Truyen ngan-Lenghiabk05
Hong nhan
Chưa bao giờ bà đổ lỗi cho số phận. Bà chỉ khắc khoải với sự ra đi quá sớm của chồng, khi bà mới bước vào tuổi hai tư với ba đứa con nhỏ dại. Hàng xóm làng giềng to nhỏ: "hồng nhan bạc phận", "gò má cao, sát chồng", bà tủi! Nhưng không phải vì thế mà bà ở vậy không đi bước nữa. Bà chẳng nói ra với ai, cứ giữ riêng trong trái tim mình thôi, rằng bà không thể chung sống với ai khác ngoài chồng bà - bố của những đứa con bà sinh ra. Bà mặc kệ những đồn đoán! Bà Tẫn giật bắn mình bởi tiếng quát mắng của người con rể: - Bà lão kia, sao mang cái này để vào trong phòng khách, bẩn thỉu! Một túi trứng gà bay từ trong nhà ra sân, vỡ bung bét ngay dưới chân bà. Bà Tẫn quay lại với ánh mắt già nua, thẫn thờ. Con gái bà nghe vậy từ trong bếp bước ra, nói vợi: - Đã bảo mẹ bao nhiêu lần rồi, những cái đó phải mang để xuống bếp. Khổ lắm! Bà định bụng nói lại với những đứa con của mình, nhưng cổ họng bà nghẹn nấc. Khác với mọi khi, những giọt nước mắt lăn rơi trên gò má nhăn nheo hằn khắc dấu của những vệt thời gian tần tảo, lam lũ. Nay bà không khóc. Nước mắt của bà không còn, hay có còn thì nó cũng không chảy ra ngoài được nữa. Bà lặng lẽ nuốt nó vào trong, rồi lê những bước chân mòn yếu ra cổng. Bà chẳng biết sẽ đi đâu, nhưng cứ đi. Bà nghĩ giá bà có chết đường, chết chợ nay mai cũng được. Điều mà từ xa xưa bà lo sợ! Chiều! Trong khi mọi người tất tả trở về với tổ ấm của mình, thì bà lặng lẽ ra đi. Mỗi bước đi tâm trí bà như muốn ngược lại với quãng thời gian xa lắc…Chưa bao giờ bà đổ lỗi cho số phận. Bà chỉ khắc khoải với sự ra đi quá sớm của chồng, khi bà mới bước vào tuổi hai tư với ba đứa con nhỏ dại. Hàng xóm làng giềng to nhỏ: "hồng nhan bạc phận", "gò má cao, sát chồng", bà tủi! Nhưng không phải vì thế mà bà ở vậy không đi bước nữa. Bà chẳng nói ra với ai, cứ giữ riêng trong trái tim mình thôi, rằng bà không thể chung sống với ai khác ngoài chồng bà - bố của những đứa con bà sinh ra. Bà mặc kệ những đồn đoán! Cơn mưa ập tới nhanh, như thể nó bám theo ngay sau màn đêm giá lạnh. Bà thều thào gọi mấy tiếng liền mà con bé Tũn không thưa. Cố sức, bà kéo chiếc liếp, len vào. Vừa lúc nó lò dò bước ra. Thật ra nó tên là Hiền, nhưng vì nó còi cọc quá nên từ ngày đến chợ buôn bán, bà đặt cho nó là Tũn. - Sao tao gọi mày mãi mà mày không thưa! Con bé nhanh nhảu đáp, rằng nó đang lụi hụi làm rau dưa phía sau nhà, nước chảy to nên không nghe tiếng. Nhìn những hạt mưa vừa rớt lại trên gương mặt bà Tẫn, con bé Tũn lấy chiếc khăn đưa cho bà. Nó nhẹ giọng: - Có chuyện gì nữa với bà rồi sao? Bà im lặng. Mưa đêm trút xuống nhiều hơn. Nhìn gương mặt mệt mỏi, u uất, con Tũn biết bà đến đây với nó là có chuyện lớn rồi. Nó nhanh nhảu dọn cơm. Bữa thường ngày của nó, bà Tẫn không còn lạ! Tiếng gà hàng chợ eo óc gáy. Bà Tẫn khùa tay vén màn ngồi dậy. Sau một ngày làm việc mệt mỏi, con Tũn ngủ ngáy to hơn bà. Nghĩ mà tội cho nó, vốn liếng chẳng có, sạp quần áo vài bộ lèo tèo, treo cả ngày chẳng thấy mấy ai đoái hoài, phải muối vại dưa, cà bán thêm chút đỉnh. Tối qua nó bảo với bà: "Thế nhưng cũng chưa đủ tiền thuê quán, cháu phải sang bên dãy bên làm lặt vặt cho cái Hiền "đực". Nó nuôi cơm qua ngày". "Rõ tội!" - Bà Tẫn chẹp miệng, đứng lên. Đời mình đã khổ rồi, con Tũn còn khổ hơn. Bà mất chồng nhưng còn có con. Cái Tũn chồng bỏ còn mang con đi luôn. Từ bấy đến giờ, e thằng bé cũng đã đến tuổi đi học… Bà Tẫn lẩm nhẩm, thẫn thờ. Có tiếng xe hàng vào chợ. Bà Tẫn rút tiền trong cạp quần ra đếm, rồi nhẹ mở cửa bước ra…Bà tính mua vài thứ ở chợ huyện này về chợ phiên đầu ngõ nhà con gái bán, mong kiếm dư vài đồng. Dẫu thằng con rể đối xử với bà không ra sao thì bà vẫn cắn răng chịu đựng mà chăm nom cho chúng nó. Nghĩ đến con, cổ họng bà lại nghẹn đắng. Bước chân chậm chạp của bà vẫn lê xéo dọc con đường trở về nhà con gái. * Người con gái nhìn bà bằng ánh mắt nhoèn lệ. Bà tưởng nó khóc thương bà. Bà toan cất lời động viên cho nó yên lòng thì nó đã bảo: - Mẹ quay về kiốt trên chợ sống đi. Thi thoảng con rảnh con ghé thăm. Bây giờ nhà con… Dường như bà không thể tin nổi những gì người con gái vừa nói. Bà ngồi bệt xuống hiên nhà, bàn tay run rẩy đưa lên quệt ngang dòng nước mắt. Từ trước tới giờ, bà luôn tâm niệm và quyết không đi bước nữa để dồn tâm, dồn sức nuôi con. Giờ thì bà thấy việc làm đó của mình sai lầm thảm hại. - Vợ chồng con chắc cũng chia tay nhau thôi. Người con gái vừa khóc, vừa nói. Bà hiểu, từ bao lâu nay, vợ chồng nó không hạnh phúc. Nghe đâu con rể của bà gian díu với người khác. Bà bỏ mặc con gái, cố gượng đứng lên xách hàng ra chợ bày bán, những mong được quên đi nỗi buồn đau... Bà thầm nghĩ: Mình giờ như ngọn đèn trước gió, chẳng biết tắt lúc nào. Âu sống đến tuổi này như bà chắc là tội nhiều tình ít? Gian kiốt trong chợ của bà tăm tối bấy lâu, nay ánh điện lại sáng. Nhưng mọi thứ đều lạnh lẽo, buồn tẻ, chỉ có tấm hình của chồng bà treo ngay đầu giường là vui thôi… Lúc nào ông cũng nhìn bà cười như những ngày hạnh phúc xa xưa. Bà nói với tấm hình của ông như trách móc: - Ông nằm xuống rồi, bấy lâu có biết? Nhìn quanh gian kiốt, bà lụi cụi thu xếp đồ đạc. Bà tính sẽ ở hẳn tại đây. Rồi bà mệt mỏi ngó sang chỗ con Tũn. Muộn lắm rồi mà sao nó vẫn chưa về. Bà thoáng một chút lo lắng. Trằn trọc mãi mà chưa ngủ được, bất chợt bà nghe có tiếng ai nôn ọe bên ngoài. Bà chửi thầm: "Mẹ bố thằng say rượu" rồi thiếp đi một giấc. Khi bà Tẫn tỉnh dậy thì cũng vừa hay trời trở sáng. Bà nhận ra một nhóm con buôn đang xúm đông xúm đỏ trước gian quán của con Tũn. Bà hoảng hốt chạy sang thì chứng kiến một cảnh tượng mà bà chưa bao giờ ngờ tới. Con Hiền "đực" với con Tũn "còi" mọi ngày thương nhau, cưu mang đùm bọc như chị em là thế, mà giờ chúng nó túm tóc đánh, chửi bới nhau thậm tệ. Chúng hung dữ khác thường khiến bà không dám lại gần can ngăn, chỉ nghe loáng thoáng hình như chúng nó ghen nhau vì một thằng đàn ông nào đó. Sau trận ấy, con Tũn đóng quán im ỉm cả ngày nằm trong nhà. Bà gọi đến năm lần bảy lượt cũng không thấy thưa. Bà lo lắng lân la dò hỏi những người xung quanh nhưng ai nấy đều lảng tránh. Con Hiền "đực" lầm lũi thu dọn gian quán rèm mành của nó để chuyển đi nơi khác. Nhìn nó rõ tội. Bà định hỏi nó cho ra nhẽ nhưng thấy mọi người xôn xao rằng nó không có buồng trứng, không thể sinh con nên chồng bỏ đi lấy người khác. Nó chán nản sinh ra bồ bịch… Nghe đâu cái gian quán rèm mành của nó cũng do một tay bồ nào đó thuê cho, giờ tay bồ biết sự thật của con Hiền "đực" nên đã bỏ đi. Bà thở dài: Thì ra người ta gọi nó là Hiền "đực" cũng là vì thế. Vài ngày sau khi con Hiền "đực" mất tăm khỏi khu chợ, bà Tẫn thấy con Tũn dậy sớm đồ xôi, thịt gà. Nó bảo bà rằng: "Cúng rằm và tiện thể hôm nay cháu chuyển sang quán mới". Bà Tẫn mừng thầm. - Thôi thì ở quán này không làm ăn được, mày chuyển đi cũng được. Có công có việc gì thì bảo tao giúp một tay nhá… Con Tũn vâng dạ qua quýt rồi đi vào khiến bà Tẫn cảm giác nó khác lạ với mọi ngày. - Kệ cha mày, khôn thì sống dại thì khốn… Tao nghe phong thanh là mày đi bồ bịch nữa đấy. Con này thế mà gớm - Bà Tẫn vừa bước vào nhà vừa lẩm bẩm. Bất chợt, con Hà "bầu" từ giữa chợ chạy đến, rối rít tuôn ra một tràng: - Cụ Tẫn ơi, con đang bí quá. Chúng nó đến lấy tiền hàng mà dạo này bán chậm chưa hồi vốn, cụ có cho con cầm tạm chút ít vài hôm… Vừa nói nó vừa phe phẩy hai tay: - Con nói thật với cụ chứ, thiếu thốn thì con đi vay chứ cái loại đói ăn vụng túng làm liều, mèo mả gà đồng như con Hiền "còi" kia là con không làm được. Như được con Hà "bầu" bắt trúng mạch, bà Tẫn kéo nó ngồi xuống thì thầm: "Cứ ngồi đấy, thiếu tiền hàng bao nhiêu tý tao cho mượn. Kể cho tao nghe chuyện con Tũn hôm xưa xem nào". Con Hà "bầu" tròn xoe mắt ngạc nhiên: - Ơ hay… thế cụ không biết à, nó cặp với thằng bồ cũ của con Hiền "đực" xong, nó xui thằng cha ấy đòi lại quán rèm mành cho nó. Hôm nay nó chuyển sang đấy. Bà đúng thật là… Không để cho bà Tẫn hết ngỡ ngàng, con Hà "bầu" bồi thêm: - Nó còn có chửa với thằng cha ấy rồi nữa cơ! Nói rồi nó đếm xoèn xoẹt cặp tiền bà Tẫn vừa mở chiếc hòm sắt để đầu giường đưa cho nó. - Thì ra mấy hôm tao cứ nghe tiếng người nôn ọe, tao tưởng thằng say rượu! * Thấm thoắt đã đến ngày lấy lãi số tiền cho vay, bà Tẫn vừa đi vừa lẩm nhẩm: Của con Hà "bầu" hơn triệu, phải đòi ngay. Con này ba toác thế nhưng được cái sòng phẳng. Khi làm ăn được nó còn cho bà thêm đồng quà tấm bánh. Thấy bà đến, Hà "bầu" toét mồm xởi lởi: - Để con mang đến cho, lo gì. Mà cụ biết tin gì chưa… Con Tũn của cụ đi siêu âm về, biết chửa thằng con trai rồi đấy. - Kệ cha nó mày ơi… Từ dạo ra quán làm rèm mành có tiền, nó tránh mặt tao. Nói rồi bà nhanh nhảu về kiốt của mình. Người con gái của bà tóc tai xõa xượi, ngồi khóc như mưa đợi mẹ từ bao giờ. - Ối giời ơi, mẹ biết mà không bảo gì. Con Hiền "còi" mà mẹ lúc nào cũng chăm bẵm giờ nó cướp hạnh phúc gia đình con… - Thằng chồng mày nó khao khát kiếm thằng con trai. Nhân tình thế thái ông ơi! Tôi hồng nhan bạc phận một kiếp truân chuyên nhưng chẳng tơ màng hay tranh giành hạnh phúc của ai. Vậy mà giờ đây nhìn người ta cướp hạnh phúc của con mình. Bà Tẫn kêu than. Với bà, hạnh phúc là thứ con người ta phải tìm kiếm, nuôi dưỡng và bảo vệ chứ không bao giờ là thứ có thể tranh giành. Càng không thể cứ muốn là được Ke lam toi ó say đến mấy nhưng ngủ một giấc dậy là hắn tỉnh sạch. Tinh thần sảng khoái, sáng láng lạ thường. Hắn đón nhận một ngày mới điều gì cũng tốt đẹp, tinh tế lắm. Từ tiếng chim líu lo rúc rích, tiếng gió thổi nhè nhẹ, đến tiếng lá reo vẫy vẫy... tất cả đều tình ý, nên thơ lắm. Cả tiếng chửi nhau của mấy mẹ bán hoa quả đầu ngõ cũng thấy đầy "chất nghệ", có sừng có mỏ, có khoan có nhặt. Hay! Mỗi lần tỉnh rượu, hắn lại thấy mình có tội. Cũng may, trời phú cho hắn sức ăn sức ngủ. Hễ căng da bụng là chùng da mắt. Rượu say, hắn chỉ đổ vật ra ngủ. Lúc ấy, có mời hắn lên thiên đường karaoke ôm với các nàng tiên hắn cũng chịu. Ngủ là cái thú của con người. Nhưng khi đã tây tây, da thịt mềm hôi hổi, lúc ấy ngủ mới đã cái con người trần thế. Lưng chưa chạm giường sấm đã động đông động tây. Thế cũng hay. Vì lúc ấy những trận mưa móc lúc nhẹ như bấc, lúc nặng như chì, lúc đay, lúc nghiến của vợ hắn cũng "ănglê… phớt". Hắn không chủ trương hứng thứ mưa ấy. Có say đến mấy nhưng ngủ một giấc dậy là hắn tỉnh sạch. Tinh thần sảng khoái, sáng láng lạ thường. Hắn đón nhận một ngày mới điều gì cũng tốt đẹp, tinh tế lắm. Từ tiếng chim líu lo rúc rích, tiếng gió thổi nhè nhẹ, đến tiếng lá reo vẫy vẫy... tất cả đều tình ý, nên thơ lắm. Cả tiếng chửi nhau của mấy mẹ bán hoa quả đầu ngõ cũng thấy đầy "chất nghệ", có sừng có mỏ, có khoan có nhặt. Hay! * Có lẽ người có nhóm máu O không ưa rượu. Điển hình là vợ hắn. Đi đâu về, thấy có mùi rượu là vợ hắn buông ngay một câu: - Anh lại đi uống rượu ở đâu đấy. Lúc nào cũng rượu với chè! Màn chào hỏi khó chịu nhưng dễ xuê xoa: - Ừ, đi với mấy ông bạn chiến hữu. Nể quá. Rồi hắn đọc vanh vách mấy bạn nối khố tin cậy, cốt thanh minh hòa giải chứ vợ hắn tha thiết gì nghe. Đã định vị. Không thêm, không bớt. Sai là bị vặn ngay. Công thức sáo rỗng song độ chính xác, an toàn cao. Sai một con dấu thay đổi cả phương trình. Đó là bài học sâu sắc nhớ đời mà hắn định chỉ mắc một lần. Lần ấy, có cô học trò làm luận văn thạc sĩ nhờ hắn hướng dẫn. Thường thì hắn hẹn học trò đến phòng làm việc tại cơ quan để dễ bề mọi việc. Công việc suôn sẻ, không vấn đề gì. Để cảm ơn thầy, nhân ngày hai mươi tháng mười một, cô học trò xông xông đến tận nhà, không cần điện thoại hẹn trước. Chắc muốn gây sự cảm động, bất ngờ cho thầy. Không gỡ được. Chẳng lẽ em nó lặn lội từ Thái Nguyên xuống lại để đứng ngoài đường, nghĩ cũng tội, đành điện thoại cho vợ mở cửa tiếp khách. Trong lúc đợi thầy về, cô bé nói hết chuyện này sang chuyện khác, chuyện gì cũng xoay quanh thầy Sĩ Ngọ. Nào là thầy đa tài, thầy nhiệt tình, thầy thương học trò… Mấy anh ở trường em nói được anh Sĩ Ngọ hướng dẫn là nhất rồi. Anh Sĩ Ngọ có uy tín nên khi bảo vệ, ít bị các thầy phản biện bắt bẻ… Cô bé cứ thao thao bất tuyệt hết thầy lại sang anh, không cả để ý cô vợ Sĩ Ngọ mắt đang vằn lên: - Em cứ ở đây đợi, tôi phải đi có việc. - Dạ thôi, để khi khác em điện thoại gặp anh sau. Em xin phép cô. Tống tiễn cô học trò ra cửa, vợ Sĩ Ngọ ba máu sáu cơn điện thoại: - Anh về ngay. Học trò đến nhà thầy gọi thầy bằng anh. Làm gì có loại học trò vớ vẩn như thế. Tôi hỏi anh, nó là cái kiểu gì? Sĩ Ngọ cứng lưỡi nhưng rồi kịp ứng tác ngay: - À, cái Hoàng Thu Trang chứ gì. Nó là em gái thằng Phong học cùng với anh. Ngày xưa anh lên Thái Nguyên nhà nó chơi mấy lần. Nó gọi quen mồm kệ nó. May cho Sĩ Ngọ, nói có sách mách có chứng, chuyện bịa như thật nên vợ không nghi ngờ gì. Vợ Sĩ Ngọ đâu có biết, trong một bữa tiệc rượu với các đàn anh nhà thơ, Sĩ Ngọ có kéo cô học trò mỏng mày hay hạt, có chiếc răng duyên này đi. Ngay từ đầu, một nhà thơ cao tuổi râu lốm đốm trắng cả hàm, tóc thì đen bóng trùm xuống tận vai đã ra lệnh: - Cấm em không được gọi các bác ở đây là bác mà phải gọi là chú. À quên, phải gọi là anh. Các anh toàn trẻ ngang nhau. Da vẫn trắng như tuyết. Tóc vẫn đen mun như bảy chú lùn. Khà khà… Vừa nói, nhà thơ vừa vuốt râu, vuốt mớ tóc ngược ra phía sau. Rồi vỗ vai Sĩ Ngọ: - Còn cái chú này, thế này mà đáng làm thầy à? Râu ria như mõm chuột, quần áo thì đen rình rình ba ngày không tắm, hôi nức mũi. Không có thầy với bà gì ở đây. Em phải gọi bằng anh. Phải gọi anh mới tình cảm em ạ. - Em thấy hay chưa nào. Nào nâng cốc! Em! Ông nhà thơ mở đầu đã thật xôm trò. Sau một hồi, uống mấy chén đã tây tây, Sĩ Ngọ nắm lấy cổ tay trắng ngó trắng ngần của cô học trò, đưa lên rưng rưng nhắc lại lời các bậc chí tôn: - Từ nay, em không được gọi tôi là thầy. Em học hết rồi. Tôi không làm thầy của em nữa. - Dạ vâng!..Anh! Xong cuộc rượu, Sĩ Ngọ quên biến. Lần đầu tiên, nghe học trò gọi bằng anh, xưng em líu lo như đã dan díu với tình, Sĩ Ngọ thấy toát mồ hôi. Chỉ là học viên cao học, lại tít tận trên Thái Nguyên, đùa cợt một chút rồi quên béng. Thế mà nó nhớ dai. Thế mới chết. Mấy lần cô bé điện thoại hẹn xuống chơi rồi đem thơ tặng anh - lúc anh lúc thầy - nhưng hắn không dám, lần nào cũng chối quanh. Không ngờ những lời có cánh của Sĩ Ngọ lại rung động sâu sắc đến một tâm hồn sơn nữ ngây thơ trong sáng đến thế. Nó làm thơ tặng mình, hẳn một tập dày cộp, chỉ nhờ mình viết lời giới thiệu mà từ chối thì còn mặt mũi nào. Nó mời cả mấy ông bạn thân cũng là thầy của nó. Đó là cuộc rượu mà khi về đến nhà, Sĩ Ngọ đã buột miệng trong màn chào hỏi với vợ: - À. Hôm nay anh đi uống với AT, CS, NP, với cả con bé sắp ra cuốn sách nhờ mình viết giới thiệu. Con bé học cao học ở trên này. Về phố huyện thế nào mà lại làm được thơ. Thơ hay mà lạ lắm. - Đứa nào? - Con bé Hoàng Thu Trang trên Thái Nguyên. - À. Cái con trốn chúa lộn chồng, gọi thầy bằng anh. - Đâu, nó vẫn gọi bằng thầy đấy chứ. - Đến đây nó gọi anh xoen xoét ra. Anh còn chối cái gì. - Ai nó dám thế. Nó là đứa lễ phép. Vợ hắn mà ghen thì phát khiếp. Từ vụ đấy, để an toàn, hắn cứ suốt ngày chỉ kê mấy ông bạn thân đáng tin cậy ra. Đến nỗi có lần nghe xong, vợ hắn phát cáu: - Lúc nào cũng cập kè với mấy lão ấy. Dù có cáu, hắn vẫn không làm khác vì mấy ông bạn ấy vợ hắn đã đặt niềm tin tuyệt đối. Mỗi khi vợ hắn gọi điện kiểm tra, hắn vội chuyển điện thoại luôn cho một ông bạn. Đang điên, vợ hắn có thể phì phì cười ngay vì cái giọng lên bổng xuống trầm của ông bạn hắn. Mấy tay ấy nói như thần Siêu thánh Quát. Hắn còn học được mánh kết nối điện thoại đặc trị các bà vợ hay ghen từ các ông bạn. Khi nào cần bảo mật hiện trường, vợ hắn gọi đến, hắn ấn vào một nút đặc biệt, vợ hắn chỉ nghe thấy những cuộc trò chuyện với mấy ông bạn đang tưng bừng trong cuộc nhậu, không khí ầm ào. Chỉ cần nghe thấy thế là điện thoại tắt bụp luôn. Chuyện lớn tày đình thế mà qua được. Chuyện nhỏ như uống rượu lại không giấu được. Thật tệ hại. Vợ hắn coi việc uống rượu là vi phạm đạo đức, là một tội trong rất nhiều tội hắn vi phạm. Và có lẽ tội uống rượu là tội nặng nhất. Từ tội uống rượu mà vợ hắn suy diễn ra nhiều tội khác. Có lúc hắn bị vợ vạch tội hàng tiếng đồng hồ vẫn chưa hết. Cứ xét thế thì con người hắn đầy tội, chỉ thấy tội là tội chứ không hề có một tí công nào trong cái gia đình này. Nhiều khi hắn cứ mụ mẫm đi vì thấy tội nhiều quá. Vợ nói quả cũng đúng, hắn cãi không nổi. * Hắn cố tình nằm thêm để nhẩm tội. Chết. Hắn giật thót mình khi hôm qua vợ hắn gọi về để ôn bài cho con trai hắn chuẩn bị thi vào cấp ba. Không tội nào giống tội nào. Con trai hắn cả tuần phải đi học thêm các môn khác, chỉ có tối hôm qua là được nghỉ. Hôm qua, mới sáng, vẫn còn nằm trên giường, vợ hắn đã nhắc hôm nay anh không được la cà đâu, phải về sớm để ôn cho con. Nhắc đến việc dạy con là hắn thấy mệt rồi. Dao sắc không gọt được chuôi. Hắn thì giỏi giang chữ nghĩa văn chương như thế mà con hắn không được một tí tẹo nào. Con hắn lại lạc hẳn dòng máu của hắn. May mà nó giống hắn hình thức. Nó được thừa hưởng nước da đen sạm của gió lào lại pha chút đồng thau hãm hãm của hắn. Đi đâu hai bố con không lạc được bởi nước da ấy. Nó thừa hưởng dòng máu toán học của mẹ nó. Điểm tổng kết toán thì cao chót vót nhưng văn thì lẹt đẹt chưa bao giờ được bẩy phẩy. Đấy là cô đã nâng cho đạt chỉ tiêu. Thỉnh thoảng, cô giáo lại nói trước lớp về bảo bố dạy thêm cho, chứ học như thế này thì thi cử thế nào. Mỗi lần thế, vợ hắn lại đay nghiến: - Lúc nào anh cũng bù khú rượu chè, có quan tâm gì đến con! Ai chẳng muốn con hay chữ. Song cứ nhắc đến học văn là con hắn lại chối con phải học môn này môn kia đã. Viết sách cho cả thiên hạ đọc, vậy mà giảng cho con nghe, giảng đi giảng lại, hỏi chỗ này con hiểu chưa, mặt nó vẫn nghệt ra: "Bố nói thế nào í, con chẳng hiểu gì". Vã mồ hôi con vẫn ấm a ấm ớ, bực không thể chịu được. Có lúc hắn cáu tiết quăng sách xuống mặt bàn, thôi tao không dạy nữa, mày học thế nào thì học. Học trên lớp điểm có thấp vẫn được lên lớp. Thi vào cấp ba mà trượt thì không ra thể thống gì. Nó lo một, bố mẹ lo mười. Dạy cho cả thiên hạ mà con mình lại để điểm liệt thì không thể chấp nhận. Buổi chiều, hắn đã nhớ việc vợ dặn, chuẩn bị xách cặp ra lấy xe thì có điện thoại của ông bạn thân điện ra ngay, có ông bạn nhà thơ từ Tây Nguyên ra. Không thể từ chối được, vào trong đấy thì mấy ông tiếp đón hẳn hoi tử tế, giờ ông ấy về Hà Nội mà lại tránh mặt thì còn ra cái gì. Nói thật lý do bận dạy con học lại càng vô lý. Thôi đến để chào nhau một tiếng, rồi về. Nghĩ thế nhưng vào cuộc thì khó mà dứt ra. Vợ hắn gọi đến ba lần. Lần đầu: "Ứ ừ, anh về ngay". Lần hai: "Ứ ừ, anh đang về rồi". Lần ba: "Gần về đến nhà rồi". Kỳ thực cả ba lần vẫn đang ngồi. Nể không đứng dậy được. Rốn thêm một tý, nhoằng một cái đã chín giờ. Gọi điện về cho con, con hắn nói một cách tỉnh bơ: "Bố không về cũng được, con đang học toán". Nó nói vội rồi tắt máy luôn, nhưng hắn đã kịp nghe thấy tiếng chơi game tít tít liên tục vì sợ bố biết. Đành lờ đi vì bây giờ mới bắt đầu mở chai Chivas. Lan man, đứng dậy về, nhìn đồng hồ đã hơn mười giờ đêm. * Chết bỏ mẹ, đã gần 8 giờ. Mà tại sao lại nằm phòng con trai hắn. Thằng con đã đi học từ bao giờ. Đột nhiên hắn nhớ có một tin chưa kịp xóa. Hắn vớ vội điện thoại. Có tin nhắn mới của vợ. Nguy hiểm rồi. Thường thì những lúc vợ hắn giận đến mức không thèm nhìn mặt, không thèm nói nhưng cần thiết vẫn nhắn tin. Có lần gay gắt đến mức vợ hắn gửi gmail cho hắn đến một tuần, chóng hết mặt. Tưởng như phải đưa nhau ra tòa mới hòa giải được. Cũng chỉ vì hắn ham rượu đến quên hết mọi việc. Cũng chỉ vì vợ hắn ghen quá. Đó là hai căn bệnh trầm kha của vợ chồng hắn, không thể chữa được, thỉnh thoảng nó lại bùng lên. Hắn đọc vội tin nhắn: "Anh tự lo mọi việc, T sang bà ngoại. Anh thật quá đáng!". Tin nhắn gần 11 giờ đêm. Chết thật. Không hiểu sao lại lên phòng con trai ngủ. Khác gì đổ thêm dầu vào lửa. Phen này nhà cửa lại ầm ầm dông bão mất thôi. Xét cho cùng tất cả tội lỗi, dông bão trong cái nhà này đều do hắn, nguyên nhân sâu xa vẫn là uống rượu. Có đợt bận rộn quá không đi được thì yên cửa yên nhà. Hắn còn được vợ khen dạo này vào nền nếp. Cả cái nhà hắn, từ vợ cho đến hai thằng con học hành, đi lại, ăn uống, giờ nào việc ấy, gọn gàng ngăn nắp. Mỗi hắn già người nhưng non dạ, mọi việc đều tùy tiện, không thể vào nếp được. Vợ hắn quá nguyên tắc. Song nghĩ đi nghĩ lại hắn cũng thấy thương. Vợ hắn lúc nào cũng đầu tắt mặt tối, chăm lo cơm nước học hành, rèn giũa cho hai thằng con nghịch như quỷ sứ. Vợ hắn đanh lắm nên chúng mới vào nếp được, chứ cứ như hắn thì không có cách trị. Cơm nước nội trợ lại còn đi dạy thêm. Thùng rỗng kêu to. Danh tiếng hắn nhiều người nể phục, lại mác phó giáo sư tiến sĩ nhưng vẫn thua lương giáo viên tiểu học của vợ. Đấy là hắn còn đưa hết, không suy suyển một đồng nào. Vợ hắn biết điều ấy và biết tiền chỉ ở cái cữ ấy nên không bao giờ kêu ca phàn nàn. Quanh đi quẩn lại vẫn tội uống rượu của hắn. Giả sử hắn là con người nền nếp, ngoan đạo, không rượu, không thuốc, ngày ba bữa sáng, trưa, chiều, tối đều có mặt ở nhà thì vợ hắn sung sướng mãn nguyện vô cùng. Lúc đó hắn sẽ không có tội gì hết. Hắn sẽ thanh thản, không phải day dứt lương tâm, không phải kiểm điểm, nhận sửa chữa sai lầm khuyết điểm… Đang vẩn vơ suy nghĩ, chợt hắn nghe có tiếng gõ cửa. Hắn vội ra mở. - Sao giờ này vẫn chưa dậy? Lúc nào cũng say sưa tối ngày. Cái Hoa đến chơi. Nó đang dưới phòng khách! Hắn không nói không rằng, vội vàng dậy để tiếp khách. Vừa thấy mặt anh rể, cô em vợ đã hớn hở: - Em lên chơi từ hôm qua. Lâu lắm hai chị em không gặp nhau. Nói mãi chị Lam mới dám sang ngủ để chị em trò chuyện. Hôm qua anh ngủ một mình có ngon không? - Ừ, lâu lắm dì mới lên. - À, em lên báo tin vui cho anh. Sau khi có đoàn nhà báo mà anh nhờ họ về làm việc, mấy ông lãnh đạo xã mới run, không dám cho xây nữa. Bây giờ công trình đã đình chỉ. Tiếng nói của anh uy tín lắm. - À, chuyện đấy ổn rồi à. Làm gì có chuyện lấy đất của chùa để xây kiốt cho thuê. - Hôm nào mấy ông đại diện thôn sẽ ra cảm ơn anh. Họ đến tận nhà nói chuyện với bố mẹ. Hắn lại được cô em cứu. Hắn nối luôn vào câu chuyện: -Vừa tối qua anh mời Tổng biên tập báo đi uống rượu. Từ hôm ấy bận quá nên có gặp mấy tay ấy đâu. Công việc liên miên, tiếp khách tiếp khứa liên tục. Người ta toàn nhờ mình giúp. Được việc thì người ta cảm ơn rồi mời bằng được đi uống rượu. Chối không được. Tính mình lại hay cả nể. Khổ lắm em ạ. - Anh giỏi thế còn gì. Ai làm được như anh. - Không. Anh khổ lắm em ạ. Em hỏi chị Lam xem, từ hôm qua anh mắc mấy tội. Ở nhà này, anh chỉ thấy toàn tội là tội, chẳng thấy có công nào cả. Vợ hắn nguýt dài một cái, nhưng thật may lại giống cái nguýt của Thị Nở làm hắn sướng tưng tửng. Bỗng có điện thoại. Hắn đang nghĩ không biết điện thoại của ai thì đầu kia đã xưng luôn "Em là cô giáo chủ nhiệm của cháu Tùng". Hắn chột dạ. Chưa bao giờ cô giáo chủ nhiệm lại điện thoại cho hắn. Mặt hắn cứ đỏ sậm dần rồi tái lại. Hắn thấy tim đập nhanh hơn, các mao mạch cứ rần rật chảy. Tai hắn ù lên. Hai chân hắn như muốn khuỵu xuống, mồm hắn như bị giật dây vâng vâng dạ dạ liên tục. Tắt máy. Mặt hắn túa ra hàng nghìn hàng vạn con đom đóm. Mồ hôi ướt đẫm lưng. Hắn nói như kẻ mộng du: - Thằng này hỏng rồi. Thằng này hỏng. Hỏng quá rồi! Hỏng. Hỏng…. - Ai? Bỗng hắn quát to như hộc lên: - Thằng mất dạy! Vừa nói xong hắn như sực tỉnh lại, mồm há hốc, mắt trợn tròn. - Tội không học bài. Tội đánh nhau. Tội đua xe. Tội ngủ gật trong lớp. Tội giờ văn không làm, điểm không… Đủ các thứ tội. Thằng này hỏng rồi. Hỏng quá rồi. Đúng là thằng này hỏng quá rồ Mau nong Buổi lễ tốt nghiệp, Thanh và Lệ cùng được một tập đoàn lớn nhận ngay tại chỗ. Lệ vui lắm, lương cao, điều kiện phát triển tốt, cơ hội đi học nước ngoài là điều nhìn thấy ngay. Tất nhiên, nếu Thanh không được nhận thì niềm vui đó còn lớn hơn nữa. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Lệ lại thấy rằng, nếu Thanh không được nhận thì mình còn ai đâu để mà ganh đua. Chắc gì học giỏi ở trường, ra ngoài làm việc đã giỏi. Lý thuyết và thực tế khác nhau nhiều lắm... Thanh và Lệ cùng học một lớp ở đại học. Thanh trắng trẻo, cao ráo, xinh đẹp. Lệ thấp đậm, da nâu, nhưng có chiếc răng khểnh rất gợi cảm. Bạn học ví Thanh như Thúy Kiều, còn Lệ như Thúy Vân. Lệ ức lắm. Thúy Kiều thì phải biết đánh đàn, chứ Thanh có đàn ca sáo nhị được đâu mà so với chả sánh. Chỉ có khác biệt duy nhất, Lệ là người máu nóng, ngay cả khi trời rét dưới 10 độ C, cô cũng chỉ cần mặc thêm một chiếc áo khoác mỏng, thế là đủ cho cả ngày giá rét. Trong khi đó, Thanh phải mặc đến hàng tạ áo, từ áo len, áo dạ cho đến áo phao mà răng vẫn thi nhau đánh đàn. Thế nhưng, so sánh vậy là không được, Lệ tự nhủ, mình phải vượt Thanh, kiên quyết không để bạn mình thành ngôi sao duy nhất. Nói là làm, nếu Thanh học giỏi các môn chuyên môn thì Lệ đầu tư vào các môn xã hội chính trị bắt buộc. Ngày Thanh đứng trước toàn trường nhận bằng khen sinh viên xuất sắc nhất thì Lệ cũng nhận huy chương vàng cuộc thi triết học sinh viên toàn thành. Thua thầy một vạn sao bằng thua bạn một ly. Các thầy giáo hài lòng lắm, luôn đem tấm gương của hai người ra nói trong giờ học: "Các anh các chị mà phấn đấu được như cô Thanh và cô Lệ thì trường chúng ta sẽ nổi nhất nước, rồi khu vực, rồi châu lục chẳng mấy hồi". Buổi lễ tốt nghiệp, Thanh và Lệ cùng được một tập đoàn lớn nhận ngay tại chỗ. Lệ vui lắm, lương cao, điều kiện phát triển tốt, cơ hội đi học nước ngoài là điều nhìn thấy ngay. Tất nhiên, nếu Thanh không được nhận thì niềm vui đó còn lớn hơn nữa. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Lệ lại thấy rằng, nếu Thanh không được nhận thì mình còn ai đâu để mà ganh đua. Chắc gì học giỏi ở trường, ra ngoài làm việc đã giỏi. Lý thuyết và thực tế khác nhau nhiều lắm. Là chỗ bạn học, Thanh hỏi Lệ có nên vào tập đoàn này làm hay không, bởi Thanh được giữ lại làm giảng viên. Lệ bảo, theo tớ thì cậu nên ra ngoài thử sức, chúng ta còn trẻ. Chứ ở lại trường thì chỉ được cái ổn định, vả lại, nếu không có bạn, tớ bơ vơ lắm. Nghe đến câu đó, thấy mắt Lệ có vẻ ướt, Thanh cảm động lắm. Mọi người cứ bảo Lệ ghen tức với mình. Đâu phải như vậy. Lệ lại bảo, giờ tớ mới nói, phải cảm ơn cậu rất nhiều, không có cậu thì chẳng bao giờ tớ phấn đấu học hành được như ngày hôm nay. Thanh mỉm cười, vậy tớ yên tâm rồi. Run rủi thế nào hai người lại cùng làm một phòng. Lãnh đạo tập đoàn gọi cả hai lên tâm sự rằng, rất mừng khi tuyển dụng được hai sinh viên ưu tú nhất của trường. Lại dặn, hai người nhớ cộng tác với nhau thật tốt, phụ nữ là hay kèn cựa lắm. Lệ nhanh nhẩu: "Sếp cứ tin ở chúng em, bởi chúng em đi làm chứ có phải đi chơi đâu, thời gian cống hiến cho công việc còn chưa đủ nữa là". Lãnh đạo gật gù, đúng là thanh niên thời đại mới có khác, suy nghĩ thật là chín chắn. Muốn cống hiến hả, có ngay cơ hội, lãnh đạo giao cho hai người việc đi tiếp xúc với đối tác lớn của tập đoàn, dặn đi dặn lại là hết sức cẩn thận, bởi đại diện của đối tác là một thanh niên rất đẹp trai, có học thức. Nghe đến đó, Lệ xin nhận việc, vừa để lấy điểm, vừa để phát huy vai trò của làn da nâu, vì nghe đâu thanh niên ở bển về không thích phụ nữ da trắng. Cũng phải thôi, ở trời Âu, phụ nữ da trắng thiếu gì. Thanh cúi đầu không nói. Lệ cười thầm trong bụng, các cụ nói, "tiên hạ thủ vi cường", cấm có sai. Buổi gặp gỡ đối tác diễn ra ở một quán cafe theo phong cách "Ngàn lẻ một đêm", bởi đối tác nhường cho Lệ quyền lựa chọn địa điểm. Lệ trang điểm thật nhẹ, mặc váy ngắn cho tăng thêm phần quyến rũ. Đối tác nghe Lệ trình bày, trầm ngâm không nói gì. Lệ bảo, thưa anh Louis Thêm, nếu anh không hiểu, em có thể hẹn anh thêm buổi nữa. Kết thúc buổi gặp, Louis Thêm hỏi: "Em có mất nhiều thời gian vào việc make-up lắm không, vì theo anh, nếu bỏ thêm ít thời gian vào việc đọc tài liệu, chưa chắc em đã thuyết trình một cách rối rắm đến như vậy". Lệ ốm mất mấy ngày không đến công ty. Bởi cứ nghĩ đến thất bại, người cô lại nóng rừng rực, nhiệt kế liên tục chỉ trên vạch 39 độ. Vừa buồn vì lỡ việc, lại vừa ấm ức vì mất cơ hội tiếp cận một hoàng tử bạch mã mà cô gái nào cũng phải đem lòng say mê. Khỏi ốm, Lệ lên gặp lãnh đạo, cố gắng giải thích lý do vì sao đổ vỡ vụ thương thuyết. Nghe một thôi một hồi, lãnh đạo cười, em cố gắng lên, còn nhiều vụ như thế phải làm, còn vụ vừa rồi Thanh đã thực hiện xong, phía đối tác hài lòng lắm. Lệ thấy trong người nóng rừng rực. Phải rồi, nhờ nhan sắc thôi mà, da trắng thế cơ mà, chân dài thế cơ mà. Lệ gật đầu đồng tình với lãnh đạo. Vâng, dù sao Thanh cũng có lợi thế hơn em, ít nhất là về mặt hình thể, thưa sếp. Lãnh đạo bảo, cũng chưa hẳn, bởi bên đối tác hôm ấy đau mắt, có nhìn rõ đâu. Về phòng, nhìn xuống đường, thấy Loius Thêm mở cửa xe, cười với Thanh, Lệ cảm thấy như từng khúc ruột quặn lại. À, hôm trước không nhìn rõ, hôm sau nhìn rõ rồi nên xoắn vào nhau chứ gì. Lệ tiện tay vớ lấy điều khiển máy điều hòa, hạ thêm 2 độ nữa làm mấy đồng nghiệp trong phòng tròn mắt bởi với họ, nhiệt độ trong phòng đã quá lạnh. Không chịu thua bạn kém bè, ngay hôm sau Lệ xin đi tiếp xúc với đối tác Ấn Độ. Lần này thành công rực rỡ. Vốn tiếng Anh của Lệ được thỏa sức phát huy. Đối tác hài lòng lắm, lại khen Lệ rằng, em làm tôi thấy tổ quốc như hiện diện ngay tại đây, bởi làn da của em khiến tôi thấy gần gụi, lại khiến tôi thấy bờ sông Hồng này cũng đáng yêu như dòng sông Hằng quê nhà. Lúc này, Lệ lại thấy trong người mát lạnh, ít ra thì làn da nâu của cô cũng phát huy tác dụng một cách triệt để. Đối tác ít lâu sau ngỏ lời với Lệ, nhưng cô từ chối, bởi làm dâu xa xứ, buồn. Đối tác bảo, nếu anh ở lại được nơi này, anh sẽ lấy em làm vợ. Lệ cười, nếu vậy thì em hạnh phúc lắm. Ít lâu sau, Thanh lên xe hoa với Louis Thêm. Nhìn đôi tân lang tân nương trong ngày cưới, Lệ thấy như mình sắp phải mổ ruột thừa. Cô dâu cao gần 1m7, chú rể cao hơn cô dâu gần gang tay, sao lại rực rỡ đến thế cơ chứ. Chẳng biết làm sao, Lệ chia sẻ cảm xúc trên mạng cá nhân, sau khi đọc được trong cuốn "Siêu hình tình yêu siêu hình sự chết" rằng những cá thể to lớn quá khi kết hợp với nhau sẽ rất khó khăn trong việc duy trì thế hệ sau. Tức thì hàng trăm comment vào chia sẻ. Người thì bảo "Thế cho nên đàn ông cao hay lấy vợ thấp, đàn ông thấp lại lấy vợ cao, hóa ra đều là chọn lọc tự nhiên". Người thì bảo "Tại chị thấp quá chứ gì (những câu này Lệ xóa đi ngay), sao người ta lại GATO (ghen ăn tức ở - theo ngôn ngữ mạng) một cách lạ kỳ như vậy được". Cũng may, Lệ không phải sống trong nỗi hằn học ấy quá lâu. Trong một lần đi ăn tối cùng đối tác, Lệ gặp một chàng bác sĩ dân Paris chính hiệu. Chàng làm việc tại một bệnh viện đa khoa, lịch sự, nhã nhặn, tuy hơi lớn tuổi một chút. Ngày tỏ tình, chàng chỉ nói đúng một câu mà những đôi uyên ương hay nói là Je t'aime, dịch nghĩa là anh yêu em, còn sau đó, chàng tặng Lệ một thẻ khám răng miễn phí, một phiếu giảm giá khám phụ khoa. Thanh bảo Lệ: "Dạo này nghén mệt quá, nhưng công việc đang nhiều, chẳng nghỉ được". Lệ thở dài đầy vẻ thông cảm: "Thôi để tớ đỡ cho". Thanh gật đầu: "Bạn tốt với tớ quá". Lệ khẽ cười, tốt cái con khỉ mốc, chẳng qua việc này dễ có cơ hội tiếp cận với Hội đồng quản trị. Lại tức thầm trong bụng, thế hóa ra Louis Thêm không yếu sinh lý à. Về nhà, xé tan ngay cuốn sách viết rằng đàn ông da trắng quá thường bất lực. Rồi vào phòng tắm ngâm mình dễ đến nửa tiếng. Vừa ngâm trong làn nước vừa tự nhủ, đúng là máu nóng gặp mùa hè, vất vả không thể tả được. Sinh con xong ít lâu, Thanh đi làm trở lại. Lệ bảo: "Cậu nghỉ ngơi thêm vài tháng, các sếp kiểu gì chả phải nể anh Louis Thêm". Thanh cười: "Cậu ạ, chính việc lấy anh ấy làm tớ chịu thêm nhiều áp lực đây này. Ở nhà, anh ấy bảo tớ, trong công việc, anh không nể nang em đâu đấy". Lệ ngạc nhiên: "Anh ấy "dã man" đến thế cơ à". Thanh gật đầu: "Cậu không biết là anh ấy nghiêm khắc với tớ đến như thế nào đâu". Ngày hôm sau, câu chuyện đó được lan đi khắp văn phòng. Cuối buổi, cô thư ký tập đoàn kể với chủ tịch Hội đồng quản trị: "Sếp ơi sếp không biết đâu, ở nhà chị Thanh khổ lắm, làm quần quật hơn cả ô sin, đã thế trong công việc, chồng lại mặc kệ không giúp gì cả". Chủ tịch bảo: "Cô nghe ở đâu đấy". Cô thư ký bảo: "Em nghe từ chị Lan, chị Lan bảo chị Thúy kể, chị Thúy bảo chị Lệ kể, mà chị Lệ thì được chị Thanh tâm sự, cho nên chuyện của em đương nhiên là thật". Lại thở dài: "Lấy chồng giàu như thế cũng chẳng sướng sếp nhỉ". Chủ tịch băn khoăn, thảo nào dạo này cô Thanh có vẻ âu sầu lắm, hay nghĩ ngợi thở dài mỗi khi sắp tan sở. Thực ra, Thanh cũng đang suy nghĩ. Cô quyết định theo học một lớp nâng cao nghiệp vụ. Lệ bảo, bạn cố gắng đầu tư về chuyên môn thế là tốt, tớ cũng muốn đi lắm nhưng sắp cưới nên sợ không có thời gian. Vả lại, phụ nữ ngày nay phải tự lập, có chỗ đứng riêng của mình, không phụ thuộc vào đàn ông làm gì cho khổ ra. Thanh gật đầu vẻ hào hứng, bạn nói hay lắm. Lệ thầm cười, có điên mà lao vào làm ăn một khi chồng đã có địa vị vững chắc. Thanh xin đi học rồi, Lệ mừng lắm. Bởi theo nguồn tin mới nhận được, tập đoàn đang chuẩn bị cân nhắc giữa hai người để bầu trưởng phòng. Kèm theo chức là tăng lương, tăng thưởng cuối năm. Đợt này Thanh đi học, Lệ càng có điều kiện để thể hiện năng lực. Thế là Lệ hăm hở cống hiến, ngày nào tối mịt cũng mới từ văn phòng bước ra. Chỉ khổ cho vị hôn phu tương lai của cô, ngày nào cũng phải ăn nhẹ từ 5,6 giờ chiều để đợi cô. Và cũng khoảng giờ Lệ tan sở thì Thanh mới trở lại văn phòng giải quyết văn bản. Thấy Louis Thêm đứng đợi dưới đường, Lệ bảo: "Khổ thân anh quá, sao cái Thanh nó lại đi học làm gì cơ chứ, đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm". Louis Thêm cười: "Anh biết câu đó chứ, nhưng quan trọng là sắp tới, anh không đầu tư vào ngành này nữa, nên Thanh phải học để nâng cao trình độ, chứ anh nhất quyết không làm chỗ dựa cho cô ấy". Nghe đến đó, Lệ thấy người mình như bay lên chín tầng trời. Phen này thì Thanh ơi, đừng hy vọng có cơ hội nữa nhé, một khi chồng bạn không còn là đối tác chính của tập đoàn thì cậu thua tớ nhiều lắm. Em ruột chàng bác sĩ của tớ sắp sang đây ký kết với tập đoàn một hợp đồng khá lớn rồi Thanh ạ. Louis Thêm lại bảo: "Trong lúc đợi cô ấy học, anh còn kịp về nhà nấu cơm rồi Lệ ạ. Giờ anh mới hiểu tại sao đầu bếp nổi tiếng thế giới đa phần đều là đàn ông". Lệ lại thấy người nóng bừng, trời ạ, sao mọi thứ tốt đẹp trên đời này đều dành cho Thanh thế hả Thanh ơi. Cái sự nóng ấy lên đến đỉnh điểm khi Thanh được bổ nhiệm làm trưởng phòng. Đến lúc này, Lệ cảm thấy toàn thân như một khối lửa cháy ngùn ngụt. Không còn e dè gì nữa, cô vào gặp thẳng lãnh đạo tập đoàn. Anh nói đi, tại sao không phải là em, mà anh biết, em cố gắng đến như thế nào vì tập đoàn này. Còn nếu Thanh được chọn do cô ấy chân dài má đỏ thì em xin thua, thua toàn tập. Lãnh đạo tập đoàn mỉm cười, rồi chậm rãi nói, em không được Hội đồng quản trị chọn cũng là vì thói GATO đấy, chứ chúng tôi đánh giá rất cao chuyên môn cũng như tinh thần của em. Làm lãnh đạo ở tâp đoàn này, việc gắn kết mọi người trong công việc rất quan trọng, cho nên Hội đồng quản trị sẽ xét theo tiêu chuẩn 50% tầm, 50% tâm, ai đạt được cả hai mới là người lãnh đạo giỏi. Chuyên môn của em không kém gì Thanh, nhưng nói trên tinh thần xây dựng, em chưa được lòng mọi người như cô ấy. Lệ rũ xuống như tàu lá chuối héo, cảm ơn lãnh đạo rồi đi ra. Lên căng-tin gọi một ly cà-phê, rồi ngồi bần thần một mình. Chợt Lệ à lên một tiếng, đúng rồi, phải cảm ơn lãnh đạo mới đúng, mình còn mỗi một tật xấu là hay GATO với Thanh. Nhưng phụ nữ thì ai mà chả vậy, có điều giờ phải giấu thật kỹ, không để cho ai thấy. Lệ gật gù, công nhận là người ngoài tinh thật, có khi chỉ một vài tiểu tiết mà hỏng hết việc. Được rồi, giờ nếu mình lại GATO thì tất nhiên là không được, mà lại xoay sang nịnh nọt Thanh thì càng lộ, cứ giữ thái độ bình thường, chuyên tâm vào công việc là ổn nhất. Đó chính là đạo Trung Dung, bí kíp thành công trong cuốn sách Lệ mua ngoài vỉa hè đường Láng, năm chục hai cuốn, cứ thế mà chọn. Lệ chủ động gặp lãnh đạo tập đoàn, thưa anh, em hiểu vấn đề rồi. Thực ra phụ nữ thường đố kỵ nhau, em không phải ngoại lệ, nhưng sau khi nghe anh phân tích, em thấy mình thua Thanh nhiều lắm, nhưng em sẽ phấn đấu - định nói tiếp là dù em không xấu cho có vần nhưng Lệ dừng lại được. Lãnh đạo bắt tay Lệ thật chặt, vẻ hài lòng. Anh tin rằng em sẽ tiến xa. Về đến nhà, Lệ thở dốc từng hồi. Tại sao lại như thế được cơ chứ. Cái gì nó cũng hơn mình, từ chiều cao, sắc đẹp, gia đình, nhà cửa, rồi sự nghiệp. Hàm răng Lệ cứ thế nghiến vào nhau, đúng là thua bạn một ly đã tức, nữa là đến cả chục ly như thế này. Lệ ơi, phải làm gì đi chứ. Lại tự nhủ, thực ra thì Thanh đâu có hơn gì mình, chẳng qua cậy nhan sắc rồi liếc mắt đưa tình là cùng. Có mỗi điều ấy là mình thua thôi, còn ngoài ra, Lệ này chấp hết. Chỉ kịp nghĩ đến đó, rồi cô thiếp đi vì mệt. Khi tỉnh dậy, toàn thân Lệ đẫm mồ hôi trong một căn phòng trắng toát, xung quanh là hoa quả, đường sữa. Trên trán Lệ là một chiếc khăn lạnh. Ông bác sĩ đến gần, khuyên cô nên ăn nhiều hoa quả có tính chất giải nhiệt như dứa, kiêng dưa hấu có tính nóng, lại dặn chịu khó vận động cho ra bớt mồ hôi, cơ thể sẽ mát mẻ dần. Lệ gật đầu cảm ơn. Ông bác sĩ bảo: "Không cần cảm ơn, tôi với ông người Pháp là bạn, vì thế ông ấy mới đưa cô đến chỗ tôi". "Anh ấy đâu rồi?" - Lệ ngơ ngác. "Ông ấy về nước rồi - Ông bác sĩ nói - vì vợ ông ấy không chịu ly dị nên nhờ tôi chuyển lời xin lỗi đến cô". Lệ gục xuống, phen này mình thua Thanh hẳn rồi. Toàn thân Lệ lại nóng lên như ai đặt bếp than vào dạ dày. Thanh đến thăm, rồi bảo, bạn cố giữ gìn sức khỏe, phòng mình đang chờ bạn khỏe để liên hoan. Lệ gật đầu, cảm ơn mọi người, tớ sẽ khỏe lại nhanh thôi, còn công việc đang chờ đợi. Thanh cầm lấy tay Lệ xót xa: "Bạn ốm có mấy ngày mà xanh đi nhiều quá". "Ốm mà không xanh thì tím à" - Lệ nghĩ trong đầu, đúng là cáo khóc thỏ. Buổi đầu tiên Lệ đi làm, cũng là buổi liên hoan mừng Thanh lên chức. Lệ cầm ly rượu, đến trước mặt Thanh tươi cười: "Chúc mừng bạn, hy vọng bạn lên chức sẽ giúp cho công ty nhiều hơn". Mọi người vỗ tay hân hoan. Lệ đã có thiện chí thì quá tốt cho công việc chung. "Cảm ơn bạn nhiều, tớ cũng chỉ muốn làm chuyên môn thôi, nhưng nhận việc thì phải làm kẻo phụ lòng mọi người, hy vọng bạn sẽ giúp tớ nhiều hơn" - Nói rồi Thanh cạn hết ly rượu. "Đúng là đồ đạo đức giả, phấn đấu đủ kiểu để lên chức" - Lệ cười thầm. Lại càng tức tối khi thấy Thanh khiêm tốn như thế, ít nhất phải nhìn đểu mình một cái mới đúng chứ. Lẽ ra đoàn kịch nên tuyển Thanh về, diễn mà như thật. "Lệ ạ, đợt tới có chuyến đi công tác Hương Cảng - Thanh nói khi chỉ còn hai người trong phòng - tớ đã đề cử bạn cùng đi". "Bắt đầu giở trò đây - Lệ nghĩ thầm - tự nhiên lại tốt với mình như thế. Hay là mình từ chối, mà từ chối thì mất cơ hội du lịch xứ cảng thơm, mất cơ hội đi mua sắm. Cứ đi thôi, xem mọi sự ra làm sao". Đêm đầu tiên ở chung phòng, Thanh tắm rửa rồi đi ngủ trước. Lệ ngồi lướt mạng, lạ nhà, cũng chưa thể ngủ ngay. Bỗng Lệ giật mình. Thanh đang ngáy từng hồi, với âm thanh chỉ tìm thấy ở những con vật có trong truyền thuyết, chân gác lên nhau như bác nông dân vừa cày xong thửa ruộng. Lệ mỉm cười khoan khoái. Bao nhiêu nỗi bực tức tự nhiên tan biến. Có thế chứ, cô có thể xinh hơn tôi, giỏi hơn tôi, lấy được chồng tốt hơn tôi, chức vụ cao hơn tôi, nhưng còn lâu cô mới ngủ duyên dáng bằng tôi. Nhìn kìa, sao tiếng ngáy nó thô tục như thế, sao miệng một người đẹp lại có thể rớt dãi tùm lum như thế được cơ chứ. Tự nhiên Lệ thấy ớn lạnh, cô chui vào chăn, trùm kín mít người. Hình như, những cơn nóng trong cơ thể cô chạy đi đâu mất cả rồi. Chỉ một phút sau, cô đi vào giấc ngủ êm đềm trong chăn ấm nệm êm. Trong giấc mơ, Lệ thấy mình như đang ở Nam Cực lạnh giá Than lang mua lu Đã thành thông lệ, tôi không nhớ rõ từ bao giờ, nhà tôi thường gói bánh vào sáng ba mươi. Sau bữa cúng tất niên, bố tôi xếp ba chồng gạch thay cho ông đầu rau rồi đặt thùng bánh chưng lên, chất củi gộc vào, lấy lửa từ cái đèn dầu trên bàn thờ châm bếp luộc bánh. Đêm ấy, cả nhà tôi thức canh bánh, đón giao thừa. Sang canh thì bánh đã rền , được vớt ra, xếp đều lên một cánh cửa sổ thành nhiều chồng và đặt lên trên một cách cửa nữa, xếp các cối đá , gạch cho đủ độ nặng ép bánh... Trong khi chờ bánh, ai có chuyện gì đều đem ra kể. Câu chuyện bố tôi kể cả nhà đều thuộc lòng. Riêng tôi, tôi chép vào trang giấy này, để lỡ về sau đến tuổi thất thập, nếu có phải kể lại cho con cháu, cũng khỏi sợ nhầm lẫn.
"...Năm ấy, mưa to gió lớn nhiều. Đê sông Hồng, sông Đáy, sông Luộc và nhiều con sông khác nữa bị nước cuốn trôi đi từng mảng. Lúc ấy bố mới chừng năm tuổi, tên là Hạ. Năm tuổi, việc nhớ chỉ lõm bõm. Duy cái ăn thì nhớ rõ mồn một. Đói thì nhớ lâu, vậy thôi.
Khi nước rút, nhà cửa xiêu vẹo hoặc trôi mất. Riêng nhà ta ở nhà thờ họ, gọi là từ đường, xây bằng gạch ong, cột bằng gỗ lim đặt trên thớt đá, nước không làm gì được, phù sa mịn như mỡ phủ dầy đến hai tấc. Ngoài vườn, cam quít thối rễ, thân cứ đen lại. Góc vườn, những bụi lá dong rũ xuống, từ gốc bật mầm, gặp phù sa lớn nhanh trở lại, xanh mỡ màng. Phía ngõ ra vào, mấy khóm tre, hóm trúc cũng đứng thẳng lại, ngọn như những cây nêu cong lên, đung đưa.
Thóc giống quí hơn vàng đã vãi ngoài diệc mạ. Cả làng hầu như chẳng còn nhà nào có cơm ăn. May thay, ngoài đồng, trong các mương rạch, ao chuôm... cá nhiều vô kể. Đúng là trời sinh voi trời sinh cỏ. Cứ thò tay xuống vũng nước là bắt được cá. Cá nướng,cá luộc, cá nấu canh, cá om trấu, cá kho... Trông thấy cá, bụng thì đói, nhưng vẫn sợ...
Khoảng giữa tháng Chạp, lúa đã cấy xong, xanh lạ lùng. Năm ấy lập xuân sớm.Ông nội dẫn bố và bác Trung ra cồn Tròn. Bố mang cuốc, bác Trung mang xẻng cho ông. Tưởng ông dẫn đi be đắp bờ ruộng ai ngờ ông dẫn đi thăm mộ tổ. Bố hỏi ông: "Thầy ơi! Cái đụn to kia là mộ tổ nhà ta phải không?". "Không. Đó là mả con mẹ Mìn ăn mày. Mỗi người một nắm đất mà to thế đấy." Bác Trung chỉ một cái mộ xây ở hai đầu có hai cái cột, trên đỉnh cột có tạc hình hai cái búp hoa đại, hỏi: "Có lẽ là cái này, hả thầy?". Ông nội bảo: "Đấy là sinh phần của cụ tiến sĩ họ Phan. Chả biết ông cụ đỗ tiến sĩ hồi nào, chỉ nghe gia phả họ Phan kể thế..." Đến một chỗ bằng phẳng ở giữa cồn, ông nội tự dưng bảo: "Các con thử tìm mộ tổ mình xem". Bố và bác Trung nhìn quanh chẳng thấy gì, cùng nói là không biết. "Vậy thì thầy chỉ cho. Nhớ lấy, nhá". Ông lấy cái xẻng bác Trung đang vác trên vai, cắm phập xuống giữa cồn, bước về phía Bắc ba bước rưỡi, bảo bố đánh dấu bằng một nhát cuốc. Rồi, trở lại chỗ xẻng, bước về phía nam ba bước rưỡi. Cũng vậy, ông bước về phía Đông và phía Tây, đánh dấu thành một cái dấu thập, mỗi nét dài bảy bước. Cuối cùng, ông nối đầu dấu thập ấy bằng các vạch ngang tạo ra một hình vuông, mỗi cạnh cũng bảy bước. Ông nói: "Mộ tổ ta đấy"... Mãi sau này bố mới hiểu ý ông nội. Mộ tổ họ Trần ở đâu không ai rõ. Ơở cồn Tròn, cái cồn tượng Trời, cái khoảng vuông tượng Đất. Điền trang thái ấp... ở đấy cả.
Về nhà, lúc ấy ông mới cho xúc phù sa ở gầm các bàn thờ dọn ra sân. Ông tự nhào luyện đất cho nhuyễn, đóng được mấy chục viên gạch thất loại nhỏ. Ông nói qua Tết gởi vào lò gạch ông lý Sâm nung thành gạch, lấy gạch đó đánh dấu khu mộ tổ tiên cho dễ nhớ.
Làng ta từ xưa có lệ cúng thành hoàng ở miếu. Lệ ấy bây giờ vẫn còn nên các con đều biết cả. Lễ vật cũng đơn giản,gồm chín cái bánh chưng, chín bát nước trong và một cút rượu trắng. Cúng xong, lý trưởng làng -đồng thời cũng là chủ tế -tự tay ném tất cả lễ vật xuống sông, cầu xin đấng linh thiêng cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, dân làng được bình yên...
Suốt mấy ngày liền ông nội các con hết lên Đặng lại xuống Oản kiếm gạo, lúc về cứ thở dài thườn thượt. Năm nay đến phiên họ Trần lo dâng lễ vật cho làng ông nội các con là trưởng tộc, làm sao không lo lắng!
Chừng hai mươi Tết, ông nội sai bác Trung và bố ra vườn hái lá dong, rửa thật sạch, xếp vào rổ để ở góc bếp. Ông chặt một cây tre bánh tẻ, chẻ bao nhiêu là lạt. Quái lạ, ông lo được gạo nếp rồi sao? Giấu kiị quá...
Hôm sau, bố và bác Trung đi chăn trâu, bà nội đi chợ. Đến trưa về, lạ chưa, ông nội đã gói xong chín cái bánh chưng. Vẻ mặt ông trầm ngâm. Ông khẽ bảo: "Năm nay gạo hiếm. Chỉ đủ gạo gói bánh dâng làng"
Tối, ông xếp ba chồng gạch thất thành ba ông đầu rau, lấy củi gộc đốt rồi đặt thùng bánh lên. Ông bảo cả nhà đi ngủ. Sáng , bánh đã ép xong, đều chằn chặn, vuông vưng vức. Bác Trung hít hít. Ông bảo: "Năm nay lụt, gạo cũng chả thơm nổi nữa". Đúng như thế. Y có mùi lá dong thì vẫn muôn thuở như vậy. Bố nhìn hau háu, nuốt nước bọt. Bác Trung nhìn bố thương hại.
Cả ngày hai ba tháng Chạp, dân làng xì xụp vái lạy trước bục thờ ở miếu thành hoàng... Nhìn những tấm bánh vuông vức ông lý trưởng ném xuống sông, nhiều đứa trẻ con khóc òa lên...
Nửa đêm, bác Trung từ đâu về không rõ, ướt như chuột lột, người cứ run bắn lên, răng đập vào nhau lập cập. Bác thì thào bảo bố:" Tao liều mạng lặn xuống sông mò bánh...". "Chết, sao anh lại làm thế? Miếu làng mình thiêng lắm. Rồi các ngài vật hộc máu mồm ra...". Bác Trung càng run hơn, nói không ra tiếng: "Tao biết rồi. Giờ thì tao tin... Tao mò được một cái bánh. Lên bờ, mở ra xem thì...". Bố im lặng, lo lắng nắm lấy tay bác, có ý bảo bác nói khe khẽ, kẻo ông biết thì chết. Bác Trung hiểu ý, thì thào vào tai bố: "Lạ quá em ạ! Các ngài đã hoá bánh của bố thành đất sét hết...":
Vụ chiêm năm ấy lúa tốt bời bời. Mùa gặt, nhà nào nhà ấy thóc chất ngất đầy bịch. Cả làng nói miếu làng mình thiêng..."
Câu chuyện bố tôi kể, cả nhà đã thuộc lòng, nhưng năm nào cũng vậy,mỗi ngươì hiểu theo một cách. Ngươì trợn mắt ra mà tin,người tủm tỉm cươì,có ngươì mới nghe đến chữ năm ấy, đã lặng rời câu chuyện xưa bước vào đêm trừ tịch đón một năm mới đang tới.
Miếng thịt trâu mất tích
TRẦN NINH THỤY -
Thứ Năm, 08/08/2013, 10:30 (GMT+7)
Hôm qua mới kể chuyện con nghé chết, hôm nay lại chuyện con trâu chết, vậy nên Trần Ninh Thuỵ tôi có lời xin lỗi trước. Nếu thấy nhàm, thì bà con hãy phản hồi, để nhà cháu chuyển sang kể chuyện khác.
Con trâu chết là con trâu cái nhà ông Phương ở đội sản xuất số 5 thôn Quyết Thắng, hợp tác xã Tứ Cường. Tứ Cường có 2 thôn là Quyết Chiến và Quyết Thắng, 8 đội sản xuất. Quyết Chiến có 4 đội, từ đội 1 đến đội 4. Bốn đội còn lại thuộc về Quyết Thắng. Đội sản xuất số 5 có hơn chục con trâu, thì con nhà ông Phương được giao nuôi to nhất, già nhất. Gần tháng nay nó đã rất yếu, đi cứ xiêu vẹo, ăn uống không được nên bốn chân nó chỉ còn như bốn mảnh ván, bụng hóp lại, giơ ra đủ bộ xương sườn còn xương sống thì gồ hẳn lên, hai mắt lúc nào cũng rỉ nước ướt nhoèn. Nghe cán bộ thú y báo cáo rằng con trâu chết vì già và vì thời tiết quá lạnh, ông chủ nhiệm Hợp tác xã Tứ Cường quyết định không phải chôn, cho cả thôn được mổ thịt chia cho các hộ xã viên.
Ngày hội làng bây giờ cũng không vui bằng việc con trâu chết mà không phải chôn dạo ấy. Cả thôn tưng bừng, tíu ta tíu tít cứ như én mùa xuân. Thịt ơi là thịt. Mấy tháng ròng có nhìn thấy mặt mũi mày đâu. Nay thì dù con trâu chỉ còn xương với da, nhưng chắc chắn mỗi nhà cũng được dăm lạng thịt rồi. 10 lực điền chia làm hai bên, cứ hai người một đòn tre luồn qua bụng, khiêng con trâu chết ra kho. Trẻ con cả thôn không thiếu mặt đứa nào. Rơm rạ được chất lên khắp mình trâu. Lửa nổi tưng bừng. Bốn anh đứng dạng chân, mỗi anh một cái quạt lúa ra sức quạt. Mùi lông trâu cháy, mùi da trâu cháy sao mà thơm thế.
Chỉ khoảng 2 tiếng sau, con trâu đã xương ra xương, thịt ra thịt. Trưởng thôn Nguyễn Văn Huy đích thân cầm dao chia thịt, chia lòng, chia xương cho 4 đội. Đội trưởng đội nào nhận thịt của đội ấy rồi mang về chia cho xã viên của đội mình. Bọn trẻ con vòng trong vòng ngoài xem chia, đứa nào đứa nấy nuốt nước dãi ừng ực. Và tất nhiên là không thiếu mặt tôi, hồi ấy mới hơn 10 tuổi.
Đang mải xem, chợt có người bấm vào người mình. Tôi ngoảnh lại, thì ra thằng Huấn con bà Phòng, đội trưởng đội 5, rất thân với tôi. Huấn ghé tai tôi, thì thầm:
- Nhà mày có ai ở nhà không?
- Không.
- Vậy thì về nhà mày đi.
Đến nhà tôi, Huấn lôi từ trong áo ra một miếng thịt:
- Tao ngồi sát cạnh bu tao xem chia thịt. Nhân lúc bu tao sơ ý, tao thó được miếng này. Mày đem niêu ra đây, luộc lên, chúng ta chén.
Tôi vội vàng mang cái niêu đất ra. Nhìn miếng thịt đen xì, to bằng góc bàn tay người lớn, lại có cả mấy sợi lông, tôi bảo Huấn:
- Phải thui cho nó cháy hết lông đi đã chứ.
- Không cần. Chỉ có mấy cái lông thôi. Luộc chín rồi nhổ đi cũng được.
Chừng nửa tiếng sau, chúng tôi vớt miếng thịt ra, lấy dao thớt thái miếng thịt thành mấy miếng nhỏ rồi thi nhau bốc cho vào mồm nhai. Ngon, nhưng mà dai quá. Huấn bảo:
- Cần quái gì. Cứ nuốt vào bụng là nó thành chất bổ hết.
Vừa nhai xong mấy miếng thịt thì nghe tiếng ầm ầm ở nhà bà Phòng, chúng tôi vội phi sang. Rổ thịt bà đội trưởng mang về đã được chia gần xong thành hơn ba chục phần cho hơn ba chục hộ. Phần nào cũng có da, có thịt, có lòng. Hơn ba chục hộ không nhà nào thiếu mặt, ai nấy hau háu chờ nhận phần thịt mang về. Có ông chủ hộ đã cầm sẵn trên tay mớ rau cần. Nhưng việc chia phải tạm ngừng, vì lão Thứ đang trợn mắt, gân cổ bảo bà đội trưởng:
- Rõ ràng là lúc chia “cái ấy”, ông Huy ông ấy đặt nó lên thớt, cầm dao rạch dọc một nhát, rồi lại rạch ngang một nhát, chia nó thành 4 phần bằng nhau. Rạch xong, ông ấy cầm mỗi miếng để vào phần của một đội, vừa chia ông ấy vừa đếm: Một miếng l...; Hai miếng l...; Ba miếng l...; Bốn miếng l...” làm mọi người cười ầm lên. Không đội nào thiếu. Thế thì miếng l... của đội ta đâu? Chả nhà chị giấu đi thì còn ai giấu?
- Tôi thề với bà con là tôi không lấy. Xưa nay tôi sống thế nào thì bà con đã biết. Nhận phần cho đội xong, tôi cùng anh Thành, anh Dụ khiêng về chứ có phải một mình tôi đâu mà bảo tôi giấu. Có thể là ông Huy ông ấy quên đội mình hoặc ông ấy để nhầm vào đội khác nên đội ta thiếu.
Trưởng thôn Nguyễn Văn Huy được mời đến. Nghe thủng chuyện, ông nổi xung:
- Mẹ nhà chúng mày chứ. Ông mà lại thèm đi ăn bớt miếng l... trâu của chúng mày à.
Mỗi người một câu khiến đám chia thịt ầm ầm như vỡ chợ. Nhìn sang Huấn, thấy nó tái mét mặt, tôi chợt hiểu. Giời ơi, thì ra cái miếng thịt mà Huấn thó được, đem đãi tôi, chính là một góc cái l... trâu. Thảo nào mà ăn nó dai thế, lại có mùi hơi khai khai. Và quái đản làm sao, càng nhai miếng thịt lại càng nở to ra. Nhưng lúc nhai, vì thèm quá, nào tôi có để ý.
Nghi án miếng l... trâu bị mất được mọi người gác lại không truy cứu nữa, khi bà Phòng tuyên bố:
- Trăm dâu đổ đầu tằm. Chẳng biết ai lấy nhưng tôi làm mất thì tôi phải chịu. Bây giờ cứ chia nốt đi đã. Rồi khi chia xong, tôi xin bỏ một miếng thịt tương đương với miếng bị mất ra đền, để chia đều cho bà con.
Miếng thịt bà Phòng bỏ của nhà ra đền được đem thái thành hơn ba chục miếng, mỗi miếng chừng nửa đốt ngón tay trẻ con, khiến mọi người đều hể hả. Nhưng cũng từ đấy, bà Phòng được người ta gán cho cái tiếng là “bà đội trưởng mất... l...”.
Huấn kém tôi 1 tuổi. Học hết lớp 10 phổ thông, Huấn vào Đại học Mỏ - Địa chất, trở thành kỹ sư địa chất và hiện giờ đang giữ chức vụ rất lớn ở một tỉnh. Thỉnh thoảng hai thằng vẫn gặp nhau. Bà Phòng đã mất. Lần nào gặp, Huấn cũng nhắc đến mẹ mình, và cứ nhắc đến mẹ là mắt hắn lại đỏ hoe. Lần gặp gần đây nhất, Huấn bảo:
- Thế nào mày cũng phải viết về cái chuyện ấy. Để mọi người biết miếng thịt thời bao cấp, nó ghê gớm đến thế nào.
Tôi nhận lời Huấn, nhưng bây giờ mới có dịp.
Con nghé chết
TRẦN NINH THỤY -
Thứ Tư, 07/08/2013, 10:50 (GMT+7)
Vừa chạy vào trụ sở Hợp tác xã, bà Bản vừa bù lu bù loa khóc:
- Khổ thân con Huê nhà tôi quá, các ông các bà ơi. Hôm qua nó còn tung ta tung tăng quanh mẹ, nó ăn nó chơi, nó đùa nó nghịch. Tối hôm qua tôi còn tắm cho nó. Thế mà sáng nay nó đã chết rồi, các ông các bà ơi là các ông các bà ơi...hu hu...hu hu hu.
Ông Hệ, Chủ nhiệm Hợp tác xã, tròn mắt:
- Chết vì bệnh gì? Làm sao nó chết?
- Nào tôi có biết. Sáng nay dậy đã thấy nó chết rồi...hu hu...hu hu hu...
- Ấy à, cháu nó chết hồi nào. Dưng mà nó chết, thì bà phải lên báo cáo với uỷ ban, làm thủ tục khai tử rồi tổ chức mai táng, chứ sao lại đến đây.
- Không phải con tôi. Con Huê nhà tôi cơ mà. Các ông các bà ơi...
- Sao con Huê nhà bà, rồi lại không phải con bà? Bà ăn nói lằng nhà lằng nhằng thế, chúng tôi biết đằng nào mà lần...
May quá, ông Tèng, đội trưởng đội sản xuất số 8 của bà Bản vừa đến:
- Con Huê, tức là con... nghé cái nhà bà ấy. Lúc nó mới đẻ, bà ấy gọi nó là “nghé Bông nghé Huê”, rồi sau bà ấy gọi nó là con Huê, chứ không phải con gái bà ấy. Sáng sớm nay bà ấy cũng báo cáo với tôi chuyện nó chết. Tôi bảo bà ấy là phải lên báo cáo với Chủ nhiệm Hợp tác xã để ông ấy cho thú y xuống khám.
Lát sau, ông Hệ, ông Tèng và cán bộ thú y, trạm trưởng trạm xá xã cùng có mặt ở nhà bà Bản. Con nghé 8 tháng tuổi bị chết vẫn nằm trong chuồng, còn trâu mẹ thì đã được dắt ra ngoài. Người xúm đến đông đặc. Nhìn con nghé, không ít những cái miệng phải nuốt thầm nước dãi.
Vừa khóc, bà Bản vừa kể lể những nào là công chăm sóc nghé ra sao, giờ nó chết thì bà thiệt hại thế nào. Trâu là của Hợp tác xã, nhưng xã viên nào được giao nuôi trâu nái mà trâu đẻ được nghé, thì đến khi nghé trưởng thành, xã viên đó sẽ được Hợp tác xã trả thêm công điểm, quy ra thóc được chừng 2 tạ. Hai tạ thóc hồi ấy là một tài sản rất lớn. Thấy bà Bản dai mồm, ông thú y gắt:
- Bà có im đi để chúng tôi khám nghiệm không nào.
Một tiếng sau, biên bản được lập xong. Thú y kết luận con nghé nhà bà Bản chết vì bệnh nhiệt thán. Phải chôn chứ không thể mổ thịt vì sợ lây bệnh. Năm xã viên được điều động lôi con nghé chết đến bãi tha ma, đào hố, rắc vôi bột xuống rồi chôn, với mức khoán 5 điểm mỗi người (năm điểm hồi ấy tương đương với 4 lạng thóc). Giao cho cán bộ thú y giám sát việc chôn nghé, ông Hệ dặn:
- Phải đào sâu, chôn chặt, nghe chưa.
Nhìn con nghé bị lôi ra bãi tha ma, anh Nồi tiếc đứt ruột. Đắn đo một lát, anh sai con đi gọi mấy người bạn. Lát sau, anh Tôn, anh Xuyên, anh Hành và anh Phê lần lượt đến. Nghe Nồi thì thầm kể chuyện con nghé chết, cả 4 cùng sáng mắt lên. Nồi bảo:
- Nó mới chết đêm qua. Chôn buổi sáng, nửa đêm nay đào về, chắc chắn thịt vẫn chưa có mùi. Mà có mùi chăng nữa thì cứ cho tỏi vào là bay hết.
Và họ thống nhất rất nhanh: Đêm nay sẽ đào xác con nghé lôi về, mổ thịt đánh chén. Nói là làm. Khoảng 10 giờ đêm hôm ấy, 5 anh lặng lẽ vác mai, cuốc ra tha ma. Chỉ hơn tiếng sau, con nghé đã được 5 lực điền khiêng về bếp nhà Nồi.
Ở nhà, vợ Nồi đã đun sẵn một nồi nước lá sả. Rửa sạch con nghé, dội nước sôi làm lông xong, Nồi ra lệnh che kín cửa bếp rồi chất rơm thui. Sợ lửa to thì ánh sáng sẽ lọt ra ngoài, nên họ chỉ đốt từng nắm rạ nhỏ một và dùng quạt mo quạt. Đang thui thì Thuần, con trai ông Tèng, lò dò đến. Cả bọn xanh mắt, nhưng Thuần bảo:
- Tôi chỉ đến xem thôi.
Được lời như cởi tấm lòng, cả 5 rối rít:
- Tốt quá! Cậu ở đây, chốc nữa uống rượu với chúng tớ.
Lúc mới làm lông xong, thịt con nghé chết nhẽo nhèo, xám ngoét, bốc mùi tanh khủng khiếp vì đang ở giai đoạn sắp phân huỷ. Sau khi thui, da nghé trở thành màu vàng nghệ rất bắt mắt nhưng mùi tanh vẫn khá đậm. Anh Tôn bảo:
- Mùi tanh là ở ruột gan nó bốc ra đấy. Mổ nhanh lên, đem gan ruột ra vườn mà chôn.
Nồi cười:
- Dạo đi dân công ở Thái Mỹ (thuộc huyện Thái Ninh cũ, nay là huyện Thái Thuỵ, Thái Bình), thấy con chó chết ở mương nước dễ đến ba ngày, chúng tao vớt lên đem thui. Thịt nó cũng vàng như thế này nhưng mùi vẫn thum thủm. Mổ ra, ruột gan nó đã nát hết. Thế mà vứt ruột gan đi, thịt mang ướp với riềng mẻ mắm tôm, xào kỹ ăn vẫn chẳng làm sao. Con này thì ăn thua mẹ gì. Khoét lấy miếng đùi, xào lên, làm mấy chén cái đã.
Hơn 2 tiếng sau, khi anh nào anh ấy đã ngà ngà, họ mới bắt tay mổ con nghé. Nhưng khổ nỗi nhà Nồi không có cái nong hay cái nia nào, mà sân thì sân đất, nền nhà cũng nền đất, không thể mổ được. Bốn anh kia nhà cũng không hơn gì nhà Nồi.
Lúc đó đã gần 3 giờ sáng, nhà nào cũng đã ngủ say. Gọi họ dậy mà mượn nong hay mượn nia lúc này thì khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”, mà để trời sáng thì một là thịt con nghé sẽ ươn thêm, hai là cũng sẽ bị lộ. Nhà Thuần thì có nong, nhưng nếu bảo Thuần về lấy nong mà ông Tèng đội trưởng, bố Thuần biết thì “thôi rồi Lượm ơi”. Cả bọn thuỗn mặt ra. Đang bí thì Thuần hăng hái:
- Để tôi về tôi lấy nong cho.
- Nhỡ ông bà biết thì sao?
- Không lo. Tôi có cách của tôi, thầy bu tôi không biết được đâu mà sợ.
Lát sau, mang nong đến, Thuần thì thầm bảo Nồi:
- Thầy tôi bảo anh để phần thầy tôi một miếng.
Cả 5 anh như bị phỏng lửa:
- Thầy cậu biết à? Chết rồi, ông ấy bảo vậy là để cầm được miếng thịt làm bằng chứng, rồi ông ấy mới trị. Làm thế nào bây giờ?
- Không phải vậy đâu. Tôi đi rất khẽ vào buồng, lấy nong không gây ra tiếng động. Nhưng vừa mang nong ra khỏi cửa buồng thì thầy tôi hỏi: "Mày mang nong cho nhà Nồi mượn phải không”? Tôi sợ quá. Nghe giọng nói, tôi biết thầy tôi thức từ lâu rồi chứ không phải lúc ấy mới thức. Tôi đành nói thật.
Nhưng vừa nói được một câu thì thầy tôi cắt lời, bảo rằng thầy tôi biết ngay từ lúc các anh vác mai ra tha ma cơ. Thầy tôi bảo, ban sáng thầy tôi cũng định giữ con nghé lại, mổ thịt. Con nghé gần một tạ, mổ ra cầm chắc bốn chục cân thịt, chưa kể đầu, lòng, xương. Chia đều cho cả đội, mỗi nhà cũng được vài ba lạng. Từ đầu năm đến giờ có nhà ai được miếng thịt nào đâu. Nhưng mà xưa nay ông Hệ ông ấy chẳng ưa gì thầy tôi, nên nói ra sợ ông ấy quy chụp này nọ thì lôi thôi lắm...
“Hùng chỉ”
TRẦN NINH THỤY -
Thứ Hai, 05/08/2013, 10:51 (GMT+7)
Tên họ đầy đủ của hắn là Nguyễn Mạnh Hùng, quê ở xã Hy Cương, huyện Phù Ninh, tỉnh Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc và Phú Thọ ngày nay). Hùng cùng tổ bốc vác với tôi ở Cty Cung ứng Vật tư thuộc Tổng Cty Xây dựng Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà.
Tổ có 13 người. Nhiệm vụ của tổ là khi xe chở xi măng từ Hải Phòng về thì vác từ xe xuống xếp vào kho, và khi các đơn vị khác trong Tổng Cty đưa xe, mang phiếu xuất đến kho thì lại vác xi măng từ kho xếp lên xe cho họ. Đúng như tên gọi, cao 1,75 m, nặng gần bảy chục kg, Hùng vừa “mạnh” lại vừa “hùng”. Trong khi tôi phải gập lưng xuống mới “cõng” nổi bao xi măng 50 kg, đi từ xe vào kho hay đi từ kho ra bằng những bước xiêu bước vẹo thì hắn chỉ cắp bằng một tay, đi cứ nhẹ tênh tênh. Có lần hứng lên, hắn cắp hai tay hai bao, bảo chúng tôi đặt lên vai cho hắn một bao nữa, đi phăng phăng vào kho rồi lại quay ra mà nhịp thở vẫn rất bình thường.
Không chỉ khỏe mà hắn còn có hai cái tài. Thứ nhất là tài câu cá. Sáng Chủ nhật nào thấy hắn vác cần câu ra sông Đà là cả tổ đinh ninh tối ấy thế nào cũng có cá ăn, bởi tính hắn rất thảo, những thứ kiếm được hắn chẳng giữ riêng cho mình cái gì. Có lần hắn câu được con cá chiên nặng hơn 5 cân, hôm ấy cả tổ được một bữa cá chiên nướng nhớ đời.
Thứ hai là tài bẫy chuột. Chuột rừng là một món thực phẩm “sạch” bởi chúng ăn những thứ ở rừng chứ không chui rúc cống rãnh như chuột nhà. Mùa ngô hay mùa sắn, con nào con nấy béo mẫm, ăn rất ngon. Chập tối xách chùm bẫy lên rừng, sáng sớm thu bẫy, có đêm số chuột dính bẫy của Hùng đến hơn hai chục con. Tôi phục Hùng lắm. Biết hắn rất thích truyện nhưng lại lười đọc, tôi thường kể chuyện "Tam quốc diễn nghĩa", "Tây Du ký", "Đông Chu Liệt quốc"... cho hắn nghe, nên hắn cũng quý tôi, thỉnh thoảng đi câu, hắn cho tôi đi theo để học nghề.
Hôm ấy sau buổi làm, tổ trưởng công đoàn Hoàng Văn Phan bảo anh em tranh thủ họp để bình xét hàng phân phối. Anh Phan cho biết:
- Đợt này tổ ta được phân phối 1 vành xe đạp Thống Nhất, 16 đũa xe đạp, 2 áo may ô dệt kim Đông Xuân và 1 cuộn chỉ đen. Đề nghị anh em bình xét.
Trong tổ chỉ có anh Hòa và anh Chương có xe đạp, chiếc vành xe đạp là thứ mà họ mơ ước lâu nay, vì vành xe của anh nào cũng mọt lỗ chỗ rồi. Nhưng một cái vành xe thì không thể phân cho 2 anh, vì chẳng ai dùng được một cái vành xe đạp cắt đôi cả. Tổ trưởng phân cho Hòa, nhưng Chương nhất định không chịu. Hơn nửa tiếng giằng co chưa ngã ngũ, cuối cùng ông đội trưởng phải xuống giải quyết:
- Cho cả hai thằng. Mang ra chợ mà bán, trừ tiền mua theo giá phân phối đi, còn chênh lệch chia đôi.
Cả 2 anh đều “tâm phục khẩu phục”. Cái vành xe hồi ấy giá phân phối có mười hai đồng ba hào sáu, nhưng giá chợ đen gần bốn chục đồng (giá phân phối một chiếc xe đạp Thống Nhất là 270 đồng), hơn đứt tháng lương (lương cơ bản lao động phổ thông bậc 2 của chúng tôi mỗi ngày được một đồng bốn hào chín xu ba).
Giống như vành xe đạp, may ô cũng không thể chia đôi, nhưng vì giá trị của nó nhỏ, có đem chợ bán chỉ được năm, sáu đồng, trừ giá phân phối đi, chênh lệch chỉ còn hơn hai đồng, nên khi tổ trưởng chỉ định phân 2 cái áo cho 2 người, không ai thắc mắc.
16 chiếc đũa xe đạp được phân cho 4 người, mỗi người 4 chiếc, cũng không ai mè nheo.
Cả 4 anh đều bán lại ngay phần đũa của mình cho Chương và Hòa, mỗi chiếc tám hào (giá phân phối một hào hai một chiếc). Hòa và Chương trả phần chênh lệch cho 4 anh luôn, dù chưa lấy được hàng. Tôi và Hùng được cuộn chỉ. Tổ 13 người, lần này 10 người được phân phối hàng, 3 người không được. Theo quy định, thì lần sau tổ được phân phối những gì, 3 người đợt này không được sẽ được ưu tiên. Không được đợt này có khi lại “trúng to” đợt sau, vì chuyện phân phối hàng rất thất thường và không ai đoán trước được. Lần này chỉ mấy thứ lặt vặt nhưng lần sau có khi là chăn chiên, ruột chăn bông hoặc áo sợi... Được một cái chăn bông coi như được hẳn tháng lương, vì giá chăn bông phân phối chỉ hai bẩy, hai tám đồng, nhưng mang ra chợ có ngay bẩy chục đồng.
Được phân phối nửa cuộn chỉ, tôi mừng lắm. Dưới quê, vợi tôi có cả đống quần áo tổ đỉa. Không có chỉ vá, vợ tôi phải rút sợi ở miếng vải màn cũ ra làm chỉ. Nhưng sợi vải màn cũ rất mục, vá xong chỉ vài lần giặt là sợi đã đứt, miếng vá rời ra. Đó là người lớn, chứ với mấy thằng con tôi, thì giờ vá chốc có khi sợi đã đứt. Có lần vợ tôi đã phải gỡ cả những sợi móc ở cái nón mê làm chỉ vá. Loại này rất bền, nhưng vì nó không đồng chất với vải, nên những miếng vá trở thành dúm dó, dù vợ tôi nổi tiếng là người khéo tay. Nửa cuộn chỉ này gửi về, chắc vợ tôi mừng lắm. Tôi lập tức viết thư báo tin cho vợ biết.
Nộp tiền cho tổ trưởng xong nhưng phải một tuần sau mới có hàng. Nhận được cuộn chỉ, tôi bẻ chiếc đũa tre làm đôi, đưa một nửa cái đũa và cuộn chỉ cho Hùng:
- Mày cuộn phần của mày vào đoạn đũa này, còn thì đưa tao.
- Cuộn làm gì cho mất công...
Nói xong, Hùng đút cuộn chỉ vào túi quần rồi chạy xuống nhà bếp. Lát sau quay lên, một tay hắn cầm con dao tông, tay kia cầm một khúc củi khiến tôi ngơ ngác, không hiểu hắn định làm gì. Để cuộn chỉ lên một viên gạch, hắn đặt con dao vào giữa cuộn chỉ, ướm cho hai nửa thật đều nhau.
Chợt nhận ra ý định của hắn, tôi hoảng hồn định chạy đến dằng ra, nhưng không kịp nữa. Một tay giữ chắc con dao, tay kia hắn vung khúc củi, giáng liên tiếp vào sống dao. Chát! Chát! Chát chát chát. Lưỡi dao ngập sâu vào cuộn chỉ. Phút chốc cuộn chỉ đã đứt rời thành hai nửa, mỗi nửa lăn ra một phía. Đút một nửa vào túi quần, còn một nửa hắn nhặt đưa tôi:
- Của mày đây.
Cả tổ cười lăn cười lộn. Riêng tôi, cầm nửa cuộn chỉ giờ đã biến thành hàng trăm đoạn ngắn, mỗi đoạn chỉ chừng ba đốt ngón tay, tôi ứa nước mắt.
Từ đó, ai cũng gọi Nguyễn Mạnh Hùng là “Hùng chỉ”, để ghi nhớ sự kiện đặc biệt này. Mấy tháng sau, Hùng được tuyển đi học lớp lái máy ủi. Ra trường, hắn chuyển về Cty thi công cơ giới.
BI HÀI THỜI BAO CẤP: BUỔI CÀY ĐẦU TIÊN Có một dạo, Ban quản trị Hợp tác xã Nông nghiệp Rạng Đông lấy một tấm cót, nẹp tre xung quanh thành cái bảng dài dễ đến 2 m, rộng 1 m, dùng vôi viết lên đó hai câu rõ to: “Cầm vàng còn sợ vàng rơi/Vào Hợp tác xã đời đời ấm no” rồi dựng cột, treo cái bảng đối diện ngay cổng nhà lão Tự, để hễ mở cổng ra là hai câu ấy đập ngay vào mắt cả nhà nhà lão. Nhưng lão chỉ cười khẩy. Cả thôn đã vào Hợp tác xã gần 10 năm nay, trừ nhà lão. Chính quyền gọi lão là “Cái lô cốt tư hữu cuối cùng” của thôn, và toàn bộ hệ thống chính trị của thôn được huy động vào cuộc để “xoá” bằng được cái lô cốt ấy, bởi thôn nào còn có người chưa vào Hợp tác xã là thôn ấy mất điểm thi đua. Các đoàn thể chia nhau “giáp công” từng thành viên trong gia đình lão: Hội phụ nữ vận động vợ lão, Chi đoàn thanh niên vận động những đứa con lớn, Đội thiếu nhi vận động những đứa nhỏ. Nhưng tất cả chẳng là cái gì, khi vị “tổng tư lệnh” là lão không chuyển. Trước sau, lão chỉ một mực: - Lạy Cụ Hồ trên cao soi xét, lạy Đảng anh minh. Trước đây nhà cháu không có ruộng, quanh năm làm thuê làm mướn cho người ta. Bây giờ nhờ ơn Cụ, nhờ ơn Đảng, có ruộng có trâu, thì nhà cháu làm nhà cháu ăn, cháu chẳng muốn chung chạ với ai sất. Lão Tự không vào Hợp tác xã, là có cái “lý” của lão. Dạo cải cách, được chia ruộng, nhà nào nhà nấy lăn vào cày sâu cuốc bẫm, coi cây lúa còn hơn cả tính mạng mình, nên lúa tốt bời bời, cót thóc nhà nào cũng đầy. Nhưng từ ngày vào Hợp tác xã, lão thấy người ta càng ngày càng gian dối ra. Sáng 7 giờ kẻng đánh, xã viên mới lục tục ra đồng. Từ làng ra cánh đồng xa nhất chỉ độ cây số, nhưng họ thưỡn thẹo tận 8 giờ mới đến nơi. 9 giờ đã giải lao. 10 giờ làm tiếp, 11 giờ kẻng đánh, hối hả về. Cũng quãng đường ấy, lúc đi làm đi mất cả giờ, lúc về chỉ mười phút. Cày dối, bừa dối, cấy dối, cào cỏ thì đưa cào một hàng lấy chân dũi đất qua loa một hàng, thế là thành hai. Bón đạm cho lúa, họ đi quanh bờ ném vung ra, kết quả là lúa xung quanh bờ bị lốp, chỉ tốt lá mà không có bông còn lúa giữa ruộng thì xấu, bông đực bông cái. Không chỉ lúa má mà con trâu con bò cũng vậy. Trước đây trâu bò nhà nào cũng béo mập, lông mượt như nhung. Nhưng từ ngày trở thành tài sản của Hợp tác xã, thì con nào con nấy phơi ra đủ bộ xương sống xương sườn. Trại chăn nuôi lợn của Hợp tác xã cũng không hơn gì. Lợn giống thả vào 5 cân, đẹp như tranh nhưng nuôi cả năm chỉ được vài chục cân, con nào con nấy cứ sun mình lại, da cóc cáy, lông dựng đứng lên, và cứ mấy hôm lại có một vài con lăn cổ ra chết. Chỉ sướng mấy anh trong Ban quản trị, động họp là động dao thớt, mà họp hành thì liên miên. Nhà nông mà không thiết tha với cây lúa, lừa dối cây lúa mảnh ruộng, thì cây lúa mảnh ruộng nó thờ ơ lại, nó lừa lại là đúng thôi. Làm thế nào thì ăn thế ấy, các cụ dạy đố có sai. Càng ngày đời sống xã viên càng sa sút đi. Năm đầu, công lao động Hợp tác xã còn được cân hai (1,2 kg) thóc, sau còn một cân, rồi tám lạng, bẩy lạng và cuối cùng chỉ còn đúng năm lạng. Càng làm dối càng thu nhập thấp. Càng thu nhập thấp lại càng làm dối. Cái thòng lọng lẩn quẩn ấy cứ càng ngày càng thít chặt mãi vào. Cầm vàng còn sợ vàng rơi/Vào Hợp tác xã đời đời ấm no. Hừm, làm ăn kiểu ấy, thì có mà... vàng mắt. Không vận động nổi lão Tự, Hợp tác xã quay ra tấn công lão về kinh tế. Ruộng nhà lão ở giữa cánh đồng, xung quanh là ruộng của Hợp tác xã. Vụ đổ ải, Hợp tác xã không cho lão lấy nước qua ruộng của mình. Cần quái gì. Lão hô cả nhà mỗi người một đôi thùng gánh nước từ nông giang đổ vào ruộng, chỉ từ sáng đến tối ruộng nhà lão đầy ắp nước. Không bán đạm, bán lân cho lão (Hồi ấy, các loại vật tư nông nghiệp nhất thiết phải phân phối qua Hợp tác xã), thì lão có tro bếp với phân bắc, phân chuồng, phân xanh. Từ vợ chí con, đang đi ngoài đồng, nếu buồn ỉa hay buồn đái mà không kịp chạy về nhà để trút những thứ đó vào nhà xí hay nồi hông thì phải cố nhịn, chạy ra ruộng nhà mình mà trút. “Trút vào ruộng Hợp tác xã thì ông dần cho ốm xác”. Dắt trâu ra đồng phải treo cái ống tre luồng lên sừng trâu, còn người thì cầm theo cái rổ sảo lót lá chuối. Trâu đái, lấy ống luồng hứng, trâu ỉa thì lấy sảo hứng mang về. Nhưng rồi thì cuối cùng lão cũng phải vào Hợp tác xã. Lý do là thằng Nhiên con trai của lão được gọi nhập ngũ. Ba tháng sau, có một anh ở đơn vị thằng Nhiên tìm về gặp vợ chồng lão: - Báo cáo hai bác. Em Nhiên phấn đấu rất giỏi. Kết thúc khoá huấn luyện, em đạt danh hiệu chiến sỹ giỏi, đoàn viên ưu tú. Đơn vị chuẩn bị vào Nam chiến đấu, chi bộ định kết nạp Đảng cho em trước lúc lên đường. Cháu được tiểu đoàn cử về để thẩm tra lý lịch của em. Vợ chồng lão nở mặt nở mày. Không uống rượu mà lão thấy mình ngây ngất. Với lão, hai chữ “Đảng viên” vô cùng thiêng liêng. Con lão mà trở thành Đảng viên, thì thật phúc nhà lão to như cái đình. Nhưng sau khi ở Uỷ ban về, anh cán bộ buồn rầu bảo lão: - Lãnh đạo xã bảo rằng gia đình ta chống lại chủ trương Hợp tác hoá của cấp trên, không vào Hợp tác xã, nên họ sẽ xác nhận như vậy vào lý lịch của em. Như thế thì em sẽ chẳng bao giờ được vào Đảng cả, bác ạ. Đêm hôm ấy lão Tự thức trắng. Gần sáng, lão hỏi anh cán bộ: - Có cách nào không anh? - Chỉ có cách là bác làm đơn xin vào Hợp tác xã ngay thôi. Lão nhờ anh cán bộ thảo cho một cái đơn, kê khai tất cả ruộng đất, trâu, cày bừa... Đúng 7 giờ sáng lão mang đến trụ sở Hợp tác xã. Ông chủ nhiệm đã chờ sẵn. Đơn của lão được chấp nhận ngay. Lý lịch của thằng Nhiên được xã xác nhận rõ kêu. Hôm sau, lão Tự được đội trưởng phân công đi cày buổi cày đầu tiên. Quen với nếp làm việc cũ nên trời vừa sáng lão đã đánh trâu vác cày ra đồng. Đang đi, lão chợt khựng lại. Cái gì thế này. Tiền, trời ơi tiền. 4 đồng 5 xu ai đánh rơi nằm sáng loé ven đường. Họ trâu lại, hạ cày, lão hối hả cúi xuống nhặt cho vào túi áo rồi vác cày lên vai và... đánh trâu về. Ông đội trưởng ngạc nhiên: - Sao ông không đi cày? - Tôi vừa được một công rưỡi rồi, thì về. - Ông làm bao giờ mà được công rưỡi? Lão móc 4 đồng 5 xu trong túi, xoè ra: - Một công lao động được năm lạng thóc. Thóc hai hào bảy một cân. Tôi vừa bắt được hai hào, bằng 7 lạng rưỡi thóc, đúng một công rưỡi. - Giời ơi... BI HÀI THỜI BAO CẤP: CON LỢN ĐẸN Mùng 10/7/1978, ông Thùy ở miền Nam viết thư báo tin cho lão Thủy biết ông sẽ ra Bắc thăm anh chị, và “đúng mùng 10/8 em có mặt”. Mùng 10, tức là ngày kia. Lão Thủy bàn với vợ: Tuy trong thư chú ấy dặn là anh chị đừng bày vẽ gì tốn kém, nhà có gì ăn nấy, cốt anh em được sum họp. Nhưng lần tôi vào, ngày nào chú thím ấy cũng cơm gà cá gỡ. Nay chú ấy ra đây, bữa sau chả có thì thôi chứ bữa đầu chả nhẽ lại cũng bát canh quả cà với lại đĩa tép rang. Bà lên nhà cô Tuyết bán cửa hàng thực phẩm trên huyện, hỏi xem cô ấy có lo giúp được cân thịt ngoài không? Thịt ngoài, tức là thịt do các nhân viên cửa hàng thực phẩm huyện ăn bớt được. Mỗi đợt cửa hàng bán thịt tem phiếu, lợn mổ từ nửa đêm, được xả thành từng miếng. Miếng cân tám, miếng cân hai, miếng một cân, miếng năm lạng... Mỗi miếng được xâu bằng một cái lạt để bán cho từng loại tem phiếu, mỗi loại thịt được chất thành một đống ở quầy. Muốn mua được thịt, người mua phải xếp hàng. Đến lượt ai, một nhân viên sẽ thu phiếu, cắt ô tiêu chuẩn, tính tiền, thu tiền, người thứ 2 sẽ nhắc luôn miếng thịt tương đương với ô phiếu ấy giao cho người mua mà không phải cắt từ con lợn móc hàm ra rồi cân. Tuy cắt ra từng miếng tương đương với từng loại tem phiếu như trên, nhưng các nhân viên cửa hàng móc ngoặc với đồ tể, không bao giờ cân đủ. Miếng cân tám chỉ cân bảy, miếng một cân chỉ chín lạng rưỡi... Bằng cách ấy, cứ độ 10 cân họ dư ra được cân rưỡi hoặc vài cân. Số thịt ấy đem bán ngoài với giá gấp ba, lấy tiền chia nhau. Bà Thủy thở dài: - Tôi đã hỏi từ hôm qua. Dưng mà cô ấy bảo cả tháng nay cửa hàng không có thịt bán, đến nhân viên cửa hàng còn mốc mép, lấy đâu ra thịt ngoài. Câu nói của vợ khiến lão Thủy càng buồn. Nhà có hai anh em, năm 1954 chú Thùy đi Nam. Nhờ đất nước thống nhất mà chú ấy mới có dịp về thăm lại quê cha đất tổ, tính ra đã 24 năm, chẳng lẽ lại không có nổi miếng thịt chén rượu. Gà vừa bị dịch, không chỉ riêng nhà lão mà đến cả làng cũng không còn một con. Không có nổi con gà thịt đã đành, mà cuối năm nay còn không biết lấy đâu ra hơn chục cân gà bán nghĩa vụ chứ đừng nói gì Tết nhất. Ao đã góp vào hợp tác xã, tuy có tiêu chuẩn phân phối cá nhưng phải chờ dịp hợp tác xã đánh cá mới được chia... Chiều mùng 9, cho lợn ăn, mắt lão chợt sáng lên khi nhìn con lợn đẹn. Nguyên nhà lão có 4 lao động chính. Theo quy định hồi ấy, mỗi lao động chính 1 năm phải “làm nghĩa vụ” cho Nhà nước 20 kg lợn hơi, 4 kg gia cầm, cả nhà thành 80 kg lợn hơi, 16 kg gia cầm. Lợn và gia cầm ấy phải bán cho Nhà nước với giá chỉ bằng 1/3 giá chợ. Vượt tiêu chuẩn đó, phần vượt mới được bán ngoài hoặc là được Nhà nước trả tương đương giá chợ. Phiên chợ, nhà nào mang lợn hay gia cầm ra bán mà không xuất trình được giấy chứng nhận đã hoàn thành nghĩa vụ, xã tịch thu. Không đủ tiêu chuẩn, hợp tác xã trừ vào thóc công điểm, cứ 1 kg lợn hơi trừ 5 kg thóc. 1 kg gà trừ 4 kg thóc. Ba con lợn này lão định nuôi đến cuối năm làm nghĩa vụ. 2 con đã được mỗi con chừng hai yến, nhưng con thứ 3 thì đèo đẹn, cùng nuôi bằng nhau lúc 5 kg mà giờ mới nó được chừng mười một, mười hai cân. Hay là thịt mẹ nó con lợn đẹn mà đãi chú ấy. Làm bữa tiết canh còn thịt thì để ăn mấy ngày. Vẫn biết mổ lợn là chuyện “động trời”, xã biết được thì “lên bờ xuống ruộng”, nhưng cùng tắc biến. Tìm ra được kế sách thoát hiểm ấy, như trút được gánh nặng, lão bàn với vợ, và được vợ tán thành. Thế là ngay lập tức lão lùa con lợn đẹn nhốt riêng vào một góc chuồng. Cơm tối xong, lão Thủy mài dao bầu thật sắc rồi mới đi ngủ. Khoảng 3 giờ sáng lão dậy, khẽ lay vợ và Minh, thằng con trai lớn, dậy theo, thì thầm: - Khẽ thôi kẻo mấy đứa trẻ thức dậy, nó ồn ào lên, hàng xóm biết thì chết. Bà đun cho tôi nồi nước, còn thằng Minh lấy cái bao tải kia bỏ ít tro vào. - Để làm gì hả bố? - Cho tro vào rồi, mày cầm bao ra chuồng lợn, chụp miệng bao vào đầu con lợn đẹn để cho nó phi thẳng vào bao. Nó há mồm định kêu thì tro bếp đã xộc vào đầy họng, thế là không kêu được. Làm đi con, phải đi thật khẽ, chụp đầu lợn cũng phải thật khẽ. Tang tảng sáng thì con lợn đã thứ nào ra thứ ấy. Âu tiết đỏ au. Bộ lòng đã luộc chín. Bữa trưa sẽ chén bộ lòng, cái thủ, thịt áp chảo tất để dùng mấy ngày cho khỏi thiu. Lòng lợn, tiết canh, thủ luộc, ngang với cỗ Tết còn gì. 9 giờ 15 ông Thùy về đến nơi, anh em tay bắt mặt mừng. 10 giờ, lão Thủy bảo em trai: - Chú ngồi chơi, anh xuống đánh tiết canh, thái lòng, làm mâm cỗ thắp hương thầy bu rồi ta chén. Đúng lúc lão định ngả mâm ra đánh tiết canh thì có tiếng gọi cổng: - Ông Thủy, mở cổng ra. Cổng vừa mở, ông Phó chủ nhiệm hợp tác xã và 3 dân quân ập vào. Ông Phó nghiêm giọng: - Chúng tôi được báo gia đình ông vi phạm chính sách lương thực thực phẩm của Nhà nước, chưa làm nghĩa vụ mà đã mổ lợn chè chén hoang phí. Quả nhiên đúng như vậy. Yêu cầu ông để nguyên tang vật để chúng tôi lập biên bản. Như Từ Hải chết đứng, mãi sau lão Thủy mới mở miệng được: - B... b... báo cáo các ông... - Không báo cáo báo cầy gì hết. Lập biên bản, tịch thu tang vật mang về trụ sở hợp tác xã. Ai kia? Ông Thùy vội vàng chạy ra: - Báo cáo chư ông, em là Thùy, em ruột bác Thủy, đi Nam từ năm 1954, nay mới có dịp về. - Trời đất, ông Thùy đấy ư? Đất nước thống nhất, anh em sum họp, quý quá. Nhưng mà việc vi phạm chính sách thì vẫn phải xử lý thôi. Anh em, lập biên bản đi, thu hết tang vật mang về. Không sót một mẩu thịt nào. Cái âu tiết họ cũng đổ vào chai mang đi. Hai anh em đành uống rượu với đĩa đậu tương rang. Thấy anh trai nhấp ngụm rượu mà không sao nuốt nổi, lại sặc ra, ông Thùy an ủi: - Thôi bác ạ. Cốt anh em vẹn toàn, sum họp là quý. Chứ vật chất, nó là cái thứ phù vân ấy mà. Chiều hôm ấy, chị Lý, nhân viên tạp vụ ở trụ sở hợp tác xã kể vung lên: - Không biết thịt thà ở đâu mà trưa nay mấy ông ban quản trị chè chén đến tận một giờ chiều. Ông chủ nhiệm say quá, nôn thốc nôn tháo, làm tôi phải dọn dẹp hoa cả mắt. BI HÀI THỜI BAO CẤP: CÁI THUỐN XE ĐẠP Hình ảnh cái xe đạp Phượng Hoàng của Trung Quốc không lúc nào rời khỏi đầu óc ông Thi, kể từ ngày ông nhìn thấy nó lần đầu tiên cách đó đã năm năm, do ông Thấu, người làng làm việc trên tỉnh cưỡi về: Màu xanh cánh trả lóng lánh, con Phượng Hoàng màu vàng nổi bật trên khung xe, trông vừa đẹp vừa sang trọng, vành, đũa, ghi đông, bàn đạp... đều mạ kền trắng tinh. Những khi ông Thấu dừng không đạp cho cái xe tự đi theo đà, cái râu líp nó kêu “tách tách tách tách tách...” nghe vui tai lạ. Gặp người, ông ấy bấm chuông “kính coong kính coong”, khiến ai cũng phải tránh đường, rồi khi ông ấy vụt qua, ai cũng phải nhìn theo bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Giời tối, ông Thấu bật đèn xe sáng bằng mấy cái đèn pin, người đi ngược chiều cứ gọi là loá mắt. Còn cái yên xe, không biết nó được làm bằng loại da gì mà êm thế. Không biết đi xe đạp, và cũng chưa từng được ai cho ngồi sau xe đạp bao giờ, nhưng ông Thi dám chắc rằng ngồi lên cái yên xe ấy thì cứ gọi là... mát cả mông. Thế nên khi biết tin rằng nếu hộ nào đã làm đủ “nghĩa vụ” lợn và gia cầm cho Nhà nước rồi, mà còn bán cho Nhà nước 2 tạ gia cầm theo giá “nghĩa vụ” (tức là chỉ bằng 1/3 giá chợ), sẽ được Nhà nước bán lại cho một cái xe Phượng Hoàng với giá 300 đồng, thì ông Thi hạ quyết tâm phải sở hữu bằng được một chiếc xe loại ấy. Để có được hai tạ gia cầm, ông tìm đến những hộ trong làng đã hoàn thành nghĩa vụ gia cầm với Nhà nước nhưng vẫn còn dư, để hỏi mua gom theo giá chợ. Làng sẵn ao hồ nên gia cầm đa số là vịt. Theo tính toán của ông, vịt ngoài chợ 3 đồng một cân. Hai tạ vịt vị chi 600 đồng. Bán cho Nhà nước 1 đồng một cân, hai tạ vịt thành 200 đồng. Như vậy ông phải bỏ ra 400 đồng nữa, với lại tiền mua xe 300 đồng, là 700 đồng cả thảy. So với việc mua lại một cái “Phiếu phân phối xe đạp” (do những người được phân phối bán lại) vẫn rẻ hơn những 100 đồng, vì phiếu ấy họ bán đúng 500 đồng không bớt một xu, cộng với 300 đồng tiền mua xe nữa là 800 đồng. Còn nếu mua lại cái xe người ta đã đăng ký, đã dùng rồi đem bán, thì tuy có dưới 700 đồng một chút ít, nhưng một là mang tiếng chơi đồ cũ, hai là tuy xe của mình nhưng tên trong đăng ký lại là tên người khác (thời ấy, xe đạp phải được Công an đăng ký, cấp biển số mới được tham gia giao thông), tức không chịu được. Mặc vợ phát rồ phát dại lên vì “có phải cán bộ cán beo gì đâu mà xe với pháo. Của một đống tiền, rước về rồi con cái nó đua đòi, nó bỏ việc để cả ngày chỉ nhông nhông trên xe, lại còn đèo bạn đèo bè, mấy lúc vứt đi”, ông Thi đã quyết là làm. Kiểm lại tiền nhà, nhờ tài câu cáy của vợ và tài giăng câu đơm đó của ông, cộng với sự chắt bóp từ ngót hai chục năm kể từ ngày vợ chồng lấy nhau đến lúc ấy, ông đã có năm trăm mười ba đồng, chỉ còn phải vay một trăm tám mươi bảy đồng nữa. Món nợ ấy chỉ ba năm là trả hết. Sau mấy ngày xoay xở, vay mượn, ông Thi đã có đủ 700 đồng trong tay. Có tiền, việc gì cũng nhanh. Chỉ trong buổi sáng, số vịt hai tạ đã được gom đủ, buổi chiều chở vịt bằng xe ba gác lên cửa hàng thực phẩm huyện cân, xẩm tối thì ông đã về nhà với cái “Phiếu mua xe đạp” trong túi, trong phiếu ghi rõ rành rành là loại xe Phượng Hoàng. Tin ông Thi được mua xe Phượng Hoàng lan khắp làng rất nhanh. Tối hôm ấy gần như cả làng đến nhà ông chúc mừng. Cụ Thìn bảo: - Nhất nhà anh đấy. Thời trước cả tổng Ninh Cù này mới có lão Chánh tổng có con ngựa, với lại ông lý Hàn làng Đoài có cái xe đạp, nhưng mà là xe của Tây, không được đẹp như xe Phượng Hoàng. Thời ta bây giờ anh Hải chủ tịch xã được phân phối cái xe đạp Thống Nhất giá 270 đồng, nhưng không có tiền, phải bán lại phiếu lấy 200 đồng, đi họp huyện vẫn phải cuốc bộ từ sáng sớm. Suốt đêm ấy ông Thi không ngủ. Sáng sớm hôm sau, dắt đủ 300 đồng trong người, ông cùng ông Ca, em ruột mình, cuốc bộ xuống cửa hàng bách hoá huyện. Tối hôm qua nghe anh rủ cùng đi, ông Ca bảo: - Em không biết đi xe đạp. Sao bác không bảo thằng Tý nó đi cùng. Nó biết đi xe. Mua được xe rồi, nó đèo bác về có hơn không? Ông Thi trợn mắt: - Tậu xe đạp mà để thằng khác nó cưỡi đầu tiên, thì khác gì lấy vợ về mà lại nhờ thằng khác phá trinh. Từ nhà đến bách hoá huyện đúng 12 cây số. Đứng bóng hôm ấy, thấy hai anh em lại về không, bà Thi ngạc nhiên quá đỗi. Ông Thi bảo: - Cửa hàng hết xe Phượng Hoàng, chỉ còn xe Vĩnh Cửu thôi. Họ bảo tôi cứ lấy xe Vĩnh Cửu cũng được, cũng là xe Trung Quốc, giá bằng nhau, cũng tốt như nhau. Còn muốn lấy Phượng Hoàng thì phải chờ nửa tháng nữa. Tôi không nghe. Vĩnh Cửu sơn màu rêu, không bằng Phượng Hoàng màu xanh cánh trả. Chờ thì chờ. Cuối cùng thì ông Thi cũng được như nguyện. Dắt cái xe Phượng Hoàng màu cánh trả ra khỏi cửa hàng, hai anh em đi một mạch đến 5 cây số mới vào hàng làm bát nước chè xanh. Ngắm cái xe, chợt ông Thi nhảy dựng lên: - Chết rồi chú ơi. Xe của mình không có thuốn. - Thuốn nào? - Cái thuốn dắt vào khung xe này này. Có cái thuốn thì mới thuốn hơi vào bánh xe được. Xe Phượng Hoàng của ông Thấu cũng có cái thuốn. Đúng cái con bé thủ kho nó ăn bớt của mình rồi, thảo nào mà tôi nhìn mắt nó cứ gian gian, còn cái xe của tôi thì xẹp lép hai bánh. Chú ngồi đây, để tôi quay lại. Để ông Ca ngồi lại với cái xe, ông Thi cuốc bộ một mạch trở lại kho bách hoá hùng hổ bảo cô thủ kho: - Nhà chị giả tôi cái thuốn. - Thuốn nào? - Cái thuốn để thuốn hơi vào bánh xe chứ còn thuốn nào. Nhà chị ăn bớt của tôi thì phải giả tôi. - Đấy là cái bơm. Có phải bác vào nộp tiền ở tài vụ, rồi lấy hoá đơn kiêm phiếu xuất kho mang ra đây không? - Phải. - Hoá đơn của bác còn đây. Trong hoá đơn chỉ ghi xe đạp Phượng Hoàng 1 cái, phần phụ tùng kèm theo không ghi gì. Thì tôi xuất đúng như vậy, tôi không ăn bớt. - Xe là phải có thuốn. Nhất định nhà chị ăn bớt của tôi. Hai bên cãi nhau ầm ĩ. Cửa hàng trưởng phải xuống, hẹn ông “Mai quay lại giải quyết”. - Mai mà ông không giả tôi cái thuốn, thì tôi vào tận chỗ ông chủ tịch huyện tôi kêu, chứ ăn bớt của tôi là không xong đâu. Nhưng theo chỗ tôi biết, thì đến tận lúc cái xe Phượng Hoàng đã cũ nát, ông Thi vẫn không đòi được cái thuốn, dù ông đã đi lại cửa hàng cả trăm lần, và đã kêu với ông chủ tịch huyện. BI HÀI THỜI BAO CẤP: CHỒNG TÔI HỘC MÁU CHẾT RỒI! Tiết canh là “đặc sản” của người Việt. Thế nên một dạo, những anh có tật hay “ngâm nga” ở làng tôi thường truyền nhau bốn câu họ gọi là thơ (còn nó có phải là thơ hay không thì tôi không biết) mà tác giả là cụ Uẩn, một “fan cuồng” của món tiết canh. Thơ thế này: “Nhớ thời thuộc Pháp, thuở Tây xưa/Lòng lợn tiết canh bán ê hề/Ngày nay Chính phủ ta cấm ngặt/Nhìn rau ngổ nhớ tiết canh xưa”. Nói như thế bởi vì tiết canh là phải có rau ngổ, cũng như thịt gà phải có lá chanh, thịt lợn phải có hành hay thịt chó phải có riềng, có mắm tôm. Không có rau ngổ không ra vị tiết canh. Chắc là trong một lúc thèm tiết canh đến phát cuồng, "fan cuồng" Vũ Hữu Uẩn đã ngắt mấy cọng rau ngổ lên ngắm nghía, nhấm nháp rồi nhân nhớ đến thuở hoàng kim mà “xuất khẩu thành thi”. Chính sách xiết chặt quản lý lương thực thực phẩm của Nhà nước hồi ấy đã khiến cho miếng thịt, lạng mỡ là thứ chỉ xuất hiện trên mâm cơm nhà quê hai ba lần trong mỗi năm, còn tiết canh là món duy nhất chỉ ngày Tết nguyên đán mới có. Đầu tháng chạp (tháng 12 AL), Ban quản trị Hợp tác xã họp. Kỳ họp này được toàn thể xã viên chú ý và trông ngóng đặc biệt vì cuộc họp đó quyết định một vấn đề hết sức trọng đại: Tết này mỗi lao động chính, lao động phụ (người vị thành niên và người già), mỗi trẻ em sẽ được bao nhiêu thịt lọc, tương đương với bao nhiêu thịt hơi. Quyết định rồi, ngày 20 tháng ấy đội trưởng các đội sản xuất sẽ căn cứ tiêu chuẩn của từng hộ trong đội mình mà gán cho mấy hộ chung nhau một con lợn. Từ ngày được gán, những hộ chung lợn sẽ phải góp cám cho chủ lợn để nuôi nó đến hết ngày 28 Tết. Cả ngày 29 lợn không được ăn, cốt cho sạch ruột để chừng 10 giờ đêm là “lên thớt”. Cũng sau ngày 20, cả làng sống trong nỗi phấp phỏng, đợi chờ. Trẻ con đang khóc, nghe dỗ “nín đi, rồi Tết thầy cho đi xem giết lợn”, là nín bặt ngay lập tức. Chừng 8-9 giờ tối, những người chung lợn đã tề tựu ở nhà chủ lợn, bên ấm chè xanh và cái điếu cày hay điếu bát. Người nào đến nhà chủ lợn cũng mang theo lỉnh kỉnh nào rổ, nào chai, nào xoong. Rổ để đựng thịt, đựng lòng đựng xương. Chai để đựng tiết, xoong để đựng nước “xuýt”, tức là nước luộc lòng. Thực phẩm hiếm hoi, không chỉ thịt, lòng, xương, tiết mà đến cả nồi nước luộc lòng cũng phải được chia rất công bằng, gáo đầy gáo vơi có khi choảng nhau sứt đầu mẻ trán. Việc mổ một con lợn xem ra đã trở thành một nghi lễ, để thoả nỗi khao khát cả năm trời. Quan trọng nhất là lúc chọc tiết lợn. Mà chọc tiết lợn thì khâu quan trọng nhất là hãm tiết, tức là làm cho tiết lợn không đông. Chỉ có thứ tiết không đông mới dùng đánh tiết canh được. Muốn hãm tiết phải dùng muối. Cho một ít muối vào cái chậu, dùng chuôi dao bầu di cho nát muối ra rồi khi dòng tiết chẩy vào chậu, lại dùng đũa ngoáy cho muối tan đều. Cho ít muối quá, tiết nhạt, sẽ đông ngay sau khi chọc. Hỏng. Cho nhiều muối, tiết mặn, đánh tiết canh sẽ không đông, bát tiết canh trở thành... canh luyễnh loãng, được gọi một cách mỉa mai là “máu canh”, nghe rợn cả người. Cũng hỏng. Nghệ thuật cao nhất là cho muối làm sao để tiết không mặn không nhạt, đến lúc đánh, bát tiết canh đông đặc, được gọi là tiết canh “xâu lạt”, ý nói đổ bát tiết canh xuống đĩa, nhấc bát ra rồi xâu cái lạt qua khối tiết canh mà giơ lên, khối tiết vẫn không vỡ. Tết năm nay mà làm hỏng tiết, thì phải chờ đến đúng ngày này sang năm mới lại có. Thế nên khi chọc tiết lợn, thường thì anh nọ đùn anh kia, bởi anh nào cũng chỉ quen với cuốc với cày chứ cả năm có mấy khi đụng đến dao thớt đâu mà quen. Cũng vì lý do đó nên đám mổ lợn Tết nào ở làng tôi những ngày Tết thời bao cấp cũng chờ anh Báu. Không biết có phải được trời cho hay không mà Báu hãm tiết không bao giờ hỏng, và chọc tiết lợn cũng thuộc hàng cao tay. Anh bảo: - Phải chọc một nhát cho mũi dao bầu trúng ngay tim con lợn. Có thế tiết chảy ra mới mạnh, mà màu tiết mới đỏ tươi. Chỉ vài phút là con lợn chết ngay. Chọc chệch tim, vào phổi, tiết chảy đã yếu mà lại có bọt, trong tiết lẫn cả dịch phổi lợn, rất bẩn. Còn chọc làm đứt tĩnh mạch thì tiết lợn sẽ đen xì. Được nhiều đám nhờ nên đêm 29 Tết, Báu chỉ chọc tiết con lợn mà mình được chung xong là để vợ ở lại chờ nhận thịt, còn mình đến những đám khác chọc tiết, hãm tiết hộ với lời giao hẹn: - Phải cho tôi một bát tiết canh với chén rượu. Sau khi chọc tiết, hãm tiết con lợn thành công, các đám bắt tay làm lông, mổ thịt, làm lòng. Và bao giờ người ta cũng trích một ít lòng, đánh mấy bát tiết canh để “bồi dưỡng” cho những người giết lợn, còn lại mới chia phần. Cả làng ngót ba chục đám mổ lợn. Khi Báu hãm tiết, chọc tiết đến đám cuối cùng thì đám đầu tiên cũng đã đánh xong tiết canh. Đúng lúc đó anh quay lại. Làm bát tiết canh và chén rượu trả công xong, anh sang đám thứ hai, xong đám thứ hai đến đám thứ ba, thứ tư... Tang tảng sáng ngày 30, cả làng bỗng nháo nhào lên vì tiếng chị Báu gào ầm ĩ: - Ối làng nước ơi... ối các ông các bà ơi là các ông các bà ơi... Cứu chồng tôi với... ối các ông các bà ơi... Chồng tôi ngã hộc máu chết rồi... Những hàng xóm gần nhất vội vàng chạy ra, và họ thấy một cảnh tượng kinh hoàng: Anh Báu nằm thẳng cẳng, miệng ộc ra một đống máu bằng vành nón. Mọi người cuống cuồng kẻ lay người gọi nhưng anh không tỉnh, trong khi chị Báu vẫn bù lu bù loa. Mãi sau anh Du bảo chị Báu: “Lấy cái võng, cái đòn ra đây, khiêng ra trạm xá”. Chừng một tiếng sau, anh Báu mới được khiêng ra trạm xá. Ngày Tết nên trạm vắng tanh. Được người gọi, ông Tựa trạm trưởng vội vàng từ nhà chạy ra. Thăm khám xong, ông bảo: - Đưa nó về. Lấy cái nõn dong thọc vào họng cho nó nôn hết ra là khỏi. Nó say quá đấy mà. Thứ nó nôn ra là tiết canh chứ không phải máu. Thì ra, đi cả làng chọc tiết, hãm tiết hộ rồi lại quay lại từng đám để nhận công. Ngót ba chục đám mổ lợn Tết, ngót ba chục bát tiết canh và cũng chừng ấy chén rượu đã khiến anh đứ đừ. Khật khưỡng ra về, đến gần ngõ nhà mình, anh bị vấp, ngã, nôn thốc nôn tháo và nằm đó... ngủ luôn. Nhận phần thịt của nhà mang về, ngồi chờ mãi không thấy chồng về để chế biến. Sốt ruột, chị Báu định đi tìm và gặp ngay cảnh trên. BI HÀI THỜI BAO CẤP: CHỊ DẦU CHỊ MỠ Hai chị ở cùng một tổ dân phố, chỉ cách nhau độ mươi nhà. Một chị làm công nhân nhà máy sợi đay Bình Minh, có ba con, có chồng làm công nhân ở công trường xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà. Chị kia là xã viên Hợp tác xã cơ khí Cờ Hồng, có hai con, có chồng làm công nhân giao thông tận Hà Giang. Tuy đã ba con, hai con, nhưng trông hai chị đều còn khá mặn mà, tuổi cũng chỉ tròm trèm bốn mươi. Và họ chơi với nhau rất thân. Chị sợi đay Bình Minh tên là Mơ, Nguyễn Thị Mơ, nhưng bà con trong tổ dân phố đều gọi chị là chị Dầu, bởi nhà chị không những chẳng bao giờ thiếu dầu đun mà cứ dăm bảy ngày chị lại còn có vài chai dầu mang bán. Tất nhiên, là bán lén bán lút. Còn chị cơ khí Cờ Hồng tên thật là Hạnh, Lê Thị Hạnh, nhưng bà con lại gọi chị là chị Mỡ. Bởi cũng như chị Dầu, cứ mấy ngày, hàng xóm lại nghe tiếng rán mỡ xèo xèo bên nhà chị Hạnh, dù cửa hàng thực phẩm không hề bán thịt. Mấy bà hàng xóm kháo nhau: - Nhà tôi xào rau muống, chỉ dám đổ nước với rau vào đun cho rau chín, tra muối, chạy qua hàng mì chính một tý rồi mới dám múc lưng thìa mỡ rưới vào, cốt có tý sao cho trẻ nó húp. Nhìn đĩa rau muống xào nhà nó mà thèm. Không có qua tỵ nước nào, rau đẫm những mỡ là mỡ. - Sáng dậy, con tôi vét lưng bát cơm nguội, năm thỉnh mười thoảng mới được tý muối vừng, còn thì muối trắng trộn vào ăn rồi đi học. Con nhà nó cho cả thìa mỡ vào chảo phi già, cho hành thơm điếc mũi cả xóm rồi mới đổ cơm vào rang. Cũng là người, sao con nhà nó sướng thế còn con nhà mình khổ vậy. - Thế đã thấm vào đâu. Hôm cửa hàng thực phẩm bán cá. Nhà tôi kho một muối một cá. Miếng cá bằng ngón tay bắt con ăn hai bát cơm chứ chả dám rán. Mà có rán cũng không đào đâu ra mỡ, trong khi đĩa cá nhà nó thì rán vàng rộm lên. Cứ như cái số mỡ nhà nó rán một đĩa cá ấy, nhà tôi phải tra nửa tháng... Hồi ấy, gạo và xăng dầu là vật tư chiến lược. Tất cả đều được phân phối theo định lượng và đều được quản lý hết sức chặt chẽ. Dân quê có thể dùng rơm rạ, lá lẩu và rất nhiều thứ khác để nấu chín bát gạo mớ rau, còn dân thành phố, dân thị xã thì được cấp bìa mua dầu hoả làm chất đốt. Tuy bìa là bìa mua dầu hoả, nhưng cũng như sổ gạo là để mua gạo mà có mấy khi dân gạo sổ được ăn cơm rặt (cơm nấu bằng toàn gạo) đâu mà thường phải độn lúc sắn, lúc mỳ, lúc ngô... Cty chất đốt cũng vậy, cấp trên ấn xuống thứ gì thì phân phối thứ đó, tháng dầu, tháng thì mùn cưa, tháng thì than, tháng thì củi... Nhà có cái bếp dầu mà không được mua dầu, nhưng được mua củi còn đỡ, vì chỉ cần kiếm 3 hòn gạch làm 3 cái đầu rau là có thể đun được, chứ bị ấn mùn cưa với than, thì chẳng nói cũng biết là khốn nạn đến thế nào rồi. Muốn đun mùn cưa, đun than, phải có loại bếp riêng cho từng loại. Nhất là đun than. Loại than bùn nhão nhoét, phải nắm thành bánh phơi cho khô mới đun được. Cho than vào bếp, phải có đồ gầy. Nổi lửa lên xong, muốn lửa từ đồ gầy bén vào than phải chổng mông chổng tĩ lên quạt hàng tiếng. Túng thì phải tính. Mùn cưa ấy, than ấy đành mang ra ngoài bán rồi mua dầu, cũng phải mua ngoài. Bán mùn cưa, bán than bị con phe ép giá. Rồi khi mua dầu cũng lại bị con phe cắt cổ, thiệt đơn thiệt kép. Thế nên nhìn cái bếp dầu mười tám bấc nhà chị Dầu lúc nào cũng đầy dầu, ai chả thèm, chả ghen tỵ. Còn mỡ là hàng “xa xỉ phẩm”. Từ người ăn thịt phiếu đến dân quê, mỗi lần được mua thịt, ai nấy giành nhau lấy những miếng thịt nhiều mỡ, về lọc kiệt mỡ ra rán để dành quệt mép. Nhiều nhà rán mỡ từ Tết, để dành đến tận tháng ba tháng tư, mỡ tanh cả ra mà vẫn cứ dùng, cứ khen ngon... Chị Dầu và chị Mỡ thân nhau vô cùng, thân đến mức nói như dân quê là "con chấy cắn đôi". Đi làm thì chớ, về đến nhà là hoặc chị Dầu ở nhà chị Mỡ hoặc chị Mỡ ở nhà chị Dầu. Hàng phố thường nghe họ trách nhau: - Chị tệ thật đấy. Hết dầu đun mà không thèm bảo em một tiếng. Lần sau đừng thế nữa nhé. Hết cứ bảo để em mang sang. Bán chị em xa mua láng giềng gần. - Nhà chị hết mỡ ăn chưa? Chưa à? Hết thì bảo em, cứ vô tư đi. Đừng tiết kiệm quá mà ảnh hưởng đến sức khoẻ đấy chị ạ. Thỉnh thoảng họ lại thấy chị Dầu xách chai dầu sang nhà chị Mỡ, và ngược lại, thỉnh thoảng họ lại thấy chị Mỡ mang cân thịt đến cho chị Dầu. Mỗi tháng ít ra là vài lần chị Dầu đưa cả ba con sang nhà chị Mỡ ăn cơm và ngược lại. Bố hay mẹ người này ở quê lên chơi, có thứ quà quê gì họ cũng san sẻ cho nhau, và khi bố hay mẹ người này về thì người kia nhất định có quà biếu. Quà cho bố mẹ chị Mỡ là dầu còn quà cho bố hay mẹ chị Dầu là mỡ. Ngày Tết, hai chị sang nhà nhau chúc Tết, còn thắm thiết hơn cả ruột thịt. Những ngày anh Dầu hoặc anh Mỡ về phép, nhà bày ra món này món nọ, không thể vắng mặt người kia... Nhưng rồi một hôm hàng phố nháo nhác cả lên khi thấy chị Dầu hùng hổ xông sang nhà chị Mỡ. Cả hai chị đều thi thố hết tài năng chửi, gọi nhau là con nọ con kia và cho nhau ăn không thiếu thư bẩn thỉu nào. Khi cuộc đấu võ mồm lên đến đỉnh cao, hai chị lăn vào đấu võ tay. Cả hai quấn chặt lấy nhau, lăn tròn trên mặt đất đầy bụi. Lúc hàng phố gỡ được hai người ra, thì chị Mỡ bị cào rách má, còn mí mắt chị Dầu máu chẩy ròng ròng. Mọi người khuyên: - Thôi có chuyện gì thì một câu nhịn là chín câu lành. Hàng phố tắt lửa tối đèn có nhau. Mọi ngày thân nhau là thế... Vừa lau máu trên mí mắt, chị Dầu vừa sa sả: - Đấy các ông các bà xem. Tôi ăn ở với nó như bát nước đầy. Thế mà cha tiên nhân năm đời mười đời con đĩ voi dầy, nó cướp của tôi. - Cướp? Nó cướp của nhà chị cái gì? Nghe câu hỏi ấy, chị Dầu im bặt. Nhưng nhờ trận quyết tử của đôi hổ cái mà mọi người dần dần hiểu. Thì ra lâu nay chị Dầu “lòng thòng” với một anh lái xe khách đã có vợ con. Số dầu chị có là do anh xe ăn bớt tiêu chuẩn cấp phát hằng ngày cho xe, mang đổi thành dầu hoả đem đến. Còn chị Mỡ thì cặp với anh đồ tể của cửa hàng thực phẩm, cũng đã vợ con đùm đề, và cũng được anh ăn bớt thịt mang cung phụng. Một hôm chị Mỡ có việc lên Hà Nội, được chị Dầu gửi theo xe của người yêu. Chuyến xe nên nghĩa. Sau chuyến đi, bác tài lần đến nhà chị Mỡ chơi rồi chiếm luôn chị Mỡ của anh đồ tể. Một mình bác cặp luôn hai chị một lúc. Chưa thấy anh đồ tể xách dao bầu sang xí nghiệp xe khách để hỏi bác tài về chuyện cướp người yêu của mình. Nhưng chị Dầu đã xông đến hỏi tội chị Mỡ trước. BI HÀI THỜI BAO CẤP: NỒI RƯỢU CƯỚI Gọi Trưởng Công an xã lên phòng làm việc, Chủ tịch UBND xã Ninh Vân bảo: - Chú ý đến gia đình lão Cần. Sắp cưới vợ cho con, rất có thể lão sẽ nấu rượu lậu đấy. Chuyện lão Cần sắp cưới vợ cho con trai thì cả làng đều đã biết. Lão được 4 trai, 4 gái. Trai đứa nào cũng khoẻ mạnh, ngỗng ngồng còn gái đứa nào trông cũng hay hón. Bốn đứa con gái thì 3 đã “xuất chuồng” (tức là đã lấy chồng), chỉ còn cô út. Bốn anh con trai cứ đủ 18 tuổi, chưa kịp vợ con đã đòi nhập ngũ. Hai người đang chiến đấu ở miền Nam còn 1 là bộ đội phòng không đang đóng quân ở Quảng Bình. Thằng thứ 7 là thằng Cân, thuộc diện ưu tiên không phải đi bộ đội nữa, năm nay cũng vừa 18 tuổi. Thời ấy, trai tráng đều ra trận, những anh còn lại dù lẻo khoẻo hay tật này tật nọ đều được coi là “mì chính cánh”, huống chi thằng Cân mơn mởn như cái mụt măng vầu sau mưa, nên chỉ quơ tay một cái là Cân đã “cưa đổ” Lan, một cô gái làng cũng mới 18 tuổi, xinh như mộng. Lão Cần khoái lắm. Lão bảo vợ: - Lấy vợ thì cưới liền tay. Cưới luôn cho nó đi, kẻo nay mai thằng Cân đòi đi công nhân công đồ, con Xuân (tên cô gái út) "xuất chuồng" nốt, thì nhà lại chỉ trơ ra hai cái thân già, trái nắng giở giời biết trông cậy vào ai. Cưới vợ cho nó, vừa có người đỡ đần lại vừa sớm có cháu bế. Được vợ nhiệt liệt hưởng ứng, ăn Tết xong lão đã bắt tay chuẩn bị. Theo lão thì lần đầu có con dâu, quyết không thể lùi xùi. Phải bốn chục mâm mới đủ. Bốn chục mâm, bóp mồm bóp miệng lắm cũng đi tong ba chục cân thịt lợn, hai chục cân gà, hai chục lít rượu. Đấy là nhà gái đã không đòi hỏi bất cứ thứ gì ngoài hai cái lễ chính (mỗi lễ một ván xôi, một con gà luộc, một chai rượu và trầu cau) để lễ từ đường hai bên nội ngoại nhà cô dâu. Gà thì cứ bắt của nhà đem xài, cuối năm vay của bà con bán nghĩa vụ, sang năm nuôi trả nợ họ là ổn. Khốn nạn nhất là khoản thịt lợn. Nhà nuôi được lợn đấy nhưng mà thọc dao vào cổ lợn là “lên bờ xuống ruộng” với xã ngay. Cưới cheo, tang ma... May lắm thì được Hợp tác xã duyệt bán cho con lợn còi ở trại chăn nuôi, loại lợn nuôi hàng mấy tháng nhưng chỉ được mươi cân, lông dựng đứng, mình sun lại, da cóc cáy sần sùi, mổ ra ruột đầy giun sán. Nhưng nếu ngày cưới con mà trại chăn nuôi hết lợn còi thì cũng hỏng. Nghe lão thở than, ông bạn ở xã Tiền Phong bảo: - Tôi tính thế này. Bác cứ mang con lợn giống, mang cám sang đây tôi nuôi hộ. Đến tháng 10 bác lo việc cho cháu, tôi đảm bảo được 50 cân. Trước ngày nó cưới, tôi bóp mõm, nhét hai cục bông vào hai lỗ mũi, chỉ một tý là nó chết ngạt. Rồi tôi chạy lên báo cáo với Hợp tác xã là lợn... đột quỵ; thế là Hợp tác xã phải cho tôi mổ bán. Lúc đó bác sang lấy cả con lợn về, làm như là bác mua của tôi, chả ai mở mồm được. Hay! Gia Cát Lượng cũng chỉ cao mưu đến thế là cùng. Kế hoạch đó được lão Cần thực thi ngay. Lão đưa tiền cho ông bạn nhờ mua lợn giống về thả. Và từ đó cứ dăm ngày bà Cần lại cắp thúng cám, miệng thúng đậy vỉ kín mít sang nhà ông bạn, kèm theo vài đồng để nhà ấy mua rau muống, rau lang. Ngày cưới con mỗi ngày một đến gần, nhìn đàn gà phổng phao, nhìn con lợn bạn nuôi giúp đẹp như tranh, ruột gan lão cứ nở ra từng nhịp. Chỉ còn khoản rượu. Mỗi mâm một chai nửa lít rượu. Bốn chục mâm vị chi hai chục lít, với lại cũng phải có dăm lít dự trữ để phòng một là trong cỗ cưới, những anh bợm ruợu đòi thêm, hai là nhỡ có những vị khách đến đột xuất “ngoài dự kiến” trước hay sau ngày đón dâu. Hai mươi lăm lít rượu, ba chục cân gạo, nấu một nồi là đủ. Cũng thừa khôn ngoan để biết rằng những nhà có đại sự phải động dao động thớt thì xã hay để ý, nên lão Cần chẳng dại gì mà nấu rượu ở nhà. Lão nhờ cô em ruột lấy chồng ở làng bên. Được cái “cô nó” khá thành thạo việc này. Chồng cô cũng là bộ đội, nhà ở thèo đảnh tận cuối xóm, giáp cánh đồng, lại chỉ có mấy mẹ con... Mười bốn tháng mười âm lịch là ngày đón dâu. Ngày mùng chín, lão Cần bảo Cân: - Đêm nay cô đun rượu cho nhà ta. Tối, mày lên đấy xem có gì thì đỡ đần cô. Phải cẩn thận đấy. Cơm chiều xong thằng Cân đã có mặt ở nhà bà cô. Nồi rượu đã được bắc lên bếp. Cửa bếp đã che kín. Chừng bảy giờ, nổi lửa xong, bà cô bảo Cân và Minh, con trai mình: - Hai thằng mày ngồi trông. Phải giữ đều lửa thế này chứ đừng cho cháy to quá, mà cũng không được nhỏ quá. Tao sang họp tổ phụ nữ xóm, cho ông công an xóm nó khỏi nghi. Mấy hôm nay thấy ông ấy cứ lảng vảng. Rượu chảy đầy cái thẩu này thì đạy nắp lại, để vào góc kia, lấy cái thẩu khác ra mà hứng... Dặn xong, cô bế đứa con nhỏ hơn hai tuổi đi. Lát sau, rượu bắt đầu chảy. Vừa được chừng non nửa thẩu, cửa bếp chợt bật tung. Ông phó công an xã và hai công an viên ập vào. Ông phó quát: - Ngồi yên, cấm không động đậy. Hoảng quá, thằng Minh tung cửa ngách lao thẳng ra ngoài, biến vào bóng đêm. Cân cũng chạy theo. Trong bếp chỉ còn lại 3 nhà chức trách. Ông Phó công an bảo: - Gớm thật, con mụ sang họp bên tổ phụ nữ để đánh lạc hướng chúng mình. Hai chú tiếp tục đun đi. Chờ mụ ấy về sẽ bắt quả tang. Nhìn thẩu rượu trong vắt, thơm nồng nặc, ông phó lấy cái bát làm lưng bát nếm thử: - Ngon! Rượu nước đầu có khác. - Cho em nếm tý. - Đây, khe khẽ cái mồm chứ. Cứ thế, bát rượu được chuyền nhau. Một vòng... Hai vòng... đến vòng thứ 5 thì ông Phó nhoè giọng: - Hai chú đun đi nhá. Tao nằm phục ở bụi chuối ngoài kia. Phải cảnh giác cao độ. Khép cửa bếp lại. Lúc mụ bước vào thì hai chú giữ lại. Tao ở ngoài ập vào chắn cửa bếp, không cho mụ vùng chạy. Nói xong, ông lôi một ít rạ trải xuống giữa hai cây chuối, lăn ra. Hai nhà chức trách còn lại tiếp tục chuyền bát cho nhau. Thêm mấy vòng chuyền nữa thì mỗi ông rúc vào một góc bếp nằm... mai phục. Bếp lửa tắt ngóm. Đi họp về, thấy bếp tối om, bà cô bật đèn soi rồi ngây ra khi thấy hai ông nằm ruỗi, nồi rượu chỏng chơ. Lát sau, như người ngủ mê sực tỉnh, bà hối hả bê nồi rượu ra ao đổ hết bỗng, dìm nồi giữa ao rồi quay lại thu dọn nốt những thứ còn lại trong bếp. Sáng bạch hôm sau, ba ông mới lục tục tỉnh. Ngơ ngác một lát, cả ba ra về. Vừa đến giữa sân thì bà cô thằng Cân cũng mở cửa nhà trên, mặt bà tươi như hoa: - Lạy chư ông đến chơi. Mời chư ông vào uống nước. BI HÀI THỜI BAO CẤP: CÁI ÁO “ĂN BỚT” Thằng Hanh có cái áo đẹp quá, chúng mày ơ... ơi... Thằng Rụ cong cổ gào. Đang chơi ở sân chùa Bùi chờ giờ vào lớp (hồi ấy, các lớp học phải sơ tán vào đình, vào chùa để đề phòng máy bay Mỹ bắn phá) đám học trò lớp 5 chúng tôi đều nghển cổ nhìn. Hôm ấy, thằng Hanh đến muộn. Khi nó gỡ cái nùn rơm đeo ở lưng ra, bỏ cái mũ rơm trên đầu xuống (nùn rơm và mũ rơm để chống bom bi của giặc), chúng tôi nhất loạt “ồ” lên vì cái áo của nó. Cái áo mới toanh, sặc sỡ đủ màu: Xanh, nâu, cứt ngựa, hoa, ca rô trắng sọc đỏ, ca rô trắng sọc đen... Chỉ có điều những màu sắc đó không in trên áo, mà cái áo nó mặc được kết bằng hàng chục mảnh vải khác nhau, mỗi mảnh một màu. Cái áo mới ấy khiến thằng Hanh nổi bật giữa đám bạn cùng lớp là chúng tôi, thằng nào thằng ấy rặt quần áo nâu vá chằng vá đụp, chẳng khác con công giữa đàn gà. Thấy chúng tôi xúm lại sờ, mân mê cái áo của mình bằng ánh mắt vô cùng ngưỡng mộ và thèm muốn, Hanh vênh mặt: - Chỉ bố tao mới may được cái áo này cho tao mặc, chứ bố chúng mày toàn nhòm đít trâu, thì đến mùa quýt cũng chả may được. Lời Hanh khiến chúng tôi càng ngưỡng mộ, càng thèm được như nó, và không ít thằng tủi thân. Mỗi năm, mỗi người được một tờ “phiếu vải”. Mỗi tờ phiếu ấy được mua đúng 4 m vải. Tiếng là 4 m nhưng nếu mua được loại vải khổ ngang 0,8 m thì còn được 3,2 m2. Còn nếu chẳng may cửa hàng chỉ có loại vải khổ ngang 0,6 m, thì chỉ còn 2,4 m2. Với diện tích vải ấy, những anh khổ người tầm tầm đủ may một bộ quần áo dài, muốn có quần đùi phải xoay cách khác. Còn áo lót thì “Bắt cởi trần, phải cởi trần/ Cho may ô, mới được phần may ô”. Khổ nhất là những anh cao to lộc ngộc, may được áo thì thiếu quần và ngược lại, có chăng sau khi may một thứ, chỉ còn thừa dăm tấc vải. Phụ nữ được ưu ái hơn đàn ông ở chỗ mỗi năm ngoài 4 m vải, còn được thêm một mét màn để dùng những lúc bị “trời hành”. Sống thì thế. Lúc chết, con cháu cầm giấy chứng tử của Uỷ ban xuống bách hoá, được mua 4 m vải liệm. Có một dạo, số người chết ở xã Ninh Sở bỗng tăng bất thường. Một tháng có hơn chục người chết. Công an đâm nghi. Vào cuộc, mới hay ông Tư pháp xã tham ô, viết bừa giấy chứng tử cho những người... không có thật để người nhà cầm đến bách hoá mua vải liệm, tuồn ra chợ đen lấy tiền. Vụ án gây chấn động cả huyện. Các loại vải hồi ấy quanh đi quẩn lại chỉ có phin xanh Nam Định, xanh chéo Nam Định, xanh Sỹ Lâm Trung Quốc. Được chuộng nhất là Trúc bâu trắng, loại này mua về, dấn mấy nước nâu là thành “Màu áo mới nâu non nắng chói” ngay, hay cẩn thận hơn, sau lúc dấn nâu đem vùi xuống bùn ung cho thành màu đen thì độ bền của vải tăng gấp 3 lần. Một cái áo đen hay áo nâu loại ấy dãi nắng dầm sương ba năm không rách. Kaki và Simili là hai loại thượng hảo hạng. Những anh diện quần kaki cứt ngựa hay Simili xanh rêu, áo Sỹ Lâm, dận dép nhựa Tiền Phong trắng, cưỡi Phượng Hoàng cánh trả, được xem là những “công tử” hào hoa, lướt đến đâu gái theo đến đấy. Mùa hè mặc thế nào cũng được. Còn mùa đông, cái áo đại cán hay áo bông luôn là niềm mơ ước của mọi người. Nhất là bên ngoài áo đại cán hay áo bông, bên trong lại thêm cái áo len màu cứt ngựa hay màu nâu nhạt, thì niềm hạnh phúc thật... vô biên. Vải hiếm, nên người ta dùng đủ mọi cách để kéo dài tuổi thọ của cái áo cái quần. Mông quần, đầu gối quần bị bợt vải hay bị rách, đàn ông, thanh niên thường mang đến thợ may. Người thợ sẽ dùng một miếng vải cũ đệm vào trong rồi may đụp lại bằng những đường chỉ hình quả trám, hình vuông, hình bình hành hay hình tròn đồng tâm, vòng nọ cách vòng kia chừng 1 cm, cứ thế thu hẹp lại dần. Kiểu vá ấy gọi là “bích kê”. Sẵn tài may vá nên các bà các chị không mấy khi cần đến thợ mà vá lấy. Có những cái áo hay cái quần đụp nhiều đến mức người ta không biết lúc đầu nó được may bằng thứ vải gì nữa. Cũng vì hiếm vải, nên cánh thanh niên nghĩ ra một chiêu rất “độc”. Lấy vài tấc vải trắng, thuê thợ may may thành một cái cổ cồn áo sơ mi, đính thêm một dải vải trắng rộng chừng dăm cm quanh cái cổ cồn ấy, làm khuy. Cắt cổ cái áo nâu cũ, áo đen cũ hay áo xanh cũ đi, đính cúc vào quanh vai áo, đem cái cổ cồn trắng cài cúc vào, khoác cái áo khác ra ngoài, thế là lừa được thiên hạ rằng ta có cái áo trắng tinh mặc trong. Những người cần hình thức nhất là cán bộ Bộ Ngoại giao hồi ấy cũng không sao kiếm nổi bộ comple. Mỗi lần phải tiếp khách quốc tế hay phải đi công tác nước ngoài, nhà ngoại giao phải mang công lệnh đến xin Thủ trưởng cơ quan ký duyệt, sau đó xuống kho, thủ kho căn cứ vào chữ ký duyệt đó, xuất kho cho mượn một bộ comple và một cái cà-vạt. Có những bộ comple cổ còn láng nhẫy ghét vì người mượn trước mang trả nhưng thủ kho lười không giặt, hay có nhưng cái cà-vạt qua cổ quá nhiều người nhưng không được giặt, không được là, quăn queo lại như cái ruột mèo phơi khô... “Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ”. Bố thằng Hanh là ông Khái, thợ may. Vì nhất định không góp máy, không vào Hợp tác xã may mặc nên ông bị coi là “phần tử lạc hậu, chậm tiến”. Mặc kệ, ông nhất định làm ngoài, mua chỉ chợ đen để may. Người làng tôi ai cũng mang vải, mang quần áo rách đến nhà ông để may hay vá, vì ông lấy công đã rẻ, làm lại nhanh, quần áo ông may khá đẹp. Cái máy may “xanh-gie” đạp chân của Tây nhà ông chạy suốt ngày. Nhờ nghề may mà gia đình ông sống khá phong lưu. Quần áo của vợ chồng ông và mấy đứa con, dù là quần áo cũ nhưng lúc nào cũng tươm tất, lành lặn. Trở lại chuyện cái áo mới của thằng Hanh. Sáng hôm sau, thằng Rụ sang rủ tôi đi học, và thì thầm: - Cái áo của thằng Hanh là cái áo “ăn bớt”, mày ạ. - Sao lại là áo “ăn bớt”? - Tối hôm qua thằng Hanh sang nhà tao học nhóm. Nhìn cái áo của nó, thày tao không nói gì. Nhưng lúc nó về, thày tao lẩm bẩm: “Đói cho sạch, rách cho thơm. Ai lại đi ăn bớt vải của người ta mà may áo cho con mặc”. Tao hỏi thì thày tao bảo bố nó làm thợ may, mỗi người mang vải đến may, thày nó lại ăn bớt của người ta một miếng, rồi dùng những miếng vải ăn bớt ấy ghép lại, may thành áo cho nó. Vậy nên cái áo ấy nó mới nhiều màu thế chứ. - Vậy à? Không chỉ nói với tôi, Rụ còn nói với nhiều đứa khác nữa. Chẳng mấy lúc, chuyện bố thằng Hanh ăn bớt vải của mọi người để may áo cho con mặc lan ra cả lớp. Thế là khi thằng Hanh vừa đến, một lũ đồng thanh reo ầm lên: - Áo ăn bớt. A ha, áo ăn bớt. Thằng Hanh mặc áo ăn bớt chúng mày ơi. Áo ăn bớt đẹp ơi là đẹp... Ngỡ ngàng một lúc rồi chợt hiểu ra, Hanh oà khóc, chạy về... BI HÀI THỜI BAO CẤP: MƯU RƯỢU Không còn một giọt rượu nào. Ông Mậu ra ngẩn vào ngơ. Con mẹ Mắn vẫn bán rượu lậu mới bị bắt năm hôm trước. Sau mấy lần bị bắt trước, mụ không dùng chai đựng rượu giấu vào gánh phân chuồng hay dưới thúng gio bếp, rưới nước đái lên giả làm phân bắc để mang bán nữa, mà nghĩ ra chiêu khác: Cho rượu vào cái bong bóng trâu, dùng dây chun buộc chặt, độn vào bụng giả làm có chửa. Bán hết rưọu, mụ lấy nước đổ đầy bong bóng rồi lại độn vào bụng quay về. Nhờ thế mà suốt mấy tháng giời, từ công an đến phòng thuế đều bị mụ qua mặt. Nhưng khôn mà không ngoan. Người có chửa thì bụng to đến đâu, vú mẩy ra đến đấy, mà đi đứng nó ộ ệ, mặt gân chân xương. Đằng này... thấy bụng mụ to lùm lùm nhưng vú vê lại đét đẹt, mà đi đứng cứ thoăn thoắt, nhà chức trách đâm nghi, họ bố trí hai nữ công an chặn đường, lật áo mụ ra bắt quả tang... Mụ Mắn bị bắt, những tín đồ cuồng nhiệt của thứ nước “môm cày” như lão hết nguồn cung. Bị bắt lên bị bắt xuống năm bảy lần như thế, lần này chắc mụ rũ tù. Sực nhớ lần trước về phép, thằng cháu làm ở bệnh viện tận Hà Nội cho một lọ cồn 90 độ. Không biết bà ấy cất đâu. Lục tung đống chai lọ và trăm thứ bà dằn tận góc buồng, cuối cùng mắt ông Mậu sáng lên: Đây rồi. Dốc lọ cồn ra được chừng một phần ba cái bát sứ Hải Dương. Sẵn nước sôi để nguội, ông chế vào chừng gấp đôi lượng cồn nguyên chất nữa, được gần đầy bát. Rửa hai củ khoai sống, bốc dúm muối trắng làm đồ nhắm, ông ngồi nhâm nhi. Chà, uống đã đời thật. Nhưng xóc, và sau lúc nuốt ngụm cồn pha nước xuống, thấy đắng nghét trong cổ họng. Buồn ơi là buồn. Thời Tây, thằng Tây cấm dân ta nấu rượu nhưng mà rượu của nó nấu thì bán ê hề. Nhà có việc, cứ mổ một con lợn, nó còn bắt buộc phải mua chục lít rượu nữa ấy chứ. Thời ta, nhà nước cấm dân nấu rượu nhưng lại không bán rượu cho dân, cấm ngày càng ngặt. Không chỉ cấm nấu rượu bằng gạo mà còn cấm cả dùng ngô, khoai, sắn, đường, mật mía... để nấu rượu nữa. Tội nấu rượu trái phép, nặng nhất phải chịu đến 2 năm tù hoặc bị phạt tới 1.000 đồng và tịch thu toàn bộ tang vật. Một nghìn đồng! Không ai nghe mà không lạnh gáy. Một người đàn bà sùm sụp cái nón che kín mặt, xăm xăm vào nhà ông. Đến sát chỗ ông ngồi, khi người đàn bà gỡ nón ra, ông Mậu giật nảy mình: Mụ Mắn. - Nhà chị bị bắt rồi cơ mà? - Vâng, dưng mà họ mới thả em về hôm qua. - Thế à? Tôi cứ tưởng chuyến này thì nhà chị rũ tù. - Lần nào bắt em, các ông ấy cũng tịch thu rượu. Mười lít rượu tịch thu được, các ông ấy rút ra tám lít uống với nhau, chỉ để lại hai lít rồi đổ tám lít nước lã vào cho thành mười lít, bảo đấy là tang vật đem nộp huyện. Bắt em đi tù thì họ lấy gì mà uống? - Nhà chị đến đây làm gì? - Em đến nhờ ông. - Nhờ cái gì? - Nhờ cái hầm của nhà ông. Hầm bí mật ấy. Hầm bí mật. Nhà ông Mậu đúng là có cái hầm bí mật thật. Thời còn trong bóng tối, cán bộ huyện, cán bộ tỉnh đã nhiều lần nằm dưới cái hầm ấy, được bố ông che chở, nuôi nấng, chính ông cũng nhiều lần được bố sai mang cơm ra hầm cho cán bộ. Cái hầm được đào ở góc vườn, ngoài cửa chính còn có đến 3 cửa ngách thoát hiểm, lỗ thông hơi được trổ ở chính giữa bụi tre gai rậm rạp, kín đáo vô cùng. Thế nên từ khi đào, hầm chưa hề bị địch phát hiện. Từ năm 1954 đến nay, cái hầm bỏ không. Bố ông đã mất, những ông từng nằm hầm giờ đều làm việc trên huyện, trên tỉnh, có dịp, họ vẫn về thắp hương cho bố ông, và dặn đừng lấp cái hầm đi, để làm kỷ niệm... - Nhà chị mượn cái hầm làm gì? - Chẳng giấu gì ông. Trước nay em lấy rượu của người ta đem bán, nhưng mà ba chuyến thoát, một chuyến bị bắt thì lời lãi của cả ba chuyến trước cũng đi tong. Thế nên em định chuyển sang nấu rồi đổ cho người khác họ bán. Nhưng mà nhà em thì không thể nấu được, vì ở gần ngã ba giữa làng, nhiều người đi lại, kẻ dòm người nom. Nhà ông ở cuối xóm, giáp cánh đồng, gia đình lại có công, chẳng ai nghi ngờ. Cái hầm nhà ông mà dùng để nấu rượu thì không gì tốt hơn. Ông nghĩ thế nào? - Chết thôi. Nhỡ ra... - Chẳng nhỡ chẳng nhung gì hết. Ông chỉ cho em nhờ thôi chứ ông có dính dáng gì đâu. Cứ mỗi nồi rượu, em biếu ông một lít. Chỉ một câu ấy, ông Mậu quỵ hẳn. Vừa khoái vì có rượu uống, vừa thấy yên tâm vì nếu có “làm sao” thì ông “cũng chẳng làm sao”. Ông tự lý luận: Mình chỉ cho con mụ Mắn mượn cái hầm, còn mọi chuyện là như ở mụ, có gì thì mụ làm mụ chịu. Nhưng gật đầu ngay, nó lại nghĩ mình hám chén rượu của nó. Ông bảo: - Được rồi. Nhà chị cứ về đi, để tôi suy nghĩ đã. Với lại cũng phải hỏi ý kiến bà nó. Hai hôm sau mụ Mắn lại dò đến. Lần này thì ông Mậu gật, và ông dẫn mụ ra vườn xem hầm. Lúc sau, mụ đưa cho ông hai mươi đồng: - Cái hầm khí chật. Em gửi chỗ này là tiền công, ông mở rộng hầm ra cho em một ít nữa. Mình ông làm thôi chứ đừng để bà hay các cháu làm. Đợi đêm khuya hẵng làm. Đất đào lên thì cho vào bao rồi đem đổ xuống ao chứ đừng đổ ra vườn kẻo người ta biết. Sau hai đêm, ông Mậu hoàn thành công việc cho mụ Mắn. Nhìn cái hầm, mụ ưng ý lắm. Hầm khá rộng, có thể để nấu được cơm, ủ men, nấu rượu ngay trong hầm, khói sẽ tuôn theo lỗ thông hơi ở giữa bụi tre gai rậm rạp, ban ngày cũng chả ai biết chứ đừng nói ban đêm. Đêm khuya mà đậy nắm hầm lại rồi mới nổi lửa thì giời không biết, đất không hay... Sau mấy hôm, cứ nửa đêm về sáng mụ Mắn mới theo lối ngoài đồng chuyển các thứ xuống hầm để nấu cơm, ủ men. Mẻ rượu đầu tiên được mụ nấu đúng vào giờ Tý hôm mười bốn tháng bảy. Chui xuống hầm, nhờ ông Mậu đậy nắp xong, mụ dặn: - Sáng mai, chừng 6 giờ thì ông gỡ nắp hộ em với. Đúng hẹn, mụ trồi lên, đưa cho ông ba chai rượu trong vắt, mỗi chai nửa lít: - Đây là mẻ đầu tiên, em biếu ông hẳn lít rưỡi. Gần một năm giời, cứ mấy hôm mụ Mắn lại cất một nồi rượu. Ông Mậu không bao giờ thiếu rượu uống. Những ngày đầu ông chỉ đậy nắm hầm giúp mụ. Sau, ông chui cả xuống hầm để giúp mụ việc này việc nọ... Rồi đến một lúc, người làng thấy bụng mụ Mắn cứ mỗi ngày một lùm lên. Lần này thì mụ chửa thật chứ không phải chửa bằng bong bóng trâu nữa, dù chồng mụ mất đã mấy năm. BI HÀI THỜI BAO CẤP: A HA! GÀ NHÀ TA RÙ RỒI! Ổ rơm mới, thích thật. Chả trách các cụ nói “No cơm tấm, ấm ổ rơm”. Rơm lúa Mộc Tuyền vừa dài vừa óng, gặp nắng hanh nỏ cong. Lấy rơm bện thành một con rồng rơm bằng bắp chân, ém con rồng ấy bốn xung quanh mép giường, bên trong lót rơm rối dầy độ gang tay, trải chiếu lên. Đêm nằm sao mà nó êm, nó thơm đến thế. Nằm ổ rơm ấy, đắp thêm cái chiếu nữa, thì rét tháng một chẳng mùi mẽ gì. Đang ngon giấc trên cái ổ rơm mới, anh Sửu choàng tỉnh bởi những tiếng thất thanh của vợ: - Thầy nó ơi. Sao tảng sáng rồi mà con gà trống nhà mình không gáy? Ừ nhỉ. Con gà trống nhà anh đêm nào cũng gáy hai cữ, một cứ lúc đầu canh tư và một cữ lúc tảng sáng. Cái tiếng gáy của nó mới oai, mới hùng, mới dài làm sao. Nói không ngoa, tiếng gáy của nó người mấy làng bên vẫn nghe thấy. Anh Sửu nghiện cái tiếng gáy của nó, và đêm nào anh cũng thức hai cữ bởi tiếng gáy của gà. Sao hôm nay nó lại tịt gáy? Có lẽ vì nó không gáy nên tảng sáng rồi mà anh vẫn không hay. Hay là đêm qua trộm vào rinh mất? Vùng dậy chạy ra mở cửa chuồng, thấy gà vẫn còn, anh Sửu yên tâm. Nhưng thấy đám gà mái, gà nhỡ, gà con ùa ra hết mà con gà trống vẫn đứng ỳ một góc, anh Sửu đâm nghi. Mọi ngày, bao giờ con trống cũng ra khỏi chuồng đầu tiên bằng những bước chân đầy kiêu hãnh. Lông tía, mào cờ đỏ rực, chân dài màu vàng sáng, cựa dễ đến đốt ngón tay, rõ ra dáng một “Hùng kê”. Nhảy lên đống củi góc sân, nó còn gáy rốn thêm mấy hồi nữa rồi mới nhảy xuống, nhập vào đàn để “ve gái”. Xoè một cánh che chân, nó vè một vòng quanh con mái nào là con ấy nằm ệp xuống cho nó nhẩy lên lưng. Hết con này đến con khác, nó có thể “chiều” năm con mái liên tiếp... Luồn tay vào chuồng để ẩy con gà trống ra, thấy da nó rất lạnh, anh Sửu càng lo. Đến lúc đưa được nó ra khỏi chuồng thì anh ngẩn người. Cái mào cờ mọi ngày đỏ rực của nó giờ đã thâm đen, bộ lông tía cũng kém tía. Chạy mải vào bồ bốc một nắm thóc chắc, anh rắc trước mặt nó. Mọi ngày, thóc cho gà ăn toàn là thóc lưng lửng mót ở rơm ra chứ làm gì có thóc chắc thế này. Thấy những hạt thóc vàng ươm, đàn gà lao vào mổ lấy mổ lể trong khi con trống chỉ uể oải mổ mấy hạt rồi lại ngẩng cổ lên. - Tắc khú...Tắc khú... Vừa tắc khú, con trống vừa vẩy mạnh cổ làm mấy hạt thóc trong mỏ văng ra. Từ mỏ nó, một dòng rãi chảy ra theo, mùi tanh lợm. - Chết rồi, bu thằng Dần ơi, con trống tía nó rù rồi. Từ ngoài chuồng lợn, chị Sửu chạy mải vào: - Lấy cái lồng nhốt lại, đem nó vào góc bếp kia, để tôi lấy mấy nhánh tỏi nhét vào mồm nó, may ra thì nó khỏi. Từ trong nhà nghe tiếng bố mẹ lao xao, bốn đứa con anh là thằng Dần, con Thìn, con Ngọ, thằng Thân cùng lốc nhốc kéo ra, đứa nào đưa nấy mắt nhoèn dử, vẫn còn ngáp ngắn ngáp dài. Thằng Dần hỏi: - Con trống tía nó làm sao đấy hử thầy? - Nó rù chứ còn làm sao. Vẻ ngái ngủ lập tức biến mất, tám con mắt của bọn trẻ cùng sáng lên. Cả lũ reo ầm : - A ha... A ha ha...ha ha... Gà nhà ta rù rồi... Gà nhà ta rù rồi... - Con trống nó rù, thì nó chết, thì thầy giết thịt ăn, anh Dần nhỉ! - Ừ, thầy giết thịt ăn. Giết thịt xào lá chanh. Nhưng mà đứa nào hư thì thầy không cho ăn. - Sắp được ăn thịt gà rồi, ha ha...ha ha ha... Ruột gan rối bời lên, anh Sửu trừng mắt quát: - Xéo ra ngoài kia. Ăn, ăn cái thằng bố chúng mày ấy. Ra chuồng hôi kia mà ăn kìa. Chị Sửu đã bóc xong mấy nhánh tỏi, banh mỏ con trống tía nhét vào. Suốt từ đấy cho đến lúc trống Hợp tác xã giục ra đồng, vợ chồng con cái anh cứ chốc chốc lại chạy xuống góc bếp nhìn gà, ai cũng chứa chan hy vọng. Chỉ có điều vợ chồng anh hy vọng con trống tía khỏi nhờ mấy nhánh tỏi bao nhiêu thì bốn đứa con anh lại mơ tưởng đến nồi lá thịt gà xào lá chanh bấy nhiêu. Suốt buổi bừa đổ ải sáng ấy, ruột gan anh Sửu cứ như có ai lấy lửa mà hun. Trống tan tầm vừa nổi, tháo vội ách ra khỏi cổ trâu, anh hối hả về. Thấy 4 đứa con xúm xít quanh lồng gà, anh chạy vội vào và chết điếng khi thấy con trống tía đã nằm thẳng cẳng... Vừa toan sai thằng Dần đun nước làm lông, chợt anh Rường người làng hối hả đến: - Sửu ơi, nhà còn trứng gà cho vay chục quả. - Nhà có hơn hai chục quả, nhưng em cho ấp hết rồi. - Cái gì thế này? Con gà trống. Chết rù à? - Vâng, nó mới rù từ đêm qua. Đã cho ăn tỏi mà nó không khỏi. Mấy con trống choai chưa biết gáy, chưa đạp mái được. Biết lấy giống đâu cho đàn gà mái bây giờ. Từ đầu năm đến giờ nhà em chưa có cân gà nào bán nghĩa vụ. Không hoàn thành, Tết này các ông ấy trừ luôn vào thịt lợn Tết thì mất ăn. - Có bán không? Bán cho tôi nhá. Nhà có ông thông gia đến chơi bất chợt. Chợ không có, chạy cùng làng không lần được cái gì ăn. Nghĩ nhà ông may còn trứng, tôi mới đến hỏi vay đấy chứ. Bí quá thì phải vậy, chứ chục trứng xào lên, sáu đứa con tôi nó nhâu nhâu vào, có khi khách chưa được miếng nào đã hết. May quá. Bán cho tôi nhá. May quá. - Em định làm thịt, cho các cháu nó ăn một bữa. Mấy tháng giời nay có biết mùi thịt là gì đâu. Nhưng mà... nể bác quá thì bán vậy. Bác giả bao nhiêu? - Vâng vâng, ông bà bán cho tôi. Con này độ ba cân, có cao thấp hơn một tý thì cứ tính tròn ba cân vậy. Gà giá chợ 4 đồng một cân, vị chi là 12 đồng. Nhưng mà đấy là gà sống. Con này nó chết rồi thì tôi cứ giả ông 6 đồng. Thôi, gặp lúc bí, tôi giả ông thêm 5 hào nữa là sáu đồng rưỡi. Này tiền đây. Tiền trao cháo múc. Ngày kia phiên chợ, sáu đồng rưỡi này ông mua được con trống cân rưỡi, bé một tý nhưng mà đạp mái được rồi. Mấy tháng sau là nó lại to bằng con này thôi mà. Thấy ông Rường xách con gà đi, hai đứa con nhỏ nhà anh Sửu là con Ngọ, thằng Thân lăn ra đất, khóc lăn khóc lộn. Anh Sửu không phải mua gà trống về lấy giống cho đàn mái nữa. Vì sáng hôm sau, hai con mái nhà anh đã đi theo con trống tía. Rồi thì chỉ sau mấy hôm, đàn gà nhà anh quang hẳn đi. Trong nhà, nồi thịt gà rù nấu đông lúc nào cũng đầy. Nhìn lũ con đưa nhau gắp, anh Sửu chép miệng: - Thôi ăn trước khỏi ăn sau. Chúng mày ăn chán đi, rồi Tết này thì nhịn. CHIẾC LON GUIGOZ HÀNH TRANG NGƯỜI TÙ CẢI TẠO HOÀNG CHƯƠNG Không biết vô tình hay hữu ý mà trong hành trang lên đường của tôi có chiếc lon guigoz. Guigoz là lon sữa bột của nước Hòa Lan sản xuất. Hầu hết trước năm 1975, con cái của công chức, quân nhân và gia đình khá giả đều uống loại sữa này. Vợ tôi để dành những cái lon không để đựng những đồ gia vị gồm bột ngọt, tiêu, đường, muối, mỡ… vì vừa nhẹ, vừa sạch và vừa kín. Khi đậy nắp lại không có con kiến nhỏ nào chui lọt. Trong "ba - lô"(túi sách nhà binh) đi học tập cải tạo của tôi có đến hai chiếc lon guigoz. Một cái đựng bàn chải đánh răng và kem súc miệng. Còn cái kia đựng thuốc ngừa sốt rét, thuốc đau bụng và hai chai dầu gió. Đó là những việc mà vợ tôi lo xa. Ngày 27 tháng 6 năm 1975 là ngày tôi đến trường nữ Trung Học Gia Long, đường Phan Thanh Giản, Quận 3, Sài Gòn, trình diện.Sau mấy tháng không làm việc gì nặng nhọc, khi mang ba - lô trên vai đi bộ độ mươi bước thì tôi cảm thấy người như chùng xuống. Tôi thầm trách vợ tôi:"đã nói học tập có mười ngày, đem theo đồ gì gọn nhẹ mà sao không nghe". Đến trường Gia Long ở hai ngày một đêm mà tôi không buồn soạn cái ba- lô, coi trong đó đựng những thứ gì. Tôi chỉ lấy chiếc lon guigoz đựng kem súc miệng và cái khăn mặt để sử dụng hàng ngày. Thật là tiện lợi khi dùng nó vì nó chứa được nhiều nước. Ngày 29 thang 6 năm 1975,tôi đến trại tù ở Suối Máu Biên Hòa. Sau khi điểm danh và phân chia nhà ở xong, việc đầu tiên của tôi là xách chiếc lon guigoz đi tìm nước súc miệng.Đi một vòng xung quanh trại mà tôi chẳng thấy có cái lu, cái khạp, hay cái thùng phi nào chứa nước sẵn. Chỉ có một cái giếng duy nhất để chứa nước nấu ăn. Có giếng nước mà trại lại không phát thùng múc nước. Làm sao lấy nước lên được khi độ sâu của giếng khoảng hơn mười thước. Tôi đành xách chiếc lon guigoz đi về nhà ở. Thấy ai nấy đều đem mùng ra kiếm chỗ treo lên, tôi cũng mở ba- lô lấy cái mùng "nhà binh" màu xám( loại mùng bằng vải nylon, phía trên nóc và xung quanh chân mùng có bốn sợi dây, mỗi sợi dài hơn ba thước.) Một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi là tại sao tôi không lấy bốn sợi dây này nối lại(" một cây làm chẳng nên non"), xong buộc vào lon guigoz mà lấy nước từ dưới giếng lên. Tôi liền thực hành ngay. Quả thật tôi đã lấy nước một cách dễ dàng, không những cho tôi mà còn cho những bạn tù khác. Đến 8 giờ 30 cùng ngày, cả nhà( gồm 44 người) ngồi lại bầu một nhà trưởng và một người phụ trách nấu ăn. Quái ác, một thằng bạn thấy tôi có sáng kiến lấy được nước từ giếng sâu lên, nó liền đề cử. Thế là cả bọn dơ tay tán thành. Khởi sự đi nấu vào lúc 9 giờ sáng mà mãi đến 2 giờ chiều mới có cơm ăn. Độc nhất, chỉ có rau muống luộc bằng nước giếng. Nước dùng để vo gạo và rửa rau, kể cả nước để vô chảo để nấu cơm và luộc rau, cũng chỉ dùng chiếc lon guigoz lấy nước từ dưới giếng lên. Còn củi để chụm là những khúc cây cao su bằng bắp chân cưa ngắn lại độ ba gang tay còn xanh. Làm sao nhúm lửa được mà nấu? Trại tù không phát dao cũng không phát búa, sợ tụi này dùng vật bén nhọn tấn công tụi nó. Tôi lại một phen đi đào lấy cọc sắt" ấp chiến lược" loại ngắn độ hơn gang tay để chẻ củi. Sau đó, đi lấy bao cát nylon để đốt cho cây củi cao su khô đi mới bắt cháy được. Thật là nhiêu khê! Sau khi làm bếp xong, tôi lấy một lon guigoz nước để" tắm búng"(thắm nước cho ướt mình mẩy rồi lấy tay se se cho đất tróc ra, xong búng nó đi) Có một hôm trời mưa to. Cả bọn mừng rỡ chạy ra tắm mưa dưới những mái tôn nhà đang ở. Bỗng nhiên mưa đứt hột một cách đột ngột. Cả bọn nhìn nhau cười ngặt nghẽo vì đầu cổ mình mẩy đứa nào đứa nấy đều dính đầy bọt xà bông, trông rất thảm hại! Chiếc lon guigoz lại lần nữa giúp cho bọn tù chúng tôi rửa sạch bọt bèo xà bông. Có nhiều đêm tôi muốn đi ngủ sớm vì quá mệt nhọc trong công việc nhà bếp nhưng mấy thằng ban đâu có tôi nằm yên, tụi nó thay phiên nhau tới chỗ tôi nằm để mượn chiếc lon guigoz. Đã mười giờ đêm mà tôi vẫn chưa ngủ được vì lấy lon guigoz đi, thì bốn sợi dây giăng mùng cũng đi theo. Sau hơn một tháng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1975, chúng tôi chuyển trại bằng đường bộ từ Suối Máu xuống An Dưỡng(Biên Hòa). Dọc đường, chiếc lon guigoz lại giúp tôi đỡ cơn khát. Ở trại mới, so với trại cũ có phần thoáng mát hơn. Cũng xử dụng nước giếng nhưng trại phát cho thùng xách nước. Còn củi thì trại có đưa búa cho chẻ củi. Cho nên chiếc lon guigoz lúc này dùng việc "ca cống''(là dùng ca và lon guigoz bằng nhôm nấu ăn hoặc nấu nước uống bằng than của nhà bếp) Ở chung trại có anh bạn tù tên là Tuấn. Anh ta có một thân hình lực sĩ đẹp nhất trại nhưng vì anh ta hay bắt chuột làm thịt ăn nên cả bọn chúng tôi kêu anh ta bằng Tuấn chuột. Một đêm trăng, tôi nằm thao thức mãi không ngủ được, một phần thì nhớ nhà, một phần thì bụng đói cồn cào. Tôi ngồi dậy, nhìn ra ngoài trời, dưới ánh sáng của vầng trăng tròn, tôi thấy hai con chuột đang tìm cách tha cái lon guigoz của Tuấn Chuột. Một con chuột nằm ngửa, bốn cẳng của nó ôm chặt chiếc lon guigoz, còn con kia cắn đuôi con chuột nằm ngửa mà kéo đi nhưng vì miệng hang quá nhỏ nên chúng không thể nào đem cái lon guigoz vào được. Ngoài ra chiếc lon guigoz cũng giúp tôi khỏi bị bệnh tê liệt một thời gian ngắn. Số là ở trại tù An Dưỡng, bọn quản lý trại giam đã cho chúng tôi ăn gạo ẩm(gạo cũ bị bể nát). Chỉ trong một tuần lễ là tất cả chúng tôi đều đi đứng không được mà phải bò bằng tay và hai đầu gối. Tuấn Chuột là người khỏe mạnh mà cũng bị bò. Riêng tôi, tôi vẫn đi đứng bình thường. Bởi trong khi đi lao động gần nhà bếp trại, tôi thấy bọn chúng vo gạo trắng,tôi liền lấy lon guigoz xin một lon đầy nước cơm vo. Mãn giờ lao dộng, tôi trở về ''lán''(chỗ ngủ của tù cải tạo) để bắt đầu giờ ca cống. Tôi xin chút than nhà bếp để nấu nước cơm vo này. Nhờ có nước cơm vo( có chất vitamin B1) mà tôi không phải bị bò. Thấy tôi đi đứng bình thường, mấy thằng bạn nói tôi có nhiều thuốc vitamin B1 nên khám ba- lô của tôi. Đến khi lục soát xong, bọn chúng mới biết tôi chỉ có mấy viên thuốc ngừa sốt rét mà vợ tôi đã cẩn thận bỏ trong hành trang của tôi. Sau đó, Ban Quản Lý trại mới mua gạo lức về nấu cho chúng tôi ăn để khỏi bị bệnh tê liệt. Ở trong trại, tôi có ăn chung với một thằng bạn tên Hoa. Nhân ngày lễ của bọn chúng, chúng tôi mỗi thằng được trại ''ưu ái'' phát cho một cục thịt heo bằng ngón tay cái. Chúng tôi đâu dám ăn liền mà bỏ vào lon guigoz rồi lọc nước muối đổ đầy vào lon nấu thịt cho ra nước mỡ để hai đứa ăn một tuần lễ vì trại trừ phần ăn bảy ngày. Ngày 17 tháng 6 năm 1977, chúng tôi chuyển trại từ An Dưỡng đến Căn Cứ 5 Rừng Lá,thuộc Hàm Tân, Phan Thiết(trại Z30D). Thời gian ở trại này có thêm đội nữ( gồm có các chi quân nhân và các chị ở Biệt Đội Thiên Nga Cảnh Sát). Tội nghiệp! Các chị đều bị bệnh vì chế độ ăn uống ở đây quá khắc nghiệt. Trong lúc này, tôi ở Đội Nhà Bếp. Hàng ngày, ngoài việc nấu cơm và luộc rau muống, tôi còn phải nấu một chảo nước sôi để chia cho đội nữ. Lợi dụng việc đi lại với nhà bếp, các chị đã gởi cho tôi sáu cái lon guigoz để gởi tôi nấu dùm. Đố các bạn biết trong đó đựng những gì? Xin thưa: đó là đậu xanh hột. Số là trong khi các chị đi thu hoạch đậu xanh, các chị đã giấu lại không nộp hết rồi bỏ vô lon guigoz đem xuống nhà bếp nhờ tôi nấu chín. Có lần tên cán bộ( lúc này Công An Quản Lý) nhà bếp hỏi tôi nấu cái gì trong đó. Tôi nói là nấu nước sôi cho đội nữ. Hắn ta thắc mắc hỏi. Tại sao anh nấu một chảo nước sôi màkhông đủ chia? Tôi giải thích rằng họ cần nước đun chín để uống thuốc. Thế là thoát nạn. Trong thời gian cải tạo, người tù như chúng tôi đều trải qua những cơn đói khát kinh hoàng. Chiếc lon guigoz đã nuôi sống chúng tôi trong những cơn hoạn nạn. Chiếc lon guigoz là vật bất ly thân, đã đi theo chúng tôi từ trại tù này đến trại tù khác. Chiếc lon guigoz là người bạn đường thân thiết của tôi. Chiếc lon guigoz cũng là hình ảnh, là báu vật mà suốt cuộc đời của người tù cải tạo không quên được.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro