởi vậy, sự xuất hiện của cô gái trẻ xinh đẹp có làm cánh thanh niên phải nghếch mắt thật, song tựu trung mọi người đều mừng.

Việt tranh thủ những giờ rảnh rỗi đưa cô đi chơi ngoài phố. Cũng lạ, một cô gái dày dạn là thế mà bây giờ như con chim nhỏ lạc mẹ ngơ ngác giữa phố sá tấp nập. Cái gì cũng khiến cô lạ lẫm và sợ hãi. Một mình trong căn nhà hình hộp càng làm cô sợ.

Những ngày này Việt thường làm việc đêm ở xưởng họa của trường và ngủ luôn đấy cho tiện. Anh tránh. Thoan phải bảo:

- Anh về nhà mà ngủ. Một mình em sợ lắm.

- Sợ cái gì?

- Không biết. Em chưa như thế này bao giờ.

- Anh về, em lại chả sợ bằng mấy.

Việt đùa. Thoan cúi mặt lí nhí nói gì không rõ. Việt thấy màu đỏ lan nhanh đến tận chân tóc của cô. Được một tuần, Thoan có vẻ bồn chồn. Vốn gốc lao động, dù bị đẩy vào cái nghề bất đắc dĩ bán thân, mài xác kia, thì cũng vẫn phải hùng hục đêm ngày, cô không chịu nổi cảnh ăn không, ngồi rồi.

Lúc nghe Việt rủ chạy trốn, cô chỉ mong thoát thân thật nhanh, chứ tuyệt nhiên không nghĩ ngợi gì khác. Bây giờ về đây giữa thành phố xa lạ giữa ngôi nhà xa lạ và cả người đàn ông xa lạ, cô mới thấy hết tình cảnh của mình. Rồi sẽ sống ra sao? Nhà cửa tuềnh toàng thế kia ắt hẳn anh cũng chẳng giàu có gì. Mà Thoan có là gì của anh. Sống bằng lòng thương hại. Không. Không thể. Lúc Thoan nói ra điều này, Việt đã cười ngất.

- Thế em định quay về chốn cũ chăng?

Thoan giật nảy như con chim trúng đạn:

- Không! Thà chết không bao giờ!

- Đùa tý thôi. Mai mốt em sẽ đi làm.

- Nhưng em biết làm gì?

- Rồi em sẽ biết. Thế này, Thoan nhé – Anh đặt tay lên vai Thoan thân mật – Anh đã xin cho em làm hợp đồng trong trường. Làm người mẫu. Mẫu vẽ!

- Người mẫu là thế nào?

- Là sinh viên sẽ nhìn em để tập vẽ. Cũng vất vả, rồi em sẽ quen dần.

Sự xuất hiện của cô người mẫu mới quả có làm sinh động các giờ hình họa của trường thật. Chỉ tập vài ba buổi, Thoan đã vào vai khá đạt. Ở các mẫu có trang phục, cô thành thục như một người mẫu chuyên nghiệp. Cô thôn nữ, thiếu nữ áo dài… Ở mẫu nào Thoan cũng nhận được sự vừa ý của thầy giáo và sinh viên.

Trong tư thế mẫu, dưới ánh đèn, ánh mắt của Thoan giao vào vô vàn ánh mắt. Cái không khí lặng tờ thoạt đầu làm Thoan sờ sợ. Nhưng Thoan kịp trấn tĩnh. Rồi cái ý nghĩ khuôn hình mình sẽ được tái hiện làm cô vui dần lên, quên đi nỗi sợ. Buổi đầu tiên, cô e ấp xin được xem bài tập của một nữ sinh. Chẳng giống lắm, những vẫn nhận được nét hình Thoan. Khi cầm bút ký vào sổ lĩnh tiền, tay Thoan run lên bần bật. Số tiền ít ỏi, nó chẳng thấm tháp gì so với những đồng tiền trước đây ở Vốc mà Thoan được cầm, nhưng những đồng tiền này rõ ràng là của Thoan. Cô đếm rất kỹ và giữ chặt trong lòng bàn tay như sợ nó vụt bay đi mất. Những tờ bạc mềm mại, ấm áp. Tuồng như hiểu được những gì diễn ra trong Thoan, Việt áp chặt tay anh vào tay cô, bóp nhẹ:

- Nào em gái! Hôm nay chiêu đãi anh chứ?

Thoan cười rạng rỡ. Cái từ “em gái” làm cô mềm đi vì sung sướng. Nếu Việt coi cô như thế, đúng như thế, hẳn cuộc đời làm người của cô sẽ được sống lại bình thường. Cả cái tình thế khó xử khi sống nhờ vào anh cũng được giải tỏa.

Việt dẫn Thoan vào một quán cơm bình dân. Suốt bữa ăn Thoan thoăn thoắt tiếp cho Việt. Cô hồn nhiên đến mức có lúc Việt không dám ngỡ rằng cô gái nhỏ trước mặt anh mới đó còn là cô gái phong trần ở ngã ba Vốc. Những nét buồn tưởng đã tạc vĩnh viễn vào mặt Thoan giờ bay đi, trả lại cho khuôn mặt Thoan những gì vốn có. Thoan đang tận hưởng giây phút ngọt ngào hiếm hoi. Cô như đang được sống yên bình, trong ngôi nhà nghèo ở vùng quê trung du ngày trước. Trước cái ngày cơn lốc vàng ập đến.

Cả Việt nữa, những ngày này anh tựa hồ như sống một cuộc sống khác. Nếp sinh hoạt độc thân quen thuộc chiếm lĩnh toàn bộ đời sống anh, đột nhiên bị phá bỏ. Không khí đơn lẻ ảm đạm được thay thế bằng sự ấm cúng gia đình. Theo yêu cầu của Thoan, Việt đã về ở hẳn nhà. Từ sau hôm lĩnh tiền đầu tiên, khoảng cách gợn gạo giữa hai người đã mất hẳn. Thứ tình cảm Thoan dành cho anh hoàn toàn là thứ tình cảm của em gái dành cho anh trai mình. Việt đón nhận một cách tự nhiên.

Đến nỗi có lúc anh đã tưởng rằng Thoan chính là em gái mình thật. Chính điều ấy làm anh xót xa. Quá khứ ngã ba Vốc của Thoan luôn thường trực trong tâm trí anh. Một đời con gái… Anh lắc lắc đầu cố rũ bỏ những ý nghĩ ám ảnh ấy. Cũng những ngày này, Việt nghĩ nhiều về cuộc đời mình. Một hôm anh ngồi lật giở những kỷ vật, điều anh vẫn thường làm lúc tâm trạng. Cuốn vở học trò, những trang nhật ký, chiếc mũ tai bèo, cả những bức vẽ nguệch ngoạc đầu tiên. Sau cùng anh đặt bức tranh được giải thưởng lên bàn. Việt lặng đi, đã hai mươi năm, cô gái trong tranh vẫn nguyên vẹn vẻ trẻ trung không thay đổi gì cả. Anh thoáng rùng mình. Lại hiển hiện mặt nước sông loang loang, hồng đỏ. Anh thấy đôi mắt cô gái trong tranh nhìn anh giễu cợt. Việt lập cập cất bức tranh. Chị ơi, xin chị đừng nhìn tôi như thế. Hai mươi năm, sau cái ơn cứu mạng, từ bức tranh được giải thưởng, người đàn và vô danh đã làm cho anh đầy đủ danh vọng và sự nghiệp. Nhưng một điều gì đó, không cắt nghĩa được khiến tất cả những sáng tác sau này của anh đều dang dở. Không phải kẻ lười biếng, an phận, anh luôn trăn trở, tìm tòi nhưng như thiếu một cái gì đó, mọi toan tính sáng tác của anh đều chỉ là những ước định luôn ở phía trước. Vài năm gần đây đã có lúc Việt hoài nghi khả năng của mình. Ý định gác bút cũng đã manh nha. Anh hay bỏ nhà đi lang thang. Nhưng phải đến chuyến đi vùng vàng vừa rồi Việt mới vỡ nhẽ nhiều điều. Hóa ra cuộc đời không hề yên ổn, bình lặng và dễ dàng như Việt đã sống, lại hình thành trong anh những ý đồ sáng tạo. Cả một thoáng mơ hồ về Thoan.

*

* *

Công việc của Thoan thực sự khó khăn khi cô phải vào vai người mẫu trần. Trước đây Việt đã giải thích kỹ, thậm chí để cô quan sát nhiều giờ các cô gái mẫu khác. Cứ nghĩ thân thể mình phơi dưới ánh đèn trước mắt của mọi người, Thoan đã run lên. Thực ra hồi còn ở Vốc, việc đó diễn ra bình thường, chẳng bao giờ Thoan phải bận tâm. Mà đâu chỉ riêng lõa thể, cô phải chịu đựng hàng chục thằng người vừa ngắm nhìn, vừa vần vò cô đến bã bời. Nhưng bây giờ cô đã ở một tư thế khác. Cái quá khứ đau buồn kia, có lẽ ngoài Thoan chỉ mình Việt biết. Đoạn đời tì vết đã được đóng kín. Quả thế, trong giờ đứng mẫu trần đầu tiên cô đã không chịu đựng nổi. Hết sức chế ngự, người Thoan vẫn run lên từng đợt khi hàng chục luồng mắt phóng vào thân thể cô rát bỏng. Trong giây lát, Thoan tưởng như những luồng mắt ấy nhìn thấu tâm can cô. Và những gì tủi nhục của đoạn đời cũ bị phơi bày bằng hết. Những lúc ấy Thoan vụt lóe ý nghĩ: sao mà thân phận cô cùng cực đến vậy? Không hề so sánh với sự bán thân trước đây, nhưng để kiếm tiền bằng cách phô bày thân thể mình thế này quả là điều vượt quá sức chịu đựng. Vai mẫu trần đầu tiên thất bại.

Thoan buồn lắm. Việt bảo:

- Đừng sợ, cô bé ạ! Anh biết em nghĩ gì rồi. Đừng quá ám thị, rồi em sẽ quen thôi. Cả việc quên đi quãng đời cũ. Còn công việc. Đúng, quan niệm xã hội chưa hẳn thông cảm với nghề người mẫu. Người đời còn hiểu ít về nghề này, vì thế nó chưa được đánh giá cao. Nhưng em thử nghĩ xem, mình có làm điều gì xấu xa. Không nói thái quá rằng mình vì nghệ thuật, mà đơn giản chỉ là lao động. Lao động bình thường và lương thiện.

Thoan òa khóc. Cô thấy tủi thân quá chừng. Càng tủi thân hơn khi cô chớm nghi ngờ Việt. Hay là anh chẳng phải cứu giúp mình vì thương xót, mà vì thân thể mình có ích cho nghề nghiệp của anh. Chính ý nghĩ này làm Thoan vững vàng trong giờ mẫu kế tiếp. Cô vào vai rất đạt.

Việt mừng lắm. Anh hồ hởi:

- Chúc mừng Thoan. Các cô cậu sinh viên cứ tấm tắc mãi vì chọn được mẫu tốt – Bất ngờ giọng Việt trầm xuống – Em đẹp lắm.

Thoan ngỡ ngàng. Từ đấy cô luôn để ý đến Việt. Ánh mắt lạnh băng của Việt trong những giờ cô đứng mẫu càng làm Thoan củng cố nỗi nghi ngờ trên. Thoan buồn hẳn. Thậm chí cô đã có ý định từ bỏ anh để ra đi. Có lẽ Thoan đã thực hiện được ý định ấy, nếu một lần cô không bất chợt gặp ánh mắt anh. Hôm ấy Thoan đứng mẫu trần theo tư thế bức tranh “Nguồn nước” của Anhgrơ. Người mẫu toàn thân đứng thoải mái, dáng hơi cong hình chữ S, hai tay đỡ chiếc bình trên vai. Chợt cô thấy Việt nhìn mình rất lạ. Vừa nồng nàn, âu yếm, vừa mênh mang, xót xa. Vậy là anh ấy thực sự xót thương mình. Ánh mắt của anh, Thoan không thể nhầm được. Nước mắt Thoan ứa ra. Chiếc lọ trên vai Thoan rơi xuống. Thoan từ từ khuỵu xuống. Cô lịm đi trong niềm sung sướng vô bờ.

*

* *

Từ ngày Thoan thành công trong các vai mẫu trần, cô đã yên tâm hẳn về cuộc sống hiện tại của mình. Không chỉ biết ơn, Thoan kính trọng Việt. Thâm tâm cô coi Việt như người anh thực sự của mình. Việt cảm nhận hết những biến đổi trong Thoan. Ôi, cô gái đáng thương! Anh đã không ân hận về những gì anh làm. Thoan sẽ đứng thẳng được và gột hết bùn hôi tanh tưởi, anh tin thế. Đồng thời thức dậy trong anh nỗi khao khát nghề nghiệp. Những ý tưởng sáng tạo vụt lóe. Phải, đã đến lúc anh thực hiện những gì dự định. Việt căng giá vẽ. Anh xếp la liệt những phác thảo. Anh bày ra trong trí não đoạn phim đời bốn mươi năm của anh. Trí tưởng bay bổng. Hiện thực dồn nén. Bắt đấy từ cái gì? Đêm đêm anh gõ vào mặt toan. Ký ức lô xô đuổi bắt, thoắt ẩn, thoắt hiện. Việt như gã nhà giàu túi ních căng tiền, nhưng chẳng biết mua thứ gì. Bắt đầu từ đâu? Anh thức những đêm trắng cùng mặt toan trắng. Thoan chia sẻ nỗi phập phồng của anh, cô sung sướng ngắm nhìn anh trong suy tưởng. Nhưng rồi cũng ngay lập tức cô sợ hãi khi bắt gặp vẻ thất thần, chán nản của Việt. Những lúc ấy Thoan se sẽ lùi vào phòng trong để mặc Việt một mình với giá vẽ trắng màu toan.

Quả thật, Việt đã chán nản. Nhưng càng chán nản anh càng khao khát. Không biết đã bao đêm trôi qua Việt mệt mỏi với màu toan trắng lạnh lùng. Anh mang ra cả bức tranh được giải thưởng năm xưa. Vẫn thế. Xúc cảm ùa ập, nhưng mọi thứ vẫn đan xen, chuồi chuội không tài nào nắm bắt được. Bắt đầu từ đâu?

Đêm ấy Việt đã quá mệt mỏi, anh ném bút vẽ vào mặt toan. Việt đứng dậy cố bứt mình khỏi cả khao khát lẫn chán nản. Chợt mắt Việt đập vào giường ngủ của Thoan. Đèn sáng. Chắc là Thoan đang thiếp đi. Màu trắng. Tấm đắp trắng mỏng kéo kín người. Vồng ngực phập phồng. Khuôn mặt thanh thoát trắng hồng. Việt đứng lặng bên giường. Anh cảm nhận từng hơi thở của Thoan. Tâm tưởng rối bời, trái tim vò xé…đột ngột, Việt nhoài tay tắt đèn. Thoan giãy giụa. Một giây. Nhận ra Việt, vòng tay Thoan vội vàng siết chặt. Không một lời, cả hai cùng lặng lẽ dâng hiến, lặng lẽ tận hưởng. Khuôn mặt hai người áp vào nhau, nhòe ướt. Đêm đẫm lại. Nước mắt Thoan sóng sánh tràn chảy.

*

* *

Việt thức giấc khi những tia nắng đầu tiên lọt vào nhà qua khe cửa chớp. Đã sáng. Anh choàng dậy. Cảm giác nhẹ nhõm sau giấc ngủ miên mải biến mất, khi anh chợt thấy căn phòng hoang vắng lạ thường. Trong tích tắc anh nhớ lại tất cả những gì xảy ra trong đêm và vụt hiểu. Việt hoảng hốt vọt khỏi giường. Anh trân trối đứng giữa nhà. Không thấy Thoan. Anh thảng thốt nhìn vào giường – tổ ấm hạnh phúc một đêm của anh và nàng. Không còn gì cả. Thoan đã đi rồi, căn phòng ngột lại.  

Không chịu được, Việt mở toang cửa. Nắng ùa vào. Anh ra ban công đứng nhìn xuống đường. Lặng lẽ. Thành phố dưới năm tầng gác đang lặng lẽ chuyển mình. Đông đặc những chấm người như đàn kiến nối nhau vội vã. Ôi, những sinh linh bé bỏng. Có nàng trong số ấy không? Anh quay vào nhà, kìa, giá vẽ trắng màu toan. Quả tim anh nghẹn lại. Khuôn mặt nàng. Hình hài nàng, cả cô gái năm xưa. Anh nữa. Tất cả những khuôn mặt cuộc đời anh từng gặp. Tất cả.

Trong một sự đau đớn bình tĩnh chưa từng có. Việt thong thả cầm cọ. Anh đã biết bắt đầu bức tranh đời của mình từ cái gì./.

Vọng thanh

Cuối cùng thì Vinh cũng tìm ra được nguồn cơn sự mất ngủ triền miên của mình. Đó là chuột. Nói một cách chính xác đó là tiếng kêu của chúng. Những âm thanh “chin chít” mảnh và lạnh được phát ra giữa đêm hôm khuya khoắt. Vinh phát hiện ra điều này hoàn toàn vô tình. Bởi đã từ lâu, loài chuột từng được yên ổn trong căn phòng 14 mét vuông này, chúng đã phạm sai lầm lớn là đi quá giới hạn.

 Hôm ấy Vinh quyết định không tắt đèn. Bóng đêm thường đồng lõa, thậm chí hơn thế, kích thích sự mất ngủ, bằng những tưởng tượng siêu hình. Chưa hết, thập cẩm những loại âm thanh, làm phong phú thêm trí tưởng tượng rồ dại kia. Không thể tránh khỏi những trằn trọc vô lối. Đèn sáng. Bắt buộc sự tưởng tượng phải lẩn khuất. Song lại bày ra những hình ảnh thật. Điều này khó có thể chối cãi. Căn phòng quá bề bộn. Thứ bề bộn, hệ quả của việc thiếu bàn tay người đàn bà. Vợ Vinh đã rời bỏ vĩnh viễn ngôi nhà này. Chuyện cũng mới xảy ra vài tháng trước. Không có gì quan trọng cả. Hôn nhân là thứ trang sức giả cho những cặp lấy nhau vì tình yêu, nhưng không chịu đựng nổi vị đắng cay của nó. Nghèo là một tố chất cơ bản tạo nên vị đắng kia. Chuyện sẽ nói sau.

 Đèn sáng. Những con chuột lùi lũi không một chút e dè. Trong mắt chuột hình như ánh sáng không tồn tại. Có lẽ thế, Vinh không ngờ họ hàng nhà chuột lại nhiều đến vậy. Đông kinh khủng. Chúng làm đủ mọi trò. Dội lại những âm thanh đã quen thuộc, nhàm chán. Chỉ khi con lật đật Vinh mang về từ nước Nga xa xôi dạo trước, rơi xuống nền nhà gãy đôi, cổ rời thân, phát ra tiếng “kinh coong” lìm lịm xen vào tiếng “chin chít” của đôi chuột đang vờn nhau, thì Vinh bừng tỉnh. Đây rồi, chính nó, thứ âm thanh lạnh sắc ma quái khoan vào óc Vinh đêm đêm, hóa ra lại nảy từ vũ điệu đực cái kia.

 Không chỉ một đôi, chúng nhảy múa trên cả mặt con lật đật tội nghiệp. Đôi mắt lố xanh lẹt vô hồn của nó chợt ánh lên những tia căm hờn. Con lật đật này được dự định dành cho đứa con sẽ ra đời, nhưng điều ấy chưa kịp thực hiện. Liệu đó có phải là may mắn? “Chin chít”, “Chin chít” . Những đôi chuột phon phót nhảy múa, thật quá quắt. Sự vi phạm quá ngưỡng này đã trở thành nỗi lăng mạ không thể tha thứ. Lũ chuột mông muội chẳng hề biết rằng, với chúng hòa bình đã chấm dứt.

 Sáng hôm sau, mặt Vinh bệch còn hơn tờ giấy bản đã no nước. Dự định trả thù làm Vinh khoan khoái, bất chấp một đêm trắng đằng đẵng trôi. Vinh phóng xe đến cơ quan với bộ mặt hơn hớn đáng ngờ. Gần chục nhân mạng của phòng vốn đã quen với cái vẻ quàu quạu của Vinh, đều nhất loạt sửng sốt. Hay thằng cha này vớ được đám nào rồi? Có, thế nên mới nhởn nhơ nhường kia. Được thế thì tốt quá. Kiếp người, cọc cạch một mình, sống chất chưởng lắm. Nhưng không một ai dám gạn hỏi nguyên cớ. Kệ xác hắn!

 Trước đây, Lương, vợ Vinh, cũng là thành viên của phòng. Một phòng nghiên cứu về sản lượng của viện cây trồng. Hai người từng có một thời hạnh phúc. Yêu nhau đến sáu bảy năm, kiên trì đợi đến lúc được phân phối ngôi nhà mới tổ chức đám cưới. Ngôi nhà tuy có chật, lại ở một khu hoang hút, tít mãi tận ngoại ô, nhưng của đáng tội ở vào hoàn cảnh của họ, cũng đã tươm chán. Tươm chứ, hai vợ chồng son, cũng cơ quan nhà cửa đàng hoàng, lại hiểu nhau tận chân tơ, kẽ tóc, đòi gì hơn nữa. Ấy vậy mà tan. Lạ thế. Cũng chẳng có gì to tát, chui vào cái hom gia đình tất phát sinh nhiều vấn đề ngoài phạm vi tình cảm. Đấy, cứ nói phét, tình yêu mà đã xong à, còn khối thứ cộng vào mới thành tổ ấm được. Đoạn này, có lẽ các nhà tâm lý học cũng phải vái chào, gọi bằng cụ. Riêng trường hợp Vinh thôi đấy nhé, kẻo xã hội lại lo phát cuồng. Mâu thuẫn thế nào cũng không ai biết tường tận. Roạch một cái họ đâm đơn ra tòa. Đàn bà như vợ Vinh, kể cũng đáng mặt. Bỏ là bỏ hết. Xin chuyển công tác ngay tức khắc. Có ai ái ngại hỏi, Vinh rất sẵn lòng trả lời. Mỗi từ cụt ngủn:

 -Tiền!

 Thành thử đến tuổi băm bỗng dưng Vinh thành kẻ tay trắng. Lại một mình một bóng với ngôi nhà chật. Buồn ! Việc mất ngủ kia hẳn còn là nhẹ. Mất vợ, khối thằng còn phát điên, phát rồ. Nhưng đấy lại là chuyện khác. Mất vợ cũng có năm bảy đường mất. Mất vợ vì cái từ cụt lủn kia kể cũng hận thật. Thế, nên bọn chuột mới chết. Rõ là oan!

Trưa hôm ấy, Vinh lễ mễ khuân về nhà vô số bẫy chuột mua ở chợ. Kinh nghiệm dân gian có gì để diệt chuột, Vinh vận hết. Lại chắc ăn mua thêm cả bả ở mấy hàng thuốc rong. Mồi thật ngon, phen này chúng mày tiêu bằng hết. Đáng kiếp nhé!

Buổi chiều, khề khà ở quán bia hơi, tự thưởng vài ba vại, Vinh khấp khởi mở cửa xô vào nhà. Trời ạ, tịch lặng như tờ. Không một con chuột nào mắc nạn. Chả nhẽ chúng nó khôn đến thế? Ừ thì khôn không chui vào bẫy còn chấp nhận được. Nhưng mồi tẩm bả đảm bảo không mùi độc tố, thơm lựng vẫn còn nguyên vẹn thì khiếp quá. Chúng nó thành tinh chắc. Đến giống người kia kìa, khối kẻ tinh khôn còn bị chết vì đầu độc. Sau thì Vinh vỡ lẽ, lũ chuột quen rồi, chúng chỉ trú ngụ ở nhà Vinh thôi. Đồ ăn, thức uống phải tìm nơi khác. Thì kiếm đếch gì ở cái thằng ngày này, ngày khác rặt dùng cơm bụi.

Được. Sẽ có cách! Đêm ấy, Vinh tìm ra một phương sách mới.

Con mèo lông đen mượt, mặt cọp, tai vểnh, mắt xanh sáng, đuôi dài, gấp khúc phía cuối. Đuôi chìa khóa, tướng rất quý. Đấy là người bán hàng bảo thế. Thì biết thế, chứ có bao giờ Vinh để ý đến những loài mèo, chó này.

-Liệu nó có biết bắt chuột không?

Người bán hàng túm gáy con vật lôi ra khỏi lồng. Nó co rúm người, đuôi quắp lên bụng.

-Đấy! Ngữ này bao nhiêu chuột cũng ít!

-Được!

-Mèo lớn, phải nhốt thật lâu mới quen nhà. Nhớ nhé!

Vinh xích nó bằng một sợi dây điện, cột chặt vào giá sách. Không quen cũng phải quen. Con mèo lồng lộn, gầm gừ mất một ngày thì chịu. Hôm đầu, bọn chuột có vẻ sợ. Nhưng chúng nhạy lắm. Thập thò, thăm dò vài lần, chúng đã biết tỏng cái thứ mèo buộc chẳng làm nên tích sự gì. Bởi thế đâm nhờn. Có con còn dám lảng vảng ngay trước mũi con mèo. Tất nhiên ngoài tầm sợi dây điện chằng buộc. Con mèo lại lồng lộn. Nhưng rồi cũng quen dần. Hóa ra giống nào cũng thích nghi hoàn cảnh rất nhanh. Con mèo lừ đừ nằm. Mặt không tỏ thái độ gì. Thế này mãi chắc chúng nó quên giống nòi mình, muôn đời là kẻ thù truyền kiếp.

Vinh ngắm nghía theo dõi thái độ con mèo. Có trời mà biết trong cặp mắt lim dim của nó chứa đựng những gì. Đừng phụ tao, mèo nhé. Vinh chăm chút nó rất cẩn thận, cung phụng thịt thà đầy đủ. Đã dụng ý, Vinh nuôi nó theo kiểu của mình. Giã tòan thịt. Chuyển dần từ chín sang tái. Rồi từ tái sang thịt sống. Những ngày sau Vinh còn rưới tiết tươi vào thịt. Phải cho nó quen dần với mùi máu. Có thế mới hăng. Lòng Vinh khoan khoái nghĩ đến ngày con mèo được tự do. Mới chỉ tưởng tượng lũ chuột bị trừng phạt, sự mệt mỏi của những cơn mất ngủ kéo dài đã vợi đi rất nhiều. Vinh hứng khởi lắm, dù đêm đêm tiếng “ chin chít” kia vẫn không thôi hành hạ. Lũ chuột vô tình không hề biết tai họa sắp giáng xuống, vẫn vui vẻ hết mình. Dạo này Vinh toàn ngủ đèn. Sáng tối cũng vậy, có ngủ được quái đâu. Trằn trọc, Vinh nghĩ đủ mọi thứ chuyện trên đời. Nhiều nhất vẫn là ý nghĩ về Lương. Sau khi ly hôn cô ta chuyển vào cơ quan đại diện phía Nam. Tiếng là cùng viện, nhưng thăm thẳm hai đầu trời. Thế lại hay, không sống cùng với nhau nữa, mặt chạm mặt chắc là chối lắm. Nghĩ về Lương đôi thoảng Vinh vẫn giật thót người, mồ hôi lạnh vã ra như nhập cảm. Vinh giấu biệt chuyện chia tay của hai vợ chồng. Nói ra nhục nhã để đâu cho hết. Cưới nhau được một năm, dù Vinh mong mỏi thế nào, nhất quyết Lương không chịu đẻ. Chí của cô ấy vững như đá tảng, lay thế nào cũng không chuyển.

-Thân ngắc ngoải chưa xong. Đẻ lấy gì cho nó tọng?

Lặp mãi câu nói ấy khiến Vinh ứa tràn nước mắt. Lương hai vợ chồng son rỗi, tùng tiệm cũng tạm đủ. Có con chắc vất vả hơn, nhưng nếu vin thế để thoái thác nghĩa vụ sinh tồn thì thiên hạ có mà tịt hết. Cuộc sống vợ chồng vì mâu thuẫn đó cứ căng như dây đàn. Đến một dạo, Lương vùng vẫy thế nào được một người bạn cũ đảm bảo cho một suất đi Đông Âu buôn bán. Đi thế tất phải bỏ nghề. Nửa đời người ăn học, làm lụng giờ rũ tuột hết. Có là bố giời cũng phải tức.

Vậy mà không, mặt Lương cứ lạnh tanh, giọng mềm oặt như đinh sắt đóng vào đất thịt:

-Em quyết rồi. Đi vài năm, rểnh rang kiếm ít vốn!

Ghê không, cứ như đi mót lúa ngoài đồng. Ừ, cứ cho rằng, tiền kiếm không dễ đi chăng nữa, thì cũng phải nể mặt cái thằng đàn ông đang làm chồng đây này. Mặt Vinh phừng phừng, khí bốc ngùn ngụt trong đầu, giọng Vinh nghẹn đi:

-Cô quyết, nhưng tôi không quyết. Tôi thôi làm chồng cô từ bao giờ đây?

-Cái gì?

Câu hỏi lại này như một liều thuốc kích thích cực nhanh khiến Vinh vốn rất nín chịu vẫn phải nhảy thách lên:

-Tôi cấm!

-Cái gì?

Nói chung, trong những tình huống thế này đàn ông bao giờ cũng kém tỉnh táo. Vinh gầm lên:

-Tôi cấm cô không được đi đâu cả. Tôi không cần tiền!

Hình như đã đợi sẵn câu nói này, Lương cười rất tươi:

-Rốt cục anh cũng phải thú nhận anh sợ nhất cái gì. Nói thực nhé, tôi cũng không cần tiền đâu. Nhưng tôi cần sống. Sống! Anh hiểu chưa? Sống tử tế, đàng hoàng, chứ không phải chui rúc như lũ chuột thế này!

Hai bước nhún, Vinh giáng một cát tát trời giáng vào khuôn mặt anh từng nâng niu bao ngày. Cuộc chiến tranh lạnh kết thúc. Lương trả lời cái tát bằng một tờ đơn. Điều đó thật hợp lý. Cả hai ký vào đơn trong một cảm giác bị xúc phạm ghê gớm. Song người đàn bà kia đã từ bỏ chuyến xuất ngoại. Điều này hơi khó hiểu, đến bây giờ Vinh vẫn coi đấy là một điều sỉ nhục.

Con mèo gần như phát điên khi bị Vinh bỏ đói đến ba ngày. Nó vật vã, giằng kéo tưởng đứt tung sợi dây điện giam cầm. Vinh hả hê nhìn luồng mắt xanh lẹt của con mèo căm hờn rẹt vào lũ chuột. Hết hôm nay thôi, mày sẽ được tự do. Tự do của mày sẽ là nỗi bất hạnh khủng khiếp của bọn vô lại kia. Chờ xem!

Quả thế, con mèo đã hành động vượt quá sự trông mong của Vinh. Vinh thả nó vào lúc đầu đêm. Thoạt đầu, con mèo không tin sự tự do của mình. Nó vươn vai, chân di đi, di lại, thậm chí còn quay lại gảy gảy sợi dây buộc. Đến lúc ấy nó mới dám tin không còn gì ràng giữ nó nữa. Con mèo nhảy phóc phóc, điệu bộ như người khởi động giãn gân cốt sau một giấc ngủ vùi. Bất chợt con mèo quật đuôi ngoào lên một tiếng, đến cả Vinh cũng phải giật mình. Tiếng ngoào chứa đầy khao khát, khảm vào đêm. Cảm giác tuồng như mọi thứ trong căn nhà đều chung chiêng trước tiếng kêu ma quái ấy. Con mèo vót thẳng vào góc nhà, nơi xếp lủng củng tỷ thứ bà dằn. Chỗ ấy là nơi bọn chuột trú ngụ.

Nhanh còn hơn điện, con chuột đen bóng, to bằng cỡ chuôi dao đã lả oặt trong cái miệng gừ rừ của con mèo. Vinh vội vã tắt đèn.

Dù rất sung sướng, nhưng Vinh không dám chứng kiến cảnh con mèo giết thịt tù binh của mình. Không biết đó có phải là con chuột đã bẻ gãy cổ con lật đật của Vinh? Con nào cũng vậy thôi, tiếng rau ráu lập tức vang lên. Con mèo đói, nhai một cách không từ tốn chút nào. Đêm đó, quả thực Vinh có thiếp đi được. Giấc ngủ chập chờn trong tiếng nghiền rào rạo của răng và xương.

Đến sáng, một cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt Vinh. Những miếng da deo dúm đeo đám lông dờ dật. Vũng máu đã sẫm đặc. Vài cẳng chân xiu xíu. Mấy cái xương trắng ởn không còn tẹo thịt nào.

Ghế nhất là hai cái đầu chuột bé quắt. Hãi quá, mắt những con chuột xấu số vẫn mở như lúc còn sống. Có lẽ chúng chết khi chưa biết mình chết. Hoặc giả loài chuột chết vẫn mở mắt. Cạnh đó con mèo xoải chân ngủ, bụng phưỡn ra nom rất tự đắc. Nó ngủ ngay trên sợi dây điện vẫn buộc nó. Suýt nữa thì Vinh nôn thốc nôn tháo vì ghê tởm. Phải bịt mũi loay hoay mất một lúc, Vinh mới dọn xong bãi chiến trường. Dù sao Vinh cũng thỏa lòng.

Liền tù tì vài đêm, nhà Vinh đã sạch chuột. Có điều giấc ngủ của Vinh vẫn chập chờn. Tiếng nghiền rào rạo kia không thôi theo Vinh vào giấc ngủ. Rồi sẽ quen, Vinh tự nhủ. Cả cái việc thu dọn kia nữa. Kinh lắm. Nhà Vinh bây giờ ngập ngụa mùi tử khí. Thì có cái gì đời cho không đâu, phải trả giá, hiểu không?

Đêm thứ mấy không biết nữa, cứ sập tối là con mèo phót đi. Nó phi rất tài qua lỗ thoát gió phía trên cửa sổ. Và đêm, cả khu tập thể yên ắng chợt vang những tiếng ngoào rền rĩ. Tiếng ngoào khác nhau thành điệu nghe rất ai oán như tiếng trẻ bị ngạt mũi khóc. Vinh không mấy hiểu về những tiếng ngoào ấy. Mãi khi nghe tiếng người đàn bà ở tầng trên rủa vọng xuống thì Vinh mới hiểu. Tiếng rủa nghiệt lắm:

-Tiên nhân bọn rửng mỡ đi hoang.

Thì ra đó là những tiếng ngoào đực cái!

Tai họa bắt đầu ập xuống. Từ chính nỗi hân hoan chiến thắng kia. Con mèo quá say mồi, đêm nào cũng tha về nhà chiến lợi phẩm. Lại tiếp tục vũ điệu dọn dẹp. Bỗng dưng, Vinh bị sa vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Lỗi không phải tất cả ở con mèo. Chính Vinh dạy dỗ nó. Nhiều vô kể, đêm nào bét nhất nó cũng phải tha về một con. Hình như ngoài món chuột, con mèo chả thèm ăn một thứ gì khác.

Đến hôm đi công tác ba ngày về thì Vinh hết chịu nổi. Phải cố gắng lắm, Vinh mới dọn dẹp hết được hậu quả. Có lẽ nó đã tiêu diệt vãn chuột của cả khu nhà này. Chính người đàn bà ở tầng trên, người thường xuống nhắc Vinh khóa vòi để nước lên tầng, bảo:

-Gớm, thì ra con mèo nhà chú. Hay chuột thật, nhưng cứ động cỡn, kinh bỏ bố. Nghe sốt ruột lắm.

Vinh quyết định tống khứ con mèo!

Không chuột, không mèo, không còn những âm thanh quen thuộc kia, giấc ngủ cũng chẳng đến dễ dàng. Hóa ra sự vô thanh càng khiến trí óc rối mù của Vinh thêm mệt mỏi. Bằng những cú đá quyết liệt, cộng với miếng tôn bịt hẳn lỗ thoát gió, Vinh mới xua được con mèo. Nó thích nghi rất nhanh với cuộc sống hoang. Điều này rõ ràng là con người thua đứt.

Đêm đêm cùng với chúng bạn, nó vẫn ngoào lên những tiếng kêu rền rĩ. Ai oán như tiếng trẻ bị ngạt mũi khóc.

Vinh vẫn tiếp tục những đêm trằn trọc.

Đến một hôm. Mất nước liền tù tì mấy ngày, bất chợt nước xối xả tuôn vào lúc hết chương trình vô tuyến. Chuyện mất nước quá bình thường ở cái thành phố nghẹt dân này. Vinh tắm táp rất kỹ. Có tiếng gõ cửa. Lại người đàn bà ở tầng trên. Chị ta hơn Vinh khoảng dăm tuổi. Chồng giữ một chức vụ gì đấy, ở miết nước ngoài. Nhà, khỏi phải kể, cái gì cũng dư thừa.

-Này chú, có một mình, dùng in ít thôi.

Vinh lẳng lặng khóa vòi nước. Người đàn bà không về ngay, lần đầu tiên Vinh nhìn kỹ người đàn bà. Một thân hình phốp pháp lồ lộ trong làn lụa mượt mà. Lập tức Vinh bắt gặp thứ mùi là lạ, nồng nồng, lan tỏa.

-Con mèo của chú…

Người đàn bà chưa nói hết câu, Vinh đã rùng mình sởn gai ốc. Vinh vừa bắt gặp cái nhìn của chị ta. Ánh mắt lẹt xanh, hệt như mắt của con mèo rẹt vào mũi chuột.

Bây giờ thì Vinh biết người đàn bà xuống nhà Vinh hoàn toàn không phải vì chuyện khóa vòi nước.

Đêm đó Vinh vẫn không tài nào ngủ được. Cứ trằn trọc hoài dù đầu óc rỗng không, tịnh chẳng một chút nghĩ ngợi. Tắt đèn rồi lại bật đèn. Quãng nửa đêm có tiếng sột soạt khe khẽ. Người Vinh run lên. Một con chuột bé chỉ bằng ngón chân cái lấp ló giữa hai chồng sách. Cũng chính lúc ấy tiếng ngoào của con mèo vẳng vào, con chuột sợ sệt nép vào gáy những cuốn sách. Bất giác Vinh mỉm cười. Vinh thiếp đi trong tiếng chin chít mơ hồ của con chuột và tiếng vọng ai oán đầy khao khát, tiếc nuối của con mèo.

Vinh qua một giấc ngủ ngon lành không thể ngờ. Một điều lạ lùng đã xảy ra trong giấc ngủ miên mải. Lần đầu tiên, kể từ ngày vợ bỏ đi, Vinh mơ thấy nằm với một người đàn bà.

Nguyên quán

Y là kỹ sư nông nghiệp, chuyên ngành cây trồng.

Thế nên dù sinh sống ở thành phố, lại công tác ở cơ quan Bộ, y vẫn thường xuyên phải có mặt trên những vùng quê khác nhau. Đó là nghề nghiệp.

Tuy mới vào tuổi ba nhăm, nhưng y đã chớm mệt mỏi với chức nghiệp.

Không lạ. Đó là một căn bệnh chung của xã hội. Có điều trong tất cả các chuyến đi cơ sở, bao giờ y cũng hoàn thành công việc.

Y biết đó là sự hoàn thành không phải do hứng thú, mà là vì bổn phận. Hứng thú gì nữa. Y đã đầy đủ và chán ngán tất cả. Với y mọi thứ dường như đã chấm dứt.

Lần đi này cũng vậy. Y có nhiệm vụ khảo sát thực địa để tiến hành thí nghiệm gây một giống lúa mới có năng suất cao nhập từ nước ngoài.

Đề tài này do y đảm trách. Địa điểm thí nghiệm chính ngay ở làng quê của y. Giá như lần khác, y mặc xác địa phương chọn địa điểm.

Đâu chẳng thế. Với y, một chuyên viên cấp Bộ nắm trong tay đề tài thí nghiệm cây giống, bất luận kiểu gì cũng mang lợi cho địa phương, càng vùng lạ càng được trọng vọng.

Còn lần này thì khác. Y chẳng mấy thích thú về làng, song mẹ y đã quyết. Y vâng lệnh mà ngao ngán. Mẹ y bao giờ cũng là người trực tiếp đứng trên sự nghiệp của y.

Lẽ ra y thực hiện chuyến đi trên chiếc xe máy tư một trăm phân khối hoặc bằng xe con của cơ quan, song chẳng hiểu sao mẹ y lại bắt y phải đi bộ. Y không dám trái lời.

Thế nhưng, sau một thôi cuốc bộ sáu cây số trên con đường đê lổn nhổn sỏi đá, rải đã mấy chục năm, khi người y đã sung sũng mồ hôi, y đâm ra cáu bẳn và oán trách mẹ.

Chuyến đi này, ngoài việc công, y được mẹ giao nhiệm vụ xây cất lại phần mộ và tổ chức giỗ ông nội.

Ông nội y đã chết nhiều năm trước khi y ra đời. Đó là người, tuy không biết mặt, nhưng y biết ông đã để lại cho gia đình y nhiều vinh quang và cay đắng.

Hôm qua mẹ đưa cho y hẳn một tập tiền lớn kèm theo chiếc nhẫn vàng hai chỉ để chu tất công việc trọng đại này.

Mệt mỏi nhấc từng bước chân, y buồn bã nhìn dòng sông Châu lặng lờ, cả bốn mùa nước xanh mướt.

Vào tiết đông, sông vật vờ như một kẻ đại nghiện lười nhác, lừ ngừ phả những bụm khói nước mịt mùng đến não ruột.

Y nhìn về phía làng. Cánh đồng xa mù. Rải rác những hình người tí teo bật lên, bổ xuống. Bất ngờ rền từ khóm lác ven sông tiếng khắc khoải thảm thiết của chú chim lạc đàn. “Cuốc… cuốc… cuốc…”. Não nùng quá.

Y dừng lại trước một cái nong lớn, cạp đã gần tung, lua nhua đầu lạt buộc, bị đứt treo giữa đường trên một thân tre đực gộc guệch.

Y tức tối đọc từng chữ trên cái biển kiểm soát có một không hai kia. Ngực y ran ran. Mẹ kiếp, sắp vào thế kỷ hai mốt còn gặp cảnh này, khổ là phải.

Y nhác thấy một cái đầu bù xù lấp ló ở cửa điếm trong bụm khói thuốc lào to sụ. Người đàn ông còn rất trẻ cà nhắc tiến ra phía y. Đó là một người dị tật.

Anh ta lia cặp mắt kèm nhèm dõi suốt lượt người y, từ chân tới đầu và ngược lại, rồi gật gù xem có đến hàng phút đồng hồ tấm chứng minh thư y vừa đưa trình.

Xoay đi xoay lại tấm chứng minh, vừa xoay anh ta vừa đánh vần bằng thứ giọng ngọng nghịu vì tật nguyền:

-Nguyên quán! Hoá ra người cùng nàng.

Lúc ấy có người đàn ông nữa bước ra.

Có lẽ đây mới là chủ nhân đích thực của điếm gác. Ông ta vụt reo lên:

- Con nhà Hà. Thằng Cách! Mẹ mày. Sao lâu mới về thế hử?

 Y ậm ào. Lâu gì mà lâu, có năm nào mẹ y không bắt y về làng vài bốn lượt. Ờ mà phải, mấy tháng rồi y đi công tác miết mãi phía Nam có thưa về thật. Người đàn ông lại hỏi:

 - Mẹ mày thế nào rồi hử?

- Cám ơn ông, mẹ con bình thường.

Ông già gác điếm nuốt ực tiếng thở dài sắp bật ra:

-Thôi, về đi con. Mùa màng lại thất bát, thóc gạo hiếm hoi, xã phải tổ chức

gác xách để canh chừng bọn xấu.

Y nhận lại tấm chứng minh thư, bất giác lặp lại động tác của anh chàng dị tật. Làng lại đói to. Người y run lên. Dòng địa chỉ nhoè đi. Nguyên quán. Chao ôi, cái gốc của y. Cái gốc khốn khổ, đói khát một đời…

Y không có cái may mắn được sinh ra từ gốc của mình.

Y ra đời trong một nhà hộ sinh ở Hà Nội. Thời tạm chiếm nó là nhà thương làm phúc.

Khi tiếp quản, dù đã đổi tên nó vẫn chỉ tiếp nhận những người nghèo khó. Năm y ra đời, mẹ y đã bốn mươi tuổi. Đó là quãng thời gian nghiệt ngã nhất của gia đình y.

Những năm cuối đời, bố y trở nên nghiện rượu nặng.

Cứ mỗi chiều lúc say ngật ngưỡng, ông lại gọi y đến bảo: “Chả biết rồi đời mày hạnh phúc hay bất hạnh? Cũng chẳng biết mẹ mày đúng hay sai. Nhưng mà này, Cách.

Nhờ có cải cách ruộng đất mà có mày đấy, con ạ”. Sau đó, lần thì ông khóc, lần thì ông lại cất giọng của một người đã say líu lưỡi hát: “Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi…”.

Y còn bé chỉ lõm bõm hiểu. Những lúc ấy mẹ y rặt thở dài. Mãi khi đã trưởng thành, y mới được mẹ kể lại tường tận.

Bố y mất năm bảy hai vào dạo B52 đánh Hà Nội.

Ông không chịu sơ tán, cũng không chịu xuống hầm, cứ ngồi giữa nhà uống rượu ngẫm ngợi. Bom đánh sập nhà. Lúc hàng phố moi được xác, tay ông vẫn khư khư chiếc chén tống và người thì nồng nặc hơi rượu.

Đận ấy, quan tài của ông được xếp ngang hàng với vài chục quan tài khác của những người bị nạn. Đích thân ông chủ tịch khu phố đọc lời điếu bi ai, phát động lòng căm thù.

Ông đã chết vào chính những ngày tháng hào hùng nhất của đất nước như một liệt sĩ. Điều đó, nhiều năm sau vẫn làm dịu đi nỗi đau mất mát của gia đình y.

Nhiều năm sau. Mẹ y đã trở thành bà lão bảy nhăm tuổi, già lụ khụ, tóc bạc trắng.

Cứ mỗi chiều bà lại chống gậy dạo trên mặt đê sông Hồng, ngắm nhìn hoàng hôn.

Hoàng hôn giản đơn chỉ là một ngày sắp tắt. Mặt trời chói chang, kiêu dũng giờ lặng lẽ buông rơi những tia nắng rẻ quạt cuối cùng, toá vung vãi xuống mặt sông, rồi hèn yếu lịm hẳn.

Có thể là trăng lên. Có thể chỉ là những chấm sao li ti điểm xuyết cho trời đêm đỡ quạnh vắng.

Mẹ y đứng im lìm, mắt đăm đăm nhìn vào thinh không hư ảo. Khoảnh khắc nối tiếp ngày và đêm có thể khơi bùng lên trong bà nỗi ám ảnh sợ hãi về quy luật sinh tử. Có thể và không có thể.

Rất nhiều hoàng hôn rồi mẹ y vẫn đứng như thế. Hay là bà đang đón đợi hoàng hôn của mình. Mẹ y chỉ nhìn về phía ấy.

Sau này khi mà hoàng hôn có thật của đời người tìm đến với bà, y mới biết không phải mẹ y đợi nó.

Chỉ mất có hai ngày y đã hoàn tất vẻ vang nhiệm vụ mẹ giao.

Khốn nạn, xây cất gì nữa, mộ của ông y đã xây chắc chắn và to nhất nghĩa địa làng.

Y hiểu thâm ý của mẹ. Giữa lúc cả làng đang rạc đi vì chạy bữa để chống đói thì y lại nhẫn tâm làm cái chuyện hết sức hoang phí là bỏ tiền thuê thợ xây xây, cất cất.

Kẻ sống đang nhăn răng mà kẻ chết lại thừa mứa. Không phải y không hiểu nghịch cảnh ấy. Song y không dám trái lời mẹ.

Y thừa biết mẹ y muốn gì. Thậm chí vào tận lúc này, mẹ y đang trong cơn ốm thập tử nhất sinh, bà vẫn không chịu buông tha món nợ cũ.

Mẹ ơi, sao không để những điều đã qua chôn chặt vào quá khứ cho con người được thanh thản sống. Lòng y thấy nhói đau. Cảm giác ấy đã đến với y từ hôm qua trong buổi tiếp của uỷ ban xã dành cho y.

Người ta đã được thông báo trước về thí nghiệm giống lúa mới. Nhưng chắc chắn không ai biết rằng việc y chọn làng quê của mình là do ý định của mẹ.

Chính vì thế, mà y được tiếp đón như một người anh hùng. Y thấy xấu hổ. Không đành được, y đã nói ra ý nghĩ ấy với Thịnh, bạn để chỏm của y, giờ là chủ tịch xã. Thịnh bảo:

-Tao biết bác vẫn còn giận. Chuyện cũ của một thời không ngờ lại dằng dai lâu đến thế. Bố tao đang ốm nặng. Những ngày cuối cùng này ông hối tiếc lắm. Cứ bảo… Mà thôi, mọi gánh nặng giờ trút cả lên vai chúng mình. Tao ít học, hiểu chỉ bập bõm, nên cho rằng tất cả cũng chỉ tại nghèo đói. Nghèo đói, dốt nát sinh ra khổ đau, thù hận. Biết thế mà chẳng làm cách nào được. Mày nhìn đấy. Làng xóm của mình tiêu điều quá. Chúng tao đã cố hết sức. Mày được học nhiều, lại đi đây đó, biết sâu, nghĩ rộng, mày bảo phải làm gì…?.

Y không trả lời. Y thấy thương bạn và thương mình.

Mày nói phải đấy, gánh nặng thời đại đặt cả lên vai thế hệ chúng mình. Mà chúng mình thì thế. Ngay y, chưa bao giờ y dám nghĩ sẽ thoát ra được khỏi cái vòng luẩn quẩn mà mẹ y đã sắp đặt.

Chiều nay ngôi nhà ngói năm gian cổ lỗ của gia đình y, quanh năm cửa cài kín mít hoang vắng như một nấm mồ bỗng nhộn nhịp khác thường.

Ngôi nhà ấy, ngoài y không ai được phép mở cửa. Mẹ y giữ nếp ấy suốt mấy chục năm nay. Y làm đám giỗ ông nội đúng như lời mẹ dặn. Phải đến hai chục mâm không kém. Người nêm cứng trong nhà, ngoài sân.

Tiếng cười nói ồn ã. Tiếng băm chặt côm cốp. Tiếng chan húp soàm soạp. Bữa đánh chén đã đời trong lúc bụng đang lép kẹp quả là niềm vui quá lớn với những người được mời dự.

Ngoài họ hàng thân thích, nhiều cán bộ trong làng, xã cũng có mặt. Y biết họ chẳng thích thú, song vì vụ cấy giống thí điểm nên muối mặt phải đến. Y cảm nhận rõ ràng điều đó.

Y ngất ngoáng một cảm xúc buồn khó tả. Những cái chén nhấc lên, đặt xuống. Những khuôn mặt phừng phừng đỏ. Cả những ánh mắt oán trách lẫn căm hờn.

Kìa, thằng oắt, nòi giống địa chủ, thời thế đảo lộn, cậy thế, cậy tiền về hạ nhục làng. Y thấy ngột thở và y đau xót hình dung ra khuôn mặt hả hê của mẹ. Mẹ ơi, con chỉ là vật đánh đổi hèn kém cho hận thù của mẹ.

… Ông nội y mất vào dịp Tổng khởi nghĩa, để lại cho cha y, một anh giáo làng, ít vốn liếng chữ nghĩa của một gia đình nho học đã sa sút và hơn mẫu ruộng tốt.

Ruộng ấy so với đám đất đai của đám chức sắc trong làng chẳng là gì. Trong số họ có người nắm trong tay đến vài chục mẫu.

Gia đình y cần cù, chăm chỉ làm ăn, nên khá giả và không phải không có máu mặt trong làng. Cha y bỏ lại tất cả để lên đường tham gia Vệ quốc quân. Hoà bình.

Cuộc đổi đời vĩ đại kéo theo cả những thảm khốc khôn lường. Gia đình y là một trong những đối tượng cần phải tính sổ.

Cha y bấy giờ đã là một cán bộ chỉ huy trong quân đội, có một quá trình cống hiến tốt đẹp. Công lao ấy ai dám bắt tội. Mẹ y, may mắn là cơ sở du kích hồi chín năm nên thoát.

Nhưng còn ngôi nhà ngói và mẫu ruộng nhất đẳng điền? Tính sao đây? Tính cóc khô gì nữa. Rành rành địa chủ còn gì.

Thế là đấu tố. Làng xóm đấu tố. Họ hàng đấu tố. Con cháu cũng phải đấu tố. Đấu tố cái kẻ đã nằm xuống mười năm có lẻ.

Người ta quyết định đóng trước mộ một cái cọc tượng trưng như một hình phạt với người đã chết.

Tất cả nhắm mắt đợi chờ. Chính lúc ấy thì mẹ y chồm dậy giật phăng cái cọc tre vô tri từ tay người cán bộ cốt cán từng là du kích ăn, ở hầm nhà bà, vứt nó sang một bên rồi choãi người nằm đè lên mộ bố chồng.

Mọi người lánh cả. Cốt cán gì cũng là hàng xóm láng giềng.

Ai nỡ. Người ta nhanh chóng quên đi cái cọc.

Mẹ y đận ấy chỉ phải nằm phơi sương, phơi nắng đủ ba ngày là thoát tội.

Chịu đủ hình phạt, mẹ y rũ xuống như một cái xác không hồn. Nhà cửa, ruộng vườn tao tác cả.

Một đêm sau đó, mẹ y, mắt ráo hoảnh tong tả dẫn hai đứa con gái trốn khỏi làng. Cứ trốn.

Đầu tiên cũng là để thoát khỏi nhục nhã và đau đớn, sau tĩnh tâm bà nguyện vĩnh viễn rằng không bao giờ bước chân về làng nữa.

Bà tìm đến chỗ đóng quân của bố y. Ông đã hay tin nhà. Buồn quá. Kẻ buồn, chả mấy người không tìm đến rượu.

Đang lừ khừ ngoài quán thấy vợ, mặt ông thuỗn ra, không nói được lời nào.

Mẹ y phải bảo: “Đến nước này ông còn u mê trà, rượu thì cũng đến chịu ông thật”. Hai người dẫn nhau về.

Tối ấy, bà bảo: “Tôi muốn có một đứa con”. Bố y tỉnh hẳn rượu, giọng thượt thạt: “Già lắm rồi”. Mẹ y lạnh tanh: “Già cũng vẫn đẻ. Ông không đẻ, tôi đẻ!”. Bố y hỏi: “Để làm gì?”. Mẹ y trả lời: “Để nó ghi nhớ đừng quên những ngày này”.

Bố y oà khóc. Khóc không phải vì tủi phận, ông khóc vì bất lực trước ý nguyện sắt đá của vợ mình. Đêm hôm ấy, số phận y được quyết định.

“Chẳng hiểu đời mày hạnh phúc hay bất hạnh?”. Câu nói của bố y trong cơn say cứ ám ảnh, đeo đẳng trở thành niềm day dứt khôn cùng trong y.

Bố y sau đó phục viên. Đến lúc chết, ông vẫn là một người thừa thãi.

Mẹ y lăn lộn đủ mọi nghề để sống.

Không giản đơn chỉ là sống. Cao hơn cái sự sống tự nhiên mà tạo hoá dành cho con người, bà bươn chải trong ước vọng ma quái và cuồng nộ. Bà đóng cọc vào số phận y cái sứ mệnh nghiệt ngã không biết đến bao giờ y mới cởi bỏ được.

Ngôi nhà sau đó được trả lại. Ông nội y được hạ thành phần. Y trở về tiếp quản ngôi nhà của dòng họ trong hình hài một thằng bé thành phố trắng trẻo và đầy đủ. Mẹ đã sắp đặt cho y tất cả.

Không khí bữa giỗ càng về cuối càng ồn ã, huyên náo. Rượu vào, người ta xáo xác đủ mọi thứ chuyện.

Y cũng nốc vô khối. Lúc tàn cỗ người y đã mềm nhũn, song đầu óc vẫn còn tỉnh táo. Mọi người tản về hết, còn một mình trong căn nhà hoang vắng, y mới thấm thía nỗi quạnh quẽ.

Ngôi nhà chập chờn, hư ảo. Không đành được, y choàng dậy thắp đèn thật sáng. Y thẫn thờ nhìn từng khuôn mặt người đã khuất trong những tấm ảnh treo trên ban thờ.

Ông y khăn xếp, áo the, mặt trang nghiêm đầy vẻ quan trọng. Bố y trẻ trung, cười cợt, ngực cài kín huân chương, huy hiệu.

Cả những khuôn hình từ đời trước, mặt dài dại vì thời gian đã bào mòn nước vẽ.

Y chật chưỡng đi khắp nhà. Một ý nghĩ chợt đến.

Bao giờ thì y rũ bỏ được bổn phận với ngôi nhà vô hồn này.

Lập tức ánh mắt nghiêm khắc của mẹ y vụt loé: “Mày nói gì đấy, Cách?”.

Người y run lên: “Giữ mãi cái nhà này làm gì, hả mẹ?”.

Tiếng mẹ y tức tưởi: “Trời ơi, thằng Cách? Tao đã cho mày tất cả. Vợ con, sự nghiệp, tiền bạc. Cả cuộc đời tao nữa. Tất cả chỉ để xác lập chủ quyền của mày trên mảnh đất này. Mày định rũ bỏ ngôi nhà đấy ư? Tổ tiên của mày đấy. Cuộc đời của mẹ mày đấy. Cách

Y sợ hãi tắt đèn. Đêm đặc quánh.

 Cứ thế y cập quạng từng bước một trong cái bể đen kịt của ký ức.

Y đã sống trọn tuổi thơ của mình trong ngôi nhà này.

Năm lên chín tuổi, mới tạm cứng cáp, mẹ đã buộc y về ở hẳn làng. Từ xa, mẹ dõi theo và điều khiển từng bước đi chập chững của y.

Năm y mười bảy tuổi, mẹ ép y vào học bằng được ở trường nông nghiệp, dù chưa bao giờ y thích nghề ấy.

Ra trường, cũng chính mẹ y lo toan vị trí, việc làm cho y.

Năm hai mươi nhăm tuổi, mẹ lấy cho y một cô vợ xinh xắn và ngoan ngoãn vâng lời mẹ còn hơn cả y. Thành thử cả chuỗi đời ba nhăm tuổi của y đều do một tay mẹ sắp đặt.

Duy nhất có một lần y vượt ra ngoài sự kiềm tỏa của mẹ. Chuyện ấy gây bao nhiêu sóng gió và hết sức đau buồn.

Đó là vào năm y tốt nghiệp đại học. Y xếnh xáng về làng trong nỗi hoan hỉ của mẹ. Thằng Cách đỗ đạt vinh quy, ước vọng của bà được toại nguyện. Y về làng.

Chưa hề cầm cày, cầm cuốc một ngày, song dịp ấy y thao thao về ti tỉ thứ cây giống.

Y phiễu phão hàng tiếng đồng hồ về triển vọng của hợp tác hóa, về quy mô toàn quốc của mặt trận nông nghiệp.

Cả làng há hốc mồm nghe y phán. Xưa nay, làm là làm, dân tình cứ chúi mắt hết chiêm lại đến mùa chứ có bao giờ biết đến những việc to tát, trọng đại thế kia.

Giỏi, giỏi, kỹ sư nông nghiệp, oách lắm đấy. Cả huyện này, lớn thế mà cũng chỉ có vài mống kỹ sư ở tít trên cơ quan huyện.

Giỏi! Đừng có đùa với thằng Cách. Rút cục y cũng thấy khoai khoái. Trong lâng lâng của cơn say thành đạt, y xăng xái hứa giúp làng về khoản tri thức khoa học kỹ thuật.

Đận ấy y có nhân giúp thành công tổ thí nghiệm của hợp tác xã khoản bèo hoa dâu thật. Và cũng vì vụ “bèo bọt” này mà y gây nên chuyện.

Trong nhóm làm bèo có cô Đua xinh nhất làng Kình. Con gái làng Kình xưa nay có lẽ tại ăn nước giếng làng, nên da dẻ đều ngăm ngăm hoặc đen nhẻm cả.

Cô Đua thì khác. Da tuy bánh mật, nhưng căng giòn đầy sức sống. Lưng ong, mình trắm. Đã thế mắt còn long lanh sáng, răng lại đều tăm tắp và tóc thì dài mượt, đen đến nhức cả mắt. Tóm lại là Đua đẹp.

Trai tài gái sắc gặp nhau, âu cũng là lẽ thường tự cổ chí kim, có cái gì mà ồn ã. Hai người yêu nhau đấy, thắm thiết nữa là đằng khác, chết ai đâu.

Y nhầm. Bởi nếu Đua là người khác không sao, có lẽ đã thành duyên, đằng này Đua chính là cái Tĩn em gái Thịnh, chủ tịch xã bây giờ và là con của cựu chủ tịch Vịnh ngày trước.

Chuyện này hơi lòng vòng một chút. Ông cựu chủ tịch Vịnh lại chính là vị cốt cán năm xưa, người được giao đóng cọc tre vào mả ông y hồi cải cách ruộng đất. Oan gia thế.

Lúc ấy, Thịnh, bạn y, đang ở chiến trường. Ông Vịnh xem có ý hài lòng. Bằng cứ là ông ấy lờ tịt.

Thú thật, y không phải là không biết được mối quan hệ rắc rối ấy.

Cái Tĩn, y lạ gì. Nó kém y và thằng Thịnh anh nó có hai tuổi.

Y chả chơi mãi với nó hồi còn bé đấy sao. Song có yêu mới biết. Bố ai lúc yêu mà nói thánh được.

Y bập vào cái Đua nhanh lắm. Say tít, khổ, từ bé đến giờ, kể cả hồi ở trường đại học, mẹ y kèm từng bước có bao giờ y được rảnh rang để mà yêu với iếc.

Mùi vị tình yêu, y biết, chẳng qua cũng là do hít được ở dăm quyển sách ba xu nhạt phèo. Thế nên chết là phải.

Công bằng mà nói, hồi ở trường, khối cô sạch sẽ đáo để đánh mắt với y. Mẽ ngoài, trông y cũng khá, cao ráo, trắng trẻo. Nhưng mẹ y cấm tiệt: “Thằng Cách. Học đã con. Xong, cho mày thoải mái!”.

Thì bây giờ thoải mái, học xong rồi còn gì. Hai đứa dính khít với nhau như hình với bóng. Say lắm, y thề non, hẹn biển với Đua.

Yêu mà lỵ. Xưa nay từ thằng Sở Khanh đại bợm đến gã dân quê mít đặc, ai yêu mà chả thề với thốt.

Lời y gió chưa kịp bay thì chuyện vỡ lở. Mẹ cấp tốc gọi y ra thành phố. Trận ấy y lãnh đủ.

Đã bảo có bao giờ y dám cãi lời mẹ. Kết cục, mối tình của y tan vỡ như bao mối tình cùng loại. Cũng chẳng sao, thời hiện đại mà.

Có điều Đua từ đấy sống lặng lẽ. Đến tận bây giờ trở thành người quá lứa, cô vẫn quyết ở vậy, không chịu lấy chồng.

Lại nói về bố con ông Vịnh. Trong kháng chiến ông Vịnh hoạt động du kích. Hồi cải cách là cốt cán tích cực. Chính tay ông đã bắn gục hai địa chủ có nợ máu.

Đợt sửa sai ông bị chung chiêng một dạo, song vẫn trụ vững được ở cương vị chủ tịch. Ông làm chủ tịch xã một lèo đến hai chục năm. Làm lâu thế uy tín chẳng phải kể, buộc phải nghỉ vì ông đã quá già.

Chức chủ tịch qua hai, ba tay người khác, sau lại về với Thịnh. Bố con ông Vịnh làm chủ tịch, song sống chẳng hơn gì dân thường.

Nơi khác xem, chức vụ ấy đừng có đùa, bẫm phải biết. Dân làng Kình sống với nhau chủ yếu bằng tình nên phần vật chất bị xem nhẹ. Bởi vậy căn nhà gỗ của bố con ông, các cụ để lại từ xưa vẫn y nguyên.

Còn Thịnh, hết cấp hai đi bộ đội. Tham gia chiến dịch bảy nhăm bị thương, về làng được bổ ngay làm xã đội. Sau vài khoá, trúng chủ tịch, cứ thế làm miết.

Cô Đua sau cú biệt tích không lời từ biệt của y, tuy có hận, song nghiến răng chịu đựng.

Mãi nửa năm sau y mới mò về làng, có nhắn nhủ Đua để tạ lỗi, nhưng không gặp được. Đua tránh. Thế lại hay, gặp gỡ mà làm gì, sầu thêm. Từ bấy đến nay đã hơn chục năm, cô vẫn tránh mặt.

Y cũng có hối hận, nhưng ích gì nữa. Tội ấy chắc chỉ có trời biết. Y đành lòng tuân theo số phận.

Sau mối tình tày đình của con trai, mẹ y nung nấu quyết tâm chọn cho y một cô vợ. Đấy là chuyện hệ trọng nên cần phải kỹ. Bởi vậy từ lúc manh nha đến khi y com lê, com táo ôm hoa, mất đúng ba năm ròng.

Vợ y cũng con nhà ngụ cư ở Hà Nội. Chọn thế để trừ việc suy bì tông, giống. Đã chủ ý, nên mẹ y tìm người khoẻ mạnh, xốc vác. Tuổi vợ chồng y xêm xêm hơn kém nhau chẳng bao nhiêu.

Khôn đấy, rước trẻ ranh về nhõng nhẽo, quá là mang họa, không khéo mẹ con lại chia lìa, nhà cửa tan nát chẳng bỡn. Được cái vợ y ngoan. Tuổi thế so với y có khí cứng, nhưng bù lại mẽ ngoài cũng kha khá. Thế là được.

Hôm ra mắt lần đầu, y biết phận nên gật phắt. Mẹ y hài lòng lắm.

Cốt chiều ý mẹ, chứ còn tâm tưởng y vẫn hướng về Đua. Thực đấy, chứ không phải lãng mạn. Mà thôi dẹp, y làm sao cưỡng lại được ý định của mẹ. Từ ngày có vợ, y đâm lép vế tợn.

Trước đây một mình, tiếng là mẹ y hà khắc, song bà chỉ quản về đường lối tinh thần, còn tiền bạc lại thả cho y rủng roẻng.

Mấy chị y lấy chồng xa cả, nên không có chuyện suy bì, kèn cựa, mọi thứ y đều được thoả mãn. Vợ vào, y bị quản chặt về vật chất.

Vợ y vốn con nhà nghèo, vất vả, nên quý trọng đồng tiền. Bởi vậy cô ta vun vén hết sức. Đầu tiên y cũng khó chịu, sau quen. Y tặc lưỡi mặc kệ. Đời phải thế.

Ở trên đã nói, mẹ y lăn lộn nhiều nghề. Chả biết lưng vốn thế nào, ky cóp mãi mà tậu được cả cửa hàng ở mặt phố.

Lúc y đã trưởng thành, mẹ y chuyển sang nghề bán buôn ngũ cốc. Nghề ấy thời nào cũng đắc dụng. Vua chúa đến cùng dân thì cũng nhất loạt phải trọng món ấy cả.

Vợ y hồi chưa lấy chồng làm nhân viên tạp vụ ở cơ quan xây dựng. Sau bỏ hẳn ở nhà phụ cửa hàng. Biết tính mẹ chồng, lại chịu khó vâng dạ, nên vợ y rất được tin dùng. Nhất là sau khi vợ chồng y sinh con trai thì địa vị cô ta lên cao trông thấy.

Tuy chưa được quản hẳn về tiền bạc, nhưng vợ y đã có dấn vốn riêng làm của ăn, của để.

Chả lâu la gì y phát hiện bản tính của vợ. Người chẳng đến nỗi mà tham. Chuyện này làm y nẫu ruột lắm.

Vợ y có đam mê gửi tiền tiết kiệm. Mê kinh. Quyển sổ gửi tiền bao giờ cũng kè kè dưới gối. Y dư dật đồng nào đều bị vợ thôn tính, để rồi tất tần tật cuốn vào cái hồ lô không đáy ấy.

Ham lãi, vụ tín dụng vừa rồi, vợ y mất trắng, tiếc của, điên dại đến cả tháng trời.

Ngẫm cho cùng, đời người ai chẳng có một say mê nhất định. Ví như mẹ y chẳng hạn. bà bao giờ mỗi đêm chả hi hóp cái túi vải đeo trong người. Đã thành lệ, khi ngủ, bà lại tháo nó ra, lần lần rất lâu tấm chứng minh thư, rồi sờ nắn kỹ càng từng đồng vàng chẳng biết bà tích cóp được từ hồi nào.

Đấy, ai không có đam mê ắt là kẻ bất hạnh. Thế thì y bất hạnh, bởi y chẳng có một đam mê rõ rệt nào cả. Cũng hợp lý, từ tấm bé mẹ đã lo lắng cho y tất cả.

Ngót chục năm có vợ, y vẫn mù mờ về khái niệm hạnh phúc.

Chả biết vợ y thế nào, còn y không phân định nổi tình cảm của mình. Nhưng không hẳn là chán nản. Y vẫn sống hết mình với vợ.

Có thể cộng thêm vào đấy là nỗi sợ. Nói thêm chuyện này. Ngoài việc vun vén tiền nong, vợ y trong lĩnh vực tình cảm cũng nhiều khi làm y điên đảo.

Nội một chuyện ghen cũng đủ chết. Biết chuyện cô Đua, nhiều năm sau vợ y vẫn còn hậm hực, nhất là khi đã tường tên tỏ mặt.

Chả thế mỗi lần mẹ y giục y về quê vì một việc gì đấylà vợ y phản ứng ra mặt. Có lần không kìm được, vợ y vỗ tuột:“Bà già lẩm cẩm. Quê với kiếc. Quên mẹ nó đi. Rách việc!”.

Lại có lần độp thẳng thừng: “Này anh, đất đai, nhà cửa ở quê bán có được giá không? Rồi cũng phải liều liệu dần”. Thấy vợ mắt lim dim, y rùng mình. Sợ quá.

Còn nghi ngờ gì nữa, vợ y đã tính trước cái ngày mai không còn bao xa ấy nữa. Những lần ấy trước chuyến đi, bao giờ vợ y cũng tỏ ra đặc biệt săn sóc đến chồng. Điều đó làm y hết sức đau lòng. Y hiểu vợ y vắt kiệt sức lực chồng bằng chuyện chăn gối vì lẽ gì.

Ngay cả lần này đi cũng vậy. Hôm sau cùng khi đã thoả mãn, vợ y cứ vuốt ve mãi ngón tay nhẫn của y mà buông tiếng thở dài não nuột.

Y đã buồn ngủ díp mắt, vợ y vẫn không buông tha. Mãi sau mới nói:“Cái nhẫn này vàng đẹp. Mang về quê phung phí thật tiếc. Em đổi cho anh cái khác. Cũng là của mẹ cả”.

Khi chuyển đổi thành tiền ở tiệm kim hoàn, y mới ngã ngửa biết vợ y đã làm một phép rút gọn thật tài tình. Nhưng thôi lẽ đời là vậy, y còn biết chuyển đổi làm sao.

Đã quá nửa đêm y vẫn trằn trọc không tài nào ngủ được. Bực mình, y nhỏm dậy vớ chai rượu tu ực một ngụm tướng. Cho say. Say mới dễ ngủ. Ngôi nhà lặng phắc tối đen.

Bỗng y thấy có vệt sáng loáng nhoáng phía ngoài. Y lần ra hiên. Lạ nhỉ, sao nhà Thịnh treo nhiều đèn thế.

Y lập cập mò sang. Hai nhà chỉ cách nhau một đoạn ngõ ngắn. Nhiều người thật. Phải có chuyện gì hệ trọng lắm. Khuya rồi cơ mà. Thắc mắc, nhưng y không dám vào.

Nhà ấy mẹ y đã cấm cửa. Y nép sát bụi tre nghe ngóng.

Tiếng thằng Thịnh gấp gáp: “Tĩn. Cái Tĩn đâu. Sang bảo thằng Cách. Ông nhắn. Ông muốn gặp nó”.

Thấy Đua nấc lên vụt chạy, y tỉnh hẳn. Hai người kề sát mặt.

Mười năm rồi vẫn thấy nhau mà bây giờ mới gặp, em ơi. Không thể kìm nén, cánh tay y rất tự nhiên choàng lấy thân thể ấm nóng củng người yêu.

Đua oà khóc. Lại có tiếng thằng Thịnh: “Sao lâu thế? Không kịp mất! Chân ông lạnh rồi!”.

Châu đến bốn năm ngọn đèn bão, ánh sáng vẫn vàng vọt.

Y kinh hãi nhìn vào giường. Đấy mà là người ư?

Hình hài ông Vịnh bây giờ thật chẳng khác bộ xương người thời tiền sử hoá thạch, y nom thấy ở viện bảo tàng. Giá môi ông không mấp máy và cặp mắt tuy đang mất dần thần sắc vẫn còn lờ đờ, hẳn y đã không dám tin là ông còn sống.

Thấy y, mắt ông le lói sáng trở lại. Giọng ông phều phào, đứt quãng nhưng vẫn còn rõ nét: “Cách hả… nói với mẹ… qua hết rồi… đừng giận nữa… nghèo quá… có tội… đừng bỏ làng… cái Tĩn… thằng Thịnh… Cách… ”.

Đến đấy thì ông nấc lên, thở hắt ra. Người ông nẩy khẽ, mắt trợn cứng. Thịnh đứng bên chụp ngay tay vào mắt bố.

Lặng đi một giây, rồi căn nhà như ào vỡ bởi tiếng gào khóc nhất loạt. Kinh hoàng quá, y vọt chạy ra khỏi nhà. Hỡi trời cao, đất dày. Hãy tìm đi, tìm đi. Đâu rồi sự u mê tăm tối? Đâu rồi lòng hận thù ngu dốt. Hãy tìm đi… tìm đi…

Vào phút sau cùng, trước khi kết thúc đám tang, kết thúc một đời người ông Vịnh, thì cậu văn thư xã mặt xanh đít nhái, hớt hải chạy ra bãi mả, đưa cho y một tờ giấy vàng nhạt.

Điện tín. Vẻn vẹn có mỗi dòng: “Mẹ mất. Anh thu xếp mọi việc ở làng. Mẹ trối lại. Đưa mẹ về quê, cả bố nữa – Ký: Vợ”.

Thế là hết. Y nhìn thật sâu vào chiếc quan tài sơn đỏ nằm dưới lòng đất, cố tìm xem trong ấy có những gì.

Không có gì cả. Chỉ có hơi đất âm u và lạnh lẽo.

Rút cục mẹ y đã trở về. Trở về nơi mà từ đấy người sinh ra, sống hạnh phúc và cay đắng, khổ đau và thù hận.

Lúc ấy, người ta làm nốt thủ tục cuối cùng là đốt tấm chứng minh của người quá cố. Tàn tro bay.

Y buông rơi tờ điện tín. Mẹ y cũng sẽ trở về, bỏ lại y trên đời này tất cả, chỉ mang theo trên người tờ chứng minh có dòng chữ rưng rưng: nguyên quán.

Lòng y cồn quặn, mắt y nhoà đi. Y hình dung ra cảnh hấp hối của mẹ. Và vợ y? Y không dám nghĩ tiếp nữa.

Y nhìn một lần nữa vào lòng đất.

Đất sinh ra con người và rộng mở vòng tay đón con người trở về với đất… Từng thế hệ kế tiếp thế hệ.

Y bỗng thấy mình mạnh mẽ. Y vụt đến bên bờ huyệt mộ, nâng Đua đang khóc vật vã trên nền đất nhão nhoẹt đứng dậy.

Thay cho cái siết tay an ủi, y cúi đầu ném một hòn đất xuống mộ.

Đời một con người vừa kết thúc.

Và y, y đã là một con người khác. Y hiểu rằng từ phút ấy, y phải tự mình quyết định tất cả. Quyết định chính cuộc đời mình.

Hết

Tai tượng

Đó là một quán giải khát nhỏ nằm ở một phố khuất nẻo ngoài rìa thành phố.

Chẳng có gì đáng nói ở cái quán này cả, ngoại trừ người chủ của nó – một gã trung niên rất khó đoán tuổi bởi bộ râu rậm rì của gã phủ gần kín nửa dưới khuôn mặt.

Một khuôn mặt luôn lậm lừ, thách đố đầy vẻ bất cần và gây sự.

Người gã vâm váp và thật khó moi được ở gã một tẹo lời thừa nào, ngoài những gì cần thiết phải giao dịch mua bán.

 So với dung mạo, thì gã không phải là người kiệm lời.

 Hẳn là gã ép mình như thế. Chưa một lần nào đến quán, tôi lại thấy gã rời khỏi vị trí.

 Bao giờ, gã cũng ngồi sát chiếc bể cá bằng kính. Cặp mắt gã luôn dán vào đó. Tất nhiên, ngoại trừ những lúc gã phải làm bổn phận chủ quán của mình.

 Tôi đến đây hoàn toàn không phải lý do ý thích, mà vì hoàn cảnh.

Huyền chọn nơi này là điểm hẹn của nàng và tôi.

Thường, chúng tôi gặp nhau vào giờ gần trưa của mỗi ngày làm việc.

Giờ đó, công việc nhiệm sở đã vãn. Đấy là với Huyền, nàng làm tại một cơ quan hành chính sự nghiệp, chỉ rỗi rãi được vào buổi trưa.

Chả bù cho tôi, thời gian là thứ tôi giàu có nhất trong đời. Tôi vốn là một nhà văn bất đắc dĩ  viết nhăng nhít cho vài tờ báo nhỏ để kiếm sống.

 Bao giờ tôi cũng đến trước Huyền. Chỗ của chúng tôi đối diện với chiếc bể cá đặt ở góc phòng.

 Những cuộc gặp này kéo dài được vài tháng, nên gã chủ rất hiểu khách hàng.

Khi tôi đến, gã đang bất động bên bể cá.

Không nói một lời, mắt không một tia chào hỏi, mặt không một thoáng biểu cảm, gã lẳng lặng đứng dậy, rót đầy một ly rượu thuốc, đặt trước mặt tôi, rồi hí húi ra quầy pha tách trà nóng – thứ duy nhất Huyền dùng ở quán này.

Bao giờ cũng thế, khi gã đặt tách trà xuống bàn thì Huyền đến. Chính xác đến độ kinh ngạc.

Sau đó, nếu không có khách nào khác, gã lại về chỗ, mắt dán vào bể kính.

 Hồi mới đến đây, tôi rất thắc mắc về thái độ của gã. Sau thì vỡ lẽ, gã từng có một gia đình, chứ không lông bông, cô độc như tôi.

Nghe nói gã cũng từng làm đến một chức vụ kha khá ở một công ty lớn. Sau dính vào chuyện làm ăn mờ ám gì đó, nên bị tống vào tù bóc lịch mất ba năm.

Chuyện đó cũng thường tình ở thời buổi làm ăn nhốn nháo hiện nay, song điều đáng nói, chuyện vào tù của gã nằm trong kịch bản do chính vợ gã dàn dựng.

Người đàn bà táo tợn kia đã thí gã để theo một người đàn ông khác, giàu có và quyền lực hơn.

Ngôi nhà này, là chút thương tình còn lại nơi người đàn bà. Thị để cho gã sở hữu ngôi nhà.

Chuyện đã xảy ra vài ba năm trước nhưng có lẽ còn hằn vết và ám ảnh nặng nề, nên gã không thể nào quên được.

Bởi thế gã luôn dán mắt vào chiếc bể cá với tất cả sự lạnh lùng và đam mê điên cuồng.

  Đến đây, chắc bạn đọc hẳn sẽ khó chịu về cái sự kể lòng vòng dây cà, dây muống này.

 Quả là có thế, chính tôi cũng đang rất khó chịu về gã.

 Thú đam mê phải nói là rất ngu xuẩn kia của gã tác động đến tôi ghê gớm. Đến mức nó làm tổn thương tôi và mặc dù nhu nhược, rất nhu nhược, tôi vẫn buộc phải kiểm nghiệm lại chính mình.

Ở điểm này, rất có thể bạn đọc nào đó sẽ đồng cảm với tôi và trong một chừng mực sẽ chịu hàm ơn gã.

 Tất cả là ở chiếc bể cá.

Một chiếc bể bằng kính trong suốt thông thường như những chiếc bể cá cảnh đang là mốt thời thượng hiện nay của các công sở, nhà hàng và các gia đình khá giả.

Thú chơi cá cảnh, bây giờ không còn là đặc quyền của trẻ con nữa.

Tôi còn nhớ như in chiếc bể cá bé tẹo cuả tôi hồi nhỏ, được ghép bằng những miếng kính thải – dăm ba con khổng tước vui nhộn. Đôi cá kiếm kiêu hãnh như những hiệp sĩ thực thụ của thời Trung cổ còn sót lại. Chú cá thần tiên mang vẻ uyên bác của một học sĩ nhàn tản, hết thời. Con cá vàng bảnh chọe, lừ ngừ ặc è đầy bụng trứng bơi trễ nải … Rong rêu, đá cuội và những nhúm thủy trần vón cục lua nhua…

Cái bể cá của gã dẫu thời thượng thì đại loại cũng vẫn thế. Tất nhiên nó sang trọng, đủ hệ thống dưỡng khí, đèn đóm như những chiếc bể cùng loại bây giờ.

Cái khác là cách chơi của gã. Trong chiếc bể kính, ngoại trừ con cá dọn bể đen mốc, mồm ngoác rộng, dán vào thành kính, trần sì chỉ có đôi tai tượng.

 Tôi tìm hiểu song không biết tại sao loại cá này lại có tên như vậy. Có lẽ chúng không liên quan đến loài cá cùng tên ở miền Tây Nam Bộ được nuôi để làm kinh tế.

 Đôi cá sàn sàn bằng nhau. Cỡ một bàn tay vật. Màu sắc của nó rất ma quái như của loại bươm bướm ma, trong đó vằn vện xem kẽ hai gam màu chủ đạo đen và vàng. Đôi cá vật vờ nhàn tản trong bể. Chúng thuộc loài cá ăn thịt dữ tợn. Biết được điều này vì tôi đã chứng kiến.

 Thông thường gã cho cá ăn vào buổi trưa.

Đúng vào giờ tình tự của tôi và Huyền.

Không nhìn ai, gã thả chừng dăm, bảy chục con cá giống loại nhỏ vào bể.

Đó là những con cá trôi hoặc trắm được vớt lên từ các ao hồ nuôi cá ở ngoại ô.

Thứ thức ăn này của loài cá cảnh ăn thịt được đáp ứng tối đa ở chợ.

Không biết gã mua từ bao giờ, lúc nào tôi cũng thấy gã để riêng ở một cái cóng thủy tinh nhỏ đặt cảnh bể.

 Đã thành quen, người ran lên, tôi nín thở nhìn lũ cá ngơ ngác khi chúng vừa được thả vào bể.

Rất nhanh, bản năng bầy đàn giúp chúng tụ lại với nhau dạt vào góc bể.

Đôi cá tai tượng lừ đừ nhìn các con cá con đang nhớn nhác vì sợ hãi.

Với một vẻ lười nhác, chậm rãi, chúng uể oải dồn đàn cá con sang góc bên kia.

 Miệng của cá tai tượng mím chặt. Khá khen cho tạo hóa sắp đặt. Khớp miệng của tai tượng khuềnh xuống, khoặm vào khiến mặt cá khắc khổ, có nét hiền từ của khuôn mặt người già.

Bao giờ cũng vậy, đúng vào thời điểm này, tay tôi lần lần tìm tay Huyền.

Ngón tay Huyền mảnh, dài, bàn tay trắng hồng.

Riêng những ngón tay điểm những lằn gân xanh nhỏ chìm rất đẹp.

Bạn đọc chắc lại khó chịu. Tưởng gì, cá lớn ăn thịt cá bé, lẽ tự nhiên là vậy, có gì mà phải bàn.

Đúng thế, nhưng hãy nhìn cái cách thức thằng người, lòng đang chất chứa những ẩn ức riêng đầy thù hận kia, thực hành lẽ tự nhiên của hóa công mà xem.

 Đôi cá tai tượng vẫn lừ đừ dồn đuổi.

Gã nhìn vào bể cá cùng bằng cái nhìn hệt như thế.

Bất ngờ gã bật lửa châm điếu thuốc.

Không hút, gã giắt điếu thuốc vào tai bức tượng thần tài đặt ở ban sát cạnh bể.

Tượng thần tài kiểu cách như tượng ông địa, miệng cười ngoác, áo phanh, bụng phưỡn.

Tinh mắt, thấy ở ban, chân que nhang cắm đang rạc tàn lửa cuối cùng.

Gã nhón tay vứt vào bể vài mẩu thịt bò sống, còn nhuốm hồng hồng máu.

Hiệu lệnh đã được phát ra. Thành thạo theo phản xạ, cá tai tượng đớp mẩu thịt bò.

Và cứ thế chúng xông vào đàn cá. Mù mịt, tơi bời, quăng quật, dồn đuổi, chết chóc.

Một thoáng, rồi một thoáng, cuộc chiến kết thúc, vài con cá sống sót, chết khiếp, lờ đờ nơi đáy bể, chỗ con cá dọn bể màu đen mốc, miệng vẫn đang dán chặt vào thành kính bể theo đúng chức phận.

Gã không biến đổi khuôn mặt. Điếu thuốc giắt ở tai ông Địa vẫn đượm lửa. Và khuôn mặt ông thần tài có vẻ như rạng rỡ hơn nhờ ánh hồng của điếu thuốc.

 Không quá xúc động, nhưng vào những lúc như thế, người tôi bao giờ cũng run lên.

Không phải vì những tàn vảy, mẩu đuôi, khúc đầu của những con cá bé nhỏ, rơi rớt vương vãi dưới đáy bể, mà vì khuôn mặt lạnh lùng như tạc của gã người và sự cười cợt vô tư của tượng ông Địa.

Bao giờ cũng thế, điểm tựa cho tôi bấu víu là những ngón tay trắng, mảnh, dài có lằn gân xanh mịn chìm rất đẹp của Huyền.

Tôi bóp chặt những ngón tay của nàng. Bóp thật chặt, thẫn thờ và cuồng dại.

Thường thì Huyền là người xúc động.

Nhưng nàng xúc động vì cú bóp tay của tôi.

Nàng không mảy may biết được đó chỉ là kết quả của cuộc chiến vừa dứt.

Hoặc giả nàng biết nhưng điều đó không tác động mấy đến nàng.

Cũng có lần trong trạng thái bị kích động, tôi thốt ra một lời gì đó và Huyền lập tức dập tắt bằng một cử chỉ thật nồng nàn.

Nàng thầm thì vào tai tôi thứ ngôn ngữ cụt lủn, chắt lọc chỉ có ở người đang yêu:

 -Anh…

 Những lúc như vậy tôi đâm ra oán Huyền. Tại sao Huyền lại bắt tôi đến đây để phải chứng kiến cảnh chẳng mấy hay hớm này.

 Nhưng thú thực, không biết từ bao giờ, tôi đã thật sự bị hút vào trò chơi của gã chủ quán.

Đến độ, không có nó chưa chắc tôi đã kéo dài được cuộc tình với Huyền. Cũng có lần tôi nói chuyện này với nàng, Huyền không phản đối, chỉ cười rất hiền.

Hình như Huyền có nói với tôi:

 -Đàn ông các anh buồn cười thật. Chồng em cũng thế. Có cái gì mà cứ phức tạp lên. Cuộc đời vốn nó là thế, đừng hoắng…

 Cuộc đời vốn nó là thế. Tôi đâm ra ngờ vực bản thân mình. Ngờ vực cả Huyền.

Vì sao Huyền lại chọn tôi, một gã trai tầm thường, không có nổi một thứ gì cả ngoại trừ món hành trang mấy chục tuổi đời bơ phờ và dầu dãi.

Huyền có chồng. Một người chồng đầy đủ cả ở mọi nghĩa. Đừng nghĩ Huyền là kẻ lộn chồng. Chúng tôi đến với nhau chủ yếu là nhu cầu tinh thần. Huyền yêu tôi thật sự. Tôi đang bơ vơ cần một chỗ dựa. Còn Huyền thì ngược lại, khi yêu nàng muốn che chở ai đó. Đàn bà là vậy! Nàng bảo:

 -Người ta cứ nhầm khi bắt đàn ông phải là kẻ mạnh. Chồng em ấy mà, anh ấy mạnh lắm. Nhầm, nhầm hết. Khi người đàn ông tư hữu sức mạnh, họ không còn là đàn ông nữa. Đàn ông thực sự thì không thuộc về một cái gì cả.

 Tôi không hiểu. Nhưng điều này thì tôi biết. Huyền sẵn sàng bỏ chồng để cưới tôi.

Cưới tôi, chứ không phải tôi cưới nàng.

Mọi sự ở Huyền có vẻ như rất mâu thuẫn và ngược đời.

Chính vì thế mà tôi thấy tủi nhục. Sau này tôi mới biết không phải Huyền vô tình dẫn tôi đến điểm hẹn chết người kia.

Nàng muốn thế, vì nàng tin thế. Nhưng rồi có một chuyện làm đảo lộn tất cả.

 Vẫn là buổi trưa, vào lúc chuẩn bị cuộc tàn sát. Tay tôi đang lần tìm tay Huyền.

Đôi cá tai tượng đang dồn lũ cá nhỏ vào góc bể bằng khuôn mặt hiền từ.

Chính vào lúc ấy thì thằng bé hàng xóm quãng 12 tuổi bước vào. Nó quan sát bể cá rất lâu.

Cuộc chiến bắt đầu và kết thúc nhanh chóng. Mọi động thái vẫn như cũ. Chỉ riêng thằng bé mặt nhợt đi. Nó lắp bắp:

 -Khiếp thật!

 Chính lúc đó một con cá tai tượng vẫn còn đang say mồi. Nó lừ đừ bám theo đàn cá còn dăm con đờ đẫn dạt không theo một hướng nào cả.

Con tai tượng há mồm. Một con cá con xấu số lọt vào tầm mõm. Có cảm giác nghe tiếng khậc hàm của con tai tượng. Cái đầu cá bé xíu xiu lạng nước rớt xuống đáy bể. Thằng bé, mặt tái nhợt, hực hực trong cổ. Nó chạy ra khỏi quán. Gã chủ quán vẫn nín thinh, bất động.

 Rất nhanh, thằng bé lộn trở lại. Nhà nó ở liền bên cạnh.

 Trên tay nó là một chiếc cóng đựng mấy con cá chọi tím biếc

 Có lẽ phải đến chục con. Đang cơn tức, thằng bé dốc ồng ộc lũ cá chọi vào trong bể.

Tôi lo đến thắt ruột vì biết ý định của thằng bé. Ngày nhỏ tôi đã từng là một cây đấu cá chọi cự phách.

 Gã chủ vẫn không thay đổi nét mặt. Quả nhiên, lũ cá chọi vừa kịp quẫy những nhịp đầu tiên, hai con tai tượng đã nhào đến.

Cuộc chiến không cân sức kết thúc chóng vánh. Thằng bé đờ mặt nhìn những con cá chọi bị chết ngửa bụng.

Nó lại chạy vụt đi. Lần này nó trở lại với chiếc lưỡi câu và sợi dây cước chắc vừa rứt ra ở cần câu.

Thằng bé thoăn thoắt mắc miếng thịt bò vào lưỡi. Tôi ngạc nhiên nhìn gã chủ. Gã không một tẹo phản ứng.

Sự việc diễn ra quá nhanh. Con tai tượng hám mồi bị mắc lưỡi. Thằng bé giật nó ra khỏi bể.

Con tai tượng tuột lưỡi câu, giãy đành đạch trên nền nhà. Lúc này gã chủ quán bừng tỉnh.

Gã giáng một cái tát cực mạnh vào má thằng bé.

Không ngờ, nó ôm mặt, tôi cũng không hiểu nó nghĩ gì mà dám nhảy mạnh lên, dẫm vào con cá và hét lên cămphẫn:

 -Chú ác lắm!

 Gã chủ đứng chết trân. Lần đầu tiên, tôi thấy gã thổi ra lời cảm thán: “Trời !”.

Thằng bé giàn giụa nước mắt chạy vụt đi.

 Bây giờ thì tôi biết nó khóc vì lẽ gì rồi. Đầy cảm hứng, tôi rút tay mình khỏi những ngón tay của Huyền.

Khác với mọi lần, Huyền nắm tay tôi rất chặt, phải giằng mạnh mới ra.

Tôi nhìn thật sâu vào mắt nàng. Tôi nói bằng hết. Những gì tôi hiểu, được diễn giải bằng thứ ngôn ngữ câm lặng của tình yêu thật sự.

Thề có cao xanh, tôi yêu Huyền. Song tôi muốn trò chơi này phải có một kết cục dứt khoát.

Tôi không thể, chồng nàng cũng vậy, mang thân kiếp của những con cá tội nghiệp kia.

Nàng hiểu hết và tiếp nhận.

Mặt nàng liên tục đổi màu. Đỏ, xanh, tái rồi trắng bệch. Bất ngờ nàng đứng phắt dậy, kiểu dồn nén của đổ vỡ, nàng ụp vào mặt tôi:

 -Đồ hèn!  

Sau đấy không bao giờ tôi quay trở lại cái quán nhỏ ấy nữa.

 Cũng không bao giờ tôi được gặp lại Huyền.

Nàng có viết cho tôi một bức thư đoạn tuyệt.

Đại loại Huyền coi tôi như con cá dọn bể hèn mọn.

Cũng chẳng sao, tôi bật cười ý nghĩ trẻ con của nàng.

Nghe nói Huyền sống bình yên bên chồng. Nàng đang theo chồng đi một chuyến công du dài bên Châu Âu.

 Cuộc sống trôi đi, tôi đã chấm dứt cảnh sống lang thang để vào làm hẳn ở một cơ quan nghệ thuật. Tôi tạm hài lòng về những mối quan hệ đồng nghiệp và những nguyên tắc, trật tự công việc mới.

Thi thoảng cũng có lúc buồn, tôi chạnh nhớ về những ngày tháng trước của mình với niềm nuối tiếc khôn nguôi.

 Một hôm có việc vướng mắc ở cơ quan, tôi chán nản rời nhiệm sở.

Tôi lang thang trên đường chẳng biết để làm gì.

Tự nhiên tôi nghĩ đến những ngón tay mảnh, dài có những lằn gân xanh, mịn chìm rất đẹp của Huyền.

Và như một sự dẫn dắt, bước chân lang thang của tôi lần về nơi quán nhỏ.

 Tất cả vẫn thế. Gã chủ quán đặt ly rượu thuốc trước mặt tôi và lộn trở lại quầy hí húi pha tách trà nóng.

Gã mang trà ra và rất tự nhiên thế chỗ của Huyền. Tôi giật mình.

Không có bộ râu rậm rì, gã trẻ ra rất nhiều. Gã nhoẻn miệng cười với một người đàn bà bụng chửa, từ ngoài vào xách một làn thức ăn đầy ự.

Tôi lồi mắt nhìn. Chiếc bể cá vẫn đặt chỗ cũ. Cả tượng ông Địa cũng thế.

Đến lượt gã cười với tôi.

Đã quá quen gã, quả thật tôi có hơi bị bất ngờ về thái độ khác thường này của gã. Gã nói, giọng trầm và ấm:

 -Tôi vẫn đọc anh đều. Nói chung, cuộc sống là thế. Anh biết không, đôi cá tai tượng dạo trước là của Huyền mang đến. Cô ấy là bạn thân với vợ cũ của tôi. Huyền muốn…

 Tôi gật đầu. Người đàn bà bụng chửa đã trở ra.

 Chị ta ngồi vào sau quầy. Gã cũng gật đầu với tôi:

 -Vợ tôi đấy. Chúng tôi cưới nhau cách đây một năm.

 Đoạn, gã châm một điếu thuốc, đi đến bên bể cá và giắt vào tai ông Địa như dạo trước.

Khói thuốc bay, tôi nhìn vào bể kính không ngạc nhiên chút nào.

 Không còn đôi cá tai tượng.. Trong bể lượn vô số loài cá quen thuộc. Đám khổng tước công lau nhau. Đôi cá kiếm oai vệ. Con cá thần tiên hiền triết. Chú cá vàng mắt lôi, bụng to vật, lừ ngừ trễ nải…

Và con cá dọn bể, miệng rộng dán chặt vào thành kính.

Bây giờ, tôi ao ước có Huyền ở bên cạnh.

Nguyên thủy

Như rất nhiều quán ăn, tiệm uống theo mốt thời thượng, “Sơn nữ ca” ở phố Cây Bàng cũng do một diễn viên tài danh sáng lập và trực tiếp đứng làm chủ.

Cái tên mỹ miều kia thực chất chẳng mấy ăn nhập với những món nhậu bình dân của quán, những món nhậu cũng theo mốt, nó lặp lại những thứ mà từ cái thời xa xưa, dân tình đói khổ coi là cao lương, là mỹ vị, tỉ như vó bò, nem chạo, xoài xanh, cóc chát…

Dù vậy quán lúc nào cũng nườm nượp khách vào ra.

Đương nhiên cái sự vào quán, mục đích thứ nhất phải là ăn uống, song ai dại gì vào những quán kiểu này, sực vài thứ lăng nhăng mà giá cả hẳn vào loại không thể bình thường, dứt khoát nó phải có cái gì đó đặc biệt.

Thì đấy, chủ quán Hà Dương, một diễn viên có hạng dù mới chỉ xuất hiện ở vài phim nhựa ế khách, loại phim được đạo diễn kiêu ngạo xưng xưng vỗ ngực cho rằng phim kén khách là phim bác học và vài bộ truyền hình nhiều tập dở dở ương ương nhưng được cái bàn dân thiên hạ nhẵn mặt vì xuất hiện liên tục.

Dương ngoài ba chục tuổi, vào nghiệp diễn viên mới có dăm năm nhưng đi đâu làm gì cũng bị trẻ con, người lớn chỉ trỏ bàn tán.

Sự quấy nhiễu này quả là dễ chịu, xem ra lập danh bằng mặt là thứ lập danh nhanh nhất, ngắn nhất và cũng dễ nhất, Dương nổi tiếng như cồn, tuần ít nhất xuất hiện một lần trên mặt báo, không trả lời phỏng vấn cũng có hình in.

Bởi thế cái sự nổi tiếng càng có cơ được phát tiết, không phải đóng thuế nên Dương mặc sức tung hoành.

Tóm lại khách khứa vào “Sơn nữ ca” ngoài chuyện ăn uống, nhu cầu thưởng thức cái danh là một yếu tố quan trọng, được nhìn, được đối thoại với chàng diễn viên đẹp trai là một việc chẳng nên hà tiện, có tiêu tốn hơn một chút tiền cho đời nó thêm không khí há chẳng đáng hay sao.

Khách vào “Sơn nữ ca” đủ loại, đến rồi đi thoảng như ngọn gió, song cũng có những khách ruột, nghĩa là loại khách thâm thuỷ đến thường xuyên.

Số khách này hơi kỳ lạ một chút, họ không thuộc phái mày râu mà rơi vào đám các bà, các cô, những người thật không phù hợp với rượu dân tộc, với những món nhắm gân guốc của quán, vốn chỉ dành cho đệ tử thật sự của Lưu Linh.

Người phục vụ ở “Sơn nữ ca” cũng đặc biệt không kém gì khách.

Ngoài mấy cô, cậu tre trẻ thuộc nguồn lao động dôi dư tràn ra từ nền nông nghiệp nhàn nhã nơi thôn quê, còn có một nhân vật trung tâm, nói không ngoa cùng với danh tiếng của ông chủ, nó quyết định sự thành bại của “Sơn nữ ca”.

Đó là một chú hầu đực theo dòng vượn đen vá trắng có cái tên rất hiệp sĩ: Đông Joăng.

Việc dùng khỉ hay vượn làm thú cảnh bồi bàn vốn không lạ xưa nay nhưng với Đông Joăng thì lại khác.

Nó là một con vượn đen, vá những mảng trắng ở đùi ở cổ nom rất bắt mắt và tinh khôn bậc nhất.

Không chỉ đảm nhiệm vai trò bưng bê lặt vặt như những tiếp viên bình thường, vượn ta làm được vô số trò mà các nhân viên khác không thể làm nổi. Chuyện đó nói sau.

Cái tên Đông Joăng, ông chủ Hà Dương đặt cho con vượn không phải là vô tình.

Chuyến ấy, Hà Dương đóng một vai trong bộ phim “Tình của rừng xanh” tít cù tịt tại một khu rừng núi đá phía bắc.

Trong phim nhân vật mà Dương đảm nhiệm vì buồn có nuôi một con vượn làm bạn.

Diễn viên vượn được mượn của nhà xiếc mang đi từ Hà nội.

Con vượn cái này được thuần hoá công phu đã lâu, dạn dĩ với đời sống đoàn phim, có thể làm hết khả năng theo sai khiến của con người.

Đoàn phim làm việc đúng theo trình tự kế hoạch. Con vượn xiếc được giao cho Hà Dương quản lý, ở luôn trong lều diễn viên, chỉ đêm mới phải xích để đề phòng thú dữ trong rừng tấn công.

Đến đận quay các trường đoạn về con vượn xiếc sắp sửa hoàn thành thì một tối, chính con vượn xiếc được bạn tình giúp đỡ bẻ khoá trốn vào rừng khiến cả đoàn phim phát cuồng vì lo lắng.

Biết kiếm đâu được diễn viên vượn đóng thế bây giờ.

Mọi người trút giận dữ lên đầu Hà Dương vì trước đó khi phát hiện một con vượn đực không biết từ đâu mò đến, liều lĩnh đu cây vít cành, làm trò, khoe mẽ, tán tỉnh con vượn xiếc, vị đạo diễn đã cẩn thận nhắc nhở mọi người canh chừng nó.

Trước cơn giận của mọi người, Hà Dương nín lặng, một điều rất không bình thường với một ngôi sao đang nổi, có tính khí cương cường, trúc trắc không chịu ai như Hà Dương.

Điểm này chỉ Hà Dương và cô tình nhân cùng đoàn biết, lỗi chính thuộc về anh.

Khi con vượn đực kia từ rừng sâu mò đến, ngay lập tức nó và con vượn xiếc bắt được tín hiệu đực cái của nhau, kiểu như con người ta bị choáng váng vì tình yêu sét đánh, Hà Dương hiểu rằng, một mối tình hoang dã của rừng thẳm và xích xiềng tất yếu sẽ xảy ra và anh hứng thú vì điều đó.

Hà Dương ngấm ngầm ủng hộ.

Đêm đến, con vượn hoang mò đến sát bên lều, ở ngoài ngay chỗ xích con vượn xiếc.

Chúng cách mặt nhưng âu yếm nhau bằng âm thanh.

Thứ âm thanh này với một người từng trải như Hà Dương không có gì lạ. Muôn loài đều vậy cả thôi, chung một thứ ngôn ngữ, dẫu là rên rỉ hay gầm gào đều là tiếng lòng da diết, khao khát và thèm muốn.

Hà Dương phập phồng vui sướng trong suốt một chuỗi ngày chơi trò ú tim với đôi tình nhân đang cơn si cuồng vì bị ngăn trở.

Cho đến một hôm cô diễn viên phụ của đoàn ở dãy lều con gái vốn đã kết mắt với Hà Dương từ hôm đầu, liều lĩnh ngủ lại qua đêm ở lều của Hà Dương thì trò chơi của anh kết thúc.

Con vượn xiếc chứng kiến cảnh ân ái của đôi diễn viên trẻ đẹp đã không chịu đựng nổi. Nó tru lên những tiếng dài thê thảm và cặp mắt ánh lên những tia oán hờn trách móc.

Hà Dương sững người khi bắt gặp cặp mắt của nó.

Một cặp mắt không phải của súc vật, càng không phải mắt người bình thường, dù nó là dòng giống thuỷ tổ loài người, cặp mắt của một tình yêu bị xích xiềng, bị dồn nén, cặp mắt của những si mê khao khát, cuồng cháy, của sự van lơn, cầu xin và trên hết là sự căm giận của một trái tim phẫn nộ trước tạo hoá bất công.

Hà Dương không chịu đựng nổi, bất chấp sự điên dại của cô gái trong đỉnh điểm mê đắm, anh vùng dậy lao đến chỗ con vượn xiếc.

Trong giây phút có thể vì mềm lòng, vì đồng cảm vì thương xót, vì hối hận, Hà Dương đã làm một động thái đầy ân nghĩa, anh đã thòng dây xích đưa con khỉ xiếc ra ngoài cho nó gặp bạn tình.

Đêm của hai cặp yêu nhau giữa thăm thẳm đại ngàn diễn ra mỹ mãn đầy hoan lạc nhưng kết cục của nó lại chắng mấy tốt đẹp.

Đôi tình nhân vượn không biết bằng sức mạnh gì đã mở bung được ổ khoá, thoát vào rừng sâu, để lại đoạn xích sắt chỏng trơ và nỗi lo sợ của đoàn phim cùng phiền toái cho chàng diễn viên đa tình.

Hà Dương ngơ ngẩn cùng đoàn phim lao vào rừng tìm con vượn xiếc với hy vọng mong manh.

May thay, tình yêu dù cuồng dại, dù mê đắm đến đâu, bao giờ cũng chỉ nhất thời, sự sống đó mới là vĩnh cửu, là cần thiết trên hết.

Con vượn xiếc được thuần dưỡng, quen ăn những món ăn do người nuôi, sau vài ngày nông nổi trao thân đã không thể gửi phận được cùng với bạn tình nơi rừng xanh núi thẳm, bất chấp cả gốc gác, cả cội nguồn xứ sở, cả tình yêu thân xác đang rực cháy…nó đành phải dò dẫm mò về gần chỗ đoàn phim.

Hà Dương phát hiện ra cặp tình nhân vượn quanh quẩn, lập tức hiểu ra vấn đề.

Không căm ghét con vượn hoang đã làm mình khốn đốn, thậm chí trong thâm tâm còn kính nể, ngưỡng mộ kẻ quyến rũ tài năng nhưng Hà Dương vẫn nung nấu ý định phải bắt bằng được nó.

Tuy vậy bắt bằng cách gì thì Hà Dương chịu, con vượn xiếc sợ sệt không dám mò về lều dù nó vẫn lảng vảng dò xét.

Cuối cùng Hà Dương phải nhờ đến cô diễn viên phụ.

Nói chung phụ nữ bao giờ cũng nhanh nhạy và quyết liệt hơn đàn ông, Hà Dương nghe mách nước của cô ta, tán thuốc ngủ trộn vào đồ ăn mang đến chỗ con vượn xiếc thả.

Đôi tình nhân vượn âu yếm săn sóc cho nhau ăn rồi lăn ra ngủ mê mệt, Hà Dương chỉ việc thộp từng con dễ ợt mang về lều. Cũng chính cô diễn viên hiến kế chỉ cần xích con vượn hoang là đủ giữ được cả đôi.

Chuyến đó đoàn phim thực hiện những cảnh quay có diễn viên vượn một cách suôn sẻ. Hà Dương mang theo con vượn hoang về Hà nội, anh đặt tên nó là Đông Joăng.

Cô diễn viên phụ xinh đẹp sau những mưu kế tuyệt vời đã lập tức bị Hà Dương bỏ rơi vì quá kinh sợ với cái lý đơn giản nhưng rất thuyết phục, với con vật, cô ta còn giỏi giang thế huống hồ con người, dính vào cô ta, chỉ có nước đeo gông cả đời, chạy đâu cho thoát.

Đông Joăng, sau một thời gian được Hà Dương huấn luyện đã thành thục những ngón nghề điệu nghệ như biết bật bia, biết châm thuốc, rót rượu, bản thân nó ăn uống, hút hít tất nhiên không bằng con người nhưng có thể coi như một dân chơi chính tông, vô khối các bà, các cô bốc đồng cụng ly trăm phần trăm với nó đã say khướt đổ kềnh đổ càng gục ngay tại quán.

Hà Dương cắt may cho nó nhiều bộ quần áo lạ mắt, rất mốt và thay đổi soành soạch.

Đông Joăng phần vì xa cách, phần nghiện ngập trà thuốc đã quên hẳn mối tình sét đánh của mình.

Nó không còn gầm gào quậy phá như những ngày đầu, hoàn toàn chấp nhận với thân phận mới, thậm chí nó được tự do đi lại, ngủ nghê như những người làm công khác.

Tất nhiên Đông Joăng có hẳn một vương quốc riêng là chiếc lồng sắt kiến trúc cầu kỳ và vô cùng bắt mắt đặt ngay giữa khuôn viên quán.

Sự đời có những đổi thay không ngờ. Hôm ấy, Đông Joăng mặc một bộ bò cộc nom rất ngộ, lăng xăng chạy ra chạy vào nhắng nhít tít mù.

Quán vắng chỉ có hai bàn khách. Mấy bà khách ruột giầu sang, chán cảnh chơi bời xa hoa đến đây tán gẫu tiêu khiển cùng Đông Joăng.

Đã quá quen với những màn thoại cợt nhả kiểu như :

- Chàng Đông Joăng đẹp trai, châm cho em điếu thuốc.

-Đông Joăng yêu quý, chàng là nguồn nứng bất tận của em…

Đại loại thế, đáp lại những lời đường mật kia, chẳng hiểu con vượn có biết đấy chỉ là những bông lơn giả dối và rỗng tuếch hay không nhưng từ gương mặt nó bao giờ cũng ánh lên niềm thích thú chân thành.

Bản năng giống nòi được kích thích bởi hoàn cảnh thuận lợi tạo nên những phản xạ tuyệt vời, nó nhún nhảy làm điệu bộ của những tài tử xi nê nổi tiếng mà ông chủ học mót truyền dạy cho nó, kiểu như hôn gió, rạp người, lắc mông…

Táo tợn hơn nó còn cả gan dám vuốt ve khoảng ức trần trắng bốp, xốp xộp của một mụ nạ dòng sồn sồn, nổi tiếng chớt nhả, mặt nhẵn lỳ ở quán.

Tiếng cười dâm đãng của người đàn bà này cất lên chính là lúc con vượn hứng chí luồn hẳn bàn tay lông lá vào sau lần áo chứa bộ ngực núc ních bùng nhùng của bà khách khiến Hà Dương phải đỏ mặt quay đi.

Có lẽ chỉ bà khách ruột này hiểu được cú đỏ mặt đột xuất của chàng diễn viên. Có gì đâu đã dăm bảy bận bà khách này say mềm gục qua đêm tại quán.

Say chỉ là cái cớ, nhẽ chính như Hà Dương cao hứng cất ra khi cuộc tình chớp nhoáng giữa mụ nạ dòng và chàng trai hào hoa đang lúc nước sôi lửa bỏng là anh ta ban phát sự từ thiện cho quý bà.

Không đơn giản thế đâu, bà khách có xe hơi tự lái này chẳng dễ dàng nhận không sự ban phát tình cảm, bà có những thứ khác mà Hà Dương thèm khát.

Nhưng thôi, Đông Joăng của chúng ta làm sao hiểu được nhẽ đời ấy.

Duy nhất nó chỉ biết lặp lại phần nào những động thái mà trí óc súc vật tăm tối lờ mờ thu nhận được. Mà điều này Đông Joăng quá thạo.

Hiếm hôm nào ông chủ nó không có những thực khách mến mộ lưu trú qua đêm.

Hà Dương từ ngày mở quán đã quyết định không neo lại bất cứ một mối tình nào, anh thả thời gian và đam mê theo những cuộc tình chốc lát. Điều đó đã thành triết lý sống của Hà Dương.

Sự quá trớn của Đông Joăng không kéo dài được lâu bởi bà khách đã cười đến ngưỡng, hất mạnh tay nó ra vì nhột một phần, lớn hơn là vì tởm. Tởm chứ, lông lá nhường kia…

Cuộc vui cứ thế kéo, không ai để ý đến chiếc bàn khuất dưới một lùm lá lòa ròa có một thực khách đang độc tửu.

Người này phóng cặp mắt khinh thường nhìn đám khách sồn sồn đang nghiêng ngả.

Chỉ đến khi Đông Joăng lăng xăng sán lại gần thực khách đàn bà ấy giở thói ỡm ờ chòng ghẹo thường nhật bằng cách tót lên lòng ngồi thì tất cả mọi con mắt trong quán đều dồn tụ cả về phía đó.

Sau cú quăng mạnh đầy khinh bỉ, Đông Joăng kêu choeng choéc nằm bết bệt trên nền quán. Những tiếng cười tắt lịm.

Hà Dương vùng chạy đến như để trừng trị cái kẻ hỗn xược dám bất nhã động đến linh hồn của “Sơn nữ ca”.

Ngay lập tức anh ta sững lại.

Trời ạ, một khuôn mặt trắng lạnh như băng. Một cặp mắt nhìn thôi miên như hóa đá vạn vật. Trẻ! Rất trẻ! Đẹp! Tận cùng đẹp!

Tạo hóa giầu trí tưởng bở cũng chỉ dám mơ đến độ ấy.

Sao lại có một đóa hoa lộng lẫy nhường kia lạc vào “Sơn nữ ca”. Hà Dương ngây người nhìn không chớp mắt.

Kẻ dày dạn tình trường không thốt nổi một lời. Đông Joăng như chia sẻ cảm xúc cùng ông chủ, quên phắt đau đớn, lồm cồm đứng dậy tay cào cào vào ống quần Hà Dương.

Đám thực khách sồn sồn có vẻ như bị xúc phạm bởi sự xuất hiện của cô gái, lục tục giải tán.

Một kết cục không ngờ trước đã xảy đến chóng vánh và êm ả.

Như thể có sự sắp đặt. Tiền định chơi trò chi quái gở để oái ăm đưa đường dẫn lối cho kẻ háo sắc gặp được mỹ nhân.

Trước sắc đẹp lạnh lùng ma mị, Hà Dương không thể kiềm nổi mình, hoàn toàn biến đổi.

Từ vai trò một kẻ chinh phục, Dương như gã trai mới lớn bỡ ngỡ lần đầu lạc vào vườn cấm.

Dạt dào là thế, mạnh mẽ, tự tin là thế, Hà Dương bỗng thấy mình vụng dại, cằn cỗi như triền đá trùng điệp cao nguyên khô khát bất ngờ gặp vụm đất rừng tươi tốt màu mỡ xanh um.

Người con gái xa lạ với ánh nhìn thăm thẳm lạc từ miền sơn cước đã hóa giải mọi sự trống vắng khuất lấp trong miền hưởng lạc của gã trai si tình, đánh bạt đi triết lí yêu đương tạm bợ.

Sống như chưa bao giờ được sống, yêu như chưa bao giờ được yêu, Hà Dương lao vào cuộc tình mới với tất cả bản năng dồn nén cộng niềm khao khát của lý trí cuồng say.

Chóng vánh, cực kỳ chóng vánh, sao đã đổi ngôi. Người con gái trước đó còn xa lạ ngồi độc tửu trong vai khách hàng, một bước biến thành bà chủ.

Tiếng tăm “Sơn nữ ca” càng nổi như cồn. Cái tên quán đặt vô tình giờ như ứng nghiệm.

Rành rành một sơn nữ hẳn hoi, Miền vốn là cô gái mạn ngược lần đầu tìm về thành phố.

Vẫn những món nhắm ấy, quang cảnh ấy nhưng không khí đã hoàn toàn thay đổi.

Thực khách cũng vậy, đám sồn sồn giống cái thưa dần rồi lui hẳn, thay vào đó là bàu đoàn thê tử đủ các loại đàn ông từ lão già đầu hói đến gã trai non tơ tóc nhuộm.

Họ đến, quăng tiền để nhìn ngắm, để giao tiếp để đối ruợu với bà chủ xinh đẹp, lạnh lùng đấy nhưng bao giờ cũng khơi bùng nhục dục, đốt cháy ngọn lửa lòng các đấng nam nhi.

Hà Dương dần dần mai danh trong “Sơn nữ ca” nhường bước cho bà chủ nõn nường để rồi một ngày Dương hoàn toàn ẩn tích trước người vợ kiêu sa bí hiểm.

“Miền sơn cước”, dẫu không thay tên đổi biển nhưng thực khách đàn ông lan truyền nhau về biệt danh người đẹp, giờ là thương hiệu của thực quán.

Hà Dương sống những ngày viên mãn đến tột đỉnh.

Mê mẩn người vợ sét đánh đã đành, sự thu hút thực khách của Miền khiến cho doanh thu quán tăng vùn vụt.

Cùng lúc được cả tình lẫn tiền lại không vất vả họa có là rồ dại mới không biết sướng.

Chỉ tội nghiệp cho Đông Joăng.

Khi Miền xuất hiện, cú quăng chí tử đã là điềm báo sự thất sủng của diễn viên kép này.

Khi không còn đám thực khách nữ tụ bạ, đôi bạn Hà Dương và Đông Joăng hết đất diễn đâm ra thất nghiệp.

Đám đàn ông thấy Đông Joăng tỏ ra ghê tởm, nhăn mũi, nheo mắt xua đuổi.

Dương mê mải với bạn tình, với công việc, cũng dần sao nhãng Đông Joăng.

Có những lúc Hà Dương phải tránh ánh nhìn khẩn thiết van lơn và oán trách của con vật.

Miền thì khỏi bàn, không hiểu sao cô ta căm thù Đông Gioăng đến vậy.

Chỉ loắng quắng được ít ngày, nếm đủ đòn thù, Đông Joăng bị lột trần trở về với hình hài nguyên thủy bị tống vào vương quốc của mình là chiếc lồng sắt.

Buồn bã, u sầu, lồng lộn, tức tối, Đông Joăng lúc treo người thất thần, lúc cào cấu chửi bới bất lực trong chiếc lồng giờ đã là chốn ngục tù thực sự.

Thi thoảng vào những lúc tâm trạng, Hà Dương cũng để mắt đến Đông Joăng.

Dương tháo cũi cho Đông Joăng hít thở chút ít không khí tự do.

Những lúc ấy, con vượn lại được trở về với ngày tháng vinh quang, nó chạy nhảy, hí hớn nô đùa trong ánh mắt kiềm tỏa của bà chủ.

Nhưng những khoảnh khắc hạnh phúc ấy dần một ngắn lại, thưa dần.

Phần vì ảnh hưởng của Miền ngày một lớn, phần nữa, trong tột đỉnh thăng hoa, Hà Dương tớn lên nhận một vai diễn trong một bộ phim thị trường được hứa hẹn là đắt khách. Anh thường xuyên vắng nhà.

Đám thực khách trong quán được sự đồng lõa của bà chủ mỗi ngày lại tìm ra một trò chơi mới hành hạ Đông Joăng.

Lúc thì họ hắt ruợu, vứt đầu mẩu thuốc lá, lần thì dùng cả mắm tôm vây bủa khắp lồng. Que gậy chọc đánh không kể khiến Đông Joăng mình mẩy chi chít vết thương.

Đông Joăng không vừa, nó phản ứng một cách rất con người.

Dù đã bị nhốt nhưng không ít khách sơ ý bị nó nhanh tay giật được kính, bút, tiền, cả điện thoại di động.

Mặc cho khách cuống quýt tìm cách lấy lại, Đông Joăng bình thản trả thù.

Phàm đã vào tay Đông Joăng không một vật gì có thể quay trở lại được với chủ nhân.

Kính, bút bị bẻ gẫy, tiền bị xé, điện thoại bị đập bể, chắc ăn hơn nó còn đái vào cho tịt hẳn.

Có lần, gã khách ruột đầu hoa râm, chủ của một tổng công ty lớn, kẻ thân nhất của bà chủ và luôn đầu trò hành hạ Đông Joăng bị nó vợt được nguyên cả chiếc ví khi gã này sơ ý đứng bên lồng sắt móc ví lấy vật gì đó.

Gã khách tức giận thét lên. Bà chủ cuống quýt gọi nhân viên mở khóa lồng sắt để lấy lại.

Đông Joăng không bỏ lỡ dịp may, nó treo mình trên nóc lồng tránh đòn, tay lôi từng thứ giấy tờ, tiền bạc, cắn xé điên cuồng trong sự bất lực của gã khách.

Và nữa, khi lôi nguyên chiếc bao cao su OK trong ngăn nhỏ, Đông Joăng đã khiến tất cả thực khách cùng bà chủ phải quay mặt.

Nó kêu khèng khẹc, xé vỏ thuần thục, lồng chiếc bao vào dương vật, tay chỉ trỏ vào thẳng mặt bà chủ.

Trời xui đất khiến, đúng lúc ấy Hà Dương mò từ đoàn phim về, chết sững trước cử chỉ này của Đông Joăng.

Dương vốn thuộc tính con vật. Nó là một kẻ tinh khôn, có năng khiếu lặp lại những động thái cử chỉ trong tầm quan sát.

Hành động này đã có lần Đông Joăng thực hành với bà khách sồn sồn khiến bà ta được một phen cười vỡ bụng.

Chưa kịp phản ứng, ánh nhìn sắc lạnh của Miền đã trùm lên Hà Dương khiến anh câm bặt.

Số phận Đông Joăng lập tức được quyết định.

Chính vị khách hoa râm bỏ một món tiền lớn. Nó phải bị giết thịt.

Hà Dương đưa Đông Joăng ra khỏi chốn ngục tù.

Trước đó không một ai làm nổi việc này.

Anh ôm lấy nó, cánh tay hơi xiết lại như một lời từ biệt.

Dường như Đông Joăng linh cảm được tình thế của mình, nó đăm đắm nhìn vào cặp mắt rân rấn của ông chủ.

Cặp mắt đang ân hận xót xa bất lực khi không thay đổi được số phận của con vật từng gắn bó thân thiết.

Hà Dương quay mặt, tránh cái nhìn của nó. Đông Joăng rùng mình, ứa lệ.

Nó đã hiểu tất cả.

Vào lúc kẻ đầu bếp giơ cánh tay đồ tể vươn ra đón lấy Đông Joăng chính là lúc nó cắn mạnh vào tay Hà Dương rồi vọt mình rất nhanh, quăng người vút lên bờ rào và nhanh chóng tẩu thoát lên cây.

Đám đông người ngây ra.

Đông Joăng rít lên giận dữ và bất ngờ vạch chim vỗ vỗ đầy khinh bỉ, sau đó nó biến mất trong tán lá rậm ròa.

Đêm hôm đó, Hà Dương sa vào trạng thái vô cùng nặng nề.

Một thời “Sơn nữ ca” cùng Đông Joăng không phải không có những kỉ niệm đẹp.

Vẫn biết tất cả những người đàn bà trong đời mình giờ đây đều mờ nhạt trước người vợ trời cho nhưng cái quyết định trừ khử Đông Joăng khiến Dương không thể không suy nghĩ.

Cô ta từ đâu đến, tại sao đám khách đàn bà lại bỏ đi, tại sao đàn ông nhâu đến, tại sao Miền lại ghét bỏ Đông Joăng?

Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng khiến ánh nhìn của người đàn ông dù đang mê đắm vẫn hiện nét hoang mang.

Dương nốc ruợu cật lực cố tìm câu trả lời.

Miền như không để ý đến tâm trạng Hà Dương.

Chỉ khi Dương đã say tít, cô mới ngồi đối diện chồng.

Một tích tắc, cái nhìn lạnh băng ma lực của Miền đã đốt sạch men ruợu.

Lúc này Hà Dương cũng chỉ như bao gã đàn ông tầm thường khác ngã gục trong men tình.

Khi Dương chồm lên người đàn bà xinh đẹp thân thiết nhưng vẫn bí hiểm xa lạ cũng là lúc một tiếng động mạnh phát ra nơi cửa khiến cả hai giật mình rời nhau.

Một bóng đen vút qua chập chờn.

Đông Joăng. Đúng là Đông Joăng! Con vật đã trở lại trong khát vọng trả thù.

Sau đó, hiếm hôm nào Đông Joăng không quay lại “Sơn nữ ca” phá đám.

Khi thì đồ lót đang phơi của Miền bị cuỗm sạch.

Khi thì một thực khách loạng quạng ra về hứng hẳn một bãi tiểu từ trên cây tương xuống khai mù.

Liều lĩnh hơn, Đông Joăng còn mò vào tận phòng ngủ của Miền nhét đủ thứ bậy bạ vào giưòng nệm, ví xách.

Tất nhiên nó không tha đồ đạc của kẻ tình địch, lấy đi bất cứ thứ gì có thể lấy được.

Cũng lạ Đông Joăng chẳng bao giờ chạm vào bất cứ vật gì của Hà Dương.

Miền nổi điên thuê người lùng bắt.

Rình rập, giăng bẫy, thậm chí một nhóm thiện xạ mai phục bằng súng thể thao cũng không làm Đông Joăng nhụt chí.

Nó rình đúng lúc sự vây bắt sơ hở lại mò về quấy rối.

Nhưng cũng chỉ một dạo, Đông Joăng như đã chán bỏ đi bặt tích.

Không khí giữa Hà Dương và Miền trở nên căng thẳng. Không nói, nhưng Hà Dương rơi vào cơn khủng hoảng trầm uất.

Anh mất ngủ triền miên. Và say cũng triền miên.

Đêm đêm, Hà Dương tha thẩn ra sân ngước mắt nhìn lên vòm lá. Để đợi Đông Joăng hay là anh nhớ về một thời buông thả, tự do và khao khát vừa trôi qua chưa xa?

Vẫn mê đắm nhưng bắt đầu Hà Dương manh nha mơ hồ về một điều gì đó không thể cắt nghĩa.

Một đêm, Đông Joăng đường đột xuất hiện.

Hà Dương đi diễn về muộn, lúc mở cửa vào nhà, bất ngờ Dương gặp Đông Joăng đu từ cành cây xuống.

Con vật như muốn nói điều gì đó với người chủ cũ.

Hà Dương đang say vì trận liên hoan tổng kết kết thúc đoàn quay, vô cùng mừng rỡ.

Đông Joăng bạo dạn sà hẳn xuống sân quán.

Hai kẻ thâm tình một người, một thú như nhảy nhót như quay cuồng.

Chính lúc Miền từ trong nhà lao ra với nỗi căm hận tột độ thì trời sầm sập đổ mưa.

Đông Joăng tót lên cây choeng choéc kêu đầy tâm trạng, còn Hà Dương thì gục xuống sàn mưa vì cơn say đã ngấm lịm.

Kỳ lạ trong cơn mê sảng, Dương nghe rất rõ âm thanh đêm hoan lạc dạo nào của đôi bạn giữa thăm thẳm đại ngàn.

Đêm đó mất điện, Hà Dương ngủ miên mải. Đến sáng bạch anh mới tỉnh giấc.

Sự trống vắng đến rợn người khiến Dương chồm dậy.

Nỗi mơ hồ bấy nay đã có lời giải. Miền đã bỏ đi không lời từ biệt, không một dấu tích.

Hà Dương bật mạnh cánh tủ. Rỗng không! Trong tâm trạng giống như vậy, anh tha thẩn đi dọc phố Cây Bàng. Đám người hiếu kỳ đang xúm xít đen đặc khúc phố. Trên đường điện cao thế, một sinh thể cháy đen còn vắt vẻo. Một con vượn, ai đó kêu lên.

Đông Joăng! Thôi, thế là xong phận mày! Bỗng Hà Dương lảo đảo tựa vào tường rào, tim thắt lại vì sự thật vừa phát hiện.

Hà Dương đã hiểu ra nguyên nhân sự bặt tích và lần trở lại đêm qua cùng tiếng kêu của Đông Joăng.

Tại sao anh và cả con vật lại không thể biết sớm hơm điều đó? Tại sao?

Phố Cây Bàng có nơi trú ngụ những con vật nuôi của rạp xiếc. Chỉ cách “Sơn nữ ca”một quãng đường.

Bây giờ, ngay bên trong sân, sát sạt hàng điện cao thế, con vượn xiếc đang lồng lộn trong chuồng man dại tru lên tiếng của đại ngàn nguyên thủy./.

Thằng mõ trâu

Các bác có biết thịt trâu chọi ngon nhất thứ gì không? Mà này phải gọi là ông trâu đấy nhá, có thế mới thiêng, mới thành. Ngon nhất, bổ nhất là dái, tinh lực của “ông” trâu dồn cả vào đấy các bác ạ! Kế đó là bộ vó, lúc “ông” trâu xung trận, khí huyết dồn tụ xuống d­ưới, ngon lắm. Còn ba cái thứ thịt bắp này, cũng đ­ược như­ng phải biết làm.

Miệng nói, tay khua, gã làm cả mâm nhậu của chúng tôi ngơ ngác hết lư­ợt.

Hôm đó, một ngư­ời bạn văn ở Hải Phòng, nhân hội chọi trâu, đãi chúng tôi món thịt trâu chọi ngay tại một quán ăn sát biển Đồ Sơn.

Nãy giờ không ai để ý đến gã. Quán vắng, gã ngủ gục ở một chiếc bàn gần đó.

Có lẽ vì cánh chúng tôi to tiếng bàn luận món ẩm thực lạ lùng độc nhất vô nhị này, khiến gã động nhĩ chăng?

Đúng vậy, gã gắp một miếng thịt sống đã ư­ớp gia vị, đưa lên ngửi, vứt toẹt xuống, mũi nhăn lại, miệng phán xanh rờn:

-Rởm!

-Hả?

Anh bạn Hải Phòng bật lên hỏi. Gã vẫn điềm nhiên:

-Đây là thịt rởm! Thịt trâu cày, đám con buôn độn vào bịp các bác. Mua ngoài chợ chứ gì? Hố mất mấy lần tiền rồi.

Bạn tôi ngồi ngay đơ không nói thêm đ­ược một tiếng. Chủ quán ăn đứng kề bên gật gù xác nhận:

-Tôi ngờ ngợ không rõ thực hư­ nên không dám nói. Anh Tu đây, dân chơi trâu chọi cự phách, nói không sai đâu.

Mặt gã vẫn tỉnh bơ, tay quào quào, bới đĩa thịt:

-Nghe các bác nói, em biết ngay mà. “Ông” trâu cuối cùng hoá tận từ tối hôm qua. Như­ng không sao, cho chục lòng đỏ trứng gà đi.

Nh­ư thể gã mới là chủ tiệc. Gã quấy đều bát lòng đỏ trứng, giật điếu thuốc từ miệng tôi, rít mạnh một hơi dài rồi lại cắm trả:

-Thịt trâu các bác ăn nư­ớng thì còn đếch gì thú. Dai ngoách! Cho chảo mỡ ra đây ! Khẩn tr­ương!

Gã dùng đũa ném thịt trâu ư­ớp vào bát trứng. Sau đó đợi chảo mỡ sôi, gã liên tục t­ương thịt trâu đã ư­ớp trứng vào chảo.

Xèo xèo, mù mịt khói mỡ, lừng lựng h­ương vị thơm lạ, xộc tràn khứu giác.

-Kìa, các bác ăn đi. Nóng sốt mới ngon. Sang năm, muốn xơi thịt trâu chọi phải xuống sớm, phải có thổ công, đảm bảo với các bác đã ăn, nghiện đếch dứt đư­ợc.

Sang năm, sang năm nữa, tôi đều đặn ra Đồ Sơn.

Quả thật, thịt trâu chọi ngon khó lòng quên, nh­ưng sức hút tôi đến với miền đất đó vào dịp lễ hội chọi trâu, không phải từ thú ẩm thực này mà chính là từ gã, một con người quái dị với đam mê hoang dại, không thể cắt nghĩa.

*

* *

Tôi quen Tu từ hôm đó. Thật ngẫu nhiên, đêm tr­ước gã cùng đám bạn bè nhậu đến tận sáng, say xỉn nằm gục tại trận.

Sau này khi đã thân quen, có lần gã cư­ời hì hì bảo tôi: “Cánh nhà văn các bác dễ mến thật, chơi với bọn em là chơi với “tinh” đấy, như­ng các bác thì có đếch gì, trên răng d­ưới cà, được cái giỏi bịa. Bịa rồi tin ngay vào điều mình bịa, hồn nhiên thế mà sống khoẻ đ­ược thì cũng lạ thật. Đấy, cái tay đãi bác thịt trâu rởm đấy, gặp em đứt c­ước ngay, cứ gọi là im thin thít, biết quái gì mà dám viết hẳn một cuốn sách về chọi trâu. Em quý các bác là quý ở cái nết ấy ”.

Lý lẽ của hắn ngồ ngộ, chẳng ăn nhập gì với nhau lại hơi khó hiểu, chả hơi đâu mà tranh luận với gã, tôi đành c­ười xoà chấp nhận.

Gã bồi thêm: “Đến miếng ăn vào miệng còn bị lừa, em cũng đến chịu các bác thật. Có lẽ điềm trời xui khiến bắt em phải gặp các bác, khuynh gia bại sản cũng là lẽ đương nhiên ”.

Tôi không dám c­ười nữa, câu sau gã nói hết mực thành thực tuy chẳng đư­ợm một tẹo nào tủi hờn, cay đắng.

Gã sạch sành sanh cơ nghiệp thành kẻ trắng tay vì đặt c­ược vào chính “ông” trâu của gã.

Con trâu chọi mà sau khi thất trận gã vái nó bằng một tràng trào lộng: “Con lạy “ông”! Đấu trường mà “ông” nghệ sĩ, văn veo thế, toi cả nhà con rồi “ông” ơi! ”.

Chuyện xảy ra đã đư­ợc vài bốn năm.

Đã nói ở trên, tôi và gã bập vào nhau sau cái đận thịt trâu rởm đó. Vài bận đi lại, chúng tôi thành bạn của nhau.

Vẫn biết thứ bạn chỉ bằng dăm cuộc nhậu, thêm chút ít tìm hiểu xã giao, nó c­ương cư­ỡng thế nào ấy, dù vậy tuy không nói ra như­ng cả tôi và Tu đều mặc nhiên chấp nhận.

Tu khoái tôi ra mặt khi thấy tôi có vẻ hứng thú cái sở thích chơi trâu chọi của gã.

Đất Đồ Sơn ruộng ít, dân theo nghề biển, trâu chẳng có nhiều, đ­ương nhiên vị trí của ông thần nông này quy sang nghề lúa nư­ớc hẳn không còn mấy giá trị.

Vậy mà hơn bất cứ nơi nào, nuôi trâu ở đây thành hẳn một nghề công phu với rất nhiều mánh lới sành sỏi.

Tu bảo: “Đám lái trâu mạn ng­ược nhìn thấy em là rúm vó. Chỉ cần thoáng xệch đuôi mắt là em biết tỏng đ­ường ăn, nết đánh của các “ông” trâu ngay. Cấm có “ông” hay mà lọt qua đ­ược mắt Tu lếch này.”.

Lếch là biệt danh của gã. Của đáng tội gọi thế hơi oan, mắt của Tu chỉ hiêng hiếng.

Mắt ấy ở thành phố, rơi vào nhà có của, hẳn là một lợi thế đáng kể của những công tử con quan trên chiến trư­ờng chinh phạt phái đẹp, đằng này, Tu, bất quá cũng chỉ là anh chăn trâu, dù có lúc gã đã tậu đ­ược cả cây xăng, thầu của đại lý bán xỉ xăng dầu của thị xã nên từ hiếng chuyển sang lếch cũng là thuận lẽ.

Vẫn là Tu c­ười ngoác, phô trọn cả hàm răng lởm khởm nám xuộm thuốc lào: “Con tỳ, con vị nhà nó chứ, cả cái xứ này, sau l­ưng ai cũng gọi trộm em là thằng mõ trâu. Mõ cũng đư­ợc, mõ người mới nhục, chứ mõ trâu sang chán vạn. Thề có bác, em mà đư­ợc bám đít trâu đến lúc chết, không nói quá, coi nh­ư đ­ược sống đến hai kiếp. Sống danh, sống giá, ra tấm, ra miếng, sống thế mới gọi là nên ng­ười.”

Th­ường thì không bao giờ tôi phản đối lý luận của gã.

Đúng, sai gì bao giờ gã cũng nói một cách sòng phẳng, đầy tự tin và háo hức.

Cái sự mà Tu gọi là nên ngư­ời kia, quả thật, phản ánh đúng niềm đam mê si cuồng của gã.

Nội chỉ lần chơi đến sạt nghiệp của Tu, tôi đư­ợc chứng kiến một cách kinh hoàng mấy năm về trư­ớc đã minh chứng đầy đủ.

*

* *

Năm đó, tôi và Tu đã khá thân nhau. Chẳng khi nào ra Hà nội, gã lại không tìm đến tôi.

Lúc thì Tu đến nhà, lần xộc thẳng đến cơ quan. Cũng chẳng bao giờ Tu đi tay không.

Quà của Tu độc mỗi món trâu, khi thì là một súc thịt bắp đủ cả gân, màng, lòm lòm máu, lần khác là một đùm bèo nhèo những ruột là ruột, tanh nồng. Đám phóng viên nữ chạy ré, rúc rích cười.

Tu ngẩn ra, đôi mắt hiếng lộn xếch vào trong: “Lòng non bắt phèo đấy, ngon rụt lư­ỡi! ”.

Lại có lần gã dinh hẳn một chiếc đầu trâu còn nguyên sừng, mắt mở trừng trừng đến nhà tôi, khiến tôi phải nghỉ bù hẳn một ngày mới giải quyết hết.

Còn lần ấy, nửa đêm Tu bấm chuông nhà tôi. Cái giống gọi cửa lúc đêm hôm này ít khi mang đến sự tốt lành, tôi hấp hoảng chân đất, chân dép mở cửa.

Tu đứng sừng sững, đội mũ cối sùm sụp, túi bạt đeo chéo qua vai, mặt mũi vô cùng nghiêm trọng, giọng cũng vậy, hổn hển lạc nhịp:

-Bác, bác đi ngay với em! Bây giờ !

-Có việc gì vậy? – Răng tôi cứng lại vì sợ.

-Bác thuê cho em một chiếc xe tải. Ta đi Bắc Kạn.

Tôi lập cập mở khoá, lờ mờ đoán ra sự thể, lòng bơn bớt sợ:

-Mai đi không đ­ược à? Tớ còn phải xin phép toà soạn.

-Chậm, họ sẽ ­ướp mẻ “ông” trâu mất.

-Sao lại ư­ớp mẻ?

-Tội “ông” trâu to lắm, xuýt xơi tái thằng con trai của trư­ởng bản.

Tôi há hốc mồm vì ngạc nhiên.

Quá đỗi tò mò, tôi quáng quàng vơ quần áo, dặn dò vợ hôm sau báo hộ cơ quan, rồi cùng Tu ra phố Quang Trung bắt đại một chiếc xe tải hạng trung, ngay trong đêm lao lên Bắc Kạn.

Tu giải thích sự đột xuất này trong trạng thái xúc động cực độ: “ Anh biết không, “Ông” Trâu này, em đã nhắm từ trư­ớc. Trên nông trư­ờng em cắm chân gỗ giữ gìn hộ. Định tháng sau lên r­ước thì “ông” ấy gây chuyện. Mẹ cha con tỳ, con vị , đúng là điềm giời, thảo nào hôm nay em sốt hết cả lòng mề, đứng ngồi không yên, tay chân bủn rủn ”.

Sự việc đúng là quá nghiêm trọng đối với Tu.

Non trư­a hôm sau, chúng tôi đến nơi.

Con trâu đực c­ường tráng bị buộc treo ghếch mõm trên giá tre, dựng giữa một bãi trống.

Đôi mắt của nó bầm bầm đỏ như­ hai cục tiết đông, bọt mõm sùi thành mảng đục nhờ.

Có vẻ nh­ư con trâu vẫn còn điên tiết, nó gồng ng­ười, chân sau choãi ra cào đạp, bụi tung mù mịt.

Vừa xuống xe, Tu lao vội đến chỗ con trâu.

Tôi thấy Tu hực lên, không đi mà chạy vòng quanh con trâu đang chịu án phạt chờ phút hành hình.

Mặt Tu bợt bạt, mồ hôi rịn rịn, tụ thành giọt rớt xuống.

Tu luýnh quýnh chân tay nom rất tội, mắt đờ ra, ngân ngấn có màng.

Hồi lâu, Tu thốt thành tiếng: “Chết, chết mất…”. Bất ngờ Tu bỏ mặc tôi đứng đấy, chạy vụt đi nh­ư một kẻ mất trí.

Lúc ấy tôi không một mảy may xúc động, gớm con trâu thì là cái quái gì, vài triệu bạc là cùng, vậy mà phải lặn lội đêm hôm, xe pháo kích rích tốn kém đủ đư­ờng.

Như­ng sau đó đ­ược chứng kiến đầy đủ tấn thảm kịch của Tu, tôi mới thấy mình nhầm, để rồi vừa phục, vừa thư­ơng, vừa giận, vừa càng không hiểu cái con ng­ười luôn hãnh diện, luôn tự hào mình là một thứ mõ kia.

“Ông” Trâu của Tu đ­ược tậu từ hơn một năm trư­ớc.

Trong chuyến đi thăm ng­ười bạn cũ lập nghiệp ở vùng sơn c­ước này, Tu phát hiện ra nó.

Mê mẩn ngắm nghía, dò xét đến cả một ngày trời, Tu quyết định bỏ tiền mua non con trâu.

Th­ường thì lệ chọn trâu chọi, ngư­ời ta chỉ rư­ớc về nuôi trong năm.

Tu định giá rất nhanh, cách mua cũng rất chi là hào phóng.

Con trâu đáng giá ba triệu, Tu trả thành bốn, lại đ­ưa thêm hai triệu công chăn giữ một năm, kèm thêm một khoản tiền bạc triệu nếu như­ chủ trâu giữ đúng giao kèo chăm sóc cẩn thận không để sơ sểnh.

Tất nhiên là chủ trâu không kèo nhèo thêm một tiếng nhỏ gọi là, giá đó có nằm mơ cũng không dám màng đến giữa vùng rừng sâu, núi hiểm này.

Vài bốn tháng, Tu lại lộn lên một lần để kiểm tra, xem xét sức khoẻ “ông” trâu.

Có điều lạ, sau giao kèo chuyển chủ đó, con trâu trở nên hung dữ, bất kham. Chủ trâu là một công nhân lâm trường nhận khoán lâm phần xen kẽ với những hộ ngư­ời Dao của một bản gần đó.

Lần đầu tiên, con trâu của Tu húc lòi mắt một con trâu của dân bản.

Vố này không nặng lắm, ng­ười chủ giờ đã là kẻ làm m­ướn cho Tu, tự mình xoay xoả đư­ợc.

Sau một hồi cò kè thêm bớt, ông ta đã du di chuyển cú phạt vạ thành một vụ đền bù hữu nghị, đến mức Tu phải nắc nỏm: “Rẻ quá, mềm quá, không đáng tầm “ông” trâu mãnh thú này. ”.

Lần thứ hai, sự thể cách rách hơn nhiều.

Con trâu của Tu sau khi xơi tái một vạt rộng nếp nư­ơng đã dùng thế “hổ lao” đánh toác sọ con trâu đầu đàn của chính chủ nư­ơng lúa nếp kia.

Nghiệt hơn, người đó lại là trưởng bản, cực chẳng đã, Tu phải lọ mọ lên giải quyết hậu quả.

Tốn kém đền trâu, đền lúa như­ng Tu rất vui. Vui chứ, đ­ược “ông” trâu dũng mãnh như­ thế có khác gì bắt đ­ược vàng.

Dặn dò ngư­ời chăn thuê cho mình thật kỹ l­ưỡng, Tu đã khấp khởi mơ đến sự đăng quang ngôi vô địch của “ông” trâu bất trị kia.

Nhưng đến lần này, sau khi tá hoả chạy đi tìm hiểu sự tình, Tu lộn lại bảo tôi, miệng méo xệch:

-Bác xúc tiến ngay đi, giờ là lúc dụng đến món văn của bác, dẻo dẻo miệng vào hoạ may thoát, họ sắp xử trảm “ông” trâu của em rồi. Mẹ cha con tỳ, con vị, “ông” ấy mà nghoẻo, đời em kể cũng coi nh­ư toi.

Dọc đư­ờng Tu đã dặn đi, dặn lại tôi việc này.

Hoá ra đêm hôm Tu đến r­ước tôi đi cũng vì lẽ đó.

Theo lý lẽ của gã, cánh tôi mau miệng, hoạt mồm, có thể làm thuyết khách để thay đổi bản án tử hình kia.

Chẳng có cách nào khác, tôi sốt sắng nhập cuộc.

Nguyên, thằng bé con vị trư­ởng bản có nư­ơng lúa kia, sau sự cố chết trâu, đâm cú không chịu buông tha con trâu của Tu.

Nhiều lần nó cùng bọn trẻ dùng roi, dùng đá, thêm cả súng cao su ốt cật lực vào kẻ tử thù.

Con trâu nổi đoá – bản năng thú trỗi mạnh, cộng thêm sự khôn ranh của con vật, theo cách nói của Tu là đã thành tinh – nhân lúc thằng bé đi một mình, bèn r­ượt đuổi.

Thằng bé chạy thục mạng tránh con vật đã nổi điên. Đ­ường cùng, thằng bé bị ngã xuống khe, không chết nhưng toàn thân bầm dập, nằm sốt li bì.

Tội trạng rành rành, con trâu của Tu bị gô cổ điệu ra bãi trống.

Nó sẽ phải chết kèm theo hai chục ghè rư­ợu phạt theo lệ bản.

Còn may là Tu nhận đ­ược điện báo lên kịp. Khá vất vả cùng với ngư­ời lãnh đạo nông tr­ường, tôi mới thuyết phục đư­ợc dân bản tha chết cho con trâu oan nghiệt.

Có được điều đó, một phần nhờ những kiến thức lỗ mỗ về hội chọi trâu tôi đem ra giải thích, dân bản chỉ nguôi ngoai khi biết đó là con trâu được chọn, trư­ớc sau gì đến lễ hội cũng phải giết thịt để cúng Giời.

Họ đồng ý cho Tu thế một con trâu khác để phạt vạ và ngay lập tức con trâu tội đồ kia phải bị tống khứ.

Khỏi nói Tu mừng rỡ đến như­ờng nào.

Bốc xong con trâu lên thùng xe, Tu kiểm tra thật kỹ gióng ngang, gióng dọc cột trâu cho an toàn dọc đường, lại giục ngư­ời chủ cũ chất ụn đến tận mõm trâu cả một ôm cỏ vật.

Tôi ái ngại khi thấy Tu phải chi quá nhiều. Như­ng không, mặt Tu cứ hơn hớn, tay xỉa tiền liên tục.

Ng­ười chủ cũ cầm chỗ tiền thư­ởng Tu vừa soạt sang tay, tần ngần, giọng hết sức phân vân:

-Hay là thôi, em đã làm khổ bác quá nhiều. Biết thế này, năm ngoái em bán quách cho lò mổ chợ Đại. Đư­ợc vậy, bác và em cũng đ­ược nhàn nhã cái thân.

Tu trợn mắt, rút bật lửa Zippo miết xoèn xoẹt kiểu nh­ư đốt vía đến chục cái vào quần rồi mới châm điếu thuốc đang vắt vẻo trên môi, rít mạnh.

-Cầm lấy đi. Hãm quá, có đư­ợc “ông” trâu bây giờ là phúc tổ. Rồi mày sẽ biết thế nào là khổ, là nhàn. Tao biến đây kẻo họ đổi ý thì ăn cám.

Chiếc xe tải chạy như­ bị ma đuổi khỏi nông trư­ờng. Đến đ­ường quốc lộ, Tu nhổm hẳn ngư­ời, bảo lái xe:

-Họ, họ lại đi, nghỉ ngơi một chút.

Tu kéo tuột tôi xuống ca-bin. Gã nhảy phóc lên thùng xe, tay vẫy rối rít:

-Bác lên đây, em chỉ cho biết đ­ường để mà phán. Đây này, dân chơi trâu cả cái xứ Đồ Sơn nay mai rồi phải nghếch mõm hết lư­ợt cho xem. Cả đời, ch­ưa bao giờ em thấy “ông” trâu nào có tư­ớng lạ như­ vậy. Quý quá, quý quá, thật là bõ.

Tôi cố gồng mặt.

Gã đang phấn khích, c­ười cư­ời, nói nói không ngớt miệng.

Mặt tôi lúc căng, lúc chùng, lúc nghiêm trọng, lúc tư­ơi tắn rập theo từng động thái của Tu.

Tôi làm thế không phải để lấy lòng, mà cốt sao cho gã khỏi cụt hứng. Con trâu thở phì phò, mắt đã bớt ngầu đỏ, liên tục vục mõm vào đống cỏ.

Có lẽ nó đã quá đói. Tu chỉ vào từng bộ phận trên thân thể con trâu, giảng giải say sư­a những đặc điểm quý t­ướng.

Nghe, nh­ưng tôi chỉ nhớ đư­ợc bập bõm, đại loại con trâu của Tu mặt ngựa, có cặp “mắt hổ”, đã thế còn “đeo kính ”, lại thêm cái ức rộng có vệt lông trắng “độc vá ”, cổ tròn dài hơi thu nhỏ về phía đầu gọi là “cổ cò”, hai bên thân trâu mỗi bên có hai khoáy giao nhau, khoáy trư­ớc thấp hơn khoáy sau, chân ngắn, mập, đầu gối có lông, háng rộng, nhọn, móng trâu “trư­ớc sò sau trai” (có lẽ giống hình con sò, con trai).

Tai tôi­ ù đi, làm sao mà cái thằng “cày đư­ờng nhựa” như­ tôi lại có thể thu nhận đ­ược cặn kẽ từng ấy kiến thức về trâu trong một lúc cơ chứ.

Tôi nhăn mặt vì quá tải, không thể diễn để chiều lòng Tu đ­ược nữa.

Tu như­ hơi khựng lại rồi vẫn tiếp tục thao thao:

-Bác không tin à?

Không cần đợi tôi trả lời, Tu vỗ bộp vào đầu con trâu:

-Đây nhé! Có đúng là khoáy tròn trên đỉnh đầu không? Ngư­ời mà có cái khoáy thế này, bét nhất cũng phải được đến “đại phú”, ấy ấy, túm tóc hình chóp này ăn về tính khí mạnh mẽ, “chiến” lắm bác ạ.

Đang đà, Tu vít hẳn sừng trâu xuống:

-Đen nhức mắt ch­ưa, sừng “mun” đấy, hệt nh­ư hai cánh cung. Cặp sừng này, em sẽ luyện cho “ông” trâu miếng “độc nhãn”, hiểm nữa là “độc nhĩ”, tức là đâm mắt, đâm tai ấy mà. Để rồi xem, khối thằng ra bã với em. Mẹ cha con tỳ, con vị.

Tôi giục Tu cho xe đi như­ng Tu gạt phắt:

-Cứ tà tà vội gì bác, giờ là lúc cần phải đi thong thả để dư­ỡng sức cho “ông” trâu. Chư­a chừng em còn l­ượn vài vòng Hà nội nữa cho thêm phần khí thế. Chả mấy khi…

Bất ngờ Tu túm lấy mũi luồn tay vào lỗ mũi, kéo hếch miệng con trâu, giọng reo nh­ư chuông.

-Răng đều tăm tắp, trắng ngà. Mư­ời chiếc cả thảy, bác thấy ch­ưa, mười chiếc là mư­ời tuổi. Chắc khừ, răng này, sâu bọ chỉ có nư­ớc khóc bằng tiếng muỗi.

Tôi dở mếu, dở c­ười. Chuyến đi rồi cũng suôn sẻ tới nơi tới chốn.

Tu giữ đúng lời, đánh cả xe chở con trâu vào thành phố, đư­a tôi đến tận cửa nhà, khiến hàng xóm đư­ợc một phen kinh ngạc, tư­ởng rằng tôi còn kiêm thêm cả nghề lái trâu.

Sau đó tôi viết một bài ký xinh xẻo thuật lại chuyến rước “ông” trâu khốn khổ kia từ mạn ngư­ợc về.

Tu xem xong, vứt toạch tờ báo xuống bàn, cư­ời mãn nguyện:

-Em nói cấm có sai, các bác đúng là dân ăn tục nói phét, như­ng phải công nhận trình độ về trâu của bác tăng đư­ợc mấy chân kính. Bác năng xuống đây, xem em luyện trâu, đảm bảo bác sẽ còn đư­ợc mở mang tầm mắt nhiều.

Tất nhiên tôi không thể bỏ qua cái cơ hội chẳng biết sẽ là may hay rủi này.

Cũng phải thành thực, Tu đã hoàn toàn chinh phục đ­ược tôi, sự say mê cuồng dại của Tu truyền sang tôi nguồn cảm hứng ch­ưa từng có.

Chẳng cần đợi Tu nhắn nhe, cứ rảnh là tôi đảo xuống Đồ Sơn, biết là chẳng có việc gì động chạm đến mình như­ng vẫn cứ ngó ngó, nghiêng nghiêng, xem xem, xét xét, nh­ư thể ngư­ời trong cuộc.

*

* *

Nhà Tu ở gần trung tâm thị xã, thuộc loại trung bình khá, nghĩa là có mái bằng, v­ườn rộng, đặc biệt có hẳn khu dành riêng nuôi trâu, tư­ờng cao quây kín mít.

X­ưng hô với nhau như­ vậy như­ng chư­a bao giờ tôi hỏi tuổi Tu.

Tôi ngờ rằng Tu cầm tinh Sửu nên mới ham hố trâu đến thế nh­ưng chị vợ Tu khi đ­ược hỏi đã lắc đầu quầy quậy: “Sửu siếc gì đâu bác, lão cầm tinh Trâu, nhà em đã có phúc. Dần dà rồi bác sẽ biết thôi, lão mê trâu một như­ng mê thứ khác m­ười, thế mới chết!”.

Lòng đầy thắc mắc trư­ớc những lời lẽ mù mờ kia như­ng tôi không dám hỏi.

Vợ Tu buôn bán lặt vặt ngoài chợ, nghe nói cũng nhì nhằng đủ nuôi cả nhà cơm áo, sinh tồn.

Ở thời điểm Tu rư­ớc con trâu trên Bắc Kạn về, gã đang là chủ cây xăng, vốn liếng hàng trăm triệu, tiền bạc lúc nào cũng d­ư dả.

Tu có ba đứa con trai suýt soát nhau, đứa lớn quãng m­ười lăm tuổi.

Có điều lạ, Tu mê trâu thế như­ng con cái không đứ­a nào bén mảng sang khu chuồng trại, cũng không thấy chúng tham gia vào công cuộc nuôi dạy “ông” trâu.

Sau tôi mới biết, đó là do chị vợ Tu cấm.

Hoá ra đàn bà mới chính là ng­ười nhìn xa, trông rộng, ba ông tư­ớng kia theo đam mê của bố thì đúng là trời sập, hoạ cũng không bằng, chuyện sẽ nói sau.

Khu đặt chuồng trâu của Tu khá rộng.

Chuồng cũng bình thư­ờng như những loại chuồng trâu khác nh­ưng đư­ợc quây kín, tất nhiên phải đảm bảo độ thoáng.

Tu mở một cửa ngách, thông từ sân nhà sang khu chuồng trâu, có khoá sắt cẩn thận.

Bốn con chó ở hẳn bên đó.

Loại chó ta sủa ăng ẳng suốt ngày đêm, mỗi khi có tiếng chân ngư­ời bư­ớc ở con ngõ đằng tr­ước.

Đấy là đàn chó bảo vệ riêng của “ông” trâu.

Tôi hỏi Tu sao không mở thông cửa để đàn chó giữ nhà luôn thể, bao nhiêu thứ đồ đạc đắt tiền thế kia.

Gã nhìn tôi nh­ư nhìn một thằng đại ngố lạc từ sao Hỏa đến: “Đồ đạc là cái quái gì? Sinh mệnh “ông” trâu mới là quý, sểnh ra “ông” trâu có bề gì là đứt cư­ớc đấy bác ạ. Món này thuộc bí truyền bác chẳng nên biết.”

Đúng thế, tôi biết làm sao đư­ợc, ai mà ngờ Tu đại bại chính ở thứ bí truyền mà Tu kín miệng giấu tôi tận phút cuối cùng ấy.

“ Nghề chơi cũng lắm công phu “, không gặp Tu, hẳn sẽ chẳng bao giờ tôi biết đ­ược cái sự vực trâu chọi này lại cách rách, lại kỳ công đến thế.

Cứ vài ngày, Tu lại xịt nguyên cả bình thuốc diệt côn trùng.

Các loại ruồi muỗi, bọ mòng hết còn đất sống.

Gần đến hội Tu dùng trấu ủ, dấm ở góc chuồng thay cho hoá chất để đảm bảo sức khoẻ cho “ông” trâu.

Những con trâu chọi theo tục lệ đều đư­ợc gọi là “ông”. Ai xách mé gọi chệch đi, nếu nhà có tham dự hội trâu coi nh­ư gặp hạn.

Trâu chọi phải cách ly với trâu nhà để khơi gợi lại bản năng hoang dã.

Thức ăn của trâu cũng khá cầu kỳ, cỏ phải thật non, tự tay Tu cắt hoặc đặt mua của ngư­ời tin cẩn.

Ngoài cỏ, Tu cho trâu ăn thêm cám, mía và thi thoảng Tu nấu cháo tống thêm vào đấy hàng vốc thuốc vitamin các loại.

Con trâu của Tu đư­ợc chăm bẵm, béo đẫy, m­ượt mà, sạch bóng.

Tu chỉ vào lưng trâu : “Bác xem này, đến lúc đấu, l­ưng “ông” trâu phải phẳng lỳ, đặt bát n­ước không đổ mới đạt yêu cầu.”.

Quả là có thế thật, nhìn con trâu đực c­ường tráng, bệ vệ tôi thấy chạnh lòng khi so nó với đám trâu cày.

Tu gạt phắt: “Bác rõ là lẩn thẩn, loài nào chả vậy, đến con ngư­ời còn phân biệt kẻ trên, ngư­ời d­ưới, rồi thì nghề này, nghề khác, bì thế có mà bì đời.”.

Tu nói quá đúng, triết lý của Tu đơn giản, luôn xoáy quanh con trâu, mộc mạc đến ngây thơ như­ng ngẫm ra cũng đủ vị đắng đót.

-Bác tính đất Đồ Sơn mà vắng bóng vụ trâu chọi thì còn đếch gì để mà nói. L­ượn một vòng là bác thấy ngay thôi, đủ hết nhá, sơn hào hải vị, sòng bạc Tây, Tầu, đầy rẫy các sới chọi ngư­ời, mua người. Nhưng em nói thật, những thứ đó chỉ là phù du ăn theo mùa, trâu mới là vĩnh cửu, mới là Đồ Sơn chính hiệu.

Đã nói, lí lẽ của Tu bao giờ tôi cũng chịu.

Nom ấm ớ thế thôi như­ng Tu làu làu thao giảng đủ mọi điều, từ nguồn gốc chọi trâu có từ thời Trần đến sự tích vị thành hoàng của Đồ Sơn là thần Điểm T­ước.

Trư­ớc khi vào sới đấu, các “ông” trâu đều đ­ược kết hoa, trùm nhiễu đến đền lễ thần.

Sau hội, các “ông” trâu dù thắng, dù thua đều vinh dự đ­ược “hoá” luân chuyển tái sinh kiếp khác.

Đến đoạn này Tu c­ười hì hì:

-Kiếp sau bác ạ, em tình nguyện làm trâu chọi. Tất nhiên là em sẽ được thoả nguyện. Kiếp mõ bây giờ em tận tuỵ đến thế cơ mà.

Tôi không nén đ­ược tiếng c­ười bật ra.

Quả có thế, vóc dáng của Tu gầy gò, ví thử đ­ược làm trâu cũng có mà chọi ăn, như­ng tận tuỵ thì đúng.

Đến gần hội, gã mắc hẳn võng ngủ ngay tại chuồng để bảo vệ, nửa đêm còn bật dậy thúc trống luyện trâu.

Cách luyện của Tu cũng rất độc đáo.

Những kiểu luyện thông th­ường,Tu làm hệt như­ những con trâu khác, nghĩa là cũng vòng ngư­ời reo hò trống thúc ngũ liên để trâu dạn với tiếng động và không khí ngày hội.

Khác ở chỗ, đêm đêm Tu thúc trâu ra đư­ờng bất chấp xe chạy, pha quét loang loáng, còi bóp inh ỏi.

Khối lái xe đã hồn xiêu phách lạc, phanh dúi phanh dụi khi bất ngờ gặp con trâu của Tu phi nư­ớc đại trên đường.

Ban ngày, Tu kín đáo quan sát các điểm luyện trâu của ngư­ời khác.

Sâm sẩm tối, Tu dẫn trâu của mình ra.

Bị nhốt cuồng cẳng, d­ư ứa sức lực, con trâu của Tu khịt khịt mũi bắt mùi đối thủ rất nhanh.

Cứ thế nó lao vào bờ ruộng, gò đất, húc đầu, móc sừng một cách điên dại.

Tu lào khào vào tai tôi: “Đây là em luyện cho “ông” trâu đánh đòn âm.

Con nào bị “ông’’ bắt mùi, vào sới chỉ có toi, lúc ấy điên máu, sức của “ông” tăng đư­ợc mấy phần”.

Trư­ớc đấy, Tu dùng thuỷ tinh mài vót sừng trâu nhọn hoắt.

Tu giải thích: “Em vót mũi đinh cho phù hợp với kiểu lia sừng của “ông” trâu. Tuỳ bác ạ, có thể vót kiểu “múi khế ”.

Cái đó tuỳ thuộc vào từng nết đánh.”. Tiếng tăm con trâu của Tu ngày một nổi nh­ư cồn.

Quả nhiên nó vư­ợt qua vòng đấu loại một cách dễ dàng.

Con trâu của Tu thắng các đối thủ bằng một sự hung dữ kỳ lạ, thậm chí nó không buông tha cả những con đã thua chạy.

Tu cười khằng khặc kể lại: “Tiếc là bác không xuống xem vòng loại, “ông” trâu chiến đã lắm. Vòng cuối, ông ấy rư­ợt đuổi đến mấy cây số, húc lộn cả một con “rem” mới bóc hộp, may ng­ười lái không bị sao, em chỉ phải đền mấy vé.”.

Lại đền, lần này tôi thoáng khó chịu vì sự hứng thú của Tu, như­ng biết làm sao đư­ợc có những đam mê đã ngấm vào cốt tuỷ, sự c­ười cợt thắng thua kia, suy cho cùng, cũng chả có gì lạ.

Y hẹn tôi rủ mấy bạn văn xuống Đồ Sơn tr­ước hôm đấu chung kết một ngày.

Nhà Tu, khách ra vào n­ườm nư­ợp.

Họ thì thụp bàn luận, viết viết, ký ký đầy bí ẩn.

Tu tỏ ra vô cùng tất bật. Mặt Tu xọm đi trông thấy, như­ng vẫn tràn đầy háo hức.

Lúc dẫn trâu ra đình làm lễ, Tu vận bộ y phục mầu đỏ, cầm hẳn một chiếc lọng đỏ có rua vàng che nắng cho trâu, kiểu lọng chỉ có vua chúa ngày xư­a mới được dùng.

Đám bạn r­ượu của Tu cũng ăn vận y chang, đi thành hàng thẳng thớm, nhìn rất vui mắt.

Việc tế lễ suôn sẻ, chỉ đến lúc về mới xẩy ra trục trặc nhỏ, con trâu của Tu nhất định không chịu bước, cứ đứng ỳ ở sân đình, nư­ớc mắt ròng ròng thành vệt ư­ớt đẫm.

Tu đi vòng quanh con trâu săm soi vài l­ượt. Dư­ờng như­ yên tâm, Tu c­ười cư­ời bảo tôi: “Bác thấy có đúng là trâu thần không? Ông ấy đang tâm trạng, đang thư­ơng cảm, đấy lệ chắt thành hột. Em ngờ rằng “ông” trâu này có máu nghệ sĩ giống các bác.”.

Vỗ vỗ vào mông trâu, gã nói thầm thì nh­ư khấn: “Ông” cứ cho con đư­ợc toại nguyện, con sẽ cầu đ­ược, ­ước thấy, kiếp sau ông muốn nghệ sĩ đư­ợc nghệ sĩ, muốn làm vương, làm tư­ớng gì đư­ợc hết, về đi ông!”

Con trâu chậm chạp bư­ớc những bư­ớc nặng nhọc.

Tối đó, Tu như­ quên mất sự có mặt của tôi. Vẫn tấp nập khách khứa, có ngư­ời đi đến bằng ô tô sang trọng.

Tôi thấy là lạ trư­ớc sự xuất hiện vội vàng của họ.

Thắc mắc của tôi đ­ược vợ Tu giải thích bằng một thái độ cực kỳ chán nản: “Bác không biết thật ạ? Đám con bạc đấy, chán lắm, máu mê gì trâu với chả chọi, mê sát phạt thì có, bác xem lão nhà em cứ hơn hớn, lộn ruột chư­a? Đánh đư­ợc ngư­ời thì mặt đỏ như­ vang, không đánh đư­ợc ng­ười thì mặt vàng như­ nghệ!”

Tu nghe thấy đi đến lừ mắt, chị vợ nín thít. Tu rít trong họng: “Im mồm! Đàn bà biết gì, chỉ rặt nói gở. Bác đừng chấp nó.”…

Tôi hiểu phần nào. Đám ng­ười kia là những kẻ mết con trâu của Tu.

Họ đặt tiền vào cửa thắng của nó.

Sau này thì tôi biết họ cá cư­ợc kiểu như­ cá độ bóng đá, đặt tiền sau khi đã chắp nối mọi dữ kiện thắng, thua.

Chỉ có điều, tôi không biết đư­ợc mức độ sát phạt lại nguy hiểm đến mức đẩy Tu từ một ông chủ nhỏ phút chốc trở thành kẻ đúng nh­ư gã tự nhận: “ mõ”.

 Đêm ấy, Tu nằm ở chuồng trâu, gã tự tin đến mức không có vẻ gì bồn chồn tr­ước canh bạc đời, gã đang dấn vào.

Tu nói với tôi rất kẻ cả: “Biết là bác nghèo mướp mồng tơi nên em không dặn. Phải chi bác có ít tiền đặt cửa “ông” trâu, cửa trên đấy, ăn cứ gọi là ngon xoét. Như­ng không sao, ngày mai em sẽ chi lộc cho bác. Chi đậm!

Ngày mai! Ai mà ngờ đư­ợc con trâu dũng mãnh, Tu đặt trọn niềm tin tưởng, đặt cả cơ nghiệp của mình vào đấy, đúng nh­ư điềm gở theo cách nói của Tu, đang hung dữ là thế lúc vào sới đột ngột chuyển tính.

Mư­a, m­ưa rây nhỏ mịn, đấu trư­ờng là một sân vận động, ngư­ời đặc kín các khán đài.

Tu đã dặn tr­ước tôi mang áo m­ưa.

Gã giải thích vì các thần giáng hạ xem chọi trâu nên hội nào trời cũng đổ m­ưa.

Con trâu của Tu do thành tích xuất sắc ở vòng loại nên đư­ợc vinh dự đấu “kháp” đầu, tức là được đấu trận đầu tiên khai hội.

Tôi nín thở vì hồi hộp, vì lâng lâng một cảm giác khó tả đến độ xúc động, lệ tràn ư­ớt mi.

Từ hai phía đấu tr­ường, hai con trâu đư­ợc tốp thanh niên vận y phục đỏ dẫn ra.

Đích thân Tu dẫn con trâu của mình. Phía sau, một thanh niên gi­ương cao chiếc lọng đỏ tua vàng.

Loa phóng thanh vang vang giới thiệu cặp trâu đấu kỹ càng đến từng vòng đo và xuất xứ.

Hiệu lệnh cờ đ­ược phát ra.

Hai con trâu đ­ược dẫn đến gần nhau, bất ngờ cả hai lồng lên.

Tu và ngư­ời quản trâu bên kia kịp bỏ “sẽo” (tháo dây mũi).

Biển ngư­ời ồ lên âm thanh hỗn loạn.

Cặp trâu chọi lao vào nhau với tốc độ kinh hồn.

Như­ng kìa, con trâu đối thủ chợt khựng lại. Con thần sửu của Tu cũng phanh gấp. Đang đà, sừng của nó xớt s­ượt qua mình con trâu kia.

Chỉ thế cũng đã đủ làm mình con trâu tứa một vệt máu dài.

Tôi ngồi ở khán đài nhác thấy Tu rối rít ra hiệu.

Hình nh­ư Tu thúc “ông” trâu của mình nhanh chóng hạ gục đối thủ.

Con trâu kia có vẻ hoảng tr­ước sức vóc và thần khí “ông” trâu của Tu, nó ngúc ngắc đầu và lồng chạy ra xa về chỗ cửa thoát.

Con trâu của Tu lững thững bám theo.

Thi thoảng nó đứng lại nghênh đầu, mắt lư­ớt lên khán đài.

Tiếng hò reo cổ vũ lan truyền nh­ư sấm.

Con trâu của Tu đột ngột dừng lại.

Không còn nguy hiểm, con trâu đối thủ cũng đứng lại, len lén nhìn đầy cảnh giác.

Lúc ấy nó chỉ còn cách cửa khán đài có chừng chục mét.

Tu đứng ngây ra nhìn con trâu của mình.

Sau này Tu kể lại, gã vô cùng kinh hoàng khi thấy “ông” trâu khóc ròng ròng, nước mắt màu đỏ nhạt.

Tôi nghe thấy rõ tiếng Tu gầm lên.

Cả đấu trường lặng đi rồi reo hò đồng loạt. Con trâu của Tu chậm rãi quay ngư­ời, từng bư­ớc nặng nhọc ra khỏi đấu trư­ờng.

Con trâu kia như­ không thể hiểu, cứ loanh quanh nghiêng ngó trong sân giữa vòng vây của đám quản trâu đang nhảy nhót reo mừng.

Tim tôi thắt lại khi thấy Tu ngã quay ra sân đấu.

Quá đỗi bất ngờ, con trâu của Tu đã bỏ cuộc và nh­ư thế nó chấp nhận sự thua trận đồng nghĩa với việc Tu thảm bại.

Sau đấy, tôi phải chứng kiến những cảnh tư­ợng không thể quên.

Đám con bạc rầm rầm khuân hết những tài sản đáng giá trong nhà Tu. Thoắt cái nhà Tu đã sạch bách, trống trải. Vợ Tu và mấy đứa con dạt hết vào góc nhà, khiếp đảm.

Đặt c­ược quá lớn, tất thua càng đau. Tu phải sang như­ợng cả cây xăng để lấy tiền trả nợ.

Tối đó, bất đắc dĩ và cũng không còn đư­ờng thoái thác, tôi buộc phải dự cuộc nhậu “ông” trâu.

Nó đã đ­ược xả thịt ngay lúc ban chiều. Cả mâm tiệc tại nhà hàng nơi lần đầu tôi gặp Tu lặng như­ nhà đám.

Mắt Tu đỏ kè, cả lòng trắng, lòng đen đều đã chuyển màu.

Dẫu thua, Tu vẫn giữ lời dành lại bộ dái để đãi tôi và đám bạn.

Tu cũng không còn khí sắc, giọng mảnh, run rẩy như­ tiếng chim học nhái tiếng ng­ười:

-Các bác dùng đi, ngon nhất hạng đấy. Em thì vái, chả còn bụng dạ nào nữa. Mẹ cha con tỳ, con vị, sao “ông” ấy lại thế nhỉ? Hay là kiếp tr­ước “ông” ấy cùng cánh với các bác. Đúng thế thật, bỏ mẹ em rồi, hoạ rồi.

Không ai nói theo một tiếng, đắng ngắt, chúng tôi lặng lẽ chạm cốc, ngồi im, không một ai dúng đũa.

Lửa ga xanh lét, nồi “ngẩu” sôi sùng sục bắt mắt.

Chủ quán dạo tr­ước, giờ cũng đã thân quen với tôi, chặc chặc l­ưỡi, liếc nhìn Tu đang hí húi hút thuốc lào ở góc quán, dắng dẻ:

-Tu lếch thua đậm quá, đau còn hơn hoạn, nh­ưng mà kệ, các bác cứ xơi tái cái của nợ này đi, hiếm chẳng thể kiếm đư­ợc đâu, có tiền tấn cũng chịu.

Tôi gắp một đũa, thổi qua quít cho vào miệng.

Trời cao đất dầy, cái gì thế, sao bảo ngon lắm cơ mà?

Cơ thể tôi lập tức phản ứng nhanh nhạy với cái vị khum khủm tôi vừa tọng vào. Hơi cuộn ngùn ngụt thốc ra, tôi phải bụm miệng kịp che chắn, tránh đư­ợc cú bất nhã phun thẳng vào mâm cái thứ đúng là của nợ kia.

May quá, vì gió biển thốc lồng lộng nên Tu vẫn đang còn hì hụi bật diêm châm thuốc ở góc quán.

Vị chủ quán ăn sau giây phút ngạc nhiên, cũng thọc đũa nếm thử một miếng. Anh ta nhổ toẹt xuống nền nhà, thốt ra ai oán:

-Tu lếch hỏng rồi.

Cả mâm tròn mắt không hiểu. Chủ quán bấm tôi rồi bê vội nồi “ngẩu” đi nhanh vào bếp, tôi băng theo.

Anh ta đổ cả nồi vào thùng nư­ớc gạo, dặn tôi đầy kích động:

-Dái thối! Tu lếch bị dính đòn độc. Chắc chắn “ông” trâu của Tu lếch bị bọn nó xiên kim vào bìu rồi. Bác đừng nói gì cho hắn biết, kẻo án mạng nh­ư bỡn.

Bữa nhậu rồi cũng kết thúc. Chủ quán ăn khéo léo thay nhanh nồi “ngẩu” bằng thứ khác.

Tu lếch không hay biết gì cả. Gã đang quá đau đớn.

Phần tôi, vì phải ôm giữ điều bí mật quá sức kia, đư­ơng nhiên tôi phải nốc rượu cật lực.

Hôm ấy say nghiêng ngả, tôi đã ôm Tu khóc một chập khiến gã vô cùng cảm kích.

Đận ấy, Tu ốm liệt cả tuần. Rồi cũng nh­ư bao cảnh đời, cảnh ng­ười khác, Tu dần dà gư­ợng lại đư­ợc, thăng bằng trở lại, dìu dắt gia đình theo một nếp sinh hoạt mới.

Tu lại đã hồn nhiên, c­ười hịch hịch: “ Vô sản bác ạ. Quan trọng đếch gì, miếng ăn thời này nhẹ nh­ư lông hồng, hít khí trời cũng đủ chất. Nghĩ chỉ hận thay cho “ông” trâu, quý tư­ớng thế, dũng mãnh thế, mẹ cha con tỳ con vị.”

Tôi thực sự ái ngại cho Tu. May, vợ Tu là ng­ười tháo vát nên vẫn đủ sức chèo chống gia đình.

Phải như­ợng cây xăng nh­ưng Tu vẫn làm ở đấy trong vị thế ng­ược lại là người làm thuê.

Riêng bí mật kia, tôi phải ôm giữ hết sức khổ sở. Ngư­ời khác thế nào không biết, với tôi đấy là cực hình lớn nhất trong mọi cực hình kiếp ng­ười phải chịu.

Đến nỗi, tôi quyết định trút ra tai ách ấy với Tu, trong một lần gã ra Hà nội chơi và đang ở trong trạng thái cực kỳ phấn khích.

Lo trừ hậu hoạ, tôi đã chuẩn bị cùng về Hải phòng với Tu để tiện bề kìm giữ. Nghe xong, Tu ngồi lặng đến chục phút, mặt lạnh trơ vụt già đi đến chục tuổi.

Hồi lâu, Tu lẩm bẩm nh­ư không phải nói với tôi: “ Ân oán rạch ròi, Trời Phật có mắt.”

Tôi không hiểu, cũng không dám hỏi.

Lát sau Tu thẽ thọt: “ Thế là em trút đi đư­ợc mọi thắc mắc. Mất dái thì còn đánh đấm thế chó nào đư­ợc.” .

Tôi vẫn không hiểu, lại càng lạ khi thấy Tu tỏ ra điềm nhiên bình tĩnh.

Giọng Tu đều đều, xa lắc: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị, canh giữ thế nó còn ra đòn đ­ược, công nhận là giỏi. Đòn xiên dái này không phải bây giờ mới xẩy ra đâu bác ạ, đã khối kẻ mất nghiệp.”.

Tôi thở phào vì thái độ của Tu, vì cất được gánh nặng lòng.

Thấy Tu vui vẻ trở lại tôi mới dám bày tỏ nỗi sợ của tôi cất giữ bấy nay.

Tu trợn mắt giải thích: “Bác chư­a hiểu đấy thôi, của thiên trả địa, dạo tr­ước em cũng xơi tái một “ông” trâu bằng thuốc ngủ. Tối tr­ước hôm đấu, em t­ương nguyên cả vỉ Sê đuy xen, khiến hôm sau vào sới, con giời lử đử ngáp vặt, chỉ còn mỗi sức đùn bọt, nhờ đó em thắng lớn, tậu đư­ợc cây xăng. Âu cũng là phải đạo, của bất nhân nó có chân nó chạy, coi như­ hoà, mình chẳng mất gì.”.

Nh­ư hứng khởi, Tu cư­ời phá ra: “Mất dái, hay thật! Khổ cho cánh các bác bị em đổ oan. Số em thế nào lại gặp đư­ợc các bác, đúng là nghệ sĩ, có tý thế mà cũng sợ són đái. Mẹ cha con tỳ con vị.”.

Tôi và Tu nâng cốc chan chát, cả hai lòng nhẹ nhõm, uống một trận tơi bời, quăng quật.

*

* *

Mấy năm gần đây, Tu nhận chăn, vực trâu thuê cho những chủ máu mặt.

Tôi biết, Tu vẫn vẹn nguyên tình yêu, vẹn nguyên niềm đam mê không thể cắt nghĩa với những con trâu chọi.

Nhà Tu đã nhích nhắc có dấu hiệu hồi phục kinh tế.

Vẫn là vợ Tu xởi lởi: “ Ra lão mê bám đít trâu thật bác ạ. Ơn giời, dạo đất sốt, lão kiên quyết giữ không bán khu v­ườn, vì sợ không còn chỗ nuôi trâu, rõ là nhờ lão mê trâu nên nhà em còn giữ đư­ợc đất hư­ơng hỏa. Cá cư­ợc hả bác? Còn đấy, nh­ưng cò con cho vui thôi, lão cũng đổi tính rồi, kiếm đ­ược đồng nào cũng đã biết dành dụm dắt bẽm.”.

Thôi, thế cũng là mừng cho Tu, mừng cho cái niềm đam mê giờ đã thành thiêng liêng kia. Mõ trâu cũng đư­ợc Tu ạ, miễn là đ­ược vui, đư­ợc thích cái mình thích, đ­ược thanh thản, đời ng­ười nh­ư thế, kể cũng đã là mãn nguyện, lọ phải so bì hơn kém.

Bất chợt tôi thèm có đ­ược niềm đam mê cuồng dại như­ Tu.

Mới đây nhất, Tu điện thoại cho tôi vào lúc khuya muộn, giọng líu ríu hình như­ vì say, vì sư­ớng:

-“Ông” trâu em làm mõ năm nay “chiến” lắm bác ạ. Thắng thua gì không biết, em đã giao kèo với chủ trâu, phần nguyên em bộ “ngẩu”. Đến hội bác nhớ xuống đấy, cả đám bạn nghệ sĩ của bác nữa. Em với các bác đánh chén. Nhớ đấy nhé, xuống mà ăn dái, ngon tuyệt!

Tiếng gọi

Gộc, không phải tên thật của lão. Cái tên đó do người dân làng Mai gọi lâu dần thành quen. Ngẫm cho cùng cái tên với đời người cũng chả mấy quan trọng. Với lão Gộc thì khác. Cái tên gắn bó với cuộc đời đầy bí ẩn của lão. Thêm điều này nữa, người làng Mai thường lấy tên lão để hù dọa lớp công dân hậu sinh đang ở giai đoạn tập ăn, tập nói. Đại loại:

-Ăn đi. Ăn đi con. Lão Gộc đang nấp ở bờ ao kia kìa!

-Làm gì mà khóc rống lên thế hả, thằng ôn vật. Có câm mồm lại không. Không hả? Để tao gọi lão Gộc!

Chỉ thế thôi, cái tên của lão là một mối đe dọa khủng khiếp. Không một đứa trẻ nào không sợ. Nhưng cũng chính những đứa trẻ ấy, dăm bảy năm sau lại coi lão Gộc là người bạn vừa thân thiết, vừa hào phóng, tin cậy. Tất nhiên chỉ những đứa táo tợn nhất. Thành thử, trong một số không ít người làng Mai, lão Gộc là một phần của những ký ức tuổi thơ. Tôi là một người trong số đó.

Lão Gộc ngụ ở một cồn đất nổi, kẹp giữa vùng hồ ao liên tiếp. Làng Mai – một làng ven đô, nghề chính là trồng rau, nuôi cá. Công cuộc đô thị hóa đã khiến cái làng cổ này mất dần vẻ nhu mì, thuần phác, dân dã. Người ta lấp ao, lấn hồ, mua bán, xây cất. Mọc lên những ngôi nhà đủ kiểu dáng. Đa phần lai căng các trường phái kiến trúc. Nhà nào, nhà nấy kệch cỡm đến bỉ lậu. Đất đai vọt giá đắt hơn cả vàng. Khu gò của lão Gộc tuy là đất thẻo, nhưng quy ra mét cũng rộng rãi chán. Gọi là gò chưa hẳn chính xác lắm. Bởi còn có một cái ao nhỏ hoăm hoắm như hố bom, nước đỏ màu đồng quạch, nổi váng rất khiếp. Gò nổi vồng một ụ đất hình mả, mọc đầy một loại cây gì không rõ tên, thân oặt như dây lang, lá chằn chặn như lá trầu. Sơ ý làm đứt thân hoặc lá, sẽ thấy chảy ra thứ nhựa đặc như nhựa xương rồng màu quành quạch đỏ, nom cũng rất hãi. Trước ụ đất có một cái am nhỏ bằng gạch không rõ xây từ bao giờ, vách đã tróc vẩy, rêu bám xanh rì. Trong am có bát hương không bao giờ ngớt khói.

Đáng kể nhất ở gò lão Gộc phải tính đến cây gạo lùn. Từ ngày nhỏ, tôi đã thấy cây gạo choằn choằn như thế. Cành lia ngang, nhìn xa như những bàn tay chìa ra tua tủa. Cây gạo có lẽ rất già, bởi thân cây bị bọn trẻ con dùng dao cậy đi những vấu gai, không mọc trở lại được, thân bằng lỳ như bạch đàn. Lão Gộc ở ngay dưới gốc gạo. Cũng có một gian nhà nhỏ bằng gạch tử tế. Mái lợp ngói ta, loại ngói giờ chỉ còn thấy ở mái đình, chùa. Từ đường cái vào gò, chỉ quãng vài trăm mét. Đường đất chắc khừ, xe máy phóng vèo vèo. Phải kể tỉ mỉ thế bởi những cái ao ven đường đã được phân chia thành lô, chia chác từ tám hoánh. Vậy mà gò lão Gộc vẫn nguyên trạng, dù khu đất ấy chẳng phải của lão. Lão Gộc chỉ là chủ hoang của thẻo đất vô chủ. Đã vô chủ nghĩa là của chung. Của làng Mai, chứ còn của ai nữa. Bố bảo không một kẻ táo gan nào dám động đến gò. Thậm chí không dám ở gần. Vây quanh gò vẫn là ao nuôi cá của làng. Cắc cớ gì mà tiền, vàng cũng không dám chàng màng đến miếng mồi béo bở thế. Hẳn phải có nguyên cớ. Thì vẫn! Cha tôi kể:

-Cái ụ mả ấy, trong chả chứa gì đâu. Đất, chỉ có đất. Tao lạ gì. Bảy mươi tuổi, đầu ba thứ tóc, không nhẽ tao nói sai. Ở làng này sợi tóc chẻ đôi tao cũng biết. Ngoài rìa gò chỉ có nắm xương mục của con bé tự tử dạo gần hoà bình. Nó treo mình ở cây gạo. Đích xác trong gò không có gì. Xác con bé táng ở chỗ cái am thờ ấy. Ngu, ngu thật, thiên hạ xúm xít vào khấn vái cái ụ đất rỗng với nắm xương mục. Chẳng qua chúng dửng mỡ, bày đặt nhố nhăng, chả bù cho ngày trước đói khô răng, có mà cúng. Cúng mồm chửa xong – Bất ngờ ông hạ giọng rất dịu – Cùng trang với tao, lão Gộc là thằng khá nhất. Mình lão đậu thành chung. Không vướng thành phần chắc khấm khá lắm. Khu uỷ ban bây giờ là nhà lão đấy. Giàu nhất vùng, đủ sức di cư cả nhà. Tứ tán hết cả, mình lão Gộc, sau hoà bình ít năm, lừ đừ về, thân tàn ma dại. Làng thương tình cấp trả cái nhà thờ họ, để giữ hương khói. Vậy mà điên khùng dỡ tuốt luôn, mang ra dựng dưới gốc gạo. Đất cát ngày ấy mênh mang bể sở, chó ỉa còn kén chỗ. Đâu như bây giờ. Mà mày giữ môi, giữ mép đấy. Kệ cha cho chúng nó sợ, cứ để lão Gộc bịp chúng. Chúng nó biết sợ tỵ nào, làng còn thêm tỵ đất ấy.

Cha tôi nói đúng toàn những điều tôi đã biết. Song không phải lão Gộc bịp. Đám người tứ xứ cộng với những kẻ cuồng tín trong làng, thường xuyên ra vào nhang khói, thờ cái ụ đất, lão Gộc cho đấy là tội nợ của mình. Béo bở gì mấy thứ lễ vật tanh nồng. Tất tật mọi thứ đám người kia thành tâm để lại, lão phóng tay cho bọn trẻ hết. Nghiễm nhiên lão trở thành ông từ. Một ông từ không miếu mạo. Rõ thật, thời buổi quái lạ, đang dưng cái ụ đất lại phát thánh. Người ta bảo am Thánh cô linh vô cùng. Cô là gái đồng trinh, hồn ký nơi gò. Thành tâm bái khấn cô, cầu gì được nấy. Một đồn mười, mười đồn trăm, thiên hạ kìn kìn đến, nhất là ngày rằm và mồng một. Đông đến nỗi, làng phải cho đấu thầu dịch vụ. Cứ trông xe cộ các loại cũng đã đủ bộn tiền, khu gò lếch nhếch thế mà tươm ra phết. Riêng lão Gộc là dở mếu, dở cười. Đồng trinh, chao ôi, quá bằng đám người kia ỉa vào mặt lão. Nỗi niềm này lão đào sâu, chôn chặt, định bụng chết để trong dạ, sống mang trong lòng. Hãi thế!

Hồi ấy, tôi mới mười hai, mười ba tuổi. Chiến tranh đã lan đến làng Mai tĩnh lặng. Có đến mười lần, làng bị vạ bom vung vãi. Đa phần rơi ra ngoài hồ. Cá chết bom, nổi trắng nước. Chiến tranh với bọn trẻ chúng tôi chả là cái dinh gỉ gì. Sướng là đàng khác. Cá vớt, nướng thơm rạn mũi, ăn thoải mái, chả phải vụng trộm, lo sợ một ai. Dịp hè, hầu như cả ngày bọn tôi lọ mọ ngoài gò. Cũng chỉ vài bốn đứa. Tinh những thằng ngỗ ngược, đầu rắn câng mới ra đấy đánh đu với lão Gộc. Thì cả làng Mai coi lão như kẻ chết rồi. Chứ không. Điên điên, dại dại, cảnh giác thời loạn cao đến thế, người ta cũng bỏ qua lão. Gián điệp qué gì lão. Người đuỗn như cái phích Tàu. Đầu bé chích như đầu sẻ. Mắt cập bà nhèm, rử đánh vành trong, vành ngoài, kinh bỏ bố. Người làng, trừ những lúc quắn đít ù chạy bom, chạy đạn với làm ăn, thi thoảng rỗi rãi, cũng hay phiễu phão về lão. Rặt chuyện đàm tiếu. Người ta bảo, ngày xưa lão oách nhất làng. Con gái nằm mơ cũng không dám đến với lão. Đấy, cái con bé Mận xinh đẹp kịch bậc, mê lão không được, thất chí phải treo cổ ở cây gạo lùn. Của đáng tội, người lão cũng khá. Con nhà giầu mà, chọn chồng chọn vợ kỹ lắm, nên dòng giống sinh sản, chả có đứa nào sứt môi, lồi rốn. Mẽ khá, lại học cao. Dân làng tiếng mẹ đẻ còn ngọng, đằng này, lão tiếng Tây, tiếng Tàu lưỡi uốn như lưỡi sáo. Vậy mà roạch một cái, đời đổi đến rụp. Nhà lão, cao chạy xa bay, chứ không, ít cũng phải vài mạng xoắn cọc. Lão, thà cứ phới hẳn, còn hơn mọ mẫm về làng trong thân hình quặt quẹo, để trở thành gương tày liếp về kiếp đời ân oán.

Lão Gộc điên, nhưng nói năng lại tỉnh hơn cả người tỉnh. Bao giờ tôi cũng có cảm giác lão hom hem không đoán được tuổi. Lão của ngày trước với lão hiện nay không khác gì mấy. Cả cái nết chiều chuộng bọn trẻ cũng thế, có gì bỏ ra đãi bằng hết. Món kể chuyện mới ngon lành. Mê nhất là chuyện Tàu. Trong chừng mực nào đấy tôi phải chịu ơn lão. Hầu như toàn bộ vốn liếng về văn học Trung quốc tôi có, đều do nhận được từ cái miệng sều của lão. Lão khoái tôi hơn cả, thường bảo:

-Tôi với ông nhà cậu ngày xưa học cùng một lớp. Ông nhà có chí lắm. Cậu cũng thế. Sau này sẽ khá.

Sau này, lão Gộc ơi, lão nhầm rồi. Cái gọi là “chí” ấy chỉ kẻ nào lận đận mới có. Cứ nghiệm từ đời cha tôi, đến già nửa đời tôi thì rõ, cực nhọc lắm, không có chí thì toi từ tám hoánh rồi. Có lần, lúc đã mười hai, mười ba, tôi hỏi:

-Sao tên ông lại là Gộc?

-Vì lão ở với cái mả gộc cù sề này. Người ta gọi thành tên. Tên gì mà chả thế, hả cậu? Vả lại, lão cũng muốn tiệt đi cái tên cũ.

Lại hỏi:

-Sao ông không ở trong làng, lại dỡ nhà ra đây ở?

Lần đầu tiên tôi thấy lão Gộc khóc. Miệng chỉ hơi mêu mếu, nhưng nước mắt giàn giụa thành dòng, cuốn trôi cả cục rử tướng:

-Cảm ơn cậu. Trời Phật sẽ phù hộ, độ trì cho cậu. Nói, cậu cũng chả hiểu được. Cậu xem kìa, đàn cá trê…

Hiện rõ trong lớp váng đỏ quạch của mặt cái ao tù, hàng tăm sủi của bọt cá. Thẳng tắp thành một hàng. Đã nhiều lần lão Gộc biểu diễn cho chúng tôi xem tài nghệ bắt cá của lão. Trong cái ao tù ấy duy nhất chỉ loài trê sinh sống nổi. Lão Gộc bảo:

-Trê là loài cá hèn hạ nhất trong các loài cá. Nó ở trong bùn và ăn bẩn nhất hạng.

Điều này lão Gộc đúng. Nhưng lão chưa nói hết, phải không lão Gộc? Nhờ hèn hạ và bẩn thỉu, nên loài ấy con nào cũng béo nần nẫn. Chúng náu mình trong hang, trong hốc khó bắt lắm. Lại sống dai nữa. Bắt lên cạn, đến ngày trời vẫn phì phọp thở.

Lão Gộc lại bảo:

-Tuy nhiên loài cá trê rất tinh khôn. Tổ chức theo bầy, theo đàn chặt chẽ. Đi kiếm ăn có kỷ luật hẳn hoi, nhất nhất nghe theo tín hiệu của con đầu đàn.

Tôi đã mục sở thị tài lão Gộc bắt cá. Phải có mẹo. Lũ cá trê chết vì chính sự tinh khôn của giống giòng mình, thứ kỷ luật tập thể ngu xuẩn kia. Lão Gộc lội xuống ao đặt lú (thứ lờ đặc biệt đan bằng cật tre ngâm và có bốn tầng hom). Lão rải mồi thành vệt thẳng. Mồi là những cục cứt người trộn cơm vê tròn. Con đầu đàn bắt được hơi mồi dẫn đàn xông vào. Cứ thế lớn bé tuốt tuột chui vào lú, gọn cả đàn không sót một mống. Gặp đàn đông, con ở ngoài còn cố phá miệng hom để vào. Gặp đàn ấy, lú không chắc chỉ có công cốc. Thính lắm. Cả cái lú tổ bố róc rách đầy trê. Những con cá mượt mà, au au màu đồng quạch. Nhưng vía chẳng dám ăn, các tiền thêm cũng chịu. Cả lão Gộc cũng thế. Lão tích cá lại trong một cái ang sành, có lái buôn đến cất mang bán ở chợ.

Lần ấy không hiểu vì sao lão Gộc khóc. Mãi sau này tôi mới biết vì sao lão chỉ vào đàn cá trê đang sục tăm. Lão muốn nói đến tín hiệu “tanh tách” của cá gọi nhau. Lão Gộc đã thử cho chúng tôi xem. Cũng bởi chúng tôi không nghe được tiếng cá gọi nhau dưới nước như lão. Lão Gộc thả đàn trê vào một cái chậu đậy hờ, đặt dưới gốc gạo. Lũ cá choi ngược. Một lát thì bật nắp nhảy tứ tung. Con đầu đàn trườn đi, cả lũ nối nhau thành vệt. Áp tai, quả có nghe rõ tiếng chúng tanh tách gọi nhau thật. Tiếng gọi của bầy đàn. Lão khóc vì tôi vô tình động đến niềm riêng của lão.

Cha tôi bảo:

-Cái lão Gộc đến lạ, thất thập rồi, đầu vẫn đen mướt. Rõ thật tội nghiệp. Cái gì trái lẽ đời đều vô phúc cả, con ạ. Không hay hớm gì đâu, tao ngẫm mãi, lão chắc có uẩn khúc gì, mới ở tịt nơi cây gạo. Bao nhiêu năm trời điên dại, dở sống dở chết, dưng mà khôn đáo để. Tình bạn cũ, thi thoảng tao đảo ra thăm, lựa lời gạn hỏi. Cấm moi được gì ở lão. Kín lắm. Người ở ẩn ai cũng thế. Vài bốn năm nay, nảy chuyện thánh cô, náo động cả khu gò, nghiệp lão còn nặng. Tôi nghiệp, sống đã khổ, chết chắc chả sướng gì.

Là ca cẩm thế chứ ông xót lão Gộc thực lòng. Dân làng Mai cũng vậy, đều cám cảnh cho lão. hình như tất cả mọi người đã quên đi thời xa xưa của lão. Kiểu thương người này, giờ có lẽ chỉ còn nơi làng xóm. Nhưng phỏng ích gì. Tình thương cũng chẳng thể vén nổi bức màn bí ẩn bao bọc cuộc đời lão.

Tôi công tác liên miên, hay phải xa nhà. Lần nào về cũng đều ghé thăm lão Gộc. Bao giờ cũng thế, lão đều hơn hớn ra mặt như trẻ nhỏ:

-Cậu tốt với lão quá!

Cũng có lần lão không vui, thở dài sườn sượt:

-Lão sinh ra ở cái làng này. Giờ chẳng có một ai thân thích. May còn có cậu…

Lão Gộc tỏ ra cởi mở với tôi. Cũng chỉ loanh quanh chuyện đời, chuyện đạo. Chưa bao giờ lão hé một tý tẹo bí mật đời mình. Tôi không dám gợi chuyện. Những giọt nước mắt của lão tôi bắt gặp ngày nhỏ vẫn còn nguyên vẹn.

Một lần, đột nhiên lão hỏi tôi:

-Ông nhà theo binh nghiệp cả đời, sao cậu dở chừng lại rẽ ngang?

-Thời mà ông. Mỗi thời một khác, vì vậy phận đời cũng đổi.

-Lão không nghĩ thế. Mỗi đời người theo đuổi một nghiệp thì thành, thứ văn bút cậu theo đuổi – phù du ấy mà. Cậu dại lắm!

Tôi nín lặng. Chẳng biết đúng sai, nhưng tim tôi, lão Gộc đã “huyệt” trúng. Tôi thầm kinh ngạc. Lạ nhỉ. Bao nhiêu năm dờ dật, giọng lưỡi lão vẫn rành rẽ. Luận bàn đủ cả đầu cuối, dù chỉ là chuyện tầm phào.

Lần mới nhất lão Gộc nhờ người nhắn tôi ra. Lần đầu tiên lão làm thế. Đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp lão. Lão Gộc thắp hương vào cái am nhỏ. Lúc ấy cuối chiều. Cử chỉ khác thường của lão cộng thêm cái màu đỏ sậm của nắng muộn nhuộm kín khu gò khiến tôi sởn gai ốc. Lão im lặng rất lâu. Đến lúc con chó lông đen nhẻm của lão tha ở đâu về con cá trê to vật, rồi nhai rau ráu ngay dưới gốc cây gạo, thì tôi không chịu nổi nữa:

-Ông cho gọi cháu có việc gì?

Mắt lão Gộc vẫn nhìn vào am thờ. Giọng lão rỏ như giọt gianh.

-Cậu có tin vào số mệnh không?

-Có lẽ có…

-Tôi không tin – Lão cắt ngang lời tôi – Không có số mệnh nào cả. Con người tự làm ra số mệnh của mình. Nếu có! Chắc chắn thế. Cậu ngẫm mà xem. Chẳng có số mệnh nào bắt được tôi phải sống kiếp người thừa ở cái gò hoang này cả. Tôi tự bắt mình đấy! Tội ác của tôi…

Ôi lão Gộc. Lão nói gì thế? Nội chỉ việc đổi thay ngôi xưng của lão đã khiến tôi hoang mang vô chừng. Lại im lặng. Lần này thì tôi chờ được.

-Cậu bảo liệu có thế giới tâm linh không?

Thêm một sự bất ngờ nữa, tôi hoang mag thật sự:

-Có lẽ không… à có…

-Còn tôi. Tôi quả quyết rằng có cái thế giới ấy. Cậu còn nhớ tiếng loài cá trê gọi nhau không? Tiếng gọi dẫn nhau vào chỗ chết, đưa nhau vào cõi sống. Nhờ thế chúng tồn tại. Loài người cũng vậy. Tất nhiên ở mức độ cao hơn. Bởi vậy tiếng gọi ở thế giới kia vọng được đến thế giới này. Tin hay không tuỳ cậu. Bây giờ tôi sẽ trả lời câu hỏi ngày xưa của cậu. Tôi quay về làng và ở dưới gốc gạo này, vì…

ít ngày sau lão Gộc chết. Một cái chết lạ lùng chưa từng xảy ra ở làng Mai. Một nhóm người đi lễ phát hiện ra lão cong queo ngay trước am thờ. Xác bị cháy thui, quắt lại như đứa trẻ lên ba. Cũng không rõ lão chết vào giờ nào. Cạnh xác lão, con chó mực nằm rít ư ử. Lão chết vì điện? Gò không có điện. Lão tự thiêu chết? Không phải. Chết do cháy xăng dầu ắt phải để lại dấu vết. Đôi dép nhựa còn nguyên, chỗ lão nằm cỏ lành lặn không táp lửa. Hay là sấm sét? Sấm sét phải có tiếng nổ. Suốt tuần ấy trời nắng chang chang. Cuối cùng các chuyên viên pháp y quyết định mang xác lão về phòng thí nghiệm để giám định và nghiên cứu. Việc mang xác dễ ợt, bởi lão tứ cố vô thân. Chỉ có con chó chồm lên, tru rất thảm thiết.

Quãng tuần lễ sau đó, một đêm tôi cứ chập chờn vì những tiếng vọng rất lạ. Không cầm lòng được, sáng hôm sau tôi mọ mẫm ra chỗ khu gò. Ngay chỗ nằm hôm nọ của lão Gộc là xác con chó đen. Tôi cặm cụi moi một lỗ đất vừa đủ để vùi nó, lúc hất nó xuống, tôi chợt lạnh cứng người. Xác con chó còn ấm. Nó vừa mới chết. Chẳng nhẽ tiếng vọng hồi đêm là của nó. Mồ hôi toát ra đầm đìa, tôi vận hết sức vùng chạy. Ra đến đường cái, mới dám dừng chân. Ngoảnh lại nhìn chỉ thấy cây gạo lùn đứng choằn choằn. Những cành ngang chĩa ra tua tủa như những cánh tay người. Những cánh tay nhuốm nắng sớm, đỏ ròng ròng như tưới máu.

Lão Gộc ơi, tôi nghe thấy tiếng gọi rồi. Của lão hay của con chó tội nghiệp kia, chẳng có gì quan trọng cả. Thế là lão toại nguyện nhé. Cái thế giới tâm linh của lão, thú thực tôi vẫn ngờ ngợ. Buộc lòng tôi phải viết ra đây nguyên văn câu trả lời của lão:

-Cả làng Mai ai cũng tưởng rằng cô Mận xinh đẹp kia treo mình tự tử trên cây gạo. Không phải. Chính tôi đã giết cô ấy sau khi chiếm đoạt đời con gái của cô. Tôi đã dựng ra vụ tự tử giả trót lọt. Nhưng tôi không thoát được tiếng gọi đòi trả mạng của cô. Rút cục tôi phải trở về nơi mình gây ra tội ác. Tất cả đơn giản chỉ có thế. Đấy, cậu bảo làm gì có số mệnh. Tự con người cả đấy chứ!

Bây giờ cái chết của lão Gộc vẫn bí ẩn. Người ta chỉ dám giả định lão chết vì một tia lửa điện cực mạnh phóng từ không trung xuống. Có thể đó là một dạng sét, khoa học chưa kiểm soát nổi. Khu gò vẫn nguyên trạng, chưa một ai dám đụng đến. Cả đám người cúng lễ cũng không dám mò vào. Nó còn yên ổn, chí ít cho đến khi thiên truyện này ra mắt bạn đọc.

Chuyện nằm trong ký ức

Trong đời, đôi khi có những việc thoảng qua rồi nằm lặng vĩnh viễn trong sâu thẳm của ký ức mịt mùng. Một khuôn mặt người, một hoàn cảnh trắc trở éo le mà ta lâm vào, hoặc cả một mối tình câm lặng chết rụi. Như đêm dài thăm thẳm, chợt bình minh thức dậy, cái ký ức mịt mùng kia chợt bừng sống trả lại cho ta vẹn nguyên những gì ta từng có, từng sống, để rồi buộc ta phải dày vò ân hận, tiếc nuối hoặc vui mừng hoan hỉ. Chiều kích nào, thái cực nào cũng khiến ta xốn xang tâm trạng. Thì đây chiều nay…

Quán bia hơi đông nghẹt người tải theo rừng âm thanh hỗn loạn. Những dãy bàn ken sít, tua tủa tay người khua khoắng vung vít, những cốc bia trào bọt giơ lên, đặt xuống, hào phóng chạm nhau lách cách. Tôi ngồi một mình, nhấm nháp tận hưởng nỗi cô đơn của mình. Chợt mặt tôi rát bỏng. Một ánh nhìn trần trụi tuồng như được phóng thẳng không cần che đậy, gìn giữ. Phản ứng phòng vệ tức thì của tôi là chấp nhận luồng nhìn rát bỏng ấy. Chỉ kịp nhận ra đó là một cái nhìn săm soi không tâm trạng của một gã đàn ông râu rậm rì, dáng vóc phong trần, tôi đã lạnh ngắt người và cứng lại toàn thân. Khuôn mặt kia hoàn toàn xa lạ, thoắt đã như tạc sẵn từ bao giờ, nằm đông sệt trong ký ức tôi và đột ngột oà dậy, rõ từng đường nét. Đúng là gã, không thể có sự nhầm lẫn nào. Gã! Đúng là gã của ngót ba chục năm về trước.

***

Năm 1974. Đại đội pháo cao xạ 57 ly của tôi nằm ngay trên một quả đồi sát nhà máy chế biến mủ cao su thị trấn Lộc ninh. Thị trấn giải phóng này nằm gọn trong một thung lũng, nhà dân san sát. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ thị trấn và sân bay Lộc ninh. Bấy giờ vừa hết mùa mưa, hàng ngày chúng tôi liên tục trực chiến và thi thoảng phải đánh trả những đợt oanh kích của lũ A37 và F5E của không quân Sài gòn. Chỉ đến chiều tối, khi chạng vạng hoàng hôn, một ngày của lũ lính pháo chúng tôi mới thực sự bắt đầu. Đám ào xuống tháp nước tắm táp kỳ cọ, đám đột kích vào rừng le kề cận kiếm măng, rau và hy vọng lùng được con thú khả dĩ nào đó kể từ chuột, dũi hắt lên. Tươm tất hơn là cánh lính được phép vào thị trấn chỉ để gom góp nhau mua bịch trà Blao và gói thuốc cuốn, hoạ hoằn mới dám sài sang tậu hẳn bao Rubi quân tiếp vụ “chân duỗi chân co”. Lác đác trên đồi, dân vào dựng lều làm rẫy, chủ yếu trồng củ mì( sắn). Đáng kể, ngay sát trận địa có một ngôi nhà được làm có lẽ từ rất lâu. Nhà lợp tôn cẩn thận, không như những chiếc lều rẫy lợp gianh cỏ tạm bợ. Nhà chỉ có hai bố con. Người bố, một ông già nhỏ choắt, đầu bé, quần áo xộc xệch, luôn sùm sụp chiếc mũ vành tròn của lính địa phương quân. Giữa thân mũ kẻ đậm dòng chữ “ Phận anh nghèo”. Chúng tôi gọi tên ông già vắng mặt bằng chính dòng chữ bông lơn ấy. Khác hẳn với bố, cô con gái đang tuổi thanh xuân, ăn diện, đẹp lộng lẫy theo như đánh giá của đám lính có vợ, còn chúng tôi, một lũ choai choai, chưa biết cầm tay đàn bà, mít đặc biết chi mà bình phẩm. Còn trẻ nhưng cô gái đã có chồng là trung sĩ nhất biệt động phía quân đội Sài Gòn, nghe nói tử trận dạo bẩy hai ngay tại chiến trường Lộc ninh này. Cũng không ai biết tên cô gái, chỉ thấy ông già đầu bé gọi con là Út. Lính tráng đại đội tôi đa phần là lính trẻ Hà nội, chân ướt chân ráo vừa từ miền Bắc vào, nhìn cái gì cũng lạ lẫm. Khoản quan hệ dân vận, phần vì thiếu kinh nghiệm, phần vì kỷ luật chiến trường của một đơn vị cao xạ chiến đấu có khí nghiêm cứng, nên hầu như cánh lính trẻ chúng tôi không quen biết bất cứ một ai ngoài đại đội. Bố con cô Út luôn tỏ ra ngần ngại chúng tôi nên dù sát sạt nhau, chưa bao giờ họ có thái độ thân thiết, thậm chí tôi ngờ rằng vì cái chết của tay biệt động quân kia, họ còn thâm thù chúng tôi là đằng khác. Bằng chứng lớn nhất là tấm biển cắm ở rẫy mì, ngay rìa trận địa, viết nghuệch ngoạc dòng chữ bằng sơn trên tấm bìa các tông: “Gia đình tôi nghèo đói trông vào rẫy mì này, xin các chú giải phóng đừng lấy”. Dòng chữ quá là trêu ngươi, làm tổn thương lòng tự trọng của chúng tôi. Chả gì chúng tôi cũng là lính, lại là lính nội thành Hà nội, chẳng giầu có nhưng dứt khoát không thiếu thốn, ba lô thằng nào thằng nấy, chật cứng đồ ăn thức uống dự phòng. Thêm nữa, lính pháo hành quân bằng cơ giới, mang vác được đủ thứ, lại rơi vào thời điểm đường mòn chiến lược thông một lèo từ hậu tuyến vào, thèm khát gì ba cái thứ củ nhăng nhít, ăn vào lòng ruột nóng như hơ lửa kia. Không cần bàn cũng biết chúng tôi phẫn nộ đến mức nào, nhưng hệt như có phép thần, tấm biển bị hạ xuống quăng đi, chỉ lát sau đã lại mọc lên ở một vị trí khác vẫn trong tầm quan sát. Đích thân đại đội trưởng vào nhà ông già đầu bé đề nghị vứt bỏ tấm biển thì được chủ nhân trả lời nhũn nhặn:

-Biết mấy chú đàng hoàng nhưng đâu phải có mình đơn vị mấy chú. Bữa trước, mấy cha trong cứ tăng gia thuận tay vạt hẳn của tôi nửa rẫy. Cẩn thận vẫn hơn chú à. Với lại mấy chữ này đâu có phạm gì vào Cách mạng.

Đại đội trưởng đuối lý đành rút lui, trút hậm hực lên đầu chúng tôi bằng một câu xanh rờn:

-Tụi bay, đứa nào chàng màng đến một gốc mì, đừng trách tao ác.

Việc rồi cũng qua, đánh nhau túi bụi, thì giờ đâu mà để ý đến cái chuyện cỏn con ấy. Tuy nhiên lòng chúng tôi khôn nguôi khó chịu cả hai bố con vì tấm biển thù địch kia. Ngày ngày cô Út hai buổi vào thị trấn đi chợ, buộc phải đi vòng không dám men rìa trận địa để tắt xuống đường lớn, chủ yếu là để tránh những ánh nhìn thiếu thiện cảm của tất cả chúng tôi.

Rồi một việc xảy ra làm chúng tôi quá đỗi bất ngờ. Cô Út có người yêu. Đang tuổi xuân xanh, chuyện chồng vợ của người đàn bà chết chồng đâu có gì trầm trọng đến mức ngạc nhiên. Nhưng không, lũ chúng tôi không thôi bàn tán xầm xì vì cái nhẽ, kẻ lọt vào mắt xanh của cô Út, oái ăm lại là một gã lính quân ta, không biết chui từ đơn vị vị nào lọt đến căn nhà mái tôn. Cứ nhìn thấy bóng quân phục xanh thậm thụt lủi vào nhà giữa ban ngày, ban mặt là máu chúng tôi sôi lên. Điệu bộ kia, con người ấy, dứt khoát không thể gọi là minh bạch được. Cô Út từ ngày có gã lính trở nên e ấp và bắt đầu có những biểu hiện mang tính thiện cảm với cánh lính đại đội. Chính tôi, có lần đi qua nhà, chạm mặt cô đã bất ngờ được tặng một nụ cười tươi tắn kèm lời mời vô nhà uống nước khiến tôi phải bối rối. Tất nhiên sự tổn thương vì dòng chữ kia trong tôi còn nguyên, nên tôi đáp lại thịnh tình ấy bằng một cử chỉ lạnh lùng, đúng với mức độ sứt mẻ lòng tự trọng. Ông già đầu bé từ ngày có gã lính xuất hiện đâm ra phởn phơ. Mỗi khi gã kia đến, ông vẫn sùm sụp chiếc mũ định mệnh nhưng thay vì ngậm cuốn sâu kèn thuốc rê ngún khói ướt nhẹp, bây giờ mép ông vắt vẻo điếu thuốc thơm một cách đầy viên mãn. Cứ gã kia đến là ông già đầu bé lần xuống thị trấn tìm bạn nhậu. Cả đại đội như phát cuồng vì mật độ những lần đến tình tự của gã lính lạ ngày một dày lên. Thậm chí có lần cánh lính gác trận địa còn phát hiện ra gã dám ngủ lại qua đêm tại đấy. Thế này thì quá quắt thật, nhưng chúng tôi cũng chẳng biết làm gì, vì gã có xâm phạm đến trận địa của chúng tôi đâu. Có lẽ gã biết phạm vi khu vực dân thuộc quyền của cánh an ninh thị trấn nên đôi khi gã chẳng mấy giữ gìn, đi lại ngang nhiên như thể gã đã chính thức thế chân tay trung sĩ nhất yểu số. Chúng tôi cú lắm, không quá nặng nề về chuyện ta địch nhưng lính tráng bỏ đơn vị đi thế kia, chắc là ngữ chẳng ra gì. Thêm nữa, cái ý nghĩ ghen tức này là có thực, mình ngày nào cũng căng thẳng phơi nắng, dầm sương trên mâm pháo còn gã nhởn nhơ hưởng lạc, thật chẳng công bằng. Đến một hôm vào phiên tôi gác đêm, gã lính lại mò đến. Hôm đó trời xui đất khiến thế nào, hồi chiều chúng tôi bị chần cả một dây bom A37 sát sạt trận địa, không ai trầy da, tróc vẩy nhưng tai ù đặc vì sức ép gần, nhân chuyện này khẩu đội nào cũng làm một cuộc liên hoan nho nhỏ mừng phúc của mình dầy nên thoát nạn. Trà lá quá cữ, khối kẻ tham lam sùng sục vì không ngủ được, thành thử cái việc gã lính thậm thụt kia trở thành quá đà, không thể tha thứ. Mấy thằng mất ngủ, mắt kè kè đỏ như mắt cá, chụm đầu bàn bạc. Đang phiên gác nhưng tôi cũng hăng hái không kém. Bàn đi tính lại, chúng tôi quyết định phải tống khứ bằng được gã cho đỡ chướng tai gai mắt. Dạo đó tội quan hệ trai gái không phép là trọng tội, đằng này lại là thứ quan hệ với vợ lính phía bên kia, cứ bắt được quả tang ăn nằm với nhau thì con giời có mà mọc thêm tá lưỡi cũng đừng hòng chối thoát. Thống nhất phương án xong, Thắng ngọng được cử vào trinh sát. Thắng vào chỉ một tẹo đã lộn ra ngay, đầu gật lia lịa, tay chỉ trỏ loạn xạ, miệng ríu lại, ạo ạo:

- Úng ó ủ ới au. Ận anh èo i ồi. (Chúng nó ngủ với nhau. “Phận anh nghèo” đi rồi.).

Gọi Thắng ngọng vì hắn bị tật co lưỡi, không nói được phụ âm, thành thử cái gì hắn cũng quy tuốt ra nguyên âm, nghe nhiều thành quen, không còn khó hiểu và buồn cười như dạo đầu. Có lần cả đại đội dở mếu dở cười khi Thắng ngọng đi trinh sát nhà bếp về. Hắn cười toe toét tiết lộ: “Ôm ay ươm ắm, ôm à ịt… (hôm nay tươm lắm tôm và thịt)”. Lần này thông điệp của Thắng ngọng khá đầy đủ. Ông già đầu bé thành lệ ngủ luôn dưới quán nhậu khi biết gã lính đến ngủ đêm. Tôi và Thành y tá đại đội nhà ở phố Tạ Hiện, vốn là hai thằng có máu liều được đảm nhiệm việc giải quyết khâu cuối. Lúc men vào đến nơi, tôi khững lại, láo thế không biết, ngủ lậu còn dám để đèn. Ngọn đèn ắc quy đã bị che vải vẫn nhờ nhờ sáng, đủ để tôi nhìn rõ hai người đang ôm lấy nhau ngủ ngon lành. Thậm chí tôi còn nhìn thấy khoé môi cô Út hơi nhếch lên khiến khuôn mặt cô thơ dại như một đứa trẻ. Một thoáng ngần ngại, tôi thở dài quay sang Thành dò hỏi. Hình như Thành cũng đang lừng khừng như tôi nên hắn nói khẽ:

-Còn nguyên quần áo…

Tôi thấy nhụt hết khí thế thế phừng phừng ban nãy, chưa biết tính thế nào thì gã lính đã thức giấc, phản ứng rất nhanh, vùng dậy, tung người khỏi giường lao vào tôi. Chủ động hơn, nhưng tôi vẫn bị lĩnh đủ một cú đá vào bụng dưới đau đến tê dại, điên máu tôi ấn hẳn nòng khẩu AK vào giữa ức gã dúi mạnh, sau đó quật hắn ngã xuống giường:

-Hủ hoá, ngồi im!

Gã lính lồi mắt nhìn, chợt hiểu ra, mắt vằn lên, tức tối, còn cô Út sợ hãi luýnh quýnh, tay cứ vân vi lọn tóc, nước mắt đã nhấp nhánh ứ tràn. Từ trận địa, đám lính mất ngủ đồng mưu nhất loạt ùa vào. Gã lính hực lên như một con thú, không kiềm chế nổi lại chồm dậy, húc vào người tôi, miệng thốt ra căm hờn:

-Chúng mày, đồ khốn…

Chúng tôi dong gã về trận địa. Gã từng là lính chiến của một đơn vị bộ binh nức tiếng toàn miền, nay đã bỏ đơn vị thành dân “ tụt tạt”.* Ngay sáng hôm sau, tôi và Thành được giao nhiệm vụ giải gã về cảnh vệ sư đoàn. Đó là một phần thưởng cho hai đứa lập công được tung tẩy đi ra ngoài. Đường lên sư đoàn bộ khá xa, vào tít tận làng 10, ngót dăm, bẩy cây số nhưng bực tức của tôi lâu nay được giải toả nên đoạn đường kia chả mấy bõ bèn. Gã tên là Thái, cũng dân Hà nội mới đau, nhà ngay quãng Cửa nam. Loại lính chiến như gã, nếu không vì cú này đáng mấy bậc đàn anh của tôi. Gã vào chiến trường từ đầu bẩy mươi, trận mạc chắc chắn trải nhiều, chẳng hiểu nông nỗi gì mà ra cảnh ngộ bây giờ. Không ngờ Thái biết rất rõ chúng tôi, gã không có vẻ sợ sệt, nói rủ rỉ như tâm sự, đại loại cùng đồng hương Hà nội, nên thả gã ra, có đưa lên đấy, cùng lắm gã chỉ bị trả về đơn vị cũ, chứ gã có tội gì đâu. Thú thực, với quãng đường dài như thế, cả tôi và Thành đều nao núng trước những giãi bày của gã. Tôi chưa một lần yêu nên không hiểu lắm khi gã bảo gã yêu thật lòng, đấy là tình yêu của gã, không một ai lại đi ngăn cấm tình yêu cả. Lời lẽ của gã chân thành, lại cộng thêm sự từng trải của một gã lính chiến thâm niên, tất nhiên cả tình cảm đồng hương cộng vào, khiến tôi và Thành phải hội ý vì dao động. Lẽ ra chúng tôi đã liều thả gã nếu như gần đến làng 10, gã không bất chợt nổi điên, khiến tôi lại chạnh lòng nghĩ về hành tung của gã ở nhà cô Út. Gã gầm lên chửi bới tôi và Thành thậm tệ. Tôi bập bõm nhớ câu được câu chăng của gã:

-Để xem chúng mày có giữ nổi gáo để vác được mặt về Hà Nội không. Mấy thằng oắt con, tao vào sinh ra tử ở đây thì chúng mày còn chưa biết ngửi cứt khói… Tao thề ông trời có mắt cho tao được gặp lại chúng mày ở đất thánh…

Tôi bật cười vì kiểu chửi ngồ ngộ của gã. Trong sự thích thú có một chút thoả mãn ganh ghét, chúng tôi giao gã cho cảnh vệ sư đoàn theo đúng phận sự.

Sau hôm đó không thấy gã còn lai vãng về nữa. Cô Út rất ít khi ra khỏi nhà. Nghe nói đận ấy cô bị ốm liệt giường. Ông già đầu bé lại ngậm sâu kèn thuốc rê ngày ngày làm rẫy. Đại đội tôi cũng được lệnh hành quân theo hướng chiến dịch giải phóng Phước long, mở màn cho Tổng tiến công 1975. Miền Nam giải phóng, chúng tôi như đàn chim sổ lồng bay nhảy khắp nơi, đứa về nhà, đứa đi học, đi làm… không còn dịp cho chúng tôi trở về mảnh đất Lộc Ninh ấy nữa. Câu chuyện về bố con cô Út và gã “tụt tạt” chỉ là những gì thoảng qua, nằm vùi sâu trong bộn bề ký ức đời lính. Với riêng tôi nó bị lấp nhoà và hoàn toàn quên lãng.

***

Đúng là gã! Cả người tôi đùng đùng như lên cơn sốt, chớm đông nhưng mồ hôi vẫn túa ra đầm đìa. Ngần ấy năm sao khuôn mặt gã vẫn không mấy thay đổi và tại sao tôi tịnh không một lần nhớ lại câu chuyện của gã dù loại người như tôi sống có lẽ chỉ hợp với ký ức. Không nhớ, để bây giờ nó ùa sống lại, mãnh liệt cào móng vuốt cấu xé trái tim tôi. Ba chục năm trường…từ anh lính trơn trở về, lăn lộn bươn chải đủ nghề để rồi cuối cùng thành một nhà văn kém cỏi, bất đắc dĩ, gần chót đời người chưa làm nên một cái gì ra hồn. Còn gã, vẫn luồng nhìn rát bỏng, có lẽ gã đã nhận ra tôi, gã làm gì, cuộc sống của gã sau cái đêm khắc nghiệt ấy ra sao? Tôi nghẹt thở vì ý nghĩ vừa ập đến. Cô Út sẽ thế nào, gã có trở về lại được với cô không? Tôi đã giết chết một tình yêu, tôi chứ không phải ai khác đã chia lìa hạnh phúc của họ.

Gã nhận ra tôi, không nhận ra, hay không thèm thanh toán món nợ quá khứ? Tôi không còn đủ can đảm để đương đầu với luồng nhìn của gã. Cả đời cố sức nhìn thẳng để sống, để hy vọng thành người, bây giờ tôi nhục nhã cúi đầu. Bẽ bàng, thui thủi, mệt mỏi, cô độc, tôi cum cúp lê chân lặng lẽ rời khỏi quán bia như một cuộc chạy trốn. Không trốn được đâu, khi lỗi lầm kia không còn được cơ hội tha thứ!

Không phải lỗi lầm, đó thực sự là một tội ác! Nhưng biết làm sao được, bởi khi đó tôi đang còn quá trẻ, đầy mê dại và bồng bột.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: