Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyện ngắn Phạm Lưu Vũ-Lenghiabk05

Chí Phèo – “Hậu“ hiện đại

Ta là một kẻ có chí. Điều này thì không cần phải nghi ngờ. Bước chân ra khỏi làng, ta lẩm nhẩm một câu vừa nghe được từ lão hàng xóm: “Đã mang tiếng ở trong trời đất / phải có danh gì với núi sông“.  Ta cần phải lập danh? Điều đó thì rõ rồi. Vấn đề là phải có một cái đích nào đó để phấn đấu, theo đuổi. Đuổi kịp rồi thì lại phải vượt qua, vượt càng xa càng tốt… Bình sinh, ta ghét cay ghét đắng sự tầm thường. Ta chỉ hâm mộ mỗi sự nổi tiếng mà thôi. Nổi tiếng – đó chính là cái đích phấn đấu của ta. Nhưng khái niệm ấy chung chung quá, trừu tượng quá. Phải tìm một cái đích trực quan hơn. Trên đời ai là người nổi tiếng nhất? Kẻ đó sẽ là cái đích cụ thể, bằng xương bằng thịt để ta phấn đấu, để ta đuổi kịp, đuổi kịp rồi vượt qua. Ta tìm đến một vị học giả ở phố huyện.

Nghe nói vị học giả này đọc nhiều sách lắm, đọc đến nỗi méo cả mồm đi. Trong nhà ông ta, sách chất cao đến trần, sách chật cả lối đi, thậm chí ngồi ỉa cũng phải dựa lưng vào sách… Chắc chắn vị học giả ấy sẽ tHỏa mãn yêu cầu của ta. Nghe ta hỏi, vị học giả méo mồm ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời: “Từ khi lão biết đọc sách đến nay, đã sáu chục năm có lẻ. Song chưa thấy ai nổi tiếng hơn cái lão Chí Phèo ở làng Vũ Đại!“. Chí Phèo là người nổi tiếng nhất? Vị học giả đó đã phán thì không thể sai. Vậy Chí Phèo sẽ là cái đích để ta vượt qua. Ừ thì Chí Phèo! Tay này ta biết. Có cả truyện viết về lão hẳn hoi. Cả cái làng Vũ Đại gì ấy nữa. Làng đó đâu có khác gì làng của ta. Cũng rặt một hạng nông dân chân đất mắt toét thấp cổ bé họng coi vợ như giời coi giời bằng vung coi vung bằng bảo bối… Vậy thì, làng Vũ Đại đã sản sinh ra một Chí Phèo – vĩ nhân nổi tiếng nhất mọi thời đại, tại sao làng ta lại không thể sinh ra ta, người sẽ còn nổi tiếng hơn cả Chí Phèo gấp nhiều lần?

Một khi tâm đã phát tiết thì trí phải động đậy. Thế là ta bắt đầu nghiên cứu về Chí Phèo và hành trì công án theo đúng “hệ thống“ của Chí. Ta bất ngờ phát hiện ra Chí có mấy tư tưởng lớn. Đại khái:

Thứ nhất, rạch mặt ăn vạ.

Thứ hai, một khi đã không mở miệng thì thôi, đã mở miệng thì chửi cả làng.

Thứ ba, không ngán thằng nào, dù nó to đến đâu cũng nhất định thắng, thắng bằng mọi giá, bằng mọi kiểu trên đời.

Thứ tư, gặp trường hợp khó thắng quá thì quay trở lại áp dụng tư tưởng thứ nhất.

Thứ năm, thắng rồi thì phải biết sướng, biết khuếch trương cái sướng dù thân mình chỉ còn thở hắt ra.

Thứ sáu, có hai loại sinh vật vẫn có thể tồn tại và phát triển tốt mà chỉ nhờ vào những cái sướng ấy là rùa và ốc sên (trong quá khứ, chúng đã từng thắng trong mấy cuộc chạy thi với thỏ).

Thứ bẩy, gặp kẻ yếu bóng vía thì xòe lửa dọa đốt nhà.

Thứ tám, thiên đường = bờ sông + rượu + trăng + gió + gái (Thị Nở).

Thứ chín, cháo (+hành) cứu rỗi thiên hạ.

Ta hành trì những tư tưởng trứ danh đó một ngày, hai ngày rồi ba ngày… Kết quả thật bất ngờ.

Một hôm ta đang bôn ba trên đường, đầu óc đang mải suy ngẫm đến bậc vĩ nhân họ Chí thì bỗng có một gã lùn tịt, đầu nhẵn thín như quả bưởi, mặt tròn xoe như cái thớt ở đâu chạy tới túm lấy ta rối rít: “Ôi! Minh chúa, minh chúa, kẻ hèn này đợi minh chúa ở đây đã lâu…“. Ta hơi ngạc nhiên. Song chỉ thoáng cái thôi. Ta lập tức hiểu ra rằng gã lùn này muốn tôn ta làm chúa để theo hầu điếu đóm đây. Thế thì còn gì bằng. Nhưng tại sao nó lại tình nguyện như vậy? Ta đã kịp ngôn câu nào đâu? Cái này đích thị là “hữu xạ tự nhiên hương“ đây. Trước kia ta cũng từng thử sức viết lách ba lăng nhăng, cũng từng ra sân khấu diễn những vai này, vai nọ… song mãi chẳng thấy có ma nào săn đón. Vậy mà bây giờ, chỉ cần tu tập cái công án kia có mấy ngày, xung quanh ta đã toả ra một vầng hào quang có sức hút như nam châm vĩnh cửu. Cái thứ hào quang ghê đến như thế thì chỉ có thể có tên là hào quang Chí Phèo. Nó hấp dẫn đến nỗi lập tức có kẻ tôn ta làm chúa. Cứ cái đà này thì chẳng mấy chốc, ta sẽ có cả đàn lâu la cho mà xem. Và, công cuộc cứu rỗi hồn vía của thiên hạ theo cái định hướng cháo hành vừa sáng tạo, vừa thông minh tuyệt đỉnh kia của Chí Phèo tiên tổ, biết đâu sẽ nhờ vào lũ lâu la ấy mà thành công rực rỡ chưa biết chừng.

Quả nhiên vài hôm sau lại có thêm một thằng cao ngẳng, người mảnh khảnh, mặt dài như cái bơm, cặp môi dày như hai con đỉa trâu, tìm tới xin bổ sung vào chân điếu đóm. Không những thế, thằng môi dày còn dắt theo một đám đệ tử. Thì ra ngày trước, chính nó cũng từng say mê tu tập một loại công án, nhưng không phải công án Chí Phèo, mà là một thứ công án ngoại lai có tên A Q. Đó là tên của một vĩ nhân dở hơi người làng Mùi ở tận bên Tàu. Nghe nói vĩ nhân ấy cũng được chép trong sách của lão Lỗ Tấn Lỗ Tạ gì đấy. Dù sao thì công án đó cũng có tác dụng tạo ra xung quanh nó một vầng hào quang, tuy có yếu hơn vầng hào quang Chí Phèo của ta, song cũng đủ để nó thu nạp được khối đệ tử. Nói đến công án ngoại lai thì còn phải kể đến một thằng nữa. Thằng này người lẻo khoẻo như cây sậy, nhưng luôn tự coi mình là tráng sĩ, suốt ngày mơ chiến đấu với những gã khổng lồ hoặc cối xay gió. Công án của nó có tên Đông-Ki-Sốt. Tất nhiên, cái thứ công án của bọn mũi lõ mắt xanh xa lắc xa lơ đó làm sao có thể so sánh với những tư tưởng quốc hồn quốc túy của Chí Phèo trứ danh được. Nên nó mới phải tìm đến bái ta làm minh chúa.

Rồi tiếp đến một thằng cũng lùn, nhưng được cái mặt vuông như cái bánh chưng, nom ra dáng con nhà võ. Thế mà nghe nói nó từng làm nghề thầy giáo, là giáo sư. Hừ! Đời này thiếu cha gì giáo sư. Khi xưng danh họ còn ghép thêm một cái học vị cao ngất ngưởng vào đấy nữa cho nó oách, gọi là giáo sư tiến sĩ (viết tắt là GSTS, mà trên đời có một gã cao bồi Viễn Đông tên Đặng Thân cứ nhất định “phiên“ thành: “Gia Súc Thiến Sót“). Cái mặt kia thì sư xiếc nỗi gì? Có mà sư hổ mang! Hình như nó từng có tiền sự phá trinh học trò nên bị đuổi khỏi nghề. Ôi! nếu quả thực như thế thì có mà đuổi hết. Bởi thiên hạ ngày nay có thầy nào mà lại không phá trinh học trò? Những bộ óc ngây thơ, trong sáng, mới toanh như những tờ giấy trắng chẳng phải đã bị hết thầy nọ nhồi đến thầy kia nhét, làm cho chúng mất toi sự trong trắng, ngây thơ đi đấy sao? Đồng ý là muốn tồn tại trong cuộc đời này thì con người ta đừng bao giờ mơ tới việc giữ gìn trinh tiết. Song cái sự phá trinh tư tưởng kia thì các thầy không thể phủ nhận hay cãi chày cãi cối được. Chính ta còn bị mất trinh từ trong giấc mơ kia thì sao! (câu hát gì mà từ thuở lên ba tuổi ta đã phải hát đi hát lại mãi í nhẩy?). Thôi, không mất thì giờ với cái vụ trinh tiết con khỉ con tườu đó nữa.

Tiếp theo đến mấy chục thằng đầu đường xó chợ, chuyên cướp của hiếp dâm tìm đến bái ta làm đầu lĩnh. Lũ này càng về sau ta càng thấy chúng đặc biệt hữu dụng. Gì chứ cái khoản cướp, hiếp và đéo ấy thì hệ tư tưởng của Chí Phèo trứ danh đâu có cấm. Ngay cả ta cứ nghĩ đến đàn bà là lập tức toàn thân nổi gai ốc, bao nhiêu lông lá trong người dựng hết cả lên. Ta thu nạp tất tần tật. Ta từng đọc sách thánh hiền, cũng võ vẽ đôi câu chữ Nho mang ra gắn vào chỗ này chỗ nọ, được việc ra phết. Song ta chỉ đắc ý mỗi câu: “dụng nhân như dụng mộc“.  Ta sẽ sử dụng lũ lâu la này, tùy sở trường, sở đoản mà huy động. Dài thì làm cán cuốc, cán thuổng, ngắn thì làm cán búa, cán rìu… chắc chắn sẽ được việc.

Và ta đã thành công. Cái đám lâu la đa tài, đa dâm, đa dục, đa nhân cách ấy của ta cứ theo cấp số nhân mà tăng mãi không ngừng, chẳng mấy chốc đã đàn đàn, lũ lũ. Danh của ta cứ thế nổi lên vùn vụt như diều gặp cơn dông. Công cuộc hoằng dương tư tưởng Chí Phèo hầu như không gặp sự trở ngại nào đáng kể. Có kẻ mới nghe hơi đã lập tức thông suốt mọi lý sự của Chí. Thì ra nó vốn có sẵn cái bản năng Chí Phèo từ thuở cha sinh mẹ đẻ rồi. Mà chẳng riêng gì một hai trường hợp ấy. Ta đã nhanh chóng phát hiện ra rằng cả xứ sở này, ai ai cũng đều có sẵn cái “gien“ Chí Phèo từ trong trứng, ai cũng có thể sẵn sàng trở thành một gương Chí Phèo điển hình tiên tiến hoặc chiến sĩ thi đua…

Ta bèn noi theo các bậc đi trước mà chế ra khẩu hiệu. Những khẩu hiệu của ta là: “Nhà nhà Chí Phèo, người người Chí Phèo“; hay: “Làm Chí Phèo mới biết nghèo là nhất“; hoặc: “Khối đại đoàn kiết Chí Phèo“ (lưu ý: “kiết“ chứ không phải “kết“, xin đừng nhầm), vân vân… Từ nay, sự nghiệp của ta và lũ lâu la là chỉ việc làm cho cái “gien“ quý hóa  đó trong mỗi con người trở thành gien “trội“ là xong. Cứ chờ đấy.

Ta đã nghĩ tới việc phải xuất khẩu cái “gien“ Chí Phèo đi khắp thế gian. Thế gian này còn nhiều lạc hậu, vớ vẩn lắm, chưa được nếm mùi Chí bao giờ. Tuy thỉnh thoảng cũng biết chửi nhau đấy, song hầu như chỉ là các cuộc chửi tay đôi, tay ba. Phổ biến nhất vẫn là những vụ cả làng xúm vào chửi một thằng, song tuyệt chưa bao giờ thấy một thằng nhảy ra chửi cả làng như ở xứ sở này. Chửi cả làng mà cả làng cứ làm thinh, ai cũng nghĩ chắc nó trừ mình ra. Thế là cả làng yên. Điều đó mới giỏi chứ? Quá giỏi là đằng khác. Thằng chửi giỏi đã đành, cả những thằng nghe chửi cũng giỏi nốt. Xứ sở như vậy thì độc nhất vô nhị, hỏi đã có nơi nào được như thế hay chưa? Vậy thì còn phàn nàn vào đâu được nữa. Ta đúng là một người hạnh phúc, chẳng cần phải nằm mơ cũng được thác sinh ra tại nơi đây. Cái “gien“ Chí Phèo bất hủ ấy mà được xuất khẩu, được nhân ra rộng rãi, thì cả thế gian này (trong tương lai) sẽ chỉ gồm toàn những làng Vũ Đại. Khi đó, chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà lũ điếu đóm kia chắc cũng được thơm lây. Chẳng những tông miếu của ta được hương khói nghìn thu, mà tổ tiên của lũ lâu la chắc cũng được bốn mùa cúng tế. À, lại nói chuyện nghìn thu. Từ lâu, ta đã nghĩ đến việc phải tập đại thành một bộ kinh điển về tư tưởng của Chí Phèo để truyền mãi cho muôn đời sau. Ta bèn tập hợp lũ lâu la lại:

“Các người hãy nghe ta nói đây. Từ khi theo ta tu tập và hoằng dương công án Chí Phèo đến nay, các người đã chứng kiến ta hết đi từ thành công này đến thành công khác. Song các người có biết công lao lớn nhất của ta đối với tư tưởng của Chí Phèo bất diệt là cái gì không?“.  

“Minh chúa là người đã có công phát hiện ra tư tưởng của Chí Phèo rồi đem nó ra áp dụng một cách vô cùng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của chúng ta“ – thằng lùn mặt tròn lên tiếng.

“Đó chỉ là một trong những công lao. Song chưa phải là công lao lớn nhất“ – Ta gật gù trả lời nó.

“Minh chúa là người đã có công phát chuyển những tơ tưởng đó, làm cho ló trở thành một hệ tơ tưởng hoàn trỉnh, tuyệt đối cúng, tuyệt đối văn minh mọi dợ, hơn hẳn những thứ tơ tưởng cũng rả cầy khác…“.  – thằng môi dày khẳng định (thằng này những lúc xúc động quá vẫn hay có tật nói ngọng).

“Đó cũng chỉ là một trong những công lao. Song vẫn chưa phải là công lao lớn nhất“ – Ta lại hào hứng ngắt lời.

“Minh chúa là người thấu hiểu sâu sắc những nguyên lý của tư tưởng Chí Phèo. Đến nỗi đã tạo ra xung quanh mình một vầng hào quang, có sức hút mãnh liệt như của những con cái đối với con đực trong mùa động dục. Kẻ ngoan cố, bảo thủ đến mấy đứng trước minh chúa cũng dễ dàng bị thuyết phục. Công lao của minh chúa cao như giời, rộng như bể. Minh chúa là kim thân La Hán của đạo đức, trí tuệ, của chân, thiện, mĩ, của…“ – Đến lượt thằng lùn mặt vuông lên tiếng.

“Điều đó tất nhiên quan trọng. Song đó là một trong các nguyên nhân dẫn đến những thành công của ta. Ta nhắc lại, nguyên nhân, chứ không phải công lao lớn nhất“ – Ta lại hào hứng ngắt lời. Ta buộc phải làm như thế. Nếu không thì không biết nó sẽ còn ca đến bao giờ.

“Bình sinh minh chúa là người sinh ra để chiến đấu với toàn những gã khổng lồ. Minh chúa là con châu chấu, nhưng là con châu chấu có cái đuôi rất to. Trên đời này không một chiếc xe nào mà nó ngán cả. Đá ngã xe chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ. Công lao của minh chúa là đã dạy cho những gã khổng lồ một bài học, rằng đừng có dại mà dây với lũ châu chấu chúng ta“ – Đến lượt thằng lẻo khoẻo hùng hồn.

“Ý hay đấy. Có khí phách lắm. Điều đó thì tất nhiên rồi. Song cũng vẫn chưa phải là công lao lớn nhất“ – Ta trả lời, cảm thấy trong lòng vô cùng hưng phấn.

“Vậy thì những đầu óc thiển cận của lũ chúng tôi xin chịu. Xin minh chúa giải thích cho chúng tôi được mở rộng tầm mắt“ – Tất cả đồng thanh.

Bấy giờ ta mới lấy lại tư thế, chắp tay sau đít nhìn khắp lượt lũ lâu la rồi trịnh trọng ngôn ra một chân lý:

“Công lao to lớn nhất của ta, là đã chứng minh một cách hùng hồn, bằng thực tiễn hết sức sinh động, rằng tư tưởng của Chí Phèo vẫn tuyệt đối đúng, ngay cả trong thời buổi không có những Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo… hiểu chưa?“.  

Tất cả cùng ồ lên một tiếng để tỏ rằng mình đã hiểu, đã tâm phục khẩu phục. Chân lý đơn giản ấy té ra không phải ai cũng có thể nghĩ ra được. Việc tiếp theo là tiến hành bộ tập đại thành về tư tưởng của Chí Phèo. Tất cả dễ đến ba vạn chín nghìn trang chia làm bốn năm mươi tập, mỗi tập ngót nghìn trang khổ mười ba nhân mười chín rưỡi được hoàn thành và in photo coppy giấy vụn trong khoảng thời gian kỉ lục. Cái lão Chí Phèo mặt nát như tổ đỉa vì rạch quá nhiều ấy ở dưới suối vàng, chắc chẳng bao giờ nghĩ rằng tên tuổi của mình lại có ngày vinh quang đến thế. Ta không có ý giới thiệu nội dung bộ tập đại thành vĩ đại ấy ở đây, bởi trong khuôn khổ một bài tự bạch thì không thể dài dòng văn tự. Chỉ xin trích một luận điểm cơ bản có tính nguyên lý kim chỉ tây bất di bất dịch được nhấn mạnh ngay tại chương mở đầu như sau:

“Tư tưởng bất diệt của Chí Phèo vẫn tuyệt đối đúng, vẫn có thể áp dụng một cách rộng rãi và cực kì hiệu quả ngay cả trong thời buổi không có những Bá Kiến, Lý Cường, Đội Tảo với cả binh Chức nữa… Song, quan trọng là vẫn phải có… Thị Nở. Tuy nhiên điều đó không hề gây khó dễ gì, bởi người xưa đã từng khẳng định, rằng tuy thời thế có lúc khác nhau, song Thị Nở đời nào cũng có… Mặc dù đa số Thị Nở càng ngày càng có xu hướng giải phẫu chuyển đổi giới tính thành đàn ông, càng ngày càng thích chuyển sang viết văn, làm thơ, sáng tác ca khúc… Đó là một điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc hoằng dương sâu rộng và vận dụng triệt để tư tưởng Chí Phèo. Bởi vì, chính lực lượng văn thi nhạc sĩ Thị Nở đực cái giả cầy lẫn lộn ấy là một cái vốn rất quý…“.  

Văn chương của “Tập đại thành“ đại loại như thế. Còn những thành tựu cụ thể của ta trong việc thực hành tư tưởng Chí Phèo thì kể sao cho xiết. Việc này xin nhường lại cho các nhà học giả học thật, các nhà nghiên cứu nghiên vớt, không đời này thì đời sau, không đời sau thì đời sau nữa… Ta không thể tự mình thống kê thành tích, đơn giản bởi ta thuộc hạng người khiêm tốn.

Tuy nhiên, sau khi tập đại thành được làm xong, trong lòng ta bỗng xuất hiện một mối lo canh cánh. Liệu những tư tưởng trứ danh của Chí Phèo mà ta đang là đại diện kiệt xuất đây có được mãi muôn thuở bền vững âu vàng? Có truyền được đến muôn đời con cháu hay không? Phải bói một quẻ mới được. Ta lại tìm về lão học giả méo mồm ở phố huyện. Cả lũ rồng rắn theo ta tiền hô hậu ủng, đi đến đâu huyên náo đến đấy. Trẻ con sợ không dám khóc to, phụ nữ thẹn quên cả cài nút, chó gà nháo nhác, kêu inh ỏi.

Lão học giả méo mồm làm ra vẻ thạo đời bảo: “Dân xứ này mười phần ngu đến chín rưỡi, giời cho mỗi cái năng khiếu Chí Phèo là bẩm sinh, còn những thứ khác chẳng qua do bắt chước hoặc a dua mà có. Anh đã biết khêu gợi trúng vào cái sở trường ấy của họ thì thành công là cái chắc. Cần đếch gì phải bói với toán“.  Ta bảo: “Thiên có thiên thời, địa có địa lợi, nhân có nhân hòa (ta nói chữ rất trơn tru). Dù thế đếch nào thì tôi cũng cứ muốn ông gieo cho một quẻ“.  Lão méo mồm phán chắc như cua gạch: “Thiên hạ vừa trải qua thời ‘bĩ’, thiên địa bĩ. Sau ‘bĩ’ tất đến ‘đồng nhân’, sách trời đã dạy thế, đếch cần gieo cũng biết cả thiên hạ đang ứng với quẻ ‘thiên Hỏa đồng nhân’…“. 

Ta hỏi “đồng nhân“ nghĩa là gì? lão méo mồm giảng như máy khâu: “Đồng nhân nghĩa là một lũ người. Ví dụ lũ trộm gọi là đồng đạo, lũ quan gọi là đồng liêu, lũ đồ tể gọi là đồng dao, lũ xu nịnh gọi là đồng điếu, lũ chờ thời gọi là đồng phục, lũ hết thời gọi là đồng nát, lũ ở bẩn gọi là đồng hương (cùng mùi), vân vân… Đấy, cái lũ rùng rùng bám sau lưng anh kia chính là ứng vào quẻ “đồng nhân“ ấy đấy“. 

Ta bảo lão rằng không ngờ trên đời lại có lắm thứ “đồng…“.  đến thế. Vậy cụ thể trong trường hợp của ta thì gọi là “đồng“ gì? Lão méo mồm cáu: “Là ‘đồng chí’, hiểu chưa? Chẳng phải các anh đang cùng tu tập duy nhất một loại công án có tên Chí Phèo đấy hay sao? Vậy mà còn phải hỏi“.  Ừ nhỉ, cái đại từ cửa miệng ấy ngày nào mà ta và mọi người chẳng phải dùng đến. Thế mà tự nhiên bỗng quên béng đi mất.

Ta hỏi tiếp thế quẻ “đồng nhân“ nói gì? Lão méo mồm bảo: “Đồng là đại đồng, là múa gậy vườn hoang, là cả thiên hạ chỉ còn một cánh đồng, tha hồ mà múa may“.  Ta lại hỏi vậy làm thế nào để thi hành cái đạo “đồng nhân“ ấy? Lão méo mồm tuôn ra một tràng: “Thi hành đạo ‘đồng nhân’ chung qui chỉ là những mánh khoé đối xử với con người. Người mình yêu thì trái cũng hóa  phải, kẻ mình ghét thì phải cũng hóa  trái… Cái gì thuộc về mình thì xấu cũng thành tốt, thối cũng thành thơm, lưu manh biến thành tử tế. Cái gì thuộc về kẻ khác thì ngược lại, tốt thành xấu, thơm thành thối, tử tế biến thành lưu manh. Dấu hết sự thật đi tất sẽ trở thành bậc thánh nhân đạo cao đức trọng… Vơ lấy những cái tốt của kẻ khác gắn vào cho mình, lại mang những cái đểu của mình gắn vào cho nó, rồi nhân danh đám đông, vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa la làng vừa ăn cướp, rồi cả vú lấp miệng… thế thì ai còn dám nghi ngờ gì nữa. Làm được như thế mà cơ đồ không vững như Thái Sơn thì mới là chuyện lạ“. 

Lão méo mồm quả là kẻ đọc sách nhiều có khác, lão nói cứ y như thật. Điều quan trọng nhất nghĩa là ta đã ứng vào mệnh giời, mệnh giời thuộc về ta. Đã đến nước ấy, thì ta dẫu có không muốn thành công cũng không được. Mệnh giời đã phán như thế thì ta sướng rồi, yên tâm rồi. Thật là ứng vào cái câu mà thánh nhân đã dạy, rằng sáng nếu được xơi cao lương mĩ vị giả, chiều dẫu có bị thổ tả thật cũng cam.

Ta sẽ kết thúc thiên tự bạch này ở đây thôi. Bây giờ, nếu có ai đi ngang qua chỗ ta, chắc chắn sẽ chẳng khó khăn gì mà không nhận ra rằng mình đang đi lạc vào làng Vũ Đại. Đơn giản bởi không tai phải thì tai trái, không tai trái thì cả hai tai, thể nào cũng nghe văng vẳng tiếng chửi của những Chí Phèo hậu sinh, hậu hiện đại như ta, nhưng chúng ta không chỉ chửi cả làng như cụ tổ Chí Phèo ngày trước đâu. Bởi vì như ta đã nói ngay từ đầu, rằng chúng ta giờ đã vượt xa cụ tổ ấy nhiều lắm. Ví dụ một đoạn thôi nhé:

“Này thì thiên địa tiên sư! Này thì tiên sư thế giới! Tại sao chúng bay cứ chạy vùn vụt, làm ông phải đuổi theo bở cả hơi tai. Tối qua ông được mỗi bát cháo hành, hôm nay cũng chỉ hy vọng được thêm một thìa nữa. Hỏi làm sao ông chạy được? Nếu ông quyền to như Thượng Đế, ông sẽ bắt tất cả chúng bay dừng lại, để mình ông chạy trước cái đã. Chúng bay cứ càng ngày càng bỏ ông ở lại tít phía sau. Đã thế ông không thèm chạy nữa, ông bò đây. Ông vừa bò vừa ngoái lại đằng sau vậy. Dù sao thì ngày xưa, ông cũng đã từng thắng chúng bay trong mấy cuộc chạy thi rồi. Tiên sư thế giới, ối giời đất ôi, ối làng nước ô… ô… ôi!…“

Đám mổ bò

Đúng cái xóc thứ tám mươi mốt, lão Sướng choàng tỉnh. Nằm trong xe, lão với tay vớ sợi dây thừng, giật mũi cho con bò dừng lại rồi trèo xuống khỏi thùng xe. Lão dắt con bò cùng chiếc xe tới một gốc cây bên kia đường, cột lại tử tế, đoạn bước sang quán mụ cả Nẫm, hỏi mua gói thuốc lào.

Mặt trời đã lên nửa con sào, dân làng đi làm đồng hết, tưởng trong quán không có ai. Té ra có cả mấy người đang ngồi lố nhố trên chiếc phản kê phía trong quán. Lão Sướng hơi giật mình nhận ra những gương mặt quen thuộc, vội cất tiếng: “chào các ông ạ”. Người ngồi trong cùng, dựa lưng vào tường, quay mặt ra phía ngoài là Tưởng – Bí thư. Hai bên là Dần, Chấn – trưởng, phó công an xã. Chấn còn là cháu họ của lão, gọi lão bằng chú. Một người ngồi quay lưng ra cửa quán, không cần nhìn mặt, lão Sướng cũng nhận ra đó là Lý – chủ tịch. Bốn người không ai để ý đến lão. Hình như họ đang mải đang chơi bài.

Mụ cả Nẫm đưa cho lão Sướng gói thuốc lào và nhận từ tay lão tờ giấy bạc lẻ, nhàu nát còn ấm hơi người. Chiếc ti vi treo trong quán vọng ra từng tràng những tiếng hò reo náo nhiệt. Đang có tường thuật bóng đá của giải ngoại hạng Anh. Lão Sướng quay người chui ra khỏi quán, bước về phía chiếc xe, loay hoay mở nút sợi dây thừng. Phía trong quán, chủ tịch Lý vừa quật một quân bài xuống chiếu, vừa hỏi bí thư Tưởng:

- Thế nào bí thư ? Trận này tôi bắt Ác – se – nan, chấp một trái đấy.

Bí thư Tưởng đang nhìn hút theo con bò của lão Sướng, buột miệng nói:

- Được thôi, thì tôi bắt Chen – xi vậy.

Chủ tịch Lý hỏi tiếp.

- Nhai gà, vịt mãi cũng chán mồm. Tuần trước đánh cược con chó nhà lão Cử, anh em được bữa cờ tây ra trò. Trận này bí thư cược gì nào ?

Vẫn mải nhìn con bò cùng lão Sướng đang thong thả rời khỏi tầm mắt, bí thư Tưởng lại buột miệng nói:

- Cược con bò kia của lão Sướng. Chắc không ?

Chủ tịch Lý ngoái đầu nhìn cái phần mông núng nính của con bò vừa đi khuất, nuốt nước bọt đánh ực một cái, cũng buột miệng reo lên:

- Ối Trời! Được con bò ấy mà thịt thì tuyệt hảo. Chắc quá. Nào – bắt tay. Thằng Dần và thằng Chấn chứng kiến nhé. Phen này có thịt bò ngon chén rồi.

Trưởng, phó công an xã Dần, Chấn thấy vụ cá cược có mùi hấp dẫn, lập tức hưởng ứng. Bốn người hỉ hả bắt tay nhau. Mụ cả Nẫm cũng xen vào:

- Tôi đăng kí toàn bộ bạc nhạc đấy nhé, với lại bốn cái cẳng. Bấy nhiêu làm phở chín cũng bán được cả tuần chứ không ít…

Trưởng công an Dần nhanh nhảu ngắt lời mụ:

- Bạc nhạc thì được. Song bốn cẳng thì mụ đừng có mà nằm mơ. Cái đó để anh em vất vả chúng nó nhậu.

Phó công an Chấn tỏ ra hăng hái:

- Em xin chịu trách nhiệm về bộ da. Bộ da ấy tha hồ lành lặn, chắc chắn chất lượng cao. Bọn thuộc da Vĩnh Cửu trên huyện cứ gọi là lác mắt hột. Cái này bán mới được giá. Năm ngoái ta kiếm được năm bộ cả da trâu lẫn da bò, mang bán cho họ thành ra quen biết từ đó đến nay, lại học được chút kiến thức xem da các kiểu.

Bí thư Tưởng gật gù:

- Lâu lắm không được ăn thịt của giống bò tuyền ăn cỏ. Cái thứ thịt bò nuôi bằng thức ăn tăng trọng bây giờ ăn như thịt giả. Thịt tái kiểu gì mà nhợt nhạt, rũ rượi như thịt thằng chết trôi, nước máu chảy ra ều ễu. Thịt ấy nếu không dai ngoách thì cũng bở như đất vách, ăn tuyệt chẳng thấy cái mùi gây gây, béo ngậy đặc trưng của bò đâu.

Chủ tịch Lý nịnh khéo:

- Cả xã đều kính nể kiến thức về bò của bí thư. Đến như mấy anh lãnh đạo huyện, được nghe cái lý luận phân tích về bò của bí thư còn thèm rỏ rãi mà bảo: “Loại bò ấy chỉ có ở thời bao cấp, thuở còn hợp tác xã. Chứ thời này, kiếm đâu ra thứ thịt bò ăn tuyền cỏ ấy mà xơi…”

Bí thư Tưởng được thể, bèn tiếp tục bài giảng:

- Các ông nên biết, thịt loại bò ăn tuyền cỏ này tươi rất lâu. Cứ móc cả tảng mà treo lên xà nhà, để đến tận ngày hôm sau, các cơ trong tảng thịt vẫn còn giật giật, giật giật… Sờ tay vào có cảm giác nó dính dính, hút hút, mặt thịt đỏ sậm, lóng lánh ánh kim. Phía bên dưới tuyệt không một giọt nước máu nào nhỏ xuống. Thịt ấy thái mỏng, ngang thớ mà tái thì tuyệt cú, ăn vừa ngọt vừa giòn, cứ như thể nó tan ra trong miệng. Tảng càng lớn, tươi càng lâu. Thịt tươi hút nước vào nên vừa khô vừa dính, đến khi nào tiết nước máu ra là hết tươi. Thịt bò kị nhất cắt vụn, cắt vụn không tươi lâu. Phải ăn đến đâu, xẻo đến đấy mà thái. Nếu tay chân, dao thớt cứ sạch khô, không hề dây một giọt máu nào, thì thịt như thế mới đạt tiêu chuẩn.

Mọi người vừa nghe vừa thèm đến nóng cả mặt. Chủ tịch Lý bái phục:

- Vậy bất luận ai thắng cược, thì hai quả mông cứ xin nhường nhà bí thư. Nhà tôi xin tảng vai vậy. Bắp biếc chia cho cánh Công an, Mặt trận. Đầu, đuôi chia Hội phụ nữ… Riêng bộ lòng đánh chén tại chỗ.

Bí thư Tưởng tỏ ra khiêm tốn:

- Được cái mông ấy thì nhà tôi chỉ cần một quả cũng thừa mứa ra rồi. Quả mông kia đem biếu các anh lãnh đạo huyện, các anh ấy cũng rất thèm xơi loại thịt bò thời bao cấp như thế này. Ăn những thứ thời bao cấp hiện đang là một cái mốt ẩm thực. vả lại các ông quên là lâu nay ta chẳng “nói năng” gì, huyện đang có “vấn đề” với ban lãnh đạo xã ta à. Liệu có “yên” vị mà mơ thịt bò ăn cỏ được mãi không ?

Trưởng công an Dần hớn hở vừa quật đánh đét một quân bài xuống chiếu, vừa nói:

- Nhất trí với ý kiến của cả chủ tịch lẫn bí thư. Vậy xin bí thư cho phương hướng giải quyết, đồng thời quyết định ngày ạ.

Bí thư Tưởng kết luận.

- Cái ấy giao cho bên công an, dân phòng các anh lo, triển khai ngay ngày mai càng tốt, không nên hoãn sự sung sướng lại. Nhớ lên kế hoạch thật chu đáo, phải làm sao cho nhân dân luôn tâm phục, khẩu phục mới được…

Bất ngờ phó công an Chấn lại tỏ ra ngập ngừng:

- Em thấy có chỗ hơi khó. Trận trước, con chó của lão Cử thì ta vu cho là chó dại, bắt giết thịt thì được rồi. Nhưng còn con bò này… chả lẽ bảo nó là bò điên ?

Trưởng công an Dần lập tức ngắt lời:

- Chú bởi thật thà nên kém sáng kiến. Chú không biết lão Sướng chuyên trị ngủ trong xe, mặc cho con bò tự kéo về làng hay sao ? Thế thì có khó gì, bò cũng phải chấp hành luật lệ giao thông chứ… Thôi! Chú vì có họ với lão Sướng nên việc ấy để anh giải quyết. Cứ làm đúng tinh thần chỉ đạo của bí thư là được rồi.

Lão Sướng đánh chiếc xe bò vào tận trong làng, nhà lão ở cuối xóm Con Chó. Làng xóm vắng tanh vì người lớn ra đồng, trẻ con đi học, chỉ có những ông già, bà lão ở nhà. Về đến nhà, lão tháo con bò ra khỏi xe, dắt nó ra sau vườn, cột dưới gốc một cây nhãn, quẳng cho nó một ôm cỏ rồi rửa ráy chân tay, vào nhà chuẩn bị đánh một giấc ngủ bù đến trưa. Trước khi đi ngủ, lão không quên kéo một điếu thuốc lào theo thói quen. Sáng nay, lúc ra khỏi chợ lão mới nhớ ra rằng gói thuốc trong người đã hết, nên mới phải dừng lại mua ở quán mụ cả Nẫm.

Ngày nào cũng vậy, cứ ba giờ sáng là lão Sướng thức dậy, đánh chiếc xe bò của mình chở hàng cho mấy bà thầu rau, quả trong làng lên chợ Huyện bán. Chợ cách làng năm sáu cây số, chiếc xe phải đi mất gần hai tiếng. Quãng đường đầy những ổ voi, ổ bò mà lão đã thuộc nằm lòng. Từ làng lên tới chợ có đúng tám mươi mốt cái ổ voi như thế. Mỗi khi lăn bánh qua, chiếc xe bị quăng bên này, quật bên kia như muốn hất mọi thứ đang cõng trên lưng xuống đường. Lão gọi đó là những cái xóc. Tám mươi mốt ổ voi là tám mươi mốt cái xóc. Lúc đi trời còn tối, gặp những cái xóc ấy lão phải để ý giữ cho hàng hoá khỏi rơi, miệng nhắc mấy bà hàng rau đi bộ theo phải cẩn thận kẻo bước hụt. Lúc quay về thì nhẹ nhàng xe không, vả lại trời đã sáng. Lão cứ việc khoanh tròn trong thùng xe mà thiu thiu ngủ, mặc kệ cho con bò kéo chiếc xe đi. Lão ngủ trong xe rất tài, ngủ mà vẫn không quên, vẫn đếm được chính xác từng cái xóc trong giấc mơ màng. Tới đúng cái xóc thứ tám mươi mốt là lão tỉnh dậy, nắm sợi dây thừng vắt vắt cho con bò rẽ vào trong làng. Trăm ngày như một, không bao giờ lão ngủ quên trong xe. Con bò và chiếc xe là nguồn sống chính của nhà lão gồm bà vợ già, mắt mũi kèm nhèm và hai đứa con dâu dở người đã mấy chục năm nay, suốt ngày thờ thẫn, lúc lên cơn thì xé quần xé áo, lăn lộn cả ra vườn. Chồng chúng nó chết trong chiến tranh, một thằng được công nhận liệt sĩ. Chính nhờ món tiền tuất liệt sĩ ấy của nó mà lão sắm được con bò, sắm từ hồi nó còn là một con bê mới đẻ. Một thằng bị ngưới ta làm thất lạc giấy tờ thành ra mất trắng, chả có danh hiệu với tiêu chuẩn tiêu chiếc gì.

Lão Sướng chưa kịp đi ngủ thì có tiếng gọi to tướng của một anh dân phòng ngoài ngõ, mời lão lên ngay trụ sở dân phòng của xóm để làm việc. Lão Sướng giật thót người. Có việc gì mà phải lên trụ sở dân phòng? Xưa nay nhà lão ăn ở tử tế, chẳng phiền hà đến ai. Hai đứa con dâu dở hơi chỉ suốt ngày tự nhăn nhở với nhau quanh vườn, rủ nhau điên những cái điên hiền lành như bùn đất. Cả con bò cũng được lão đích thân chăn dắt, không để phá lúa hay hoa màu của nhà nào. Càng nghĩ không ra, lão Sướng càng sốt ruột, đành vội vã chạy tới trụ sở dân phòng.

Trụ sở dân phòng trấn ngay đầu xóm. Đó là một căn phòng ba mét nhân ba mét trơ trọi, đội mái tôn nhọn hoắt như cái chóp nón. Đẳng – trưởng xóm đang ngồi sau một cái bàn gỗ bọc phoọc – mi – ca trắng lở lói, hai bên là hai anh dân phòng mặt non choẹt, ngồi im như pho tượng. Trưởng xóm một tay giở quyển sổ, tay kia lăm lăm chiếc máy tính nhỏ, bảo lão Sướng:

- Tôi mời ông đến nộp bổ sung phí giao thông đường làng. Nhà ông còn mấy suất chưa đóng.

Lão Sướng giật nẩy người, ngớ ra.

- Tôi đã đóng đầy đủ cả quý rồi kia mà. Bây giờ mới đầu tháng tư?

Trưởng xóm ôn tồn giải thích:

- Xã mới có điều chỉnh, không như những năm trước chỉ thu theo đầu người. Từ năm nay, phí giao thông áp dụng cả với vật nuôi và phương tiện cho công bằng, có danh mục đóng dấu đỏ kèm theo đây. Con bò nhà ông bốn chân, thu bằng hai suất người. Chiếc xe cũng hai suất, tổng cộng tám suất. Mỗi suất cân rưỡi thóc một tháng, trừ số đã đóng theo cách tính như mọi năm, vị chi là…

- Các anh biết thừa đấy, hai đứa con dâu dở người nhà tôi có bao giờ thò mặt ra đường đâu. Thế mà cũng phải đóng phí giao thông. – Lão Sướng nhăn nhó.

- Mặc kệ, ai bảo các bà ấy cũng là người. – Trưởng xóm lý luận.

Như chợt nhớ ra điều gì, lão Sướng vội vàng thắc mắc:

- Còn con bò, tôi tưởng phí giao thông đã tính trong thuế đồng rồi cơ mà?

- Thuế đồng thực ra mới chỉ tính trên số diện tích cỏ nó gặm hàng năm. – Trưởng xóm kiên trì giải thích – Nuôi bò, nuôi trâu kể từ năm nay còn phải đóng phí môi trường, bởi nó hay ỉa rơi vãi trên đường. Phí môi trường của bò mười lăm cân thóc một năm.

- Nó ỉa đến đâu, tôi nhặt đến đấy. Chứ có khiến ai phải ngửi hộ đâu. – lão Sướng cố cãi.

- Đề nghị ông ăn nói cho cẩn thận. – Trưởng xóm nhắc nhở rồi tiếp tục mớ lý luận của mình – Lấy gì đảm bảo rằng ông nhặt sạch trăm phần trăm, không sót lại mẩu phân nào trên đường? Thế còn nó đái rong thì sao? Dễ thường ông cũng hứng được chắc.

Lão Sướng hết cách cãi, đành lần túi móc ra một nắm giấy bạc lẻ, vừa đưa cho trưởng xóm, vừa năn nỉ:

- Tôi chỉ còn ngần này, chắc chưa đủ. Còn thiếu bao nhiêu, các anh thư cho đến chiều, để tôi hỏi vay trước mấy bà hàng rau.

- Được thôi! – Trưởng xóm dễ dãi – nhưng ông nhớ tự giác đấy, đừng để chúng tôi phải gọi.

Từ trụ sở dân phòng ra về, trong lòng lão Sướng cứ có cái gì tức anh ách. Lão chẳng lạ gì cả tam đại nhà cái thằng Đẳng – trưởng xóm kia. Nó ngày bé cũng là thằng ăn cắp ăn trộm, học hành dốt đặc cán mai, sở dĩ được làm trưởng xóm là nhờ trên người ta tưởng nhớ đến bố nó. Bố nó còn ít hơn lão mấy tuổi, ngày trước cũng làm chức trưởng xóm trưởng thôn gì đấy. Bỗng một hôm, dân làng phát hiện bố nó treo cổ tự tử ở ngay cây đa đầu làng. Chẳng ai hiểu vì cái gì mà khiến lão phải quyên sinh. Lục trong túi lão, người ta chỉ thấy một mẩu giấy nhỏ ghi vỏn vẹn năm chữ với một cái dấu ba chấm: “Vì nhân dân quên mình…”. Lá thư tuyệt mệnh ngắn ngủi ấy của lão ta làm cho mọi người nhức đầu, nghĩ mãi không ra. Ai cần lão phải quên mình theo kiểu ấy cơ chứ. Về sau, dân làng rỉ tai nhau truyền đi một cách giải thích khác xem ra cũng có lý. Té ra trước đó, lão ta ứng cử hội đồng nhân dân xã nhưng bị trượt, dân quên không bầu lão…

Lão Sướng vừa về đến nhà thì bà Cổn ở xóm Con Lợn tìm đến có việc. Bà bảo:

- Biết bác ngày nào cũng lên chợ Huyện, tôi sang gửi bác ngày mai mua hộ mấy cái nón rộng vành về đội ban đêm.

Lão Sướng tròn mắt ngạc nhiên:

- Sao lại phải đội nón ban đêm, sợ phải gió à ?

Bà Cổn chép miệng:

- Nào ai sợ phải gió phải giếc gì. Ma quỷ còn chả sợ nữa là.

- Thế thì đội nón làm gì? – Lão Sướng rõ ràng chưa hiểu.

Bà Cổn nhả miếng trầu ra cầm trên tay, thong thả giải thích:

- Chả là dạo này, tối tối các ông ấy hay tụ tập chè chén trong nhà mụ Goá Len ở xóm Con Mèo. Mấy lần rồi, chẳng hiểu say xỉn đến mức nào mà lúc về ngang ngõ nhà tôi, các ông ấy phát rồ rủ nhau trèo lên cây nhãn nhà lão Trạch, mỗi ông leo ra một chạc cây rồi ỉa đái đầy cả xuống đường, có tay còn nôn thốc, nôn tháo nữa. Bà cháu tôi đi về qua bị dây hết cả quần áo. Xóm Gà, xóm Vịt cũng có mấy người từng bị cứt rơi xuống đầu như thế. Thành ra bây giờ, ban đêm có việc ra đường ai cũng phải đội nón. Nào ai biết các ông ấy đang phát rồ trên cái cây nào để mà đề phòng…

- Thế sao lúc ấy bà không mắng cho họ một trận – lão Sướng bảo.

Bà Cổn nhìn lão như nhìn một người ngoài hành tinh:

- Bác biết họ là ai rồi mà còn dám nói thế à. Tức mấy cũng phải ngậm trong miệng. Lôi thôi họ nhân đà say, sai người bắt giải về uỷ ban thì có mà khốn. Nói thế thôi, chứ chẳng ai lại đi chấp những người say làm gì.

Thì ra là vậy. Lão Sướng biết ngay việc này đầu têu ở cái anh bí thư Tưởng. Lão biết anh ta từ hồi còn nhỏ, hắn có thói quen hay ỉa trên cây, rất mê ỉa trên cây. Nhà anh ta có cây sung lả ra bờ ao, cả nhà quanh năm trèo lên cây sung ấy ỉa xuống ao để nuôi cá. Sau này lớn lên, anh ta ra gánh vác việc làng, việc xã, thói quen ấy dần dần không còn. Song con người ta không biết thế nào mà nói trước được. Nhất là những lúc say xỉn, không làm chủ được ý nghĩ của mình nữa thì cái bản năng xưa nó lại trỗi dậy chưa biết chừng. Còn những tay kia, chắc là a dua, nịnh nọt anh bí thư cho có hội, có phường vậy thôi.

Bà Cổn về lâu rồi mà lão Sướng cứ suy nghĩ vẩn vả mãi về cái vụ dân làng phải đội nón đi đêm kia. Liên hệ với việc phải đóng phí môi trường của con bò, trong đầu lão chợt bật lên một ý nghĩ phản kháng ngầm rất chi là… hả lòng hả dạ. Rằng cứ theo như ý nghĩa của cái phí môi trường kia, thì đáng lẽ bọn họ phải đóng mỗi người bằng ba bốn suất con bò nhà lão… Song đó chỉ là ý nghĩ thôi, thế cũng đủ hả lắm rồi, đố bao giờ lão dám nói ra mồm.

Lão Sướng ngủ bù một giấc đến giữa trưa thì thức dậy, cùng vợ con ăn qua loa mấy bát cơm dưa mắm rồi dắt bò ra cánh đồng chăn, vừa chăn, lão vừa tranh thủ cắt ít cỏ, hoặc vơ lá lảu về cho con bò ăn đêm. Không như những dân chuyên nuôi bò thịt, lão tuyệt đối không cho con bò của mình ăn thức ăn tăng trọng. Thứ ấy tuy có làm cho nó béo tốt, tăng cân. Nhưng chỉ là béo bệu, rất mau xuống sức, và nhất là không thể kéo nặng được. Chiều về, lão không quên tắm rửa, kì cọ cho toàn thân nó sạch óng dưới ráng chiều. Lão chăm chút cho con bò còn hơn cả bản thân lão. Những ngày mùa đông tháng giá, không đun nước tắm cho nó được thì lão tắm khan. Lão cẩn thận dùng bàn chải, chải kĩ từng xăng ti mét vuông mình mẩy xuống đến tận bốn chân con bò, không để một mẩu bùn đất hoặc một con ve nhỏ bé nào bám vào. Được chăm sóc kĩ càng như thế, con bò của lão lúc nào cũng khoẻ mạnh, béo mượt. Ai trông thấy nó cũng thích mắt, thèm thuồng.

Lão Sướng là người chỉ sướng ở mỗi cái tên. Đời lão đã gặp nhiều mất mát, nhất là mất đứt cả hai thằng con trai, đến nỗi vợ lão khóc lòa cả hai mắt. Hai đứa con dâu trời xui đất khiến thế nào, lại nhất tề rủ nhau cùng dở người để lão phải nuôi báo cô. May mà lão sắm được cỗ xe với con bò, lại có việc quanh năm thành ra ngày cũng kiếm được vài cân gạo, đủ cho bốn kiếp người với một kiếp bò đắp đổi lần hồi. Cuộc đời nhờ vào những cái tẻ nhạt đâm ra lại có vẻ yên bình, mặc dù sự mất mát đã biến thành những vết sẹo to lớn biết đi. Lão chẳng còn cái thú nào khác ngoài việc sáng nào cũng thiu thiu đếm những cái xóc trong giấc mơ từ chợ Huyện về làng. Một… Hai… Ba… Bốn… Năm… Tám mươi mốt cái lúc đi, lại tám mươi mốt cái lúc về… Cứ như thể trời đã khoán sẵn những cái xóc ấy cho số phận của lão. Mỗi lần chiếc xe lắc qua lắc lại, mài người lão mấy cái xuống sàn, chiếc máy đếm đâu đó trong đầu lão lại ghi nhớ cái số đếm ấy vào một giấc mơ nhẹ nhàng, tới đúng số tám mươi mốt là về đến làng…

Có tiếng người quát tháo dưới đường làm lão Sướng giật mình, ra khỏi cơn mơ màng. Chiếc xe và con bò của lão đã đột ngột dừng lại, điều chưa từng xảy ra bao giờ. Lão ngủ quên chăng ? Không thể nào. Giấc mơ vừa rồi nhắc cho lão biết chắc chắn rằng vừa mới qua cái xóc thứ sáu mươi, còn hai mươi mốt cái xóc nữa mới về đến làng. Có chuyện gì vừa xảy ra. Lão vội vàng mắt nhắm mắt mở, lập cập trèo xuống khỏi thùng xe.

Sáu bảy người toàn công an, dân phòng đang quây quanh chiếc xe và con bò như vừa đội đất chui lên, dẫn đầu là Dần – trưởng công an xã.

- Con bò của ông vi phạm luật lệ giao thông, gây tai nạn nghiêm trọng. – Trưởng công an Dần vừa dõng dạc nói với lão Sướng, vừa chỉ tay sang phía vệ đường, rồi lại chỉ vào gầm chiếc xe.

Lão Sướng nhìn theo cánh tay chỉ của trưởng công an xã. Bấy giờ lão mới hoảng hồn khi thấy một người đang nằm thu lu, hai tay ôm đầu, cố rặn ra mấy tiếng rống như bò rống. Con bò thì vẫn im lặng, ngơ ngác không hiểu những con người hiện hữu đây đang làm cái trò gì. Sau lưng nó, một chiếc xe máy Trung Quốc nằm chắn ngang, vừa vặn chạm hai bánh của nó vào hai bánh của cỗ xe bò, khéo như có người khiêng đặt vào vậy.

Có cái gì không bình thường ở cái gã đang nằm rống bên vệ đường kia. Chẳng biết nó là con cái nhà ai? Lão Sướng tiến tới chỗ gã, định cúi xuống nâng nó dậy. Ngay lập tức, một bàn tay túm vai lão kéo lại:

- Yêu cầu ông không được động đến nạn nhân. Đây không phải việc của ông – tiếng một công an viên.

Lão Sướng còn chưa kịp có phản ứng gì thì trưởng công an Dần đã nhanh nhẹn phân công:

- Tính mạng nhân dân là quan trọng. Hai đồng chí khẩn trương chở nạn nhân đi trạm xá cấp cứu. Một đồng chí đo đạc, đánh dấu hiện trường. Còn lại theo tôi áp tải chủ xe cùng tang vật về trụ sở uỷ ban để giải quyết.

Cả người, xe và con bò cùng bị dong về trụ sở uỷ ban. Lão Sướng bị tống vào một căn phòng cuối dãy nhà ngang, có một công an viên ngồi canh ngoài cửa, chờ lập biên bản, khám nghiệm hiện trường. Hồi lâu sau, trưởng công an Dần cho dẫn lão lên, đặt trước mặt lão một xấp biên bản đã thảo sẵn. Trưởng công an xã vừa đọc, vừa giải thích vào tai lão:

- Theo kết quả khám nghiệm hiện trường, con bò của ông lưu thông lấn sang phần đường dành cho chiều ngược lại. Theo luật, ông bị phạt hai trăm ngàn đồng, giữ phương tiện (cả con bò và chiếc xe) hai mươi ngày. Đề nghị ông kí vào biên bản thay cho con bò.

Sự việc đã hai năm rõ mười. Lão Sướng có muốn cãi cũng không được, đành cầm bút nguệch ngoạc vào tờ biên bản, mặt mũi tái xanh như tàu lá. Trưởng công an xã chờ cho lão kí xong xuôi, mới nói tiếp:

- Riêng vụ tai nạn gây ra cho người và chiếc xe kia, chúng tôi còn chờ kết quả giám định phương tiện, xác minh thương tật thì mới tính toán được mức bồi thường. Vì vậy chúng tôi buộc phải giữ ông lại uỷ ban để chờ giải quyết.

Lão Sướng nghe đến đó thì hoảng lạnh cả sống lưng. Bấy giờ lý trí của lão mới có vẻ dần dần được khôi phục. Lão cất giọng xin xỏ:

- Xin các ông chiếu cố hoàn cảnh tôi là gia đình liệt sĩ…

- Tôi biết, tôi biết! – Trưởng công an xã vội ngắt lời – Chính vì thế trong biên bản không ghi ông là người vi phạm luật giao thông, cũng không ghi ông là người gây ra tai nạn, mà tất cả là do con bò. Thậm chí lúc tai nạn xảy ra, ông còn đang ngủ khì nữa kìa. Có điều ông là chủ của con bò thì phải bồi thường thay cho nó là lẽ đương nhiên. Chúng tôi giải quyết bất cứ việc gì cũng nghĩ đến tình trước, lý sau…

Lão Sướng nhìn con bò đang bị buộc dưới trời nắng chang chang mà đứt từng khúc ruột. Khuôn mặt già nua, đầy nếp nhăn của lão ràn rụa nước mắt. Đến trưa thì bà vợ lòa của lão được báo đã mang cỏ lên cho con bò, mang cả cơm cho lão. Lão cố trệu trạo nhai, cố nghèn nghẹn nuốt những miếng cơm trộn lẫn nước mắt, nhơn nhớt như được chan bằng canh rau đay, rau mồng tơi.

Quá trưa thì Chấn – phó công an xã mò tới. Lão Sướng mừng rỡ như bắt được vàng, đầu lão loé lên một tia hy vọng. Lão vội vã thều thào:

- Cháu xem có cách nào cứu con bò, cứu chú với Chấn ơi !

Phó công an Chấn cố làm ra vẻ thiểu não, ngồi xuống bên lão bảo:

- Gay lắm chú ạ. Con bò lưu thông trái đường, phạt hai trăm thì chịu rồi, giữ hai mươi ngày thì cháu có thể xin giảm bớt được. Song còn cái vụ bồi thường kia, nghe nói bị gãy hai dẻ xương sườn. Chưa biết họ đòi bao nhiêu.

Khoảng giữa buổi chiều, trưởng công an Dần lại cho dẫn lão lên. Dần thông báo luôn:

- Báo để ông mừng. Tai nạn không gây nguy hiểm đến tính mạng. Nạn nhân chỉ bị gãy hai dẻ xương sườn. Chiếc xe cũng đã có kết quả giám định hư hỏng. Đây là yêu cầu bồi thường của người bị hại, công an chúng tôi để hai bên tự giải quyết với nhau. Nếu phía bên kia đồng ý bãi nại, chúng tôi sẽ cho ông về.

Lão Sướng ù cả tai khi nghe đến số tiền phải bồi thường. Năm triệu cho tiền thuốc men, bốn triệu sửa chữa chiếc xe máy Trung Quốc. Cộng cả tiền phạt là chín triệu hai. Đời lão chưa bao giờ có món tiền to đến thế, gần bằng ba con bò… Lão luống cuống đến mức lăn đùng ra khỏi ghế, chẳng biết phải trả lời thế nào. Trưởng công an xã hất hàm, hai công an viên phải túm lão dậy, dìu xuống căn phòng lúc nãy để lão nằm mà nghĩ cho bình tĩnh.

Xâm xẩm tối, phó công an Chấn đến dúi vào tay lão cái bánh bao rồi bảo:

- Cháu năn nỉ mãi, họ mới đồng ý không đòi tiền tiếc gì cả, chỉ phải đền con bò cho họ là xong xuôi chú ạ. Thôi thì cũng là cái vận cái hạn, đó là cái giá rẻ nhất, ngoài ra không còn cách nào khác. Chú cứ suy nghĩ đi. Nếu chịu mất con bò thì lập tức cháu bảo họ thả chú về nhà…

Mất con bò ? Lão Sướng chưa bao giờ dám nghĩ đến điều đó. Mất con bò là mất đứt nguồn sống duy nhất của cả nhà lão. Vợ chồng già và hai đứa báo cô kia chỉ còn cách dắt nhau lên chợ Huyện ăn xin. Lão đau quá, ân hận quá. Giá lão đừng có cái thú mơ màng đếm những cái xóc kia, mà điều khiển con bò cho cẩn thận. Từ nay, dù có muốn lão cũng không còn cơ hội được đếm những cái xóc ấy trong giấc mơ nữa rồi. Bò ơi! Con trai ơi! cha có lỗi với các con, có lỗi với số phận của cha, của cả ba người đàn bà đang sống kiếp đời thừa kia… Bây giờ còn biết làm thế nào ? Lão chợt nhớ hôm nọ ở chợ, có một bà già trỏ lão mà bảo: “ông năm nay cẩn thận kẻo gặp phải hạn to…”. Đời lão chẳng bao giờ tin vào sự bói toán, huống chi năm nay lão đã ngoài bẩy mươi, các cụ ngày trước bảo đó là cái tuổi hết trạch, quỷ thần đã tha rồi, còn phải kiêng kị gì nữa. Rốt cuộc lão vẫn gặp hạn ở cái xóc thứ sáu mươi…

Sáng sớm hôm sau, khi phó công an Chấn mở cửa phòng thì lão Sướng đã rũ ra như một tấm giẻ rách, khuôn mặt nhăn nhúm đen sạm lại, ngô nghê y hệt hai đứa con dâu lão lúc lên cơn. Biện pháp giữ người quả nhiên có tác dụng. Phó công an Chấn vồn vã:

- Chú đồng ý rồi chứ ? Vậy chú điểm chỉ vào tờ giấy này, rồi cháu bảo họ đưa chú về nhà.

Lão Sướng có còn con đường nào để mà chọn nữa đâu. Vả lại, lý trí của lão đã kịp chia tay với lão từ đêm hôm qua rồi. Một con bò, chứ mười con bò đối với lão bây giờ cũng thế. Sân uỷ ban hôm nay nhộn nhịp khác thường. Chính quyền, các ban ngành, đoàn thể… tề tựu không sót một ai. Tiếng trưởng công an Dần oang oang gọi người này, quát người kia, phân công công việc túi bụi. Bản thông báo về vụ tai nạn có kí tên, đóng dấu của trưởng công an xã dán la liệt khắp nơi. Con bò của lão Sướng đã được dắt ra cột ở giữa sân. Trước mặt nó là một chiếc búa tạ và một cái chậu to tổ bố. Có mấy người cởi trần trùng trục, bắp thịt cuồn cuộn đang huơ lên những con dao bầu sáng loáng.

Lão Sướng như người mộng du bước qua chỗ con bò. Nó bị bỏ đói suốt đêm qua, giờ đang cố rống lên những tiếng rống cuối cùng, những tiếng rống âm u đã bắt đầu nhuốm mùi tanh tanh của địa ngục. Lão cụp mắt, không dám nhìn thẳng vào nó nữa. Cứ như thế, lão lầm lũi bước đi, hai bên là hai anh dân phòng có nhiệm vụ hộ vệ lão về đến tận nhà. Đang đi, chợt nghe phía sau có một tiếng “bộp” khô khốc, ngay sau đó là một cái gì vừa đổ vật xuống. Tiếng rống đã im bặt. Đất dưới chân như bị rung lên, tiếng “bộp” kia vừa giáng vào gáy con bò, hay là giáng vào gáy lão. Lão Sướng tối sầm mắt lại, giơ hai tay lên trời rồi lảo đảo khuỵu xuống. Sau lưng lão, sân uỷ ban tưng bừng không khí đình đám, bấy giờ mới thực sự diễn ra một đám mổ bò.

Đám mổ bò hôm ấy náo nhiệt đến tận trưa. Sau khi chia phần đâu đấy, bộ lòng bò vĩ đại được chế biến tại chỗ cho những người lâu nay vất vả vì việc dân, việc xã liên hoan chè chén với nhau suốt cả buổi chiều, lại còn say sưa ca hát đến tận nửa đêm…

Mờ sáng hôm sau, trên con đường quen thuộc từ làng lên chợ Huyện, người ta thấy có bốn bóng người lầm lũi dắt nhau đi. Không ai khác, chính là lão Sướng, bà vợ lòa và hai đứa con dâu dở hơi. Bốn người cùng túm vào một đoạn dây thừng do lão Sướng nắm một đầu dây. Lão dẫn họ lên chợ để đổi sang kiếp ăn xin. Nhưng lão còn phải đếm lại một lần cuối cùng, không phải trong giấc mơ, lần lượt tám mươi mốt cái xóc này nữa, thì mới tới được cái đích ăn xin của kiếp mình, kiếp vợ lão, và hai đứa con dâu báo cô của lão…

Chí Phèo thi hin đi - Sưu tm

Thursday, January 24, 2008 12:16:15 PM

Chí Phèo thời blog

Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ bia xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng của nhà nào? Rồi hắn chửi mạng. Thế cũng chẳng sao: Mạng lởm nhưng chẳng là ai.

Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Blog Việt. Nhưng cả làng Blog Việt ai cũng nhủ, "Chắc nó trừ mình ra!" Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí can bia hơi Hà Nội 5lít với con mực khô nướng không? Thế thì có tốn tiền hắn online không? Không biết đứa chết mẹ nào cứ tạo ra blog làm cho hắn khổ đến nông nỗi này. Aha, phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào lôi kéo hắn lên blog đong gái, lên blog post bài! Hắn nghiến răng mà chửi cái đứa đã xúi giục đi thi này thi kia ! Nhưng biết đứa nào đã lôi kéo hắn lên blog! Có trời mà biết! Hắn không biết, cả làng Blog Việt cũng không ai biết...

Một anh luyện Võ Lâm Truyền Kỳ, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn mệt mỏi và xám ngắt trong chiếc quần Dệt Kim Đông Xuân và cái áo phông Hoàng Tấn bên bãi rác, cạnh nhà xác Văn Điển. Anh ta rước lấy và đem về "Tẩy Thủy" cho một người đàn bà góa mù. Người đàn bà góa mù này ban hắn cho một bác phó cối kiếm BỘ RỒNG XANH cày Mu, và khi bác phó cối này chết vì mải mê theo những Vũ Điệu Hiphop của AUDITION thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho quán này lại đi ở cho quán nọ.

Năm hai mươi tuổi, hắn trông hàng net cho ông Bá Kiến, ăn tiên chỉ của làng. Một con người nổi tiếng với tài chém gió thành bão, thân tiềm tuyệt thế võ công Đong Gái Chân Kinh 72 Thức, đã tôn vinh hắn từ nông dân lên công dân thành thị, từ trai thôn quê lên Hot Boy Blog Việt. Cộng thêm kiến thức vô hạn về mạng, chat nhanh như chớp kèm theo một list "hàng kẹt Net" dài như sông Hoàng Hà khiến hắn đi đến đâu là già trẻ lớn bé, từ "U sơ sinh" cho đến đến "U xuống lỗ" chết mê chết mệt đến đó.

Tất nhiên, là một người trưởng thành từ vùng đất hoang dã, cộng thêm tinh thần quán triệt "Trẻ không tha, già không thương" hắn đã làm tan nát biết bao bông hoa Cứt Lợn, vùi dập biết bao bông Vạn Thọ. Với những tố chất trên, Chí Phèo đã hút hồn biết bao nhiêu cô gái trong làng Blog Việt nói riêng và trên toàn thế giới nói chung. Nổi tiếng là người có tính tình ôn hòa, dịu dàng, súc vật không giết, trẻ con không la... Vì hắn sợ sẽ đánh nhầm phải con mình!!!

Tiền thì đối với hắn cứ gọi là "biển" với một tài khoản khổng lồ từ việc hắn hack Credit Card chùa trên mạng. Thiên hạ nào có hay, có người thì bảo hắn buôn ma túy cho Trịnh Xuân Thủy để tiêu xài. Mỗi người nói một cách. Chẳng biết đâu mà lần. Chỉ biết một hôm hắn mặc áo rách bị người ta đưa lên con Maybach 62S rồi biệt tăm đến bảy, tám hôm rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về.

Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai . Trông đặc như thằng dân chơi! Cái đầu thì nhuộm xanh nhuộm đỏ, cái răng thì vàng khè vì rít thuốc nhiều, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc áo "Giáp Lò Rèn" (Ralph Lauren) đen với quần "Lê Vịt " (Levis) vàng. Cái ngực phanh, để lộ rõ chiếc dây chuyền mỹ kí mạ vàng 18 ga-ra mà hắn mới mua ở... chùa Hương. Trông chơi vãi!

Kể từ đó, từ "Những người khốn khổ" (Victo Hugo) hắn đã "đú theo chiều gió", cuốn vào những cuộc thi avatar bất tận, những cuộc theme design không có điểm dừng, hắn như chiếc tuần dương hạm lênh đênh trên các blog không biết bến đỗ là đâu... Con người cục cằn, thô lỗ này còn đâu, thay vào đó là là một dân chơi chém gió thành thần, khét tiếng Blog Việt. Khoác trên người anh bây giờ là những hàng hiêụ như "Đôn Chề Gắp Mà Ăn" (Dolce & Gabbana), "Ác Ma Ni Ếch Chiên" (Armani Exchange)... cùng với một dàn xe bóng bẩy như "BẾ EM VỀ" (BMW), "Xe ra gì" (Ferarri)... đã đẩy hắn lên hàng HOT Blogger tại vùng đất khét tiếng bon chen và thị phi này...

Hắn lại vào Hải Xồm uống cho vơi hết nỗi buồn, uống cho "chỉ có bia mới hiểu bụng mênh mông dường nào, chỉ có bụng mới hiểu bia đi đâu về đâu". Sau khi đánh chén hết 2 đĩa chả chó, 1 bát rựa mận, 2 cái đùi chó và 5 lít bia hơi, hắn liêu xiêu lẹo vẹo ngồi lên con PS. Nhưng hắn không về ngôi nhà 5 tầng giữa bãi tha ma mà đóng thẳng ra sông Hồng. Hắn định sẽ nhảy xuống tắm cho khỏi ngứa rồi lăn ngay ra vườn mà ngủ. Tội gì chui vào nhà, bức đến không còn mà thở được. Một thằng như hắn, đập đầu không chết, huống hồ là gió sương... Ðến bờ sông hắn dừng lại, vì hình như có người. Có người thật, và hắn ngây ra nhìn.

Hắn nhìn giữa hai kè đá và tựa lưng vào một gốc cột điện, một em gái nõn nà ngồi tênh hênh. Chính là một em gái, hắn biết vậy là nhờ mái tóc đen nhánh, óng mượt như tơ, như vừa dùng SunSilk Bồ Kết buông xuống vai trần và ngực... Hai bàn tay chuối mắn của em buông xuôi, cái mồm em chu lên trăng mà ngủ hay là đòi hôn. Ðôi chân trắng muốt, thẳng như vừa được duỗi, cái váy đen xộc xệch.

Bên kia, có lẽ vì em giẫy cái váy xộc xệch để lộ... chiếc quần con rõ chữ Victoria Secret ở giữa. Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng làm trắng những cái đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp lên. Chí Phèo tự nhiên thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô, hắn nuốt ừng ực, hắn thấy cái gì rộn rạo ran khắp người. Bỗng nhiên hắn run run. Ồ tại sao lại như thế được? Ðáng nhẽ chính em gái mơn mởn kia phải run mới phải, cái "con nai vàng ngơ ngác" đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay trước mặt hắn này.

Nhưng con nai vàng ngơ ngác ấy là Thị Nở, một tiên nữ như trong truyện cổ tích. Nàng có một vẻ đẹp mà như bông hoa khoe sắc dưới ánh trăng đêm rằm, như gái cứu net khoe hàng trước webcam, như con bán cam đang cân cho khách, như thằng xe khách đang mời chào kẻ đứng đường, như cái giường đang vẫy gọi cái cột...

Cái mặt của nàng quả là sựưu ái của tạo hoá: nó cân đối đến nỗi người ta có thể tưởng tượng nếu thêm một chút thì thừa, bớt một chút thì thiếu. Cái mũi thì vừa cao, vừa sang, lại mịn màng như đẩy xe hàng. Đã thế nàng còn dùng LipIce, đôi môi mọng thêm phần quyền rũ, ẩn trong đó là hai hàm răng trắng như ngọc. Nàng chính là một viên kim cương hoàn mỹ dưới sự gọt mài đến tỷ mỷ của tạo hóa. Một cơn mưa rào không thể đẹp nếu không có áng cầu vồng. Tiếng loa thùng xập xình không thể hay nếu như thiếu đi thằng DJ và Blog Việt này cũng không thểtồn tại nếu thiếu nàng.

Trong cái tiếng sét ái tình của thần Tình Ái đó, hắn liền vứt quăng ngay con PS của mình cạnh cột điện (tất nhiên không quên khóa cổ và khóa càng, giờ ăn cắp như ranh, cẩn tắc vô áy náy mà). Hắn lao xuống kè đá như một cơn lốc màu da đen, nhanh như trảo chớp, hắn tóm lấy tay, kéo nàng dựa vào lòng và... bắt đầu thi triển 72 Thức Đong Gái Chân Kinh mà hắn đã tu luyện bao năm!

Chí Phèo: Chỉ mới gặp em thôi mà anh ngỡ như đã quen nhau từ kiếp trước.

Thị Nở: Ô, thật thế hả anh (mắt chớp chớp, đá lông nheo)

Chí Phèo: Uh, Xa em vài giây thôi mà ngỡ đã bao năm.

Thị Nở: Lại chém gió rồi, cho tí muối đê anh giaiơi!

Chí Phèo (tỉnh bơ): Em ơi, ánh mắt em làm cả miền Nam chìm trong băng giá. Em cất tiếng cười làm cả miền Bắc ngủ quên còn khi những giọt lệ em rơi làm 7 tỉnh miền Trung chìm trong lũ lụt...

Thị Nở (suớng): Thật thế hả anh ?

Chí Phèo: Cả người em toát lên một vẻ quý tộc của Châu Âu, em mang làn da nâu của Châu Á...

Thị Nở: Trước đây da em đen lắm, ra đường chỉ toàn bit mặt thôi, từ ngày em thử dùng POND da em trắng hẳn ra

Chí Phèo: Thị Nởơi, mình đính hôn nhé

Thị Nở (cảm thấy thật hạnh phúc): OK con gà đen...

Thế rồi... Nở chủ quan quên không xài POND chỉ có hai ngày sau thế là da Nở trở về nguyên thuỷ, Chí Phéo ấy lại gởi cho Nở nhắn tin: "..Thị Nởơi cho anh xin lại cái nhẫn..."

Mình buồn lắm, chắc mình lại phải thử dùng NIPPON thôi... nghe nói: "Sơn NIPPON sơn mông cũng đẹp"...

Lần này thì mình khỏi sợ da mình đen, mặt mình xấu nữa rùi...

Vâng, đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho các bạn gái trong việc giữ chân chồng mình. Hiện tại theo như thông tấn xã Con Vịt thì hãng sơn NIPPON đang có khuyến mại mua NIPPON trúng "Bế Em Về" 750 Li đời 2007. Các bạn đừng bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này, nhanh tay lên. Sơn NiPPON, sơn mông cũng đẹp!!!

Tiểu luận

về cái sự “Nhậu“

Cái chõng tre (hoặc cái bàn mộc cũ kĩ) giữa lòng Hà nội, trên đó bày mấy lọ kẹo lạc, kẹo vừng, chai rượi trắng, chiếc điếu cày, ống đóm, ngọn đèn dầu… và một cái ủ tích lúc nào cũng sẵn sàng rót ra những cốc nước trà đặc quánh, nghi ngút hương thơm. Tất nhiên không thể thiếu chiếc ghế băng cũ kĩ, đã lên nước nâu bóng nằm hờ hững phía bên ngoài, dăm chiếc ghế nhựa oắt con, cơ động mà kích thước và sức chịu lực được tính toán vừa đủ với kích cỡ và trọng lượng của giống người mũi tẹt, da vàng… Đấy là vật.

Còn người thì bên trong cái chõng (hoặc cái bàn) cổ kính ấy, thế nào cũng có hoặc một ông già, hoặc một bà lão răn reo phúc hậu, sẵn sàng lặng thinh trước thời cuộc mà cũng sẵn sàng góp vào đôi ba câu chuyện… Khỏi nói thì ai cũng biết đó là một trong vô vàn quán nước trà ở Thủ đô. Và gần đấy, thế nào cũng có một hàng phở, hàng bánh cuốn hay bún ốc, bún riêu gì đó, đại loại là một hàng quà sáng…

Sở dĩ có sự “cộng sinh” muôn đời ấy giữa “ăn” và “uống” bởi quán ăn ở Hà thành thường chỉ phục vụ ăn với lau mồm qua loa bằng những mảnh giấy đủ màu trắng đục, xanh, vàng, tím… (không thể trắng tinh bởi chúng được tái chế bằng giấy loại), cắt vuông vắn mỗi chiều năm xăng ti mét. Còn súc miệng xỉa răng ư? Xin mời bước đi chỗ khác. Người Thủ đô vốn thong thả, đường hoàng, súng bắn đến đít cũng không việc gì phải vội. Còn gì lý tưởng hơn là sáng nào điểm tâm xong cũng lê đến gọi một cốc trà nghi ngút ấy, ngắm phố phường mà thả ra mấy câu chuyện gẫu, lạ quen gì thì cũng sẵn sàng góp mỗi người vài câu, từ chuyện thế sự trên trời đến chuyện bóng đá, chuyện yêu đương, ngoại tình… Nhất là chuyện ăn cắp, ăn trộm của thiên hạ thì có mà “bàn” đến cả trăm năm cũng không hết. Thế rồi hờ hững ngó đồng hồ, thế rồi uể oải đứng lên… thế rồi lừ lừ trôi đến cơ quan có khi lại bắt đầu một câu chuyện gẫu khác…

Cách Thủ đô một ngàn rưởi cây số về phía Nam là Sài gòn thì bói không ra một quán nước trà như thế. Thay vào đó là nhan nhản quán cà phê. Những nơi này với ưu thế đèn mờ, tranh tối tranh sáng lại có âm nhạc xập xình dậm dựt, được sinh ra chủ yếu để phục vụ các cặp tình nhân, hoặc là nơi thả hồn của các thi sĩ giữa lúc nghĩ hai bài thơ không đầu không cuối, không để làm gì, hoặc có khi là nơi định thần, âm u tưởng tượng của những nhà văn đang bị khủng hoảng (thừa) các đề tài ca ngợi, yêu đương, hay thất tình tay ba tay bốn… đến nỗi không thèm viết thì thôi, cứ động viết ra là y như chữ nào, chữ nấy cứ… rối rít cả lên. Ngoài những công dụng cực kì nhân sinh, tràn trề lãng mạn như thế, các quán cà phê kiểu ấy còn là một chốn lý tưởng để cho những hạng con buôn hẹn hò, chụm đầu bàn bạc những áp phe không thể nào minh bạch…

Sài gòn không cần sự “cộng sinh” giữa “ăn” và “uống” như Thủ đô ngàn năm văn vật, bởi các quán ăn sáng phục vụ luôn việc súc miệng, xỉa răng với cả lau mồm. Cũng vẫn cuộn giấy (…) xinh xắn, mềm mại và tròn xoe mua ở chợ hay siêu thị ấy thôi, nhưng dùng để chùi mồm thì nó được đựng trong những chiếc hộp nhựa dựng đứng, khách cứ việc thò ngón tay rút từ giữa lõi ra cho có vẻ ngược lại với quy trình diễn ra trong nhà vệ sinh. Đừng có dại mà liên tưởng, kẻo lại bảo là ghê mồm(!). Người Sài gòn vốn có tác phong công nghiệp, biết thời gian là vàng ngọc nên phải tranh thủ thời gian. Khách ăn xong làm thủ tục vệ sinh mồm mép cho nhanh rồi hối hả đến sở làm. Rất hiếm một câu chuyện gẫu diễn ra trong cái chốn sì soạp húp, chan, đỏ mặt tía tai, cắm đầu cắm cổ ấy… Nhu cầu tán gẫu nếu có thì dành đến chiều tối, lúc hết giờ làm việc. Bấy giờ là thời điểm của nhậu! Phố phường ê hề quán nhậu, cả một thế gian nhậu. Nhậu hoành tráng, nhậu mênh mông, nhậu “mát trời ông Địa”.

Nhưng đã nói đến “nhậu” thì chẳng cứ Sài gòn. Hà thành và… cả nước bây giờ, đâu đâu cũng thế. Từ đây trở xuống xin chỉ bàn về nhậu mà thôi. Phải gọi đây là cả một nền văn hoá nhậu mới xứng. Một nền văn hoá phát triển cao tới mức làm con người ta lúc chưa ra quán thì nhớ nhau như những cặp tình nhân, ra đến quán rồi thì kiên cường bên nhau như một đám biểu tình ngồi. Thật là ồn ã, náo nhiệt, tưng bừng bằng mấy chục cái chợ nhà quê…

Nghĩ kể cũng lạ. ở những chốn “fẹs-ti-van” nhậu ấy, thức nhắm nào có ra gì. Nhưng các biển hiệu thì bao giờ cũng được vẽ to tổ bố, nom vừa sinh động, vừa hấp dẫn như thật. Từ đặc sản dái dê, vú dê, rồi “phụ tùng” (có nơi gọi là súng đạn) bò đực, (không thấy “cái ấy” của bò cái) đến mu ba ba, trôn ốc nhồi… cùng với đủ các kiểu danh xưng đại ngôn, láo toét. Nào là nướng cả phố (phố nướng), nào là nướng cả làng (làng nướng), có khi nướng ráo cả… tổ tông (tổ nướng)… Thực đơn trình bày đến mấy trang ép ni lông lòe loẹt… Song cái sự ngon lành thì hầu hết đều… dở hơi như nhau. Thực khách dễ tính đến không ngờ, bởi nơi đây hấp dẫn chủ yếu là cái không khí chứ có phải vì món ăn đâu. Người ta sở dĩ kéo đến không phải vì nhu cầu thưởng thức mà vì nhu cầu xả. Có bao nhiêu thứ cần xả. Từ xả sì-trét (căng thẳng), xả xui (vận rủi), xả buồn… đến xả bớt một phần cái kiếp người vốn (hình như) chưa bao giờ vô nghĩa lý như cái thời buổi văn minh nhốn nháo này…

Cần phải nói rằng nền “văn hoá nhậu” đang kể ra đây là một thứ nhậu bình dân, hết sức giản dị, dân dã. Nó diễn ra tưng bừng từ trong nhà, ra ngoài sân, từ trong hẻm, ra vỉa hè… Nó không cầu kì từ ăn mặc đến lễ nghi, từ ghế ngồi đến ánh sáng, từ đồ uống đến thức ăn… và nhất là không đòi hỏi mỗi người phải có thật nhiều tiền. Mặc dù cũng không thiếu những chốn nhậu cao cấp, thơm tho diễn ra cùng thời điểm, trong những nhà hàng sang trọng, kín mít như bưng… Nhưng phân biệt hai “thế giới” nhậu song song tồn tại này cũng đơn giản thôi, chỉ bằng cách tên gọi là đủ. Ví dụ chốn người sang được gọi là “tiệc tùng”, thì chốn bình dân phải gọi là “nhậu nhẹt”. Song tiệc tùng, dù có lớn đến đâu cũng chỉ đáng coi là “tiểu nhậu”, cùng lắm là “trung nhậu”. Chỉ có nhậu nhẹt kia, mới thực là đã đạt tới quy mô của “đại nhậu” mà thôi.

Dân “nhậu nhẹt” phần lớn bình dân, tuyệt đại đa số bình dân. Tuy đâu đó cũng có lẫn một vài kẻ sang, nhưng chẳng qua chỉ là… lốm đốm. Bình dân đấy, nhưng cơ mà (em ơi), lại sở hữu tới sáu đức (lục đức) “dễ thương” của người quân tử. Xin được kể ra như sau:

Thứ nhất, dẫu chẳng ngon, chẳng đắt tiền thì cũng cứ là những “miếng giữa đàng”, dù có tối trời thì cũng coi như thanh thiên bạch nhật, bởi chẳng bao giờ phải che mặt với ai. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức quang minh chính đại.

Thứ hai, người quân tử vốn không ưa cái sự sát sinh, nên dân nhậu rất ít khi chui đầu vào bếp. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “nhân”.

Thứ ba, một kẻ có gì vui hay buồn thì cả đám chỉ chờ cơ hội đó để kéo nhau đi, buồn cũng uống mà vui cũng uống, kiểu như: “một con ngựa đau, cả tàu… no cỏ”. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “nghĩa”.

Thứ tư, người quân tử ngồi không kén ghế, ăn chẳng cần no, mặc không cần đẹp… dân nhậu vốn đã coi những chuyện ấy nhẹ tựa lông bò. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “lễ”.

Thứ năm, luôn luôn biết chọn bạn hợp mà rủ rê, chọn quán quen mà ngồi lỳ, chọn mồi lạ mà đưa đẩy… Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “trí”.

Thứ sáu, chỉ nhậu vào những giờ nhất định trong ngày, đến giờ ấy mà không ra quán thì toàn thân ngứa ngáy, thần trí nhẹ tênh, nhất là đã hẹn rồi thì đố dám sai, lần sau dễ bị “phạt” như chơi. Ấy gọi là nhậu nhẹt mà có đức “tín”.

Vừa “quang minh chính đại”, vừa có đủ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, đạo lý “nhậu” xem ra cũng khối điều ghê. Thế mới có câu: “phi nhậu nhẹt bất thành quân tử” (không nhậu nhẹt không thể thành quân tử), lại có câu: “phi nhậu nhẹt bất trượng phu” (không nhậu nhẹt không phải đấng trượng phu), lại còn có thơ:

“Bất thị quan trường, vi đạo tặc

bất tri tửu đạo, bất hiền nhân”

(Có thể không làm quan mà vẫn là kẻ cướp. Nhưng nếu không hiểu đạo lý của rượu, thì không phải bậc hiền nhân).

Thậm chí còn sáng tác cả ca dao, tục, thanh lẫn lộn nói về cái “đạo lý” ấy:

“Gặp nhau có chén rượu tăm

gọi là một chút hỏi thăm lòng người”.

Rồi:

“Rượu hay phải biết chửi thề

biết đi nửa buổi, biết về… nửa đêm”

hay:

“Đã nhậu là cậu ông Giời

nên người quân tử chẳng mời cũng… dzô”

Tóm lại là nếu muốn tìm quân tử, ai ơi chẳng cần phải lặn lội tới những chốn cao sang làm gì cho phí công vô ích, thậm chí tới đó mà vô phúc, bị lầm lẫn thì dễ mắc họa như chơi. Xin mời cứ đợi chiều chiều, chỉ việc ra bất kì một nơi “đại nhậu” là khắc gặp đầy.

Tảng thịt tế

Thầy họ Giả, tên Nhân. Kẻ lắm chữ trong thiên hạ gọi sang trọng là Giả tiên sinh. Các môn đồ và dân gian thì nôm na là thầy Giả. Thân sinh ra thầy là cụ Giả Dã, còn ông nội Giả gì thì không thấy sách nào ghi lại. Lúc nhỏ thầy chỉ chơi bời lêu lổng, nổi tiếng là một thằng bé nghịch bẩn, bạ đâu cũng chui rúc. Đã thế lại còn hay gây gổ, chửi nhau với cả trẻ con lẫn người lớn trong vùng, làm cho cụ Giả Dã hết sức phiền lòng. Vậy mà đến năm mười lăm tuổi đổi hẳn tính nết, chăm học không ai bằng. Lại học một mạch mười lăm năm thì gom hết chữ trong thiên hạ. Bấy giờ thì thông thái lắm. Không mở miệng thì thôi, hễ mở miệng ra là nói câu nào “chết” câu đấy. Đệ tử, lâu la bám theo hàng đàn. Đại khái chia ra ba hạng. Hạng thứ nhất theo để học cách làm quan, cách trị dân, trị quốc nhập nhằng. Hạng thứ hai theo để học cách làm người, bởi xưa nay cứ tưởng thiên hạ ai cũng là người té ra không phải. Nhờ có sự giảng giải của thầy, mới hay làm người cũng là một nghề phải học mới làm được. Hạng thứ ba theo để hưởng cái bóng của thầy, bấy giờ đã lớn lắm, trùm cả một vùng. Thiên hạ tôn làm thầy đã đành, lại nhất tề công nhận rằng đối với thầy, sự vĩ đại chỉ còn là vấn đề thời gian. Núp bóng thầy không được hưởng thứ nọ, cũng hưởng thứ kia. Những hạng này nôm na gọi là: “theo đóm…”

Hôm ấy là một ngày đặc biệt đối với thầy. Ngày mà hàng năm theo thông lệ, thầy sẽ được nhận phần thịt tế ban xuống từ ngôi Chí tôn. Từ sáng sớm, thầy đã tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề ngồi trang nghiêm giữa gian đại sảnh. Các môn đồ cũng ăn mặc đúng lễ nghi, đứng sắp hàng hai bên cực kì cung kính. Con đường nhỏ từ cổng ra đến đường cái được quét tước sạch sẽ, hun hút như lối đi tới cõi hư vô, mờ mịt không một bóng người. Tất cả chỉ dành cho việc đón tiếp cái Tảng thịt tế thiêng liêng, mà không phải người nào trong thiên hạ cũng có duyên được hưởng. Thầy hiểu rõ điều đó lắm, thiên hạ thấm thía điều đó lắm. Đến nỗi phải gọi đó là Tảng thịt, “Tảng thịt” viết hoa. Không được gọi xếch mé là miếng thịt dù nó có bé bằng đầu ngón tay. Gọi như thế để chứng tỏ sự hoành tráng của một đặc ân, để hiểu rằng ý nghĩa của nó vượt ra khỏi sự tầm thường của miếng ăn, mặc dù cuối cùng, nó cũng được dùng để đánh chén… Được ban cái tảng thịt ấy, chứng tỏ công lao của thầy đối với sự bền vững vĩnh hằng của ngôi Chí tôn là ghê gớm lắm, chứng tỏ vị trí của thầy trong trật tự thế gian này là vô cùng quan trọng. Chỉ cần ví dụ một điều thôi cũng thấy. Trời sinh thầy để cảm hoá người khác. Kẻ không biết nghĩ, thầy dạy cho cách nghĩ. Kẻ nghĩ cong, thầy nắn lại cho thẳng. Kẻ nghĩ ngược, thầy bẻ lại cho xuôi… Cảm hoá bằng lời nói, giảng giải đã đành, nhiều khi chỉ cần bằng cái vía của thầy. Cái vía ấy tràn ngập không gian xung quanh, nó toát ra từ ánh mắt, hơi thở… Nó vô hình mà mạnh mẽ đến nỗi những kẻ dù bướng bỉnh, mất dạy đến mấy, một khi đã vào vùng ảnh hưởng của nó rồi, cũng lập tức bị chinh phục… Còn nhiều nữa những công đức của thầy. Chung quy trước kia, thế gian tuy vẫn thế nhưng cơ mà lộn xộn, chẳng ra trò vè gì. Thầy đã làm được cái việc cho muôn đời là xắp xếp người nào vào đúng chỗ của người nấy, không đi lại, ăn nói lung tung. Kẻ thích an phận cứ việc mà an phận, kẻ thích diễn trò thì có sẵn khối trò, trò nào thầy soạn ra cũng mạch lạc, rõ ràng… Nhờ thế mà thầy được đấng Chí tôn ban cho thịt tế. Không nhớ lần đầu tiên được ban là bao giờ, chỉ biết việc đó đã thành lệ, như một thứ phép tắc trong đời.

Thầy chờ đã quá một giờ ba khắc. Con đường trước mặt vẫn hun hút, chưa thấy bóng dáng tảng thịt tế kia đâu. Mọi năm vào giờ này, người mang thịt đã vào đến sân. Năm nay có lẽ chậm hơn tý thôi, người mang thịt chắc còn đang đi trên đường. Thầy tin tưởng như thế, chậm một chút cũng không sao. Giờ này thịt vẫn còn tươi, có khi còn nóng hổi. Vừa mới sáng ra, khí dương còn đang thịnh lên thế này… chỉ cầu cho kẻ mang thịt kia rảo chân lên một chút…

Thầy vừa mong vừa trầm ngâm suy nghĩ. Xét cho hết lẽ, lần đón thịt tế năm nay, thầy quả có hơi bồn chồn. Ấy là mấy hôm trước, gã môn đồ tên Tý tự nhiên phao tin làm rối bụng cả những môn đồ khác. Tin ấy mà lan ra bên ngoài thì lòng người sinh biến chứ chẳng chơi. Gã môn đồ có biệt danh “Chuột Cống” ấy vốn xuất thân trộm cắp lưu manh, được thầy rèn giũa thành một trong những kẻ sĩ nức tiếng bấy nay. Chẳng hiểu gã vẫn còn nhớ nghề cũ hay sao mà một hôm, gã mò vào tận chốn thâm cung bí hiểm để dòm trộm. Đó là nơi ngự của đấng Chí tôn, nơi mà hàng ngàn đời nay, thiên hạ không những không được phép bén mảng, mà còn không được phép biết trong đó diễn ra những gì. Mặc dù người ta vẫn không ngớt tưởng tượng hoặc đồn đoán lung tung… Nhưng trước khi có thầy, kiến thức của thiên hạ về cái chốn bí hiểm ấy nói chung là mù tịt, chẳng ra thể thống gì. Thầy đã bỏ bao tâm huyết, vận dụng tất cả những thông thái của mình mà xắp xếp lại, mà lập rõ kỷ cương, định ra trật tự… đặng đưa cái ngôi Chí tôn lên vị trí tót vời giữa thiên hạ. Thế mà cái gã Chuột Cống kia sau khi dòm trộm, cứ bô bô rằng chốn thâm nghiêm ấy toàn những kẻ có cốt cách giống hệt gã thuở chưa thọ giáo thầy, nghĩa là cũng hạng trộm cắp lưu manh… Không những thế, có lần gã còn nhìn thấy trên cái lầu cao chót vót bí hiểm kia cả một lũ cáo đực và mèo cái đang làm tình tập thể… Điều mà gã không hiểu và nằng nặc đòi thầy giải thích là tại sao trong đám cáo đực ấy, có những cặp cứ hôn nhau thắm thiết… Thầy gắt lên với gã rằng đó đơn giản là do chúng mắc chứng đồng tính… Nhưng gã phải cẩn thận xem lại mình có bị hoa mắt hay không?

Thông tin của gã Chuột Cống quả nhiên tai hại. Đám môn sinh nhao nhao hoảng loạn. Có kẻ tin ngay, có kẻ không tin. Nhưng dù sao thì cũng hoang mang, nghi ngờ không biết đâu là sự thật. Mặc dù đã hết cách vỗ về, đám môn sinh cứ một mực khuyên thầy tốt nhất nên đi khỏi nơi đây, phòng mang tiếng dính dáng với lưu manh, nhất là cái chứng đồng tính kia thì xưa nay, người quân tử bao giờ cũng kị. Nói vô phúc, chẳng may nó lây nhiễm ra ngoài thì thực là một đại hoạ của cõi nhân gian… Không thể trách cái lập trường yếu bóng vía ấy của đám môn sinh, thầy khuyên họ hãy kiên tâm chờ đợi. Sắp đến kỳ tế rồi, thầy hy vọng sự tử tế còn phụ thuộc vào tảng thịt kia. Nếu tảng thịt tế vẫn được ban xuống như mọi năm, thì tình trạng cũng chưa đến nỗi nào. Còn nếu chẳng may đấng Chí tôn quên thật, thì lúc ấy hãy ra đi cũng chưa muộn gì…

Vài khắc nữa là đến chính ngọ. Khí dương đã gần cực thịnh, sắp suy dần, nhường chỗ cho khí âm. Tảng thịt tế vẫn chưa được mang đến. Con đường vẫn hun hút thinh không. Đám môn sinh có kẻ bắt đầu hoa mắt, phải quỳ hai đầu gối xuống nền nhà. Riêng thầy vẫn ngồi nguyên tư thế, mắt lim dim, cố ngưng thần, nhập định. Năm nay thịt tế ban xuống chậm chắc do chia bằng thịt chín, không để sống như mọi năm. Thịt chín càng hay, đỡ mất công nấu nướng. Bây giờ mà mang đến thì dẫu không có sự hôi hổi của thịt tươi, thì cũng có cái nóng sốt, thơm lừng của thịt luộc – thầy nghĩ thế và hình như, các môn sinh cũng nhiều người nghĩ thế. Có kẻ bất giác nuốt nước bọt. Thầy chưa biết tảng thịt chín năm nay sẽ có màu mè gì. Tảng thịt sống mọi năm thì thầy vẫn nhớ rõ ràng. Phía trong thịt đỏ roi rói, vẫn còn ròng ròng máu tươi. Ngoài bì trắng nõn nà, lấm chấm lỗ chân lông cứ y như một tảng thịt người. Thầy chẳng bao giờ soi xét đó là thịt gì. Đã là của đấng Chí tôn ban cho thì cứ việc lạy đủ ba lạy rồi nấu lên, thầy trò chia nhau đánh chén. Đánh chén cả cái phần vật chất nhờn béo lẫn cái phần vinh hiển của đặc ân. Năm nào cũng thế và năm nay tất nhiên cũng thế…

Vừa mới hướng sự suy nghĩ ra khỏi tảng thịt, thầy lại bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Còn nhớ trước đây, có lần thầy cũng bị cảm giác nghi ngờ chi phối. Đó là vào thời thịnh trị của đấng Chí tôn. Có gã môn sinh tên Sửu, biệt danh Trâu Toi cũng vào hàng kẻ sĩ trứ danh, tự nhiên lại đề ra cái thuyết chia thiên hạ ra làm hai hạng: người cầm đũa và kẻ nằm trên mâm(!) Theo gã thì thế cuộc bất luận kiểu gì, thực ra cũng chỉ là một… bữa tiệc mà thôi. Bữa tiệc có phân ra mâm trên, mâm dưới… đàng hoàng. Người “làm quan” (mà thầy gọi là những bậc chăn dân) đều là những người cầm đũa. Còn “dân” là những kẻ nằm trên mâm. Tất nhiên đã là món ăn thì phải được “chế biến” sao cho hấp dẫn, khoái mồm. Thế là những tên dân phải vào chảo để “quay” cho vàng ươm trước khi bày lên mâm cho người cầm đũa… xơi. Vì không phải tên “dân quay” nào cũng béo ngậy như nhau. Thế là người cầm đũa ở mâm trên cứ việc chọn những tên béo nhất mà dùng, còn lại thì gảy xuống cho mâm dưới. Cứ thế cho đến mâm dưới cùng, tóm lại là gầy béo gì thì người cầm đũa mâm nào cũng có suất. Có điều rất hiếm tên “dân quay” nào mà người cầm đũa không thể xơi được, phải gảy hẳn ra ngoài dù kẻ đó có mắc “tội” quá gầy hay bị chứng hôi hám bẩm sinh…

Cái “thuyết” bữa tiệc thơm lựng mùi… người quay ấy của gã Trâu Toi còn kể ra các cuộc tranh giành nhau theo một cách rất chi là ngộ nghĩnh. Theo đó thì trên đời, ai mà chẳng muốn mình là người cầm đũa. Thế là thỉnh thoảng lại xảy ra sự tranh giành nhau. Những lúc ấy, những tên dân được tạm hoãn… lên chảo, được chia làm hai phe đánh lẫn nhau vì… những người cầm đũa. Kết quả bên nào thắng sẽ được ngồi vào mâm, được cầm đũa để tiếp tục… vừa xơi, vừa gảy. Kẻ có số nằm trên mâm không đánh nhau nữa thì lại… lên chảo. Và bữa tiệc muôn thuở cứ thế diễn ra. Tất nhiên những xác chết trong lúc đánh nhau kia thì mãi mãi vùi lấp nơi rừng rú, nơi đồng không mông quạnh mà những người cầm đũa chẳng dùng đến làm gì…

Thuyết ấy dĩ nhiên chỉ là một kiểu ví von cho sướng miệng, không được coi là “chính thống” bao giờ. Thế mà thầy cũng phải mất bao công uốn nắn, chỉnh đốn lại cái gã Trâu Toi kia, không cho gã mê hoặc lòng người. Nhưng phải công nhận gã thuộc loại cứng đầu cứng cổ, khó dạy bảo xưa nay. Uốn nắn mãi, gã buộc phải chịu rằng mình sai, buộc phải nhắm tịt mắt lại rồi mà mồm vẫn lẩm bẩm: “Dù sao, vẫn giống như bữa tiệc…” Đến mức thầy phải quát lên rằng: “Dù có là bữa tiệc đi chăng nữa, thì cũng phải theo đúng lễ, “món ăn” phải được chế biến tinh vi. Chứ không có cái kiểu cho vào chảo “quay” một cách thô thiển như thế…” Gã Trâu Toi kia rốt cuộc đúng là… toi, bị phạt gãy hết một hàm răng, trơ cái lợi đỏ hỏn chỉ còn biết ăn nói lào phào…

Trời ngả sang chiều. Ánh nắng đã bắt đầu nhợt nhạt. Tầm này khí âm đang thịnh dần lên, khí dương suy từ lúc bước qua giờ ngọ. Tảng thịt tế vẫn tuyệt vô âm tín. Đường tới cõi hư vô bắt đầu nhuốm màu tim tím. Thầy mệt mỏi khẽ ngả người ra phía sau. Trước mặt thầy, các môn sinh bắt đầu ngáp vặt, vẻ đói khát hiện rõ trên gương mặt mỗi người. Không ai còn sức đứng hay quỳ nữa, tất cả đã ngồi bệt xuống nền nhà, nhưng đều phải cố còng lưng xuống cho đầu khỏi cao hơn thầy vì lễ quy định phải như vậy. Bây giờ thì tảng thịt tế ấy dẫu có được luộc chín, chắc cũng nguội mất rồi – thầy cố nén một tiếng thở dài. Nhưng cũng chẳng sao, dù nguội thì cũng cứ là thịt, không những thế, vẫn là thịt tế, thịt tế của đấng Chí tôn… Đấng Chí tôn hẳn đã sai người mang đến. Đó là điều thầy vẫn hằng tin…

Không sao cưỡng được cơn ngáp vặt, thầy đành che mồm ngáp thầm một cái. Chẳng lẽ đấng Chí tôn không cần đến thầy nữa hay sao?. Không bao giờ lại xảy ra chuyện đó. Nhờ có thầy, đấng Chí tôn đã sang trọng thêm gấp bao nhiêu lần đó thôi. Còn nhớ cái hồi thầy chưa xuống núi. Tin đồn về thầy đã nức tiếng gần xa. Bấy giờ ngày nào cũng có kẻ lặn lội tìm đến xin thọ giáo. Ngay cả đấng Chí tôn, dù nắm trong tay cả triệu triệu sinh linh, mà vẫn thường xuyên chầu chực, vẫn chờ xin được thỉnh giáo ý thầy. Trước mặt thầy, đấng Chí tôn ngày ấy chỉ dám xưng là người cô quả, thái độ cực kì cung kính, bao nhiêu oai dữ cất hết ở nhà, chỉ thiếu nước rón rén bò bằng bốn chân… Không những thế, danh tiếng của thầy còn được đấng Chí tôn quảng bá suốt quanh năm, thậm chí ngài còn cho dựng tượng thầy ở khắp nơi, cả nơi thờ cúng lẫn những nơi chợ búa đông người… Bấy giờ một là thể theo lòng người mến mộ, hai là cảm động trước sự quý trọng nhân tài, thầy quyết định xuống núi, dắt theo đám môn sinh, quyết một phen đem sở học giúp đời.

Và quả thầy đã giúp được khối việc cho cái cuộc đời vốn lúc nào cũng đầy mầm loạn này. Chẳng riêng gì hai gã Tý, Sửu trên kia. Kẻ sĩ lúc bấy giờ không ai phục ai, nhất tề quay cuồng theo thời cuộc. Tất cả cứ thi nhau kêu gào bằng đủ các giọng điệu khác nhau. Thiên hạ có chữ, có sách hẳn hoi mà cứ như vẫn còn trong thời kỳ man rợ. Có kẻ cứ một mực ra rả rằng không phải chỉ có mầm loạn, mà rõ ràng đang loạn hẳn hoi. Những kẻ ấy muốn đục nước béo cò, dẫn chứng ra đủ các kiểu tranh giành, giết chóc nhau có thật đang diễn ra hàng ngày ở những nơi này, nơi khác. Có kẻ lại xếp tất cả những tranh giành, giết chóc ấy vào phạm trù nghệ thuật, hội hè. Làm điều ác cũng phải có nghệ thuật, thì cũng tức là làm nghệ thuật. Nếu buộc phải đâm chém nhau thì cũng cứ cho là đi trẩy hội cho nó nhẹ nhàng, vui vẻ… Thế thì còn gì nữa mà không kết luận thiên hạ thái bình. Toàn những điều kinh dị, cổ kim chưa từng thấy bao giờ. Thiên hạ có thật thái bình không thì chưa biết, nhưng kẻ sĩ thì rõ là loạn thật rồi, loạn kiến thức, loạn chữ, loạn ngôn, loạn đến cả lễ nghi, phong tục… Kẻ nào cũng nhân danh tử tế, đứng đắn để tìm cách nhét vào óc thiên hạ cái nhìn thiển cận, dốt nát của mình. Đến nỗi chỉ cần đọc tên những kẻ sĩ lên cũng biết ngay đến chín phần thật giả, bởi thói thường, kẻ thiếu cái nào thì hay lấy cái đó làm danh xưng. Cái gã Phạm Thông Thái kia thực ra là mít đặc, cái tên Nguyễn Đức Thâm thực chất lưu manh… Có người cả hình thức lẫn nội dung nham nhở như cóc gặm thì xưng là Nguyên Vẹn, Nguyên Si, lại có người vừa già vừa xấu, chuyên cái nghề bồi bút thối tha, suốt đời bợ dỡ kẻ sang mong kiếm miếng cơm thừa lại xưng là Thanh Cao, Thanh khiết… Còn nhiều nữa những gã Dần, Mão, Thìn, Tỵ… có kẻ cũng hung hăng nói ngược, có kẻ cũng té nước theo mưa, có kẻ hau háu mong dậu đổ bìm leo… rốt cuộc đều bị thầy cảm hoá, đều trở thành những kẻ sĩ có tên, có tuổi, những môn đồ hàng năm cùng ăn theo phần thịt tế với thầy…

Trời đã bắt đầu tối. Khí dương chỉ còn thoi thóp, khí âm đã thịnh tới mức tràn trề. Tảng thịt tế vẫn chưa thấy đâu. Nhưng bản lĩnh của thầy, lập trường của thầy thì quả thật phi thường. Thầy vẫn tin chắc sẽ nhận được tảng thịt ấy tuy rằng sức lực đã gần như cạn kiệt. Nhưng còn trong ngày lễ thì vẫn còn hy vọng. Biết đâu tảng thịt tế kia sắp được mang đến thì sao. Bây giờ nếu nhận được, tảng thịt chắc đã bị thiu. Nhưng không sao, miễn là đấng Chí tôn vẫn cho người ban xuống. Phần vật chất của tảng thịt dẫu có thiu, nhưng tinh thần thiêng liêng của nó thì làm sao thiu được. Chỉ có điều phải lạy một tảng thịt thiu thì có hơi thiệt mất một phần thể diện, hơi uế tạp cái lễ khí linh thiêng. Thầy không ngại gì điều ấy. Điều mà thầy lo lắng là liệu có còn sức mà lạy đủ ba lạy như mọi năm hay không. Thầy nhìn xuống các môn sinh, bấy giờ trời tối om, chỉ còn thấy một đám nhờ nhờ. Người nào người nấy cũng mệt mỏi rã rời, không còn giữ nổi lễ nghi nữa. Thế là kẻ thì bò lổm ngổm, kẻ duỗi thẳng chân tay, có kẻ thậm chí còn ngáy pho pho như thể đang nằm ngủ trên giường…

Thầy bắt đầu thấy ngao ngán cái sự đời. Chẳng lẽ gã Chuột Cống kia nhìn thấy thật hay sao? Nếu vậy thì lũ mèo cái kia có quyền gì mà cướp đi tảng thịt tế của thầy? Thầy biết đấng Chí tôn xưa nay có một cách chôn người rất mực… tân thời. Ấy là chẳng cần phải chém, chẳng cần phải vùi người ta xuống đất làm gì. Cần “chôn” ai thì chỉ việc biến người ấy thành cái “mả” di động là xong. Đó gọi là “chôn” người trong chính cái quan tài… người. Còn sống đấy nhưng thực ra đã chết, đang hữu dụng trở nên vô dụng, đang hữu danh biến thành vô danh… Có khi làm cho thành người ngớ ngẩn, vô hồn, lại có khi làm cho vừa câm, vừa điếc…, cũng có khi chẳng cần “làm” gì cả, chỉ “vô hiệu hoá” là xong. “Chôn” vùi người ta bằng cái cách như thế, đấng Chí tôn vừa đạt mọi mục tiêu, lại vừa được tiếng là nhân nghĩa, thương người(?). Những cái “mả” sống kiểu ấy thầy gặp khối trên đời. Chẳng lẽ bây giờ lại đến lượt thầy…

Bất chợt trong óc thầy loé lên một nỗi nghi ngờ. Hay quả thực có kẻ ăn mảnh, phản thầy? Trước kia thầy từng nghe phong phanh. Rằng trong đám kẻ sĩ, môn đồ của thầy có kẻ tìm cách lấy lòng những nhà quyền quý, những người gần gũi đấng Chí tôn, thậm chí quan hệ thẳng với đấng Chí tôn hòng kiếm chác nọ kia. Thôi thì bằng đủ mọi cách, họ hại nhau, nói xấu nhau, dẫm đạp lên nhau… để tranh giành ảnh hưởng. Cùng là kẻ sĩ cả với nhau, cùng học một sách, cùng bái một thầy… mà có bao giờ họ coi nhau ra cái gì đâu. Miếng ăn đã làm cho những kẻ đọc sách ấy mờ hết cả lương tâm. Thế rồi họ thi nhau bợ đỡ, nịnh nọt… thi nhau làm những việc đổi trắng thay đen, bại hoại luân thường… miễn sao kiếm chút cơm chút cháo thì thôi. Danh tiết đã trở thành món hàng xa xỉ, họ còn không từ cả ăn cắp ăn trộm, rồi lừa đảo thiên hạ, lừa đảo lẫn nhau… y hệt một đám lưu manh. Đến nỗi có người phải thốt lên: “chưa bao giờ kẻ sĩ rẻ mạt và hèn hạ như bây giờ…”

Thầy không tin những chuyện đó. Bằng chứng là đám môn sinh lúc nào mà chẳng lễ phép với thầy. Họ chẳng cũng đang đói khát chầu chực tảng thịt tế cùng với thầy kia hay sao? Thiên hạ thiếu gì kẻ độc mồm độc miệng, thiếu gì kẻ vì không biết đọc sách hoặc không bao giờ đọc sách cho nên tức, đâm ra nói xấu những người đọc sách đó thôi. Chính thầy cũng từng bị như thế, thậm chí có lần còn bị một đứa trẻ trỏ mặt bảo: “lão già hâm” nữa kìa. Tất nhiên kẻ sĩ không phải tất cả đều là thánh, là tiên, mà cũng chia ra hạng nọ hạng kia. Có kẻ đôi khi cũng ăn nói văng mạng, lăng loàn, cũng chửi nhau như hàng tôm, hàng cá, cũng diễn trò khi thì như con rối, khi lại như mấy anh hề… Nhưng chẳng qua chỉ là những kẻ đọc sách không đến nơi, đến chốn, những “con sâu” trong “nồi canh” kẻ sĩ mà thôi. Chứ còn tệ hại đến cái mức như người ta đồn đoán ấy thì thầy chẳng dại tin làm gì…

Rốt cuộc cũng đến lúc thầy hết hoàn toàn hy vọng. Lúc ấy đã cuối giờ hợi, vừa đúng nửa đêm. Trời tối như mực, đến lượt khí âm đã lên cực thịnh. Sắp bước sang ngày khác, không còn trong ngày lễ nữa rồi. Tảng thịt tế kia rốt cuộc đã không được mang tới. Nó dù có thiu hay thậm chí thối đi chăng nữa, thầy cũng không bao giờ được hưởng. Lũ mèo cái kia quả nhiên ghê gớm, nó cướp không những ân huệ vẫn dành cho thầy. Thế là hết. Thầy đói đến ù cả tai, bụng réo sôi lên, ngồi không vững, đến lượt thầy cũng đổ vật xuống nền nhà. Thầy cố gượng đứng lên, nhưng người thầy đã mềm nhũn ra như sợi bún, chỉ còn chống được hai tay, hơi nhổm người lên một chút… Mà sao xung quanh im ắng thế, chỉ còn nghe thấy tiếng thở hắt ra. Chẳng lẽ các môn đồ của thầy cũng lả hết rồi hay sao? Ra… đi… thôi… Thầy chỉ còn nghĩ được như thế. Thu hết sức lực, thầy phều phào bảo môn đồ nào còn sức thì thắp nến lên, rồi thu dọn đồ đạc mà dắt díu nhau rời khỏi nơi này…

Thầy phải ra đi. Nhưng đi đâu? thầy chưa nghĩ đến. Thế gian này có còn chỗ cho thầy, còn nơi nào dung kẻ sĩ nữa không? Suốt bao nhiêu năm nay, thầy cứ tưởng những tảng thịt tế kia là thơm ngon, béo ngậy, là đồng hành mãi mãi với kẻ sĩ như thầy… Có ai ngờ cũng đến ngày chấm dứt, cũng đến hồi cay đắng thế này. Quên không ban thịt tế cho thầy, nghĩa là người ta đã quên, đã không cần đến thầy nữa. Tảng thịt kia mới to tát, mới quan trọng đối với thầy làm sao. Ngày mai biết đâu có những kẻ độc mồm, nhân thấy thầy bỏ đi lại lu loa lên rằng thầy bỏ đi chỉ vì tảng thịt. Thôi thì tránh sao khỏi miệng lưỡi thế gian. Thầy mệt mỏi lê đến nơi đặt chai rượu cúng, thứ mà thầy không dùng đến bao giờ. Sờ soạng vớ lấy cái chai, thầy lập cập mở nút, ngửa cổ tu một hơi dài. Cái chất men làm cho thầy bừng tỉnh, buột miệng văng một tiếng chửi thề. Ôi, trước đây có kẻ bảo rượu là sáng tạo vĩ đại đầu tiên của loài người. Và tiếp ngay sau sự vĩ đại đó, con người liền sáng tạo ra… chửi thề. Bây giờ thầy mới tin là đúng. Thậm chí nếu kẻ ấy còn bảo rằng chửi thề ở xứ xở này đã trở thành một thứ di sản văn hoá phi vật thể(?), thì thầy cũng sẵn sàng tin ngay. Té ra gã Chuột Cống không hề hoa mắt. Thế thì cái lũ cáo đực kia, chắc vẫn mải làm tình với mấy con mèo cái, vẫn say sưa đồng tính với nhau mà chẳng bao giờ biết đến cái sự đi hay ở của thầy.

Nến được thắp lên, gian đại sảnh run rẩy một thứ ánh sáng đỏ quạch, tù mù. Thầy nhìn đám môn sinh mà bỗng giật mình, kinh ngạc. Gần một trăm kẻ chầu chực từ sáng sớm, giờ biến đi đâu hết, chỉ còn lại lác đác mấy người. Thì ra nhân lúc tối trời, những kẻ ấy đã lẻn đi kiếm riêng miếng thịt tế rồi. Giờ thì chúng đang thoả thuê đánh chén. Có khi còn giành giật với nhau, đánh nhau sứt đầu mẻ trán nữa chưa biết chừng. Thảo nào mà thầy cứ hoài công chờ đợi. Rõ là một lũ phản thầy. Thế mà lâu nay thầy cứ cố không tin. Hoá ra những điều đồn đoán trên kia là hoàn toàn có thật. Ôi kẻ sĩ, kẻ đọc sách xưa nay là thế đấy hay sao? Chẳng lẽ cái trật tự mà thầy tốn bao tâm huyết lập nên, rốt cuộc chỉ là ảo tưởng?. Thầy nghĩ vậy mà buốt tận tim gan. Thôi thì cũng thêm một bài học nhớ đời. Thầy buồn bã bảo mấy học trò còn lại thu xếp cho nhanh rồi treo ấn lên, thầy trò sắp hàng vừa khóc vừa lạy chiếc ấn ấy ba lạy, đoạn rồng rắn bấu vai nhau, bước thấp bước cao lần ra khỏi nhà. Con đường phía trước vẫn hun hút gió âm, giờ như sắp chìm vào quên lãng, vừa đen tối âm u, vừa thất thểu bóng người…

Tửu địa

Quán rượu nhỏ của lão Côi điếc ở mé đông làng Cát, nhìn thẳng ra một cái hồ lớn, nước xanh ngắt quanh năm. Một hôm, có một ông già gày gùa, nón tơi áo rách ghé vào quán. Ông khách gọi một chén rượu loại ngon đựng trong chiếc hũ sành nút lá chuối khô. Nhưng lão chỉ đưa lên mũi ngửi, chứ không hề uống, ánh mắt lúc nào cũng ngó đăm đăm vào đàn chó đang tranh nhau mấy khúc xương ngoài đường, như thể bị hút hồn vào cái hình ảnh sinh động rất cuộc đời ấy. Lão Côi lấy làm lạ, mấy lần muốn bắt chuyện mà vẫn cảm thấy chưa tiện mồm. Đột nhiên, ông khách trỏ vào một con chó cái lông xù đứng ngoài đám tranh nhau, đang ngoe nguẩy đuôi, phóng ánh mắt về phía hồ nước mà bảo lão Côi:

- Con chó kia của nhà ông phải không? Nó có tướng: “tam nhật nhất tiểu điểm” đấy. Quả nhiên lão đoán không sai. Mới vừa tới đây, lão đã thấy hình thế làng này tuy bệ rạc, song lại có dáng giống cái lưỡi chó đang liếm vào hồ rượu. Sách xưa gọi thế đất này là “tửu địa”. phải có long mạch gọi là “tửu long”, thì mới sinh ra chốn “tửu địa” như thế này. Giờ lại bắt gặp con chó. Thế thì trong làng tất có tay bợm rượu.

Lão Côi tai vốn nghễng ngãng, song được cái tinh mắt, nhìn mồm có thể đoán ra khách nói gì. Nhưng cũng phải một lúc lão mới hiểu ra, hiểu ra thì càng ngạc nhiên. Bèn hỏi:

- “Tam nhật nhất tiểu điểm”… là tướng gì? xin cụ giảng cho biết.

Ông khách giải thích:

- Theo “Cẩu kinh” (kinh sách chuyên về chó), thì đó là một tướng chó cực hiếm. Giống này khi tiêu hóa, nước thải thoát ra toàn thân theo đường lông. Chỉ có cái tinh chất lắng đọng lại, gọi là “cốt thuỷ”. Ba ngày nó mới đái một lần, mỗi lần đái chỉ có một giọt, và cũng chỉ đái đúng một điểm nhất định trên mặt đất mà thôi. Chỗ ấy quý lắm đấy.

Lão Côi nghe nói, ngẫm lại con chó nhà mình thấy đúng quá. Bèn hỏi tiếp:

- Thế mà nhà tôi nuôi nó bao nhiêu năm nay lại không hề biết. quả là tôi chưa từng bao giờ trông thấy con chó ấy đái. Thậm chí… ngay cả sủa, nó cũng rất kiệm tiếng, không sủa bừa bãi, cẩu thả như những con khác. Chỗ nó đái quý như thế nào, làm cách nào mà biết được hở cụ ?

Ông khách bảo:

- Phải là người có duyên mới tìm ra được. Người vô duyên dẫu có để ý theo dõi, rình rập cũng uổng công mà thôi. Giời đã sinh ra phải như thế. Chỗ nó đái là một cái huyệt cực tốt, gọi là huyệt “cẩu thuỷ”. Kẻ có duyên tìm được rồi thì đợi đúng giờ Tý (nửa đêm), ngày Tuất, đem mả bố mà táng xuống dưới đó. Đặt mả quay hướng nam, để đầu vừa chạm vị trí nó đái. Nếu là huyệt Âm đột (lồi) thì con cháu có thể làm vua làm chúa, ăn không nói có, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ. Nếu là huyệt Dương oa (lõm) thì con cháu có thể làm quan đến tỉnh trưởng, huyện trưởng… Nhưng khi nào con chó ấy chết thì cũng nhanh chóng hết vận.

Lão Côi hỏi:

- Tại sao thế hở cụ?

Ông khách trả lời:

- Huyệt mạch nào thì cũng phải dưỡng mới lâu dài được. Kì cẩu chết, không có chó đái dưỡng huyệt nữa thì hết vận chứ sao.

Lão Côi nói:

- Thế thì có lẽ tôi là người vô duyên chăng? Thật là tiếc quá. Ai biết được có một chỗ chó đái mà quý đến như thế. Song phú quý mà chỉ kéo dài bằng kiếp một con chó thì kể cũng hơi ngắn. Nhưng sao cụ xem tướng chó, lại biết làng tất có tay bợm rượu ?

Ông khách trả lời:

- Hạng trí giả xưa nay xem tướng chó, biết tính chủ là chuyện bình thường. Huống chi loại chó này vốn có sự tích hẳn hoi. Giống này hiếm bởi không do di truyền, mà do giời sinh. Và cũng chỉ có ở chó cái, không sinh vào chó đực. Cái lý nó phải thế. Đi hàng trăm làng may ra mới thấy một con. Ngẫm ra cũng có cái lẽ bên trong của nó. Giống chó ấy mà sẵn thì chẳng lẽ trên đời đầy nhóc cả vua, chúa hay sao? Nó là thứ ngược lại của rượu, là âm tửu. Nó chỉ cất tiếng sủa khi gặp phải đám loạn tửu, sắp gây ra thù hằn nhau, đánh chửi nhau vì rượu đến nơi. Mỗi tiếng sủa của nó có tác dụng làm cho những cái đầu bốc lửa nguội dần đi. Ở đâu có long mạch gọi là “truyền nhân kĩ tửu địa” (đời nào cũng sinh ra một “kĩ tửu” – bợm rượu), thì ở đó mới xuất hiện giống chó này. Song cũng phải có kì duyên, thì hai thứ kì nhân và kì cẩu ấy mới gặp được nhau.

Lão Côi chợt hiểu ra. Hèn nào mà quán của lão chưa bao giờ xảy ra những vụ ẩu đả nhau vì rượu như những quán khác trong làng, mặc dù ở đây không ngày nào là không diễn ra những trận nhậu tưng bừng. Thì ra nhờ có con chó “âm tửu” kia. Nhưng lão Côi nghĩ bụng làng mình đã có tiếng là một làng say, thì thiếu cha gì tay bợm rượu. Già trẻ lớn bé đủ các hạng, cứ tụ tập dăm ba anh là nốc tì tì, hết chai nọ đến chai kia, uống không giới hạn, uống đến say bét nhè, rồi đánh chửi nhau như cơm bữa. Lão bèn bảo:

- Làng này nhiều người hay rượu lắm cụ ạ, không chỉ một người mà thôi đâu.

Ông khách nghe nói, vừa thong thả đưa chén rượu lên mũi ngửi, vừa bảo:

- Uống nhiều, uống say để mà nói nhiều, để mà chửi bới nhau, hay thậm chí tuôn ra thơ phú nhập nhằng thì cũng chỉ là những hạng tục tửu mà thôi. Nhưng đạt đến bậc gọi là “kĩ tửu” ấy, thì dứt khoát chỉ có một. Dân gian quen mồm gọi nôm na là “bợm”, cứ tưởng thế là ghê gớm lắm, chứ thực ra đã ăn thua gì.

Lão Côi lại hỏi.

- Đúng là làng này cứ ai hay rượu đều gọi là bợm hết. Bợm già, bợm trẻ, bợm đàn ông, bợm đàn bà đủ cả. Không hiểu cái bậc “kĩ tửu” mà cụ nói kia thì như thế nào?

Ông khách rung rung chòm râu bạc, mủm mỉm cười ra vẻ bí ẩn và bảo:

- Rồi sẽ đến lúc ông biết thôi.

Lão Côi bắt đầu cảm thấy vừa khâm phục, vừa bị hấp dẫn bởi kiến thức của ông khách về ba cái khoản liên quan: rượu – chó – bợm kia. Bèn rụt rè đề nghị:

- Hay là cụ chịu khó ngồi chơi đến chiều, xem những người đến đây uống rượu, ai là người được như cụ nói, cho bõ một phen cụ lặn lội đường xa?

Ông khách nghe lão Côi nói, vẻ mặt chợt tỏ ra trầm ngâm. Ông bảo:

- Lão đi cũng đã nhiều nơi, rất hiếm khi được chứng kiến một chốn tửu địa như thế này. Nếu may mà gặp được bậc kĩ tửu ấy nữa thì còn gì hay hơn. Có điều không biết đã có duyên gặp được hay chưa. Nhưng làng đâu có thiếu quán rượu, chắc gì họ kéo đến đây mà xem với xét. Ông muốn họ đến thì hãy ra khua đám chó kia, cho chúng sủa nhặng lên…

Lão Côi mừng quớ vì ông khách đã nhận lời, lại càng tròn mắt kinh ngạc về cái sáng kiến ấy của ông ta. Lão vội hỏi, giọng không giấu vẻ thán phục:

- Thì tôi vẫn thường làm như thế mỗi khi muốn kéo họ tụ tập đến đây uống rượu đấy. Làm sao mà cụ biết hay thế?

Ông khách lại nhấc chén rượu đưa lên mũi ngửi rồi chậm rãi trả lời:

- Người hay rượu phản xạ rất nhạy với tiếng chó sủa. Một phần vì có thế mới biết đường mà lần về nhà, khỏi lạc vào ngõ nhà người ta. Một phần vì ở đâu chó sủa nhiều là ở đó có tiệc tùng, đình đám, hội hè…

Lão Côi nghe nói mới biết, thì ra cái tiểu xảo câu khách bấy lâu nay mình vẫn làm, vốn có lý luận biện chứng hẳn hoi. Lão bèn hăng hái vớ lấy cây chổi lao ra ngoài đường, xông vào giữa đám chó, vung chổi lên múa tít. Lũ chó mới đầu ngơ ngác, tưởng lão lên cơn điên. Lát sau dường như chúng hiểu ra, lập tức bảo nhau cùng sủa loạn xạ bằng đủ các thứ giọng trầm, bổng, thanh, đục… chẳng ra bài bản gì. Chúng sủa mãi, sủa mãi, thi nhau mà sủa, sủa như sợ con người quên béng mình là chó, sủa như để tính công… Cứ thế, chúng làm cho huyên náo cả một góc làng.

Quả nhiên, chiều hôm đó diễn ra một tiệc nhậu tưng bừng của các “đệ tử Lưu Linh” làng Cát tại quán rượu lão Côi điếc. Ông khách vẫn thỉnh thoảng nhấc chén rượu đưa lên mũi ngửi, lâu lâu lại thò tay rón một hạt lạc rang bỏ vào mồm nhai, đôi mắt vẫn lơ đãng ngó ra phía ngoài đường cái, dường như không chú ý gì đến cái đám nhậu ồn ào bên trong quán. Thấy thế, lão Côi rón rén nhích tới gần, ghé tai ông khách hỏi nhỏ:

- Đám này toàn những tay “bợm” cả đấy. Cụ không thấy ai trong số họ xứng đáng là bậc kĩ tửu, ứng vào cái triệu con chó “tam nhật nhất tiểu điểm” nhà tôi hay sao?

Ông khách vẫn tỉnh bơ, vừa ngó lướt qua đầu đám nhậu ồn ào, vừa trả lời:

- Tuyệt không có được người nào. Nhưng trong làng thì chắc chắn có. Hôm nay quả chưa gặp được duyên, có chờ thêm nữa cũng vô ích. À phải rồi, ông tính tiền rượu đi, rồi đến lúc ông sẽ biết người ấy là ai thôi.

Lão Côi vội vã xua tay:

- Ấy thôi thôi! Cụ gọi có một chén rượu với mấy hạt lạc rang, có đáng gì mà phải tính tiền. Coi như tôi được hân hạnh hầu cụ. Mà cụ cũng chỉ ngửi, chứ đâu có uống. Chén rượu còn nguyên kia kìa.

Ông khách nói:

- Ai bảo là lão đây không uống? Ông cứ thử xem.

Lão Côi nghe nói vừa cảm thấy khó hiểu, vừa nghi ngờ. Bèn cầm chén rượu đưa lên mũi ngửi. Kỳ lạ thay, chén rượu tuyệt không còn chút hơi rượu nào. Lão vội nhúng ngón tay trỏ vào, đưa lên mồm nếm thử. Quả nhiên, trong chén chỉ còn là nước lã. Quá khâm phục, lão thở phào một cái, vừa tấm tắc, vừa nói:

- Té ra cụ chỉ hít hết hơi rượu, chứ không uống. Nhưng tôi cứ xin được phép đãi cụ.

Ông khách nghe thấy thế bèn trỏ tay vào hũ rượu dựng trong quán bảo:

- Không phải là hít hơi rượu. Đó gọi là phép: “hấp tửu sương” (thu lấy hơi rượu). Lão không trả tiền chén rượu này, mà trả tiền cả hũ rượu kia kìa.

Lão Côi tưởng ông khách muốn mua cả hũ rượu để mang đi, bèn hỏi lại:

- Cụ định mang cả hũ đi à? Liệu có vất vả cho cụ không?

Ông khách vẫn tỉnh bơ giải thích:

- Ông nhầm rồi, lão không mang đi, mà đã dùng hết rồi.

Bấy giờ lão Côi chẳng còn hiểu ra làm sao nữa, chỉ biết đờ người ra vì kinh ngạc pha lẫn nghi ngờ. Lão ngập ngừng tiến lại phía hũ rượu, mở cái nút lá chuối ra. Hũ vẫn còn đầy, song không thấy hơi rượu xông lên như mọi khi, lão vội thò tay vào nhúng rồi lại đưa lên miệng nếm. Quả thực cả hũ rượu đã chỉ còn là nước lã. Lúc này sự kinh ngạc của lão đã biến thành một niềm kính sợ. Thì ra cái phép “hấp tửu sương” gì đấy của ông khách, đã hút hết chất rượu trong chiếc hũ để cách xa hàng mấy mét, biến nó thành nước lã. Thật là một việc chưa từng thấy bao giờ. Lão bắt đầu lờ mờ hiểu ra điều gì, vội vàng quay lại định vái ông khách.

Nhưng ông khách đã không còn ngồi đó nữa.

Trên cái đĩa còn sót mấy nhân lạc, có mấy đồng tiền rượu do ông ta để lại.

Lão Côi hấp tấp chạy ra khỏi quán, ngó đi ngó lại hai phía con đường làng. Không thấy bóng dáng ông khách đâu.

Bên trong quán, đám nhậu đã đến hồi cao trào, mấy gã trai cởi trần trùng trục, mặt đỏ như gà chọi đang bắt đầu lớn tiếng.

Lão Côi điếc tưng hửng quay vào, thừ người ra vì tiếc rẻ. Ông khách đi vội quá, lão còn chưa kịp hiểu thế nào là kĩ tửu, chưa kịp hỏi cặn kẽ về con chó, chắc không chỉ quý ở tiếng sủa và cái chỗ nó đái mà thôi đâu. Biết đâu còn những điều kì diệu nào khác thì sao?… Không biết ông ta có quay lại nữa không? Xưa nay, ngồi nghe bao nhiêu cuộc luận bàn huyên náo bên chiếu rượu, chung quy cũng chỉ là những chuyện đời vặt vãnh mà thôi, chưa bao giờ lão được nghe những chuyện kì lạ. Tự nhiên xuất hiện ông khách cổ quái này, lão linh cảm làng Cát sắp xảy ra chuyện gì. Từ bấy giờ, lão đâm ra hay nghĩ ngợi lung tung…

Kẻ vô thừa nhận

Tòa biệt thự của ông chủ Thắng tọa lạc trong một khuôn viên rộng rãi, có vườn cây, non bộ, có hồ bơi xanh ngắt quanh năm. Ông chủ dáng người trẻ khỏe, tươi tốt hồng hào, đôi mắt bé tí núp sau cặp kính cận dày cộp bốn phẩy bẩy mươi nhăm đi ốp. Sáng nào cũng vậy, sau khi thể dục xong, ông chủ Thắng lại dắt đàn chó của mình ra cổng cho chúng đi vệ sinh quanh mấy gốc cây trên hè phố. Đàn chó gồm năm con đen bóng và béo mượt, con nào cũng nhanh nhẹn, lừng lững như những chú bê con. Đó là giống chó quý ngoại quốc có tên gọi Yalơ. Ngoài cái dáng cân đối, to đẹp đến mức có người đã tặng cho bẩy chữ: “thiên hạ đệ nhất mĩ cẩu chủng” (giống chó đẹp nhất thiên hạ), chúng còn có cái cơ quan phát âm hoàn hảo và hiệu quả không chê vào đâu được. Chưa cần sủa, những con chó quý ấy chỉ hộc lên một tiếng, là đã đủ cho những kẻ yếu bóng vía phải táng đởm kinh hồn. Còn khi chúng cất tiếng sủa mới thật là kỳ vĩ. Cũng là thứ ngôn ngữ muôn đời của loài chó thôi, nhưng những âm thanh phát ra từ những cuống họng đặc biệt ấy, nghe như được tuôn ra từ những cống ngầm, cách xa hàng trăm bước vẫn có cảm giác nó dộng thẳng vào màng nhĩ, làm âm u cả đầu óc đến nửa ngày chưa tan.

Ông chủ Thắng yêu quý đàn chó của mình lắm. Cứ nhìn cái vẻ hớn hở, tự hào của ông mỗi khi đi giữa đàn chó thì biết. Cánh cổng vừa mở, đàn chó hồng hộc lao ra như những con ngựa xổng chuồng, vừa hung hăng nhìn người đi đường, vừa ngoái trông mặt ông chủ như chờ một mệnh lệnh. Ông chủ Thắng quỳ xuống một chỗ, kêu từng con tới gần, hai bàn tay ông nhẹ nhàng và thành thạo lần lượt bóp bóp, giải khai mấy cái huyệt nằm dưới háng chúng. Tại sao ngày nào ông cũng phải làm những động tác này? Bởi giống chó Yalơ vốn có nhược điểm hễ cứ ghếch cẳng sau lên là bị chuột rút, đau đớn không sao chịu nổi. Mà giống chó tính ưa sạch sẽ, bài bản, không ghếch được một cẳng lên thì chúng không đái được. Vì thế nhà nào nuôi giống chó Yalơ cũng phải học cách bóp huyệt như thế. Xong xuôi cái thủ tục vật lý trị liệu ấy, đàn chó chạy tản ra, mỗi con chọn một gốc cây, ngửi ngửi một tý cái chỗ ấy xem có xứng đáng không, đoạn đàng hoàng ghếch chân lên, ồ ồ tương ra như suối. Ông chủ Thắng đứng một chỗ, chỉ huy cái cuộc bài tiết tập thể ấy lẫm liệt như một vị tướng. Ông quan sát, nghe ngóng, thuộc lòng tính nết từng con. Đến nỗi chỉ cần nghe tiếng đái, ông cũng biết con nào khoẻ, con nào có triệu chứng trái gió, trở giời…

Chứng kiến tất cả những cảnh diễn ra hàng ngày ấy, phía bên kia đường, là một gã ăn xin nằm khoèo trên vỉa hè. Gã xuất hiện ở đó từ ngày nào không ai để ý. Chỉ biết rằng đó là một gã ăn xin đói khát, vừa rách rưới vừa hôi hám. Sáng nào gã cũng nhìn đàn chó bên kia đường bằng cặp mắt mê mẩn, không phải mê vẻ đẹp của chúng, mà là mê cái sự sung sướng ấy. Không biết từ lúc nào, gã đã thuộc lòng cả những sự sung sướng diễn ra bên trong ngôi biệt thự kia. Những con chó được nằm trong đệm mút êm ái, được tắm táp bằng thứ xà bông hảo hạng, có người chuyên lo chải lông, bắt rận, có người chuyên lo việc ăn uống. Những bữa ăn của chúng mới thật tuyệt vời. Mùa nào thức ấy, có khi là những miếng thịt bò bít tết thơm điếc mũi, có khi là những khúc giò heo trắng nõn nà. Riêng cơm thì chủ ăn gì, chó ăn nấy, cứ gọi là thả cửa, no đến kềnh bụng thì thôi. Từ khi làm ăn phát đạt, ông chủ Thắng không hề tiếc tiền cho những thú chơi sang, đặc biệt là chơi chó. Dân gian có câu: “dĩ hiếu vi sang” (lấy hiếu làm sang). Ông chủ Thắng cũng là người con chí hiếu, ông đón bố từ dưới quê lên, thuê hẳn một bà già lo săn sóc. Ông bố ngoài bẩy mươi tuổi nằm bệt một chỗ, ăn ỉa phải có bà già ấy nâng đỡ, quanh năm không được tắm rửa thành ra người hôi như cú. Cũng may mà căn phòng ông nằm khuất hẳn phía sau, nên cái mùi ấy không ảnh hưởng gì đến toàn cảnh sang trọng, thơm tho của ngôi biệt thự. Gã ăn xin đói khát chóp chép miệng thèm thuồng. Gã ước gì được sướng như những con chó kia. Gã đâm ra nghĩ ngợi vẩn vơ. Ôi, cái câu thành ngữ: “sướng như tiên” nếu quả có tiên thật, thì đây chính là một thứ tiên bốn cẳng đang hiện hữu trước mắt gã, cần gì phải tìm kiếm, tưởng tượng đâu đâu…

Có một điều mà những ông chủ của giống chó Yalơ như ông chủ Thắng trên kia không hề hay biết. Ấy là cái lai lịch, gốc gác ly kì của chúng. Phải lần ngược lại từ thời xa xưa, khi con chó Yalơ đầu tiên du nhập xứ này. Đó là một con chó đực cường tráng, lạ mắt và to đẹp đến nỗi, đứng bên cạnh nó, những con chó bản xứ đương thời trông mới nhỏ bé, xấu xí và thảm hại làm sao. Con Yalơ tân kỳ không hiểu vì bản chất ngông nghênh hay do chưa kịp “nhập gia tuỳ tục”, mà lại có một thói quen rất tệ hại. Nó cứ thích đứng ghếch một cẳng lên ngôi miếu nhỏ cạnh bờ sông mà đái, đái mãi làm sụt cả nền đất, khiến ngôi miếu đổ lệch về một bên. Ngôi miếu bé tí mỗi chiều không đầy bốn tấc, cao năm tấc, vừa đủ chứa một bát hương cắm mấy chân nhang xiêu vẹo và một cái đĩa sành sứt mẻ, chẳng có bài vị bài viếc gì ráo, ngay đến một nửa chữ cũng không. Chẳng ai biết ngôi miếu ấy thờ cái gì, nhân sự kiện gì mà lập nên. Cứ tưởng rằng đã là miếu, thì dù lớn nhỏ gì cũng tất có thần chủ, té ra không đơn giản như thế. Chỉ biết rằng lúc nó bị nghiêng thì tiếng chuyển nghe ầm ầm, cả một vùng xung quanh tưởng như có động. Thổ địa vùng ấy biết việc không thể xem thường, bèn lật đật tới tận nơi xem xét, mới hay con chó trứ danh kia làm bậy…

Điều khó tin nhưng có thật là đến cả thổ địa cũng quan liêu không biết thần chủ của ngôi miếu ấy là ai. Thấy nó toạ lạc gần bờ sông thì đoán chắc là thờ một vong hồn chết trôi nào đấy. Bèn giở danh mục chết trôi từ những năm tý, năm sửu… ra tra xét. Danh sách biên chép rõ ràng các loại chết trôi sấp, trôi ngửa, trôi vùn vụt, trôi lờ đờ, trôi do lụt lội, trôi do trượt chân… từng qua vùng này kể tới hàng ngàn. Song tất cả nếu chưa kịp đầu thai thì cũng đều có nơi, có chốn, tịnh không có vong hồn nào trú ngụ nơi đây. Lại giở các danh mục khác ra. Toàn những kiểu chết bất đắc kỳ tử, nào là chết do loạn lạc, bị tên bắn dao đâm, chết do đói khát, do chán sống hay oán hận vì tình, chết theo kiểu quăng xác nơi chợ búa, ngòi rãnh hay treo mình lủng lẳng trên cây… Những số này đông không kể xiết. Thế mà cũng tuyệt không lần ra manh mối. Cái miếu đó té ra để nguyên thì cứ tưởng là có chủ, đến khi bị nó đái đổ mới hay chẳng phải của ai. Tóm lại đó là một ngôi miếu hoàn toàn vô tích sự, do ai lập nên thì chắc chỉ người ấy mới hiểu rõ lý do.

Việc đến đây lẽ ra có thể xí xoá cho xong, con chó Yalơ ngoại quốc kia kể như vô sự. Song thổ địa ấy vốn có tính cẩn thận, chu đáo xưa nay, lại cảm thấy có gì không ổn, suốt ngày đêm cứ áy náy trằn trọc, tâm thần hoảng hốt không yên. Bèn làm sớ tâu đến thành hoàng. Vị thành hoàng quả nhiên sáng suốt cao minh, lại sẵn có chủ kiến rõ ràng, hơn hẳn những thổ địa kiến thức hẹp hòi, nông cạn. Miếu không có thần chủ thì là… miếu chung chứ sao. Ngay lập tức, thành hoàng xếp vụ này thuộc vào loại trọng án, sai lâu la áp giải linh hồn con chó Yalơ ấy tới xét xử. Lâu la một tay cầm chiếc rọ, một tay cầm quạt lông tới trước cổng nhà chủ khẽ phẩy một cái, linh hồn con chó rời khỏi chỗ nằm, nghiêng ngả lướt qua hàng rào, rồi mờ mịt chui tọt vào chiếc rọ. Lâu la đóng nắp lại, dùng ngón tay trỏ nhấp nước bọt viết lên một chữ: “niêm” rồi mang về trình thành hoàng.

Bấy giờ vong hồn các xứ nghe tin có kẻ dám đái đổ miếu thờ, thì tất thảy đều nghiến răng căm giận, bèn rủ nhau rùng rùng kéo tới hò hét ầm ĩ, đòi thành hoàng phải xử thật nghiêm. Đến khi biết cái miếu đó vốn không phải của ai, mấy lâu nay hương khói lạnh tanh, chẳng khác gì những thứ vô tri vô giác vẫn tồn tại trên đời, thì lại bấm nhau tản đi hết mà không thèm quan tâm tới nữa. Con chó Yalơ kia quả không hổ là giống chó ngoại danh tiếng, ít nhiều có chút kiến thức học mót được từ nơi xuất xứ. Nay thấy mình đột nhiên trở thành tội nhân bị đưa ra xét xử, nó lớn tiếng đòi phải có luật sư bào chữa, hay ít ra cũng có quyền tự cãi để bảo vệ cho mình. Cũng may bấy giờ nền luật pháp của cõi âm u cũng có nhiều tiến bộ, yêu sách của con chó nhanh chóng được chấp thuận. Cáo trạng dài ngót trăm trang quy con chó Yalơ phạm tội đái đổ miếu thờ, báng bổ thần linh, làm cho vong hồn mất nơi nương tựa, có nguy cơ xói mòn cả tín ngưỡng nhân gian… Việc ấy nếu cứ tiếp diễn thì không những cõi âm u mất nơi trông cậy, mà ngay cả cõi trần cũng khó bề yên ổn được tâm linh…

Cáo trạng tuy đanh thép, song còn có chỗ hớ, đó là không nêu được đích danh kẻ bị hại là ai. Con chó Yalơ láu cá vin vào chỗ hớ ấy, cãi lấy cãi để, lớn tiếng đòi được chất vấn kẻ bị hại kia. Thành hoàng xem ra đuối lý, liếc mắt nhìn tả hữu, mong có ai đứng ra tự nhận mình là người bị hại, tiếc rằng đám tả hữu lúc trước to mồm là thế, nay nhất tề ngoảnh mặt làm ngơ, vong hồn các xứ thì đã lảng hết cả rồi. Thật là trần sao âm vậy, những câu: “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” hoặc: “cha chung không ai khóc”… lại đúng cả với cõi âm u. Thành hoàng cay đắng nhìn cái vẻ ngông nghênh của gã chó Yalơ kia mà sôi tiết, muốn quật cho nó hộc máu ra mà chưa biết phải xử trí thế nào, một kẻ dám báng bổ dường ấy, chẳng lẽ đành phải xử trắng án hay sao?…

Bấy giờ thành hoàng có một vị mưu sĩ họ Giả tên Sử, thường gọi là Giả Sử tiên sinh. Vị này vốn là một tay học trò có tiếng hay chữ, nhưng cứ động thi là rớt oành ọach. Có người đùa mới vỗ vào bụng mà bảo: “cái bụng lắm chữ này sao cứ thi rớt mãi như thế?”. Tiên sinh phẫn chí quá bèn lấy dao tự mổ bụng ra, tính moi hết chữ vứt đi cho hả giận. Ai ngờ mổ bụng rồi bới mãi, chữ đâu chưa kịp thấy thì hồn đã về chín suối. Thành hoàng thương là kẻ chết oan, lại thấy tay kẻ sĩ hụt ấy có vẻ đa mưu túc trí nên giữ lại làm cố vấn bên cạnh mình. Giả Sử tiên sinh thấy mọi người cố tình lảng tránh, trong khi thành hoàng đang hết sức tức giận, bèn tiến ra nói:

- Ngươi đã thừa nhận rằng đó là một ngôi miếu, thì dù không biết chủ của nó là ai, cũng không được phép đái vào. Đó có phải rõ ràng là báng bổ hay không? Huống chi ngươi từ nơi xứ lạ qua đây, chưa quen phong tục, không biết lễ nghi, những gì không biết thì lại càng không được động tới. Nay ngươi dám đem cái thứ luật pháp ngoại quốc nào đó ra, giữa nơi tôn nghiêm mặc tình la lối, thái độ nhơn nhơn, dương dương tự đắc, thật không coi kỷ cương, phép tắc ra gì. Chỉ nguyên tội ấy, cũng đáng phải xử ngươi trăm vạn lần…

Thành hoàng nghe nói mừng quá, bèn nhân đà nương theo mà quát tháo, sai lâu la rọ mõm con Yalơ lại, không cho cãi nữa, khép vào tội đem vứt trôi sông, án lệnh lập tức thi hành. Con Yalơ có vẻ vùng vằng không phục, song mõm bị cột chặt rồi, không làm sao cãi thêm được, bèn lấy lại tư thế, tỏ ra coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nó lừ lừ quay đầu theo lâu la, ra vẻ phớt tỉnh sự đời, cong cái đuôi lên, đường hoàng bước ra khỏi cửa.

Con Yalơ đi rồi, thành hoàng và đám tả hữu thở phào như vừa trút xong gánh nặng, nét mặt ai cũng có vẻ hả hê trông thấy. Chỉ có một người vẫn tỏ ra đăm chiêu. Chính là vị Giả Sử tiên sinh kia. Chợt nghĩ ra điều gì, tiên sinh vội nói:

- Không xong rồi. Án tuyên như thế, xem ra còn có chỗ hớ. Nó đã tỏ thái độ không sợ chết, thì ném trôi sông phỏng có ích gì. Chưa kể thế gian bây giờ còn nhiều mê lú, thấy xác chó chết trôi, biết đâu người ta lại vớt nó lên, có khi còn lập miếu thờ nữa thì thật là tai hại. Thế thì bản án lại thành ra một cách phong thần không công cho nó hay sao?

Thành hoàng và mọi người nghe nói ngớ ra vội hỏi

- Thế thì phải làm thế nào bây giờ?

Tiên sinh mặt vẫn đăm chiều, vừa ngẫm nghĩ đến đâu, vừa nói ra đến đấy:

- Nó đang sướng, bắt phải khổ, cho tiệt cái thói ngông nghênh. Nó đang có chủ, bắt phải vô chủ, đang mượt mà, bắt phải lở lói, đang no ấm, bắt phải đói rách, đang có nhà, bắt phải đi hoang… Thế thì chỉ có thể là lốt người, một lốt người sống kiếp ăn xin…

Thành hoàng lại mừng quớ lên. Vội vàng sai người đi gọi ngay gã lâu la kia đem con chó Yalơ về để xử lại, hoá phép cho nó phải mang lốt một kẻ ăn xin. Tại sao vừa mới xử xong lại có thể thay đổi ngay như thế? Chuyện bình thường ở cõi âm u. Cũng như những giấc mơ, cứ việc tha hồ thay đổi xoành xoạch mà có sao đâu. Con Yalơ đã bị trói túm bốn vó, chuẩn bị quẳng xuống sông. Người đi gọi may vừa tới kịp, bèn cùng gã lâu la kiếm đòn khiêng xỏ vào giữa bụng nó, lủng lẳng khiêng con chó về lại công đường…

Nói về nhà chủ của con Yalơ, buổi sáng hôm đó thức dậy, không thấy con chó quý của nhà mình đâu, lại thấy bên cạnh chiếc ổ bằng đệm mút vẫn dành cho nó, lù lù một gã ăn xin vừa lở lói, vừa rách rưới, ruồi nhặng bâu đầy người, hôi hám không sao chịu được. Cả nhà ấy hoảng hồn vừa kinh sợ, vừa ghê tởm, vội vàng vớ lấy gậy gộc, xua đuổi bằng được gã ăn xin kia ra khỏi nhà…

Về phía thành hoàng, từ khi xử lại bản án phạt con chó Yalơ biến thành gã ăn xin, thì có vẻ hả hê, đắc ý, cho là đáng đời cái thứ ngoại lai láo xược. Bất ngờ lại phát hiện vẫn còn một chỗ hớ chết người. Thì cũng lại từ vị Giả Sử tiên sinh kia. Tiên sinh đưa ra ý kiến, rằng bây giờ đang gặp thời loạn lạc, chính là lúc vật đổi, sao dời. Người ta sống ở đời vào những lúc như thế này, có thể lên voi, xuống chó không sao mà lường trước được. Dân gian có câu: “chó nhảy bàn thờ”. Gă ăn xin kia chắc gì đã cam chịu mãi kiếp ăn xin, lại vốn có chút kiến thức tân kỳ, biết đâu gã chẳng gặp thời mà lộn kiếp giống như khối kẻ khác, mà đổi đời làm nên công hầu khanh tướng, thì cái hình phạt kia chẳng hoá ra lại may mắn cho gã lắm hay sao…

Thành hoàng nghe bàn chợt tỉnh ngộ, giật mình đến toát cả mồ hôi. Bèn bấm đốt ngón tay, tính ra thì con chó Yalơ kia đã sống kiếp ăn xin được bẩy bẩy bốn mươi chín ngày. Lập tức truyền cho đòi linh hồn gã ăn xin tới, sửa lại bản án lần thứ hai. Đó là bắt trở về kiếp chó Yalơ như cũ, song yểm vào hai bên háng nó hai cái huyệt, để mỗi khi ghếch chân lên đái, sẽ bị chuột rút mà đau đớn toàn thân. Từ đó giống chó Yalơ phải mang cái hình phạt chuột rút ấy di truyền tới mãi tận con cháu sau này. Cũng may đó là giống chó quý, ai cũng mong có nó để làm sang, cho nên người ta đã nhanh chóng tìm ra phương pháp giải hai cái huyệt đó, thành ra không ảnh hưởng gì đến sự sinh sôi, nảy nở của nòi giống chúng sau này…

Từ con chó Yalơ đầu tiên du nhập ấy, truyền đến đàn chó năm con của ông chủ Thắng bây giờ tính ra phải đến mười lăm, mười sáu đời. Không hiểu sao gã ăn xin bên kia đường lại biết rõ cái gốc gác tổ tiên ấy của chúng. Đó là một bí ẩn không ai biết được. Gã đặc biệt ghi nhớ quãng thời gian ngắn ngủi bốn mươi chín ngày làm kiếp ăn xin của con chó Yalơ tổ tiên kia. Gã lại tiếp tục nghĩ ngợi vẩn vơ. Biết đâu trong bốn mươi chín ngày ấy, gã ăn xin – Yalơ kia cũng kịp để lại nòi giống thì sao? Nếu thế thì lại biết đâu gã chính là một trong số hậu duệ của nó? Nghĩa là gã cũng có họ hàng, bà con với đàn chó tiên cảnh bên kia đường(!). Nghĩ đến điều đó, gã cảm thấy sướng rơn người. Một hy vọng được đổi đời, đổi kiếp sống chợt loé lên, dần dần choán hết tâm trí gã. Mặc kệ, gã cứ tin chắc như thế, sống phải có niềm tin mới được, Gã đã có niềm tin, dù đang phải sống một kiếp đi hoang. Gã bắt đầu nhìn đàn chó Yalơ kia bằng ánh mắt của một kẻ họ hàng. Niềm tin của gã dần dần được củng cố. Đến nỗi một hôm, gã mơ gặp cụ tổ ăn xin ấy. Cụ cũng rách rưới và hôi hám bò đến xoa đầu gã mà bảo rằng:

- Mi đúng là hậu duệ của ta. Đến mi là đời thứ sáu. Vì mi có niềm tin, nên sẽ được trở về kiếp chó Yalơ danh tiếng. Cũng chỉ còn bốn mươi chín ngày nữa thôi. Có điều hãy tránh xa các ngôi miếu, dù đó là miếu hoang. Đừng bao giờ lặp lại cái tội lỗi của ta…

Gã ăn xin sướng đến mê ly. Gã mong cho chóng đến cái ngày ấy. Gã sẽ trở thành có chủ, có chăn ấm, nệm êm, được ăn uống no nê, sướng miệng, khỏi phải suốt ngày lê la nhặt nhạnh, chịu cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Từ hôm đó gã nằm bẹp ở một góc vỉa hè, sống bằng niềm tin, niềm hy vọng đang làm nở nang từng khúc ruột. Nụ cười tươi đã bắt đầu xuất hiện trên môi gã, làm sáng bừng khuôn mặt dúm dó, sáng bừng cả góc vỉa hè vốn tối tăm, ẩm ướt nơi gã nằm. Hiện tượng quái đản đó thỉnh thoảng làm người đi đường phải giật mình để ý. Người ta kháo nhau rằng chỗ đó hình như có ma, giữa ban ngày nó cứ nằm trông ra đường, vừa giương mắt nát người đời, vừa nhe răng cười nhăn nhở…

Phía bên kia đường, năm con chó Yalơ vẫn vô tư hưởng những sự giầu sang, sung sướng dành cho chúng, vẫn hàng ngày tung tăng thăm viếng các gốc cây và thỉnh thoảng ra oai bằng những tiếng sủa làm rợn cả lòng người. Có vẻ như chúng không hề nhận ra rằng có một kẻ mới nhận ra mình có họ hàng với chúng, đang nằm dài đếm từng ngày, từng giờ, mong trút bỏ lốt người để được nhập vào cái đàn quý phái ấy.

Thế rồi thời khắc kì diệu mà gã ăn xin hằng tin kia cũng đến gần. Còn đúng một ngày một đêm, chính xác là không đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa, gã sẽ thoát khỏi cái kiếp người không nhà cửa, đi hoang, đói rách này, để trở lại làm kiếp chó Yalơ tiên cảnh kia. Gã sung sướng, hồi hộp đến lịm đi. Gã đâu biết rằng nguồn dinh dưỡng ít ỏi còn lại trong cơ thể gã, thực ra cũng chỉ đủ để duy trì sự thoi thóp của gã đúng bằng cái thời hạn ấy. Song điều đó cũng không sao, gã vẫn còn kịp chán. Miễn là đúng lúc ấy, gã được trở thành một chàng chó Yalơ, được nhập vào cùng đàn với những anh em máu mủ kia, thì sự no đủ, khỏe khoắn sẽ lập tức đến với gã ngay.

Thời gian cứ nhích dần, nhích dần. Chỉ còn vài giờ nữa… Gã cảm thấy “ông tổ ăn xin” lần trước đang bò đến gần. Dễ hiểu thôi, “ông” đến để chứng kiến cái giờ phút thiêng liêng, cái giờ phút gã trút bỏ lốt người… Chợt, gã bỗng phân vân tự hỏi: không biết nên trở về lốt chó từ đầu xuống trước hay từ dưới chân lên? Điều này trong suốt những ngày chờ đợi, gã không hề nghĩ đến. Như thế nào cho phải đây? Gã bỗng cảm thấy mình bị tách ra làm hai phần, đang chứng kiến cuộc tranh nhau giữa phần đầu và phần chân của chính gã. Phần đầu gã hung hăng:

- Phải biến thành chó từ đầu xuống mới công bằng. Chính ta đã lưu giữ cái gien di truyền kia từ suốt bao nhiêu đời. Ta đã chán ngấy cái lốt người, nay ta phải trở về lốt chó trước…

- Không được – phần chân gã gào lên – phải biến từ chân lên mới đúng. Để ta còn đủ sức phóng qua con đường này, chui vào trong biệt thự kia mà nhập bọn với đàn anh em của ta…

- Nếu ta không giao cái gien di truyền mà ta đang giữ đây, thì làm sao các ngươi trở về lốt chó được. Tại sao lại tranh nhau với ta – phần đầu cố gắng cãi.

- Ai dám đảm bảo rằng khi đã mang lốt chó, ngươi không quên chúng ta? Nhất là khi có được cái mũi thính của giống Yalơ danh tiếng, thì mùi thức ăn dù có ở cách xa đây vạn dặm, cũng đủ làm cho ngươi mê lú mất rồi. – Phần chân lập tức đáp trả.

- Ta chưa bao giờ trông thấy một con người mang cặp chân tay chó cả – phần đầu tiếp tục cãi – điều đó làm cho ta xấu hổ đến chết mất. Dù chỉ còn một khoảnh khắc mang cái lốt đầu người, ta cũng không chịu nổi. Vậy phải để ta biến thành chó trước cho xong.

- Thế chẳng lẽ chúng ta sẽ hãnh diện lắm khi phải mang trên cổ một cái đầu chó hay sao? – phần chân cãi lại – điều đó gây phiền phức cho chúng ta biết dường nào. Nhất là sẽ không biết lối mà đặt chân, tay vào đâu cho phải phép…

Cứ thế chúng cãi nhau, tranh nhau được biến thành chó trước. Phần đầu kiên quyết không nhường phần chân, phần chân cũng không chịu phần đầu. Thân xác gã ăn xin rốt cuộc cứ phải trơ mãi cái lốt người như thế. Thời gian đã nhích gần đến cái mốc cuối cùng. Sốt ruột vì cứ phải chứng kiến mãi cuộc tranh giành, “ông tổ ăn xin” của gã buồn bã lên tiếng:

- Xem kìa, tại sao lại tranh nhau. Thời hạn đã hết rồi, sự sống cũng không còn ở trong mi nữa. Bây giờ, dẫu có được trở lại lốt chó, thì mi cũng không đủ sức vượt qua con đường này, không đủ sức nhập vào với đàn chó bên kia. Rốt cuộc chỉ là một con chó chết mà thôi.

Nói xong, “ông tổ ăn xin” ấy quay lưng bỏ đi. Phần đầu và phần chân gã nghe ra lập tức tỉnh ngộ, chúng thôi cãi nhau, lại nhập vào làm một như cũ. Gã ăn xin cũng vừa tỉnh ngộ, vừa hoảng hốt thấy cơ hội không còn. Gã vội vã gào lên van xin, tiếng gào đã không còn chút sinh khí, tắt lịm lại giữa chừng:

- Tôi van người, tôi xin người, hãy cho tôi mang lốt chó Yalơ, dù chỉ còn là một cái xác…

Buổi sáng hôm ấy, đám đông dân chúng hiếu kỳ túm năm tụm ba đứng từ xa chỉ trỏ, một chiếc xe hòm đỗ lại cạnh chỗ gã ăn xin. Mấy người đeo khẩu trang từ trên xe nhẩy xuống, họ lôi ra từ trong thùng xe một chiếc hòm gỗ xấu xí, bỏ cái xác còng queo của gã vào, đậy nắp lại rồi dán lên phía trên một tờ giấy có ghi dòng chữ: “VÔ THỪA NHẬN”. Xong xuôi, họ ì ạch khiêng chiếc hòm gỗ lên xe rồi đóng sập cửa lại, chiếc xe rồ máy phóng đi. Đám đông cũng thôi chỉ trỏ, dần dần giải tán. Phía bên kia đường, cánh cổng lại mở như thường lệ, đàn chó năm con lại hùng dũng phóng ra, theo sát phía sau là ông chủ Thắng…

Thằng bé

Chiếc cầu sắt hoang phế, gỉ ngoét ưỡn bộ xương qua dòng kinh đen kịt. Dưới chân cầu, ngay sát mép bùn có một người đàn ông rách như tổ đỉa đang ngồi dạng cẳng. Ông ta mải mê dùng móng tay cậy những miếng gỉ sắt mọc lởm chởm nơi trụ cầu, bỏ vào mồm nhai.

Thằng bé về đến nhà thì bố nó đã đi đâu. Ngôi nhà là cả một sự đảo lộn. Ngay cả cái mái tôn cũng chúc xuống phía dưới. Cột ăng ten gãy gục, sợi dây bị cắt rời từng khúc. Bàn ghế, giá sách, tủ đứng, ti vi… tất cả đều lộn ngược. Những quyển sách bung ra, úp mặt xuống đất. Mấy lọ hoa đổ lổng chổng, những bông hoa rúc vào trong lọ, thò cuống ra bên ngoài. Những khung ảnh bị tháo tung. Chổi rơm bị xé rời từng mảnh. Con chó Mực đang trồng cây chuối bằng hai chân trước ở góc nhà, hai chân sau của nó bơi trong không khí như hai dấu ngã, cái đuôi đen bóng trỏ thẳng lên trời. Con mèo Min cũng trong tư thế như vậy, chỉ khác là cái đuôi nó cụp xuống…

Thoạt tiên thằng bé nghe một tiếng: “Á“, rồi những tràng cười sằng sặc rộ lên, lộng óc. Tiếng người. Thằng bé giật nảy mình, vội ngước mắt nhìn lên. Nó nom thấy những gương mặt đỏ au, vàng ệch, tái xám, trắng dã, đen xì… cơ man là gương mặt người. Rồi có hai bàn tay xù xì, gân guốc từ trên cao chụp xuống đầu nó. Hai ngón trỏ thọc sâu vào bên trong, bắt đầu quấy óc nó như chuẩn bị làm một món tương. Thằng bé chưa kịp phản ứng thì lại có hai bàn tay khác. Lần này như hai gọng kìm đang từ từ xiết lấy cổ nó. Trước ngực, sau lưng hình như cũng có hai bàn tay đang bấu chặt cả khuôn ngực gày gò của nó. Những ngón tay dài, lạnh như những con rắn đang lùng sục trong lồng ngực. Hình như lùng bắt trái tim. Phía dưới cũng có mấy bàn tay vươn tới chụp lấy đôi chân khẳng khiu…

Thằng bé quay người bỏ chạy ra khỏi căn nhà. Con Mực và con Min cũng hạ hai chân sau xuống. Cả hai cùng co mình, rún nhẹ một cái rồi tung cẳng phóng theo.

Một người, một chó và một mèo cứ thế chạy, chạy trong câm lặng. Người đi đường trố mắt ngó theo. Thực ra thì chúng cũng đã từng kêu lên. Song con Mực vừa “gâu“ một tiếng thì bỗng hoảng sợ, tiếng sủa nghẹn lại giữa chừng, chỉ còn rít rít mấy cái trong cổ họng một lát rồi tắt hẳn. Con Min vừa há mồm “meo“ bỗng hoảng hốt cụp đuôi, toàn thân run bần bật. Thằng bé cũng chỉ kịp thét lên một tiếng “Ối!“ Bỗng nó nhớ lại câu chuyện bố nó mới kể cho nó nghe hôm trước. Thế là nó nín bặt, không dám há mồm ra nữa. Người đi đường cũng có kẻ dừng lại: “Này! Này, thằng bé kia… chạy đi đâu thế?“.   Tiếng người càng làm nó hoảng sợ. Đôi chân nó vội vàng rẽ ngoặt sang hướng khác. Người ta chỉ trỏ, bàn tán, nhìn theo một lúc rồi lắc đầu bỏ đi. Ai cũng có công việc của riêng mình…

Người nào chợt bắt gặp cảnh ấy cũng ngạc nhiên. Có điều gì không bình thường trong những đôi chân đang chạy cuống cuồng kia. Đây đúng là chuyện lạ. Giá như vào trường hợp khác thì người xem đã xúm đen xúm đỏ rồi. Xứ sở này vốn nổi tiếng tò mò. Tiếc rằng cái chuyện lạ này nó di động, nên không có cơ hội cho những đám đông hiếu kì có dịp hình thành. Dù sao thì người ta cũng tranh thủ ngoái lại nhìn cho đến khi hút tầm mắt.

Chúng cứ chạy như thế không giảm tốc độ. Con Mực chạy sau thằng bé vài bước chân, tiếp đến là con Min, hai cái đuôi cong vút như hai dấu hỏi. Hễ có tiếng người là chúng lập tức tìm cách rẽ ngoặt sang một hướng khác, bất kể đó là một đường phố hay một con hẻm. Chính vì thế mà mặc dù đã chạy mãi, chúng vẫn luẩn quẩn trong thành phố. Cũng có vài vụ kẹt xe sơ sơ xảy ra bởi những kẻ bỗng dừng lại giữa đường để ngó theo. Thậm chí có những vụ va quệt nhẹ. Song nói chung là bình yên. Thành phố vẫn thản nhiên diễn biến cái không khí sôi động của nó.

Sáng sớm hôm sau, các tờ nhật trình chạy tít lớn, đại loại: “Chuyện lạ trong thành phố. Một thằng bé, một con chó và một con mèo chạy như bị ma đuổi…“.  Có ảnh chụp cả ba đang chạy. Ảnh màu, ảnh đen trắng… đủ các tư thế, đủ các vị trí, quãng phố… không báo nào trùng với báo nào. Cả những lời tường thuật, những bài bình luận cũng không giống nhau. Tất cả đều phỏng đoán, úp úp mở mở. Người người xúm lại quanh những quầy báo. Nơi bến xe, bến tàu… những chú bé bán báo mặt hồ hởi khua khua những tờ nhật trình, hét lạc cả giọng.

Một số người dân bỗng dưng nổi tiếng, được nêu tên tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp… lại còn chường cả chân dung lên mặt báo. Họ trả lời phỏng vấn về những gì đã chứng kiến. Phần lớn đều thêu dệt cho thêm phần ly kì…

Suốt ngày hôm ấy cho đến tận sáng hôm sau, cả ba vẫn chưa chạy ra khỏi thành phố. Các tòa báo biết vậy cử phóng viên giỏi nhất săn lùng. Tin tức, tọa độ của cuộc chạy luôn luôn được báo về tòa soạn. Các phóng viên ngồi trên xe gắn máy, xe gíp, ô tô… tranh nhau chụp những bức ảnh đắc địa nhất. Những cuộc phỏng vấn lại liên tục diễn ra nơi thằng bé chạy qua. Đủ các hạng người tham gia trả lời phỏng vấn. Vé số dạo, đánh giày, bán hàng rong, xe ôm… chuyến này tha hồ lên mặt báo. Mọi người mải xem chúng chạy, không ai để ý dưới chân chúng lúc nào cũng có bóng rợp. Thì ra có một đám mây bay theo. Phóng viên báo “Chúng Nó“, tờ báo lớn nhất nhì cả nước là người đầu tiên phát hiện ra điều này. Vội vàng chụp ảnh, viết tin ngay tại chỗ rồi truyền cấp tốc về tòa soạn…

Báo “Chúng Nó“ bán đắt như tôm tươi. Ra cả phụ trương buổi chiều, buổi tối… Các kênh ti vi cũng không đứng ngoài cuộc. Tất cả đồng loạt đưa tin, truyền hình tại chỗ, phỏng vấn… Những người dân được gợi ý bình luận, mỗi người phỏng đoán mỗi kiểu. Ai cũng hăng hái, hưng phấn vì được xuất hiện trên ti vi, trên báo. Có người khẳng định thằng bé đã chạy qua chỗ mình tới bốn năm lần. Đặc biệt, phát hiện của phóng viên báo “Chúng Nó“ càng làm câu chuyện thêm hấp dẫn, có yếu tố ly kì, câu độc giả. Thành phố cuồng lên. Sốt ruột. Ai cũng muốn tham gia bàn tán…

Báo “Chúng Tao“ tỏ ra điềm tĩnh hơn. Cần phải hướng dẫn dư luận, đó là trách nhiệm của báo “Chúng Tao“.  Không thể giải thích bằng cách vu cho thằng bé tội phản quốc hay đại loại tội gì đó tương tự. Đơn giản bởi nó còn quá bé để làm những việc ấy. Vậy thì nó là thằng ăn cắp. Đã có người sẵn sàng đứng ra khẳng định chính mình từng bị nó móc túi. Báo “Chúng Tao“ dễ dàng tìm ra những người như thế. Bèn đăng liên tục, nhiều kì về chuyện ăn cắp của thằng bé. Không thấy nhắc gì đến con Mực, con Min với cả đám mây…

Các nhà đạo đức giả thoạt tiên không tin. Kinh nghiệm và sự từng trải từ lâu đã dạy họ không nên tin vào báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình. Nhất là những câu chuyện giật gân, vô bổ. Mà dù có thật đi chăng nữa thì cũng chẳng mấy chốc sẽ kết thúc. Không một cuộc chạy nào có thể kéo dài mãi cả. Họ tiên đoán một cách rất uyên bác, rằng sự kết thúc cũng sẽ đột ngột như lúc nó bắt đầu. Nhưng đến ngày thứ ba, cuộc chạy vẫn diễn ra ở đâu đó trong thành phố. Bấy giờ các nhà đạo đức giả buộc phải lên tiếng. Không thể để cho một thằng bé cứ chạy mãi như thế được. Nó sẽ kiệt sức mất. Phải tóm nó lại. Phải cứu lấy nó, v.v…

Các báo giật mình tỉnh ngộ. Khai thác chuyện giật gân trong khi một thằng bé đang chạy kiệt sức là một điều dã man. Báo “Chúng Nó“ kêu gọi mọi người hãy giữ thằng bé lại. Báo “Chúng Mày“ tỏ ra thiết thực hơn, treo giải thưởng một năm báo biếu cho những ai túm được thằng bé. Báo “Chúng Tao“ nhắc nhở chính quyền địa phương cần phải nhanh chóng vào cuộc. Cảnh sát được huy động. Những chiếc xe gắn còi hụ tỏa ra các ngả đường, trên xe có cả chó nghiệp vụ ngồi thè lưỡi.

Chúng vẫn chạy đâu đó trong thành phố. Nhưng xem ra không còn được bao lâu bởi tất cả đã vào cuộc, từ dân chúng tới cảnh sát, phóng viên… tất cả đều sẵn sàng ngăn chúng lại. Đầu tiên là mấy bà bán quầy thuốc lá vỉa hè. Phát hiện thấy chúng từ những tiếng hò reo phía xa, mấy bà xông ra chặn giữa đường. Song thằng bé đã vuột qua tay mấy bà, trơn tuột như một con chạch. Cả con Mực và con Min cũng dễ dàng phóng vút qua. Đám mây vẫn bay theo chúng như một cái tán di động. Đến lượt mấy thanh niên vô công rồi nghề cũng bỏ dở ván bài nơi vỉa hè để xông ra. Không ăn thua. Người thằng bé cứ như làm bằng không khí. Rõ ràng túm được nó rồi mà hai tay vẫn hụt hẫng. Chưa kịp ngạc nhiên thì thằng bé đã chạy quá đến chục mét. Con Mực và con Min còn khó túm hơn…

Chả cứ gì dân chúng. Cả cảnh sát cũng vồ hụt mấy lần, anh nào anh nấy trơ mắt nhìn nhau, sự kinh ngạc làm các cảnh sát xuất thần, không thể tin nổi. Đến khi giật mình nhớ lại nhiệm vụ thì thằng bé đã bỏ xa một quãng. Chó nghiệp vụ sủa inh ỏi, vừa sủa vừa thở hồng hộc, những cái lưỡi đỏ lòm thè hết ra ngoài. Lưỡi chó. Lại đuổi theo, lại chặn đầu. Xe cảnh sát hú ran khắp các ngả đường, máy bộ đàm đồng loạt hoạt động, liên tục thông báo tin tức giữa các toán cảnh sát.

Bây giờ thì rõ ràng đang diễn ra một cuộc đuổi bắt. Đuổi đằng sau, kẹp hai bên, chặn đầu… Không có chuyện thằng bé cấu tạo bằng không khí. Vậy mà vẫn không sao tóm được nó. Nhà chức trách cáu lên. Đầu tiên là con Min bị tóm. Song người nó đã mềm nhũn, chỉ còn như một cuộn giẻ lau. Nó đã chết từ 24 tiếng đồng hồ trước đó. Thằng bé tiếp tục vuột khỏi một bàn tay hộ pháp. Lại vồ, lại vuột… Đến lượt con Mực bị tóm. Nó cũng chẳng khác gì con Min. Con Mực chết trước đó 12 giờ đồng hồ. Thằng bé vẫn chạy. Đám mây vẫn bay trên đầu nó.

Báo “Chúng Mày“ đăng bài hoan hô chiến công đầu của cảnh sát. Dù sao cũng loại trừ được hai thành viên trong cuộc chạy. Tuyên bố trao giải 6 tháng báo biếu. Báo “Chúng Nó“ chỉ đăng ảnh, không bàn nhời nào. Báo “Chúng Tao“ tiếp tục đăng những bài về chuyện ăn cắp của thằng bé để hướng dẫn dư luận, đồng thời đưa ra ý kiến chỉ đạo, rằng nếu không tóm được thằng bé bằng tay không thì nên dùng lưới. Cố đừng làm nó bị đau.

Lưới được giăng ra.

Thằng bé chạy qua lưới một cách dễ dàng. Hay là người nó bằng không khí thật. Hay tại lưới thưa quá? Giăng nhiều lớp nữa… vẫn không ăn thua. Có lẽ phải dựng một bức tường.

Bức tường được dựng lên.

Thằng bé chạy qua cả bức tường.

Giờ thì nó chỉ chạy thẳng, vì thế chẳng mấy chốc đã ra khỏi thành phố. Thành phố sau một hồi ghê tởm thằng ăn cắp, giờ đã bình yên trở lại. Đám mây vẫn bay trên đầu thằng bé. Xe cảnh sát vẫn đuổi đằng sau, đuổi hai bên, đuổi giật lùi phía trước… Báo “Chúng Tao“ chỉ đạo: mục tiêu bây giờ không chỉ riêng thằng bé, cả đám mây nữa. Phải tóm cho bằng được thằng bé, đồng thời phải phá tan đám mây trước khi nó kịp bay về trời…

Đã bước sang ngày thứ 5, thứ 6, thứ 7, v.v…

Hiện thằng bé vẫn còn đang chạy.

Người đàn ông dưới chân cầu vẫn cậy những miếng gỉ sắt bỏ vào mồm nhai. Đó là người duy nhất trong thành phố không hề biết đến cuộc đuổi bắt. Ông ta không còn nhớ điều gì hết. Kể cả cái sự thật cuối cùng trên cõi đời này mà ông ta đã nói cho thằng con trai nghe, ngay trước hôm bị bắt vào tù.

Chị Cả Bống

Lời Giới Thiệu: Truyện ngắn Chị Cả Bống xuất hiện đầu tiên trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 8/6/05. Lập tức toàn bộ số báo bị tịch thu. Ông phó tổng biên tập cho in bài “nổi loạn“ này bị mất chức. Tác giả đang bị công an hù dọa liên tục. Hiện tại số báo ngày 8/6 này đang được phô tô truyền tay nhanh chóng tại Hà Nội, vượt xa cả số phát hành chính thức là 2000 tờ. Những số báo đã lỡ gởi ra trước khi có lệnh tịch thu mà các đại lý nhanh tay giấu được ngay lập tức được bán với giá gấp 10 lần ( 20. 000 đồng một tờ). Tại Sài Gòn nơi tác giả lấy bối cảnh để viết, giá lên gấp hai mươi, ba mươi lần.

Chiều tà, một người đàn ông phóng như ngựa phi nước đại về phía tây thành phố, nơi ấy có nhà tù với cái tên rất đẹp là “Hòa khí“. Tới cổng gác, ông ta trình thẻ căn cước cho lính canh. Sau khi xem chứng minh thư, lính canh dẫn ông vào văn phòng nộp hồ sơ. Một người đứng tuổi đeo kính trắng nhận hồ sơ rồi bảo:

-Dẫn tới khu nhà chờ, đợi thẩm tra hồ sơ, ba tuần sau có kết quả.

Lính canh lại dẫn ông ta đi, khu nhà chờ gồm vài dãy nhà cấp 4 sập xệ và rêu mốc, rất đông người ở kín các gian phòng, đàn ông, đàn bà, lớn bé, già trẻ, đủ cả… Điều kiện sinh hoạt rất tồi tệ song không ai ta thán, đơn giản họ chỉ ở lại đây có vài tuần. Từ khi lập ra khu nhà chờ này không lúc nào vơi người. Ngày nào cũng có người đi lại, ngày nào cũng có người đến. Giống như người đàn ông kia, mọi người chờ thẩm tra hồ sơ, nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được vào tù. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng không phải không kỹ càng, chỉ những người lương thiện không dính tý lưu manh nào mới được vào tù. Tất nhiên lũ bất lương đừng hòng bén mảng tới.

Chẳng ai lấy làm ngạc nhiên, ở xứ xở này, không có chuyện gì là không xảy ra kể cả những chuyện ngược đời, đơn giản mọi người không những thích đùa mà còn đùa rất dai; 5 giờ rưỡi sáng, kỹ sư Hoàng thức dậy, vợ và đứa con trai mười tuổi của anh đang ngủ say. Đứa con gái 17 tuổi của anh đêm qua không về, chị giúp việc cũng đã dậy từ lúc nào, đèn dưới bếp hắt lên mấy vệt sáng le lói qua khe cửa. Mười phút cho việc vệ sinh cá nhân, 25 phút cho việc mở các loại cửa. Như mọi nhà trong thành phố, từ lâu anh đã biến căn hộ của mình thành một pháo đài. Các cửa sổ ngoài việc lắp chấn song bằng thép dày, còn được giằng ngang ba ống thép to bằng cổ tay, chia đều từ trên xuống dưới. Cửa đi cũng bằng thép đúc, bên ngoài dán một lớp gỗ mỏng. Tính từ trong ra đến cửa, còn năm lớp cửa như thế, tất cả đều có khóa đặc biệt, mỗi cửa gồm ba chiếc khác loại nhau. Mở đến lần cửa cuối cùng thì vợ con anh cũng vừa trở dậy. Những việc chuẩn bị cho một ngày mới diễn ra đã thành nếp. Sau khi dặn dò kỹ lưỡng chị giúp việc hai vợ chồng dắt xe đi làm. Chị kiêm thêm nhiệm vụ đưa con tới trường, chiều về ghé qua chợ mua thức ăn cho ngày hôm sau. Trước khi ra cổng, anh một lần nữa kiểm tra trên người vợ con xem có đeo bất cứ loại trang sức nào không, nhắc vợ cẩn thận kẻo bị cướp… Anh lại lần lượt khóa tất cả các cửa từ trong ra ngoài, trong lúc vợ đứng giữ xe. Đứng bên ngoài thò tay qua các lỗ cửa thực hiện những thao tác của người mù, mười phút nữa cho công việc ấy, xong xuôi vợ chồng con cái chia thành hai ngả phóng xe đi.

Kỹ sư Hoàng làm việc tại một cơ quan thiết kế gần trung tâm thành phố. Mới ngoài 40 mà tóc anh đã gần như bạc trắng, thằng con trai lớn 19 tuổi đang ở trung tâm cai nghiện, đứa con gái thứ hai 17 tuổi đua đòi chúng bạn bỏ cả học đi vũ trường thâu đêm, suốt sáng. Không phải vợ chồng anh không biết dạy con mà là bất lực. Con đường đời biết bao nhiêu cạm bẫy, nó gài khắp mọi nơi, mọi chốn, gài trên mỗi bước chân. Già đời chững chạc như vợ chồng anh, ngày nào cũng phải nhắc nhau từng tí một mà vẫn ngay ngáy lo rằng không biết lúc nào, cái bẫy nào sẽ ụp xuống mình đây ?

Kỹ sư Hoàng chợt lạnh người. Có tiếng còi nghe rợn tai, một cảnh sát giao thông bước quả quyết từ trên vỉa hè xuống đường vừa tuýt còi, vừa chỉ thẳng cái dùi cui vằn vện vào mặt anh, một cảnh sát khác ngồi vắt vẻo trên yên xe máy phân khối lớn sơn màu trắng. Chưa kịp hiểu mình có sai luật hay không anh vội đạp phanh, chiếc xe dừng tắp lại.

-Kiểm tra giấy tờ! Người cảnh sát vừa rút chiếc còi ra khỏi miệng vừa giơ tay lên mũ chào như một cái máy, vừa ra lệnh cho anh. Cầm giấy tờ của anh đưa cho anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, anh cảnh sát ấy lại tiếp tục đút còi vào miệng cầm gậy trỏ xuống đường chọn bắt xe khác. Anh cảnh sát ngồi trên chiếc xe phân khối lớn, lướt qua đống giấy tờ của một anh khác. Không nói năng anh ta đưa mắt ngó lơ đi chỗ khác như thể chờ ai đến đọc giùm. Cũng như một cái máy, kỹ sư Hoàng dựng xe, móc bóp, rút ra một tờ đẹp đẽ vuông vắn có in hình lãnh tụ, bước tới chỗ anh ta.

Đến cơ quan, vừa kịp giờ làm việc, chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia là một thẩm phán toà án, người đang xử lý vụ kiện đòi nợ của cơ quan anh. Bằng một giọng rất lễ phép anh thẩm phán nhắc khéo anh rằng vụ kiện của cơ quan anh sẽ có thể bị đình chỉ vì phía anh chưa nộp chi phí cho việc thẩm tra. Nhân tiện anh ta nhắn rằng bữa nhậu chiều qua vì điện thoại cho anh không được mà anh ta và đám chiến hữu bên viện kiểm soát phải ký nợ nhà hàng một khoản kha khá, lúc nào anh ghé qua thanh toán giùm…

Chiều hôm đó về nhà, kỹ sư Hoàng chưa kịp mừng vì tin cô con gái đã trở về đang nằm bẹp trên gác thì đã nghe vợ mếu máo báo tin chiếc xe máy của chị bị cướp, mẹ con phải đi bộ về. Thực ra chị đã dối anh, chiếc xe máy đó chị đã buộc phải thế chấp để chuộc cô con gái từ cái động của một mụ tú bà, vì cô còn nợ mụ một khoản tiền vay mua son phấn với mức lãi 40 % một ngày. Thế coi như của đi thay người. Kỹ sư Hoàng chưa kịp phát điên lên vì giận dữ thì may quá nhà có khách. Ông trưởng khu phố và mấy cán bộ của Uỷ ban lừng lững bước vào:

-Chúng tôi đến nhắc anh về khoản đóng góp xây nhà tù -Ông trưởng khu vào đề ngay, nhân tiện báo để anh biết tháng trước có xe chở vật liệu đến đây, anh đã thuê thợ sửa nhà mà không xin phép. Uỷ ban đã nắm được việc này, nếu anh không thu xếp ngay thì sẽ bị lập biên bản thu giữ giấy tờ nhà, giấy tờ đất.

Kỹ sư Hoàng ngớ ra, quả thật tháng trước anh có thuê thợ lắp thêm một lần cổng nữa, phải xây mấy mét vuông tường, tưởng việc nhỏ, không phải xin phép, ai ngờ… Thôi đành “thu xếp“ cho mấy vị trong Uỷ ban, nhưng còn khoản đóng góp xây nhà tù ?

-Can phạm bây giờ nhiều quá ông trưởng khu phố giải thích. Đấy anh xem, trong nhà gặp lưu manh, ra đường đụng kẻ cướp, đủ các kiểu ăn cướp; rồi còn lũ ăn trộm, lừa đảo cho vay nặng lãi, nhà tù nào cũng chật ních, phải xây thêm. Ngân sách không kham nổi phải áp dụng phương pháp “Nhà nước và nhân dân cùng làm“. Phố ta được giao chỉ tiêu góp vốn xây 500 mét vuông nhà tù, thế mà ngẫm lại vẫn chưa đủ cho số tội phạm của chính phố ta đang nằm trong đó, chưa kể số sắp phải vào tù nay mai…

Đoàn cán bộ khu phố về được một lúc thì lão Tiến cụt giò đến, đó là một lão già vô tích sự nhà kế bên. Lão bị cụt một bên giò từ hồi chiến tranh, giờ sống bằng số tiền thương tật, thỉnh thoảng con cháu dấm dúi gặp chăng hay chớ cho thêm. Suốt ngày chẳng làm trò gì, chỉ hay la cà hết nhà này đến nhà khác kiếm câu chuyện làm quà. Nhà kỹ sư Hoàng là một trong những nơi lão hay mò đến. Lão dở hơi ấy liến thoắng như thể đã tỏ tường mọi chuyện:

-Họ đến đòi tiền đóng góp xây nhà tù phải không? Anh kỹ sư này tôi nói anh xem có đúng không nhé: -Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá, phải góp tiền xây nhà tù cho bọn bất lương ở, lại còn phải nai lưng nuôi chúng nữa, trong khi bọn lưu manh ngày càng chiếm đa số, người lương thiện ngày càng giảm đi. Biết đâu đến một lúc nào đó, những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình. Khi ấy tất nhiên bọn lưu manh tha hồ ở ngoài, vì lương thiện bây giờ đâu có nhiều nhặn gì, vừa bắt chính bọn chúng phải nai lưng ra làm đề nuôi người lương thiện, như thế có phải là công bằng không ?

Kỹ sư Hoàng phì cười vì cái lý sự ấy của lão Tiến cụt, vừa lúc ấy, chuông điện thoại trong nhà đổ dồn, vợ anh nghe xong, mặt tái mét ra báo tin dữ:

-Anh tới ngay bệnh viện Chúng Sinh. Thằng Phúc con chị cả bị cướp giật té xe, chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu trong ấy.

Chị Cả Bống là chị gái kỹ sư Hoàng ở dưới quê, anh chị có ba thằng con trai thì hai thằng lớn theo bố làm nghề xin đểu kiêm trấn lột ở bến đò Đuôi Cáo bị đâm lòi ruột, chết cả ba bố con từ năm kia. Cũng là cái số thôi. Làng khối người làm nghề ấy hoặc hao hao nghề ấy mà có sao đâu, chỉ thỉnh thoảng lại thấy đi ở tù, vài năm về còn lưu manh hơn trước. May còn lại một mình thằng út tên Phúc ngoan, hiền, học giỏi. Năm ngoái đỗ đại học lên ở ký túc xá. Nó thương cậu mợ Hoàng nghèo nên không muốn nhờ vả. Chị Cả bán hết mảnh vườn còn lại sắm cho nó cái xe máy cũ làm phương tiện đi lại. Hôm ấy đang làm cỏ ngoài đồng có người gọi về cái trạm điện thoại công cộng ở đầu làng báo tin nó bị nạn. Chị nghe nhắn lại mà muốn quỵ luôn xuống ruộng. Vội vã chạy về nhà, chị vét vội mấy bơ lạc, bơ gạo nếp cho vào mấy cái bao ruột tượng tất tả chạy ra bến đò Đuôi Cáo. Vừa mới mon men gạ bán ở các hàng quán quanh đó, bất ngờ gặp mấy anh quản lý thị trường, chị bị bắt vào trụ sở. Lạy van thế nào họ cũng không nghe, còn dẫn hết “nghị định 01“ đến “thông tư 04“ gì đó ra đọc sang sảng vào hai cái tai đã chỉ còn nghe thấy tiếng lùng bùng của chị. Kết quả mấy bơ lạc ấy bị tịch thu vì lý do bao bì không có nhãn hiệu hàng hóa !

Thật khốn khổ cho chị, chỉ do cuống lên vì đứa con cuối cùng còn sót lại đang gặp nạn, muốn bán tống bán tháo mấy món tài sản ít ỏi ấy cho thật nhanh để lấy tiền đi xe lên thành phố. Chứ có phải chị buôn gian bán lận gì đâu ? Còn tiền thuốc thang, nói dại, nếu nó bị nặng chị chưa biết sẽ trông vào đâu, một viên thuốc cảm bằng cái cúc áo bây giờ giá bằng ba bốn cân thóc. Giờ thì ngay đến việc lên nhìn mặt con cũng bị chặn đứng lại rồi. Không có tiền ai người ta cho chị đi xe hàng trăm cây số? Càng nghĩ chị càng quýnh quáng chân tay, cuống cuồng, đứng chôn chân một chỗ, đầu óc mụ đi, mắt ráo hoảnh, vô hồn nhìn phía trước như một bức màn sương… bỗng từ trong cái màn đục lờ ấy, một bóng trắng hiện ra quằn quại, máu bê bết hiện ra chập chờn lúc xa xa, lúc ập ngay trước mặt, gió lạnh quất gai người. Phảng phất màu tanh của máu tươi. Tai chị nghe rõ ràng tiếng kêu cứu của đứa con trai. Chị bàng hoàng nhận ra đó là tiếng rên từ địa ngục, tiếng của một âm hồn không còn ở cõi nhân gian này nữa:

-Mẹ ơi, con chết rồi. Họ đang mổ bụng con. Mẹ ơi…

Chị cả Bống hốt hoảng lao tới, giơ hai tay túm lấy bóng con, chợt cái bóng như có người giằng lấy, chập chờn quăng qua quăng lại trước mặt chị rồi mờ dần mờ dần, vẫn còn ri rỉ tiếng kêu cứu của oan hồn, rồi tất cả lịm đi. Cả tiếng kêu cứu lẫn cái bóng máu me chợt tắt ngấm bởi một tràng cười ré lên sằng sặc như của lũ ma quỷ nhưng không phải vọng lên từ địa ngục, tiếng cười ấy rõ ràng đang ở cõi nhân gian hiện hữu này…

Chị cả Bống sau này phát điên không về làng nữa, cứ lê la liếm láp ở quanh cái bến đò có cái tên rất ấn tượng là bến đò Đuôi Cáo ấy. Nhưng chị không điên ngay lúc đó, có người chứng minh là sau khi ra khỏi trụ sở ban quản lý thị trường chị vẫn còn tỉnh táo nhớ ra trong người còn sót mấy đồng tiền lẻ. Chị lần vào trạm điện thoại công cộng gọi điện báo cho cậu em trai. Đó là tất cả những gì chị làm được cho đứa con. Sau đó chị mới phát điên.

Kỹ sư Hoàng đến bệnh viện Chúng Sinh thì trời đã tối. Tìm tới phòng cấp cứu, anh hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, cô hộ lý mặc blu trắng bảo:

-Biết ai là phúc với họa gì ở đây. Đi mà hỏi trực ban.

Phòng cấp cứu rộng mênh mông, đầy những giường là giường, giường nào cũng ít nhất hai người nằm trở đầu đuôi. Đủ các kiểu tai nạn, vỡ đầu, gãy chân, lòi ruột, lòi xương. Ánh đèn nê ông trắng bệch soi loang lổ những máu me bông gạc. Nồng nặc một thứ mùi vừa tanh tanh máu, vừa ngầy ngậy thuốc tây. Bóng những blu trắng đi qua lại giữa các giường như ma trơi. Làm sao nhận ra đứa cháu bây giờ ?

Kỹ sư Hoàng vội vã đến phòng trực ban. Phòng trực ban cấp cứu nằm cuối dãy hành lang đầy những kẻ nằm người ngồi vạ vật rất chi là bệ rạc. Trong phòng có mấy người cũng mặc blu trắng đang chụm đầu bàn bạc nhỏ to:

-Cái mật hôm trước bán vội quá. Ngay hôm sau có người tới trả cao hơn cả chục triệu, tiếc đứt ruột -một người nói

-Cái này đếch bán nữa, đem ngâm rượu. Hũ rượu trước hết con mẹ nó rồi. Mấy lão hen suyễn kinh niên uống vào là khỏi, để giành bán cho các lão ấy. Gớm họ vừa chi tiền vừa cám ơn rối rít ấy chứ -một người khác nói

-Thôi được rồi! Người thứ ba nói -các ông xuống làm ngay đi, thằng này căn cước ghi rõ ràng: -19 tuổi. Đã kiểm tra, đảm bảo còn nguyên dương ( đàn ông chưa xuất tinh lần nào) chết do chấn thương sọ não vừa được mấy phút. Cái mật này mới tuyệt hảo, để quá hai tiếng có mà hỏng mẹ nó cả chì lẫn chài. Đã điện thoại cho bên công an rồi, họ bảo cứ mổ đi, có gì đừng “quên“ họ là được.

Hai người kia vội vã đứng dậy lao nhanh ra khỏi phòng, vừa lúc ấy kỹ sư Hoàng bước vào:

-Bác sĩ làm ơn cho hỏi thăm nạn nhân tên Phúc, 19 tuổi, sinh viên năm thứ hai, nghe nói bị chấn thương sọ não có cấp cứu ở đây không, nằm giường số mấy? Tôi là cậu ruột cháu -kỹ sư Hoàng vừa hỏi vừa tự giới thiệu

Anh bác sĩ còn lại trong phòng thoáng một chút giật mình. Anh ta làm như nghĩ ngợi điều gì rồi ngập ngừng:

-Tên Phúc, sinh viên, 19 tuổi.. A… anh… à bác ngồi chờ cháu một lát.

Linh cảm thấy có gì nghiêm trọng xảy đến với đứa cháu, lại cứ tưởng anh bác sĩ kia vì thông cảm với nỗi đau của mình mà chưa nỡ nói ngay. Kỹ sư Hoàng vừa lo sợ vừa cảm động nhìn anh bác sĩ đang cúi gằm mặt, tay lần giở một cuốn sổ to tướng chậm rãi lần một hồi. Mồ hôi đã toát ra lấm tấm trên khuôn mặt đỏ như gà chọi, anh bác sĩ chợt ngẩng lên bảo:

-Trong sổ này không thấy có tên Phúc. Bác ngồi đây chờ cháu đi lấy sổ khác. Nhớ là đừng đi đâu đấy.

Nói xong anh ta gập sổ rồi vội vã ra khỏi phòng, không quên đóng sập cửa lại, còn một mình trong phòng, kỹ sư Hoàng lòng như lửa đốt. Bỗng chuông điện thoại reo vang, một hồi, hai hồi… chừng như người đầu dây bên kia có việc cần gọi cho bằng được. Kỹ sư Hoàng do dự giây lát rồi nhoài người với lấy cái ống nghe, định nói cho bên kia chờ lát nữa gọi lại. Vừa áp ống nghe lên tai, kỹ sư Hoàng chợt nghe ngay một giọng nói dằn từng tiếng:

-Trực ban cấp cứu phải không ? Bảo với pháp y rằng cái mật lần này tuyệt đối không được bán nghe chưa! Chú Sáu bên Uỷ ban đăng ký rồi đấy.

Kỹ sư Hoàng chưa kịp hiểu mô tê ra sao thì người đầu dây bên kia đã dập máy. Sau khi định thần suy nghĩ kết hợp với mấy câu cuối nghe được loáng thoáng lúc mới bước vào phòng, kỹ sư Hoàng chợt lạnh người với một nỗi nghi ngờ. Anh với cuốn sổ lúc nãy mở ra. Ngay giữa trang cuối cùng, rõ ràng có tên nạn nhân Nguyễn Hồng Phúc, 19 tuổi, sinh viên, té xe, nhập viện lúc… giờ… ngày – Người đưa đến: Phạm văn A -bạn cùng lớp. Bỗng cánh cửa sịch mở, anh bác sĩ khi nãy ùa vào. Nhìn thấy cuốn sổ trên tay kỹ sư Hoàng, anh ta thoáng một giây bối rối rồi lập tức liến thoắng:

-Cháu quên không đọc trang cuối, đúng là có…

Anh ta chưa kịp nói hết câu kỹ sư Hoàng đã ngắt lời:

-Tôi biết hết rồi, anh không phải giải thích

Rồi chẳng muốn nói gì thêm, nữa kỹ sư Hoàng ném trả cuốn sổ, hấp tấp lao nhanh ra khỏi phòng, anh bác sĩ hé cửa ngó theo, hơi lắc đầu, mỉm một nụ cười ý nhị rồi đóng cửa lại, ung dung quay vào. Chuông điện thoại lại reo, anh ta cầm lấy ống nghe:

-Dạ… dạ… à thế ạ… Báo cáo, xong xuôi cả rồi ạ. Thế thì chú nói chú Sáu chuẩn bị rượu tốt để ngâm, cháu sẽ bảo anh em mang sang ngay bây giờ ạ.

Kỹ sư Hoàng xuống đến nhà xác thì Phúc đã nằm trong ngăn lạnh. Một không khí thê lương sặc mùi tử khí. Nền nhà vương đầy những bó nhang cụt, những cục nến gãy, những mẩu giấy tiền vàng mã… làm quang cảnh nơi đây giống như vừa xảy ra một vụ cướp. Viên quản lý nhà xác nghe trình bày, quan sát anh từ đầu đến chân bằng cặp mắt âm u như cặp mắt quỷ rồi chẳng nói chẳng rằng, ông ta lừ lừ tiến đến kéo một ngăn tủ ra. Kỹ sư Hoàng lạnh toát người nhìn trân trân cái xác… “Đúng thằng Phúc rồi, chị Cả ơi, khổ thân chị quá“. .. Không giữ nổi bình tĩnh, anh khuỵu xuống gục đầu vào ngăn tủ. Mùi máu tanh tưởi ập vào giác quan. Anh chợt tỉnh, ngẩng phắt lên, lấy tay lật manh áo trước bụng đứa cháu… một vết mổ cẩu thả còn chưa khít miệng với mấy mũi khâu vội vàng, dúm dó :

-Các người đã mổ cháu tôi… các người đã… Tôi sẽ kiện, kỹ sư Hoàng gào lên trong nước mắt

-Híc… viên quản lý nhà xác cất tiếng, giọng cũng âm u như phát ra từ bụng gã –

Tha hồ cho ông kiện, tất cả những cái chết bất đắc kỳ tử thế này đều phải mổ hết, luật pháp quy định như vậy. Hừ có mà điên mới đi kiện luật pháp. À mà tôi đã vi phạm nội quy khi cho ông xem xác, lấy gì chứng minh ông là người nhà bây giờ? Mời ông đi khỏi đây. Nói xong gã đưa tay đóng sập ngăn tủ lại

-Nhưng tôi… kỹ sư Hoàng chưng hửng… vậy còn cháu tôi?

-Trước hết phải có giấy tờ chứng minh ông là người nhà của nạn nhân đã, rồi sau đó phải làm đầy đủ thủ tục mới mang được lấy xác ra khỏi đây. Mà ông định cõng xác trên lưng mang về hay sao? Viên quản lý lạnh lùng phán.

Kỹ sư Hoàng có vẻ hiểu ra những việc cần làm, anh thất thểu bước ra khỏi nhà xác gọi điện về nhà bảo vợ chuẩn bị căn cước, sổ hộ khẩu lên phường xin giấy chứng nhận rồi tìm đến một tiệm bán quan tài. Ông chủ tiệm quan tài có tên “Nhân nghiã đường“ hăng hái đón khách. Chỉ vào đống quan tài đủ các kiểu loè loẹt đang bày la liệt, bảo kỹ sư Hoàng:

-Tùy bác chọn cái nào thì chọn. Bác cho biết địa chỉ, số nhà, giờ khâm liệm… chúng tôi sẽ cho người đến lo liệu.

-Không phải liệm ở nhà mà là ở nhà xác bệnh viện chúng sinh. Kỹ sư Hoàng ngắt lời

-Thế thì không được rồi. Ông chủ Nhân nghiã đường lắc đầu -tôi không bán được cho bác đâu, cũng không làm gì được hết.

-Tại sao lại như thế ? Kỹ sư Hoàng kinh ngạc thốt lên ?

-Chắc đây là lần đầu tiên nhà bác có người chết ở bệnh viện -ông chủ Nhân nghiã đường giải thích -bệnh viên có luật của họ, muốn lấy được xác ra phải có cửa. Quan tài mua tiệm nào do họ chỉ, khâm liệm, ma chay… tất tần tật do người của họ làm hết. Có thế họ mới ăn chứ, độc quyền mà.

-Té ra phải như vậy. Kỹ sư Hoàng cay đắng nghĩ rồi rời khỏi tiệm “Nhân nghiã đường“. Quay lại chỗ nhà xác chờ một lúc lâu thì vợ anh mang giấy tờ tới. Mấy đứa bạn học của Phúc biết tin cũng đã tìm đến, mang theo nhang hoa và trái cây. Lúc này đêm đã gần khuya, mắt đỏ hoe vợ anh mếu máo:

-Ối anh ơi, vẫn chưa thấy tăm hơi chị cả đâu, em đến nhà ông chủ tịch nói mãi ông ấy mới ký cho cái giấy chứng nhận, lại vừa đóng lệ phí, vừa bồi dưỡng hết mấy trăm. Cháu nó nằm đâu để em vào thắp nén nhang cho cháu.

Kỹ sư Hoàng dẫn vợ và đám bạn của Phúc vào, trình mớ giấy tờ cho viên quản lý.

Gã này săm soi một lát rồi lắc đầu:

-Không được, trường hợp này công an còn phải điều tra, vả lại khi nãy ông còn định kiện tụng gì nữa cơ mà? Sáng mai đến giải quyết

-Chẳng lẽ để đứa cháu lạnh lẽo qua đêm không một chút khói nhang an ủi linh hồn ? kỹ sư Hoàng lúc này đã mụ mẫm hết tinh thần, cụt què cả ý chí, anh chỉ còn biết vớt vát như một cái máy:

-Tôi xin ông, ấy là tôi chót nhỡ mồm. Tôi không kiện tụng gì đâu. Mọi việc giao cho các ông “lo“ hết. Chỉ mong sao mang cháu về nhà…

-Vậy thì về viết cam đoan đi, viên quản lý hạ giọng -nhưng cứ phải sáng mai mới giải quyết. Không có giấy của công an thì bố tôi cũng không dám giao xác cho các người.

Sáng sớm hôm sau. vừa thò mặt đến cổng nhà xác bệnh viện Chúng Sinh đã có mấy kẻ mặt mũi rất chi là khả nghi túm lấy kỹ sư Hoàng.

-Xác của bác là xác tai nạn giao thông phải không ? Giá chót tám triệu, chúng em lo mọi thủ tục chiều lấy xác ra… quan tài khâm niệm 12 triệu nữa bao trọn gói -một người trong bọn bảo

-Tại sao lại phải đến chiều ? Làm ngay trong sáng nay không được sao ? kỹ sư Hoàng hỏi lại

-Hì các bác này đúng là chưa “chết“ lần nào. Phải đợi công an người ta hoàn tất hồ sơ chứ… một người khác giải thích -mà chúng em phải đưa bác đến làm tờ khai, chiều lấy được là con nhanh, với điều kiện phải có bồi dưỡng… không thì cứ đợi đấy.

Đám người ấy quả là thạo việc, rốt cục chiều hôm ấy kỹ sư Hoàng cũng đưa được xác đứa cháu về nhà sau khi đã được khâm liệm cẩn thận. Vẫn không thấy bóng dáng chị cả đâu, linh tính xảy ra chuyện chẳng lành, kỹ sư Hoàng bàn với vợ cùng mấy đứa bạn của Phúc trông nom nhang khói, để anh về làng đón chị Cả lên:

-Có mấy kẻ lạ mặt lảng vảng ngoài cổng nghiêng ngó hỏi thăm, mấy đứa bạn của Phúc chạy ra nghe ngóng rồi vào bảo:

-Mấy thằng cò nghiã địa bác ạ. Nó bảo đất chôn mặt tiền lối đi là 12 triệu, phía trong tám triệu, chưa kể tiền lo giấy phép chôn và công đào huyệt lấp đất xây mộ, tùy theo to nhỏ tính riêng. Nếu túng tiền thì chôn đứng. Chôn đứng rẻ hơn một nửa, tất nhiên đất rộng chỉ bằng 1/3. Nghiã địa bây giờ khối người phải chôn như thế, thành ra đầy những ma đứng, linh hồn đứng, đứng vĩnh hằng.

Vội vã phóng về quê, kỹ sư Hoàng hoảng hốt lạnh người khi hàng xóm bảo chị Cả Bống đã lên thành phố từ chiều hôm qua, mấy nhà khác thấy anh về đổ đến hỏi thăm. Có người chợt nhớ ra bảo:

-Sáng nay đi chợ thấy ở bến đò Đuôi Cáo có ai nhang nhác bác Cả Bống ấy. Hay là bác sang tìm thử xem.

Không kịp suy tính, kỹ sư Hoàng vội vã lao sang bến đò, tìm khắp các hàng quán hỏi thăm, ai cũng lắc đầu. Chợt anh nhìn thấy dưới bờ sông sát mép nước, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang ngồi ném những nắm cát xuống dòng sông… kỹ sư Hoàng vừa nghi hoặc, vừa thận trọng tiến lại gần… “Ai như chị Cả? Anh cất tiếng gọi… một tiếng, hai tiếng… Người đàn bà chợt quay phắt lại… Đúng là chị, chị nhìn anh với đôi mắt thất thần, khuôn mặt răn reo, lem luốc cát. Bỗng chị lảo đảo lao đến, ôm chầm lấy anh, gào lên nức nở:

-Ối! Con ơi, con về với mẹ đây rồi, người ta cướp cái gì của con, con chết có đau không? Con về đây báo oán mẹ… mẹ không đến được với con… con ơi

Cứ thế chị gào mãi, gào mãi, tiếng gào rợn cả một khúc sông. Kỹ sư Hoàng hai tay nâng khuôn mặt chị, miệng hoảng hốt nhắc đi nhắc lại: -Em đây mà, Hoàng đây mà!

Song chị đâu có nghe, đâu có thấy, chỉ một mực gào tên con… dần dần tiếng chị khản đặc chỉ còn như tiếng thở lào phào… Người chị bỗng lả đi, từ từ khuỵ xuống. Kỹ sư Hoàng quỳ xuống theo, hai chị em ôm nhau quỳ trên bãi cát, hoàng hôn bắt đầu buông, trăng chiều rực lên đỏ thẫm. Qua màn nước mắt, anh cảm thấy tất cả không gian như chìm trong biển máu, bên tai anh chợt vọng lên văng vẳng giọng nói của lão Tiến cụt hôm trước:

-Làm người lương thiện bây giờ vất vả quá… biết đâu đến một lúc nào đó những nhà tù kia mới chính là địa chỉ mà người lương thiện cần đến cho mình

Chuyện làng Kinh

Xuất phát từ tít những vùng núi cao, phải gồm bao nhiêu nhánh ngoằn ngoèo, tránh chỗ nọ, né chỗ kia… cuối cùng hợp lại thành con sông Đáy. Về tới đồng bằng thì con sông đã trưởng thành hẳn và tỏ ra điềm đạm như một người đứng tuổi trải việc đời. Tuy vẫn phải uốn lượn đây đó song thỉnh thoảng có những khúc thẳng tắp như thể do bàn tay ai nắn nót mà thành. Làng Kinh nằm bên một đoạn thẳng như thế của con sông. Ngày trước có một thầy địa lý đi qua, thấy cái hình thế làng nước ấy bèn phán: “Làng ra làng, nước ra nước. Tuy nghèo, nhưng được cái sống ngay thật với nhau. Đến khi nào con sông đổi dòng thì chấm hết“.

Khúc sông ấy rộng mênh mông, người giỏi bơi cũng chỉ bơi nổi một vòng bên này sang bên kia là mệt lử. Lúc bình thường, dòng sông vốn êm đềm lờ lững, nhưng đến mùa mưa lũ thì mặt nước lại dềnh lên gần sát mặt đê, to rộng ra gấp mấy lần, vừa đục ngầu phù sa vừa trôi nhanh như chạy loạn. Làng Kinh ở về phía bên bồi, bãi cát trải rộng từ chân đê ra hàng trăm thước thoai thoải như bãi tắm ngoài biển Đông. Phía bên kia là bên lở, bờ sông dựng đứng như bức tường. Bên ấy đầy một vẻ hoang vu bí hiểm, chẳng có làng xóm gì.

Ngày nào cũng vậy, trừ những ngày mùa đông rét cắt thịt da, đám trẻ con trong làng vẫn thường vượt qua con đê ra tắm ở bát cát ven sông. Doi phù sa rộng lớn ấy là một phần thưởng tuyệt hảo của con sông tặng cho dân làng. Nơi đây đều đặn mỗi năm cho mấy lứa hoặc khoai, đậu, hoặc su hào, bắp cải… thứ nào cũng thơm ngon nổi tiếng trong vùng. Dân làng Kinh chẳng có nghề phụ hay nghề truyền thống gì ngoài nghề trồng lúa và một số loại hoa màu khác tùy  theo mùa. Bao nhiêu đời rồi, làng nước đã trở thành bà con anh em hay chí ít cũng dây mơ rễ má với nhau. Người người sống thuần hậu, chất phác, quanh năm không một tiếng cãi lộn chứ đừng nói đến chuyện đánh chửi nhau.

Con sông Đáy vẫn đều đặn năm hai mùa, lúc bình thường hờ hững như một gã lười biếng. Nhưng đến mùa mưa lũ lại lồng lên như có cơn giận chất chứa trong lòng. Xong mỗi lần như thế, nước rút đi để lại một lớp phù sa, bãi bồi của làng Kinh lại rộng thêm ra một ít. Phía bên kia, vách sông vốn dựng đứng, nham nhở lại lở thêm, khoét vào cái vùng hoang vu ấy tí một, tí một, như tằm ăn lá. Đến một ngày kia, dòng sông hình như không còn thẳng như bao đời nay nữa. Dân làng Kinh mừng vì diện tích bãi bồi bằng phù sa béo bở của mình ngày càng rộng thêm ra, không ai để ý làm gì cái sự uốn cong dần, cong dần của khúc sông ấy…

Trong làng có cụ Cả Giáo bị mắc một căn bệnh lạ đã từ lâu lắm. Bề ngoài không ai dám bảo cụ có bệnh. Trông cụ béo tốt phương phi, da dẻ nhẵn nhụi, hồng hào như một pho tượng sống. Vậy mà đi không tự đi được phải có người khiêng, ăn không tự ăn được phải có người đút. Đã thế lại vừa kén ăn vừa ăn khoẻ. Món ngon thì thùng bất chi thình, món không ngon thì ngậm cứng miệng, phun ra phì phì. Ngày trước cụ đã được con cháu đưa đi khắp các bệnh viện, nào chụp, nào soi, nào đông tây y kết hợp… cả một nền y học cổ kim đông tây đều chịu không sao tìm ra nguồn cơn bệnh tật gì trong con người cụ. Một cơ thể vô bệnh tật (ít ra là với trình độ y học lúc bấy giờ), chỉ phải cái tội phải luôn luôn có người hầu hạ. Thậm chí cái cơ thể nằm ườn ấy cứ càng ngày càng phơn phởn ra, báo hiệu một sự sống dai. May mà căn bệnh đó cực hiếm (mấy vị giáo sư bảo thế), chứ nếu không, nhân loại phải tốn khối người chỉ làm độc một việc là hầu hạ người khác, mà chẳng làm ra của cải vật chất gì cho xã hội.

Con cháu cụ Cả toàn những người ăn nên làm ra, có người còn làm chức to ở tận đâu đâu. Nhưng thói đời, sức chịu đựng của con người có giới hạn của nó, kể cả trong việc báo hiếu. Thời gian đầu cụ đổ bệnh, các con của cụ còn quay vòng thay nhau hầu hạ. Về sau, cái phương pháp báo hiếu theo kiểu “đèn cù“ ấy vẫn gây ra lắm rắc rối phiền phức, có nguy cơ làm mất đoàn kết nội bộ gia đình. Thế là các con cụ họp nhau lại quyết định đưa cụ về làng, thuê người hầu hạ. Một điều quái lạ là kể từ khi cụ mắc căn bệnh ấy, các con cháu cụ lại càng phất lên vùn vụt như thể nhà có mả kết vậy. Mà cụ còn đang sống sờ sờ chứ đã phải là cái “mả“ đâu, chẳng lẽ cụ “kết“ từ khi còn đang sống(?). Nói gì thì nói chứ trên đời thiếu gì chuyện lạ. Lạ nhất là chuyện một thời gian sau khi đưa cụ về quê, con cháu cũng không cần phải mất tiền thuê ai hầu cụ nữa. Việc ấy đã có cả làng lo.

Số là trong làng có một cây duối to lớn, bề thế, gọi là cây duối đại. Cây duối dễ đến vài ba trăm tuổi, thân to mấy người ôm không xuể, cành lá rậm rạp, xum xuê. Chính giữa thân cây có một cái hốc sâu hoắm, hai đầu người chui cũng lọt. Cái hốc ấy đầy vẻ bí ẩn và có khối câu chuyện huyên truyền về nguồn gốc cũng như những gì chứa trong ấy. Các cụ già cả kể rằng không biết tự bao giờ, một buổi sáng thức dậy, dân làng bỗng thấy cái hốc ấy lồ lộ, đen ngòm. Gần như đồng thời với sự xuất hiện của nó, làng loan truyền câu cửa miệng: “Muốn làm giầu ra bãi phù sa, muốn làm ma chui vào hốc duối“.  Vế sau của câu ấy thành ra câu rủa của cả làng cho đến nay, ai cũng sẵn sàng mang nó ra để mà rủa nhau. Thế là từ đó, chẳng người nào, kể cả những anh bạo hổ bằng hà nhất, cũng không dám chui đầu vào trong đó làm gì nữa. Cái hốc vì thế mà ngày càng trở nên cổ kính, bí hiểm. Thế mới biết cái bí hiểm vẫn cứ là bí hiểm kể cả khi nó đã chường mặt ra, không cần ngụy trang, che đậy.

Phải kể đến cái hốc cây ấy là vì nó liên quan đến cụ Cả Giáo trên đây. Số là về làng được ít lâu, mặc dù con cháu vẫn thuê kẻ hầu người hạ, vẫn được đút lót, ăn uống đầy đủ, vẫn khiêng đi chỗ nọ chỗ kia, nhưng hình như cụ đã chán cái “kiếp“ làm ngôi “mả kết“ sống cho lũ con cháu đang ngày càng trở nên thưa thớt thăm nom. Một hôm, nhân lúc mấy người hầu vừa khiêng qua hốc cây, bất ngờ cụ nhỏm ngay dậy, sức mạnh ý chí thật là mãnh liệt, nó chiến thắng tất cả những bất động bấy lâu nay. Cả thân thể cụ vọt lên khỏi cáng, chui ngay đầu vào hốc cây như thể chính cái hốc cây ấy hút cụ vào vậy (mà có khi đúng như thế chưa biết chừng). Thực ra ý chí của cụ (nếu có), chỉ đơn giản là chết quách đi cho rồi. Nhưng hoặc là cái câu rủa kia chỉ thuần túy là một câu rủa mà không có hiệu nghiệm gì, hoặc là nhân tính không bằng trời tính, mà tuy đã rúc hẳn đầu vào trong hốc cây, cụ vẫn không chết. Những người hầu hoảng hốt lôi cụ ra, đặt nằm ngay ngắn trên cáng. Người cụ lập tức lại bất động như trước, nhưng cứ vừa sùi bọt mép, vừa gồng mặt lên lào thào những câu gì nghe rất ghê rợn, như thể cụ mới ngộ ra điều gì gớm ghiếc lắm trong cái hốc cây kia. Dân làng Kinh xưa nay vốn yếu bóng vía, thấy tình trạng cụ Cả như thế lại càng cho rằng có gì thần bí đâu đây, bèn mời một tay thầy bói có tiếng là giỏi nghề về giải mã. Tay thầy bói đi giày tây, đeo kính gọng vàng, mặt mũi sáng sủa, hớn hở như thể lúc nào cũng vừa mới được mời đi ăn cỗ. Sau một hồi ghé sát tai vào miệng cụ Cả, nghe kỹ lưỡng những câu lào phào bí hiểm ấy, tay thầy bói phán như đinh đóng cột: “Không phải cụ Cả bại liệt gì đâu. Chính là Thành hoàng làng này rất thiêng, ngài đã ứng vào thân thể cụ để được khiêng, được cáng, ứng vào mồm cụ để được ăn ngon… Tóm lại là được cung đốn, hầu hạ một cách thật sự, chứ không như những Thành hoàng khác, chỉ hưởng những khấn vái suông. Vậy từ nay cả làng phải có nhiệm vụ hầu hạ cụ chính là hầu hạ Thành hoàng của mình…“.

Thành hoàng làng Kinh là ai mà vừa thiêng, vừa khôn ngoan như thế? Các cụ già họp nhau cố nhớ lại, những người có chữ lục tìm gia phả, văn tự… Nguyên từ thời xa xưa, khi làng Kinh bắt đầy xây đình, dân làng góp tiền mời một thầy địa lý người Tàu về để chọn hướng. Thầy này bảo làng nằm giữa nơi gọi là: “tứ phương vô hình thể“ (xung quanh chẳng có hình thù gì). Nay muốn chọn hướng đình thì phải lập đàn cầu phương. Thế mà sau khi lập đàn, thầy địa lý loay hoay mãi vẫn không sao đặt được cái gọi là “bổng cầu phương“ lên hương án. Đó là một cây gậy tròn bằng gỗ đã được yểm(?). Bình thường sau khi lập đàn, dâng đủ lễ sống, lễ chín, vái đủ thập phương tam đạo, viện đủ họ hàng tổ tông của dân làng…, thầy địa lý dễ dàng đặt cái “bổng“ ấy lên trên một cái đỉnh nhọn hoắt bày chính giữa hương án. Cái bổng sẽ quay tít như trò ảo thuật. Khi dừng lại, nó trỏ hướng nào thì đình sẽ được xây theo hướng đó. Đến lượt đình làng Kinh bấy giờ, không biết do thầy địa lý già cả đã cùn mất nghề, hay có gì làm phật ý thánh thần mà hễ cứ đặt bổng lên, nó lại rơi oạch xuống, không nằm yên nổi chứ đừng nói đến chuyện quay với kiếc.

Qua bảy ngày bảy đêm khổ sở, thầy đã bắt đầu thấy ngượng, dân làng đã bắt đầu sốt ruột thì tình cờ có một gã ăn mày khua gậy lần đến. Đó là một gã ăn mày vừa mù vừa đói khát lang bạt kỳ hồ, mới mò đến làng Kinh được mấy hôm. Lẩn thẩn thế nào, gã lại khua ngay gậy vào mông đít ông thầy người Tàu vừa chổng lên khấn vái. Đang ngượng với làng, lại hết kiên nhẫn với cái bổng phản phúc của mình, ông thầy cáu tiết quài tay ra sau lưng, giật phắt lấy cây gậy trong tay gã mù, tiện tay ông đặt ngay nó lên hương án. Kỳ lạ thay, cây gậy ấy nằm ngay đơ, không hề rơi xuống. Sau một lúc như thể lưỡng lự, cây gậy đột nhiên quay tít y như cái bổng chính hiệu. Dân làng kinh ngạc tán thưởng, lão thầy Tàu hả hê trút xong gánh nặng. Người ta chỉ còn mỗi một việc là chờ nó dừng lại. Thế là chọn xong hướng đình.

Chuyện về gã mù vẫn chưa kết thúc ở đấy. Gã vẫn quanh quẩn nhặt hạt rơi, hạt vãi quanh làng mà không sao lần đi đâu được. Cho đến hôm hiệp thợ làm đình lắp cặp đầu rồng ở giải vũ. Đó là một cặp đầu rồng làm bằng gỗ mít được đẽo gọt tỷ mỷ công phu, cả nước lúc bấy giờ chỉ có vài ba người có thể làm được. Cặp đầu rồng đình làng Kinh lúc ấy do một thợ cả giỏi vào loại bậc nhất đảm nhiệm. Có điều lạ là chỉ lắp được một cái, còn cái kia không tài nào vào mộng được. Làm đi làm lại hàng chục cái liền, ông thợ cả đã sắp bó tay thì đến cái đầu rồng cuối cùng, tức là cái còn lại cho đến ngày nay.

Ông thợ cả đang loay hoay thì gã ăn mày mù lại tình cờ khua gậy đến. Chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào mà gã khoèo ngay cây gậy vào chân cái thang có ông thợ cả đang đứng phía trên. Cái thang mất thăng bằng đổ kềnh xuống, ông thợ cả hụt chân cuống cuồng quơ tay theo phản xạ, may sao túm được cái đầu rồng chưa vào mộng để khỏi rơi xuống gãy xương. Điều kì diệu lại xảy ra. Vừa lúc hoảng hốt treo người toòng teng trên cái đầu rồng ấy, ông thợ cả cảm thấy có tiếng: “khục“ một cái. Khi mọi người đuổi gã mù đi, bắc thang lại để cứu ông thì cái đầu rồng đã vào được mộng, khít khịt, không sai một ly.

Đúng là trên đời cái gì cũng cứ phải quá tam ba bận. Cho đến bấy giờ, dân làng cũng chỉ cho là chuyện tình cờ, làm gì có liên quan giữa việc xây đình với gã mù vớ vẩn ấy. Tận đến hôm khánh thành, làng làm lễ cầu thánh. Đình mà không “cầu“ được “thánh“ thì làm sao thiêng. “Thánh“ sau khi nhập sẽ chính là vị Thành hoàng mà làng đã chọn từ trước và được quan trên chuẩn y. Thế mà thầy cúng lại cúng ròng rã bảy ngày bảy đêm mà ngài vẫn không chịu “nhập“.  Có vẻ như ngài kiêng kị điều gì, không chịu làm Thành hoàng cho làng thì phải.

Lễ bái đến mòn vẹt cả sân đình thì một đêm, người ta bỗng phát hiện lại gã mù ấy nằm thẳng cẳng ngay trước cửa hậu cung, hai tay bấu chặt cái thủ lợn cúng to tướng đè giữa mặt, che lấp cả mồm lẫn mũi. Gã đã chết. Sau này có kẻ báng bổ giải thích rằng chắc là do đói quá, ngửi thấy mùi thịt cúng thơm tho, béo ngậy nên gã liều ăn vụng, song sức tàn lực kiệt, chỉ vừa ngoạm vào khối thịt, chưa kịp nhai thì cái thủ lợn vừa to, vừa nặng đã bít hết cả mồm mũi, khiến gã chết ngạt mà thôi. Tất nhiên lúc bấy giờ, làng Kinh không ai dám nghĩ như thế. Chỉ biết rằng ngay ngày hôm ấy, lễ “nhập thánh“ của đình làng đã thành công, “đồng“ đã hiện để báo cho làng biết rằng Thành hoàng đã ngự đâu vào đấy cả rồi. Cũng chẳng biết vị “thành hoàng“ ấy có phải cái vị mà làng chọn từ trước khi xây đình hay không?, chỉ biết rằng căn cứ vào bài “đồng tự“ còn truyền đến ngày nay thì thân thế, sự nghiệp của ngài xem ra lại hao hao… gã ăn mày mù ngày ấy.

Sự kiện tự tìm sự “giải thoát“ bất thành của cụ Cả đâm ra lại tạo cho làng Kinh có cơ hội được hầu hạ “Thành hoàng“ của mình một cách thiết thực bằng cơm, bằng rượu hẳn hoi. Thực ra từ trước khi biết Thành hoàng ứng vào người cụ Cả, dân làng đã phải thay nhau “hầu hạ“ một kẻ khác rồi. Đó là một gã lông bông mất dạy thuộc vào hàng… đệ nhất cổ kim. Tên nó là thằng Hội, biệt danh Hội mù. Ấy là bố mẹ nó ngày xưa sính chữ mà đặt đại như thế chứ hội hè gì nó. Trông nó nào có ra hồn người, chân tay loẻo khoẻo đã đành mà mồm miệng lúc nào cũng đầy dãi dớt. Đã thế nó lại thong manh, nhìn cái gì cũng mờ mờ, ảo ảo, giữa ban ngày ban mặt mà trông gà hóa cuốc, nhìn một hóa hai. Thế mà ngày xưa lúc mới sinh nó ra, có lão thầy tướng dở hơi bảo số thằng này ngày sau ăn trên ngồi trốc, nghĩa là hậu vận nó rất… ngon lành.

Năm lên sáu tuổi, nó đã biết nhân lúc hàng xóm đi làm đồng vắng, chui vào bếp nhà người ta, lục nồi cơm vần trong bếp tro lên ăn vụng. Ăn xong, thằng trời đánh thánh vật ấy còn ỉa một bãi vào giữa nồi, đậy vung lại cẩn thận rồi vần vào bếp tro như cũ. Lần ấy ông bác ruột nó đánh cho một trận nên thân rồi chửi: “Cái giống mày đã ỉa vào nồi cơm nhà người ta thì thế nào trời cũng bắt tội, còn ăn trên ngồi trốc cái nỗi gì…“. Ấy thế mà nó không có chừa, càng lớn lên, nó càng lếu láo. Nhà ông cụ Khoái ở cuối xóm Đông, vừa quét vôi xong bức tường, nó đem cứt trâu bôi lên ngoe ngoét. Ông cụ ra đuổi, nó ném cả cứt vào mặt khiến ông cụ la làng lên như cháy nhà. Dân trong xóm tưởng cháy nhà thật kéo đến đầy ngõ. Cụ Khoái đang la lối, chợt nghĩ ra điều gì bèn mời tất cả vào trong nhà, giục người nhà đun nước, luộc khoai rồi đứng giữa sân chắp tay vái: “May quá được các ông các bà đến chơi. Mời các ông các bà xơi nước nói chuyện cho vui cửa vui nhà, nhà tôi dễ đến chục năm nay tuyệt không ai thèm lai vãng. Thật là “tân khách bất lai môn hộ tục“ (ông cụ nói chữ – không có khách đến thì cửa nhà trở nên thô tục)…“.

Sự mất dạy của thằng Hội không dừng ở đấy. Lớn tướng rồi mà tính nó vẫn trẻ con, mắt mũi kèm nhèm, vênh váo, chẳng coi ai ra gì đã đành, nó lại còn đào mả nhà người ta lên nữa. Bữa ấy cả làng náo động, thật đúng câu: “động mồ động mả“.  Người ta kêu gào, réo rắt nhau từ ngoài cánh đồng về đến làng. Nó đào đúng vào mả nhà ông chánh Cửu. Thật ra bấy giờ, con cháu nhà ông chánh mới biết đó là mả nhà mình căn cứ vào tấm bia bị nó quật lên tênh hênh, xương cốt vãi ra tung toé, chứ hàng bao nhiêu năm nay, đám con cháu ấy có biết nhà mình có mồ có mả gì đâu.

May mà làng Kinh chỉ có một thằng hỗn láo như thằng Hội, còn lũ trẻ con trong làng, phần lớn đều ngoan ngoãn, lễ phép. Chúng ra đường, gặp người lớn đáng tuổi ông, khoanh tay chào bằng ông, đáng tuổi bác, chào bằng bác… Ấy là nhờ có ông Cải là ông giáo dạy môn đạo đức trong làng. Ông giáo lúc nào cũng cắp một cái cặp sách, mắt đeo kính đen, bước chân đủng đỉnh như người vừa đi vừa thể dục dưỡng sinh. Ông giáo dạy đã mòn đến hàng chục quyển sách, bao nhiêu thế hệ trong làng từng qua lò luyện đạo đức của ông. Những bài ông giảng có lẽ cả ngàn năm nữa vẫn đúng không sai, đám trẻ con nghe như vịt nghe sấm. Chẳng biết chúng có hiểu hay không, nhưng sự cần thiết phải có ông giáo thì không ai chối cãi. Tất nhiên đến cái thằng Hội mù ấy thì là trường hợp ngoại lệ, nó cũng từng học được mấy buổi rồi chửi cả ông giáo mà bỏ giữa chừng. Cách đây mấy năm, nó từng bị công an bắt đưa vào trại cải tạo vì tội đánh người gây thương tích. Bắt nó đi cải tạo, dân làng Kinh mừng rỡ như nhổ được cái ung nhọt, ngay cả bố mẹ đẻ ra nó cũng sung sướng ra mặt, chỉ mong cho người ta trừng phạt, uốn nắn nó nên người.

Thằng Hội vào trại cải tạo được một thời gian thì trong làng lại xảy ra lắm chuyện. Ấy là đám trẻ con dần dần trở nên hỗn hào ra trông thấy. Chúng ra đường gặp ngưới lớn cứ trơ mắt ếch, không thèm chào hỏi lấy nửa câu. Lại còn đánh chửi nhau, ăn cắp ăn trộm… những việc mà khi thằng Hội còn ở làng, chúng luôn luôn xa lánh. Chẳng biết có phải do đã đến lúc chúng chán cái trò lễ phép cũ rích ngày trước hay không. Cứ như thể những sự mất dạy ấy là điều cần phải tồn tại trong làng, nay không có thằng kia thì chúng phải rủ nhau làm thay vậy. Các bậc cha mẹ hoảng hốt lo âu, ông giáo Cải giảng đến mòn cả miệng… Mặc.

Tình hình không có gì khả quan, đám trẻ ngày càng láo lếu đến nỗi người lớn ra đường gặp trẻ con cứ như gặp… giặc. Bấy giờ, những người tỉnh táo, sáng suốt mới chợt nhận ra rằng rõ ràng có sự liên quan giữa việc vắng mặt của thằng Hội với tình trạng hiện nay. Theo họ thì trước kia, những bài giảng đạo đức của ông giáo chúng có hiểu hay không không quan trọng. Cái chính là bố mẹ chúng, mỗi khi la mắng, nhắc nhở con cái điều gì đều lấy cái gương tày liếp là thằng trời đánh kia để răn đe. Cái “trực quan sinh động“ ấy xem ra có tác dụng ghê gớm, dễ hiểu hơn hẳn những “tư duy trừu tượng“ mà ông giáo Cải cố nhét vào đầu bọn trẻ. Sự giải thích này xem ra sặc mùi ngụy biện hơn là có tính biện chứng đàng hoàng. Dân làng Kinh đang ở trong thời kỳ không ai phục ai, thế mà cái “chân lý“ oái oăm kia nhanh chóng được mọi người nhất tề công nhận. Các bậc phụ huynh bèn họp nhau lại, nhất loạt ký tên vào lá đơn xin bảo lãnh cho thằng Hội ra khỏi trại cải tạo.

Thế là thằng Hội lại trở về làng. Nó được thể càng mất dạy hơn trước. Song tình thế lúc này đã thay đổi, không như trước kia. Dân làng phải nghiến răng chịu đựng. Thằng đểu ấy có gây gổ, chửi bới hay ăn cắp, ăn trộm của nhà ai cũng không dám mách bảo, hay réo tên bố mẹ nó ra như trước kia nữa. Và cái “trực quan sinh động“ ấy quả nhiên phát huy tác dụng. Đám trẻ dần dần trở lại khuôn phép. Mới hay trẻ con nhận ra cái xấu có phần nhanh hơn người lớn. Cái phép “biện chứng“ ấy thì ra rất đơn giản. Rằng tất cả trẻ con đều ngoan là một điều không tưởng. Thể nào cũng phải tồn tại ít nhất một thằng mất dạy để… làm gương. Thằng Hội ngày càng khẳng định “vai trò“ quan trọng của nó trong việc giáo dục con trẻ. Các bậc phụ huynh thở phào nhẹ nhõm, thay nhau chiều chuộng nó. Ai cũng cầu mong cho nó cứ mất dạy mãi cho con mình nhờ. Nó cứ việc lông bông phá phách, không làm ra cái gì khả dĩ nuôi thân đã có làng bảo nhau cung phụng. Đám giỗ đám chạp nhà ai chẳng mời nó cũng đến, không dám đuổi đã đành, người ta phải dọn riêng mình nó một mâm. Ban đầu có người còn cảm thấy chướng mắt, lâu dần thành lệ rồi cũng quen quen…

Làng Kinh trở lại là một làng quê êm đềm như bao làng quê khác. Đôi khi vẫn xảy ra những vụ mất con gà con vịt, những vụ va chạm, xỉa xói nhau… nhưng tất cả đều không vượt ra khỏi cổng làng. Cụ Cả vẫn ngày ngày được dân làng thay nhau phục dịch và thượng hưởng món ăn ngon. Thằng Hội vẫn tiếp tục đóng vai trò là cái “trực quan sinh động“ mất dạy ấy trong việc giáo dục con trẻ. Ông giáo Cải với những bài giảng thuộc lòng vẫn cho ra lò hết lớp học trò này đến lớp học trò khác. Đám trẻ trong làng vẫn lễ phép khoanh tay mỗi khi ra đường trông thấy người lớn… Bãi bồi của làng giờ đã nhô ra gần giữa sông. Con sông Đáy vì thế rúc sâu mãi vào cái phần hoang vu phía bên kia, rồi quật đi quật lại. Tự lúc nào, dòng sông đã không còn thẳng tắp như ngày trước nữa rồi.

Cái mùi của một cỗ bàn thờ

Có thơ rằng:

“Quá khứ nào buồn bã rêu phong

Thời gian nào dọc ngang tơ nhện…“.

Vậy quá khứ có mùi gì? Thời gian có mùi gì? Không biết! Chỉ biết kẻ thức giả khuyên rằng bất luận thế nào thì cũng nên đóng cho kín quá khứ lại, đừng có dại mà mở nó ra. Ví dụ như một câu chuyện dân gian sau đây:

Chuyện kể rằng ở vùng nọ có ông quan rất to tên Mỗ. Vốn là người học hành đỗ đạt, cũng thỉnh thoảng thi phú lăng nhăng. Song lại là người nổi tiếng đểu cáng, bất nhân bất nghĩa, bất chấp liêm sỉ, ăn của dân không từ cả manh khố rách. Mỗ tự mình đặt ra luật lệ, thả cho lâu la nhân danh pháp luật để ăn cướp đã đành, lại còn rao giảng tuyên ngôn, đạo đức hết ngày này sang ngày khác. Chữ nghĩa, học thuyết… phun ra phì phì. Mỗ muốn nói xuôi, nói ngược gì thiên hạ cũng đều phải nghe, đều phải cho là chân lý. Kẻ khác muốn nói cái gì nhất nhất đều phải uốn lưỡi theo ý Mỗ, Mỗ cho nói thì được nói, bắt câm là lập tức phải câm… Vì thế những kẻ tử tế, có chút liêm sỉ trong thiên hạ lúc nào cũng nhất tề im lìm như một đàn hến, lặng ngắt như một đám tang. Kẻ ngoài nhìn vào tuy vẫn thấy ầm ĩ đấy, nhưng tất cả chỉ vo ve độc một giọng Mỗ mà thôi.

Có lẽ vì cái đểu cao ngất ấy mà trời phạt. Mặc dù Mỗ có vô số vợ rải khắp thiên hạ, nhưng lại đẻ ra rặt những giống chó lợn, nếu không thì cũng hao hao cầy cáo… chẳng đứa nào được ra cái hồn người. Gần sáu chục tuổi, Mỗ vẫn chưa có đứa con nào khả dĩ có thể nối được cái “đức“ của mình. Nghe người ta đồn nơi có mả Chúa là một chốn rất thiêng, có thể cầu gì được nấy, thiên hạ vẫn ngày ngày xếp hàng đến vái đông như trẩy hội. Mỗ bèn huy động lâu la quét dọn đường sá, chuẩn bị lễ vật. Lại sai tìm thuê bằng được một lão thầy cúng cao tay ấn rồi tiền hô hậu ủng, đích thân tới mả Chúa để cúng tế, cầu đẻ được một đứa con cho ra cái giống người.

Bữa ấy tế xong về ngủ, đến khoảng canh ba mơ màng nghe có gió lạ thổi vào trong màn, bất chợt lẫn trong bóng trăng khi mờ, khi tỏ, Mỗ nhìn thấy Chúa dắt một đứa bé ngắn độ hai tấc, tròn xoe, mũm mĩm như thiên thần đến bên màn mà bảo:

-Cúng cáp ghê quá, làm cho ta muốn lờ đi cũng không được. Nhưng ta chỉ là nhà môi giới đầu thai thôi đấy. Có gì các ngươi tự thương lượng với nhau.

Nói xong, Chúa biến mất. Còn lại đứa bé, nó khoanh tay lễ phép nói với Mỗ:

-Ông muốn có con hay để sáng mãi cái đức của mình. Phải cái thời buổi này, từ các thiên tinh, đồng tử cho đến những vong hồn, quỷ sứ… đều không ai muốn đầu thai làm người cả. Nay nể Chúa mà tôi phải thí thân đó thôi. Vậy tôi chịu làm con cho ông ba mươi năm được không?

Mỗ ngắm đứa bé thì thích lắm, lại nghe nó nói thế thì mới đầu mừng rỡ. Song nghĩ lại thấy có chỗ không ổn, bèn trả lời:

-Ba mươi năm ngắn quá. Ta còn muốn sống đến trăm tuổi nữa kia. Chẳng lẽ ta phải chôn con trước rồi mới đến lượt ta hay sao?

Đứa bé lại nói:

-Vậy năm mươi năm được không?

Mỗ trả lời:

-Đời người năm chục tuổi vẫn còn là chết non. Ta không muốn con ta lại có cái số kiếp ấy.

Đứa bé tiếp tục nhượng bộ:

-Thôi thì bẩy mươi năm vậy.

Đến đây Mỗ mới gật đầu bằng lòng. Liền đó một trong số vợ bé của Mỗ có mang, đủ chín tháng mười ngày quả sinh ra một đứa bé bụ bẫm, giống hệt đứa bé Mỗ gặp trong giấc mộng ấy.

Đứa bé lớn lên, một tuổi biết đi, hai tuổi biết nói, ba tuổi bắt đầu học chữ, bốn tuổi đã đọc thông viết thạo. Mỗ mừng lắm, quý như cục vàng, sai người chuẩn bị kinh sách, tự mình bịa ra truyền thống, xuyên tạc gia phả… cốt sao dạy nó sau này đểu hơn cả mình. Năm mười ba tuổi, đứa bé dường như đã thấu hết tình đời, kiến thức không thua gì người lớn. Một hôm nó ôm lấy mẹ mà bảo:

-Bố té ra là hạng người không ra gì. Con nghe lời Chúa, đầu thai đã là cái sự ngu, không ngờ lại thác sinh vào chốn đểu, cố được đến ngày hôm nay cũng là bởi vì thương mẹ. Song con cũng phải tìm nơi khác mà làm người thôi. Mẹ đừng buồn, sau này nếu thấy ở đâu có đứa trẻ lên ba không biết nói, một bàn tay nắm chặt giữ một vật gì, thì xin mẹ hãy tìm đến. Đó chính là con đấy.

Nói xong, nó nằm lên giường, nhắm mắt lại rồi không bệnh mà chết. Mỗ đau đến chết đi sống lại, bấy giờ Mỗ đã già, sinh khí tiêu hết không còn đẻ được nữa, đành bấm bụng chọn trong số đám con cầy cáo kia lấy một đứa làm người kế nghiệp. Duy người mẹ không khóc lóc gì, chỉ kiểm lại thì thấy mất cái trâm gài đầu, không biết trong lúc hỗn độn đánh rơi mất ở đâu. Từ đó cứ lặng im ghi nhớ những lời trăn trối của nó rồi kiên nhẫn nghe ngóng, chờ đến ngày gặp lại đứa con.

Được khoảng một năm, lão thầy cúng ngày trước Mỗ thuê mò tới tâu:

-Thằng bé ấy không phải tầm thường. Sở dĩ nó bỏ Ngài là vì số Ngài và nó có chỗ xung khắc. Nay cái tinh linh của nó vẫn còn lẩn quất đâu đây, tôi đã có cách tra ra chỗ trú của nó. Nếu Ngài có được cái tinh ấy mà dùng làm con tin với cả quỷ thần thì cơ đồ của Ngài sẽ bền vững đến muôn đời.

Mỗ nghe nói mừng quớ lên, vội hỏi:

-Làm cách nào để tóm được nó?

Lão thầy cúng khúm núm:

-Tôi sẽ vì Ngài huy động cả “nhâm, cầm, độn, toán“ mà chiếu ra phương vị của nó, lại dùng phép để yểm thì nó có chạy đằng trời.

Mỗ mừng lắm, lập tức thưởng trước cho lão thầy cúng một số tiền lớn, đoạn sai lão lập tức đi tìm bắt cho bằng được linh hồn của thằng bé đem về…

Hôm ấy, lão thầy cúng giở tay bấm độn. Biết cái tinh kia hiện đang trú trong một viên sỏi nhỏ nằm ngay trước cổng một làng nọ, lão vội vàng chiếu đường tìm đến. Viên sỏi nhẵn thín có linh hồn thằng bé trú vào từ đêm hôm trước, nằm hờ hững ngay giữa đường làng, lẫn vào vô số những viên sỏi khác, người bình thường không thể nhận ra. Nhưng đối với lão thầy cúng cao tay này thì nó đừng hòng ẩn thân vào đâu được. Không ngờ khi lão ta tìm được tới nơi thì viên sỏi đã biến mất, cứ như thể nó có chân? Hay có kẻ nào vừa nhặt mất rồi? Quả có như vậy thật, nhưng đó là kẻ nào? Lão thầy cúng không chịu bỏ cuộc, bèn bấm lại phương vị, rồi đuổi theo cái kẻ nào đó vào tận trong làng.

Số là trước đấy vài khắc, có người làng dắt trâu đi qua chỗ ấy, tình cờ thế nào, con trâu đang đi bỗng đứng lại, ỉa một bãi trùm đúng lên viên sỏi. Lát sau, một người khác trong làng mang rổ ra hót bãi phân, định đem về đổ vào chuồng lợn. Bãi phân vô tình dính cả viên sỏi vào đấy. Lão thầy cúng cũng vừa kịp đuổi tới nơi, bèn túm ngay lấy kẻ đó, đòi đắt mấy cũng mua cho bằng được bãi phân. Người kia nghe lão thầy cúng nói thì tròn mắt kinh ngạc, xưa nay chẳng thấy ai đòi mua đắt cứt trâu bao giờ, vì thế cho là lão thầy cúng điên, thành ra cứ ôm khư khư cái rổ cứt. Lão thầy cúng sốt ruột xông tới quyết giằng cho bằng được. Hai người đang co kéo, bất ngờ cái rổ bị lật nghiêng làm cứt đổ ra văng tung tóe. Lão thầy cúng thấy thế vội vàng bỏ cái rổ, rồi bất chấp bẩn thỉu, bò cả người vào đám cứt để lần tìm.

Bỗng có một người đàn bà đi làm đồng về ngang qua, thấy lão thầy cúng đang bò lóp ngóp, mải miết bóp nặn từng mẩu cứt thì ngạc nhiên lắm, bèn đứng lại xem một lúc rồi chép miệng, cho là lão ta lên cơn điên nên nhìn cứt hóa  vàng, rồi bỏ về. Người đàn bà ấy lại vô tình dẫm đúng phải chỗ cứt có dính viên sỏi. Lão thầy cúng cuối cùng cũng tìm thấy, nhưng nó chỉ còn là một viên sỏi hoàn toàn bình thường, chẳng có chút tinh linh nào trú trong đó cả. Lão biết mình đã thua, đã gặp ngay phải cái tinh láu lỉnh. Có biết đâu rằng cái tinh ấy đã kịp theo người đàn bà kia về nhà bà ta mất rồi.

Lão thầy cúng thất bại ôm đầu về chịu tội với Mỗ. Tuy nhiên lão vẫn cố vớt vát:

-Tôi dẫu không bắt được nó, song chắc chắn nó còn trốn trong vòng ảnh hưởng của Ngài. Cứ như quẻ bói của tôi thì nay mai nhất định nó sẽ lại đầu thai vào một nhà khác. Xin Ngài để ý nghe ngóng, biết đâu đến lúc ấy mà bắt được nó về làm con thì thế nào cũng được đại phúc.

Sau đó gần bốn năm, nghe đồn rằng làng ấy có vợ chồng một nhà nông phu nghèo đẻ một đứa con trai đẹp như thiên thần. Nhưng không hiểu sao đã lên ba tuổi mà nó tuyệt không mở miệng nói ra tiếng nào, một bàn tay luôn luôn nắm chặt như giấu vật gì, không sao bắt được nó xoè ra. Người vợ bé của Mỗ nhớ tới lời dặn, biết con mình ngày trước đã đầu thai trở lại, bèn bí mật tìm đến xin gặp. Mẹ của đứa trẻ ra mở cổng đón vào, chính là người đàn bà đã dẫm phải cứt trâu ngày trước.

Điều kì lạ đã diễn ra. Đứa trẻ đang nằm im thin thít trên giường, thấy vợ Mỗ tới thì bỗng ngồi nhỏm dậy, mở miệng cất tiếng nói đầu tiên, gọi “Mẹ“ rồi xòe nắm tay ra. Mọi người kinh ngạc nhìn thấy trong lòng bàn tay ấy có một cái trâm gài đầu, giống y hệt cái trâm ngày xưa của vợ Mỗ. Biết đích xác đứa trẻ này đúng là đứa con ngày trước của mình, vợ Mỗ mừng lắm. Bèn kể lại mọi chuyện cho vợ chồng nhà nông phu kia nghe. Vợ chồng nhà ấy cho là chuyện lạ, cũng hết sức vui vẻ mà đồng ý cho vợ Mỗ đi lại thăm nom, coi như con đẻ. Đứa trẻ từ đó thành ra lại có hai bà mẹ ruột, cùng săn sóc, yêu quý nó như nhau…

Đứa trẻ lớn lên, càng lớn càng sáng sủa, thông minh đĩnh ngộ, học một biết mười. Năm nó được sáu bẩy tuổi gì đó thì Mỗ biết chuyện. Bèn sai lâu la dò xét, biết rõ nơi ở của nó rồi, Mỗ đích thân mò tới nom trộm, quả nhiên thấy nó giống hệt thằng con quí của mình ngày trước. Bấy giờ Mỗ đã già, đường con cái chẳng đứa nào được ra cái giống người, thiên hạ lắm kẻ cứ nhè vào cái nỗi đau ấy mà chửi thầm, chửi vụng. Mỗ nghĩ bụng thôi thì có đứa con khôi ngô, giỏi giang như thế cũng đỡ được phần nào sĩ diện. Không những thế, lại ứng vào cái điềm đại phúc như lão thầy cúng nói ngày trước. Thế là Mỗ lập tức giao cho lâu la tìm cớ dựng chuyện, vu oan giá họa nọ kia… rồi dùng quyền hành bắt đứa trẻ về, công bố nó là con của mình bị thất lạc.

Vợ chồng nhà nông phu kia bị mất con thì ức lắm song thân yếu thế cô, trước quỷ dữ biết làm thế nào. Ngay cả người vợ bé của Mỗ cũng phản đối, không muốn có con theo cái kiểu ăn cướp ấy. Nhưng Mỗ đã muốn là phải được. Từ khi bắt được đứa trẻ về làm con, Mỗ hết sức sung sướng và hãnh diện với thiên hạ vì mình rốt cuộc cũng có được một đứa con thực cho ra cái giống người.

Một hôm, Mỗ dẫn đứa trẻ đến lạy trước bàn thờ tổ tiên. Chẳng hiểu hướng dẫn nó lạy lục thế nào, chỉ thấy nó giơ một ngón tay ra, trỏ một cái vào giữa bàn thờ như kiểu người ta làm phép giải toả. Lập tức, từ nơi đó xông ra một mùi gì hăng hắc, khăn khẳn, y hệt mùi cứt trâu tươi. Mùi đó mới đầu còn tụ một chỗ, sau lan ra nồng nặc khắp nhà trên, nhà dưới, tràn ra cả bên ngoài, làm người ăn, kẻ ở lẫn dân chúng quanh vùng không ai chịu nổi, cứ thi nhau khạc nhổ om sòm. Thằng bé kia quả nhiên cũng có chỗ khác người. Nhưng cái mùi ấy thì rõ là từ chỗ bàn thờ nhà Mỗ mà xông ra, cứ như thể xưa nay nó đã ngự trị sẵn ở nơi đó rồi, có điều chưa ai ngửi thấy mà thôi.

Mỗ hoảng hốt không hiểu tại sao thằng bé này lại giải phóng được cái mùi đó ra khỏi cỗ bàn thờ cổ kính và trang nghiêm của nhà mình. Trong đầu chợt nhận ra một điều rằng nuôi nó trong nhà sẽ chẳng khác gì nuôi ong tay áo. Mỗ vội vàng quát lâu la tống cổ thằng bé ra ngoài đường rồi đóng chặt cửa nhà thờ lại, cố tìm cách giam kín cái mùi ấy trong phạm vi nhà thờ cho khỏi làm ô nhiễm môi trường… Thất vọng vì giấc mơ đại phúc không thành, từ đó Mỗ không xuất hiện ở đâu, không rao giảng điều gì với thiên hạ nữa. Phần vì Mỗ đã già, công việc thừa kế đã có đám con cái chó lợn, cầy cáo kia cai quản, phần vì Mỗ phải tự mình canh giữ cái mùi khủng khiếp ấy trong nhà thờ, không cho nó bốc hơi ra bên ngoài để còn giữ thể diện với thiên hạ cho đến hết đời.

Đứa trẻ rốt cuộc lại được trở về với vợ chồng nhà nông phu kia, được tiếp tục sống trong vòng tay yêu thương của hai bà mẹ. Không biết kết cục đời nó về sau thế nào, câu chuyện không thấy đề cập tới. Chắc nó cũng thành một người tử tế bình thường, rồi chìm lẫn vào giữa chốn dân gian, mặc cho các nhà viết sử cứ việc hoài công tìm kiếm, đến nỗi phải bịa tạc nọ kia… Câu chuyện còn kể rằng cái nhà thờ ấy của nhà Mỗ đến bây giờ vẫn còn. Nhưng nó luôn luôn được đóng chặt. Phải có tới mấy lần cửa trong cửa ngoài, kín mít như bưng. Bao nhiêu đời nay không ai dám mở, chỉ sợ cái mùi gì ấy từ cỗ bàn thờ nó lại thoát được ra…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: