Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyen ngan-Lenghiabk05

TẮM TIÊN (Truyện ngắn của Trần Như Đắc)

Hồi ấy tôi làm cần vụ cho tướng Nông Văn Khờ. Phải nói lúc đầu tôi rất sợ. Sợ vì một thằng lính binh nhì, ít tuổi nhất binh đoàn lại phải sống cùng với một vị tướng, vừa cấp to, lại vừa nhiều tuổi. Nhưng quân lệnh như sơn, tôi phải chấp hành vô điều kiện

Ngay buổi đầu, ông bảo kê giường nằm cùng phòng với ông, tôi gần như van vỉ 

“Xin thủ trưởng cho em ở nhà dưới”, nhà dưới tức là nhà bếp kiêm nhà ăn của tướng Khờ. Ông chỉ nói một câu  “Không được”. Tôi hiểu đó là mệnh lệnh nên răm rắp kê chiếc giường cá nhân của mình trong phòng ngủ của thủ trưởng, đối diện với giường ông qua một cái bàn viết nhỏ.

Nhiệm vụ của tôi là phục vụ thủ trưởng, dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, đun nước và cả giặt giũ nữa. Trợ lý quân lực và trưởng ban hành chính đều dặn dò tôi rất kỹ lưỡng là phải chịu khó, chăm chỉ ra sao để thủ trưởng thoải mái an tâm làm nhiệm vụ to lớn của một vị chỉ huy. Quên nói, tướng Khờ chỉ là cấp phó, trên ông còn hai vị tướng nữa là Tư lệnh và Chính ủy. Tư lệnh An người Kinh Bắc, to béo, trắng trẻo và nghiêm khét tiếng. Chính ủy Huy thì lại cao, gày, dáng thư sinh, nói năng nhẹ nhàng, có nụ cười nửa miệng.

Tướng Khờ trông chẳng có tướng chút nào, người ông thấp bé, da ngăm ngăm, lại ít khi đeo quân hàm, quân hiệu đầy đủ, nên cứ như một lão nông tri điền. Mà ông vẫn thường nhận mình là nông dân, hay kể chuyện thời làm ruộng ở nhà.

Hôm đầu tiên ở với ông, ông lại xuống đơn vị suốt ngày, đến tối mịt mới về. Tôi vẫn chờ cơm ông vì không thấy ông báo “Cắt cơm”. Hóa ra ông chưa ăn thật, ông rửa mặt, rửa tay qua rồi ngồi vào bàn ăn, trông thấy món măng luộc ông thích thú cười khà khà và gắp ăn liền mấy miếng. Sau này tôi biết món ăn sở trường, khoái khẩu nhất của ông chính là măng, các loại măng, nhưng khoái nhất là măng đắng. Măng đắng chấm muối ớt, nhắm với rượu nút lá chuối. Toàn những thứ đắng cay cả, thế mà ông thích được mới kỳ. Ông uống rượu bằng cốc, mỗi bữa một cốc, bữa nào cũng vậy, và chỉ thích mỗi loại rượu nút lá chuối, tức là rượu gạo nấu lấy. Các loại rượu tây, rượu vang, rượu sâm banh các nơi cho để đầy tủ nhưng ông không đụng đến bao giờ.

Thấy ông thay quần áo để ra chậu, tôi nhanh nhảu bê ra giếng định giặt, ông liền nói như ra lệnh “Để đấy”, tôi nghệt ra không hiểu, ông nói “Để đấy tí nữa tớ khác giặt”, tôi nghĩ hay là thủ trưởng sợ mình giặt không sạch, liền nói “Thủ trưởng yên chí, em sẽ giặt cẩn thận ạ”, “Không phải thế, quần áo ai, người ấy giặt, cậu nhớ lấy”, rồi như sợ tôi làm, thủ trường liền ra giếng múc nước, đổ ngập chậu quần áo, sát xà phòng từng cái một. Nhưng ông không rũ ngay mà để đấy, chuẩn bị tắm.

Tôi lại kinh ngạc lần nữa. Thủ trưởng Khờ cởi áo dài, áo lót để vào chậu rồi cởi luôn cả quần dài lẫn quần đùi đang mặc. Ông múc nước và xối ào ào vào người, vẻ khoan khoái. Trời mờ mờ tối mà mặt tôi đỏ lựng, nóng bừng. Trước mặt tôi là một người đàn ông trần trụi, khỏe mạnh, rõ từng múi thịt ở ngực, ở bắp tay, bắp chân. Tôi không dám nhìn vào chỗ ấy, nhưng cũng thoáng thấy nó có vẻ sung mãn lắm. Tôi định chạy vào nhà thì thủ trưởng gọi giật “Lại đây kỳ lưng cho tớ mấy”, tôi lưỡng lự nhưng rồi vẫn phải tiến lại, kỳ lưng cho thủ trưởng. “Kỳ mạnh vào, đấy đấy… chỗ bả vai ấy, chà, sướng quá”. Tôi được nhìn kỹ từng thớ thịt, nước da của thủ trưởng, đúng là nước da nông dân, rám đen nhưng săn chắc. Ông đổi cách xưng hô “Mày cũng cởi quần áo ra tắm luôn cho mát”, tôi lúng búng nói “Để em tắm sau thủ trưởng ạ”. Ông Khờ cười lớn “Lúc này đừng gọi tao là thủ trưởng, thôi cởi ra đi” rồi ông lột hộ tôi cái áo, “Cởi cả quần nữa, tắm tiên mới sướng”. Thì ở nhà tôi vẫn tắm tiên. Tôi vẫn cùng mấy thằng bạn hay ra suối bản Bo tắm truồng thỏa thích, làm mấy đứa con gái xấu hổ chạy mất dép. Ông Khờ nói “Hồi tao học ở bên Nga, ở nhà tắm công cộng, chúng nó cũng tắm tiên thế này, có ai nhìn ai đâu, bọt xà phòng trắng xóa, khoái lắm. Nào, quay lưng lại đây, tao kỳ lưng cho, tắm mà có người kỳ lưng là sướng nhất trần đời”. Tôi khoan khoái thấy bàn tay thủ trưởng miết đi miết lại trên lưng, ông khen “Thằng này khỏe, đúng là thanh niên dân tộc có khác. Chịu khó rèn luyện vào nhé, cứ ở với tớ một năm rồi khắc cho xuống đơn vị mà tung tẩy, chứ làm cần vụ bó buộc lắm phải không”. Chà, thủ trưởng nắm đúng thóp lính, có ai làm lính mà lại thích làm cần vụ cơ chứ.

Sáng hôm sau, thủ trưởng bảo tôi chuẩn bị ba lô để đi công tác cùng ông. Là lính nên ba lô tôi lúc nào cũng sẵn sàng, có lệnh báo động di chuyển là đi được ngay. Tôi định xếp ba lô cho thủ trưởng nhưng ông bảo “Ba lô của tôi cũng sẵn sàng rồi”. Tôi nhìn chiếc ba lô cóc của thủ trưởng căng phồng gọn ghẽ mà thầm phục. Tôi định khoác cả hai chiếc ba lô mang ra xe, thì một mệnh lệnh nữa “Cứ để đấy cho tôi”. Thủ trưởng Khờ xốc ba lô thành thạo như một người lính, ông cùng tôi đi ra xe con.

Tuy là thời bình, nhưng vì đơn vị ở vùng núi Tây Bắc, nên lúc nào cũng phải sẵn sàng làm nhiệm vụ. Các thủ trưởng vẫn quan tâm nhiều đến đơn vị ở phía trước. Hôm nay thiếu tướng phó tư lệnh đi kiểm tra tiểu đoàn 4 ở sát biên giới. Cùng đi có trợ lý tác chiến và trợ lý chính trị, tôi được khoác thêm khẩu súng AK.

Đến đơn vị, thủ trưởng Khờ và các trợ lý làm việc với ban chỉ huy tiểu đoàn, tôi tranh thủ gặp mấy cậu lính cùng quê. Quá trưa, ăn uống xong, tôi đang sắp giường cho thủ trưởng nghỉ thì ông bảo “Để đấy, đi theo tớ”. Thấy ông nai nịt gọn gàng, tôi làm theo rồi đi theo ông lên rừng. Ông bảo “ở rừng này lắm măng đắng lắm, phải kiếm lấy món về ăn dần”. Vào rừng, ông nhanh nhẹn như thanh niên, leo dốc thoăn thoắt, vạch cây đi thành thạo và dẫn tôi đến đúng nơi có nhiều măng. Hai thày trò thỏa sức bẻ măng, chẳng mấy chốc lấy được một gùi đầy. Đến một đoạn suối sâu, có một cái thác nước chảy tung bọt trắng xóa, ông bảo “Thích chưa, hôm nay mới thực là tắm tiên nhé”. Ông cởi hết quần áo và nháy tôi “Còn đợi gì nữa”. Tôi đặt gùi măng xuống bờ suối và cởi quần áo.

Giữa rừng già xanh um, tiếng suối nước reo vui như một bài ca bất tận, những hòn đá nhẵn bóng vì được nước chảy bào mòn. Thủ trưởng Khờ và tôi như lạc vào cõi tiên. Tôi thấy thủ trưởng trẻ lại hàng chục tuổi, ông để cho thác nước xối vào đầu, vào vai, rồi nâng cả hai bàn tay đón dòng nước, ấp vào mặt, thịt da ông cũng nhẵn bóng màu đồng hun, khỏe mạnh. Tôi kỳ lưng cho thủ trưởng, thủ trưởng quay lại kỳ lưng cho tôi. Tôi tủm tỉm liếc nhìn cái của quý, ông cũng nhìn của tôi, rồi cả hai phá ra cười. Ông bảo “Con người ta đẹp nhất là lúc này”, tôi cãi “Người ta nói người đẹp vì lụa chứ thủ trưởng”, ông bảo “Nói láo, lụa là, quần áo chẳng qua chỉ để che thân, để bảo vệ cho con người khỏi ốm đau, bệnh tật, nhưng nó lại che hết cả vết xấu lẫn vẻ đẹp của con người. Chỉ có thế này mới thật là người”.

Nước mát làm cho tôi sảng khoái, tỉnh táo và sạch sẽ. Chưa bao giờ tôi thấy gần gũi và yêu quý thủ trưởng Khờ như lúc này. Hai thày trò tắm xong, thoải mái mặc quần áo đi về đơn vị.

Tối đó, đơn vị bắn được một con gấu ngựa nặng gần một tạ (hồi đó chưa có lệnh cấm săn bắn thú rừng quý hiếm). Tiểu đoàn cho mổ thịt, chia cho mỗi đại đội một ít, còn thủ và bốn cái chân nấu một nồi cháo lớn, lòng gan để nhắm rượu. Quan quân được một bữa xì xụp thật vui vẻ. Thủ trưởng Khờ ngồi cùng bộ phận đi săn nói chuyện rôm rả. Tiểu đoàn trưởng lại gần, hai tay đưa trước mặt thủ trưởng một gói nhỏ, nói trịnh trọng “Có cái mật, xin kính biếu thủ trưởng ạ”.

Thủ trưởng Khờ đang vui chuyện dừng lại, nhìn cái mật gấu rồi nhìn người cán bộ cấp dưới, ông trừng mắt hỏi: “Cậu làm gì thế này?, biếu thủ trưởng cái mật gấu à?”. Tiểu đoàn trưởng vẫn lễ phép “Vâng ạ, để thủ trưởng dùng bồi dưỡng sức khỏe”. Ông Khờ đứng bật dậy, mặt đỏ bừng, ông quát lớn “Thủ trưởng, thủ trưởng, thủ trưởng là cái quái gì chứ, sao cái quý nhất lại cứ phải cho thủ trưởng?”. Ông gạt bàn tay tiểu đoàn trưởng đang cầm chiếc mật gấu, nói tiếp “Cái này, một là để cho người nào bắn được con gấu hôm nay, không thì để chỗ bộ phận quân y, ai ốm đau thì được dùng, không có thủ trưởng nào ở đây cả”.

Tiểu đoàn trưởng mặt đỏ rừ, không nói được gì, vội lùi về chỗ. Thủ trưởng Khờ thấy vậy, cầm lấy một bát rượu giơ lên “thôi nào, tiếp tục cuộc vui, chúc mọi người khỏe”. Ông làm một hơi cạn giữa tiếng vỗ tay ràn rạt của lính.

Tưởng cái mật gấu ấy sẽ về đúng chỗ như lời nói của thủ trưởng Khờ, ai ngờ, một tuần sau, cậu Hòa, lính cần vụ thủ trưởng Huy thì thầm với tôi “Thủ trưởng Huy vừa mới được biếu cái mật gấu to lắm nhé” tôi hỏi “Ai biếu?”, “Tiểu đoàn 4”, Hòa nói thêm “Mày phải giữ mồm tao mới nói nhé. Thủ trưởng Huy nghe nói tiểu đoàn 4 săn được con gấu to, liền đi xe xuống kiểm tra công tác, nhân tiện hỏi thăm chuyện con gấu, tiểu đoàn biết ý, biếu ngay chiếc mật”, tôi hỏi “Thế thủ trưởng có nhận không?” “Sao không nhận, mật gấu quý lắm mà tiểu đoàn thành tâm quá”. Tôi không dám hé chuyện này với thủ trưởng Khờ, nhưng tôi thấy lạ cho thủ trưởng Huy quá.

Tôi không biết rõ về thủ trưởng Huy, tôi chỉ biết thằng Hòa, cần vụ của ông. Hòa cùng quê với tôi, cùng nhập ngũ một ngày, cùng được làm cần vụ cho hai vị tướng, nên chúng tôi càng thân nhau. Hai đứa thường trao đổi thực phẩm cải thiện được để nấu ăn cho các thủ trưởng. Có điều, món thịt gà thì thủ trưởng Khờ không thích, còn món măng đắng, măng chua, thì thủ trưởng Huy lại chê. Hai vị chỉ cùng thích cá, nhưng thủ trưởng Huy thích cá rán chấm nước mắm gừng, thủ trưởng Khờ lại thích cá kho với riềng. Hòa không nằm ngủ cùng phòng với thủ trưởng như tôi, thủ trưởng Huy bảo ban hành chính làm cho riêng nó một gian cạnh bếp, thành ra nó tha hồ tự do bày biện. Phòng của nó chẳng thiếu thứ gì, nó khoe với tôi “Các đơn vị  biếu cái gì cho thủ trưởng đều đưa qua nó”, nó còn khoe “Thủ trưởng Huy bảo tao cứ phục vụ tốt sau này sẽ cho đi học sĩ quan. Mày cũng nên đề đạt nguyện vọng với thủ trưởng Khờ đi, tội gì không lợi dụng cơ hội này, cứ phục vụ các thủ trưởng thật tốt là được”. Tôi bảo “Thủ trưởng hứa sẽ cho tao xuống đơn vị”, Hòa “Xì” một cái như để chê tôi. Tôi lảng sang chuyện khác “Thế thủ trưởng Huy có tắm tiên bao giờ không?”. Hòa cười rũ “Mày ngốc lắm, thủ trưởng là tướng, ai lại đi tắm tiên như lính tráng chúng mình” nó kể “Tuy ở rừng núi, nhưng thủ trưởng Huy bao giờ cũng rất lịch sự. Phòng tắm của thủ trưởng như ở Hà Nội nhé, có vòi hoa sen, có đủ khăn bông tắm, xà phòng thơm. Tao phải đun nước rồi pha nước tắm cho thủ trưởng, xong đâu đấy, mời thủ trưởng vào tắm, thủ trưởng đóng kín cửa, chẳng biết có tắm tiên hay không”. Nó khuyên tôi “Các  “cụ” là tướng, mình chỉ là lính tráng làm cần vụ, phải biết kính trọng, lễ phép. Như tao đây này, chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào mặt thủ trưởng”. Tôi cười không nói gì. Hòa khoái chí, hắn thao thao “Ngay cả khi ăn cũng vậy, tuy cùng ngồi ăn với thủ trưởng, nhưng phải lo phục vụ thủ trưởng ăn trước, mình chỉ ăn dè dặt thôi, thủ trưởng ăn xong, mình lấy khăn lau tay, lấy tăm, rót nước cho thủ trưởng rồi mới quay lại tiếp tục ăn, lúc ấy thì mới ăn thả cửa”.

Đúng là tướng nào, quân ấy, Hòa cũng sạch sẽ đỏm dáng, nói năng nhỏ nhẹ, đi đứng khẽ khàng, mắt bao giờ cũng nhìn xuống, thủ trưởng bảo gì thì “dạ, vâng” lễ phép. Chỉ khi nào thủ trưởng Huy đi vắng thì Hòa mới lại là Hòa ngày trước, nhanh nhảu, nghịch ngợm. Có hôm nó còn gọi tôi sang, lấy chai rượu tây uống dở, rót cho tôi một ly, bảo: “Uống đi, Uýt ky chính hiệu đấy”, tôi nhấm thử, thấy hăng hắc như mùi bọ xít, lắc đầu bảo “Không ngon bằng rượu ta”, Hòa lại “Xì” chê tôi ngốc.

Những lần thủ trưởng Huy về thăm nhà, thằng Hòa tất bật chạy đi, chạy lại, lo đóng gói những thứ quà biếu của thủ trưởng nó vẫn giữ lâu nay, rồi qua quân nhu, quản lý mua thêm bao nhiêu thứ để thủ trưởng mang về cho vợ con, chất lên xe con thủ trưởng, ông Huy hài lòng lắm.

Còn tôi có giống thủ trưởng Khờ của tôi không nhỉ (?). Ngồi ăn với thủ trưởng, thấy tôi dè dặt, ông toàn gắp thức ăn cho tôi, bảo “Cứ ăn thoải mái, không phải giữ ý”, hôm nào có món ngon, ông còn cho tôi uống một ly rượu, ông bảo, thức ngon mà không có rượu thì vứt. Tôi thường ăn xong trước thủ trưởng, định ngồi để tiếp ông thì ông xua “Lên nhà uống nước đi, mặc tớ”. Tôi học tập Hòa, lấy khăn lau, lấy tăm, bưng nước mời thủ trưởng ông lại xua tay bảo “Vẽ”, rồi tự rót nước uống.

Thủ trưởng Khờ không có quà biếu. Nghe nói trước đây cũng nhiều người đến biếu thứ này thứ khác nhưng ông không nhận hoặc có nhận thì lại gọi trưởng ban hành chính bảo đem sử dụng cho cơ quan, thế là chẳng có ai dám biếu nữa. Thủ trưởng đi phép cũng gọn nhẹ, chỉ có ba lô quần áo và mấy gói kẹo mang về chia cho trẻ con. Quân nhu, quản lý có gợi ý bán cho thủ trưởng một số hàng giá ưu tiên nhưng ông không lấy. Nghe những người đã đến nhà ông kể lại, quê ông Khờ còn nghèo lắm, nhà thủ trưởng vẫn là nhà cấp 4,  ba gian, hai buồng, vợ ông vẫn làm ruộng. Giá ông chịu ra thành phố xin cấp một xuất đất thì có tiền tỷ ngay, nhưng chẳng thấy ông làm. Có người bảo “Đúng là tướng Khờ!”

Cuối năm ấy, cả hai thủ trưởng đều giữ đúng lời hứa. Hòa được đi học trường sĩ quan chính trị, tôi được xuống đơn vị chiến đấu. Hòa diện bộ quân phục mới cứng, là phẳng phiu, trông rất đẹp mắt, từ cái thắt lưng đến đôi giày, đều chọn lựa kỹ càng, đúng cỡ số, quân hàm binh nhất thôi nhưng đã ra dáng học viên trường sĩ quan lắm, thủ trưởng Huy hài lòng khen “Được, quân đội chính quy phải như thế”.

Tôi toại nguyện xuống đơn vị để được thử thách những công việc lớn hơn. Nhưng lại luyến tiếc phải xa thủ trưởng Khờ. Thấy tôi bịn rịn, thủ trưởng vỗ mạnh vào vai tôi “Là chiến sĩ, phải cứng rắn lên chứ” rồi ông nói vui “Về tiểu đoàn 4 có suối Nách ở bản Dao đẹp lắm, tha hồ mà tắm tiên nhé”. Tôi cười theo. Bất chợt lại nhớ đến những lần tắm tiên cùng thủ trưởng Khờ, nhớ rõ cả cái nốt ruồi đỏ ở một chỗ kín trên mình thủ trưởng.

Song ma

Tờ mờ sáng, quán thắng cố còn chưa đỏ lửa thì Hoạt đã nghe thấy tiếng hí của một con ngựa lạ ngay gần chuồng ngựa nhà mình. Hoạt bấm vợ ba cái vợ mới tỉnh giấc. Như hiểu sự tình, vợ Hoạt lại hắng giọng mấy cái gọi lão Sếnh. Lão Sếnh là người giúp việc vặt trong nhà vừa là ông chủ nồi thắng cố, vừa là người chuyên giết mổ gia súc. Tuổi đã ngoài sáu mươi mà ông vẫn tinh tường, dẻo dai lắm

Trời đông đã vào Chạp, rét nhức xương. Lão Sếnh lục đục chui ra khỏi chỗ nằm. Mà cứ gọi luôn là ổ rơm cho bình dân. Nhà Hoạt, ngoài một cái giường to cho hai vợ chồng ra, còn một cái chõng tre cũ nữa. Nhưng lão Sếnh không ưa cái giống chõng tre cho lắm. Vì dù mới hay cũ thì nó cũng kẽo kẹt, rên rẩm cả đêm như thể bị người ta đè gãy lưng đến nơi rồi ấy. Nghe như ngày tháng rão ra, như đêm chùng xuống, mãi chả tới sáng, sốt ruột. Lão Sếnh phải nhịn cái chõng tre như già nhịn trẻ vòi quà trước mặt khách ấy. Tức anh ách khi không dám cựa mình, vì ngay lập tức bị cáo tội. Khi lão Sếnh nằm im giả chết thì bọn mối mọt thừa thắng phá phách. Tiếng răng của mọt mài vào, cứa vào tre nứa khô keng nghe càng rợn tai hơn. Tốt nhất ổ rơm, vừa êm, vừa ấm, sướng bằng ông hoàng, đố chăn nệm nào sánh được.

Mà có trằn trọc, thao thức cũng chả ảnh hưởng đến ai. Tiếng rơm rợn rạo, êm tai và thân thiết dễ chịu biết chừng nào. Xa cái mùi thơm dìu dịu của rơm nếp vàng còn khó ngủ ấy chứ. Quán thì bé, một cái giường của vợ chồng Hoạt biết rên rỉ đã là quá lắm rồi.

Lão Sếnh kéo vạt áo chàm ngay ngắn, đẩy cửa liếp, bước ra sân, đi về phía chuồng ngựa. Trăng buổi sáng như trái đào cuối mùa bổ mỏng để tơ hơ trên cái đĩa men xanh chẳng đậy điệm. Mặt đất còn ngái ngủ. Tiếng vó ngựa khua lộp  khộp đánh thức một vùng đất khiến lão Sếnh nghiệm ra rằng, bình minh có từ mặt đất, có từ hoạt động của vạn vật và con người. Bình minh của bầu trời là thứ ánh sáng ban phát và muộn màng. Chẳng thế mà mặt trời bao giờ cũng dậy sau lửa.

Hoạt đứng ngay sau lão Sếnh, khịt khịt mũi để ra dấu cho sự có mặt chậm trễ đầy tính toán. Giọng lão Sếnh khấp khởi:

- Là một thằng Tía đực. Hai tạ thịt có dư.

Hoạt hỏi, rít qua kẽ răng:

- Đã cho vào chuồng chưa?

Lão Sếnh cười hắt ra:

- Đâu vào đấy cả. Nó mê tít con vàng nhà mình. Đúng là đồ dại gái!

Hoạt ra tận chuồng nhìn cho rõ cái thứ bổng lộc ngon lành bỗng dưng ở đâu lại mò đến cửa nhà mình. Hai con ngựa, một đực một cái quấn lấy nhau như thể hẹn hò từ kiếp nào.

Lão Sếnh vào ổ rồi vẫn thấy tim mình đập mạnh. Dù xứ sở này được coi là xứ sở của ngựa, ra gặp ngựa, vào chạm ngựa, ra nương, ra ruộng, đến chợ, vào bàn nhậu, những ngựa là ngựa, mà lão chẳng khỏi xốn xang. Thằng Tía là một con tuấn mã đẹp đẽ khác thường. Nó không phải là ngựa bản này, phố chợ này. Nhìn là biết ngay. Đến tiếng hý của nó cũng mạnh mẽ, bản lĩnh, đến tiếng vó của nó gõ vào đất cũng rộn ràng khác lạ. Đôi mắt sáng quắc, bộ bờm mượt mà và màu lông tía đậm quyền quý. Ngay cả cái hàm thiếc mà chủ gắn cho nó cũng là thứ kim loại có giá trị. Có thể từ những phiên chợ trước thằng Tía đã được chủ đưa đến chợ này giao dịch và nó đã làm quen với con Vàng. Rồi từ sự bất cẩn của chủ mới, nó trốn về đây, mang theo cả thừng và hàm thiếc. Trước khi băng rừng vượt núi về chốn cũ, nó ghé  thăm “cố nhân” chăng? Nếu quả như lão Sếnh phán đoán thì con Vàng cũng là con ngựa cái thật có diễm phúc. Con Vàng cũng là con ngựa đẹp được Hoạt mua về từ một bản nhỏ heo hút giáp biên giới. Bộ lông con Vàng có thể sánh với màu của mật ong, của nhuỵ hoa. Cũng đài các, thanh tao với cái mõm thon thả, cái mũi trắng mịn màng và hai cặp giò yểu điệu. Đặc biệt là đôi mắt, lão Sếnh chưa từng gặp con ngựa cái nào có đôi mắt hiền lành và “có lời” như mắt con Vàng. Cả tiếng hý của nó cũng hiền đến tội nghiệp. Lão Sếnh chưa bao giờ thấy nó tỏ ra giận giữ cả khi các đầu nậu vây quanh bàn tán. Nó là con ngựa nuôi làm nái cũng được, cõng thồ cũng được, chưa kể nếu mổ lấy thịt, thịt nó ắt ngon.

Nhưng, đẹp rồi cũng chết. Thằng Tía quyền quý là “khách sộp” thì càng phải chết trước, chết nhanh. Chỉ có ba nhát búa vào giữa cái trán thông minh của nó là đủ chao đảo, gục ngã. Sau ba nhát búa của lão Sếnh là đến cái màn chọc tiết điêu luyện của thằng Hoạt. Cái sự giãy giụa đau đớn cũng chỉ diễn ra chóng vánh thôi. Rồi đến sự lột da, lọc xương, phân loại thịt. Ba phần giao cho mối hàng chợ huyện, phần còn lại vào chảo thắng cố. Còn được giây phút nào bên bạn tình thì cố mà làm tròn trách nhiệm. Cái của quý của thằng Tía sẽ được ngâm chìm trong rượu và bán cho các quý ông bồi bổ với giá vài trăm nghìn. Thằng Tía lực lượng thế, của nó thì khỏi phải nói…

Hoạt lâng lâng, hồi hộp trên giường. Cái giường rộng thế mà phần dành cho Hoạt khiêm tốn quá, chỉ chừng phần tư. Vợ nằm im thì Hoạt cũng mới có cái chỗ nằm khiêm tốn ấy. ả mà dang tay, xoạc chân thì vừa hết, thân hình ả sẽ phủ kín cái giường luôn. Hoạt thấp bé, nhỏ thó bên cạnh cô vợ phì nộn, nhìn hơi lệch con mắt. Nhưng hễ ai mà ngứa lưỡi là Hoạt đốp lại ngay: “Con ong bằng nào? Quả bầu bằng nào?”. Dần dà, thiên hạ phố núi cũng quen với cái cảnh con ong quả bầu. “ Con ong” giảo hoạt, căn cơ, tính toán, chăm chỉ bao nhiêu thì  “Quả bầu” thườn thượt, lười biếng bấy nhiêu. Vợ Hoạt ngáp một cái, mặt trời lập tức tròn bóng, ả rời cái muôi múc thắng cố là xoa xoa chân, lên giường. ả ngáp cái thứ hai là mặt trời lặn, ả đập đập hai bàn chân vào nhau là lại lên giường. Việc quán xá, dọn dẹp, hai thằng đàn ông, một chủ, một tớ, một trẻ, một già cáng đáng, lo liệu hết. ả ngủ trước con gà và chỉ dậy khi gà dẫn nhau đi nương, đi ruộng hết. Chả thế, thắng Tía hí nghiêng một góc chợ thì Hoạt cũng phải bấm vào đùi non ả ba cái ả mới tỉnh đấy thôi.

Mà Hoạt không bồi hồi sao được. Xưa nay, nhỏ như con dúi, con ếch. Hoạt đều phải bỏ tiền ra mua cả. Đã ai cho không ai cái gì bao giờ. Bỗng dưng của lù lù một đống chui vào tận nhà mình, sung sướng ngột ngạt cả người lên ấy chứ. Nó được giá lắm, giá chót vót đấy. Nhưng có mà ngu thì mới bàn đến chuyện bán nó. Lên chợ, người ta bàn tán, mất hay. Lỡ chủ nó thấy thì rắc rối. Tất nhiên là phải chuộc rồi, nhưng chuộc thì được bao nhiêu? Cái giá chuộc thì không được tự do mang ra mà đấu, chẳng may mà gặp người quen thì có khi còn vài triệu cũng nên. Tốt nhất là thịt…. Da lột rồi thì thịt nào chả là thịt. Người ta đến chợ tìm ngựa, nhận ngựa, chứ đố ai dám nhận thịt, nhận thắng cố là ngựa của mình.

Vợ Hoạt ngủ nối một giấc nữa từ sau mấy cái véo của chồng nên không biết được Hoạt tính toán, suy nghĩ những gì.

Ấy thế mà bà con dân tộc đổ xô về cái quán thắng cố của Hoạt lại không hẳn đã vì sự giỏi chế biến của lão Sếnh hay tài chào mời của Hoạt đâu nhé. Vợ Hoạt chỉ cần một tay chống hông, một tay cầm cái muôi bằng gang to đùng lắc mông vài cái là khách khứa đã khoái rồi. Cái mông to nhưng là cái mông vợ người khác, cái muôi to mới là vấn đề. Đúng thế, vợ Hoạt luôn vục sâu, múc đầy và rót tràn. Mua bao nhiêu cũng múc đầy tràn hết. Tiền nhiều thì nhiều cái, tiền ít thì thì nhiều nước, còn được khuyến mãi câu nịnh “Khôn ăn nước, dại mò cái” ngược đời, sướng cười tít mắt nữa cơ.

 Mà đúng thế thật, cái nước thắng cố mới là thứ gây nghiện, mới là cái lí do dẫn rượu vào cõi say. Nước thắng cố đen xanh sền sệt, vừa cay nồng, vừa béo ngậy, vừa ngăm đắng, vừa bùi bùi ngọt. Nó là sự kết hợp của hơn chục loại gia vị lấy ra từ vùng núi này, nơi nổi tiếng với màu trắng tinh khôi hoa mận, hoa mơ và quyến luyến dập dìu phiên chợ ngựa mỗi tuần. Vì thế, chỉ ăn vài lần là nghiện. Đàn ông Mông vùng này đến chợ phiên mà không ghé quán thắng cố thì có cái gì đó thiêu thiếu, không trọn vẹn đàn ông.

Lão Sếnh bảo Hoạt:

- Trong các giống bốn chân, con ngựa tình nghĩa nhất, thế nên thịt  nó, tiết nó cũng đậm đà. Thắng cố với tôi là món khoái nhất. Tôi là gã Mông chính hiệu rồi.

Chả biết lão Sếnh có khoái thật không, nhưng Hoạt phục cái tài của lão. Tiền ở chợ, chầm chậm, lờ đờ theo chân thằng men chếnh choáng chui vào túi vợ chồng Hoạt mỗi chợ mỗi nhiều. Bán trâu, bán ngựa, tiền nhiều, rượu, thắng cố là đương nhiên rồi. Lão bán than, thằng bán măng, con bán gừng, bán rau cũng nghiện thắng cố. Một tháng bốn phiên thắng cố chợ ngựa, bán ngay tại quán chợ, la liệt người, nghiêng ngửa say. Một tháng bốn phiên chợ xa, chợ trâu, cái chảo được khiêng đi. Những ngày còn lại, vợ Hoạt nghỉ, cái chảo nghỉ. Chỉ có Hoạt vẫn quay cuồng kiếm tiền và lão Sếnh như Thiên Lôi vác búa Tầm Sét bị cuốn tít mù vào cái guồng quay lời lãi của Hoạt.

Trâu, bò, ngựa, dê nhà nào ốm đau, ngã gãy chân, què cẳng, thậm chí chết bệnh gọi đến Hoạt là  “đắt” hết, cấm có từ bao giờ. Hoạt nói với những kẻ chăn dắt, gió sương thế này:

- Mua làm phúc, giúp đỡ anh em lúc khó khăn thôi chứ lờ lãi gì, nếu không ưng bụng thì mổ ra mà ăn dần vậy.

Bố ai mà dám phanh cả con trâu, con ngựa ra mà ăn dần? Bán, vừa được tiếng, lại vớt vát được đồng nào tốt đồng ấy.  Què quặt, ốm đau, vào tay Hoạt và lão Sếnh, vẫn ăn lãi ròng. Chứ trông đợi gì ở cái thứ bóng bẩy, mã mượt, khỏe khoắn như con Vàng kia. Dạo này rét quá, bệnh nhiều, lão Sếnh làm không hết việc. Chỉ là lột da, xẻ thịt thôi, chứ cần gì đến búa với những con vật ngắc ngoải ấy. Vì thế mãi chưa đến lượt con Vàng.

Tiếng hí tình tứ của cặp tuấn mã làm lão Sếnh thức sớm hơn thường lệ. Từ khi nom thấy thằng Tía, lão Sếnh thấy chán cái nghề giết mổ. Thì cũng sắp đến lúc giã từ cái nghề bạc bẽo này về cõng cháu rồi. Thằng Hoạt chẳng phải là người Mông. Nhưng cái loại Kinh mất gốc, mất rễ ấy mới ẩm ương khó chịu. Hoạt nhận lão Sếnh là đồng hương chỉ vì cái tiếng “khà” giòn tan mỗi khi cạn một cốc rượu đầy bằng một hơi điêu luyện. Đồng hương là cái gì đó vừa thiêng liêng, gần gũi, nhưng lại phảng phất chút gì đó nhạt nhẽo, giả tạo. Thì đấy, khi say, thằng Hoạt gục vào vai lão mà nức nở “chẳng biết quê hương bản quán ở chỗ nào”, lúc tỉnh thì thơn thớt:

- Lương tôi trả ông bằng lương hai đứa giáo viên cắm bản. Đầu chúng nó đầy chữ, còn ông, một chữ bẻ đôi cũng không có, nói vậy để biết tôi ưu ái ông.

Lão Sếnh cũng thấy mặt dày lên, mọc lông ngứa ngáy sau câu nói của Hoạt. Nhưng máu chảy trong ngực lão không phải là máu của gã đàn ông có tự trọng, thể diện cao ngất trời. Nếu không lão đã chả ở được với Hoạt cả chục năm ròng.

Nhìn con ngựa cái nằm ngoan ngoãn, tin tưởng bên chân con ngựa đực mà lão buốt lòng nhớ đến cảnh đầm ấm vợ con. Chừng ân ái đã thỏa, chúng đang nghĩ đến lúc được tự do bên nhau ở một chân trời nào đó chăng?

Nhưng nội nhật hôm sau là thằng Tía hết đời. Bổng lộc bao nhiêu thằng Hoạt hưởng hết. Lão chỉ kiếm chút sái là cái bình rượu “ pín” thôi. Lão cũng chả uống, bán béng lấy tiền giắt lưng cho kỹ. Vợ lão già rồi, lão cũng đến tuổi nghỉ ngơi, cố vực dậy cái đó làm gì cho mệt. Thằng Hoạt không biết uống thức gì mà khỏe gớm, con vợ nó lúc nào cũng tươi hơn hớn ra. Vợ vừa lười, vừa đần mà thằng Hoạt cấm có ca thán, nhiếc móc bao giờ. Chúng nó hợp nhau đến nỗi chả có kẽ hở nào cho thiên hạ chêm chọc. Lão Sếnh cũng chả thèm chêm chọc. Lão chỉ thắc mắc là đứa nào không biết đẻ. Tại thằng Hoạt còm nhom, hay tại con vợ béo tròn lấp lỗ của nó? Lão cứ  ngờ ngợ nghĩ đến cái việc lão và thằng Hoạt làm mỗi ngày có lẽ nào ảnh hưởng tới đường con cái của vợ chồng nó. Dẫu lão vẫn nói, chỉ có thằng Tía với con Vàng kia là đẹp đôi. Thì cũng chả đẹp đôi bằng vợ chồng Hoạt. Cả đôi cứ mở miệng là nói làm ơn, làm phúc như thể kiếp này sinh ra để làm phúc. Vợ chồng Hoạt hợp nhau, cần nhau như thắng cố cần có rượu mới thành say, thành nghiện. Có đêm, cái giường gãy thang, giáng cả hai vợ chồng xuống đất. Lão Sếnh phải nhấc cái giường ra để giải cứu cho ông chủ suýt ngạt thở vì cái đùi của vợ, mà Hoạt vẫn cười lích khích được. Tính ra cái giường của vợ chồng Hoạt  phải cấy, phải dặm thang đến mấy bận rồi.

Lão Sếnh cố tình không cựa quậy, mà Hoạt vẫn biết là lão thức. Hoạt nói vóng qua phên liếp:

- Làm thằng Tía luôn sáng nay đi. Mai chợ đông người, lắm kẻ soi mói! Lão Sếnh bàn chùn:

- Chúng nó đang say nhau lắm, cho cô cậu yêu nhau thêm một ngày nữa cũng chả sao, vội gì chứ.

Hoạt đốp luôn:

- Vẽ vời, yêu đương gì! Cứ làm như người không bằng.

Lão Sếnh miễn cưỡng:

- Làm thì làm, đằng nào chả làm.

*

Hoạt thoăn thoắt mài dao. Vợ Hoạt vừa ngoác mồm ra ngáp vừa chuẩn bị xô chậu. Lão Sếnh vác cái búa ra chuồng ngựa, vừa ngó nghiêng vừa đăm chiêu. Hành hình con đực trước mặt con cái là việc làm khốn nạn, bỉ ổi nhất đấy, thế mà vẫn phải làm. Lão Sếnh mở cửa chuồng, dắt thằng Tía ra bãi đất trống nham nhở dấu chân trâu, ngựa, buộc chặt nó vào cái cột “hành hình” bằng gỗ tốt chôn sâu dưới đất, chỉ nhô lên gần một mét.

Tiếng phá phách của con Vàng trong chuồng làm lão Sếnh rợn rạo trong lòng, như thế có ai đó mang rơm khô vào dạ lão mà vò. Con Vàng hí lên thảm thiết như chính nó sắp bị chọc tiết. Thằng Tía lồng lộn điên cuồng nhìn về phía con Vàng một cách tuyệt vọng. Lão Sếnh cầm quả búa gần bảy cân lên mà thấy tay run run. Lão cầm quả búa đi vào sân, đưa cho Hoạt và bảo:

- Chêm lại cái cán, cho chắc ăn.

Hoạt đưa con dao nhọn cho lão, cười đầy ẩn ý:

- Xem đã sắc chưa? Có phải mài lại không?

Lão Sếnh cầm con dao đi ra chỗ cái cột hành hình, thừa cơ thằng Hoạt không để ý, lão đưa lưỡi dao sắc bén, cứa nhẹ vào sợi dây thừng ở chỗ cuốn quanh cái cột.

Hoạt cầm búa đi trước, vợ mang chậu ra sau. Hoạt đổi búa cho lão Sếnh lấy con dao nhọn. Thằng Tía thấy cảnh ấy, không cam tâm chết, nó chồm lên giằng giật. Sợi dây thừng đứt phựt. Thằng Tía chạy về phía con Vàng. Con Vàng hí liên hồi như thể giục bạn tình chạy đi.

Hoạt hét lão Sếnh:

- Mở cửa chuồng ra!

Lão Sếnh đủng đỉnh gạt cái chốt gỗ, phanh cánh cửa ra, nhưng thằng Tía không dại dột chui vào như sáng hôm trước. Nó đứng ngoài, hí một tiếng dài tri ân rồi co vó phi vút vào bình minh đang le lói sáng.

Hoạt ngồi phệt xuống cỏ chửi thề. Vợ Hoạt thong thả hiến kế:

- Thế nào nó chả quay về gặp con Vàng mà lo.

Hoạt gắt vợ:

- Nó chả ngu như đàn bà nhà cô đâu.

Lão Sếnh thở dài gượng gạo, bỏ vào nhà.

*

Con Vàng bỏ cỏ cả bốn ngày rồi, nom nó tiều tụy rõ. Hoạt bảo lão Sếnh thịt nó, có mối dưới thành phố gọi. Cái giống này, ngẫm ra tình nghĩa hơn cả con người. Cái độ thằng Hoạt bị trâu húc lòi ruột rồi phải nằm bệnh viện cả tháng, con vợ nó cấm bỏ bữa nào. Mà bỏ cơm là dại dột, có giải quyết được gì đâu.

Vợ Hoạt vốn là đứa con gái lỡ thì, nhưng cứ vô tâm để mọi sự cho ông bố giàu có sắp đặt. Thế là ông chủ cửa hàng kinh doanh tạp hóa lớn nhất nhì phố huyện này đã tác hợp cho con gái mình với Hoạt. Người ta bảo Hoạt là chuột sa chĩnh gạo kể cũng chả đúng. Hoạt chả ngồi không mà ăn bao giờ. Vì sau khi được bố vợ cho cả trăm triệu làm lưng vốn, cho cả đất mặt đường, Hoạt vẫn ở quán chợ tạm bợ và hùi hụi kiếm tiền. Nhà thì cho thuê, tiền cũng cho thuê nốt, lấy lãi.

 Cái cơ duyên gặp gỡ giữa lão Sếnh và Hoạt cũng là do thắng cố mạng lại. Một lão già chuyên dắt trâu ngựa, đóng hàng thuê cho các thương lái, gặp một gã chuyên giết mổ, buôn bán gia súc. Sau có vài bát rượu là thành anh em, thành đồng hương. Lão Sếnh bàn với Hoạt việc mở quán thắng cố. Hoạt hỏi lão Sếnh về thắng cố, lão Sếnh chỉ cười nhạt: “ Ăn nhiều nên biết làm thôi “.

Sau khi “hợp tác” với lão Sếnh, Hoạt đi từ cái ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Lão Sếnh tuy thất học mà lại tài cán khác người.

Sau mỗi lần giết mổ ngựa lấy thịt ngon đem giao. Số xương, thịt còn lại cộng với nội tạng, cho hết vào chảo thắng cố. Thắng cố nhà Hoạt vừa rẻ vừa ngon lại thêm “ đong đầy múc tràn “ nên đông khách là phải.

*

Sáng hẳn. Con Vàng bị lão Sếnh dắt ra cọc “hành hình” trên nền đất trống mà nó không buồn cưỡng lại. Đôi mắt hiền lành của nó rầu rĩ nhìn cái chậu nhôm khê vàng vết máu, thi thoảng lại nhìn con dao trong tay Hoạt. Cuối cùng, nó quay về phía mặt trời mọc, giơ vó, tung bờm, hí một tiếng dài não nùng.

Hoạt tiến lại gần cái cọc, kiểm tra lại sợi dây thừng, sau đó hất hàm bảo lão Sếnh:

- Làm đi !

Lão Sếnh cố nuốt khan cái gì đó vướng víu trong cổ họng, tiến lại gần cái cọc. Lão quả quyết vung búa lên. Nhưng, tiếng hí quen thuộc ngay sau lưng lão, ngay phía trước cuộc hành hình, khiến lão hồi hộp dừng lại. Cả ba người đều ngoái lại. Thằng Tía đã quay về thật.

Hoạt giơ tay bảo lão Sếnh:

- Khoan đã! Cởi con Vàng ra, dắt nó vào chuồng.

Lão Sếnh răm rắp làm theo.

Con Vàng ở trong chuồng với những cái văng bằng gỗ sa mu chắc nịch. Thằng Tía đứng cách chuồng mấy mét, suốt ruột khua vó xuống đất.

Lão Sếnh vào nhà, ngồi phệt xuống ổ rơm. Thằng Hoạt vào theo, mở cái hòm gỗ, lấy ra một bọc tiền. Hoạt ném bọc tiền xuống ổ rơm và nói rành mạch, chả vương vấn gì:

- Tôi cho lão nghỉ từ hôm nay đấy. Hứa sẽ gửi lão cái của quý thằng Tía để ngâm rượu.

Lão Sếnh cầm tiền, đứng dậy thu xếp mấy manh quần áo còn lành lặn cho vào túi chàm bước ra sân. Lão nghĩ thằng Hoạt đã ngờ lão làm hỏng việc đây mà. Về thì về… Lão Sếnh tấp tểnh bước đi. Tiếng con Vàng lại hí lên. Thằng Tía lúc cúc theo chân lão Sếnh. Hoạt thấy thế vội vàng quát lớn:

- Dừng lại! Dừng lại ngay !

Lão Sếnh chả rõ Hoạt quát người hay quát ngựa nên càng bước nhanh.

Hoạt quát to hơn:

- Tôi bảo ông dừng lại ! Ông dẫn nó đi đâu ?

Lão Sếnh ngoan cố bước, lòng dâng đầy tự ái. Lão mà thèm tham cái thứ của phù vân ấy sao.

Hoạt tức tối chạy vào nhà, thò tay xuống gầm giường lôi ra khẩu súng săn. Hoạt chạy theo thằng Tía, nhằm chân nó nhả đạn.

- Pàng! Pàng! Pàng!

Thằng Tía nhảy chồm lên hí vang cả buổi bình minh rồi lao vút đi. Lão Sếnh quằn quại đau đớn. Máu từ chân lão phun ra thành vệt. Lão ngã vật xuống.

Hoạt chạy đến sốc lão Sếnh lên mếu máo, hoảng hốt hỏi:

- Có làm sao không ?

Rồi Hoạt cuống quýt gọi vợ mang xe, mang ngựa ra để đưa lão đi bệnh viện. Lão Sếnh cười nhạt, nói lào phào:

- Không chết được đâu! Cũng phải nếm mùi đau đớn cho biết chứ !

Con Vàng được dắt ra. Nó quỳ hai chân trước xuống để Hoạt đỡ lão Sếnh lên. Nhưng vì bỏ cỏ mấy ngày nên nó rệu rã quỵ xuống. Hoạt cuống quýt khởi động con “min” già, mãi sau cái xe cũng chịu nổ máy và xả khói đen kịt. Nghe tiếng xe nổ như tiếng súng, con Vàng chợt thức tỉnh điều gì nên nó từ từ gượng dậy rồi chạy đi. Thằng Hoạt vớ súng định chạy theo con Vàng, nhưng nhìn lão Sếnh đang giãy giụa dưới đất không đành lòng. Hoạt đực mặt ra đến một phút, sót ruột nhìn con Vàng chạy về phía con đường còn in dấu chân thằng Tía.

CÁI CẦU AO

  Phan Văn Tạo

Trong những hình ảnh quê hương thường lởn vởn trong trí óc tôi thì đầu tiên phải kể cái cầu ao. Thực ra nó cũng chẳng có gì là đặc biệt song đối với ai đã từng ở nơi đồng ruộng, cái cầu ao quả đã gắn liền vào đời sống hàng ngày, và chỉ nhìn nó người ta có thể biết ngay nề nếp sinh hoạt của cả một gia đình.

Khi tôi còn nhỏ, cầu ao của nhà tôi chỉ là ba thân cây cau già ghép lại, một đầu dựa vào bờ ao, một đầu ghếch lên một cái nạng tre cắm sâu xuống bùn ao. Tuy đơn sơ như vậy mà nó được hết ông tôi đến thầy tôi chăm chút, sửa chữa cho mỗi ngày một dễ coi hơn, một tiện lợi hơn. Ông tôi cứ mỗi khi có một cái cối đá giữa gạo nào dùng lâu bị thủng trôn, nhà thay cối mới, thì lại hì hà hì hục khênh cái cối thủng ra bên bờ ao, lật sấp cối làm cái bực cầu ao cho dễ bước lên, bước xuống. Thường thường phải một hai chục năm cái cối giã gạo mới bị thủng trôn, nên phải đợi gần hai chục năm mới có một cái cối thải ra làm bực cầu ao. Ông tôi thọ được gần bẩy chục tuổi mà suốt đời chỉ có được ba lần sung sướng khênh cái cối thủng ra vật sấp bên bờ ao.

Nhưng với ba cây cau nhiều khi chật chội quá nên ở đầu cầu dọc thấy tôi đã bắc một cái cầu ngang ngắn hơn và thấp hơn, dầm hẳn dưới nước. Như vậy khi ở cầu chính có người rửa rau, vo gạo thì ở cầu phụ người khác vẫn có thể giặt giũ tắm táp như thường. Có cầu ngang lại thêm một cái lợi là mùa nước cạn vẫn với tay được tới mặt ao một cách dễ dàng.

Cách đó ít lâu thầy tôi mua được một bạnh gỗ vừa rộng vừa dầy. Thầy tôi bỏ hẳn ra một ngày làm lại cầu ao, mặt gỗ nhẵn nhụi để lên trên, mặt gồ ghề quay xuống dưới. Lúc đặt xong cầu mới, thầy tôi lấm láp bò từ dưới ao lên, hút một hơi thuốc lào thật dài rồi mồm thở khói, tay cầm cái xe điếu trỏ xuống ao:

-        Tao cho cái cầu này thì thiên niên bất dịch.

Và cả gia đình tôi đã sử dụng cầu ao như là nó sẽ không bao giờ hỏng được. Từ sáng đến tối, mùa nọ qua mùa kia lúc nào cũng thấy bì bõm, thì thùm, khua khoắng, róc rách, việc gì cần đến nước là đều mang ra cầu ao. Người có mặt nhiều nhất ở cầu ao có lẽ là chị tôi. Vừa mới sớm tinh sương chị tôi đã lò dò ra phía bờ ao với những bước đi chập chờn của người còn ngái ngủ. Những ngày trời rét chị tôi co ro ngồi trên cầu ao thọc thật nhanh một ngón tay xuống mặt ao và tay vừa chấm nước chị tôi đã vội rụt ngay lại, rùng mình vì hơi lạnh từ lòng nước thấm lên. Rồi chị tôi lấy hết can đảm lùa mạnh hai tay xuống mặt ao, vốc lên một ít nước, vã vào mặt mình cho tỉnh ngủ. Sau đó, chị tôi ngồi ngắm bóng mình giữa bóng trăng sao rung rinh. Ước gì tôi mà hiểu được những lúc đó chị tôi đang nghĩ ngợi gì.

Ba bữa trong một ngày, làm món ăn, rửa đũa bát, năm thằng em nhỏ phải tắm gội, vài chậu quần áo phải vò giặt, đếm làm sao hết những lượt chị tôi ra cầu ao. Ấy là chưa kể những buổi sáng nhà thay hết loạt chiếu, chị tôi nắm từng chiếc, từng chiếc, uốn mình đập chiếu, rộn ràng như người đập pháo trên mặt ao. Chiếu sũng nước, nặng chình chịch, thế mà chị tôi vung lên, quăng xuống nhịp nhàng đến tưởng chừng như chiếu kia là một phần của thân hình cô gái óng ả nọ.

Mẹ tôi có cho chị tôi một đôi lợn nái làm vốn nên chiều chiều tôi còn được xem người chị đảm đang, kiễng chân trên cầu ao, vươn ra đằng trước mặt một cái sào dài đầu có buộc một cái rế tre để vớt bèo nấu cám. Bèo lôi vào đến đâu thì cái bè rau muống lại quấn quít tới đó như số kiếm rau đã buộc vào bèo.

Nhưng không phải chỉ có mình tôi ngắm chị tôi. Bên kia ao nhà tôi là vườn ông Nhiêu Kính. Ông này không có ao, nên nói với thầy mẹ tôi cho bắc nhờ cái cầu tre để có chỗ lấy nước dùng. Cái cầu ao nhà tôi đĩnh đạc đàng hoàng chừng nào thì cái cầu tre nhà ông Nhiêu Kính bẽn lẽn tóp mọp chừng nấy. Được cái cậu con trai ông ta thì lại nhanh nhẹn hoạt bát và trong khi chị tôi đang cắm cúi làm việc bên này ao, ở bên kia thường vọng sang những câu bâng quơ chẳng biết hỏi ai:

-        Nước ao hôm nay mát quá! Tối nay đi tát nước không? Sào nấu gì mà thơm thế?

Có lúc cũng giọng nói ấy lại loan sang bên này những tin tức mới nhất trong ngày:

-        Ông Bá Hạ bên Lang Viên chết rồi. Hôm nay hai đồng một công gặt.

Thường thường chị tôi không đáp lại cứ lặng lẽ làm cho xong việc. Nhưng có lần tôi bắt gặp chị tôi với tay lên nhành khế lòa sòa trên mặt ao, ngắt một quả ném sang bên kia bờ. Chị tôi ném yếu quá, quả khế trôi lơ lửng cách cầu tre hơn một sải tay và cậu con trai nhà ông Nhiêu Kính, chẳng kịp xắn ống quần lên cho khỏi ướt, lội bừa xuống ao, túm vội lấy quả khế đưa lên miệng nhai ngấu nghiến.

Khung cảnh cầu ao mộc mạc thuần khiết như vậy nên có những việc đem ra chỗ khác sẽ rất chướng mắt mà đặt ở cầu ao chẳng làm ai ngạc nhiên. Mùa nực, về buổi chiều, khi nước ao đã hả bớt hơi nóng ban ngày hay mùa đông, vào giữa trưa, khi ao đã hút được chút nắng ấm áp, đàn ông đàn bà ra tắm ở cầu ao chẳng có vẻ gì là ngượng ngùng. Anh đàn ông thường là vô ý nhất, từ lúc kỳ cọ thiếu cả một tối thiểu y phục, đến lúc lên bờ lấy tay vuốt sạch nước trên mình, giậm mạnh đôi chân cho ráo nước khi xỏ vào quần vắt trên bụi dứa. Đàn bà có những cử chỉ được tính toán kỹ càng hơn và không có gì ăn nhịp với nhau bằng lúc cái xiêm ướt được trút bỏ đến đâu thì cái xiêm khô được buông trùm tới đó.

Riêng tôi đã tắm ao là phải mất hàng giờ. Tôi lặn, tôi ngụp, tôi bơi ếch, tôi bơi sải, tôi lấy chân khẽ dận trên bùi rồi thấy chân vướng vật gì, tôi cúi xuống vớt lên những con ốc, con trai, tôi mò những thìa, đũa, chén, đĩa mà người nhà đã đánh rơi khi rửa bát.

Ở dưới ao lên, tôi còn bẩn hơn lúc chưa xuống tắm. Những cáu bùn bám đầy người tôi và làm cho lông chân lông tay tôi như dài ra, đen hơn và sồm soàm một cách ghê sợ.

Dần dần tôi thuộc hết quang cảnh cầu ao và chỉ nhìn những thay đổi ở nơi đó tôi có thể nói ngay được đang là mùa nào, tháng mấy trong năm.

Tháng giêng, ăn tết xong rồi, mẹ tôi thường cho vượt bùn từ ao đổ lên vườn chè. Bùn đổ vào gốc chè, tròn trĩnh và ngon lành như một chiếc bánh ngọt,  và đổ xong bùn, vườn trông như một cửa hàng bầy bánh la liệt trên quầy. Mười ngày sau đó chè được tiết xuân lại thêm bùn dưới gốc, đâm lộc non mơn mởn.

Tháng hai là tháng thả cá. Người bán cá giống gánh cá trong hai cái thúng sơn đen, vừa đặt thúng xuống là mấy anh chị em tôi đã xúm chặt chung quanh để xem ông ta vớt cá, và để bắt những lúc ông ta đếm ăn gian. Cá đang bơi tung tăng trong thúng thì người bán cá nhẹ nhàng lùa một cái vợt tre, vớt cá lên cho sang một cái chậu thau đầy nước. Mỗi một lần chao vợt là ông ta đếm, nhưng đáng lẽ đếm một cách liên tiếp thì ông ta lại đếm đứt quãng:

-        14,… 15,… con cá, này thế mà tốt, 21, 22,… con này loại choai… 32, 33…

Thành ra mua trăm cá không chắc được tám chục con. Lúc nghiêng cái thau nước cho cá lội xuống ao tôi tưởng chừng đã nhìn thấy cá lớn lên như thổi.

Tháng ba, tháng chín tương đối rảnh việc nhất trong năm, nên ở nhà thường đan lát rổ rá, cạp lại cái thúng này vá lại cái nong kia. Trước khi đan, thầy tôi đem ngâm dưới chân cầu ao những khúc tre già cho khỏi mọt. Đó là một dịp cho tôi vác những khúc tre ra làm phao bơi lội, hay làm tầu chiến đánh nhau với trẻ con hàng xóm.

Tháng năm, tháng mười là mùa gặt, cái cầu ao tấp nập khác thường. Chị tôi quần quật lên lên, xuống xuống để lo cho kịp ba bữa cơm thợ gặt và ba bữa cơm người nhà. Những ngày đó tôi không bao giờ chịu ăn cơm với thầy mẹ tôi và tôi chỉ đòi ăn với những người thợ gặt, không phải là họ có món gì ngon hơn, nhưng bởi vì ăn với họ tôi cảm thấy tôi lớn mạnh hơn, hùng dũng hơn.

Gặt xong là bắt đầu ngâm thóc giống cho vụ sau, tháng sáu ngâm giống vụ mùa và tháng một ngâm giống vụ chiêm. Cầu ao được nối dài ra bằng một cây tre có treo lủng lẳng năm sáu dành thóc dầm nước tới miệng dành. Ban ngày thì ngâm nước, ban đêm lại đem lên ủ, cứ như vậy được ba hôm, thóc nẩy mộng. Tôi không ưa công việc này lắm vì suốt mấy ngày ngâm thóc, mẹ tôi cứ bắt tôi ngồi trên cầu ao canh chừng không cho đàn vịt kéo nhau vào rúc hết thóc.

Tháng bẩy mưa ngâu nước lên cao có khi ngập hết cả cầu ao. Chung quanh bờ ao có chỗ nào thấp là chúng tôi lấy lá dứa, cành rào chắn ngang cho cá ao mình khỏi đi mất.

Tháng tám nước trong vắt, cá đi hàng đàn trông rõ mồn một. Thấy tôi ngồi trên vườn nhìn dáng cá lội, xem cách nó phun tăm hay lên ngáp trên mặt nước mà biết con nào là cá chép, con nào là cá mè.

Và lần nào cũng vậy, gọi tên từng con xong, thầy tôi nói một cách hãnh diện:

-        Những con cá này đã thấm vào đâu. Chúng mày rình mà coi con trắm của tao. Mình nó bằng cây chuối hột, đuôi nó như cây quạt.

Nhưng bọn tôi không bao giờ nhìn thấy con trắm cả mặc dầu có nhiều đêm, nhà chưa đi ngủ, có tiếng quẫy mạnh ở ngoài ao, thầy tôi lại kêu to lên:

-        Đấy, nó đấy.

Tháng chạp là tháng cầu ao rộn rịp nhất trong năm, có phần còn hơn cả ngày mùa. Đầu tháng nhà đã rửa hành, nén dưa. Vào ngày 21 hay 22 thầy mẹ tôi kêu phường lưới tới đánh cá. Như vậy hôm 23 có cá chép cúng ông Táo. Hai bên mà cả với nhau, cá tạp sẽ chia đều, cá lớn thì “một chục ăn đôi” nghĩa là chia nhà chủ mười con thì phường lưới lấy hai con. Chính vì không hiểu tường tận nghĩa câu “một chục ăn đôi” này nên đã có lần tôi bị hớ đến bây giờ chưa quên. Năm đó thầy mẹ tôi bận việc gì không rõ đã giao cho tôi đứng trông cho phường lưới chia cá. Mấy người đánh lưới chắc trông thấy bộ mặt tôi ngớ ngẩn lắm nên đã bảo tôi:

-        Một chục ăn đôi nghĩa là được mười con thì cậu lấy tám, bọn tôi lấy hai.

Tôi đã nhận đề nghị đó với dáng điệu tự mãn của một kẻ thành thạo.

Cá đánh được bao nhiêu, thầy mẹ tôi để lại một số nhà dùng còn cho đem ra chợ bán lấy tiền tiêu tết. Những con cá giữ lại được sống trong một cái sảo tre to còn gọi là “sảo thuyền” buộc chặt vào chân cầu ao, trên có đậy một cái nong. Chỉ nhìn lũ cá dẫy dọng trong sảo mà đã ngửi thấy mùi riềng của món gỏi hay mùi thì là của món cháo cá ám.

Hai mươi bẩy Tết đã thấy ngâm lạt, rửa lá chuối để gói giò, ngâm lá dong gói bánh chưng, hai mươi tám giặt chiếu, giặt màn thờ. Hai mươi chín, ba mươi phải tranh giành  nhau mới có một chỗ trên cầu ao. Nào vo gạo, sát đỗ, nào mổ lợn, giết gà, người đánh mâm, rửa nồi, kẻ tắm gội tất niên, đi lên đi xuống cầu ao phải đợi một lúc mới đến lượt mình.

Ba ngày Tết, cầu ao cũng không được nghỉ. Công việc trong nhà tuy có giảm bớt đi, nhưng ai sắp sửa mặc  những bộ quần áo mới cũng ra cầu ao rửa chân tay thật kỹ, ai đóng bộ xong rồi cũng ra cầu ao ngắm nghía, soi vuốt, ai đi đâu về cũng trở lại cầu ao. Những cô con gái trong họ đều mừng tuổi thầy mẹ tôi cũng nghĩ cách làm đỡ chị tôi vài việc nhỏ, rửa hộ mấy lá trầu, lấy giùm một thau nước, để có dịp ra cầu ao tự hào với bóng mình. Chỉ ở nhà quê mới có thể tự tìm thấy một nơi mà công việc nội trợ đi liền với sự đỏm đáng như ở cầu ao.

Năm này qua năm khác, nhịp sống bên cầu ao đều  đặn như vậy nhưng nhìn kỹ cũng thấy nhiều đổi thay. Những năm mất mùa, cầu ao ủ dột chán chường. Những năm thầy mẹ tôi làm ăn may mắn, cầu ao tung tăng rộn lên nhiều niềm thịnh hội. Cầu ao với đống rơm là những dấu hiệu chắc chắn về sự hưng suy của một gia đình thôn quê, chẳng khác gì những đồ biểu hoạt động của những nhà doanh nghiệp.

Lớn lên, tôi có công ăn việc làm ở một tỉnh xa. Mẹ tôi một hôm lên chơi và xong bữa cơm chiều, mẹ tôi thủng thẳng nói:

-        Kiếm được đồng nào con phải lo dành dụm. Rồi cũng phải trông nom sửa sang ở nhà quê. Ra giêng này, mẹ muốn xây cái cổng và cái cầu ao.

Tôi không hiểu hết những băn khoăn của mẹ tôi nên đã trả lời:

-        Còn bao nhiêu việc phải làm, sao mẹ lại lo xây cổng với cầu ao trước?

-        Cái cổng như bộ mặt mình, phải cho nó phong quang còn nhà mình là nhà làm ăn không thể nào không xây cầu ao được. Con xem đấy,  nhà chú Lý Tam đâu có sung túc gì lắm, thế mà chú ấy cũng xây được cái cầu ao bề thế đáo để.

Còn ai mà có thể trái được ý mẹ tôi nữa?

Nhưng tới nay cái mộng xây cầu ao của mẹ tôi vẫn chưa thành. Chúng tôi thuộc những người, mười mấy năm chiến sự vẫn bám chặt lấy quê nhà, nhưng vừa đình chiến đã phải bỏ làng ra đi. Ai chẳng sợ chiến tranh, nhưng chúng tôi đã phải trốn cả hòa bình, để đống rơm, để cầu ao ở lại.

Hành lý sửa soạn xong rồi, tất cả mọi người trong nhà, không ai bảo ai, lần lượt ra cầu ao rửa chân. Tại sao lại rửa chân lúc sắp lên đường nhỉ? Thầy tôi cầm mấy nắm cơm vứt xuống ao cho con trắm, đứng tần ngần hồi lâu rồi trở vào bảo mọi người ra đi.

Đến nay đã bẩy năm rồi, chúng tôi ăn Tết xa cầu ao, mà ở ngoài kia cầu ao nhà tôi không biết có Tết mà ăn không?

ĐÁM MA ANH VĂN

                                                                      Phan Văn Tạo

Nhà Văn ở trên con đường đi tới Bắc Việt Nghĩa Trang nên một trong những thú tiêu khiển của Văn là đứng xem những đám ma đi ngang qua nhà mình. Thường thường ngày nào cũng có  một đám, ngày đông đến ba, bốn đám.

Có đám linh đình nhộn nhịp như một thịnh hội, có đám xơ xác rạc rời như một dúm tàn quân, đám nào cũng cho người xem nhiều dấu hiệu về gia thế, nghề nghiệp cùng về những nỗi thành bại, thăng trầm của người đã chết.

Sáng chủ nhật đó, nghe từ xa tiếng kèn nức nở, Văn châm một điếu thuốc lá rồi ra đứng cửa theo thường lệ. Anh còn đang ngắm nghía bức ảnh đặt trên linh xa, bỗng thấy người khó chịu, sa sẩm mày mặt, anh vứt điếu thuốc đi, quay vào trong nhà, nằm lên chiếc ghế dài. Một lát sau chị Văn đang làm cơm trong bếp nghe thấy chồng ngáy khò khò ở buồng ngoài. Chị lẩm bẩm:

- Chả được cái việc gì! Chỉ được cái dễ ngủ là không ai bằng!

Gần trưa, thằng long ra đánh thức bố nó dậy ăn cơm, không thấy bố nó trả lời. Chị Văn lại gần, định bụng sẽ đập mạnh lên vai cho chồng giật mình tỉnh giấc, nhưng chị đã sững sờ trước sắc mặt khác thường của chồng. Mắt anh nhắm nghiền, môi cắn chặt – Chị cầm tay anh giơ cao lên, lúc bỏ ra, tay vật thõng xuống.

Chị hốt hoảng kêu thằng Tùng đạp xe đi mời bác sĩ. Chị giật tóc mai chồng, xoa đầu, gọi ầm ĩ. Con Bích lè nhè ngồi khóc một xó, chả lẽ  nó không làm gì khi cả nhà tíu tít.

Bác sĩ khám, cho biết anh Văn đã bị một cơn đau tim nặng và không phương gì cứu chữa được nữa. Có ai tin được không? Chín giờ còn đứng xem đám ma, mười hai giờ đã chết. Ở đời có những sự vô lý mà chỉ có ai phải chịu đựng mới tin được là có thực.

Riêng đối với Văn, cái chết là một sự khám phá kỳ thú. Từ trước đến nay anh đã nghĩ rằng chết là một cái gì tăm tối âm u như một đêm dài vô tận, người chết không còn biết đến cảnh vật xung quanh. Nhưng đến khi chết thật, anh mới rõ cái chết khác hẳn những điều anh tưởng tượng. Anh thấy như mình có thêm một giác quan mới, cùng một lúc nhìn được khắp chốn khắp nơi, đọc được cả ý nghĩ người bên cạnh. Và anh quyết lợi dụng  cái khả năng mới này mà nhìn lại cuộc đời cho bõ với những lúc phải trông bằng nhỡn quan hạn chế của đôi mắt mở sáng.

Bác sĩ xếp ống nghe vào túi da rồi rửa tay với xà bông. Văn hơi khó chịu:

- Người ta chết vì tim chứ có vì vi trùng đâu mà ông phải rửa tay kỹ thế.

Chị Văn vừa mếu máo vừa đưa bác sĩ tiền khám bệnh. Anh thấy rõ ông ta đang nghĩ:

- Mình không lấy tiền mới phải. Mình tới coi, hắn đã chết rồi, có phải chữa chạy gì đâu?

Văn đang sung sướng thì bác sĩ cầm tiền rồi đi ra về.

Chị Văn bao nhiêu năm nay sống với chồng, không có lúc nào tưởng tượng rằng chồng có thể chết mau đến thế nên chị lúng túng quá. Chị sai thằng Tùng đi báo tin trong họ và tìm bác Đào. Đào là một anh bạn thân, tính nết sốt sắng, lại khéo cắt đặt nên các bạn hễ có việc gì khó khăn đều tới nhờ Đào.

Anh ta đang nằm vừa đọc báo vừa nghe phát thanh cổ nhạc thì thằng Tùng lấp ló ở cửa.

- Cái gì đấy cháu? Bố mày lại muốn rủ bác sang đánh chén phải không?

Tùng nghẹn ngào:

- Bố cháu chết rồi.

- Hứ!

Lúc Đào chạy sang tới nơi, Văn không thể nhịn được cười. Chưa vào đến cửa, Đào đã cất tiếng hỏi, cố lấy giọng bình tĩnh, thế mà hai đầu gối run lẩy bẩy và trống ngực đánh thình thình. Đào đứng xa nhìn vào. Văn tưởng bây giờ hét lên được một tiếng, chắc chắn Đào té xỉu.

Con mèo con vẫn được Đào vuốt ve mỗi khi anh sang chơi, mon men đến cạnh, cọ bộ râu mép vào cánh tay anh làm Đào túm chặt lấy cổ nó kêu lên:

- Nhốt ngay nó lại, hay là gửi nó đi đâu, chứ không lôi thôi bây giờ.

Đào xếp đặt mấy việc lặt vặt xong, chạy đi kiếm cỗ áo và mướn xe đòn. Qua nhà Sơn, anh tạt vào báo tin Văn chết. Sơn chạy báo Thiệu, và Cầu đang đi ở đường Lê Lợi bỗng nhìn thấy Nhân gọi giật lại:

- Này Cầu, Văn chết rồi.

- Văn nào?

- Văn “Ba Kim” chứ còn Văn nào.

Cứ từ người nọ truyền sang người kia như vậy đến buổi chiều hôm đó thì gần hết các bạn thân đã biết tin.

Đêm hôm chủ nhật, Văn nằm sõng sượt giữa nhà. Lúc còn sống, suốt ngày bị con quấy phá, vợ hỏi dồn, anh thường nói:

- Tao chịu không nổi rồi. Ước gì tao được nằm một mình một chỗ cho sướng cái thân tao.

Bây giờ anh mới thấy mình lầm. Dưới ngọn đèn xanh xao, không có bên mình hơi thở quen thuộc của những người thân yêu, anh thấy thê lương một cách khó tả. Cái lạnh lẽo của cái chết cũng chưa ghê rợn bằng cái lạnh lẽo của tình thương tắt dụi.

Ba đứa con anh, vì thiếu chỗ, - anh đã chiếm hết cả phòng ngoài rồi còn đâu – nằm chúi đầu vào với nhau trên cánh phản nhỏ ở góc phòng trong, trông chẳng khác gì ba con chó con. Nhà bận quá, cũng chẳng ai nghĩ đến mắc màn cho chúng và mấy con muỗi đói đang hút đầy máu trên đùi của thằng Long. Thằng Tùng ngủ say mệt, nó chạy suốt ngày hôm nay còn gì, gác cả đôi chân nặng chĩu lên mặt em Bích.

Anh chợt nghĩ đến những em nhỏ lải nhải mới anh mua vé số, dai dẳng đến khó chịu, hay lúi húi ở dưới gậm bàn trong các tiệm ăn, ôm cẳng từng người, đặt lấy được lên trên quai cái hộp gỗ mà đánh đôi giầy. Xin Trời phù hộ cho các con anh khỏi phải ném quá sớm tuổi thơ của chúng vào cuộc đời. Bây giờ mà anh sống lại, chúng nó dù có quấy phá, hờn, vòi thế nào cũng mặc, anh nhất định sẽ không đánh mắng chúng nó nữa.

Chị Văn đang cặm cụi may áo sô cho chị và các con. Nỗi buồn đã đến đột ngột quá làm chị không còn đủ sức mà khóc nhưng khuôn mặt chị có những nét cứng rắn khác thường. Văn không biết rồi vợ sẽ loay hoay ra sao trong những ngày sắp tới. Trước đây đã có lúc anh nói với vợ:

- Khi nào anh sắp chết, thế nào anh cũng kể hết cho em nghe anh đã chơi bời giấu giếm em như thế nào.

Đến nay lời đó anh cũng không giữ nổi và anh chết đã đem theo đi cả những câu dối trá nói với vợ những bữa về khuya, hay những chuyện nhiều thêu dệt để tự bào chữa sau những đêm trác táng.

Anh chợt liên tưởng đến mấy người bạn đã cùng anh chia sẻ những phút đó và anh nẩy ra ý tò mò muốn biết xem giờ này họ đang làm gì và cái chết của anh có thay đổi gì đến nếp sống của họ không. Anh thả hồn rảo đi một vòng. Tất cả các bạn đều đã ngủ kỹ, anh ngáy, anh nói mê, không ai bỏ những thói quen thường nhật. Chỉ còn hai anh thao thức. Thiện và Nhân. Thiện thì đang loai hoay làm bài thơ để phúng anh. Thiện mới nghĩ được câu đầu:

“Hôm qua sống mà hôm nay đã chết”

Cái vần chết này thật là tử vận. Thiệu tìm mãi không ra câu dưới. Nhân không làm thơ nhưng lại nghĩ đến món nợ hai chục ngàn mà Văn đã mượn để sang căn nhà đang ở. Bây giờ Văn chết đi, chị ta một nách ba con, kiếm đủ ăn cũng còn chật vật, nói gì đến chuyện trả nợ.

Sáng thứ hai, ông chủ hãng của Văn lúc tới sở vẫn chưa biết tin. Không thấy Văn ở bàn giấy, ông càu nhàu:

- Lại còn tạt đi làm tô phở gà với ly cà phê. Không mấy buổi là không đi chậm.

Trong khi đó, các bạn Văn tíu tít kêu điện thoại, bắt liên lạc họp thành từng nhóm, chia nhau đóng góp mua đồ phúng. Ai nấy đùn cho người khác công việc đi sắp lễ và mang lại nhà đám, chỉ xin về phần mình được đứng tên trong một danh sách chung.

Người ta đã đặt Văn trong một cái hòm kín mít. Anh tưởng anh sẽ ngột ngạt khó chịu lắm nhưng không, nằm dài trên một lượt dầy giấy bản và bấc thông êm ái, anh thấy rất thoải mái và anh vẫn trông rõ hết những cảnh bên ngoài.

Nếu không chết đi như thế này không bao giờ anh lại biết anh đã có một đời sống gương mẫu và được nhiều người thương tiếc đến như vậy.

- Người hiền lành, chu đáo quá, thế mà trời bắt tội.

-  Ăn ở với anh em, chẳng ai mất lòng cả.

-  Tính nết thật dễ dãi, việc gì cũng chín bỏ làm mười.

Tất cả những lời khen đó làm anh nửa sung sướng, nửa nghi hoặc. Đúng là anh đã quá nghiêm khắc với anh rồi, nên phải chờ người khác nói anh mới biết là mình có bao nhiêu điều hay nết tốt.

Có ông đến phúng anh mà chỉ giương mục kỉnh đi quanh nhà đọc các bức trướng đối, có bà ngắm đi ngắm lại đứa cháu gái của anh mà bà vẫn muốn hỏi cho con giai nhưng bà chưa có dịp nào xem mặt kỹ càng.

Tiếng kèn nghe mới khó chịu làm sao. Mỗi một người vào là nó lại tỉ tê, nức nở, chẳng ra  tiếng khóc mà cũng chẳng phải điệu nhạc. Nó cứ ỉ eo dai như thế từ sáng đến tối khuya làm Văn nghe kèn mà có cảm giác như bị ai cầm một cái lá dứa nhiều gai rồi nhay đi, kéo lại trên da thịt.

Kèn nổi lên, vợ con anh lại xụp xuống đáp lễ khách. Mấy đứa trẻ lúc đầu còn lễ một cách chăm chỉ, sau mỏi dần, chân xiêu vẹo, khăn một nơi, gậy một nẻo.

Sáng hôm thứ ba người ta đưa Văn ra nghĩa trang. Anh chưa bao giờ được đi đứng một cách rềnh ràng như vậy. Đời anh đã nhiều lần bực mình về chuyện kẹt xe, nay được làm cho sự lưu thông ứ đọng lại, anh tìm thấy một cách thích thú riêng.

Trên một chiếc xe hơi nọ, một đôi trai gái đang cãi nhau. Họ đang muốn đi thật nhanh ra khỏi thành phố để tránh những con mắt tò mò, thì bị nghẽn lại ở khúc này. Người con gái, cúi gầm mặt xuống:

- Đã bảo đi đường khác mà không nghe.

- Ai có ngờ đâu lại gặp cái đám ma chết tiệt này.

Một vài người cất mũ chào anh mà dáng như lo ngại thiên hạ không trông thấy cử chỉ lịch sự của mình.

Anh ngoái lại đằng sau nhìn đám người đi theo xe tang. Chị Văn lê lết trên đường, lưng gập xuống như phải vác một cái gì quá nặng. Thằng Tùng đi bên mẹ. Nó đã khá lớn nhưng mới chỉ hiểu một cách mơ hồ là gia đình nó đang trải qua một biến cố. Thằng Long, con Bích vẫn nhởn nhơ như không, coi việc bố chết chẳng khác gì bố đi chơi xa.

Các bạn anh quần áo trịnh trọng, nét mặt trầm ngâm, tưởng như sắp làm việc gì quan trọng lắm.

Đào đi lên, đi xuống, chỉ huy mọi việc. Thiệu vẫn ậm ạch với bài thơ chưa làm xong. Nhân ngơ ngác về món nợ Văn chưa thanh toán. Cầu bấm ngón tay cái lên mấy ngón kia rồi quay sang nói với người bên cạnh:

- Tôi xem tử vi hắn thì chưa việc gì mới phải. Có Kình, Đà, Không, Kiếp thật nhưng ngộ Triệt.

Sơn ghé vào tai Tường dáng điệu rất bí mật:

-  Cậu xem nghị định thăng thưởng đã ký chưa? Có thấy tên tớ không?

Mỗi nhóm nói một chuyện nhưng tất cả đều sốt ruột mãi chưa thấy đến  trạm nghỉ - Trời đã nắng gắt và mồ hôi bắt đầu dỏ giọt làm người ta ngưa ngứa trên lưng.

Hải bước uể oải, chậm dần, chậm dần, đang hàng trên tụt xuống dưới, rồi vừa lúc đến chỗ rẽ nhẩy ngoắt lên hè, quay lưng trở lại, nét mặt thản nhiên như mình không có dính dáng gì đến đám người đang đi.

Đám ma tới nghĩa trang, người ta đặt Văn cạnh huyệt đã đào sẵn. Miệng huyệt đen ngòm và sâu thẳm như sắp nuốt lấy Văn. Ngay bên đống đất đầy ù đang chờ đợi xóa trùm mọi vết tích của một cuộc sống.

Thân nhân của Văn tự nhiên khóc rống lên chẳng khác gì những con thú bị thương. Con đường của mọi người đi tiễn Văn đã dừng sững lại trước cửa huyệt này.

Đã mấy hôm nay, Văn vẫn đùa nghịch với cái chết của mình, nhìn lại người sống, nhìn lại cuộc đời với con mắt diễu cợt. Nhưng trước miệng huyệt anh mới chợt thấy cái chết nghiêm khốc phũ phàng hơn anh tưởng.

Chim chóc ríu rít ngoài trời, một cái máy bay vừa cất cánh ở phi trường gần đấy, những tiếng ồn ào của thành phố nhịp nhộn, tất cả những âm thanh đó dội vào tai Văn làm anh thấy mình thèm thuồng cuộc đời như một người uống chưa đã khát.

Những người phu đòn không để anh nhớ tiếc lâu. Họ bỏ thõng anh xuống huyệt, lấp đất vào, dận thình thình trên ngực anh. Những hòn đất mà bạn bè thân thuộc ném lốp đốp trên anh như còn muốn dìm anh xuống sâu hơn nữa trong lòng đất.

Một màn đen tối sầm phủ chặt lấy mắt anh. Anh cũng không nghe thấy gì nữa. Một sự im lặng mênh mông như từ vạn cổ trôi về cuốn anh đi mất. Thế là hết. Hết hẳn.

*

*    *

Văn sợ quá giật mình tỉnh dậy, bàng hoàng một hồi lâu rồi mới chợt nhận ra mình đã ngủ quên đi và đã nằm mê trong giấc ngủ.

Ngoài trời, ánh sáng chói lòa, sức sống đang chồi lên từ ngọn cỏ, từ búp cây. Mấy đứa con anh đang chụm đầu vào nhau chơi chọi dế. Anh lại gần các con, và chẳng có duyên cớ gì, phát lên mông mỗi đứa một cái. Anh vào trong bếp – Vợ vẫn đứng làm cơm và đang gọt củ đậu (củ sắn) nhanh thoăn thoắt. Anh đưa một tay ra đập vào lưng vợ, còn tay kia nhặt một miếng củ đậu bỏ vào miệng nhai ngau ngáu. Chưa bao giờ anh thấy củ đậu ngọt và mát như hôm nay.

Lận đận !

  Trạch An - Trần Hữu Hội

  Toán 

vừa bước vào nhà Vọng , vừa móc túi lôi ra mấy tờ vé số, ném mạnh xuống bàn:

- Chán thiệt, Chúa lúc nào cũng nặng tai mà nhẹ tay !

    

- Sao, chuyện gì mà lại có Chúa ở đây ?

- Thì còn ai ngoài “Ngài” nữa ! Con nó đi thực tập, gọi về xin tiền, gom cả nhà được trăm mốt, chừa năm chục mua bún mai vợ bán vài tô kiếm tiền qua ngày, còn lại tớ mua sáu tấm vé. Hai vợ chồng cầu nguyện suốt đêm, chiều lại dò, nó trúng giải tám, 

không được một phần ba số tiền con nó cần ! Mình có ham gì nhiều, thêm cho mình một hai số, thừa thừa ra chút, đưa mẹ nó đi cắt cái trĩ, càng ngày càng lòi ra, thấy nó nhăn nhó mà xót ruột ! Cái bao tử mình nó cũng hành,

 đau mình ráng chịu được, nó có ung thì cũng kệ mẹ nó, nhưng thấy vợ con vậy thương không chịu được ! Không lẽ còn hai mẫu đất mà bán luôn thì lấy gì ăn!

- Từ tốn, ngồi xuống đi, giải tám còn hơn không có giải nào à?

- Thì biết là vậy nhưng mà mình hy vọng mãi, cầu xin mãi, bao năm nay rồi ! Với lại nếu không trúng thì chấp nhận, xem như “ Ngài” chưa nghe, còn hy vọng, đằng này chứng tỏ có nghe, nhưng nghe nhỏ, giờ thì vô phương !

Vọng phì cười:

     

- Nó xin bao nhiêu ?

- Triệu rưởi, tiền xe và ăn ở một tháng !

Vốn thân tình, là bạn từ thời học trung học đệ nhất cấp, rồi về sống cùng trong một địa phương. Qua cái thời kỳ độc thân sau 75, Toán lại muộn màng chuyện vợ con, gần bốn mươi tuổi mới lấy vợ. Hoàn cảnh Toán thật bi đát, dù làm thì cật lực không ai bằng, người càng ngày càng gầy ra, xui xẻo cái số mệnh! Người ta trúng mía cả thì hắn mất mùa riêng , lúc được mùa chung thì giá tụt xuống dưới đáy, lỗ công chặt ! Bét gì hai ba mùa người ta cũng trúng được một mùa, mà trúng được là thanh toán ngân hàng, nần nợ, còn xây được cái nhà ! Có người chỉ năm sào thôi, mà cũng ấm cũng êm, ung dung, cứ “sáng ngậm đắng chiều nuốt cay” (Sáng cà phê chiều uống rượu ). Ai như hắn ! Từ năm mẫu đất, bán hết ba mẫu trả nợ, rồi chia ra làm một mẫu mì 

một mẫu mía, gọi là “mất cái này được cái kia”, cũng trật lất. Nợ ngân hàng cứ chồng lên, mà con thì đứa đầu đang học Cao Đẳng, giờ mới đi thực tập, còn ba đứa , đang nằm trong các lớp phổ thông !

-Thôi thì xem như có tiền cho con đi thực tập rồi. Tao bù, cho mày mượn một triệu nữa là được chứ gì?

- Mẹ kiếp, lại bám thằng “cà rem !”.

Hắn vừa thờ dài vừa buông người xuống ghế, một tay ấn ấn 

cái bao tử, có lẻ đang đau, một

 tay che mũi. Một chiếc xe chở mía chạy ngang qua nhà Vọng, con đường nhựa đang đi được, có dự án cày để làm lại,

 thế rồi dở dang ba năm nay, bụi mù trời!

oOo

Toán gọi Vọng là thằng “cà rem” vì Vọng cũng tã tơi, nghèo, lại bị đột quy liệt mất một tay ! May mắn là trời cho vợ con sớm hơn chút, cũng bốn đứa con nhưng lớn cả rồi, giờ thì con đã đi làm, tháng năm vất vả rồi cũng qua, không còn lo lắng, có thiếu thốn chút ít thì mấy đứa con bù đắp, dù không dư nhưng cũng ít thiếu . Những lúc kẹt tiền công cán, phân tro, hắn lại tới Vọng, khi có khi không, nhưng được cái là sẵn lòng. Có lần Vọng sửa lại cái

 nhà, chẩn bị khởi công thì hắn kẹt tiền thuê xe cày đất trồng mía:

-Bao nhiêu mầy?

     

-Bảy triệu !

-Chắc chịu quá !

Nói thế nhưng trong lòng không yên, Vọng lại hỏi:

-Bao lâu mày có , hai tháng kịp không?

     

-Nếu không kịp cho mày thì tao bán lúa non !

Biết tính hắn, Tự trọng và Tự ái thì hắn nhất ! Tiền công thợ thường thì xong nhà mới cần,Vọng đưa cho hắn bảy triệu. Đến ngày xong nhà, thấy hắn chạy bán lúa non, giá rẻ quá sức tưởng tượng, Vọng nóng mặt không cho bán, tự tay cầm sổ đỏ lên ngân hàng, vay bù vào chờ đến lúc gặt ! Lúa thì tàm tạm, còn hy vọng vào mía.

  Được mùa cho cam, mía vụ này cũng chẳng ra gì!

oOo

Toán cầm một triệu đi về, còn đổi mấy tấm vé, gởi cho kịp con đi thực tập. Vọng ngồi ngẫm nghĩ vẩn vơ đời của hắn mà chạnh lòng. Nói rằng khổ lắm, khổ đến cùng tận thì chưa đến nỗi, nhưng cứ lận đận cơm áo gạo tiền thì hắn là kẻ điển hình nhất trong đám bạn bè

 cùng lứa của Vọng.

Ngày hắn ở Quy Nhơn ra học ở Quảng Trị. Nổi nhất lớp vì nhìn qua là biết con nhà giàu. Từ ăn mặc đến cách tiêu tiền, tuy mới học lớp bảy nhưng hắn chững chạc hơn Vọng và bạn cùng lớp, mặt mày lại dễ coi… Cũng từ cái chổ ấy mà hắn bị dập một trận tơi bời trong nhà chơi của trường. Vọng đứng ra can ngăn dù khá muộn, mặt hắn đã bê bết máu! Từ đó thân nhau.

Năm 72 loạn lạc, hắn được vào học trường tư thục Việt Anh Đà Lạt. Trong khi đó, Vọng chuyển hết trại tạm cư này đến trại tạm cư khác, trường này chuyển qua trường khác, tỉnh này chuyển qua tỉnh khác! Những năm gần đây, tuổi xế chiều, cái phong trào họp lớp, họp trường rộ lên…Vọng, nếu đi cho đủ đầy thì cũng chục lớp, chục trường , dù chỉ 

bảy năm học trung học !

Dạo thi tú tài II, năm đó thi Trắc Nghiệm, máy IBM chấm thế nào lọt hết vài ngàn bài thi. Bạn bè học trường tạm cư, có thầy kiêm tới ba môn, học bạ phải thuê Giáo sư các trường công lập ký thay cho hợp lệ, vậy mà cũng có tên, còn hắn thì không ! Ức quá, hắn cạo trọc đầu, học 

miệt mài thi lại kỳ hai. Vọng quá ngạc nhiên là vì biết hắn học không thua ai, dân ban B có hạng.

Ngày gần thi lại, có kết quả bổ sung, trường gởi danh sách về tận nhà, tên hắn nằm hạng “Bình” ! sau “Tối ưu” và “Ưu” ! Điểm Toán – Lý - Hóa cao chót vót !

Mơ ước từ lâu được vào trường Võ Bị Dalat, hình ảnh hào hùng và huyền sử “Rút gươm tuyên thệ trên đỉnh Lang Biam”, mộng “Tang bồng hồ thỉ”, quyến rũ hắn từ những ngày theo học tại đây. Không ghi danh hay thi vào trưòng đại học nào, hắn thi vào Trường Võ Bị. Điểm thì cao nhưng người hắn thì thấp, cởi giày đứng lên đo, hắn thiếu tới ba phân ! Nhiều người cho biết trước nhưng hắn không tin !

Hắn bị bạn bè cười, tặng cho cái tên là “Người hùng thước mốt” (1m10!) ! Nói cho luôn vần thế, chứ hắn cũng tới một thước năm bảy ( 1m57)

     

Với cái chiều cao ấy, Trường Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia cũng chê, chỉ có trường Bộ Binh Thủ Đức chờ đón hắn vào ! 

Nhưng chưa kịp mãn khóa, tháng 4/1975 ập đến, hắn đi cải tạo chung với Sĩ Quan, hai năm!

                                                     

oOo

Thà là dốt nát không biết tính toán làm ăn và lười nhác chi cho cam. Đằng này, hắn kế hoạch lắm, siêng năng ít ai bằng, có lần ghé thăm cái rẫy của hắn, Vọng phục cái cần cù, rẫy sạch và ngăn nắp như nhà mới xây ! Người xưa nói: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống…Hắn đủ cả bốn yếu tố này nhưng vẫn trật !

Không rầu sao được, có lần mía lên cao đẹp ơi là đẹp…Mùa này mà thu hoạch thì chắc chắn ngon lành. Tội nghiệp vợ và mấy đứa con hắn, gì chứ cái TiVi “ nội địa” lem nhem hình ảnh, lúc có hình lúc không, lần này phải thay. Làm lại cái nhà trên chứ từ ngày ông nội mất, xập xệ đến không muốn bạn bè ghé thăm, bộ ghế bàn cũ rích từ thời não thời nao, vẹc- ny tróc hết, người ta thì Salon nệm láng tưng, ngồi êm ái…Còn nữa, chiếc xe 

Trung Quốc cũ mèm hư lên hư xuống, hết “đề” được, sáng ra đi rẫy, đạp xặc xừ, ống “bô” bễ, nổ bôm bốp như súng máy ! Thay tuốt, hắn cũng nghỉ vậy.

Đám mía bắt đầu khô lá, ngày chặt cũng gần kề…Chạy vạy đăng ký nhà máy đường lên lịch cho xe chở…Nhà máy thì còn đỡ tốn đỡ hao, cái anh tài xế và đám bốc vác mới hao nặng . Ăn sáng, ăn lỡ, ăn trưa , ăn chiều...bữa nào bét cũng vài trăm ! Thuê công chặt cũng khó khăn vì tới mùa thu hoạch, vậy mà có người hứa chặt cho, đâu vào đó rồi, còn vài hôm nửa thì chặt. Ác tăng cái thằng mất dạy nào vứt cái tàn thuốc ngay bờ ranh, hay cái gì đó không biết, cũng không loại trừ cái chuyện buồn tay thì đốt chơi! Cháy sạch sành sanh, hai đám, có ông Phú bên cạnh cũng vạ lây. Mà cũng chưa biết ai lây ai, đám nào cháy trước đám nào cháy sau. Khi cả hai chạy trối chết trong đêm, vấp té lên té xuống, vào tới nơi thì chỉ đứng nhìn mà khóc chớ làm gì được, gió thổi lửa lên cao ngút trời ! Vợ và mấy đứa con khóc to nhất ! Tiền công chặt cao hơn vì chặt mía cháy rất cực.

Tại nhà máy, nhân viên nhà máy lấy mẫu vô phòng "thí nghiệm"đo độ đường , “phù phép” thế nào mà chữ đường giảm hơn một nửa, năn nỉ lấy lại mẫu khác, rút ba cây khác, gặp ngay cái nhìn lạnh tanh, lỗ te tua !

Thì làm lại và hy vọng mùa tới. Hắn lại cật lực, nhưng rồi chị vợ bấy lâu gánh bún loay xoay cũng có đồng ra đồng vào, thế mà khi người ta tráng "bê tông" con đường chạy dọc thôn, đường sạch đẹp thì hàng quán lại mọc lên, nông dân lâu nay quen ngồi chồm hổm bên cái gánh, nay cũng ưng kéo cái ghế, ngồi lau đũa lau bát, tán dốc dăm câu cùng ai đó, ăn tô bún, rồi đi ra miệng ngậm cái tăm, ta đây đi ăn sáng về , ăn quán hẳn hoi !

Hắn cũng muốn xây cái quán, nhưng xập xệ thì không ai vào, mà làm kha khá, trông được một chút là phải nói tới chục triệu trở lên, tiền đâu mà xây, vậy là cứ cái gánh ! Gần năm nay, hậu môn lại ra máu, ngồi chồm hổm cũng đau, mà ngồi ghế cũng đau, vợ hắn xanh xao hẳn !

Rồi hắn cũng xanh xao. Hàm răng chục năm nay sâu ăn hư mấy cái răng cấm, nhổ thì qua trạm xá nhổ miễn phí, mấy lần nhổ, hết mấy cái răng quan trọng, gọi là mất sức nhai ! Thôi thì trệu trạo nuốt đại cũng xong, nhưng mà không xong, dạo này cái bao tử nó nhoi nhói rồi đau thiệt tình, có khi đau quá hắn muốn văng tục !

Không biết đến khi nào cái lận đận mới qua. Ngay trong đám bạn cùng lứa, có người trúng số đặc biệt tới hai lần, một lần mấy tấm ! Còn hắn, vụng đường tu chăng ?!

oOo

      

Lâu nay, khi cái tuổi ngũ thập qua vài năm, Vọng hay ngẫm nghĩ vẩn vơ về cái may cái rủi, cái số cái phần, nghĩ hoài mà chẳng "Tri" được cái "Thiên mệnh" !

Cứ xét như giữa hai người, Vọng và Toán thôi, tuổi thì cùng một tuổi Ất Mùi như nhau. "Cung, Mạng" thế nào mà hai đứa lại có cuộc đời khác nhau ?! Vọng thì làm không bằng một nửa hắn, vậy mà không đến phải khốn khó như bạn.

Hồi đi học, cũng có học được cái môn "Triết học". Đọc được dăm đều về môn này, Đông có Tây có. Khi thì thấy ông này đúng, đến xem ông kia thì thấy cũng gần đúng...

Vọng mỉm cười, cười

 câu "Ngũ Thập tri Thiên Mệnh" !

      

Rồi hoang mang với

 câu "Thiên cơ bất khả lậu"!

Lẩn quẩn hoài, Vọng buông một câu:

 -Ối dào, chả biết đâu mà lần !!!

CHUỖI THỜI GIAN

           Truyện ngắn của

Trọng Bảo     

Ô

ng Xuyên ngả người nằm xuống ghế xích-đu. Tờ báo trong tay ông rớt xuống đất. Một làn gió hiếm hoi lọt qua bức tường rào cao không làm ông cảm thấy mát hơn. Ông đang bực. Ban sáng, ông đem một triệu đồng đến góp để trùng tu nhà thờ họ và xây mộ tổ. Ông gặp đúng lúc một thằng là hàng con cháu cũng đang nộp tiền. Tay nó đang cầm một nắm bạc lẻ, mặt mũi còn lấm lem bùn đất. Nó vừa mới tát ao bán cá lấy tiền đóng góp.

          Nhìn xấp tiền mới cứng trên tay ông, nó nói bóng nói gió với một thằng khác: "Tiền không… sạch mà đem mua vật liệu xây mộ tổ không khéo thì sui cả họ!". Thằng kia buông một câu lửng lơ: "Thôi thì cứ để đấy, sau lễ khánh thành cho đám thợ xây một bữa rượu thịt chó cũng được!". Ông nghe mà uất. Không chấp trẻ con nhưng ông cứ thấy sường sượng.

          Từ ngày về hưu ông Xuyên như người bị tách ra khỏi xã hội. Sự hẫng hụt, vô lo càng làm cho ông thấy bức bối. Cổ nhân có câu "nhân vô thập toàn". Tuy nhiên cuộc đời ông đến lúc này là tương đối chỉn chu, viên mãn. Thế nhưng sao ông vẫn cứ cảm thấy không vui.

*

      Ông Xuyên còn nhớ những năm sáu mươi, trong cuốn sơ yếu lý lịch của mỗi người đều có một dòng "ngày tham gia cách mạng". Cái dòng ấy thật quan trọng. Nó là cánh cửa cuộc đời. Nhiều người đã đi lên kể từ khi ghi ngày, tháng, năm vào cái dòng ấy. Với ông Xuyên, bắt đầu từ độ đặt bút viết vào dòng kê khai ấy đến lúc ký vào bảng lương cuối cùng tại chức là cả một chặng đường đời hơn bốn mươi năm. Ông thấy tự hào. Song sao chợt có một nỗi buồn thoáng qua, không sâu nhưng nó cứ quanh quất đâu đây. Thì ra cả đời sóng gió, gập ghềnh, đua tranh, bợ đỡ hay dìm dập thì cuối cùng cũng phải kết thúc. Cái dòng trong sơ yếu lý lịch có tính chất mở đầu ấy chỉ dành cho mỗi người ghi một lần thôi.

          Ông Xuyên thấy hẫng hụt. Bởi về hưu tức là từ nay ông đã bước sang một thế giới khác. Đó là "thế giới ACC" mà các cụ hưu trí vẫn thường nói đùa với nhau. ACC tức là "ăn-chờ-chết". Thật là kinh khủng và vô nghĩa quá. Chỉ cần thoáng nghĩ đến điều đó, ông lại cảm thấy thảng thốt. Ông còn khoẻ lắm. Chỉ bực mụ vợ quản lý chặt. Một lần, cô thư ký nhớ nghĩa cũ, tình xưa nhắn tin vào điện thoại di động, mụ vợ xem được tịch thu mất máy và cảnh cáo: "Về hưu rồi thì biết điều! Tôi bảo ăn là ăn, bảo ngủ là ngủ. Ngày còn công tác tôi thả cho mà nhông nhênh, đú đởn, giờ thì liệu hồn".

           Có người bảo ông nên viết hồi ký. Cuộc đời ông xem ra cũng đáng viết lắm chứ. Từ một người có thể nói là "chân đất, mắt toét” mà vươn lên làm đến chức vụ ngang cấp thứ trưởng cũng thật nên viết. Nhưng ông chưa viết. Ông sợ mình lại rơi vào cái chuỗi thời gian "ba hồi" nghiệt ngã của cuộc đời như người ta thường khái quát về những người hưu trí. Ba hồi đó là "hồi ký, hồi sức và hồi kèn". Hồi ký là ngồi tại nhà mà nghiền ngẫm, mà ghi chép lại cuộc đời mình rồi đem xuất bản cho người ta đọc. Tha hồ mà kể công, mà chiêm nghiệm, dạy đời, chẳng ai bắt bẻ được. Viết về mình ai chả kể lể công lao, kỳ tích của bản thân, đùn đẩy trách nhiệm, thất bại cho người khác. Các hồi ký thường là xung khắc, đối chọi nhau chan chát. Nhưng đã khối người về hưu rồi nhờ viết hồi ký mà thành danh hơn cả khi còn đang công tác. Hồi sức là khi ngắc ngoải ở bệnh viện (cứ nghĩ đến đã kinh). Một đời người tung hoành ngang dọc mà tới lúc phải dây rợ cắm chằng chịt khắp cơ thể, hô hấp, dẫn lưu, tiếp máu, tiếp nước thì còn ra làm sao nữa. Vậy mà, khối người tiền của chất cao như núi mà cũng chẳng hồi sức nổi. Còn hồi kèn thì là đoạn cuối, kết thúc ở ngoài nghĩa địa. Tiếng kèn réo rắt đưa người ta vào cõi vĩnh hằng nhưng đến nay cũng chả ai biết nơi đó có phải là chốn bồng lai tiên cảnh như vẫn đồn đại hay không.

           Cứ nghĩ đến cái "chuỗi thời gian ba hồi", ông Xuyên lại giật mình thon thót. Ông buồn đến nẫu cả người. Ông cũng muốn tham gia với tổ thơ của các cụ nghỉ hưu. Khi còn đương chức giám đốc một cơ sở kinh tế lớn nhất tỉnh suýt nữa ông đã trở thành nhà thơ, hội viên hội văn nghệ tỉnh hẳn hoi. Ấy là một lần, hội văn nghệ tỉnh tổ chức cuộc thi thơ "Mùa xuân đất mẹ" tìm đến các doanh nghiệp của ông xin tài trợ. Ông xuất luôn quỹ phúc lợi nhà máy ủng hộ hai chục triệu đồng. Thế là đám văn sỹ kính nể ông, thi nhau viết bài lăng-xê. Nhà máy ông tự dưng nổi lên như cồn, trở thành một điển hình tiên tiến của tỉnh, được cấp trên để mắt, rót ngân sách đầu tư. Văn phòng giám đốc luôn có khách văn ghé thăm. Mấy bài thơ kiểu "con cóc" ông viết từ thời còn chiến tranh được đám các nhà thơ "nâng cấp" lên đọc nghe cũng xuôi tai đáo để, rồi được đăng báo, bình tại hội thảo, ngâm trong hội diễn rồi phổ nhạc nữa. Hứng khởi, ông vừa chỉ đạo sản xuất vừa làm thơ. Một năm được bảy tám chục bài. Đám văn sỹ tỉnh nhận thù lao mông má lại, chêm thêm vào những mây gió, buồn vui, khao khát, giận hờn thế là hoàn chỉnh xuất bản một tập thơ khá dày dặn. Ông chi tiền in luôn bảy trăm cuốn, bìa cứng hẳn hoi, biếu tặng hết lượt các quan chức, đối tác trong ngoài tỉnh. Ông chủ tịch hội văn nghệ tỉnh mấy lần đề nghị ông làm đơn vào hội. Nhưng ông chưa kịp viết thì được điều động về bộ.

          Giờ nghỉ hưu, thơ ông nào có kém gì thơ của mấy cụ ở câu lạc bộ phường. Nhưng khốn nỗi ông không thể hoà nhập được với họ, đành chịu. Ông buồn. Ông luôn tự hỏi tại sao lại khó bắt nhịp lại với cộng đồng đến thế. Phải chăng ông là cán bộ cấp cao. Khi đã lên cao, vào hàng quan chức lúc về hưu khó hạ xuống thứ dân, trở lại đời thường. Cũng chưa hẳn là thế. Có lẽ là tại quá trình phấn đấu đi lên ông đã tự đánh mất dần những gì mình vốn có. Đó chính là bản ngã của con người...

*

          Ngày còn chiến tranh, thanh niên trai tráng luôn luôn sẵn sàng nhập ngũ, rời quê hương lên đường ra mặt trận. Ông Xuyên cũng trong lớp người đó. Nhưng khi súng nổ ở xa thì tất cả còn hăng hái. Thậm chí có người còn cắt máu viết đơn xung phong nhập ngũ. Song lúc bom rơi ở gần thì người dũng cảm, kẻ yếu hèn thường bộc lộ bản chất. Ông Xuyên đã vô cùng hoảng sợ khi lần đầu tiên nhìn thấy máu.

          Đó là hôm máy bay Mỹ ném bom trúng bến phà sông Tương lúc đông người. Ông cùng đội thanh niên xung kích có mặt sau trận bom. Nhìn cảnh người chết, người bị thương nằm la liệt, máu me đỏ lòm ông run cầm cập, xé mãi không nổi cuộn băng để bó buộc cho một thằng bé bị thương gẫy tay. Giữa khi ấy lại có tiếng ù ù rồi ai đó hét lên: "Máy bay... Mỹ... lại... đến... đấy!". Hoảng quá, ông vội cuống cuồng xốc thằng bé lên vai chạy như điên vượt qua bờ đê vào xóm.

          Thằng bé được ông cứu lại chính là con trai duy nhất của đồng chí bí thư huyện uỷ. Thế là, ông được đồng chí bí thư để mắt quan tâm, cất nhắc. Ông được bổ nhiệm vào chức bí thư đoàn xã. Cứ ngỡ đó chỉ là chân sai vặt, xung kích thi đua cho có phong trào. Ngờ đâu lại do "cơ cấu" mà nên. Cơ cấu thường gấp vạn lần phấn đấu, hy sinh. Tuy có người chỉ vì bi kịch "cơ cấu" mà hỏng cả đời. Song phần lớn là nhờ cơ cấu mà nhiều người dù chỉ vào hạng "tầm tầm bậc trung" lại vượt hẳn lên. Là bí thư đoàn, ông được cơ cấu vào đảng uỷ xã, tham gia hội đồng nhân dân. Từ cấp xã ông dần lên đến huyện.

          Cũng chỉ bằng con đường đoàn thể ông lại được vào "cơ cấu" cấp lãnh đạo huyện. Huyện ông thời ấy là một trọng điểm nên được trên chú ý, tập trung xây dựng thành điển hình. Đã là một đơn vị điển hình thì mọi mặt phải toàn diện. Song thời buổi chiến tranh nhiều khi chỉ tiêu kinh tế, công nông nghiệp tăng trưởng vài phần trăm, dân no ấm thêm đôi chút lại chẳng gây ấn tượng bằng cảnh trống giong, cờ mở, mít tinh rầm rộ, khẩu hiệu băng rôn rợp trời.

          Là cán bộ phong trào, ông Xuyên cũng có chút tài năng tổ chức. Những diễn đàn "Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù" hay hội thảo "Sống như anh" ông đều làm khá rầm rộ. Các xã nô nức thi đua với nhau. Thanh niên hăng hái xung phong ra trận, phụ nữ đăng ký ba đảm đang, thiếu nhi làm nghìn việc tốt. Phong trào thi đua của huyện ông không bao giờ ngừng nghỉ. Mà ở chỗ nào cũng có bóng dáng, vai trò của ông. Ông Xuyên được đánh giá là con người năng động, là cán bộ có năng lực, được cất nhắc lên mãi. Ông trở thành một nhân cốt được giữ lại để xây dựng phong trào ở hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn.

          Chiến tranh thường như vậy. Nó là thử thách cam go làm rõ trắng đen, yếu hèn, dũng cảm. Tuy nhiên cũng có những người nhờ chiến tranh mà che giấu được khiếm khuyết của mình. Khi đất nước còn cơ chế bao cấp ông Xuyên cũng như tất cả các cán bộ khác, đều chung cảnh ngóng chờ hàng phân phối, gom góp tem phiếu mua gạo thịt hay tìm cách móc ngoặc với nhân viên mậu dịch quốc doanh bớt xén, tuồn hàng hóa ra bán ngoài chợ đen ăn chênh lệch giá. Từ khi ông Xuyên đảm nhận một chức vụ có liên quan đến tài chính kinh tế của tỉnh thì cuộc sống gia đình ông khá giả hẳn lên. Ông không còn phải lo đói rách, thiếu thốn. Tuy thế ông luôn căn dặn vợ con quần áo đẹp vẫn phải mặc lẩn vào trong, có tiền thì chôn xuống đất thà bị mối xông còn hơn là gửi tiết kiệm lấy lãi, lộ mặt tư bản chủ nghĩa. Khi đất nước, quốc dân còn nghèo, ông đã thoát nghèo. Nhưng ở cơ quan chả ai biết là ông giàu.

          Đến thời cơ chế thị trường tình hình lại khác. Giàu nghèo phân chia, phân cực. Cán bộ đi xe hơi đời mới, xây biệt thự, chi tiêu xa xỉ dần dần cũng trở thành bình thường, đỡ bị những con mắt nhòm ngó, soi mói. Nếu so vào bảng lương thì bốn mươi năm phục vụ của ông chả mua nổi một chiếc xe máy loại tốt. Nhưng thời buổi chính thu chẳng bằng phụ thu này, chỉ qua một nhiệm kỳ đã có tiền tỷ trong tay. Ông vẫn nhớ như in cái cảm giác lần đầu tiên cầm tờ tiền của nước Mỹ. Sao nó cứ như tiền giả. Chỉ mấy tờ mỏng tang mà bằng cả đống tiền Việt Nam đồng. Vợ con ông cũng mở mày, mở mặt. Tiền vào cửa sau nhiều hơn cửa trước. Có nhiều việc được giải quyết ở phía hậu trường. Chả trách mà ngày xưa hậu cung thao túng được cả triều đình. Một hôm, ông vừa ở cơ quan về, bà vợ ông hỏi ngay:

          - Cơ quan ông đang khuyết một chức phó phòng phải không?

          - Sao bà biết?

          Bà vợ ông không trả lời mà lại bảo:

          - Thằng Bản nó vừa đi học về, có bằng cấp hẳn hoi đấy! Ông nhớ là phải chú ý đến nó đấy!

          Thế là ông hiểu. Thằng này nó đã "làm việc" với mụ vợ ông rồi. Ông đành nghĩ cách bố trí cho nó vào vị trí ấy. Được đề bạt, nó quay sang phục vụ ông tốt hơn. Dần dà, ông rút ra một kinh nghiệm sử dụng cán bộ ở cơ quan mình. Ông chia họ ra làm hai loại "xa và gần". Cán bộ xa chính là những người làm được việc, giúp ông hoàn thành chức trách, nhiệm vụ cấp trên giao. Cơ quan có thực hiện được chỉ tiêu, kế hoạch hay không là nhờ các cán bộ này. Loại "cán bộ gần" là những người chẳng làm được việc gì theo chức trách cho ra hồn nhưng lại biết cách quan tâm đến thủ trưởng. Thủ trưởng chỉ húng hắng ho đã biết tìm dầu gió. Thủ trưởng đi chơi ten nít biết lo sân bãi. Thủ trưởng vi hành thì chuẩn bị cơ sở, nơi ăn nghỉ, gái gủng, phong bì phong bao. Hai loại cán bộ này bây giờ ở cơ quan nào cũng có. Và bao giờ cũng vậy, công việc thì thủ trưởng đưa cho loại cán bộ xa, ăn chia cho bọn ở gần, vừa kín tiếng, đỡ lộ.

          Ông Xuyên  rất tâm đắc giải pháp sử dụng cán bộ theo kiểu "xa và gần" thấy mọi việc đều xuôi chảy. Nhưng chuyện đời là vậy, cảnh kẻ làm người ăn, cốc mò cò xơi mãi thì chóng hay chầy cũng sinh mâu thuẫn. Những người có năng lực, làm được việc đâm ra chán nản, bê trễ công việc. Những kẻ bất tài thì lên mặt. Nhưng khi mâu thuẫn phát sinh tất sẽ có cách giải quyết. Ông Xuyên áp dụng triệt để biện pháp luân chuyển cán bộ. Bướng ư? Làm việc thiếu chuyên tâm ư? Khó gì, cho đi cơ sở, vùng sâu vùng xa, tiếng là thử thách, rèn luyện cán bộ, thực ra là hạ phóng đày ải cho biết. Bao nhiêu cán bộ đã được "hạ phóng" về cơ sở, ông không nhớ hết.

          Một hôm, trên đường đi công tác ở miền núi, ông nghỉ ở một nhà hàng đặc sản thú rừng cạnh đường. Ông và đám tuỳ tùng đang ăn uống ngon lành chợt nghe "choang" một tiếng rất to. Đó là tiếng vỡ của thuỷ tinh. Có một giọng lè nhè phía sau. Ông Xuyên giật mình ngoái lại. Một gã đầu tóc bù xù tay cầm lăm lăm một đoạn vỏ chai vỡ, giọng sặc mùi men rượu:

          - Còn nhớ không! Còn... nhớ... không! Chiến sỹ thi đua ba năm liền đấy nhé! Thế mà nỡ đày ải ở chốn khỉ ho, cò gáy thế này hả... hả...?...

          Ông Xuyên nhổm dậy, lùi lại. Cậu lái xe lập tức giơ thân ra che cho thủ trưởng. Ông Xuyên cố nhớ. Hoá ra hắn tên là Khoa. Hắn là cái thằng hay cãi, làm thì được việc nhưng chẳng chịu phục ai. Một lần hắn còn dám đứng lên phê bình ông về công tác cán bộ. Thế là hắn đi đời luôn. Ông hạ phóng hắn về cơ sở phụ trách một trạm ươm cây giống giữa rừng. Trạm ươm ấy mấy năm liền ông không đầu tư, chỉ rót kinh phí cầm chừng. Hắn chán nản, thối chí, đâm ra rượu chè bê tha lè nhè suốt ngày. Sau vụ này có người ám chỉ, gọi chệch tên ông là "Xiên" (ý là xỏ xiên). Ông tức tối muốn truy tìm xem đứa nào dám cả gan gọi ông như thế nhưng đành chịu. Nhiều việc vừa mới xảy ra ở cơ quan đã thành chuyện dân gian, truyền miệng, hơi đâu mà truy tìm nguồn gốc. Mà truy sao cho được. Sau ông rút ra kinh nghiệm là cứ làm ngơ, mặc kệ, thế gian nói mãi mỏi mồm.

*

          Ông Xuyên bị đột quỵ phải nhập viện. Ông hoảng. Ông lo cái chuỗi thời gian "ba hồi" của mình bị trục trặc, chưa kịp “hồi ký” đã sang “hồi sức”, áp sát “hồi kèn” thì nguy. Tuy nhiên, ông chỉ bị xuất huyết não nhẹ. Bệnh viện lưu ông lại để theo dõi, bồi bổ vì ông nguyên là cán bộ cao cấp.

           Khu điều trị bệnh nhân VIP vắng vẻ. Mấy hôm đầu buồng bệnh ba giường chỉ có một mình ông. Ông nằm xem ti-vi, đọc báo suốt ngày cũng buồn bởi chẳng có người trò chuyện. Vài ngày sau thêm một bệnh nhân nữa đến nằm cùng phòng. Anh ta là trưởng ban tổ chức chính quyền tỉnh. Lập tức buồng bệnh tập nập hẳn lên. Người ra, người vào liên tục, quà cáp ùn ùn. Tay này bị chứng đau lưng nên lên bệnh viện trung ương kiểm tra rồi nằm lại mấy hôm dưỡng bệnh. Nhưng ông Xuyên hiết tỏng tâm địa của hắn. Hắn nắm sinh mệnh của nhiều cán bộ hàng tỉnh. Nằm viện cũng là dịp để hắn tranh thủ thu hoạch cuối năm. Những túi quà, hoa quả, sữa đường chỉ là phương tiện để những người đến thăm nhét phong bì vào cho đỡ ngại phải đưa trực tiếp. Sau khi rút lấy phong bì trong những túi quà, hắn xếp đầy hoa quả, đường sữa trên cái giường trống giữa hắn và ông Xuyên. Hắn bảo ông dùng được thứ gì thì cứ lấy mà dùng.

          Ông Xuyên im lặng vừa buồn lại vừa tức. Giá mà ông còn đương chức thì thằng này đã là gì. Ông Xuyên tự ái nhìn mấy quả cam chua loét để lỏng chỏng ở cái tủ nhỏ trên đầu giường. Mụ vợ mải đề đóm, mua vội. Cô con gái út thì bận đi picníc với đám bạn bè. Ông nằm ở bệnh viện mấy ngày mà chẳng ai buồn ngó ngàng đến. Bà vợ bảo: "Ôi dào! Cứ ở bệnh viện mà nghỉ ngơi, vừa đỡ cơm nhà, vài bữa ngớt việc tôi đến đón hẵng về". Cô con gái út nghe tin bố ốm thì điện về: "Thank bố! Cái xe Spacy bố mới mua cho con chạy bốc lửa lắm. Chúc bố chóng khoẻ nhé!".

          Giá mà đương chức ông vào viện thế này thì đám đệ tử "cán bộ gần" hoạt động rộn ràng phải biết. Chúng sẽ túc trực vo ve quanh ông cả ngày. Rồi chúng nhanh nhảu thông báo cho các địa chỉ cần phải cử người đến thăm, nhân tiện kiếm chút phụ thu khi thủ trưởng ốm. Bây giờ ông đã nghỉ hưu, hết lộc, "thớt hết tanh tao", tự dưng đám ấy tản hết.

           Ông Xuyên nằm trùm chăn kín đầu để khỏi chứng kiến cái cảnh nhộn nhịp ở giường bên cạnh. Thời gian một ngày ở bệnh viện sao thật là lê thê. Ông mong cho chóng tối. Nhưng buổi tối vẫn có nhiều người đến thăm tay trưởng ban tổ chức chính quyền. Ông nghe loáng thoáng họ nói với nhau khi ra khỏi phòng: "Sao cái lão nằm giường bên cạnh trông quen quen thế nhỉ?". Ông nghĩ thầm: "Ngày đương chức tao hay xuất hiện trên ti-vi làm gì mà chả quen".

          Cuối cùng ông Xuyên cũng có người đến thăm.

          Khi người đó bước vào phòng nhìn quanh, tay trưởng ban đã lập cập chạy ra đón, giọng líu đi:

          - Chào anh! Anh...

          - Ơ! Cậu cũng phải đi viện à? Bệnh gì thế?

          - Dạ! Thế anh...

          - Mình vào thăm một người đang nằm điều trị ở đây!

          - Thế người đó là thế nào với anh ạ?

          - Bác ấy tên là Xuyên... thủ trưởng cũ của tôi... Biết tin bác ấy ốm, mình vội về ngay!

          Nghe vậy, ông Xuyên lật chăn ngồi nhỏm dậy. Ông chưa nhận ra là ai thì người ấy đã túm tay ông vì vui mừng, hối vội hỏi thăm sức khoẻ. Nghe ông nói chỉ bệnh nhẹ, người đó mới yên tâm ngồi xuống giường trò chuyện với ông. Ông Xuyên vẫn chưa nhận ra người đến thăm mình. Ông hơi băn khoăn, sợ hỏi tên thì khiếm nhã. May lúc ấy, tay trưởng ban nhanh nhảu:

          - Bác ạ! Đồng chí phó chủ tịch tỉnh em bận thế mà còn xuống tận đây thăm bác đấy!

          Ông Xuyên đã lờ mờ nhớ ra. Sau lại nghe hai người nói chuyện với nhau ông nhận ra đó là anh phó phòng thuộc cơ quan ông ngày trước. Anh ta là người làm được việc nhưng bộc trực. Chính anh cũng bị ông "hạ phóng" về một tỉnh miền núi xa xôi. Nhưng không như nhiều người khác, anh này vẫn kiên trì vươn lên bằng chính tài năng, sự phấn đấu của mình. Từng là một người lính phục viên, anh rất quen với việc có lệnh là đi nhận nhiệm vụ ở những nơi khó khăn, gian khổ. Anh không nghĩ là bị "đày" đi cơ sở mà coi là một dịp tốt để rèn luyện, thử thách để khẳng định mình. Bây giờ anh là một phó chủ tịch tỉnh khi tuổi còn rất trẻ.

          Lúc chia tay ông Xuyên, anh phó chủ tịch tỉnh cứ năn nỉ: "Hè tới mời bác lên chỗ em. Tỉnh em có khu nghỉ dưỡng, suối nước khoáng nóng hay lắm bác ạ!".

          Ông Xuyên hơi ngường ngượng khi bắt tay anh phó chủ tịch tỉnh.

          Sau lần anh phó chủ tịch tỉnh đến thăm, trong lòng ông Xuyên tự dưng nhen lên một thứ tình cảm mới, rất khác với những gì đã sẵn có trong ông bấy lâu nay. Ông chợt nhận ra, ai rồi cũng sẽ đến ba hồi cuối của đời mình. Nhưng mấy ai sẽ thanh thản và không xa lạ với đồng loại khi đã về chiều nếu suốt cuộc đời chỉ biết sống vị thân.

Dua con di thi

1-H

ai bố con ông Hoàn dậy từ bốn giờ sáng. Ăn uống xong xuôi, ông Hoàn dùng xe máy chở thằng con đi thi. Trường đại học giao thông mà thằng Hoan con ông thi chỉ cách nhà có hơn chục cây số. Nhưng để đề phòng tắc đường, hai bố con ông cứ xuất phát ra khỏi nhà từ lúc năm giờ sáng. Đến địa điểm thi còn hơn một tiếng nữa mới đến giờ vào phòng thi. Hai bố con ông Hoàn đứng chờ ở bên vỉa hè.

          Cổng trường đại học người đông như kiến cỏ. Người ngồi tràn cả xuống mặt đường. Phố xá kẹt cứng những người là người. Tiếng còi xe gắt gỏng. Mỗi thí sinh đi thi đều có một phụ huynh đưa đón nên lượng người khắp nơi đổ về thành phố tăng gấp hai. Không khí mùa hè thêm ngột ngạt.

          Ông Hoàn dựng xe đứng chờ trên hè phố.Thằng Hoan vẻ bồn chồn, lo lắng. Nó học hành cũng tốt, nhiều năm liền là học sinh giỏi, nhưng chuyện thi vào đại học chả biết thế nào, trăm người chọn một, học tài thi phận. Ông bảo nó cứ cố gắng. Không trúng tuyển năm nay thì sang năm thi tiếp. Không thì đi học nghề làm công nhân. Nhưng nó lại muốn theo chân bố vào trường đại học giao thông, làm kỹ sư thiết kế để bắc những cây cầu qua dòng sông mênh mông...

          Ông Hoàn định động viên thằng con vài câu cho nó yên tâm. Nhưng ông chợt há miệng ra ngạc nhiên. Có một người phụ nữ cùng một cô bé đang đi đến. Cô bé cầm trên tay sách vở và thước bút, máy tính. Chắc chắn họ là hai mẹ con và cũng đang đi thi như bố con ông. Ông Hoàn ú ớ:

          - Ơ... ơ...

          Người đàn bà cũng ú ớ:

          - Ơ... ơ... có phải...

          Ông Hoàn gật gật đầu:

          - Đúng... đúng... là tôi... tôi...

          Thằng Hoan giật giật tay áo bố hỏi:

          - Người quen hả bố?

          - Ừ...

          Cô bé đi cùng người đàn bà cũng hỏi:

          - Ai thế hả mẹ?

          - Bác ấy là người đã làm cây cầu bắc qua dòng sông Bạc ở ngay đầu bản nhà ông ngoại đấy!

          - Sao con chưa gặp bác ấy lần nào ạ?

          Người đàn bà hơi giật mình:

          - Thì... khi bác ấy lên quê mình bắc cầu thì con đã sinh ra đâu mà biết...

         Trả lời con xong người đàn bà vội nhìn lảng đi chỗ khác. Ánh mắt của chị vẻ lúng túng. Không để ý đến thái độ của mẹ, đứa con gái hỏi thằng con ông Hoàn:

         - Bạn cũng thi vào trường này à?

         - Ừ! Mình cũng muốn làm kỹ sư cầu đường như bố minh!

         - Thế thì hay quá! Mình cũng muốn làm những con đường băng qua sườn núi như bố mình...

         Có tiếng chuông báo giờ vào phòng thi. Đám thí sinh nhốn nháo xô nhau vào trường. Đứa con gái chào mẹ và bác rồi kéo tay thằng con trai. Hai đứa len lỏi trong đám đông vào cổng trường.

          Khi bọn trẻ đã vào trường hết rồi cánh phụ huynh mới ổn định chỗ để chờ các sĩ tử làm bài. Người thì ngồi đọc báo, người ngồi nhâm nhi chén chè nóng vỉa hè. Ông Hoàn ngập ngừng:

          - Hai mẹ con xuống Hà Nội từ hôm qua à?

          Người đàn bà đáp nhỏ:

          - Mẹ con em xuống từ hôm kia để còn tìm nhà ở trọ...

          - Con bé năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

          - Nó hơn... à không mới mười bảy tuổi...

          Ông Hoàn nhẩm tính:

          - Thế là nó sinh năm 1996. Vậy là đúng năm tôi rời khỏi Hà Giang thì Sinh đã...

          - Vâng...

          Ông Hoàn thấy hơi hụt hẫng, hoang mang. Vậy là Sinh đã cưới chồng ngay sau khi ông vừa rời khỏi cái công trường xây dựng cầu ở Hà Giang năm ấy. Cũng không thể trách được Sinh. Mà có trách là phải trách ông mới đúng. Ông đã không cố gắng nhiều trở lại Hà Giang tìm Sinh sau cái lần bị tai nạn ấy…

          Ông Hoàn định hỏi thêm chuyện của Sinh về những năm tháng đã qua thì cô bảo là về nhà trọ chuẩn bị cơm nước bữa trưa cho con gái. Nhà trọ chỉ các chỗ điểm thi của con gái chỉ vài trăm mét. Còn lại một mình, ông Hoàn lôi tờ báo Pháp luật từ trong cốp xe ra. Nhưng ông không thể đọc được chữ nào. Trong đầu ông kỷ niệm về những ngày xa ngái năm nào trên công trường xây dựng cây cầu bắc qua con sông Bạc trên miền rừng núi xa xôi cứ hiện về. 

          2-Năm ấy, công ty cầu số 2 của ông đảm nhiệm thi công cây cầu xi-măng nhỏ trên con đường tỉnh lộ bắc qua con sông Bạc, quê hương của cô Sinh. Ông có mặt từ những ngày đầu khởi công. Hai người quen rồi thân nhau qua những lần giao lưu văn nghệ giữa chi đoàn đội cầu và chi đoàn bản Vược. Ông hay đệm đàn ghi ta cho Sinh hát.

          Công trình xây dựng ròng dã cả năm trời mới chỉ xong vài mố cầu do vốn rót nhỏ giọt. Có những ngày thiếu vật liệu công nhân nằm chơi dài. Những ngày ấy ông Hoàn thường lang thang vào rừng tìm phong lan. Ông rất mê lan rừng. Phòng ông ở cuối dãy nhà cấp bốn, trước cửa và bên đầu nhà treo lủng lẳng những giò lan rừng hoa nở rất đẹp, hương thơm ngan ngát.

          Một hôm đang lang thang trong rừng thì ông gặp Sinh. Cô vào rừng tìm lá cây về cho mẹ nhuộm gạo nếp thổi xôi cúng con ma lúa. Gặp ông đang xách một khúc gỗ có một nhánh lan rừng Sinh bảo:

          - Em biết có một khóm lan thuỷ tiên đang nở hoa rất đẹp!

          - Ở đâu?

          - Anh thích thì em sẽ dẫn đi lấy..

          Ông Hoàn liền theo Sinh. Họ đi sâu vào trong rừng già. Lấy được cụm lan rừng quay về thì trời đổ mưa tầm tã. Dòng suối nhỏ lúc trước họ lội qua nước chỉ ngang bắp chân giờ lũ dâng lên cuồn cuộn. Hai người phải đi người lên phía thượng nguồn tìm chỗ có thể lội qua. Mưa vẫn như trút nước. Cả hai ướt sũng, quần áo dính sát vào người. Họ phải tạm chui vào một hốc đá để tránh mưa và chờ nước lũ rút xuống. Trong cái hang đá nhỏ ấy đã xảy ra một chuyện mà sau đó cả hai đều thấy ngỡ ngàng vì nó bất ngờ quá nhưng không ai cảm thấy hối hận dù họ không yêu nhau. Tuổi trẻ là thế. Sự khao khát không phải là tội lỗi… Vậy mà chuyện cũng đã hơn mười năm qua rồi. Sau hôm đi tìm phong lan rừng ấy thì ông Hoàn bị tai nạn. Ông bị thương nặng khi mảnh gỗ giàn giáo bất ngờ bị gẫy. Ông được đưa ra bệnh viện Bắc Quang cấp cứu rồi chuyển về Hà Nội chữa trị. Ông không thể trở lại đội cầu số 2 được nữa. Cuối năm ấy ông lấy vợ, năm sau cu Hoan ra đời. Và hôm nay sau gần mười bảy năm ông đưa con đi thi đại học…  

          3-

Gần hết giờ thi môn toán cô Sinh mới quay ra. Ông Hoàn nhìn Sinh. Mười bảy năm rồi Sinh vẫn còn rất đẹp.

          Một lát sau, thằng Hoan và cô con gái của Sinh cũng ra chỗ bố mẹ chờ. Hình như cả hai đứa đều làm được bài nên chúng có vẻ vui lắm. Cô Sinh bảo đã nấu cơm rồi hai bố con về nhà trọ cùng ăn cơm. Ông Hoàn chần chừ. Theo kế hoạch thì hai bố con sẽ tìm một quán cơm bụi ăn xong sẽ ra công viên ngồi chờ môn thi buổi chiều. Nhưng rồi không thể từ chối hai bố con ông giong xe máy theo Sinh và con gái về nhà trọ.

          Bữa cơm thật ngon. Có cả món măng đắng Hà Giang mẹ con Sinh đem về. Suốt bữa, Sinh rất ít nói, chỉ lặng lẽ, lo gắp thức ăn cho hai đứa trẻ. Nhìn thằng Hoan và cái Chinh-con gái Sinh ngồi gần nhau ông Hoàn cứ giật mình thon thót. Sao hai đứa giống nhau đến thế?

          Hôm sau, Sinh lại nấu cơm mời bố con ông Hoàn về cùng ăn. Vẫn có món măng đắng. Thêm đĩa thịt gà đồi Ba Vì mà ông Hoàn đem theo. Sau bữa cơm họ chia tay. Hai mẹ con Sinh trả phòng trọ ra bến xe để ngược về quê. Ông Hoàn ngơ ngác.

          Hai mẹ con Sinh đi rồi ông mới thảng thốt bảo con:

          - Quên không mời hai mẹ con cô Sinh về nhà mình chơi!

          - Cô ấy không về nhà ta đâu!

          - Sao con lại nói thế?

          - Nhà cô ấy neo lắm, mẹ con cô ấy phải về ngay!

          - Thế à?

          - Bạn Chinh nói nhà chỉ có hai mẹ con. Nhưng bố bỏ nhà đi từ khi bạn ấy còn bé tý! Bạn ấy nói muốn theo nghề của bố để sau này có điều kiện đi tìm bố mình!

          - Bố bạn ấy là ngành nghề gì?

          - Thì… là ngành giao thông nên bạn ấy mới thi vào đại học giao thông mà bố!

          - Thế… con có xin số điện thoại của bạn ấy không?

          - Bạn ấy làm gì có điện thoại di động như học sinh Hà Nội hả bố. Nhưng bạn ấy cho con số điện thoại của mẹ rồi.

          Ông Hoàn cầm mảnh giấy ghi số điện thoại di động của thằng con đưa cho rồi bấm máy gọi thử. Một giọng phụ nữ dịu dàng đáp: “Số máy này hiện không liên lạc được. Xin quý khách vui lòng gọi lại sau”…

XÓM NGHIỆN

Khách đến vào giấc ba giờ chiều. Ông ta đi trên một chiếc wai- anpha màu bạc len lách trên con hẻm bê tông đến tận cửa nhà thày giáo Quỹ. Ông ta cúi đầu chui qua cái cổng có hai cánh xiêu vẹo. Ông ta giơ cả hai tay lên và ôm choàng lấy thày giáo Quỹ khi thày mới từ trong nhà bước ra.

- Em chào thày. Thưa thày…

Thày giáo Quỹ khẽ đẩy tay người đàn ông ra và nhướng mắt:

 - Anh là ai, sao tôi không nhận ra…

- Dạ, em là Vĩnh. Vĩnh bàn cuối lớp bốn của thày ngày xưa đây ạ…

- Vĩnh… Ờ, ờ, Vĩnh….

Thày ngập ngừng thế một lúc khá lâu và rõ ràng, thày chưa thể tìm ra được cái nét của cậu học trò lớp bốn có gì giống với người đàn ông rắn rỏi, mạnh mẽ trước mặt mình. Thày đưa cả hai tay, mời khách vào nhà. Ông khách cẩn thận dắt chiếc xe máy qua cổng và lấy ra từ chỗ đèo hàng một bọc nhỏ mang vào nhà, hai tay nâng lên đưa cho thày giáo Quỹ: 

- Thưa thày, kể từ ngày lên học cấp hai đến giờ, em không về thăm lại thày. Em đến để xin lỗi thày, xin thày nhận cho em gói quà này, coi như thày đã tha lỗi cho em…

Thày Quỹ không thể chối từ, giơ tay nhận lấy:

- Anh đến thăm tôi thế này là quá tốt rồi… Lần sau đừng quà cáp gì nhé. Mà này, tôi nhớ ra anh rồi đấy. Đừng trách tôi già lẩm cẩm hay quên. Gần tám mươi rồi còn gì…

Cả hai bỗng yên lặng. Chuyện về một đêm cách nay hơn bốn mươi năm bỗng hiện về.

Đó là một đêm mùa đông, rét như cắt da cắt thịt. Con đường ra cổng nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ cũng đã vắng tanh, vắng ngắt. Nó đói và rét. Đói vì từ chiều đến giờ nó không có hạt cơm nào vào bụng. Rét vì trên mình nó chỉ có một chiếc áo sợi trùm ra bên ngoài chiếc áo sơ mi mỏng tanh. Nó không dám về nhà.

 Một cây roi tre đang chờ nó. Một ông bố dữ đòn đang chờ nó. Chiều nay, khi nghe ông bố quát lên:“Đứa nào lấy tiền trong túi tao?”, là nó biết mọi chuyện sẽ bắt đầu nếu nó không trốn nhanh ra khỏi nhà. Không oan một chút nào. Chính nó chứ không phải ai khác. Lần này nữa là lần thứ bao nhiêu mà nó vẫn không chừa. Hễ túi áo bố sơ hở, thế nào nó cũng móc. Khi thì vài xu. Khi thì vài hào. Cũng vì vài xu, vài hào đó mà nó đã từng bị những trận đòn tím tái cả cái mông vốn gầy đét của nó. Vậy mà nó cứ không chừa. Lần này không phải vài xu, vài hào mà vài đồng. Vài đồng với mức lương công nhân cơ khí của bố, sẽ không còn là nhỏ nữa. Vài đồng bạc để chung chi khi thua độ bạn bè Nó đã đi quá đà, nên nó không dám về nhà. Con đường ra cổng nhà máy sao mà dài thế. Nó thèm được rúc vào chiếc chăn bông khai mùi nước đái của mấy đứa em. Được ngồi bên cạnh cái bếp than hồng rực và bỏ vào đó một củ sắn để lát sau chín, quệt mỡ mà nhai. Nghĩ đến củ sắn, bụng dạ nó lại cồn cào đói. Nó bỗng thấy cả một khoảng rộng sâu thẳm và đen thui trước mặt. Vĩnh nhận ra, đó là sân vận động của nhà máy. Mà bên cạnh sân vận động là lớp học của nó. Thôi được ghé vào lớp, ngả lưng lên mấy chiếc ghế mà ngủ qua đêm. Chứ còn biết đi đâu bây giờ. Lớp học tường đất mái lá, không cửa nẻo gì. Ngày ấy trường học giống như nhà thờ, chẳng ai dám đến mà phá phách. Vĩnh lẳng lặng chui vào lớp, đến ngay cái bàn mình ngồi học mỗi ngày và ghé lưng xuống cái ghế băng dài. Nhưng cơn đói cứ thúc vào dạ dày nó, khiến cái lạnh càng lạnh hơn. Nó lại bò dậy. Bỗng có  một đốm lửa hiện ra. Bếp nhà thày giáo Quỹ. Hồi ấy thày giáo Quỹ chưa có nhà. Thày còn ở trong một gian hẹp cạnh ngay lớp học. Gian bếp được làm tách ra. Mong sao, trong bếp nhà thày còn một ít cơm nguội. Cơm nguội cũng tốt chán rồi. Cửa bếp nhà thày giáo Quỹ có một cái phên nứa. Trong bếp có một lò than đã bị chét kín, chỉ còn hở có một cái lỗ tròn bằng ngón tay. Nồi cám lợn. Nhà thày cũng nuôi lợn. Vĩnh thò tay vào chạn. Cái chạn trống không. Vài cái nồi. Nó mở vung từng cái. Toàn là nồi không. Nó thất vọng ngồi xệp xuống ngay cạnh bếp than hồng. Dù sao thì cũng được chút ấm áp. Nó chợt nhớ ra, trong nồi cám lợn thế nào cũng có củ sắn. Nhà nào nuôi lợn mà không nấu sắn cho lợn ăn. Nó kiếm được một thanh củi và nhè nhẹ mở nắp vung nồi cám. Bàn tay nó chạm vào nắp vung, bỏng giãy. Nó buông vội. Nắp vung rơi xuống làm vang lên một tiếng động khiến nó rụng rời chân tay. Một ánh đèn pin loé lên. Hồn vía Vĩnh bay đi đâu hết. Bây giờ thì nó run lên vì sợ, chứ không phải vì rét nữa.

- Vĩnh phải không em?

- …

- Lên nhà đi em. Đừng sợ. Không ai làm gì em đâu…

- …

- Lúc tối, bố em có đến đây tìm em. Vì thế khi nghe tiếng động ở ngoài lớp tôi đoán là em đã đến. Người như em thì chỉ còn biết đến lớp học thôi chứ còn đi đâu nữa… Lên nhà đi, tôi rang cơm lại cho mà ăn… Đói lắm rồi phải không?

Đã từng bốc vụng ruốc thịt của em, từng xẻo trộm một miếng thịt nạc bỏ vào chảo mỡ rán vàng, từng ăn vụng một miếng thịt gà kho nước mắm… ngon thật. Ăn vụng, bao giờ cũng ngon thật. Nhưng chắc không thể ngon được bằng bát cơm rang của thày giáo Quỹ đêm ấy rang cho Vĩnh. Cả nhà thày không ai thức dậy. Chỉ có hai thày trò. Thày hỏi:

- Vì sao em bỏ nhà đi như thế này?

- Em sợ bố em đánh…

- Vì sao bố lại đánh?

- Dạ, thưa thày…

- Em không muốn trả lời khải không? Thì thôi vậy… Nhưng  bố em đã cho thày biết hết rồi. Em ngủ lại đây đêm nay, mai phải về. Về xin lỗi bố mẹ. Cũng còn may, em không ra ga Quán Triều, ga Đồng Quang, ra ngoài chợ… Mà còn biết tìm đường về lớp. Lớp bốn rồi. Biết nghĩ rồi, em đừng làm cho bố mẹ buồn, đừng làm cho thày phải buồn.

Đêm ấy Vĩnh không nói thêm câu nào nữa. Mọi chuyện rồi cũng qua đi. Sáng hôm sau, thày giáo Quỹ lấy xe đạp đèo Vĩnh về nhà. Thày giáo và bố Vĩnh nói gì với nhau ở nhà trên, Vĩnh không nghe được nhưng khi thày về, không thấy bố Vĩnh gầm lên vì giận dữ như trước kia.

Bốn mươi năm rồi. Chuyện ấy, Vĩnh nhớ đến tận hôm nay.

- Em cảm ơn thày…

- Sao em nhiều lời cảm ơn thế? Mà cảm ơn vì cái gì nào.

- Vì bát cơm rang đêm hôm ấy… Nếu không có nó, không biết bây giờ em sẽ thành con người như thế nào?

- Thế bây giờ em làm gì?

- Dạ, em đi viết báo…

- Viết báo? Hay đấy. Tôi còn nhớ ngày ấy tôi thì bảo “nước trong leo lẻo” là một cách viết hay, còn anh thì cãi “nước thì làm sao lại trong leo lẻo được”. Anh đi làm báo là phải… Nhưng anh vẫn chưa nói cho tôi biết vì sao đêm ấy anh lại bỏ nhà ra đi đấy nhé…

- Dạ, thưa thày…

- Lại dạ thưa thày…

Thày giáo Quỹ chỉ nói được câu ấy rồi thôi.

Anh vẫn chưa dám nói thật sao? Bốn mươi năm rồi còn gì nữa. Ngày ấy tôi cử anh làm lớp phó. Tôi giao cho anh thu tiền gây quỹ cho lớp. Tiền thì anh thu. Nhưng anh lại không nộp. Anh tiêu đi một vài xu. Hụt một vài xu anh không dám nộp, thì hôm sau nó hụt mất vài hào. Hụt đến vài hào, anh ngừng lại đi thì thôi, cũng chẳng sao. Lỡ tiêu rồi anh tiêu hết luôn. Tôi biết nhà anh nghèo. Nhà anh đông các em. Lo bữa ăn hằng ngày còn khó. Mà anh thì thèm những cái mà trẻ con rất thèm. Một cái kẹo vừng. Một cái bánh rán. Vài xu xôi… Đứa trẻ nào mà chẳng thèm những thứ đó. Tiêu hết tiền thu của bạn, anh mới phải lấy tiền của bố anh tính để bù vào. Anh có biết vì sao hôm sau bố anh không đánh anh nữa không. Vì tôi xin cho anh, tôi xin để anh nộp lại tiền lớp cho tôi. Cho anh đỡ xấu hổ với bạn bè. Thế mà đến tận bây giờ anh vẫn không dám nói thật với tôi. Người ta nói dối được một lần, người ta sẽ nói dối được lần thứ hai, rồi nói dối cả một đời. Mà thôi, bây giờ anh cũng đã thế kia rồi,

 sang nửa cuối cuộc đời rồi. Tôi tiếc ngày ấy tôi đã không đánh anh một cái cho thật đau để anh nhớ đời. Cái lần anh làm bẩn vở ấy. Tôi biết anh dây mực ra tay, anh đã bôi lên vở. Vậy mà khi tôi hỏi anh chối bây bẩy: thưa thày, tự nhiên mực nó rơi vào. Dấu tay anh rõ ràng mà anh còn giấu tôi. Tôi giơ cái thước thật cao, nhưng khi đánh xuống tay anh, tôi lại hạ thật khẽ. Vậy mà anh sợ, đái ướt cả đũng quần. Anh là học sinh giỏi của tôi ở cái lớp bốn đầu tiên tôi được dạy trong đời, mà tôi thương anh. Nên tôi chẳng đánh anh đau…

- Mà quên tôi không hỏi, không phải ngẫu nhiên anh đến thăm tôi chứ?

- Vâng. Em đến đây còn vì một việc nữa. Em muốn viết về cái xóm này.

- Xóm không tên, cầu không tên, suối không tên, có gì mà viết?

- Dạ, nó có tên rồi đấy, thưa thày.

- Tên gì?

-

 Xóm nghiện

- À tôi hiểu rồi.

Thày lặng đi, buồn. Lát sau:

- Anh có muốn nghe tôi khuyên anh một câu không?

- Dạ nghe ạ.

- Anh đừng viết gì cả. Đừng viết gì hết.

 Xóm nghiện

. Anh có thấy nó rất chua xót không? Tôi ở đây đã gần năm chục năm trời, người ta chưa bao giờ nghĩ đến đặt cho xóm này một cái tên. Bây giờ là

 xóm nghiện

. Đúng, con nghiện ở đây nhiều lắm. Ngay trước cửa nhà tôi là có thể mua được thuốc phiện, mua được heroin. Tôi đây cũng là nạn nhân của con nghiện đó. Một năm hai mươi ba lần bị mất trộm. Toàn trộm vặt. Có cái gì bán được là bị trộm. Thôi thì chẳng cần có cái gì trong nhà cả. Hết mọi thứ, tôi cứ mở toang cánh cổng nhà. Thế là hết trộm. Nhưng anh biết ai trộm của tôi không? Học trò của tôi đấy. Nó nghiện. Nó không có thuốc thì nó chết. Nó phải trộm… Vợ nó thương nó, mua thuốc cho nó. Tiền đâu nhiều cho nó hút. Vợ nó mới mua mười bán đi chín, lấy lời cho chồng hút. Người ta ào đến bắt. Tôi làm thày mấy chục năm. Về hưu cũng đã mấy chục năm rồi. Học trò thành đạt nhiều, tôi mừng lắm. Nhưng mừng bao nhiêu thì buồn bấy nhiêu. Một trăm học trò thành đạt không giúp tôi hết buồn khi có một học trò hư hỏng. Cá không ăn muối cá ươn. Khi tôi dạy các anh, tôi có bảo các anh nói dối, ăn cắp, ăn trộm đâu. Vậy mà vẫn có những đứa học trò như thế. Lại còn đi tù nữa chứ…

Thày giáo Quỹ thở dài. Tiếng thở dài bật ra làm buồn cả một chiều.

- Thày vẫn dạy học ạ?

- Anh thấy đấy. Xóm nghiện mà. Lũ nghiện tiền lo cho nghiện ngập hết. Con cái chẳng được học hành gì. Tôi mở cái lớp ở tại nhà này cho chúng nó. Anh có biết không, sau nhà tôi có một vườn rau. Rau trồng có, rau dại có. Ngày nào tôi cũng tưới. Sức già rồi, tưới chẳng được bao nhiêu. Nhưng vài giọt thôi có khi cũng làm tươi lại được một cái lá…

Vĩnh xốn xang. Thày ơi, nếu sau đêm rét buốt kia mà em bị một trận đòn đau, nếu hôm đó thày đánh em một thước thật đau, thì đời em sẽ ra sao. Em xin lỗi thày, rồi sẽ có một ngày em có gan nói thật. Trước hết là thật với mình đã. Vâng, có thể em đã là chiếc lá nhận được vài giọt nước thày tưới mỗi ngày…

Nàng hương

30/07/2013

.LỤC MẠNH CƯỜNG

Có ai đó chạm khẽ vào vai. Va giật mình trở về thực tại. Tiếng pụt(*) Khiêm trầm trầm. Tiếng “mác lính” leng cheng. Bà Lung đẩy nhẹ tay Va. Cô nhớ mình đang là “Nàng Hương”, mà “Nàng Hương” thì không được sao nhãng việc thắp hương, rót rượu. Cô vội vã châm thêm hương cắm vào bát gạo đặt trên mâm cúng.

Đêm tĩnh mịch. Chỉ còn tiếng cười của mấy người đang chuẩn bị đồ lễ dưới gầm sàn. Va rót thêm rượu. Một chiếc đầu, bốn cái chân, một cái đuôi lợn, một con gà, một con vịt đã làm chín xếp đầy mâm. Ánh đèn thắp sáng gian nhà giữa làm Va thấy nóng bức. Cô cầm chiếc quạt nhỏ phe phẩy cho pụt Khiêm. Một chút gió thoang thoảng. Gương mặt pụt giãn ra đôi chút. Trong ánh sáng đèn dầu, nhìn pụt thật đẹp. Thân hình cao lớn dưới chiếc áo dài đến chân. Chiếc mũ pụt che kín mái tóc khiến đôi lông mày rậm thêm rắn rỏi. Đôi mắt lim dim, giọng then trầm ấm khiến Va bị cuốn theo từng nhịp, từng nhịp. Bài then “Khảm hải” trong lễ “làm khoăn”, cúng cầu cho linh hồn khỏe mạnh. Bài hát kể về chàng mồ côi phải làm đầy tớ chèo thuyền vượt biển. Va thấy mình bồng bềnh trôi theo điệu then huyền diệu.

*

*    *

Va thấy mình trong đám cưới. Đám cưới to lắm. Người ngồi kín sàn, kín cả gầm sàn. Toàn người lạ. Họ ăn mặc cũng lạ lắm, như người “mường trên”. Có người đến kéo tay cô vào mâm. Đôi mắt sáng, bờ vai rộng, thân hình lực lưỡng. Va giật mình, pụt Khiêm? Chàng trai mỉm cười nhìn cô, không nói. Hàm răng trắng và nụ cười làm Va đỏ mặt. Cô bẽn lẽn cầm đũa. Xôi xanh, xôi đỏ gói lá dong. Thịt lợn, thịt gà đầy mâm. Chén rượu đầy ăm ắp. Một phụ nữ đưa chén cho Va. Hương rượu nếp thơm ngào ngạt. Vị rượu hoẵng ngọt lừ. Va thấy mình chuyếnh choáng. Cô bồng bềnh trôi giữa cánh đồng lúa xanh ngút ngắt. Cô thấy mình theo chân chàng trai về một túp lều nhỏ. Túp lều làm Va có chút hờn tủi. Chàng trai nắm tay cô dẫn vào lều. Bàn tay chai sần nhưng ân cần của chàng làm Va ấm lòng. Cô không nghĩ nhiều đến sự chật hẹp. Vòng tay rắn chắc và bờ ngực chàng rộng rãi. Với Va, thế là đủ ấm áp, đầy yêu thương. “Ngày ngày anh sung sướng/ Em khổ tưởng chết đi/ Anh không hề nhòm ngó/ Bỏ mặc em đói nghèo...”. Điệu then buồn bã văng vẳng bên tai. Cuộc sống của Va giờ đây gắn bó với túp lều nhỏ nơi góc ruộng. Phía bên kia, nhà anh chồng năm gian gỗ lim. Chị dâu thương hai vợ chồng cô nhưng chỉ là phận đàn bà. Ngày qua ngày, sức lực Va cạn dần. Cô không thể cầm nổi đôi ống ra suối lấy nước. Không thể nấu cho chồng bữa cơm, không thể vá cho chồng manh áo rách. Chỉ có ánh mắt, nụ cười, những cái ve vuốt của chồng mới níu giữ Va lại. Mỗi khi được ở bên chồng, lòng Va đầy ắp cảm xúc. Cô vui sướng và muốn được ở lại nơi này. Mãi mãi.

Một buổi chiều, nắng hiu hắt trên khóm rong giềng hoa đỏ. Vài tia nắng vàng vọt rọi qua mái lều lợp lá cọ rách bươm. Không khí oi bức, ngột ngạt. Va thấy khó thở. Không khí đặc như bùn. Cô há mồm như con cá cạn nước. Cô chống tay ngồi dậy nhưng không nổi. Cô giơ chân mình lên và hoảng hốt thấy bàn chân mỗi lúc một nhỏ đi như chân đứa bé. Cô hét lên nhưng không có âm thanh nào phát ra. Cô muốn vùng vẫy mà không được. Đầu nặng trĩu. Những câu then mà cô đã nghe trong bao nhiêu lần làm “Nàng Hương” vọng lại ám ảnh, day dứt “Chị thương em nước mắt ứa ra/ Chị lại gần khẽ bảo: Rách hết rồi/ Lên nhà chị lấy kim khâu lại mau em!”

“Em chú tằng tịu với chị dâu/ Hằm hằm anh mang dao đi mài/ Hằm hằm anh mang gươm đến chém/ Chém đầu em treo ngọn cọ/ Chặt chân em treo ngọn vông…”

Va rùng mình. Phải chăng mình là vợ người em mồ côi trong “Khảm hải”. Chồng mình sẽ bị chém? Va thấy lòng mình quặn thắt.

- Đừng! Đừng chém chồng tôi.

Va cố hết sức trườn ra. Cô ngã vật xuống nền đất. Chân tay đau buốt như dập nát hết cả. Va không quan tâm. Lòng cô đang chảy máu. Trái tim cô đau như ai lấy gai cọ chọc vào. Va lê lết ra cửa lều. Tiếng người tớn tác. Tiếng chân chạy lịch bịch. Tiếng ai đó vọng lại:

- Chồng mày bị chém rồi! Đầu nó bị treo ngọn cọ, chân nó bị treo ngọn vông...

Màu nắng loang đỏ thành máu. Mặt trời đỏ rực. Tim Va bị ai bóp chặt rồi dứt ra. Hơi thở tắc nghẹn. Va bay lên, bay lên.

Chợt có ai đó túm tay Va kéo lại. Bàn tay rắn chắc và nóng rực. Mắt Va tối sầm lại. Những hơi thở đầu tiên quay về chậm chạp và ngắt quãng. Va cố gắng mở mắt. Mấy người đàn bà đang xúm lại xoa ngực, xoa tay, bóp chân cho Va. Tiếng bà Lung thở phào.

- May quá! Mày về rồi. May mà pụt Khiêm cao tay. Nếu không là mày ở lại “mường trên” rồi!

Va cố ngồi dậy. Chân tay bải hoải như vừa qua một cơn say. Pụt Khiêm nhìn cô. Đôi mắt đầy lo lắng:

- Cô không sao chứ?

Va lắc đầu. Cô thấy xấu hổ vì không làm chủ được mình, không làm tốt công việc của “Nàng Hương”. Cô ngồi dậy châm thêm hương. Pụt Khiêm giữ tay cô lại.

- Thôi, cô nghỉ đi...

Cảm xúc dịu dàng dâng lên trong lòng Va. Bàn tay này, giọng nói này đã làm Va rất vui trong giấc mơ, làm cho cô không muốn tỉnh lại. Cô bẽn lẽn rụt tay về rồi đứng dậy đi ra phía cửa. Đêm lung linh ánh trăng. Phía rừng cọ, một cơn gió rì rầm cất lên êm êm...

*

*    *

Trăng buông từng giọt ngoài cửa sổ. Mái cọ nhà sàn đẫm ánh trăng. Giấc ngủ chờn vờn lẫn tiếng then. Va trở mình. Đã mấy lần Va đi làm “Nàng Hương” cho các đám cúng “khoăn” nhưng chưa bao giờ như vậy. Người già vẫn kể về nàng Hai, người làm “Nàng Hương” giỏi nhất vùng. Một lần, nàng theo hầu pụt Kía. Pụt Kía mải mê “Khảm hải”, không để ý đến “Nàng Hương” của mình. Khi xong việc thì nàng Hai đã thiếp đi mê mệt. Nàng không tỉnh lại nữa. Nàng đã là người mường trên. Dân bản lập miếu Nàng bên bến sông. Từ đấy những người đi làm “Nàng Hương” thường tới đó thắp hương. 

Va ngồi dậy. Cô đưa tay vấn mái tóc dài. Trăng xuyên qua cửa sổ, chảy tràn dưới tay cô. Ánh mắt lo lắng của pụt Khiêm làm Va ửng hồng đôi má. Không phải là ánh mắt sắc lạnh của pụt Lang, không phải là đôi mắt hấp háy của pụt Chẩn. Ánh mắt pụt Khiêm ấm áp và yêu thương như mắt chàng mồ côi. Bất giác Va sờ lên vai. Vòng tay rắn chắc, vầng ngực vững trãi và làn môi thơm, Va nhớ rõ như nó ở ngay đây. Không phải là giấc mơ. Va thấy mặt mình nóng ran. Không thể như thế được! Va chưa ở gần chàng trai nào đến thế! Cô ngượng ngùng nằm xuống, kéo chăn chùm kín đầu. Mình không được nghĩ đến chàng mồ côi, nghĩ đến pụt Khiêm. Chàng mồ côi chỉ có trong bài then “Khảm hải”. Pụt Khiêm thì đã có vợ rồi. Vợ pụt cũng đẹp lắm! Mình phải quên đi thôi. Va cố nhắm mắt lại. Ánh trăng lặng lẽ rút ra ngoài cửa sổ. Va đưa tay sờ khe khẽ lên môi mình. Hơi ấm vẫn còn lẩn quất đâu đây.

*

*    *

Nhà Ta Thương làm khoăn. Mẹ không cho Va đi làm “Nàng Hương”. Mẹ bảo những người “Khoăn ón” (nhẹ vía) như Va dễ bị “phi nhăm” (ma nhập). Mẹ sợ Va bị thêm một lần sẽ không tỉnh lại nữa. Va cũng không muốn làm “Nàng Hương” cho pụt Chẩn. Va sợ ánh mắt của ông ấy. Bây giờ, Va chỉ muốn làm “Nàng Hương” cho duy nhất một người.

Trăng mười sáu treo ngang đỉnh Khau Hốc. Trăng rắc bụi vàng xuống thung lũng Nậm Ngoan. Rừng cọ xõa bóng xuống chân ruộng. Va tựa nhẹ vào vai Khiêm. Trái tim cô rộn ràng. Không phải trong túp lều rách nát. Không có ánh mặt trời màu máu. Chỉ còn thân hình vững chãi của chàng mồ côi. Chỉ còn ánh mắt sáng như sao và đôi môi thơm mùi cốm. Va thấy người như say, như không còn ở thực tại. Cô vươn người ghé sát vào mặt Khiêm. Đúng là chàng rồi, chàng mồ côi! Cô nhắm mắt đặt môi mình lên môi Khiêm. Một cảm giác lâng lâng lan tỏa khắp người. Như luồng nước mát chảy lan khắp thửa ruộng khô nứt nẻ. Va choàng tay ôm lấy cổ Khiêm ghì chặt. Bàn tay rắn chắc giữ vai Va lại:

- Va à! Tôi có vợ rồi.

Câu nói như một tiếng sấm rền. Va vẫn như người mê muội:

- Không phải là tôi sao?

- Không phải là “Khảm hải”. Tôi...

Va buông tay, gục mặt. Không phải là giấc mơ cùng chàng mồ côi. Cô ngồi tựa vào gốc cọ già. Như có một nhát dao chặt, khoảng cách giữa hai người rộng ra. Va thấy lòng mình cũng có ai chặt. Vết thương mỗi lúc một hằn sâu. Va úp mặt vào hai bàn tay. 

- Sao anh còn đến đây?

- Tôi không biết! Tôi... muốn gặp Va... một lúc thôi!

 Câu nói buông xuôi lẫn vào tiếng gió. Rừng cọ xào xạc, lao xao. Gió dồn ánh trăng chạy về phía cánh đồng. Một khoảng tối xẫm tràn lên rừng cọ.

“Hằm hằm anh mang dao đi mài/ Hằm hằm anh mang gươm đến chém…”

Tiếng hát then hòa vào tiếng reo rừng cọ. Va thấy trái tim mình loạn nhịp. Không phải là em chú yêu chị dâu. Không phải là ngày chàng mồ côi bị chém. Vậy mà Va thấy tim mình nhói lên. Nước mặt chảy như ánh trăng. Nước mắt chảy qua kẽ ngón tay ướt đầu gối. Không phải là “Khảm hải” mà sao cuộc đời còn ngang trái, còn nhiều nước mắt. Va vùng dậy, bỏ chạy. Một bóng người lẩn sâu thêm xuống bóng tối dưới gốc cọ như một con chồn ác. Khiêm đứng dậy bước xuống con đường loang loáng trăng. Chưa bài then nào khó và làm Khiêm mệt mỏi, rã rời đến thế.

Người đàn bà túm tóc Va giữa chợ. Hai cái tát nảy đom đóm mắt. Xoỏng cải non trước mặt Va tung tóe. Mái tóc dài xổ tung. Người đàn bà dúi đầu Va xuống. Va bối rối, hoảng hốt không hiểu tại sao. Cô cố giữ tóc và kêu lên yếu ớt.

- Bỏ tôi ra! Sao lại đánh tôi?

- Sao à? Già mồm à... Mày ngủ với chồng tao còn hỏi sao à!

Người đàn bà vừa chửi vừa dúi đầu Va. Đám đông xúm lại xôn xao. Không ai xông vào can cả. Va vùng lên xô người đàn bà ra.

- Tôi không ngủ với ai cả. Bà đừng nói oan như thế...

Người đàn bà lại xông vào thì một bàn tay giữ lại. Một người đàn ông chặn trước mặt hai người. Người đàn bà gào to:

- Mày không cho tao đánh nó! Mày ngủ với nó nên bênh nó à...

Khiêm nhíu mày. Mặt anh đỏ lựng lên vì xấu hổ và giận dữ. Đôi mắt anh như có lửa. Khiêm gằn giọng:

- Ai bảo thế?

- Ông Chẩn bảo thế! Ông ấy bảo thấy hai người ngủ với nhau trong rừng cọ. 

Trong một thoáng, mặt Khiêm trắng bệch rồi tái đi:

- Ngốc thế! Thế mà cũng tin được à? Ở nhà sao không hỏi lại ra đây gây chuyện. Không thấy ông Chẩn thù tôi à? Ông ấy làm pụt không giỏi như tôi. Người trong bản không quý, không đón. Ông ấy ghét tôi nên nói xấu! Không biết nghĩ à?

Người đàn bà khựng lại. Nhìn vào mắt chồng, lửa trong người cô như tắt hẳn. Ừ nhỉ! Tại sao mình không nghĩ đến điều này nhỉ? Tại sao mình lại nghe người ta xui làm xấu mặt chồng giữa chợ? Người trong bản có còn ai tin, ai quý chồng mình? Người đàn bà cúi gầm mặt. Nước mắt chảy ra.

- Thôi! Xin lỗi người ta rồi về đi!

Người đàn bà cun cút nhặt rau cải vào xoỏng cho Va rồi cúi mặt bước. Va ngẩng lên. Đôi mắt sáng nhìn cô đầy đau đớn. Cô quay đi. Khiêm cũng quay bước. Như hai người đi về hai mường khác. Trái tim Va lại nhói lên. Câu hát then vẩn lên theo gió:

“Cay đắng lắm, cực nhục thay/ Chao ơi, trời đất ơi!”

Những đêm trăng suông, Va thường ngồi nhìn ra cửa sổ. Cánh đồng trải dài về phía chân núi bàng bạc. Tiếng dế kêu rền rĩ cho đêm thêm âm u. Gió thổi những hồi dài trên mái cọ. Tiếng con mèo động đực gào rú trên rừng vầu sau nhà. Va thấy lòng mình rời rã. Cô không thiết đi chơi cùng chúng bạn. Mấy đứa bảo chắc vì Va sắp lấy chồng. Va không biết. Cô không muốn lấy chồng nhưng ngày ấy cũng sắp đến rồi. Cô chỉ thấy nhớ, chỉ muốn gặp một người. Không phải chàng mồ côi. Người có khuôn mặt của chàng mồ côi. Người có giọng nói của chàng mồ côi. Va thấy lòng mình héo đi. Ước gì mình được nhìn thấy mặt người, được nghe giọng then ấy. Chỉ cần thế thôi...

*

*    *

Nhà Ta Thương làm đám cưới. Năm ngày nữa cũng đến đám cưới của Va rồi. Nhà chồng Va bên kia sông. Một thằng trai mới mười lăm tuổi nhưng nhà nó có bảy chục cân gạo nếp, bảy mươi cân lợn, bảy mươi lít rượu, bảy đồng bạc trắng, bảy con gà thiến... để xin cưới. Ăn hỏi từ năm trước, năm nay cưới vừa đẹp tuổi. Người già bảo thế. Va chỉ biết nghe, không biết cãi. Con gái lớn thì bố mẹ gả chồng. Sinh ra ở bản này là thế. Va vẫn chưa biết mặt chồng!

Va sang giúp đám cưới bê mâm. Gần một trăm mâm cỗ. Ngôi nhà sàn bảy gian chật kín. Ăn ba ngày. Người ra vào tấp nập. Mổ một con trâu và ba con lợn to như con bê. Lượt cỗ này dọn, lượt cỗ khác lại bê lên. Mùi khói bếp, mùi mỡ lợn, mỡ trâu bám vào không gian đặc quánh hơi người. Mệt mỏi nhưng không thể trễ việc. Ông trưởng bếp luôn mồm quát giục. Lửa cháy đùng đùng làm những khuôn mặt nấu bếp đỏ lựng. Va hối hả chạy lên, chạy xuống cầu thang bưng dọn mâm. Mắt Va vẫn ngóng ra cổng. Va biết Khiêm không hay đến đám cỗ cưới. Khiêm là “Pụt” nên không muốn ăn uống chung với mọi người. Biết vậy nhưng cái bụng vẫn như có lửa đốt, đôi mắt không nghe theo cái đầu. Biết đâu “chàng mồ côi” sẽ đến. Va chỉ mong được gặp chàng một lần thôi, trước khi lấy chồng. Rồi Va sẽ quên, sẽ quên “Nàng Hương”, quên chàng mô côi và cả bài then “Khảm hải”.

Một người say rượu bước lảo đảo xô phải Va. Bát canh bí vừa múc trong nồi đổ ụp vào tay. Nóng như lửa đốt. Rát buốt tận gan ruột. Một bàn tay túm lấy Va kéo về phía máng nước. Nước nguồn xối vào tay làm giảm cái nóng, cái rát. Cô giật mình khi nhận ra người kéo mình đi ngâm tay.

- Anh đến từ bao giờ?

- Tôi đến một lúc rồi. Tại Va bận nên không nhìn thấy.

Va bỏ tay ra khỏi dòng nước lạnh. Cái nóng, cái rát quay lại. Nước mắt Va trào ra không rõ vì đau hay tủi:

- Tôi sắp lấy chồng rồi!

- Bao giờ? - Khiêm giật mình.

- Năm ngày nữa!

Khiêm cúi xuống cầm tay Va dúi vào dòng nước máng. Mặt Khiêm tái đi. Môi Khiêm run run:

- Phải ngâm cho đến lúc hết nóng, hết rát. Tối ngày kia, tôi đợi ở rừng cọ!

Có tiếng chân người. Ông Ta Thương đến hỏi thăm Va. Khiêm tránh mặt vào nhà sàn, ngồi vào mâm cỗ.

*

*     *

Đêm không trăng. Trời se lạnh. Va gục mặt vào ngực “chàng mồ côi” của mình, không ngại ngùng, ngượng ngập. Cô khóc. Nước mắt hoen ngực áo. Ngày kia Va theo chồng về bên kia sông, như chàng mồ côi thành sa dạ, sa dồng chèo thuyền vượt biển. Biết có còn gặp lại nhau, nhìn thấy nhau? Như thế làm sao Va sống nổi! Vòng tay Khiêm siết chặt. Va nhỏ bé biết bao nhiêu, vậy mà anh không thể cưới Va về làm vợ. Mấy ngày không gặp, anh nhớ cô tới mụ mị cả người. Nhưng Khiêm là “Pụt”, Khiêm không thể bỏ vợ, không thể cưới Va. Khiêm thấy khóe mắt mình cay cay. Anh cúi xuống Va. Mùi thơm nhẹ như hương lúa. Hơi thở anh thơm hương rượu nếp. Hơi thở quyện vào nhau nồng nàn hương mật. Đám cỏ mềm ướt đẫm sương đêm. Những cơn gió mơn man trên cánh đồng, rừng cọ. Cả hai ghì chặt, cuốn xiết. Gió nhẹ nhàng, ve vuốt hôn lên làn da đêm. Gió vờn trên rừng cọ, ngọn đồi, con suối. Đêm mênh mang tan ra. Gió cuốn vào đêm trong niềm hạnh phúc bất tận.

Một ánh sáng lóe lên trong đêm. Tiếng cười khùng khục xóa tan sự tĩnh lặng đê mê trên rừng cọ. Một con dao dí sát cổ Khiêm:

- Nằm yên đó! Để cho cả bản thấy cái mặt đểu của mày. Xem còn ai tin mày là một thày pụt tốt! Ới làng ơi...

Khiêm vùng dậy. Bằng một cái gạt tay, con dao nhọn đã nằm gọn trong tay Khiêm. Cơn giận bùng lên như lũ quét, con dao cắm thẳng vào ngực kẻ phá đám kêu làng. Giọng lão Chẩn tắc nghẹn. Lão lảo đảo gục xuống. Va thấy mắt mình hoa lên, ánh đèn bùng lên màu máu. Như buổi chiều trong giấc mơ “Khảm hải”, Va thấy chân tay mình co quắp. Sức lực rút đâu cạn kiệt cả. Va thấy mình được bế trên tay, sấp ngửa chạy trên những bờ ruộng nhấp nhô.

*

*     *

Người già bảo đám cưới Va to nhất làng. Mẹ mặc quần áo đẹp và đeo chiếc vòng bạc trắng cho Va. Khuôn mặt Va nhợt nhạt. Ánh mắt thất thần. Ngoài kia, người ta ăn uống, nói cười rộn rã. Chỉ mình mẹ tất tả trang điểm cho con. Mẹ nhìn Va mà đau lòng quá! Nhưng mẹ cũng chỉ là đàn bà. Mẹ về làm dâu năm mười sáu tuổi. Mẹ sinh và nuôi Va lớn nhưng gả Va về đâu thì do bố quyết. Người đàn ông là trụ cột gia đình. Giờ đây, những người đàn ông đang ngồi uống rượu. Tiếng hò hét, hô hào uống cạn làm căn buồng nhỏ rung lên bần bật. Mẹ ôm Va vào lòng khóc rưng rức. Va lặng thinh. Cô không nói gì, không để ý đến những gì đang diễn ra quanh mình. Cô chỉ nhớ Khiêm đã đi rất xa, nhớ chàng mồ côi thành sa dạ, sa dồng, bị quan Slay bắt đi chèo thuyền vượt biển. Những lời then của chàng mồ côi hay chính những tiếng nói từ lòng Va.

“...Ở lại nhé cái nhà bốn góc/ ở lại nhé cây củi đương hồng/ ở lại nhé cái nồi miệng bằng/ ở lại nhé cái kiềng ba lưỡi/ ở lại nhé mái cọ bên ngoài che dột/ ở lại nhé sợi lạt buộc chắc bên trong.”

Những bước chân đờ đẫn bước xuống cầu thang. Hồn Va đang gửi trong câu hát. Câu hát then của người yêu dấu, của chàng sa dạ, sa dồng. Câu hát nâng bước chân qua tảng đá rửa chân, qua cái cổng tre thấp. Câu hát đưa Va qua con đường gập ghềnh ra bến sông. Những câu hát day dứt, xót xa.

 “...Ở lại nhé ba tấc đất chôn nhau/ Ở lại nhé miếng đất bằng ta đứng/ Thân tôi khổ đến chết/ Dưới bãi chẳng sợi rơm/ Cổng vườn chẳng vỏ trấu.”

Đám rước dâu dừng lại bên bến sông. Con đò chờ sẵn. Cô dâu, chú rể và những người đưa đón bước xuống thuyền. Bước chân Va vẫn nhẹ bẫng, lâng lâng. Nước lờ đờ chảy. Nắng vàng lóa cát bến sông. “...Khổ không chết mới sống/ Chèo đi thôi chèo đi/ Nước biển đỏ như máu/ Nước biển nóng như lửa/ Cay đắng lắm đời sa dạ sa dồng.”

Con đò rẽ nước chầm chậm sang ngang. Tiếng cười nói xôn xao, đầy ắp. Chiếc áo dài đen, chiếc thắt lưng xanh làm Va thật đẹp nhưng không làm lòng Va vui. “Nước biển đỏ như máu/ Nước biển nóng như lửa”. Câu then “Khảm hải” làm Va choáng váng. Tai Va ù đi. Nắng hóa máu chảy lênh láng như buổi chiều chàng mồ côi bị chém. “Đợi tôi với chàng sa dạ, sa dồng. Tôi là vợ chàng thì tôi sẽ theo chàng. Tôi không sợ mười hai rán nước đầy thuồng luồng, ma quỷ. Tôi chỉ cần được ở bên chàng”. Cô đứng dậy. Một người vội vã níu cô lại. Va vùng vằng giật tay ra. Tiếng người kêu thét, nhốn nháo. Một vực xoáy bất ngờ hiện ra. Hun hút. Va bay lên. Không còn bàn tay nào níu giữ lại.

Sông Lô vẫn chảy. Miên man...

Súng nổ cửa rừng

19/07/2013

.HỮU PHƯƠNG

Sao mi lại bắn tau? Hức!.. Mi thừa biết, một cái lẩy cò, khẩu AK phun ra một khắc ba viên. Nghĩa là ngực tau hứng trọn cả ba viên đạn của mi. Hức!..

Sao mi lại bắn chính ân nhân của mình? Hức!..

Giải ngũ về làng, mi có chi trong tay? Không gì sất. Không xu tiền cắc bạc. Không ruộng đất trâu bò. Không nghề ngỗng. Không bằng cấp. Có chăng là cái nước da tái bủng tái beo vì sốt rừng. Mi ôm một mớ hồ sơ đi xin việc, đùn hết cửa này sang cửa khác, uốn lưỡi kêu thương cốt kiếm cái chân bảo vệ. Nhưng ở đâu người ta cũng lắc đầu quầy quậy. Con vợ mi gầy tong teo, như que củi. Cháo rau đắp đổi, không đủ sữa cho con bú. Thằng bé gần hai tuổi, gầy xanh như con nhái bén. Đầu to đít tóp. Tay cẳng nhẳng nhiu. Hai mắt thô lố. Cái mặt choắt như mặt khỉ con. Cả hai mẹ con ngóng mi xin việc trở về, như ngóng một cơ vận. Biết thế, mi không dám về nhà, thất thểu đi vào nhà tau, ngồi xẹp xuống ghế salon. Tuyệt vọng. Tau nói, đưa hồ sơ đây. Mi không buồn nhấc tay, nói, không ích chi mô! Tau cười nhạt, đợi một tuần nhá. Mi cười còn nhạt hơn, tau đố mi đó! Ba hôm sau, tau ghé nhà, không gặp mi. Vợ mi bảo, mi tìm được chân phụ hồ, nhưng tiền công không đủ gói cơm trưa. Tau nhắn lại, về bảo nó chuẩn bị đi làm. Vợ mi nửa tin nửa ngờ. Không dám nói lời cám ơn. 

Đúng bốn hôm sau nữa, tau đưa về cho mi tờ quyết định. Mi lật qua lật lại. Rồi đọc từ trên xuống. Lại đọc từ dưới lên. Săm soi từng nét chữ. Rõ ràng chữ ký. Tên người. Và dấu son đỏ chót. Cuối cùng, nước mắt mi ứa ra. Miệng méo dệch. Giọng nghẹn ngào. Mi hỏi, có thật không?

Mi thay bộ đồ màu cỏ úa của lính, bằng bộ đồ màu lá cây. Cắt may cũng từa tựa nhau. Cũng mũ mão quân hàm phù hiệu từa tựa nhau. Sắc phục của ngành kiểm lâm. Mi được đưa về giữ một vùng rừng đặc biệt, Vườn quốc gia, di sản thiên nhiên thế giới.

Ngày nhận lương đầu tiên, vợ chồng mi soạn một tiệc rượu nhỏ mời tau. Vợ mi thổn thức, nói, vợ chồng em đội ơn bác suốt đời. Tau đáp, có chi, bạn bè thuở chăn bò, giúp nhau tí chút thôi mà. Mi trịnh trọng nâng chén ngang mày, hướng sang tau, nói, trước là bạn bè, từ nay là ân nhân!

Tau cũng lo làm công tác dự nguồn. Nguồn ấy chính là mi. Không bằng cấp đừng hòng leo lên. Mi leo càng cao, tau càng được nhờ. Tau quyết đầu tư, vẽ cho mi cái bằng, bằng cách, đẩy mi vào học tại chức,  ngành Luật. Đầu vào đầu ra tau lo tất, kể cả luận văn tốt nghiệp. Mi chỉ việc đến ngồi, điểm danh. Cuối buổi mời các thầy giáo đi uống nước, hát karaoke. Các vị tiến sĩ, giáo sư đáng kính ấy, đến từ Hà Nội, Sài Gòn. Xa vợ con, buồn ngao ngán, được đi hát thích lắm. Điểm học của mi chói ngời. Bằng tốt nghiệp của mi cũng đỏ tựa mặt trời mọc. Bọn bạn bè gác rừng với mi, phục sát cỏ!

Có một sự việc bất ngờ xảy ra suýt biến công đầu tư của tau, thành công cốc. Sao mi liều thế? Mi dại dột thế? Vùng này là một rốn nước. Hễ mưa một chút ở thượng nguồn, phía rừng Lào, là nước tống về như thác. Các con khe, các dòng suối, trước đó còn khô không khốc, nước chợt trào dâng, như thể nước tự lòng đất đùn lên. Không ai kịp trở tay. Một cháu gái chăn bò mải chơi bị nước cuốn đi như thanh củi mục, như mớ giẻ rách. Nước vày bé trong con sóng trào sôi. Sông Son gầm gào chảy xiết. Thế mà mi lao ra. Lao như một mũi tên. Mi chộp được đứa bé. Hai cái đầu đen vật lộn cùng nước xoáy. Lúc ẩn lúc hiện. Xa dần. Rồi mất tăm mất tích. Ai cũng bảo, thôi rồi! Chống thuyền đi tìm xác. Tiếng đồng hồ sau, thật bất ngờ, tìm được mi và cháu bé, như hai cái xác chết trôi tái xanh tái ngắt, nằm thoi thóp bên bãi đất ngô. Hú vía!..

Có bằng đại học, mi tức thì nhảy lên ghế trạm trưởng trạm kiểm lâm Trộ Mợng. Sao cái trạm này mang tên Trộ Mợng? Trộ mợng thì cũng như trộ nò, trộ rớ. Bao nhiêu nước trên cánh đồng, trên các khe suối, đều đổ dồn về đây. Bởi thế, bao nhiêu cá tôm, lươn lệch đều đi qua đây. Người ta chặt tre đóng cọc, ken dày hai phía, chỉ chừa một khoảng chính giữa lòng suối, đủ đơm cái mợng. Nước chảy rất ón. Mợng to hơn chẹp, gấp năm gấp bảy nò. Sớm hôm sau lội ra, chỉ việc tháo cái oi ở đuôi mợng, đổ các thứ tôm cá lươn lệch vào sọt mang về. Trạm kiểm lâm này cũng thế, một bên là vực sâu thăm thẳm, nước cuộn xiết, xanh lè. Xanh đến rợn người. Chóng mặt. Đó là một nhánh sông ngầm của thượng nguồn Sông Son, chảy từ phía rừng Lào, dưới quần thể đá vôi mênh mông vắt qua hai nước. Về đây, nó đùn lên sùng sục. Còn bên kia, là lèn đá xanh dựng đứng chọc trời, quanh năm mây phủ. Ở giữa là con đường độc đạo. Con đường như sợi chỉ quanh quất dưới chân núi đá. Ngày xưa, những binh đoàn xe pháo nườm nượp chảy qua đây, sang đất Lào, rồi đi vào các mặt trận phía trong. Kẻ địch biết, nhưng không làm gì được. Lèn cao, đất hiểm, chúng chỉ mỗi cách rải bom tọa độ. Nhưng bom đạn nào vừa với vực sâu và những mái lèn cao ngất kia? Sau chiến tranh, người ta mở rộng, đẽo vào chân lèn, để có hai làn xe chạy. Nhựa láng phẳng phiu. Biển báo cọc tiêu mương rãnh thông suốt. Dân đi rừng thích lắm. Người ta đặt ở cửa rừng này một trạm kiểm lâm. Trăm ngả gỗ lạt, mây song, củi lá, tất tật phải qua đây. Thậm chí, cả lũ chồn cheo khỉ vượn hươu nai cũng qua đây, để xuống bến dưới kia uống nước. Trạm này nó hệt cái trộ mợng.

Người đời gọi tau là lâm tặc. Các cấp chính quyền gọi tau là lâm tặc. Mi và đồng nghiệp cũng gọi tau là lâm tặc. Tau không cãi. Nhưng gọi thế, chưa thật chính xác đâu, tau chỉ là kẻ trung gian còn trực tiếp phá rừng, là những nông dân của vùng sơn cước này. Mà ngay cả thế, gọi họ là lâm tặc cũng có chút oan. Hàng trăm đời nay, hàng ngàn năm nay, họ sống nhờ rừng. Gỗ lạt, củi lá, mây song, củ quả, muông thú... đã nuôi sống họ. Giờ rừng cấm, họ sống bằng chi? Vậy, thực sự lâm tặc là ai? Là các đại gia lắm tiền. Không có họ, tau chuyển gỗ về cho ai? Và không có tau đứng ra thu mua, những người nông dân sơn cước nghèo khó lam lũ kia, xẻ lim táu sến kiền kiền về làm gì? Đun bếp chắc!

Rừng có hạn. Một cây gỗ huyệnh chí ít cũng bốn, năm chục năm mới khai thác được. Lim sến trắc gụ cũng không dưới một trăm năm. Trong khi các đại gia sinh nở hàng ngày. Mi cứ đến nhà họ mà xem. Ngôi nhà sáng rạng gỗ. Gỗ lát sàn. Gỗ ốp tường. Gỗ đóng trần. Đóng ốp cả phòng vệ sinh. Rồi gỗ cửa ngõ, cầu thang. Gỗ bàn ghế, giường tủ. Từ tầng hầm cho chí tầng áp mái, toàn gỗ nguyên khối. Không thèm chơi thứ gỗ công nghiệp. Không thèm của Đài Loan, Hàn Quốc. Chán, họ sắm ngựa. Dân mình gọi là phản ấy, thường là lim hoặc gỏ. Mỗi bộ ngựa hai tấm. Chân quỳ chạm đầu voi. Mỗi tấm dày một gang, dài gần hai thân người, rộng xấp xỉ mét. Cốt để làm sang, để khoe của. Trưởng giả thế, chứ nằm loại ấy đau lưng lắm. Có nhà sắm mấy bộ, mỗi tầng một bộ. Có vị chuyển ngựa lên các tầng, phải dùng cần cẩu, loại cẩu xây nhà cao tầng ấy. 

Xong nhà của họ, thì đến nhà con cái dâu rể cháu chắt họ. Nhiều vị đâu chỉ một nhà. Còn có biệt thự ở thành phố này, nơi nghỉ mát nọ. Gỗ chảy khỏi rừng, vì thế, không kể xiết!

Rừng quê mình coi như đã phá xong. Nhìn xa thấy mờ mờ xanh xanh, tưởng là rừng, nhưng thực ra, chỉ toàn dây leo và lau lách. Người ta nhác trồng lại rừng gỗ quý. Ngay giữa đại ngàn xưa, thay vì để rừng tái sinh và trồng dặm vào để gây lại rừng, họ tận thu tận diệt rồi đem bạch đàn cao sản trồng xuống. Một thứ ốc bươu vàng không hơn. Loại này chỉ nên trồng ở những vùng cát khô, sa mạc, vùng ven biển. Nó tự sinh sôi khủng khiếp. Hạt theo gió phát tán mọi chiều. Nhưng nó ăn tàn phá hại đất, lại chẳng tạo ra được lớp lá mùn dày hàng gang tay, chẳng giữ ẩm cho đất mùa nắng hạn, chẳng giữ nước, thẩm thấu nước mùa mưa lũ. Năm năm sau họ thu hoạch, để lại những vùng rừng nghèo kiệt hơn, mới sinh ra lũ ống lũ quét, lở núi lở non. Nhà cửa mùa màng tang thương.

Bây giờ, chỉ còn vùng rừng cấm, di sản thiên nhiên thế giới này. Nó tựa như một ao nước trong veo, giữa sa mạc cằn khô. Trăm thứ con đều trườn bò tới, tìm cách uống trộm. Lại nữa, gỗ xứ mình là tốt nhất nước đấy. Đặc biệt là lim. Vì nó nằm trên các mái núi đá, giữa các khe đá. Cằn cỗi. Các thớ gỗ sắt lại, cứng như đá. Phải mấy trăm năm mới cho ra gỗ khối. Không phải như rừng Lào, bằng phẳng, tốt tươi, lim cây to và dài, nhưng ruột xốp. Lim xứ mình hết chê. Như người, lim cũng có nhiều loại. Loại cưa ra có bột màu trắng, gọi là lim mỡ. Tốt đấy, nhưng vẫn thua lim vàng (hoàng lim), bột cưa màu vàng. Lim vàng vẫn thua lim xanh. Roòng và rác lim xanh rất dễ phân biệt. Roòng có màu xanh nhạt, rác trắng hồng. Roòng lim xanh cứng tựa sắt. Xẻ khi tươi, lưỡi cưa chạm phải đã nghe xoe xóe. Ê cả răng. Vài đường cưa đã phải thay lưỡi. Khi khô thì khỏi nói, đường cưa tóe lửa. Các đại gia rất mê loại lim này. Giờ nó tập trung nhiều ở thung lũng dưới chân đỉnh U Bò, trung tâm của di sản thiên nhiên thế giới, cách cửa động Thiên Đường vài cây số đường chim bay. Và mi được lệnh giữ nó. Mi chốt ngay cửa rừng hiểm yếu. Trạm Trộ Mợng!

Nhưng đồng tiền có sức mạnh ghê gớm. Quyền lực cũng không kém. Cả hai cái đó kết hợp, có sức mạnh vô hình khủng khiếp, thế mà gần mười năm nay mi vẫn trụ vững. Người dân khắp nơi nhiều lúc yêu mến mi, vì mẫn cán bảo vệ rừng. Nhà nước cũng nhiều lần khen thưởng mi, vì bắt được gỗ lậu. Nhà cửa mi cũng đã lên tầng, trong nhà gỗ lạt sáng choang. Vợ con ăn trắng mặc trơn. Quả thật, với mi, công tư trọn vẹn!

Mi làm được như vậy, là nhờ có tau điều phối đấy. Mi biết không, đại gia nào xứ này, muốn có gỗ, đều rỉ tai sếp của ngành mi. Rồi sếp của ngành mi, lại rỉ vào tai tau. Tất cả độc lập. Không ai biết ai. Cho nên, tau chính là trộ mợng của các dòng tiền. Các dòng tiền này lại gọi các dòng gỗ lạt trong rừng chảy ra, và đêm đêm chảy qua Trạm Trộ Mợng của mi. Vì thế mà trước mỗi đợt gỗ đi, tau đều mời mi đến quán Thiên Đường làm luật. Ở đó, con bé phục vụ có đôi mắt Đức Mẹ, mi say như say rượu cuốc lủi Võ Xá và món rùa hầm thuốc bắc chúa tể, thơm lừng cả gian phòng. Loại rùa sống ở các khe núi đá không biết bao lâu. Chân to như chân chó. Mi say cả hai thứ. Gái đẹp và rùa hầm thuốc bắc. Nhưng vẫn tỉnh như sáo khi tau tính tiền phần trăm. Cứ năm chuyến gỗ đi, thì một chuyến tau cho mi bắt, để mi lập thành tích. Truyền hình quay đặc tả các phiến gỗ chỏng chơ, bên mấy chiếc xe bò tàn tạ, cùng khuôn mặt mi trong sắc phục kiểm lâm, tươi hơn hớn. Mi ghi điểm trong lòng người dân, và các cấp lãnh đạo. Mi cũng ghi luôn tên mình, vào đội ngũ cán bộ dự nguồn cấp cao hơn...

Người đời vẫn gọi tau là lâm tặc. Các cấp chính quyền cũng vẫn gọi tau là lâm tặc. Nhưng khi cơn đói giáp hạt trờ đến, lại khi rét đậm rét hại giết chết, hay khi lũ cuốn trôi, nông dân miền sơn cước này không còn trâu bò cày kéo là tau ra tay. Gạo cứu đói được chuyển về bằng ô tô, tới ủy ban xã, rồi từ đó về tận các thôn bản. Người dân mang thúng đến nhận, theo khẩu. Dân có no, mới đi rừng chặt gỗ được. Hai vụ chiêm mùa, tau cấp trâu bò khỏe cho họ cày bừa. Bò u trâu mờm nhé. Không đùa đâu. Hết cày cấy, thì dùng kéo gỗ cho tau. Mỗi con năm, bảy triệu, họ sẽ được khấu trừ dần vào tiền gỗ bán cho tau, một kiểu đầu tư hai bên đều hài lòng. 

Khó khăn nhất là việc ăn sưa, khó hơn ăn trầm nhiều. Sưa thường mọc ở các hung sâu. Nó là những thung lũng bé tí giữa mịt mùng quần thể đá vôi bao la như biển, hàng ngàn vạn năm không ai đặt chân tới. Người ăn sưa phải trườn như con thằn lằn, vắt mình trên sóng đá cheo leo nhọn sắc. Mỗi đợt đi hàng chục ngày. Nhiều đợt về không. Nhưng vì giá sưa cao tận mây xanh, nên tau không mảy may đắn đo đầu tư. Mỗi gùi là một nhóm trai tráng. Trong gùi có đầy đủ áo quần bảo hộ, giày cao cổ đế răng cá sấu, găng tay ráp, gạo cơm mắm muối, đường sữa thuốc men, không quên cả rượu. Người ăn trầm rất dễ bị sốt rét. Nhưng người ăn sưa không bị bao giờ. Sưa ở đây có từ vạn thủy. Đạp trúng là gặp đại thụ. Năm ba trai tráng gùi một lúc không xuể, phải đem thu giấu, đào các hầm chôn, hay thu trong các hốc đá. Phải làm dấu để sau quay lại lấy. Phải nghi trang đánh lạc hướng, đề phòng các nhóm khác phát hiện lấy trộm. Sưa đi qua Trộ Mợng của mi, một phần thôi. Đó là sưa khai thác ở các hung gần. Còn sưa khai thác ở các hung xa, sát biên giới Việt – Lào, thì chuyển qua phía đất Lào, rồi quay về đất Việt, bằng con đường khác. Tau đầu tư theo gùi, và thu mua sản phẩm theo thời giá. Rất sòng phẳng. Trả tiền tươi. Dân thích lắm. 

Sao mi lại bắn tau? Hức!..

Giữa hai ta, ăn chia bao giờ cũng sòng phẳng. Bởi ta có nhau và cần nhau. Mệnh đề luôn đúng hai chiều. Cần và đủ. Nhưng chuyến đêm nay có chút đặc biệt, tau chọn đi đường thủy. Bè tau kết rất khéo. Nhìn thấy bốn phía đều lim, nhưng ở giữa lòng bè, phần chìm dưới nước, là những phách dày gỗ sưa. Gỗ sưa ăn bằng cân. Giá như vàng! 

Với tau, nhắm mắt cũng biết loại gỗ gì. Bởi tau biết ngửi mùi gỗ. Còn mi phải nhìn tận mắt, mới gọi được tên. Sao mi biết phần chìm dưới nước của bè, có gỗ sưa? Khi quân gia lính tráng tau kết bè dưới vực sâu, cũng là lúc tau mời mi đến quán Thiên Đường. Cả buổi, mi tít mắt với cô em có đôi mắt Đức Mẹ và món rùa hầm thuốc bắc thơm lừng. Mi đâu chứng kiến việc kết bè? Và vì thế cuộc làm luật chỉ diễn ra với bè toàn lim. Nếu có thêm với chừng ấy gỗ sưa, giá phải bằng năm, bảy bè gỗ lim ấy. Ừ thì lần này có sự không mấy sòng phẳng đấy, nhưng sao mi biết chìm dưới nước có gỗ sưa? Mi cho người bí mật theo dõi sao? Hay cây sưa trăm tỉ, nằm lọt thỏm giữa thiên la địa võng quần thể đá vôi, không cánh mà bay, khiến mi nghi ngờ, cho ách lại? Chỉ cần lọt qua đây, tiếng đồng hồ sau, bè tau đã có giữa sông Gianh bao la, với trăm bến bờ gỗ lậu. Ô tô đối tác đã ém chờ. Bốc lên xe xong là tau đút tiền vào túi, và biến mất không tăm tích. Thế mà mi ra lệnh neo bè lại, là sao? Tau điên tiết múa dao lao tới. Lưỡi dao vạch những vòng cung sáng lóa như những tia chớp, đủ chết giấc những ai yếu bóng vía. Là tau dọa thôi. Uy hiếp thôi. Để mi rút lại cái lệnh kia. Đâu có chém thật. Bởi bản thân con người mi, là một phần trong chiến lược đầu tư của tau kia mà! 

Sao mi lại bắn tau? Hức!..

Hay sau vụ cây sưa trăm tỉ, tay hạt trưởng cấp trên của mi bị dính đòn, và mi thấy thời cơ đã đến, cần có động thái mạnh để thể hiện mình? Dễ ợt. Nếu muốn, ngay ngày mai, tau cho mi bắt một mẻ, vài chục khối, giữa thanh thiên bạch nhật. Tên tuổi mi chẳng nổi như cồn sao?

Sao mi lại bắn tau? Hức!..

Hay sau chừng ấy quãng đường, tay trót nhúng chàm, trái tim trong mi chợt tỉnh thức? Nó cảnh cáo mi đã bắt tay kẻ thù của rừng, để một phần tài nguyên của Tổ quốc mất mát. Nó nói thẳng với mi rằng, mất rừng là mất tất cả, mất luôn cả cái di sản thiên nhiên thế giới này, bởi mất rừng là mất hệ sinh thái phong phú có một không hai. Mất cả thảm thực vật đa dạng. Mất cả hệ động vật quý hiếm, chỉ còn lại là một biển mênh mông xác đá vôi đã chết. Như nấm mồ. Trơ trọi dưới trời giông gió, không ngăn được cơn thịnh nộ của thiên nhiên giáng xuống. Và con người như những sinh linh bé nhỏ, tang thương trong cơn cuồng phong của vũ trụ! Hôm qua trên mạng, có một bài viết làm cả tau cũng giật mình. Rằng Việt Nam, sắp là nước không có rừng. Đau đấy. Nhưng là cái đau chung. Rừng chung mất, nhưng nhà riêng vẫn phải có gỗ. Và máu rừng vẫn vô tình chảy. Chảy vô tư...

Có phải chính những gì xảy ra, đã chạm phải bản lĩnh người lính ngủ quên trong mi, khiến nó vùng lên, quyết chặt đứt cái guồng máy phá rừng vô hình đang quay tít kia, mà trong đó, mắt xích quan trọng nhất, thao túng mọi ngõ ngách, chính là tau. Và những người như tau?

Tau thậm chí không thể biết được, cái ý chí ngún cháy trong đầu mi bao năm nay. Cái ý nghĩ sục sôi trong đầu mi lúc này. Nhưng bây giờ, biết cũng chẳng làm gì nữa. Mi đã lẩy cò. Súng đã nổ. Ngay chính cửa rừng này. Và ngực tau đã hứng trọn ba viên đạn từ khẩu AK của mi. Máu đã ướt đẫm hai vạt áo tau. Hức!..

Tau sắp chết rồi. Hức!.. Nhưng là chỗ bạn chăn bò và bạn làm ăn, mi phải giúp tau việc cuối cùng này. Nghĩa tử nghĩa tận đấy! Mi lột chiếc nhẫn ở ngón tay, đưa về cho vợ tau. Và lấy sau túi quần, cái thẻ ATM, đưa sang bên kia sông, cho con bồ non của tau. Cô giáo Ánh Mai ấy, ở trường tiểu học Cây Lim. Cô ấy biết mật mã đấy. Ánh Mai đang nuôi thằng con trai của tau. Thằng bé rất kháu...

 Tội nghiệp con bé, hoa khôi của trường Cao đẳng Sư phạm tỉnh đấy. Không biết nghe ai xúi giục, hay bản tính tuổi trẻ, một giây bồng bột trỗi dậy mà làm đơn tình nguyện lên dạy miền núi và được phân về cái trường heo hút dưới chân lèn ấy. Sau này, khi chỉ còn hai đứa, tau và nàng, nàng bộc bạch tất cả. Sau mỗi buổi chiều tan học, ai về nhà nấy, chỉ còn lại một mình nàng hiu hó. Buồn như chó chết con ngồi thu lu trước chân lều. Một ngôi lều tạm bợ, lợp bằng mấy tấm lá cọ, đến cái chỗ tắm cũng không có. Đêm rừng sâu như vô tận. Tiếng từ quy gõ buốt canh trường. Gõ mòn tuổi trẻ. Nàng thấm thía nỗi thiếu thốn. Thấm thía nỗi cô đơn. Thấm thía nỗi sợ hãi. Đến cả lũ khỉ trên lèn, cũng nhận ra sự sợ hãi của nàng. Chúng tiến lại mỏm đá gần nhất, chỉ trỏ trêu đùa. Có con còn vạch dái ra gãi trước mặt nàng. Nàng khiếp đảm rú lên. Tiếng rú thất thanh bất ngờ, được các vách lèn cộng hưởng, rền vang, khiến lũ khỉ cũng bị một phen giật mình, bỏ chạy. 

Về sau chúng lờn mặt, chẳng sợ nữa. Có con sà xuống vườn trường, nơi có vạt ngô lai thí điểm vừa chắc hạt. Nàng lấy đá ném đuổi. Chúng cũng nhặt đá ném lại. Có hôm chúng đông quá, đá ném vào nàng như mưa rơi. Buộc nàng phải bỏ chạy ra phía bờ sông, mặt cắt không ra hạt máu. Cũng vừa lúc bè tau trờ đến. Nhưng khuôn mặt đang tái mét của nàng, lập tức chuyển sang gam kiêu kỳ. Ánh mắt nàng nhìn tau, như chó nhìn thóc. Con bè lao nhanh. Thượng nguồn sông Son nước chảy xiết. Tau chỉ liếc nàng được nửa giây, nhưng sắc đẹp của nàng ở lại trong tau vĩnh viễn. Tau lập tức lên kế hoạch tấn công. Con gái loại này không vồ vập được đâu. Không như đàn bà con gái ở các làng bản kia, tau chưa mở lời, đã leo lên giường. 

Đầu tiên là cuộc giả vờ đi săn, lạc vào nhà trường, được ông hiệu trưởng già tiếp nước. Tau hỏi về chuyện sách vở. Ông bảo rất thiếu. Hai hôm sau tau mang đến một gói tiền tặng nhà trường xây dựng tủ sách. Ông hiệu trưởng mừng lắm, tập trung giáo viên và học sinh toàn trường thông báo. Mọi người vỗ tay như sấm. Nàng cũng vỗ tay. Tau giả vờ đi thăm nơi ăn ở giáo viên. Ông hiệu trưởng đi theo. Nhìn nơi ở của nàng, tau nói, không được. Phải an cư mới lạc nghiệp. Hiệu trưởng nói, xã này nghèo lắm, đang xin huyện, không biết bao giờ có. Tau nhẩm qua giá thành một cái nhà hai gian, cấp bốn, đoạn trở về văn phòng, nói, doanh nghiệp tôi sẽ hỗ trợ nhà trường, xây nhà ở giáo viên. Hiệu trưởng mừng suýt khóc. Hai tháng sau, nàng có phòng ở, tường gạch mái ngói. Tau thành khách quý của trường. Thành người của trường. Ngày Nhà giáo năm đó, tau đến trường cả ngày. Giúp bí thư đoàn là nàng làm báo tường, tổ chức liên hoan văn nghệ. Tau làm cả thơ, ngâm trước hội đồng giáo viên. Dẫu còn đây gỗ ghép bàn kê. Một nét chữ cũng đổi bằng gian khó. Tau cùng nàng còn song ca. Rất ăn ý. Mọi người vỗ tay không ngớt. Nàng thầm cám ơn tau lắm. Sau đó thì tau đến với nàng một mình, vào giờ trường hoang vắng nhất. Nàng ôm chầm tau mà khóc. Nước mắt tau cũng ứa ra. Nàng khóc vì vợi bớt nỗi cô đơn. Tau khóc vì sung sướng. Lát sau thì tau rứt ra đi. Tự nhủ là chưa vội đặt nụ hôn. Chừng nào nàng chưa chín nẫu. 

Hôm sau nữa vào ngày chủ nhật, tau đến với một con gà, một chai rượu vang. Thịt gà rượu vang, với phụ nữ, bắt lắm. Má nàng chín như trái hồng. Phừng phừng. Mắt nàng lóng lánh màu thủy ngân. Hai đứa song ca trong men rượu. Những bài tình ca mê mẩn. Mềm muội cả tâm hồn. Đôi môi ướt mọng của nàng đón nhận nụ hôn của tau. Nồng nàn. Thơm tho. Nhưng tau quyết chỉ dừng lại đó. Không lấn thêm.

Gần một tháng sau tau đến. Cũng một ngày chủ nhật. Trời rây mưa. Mưa giăng mờ các mái núi. Giăng lưới buồn vây bọc ngôi nhà bé nhỏ. Tao đứng với cân thịt lợn rừng đỏ au, chôn chân trước cửa phòng khép kín của nàng. Đứng rất lâu. Không gõ cửa. Không mở lời. Cuối cùng, hình như không chịu nổi sự đợi chờ, nàng lên tiếng, có chút hờn dỗi, sao anh không vào đi? Cửa có cài then đâu. Hai đứa lao vào nhau, như hai thỏi nam châm, trong tâm trạng khát cháy. Sự đợi chờ như dây cháy chậm. Và thùng thuốc đã nổ. Nóng bỏng và ngọt ngào. Như cây cỏ mùa hạ được mưa. Hả hê và nhuần nhị...

Tau ở với nàng một ngày và một đêm. Sáng hôm sau, nàng tiễn tau như tiễn một người chồng. Tràn trề hạnh phúc. Đôi mắt ướt lóng lánh. Đôi môi thắm thì thầm lời vàng đá. Tau sắm cho nàng tất cả những gì mà con gái thành thị mơ ước: Xe máy tay ga, điện thoại xịn, áo quần váy vúng, giày dép thời trang. Một hôm, tau nói với nàng, khi đang nằm bên nhau, anh làm nghề buôn gỗ. Nàng nhỏm dậy, cười, là lâm tặc sao? Phải. Em có ân hận không? Nàng đấm yêu vào ngực tao, bảo, mặc kệ! Lâm tặc mà ga lăng như anh, có được mấy người? Khi nàng sinh con, tau đã mua cho nàng một đám đất ở ngoài thị trấn. Dự định sẽ xây nhà, và chuyển nàng ra đó ở. Mọi cái đang ở phía trước. Hứa hẹn dài lâu...

Sao mi lại bắn tau? Hức!

Cái lẩy cò của mi như lưỡi gươm oan nghiệt. Phũ phàng chặt đứt sự nghiệp của tau, mạch sống của tau, tình yêu của tau! 

Nhưng súng đã nổ. Đạn đã xé tan ngực tau. Mặt đất sụm xuống. Những mái lèn xoay tròn. Cả cánh rừng xoay tròn. Khúc sông cũng xoay tròn. Và bầu trời sụp xuống, tối mịt. Hức!..

Bây giờ tau chết rồi. Nàng sẽ rất đau khổ. Góa bụa. Và côi cút. Hức!.. 

Mi nhắn với Ánh Mai rằng, tau rất yêu nàng. Rằng, hãy nuôi dạy thằng bé, nên người tử tế. Đừng theo nghiệp của tau...

Hức!.. Hức!.. Hức!...

Ăn cẫm địa*

20/06/2013

Bảy Cầu Muối ngồi chò hỏ giữa sân võ ca, ngó trái ngó phải, ngó trời rồi cuối cùng ngó tới cái nền nhà rải rác chỗ lõm, chỗ to thì bằng ổ gà, chỗ nhỏ thì bằng ổ chim sẻ. Bảy đưa bàn tay to bè nổi đầy gân ướm cái ổ ngay trước mặt mình. Gọn lỏn. Bảy rút tay lên, chà chà vô cái quần jean bị cắt cụt ngang tới đầu gối, mấy sợi vải jean từ cái lai quần rách te tua móc vào ngón tay vướng víu làm Bảy nổi cáu. Bảy đâu phải là thằng không biết nhìn xa nghĩ rộng, bằng cớ là Bảy đã tính chuyện quăng mẹ cái quần với trát lại mấy cái lỗ ngày càng nở to trên sân võ ca từ hồi năm nẵm. Từ hồi mà Xuân vấp cái lỗ to bằng đầu bàn chân té chỏng gọng khi đang diễn tuồng trong đêm lễ Túc Yết của hội cầu an. 

Nhắc tới Xuân mới nhớ, không biết sáng giờ buôn bán kiểu gì mà mặt trời đu ngọn tre còn chưa thấy bóng thấy tiếng. Bán mấy trái bầu vườn chứ có phải bán lụa là gấm vóc gì đâu mà lâu lắc lâu lơ. Không biết có buôn bán thiệt không hay là đang đong đưa liếc mắt với thằng nào ngoài chợ. Nghĩ tới đó, tự nhiên Bảy lên cơn ghen bất tử, lầm bầm buông tiếng chửi thề. 

Bảy Cầu Muối vừa buông tiếng chửi thề thứ ba mươi mấy thì thấy Xuân đang đi vô sân đình, tay xách cái giỏ nhựa đựng nải chuối với bó cúc vàng, Bảy cau có, mặt mũi của thằng đàn ông gần bốn mươi vốn đen xịt vì khốn khó càng thêm khó coi:

- Làm giống đách gì ngoài chợ mà giờ này mới về?

- Chờ tan chợ rồi mua đồ chứ làm giống đách gì! Mấy cái đồ sót lại người ta mới bán rẻ. Biết rồi mà sao lần nào cũng hỏi. Sao hay hỏi dần lân vậy ha? 

Sau khi liếc Bảy Cầu Muối một cái bén ngót, Xuân bỏ ra chái bếp bên hông đình. Bảy Cầu Muối hình như vẫn còn ức, nói vọng theo:

- Cá mắm không mua, mua nải chuối với bó bông về làm giống gì? Ngửi trừ cơm chắc!

Tiếng Xuân vọng ra từ chái bếp, chanh chua:

- Mai rằm rồi. Có cúng kiếng người ta mới độ cho có cá mắm mà ăn. Ở đó ăn hoài không trả lễ mà được ha. 

Bảy nín khe, ấm ức. Coi bộ bữa nay, Xuân lại dọn lên cái nồi mắm kho quẹt nhỏ xíu với trái bầu luộc nữa rồi. 

Bảy ngao ngán nhìn quanh sân đình. Người ta nói thời thế đổi thay, nhưng có bao nhiêu năm đâu mà cái đình này biến chuyển đến không ngờ. Hồi đó, lúc nhánh sông trước mặt đình chưa bị bồi thành đất bằng, đình lúc nào cũng nghi ngút hương khói cúng viếng. Hễ đến lễ cầu an là không ngớt tiếng người, nến thắp sáng trưng, soi sáng hàng mớ gương mặt hân hoan, soi sáng luôn loạt mâm bày ê hề thức ăn. Tiền gom góp hương khói cho đình tới ào ào không dứt. Năm mười lăm tuổi, Bảy Cầu Muối mới lóp ngóp theo ông Hai Từ về cái miệt này, ở cái đình này. Từ lúc đó, Bảy mém quên luôn vị cơm chan nước mắm sống là ra làm sao. 

Nghĩ tới đó, Bảy lại thần người, ngồi ngó mông ra sân đình. Tự nhiên Bảy thấy tội cái sân đình quá cỡ. Bảy cũng thấy tội cho ông Hai Từ, tội cho Xuân rồi tội luôn cho Bảy. 

Hình như Xuân thắp nhang, khói bay ra tận sân võ ca, nước mắt ở đâu tứa ra làm cảnh trước mắt Bảy trở nên nhòe nhòe, ảo ảo. Không dưng, Bảy thấy cờ phướn treo đầy sân đình, thấy bà con áo quần đẹp đẽ đang tề tựu ngoài sân, mấy ông trong ban hương chức hội tề áo dài khăn đóng chỉnh chu, trong đám ấy nổi bật nhất là ông Hai Từ với cái thắt lưng lụa đỏ ngang hông. Bảy thấy ông Hai Từ cung kính lạy trước bàn thờ linh thần, cung kính dâng trà, dâng rượu. Bảy còn thấy cả lúc ông Hai Từ làm lễ xây chầu, chân vẽ lên nền võ ca, tay cầm dùi vẽ lên mặt trống bùa tứ tung ngũ hoành. Ông Hai Từ đánh trống oách phải biết, đầu chậm sau nhanh đúng kiểu “tiền bần hậu phú”. Có khi nào, ông Hai Từ chết rồi, không ai đánh ra được tiếng trống “tiền bần hậu phú” đó nên đình này càng ngày càng vắng vẻ, lụn bại?

Xuân bước ra ngồi chệt bệt cạnh Bảy, tay ôm con heo đất màu vàng, xấu ỉn, loại heo đất hàng dạt người ta rải cho mấy bà bán hàng tạp hóa trên chợ, giá chừng ba ngàn. Xuân cất giọng khàn khàn:

- Cuối tháng này giỗ ông Hai. 

- Ờ! 

Xuân mân mê con heo đất màu vàng xấu ỉn trên tay:

- Giờ tính sao, đập con heo này lấy tiền mua đồ cúng hay để ông mua bao xi măng trát lại cái nền? 

Bảy Cầu Muối nhìn con heo nằm vừa trong hai bàn tay của Xuân, chặc lưỡi:

- Thôi, để mua đồ cúng! Sân thì chừng nào có tiền rồi trát cũng được. 

Nói là nói vậy, nhưng “chừng nào có tiền” thì Bảy cũng không rõ là chừng nào. Nghĩ tới đó, không dưng Bảy thấy tức anh ách, không tức sao được khi sống tới từng tuổi này mà Bảy mua không nổi một bao xi măng. 

- Cúng gì? - Xuân cắt ngang nỗi bực dọc đang dâng lên lòng Bảy bằng câu hỏi trống không. 

- Bộ bà bị lây cái tính dần lân của tui rồi chắc? Mọi năm cúng gì thì năm nay cúng cái đó. 

- Canh chua nữa hả? 

- Ờ!

Xuân im im, chừng như có điều gì muốn nói. Bảy không thèm quay qua nhìn nhưng biết tỏng bụng dạ Xuân, kết quả của thời gian ở với nhau lâu chính là những lúc như vầy.

- Muốn gì nói đi! - Bảy hối. 

Xuân ấp úng:

- Tui nghe nói, trong đình không được cúng canh chua, món đó rủ rê ma quỷ. Chắc tại năm nào mình cũng cúng vậy nên xui. 

Bảy bực dọc:

- Xui là bà xui thì có! 

Xuân nín khe, vẻ đổ vỡ hiện lên trong mắt. Bảy cũng chợt nhận ra mình lỡ lời. Bảy quay lại nhìn Xuân nhưng Xuân đã đứng dậy, ôm con heo đất lủi thủi đi vô cái chái bên hông đình. Bảy chỉ biết nhìn theo rồi buông một câu chửi thề cho chính mình. 

    *

    *     * 

Trước khi về miệt này, Bảy là thằng nhóc lăn lóc ở chợ cá dưới chân cầu Ông Lãnh, tập tọng theo đàn anh này đàn anh nọ đi làm bảo kê cho mấy bà bán buôn. Muốn kiếm chác thêm thì canh lúc trời tờ mờ, lúc ánh sáng chỗ mất chỗ có, lanh tay thuỗn vài con cá của mấy bà bán buôn đang mồm năm miệng mười với khách mà không để ý, gom chiến lợi phẩm lại rồi bán rẻ cho mấy bà rỗi. Thường, Bảy chỉ lấy đồ của mấy bà bán buôn không thuê Bảy làm bảo kê. Cái đám đàn anh này đàn anh nọ gọi Bảy là Chó, thằng Bảy Chó.  

Trò chơi nào cũng có quy tắc của nó, trò đời thì lại càng có quy tắc. Có lúc thịnh ắt có lúc suy, có lúc thông ắt có lúc tắc, nhưng cho tới tận hôm nay, Bảy vẫn chưa thể xác định được, ngày Bảy thuỗn trúng cá của đám bảo kê gộc đó là lúc Bảy rẽ sang thịnh hay suy, thông hay tắc. 

Bảy Chó bị đám bảo kê gộc rượt chém một đường sâu hoắm đằng lưng vì tội trộm một con cá lóc nặng chừng kí hai. Trong lúc điên cuồng chạy trốn, Bảy Chó liều mạng nhảy xuống nấp trên một chiếc ghe chở xi măng gạch ngói đang bắt đầu rời bến, rồi từ đó, biệt tích ở chợ cá dưới chân cầu Ông Lãnh. 

Bảy Chó không nhớ rõ mình ngật ngừ bao lâu, thiếp đi bao lâu, chỉ biết khi tỉnh dậy đã thấy nằm sấp trong khoang ghe, vết thương trên lưng được ai đó cầm máu. Tai Bảy nghe âm thanh ì ì, toàn thân cứ lắc lư liên tục. Chợt mũi ghe như đụng vào cái gì đó, khựng lại, tiếng ì ì tắt hẳn. Bảy giương mắt nhìn, vừa kịp nhận ra bản thân đang nằm trong khoang ghe nhỏ tí thì ai đó đã ném cho Bảy một gói xôi nếp:

- Ăn đi! 

Ngước nhìn về phía người có chất giọng ấm khàn mạnh mẽ vừa ném cho mình gói xôi, Bảy có chút kinh ngạc. Trước mặt Bảy là người đàn ông nhỏ con, làn da đen đúa, gương mặt thuôn dài, duy chỉ có đôi mắt là sáng quắc và giọng nói mạnh mẽ một cách khác thường. Thấy Bảy cứ giương mắt nhìn mình, người đàn ông khẽ cau mày:

- Tao là Hai Từ! - Đoạn ông Hai Từ hất mặt về gói xôi đang nằm chơ hơ trên tay Bảy - Ăn đi! 

- Cảm ơn! - Bảy lí nhí! 

- Tự mày rớt lên ghe tao chứ tao có đi cứu mày đâu mà cảm ơn? - Hai Từ nói xong thì đi thẳng ra mũi ghe, nhảy xuống. 

Cả đời Bảy không bao giờ quên mùi vị của gói xôi mà ông Hai Từ đã ném cho mình khi đó. Gói xôi nếp trắng, bên trên phủ một lớp bột nâu nâu, mịn mịn. Bảy đã ăn gói xôi đó một cách ngon lành. Mãi đến sau này, Bảy mới biết được lớp bột nâu nâu mịn mịn đó là tàn nhang. Hóa ra, đời Bảy được cứu bởi một gói xôi nếp cúng.  

   *

  *     * 

- Bảy Cầu Muối, đem nước cho tụi thợ xây đi! 

- Bảy Cầu Muối, vác cái cây gỗ này qua một bên! 

- Bảy Cầu Muối, ra coi tiếp trộn xi măng đi mậy! 

Bắt đầu từ lúc bước xuống ghe rồi theo Hai Từ vô phụ cái đình đang xây này, Bảy Chó đã thành Bảy Cầu Muối. Bảy nghĩ, cái tên mới để đánh dấu cho cuộc đời mới, nhưng khi nghe Bảy nói điều này, ông Hai Từ chỉ nhìn Bảy lặng lặng buồn:

- Không hiểu biết là tốt! Không hiểu biết là tốt! 

Bảy không rõ ý tứ của ông Hai Từ cho đến ngày Bảy mười tám tuổi, ông Hai Từ kêu Bảy ra sân võ ca ngồi với ông, vừa thủng thẳng ăn bánh uống trà vừa nói:

- Tao muốn đặt cho mày cái tên nhưng không được, tao chỉ là người dưng nước lã nên không thể thay cái quyền cha mà đặt tên cho mày được. Dù gì, cái phận mày đã vậy, dù là Bảy Chó hay Bảy Cầu Muối cũng là cái phận không ai thừa nhận. 

- Con không hiểu - Bảy ngơ ngác. 

Ông Hai Từ nhìn Bảy đầy thương cảm:

- Mày biết Bảy Cầu Muối có nghĩa là gì không? 

Bảy lắc đầu. Ông Hai Từ buồn bã:

- Người ta xài nó để kêu những thằng lưu manh phố chợ. 

Bảy thần người. Ông Hai Từ đứng dậy, vuốt phẳng vạt áo trước, nhìn Bảy đầy áy náy:

- Tao sai rồi. Đáng lý ra là không nên nói với mày chuyện này. 

Bảy cúi gằm mặt. Cảm giác như bản thân đang dốc hết lực, dốc hết sức chạy cũng chỉ là kiểu chạy quanh thành ống. Một vòng tròn. Không có điểm bắt đầu. Không có điểm kết thúc. 

Nhìn bộ dạng ỉu xìu của Bảy, ông Hai Từ như không dằn được:

- Sắp tới lễ cầu an rồi, lần này, tao cho mày vô ban hương chức, lo chuyện châm trà trong bữa cúng. Tiền bạc thì không có nhưng ăn uống thì mày khỏi lo. 

Rồi ông bỏ đi sau khi vỗ lên vai Bảy mấy cái thật thân tình. 

   *

   *    * 

Từ lúc hiểu chuyện cho đến năm mười lăm tuổi, Bảy đã quen sống vô phép vô tắc, vô pháp vô thiên nên dù là lần thứ năm tham gia buổi lễ cầu an của đình, Bảy vẫn không khỏi chán nản trước hàng tá những quy tắc, lớp lang. Bảy đã ngủ gật khi đứng cạnh chờ tới lượt mình châm trà. Bản mặt Bảy suýt đập vào cái chân đèn hình con hạc trên bàn thờ nếu không nhờ cú chọt vào hông đau thấu óc của Xuân. Bảy sừng sộ định quay lại nạt đứa nào vô duyên thì thấy Xuân trong bộ xiêm y cải trang thành… tiểu thư thời phong kiến đang che miệng cười khúc khích và có duyên gì đâu. Rồi Bảy tỉnh hẳn, tỉnh như sáo, ngoài lúc châm trà theo lời xướng của chủ lễ ra thì lúc nào cũng đảo mắt kiếm Xuân.

Đời của Xuân nghĩ cũng buồn. Đời con hát thì được mấy người vui. Lúc Bảy tìm được Xuân thì thấy Xuân đang xì xụp lạy trước bàn thờ linh thần, hỏi Xuân cầu gì thì Xuân cười toe toét: “Lễ cầu an mà không cầu an thì cầu gì?”. Xuân làm Bảy thấy mình đúng một thằng vô duyên. Nhưng rồi Bảy chợt giật mình, con người ta chỉ cầu mong thứ mình không có, bản thân Xuân cũng có một cuộc sống không an ổn như Bảy chăng?

Đang cười với Bảy, Xuân bị một người đàn bà cũng xiêm áo lòe loẹt nào đó tát cho một cái như trời giáng. Xuân còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì người đàn bà đó đã xông vào túm tóc tóc áo:

- Đồ đĩ, mày giựt chồng tao! Đồ đĩ, đàn ông đầy đường sao mày không lấy mà đi lấy chồng tao. 

Xuân trong vai mùa xuân. Người đàn bà đánh ghen kia trong vai mùa thu. Tất nhiên là vai trong tuồng hát. Giữa mùa xuân tươi và mùa thu tàn, người đàn ông kia đã chọn sự trẻ. Mùa xuân có tội vì tươi trẻ quá, mộng mơ quá và đa tình quá. Mùa thu vì sự úa tàn của mình, vì sự thờ ơ của người mà nổi điên. 

Lần đó, Bảy đã cố che chắn cho Xuân vì nhìn Xuân, tự nhiên Bảy nhớ cái cảnh Bảy bị người ta rượt chém vì ăn cắp con cá lóc nặng một kí hai ở chợ cá dưới chân cầu Ông Lãnh. 

Đêm đại bội tan hoang. Ông Hai Từ bị cả làng nhiếc móc vì để một con đào dơ vào đình diễn tuồng.  Ông Hai Từ không nói gì, chỉ im lặng cúi đầu. 

Xuân bị đuổi khỏi gánh hát vì tội tằng tịu với chồng của bà bầu gánh. Lúc ghe gánh hát rời khỏi bến sông thì Xuân đang ngồi khóc ngất trên bờ. Nhìn thấy cảnh bi thảm của Xuân, dù đã tự dặn lòng gạt hình ảnh Xuân ra khỏi mắt nhưng Bảy không thể. 

Trò chơi nào cũng có quy tắc, trò đời thì càng có quy tắc. Có lúc thịnh ắt có lúc suy, có lúc thông ắt có lúc tắc, nhưng cho tới tận hôm nay, Bảy vẫn chưa thể xác định được, ngày Bảy đưa Xuân về sống như chồng vợ là lúc Bảy rẽ sang thịnh hay suy, thông hay tắc?

Lúc ông Hai Từ biết chuyện đã vô cùng giận dữ, đình là chốn linh thiêng làm sao có thể để những truyện trần tục như vậy lấm bẩn. Nhưng ông không thể đuổi vợ chồng Bảy. Xuân đang mang thai. Bảy thì chỉ sống nhờ vào hương khói cúng viếng của bá tánh cho đình, nếu bị đuổi ra ngoài, gia đình ba người của Bảy biết bám víu vào đâu. 

Không biết có phải đình bị vấy bẩn, thần linh giận dữ hay không mà nhánh sông trước đình bắt đầu cạn dần. Người tới cúng viếng cũng dần thưa thớt. Người ta bắt đầu đồn đãi chuyện đình bị quỷ ma quấy nhiễu, nhất là khi Xuân bị té ở sân võ ca, sẩy thai. 

Đình lụn bại, ông Hai Từ như cái cây già chết mòn, cũng dần héo hắt rồi mất. Ngày ông Hai Từ mất, Bảy có qua nhà nhưng không ai cho vô, người ta nói Bảy bị ma quỷ rù quến, vô viếng làm bẩn vong linh ông Hai. Bảy quậy cho một chập nhưng cuối cùng cũng bị đám thanh niên xốc quăng ra ngoài, ngồi bên vệ đường mà khóc hù hụ như con nít. 

   *

   *    * 

Vừa cắm cây nhang lên bàn thờ ông Hai Từ thì Xuân vô báo là có thằng cha nào ăn ta ni nhìn bảnh tỏn lắm đang kiếm Bảy ngoài sân đình. Bảy ngạc nhiên, ra coi. Thằng cha bận bộ đồ ăn ta ni bảnh tỏn đưa cho Bảy tờ giấy, nói cái gì đất đình thuộc quyền sở hữu nhà thằng chả. Bảy kêu thằng chả nói tầm xàm, Bảy ở đây đó giờ có thấy ai nói động tới đất cát gì đâu. Thằng cha bận bộ đồ ăn ta ni nói, thắc mắc gì thì đi lên xã mà hỏi. 

Bảy đi lên xã thiệt, người ta hỏi Bảy chứng minh thư đâu. Bảy nói, không có. Hỏi giấy tờ đất đâu? Không có. Ông Hai Từ cho ở. Vậy giấy ủy nhiệm đâu? “Giấy ủy nhiệm là cái gì?”, Bảy ngơ ngác. Bảy bị dân phòng đưa ra khỏi trụ sở.

Bảy vừa đi trên đường vừa nghiến răng chửi rủa:

- Không hiểu biết mà tốt cái gì? Không biết gì người ta khinh như con chó! 

“Chó?!”, Bảy sững lại. Chợt nhớ đến câu nói của  ông Hai ngày xưa: “Dù gì, cái phận mày đã vậy, dù là Bảy Chó hay Bảy Cầu Muối cũng là cái phận không ai thừa nhận”. 

Bảy vốn là một thằng không ai thừa nhận, thằng không được thừa nhận. 

Bảy siết chặt tay nằm nắm đấm. 

   *

   *     * 

Xuân đứng trước cổng đình bị khóa chặt mà gào khóc:

- Anh Bảy, anh mở cửa đi anh Bảy, em đã nói là em không có quen người đó mà. Em không có léng phéng mà. Anh Bảy… 

Bảy vẫn đứng trong đình chửi vẳng ra, lời nhục mạ có, tục tĩu có, thóa mạ có. Những câu chữ lộn xộn, tiếng mất tiếng còn, cứ như người trong đó vừa đi ra đi vô vừa chửi, vừa xô đổ mọi thứ vừa chửi. 

Xuân vẫn đập cửa ầm ầm:

- Anh đuổi em thì em biết đi đâu? Anh đuổi em thì em biết đi đâu anh Bảy ơi?

- Cô thì thiếu gì chỗ để đi, biến mẹ nó đi! - Bảy gào vọng ra. 

Xuân chỉ biết nức nở, ngồi thụp người trước cổng đình. 

Nửa đêm, trong giấc ngủ mơ màng và mỏi mệt, Xuân thấy gương mặt mình nong nóng, Xuân khẽ mở mắt, trước mặt cô, một vùng lửa lớn đang rực cháy. 

Xuân không thể khóc. Chỉ biết từng mảng trên cơ thể đang rơi vỡ, giống như cái cảnh đang dần lụn cháy diễn ra trước mặt.  

Bảy đã đốt đình và tự thiêu trong đó rồi.

   *

   *    * 

Làng có một người phụ nữ lạ. Cứ vào ngày rằm, mùng một, trên sân võ ca còn lưu đầy những vết cháy, người phụ nữ đó quấn một cái mền trên vai làm hai tay áo rũ, vừa múa vừa lẩm bẩm gì đó. Người đàn bà dở điên dở khùng đó, ngoài múa hát ra chẳng còn biết tới chuyện gì.  

Ai nói, không hiểu biết là tốt? 

Trời bắt đầu chuyển sậm, nơi góc sân võ ca có một biển câu đối đã bị cháy nham nhở, dưới ánh sáng chiều nhạt có thể đọc được bốn chữ “Sự đo như hí…” **

                                    T.D

-------

* Ăn cẫm địa: Ăn đồ cúng trong đình miếu. 

**  Sự đo như hí: Sự đời như giỡn (Trích từ hai câu đối của Đào Tấn: Nhân bất dư nhàn, tam hướng man trung tầm thiểu hạ/ Sự đo như hí, khả tương dã cuộc tiếu phi chân - Người chẳng dư nhàn, tạm hướng về cái giả dối để tìm chút yên lặng/ Sự đời như giỡn, nên gần sân khấu để có cái cười không thật.)

.THIÊN DI

Bảy Cầu Muối ngồi chò hỏ giữa sân võ ca, ngó trái ngó phải, ngó trời rồi cuối cùng ngó tới cái nền nhà rải rác chỗ lõm, chỗ to thì bằng ổ gà, chỗ nhỏ thì bằng ổ chim sẻ. Bảy đưa bàn tay to bè nổi đầy gân ướm cái ổ ngay trước mặt mình. Gọn lỏn. Bảy rút tay lên, chà chà vô cái quần jean bị cắt cụt ngang tới đầu gối, mấy sợi vải jean từ cái lai quần rách te tua móc vào ngón tay vướng víu làm Bảy nổi cáu. Bảy đâu phải là thằng không biết nhìn xa nghĩ rộng, bằng cớ là Bảy đã tính chuyện quăng mẹ cái quần với trát lại mấy cái lỗ ngày càng nở to trên sân võ ca từ hồi năm nẵm. Từ hồi mà Xuân vấp cái lỗ to bằng đầu bàn chân té chỏng gọng khi đang diễn tuồng trong đêm lễ Túc Yết của hội cầu an. 

Nhắc tới Xuân mới nhớ, không biết sáng giờ buôn bán kiểu gì mà mặt trời đu ngọn tre còn chưa thấy bóng thấy tiếng. Bán mấy trái bầu vườn chứ có phải bán lụa là gấm vóc gì đâu mà lâu lắc lâu lơ. Không biết có buôn bán thiệt không hay là đang đong đưa liếc mắt với thằng nào ngoài chợ. Nghĩ tới đó, tự nhiên Bảy lên cơn ghen bất tử, lầm bầm buông tiếng chửi thề. 

Bảy Cầu Muối vừa buông tiếng chửi thề thứ ba mươi mấy thì thấy Xuân đang đi vô sân đình, tay xách cái giỏ nhựa đựng nải chuối với bó cúc vàng, Bảy cau có, mặt mũi của thằng đàn ông gần bốn mươi vốn đen xịt vì khốn khó càng thêm khó coi:

- Làm giống đách gì ngoài chợ mà giờ này mới về?

- Chờ tan chợ rồi mua đồ chứ làm giống đách gì! Mấy cái đồ sót lại người ta mới bán rẻ. Biết rồi mà sao lần nào cũng hỏi. Sao hay hỏi dần lân vậy ha? 

Sau khi liếc Bảy Cầu Muối một cái bén ngót, Xuân bỏ ra chái bếp bên hông đình. Bảy Cầu Muối hình như vẫn còn ức, nói vọng theo:

- Cá mắm không mua, mua nải chuối với bó bông về làm giống gì? Ngửi trừ cơm chắc!

Tiếng Xuân vọng ra từ chái bếp, chanh chua:

- Mai rằm rồi. Có cúng kiếng người ta mới độ cho có cá mắm mà ăn. Ở đó ăn hoài không trả lễ mà được ha. 

Bảy nín khe, ấm ức. Coi bộ bữa nay, Xuân lại dọn lên cái nồi mắm kho quẹt nhỏ xíu với trái bầu luộc nữa rồi. 

Bảy ngao ngán nhìn quanh sân đình. Người ta nói thời thế đổi thay, nhưng có bao nhiêu năm đâu mà cái đình này biến chuyển đến không ngờ. Hồi đó, lúc nhánh sông trước mặt đình chưa bị bồi thành đất bằng, đình lúc nào cũng nghi ngút hương khói cúng viếng. Hễ đến lễ cầu an là không ngớt tiếng người, nến thắp sáng trưng, soi sáng hàng mớ gương mặt hân hoan, soi sáng luôn loạt mâm bày ê hề thức ăn. Tiền gom góp hương khói cho đình tới ào ào không dứt. Năm mười lăm tuổi, Bảy Cầu Muối mới lóp ngóp theo ông Hai Từ về cái miệt này, ở cái đình này. Từ lúc đó, Bảy mém quên luôn vị cơm chan nước mắm sống là ra làm sao. 

Nghĩ tới đó, Bảy lại thần người, ngồi ngó mông ra sân đình. Tự nhiên Bảy thấy tội cái sân đình quá cỡ. Bảy cũng thấy tội cho ông Hai Từ, tội cho Xuân rồi tội luôn cho Bảy. 

Hình như Xuân thắp nhang, khói bay ra tận sân võ ca, nước mắt ở đâu tứa ra làm cảnh trước mắt Bảy trở nên nhòe nhòe, ảo ảo. Không dưng, Bảy thấy cờ phướn treo đầy sân đình, thấy bà con áo quần đẹp đẽ đang tề tựu ngoài sân, mấy ông trong ban hương chức hội tề áo dài khăn đóng chỉnh chu, trong đám ấy nổi bật nhất là ông Hai Từ với cái thắt lưng lụa đỏ ngang hông. Bảy thấy ông Hai Từ cung kính lạy trước bàn thờ linh thần, cung kính dâng trà, dâng rượu. Bảy còn thấy cả lúc ông Hai Từ làm lễ xây chầu, chân vẽ lên nền võ ca, tay cầm dùi vẽ lên mặt trống bùa tứ tung ngũ hoành. Ông Hai Từ đánh trống oách phải biết, đầu chậm sau nhanh đúng kiểu “tiền bần hậu phú”. Có khi nào, ông Hai Từ chết rồi, không ai đánh ra được tiếng trống “tiền bần hậu phú” đó nên đình này càng ngày càng vắng vẻ, lụn bại?

Xuân bước ra ngồi chệt bệt cạnh Bảy, tay ôm con heo đất màu vàng, xấu ỉn, loại heo đất hàng dạt người ta rải cho mấy bà bán hàng tạp hóa trên chợ, giá chừng ba ngàn. Xuân cất giọng khàn khàn:

- Cuối tháng này giỗ ông Hai. 

- Ờ! 

Xuân mân mê con heo đất màu vàng xấu ỉn trên tay:

- Giờ tính sao, đập con heo này lấy tiền mua đồ cúng hay để ông mua bao xi măng trát lại cái nền? 

Bảy Cầu Muối nhìn con heo nằm vừa trong hai bàn tay của Xuân, chặc lưỡi:

- Thôi, để mua đồ cúng! Sân thì chừng nào có tiền rồi trát cũng được. 

Nói là nói vậy, nhưng “chừng nào có tiền” thì Bảy cũng không rõ là chừng nào. Nghĩ tới đó, không dưng Bảy thấy tức anh ách, không tức sao được khi sống tới từng tuổi này mà Bảy mua không nổi một bao xi măng. 

- Cúng gì? - Xuân cắt ngang nỗi bực dọc đang dâng lên lòng Bảy bằng câu hỏi trống không. 

- Bộ bà bị lây cái tính dần lân của tui rồi chắc? Mọi năm cúng gì thì năm nay cúng cái đó. 

- Canh chua nữa hả? 

- Ờ!

Xuân im im, chừng như có điều gì muốn nói. Bảy không thèm quay qua nhìn nhưng biết tỏng bụng dạ Xuân, kết quả của thời gian ở với nhau lâu chính là những lúc như vầy.

- Muốn gì nói đi! - Bảy hối. 

Xuân ấp úng:

- Tui nghe nói, trong đình không được cúng canh chua, món đó rủ rê ma quỷ. Chắc tại năm nào mình cũng cúng vậy nên xui. 

Bảy bực dọc:

- Xui là bà xui thì có! 

Xuân nín khe, vẻ đổ vỡ hiện lên trong mắt. Bảy cũng chợt nhận ra mình lỡ lời. Bảy quay lại nhìn Xuân nhưng Xuân đã đứng dậy, ôm con heo đất lủi thủi đi vô cái chái bên hông đình. Bảy chỉ biết nhìn theo rồi buông một câu chửi thề cho chính mình. 

*

*     * 

Trước khi về miệt này, Bảy là thằng nhóc lăn lóc ở chợ cá dưới chân cầu Ông Lãnh, tập tọng theo đàn anh này đàn anh nọ đi làm bảo kê cho mấy bà bán buôn. Muốn kiếm chác thêm thì canh lúc trời tờ mờ, lúc ánh sáng chỗ mất chỗ có, lanh tay thuỗn vài con cá của mấy bà bán buôn đang mồm năm miệng mười với khách mà không để ý, gom chiến lợi phẩm lại rồi bán rẻ cho mấy bà rỗi. Thường, Bảy chỉ lấy đồ của mấy bà bán buôn không thuê Bảy làm bảo kê. Cái đám đàn anh này đàn anh nọ gọi Bảy là Chó, thằng Bảy Chó.  

Trò chơi nào cũng có quy tắc của nó, trò đời thì lại càng có quy tắc. Có lúc thịnh ắt có lúc suy, có lúc thông ắt có lúc tắc, nhưng cho tới tận hôm nay, Bảy vẫn chưa thể xác định được, ngày Bảy thuỗn trúng cá của đám bảo kê gộc đó là lúc Bảy rẽ sang thịnh hay suy, thông hay tắc. 

Bảy Chó bị đám bảo kê gộc rượt chém một đường sâu hoắm đằng lưng vì tội trộm một con cá lóc nặng chừng kí hai. Trong lúc điên cuồng chạy trốn, Bảy Chó liều mạng nhảy xuống nấp trên một chiếc ghe chở xi măng gạch ngói đang bắt đầu rời bến, rồi từ đó, biệt tích ở chợ cá dưới chân cầu Ông Lãnh. 

Bảy Chó không nhớ rõ mình ngật ngừ bao lâu, thiếp đi bao lâu, chỉ biết khi tỉnh dậy đã thấy nằm sấp trong khoang ghe, vết thương trên lưng được ai đó cầm máu. Tai Bảy nghe âm thanh ì ì, toàn thân cứ lắc lư liên tục. Chợt mũi ghe như đụng vào cái gì đó, khựng lại, tiếng ì ì tắt hẳn. Bảy giương mắt nhìn, vừa kịp nhận ra bản thân đang nằm trong khoang ghe nhỏ tí thì ai đó đã ném cho Bảy một gói xôi nếp:

- Ăn đi! 

Ngước nhìn về phía người có chất giọng ấm khàn mạnh mẽ vừa ném cho mình gói xôi, Bảy có chút kinh ngạc. Trước mặt Bảy là người đàn ông nhỏ con, làn da đen đúa, gương mặt thuôn dài, duy chỉ có đôi mắt là sáng quắc và giọng nói mạnh mẽ một cách khác thường. Thấy Bảy cứ giương mắt nhìn mình, người đàn ông khẽ cau mày:

- Tao là Hai Từ! - Đoạn ông Hai Từ hất mặt về gói xôi đang nằm chơ hơ trên tay Bảy - Ăn đi! 

- Cảm ơn! - Bảy lí nhí! 

- Tự mày rớt lên ghe tao chứ tao có đi cứu mày đâu mà cảm ơn? - Hai Từ nói xong thì đi thẳng ra mũi ghe, nhảy xuống. 

Cả đời Bảy không bao giờ quên mùi vị của gói xôi mà ông Hai Từ đã ném cho mình khi đó. Gói xôi nếp trắng, bên trên phủ một lớp bột nâu nâu, mịn mịn. Bảy đã ăn gói xôi đó một cách ngon lành. Mãi đến sau này, Bảy mới biết được lớp bột nâu nâu mịn mịn đó là tàn nhang. Hóa ra, đời Bảy được cứu bởi một gói xôi nếp cúng.  

*

*     * 

- Bảy Cầu Muối, đem nước cho tụi thợ xây đi! 

- Bảy Cầu Muối, vác cái cây gỗ này qua một bên! 

- Bảy Cầu Muối, ra coi tiếp trộn xi măng đi mậy! 

Bắt đầu từ lúc bước xuống ghe rồi theo Hai Từ vô phụ cái đình đang xây này, Bảy Chó đã thành Bảy Cầu Muối. Bảy nghĩ, cái tên mới để đánh dấu cho cuộc đời mới, nhưng khi nghe Bảy nói điều này, ông Hai Từ chỉ nhìn Bảy lặng lặng buồn:

- Không hiểu biết là tốt! Không hiểu biết là tốt! 

Bảy không rõ ý tứ của ông Hai Từ cho đến ngày Bảy mười tám tuổi, ông Hai Từ kêu Bảy ra sân võ ca ngồi với ông, vừa thủng thẳng ăn bánh uống trà vừa nói:

- Tao muốn đặt cho mày cái tên nhưng không được, tao chỉ là người dưng nước lã nên không thể thay cái quyền cha mà đặt tên cho mày được. Dù gì, cái phận mày đã vậy, dù là Bảy Chó hay Bảy Cầu Muối cũng là cái phận không ai thừa nhận. 

- Con không hiểu - Bảy ngơ ngác. 

Ông Hai Từ nhìn Bảy đầy thương cảm:

- Mày biết Bảy Cầu Muối có nghĩa là gì không? 

Bảy lắc đầu. Ông Hai Từ buồn bã:

- Người ta xài nó để kêu những thằng lưu manh phố chợ. 

Bảy thần người. Ông Hai Từ đứng dậy, vuốt phẳng vạt áo trước, nhìn Bảy đầy áy náy:

- Tao sai rồi. Đáng lý ra là không nên nói với mày chuyện này. 

Bảy cúi gằm mặt. Cảm giác như bản thân đang dốc hết lực, dốc hết sức chạy cũng chỉ là kiểu chạy quanh thành ống. Một vòng tròn. Không có điểm bắt đầu. Không có điểm kết thúc. 

Nhìn bộ dạng ỉu xìu của Bảy, ông Hai Từ như không dằn được:

- Sắp tới lễ cầu an rồi, lần này, tao cho mày vô ban hương chức, lo chuyện châm trà trong bữa cúng. Tiền bạc thì không có nhưng ăn uống thì mày khỏi lo. 

Rồi ông bỏ đi sau khi vỗ lên vai Bảy mấy cái thật thân tình. 

*

*    * 

Từ lúc hiểu chuyện cho đến năm mười lăm tuổi, Bảy đã quen sống vô phép vô tắc, vô pháp vô thiên nên dù là lần thứ năm tham gia buổi lễ cầu an của đình, Bảy vẫn không khỏi chán nản trước hàng tá những quy tắc, lớp lang. Bảy đã ngủ gật khi đứng cạnh chờ tới lượt mình châm trà. Bản mặt Bảy suýt đập vào cái chân đèn hình con hạc trên bàn thờ nếu không nhờ cú chọt vào hông đau thấu óc của Xuân. Bảy sừng sộ định quay lại nạt đứa nào vô duyên thì thấy Xuân trong bộ xiêm y cải trang thành… tiểu thư thời phong kiến đang che miệng cười khúc khích và có duyên gì đâu. Rồi Bảy tỉnh hẳn, tỉnh như sáo, ngoài lúc châm trà theo lời xướng của chủ lễ ra thì lúc nào cũng đảo mắt kiếm Xuân.

Đời của Xuân nghĩ cũng buồn. Đời con hát thì được mấy người vui. Lúc Bảy tìm được Xuân thì thấy Xuân đang xì xụp lạy trước bàn thờ linh thần, hỏi Xuân cầu gì thì Xuân cười toe toét: “Lễ cầu an mà không cầu an thì cầu gì?”. Xuân làm Bảy thấy mình đúng một thằng vô duyên. Nhưng rồi Bảy chợt giật mình, con người ta chỉ cầu mong thứ mình không có, bản thân Xuân cũng có một cuộc sống không an ổn như Bảy chăng?

Đang cười với Bảy, Xuân bị một người đàn bà cũng xiêm áo lòe loẹt nào đó tát cho một cái như trời giáng. Xuân còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì người đàn bà đó đã xông vào túm tóc tóc áo:

- Đồ đĩ, mày giựt chồng tao! Đồ đĩ, đàn ông đầy đường sao mày không lấy mà đi lấy chồng tao. 

Xuân trong vai mùa xuân. Người đàn bà đánh ghen kia trong vai mùa thu. Tất nhiên là vai trong tuồng hát. Giữa mùa xuân tươi và mùa thu tàn, người đàn ông kia đã chọn sự trẻ. Mùa xuân có tội vì tươi trẻ quá, mộng mơ quá và đa tình quá. Mùa thu vì sự úa tàn của mình, vì sự thờ ơ của người mà nổi điên. 

Lần đó, Bảy đã cố che chắn cho Xuân vì nhìn Xuân, tự nhiên Bảy nhớ cái cảnh Bảy bị người ta rượt chém vì ăn cắp con cá lóc nặng một kí hai ở chợ cá dưới chân cầu Ông Lãnh. 

Đêm đại bội tan hoang. Ông Hai Từ bị cả làng nhiếc móc vì để một con đào dơ vào đình diễn tuồng.  Ông Hai Từ không nói gì, chỉ im lặng cúi đầu. 

Xuân bị đuổi khỏi gánh hát vì tội tằng tịu với chồng của bà bầu gánh. Lúc ghe gánh hát rời khỏi bến sông thì Xuân đang ngồi khóc ngất trên bờ. Nhìn thấy cảnh bi thảm của Xuân, dù đã tự dặn lòng gạt hình ảnh Xuân ra khỏi mắt nhưng Bảy không thể. 

Trò chơi nào cũng có quy tắc, trò đời thì càng có quy tắc. Có lúc thịnh ắt có lúc suy, có lúc thông ắt có lúc tắc, nhưng cho tới tận hôm nay, Bảy vẫn chưa thể xác định được, ngày Bảy đưa Xuân về sống như chồng vợ là lúc Bảy rẽ sang thịnh hay suy, thông hay tắc?

Lúc ông Hai Từ biết chuyện đã vô cùng giận dữ, đình là chốn linh thiêng làm sao có thể để những truyện trần tục như vậy lấm bẩn. Nhưng ông không thể đuổi vợ chồng Bảy. Xuân đang mang thai. Bảy thì chỉ sống nhờ vào hương khói cúng viếng của bá tánh cho đình, nếu bị đuổi ra ngoài, gia đình ba người của Bảy biết bám víu vào đâu. 

Không biết có phải đình bị vấy bẩn, thần linh giận dữ hay không mà nhánh sông trước đình bắt đầu cạn dần. Người tới cúng viếng cũng dần thưa thớt. Người ta bắt đầu đồn đãi chuyện đình bị quỷ ma quấy nhiễu, nhất là khi Xuân bị té ở sân võ ca, sẩy thai. 

Đình lụn bại, ông Hai Từ như cái cây già chết mòn, cũng dần héo hắt rồi mất. Ngày ông Hai Từ mất, Bảy có qua nhà nhưng không ai cho vô, người ta nói Bảy bị ma quỷ rù quến, vô viếng làm bẩn vong linh ông Hai. Bảy quậy cho một chập nhưng cuối cùng cũng bị đám thanh niên xốc quăng ra ngoài, ngồi bên vệ đường mà khóc hù hụ như con nít. 

*

*    * 

Vừa cắm cây nhang lên bàn thờ ông Hai Từ thì Xuân vô báo là có thằng cha nào ăn ta ni nhìn bảnh tỏn lắm đang kiếm Bảy ngoài sân đình. Bảy ngạc nhiên, ra coi. Thằng cha bận bộ đồ ăn ta ni bảnh tỏn đưa cho Bảy tờ giấy, nói cái gì đất đình thuộc quyền sở hữu nhà thằng chả. Bảy kêu thằng chả nói tầm xàm, Bảy ở đây đó giờ có thấy ai nói động tới đất cát gì đâu. Thằng cha bận bộ đồ ăn ta ni nói, thắc mắc gì thì đi lên xã mà hỏi. 

Bảy đi lên xã thiệt, người ta hỏi Bảy chứng minh thư đâu. Bảy nói, không có. Hỏi giấy tờ đất đâu? Không có. Ông Hai Từ cho ở. Vậy giấy ủy nhiệm đâu? “Giấy ủy nhiệm là cái gì?”, Bảy ngơ ngác. Bảy bị dân phòng đưa ra khỏi trụ sở.

Bảy vừa đi trên đường vừa nghiến răng chửi rủa:

- Không hiểu biết mà tốt cái gì? Không biết gì người ta khinh như con chó! 

“Chó?!”, Bảy sững lại. Chợt nhớ đến câu nói của  ông Hai ngày xưa: “Dù gì, cái phận mày đã vậy, dù là Bảy Chó hay Bảy Cầu Muối cũng là cái phận không ai thừa nhận”. 

Bảy vốn là một thằng không ai thừa nhận, thằng không được thừa nhận. 

Bảy siết chặt tay nằm nắm đấm. 

*

*     * 

Xuân đứng trước cổng đình bị khóa chặt mà gào khóc:

- Anh Bảy, anh mở cửa đi anh Bảy, em đã nói là em không có quen người đó mà. Em không có léng phéng mà. Anh Bảy… 

Bảy vẫn đứng trong đình chửi vẳng ra, lời nhục mạ có, tục tĩu có, thóa mạ có. Những câu chữ lộn xộn, tiếng mất tiếng còn, cứ như người trong đó vừa đi ra đi vô vừa chửi, vừa xô đổ mọi thứ vừa chửi. 

Xuân vẫn đập cửa ầm ầm:

- Anh đuổi em thì em biết đi đâu? Anh đuổi em thì em biết đi đâu anh Bảy ơi?

- Cô thì thiếu gì chỗ để đi, biến mẹ nó đi! - Bảy gào vọng ra. 

Xuân chỉ biết nức nở, ngồi thụp người trước cổng đình. 

Nửa đêm, trong giấc ngủ mơ màng và mỏi mệt, Xuân thấy gương mặt mình nong nóng, Xuân khẽ mở mắt, trước mặt cô, một vùng lửa lớn đang rực cháy. 

Xuân không thể khóc. Chỉ biết từng mảng trên cơ thể đang rơi vỡ, giống như cái cảnh đang dần lụn cháy diễn ra trước mặt.  

Bảy đã đốt đình và tự thiêu trong đó rồi.

*

*    * 

Làng có một người phụ nữ lạ. Cứ vào ngày rằm, mùng một, trên sân võ ca còn lưu đầy những vết cháy, người phụ nữ đó quấn một cái mền trên vai làm hai tay áo rũ, vừa múa vừa lẩm bẩm gì đó. Người đàn bà dở điên dở khùng đó, ngoài múa hát ra chẳng còn biết tới chuyện gì.  

Ai nói, không hiểu biết là tốt? 

Trời bắt đầu chuyển sậm, nơi góc sân võ ca có một biển câu đối đã bị cháy nham nhở, dưới ánh sáng chiều nhạt có thể đọc được bốn chữ “Sự đo như hí…” **

T.D

-------

* Ăn cẫm địa: Ăn đồ cúng trong đình miếu. 

**  Sự đo như hí: Sự đời như giỡn (Trích từ hai câu đối của Đào Tấn: Nhân bất dư nhàn, tam hướng man trung tầm thiểu hạ/ Sự đo như hí, khả tương dã cuộc tiếu phi chân - Người chẳng dư nhàn, tạm hướng về cái giả dối để tìm chút yên lặng/ Sự đời như giỡn, nên gần sân khấu để có cái cười không thật.)

Thảo nguyên mồ côi

30/05/2013

.TRỊNH SƠN

Gã thấy tâm hồn mình đang khô quéo lại. Như cọng cỏ cuối mùa nắng cháy, xác xơ dai nhùng nhoằng, đến cả những con bò cũng hích hích mũi lên như chê bai. Lũ bò vẫn thèm thứ cỏ xanh non, khoảng đầu mùa hạ, khi những cơn mưa bắt đầu đổ ập xuống thảo nguyên. Gã chưa từng chứng kiến một cơn mưa thảo nguyên. Gã mới đến đây lần đầu tiên. Ngày đầu tiên. Chuyến xe đầu tiên sau mười lăm năm không biết đường xá là gì. 

Xe giường nằm hẳn hoi. Vào bến, mua vé, trước khi lên xe phải bỏ giày dép vào một cái bao nylon và xách về nhét vào hộc gối đầu. Có hai tầng giường. Gã chọn chỗ cuối cùng, bên dưới. Khi những tấm rèm cửa đã kéo hẳn xuống, tiếng máy lạnh xè xè, phía đầu xe có cái màn hình 14 inch mỏng teng, một anh chàng ca sĩ ngôi sao nào đó đang gào thét với liveshow của mình, âm thanh và ánh sáng hắt ra loang loáng, nhợt nhạt. Gã kéo tấm chăn mỏng ngang ngực. Ở vị trí cuối cùng chẳng ai muốn vào trừ khi hết chỗ này, gã lại thấy yên tâm. Chỉ còn bóng tối. Chỉ còn cảm giác. Chỉ còn ngắm nhìn thiên hạ chứ chẳng lo lắng ai đang dòm ngó mình nữa. Thi thoảng, lại có người leo khỏi giường, đi về phía cuối xe. Ban đầu, gã giật mình không biết họ cứ thay phiên chui vào cái ô nhỏ nửa mét vuông bên cạnh giường nằm của mình làm gì nhỉ? Một lát thì phải tự bật cười với sự ngu ngơ sau mười lăm năm mù căm, chỗ ấy là toilet. Trên xe cũng có nhà vệ sinh nữa cơ à? Hiện đại thế. Anh chàng phụ xe nhắc mọi người, rành mạch hẳn hoi:

- Bà con tiểu tiện kheo khéo nhé! “Tiểu” thì được, còn “đại” thì gắng đến trạm dừng vì thùng chứa đã bị xì hơi, một cái tõm làm ảnh hưởng đến cả xe chứ chẳng chơi…

Anh chàng phụ xe liến láu giọng quê choa, đi từ đầu tới cuối, ghé hỏi từng hành khách “xuống mô?”, “về nhà hay thăm bà con?”… Đến chỗ gã, anh chàng phụ xe phải bật cái đèn pin soi vào mới thấy mặt. 

- Anh trai xuống mô?

- Tới bến - Gã khua tay, ra hiệu tắt đèn pin đi.

- Em hỏi để nếu khách có xuống dọc đường thì xe dừng cho tiện, chứ lỡ vào bến rồi đi taxi hay xe thồ ngược trở lại thì tốn kém lắm - Phu xe mới chừng hai mươi, lún phún mấy cọng râu cằm hệt gã mười lăm năm trước. Gã ậm ừ:

- Thảo nguyên Krông.

- Có địa chỉ mô rõ ràng không? Chứ Krông bao la chó chạy thẳng cẳng làm sao mà biết?

- Thì cứ cho xuống chỗ nào về thảo nguyên gần nhất…

Phía giữa xe, có tiếng đàn bà vọng xuống.

- Tôi cũng về Krông đây. Xe cứ cho chúng tôi xuống ngã ba Cây Gạo.

- Ok, tất nhiên rồi - Anh chàng phụ xe nói như Tây vậy.

Hai chữ “chúng tôi” của người phụ nữ chưa rõ mặt kia làm gã bất chợt ngượng ngùng. Mười lăm năm, thế giới đã lật qua bao nhiêu trang? Người ta đã viết vào cuốn sách đời thêm bao nhiêu chữ nghĩa nữa? Gã vẫn là gã trai lún phún râu cằm của mười lăm năm trước. Đơn thân độc mã. Sáng vác cuốc đi chiều vác cuốc về, giắt thêm mớ rau hay củ khoai trong cạp quần. Cho Linh. Còn gọi là Linh điên. Người bạn duy nhất của gã suốt mười lăm năm. Người ta tin Linh bị tâm thần, nên hiển nhiên Linh không bao giờ được bước ra khỏi bốn bức tường lạnh lẽo tháng Chạp và nóng chảy mỡ tháng Tư ấy. Gã đi chuyến này, cũng vì Linh.

Ở trạm dừng chân, gã bước xuống là móc ngay gói Basto xanh đã bẹp dí khỏi túi quần jean, nắn lại một điếu cho thẳng thóm, bật quẹt và rít. Mọi hành khách đang dồn vào phía trong, vệ sinh cá nhân và ăn uống, mua sắm quà cáp. Thấy gã vẫn đứng ngoài trời, anh chàng phụ xe tỏ vẻ quan tâm:

- Vào trong rửa mặt mũi tay chân cho khỏe. Không mất tiền bạc đâu mà lo. Kiếm cái gì ăn dằn bụng. Giá cả phải chăng, thời nay bọn “cơm tù” đã phá sản cả rồi.

Hai chữ “cơm tù” làm gã bất thần thấy nhồn nhột trong óc. Mười lăm năm, gã và Linh đã chia nhau thứ lương thực để sống chứ không chỉ để ăn. Sáng sớm nay, ở bến xe, gã mua ổ bánh mỳ rồi nhồm nhoàm nhai đợi đến giờ xe chạy. Bữa cơm đầu tiên sau mười lăm năm, gã muốn được thưởng thức dưới một mái nhà đàng hoàng chứ không phải ở quán xá tạm bợ. Với số vàng trong người, gã còn nhiều việc phải làm.

Giấc ngủ chập chờn chao nghiêng. Như nằm trên võng. Khác chăng, người ta không có quyền đu đưa theo ý mình. Hoàn toàn vâng phục theo con đường thẳng tắp hay ngoằn nghoèo, láng trơn hay ổ gà ổ voi lồi lõm. Mơ. Gã thấy mình đang cắt tóc cho Linh. Trong chốn tận cùng xã hội ấy, một mảnh ve chai cũng đủ làm nên một người thợ cắt tóc chuyên nghiệp. Gã đang cạo. Cạo rất nhẹ. Bên trái dưới ót của Linh có vết sẹo dài, những vết khâu ngang qua thâm tím theo thời gian, nhìn như một con rết. Linh lim dim mắt:

- Mày “làm đẹp” cho tao bao nhiêu lần rồi ha?

Gã không trả lời. Gã không đếm nổi. Gã đang tập trung. Bất chợt, Linh ngoẹo đầu sang phải. Lưỡi mảnh chai sắc ngọt khơi thông dòng máu. Chảy ướt tấm lưng áo sọc của Linh. Bắn vọt thành tia đỏ ngực áo sọc của gã. Gã thét lên:

- Linh… Linh ơi… Linh sao rồi … Tao không cố ý…

Linh quay hẳn người lại nhìn gã. Đôi mắt Linh mới đẹp làm sao. Đen mọng. Người ta bảo ấy là ánh mắt vô hồn đáng sợ của kẻ tâm thần, nhưng gã lại thích nhìn nó. Đam mê nó. Mỗi lần đối diện với mắt Linh, gã chẳng thể nào cử động nổi, tay chân miệng mồm trở thành vô nghĩa, ấp a ấp úng như kẻ thú tội trước tòa. Linh nói nho nhỏ:

- Tỉnh lại đi, cha nội! Tới nơi rồi.

Gã giật mình bật dậy, đầu va vào tầng giường trên nghe rõ to. Thì ra, anh chàng phụ xe đang cố đánh thức gã nãy giờ.

- Mới đi từ sáng nay mà đã nhớ thương đến nỗi mơ thấy vợ con ở nhà rồi sao? - Phu xe ghẹo. Bước xuống xe, gã chưa kịp hoàn hồn, phu xe lại la toáng lên: 

- Giày của cha nội đâu mà mang đôi dép rách của nhà xe xuống hả? Thiệt là hết nói… - Hành khách trên xe được một trận cười mang mang. 

Chiếc xe kềnh càng cuốn bụi lăn bánh, bỏ lại hai hành khách bên vệ đường ngã ba. Gã vươn vai hít thứ không khí suốt thời niên thiếu của Linh, còn hơi ngái ngủ nhưng gã vẫn giương mắt tìm gì đó xung quanh.

- Tìm cây gạo à? Không có đâu. Nó bị sét đánh gãy ngọn mấy năm trước, sẵn đó người ta đốn làm củi hun muỗi cho bò rồi - Người phụ nữ chừng ba mươi, mái tóc hun khói, nước da sạm mật vừa nói, vừa rút trong giỏ xách ra chai nước suối đưa cho gã - Rửa mặt đi. Mà, hành lý của anh đâu? Hay lại quên trên xe rồi?

- Không - Gã ngập ngừng - Có gì đâu mà quên. Từ đây vào thảo nguyên xa không?

- Đây đã là thảo nguyên rồi. Dân đây không gọi thảo nguyên, chỉ gọi Krông. Đất của bò. Anh từ xa đến? Tìm người thân? Có địa chỉ cụ thể không, chứ ở đây toàn dân mới nhập cư, sống theo mùa cỏ, rất khó tìm.

Gã lục túi quần, đưa manh giấy gấp ngay ngắn cho người phụ nữ.

- À, may mà anh gặp tôi đó. Chứ nếu hỏi người mới ở đây vài năm thì họ không biết chỗ này đâu. Xóm Đồi đã lên thị trấn từ mười hai năm trước. Đường xa xóm ấp thay đổi cả. Đi thôi. Ngã ba Cây Gạo chỉ có lão già chạy xe ôm buổi sáng, giờ này chắc đã say quắc cần câu rồi…

Gã bước theo người phụ nữ, xách hộ chị cái ba lô nằng nặng. Cũng may, còn có cái để bận rộn hai tay suốt con dốc im lặng chạy băng qua một nhúm rừng và mở ra một khoảng trời bao la. Hoàng hôn rực chân mây. Cỏ cháy một màu. Những con bò gầy trơ xương đứng thẫn thờ. Dễ đến hơn ba cây số cuốc bộ, người phụ nữ vẫn bước nhanh, không hề mệt mỏi. Đến ngã ba vào thị trấn, chị chỉ đường cho gã:

- Cứ rẽ theo lối này chừng trăm thước, thấy cái nhà ngói nâu cũ phía bên trái, hàng rào bông giấy là đúng địa chỉ rồi đó. Nếu không gặp người cần tìm, đêm nay muốn nghỉ lại thì đi thẳng đường này, một cây số nữa, hỏi nhà trọ Cao Bồi.

Lại một điếu thuốc nữa. Đầu thuốc đỏ hừng trước gió. Gió thảo nguyên lạ lùng. Người phụ nữ khệ nệ vác ba lô đi thẳng đường cũ, bốn bề đầy những vụn xoáy tung cỏ khô và bụi đỏ lên cao. Linh vẫn thường kể về những vụn xoáy như thế với một niềm hưng phấn khó tả. Như những con cù, con vụ xoay tròn trong trò chơi thuở nhỏ. Đuổi nhau qua lá qua hoa qua cỏ qua đồng qua tất cả mà chẳng bao giờ bắt được nhau. Cho đến khi mỗi kỳ công của gió nhạt mờ dần và tan biến vào thinh không. Trả lại hoa lá cỏ cây xao xác trên nền đất cùng nỗi thất vọng chưng hửng của kẻ chơi. Lại phập phồng đợi chờ một vụn xoáy khác. Một đợt gió khác. 

Chẳng có ai chờ đợi gã ở căn nhà ngói nâu cũ kỹ có hàng rào bông giấy ấy. Linh như cọng cỏ đang mơn mởn nhựa sống thì bị một lưỡi liềm bén ngót cắt lìa khỏi thảo nguyên. Và có lẽ, chẳng bao giờ trở lại.

Đón gã là một trận ẩu đả với nhiều tiếng chửi thề. Mấy người đứng nhấp nhô ngoài sân, trước cửa bàn bàn tán tán. Trong nhà, một người đàn ông bặm trợn, nồng nặc mùi rượu đang đấm đá túi bụi một người phụ nữ ngồi xổm hai tay ôm đầu che mặt. Nắm tóc người phụ nữ kéo ngược lên, hắn tục tằn:

- Mẹ mày! Giơ cái mặt điếm ra cho bà con hàng xóm nhìn rõ này! Thằng kia ngu đần nên mới giết người vì thứ đĩ thõa như mày…

Gã xộc vào, chẳng cần biết mô tê chi, đẩy mạnh kẻ say xỉn kia chúi nhủi vào tủ thờ. Người phụ nữ nằm vật xuống nền nhà, không đứng dậy nổi, hơi ngóc đầu lên. Ở đây, chưa bao giờ có ai can ngăn bất kỳ một trận đòn nào mỗi khi say xỉn tên chồng hờ giáng lên người ả. Hắn đang lọm khọm bám tủ đứng dậy, chỉ tay vào người khách lạ:

- A, a… Bà con thấy rồi đấy. Con đĩ này hôm nay lại còn dám dắt trai về đánh lại chồng. Mày chết với ông – Hắn chụp cái ghế đẩu trong tầm tay, ném thẳng về phía vợ. Cạch! Gã đã giơ tay đỡ. Ngón võ tự học trong mười lăm năm giữa chốn hùm beo cấu xé tưởng không bao giờ phải sử dụng, nhất là ở cõi bình yên của Linh. Gã chỉ tay vào mặt tên vũ phu:

- Tôi là bạn của Linh.

- Linh? - Chị vợ ngước hẳn dậy.

- Tôi là bạn của Linh - Gã nhắc lại. Chắc nịch.

Ả vợ nghe đến tên Linh, lại gục xuống nền nhà mà rú lên, nghe thì thảm thiết nhưng làm sao không ai nhận ra sự giả trá, tru tréo trong giọng điệu nức nở của người phụ nữ này chứ. Linh đã kể với gã, mỗi ngày, mười lăm nhân ba trăm sáu mươi lăm là bao nhiêu nét vẽ về con người này?

- Khốn nạn thân em, anh Linh ơi! Anh ở tù coi như yên phận rồi, còn thân em mẹ góa con côi bị ức hiếp tủi nhục thế này đây… Anh còn đem bạn về đây làm gì chứ… Oan quá… Sao không để cho tôi yên…

Những người tò mò đến xem đã bỏ về sau khi xì xì xầm xầm cùng ánh mắt đăm đăm rõ vào người khách lạ. Tên chồng vội vội vàng vàng như tỉnh hẳn rượu, nhặt cái ghế đẩu ban nãy kê trước mặt gã, khúm núm:

- Ôi, ông anh là bạn của anh Linh à? Thằng em có mắt không tròng, ông anh bỏ quá cho nhé. Thế, ông anh về lâu chưa? Anh Linh nhắn nhủ gì không? - Quay sang vợ, hắn quát - Mày còn nằm đó chờ ông kiệu dậy à? Mau xuống bếp nấu nước pha trà…

Gã im lặng như không nghe hỏi. Gã đang tìm kiếm. Gã đang hình dung. Gian nhà xa lạ lần đầu tiên bước chân vào, nhưng đã quen thuộc với gã lắm.

- Mẹ đâu? - Gã bồi thêm cho rõ - Mẹ của Linh đâu? - Không kịp nghe trả lời, ánh mắt gã và ánh mắt tên chồng đã gặp nhau trên bàn thờ. Tấm di ảnh còn mới. Dù nhang đèn đã lạnh tanh. Gã đứng rất lâu trước bàn thờ, mắt bà cụ và mắt Linh như một. Mắt Êđê. Mắt mèo. Cha Linh, một người đàn ông bị bỏ quên ở vùng thảo nguyên bạt ngàn đồi nối tiếp đồi này với hành trang duy nhất là căn bệnh sợ chiến tranh. Ông đào hầm gần vũng Lầy, tự vót chông vót tên săn thú hoang mà sống, trốn biệt thế gian. Một thiếu nữ Êđê chạy trốn cuộc hôn nhân bắt buộc bên làng Thang, vượt đèo Phượng Hoàng và kiệt sức ở vũng Lầy. Linh ra đời.

Gã móc túi quần, lấy ra một gói nhỏ bằng vải cột dây thun, từ từ mở ra và chọn trên lòng bàn tay, lấy một vật nhỏ như ngón tay út đưa cho tên chồng. 

- Đem đổi rồi mua nhang đèn, trái cây và nấu mâm cơm cúng mẹ - Gã nói đĩnh đạc từng tiếng, như ra lệnh.

- Vàng đây ư? Lạ nhề - Tên chồng xun xoe - Ở trỏng, phải đập nát bét vàng ra rồi quấn kín bằng chỉ khâu à? Lạ nhề…

- Khoan đã. Còn thằng bé đâu? - Gã sực nhớ.

- Thằng nào? À, thằng Lung con anh Linh à? Nó theo người ta đi chăn bò tuốt miệt sâu Krông, cả năm nay không thấy về…

Tên chồng đi rồi, chị vợ mới ló ra, đon đả:

- Anh Linh có gởi gì cho mẹ con em không? - Ả chăm chăm vào gói vải vẫn còn trên tay người khách lạ.

Số vàng này, đổi bằng máu suốt mười lăm năm. Có ở tù lâu án nặng mới biết, trường trại cũng như một xã hội nhỏ. Những con người - thật ra đã từng là con người chen lấn sát sàn sạt nhau mà mưu sinh. Cũng đủ thứ chuyện trên đời. Cá lớn nuốt cá bé. Số má giang hồ. Khôn chết dại chết biết mới sống. Gã lanh lẹ và liều lĩnh giành được mối “buôn lậu” các mặt hàng “cấm” như thuốc lá, thuốc lào, cá khô, thuốc tây… Một số cán bộ trại giam với mức lương công nhân không chịu nổi sự cám dỗ của đồng tiền, tuồn những thứ vi phạm nội quy ấy vào cho những bậc đàn anh đàn chị trong trại buôn bán lại cho trại viên. Lợi nhuận khủng khiếp. Một điếu thuốc lá khi “động hàng” lên đến trăm ngàn, một lạng thuốc lào đen 888 thường thường cũng nửa chỉ vàng. Vàng khâu đập bẹp quấn chỉ xé ra từ vải áo để lỡ khi bị lục soát đột xuất thì, nếu kịp, nhét vào lỗ hậu môn, nếu khẩn cấp, nuốt ngay vào miệng. Tài sản quý giá này đã đi ra đi vào thân thể Linh không biết bao nhiêu lần mà chưa hề hao hụt chút nào. 

- Thằng bé đâu? - Gã lặp lại câu hỏi với ả đàn bà.

- Ôi thôi, bất hạnh thân em lắm anh ơi! Chồng đang hiền lành giỏi giang thì ghen tuông mà giết người phải tù chung thân. Thằng con mười mấy tuổi đã nổi máu giống cha, suốt ngày gầm gừ với mẹ với dượng. Chồng em ban nãy đấy, hay say xỉn đánh vợ nhưng mà có sao đâu! Không nương tựa vào ảnh thì sống làm sao? Thế mà thằng Lung gây sự với dượng nó rồi bỏ đi biền biệt…

- Mẹ mất khi nào? - Gã ngắt lời chứ không ả nước mắt ngắn nước mắt dài than vãn đến khuya chưa xong. 

- Năm ngoái. Bà mất, thằng Lung cũng bỏ đi luôn. Biết anh Linh ở đâu mà báo tin chứ…

Gã nhớ, suốt thời gian ở chung với Linh, chưa bao giờ ả vợ vào thăm Linh lần nào. Tù nhân, khổ mấy cũng chịu được, nhưng ngậm ngùi nhất là không có thân nhân. Năm đầu tiên, dịp tết thì phải, mẹ Linh đi thăm. Cũng là lần duy nhất Linh được gọi tên thăm nuôi. Mắt bà đã yếu lắm, mọi thứ đã mờ dần mờ dần chỉ còn chực chờ biến mất sau khi Linh lãnh án chung thân. “Cái án không biết nói!” – Linh vẫn mỉa mai như vậy mỗi khi có ai hỏi đến. Người đàn ông trụ cột gia đình, chăm bẵm từng con bò làm vốn, thậm chí nhận chăn thả thêm cho người ta, vợ ở nhà ăn trắng mặc trơn lại đi ngoại tình. Chịu không nổi, người đàn ông nốc rượu vào rồi lục lại cung nỏ của cha mình năm xưa. Năm đó, thằng Lung mới 3 tuổi. 

Trong tù tội, người ta có thể giết nhau chỉ vì một nhúm muối hay một hơi thuốc lào. Nhưng, người ta cũng dễ đồng cảm và đến với nhau như anh em ruột thịt chỉ vì một tấm chăn đắp chung hoặc nhường nhau vài muỗng cơm khi bệnh hoạn. Sự sống mỏng tang. Người ta buồn, người ta vui, người ta hung dữ, người ta hiền lành, người ta dối trá, người ta thật thà, người ta khôn ngoan, người ta khờ dại… như chưa từng bị đứng sau vành móng ngựa. Trong cái ổ kiến chật chội toàn là án “dây thun” ấy, nhiều kẻ phải trả giá nhiều hơn tội lỗi của mình đã gây ra, bởi cái khát khao tự do, ám ảnh quá khứ và nỗi nhớ thương cuộc đời đè nặng trên ngực. Một ngày như mọi ngày, những câu hỏi đã mòn trên môi thâm: Bao giờ mới gặp lại “người đời” nhỉ? Không biết vợ con ở nhà ra sao? Làm lại từ đầu làm lại từ đâu?... Nếu nhìn vào những gã đàn ông ngồi quây quần cười nói giờ gác cuốc nghỉ trưa, có ai tưởng tượng ra, đó là những tội phạm trọng án bị cách ly gần như vĩnh viễn khỏi xã hội loài người?

Tù nhân không có thăm nuôi, gọi là “mồ côi”. Linh đã “mồ côi” lại còn “điên” nên hay bị ăn hiếp. Khi thì bị “đại bàng” bắt giặt giũ áo quần, lúc bị  đánh “hội đồng” như một trò tiêu khiển trong phòng giam. Gã cũng “mồ côi” nhưng không “điên”. Chuyển đến trại mấy tháng, gã đã tạo được “số má” bằng sự lì lợm và bản lĩnh hơn người. Linh về “ở” với gã sau một lần được gã bênh vực. Không như “lính lác”, “em út”, hoặc “chốt thí” mà như anh em vậy. Chẳng biết giờ này trong đó, Linh ra sao?

Gã đứng dậy. Chẳng còn gì ở ngôi nhà ngói nâu cũ này. Bước ra khỏi cổng, gã nán lại bứt một nhánh bông giấy đang rực đỏ. Thứ bông mảnh mai không hương chỉ chực tay người động vào là rụng thế mà cành lại dai hết sức, phải vặn vẹo mấy vòng mới chịu lìa thân. Gã đi về phía nhà trọ Cao Bồi.

- Hóa ra, anh là bạn anh Linh? - Người phụ nữ đi cùng đường hỏi lại - Nãy giờ, nghe người ta nói vậy. Ở cái thị trấn bằn bàn tay này, chẳng có việc gì riêng tư cả.

Nhà có mấy phòng, chủ ngăn ra cho thuê kiếm thêm chút tiền chợ. Phía trước, kê hai bộ bàn ghế cóc bán trà đá, cà phê. Khách chủ yếu là dân chăn bò, tạt qua mua thêm thực phẩm để đi tiếp. Bà chủ nhà trọ là bạn từ thuở ấu thơ với Linh. Vẫn ở không.

Gã kéo ghế ngồi dựa hẳn lưng vào tường. Tâm hồn khô quéo lại. Tâm hồn khát nước. Khói thuốc không kịp vo tròn theo làn hơi điệu nghệ đã bị gió cuốn tan phăng.

- Thằng Lung có hay ghé đây không? 

- Có. Mới tháng trước. Nó y hệt anh Linh. Bây giờ không biết đang rong ruổi tận đồi Cháy hay ở đâu nữa. Để mai mốt tôi gặp dân chăn bò ra thì nhắn tin dùm cho.

- Thôi. Để mai tôi đi.

- Đi? Anh có biết, chưa từng có đàn bò nào lội hết thảo nguyên bao la này trong suốt cuộc đời của chúng không? - Người phụ nữ tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi như lập tức hiểu chuyện ngay - Ừ, thì đi. Đêm nay nghỉ ngơi cho khỏe. Để tôi chuẩn bị lương khô…

Mắt thằng Lung có đen mọng giống mắt Linh không nhỉ? Gã tự hỏi thầm. Bên ngoài, nắng đã mất dạng. Trong ánh chập choạng, chắc hẳn những con vụ gió vẫn rượt đuổi nhau suốt cơn vô tận. Người phụ nữ đang đơm lửa nấu cơm tối, tay làm miệng hát đùa khe khẽ:

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui/ Chọn tới chọn lui là hết một ngày…

Lũ muộn / Truyện ngắn PHẠM HỮU HOÀNG

Ông Tự mong lũ đến mỏi con mắt. Vì khi lũ về, cá tràu, rô, trê … trồi ra vẫy vùng. Lại thêm cá trôi, diếc, chép, mương, chốt…ở các lòng hồ, khe suối chốn đại ngàn xuôi theo con nước bạc. Cá ở vùng hạ bạn ngược dòng... (Phạm Hữu Hoàng)

Ông Tự uể oải vươn vai một cái rồi chậm rãi đi qua cửa nhà chòi ra bãi cát mé sông. Cát nóng bỏng lạo xạo dưới bàn chân trần. Ông lội xuống dòng nước chảy lờ đờ, tới chỗ ngang ống quyển, khom người chúm hai bàn tay vục một bụm nước úp vào mặt. Rồi một bụm nữa. Nước nhỏ giọt trên chòm râu, nhỏ xuống bộ ngực trần đen đúa, xương xẩu. Nước mát làm ông thấy khoan khoái. Ông ngước nhìn lên phía Tây, nơi có những ngọn núi xanh thẳm, lững lờ chòm mây trắng, miệng lẩm bẩm:

     - Qua tiết lập đông rồi mà chẳng thấy động tĩnh gì. Chừng nào ông trời mới chịu đổ nước về.

     Ông vừa lểu thểu về chòi vừa nghĩ tới bữa cơm chiều. Cả tháng nay ông phải chắt chiu, tính toán từng bữa ăn, sao cho cầm cự tới khi lũ về. Nước cạn kiệt. Trên khúc sông quen thuộc, ban ngày, ông thả lưới, quăng chài, lặn bắn miệt mài, ban đêm, bơi sõng đi soi đến bét mắt mà vẫn không đủ đắp đổi bữa ăn. Con sông ngày càng ít cá. Đã vậy, có kẻ còn dùng xung điện. Rồi thuốc cỏ, thuốc trừ sâu từ các chân ruộng chảy xuống. Con cá nào sống sót, trốn bặt vào hang, hốc trong các hầm chảo gai góc…

     Ông Tự mong lũ đến mỏi con mắt. Vì khi lũ về, cá tràu, rô, trê … trồi ra vẫy vùng. Lại thêm cá trôi, diếc, chép, mương, chốt…ở các lòng hồ, khe suối chốn đại ngàn xuôi theo con nước bạc. Cá ở vùng hạ bạn ngược dòng... Chỉ cần nhìn luồng nước chảy, chọn vị trí thả nhá kéo, có khi, chỉ một lát, lờ cá đã đầy nóc. Nước rặt là mùa thu hoạch. Tha hồ bủa lưới. Cá no mồi béo núc. Tối đến, chỉ cần một trận mưa, ếch giao hoan kêu ồm ộp khắp cánh đồng. Chịu khó đội đèn bin đi soi một chặp, cũng kiếm được kha khá.

      Ông lại góc bếp, loay hoay nhóm lửa nướng lòi cá rô muối. Xong, ông ngồi nhắm rượu. Ông nhâm nhi từng ngụm. Men rượu làm người ông nóng phừng. Ông thừ người ra nghĩ ngợi. Lại buồn. Ông Tự chưa cưới vợ. Chẳng có đứa con gái nào chịu lấy ông bởi không kham nổi cuộc sống phập phù nơi sông nước. Biết làm sao được. Ông đã gắn bó máu thịt với nghề chài lưới và tìm được trong công việc bao niềm vui thú riêng. Ông còn nhớ, sau ngày giải phóng, một anh cán bộ bước vào căn nhà chòi, lạ lẫm ngó chung quanh, săm soi từ cái bếp đến chỗ ngủ. Anh ta bảo với ông:

      - Trường hợp của anh, chúng tôi cũng đã họp bàn rồi. Anh thuộc thành phần cơ bản được chiếu cố. Chúng tôi bố trí anh chân bảo vệ hợp tác xã nông nghiệp thị trấn. Thế sẽ tốt hơn cho anh. Không lẽ, anh cứ sống lẻ loi cả đời ở bến sông này à? Một cuộc sống không ánh điện, không hội hè… Còn mùa lũ, anh xoay trở thế nào trong cái nhà chòi trơ trọi này?

     Ông Tự ầm ừ cho xong chuyện. Đâu lại vào đấy. Lũ nhỏ. Có hề hấn gì? Lũ lớn, nước lụt tràn bờ. Ông lấy ít vật dụng cần thiết bỏ lên sõng, mà thực ra đồ đạc ông có nhiều nhặng gì đâu, chèo thẳng vào nhà người quen ở nơi cao ráo ven thị trấn ở tạm vài hôm. Căn nhà chòi bị lũ trôi, ông dựng lại, tốn ít tranh tre là xong. Anh cán bộ đến mấy lần nữa cũng không lay chuyển được ông cũng đành thôi.

      Hồi ấy, xảy ra một chuyện đã làm xáo trộn cuộc sống bình lặng của ông. Một đêm khuya, trăng rất sáng. Ánh trăng vàng trên mặt sông. Ông trằn trọc không chợp mắt được, ra trước hiên ngồi hóng mát. Bỗng có tiếng chân người đi vội dọc theo bờ sông. Ai ra sông giờ này? Linh tính báo cho ông biết có chuyện bất thường. Thêm một kẻ chán đời chăng? Ông Tự nhổm dậy bước sải theo. Quả nhiên, đến chỗ vực nước sâu, người kia nhảy ùm xuống nước. Không chần chừ, ông cởi áo nhảy ào theo, bơi như con rái cá, vừa bơi vừa quan sát. Định được vị trí, ông thận trọng lặn xuống, quờ tay tìm kiếm. Đụng được mái tóc. Một cô gái. Ông xoắn tay nắm chùm tóc trên trán, kéo giật đầu cô gái ra sau, cố sức đưa lên mặt nước. Cô ta giãy giụa yếu ớt rồi xuôi tay, bất động. Ông vừa bơi vừa kéo cô ta vào bãi cát gần đấy. Bằng những động tác hết sức thuần thục, ông xốc nước, hô hấp nhân tạo. Ông từng cứu được không ít người thoát chết chỗ cái vực đó bất chấp lời nguyền thế mạng luôn ám ảnh người dân chài. Cô gái nấc lên, miệng, mũi ói trào nước. Ông thở phào, bế thốc cô gái rảo bước về chòi, đặt cô nằm trên chiếc chiếu. Người cô run lên cầm cập. Ông quơ vội bộ quần áo khô còn lành lặn vắt trên cây sào phơi đồ thay gấp cho cô rồi lấy tấm mền đắp lên người. Ông quày quả nhóm lửa. Ngọn lửa bùng lên, hơi nóng lan tỏa. Ông bưng lò lửa lại, đỡ cô gái ngồi dậy sưởi. Gương mặt cô trắng nhợt nhạt, môi tím tái. Mắt thất thần, sợ hãi. Lát sau, cô gái chợt nói:

     - Sao anh lại cứu tôi?

     - Bởi số cô chưa tới lúc chết.

     - Tôi không muốn sống nữa.

     - Cô nên nghĩ kĩ lại đi. Muốn chết là ý nghĩ bậy nhất trên đời.   

     - Còn nghĩ gì nữa. Giá mà anh biết, tôi… tôi… không còn dám nhìn ai nũa? Thật quá xấu hổ nhục nhã!

     - Xấu hổ nhục nhã nhất là trốn tránh cuộc sống. Cô biết không, ngay con cá, con tôm tôi bắt được, nó giãy giụa đến khi kiệt sức mới chịu chết.

    Cô gái ôm mặt khóc, tiếng khóc tức tưởi mỗi lúc một lớn. Ông quấn một điếu thuốc rê châm lửa hút. Cô ta khóc được là đỡ rồi. Giọt nước mắt sẽ làm nhẹ bớt nỗi đau. Chờ cho tiếng khóc cô gái dịu đi, ông nhỏ nhẹ:

     - Giờ cô chợp mắt một tí, gần sáng hãy về. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.

     Cô gái mệt mỏi nằm xuống. Mắt cô khép lại. Hơi thở đều đều. Giấc ngủ đến với cô thật nhanh chóng. Bấy giờ ông mới nhìn kĩ cô gái. Trông cô thật đẹp. Sóng mũi thẳng, hàng mi cong cong, làn môi e ấp… Ông bồi hồi cầm bàn tay cô ve vuốt… Trong ông bỗng dâng trào một cảm giác rạo rực. Mặt ông nóng bừng như bị thiêu đốt bởi sự thèm muốn của phần đàn ông đang thức dậy. Nhưng… Nhìn nỗi đau khổ còn đọng trên gương mặt nhợt nhạt… Nỗi đau khổ đã dẫn cô quyết định ra bến sông để tự vẫn… Ông buông bàn tay cô gái, kéo tấm mền dém kĩ cho cô rồi bước ra ngoài, tới chỗ cái sõng đang neo gần đó, leo nhanh lên sõng, tháo dây cột, chèo thẳng ra giữa dòng. Bóng ông khuất dần trong trăng.

Ít hôm sau, lúc gần trưa, ông bơi sõng đi giở lưới bắt cá về, vừa bước lên sàn nhà, ông Tự ngỡ ngàng không tin vào mắt mình nữa. Cô gái ngồi trên võng. Nụ cười của cô làm sáng cả căn chòi. Cô ta nhanh nhảu:

      - Anh cho em ở tạm thời gian nhé. Bây giờ, em không có nhà, chưa biết đi đâu.

    Ông Tự hồ hởi:

     - Cô ở bao lâu cũng được. Cứ xem đây là nhà mình. Chỉ e nó tuềnh toàng quá, không biết cô có chịu được không?

    Cô gái đứng dậy, tới gần ông, đột ngột áp mặt vào vai ông nghẹn ngào:

     - Em tên Phương Nhi. Được anh cưu mang là may mắn cho em rồi. Ngoài anh ra, em không biết trông cậy vào ai nữa.

    Phương Nhi kể vắn tắt cho ông nghe cô bị một gả sở khanh lừa gạt. Khi cô có mang, hắn đã tàn nhẫn bỏ rơi. Gia đình cô từ bỏ… Giọng cô rắn rỏi:

    - Em sẽ bắt đầu lại cuộc sống mình. Con em không có tội gì. Nó phải được ra đời.

    Phương Nhi đem đến cho đời ông niềm hạnh phúc mà ông chưa từng có được. Nhiều đêm nằm bên cô, nghe tiếng muỗi vo ve và tiếng nước chảy róc rách quen thuộc, ông cứ ngỡ là giấc mơ. Rồi Phương Nhi sinh một bé gái. Cô nói với ông:

    - Em đặt con bé tên Phận. Em không bao giờ quên cái số phận nghiệt ngã đã đưa đẩy mẹ con em đến với anh, để mình có nhau trong cuộc đời này.

   Bé Phận ra đời thêm nhiều chi phí. Ông phải lặn sâu hơn, phơi nắng nhiều hơn để kiếm thêm con tôm, con cá. Ông cật lực xoay trở đến mướt mồ hôi. Một đêm mưa gió mịt mù, gió lùa vào khe trống bức vách lạnh căm căm. Phương Nhi thao thức đến quá nửa đêm. Ông hỏi. Cô thở dài:

     - Em không đành lòng thấy anh vì mẹ con em mà lặn lội bươi chải vất vả mãi được. Vừa rồi, em vào thị trấn liên hệ với một người bà con ở xa nhờ  tìm giúp việc làm. Người ấy vừa nhắn tin bảo em vào gấp không khéo lỡ mất cơ hội. Em đi một chuyến xem thử thế nào. Nhờ anh nuôi giùm bé Phận. Tìm được công việc ổn định, em sẽ về đón con.

    Ông Tự biết không thể giữ Phương Nhi ở với mình. Sự ràng buộc giữa ông với cô lỏng lẻo đến mức có thể tan biến bất cứ lúc nào. Cô sinh ra ở thị thành và chỉ thích hợp với cuộc sống nơi đô hội. Ông nơm nớp sợ mất cô. Điều lo lắng đó đã đến. Phương Nhi nói tiếp:

     - Em không thể tiếp tục sống như thế này được. Mong anh hiểu cho em.

     Ông Tự vẫn im lặng. Nghĩ tới căn nhà chòi không còn tiếng cười tiếng nói của cô, lòng ông quặn thắt. Phương Nhi không nói gì nữa. Cô cũng buồn lắm. Nhưng không thể khác được. Cô đi vào một chiều mưa tầm tã. Ông ẵm Bé Phận đứng dưới mái hiên nhìn theo. Hạt mưa tạt vào mắt ông cay xè. Từ đó, ông chăm chút nuôi bé Phận. Tiếng nói bi bô của con bé làm căn nhà chòi bớt trống vắng. Bữa cơm rau, bữa cháo cá, bàn tay xù xì, thô ráp của ông nuôi Phận lớn lên. Con bé hỏi về má nó. Ông nói má nó đi làm ăn xa. Có lần, con bé nắm tay ông lay lay, miệng nằng nặc:

       - Ba ơi! Má bỏ ba con mình rồi phải không?  

   Ông phải vỗ về:

       - Không đâu. Má không bỏ ba con mình đâu. Má sẽ về thôi.

    Năm ấy khô hạn cháy đất. Đồng ruộng nứt nẻ. Nắng hạn kéo dài qua tiết đông chí. Cuộc sống của ông càng thêm túng bấn. Đồng bạc kiếm được quá khó khăn. Có ngày, ông phải vào trong chợ gánh nước đổ cho mấy mụ hàng cá kiếm ít tiền lẽ mua đỡ bát gạo Vậy mà, đi học về, con bé thường mếu máo khóc nào là bạn học chọc vì cái áo cũ rách toạc vai không ai vá, không có tiền mua sách vở, cô giáo hối thúc nộp các khoản nhà trường thu… Ông chỉ còn biết ôm nó vào lòng:

     - Con nín đi. Rồi ba lo đầy đủ tất cả cho con.

    Con bé bệu bạo hỏi:

    - Chừng nào hở ba?

   Ông chép miệng:

    - Chờ con lũ về con ạ. Chắc cũng không lâu nữa đâu.

   Trán ông Tự hằn sâu thêm nếp nhăn. Hai cha con im lặng lắng nghe tiếng sấm phía đầu nguồn. Mắt con bé xôn xao.

     Phương Nhi đi bặt một hơi mười năm trời. Rồi cô cũng trở về. Cô về khi cái nắng hạn và nỗi chờ mong con lũ đã làm kiệt quệ sức chịu đựng của ông Tự. Cô hỏi về cuộc sống của ông, về bé Phận… Nghe ông kể, mắt cô đỏ hoe. Nén xúc động, cô nói:

     - Em đã có chồng. Chúng em sắp đi định cư ở nước ngoài. Mãi gần đây, em mới kể cho anh ấy nghe về quá khứ lầm lỗi, về bé Phận. Anh ấy cao thượng bỏ qua tất cả và bảo em về đón bé Phận cùng đi. Em đã bỏ con bơ vơ ngần ấy thời gian. Giờ em sẽ chăm lo, bù đắp cho nó. Cho em xin lỗi vì không thể cùng anh sống hết cuộc đời này. Anh đã khổ nhiều với mẹ con em. Ơn anh sâu nặng, đời này mẹ con em không sao trả nổi.

      Có cái gì nghèn nghẹn nơi cổ họng. Sự việc quá đột ngột làm ông sững người. Ông đã mất Phương Nhi, giờ sẽ mất luôn bé Phận, đứa con gái nhỏ nhắn mà ông rất đỗi yêu thương? Chẳng lẽ nó không còn quấn quýt bên ông nữa? Ông sẽ sống thế nào khi không còn có nó? Sao số phận trớ trêu với ông như vậy? Nhưng, sống với ông thì con bé phải tiếp tục chuỗi ngày cơ cực, thiếu đói deo dắt triền miên. Tương lai con bé sẽ về đâu? Con bé cần có mẹ. Không ai yêu thương và chăm lo cho con bằng người mẹ. Sống với Phương Nhi, ông tin rằng một cuộc sống khác tốt đẹp hơn mở ra với con bé.

    Thấy ông Tự tư lự, Phương Nhi lo lắng chắp tay lên ngực thổn thức:

     - Anh thương em thì để mẹ con em được ở bên nhau. Em xin anh đấy. Anh cho em cơ hội để làm tròn trách nhiệm người mẹ đối với con.

     Phương Nhi mở cái xắc lấy một xấp tiền đặt lên cái bàn tre xiêu vẹo, giọng run rẩy:

    - Em có chút ít biếu anh trà nước. Mong anh nhận cho em vui.

    Ông vội cầm xấp tiền dúi lại vào tay cô:

    - Đừng làm thế. Cầm lấy mà nuôi con bé. Dẫn nó đi mà nuôi dạy nó cho nên người nghe.

    Con bé đi hái rau về. Nó lạ lẫm ngó Phương Nhi rồi chạy đến bên ông dò hỏi. Ông vuốt nhẹ mái tóc nó, nói nhỏ nhẹ:

     - Má con đó. Má về với con rồi. Con đến với má đi.

     - Má đây con! - Phương Nhi xúc động kêu lên.

     - Má! Má ơi!...

    Bé Phận thả rỗ rau xuống sàn, chạy tới ôm chặt Phương Nhi. Cô bế con bé lên. Hai mẹ con khóc sướt mướt. Phương Nhi hôn lên má lên tóc nó. Con bé áp mặt vào ngực mẹ, rủ rỉ:

     - Má ở lại với con, với ba nghen.

Ông Tự lên tiếng:

     - Má con không ở được. Con đi với má. Má sẽ lo cho con đầy đủ. Khi nào rảnh, hai má con sẽ về thăm ba.

    Bé Phận phụng phịu không chịu. Ông phải dỗ mãi nó mới xiêu lòng.    

    - Má hứa đi má. Má con mình về thăm ba nghen.

    - Ừ, má hứa.

     Ngay trong chiều hôm đó, con bé theo mẹ nó ra đi. Bóng hai mẹ con liêu xiêu trên bờ sông. Con bé vừa đi chốc chốc ngoái nhìn lại. Ông không chịu nỗi cái nhìn ấy. Ông quay mặt nhìn ra dòng sông. Dòng nước chảy vấp váp len lỏi qua các bờ cát như đang khắc khoải chờ đợi đến nao lòng cơn chuyển dạ phía đầu nguồn…

      Cái thị trấn nhỏ bé giờ đã trở thành thị xã lớn sầm uất. Nhịp sống ồn ào, gấp gáp đã cuốn phăng đi nhiều thứ. Một buổi sáng ảm đạm, mấy chiếc ô-tô bóng loáng chạy vào con đường đê rồi dừng lại. Lố nhố bóng người bước xuống xe. Những người đàn ông bệ vệ xun xoe chung quanh hai người phụ nữ ăn mặc sang trọng, dáng vẻ quí phái: một già, một trẻ. Người phụ nữ trẻ tuổi ngoài ba mươi, gương mặt lanh lợi. Hai người phụ nữ là Việt kiều từ Úc về, họ là những doanh nhân đang đầu tư nguồn vốn lớn cho một dự án biến một vùng bãi bồi ven sông thành khu du lịch, vui chơi giải trí cao cấp với khách sạn hiện đại… Nhóm người đi bộ dọc theo bờ sông, đến chỗ có mô đất bằng, mọc đầy cỏ dại. Hai người phụ nữ đã đến đây nhiều lần từ hôm trở về nước. Người phụ nữ lớn tuổi tựa vào người phụ nữ trẻ. Cả hai cứ nhìn đăm đắm mô đất bằng ấy như muốn nhớ lại một điều gì trong kí ức. Người phụ nữ lớn tuổi thở dài, buồn bã:

     - Phận này, má con mình còn nợ mảnh đất này một lời hứa đấy.

    Người phụ nữ trẻ lặng im. Mắt rớm lệ. Một gã trong nhóm trỏ mặt sông phía trước nói với người phụ nữ trẻ:

      - Thưa cô, theo thiết kế thì nhà hàng thủy tạ xây chỗ này. Cô thấy có được không?

     Người phụ nữ trẻ thờ ơ nhìn theo ngón tay gã vừa chỉ. Cô không trả lời. Chợt có tiếng sấm rền phía đầu nguồn, cô ngước mặt trông lên những đám mây đen vần vũ, giăng mờ mấy chỏm núi  phía Tây, bất giác nói một mình:

  - Sắp có lũ rồi!

    Những người đàn ông đứng bên cạnh dù cố săn đón nhưng không ai hiểu được ý người phụ nữ trẻ trong câu nói ấy. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: