Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

truyen ngan(new)-Lenghiabk05

“Nước mắt bên sông” - Hồ Đăng Thanh Ngọc

22-08-2012 02:46:28 PM

Từ khi đập thủy điện chặn dòng trên thượng nguồn, hạ lưu con sông Nhiêu bắt đầu chết đứng, và cả những vùng dân cư trù mật hai bên bờ sông cũng dần dần chết đứng. Những khu vườn xanh um do được nước sông mỗi ngày thấm vào đất nuôi dưỡng cây, thì bây giờ phải dần chết rụi do nước sông cạn đáy. Sông còn khô huống chi là cây. Sông còn khô huống chi là người. Người lớn có vẻ không nhận ra điều đó nhanh như con nít. Hôm trước tôi trèo lên tới tận ngọn cây dừa cao nhất làng, nhìn ra xung quanh, thấy cả hai vệt cây vàng lá lộ ra chạy dọc theo sông, như hai cái đuôi con diều. Trước đâu có vậy, cả vùng xanh ngăn ngắt. Tôi tụt xuống đất dắt tay thằng Mừng nói “Đi với tau”. Thằng Mừng hỏi “Có chuyện chi rứa?”. Tôi nói “Đi coi sông chết tới mô rồi”. Thằng Mừng vừa chạy lúc thúc theo tôi vừa ỉ ôi làm răng mà sông chết, sông chết là răng? Tôi vào nhà lấy chiếc xe đạp, chở thằng Mừng phóng như bay lên đầu nguồn.

Từ nhà tôi đến chỗ khe Trẹm đầu nguồn khoảng bảy cây số, đường mòn đất phù sa quanh co khúc khuỷu, được cái đường mòn đúng vệt đất phù sa, người ta đi lâu nên đằm. Người dân làng Nhiêu tất tần tật lên núi đi củi, đi tranh, đi chổi, đi lá nón... đều theo con đường này. Khe Trẹm là con dốc dựng đầu tiên của nguồn sông Nhiêu. Khe Trẹm từ ngày xưa đến nay bao giờ cũng đầy nước, từ xa vài cây số vẫn nghe nước đổ bời bời. Khe Trẹm là nơi chứa bao huyền thoại về tôm cá dòng sông. Có người nói từng bắt ở đây con chình hoa nặng đến nửa tạ. Có người nói vào cuối thu, cá mòi từ ngoài biển cũng ngược dòng đến đây để đẻ, có lần thấy cả bầy gấu ngựa đứng bắt cá mòi ở lưng chừng tảng đá dựng nơi khe Trẹm. Lại có người nói cá đối ở đây là thiên hạ không địch thủ, có con to bằng cả chiếc ghe câu... Lời đồn đại của người lớn làm tụi con nít như tôi tò mò, nhưng bao nhiêu lần ngồi câu ở đây, chả thấy sủi tăm bóng dáng một con cá lớn nào. Nhưng có một lần sau cơn mưa dông, tôi đạp xe lên đây câu cá, chợt thấy hai con rùa, một con to bằng cái rổ, một con to bằng quyển vở bò lúc thúc ngay bụi tre dưới sông. Tôi nín thở đứng nhìn như thể thở mạnh một chút là rùa sẽ bỏ chạy. Mạ tôi dặn, có đi câu đi kéo thì gặp rùa đừng bắt nghe con. Rùa có công chở thầy trò Đường tăng và kinh sách qua sông, nhà mình theo Phật, không hại đến những con vật có nghĩa có tình ấy. Tôi kể chuyện thấy rùa cho chú Sung nghe. Chú nghe xong nói răng mi không bắt, một con rùa bây giờ bán cả triệu bạc. Tôi nói mạ tôi dặn không được. Chú Sung nói thì mi cứ dạ, nhưng cũng cứ bắt rùa đi bán, đừng mét lại ai, có tiền tha hồ chơi game, đi hát karaoke có em út cho biết mùi đời... Năm đó tôi mười bốn tuổi, học lớp tám trường làng, tôi nghe mạ tôi dặn, lại nghe chú Sung nói, lòng hoang mang. Nghe nói người lớn đi hát karaoke có con gái ngồi bên, ngực nần nẫn, đùi múp máp, nghĩ tới đó mà người tôi nóng ran. Thỉnh thoảng trong làng lại có đôi vợ chồng gây nhau vì ông chồng bán lúa lên thị trấn tìm con gái hát karraoke đó thôi. Tự nhiên tôi nhớ Mỵ nhà ở bên tê sông. Mỵ của đêm trăng ấy trên bến sông Nhiêu, mơn mởn và nõn nà một màu trăng dịu vợi.

Tôi và thằng Mừng lên thấu khe Trẹm lúc trời vừa đổ nắng xiên khoai. Quả nhiên khe Trẹm nước không còn nhiều như trước. Ngày xưa ở đây nước rớt ầm ầm từ trên xuống, bây giờ chỉ còn thưa thớt chảy như cái máng xối trước nhà ngày mưa. Ngày xưa khúc sông này, nước đầy mênh mông, bây giờ nước tụt xuống cạn đáy, phơi cả rong rêu thảo bì bám hai bên sông giữa nắng đến cả bảy tám mét. Cây cối hai bên bờ trước đây xanh ngắt, giờ lá chuyển sang vàng vọt, có lẽ vì do thiếu nước. Con sông Nhiêu xanh um, nước chảy yên bình và hiền hòa của tôi sao bỗng dưng biến đổi thế này? Khúc sông trù mật đầy hy vọng của bao người sông Nhiêu sao lại trở nên xấu xí thế này? Nắng xiên khoai xiên cả đầu óc tôi choáng váng. Tôi tự nhiên đứng khóc. Tôi nhìn sang, thấy thằng Mừng cũng khóc trong nắng xiên khoai. Hai đứa con nít cứ đứng thế mà khóc.

Đêm về tôi mơ thấy những con rùa bò lóp ngóp lạy tứ phương cầu xin sự sống, nhưng sợ nhất là mơ thấy những con cá chết giơ lưng nổi lềnh bềnh, những đôi mắt cá ngơ ngác hoang dại mở to tròn không hiểu vì sao mình lại chết, những đôi mắt cá ấy trắng dã, chợt sinh sôi rất nhiều, nảy nở tràn đầy bể cạn trước sân rồi cả tỷ tỷ con mắt ấy chợt ùa chảy vào giường tôi đang nằm, khiến tôi hét lên...

*

Tối cả xóm xem ti vi. Truyền hình đưa tin Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường vừa tổ chức hội thảo khoa học “Đánh giá tác động của các công trình hồ thủy điện, thủy lợi đến tài nguyên và môi trường”. Các nhà khoa học cho biết hiện các đập thủy điện đã tích trữ hàng chục tỷ mét khối nước, khai thác được hàng ngàn MW điện, nhưng hiệu quả cắt giảm lũ của các công trình này là rất thấp hoặc không rõ. Việc đánh giá tác động môi trường hầu như chỉ làm lấy lệ. Nhiều thủy điện được xây dựng trên các lưu vực sông khiến các dòng sông bị chặt nát, làm mất rừng đầu nguồn khiến đa dạng sinh học bị giảm và gia tăng lũ quét. Việc xây dựng thủy điện với tích nước đầu nguồn gây nên hạn hán nghiêm trọng, lúc có mưa lớn ở đầu nguồn lại xả lũ vô tội vạ nên nhiều nơi lũ lụt xuất hiện ngay lúc ruộng lúa và hoa màu đang sắp thu hoạch khiến người nông dân không kịp trở tay. ở các hạ lưu sông, vốn đa số các cửa sông đều là cửa sông kiểu liman - khuyết áo, bình thường thoát lũ đã khó, nay việc nuôi trồng hải sản khiến các bãi triều cửa sông được quây đắp tối đa làm khả năng thoát lũ càng giảm. Thêm vào đó, các lồng cá chiếm ngự các con sông và người dân vô ý thức xả bừa bãi các túi ni lông, xác súc vật xuống khiến các dòng sông đã ô nhiễm bởi không chảy được lại càng ô nhiễm hơn đến mức báo động... Và các nhà khoa học ưu tư: Chúng ta sẽ làm gì để hạn chế tác hại? Không thể bênh vực rằng thủy điện không gây ra vấn đề gì trong tai họa lũ lụt vừa qua. Chúng ta đang làm kinh tế theo kiểu đánh đổi bởi chúng ta không thể lấy không từ thiên nhiên một cái gì...

Mọi người nhao nhao lên: Thì chuyện ở sông Nhiêu có khác chi mô.

Chú Hoài nói, như thế là tội ác. Con sông là nguồn sống của cộng đồng dân cư. Giờ chặn dòng làm thủy điện, bo bo tích giữ lấy nước rồi xả nước vô tội vạ vì lợi ích cá nhân của một nhóm người mà hại đến muôn người. Chặn dòng cây cối chết. Chặn dòng ruộng nương chết. Chặn dòng bao câu hát cũng chết. Rồi chú hát:

Dòng nước mát của tôi, người ta lấy mất

Hy vọng hoa trái của tôi, người ta lấy mất

Nụ cười trên sông em gái tôi mỗi sáng,

người ta lấy mất

Dòng sông cuộc sống của tôi đã chết rồi,

em biết không?

*

Chú Hoài nói với mọi người, “Tôi sẽ đi giết đứa nào giết sông”. Mạ tôi nghe chú Hoài nói, run lẩy bẩy, lật đật chạy từ nhà dưới lên can, “Chú đừng làm chi mà nên tội, họ ác nhân thì ắt sẽ ác báo, chú đừng nhá. Hoài nhá”. Mạ tôi biết tính chú Hoài nói là làm. Chú Hoài nghe mạ tôi can, hậm hực “Chị nói rứa thôi chứ tôi tức ruột gan lộn hết lên đầu rồi đây”.

Chú Huỳnh chủ tịch xã nói, không ai được manh động, xã sẽ làm công văn đề nghị xả nước thường xuyên cho dân làm ruộng, làm màu, chứ cứ chặn dòng nước như thế này, thượng điền tích thủy hạ điền khan thì nguy. Công văn chủ tịch xã Huỳnh gửi đi, nghe nói không ai trả lời xã; cũng nghe nói huyện có trả lời, đại khái để chờ cuộc họp giữa chủ đầu tư với ban quản lý; cũng nghe nói huyện thông báo đề nghị của xã với ban quản lý, nhưng ban quản lý lấy lý do cần tích nước để đảm bảo điện cho mùa hè, phục vụ sản xuất công nghiệp, mà tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế thì cao hơn nông nghiệp nhiều, con em trong xã vào làm trong các nhà máy cũng nhiều, nên xã chịu khó vậy. Chú Dinh là cán bộ văn xã nói, chắc bà con làm đơn tập thể thì họa may ra. Chú Sung bàn ra, làm đơn chi cho mệt, mấy ông trên quyết hết rồi. Lời chú Sung lập tức bị hàng trăm người cự nự. Họ quyết rồi thì mình phải có đơn cho họ biết là mình đang khổ sở trăm bề chớ. Chú Nghĩa đứng ra thảo đơn, câu chữ cực kỳ thống thiết. Làng nói từ xưa đến nay, chưa có lá đơn nào hay và thống thiết như lá đơn xin cứu sông này. Làng có hai trăm hộ, vậy mà lại gom được trên cả ba trăm chữ ký, vì có nhà ông chồng ký xong bà vợ cũng đòi ký. Đơn gửi đi, cả làng ngồi chờ, rồi cũng không tăm hơi.

Chú Hoài dò hỏi một thời gian thì biết ông chủ thầu cái đập thủy điện sông Nhiêu tên là Sỹ. Chú Hoài tìm gặp ông Sỹ trong văn phòng của công trường. Chú Hoài chỉ mặt, “Này ông kia sao ông dám giết sông?”. Ông Sỹ cười khẩy, “Đây là công trình nhà nước, có đánh giá tác động môi trường hẳn hoi, đừng có mà hồ đồ”. “Biết là của nhà nước, nhưng các ông đấu thầu lại, làm ăn vô lương tâm, chặn dòng không chịu xả nước như cam kết làm chết cả nương vườn của dân. Ông biết ông giết sông tức là ông giết cả vùng dân cư không?”. Ông Sỹ chẳng vừa, vừa nhấn nút báo động, ông vừa khiêu khích “Ông đây thích vậy thì làm vậy đó, thằng nào làm đếch gì được ông?”. Chú Hoài nghe ông Sỹ nói tức khí dâng lên, vừa lao tới đánh ông Sỹ vừa gầm lên “Vậy thì tao giết cái thằng giết sông cho thiên hạ biết”.

 Chú Hoài lao tới định tóm cổ ông Sỹ để nện một trận cho đã nư, nhưng ông Sỹ lúc ấy đứng sau cái bàn làm việc nên thoát được. Ngay lúc đó bảo vệ của công trường ập đến, chú Hoài thân cô thế cô nên bị toán bảo vệ đông đến bảy tám người trói gô lại như người ta trói lợn. Ông Sỹ tiện thể lấy từ hộc bàn ra cây dao Thái nói với toán bảo vệ, “Ông Hoài định lấy con dao này đâm chết tôi đấy. Đề nghị lập biên bản ông Hoài cố sát tôi với con dao này làm bằng chứng”. Rồi ông Sỹ quay qua nhổ nước bọt vào mặt chú Hoài, “Mày rồi đi tù mọt gông con ạ”. Chú Hoài nhổ ngay lại bãi nước miếng vào ông Sỹ, “Mi đê tiện đến mức đó hở thằng kia, tao cần chi giết mi bằng dao, sao lại gắp lửa bỏ tay người kiểu hèn hạ rứa? Mi để coi rồi cũng chết sớm thôi con ơi!”. Chú Hoài sau đó bị đi tù vì tội cố sát, ông Sỹ bị trách cứ qua loa rút kinh nghiệm rồi thôi. Nước sông Nhiêu có được nhà máy thủy điện xả nhiều hơn một chút trong một thời gian để trấn an dư luận, sau đó rồi vẫn như cũ, sông vẫn bị chặn dòng, thượng điền tích thủy hạ điền khan...

Nhưng rồi chính ông Sỹ cũng không sống lâu. Nhân kỷ niệm ba năm thành lập thủy điện sông Nhiêu, một hôm ông Sỹ mời mấy vị khách đi câu trên hồ Nhiêu. Thuyền câu lợp mái thong dong trôi trên hồ Nhiêu mênh mông, trên thuyền có các em xinh đẹp mặc váy ngắn rót bia cho khách. Hôm đó ông Sỹ câu được con cá trắm to lắm, sai nhà bếp làm cá nấu cháo. Không hiểu sao cả bảy vị khách ăn cháo thì bảy người sau đó nhập viện. Bác sỹ nói do ngộ độc mật cá trắm, nhà bếp làm cá trắm mà không biết tách mật ra khỏi cá, cứ thế mà nấu. Riêng ông Sỹ ăn nhiều bị dị ứng nặng, lại có tiền sử bệnh thận, nên sau mấy ngày nhập viện, ông tắt thở. Người ta bảo đó là quả báo, hại nhân thì thiên hại. Quả nhiên trời có mắt. Có người nói cụ thể hơn, rằng đáy hồ Nhiêu bây giờ, xưa có hài cốt nhiều người. Ông Sỹ biết mà không chịu di dời, cứ để vậy rồi xả nước vào, nên bị hồn cốt giết. Ông Sỹ chết, nhưng con sông Nhiêu cũng không sống lại được.

*

Tôi lấy ghe chống đi dọc sông Nhiêu, chống lên đến khe Trẹm rồi lại xuôi về, thấy cây cối hai bên bờ sông vàng úa quá nửa. Những vạt lau ngày xưa mọc rậm rịt bên sông, giờ nước xuống nên chúng bị treo cao lên lưng chừng biền bãi, như những thằng ngố rách rưới, tóc tai xác xơ. Có những khúc sông cây sào chống ghe chỉ mất một lóng tre đã thấy đáy. Sông cạn như lạch như hồ, nhìn mà đau xót.

Ngày xưa nước sông Nhiêu trong xanh và sạch sẽ vô cùng. Mỗi sáng sương sớm như làn khói tỏa giăng đầy mặt sông và dòng nước chảy lặng lờ giữa không gian tĩnh mịch khiến tôi có cảm giác không có gì sạch sẽ và bình yên hơn con sông Nhiêu. Từ sáng sớm đến chín giờ là giờ dành cho việc gánh nước dùng ăn uống, nên làng cấm ngặt không cho tắm giặt. Nhưng sau chín giờ, các bến sông rộn rã người lớn giặt chiếu, con nít tắm sông ơi ới... Nay thì sông bẩn quá, chiếc ghe tôi chống đi như trôi qua bãi rác bềnh bồng trên nước. Ngày trước người dân thả cái chi xuống sông, sau một đêm nước cuốn trôi ra biển hết. Nay sông không có nước để chảy nên rác không trôi. Sông hóa thành hồ rác  không tắm rửa chi được, rửa chân nơi bến sông người ta cũng ngại. May có nước máy về tận mỗi nhà, nhà nhà giờ đều dùng nước máy. Nhưng có lúc nhà máy thủy điện súc rửa máy móc khiến mangan trong nước máy tăng cao, đục và hôi tanh. Tội nghiệp nhất là đám trẻ con ở làng bây giờ sống bên sông mà chả biết bơi bởi chúng không dám ra sông tắm. Không như ngày xưa, bọn con nít như tôi bốn tuổi đã nhảy sông ùm ùm.

Sông sống bên làng, chảy qua làng mà hồn sông đã cạn, sông chết rồi hở làng, hay làng đã quên sông? Ai làm chi nên nỗi?...Tự nhiên tôi ứa nước mắt.

Tôi khóc cho dòng sông của tôi.

Tôi từng có diễm phúc được sống bình yên

trên dòng sông xanh

Sông chảy qua làng tôi làm nên những bạt ngàn

cây cối mùa màng trù mật

Mẹ thiên nhiên cho tôi dòng sông như bầu sữa

Tôi ngụp lặn ước mơ mình từ sông, tôi lớn lên từ sông

Nhưng bây giờ tôi phải khóc  vì dòng sông của tôi

 đang chết,

bầu sữa của tôi đã khô, mùa màng của tôi đã

thất bát

Nước mắt của tôi không thể đổ đầy thay thế

nước sông

Nhưng nước mắt của tôi cay đắng và có thật

Như cái chết tức tưởi của dòng sông kia là có thật...

Tôi chống ghe về đến làng. Thấy Mỵ đang phụ giúp ba của Mỵ là chú Sào đưa cái bồn tắm vào nhà. Gớm, mới năm trước Mỵ còn rủ tôi đi tắm nơi bến sông này nhảy ùm ùm, giờ bày đặt lắp bồn tắm để xả nước tắm trong nhà như trong phim. Mỵ là bạn học cùng lớp với tôi. Trên bến sông Nhiêu, tôi có kỷ niệm khó quên với Mỵ. Đêm đó trăng sáng vằng vặc song trời nóng lắm, tôi đi tắm sông. Tôi bơi qua bên tê sông thì gặp Mỵ cũng vừa xuống tắm. Gương mặt Mỵ, giọng nói Mỵ, thân hình Mỵ đẹp như sương khói mơ hồ lóng lánh dưới sông trăng khiến tôi hồi hộp. Hai đứa nói chuyện trên trời dưới đất một hồi thì tôi đứng sát vào Mỵ lúc nào không biết. Chợt Mỵ kêu, “Mỵ bị chuột rút Đằng ơi”. Tôi ôm chặt lấy Mỵ đưa Mỵ vào bờ. Mỵ không còn là sương khói mơ hồ nữa, Mỵ đang ở trong vòng tay tôi. Tóc Mỵ theo nước lùa chảy trên mặt tôi. Da thịt Mỵ thơm tho theo nước sông chảy vào tôi. Chợt Mỵ cũng đưa tay ôm choàng lấy tôi, người tôi căng tràn vạm vỡ, người Mỵ mát rượi và mềm mại trong tay tôi. Tôi ôm Mỵ đưa vào bờ mà như lướt đi trên mây, bềnh bồng, ngây ngất. Vào đến bờ, tôi nắn chân cho Mỵ. Chân Mỵ dưới trăng thon dài và trắng như củ sắn vừa mới lột vỏ. Cứ đê mê như thế, Mỵ cám ơn tôi rồi bất chợt, Mỵ hôn lên má tôi một cái rồi bỏ chạy lên nhà.

Tôi đứng sững. Xung quanh không có ai. Bến sông Nhiêu sáng rời rợi xôn xao ánh trăng. Nụ hôn của Mỵ còn nóng bỏng trên má. Hơn mười bốn tuổi, tôi nhận nụ hôn đầu đời, có bến sông Nhiêu làm chứng. Tôi bơi qua sông về nhà, nước êm ái như chưa bao giờ êm ái thế...

Vậy mà sông Nhiêu giờ đã khác đi, Mỵ bây giờ cũng khác. Em xa lánh tôi dần, tôi cũng biết nguyên nhân vì sao rồi. Thằng Vy trên thị xã học dốt phải đúp lớp học lại lớp chín, trôi vào lớp tôi. Nó đang tìm mọi cách bủa vây chài tán Mỵ. Thằng Mừng nói, “Đằng nè, khi mô chơi hội đồng đánh cho thằng Vy một trận cho nó biết mặt”. Tôi quắc mắc “Tao không thèm mấy trò hèn mạt đó”.

*

Mạ nói tôi đi nhổ đậu phụng. Tháng ba, đậu phụng trên bãi biền ven sông vừa tới củ. Cây đậu phụng vẫn xanh, lá vẫn tốt và dưới đất, củ đậu đã đeo trĩu từng chùm, nhổ rất sướng tay sướng mắt. Nhà tôi trỉa sớm nên nhổ sớm, để chậm quá lứa, chỉ cần một trận mưa ướt đất là hạt đâm mầm. Tôi vừa nhổ vừa hát. Tôi nhổ đậu gần xong thì thấy nước sông Nhiêu đổ ào ạt từ thượng nguồn về. Nước dâng lên rất nhanh. Từ dưới sông lên đến mặt vồng đậu phụng nhà tôi cũng phải một mét. Vậy mà chẳng mấy chốc, nước đã ùa vào các luống đất, rồi lên đầu gối. Đậu phụng tôi nhổ tấp đống bắt đầu trôi. Tôi phải rất nhanh tay mới dần bó kịp được. Tôi đưa đậu phụng lên một ngôi mả cao nằm bên trong bãi biền, leo lên đó ngồi thở. Trời nắng như thiêu như đốt mà nước dưới sông lại dâng lụt tràn khắp nơi.

Bấy giờ dân làng bắt đầu í ới đổ xuống bãi biền. Làng có bãi biền đất ven sông Nhiêu nổi tiếng trồng hoa màu hàng trăm năm nay. Cả biền sắn, khoai, ớt, đậu, mè... không kịp thu hoạch mà lụt bất thình lình như ri là chết hết. Thường khoai sắn người ta thu hoạch dần, bắt đầu sắt lát phơi khô, thu hoạch trong ba tuần là xong. ớt và các thứ đậu đen, đậu huyết, đậu xanh thì phải thu hoạch thêm vài lứa nữa mới hết năng suất. Vậy mà bây giờ lụt, sắn phải nhổ một lần kẻo hư, mà sắt lát không kịp thì bị sâm nồng, hắc và nghẹn. ớt, đậu coi như mất trắng mùa màng. Chú Năm nửa người ngập trong nước vừa lần nhổ sắn vừa ngữa mặt lên không hỏi răng mà lụt giữa tháng ba kỳ lạ rứa hở trời? Trời ơi là trời! Cả làng tôi ngày đó ra đứng bên bờ sông ngó xuống. Nước sông trong vắt cuồn cuộn chảy mà bốc mùi tanh lạ lắm. Sao sông không chết quách đi sông ơi!...

*

Tối tôi đang ở trần ngồi học bài thì mạ chạy về, hớt ha hớt hãi. Thấy tôi mạ mừng quýnh reo lên, “Ôi may mà thằng Đằng hắn ở nhà”. Tôi chưa kịp hỏi có chuyện chi, mạ đã kể nghe thằng Mừng nó mới đâm thằng Vy chết bên chợ. Tôi vớ cái áo chạy qua cầu, ngay đầu cầu trước chợ làng đã có đám đông xúm đen xúm đỏ. Mừng đang bị còng tay. Dưới đất là thằng Vy đang nằm, không biết sống chết. Tôi đến sát bên Mừng hỏi, chi rứa? Mừng không nói cũng không nhìn tôi. Mặt lạnh như tiền.

Hôm sau tôi xin phép mạ lên trại tạm giam thăm Mừng, báo tin cho Mừng là thằng Vy không chết, bệnh viện cấp cứu kịp. Tôi nói “Tau đã nói là không chấp mà răng mi cứ đâm hắn?”. Mừng nhìn tôi, “Tau tức thái độ đểu cáng, hách dịch của thằng Vy lắm. Mà tau cũng yêu Mỵ chớ có phải chỉ mình mi yêu Mỵ mô?”.

Tôi giật mình, ừ hè, đâu chỉ mình tôi yêu Mỵ, và đâu chỉ mình tôi yêu sông Nhiêu!

Tôi đạp xe về theo con đường dọc sông Nhiêu, hình như từ khi sông cạn, lòng người trở nên hung hãn. Người ta nói có chuyện liên quan giữa thủy triều với tâm tính con người. Nước đầy thì tâm tính người ta vui vẻ, nước cạn thì tâm tính người ta thô lỗ, cộc cằn. Sông Nhiêu chừ chết rồi, còn chi đâu mà vui vẻ với cộc cằn, lòng người bất an từ bao giờ chẳng rõ...

Tôi nói với mạ “Tui không học nữa, tui sẽ đi vào Nam làm ăn, giàu có tui ra mua lại cái nhà máy thủy điện ni rồi xả đập cho bà con làm ăn, cứu con sông Nhiêu sống lại, trả lại cho làng cảnh thanh bình như xưa”. Mạ tui nói, “Muốn làm giàu thì phải học đã con ạ, mới mười lăm tuổi học lớp chín, làm chi được”.

Tôi úp mặt vào sách mà khóc, mười lăm tuổi bảo trốn vào sách vở làm sao tôi trốn được. Và nước mắt tôi cũng đâu có chảy thành sông được...

Điệu Rumba mê dại (I)

(

Nghệ thuật mới

) - Valse êm ả. Flamenco bốc lửa. Jazz uyển chuyển. Disco cuồng nhiệt. Và Twist, Foxtrot, Cha cha cha, Quickstep, Rumba. Các điệu vũ luôn là chính nó, một phương thức nối kết, một thứ nghi lễ của bản ngã con người, một phong cách dùng ngay cơ thể mình để giao hoà với vũ trụ, để biểu hiện bộc lộ niềm hân hoan vui sướng tột độ của chính mình, chúng có một chiều dài lịch sử.

Và với Hoan, Rumba, vũ điệu cặp đôi, không hiểu sao lại khiến nàng mê mẩn đến thế! Nàng mê mẩn đến mức có lúc đã tự hỏi, ai phát minh ra nó mà tài tình vậy! Và khi ở trong vòng mê dại của vũ điệu này, nàng mới hiểu, vì sao cái nước Đức nổi tiếng là văn minh thế mà cuối thế kỷ 19 lại rộ lên cả một phong trào chống lại nó.

Ấy thế, trong khi giao tiếp nam nữ ở ngoài đời thường có khoảng cách một tầm tay, thì ở đây, hai người, nàng và anh ta ôm nhau sát sàn sạt!

Trong từng bước nhảy của vũ điệu kỳ diệu này, trong vòng tay dắt dìu của người đàn ông, nàng bồng bềnh trong một cảm giác mỗi lúc một xa lạ. Thế đó, sống có nghĩa là cảm giác.

Và như vậy, trong sóng nhạc lúc giần giật, lúc dập dìu, trong ánh mắt giao tình quấn quyến của người đàn ông, nhiều lúc nàng thấy mình như từ hữu hạn tan biến vào cõi giới vô hạn, vô cùng.

- Chị có những bước nhảy thật tuyệt kỹ!

Ngay từ vòng nhảy đầu tiên, người đàn ông nọ đã ghé tai Hoan thầm thì vậy. Anh ta, một gã trai trẻ hơn nàng cả chục tuổi. Vóc hình đô lực sĩ nhưng không đến nỗi xộ xệ tuy có hơi thô. Một cặp mắt nhỏ luôn nhó nháy trên một khuôn mặt bừ bự nhưng được cái tươi tắn.

Nàng đã nở rộ trong lời khen của anh ta. Sung sướng thế, nàng mới học vũ điệu này có ba tháng, mới qua bốn phen, chẳng biết vũ điệu này có bao nhiêu phen, mà đã có bước nhảy thuần thục vậy!

Thật tình thì Hoan là một người đàn bà thông minh, nhậy cảm, ưa thích những cảm giác mới mẻ. Sức tiếp nhận của nàng vốn dồi dào lại diễn ra trong cảm hứng tự nhiên.

Đã thế, nàng lại gặp một người đàn ông dẫn dắt tài nghệ. Một khuôn ngực vạm vỡ. Một bờ vai rộng. Chưa nói tới những điệu nghệ trong mỗi động tác thót bụng, ưỡn ngực, nghênh đầu, nhón gót.

Mới chỉ là động thái đầu tiên, khi bàn tay anh ta đưa ra đỡ eo lưng nàng và có xu hướng xiết nàng về phía mình cho gần gụi hơn, nàng đã thấy xuất hiện cảm giác giao phó và tin cậy.

Rồi sau mấy vòng chuyển động nhịp nhàng, nàng đã lim dim mắt, hình dung ra, nàng và anh ta như một cặp bài trùng, kết hợp uyển chuyển trong một hình thế có tính đối xứng thật hoàn hảo. Ôi, vũ điệu Rumba cặp đôi sôi động đầy nhiệt hứng và dặt dìu!

- Chị đeo chiếc vòng cẩm thạch đẹp quá!

Anh chàng nói khi nhìn thấy cái vòng đá quý trên cổ tay Hoan. Rồi tiếp đó, lướt qua bộ đồ trang sức quyền quý trên đôi tai, trên các ngón tay và ở khuôn cổ nàng, anh chàng tán:

Vàng, bạc, đá quý, ngoài giá trị điểm tô trong các sinh hoạt văn hoá của người phụ nữ, còn có ý nghĩa bảo hiểm cho sức khoẻ, vì tính kỵ gió của chất liệu, vì sự cọ sát vào nơi các huyệt điểm quan trọng trên cơ thể con người.

Nàng gật đầu tán thưởng và thấy có cảm tình với anh ta, anh ta là một gã đàn ông tinh quái một cách dễ thương đấy chứ!

Thực ra thì việc Hoan đến với bộ môn khiêu vũ này là cả một quá trình rắc rối. Tốt nghiệp trường đại học kinh tế quốc dân, nàng có cả một tuổi trẻ dài mê say chức nghiệp của một kế toán trưởng và các bộ môn thể thao, như cầu lông, bóng chuyền.

Nàng là loại đàn bà được trời phú cho một dung nhan tươi đẹp và một vóc hình tuyệt hảo. Nàng sở hữu một gương mặt trái xoan đầy đặn. Một cặp mắt đen láy vừa tươi vui vừa thấp thoáng nỗi đa sầu đa cảm.

Một cái cằm xinh xinh chẽ đôi mà cánh tướng mạo học cho là dấu hiệu của chứng phong tình. Lấy chồng, sinh con, vèo cái tuổi bốn mươi tới, nàng xin về hưu non khi công ty của nàng gặp vận hạn, phải giải thể.

Lại đúng lúc ông chồng già hơn nàng một giáp, một giáo sư, một lý luận gia về nghệ thuật đã từng làm xao xuyến trái tim nàng hồi nàng còn trẻ, bị tai biến mạch máu não. May, tai biến nhẹ. Sau sáu tháng nằm liệt, ông đã phục hồi với tốc độ phi mã và thay đổi hẳn về tính tình  cùng nền nếp sinh hoạt.

Từ một người  kiệm lời, chín chắn, ông biến thành một kẻ đa ngôn và lập dị. Vùi đầu vào sách vở, ông khoe ngày nào cũng được họp mặt với các bậc tiền bối đã khuất, nghĩa là đọc các trước tác của họ, từ Hégel, Marx, Nietzsche, Freud đến Khổng Tử, Lỗ Tấn, Lê Quý Đôn.., ông khen các cụ là minh triết mà khiêm tốn vô tư và nhất là họp mặt xong không đòi hỏi  phong bì thù lao gì hết.

Trước khi bị cơn tai biến, ông là kẻ chủ trương luận thuyết: Văn học nghệ thuật là con ngựa. Lý luận phê bình là cái roi quất cho con ngựa lồng lên.

Giờ, sau những ngày dài chữa bệnh, ngẫm nghĩ quanh quéo thế nào đó, ông lại tung ra một luận điểm mới về tự do. Rằng, muốn có tự do thì phải hạn chế tự do, vì nếu không nghệ thuật vốn sống được nhờ tự do, cũng sẽ chết vì tự do!

Luận điểm mới này chẳng liên quan đến cuộc sống hưu trí có vẻ như êm ả, nhàn nhã của Hoan.  Cuộc sống vật chất dư dả. Hoan chỉ có một con trai mà lúc này nó đã được gửi đi du học ở Anh quốc rồi.

Căn nhà còn lại nàng cùng chồng nàng;  và trục trặc nếu có thì chỉ là, nàng và chồng, hai người vốn đã đồng sàng dị mộng, nay rốt cuộc cũng không còn ngủ chung giường, chung phòng nữa. Nền nếp sinh hoạt đổi thay.

Từ một kẻ ít năng lực nhưng nhờ văn chương mà ham mê tình dục và cũng bồ bịch như ai, giờ đây chồng nàng trở thành  kẻ hờ hững , thậm chí xa lánh hẳn chuyện chăn gối, vì  công năng  đàn ông  gần như đã bị triệt tiêu sau cơn tai biến.

Việc này gây một chấn động với  Hoan. Ăn tuỳ chủ, ngủ tuỳ chồng. Cảm xúc chung đụng vợ chồng của nàng cũng theo chồng mà la lả như cảnh chiều tà; cho đến lúc nàng bỗng giật mình,  chợt nhận ra đuôi mắt mình đã mờ mờ nét rạn chân chim,  làn da nơi mu bàn tay mình mất dần vẻ mịn màng, đã nhăn nheo và khô se.

Giận dỗi, nàng gọi chồng là cái Bã trầu  và bắt đầu rơi vào tâm trạng vô cùng buồn phiền. Trời, chẳng lẽ thế là nàng đang bước vào thời kỳ thoái triển, suy tàn! Mà nàng đâu đã hết ham muốn! Trái lại, nàng vốn là một bản thể ngùn ngụt sung mãn và dồi dào. Vào tuổi này, nàng rất hay để ý đến đàn ông.

“Cái lão thợ cắt tóc ở đầu ngõ nhà mình ngoại sáu mươi  rồi mà trông còn phong độ quá, mày nhỉ ! Chà, mày có thấy cái ông chơi cầu lông kia suýt soát bảy mươi rồi mà còn ngon quá không?”

Đó là những câu chuyện nàng thường nói với con bé Ôshin giúp việc. Nàng đang ở độ tuổi hồi xuân. Nàng hay quan tâm tới sắc đẹp của mình và gần đây bỗng  thấy thích chăm sóc đàn ông.

Vậy là sáng sáng, mặc ông chồng già thức giấc cặm cụi bên chồng sách của các nhà kinh điển, họp mặt với những danh nhân  đã khuất bóng, tìm kiếm luận cứ cho lý thuyết nghệ thuật sẽ chết vì tự do, nàng chống lại hoàn cảnh, bằng cách đi bộ ra công viên Thống Nhất, tham gia vào Câu lạc bộ sức khoẻ ngoài trời.

Công viên Thống Nhất, nơi thức dậy sớm nhất của thành phố cuốn hút ngay Hoan bằng tiết tấu sôi động rộn ràng của nó. Nàng tham gia nhóm Thể dục nhịp điệu. Ở đây, cứ ba mươi phút một, hàng trăm con người theo tiếng nhạc, tiếng hô phát ra từ một chiếc loa thùng nối với một máy cassette, nhảy nhót, vung tay, đá chân rậm rật.

Chủ nhân của chiếc loa thùng và máy quay băng nọ là một gã đàn ông tên Quanh. Sáng sáng, gã vác hai cái công cụ đó ra công viên này, thực hiện việc kinh doanh âm thanh bằng cách vặn nhạc lên phục vụ bà con vung tay, đá chân, nhảy nhót, và cuối buổi thu mỗi người một ngàn đồng.

Quanh là một gã đàn ông cao lớn, khoẻ mạnh, trước làm diễn viên trong một đoàn xiếc, chuyên đóng vai chân đế trong tiết mục chồng người, sau một tai nạn nghề nghiệp trật đĩa đệm, phải giải nghệ.

Tập được vài buổi, Hoan thấy ngay môn Thể dục nhịp điệu này không thích hợp với mình. Trẻ chưa qua, già chưa tới, nàng lạc lõng giữa đa phần thuộc lớp phụ nữ măng tơ nhí nhởn. Nhìn quanh, thấy có môn Thái cực quyền, nàng nhún mình, nói vui:

“Nào, cho bà gìa chờ chết tập với nào!” Và xin gia nhập cơ cấu này. Ôi, thái cực quyền! Uyển chuyển, chậm rãi, khoan thai mà chứa đựng bao nội lực trong mỗi động tác!

Thái cực quyền giản hóa hai mươi tư thế mở màn bằng động tác Dã mã phân tông, Bạch hạc lượng xí, Lâu tất ảo bộ, Thủ huy tì bà, Đảo quyền quăng, Tả  lãm tước vĩ… nghe cổ quái như tên các vị thuốc đông y, tập khó hơn múa! Nhưng Hoan quả là một năng lực cảm nhận nghệ thuật hơn người.

Tập sau mọi người đến ba tháng mà nàng chẳng những đã đuổi kịp lại còn vượt lên. Ông huấn luyện viên tóc bạch kim đỏm dáng hết lời khen ngợi nàng. Lại còn đưa nàng ra làm mẫu. Nàng đâu có còn là bà già chờ chết!

Tham gia nhóm tập này, với sự khích lệ của ông huấn luyện viên, nàng háo hức hơn, tươi trẻ hơn. Nhưng rồi cuối cùng nàng cũng lại dứt áo ra đi. Ấy là vì ghen tức, đố kỵ vốn là thuộc tính của đàn bà, kể cả các bà già.

Các bà ghen với Hoan vì Hoan trẻ hơn, đẹp hơn, tài hơn, được ông huấn luyện viên có thiện cảm,  săn sóc chu đáo hơn. Lũ khũ cả rồi, nhưng đã là đàn bà thì vẫn thích đàn ông, nên thoạt đầu là các bà ngấm nguýt, bĩu môi bĩu mỏ, sau là đặt điều nói xấu sau lưng nàng.

Chính là vào lúc gần như bơ vơ lạc lõng ấy, Hoan đã gặp gã đàn ông kinh doanh âm thanh bài thể dục nhịp điệu tên Quanh.

Hoá ra là sau khi đặt loa, bật cassette để đấy cho mọi người tập, Quanh còn lảnh ra một góc công viên, đóng vai thầy dạy các vũ điệu  phương Tây – một chức nghiệp mới rầm rộ phát triển mà cây đại bút Tô Hoài, bậc thầy chữ nghĩa gọi nôm na là thợ dìu.

Nơi tập là một góc nhỏ trong công viên, dưới mấy lùm nhãn còi. Và thế là Hoan bắt đầu tiếp nhận những động tác đầu tiên của điệu vũ Rumba dưới sự hướng dẫn của ông thợ dìu nhà nghề này .

Nào, 2, 3, 4 dừng!

2, 3, 4 dọc!

2,3,4 ngang!

2,3,4,quay!

2,3,4 mở tiến!

2,3,4 mở lùi!

Nhóm Hoan tham gia thoạt đầu chỉ có sáu, bẩy chị em cùng lứa tuổi lỡ cỡ như nàng. Hai cô giáo tiếng Anh trung học. Một chị dược sĩ. Một đại sứ phu nhân. Một nữ giám đốc. Một nhà thiết kế mẫu. Một cô bán vịt quay Quảng Đông.

Sau thì đông dần. Và toàn là các bà, các chị mặt mũi tốt tươi, gia cảnh đuề huề, no đủ phả phê, những  đang mong muốn kiếm tìm thêm suối nguồn tươi trẻ. Hoan, một lần nữa lại trội bật giữa đám phụ nữ trung tuổi trung lưu này.

“Này, đằng ấy tập mấy khoá rồi mà dẻo thế!” Chính các bà các chị phải kinh ngạc trước mức độ nhuần nhuỵ của Hoan, đặc biệt là sau thời kỳ tập đơn là giai đoạn ghép đôi. Chà, y hệt như trong đời sống thường ngày vậy thôi, một người đàn bà rất cần dựa cậy vào một người đàn ông.

Trong sự dẫn dắt của người đàn ông, nàng trở nên sinh động lạ lùng! Thì ra, nhờ bộ môn nghệ thuật này, Hoan khám phá ra mình.

- Chị là một người rất có năng khiếu khiêu vũ đấy!

- Anh nói thế với bao nhiêu phụ nữ rồi?

- Chị hãy tin Quanh đi!

- Thì tin!

- Chị ba mươi mấy mà trẻ thế?

- Ba  mươi mấy? Mình tuổi Mậu Tý.

Dừng lại sau mấy bước đi lả lướt, Quanh buông thõng tay, mặt sáng bửng.

Trời! Mình đoán có sai đâu. Tuổi Mậu Tý, xinh tươi, đa cảm đa tình, có đôi nhũ hoa đẹp, có tài ngoại giao và khiếu năng nghệ thuật tuyệt vời!

- Chà, nhảy đã giỏi mà tán cũng hay ra trò! Tôi đang gặp được ai thế này !

Câu nói và tiếng cười của Hoan cuốn theo làn gió của bước nhảy nhịp nhàng khởi sự từ Quanh . Trẻ trung, chuẩn xác, Hoan có cảm giác, ngay từ buổi đầu ghép đôi,  nàng và anh chàng thợ dìu đã ăn ý với nhau trong từng động tác hất chân, đánh gót, lắc đầu, rung ngực, quay vòng tới mỗi câu  chuyện trò.

- Này, sau  những buổi tập như thế này, có hay đi  đâu  không ?

- Đi đâu là thế nào ?

- À, đại để là đi vãn cảnh, đi pic níc, đi dự các hội hè!

- Chà, kiếm ăn lần hồi toát mồ hôi , còn đâu thì giờ!

- Nghe nói mà thương nhỉ ! Thế sau đây ta đi ăn cái gì thì được chứ?

- Bánh tôm Hồ Tây? Chả cá Lã Vọng ?

- Không ! Ở ngay trong công viên này thôi .

Sau một động tác lắc mình điệu nghệ,  Quanh nghoeọ  đầu, vui vẻ :

- Mình muốn  mời Hoan hôm nay đi ăn một bữa đặc sản cá bớp nấu với  lá lốt.

Hoan cười:

- Thôi, cá bớp để bữa khác. Hôm nay mình chiêu đãi Quanh món bún ốc nguội cơ. Nào, nghỉ  tập đã nhé !

Quán bún ốc nguội ở ngay góc công viên. Gọi hai suất bún, Hoan kéo ghế mời Quanh. Trời nóng. Nàng cởi áo khoác ngoài. Gió mát từ mặt hồ hắt lên thoa vuốt khuôn ngực trĩu nặng sau tấm áo lót cổ rộng mầu đen tuyền, viền đăng ten trắng , hở tới chân đôi nhũ hoa của nàng.

Thoải mái, nàng ghé sát lại Quanh: Cả thành phố này chỉ có mỗi con bé này  nấu dấm bỗng rượu là ngon thôi. Rồi đánh tia mắt  về phía quầy hàng, nàng hạ giọng, rủ rỉ:

- Trông nó kìa. Gái quê mà hơ hớ ngon lành hết ý chưa!  Chậc ! Vậy mà đức phu quân thợ xây lại ngã dàn giáo nằm liệt nửa năm nay rồi thì có sầu đời không !

Quanh nuốt nước bọt đánh ực, dụi đầu thuốc lá vào cạnh bàn.

Khách ăn đều là những người tập thể dục buổi sáng trong công viên. Bàn nhựa xanh rải la liệt dưới các gốc liễu già. Hai đĩa bún và hai bát dấm bỗng nguội vừa bưng tới bàn thì chuông điện thoại di động đổ hồi. Hoan vội mở túi xách. Con bé Ôshin hỏi:

Hôm nay ông nhà muốn ăn bít tết, ý cô thế nào? Hoan đáp: Mày ra quầy hàng thịt bà Quý mua cho lão Bã trầu ấy ba lạng phi lê bò.

Thì vừa lúc Quanh nhổm dậy, nói xin lỗi chị Hoan, rồi bước nhanh về phía cái bàn cách chừng dăm bước chân. Ở đó một ả tóc xoăn bụt ốc, cổ cao, mắt xếch, da nâu đang ngồi với một gã tóc xoã gáy, áo sơ mi cổ cánh giơi màu vàng choé.

Cất điện thoại vào túi xách tay, ngẩng lên , thoáng cái Hoan  đã thấy Quanh từ chiếc bàn nọ trở về, trên tay là một chiếc áo sơ mi kẻ ca rô còn bọc trong giấy bóng kính.

- Ai đấy, anh Quanh?

- À, cô này cách đây hai năm có theo một lớp khiêu vũ mình dậy. Được cái chăm chỉ và ham mê. Vừa rồi đi thi ở Singapore được xếp thứ năm, đoạt danh hiệu Đôi giầy đồng. Cô ấy tặng mình chiếc áo này.

Hoan giơ tay đón cái áo. Vô ý để đôi đũa rơi trên đất, nàng vội cúi xuống nhặt. Ngẩng lên, nhận ra như có một tia nắng nóng sực vừa lọt vào giữa cái khe sâu của hai bầu vú nở nang của mình, mặt nàng bỗng đỏ lậng.

- Anh Quanh ăn đi! Để gọi con bé nó đưa đôi đũa khác. Hừ, cái áo hàng rởm. Của Ba Tầu Chợ Lớn. Chứ đâu phải của hãng Pierre Cardin! Để hôm nào mua tặng anh một cái hàng xịn cơ.

- Chà!

- Chê à?

- Đâu có.

- Đừng khách sáo.

- Nhất trí!

- Quanh này, nói thật với Quanh là kinh tế nhà mình khá thoải mái, không đến nỗi nào đâu. À này, sao hôm rồi bỗng dưng lại hỏi: Chị ba mươi mấy? Chả lẽ mình còn trẻ thế cơ à!

Mặt bì bì, ngây ngây, rời mắt khỏi khuôn ngực Hoan, Quanh lại nuốt nước bọt đánh ực:

- Trẻ thật đấy! À, vừa rồi có ai gọi điện cho chị thế?

- Tò mò hay ghen ngược đây?

- Ghen ngược là thế nào?

Hoan tum tim:

- Kể cho mà nghe nhé. Ông xã nhà mình hồi chưa bị xuất huyết não rồi trở thành vô tích sự mà mình vẫn gọi là cái Bã trầu như bây giờ ấy mà, cũng là một trang nam nhi trăng gió ra phết.

Lão có một con bồ nhí. Chẳng hiểu nguồn cơn thế nào, nổi  cơn ghen nồng nã, thế là cô nàng thuê một bọn nặc nô đến gây sự với mình. Quanh có biết thế nào không? Ba thằng mặt mũi dữ dằn hùng hổ đi tới, nhưng quái lạ chưa, vừa trông thấy mình đã đánh bài ù té quyền, chạy đứt dép.

Về sau hỏi mới biết, chạy về đến nhà cả bọn mới hổn hển bảo nhau: Chị nàng xinh đẹp thế, lại là vợ lão ấy, thế thì hoá ra ghen ngược à!

- Hà hà... Thế thì hiểu rồi! Hiểu rồi !

Quanh cười, mắt nhó nháy. Rồi gật gù, vẻ sành sỏi:

- Nói thật nhé. Đẹp và có năng khiếu như Hoan, học hết chương trình, ra vũ trường thì thiên hạ cứ gọi là lác mắt và đi thi thì danh hiệu Đôi giầy vàng dứt khoát là ăn chắc!

Sung sướng, Hoan nghển lên, chạm môi đánh chút vào má anh thợ dìu, thì thầm và suồng sã: Ừ, hôm nào ra vũ trường nhé. Còn bây giờ, nghe đây, trông mặt gian rất đáng nghi, nhưng tạm tha cho, ăn xong đi siêu thị Metro mua cho cái sơ mi Pierre Cardin mà mặc cho đáng mặt anh trai, nghe không!

Làn da nhăn nheo trên mu tay biến mất. Mặt nàng tươi nhuần. Bắp tay bắp chân nàng săn se trở lại. Da thịt nàng mỡ màng sáng bóng. Ngực nàng căng nở như ngực con gái. Còn hai con mắt lay láy đa cảm, đa tình của nàng thì càng lúc càng rờ rỡ  khát khao.

Đến mức con bé Ôshin giúp việc nhà nàng có hôm phải thốt kêu: “Trời! Cô mới đi mỹ viện về à?” Rồi mủm mỉm: “Cháu mà như chú, cháu chẳng một đêm nào cho cô ngủ riêng đâu!”

Còn bây giờ, tối nay thì đúng như lời hẹn của Quanh, Hoan đang tan hoà trong thế giới vũ truờng thật cao sang và quyền quý vô cùng.

Vũ trường, nơi chen đua của  các cặp múa đôi chuyên nghiệp, lúc này trong  lấp loá ánh đèn tạp sắc, cả trăm cặp nam nữ, nam chỉnh tề áo dạ hội đuôi tôm, sơ mi trắng, nơ đen, nữ áo liền váy hở vai sặc sỡ sắc màu, ôm sát nhau, mải mê trong sóng nhạc dập dồn.

Cảm giác bỡ ngỡ tan biến. Chính Hoan cũng ngạc nhiên về vị thế và vẻ đẹp của mình. Chiếc váy đen nhung thêu kim tuyến, đeo hờ hững bằng hai dải dây đen tuyền, phô một phần lưng, phần ngực và đôi bờ vai trắng mịn.

Trên cơ thể thơm tho của nàng là cả một gia sản vàng bạc, ngọc ngà, nàng bỗng thấy mình có nhu cầu được phô  bày vẻ thanh nhã, duyên dáng của mình. Đặc biệt là từ khi người đàn ông một tay đan tay nàng, còn một tay thì ấp nhẹ lên bờ hông mượt mịn căng nức của nàng.

Nào! Hai bước quay dưới tay!!

Hai bước mở tiến! Hai bước mở lùi!

Không! Lúc này từng động tác đã trở thành tiềm thức và vô thức. Hoan có cảm giác không phải là tiết tấu quy định của điệu vũ, cũng không phải là giai điệu của bản nhạc, mà chính là nàng đang điều khiển mỗi bước chuyển ở chân nàng, mỗi nhịp lắc vai, rung ngực nàng.

Nàng đang tạo tiết điệu cho bản nhạc. Tự nàng tạo ra sự dịch chuyển với những bước đi khi lấn lướt, khi giật cục, cùng những cơn say quay vòng. Vì lúc này, bỗng dưng trỗi dậy từ bên trong nàng cảm hứng đua tranh, cảm hứng phô diễn.

Trong đó đặc biệt là xuất hiện trạng thái phân lập ở mỗi phần tử trên thân thể nàng, vòm ngực với sự phổng phao của đôi bầu vú nàng, độ nõn nà của da thịt  nơi cánh tay nàng là của nàng, của chính nàng mà lạ thay, như độc lập với đôi chân chuyển nhịp thoăn thoắt, cặp môi mọng nóng bỏng và đôi mắt sóng sánh giao tình gợi cảm trong ánh đèn, cũng là của nàng.

Độc lập và hoà hợp là trạng huống sống lúc này của nàng. Điều đó đúng cả với quan hệ của nàng với  Quanh, người đàn ông đang nhảy cặp đôi với mình, anh chàng thợ dìu của nàng.

- Chị nhẩy thật thần điệu!

- Cám ơn anh.

Khoan hoà mà mê ảo, nhịp nhàng mà huyễn hoặc. Mắt nàng và mắt người đàn ông chập làm một, thôi miên lẫn nhau. Rồi lát sau nàng cảm thấy chính mình đã tạo ra một cơn lốc mê sảng. Và nàng như bước vào một không gian phi thực, hư huyền.

Không còn một dáng nét cụ thể nào nữa. Nàng không hề biết tới người đàn ông đang dẫn dắt nàng  vốn xuất thân diễn viên xiếc bị tai nạn nghề nghiệp trật đĩa đệm trong khi làm chân đế cho tiết mục chồng người. Một gã đàn ông rất đáng nghi ngờ về tư cách.

Một anh chàng  làm xiếc phải giải nghệ vì bệnh tật. Và bây giờ bệnh tật đã đỡ rồi, nhưng thầy thuốc yêu cầu phải năng rèn luyện cơ bắp ở hai bên sườn để có thể cố kết được cột sống.

Và phải tuyệt đối tránh khuân vác, gánh gồng quá nặng, cũng như không được có những động tác vặn người bất thường, phải rồi, những động tác vặn người đột ngột có thể làm trật đĩa đệm lại và gây ra cơn đột quỵ bất thình lình.

Nàng không còn biết đến anh chàng  được nhà văn Tô Hoài phong cho tước hiệu thợ dìu vác cassette và loa thùng đi kinh doanh âm thanh mỗi sớm mai ở công viên, lam lũ và tầm thường.

Người chung vũ điệu với nàng giờ  đỏm đáng  trong bộ trang phục dạ hội đen huyền, với  cái áo cổ cồn trắng cài nơ đỏ do chính nàng dẫn đi may đo ở một hiệu may  nổi tiếng nhất thành phố.

Cổ tay anh lấp lánh chiếc đồng hồ mạ vàng là tặng phẩm của nàng. Người  múa cặp đôi với nàng giờ đây là một trang công tử tuấn tú, hào hoa cuốn hút nàng!

Nghệ thuật tạo ra một trường những ảo giác. Người múa cặp đôi với nàng giờ đây đã trở nên một trang công tử  và từ ít lâu nay trong đời sống thường nhật đã  trở nên thân thiết với nàng rồi.

Thì mới chỉ chiều qua chứ đâu,  nàng  dẫn Quanh  vào một cửa hàng vàng bạc ở phố Trần Nhân Tông, hai người khoác tay nhau như một cặp vợ chồng thật sự  và cô bé bán hàng đã rất tự nhiên bảo nàng rằng, chị nên mua cho anh nhà cái vòng bạc pha bạch kim này đi, vì đang là mode đấy.

Nhận  cái bảo vật ấy, Quanh hớn hở  đưa Hoan đến một cửa hàng đặc sản. Món khai vị của bữa tiệc ấy là xúp cá bớp như đã có lần Quanh đã gợi ý là muốn chiêu đãi nàng.

Húp một thìa nước xúp xong, Quanh bảo: ở quê mình loài cá này rất sẵn. Bọn cá này khôn lắm. Nó nằm im dưới bùn. Con cua lò dò tới , nó cứ để mặc cho con cua cắp. Rồi bất thình lình quẫy mạnh một phát,  lập tức con cua gãy khực cái càng  và thế là nó bắt đầu xơi thịt con cua.

Và khi  Hoan kêu: Sao nó ác thế!Thì anh chàng cười hì hì : Ai bảo mày cắp tao trước. Rồi tiếp: Nhưng ăn món xúp này được cái thư  giãn gân cốt và khoẻ người ra. Khoẻ người ra! Khoẻ người ra thật chứ!  Nhất hạng là các đấng phu quân như ông Bã trầu của Hoan.

Hoan nhận ra trong giọng nói của Quanh có cả niềm âu yếm chen lẫn ghen tức và  một cơn rùng mình chợt nổi dậy, chạy dọc sống lưng nàng. Nàng vội quay đi như để giấu mặt và gần như buột miệng:

Mình thì bao nhiêu cũng được, mà không có cũng chẳng sao! Câu nói tưởng là vô tình  đã lọt vào thăm thẳm tâm não Quanh. Anh chàng liền chồm ngay sang, vồ lấy bàn tay Hoan, hổn hển và lắp bắp gọi tên Hoan liên tiếp ba lần liền.  

Người múa đôi  với Hoan giờ đây là một trang công tử tuấn tú , hào hoa, đã trở nên gần gụi tới mức có thể thổ lộ tâm tình và càng lúc càng cuốn hút Hoan rồi. Nhất là lúc này đây, sau phút giải lao, vừa nhấp một ly cô nhắc và đã đến lúc nhạc chuyển điệu.

Cơn mê man của Hoan đã tới đỉnh điểm. Nàng nhận ra một lực kéo riết mình về phía người đàn ông và lập tức nàng như đổ ập vào ngực anh ta. Rồi tiếp đó, trong một nhịp giật mạnh, nàng thấy mình như oẻ ngửa người trên sàn nhảy và người đàn ông như áp chặt lên người nàng. Mắt nàng ngây đờ, mê dại.

Ôi, vũ điệu Rumba mê dại của Hoan! Nàng thấy mình xoay tít và trong chốc lát, không phải do người đàn ông tạo nên, mà là chính nàng trong một ngẫu hứng kỳ ảo, bỗng nhẹ bẫng, trong suốt, tự mình tung mình lên cao.

Rồi liền đó, sau khi như một cánh hoa đậu xuống sàn nhảy, lại gần như chập làm một, dán chặt vào thân thể  người đàn ông nọ. Một ngọn lửa khát khao đã bùng cháy. Một con hồ nổi sóng. Một kích thúc dữ dội đẩy ra từ bên trong khiến nàng lúc này bỗng thấy đau tức cả vồng ngực dầy như vừa được đắp nặn thêm và căng nhức hai bắp đùi.

- Ôi, Hoan, người gì mà đẹp đến vô lý như thế!

- Thế có bằng Đôi giày đồng ở Singapore không?

- Sì!

- Hỏi thật đấy ! Không ghen ngược đâu.

- So thế nào được. Cô ta không đáng giặt quần...

Sợ hãi và sung sướng, Hoan vội đưa tay bịt miệng Quanh. Nhưng anh chàng đã  thừa cơ nắm lấy tay nàng,  đưa vào miệng hít lấy hít để và ghé sát tai nàng:

- Trời, một ánh tinh tú đã tạo nên em. Hoan ơi, em là  ao ước cả một đời khát muốn của anh! Anh muốn được nhìn thấy em hoàn toàn trinh trắng nguyên vẹn.

Cơn lốc nội tâm của người đàn ông đã phá vỡ hàng rào ngôn ngữ. Hoan nghẹn ngào run rẩy. Nàng đã nhận ra anh chàng và  anh chàng càng lúc càng nhận ra nàng rõ hơn.

Hai người đã là một. Nhất là khi nói xong câu cuối cùng, Quanh dùng hết sức lực, đưa hai cánh tay như bế bổng nàng lên cao, rồi cũng dồn hết lực, nhẹ nhàng đặt nàng xuống kéo về phía mình, ôm chặt lấy nàng.

Nghệ thuật mang sẵn trong nó ma thuật mê dụ, kích thích cơn hứng dục nấp sẵn trong người nàng. Trong giải phương trình vô nghiệm của cuộc đời, Hoan có cảm tưởng đã tìm được nghiệm số của mình.

Hai người ra khỏi vũ trường. “Em có uống gì không?” Gã đàn ông hỏi. Hoan lắc đầu. Rồi ngoan ngoãn như một đứa trẻ, nàng để gã dắt ra ngoài hành lang. Ở đó, sau một cái hôn phớt lên môi nàng, gã ghé tai nàng: “Về nhà anh đi.” Và nàng cùng gã lập cập xuống bậc tam cấp, ra cổng.

Điều gì đã xẩy ra? Hoan đang ở cõi mê. Ngờ ngợ, nàng ôm chặt lưng gã đàn ông, tìm sự yên bình  trên cái yên  da sau chiếc Husky phân khối lớn. Chưa hết ngơ ngác, xuống xe, chờ gã gửi xe, vẫn sờ sợ, nàng đưa tay cho gã dắt.

Bóng tối một căn ngõ hẹp chụp lấy người nàng. Và sau đó, nàng hơi kinh ngạc vì tiếng cánh cửa mở phát ra một tiếng rên và trước mắt nàng hiện ra một căn buồng nhỏ lờ mờ ánh đèn vàng vọt chỉ đủ soi một chiếc giường đôi chăn đệm bừa bộn và bốc mùi ẩm mốc.

Thoảng qua Hoan một chút run rẩy. Đúng là chỉ thoáng qua thôi. Vì Quanh sau khi vội vã đến cuống  quýt cởi phắt chiếc áo vét đen, hiện ra một thân hình to kệnh vập vạp đã tiến đến trước nàng.

Và lập tức nàng rơi vào cơn mê mị y như lúc đang trên sàn khiêu vũ, đứng yên trong bồi hồi, bủn rủn, để mặc anh chàng thợ dìu nhẹ nhàng trụt hai dải dây của chiếc váy nhung đen trên vai mình.

Da thịt se se lạnh, nàng thu người lại và đưa hai tay vòng qua che đỡ khuôn ngực trìu trĩu chỉ còn chiếc áo con mỏng mảnh. Một màn sương vừa từ đâu đó phủ mờ hai con mắt, nàng nhắm nghiền mắt lại, để bứt ra khỏi hiện thực, với cảm giác da thịt mơn man bừng dậy  nỗi bồn chồn pha chút sợ hãi.

- Kìa, anh!

Không kịp nữa rồi. Tiếng kêu tắc nghẹn ở cổ họng Hoan. Chân nàng đã trút khỏi  đôi giầy cao gót. Nàng rên nho nhỏ không ra tiếng và ôm vai gã đàn ông như tìm chỗ ẩn náu. Nhưng gã đã lập tức cúi xuống, vòng tay qua khoeo chân nàng, bế xốc nàng lên và gắng sức thật nhẹ nhàng đặt nàng trắng như quả chuối đã lột hết vỏ, lên cái mặt đệm nhầu nhoà và bốc mùi ẩm mốc.

Chính là cái mặt đệm nhầu nhoà và mùi ẩm mốc của nó, như một thực thể, đã đánh thức tri giác Hoan. Thời khắc đã đến một khúc ngoặt. Cái vô hạn đã gặp cái hữu hạn là đây.

Nó là cái thân hình to lớn thô lậu, là túm lông đen loăn xoăn trên ngực và hình xăm đàn bà cởi chuồng trên bả vai Quanh. Là hai con mắt nhỏ nháy nhó sặc tiết nhục thể của Quanh. 

Lờ mờ trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, Hoan nhổm dậy, đưa đôi cánh tay nửa như đón đỡ, nửa như chống trả cái cơ thể trần trụi của gã đàn ông đang từ từ áp xuống khuôn ngực với hai bầu vú thây lẩy trắng nhuễ nhoại của nàng.

“Hoan ơi! Anh là con cá bớp đang sắp ăn thịt em đây! “ Nhận ra sức đè ép nặng nề trên người mình, Hoan cùng lúc nghe thấy tiếng mê cuồng của gã đàn ông; và lập tức như thoát dương, người nàng bỗng toát mồ hôi đầm đìa .

Trời, chẳng lẽ cái vũ điệu mê dại cuồng loạn của ham muốn đã đến hồi kết là thế này! Kinh hoàng trở thành một sức mạnh thức tỉnh bất ngờ. Hoan bật dậy.

Và lúc đó, thật tình nàng không hiểu, có phải là vì phản ứng quyết liệt của nàng hay không mà gã đàn ông vừa mới ập xuống phủ lên người nàng, bỗng chống mạnh một tay lên mặt đệm, miệng thoát một tiếng kêu ôi trời thật đau đớn, rồi quài cánh tay còn lại ra phía sau để đỡ tấm lưng như vừa trúng đạn, mặt nhăn nhúm và quỵ xuống, vập mặt vào chiếc gối nàng vừa từ đó bật lên.   

Thầy dạy khiêu vũ của Hoan đột ngột tái phát căn bệnh trật đĩa đệm!

Căn bệnh mắc phải do tai nạn nghề nghiệp tưởng đã qua khỏi, hoá ra chưa. Lời thầy thuốc đã hiệu nghiệm. Vì  quá trớn trong các động tác vũ điệu trước đó. Và  trong cơn đam mê thô bạo khi lao vào cuộc chăn gối với người đàn bà mà Quanh đã rắp tâm dẫn dụ để chiếm đoạt.

Quanh đã quên cả lời dặn của bác sĩ; do các động thái vặn người quá mạnh và bất ngờ, cái đĩa đệm tạm ổn định lại trồi ra, anh chàng thợ dìu lọc lõi trong nghệ thuật chinh phục đàn bà đã tự gây cho mình  cơn đau đớn bất thình lình chết người.

Quanh đi nằm viện.

Vợ Quanh, một người đàn bà bán thịt quay ở chợ N thừa biết thói giăng hoa của chồng, biết tin, lờ tịt đi việc thăm hỏi. Mụ yên trí vì biết căn bệnh này vốn không chữa được, không lây nhiễm và cũng không chết được.

Người đến thăm nom Quanh chỉ là Hoan. Nàng đến tuần hai lần. Lần nào cũng với đồ ăn, thức uống đắt tiền.

- Chị là chị gái anh ấy à?

Bệnh nhân cùng buồng gã hỏi. Hoan đáp:

- Bạn thôi. Chúng tôi cùng sinh hoạt trong Câu lạc bộ  khiêu vũ ngoài trời.

Ở đây, một hôm Hoan gặp một phụ nữ đem hoa đến cắm ở buồng Quanh nằm. Người này chân dài, mình thon, tóc xoăn bụt ốc, cổ cao, da nâu bóng. 

Nghĩ một lát thì nàng nhớ ra, đó là cô ả được Quanh giới thiệu là người đoạt danh hiệu Đôi giầy đồng ở Singapore, kẻ đã tặng Quanh chiếc áo sơ mi mà nàng chê là của rởm. Cô ả nhìn nàng, nhếch mép cười ngạo mạn, như muốn nói, thì ra là chị, chính chị là người  đã gây ra tai hoạ cho anh chàng này.

Một tháng qua. Gã đàn ông đã ngồi dậy được. Nhưng đi lại lưng còn khòng khòng và một tay phải đỡ bụng. Hôm ấy, đến thăm gã xong, lúc trở về,  khi lấy xe máy Hoan bước hụt xuống một cái rãnh nhỏ. Lúc đó chỉ thấy nhoi  nhói rồi mu bàn chân thấy tê tê bì bì.

Tưởng chỉ là chuyện nhỏ, nào ngờ đến đêm thì bàn chân xưng u, đỏ tấy và nhức nhối vô cùng. Con bé Ôshin giúp việc kêu: “Cô bị bong gân rồi!” Hoan gật đầu:

“Tao bước hụt một nhịp trong điệu Rumba mà.” Sáng sau con bé vội ra chợ mua lá náng về hơ bếp điện cho nóng và mềm rồi đắp lên mu bàn chân cho nàng.

Ông chồng già của Hoan vừa đi diễn giảng ở một cuộc hội thảo về, vào thăm nàng, nhìn bàn chân tụ máu của nàng, ông tặc lưỡi bảo: Hồi  tôi học ở Pêtecbua bên Nga cũng đã bị như thế này sau một lần bước hụt cầu thang, phải nằm bất động mất hai tuần đấy.

Rồi cứ đứng ở bên giường nàng nằm, khoe vừa đọc một báo cáo chuyên đề có tên dài dằng dặc: Quy tắc của  tự do là phải hạn chế tự do vì nếu không nghệ thuật vốn sống nhờ tự do sẽ chết vì tự do, khiến cả hội nghị hai trăm người xôn xao và phân toả lập tức thành hai phái, nửa hoan nghênh nhiệt liệt, nửa công kích thẳng thừng.

Cô bé Ôshin ngồi bên nàng, dăn dở phiến lá náng đắp trên chân nàng, ngắt lời ông chủ:

- Lần sau khiêu vũ cô phải cẩn thận nhé!

Hoan cắn môi, chớp chớp mắt. Và rùng mình như nhận ra sự thất bại ê chệ trong cuộc tự giải thoát mình. Tuy vậy, khi ông chồng già vừa xách cặp ra khỏi buồng, nàng chỉ thở dài và khe khẽ  nói với con bé Ôshin giúp việc, rằng buồn  quá, thế là tao đã hết thời nhảy nhót rồi, mày ạ. Còn con bé giúp việc thì  liếc nhìn cô chủ, thản nhiên :

- Ôi giời , chỉ một hai tuần cô lại nhảy như sáo ấy mà, cô ơi !

Hà Nội 2011

Thú ăn cỏ

(

Nghệ thuật mới

) - Có vẻ như trong mỗi con người đều ẩn nấp một “con” gì khác (một loài thú ăn cỏ chẳng hạn), và chỉ cần đợi dịp là sự hóa thân bùng nổ. Với một nguyên cớ tưởng chừng vu vơ -  chạm tay vào mảnh da tê giác - Vũ Thành Sơn đã khéo dẫn dắt, cho nhân vật tù túng của mình được sảng khoái “tung vó” trên thảo nguyên tự do mênh mông…

Tất cả bắt đầu từ một miếng da tê giác, bây giờ nghĩ lại, anh thấy có lẽ là như vậy. Hay nói một cách rõ ràng hơn nữa là từ ngày ông hàng xóm cạnh nhà không hiểu sao bị mẩn ngứa khắp người, da đột nhiên trở nên sần sùi, ngứa ngáy không chịu nổi.

Ông gãi, ban đầu nhè nhẹ vuốt ve ngoài mặt, nhưng rồi không thể kềm chế được cơn ngứa hành hạ, ông gãi càng lúc càng mạnh, gãi mê man, toé cả máu mà vẫn không làm sao hết ngứa. Cả người ông lở loét. Ông không còn dám mặc áo ngắn tay và quần short khi đi ra ngoài phố nữa.

Nhưng kể cả lúc mặc áo bằng vải coton dài tay, người tinh mắt vẫn có thể nhìn thấy những vết đỏ lấm tấm nổi lên trên tay và lưng áo ông. Ông lấy làm khổ sở về chuyện đó. Những người chung quanh khuyên ông đi bốc thuốc dân tộc.

Nhưng uống ròng rã cả tháng trời mà vẫn không một chút gì thuyên giảm, người ông cứ thế mà gầy rộc đi, có lẽ vì buồn bực hơn là vì cái chứng ngứa ngáy quái ác ấy.

Cho đến một ngày, một người bạn đồng nghiệp mang đến cho ông một miếng da tê giác, bảo ông mài ra thành bột hòa với nước uống.

Anh ghé qua nhà ông hàng xóm chơi sau khi miếng da đã được mài đến ngày thứ tư. Vừa bắt tay anh nơi ngưỡng cửa, ông tươi cười hớn hở khoe ngay là đã đỡ ngứa đi rất nhiều. Nhìn sắc diện ông lúc ấy đã hồng hào và tươi tỉnh trở lại.

Rồi sau đó, như gặp đúng tri âm, tri kỷ, ông ta được thể không ngớt lời ca tụng với anh miếng da tê giác thần diệu. Và trong cơn hoan hỉ phấn chấn không gì kềm hãm, ông lấy ngay miếng da tê giác ra khoe với anh, cứ như thể niềm vui của ông chỉ thật sự hoàn hảo, trọn vẹn khi tất cả mọi người phải cùng ông tận mắt chứng kiến và cùng trầm trồ thán phục phép màu có một không hai ấy.

Miếng da chỉ to bằng nửa lòng bàn tay, một bên cạnh đã bị mài mòn vẹt. Nếu không nói trước, không ai biết đó là miếng da của một loài động vật, mà đúng hơn nó có vẻ như là một mảnh gỗ, cứng và thô ráp.

Một bên mặt, vết tích duy nhất làm người ta liên tưởng đến trước kia có thể đã từng là lớp biểu bì, chỉ còn lại những mô típ hình vuông to nhỏ không đều nhau tạo bởi những nét cắt ngang dọc, mốc đen, dấu vết của những năm tháng trầm mình trong ao hồ phủ kín rong rêu và cỏ dại ở những cánh rừng già thâm u, bí hiểm.

Còn bên mặt kia, một thời đã từng là máu thịt của tê giác, bây giờ chỉ như một thớ gỗ đã sấy khô, màu trắng đục.

Nhưng khi vừa đặt những ngón tay lên miếng da, anh liền cảm thấy một luồng điện cực mạnh bất ngờ truyền sang cơ thể. Toàn thân anh rúng động. Anh đứng bất động, ngây dại như đã bị đông cứng. Mọi thứ trước mặt bỗng nhiên trở nên nhoè nhoẹt.

“Anh sao thế”? Ông hàng xóm nhìn anh chăm chăm hỏi.

Anh rút bàn tay lại, nghe rõ tiếng tim đập mạnh trong lồng ngực:

“Không… tôi chỉ thấy hơi chóng mặt”.

“Không khéo anh bị cảm nắng rồi cũng nên”.

Rồi vin vào cớ đó, anh cáo từ ông, vội vã trở về nhà.

Anh đã nằm trên giường trọn một buổi chiều ngày hôm đó. Đến khi trời đã xẩm tối, vợ và hai đứa bé con anh đi chơi về, nhìn thấy nhà cửa tối tăm, không một ngọn đèn thắp sáng, họ cất tiếng gọi anh và chạy vào các phòng tìm.

Họ đã bắt gặp anh trong phòng ngủ, nằm đắp chăn thiêm thiếp, mê mệt, người nóng rực như một hòn than. Họ hoảng hốt lo sợ, cuống quýt mở hết các cánh cửa sổ để cho căn phòng thêm thoáng khí và đắp khăn lạnh lên trán anh. Trong lúc bối rối, vợ anh nhớ đến một người bạn bác sĩ, ngay lập tức nàng gọi điện thoại cầu cứu.

Anh chỉ tỉnh dậy vào trưa ngày hôm sau.

Trong khoảng thời gian dài ấy, anh đã có một giấc mơ lạ lùng nhất trong đời.

Anh mơ thấy mình lang thang trên một thảo nguyên mênh mông, giữa màu xanh của cỏ non và mây trời bát ngát. Gió thổi lồng lộng và thảo nguyên trong phút chốc bỗng hóa thành một đại dương gợn sóng trùng trùng điệp điệp.

Anh sung sướng lăn mình trên thảm cỏ, ngụp lặn trong ánh sáng ấm áp mùa xuân rồi ngửa mặt ngắm nhìn bầu trời trong vắt như ngọc thạch ấy, anh cười sảng khoái. Nhưng ngay lập tức anh im bặt khi tiếng cười vừa thoát ra khỏi lồng ngực.

Anh bất ngờ nhận thấy sự khác lạ của nó. Đắn đo một lúc rồi anh quyết định kêu lên lần nữa một tiếng thật dài để kiểm chứng. Không, không phải là giọng của anh, mà đó là tiếng kêu của một con dê. Anh bắt đầu hoảng sợ về điều vừa khám phá.

Bất giác anh nhìn vào thân thể mình. Anh kinh hãi khi thấy toàn thân phủ đầy lông lá và khi liếc thấy bốn cái móng đen vung vẩy trong nắng chiều thì không còn hồ nghi gì nữa, anh hét lên và ngất đi.

Phải ba ngày sau khi bị cơn sốt bất thình lình đó quật ngã, anh mới hoàn toàn bình phục và đi làm việc lại. Ba ngày nghỉ việc không ăn lương, nằm nhà một mình, anh có cảm tưởng như vừa trở về từ một chuyến đi xa dài ngày.

Nhìn mọi vật chung quanh lúc ấy, anh thấy chúng vừa thân thuộc nhưng vừa có một cái gì đó lạ lẫm, khả nghi.

Một buổi sáng thức dậy, đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, anh nhẩm đếm trong đầu đã bước sang ngày thứ 118 tính đến ngày hôm ấy, trời chưa đổ một giọt mưa. Mùa mưa đến chậm một cách khó hiểu.

Người ta cứ thấp thỏm nhìn lên bầu trời chờ đợi và đồn đại rằng nhiệt độ đã bắt đầu giảm và đã có một vài cơn mưa ngắn rải rác một số nơi thuộc phía Đông, trong khi đó, khu vực anh ở sẽ còn phải chịu đựng tình trạng oi bức thêm vài tuần lễ nữa.

Căn hộ của anh ở lầu sáu. Cửa sổ nhìn xuống một cái sân xi măng chơi bóng rổ, bóng chuyền nhưng thường xuyên bị bỏ hoang, thỉnh thoảng chỉ có mấy đứa nhỏ tụ tập nhau đá bóng vào dịp lễ hay hè. Cỏ dọc hai bên lối đi chạy quanh sân đã cháy vàng, trơ ra lớp đất khô cứng.

Phía bên phải sân là một hàng cây xanh trồng thẳng tắp, thấp thoáng những dãy nhà với những mái ngói đỏ và một cái bể bơi. Chỉ có một phần rất nhỏ của mặt bể xao động, lấp lánh dưới ánh nắng đó được nhìn thấy.

Xa xa về phía bên trái sân là những tòa nhà hình hộp và đường phố, từ khung cửa sổ nhà anh nhìn ra, tất cả mọi chuyển động nhộn nhịp của đời sống nơi ấy diễn ra hệt như trong một cuốn phim câm.

Anh thấy hai người đàn bà đi tản bộ quanh sân. Họ là hai chị em ruột, cả hai đều đã ngoài tám mươi. Họ ở cùng một tầng lầu với anh nhưng nằm tận cuối dãy hành lang, phía đối diện. Căn hộ ấy thường xuyên đóng kín cửa.

Thỉnh thoảng người ta mới tình cờ gặp họ ngoài hành lang hay trong thang máy và lần nào cũng vậy, họ đều xuất hiện sóng đôi bên nhau, mặc cùng một màu áo. Điều đó làm cho đời sống vốn đã khép kín của họ khoác lên thêm một vẻ bí ẩn và mọi người chung quanh, mỗi lần đi qua căn hộ ấy, cứ mặc sức đưa ra những lời đồn đoán thêu dệt.

Lần ấy họ khoác chiếc áo rộng màu vàng nâu, điểm những đốm đen tròn. Họ bước đi chậm chạp một cách nặng nhọc. Nhìn từ trên cao, trông họ nhỏ bé và dúm dó tội nghiệp, thỉnh thoảng hai vạt áo bị một cơn gió hiếm hoi đầu ngày thổi phồng lên, khiến anh không khỏi so sánh với hình ảnh hai con bọ rùa.

Anh gần như đã quên hẳn cái biến cố từ miếng da tê giác và giấc mơ quái gở đó. Chúng bị bỏ lại càng lúc càng xa về phía sau, khi mà sự hối hả, bận rộn thường nhật không cho phép những giấc mơ làm anh bê trễ bổn phận.

Anh trở về với nhịp điệu quen thuộc, tẻ nhạt mỗi ngày, tiếp tục đưa hai đứa bé đến trường, lạng lách qua các con phố hẹp đông đúc, nhấn ga vượt qua một ngã tư, rồi vội vã lên cả chục tầng lầu để đến văn phòng cho đúng giờ.

Ngày trở lại văn phòng, đứng trong thang máy, trong lúc đếm nhẩm những con số các tầng lầu hiển thị trước mặt mỗi lần nó bật sáng, anh chợt nảy ra ý nghĩ rằng dường như mỗi ngày anh đang dự phần vào một cuộc chạy đua với một đối thủ vô hình nào đó mà phần thắng không bao giờ thuộc về anh, chẳng khi nào anh có thể đến đích trước.

Khi ấy, một lần nữa, anh lại liên tưởng đến con bọ rùa. Và hình ảnh nó mải miết bò trên một mặt phẳng láng mượt, hễ mỗi lần bị trượt ngã lại gắng gượng ngoi lên bò tiếp tục, như thể chính nó cũng đang kiên trì theo đuổi một cách tuyệt vọng cuộc hành trình dài vô tận, cứ ám ảnh anh mãi không dứt.

Anh tự hỏi không biết vì sao nó lại khổ nhọc như vậy, sao không cất cánh mà bay lên. Chỉ cần xoè cánh ra và bay, đơn giản thế thôi.

Cánh cửa thang máy tự động mở ra ở tầng lầu 27, như thường lệ. Anh chàng trưởng phòng kế toán đã đứng sẵn đấy. Trông thấy anh, gã mỉm cười và giơ tay bắt.

“Chào mừng cậu đã trở lại với công việc. Khá hơn rồi chứ”? Bàn tay gã ấm nóng và nhem nhép ướt. Bất chợt anh rùng mình khi ánh mắt vô tình nhìn xuống cánh tay gã phủ đầy những sợi lông đen dài xoăn tít. Anh lấy làm ngạc nhiên tại sao cho đến bây giờ anh mới để ý đến điều này.

“Cảm ơn. Tôi khoẻ rồi”. “Mấy hôm cậu nghỉ, tôi bối rối quá”. “Sao? Có gì thế”?  “Công ty Sierra yêu cầu mình gửi cho họ cái phó bản tờ vận đơn, tôi tìm mà chẳng thấy đâu cả”. “Tôi còn một bản vẫn để trên bàn làm việc”. “Cậu chuyển cho tôi gấp nhé”. “OK.”

Lúc anh vừa dợm bước quay đi, gã lại gọi giật giọng. “À này, còn nữa. Hồ sơ cho lô hàng ngoài cảng còn thiếu tờ chứng nhận xuất xứ hàng hóa đấy nhé”. “Tôi biết rồi”.

Không để gã nói tiếp, anh chạy biến vào nhà vệ sinh ngay lập tức. Anh sát xà phòng vào hai bàn tay, kỳ cọ thật kỹ rồi mở vòi nước xả mạnh. Anh sát xà phòng nhiều lần và rửa đi rửa lại nhiều lần nữa, đến nỗi hai bàn tay anh đỏ ửng cả lên.

Sau đó, anh dí hai bàn tay sát tận mũi để ngửi, đến lúc đã chắc chắn không còn một mùi gì nữa mới đặt tay dưới cái máy sấy. Anh để tay như vậy thật lâu, lâu cho đến khi anh cảm thấy hai bàn tay mình đã hoàn toàn khô sạch.

Hôm nay nữa là ngày thứ 135 không có mưa. Bầu trời trên đầu anh vẫn xanh ngăn ngắt. Đêm, anh lắng tai nghe ngóng từng ngọn gió hiếm hoi thổi qua mặt đất nóng bỏng và kiên nhẫn chờ đợi. Sự chờ đợi tưởng như không thể kéo dài hơn nữa.

Trong những đêm nóng bức, trằn trọc không thể ngủ đó, vợ anh và anh mỗi người một cuốn sách trên tay, đọc cho đến khi mỏi mệt và thiếp đi. Anh nghiệm ra rằng, không phải vì nóng, mà từ lâu rồi hai người đã ít chuyện trò với nhau, những câu chuyện bâng quơ, không đầu không đuôi; bây giờ họ chỉ nói với nhau khi thấy thật sự cần thiết.

Một lần nàng bàn với anh cuối tuần cả nhà nên thu xếp về bên ngoại chơi để tránh cái oi bức ở thành phố. Đó là một vùng ngoại thành cách khu vực của anh hơn 50 cây số về phía Đông, có nhiều đồng cỏ và một con sông lớn chảy qua.

Nơi ấy, nàng còn mẹ và hai em sống nhờ vào một khu vườn trồng cây ăn trái bốn mùa lúc lỉu quả. Trong căn nhà của họ, phòng của nàng thuở còn con gái vẫn được gìn giữ nguyên vẹn cùng với các thứ đồ đạc đi kèm với nó: chiếc giường sắt, bàn ghế, kệ sách, những bức tranh...

Hễ mỗi lần có cơ hội là nàng lại trở về đó, như thể được trở về với thế giới thực sự của mình. Một mình hay đôi lúc cùng với hai đứa bé.

Tất nhiên là anh cũng có một chỗ ở nơi ấy. Nhưng anh chỉ có mặt vào những dịp lễ tết. Thường sau một vài vòng chào hỏi thì anh mắc võng lên hai thân cây ngoài vườn, nằm lim dim nghe gió thổi và nghe họ nói cười rúc rích. Anh biết họ sẽ lại giở những cuốn album ảnh ra và sẽ kể đi kể lại những câu chuyện cũ, trong đó chắc chắn là anh không hề được nhắc đến.

Ngày mai anh sẽ đưa nàng và hai đứa nhỏ về nơi ấy.

Anh nằm ở sofa đọc sách, trong khi nàng trong nhà bếp để chuẩn bị các thứ cho chuyến đi. Hai đứa nhỏ thì ngồi chơi dưới đất, thỉnh thoảng một đứa lại kêu ré lên mách đứa khác và anh phải bỏ dở trang sách để phân xử.

Tuy nhiên, chỉ được một lúc thì một đứa bỏ vào nhà bếp với mẹ, còn một đứa thì trèo lên sofa nằm bên cạnh anh. Đến nước này thì anh không thể tiếp tục đọc được nữa.

“Sao con không chơi với chị nữa”?  “Không”.  “Sao thế”? “Chán lắm”!  “Thế ba chơi với con nhé”? “Ba làm ngựa con cưỡi đi”.

Anh vứt cuốn sách lên mặt bàn và ngồi bệt xuống đất cho nó leo lên lưng. Chưa gì hết mà anh đã nghe nó cười khúc khích. Khi cảm giác nó đã ngồi chắc chắn, anh mới bắt đầu di chuyển.

Khi anh vừa chớm đưa một cánh tay ra phía trước mặt, một hiện tượng lạ lùng bất chợt xuất hiện. Anh cảm thấy ngây ngất, lâng lâng. Cả người anh nhẹ bỗng như được nâng lên khỏi mặt đất. Tứ chi của anh như đang mọc cánh.

Đầu anh đang bốc lửa. Máu huyết trong cơ thể anh chảy cuồn cuộn và một cảm xúc mãnh liệt chưa bao giờ có tràn ngập trong anh, làm anh ngạt thở. Anh ngửa mặt lên trời hí một tiếng dài hùng tráng tưởng như có thể xé rách cả hư không, lao về phía trước.

Anh nghe tiếng gió rít ở hai bên tai. Anh sải những bước dài thiên lý. Trong chớp mắt tất cả đều biến mất: hành lang hẹp, cầu thang máy, cái sân xi măng, con phố chật, ngã tư đông người, gã trưởng phòng kế toán… để trước mắt anh chỉ còn có mỗi đồng cỏ, thảo nguyên mênh mông tận chân trời.

Tất cả năng lượng trong anh lúc ấy mới được giải phóng. Anh tung vó và sung sướng cất tiếng hí vang. Đứa nhỏ ôm chặt lấy cổ anh và cúi gập trên lưng, nó vừa thích thú vừa sợ hãi.

Cánh cửa nhà bếp đột ngột mở tung.

Tiếng la hét trong phòng khách đã làm cho vợ anh hoảng hốt. Nàng há hốc mồm kinh ngạc chứng kiến quang cảnh trước mặt.

Sự xuất hiện bất thình lình đó làm cho anh cụt hứng. Tuy hai đầu gối và hai bàn tay anh kịp khựng lại, nhưng cái cổ vẫn còn vươn dài ra đằng trước như thể không thể nào kìm lại được tư thế phi nước đại. Anh ngước mắt lên nhìn nàng bối rối, cái nhìn của một kẻ bất ngờ bị bắt quả tang đang phạm tội.

Còn đứa nhỏ, nó cũng len lén bước xuống. Nét mặt nó tiu nghỉu như đành phải vứt đi một chiếc bong bóng cao su bị xì hơi ở trong tay.

Đám cưới (I)

(

Nghệ thuật mới

) - Đọc trang đầu suýt phì cười vì nhân vật trong truyện cứ gợi nhớ Mr Bean - nhân vật hề nổi tiếng của nước Anh đương đại. Cái cách nhấm nháp bữa ăn của gã. Rồi gõ gót giày. Rồi để nguyên quần áo lăn ra giường. Và nhất là cái cách cho bạn ở xa nghe dàn nhạc sống qua điện thoại di động… Có gì đó phởn phơ, tự sướng rất hài hước. Nhưng thực ra không phải vậy. Ngẫm kỹ thấy cay đắng hơn nhiều. Nhất là từ khi gã phát hiện ra trong đám cưới, có một người nào đó đang dán

Đã ba hôm nay gã được làm người tự do. Vợ đưa con đi du lịch nước ngoài cùng cơ quan. Gã thấy sướng lắm. Muốn làm gì thì làm. Muốn về muộn bao lâu thì về. Ở một mình nên muốn quăng thứ gì vào chỗ nào thì quăng. Chỉ tội các món ăn giống nhau kéo dài vài ba hôm, thấy oải.

Đến ngày thứ tư thì gã tự cho phép mình đi ăn hiệu. Một bữa sang trọng. Kết thúc là hoa quả. A, có kem à? Thêm kem. Và cà-phê buổi tối.

Hoàn toàn vắng bóng câu hỏi tại sao kem, tại sao không là sữa chua, tại sao cà-phê giờ này? Kem! Cà-phê tối! Xong, thấy nhạt miệng, thêm cốc rượu mạnh. Cóc cần quy luật hay thứ tự ăn uống gì, miễn là thấy thích. Rồi ngất ngưởng về nhà.

Căn hộ nhà gã nằm ở tầng 11, cuối hành lang, trong khu nhà CT7. Nhà quái nào cũng ký hiệu bằng chữ CT (cao tầng), chỉ khác nhau con số. Khi mua nhà, gã chọn CT7, vì gã thích số 7, cho dù tầng hầm gửi xe tối âm u và ẩm ướt một nửa.

Gã lại chọn phòng cuối cùng, phòng 1115, vì nó có một cửa sổ trông ra cánh đồng, cửa sổ khác lại trông sang một khu CT khác. Gã thích cửa sổ. Nhưng gã không thích thang máy, vì luôn có cảm giác sai lệch trọng lượng thực.

Gã còn thích nện gót giầy trong hành lang vắng. Có lần đi giầy đế cao su, không gõ được, gã tức tối quăng giầy vào xó tủ, cho dù đôi này gã rất ưng.

Trong lúc đang sung sướng đi trong hành lang, từ xa gã đã phát hiện trước cửa nhà mình có cái gì trăng trắng, giống như một cánh bướm đậu vào cửa. Cánh bướm? Lãng mạn nhỉ? Chắc do cốc rượu mạnh hơi to.

Đến gần, gã nhận ra không có chim bướm gì hết, mà là một hình tam giác bằng giấy cắm vào khe cửa. Gã chột dạ. Một hóa đơn phải thanh toán? Cơ quan triệu tập gấp? Hay một thông báo nghiêm trọng gì đó?

Gần nữa, gã nhận ra một phong bì màu hồng. Ô may quá, hay không may, một thiếp mời đám cưới.

Cặp tờ thiếp mời vào nách, gã rút chìa khóa, mở cửa. Lập chập mãi mới vào được nhà. Nhẹ hẳn người. Thở phào. Người ta, cũng như bất kỳ con vật nào, vẫn yêu cái ổ của mình, cho dù nó to hay nhỏ, sạch bong hay bẩn thỉu, lắm đồ hay chỉ có mỗi cái chiếu rách.

Chẳng cần cởi giầy, chẳng cần thay quần áo, gã nằm xoài ra giường, đầu nằng nặng. Nhà lắc lư. Xem nào, thiếp mời cưới của ai nào?

Nguyễn Miên Hùng lấy Lê Kim Hoa? Không quen. Chắc quen bố mẹ chúng nó? Gã tia ánh mắt xuống phía dưới, chăm chú đọc bốn cái tên liền. Cũng lạ hoắc. Hay quen ông bà chúng nó? Phải đến tám cái tên? Ô không, cỡ mình cũng đứng tuổi nhưng chưa già đến thế.

Ngẫm nghĩ. Lục lọi. Không giống bất cứ cái tên nào quen thuộc trong họ hàng. Không trùng với bất cứ ai trong cơ quan. Bạn bè cũng không. Gã làm gì có nhiều người quen và bạn bè đến nỗi không nhớ nổi tên họ?

Con người ta càng ngày càng nhiều mối quan hệ nhưng càng ít người thân quen. Chắc có nhầm lẫn gì ở đâu đây.

Gã lật đi lật lại tấm thiếp mời. Xem nào, nếu nhầm, thì họ gửi cho ai? A ha, gửi cho một cái thằng có tên hệt như mình! Nhưng họ tên rất có thể trùng.

Mấy triệu người ở Hà Nội lại không thể có hai thằng tên đúng như gã? Xem tiếp. Địa chỉ: Phòng 1115, nhà CT7, đích thị nhà gã. Nhưng Hà Nội có vô thiên lủng CT7, mỗi CT7 thế nào chả có 1115!

Nhưng thông thường, hai cái trùng không đứng cạnh nhau. Xác suất quá thấp. Tóm lại là "nó" mời mình! "Nó" mời thì chắc "nó" không nhầm, vậy chỉ có thể mình nhầm. Gã đọc lại bốn cái tên bố mẹ cô dâu chú rể.

Cũng có một cái tên nghe quen quen, thấy ngờ ngợ, thời đại kỳ quặc này lắm thông tin đến mức quen quen lạ lạ lung tung cả.

Vậy đã có lời mời thì đi! Bao giờ nhỉ? Tối nay? Ô ô, khách sạn 5 sao? Ven Hồ Tây? Cực kỳ sang trọng. Cỡ mình chưa thử bao giờ. Đi chứ!

Gã vứt toẹt cái thiếp mời sang bên, mắt nhắm lại, ngáp một cái thật dài, và ngủ thiếp đi.

Hình như ngủ được có một lúc? Hình như có lúc gã thức dậy, đi loanh quanh trong nhà? Ờ, đi chứ!

Gã dừng xe trước cổng cái khách sạn nổi tiếng, nơi nhiều lần đón cả tổng thống nước ngoài đến ở. Như một con vịt đần, gã e ngại, đầu quay bốn phía.

Trông cái gì cũng như đang giễu cợt mình. Bức tường uốn lượn cầu kỳ. Khóm hoa thật trông như giả. Con đường kênh kiệu. Đến cậu thường trực cũng sang trọng như lính gác dinh tổng thống. Nhưng mình đã có giấy mời đến đây, có nghĩa là mình đủ tư cách đến đây, gã đĩnh đạc bước vào.

Và gõ gót giầy, tất nhiên.Trong sảnh lớn đèn khắp nơi nhưng ánh đèn không sáng không tối. Ai cũng sang trọng. Nói năng nhỏ nhẹ, động tác tay chân tiết chế, cười đùa vừa phải. Trông rất giống một bộ phim quay cảnh quý tộc ngày xưa.

Gã đi một vòng, với hy vọng tìm xem có tên nào quen không. Phải có một ai chứ? Không quen kiểu này thì cũng phải quen kiểu khác chứ? Nhưng đi khắp mà không tìm thấy ai quen. Chắc hẳn người gã quen chưa đến, sắp đến.

Trong sảnh, có một ban nhạc nhỏ hai người đang chơi. Tiếng nhạc réo rắt. Một nhạc công kéo violon rất say sưa, người kia đệm ghitare. Một bản nhạc cổ điển. Tiếng nhạc đưa gã đi đâu xa lắm. Hai nhạc công chơi hết mình, không cần biết có ai nghe, dường như họ chơi chỉ cho họ.

Mà lạ, trong cả cái sảnh to tướng và đầy người lịch sự này, hầu như chẳng ai để ý đến hai nhạc công kia cùng tiếng nhạc tuyệt vời kia. Dường như người ta điếc hết. Hoặc giả, người ta nghĩ bọn kia chơi nhạc là phục vụ mình nên không thèm để ý.

Nhưng gã thì để ý. Một mình gã tiến đến chỗ hai người nhạc công, đến rất gần, đứng lặng người nghe nhạc. Dường như trong cả cái sảnh rộng lớn này chỉ còn ba người.

Một lát sau, gã cảm thấy không ổn. Nhạc hay đến thế kia mà! Gã rút điện thoại di động, gọi người bạn thân, a-lô, thưởng thức nhé? và đưa chiếc điện thoại đến thật gần cây đàn violon. Anh nhạc công nhìn gã, chơi có vẻ say hơn, vì biết ít nhất cũng có thêm một người ở rất xa nghe nhạc của mình...

Gã sung sướng, tưởng tượng cảnh sóng âm thanh từ hai cây đàn chui vào điện thoại của gã, rồi biến thành sóng điện từ, qua anten bay phấp phới lên trời. Rồi từ trên trời cao, những đợt sóng ấy lại chui vào máy của bạn gã, hoán cải thành sóng âm thanh, chui vào đầu bạn gã, làm bạn gã ngất ngây.

Khi hai người nhạc công chơi xong, họ xếp đàn, rút ra khỏi sảnh, không quên tặng gã một nụ cười. Gã thở dài đóng máy. Đứng bần thần.Dù sao cũng nên chia sẻ với bạn bè, ở đây chưa có bạn thì có bạn ở xa. Gã lại bấm máy. Thích không? Gã hỏi. Ừ, dàn kèn trống nghe cũng được, bạn gã trả lời.

Gã sững sờ, nhìn lên bầu không gian phía trên. Nó méo?Đột nhiên, gã cảm thấy như có cái gì dán vào lưng vào gáy mình. Âm ấm, lành lạnh. Diết dóng. Rất khó chịu. Gã quay lại, bắt gặp cái nhìn của một người đàn ông.

Hắn hơi cao, gầy, trong bộ com-lê sẫm màu lịch sự, cà-vạt cũng sẫm màu. Gã có quen người này không nhỉ? Không. Vậy ta đi chỗ khác, gã nghĩ.

Gã len lỏi qua đám người, đi ngang qua ai cũng cố tình nhìn vào mặt người ấy. Trong cái sảnh này, đừng hy vọng gì khi nhìn vào áo quần. Bởi ai cũng sang trọng như ai. Đàn ông com-lê cà-vạt (kể cả gã cũng vậy, đi ăn cưới ở một khách sạn sang trọng như thế này kia mà!), đàn bà váy áo lòe xòe, nhìn hoa mắt.

Phải nhìn vào mặt họ, chính diện. Ông trời cho tỷ tỷ con người những bộ mặt khác nhau để còn nhận ra kẻ quen người lạ. Gã vòng vèo qua hết nhóm người này sang nhóm người khác mà vẫn chưa nhận ra ai quen.

Ôi những người quen của tôi, đi đâu hết cả rồi? Chắc đây không phải chỗ của mình. Nhầm. Quá sang trọng. Chán. Tự nhiên một nỗi buồn nhược tiểu dấy lên. Gã đứng thừ người giữa đám đông. Rõ ràng, gã lạc lõng giữa những con người hết mực lịch sự và sang trọng này.

Những cái nhìn thờ ơ, những động tác tiết chế, những cái nghiêng đầu lắng nghe kiểu cách... Và thế là, tự nhiên gã nảy ra ý định muốn bỏ chỗ này đi về nhà. Về nhà, về nhà, cái điệp khúc ấy vang vang trong đầu gã, đến nỗi mấy lần gã dợm bước đi về phía cửa, nhưng rồi lại dừng lại, chả lẽ mình đã đến đây theo lời mời trang trọng, lại tự nhiên bỏ về?

Và gã lại tiếp tục đi lòng vòng với hy vọng tìm ra một người quen. Vừa đi, trong đầu cái ý nghĩ ấy cứ to ra mãi: đi về, đi về, đi về nhà...

Trong lúc đi vòng vèo, gã vẫn cảm thấy khó chịu sau lưng sau gáy. Thỉnh thoảng không nén nổi, gã phải ngoái lại nhìn, và lần nào cũng bắt gặp cái bóng người đàn ông áo sẫm lúc nãy. Cũng như gã, ông ta cũng đi khắp các nhóm người, với ai cũng nhòm vào tận mặt, chắc cũng đi tìm người quen như gã?

Nhưng thật khó chịu là ông ta đi đúng đường gã đi. Gã qua nhóm này, ông ta cũng qua nhóm này. Gã sang nhòm nhóm khác, ông ta cũng nhòm đúng nhóm khác ấy. Thật khó chịu. Giá như ông ta đi tìm chỗ khác, kiểu khác, thì mặc xác ông ta, nhưng lại đi theo đúng kiểu gã thì thật bực mình. Gã cáu kỉnh rời sảnh, đi ra vườn.

Không khí mát rượi trong lành ùa vào phổi. Sung sướng hẳn. Về nhà, về nhà?

Những bông hoa trong ánh sáng nhân tạo trông không thật là hoa. Chỉ có gió là không bị ảnh hưởng bởi những thứ ánh sáng nhân tạo này. Nhưng chắc là cũng có ảnh hưởng ít nhiều, gã nghĩ, vì thỉnh thoảng vẫn ngửi thấy mùi gì là lạ, phấn son chăng, vì ở đây làm gì có bếp than tổ ong?

Bỗng có tiếng hắng giọng khe khẽ phía sau. Gã quay lại. Người đàn ông cao gày lúc nãy đang tiến đến. Gã cau có. Nhưng ông ta lại mỉm cười. Đứng cạnh mới thấy tuy trông xa ông ta cao gầy nhưng cũng tầm gã mà thôi. Một khuôn mặt hơi buồn. Và một bộ com-lê tuyệt đẹp.

- Nhạc lúc nãy hay nhỉ? - Ông ta nói.

- Hay. - Gã gật đầu, bớt cau có hơn.

- Vẫn chưa gặp người quen à? - Ông ta hỏi.

- Chưa. - Gã buột miệng thừa nhận.

- Ông định về à?

- Hừm... - Gã lúng túng. Cái lão chết tiệt này! Sao lão đoán ra?

- Vậy ta đi dạo loanh quanh đi! - Ông ta đột ngột đề nghị.

Lúc này trăng đã lên. Vành trăng còn non, nhưng đã sáng vằng vặc. Một mùi dạ hương ở đâu thoang thoảng bay đến. Ánh đèn xen kẽ vàng và trắng.

Khu vườn mờ ảo với những con đường nhỏ, những cái cột và những bồn hoa lung linh. Có những cái cây như người đứng dòm. Có những chùm cành lòa xòa như cánh tay vẫy. Giả giả thật thật.

- Ông hút thuốc không? - Người đàn ông kia hỏi với giọng xa ngái.

Gã tiếp nhận điếu thuốc lá ông ta mời.

Hút vào thấy say say. Chắc do đói. Nghĩ sẽ đi ăn cưới ở khách sạn 5 sao, gã đã cố tình ăn ít hơn vào lúc trưa nay... Thật xấu tính, gã nghĩ, cái thằng mình ấy. Bây giờ, đầu gã chuếnh choáng. Có lúc nhìn một thành hai. Có lúc gã nhìn thấy những bóng người đang đi xiêu vẹo trong vườn.

Rồi có tiếng mời mọi người vào tiệc.

Gã thở dài.

Gã và người đàn ông kia từ ngoài sân đi vào sảnh. Vì là hai người cuối cùng nên người ta dẫn họ đến một bàn còn khuyết hai ghế trống.Trước khi ngồi xuống, gã còn kịp nhìn quanh, vẫn chưa thấy ai quen.

Hay tất cả những người quen của gã đã tan biến vào đám đông? Về nhà, về nhà...Bàn có tám người. Tám người liếc nhìn nhau. Chẳng ai quen ai. Thôi được, ngồi cùng bàn, ăn cùng mâm, cùng nâng cốc chúc cho cùng một cặp, thế là quen vậy.

Người đàn ông "bạn" gã, ta gọi là Ông Bạn, là người khai mào:

- Sang trọng quá nhỉ, khách sạn 5 sao có khác.

- Đúng thế, - Cả sáu người kia hưởng ứng. Những giọng nói nhấp nhô. Kiểu như mừng rỡ vì đã có người phá đi cái bức tường ngăn vô hình.

Còn gã thì buồn cười.

Đứng dậy vẫn kịp, nhỉ? Về nhà, về nhà...

Trên cái bàn tròn phủ vải đỏ trước mặt, chính giữa, có một bình hoa nhỏ và một cây nến đang cháy trong một cái chụp thủy tinh tuyệt đẹp. Trước mặt mỗi người có một cái ly chân cao dùng để uống rượu vang và một cốc thủy tinh lùn dùng để uống rượu, cả hai được úp trên cái khăn nhỏ màu hồng nhạt.

Chưa có thức ăn ê hề bày sẵn như những đám cưới bình thường khác. Cũng chẳng có những thức ăn giống hệt nhau như đúc từ nhà máy ra như những đám cưới bình thường khác. Chính điều đó lại làm gã khó chịu.

Có về không? Gã đã quen đi những đám cưới trung bình. Ở đó, có những MC trung bình với những câu dẫn tếu táo cỡ trung bình, người ta biết trước sẽ có những món gì, người ta ồn ào ngồi vào bàn, thẳng thừng hỏi nhau ông là thế nào với cô dâu (hay chú rể), ta uống trước đi, mặc kệ họ, khi họ bắt đầu ta lại uống tiếp...

Ông Bạn ngồi bên phải gã. Bên trái gã là một ông đạo mạo mặt đỏ ửng với những nốt sần, thỉnh thoảng lại lắc lư cái đầu, kiểu như không bằng lòng mọi điều. Trước mặt là một người đàn ông béo tốt, trông quen quen, có thể gã đã nhìn thấy trên ti-vi?

Ông ta thỉnh thoảng cũng nhìn gã rất nhanh rồi quay đi. Cạnh ông ta phía bên này là một bà son phấn vừa phải, nền nã, tóc vấn cao, áo tím, luôn luôn mỉm cười. Còn phía bên kia là một ông thắt cà-vạt sọc cũng luôn mỉm cười.

Gã rất ghét những người luôn mỉm cười. Họ không thấy mỏi miệng à? Ấy, chính không mỉm cười mới thấy mỏi miệng, gã nghe thoang thoảng một giọng nói bên tai. Gã ngạc nhiên quay sang, hóa ra Ông Bạn đang nghiêng người về phía gã, thì thầm. Cái ông này, sao biết mình đang nghĩ gì?

Ngồi cạnh Ông Bạn về phía bên kia là một ông đeo cà-vạt xanh lá cây, khuôn mặt đẹp như thiên thần với một món tóc rủ xuống trán. Nghiêm nghị và phớt đời.

Nhưng mọi chú ý của cả bàn tiệc đều hướng về phía một cô gái trẻ ngồi chếch gã 90 độ. Những đôi mắt (kể cả của thiếu phụ nền nã) nhìn đâu thì nhìn, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc nhìn về phía cô.

Khỏi phải nói, bản thân tuổi trẻ cộng với tính nữ đã là một hấp lực vô biên, không cần bất kỳ phụ trang phụ kiện gì khác. Cô gái giản dị trong bộ sơ mi cộc tay và (chắc là) váy sẫm màu. Ông Bạn lại ghé tai gã thầm thì:

Này, già rồi mà sao cứ liếc cô bé thế? Gã thoáng sượng mặt. Rồi cáu: cái thằng cha này, quen biết gì ông mà tọc mạch?

Cô gái khiến gã như đang chạy ngược thời gian từ cõi năm mươi trở về tuổi hai mươi. Cô bạn giống như cô bé kia ngồi sát sạt vào người gã, cánh tay cọ vào cánh tay, đến tận bây giờ vẫn còn cảm giác sung sướng, man mát, êm dịu.

Thế nhưng gã chẳng làm gì cả, chẳng có ý định gì cả, chẳng có suy nghĩ gì cả, chỉ thấy bầu trời rất cao và phố phường thật đẹp. Lúc ấy lại nghĩ, thôi ngồi lâu rồi, phải về nhà, về nhà... Sao ngu thế nhỉ?

Bên cạnh, Ông Bạn cười cái gì kha kha với Ông Cà-vạt xanh lá cây rồi kết luận: "Sao ngu thế nhỉ..."Cái lão này, đến tình cờ cũng nhắc lại đúng ý nghĩ của mình, thật đáng ghét, gã nghĩ. Gã thấy bừng bực vì đã đi cùng, ngồi cùng cái gã điên này.

Tèn ten tèn ten!!! Âm nhạc vang lên. Vô cùng hùng tráng nhưng dịu nhẹ, phát ra từ đâu đâu không biết, có thể từ những bức tường. Xuất hiện hai đoàn thiếu nữ mang trên tay những ngọn nến lung linh uyển chuyển bước vào.

Rồi các cô đứng cách nhau rất đều rải từ cửa tới sân khấu, làm thành một hành lang ánh sáng nến, để trong cái hành lang lung linh ấy mấy cô bé thiên thần tung tăng dẫn cô dâu chú rể khoác tay nhau theo sau, hộ vệ là hai ông bố hai bà mẹ.

Cả đoàn diễu hành nằm trong vòng ánh sáng trắng của một chiếc đèn pha chiếu từ xa, chầm chậm như đang tiến đến thiên đường.

Cả câu chuyện tiếp theo của gã (không có chuyện) dường như chỉ quẩn quanh với mấy câu hỏi vô hình: mình là ai, mình đến đây làm gì? Và một cảm giác ngán ngẩm về cái sự mình không biết tí gì về thiên hạ, trong khi thiên hạ biết tỏng mình… “Về nhà, về nhà thôi”. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại như một thôi thúc của kẻ yếm thế.

Nhân vật của chúng ta căng mắt ra nhìn. Gã hồi hộp đợi đến khi đoàn diễu hành đi tới khoảng cách gần nhất để nhận dạng người quen.

Nhưng khỉ thật, trong cái ánh sáng trắng của đèn pha và dưới lớp phấn son áo quần, trông cô dâu chú rể như những hoàng tử công chúa thời xưa, còn bốn ông bố bà mẹ trông lạ hoắc như vua chúa trong phim ảnh.

Không phải người quen của gã, gã lắc mạnh đầu. Đi về? Nhưng vẫn chưa thể khẳng định, gã lại nghĩ. Trong cái ánh sáng rực rỡ kia thì đến ma cũng đẹp.

Biết đâu mình quen bố chú rể chẳng hạn, cái tay đi sau chú rể đó, trông dáng có cái gì quen quen, nhưng thằng cha đó make-up lên và mặt lại vênh lên thì ai mà nhận ra được?

Bây giờ thì đoàn người quan trọng nhất ấy đã đứng trên sân khấu, khá xa, đến nỗi gã phải nheo mắt lại nhìn mới rõ. Một tràng vỗ tay rộ lên khi nhạc dứt. Trên bàn, trước mặt, vẫn trống không, ngoại trừ hoa, nến và cốc.

Gã thấy đói. Cái bọn này rách chuyện quá, mình thì đói, chúng nó thì cố tình chưa bầy thức ăn. Chắc còn phải đợi diễn văn của bố chú rể? Trong lúc gã đang cáu kỉnh thì Ông Bạn đã kể chuyện gì hay ho lắm, có thể là một câu chuyện tiếu lâm nhẹ nhàng, khiến cả bàn cười vui vẻ.

Không khí như dãn ra. Ông Bạn rút tập danh thiếp, lần lượt đưa cho từng người, miệng nói: "Hy vọng sau này sẽ có nhiều điều thú vị hơn."

Gã cũng nhận danh thiếp, liếc qua thấy có họ tên, địa chỉ, số điện thoại, và những hàng chữ màu xanh. Nhưng vì đang tức vì bị Ông Bạn mấy lần đoán trúng ý, nên gã đút ngay vào túi không đọc tiếp nữa.

Đưa danh thiếp là bệnh lây. Ông Béo tốt cũng rút ra một tập danh thiếp. Rồi Bà Nền nã, Ông Cà-vạt sọc... Trừ tấm danh thiếp của Ông Bạn nằm trong túi, tấm nào gã cũng nhìn một cái rồi để trên mặt bàn.

Tấm nào cũng chi chít chữ, đọc không kịp. Chỉ có gã và cô bé là không danh thiếp, chợt nghĩ, đó là những kẻ không tên tuổi. Cô bé thì không nói làm gì. Trẻ quá.

Bây giờ không tên tuổi thì sau này sẽ có tên, lo gì! Vả lại, với khuôn mặt thiên thần tỏa hào quang kia thì cóc cần danh thiếp người ta cũng nhận ra mình là ai.

Nhưng còn gã, gã chưa là gì, chẳng là gì, họa chăng một anh nghiên cứu viên ở một Viện nghiên cứu khoa học tuy sáng láng nhưng khối người không biết nên cũng thành không tên tuổi.

Gã thản nhiên bảo: "Xin lỗi, tôi không có danh thiếp", tự thấy giọng nói điềm tĩnh, và khi liếc nhìn sang bên, gã nhận ra sự đồng tình của Ông Bạn, gã thấy khoái ông ta hơn.

"Không sao, không sao...", Ông Béo tốt nói với gã, với giọng an ủi rất đáng ghét, "Những người dân là những người đứng cao nhất", ông ta nói như trên diễn đàn. Bây giờ là lúc cần đến danh thiếp đây, gã lén giơ ngón tay gạt gạt đống danh thiếp, đến cái cuối cùng, đọc:

Nguyễn Văn A, Dân biểu, đúng như mình đoán, Tiến sĩ, khiếp nhỉ, Cục trưởng Cục Z, Chủ tịch Hội X, Ủy viên thường vụ Hội Y, Nhà báo, Nhà văn. Gã thở dài đánh sượt. Ngồi đối diện với một nhân vật cỡ này thì mệt quá.

Gã nhớ đến những bữa bù khú ở quán bia hơi, ở đó ông Trời là con cóc, bão tố là làn gió thoảng, động đất là con mụ vợ đụng hông vào bàn.

Còn ở đây, Ông Béo tốt là núi Thái sơn, còn Quý Bà Nền nã là... ai nhỉ, danh thiếp thứ hai, Tổng Giám đốc Công ty chứng khoán, ái chà, xem tiếp, ngón tay gã lại gạt gạt, Ông Cà-vạt sọc là Nhà Tư vấn!

Cà-vạt xanh lá cây là Nghệ sĩ ưu tú, còn ông Mặt đỏ ngồi cạnh gã là Giáo sư! Gã lại thở dài, liếc nhìn Ông Bạn, vậy tay này là ai? Cũng phải tầm cỡ đó trở lên, gã đoán, nhưng rất bất lịch sự nếu như thò tay vào túi để lôi ra tấm danh thiếp của hắn mà đọc.

Rõ ràng có những con mắt chiếu cố khi nhìn gã, điều đó làm gã cáu. Không có danh thiếp, đó là một tội lỗi. Đến con ruồi cũng phải biết vo ve, cái tiếng vo ve ấy chính là danh thiếp của ruồi, còn mình thì không có gì cả.

Nhưng gã chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đi đặt in danh thiếp, dù rằng bản thân danh thiếp với dòng chữ đơn giản Nguyễn Văn Cột, nghiên cứu viên, địa chỉ, điện thoại, e-mail, chỉ là để người đối thoại có thêm thông tin. Để tự an ủi, gã nghĩ, mình đã được mời đến đây là đã có vai vế nhất định, và đó chính là danh thiếp của mình.

Màn trao danh thiếp làm gã nhãng đi không nghe thấy phát biểu của bố chú rể, lại mất một dịp xác định mối quen biết hiện đang rất mù mờ.

Có lẽ ngoại trừ gã, sau màn trao đổi danh thiếp, những người kia đều nhận ra nhau, vì gã thấy họ bắt đầu trò chuyện rất vui vẻ, toàn à với ồ. Quý Bà Nền nã với giọng trách móc bảo Ông Béo tốt: "Các anh chẳng quan tâm đến chứng khoán gì cả, kỳ này đưa ra đi anh... ".

Ông Béo tốt cười cười chuyển luôn quả bóng sang Ông Cà-vạt sọc: "Ấy, mọi dự án đều do ông này xúi bẩy đây, lát nữa phải phạt." Quý Bà chuyển làn đạn sang Cà-vạt sọc: "Này, nghe nói có ai đó vừa trúng quả, kiếm một con Camry trong vòng hai ngày, có đúng không nhỉ?"

Cà-vạt sọc cười hi hi, liếc nhìn Ông Béo tốt một cách đầy ý vị: "Cái thằng ấy chỉ là cò con thôi bà ơi, đâu bằng vụ một đêm thổi giá vàng hay một chữ ký chia đất!" Cà-vạt xanh lá cây cười ha ha, còn cô gái ngơ ngác như con nai vàng.

Ông Bạn ghé tai gã kể nhỏ: "Cái tay tư vấn này vừa nhận hai căn hộ cao cấp được mua với giá hữu nghị liền đẩy đi, lãi ngay cái ô-tô." "Thế ư?", gã ngạc nhiên, ngắm Cà-vạt tím. "Còn ông béo ấy, làm tiến sĩ mà chẳng phải đi học hay viết luận án, bị cái tay Giáo sư rởm ngồi cạnh ông khinh như mẻ", Ông Bạn lại thì thào.

Sao ông biết? Dường như hiểu được suy nghĩ của gã, Ông Bạn cười cười: "Tớ là Biết Tuốt mà! Đùa đấy, thời đại này, đến ma còn biết lên mạng." Gã ngồi đần ra, vừa nghe vừa ngắm. Quên cả đói. Quên cả tìm người quen. Quên cả ý nghĩ muốn về nhà.

Những người phục vụ áo trắng đã đi rót rượu cho từng bàn. Rồi thức ăn cũng lần lượt được đưa ra, hết món này đến món khác.

Món nào cũng ngon và lạ. Nhân vật của chúng ta chưa hề được thưởng thức những của ngon vật lạ như thế, gã không chọn rượu vang mà chọn rượu mạnh, gã chén một cách thoải mái, cảm giác nhược tiểu tự nhiên biến đi đâu mất hết.

Bàn tiệc rôm rả. Nhưng hầu như mọi người chỉ đụng đũa làm vì. Ông Béo tốt không buồn ăn, vì đang say sưa kể chuyện đi câu ở hồ T, câu được con cá to đùng mười cân.

Bịa! Thật mà, mười cân! Có cả ảnh chụp đây này! Ối giời, ông phải chỉ cho tôi mới được, chỗ câu ở đâu đấy? Cà-vạt xanh lá cây, NSƯT rối rít hỏi.

Biết Tuốt lại thầm thì vào tai gã: "Ông có biết có người làm nghề lặn hồ đổ ốc không? Lặn xuống hồ, đào một cái hố tròn to dưới đáy để làm một cái mà, rồi cứ mấy ngày một lần mua ốc, đập nát, rồi lại lặn xuống đổ xuống đấy làm mồi dụ cá.

Một tháng sau mời đại gia đến đúng chỗ ấy câu. Con cá tham ăn là con cá chết, đại gia vui." Gã buột miệng: "Thế thì vui vẻ cái nỗi gì?" Chợt nghĩ, ở Viện nghiên cứu khoa học của gã, mấy cái đề tài tiền Nhà nước chẳng phải là những cái mà to tướng đấy ư?

"Đúng, thế nhưng ông đâu có dám từ chối, không làm?", giọng thầm thì của Ông Bạn lại rót vào tai làm gã phát hoảng, sao hắn biết được ý nghĩ của mình? Gã nhìn cốc rượu, rồi lại liếc nhìn Ông Bạn.

Hắn nhe răng ra cười với gã. Hắn cũng có một cái răng sâu ngay trước cửa như mình, thật đáng ghét. Gã giơ cốc rượu ra để người phục vụ rót thêm thì thằng cha "Ông Bạn" cũng đưa cốc rượu ra. Bắt chước một cách nhố nhăng.

Bây giờ, mặt hắn tái dại, nhợt nhạt. Bộ com-lê sang trọng có vẻ như cứ rộng ra dần so với khổ người hắn. Uống chán, hắn quay sang gã, thầm thì: "Thực ra, khách sạn 5 sao cũng chỉ thế thôi, nhỉ?" "Ờ", gã gật gù.

Bữa tiệc chậm rãi trôi. Ông Béo tốt quăng đũa mỗi nơi một chiếc, bắt đầu duỗi dài chân, ngả người trên ghế.

Cà-vạt sọc nhớn nhác nhìn quanh, miệng làu bàu "Tăm ở đâu nhỉ, 5 sao mà đến cái tăm cũng không để vào lọ đặt trên bàn cho người ta..." Còn Giáo sư bên cạnh gã chắc mỏi chân, trụt giày, len lén gác một bàn chân lên ghế.

Bây giờ, gã cũng không muốn ăn nữa, chỉ muốn uống. Gã chăm chú nhấp từng ngụm rượu thơm nồng, gần như quên hết mọi sự. Những câu chuyện bắt đầu rời rạc lướt qua tai gã như những làn gió thoảng.

Thực ra, cũng chỉ thế thôi, câu nói của Ông Bạn lại lướt qua đầu gã. Hết cốc rượu to, gã tự nhiên thấy chán. Nhưng rồi lại thắc mắc, vậy là, tại sao người ta lại mời mình? Khoa học tồn tại là do đặt ra câu hỏi và hỳ hục đi giải câu hỏi đó.

Gã là nhà khoa học, tuy chưa giáo sư như Ông Cà-vạt xanh lá cây, cũng chưa Tiến sĩ như Ông Béo Tốt, nhưng cũng đủ để hiểu rằng phải đi tìm ông bố chú rể, người mà gã nghĩ xác suất quen là rất lớn, và đó là cái gạch nối giữa gã và đám cưới sang trọng này. 

Gã chuếnh choáng đứng lên, xin lỗi nhé, tôi đi, gã nói. Bất ngờ, nhìn sang bên cạnh, gã chẳng thấy Ông Bạn đâu. Chẳng lẽ hắn lại đi trước cả mình? Mình cứ định làm gì thì hắn lại cứ như biết trước?

Bừng bực, gã hỏi ông Giáo sư: "Cái ông ngồi cạnh tôi ấy mà, ông ấy đi đâu ấy nhỉ?"

"Ông nào?" Ông Giáo sư đặt vội chân xuống đất, ngạc nhiên hỏi lại.

"Cái ông ngồi đây này?" Gã chỉ cái ghế cạnh mình.

"Làm gì có ai, cái ghế ấy trống."

Liệu có nên tin cái lão này không? Gã nhìn ông ta, rồi quay sang nhìn lại mặt bàn, thấy cái cốc và cái ly vẫn úp xuống tấm vải hồng. Một đôi đũa, một cái thìa đặt ngay ngắn bên cạnh. Khỉ quá nhỉ?

Gã thọc tay vào túi quần. Vẫn còn danh thiếp của Ông Bạn đây mà! Gã rút ra. Lật đi lật lại. Một tờ bìa trắng, trắng cả hai mặt, không một dòng chữ. Cái thằng cha này lại lừa mình, gã lẩm bẩm, rồi rời bàn.

Gã nhìn khắp gian phòng, rồi đi ra ngoài, dạo khắp hành lang cùng sảnh. Khách sạn sang, đi mãi cũng thành thường. Gã gõ gót giầy như đi trong hành lang nhà CT7 của gã. Và, gã chỉ tìm thấy cô dâu chú rể đang đứng ở cửa, như đợi khách, còn hai ông bố hai bà mẹ biến đi đằng nào. Chán thế.

Thôi đi về, đi về nhà...

GI

A CHÓ Và NG

ƯỜ

I

Truy

n Ng

n Võ Công Liê

m

Mùa hè 1975 T

ư

Thoáng và Cai H

g

p nhau m

ng l

m. H

c

nghĩ m

t trong hai đ

a th

ế

nào cũng có đ

a ch

ế

t ho

c l

ư

u l

c giang h

; thì nay g

p l

i t

ưở

ng nh

ư

ch

ế

t đi s

ng l

i. H

kéo nhau vô ch

, ng

i tr

t xu

ng đ

t húp tô cháo lòng m

Ký, n

ướ

c ’xít’ n

i cháo

b

c h

ơ

i cu

n vào không gian nghe mùi c

t heo bay ph

t ph

i hay là c

c d

i n

i tr

ườ

ng đ

c trên chi

ế

c rá khô ph

n l

i. H

húp c

n n

ướ

c cháo còn đ

ng trong tô nghe reo trên môi. Đo

n h

t vô h

ng ly r

ượ

u đ

ế

d

m r

c

cú m

t cách c

m khoái. Bu

i g

p ’ph

c sinh’

t

ưở

ng nh

ư

lâu dài, nh

ư

ng sau đó l

i chia xa b

i v

n n

ướ

c; th

ế

r

i m

i ng

ườ

i m

i ph

ươ

ng ch

bi

ế

t đi v

đâu

.

T

ư

Thoáng đi trình di

n đàng hoàng nh

ư

nhi

m v

công dân đ

i v

i chính ph

lâm th

i. Nghe ti

ế

ng loa đ

u ch

; Thoáng ăn v

n ch

nh t

, ch

i l

i mái tóc và b

ướ

c ra kh

i nhà, n

n

c

ườ

i trên môi, lê b

ướ

c đ

ế

n tr

s

đình làng.

- Bác c

n vi

c gì chúng cháu giúp.

B

đ

i gi

i phóng nói.

- Tôi đi trình di

n với Ủy Ban Quân Quản. Tư Thoáng nói.

Qua phong cách c

a T

ư

Thoáng ng

ườ

i ta th

m c

ườ

i cái t

ư

ch

t ít h

c c

a ông T

ư

. T

ư

Thoáng ng

ơ

ng

n m

m c

ườ

i vì không ai hi

u tinh th

n đ

i x

c

a h

n, T

ư

n

ng n

c đòi trình di

n đ

đ

ượ

c h

c t

p c

i t

o s

m tr

thành ng

ườ

i m

i, vi

c m

i trong m

t xã h

i m

i.

- Bác đâu ph

i Ng

y mà trình di

n. Cán b

nói.

- U

! Sao l

th

ế

? Ng

y quân, Ng

y quy

n, Ng

y dân đ

u ph

i h

c t

p mà l

. T

ư

Thoáng nói.

- Bác không Ng

ụy. Bác về và tiếp tục đi cày. Bác là nhân dân tốt. Cán bộ nói.

T

ư

Thoáng ra v

mà lòng bu

n r

ườ

i r

ượ

i b

i không ai hi

u lòng yêu n

ướ

c c

a mình. -Không Ng

y! v

y thì ng

y

đây là Ng

y th

i chi

ế

n qu

c bên Tàu hay ng

y quân t

, ng

y t

c đ

i nay? T

ư

Thoáng t

v

n. Khi đi thì h

h

i

đ

ế

n khi v

thì m

t mày nh

ư

đ

ư

a đám. Rõ kh

cho th

ng dân ngu

!

Cai H

ổ đi kinh tế mới tận trong Nam sau một năm đất nước thống nhứt. Tất cả gia trang chất lên xe bò đi theo chính sách kêu gọi của nhà nước. Vợ chồng con cái Cai Hổ chấp hành; nói cho ngay gia cảnh Cai Hổ trên răng dưới dế khới cái gì đây. Thôi thì đi cho khuất con mắt, gở cục đất khô nầy có ngày chết không kịp ngáp. Binh cái chiêu nầy Cai Hổ nắm chắc chín chết một sống. Nhưng liều ba bảy cũng liều. Nghiến răng ăn củ chuối, củ môn. Vợ chồng nai lưng cày thế trâu, nạy từng cục đá tảng, biến rừng sâu nước độc thành nương rẫy và rồi xây trang trại chế biến khoai mì thành phẩm trao đổi đến những phố thị xa xuôi. Cảnh nhà Cai Hổ trở nên tư sản mại bản, ăn nên làm ra, sanh chứng tráo trở, đút lót. Được 10 năm tang gia bại sản, khánh tận vì sâu mọt đục khoét, vợ chết, con điên. Cai Hổ bơ vơ như hổ lạc rừng. Từ đó Cai Hổ không còn một đồng dính túi, tinh thần, thể xác như kẻ điên, tiều tụy, xuống sắc không còn oai phong lẫm liệt, xưng hùng xưng bá, tay hô tay quát, bao che lộng hành như trước đây. Hổ đi lang thang khắp phố phường, ngủ đình ngủ chợ, đêm đêm khóc thầm vì thấy đời bạc bẽo, khi sa cơ thất thế nó hùa nhau đạp xuống hố, bạn bè khi đói thì hắn giúp, khi no thì lại tránh hắn, Cai Hổ đau đớn vô cùng phải dung thân vào cái xã hội mục nát, lưu manh, Hổ nhập cuộc cho nên bây giờ Hổ ngậm đắng, cúi mặt mà đi. Hổ biết đi đâu và về đâu.

M

ườ

i lăm năm sau Cai H

qui c

h

ươ

ng, vát cái m

t mo v

làng V

m, ngó không đ

ượ

c v

i bà con chòm xóm. H

cúi đ

u đi nh

ư

con chó đói, b

ng cào, h

ng khô ch

chi có m

t c

m r

ượ

u làng Chu

n đ

y vô thì đ

i H

s

ướ

ng bi

ế

t ch

ng nào. H

không dám nhìn đám b

n cũ; nhìn chi n

i, th

ng Đ

o th

c huy

ế

t heo ngày nào gi

cũng hai ba căn h

, cái

, cái cho thuê. Nghe đâu Đ

o công tác

hu

y

n đ

i. Đ

o thoáng th

y Cai H

m

t l

n

ch

Đũi, Đ

o tránh m

t s

v

lây. Cai H

còn m

t th

ng b

n c

tri mà không

ch

, m

c dù th

ng b

n cũ x

ư

a là k

ch

. Không bi

ế

t gi

này h

n còn s

ng hay ch

ế

t. Cai H

húp bát chè xanh mà n

ướ

c chè không ch

u ch

y xu

ng h

ng mu

n ng

ng l

i đ

trào ra. H

nh

m m

t suy t

ư

.

T

ư Thoáng nghe con Nghĩa sủa đầu ngõ, vói miệng kêu Nghĩa để ngăn tiếng sủa. Giây lát sau Cai Hổ xuất hiện đứng trước căn nhà lá, phên tre trét đất bùn non trộn với cứt trâu phết lên thế vôi, phên tre khô, nứt để lại những lỗ thủng, ánh sáng uà vào, chiếu sáng như khách sạn ngàn sao giữa bãi vắng. Cai Hổ đằng hắng xem chừng chủ nhân có nhà hay không. Nghĩa không có ở đó. Nghĩa đánh hơi Hổ là kẻ ’sát nhân’ có hơi chó, Nghĩa sợ chạy trốn sau bụi tre.

- V

h

i nào?Nghe c

lúc n

y làm ăn kh

m khá l

m ph

i hôn?T

ư

Thoáng nói.

- Khá cái con kh

m

c. Đói mu

n ch

ế

t đây nè! Cai H

nói.

Hai bên hàn huyên tâm s

, m

t nhìn l

u liêng xem b

n b

có gì nh

m nh

p. Trong căn nhà lá c

a T

ư

Thoáng ngoài cái chõng tre, lu n

ướ

c, cái b

ế

p tàn, trên k

kê vài cái ve chai đ

y m

hóng khó nh

n ra mu

i hay

t.

m nhôm n

m im l

ng trên cái ki

ng t

sáng đ

ế

n gi

ch

đun l

a nóng. T

ư

Thoáng nh

ra trong kh

p còn đâu ch

ng ch

ư

a t

i m

t lon g

o. N

ế

p ăn

T

ư

Thoáng đ

ơ

n s

ơ

sau khi v

T

ư

qu

a đ

i; th

ng con trai 35 tu

i có v

, con

trên ch

huy

n, đ

p xích lô, th

nh tho

ng v

thăm cha v

i vài ba con cá bi

n và gói thu

c rê. T

ư

Thoáng nghèo sát đ

t nh

ư

ng tình c

m b

n bè cao qúy l

m. V

ng b

n m

ườ

i m

y năm, th

y b

n c

ơ

hàn mà thân mình cũng c

ơ

hàn không nói nên l

i, bi

ế

t l

y gì mà tr

i t

m lòng. Suy nghĩ mông lung, không có l

i thoát, nói cho ngay T

ư

Thoáng lâu nay trong ng

ườ

i cũng khô dòng r

ượ

u. V

y l

y đâu ra r

ượ

u đ

thi

ế

t b

n qúy. Vô ph

ươ

ng! b

ng nghe ti

ế

ng Nghĩa s

a. T

ư

Thoáng đ

ư

a m

t nhìn r

a ngoài xem Nghĩa

đâu. Đ

ng d

y; tay c

m con dao gi

u sau đít, l

n mò đ

ế

n bên c

nh Nghĩa, T

ư

Thoáng nhìn Nghĩa b

ng đôi m

t

d

t. Nghĩa đ

ế

n g

n v

y đuôi, vu

t ve Nghĩa đo

n đ

ư

a con dao c

a vào c

Nghĩa, Nghĩa đau nhói, búng mình ch

y t

u thoát vào lu

ng

b

p, th

ì

ch, hai con m

t h

t h

i, T

ư

Thoáng quy

ế

t chìu tình b

n quên tình chó, ra tay h

Nghĩa đ

đánh chén cùng b

n. C

nh tr

i xu

ng chi

u, mây xám đ

y đ

c gây u ám, khó cho T

ư

Thoáng lùng ki

ế

m Nghĩa. T

ư

đ

ng tr

ướ

c gió và mây, đ

o m

t nh

ư

ng không th

y

Nghĩa đ

ng tĩnh. T

ư

Thoáng b

cu

c; chó ch

y luôn không còn tr

v

. T

ư

Thoáng nghe ti

ế

ng xào x

t c

a lá, đ

ng l

i và th

y l

nh

đôi chân. Nghĩa g

c đ

u li

ế

m đ

u chân T

ư

Thoáng, ng

ướ

c nhìn T

ư

v

i hai hàng n

ướ

c m

t. T

ư

Thoáng nghe nh

ư

ti

ế

ng c

u xin c

a chó

. T

ư

qùi xu

ng ôm Nghĩa vào lòng, đ

ng d

y d

ươ

ng hai tay lên tr

i và th

r

ng : ’Không ăn th

t chó! Không ăn th

t chó!’. H

n chém ph

p lát dao vào thân cây. T

ư

Thoáng ch

m rãi b

ướ

c, chó đi sau l

ư

ng, c

còn r

ướ

m máu đ

.

V

sau ng

ườ

i ta không th

y Cai H

l

àng V

m. H

n ra đi nh

ư

đã ra đi và không bi

ế

t ngày mai có làm ăn kh

m khá h

ơ

n không ? T

ư

Thoáng ch

ế

t vài năm sau đó và th

ườ

ng th

y con chó đ

m ng

i trên l

ư

ng m

ch

vào nh

ng bu

i hoàng hôn ./

.

Tin

Sáng nay hắn thấy má lụi hụi cúng kiếng mồng Hai. Hai dĩa thịt heo quay , một dĩa bánh da lợn , một dĩa bánh bò với hai trứng hột gà luộc. Hắn hỏi má hôm trước mới cúng sao hôm nay cúng nữa. Má nói bữa trước cúng sinh nhật ông thần tài, còn hôm nay cúng mồng Hai. Hắn bỗng nổi nóng cằn nhắn má, cúng gì mà cúng hoài, nhà cửa có sung túc gì cho cam mà cứ hễ hai ba ngày cúng một mẻ. Má hắn rày một trận, “Mày sống không có thần linh trong lòng hèn gì số mày rủi !”. Hắn cộc lốc: “Trên đời này biết bao người có cúng kiếng như má đâu mà người ta sinh ra đã có vàng để ngậm.”

Chiều hôm đó trước khi ra khỏi nhà, hắn đứng khựng trước bàn thờ ông thần tài với ông thổ địa. Mấy cây nhang má thắp hồi sáng đã tắt ngấm quéo quắt đổ gục. Thần linh ? Trước đây, trong những lúc sợ hãi và tuyệt vọng nhất, hắn đã cầu tới thần thánh cứu rỗi hắn, nhưng có ai đáp lới đâu.Hắn đã phải học cách sống bằng chính sự nỗ lực của bản thân mình, hắn đã quên đi cách phải cầu xin ông trời phù hộ như thế nào rồi . Rồi hắn nghĩ tới má. Mấy chục năm nay có lúc nào má quên thắp nhang cho cái bàn thờ ông thần tài. Vậy mà má vẫn khổ , vẫn nghèo như vậy. Nhưng tại sao má vẫn tin vẫn đều đặn khấn vái. Suy nghĩ mông lung một hồi , hắn ngần ngừ rồi chắp tay vái mấy vái khấn thầm : “Chư vị thần linh , hồi sáng con dại miệng lỡ lời , chư vị là người trên cao xin bỏ qua cho con. Chư vị có linh thiên xin hãy phù hộ cho má con hết khổ.” Khấn rồi hắn quay đi bước ra khỏi cửa. Dầu tin hay không tin thì hắn biết rằng người làm cho má hết khổ là sẽ phải là hắn chứ không ai khác.

Túi gạo của mẹ

Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oằn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:- Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.

- Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ. Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại. Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nở…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần…

Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi.

Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:

-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

- Nhận vào.

Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh.

Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ khàng đến bên thầy nói:

-Tôi có 50.000 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước.

Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng lên, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

~*~

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

- Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?

- Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế ! Người phụ nữ bối rối.

- Thật buồn cười cái nhà chị này ! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào ! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.

Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệch, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

~*~

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.

Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

- Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận !

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế.

Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại.

- Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất !

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng,ngõ hẻm xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ :

- Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ ! Chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hỗ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

- Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về.

Lòng thầy xót xa.

Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra,học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của Thủ Đô. Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có một điều rất lạ rằng trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc,không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài.

Cả trường lặng đi vì xúc động. Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về.

Thầy nói:

- Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu từng bước khó nhọc bước lên sân khấu.

Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

- Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng vô cùng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả,mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản, tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.

Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

- Mẹ ơi ! Mẹ của con…

——————————

Ông già và con chó - Dương Hùng Chí 

Trưa

hè. Mặt trời đứng bóng. Dưới cây ngô đồng râm mát cạnh đường cái huyện ở Quan Trung, một cái hòm gỗ vuông vắn viết hai chữ to dập vào mắt mọi người:Quyên Góp. Hai cô gái trẻ xinh đẹp, trông coi hòm.

Một cô tóc chấm vai, một cô tóc ốp. Bên cạnh còn một chàng trai đeo kính râm, tay cầm loa pin đang diễn thuyết: "Thưa các đồng chí, các bạn cùng toàn thể bà con anh chị em, thưa các thầy cô giáo cùng các em học sinh. An Huy và Triết Giang bị nạn lụt, đồng bào hai tỉnh đang đau khổ, hoạn nạn. Một noi khó khăn, tám nơi chi viện, mọi người chúng ta hãy phát huy tinh thần hiệp tác cộng sản chủ nghĩa, tích cực đóng góp, năm xu một hào cũng được, tám đồng mười đồng cũng hoan nghênh, tự nguyện tự giác là

chính, số tiền không hạn định, nào xin mọi người đóng góp, mau mau góp tiền làm điều lành việc thiện”.

Nghe lời tuyên truyền cổ động của chàng trai, người qua đường xúm lại góp tiền. Bà cụ nhà quê bán trứng gà đến góp. Ông cán bộ nghỉ hưu tóc bạc phơ đến góp. Các em học sinh có mấy xu ăn kem cũng bớt lại cho vào hòm

đóng góp. Dòng người đến góp mỗi lúc một đông, khí thế đã nhộn nhịp, lại nghiêm trang.

Chàng đeo kính, cô tóc chấm vai và cô tóc ốp là phân đội nhỏ quyên góp ủng hộ đồng bào vùng bị nạn dưới sự lãnh đạo của văn phòng ủy ban huyện. Chàng đeo kính là phân đội trưởng. Anh là trợ lý thông tin của văn phòng ủy ban huyện, là sinh viên khoa văn, từng được đăng mấy bài thơ nhỏ trên báo chí. Điều này làm cho hai cô gái xinh đẹp đang chờ việc phục sát đất, vui vẻ làm nghĩa vụ dưới sự lánh đạo trực tiếp của anh. Chàng đeo kính cũng vui vẻ kết bạn với hai cô gái đẹp mê hồn. Bạn gái cũ của anh tuy cũng là người tài, tiếc rằng không xinh lắm. Chàng đeo kính cảm thấy dẫn dắt các cô gái xinh đẹp trở nên thông minh dễ hơn dẫn dắt các cô gái thông minh trở nên xinh đẹp. Bởi thế, anh nhiệt tình với hai cô gái.

Chẳng mấy chốc đã xế chiều. Chàng đeo kính bảo hai cô gái sửa soạn thu dọn. Hai cô mở hòm kiểm kê tiền. Bỗng cô tóc chấm vai reo lên “mau lại xem này”. Nói rồi cô đưa tờ giấy cho chàng trai. Chàng trai cầm xem. Thì ra một tờ phiếu gửi tiết kiệm cao 2 vạn tệ. Chủ hộ là “lão Hoàng”. Cả ba ngần người. . Nghĩ mãi cũng không tài nào nhớ ra người nào có cử chỉ đặc bỉệt trong dòng người đến góp tiền.Cá nhân góp hai vạn tệ là chuyện có một không hai trong cả huyện. Chàng kính râm ba chân bốn cẳng phóng thăng về văn phòng báo cáo chủ nhiệm. Chủ nhiệm hăm hở báo ngay lên chủ tịch huyện. Chủ tịch huyện lập tức chỉ thị: “Đi phỏng vấn lão Hoàng, phát thanh biểu dương trong toàn huyện, xem ra tình hình làm ăn kinh tế

huyện nhà khấm khá lên trông thấy”.

Đương nhiên, nhiệm vụ “phỏng vấn” được giao cho chàng đeo kính. Anh vừa là trợ lý thông tin, vừa là người có mặt tại chỗ.Viết bài biếu dương lão Hoàng là nghĩa vụ không thể từ chối, là trách nhiệm không thể gạt cho ai. Vậy là, không để chậm trễ, đá nói là làm, chàng đeo kính dẫn hai cô gái cùng đi.

Hôm sau, đem theo giấy giới thiệu của ủy ban huyện dựa vào đầu mối ghi trên phiếu gửi tiền, ba người đến ngân hàng trước. Sau khi nói rõ đầu đuôi sự việc, họ dễ dàng tìm ra địa chỉ của lão Hoàng ở ngân hàng: thôn

Đông Doanh, phố Đông, thị trấn Thành Ouan. Cô tóc ốp bảo biết nơi đó, ở phía sau tòa nhà gia đình ủy ban huyện. Chàng đeo kính liền giao cho cô tóc ốp dẫn đường, ba người kéo thẳng đến thôn Đông Doanh.

Đầu thôn Đông Doanh có đám đàn bà con gái giặt quần áo đang trò chuyện vui vẻ. Chàng đeo kính vượt lên trước, lễ phép hỏi:

- Thưa các thím, các chị, các em, xin phép cho hỏi nhà đồng chí Lão Hoàng ở đâu?

Trong đám người có một chị béo tốt vui vẻ:

- Cậu khéo mồm khéo miệng lắm, thảo nào còn mang theo hai người đẹp. Thôn này không có ai họ Hoàng.

Chàng đeo kính rất ngạc nhiên. Trong lúc phiền lòng, có một người đứng tuổi vác

cuốc đi đến, nhìn chàng đeo kính, hỏi:

- Anh hỏi thăm Lão Hoàng?

Chàng trai vội đáp:

- Vâng! Tôi hỏi thăm nhà đồng chí Lão Hoàng.

Người đàn ông đứng tuổi rất phân vân:

- Sao Lão Hoàng lại là đồng chí của anh nhỉ? Nhưng anh muốn tìm nhà thì kia.

Nói rồi, giơ tay chỉ, chàng đeo kính nhìn theo, thấy ở mạn nam của thôn có một ngôi nhà nhỏ riêng biệt, tường trắng mái đỏ, cây cốí um tùm, trông cũng xinh đẹp yên tĩnh. Anh cảm ơn người đàn ông đứng tuổi, dẫn hai cô gái đi. Từ sau lưng, chị béo tốt ném theo một câu:

- Lão Hoàng thế nào nhỉ?

Chàng đeo kính quay đầu đáp:

- Lão Hoàng làm việc tốt.

- Cái gì? - Chị béo cười, đứng dậy. - Lão Hoàng biết làm việc tốt à?

Cả đám đàn bà con gái cười hơ hớ, cười ầm ĩ, cười đến múc chàng trai và hai cô gái chẳng hiểu thế nào cả.

Ba người bước vào căn nhà nọ, chàng đeo kính cất tiếng gọi: “Lão Hoàng ơi!“. Chưa dứt lời, không biết từ chỗ nào, bỗng một con chó xộc tới, nhe hàm răng nhọn hoắt xông vào cắn. Cô tóc chấm vai và cô tóc ốp sợ hết hồn, kêu toáng lên. Chàng đeo kính cũng mất vía đứng ngây. Giữa lúc gay cấn, may sao chủ nhà đã ra, huýt một tiếng sáo, con chó thay đổi ngay thái độ, vẫy đuôi mừng ba người khách lạ. Cô tóc chấm vai và cô tóc ốp vừa nhìn, cùng “à” lên một tiếng. Thì ra các cô đã gặp chủ nhà. Hôm qua, lúc quyên góp tiền chủ nhà này cũng có mặt trong dòng người, tuổi đã cao, đội chiếc mũ nan rách tay dắt con chó lấm láp. Lúc ấy, nhìn thấy ông lọ mọ bên chiếc hòm dụng tiền, hai cô gái còn quát: “Đồ ăn mày, ra ngoài kia”. Lẽ nào hai vạn đồng quyên góp lại là ông? Ông kiếm đâu ra ngần ấy tiền. Có tiền sao. Ông ăn mặc như vậy? Bỗng chốc cả ba đớ người.

Chỉ thấy ông già “hầy” một tiếng, con chó theo lệnh vào nhà lôi ra ba cái ghế đẩu, lần lượt đặt cạnh chiếc bàn đá dưới gốc cây trong sân, sau đó lấy đuôi lau bụi trên ghế, rồi giơ một chân trước lên ra vé mời ba người khách ngồi. Chàng đeo kính cảm thấy là lạ. Hai cô gái cảm thấy ngượng ngừng vì hôm qua trót mắng ông già. Ông già hình như vẫn chẳng để tâm tới việc ấy, cười hi hi mời khách ngồi. Cô tóc chấm vai đỏ mặt, thưa:

- Ông ơi! Chỉ tại chúng con có mắt mà chẳng nhận ra Thái Sơn, trưa hôm qua trót gọi ông là đồ ăn mày, mong ông tha lỗi cho chúng con.

Cô tóc ốp cũng bẩm:

- Con cũng xin lỗi ông. Không ngờ ông là hộ chuyên siêu vạn đồng, tư tưởng giác ngộ rất cao.

Ông già cười đáp:

- Không! Không! Không! Tôi đâu có phải là hộ chuyên vạn đồng.

Chàng đeo kính râm nói:

- Ông khiêm tốn quá, hộ chuyên vạn đồng là đại biểu của lực lượng sản xuất ở nông thôn rất vẻ vang đấy.

Ông già trịnh trọng giãi bày:

- Tôi đúng là ông lão độc thân nằm trong 5 đối tượng giúp đỡ của nhà nước. Nếu không được chính quyền cứu tế, cũng sẽ thành kẻ ăn mày thật. Chính sách của Đảng Cộng sản tốt đấy, anh chị em xem, ngoài trợ cấp ăn, mặc, dùng, thôn còn dựng nhà cho tôi, mua cho hẳn một cái tivi. Tôi chẳng phải lo nghĩ, vướng víu gì sất, sống rất tự do thoải mái. Ngồi xuống. Mời ngồi xuống nói chuyện.

Chàng đeo kính, cô tóc chấm vai và cô tóc ốp ngồi vây quanh bàn đá. Chàng đeo kính thắc mắc:

- Thưa ông, ông không phải là hộ chuyên vạn đồng, vậy hai vạn đồng ông góp ủng hộ vùng mắc nạn...

Ông già cười hà hà:

- ồ! Anh hỏi hai vạn đồng ấy ư? Có đấy! Có đấy.

Chàng đeo kính rút giấy bút ra thúc giục:

- Vậy xin ông cho biết những suỵ nghĩ khi góp tiền úng hộ vùng bão lụt. Có phải ông nghĩ đến nhân dân vùng bị nạn là những anh em ruột thịt của chúng ta? Tinh thần hiệp tác cộng sản chủ nghĩa của ông đã được phát huy dưới sự gợi mở động viên của chủ tịch huyện có phải không? Chủ tịch huyện bảo tôi viết bài biểu dương ông trên đài truyền thanh huyện. Xin ông hãy nói lại sự tích tiên tiến của mình, không nên khiêm tốn, không ngại gì cả, bụng nghĩ thế nào ông nói thế.

Ông già véo một điếu thuốc cho vào tẩu châm lửa hút, vừa chậm chạp hút, vừa lạnh lùng nói:

- Tôi chưa được nghe báo cáo động viên của chủ tịch huyện. Giác ngộ của tôi cũng không cao. Chủ tịch huyện có muốn biểu dương thì bảo ông ấy biểu dương con chó.

Không khí trở nên bế tắc. Các lần phỏng vấn trước đây, chưa lần nào chàng đeo kính gặp trường hợp gay cấn như thế này, bỗng chốc anh thấy không biết xoay sở ra sao. Cô tóc chấm vai và cô tóc ốp thấy ông già này bí hiểm quá, tính nết kỳ cục quá, vừa nãy còn trời quang mây tạnh, sao bỗng nhiên sấm chớp đùng đùng? Dù sao chàng đeo kính râm vẫn là sinh viên có nghiền ngẫm sách vở. Anh nhớ có một quyển sách viết: “Mỉm cười là ngôn từ tốt nhất”. Vậy là anh cố mỉm cười, lễ phép nói:

- Thưa ông Hoàng, xin ông bớt giận.

Ông lão ngạc nhiên hỏi:

- Ông lão Hoàng ư? Anh gọi lão Hoàng là ông ư?

Chàng đeo kính tiếp tục mỉm cười đáp:

- Vâng, đúng vậy! Ông không phải là ông Lão Hoàng ư?

Ông già nhăn nhó nói:

- Râu ông nọ cắm cằm bà kia rồi. Lão Hoàng là con chó của tôi, con chó của tôi tên là Lão Hoàng. - Vừa nói, ông vừa gọi ra ngoài: “Lão Hoàng, về đây, con chó này mày tốt số lắm”.

Nghe tiếng gọi, con chó chạy lại sà vào lòng ông già.Vừa vuốt ve con chó, ông vừa khoe:

- Đây là con chó lông vàng mõm đỏ hiếm có. Nó lấm láp vậy mà tính như chó săn. Nó sống với tôi đã hai mươi năm. Tôi già, nó cũng già. Tôi họ Thường, người trong thôn gọi tôi là Lão Thường. Con chó lông vàng, người trong thôn gọi nó là lão Hoàng...

Nghe đến đây, hai cô gái không nín được cười, liếc nhìn chàng đeo kính, hỏi:

- Còn hỏi Lão Hoàng bằng “ông” nữa không nào?

Chàng trai ngượng nghịu lắc đầu, tự giải thoát: Lầm lẫn là chuyện thường phải không nào? Hai cô gái càng nghĩ càng thấy hay, càng nghĩ càng cười không dứt, lây sang cả ông già. Không khí lại trở nên hòa nhập. Nhằm trúng thời điểm, chàng trai lái câu chuyện đi vào chủ đề chính:

- Thưa ông Lão Hoàng ấy chết xin lỗi, thưa ông Lão Thường. Vậy tại sao phiếu gửi tiền, ông lại viết tên Lão Hoàng?

Nghe hỏi vậy, ông lão tỏ vẻ nghiêm túc trang trọng, đứng dậy báo cả ba người:

- Xin anh chị đi theo tôi.

Ba người theo ông già đi vào bếp, thấy một đống hộp giấy đóng gói rất đẹp, sặc sỡ ở góc tường. Ba người lật xem nào là hộp bánh điểm tâm, nào là hộp bánh nướng trung thu, nào là hộp bánh ga tô sinh nhật, toàn loại

“xịn” hoa cả mắt. Chàng đeo kính chẳng hiểu ra sao, những hộp bánh này có liên quan gì tới tấm phiếu gửi tìen tiết kiệm. Cô tóc chấm vai và cô tóc ốp đầu óc giản đơn hơn, cứ xuýt xoa hâm mộ:

- Mức sống của ông cao thế này còn bảo không phải hộ chuyên vạn đồng?

Ông già nhăn nhó cười:

- Nào có phải của tôi, tôi làm gì có diễm phúc được hưởng những thứ sang trọng ấy.

- Thế là thế nào?

- Toàn là những thứ từ nhà tầng gia đình ủy ban huyện vứt xuống, vứt vào đống rác, con vàng lôi về từ các đống rác về cho tôi ăn. Tôi dở ra xem thì đã mốc, biến chất cả. Người xơi chẳng được, tôi cho con vàng ăn. Chỉ

như vậy chẳng kể làm gì. khốn nỗi trong những hộp ấy có cả tiền! Toàn tiền to năm mươi, một trăm đồng, khiến tôi run lên như nằm mê. Đem giả lại người ta? Không biết là ai. Giữ để tiêu ư? Tôi lại không biết tiêu, tiếc không tiêu và cũng không dám tiêu! Kệ xác nó, tiền con vàng tha về, thì cứ gửi với cái tên của nó. Sau này tôi và con vàng chết đi, không ai lĩnh, đương nhiên là của chung. Mấy ngày vừa rồi, xem vô tuyến truyền hình thấy An Huy, Triết Giang bị nạn lụt, đang buồn chưa tìm ra cách nào gửi khoản tiền này đi, thì thấy các anh các chị tổ chức động viên quyên góp trên chợ, tôi đã thay con vàng góp số tiền ấy. Điều tôi nói toàn bộ là việc có thật, tin hay không do các anh các chị.

Nghe ông già nói, hai cô gái luôn mồm xuýt xoa, chàng đeo kính thì suy nghĩ lung lắm. Anh nghĩ bụng con vàng thì chẳng thể nào biểu dương, ông già Thường cũng không thể biểu dương công khai. Bởi vì đóng góp tiền ông già đâu có thăng hoa về tư tưởng, lời lẽ cũng đâu có hùng hồn mạnh mẽ giống như các nhân vật tiên tiến. Vấn đề lúc này không phải là biều dương mà dường như là khiển tráh. Song khiển trách ai? Đồ ăn cao cấp bị mốc, biến chất là do chất lượng sản xuất kém, hay do chủ nhà để quá lâu? Ngay chuyện để quá lâu cũng phải mồ xé ra, do để quên hay ăn chẳng hết? Do chủ nhà mua nhiều quá còn thừa, hay do người ngoài biếu cho quá nhiều? Quà biếu sao đút cả tiền mặt? Do ngấm ngầm học Lôi Phong trợ giúp, hay hối lộ người ta? Nếu là hối lộ thì ké hối lộ là ai? Chủ nhân đổ tiền hối lộ với bánh mốc vào đống rác chứng tỏ chủ nhân không nhận hối lộ. Ngày xưa Dương Tứ “quyên” tiền ngoài đồng, còn bây giờ có kẻ “quyên” tiền trong đống rác: Không thể đánh lộn sòng chuyện này...

Càng suy nghĩ, chàng đeo kính càng mụ mị, bế tắc... Xưa nay anh luôn tự cho mình “đầu óc phát đạt, trí lực cao siêu”, vậy mà lúc này anh cảm thấy thiếu thốn trí thức vô cùng. Anh hàm hồ nói với ông già:

- Thưa lão Thường, tình hình ông cung cấp rất có giá trị tham khảo. Tôi sẽ phải viết về “Lão Hoàng”. Nó sẽ xuất hiện trong thơ ca hoặc tiểu thuyết của tôi.

Đến thăm ông già trở về, chàng kính râm cám thấy vấn đề hóc búa, liền báo cáo toàn bộ tình hình với chủ nhiệm. Nghe xong, chủ nhiệm thở dài liên tục:

- Có chuyện này à? Có chuyện này à?

Chàng kính râm hỏi:

- Có viết bài biểu dương nữa không?

Chủ nhiệm đáp:

- Không viết nữa.

Chàng kính râm lại hỏi:

- Vậy chủ tịch huyện hỏi thì nói thế nào?

Chủ nhiệm đáp:

- Không báo cáo với chủ tịch huyện nữa, mỗi ngày chủ tịch huyện có hàng chục chỉ thị, biết đâu đã quên mất. Chúng mình phải giữ kín chuyện này, không được để loang ra. Loang ra chúng ta chẳng đẹp mặt gì đâu. Gọi chó là “đồng chí", là “ông” người ta sẽ cười cho thối mũi.

Nói xong, chủ nhiệm lại thở dài thườn thượt.

Chàng kính râm im lặng suy tư...

Thằng chó đẻ

            Những chuyện phiền phức do nó gây ra nhiều không kể hết. Mười lăm tuổi nó đã bỏ học theo bạn bè đi bụi cả tuần mới về. Bà bắt đánh đòn nó nhiều lần nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy.

            Những chai rượu Tây với đủ loại nhãn hiệu chưng trong tủ buýp-phê để làm cảnh mà lúc sinh thời ba nó rất quí, vậy mà không biết tự bao giờ, các chai rượu ấy chỉ đựng toàn là nước trà, còn rượu thì nó đã trút ra hết đem đi uống với lũ ôn dịch từ đời nảo đời nao. Gần  hai chục chai rượu kiểng gom lại thành môt bữa nhậu của mấy thằng ranh con hỷ mũi chưa sạch, hỏi không tức làm sao được?

            Làm chủ cửa hàng giày dép lớn nhất nhì thị xã, có biết bao  việc cần nó làm giúp, vậy mà nó chưa bao giờ thèm mó tay vào. Bà thử giao cho nó vài công việc nhưng nó chỉ vừa làm vừa chơi, không chút nhiệt tình. Cuối cùng thì nó nghe theo lời bạn bè đi làm nhân viên tiếp tân cho một nhà hàng-khách sạn. Hỏi thì nó nói “Làm ở đó vui hơn, có bạn có bè, không như ở nhà trông coi giày dép, tối ngày mắt cứ nhìn xuống chân người khác”.

           Bà cũng chỉ mong nó chịu làm việc ổn định để khỏi phải giật thót mình mỗi khi có người đến báo hung tin những chuyện mà nó gây ra.

           Hai mươi bảy tuổi, nó vẫn không chịu lấy vợ dù anh chị nó đã giới thiệu nhiều nơi môn đăng hộ đối, để rồi… đùng một cái, nó dắt về nhà một cô gái, giới thiệu với bà rằng chúng nó đã chung sống với nhau. Con bé trông cũng được người nhưng… Trời ơi, hỏi ra  mới biết con nhỏ đã từng làm tiếp viên quán bia ôm và không chừng là… gái điếm vì ả từng ở trại cải tạo ra.

Trong thời gian con nhỏ đi cải tạo, thằng con bà là người duy nhất thường xuyên thăm nuôi.

           Chuyện động trời như vậy dĩ  nhiên bà kịch liệt phản đối. Vậy là nó ở luôn đâu đó cả tuần không thèm về nhà.

           Cuộc họp  gia đình được triệu tập.

            Khi thằng quí tử được gọi về thì cả nhà đã có mặt đông đủ.

             Mọi người nhìn nó với thái độ lạnh nhạt. Không khí thật nặng nề.

             Cuối cùng chị hai nó -vốn là giáo viên cấp III- cũng mở lời rằng gia đình không thể chấp nhận cho nó lấy một người vợ có cái lý lịch không được sạch sẽ như vậy.

             Nó nghếch mặt  hỏi : “Thế nào là sạch sẽ ?”

 Vậy là nổ ra tranh cãi.

Một mình nó đối chọi với tất cả.

 Nó nó rằng quá khứ của người yêu nó là do hoàn cảnh. Rằng chúng nó đã quen nhau năm sáu năm, ngày mà Hạnh -Tên cô gái- còn là cô bé giúp việc trong nhà một người bạn để kiếm tiền gửi về quê nuôi mẹ già ở một xã vùng sâu.

            Chỉ đến khi mẹ cô ta bị bệnh suy thận cấp, phải chuyển lên Sài Gòn, cô ấy mới xin nghỉ việc lên trên ấy bán bia ôm để có đủ tiền chữa bệnh cho mẹ. những ngày này nó cũng vào bệnh viện thăm  vài lần. Hạnh bị bắt trong một đợt truy quét và mẹ cô ta đã phải chết nửa tháng sau đó, do không có tiền mua thuốc và chạy thận lọc máu.

            Chính nó đã tìm đủ cách chứng minh cho Hạnh và bảo lãnh cô ấy ra, rồi giới thiệu vào làm nhân viên phục vụ nhà hàng chung với nó. kết quả là chúng  đã yêu nhau.

             Không khí như trầm lại, mọi người có vẻ đắn đo nghĩ ngợi…

Có một nghề cũ rích cả ngàn năm, thời nào cũng có. Thời nào cũng muốn dẹp bỏ mà chưa ai làm được bởi cái luật cung cầu : Mại dâm.

Nhiều người lên án và cũng có  người cảm thông cho những cánh hoa chìm nổi. Bà Sáu cũng đã từng rơi nước mắt trước thân phận nàng Kiều của cụ Tiên Điền… Nhưng Kiều phải ở đâu xa xa kìa, còn đằng này nó lại rước “Kiều” đem về ở ngay trong nhà thì hỏi làm sao bà có thể chịu đựng được? Danh giá gia đình sẽ bị một tay thằng con này vùi dập. Ôi, một dòng dõi nho gia…

 Không! Không thể như vây được.

Bà Sáu dằn mạnh chiếc ly xuống bàn nghe “cộp” một tiếng khiến nước văng tung tóe, nói rành mạch từng lời:

       -Không - thể - được!

Hít vào một hơi bà nói tiếp:

        -Mày phải dứt khoát với nó, bằng không thì cứ dắt nhau đi đâu thật xa đừng cho tao thấy mặt. Coi như tao không có đứa con như mày. Tao không muốn gia đình này chịu nhục nhã với thiên hạ.

     Nói xong bà thở hắt ra.

Nó buồn rầu đưa mắt cầu cứu sang các anh chị, nhưng tất cả đều lảng đi nơi khác. Nó biết là đã hết hy vọng.

         Ngồi gục đầu một lúc, từ từ móc trong túi áo tờ giấy, nó vuốt lại cho phẳng phiu rồi đặt lên bàn – ngay trước mặt má nó- Rồi đứng dậy thẫn thờ bước xuống thang lầu .Mọi người giương mắt nhìn bản phô tô tờ giấy đăng ký kết hôn đã được chứng nhận trước đó mấy ngày đang dần dần thắm nước ướt sũng trên mặt bàn.Thì ra nó đã chọn sẵn cho mình một con đường.

         Đôi mắt bà Sáu mở trừng trừng nhìn theo dáng thằng con vừa khuất. Từ đôi mắt ấy rịn ra  giọt nước, môi bà run run rồi bỗng bật lên tiếng gào kéo dài đến khản cổ:

   -Thằng   ch…óóó…  đẻ!

   Lần đầu tiên người ta nghe bà chửi.

                                               ---------------oOo---------------

Bà Sáu thò tay bóc củ sâm đất từ chiếc hộp giấy đưa lên ngắm nghía. Củ sâm đã bị mốc meo theo thời gian. Bốn năm rồi còn gì !  Bà không thèm lau chùi để khi nó về sẽ biết rằng bà không hề đụng tới. Không phải vì những củ sâm của nó kém giá trị hơn sâm Triều Tiên của thằng rể thứ tư cho bà, mà vì bà muốn giữ y như vậy  để mọi người biết rằng bà không tha thứ cho nó. Đã không tha thứ , thì quà của nó dĩ nhiên bà không sử dụng.

Những củ sâm đất rẻ tiền ấy được một người quen mang về cho bà bốn năm trước. Người ấy nói rằng tình cờ gặp vợ chồng nó ở Tây Nguyên. Nó gửi về để bà trị bệnh nhức mỏi. Bà cũng muốn hỏi thăm  vợ chồng nó trong hai năm ấy đã làm được những gì  nhưng rồi lại thôi. Trước mặt đứa con gái thứ năm bà không muốn tỏ ra mình quan tâm tới thằng con bất hiếu.

Hừ! Nói đi là đi. Mày lớn gan như vậy thì tao cũng coi như mày đã chết. Nó đã chấp nhận ra đi với hai bàn tay trắng để xây dựng “địa ngục”với con nhỏ đó, bỏ luôn quyền thừa tự và quan trọng hơn- bỏ luôn bà ! Trong lòng nó đã không còn người mẹ này thì gửi mấy thứ đó chỉ làm bà thêm tức mà thôi. Bà nói với người đưa sâm:

-Nhờ ông nói lại với nó giùm, tôi không cần đến sự quan tâm của nó.Tôi đã coi như không có nó trên đời này từ lâu rồi.

Bà quẳng bọc sâm lên đầu tủ, cả năm trời không ngó ngàng tới.

Đã bốn năm rồi . Những củ sâm đã mốc meo theo thời gian. Cũng có nghĩa là vợ chồng nó đã rời bỏ xứ sở sáu năm mà không một lần quay lại. Có lẽ người mang đến cho bà những củ sâm ngày ấy đã cho nó biết thái độ lạnh nhạt của bà, nên từ ấy đến nay nó không còn gởi về cho bà chút quà cáp nào nữa hết, kể cả lời thăm hỏi.

Hôm nọ có người cho bà biết đã từng gặp vợ chồng nó ở Campuchia, thuê nhà mở quán cà phê coi bộ cũng khấm khá. Vợ chồng nó đã có với nhau một đứa con trai.Trước đó mấy năm hai đứa sống rất khổ, chồng làm cửu vạn, vợ mang bụng bầu đội bánh cam đi bán ở biên giới Tây Ninh – Campuchia. Bà nghe mà lòng thấy xót xa lẫn chút hả hê. Cho nó biết cãi lời bà thì nó sẽ khổ như vậy đó! Cá không ăn muối cá ươn mà…

Con nhỏ coi vậy mà cũng giỏi ha ! Đội bánh cam bán ? Có bầu bì mà không biết giữ gìn rủi có bề gì thì sao?

Bà Sáu nhớ lại hình ảnh của Hạnh lúc thằng út Chiến dắt về nhà. Trông thấy vẻ sợ sệt của nó mà  tội nghiệp….Nghĩ cho cùng nó cũng đâu có dễ ghét? Chỉ tại cái nghề… (mà cũng chỉ vì mẹ nó bệnh thôi mà !...Nếu mình bị bệnh như vậy không biết trong đàn con có đứa nào dám hy sinh…!? ).

Những đứa con của bà, ngoài thằng út Chiến ra, đứa nào cũng biết vâng lời, đứa nào cũng do bà dựng vợ gả chồng, bảo ưng là ưng, không một ai dám cãi , chỉ có nó…Có lần bà với nó xem phim “Những người khốn khổ”  trên tivi. Bộ phim dựa  theo tiểu thuyết cùng tên của  văn hào Victor Hugo, bà hỏi nó thích nhân vật nào trong phim nhất? Nó nói thích … thanh tra Jave. Thích ai không thích, lại thích cái thằng cha mặt sắt cuồng tín đó? Nó nói dù Jave bị nhiều người ghét nhưng đó không phải là người xấu, thậm chí trong mắt nó Jave chính là người tốt. Đời này khó gặp.

Bây giờ nhớ lại, nếu lúc đó bà hỏi nó còn thích ai nữa không? Chắc nó sẽ trả lời : PhăngTin.

                                                                          *

Bà Sáu bệnh liệt giường đã năm ngày nay, chắc là không qua khỏi. Bà không thèm ăn uống gì cả, lại không chịu đi bệnh viện. Bác sĩ phải đến tận nhà vô nước biển cho bà. Tiệm giày đóng cửa. Những đứa con thay phiên nhau túc trực quanh giường.

Lúc gần đây bà có vẻ buồn và thường ngồi hàng giờ suy tư nghĩ ngợi. Có lẽ bà buồn từ cái hôm làm lễ mừng thọ thất tuần cho bà xong thì đám con của bà đề nghị bán nhà. Chúng muốn bán bởi chúng cũng giống như bà : xem như thằng Chiến đã chết.

- Ngôi nhà trị giá hàng tỉ , nếu chia ra mỗi đứa cũng được vài trăm triệu, vì thế không đứa nào muốn giữ lại dù đó là nơi chúng sinh ra và lớn lên. Đã năm ngày nay bà nằm thiêm thiếp. Thỉnh thoảng hơi hé đôi mắt mệt mỏi nhìn lên trần nhà rồi lại thở dài và thiếp đi. Không biết ai cho hay mà vợ chồng con cái thằng út Chiến cũng lục tục kéo về. Về đến nhà rồi, lại không dám lên lầu vì anh chị  ngăn cản sợ bà gặp nó sẽ bị “sốc”mà “đi” luôn. Nó đành ngồi dưới nhà ngó lên mà lòng thắt thỏm không yên.

   Bà tỉnh lại và hỏi:

-

       

Nó về chưa

      Chị giúp việc nhanh nhảu:

-

Dạ thưa bà về rồi!

   -   Gọi lên đây !

Đám anh chị nó nín thở nhìn vợ nó bồng đứa con líu ríu theo sau lưng chồng, mặt cúi gầm.

Nó để vợ  đứng đó, một mình tiến lại gần ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh giường, hai tay nắm lấy tay bà khẻ gọi: Má ơi !

Bà hé mắt  nhìn hồi lâu rồi…từ từ ngồi dậy. Nó hốt hoảng đưa tay đở lấy lưng bà sợ hãi.

Đưa mắt nhìn sang vợ nó và đứa cháu nội bà khẻ gật gù rồi quay sang nó, mếu máo bật lên câu chửi:

Thằng chó đẻ…sao hai đứa bây không đi luôn đi !

Rồi ôm chầm lấy nó khóc nấc lên như đứa trẻ thơ.

Thì ra bà chưa hề bị bệnh.

rước nhà có một cây sung

 Dành dụm mãi rồi Phát cũng mua được một miếng đất nho nhỏ, xây một ngôi nhà be bé trong một khu phố khuất. Ngày khánh thành, cha Phát ở quê ra. Ông mang theo một cây sung nếp cao ngang đầu người. Nó được chiết ra từ cây sung cổ thụ trong vườn và được cha Phát chăm bẵm một thời gian. 

Cây sung cổ thụ các cụ để lại. Tách ra một nhánh trồng ở đây là để tiếp nối cội nguồn, quan lộc sung mãn, ăn nên làm ra. Ông cụ răn như thế. Rồi ông tự tay mình nhổ phắt cây bằng lăng nhỏ công ty môi trường trồng trong cái bồn trên vỉa hè trước nhà và thế cây sung vào đó. Nó lớn nhanh quá, mới đó mà đã cao tới ban công tầng hai, phủ bóng rười rượi. Những chùm quả lúc lỉu, tròn lốc bám đầy thân cây.

Rồi một ngày, có ngôi nhà mới mọc lên ngay cạnh nhà Phát. Một phòng khám phụ khoa tư nhân được thành lập với mươi người cả bác sĩ, cả y tá. Đèn sáng chủ yếu chiều và đêm. Con phố vắng thoạt nhiên náo nhiệt. Có hôm xe xếp kín lòng đường, tràn sang núp bóng cây sung. Khách hàng cũng đủ loại, đủ nguyện vọng xung quanh chuyện sinh nở. Họ đến. Hỏi han nhau. Rồi lại gầm gè, to tiếng với nhau chuyện đến sớm, khám muộn.

Người trong xóm xì xầm tán chuyện. Họ nháy nhỉ nhau rằng ban đêm trên cây sung có nhiều tiếng động sột soạt lạ lắm. Rồi họ kể chuyện có cây sung ở bệnh viện Từ Dũ cũng xanh tốt một cách bất thường như cây sung này. Người ta không thể nào chặt được cành của cái cây ấy, bởi cứ trèo lên là gặp tai nạn không nặng thì nhẹ. Cho đến một ngày nhà ngoại cảm đến và khẳng định cây sung ấy từ lâu đã thành nơi trú ngụ của những bào nhi. Trong khi đó thì cây sung của Phát lại đang nằm cạnh một phòng khám phụ sản...

Người đến khám ngày càng đông. Có nhiều hơn những chiếc xe đắt tiền chở những thằng đàn ông đứng tuổi đi kèm những con bé mặt non choẹt lui tới. Họ vào trong im lặng + lo lắng. Rồi trở ra trong im lặng + đau đớn. Thế là đám buôn chuyện lại xôn xao, rì rầm quay về đề tài cây sung nhà Phát. Những câu chuyện huyễn hoặc được dệt lên để đến nỗi ban đêm trẻ con trong phố chẳng dám ra đường một mình.

Vợ Phát bàn:

- Hay vợ chồng mình bảo người đến đào cây sung ấy đi, rồi trồng cây phượng, cây bằng lăng gì đó cho nó lành. Hàng xóm cứ gần xa nhiếc nhủ làm em thấy khó ở lắm.

Nhưng anh gạt đi:

- Vớ vẩn! Chỉ được cái giỏi tưởng tượng. Tôi đố ai dám chặt cây của cha ông tôi để lại, bố tôi trực tiếp trồng đấy. Mà anh nói cho em biết, anh có cảm tưởng từ ngày có cây sung ấy, con đường sự nghiệp của anh có biểu hiện đi lên. Em xem năm ngoái còn nhân viên quèn mà một bước lên ngay trưởng phòng, không đi qua cấp phó. Tiền tài cũng ở đấy mà ra. Chặt cây rồi là đi xuống, là chết đói. Nghe chửa?

- Gớm nữa! Thăng quan, phát tài là do trồng cây sung thì thiên hạ ối thằng nó đi ươm giống bán để thành tỉ phú - Vợ Phát lầm bầm - Không phải ông ngoại đã từng làm sếp ở cơ quan anh thì,...

- Cô…! Phát rít lên khi nghe thấy những lời tự phụ của vợ. Nhưng tiếng “cô” chỉ sin sít nơi kẽ răng và bờ môi trong mà chưa kịp bật ra ngoài. Anh nghĩ đến ông bố vợ mình vốn là lãnh đạo tỉnh, người trước khi đột ngột về trời do bạo bệnh đã dọn đường kĩ càng cho anh con rể hoạn lộ hanh thông. Sống mũi anh cay lộng lên, hai hàm răng cắn nghiến vào nhau, người khẽ rung giây lát.

*

*    *

Phát gieo mình vào chiếc ghế trưởng phòng bóng nhẫy, êm ái. Chiếc ghế này được anh cất công ra Hà Nội mua cho người tiền nhiệm từ mấy tháng trước, loại hàng da cao cấp nhất, thậm chí có cả chức năng mát xa khi cắm nguồn điện vào. Thế mà lúc ấy, thấy giá đắt quá, anh đã đắn đo xem nó so với lão trưởng phòng ốm nhách, bất tài của mình có cân xứng hay không.

Cộc… cộc...

Tiếng gõ cửa chầm chậm, rụt rè. Suy ra ba loại đối tượng: hoặc cấp dưới thuộc quyền, hoặc người dưới huyện lên xin xỏ, hoặc doanh nghiệp đến nhờ cậy. Phát ngồi thẳng người, tay đưa lên nắm quả táo nơi yết hầu lúc lắc mấy cái, rặn đẩy ra một thứ giọng uy nghiêm, lạnh lạnh:

- Mời vào!

Thằng Thắng bước vào với hai bàn tay đan ngón vào nhau đặt kiểu cách bên trên bụng dưới:

- Thưa lãnh đạo, tôi báo cáo anh lịch làm việc sáng nay có chút thay đổi. Kế hoạch làm việc với Quỹ đầu tư Sapo hoãn sang buổi chiều mai vì lãnh đạo ủy ban bận tiếp khách bộ cả ngày. Buổi tối mai, Chủ tịch Quỹ đầu tư mời dùng bữa mừng tân trưởng, phó phòng ta tại nhà hàng Hà Phong.

- Ừ, biết rồi! Mà này, mày bỏ kiểu xưng hô quan cách ấy đi. Người khác thì khách khí chứ tao với mày là bạn bè, suồng sã một chút không sao cả.

- Ấy… trưởng phòng sao lại nói thế? Ngày trước khác. Bây giờ tôi làm phó cho anh, việc gì nó cũng phải có trên, có dưới mới quy củ.

Rồi nó đi ra. Thằng này đúng là rất thông hiểu phép tắc. Mà cũng phải thôi, bố nó làm sếp to như thế ở chính cái ủy ban tỉnh này, kiểu gì chẳng di truyền cho con mình những thứ cần thiết để tồn tại trong vòng quay chức tước. Nhìn Thắng bây giờ, anh không hình dung nổi nó từng là bạn học cùng lớp, ngủ chung một cặp giường tầng trong ký túc xá trường đại học, lười học vô địch và cứ đến kỳ thi là cậy cục các thầy mà vẫn môn trượt, môn qua. Trong cuộc luân chuyển vừa rồi, khi Phát được bổ nhiệm trưởng phòng thì từ dưới huyện, nó cũng được điều lên làm cấp phó. Cuộc đời lòng vòng thật!

Thì đấy, ông Chủ tịch Quỹ đầu tư Sapo cũng chẳng phải ai xa lạ, chính là Giáo sư Vương Tiến, thầy cũ của hai thằng. Phát từng nhận rất nhiều ân huệ của Giáo sư Tiến trong những năm tháng nhọc nhằn theo sự học. Ông đã giúp đỡ tận tình để một cậu sinh viên nhà quê nghèo rớt như Phát tốt nghiệp thủ khoa của nhà trường. 

Bẵng đi chục năm, giáo sư đại học đã bỏ nghề, làm chủ một doanh nghiệp tư nhân làm ăn phát đạt, đồng thời đại diện cho một quỹ đầu tư mạnh của nước ngoài. Kể từ khi bắt đầu triển khai dự án đến nay, Phát đã gặp ông vài lần. Nhưng phần vì lúc ấy là nhân viên, công việc trực tiếp không liên quan đến lĩnh vực đầu tư của thầy cũ, phần vì mấy lần nhớ ơn thầy muốn tiếp xúc lại thấy ông cứ nhàn nhạt nên không cảm thấy thân tình như xưa.

Bây giờ thì với vị trí mới, hẳn nhiên Phát là người thay mặt lãnh đạo ủy ban phụ trách công việc triển khai dự án với bao kỳ vọng sẽ đánh thức tiềm năng du lịch còn đang ngủ yên của tỉnh miền biển này. Chẳng thế mà có lời mời trang trọng từ Chủ tịch Quỹ đầu tư Sapo tối nay.

Cơ quan của Phát có hai cô sinh viên thực tập ngành hành chính. Con gái đương thì tươi nguyên, căng tràn mơn mởn. Nga: người mạn ngược ào ạt, nồng nàn, phơi mở. Mai: gái miền trong dong dỏng cao, thanh tú, trắng trẻo, e ấp, nhẹ nhàng. Hai cô sinh viên thực tập này vẫn giúp Phát những công việc hành chính hàng ngày ở cơ quan. Trong bữa cơm chiều nay, Thắng xin phép anh rồi chở cả hai cô đến nhà hàng Hà Phong tiếp khách cho nó sang. Mặc dầu thấy nó thế nào ấy, nhưng cuối cùng anh vẫn chiều lòng thằng bạn cấp phó nhiệt tình.        

Giáo sư Tiến đón Phát vồn vã. “Giới thiệu với các vị đây là học trò xuất sắc của tôi, nay đã là một trưởng phòng trẻ tuổi đầy triển vọng, một cán bộ nguồn của tỉnh. Thầy tự hào về em lắm. Giúp đỡ thầy nhiều hơn trong việc triển khai dự án nhé!”. Mang theo nét mặt hồ hởi, ánh mắt hấp háy, nụ cười làm giãn nở hai gò má bụ mỡ hồn hậu, giáo sư Tiến dắt Phát đi một vòng qua các bàn tiệc bằng bàn tay âm lạnh nắm hờ trên cổ tay anh.

Bữa tiệc thật xôm tụ. Thực khách rặt tai to, mặt lớn, rổn rảng cười nói đúng kiểu có tiền. Trừ giáo sư Tiến, bên cạnh mỗi vị đều có một giai nhân long lanh lụa là, lòe nhòe son phấn. Mai e lệ, nhút nhát, váy dài trắng kín cổ, vốn Phát rất có cảm tình, đã được Thắng bố trí ngồi bên cạnh anh. Còn hắn tay lúc nào cũng vòng qua lưng xiết nhẹ eo Nga. Cô này đêm nay trông càng phổng phao, linh hoạt; váy ngắn khoét cổ lộ nửa ngực căng mẩy; miệng nhoen nhoẻn cười đong đưa, lúng liếng.

Tiệc tan. Phát hứa sẽ giúp đỡ tận tình thầy cũ để việc triển khai dự án của Quỹ đầu tư Sapo được suôn sẻ. Rượu nặng uống nhiều làm anh thấy nôn nao, chếnh choáng. Thắng lái xe. Cô sinh viên vùng sơn cước tên Nga ngồi ghế phụ. Trên ghế sau, Mai nem nép vào vai Phát, phả vào mũi cái vị thiếu nữ thanh tân thơm gây làm anh nổi da gà. 

Chiếc xe bồng bềnh đi vào một khách sạn nhỏ. Rồi quá nửa đêm, khi giọt nước trong veo nơi khóe mắt người con gái từ từ lăn xuống tấm ga trải giường nhàu nhĩ như gột sạch những nhơ nháp bám trên nó, Phát thấy lòng mình chùng thẳm trong nỗi ân hận xen lẫn xa xót.

Rạng sáng Phát mới mò về nhà. Đợi Phát sẽ là một cuộc chiến tranh câm lạnh không biết đến ngày kết của cô vợ vốn sẵn máu ghen tuông cuồng quáng. Và kia, một thằng mặt non choẹt trong khi đứng chờ bạn gái nó, hồn nhiên xả amoniac vào cây sung nếp rồi luống cuống kéo loẹt roẹt khuy quần, lẩn qua phòng khám phụ sản còn leo lét ánh đèn. Bỏ lại cho chủ nhà một cây sung lặng thinh, tối hoẳm dưới lòng trời tạnh gió.

*

*    *

Khi Mai kết thúc đợt thực tập, Phát giới thiệu cô với giáo sư Tiến. Ông thầy cũ khảng khái nhận hướng dẫn cô làm khóa luận tốt nghiệp và cho đến thử việc tại tập đoàn. Thằng Thắng cũng đã nhờ bố nó thu xếp một việc làm cho Nga.  Đấy vốn là hợp đồng miệng giữa Thắng với hai cô gái để có cái đêm trong khách sạn. Hối hận. Phát tìm mọi cách tránh mặt Mai, mặc dù vẫn đến làm việc thường xuyên với Quỹ đầu tư của Giáo sư Tiến .

Phát đã giúp đỡ tích cực cho Quỹ đầu tư Sapo trong việc giải phóng nhanh mặt bằng tạo điều kiện triển khai dự án vượt tiến độ. Cám cái ơn ấy, Giáo sư Tiến đã không ít lần ngỏ ý muốn chuyển vào tài khoản của anh một khoản phụ phí kha khá. Phát kiên quyết chối từ và coi đó như là một sự trả nghĩa. Thế là ông bảo nhân viên của mình trong một lần đến đón anh xuống công trường lén xem gia đình còn thiếu thứ gì, rồi lẳng lặng cho người mua sắm đầy đủ, toàn đồ hàng hiệu đắt tiền, chở đầy một ô tô tải. 

Về giữa lúc người ta khuân vác khệ nệ vào nhà trong ánh mắt hân hoan của vợ, Phát còn kịp nghe một bà lắm mồm nhất xóm xổ ra một câu mát mẻ:

- Lộc lá nhiều thế thảo nào cả xóm đề nghị chặt cây đi mà không chặt. Nhưng rồi các bà xem, lộc âm của bọn hồn ma trẻ nít lang thang rồi cũng chẳng bền đâu.

Thở dài ngao ngán, Phát đưa mắt lên tán sung đang lào xào gió như buông một nụ cười nhạo.

Mấy tháng sau, Giáo sư Tiến gọi điện cho Phát đến thăm nơi ở của ông. Căn biệt thự vườn nằm trong một resort 5 sao. Hai người nằm dài trên sân thượng tầng hai, bên bờ một cái hồ bơi nhỏ, nhìn ra một khoảng không chống chếnh gió biển ra vào.

- Em có biết vì sao thầy bỏ nghề không? Mà nghỉ, nghỉ hẳn không đòi hỏi một chế độ nào hết. Đó là vì một điều tưởng như đã quá lạc hậu trong thế kỷ 21 này. Một đứa con trai nối dõi dòng tộc! Đất quê thầy quan niệm khủng khiếp quá! Anh có làm đến ông trời mà không có được điều đó thì vẫn ngồi chiếu dưới, không một ai tôn trọng, kể cả thằng con nít trong làng. Thầy có thể đánh đổi chức vụ hiệu trưởng trường đại học có thể được nhận trong tương lai không xa mà vẫn cảm thấy có lời là vì thế.

- Vậy ra, cô nhà mình đã…

- Đã cái con khỉ! Cậu này đúng là vẫn ngây ngô thật. Mãn kinh rồi, đẻ đái gì nữa. Là cái cô Mai đấy! Cô ta là người do em giới thiệu. Thầy áy náy quá! Vì thế mới mời em tới đây.

Phát bàng hoàng:

- Mai à? Cô ấy… với thầy?

- Ừ! Thật xấu hổ! Cô ta khiến thầy thấy quý mến ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tình cảm ban đầu chỉ như cha con, chú cháu. Phải nói là cô ấy đẹp. Mỏng manh, thánh thiện quá chừng. Rồi thì… thầy cũng không hiểu nổi vì sao những ham muốn trỗi dậy dễ dàng thế. Mai đã mang thai được hơn hai tháng rồi. Nếu siêu âm đúng là con trai, thầy sẽ dành cho cô ấy cơ ngơi và sự nghiệp đàng hoàng ở đây. Và cô ấy… cũng có thể đi lấy chồng nếu muốn.

- Cô nhà và hai em gái có đồng ý với thầy không?

- Thầy tin là sẽ phải đồng ý khi đứa bé chào đời. Em nên nhớ, phụ nữ tuy ích kỷ nhưng trước khi quyết định điều gì luôn biết tính toán thiệt hơn.

Phát ngồi ngây như tượng giây lát. Không thành kiến ông giáo sư khả kính vì chính anh đang mong chờ đứa con đã thành hình 2 tháng nay trong bụng vợ sẽ là một cậu ấm sau khi đã có đứa con gái đầu tiên. Cũng không trách được cô sinh viên ngây thơ, trong trắng ngày nào đã thoắt trở nên thực dụng bởi ai mà chẳng bị cuốn vào cuộc mưu sinh nhục nhằn, vô luân trong thế giới hiện đại. Nhưng vẫn thấy hụt hẫng một chút, mất mát một chút. 

Thêm vài ly rượu nữa. Phát thấy đầu nằng nặng nên xin phép ra về. Đỗ xe ghếch lên vỉa hè như mọi khi, anh loay hoay luồn tay vào trong mở khóa cửa. Bất chợt cảm giác có người lén đến phía sau. Không phải một mà là nhiều người. Những ánh mắt chiếu lên gáy gai gai, nhừa nhựa, ướt lạnh. Rùng mình. Quay phắt lại.

Đường phố vắng tanh. Những chùm sung lắc lẻ trên cành.

*

*     *

Giáo sư Tiến đột tử!

Tin dữ sáng sớm giật Phát ra khỏi giấc ngủ. Anh lật đật chạy đến khu biệt thự mà ông đang tá túc. Người dọn phòng mặt tái mét kể lại cho mọi người nghe chuyện sáng nay cô ta vào phòng và thấy ông ngã sấp bên hồ bơi, với một bên là chiếc ly rượu vỡ. 

Người của tỉnh, của tổng công ty do ông làm chủ tịch hội đồng quản trị, của Quỹ đầu tư Sapo do ông làm Giám đốc xúm xít xung quanh cái xác được kéo garo trắng phủ kín đầu, xôn xao bàn luận. Rồi bà vợ và hai cô con gái từ Hà Nội cũng ào về đem theo tiếng gào khóc xé ruột. Phát đau đớn quay mặt đi. Trong lòng dâng lên nỗi ân hận vì đêm qua đã để Giáo sư uống rượu quá nhiều.

Hai ngày theo đám tang của Giáo sư Tiến dưới Hà Nội làm Phát mệt rũ rượi. Anh chưa về nhà vội mà ghé qua cơ quan thu xếp những công việc còn dang dở. Chồng tài liệu về việc triển khai dự án của Quỹ đầu tư Sapo được dẹp lại. Sau đám tang, vợ của Giáo sư Tiến, người sẽ tiếp quản công việc của chồng đã nói sẽ rút lại các dự án đầu tư vì không muốn quay lại nơi chứng kiến sự ra đi của chồng bà. 

Vậy đấy! Công việc đầu tiên sau khi nhậm chức trưởng phòng mà cấp trên tin tưởng giao phó thế là đi tong một cách lãng nhãng không ai ngờ. Phát còn gánh thêm một phần lo lắng. Khi mọi người vĩnh biệt Giáo sư Tiến lần cuối ngoài nghĩa địa, thằng Thắng không biết vô tình hay cố ý đã phọt ra một câu khấn trước đông đảo quan khách làm anh lạnh gáy:

- Thầy ơi! Đêm trước khi thầy qua đời, ngoài cậu Phát được gặp và uống với thầy vài chén còn thì chẳng có ai…

Phát thấy nhoi nhói ở tiền đình. Đứng dậy với cái áo định ra về thì chuông điện thoại reo lên. Bảo vệ cơ quan báo có một người khách đến tìm. Là Mai! Gặp lại sau hơn ba tháng kể từ khi kết thúc thực tập và sang thử việc tại Quỹ đầu tư Sapo, cô ôm choàng lấy vai anh, nức nở:

- Anh ơi! Em đợi mãi mà anh mới về. Ở đây em chỉ quen anh. Vả lại, chỉ có anh là người anh Vương Tiến tin tưởng trong thành phố này. Anh cứu em với! Cái thai trong bụng em giờ biết tính sao?

Phát hoảng sợ nhìn ra hành lang rồi đóng nhanh cửa lại.

- Em bình tĩnh xem nào! Tôi cũng mới chỉ biết việc của em đêm trước ngày Giáo sư qua đời. Ông ấy có hứa hẹn gì bằng giấy tờ với em không?

- Không ạ! Ông ấy nói yêu em và sẽ dành cho em một cuộc sống tốt đẹp sau khi đứa bé được sinh ra. 

Đôi vai gầy của cô gái đang rung lên bần bật. Gò ngực mở một nửa đập nhịp nhè nhẹ vào tay áo làm Phát sởn gai ốc. Quạt treo tường thổi táp vào người cô khiến cái váy hai dây mỏng ngắn màu ô liu bám mềm oặt trên thân người. Phát rùng mình nghĩ đến cái đêm mà chiếc váy dài trắng thánh thiện từ từ rớt khỏi cơ thể run rẩy thơm gây mùi thiếu nữ. Và nữa, giọt nước mắt trong veo, lấp lánh sáng dẫu phòng khuya ánh đèn ngủ mù mờ. 

Hôm sau, Phát tranh thủ đi xuống Hà Nội vào nhà Giáo sư Tiến đem theo niềm hy vọng về việc vợ của giáo sư sẽ vì đại cục, giữ lấy giọt máu đào nối nghiệp cho chồng mình. Chẳng dè, sau khi nghe anh kể lại sự việc, bà chủ mới của Quỹ đầu tư Sapo nổi cơn điên. 

Bà ta đã không những lu loa trước linh vị ông chồng về một gã học trò ăn cháo đá bát, bịa đặt chuyện tày trời mà còn khẳng định sẽ điều tra làm rõ đêm hôm trước Phát vì mục đích gì đã chuốc cho giáo sư uống say để đến mức cảm lạnh mà chết. Rồi ba mẹ con họ xua đuổi anh ra khỏi biệt thự như một thứ uế tạp.

Lầm lũi quay về. Anh bảo vợ rút hết 20 triệu từ thẻ ATM tiết kiệm, tiền để dành chờ sinh đứa thứ hai, nói là để giải quyết công việc gấp của cơ quan. Mang đến chỗ Mai, đưa cho cô ta rồi bảo:

- Người ta kiên quyết không thừa nhận cái thai trong bụng em đâu. Cầm số tiền này mà về quê đi. Tôi chỉ giúp em được thế. Đẻ được thì đẻ. Còn phải bỏ thì thôi… cũng đành bỏ vậy.

Cô gái bỗng quỳ mọp. Nước mắt giọt giọt khoan lên thềm đá hoa:

- Em làm sao có thể về quê với cái bụng thế này hả anh? Cắn cỏ lạy anh mang em đi bỏ nó. Em là sinh viên còn chưa tốt nghiệp, hai mươi mốt tuổi đầu, đã đi đến đâu đâu mà biết chỗ. Đội ơn anh ngàn lần!

Phát thoáng nghĩ đến cái phòng khám ngay cạnh nhà nhưng nhanh chóng gạt đi. Đưa cô ta về đấy thì sẽ gây hiểu lầm lớn, nhiều chuyện dầy dà khác sẽ kéo theo. Xe chạy khắp thành phố, cuối cùng cũng tìm được một phòng khám tư nhân nằm sâu trong một con hẻm, cách xa trung tâm. Anh vào làm thủ tục cho cô gái, chờ xong việc, rồi đưa cô về nhà trọ. Anh bảo Mai cố ăn uống, tẩm bổ mấy ngày cho khỏe lại, quên những chuyện cũ rồi về quê lập nghiệp. Chua xót quá! Một đứa bé trai đã không thể thành người! Nhưng dầu sao, Phát cũng thấy mình đã trả được phần nào món nợ ân tình với Giáo sư Tiến. Cũng đỡ day dứt với việc mình làm trong đêm say rượu đi hoang.

*

*     *

Hai ngày sau đó Phát đã được mời lên phòng họp của cơ quan. Anh bước vào mà hoa mắt choáng váng khi trong phòng có đầy đủ người của các ban bệ dưới sự chủ trì của vị lãnh đạo, chính là ông bố của Thắng. Trên mặt bàn bày la liệt những bức ảnh chụp anh và Mai trong buổi đi giải quyết cái thai và một lá đơn tố cáo. Rồi một loạt các câu chất vấn được đưa ra. Phát đến biệt thự của Giáo sư Tiến thuê trọ đêm trước khi ông mất làm gì? Mối quan hệ tay ba giữa Giáo sư, cô gái tên Mai và Phát có gì ẩn khuất? Đứa con vừa giải quyết có phải là kết quả cuộc tình vụng trộm giữa anh và cô gái hay không? 

Tai Phát u u những lời chắc nịch, rành rọt quy chụp. Anh đứng dậy, kể vắn tắt đầu đuôi sự việc rồi nói:

- Tôi có thể chứng minh cho các đồng chí thấy tôi hoàn toàn trong sạch. Xin các đồng chí cho tôi thời gian đến sáng mai, tôi sẽ mời cô gái ấy tới nói rõ sự việc.

Ông sếp lớn - bố Thắng - không nói gì, chỉ khẽ gục gặc cái đầu. Người ở cơ quan tổ chức cán bộ liếc nhìn ông ta rồi đứng lên phát biểu:

- Tôi xin đề nghị các đồng chí cùng ghi nhận đồng chí Phát là người trước nay luôn tận tụy với công việc, chỉn chu trong cuộc sống nên hãy tạo điều kiện cho đồng chí ấy làm rõ những khúc mắc. Và vì thế, tôi đề nghị cho đồng chí Phát tạm thời không phải đến cơ quan làm việc để phối hợp với các bộ phận liên quan làm rõ sự vụ này. Trong khi chờ đồng chí Phát quay về điều hành công việc cơ quan, ngành tổ chức cán bộ của tôi đề xuất đồng chí Thắng - phó phòng tạm thời phụ trách.

Không ai có thêm ý kiến gì khác và buổi họp kết thúc. Phát rời khỏi cơ quan trong trạng thái mọi thứ đều sụp đổ. Làm ở đây nhiều năm, anh hiểu rằng: Được vạ thì má đã sưng. Những người ở trong hoàn cảnh như anh dù có chứng minh được sự trong sạch cũng khó có thể tiến bộ hơn nữa trong công tác. Đó là sự khắc nghiệt của chốn quan trường.

Phát lao xe như ma đuổi đến nơi Mai đang ở trọ. Ngôi nhà nhỏ mà Giáo sư Tiến trước đây thuê cho Mai đã đóng kín cửa. Bà chủ cho biết cô gái đã thanh toán tiền nhà và thu dọn đi từ trước đó một hôm. Liêng biêng hồi lâu trong trạng thái vô thức. Phát cố níu hy vọng mong manh bằng việc gọi vào số di động của Mai. Và dội vào tai là tiếng trả lời tự động của tổng đài, thật dịu dàng mà buốt óc.

Chiếc xe đi như mộng du trên con đường về nhà. Nhưng chủ nhân của nó thoạt nhiên cực kỳ tỉnh táo. Phát ráp nối lại sự việc và nhận ra rằng tất cả đều là nghệ thuật sắp đặt của cậu bạn thân cấp phó, nay đang thay anh phụ trách phòng. Cả cô Mai e lệ, dịu dàng ấy nữa, chẳng phải chính Thắng đã đẩy vào vòng tay của anh trong đêm ấy hay sao?

Trời đã tối sầm sì. Phòng khám cạnh nhà đã thưa vắng khách. Không như mọi khi, hôm nay cửa được khóa từ bên ngoài. Vợ con đi đâu vắng. Phát vừa mở khóa, vừa thấy lòng mình càng thêm lo lắng. Trong nhà thiếu ánh đèn, mọi thứ đều xam xám, tai tái u mê. Anh vồ lấy mấy tờ giấy để trên bàn uống nước trong phòng khách, nơi có những con chữ nhảy múa như ma ám.

Bên trên là một hóa đơn thanh toán tiền viện phí kẹp cùng với Phiếu kết quả siêu âm thai trước phẫu thuật. Đó là những thứ mà Phát sơ ý để quên ở túi quần, được vợ lấy ra khi giặt giũ. Dòng chữ in đậm trên tờ kết quả siêu âm mà hôm đó vì vội vàng không kịp đọc, nay đập vào mắt Phát tạo ra một dòng lạnh buốt chạy dọc sống lưng cắn nhói vào đỉnh đầu: “Thai nhi mười lăm tuần tuổi, dự kiến ngày sinh…”. Hai hàm răng Phát lập cập va vào nhau như bị ma làm:

- Mười lăm tuần. Hơn ba tháng. Trời ơi! Không thể là con của Giáo sư!

Bên dưới là những dòng chữ đổ xiên xẹo của vợ Phát:

“Anh Phát! Tôi thật không ngờ anh là con người như vậy. Chiều nay, anh Thắng vào tìm anh ra giải quyết việc cơ quan đã kể phần nào, mà tôi cũng không tin. Tôi phải ra tận nơi để nghe người cùng phòng anh chứng thực. Tôi không thể hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra trong con người đạo mạo thường ngày của anh nữa. Anh có thể lăng nhăng bên ngoài, có thể để lại hậu quả, nhưng ngay cả người tình của thầy mình mà anh cũng không tha thì thật là quá thể. Tôi không muốn các con mình có một ông bố như thế. Tôi đem con lớn vào Nam với mẹ và anh cả của tôi. Còn cái thai trong bụng, anh nghĩ tôi có thể giữ nó vì một con người tồi tệ như anh hay không?”.

Trần nhà xoay tít. Những bức tường như muốn đổ sập vào người. Tức ngực. Nghẹn thở. Phát gieo mình xuống đi văng. Ngoài cửa, bệnh nhân cuối cùng của phòng khám phụ sản tư nhân rời đi bằng những bước chân trà sát ken két xuống mặt đường. Người vợ trạc tứ tuần, tay ôm bụng, tay đỡ lưng, rít lên qua kẽ răng:

- Gọi taxi nhanh lên đi. Đang đau chết mẹ đây. Đêm hôm ấy đã bảo chịu khó chạy ra phố mua ít bao về dùng thì lười chảy thây ra. Để giờ bà khổ thế này.

Chiếc taxi đã lao đi mà tiếng rên rít ấy vẫn rơi lại lạnh, đanh. Phát bất giác nhìn ra cây sung trên vỉa hè trước nhà. Những chùm quả tròn lốc, chen chúc nhau. Những cành cây rung rinh ma quái như rên rỉ, như cười cợt trong con gió hoang lả lướt ghé qua hè phố. Dưới ánh đèn cao áp vàng ệch, những cành lá khẳng khiu soi bóng xuống đường, hắt vào khung cửa mở của nhà Phát như những cánh tay ma vươn dài ra thít chặt lấy cổ anh. Không chịu nổi nữa rồi! Anh vào bếp lấy con dao lớn nhất, lao như điên ra ngoài vỉa hè, dùng hết sức bình sinh chặt hùng hục. Tiếng dao chát chúa giữa phố vắng. Những quả sung rụng rào rào lăn tròn lênh láng ra đường như những cái sọ chưa hoàn chỉnh của các bào nhi…   

Nguyên soái

 Con trâu đực ấy của ông Chánh Mười. To, khỏe và dữ. Đất này gọi trâu trắng bằng cái tên kì khôi: trâu “cò”! Ờ, mà kể cũng có lí; con trâu ấy gặm cỏ đồng xa, nhìn cứ trăng trắng, lêu nghêu giống hệt một… con cò; loại cò biết nói vẫn thường được nghe kể trong cổ tích! Thêm nữa, con trâu cò ấy còn mang phẩm hàm… Nguyên Soái; tức thị nó có chức đầu đàn, cai quản gần năm mươi quân trâu - gồm cả già, trẻ, bé, choai - trong chuồng nhà ông Chánh. Tiếng rằng thác sinh vào cửa nhà cự phú; nhưng đàn trâu ông Chánh (thì cũng giống như cháu con và kẻ ăn người ở!) không phải được nuôi để… chơi nhông! Trâu nào việc nấy. Nghé con thì hay ăn chóng lớn. Trâu cái lo đẻ đái kiêm thêm cày bừa ruộng cạn. Trâu đực thì lặn lội mà đi “giải quyết” các chân ruộng sình, ruộng trũng đồng xa. Tối tối lại còn phải ôm thêm trách nhiệm an ninh. Quên nói; làng Tổng Đạo nằm kề chân núi Bé, nổi tiếng nhiều cọp. Người gần như sống chung với cọp! Được cái, cọp bận chuyện cọp, người lo chuyện người, ai đi đường nấy, không làm phiền nhau. Nghe bảo: tự thuở mới lập làng, các cụ kị tiền hiền đã cùng chúa sơn lâm ra giao ước bất thành văn. Một giao ước có lại có đi; theo kiểu: anh không đụng tôi thì tôi cũng không phạm đến anh. Từ ấy về sau, con cháu truyền đời cứ y khẩu lệnh của tiền nhân mà thực thi: vào rừng săn gì thì săn; nhưng cấm có rớ tới cọp. Thi thoảng, có chúa sơn lâm nào lớ ngớ dạo chơi lộn tiệm xuống làng cũng chỉ bị đuổi xua bằng chậu thau, thùng thiếc và tiếng hò la; chứ không bao giờ phải lo chuyện dính bẫy, dính lao hay ăn phải bả! Bù lại, lũ cọp cũng “chơi đẹp”: bắt gì thì bắt, quyết không đụng tới người làng Tổng Đạo. Nghe đâu vài mươi năm trước, làng Tổng Đạo có xảy ra một tai nạn hi hữu: người bị… cọp vồ! Thôi rồi! Chúa sơn lâm muốn… xé hiệp ước chăng? Cả làng Tổng Đạo xôn xao; gậy gộc, dao mác sắp sẵn; đèn chong sáng đất thâu đêm; quyết lòng cho một cuộc tử chiến! Mờ sáng hôm sau, trương tuần ra mở cổng làng sớm, phát hiện cái xác hổ bị cắn, bị tát, bị cào be bét. Đó chính là con cọp thọt, thủ phạm vụ tấn công người làng Tổng Đạo! Cả làng kéo nhau ra thập mục sở thị; mắt ai nấy thiếu điều lồi ra vì kinh hãi! Còn kinh hơn nữa khi một thời gian sau mới biết ra: con cọp thọt ấy vốn từ phương xa mò đến, không mang hộ khẩu thường trú khu núi Bé như ban đầu dân làng đã tưởng lầm!

          Máu trả Máu, Mạng đền Mạng; chuyện ngộ nhận đã được các Chúa Sơn Lâm núi Bé xử sòng phẳng, không ai nợ ai theo đúng luật… giang hồ. còn chuyện xem mạng người to hơn mạng cọp thì - đấy thuộc quan điểm riêng của dòng giống 2 chân, họ nhà cọp không biết và cũng không thèm biết!

Thỏa thuận vậy là vẫn còn nguyên giá trị. Nhưng cái hiệp ước bất tương xâm ấy chỉ có hiệu lực cho giống cọp và giống người; còn giữa cọp và các loài gia súc được nuôi (trong đó có trâu) thì đương nhiên… không có thỏa thuận! Vậy nên heo, chó, ngựa , bò… dân làng phải lo chuồng cao hào sâu mà bảo vệ; sểnh ra thì mất ráng chịu, cấm không được càm ràm ông cọp! Riêng về lũ trâu, người Tổng Đạo nghĩ ra một giải pháp khôn ngoan hơn: không chuồng trại kiên cố chi cho tốn kém mất công, người làng nuôi chúng theo kiểu… nửa hoang; tức gần như thả rông, cho chúng phát triển bản năng phòng vệ tự nhiên để đối phó cùng lũ cọp! Hiệu quả ra phết. Giống trâu, tập tính vốn quen sống đàn, có con đầu đàn coi giữ. Ngày đi ăn theo đàn. Đêm xuống, bao giờ chủ cũng chọn nơi trảng trống mà quây. Theo bản năng, đàn trâu luôn dồn lũ nghé con vào giữa. Tiếp đến là trâu cái, trâu già. Ngoài cùng mới đến lũ trâu tráng đinh đang thời sung mãn, sừng chông tua tủa, nhọn hoắt dao găm.. Đụng vào cái rừng gươm một lòng đoàn kết giơ cao quyết tử kia, đương nhiên ông cọp nào cũng phải chờn mặt – chưa kể đến trâu đầu đàn thủ lĩnh, một mình thừa sức cùng cọp nghênh chiến “pặc co” (tay đôi). Ấy là nói lệ chung; chứ còn riêng với đàn trâu nhà ông Chánh thì – con cọp đủ sức quần tay đôi với Ông-Trâu-Cò-Nguyên-Soái đến nay vẫn… chửa chào đời! Nghe kể, có lần họ hàng nhà Kễnh rủ rê đến hai “ông ba mươi” xúm đón đường quần thảo, hòng toan lấy mạng con trâu cò tiếng tăm cho bỏ ghét. Quần suốt từ đầu hôm đến tảng sáng, mệt phờ mà chẳng ăn thua. Rốt cuộc một trong hai còn bị ăn thêm nhát sừng xính vính, suýt chút lòi ruột, vừa bò vừa lết mới chạy thoát về rừng…

                                                          *

          Anh cu Lía vốn gốc người ngụ cư, tức thị trong bản khai lí lịch trích ngang của anh (nếu mà anh có lí lịch trích ngang) làng Tổng Đạo chỉ được xem là trú quán!

          Ấy vậy, nhưng đừng tưởng anh không nổi tiếng. Sự nổi tiếng của anh e rằng không kém cạnh gì con trâu cò Nguyên Soái! Mà cũng phải. Anh có duyên nợ cùng nó, gắn bó cùng nó bằng những cái giống nhau hết sức kì cục. Một kiếp người và một kiếp trâu luôn đồng hành cùng nhau như hình với bóng. Trước khi anh cu Lía vào làm công cho ông Chánh Mười, con trâu cò Nguyên Soái là một kẻ côn đồ, một tên thảo khấu bất trị. Nó đã từng húc thủng bụng, vỡ sừng con trâu đầu đàn tiền nhiệm để tiếm vị khi nó mới tròn tuổi thanh niên. Các tay thợ vực trâu (huấn luyện cho trâu tơ quen và biết làm việc) được kêu đến đều co cẳng chạy dài. Vô phương! Ông Chánh chán quá, tính đường bán hoặc mổ thịt. Bán ư? Đừng hòng! Không kẻ lạ nào dám cầm dây mà dắt nó. Đến ông chủ nó cũng từ chối nốt khi phát hiện ra ý đồ bàn giao nó cho”ngoại bang”. Vậy chỉ còn cách… xẻ thịt cho yên. Thú thật, nhìn con trâu cò Nguyên Soái tướng mạo phi phàm ai cũng… đứt ruột, tiếc ngẩn tiếc ngơ. Nhưng cái món đẹp mà không xài được – tự cổ chí kim – luôn là… đồ bỏ! Vậy thì con Nguyên soái phải chết! Chí ít, cũng xem như (đời nó) được một lần có ích! Lại còn trừ được mối nguy nó dở thói côn đồ gây ra tai họa! Hợp lí quá xá! Ờ, đúng là hợp lí. Vậy nhưng, cả đám đông đều chuẩn bị… quay mặt đi, không ai muốn chứng kiến phút cuối cùng…

Đúng lúc lửa bỏng dầu sôi cho Ngài Nguyên Soái trâu cò thì anh cu Lía xuất hiện!

-Thịt con “Quyên Sái” á? Ui chu cha; phan đã… - anh cu Lía nổi kêu giật -…để tui hỏi ý nó coi…

Tưởng nói chơi; không dè anh xăm xăm tiến thẳng lại chỗ buộc trâu. Còn cách mấy bước chân, anh cu Lía đột ngột dừng. Nguyên Soái trâu cò miệng dãi trắng bọt mép, gườm gườm nhìn anh bằng đôi mắt vằn tia máu dọc ngang, chẳng có tí gì thân thiện.

-Ê ê, đững, chú mày! Có gì thủng thẳng hẵng nói! Làm gì gớm…

Mắt nhìn chăm chăm mắt trâu, anh cu Lía bắt đầu chầm chậm bước tới. Và – khi khán giả kịp định thần -  đã thấy anh kê miệng vào tai trâu lầm thầm gì đó rất khẽ. Con Nguyên Soái gõ gõ móng, ngọ nguậy đầu sốt ruột; nhưng đã bớt vẻ hằn học. Chờ cho khán giả thấm đòn xong pha diễn ấn tượng, anh cu Lía đột ngột quay lại, một tay choàng cổ trâu, hướng mắt về phía bàn dân (có cả ông Chánh Mười), tuyên bố tỉnh bơ:

-Ngài “Quyên Sái” hổng đồng ý… để da! Ngài thưa ông Chánh thư thư ít bữa đặng cho ngài cải tà qui chánh…

Đám đông bật cười ha ha sắp lượt. có vị cười mà như mếu, mặt còn xanh chàm đổ. Ông Chánh Mười cũng bật cười góp. Cười xong, ông nghiêm giọng hết sức… hài hước:

-Ờ, thiệt dzẫy thì ông đay cũng chẳng hẹp hòi gì mà hổng… chửn (chuẩn) tấu! Còn thằng Lía, mày nghe cho rõ: nay ông bổ cho mày làm chức… “Bật Ngưu Ôn” mà quản “Quyên Sái”, nghe chưa? Làm sao làm, Ngài mà hông “qui chánh” nổi là ông… thịt luôn cả mày!

Đám đông lại cùng nhau ha ha thêm lần nữa. Và, thú thật, vừa dứt xong cái lần ha ha “rờ vợt” ấy, tự nhiên ai cũng nhẹ lòng…

*

Cái chức “Bật Ngưu Ôn” của anh cu Lía coi vậy mà cũng chẳng dễ nuốt. Kể ra, Nguyên Soái trâu cò cũng có thiện chí hợp tác; nhưng ấy chỉ là trong khâu chăn chận. Còn huấn luyện cho Nguyên Soái vào khuôn vào phép chuyện cày bừa  quả là gian nan! Dỗ dành, mắc được ách vào vai Nguyên Soái đã gay go. Vậy mà lúc ra roi, đến đầu bờ, Nguyên Soái… giả điếc, không thèm để ý đến hiệu lệnh ví, thá (rẽ phải, rẽ trái) của anh cu, cứ lùi lũi một đường bươn thẳng! Dở, rinh cái bắp cày nặng trịch thì theo không kịp nó; còn bỏ mặc? cái náp (chốt) cày nào giỏi lắm cũng chỉ chịu nổi qua 2 bờ ruộng; đến bờ thứ 3 là… gãy rắc. Hễ nghe răng rắc đằng sau là Nguyên Soái ta “ò” lên một tiếng khoái trá, dừng lại, đủng đỉnh tìm nơi gặm cỏ. Giờ thì trông cu cậu hiền lành, dễ bảo đến… sôi gan!

Cha cha! Cứ chơi vầy… chơi sao bền, chú em? Anh cu Lía lẩm bẩm, thở ra. Anh lẳng lặng về kêu thợ rèn đánh cái náp sắt. Lựa lấy cái bắp cày to nhất trong kho nông cụ nhà ông Chánh, anh lại đưa Nguyên Soái ra đồng. Quen ăn bén mùi, Nguyên Soái cứ giở trò… giả điếc, bươn thẳng như mọi khi. Lập tức anh cu Lía tay trái ấn cán, đè cho găm lút lưỡi cày xuống đất, tay phải vung lên, vút cho Nguyên Soái trâu cò một roi mây oằn lưng. Nguyên Soái lồng lên toan phi nước đại. Cái lưỡi cày đại găm sâu gần nửa mét - trâu thường chắc có con phải… bó phép - mà Nguyên Soái kéo đi băng băng. Mỗi lúc qua bờ, anh cu Lía không thèm nhấc bắp cày mà còn chủ động ấn mạnh tay thêm. Rào rạo. Bùng bục. Từng đoạn bờ ruộng lần lượt bị xới tung, tênh hênh màu đất nâu khô khốc, rắn câng. Cái náp sắt quả là được việc. Gọng cày, bắp cày chuyển răng rắc, nhưng không hề hấn! Một. Hai. Ba. Rồi bốn…. Giá Nguyên Soái trâu cò được học đếm, hẳn nó phải biết rằng: trước khi chịu xuống thang, chịu đầu hàng anh cu Lía mà cải tà qui chánh, nó đã cày tung hết… hai mươi cái bờ ruộng như thế. Và nếu tinh ranh hơn (hay may mắn hơn) một chút, nó cũng có thể biết thêm rằng: cái bắp cày ấy, chỉ cần lôi thêm qua bờ ruộng thứ 21 là… đứt bóng; tức chỉ còn nước đem đun bếp. Còn anh cu Lía? Cũng chẳng tài ba hơn cái bắp cày là mấy. Anh đổ phịch xuống ngay trước cái bờ ruộng thứ 21, nơi con Nguyên Soái chào thua mà hồng hộc thở. Mà thều thào lẩm bẩm: Mày nghen… “Quyên Sái”, mày… mày đúng là… con quỷ; hổng phải người; ý quên, hổng phải trâu…

*

Hành trình qui y chánh đạo của Nguyên Soái trâu cò xem như mĩ mãn thành công. Cả trâu, cả anh cu Lía đều không còn ai phải lo bị thịt. Hơn thế, ông Chánh Mười còn cho anh cu Lía chính thức nhậm chức (Bật Ngưu Ôn!), cơm ngày 3 bữa thẳng bụng, công xá mỗi năm mười đồng bạc cắc và hai bộ đồ! Ai không hiểu, hẳn sẽ cho đây là hiện tượng bóc lột dân cày của địa chủ phú nông cần phải tiến hành đấu tranh giai cấp mà tái lập công bằng. Nhưng, nói của đáng tội, anh cu Lía lại không hề mảy may có ý định ấy. Hơn nữa, anh còn… mừng húm! Với anh, ấy là một sự biệt đãi. Không phải ở chỗ mười cắc bạc và hai bộ đồ. Ấy là chuyện nhỏ. Chuyện được ngày… 3 bữa cơm thẳng bụng lớn hơn. Đó là vì anh cu Lía ăn to. Người thường, ngày ăn cân gạo đã bái xái; còn anh cu, ngày 3 cân anh đủ khả năng diệt gọn không dư! Ăn nhiều gấp 3, tất nhiên anh làm cũng khỏe gấp 3. Thì còn phải hỏi; không thế, làm sao anh trị nổi Nguyên Soái trâu cò! Ngày chưa đầu quân cho ông Chánh Mười, không ai dám thuê anh làm công dài hạn bởi anh ăn quá hao. Việc nhiều còn đỡ; chứ việc ít mà thuê anh thì loạng quạng có khi… lỗ tiền cơm! Vậy là lịch trình làm thuê của anh cu cứ bữa đực bữa cái, được chăng hay chớ. Ngày nào có việc thì tạm lưng lửng. Không có: phải nhào ra bàu, ra sông mà moi củ súng, củ môn – hay hái rau dại ăn qua bữa – chờ đến lúc có việc làm. Chả trách tại sao trong vốn từ lận lưng của anh cu Lía, “ăn” là một mĩ từ mà nhan sắc phải cỡ ngang ngang… Hằng Nga hoặc Tây Thi! Chu cha! Hai năm rõ mười, ta đã biết vì sao anh cu Lía  mừng húm khi được ông Chánh Mười thuê. Còn về phần ông Chánh Mười, nói nhỏ nghe, ông cũng… mừng húm khi thuê được anh cu Lía! Thằng Lía mà vào tay ông đúng là cái chum vàng bắt được. Nhà ông Chánh công việc lủ khủ, làm quanh năm chẳng hết. Vả chăng, ông Chánh tính kĩ lắm: nội cái mối lợi sanh ra từ việc quản nổi con trâu cò đã đủ nuôi cơm đến… 10 thằng Lía khỏe re! Còn chuyện nhà cửa, đồng áng, vườn tược kia; sức vóc ấy thì làm gì chẳng chạy; thật đúng là khi không tóm trúng nhằm một con bò mộng… hai chân!

Ấy là ông Chánh tưởng thế. Và chúng ta cũng tưởng thế. Còn anh cu Lía? Có “tưởng” gì thêm thì chắc chỉ mình anh biết. Hay may ra giờ có thêm Nguyên Soái trâu cò biết. Phải, Nguyên Soái trâu cò giờ thân thiết với anh cu như hình với bóng. Mà bảo “giờ thân thiết” xem ra cũng không chắc. Hình như cái cặp cộng dồn sáu chân ấy đã thân nhau đâu từ… kiếp trước, chẳng phải đợi đến giờ…

*

Cô Hoa, con gái út ông Chánh Mười, nay có thêm một nghĩa vụ phải gánh gồng: ngày ngày băng đồng, mang cơm cho anh cu Lía!

Xem ra, cô chẳng buồn phiền chi về chuyện ấy, bởi cô rất thích con trâu cò. Ngày chưa có anh cu Lía vào làm, cả nhà chỉ độc mình cô là thi thoảng sờ được đến nó. Ấy là vì cô chăn nó từ hồi còn trâu nghé. Ngài Nguyên Soái trâu cò vốn trí nhớ không tệ (và cũng không phải phường vong ân bội nghĩa) nên – khi không có gì phải cảnh giác – vẫn hạ cố cho cô chủ nhỏ sờ mó, bắt rận, gãi đầu. Ngày cha cô chuẩn bị thịt con trâu cò, cô bỏ cơm, khóc hết nước mắt. Anh Lía đã cứu nó (và cứu cả cô) một bàn thua trông thấy. Vậy nên giờ này cô mang ơn anh cu Lía lắm lắm. Bảo làm… gì nữa cô còn làm được, kể sá gì cái chuyện mang cơm! Nói tóm lại, chẳng phải không buồn phiền thôi đâu, cô Hoa còn ưa thích cái chuyện được trưa trưa quảy gióng gánh ra đồng! Có điều, ít ai biết rằng: trong cái gánh ấy, ngoài khẩu phần qui định dành cho anh cu Lía, thi thoảng còn có những món đặc biệt ngoài danh mục mà cô Hoa lén xoay xở cho anh. Về phần anh cu Lía, anh có cảm động ít nhiều chi về tấm thịnh tình của cô Hoa không, chuyện ấy chỉ Ngài Nguyên Soái trâu cò mới đủ tư cách pháp nhân (quên, pháp… ngưu!) mà… bình luận. Thế nhưng, Ngài vốn ghét bép xép nên mọi sự đến giờ vẫn cứ mơ mơ, hồ hồ trong vòng nghi vấn! Có điều, sự thân mật giữa cô chủ với người làm công là có thật. Thi thoảng, thấy họ cùng cưỡi lên lưng Nguyên Soái trâu cò, cho phi nước kiệu trên đồng mà cười vang…

Cung cách gần gũi… khó hiểu giữa cô con gái rượu cùng anh người ở “Bật Ngưu Ôn” rồi cũng đến tai ông Chánh Mười. Ngoài mặt làm ra vẻ thản nhiên, kì thực bên trong ông Chánh đang lo thắt ruột. Đang trai tơ, gái lứa; cứ lửa gần rơm thế này có khi… cháy nhà như bỡn! Thực ra, giải quyết chuyện này cũng chẳng phải quá khó. Giá đó là thằng Mít, thằng Ổi, thằng Xoài… - hay một thằng cha căng chú kiết nào đó trong số người làm công - ông Chánh sẽ không ngần ngại… đuổi phắt! nhưng đây lại là anh cu Lía. Ông Chánh không đời nào chịu mất anh cu Lía. Mà ông cũng lại không muốn mất danh dự; hay nói khác hơn, ông Chánh không muốn mất thứ gì trong các thứ ông đang sở hữu! Liệu chúng… “có gì” chưa nhỉ? Nếu mà chưa, cứ cấm cửa con bé, sai người khác mang cơm là yên chuyện. Tuy nhiên, khả năng này xem ra quá không tưởng. Đậm nhạt sơ kĩ gì chưa biết; nhưng chắc là có. Đã thế, cấm cửa chúng có khi lại thành chuyện đánh rắn động cỏ, liệng chuột vỡ đồ. Không xong! Mưu mẹo, thâm trầm như ông Chánh Mười mà nghĩ đến mướt mồ hôi mấy đêm liền vẫn chưa ra đối sách khả thi. Đúng ra thì cũng có một đối sách; nhưng xử trí vội vàng thế này e không phải là thượng sách. Ông Chánh cứ đắn đo mãi…

Nhưng tình thế cấp bách buộc ông không còn thời gian chọn lựa. Thà hạ sách còn khá hơn bê bối! Ông Chánh bí mật cho mời bà mối Thái lại nhà…

Chiều hôm ấy, sau khi vui đùa chán ngoài đồng cùng thầy trò Ngài Nguyên Soái, cô Hoa quảy gióng gánh về nhà đã thấy chễm chệ trên bàn thờ đôi mâm quả sơn son và cặp rượu Ngũ Gia Bì. Hỏi, mẹ cô tủm tỉm: Của cụ Lý làng bên đi chạm ngõ…. Cho ai? Cha mầy! còn cho ai nữa? Chẳng lẽ cho… tao??? Hiểu ra cơ sự, cô Hoa òa khóc: Sao cha mẹ hổng hỏi ý con mà lại…. Ông Chánh trợn mắt: Im miệng! “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”! Chuyện người lớn hứa hẹn nhau, tao lại phải đi “hỏi ý”cái thứ mày à???

…Đó là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi, ông Chánh Mười trút bỏ cái lốt chững chàng, mềm mỏng thường ngày để hiện hình trọn vẹn uy phong sát khí đằng đằng của một vị chủ gia, một ông Chánh tổng!

                                                *

Nếu có ai hỏi: vì đâu chuyện xưa lắc xưa lơ mà tôi lại biết rành rọt thế? Xin thưa: ấy là do tôi nghe bà nội tôi kể. Bà nội tôi rõ chuyện vanh vách, và lại kể rất chi tiết, rất hình ảnh – y như bà là người trong cuộc! Bà kể:

…Đêm trước ngày cưới của cô Hoa và con trai cụ Lý, nhà ngoài đang rậm rịch cỗ bàn, bánh trái chờ mai tiếp họ, đưa dâu thì buồng trong cô Hoa… biến mất! Cả nhà ông Chánh như ong vỡ tổ, nháo đi tìm. Chỗ mà ông Chánh nghi ngờ đầu tiên là… bãi thả trâu của anh cu Lía! Làm gì có? Anh cu Lía đang tòn teng trên võng, ngáy như sấm; cạnh đó, con Nguyên Soái đứng doãi chân chèo, lừ lừ cảnh giác với toán người vũ trang đèn đuốc, gậy gộc không mời mà đến trong đêm. Nghe cô Hoa mất tích, anh cũng cuống cuồng, đòi được tháp tùng đi kiếm cô Hoa! Ông Chánh thở phào, nhẹ nợ. Xem ra, nó không biết gì thật! Ông bảo anh ở lại trông trâu, kẻo đêm hôm không có anh, con Nguyên Soái lại dở trò bậy bạ chi thì khốn! Cuộc truy quét tiếp tục đến sáng thì phát hiện nơi bờ sông, gần vực Đá Cối có đôi guốc gỗ sơn đen còn mới. Thôi rồi, lại có kẻ tế Long Vương mùa lụt! Vực Đá Cối, đá bàn từ chân núi de ra, từ đáy nước nhô lên, ôm tròn mặt sông như chiếc cối. Nước từ thượng nguồn đổ xuống bị đá chắn ngang hung hãn dội ngược, xoay tròn, hút sâu xuống đáy “cối”. Sâu bao nhiêu? Không ai biết; bởi đơn giản, ngoài lũ rái cá, chưa từng có ai dám lặn xuống vực Đá Cối. Chỗ ấy là mồ táng lí tưởng cho những ai phẫn chí, quyết tâm trốn đời dứt khoát. “Ùm” phát là xong – biết bơi cũng bình đẳng như không – đừng ai mong trở lên và cũng đừng ai mong tìm được xác!

…Nhác trông đôi guốc, ông Chánh sững người, mặt bệch như sáp; còn bà Chánh thì ngã ra, ngất lịm…

Tang chế cô Hoa được mươi ngày, cu Lía hớt hải băng đồng về gặp ông Chánh Mười xin thôi việc. Anh bảo: đêm nào cũng mơ thấy cô Hoa… về tìm anh, người nhợt nhạt, ướt sũng! Kể lại chuyện, mặt anh còn đầy vẻ khiếp đảm. Ông Chánh ngọt nhạt dỗ dành, hứa tăng lương lậu đủ kiểu mà vẫn không thuyết phục nổi. Ông buồn bực phẩy tay, chán ngán: Thôi kệ, tùy mầy…

Ông quên, không nhớ đến chuyện Nguyên Soái trâu cò. Quả đúng y lời lũ độc miệng từng ghen tức chuyện ông vớ được anh cu Lía chum vàng; không có anh cu Lía cầm cương, chỉ mươi hôm sau là con Nguyên Soái trời đánh đã… phục hồi nguyên xi cái tính côn đồ bất trị!

Làng Tổng Đạo lần nữa lại rộn lên vì những án tích của Ngài Nguyên Soái. Mà còn trầm trọng hơn trước; bởi rõ ràng Ngài đang trong tâm trạng hết sức bất ổn. Người bảo Ngài nhớ anh cu Lía. Người lại cho Ngài bị ám bởi… cô Hoa! Kể thì những chuyện già non trên cũng không phải hoàn toàn vô căn. Nhưng giờ có đoán trúng cũng như không, bởi hai năm rõ mười, Ngài Nguyên Soái trâu cò đang có nguy cơ trượt dài theo vết xe đổ cũ. Cú trượt mà – ngày trước - chỉ anh cu Lía mới đủ khả năng đỡ cho Ngài một bàn thua trông thấy ngay tại… sân nhà!

Ấy vậy nhưng, nếu tin vào tử vi, hẳn người ta sẽ phải kết luận: Ngài Nguyên soái trâu cò sinh ra dưới một ngôi sao chiếu mệnh… không tồi! Ờ, thì cứu tinh (tức anh cu Lía) ra đi đã đành; nhưng cũng không còn một ông Chánh Mười căn cơ, tính toán chi li trước khi kí án tử hình Nguyên Soái trâu cò ba năm về trước! Ông Chánh giờ tối ngày lu bù chè rượu, chả còn thiết chi đến chuyện cửa nhà, chuyện làng nước. Nghe người chăn báo tin con trâu cò lại sinh quậy phá, ông Chánh lè nhè bảo phắt: Th… thả nó ra! Th… thả lên núi cho c… cọp nó tha! Ô… ông mày đang nh… nhậu; đừng làm r… rộn!

Gì thì gì, thả lên núi vẫn còn cơ may hơn… tùng xẻo! Vả chăng, oai dũng như Ngài-Nguyên-Soái-trâu-cò mà phải… vô xoong, chết nơi miệng muôn người thì thật chẳng ra sao! Hỡi ơi, như một định mệnh, Cây đinh cuối cùng trong câu chuyện này rồi cũng ra đi. Không ai còn thấy tăm hơi con Nguyên Soái lẫy lừng từ dạo ấy. Người bảo nó bị cọp ăn. Người nói nó sang vùng rừng bên, thống lĩnh một đàn trâu rừng đông đến mươi con. Thi thoảng, người đi lấy củi vào sâu vẫn còn bắt gặp…

*

-…Toàn chuyện bịa! - bà tôi khẳng định.

-Bịa chuyện gì hở bà?

-Chuyện con Nguyên Soái ấy! Nó không bị cọp ăn; cũng không theo trâu rừng…

-Sao bà biết?

-Thì nó đi… theo bà, làm sao bà không biết? Ông bà nuôi nó tới già, tới chết…

-Sao nó lại chịu theo… bà?

-Vì bà là… là… con gái cụ Chánh! – bà bật cười, móm mém.

-Vậy còn ông? A, cháu đoán ra rồi! Ông chính là… anh cu Lía!

-Hừ hừ, cái thằng… hỗn quá! Dám kêu tên cúng cơm của ông nội à…

….

-Vậy ra… cụ cố nội hổng có mất gì ráo!

-Đúng phóc! Cụ lìa đời có đủ con gái, con rể vây quanh mà nghe trối trăn, vuốt mắt. Đưa tang cụ, còn có cả con trâu cò…

Lẽ đời (Đắc Hoa)

 Như vậy, hắn cũng chẳng thoát được nơi này.Cái nơi mà những người nông dân quê mùa thường gọi nôm na là”nơi nghỉ mát”,những kẻ có tí kiến thức ở chốn thị thành thì lại gọi”nhà đá”,còn những người lương thiện,đứng đắn thì gọi đúng theo tên cúng cơm của nó”nhà tù”.

Giám đốc Tư Hoàng đi nghỉ mát,ở nhà đá hoặc ngồi nhà tù đúng vào ngày 1 tháng 5,ngày mà những lao động tiến bộ trên toàn thế giới hân hoan vui mừng.

Phải chăng đây là một sự trùng lặp ngẫu nhiên,hoặc là sự cố tình xếp đặt của đấng vô hình nào đó? Lúc này đầu óc của Tư Hoàng quay cuồng, quay cuồng…

Tháng 5 ở miền Trung, ngoài trời, nhiệt độ có lúc lên đến 35,37C. Mấy hôm rồi Tư Hoàng muốn phát điên lên được. Nhưng rồi, mọi việc đâu cũng vào đấy. Đến nước này, hắn cũng chẳng cần úp mở làm gì . Những thủ đoạn lãnh đạo lừa lọc, làm ăn gian trá, dối trên, lừa dưới.Những ô dù. Những tên cùng cánh,cùng ăn, cùng phá với hắn. Hắn đã phun ra hết rồi. Nhờ vậy, hôm nay hắn được thanh thản trong lòng. Đầu của hắn không còn đau nhức vì thần kinh căng thẳng như thời gian mới vào đây.

Tư Hoàng cảm thấy thật sự dễ chịu khi màn đêm buông xuống. Trong nhà giam, giữa bốn bề im lặng thỉnh thoảng Tư Hoàng nghe những tiếng thê dài não ruột, hoặc trông thấy đốm lửa lập loè giữa màu đen dày đặc. Những lúc như vậy, hắn nằm vắt tay lên trán,nhắm mắt lại và hồi tưởng những ngày đã qua trong cuôc đời mình.

Tư Hoàng xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo miền Trung.Quê của hắn là một vùng đất đồi đá sỏi.Quanh năm chỉ có hai mưa,nắng.Mùa nắng,bầu trời như bốc cháy hừng hực,nóng như thiêu,như đốt.Còn mùa mưa nước xối xả đêm ngày,cuốn đi hết những lớp đấtmàu mỡ,mà những người nông dân ở đây, hằng ngày cố nai lưng,gò sức tạo nên.Cái thời Tư Hoàng còn ở lứa tuổi ăn học,có nghĩa là cách đây khoảng vài ba chục năm,người dân ở quê Tư Hoàng,chỉ biết vùi đầu lam lũ làm ăn, ít có ai để tâm đến việc nuôi dạy con cái,cho ăn học tới nơi tới chốn.Cả làng chỉ được mỗi một mình hắn là theo đuổi lên ngưỡng cửa của trường đại học.Đến ngày đất nước hoàn toàn giải phóng,Tư Hoàng đã xong năm thứ ba khoa điện,trường Đại học khoa học Sài Gòn.

Lý lịch gia đình mình hoàn toàn trong sạch ,vậy thì tại saoi mình không tranh thủ cía lúc nhá nhem này kiếm một mảnh bằng đại học để làm đà tiến thân sau này? Tư Hoàng nghĩ như vậy.

Thế là 3 tháng sau, hắn trở lại trường đại học để tìm thầy cũ.Ước vọng của Tư Hoàng đã thành hiện thực.Chỉ trong mọt tuần lễ,Tư Hoàng chạy chọt cầm được trong tay tấm bằng đại học với học lực trung bình.Hắn vội vã quay về địa phương.Có lẽ, đây là lần đầu trong đời hắn làm cái việ gian dối hay sao mà trong những ngày này hắn cứ phập phầng lo sợ.Nhiều đêm Tư Hoàng cố nhắm mắt, Nhưng không thể nào ngủ được.Hắn trằn trọc và mường tượng ra bao nhiêu là hình ảnh.Nào là Nhà nước cách mạng rồi đây sẽ phát hiện được việc lam gian giối của hắn.Nào là mấy đứa bạn học thế nào cũng tố giác hắn với cơ quan có chức năng.Rồi đây các thầy ,cô ở miền Bắc vào,thế nào cũng kiem tra lại sinh viên của chế độ cũ,thế là hắn phải chường mặt ra v.v và v.v…

Tư Hoàng nhớ lại rất rõ, chưa có lúc nào hắn tích cực tham gia phong trào cách mạngở địa phương như trong những ngày cuối năm 1975. Hắn đem hết khả năng nhiệt huyết của mình cống hiến cho các hoạt động của phong trào thanh niên như: văn nghệ, tuyên truyền cổ động,vệ sinh làm sạch đẹp thôn xóm, thu chiến lợi phẩm…Nói tóm lại, những công việc gì mà chính quyền địa phương lúc bấy giờ cần, là hắn sẵn sàng xung phong tham gia một cách tích cực. Với kiến thức văn hoá có sẵn,và tinh thần làm việc quên cả ngày đêm, Tư Hoàng trọi hơn về nhiều mặt so với số thanh niên ở địa phương.Tư Hoàng được kết nạp Đoàn đúng vào dịp 26-3-1976. Chính lúc này,Tư Hoàng mới khẳng định: “Mình sẽ tiến thân dễ dàng trong xã hội mới này. Nhưng trước hết mình phải hoàn thành nghĩa vụ quân sự cái đã”. Tư Hoàng vạch rahướng đi ban đầu của mình như vậy.

Cuối năm 1976, Tư Hoàng viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Hắn thể hiện rõ vai trò đầu tàu gương mẫu của một Doàn viên thanh niên. Cái ngày hắn tạm biệt gia đình, bạn bè mang khăn gói đến trường huấn luyện tân binh.Cả làng, từ ông Bí thư, Chủ tịch cho đến người già, trẻ con, ai nấy đều tấm tắc khen hắn có tấm lòng yuê nước nồng nàn, là thanh niên tiên tiến. Trừ một người con gái.Cô ta có gương mặt không đẹp nhưng lại có duyên nhờ má lúm đồng tiền và sống mũi dọc dừa. Nhìn kỹ cô gái,thì đây là một người có nghị lực, có kiến thức và đôn hậu. Đó là cô giáo Loan. Lẽ ra trong ngày này,cô Loan phải có mặt trong buổi Tư Hoàng lên đường nhập ngũ, như bao cô gái khác đã làm, trước lúc người tình đi xa. Thế nhưng, đúng vào lúc nhiều cặp tình nhân khẳng định lần cuối lòng chung thuỷ của họ, thì cô Loan lại ở nhà, nằm úp mặt xuống gối,nước mắt trào ra.Cô nấc nghẹn,rồi thiếp đi.Trong giấc ngủ chập chờn, Loan nhớ lại những đêm sinh hoạt thanh niâen hay những buổi tối, sau khi cô diễn xong một chương trình văn nghệ Tư Hoàng lại tìm đón cô về,Trên con đường mòn,rậm rạp những lùm tre xanh. Giữa đêm khuya, chỉ có hai người. Tư Hoàng tuôn ra những lời nói mật ngọt của tình yêu. Hắn xuýt xoa mơn trớn. Rồi cô đê mê nhắm mắt, trao thân gửi phận cho hắn.Đến ngày, cô đã ngừng kinh nguyệt hai tháng. Cô lo lắng báo tin này với Tư Hoàng, thì hắn ngoay ngoảy thoái thoát bằng cách đùn đẩy cho hoàn chảnh của mình là phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Hắn buộc cô phải làm cái việc nhẫn tâm, giết đi chính giọt máu của mình.

Những việc Tư Hoàng đã gây ra, làm sao hắn không hiểu cặn kẽ. Chính vì thế giờ đây hắn tự hỏi: Chẳng lẽ chỉ có mỗi một việc này,mà mình phải trả cái giá đắt như thế này ư ?

Tư Hoàng lại tiếp tục dòng hồi tưởng.

“Đấy, trong ba năm đời lính của mình, vốn dĩ là con nhà nông , chịu thương, chịu khó đã quen, nêntừ những ngày đầu vào trường huấn luyện, cho đến lúc về nhận công tác ở một đơn vị thông tin, mình giành được biết bao thnàh tích. Nào là học tập giỏi, thực hành khá, tham gia công tác đoàn thể tích cực,phẩm chất đạo đức tốt v.v… Mà có được thành tích như vậy,mính mới trở thành đảng viên chứ”. Bỗng nhiên Tư Hoàng đưa tay vỗ cái đét vào bắp đùi của hắn. “Mà điều đó có gì đáng quan tâm”. Tư Hoàng nghĩ.

Chỉ một tiếng động thôi,nhưng giữa đêm khuya thanh vắng, trong bốn bức tường gạch kiên cố này, cũng làm cho âm thanh chao đảo, cuồng quay. Tư Hoàng nhe răng ngẫm cười trong màn đêm dày đặc. Hắn nhớ lại cái ngày hắn ra quân.

Anh đại đội phó,cũng là Bí thư chi bộ, nơi hắn đang sinh hoạt Đảng, gọi hắn đến gặp vào lúc giữa trưa. Sau những lời động viên, nhắn nhủ của một cán bộ chính trị đối với một thnah niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, sắp trở về địa phương, anh ta trao cho Tư Hoàng toàn bộ hồ sơ xuất ngũ, rồi nói: “Đồng chí Hoàng, Đảng uỷ đã nhất trí, để đồng chí có điều kiện cống hiến sức lực của mình nhiều hơn nữa cho sự nghiệp cách mạng trong thời gian tới”.

Tư Hoàng bật ngồi dậy. Hai bàn tay của hắn quờ quạng trong đêm tối. Hắn tìm điếu thuốc Sài Gòn đen, vợ của mình gửi vào từ những ngày đầu mới vào đây, để mình làm cái việc ngoại giao mấy anh công an đây. Gói thuốc đã bóc ra, nhưng trong ruột vẫn còn đầy ắp. Những điếu thuốc thơm vàng choé. Tư hoàng định bụng, rút ra một điếu, kéo riết mấy hơi liền cho đã cơn ghiền lúc này. Điếu thuốc thơm trồi ra khỏi bao một đoạn. Tư Hoàng bỗng giật nẩy người như bàn tay của hắn vừa đụng phải dòng điện cao thế. Hắn vội vàng đẩy điếu thuốc vào bao. “Không. Không thể được. Đêm khuya cái mùi thơm quỷ quái này loang xa dữ lắm. Mình hút thuốc thơm, mọi người xung quanh phát hiện được sẽ đánh giá là mình cứng đầu không chịu sám hối. Mà mình có phải hạng như thế đâu chớ”. Tư Hoàng cố nuốt nước bọt vào trong cổ họng, rồi nằm xuống giường. Cơn nghiện thuốc của Tư Hoàng càng lúc càng tăng. Hắn lăn qua, trở lại trên giường cá nhân ao ước : “Giá như mình có một điếu thuốc sâu kèn mà cha của mình lúc còn sống thường hay bập phà vào những buổi sáng lùa trâu ra đồng hè!”.

Để cơn nghiện thuốc lá chóng qua. Tư Hoàng tiếp tục ôn lại cuộc đời của hắn. “Cái ngày mình học xong trung cấp chính trị, gương mặt của mình trông hốc hắc làm sao!”. Hắn ốm o gầy còm là phải. Vì mấy năm liền, Tư Hoàng vùi đầu nghiền ngẫm lý thuyết để cố giành cho được cái giấy chứng nhận tốt nghiệp loại giỏi. Trong thời gian này, Tư Hoàng làm sao quên được cái đám cưới đứa em trai của mình. Ong anh của nó đã phải bán đi một bộ quân phục còn mới, mà trong thời gian làm lính chắt chiu để dành được. Với số tiền nhỏ nhoi, chỉ có hai mươi đồng, Tư Hoàng có được bằng cách bán quần áo ở chợ trời thành phố. Một phần ba số tiền này, hắn giữ lại, còn hai phần ba thì đi đám cưới đứa em. Chỉ có bấy nhiêu thôi mà trong ngày cưới đứa em, mọi người trong gia đình củaTư Hoàng mừng rỡ như vớ được vàng. “Sao mà gốc gác của mình lại nghèo kiết xác đến thế không biết?” Hắn tự hỏi mình.

Tiếp đến là những ngày Tư Hoàng thất thiểu tìm việc làm trong các cơ quan Nhà nước. Đó là những năm 1981, 1982. Cả miền Nam tìm được một người có cái mác: Trình độ chính trị, trung cấp. Văn hoá, đại học. Tuổi đời dưới 35. Đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, là quý, là hiếm lắm. Lý lịch của Tư Hoàng chẳng những đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên, mà còn hơn thế nữa. Bởi lẽ, cả dòng họ của hắn chẳng có ai dính líu đến chế độ cũ cả. Vì vậy, hắn tìm nơi trú thân không khó khăn lắm. Hắn nhớ lại: “Ngày đầu tiên mình đến xí nghiệp X, liên hệ xin việc làm, gặp thằng Hân trưởng phòng tổ chức. Lúc đầu, nghe mình đặt vấn đề, hắn trả lời ỡm ờ, có lẽ định kiếm của mình chút ít. Nhưng khi đọc kĩ lý lịch của mình nó ngán hay sao, chỉ một tuần lễ sau hắn trao ngay quyết định làm việc cho mình, chẳng tốn đồng xu, cắt bạc nào cả, lại còn tặng luôn cái chức đội trưởng đội công trình nữa chứ. Thằng Hân hiền thật. Làm tổ chức mà nó chẳng hiểu gì về tổ chức cả. Đúng là một con người chỉ biết “sai đâu, đánh đấy”. Cái thằng nhát gan, nhà nghèo nhưng chẳng giám ăn to, chỉ rỉa rỉa bên ngoài. Vậy mà hoá ra lại được. Đến giờ này, hắn có hề hấn gì đâu. Không khéo, tới đây hắn lại bay lên thế mình không biết chừng. Thời buổi bây giờ, những đứa biết thích nghi thời đại, thì bị tiền và gái giết sạch cả rồi! Tư Hoàng thở dài chán nãn.

Thời gian ở trong quân đội, Tư Hoàng học hỏi được ít nhiều kinh nghiệm quản lý một tập thể nhỏ, cộng với năng khiếu nhạy bén lắng nghe và khai thác kinh nghiệm thực tiễn của anh em công nhân dưới quyền,nên trong sáu tháng hắn phụ trách đội công trình điện của xí nghiệp X, thành tích của đội này nổi lên như cồn. Hắn nhớ rất rõ: “Mùa mưa năm ấy, thường xuyên có mưa to, gió lớn. Khắp nơi trong tỉnh, đường điện cao thế và hạ thế bị hư hỏng nặng do mưa bão gây ra. Một hôm đồng chí Giám đốc gọi mình lên phòng làm việc, ông nói: -Anh Hoàng ạ!Vừa rồi, ban chỉ huy phòng chống lụt bão của tỉnh điện khẩn chỉ đạo xí nghiệp ta phải nhanh chóng sữa chữa hệ thống dây điện bị hư để duy trì dòng điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Ban giám đốc giao nhiệm vụ này cho đội của anh, phải hoàn thành trong thời gian ngắn nhất anh Hoàng ạ. Đây là nhiệm vụ chính trị của Đảng. Anh là một đảng viên, tôi tin anh. -Báo cáo dồng chí giám đốc, tôi xin hứa là sẽ hoàn thnàh tốt nhiệm vụđược đồng chí tin tưởng giao cho ạ.

-Anh là kỹ sư trẻ, phải cố vươn lên. Anh Hoàng uống chén nước đã.

-Cảm ơn đồng chí Giám đốc, tôi xin phép về để triển khai ngay trong đội thực hiện nhiệm vụ này.

-Ừ! Anh về đi. Cố gắng hoàn thnàh cho tốt anh Hoàng nhé!

Sau khi nhận lệnh của thủ trưởng là mình về hò hét công nhân ra đường ngay. Ngoài trời mưa tầm tã, gió lại chưa ngừng. Thế mà mình cố gắng dãi gió, dầm mưa đến cả tuần lễ để cùng với đám công nhân túc trực đêm ngày, duy trì cho được dòng điện phục vụ nhà ở các vị trong thường vụ, thường trực, khổ thật. Còn thằng An, đội phó phụ trách ở khu vực nhà máy, xí nghiệp, nó chẳng chịu làm mẹ gì cả. Cái thằng lười lười như quỷ. Sửa điện mà cứ trong nhà người ta nó ở, đã không chịu làm, còn chẳng chịu nghĩ nữa, làm sao nó tiến thân cho được. Cho nên, nó cứ giữ cái chân đội phó hoài từ đó đến nay. Đúng là thành tích của đội công trình lúc đó, do mình nặng ra cả. Mà có như thế, mình mới được các cụ nhấc lên ghế trưởng phòng kế hoạch, chứ làm thế nào được đề bạt nhanh như thế, mới về chưa được một năm chớ mấy”!.

Tư Hoàng giữ ghế trưởng phòng của xí nghiệp X đúng một năm, bốn tháng. Một lãnh đạo nắm giữ phần chủ chốt của xí nghiệp, có trình độ chuyên môn là kỹ sư điện nửa vời như Tư Hoàng , thì không thể nói là xuất sắc được. Còn năng lực quản lý của Tư Hoàng , thì so bì sao cho được kỹ sư Tân, giữ cái ghế phó phòng kế hoạch trong mười năm rồi. Kỹ sư Tân được đào tạo chuyên ngành thiết kế điện ở nước ngoài hẳn hoi. Chỉ có mỗi tọi là hay phát biểu phan ngang, nên chưa được kết nạp vào Đảng, thế là cấp phó cứ đeo đuổi anh ta mãi.

Tư Hoàng cố nhớ lại khoảng thời gian này:

“Một hôm họp giao ban, Giám đốc xí nghiệp thông báo, năm nay xí nghiệp tổ chức tổng kết lớn. Đại biểu mời dự có đồng chí lãnh đạo tỉnh. Thế là, trong nửa tháng xí nghiệp chuẩn bị cho ngày tổng kết, thì mình cũng tích cực chuẩn bị một số ý kiến phát biểy tham luận trong cuộc họp quan trọng này. Sau nhiều lần tranh thủ ý kiến của người này, người nọ và sau những đêm trằn trọc suy nghĩ, mình nẩy sinh ra ý bổ sung vào phương hướng hoạt động của xí nghiệp là phải triển khai khảo sát và tổ chức thi công các công trình thuỷ điện nhỏ ở địa phương, nhằm nhanh chóng điện khí hoá ở nông thôn, bằng phương thúc Nhà nước và nhân dân cùng làm. Khi mình phát biểu vừa hết ý này, liếc mắt nhìn hàng ghế đại biểu thấy các cụ gật gù là biết ăn chắc rồi. Mà đúng thế thật. Khi mình từ trên bục gỗ trở lại chỗ ngồi, một vị trong thường trực uỷ ban đến ngồi gần mình nói: Ông rất tâm đắc những ý mình bổ sung trong bản báo cáo, rồi hỏi: -Cậu Hoàng quê ở đâu cà? Con ai? Trước đây làm gì?

Chính qua lần gặp gỡ, trao đổi với lãnh đạo này. Mình cảm thấy con người của mình có một cái gì thiếu thốn, hụt hẫng thế nào!

Cho đến một hôm, Tư Hoàng đi làm về bong64 nghe tiếng ai gọi ở đàng sau.

-Anh Hoàng. Anh Hoàng ơơơi. Anh Hoàng!

Tư Hoàng ngừng đạp xe, ngoái đầu nhìn lại. Xa xa hắn trông thấy một người đàn bà đầu đội nón lá, vai mang một túi du lịch loại vừa. Người đàn bà ngoắc tay lia lịa gọi Hoàng. Hắn vòng xe lại.

-Trời! Loan! Em làm gì mà vô tận ở trong này? Hắn hỏi.

Đã trên mười năm rồi, hắn không gặp Loan, nên hắn trông Loan già đi và có ve khắc khổ hơn trước. “Có lẽ do đời sống kinh tế ở quê nhà”. Hắn nghĩ như vậy.

-Em đi tìm anh Hoàng đây. Loan vừa cười vừa nói.

-Nói chơi thế thôi. Anh Hoàng đừng có tái mặt như thế. Em vào đây để thăm chồng. Anh ta bị thương ở bên Campuchia, nhưng đang điều trị ở quân y viện này.

-Ủa! Em lấy chồng khi nào vậy? Sao lại không cho anh hay để dự đám cưới?

-Cảm ơn anh. Có lẽ vì lúc đó bận nhiều việc quá nên em quên. Mà em có nhớ báo tin, anh cũng tìm cách lánh mặt, chẳng về đâu phải không anh Hoàng?

-Thôi mà em. Việc đã rồi, nhắc lại làm gì cho buồn. Mời em vào quán uống ly nước đã.

-Cảm ơn anh. Để khi khác, em đang vội. Anh Hoàng có vợ con gì chưa?

-Có ai thèm yêu anh đâu em. Anh vẫn cô thân độc mã như ngày xưa.

-Anh Hoàng chọn vợ phải là người có trình độ nè, giàu có nè,hoặc là phải con ông cháu cha chứ. Ai hiểu được lòng anh cho bằng em anh Hoàng?

Nghe Loan nói đến câu cuối cùng, Tư Hoàng sửng sốt. Hắn vội vã tìm cách cắt đứt cuộc trò chuyện với Loan. Lúc này trong đầu của hắn loé ra ý nghĩ: “Có phải cái mà bấy lâu nay mình cảm thấy nó thiếu thiếu trong người, và khập khiễng trên từng bước đi của mình đó là “cái dù”?. Đúng! Mình thật sự chưa có “cái dù” để làm nơi đụt mưa, tránh nắng”. Thế là Tư Hoàng cất công đi tìm cho được cái mà mình đang cần bằng cách thông qua con đường cưới vợ. Để đạt cho được cái mục đích này trong thời ấy không thể dễ dàng gì. Hắn cũng phải trằn trọc,nhiều đêm liền vắt óc suy nghĩ. Với đức tính kiên nhẫn, tìm tòi, vạch lối của hắn, cuối cùng hắn cũng đạt được mục đích của mình. Đành rằng hắn chỉ thực hiện được phương án hai. Có nghĩa là chỉ chọn được cho mình một “cái dù”, nhưng lại là “cái dù gián tiếp’. Đấy, cha vợ của hắn trong thời kỳ chống Pháp là một thường vụ cấp cao đó. Những người hoạt động cùng trang lứa với cụ nay đâu còn ai. Còn các vị có chức, có quyền ở tỉnh này đều là lính của cụ trước kia cả.Bởi vậy, tiếng nói của cụ rất có trọng lượng. Chả thế! Mà cái ghế giám đốc xí nghiệp X, Tư Hoàng đang ngồi là chẳng do cụ xếp đặt? Vẫn biết cụ là một người cách mạng toàn tâm, toàn ý Đảng, vì dân. Thế nhưng, người cha nào chẳng thương con. Huống hồ cả đời cụ chỉ có một đứa con gái.vì vậy cụphải chiều vợ của hắn chứ! Thật lòng mà nói, từ khi hắn cưới vợ cho đến nayđã được hai mạt con, bề ngoài hắn gọi ba ba, con con với ông cụ ngọt xớt, còn vợ thì anh anh, em em nghe rất thâm tình, nhưng có hạnh phúc gí đâu. Bởi lẽ vợ của hắn thuộc loại gái già.

Rồi những năm tháng Tư Hoàng ngồi ở ghế Giám đốc xí nghiệp X.

“Ôi cái thời vàng son của một đời người. Ngày ngày Tư Hoàng chễm chệ trên chiếc ghế bành bọc nhung đỏ thắm, êm ái, nằm giữa một gian phòng thoáng mát, dễ chịu. Ôi! Chiếc xe du lịch đời mới có gắn hệ thống điều hoà nhiệt độ, sao mà máy của nó chạy êm như thế. Ôi! Nàng tiên Hồng Nhung, kế toán trưởng của tôi ơi. Giờ này em đang ở căn buồng số mấy của cái ngục tù này? Rồi của nổi, của chìm và biết bao quà tặng khác, hắn làm sao nhớ cho hết.

Tất cả những gì có được trong thời gian Tư Hoàng làm Giám đốc há dễ lắm sao?

“Đấy, cả mấy tháng trời, khi hắn vừa được nhấc lên ghế Giám đốc là hắn triển khai ngay việc củng cố toàn bộ hạ tầng cơ sở trong xí nghiệp. Có nghĩa là hắn trực tiếp rà soát đội ngũ cán bộ cốt cán trong xí nghiệp. Thằng nào dù có năg lực cho đến mấy đi nữa, nhưng họp hành phát biểu ngang phè, có vẻ khinh thường năng lực quản lý của hắn, thì mọi cách hắn điều đi phụ trách những bộ phận không quan trọng trong xí nghiệp. Còn những đứa dù dốt nhưng dễ sai như dạng thằng Hân trưởng phòng Tổ chức, thì xếp cho bọn nó ngồi xung quanh hắn.

Hắn lại run sợ trước sức mạnh của những đảng viên chân chính ư! Không, tất cả những sức mạnh đó trong xí nghiệp này chưa đủ sức chọc thủng “cái dù” mà hắn đang giữ nó từng giờ, từng ngày ở trên đầu. Mà hắn chẳng dại gì chỉ đội một cái dù cho chóng rách. Phải làm năm, bảy cái chồng lên chứ. Tuy nó nặng đầu thật đấy, nhưng được cái chắc chắn. Nhờ vậy, trong những cuộc họp Chi bộ, hắn mới phủ đầu được đồng chí Bí thư chớ! Đã có lần hắn trả lời thẳng đét trước cuộc họp: “Xí nghiệp này, làm việc theo chế độ Giám đốc. Tất cả mọi công việc trong xí nghiệp do giám đốc quyết”. Cái chức Giám đốc của hắn sao mà nó uy quyền đền thế không biết!

Suy cho cùng, giữa thời buổi “Cơm cao, gạo kém” này, rất ít thằng muốn dây chuyện vào thân. Chúng nó cũng phải lo cái hũ gạo gia đình chúng no chứ.

Thế là Tư Hoàng gặt hái được kết quả mỹ mãn. Tất cả những cán bộ tham mưu của hắn, toàn là những đứa có miệng, nhưng cũng như không.

Chính từ lũ này, đã nuôi dưỡng tội lỗi của hắn ngày càng nẩy nở thêm lên.

Ôi! Con số trên mười tỷ đồng. Những chứng từ vay ở các loại ngân hàng trong tỉnh, ngoài tỉnh, nội thương, ngoại thương…

Ôi! Đồng tiền và gái đẹp. Cái đầu của hắn lúc này đau nhức đến thế!

Tiếng gà gáy sáng. Xung quanh hắn một màu đen đặc.

Âu! Cũng là lẽ đời.

Lùng tù

 

Truyện ngắn

 

Bố mẹ đẻ ra, đặt cho cái tên đẹp: Vàng Mí Lùng!

Mí Lùng càng lớn, càng đẹp trai, xuống chợ có nhiều gái để mắt, đi núi có nhiều gái theo. Mười lăm tuổi, Mí Lùng đã lấy được vợ. Cô vợ khá nhất bản Hồ Giàng. Đám cưới của Mí Lùng cũng to nhất: mổ mười con dê, ba con bò, gà, lợn thì không kể được. Khách núi xa, núi gần đều về mừng vui. Ngày đêm, tiếng khèn, khuôn mặt hòa trong bát rượu. Nhà Mí Lùng lo được cho con như vậy, kể cũng đẹp mặt lắm.

Mấy năm sau, Mí Lùng

 bắt 

được đứa con trai. Năm sau nữa, Mí Lùng

 bắt 

được đứa con gái. Anh ra ở riêng, làm nhà to, tường đất dầy hàng sải, mái lợp ngói tím lịm. Cùng với những việc vui mừng ấy, anh liền sắm cái lễ đổi tên cho mình. Được ăn thịt, uống rượu, từ nay người Hồ Giàng phải gọi Mí Lùng bằng cái tên mới: Vàng Lử Lùng! Việc này rất danh giá cho họ Vàng, danh giá cho Lùng. Khối người trai bằng tuổi, vì không có của, không làm được lễ đổi tên, suốt đời phải mang cái tên "Mí" hèn hạ!

Gió thổi trong khe núi bao giờ cũng mạnh. Vàng Lử Lùng mạnh như ngọn gió ấy. Vợ Lử Lùng đẻ thì nương, ruộng cũng theo vợ anh đẻ thêm. Hạt bắp, hạt lúa về nhiều, nên con trâu, con bò cũng lắm. Chuồng nuôi súc vật dài đúng bằng nhà ở của người. Phiên nào, Lử Lùng cũng cưỡi con ngựa đẹp nhất Hồ Giàng xuống chợ. Con ngựa ấy cao, to lại có hai đốm đen, tròn như đồng bạc già, đóng đúng hai bên vai, trông rất cân. Người chợ bảo: "Nhìn kìa, con ngựa bốn mắt của ông Vàng Lử Lùng!". Chủ nó sướng lắm, uống thêm một bát rượu nữa, có thêm người bạn nữa.

Thấy lời nói của Lử Lùng trơn như ống điếu, bóng như ống điếu, hội đồng xã họp, bổ sung anh vào chính quyền, với chức vụ xã đội phó. A, đã giàu lại được sang. Từ nay, anh được làm quan - quan cách mạng hẳn hoi. Rồi anh sẽ thành cây lim, cây nghiến trong làng cho mà xem!

Hiện thời, xã đội trưởng trong làng là một người ốm yếu, nhợt nhòa và nhu nhược. Đứa làm sai, dọa đánh, dọa đốt nhà. Đứa khôn ngoan hơn thì mời nhau chén rượu, miếng thịt, thế là mọi việc cho qua.

Xã đội phó Vàng Lử Lùng không phải vậy, công việc là công việc, riêng tư là riêng tư. Đối với người mắc tội, nhẹ thì cảnh cáo, nhắc nhở; vừa thì yêu cầu ra ủy ban kiểm điểm, sau đó là lên núi lấy củi; nặng thì: Tù!

Nhờ sự thẳng thắn và nghiêm khắc ấy, Vàng Lử Lùng vọt lên, che mờ xã đội trưởng. Tháng, vài ba kỳ, anh cưỡi ngựa xuống các bản, đi tới đâu, người nơi ấy chắp tay chào. Bọn

 làm cắp 

không dám

 làm cắp 

nữa.

Nhưng có một lần, trời vừa tối, anh cũng về ngang bản Lũng Nhùa, thấy có mùi thuốc phiện đưa ra. Cái mùi ấy không thể lẫn vào đâu được. Nó ngầy ngậy, beo béo y như cái hạt dầu, ta mang đốt nửa chừng.

"Ai nhỉ?" - Lử Lùng băn khoăn. Lâu nay, cái việc nghiện hút đã được cắt đi rồi, vì nó là đầu của mọi việc làm sai, làm ác. Thế mà kẻ nào dám bịt mắt ta?

Con ngựa bốn mắt như đoán được ý chủ. Nó liền phăm phăm bước chân vào một ngôi nhà tồi tàn, đơn độc, ẩn trong một nương ngô ẩm ướt.

"Lão chột!". Vàng Lử Lùng khẽ kêu. Lão chột thì khôn ngoan có tiếng ở Hồ Giàng. Hàng ngày, lão không đi nương, không vượt biên để cõng hàng về bán kiếm lời. Lâu lâu, lão mới ra khỏi nhà, sau cái phút nhìn trước ngó sau, không thấy ai, lão nhấc đôi chân ngắn ngủn, đi gần như chạy. Lão đến nhà ai đó, làm một việc gì đó, rồi về nhà ngay. Lão là bóng mây trong mùa hạ, ngọn gió hiếm của mùa đông. Có người nói, đêm đêm lão chột vẫn đi

 mò gà

! Lời nói cứ nói, nào ai đã cầm được tay lão một lần? Đích thực thì lão sống bằng nghề cuốn lũ đàn em, cuốn lũ người khờ dại vào quanh cái

 bàn đèn 

để lão ăn

 ngọn thuốc

. Chả thế, đời lão lúc nào cũng ung dung, nhàn hạ. Thật là một con người mang dòng máu của cáo! Chuyến này thì lão chột biết tay. Lử Lùng vừa nghĩ, vừa buộc ngựa vào gốc cây đào, rồi ung dung bước vào. Lúc ấy, vợ lão chột ngồi ngay phía cửa bếp lò, nên ánh sáng chỉ lờ mờ chiếu vào chiếc giường chật hẹp. Nơi ấy có ba, bốn người, kẻ nằm, người ngồi. Rõ là chúng đang say sưa trong bữa hút. Lão chột khôn ngoan, với cái điếu ục, cùng hộp thuốc lào, kéo Lử Lùng ra khỏi nơi ấy. Lử Lùng gạt phăng, quát to: "Tất cả ngồi im. Chúng mày thì tù!".

Lập tức, ngọn đèn tù mù bằng mỡ lợn đặt trong khay vụt tắt. Tất cả những kẻ kia nháo nhác chạy trốn. Vàng Lử Lùng hộc lên. Lần đầu tiên anh ân hận vì đã quá tin vào cái uy tín của mình. Nhưng thôi, anh nghĩ, tóm lão chột là được rồi. Anh trở lại bình tĩnh và nói:

- Ông có biết Chính phủ cấm hút thuốc phiện không?

Lão chột cứ chậm chạp lần mò mãi mới đốt được ngọn đèn trên vách. Trong khi đó, vợ lão đã vơ gọn đồ hút, tót lên gác sàn. Bấy giờ, con mắt của lão chột mới nhìn xoáy vào Lử Lùng:

- Hả? - Mồm lão há hốc, đen ngòm.

- Ông phạm pháp. - Lử Lùng quát.

Lão giả vờ như người điếc, hỏi lại:

- Hả?

- Ông đã hút thuốc phiện và chứa người hút thuốc phiện.

- Đâu?

- Ngay tại nhà này.

- Lấy gì làm gốc? - Lão hấp háy con mắt còn lại.

Lúc ấy, anh xã đội phó Vàng Lử Lùng mới ngẩn ra: ừ nhỉ? Chúng nó tháo chạy cả rồi! Lập biên bản, lấy ai làm chứng? Vợ lão thì nhất quyết không có làm cái việc này rồi. Lần đầu tiên sau mấy năm công tác, anh thua cuộc. Lử Lùng buồn bã vớ cái điếu ục, hút liền mấy điếu. Lão chột thì lượn và nhanh như một con mèo, tay cầm chai rượu, tay cầm tảng thịt bò khô, lùi ngay vào bếp than rừng rực. Mùi thịt từ chỗ oai oai, hôi hôi, rồi khen khét, rồi thơm thơm...Vàng Lử Lùng không thèm, mà chỉ thấy ghê tởm lũ người trí trá, quen mua chuộc cán bộ theo cái kiểu này. Lử Lùng định đứng phắt dậy, định ra về. Lão chột khôn khéo kéo anh lại, kể dài dài nào là chuyện rừng, chuyện săn muông thú, chuyện ngựa gầy vỗ thành ngựa béo và cuối cùng, lão tán dương về dòng họ Vàng của anh; rằng, trên cõi đời này thì không có họ nào to như họ Vàng, mạnh như họ Vàng và giàu sang được bằng họ Vàng.

Quả thật, chuyện của lão bền như sợi lanh, dài như sợi lanh, người nghe không thể nào dứt được. Mãi tới lúc con gà cất tiếng gáy lần đầu trong bản, thì Vàng Lử Lùng mới chịu nâng bát rượu cùng lão chột, bụng nói với cái đầu: "Chỉ bát này thôi nhé". Những người đã từng uống rượu, hẳn phải thông cảm với Lử Lùng về điểm hứa này. Lý do là một khi rượu đã ướt môi, mềm lưỡi thì tự rượu nó khắc đòi. Rượu chảy xuống bụng để rồi bụng trả lại bằng lời.

Ngà ngà say, Vàng Lử Lùng cũng thích nói chuyện. Anh nói về công tác, về pháp luật. Tất nhiên, những kiến thức này là chỗ lồi, chỗ lõm, lão chột biết thừa. Đến khi chuyện của Lử Lùng, câu đầu không cùng đường với câu cuối, lúc ấy, lão chột mới ấn cái

 dọc tẩu vào mồm anh và bảo: "Hút, hút".

- Ừ thì hút! - Lử Lùng gạt cái que ấy ra, nhưng đôi tay anh đã mềm.

- Hút, hút! - Lão chột nói những lời dỗ dành, như ra lệnh, như ngọn gió xoáy.

- Ừ thì uống! - Lử Lùng nhắc lại. Quái lạ, sao cái thứ rượu này nó lại không ướt mồm, mà chỉ là khói thôi? Cái vòng khói lờ mờ, bay tỏa. "Thuốc phiện!". Lử Lùng chợt tỉnh. "Không sao, - Anh tự an ủi. - Làm thằng người trai là phải nếm thử". Thế rồi, Lử Lùng kéo thêm mấy điếu nữa... Đến khi đầu anh rũ xuống, cánh mũi phập phồng những nước và mồ hôi. Thớ tim, thớ gan muốn kéo cả ra ngoài... Rồi vợ anh đến. Ấy, sao vợ anh lại thành cái Mỷ, cái Say? Chúng nó không mặc váy, áo. Tất cả đều cởi truồng, trắng nõn nà như cột nhũ trong hang đá! Những cột nhũ ấy bỗng chốc tan ra thành thứ nước mát lạnh. Vàng Lử Lùng biến thành cây gỗ trôi bồng bềnh trên guồng nước ấy... Anh có biết đâu mình đang thiếp đi trên cái giường hẹp trong tư thế nằm co như con sâu rừng!.

Lão chột kéo tấm chăn nhàu nát phủ lên người Vàng Lử Lùng. Lão cười khùng khục, rồi tắt ngay để còn kịp đọc một câu thần chú: "

Hỡi những mầm cỏ tranh trong những mồi thuốc vừa rồi, hãy thức dậy thành mũi tên, đâm vào ruột nó, đâm vào gan nó, làm cho nó không thể nào xa được những đêm như đêm nay!".

Hôm sau, mặt trời lên đến gần đỉnh núi, Vàng Lử Lùng mới mở được mắt. Đầu anh nhẹ bâng bẫng, người như treo tít trên ngọn cây nào. Lão chột đã bỏ đi tự bao giờ. Vợ lão bưng đến cho anh một bát cháo nóng. Lử Lùng vồ lấy như một kẻ đói lâu ngày. Sụp soạp và mồ hôi chảy ròng ướt đẫm lưng áo. Anh tỉnh dần, tỉnh dần... Anh nhớ lại rất rõ những gì đã xảy ra trong đêm qua. Giận đấy, nhưng không biết làm sao. Vào nhà người, được ăn ngon, được ngủ ấm, chả lẽ lại không nói vài lời cảm ơn. Người chứ có phải là chó đâu? Anh miễn cưỡng làm việc ấy xong thì dắt ngựa ra về.

Ba ngày sau, Vàng Lử Lùng bắt vào cơn đau bụng. Anh vật vã, lăn từ góc nhà này, sang góc nhà khác. Bụng trương phềnh, ì ạch thở. Vợ Lử Lùng sợ quá, phải đi gọi người về đắp ngải vào rốn, ghé mồm mút hết gió độc ở các đầu ngón chân, ngón tay mà Lử Lùng vẫn không khỏi, vội đưa đi trạm xá. Nửa đường thì cơn bệnh nó lui. Anh khắc đi ngựa về nhà. Được vài ngày rồi lại thế. Lần này thì bệnh to hơn, dài hơn. Vợ Lử Lùng ngỡ con ma nó làm, toan đi mời thầy cúng về. Giữa lúc ấy, lão chột xuất hiện. Lão gạt phăng mọi người ra ngoài, rồi lấy một thứ thuốc gì đó, ném vào bát, đổ nước vào, dùng ngón tay ngoáy tít mù. Lão không quên phù phép vào bát nước ấy. Miệng lão rít lên những lời man dại. Lử Lùng uống thứ thuốc ấy vào, tỉnh ngay. Anh sụp xuống lạy lão chột:

 Lạy ông! Nhà tôi bé như miệng cái quẩy tấu, bàn chân đặt không vừa, bàn tay đặt không tới, lấy gì đền ơn

...

Mép lão chột cười vếch lên, con mắt còn lại thì loe lóe như một cục lửa. Lão nói:

- Cán bộ Lùng à, miệng quẩy tấu nhỏ nhưng bụng đựng được nhiều thứ đấy. Thôi, tôi về.

Lão ngoáy cái đít rúm ró đi ra, nhìn muốn cười được.

Và những ngày sau, Lử Lùng không chỉ có đau bụng mà còn luôn hắt hơi, nước mũi chảy ròng. Cả ngày mệt mỏi, chả muốn lên núi nữa. Mỗi lần như vậy, khi thì tự anh tìm đến nhà lão chột, khi thì lão chột đến nhà anh. Xã đội phó Vàng Lử Lùng đi xuống xóm, xuống bản, đi công việc cách mạng, đố ai dám hỏi!

Tới đây, bạn đọc hẳn đã đoán được Vàng Lử Lùng của chúng ta đã bước vào con đường nghiện mất rồi. Tội nghiệp anh ta quá!

Người Mông thường nói:

 Đá lở sau nhà là sức mạnh của núi. Nước lũ trên rừng là sức mạnh của suối!

Đá lở và nước lũ, hai đứa xấu ấy, có thể tàn phá được nhà cửa, ruộng nương, thế nhưng chưa ác bằng nghiện. Chỉ mấy năm thôi, kể từ ngày Lử Lùng bước chân vào nhà lão chột thì trâu, bò, dê... của anh cứ rủ nhau đàn đàn lũ lũ mà chui tọt vào cái lỗ bé tí tẹo bằng cái lỗ con dòi! Trong nhà không còn thứ gì để bán, anh chỉ còn bấu vào cái chức xã đội phó, ngày ngày ngật ngưỡng trên lưng con ngựa bốn mắt đi bản này, bản khác để công tác. Nhưng thực sự chỉ để mong có người mời, người biếu vật này, thứ kia, để tối đến lại mò về nhà lão chột.

Vào một đêm trăng sáng nhờ nhờ - Bây giờ, Vàng Lử Lùng cũng không nhớ rõ là ngày nào, tháng nào và năm nào - Khi anh từ nhà lão chột đi ra, một đoạn rồi lại một đoạn nữa, anh gặp phải con bò. Ôi a! Con bò mộng thật to, thật béo. Lử Lùng xuống ngựa. Con bò thấy người lạ thì lồng lên, nhưng đầu trạc đã vướng vào khe đá, ghì nó lại. "Con bò lạc chuồng", anh kêu khẽ. Bỗng một ý nghĩ đen tối ập đến trong đầu: "Ngày qua ta không có tiền. Ngày mai và mãi mãi ta không có tiền. Ông trời mang của về cho ta đây. Con bò này, đuổi qua biên giới, bán cũng được vài ba trăm ngàn. Có tiền trả cho lão chột để lão khỏi khinh ta. Dạo này, lão khinh ta nhiều quá, chỉ còn thiếu cái việc lão bắt ta đi giặt váy cho vợ lão mà thôi. Con bò này, nó lạc chuồng mà!".

Con ngựa bốn mắt thật tinh khôn. Nó cắn nhẹ vào cánh tay Lử Lùng, như bảo: "Đừng làm vậy". Anh tát yêu vào má nó. Nó cúi đầu đi bước một về nhà. Lử Lùng dắt con bò đi vào một con đường khác. Chưa được bao xa, bỗng hai bên đường đổ ra những mấy con người, tay bổ gậy, miệng thét: "Thằng làm

 cắp 

bò! Thằng làm

 cắp 

bò!". Rồi đám người kia dùng dây rừng trói Vàng Lử Lùng, điệu về nộp ủy ban.

Vàng Lử Lùng bị tòa án phạt ba năm tù giam, về tội xâm phạm tài sản của công dân và ý đồ vượt biên trái phép.

Ba năm ở tù, anh bỏ được thói nghiện hút. Rồi anh được trở về. Vợ con được tin, ra tận cổng trời đón. Có điều không phải là đón anh về ngôi nhà ngói năm xưa - ngôi nhà ấy, vợ anh đã phải bán đi lấy tiền đút vào túi những kẻ lừa phỉnh. Chúng bảo có tiền, anh sẽ sớm ra tù. Lại còn mấy lần chị đi thăm anh, từ cao nguyên xuống đồng bằng, dọc đường thiếu gì những kẻ khôn ngoan, tàn bạo. Chúng xúm vào bòn rút vợ một người tù khốn khổ!

Nay thì anh đã về, tưởng rũ sạch được nỗi khổ đau, nào ngờ, ra đường gặp lũ trẻ con, chúng vỗ tay và gọi: "Lùng tù! Lùng tù!". Mà sao cả những người lớn cũng thích gọi anh bằng cái tên như vậy?

Nhục quá, cả Hồ Giàng khinh anh. Làm cho anh không dám ra đường, quanh quẩn trong nhà, thế là vướng phải cái bàn đèn cũ. A, đã thế thì lại hút. Bàn đèn là cái thứ để người ta mân mê sờ mó nó suốt ngày này qua đêm khác. Nó còn được yêu quý hơn cả những người gái non kia đấy. Người ta bảo, kẻ nghiện bao giờ cũng nghĩ được nhiều mẹo để kiếm tiền, vậy thì phải hút. Lùng tù này không phải tù vì tội hút đâu nhá. Sự đó ai ai cũng rõ. Lão chột giờ đây đã vĩnh viễn chuyển vùng theo quy luật của cha trời, mẹ đất. Lão nằm sâu dưới lớp đá kia. Và từ đấy, mọc lên một lão chột khác. Đời người hay thật!

Từ đây, Lùng tù lại lao vào con đường nghiện hút một cách mãnh liệt hơn. Nhưng sao Lùng tù vẫn chưa tìm được cách kiếm tiền mới nhỉ? Đã có lần, anh muốn đi ăn trộm một thứ gì đấy, nhưng nghĩ đến ngày ở tù mà sợ. Sợ nhất là cái đói. Đói mà liều ăn, thối cũng ăn, tanh tưởi cũng ăn. Từ đó mà sinh bệnh, mà chết. Ối thằng trong tù chết theo kiểu này. Chết mà không được về với núi, về với ông bà, tổ tiên là chết khổ. Lùng tù không muốn như vậy. Cơn nghiện lên thì phải tìm cái gì trong nhà mà bán. Ờ, đây là đôi vòng bạc của bà tái (

mẹ vợ), cho con gái lúc về làm dâu họ Vàng: bán! Chiếc khăn len, vợ đội đầu trong những ngày vui, ngày xuống chợ: bán! và cuối cùng là tấm váy lanh. Bán hết váy lành đến lượt váy rách ra đi. Vợ Lùng tù xấu hổ quá, không dám đi đâu vào lúc ông mặt trời còn sáng. Cảnh này dài mãi ra, không chịu nổi, chị đành bỏ lại cho chồng ba đứa con mà đi ở núi khác.

Thế rồi, lần đầu tiên sau mấy đêm suy nghĩ, Lùng tù đã tìm được cách kiếm tiền. Anh lên núi, lấy một cây gỗ rỗng ruột, chế thành cái bễ lò rèn. Việc này, do các bạn trong tù bày cho. Ngày ngày, hai đứa bé phì phò kéo bễ, thằng lớn phụ với bố gõ búa, rèn lại con dao, cái cuốc cho người trong làng. Người ta trả tiền công nhiều hơn so với sức lao động của mấy bố con bỏ ra.

Được tiền, Lùng tù lại mải mê với cái bàn đèn khốn khổ. Nhiểu khi cầm tiền của người ta rồi mà việc thì bỏ đấy, dần dần đâm mất khách. Cái bễ lò rèn nằm chỏng chơ như một cỗ quan tài. Ngẫm lại, vì nghiện hút mà ta mất vợ, mất nhà. Vì nghiện hút mà ta phải mang một cái tên Lùng tù nhục nhã. Bất giác, Lùng tù thở rất mạnh. Ôi, cái hơi thở trong lồng ngực ta, bây giờ nó đi đâu? Sức lực trong đôi cánh tay, bây giờ nó cũng về đâu, để lại những khúc xương bọc trong tầu lá chuối rừng? Chi bằng! Chi bằng!!! Lùng tù run rẩy đứng dậy, vét nắm bột ngô còn dính ở đít thùng, làm một chõ

 mèn mén

. Lùng tù cũng xin đâu được con gà to bằng nắm tay, làm một nồi canh gà... Xong thì anh bầy ra chiếc bàn gỗ, đặt giữa nhà, gọi các con cùng ăn.

Tội nghiệp cho những đứa trẻ, lâu ngày vắng mẹ, lâu ngày đói ăn, thấy vậy, chúng vục vào. Riêng thằng lớn, nó linh tính thấy điều gì không lành. Nó bỏ ăn, bò vào xó nhà, phục xuống cái ổ lót bằng lá cây thông. Lùng tù nói với hai đứa con bé, nhưng thực ra để thằng lớn nghe; rằng:

 cái nghiện là đời ma. Bố nhất định cắt cái nghiện để các con được nối vào đời người! 

Anh không nói nữa, mà chỉ nghĩ thầm trong bụng: sau khi ta chết, lũ con ta không còn bố, như vắng cây cột cái trong nhà. Thế nào người Hồ Giàng cũng đón chúng về. Thôi thì chúng chăn bò, cắt cỏ ngựa và người ta sẽ cho chúng ăn cơm!

Khuya lắm. Lại một đêm trăng mờ. Khi tiếng ngáy ngủ của lũ trẻ vừa cất lên, Lùng tù rút sợi dây da bò trên giàn bếp, nhẹ nhàng đi ra và khép cửa lại. Anh đi về phía con suối cạn đầu bản. Nơi ấy, có cây

 tống quá sủ, tuổi chừng trăm năm, cành  lá vươn ra, lòa xòa mặt suối. Anh chọn một cành thật chắc khỏe, mắc cái dây vào, giật thử mấy lần.

Sương mù đổ xuống mỗi lúc một dầy thêm. Đêm trở nên lạnh buốt và cô độc.

 Đất Hồ Giàng sinh ra Lùng tù, vì lầm lạc, nay xin trả thân này về với đất! Lùng tù như nhìn thấy nấm mồ của lão chột. Anh nghiến răng: tao sẽ đi tìm mày, hỏi xem vì sao mày biến đời tao thành đời ma

? Lùng tù thong thả chui đầu vào chiếc thòng lọng...

- Vàng Lử Lùng!

Tiếng nói khi đứt, khi lành ngay trước mặt. "Ai? - Lùng tù nghĩ, ai lại đến tìm ta trong lúc này, gọi ta bằng cái tên rất trang trọng của ngày lễ đổi tên năm xưa?".

Lùng tù nhìn xuống và thấy vợ mình, lại cả ba đứa con nữa. Giọng người đàn bà vẫn rầu rĩ:

- Anh đừng chết, anh khổ, tôi khổ, các con nó cũng khổ. Mấy năm, tôi bỏ anh, bỏ con, không phải tôi đi lấy chồng mới, lấy chồng mới thì phải mang của cưới về đền cho anh. Tôi đi núi khác để làm ngô, làm lanh thôi. Bây giờ đã được nhiều, tôi về đón...

Trên trời, đám mây chậm chạp trôi. Ông trăng có dịp đưa muôn ngàn cánh tay xuống, cầm lời nói của con người. Nhờ vậy mà Lùng tù nhìn rõ thêm được mặt của vợ mình, của con mình. Và cái dây trên cổ Lùng tù cứ lỏng dần, lỏng dần...

MẤT  HẾT

 

Truyện ngắn

 

Sáng chủ nhật, tôi đi thong thả ra Bờ Hồ. Gần đây, trong những ngày nghỉ, đường phố có một sức hấp dẫn lạ thường, nó hút tôi ra khỏi căn phòng làm việc không để cho tôi cưỡng lại, và thả tôi vào cái dòng người nhiều hình, nhiều sắc và cũng khá ồn ào ấy, trôi đi, trôi đi mãi trên các hè phố.

Tờ báo Nhân Dân sắc mực còn tươi dán ở bảng thông tin vườn hoa Cửa Nam đang giữ lại một số khách qua đường. Tôi chợt nhận ra một người bạn quen khá thân từ ngày hòa bình chưa gặp nhau, đứng trong đám người xem báo. Gặp bạn cũ trong một buổi đi chơi rỗi rãi thế này, thật đúng lúc. Tôi đang hăm hở đi lại phía anh bỗng chậm dần bước chân. Tôi đã nhận ra anh bạn chắc có việc riêng nên tự anh đã không muốn gặp tôi lúc này. Rõ ràng là đôi luồng mắt chúng tôi đã chạm nhau, và không thể nói là chưa nhận ra nhau, nhưng anh bạn đã vội quay vào tờ báo. Tôi nhìn thấy một vẻ bối rối thoáng hiện trên mặt anh. Đã có kinh nghiệm một vài lần về những trường hợp như thế, tôi nghĩ nên đi thẳng. Hòa bình lập lại đã mang đến cho đời sống vật chất và tinh thần nhiều người những thay đổi mới. Kháng chiến ngày trước đã hạn chế nhiều mặt trong đời sống của chúng ta; mọi người hầu như chỉ còn có một nhiệm vụ làm sao cho kháng chiến thắng lợi; chúng ta dễ gần, dễ hợp nhau hơn. Một người gặp trên đường công tác, trong quán trọ... có thể nhanh chóng trở thành tri kỷ. Nhưng ngày nay bên cạnh nhiệm vụ chung dù có giống nhau, chúng ta đã có thêm nhiều quan hệ, nhiều bận tâm mới, dễ làm cho cả những đôi bạn rất thân ngày kháng chiến khó mà gần gũi nhau như xưa. Ở đô thị này, thời giờ càng eo hẹp, thường thường ngày chủ nhật, ai nấy đều có kế hoạch từng giờ rồi. Thái độ của anh bạn như vậy, đúng là không nên quấy rầy, tôi đi thẳng. Nhưng lòng tự ái của tôi vẫn bị va chạm. Nó bắt đôi mắt tôi phải nhìn anh lần nữa, để xem có nhận thấy ở anh những thay đổi gì, tuy lúc này anh đã quay lưng lại phía tôi. Anh hình như không còn ở bộ đội nữa. Quần áo của anh toàn bằng vải mầu bóng đắt tiền, và như còn nóng hổi hơi bàn là. Anh ta không có vẻ chăm chú như những người qua đường bị lưu lại chỗ bảng thông tin vì vài tin tức cần thiết. Chắc anh ta chỉ mượn chỗ này đứng chờ làm một việc gì riêng.

Tôi vượt qua chỗ anh đứng chừng mười thước thì nghe tiếng người gọi tên mình phía sau. Quay đầu lại, thấy anh đang vẫy. Chúng tôi đều làm ra vẻ mừng rỡ như vừa chợt nhận ra nhau. Anh hỏi tôi:

- Bây giờ ở đâu?

- Vẫn đơn vị cũ.

- Khoẻ không?

- Bình thường. - Tôi nhìn bạn một lần nữa từ đầu đến chân rồi hỏi lại: "Chuyển ngành rồi à?".

- Không.

- Đơn vị ở Hà Nội à?

- Ở Hà Nội.

Sau vài lời trao đổi về sức khoẻ, công tác của nhau, tôi hỏi anh:

- Sao lại đứng đây?

- Mình có chút việc riêng.

- Thảo nào! Rõ ràng lúc nãy đã nhìn thấy nhau, tôi đang chạy lại thì bạn quay đi. Cũng đoán bạn đang bận việc riêng, nên không dám làm phiền, đành đi thẳng.

Anh không bào chữa cho mình cái lỗi đã định lờ một người bạn cũ sau một thời gian khá lâu xa cách. Câu nói của tôi hình như đã gợi lại sự thân mật của chúng tôi ngày trước, anh nhìn tôi rồi hỏi:

- Có bận việc gì không?

- Rỗi. Nhưng cậu đang bận thì để mình đi. Lần sau gặp nhau nói chuyện nhiều.

Anh chần chừ... Lần này tôi được nhìn rõ hơn, vẻ bối rối của anh ban nãy tôi thoáng thấy. Anh hỏi tôi:

- Có thể đi chơi với mình sáng này không?

Bạn cũ lâu ngày mới gặp, lại thêm vẻ mặt, vẻ người khác lạ của anh gợi cho tôi sự tò mò, tôi nhận lời ngay:

- Được, chỉ sợ ảnh hưởng công việc riêng của cậu.

- Không... - Anh định nói gì nhưng ấp úng rồi thôi.

Chúng tôi cùng đi vào một quán nước vắng ở phố Tràng Thi. Tôi ôn lại một số kỷ niệm cũ hồi còn chung sống công tác. Thỉnh thoảng anh nhếch miệng mỉm cười để hưởng ứng. Tôi cảm thấy ngay những chuyện đó nói lúc này có vẻ lạc lõng. Tôi không nói chuyện cũ nữa, và chợt nhớ ra một điều đáng nhẽ phải hỏi anh ngay từ ban nãy:

- À quên chưa hỏi... Thế nào! Vợ con chưa?

Đôi mắt sâu sâu của anh hơi sáng lên. Anh gật đầu, chậm rãi:

- Rồi! Lắm chuyện lắm! Mình sẽ kể cho mà nghe.

Để có thể ngồi nói chuyện được lâu, anh gọi hai cốc cà phê "phin". Tôi đã nhận thấy một số nét thay đổi ở anh. Người anh trắng trẻo và đẫy hơn, cách ăn mặc hơi chải chuốt. Bộ mặt đen đen hơi ngắn lại có đôi lưỡng quyền cao ngày trước, nay sáng ra và đầy đặn hơn. Nhưng tôi thấy anh già đi nhiều, không phải vì một vài nếp răn, mà vì những bóng tối đang tụ đầy trong mắt, trên vầng trán anh. Người bạn sôi nổi hoạt động không mấy khi chịu ngồi yên của tôi ngày trước, từ lúc nói chuyện với tôi đến giờ, vẫn dán chặt hai bàn tay xoè đủ mười ngón trên cặp đùi, như các cụ xưa kia ngồi chụp ảnh. Đầu anh nghiêng về một bên, đôi mắt nhìn không chớp vào một khoảng trống trên thềm đá hoa, không buồn ngẩng nhìn xem tôi ngày nay có thay đổi gì không.

Anh bắt đầu kể chuyện...

*

Trở về thủ đô, tôi là đứa con lâu ngày đi xa nay được quay về quê cũ. Nhưng hồi đầu tiếp quản, tôi không thể sao gần gũi hoà hợp với cảnh người ở đây được. Có ngày chủ nhật, ăn cơm sáng xong, tôi ngủ miết cho đến bữa chiều. Cũng có những ngày nghỉ, tôi tự giam mình trong hết rạp chiếu bóng này qua rạp chiếu bóng khác. Thà thế còn dễ chịu hơn tiếp xúc với những người xung quanh. Gặp họ, tôi bắt đầu lúng túng ngay vì những cái nghiêng mình thi lễ, những câu mời chào làm ra vẻ thân mật một cách rất không tự nhiên. Người ta cười lúc không cần phải cười. Người ta làm duyên làm dáng, cố ép cho những lời nói trở nên ngon ngọt và kéo dài, trong khi chỉ cần trao đổi với nhau rất chóng vánh một vấn đề thực tế. Nhiều lần sau khi gặp gỡ trao đổi với ai, tôi không tránh khỏi có cảm giác là những điều người đó nghĩ, có lẽ khác hơn những điều họ nói với mình. Vì thế, tôi một người ưa hoạt động, thích mở rộng sự quen thuộc, bỗng trở nên lầm lì, trốn tránh sự tiếp xúc với chung quanh.

Họ hàng thân thuộc ở đây, tôi chỉ có một bà cô ruột. Nhờ bà ta mà tôi được ăn học từ nhỏ ở Hà Nội. Nhiều lần trong kháng chiến, tôi đã nghĩ đến phút vui mừng cảm động, ngày thủ đô giải phóng trở về, gặp lại cô tôi. Nhưng từ sau chỉnh quân năm ba, điều đó không đặt thành vấn đề nữa. Không biết bà ta còn ở lại Hà Nội hay không, nhưng những khi đi lại,  tôi đều tránh qua phố C, nơi cô tôi ở cũ, để đỡ cho mình những suy nghĩ, những đối phó không cần thiết.

Hà Nội gợi cho tôi nhiều kỷ niệm cũ, nhưng đồng thời mang lại cho tôi những trống rỗng to lớn. Có lúc tôi vẩn vơ tiếc nhớ những ngày sống sôi nổi, hừng hực lửa chiến đấu từ chiến dịch này qua chiến dịch khác, trong thời kỳ kháng chiến. Tôi nghĩ đến một đồn biên phòng miền núi hay bờ biển xa xôi nào hiện nay, ngày ngày những chiến sĩ quất ngựa phi vào rừng vây bắt thổ phỉ, hoặc đứng trên đầu chiến thuyền lướt sóng dữ đuổi theo một chiếc chấm đen vừa xuất hiện trên mặt đại dương. Lẫn vào ánh sáng điện giả làm ban ngày, trăng đêm Hà Nội đỏ đục như ngọn đèn dầu lạc thắp trong chiếc đèn chai, làm tôi nhớ lại những đêm trăng sáng mùa gặt, chung sống với bà con nông dân, tâm hồn tôi nhẹ lâng lâng, bay trong ánh trăng cùng vòm cây cao lưa thưa vườn Bách Thảo, tôi không thể quên được cảnh rừng già hùng vĩ Việt Bắc, nơi tôi đã sống khá lâu với đồng bào miền ngược, những người chỉ nói rất ít mà tình cảm rất nhiều, tràn trề trong khoé mắt, tiếng cười.

Một hôm tôi chạm chán thằng con cô tôi trước một rạp chiếu bóng. Nó nhận ra tôi trước. Tôi phải nói dối là mới tới Hà Nội, chưa kịp về nhà cũ tìm cô. Nó nói mẹ nó đang có nhiều thắc mắc lo lắng, định đi Nam nhưng có người gàn nên dùng dằng. Tôi đành phải hẹn nó ngày một, ngày hai cố gắng về thăm nhà. Về đơn vị tôi hội ý câu chuyện với đồng chí thủ trưởng, với ý định để đồng chí đó xét, nếu thấy cần thiết, sẽ báo cáo với cán bộ công tác khu phố đó tới giải thích. Mấy hôm sau, đồng chí thủ trưởng nói chuyện với tôi một buổi dài. Cuối cùng, đồng chí đó khuyên tôi nên về gia đình gặp bà ta thăm hỏi tình hình, giải thích để cho bà ta ở lại. Đồng chí đó nói: "Đây không còn là việc riêng của gia đình đồng chí, mà là một việc nằm trong nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay: tranh thủ nhân dân với đối phương. Chúng ta có lập trường quan điểm, chúng ta không ngại sự tiếp xúc với bất cứ tầng lớp nào". Ban đầu tôi không muốn đi, vì với bà ta mình đã kiểm điểm xác định thái độ rồi, đi lại không có lợi. Nhưng sau khi nghe đồng chí thủ trưởng nói, đấy là một nhiệm vụ, tôi không có ý kiến gì nữa.

Sau thời hạn tập kết ba trăm ngày, tên lính Pháp cuối cùng đã rút vào Nam, bà cô tôi vẫn ở lại miền Bắc. Lúc này tôi đã có một số ý nghĩ mới về cô tôi... Khi còn ít tuổi cô tôi ở nhà quê làm ruộng với ông bà tôi. Sau vì có một ông chủ làm bồi cho tên chánh mật thám, cô tôi được đưa ra tỉnh. Không biết thế nào, ít lâu sau cô tôi lấy tên chánh mật thám già đó. Được mấy năm, tên cáo già này chết, để lại cho cô một đứa con nhỏ và gần chục toà nhà. Cô tôi ở vậy nuôi con. Nhờ vào thế lực cũ và những người bạn chồng, cô tôi xin được một cái đại lý độc quyền cho một hãng buôn bên Pháp. Bây giờ tôi về nhà, được cô tôi cho biết, suốt thời gian tạm chiếm cô tôi không buôn bán gì nữa, chỉ ăn chay niệm phật, sống xẻn so bằng số vốn liếng cũ và tiền cho thuê nhà. Như vậy thì thành phần tư sản mại bản của cô tôi, tới nay đã thay đổi rồi. Tôi đem trao đổi với một số đồng chí ở đơn vị. Mỗi người nói một khác. Tôi hỏi trên. Đồng chí thủ trưởng giả nhời: "Việc xác định thành phần giai cấp cho các tầng lớp nhân dân ở thành phố, hiện còn có nhiều điều phức tạp nên chưa thể có ý kiến dứt khoát thế nào. Đồng chí có đi lại tiếp xúc thì chủ yếu là do mình tự xác định lấy một thái độ đúng". Từ đó tôi thường đi lại nhà cô tôi.

Trong thời kỳ học tập, đấu tranh để dứt khoát tình cảm với cô tôi ngày trước, hình như những thiên kiến đã làm sự suy nghĩ của tôi lệch lạc đi. Hồi đó tôi đã tưởng tượng ra cô tôi như một mụ yêu tinh, ăn thịt người, rất nham hiểm. Con yêu tinh đó đã làm hư tôi bằng bao hơi thở độc của nó, mà trước kia vì học tập tôi không thể thấy được. Cảm giác này cứ đeo đuổi mãi trong đầu óc tôi. Tới nay, tôi thấy sự thật không đúng như thế. Dù muốn hay không tôi cũng phải nhận thấy, mỗi ngày một rõ, là cô tôi rất thương yêu tôi, một thứ tình thương yêu ruột thịt không kèm theo tính toán gì cả. Tôi nghĩ lại, trước kia cô tôi nuôi tôi ăn học, chẳng qua cũng chỉ vì tấm lòng thương thấy mẹ tôi nghèo, nhiều con, và thương tôi, chứ tuyệt không phải vì quan hệ bóc lột gì. Một số lời bàn tán xì xào của chung quanh làm tôi không vừa lòng. Tôi nghĩ sự học tập một chiều và chưa sâu sắc, đã làm cho các đồng chí chúng ta nhìn vấn đề rất thiển cận, cứng nhắc, hay chụp mũ lung tung. Im đi thì khó chịu, nhưng nói ra lại rắc rối thêm. Nếu các đồng chí đó không thông cảm, đầu tôi sẽ phải mang nặng hàng tá mũ. Ngày chủ nhật tôi đã có chỗ đi lại. Nhưng mỗi khi dắt chiếc xe đạp ra cổng hoặc về nhà, tôi có cảm giác chung quanh đã nhìn tôi bằng cặp mắt khang khác. Chẳng thế nào tránh được ở họ ý nghĩ: "Thằng này đã bén mùi tư sản rồi đây!". Tôi thấy rất phiền... Nhưng thôi kể mãi làm gì chuyện đó. Tôi phải đi vào phần chính của câu chuyện.

Nhà cô tôi là nơi tôi đã được gặp Huyền. Thím Huyền thường sai Huyền đến mời cô tôi đi lễ. Tôi còn chưa quen với lối ăn mặc điểm trang của các cô ở Hà Nội. Ngày tôi ở đây đi kháng chiến, phụ nữ uốn tóc còn rất ít. Tôi rất tiếc cho những mái tóc dài óng mượt như suối chảy, êm đềm như liễu rủ, nay bị cắt cụt đi, làm quăn lên, rối bù xù, lạc lõng với khuôn mặt dịu dàng và thứ quần áo dài tha thướt của phụ nữ chúng ta. Sao người ta lại bắt trước phụ nữ châu Âu một cách lố lăng? Người phương Tây vốn sinh ra đã có mái tóc quăn; bộ tóc cắt ngắn kia chỉ thích hợp với lối phục sức ngắn gọn và thân hình khoẻ mạnh của họ. Tôi khó chịu khi thấy mấy năm gần đây ở Hà Nội, người ta đã kéo thêm mấy phân cổ áo dài, bắt chước cổ áo người Trung Quốc. Sao lại dại dột đi che kín cái cổ nuột nà, đôi khi có những đường ngấn mà tôi thấy không một thứ kiềng, dây truyền nào, có thể làm cho đẹp hơn. Những người đàn bà nhan sắc quá phai lạt phấn son đôi chút, tôi còn thấy có thể tha thứ được. Nhưng những cô, còn con gái, mà đánh phấn bôi son, thì từ trước đến giờ tôi vẫn không thể nào ưa. Gặp họ tôi cứ phân vân không hiểu họ đẹp hay xấu, bộ mặt thực của họ ra sao? Tôi đã nhiều lần bị lừa. Bộ mặt mỹ lệ trên sân khấu cả đêm hôm trước đã làm tôi say mê, sớm hôm sau, các màu sắc, đường nét tươi đẹp bay đi đâu mất cả, chỉ còn lại bộ mặt thật nhạt nhẽo trơ trẽn. Những lúc đó tôi bực mình như người mất nhiều tiền mà mua phải của giả. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên sống với nhau cho thực thì hơn. Những cái miệng xinh đẹp non nớt của các cô lại luôn luôn có thể nói những câu rất chối tai... Vì vậy nên gặp Huyền những buổi đầu, tôi không hề để ý.

Đã nhiều lần cô tôi hỏi tôi về việc xây dựng gia đình. Tôi chỉ ừ ào cho qua chuyện. Thực ra, việc đó gần đây tôi hầu như phải luôn luôn nghĩ tới. Tìm vợ giữa một thành phố mới giải phóng, nhiều vấn đề còn rối beng lên, không phải dễ. Tôi cũng đang nhắm một người... Đó là cô con bà láng giềng với anh bạn tôi ở một xóm lao động. Cô ta khoẻ mạnh dễ thương, có cặp má lúc nào cũng đỏ mọng như quả nhót chín, tưởng chừng chỉ lẫy khẽ một mũi kim vào đôi má ấy là nước ngọt sẽ tứa ra. Cô có một anh trai đi bộ đội. Khi còn kháng chiến cô ở nhà quê làm ruộng, giờ về đây đi làm công trường. Từ chỗ biết nhau, tôi thấy còn xa lắm. Về mặt này, tôi rất vụng. Hàng bốn năm tuần lễ đi lại, chúng tôi vẫn chưa trao đổi được với nhau gì hơn mấy câu chào hỏi. Tôi định nhờ anh bạn, nhưng người bạn này cũng không thân lắm, nên lúng túng mãi chưa nói ra được. Chuyện còn đang linh tinh, chưa đâu vào đâu, tôi biết nói thế nào với cô tôi.

Một hôm cô tôi hỏi:

- Cô nghe nói bộ đội không được lấy con gái vùng địch phải không?

- Làm gì có điều đó ạ. Hết Pháp thì còn đâu phải phân biệt vùng tự do với vùng địch. Xây dựng gia đình với người vùng nào là tùy ý mình lựa chọn. Cấp trên chỉ yêu cầu có một điều: không được lấy những người hiện nay đang làm những việc hại dân, hại nước... - Tôi mỉm cười nói tiếp: và những người lấy chồng vài ba tháng, không chịu được xa nhau, xui chồng giải ngũ về nhà.

- Người ta lấy các anh chỉ vì quý các anh là bộ đội, khi nào người ta lại xui bỏ bộ đội mà về?

- Nếu không như thế, thì được thôi cô ạ... - Tôi giải thích để cô rõ thêm là không có sự phân biệt đối xử, giữa người ở tự do trước và vùng mới giải phóng bây giờ.

Nhưng cuối cùng cô tôi vui vẻ bảo tôi:

- Thế tôi hỏi cho anh một đám nhé! Được cả nết lẫn người. Gia đình ấy nền nếp lắm, lại chẳng có ai đi lính tráng, đi Pháp đi Nam gì cả. Anh không phải bận tâm, phải mất thời giờ gì. Bên ấy với tôi là bạn thân, hễ xin là được ngay. Cưới về để nó ở đây với tôi, anh cứ yên tâm mà công tác... Liệu các ông trên có đồng ý không?

- Cấp trên thời không có gì cản trở. Nhưng cháu đã biết ai với ai mà giả nhời cô được.

- Đấy! Cái con bé hay mặc áo mầu cẩm thạch vẫn đến đây đấy! Tôi xin bà bên ấy nhất định được.

Vấn đề đặt ra đột ngột làm tôi lúng túng. Hôm đó tôi tránh giả nhời dứt khoát thế nào. Về nhà tôi suy nghĩ rất nhiều. Hai tuần lễ sau liền, tôi đến nhà anh bạn ở xóm lao động. Cả hai lần đều không gặp Lý. Việc của công trường đang gấp nên Lý đi làm cả chủ nhật. Tuần sau nữa, tôi trở lại nhà cô tôi. Vừa gặp Huyền dắt xe đạp trong nhà bước ra. Lần này gặp Huyền, tôi bỗng thấy đầu óc bối rối. "Anh!" Tiếng chào của Huyền như một tiếng đàn dương cầm thánh thót ngân vang mãi bên tai tôi. Tôi nhìn theo tà áo xanh bay múa, thân hình khoẻ mạnh của Huyền uyển chuyển trên chiếc xe đạp, đến khi Huyền khuất vào cuối phố. Vào đến nhà, tự nhiên tôi bước tới trước tủ gương. Tôi tiếc rằng mình sớm nay đi quên chưa cạo mặt, và bộ quân phục mặc từ hôm qua đã bị nhầu nát quá nhiều.

Từ hôm đó tôi bắt đầu để ý đến các cô gái ở Hà Nội. Tôi chú ý theo dõi cuộc thảo luận về áo ngắn áo dài trên báo, và dần dần thấy chiếc áo cộc thật ra không thích hợp lắm nếu dùng để đi chơi trên đường phố thủ đô. Tôi lại nhận thấy, nếu ta ngồi chơi mát ở vườn hoa, mắt ta có thể bỏ qua nhiều bóng áo cộc, nhưng không thể nào bỏ qua được một bóng áo dài. Những tà áo nhiều màu sắc đó, như cánh thuyền buồm trên mặt biển, thu hút cặp mắt ta từ xa, buộc ta phải nhìn cho đến lúc nó tới gần. Tôi cũng không thấy khó chịu lắm nữa với những mái tóc uốn cắt ngắn. Rồi tôi cũng nhận ra rằng: Có những khuôn mặt nếu thêm vào mái tóc uốn thì xinh càng thêm xinh. Tôi cho là mình giống như người đi xa, lâu ngày ở nơi non cao rừng rậm, về nhà thấy khu vườn cũ hoa lá được chăm sóc, xén tỉa gọn gàng tươi đẹp, chưa quen mắt tưởng như đó không phải là vườn của mình; nhưng ngày nay đã nhận thấy đúng là vườn nhà mình, thì muôn hồng nghìn tía lại rực rõ tươi đẹp như xưa. Mới hay những thói quen thường làm cái cảm cái nhìn của ta lệch lạc đi.

Chung quanh tôi, nhiều bạn bè cũng đang có những chuyển hướng mới trong việc xây dựng. Họ nói chuyện tới trường học, tới đường phố, nhiều hơn là nhắc tới nông thôn, tới công trường như trước kia. Tôi được nghe nhiều chuyện chạy đuổi ráo riết, nhiều thành công, nhiều thất vọng. Các nhà cho thuê cưới, ngày đêm chật ních người. Tôi luôn luôn nhận được những lá thiếp mời có hai chữ đầu tiên lồng vào nhau và đôi chim bồ câu Hòa Bình. Chiều thứ bảy, chật vật và may mắn lắm mới giành cho mình được chiếc xe công của cơ quan. Tôi bắt đầu lấy làm lạ không hiểu sao, những ngày nghỉ trước kia, mình có thể ở nhà cả ngày. Màu sắc, âm thanh của đường phố đã làm tôi, nếu phải xa ít ngày, rất nhớ. Hoàn cảnh xung quanh càng thôi thúc tôi sớm quyết định hướng lựa chọn của mình. Tôi thấy có nhiều may mắn hơn các bạn bè xung quanh... Tôi chỉ cần nói ra một nhời thôi, là có thể làm chủ ngay một đóa hoa mà nhiều người đang mơ ước, đang phải lật đật vất vả cũng chưa gần được kia.

Tôi tìm hiểu thêm về Huyền và gia đình. Huyền có một hoàn cảnh gần giống tôi ngày xưa. Bố mẹ chết sớm, Huyền phải ở với chú thím. Nuôi Huyền từ nhỏ nên chú thím thương Huyền như con đẻ. Nhà bận bán hàng tạp hóa, Huyền phải thôi học từ ba năm nay. Tôi phân vân cân nhắc một thời gian... Huyền là con gái mới nhớn lên, thiếu tình thương của bố mẹ đẻ, văn hoá kém, lại ở trong một gia đình buôn bán thường, như vậy sự tiêm nhiễm những cái xấu, cái rởm của xã hội này, có thể hạn chế hơn. Huyền còn ít tuổi, mới 19, kém tôi gần chục tuổi. Với cái tuổi non nớt ấy, nếu tư tưởng có gì lệch lạc, điều mà tôi lo nhất, tôi tin mình giáo dục được. Về hình thức, được quá đi mất rồi. Có những đồng chí tài hoa, hình thức hơn tôi, mê mệt những cô mà tôi thấy còn kém Huyền xa... Cân nhắc mọi mặt như vậy, tôi thấy được. Và tôi bắt đầu lo, nửa tin nửa ngờ, không biết cô tôi có thể làm được điều đã nói với mình không.

Cô tôi không chủ quan lắm. Gia đình Huyền được cô tôi giúp đỡ nhiều, nên với cô tôi rất vì nể. Với đơn vị, lại gặp được lúc tình hình sai lầm cải cách ruộng đất chỉnh đốn tổ chức đang gây nhiều rối ren, việc xây dựng gia đình của tôi, đáng nhẽ với mọi khi cũng còn phải điều tra đi lại khá lôi thôi, nay được giải quyết dễ dàng. Nhờ sự mối manh, giúp đỡ trong việc hỏi cưới, một tháng sau khi trả nhời cô tôi, chúng tôi đã thành vợ chồng. Hạnh phúc đến với chúng tôi khá đột ngột.

Tình yêu đúng như người ta nói, có những phép mầu nhiệm kỳ lạ... Nó chắp cho người ta những đôi cánh mới, bay rất cao rất xa, bay vào cõi thần tiên của những giấc mơ. Có thêm Huyền, những nơi chúng tôi chung sống như đều xây trên những đám mây, làm cho tôi cảm thấy bỡ ngỡ, đi, đứng, ngồi, nằm thấy nhẹ lâng lâng. Huyền là cả một thế giới mới. Huyền đã đem lại cho tôi những hạnh phúc mà mười năm trời nay, kẻ thù đã cắt xén của tôi.

Cuộc sống đẹp đẽ như giấc mơ, thì những giấc mơ thật, đã làm tôi nhiều lần kinh hãi. Một lần tôi mê thấy Huyền đang nằm bên cạnh mình, chúng tôi đang say mê âu yếm nhau, chợt Huyền vụt biến đi đâu mất. Trong giấc mơ tôi lại nghĩ thôi đúng mình đã gặp Huyền trong một giấc mơ nào. Huyền không thể có ở cõi đời. Vì cõi đời không thể có nhiều hạnh phúc như vậy. Tôi là bộ đội, đời tôi là đời chinh chiến, tôi còn phải vác gạo leo đèo những ngày nắng mưa đói rét, đi để diệt quân thù. Trời đất xung quanh bỗng sa sầm mặt lại. Gió quần quại thở dài trên những rặng cây ven hồ... Cơn gió lạnh thực của đêm đông làm tôi tỉnh giấc. Tôi ngơ ngác nhìn chung quanh... Đèn điện bên ngoài hắt qua cửa kính một ánh sáng mờ mờ. Rõ ràng là căn buồng của tôi. Và Huyền vẫn nằm bên tôi. Bấm vào đùi, thấy đau. Tôi mừng rỡ nhận thấy cuộc đời thực của tôi vẫn đẹp vô cùng. Giữa lúc tôi đang nằm yên lặng lẽ để tận hưởng phút vui mừng sung sướng của mình, thì Huyền quờ tay sang người tôi. Thấy tôi nằm hở ra ngoài, nàng kéo chăn đắp cho tôi. Tôi nắm chặt tay nàng đưa lên miệng hôn, rồi ôm chặt lấy nàng và nói: "Anh cảm ơn em đã mang lại hạnh phúc cho anh. Em là nàng tiên đừng bao giờ bay khỏi tay anh nhớ!" Tôi cứ muốn được sống mãi mãi những phút như thế. Có đêm tôi vờ mê ngủ đạp chăn tuột ra để chờ nàng đắp lại hộ. Không may đêm đó nàng ngủ say. Tôi cố gan nằm lạnh và thức hơn một giờ đồng hồ. Cuối cùng tự cười mình, và kéo lấy chăn đắp cả cho tôi và cho nàng.

Mười năm trời sống tập thể ở đơn vị, mỗi khi ăn cơm chúng ta đã quen vác bát chạy từ đầu bàn đến cuối bàn để xới, thay một bộ quần áo, phải tính từng phút tranh thủ giặt phơi... Bây giờ, bát cơm vừa và hết đã có một bàn tay yêu dấu đón ngay lấy xới, đơm, và đưa lại tận tay mình; quần áo buổi sớm thay ra để đó, buổi chiều đã thấy thơm tho nằm vuông vắn ở góc giường. Chỉ có những người đi bộ đội lâu ngày, lăn mình trong khói lửa, chưa hề biết đến chút hạnh phúc gia đình, mới tận hưởng được những cái vui mà tôi được hưởng.

Suốt thời gian nghỉ phép, tôi không muốn xa nàng một phút. Gần bên nhau đã tận hưởng sự yêu đương rồi, xa Huyền tôi càng thấy yêu Huyền thêm. Có thể nói không lúc nào tôi không nghĩ đến Huyền, không một sự việc thay đổi nào không làm tôi liên tưởng tới Huyền. Tôi thầm cảm ơn cô tôi, người đã tác thành cho tôi, đã mang lại cho tôi hạnh phúc ngày nay. Đêm chủ nhật về đơn vị đã mong cho thứ bảy chóng đến. Ngày thứ bảy đến là tôi bồn chồn ruột gan. Tôi mong gặp nàng đến nỗi trong óc tôi hiện ra bao nhiêu tai ương... Có thể lát nữa tôi bị ốm, có thể lát nữa trời sẽ mưa to, gió thật lớn, có thể hôm nay cô tôi đã sai nàng đi một tỉnh xa nào... Tôi nghĩ rằng sao mình lại có thể có hạnh phúc gặp được nàng tối nay... Tuy vậy, không phải vì thế mà tôi bê trễ công tác. Nàng có ngự trị trong đầu óc tôi, chiếm một số khá lớn thời gian. Nhưng nàng đã mang lại cho tôi một tâm hồn nhẹ lâng lâng, không chút gợn, nó giúp cho tôi làm mọi công việc không biết mỏi và với một nguồn vui. Thường ngày tôi hay đùa, lại dễ cáu vì sự đùa nghịch của anh em. Nay tôi bỗng trở thành tươi vui, không chớt nhả, dễ tha thứ với chung quanh, và giầu lòng thương những đồng chí đang buồn chuyện gia đình. Tình yêu đã làm cho tôi tươi, tốt hơn lên.

Dần dần tôi bỗng nhận thấy một điều... Sao Huyền ít nói quá, và ít bộc lộ tình cảm? Tôi không dám nghĩ là nàng có một thái độ lành lạnh. Trước khi lấy nhau, chúng tôi chưa bao giờ chuyện trò với nhau ngoài vài câu chào hỏi. Lấy nhau đã khá lâu, vẫn thấy nàng không tâm sự, không bộc lộ thứ tình cảm gì đặc biệt. Thái độ này lúc đầu chính ra đã làm tôi tin tưởng nàng hơn. Không phải chỉ là vì tôi thích những người kín đáo thuỳ mị, mà tôi thấy thái độ đó nói lên cái e thẹn, cái trong sạch của một người con gái còn ngây thơ, chưa đụng chạm với đời, với đàn ông. Nhưng bây giờ đã thành vợ chồng, sự yên lặng đó vẫn kéo dài, làm tôi cảm thấy đôi lúc, hay nàng có một tâm sự gì riêng chưa thoải mái, hay nàng chưa yêu tôi lắm. Tôi đã khêu gợi nàng về chuyện đó. Nhưng càng gạn hỏi tôi thấy hình như càng gây cho nàng thêm khó chịu. Tôi nghĩ lại, có khi sự khó chịu này do tại nàng buồn vì thấy tôi đã ngờ vực tình yêu của nàng đối với tôi. Riêng những khi xác thịt gần nhau, thì tôi thấy nàng bộc lộ ra với tôi rất hoà hợp, rất say sưa. Hai mươi tám tuổi đầu, tôi vẫn rất bỡ ngỡ về sự chung đụng nam nữ. Trước khi lấy vợ, tôi nghĩ rằng người ta chung đụng với nhau như vậy trong sự hổ thẹn của hai bên. Nhưng ngày nay tôi đã nghĩ ra, trong tình yêu của vợ chồng, người ta bộc lộ với nhau những tình cảm, những khát khao yêu đương bậc nhất. Và tôi thấy nàng đã bộc lộ với tôi rất nhiều tình cảm... Sao tôi lại tự mua lấy những thắc mắc suy nghĩ: nàng có yêu tôi hay không?

Sự đi lại ra vào doanh trại của cán bộ được quy định rộng rãi hơn, tôi năng có dịp tạt qua nhà. Trong những khi đi về bất chợt này, tôi rất ít gặp Huyền. Điều này làm tôi phải nghĩ ngợi. Một hôm về nhà không gặp Huyền, tôi đi tìm nàng. Tôi đến nhà một người bạn Huyền ở Phố Huế, người đã đến xin phép cho Huyền cùng đi chơi sớm hôm nay. Đứa em cô ta cho tôi biết Huyền không đến đây, và chị nó sáng đi chơi có một lúc đã về nhà ngay. Tôi gặp cô ta, hỏi Huyền đâu, thái độ cô ta hơi lúng túng. Sau cô ta nói:

- Sáng em đến rủ Huyền ra mậu dịch. Huyền tìm không thấy hàng áo nên lại lên Hàng Đào. Còn em về nhà để thổi cơm.

Buổi tối hôm đó, tôi được phép về nhà. Khác mọi khi, tôi ít nói chuyện, lên giường nằm, mở một quyển tiểu thuyết ra đọc. Những dòng chữ nhẩy múa trước mắt. Tôi cố chịu đựng, giở hết trang này qua trang khác, cốt chờ xem trước sự thay đổi của mình như vậy, Huyền sẽ có thái độ như thế nào. Tôi chỉ mong Huyền chạy đến bên, ngước mắt nhìn âu yếm hỏi tôi một câu: "Anh làm sao thế?". Chỉ một câu thôi, buồn giận của tôi sẽ tiêu tan. Nhưng Huyền vẫn lạnh lẽo và có vẻ không quan tâm gì hết. Tôi càng tức già.

Nhà tắt đèn đi ngủ. Nằm yên lặng một lúc lâu, tôi hỏi Huyền bằng một giọng khô ráo:

- Sáng này em đi chơi đâu?

- Em đến nhà Cúc chơi, định mượn nó mấy quyển chuyện về đọc.

Tôi như người bất thần bị rơi xuống một bể nước lạnh. Vì sao Huyền phải nói dối tôi? Tôi nghĩ đến thái độ của Huyền và sự hay vắng nhà của Huyền từ trước đến giờ. Một cái gì chẹn lấy cổ họng làm tôi nghẹt thở. Tôi không nói được nữa. May mà đèn đã tắt, Huyền không nhìn thấy sự thay đổi trên mặt của tôi lúc đó. Một lát sau, tôi cố giữ giọng nói cho bình tĩnh:

- Có việc gì mà em nói dối anh? Anh biết sớm nay em không đến nhà Cúc.

Huyền hơi lúng túng nhưng vẫn cố cãi:

- Thế thì anh bảo em đi đâu?

- Em đi đâu, anh không biết. Nhưng không phải em đến nhà Cúc. Sớm nay anh về không thấy em, anh đến nhà Cúc tìm. Cúc bảo có đến nhà ta rủ em đi, nhưng mỗi người đi một nơi.

Huyền nằm im. Tôi đã biết rằng cả Huyền và Cúc đều nói dối mình. Chắc họ định dấu diếm tôi một cái gì. Tôi đoán là Huyền đang bối rối, tôi nói tiếp:

- Anh rất tin em, anh không muốn bao giờ em nói dối anh. Bây giờ em đã là vợ anh, em phải khác với lúc còn là con gái. Anh không muốn em đi chơi nhiều. Em hãy nói cho anh biết: Em hay lui tới những nhà ai? Làm gì? Anh cần biết để giúp đỡ em.

Lời nói của tôi lúc đó có lẽ nghiêm khắc quá làm Huyền phát cáu:

- Làm gì mà tra hỏi như quan toà thế? Ai cũng có bạn. Ai cũng có tự do.

- Anh không cấm đoán tự do của em. Nhưng anh là chồng em, anh cần phải hỏi em những điều liên quan đến hạnh phúc của chúng ta.

- Bố mẹ tôi sống lại cũng không kiềm chế được tôi. Chỉ có anh biết giữ hạnh phúc. Hạnh phúc nào cũng phải có tự do.

Lời qua tiếng lại xô xát như thế một lúc, tôi tung chăn đứng dậy mặc quần áo bỏ đi ra ngoài. Huyền không giữ tôi lại.

Đường phố về khuya đã vắng. Rét luồn qua quần áo bò vào thân thể, làm tôi cóng buốt. Cuối phố lập loè ngọn lửa ấm của gánh phở rong. Hơi lạnh làm dịu dần ngọn lửa giận đang bốc cháy trong đầu tôi. Tôi đút hai tay vào trong túi quần, nghiến chặt hai hàm răng lại để chống với cái lạnh đêm đông, bước chầm chậm trên vỉa hè. Một cặp vợ chồng mặc quần áo ấm to xù, chắc đi xem hát khuya về, ngồi sát cạnh nhau bên bếp nước dùng phở, lửa cháy bập bùng. Tôi nhớ lại những đêm ấm cúng của vợ chồng tôi trong những ngày qua. Tự nhiên tôi hối hận về những lời nói, những cử chỉ của mình ban nãy. Chắc vì thái độ quá gay gắt của tôi nên Huyền bực mình. Nếu Huyền có điều gì ám muội, tôi chắc Huyền không dám có thái độ bực dọc, gần như hỗn xược với tôi như vậy. Tôi thầm trách tính nóng nảy của mình. Mỗi lần nóng xong lại thấy mình dại, lại thấy đã gây ra những việc đáng tiếc. Tôi ái ngại cho Huyền đêm nay nằm một mình, chắc không ngủ được, và sẽ rấm rứt khóc vì những lời lẽ quá tàn nhẫn của tôi. Tôi nhớ tới cái má ấm và hơi thở nóng hổi của Huyền. Hai bàn chân tôi bỗng dừng lại trước một ngã ba đường... Về doanh trại bây giờ đã quá khuya, giấy tờ lôi thôi, lại mất giấc ngủ anh em. Đến nhà một vài người bạn thân, chắc họ cũng đã ngủ từ lâu. Chả nhẽ lang thang suốt đêm lạnh giá rét như thế này? Nghĩ ngợi một lát tôi quay người... và hăm hở bước trở về nhà.

Huyền ra mở cửa. Hơi lạnh ùa vào làm nàng run lẩy bẩy. Tôi ôm chầm lấy Huyền và hôn như mưa trên mặt nàng: - "Em đừng giận anh. Tính anh đôi khi có những phút nóng nảy như thế". Một lát sau chúng tôi đã nằm ấm áp trong chăn. Gió hú từng hồi trên mái nhà. Những chuyện ban nãy hầu như đã quên hết. Huyền ghì chặt lấy tôi nhiều lúc như điên như dại. Chúng tôi đã rời khỏi tay nhau, đang nằm yên lặng để tận hưởng những giờ hạnh phúc vợ chồng. Chợt Huyền hỏi tôi:

- Sao anh khoẻ thế?

- Chỉ vì anh yêu em quá đấy thôi.

Huyền yên lặng một lát, lại nói tiếp:

- Bộ đội các ông "cây quỳnh"!

Một luồng máu nóng bốc lên thái dương, tôi hỏi:

- Sao em lại nói thế?

- Nói thực thế đấy! Nhiều đứa nó nói, chả riêng gì em.

- Vì sao, em nói anh nghe đi...

Tôi gạn hỏi một lúc, Huyền mới giả nhời:

- Hôn chả có một tí tình cảm! Kém tụi thanh niên Hà Nội xa.

Những ý nghĩ nóng bức ở đâu lại rầm rầm kéo về cả trong đầu óc tôi.

- Bao nhiêu thanh niên đã hôn em rồi?

Huyền nghĩ rồi nói bằng một giọng rất liều:

- Đứa nào mà hôn được!

- Nếu không sao em biết mà so sánh? Lại thêm một lần nữa em nói dối anh. Anh không ghen đâu. Em cứ nói thực đi.

Bị tôi dồn mãi, cuối cùng Huyền nói:

- Thì nói thực!... Nói thực là không đứa nào hôn được em vì em chưa yêu ai cả. Kể cả anh em cũng không yêu.

- Không yêu sao lại lấy anh?

- Không lấy anh thì phải lấy người khác. Người khác em cũng không yêu. Lấy anh là bộ đội thì không sợ bị lừa. Chúng nó bảo: Trông anh "cà tể" lắm không thể "mê" được. Em vẫn không thấy yêu anh đâu.

Sau khi nghe Huyền nói thế, tôi đau đớn nằm lặng đi, thức cho đến sáng. Huyền thỉnh thoảng lại gác chân gác tay lên người tôi, tôi không thấy rung động gì nữa. Từ khi lấy nhau đến giờ, thực ra nàng đối với tôi chỉ hoà hợp được trên mặt xác thịt này. Tôi bắt đầu hiểu được thái độ lạnh lẽo và sự hay vắng nhà của Huyền. Những săn sóc một đôi khi nàng có đối với tôi phải chăng, chẳng qua chỉ là những hành động thông thường của một người vợ đối với chồng, dù không yêu...

*

Người chủ hiệu giải khát đã cất "phin" và thêm nước sôi vào hai cốc cà phê. Anh bạn cũ của tôi không nói chuyện nữa. Nhưng chỉ nhìn nét mặt và dáng người của anh, tôi thấy lúc này anh đang nói với tôi rất nhiều. Tôi đã được chứng kiến nhiều vẻ buồn... vẻ buồn của người chiến sĩ sau một trận đánh không hoàn thành, vẻ buồn của người mẹ có con chết trận, vẻ buồn của người nông dân khi ôn lại quãng đời cực khổ của mình... Tất cả những thứ buồn ấy tôi thấy nó đều còn pha ít nhiều chút sinh khí. Nhưng anh bạn tôi lúc này đang buồn một cách đổ sụp, giống như một tầu lá đu đủ úa vàng, cả người anh đều rũ xuống. Tôi cần phải hiểu rõ thêm câu chuyện của anh, tuy biết rằng như vậy sẽ chạm vào vết thương đau đớn nhất của anh. Tôi hỏi:

- Bây giờ thì ra sao?

Anh chưa nghe rõ, ngước nhìn tôi bằng một cặp mắt khẩn khoản:

- Hôm nay cần có cậu đi với mình. Cậu đã bảo không bận mà!

- Ừ, không bận. Nhưng mình muốn hỏi chuyện đó sau ra sao?

Anh khe khẽ gật đầu, và một lát lại kể tiếp...

Đêm tôi vừa kể trên, đã đánh một cái mốc bắt đầu bước ngoặt mới của cuộc đời vợ chồng chúng tôi. Tôi đã nhìn thấy rõ Huyền hơn. Nàng cũng biết thế, nên cứ thế mà sống với tôi, mỗi ngày một quá quắt hơn. Tôi không thể tưởng tượng được một người con gái ít tuổi, sống trong một gia đình nền nếp, có cái bề ngoài ngây thơ đã làm cho tôi lúc đầu đánh giá nàng như một tấm gương thật trong, chưa bị phả mờ chút hơi thở của cuộc sống, nhất là hơi thở của một người con giai, bây giờ lại bộc lộ ra một cách lạ lùng như vậy. Nàng nói vì sao đã lấy tôi: "Em không kết lấy bộ đội đâu, người lúc nào cũng như cây gỗ, trông thực mất cảm tình. Nhưng cũng có đứa nó khuyên em nhà cô anh giàu, không phải vất vả, lại không phải làm dâu vì bố mẹ anh đã mất, anh lại xa nhà luôn, tha hồ tự do. Một phần tại thím em, không lấy cũng không xong. Mới tí tuổi đầu thế này, em biết gì chồng với con". Tôi đã phải đi hầu hết các hiệu sách ở Hà Nội, mới kiếm mua được bức tranh hai em bé ôm chim bồ câu, mang về dán ở đầu giường. Nàng đã lột đi lúc nào không biết và bảo với tôi! "Chưa con cái gì cả đâu! Có con bây giờ coi như hết đời. Bao giờ ba mươi tuổi mới đẻ. Anh phải làm cách nào vợ chồng gần nhau không có con mới được. Nếu không thì đừng gần nhau nữa. Anh cần "giải quyết" em đưa anh đi nơi khác. Em biết khối đĩ quý phái". Thấy tôi gần đây năng tạt về nhà, nàng bảo: - "Anh đừng lo. Trẻ tuổi thì ham chơi thôi. Lấy chồng rồi không để chồng mọc sừng đâu. Nếu hư thì anh có về nhiều hơn nữa, anh cũng không giữ được. Chỉ cần buổi trưa đi vắng nửa tiếng là đủ rồi... Nghe nói vợ ngoại tình hay tìm cách hại chồng phải không anh?". Có khi nàng hỏi tôi những câu rất lạ: "Anh này, nếu bây giờ ở ta lại xẩy ra những vụ như ở Hung-ga-ri, anh có sợ bị phản động treo cổ không?...".

Những chuyện đó như là những tảng đá lớn choảng vào màng dây thần kinh của tôi, làm tôi bị hết choáng váng này qua choáng váng khác. Tôi hiểu rằng ngoài cuộc sống ở gia đình với cô tôi và tôi, Huyền còn có một cuộc sống rất khác, ở nơi khác, khá phức tạp và nguy hiểm. Ở đấy chắc rằng nàng sống thực và thoải mái. Huyền đã xa tôi không riêng về tình cảm mà còn nhiều mặt khác nữa... Có lúc tôi thấy nàng giống như một con sâu róm, tôi ghê tởm những sự chung đụng với nàng; mỗi lần gần gũi nàng là những lông độc ghê gớm của con sâu róm đó xuyên vào da thịt tôi nhức nhối, thành ung thành nhọt. Chúng tôi không thể chung sống cùng nhau được... Tôi đã được rèn luyện mười năm bằng gió lửa, mưa thép kháng chiến, tôi không còn là người học sinh ngày đầu bỡ ngỡ bước vào cuộc cách mạng. Còn Huyền, nàng thấp kém quá, nàng không thể là vợ một người quân nhân cách mạng như tôi. Chúng tôi là hai thế giới không thể nào gần nhau được. Tôi lại nghĩ giá mình cứ kiên tâm theo đuổi Lý... ít nhất tôi cũng không phải chịu những đau đớn như thế này... Tôi đã ghìm mình ở đơn vị suốt một tuần không tạt về nhà. Nhưng chỉ được một thời gian... Tâm hồn tôi bị dầy xé mãnh liệt. Càng cố quên nàng, nàng càng hiện lên rực rỡ hơn trong đầu óc tôi, với một sức mạnh cuốn hút lạ thường. Nếu lúc đó nàng ở trước mặt tôi, thì tôi sẽ như một con thiêu thân lao vụt mình vào lửa. Huyền có những cái mà Lý không thể có được. Trước kia Lý đã có bao giờ làm tôi say mê thế này? Có lúc tôi thấy Huyền như một nàng tiên có cánh, đang dần dần bay xa mình, hương sắc vẫn còn thoảng lại làm tôi ngây ngất. Tôi lại nhìn thực tế: Hiện nay Huyền vẫn là vợ tôi, tôi vẫn là chồng nàng, và tôi có thể giữ không để bao giờ nàng xa tôi được. Trong những ngày đau đớn đó, tôi cảm thấy đã yêu nàng quá mất rồi. Đời tôi, đây là lần yêu đầu. Tôi sẽ không chịu nổi sự đau đớn, nếu tôi phải xa nàng. Thế rồi tôi lại về nhà. Đầu óc tôi nhiều lúc như điên như cuồng. Còn nàng, vẫn như một con bướm nhởn nhơ trước mắt.

Mặc dầu tôi khuyên bảo, nàng vẫn đi chơi rất nhiều, và không bao giờ chịu nói cho tôi biết nàng chơi ở những nơi nào. Bảo nàng không được, có lần tôi giận dỗi bỏ về đơn vị trong ngày nghỉ. Nhưng sau biết làm như vậy là dại. Tôi vắng nhà lại càng thuận lợi cho việc nàng đi chơi.

Một buổi trưa chủ nhật, tôi nằm nhà bị thiếp đi trong một giấc ngủ khá dài, tỉnh giấc, không thấy nàng đâu. Hỏi u già, biết nàng đi chơi từ lúc tôi mới bắt đầu ngủ. Khi Huyền về, tôi thấy hôm nay nàng đánh phấn. Nhìn kỹ mặt nàng, tôi bắt gặp một vết ố trên má phải. Tôi hỏi nàng:

- Ai vừa mới hôn em?

- Ai hôn?

- Đừng chối nữa, bên má bên này.

- À! Có. Con bạn em nó đùa.

- Em đừng nhẹ dạ...

- Em không bao giờ nhẹ dạ.

- Không nhẹ dạ thì đúng là em đã cố tình.

- Ừ thì mấy thằng cà lơ nó hôn đấy. Tôi không yêu anh. Anh tồi lắm!

Tôi chồm lên:

- Cô nhắc lại câu cô vừa nói!

Chừng như thấy thái độ tôi lúc đó dữ tợn quá, nàng vội đổi giọng:

- Sao em nói anh lại không tin? Con bạn nó đùa. Em đã nói rồi anh cứ tra hỏi mãi.

Nghĩ đến mình là bộ đội, tôi cố nén cái giận trong đầu. Cũng may lúc đó nàng không dám nói câu gì láo xược nữa. Thái độ của tôi hôm ấy làm nàng e sợ được ít ngày. Nhưng rồi đâu lại vào đấy. Nàng thì hình như không thể kìm nổi những cá tính, những ham thích của mình mà tôi không đem lại được đầy đủ. Còn tôi, không thể lúc nào cũng cứng rắn với nàng như hôm đó.

Tôi thấy phải tìm hiểu thêm về nàng. Người ta bảo nàng lắm bạn, và hay đàn đúm chơi bời. Nhưng không ai nói cho tôi biết những điều cụ thể hơn. Tôi cố tìm đến một số bạn bè của nàng mà tôi đã biết. Tôi cảm thấy họ rất khôn ngoan. Họ nói rất nhiều, rút cục chẳng để tôi hiểu biết gì thêm về nàng. Mặt khác, với các loại bạn của nàng, tôi không thể nào ngồi chịu chuyện được lâu. Về gia đình Huyền, tôi không tìm được điều gì chú ý lắm. Bà thím Huyền buôn bán thạo. Ngoài việc buôn bán và đi lễ ra bà không biết đến gì khác. Ông chú Huyền là viên chức lưu dung, hiền lành ít chơi bời. Mấy đứa em Huyền đều còn nhỏ đang đi học. Tôi tìm đến chị vợ một anh bạn, dậy học đã lâu năm ở Hà Nội. Chị cho biết: "Ở Hà Nội có một lớp các cô như vậy đó. Họ chỉ biết có ăn ngon mặc đẹp, đọc tiểu thuyết tình, chơi bời phóng đãng, ngoài ra không biết đến gì nữa. Các anh mới về nên lấy thế làm lạ lắm...". Chị đó an ủi tôi: "Các chị ấy còn ít tuổi nên thế, rồi mỗi tuổi nó một thay đổi đi. Với ông bộ đội thì lo gì! Khó mấy mà các ông chả giáo dục được". Rồi chị nhìn tôi một cách thương hại: "Các anh hiền lành quá! Đối với các cô còn ít tuổi khô khan thì không được đâu. Phải đi hỏi anh em người ta truyền bá cho ít kinh nghiệm để chiều chuộng các cô ấy...". Tôi lại phải nghĩ cả về mình. Thực ra tôi cũng có nhiều nhược điểm, nhiều chênh lệch so với Huyền. Huyền còn trẻ có nhan sắc, ưa thích những cái gì uốn éo vừa duyên dáng, vừa hùng theo điệu ở đây. Tôi thì nhiều tuổi hơn, lại bỡ ngỡ vụng về, không thể có những cái uốn éo trong tình cảm, trong sinh hoạt để thỏa mãn được nàng. Gần đây, tôi phải làm lại những cái mà từ lâu tôi đã quên đi. Tôi mới tập chải đầu chừng tháng nay, mới may mặc một số quần áo này; trước kia có bao giờ tôi nghĩ đến chuyện đó đâu; bộ đội phát gì mặc nấy, miễn là có quần áo là được rồi.

Tôi nghĩ đến chuyện kiên trì giáo dục Huyền, nhưng gặp rất nhiều khó khăn. Tôi kể chuyện chiến đấu, để Huyền hiểu cái đẹp của người chiến sĩ. Những chuyện đó không bao giờ hấp dẫn được Huyền. Sách truyện mang về Huyền không đọc, nhưng trong tủ không bao giờ thiếu sách Huyền đi mượn về đọc say mê: "

Đẳng thập tự đỏ, Ngũ kiếm hồ, Lấy nhau vì tình...

" Thiếu truyện đọc Huyền lại đi chơi. Tôi nhiều lúc rất bực, vẫn phải mượn một số truyện như thế về cho Huyền xem. Tôi có nói chuyện với Huyền về chính trị một vài lần, Huyền kêu lên: "Khổ lỗ tai lắm, đừng nói chuyện ấy nữa!". Tôi định đưa Huyền lại chơi nhà một số bạn bè, định lấy sự làm ăn, lo lắng gia đình của họ, giúp Huyền nhìn thấy được thực tế, và nhờ họ giúp đỡ uốn nắn thêm cho Huyền về tư tưởng, Huyền không bao giờ chịu đi.

Nhưng trong tất cả các mặt của Huyền, điều làm tôi đau xót nhất vẫn là: Huyền đã mang tình yêu của nàng, cả tinh thần lẫn vật chất, cho những kẻ khác. Và tôi nghĩ rằng: Lấy tôi, chính là dịp tốt để Huyền phát triển cái hư hỏng của mình.

*

Nắng bắt đầu lên. Những dòng người, xe đạp, ô tô đủ các mầu sắc, ngày càng đông trên đường phố. Đang ngồi với anh bạn tôi chợt nhớ lại một buổi trưa hè trên con đường lên Điện Biên, người cũng đi ngược xuôi nườm nượp thế này. Phía trước phi cơ địch vừa oanh tạc làm sạt một quãng đường và cháy trụi một quả đồi. Người ta đang nhắc nhau cẩn thận, chú ý bom nổ chậm, bom bươm bướm, phải vượt qua quãng đường địch vừa oanh tạc thật nhanh, đề phòng phi cơ có thể bất thần trở lại. Tôi cũng hành quân tới đó. Nghe tiếng nói quen quen, nhìn sang bên đường, thấy anh bạn đang động viên một số đơn vị bộ đội dân công ra sửa đường. Anh đứng trên một thân cây đổ, mặc một chiếc áo cổ vuông, cúc đứt, ngực áo trễ xuống, quần sắn ống thấp ống cao, mặt anh đỏ như lửa, miệng đang sang sảng: "... Con đường này là mạch máu. Mạch máu không lưu thông người khó sống, chiến dịch khó thắng lợi. Chúng ta phải dũng cảm xông ra hàn gắn lại bảo đảm đêm nay pháo qua được...". Trong khi mọi người đang hồi hộp bước cho nhanh khỏi quãng đường nguy hiểm, nhìn bóng anh vươn lên trong đoàn người anh dũng đang bám chặt lấy nó để chiến đấu với địch, tôi bỗng thấy anh bạn đẹp lạ lùng.

Giờ đây anh vẫn ngồi trước mặt tôi, mái tóc chải uốn éo một cách vụng về, chiếc áo sơ mi kẻ ô đắt tiền ôm cứng lấy người anh, mặt anh nhợt nhạt, cái nhìn lo âu, chung quanh anh đang lởn vởn rất nhiều bóng tối.

Tôi hỏi anh:

- Trước tình hình này định giải quyết thế nào? Có thể giáo dục giúp đỡ để chung sống với nhau lâu dài được không?

- Giáo dục Huyền tôi thấy rất khó. Vài tháng nay hầu như tôi không còn làm được việc gì nữa vì Huyền. Lúc nào cũng như có dăm bảy thằng bé con đang làm xiếc trong đầu. Hở chút thời gian nào là lại tranh thủ đạp miết hàng chục cây số về nhà. Tôi cũng tính hay là cắt. Nhưng giải quyết thế cũng khó lắm. Mình là bộ đội, lấy vợ mới sáu tháng đã ly dị, sẽ gây ảnh hưởng không tốt với nhân dân, với cả đơn vị nữa. Lại còn cô tôi... Cô tôi đã bỏ một số tiền khá lớn vào việc cưới xin. Còn một điểm này... Tôi vẫn rất yêu Huyền. Tôi không muốn Huyền sẽ vào tay người khác. Mà tôi tin rằng tôi bỏ Huyền rồi, thì dù ba, bốn hay năm năm nữa, Huyền vẫn lấy được chồng; người chồng đó có khi về hình thức lại hơn tôi. Cậu xem chung quanh ta đấy... ở xã hội này, miễn là có chút nhan sắc, hư đến mấy vẫn lấy được chồng. Ý nghĩ đó làm tôi đau đớn lắm. Còn tôi, nếu tôi bỏ Huyền, việc lấy vợ có phải mỗi lúc làm được ngay đâu! Tôi vẫn yêu Huyền lắm. Tôi không thể chịu được, khi nghĩ rằng Huyền sẽ vào tay người khác... Nhưng hoàn cảnh đã đẩy tôi đến bước đường cùng, phải quyết định rồi! Từ giờ đến trưa sẽ quyết định số phận chúng tôi. Chúng tôi nhất định phải xa nhau.

Anh mở ví, rút đưa tôi một tờ giấy nhỏ, một trang giấy xé ở sổ tay. Tôi đọc xong. Anh bảo:

- Thôi bây giờ cậu đi với mình!.

Chúng tôi đi về phía chợ Hôm rồi rẽ qua phố X. Anh bạn tôi lúc này bỗng trở lên lanh lợi. Anh vào ngôi nhà ở cạnh cái biệt thự mà anh bảo vợ anh hôm nay sẽ tới đấy. Tôi đứng chờ bên ngoài lòng xốn xang suy nghĩ về những việc lát nữa sẽ xảy ra. Một lát sau anh quay ra đón tôi vào. Ông chủ nhà mặc quần áo ngủ chào tôi rất lịch sự, và đưa chúng tôi lên một căn buồng gian gác trong. Ông ta nói với chúng tôi:

- Ngoài kia là "ban công" liền với mái nhà sau nhà bên đó. Trong buồng này không có cửa nhìn sang bên. Lúc làm nhà tôi ghét cái hướng tây, nên chỉ mở cửa mặt khác.

Anh bạn tôi hỏi:

- Nhà ta có thang nhỏ hay một chiếc ghế cao không?

- Để làm gì ạ?

- Những lỗ thông hơi trên tường kia là chỗ quan sát rất thuận lợi và kín đáo. Đứng ngoài bao lơn dễ lộ.

- Nếu vậy chúng tôi xin góp ý kiến với hai đồng chí thế này: Chúng tôi sẽ đưa hai đồng chí mượn hai chiếc ghế cao để chậu hoa..., nhưng hơi khó đứng vì mặt nó hơi hẹp...

- Được vậy thì tốt lắm!

Ông chủ nhà đưa hai chiếc ghế lên. Anh bạn tôi trèo lên đứng thử, mặt vừa ngang với lỗ thông hơi. Không kịp để chúng tôi cảm ơn, ông mỉm cười nói: "thôi để các đồng chí thừa hành công vụ", rồi xuống nhà dưới.

Anh bạn nói với tôi:

- Mình phải đưa chứng minh thư, nói với ông ấy là ta có nhiệm vụ theo dõi nhà này sớm hôm nay, nên mới được giúp đỡ như vậy. Cậu đứng đây thôi. Mình sẽ sang hẳn bên đó. Nếu cần mình gọi, ra bao lơn nhẩy mái ngói sang luôn.

- Dù trong trường hợp nào cũng phải thật bình tĩnh, hết sức tránh  ầm ĩ.

Nhìn qua lỗ thông hơi, cách dăm thước có một gian gác nhỏ. Mặt tường quay về phía tôi không có hành lang và cửa ra vào, nhưng có một cửa sổ to, cánh mở khá rộng. Trong buồng kê một chiếc giường con, một cái bàn viết trên để lọ hoa và một chiếc tủ nhỏ. Chủ nhân của nó người dỏng dớt, mặt trắng xanh thiếu máu, đôi mắt hơi nhỏ nhưng sáng và láu lỉnh. Hắn đi ra đi vào có vẻ trông ngóng ai. Thỉnh thoảng hắn đến trước gương nắn lại mái tóc sấy khô cháy, ngắm chiếc áo sơ mi vẽ hình chim cò và chiếc quần ống rất nhỏ mới là còn nguyên nếp. Theo anh bạn nói thì hắn là một tên thanh niên lêu lổng. Chiều qua về nhà, tình cờ anh bạn tôi bắt được mẩu giấy của hắn, hẹn vợ mình 9 giờ hôm nay cố gắng đến chơi, vì lúc đó nhà hắn đi vắng cả. Anh bạn tôi đã nói dối nhà đi Hà Đông, và sớm nay đang đứng giết thời gian ở vườn hoa Cửa Nam, thì gặp tôi. Anh bảo Huyền ít nhất cũng có vài ba người yêu như loại hắn ta. Và đã đến nước này anh cũng không thể làm ngơ được nữa.

Tôi đang nhìn chiếc mái ngói, nhắm trước đường, lúc cần sẽ sang bên đó, nghe tiếng chuông bấm. Một chiếc xe đạp vừa đỗ trước cổng sắt nhà hắn. Vú già trong nhà đi ra. Dưới dàn hoa thiên lý một bóng áo dài xanh đi vào. Tôi đoán là Huyền. Chị ta có một thân hình nẩy nở khoẻ mạnh, mỗi bước đi người như nhún nhẩy. Vì đứng trên cao, nên mãi tới khi chị ta bước vào buồng hắn, tôi mới nhìn được rõ mặt. Tôi hơi ngạc nhiên. Nếu không phải nhìn thấy chị ta ở nơi hò hẹn này, tôi không thể tin một người con gái vẻ mặt non nớt thế kia, lại có thể như lời anh bạn tôi đã kể.

Họ ngồi nói chuyện ở bàn, bình thường như đôi bạn. Tôi bắt đầu nhận thấy họ có những cái nhìn nhau hơi khác. Chắc là cặp này mới quen nhau. Bỗng thấy anh bạn tôi hiện ra phía cổng sắt. Chiếc cổng bị đẩy ra một cách nhẹ nhàng. Anh bạn tôi vừa vào khỏi cửa, bất thình lình một con "béc-giê" khá to từ trong nhà chạy vụt ra. Tôi đang lo cho anh. Nhưng thấy anh bình tĩnh rút trong túi quần ra một chiếc bánh mì, gí vào mõm nó. Nó nhẩy lên bám vào người anh, nhận lấy món quà, và để mặc anh đi vào nhà.

Anh đi hết cầu thang và khuất vào phía bên kia nhà. Tôi đoán anh đã dừng lại ở một quãng gần gian buồng này để theo dõi. Bên trong, cặp trai gái vẫn bình tĩnh ngồi nói chuyện, chẳng hay biết gì.

Đứng ở đây, tôi chỉ nghe được lõm bõm câu chuyện trao đổi giữa hai người. Chuyện của họ đã dần dần chuyển sang một hướng khác...

- Huyền có "mê" chồng không?

- Không "mê".

- Sao lại không "mê"?

- Biết được!

- Huyền có cảm tình với tôi không?

Chị ta phụng phịu đôi má vốn đã phúng phính như má một đứa trẻ:

- Không biết.

- Không đồng ý thế! Nói đi Huyền! Có yêu anh không nào?

- Không yêu không ghét.

Họ cứ nói những chuyện yêu đương dấm dẳn như thế khá lâu mà không chán. Cái ghế của hắn nhích lại dần, rất khéo, và bây giờ hắn đã ngồi sát bên nắm lấy tay Huyền.

Tôi đã hiểu biết tình yêu. Tôi nghĩ đến bạn. Hai bàn chân tôi bỗng run lên vì tức giận. Tôi chờ một tiếng cánh cửa đẩy rầm, và bạn tôi sừng sững bước vào. Tôi nhìn ra phía bao lơn, chỉ vài "tích tắc" tôi sẽ có mặt bên đó.

Hai người vẫn êm ả say sưa tiếp tục câu chuyện nhấm nhẳn của họ. Chợt hắn ôm chầm lấy Huyền. Chị ta có chống cự đôi chút, nhưng rồi cũng ngả đầu trên thành ghế, để đón một cái hôn khá dài của hắn. Hắn buông Huyền chạy ra phía cửa sổ. Hai cánh cửa phía tôi vụt bị khép lại. Tôi đã toan nhảy xuống đi ra bao lơn, lại thấy cánh cửa bị đẩy ra. Hai người dằng co nhau một lúc khá lâu. Hắn định đóng cửa, chị ta không chịu. Tôi lại nghe tiếng chị ta phụng phịu:

- Không đồng ý thế đâu!

Cuối cùng, các cánh cửa vẫn mở như cũ. Tôi hơi tiếc cho anh bạn. Giá anh ta nhảy vào khi hai đứa đang ôm nhau! Chị ta ngồi một lát nữa rồi nhìn đồng hồ nói:

- Về đây!

- Về làm gì sớm?

- Về không nhà biết!

- Bữa nào lại đến?

- Không biết.

- Sao lại thế?

- Biết đâu mà hẹn được.

- Chắc lại đi chơi với kép khác "hắc" hơn rồi, thiết gì!

- Không thích nói thế đâu!

Tôi chờ anh bạn bước vào... Sao anh ta chậm thế? Tôi chuẩn bị sẽ sang đó thật nhanh. Đau xót cho anh ta! Đôi trai gái bắt tay nhau. Anh vẫn còn chưa vào. Chậm chạp quá rồi! Chị ta đã đi xuống cầu thang. Chị ta đã quay lại vẫy tình nhân một lần nữa. Vú già đưa chị ta ra đến cổng. Thế là chị ta đi mất rồi! Vẫn không thấy anh bạn tôi đâu. Khéo mà anh ta ngất đi ở một xó nhà nào bên đó cũng nên. Tôi đang lúng túng chưa biết xử trí thế nào? Bỗng thấy anh ta đi từ bao lơn vào. Người anh như vừa bị rơi xuống nước. Chiếc áo sơ mi kẻ ô vuông lúc này dán chặt vào người. Một bên tóc anh xõa xuống, bết vào chiếc trán mồ hôi còn giỏ hột. Mắt anh hơi đỏ. Trên mặt anh có những gợn máu chạy chỗ trắng chỗ hồng. Anh bảo tôi:

- Chúng mình đi về thôi.

Giọng nói của anh bình thản làm tôi phân vân, không biết tình cảm anh lúc này ra sao. Có lẽ anh đã đau đớn quá ra thế chăng?

Chúng tôi cảm ơn ông chủ và chào rồi đi ra. Được một quãng, không thể nín lặng được nữa, tôi sôi nổi hỏi anh:

- Sao lúc chúng nó ôm nhau cậu không vào ngay?

- Mình định chờ lúc chúng nó hủ hoá thực sự. Nhưng cậu có thấy không?.. Vợ mình đã cưỡng lại được.

- Nhưng sau đấy, sao cậu vẫn không vào? Mình chỉ định chờ cậu mở cửa là xông sang ngay.

- Không vào phải hơn cậu ạ.

Tôi nín lặng, rất thắc mắc. Và tôi càng khó hiểu khi nhận thấy mặt anh ta lúc này rạng rỡ ra, linh lợi hơn buổi sớm.

Anh ta chậm rãi nói với tôi bằng một giọng nhiều tự tin:

- Vợ mình có loăng quăng, nhưng với một cô gái ở Hà Nội, cậu tính xem tránh sao được! Hôm nay mình đã thấy vợ mình căn bản vẫn là tốt cậu ạ! Cậu thấy rõ đấy chứ? Thật là vợ mình đã cưỡng lại, đã chống lại nó một cách rất rõ ràng. Vợ mình không chịu ngã, trong khi điều kiện rất thuận lợi, và thằng kia rất cay cú, rất quyết tâm. Cái thằng ấy đẹp giai thật, mình trông cũng phải yêu, không nói đàn bà. Cậu ạ, kháng chiến đã lấy đi của chúng ta quá nhiều rồi, tuổi thanh niên của chúng ta qua đi mất rồi. Chúng ta không thể thoả mãn loại người như vợ mình được. Chúng mình phải nhận thấy đó là một thực tế. Chúng ta không may là một nạn nhân, chúng ta phải nhìn thẳng vào thực tế đó để khắc phục.

Tôi hơi ngạc nhiên vì câu nói của anh ta. Hai chúng tôi yên lặng đi bên nhau một quãng đường khá dài.

Cậu ạ! - Tôi ngoảnh nhìn thấy mắt anh đang sáng lên. - Mình dốt quá! Dốt quá! Cậu ạ. Sao mãi đến bây giờ mình mới nghĩ ra điều đó...? Với tình hình này, mình tin là có thể khắc phục được, nếu mình biết giải quyết vấn đề một cách thực tế. Từ trước đến giờ mình rất ít săn sóc vợ... Cậu xem, lấy nhau bằng ấy tháng, mình chưa may cho hắn được một cái áo dài. Mình cứ nghĩ hắn có nhiều áo rồi. Nhưng vấn đề có phải chỉ là ở chỗ có nhiều áo rồi đâu. Vợ mình đôi khi hay kêu chóng mặt, mình cũng chưa hề nghĩ đến chuyện đưa hắn đi bác sĩ. Mà những điều này, với sự giúp đỡ của bà cô, mình có thể làm được. Chuyến này nghỉ phép mười lăm ngày, mình sẽ đưa vợ mình đi Tam Đảo. Tình yêu là phải đi bằng con đường tình cảm. Tụi mình có nhược điểm, trước khi lấy nhau chưa quen biết nhau, do bố mẹ gả bán, bây giờ đã là vợ chồng phải tìm cách khắc phục trở lại. Mình sẽ dựa vào khung cảnh thần tiên của Tam Đảo để sống bắt đầu lại những ngày của cặp tình nhân. Mặt khác, phải giải quyết bằng tổ chức cậu ạ. - Tức là phải năng về nhà, luôn luôn và thật bất chợt, để nàng lúc nào cũng tưởng như mình sắp ở bên cạnh. Điều này rất khó đấy! Thời gian qua cũng vì  Huyền mình đã vô kỷ luật quá nhiều rồi, anh em đã thành kiến, giờ lại đi về nhiều hơn nữa thì rất lôi thôi. Nhưng dẫu sao cũng phải khắc phục bằng được. Mình sẽ nói thẳng cho Huyền biết là những chuyện vụng trộm như sáng nay, mình biết từng chân tơ kẽ tóc rồi. Mình sẽ nói thẳng là mình rất yêu Huyền, Huyền chỉ có thể sống được nếu Huyền còn là vợ mình. Cậu thấy không, trước kia chúng mình nhiều cái đơn giản quá, cứng nhắc quá, lúc nào cũng chỉ có hai chữ lập trường, như người đi tu gặp trường hợp nào cũng niệm "nam mô". Thời đại này về giữa thủ đô mà cứ thế thì mất hết, mất hết cậu ạ. Phải thực tế như thế mới được. Ngay như cái việc chung đụng với đàn bà cũng là một cái thuật đấy! Nếu anh biết cách yêu thương thì có khi người đàn bà suốt đời không thể quên anh được. Mình vừa đọc được ít sách và mới tìm ra điều đó...

Anh càng nói, mặt anh càng rạng rỡ. Anh nói rất say sưa. Thái độ của anh lúc này khác hẳn ban sáng. Anh không còn là người kể lể tâm sự để yêu cầu một sự giúp đỡ nữa, mà anh có thái độ một người từng trải, đang lên lớp chỉ dẫn cho người khác.

Tôi ngắt lời anh:

- Theo mình thì đây là sự xung đột giữa hai luồng tư tưởng khác nhau. Giải quyết như vậy là cậu chạy theo đuôi cái lạc hậu của cô ta rồi. Cậu đừng đánh giá cậu quá thấp, cho là cái gì cậu cũng kém cô ta. Theo mình chỉ có một cách là phải giúp đỡ, đấu tranh cải tạo tư tưởng cho cô ta, phải đứng trên lập trường của mình... có chinh phục được tư tưởng cô ta...

Nhưng anh bạn không để tôi nói hết, cướp lời ngay:

- Khổ quá! Lập trường với tư tưởng mãi, chuyện đó chỉ chúng mình nói với nhau thôi. Với vợ mình những câu ấy không vào tai nó được đâu. Cái công thức đó cổ lắm rồi ông ơi! Thời buổi này cứ thế thì mất hết! Mất hết!

Tôi cúi đầu đi, chỉ còn nghe những lời nói của anh bạn vang vang hỗn độn bên tai... Tôi không ngạc nhiên lắm về chị vợ của anh ta, tuy mới được nghe một chuyện như thế lần đầu. Trong lớp người trẻ tuổi đang đổi mới, đầy sức sống của thủ đô, tất nhiên không khỏi còn những người như chị ta, mà không phải mỗi lúc để làm thay đổi ngay được. Nhưng còn anh bạn của tôi, anh bạn to lớn trên chiến trường Điện Biên Phủ của tôi, sao mới có sau hai năm hòa bình ở thủ đô mà anh cũng han rỉ đi như thế? Tình cảm của tôi đối với anh lúc này thật khó tả, vừa thương, vừa bực, vừa đau xót. Anh như người đang tự dằn mình ra giữa một dòng nước lũ lớn, mặc nó cuốn đi tất cả những của cải mà mình đã tạo nên bằng mồ hôi, máu và nước mắt trong hàng chục năm trời, để trở về với hai bàn tay trắng ngày xưa, khi còn ở nhà bà cô anh.

Người đi lại ngày chủ nhật trên con đường ra Bờ Hồ vẫn nhiều, cuồn cuộn. Đài phát thanh bắt đầu nổi nhạc, ô tô quảng cáo oang oang giới thiệu chương trình các cuộc vui, xe điện lanh canh. Tôi phải nói rõ những ý nghĩ của tôi về anh... Nhưng anh đã nhìn đồng hồ say sưa hoảng hốt: "Mình còn nhiều chuyện muốn nói với cậu nhưng chậm giờ quá rồi! Hôm nào lại nhà mình chơi nhá! 75 phố X". Anh vội vàng nhảy lên xe cắm đầu lao đi, vượt qua cả ngã tư mà người công an đã giơ găng trắng báo hiệu ngăn đường. Tiếng còi nổi lên, nhưng xe anh đã khuất vào đám bụi mù của đoàn ô tô vừa chạy qua. Người công an nhìn theo lắc đầu. Anh bạn tôi chắc đang sốt ruột vì sợ vợ anh đã về nhà một lúc lâu rồi.

Mèo đen

                                                                                                                                 

                                                                                         

Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy

Hầu Nhìa Thò mang con mèo đen đi bán.

Sở dĩ phải mang mèo vì trong nhà chỉ còn có mỗi nó có thể bán được. Bò, dê, ngựa từ lâu đã không có bóng dáng trong nhà Thò. Con chó thì ốm quặt quẹo, nằm một chỗ, lông rụng, răng rụng, ngay cả cái đuôi ngắn một khúc cũng  trơ cả da lẫn xương, vậy là Thò phải tóm con mèo. Mất nửa ngày mới tóm được nó. 

 

Thò cho con mèo vào cái túi vải, túm chặt miệng túi lại, vắt lên vai. Phải đi từ lúc trời còn tối om để không phải gặp mặt người quen. Gặp thì nhất định sẽ bị hỏi: Hôm nay đi chợ bán gì? Hỏi thì phải trả lời. Chó không phải rồi, vì chó chỉ cần buộc sợi dây vào cổ nó là được, rồi mình chạy thì nó chạy mà mình đi thì nó đi, mình ngồi nó cũng ngồi. Lợn cũng không phải. Vì lợn to thì dắt như chó, lợn bé cắp nách, không ai cho lợn vào túi. 

Trời cuối năm lạnh buốt. Vài ông sao còn lại le lói trên cao, hắt ánh sáng lờ mờ xuống đường mòn. Những giọt sương đông cứng vì lạnh, đậu trên ngọn lá quất vào chỗ hở trên người lạnh buốt như kim châm. Thò vừa đi vừa chạy. Chạy cho nóng người lên. Chốc chốc bước hụt vào vết chân ngựa lại chúi người về phía trước. 

Con mèo này, không phải tự dưng có trong nhà. Một buổi trưa, Hầu Thị Say - đứa em gái út của Thò đi học về, nhặt được nó đang nằm như đã chết dưới gốc cây mận trước sân ủy ban xã. Con mèo rụng gần hết lông, một chân què, lòi cả xương ra ngoài. Rụng thì rụng, lòi thì lòi, Say vẫn ôm con mèo đi khắp ủy ban, trạm y tế, trường học để hỏi xem con mèo của ai, không ai nhận. Thế là nó mang con mèo về nhà. Say đặt con mèo vào trong cái lù cở bé tí bố đan riêng cho nó làm đồ chơi, rồi đặt cả lên trên nóc bếp lò. Con mèo vẫn nằm như chết, không động đậy, cho đến khi hơi nóng từ bếp lò hắt lên làm cho nhúm lông đen bết đất của nó dựng đứng cả lên, đất khô thành từng viên thì nó mới bắt đầu cất tiếng kêu meo meo bé tí như bị chẹt cổ. Đang ngồi ăn cơm, nghe thấy tiếng mèo kêu, Say nhảy bổ đến chỗ cái lù cở. Rồi nó thò tay vào và lôi con mèo ra. Con mèo có đôi mắt xanh lè, mấy sợi râu cái còn cái mất, chắc dúi mõm vào bếp ngủ bị lửa táp. Say nhè miếng mèn mén lẫn rau cải đang nhai trong mồm ra lòng bàn tay rồi dí mõm con mèo vào đấy, con mèo rón rén ăn từng miếng một. Ăn xong miếng mèn mén, nó giơ cái chân trước không bị què lên liếm mấy cái rồi xoa mặt. Say nhìn con mèo rửa mặt cười rinh rích. 

Từ hôm ấy, lúc nào Say cũng đeo cái lù cở sau lưng, trong lù cở là con mèo. Lù cở bé tí, mèo cũng bé tí, người đeo lù cở cũng bé tí nốt. Bây giờ, cái túi vải đựng vở Say đeo lủng lẳng trước ngực. Vào lớp Say để con mèo dưới gầm bàn, lấy sách ra khỏi túi vải, lấy túi vải đậy lên người mèo. Con mèo nằm im thin thít, chỉ khi nào có tiếng trống báo giờ ra chơi, cả lớp chạy ào ào ra sân, vừa chạy vừa la hét như một lũ dê xổng chuồng, thì nó mới cất tiếng meo meo và đứng dậy trong lù cở, rũ rũ cho cái túi vải rơi khỏi người, mở đôi mắt xanh lè nhìn lên. Thường thì Say cũng chạy ra ngoài chơi, nhưng hôm nào tiếng mèo kêu to quá, sợ cô giáo nghe thấy phê bình thì Say ngồi lại, vỗ vỗ lên lưng con mèo để nó chịu ở yên trong đó.  

Con mèo ở với Say được nửa tháng thì lông mọc trở lại, mượt óng, đen nhẫy. Rất hay chuột. 

Lại nói đến Hầu Nhìa Thò. Dạo này không đi làm thuê dưới phố huyện nữa nên Thò không có tiền. Không có tiền thì cơn thèm thuốc lúc nào cũng khiến Thò phát điên. Vật vờ như một bóng ma. Phiên chợ trước, Thò xuống chợ huyện, xin ban quản lý chợ cho quét rác. Nhưng nhìn thấy cái mặt tái mét, cặp môi thâm xì, mắt trắng dã, cái áo bẩn như nhúng trong nồi thắng cố rồi đem phơi khô, chẳng ai dám nhận Thò. Mấy bà béo bán hoa quả cũng không khiến Thò khuân vác nữa. Thò loanh quanh ở chợ hết một ngày, vừa đói vừa khát, vừa thèm thuốc, phải bò về nhà bằng bốn chân. 

Thò vốn cũng có một đứa gái. Vốn cũng hẹn nhau ở chợ, cùng đứng sau bụi cây dại, một đứa hát véo von, một đứa bật cát xét thu âm, hát no thì rủ nhau ăn thắng cố, uống rượu, mặt đỏ gay như mặt trời sắp lặn mới dắt nhau về. Đứa gái này rất xinh. Dưới áo nó có một cặp vú vừa nóng vừa căng như nắm xôi nếp còn bốc hơi trong chõ. Thò đã từng được đặt một bàn tay vào đấy. Nó chỉ cho đặt vào để xem nóng tới mức nào thôi, rồi phải bỏ ra ngay. Nhưng bàn tay phải ấy của Thò đã bị bỏng suốt mấy ngày trời. 

Vậy mà Thò cũng chả cần hai nắm xôi ấy nữa. Nóng mấy thì nóng, thơm mấy thì thơm cũng vứt. Thò xuống phố huyện, làm phụ vữa cho người ta, được một món tiền, rượu uống mãi cũng thấy thường thôi, nên thử dùng thứ khác. Dùng có vài lần, hết sạch một tháng tiền công. Nhưng mà sướng thì không thể tả được. Đến cả con ngựa có mọc thêm đôi cánh cũng không sướng như Thò. 

Nhưng Thò sướng không lâu.

Những tháng sau, dần dần mỗi lần lĩnh tiền công chỉ còn đủ cho Thò dùng trong một tuần. Tệ hơn, chủ thầu đuổi việc, không cho Thò làm nữa, còn đánh cho một trận tơi bời, vì phát hiện Thò lấy trộm nửa bao xi măng đi bán. Nửa bao ấy, chỉ đủ cho Thò dùng sái thuốc. Sái thì sái, thèm quá dùng tất. 

Thò mang tấm thân rách như chó ghẻ về nhà. Các em Thò sợ dúm vào góc nhà. Bố thì suýt bổ vỡ cả cánh cửa. Mẹ thì khóc như mưa. Thò biết trước điều ấy, nên thản nhiên ngồi vào bếp, thản nhiêu mở chõ mèn mén, ăn như chết đói. Ăn xong, leo lên gác, ngủ. 

Sáng hôm sau, Thò dắt đi một con dê. Cho hết con dê vào bàn đèn, Thò lại về. Lần này Thò dắt đi con ngựa thồ. Nhà có mỗi con ngựa này để thồ ngô xuống chợ, thồ muối, thồ đồ dùng về nhà. Lần nữa, Thò dắt nốt con bò cày. Thế là từ lúc ấy, bố Thò phải thay ngựa xuống chợ, thay bò lên nương. 

Lần gần nhất, Thò về. Trong nhà không còn gì. Mẹ Thò đang ngồi nuốt nước mắt bên bếp, nhìn các em tranh nhau vét chõ thắng cố. Có một đứa gái đang ngồi bên cạnh bà. Thò nhìn cái gáy trăng trắng của đứa gái, biết ngay đấy là ai.

Thò dắt đứa gái ra gốc cây lê. Đứa gái hỏi:

- Cái mặt dày nhỉ?

Thò cười hềnh hệch:

- Có gì mà dày. Cũng mòn đi một ít rồi.

- Còn gì bán được đâu mà về?

Đứa gái lại hỏi. Thò vẫn cười:

- Còn chứ. Còn cái thằng người này mà.

Vừa nói, Thò vừa chỉ vào ngực mình.

- Có mua không? Bán cho đấy.

- Cho không cũng chẳng thèm. Ở đấy mà nhìn người ta sắp đi lấy chồng.

- Hử? Thò nhảy dựng lên - lấy chồng? Không phải đã nhận lời lấy chồng từ năm ngoái rồi à.

- Phải rồi. Nhưng cái người ấy sắp thành ma rồi, không lấy nữa. Đem vứt xuống sông Nho Quế cho cá ăn còn hơn. 

Tự dưng Thò thấy mặt nóng bừng. Chẳng lẽ thằng Hầu Nhìa Thò đẹp giai thế này mà lại chịu để đứa khác ăn mất hai nắm xôi? Không được. Hầu Nhìa Thò phải ăn nắm xôi của Hầu Nhìa Thò.

- Đừng nói đùa mà.

Thò cầm tay đứa gái, đầy hi vọng.

- Ai đùa. Đứa gái rút phắt tay ra - Vào trong nhà mượn gương của mẹ mà soi xem cái mặt trong ấy có phải là mặt Hầu Nhìa Thò nữa không. Thôi nhé, đi tìm thuốc phiện mà lấy làm vợ. 

Đứa gái nói xong, đứng dậy, quay lưng nguẩy mông bỏ đi. Thò chạy theo, rút phắt con dao đi nương giắt ở đầu hồi, hét toáng lên:

- Này, nếu mà bỏ đi như thế là Thò này chặt đứt một ngón tay đấy.

Đứa gái đứng lại:

- Chặt thì sao? Chặt thì giữ được chân người ta à? Giữ chân người ta rồi đem bán nốt à?

Thò rống lên:

- Hầu Nhìa Thò này xin thề, không bao giờ bán vợ.

- Không bán vợ nhưng bắt vợ ôm con ngồi nhà chết đói thì cũng chả hơn gì.

- Hầu Nhìa Thò cũng không hút thuốc phiện nữa. Hầu Nhìa Thò này bỏ luôn. Thề đấy.

- Ai mà tin được. 

Đứa gái bỏ đi thật. Thò cũng giơ dao lên, kê ngón tay lên bậu cửa, chặt thật. 

Em gái Thò hét lên chết ngất. Hai đốt ngón tay khẳng khiu thâm xì của Thò đã nằm dưới đất, còn máu trên tay thì chảy tong tỏng. 

Đứa gái chạy tới, cởi khăn buộc tay cho Thò. Buộc rồi, nó giơ tay tát cho Thò hai cái làm Thò chóng cả mặt. Xong, nó vẫn bỏ đi. Nó không tin Thò có thể bỏ được thuốc phiện. Chưa thằng đàn ông nghiện thuốc phiện nào trên xóm núi chênh vênh này bỏ được. Mấy thằng đã chết. Toàn chết vật giữa đường, ruồi bâu đầy mặt mới có người phát hiện ra. 

Cái ngón tay cụt với hai cái tát cũng khiến Thò quên được thuốc phiện vài hôm. Nhưng đến khi tay đỡ đau thì tự dưng cơn thèm lại mò tới. Mò tới lúc nửa đêm. Thò vật vã huỳnh huỵch như đánh nhau trong nhà. Đã quen với cơn vật vã của Thò nên cả nhà im lặng, mặc kệ Thò. Vì chỉ vật một lúc là Thò sẽ ra khỏi nhà. Của nhà không còn thì tìm xem hàng xóm có hở ra cái gì Thò sẽ mượn tạm, đem đi đổi lấy ít sái thuốc dùng cho qua cơn.

Thò bò ra bếp, tìm ấm nước, ngửa cổ uống một hơi suýt sặc. Đột nhiên Thò bắt gặp ánh mắt xanh lét của con mèo. Con mèo đen nhánh như một hòn than từ đầu đến chân, trừ hai con mắt xanh lét và hàm răng trắng nhởn. Con mèo hôm nay không ngủ với Say mà ngủ bên bếp. Thò thức dậy làm nó cũng thức theo. 

Một ý nghĩ chợt đến trong đầu khiến Thò sáng mắt lên. Thò vào buồng tìm một cái túi vải, rồi Thò đến bên con mèo, vuốt vuốt đầu nó, con mèo lim dim mắt để cho Thò vuốt ve. Rồi Thò tóm lấy gáy nó, thả bõm vào trong túi, túm chặt miệng túi lại, chạy như tên bắn ra khỏi nhà. 

Đêm tối om. Thò khoác cái túi đựng mèo trên vai, chốc chốc lại ngoái lại phía sau. Không phải Thò sợ bố mẹ đuổi theo. Bố mẹ đã từng đuổi theo Thò để cố giữ lại con bò, con dê, nhưng cuối cùng thì cũng đành để Thò dắt đi, vì lần nào Thò cũng rút con dao găm nhọn hoắt, dí vào cổ mình, dọa chết. Thì thôi vậy, mất bò mất dê cũng được, còn hơn mất thằng con trai duy nhất trong nhà. Bò dê còn chẳng sợ, sợ gì con mèo chứ. Nhưng không hiểu sao ánh mắt đen láy, mọng nước, với hai cái mí mắt sưng húp đỏ hồng của em gái Thò, cái Say ấy, lại cứ quanh quẩn trong đầu Thò.  Đứa em gái này, Thò vốn thương nó nhất nhà. Lúc mẹ mới đẻ nó, nó bị dây quấn cổ, mãi mới lôi ra được, suýt chết. Thò đã ngồi thu lu bên giường mẹ, ôm chặt lấy nó suốt mấy ngày trời, vì sợ nó không ở lại với Thò. Thò lắc lắc cái đầu, Thò nhìn trước nhìn sau, trong bóng tối lờ mờ lân tinh, chẳng nhìn thấy gì hết. Đúng là ánh mắt của Say rồi, nó từ đâu ra Thò không biết, nhưng rõ ràng là nó đang nhìn theo Thò. 

Con mèo đột ngột kêu rống lên ngoao ngoao như gặp phải mèo đực nhà hàng xóm. Vừa kêu nó vừa quẫy mạnh trên lưng Thò. Thò hầm hè, gằn giọng:

- Im ngay, im ngay cho tao!

Mặc kệ, con mèo vẫn tiếp tục gào. Thò dừng lại, mở miệng túi ra. Con mèo đang ngồi thu lu chực nhảy ra ngoài. Thò túm lấy gáy nó, nhấc lên.

- Mày muốn kêu hử, tao cho mày kêu. 

Rồi Thò lấy ngay cái dây quai túi, buộc mồm con mèo lại. Con mèo giãy đành đạch, móng chân nhọn hoắt chìa ra cào tứ tung, cào cả vào tay Thò. Cào thì cào, Thò vẫn buộc, buộc cho chặt, để xem nó có gào nữa không. 

Con mèo giãy đạp trong túi một lúc lâu nữa thì thôi, nằm im thin thít. Thò hăm hở nhằm thẳng hướng phố huyện đi tới. Chính cái lúc con mèo gào lên, và Thò phải dừng lại loay hoay buộc mồm nó đã khiến Thò quên hẳn ánh mắt của em gái Thò. 

Thò tới chợ lúc vẫn còn vắng người. Mới chỉ có mấy bà chủ chảo thắng cố béo ục ịch đang còng lưng thổi lửa trong những cái bếp vốn đã hừng hực. Thò đi một vòng, hai vòng, ba vòng, mỏi chân vẫn chưa thấy mấy người mua mèo tới. Ở chợ huyện này, khoảng hai, ba phiên gần đây, phiên nào cũng có hai ba thanh niên đi xe máy, sau xe buộc cái lồng sắt, trong cái lồng bao giờ cũng có sẵn mấy con mèo. Nhìn là biết họ đi tìm mua mèo. Giống như người đi mua chó thì cầm theo xích, mua bò thì mang dây thừng đi vậy. Sở dĩ chó phải mang xích, bò mang dây thừng vì người bán chó, bán bò bao giờ cũng đòi lại xích, thừng. Mang về, có bò mới thì buộc, không có bò mới thì treo ở cửa chuồng bò, ngày ngày nhìn cái dây thừng, nhớ con bò, nhìn sợi dây thừng đã nhẵn thín, nhớ tới công con bò. Tiền bán bò đã tiêu hết nhưng vẫn chưa hết nhớ bò.

Phải đến lúc mặt trời bắt đầu nhô lên thì đám người mua mèo mới tới. Tiếng xe máy gầm gừ như chó ăn phải bả. Thò đang ngủ gật bên gốc cây gạo giữa chợ, choàng tỉnh dậy.

- Bán mèo hử?

- Phải. Người đàn ông có cái mặt choắt như mặt chuột hỏi, Thò vừa gật vừa trả lời.

- Mấy tiền?

- Hai trăm.

- Gì á? Hai trăm? Tường mèo là lợn hay sao hử?

- Mèo là mèo, lợn làm sao được. Có đi hết chợ, hết cả phố huyện này cũng không tìm được con thứ hai thế này đâu nhá.

- Kinh! Mèo của mày có ba mắt à?

Mấy chiếc xe máy vẫn gầm gừ, khói phả mù mịt, đám thanh niên cười khùng khục.

- Không phải ba mắt, mà là mèo đen. Đen từ đầu đến đuôi, từ lưng xuống bụng, từ bàn chân tới chóp mũi... mèo làm thuốc đấy nhá.

- À... là mèo đen. Bỏ ra xem nào.

- Không được - Thò túm chặt miệng túi, giữ khư khư - đồng ý mua hai trăm thì tao mới cho xem.

- Một trăm năm mươi nghìn!

- Một trăm chín mươi nghìn tao mới bán!

- Không được. Đắt quá. Một trăm sáu chục đấy. Bán thì bán, không bán thì mang về mà nuôi.

Nghe tới câu "mang về nuôi" Thò giật bắn cả người. Mang về nuôi tức là Thò phải nhịn thuốc rồi. Cơn thèm lại sắp tới, kiến đã bắt đầu bò từ cạp quần lên dọc sống lưng rồi. Thò cuống quýt gật đầu. 

Thò rón rén mở cái túi. Cả ba bốn cái đầu đều chúi vào miệng túi. Đầu tiên là cái đuôi con mèo thò ra. Đen nhánh. Đúng là đen nhánh. Rồi tới phần thân, tới cái đầu, con mèo vẫn nằm im thin thít. Thò mở toang cái túi ra, cả bọn đứng nghệt mặt. Con mèo đen, đúng là con mèo đen thật, đen tuyền, béo mũm mĩm, nhưng hai con mắt vốn màu xanh giờ đã trắng dã, mở trừng trừng, cả hai hàm răng trắng, nhọn hoắt nữa, cũng nhe cả ra. Lúc này  Thò mới thấy là con mèo đã lạnh ngắt, cứng đơ. Hình như nó đã cố há mồm để thở, nhe răng để thở, nhưng không thở được vì Thò buộc chặt quá. 

Thò ngồi thừ ra. Con mèo nằm còng queo, cứng đơ dưới chân. Tự dưng lúc này, cơn thèm thuốc không thấy đâu nữa, mà Thò lại nhớ tới hai con mắt đen láy, sưng húp, mọng nước của em gái Thò. Chả lẽ, Thò mang con mèo này về trả cho nó? Không được. Thò loạng choạng đứng dậy, nhìn thấy con mèo vẫn nhe hàm răng trắng nhởn như cười cợt. Con mèo còn nằm ở đấy, dưới gốc cây gạo đã rụng hết lá, kể cả khi Thò đã đi khuất rồi, con mèo vẫn còn nhe răng cười mãi. 

Không thể kết thúc-truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ

Mùi chuột chết thì đúng rồi. Nhưng chuột chết không thể gây ra nhiều bọ thế này". Bác dâu bịt mũi, nhắm hờ mắt lấy cuốn tạp chí Hàng xịn đập phành phạch ba bề bốn hướng xung quanh.

Bố và mẹ im lặng. Mỗi người một cái khăn bông, ấp vào mũi, đeo kính đen dò dẫm trong nhà chật kê đồ san sát. Tôi là người cuối cùng tiến vào, đi xuyên qua tấm màn dày đặc đan bởi những con bọ chưa ai thấy bao giờ. Con vật bé như hạt vừng, hình tròn, đen bóng có cánh để bay. Mắt nó rất tinh. Khi tôi vung cái khăn lên, đám bọ dịch chuyển trước để tránh, rồi uyển chuyển lượn táp vào mặt tôi. Tôi nhắm mắt, ngậm miệng, vì chỉ cần há ra nói một câu là cả vốc bọ nằm trong miệng như ngậm một nắm vừng đen.

*

Chúng tôi khóa cửa nhà để về quê một tuần làm Lễ thượng thọ cho bà nội. Bốn đời nhà tôi sống trong ngôi nhà cổ này. Tôi là đời thứ năm. Vì tổ chức thượng thọ, nên bà được di lý xuống quê, nhà cậu út. Nhà cậu có vườn, sáu tấm bạt căng lên, che mát cho trăm mâm cỗ. Đã thành tiền lệ, cứ ngày Lễ hay dịp kỷ niệm của ông bà cha mẹ là phải "đánh trống múa rối" thật to trình báo thiên hạ. Bác trưởng bảo, ai cũng vất vả, đầu tắt mặt tối, mấy khi được biết đến đời sống của người quen, nếu như không có những buổi tiệc tùng. Mỗi năm, đại gia đình tôi chục lần chăng bạt, thuê loa đài mổ lợn chế biến cỗ với các loại món làm từ thịt lợn, rồi uống bia hơi trong những chiếc can nhựa hai mươi lít. Những món ăn quen thuộc nhưng lần nào cũng mang đến cho mọi người sự hứng khởi như đây là lần đánh chén đầu tiên. Xong cỗ thường là đêm. Nhạc tắt. Rạp cuốn trả kèm vài xe bát đĩa nồi bếp thuê trọn gói, ai về nhà đấy. Dư âm vui vẻ lan sang đến lần gặp mặt sau.

Lần này, Lễ thượng thọ bà nội sang tuổi tám mươi đáng ra chỉ 3 ngày. Nhưng rồi trôi tuột đến bảy ngày vì ở làng bỗng mọc ra một ông thày bói khá linh, nhất là xem cho người lạ, ở xa. Cả nhà ở thêm hai ngày xem bói. Đã thế, sau khi nghe thầy phán số bác cả năm nay cứ đất lề quê thói mà mua, sang năm một lãi mười. Mất toi thêm 2 ngày đi săn đất làng. Vơ váo cũng được hai cái ruộng rau muống cạn của cái nhà ông già bị ung thư, cần tiền lên viện K chạy xạ, bán ba mươi ba triệu một ruộng hai trăm mét. Đúng số rồi. Thêm một ngày ăn mừng vì tương lai phát tài phát lộc do bói phán. Lần đầu tiên, cả nhà bác trưởng, nhà tôi ở quê bảy ngày.

*

"Bây giờ phải làm gì". Bác dâu giọng ngàn ngạt sau cái khăn mặt, tay cầm "Hàng xịn" đập mạnh xuống đùi. Bao bọc quanh chúng tôi một tấm màn dày đặc bọ. Chúng tụ với nhau thành từng đám, phủ một màu đen lên những bức tường, giường tủ, bình lọ cổ, sàn nhà.

Mẹ tôi bị hen, dị ứng với phấn hoa và các loại bọ. Không thể xua được hết đám bọ bám trên mặt và những chỗ không có vải che, mẹ bắt đầu ho, tiếng nặng, phát ra từ rất sâu dưới đáy ngực. Vẫy vùng thêm một lúc, mẹ lao ra cửa. Bác dâu ném tia mắt sắc như mũi phi tiêu. "Đừng có mà chạy ra đường hết đấy. Cứ gặp khó khăn là chạy thì hèn quá". "Vợ em hen, hít phải bọ này tắc thở đấy chị ạ". "Thế cậu nghĩ tôi quen hít bọ chuột chắc". Bác trai bỏ nhanh cái khăn che miệng, tợp nhanh hụm Jin từ cái chai dán giấy vàng, miệng nhai nhai

.

"Phải làm gì đi chứ. Ngồi nhìn thế này để bọ chuột ăn thịt mình à". Bác dâu bắt đầu vào cơn kích động, to tiếng

.

Tôi nhắm mắt. Lăn tăn li ti cảm giác tê buồn lan tỏa lên da thịt, những chỗ không có quần áo. Nghìn con bọ cánh cứng bé nhỏ đáp rào rào lên má, lên hai cánh tay trần, cặp đùi mặc sóc ngắn. Không cần mở mắt, cũng biết giờ tôi đen như mực rồi. Giống như đi trên sa mạc, những hạt cát bắn nhẹ lên da thịt. "Phải làm gì đi chứ". Bác dâu bắt đầu gào lên. "Mới đi vắng mấy ngày, bọ chuột ở đâu ra đầy một nhà thế này hả giời". Bác dâu khóc tức tưởi. "Ở chuột chết chứ ở đâu". "Tại sao nhà này lại có chuột chết. Tất cả các cửa đều khít". "Thì đi vắng chuột vào là đúng rồi". "Không, tại con Thảo bẩn thỉu, nó để đồ ăn vương vãi ra nên chuột mới vào nhà".

Thảo là cô giúp việc, chăm sóc nội tôi tám năm nay. Cô bị tật ở chân, không chồng con, chăm chỉ, nhu mỳ, chịu đựng. Cô ở đây lâu không phải vì tiền lương cao. Cô bảo, số kiếp phân công cô sinh ra để chăm sóc người bệnh. Ba má cô bệnh và chết cũng qua tay cô. Họ hàng ai bệnh cô đến hầu. Hết người bệnh, cô đến làm nhà tôi, vì bà tôi bệnh. Ngoài việc chăm bà, cô làm hương thêm cho ngôi chùa nhỏ gần nhà mỗi khi rảnh. Mọi chuyện trong nhà tôi cô Thảo lo hết. Sáu người trừ nội, không ai nhớ lọ đường, cái bàn là để ở đâu. Cần gì, cô Thảo chân cao chân thấp mang để trước mặt. Ý thức chăm sóc người khác là số phận của mình ngấm vào máu thịt, nên cô làm tất cả mọi việc tốt đến hoàn hảo. Bác dâu tôi có lần than thở, con gái mình đẻ ra nuôi lớn thì mất hút, người dưng ở đâu đến lo hết chuyện cho mình, nên cô Thảo với bác là quý giá nhất.  Bây giờ, nhà có một hay nhiều con chuột chết, cũng tại cô Thảo. "Nó lại quên đóng cái cửa sổ bếp phía sau, chuột chui qua kẽ hở đấy mới vào được chứ còn đường nào đâu".

*

"Phải gọi con Thảo về. Chỉ có nó là giải quyết được lũ bọ chó chết này". Thường khi đứng trước một chuyện bất ngờ xảy ra trong nhà, mấy năm nay, người đầu tiên bị gọi là cô Thảo. Bà đi vệ sinh lên chiếc đệm Hàn Quốc của vợ chồng bác trưởng, cũng "Con Thảo đâu, chỗ tao nằm chứ có phải chỗ bà đi gặp Uylyam Cường thế này à". Uylyam Cường là cách nói văn hoa của cả nhà dùng cho việc đi vệ sinh. WC của bà sát bên phòng bà. Không hiểu vì giường đệm của bác dâu thơm hay màu sắc sặc sỡ, gợi nhớ điều gì đẹp đẽ xa xôi của bà trong tiềm thức hay không mà cứ hôm nào bác dâu vội đi làm, sểnh quên khóa cửa phòng ngủ là bà nội cũng vào đái một bãi, hay giải quyết việc nặng hơn vào đấy đầy khoái cảm. Bác dâu thường họp gia đình sau mỗi lần bà thải chất cặn bã vào giường làm bác phải vứt cái ga Hàn Quốc tím ngăn ngắt đi. Suốt cuộc họp tố tội nội là "lẫn quá mất khôn, sống lâu làm phiền con cháu, càng ngày càng giở chứng xấu không bằng đứa trẻ con, ỉa đái còn biết gọi người lớn" của bác dâu, Nội ngồi cười khẩy, mắt tinh sáng xanh nhìn ra hướng cửa sổ có tán hoa phù dung lay động, không nói một lời. Họp gia đình có sáu người tham gia, bác dâu độc thoại từ đầu tới cuối, uống hết mấy chai nước sâm rồi kết thúc trong sự bất lực đau khổ đầy căm giận. Bác giống như người nắm tay thật chặt, đấm thẳng vào đối thủ, nhưng quả đấm luôn trật vào khoảng không vô tận, như thách thức, mời gọi, đấm nữa đi, cố lên cố lên. Không gì đáng giận bằng việc mình nói mà không ai thèm nghe. Người khổ là cô Thảo, vừa phải dọn, vừa bị nghe chuyện cứt thối của bà làm bẩn phòng bác trưởng, chửi chục ngày không nuốt được cơm. Hai năm nay, nội đi lại khó khăn, bác dâu không phải lo khóa cửa vì bà không tự trèo lên giường bác để gặp Uylyam Cường. Cố lắm, bà chỉ gặp ngài ở chân giường bác dâu. Việc dọn dẹp với cô Thảo cũng nhàn hạ và ít hậu quả hơn.

Bác dâu người quấn chăn bông thò mỗi cái mặt trắng hồng, đôi lông mày đen xăm cong vút, hai mắt xanh lét và đôi môi viền đỏ. Từ hôm qua, sau khi gột rửa lũ bọ, ai cũng quấn một cái chăn mỏng khi di chuyển trong nhà. Mỗi người một cách xử lý bọ chuột nên nhà cũng trắng dần lại. Tôi hăng say lấy khăn bông ướt, phủ lên mặt sàn và vét lũ bọ lúc nhúc vào đó, mang vào buồng tắm, nhúng vào chậu xà phòng. Khi rút cái khăn lên khỏi mặt nước, chậu xà phòng đen kít xác bọ. Bố lại khoái dùng bình diệt kiến, xịt mù mịt hơi vào gậm giường gậm tủ, rồi lấy chổi quét từng vốc bọ cho vào bồn cầu giật nước. Hai bác quần quật trong phòng riêng, lâu lâu, bác dâu vô ý đánh vỡ một cái bình gốm cổ. Bác trai rất hiếm khi quát bác dâu, nay vỡ bình, bác kêu khá to, tiếng hét bay ra khỏi miệng, chưa kịp vỡ thì tắt lịm. Tôi ở đây từ nhỏ, lần đầu bác trai quát mà bác dâu im lặng. "Con Thảo đang trông bà, nó về, bà ở dưới chú út với ai?". "Vợ con chú ấy không trông bà được vài hôm à. Nhà quê có việc gì mà làm, không tranh thủ mà hầu mẹ chồng cho có phước hay sao. Cứ coi như không có con Thảo thì mỗi nhà phải thay phiên nhau mà trông bà chứ". "Nhưng bà ngồi một chỗ, bao năm nay có mỗi cái Thảo biết chăm bà. Giờ nó về đây dọn nhà cho mình, chẳng may bà ngã thì sao". Bác trai gằm ghè. "Ôi giời ơi, thế thì sợ cả đời. Phải cắt người ra mà hầu bà chứ. Bao năm nay, cô chú ấy đã được cái phúc là tự tay chăm mẹ đâu". "Hay là tôi gọi cô tạp vụ cơ quan đến dọn nhà, giết bọ. Cô đấy chân tay đầy đủ, nhanh nhẹn sạch sẽ, tin được". "Điên à, đưa cơ quan đến nhà cho nó biết hết bí mật nhà mình à. Ông là giám đốc, nhà có mấy con bọ ranh mà vợ không dọn phải gọi nhân viên đến là sao". "Thế thì để tôi thuê bà đồng nát hay ngồi ngoài ngõ nhé. Bà ấy bán buôn quanh quẩn bao năm ở đây, sáng nào tôi đi làm cũng thấy bà ấy nói chuyện với cậu Hùng lái xe". "Cái gì, sao ông lại cho đồng nát vào nhà. Ông biết thừa nhà này vớ đâu cũng tiền mà dám cho người lạ vào. Tay ông mua đồ cổ, món rẻ nhất cũng vài chục triệu, không thì vô giá, có tiền tỉ cũng không mua được. Ông nói mà không nghĩ. Tôi chỉ tin cái Thảo, một mình nó. Thơm thối cũng mình nó biết, ông nhớ chưa".

*

Bốn ngày sau.

Cô Thảo được bác dâu đón về để dọn đám bọ chuột. Một ngày cô chỉ lôi đồ ra, xếp đồ vô, tuyệt nhiên không thấy con chuột chết nào. Bọ cũng bớt nhưng không hết. Bàn ghế, sập gụ tủ chè trong nhà là đồ cổ, các ngóc ngách vẫn đen màu con bọ. Đồ gỗ trong nhà nâu đen bóng loáng, khó thấy bọ bám để giết. Bác trai mê sưu tầm đổ cổ, mỗi món đồ bé cũng cả nghìn đô Mỹ. To thì bằng tiền mua cái Matiz, Camry. Khi ở quê lên, cô Thảo bước vào nhà, đứng lặng tựa người vào cánh cửa gỗ, nhìn chậm chậm một lượt. Tất cả chúng tôi chăm chú nhìn theo mắt cô, quét lên tất cả, như máy dò mìn. Một lúc sau, cô tập tễnh đến góc bếp mở ra, ngồi xuống. Im lặng. Bố, hai bác và tôi lao đến, dồn dập "tìm bắt ngay chuột chết đi". Cô im lặng khó hiểu, lắc đầu, nói nhanh "Nhà không có chuột. Không có chuột chết". "Thế bọ ở đâu ra". Cô không trả lời, chỉ tay ra cửa, nói "Mọi người mua sữa, cháo ăn liền và bỉm mang về cho bà. Dưới đấy chỉ ăn cá, bà đau bụng hai hôm nay rồi. Mua nhiều thịt lợn mang về cho cậu Út làm ruốc cho bà". Bác dâu cau mặt. "Khổ quá, đang hỏi đám bọ ở đâu ra, không phải vì chuột chết thì vì cái gì?". "Bà đau bụng đã uống thuốc chưa, cô về đây, ai trông bà". Bố tôi nhìn cô Thảo chằm chằm, như thể nhìn thật kỹ cô Thảo, như nhìn cái tivi, sẽ thấy bà hoạt động trên đấy. "Sáng nay cháu phải trốn bà về đây. Giờ bà dậy, không thấy cháu, chả biết ra sao". "Mày thôi nói đến bà già ấy một lúc được không. Tao hỏi bao lâu mày giết hết đám bọ chuột chết này? ". Bác dâu gào lên. Cô Thảo như người điếc, mê mải đi theo con đường riêng, lẩm bẩm với bố tôi "Hôm qua, bà bảo sắp Tết, nhớ nấu chè Bà cốt thắp hương ông nội".

*

Bây giờ là mùa đông.

Gia đình nhỏ của tôi có thói quen từ đời cụ tôi là nấu chè bà cốt những ngày Tết. Tôi giờ đã có chồng và sinh hai đứa con. Chúng tôi ở căn nhà ngoại ô, có vườn và ao khá lớn, thả cá bên dưới, trên mặt là bèo tấm. Ngôi nhà tôi sống cùng bà nội, bố mẹ và gia đình bác trưởng bán sau cái ngày đám bọ chuột chiếm đóng đô hộ. Cô Thảo về giết bọ đến ngày thứ hai thì quay lại nhà chú út chăm nội. Lý do đơn giản, cô là đôi chân, đôi tay của Nội. Cô không phải là người chuyên giết bọ. Căn nhà cổ có từ những năm đầu thế kỷ 20 có nhà bác trưởng và bố tôi giờ như nhà hoang. Nói gì chứ bà nội tuy ốm và ngồi xe đẩy, nhưng vắng bà thêm ngày nào, nhà thêm loạn ngày đấy. Bác dâu và bác trai đánh nhau vỡ mấy cái bình cổ từ đời kị nội để lại. Khi bình vỡ, bác trai mới biết là bác dâu đã tráo bình mới vào, trị giá vài trăm nghìn, so với bình cũ rẻ cũng vài chục triệu, có cái vài trăm triệu. Tài sản mất đã đau xót, nhưng chưa đau bằng việc mất gốc. Bác trai bảo một đêm khóc hu hu hai mắt đỏ máu bầm, hai lỗ mũi đã to lại càng trống hoác ôm chặt bố tôi cũng rơm rớm nước mắt, rên rỉ "Chị dâu chú đã nắm rễ cái cây cổ bao đời nhà mình nhổ lên mang đi rồi thay vào đấy cái cây nhựa rồi em ơi". Ra tòa ly dị, bác trai viết vào đơn phần lý do bỏ "Không sống chung với người giả dối". Con gái hai bác đi theo một anh họa sĩ người Pháp, sau này định cư ở Nauy. Chị giờ là họa sĩ còn chồng thì chuyển sang buôn bán tranh. Nhà cổ bán, chia theo quyết định của bác dâu. Bố mẹ và tôi đủ tiền mua căn nhà ngoại ô này. Một năm sau. Bà nội mất ở nhà chú Út. Trước khi mất, bà gọi mẹ tôi về, tháo nhẫn vàng mặt ngọc, lắc ngọc, dây chuyền ngọc trăm năm tuổi, đeo hết lên người mẹ. Lần đầu tiên bà cho mẹ lau người bằng nước thơm. Bà nói, "Nhiều bí mật, cả đời đi tìm không thấy do không biết, có khi do người ta giữ bí mật đấy đến chết và mang theo về trời. Mấy chục năm bà không cho mẹ động vào người bà, và việc bà rất thích đại tiểu tiện vào giường bác dâu, vì bà bị bác dâu lừa nặng quá". Mẹ khóc, bảo bà đừng nói nữa. Bác dâu có lừa hay không thì cũng là người dưng rồi. Bà lại bảo "Mợ dặn con, đừng giữ gì chặt quá. Đừng yêu thương ai hay đồ vật gì quá. Rồi cũng tuột ra khỏi tay thôi. Con biết là năm đời nhà mình toàn đàn ông sưu tầm cổ vật, để đến đời con trưởng của bà mang con dâu về tráo đồ gốm Trung Quốc đời nay vào. Không nhờ mấy con bọ thì không bao giờ biết nhà toàn đồ rởm rồi". Mẹ lại nói "Nếu Mợ đã biết là đừng quá vì một điều gì trong đời, thì mợ cũng đừng đau khổ quá. Đừng nghĩ là chị dâu con mang đồ giả đổi đồ thật, mà coi như bị động đất, tan vỡ hết. Còn người sống là may rồi". Bà gật đầu "Có những điều, khi mình ngộ ra, chỉ có kiếp sau nếu hồi sinh mới có cơ làm lại, kiếp này sống trăm tuổi cũng vô nghĩa". Mẹ gật đầu "Mợ đừng buồn nữa. con chỉ mong đời con được như mợ".

*

Tết đến.

Tôi dạy con gái nấu chè Bà cốt. Nước đường đen đun lên, đập gừng vào nấu với gạo nếp cẩm. Bịch nếp mua trước đấy hai tuần để trong góc tủ bếp. Khi mở bịch nilông, tôi gặp lại nhân vật quen. Nhân vật bé nhỏ này đã quyết định số phận của mấy đời dòng họ Trịnh nhà tôi.

Những con bọ chuột ngày xưa tôi gặp lại chúng, trong nhà tôi ở ngoại ô.

Mười năm trước, khi bán nhà, tôi nhặt hai con bọ chuột ép vào cuốn sổ có những trang giấy trắng. Đặt sổ trong tủ kính, cạnh những bằng khen học sinh giỏi Toán cấp Quận, mấy huy chương bạc giải bóng bàn sinh viên, Giấy khen của các con cùng những kỉ vật quý. Giờ thì tôi biết, hàng triệu con bọ ngày đấy như tấm màn đen phủ trùm lên cả gia đình tôi không phải được sinh ra từ chuột chết. Ngồi bệt dưới đất, mắt mở trừng trừng nhìn cánh tủ bếp sơn trắng nhung nhúc những con bọ bám dày kít. Chúng chuyển động như dòng xì dầu đặc tưới lên mặt gỗ. Một lúc sau, từng đàn bọ bay vù ra, đậu lên mặt tôi. Lân tân li ti cảm giác tê buồn ngày xưa trở lại.

Bắt hai con bọ sống đang bò, ép vào góc giấy trắng bên cạnh hai con bọ đời cổ, chúng như cùng một đàn, chỉ khác là hai con sau tươi mới hơn hai con cũ đã khô. Tôi nghe tiếng giập vỡ của hai con bọ mới trước khi chúng mỏng lép lại, ruột cuộn lên từng cơn như lúc mong người yêu hay lo lắng điều gì khi nhớ chuyện bà nội nói với mẹ đừng nên giữ lại cái gì, rồi đến lúc sẽ tuột khỏi tay hết. Đồ cổ lại càng không nên giữ, vì người ta có thể tráo bằng đồ mới, chỉ khi chúng bị đập tan ra mới biết là mới hay cũ. Lúc này tôi không thấy câu dặn đó đúng với hai con bọ chuột - nay là bọ gạo đang túa ra trước mắt và những con cổ xưa nằm dính trên trang giấy trắng. Không hiểu tại sao mười năm sau, tôi mới nhớ ngày đấy chính bác dâu đã mang túi gạo nếp cẩm về, cùng bịch đậu đen, bảo là bạn trai làm nghề mát xa, vật lý trị liệu có bàn tay vàng xoa bóp khỏi bách bệnh khuyên bác ăn đều cơm nếp cẩm nấu đậu đen tốt cho tóc và sáng mắt. Một lần, lúc bác trưởng đập phá đồ gốm rởm bị bác dâu tráo bán, chửi "mày là đồ vợ mất nhân tính, lừa chồng theo thằng bạn thân của tao lại cùng nó cướp cả đồ cổ năm đời cha ông để lại, mất dạy khốn nạn quá".

Sau khi bán nhà, chia tiền, bác trai bỏ chức Giám đốc, biến mất khỏi chúng tôi không một lời từ biệt. Buổi sáng, giờ đi làm, bác im lìm, xỏ giầy, đeo cái túi nhỏ, bình thản đi ra ngõ. Chiều hôm đấy, đến tận bây giờ, bác không một lần quay về. Bố tôi sau khi mua ngôi nhà ngoại ô này cho mẹ con tôi, ông về ở với nội ở quê. Ba năm sau khi nội mất, bác dâu bị tiểu đường biến chứng sang mắt, phải vào viện dưỡng lão sống. Không ai vào thăm bác ngoài hai mẹ con tôi.

Gặp lại những con bọ quen, tôi đi thăm bác dâu.

Ngồi trước một người mờ mắt, mất trí nhớ và tay chân bị cụt dần, tôi không biết bắt đầu từ đâu, kết thúc thế nào câu chuyện về những con bọ gạo. Tôi chỉ muốn nói với bác dâu một chuyện thật đơn giản, là triệu con bọ ngày xưa ở nhà mình, không phải sinh ra từ chuột chết, mà từ gạo nếp cẩm. Tại sao nhà mình lúc đấy lại có nếp cẩm, bác có nhớ không? Bác dâu đeo kính đen, từ sáng đến khi ngủ để mọi người không thấy hai hốc mắt mờ đục trừng trừng, cười khành khạch lắc lắc cái đầu, miệng sùi nước bọt hôi hám nói lèm nhèm chuyện gì tôi không nghe rõ. Nói và cười một mình là thói quen của bác dâu vài năm nay. Cô y tá nắm tay tôi, mắt thăm thẳm "Cô không hiểu chị nói gì đâu. Cô chỉ nhớ hiệu lệnh là ăn đi, uống đi thì há miệng to. Mấy lần, mẹ chị và chị vào thăm về, đêm đấy cô la hét, tay chân khua khoắng khỏe lắm".

*

Thực sự lúc này, và mãi mãi sau, tôi chỉ có nóng ruột làm sao tìm thấy bác trai, hay bỗng chốc có phút giây nào bác dâu tôi tỉnh lại, để nói với họ về những con bọ được sinh ra từ gạo nếp cẩm. Bọ không sinh ra trên xác chuột chết.

Đời tôi đúng là chỉ có một ước muốn đơn giản.

Nhiều người có khi còn thấy vớ vẩn. Nhưng đấy thực sự là một ước mơ.

Dưới lá me bay

TCNV- Thứ bảy. Chiều xuống. Hà Nội cuối thu. Những vệt nắng vàng tắt sớm.

Phảng phất một chút heo may làm rung nhẹ những cành me. Buông dần xuống những cánh lá mỏng manh còn nhẫn nại trên cành. Người đi lại trên phố càng ngày càng đông. Đất thủ đô như cục nam châm khổng lồ, kéo biết bao nhiêu là người về định cư sinh sống. Ra khỏi bệnh viện 108, chúng tôi lại rủ nhau ra quán vỉa hè. Cậu chủ quán là chỗ thân tình reo lên, quát đám giúp việc:

- Đây rồi. Chúng mày đâu kê cho tao hai cái bàn.

Tôi nói với hai người bạn đi cùng:

- Ngồi đây uống vài chén. Hôm nay tớ vừa nhận sổ hưu. Đang bị ứ đọng tiền mặt đây này.

Chúng tôi ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ. Chai rượu thuốc vàng óng ánh. Đồ nhắm nhanh chóng được bày ra. Bát cá quả om với rau cần đầu mùa thơm phức.

Vào bữa trưa và bữa tối, quán cơm bụi ở vỉa hè phố Lý Thường Kiệt này không vì thời tiết se lạnh mà vắng khách. Những chiếc xe ô tô sang trọng đỗ thành dãy dài hai bên đường. Người ta đến đây để thưởng thức những món ăn bình thường nhưng không dễ có ở gia đình. Đặc biệt đối với dân sành miệng của Hà Nội.

Thời hiện đại, nhu cầu của con người ta khác hẳn ngày xưa. Không ăn cơm tiệm, không đi pích ních, không sắm hàng hiệu, không đi siêu thị thường xuyên là lạc hậu, là tẩm, là không bằng bè bằng bạn. Mới ngày nào, khi những loại cà phê, chè túi mới ra đời người ta chê bủng chê bai về sự nhạt thếch, không có hương vị, sánh làm sao được với cà phê phin và chè móc câu của Thái Nguyên. Bây giờ thì quen rồi. Nhanh lắm. Hàng ngày phải ra quán ở góc phố để uống nước, trả mấy chục ngàn một ly lipton hay dimard cũng là bình thường, trong khi pha ở nhà chỉ có giá bằng một phần mười. Như thế mới là sành điệu, mới là thức thời...

Ở quán cơm bụi, thật dễ tình cờ gặp lại hay làm quen với những người bạn. Khách đến đây có đủ hạng. Họ là dân làm ăn, là những người nổi tiếng và thậm trí còn có cả chính khách. Mấy ông văn chương thơ phú hay thích la đà. Một ông nhạc sỹ kiêu ngạo. Có một vài ca khúc để đời về Hà Nội, thường xuyên đến quán cơm này, khi cao hứng đã vội tự so sánh mình không kém gì cụ Văn Cao và Trịnh Công Sơn. Một ông giáo sư nổi tiếng về phẫu thuật hồi còn sống cũng rất hay đến nhậu. Ông ta đã đột ngột qua đời từ mấy năm trước vì một cơn nhồi máu cơ tim cấp. Khi đã nằm trong nhà lạnh của bệnh viện Trung ương quân đội 108, người ta mới hối hả chạy hết cửa này cửa nọ, lo đủ thủ tục để đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng trong nghĩa trang Mai Dịch; để trên tấm ảnh tạc vào tấm bia đá, ông mãi mãi nở nụ cười mãn nguyện.

Người ta truyền miệng nhau về quán cơm này. Bụi nhưng mà không bụi. Ai đã một hai lần đến ăn là sinh ra nhớ. Ai đã có dịp thưởng thức độ một phần năm những món ăn của quán là sinh ra nghiện. Có lẽ là do món ăn ngon đã để lại ấn tượng. Miếng ăn nhớ lâu mà, khi có dịp là quay lại để đưa vợ con hay bạn bè đến chứng minh cho lời quảng cáo của mình. Tìm đâu ra bây giờ món rươi đúc trứng, cá mòi rán giòn, cá diếc kho tương vừa miệng, dừ nhụt, ăn cả đầu lẫn xương.

Bạn bè tri kỷ thỉnh thoảng gặp nhau, sinh ra nghiện cảm giác mỗi khi ngồi ở vỉa hè một con phố vào loại đẹp nhất Hà Nội. Những cánh lá me mỏng như hạt cốm xanh lãng đãng rơi, bất chợt dừng lại trên chén rượu, lênh đênh như con thuyền nhỏ giữa dòng đời, ngắm nhìn nhân tình thế thái, hàn huyên mọi chuyện tâm giao thì hà cớ gì lại không uống cho đến phê phê...

Một chiếc Lexus 350 tạt vào vỉa hè. Người đàn ông có thân hình đậm chắc nịch. Vừa mở cửa xe, anh ta vừa tháo bỏ chiếc cà vạt và áo vét vứt lại trên ghế. Họ có bốn năm người cùng vào quán cơm để dùng bữa tối.

Ai như thằng cha Đệ? Đúng rồi! Thằng Đệ tâm thần. Lâu lắm rồi còn gì. Đệ nhập ngũ năm trước, tôi nhập ngũ năm sau. Hồi trong chiến trường có một thời gian ở với nhau cùng tiểu đội. Ngày xưa hắn gầy gò, nhỏ thó vậy mà bây giờ phát tướng, đẫy đà. Đệ và mấy người cùng đi lướt nhanh qua bàn chúng tôi ngồi. Nhìn mấy người đi cùng, tôi đoán có vẻ như Đệ là sếp của họ. Tôi nhìn rõ là Đệ, nhưng hắn không nhìn thấy tôi.

Bốn mươi năm rồi mới gặp hắn. Sao lại có cuộc gặp gỡ tình cờ thế này?

*

Con sông ở quê tôi cứ mỗi năm một cạn dần. Dòng nước thu hẹp lại.

Sinh ra và lớn lên ở xứ Đoài; vậy mà bây giờ khai lý lịch không còn được viết chữ Hà Tây nữa. Đêm hôm trước còn là người tỉnh lẻ, sáng hôm sau thức dậy đã thành công dân thủ đô; mừng nhưng đôi khi cũng thấy man mác buồn, ngường ngượng khi khai quê mình là Hà Nội. Chỉ sợ người ta cười mình thấy sang bắt quàng làm họ.

Những năm cuối thập niên sáu mươi của thế kỉ trước, máy bay Mỹ ném bom bắn phá tơi bời miền Bắc. Mùa nước lên, dân quân xã tôi thay nhau gác điếm canh chừng vỡ đê bởi rất có thể vỡ đê do nước lên to hoặc bom Mỹ thả. Dọc đường đi quanh làng, rải rác những căn hầm trú ẩn hình chữ A nửa nổi nửa chìm. Mái tre đực ken dầy rồi đắp đất thành ụ ở phía trên. Những đoạn giao thông hào hình chữ chi chỗ có mái, chỗ không. Đám trẻ chúng tôi đầu đội mũ rơm vẫn đi học, chả đứa nào có cảm giác sợ hãi. Máy bay đến thì xuống hầm, máy bay đi lại trở lại đùa nghịch hồn nhiên như chưa từng có chiến tranh.

Làng tôi và làng Đệ nằm dọc theo bờ đê sông Hồng, cách nhau mấy con điếm canh đê. Chúng tôi biết nhau khi vào cấp ba trường huyện. Đệ học kém, nhưng nói năng đâu ra đấy đến con kiến trong lỗ cũng bò ra. Mỗi khi lớp bàn bạc một việc gì là Đệ phát biểu có lý lẽ đàng hoàng, khúc triết, rõ ràng. Năng khiếu ấy khiến thầy chủ nhiệm xếp Đệ làm lớp phó phụ trách lao động và đời sống ngay từ năm lớp tám. Dù là cán bộ lớp, cũng được ưu tiên, nhưng học hết lớp chín thì hắn bị đúp lại vì bị mấy môn điểm dưới trung bình.

Ngày hè, đám trẻ ở làng thường rủ nhau ra sông đi lang thang dọc theo bờ cát, tha thẩn ngắm nhìn những đám cỏ lau bông vàng rủ xuống mềm mại đung đưa trước gió. Bọn tôi ném những mảnh sành cho nó bay là là trên mặt nước. Chúng tôi tụt hết quần áo nhảy ào xuống sông tắm mát. Máy bay đến, cả bọn cứ trần truồng, nồng nỗng chạy núp vào những hố hàm ếch bên bờ cát.

Bọn trẻ làng tôi ai cũng biết Đệ. Gần hết kỳ nghỉ hè, chúng thì thụt, lúc to lúc nhỏ kháo nhau về sự tinh quái của Đệ đã vô tình làm chết một đứa cùng xóm trong đợt nghỉ hè. Ấy là chuyện một lần ra sông, Đệ vô tình bắt được đôi dép xăng đan vẫn còn mới. Hồi ấy, toàn đi dép gia công, hoặc dép cao su được cắt ra từ lốp ô tô. Ai đi dép, lúc nào cũng thủ trong túi một cái rút dép, bởi dép cứ tụt dây quai xoành xoạch. Cả làng chẳng ai có đôi dép tử tế mà đi. Cầm đôi xăng đan trên tay, Đệ bảo: "Đứa nào lấy được đôi dép thì tao cho". Nói rồi, Đệ dang rộng tay ném cả đôi dép xuống sông. Hai chiếc xăng đan nổi lều bều trên mặt nước đỏ đục ngầu như vẫy gọi đám trẻ tò mò, háo hức, tiếc của. Năm đứa cùng nhảy ào xuống sông, nhưng chỉ có bốn đứa trở lại bờ.

Sau khi xảy ra câu chuyện đáng tiếc và thương tâm ấy, Đệ không đến trường học, mà xung phong vào bộ đội. Thời ấy, cả nước sống trong đạn bom đầy máu, mồ hôi và nước mắt, nhưng cũng tràn ngập tiếng cười. Thanh niên quê tôi háo hức lên đường nhập ngũ. Người đi đợt trước, người đi đợt sau, nhưng tất cả đều đi một con đường hướng ra... mặt trận. "Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù". Câu nói của ai đó có sức lôi cuốn đến kỳ lạ. Dọc đường số một, từng đoàn xe tải nối đuôi nhau hướng về Nam. Những đoàn tàu chở xe tăng vải bạt chùm kín, nòng súng hướng về một phía. Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Làng tôi vắng tanh bóng dáng đàn ông. Đàn bà thay nhau dắt trâu, vác cày ra đồng. Áo cánh nâu, quần đen buộc túm ngang bắp chân. Lúa ngoài đồng vẫn xanh tốt, vẫn trổ bông vàng trĩu hạt. "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", cánh đồng làng tôi trải dài từ lũy tre xanh đầu xóm Trầm ra tới giáp xứ đạo Bằng Sở, hơn một cây số phẳng lỳ thảm lúa đã nuôi bao nhiêu người ra trận. Hàng ngày, loa truyền thanh treo trên cây xoan già, sa sã phát đi phát lại những lời ca: "Từ ngày anh đi việc nhà em giỏi giang... Ngày đầu chưa quen đường cày đâu thẳng ngay, nhưng đến hôm nay...". Rồi: "Yên tâm vững bước mà đi hỡi người mà em yêu. Ở nhà việc khó, có bao nhiêu... em vẫn vẹn tròn... Anh cứ yên tâm, vững bước anh lên đường...”.

Học đến giữa học kỳ hai năm lớp mười thì con trai cả lớp tôi nhất loạt xung phong vào bộ đội. Chia tay bạn cùng học ra trận ngùi ngùi nhớ thương. Hầu như trong ba lô của thằng nào cũng có một cái khăn mùi xoa trắng, một cái túi vải đựng bàn chải đánh răng. Góc chiếc khăn mùi xoa thêu đôi chim bồ câu và hai chữ nhớ mãi. Tôi còn có một chiếc bút máy, trên thân bút khắc đôi chim màu phấn trắng nổi bật. Đấy là quà tặng của bọn con gái trong lớp tặng cho những đứa con trai trước lúc lên đường ra trận.

Ba tháng huấn luyện tân binh trong Vụ Bản qua đi nhanh chóng. Trung đoàn nhận lệnh hành quân vào Nam. Không ngờ khi vào đến gần Quảng Trị thì tôi được lệnh điều động về đơn vị mới, đúng vào trung đội của Đệ. Lính cũ đã dày dạn chiến trường kèm cặp đám tân binh còn lơ nga lơ ngơ.

Sau đánh Mậu Thân, sư đoàn tiếp tục tham gia các chiến dịch Đường Chín - Nam Lào, Khe Sanh, Cồn Tiên, Dốc Miếu rồi đến Thành cổ. Chiến tranh giải phóng chuyển sang thời kỳ ác liệt. Vùng đất Quảng Trị gió mùa nắng nóng mưa nhiều, khô khát nghiệt ngã nhất là những đợt gió Lào tràn sang. Sự tàn phá của Mỹ Ngụy đã làm cho mảnh đất chịu nhiều đau thương này trở nên xác xơ đến mức một nhà thơ lớn đã than rằng: "Anh về Quảng Trị, Gio Linh/ Trèo lên Dốc Miếu, lặng nhìn Quán Ngang? Bời bời cỏ lút đồng hoang/ Chim kêu cành cụt, chang chang nắng cồn/ Tả tơi mấy ấp khu dồn/ Mái tôn, rào kẽm, tháp đồn chơ vơ!".

Vào cuối tháng 3, sau những đêm trắng hành quân, tiểu đoàn chiếm lĩnh vị trí để mai phục chờ địch. Những giờ phút im lặng, căng thẳng đến nghẹt thở. Những trận đánh ác liệt liên tục diễn ra trong suốt mùa khô. Địch bị đẩy lùi, bị tiêu diệt nhiều nhưng ta cũng mất mát, hy sinh. Đồng đội người bị thương, người ngã xuống. Trung đội tôi gần như thằng nào cũng bị sốt rét bởi muỗi rừng.

Sau cơn sốt rét, Đệ bỗng dưng phát bệnh tâm thần. Đệ nằm bên cạnh tôi, nói:

- Mày ạ, tao có thể điều khiển muốn cho mồ hôi ra lúc nào được lúc ấy. Mồ hôi ra nhiều ra ít tùy thích. Muốn dừng lại là tao ra lệnh dừng. Hi... tao nói thật đấy, đếch cần nước vẫn tắm được. Thiếu gì nước.

- Mày nói lảm nhảm gì thế. Điên à - Tôi ngoái đầu sang hỏi.

- Điên là điên thế nào. Điên cứt tao ấy. Tao nói thật cho mày biết, tao đang sáng chế ra một loại thuốc từ nước đái có thể chữa khỏi hẳn bệnh sốt rét. Cứ để cho muỗi Anôphen tha hồ đốt, có gì mà sợ. Tao sắp thành công rồi. Ha... ha...

Đệ cười rống lên.

Nghe Đệ nói tỉnh bơ, tôi giật mình. Ơ hay cái thằng này, nó bị điên thật rồi. Những ngày tiếp theo, Đệ lầm lầm lỳ lỳ, có bữa bỏ ăn. Khi được nghỉ là nằm ngủ triền miên. Trông Đệ lờ đà lờ đờ như người mất hồn.

Đơn vị đang đi vào chuẩn bị cho chiến dịch. Mùa khô. Nắng nóng. Rừng cây trơ trọi, phủ kín một màu bụi đỏ. Cả đơn vị miệt mài hành quân trong bí mật. Đêm đi, ngày nghỉ theo dẫn đường của giao liên. Dưới ánh trăng mờ, thỉnh thoảng ánh pháo sáng của địch lại lóe lên. Những cánh rừng trơ trụi lá bởi bom đạn và chất diệt cỏ. Những mảnh đất đỏ quạch chạy dài chỉ có đất đá và đầy những hố bom.

*

Gần một tháng trời, trung đội bảo nhau canh chừng Đệ.

Bữa ấy Đệ lại không ăn, nằm dán lưng xuống vạt cỏ. Mắt nhìn trân trân lên bầu trời. Một lúc sau, Đệ lại trở dậy. Bước đi ngật ngưỡng qua những vạt cỏ vàng suộm. Vừa đi, Đệ vừa tủm tỉm cười, lúc lại nghẹo cổ nhăn nhúm mặt lại, thất tha thất thểu như thằng nghiện lên cơn thèm thuốc.

Đột nhiên, Đệ quay ngoắt lại, chĩa khẩu CKC vào mấy đồng chí chỉ huy đang ngồi hội ý rồi la lớn: "Chúng mày ơi biệt kích!". Mọi người giật mình, chạy tản ra sau những gốc cây tránh những viên đạn bất ngờ đã lên nòng súng. Đệ hét to: pằng... pằng... pằng. Ngọn súng quét ngang ngay phía trước mọi người và đạn cày mặt đất. Bắn và hét xong rồi, Đệ ngửa mặt lên trời, cất tiếng cười sằng sặc: "Chết cha chúng mày chưa". Tôi chớp thời cơ, nhanh như cắt nhảy tới từ phía sau ôm chặt ngang người Đệ, vật hắn ngã lăn xuống đất. Khẩu súng CKC văng sang một bên. Mọi người bị một phen hú vía.

Đêm về, tôi để ý thấy Đệ không ngủ. Những đêm tiếp theo hắn cũng ngủ rất ít, thỉnh thoảng lại hét lên trong cơn nửa tỉnh nửa mê: "Chúng mày ơi có biệt kích...".

Bệnh tình của Đệ như ngày một nặng lên. Lúc yên lặng thì thường lầm lỳ nhìn mọi người không nói. Đôi mắt đẫn đờ, vô vọng. Có đêm, khi B52 ném bom, Đệ không sợ hãi, lao lên đường huơ hai tay lên trời nói những lời thách đố. Hắn chửi máy bay Mỹ như mấy bà ngoài chợ tức khí chửi nhau. Cánh quân y không biết làm gì hơn ngoài việc cho Đệ uống thuốc an thần. Cũng còn may, ngoài cơn điên điên khùng khùng, Đệ tỏ ra lầm lì, nhưng vẫn đi theo được cùng đoàn quân, biết nghe lời và làm việc như mọi người.

Dù vậy, chúng tôi cũng chẳng sung sướng gì khi đơn vị có một tay súng bị tâm thần, dở khôn dở dại. Chỉ huy bàn tính, tìm cách gửi Đệ về tuyến sau điều trị. Thật là khó! Đơn vị đang trên đường tiến vào, phải đợi đến khi có xe chạy ngược ra hoặc khi hành quân đến gần một trạm quân y thì mới dúi Đệ cho bác sĩ được.

Một buổi chiều. Cả đơn vị đang ngồi nghỉ bên cánh rừng già. Phân tán xong đội hình, ai cũng ngả mình xuống vạt cỏ nghỉ ngơi lấy lại sức. Chiếc ba lô làm đệm, khẩu súng nằm ngang bụng. Người thiu thiu ngủ. Người mang thư nhà ra đọc. Đệ cũng nằm xuống cạnh tôi, gối đầu lên cái rễ cây trám sần sùi. Đôi mắt Đệ không chớp nhìn thẳng lên bầu trời. Bầu trời căng phẳng qua từng vạt lá, không một gợn mây.

Yên lặng được một chốc. Đột nhiên, Đệ vùng dậy. Hắn đứng thẳng và rút từ trong túi đeo ngang hông quả lựu đạn. Đôi mắt nhìn mọi người trừng trừng, vô cảm: "Ối anh em ơi, biệt kích!". Bàn tay trái hắn bật chốt, tay phải ném quả lựu đạn về phía mấy chiến sĩ đang nằm lăn lóc vì mệt mỏi dưới gốc cây bằng lăng. Thời khắc bất ngờ và nhanh quá. Từ phía đằng sau, chúng tôi vùng dậy quật ngã Đệ xuống đất, giật ngược cánh tay hắn ra sau. Đệ thở hồng hộc như con trâu mộng bị cắt tiết, nhổ nước bọt phì phì. Lựu đạn nổ văng lên theo hình phễu. Giữa vị trí phát nổ với khoảng cách gây sát thương vẫn có một khoảng cách an toàn nên rất may là chỉ hai người bị thương nhẹ. Lập tức Đệ bị trói chặt hai cổ tay và chịu sự quản thúc, không được tự do đi lại nữa.

*

Chỉ huy đơn vị quyết định không cho Đệ đi cùng. Càng ngày, yêu cầu giữ bí mật hành quân càng cao. Ngày hôm sau, đơn vị buộc phải phân công hai người đưa Đệ về tuyến sau.

Tôi nhớ trước khi bị đưa đi, Đệ vẫn còn nói nhỏ với riêng tôi một câu trong tâm trạng không đến nỗi bi quan và tuyệt vọng lắm:

- Tao sẽ khỏi thôi, điên là điên thế nào? Điên cứt tao ấy! Còn lâu.

Nói rồi như sợ lỡ miệng, lộ tẩy điều gì đó uẩn khuất, Đệ khóc rống lên. Cũng như bợm rượu say xỉn rồi, nhưng vẫn luôn mồm nói còn lâu mới say. Người say cũng như người điên, có còn biết gì nữa. Chấp họ làm gì.

Đệ bị đưa đi về tuyến sau điều trị. Tôi cứ hình dung lại mọi sự việc xảy ra trong suốt thời gian gần một tháng Đệ bị tâm thần. Có cái gì đó gờn gợn. Chả lẽ hắn bị điên thật? Chiến trường, căng thẳng và ác liệt quá. Những đêm lính tráng thức trắng triền miên. Những trận đánh ác liệt, đồng đội liên tục ngã xuống. Những trận sốt rét ác tính kinh hãi... Bản lĩnh là vàng mới trụ nổi, mà muốn có bản lĩnh thì phải rèn luyện. Lửa thử vàng gian nan thử sức.

Có phải vì quá sợ hãi đã biến Đệ thành thằng hèn? Đã nhiều lần tôi tự hỏi như thế nhưng không dám tâm sự với ai. Chúng tôi tiếp tục đi, tiếp tục chiến đấu cho đến ngày chiến thắng cuối cùng. Tôi giải ngũ, chuyển ngành về công tác ở Hà Nội. Mấy vết thương nhỏ ở phần mềm và sức ép của các trận bom chỉ khi trở giời mới thức dậy đau nhức. Giấy tờ mất hết bởi khói lửa đạn bom nên chẳng làm được thủ tục để thành thương binh. Ngoài cái gia đình nhỏ của mình với ba đứa con, phía trước còn một gia đình lớn, ông bà già ở dưới quê đã ngoài tám mươi tuổi nay ốm mai đau. Các em ruột dù đã xây dựng gia đình nhưng cuộc sống vẫn chưa thoát khỏi cảnh nghèo, nay đứa này gọi, mai đứa kia nhờ. Năm ngày ba trận gọi anh, nhờ đến tay người lính giải ngũ can dự. Ngày thường và bao nhiêu lo toan cơm áo gạo tiền, nhưng hình ảnh Đệ điên ngày trận mạc cứ đeo bám, không xóa khỏi trong đầu tôi.

*

Thêm chén nữa. Cạch! Lại uống cùng nhau trăm phần trăm. Rượu và lửa là những phát minh vĩ đại nhất của con người. Trong máu thịt của mỗi con người cũng rất cần phải có lửa. Nếu thiếu lửa và rượu thì trái đất này sẽ tối tăm và buồn tẻ biết nhường nào.

Sau này, tôi cũng biết khi Đệ bị đơn vị áp giải đến bệnh xá sư đoàn, người ta chẩn đoán hắn bị tâm thần phân liệt thể hoang tưởng. Điều trị một thời gian, khi bệnh tình ổn định, rồi được giám định sức khỏe, Đệ được ra Bắc. Hắn nhận tiền một cục rồi về phục viên. Thương binh loại B, nhưng thân thể Đệ vẫn lành lặn, thể lực tốt, ăn nói hoạt bát. Đệ xin việc làm ở văn phòng ủy ban huyện bởi tấm thẻ thương binh được ưu tiên. Rồi Đệ lại đi học, tiếp tục công tác. Được đánh giá là có triển vọng phát triển, Đệ thăng tiến qua hầu hết các chức vụ từ huyện đến tỉnh. Tỉnh sáp nhập về với thủ đô thì nghiễm nhiên Đệ trở thành cán bộ của Hà Nội... Đấy là những thông tin tôi được biết qua những lần về quê hoặc mỗi khi gặp lại đồng đội cũ.

*

Bất ngờ. Người đàn ông ấy đứng ngay trước mặt tôi.

- Chào ông.

- A xin chào - Tôi đáp lại - Ông Đệ đúng không?

Tôi đứng dậy bắt tay. Bàn tay béo mũm mĩm, mềm hơn tay đàn bà, đó là loại bàn tay của người chỉ làm bằng đầu óc, hàng ngày không phải mó vào việc gì. Đệ bảo:

- Ngồi bàn bên kia, tôi nhận ra anh. Lâu quá rồi còn gì.

- Vâng, phải đến bốn mươi năm.

- Ờ hay thật. Tại sao mà bốn mươi năm anh em mình lại không được gặp nhau lấy một lần. Thế bây giờ cuộc sống của anh ra sao?

Đệ hỏi rồi đưa ly rượu cầm sẵn trên tay cụng với tôi và mọi người. Tôi dè dặt đáp lại:

- Mình vừa cầm sổ hưu rồi. Được tự do. Sướng thật.

- Sao đã về hưu rồi à. Mà... ừ, ông bằng tuổi tôi. Sáu mươi đúng không?

- Thế còn ông? - Tôi hỏi.

- Tôi vẫn đang làm việc. Cũng còn được mấy năm nữa.

- Thế ông công tác ở đâu, vợ con thế nào rồi? Gia đình ở cả trên này chứ?

- Nhà tôi ở khu biệt thự Trung Hòa. Hôm nào rỗi mời anh qua chơi.

Đệ chẳng thèm hỏi nhà tôi ở đâu. Vừa nói, Đệ vừa rút trong túi ra mấy tấm cạc vi sít đưa cho tôi và hai anh bạn ngồi bên. Hắn nói tiếp:

- Con cái bốn đứa, ba trai một gái. Ba đứa lấy chồng lấy vợ, tôi cho chúng đi học ở châu Âu rồi ở lại bên đó làm việc. Hiện chỉ còn cậu út ở nhà, sang năm cho đi sang Mỹ học nốt.

Liếc mắt qua tấm danh thiếp, tôi biết Đệ đương là sếp của một nơi quan trọng, quyền sinh quyền sát quyết định số phận của nhiều người, chứ không đùa đâu.

- Quán này vỉa hè nhưng có nhiều món ngon tôi cũng thỉnh thoảng đến ăn - Đệ lại nói - Ngồi nhà hàng nhiều quá cũng mỏi. Bây giờ mình ăn uống được gì đâu. Chả bù cho ngày xưa. Lúc ăn được thì không có mà ăn, lúc chẳng ăn được thì ê hề. Đến khổ.

Thằng cha này vẫn hay nói dẻo như ngày xưa. Đúng là bản tính bất năng di. Các cụ nói chẳng bao giờ sai.

Đệ nhắc đến ngày xưa lại làm cho tôi nhớ. Ngày xưa, lúc ở trong chiến trường Quảng Trị thì điên điên khùng khùng, suýt nữa thì làm đồng đội mất mạng. Vậy mà bây giờ tỉnh táo thế.

- Hồi ở trong ấy, tớ nghĩ cậu bị tâm thần nặng. Vậy mà sau bốn chục năm gặp lại, cậu lại khỏe khoắn, tỉnh táo hơn ngày xưa.

Đệ giơ tay phải xoa xoa cái bụng phệ chật căng dây lưng, miệng cười hì hì:

- Sông có khúc người có lúc. Vả lại, hơn nhau là cái sự "quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy". Mà hồi ấy tôi cũng đã nói với anh rồi còn gì. Sao anh "quê" thế mà lại còn quên nhanh nữa?

Cậu chủ quán đem thêm ra một chai Lavie đựng đầy rượu thuốc. Uống thêm một chén, Đệ đứng dậy xin phép chúng tôi ra về. Tấm lưng phẳng lỳ của hắn khuất sau cánh cửa ô tô. Chiếc xe màu én bạc lao vút đi.

Một cơn gió se lạnh lướt qua lắc rung những cành me. Vô vàn chiếc lá mỏng manh chao rơi rơi lấp lánh dưới ánh đèn đường. Phố đã thưa vắng người.

Tôi giật mình nhớ lại. Trước khi ra Bắc, Đệ cứ nham nhảm nói với riêng tôi:

"Điên là điên thế nào? Điên cứt tao ấy. Còn lâu nhá!"

Trăng phía hạ tuần

Tôi và Nông cùng hơn ba chục thương binh nhẹ ra đến trạm thì trời đã tắt nắng. Rừng chiều mát mẻ và thoáng đãng. Trạm giao liên nhộn nhịp, quân vào quân ra dừng nghỉ. Tăng võng san sát như những cánh bướm rải rác từng cụm dưới tán rừng. Khu rừng thật đẹp, bom đạn như chưa hề chạm tới đây, những thân gỗ rong róng sần sùi cao vút, những tán lá rậm đủ che kín khoảng đất bên dưới rậm rịch những bước chân. Mấy cô gái nuôi quân, chắc lẽ mới vào da thịt còn căng, môi hồng còn thắm làm cho khu rừng càng thêm sinh động... Lại một đơn vị nữa nhập trạm, người hạ ba lô, người mở bi đông, người rút ống điếu, có anh nằm duỗi chân tay thở dốc.

 Anh em đã hạ ba lô mà Nông cứ thế đứng mãi, chẳng biết Nông mải nghĩ điều chi. Tiểu đoàn tôi có bảy thì năm người đi điều dưỡng, tôi đi dự khóa bồi dưỡng hạ sĩ quan, Nông đi báo cáo điển hình ở đại hội quyết thắng quân khu. Mọi người thở phào, tạm thoát bom đạn... Không nhắc, không nhớ gì hết. Cứ quên đi đã... Vậy mà nhìn Nông bỗng dưng tôi nhớ tới những quầng lửa hôm đó. Những quầng lửa nhoáng nhoàng, những thân người lảo đảo gục xuống... Và tiếng gầm rú của bom pháo...

Trưởng đoàn đi đâu đó một lúc thì trở lại giục mọi người xuống bếp ăn cơm. Nhà ăn lợp lá rộng rãi, bàn ăn bằng tre, ghế là những thân cây mới đẽo còn tươi. Bộ đội đi lại nhộn nhịp... Cơm nóng, canh thịt hộp nấu lá chua rất ngon, vậy mà Nông chỉ được vài lần xới rồi đứng dậy. Ăn xong tôi xuống bếp lấy nước vào bi đông, lên đến chỗ cây săng lẻ gặp Nông đứng với một cậu "bấm ra sữa". Sắc mặt Nông tái nhợt, cậu kia như vừa khóc xong. Cậu bỏ đi vội vàng, có tiếng gọi cậu về tập trung.

- Có chuyện gì vậy, ai vừa đứng với Nông thế? - Tôi hỏi.

- Nguyệt chết rồi! Thằng em vừa báo tin...

Nông lắp bắp, mắt đã dại hẳn. Trời... Điều Nông linh cảm là đúng sao?

Gần năm mới gặp lại, suốt đêm Nông kể, nghe rất xúc động. Sáng ra mặt mày Nông bỗng hốc hác. Tôi hỏi ốm hay răng rứa? Nông bảo không! Tôi bảo trông xanh lắm! Nông bảo có lửa cháy trong bụng... Ở nhà có chuyện chi rồi... Hóa ra là Nguyệt chết. Sao ông trời sinh ra con người với nhiều năng lực đặc biệt lại chỉ biết trước được việc buồn?

Trưởng đoàn giục nghỉ, sáng mai đi sớm. Cán bộ trạm chỉ cho một chỗ gần bìa rừng. Một cụm cây giống cây dẻ thoáng đãng, cách vài chục mét về hướng đông là một vùng đồi thoai thoải có những trảng cỏ chen lẫn giữa những vạt sim mua tốt ngang thân người. Nông thẫn thờ mãi, có thể hiểu được nỗi buồn đau của Nông. Cái tin dữ ấy đã như một cơn lũ cuốn qua Nông, như một tiếng sét giáng vào Nông khiến Nông đờ đẫn, vô hồn. Rừng đã nhập nhoạng, tiếng chim lúc rúc trong các vòm lá nghe thật buồn... Cột xong tăng võng, mắc xong màn, tôi dìu Nông ngồi xuống. Nông thẫn thờ nhìn đồi sim lúc này đang tím sẫm và chìm dần vào màn đêm.

*

Tôi và Nông cùng một tiểu đoàn, mãi đến lúc gương chiến đấu của "dũng sĩ diệt Mỹ Trần Văn Nông" được phổ biến ra toàn trung đoàn thì tôi mới biết. Gặp nhau ở hậu cứ để cùng ra Bắc, hai đứa lao vào nhau: "Thằng khỉ, thằng khỉ...". Mừng quá... Hậu cứ trung đoàn có vẻ được một tối bình yên. Xa xa, mạn đông nam leo lét mấy dây pháo sáng gần rụng, tiếng máy bay cũng rất xa. Nông kéo tôi vào hầm. Tôi biết đêm nay khó mà ngủ sớm. Vừa đặt lưng, tôi bảo một mình đánh lui cả đại đội Mỹ, giỏi rứa... "Thôi, thôi, đừng nói, ngượng lắm".

Nông nhớ lại trận đánh hôm đó. Hôm đó, đơn vị chúng tôi đã quần nhau với bốn đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ... Nông nói như nói một mình... "đánh nhau bom đạn rứa, bao nhiêu đứa hy sinh răng mình không chết...". "Mi nói chi rứa?". Tôi nhổm dậy, sửng sốt... Trong bóng đêm tôi không nhìn rõ mặt, chỉ thấy hai mắt Nông lấp lánh sáng. Điều Nông nói thật quá bất ngờ. Nông nói đến cái sự chết chóc cứ bình thản như không, cứ như hắn đang sẵn sàng chết, đánh để chết...

Nông gan lì từ nhỏ. Hồi đó gia đình Nông có chuyện gì đó khiến dân làng ít người qua lại. Bố mẹ Nông đã trên dưới sáu mươi. Ông bà có hai con trai là Nông và anh Đồng. Anh Đồng không biết mắc bệnh gì mà gầy gò, xanh lét, không làm được việc gì ngoài việc học. Người chị cả đã đi lấy chồng xa. Đứa em gai út bị tật, hai bàn chân quặp lại úp lật mu xuống, muốn di chuyển phải dùng hai tay chống đất mà lết đi. Bố Nông là "học trò" chẳng biết làm gì. Nhà Nông ba gian lợp rạ, chung quanh toàn tre pheo và mảnh vườn trồng khoai môn. Mẹ Nông suốt ngày quần quật, hết trong nhà ra ngoài đồng. Chẳng lẽ ăn không ngồi rồi, bố Nông sắm bộ dao kéo làm nghề cắt tóc. Hình ảnh một ông già gầy gò, chân guốc mộc, quần đũng què, áo bà ba gụ cũ sờn, từ sáng tới trưa, từ trưa sang chiều ngồi lom lom trên cái ghế vải bạt xiêu xó dưới bóng tre đầu ngõ ngong ngóng mong khách ám ảnh đến day dứt. Tôi đem điều đó nói với mẹ. Mẹ tôi thở dài nói: "Thật tội... Ngày trước nhà bác ấy cũng vào loại khá, có nhà ngói, có vài mẫu ruộng, có đủ mâm thau nồi đồng... Rứa mà". Mẹ tôi lại thở dài: "Cuộc đời nỏ biết đường mô mà nói trước... Ruộng vườn, nhà cửa, mâm bát... tan hết, từ chỗ có của ăn của để nay trở thành tay trắng".

Hai nhà chỉ cách nhau một lối ngõ, hễ không mắc việc gì là tôi lại tót sang nhà Nông. Hễ tôi chớm đầu ngõ bố Nông đã gọi con ơi, có bạn nì... Ông bà quí và rất mừng khi thấy tôi sang, cái sự mừng hơi lạ, cứ như tôi là ngọn lửa nhỏ mang lại sự ấm áp cho căn nhà lạnh lẽo của họ. Tôi sang nhà Nông gặp lúc có cái gì ăn thì ăn, có việc gì làm thì cùng làm, mẻ ngô rang buổi tối, củ khoai luộc buổi trưa... Cái tình bạn quê nghèo sao mà nồng ấm, sao mà thân thương... Một bữa Nông hỏi chơi với tau mi có sợ bị liên lụy không. Tôi nói có chi mà sợ! Nông vẫn không vui, vẻ mặt cứ đăm đăm buồn. Tôi lại đem chuyện Nông lúc nào cũng buồn hỏi bố. Bố tôi nói có nhiều điều con chưa hiểu được, lớn lên mới biết... Nhưng chơi với nhau thì cứ chơi, chơi rồi học lấy cái tốt của bạn!

Biết bố nói vậy là có ý nhắc nhở vì tôi học kém. Lúc đó tôi đã biết nghĩ rằng trời cho đứa mô giỏi sẽ được giỏi, như Nông chẳng hạn. Hơn nữa bố Nông đã là thầy đồ, nhà ông có một kệ sách to. Anh Đồng của Nông cũng học giỏi có tiếng... Còn nhà tôi? Bố mẹ không biết chữ, hai chị cũng chỉ mới biết đọc biết viết.

Biết rằng không thể học lên, hết lớp bảy tôi nghỉ ở nhà, vui vẻ ngày hai buổi đi làm hợp tác. Còn Nông, làm một lèo hết cấp ba rồi vào luôn đại học. Hồi đó vào đại học không phải thi mà chỉ xét. Nghe nói lúc cắt giấy tờ, suýt nữa người ta không cho Nông đi vì thành phần chi đó. Rồi chúng tôi chia tay nhau để Nông nhập trường. Dạo đó máy bay Mỹ đã ném bom ra miền Bắc. Trường Nông sơ tán cách làng hơn một ngày đi bộ. Xa thế mà cứ vài chủ nhật Nông lại về, lúc mượn xe đạp lúc đi nhờ ô tô. Về lần nào hai đứa cũng gặp nhau. Nông ít nói chuyện học, bên chiếc cầu nhỏ đầu làng hai đứa chỉ nhắc chuyện đi tát, đi bắt cua bắt cá, chuyện trong làng ngoài xóm... Rồi hai đứa ngồi im, ngồi rất lâu dưới bầu trời đầy sao đến tận khuya. 

Thế rồi, Nông đột ngột trở về. Hôm đó là buổi non trưa, từ ngoài đồng vác cày về đến đầu làng thì tôi gặp Nông xách rương gỗ cũng vừa xuống xe (Nông đi nhờ một chiếc xe bộ đội). Tôi hỏi răng về, lại mang cả đồ đạc? Về đi lính, tau bỏ học rồi! Nông trả lời ráo hoảnh. Nhìn vẻ mặt lành lạnh của Nông tôi hơi chột dạ. Tối đó tôi sang với Nông, hai đứa lại ra cái cầu nhỏ ngồi như mọi lần. Rồi Nông kể cho tôi nghe chuyện hắn có người yêu trên chỗ trọ học. Câu chuyện tình lãng mạn được Nông kể nghe hấp dẫn mà buồn bã. Trong bóng đêm Nông trông già hẳn, có vẻ đang bức bối một điều gì rất khó đoán... Sao lại như vậy? Sao Nông lại bỏ học giữa chừng? Tôi đang mừng cho Nông, nghĩ rằng rồi đây Nông sẽ là một thày giáo, sẽ áo trắng quần xanh tay cắp cặp hàng ngày vui với đám học trò, tương lai sẽ rộng mở... Còn tôi sẽ là anh nông dân vui thú cày bừa...Vậy là chiến tranh đã làm hỏng mọi việc. Chiến tranh đã đưa thân phận hai đứa chúng tôi trở lại gần nhau. Nông đi chưa được hai tháng thì tôi cũng lên đường. Thế rồi run rủi thế nào mà cuối cùng hai đứa lại cùng một chiến dịch, cùng một tiểu đoàn.

*

Chẳng biết lúc này là mấy giờ, im ắng quá. Từ đầu hôm Nông cũng chỉ nằm im. Chỉ nghe tiếng thở đều đều bên đó vọng sang... Tôi nằm nghĩ lan man, nhớ chuyện tình của Nông...

Nông kể rằng khoa Toán đóng ở một làng ven núi. Làng xóm hẻo lánh um tùm, nhà nào cũng có nương chè, có gốc mít... Theo Nông tả thì đó là một miền quê thanh bình yên ả, có cánh đồng lúa rập rờn, có con đường mòn chạy giữa những đồi sim với những cô thôn nữ hồn nhiên nghịch ngợm như những cô Hoa, cô Lan... trong chuyện

Mùa hoa dẻ

của Văn Linh hai đứa đã đọc chung. Đi học, khẩu phần của sinh viên thường chỉ có vài môi mì hạt hầm hoặc một cục mì luộc như cái chuông xe đạp nên suốt ngày đói. May nhờ có thức ăn mà bà con nhường cho, khi củ sắn củ khoai, khi miếng mít miếng dứa... Chiều đó học ở nhà, đói quá, Nông buông sách thẫn thờ bước ra sân, vừa tới bờ bông bụt thì bên kia lấp ló một khuôn mặt với cặp mắt đen láy: Anh... anh chi đó ơi... có ăn mít sang ăn... Thế là Nông sang. Thật là may, đang đói đến nhăn mặt: "Bố mẹ... đi mô?". Nông rụt rè hỏi... "Bố mẹ ngoài đồng"... Cô bé trả lời tỉnh như không... "Mà anh hỏi bố mẹ em làm chi?". "Thì hỏi cho biết". "Biết để làm chi?". Cứ thế, bên này hỏi bên kia trả lời, một lúc thì hai đứa cười... Nông mạnh dạn: "Đằng ấy tên chi?". "Tên chi anh hỏi làm chi?". "Hỏi để biết!".  "Biết để làm chi???".  Rồi lại cười, mắt trong mắt, long lanh...

Đó là Nguyệt. Không phải gái làng, Nguyệt đến trọ và đang học lớp mười chuyên Toán của tỉnh. Con gái mà giỏi toán, thật hiếm. Một hôm Nguyệt tự tin nhìn thẳng vào mắt Nông nói: "Anh toán em cũng toán nha, chúng mình giống nhau. Anh học cao và chắc là giỏi, em sẽ "quấy rối" anh cho mà coi...".

Rồi Nguyệt nhờ Nông giảng bài thật. Mấy hôm sau, chẳng biết Nguyệt mang đâu về một đề toán. Vẫn buổi chiều vắng lặng, tiếng cu gù gợi cảnh thanh bình yên ả... Nhìn đầu bài Nông biết là khá hóc. Nguyệt moi đâu ra bài toán khó thế này. Dân chuyên toán có khác, ham tìm tòi. Nhưng rồi Nông cũng giải ra bài khảo sát hàm số. Vẽ xong cái đồ thị hình quả tim ngẩng lên Nông bắt gặp khuôn mặt trắng hồng như hồng thêm với ánh mắt long lanh. Nguyệt cười. Hóa ra Nguyệt đã giải rồi hoặc có thể đã được ai đó giảng, nhìn Nguyệt cười thì biết. Nguyệt cười, má ửng đỏ và mắt đen lấp lánh. Lúc đó đâu nghĩ Nguyệt muốn gửi gắm gì mà Nông chỉ thấy xao xuyến trong lòng.

Lại một lần khác, Nguyệt cũng nhờ Nông giải, cũng một bài khảo sát hàm số. Đọc đầu bài, Nông hỏi: "Nguyệt không giải được thật ư?". "Thật! Có bí em mới phải nhờ...". "Với bài ni... trước hết cần biến đổi để đưa biểu thức hàm về dạng đơn giản đã". Nông nói thành thực. "Giải dạng ni cần phải... đừng vội...". Nguyệt chống cằm vẻ lơ đãng. Thấy thế Nông cắm cúi vừa giải vừa nói. Nông nói gì Nguyệt cũng đăm đăm. Nông vẽ đồ thị, đó là một hình tròn. Nông nói:

- Kết quả là một... mặt trăng... tựa khuôn mặt...

Nguyệt cười cười:

- Em nỏ muốn mặt mình tròn vành vạnh rứa. Em chỉ muốn... mình chỉ là mảnh trăng đầu tháng thôi...

- Khôn rứa... trăng đầu tháng mảnh mai, dễ thương... Nguyệt rứa mà khôn. Nhưng đầu tháng thì trăng ít sáng, lại mau lặn...

Nông có ý trêu. Nghe thế mắt Nguyệt sáng lên:

- Nhưng rồi sẽ được sáng hơn ở phía bên tê.

"Sáng hơn ở phía bên tê", chao ôi, Nguyệt mơ mộng đến rứa là cùng. Câu nói vô tình của Nguyệt sao mà ám ảnh, sao mà chông chênh...

Theo lời Nông thì Nguyệt rất xinh, người thanh mảnh, áo sơ mi đen, quần lụa hoa dâu vừa sát khuôn người thon thả thanh tân và mái tóc đen dày được tết thành đuối sam trĩu nặng, tất cả gợi nên vẻ khỏe khoắn và ngây thơ của tuổi dậy thì. Toàn bộ thân hình Nguyệt tỏa nét dịu dàng và đoan trang cuốn hút.

Một buổi đầu hôm bên bờ rào bông bụt lúc chỉ có hai người, không còn kiềm chế được nữa, Nông buột miệng: "Nguyệt ơi, anh... anh yêu em... Em có yêu anh không?". "Không!". Miệng nói không mà Nguyệt lại đứng áp sát vào người Nông. Nông nghe được cả nhịp đập rộn ràng và hơi thở thơm tho của Nguyệt... Nguyệt đang rất gần, Nông nôn nao như có gì thôi thúc. Nông thì thào: "Nguyệt ơi, cho anh... cho anh...". "Đừng anh, đừng...". Nguyệt đặt ngón tay lên miệng Nông... "Đừng! Cứ như ri... thích hơn...".

Từ hôm đó thỉnh thoảng Nông và Nguyệt hẹn gặp nhau. Nơi gặp là một tảng đá gần đỉnh đồi sau nhà trọ. Nguyệt thật khéo tìm chỗ, tảng đá bằng phẳng cạnh một gốc mít già giữa vườn chè tua tủa những đọt non, đủ cho hai đứa ngồi cách nhau độ gang tay, không xa cũng không quá gần, giận hờn không đụng chạm nhưng thân mật cũng chỉ cần khẽ nghiêng đầu. Lên đến nơi hai đứa lặng lẽ ngồi xuống. Chỉ cần thế, ngồi im để cho sự dịu ngọt của tình yêu đầu đời tỏa lan ngây ngất... Một bận, khi hai đứa lên đến nơi cũng là lúc trăng đầu tháng ló ra khỏi cụm mây trắng mỏng. Nguyệt níu vai Nông chỉ: "Anh ơi, trăng đẹp quá...". "Ừ trăng đẹp, trăng khi mô cũng đẹp nhưng sắp lặn mất rồi!". Nói xong Nông mới biết rằng mình nói được một câu hay... Nông nói vậy mà sao Nguyệt vẫn im lặng, chẳng như hôm nào Nguyệt sẽ bảo "rồi trăng sẽ sáng ở phía bên tê". Nếu Nguyệt bảo thế thì Nông sẽ nói rằng như thế anh sẽ không còn được ngắm nữa. Nhưng Nguyệt không nói. Mắt Nguyệt vời vợi, xa xăm...

Từ buổi đó Nguyệt thường thoáng buồn mỗi khi gặp nhau. Nguyệt cười cũng buồn, Nguyệt nói cũng buồn... Ánh mắt Nguyệt hoang vắng... Nông hỏi sao em không vui, Nguyệt nói không biết răng em cứ thấy lo cứ thấy sợ... Có hôm hai đứa cứ ngồi yên lặng mãi rồi đột nhiên Nguyệt nói, có lẽ em sẽ phải bỏ học thôi... Nông hỏi vì răng thì Nguyệt trả lời không biết... Có điều gì đó đang làm Nguyệt lo lắng, hốt hoảng. Nông hỏi, Nguyệt không nói mà chỉ ôm ghì cánh tay Nông, toàn thân rung nhè nhẹ. Cứ thế, cho đến lúc sương xuống ướt cả đầu ướt cả vai...

Nông được lệnh nhập ngũ sau đó ba ngày, ấy là cái hôm tôi đã gặp Nông xách rương về. Rồi Nông lên trường để chia tay Nguyệt. Đêm cuối cùng ở cái làng ấy, cũng là một đêm trăng, vừa lên tới nơi Nguyệt lao đến ôm chầm rồi dụi đầu vào ngực Nông, người rung bần bật. Nông cũng rung lên, bất chợt nhận ra điều mà bấy nay Nguyệt linh cảm và lo sợ. Nguyệt run lẩy bẩy:

"Anh ơi, anh...". "Nguyệt đừng lo. Anh đi rồi anh lại về...". "Em sợ anh chết, chiến trường bom đạn như rứa...". "Anh không chết được! Em coi, bây dừ có ai yêu mà được ở bên nhau?".

Trăng mười bốn sắp tròn và rất sáng, mắt Nguyệt ánh lên vẻ tuyệt vọng và đau đớn. Nông nói vui: "Hôm nay anh được thấy trăng đẹp trước khi đi". "Nhưng chỉ đẹp được mấy bữa nữa thôi... rồi thì sẽ lặn...". "Nguyệt nói chi rứa?". Nông hốt hoảng. "Không! Em không buồn nữa, và anh cũng đừng buồn...".

*

Lá thư đầu tiên Nguyệt gửi Nông mới nhận gần một tháng. Bức thư đẫm nước mắt của tình yêu và sự thương nhớ tôi đã được đọc hôm kia vậy là đã phải vòng vèo đến gần bảy tháng trời đang nằm trong túi ngực Nông kia mà Nguyệt đâu còn... Lúc nửa chiều, khi biết sắp tới sông Bến Hải, Nông đã cười mà như mếu bảo rằng, chuyến ni về Nguyệt tha hồ mà mừng... Hóa ra thơ ca có cái hay nhưng cũng có cái không hay... Thấy tôi có vẻ không hiểu, Nông nói. Trong sổ tay của Nguyệt dạo đó có chép bài thơ

Màu tím hoa sim

của nhà thơ Hữu Loan... Tôi bảo mình cũng có biết bài thơ ấy. Bài thơ có câu "

Lấy chồng thời

chiến chinh. Mấy người đi trở lại...". Hóa ra là như vậy đấy. Tôi nói chuyến ni về cô nàng tha hồ mừng. Nông vẫn im lặng. Tôi nghĩ Nông đang sống trong cảnh hai người gặp lại... Té ra yêu Nông, Nguyệt đã mẫn cảm đến thế. Nguyệt sợ Nông sẽ không trở về, Nguyệt sợ Nông chết... Trái tim yếu mềm của người con gái trong Nguyệt đã run rẩy quá sớm. Ra đi Nông bảo đâu có nghĩ đến sống chết. Khốn một nỗi khi người con gái đã yêu thì... Nông đã xác định, dù có chết cũng không ngại. Mà Nông có chết đâu. Nông đã chiến đấu dũng cảm, đã có thành tích...

Thế mà Nguyệt lại chết. Cái làng đẹp như tranh ấy,cái nơi còn in dấu bao kỷ niệm của hai người lại chính là nơi Nguyệt ngã xuống... Nông ơi, tao thương mày... Tôi thầm kêu lên thành tiếng trong đêm.

- Nông ơi... ngủ rồi à?

Bên võng Nông vẫn tiếng ngáy nhè nhẹ... Vậy là Nông đã ngủ. Nghe cái tin khủng khiếp như vậy sao Nông chẳng nói gì mà bây giờ lại ngủ được. Nỗi đau, sự mất mát đến quá đột ngột đã làm lòng Nông đông cứng rồi chăng? Suốt từ lúc lên võng tới giờ cậu ta không hề mở miệng. Nhìn sắc mặt tái mét thất thần và ánh mắt âm u lúc chiều tôi cũng đã cảm thấy lạnh người... Lúc này thì Nông đã ngủ, thế là tốt rồi. Thời gian sẽ làm cho nỗi đau của Nông nguôi ngoai dần. Có lẽ đã khuya lắm, mảnh trăng đầu tháng mảnh mai và lạnh lẽo đã lặn từ lúc nào. Núi rừng lúc này đã chìm trong sương đêm chập chờn hư ảo.

Đang mê mệt, tôi nghe động liền choàng dậy, ngơ ngác. Chợt nhớ ra, tôi chộp súng... Vừa rồi tôi nghe tiếng Nông ú ớ thì phải. Nông vừa nói gì đó. Nông vừa nhắc đến Nguyệt. Ngó sang võng Nông, không còn người, chỉ có tấm chăn mỏng bị tung ra và màn cũng đã hất sang một bên đang lờ mờ trong sương. Nông đâu rồi, hắn đi đâu? Tiếng gọi của Nông to rõ và rành rọt, vừa mới đây... Trời không trăng không sao, màn đêm mờ đục, lại thêm sương buông dày khiến cảnh vật cứ bồng bềnh bồng bềnh... Chung quanh chỉ màn sương mờ ảo, sườn đồi tối đen. Một vệt sáng mờ xa tít... Nông đi đâu? Tôi quờ chân xỏ dép vén màn bước xuống rồi xách súng bước hẳn ra bìa rừng. Một bóng người nhòe nhoẹt ở quãng giữa đồi sim, chắc là Nông rồi.

Tôi vội vã đuổi theo, cỏ dưới chân đẫm sương, dép trơn trượt... - Nông ơi, Nông... - tôi kêu lên khe khẽ trong cổ họng. Trời tối, chẳng rõ đường, tôi không thể đi nhanh mà Nông thì vẫn bước như bước giữa ban ngày. Tôi dò dẫm bước theo cái bóng lờ mờ dưới kia. Cho mãi tới lúc xuống đến mép cái khe cạn ngổn ngang những khối đá đen ngòm dưới chân đồi tôi mới theo kịp. Tôi túm vai Nông:

- Đi mô rứa?

- Nguyệt ở đây! Nguyệt vô đây! Và cả trăng nữa, trăng sáng quá...

Mắt Nông cứ dõi mãi về một nơi nào đó trong mịt mù màn đêm, nói dứt khoát, giọng ráo hoảnh:

- Nguyệt gọi tau ra...

- Nguyệt mô, trăng mô? Bữa ni làm chi có trăng? - Tôi giật mình.

- Trăng đó... - Nông đưa tay chỉ lên lưng chừng trời - Mi không thấy à? Để tau đi. Nguyệt đang ở đây...

Mắt Nông sáng rực, khuôn mặt như được phủ một lớp ánh trong suốt và toàn thân run lên lẩy bẩy...

Tôi hoảng sợ, cảm nhận hồn vía Nông lúc này đã lìa xa thân xác. Nông đã nhìn thấy một vầng trăng từ phía bên kia hay đang có một vầng trăng vành vạnh trong Nông? Vũ trụ bao la vô thủy vô chung sao Nông có thể thấy được những điều không ai thấy. Dưới vòm trời đêm thăm thẳm, tôi và Nông, một kẻ thực một kẻ mơ đang chìm dưới đáy một đại dương đầy bóng tối nhưng những điều trông thấy được của mỗi người lại hoàn toàn trái ngược nhau. Đêm nay không hề một tiếng máy bay, không hề có một tiếng nổ, cứ như chiến tranh chưa hề xảy ra với mảnh đất này... Tôi ôm ghì lấy hai vai Nông - Quay lại đi, khuya lắm rồi... Nông ngoảnh mặt lại nhìn tôi, mắt ngơ ngác.

Mãi tới nhiều năm sau tôi vẫn không sao quên được ánh mắt của Nông đêm đó, ánh mắt như là một thứ ánh sáng khác lạ, nó lung linh thăm thẳm, nó run rẩy thất thần, nó có cái gì đó như không phải của con người... Lúc đó tôi đã cố gắng mới dìu được Nông đi ngược lên. Khi hai đứa trở về võng thì Nông vẫn cả quyết rằng vừa trông thấy trăng. Trăng rất tròn, rất trong và rất sáng. Và cả Nguyệt nữa. Nông nói Nguyệt đã vào tận đây tìm Nông, cứ như từ trong trăng mà bước ra vậy...

Tôi dỗ mãi Nông mới chịu lên võng. Độ được mười phút thì tôi nghe tiếng hức hức, không phải tiếng khóc, có lẽ nỗi đau từ tâm can lên tiếng đó thôi.

Sáng hôm sau, tỉnh dậy Nông gấp tăng võng với vẻ mặt bình thản như không hề có sự kiện tối qua, Nông nhìn tôi nói, giọng dứt khoát mình không ra nữa. Nghĩ là mình nghe nhầm, tôi hỏi mi nói răng? Tau không ra nữa! Nông nhắc lại bình thản. Tôi vẫn nghĩ là Nông đùa.

Hai đứa mang ba lô về chỗ tập trung, đến chỗ đã gặp cậu em, Nông dừng lại nói nhớ đến thăm bố mẹ tau. Chỉ có thế! Nói xong Nông nhằm khu rừng bên kia suối, nơi đơn vị cậu em đang tập hợp để đi vào, phăm phăm bước.

Vĩ thanh:

Vậy là chỉ có tôi theo đoàn trở ra Bắc. Học xong khóa hạ sĩ quan tôi được giữ lại làm cán bộ khung, phải gần một năm sau mới có dịp về làng và sang nhà Nông thì... ôi thôi, Nông đã hy sinh.

Nông ngã xuống sau hôm hai đứa chia tay có mấy ngày

Kiệm cười

Dạo này ông viết thêm gì chưa? Bất mãn đời hay sao chững lại thế? Không tốt đâu. Hào hứng lên! Anh em bè bạn đang chờ ông đấy, đừng phụ lòng họ.

 Mình nghe tưởng bở, ngỡ văn đàn lâu nayvắng cô thì chợ mất đông

. Vậy là lại cắm mặt xuống bàn viết.

 Nhưng viết gì? Nghĩ như sở trường

tả

chân giò

của mình, hiện giờ thực tế đầy ngoài phố, các em váy có ngắn thêm vài phân cũng bão hòa mắt, chẳng hấp dẫn được ai. Rồi dẫu mình tả đến cảnh cởi hết áo lót, chắc gì độc giả đã thích, sau khi Thượng đế đọc hàng trăm các cuốn sex dữ dội. Còn những vấn đề nghiêm túc, thì trời ơi chỉ dành cho vài cụ kém mắt, ít khi có tiền mua sách thôi. Lại muốn đánh bóng mình học theo mấy ông nước ngoài

hậu hiện đại

, nhưng ngòi bút thấy nhạt hơn nước ốc, hậu hiện đại gì, có mà

hậu đậu

!

Hay mình bất mãn thật rồi? Có lẽ phần nào chính xác. Không bất mãn mới lạ. Bố con thằng hàng xóm nay đổi đời xe hơi, mai mua thêm mảnh đất vài chục tỷ, ngày kia ký cót liên doanh với tập đoàn nước ngoài khuấy đảo thiên hạ, ngày nớ thay nhân tình trẻ, hoa hậu, có “thứ ấy” dát vàng mười. Tiền đâu ra Trời biết không?

Trong khi ấy bà con mình trở lại thời co kéo hai đầu tháng lương cho đủ, trở lại thời thắt lưng buộc bụng ngày xưa.

Bây giờ đã đến tháng mười

… chị bán rau, cô bán thịt vênh mặt khinh khỉnh ngắm các bà nhà văn đi rạc cẳng khảo giá qua các quầy thực phẩm. May cho cánh cầm bút nam giới chúng tôi không bị giễu cợt ngoài chợ, vì tội dám lạc hậu với tình hình chợ búa leo thang theo cảm hứng từng ngày!

 Thôi, rên rỉ kiểu đàn bà nghe sốt ruột lắm! Hãy nghĩ đến những điều to lớn đi. Đất nước đang có thành tích đổi thay từng giờ, cơ bản sắp diệt xong nạn nghèo đói. Thế giới hoan nghênh Việt Nam, vì như thế họ bớt phải cứu trợ không hoàn lại, dành tiền cứu Sômali, Zimbabuê… và những nước đang chết đói kia kìa. Lại còn thiên tai động đất Nhật Bản. Lại còn chiến tranh tôn giáo bùng nổ, bom đạn Trung Đông… Phải cảm tạ Trời, ta vẫn được bình yên, chỉ bị tai nạn sập mỏ đá, mỏ vàng, lũ quét, chết vài chục người lặt vặt!

 Vậy viết về cái thoát nghèo cho nó phấn chấn tinh thần nhỉ?

 Đấy, về thăm xóm Chùa Ông bây giờ nhà nhà cao tầng, người người xe máy, quần áo xanh đỏ kiểu hàng mã hoa hết cả mắt. Bây giờ cái xóm Chùa cũ kỹ ăn bột nở đã phát triển thành xã Kim Quang, tuy người bản địa vẫn cứ gọi xóm Chùa như thường.

 Ghé thăm nhà Sĩ Thái sư gặp phu nhân ngài ngồi tè he bên thềm đóng gói kẹo. Trông thấy giấy gói kẹo óng ánh đầy nhãn chữ Tây thì biết xóm Chùa đang vào vụ “sản xuất kẹo ngoại” đón đầu cái Tết. Nhưng sao mặt mũi phu nhân rầu rĩ thế kia?

 - Ông cháu đi đâu rồi, bà?

 - Sang nhà ông kép hát cuối thôn, còn đi đâu nữa bác. Suốt ngày bàn chuyện chính trị chính em cứ như sắp vào Trung ương cả.

 - Vậy chứ anh Tịch đi đâu? Dạo này hàng họ nhà ta thế nào?

 - Nó vứt nghề kẹo cho tôi rồi. Giờ nó đổi tên là Nguyễn văn Cúng để hợp với nghề mới.

 - Cúng? Sao lại cúng? Cúng bái gì a?

 - Cúng tiền. Gom góp được ít nào phải đi cúng ngay tắp lự.

 - Cúng ai vậy?

 - Cúng cho bố tá lả nhà nó, chứ cúng ai hở bác? Bác về mà xem, thôn trên xóm dưới đâu đâu cũng chiếu bạc, xóc đĩa, tá lả. Mẹ chết nằm đấy các con cũng bày dăm cỗ bài sát phạt nhau để thức canh xác.

 Vậy hiểu rồi, chả cần hỏi thêm. Đành cười hì hì động viên bà chủ nhà:

 - Thế tức xóm Chùa mình đổi đời đấy. Có tiền đánh bạc, không phải đốt lưng phơi nắng ngoài đồng, ta nên mừng cho lũ trẻ bác ạ.

 Như chạm vào nỗi đau âm ỉ, phu nhân Sĩ Thái sư kéo dài giọng rên lên:

 - Ối giời, bác tính mừng nỗi gì? Ruộng đất bán tiệt nọc để lấy tiền đền bù đường cao tốc, quy hoạch sân gôn, nắm một nắm tiền nhưng còn đâu đất cày cấy? Muốn phơi nắng ngoài đồng cho hết ghẻ, cũng chẳng biết đứng đâu mà phơi ấy chứ. Cơ sự này khi tiền bán đất chui vào chiếu bạc hết, liệu có khỏi chết đói không đây?

 - Thì khuyên bảo lũ trẻ nhân dịp có ít tiền bán đất phải dành dụm làm ăn sinh sống, chứ biết làm sao bây giờ?

 - Có Thiên Lôi, Hà Bá khuyên được chúng nó. Tiền trên trời bỗng nhiên rơi xuống đầu, phải tiêu cho sướng cái đã. Ai cũng xây nhà lầu bốn năm tầng, mua xe, sắm dàn kaôkê,

giải quyết

khâu oai

bác ạ. Chán đánh bạc mới thu vén, còn đồng nào chạy chọt sang bên Anh trồng cỏ. Là trồng cỏ ma túy ấy.

 - Chết, chết, không xem báo chí người ta cảnh báo ư?

 - Ai để mắt đến báo chí các bác! Tháng trước nghe đâu thằng Quang nhà Sự bị bắt tù bên đó rồi. Nhưng chúng không biết hãi. Thằng Bổn con nhà Tư Lác đang nộp hai trăm triệu, lại đi tiếp theo đường dây thằng Quang, chẳng sợ gì sất. Được làm vua, thua làm giặc, còn hơn ở nhà mua cái xe máy ra tỉnh làm cửu vạn. Xóm Chùa không kể mấy thằng đang ngồi chiếu bạc, mấy thằng chạy chọt ra nước ngoài bán thân, cũng chẳng thấy mống thanh niên nào có tương lai.

 Phu nhân Sĩ Thái sư thở dài đánh sượt, phủi tay vào ống quần đứng dậy sau khi xếp mẹt kẹo Tây vào cái bao tải gai cũ kỹ nhem nhuốc.

 - Ấy chết! Cứ mải chuyện, quên cả pha nước mời bác.

 - Thôi, xin phép bác. Để tôi sang thăm hai lão bạn già, uống nước với họ một thể.

 Thấy buồn hiu khi ra khỏi cổng nhà Sĩ Thái sư. Quái lạ, đời sống xóm Chùa nhìn rành rành đổi khác, văn minh đô thị hóa sắp ngang với thế giới, cớ sao lòng người trĩu nặng phiền muộn thế?

 Ngõ nhà lão kép hát đây. Rêu xanh, lá rụng vàng như mọi khi, chỉ vắng bóng con Mốc sủa báo khách. Nhớ ra con Mốc chết năm ngoái rồi.

 Chưa vào đến sân mình đã nghe giọng lão kép sang sảng như vẫn trên sân khấu cải lương:

 - Giai làng đi hết, tất gái làng phải đổ ra tỉnh làm cave, đi lấy chồng ngoại, đi đẻ thuê chứ sao? Có thể rồi đây tôi với ông sẽ phải “gánh” mỗi suất dăm mụ sứt môi lồi rốn, ế sưng ế sỉa của xóm Chùa cũng nên. Cho chúng khỏi phải đi đẻ thuê nước ngoài tội nghiệp.

 Mình vào tận nơi hai lão già mới nhìn ra. Mình cất giọng trêu cho vui:

 - Ái chà, bắt quả tang hai lão đang phát ngôn tiêu cực đấy nhá.

 - Lão lá cải về chơi đây rồi! Lão bảo chúng tớ phát ngôn tiêu cực hử? Thì về nghe mọi chuyện xóm Chùa này đã. Vừa may, trà pha ấm mới đây.

 Nhâm nhi chén trà ngon, lòng bình tĩnh lại ít nhiều. Mới biết cái tinh thần dân cầm bút rất giống trẻ con, dễ buồn giận nhưng cũng dễ dỗ dành.

 Sĩ Thái sư hạ giọng:

 - Là chúng tớ đang nói chuyện thôn dưới. Con gái mụ Chắt nghe đâu mới tìm đường vào Cần Thơ với dì nó, để đi nước ngoài đẻ thuê.

 - Chuyện đó báo chí chúng tôi đã phê phán đấy. Tất nhiên nhà nước đang tìm cách gỡ từ từ mọi vấn đề vướng mắc nảy sinh từ thực tế đời sống, phải vậy không nào?

 - Đấy, thấy chưa, cánh nhà báo phát ngôn cứ như… đúng rồi!

 - Hay các ông muốn đứng ra thuê họ đẻ phắt cho xong, khỏi đi nước ngoài thêm nhọc?

 Cũng không lấy được nụ cười gượng nào của hai lão già. Câu chuyện lại bỗng xoay chiều đột ngột:

 - Nhà báo các cậu chậm chân bỏ mẹ. Chuyện người tình Việt kiều nhà mụ Thim về hỗ trợ xóm Chùa, đang xôn xao lên đấy.

 - Bà Thim? Người tình Việt kiều?

 - Đang từ hộ nghèo nhất làng, nhẩy một bước lên đại gia chưa biết chừng. Nghe đâu ông Việt kiều sẽ mua cả giàn pin mặt trời về lắp cho căn nhà sắp xây.

 Quả câu chuyện như mồi câu hoa mướp nhử ếch. Mình rủ luôn hai lão cùng đi xem thực hư thế nào. Thim mình đâu có lạ. Một thời chính mình đã từng nằm mơ đi xem Hội thi cấy, ôm choàng được cái thân hình óng ả trong tay, ngơ ngẩn suốt một thời trai trẻ...

 Đã lâu lắm mới xuống mấy thôn quanh Ao Sét. Do ngày xưa sét đánh chết một người đang đơm cá dưới ao, nên có tên Ao Sét. Đặc điểm của mấy thôn này quy tụ toàn dân nghèo nhất xã. Cũng may những nóc nhà thảm hại lụp xụp quây quần cả ở đây, khuất sau khu-đô-thị-cao-tầng phía ngoài, đỡ tức con mắt.

 - Khu này bao năm xem ra chẳng tiến bộ chút nào, nhẩy?

 - Đây toàn dân tấc đất cắm dùi không có để bán, lấy đâu tiền xây nhà mới? Nếu không, mụ Chắt đã chả phải cho con gái đi đẻ thuê.

 Sĩ Thái sư rỉ rả kể chuyện trước khi bộ ba tới nhà bà Thim. Sở dĩ Thái sư biết rõ ngọn ngành vì anh phụ trách hành chính xã vốn gọi lão bằng chú ruột. Chân tơ kẽ tóc Thái sư đều biết tuốt.

 Này nhá, có một ông Việt kiều thình lình gửi theo tổ chức cứu trợ của Úc năm chục ngàn đô, đích danh đề nghị được tặng dân làng xóm Chùa một khu văn hóa giải trí. Có thư viện ba tầng, có bể bơi cho trẻ nhỏ, sân bóng rổ…

 Ôi giời, chính quyền xóm Chùa mừng như bỗng dưng bắt được khối vàng to bằng đầu ngựa. Nếu cần phong ngay cho ông Việt kiều chức Á Thành Hoàng ở phương trời xa, họ cũng ôkê luôn.

 Nhưng ông ta là ai? Đi dò la tung tích vị cứu tinh từ trên trời rơi xuống, chả ai biết. Mãi sau có lời xì xào đồn rằng xa xưa ông vốn là anh trộm trâu, cầu bơ cầu bất, bị bắt đi tù, sau trốn thoát, vượt biên sang Úc. Xoay xở thế nào giờ bỗng thành tỷ phú trời Tây. Để an ủi lương tâm, ông ta mới gửi tiền về xóm Chùa, kín đáo truy tặng con trâu bị giết trộm khi xưa bằng hẳn một khu văn hóa đàng hoàng.

 Nghe ra chuyện cổ tích hiện đại cũng hấp dẫn đấy chứ.

 Chậc, dù thế nào không cần biết. Hãy chờ ông Giôn Nguyễn về khánh thành khu văn hóa xóm Chùa khắc rõ. Ông ta hứa thế rồi.

Ngày ấy đã đến. Đi trên cái ô tô bóng loáng, một người đàn ông khó đoán ra tuổi bởi nước da căng mọng hồng hào, búng ra sữa Tây, ông tự giới thiệu mình là Giôn Nguyễn đây. Dân làng đón ông bằng đón nguyên thủ quốc gia. Mít tinh, cắt băng khánh thành, cờ hoa, trống ếch… Cơm nước gồm những món quốc hồn quốc túy: thịt cầy bảy món, chả nhái, rau cần om cá quả băm viên, mắm rươi vỏ quýt… Ông Giôn Nguyễn tha hồ xuýt xoa, mỗi gắp lại chực rơi nước mắt xúc động.

Sau đó lãnh đạo xã mời ông về ủy ban, trao tặng bộ tranh tứ bình sơn mài, bằng khen Việt kiều có công lớn đóng góp xây dựng quê hương… Ông chủ tịch xã xoa tay hớn hở phát biểu:

- Báo cáo ông Giôn Nguyễn, bà con nhân dân xóm Chùa chúng tôi vô cùng vui sướng. Thưa ông, xóm Chùa vừa cố gắng xóa đói giảm nghèo, lấy đâu kinh phí lo cho dân như thế, nếu không có sự giúp đỡ của ông. Thay mặt nhân dân, một lần nữa xin cảm tạ tấm thịnh tình này. Hy vọng rồi đây sẽ được ông quan tâm cùng chính quyền chúng tôi nâng cao đời sống quê hương lên tầm cao mới…

Ông Giôn Nguyễn đáp từ cũng mừng cho xóm Chùa nay chỉ còn hai mươi phần trăm hộ nghèo. Ông hứa sẽ trực tiếp xem xét, giúp đỡ xóa hết những phần trăm hộ nghèo còn lại ấy.

Thế là sau khi ông Giôn Nguyễn lên ô tô, lập tức nổ ra cuộc họp kín trong chính quyền gần suốt đêm. Khổ rồi, con số tám mươi phần trăm thoát đói nghèo ghi trong báo cáo là để gửi lên cấp trên, để nhận thành tích thôi. Thực tế ai trên giời ai dưới vực còn được giấu kín. Bây giờ bỏ lỡ một cơ hội vàng hỏi có tiếc đứt ruột không?

Anh cu Quảng phó bí thư, đầu óc trẻ sáng láng liền phát huy một sáng kiến:

- Tôi nảy ra cái ý này, các đồng chí ạ. Trước ta thống nhất lấy con số hai mươi phần trăm là để báo cáo, tuy thực tế gần như cả mấy thôn quanh Ao Sét nhiều hộ còn nằm trong diện khó khăn. Nay thành tích đã được ghi nhận, không lẽ xin điều tra lại? Vừa bị trên khiển trách vừa gây kiện cáo rách việc. Nhưng nếu mấy thôn Ao Sét không được hỗ trợ kỳ này, họ sẽ chẳng để chúng ta yên. Chi bằng ta quy họ vào diện mới, diện…

cận nghèo

… Nghĩa là chẳng phải diện đã thoát nghèo hẳn. Nghe có lý không?

Cuộc họp đến đó bị cắt ngang đột ngột. Cô bí thư Đoàn xinh đẹp được cử đi đưa tiễn ông Giôn Nguyễn về khách sạn, hớt hải chạy vào.

- Ôi giời các chú ơi, tí nữa cháu chết ngất.

Uống xong hai chén nước liền, cô bí thư Đoàn mới nhẹ giọng thì thào chuyện bí mật. Khi cô kể lại với ông Giôn Nguyễn chi tiết từng hộ điển hình vừa thoát diện đói nghèo ở xóm Chùa, nghe nhắc đến tên bà Thim, ông Việt kiều bỗng níu lấy tay cô xúc động. Hóa ra mục đích ông ta về đây cũng để dò tìm người đàn bà ấy, nhưng chưa tiện nói ra chốn đông người. Ông đã định bụng nhất quyết dịp này sẽ thực hiện ý định đó. Giờ ông yêu cầu sớm mai giúp ông lẳng lặng trở lại xóm Chùa, rồi một mình cô đưa đường đến thăm bà Thim…

Lại anh cu Quảng là người nhanh trí reo lên:

- Đẹp quá! Trường hợp bà Thim mình đưa luôn vào diện

cận nghèo

đi. Để ông ấy đích mục sở thị. Ngày mai ông ta về thăm tất hiểu được ngay, chẳng cần giải thích nhiều. Nhà bà ấy chả có thứ gì đáng giá năm chục ngàn đồng cả.

Mọi người thở phào. Lập tức anh cu Quảng cùng cậu chánh văn phòng được cắt cử lên danh sách cụ thể luôn trong đêm nay. Số liệu đầy đủ mới giật mình tá hỏa. Có đến hơn nửa dân số xóm Chùa… được “lên đời”cận nghèo

!

Chao ôi, chỉ nhìn phần nổi bề ngoài đô-thị-hóa của dăm thôn xóm Chùa gần đường cái, cũng chả khác nhìn mảng váng trong nồi riêu cua!

Tờ mờ sớm hôm sau đích thân chánh phó chủ tịch xuống thẳng nhà bà Thim kiểm tra tìm hiểu. Bà Thim ngớ ra, nói chẳng hề quen biết ông Giôn nọ. Mới chỉ loáng thoáng thấy bộ mặt sang trọng của ông Việt kiều trong hội trường hôm qua đó thôi. Hay người ta nhầm. Để cái ông Việt kiều tới đây bà sẽ hỏi cho ra nhẽ.

Tuy nhiên chánh phó chủ tịch nhận định sự thận trọng không thừa, hai ông đề nghị bà Thim cất ngay cái cátxét sáng long lanh thằng cháu mới tặng hôm nọ, vào thùng cám dưới bếp. Bà được dặn kỹ lưỡng rằng: phải nhớ gia đình bà hiện ở diện

cận nghèo

đấy.

Khoảng chín giờ sáng cuộc thăm viếng diễn ra rất bí mật, cẩn trọng. Chỉ một ông Giôn Nguyễn đi theo cô bí thư Đoàn kèm xe máy tới thẳng nhà bà Thim. Ô tô kềnh càng dễ lộ phải để tít xa ngoài đường cái. Cặp kính đen rõ to che khuất mặt ông ta. Thế nhưng cuộc thăm viếng ấy đã vào tầm ngắm, bị giám sát chặt chẽ hơn người ta theo dõi gián điệp.

Cho nên khoảng hai tiếng sau, nội dung cuộc thăm viếng đã được báo cáo lại đầy đủ… Bà Thim ơi, bà không nhớ tôi thật sao? Chấn đây mà. Cái đêm đầu tiên chúng ta trao thân gửi phận cho nhau giữa cánh đồng, rồi bà canh cho tôi trộm trâu để lấy tiền làm lễ cưới, bà nhớ chứ? May tôi hô hoán lên bà mới chạy thoát. Sau lần bà lên thăm tôi trên trại giam Lao Cai, nhìn bà khóc lòng tôi đứt từng khúc một. Tôi quyết tâm vượt trại, vượt biên với ý nguyện sống chết có ngày trở về tìm bà. Dưng cuộc đời chìm nổi thoáng chốc gần nửa thế kỷ, gặp mặt chẳng nhận ra nhau nữa. Ai ngờ bà sống nghèo khó thế này.

Cận nghèo

đây ư? Để tôi giúp đỡ bà đầy đủ hơn người cho xứng ân nặng tình sâu của chúng ta.

Sau khi hàn huyên giãi dề đã xong, ông Giôn Nguyễn tức tốc ra ủy ban tìm gặp chính quyền xã, đòi đi thăm một lượt vài hộ trong danh sách cần phải hỗ trợ. A ha, thắng lợi rồi!

Cuối cùng vị khách quý chỉ còn một thắc mắc nhỏ. Giọng tư lự, ông Giôn Nguyễn nhận xét:

- Dù các hộ này đã được lên diện

cận nghèo

, nhưng tôi thấy mặt mũi người nào cũng rầu rĩ lắm.

Ông chủ tịch nhanh trí giải thích:

- Ông thông cảm, dân xóm Chùa xưa nay vốn… kiệm cười thế đấy ạ.

Chuyện dân xóm Chùa

kiệm cười

loang ra khắp nơi. Nhưng lúc ấy ông Giôn Nguyễn đã quay lại trời Tây rồi. Lúc ấy bà Thim đã trở thành một nhân vật được đồn đại hơn những nhân vật huyền thoại rồi…

Sĩ Thái sư dứt chuyện bằng giọng nói kháy sảng khoái:

- Các ông thấy lão chủ tịch hóm không? Giải thích bằng một từ trúng phóc. Hắn không phải dân chữ nghĩa, nhưng cánh lá cải nhà các ông xách dép cho hắn.

Cũng vừa lúc cả ba bước vào một cái ngõ nhỏ. Lão kép cải lương vốn là anh họ bà Thim, gióng giả đánh tiếng:

- Cô Thim có nhà không đới?

Quái lạ, sân vườn đầy ắp xi măng, sắt thép, nhưng tịnh không một bóng người.

- Đi đâu cả rồi, cô Thim ơi?

Lúc ấy mới thấy một người đàn bà luộm thuộm chân đất, ló ra từ sau ngôi nhà lá. Bà ta lưỡng lự nửa muốn xuất hiện, nửa muốn lánh mặt. Sĩ Thái sư vồn vã:

- Ô kìa, chúng tôi tới thăm mừng cho bà đây. Có ai xa lạ đâu. Chả lẽ bà không nhận ra ông nhà báo xóm Chùa này ư?

- A... em chào các ông.

Tiếng chào rụt rè cùng gương mặt ngơ ngác của bà Thim không phải của người được của rơi xuống đầu tí nào.

- Sao mà để khách gọi mãi thế?

- Nhà em cứ ngỡ…

- Có chuyện gì vậy a?

- Ngỡ mấy ông nhà đài, nhà báo phỏng vấn phỏng viếc này nọ… Em thiếu nước cắn rơm cắn cỏ lạy họ tha cho, chớ bới móc chuyện đời tám hoánh ấy nữa. Tốt đẹp gì đâu cứ nói mãi. Một đống của chả lẽ không nhận, phụ công người ta. Dưng nhận thì…

- Ô hay, phải nhận chứ lỵ!

Người đàn bà bỗng dân dấn nước mắt đứng lặng, rồi đưa cánh tay áo nâu quệt nước mắt, nghẹn giọng:

- Sung sướng gì đâu các bác ơi. Họ hàng đằng chồng rỉa rói, con cái xúm lại săm soi tra khảo xem giấu của ở đâu. Em nói ông ta cho cái nhà thì làm cái nhà, nhưng không ai tin thế. Hai thằng con bà cả đánh nhau với con em, giờ đưa đơn trình xã đòi chia đất, nếu không chúng không cho làm nhà trên đất bố chúng để lại. Mấy người thợ xây bị chúng dọa bỏ chạy ráo… Biết thế em chả nhận, may ra được yên thân…

Ba lão chúng tôi đưa mắt cho nhau. Lại có nguy cơ khiến bà Thim chưa chắc thoát diện…

cận nghèo

.

Dân xóm Chùa hay lo xa nên… kiệm cười cũng phải!

HAI ĐỨA BÉ

Bốn chiếc khu trục từ dưới biển nối đuôi nhau vụt lên, lượn một vòng hối hả thay phiên nhau đâm đầu trút tai họa xuống cái xóm nghèo này.

... Con Cái đang chơi với em. Vẫn là cái trò chơi thường ngày của bọn trẻ ở những vùng gần biển. Nó lượm khu chén, khu tộ, mẻng sành, vỏ ngao, vỏ ốc, chan chan... dọn ngôi hàng xén thật là ngay ngắn. Nó chạy ù ra lu, múc một gáo nước đầy đổ vào cái nồi bể, rồi lấy cái ngao dòm trộn thật đều, dích ra từng cục sênh sếch... và bắt đầu đổ bánh bèo. Với những động tác quen thuộc, nó làm khéo chẳng thua gì má nó. Rồi cũng học được cái thói của má nó, ngồi bệt xuống, một đầu gối co lên, cầm đôi đũa tre, bỏ một ít hành, chế một ít nước mắm và đưa lên miệng lùa như thật. Thằng cu nhìn nó chằm chặp, có vẻ thèm thuồng. Cái bưng một chén bánh bèo, chọn một đôi đũa tốt, mời em nó như với một khách hàng: “Ăn đi anh! Bánh bèo tôi đúc, ngon lắm!”.

Để đáp lại lòng tốt của chị, thằng Cu trét đất cát đầy mũi đầy miệng. Cái phải lia bát đũa, bước tới ôm nó, móc đất trong miệng nó ra, mắng em: “Ông ơi! Sao ông ngu quá vậy?!”.

Nó liệng cho em nó những trái mãng cầu khô, cái trống bằng lon sữa bịt da ếch, rồi nó sắp bánh vào đôi gióng bằng dây chuối, đặt gánh lên vai, bắt đầu rao với giọng dẻo nhẹo:

- “Ai... mua ba… ánh bè...o không?”.

Em nó nhìn theo, cười híp cả mắt, nheo cả mũi. Nó đi qua đi lại, tiếng rao càng lanh lảnh hơn, tay đánh đồng xa dẻo hơn cả cô Ba của nó.

... Nhưng tiếng hát của nó vụt tắt như người ta tắt một ngọn đèn. Nét mặt nó thay đổi một cách đột ngột. Nó ném cái gánh không thương tiếc, chạy lại xách em, cúi cổ ù chạy ra hầm...

Trên đầu nó một tiếng rít dài khủng khiếp. Mặt nó tái xanh như tầu lá. Nó sợ còn hơn những tiếng con cú, con rù ì khóc lên trong những đêm tối đen một cách cô đơn. Nó cảm thấy một kẻ nào ác độc sắp trút cả một thúng vỏ ốc vào đầu nó. Bụng nó thót lại, quần nó tuột xuống, vướng chân, nó ngã nhào.

Những tiếng nổ kinh khủng như chuyển động cả trời đất xé tan từng mảnh ánh sáng trước mặt, làm nó chỉ còn thấy những hào quang đom đóm, những con sao rơi lả chả... làm dội nó lên, như đâm lủng hai tai nó, hốt cát bụi đắp lên mình nó.

Nó lồm cồm ngóc dậy. Thằng Cu đang nằm ngửa, mặt nó sĩnh lên, miệng nó mếu, nhưng không nghe tiếng khóc. Cái trườn tới ôm lấy em, lôi tuột xuống hầm...

Sự hăm doạ trên mặt đất đối với nó bây giờ kém hiệu quả hơn. Cuộc sống của nó giờ đây thu hẹp dưới đáy hầm, chỉ có nó và em nó. Cái phủi bụi cho em, nước mắt chảy ròng ròng trước sự bất lực không biết làm thế nào cho em nó sống lại được. Sao bây giờ nó mong tiếng khóc của em như muốn cháy cả ruột gan như thế này. Dường như nó sẽ nói với em: “Cu! Em khóc lên đi em! Chị sẽ không bao giờ đánh em như những lần em đã khóc!”.

Cái ôm em sát vào lòng, như mỗi khi má cho thằng Cu bú. Nó không biết tên một ông thần nào linh thiêng nhất để van vái cho em. Thằng Cu hình như hiểu được sự ăn năn của chị, nó bắt đầu cựa mình, rồi khóc... và khóc thật to, át cả những tiếng đạn bôm bốp trên đầu. Cái vỗ vào đít em, dỗ em nín bằng những lời lừa gạt:

- “Nín đi em! Em khóc nó nghe, nó thả bom bây giờ...!”.

Rồi như để chứng minh, chiếc khu trục khờ dại tuân theo mệnh lệnh của nó, nhũi đầu và trút xuống những tràng bom độc ác. Cái hầm rung lên như muốn lật úp, cát rơi xào xào trên đầu. Thằng Cu cũng thấy những lời của chị nó là thật, nó thút tha thút thít, ôm chặt lấy chị như cầu mong một sự che chở. Cái ép thằng Cu vào ngực, đưa hai bàn tay đầy cát bụi lên bịt lỗ tai. Mùi đất ẩm hòa với mùi khét nghẹt làm nó như ngây ngất, nhưng nó cũng còn nghe được tiếng con chó Mốc tru thảm hại trên mặt đất...

Không hiểu thời gian trôi qua đã bao lâu... Cho đến khi có người kêu tên nó và kéo hai chị em lên miệng hầm. Bà Sáu nhìn nó, nói những lời êm dịu mà nó ít nghe thốt ra trên miệng một bà già thường chửi mắng những trẻ con tinh nghịch: “Nó đi rồi... lên đi con!”. Rồi bà bồng thằng Cu đến lu nước, rửa mặt. Con chó Mốc chạy về ngoáy đuôi lia lịa, mặt hí hửng như sắp được cho một củ khoai. Cái theo bà vào nhà. Cái giường của má nó vẫn còn chỗ cũ, cát bụi phủ một lớp mỏng trên chiếc chiếu mới mua. Bà đến bàn thờ, sửa lại mấy cái chân đèn đã ngã lộn nhào, đặt lại bài vị cho ngay ngắn, phủ bụi bám trên những chiếc khăn để khó  vách. bà dắt nó ra bếp: “Nó ném bom bên nhà ông Hương...”. bà chỉ nói đến đấy rồi im lặng lấy cơm cho hai chị em ăn, bảo nó ăn xong thì đưa em đi ngủ, rồi bà đi về...

Tàng cây me tỏa ra bóng mát hiền lành và quen thuộc trên cửa hàng bánh bèo của nó. Không khí yên lặng và nóng bức sau một trận dội bom, có vẻ trang nghiêm một cách đáng sợ hơn những ngày thường.

Thằng Cu mới đặt lên võng đã ngủ khì, không làm khó làm dễ như mọi bữa. Nó đã trở lại cái vô tư của tuổi. Ngồi trên bệ cửa, Cái chỉ cần kéo cái dây. Tiếng võng cột kẹt buồn buồn... Nó muốn bỏ em nằm đấy, chạy sang con Cún, con Xíu để xem chúng có buồn như mình không, nhưng nhớ lời dặn của cô Ba khi sáng: “Ở nhà đừng có tụm ba tụm bảy, có máy bay thì chết cả đám đấy”... nên nó đành thúc thủ trên bệ cửa. Sự lẻ loi như làm cho nó khô héo đi. Nhớ má, nhớ đến muốn khóc! Đêm qua nó ngủ với cô mà không được ngủ với má. Ngủ với má thích hơn ngủ với cô, vì được má vuốt đầu và co măng vú. Má đã đi Hàm-Trí từ sáng hôm qua. Nghe má nói bên ấy gạo nhiều và rẻ, chỉ gánh qua một gánh vừa đậu, khoai khô, một ít bột mì cũng đã đổi một gánh gạo đầy và vài xắp thuốc lá.

Nó nhớ có một đêm, má với cô ngồi lặt đậu phộng  và nói chuyện mãi đến khuya. Cô bảo: Có túng có thiếu thì tạm ăn khoai ăn cháo, đi qua con đường sắt ấy thì mười phần chỉ sống có một, đi chưa chắc đã về. Rồi cô kể chuyện một vài người ở Bàn Đế, Bàn Thiên... cả thím Bảy ở đầu xóm bỏ lại mấy đứa con! Có những người không lấy được xác, đồng bào qua lại thường gặp xương, gạo, thúng gióng vất vãi trong những đám tranh.

Má thì lúc đầu cũng lưỡng lự, sau phân giải với cô là thấy con ăn đói mặc rách không đành tâm, không phải ai đi cũng không về cả. Má nói bộ đội ngày này cũng qua lại, sáng thường tập trung tại giếng đó, có trinh sát kỹ lưỡng. Các anh đi có súng, thạo đường, cắt rừng giỏi, mình đi theo sau có gì cũng dễ. Rồi cuối cùng hai người cũng đánh liều đi vài chuyến xem sao, thay phiên nhau một người đi thì một người ở nhà với chị em nó.

Cái chẳng thấy cây lúa bao giờ, và cũng không hiểu tại sao ở đây chẳng ai trồng lúa, nhưng từ ngày má và cô đi Hàm-Trí thì nó được má may cho cái áo mới, được ăn cơm và ăn no hơn.

Nó ước gì trong lúc này có chú Tâm ghé ngang chơi với nó cho đỡ buồn. Nhớ cái dáng cao cao của chú, cái răng vàng nơi khoé miệng, cứ mỗi lần chú đi công tác ngang là ghé vào nhờ má nấu cơm, ôm và xoa đầu nó. Nó còn nhớ câu nói của chú Tâm với má:

- Con Cái nó giống anh Hai như hệt. Con gái gì mà giống cha... nhưng má chỉ cười nhìn nó rồi cúi mặt xuống cái áo đang vá dở.

Có một bữa chú Tâm bảo nó:

- Ăn cho no cho mau lớn đi cháu! Lớn lên theo chú đi bộ đội làm cứu thương, đánh Tây thế cho ba mày. Ba mày đánh giặc gan lỳ lắm! Nhưng má nhìn lên hỏi chú Tâm với cái giọng thách đố:

- Bộ anh tưởng kháng chiến có thể kéo dài mãi đến cả đời cháu sao?...

Cái còn nhớ một buổi sáng đang ngon ngủ thì cô Ba chạy vào xốc nó dậy. Cô với xách ba lô, mang xắc tài liệu rồi cõng nó lên lưng chạy qua Gộp. Má cũng bỏ thằng Cu vào gánh, đủng đỉnh chạy theo sau. Tiếng mi-tai-dết nổ như bắp rang ở phía Dộc Rạng, đạn bay cheo chéo trên đầu...

Trưa hôm ấy, cô Ba lại cõng nó về. Nhà nó đông nghịt các chú du kích và bộ đội. Nó đinh ninh thế nào cũng sẽ được các chú bế, chuyền tay. Nhưng đột nhiên má vất tung gánh, làm thằng Cu khóc rống lên, chạy ập vào nhà. Cô Ba cõng nó chạy theo, cũng khóc.

Người ta bảo ba nó chết rồi, đã trúng đạn trong khi đang chỉ huy tiểu đội du kích chặn đường Tây vào xóm. Ba nằm dài trên chiếc chiếu mới dưới có lót một miếng ván ngựa. Nó nhìn chiếc khăn đỏ, cảm thấy một cái gì lo sợ, khủng khiếp... Má lật tung chiếc khăn đỏ ra, mắt ba nhắm như đang ngủ mê. Má ôm lấy ba cấu xé, đập đầu xuống ngực ba, chửi rủa cái quân dã man, than trời trách đất, gào khóc như điên như dại.

Chiều hôm ấy, người ta để ba vào cái hòm... Nó không gặp ba vĩnh viễn từ đó.

Những ngày sau, nó thấy trên đầu rối tung của má quấn tròn một chiếc khăn trắng. Má ưa khóc, có bữa mắt sưng húp lên, hay buồn... rồi hay có những cái nhìn yên lặng nghiêm trang làm nó cũng đâm rụt rè. Má hay gắt gỏng với nó.

Nhưng bữa sáng hôm qua, má yêu nó hơn lúc nào hết. Chị Hai ôm nó vào lòng, nhìn một cách trìu mến, tước trứng chí trên đầu cho nó. Chị nhớ đến câu nói của chú Tâm: “Con gái giống cha...”. Chị nhìn kỹ mặt con như mới nhìn lần đầu. Chị thấy nét mặt anh Hai thu gọn trong khuôn mặt xinh xắn của con, trong đôi mắt sáng như hột nhãn của con. Chị hôn, ôm xiết nó vào lòng như thèm khát lâu ngày. Nó cũng ngẩng lên nhìn chị, ôm lấy cổ chị và ngạc nhiên trước những cái hôn nồng nhiệt của chị. Nó thấy yêu má hơn bao giờ hết, nhưng sao đôi mí mắt của má đỏ ửng lên, đôi lông mày nhíu lại để lộ những nét nhăn trên trán.

Những nét nhăn trên mặt người đàn bà goá bụa này ít được người bắt gặp. Nó chỉ có vào những phút như thế này, những buổi đi làm rẫy về thấy nhà quạnh hiu vắng vẻ, trong những đêm thao thức trằn trọc bên con với những tiếng thở dài. Ngoài những phút ấy, nét mặt hiền lành của chị, dù lam lũ nhưng cũng tươi tắn, ăn nói lanh lẹ và khôn ngoan, tiếng cười hơi nhanh trên đôi môi có duyên như khi còn con gái.

Để tránh cặp mắt của con, chị Hai quay sang bồng thằng Cu. Chị cho nó bú một lần nữa thật no để rồi đi. Chị thường nghĩ: “Mình cũng không có con nữa, cứ để sữa cho nó bú”. Với cảnh ngộ của chị, cho con bú cũng là một niềm vui và an ủi.

*

*   *

Mặt trời đã xế bóng. Con gà trống cất tiếng gáy với cái giọng chiến thắng kiêu ngạo. Có những tiếng nói rộn ràng, tiếng gánh kĩu kịt, tiếng chân thình thịch ngoài đường hẻm. Cái mừng quá, chạy ra cửa để đón má về. Má về đã dặn: “Con ở nhà chơi với em con nhé! Đừng đánh em khóc con nhé! Chiều mai má sẽ về mua bánh cho con”.

Nó đã làm đúng những lời má dạy, nó sẽ khoe với má, nó sẽ kể lại cái việc chạy máy bay như thế nào... rồi má sẽ ôm hôn nó, tước trứng chí cho nó, đền ơn nó...

Những gánh gạo ăm ắp chạy qua trước mặt. Hôm nay họ không nghỉ ở Trại-Nấu, không tạt qua Triềng mà chạy một mạch về nhà. Những bãi sa mạc nhỏ của khu Lê Hồng Phong  không nóng bằng lửa đang đốt gan ruột họ.

Nó hỏi một cách tha thiết: 

- “Má cháu về chưa hở bác?”.

Quay đầu lại, bác Tư đưa tay lau những dòng mồ hôi chảy thành sọc trên mặt, nhìn nó rồi ngần ngừ:

- Má cháu... về sau cháu ạ...!

Có những người khác chỉ cắm cổ chạy, không trả lời. Cái rất giận những người như thế này. Sao họ lớn mà họ không hiểu được sự mong nhớ tầm thường của nó, sự trống trải của chị em nó.

Cho đến người đàn bà cuối cùng là dì Ba. Dì đặt gánh, ôm cháu rồi khóc oà lên. Cái chưa hiểu gì cả nhưng Cái cũng không cầm được nước mắt trước một người lớn đang khóc.

Dì Ba nhìn cháu. Dì thấy cũng không cần thuật lại cho nó nghe câu chuyện qua đường sắt khi sáng làm gì với tuổi của nó, nếu càng che giấu được những cái đau thương có thể xúc phạm đến tâm hồn nó, nếu có thể kéo dài được những phút hồn nhiên trong trắng để cuộc đời của nó chỉ thấy toàn là tiếng cười thì càng tốt.

Dì lau nước mắt, bảo cháu:

- Em đâu?... Thôi để em ngủ. Dì về nhà rồi dì qua. Chiều nay con ăn cơm với dì và... ngủ với dì... Tội nghiệp!

Hai cánh tay dì trùm lấy cháu như tàng cây me cổ thụ đã ngả bóng mát che phủ lên đám bắp non héo lá bên đường. Dì nhìn gương mặt lo âu của cháu với đôi mắt sáng long lanh như những con sao nhấp nháy trong đêm tối, không bao giờ tắt

Cuộc chơi

òn ít ngày nữa các cánh cửa sẽ đóng lại. Chia cắt hai miền đất. Chấm hết 300 ngày. Vùng châu thổ sông Hồng, vùng giáp biển vẫn nhao nhác chuyện đi chuyện ở. Kẻ có thù với Cộng sản. Kẻ mấp mé giữa ranh giới thù và bạn, vừa công vừa tội chẳng hiểu được cư xử thế nào khi đất này vào tay Cộng sản. Kẻ thì ở bên này hay bên kia cũng thế, lười chảy thây cả đời sống dựa bây giờ nghe rằng đi có tiền thế là khăn gói quả mướp… Tất cả xuống tàu. Ba trăm ngày giành cho giải quyết các việc linh tinh đã gần hết. Len lỏi trong dòng người ra đi vì lý này lý kia ấy, có những người còn trẻ lòng đầy các thứ kỳ vọng một thuở. Họ níu giữ những con người đang bỏ đất này mà đi. Có gã thức thời cười khẩy bảo người cả đống đi bớt cho nhẹ đất gì mà phải giữ! Nhưng mấy ai biết trong các thứ mánh khóe giữ người của cả hai phía kia đã có sẵn kiểu vừa giữ vừa đẩy. Thời buổi nào cũng vậy. Luôn luôn có những cái đầu nghĩ toàn chuyện lươn lẹo… Chuyện không bình thường…

Vào một ngày không mưa không nắng, hướng tới bến cảng có chiếc tàu trung lập chờ đợi, người đàn bà chửa lặc lè nước mắt nước mũi tay xoa vị trí cái đầu đứa con đã xoay xuống: khổ thân con mẹ. Có khi đẻ trên tàu. Đến ngày còn gì! Ông chồng kiểu dân thợ tay còn xách đồ nghề gia bảo nhăn nhó thì lên tàu đẻ đã chết ai. Ở lại mới chết! Người đàn bà méo xệch miệng vì mệt cằn nhằn tôi theo Tây theo phỉ gì mà sợ. Buôn bán làm ăn ở đâu chả thế! Khổ lắm bớt mồm đi cho tôi nhờ - Ông dân thợ chắc có mắc mớ gì trông mặt mũi đã thấy quyết chí ra đi. Có dao kề cổ cũng đi!… Nhùng nhằng giằng co gì rồi cũng đã đặt chân lên cầu tàu. Tàu hú còi. Nghe rã rời như tiếng hú gọi hồn. Người vợ gai xương sống. Lại là người có thói quen khư khư giữ cái cũ ít dám đương đầu nắng gió y như kiểu các cụ tổ ngàn đời vẫn vậy, lúc này càng gai gai vì đứa con đạp dồn trong bụng. Thôi thì tặc lưỡi đưa chân.

Tàu đã lỉnh kỉnh va ly hòm xiểng tầng một tầng hai hành lang ban công. Người đứng người nằm người ngả ngốn. Nước mắt có tiếng cười ròn cũng có. Người cười vì ra Bắc đón thân nhân trong kia đã sẵn cái cho vào nồi, cái che nắng che mưa cũng sẵn. Người khóc vì của nả để trong mấy cái hòm dưới bến kia đang có nhiều bàn tay vẫy, phía trước chưa biết lối đi lối đứng ra sao. Ngổn ngang trăm nỗi. Nhưng chỉ có hai năm thôi mà. Sau hai năm muốn ra muốn vô gì lại tính…

Nghĩ vậy nhưng mặt mũi u trầm. Những đoàn người tị nạn bao giờ chả có cái vẻ ấy. Cho đến phút này ai cũng nhét trong túi hành lý rặt lời hứa. Lời hứa dễ gió bay.

Con người trẻ tuổi đi làm sứ mạng giữ người xuất hiện với cái va li. Gã đội mũ nồi hơi lệch, chiếc áo vét hơi sờn, quần tây cũng sờn nhưng sạch sẽ. Nhìn người thì biết xuất xứ từ giới sinh viên công chức. Gã còn rất trẻ vai còn rộng rãi có vẻ chưa phải gánh vác chức phận làm ông chủ gia đình. Dáng dấp nhàn tênh nhưng mặt mũi đầy phận sự. Gã đỡ vai người đàn bà chửa đang nhòe nhoẹt nước mắt: đưa túi em xách cho.

Ông chồng quay sang nhăn như bị: lại là cậu à? Bảo tôi ở lại nữa à? Tôi có mấy cái cổ để người ta cứa đây. Còn vợ còn con tôi chứ…

- Anh có tội gì đâu mà cứ sợ cứa cổ? Ai người ta hạch sách một người trông coi gara cho quan hai Pháp. Cùng dân thợ với nhau anh ở lại hay anh đi cũng làm thợ. Chế độ nào chả phải xây nhà làm cầu.

- Thôi tôi đến đây rồi cậu cứ để yên cho chúng tôi nhờ. Chào cậu.

- Em cũng vào mà. Chào em làm gì.

- Hóa ra cậu cũng đi. Thế sao mấy hôm nay cứ nhũng nhẵng. Rõ của nợ cho cậu…

- Em quen anh chị thì em vạch hướng thôi. Em có việc phải vô. Thân em nhẹ tênh chứ có ai lặc lè đi theo như anh đâu.

Gã thanh niên nhe răng cười trêu chọc rồi giúp hai vợ chồng xuống buồng tàu. Người đàn bà ngồi dựa vào cái vali da. Tàu hú còi. Có vẻ chỉ chờ tàu hú còi, đứa bé trong bụng người đàn bà đạp một cái khiến người mang nó phải kêu ối. Gót chân của nó to bằng nắm tay. Người đàn bà nắm lấy chỗ lồi trên da bụng mình, nói chuyện với đứa trẻ: bảo mẹ đi hả? Đứa trẻ đạp nữa, như đồng tình: đi, mẹ!

Tàu ra xa bờ. Thẳng hướng Nam. Biển đêm đen kịt. Người ta nhìn ra màu đen không sóng, cảm thấy cái lênh đênh của con tàu trên khối nước. Lênh đênh càng lênh đênh. Lòng dạ ai nấy hiu hắt. Bỏ quê chả nhẹ tí nào. Gã thanh niên có chức phận phải ra đi cũng lòng hiu lạnh. Ở ngoài kia trên đường kháng chiến gã quen nàng. Thôn nữ nhưng xuất thân trong gia đình cả đời gánh bồ chữ Nho. Nàng gánh theo bao nhiêu ràng buộc cha mẹ già em dại… Nhà ngói ba gian ruộng thẳng cánh cò bay. Gia đình nàng rồi qua cơn sóng gió thế nào đây khi bảo nàng đi nàng bảo cha mẹ ở lại em nỡ lòng nào? Như vậy vừa may vừa không. Tổ chức bảo gã nên đi một mình. Xem như xa nàng mấy năm. Răng đen thế da trắng thế tóc dài thế nàng có chung tình nổi với gã? Đêm biển đen càng làm gã đau lòng chuyện riêng. Nhưng chuyện chung lớn thế. Tương lai đầy ắp những sự này sự kia làm sao gã không gánh vác. Gã ra đi chỉ cần xách va li. Chỉ có hai người biết. Xem ra từ giờ phút này cha mẹ gã mang tiếng có thằng con theo giặc. Cái làng kháng chiến toàn phần đầy thành tích mang tiếng có một thằng theo giặc vào Nam. Gã mông lung nghĩ ngợi. Nhìn biển đêm.

Một hồi còi tu tu. Cũng như chờ có thế, tiếng hét bật lên từ toa tàu bên cạnh làm tất cả bật dậy. Ai hét thế? Lao xao những bước chân những tiếng hỏi. Vài người đàn bà thanh lịch đi từ phòng giải khát. Những người lính da trắng không mang quân phục đứng ở trong boong tàu. Đám thủy thủ vừa thay ca đang ngủ trên dãy ghế kê ở lối đi… Ai hét mà ghê thế?

- Đau đẻ! Gã thanh niên đang mông lung nỗi buồn nghe thấy biết rằng người đàn bà gã quen đã đến giờ sinh nở. Gã lao vào phòng y tế của tàu. Người thày thuốc da trắng râu cằm dài đang mặc vào thân thể to lớn chiếc áo bệnh viện màu trắng. Gã nói với ông ta bằng tiếng Pháp: hãy giúp chúng tôi… Người đàn bà ngồi trên xe đẩy. Ông chồng một bên. Mặt tái nhợt. Nhìn thấy gã đang đi tới, người đàn bà kêu thảm thiết: cậu đúng rồi cậu Ngọc ơi. Sao tôi lại phải đi đúng ngày này. Con tôi lại ra đời trên tầu. Xa lạ thế, toàn người dưng!

- Em đây này, đâu phải người dưng? - Người đàn bà nắm tay gã trai. Trong một thoáng có yên lòng. Người dưng không thể nắm tay chị chặt đến thế.

Người đàn bà đau đẻ suốt đêm. Người ta không cho ông chồng, không cho gã trai vào cabin y tế. Thỉnh thoảng là tiếng hét, là tiếng kêu lọt qua cánh cửa cứ bị gió đập vì bản lề vênh khép không kín. Hai người đàn ông ngồi trên chiếc ghế băng. Hút thuốc lá. Cảm nhận được nỗi thống khổ đàn bà… Tàu đã xa bờ lắm. Trong một thoáng chợt tỉnh, gã trai thấy mặt biển hơi nhòa trắng. Rồi những nan quạt khổng lồ phía đông hắt lên trời những tia hồng rực. Mặt trời ở đại dương lên sớm. Mới có bốn rưỡi sáng. Hai người đàn ông mắt đỏ mặt nhợt nhìn nhau. Sao đau lâu như thế? Đau đến tóc đàn ông cũng phải trở màu…

Những chiếc nan quạt khổng lồ trên mặt biển biến dạng. Rồi một phần đỏ rực của cái bánh xe lửa nhô lên trên nền đại dương. Nước lăn tăn ánh bạc. Cảnh vật xôn xao. Cá nhẩy bên sườn con tàu lớn. Và tiếng trẻ con. Tiếng khóc kéo bao nhiêu người đến bên cabin y tế. Đẻ rồi. Con trai. Một thằng cu kháu lắm. Lạ lắm.

Gã trai tên Ngọc nhìn ánh bạc trên mặt nước. Tự dưng gã thấy mình không yên. Như có báo hiệu lạ. Gã vào cabin y tế trên tàu. Những cái giường sáng bóng. Màu vải trắng. Gây cảm giác ấm cúng như trên đất liền. Cha thằng bé vẫy Ngọc:

- Cậu xem, thằng cu có tướng lạ không?

Thằng bé chưa mở mắt. Trên trán nó, bên trên chỗ giao nhau của lông mày rất xa, một vết vòng tròn đỏ rực như là sắt nung đỏ, nung độ cao đóng dấu vào. Cái vòng tròn ấn tượng, gây cho người ta nỗi bất an, không biết vì sao. Không phải vết chàm, không dị tật. Chỉ là vòng tròn đỏ rực như con mắt thứ ba. Có ai trong đám y tá đùa: bà mụ cho đồng tiền đẹp ghê. Sau này tha hồ giàu có…

- Chà chà, vận may đỏ rực! - Một người đàn bà thanh lịch đi chạy loạn mà như đi dạ tiệc, mặc áo dài màu cườm, đeo vòng vàng tay nhẫn mặt ngọc tóc vấn trần đổi cái xắc da cá sấu từ tay nọ sang tay kia: - Vận may. Vận may! Lớn lên sẽ thăng trầm nhưng sung sướng, làm ít hưởng nhiều. Đặt tên cho nó đi! Gọi nó là cu Sáng. Đẻ buổi sáng trên tàu giữa biển khơi…

Người đàn bà cười tươi tắn nói giòn giã. Ai cũng nghe như thôi miên. Có những người đứng đâu là thiên hạ phải dồn mắt chú mục. Bố mẹ thằng bé cười mắt rân rấn nước: cám ơn bà! Đa tạ bà.

Gã con trai tên Ngọc nhìn chằm chằm cái dấu đỏ trên trán thằng bé. Gã gật đầu: tên hay! Nhưng hình như ở nhà có người tên Sáng rồi!

- Phải phải - Người cha xác nhận - Ông nội nó tên Sáng rồi.

- Vậy gọi nó là thằng Sớm - Người đàn bà thanh lịch nói gì cũng ra lẽ phải - Sớm, nghe dân dã nhưng cũng cùng một nghĩa. Trong Nam người ta cũng kêu là Sớm.

Chung quanh ồ ồ à à! Mọi người mừng vui. Dù sao cũng là mừng khi có một sinh linh chào đời góp mặt. Thằng bé ọ ẹ. Nước da sơ sinh sậm màu. Nhưng cái dấu đỏ không gì làm nó đổi màu được. Cái màu đỏ càng đỏ thêm… Người đàn bà đi thanh lịch, nói thanh lịch, vỗ vai người cha cũng thanh lịch:

- Nó có quý tướng. Không phải dị tướng. Trời thương đó. Ném vô lửa cũng không sao. Chỉ khi nào cái dấu này mờ đi thì mới tận số. Chúc mừng nghe!

Gã trai tên Ngọc cũng nghe người đàn bà như bị hút hồn. Người đâu thanh lịch thế. Gã quên bà ta sau đó. Đến chiều gã chợt nhớ ra người đàn bà. Đưa mắt tìm không thấy. Đi dạo khắp tàu cũng không thấy đâu nữa. Và suốt chuyến đi vào Nam ấy người ta có nhìn thấy chỗ này chỗ kia vài người đàn bà sang trọng. Nhưng người đàn bà mặc áo màu cườm của con chim gáy, người báo hiệu tương lai cho thằng bé như đã xuống nơi nào.

Ngay sáng hôm ấy, viên bác sĩ người Pháp có râu cằm lấy tay xua xua mọi người ra khỏi nơi sản phụ nằm. Người cha đi tìm nước nóng cho vợ, nhìn thấy gã thanh niên. Cả hai hài lòng cười với nhau. Trong một thoáng tư lự, người đàn ông hỏi:

- Sao cậu đi?

Gã trai tên Ngọc cũng tần ngần. Một chữ đi ngắn ngủi nhưng chứa cả một số phận. Một khoảng không gian bờ này bờ kia giới tuyến. Ai mà dám nói ra. Gã tủm tỉm:

- Thì em đi như anh chị mà. Có gì đâu.

Người cha lắc đầu. Thôi thì thời buổi nhiễu nhương. Đi hay ở đều có lý của người ta.

II

Những ngày lênh đênh. Những đêm biển đen kịt đe dọa. Tới bến rồi! Đôi vợ chồng nhìn nhau quanh quất. Gã trai tên Ngọc xuống tàu từ khi nào. Chả nhìn thấy đâu nữa.

Cha mẹ thằng bé quyết định làm khai sinh cho con theo cái tên Sớm mà người đàn bà xa lạ đặt cho. Bến tàu chật ních lỉnh kỉnh. Chiếc loa kêu mọi người tới ghi tên. Băng rôn màu vàng màu đỏ. Ngày hội đón chào những người con từ bỏ Cộng sản về với Quốc gia. Đón chào cả thằng Sớm, đứa trẻ ra đời trên đường đi tới thế giới tự do.

Trời Nam nắng khác trời Bắc. Không có mùi ẩm thấp nắng oi nồng như trong lò ủ trấu. Nắng ở đây chói hơn. Sạch hơn. Trông thấy rõ cái xứ cây cối phổng phao, người ta no đủ hơn xứ Bắc cái gì cũng nhỏ như kiến. Thôi thì bờ nào chả phải "lật cỏ tìm giun". Kệ bố nó mọi thứ đang làm người ta nghĩ ra trăm nghìn mưu mẹo hại nhau. Có chiếc xe riêng của ông quận trưởng đón gia đình thằng  Sớm đưa về nơi định cư. Công dân ra đời trên tàu. Thế giới tự do đón chào em bé. Quận trưởng người lùn mặc bộ đồ trắng mũ cát trắng nói vào loa. Vỗ tay rầm rầm.

Làng định cư trên bờ sông Sài Gòn. Mạn phía Nam thành phố người thưa thớt. Những năm năm mươi người thưa thớt thong dong. Cha mẹ Sớm làm hàng xóm của những người Hải Phòng đã vào chuyến tàu trước. Cha Sớm đi làm thợ sửa xe trong ga ra lớn ở trung tâm. Mẹ được nghỉ sanh con. Tiền từ trung tâm cứu trợ rót tới hỗ trợ định cư. Cũng nhọc nhằn dằn vặt để quen với xứ sở mới. Đàn bà đi chợ mua cá quả to như cái chày về cắt khúc nấu canh chua không cho dứa, nếm canh nói với hàng xóm: thiếu rau thì là canh nhạt hoét. Đàn ông đập muỗi ngồi trên chiếu giữa sân kêu nhớ trà Thái. Trái cây ăn no, gọi na là mãng cầu, gọi quả roi là mận, dứa là thơm. Ngượng mồm ngượng tay chân một dạo rồi quen. Đời sống dần êm như nắng chiều. Hai năm qua vèo. Thằng Sớm gọi cha là ba gọi mẹ là má. Giọng Sài Gòn như trẻ con trong xứ. Mười năm nữa trôi qua cũng chả thấy đụng cựa gì. Nhà bên cạnh có hai thằng con trai tuổi trên hai mươi. Một thằng làm cảnh sát. Thằng kia Việt cộng nằm vùng. Một hôm đụng nhau. Thằng Việt cộng bắn chết tươi thằng Quốc gia rồi bỏ thành vào núi theo cờ hai màu xanh đỏ. Người mẹ ngất đi như tàu dưa héo rũ rượi, bảo với chồng: "Biết thế này tôi ở Bắc cho xong". Ông chồng vốn đóng lon quan hai có nợ máu với Việt Minh, mắt vằn như mắt hổ: "Câm mồm! Đàn bà đầu óc nông choèn như cái xanh đồng. Chỉ đổ cám vào nấu cháo cho lợn! Biết chó gì bàn chuyện thế sự. Đứa nào ở phe nào chết phe đó chôn!"

Người mẹ mắt ráo hoảnh lòng buồn như cắt. Đàn ông đã ra thứ dã man như thế. Nói sao cho lại?

Thằng Sớm đi học tiểu học. Rồi trung học. Có thêm đứa em gái. Sớm càng lớn càng khôi ngô. Cái mũi dùi đóng dấu ở trán đỏ như chưa có gì đỏ thế. Không phải là dấu đóng vào da người. Là một nét son. Là một dấu vết của thượng đế đóng cho nó từ khi nó còn là không khí, là hạt bụi rồi kết tinh máu cha máu mẹ hoài thai ra đời giữa biển. Một hôm cha Sớm về nhà áo quần tươm tất báo tin cả nhà chuyển ra Huế. Sao vậy? Mẹ Sớm thất sắc. Có gì mà nhợt mặt ra vậy hả mình? Cha Sớm vào Nam mười mấy năm có của ăn của để bạn bè tùm lum vẫn giữ giọng Bắc Hà nhẹ như gió khi về nhà nói với vợ con. Có gì mà mình phải sợ thế. Thành phố đó vững mà. Lại gần đất Bắc. Toàn người họ Tôn Thất trong cung xưa. Nghe nói lịch sự lắm.

- Em ngại chuyển mình ạ!

- Thư cậu Ngoạn viết đây này. Biệt thự nhà vườn. Ngay bờ sông Hương. Cậu mợ qua Pháp nghĩ bán nhà bán vườn chẳng được bao lăm. Lại tiếc. Nếu về chơi còn có chỗ kỷ niệm. Cho hẳn vợ chồng mình. Ra đó có cả sạp vải của mợ Ngoạn ở chợ Đông Ba. Tôi thì có chân làm ở ga. Mình đừng đắn đo nữa.

Thằng Sớm nghe ba mẹ nói vậy. Nó chạy tới đứng giữa nhà. Cao lừng lững như đã ở tuổi mười tám rồi. Giọng ồ ồ làm cái dấu son trên trán càng đỏ sẫm:

- Mình về Huế đi má ơi! Con thích bơi ở sông Hương.

Mẹ Sớm ngao ngán nhìn qua con lộ chói nắng bên hông nhà. Xe nhà binh Mỹ rầm rầm chuyển sắt thép. Đánh nhau trên rừng ngoài đồng bằng, ở ven đô không yên. Thôi thì đi. Chỗ nào cũng là chiến trận. Ở Huế nghe nói vẫn yên…

Nhưng tai họa giáng ngay xuống chiếc xe đò. Giữa đèo Hải Vân. Quả cối nổ bùng giữa nóc xe. Cái xe lật sang bên. Thằng Sớm lôi mẹ nó em nó trong đống máu nhầy nhụa. Còn sống cả. Ba đây! Ba nó ngúc ngắc trên tấm thân chỉ còn một chân. Một chân bay gọn trên đầu gối. Chẳng ai có thời gian nghĩ xem quả cối của ông Mỹ hay của ông Nga Xô. Dân tình chỉ biết tai họa giáng xuống ai người ấy gánh. Bệnh viện dã chiến của quân đội Mỹ đóng ở Mang Cá. Thu nạp cả dân bị nạn. Cha thằng Sớm ở đó hai tháng rồi về biệt thự ba phòng nhỏ xíu vườn nhỏ xíu, không như trong mơ. Sạp vải cũng đìu hiu ngồi cuối dãy chị em tiểu thương chợ Đông Ba. Quầy thuê hết năm trả tiền rồi. Còn vải xuất vốn mà mua. Có gì dành sẵn mà đầy tới ngọn ngay? Thằng Sớm chở mẹ nó bằng xe đạp. Cứ sáu giờ sáng hai mẹ con đóng cổng đi qua cầu Trường Tiền gió thốc vào người mùi buổi sáng từ biển Thuận An. Đoàn nữ sinh Đồng Khánh áo dài trắng nón trắng giày trắng cặp da đen đi qua cầu ríu ríu. Mấy anh Mỹ mặc quân phục đứng trên lối đi ở thành cầu nhìn nữ sinh như mấy anh ở sa mạc thấy tuyết Nam Cực. Mặt đen mặt trắng anh trắng môi mỏng anh đen môi trề lóng ngóng ở trường Trung học ra tới ngay xứ nhiệt đới, tưởng gặp thổ dân gõ trống nuốt lửa ăn thịt người ai dè thành phố đẹp như mơ con gái xinh như mộng. Cũng đáng lên tàu há mồm vượt biển làm sứ mạng nghe nói thượng đế giao, đánh thằng này dựng thằng kia lên để bảo vệ thế giới trong đó không ai vào tận buồng ngủ chụp ảnh vợ chồng người ta vì nghi này nghi nọ… Sứ mạng vĩ đại quàng lên mấy cái vai trung học quen đánh bóng chày… Thằng Sớm qua cầu sáng nào cũng gặp cảnh đó. Nó tò mò nhìn bọn Mỹ trong đầu không có gì rõ rệt. Nó là thằng dân trong đám chúng sinh. Là thằng nhóc con đang đèo mẹ đi chợ kiếm tiền. Cha cụt chân đi nạng làm ăn gì được ngoài việc lọc cọc từ nhà vào sân quét như li như lau cái sàn nhà. Đứa em gái phải may hai cái áo dài trắng tốn tiền. Phải có áo dài trắng để em nó đạp xe thong dong qua cầu Trường Tiền "lem thèm" bọn Mỹ đen.

Cha thằng Sớm gọi nó dậy. Mới bốn giờ sáng. Ba không ngủ hay sao? Chân ba đau hả?

Không đau con ạ. Nhưng ba kiếm đâu ra hai ngàn để ký quỹ làm chân gác dan cho biệt thự ông lớn bỏ không trên đường Lê Lợi? Hai ngàn to quá con ạ!

Cha Sớm nói giọng Bắc như chưa hề có 14 năm khăn gói vào Nam. Thấy giọng cha thật nhẹ nhưng bắt chước cha là khó. Sớm chỉ thấy đau lòng khi cha nhỏ tí lắt leo với cái chân cụt. Từ đó đến gần sáng nó không ngủ. Hai ngàn tiền quốc gia những năm sáu mươi có giá sao cha phải ký quỹ để được làm gác dan? Có lẽ để đi làm. Thèm có việc để mình hữu ích… Thằng bé mười bốn tuổi chưa nghĩ được sâu xa này kia cái sự đơn côi của người cha còn một chân. Sớm chỉ nghĩ đến tiền. Hai ngàn. Nó chạy qua đường, tay cầm cái đấm sắt mà nó nghĩ là trợ thủ đắc lực khi gặp bọn cùng lứa. Cái nắm đấm có những mấu nhọn như đinh, ngoắc vào tay. Nó nhằm hiệu vàng của lão Hội người xứ Nghệ lập nghiệp ở đây từ thời ngăn sông Bến Hải. Lão Hội có hai đứa con gái lấy chồng ở riêng dù cùng phố. Lão có mụ vợ gầy như con mèo già chuyên mặc áo dài tím Huế trông càng còm nhom. Mụ vợ ngủ trên gác. Lão Hội ngủ ngay cửa ra vào. Có lần Sớm thấy lão cúi xuống lục trong hộc bàn lôi ra cái tráp khảm trai. Đầy ứ tiền. Két sắt đựng vàng thật lão để trên gác. Trong tủ kính là vàng Mỹ Ký đem từ Bắc vô ai mua của thật lão lên gác mở két. Tráp khảm trai đựng tiền vặt. Nhưng lặt vặt với dân buôn vàng dư sức để giúp cha thành người có ích. Thằng Sớm trèo lên cây trứng gà, tụt từ cành xuống mái rồi nhẹ như con mèo, nó trườn trên ống máng xuống cửa hàng. Nó quen hàng này như là nhà nó. Ngày nào cũng qua chơi xem lão Hội bán hàng. Các tiểu thư áo tím da đầy mụn trứng cá thử nhẫn vòng nói năng nhẹ như gió nghe như giả vờ giả vịt. Ấy nhưng nó mê mẩn, tuổi 14 có hôm quần đùi cương cứng nó chỉ muốn một cô đụng vào. Nó không biết rằng cơ thể nó đang từ giã thời niên thiếu… Nó lom khom đi trong cửa hàng không quá tối vì có ánh đèn đường rọi qua lớp kính trong chấn song sắt. Chính xác như căn ke, nó lôi được cái hộp dưới hộc bàn. Đúng lúc đó, hai bàn tay béo múp của lão chủ chặn cổ nó. Hoảng quá, lão chưa biết là ai. Lão cũng không mở miệng kêu nổi một tiếng. Cũng hoảng quá, thằng Sớm vung tay phải lên, nắm đấm sắt tua tủa đinh vụt trúng mặt lão Hội. Một tiếng thét. Một tấm thân to béo ngã uỵch. Cổ nó được cứu. Đèn điện bật sáng trưng.

III

Vào buổi sáng đẹp trời năm một chín sáu bảy thằng Sớm ngồi trên xe bít bùng đi hết mấy cái trại giam ngoại ô sau cùng được về nhà lao nổi tiếng miền Trung. Nhà lao nằm trên con đường lặng như mồ một bên đường là sân đá bóng bên này là những dãy nhà lợp tôn, tường bịt kín từ ngoài cổng vào. Nó chưa ở tuổi thành niên nhưng giết người dã man. Ăn cướp giết người… thời nào tội đó cũng nặng. Sớm vô lao tử tù. Chờ đến tuổi thành niên sẽ xử chính thức. Cái cổ của nó quàng án tử hình tương lai. Nó chỉ thương cha mẹ. Mỗi lần lọc cọc thăm nuôi, cha nó như bị ai lóc hết thịt. Cha nói mà cái xương trên hai bả vai nhìn rõ như cái móc áo. Sao lại khổ thế con? Cha nó hỏi đi hỏi lại bằng giọng Bắc nhẹ như gió cũng như chả cần ai trả lời. Thằng Sớm ăn ngấu nghiến cái bánh mì nhồi dưa leo thịt lợn cà chua nó chỉ chờ thăm nuôi để ngồi tại chỗ ăn như ăn cướp. Gã lính gác nhìn thằng bé ăn giả đò không thấy… Tù tội nhưng thằng Sớm vẫn cao ngồng. Cái dấu đỏ trên trán nó rực rỡ hơn trong xó nhà lao. Dấu dị tướng đó cũng khiến mấy thằng đầu bò chuyên ăn hiếp phải dè chừng. Bỗng dưng chùn tay chớ lũ chúng nó xưa nay có ngán ai? Ở trong tù ít lâu, cái dấu bà mụ vẽ trên trán nó thỉnh thoảng thay đổi màu sắc. Lúc nhạt hơn, lúc sẫm hơn nữa gần như màu tím đỏ. Mặt thằng Sớm không còn vẻ măng non như những buổi sáng nó đạp xe qua cầu với mẹ. Mới vài tháng ở tù nó đã có cái vẻ mặt của một con sói đang mọc nanh. Nó đưa đôi mắt không còn ánh xanh tuổi trẻ nhìn lũ bạn tù, nhìn gã gác ngục. Nó nhìn lên cửa tò vò trên phòng giam. ánh mắt nó trêu ngươi cuộc đời. Có lần vô thăm nuôi má nó bảo bà mụ cho con cái bảo mệnh đóng trên trán. Chui đầu vô máy chém rồi lại rút ra thôi. Nó nghe má nói rồi tin như thế. Nó không sợ gì hết. Ít tháng sau bọn tù hình sự cùng phòng Sớm giấu được củi đốt một đám giữa phòng giam nung miếng sắt đóng dấu vào bắp vai ăn thề. Sớm nhỏ tuổi nhất được tôn làm thủ lĩnh. Nó càng tin cái dấu đỏ trên trán nó.

Sự biến đến với thành phố nhà đẹp con gái xinh sông núi hiền hòa cũng ác liệt như mọi thành phố khác. Súng nổ như rang ngô xa xa. Ran ran khắp nơi như ngày tết người ta thi nhau đốt pháo. Thì cũng đang là tết mà. Một quả lựu đạn nổ ở sân nhà lao. Một loạt đạn. Nghe tiếng kêu ặc ặc ngay ngoài bức tường. Cửa phòng giam của nó mở như bị gió bão cuốn. Một gã con trai cao lừng lững mặc quần áo đen mũ đen còn dải băng đeo bên tay trái một nửa xanh một nửa đỏ ngôi sao vàng nối hai màu xanh đỏ, chúc mũi súng xuống đất cười hết cỡ: "Thành phố đang đánh đuổi bọn Mỹ Ngụy. Anh em đã được giải phóng!". Cả bọn tù hình sự chạy ra như bầy vịt. Một thằng nói giọng Nam bộ còn ngớ ngẩn hỏi: "Ra hết à, anh Hai!".

Ra hết. Anh em đã được giải phóng. Thằng Sớm thấy được ra là quýnh quáng chạy. Không kịp nghĩ vì sao lại thế? Trong buồng giam của nó có thằng Bảy Quạu giết một lúc bảy mạng. Thằng Tư Rỗ giết người còn lột da đầu như phim da đỏ. Thằng Chó Liếm hiếp dâm xong đóng đinh vào vú đàn bà xâu dây thép qua treo lên xà nhà. Thằng Đức cụt trói nạn nhân của nó dùng thìa gang mồm người ta rồi xẻo từng miếng thịt, thản nhiên nhìn người ta chết. Con trai người này rình tóm được thằng Đức xin trước cái giò. Thằng Đức nhảy được xuống sông mất gần hết máu nhưng lại thoát. Vẫn không chừa, gã làm tiếp một vụ rồi vô nhà lao chờ ăn đạn. Bây giờ được ra hết… Suy cho cùng tụi ăn thịt người đó không có bảo mệnh trên trán cũng thoát được. Chắc thằng Sớm ra không phải nhờ cái dùi đỏ nung trên trán. Ra khỏi cổng nhà lao, bọn cùng buồng với thằng Sớm co giò phóng mất hút trên con đường nhỏ chạy qua cửa. Từ đây chạy lên miệt núi có những rừng thông ngàn tuổi xanh om chỉ độ vài tiếng. Thằng Sớm không nhảy lên núi. Nó bàng hoàng nhìn người ta khoác súng đi lại tay ai tay nấy đeo băng xanh đỏ. Cũng nhiều người mặc sơ mi trắng. Không thấy tụi Mỹ tụi quân cảnh. Không thấy xe jeep chở lính. Xe jeep cũng chạy nhưng trên đó chở những người áo đen đeo băng xanh đỏ. Những giường tủ, kệ sách vất ra ngáng đường đi. Trên đường có những đống lửa. Cổng vài biệt thự ở bên phía bắc sông có những người gác. Tấp nập người ra vô. Một gã thanh niên ngoắc thằng Sớm: "Em thiếu niên, lại đây để tập trung đào hầm chiến đấu. Bảo em đấy, có xẻng cuốc rồi, anh em tập trung đường này!".

Gã thanh niên tươi rói, khỏe như lực sĩ chật cứng trong chiếc áo đen. Thằng Sớm nhìn gã chằm chằm. Vẫn không hiểu.

- Sắp đánh tụi Mỹ phản công. Hiểu chưa? Thanh thiếu niên đi đào hào ngoài đường to. Đi!

Thằng Sớm lờ mờ thấy có gì ghê gớm. Khi bị giải thích nữa, nó lắc đầu: "Em đi tìm ba má. Em mới ở tù ra!".

- Tù ra hả? Hoan nghênh đồng chí. Thôi đi đi.

Một dãy băng ca trên phủ vải trắng máu loang lổ được chở bằng xe bò kéo đi từ bờ sông lại. Nó hỏi vì sao họ chết? Người đánh xe bảo nó: xê ra đi cậu ơi! Chết cả chùm. Chết dữ dằn lắm đừng nhìn! Thằng Sớm thót tim khi nghĩ tới cha mẹ. Nó co chân chạy qua những đống lửa dọc bờ sông.

Nó không ngờ không nghĩ rằng từ đây cho đến khi nó biến mất, không bao giờ nó được gặp mẹ nữa. Người đàn bà xứ Bắc quen âm thầm tính đếm từng cây củi từng hạt muối từ ngày ở vùng biển Hải Phòng. Áo tứ thân răng đen một dạo rồi áo dài cải cách, cạo răng theo cha nó lên tàu rời xứ, sinh hạ nó trên tàu như cảnh dân tị nạn ở mọi miền trái đất chạy binh đao. Không bao giờ thốt lên một tiếng rên. Mọi đau đớn cứ nuốt vào tấm thân nhỏ như cây sậy. Đàn bà xứ Bắc sinh ra đời để chịu khổ. Nó cũng không gặp lại cha nữa. Cô đơn lủi thủi ở bậc thềm với cái chân cụt trên gối là cha nó. Mơ tới biệt thự nhà vườn để an cảnh điền viên nhưng trái phá đã đưa cha về cuộc đời trần trụi. Nói với anh em nó trong cảnh ngặt nghèo vẫn một điều con ơi, hai điều thôi cố mà chịu các con ạ! Nhẹ nhàng tinh tế dù xuất thân dân thợ cũng là đàn ông xứ Bắc. Em gái nó tuổi mười ba đã nhu nhú ngực áo dài. Thường đi học về chui lủi trong bếp vì xã hội rối ren tôn vinh con gái nhà lành, họ mơ được con dâu xứ Bắc cưới về cho công tử Nam bộ. Em nó giữ gìn điều tiếng cho đến khi mang danh em gái thằng giết người cướp của. Cái nhà nó có hai hàng ô rô chạy vào sân trong vẫn còn nguyên mái. Nhưng trong nhà bị cướp bóc. Chăn gối ném giữa sân. Bể nước vỡ tung không còn một giọt. Trong cái tủ lạnh có từ thời Pháp vàng khè, nó tìm thấy hai quả trứng. Cái tủ lạnh to quá lại hỏng hệ thống điện nên chắc ai đó chưa kịp cướp đi. Mà cướp cái của to đùng làm gì khi cả thành phố đang như cơn đau bụng? Thằng Sớm ngồi trên bậc thềm tay chống má. Hàng xóm láng giềng chẳng có ai. Họ biến đi như tan vào tiếng súng gầm gào. Gia đình nó là tổ mối bị dội nước sôi, ai còn mất ra sao nó không biết được!

Thành phố miền Trung vào tay quân đội có lá cờ nửa đỏ nửa xanh. Thằng Sớm nhìn lá cờ cắm ngay trên nóc ngôi biệt thự gần nhà nó, của một tướng hai sao nó đã trông thấy ông mặc thường phục lái xe từ Sài Gòn ra thăm song thân. Một hôm cha nó bình luận: lên đến tướng thì tay đã nhúng bao nhiêu sự nhơ bẩn. Nhưng khi về nhà ông nào trông cũng sạch bong…

Thằng Sớm mon men ra phía bờ sông. Ở mấy gốc dừa người ta gom ghế đá lại đắp đất chung quanh thành ụ súng. Người ta đào hầm khắp vườn hoa. Những nòng súng im lìm kê lên các ụ đất. Có cả đàn bà. Nhiều đàn bà có súng. Cuộc chiến như lạ lẫm như không phải trên mặt đất khi những người như mẹ nó đeo súng lục trễ bên hông mặt lạnh tanh đi đi lại lại. Nó đứng gần một ụ súng. Một người đàn bà nhìn nó:

- Mi con cái nhà ai? Muốn ăn đạn hỉ? Trông cái mặt thiệt kỳ!

Giọng đàn bà Huế gay gắt cay nghiệt nhưng âm sắc không thay đổi. Nghe thì vô cùng ngọt. Ngọt cả khi người ta nghiến răng để nói. Thằng Sớm thấy lạnh xương. Nó bỏ mấy ụ súng chạy về phía chợ. Mẹ nó có sạp vải ở dãy hàng trong cùng. Nó đã quen với các dì các cô. Lúc này chợ cũng toàn ụ súng. Dọc lối đi là vải cháy, là đồ nhựa đồ nhôm bẹp rúm. Trận chiến đã diễn ra ở đây. Lúc này toàn người lạ. Chỗ nào cũng súng. Còn những người ruột thịt như chưa hề tồn tại ở thành phố này.

Nó ngồi bệt xuống vệ cỏ bên con sông hiền hòa chảy quá dịu êm qua thành phố sôi sục. Nó khóc như đứa trẻ lên ba. Từ bé đến giờ nó chưa bao giờ khóc như vậy. Nước mắt mờ mịt làm nó cảm thấy người nó mỏng đi. Nhỏ đi. Nó nhớ vòng tay mẹ. Dù đã giết một người đàn ông, nó cũng không ý thức nổi là mình làm việc gì. Nó cũng không nhìn thấy ông Hội chết ra sao. Đèn bật lên nó bỏ chạy. Nhưng người ta túm nó chật cứng. Từ đó đến giờ nó chỉ biết sàn xi măng lạnh ngắt trong nhà lao. Ai cũng bảo số nó sẽ hên khi bà mụ cho cái chấm trên trán. Nhưng rồi nó tù tội khi chưa biết trên đời có những gì là lạc thú. Nó bị giật khỏi cha mẹ - Nó bị đẩy vào vòng trong vòng ngoài những súng là súng.

Nó đi lang thang trong thành phố xin ăn chỗ này chỗ kia. Mấy ai buôn bán gì nữa. Những ụ chiến đấu bên bờ sông lúc nào cũng có bánh trái. Người ta cho thằng Sớm những túi bánh mà không hỏi vì sao nó cứ chường mặt ra trước bom đạn. Người ta đùa với nó xong quay đi quay lại đã thấy chết cả, ụ súng mấy người tiêu luôn trong cột khói. Bom Mỹ dội lên thành phố đền đài cổ kính như ai nhặt sỏi trong bị ném lên cái mô hình đồ chơi. Thành phố tí xíu xinh đẹp như cổ tích lúc này nhà cửa kêu răng rắc cháy lốp đốp. Sau mỗi trận bom là xe tăng nghiến bánh sắt dọc đường Lê Lợi, qua cầu, xe tăng từ ngoại ô tràn qua nghiến nát mấy ụ chiến đấu của những người đeo băng xanh đỏ. Như một cuốn phim câm. Thằng Sớm đờ đẫn nhìn cảnh quay trước mặt vì tai nó điếc đặc. Những người lính mũ sắt quần áo bó chặt dồn những thanh niên đeo băng xanh đỏ xuống bờ sông. Những bóng  người ngã xuống nằm úp sấp trên mặt cỏ hoặc lập lờ úp mặt trên dòng nước. Mới ít giờ trước thôi trong đám người chết có người còn cười đùa với nó.

Quân “Quốc gia” tái chiếm thành phố! Cái tai nó thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng hô tiếng thông báo. Nghe rồi lại chìm vào vô thanh. Sau này nó vẫn còn lạ vì sao đạn không dính vào nó.

Một ngày sau đó những chiếc CH 46 của quân Mỹ bắt đầu đổ quân. Bọn Mỹ ăn mặc y như lính Quốc gia lăm lăm M76 mũ sắt chốt cứng trên đầu, những đôi giầy lính chắc như đinh sắt nện rầm rập xuống hè đường. Những người hôm qua đeo băng xanh đỏ hôm nay bị dong đi hàng đoàn qua cầu. Phía trên đầu họ khói bom xăng đốt nhà bay mù mịt như khói địa ngục trong những phim ma quỉ nó hay xem ở mấy rạp thành phố... Thằng Sớm tới bờ sông. Đám đông người bu lại quanh một cái gì lạ lắm. Nó chen vào. Nó nhìn thấy hàng trăm xác chết cái còn nguyên cái bị nát đầu nát tay, tất cả xếp theo hình rẻ quạt. Mấy người phu chôn cất mang khẩu trang gần kín mặt đang  phân phát bao ni lông cho nhau. Một cái xác gói vào bao kéo khóa cái rẹc. Họ làm rất nhanh, thiện nghệ không sai sót. Nhiều xác cụt đầu. Thiếu tay hoặc chân, không nhìn rõ mặt ai. Máu me, bùn đất, ruồi nhặng làm tất cả biến dạng. Thằng Sớm đứng trong đám trẻ con lang thang. Tai nó vẫn điếc. Nó chỉ nhìn như xem phim câm. Cả một ngày người ta giải quyết hết đống xác. Xe cam nhông chất những túi ni lông lên thùng chở đi. Người ta quăng xác lên như những khúc gỗ. Không ai nói năng gì. Gần tối, thằng Sớm thấy mệt. Nó vẫn còn bánh mì nhưng nó không muốn ăn. Không thấy ai ăn uống khi thu dọn đống xác. Cả bờ sông mù mịt khói hương.

Thằng Sớm đi về cái nhà vườn giờ tanh bành vắng ngắt. Nó leo lên cái giường rộng mà nhiều hôm hai anh em nằm hai bên đùa nghịch kéo tay nhau qua người mẹ. Tay đứa nào cũng chạm vào vú mẹ. Những lúc ấy không biết đấy là hạnh phúc. Bây giờ nó leo lên giường nằm vào vị trí nó vẫn nằm. Kệ cho cái giường đầy đất và những gạch ngói từ đâu văng vào. Nó ngủ. Ngủ như chưa bao giờ biết ngủ là gì. Súng vẫn nổ khắp thành phố. Sớm không nghe gì, như vô can. Mấy ngày qua đi không biết. Nó chỉ lờ mờ tỉnh lại khi bất chợt nghe tiếng quát. Giấc ngủ đã phục hồi thính lực cho nó. Một gã đàn ông to lớn xông vào, lừ lừ nhìn mặt nó rồi cho nó cái tát. Mọi vật chao đi trước mắt thằng Sớm. Nó mếu xệch miệng: sao ông đánh tôi?

- Sao hả? Ông nội giỏi hỉ? Vô khám.

Nó tra tay vào khóa. Nó hiểu ngay là chính quyền “Quốc gia” đã được tái thiết lập. Cổng nhà lao lũ lượt những kẻ bị còng tay. Bắt lại cũng có. Tù mới cũng có. Những người tháng qua theo Việt cộng chống lại Quốc gia chưa kịp chạy lên rừng. Những người đem cơm ra đón bộ đội, những người để cho du kích xây ụ chiến đấu trong vườn. Đông như chợ ngày tết với những khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao. Cái chết lảng vảng trong ánh nhìn của họ. Trong sự bộn bề trả thù đó, người ta không quên bọn thằng Sớm, tù hình sự. Sớm lại trở về phòng giam cũ. Thằng cha coi khám trốn đi đâu không rõ, giờ ló cái đầu húi trụi vào cửa hất hàm hỏi thằng Sớm:

- Mạnh hỉ! Chơi đã chưa cha nội? Nói cho mà nghe hỉ. Quốc gia có luật quốc gia. Tù giết người như tụi mày đâu có để ở ngoài được! Làm sao lại thả hết tụi mày? Việt cộng thả tụi mày lầm rồi. Đối với tụi nó thằng nào vô tù đều là Việt cộng hết. Tụi nó không biết là song song với tụi nó còn có tụi mày!

Gã gác ngục nói một thôi một hồi. Như hả hê. Như lý giải cái gì đang khiến gã uất ức.

Vài hôm sau, khám của thằng Sớm lại đủ mặt. Tư Rỗ, Bảy Quạu, Chó liếm, Đức cụt... Có thằng chạy tít lên Bạch Mã, trốn vô khu nghỉ mát. Vậy mà không thoát.

Một buổi sớm sự yên ắng trườn trong màn sương bằng bạc dâng lên từ mặt sông bao trùm toàn thành phố, thằng Sớm ngồi tựa chân tường. Nước mắt nó tuôn ra khốn khổ. Ba má ơi!Con em gái của anh ơi! Nó cắn chặt răng vào ve áo tù, cố không cho đứa nào nghe. Bọn ở tù cùng nó không có nước mắt. Tụi nó không quan niệm trên đời còn có một thứ gọi là nước mắt. Thấy thằng Sớm khóc thể nào tụi nó cũng ê hê như nhìn đứa làm hề. Ba ơi, má ơi! Mọi người đi đâu hết rồi? Nó cắn răng khóc âm thầm cho đến khi cửa phòng khám như bị sập gẫy. Thằng gác đầu trọc đứng lù lù, phía sau có hai thằng lính: mấy cha nội thu xếp đi! Đi đâu hỏi mần chi. Ra đảo! - Hai từ "ra đảo" vang lên. Thằng Sớm như khuỵu chân xuống. Xưa nay người ta đồn đại đảo là địa ngục. Lênh đênh ra đến nơi có khi chỉ còn nắm xương. Xa như vậy, giữa biển khơi như vậy làm sao còn nhìn mặt ba má! Thằng Sớm không còn giữ gì nữa. Nó tru lên khi người ta vứt nó lên xe hòm. Nó không nhìn ra ngoài nhưng khi xe đi về phía biển, nó nghe ngoài kia tiếng nước vỗ nhẹ của đầm phá và mùi mặn mòi của nước lợ nuôi tôm. Nó biết là càng xa cha mẹ. Nỗi tuyệt vọng làm cái chấm trên trán nó gần như tím đỏ. Thằng Tư Rỗ chỉ trán thằng Sớm cười sằng sặc. Mặt mày trông như cái đít khỉ!

IV

Mở mắt ra là bị lùa lên cầu tàu. Cũng những dãy tù nhưng bọn thằng Sớm không bị xích tay chân, không bị dùi cui đón đầu. Những người tù đi giữa xiềng xích và mưa dùi cui trước đó là tù chính trị. Người ta đón họ với bạo lực như đã từng nếm bạo lực của họ. Bọn thằng Sớm phải khuân hàng trên tàu xuống bến. Công việc này không nhẹ nhưng không ăn dùi cui. Coi vậy người ta cũng có nới lỏng với tù hình sự. Nhưng khi về khám, thằng Sớm nghe rằng tù trên đảo bây giờ dày đặc. Tù hình sự không mấy ai nhòm ngó đến, khi nào khám chật người ta lọc bớt. Đi lên rừng lấy gỗ sẩy chân xuống suối xuống biển cũng xong. Hoặc nhốt chung với đám hình sự mới ra đang sặc mùi máu. Khối thằng chết mà không biết vì sao!

Thằng Sớm đã già dặn. Nó hiểu là muốn tồn tại ở cái đất mạng người như muỗi này, nó cần phải khôn ngoan lọc lõi. Nó cho thằng cai ngục cái đồng hồ của cha có gắn kim vàng nó giữ được một cách thần kỳ qua bao nhiêu bắt bớ. Nó khâu vào túi quần đùi, không lên dây để không ai nghe tiếng tích tắc. Thằng gác ngục mòn đời trên đảo mòn đời nhận hối lộ đã kinh ngạc khi cầm đồng hồ từ tay thằng nhỏ. Đẹp quá cha nội! Thó ở đâu mày? Của cha hở. Nói vậy biết vậy. Nhưng đẹp quá xá. Thôi, coi như xong!

Xong ở đây có nghĩa là thằng Sớm được ra khỏi khám tù. Nó nhận dụng cụ đi dọn hố tiêu hố tiểu. Đi quét phòng lấy cung tù chính trị. Chỗ này khủng khiếp nhất. Bị cực hình, người tù nôn mửa ỉa đái lung tung. Máu đọng từng vũng trên nền xi măng. Thằng Sớm cúi người dọn dẹp lòng hồ nghi sao cũng là người với nhau người nọ lại ăn thịt người kia? Vì sao lại có thể kiên gan đến như thế để người ta rút của mình hàng lít máu hàng ký thịt? Đau đớn thế làm sao chịu cho thấu? Nó hỏi ông già tên Tiêu cùng khám. Ông già râu dài mắc tội tưới xăng đốt cả vợ con đã ở đây hơn mười năm. Ông trầm ngâm như hiền triết: “Chả sao cả. Người Việt ghét nhau. Vì thế tụi tù chính trị nó sợ rơi vào tay cùng giống máu đỏ da vàng. Tụi Mỹ không trực tiếp nhúng tay vào việc gì với người mình. Nó đứng ngoài như vô can. Vì thế nó hiểm. Nó cho bom bỏ, có chết cũng là vì bom. Nó ít trực tiếp đánh người. Nó chỉ cho tụi đánh người tiền. Thế là uýnh nhau tới số. Tụi Mỹ được lợi mà không phải bận lòng...”. Thằng Sớm nghe ông già nói một thôi mà không hiểu ra sao. Nó bơ vơ hơn. Có hôm nó khóc khi dọn phòng lấy cung nhặt được một mảng da đầu đầy tóc. Cái đau của ai đó cũng xuyên qua được con tim thằng bé đang chai lì dần vì máu. Nó cần mẫn làm tất cả mọi việc cho đến hôm gã nhận đồng hồ của nó bảo: cho mầy ra ngoài hít thở không khí. Tao thấy mày là đứa không xạo. Tụi xạo dễ đóng bè vượt  ngục. Mầy không phải giống đó.

Thằng Sớm được sung vào đội đi trồng rau. Đội quân này toàn là án giết người đứa nào cũng khỏe cũng lì. Từng nhóm nhỏ cuốc đất dọc biển, những lô đất thịt pha cát, trồng rau củ cung cấp cho khu gia đình cai tù. Thằng Sớm được ở ngoài cả ngày, tối về khám nhưng không bị canh gác ngặt nghèo. Nó đi gánh nước tưới lên những luống cà chua rau cải mới trồng. Nó nhặt sâu nhặt cỏ. Nó hi vọng vào một ngày được bay ra khỏi hòn đảo này, vì trời đất thật bao la, gió cũng thật mát, vì nó chưa đến tuổi hai mươi, đã thấy quần lót chật chội mỗi khi nhìn đàn bà. Nó không muốn chết mà không ai nhìn thấy.

Trong khi gánh nước tưới rau, thằng Sớm hay đi qua một dãy nhà làm giống như nhà chăn nuôi. Những khung sắt hình chữ nhật được ken bằng tôn dày làm Sớm tò mò. Cái gì trong đó? Nó hỏi ông già Tiêu. Ông già nhìn nó trừng trừng: “Đừng có léng béng tới chỗ đó. Người ta giam tù chính trị nguy hiểm. Nhưng che mắt các ủy hội quốc tế, người ta ngụy trang chung quanh là vườn trồng rau xanh um, thanh bình mà. Nhưng phía bên kia dãy chuồng sắt là vách đá cheo leo, dưới là vực biển sóng gào như điên”. Ông già nói rồi kéo thằng Sớm lại gần cho lũ tù đang ngủ khỏi nghe. Ông thì thào: “Qua ở đây lâu rồi. Thỉnh thoảng thấy tiếng mở cửa sắt, rồi có tù bị giải ra bờ vực. Véo! Mất tiêu. Sóng nó đớp luôn nếu không thì va đầu vào đá nhọn. Rồi cá mập nó dọn. Không ai biết đâu, chỉ có tù với nhau. Nhà báo không được vô. Ủy hội quốc tế cũng không hòng bén mảng tới. Hiểm vậy đó!”.

Một buổi trưa, thằng Sớm nghe ai gọi trúng tên nó, phía trong hàng rào thép ken dày để dây leo lên rậm rịt. Nó đang đi về phía bờ biển. Tiếng gọi yếu ớt, như sợ hãi, như cầu cứu. Thằng Sớm không đứng lại. Chung quanh là đời sống tù ngục. Là cạm bẫy. Nó cắm đầu đi nhưng lòng băn khoăn. Ai có thể biết tên nó khi ở đây người ta gọi nhau bằng số tù. Tên nó không còn tồn tại. Nó nhớ nó chỉ là thằng “không tám” - gọi số đuôi của 7608. Từng ấy thằng trong mấy cái khám lợp mái tôn sàn xi măng có nghĩa gì với biển khơi. Ai có thể gọi đúng tên nó?

Mấy ngày sau nó không dám đi qua khu trại. Nhưng trí tò mò thôi thúc nó. Nó gánh hai thùng nước tiểu ra khu trồng dưa leo. Nó đi lối mòn qua nhà lợp tôn. Sớm...! Tiếng gọi như tuyệt vọng của một người không còn hơi sức. Thằng lính gác đội mũ sắt đứng trong cái chòi gần bờ biển đang quay mặt ra phía ngoài. Thằng Sớm đi như chạy. Tưới xong hai thùng nước tiểu nó quay lại, lom khom đi dọc hàng rào: ai kêu tui?

Nó nói đặc giọng Huế để người tù còn nhận ra tiếng nói của vùng đất. Người tù giọng khàn đặc run rẩy: “Lại đây con! Ta là chú của mày đây!”.

Thằng Sớm hé mắt nhìn qua tấm lưới mắt cáo sát chân rào. Tấm lưới đan dày, chắc đã được người tù bẻ cong khoét một chỗ có thể thò bàn tay ra. Sớm nhìn thấy trong cái hõm nhỏ trên nền cát nóng một thân hình khẳng khiu. Một bộ xương đen sì, hai hốc mắt sâu từ đấy phóng tia nhìn nóng bỏng vào thằng Sớm. Bộ xương đụng đậy. Bàn tay đưa ra nhưng thằng Sớm không cầm. Sớm lùi lại, nó hiểu ngay là người tù đói. Trong hõm đất giam người có một cái bát nhựa đã khô queo. Không thức ăn nước uống. Thằng Sớm lom khom ra khỏi hàng rào. Nó về lán để dụng cụ làm vườn. Nó có chiếc bánh mỳ và chai nước lã. Nó cắp hai thứ vào nách, đi rồi trườn như con mèo vào gần cái cửa của người tù. Người tù đón lấy thức ăn, không ngấu nghiến mà ăn uống từ tốn nhỏ nhẹ. Như không phải bị đói lâu ngày. Chỉ vì quá kiệt sức. Cơ thể không tiếp nhận ngay năng lượng. Ăn nửa cái bánh mỳ, anh ta nằm còng queo như chết trên nền cát. Thằng Sớm không chờ người tù tỉnh lại. Nó bỏ đi.

Trưa hôm sau thằng Sớm quay lại. Người tù đón từ tay nó chiếc bánh mỳ mới, anh ta đã tỉnh táo để nhận ra rằng thằng bé đẻ trên tàu di cư năm nào đã lớn nhường này. Không thể nhầm được. Độc nhất vô nhị là cái chấm đỏ sậm giữa hai lông mày, giống như người Ấn Độ hay trang trí cái trán của họ, nhưng cái chấm này chệch lên trên và hoàn toàn là da người, không phải thứ màu vẽ vào. Người tù ngắm thằng bé rồi thốt lên: “Không ngờ gặp cháu. Chú tên là Ngọc!”.

Một cái tên phảng phất trong tâm trí thằng Sớm. Thỉnh thoảng cha mẹ nó nhắc cái ngày trên tàu. Có một chú tên là Ngọc giúp mẹ nó xách đồ đạc. Một người đàn bà thanh lịch đặt tên cho nó. Nhắc đến điều đó trong những năm còn ở Sài Gòn, thời giờ còn thong thả. Khi về Huế không ai nhắc tên chú Ngọc nữa.

- Tui nghe tên chú rồi! Chú cũng án giết người hả?

- Sau này cháu sẽ biết! Chú uýnh tụi Mỹ tụi tay sai. Chú bị bắt vô hai năm thì ra đây. Năm năm ở đây rồi. Chú ngồi chuồng cọp gần chết thì có ai đó đến thanh sát chuồng cọp. Tụi nó chuyển tù ra những nơi hẻo lánh thế này. Bỏ đói lâu rồi. Chắc tụi nó để tù đói chết thì thảy xuống biển. Bọn chú không còn sức đi nổi mấy bước chân mà bên này là biển nên bọn nó cũng không gác ngặt nghèo. Để chết tự nhiên mà. Thôi, cứ biết đây là chú của cháu. Giúp chú. Đừng để chú chết!

- Vâng. Tui có bánh mỳ. Tui sẽ mang cho chú thôi, không đủ cho người khác đâu. Tui chia cho chú phần của tui.

- Chú chỉ cần hai ngày một mẩu nhỏ thôi. Cháu đừng nhịn đói.

- Chú yên tâm! Tụi tui còn bớt được rau củ đem đi đổi bánh mì... Chú là chú Ngọc quen cha mẹ tui. Chú nói thế thì tui tin như thế. Tui tin vì ba má tui đi lạc mất rồi. Không biết đi đâu. Tui thèm gia đình lắm chú ơi!

- Thôi đừng khóc. Chiến tranh loạn lạc đều thế cả. Cho đến hôm nay còn sống là tốt rồi.

Những ngày sau đó thằng Sớm đều giấu bánh mì vào nách gánh nước tiểu đi tưới rau, qua chỗ người tù nó chạy vào nhét cái bánh vào khuôn cửa, nhét thêm chai nước rồi chạy vù ra. Ngày lại ngày trôi qua. Nhiều người tù đã chết đói. Bọn coi tù lạ lùng nhìn người tù tên Ngọc: sao mày không ngoẻo? Người tù tên Ngọc im lặng. Anh ta đã qua tất cả các trung tâm thẩm vấn. Đã nếm đủ mùi roi da roi sắt nước xà phòng. Chuyện này đừng mong anh ta nói. Thằng Sớm biết chuyện xảy ra. Nó lảng đi chỗ khác. Rồi tìm cách xâu cái bánh mì vào que dài đứng từ bên hàng rào luồn qua khe cửa phía dưới chấn song sắt. Cứ như vậy được ít lâu đến khi người tù bị chuyển trở lại chuồng cọp ở trung tâm đảo, nó không biết làm sao liên lạc. Nó sợ bị tước mất quyền tự do bay nhảy. Nó cũng sợ liên hệ với tù chính trị, bị người ta lôi trở lại khám còng chân xích tay. Nó dần quên hẳn người tù nó đã nhường bánh mỳ nước lã, đã không tính đến nguy hiểm để nhìn thấy người tù sống sót. Nó không biết từ lâu nó đã được cứu mạng. Bao nhiêu lần nghe tiếng động ở hàng rào, thằng lính gác như bị mù, quay nhìn mà không thấy gì. Như bị che mắt, như bị đánh lạc hướng, thằng Sớm đưa bánh mì mà không bị tên lính phát hiện. Càng ngày cái chấm trên trán thằng Sớm càng như to ra, thẫm thêm.

Hai năm nữa trôi qua trên đảo, đời thằng Sớm thêm mù mịt. Nhưng người ta đã quen mặt nó, biết tính nó không hay quấy rối đóng bè đóng mảng giết cai ngục nên không ai xích tay nó nữa. Nó hết đi trồng rau nuôi gà lại sang đội làm đường xuyên đảo. Nó dần lớn lên, hờ hững với chung quanh, con tim nó giá lạnh vì tù ngục. Nó đang không chờ đợi gì. Cha mẹ mất tích không còn ai để lo cho nó. Đời nó như ném vào hư không. Dù nó cao trên mét bẩy, tay chân săn chắc do lao động, da dẻ đẹp như tượng, cũng chẳng ai đoái hoài đến nó giữa bạt ngàn những kẻ tù tội cắm đầu cuốc đất dưới trời nắng chang chang.

Khi thằng Sớm bước sang tuổi thanh niên, cuộc đời nó đang lầm lụi bỗng như được giật khỏi dây chuyền, đứt tung ra. Nó chỉ biết đang buổi làm đường, có người vác lá cờ nửa đỏ nửa xanh nó đã thấy năm nào ở Huế chạy từ đầu đường đến. Đám phu phen dừng cuốc rồi tất cả ào lên. Chiến tranh kết thúc hồi trưa rồi. Ông Minh đã đầu hàng. Nó ôm chầm lấy người thanh niên đang phất cờ, bất giác kêu lên: ba ơi!

Không thể là ba nó. Gã thanh niên trẻ tuổi nhìn nó cười mắt nhòe nhoẹt nước. Nó như tất cả mọi người lúc đó. Nhảy như trẻ con. Khóc như trẻ con. Nó ào vào dòng người đi thu hồi vũ khí bọn gác ngục, đi mở cửa những trại tù. Mở tất cả các cánh cửa. Không ai trong giờ phút ấy nghĩ đến bọn tù hình sự, ở chính thể nào bọn giết người máu lạnh đó cũng lại hoành hành như lũ quỉ dữ. Nhưng vào cái ngày đầy nắng rực rỡ màu cờ đó người ta kết tay nhau, bất kể anh đã làm gì để vào tù.

Trên chuyến tàu vào đất liền, giữa những áo đen khăn rằn cờ đỏ, thằng Sớm được nghe là miền Nam hoàn toàn giải phóng lúc này ai được về nhà người ấy. Nhưng rồi lại nghe là tù thì phải đến trại gì đó để cách mạng xem xét nhiều trường hợp. Nó hi vọng về thành phố miền Trung tìm lại cha mẹ. Ai cũng hi vọng. Trên chuyến tàu đưa những người tù vào đất liền, nó chợt trông thấy Bảy Quạu. Thằng đã chém bảy mạng người bị Quốc gia kết án chung thân, đã từng ở một lao hình sự với Sớm. Lúc này Bảy Quạu mặc bà ba đen, đội mũ mềm màu cỏ, đeo băng nửa xanh nửa đỏ bên tay trái. Trông gã rất oách. Hồi còn bị tù cùng xà lim, Sớm nghe gã cai ngục đầu trọc như thần chết toàn gọi Bảy Quạu là “ông tổ” một cách kính nể. Trong lần giết bảy nhân viên nhà băng, số tiền gã nẫng đi đủ sức mua hai cái phi thuyền. Bị đày ra đảo từng ấy năm, gã có vẻ hách hơn, to con hơn. Gã nhìn thằng Sớm một thoáng rồi đưa ngón tay trỏ lên môi, giữa đông người thằng Sớm cũng nhận ra ám hiệu: im mồm! Gì chứ im mồm thì Sớm biết từ trong tù. Tên gã là gì không ai biết. Suốt ngày gã cáu gắt phá phách quạu cọ. Gã có thành tích giết một lúc bảy mạng. Gã cai ngục, một buổi sáng vào gọi: “Ông tổ Bảy Quạu ra có sếp ngục gọi”.

Vậy là gã có tên. Lúc này người ta gọi nhau đồng chí, không hiểu tên gã là đồng chí gì?

Những chuyến tàu cập bến. Bao nhiêu nước mắt. Sớm khóc khi trông thấy đất liền. Nhưng nước mắt nó khô dần khi trong đám đông không có một người để nó gọi là mẹ. Nó được phân vào khu trại theo tên khu trại nó thụ án ngoài đảo. Bảy Quạu tìm đến đúng khu trại của Sớm. Ngoắc tay gọi Sớm. Tay gã nặng trịch đặt lên vai thằng thanh niên cao lớn. Bàn tay tàn bạo. Sớm định mở mồm “anh Bảy” thì Bảy Quạu chặn trước:

- Nghe đây. Mày không biết tao tao không biết mày. Tao không can thiệp vô đời mày. Mày không xía vô việc của tao. Nghe chưa?

- Rồi!

Bảy Quạu biến ra bóng đêm. Từ đó gã tác quái ở đâu Sớm không biết. Cũng không gặp lại. Gã đã đeo băng xanh đỏ. Đã là đồng chí rồi mà.

V

Sớm lên chuyến xe đò đi về miền Trung. Nó đeo phù hiệu của trại tiếp quản tù nhân lên áo ngực. Nhiều người quay lại nhìn nó.

Con phố gia đình Sớm sinh sống vẫn như xưa. Người Bắc mặc dân sự kéo vô như nước. Những người lính thì trở ra ai cũng có con búp bê nhựa rẻ tiền đeo bên cạnh ba lô. Những người lính mặc quân phục trông háo hức lắm. Người ta nghỉ lại trên tăng võng mắc dọc bờ sông. Sáng ra ai cũng chạy tới chợ mua áo len, mua túi ni lông, mua rổ nhựa... áo len màu xanh. Nhiều nhà dệt áo len màu xanh bán cho bộ đội miền Bắc. Còn những người Bắc đi vô có vẻ thẳng tiến Sài Gòn. Không mấy ai ngó ngang ngó ngửa. Sau này Sớm mới biết những người đó có thế lực. Họ ít biết đánh nhau là gì. Nhưng họ là những người đầu tiên đi tiếp quản. Mọi cuộc chiến tranh đều có những người như vậy. Những kẻ dọn dẹp.

Thằng Sớm hồi hộp khi đi về cái nhà vườn nhỏ xíu. Ước gì ba má rồi con em gái đã tìm về. Nhà nó thấy có treo cờ. Một dãy bàn ghế trông như công sở. Hai người thanh niên đeo băng đỏ đứng bên ngoài. Nhà nó suốt bao nhiêu năm qua đã được niêm phong vì chủ vắng giờ đây cách mạng về được trưng dụng làm trụ sở. Một người già trông thấy thằng Sớm nhận ra nó ngay nhờ cái dấu như con mắt thứ ba trên trán nó, đang vội đi đã dừng lại nói với nó như vậy. Còn ba má nó từ hồi Mậu Thân tới giờ vẫn chưa về. Không. Không ai biết họ ở đâu.

Một thanh niên đeo băng đỏ tiến lại phía thằng thanh niên cao lớn có dấu to trên trán: đồng chí hỏi ai?

- Tui có giấy ở tù ra đây. Đây là nhà tui...

Gã thanh niên xem giấy. Nhìn thằng Sớm rồi lấy honđa phóng đi. Độ năm phút sau, gã về với một người đàn ông luống tuổi quân hàm hai sao một vạch, mũ cối, xắc cốt bên hông. Ông ta nhìn Sớm từ đầu tới chân, lấy ngón tay khuyên cái vòng trên trán nó rồi tươi cười như bắt được vàng.

- Tôi là bạn chiến đấu của đồng chí Ngọc. Tôi nghe kể nhiều về đồng chí. Đồng chí thật là một người kiên trung.

- Tui có làm chi mô! - Sớm ngạc nhiên không biết là mình đang nói đặc giọng miền Trung.

- Chúng tôi có cơ sở để kết luận. Đồng chí là một người kiên trung.

Cụm từ “một người kiên trung” được nhắc đi nhắc lại trong lời thoại giữa đám người mới tới, còn thằng Sớm thì ra sức thanh minh: “Tui tù hình sự mà!”. Một người đàn ông trông có vẻ làm lớn được mọi người nể trọng chạy tới nhìn chằm chằm rồi ôm chặt vai Sớm: “Giỏi lắm con. Cách mạng thành công nhờ những người như con!”.

Sớm phân vân. Buổi trưa nó ngồi gục đầu ở bàn uống nước trong công sở vốn là nhà nó. Nó lơ mơ ngủ. Một người đàn bà đẹp vừa giống mẹ nó vừa không giống nâng đầu nó, ngón tay trỏ mát lạnh xoa vào cái dấu trên trán nó. Giọng đàn bà ở đâu đó nghe thật nhẹ, như gió như nước: “Đang lúc hỗn mang thật giả lẫn lộn, người ta cho thì con nhận. Đừng khăng khăng từ chối. Lộc vào tay con còn hơn vào tay những kẻ bất nhân khác!”. Sớm choàng tỉnh. Chung quanh nó là những người đàn ông trong công sở đang kẻ ăn, kẻ tạm ngả lưng trên bàn. Không có đàn bà. Giấc mơ ám ảnh và khích lệ thằng Sớm. Nó là đứa trẻ mà số phận được bảo hiểm. Thời cơ của nó đã đến... Thằng Sớm chạy xuống bếp tìm cái gương của mẹ để trong ngăn kéo bàn bếp. Bao nhiêu năm cái gương vẫn còn. Luật Quốc gia khá nghiêm. Nhà vắng chủ không ai được xâm phạm. Lại có cả thứ luật khác của tâm linh. Nhiều người cho rằng chủ nhân của ngôi nhà đã chết ở đâu đó, không nên dùng đồ người chết. Ở xứ này, người ta sợ và coi trọng người chết nên nhà nó còn nguyên... Sớm dạo quanh toàn bộ căn bếp, rồi lại cửa sổ soi vào chiếc gương của mẹ, nhìn con mắt trên trán, nó thấy cái dấu son đỏ như một giọt máu tươi. Chưa bao giờ đỏ như vậy. Thằng Sớm như có thêm sức mạnh.

Nó trở ra phòng làm việc. Một người đàn ông khá dị tướng cắp cặp đen, mặc áo sơ mi nhàu nát nhìn Sớm như nhìn con mồi. Sớm cũng đã biết nhiều mẫu người, nhưng cái vẻ ngoài luộm thuộm và đôi mắt sáng hừng hực như người bị sốt ở người đàn ông làm Sớm không dễ nhận ra nghề nghiệp. Người đàn ông bắt tay Sớm. Tay ông ta xương xẩu, nóng như hòn than. Bàn tay của những người nhuốm bệnh vĩ cuồng. Ở ngoài đảo Sớm ở chung với một kép cải lương. Ông này giết vợ vì cho rằng mình bị lu mờ nếu cứ gắn cả đời với con đàn bà đầu đất sét. Sớm rất sợ bàn tay gã bạn tù. Không ngờ gặp lại bàn tay khô nóng vì tham vọng ở người đàn ông dị tướng.

- Chú hỏi tui?

Gã dị tướng bắt tay Sớm, ôm vai Sớm, xoay trước xoay sau, mắt gã bừng bừng đỏ rực:

- Đồng chí thực sự là hình mẫu lý tưởng của một thanh niên cách mạng. Đẹp trai quá. Trong sáng kiên định quá.

Sớm định chối. Nhưng nghĩ tới giấc mơ có giọng đàn bà nhẹ như gió, Sớm im lặng mỉm cười. Người ta bảo thế thì có khi đúng là như thế. Sớm đã ở nhà tù Mỹ ngụy hàng chục năm trời. Gian lao không mỏng.

Người đàn ông luộm thuộm nói rằng ông ta là nhà soạn vở cho đoàn ca kịch thành phố. Giải phóng bộn việc, ông ta ngồi đây giúp quân quản sắp xếp giấy tờ, ghi tên quan lính Quốc gia tới trình diện, chia nhà cho các cơ quan trên rừng về... Đủ việc. Nhưng việc chính của ông là sáng tác. Ông sáng tác không ngừng, từ khi ở trên rừng về ông đã có ba vở lớn đang dựng. Hình mẫu của ông là các chiến sĩ có cuộc đời gay cấn, vững vàng trước uy hiếp của kẻ thù. Ông vừa tạo ra một số phận sĩ quan "Quốc gia", đi lính đánh lại nhân dân, vợ ở nhà theo Mỹ. Ông ta chạy lên rừng thì bị dân nghi ngờ. Chạy về với “Quốc gia” thì Quốc gia dọa giết. Cuối cùng ông ta gặp được một chiến sĩ Việt cộng trung kiên. Được giác ngộ. Nhìn chung, nhà soạn kịch nhồi cho một con người hàng đống tình huống. Nhồi bằng thích thì thôi. Vũ khí của ngòi bút mà cháu.

- Vậy chú cần gì tui? - Thằng Sớm ngờ vực nhìn con người luộm thuộm nghệ sĩ, chỉ cần thích là ông ta bất chấp mọi thứ, nghĩ ra bất kể trò gì. Người đàn ông vỗ vai Sớm thân thiện:

- Cháu là hình mẫu. Chuyện về đời cháu hết sẩy. Cháu sẽ là điển hình cách mạng của thành phố này.

Chia tay nhà soạn kịch, Sớm bị ấn vào tay những vòng hào quang mới. Sớm được giao súng, giao băng đỏ. Sớm đi với những người lính giải phóng đến trường học. Những đứa trẻ hôm qua còn được học về những ông vua của một thời đại đầy mình yêu nước, quyết tử với kẻ thù để giữ đất đai, hôm nay chỉ tóm gọn trong một câu: “Vua quan nhà đó bán nước”. Trẻ em ngơ ngác. Nhưng lại nhiều nỗi lo vì bắt đầu làm quen với khí hậu mới. Gió lùa vào mọi cửa sổ. Ai vững thì trụ lại nên những buổi học ở trường mới nhiều háo hức, cũng nhiều ngỡ ngàng. Chúng giương mắt nhìn những bộ quân phục lạ. Sớm ở trong đám thanh niên đi tiếp quản nhiều cơ sở. Chợ búa tấp nập. Hàng vải hàng dép bán veo veo. Hôm qua người ta cần dép hôm nay cũng cần dép. Trong khi người toán trưởng đứng trước đám đông chào mừng, giải thích chính sách, động viên học sinh dọn thành phố, kêu gọi chị em tiểu thương giữ vệ sinh chợ búa, thằng Sớm cố tình đứng tách ra, nhô lên phía trước một chút. Sớm đội mũ lưỡi trai, đeo băng đỏ, cái dấu bà mụ đỏ sẫm trên trán, càng bắt mắt vì nó cao lớn đẹp mã. Nó nghe trong đám đông bọn con gái trầm trồ, tiếng xì xào lẫn tiếng cười khúc khích, như cố tình cho nó nghe: “Ui cha, giải phóng đẹp quá ha!”. Mọi chân lông trên thân thể Sớm đụng đậy. Nó bắt đầu phổng mũi đón những điều ngọt ngào như xirô. Mỗi ngày một tí, Sớm đã cảm thấy mình là cái gì đó phi thường.

Việc gia đình Sớm biến mất dạo thành phố đánh nhau cũng tạo cho “tiểu sử” nhà cách mạng trẻ một nét nhấn, một hố sâu buồn thảm. Đôi khi nó thức dậy ban đêm, nghe trong gió tiếng ai như cha nó. Sớm bần thần một lúc rồi nằm xuống. Giấc ngủ mờ mịt cùng với giọng người đàn bà nhẹ như gió thoảng: “Đừng chờ cha mẹ nữa. Họ đã thế mạng cho con rồi!”. Tỉnh dậy, Sớm nghĩ chỉ là giấc mơ. Những người quen biết gia đình Sớm năm ấy cũng chịu nhiều tan tác. Có người quay lại, người chạy lên rừng, người vô tù rồi chết trong tù của “quốc gia”, người thì nằm dưới hố bom Mỹ, người nằm dưới hố chôn chung hàng trăm xác do bị thủ tiêu, bị bắn trên đường, do người bên này bắn người bên kia. Sớm không yên cho đến khi vào một đêm nước sông lên ngập bàn thờ nhiều nhà. Sớm quay về nhà bằng xuồng máy, bị cơn sóng đập đầu vào cây cột ngất đi. Có bàn tay ai đó nhấn vào con dấu bà mụ trên trán nó, rồi giọng nói nhẹ nhàng của người đàn bà vẫn đến các giấc mơ: “Đã bảo rồi mà. Cha mẹ con đã thế mạng cho con!” - Từ đó Sớm yên tâm hơn. Không còn gốc rễ, Sớm như cái cành ngang bướng mọc chồi trên bức tường đá.

Giờ thì Sớm yên vị trong ngành lương thực thành phố. Cái ngành nhiều lo toan, người thì dạ dày ngày càng lép, kẻ thì bụng phình to. Sớm nắm việc nhận lương thực từ trung ương chi viện cho thành phố. Phân phối. Điều hành. Yêu ghét ai qua cái chữ ký loằng ngoằng như giun đũa cả búi. Người ta gọi nó là ông. Có những người râu bạc xưng em xưng con với nó. Như chuyện bình thường. Nó không đập bàn quát tháo ai. Nhưng nó lẳng lặng nhận danh hiệu hoàng đế giữa thời buổi dân thành phố quen ăn chơi trước kia giờ đây trệu trạo nhai hạt bo bo - Điện đóm bữa đực bữa cái. Nó cắt giảm lương thực bằng cách đưa người lên khai hoang trên núi. Hàng trăm con người mang mặc cảm không đóng góp gì cho công cuộc chung, xách khăn gói trống dong cờ mở tiễn đưa rồi im lìm giữa núi non. Ai ngoi lên thì sống, ai gục xuống thì vào nghĩa địa mới lập của khu kinh tế mới. Những người ở Bắc vô lập nghiệp, người có công lớn với công cuộc giải phóng cũng mò mẫm nhai sắn trừ bữa dưới ánh đèn dầu. Sớm ra lời kêu gọi trồng cây lương thực. Bất kể chỗ nào có đất thì trồng cây. Uy tín của ông trùm lương thực càng tăng cao. Sớm bảo phá bớt chùa chiền di tích đi mà trồng sắn. Người ta nghe Sớm, phá chùa, phá nhà bình thơ của các ông tiến sĩ thế kỷ trước. Nghĩ cho cùng những cái đó để làm gì... Sớm chả cần đến chữ nghĩa nhiều nhặn. Sớm có vận may, thế là đủ. Dân gian bắt đầu truyền miệng câu vè về việc phá nhà bình thơ của các tiến sĩ. Sớm mặc kệ. Người có bản lĩnh cao là người khinh béng mọi lời đồn đại. Sớm nâng cốc với vị sếp nhất của thành phố, cả hai ôm vai nhau đồng loạt cho qua mọi sự rầy rà. Món ăn thằng Sớm ưa chuộng bây giờ là món đậu phụ. Nó hợp với những cái bụng cả ngày trương phềnh lên vì rượu ngon vì tiệc tùng hảo hạng, những ngày của nó trôi qua như ngày của một ông vua trong xứ sở toàn người đói. Những cái bụng sôi réo lép kẹp sau chiến tranh một tay nó bóp nặn.

Hai năm trôi qua, thành phố đã vãn người cũ đầy người mới. Ai đi hôm trước hôm sau có người lấy chỗ. Hậu phương bao la đang thiếu đất thừa người. Thằng Sớm ký những công văn nhập lương thực, ký những công văn khác tẩy số lương thực khỏi giấy tờ. Sớm dồn vàng vào những va li. Rồi trong những chuyến công du khu vực, nó đã đón trước lối chơi của những kẻ đang có quyền sinh sát, đổi vàng ra đá quí, ra bạch kim, ra ngoại tệ. Nó phòng khi phải đi đâu đó. Càng ngày nó càng săm soi cái dấu son bà mụ tặng trên trán. Cái dấu son đang kỳ rực rỡ.

Hai rồi ba năm trôi qua. Vào mùa xuân. Dù sao mùa xuân cũng cứ đến bất chấp thành phố xơ xác vì đứt bữa vì thất nghiệp. Người ta liều mạng vượt biên. Bao nhiêu đời, người ở đất này lên rừng cũng mon men tới chân núi. Ra biển cũng loanh quanh thuyền nhỏ bắt cá bé. Biển hơi động là tót vào bờ run rẩy. Vậy mà bây giờ đại dương đen kịt thuyền mong manh vẫn dắt díu nhau ra khơi bất chấp sóng to cướp biển. Thế giới tự do ở ngoài kia xúc xiểm, vẫy gọi. Người ta liều mình. Ra đi có chết cũng một nhẽ. Thành phố cõng lên vai bao nhiêu hoạn nạn, rồi tư bản cải tạo, rồi trí thức với kinh tế mới: “Vẫn hơn chán vạn nhiều xứ khác. Con gái Paris thời thế chiến thứ hai người nào thiếu tiền ngủ với lính Đức còn bị gọt đầu nhổ nước bọt. Hay xứ Khơme bên cạnh đây này. Nạn Khơme đỏ quét hàng triệu sinh linh. Mình ăn trắng mặc trơn quen rồi đi làm rẫy trồng sắn là làm phúc cho đời mình đâu có đi vào chỗ chết mà kêu!”.

Thằng Sớm thuyết trình tràng giang như vậy ở những buổi thanh niên xếp bút nghiên lên biên giới, đi làm rẫy. Bọn con gái mắt tròn mắt dẹt nhìn nhà cách mạng trẻ tuổi đẹp trai, uống lấy từng lời chứa bao nhiêu là học vấn.

Mùa xuân, đã bảo mà, cứ đến bất chấp mọi sự, rực rỡ hương hoa. Nhà hát thành phố mở cửa công diễn vở ca kịch “Người anh hùng trở về từ địa ngục” của soạn giả Công Thành. Sớm đã quên đứt gã nghệ sĩ hình thức lập dị từ hồi Sớm trở về thành phố sau chiến tranh. Sớm không biết là soạn giả và nhà hát giữ bí mật vở diễn cho đến phút chót. Một vở diễn quan trọng. Sớm cũng không ngạc nhiên khi đích thân giám đốc Sở văn hóa đến đón nó đi xem hát. Bây giờ Sớm có xe có lái xe. Nhưng ngồi xe cùng giám đốc Sở Văn hóa là thú vui, bạn nhậu, bạn em út trên cả tình đồng chí. Giám đốc Sở vẫn giữ kín chuyện. Sớm đã quen được người ta tung hô đưa rước suốt thời kỳ làm trùm lương thực thành phố, nhưng cảnh tượng diễn ra làm Sớm tò mò. Nó nhìn lom lom qua kính xe đã hạ. Gì vậy?

- Cứ xuống đi!

Giám đốc Sở Văn hóa đưa tay đẩy lưng Sớm. Toàn thể đào kép của đoàn ca kịch ùa ra sân, ra đường. Vỗ tay rào rào. Rồi làm hàng rào danh dự cho Sớm đi ở giữa. Mặt Sớm ửng hồng càng đẹp trai. Cái dấu bà mụ như hòn than đỏ càng khiến người ta phải nhìn. Sớm có tác phong lãnh đạo. Nó bắt tay người già nhất đoàn. Ôm hôn người trẻ nhất đoàn. Hôn vào trán thiếu nhi tặng hoa. Một tay ôm hoa một tay vẫy. Rồi chững chạc như chính khách phương Tây, Sớm ngồi vào chỗ người ta dành cho nó. Hội trường ì ào nghiêng ngó xem thần tượng tuổi trẻ. Những quan chức thành phố ngồi ở ghế danh dự nhất loạt bắt tay Sớm. Sớm đã quen mọi sự nhưng lúc này nó hồi hộp nhìn ra sau. Có đến hàng ngàn thanh niên mắt sáng rực hướng về phía nó. Lý tưởng chảy ào ạt trong huyết quản những con người trẻ tuổi đang đón chào cái mới, dù đói rét, chiến tranh biên giới, dù thất nghiệp dài, dù họp hành kiểm điểm. Thanh niên hướng về thần tượng. Hướng về Sớm.

Màn mở. Vở diễn bắt đầu. Sớm thấy câu chuyện cảm động. Vai chính xuất thân con nhà lao động. Đêm. Biển động, lung lay những tấm lụa giả biển phía xa. Đèn nhỏ như hạt đỗ. Một nhóm người thì thào chuyền tay nhau mẩu giấy, một người đứng lên đọc to lời hiệu triệu đám đông. Đèn sáng. Một đứa trẻ khôi ngô đứng dưới ánh đèn đón tập truyền đơn. Rồi người cha bảo: "Con đi rải khắp phố chợ đi!". Đứa trẻ lớn lên, giữa những khung cảnh tấp nập, anh cao lớn lừng lững, luôn cầm cờ trong phong trào sinh viên. Mấy thằng cảnh sát chìm đón đường đưa anh lên xe hòm. Đảo. Những hàng dừa. Người thanh niên tay chân bị xích. Quằn quại dưới đòn tra tấn. Rồi ánh sáng lọt qua cửa thông hơi. Người bạn của cha đưa tay nâng anh dậy. “Cháu hãy làm, bắt đầu từ đây!”. Người chiến sĩ già đưa một gói nhỏ. Tài liệu trong đó! Tổ chức anh em học tập. Anh được bố trí đi làm cỏ vê. Anh cho tài liệu vào những chiếc bánh mỳ. Những chiếc bánh mỳ đưa qua cửa chấn song, những lần khám xét, những tra hỏi. Nhưng anh mưu trí, dũng cảm. Trong khi đó ở thành phố quê hương, gia đình anh bị địch khủng bố. Sau chiến tranh anh gặp lại người thân. Ca khúc khải hoàn...

Thằng Sớm chú ý cái bánh mì. Có gì đó hơi giông giống câu chuyện ngoài đảo. Nhưng bánh mì lúc đó chỉ có vài miếng dưa leo, hôm nào khá thì có miếng chả giò mỏng như giấy, thằng Sớm bớt của mình để cho người tù tên Ngọc nghe rằng quen cha mẹ Sớm. Và giữa hòn đảo bao la có người gọi đúng tên nó, tên cha mẹ nó, lẽ nào nó không liều mình. Vậy thôi.

Có tiếng sụt sịt của những người đi coi kịch. Những người già. Họ cảm động vì lời ca đẫm lòng cách mạng yêu nước. Kép đóng vai chính đẹp như tượng. Mắt phượng mày ngài. Khi hát tới cao trào thường khuỳnh tay giơ cao một chân như dợm bước lên đường. Điệu nghệ lắm. Dù mặc áo tù hay áo trắng sinh viên, kép cũng gây cảm giác đây là người mà thượng đế mất nhiều công chăm sóc. Người như thế mới nên làm anh hùng. Vở kịch hai tiếng đồng hồ. Nhà hát im thít. Điện không mất lần nào mà hôm đó lại sáng hơn tất cả những ngày khác. Như là điện đóm thời tăng trưởng kinh tế chứ không mò mẫm như những năm sau cuộc chiến... Khi kép hát lao tới ôm lấy người mẹ già tìm thấy giữa biển người, Sớm cũng ngùi ngùi. Phải chi mình được gặp mẹ như vậy. Nhưng Sớm không thể buồn lâu. Màn kéo cho đào kép chào khán giả, Sớm thấy cả nhà hát như nước ùa ra từ khe núi đổ ào ạt xuống hồ, tất thảy hướng về người anh hùng mà vở ca vừa diễn. Nhiều cô gái đẹp ôm hoa như nấp sẵn ở đâu chạy tới phía nó. Hoa ấn vào tay nó. Nó ngớ ra khi soạn giả vở kịch đứng cạnh nó, khoác vai nó rồi nói vào micro, nói hùng hồn rõ tiếng: “Thành phố chúng ta tự hào khi có người con vinh quang. Tôi viết vở ca kịch này, thật tiếc là không nói hết về anh. Chữ Anh đây tôi xin viết hoa!”.

Đám đông, dù được chuẩn bị trước, vẫn như bất ngờ khi soạn giả nói vậy. Sớm khó khăn lắm mới đứng được trong một rừng cánh tay vươn ra, chỉ muốn được chạm tay Sớm. Sớm được công kênh ra xe. Đám đông không có vé vô nhà hát đứng ken dầy như cỏ gai hai bên đường. Vẫy tay. Hò reo. Như đám đông thời gạo không phải dự trữ, đám đông mà dạ dày không phải trương phềnh vì sắn khô và hạt bo bo. Điều kỳ lạ là đến giây phút này của thời cuộc, người ta vẫn còn thích tạo ra ảo tưởng là ở đâu đó có những con người mờ mờ huyền thoại, càng không rõ nét càng được tung hô và ngưỡng mộ. Thằng Sớm là của bắt được của thành phố.

Những ngày sau đó, Sớm thường phải đến trường học. Sớm soạn lại nội dung vở kịch, học thuộc lòng rồi đứng trước trẻ con, Sớm tự ca về mình. Lâu lâu tưởng rằng những điều đó mình trải qua. Cái đầu tâm thần của tác giả vở kịch đẻ ra một lô một lốc sự phi lý để áp đặt cho một thân xác trung bình. Người trung bình làm sao gánh nổi từng ấy khúc quanh bước ngoặt? Khắp thành phố, các chi đoàn thanh niên tổ chức hàng tuần học tập gương nhà cách mạng trẻ. Hàng tuần không phải cuốc đất ở vườn hoa để trồng sắn. Được ngồi để nghe báo cáo viên tung hô thần tượng. Lại càng say mê.

VI

Người đàn bà hay ban phát lộc lá cho đời không bao giờ hiện ra trong mơ. Nó chỉ nghe tiếng nghe giọng. Lúc này thường xuyên có câu nói “có lộc cứ hưởng, không hại gì thân xác đâu”. Thằng Sớm thường nằm trên giường nghe cái thứ giọng như ru ngủ như ve vuốt, nhưng cũng có gì ma quái. Mẹ không thể nói như vậy.

Thành phố chia cho Sớm cái biệt thự 16 phòng. Là một khóm biệt thự hai tầng xây kiểu Pháp ngay bên dòng sông, vốn là biệt thự của một thương gia nước ngoài đã chạy mất dép ngay hôm nghe tiếng xe tăng của đối phương. Cả nhà ông này chạy xuống bờ biển bị bọn lính thất trận lột hết. Chạy lên cái xà lan hòng thoát vô Sài Gòn. Xà lan chìm. Những linh hồn già trẻ lớn bé của cái nhà ấy quay lại ngôi biệt thự 16 phòng có vườn bao quanh. Nghe rằng đêm đêm những tiếng khóc than vất vưởng từ phòng nọ sang phòng kia như bản hợp ca từ địa ngục. Mấy thằng bé lang thang trú đêm trên vòm cổng xây như cái mái hiên rộng nói với nhau về ngôi nhà. Vì thế đồ đạc trong nhà còn y nguyên. Trong phòng cô con gái út của thương gia máy khâu còn khâu dở chiếc áo. Ma đâu chẳng biết chỉ biết người ta gác xách biệt thự nghiêm lắm không ai dám bén mảng. Một ông sếp lớn ngoài Bắc đã xí nó làm nơi nghỉ mát cho gia đình. Sau này ông chuyển qua biệt thự xây kiểu mới, vì lũ con ông chê nhà vườn ảm đạm thực dân. Thành phố giao hẳn cho người anh hùng sở hữu. Sớm về biệt thự có lũ quan lính theo hầu. Người ta khuân đồ đạc của Sớm vào những phòng qui định: cặp ngà voi để ở phòng khách. Những cái đầu khô của mấy con nai con hươu treo dọc tường. Chiếc pianô của Pháp trị giá bằng ngôi biệt thự, Sớm không biết chơi nhưng cứ chở về đây, khi mở tiệc sẽ có nhạc công tới sử dụng. Bể bơi nối hai dãy nhà vừa thay nước. Con chó bécgiê to tướng của chủ cũ đang xích dưới giàn hoa, thật lạ lùng, nó không sủa khi Sớm lại gần. Đuôi và tai nó cụp lại, như khuất phục, như bị đè bẹp. Thằng Sớm xoa đầu con chó như xoa đầu thằng em út. Sớm chắp tay sau lưng nhìn khu vườn suy tính. Tất cả quan chức rồi các nhà giàu có trong thành phố đang mong được Sớm làm rể. Sớm chưa muốn. Nó muốn đời thênh thang tung tẩy, nếm hết của ngon vật lạ đã. Trong phòng ngủ, Sớm kê hai chiếc két sắt. Mã số của khóa két trong đầu Sớm. Nó nghĩ nếu nó làm sao người ta phải nấu chảy két ra mới mở được. Bí mật gia tài này, sau này nó sẽ chỉ tiết lộ với người đàn bà nào nó nhận là vợ. Nó phải sinh sôi nảy nở cho con cái hưởng lộc. Tội gì.

Ngay tuần sau người ta ấn vào tay Sớm một ngàn mét đất gần thành phố. Sớm không thích nhìn thấy nhiều đất. Có người môi giới nó bán đất cho một người Hoa từ Sài Gòn mở rộng kinh doanh ra miền Trung. Lại có kẻ bày vẽ Sớm làm tiền. Số vàng bán đất cho người Hoa nó gửi sang ngân hàng nước ngoài ba phần tư - lại cũng chỉ có tên tuổi địa vị như Sớm mới có thể đưa tiền ra ngoài dễ thế - Còn lại nó mua đất khác, mua nhà, bán đi - Mua. Rồi lại bán. Ngân hàng nó gửi tiền kinh ngạc thấy tài khoản nó đầy nhanh. Không một nhà kinh doanh nào trong khu vực làm đầy tài khoản nhanh như thế. Chắc chủ tài khoản phải làm cái gì đó mà lời lãi hầu như không kiểm soát nổi.

Đã vào thời kỳ người ta không còn nuôi lợn trên sân thượng, không còn mất điện hàng tuần, không phải nhai sắn trừ bữa. Sớm đứng vào, thật là sớm, trong đội ngũ những kẻ không ăn ngon, mà ăn khó. Tay đầu bếp từ Sài Gòn Sớm thuê đã dư sức làm cho đám thực khách trong biệt thự phải hít hà khi tận mắt nhìn thấy tiết rắn chảy vào li rượu, hoặc giữa bàn ăn là đầu một con voọc cắm trong một đĩa đầy mật ong cô đặc. Không hiểu để làm gì khi con voọc nhe răng nhìn thực khách đang ăn thịt nó. Chắc chỉ để gây sự sành điệu. Gây sốc, gây nên hứng phàm ăn. Những kẻ ăn khó đều xuất thân bần hàn. Cả lũ lao vào liếm láp ngồm ngoàm như sợ bỏ lơi ra là uổng phí, sợ lơi tay là mọi sự lại quay về điểm khởi đầu. Biệt thự của Sớm chứa đầy những kẻ như thế.

Người ngợm cao lớn, cái đầu lạnh, Sớm là gã trai biết dừng đúng lúc trong những trò mây mưa thường kéo thâu đêm mà đám bạn hữu của nó chỉ còn là những cái xác rũ rượi mỗi khi khép màn. Sớm chơi chọn lọc. Nó thích loại con gái không có mồ hôi ở nách khi quần nhau trên giường. Loại con gái da trắng ngọc ngà, bàn tay ấm nóng biết vực thân xác đàn ông thức dậy cho dù nó lười biếng đến đâu. Sớm chọn được hai nàng. Đều sinh trưởng trong những nhà có vườn, ăn uống cảnh vẻ nói năng cay nghiệt kiểu đặc trưng của thành phố này. Nhưng các nàng dịu ngọt. Bao giờ cũng chuẩn bị chăn nệm trước hàng tiếng đồng hồ, kỳ cho căn phòng như được tưới tắm nhễ nhại một thứ sắc màu của hoan lạc, để khi bước vào, Sớm cảm thấy trễ nải, toàn thân chỉ còn chờ đợi được hưởng cái thứ thú vui trần thế mà ông trời ban cho. Sớm đều đặn có hai nàng trong những ngày lẻ của tuần lễ. Ngày chẵn Sớm chỉ gặp bạn rượu. Hai nàng được ban phát vừa đủ. Một nàng có cha đi cải tạo đã xin cho cha được về trại gần nhà, tháng nào cũng chu cấp hơn người. Nàng kia ở với mẹ già, cha và hai anh trai cùng hai chị dâu đã được người ta lờ đi khi họ xuống tàu vượt biển, giờ đã định cư ở Châu Âu. Cả hai nàng ơn huệ nhà cách mạng trẻ tuổi. Các nàng thấy may mắn là lọt mắt xanh của chàng. Vả lại dù máu lạnh, Sớm cũng là gã trai không có điểm nào để chê. Các nàng chỉ việc làm cho máu nó bớt lạnh trong chốc lát, và khi được hâm nóng, con đực này cũng từng lồng lên như ngựa. Hai nàng không biết mặt nhau vì chỉ được phép đến biệt thự vào ngày qui định. Nhưng nàng nọ biết là ngoài mình còn có nàng kia. Các nàng càng tranh thủ nạo vét sinh lực và tiền bạc của cái gã “một bước lên ông” này.

Vào ngày chẵn cuối tuần, một gã bạn chỉ độc uống loại rượu Napoleon của Sớm đến cùng một đứa con gái. Con bé con kháu khỉnh nhưng mắt buồn rười rượi độ mười lăm mười sáu tuổi, mặc áo trắng học trò, tóc tết đuôi sam. Gã Napoleon kéo cô bé ngồi giữa gã và Sớm.

- Em này tên là Thảo Trân. Giới thiệu với đại ca.

Khi cô bé đứng lên rót nước ở bàn nước, gã Napoleon nói:

- Cha nó hoạt động nội thành thời Mỹ ngụy, cha bị bắt ra đảo thì mẹ nó mới sanh nó. Giờ nhà nó gặp nạn. Nó muốn cứu cha.

- Tiền hả? Cho nó ít tiền.

- Không. Chuyện khác kìa. Xài trước cho đã, cậu giam mình giữ mình làm gì cho uổng. Của tinh đó tội gì làm lơ...

Hôm đó Sớm uống thứ rượu thằng bạn mang tới, có gì đó khiến nó buồn bã, nghĩ ngợi. Lâu rồi không có trạng thái này. Nó leo lên giường với đứa con gái non nớt, non đến nỗi luýnh quýnh tay chân, rồi khóc òa lên một cách quyến rũ Sớm chưa từng gặp. Trước tới giờ Sớm toàn để mình bị bọn con gái điều khiển từ cách cởi cái quần đùi. Đứa con gái sợ hãi làm Sớm mủi lòng. Khi thân thể đứa trẻ phơi bày trên nệm, Sớm chợt hiểu rằng vì sao bọn đàn ông thích con gái trinh nguyên. Một mùi thơm lạ lùng của hoa lan dại toát lên từ làn da đang vỡ dậy thì. Ngực cô bé tròn vo, núm vú màu hồng như một chấm nhỏ rơi vô tình lên hai nắm tay tí xíu của con trẻ. Sớm cúi xuống vùi mặt vào túm lông tơ mới nhú, bàn tay đàn ông quen nhờ đàn bà hâm nóng lần đầu tiên dịu dàng xoa khắp hang hốc của đứa trẻ. Sớm nhập cuộc với tư thế đàn ông thấy đàn bà hoàn toàn phụ thuộc. Và trời ban cho nó cái thứ nước mát lành nó khơi nguồn lấy. Từ trước đến giờ cái gì người ta cũng mang sẵn đến cho nó. Hóa ra trong chăn gối tự mình khơi mạch cũng là trò thú vị.

Cô bé lặng lẽ đến vào đêm chẵn cuối mấy tuần sau nữa. Tận hiến cho Sớm tuổi trước vị thành niên. Ngoan như con cừu non làm Sớm có lúc cũng có cảm xúc. Cho đến một lần đáng lẽ cả hai phải ngủ, cô bé ôm cánh tay Sớm như ôm cánh tay chúa tể:

- Anh cứu bố em với!

Sớm đã nghe gã Napoleon nói nhà cô bé gặp nạn. Nhưng Sớm là thằng dửng dưng vì mọi sự đến quá dễ, nó chả để ý chuyện gì. Nghe cô bé nói, Sớm thờ ơ: “Nghèo hả? Anh cho thêm tiền”.

- Không, cha em bị xử lý, sắp nguy lắm anh ơi. Cha em bảo em đến tìm anh. Đáng lẽ em nói ngay hôm đầu, nhưng em sợ...

- Thì nói đi!

- Anh biết cha em rồi. Từ khi anh ở ngoài đảo...

Chuyện lúc đó là nghiêm trọng. Sớm nhớ ngay đến người đàn ông tên Ngọc nó đưa bánh mì ngoài đảo. Những chiếc bánh mì đã làm nên chiến tích lẫy lừng của Sớm đưa Sớm đến địa vị ngày hôm nay. Ngọc ra tù. Tham gia công tác, vào làm cơ quan nhà nước không quên tung hô thằng cháu ngay ngày đầu. Đang yên vị vợ con, uy tín, một vụ án được xới lại. Người ta bảo Ngọc đã khai ra đường dây làm năm người bị bắn chết. Loanh quanh hai năm không xong lại có người tố cáo số tù chuồng cọp giam xa trung tâm đảo ngày đó bị địch bỏ đói chết hết. Xác bị ném xuống biển. Ngọc không chết. Có người cứu. Nhưng nhân chứng đâu. Bảo “người anh hùng của thành phố” cứu ư? Phải được anh ấy xác nhận chính thức cơ quan điều tra mới cho là chi tiết lưu ý.

- Cha em bị giam mấy tháng rồi. Không cho gặp người nhà nhưng cha em vẫn nhắn ra em phải đi tìm anh. Anh chỉ cần đến nói với họ. Dù sao cũng là một mắt xích để thanh minh cho cha em. Họ còn buộc cha em nhiều tội nữa...

Một cơn giận dữ chưa từng có làm Sớm bùng lên. Nó nhảy phắt xuống giường không kịp mặc quần áo. Chỉ mặt đứa bé, Sớm hét như điên.

- Cút. Cút khỏi nhà tao! Con yêu tinh đưa tao vào bẫy hả?

Đứa bé con sợ co rúm trên giường. Rồi cũng mặc được quần áo chạy ra vườn. Người nấu bếp, hai người dọn phòng, một người quét vườn, một người làm vườn... đều ngủ dưới tầng hầm lúc này chạy lên. Không hiểu cái gì làm cậu chủ giận đến thế.

- Cút ngay. Mấy người thấy con này mò đến đánh què cho tôi.

Sếp lớn không bao giờ nói như thế. Sếp cách mạng càng phải giữ lễ với dân. Nhưng Sớm giận quá. Cả lo lắng quá. Nó hành động như thằng khùng.

Không khéo thằng cha vơ chú váo đó làm hỏng việc của mình. Mấy chiếc bánh mỳ đó chả nói cái gì ráo. Sớm quên rồi. Sớm không muốn ai nhắc đến những ngày ngoài đảo nữa. Đó là địa ngục. Không phải là nơi rèn luyện ý chí cách mạng như soạn giả tâm thần kêu trong vở kịch. Đối với Sớm nó chỉ là chỗ thiêu hết tháng năm tuổi trẻ của Sớm. Đừng hòng đưa đứa con gái tới dụ thằng này.

Đứa bé con không dám quay lại lần nào nữa. Nhưng từ chối giúp đỡ người tù tên Ngọc xong, Sớm không còn được thênh thang sống mà hưởng như trước nữa. Nó làm mấy vụ bất động sản bị lỗ. Rồi một hôm có đoàn thanh tra trung ương về thành phố. Trong buổi tiệc, một ông già trong đoàn thanh tra chằm chằm nhìn Sớm, không thấy nói năng gì. Sớm chột dạ. Nó mơ thấy trèo lên đỉnh núi hoang vắng ở chân trời, rồi từ đỉnh núi, ông Hội tiệm vàng nó giết trước kia lao xuống như con diều hâu, mổ vào đầu nó. Nó rơi. Rơi mãi không chạm tới được đâu. Nó thét lên không thành tiếng. Nó nhìn thấy cái dấu bà mụ trên trán nó đang xoay tròn trong không khí bay ngang nó không đậu vào đâu. Khi Sớm tỉnh lại được, người nó như bị tắm. Nó chạy vào phòng có gắn những chiếc gương khổng lồ trên tường, giữa phòng chỉ để độc cái bục bằng đá, trên bục đá là bức tượng bán thân của nó. Một người chạy tội cho con trai đã thuê thợ đá làm tượng tặng nó. Khuôn mặt tượng giống nó không thể chê. Một viên đá đỏ trị giá bằng chiếc mécxêđét gắn trên trán khuôn mặt tượng làm cái dấu bà mụ. Nó tự hào vì công trình này tới nỗi khách nào tới nhà nó cũng dẫn vô thăm. Nó lại gần tượng của nó, kinh ngạc không thốt nổi tiếng kêu: viên đá đỏ trên trán bức tượng bị cạy mất khi nào. Cửa sổ chấn song sắt không mở. Không ai cưa chấn song. Nó hét. Đám người trong biệt thự chạy tới đủ. Không ai biết gì.

Viên đá đỏ chỉ là hạt bụi đối với tài sản của Sớm. Nó nhìn đám người làm, toàn những kẻ ơn nó đầy mình, thấy không thể trách ai. Điều làm nó lo lắng là bản mạng của khuôn mặt tượng bị cạy rồi, có chuyện gì đến với nó. Nó săm soi con mắt thứ ba trên trán, chưa thấy chuyển màu. Nó nghĩ tới những giấc mơ ác nó vẫn gặp đêm đêm, nó lân la hỏi thăm ông Ngọc bên cơ quan chức năng, thấy bảo gay lắm. Chỉ vài ngày sau nó đang ngồi trong phòng làm việc ở công sở, giữa buổi gần trưa, nó nhìn thấy ông Ngọc đi ra từ cái tủ đựng tài liệu. Mặt ông ta xanh xao y hệt khuôn mặt Sớm nhìn thấy trong cái hõm giam ông ngoài đảo. Ông chỉ vào trán nó, rồi lắc đầu: “Mày là của quái, Sớm ạ. Đóng dấu cho mày phí toi, nhầm to. Khôn hồn thì biến đi còn bảo toàn mạng. Mày có giọt máu chỗ đứa con gái tao. Nhưng đừng đụng đến nó. Mày không có phúc đó nữa!”. Nhân viên văn phòng Sớm vào thấy sếp gục đầu xuống bàn. Sớm lên cơn co giật, sốt cao. Hai ngày sau bác sĩ lạ lùng nhìn mặt Sớm: cái dấu bà mụ của thủ trưởng đâu rồi. Mất tiêu rồi. Da chỗ này trắng như chưa có gì nè!

Sớm khỏi bệnh, không dám soi gương sợ nhìn thấy khuôn mặt lạ hoắc. Bên cơ quan chức năng báo với Sớm vì có lần Sớm hỏi, là ông Ngọc chết rồi. Đau tim. Đột tử. Cả nhà bồng bế nhau vào trong Nam rồi. Sớm im lặng nghe rồi lẳng lặng thu xếp. Nó kết đứa con gái ngày lẻ có cha và các anh định cư ở Châu Âu hơn đứa có cha đang cải tạo. Nó gọi cô này đến thì thầm du lịch kết hợp. Cuộc hội thảo cây lương thực trong khu vực có giấy mời Sớm trực tiếp. Sớm xin cho đứa con gái ngày lẻ đi cùng, làm thư ký. Hai đứa hai va ly hai túi xách tay gọn nhẹ đi cửa VIP.

Có người sành nhìn các VIP thời đó hành lý gọn nhẹ trong khi người ta mang vác cồng kềnh, đã đánh giá kiểu đi của Sớm với cô thư ký: sang đó đủ tiền mua một góc của nước dầu mỏ. Hội thảo xong, không thấy thần tượng tuổi trẻ quay về thành phố nữa. Cũng không biết định cư ở nơi nào trên phần phía Bắc bản đồ thế giới. Cái phần đó của Trái Đất nó mát mẻ dễ chịu.

Mẫu đơn đỏ

Lưng lửng chiều là lúc ông Việt lôi tấm chiếu đơn trải ra hè, ngồi tựa cột hiên, ngắm cây vườn "yên nghỉ" sau mùa bão. Lúc ấy, nắng đã nhạt, hơi nóng đã oải. Làn gió thoảng qua đung đưa những đốm nắng rớt lại góc sân, nơi mấy chú gà choai đang lẩn thẩn tìm mồi. Một vài giờ ngồi thiền là chuyện bình thường. Nếu không có lũ ruồi đến quấy quả, trông ông như một pho tượng cổ...

Ngày còn trẻ, người làng rỉ rón nhau: Tay ấy điển trai, gương mặt Phật. Giờ già ốm chắc là khuôn mặt La Hán, ai buồn ngó ngàng. Mấy chú gà thấy chủ không tỏ vẻ dữ dằn, quẩn quanh nhặt hết những xác ruồi dưới đất, quẹt quẹt mỏ. Vẫn thấy chủ ngồi yên, chúng liền túm tụm mổ mấy đầu ngón chân nơi có những vẩy da trắng bợt. Đau đau, buồn buồn, ông co chân lại, miệng cười làm những nếp nhăn trên mặt giãn ra. Hai thằng con ông hồi nhỏ cũng tương tự, cứ thấy lúc nào bố vui vẻ, vuốt ve âu yếm, chúng liền nì nèo: "Bố cho con đi chơi đi. Con được điểm 10 bố thưởng gì nào?". Rồi chúng xòe mười đầu ngón tay ra trước mặt ông, nghĩa là 10 đồng để mua quả bóng về đá như ông từng hứa. Thôi thì, trẻ cậy cha… lẽ thường tình là vậy.

Từ trong nhà, bà Ngàn mang ra cốc nước, lưỡng lự đôi chút mới lên tiếng: "Em mang cả ấm chén cho mình nhé?". "Vẽ chuyện!". Bà chăm ông. Ông thì ngại phiền. "Vậy thì có chiếu trải sẵn, mình nằm xuống em mát xa cho". Bà khẽ gật đầu chừng thăm dò ý chồng. Lưng mỏi như muốn rời từng đốt xương sống. "Phiền quá!" - Nói vậy nhưng ông lại xoài tấm thân ốm o xuống hè. Phút chốc cái lưng ông thành "thao trường" cho đôi tay ấm mềm của bà lướt qua, lướt lại. Nào là cua bò, lại tôm nhảy, rồi lươn trườn… Tay làm đến mục nào môi bà bầm bậm những từ đó như sợ không thế sẽ quên mất thứ tự công việc. Ông nằm im lìm như "tiêu bản y học", còn hồn vía bay chín tầng trời.

Ngày trai tơ, cánh đàn ông sống độc thân nhà tập thể cơ quan, chiều chiều nổi lửa thường cắt cử Việt sang phòng mấy em chưa chồng xin đủ thứ mắm, mỡ, mì chính… "Leo thang" đến mức có hôm xin cả lạc về rang để nhắm rượu. Việt cũng ngại lắm. Đấng quân tử ai lại cúi mình trước những nhỏ nhen đời thường. Tính anh nhút nhát, cả nể. Mỗi lần như vậy Việt thường đánh mắt về phía anh Lực - trưởng phòng, ý thăm dò. Thấy Lực quay lại cười, không biết cười đồng tình hay khiên cưỡng, đành đi. Chết cái, lần nào đi cũng được việc. Các cô đều nghĩ: Cho một tí, nhìn được một tí hoặc chạm vào một tí "của hiếm hoi" ấy không đến nỗi phải thiệt thòi. Sau cuộc chiến, thanh niên như anh hiếm hơn vàng sa khoáng cuối nguồn. Có chồng đối với các cô ngày ấy không đơn thuần chỉ là duy trì nòi giống mà còn vênh vác với đời. Mấy em phòng hành chính, căng tin nhí nhảnh lắm, còn trẻ mà, thi thoảng sà vào chỗ Việt "tiếp thị": "Anh có mua xà phòng, thuốc đánh răng không?".

Thời bao cấp cái gì chả thiếu, còn hỏi. "Anh có tiền cho em ứng mấy chục, cuối tháng trả liền?". Vay là cái cớ để thăm dò tình cảm. Có cô còn bả lả: "Bọn em mê cái đầu thi sĩ của anh lắm". Thế rồi không chờ đồng ý, các cô chen lấn nhau đứng sau anh đưa các ngón tay vuốt tóc, rẽ ngôi trên cái đầu ấy. Có khi đứng gần đến mức chạm cả ngực vào lưng anh. Anh vẫn không nói gì, hiền đến thế là cùng. Những "pha" ấy không qua được mắt trưởng phòng. Lực thường xuất hiện đúng lúc, các cảnh diễn tương tự đều chấm dứt ngay. Họ túa về, mồm miệng như chèo bẻo. Khi chỉ còn mình Việt trong phòng, anh Lực nói bâng quơ: "Bắc thang lên hỏi ông trời, tiền cho gái mượn có đòi được không?". Sau này Việt mới biết anh trưởng phòng có cô em gái chưa chồng. Và, sẽ có một vòng kim cô dành cho anh. "Vòng kim cô" đó chính là bà Ngàn bây giờ.

rưởng phòng mời nhân viên mới về thăm "quê tớ", Việt không có lý do để từ chối. Việt cũng láng máng nhận biết ý đồ của Lực qua anh em cơ quan. Nhưng không ai dám nói phớ ra. Vuốt mặt còn nể răng. Một hôm, rà soát hồ sơ nhân sự để thay đổi một vài vị trí cán bộ, lúc nghỉ uống nước, Lực giãi bày với Việt chuyện nhà để anh em gần nhau hiểu thêm. Em gái Lực yêu một anh cùng làng từ thuở hai người học trường huyện. Gia đình đôi bên đã hoạch định việc cưới xin để anh yên tâm nhiệm vụ, cô Ngàn sớm có nơi có chốn. Nhưng việc quân sự ai mà lường trước được. Chú rể tương lai nhận lệnh lên đơn vị gấp. Đám cưới cũng phải hoãn gấp. Trong thời gian đôi trai gái yêu nhau, mong ngóng từng ngày tin tức về nhau thì đùng một cái, hai nhà nổ ra xung đột. Chuyện chung quanh việc tranh chấp đất đai ở nông thôn xảy ra thường tình như chuyện mất gà, lạc chó. Người ta có thể nhịn ăn để giúp nhau khi đói túng, thất vận, nhưng không thể dịch bờ rào nhà mình nhường - dù một phần đất của tổ tiên - cho người ngoài. Tranh cãi mãi không hòa giải được, cơn tức giận bùng lên, hai ông bố đã "nói chuyện" với nhau bằng đòn càn, đòn xóc. Cũng còn may, không xảy ra án mạng. Cuối năm, bố cô Ngàn phát bệnh qua đời. Trước khi tạ thế, ông đã không đổi ý, còn dặn thêm vợ con: "Tao dù chết cũng không gả con Ngàn cho nhà nó. Hãy nhớ lấy!".

Bẵng đi một thời gian, chừng quá khứ bớt nặng nề, người yêu cô Ngàn lò dò về, khắp người thương tật. Trông dáng hình anh không còn nguyên vẹn như xưa, ai cũng nghĩ: Sao con người tàn ác với nhau đến vậy. Những người như anh đang cần sự sẻ chia, nâng đỡ của bà con làng xóm.

Năm ấy, nhân giỗ ông Hoạch (bố cô Ngàn), bà Hoạch làm mấy mâm cơm mời các cụ trong họ tới dự, trước là để thỉnh cầu vong linh ông hãy thương các con mà bỏ qua tất cả, sau là để trong xóm ngoài làng chứng dám cho đôi con trẻ có cơ may về sống với nhau. Cắm xong nhang, lạy ba lạy, anh Lực con trai trưởng đang lầm rầm khấn thì đột nhiên con chó ở đâu xổ vào ngoạm cổ con mèo. Con mèo tung móng vuốt gỡ đòn rồi hốt hoảng phóng buột lên ban thờ làm mâm cơm cúng ông Hoạch đổ sụp xuống. Những ai có mặt hôm đó đều dựng tóc gáy, sởn da gà, ngác ngơ ngước theo con mèo đen đang thu mình lặng lẽ ngồi trên xà nhà. Hai mắt nó tròn xoe, sáng như đèn pha rọi xuống đầy vẻ hằn học, thách thức. Thế là lời cầu không linh ứng. Ai dám bước qua câu nguyền?

Quê Lực cũng như bao vùng quê sau chiến tranh. Ở đây, nhà nào đêm đêm cũng sáng đèn và cửa mở, ý chờ đợi người từ mặt trận về… Cánh cửa mỗi nhà như đồng tiền hai mặt sấp và ngửa phân định số phận từng nhà, từng người. Vào tới sân, có vợ và mẹ Lực ra đón. Trời tối không rõ mặt, chỉ rõ dáng hao gầy, lam lũ. Một lúc sau có thêm người từ bếp mang chiếc đèn dầu nữa lên nhà, bước vào phòng trong. Anh Lực gọi giật giọng: "Ngàn, Ngàn… Mang đèn đây!". Đèn gần, khuôn mặt cô gái phát lộ: Tròn ửng lên như trái đào, mắt to mở cái nhìn lạnh, đôi môi dày dán chặt vào nhau. Mái tóc buông, thoảng hương bưởi mơ màng, gần gũi mà xa xôi. "Gái quê nguyên mẫu" - Việt thoáng nghĩ.

Nghỉ ngơi qua chầu nước vối mầu nâu sậm, hai người ra ao rửa chân tay. Khi vào, trên bàn cơm đã dọn như có cô Tấm trong nhà. Biết ý, mọi người đã đi nghỉ. Tâm điểm bữa ăn là đĩa thịt gà kho. Thời buổi này thịt gà là "mỹ vị" - gia đình chắc có chuẩn bị. Gắp miếng thịt vào bát, Việt ngước lên nhìn ban thờ, nghĩ về con gà từ trên đó nhảy xuống (qua chuyện anh Lực kể ngày nào). Ăn mà thấy chờn chợn, đắng nghét nơi miệng. Bi kịch đáng thương ở chỗ: Hận thù không chịu cởi, rồi không ai dám cởi để hôm nay Việt cùng rơi vào tình trạng khó xử này.

Đêm quê tĩnh mịch. Chỉ có tiếng thở là vẫn thức. Cái tĩnh mịch ớn lạnh giữa hai "trận đánh". Đâu đó, có cung đàn ai gảy vào khuya nghe mơ mộng buồn. Việt đẩy cánh cửa sổ phía sau nhà. Tiếng đàn nghe rõ hơn bởi hợp âm bổi hổi có những nốt trầm, thật trầm. Cũng lạ, sao tiếng đàn nghe quen quen. Chỉ khác tiết tấu chậm lại, giai điệu mượt mà hơn, đựng chứa ẩn ức thầm kín. Trôi theo dòng âm thanh ấy, miệng anh lẩm nhẩm từng ô nhịp. Đúng! Nhạc rất khớp với ca từ chính anh đã viết. Viết về một người bạn hy sinh trong chiến tranh trên một quả đồi đỏ rực hoa mẫu đơn: "Xanh xanh mãi mẫu đơn ơi, trong bom đạn hoa đỏ tươi kết lời…". Tiếng đàn ru một thời đã qua và anh bập bõm vào giấc ngủ, mướt mát mồ hôi.

*

Rồi đến một hôm Lực nhắc Việt như nhắc việc công: "Tình hình sao? Ý cậu thế nào?". Rồi anh hạ giọng, tình cảm: "Ngàn không đẹp, được cái khỏe khoắn, nết na, đằm thắm, với cậu là hợp. Nếu chú tán thành (Lực đã đổi cách xưng hô) anh sẽ xin việc cho cô ấy trên này, làm hành chính ở cơ quan bên rồi đưa dần về đây cho tiện, sau đó anh sẽ lo chỗ ở cho hai vợ chồng". Việt bị bất ngờ quá đâm hoảng. Nhanh đến vậy và thái độ "ông anh" thẳng thừng đến vậy. Ngồi lặng đi mấy giây, lấy lại bình tĩnh, Việt nói: "Cái này không vội được anh ạ, để em suy nghĩ thêm vì chúng em chưa hiểu gì về nhau". "Ối trời ơi, việc gì phải kỹ thế! Như vợ chồng mình đấy, cứ lấy xong là yêu tuốt". Lại phải sống trong những ngày dài "cấm vận", mệt mỏi, tẻ nhạt. Nhiều gót hồng lặng lẽ lướt qua, cái nhìn để lại. Việt cảm thấy lòng mình cứ thương thương nhớ nhớ một ai đó không định hình, không âm sắc… Tóc anh dài nhanh. Người hình như tăng cân mặc dù ăn uống kham khổ. Thời gian này anh muốn gần gũi Quang nhiều hơn. Người chơi đàn đêm khuya khoắt ấy chính là Quang.

Sau cái đêm ngủ chập chờn, sáng ra Việt đi tìm người gẩy đàn theo "góc phương vị". Căn nhà vọng ra tiếng đàn cũng rất gần, chỉ cách nhà Lực một mảnh vườn rộng phía sau. Người gẩy đàn đang ngủ ngồi, lưng dựa vào thành giường, tay vẫn ôm ghi ta. Chắc nghe bước chân người, chủ nhà hắng giọng rồi hỏi nhỏ: "Ai đó?". Việt khom lưng, im lặng lắng nghe. Đúng giọng Quang rồi, đúng cả dáng Quang ngồi dựa vào vách hầm hát ngày nào. Nhưng gương mặt sao lại biến dạng thế kia. Việt sực nhớ lúc bị thương, máu ở mắt trái Quang chảy ròng ròng. Anh nảy ra ý định chơi trò ú tim, miệng phát ra từng từ một: "Mẫu - đơn - đỏ - đây!". Như đã chờ đợi từ lâu, chủ nhân thốt lên: "Ôi! Lẽ nào là Việt, sao mày lại đến được đây?". "Bởi tiếng đàn của mày đấy: Bay cao cánh mẫu đơn ơi, qua khói lửa hoa đỏ tươi giữa đời…". Họ sung sướng ôm chầm lấy nhau, tình cảm trào dâng. Những dòng nước mắt của Quang lại chảy ra từ nơi trước kia dòng máu từng chảy. Quang mù cả hai mắt. Anh nhận ra Việt từ đôi bàn tay sờ nắn khắp thân thể bạn. "Đúng Việt thật rồi. Việt Trường, mà không còn "trường" nữa, đúng không?". Và ngay lập tức họ cùng nhau hát bài "Hoa Mẫu Đơn đỏ". Bài hát này ra đời từ bài thơ của Việt do Sinh phổ nhạc. Sinh đã trút hơi thở cuối cùng trên tay Việt và Quang. Quang là người thể hiện ca khúc với chiếc đàn ghi ta chỉ có hai dây rê và si. Vì chỉ có hai dây nên âm thanh phát ra như "đàn xẩm". Lính đặt cho Quang cái tên mới "Quang xẩm". Ai ngờ tên vận vào thân phận cả ba: Sinh thì chết. Quang xẩm thì mù, còn Việt Trường…

Việt dìu Quang ra sân đón nắng mặt trời. Lúc đó, anh thêm tường tận về bạn. Quang gầy đen nhiều, nét buồn hiện rõ trên khuôn mặt biến dạng. Vẫn một mình một bóng, coi ngôi nhà cổ năm gian khá bề thế các cụ xưa để lại. Nhà rộng, vườn rộng, không sao xóa được tâm trạng bức bối, tù túng; chẳng khác con chim khát khao tự do nhốt trong lồng đẹp muốn bay mà không thể cất cánh. Việt an ủi bạn: "Thôi mày ạ, trời đất bao la, mênh mông lắm, sức mình đến đâu thì bươn đến đó".

Phía nhà anh Lực dội lại tiếng trẻ nhỏ reo hò. Thấp thoáng dưới hàng cây roi có người cởi trần chạy quanh bờ ao. Quang bảo: "Chắc nhà ông Lực đánh cá, thế cậu chuyển ngành về chỗ ông ấy à?". "Ừ!". Việt đang dõi mắt phía ao, phát hiện ra điều lạ lẫm, thảng thốt: "Có người không mặc cả quần nữa cậu ạ!".  "Có gì mà lạ, cậu còn nhớ không, những năm tháng đóng quân ở rừng chúng mình chẳng tổng ngổng, tồng ngồng tắm suối đó sao". Vì không nhìn được những gì đang diễn ra xung quanh nên Quang hồi tưởng quá khứ. Rừng đại ngàn như cái phông lớn quây lấy họ. Có thể gọi đó là cái buồng tắm khổng lồ mà thiên nhiên ban tặng cho lính. Chọn nơi vắng vẻ, đặc biệt là ít gặp "tiên cô", họ bầy ra nhiều trò giải trí khác đời. Hôm ấy, sau một hồi quẫy đạp dưới dòng nước mát, trong vắt; trong đến mức nhìn rõ được từng ngón chân của mình lẫn với những hòn sỏi dưới lòng suối; Sinh đề xuất trò đo cái của quí xem đứa nào dài. Quang bảo: "Cần gì phải làm vậy, cứ nhìn người cao thấp mà đoán, tỉ lệ thuận mà. Khi đúc ra loài người, Thượng đế đã tính chán". "Chưa chắc, Thượng đế cũng có lúc nhầm, lúc quên" - Sinh bảo vậy. Thế là cuộc thi được tiến hành ngay tức khắc và, người được trao "vương miện" là Việt, cho nên mới có biệt danh "Việt Trường". Thằng Sinh đạt giải "á hậu" vì của nó tạo dáng đẹp. Hôm thằng Sinh chết, cái của quí ấy thun lại như con ốc bươu. Nhắc đến những ngày ở quân y viện điều trị thương tật, họ còn kể về cậu thương binh nào đó bị vào "chỗ ấy". Cô y tá trẻ quấn băng cầm máu mãi không xong, cứ quấn rồi bông băng lại tuột, không hoàn thành nhiệm vụ, ngồi khóc…

Chuyện đang vào lúc rôm rả thì Lực cho lũ trẻ con sang gọi Việt về ngay. Họ bịn rịn chia tay, hẹn sớm gặp lại.

Mải tầm phào với nhau, hai người đâu biết cô Ngàn ngấp nghé trong bếp nhà Quang từ đầu đã chứng kiến hết mọi chuyện, thế là lộ bét.

*

Sau buổi chiều bà đấm lưng cho ông ở ngoài thềm, ông hỏi: "Ngày đó bà nghe thấu tôi và chú Quang nói chuyện với nhau chứ?". Bà bảo: "Nghe bập bõm câu được, câu mất. Những điều có vẻ bí mật mới hiểu láng máng vì các ông nói cứ nửa đùa nửa thật". "Vậy bà có bực khi biết ông Lực ép tôi không?". "Biết ép thế nào mà bực?". " Ông ấy nói thẳng, nếu không nghe ông ấy tôi sẽ phải nghỉ việc, chỉ còn cách ra Hồ Tây câu cá mà sống!". "Trời ạ! - Bà kêu lên sửng sốt - Gì mà quá đáng với nhau thế!".

Thở ra một hơi dài, ông thủng thẳng như thấm mệt: "Nghĩ cho cùng bà với tôi lấy nhau là do duyên số, do tổ tiên đôi bên vun vén, sắp đặt, nên tôi không oán thán ai. Các con mình nuôi nấng đều phương trưởng, hiếu đễ cả. Thuận lòng các cụ mới được vậy. Thằng lớn tính nết có rù rì một chút, ở với chú Quang không còn gì phải lo. Thằng nhỏ công tác gần nhà, chủ nhật vợ chồng nó về với bà, sau này ở đâu tùy chúng nó. Mình cũng chẳng sống mãi được mà định đoạt". Ông nhấc tay đặt lên ngực mình ho khan mấy tiếng. Bà bật đèn phòng lấy nước cho ông rồi tắt máy lạnh. Căn phòng ấm dần lên. Bên nhà hàng xóm, bọn trẻ đang xem đá bóng, thỉnh thoảng lại hò reo om sòm. VTV3 họ phát suốt cả đêm. Thấy ông nằm im, lâu lâu bà lên tiếng: "Thiên hạ người ta vẫn đàm tiếu: Tò vò mà nuôi con nhện… hẳn đến tai mình, vậy mình nghĩ thế nào về em?". Vẫn im lặng.

Trong ánh đèn ngủ, khuôn mặt bà khi ấy sáng tròn như trăng. Mắt ông vẫn đăm đăm nhìn lên trần nhà, nơi có hai con thạch sùng đang giao phối, như bị thôi miên. Con thạch sùng đực vật đuôi nhịp nào thì ông theo nó thở ra nhịp đó. Rồi đột nhiên ông nghiêng lại, đưa tay vắt qua người bà. Trong quầng đèn mờ ảo họ là đôi trẻ đêm tân hôn. Cử chỉ ấy của ông khiến bà yên lòng: "Em yêu anh Quang từ dậy thì. Sau hai nhà mới trục trặc. Đã vậy, khi từ mặt trận về, những vết thương làm biến dạng toàn bộ khuôn mặt anh ấy, trông dễ sợ. Sợ đến mức gặp anh Quang ngoài đường bọn trẻ bỏ chạy. Anh ấy đàn hát hay, chúng chỉ túm tụm ở đầu ngõ lắng nghe chứ không dám vào nhà. Em thấy cũng nản. Rồi tình thương cứ lấn dần tình yêu. May nhờ có mình gỡ rối. Sau ngày mình lấy em, tình cảm của em trước kia với anh Quang cứ san sẻ dần sang cho mình, san đến mức em không thể sống thiếu cả hai người".

Căn phòng lại chìm vào tĩnh lặng. Trong đêm, tay bà lần tìm tay ông như tìm sự chở che, vỗ về. Bàn tay ông lúc đó lạnh ngắt, vô cảm. Bà thột mình, hốt hoảng áp tai lên ngực chồng. Hơi ấm vẫn còn. Nhưng con tim đã ngừng đập. Ông "ra đi" chưa trả lời câu hỏi của bà mà khuôn mặt vẫn thanh thản như không còn nợ nần gì ở nơi trần thế.

Người đến dự đám tang đông hơn đám cưới ông ngày nào. Trước linh cữu đã có một vòng hoa thật lớn của người thương binh mù vừa ở quê ra, kết bằng nghìn bông mẫu đơn, tiết liệt đỏ. Hương hoa mẫu đơn khiêm nhường, thoảng nhẹ hòa cùng khói hương trầm, bay lên

Ngày cuối cùng của một diễn viên hài

Mười bốn giờ bốn mươi lăm phút và tôi, một diễn viên hài, đã thật sự toát mồ hôi lạnh. Sự mệt mỏi đến lả người của tôi khiến chiếc gương soi trong tủ đứng phải bỗng dưng chao đảo vì kinh ngạc. Tôi nhìn chiếc đồng hồ vô giác rồi nhìn chiếc gương và bỗng thấy mình đáng buồn cười ghê gớm. Và tôi phá ra cười.

Tôi hiểu là buổi công diễn để thêm một lần đăng quang cho ngôi vị vua hài của tôi sắp đến, khán giả sẽ không khác hơn, là nổ những tràng cười rất đỗi cuồng nộ muôn ngàn năm không thể khác hơn được nữa của họ. Có một cái chong chóng màu xanh xám xoay tít vào ở đâu đó trong tôi. Tôi rời khỏi chiếc giường bằng những bước chân nặng của mái đầu buồn bã. Tôi hiểu là mình đang chợt cô đơn ghê gớm.

Tôi hai mươi sáu tuổi và có nhiều năm làm trò cười trên cõi thế gian này, trong vai một tha nhân lố bịch, một tha nhân khôi hài, một tha nhân đầy những mâu thuẫn với những khoái cảm tội nghiệp. Tất cả cốt chỉ để cho những tràng cười có thể bung ra, có thể quằn quại, có thể nhức nhối, có thể khùng khục hợm đời, ngạo nghễ chua chát và đắng ngắt... Dẫu sao thì người ta cũng đã từng cười trước mặt tôi như để trút khỏi người họ một đống rác chất chứa cả vũ trụ của họ. Ở một sân bãi vùng thôn quê hẻo lánh hiu hắt nào đó - nơi vắng bóng triết thuyết quý tộc siêu ngôn ngữ để thay vào đó là một bề dày ca dao đang bị phân hóa một cách tội nghiệp bởi đám trẻ thích cười - đầy cỏ, đầy muỗi và đầy tiếng ếch nhái..., thường cũng đông nghịt người và đầy tiếng cười khi tôi đến. Ở một rạp hát nóng nảy và những hàng ghế đã rũ ra có thể vì biết cười, có thể người ta ham cười mà quên nó, những đôi chân xàng xê lịch sự và bất lịch sự dẫm lên những niềm khoái cảm hoang tưởng nào đó đã đưa họ đến... cũng không khác hơn, tất cả có thể ngoác quai hàm cổ đại ra mà cười.

Và thường trong cái nheo mắt hay nhăn mặt để cù khán giả, tôi nhìn qua con mắt mở tỉnh rụi, lạnh lùng quan sát, vẫn thấy có những bàn tay đục nước béo cò để quơ lấy những cảm giác nóng hổi, mà chúng bao giờ cũng đủ lý do về triết thuyết một cuộc đời bảo đảm để chúng có thể làm như vậy; cũng có những quai hàm ngoác ra vô lối hơn, đắc thắng một cách hiểm độc hay quặn lòng mà lẽ ra nên thế hoặc không nên thế. Dẫu sao đi nữa và dù sao đi nữa, không biết tự bao giờ tôi đã trở thành Người-điều-khiển-tiếng-cười-của-thế-gian.

Ở một góc ruộng, bờ ao, bụi tre la ngà hay trong quán cà phê đèn mờ hay trên một chiếc xe siêu tốc độ..., người ta đã nói về tôi như vậy, chắc chắn là như vậy. Thật ra thì tôi không danh tánh, không tên tuổi, tôi là một diễn viên hài của đoàn kịch cổ động. Nhưng ơn trên, tôi có khiếu bắt ai cười là người đó phải bò ra dưới chân tôi mà cười. Duy có một điều không ai biết, và cũng chẳng có một tín đồ nào có thể biết về một khiếm khuyết của ông thánh của mình, là tôi chẳng thể cười trước một ai cả, không ai có thể làm cho tôi cười được, và điều tôi chợt nhận ra là cái điều đang vô lý một cách đáng sợ ấy không hiểu nó sẽ đi đến đâu. Và sẽ đi đến đâu nhỉ nếu như bạn không có khả năng làm người khác bật cười, ít ra là một khi người đó đã từng làm cho bạn phải phải bò lê lết ra mà cười? Ồ, tôi chả trách bạn được đâu, bởi như thế bạn chính là bạn. Và tôi chính là tôi, với một nỗi buồn nặng trĩu và không một ai có thể làm trò cho tôi cười được.

Mười giờ năm mươi phút, tôi đã là một thanh niên lịch sự và còn đủ mười phút để phóng xe về gặp người ấy. Hôm qua, một lá thư báo cho tôi biết: “Hãy đến với cô ấy ở Sa-mạc-tiếng-khóc”. Tôi hiểu Sa-mạc-tiếng-khóc nằm ở đâu rồi. Nó nằm ở nơi mà mười năm sau ngày ấy, tôi phải đến.

Chiếc xe của tôi chạy bằng xác ruồi. Những khán giả hâm mộ độc đáo của tôi sau những giờ phút điên cuồng đã tạo nên nó với rất nhiều lý do bảo đảm cho họ phải làm ra nó-để dành cho Người-điều-khiển-tiếng-cười-của-thế-gian, để cho không có thứ vo ve nhớp nhúa nào của lũ bu hại ấy, để cho các nhà văn từng chắc lưỡi: “Giá như thế giới không có ruồi” có thể viết những trang sách mà loài người khi đọc nó phải biết khóc thương đòi chân lý trên trái đất này... Tôi hy vọng sẽ không đến trễ, với một sự thanh sạch mà bất kỳ một cô gái mới lớn nào trên thế gian này, cả những cô gái ở ngoài thế gian, trên những thế gian cao vòi vọi và huyễn hoặc bí ẩn của đĩa bay, cũng phải mong muốn.

Nhưng người ấy không phải là một cô gái mới lớn, nàng là một cô gái có hai mươi sáu nụ hoa nở. Ngày ấy, tôi là một thằng con trai mười sáu tuổi nửa người nửa ngợm và đã có thể cù vang tiếng cười trong trẻo của nàng. Tiếng cười mà các loài hoa trên thế gian này, mỗi lần nghe cũng phải mỉm cười theo, nở ra muôn ngàn hương sắc để phụ họa. Ngày ấy, nàng yêu màu hồng của tâm hồn non nớt và trinh trắng như cơ thể trăng rằm mười sáu của nàng, và yêu luôn cả thằng ngợm của tôi nữa. Đến mức mà bây giờ, sau mười năm bồng bột của tuổi trẻ, tôi vẫn tin chắc rằng nàng hãy còn nhớ tôi. Và hẳn trong một giấc mơ đẹp hồng hoang nào đó của tuổi đời nàng, nàng đã mường tượng ra tôi đang dắt dũ tiếng cười từ cõi cô đơn nào đó vẳng lại và đến trên làn môi của nàng.

Tôi dừng xe ở trước ngưỡng cửa của Sa-mạc-tiếng-khóc lúc ấy đang ngập tràn một thứ nắng vàng siêu thoát. Và ngay lập tức, không hiểu vì một lý do nào đó, chiếc xe của tôi bốc khói và tan biến một cách kỳ ảo. Không kịp cho tôi hết bàng hoàng, một con khỉ đi đến chỗ tôi, nó vừa nhún nhảy rất vui vẻ vừa đòi giấy thông hành. Tôi nhăn mặt tỏ ý không thể vô lý đến như vậy vừa đưa lá thư ra. Nhưng thật không ngờ, nó chưa kịp cầm lá thư để xem xét như trách nhiệm nó phải làm thế, thì nó đã ngồi xuống, ôm bụng quằn quại và cười đến chảy nước mắt, nước mắt nhỏ thành dòng. Tôi bỗng hiểu là mình vừa làm một động tác gây cười mà những con vật kia thì chưa đủ trình độ để có thể như người, là cười thôi, chứ đừng khóc. Những giọt nước mắt của con khỉ đọng thành vũng và phút chốc, vũng nước ấy có thể ngăn cách tôi và nó đến mức, khi nó cố gắng gượng đuổi theo tôi thì tôi đã đi quá xa rồi.

Chiếc đồng hồ khẽ nhắc cho tôi là chỉ còn năm phút nữa. Tôi chạy hộc tốc giữa sa mạc có thứ nắng vàng mà chưa bao giờ được biết. Sự mệt mỏi và những cảm xúc vô định tính làm biến dạng khuôn mặt mà các cơ sở trên đó đã từng được chế bản một cách điêu luyện, một cách thực vô tình. Như thể khuôn mặt tôi đã trở thành âm vang siêu phàm của chiếc sáo thần cổ tích. Mặt đất dưới chân tôi bỗng rạn vỡ tiếng cười của nó và nước từ sâu thẳm cũng trào lên mà cười. Chúng cười sùng sục và tỏa một thứ hơi nước có sức nóng dữ dội. Tôi hiểu là tôi đang trở nên quá sức một cách vô tình và đầy vô lý để đi vào một cõi đáng ghê sợ và đầy hài hước bi thảm. Có một cái gì đó thật huyền bí đang chờ đón tôi, như thể tôi đã yêu một cái gì thật mù quáng và phải vượt qua tất cả để xác tính cái tình cảm chỉ có duy nhất một lần chịu đựng để thể hiện.

Có tiếng hú từ trong xa lắc của ốc đảo sa mạc xanh. Nghĩa là tôi đã gần đến được với nàng. Tôi cảm thấy tôi chạy theo một sức hút bồng bềnh nào đó lấp đầy tiếng đồng vọng mà cổ xưa tôi có thể nghe được. Khi đặt chân đến gốc cọ đầu tiên ở bìa rừng, một lũ rắn lục xanh bỗng há hốc mồm nhìn tôi và chúng cười tung tóe nọc. Còn ở trong xa kia, tiếng gào khóc của sinh vật âm vang như một thế giới huyền thoại chưa bao giờ được kể. Tôi không hiểu vì sao trước đó, mình đã không đặt một dấu hỏi tại sao nàng lại sống ở đây, nàng làm gì ở đây vậy?

Một trận mưa nhỏ của cây cọ rung ngân và qua một màn không khí mờ ảo và trong trẻo, tôi nhìn thấy nàng. Nàng đang ngồi với một trăm sợi tơ nhện nối cả khu rừng vào tai và đôi bàn tay đặt lên những cuốn sách đỏ ghi tên các loài sinh vật. Nàng ngồi như một pho tượng với tư thế của người thiền. Tôi sửng sốt nhìn vào tựa đề cuốn sách và hiểu ra nàng đã làm gì trong suốt mười năm qua: Người-nghiên-cứu-tiếng-khóc-của-sinh-vật, để soi rọi dưới học thuyết tiến hóa có phải không? Nàng mặc chiếc áo xanh thay cho chiếc áo hồng của nhiều năm trước. Màu của lạc quan hơn trong ý niệm con người.

Tôi đến gần nàng nhưng một từ trường khiêm nhường nào đó khiến tôi không thể đặt tay lên đôi vai bất động ấy được. Tôi hiểu là phải đánh thức nàng Bạch Tuyết này như hoàng tử ngày xưa trong cổ tích. Tôi quỳ gối khẩn cầu cho mười năm xa nhau có mười lần vấp rễ cây để đem đến sự hồi sinh hiện hữu của nàng, dẫu chỉ trong phút chốc.

Và nàng hồi sinh, nàng quay lại mở mắt nhìn tôi, trong một thế giới biến thiên về cõi nào đó, lập tức tôi trở nên nhỏ dần và mất hút về một cực nào đó trong vũ trụ muôn hình vạn thể. Ngay lập tức, khu rừng im lặng và cũng ngay sau đó, điều kinh hoàng đã xảy ra, hầu như cùng một lúc, tiếng cười của lũ súc vật trỗi dậy. Như một phản xạ vô điều kiện, những dòng chữ chi chít của nàng trong tập bản thảo nghiên cứu tiếng khóc sinh vật bỗng biến mất. Nàng nhặt vội tờ giấy, nhìn những dòng chữ lần lượt biến vào cõi vô vọng rồi nhìn tôi, cái nhìn đủ mọi cảm xúc của ái, ố, hỉ, nộ; của tình yêu vô bờ bến mà mười năm qua để dồn lại trong ánh mắt ấy, trong giây phút ấy, trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy. Nàng khuỵu xuống một cách rã rời và tuyệt vọng. Không hiểu sao lúc ấy tôi vẫn có thể chờ đợi một đôi chân của Akikô lê thật nhanh đến phía tôi, như bất kỳ một phụ nữ người Nhật nào, những người đã sinh ra những trang võ sĩ đạo, để chứng thực tình yêu, đặt một dấu chấm cho câu cuối của trang tình sử này. Nhưng nàng vẫn bất động. Tôi quỳ xuống bên nàng. Khi nụ hôn vừa chạm đến cõi khẩn cầu, đôi môi chúng tôi chợt bị một tấm kính rất mỏng xé hai chúng tôi ra. Và trong một sát-na vụt cháy, bỗng nhiên lần lượt tất cả những tờ giấy bay xuống, hóa thạch, phủ kín lên nàng và tất cả biến mất, cả ốc đảo, cả khu rừng...

Khi tôi quay trở lại, một gã đười ươi ngặt nghẽo không hiểu có phải để dành cho tôi phút cuối không chợt vồ lấy tôi mà cười. Lẽ ra, nó nên từ bỏ một nhiễm sắc thể để hóa thành người, để có thể được cười theo ý tôi điều khiển. Tôi cố gắng vùng vẫy, nhưng không thể làm bất kỳ một điều gì khác. Và tôi hiểu từ đó, tôi sẽ cười cho đến chết, không một ai có thể biết đến, và không một lời trối trăn nào để lại

Diva xóm phố

Anh xem thế nào làm cho em một đĩa nhạc.

Câu nói nửa nũng nịu nửa mệnh lệnh của vợ làm Tó giật mình. Nhìn chằm chằm vào mặt vợ, Tó hiểu vợ không nói đùa. Mấy năm nay, từ khi anh chiều vợ mà lắp hẳn một bộ karaoke ở nhà thì gia đình đã có chút xáo trộn. Tó thường xuyên phải ăn ngoài hàng, bởi cứ đến giờ người khác đói thì vợ anh - cô Thắm - lại nổi hứng hát hò.

Nói thêm rằng, Tó lắp karaoke thì không phải tầm thường. Bởi anh là dân buôn bán đồ âm thanh. Một căn phòng được đắp tường sần, trần thạch cao, rải thảm, cửa bọc mút đàng hoàng. Trong căn phòng mười sáu mét vuông anh cho lắp đến ba cặp loa và một thùng siêu trầm, chỉ cần nhích nhẹ volume lên là âm thanh đã đầy ắp. Từ khi có bộ dàn karaoke, Thắm ở nhà thường xuyên hơn, ít bám đuôi Tó đi chơi, cũng ít ra cửa hàng điều khiển nhân viên hơn. Tó đã lấy thế làm mừng.

Anh xem thế nào tiến hành nhanh cho em đi.

Tó chẳng biết nên gật hay lắc đầu. Đành rằng giọng ca của vợ anh cũng không đến nỗi lên cao vút - xuống mất hút, nhưng để hát chuyên nghiệp lại là việc khác. Đem cái ý nghĩ đó ra nói với Thắm, Tó nhận được một cái nguýt dài. Xin lỗi anh nhé. Mấy đứa ca sỹ nhạc thị trường hát thì thấp như vịt, hơi thì như người đói ăn còn ra đĩa CD ầm ầm, rồi thành thần tượng của cả một thế hệ tuổi teen. Định bảo với Thắm là chúng nó còn xinh đẹp, còn ăn ảnh…, nhưng lại thôi. Sém chút nữa động vào niềm kiêu hãnh của cô á hậu làng băm chặt, tức là chuyên làm chả nhái. Tó nhỏ nhẹ nói sang chuyện khác, rằng em phải học thanh nhạc, rồi thế nọ thế kia. Thắm nguýt một cái dài như đêm ba mươi, bảo là nhà văn ấy, có những ông học hết lớp bốn mà cũng nổi tiếng, giờ em hết cấp ba rồi, làm gì mấy nốt nhạc mà phải sợ. Mà cần quái gì phải biết nốt nhạc, anh không nghe em hát đấy à. Từ xa tưởng là Phi Nhung ấy chứ. Tó lầm bầm trong miệng, nghe cô hát thiếu điều tôi muốn phi dép phi guốc chứ phi nhung phi lụa cái gì.

Thắm ở độ tuổi mà, nếu muốn tạo cho người khác ấn tượng về sự trẻ trung thì khai là mới ngoài băm, còn nếu muốn tỏ ra mình già dặn thì bảo là gần bốn mươi. Thắm cao hơn mét rưỡi, nhưng thân hình… nếu tăng thêm vài cân nữa, bước lên cân điện tử thì tiếng nói sẽ phát ra rằng xin quý khách bước lên từng người một. Thắm hay nhắc đi nhắc lại là ngày xưa mình đã từng là hoa khôi. Người nghe hoặc là sẽ phì cười, hoặc giả nếu không cười vì lịch sự thì mặt cũng phải nhăn nhó để tránh đi nụ cười.

Lời của Thắm đối với Tó là mệnh lệnh, hay nói theo ngôn ngữ phim cổ trang Trung Hoa là thánh chỉ. Thánh chỉ đã ban, đừng hỏi, đừng cãi. Dù ngoài đời, Tó là một tay lão luyện, sẵn sàng đuổi khách vì nhìn mặt thấy khó chịu, nhưng về đến nhà, Tó vẫn chỉ là một ông chồng. Hơn nữa, Tó có được như ngày hôm nay, cũng là nhờ những đồng tiền ban đầu của bố Thắm. Vậy thì, sao lại có thể vô ơn được.

Tó bàn với tay đàn em trong nghề buôn bán đồ điện tử. Tay đàn em này cũng rạch giời rơi xuống, đi lên từ nghề mông má luộc đồ, nổi tiếng trong giới buôn bán đồ second-hand là có thể trong ba ngày làm cho loa hay ampli có mạng nhện như đồ cũ, mặc dù chính xác nó là hàng đánh từ Vân Nam về.

Tay đàn em cười phớ lớ, bảo là việc đó nhỏ như con thỏ, anh cứ để cho em. Khách hàng thân của em nhạc sỹ thì có cả tá, nhà văn nhà báo thì không tính. Tó mừng rỡ, thôi, chú cố giúp anh, hết bao nhiêu anh lo, tiền không thành vấn đề. Tay đàn em bảo, đáng gì đâu anh, cùng lắm chi phí chỉ bằng nửa công hàng, mà mỗi tháng anh em mình tiêu pha cà-phê bia bọt chắc cũng phải từng ấy.

Nói là làm. Tay đàn em dẫn Thắm đến gặp một ông nhạc sỹ mà theo hắn thì rất giỏi. Hai chị em đi vào một con đường chưa có tên mà Thắm ứng khẩu ngay là chưa đặt tên cho một đoạn đường, dựa theo lời bài hát là chưa đặt tên cho một cuộc tình, cho mai sau đời đem dao đem thớt, không, đúng ra là cho mai sau đời đem rao đem bán. Theo chỉ dẫn của ông nhạc sỹ thì đi hết đường rẽ trái, nhìn thấy biển Cấm đái bậy thì rẽ phải, rồi đi chừng ba mươi mét, sẽ có tấm biển Lang Là chữa trĩ nội thì rẽ trái, rẽ được trái rồi thì nhìn thẳng, thấy cái nhà nào sơn màu hồng thì là nhà tôi. Lúc hỏi đường, tay đàn em không nhịn được trước kiểu chỉ đường kỳ quặc, đã phải hỏi là nếu biển bị dỡ hết thì tìm kiểu gì, ông nhạc sỹ phá lên cười rồi ngân nga  Trăm năm bia đá thì mòn, Biển làng tớ dựng mãi còn trơ trơ. Đến nước đó thì tay đàn em không dám hỏi thêm gì nữa. Vì hắn sợ thơ. Cả ngày ngồi bán hàng đã bị tra tấn bởi đủ thứ thơ, từ thơ dân gian đến thơ trừu tượng, từ thơ của hội câm điếc đến thơ các cụ phụ lão. Kèm theo những bài thơ tự phát ấy là công đoạn xin tiền, anh ơi, anh đóng góp tí chút cho các cháu… Có lần hắn lắc đầu bảo hết tiền mặt thì người đi xin nhã nhặn nếu thế anh đóng góp cho cái micro để chúng tôi đi ngâm thơ cũng được.

Ông nhạc sỹ hé lỗ cửa ra nhìn, hắng giọng rồi bảo hai chị em đợi một lát. Thắm đoán chắc ông ta đi đánh răng rửa mặt, nghệ sỹ là hay thức khuya dậy muộn. Nhầm, răng là cái gì mà phải đánh. Nhìn điệu bộ của ông, Thắm mới hiểu là ông thay quần áo. Ông nhạc sỹ bắt tay đàn em, rồi nhã nhặn hôn tay Thắm theo một kiểu chắc xuất phát từ châu Phi. Sau một tràng mào đầu đầy kiểu cách, đại loại như cơn gió nào đưa hai người đến đây vậy. (Thắm ngạc nhiên, đi bằng xe chứ gió nào đẩy được người đi xa như thế, có họa là lốc xoáy). Rồi tôi có thể giúp gì quý vị. (Cái này thì nghe còn có lý). Thắm nói lý do. Ông nhạc sỹ nói, ồ, Tam Diệp tôi xin hoan nghênh những bạn trẻ đến với âm nhạc, môn nghệ thuật của thần thánh. Thắm bảo, cảm ơn nhạc sỹ Tam Điệp. Ông nhạc sỹ lắc đầu, tên tôi là Tam Diệp, tam là ba, Diệp là lá, ba cái lá. Tên đơn giản thế thôi mà đầy ý nghĩa, ba cây chụm lại còn nên hòn núi, thì ba cái lá không thể đùa được, chụm vào ít nhất cũng thành rừng, rồi cười hơ hơ, đấy là cách chiết tự của tôi, vì tên cúng cơm của tôi là Lâm. Ông nhạc sỹ lại hỏi tiếp, vậy em tốt nghiệp Cao đẳng Nhạc họa hay Nhạc viện. Thắm bảo em từ trước đến nay chỉ hát karaoke. Ông nhạc sỹ lại gật gù, đừng coi thường karaoke. Người Nhật nghĩ ra cái gì là chết cái đó. Bao nhiêu ca sỹ lúc khởi nghiệp cũng chỉ là đi hát karaoke thôi đấy. Vừa nói ông vừa ngoáy mũi. Rồi lúc cao hứng hơn, ông gãi chân sột soạt. Thắm nhìn động tác gãi chân của ông mà tê cả người. Nghệ sỹ, chao ôi, họ gãi chân cũng khác người thường, động tác thật là nhẹ nhàng khoan thai, chứ đâu cứ hằm cà rà bằm như chồng mình. Tay đàn em lại nhỏ nhẹ, dạ xin thưa là chi phí không thành vấn đề, bà chị em vốn yêu văn nghệ, mong có một ấn phẩm để đời, đầu tiên là cho hàng xóm kinh sợ, sau nữa là để không phụ lòng người hâm mộ. Nhạc sỹ Tam Diệp xua tay, đừng nói chuyện tiền nong với tôi, đời tôi sinh ra là để phụng sự nghệ thuật, tuy nhiên, nếu tiền đã không thành vấn đề thì chúng ta bắt đầu công việc chắc cũng dễ dàng hơn.

Nhạc sỹ Tam Diệp nhìn Thắm chăm chú. Ánh mắt trìu mến. Rồi hỏi nhỏ tên em là gì. Thắm e lệ xưng tên, rồi chua thêm một câu là liệu em có cần nghệ danh như Vĩnh Thuyên Thắm hay Hàn Băng Thắm hay không. Nhạc sỹ Tam Diệp khoát tay, thiên hạ đã chán với những cái tên kiểu kiếm hiệp lắm rồi, em cứ lấy nghệ danh một là Thắm hai là cô Thắm, sau này mình ra album Thắm 1, Thắm 2, Thắm e nờ mũ ích xì cho thiên hạ lác mắt. Tên cha mẹ đặt cho, đừng đổi mà phụ lòng các cụ. Thắm nghe mà cứ như ai đó rót mật vào lòng. Ông nhạc sỹ nheo mắt lại ngắm Thắm, rồi lấy máy quay cá nhân ra, chĩa thẳng vào mặt Thắm mà bấm nút. Miệng lẩm bẩm, rất ăn ảnh, tuy nhiên, mắt hơi nhỏ, chưa có độ ướt át, theo anh thì em nên đi sửa mắt, xăm môi, tóc phải ép lại rồi rẽ hai bên cho nó lãng đãng chiều Cổ Nhuế. Thắm hỏi, sao không phải chiều hồ Tây. Nhạc sỹ Tam Diệp cười, hồ Tây giờ còn quái gì là lãng mạn, người ngồi đầy ra bờ hồ, một chốc lại có bọn câu cá trộm. Cổ Nhuế mới lãng mạn. Nói xong, nhạc sỹ Tam Diệp rút máy điện thoại ra gọi, em ơi giúp anh vụ này, một người bạn anh đã xinh lắm rồi nhưng em phải làm cho xinh hơn để sau này cô ấy còn xuất hiện trước công chúng. Quẳng máy rất kiểu cách vào góc ghế, ông nhạc sỹ quay sang nhìn Thắm, anh phải đích thân gọi điện, chứ cô này là thẩm mỹ gia số một thành phố, đuổi không hết khách, quý lắm mới nhận lời đấy. Thắm nghe câu này quen quen, trước kia Tó hay dùng, cứ gặp khách là Tó nói quý lắm mới bán, trong khi hàng thì để chất đống, ngày nào cũng khấn thần tài giúp cho mau mau giải tán được hàng, chứ vay nợ người ta lãi tính từng ngày.

Thôi chết, nói chuyện từ nẫy đến giờ mà chưa pha nước, tính tôi nó thế, cứ động đến công việc là quên hết mọi chuyện, nhạc sỹ Tam Diệp phân trần. Thắm bảo, thôi mình ra quán cà-phê cho nhanh, chứ ai lại bắt nhạc sỹ phải pha nước. Tam Diệp gật đầu, thế cũng được.

Ba người lôi nhau ra một nơi mà chỉ nhìn cách trang trí, người ta cũng nghĩ chủ quán có vấn đề về thị giác. Tường ngoài thì sơn đỏ, vẽ chằng chịt những hình thù kỳ quái. Bên trong trồng mấy bụi tre ngà, một hòn giả sơn xanh lè. Chỉ còn thiếu màu tím nữa là đủ sắc cầu vồng. Mà đúng là không thiếu, ngồi vào bàn, mới thấy ghế màu tím, tím ngắt, tím thủy chung đến nỗi Thắm phải ngân nga Tím cả chiều hoang ôi tím cả chiều hoang đến ngồi bên mộ làng. Tam Diệp hỏi mộ làng là mộ gì, Thắm bảo mộ làng là mộ làng, làng lờ thấp chứ không phải lờ cao. Tam Diệp phủi tay, dường như đã quá quen với những cảnh huống như thế. Đi thẳng vào việc, em muốn ra CD đúng không, được, anh là người làm nghệ thuật chuyên nghiệp, sẽ giúp em trong khả năng của mình. Em thích hát nhạc gì, nhạc sến đúng không. Thắm gân cổ lên, anh đừng nói mỉa mai như thế. Sến là sến thế lào. Nhạc trữ tình. Album của em bao nhiêu bài. Thắm bảo năm phút một bài, vậy cứ cho em độ mười bốn mười lăm bài cho nó hết dung lượng đĩa, thời buổi này, lãng phí còn đáng khinh hơn ăn cắp. Tam Diệp gật gù đồng ý, rồi hỏi thế em ra đĩa để tặng bà con hay còn kinh doanh. Tất nhiên là phải nhất tiễn song điêu anh ạ. Tam Diệp giật mình, cô này thế mà chữ nghĩa kinh ra phết. Thắm ỏn ẻn, em mới học được câu này trên tivi. Thời buổi này, muốn dậy người ta cái gì, cứ lồng vào phim, vào show games là xong hết. Thế thì phải tính tại, Tam Diệp gật gù, theo anh, một năm có mười hai tháng, đĩa mình làm mười hai bài cho nó có chủ đề. Bài đầu tiên sẽ là tháng một, đương nhiên là mùa xuân, vậy thì một bài Xuân, chơi hẳn Bến xuân hay Gái xuân cho nó ra vẻ nhạc sang. Thắm vỗ đùi đánh đét, khen tay đàn em có con mắt tinh đời, dẫn chị mày gặp được thầy. Nhạc sỹ Ba Lá nhưng là lá ngọc chứ không phải lá mít lá đa nhé. Tam Diệp tiếp, tháng hai thì chơi hẳn bài Hai nửa vầng trăng hay Hai chuyến tàu đêm cho nó máu. Thắm cười, em hát mấy bài đó thì vi tính lúc nào cũng cho ít nhất là chín mươi tám điểm trở lên, ca sỹ chuyên nghiệp nhìn còn khóc tiếng Mán. Cứ thế cho đến hết mười hai tháng. Đột nhiên, Thắm lắc đầu, bảo ơ thế không có bài tủ của em là bài Giết người anh yêu à. Tam Diệp hỏi bài đó là bài nào, Thắm ngân nga Tại sao anh lỡ giết người anh yêu, người yêu anh có tội tình chi đâu. Tam Diệp xua tay, thôi em ạ, thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại lâu rồi, giờ em cứ kêu gào giết giết giết thế này, sợ kiểm duyệt không cho ra. Thắm bảo, thế thì thay cho em bằng bài Tình đẹp mùa chôm chôm vậy. Tam Diệp bảo, ừ, như thế sau này biết đâu nhờ em hát mà thúc đẩy được phong trào VAC thì quá hay.

*

*     *

Anh ơi em hạnh phúc quá.

Kèm theo câu nói là động tác nhẩy lên cổ Tó mà hôn, mà hít. Tó ngẩn người ra. Hóa ra cô Thắm vợ mình là nhân tài ẩn dật không chừng. Cho em tiền để em ký hợp đồng. Tiền đây em cầm đi. Anh có ăn gì không để em lấu. À thôi, mình đi ăn tiệm, dạo lày em sắp ra CD nên bận lắm. Xong một tràng liên thanh, Thắm tủm tỉm nhìn Tó cười.

Thắm lướt web cả đêm chỉ để tìm những hình bìa album, miệng lẩm bẩm sao mà xấu thế, sao mà quê thế, ờ cái này đẹp, Tây mà lị. Chỉ đến khi Tó gắt, em phí sức như thế sau này làm sao thu âm được, Thắm mới phụng phịu đi ngủ.

Thắm dậy từ lúc tờ mờ sáng, mặc bộ quần áo thể thao rồi đi ra khỏi nhà. Thắm bắt đầu chiến dịch giảm cân. Gì chứ sau này ra đĩa, cả nước nhìn vào, sồ sề quá mất hay. Trưa về, Thắm đánh một giấc, rồi chiều lại tất tả đến trung tâm thẩm mỹ, tập chăm chỉ, luyện kiên trì. Cuối chiều, dường như mệt quá, Thắm lẻn ra ngoài đánh một lúc hai bát phở, bốn quả trứng trần, hai đĩa ốc nhồi hấp kèm theo một chai bia, tráng miệng nửa quả dưa vàng. Trong bữa cơm tối Thắm bảo chồng, giờ em ăn ít để giữ eo, anh đừng dụ dỗ em ăn, ý chí của em thì không ai có thể bì được.

Sau một tuần kiên trì luyện tập giữ eo, Thắm tăng được bốn cân. Làm thẩm mỹ xong, không ai có thể nhận ra Thắm từ xa. Cách một trăm mét thì nhìn như người Ấn, gần thêm năm chục mét nữa thì lại như người Ả Rập, còn đối diện thì… muốn hiểu sao thì hiểu. Thắm nhìn mình trong gương, quá đẹp so với quy định. Nhấc điện thoại lên, thẽ thọt gọi cho Tam Diệp. Ông nhạc sỹ đồng tình, câu chuyện kèm thêm những tiếng à há, ồ hố, ừ hứ cho thêm phần kiểu cách, anh sẽ thu xếp ngay, bạn anh là nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, đang bận chụp cảnh lá rơi gốc cây khô ở miền núi, nhưng anh gọi là về ngay, quý lắm mới chụp đấy nhé.

Buổi chụp ảnh được tiến hành ở studio của ông Quý lắm mới chụp. Hóa ra tên thật của nhiếp ảnh gia cũng là Quý, trong carte de visite đề là Quy DT, làm Thắm luận mãi không ra, tưởng là Quý Điện thoại. Studio của Quý là một căn phòng chừng ba mươi mét vuông bên kia sông, nơi cách đây chục năm đất rẻ như cho. Một thân cây khô cắm ít lá bằng nhựa, hai tấm vải dù chăng từ đầu nọ sang đầu kia, vài tấm xốp vẽ chằng chịt như kiểu trẻ con vẽ bậy, một bức tượng thiếu nữ cụt đầu, một bộ xương khô. Đủ để nhát ma những ai thần kinh kém. Nhạc sỹ Tam Diệp kiêm luôn chức stylist, việc gì phải thuê cho nó tốn tiền. Đầu tiên là chụp hình Thắm trong trang phục dân tộc, áo mớ ba mớ bẩy, tay cầm nón quai thao, chứ đội vào thì ai nhìn thấy mặt. Tiếp đó là màn hiện đại, Thắm mặc bộ quần áo da bó sát người, làm nổi bật những đường cong thực sự đã đi về nơi xa lắm từ rất lâu. Rồi đến màn quần áo bà ba, tay cầm thúng chôm chôm quả bóc quả không để minh họa cho bài hát Tình đẹp mùa chôm chôm là bài tủ của Thắm, bài mà Thắm đinh ninh rằng nếu mình vừa hát vừa bán thì chỉ một loáng là hết hàng. Chụp đi chụp lại, ông nhạc sỹ và ông nhiếp ảnh vẫn lắc đầu. Vẫn thiếu một cái gì đó. Ông nhạc sỹ gõ vào đầu ba cái, vừa gõ vừa nói tôi đang tư duy, đang gõ cửa cho những ý tưởng thiên tài phải quay về. Và chúng cũng quay về thật. Nhạc sỹ Tam Diệp vỗ tay vào đùi đen đét, cởi, cởi tất. Thắm vội vàng cởi đôi tất ra. Nhạc sỹ Tam Diệp lắc đầu, cởi tất là em cởi hết quần áo ra, bìa đĩa mà thiếu sự sexy thì ma nó mua à. Thắm gật đầu. Công lao cả tuần mình đi thẩm mỹ, cũng phải khoe cho thiên hạ biết chứ. Thắm đi vào, rồi đi ra với mảnh vải lụa trắng khoác quanh người. Nhạc sỹ Tam Diệp gật gù, xôi oản em đẹp thế kia, đầy đủ thế kia mà lại giấu kín. Tức thì Thắm banh cả bộ ngực ra. Thôi em, mình khoe xôi chứ không khoe lạc, nhất là khi lạc của em thâm rồi. Photo là phải nửa kín nửa hở, phải khơi gợi cảm xúc chứ không toạc hết cả ra. Thắm gật gù ra chiều hiểu rồi, thấm nhuần rồi.

Cả một bộ ảnh hàng trăm chiếc để chọn ra chục chiếc. Thắm bảo, chao ôi, các anh kỹ tính thật. Nhạc sỹ Tam Diệp lẩm bẩm, nếu em chừng hai chục tuổi, anh còn bắt em chụp vài ngày chứ đùa à. Đến phần thu âm, nhạc sỹ Tam Diệp bảo, em nghe hòa âm nhé. Nhạc sỹ Tam Diệp đánh vài nốt trên đàn organ. Thắm lắc đầu, bảo em xin lỗi, tưởng thế nào, chứ đếch hay bằng nhạc karaoke. Nhạc sỹ Tam Diệp gật đầu, nhạc karaoke thì hay quá rồi, nhưng anh không muốn em đụng hàng. Chỉ cần giọng em không đụng ai là được, Thắm gân cổ lên, chứ nhạc hay là mình phải dùng. Hợp đồng đã ký, là người chuyên nghiệp, nhạc sỹ Tam Diệp gật đầu. Đĩa đây, anh nghe đi rồi chơi cho em đúng như thế.

Một buổi sáng thu âm được tận năm bài. Nhạc sỹ Tam Diệp thốt lên, anh không ngờ em thuộc nhạc như thế. Ngày nào mà em chẳng hát, Thắm tự hào. Đấy là anh chưa nghe em hát Giết người anh yêu đấy. Anh sẽ nghe, và bài đó mình sẽ đưa vào Album Thắm Hai, mà viết bằng chữ cho nó độc đáo. Anh thấy em hát có bằng Phi Nhung không. Hơn chứ làm gì bằng, nghe em hát xong Phi Nhung chắc bỏ nghề đi bán chôm chôm chứ làm gì dám hát. Sau một hồi qua lại đò đưa, Thắm không còn e dè gì nữa. Cô điều khiển cả ban nhạc, cả đội ngũ ghi âm. Em ơi vuốt cho giọng chị ngọt một tí, anh ơi chỗ nhạc dạo này đánh cho nó du dương một chút nữa, nhạc mở đầu thì cho em một phát đàn bầu nghe cho nó dân tộc, nhưng phải có bi-a-lô đệm cho nó hiện đại. Cả ban nhạc lẫn kỹ sư âm thanh đều gật gù, trời ơi, chị mới vào nghề mà rành quá, bọn em phục chị quá, nhưng anh em mệt rồi, giá có tí gì cay cay thì tốt. Bia tươi nhé, chị có thẻ VIP, chồng chị lắp âm thanh cho quán, anh em vào uống mệt nghỉ.

Bia rót tràn cốc. Thức ăn được bưng ra với vận tốc của phim hoạt hình tua nhanh. Chúc tụng nhau ầm ĩ. Tay nhạc công lắc đầu, chị bắt đầu nghề nhạc hơi muộn, lẽ ra phải đi hát từ lâu rồi. Kỹ sư âm thanh nâng cốc, em chưa thu âm cho ai mà nhanh như thế, giọng chị ấm quá, ấm mà lại lảnh lót, thật là vô đối. Thắm cười như chưa bao giờ được cười, uống tràn cung mây, tiện đây chị cảm ơn các chú, nghề gì cũng phải có bồi dưỡng, thù lao là một chuyện, còn đây là tấm lòng của chị, cầm lấy cho chị vui. Tấm lòng mà gọn trong phong bì thế kia thì đẹp quá còn gì, chúng em quý lắm mới nhận đấy, chứ bình thường không bao giờ làm thế. Ông nhạc sỹ thì lẩm bẩm, Thắm ơi em uống bia vào mặt hồng lên, xinh quá. Anh tiếc là gặp em quá muộn. Thắm cao hứng hát Ta gặp nhau trong muộn màng, ta gặp nhau trong vội vàng. Bài này thì lạ gì, ông nhạc sỹ lẩm bẩm, rồi không muốn để người đẹp phải solo, ông đi bè trầm bằng một giọng như cất lên từ lâm tuyền Suốt đời anh vẫn mãi là người đến sau. Một trái tim khô, một trái ớ ơ tim mùa đông.

Xong bữa bia buổi thu âm càng cao hứng. Thắm hát một hơi từ đầu chí cuối. Ông nhạc sỹ rụt rè góp ý, em ạ bài này là nhạc tiền chiến, em không nên hát ẽo ọt như thế. Tiền hay hậu cũng phải tình cảm anh ạ, thôi được rồi, quý anh lắm em mới hát theo ý anh đấy nhé, bài này là em hát riêng tặng anh đấy. Đề nghị âm thanh thu lại. Nhạc nền nổi lên. Thắm lẩm bẩm Bài hát này tôi tặng riêng nhạc sỹ Tam Diệp, người đã phát hiện ra tôi. Không có nhạc sỹ, mãi mãi tôi sống trong yên lặng, và không bao giờ dám bước chân đến với âm nhạc. Vỗ tay. Ơ kìa các em, không có tiếng vỗ tay à. Cả ban nhạc như đang mơ ngủ bỗng giật mình, vỗ tay. Muộn rồi. Thu lại. Thu âm xong thì trời tối. Nhạc sỹ ơi, em mệt quá, muốn đi dạo một vòng. Thì đi.

Anh nhìn trên trời này, hôm nay nhiều sao quá anh nhỉ. Ừ, ngôi sao tướng tinh của em đang sáng. Và sẽ sáng trên bầu trời nghệ thuật. Hôm nay thu âm tốt quá anh nhỉ. Ừ, em chơi đẹp với ban nhạc quá, thế còn anh thì sao. Anh muốn gì nào. Anh chẳng muốn gì cả, người nghệ sỹ chỉ muốn phụng sự cho nghệ thuật thôi. Vâng nhưng mà em muốn có chút quà cho anh. Tùy em thôi, anh đâu có đòi hỏi gì. Vậy em mua cho anh chiếc SH nhé. Ừ, cũng được em ạ. (Định nói là quý lắm anh mới đồng ý đấy, nhưng sợ lố, nên nhạc sỹ im lặng cầm lấy tay Thắm). Tay em ấm thế. Rồi nhạc sỹ khe khẽ hát Tay em lạnh để cho tình mình ấm. Thắm chìm trong cơn say đắm, rồi đưa ngay ông nhạc sỹ lên bàn cân với chồng mình. Chợt thấy, sao chồng mình nhỏ nhen, tầm thường đến vậy.

Mất một buổi bàn luận xem bìa đĩa tên gì. Ông nhạc sỹ hào hứng chém gió, tên phải độc đáo em ạ. Những tình khúc của Thắm, dài quá, không ấn tượng. Thắm và âm nhạc, nghe như chuyên mục báo Người cao tuổi, bỏ. Thắm hát, nghe có lý, nhưng đĩa nhạc, không lẽ Thắm ngâm thơ hay sao mà phải đề là Thắm hát, cũng không được. Tự tình Thắm, à, tít này sang đấy, nhưng trùng. Thắm Xưa, tức là Thắm của ngày xưa, mà ngày xưa lúc nào chị chả đẹp nhất làng, tên này được, thống nhất thế nhé để anh tổ chức họp báo. Nhưng mà này, em ạ, có lẽ mình phải có lời đề tựa, để anh bảo bạn anh viết cho, thằng này cũng bận hết hội thảo Đọc truyện cho người khiếm thính đến Làm sao để phim truyền hình hay hơn, nhưng nó quý anh lắm, kiểu gì cũng viết.

Buổi họp báo diễn ra tưng bừng. Hơn trăm nhà báo, vài chục máy ảnh, ba bốn máy quay. Ánh đèn chớp lia lịa. Mirco đi lại như con thoi. Nhà tài trợ chính Tó Audio Second-Hand Âu Mỹ. Sau họp báo là có màn tiệc đứng kèm karaoke mệt nghỉ. Bia tươi tài trợ. Đồ nguội tài trợ, à không, là do khách mua hàng điện tử của Tó thiếu tiền, nhân việc này Thắm quy sang đồ nguội để trừ nợ. Các nhà báo đứng lên hỏi, toàn câu đã được chuẩn bị sẵn. Chị ấp ủ ý tưởng này từ bao lâu. Dạ, Thắm ấp ủ ý tưởng này từ lâu rồi, nhưng nay mới có dịp thực hiện, vâng, nhân đây Thắm xin cảm ơn ba mẹ đã sinh ra con, đã cho con giọng hát ngọt ngào, vâng, em cảm ơn anh Tó, người chồng đáng kính của em, người đã sánh bước cùng em bao nhiêu năm nay, nhờ anh lắp karaoke mà em mới biết mình hát hay, vâng, con xin cảm tạ trời đất, tôi xin cảm tạ nhạc sỹ Tam Diệp, vâng, xin cảm ơn. Những tràng vỗ tay vang như sấm dậy. Tại sao album của chị lại có mười hai bài. Chết mày rồi phóng viên ơi, câu này chị thuộc lòng. Thắm hắng giọng, dạ thưa quý vị và người hâm mộ, một năm có mười hai tháng, Thắm chọn mười hai bài là có chủ đề đấy ạ, bài đầu là Bến xuân, tượng trưng cho tháng một, còn bài thứ hai, bài thứ ba… Thưa chị, vậy bài Tình đẹp mùa chôm chôm là tượng trưng cho tháng mấy. Thắm nhíu mày, hỏi hơi xóc đấy, dạ, chôm chôm thường nở hoa vào tháng mấy, mà bài đó tượng trưng cho mùa thu, mùa của tình yêu, của những mơ mộng. Lại tiếng vỗ tay vang rần. Sao bây giờ chị mới bắt đầu con đường âm nhạc, phải chăng là quá muộn. Thắm khẽ cười, điệu cười được Tam Diệp chỉ cho từ hôm trước, dạ, thưa quý vị, Thắm đã định không bao giờ đi hát, nhưng khán giả yêu cầu nhiều quá, thôi thì quý lắm mới hát đấy nhé, quý lắm mới ra CD đấy nhé. Lần này thì không ai vỗ tay. Ngơ ngác. Nhạc sỹ Tam Diệp nháy mắt. Tức thì một cậu phóng viên báo mạng đứng lên, dạ, cảm ơn chị, vậy là chị xuất hiện để chiều lòng người hâm mộ đúng không, chị thật là tuyệt vời. Vỗ tay. Thôi, chúng ta ra bàn tiệc kẻo bia nó hả thì mất ngon, chứ hỏi thế này thì hết ngày, từ ngữ nào mà tả hết được. Lại vỗ tay.

Đến đêm Thắm mới mò về được nhà. Say. Vui. Phấn khích. Mở cửa nhà bước vào. Thấy Tó đang ngồi đếm tiền. Bao nhiêu cảm xúc của Thắm rơi rụng. Sao mình lại có người chồng tầm thường đến thế. Tó hỏi Thắm, hôm nay vui không, anh có đến một lúc nhưng bận đi lấy hàng. Thắm nói như quát, anh thì lúc nào cũng hàng, hàng. Cả đời em hôm nay là ngày vui nhất, bao nhiêu người đến, thế mà anh thì… Nói đến đấy Thắm òa khóc. Tó ôm Thắm dỗ dành. Anh buông ra đi, người anh toàn mùi kim tiền, em sợ lắm rồi. Anh không kiếm tiền em in CD bằng hy vọng à. Em không cần, từ mai em sẽ đi hát, bao nhiêu nơi họ đặt hàng. Nói rồi chui tọt vào phòng, bỏ lại Tó ngơ ngác như con gà ác trong thùng rác.

Thắm hẹn gặp nhạc sỹ Tam Diệp. Tất nhiên là nhạc sỹ đến, một tay cầm bó hoa, một tay vê ga xe SH. Tặng hoa rồi hôn vào má Thắm. Anh này, bây giờ em là của anh, thuộc về anh đấy. Ta gặp nhau trong muộn màng, nhưng muộn còn hơn không anh nhỉ. Em quý lắm mới hiến dâng cho anh đấy, người khác thì đừng hòng. Chỉ anh mới hiểu em thôi.

Nhạc sỹ Tam Diệp nghe đến đâu run bắn lên đến đấy. Tìm cách thoái thác. Anh là nghệ sỹ nên nghèo. Kệ anh, em đâu cần tiền, em chỉ cần người hiểu mình. Anh ít đánh răng lắm. Kệ anh, nhạc sỹ hôi một chút càng đáng yêu. Em ơi anh yếu sinh lý lắm. Em không cần, em chỉ cần tâm hồn anh thôi, chứ… (định nói tiếp là ngủ thì em ngủ với ai cũng được nhưng may là Thắm kịp im lặng rồi uốn lưỡi bẩy lần). Em ơi anh không có thời gian cho phụ nữ. Thì em đâu phải là phụ nữ, em là người sẽ hát những ca khúc của anh cơ mà. Ừ được rồi để anh suy nghĩ. Em cứ về đi. Hôn em một cái anh nhé. Ừ thì hôn, nhưng sáng nay anh ăn bún đậu mắm tôm đấy nhé. Ứ ừ ứ ừ, anh phải hôn chứ.

Về đến nhà, Thắm tuyên bố từ nay sugar you you go you go, sugar me me go me go làm Tó ngẩn người ra. Thắm bảo, không ngờ anh thiếu sành điệu như thế. Sugar là đường, you là anh, go là đi, tức là đường anh anh đi anh đi, câu sau là đường em em đi em đi. Tó ngạc nhiên, nhưng rốt cục, giữ người ở chứ ai mà giữ được người đi. Em cứ đi, anh cũng bận, cần gì thì giải quyết nhanh. Anh nói là giữ lời đấy nhé. Tó gật đầu.

Thắm đi như bay đến nhà Tam Diệp. Lần này Thắm mua hoa. Nhà đóng cửa im ỉm. Gọi mãi không được. Điện thoại ò í e, thuê bao quý khách vừa gọi đến ông trời còn chẳng liên lạc được, nhé. Nửa tiếng sau, một bà lão có đôi mắt nhìn xa như hai sợi chỉ đến bảo, cậu ấy chuyển nhà đêm qua rồi, chẳng biết có chuyện gì mà dọn như ăn cắp ấy. Thắm ngã ngửa người ra.

Vì sao Tam Diệp lại đường đột ra đi như thế. Có điều bất hạnh xảy ra với chàng chăng. Tim Thắm nhói lên một nhịp đau nghệ sĩ rất mơ hồ.

Thắm đã không biết Tam Diệp tâm sự với bạn rằng, mình sợ cô ta quá rồi, mới lại, hợp đồng vừa ký mình lãi ra một nửa, lại ăn được con xe SH, thôi chuồn cho nhanh, thay sim mới cũng đáng bao nhiêu đâu, có tiền thuê chỗ gần phố cho tiện làm ăn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: