Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyen ngan-Lenghiabk05

Dã Tràng, rốt cục là một gã may mắn

A-

 

A+

 

‹Đọc›

Sau một trận ốm ra trò, bỗng dưng có chuyện quái lạ xảy ra với tôi. Vào cái hôm bắt đầu lò dò bước ra đầu ngõ ngồi uống chén trà suông hút điếu thuốc, vừa ngồi xuống cái ghế gỗ bóng láng, tôi bỗng có ý nghĩ: “Thằng này sao hôm nay trông nó cô hồn thế nhỉ?”

Nhìn quanh quất, tôi chả thấy ai ngoài mình và bà chủ quán nước. Nói là chủ quán nước chè, nhưng chuyên môn chính của bà là ghi lô đề số má. Tôi là một trong những con nợ chung thân, cũng tại vì dạo đó làm ăn trì trệ, rảnh quá sinh hư, tôi dính vào cờ bạc liền. Mấy hôm ốm nằm nhà, chẳng còn đầu óc đâu mà lô đề, cũng vật ra phết.

Nghĩ bụng chắc tại tác dụng phụ của thuốc kháng sinh, tôi mau chóng quên đi cái ý nghĩ vừa thoáng qua đầu kia.

- Mấy hôm mất mặt đâu thế hả mày? – Mụ chủ nợ hỏi tôi cấm cảu, rõ là mụ không hài lòng với việc tôi tắt điện thoại mấy hôm vừa rồi.

- Ốm, nằm nhà – Tôi hờ hững đáp.

“Ốm cái máu l. bà ấy, đ. có tiền trả nợ chứ gì, bà chả lạ”.

- Ơ cái con mụ này! – Tôi ngơ ngác quay lại, tí sặc chén trà nóng – Mụ đến tháng đấy à?

- Sao?

- Mụ vừa nói cái gì?

- Tao nói cái đ. gì?

- Thế cái gì mà máu l.?

- Tao có nói cái máu l. gì đâu? Chỉ hỏi mày mất mặt đâu mấy hôm chứ có nói thêm cái máu l. gì nữa đâu?

Tôi nhìn quanh quất, nhưng rõ ràng quán nước bé tí chả có ai khác ngoài tôi và con mụ này. Chết thật, rõ ràng tôi nghe thấy những lời nói kia, không thể nhầm được. Chắc đúng là do dùng kháng sinh quá liều nên sinh ra ảo giác thật rồi. Tôi im lặng bỏ qua, lơ đãng nhìn trời mưa phùn nhấp trà. Nhưng lần này tôi lập tức phun cả ngụm trà ra và bị sặc thật sự, bởi tôi lại nghe thấy câu nữa: “Đúng là thằng dở!”.

Tôi quay phắt lại nhìn con mụ kia chằm chằm, mụ ngơ ngác nhìn lại. Không, rõ ràng là lần này tôi biết mụ chẳng nói năng gì, mà là tôi đang nghe thấy những suy nghĩ của mụ mà thôi. Hóa ra là thế, mụ đang nghĩ và rủa tôi vậy đấy, và, có quỷ thần mới biết được, bỗng dưng tôi đọc được ý nghĩ của mụ ta, một cách rất quái đản.

Tôi thoáng rùng mình, vẫn đinh ninh đây là một tác dụng phụ của thuốc tây quá liều, chắc mẩm nó sẽ hết ngay thôi. Để xem sao đã…

- Ốm dậy, nên hơi ảo, mụ thông cảm!

- Ốm làm sao?

- Đ. biết, tự dưng sốt, chắc sốt dịch.

Mụ chẳng buồn hỏi gì thêm, lôi sổ kết quả lô đề ra săm soi.

“Tổ sư, con lô 00 này gan quá, dễ mà bán nhà, thôi đ. chơi nữa, quay sang ôm có khi hay, nhỡ nay mai có nổ thì cũng chẳng sao, nhưng mà chỉ ôm vài trăm điểm thôi. Hay là chơi gấp thếp tiếp nhỉ? Nhỡ nó gan thêm vài ngày thì đúng là báo cháo luôn…”.

- Ôm đi, sao phải xoắn? Nó còn gan vài hôm nữa đấy, tầm ấy thì mụ cũng cắn ngập răng rồi, nhè lại tí cũng đã sao?

- Cái gì? – Mụ kinh ngạc nhìn tôi.

- Tôi bảo là mụ ôm con lô 00 đi, bao nhiêu cũng cứ nhận cho tôi, sợ thì chuyển cho tôi.

- Sao biết tao định ôm?

- Nhìn là biết.

- Mày tính mấy ngày nữa thì nó nổ?

- Năm ngày, chắc ăn thì ôm bốn ngày thôi nhá.

“Mẹ kiếp, chết dúi dụi còn phán như đúng rồi ấy nhỉ, bà còn chưa đòi nợ đâu đấy”.

- Cháo nóng húp quanh, nợ trả dần, đ. gì mà phải xoắn, bà cứ yên tâm, nhá, thằng này đ. quịt nợ ai bao giờ.

- Tổ sư, tao có mở mồm đòi nợ mày câu nào chưa?

- Đ. mở mồm, nhưng mà cứ chửi thầm, tôi lạ đ. gì.

- Sao biết?

- Vong nhập nên biết.

Con mụ tái xanh mặt nhìn tôi. Những loại đàn bà này đồng bóng và mê tín thôi rồi, chỉ cần bắt nọn dọa cho câu là đái ra quần, tôi chả lạ. Nhưng quả thật là hình như sau trận ốm tôi bị vong nhập thật cũng nên, những ý nghĩ của mụ ta cứ vang lên ong ong trong đầu không sao né được.

- Tao mà chửi thầm, bóng đèn này nổ - Con mụ ấy vẫn già mồm.

- Ờ, thế thì mụ thử bật bóng đèn lên xem nào!

Mụ với tay bật công tắc, và bóng đèn nổ đánh bụp một phát, khiến tôi cũng phải giật mình.

- Mày... mày làm tao sợ quá rồi đấy, thằng ôn vật! – Mãi mụ mới lắp bắp được một câu.

- Tôi cũng còn sợ nữa là bà. Hôm nay phang tất tay con lô 99 đi nhá, ôm con 00, chuyển cho tôi luôn con lô 99.

- Bao điểm?

- 1000 điểm.

- Mày bị điên à? Trả nợ cho tao đi đã rồi chuyển chiếc gì nói chuyện sau.

- Tát vỡ mồm giờ, con mụ này, cô thương báo mộng rồi, cô đang nói với mụ đấy nhá, cứ liệu hồn! Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ nhỉ?

- Tao đỡ cho mày tao chết trước.

- Ờ, cứ chuyển đi, tối có tiền.

Tôi nhắn tin báo 100 điểm lô 99. Con mụ già miễn cưỡng mở điện thoại nhắn lại ok, coi như đặt bút ký hợp đồng kinh tế. Tôi nợ đầm đìa, nếu không cho tôi chơi tiếp thì coi như mụ cũng chết theo. Cái nghề này nó thế.

“Tổ sư, tối nay mà xịt lô thì bà xẻo dái, bố sư thằng dở! Vừa mới sáng ngày ra…  bà phải đốt vía mày mới được…”

 

– Đó là ý nghĩ cuối cùng của con mụ hàng nước, lúc tôi nhón đít đứng dậy đi khỏi.

- Ờ , cứ đốt vía đi! – Tôi ngoái lại nói – Mai ông lại ám quẻ cho chừa!

- Tổ sư thằng hãm l.! – Mụ đốp lại ngay, chứ không thèm chửi thầm nữa.

Tôi phải đến văn phòng uống trà tiếp, vì nghỉ ốm lâu quá rồi. Vừa nhìn thấy tôi, ông bảo vệ nghĩ ngay:

 “Đ. biết hôm nay nó có mời thuốc mình không nhỉ?”

. Tôi tí phì cười, rút ra bao thuốc châm một điếu, hỏi: Bố có khỏe không? Con vừa ốm tí chết.

- Lúc nào chả khỏe… - Ông ta đáp, trong lúc mắt cứ nhìn bao thuốc tôi cầm trên tay.

- Nhất bố, gừng càng già càng cay! – Tôi nói, tay mân mê bao thuốc, khoái trá ngắm ánh mắt ông già đang dính vào bao thuốc. Khổ, chỉ là bao thuốc Thăng Long hộp cứng rẻ tiền, ấy thế mà cấm có bao giờ ông già này dám mua, chỉ chờ chực người ta mời mọc.

- Cay cái gì mà cay, tao cũng ốm khật khừ đây này – Ông già lúng búng ho khan – Mấy ngày nay nhịn thuốc thèm quá mà chả dám hút.

- Hôm nay phang con lô 99 đi bố ạ, mai mua cả cây thuốc hút nhòe – Tôi nói.

- Chả biết có sống được đến mai nữa không ấy chứ… - Ông ta nói vẻ mát mẻ.

- Sống quá đi chứ - Tôi vừa nói vừa đóng lại nắp hộp thuốc lá, trong ánh mắt thất vọng của ông già.

“Sư bố thằng này, hôm nay nó làm sao ấy nhỉ? Có bao giờ nó không mời thuốc mình đâu cơ chứ, hay là tại mình giả vờ ốm? Mình đúng là dại, hôm nay đen rồi…”.

- Thôi bố hút đi – Tôi mỉm cười mở bao thuốc lá chìa ra – Sống  chết có số, thuốc là để chữa bệnh, thuốc lá thì cũng là thuốc chứ sao…

- Hút vào lại ho – Ông già vẫn bộ tịch húng hắng.

- Thôi bố cứ hút đi, ho cũng có chết người đâu mà lo?

Ông già sung sướng nhón tay lấy một điếu, tôi dúi nốt bao thuốc dở cho ông ta.

“Mệt hết cả người với thằng này, nhưng thôi cũng đủ thuốc hút cả ngày hôm nay…”

 

– Đó là ý nghĩ của ông già khi tôi đi khỏi.

- Nhớ đánh lô 99 nhá, đủ thuốc hút cho cả ngày mai, cho ngày kia, cho muôn đời sau – Tôi ngoái lại nói, trước khi bước vào thang máy. Ông già này tiết kiệm, tôi biết, nhưng cũng máu cờ bạc, sẵn sàng ăn thua đủ. Thế mới buồn cười, tiếc vài đồng bạc mua thuốc lá, nhưng có đồng lương còm nào là đem nướng sạch vào lô đề.

Văn phòng tôi ở tầng 12 cái tòa nhà. Cửa thang máy mở ra, cô lễ tân vừa nhìn thấy tôi liền có ý nghĩ này:

 “Ốm dậy không biết có đủ sức đi khách sạn không đây…”.

- Tối nay em nhé! – Tôi nháy mắt với cô ả, lướt nhẹ vào phòng mình.

- Anh khỏe lại rồi ạ? May quá! – Cô thư ký nhanh nhảu.

- Ừ, khỏe rồi.

- Có mấy cái chờ anh ký dồn đống lại mấy ngày nay.

- Đưa đây!

Trong lúc tôi lật chồng giấy tờ ký và xem xét mọi thứ, cô thư ký quan sát tôi và nghĩ thầm:

 “Tóc bạc nhiều phết, ốm dậy hơi xanh, chả biết con vợ lão có chăm bẵm tử tế hay không, chứ phải tay mình thì chết đòn…”.

- Chết đòn thế nào? – Tôi ngẩng phắt lên hỏi.

- Dạ? Anh bảo gì? – Cô ta ngạc nhiên, mặt đỏ bừng.

- Phải tay em thì em sẽ làm gì anh?

- Em đâu có nói gì… - Cô ta lắp bắp.

- Thì anh có bảo em nói gì, chỉ hỏi là nếu anh rơi vào tay em thì sẽ ốm đòn như nào thôi mà…

- Hí hí, em không dám đâu, chị nhà lại giết em mất.

- Chị nhà vụng lắm, chả biết chăm sóc anh đâu, kệ đi, anh thích ốm đòn với em thôi.

Tôi giao lại chồng giấy tờ cho cô thư ký, phẩy tay. Cô ta lui ra phòng ngoài, vẫn luống ca luống cuống. Ngay cả khi đã ngồi vào máy tính và chơi tiếp trò Line ưa thích, cô ta vẫn lởn vởn ý nghĩ về tôi:

 “Người đâu mà thính như chó, ngửi ngay ra ý nghĩ của mình. Lần tới phải cho lão ốm đòn mới được. Chả biết ngày mai, hay ngày kia, hay là luôn hôm nay? Chả thấy lão gợi ý gì cả. Đã thế tối nay mình đi với lão dê cụ của mình…”.

Tôi nhắn tin: Tối nay đi ăn với anh, quên thằng dê cụ kia đi, anh là bố của dê cụ cơ mà.

Cô ta nhắn lại: Đồ dê kỵ, hi hi, làm người ta giật hết cả mình. Sao đoán tài thế?

Tôi nhắn: Chuyện, lúc nào chả tài.

Cô ả nhắn: Thấy lo lo rồi đấy nhá.

Tôi nhắn: Lo lo cái gì, lo làm việc đi, đừng có chơi Line nữa.

Cô ả im thin thít, tịt luôn. Hai phòng kín cửa, có lẽ cô ả đang lo sợ nhìn quanh xem tôi có bật camera quan sát hay không đây. Thường thì camera luôn tắt, để khỏi tốn bộ nhớ lưu trữ, nhưng đôi khi tôi cũng hay bật lên vào những lúc bất chợt để dọa đám nhân viên là chính, phạt trừ lương, cho chừa cái tội đi muộn về sớm, chơi game, chat chit tán gẫu, ăn cắp thời gian công sở. Khỏi phải nói, bọn chúng sợ tôi như sợ cọp.

Sau đây là những ý nghĩ của đám nhân viên nghĩ về tôi ngày hôm ấy:

A: Lão khỏi ốm rồi, thế là hết những ngày dễ chịu. Mình ớn cái dự án chết dẫm này quá, thể nào lão cũng cho mình một trận cho mà xem. Sao lão không chết quách đi cho nhẹ nợ nhỉ. Ha ha, thế thì tốt quá, mình sẽ khỏi phải trả nợ khoản tiền mình vay lão năm ngoái. Miễn là lão không nói cho ai biết, mụ vợ lão chẳng hạn. À mà mụ vợ lão chắc là không biết rồi. Kể cả có biết, mình cũng mong là mụ vợ lão chết nốt, hai vợ chồng lão bị tai nạn chẳng hạn…

Tôi sẽ trừ nợ của thằng A vào lương, sau đó đuổi việc nó. Chắc chắn là vậy. Tôi sẽ nói gì với nó nhỉ? Ha ha, vui phết đây.

B: Thằng cha này nhìn chả có vẻ gì vừa ốm dậy cả, chưa chi đã ỡm ờ với con lễ tân mặt l. kia ngay được. Mà đ. biết cái con mặt l. ấy ăn gì mà vú nó to thế không biết, chả bù cho mình…

Đó là ý nghĩ của mụ kế toán sồn sồn, có đôi mắt dâm đãng to tròn, thích tán láo chuyện bậy bạ, mỗi tội bộ ngực ả lép kẹp thõng thượt nên chả ma nào để mắt tới, cho dù gặp gã nào ánh  mắt ả cũng dán vào đũng quần người ta trước tiên. Suốt cả ngày hôm ấy, những ý nghĩ của con mụ này là về những ước đoán luẩn quẩn quanh chuyện con giống của những gã lọt vào tầm mắt mụ, khiến tôi kinh hãi với trí tưởng tượng thầm kín dâm tục đến mức siêu phàm của đàn bà. Tôi e là nếu kể lại đây thì chả ai mà không khỏi xấu hổ.

Tôi sẽ cho mụ ta nghỉ việc nốt, từ lâu tôi vốn không mấy yên tâm trước những số liệu từ con mụ này, chẳng qua vì mụ dạn dĩ hay tán láo nên vui cửa vui nhà vậy thôi. Bạn sẽ chẳng bao giờ trả lương một con đàn bà ngực lép sồn sồn nhan sắc dưới mức trung bình, chỉ để mua vui, và để suốt ngày nó ngồi mơ mộng đến chim với cò, họa có mỗi thằng điên như tôi mới thuê mướn kẻ như vậy mà thôi.

C: Làm thế nào để rút ruột cái phong bì này êm thấm nhỉ, bọn bên A chắc chắn không chịu lại quả, chúng nó còn chờ mình thuốc nước thêm ấy chứ. Mà lão giám đốc của mình thì chả tâm lý gì cả, thưởng cuối năm bèo bọt, mình làm mặt buồn mà lão chả để ý gì cả. Chán quá! Đã thế thì mình kệ mẹ cái dự án này, mình cũng cáo ốm, cho lão tự lo mà chạy vạy, rồi mới biết đi uống rượu mệt bỏ mẹ, suốt ngày hầu hạ các anh thì sướng cái đéo gì, khổ như chó…

Đấy là ý nghĩ của thằng ranh con tôi mới nhận vào làm đôi ba năm nay, chỉ bởi nó uống rượu tốt, khéo mồm, nên phong cho chức vụ trưởng phòng dự án. Công việc chính của nó là uống rượu, đưa phong bì, và tất nhiên là cả rút ruột phong bì nữa. Tôi lờ cho nó nhiều lần rồi, nhưng có vẻ với nó thì chả bao giờ là đủ. Ngay chiều nay tôi sẽ cho nó nghỉ việc. Nó sẽ biết làm một con chó thất nghiệp thì sẽ như thế nào ngay thôi. Thiếu gì thằng biết uống rượu và hót hay đang nộp hồ sơ xin việc đầy đường ngoài kia chứ?

D: Chắc là phải li dị thôi, thằng chồng mình quá đáng lắm rồi. Nó ngủ với gái thì đã đành, đằng này lại ngủ với cả con em ruột mất nết của mình. Cứ nghĩ đến việc nó trần truồng với con em mình, thì mình chỉ muốn cắt d... nó đi luôn. Bà mày mà đã thiến, thì muôn đời mày không mọc lại được đâu nhá, đồ phản bội. Bà mà bắt được trai trên gái dưới, thì đừng trách bà ác, kể cả là con em bà, cũng cho cả ấm nước sôi. Tưởng bà hiền như cô Tấm à? Bà đi tù, nhưng chúng mày thì tàn đời luôn. Bà đang chán đời đây, thằng giám đốc đang soi, nó mới ốm dậy, chắc giờ nó sẽ điên tiết vì cái dự án treo này, bà tung hê luôn thể. Nhất là bét, bà đ. sợ. Nhưng mà, xẻo d... nó rồi, bà mày lấy gì dùng đây. Hay là cứ khuất mắt trông coi? Thế thì nhục lắm, không chịu được, cứ ngủ với nó là mình lại nghĩ linh tinh mất. Nhưng mà, của đáng tội, biết tìm thằng nào tốt giống như cái thằng chó đẻ này chứ? Hay là mình đi bơm ngực nhỉ? Ừ, có khi thế thì hơn. Nhưng mà tốn kém lắm đây. À không lo, mình sẽ đong thằng trưởng ban quản lý dự án, đi đêm với nó cái dự án này, cho treo niêu thằng sếp mình, nó chỉ biết uống rượu với rút ruột phong bì chứ tài cán đếch gì, mà nó thì có xinh ngon như mình đếch đâu. À được rồi, bà chả tội gì mà không dùng vốn tự có, vừa trả thù thằng chồng chó đẻ, có mất gì đâu, có khi lại sướng hơn ấy chứ, thằng trưởng ban nhìn cũng có vẻ dâm phết, cứ đi nhà nghỉ rồi thủ thỉ bảo nó đòi thêm phần trăm chia cho mình, vì mình biết cái công ty này đang sốt ruột lắm rồi, dự án mà không trôi là chết cả đám, thằng giám đốc nhà mình chắc sẽ phải nghe theo thôi…

Khỏi cần lôi thôi, tôi sẽ cho con ranh hay ghen này nghỉ việc ngay tắp lự, giữ nó lại thì quá là nuôi ong tay áo. Đã xấu lại còn không biết phấn đấu, lại còn tưởng mình xinh ngon nữa cơ đấy. Xinh ngon và ngoan phải như em thư ký và em lễ tân kia kìa. Hão!

Còn vô số những ý nghĩ quái đản của đám nhân viên còn lại, mà ngay cả một thằng giàu trí tưởng tượng như tôi, cũng phải kinh hãi. Kể tiếp thì tôi e các bạn sẽ hoàn toàn mất niềm tin vào con người. Thề đấy! Thế nên đừng bắt tôi phải kể ra đây. Cứ thử tưởng tượng đi, và chỉ cần biết rằng sự thực trần trụi sẽ còn kinh khủng hơn thế gấp vạn lần.

Sau ngày hôm ấy, tôi quyết định chỉ giữ lại ông bảo vệ, cô thư ký, cô lễ tân, còn lại tôi cho nghỉ việc hết. Tối hôm ấy lô 99 xịt. Và đến hôm sau khả năng đọc ý nghĩ của tôi vẫn tiếp diễn, tôi vẫn cho rằng đó là bởi phản ứng phụ của thuốc kháng sinh liều cao, hoặc do tôi uống phải thuốc quá date. Từ chỗ thích thú đọc ý nghĩ người khác, tôi trở nên kinh sợ, khi chỉ thấy trên đời này rặt những kẻ nghĩ một đằng nói một kiểu, toàn những lời dối trá. Tôi không thể tuyển được nhân viên mới nào suốt cả tháng trời, mọi việc trở nên tồi tệ. Trong những cuộc phỏng vấn, dù đã rất kiềm chế, nhiều lúc tôi vẫn phải cáu tiết đuổi cổ những đứa ranh con chưa chi đã trí trá loanh quanh, và những ý nghĩ quái đản của chúng khiến tôi thực sự sốc. Gái thì vừa xấu vừa hoang tưởng, giai thì rặt ăn cắp. Gái xinh thì rõ là không làm được việc gì, ngoài thư ký và lễ tân, và chỉ để lên giường là ổn, còn thì kiếm gái xinh thông minh giỏi giang chả khác mò kim đáy bể. Đã thế tôi lại đen đủi thua bạc suốt, suýt phải bán nhà, công ty gần như phá sản. Cái phao cứu sinh duy nhất là lao vào cờ bạc gỡ gạc, cuối cùng thành ra nợ đầm đìa, tôi đành gán nợ và từ bỏ cờ bạc lô đề.

Từ chỗ ban đầu thích thú thấy tôi đột nhiên trở nên tâm lý, biết chiều, biết đoán đọc ý nghĩ của mình, dần dần mọi người bắt đầu kinh hãi tôi, bởi họ chả có cái gì là bí mật với tôi nữa, tôi giống như một con quái vật, họ tìm cách xa lánh tôi, và cuối cùng tôi trở thành một gã cô độc tuyệt đối, những người thân thậm chí còn tìm cách đưa tôi đi Trâu Quỳ.

Tôi quá lo lắng, không dám gặp ai, sợ phải đọc ý nghĩ của họ. Tôi thu mình, lầm lì, không nói năng giao tiếp, nằm bẹp một xó, và cuối cùng lại bị một trận ốm thập tử nhất sinh nữa. Cực chẳng đã, tôi đành phải nhắm mắt uống thuốc, sau khi đã xem xét kỹ lưỡng hạn sử dụng, hướng dẫn sử dụng, liều lượng, v v…

Khi khỏi trận ốm thứ hai này, tôi đánh mất khả năng đọc ý nghĩ người khác. Thật là tuyệt! Thế giới quanh tôi lại trở nên bí ẩn như xưa, những con người quanh tôi lại trở nên duyên dáng, đẹp đẽ, tốt bụng, đức hạnh tuyệt vời. Tôi mạnh dạn quan hệ, kết giao và gây dựng mọi thứ, làm lại từ đầu. Tôi cố gắng thật ngây thơ, cả tin, và cố quên đi những bí mật khủng khiếp cái thuở còn giống như Dã Tràng ngày xưa, ngậm viên ngọc rắn và thấu hiểu hết ngôn ngữ của muôn loài.

Tôi kết luận, đánh mất viên ngọc là một điều may mắn cho Dã Tràng, dù cho anh ta có phải xe cát Biển Đông đến ngàn kiếp sau.

Lễ!

A-

 

A+

 

‹Đọc›

Ố ô, xịt xịt, con lạy trời, con lạy Phật, con lạy đất, con lạy đai, con lạy thánh mớ bái, con lạy ông hoàng Bảy, con lạy ông Hoàng mười, còn lạy mẫu thượng ngàn, con lạy các các cô sơn trang, con lạy mẫu con lạy chầu, con lạy các cô, con lạy các cậu, tóm lại còn lạy tất cả các ngài mà con cần phải lạy, con lạy thầy cúng nữa ạ…. Hôm nay là ngày đầu xuân năm mới, mặc dù đã là ngày công chức phải đi làm được mấy hôm rồi, nhưng con thành tâm, lòng thành, con dành cả ngày làm việc của con để đến trước cửa Phật, cửa ngài, con sám hối để các ngài vuốt ve, che chở phù hộ độ trì cho con để trong năm mới này con được

Đi tươi về tốt, đi một về mười, không phải làm mà vẫn có lương, đi chơi mà vẫn có tiền, ở nhà ngủ mà vẫn được tính công.

- Con đã có  con trai rồi  nhưng mà thằng này láo quá, nó đánh giả, chửi giả cả bố mẹ, ông bà nó, thầy làm ơn thầy cúng, thầy bái, thầy vái cho con thêm vài đứa nữa.

- Con lạy các ngài giáo huấn cho mẹ chồng con không được phép cãi nhau tay đôi với con. Bà ấy cứ vén môi trên, xòe môi dưới không chỉ cãi lại con mà còn cãi lại cả oshin nhà con là không được.

- Bớ!... Con lạy thánh mớ bái, cho con được thăng quan tiến chức, hiện nay ở cơ quan con có mấy đứa nó phấn đấu ác quá, ngày đêm nó lăn lộn với công việc mà con thì cứ phải căn phải số, bận đi lễ đi cúng quanh năm thế này, khiến con không cách nào ngoi lên được, con lạy các ngài ấn nó xuống hộ con.

- Nói chung là  con lạy các ngài, con bẩm các ngài phù hộ độ trì cho con năm nay cứ gọi là làm ăn phát đạt, vạn sự như ý, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, thiếu gì cầu nấy mà cầu gì thì được nấy…

Khi Hồng Cái đang say sưa lạy thánh mớ bái, cầu tài cầu lộc, thầy cúng đã thở hắt ra. Thầy phán, thôi khấn thế thôi, phải từ từ từng bước thánh mới nghe kịp. Bây giờ thầy sẽ giúp nhà cô giải quyết từng việc một:

- Thứ nhất: không đi làm mà vẫn có lương, đi chơi mà vẫn có tiền chứ gì? Chuyện này thì cô phải làm cái lễ: ngoài lễ chay thì còn phải có lễ mặn, ngoài rượu bia, thì phải có thuốc lá, ngoài vàng mã  thì còn phải có cả tiền polimer. Thánh dạy rồi không ai ăn không được cái gì, có muốn cầu được tiền mà không mất công sức thì cô phải bỏ tiền ra mà tạ thánh thì thánh mới độ được. Nhà cô hiểu chưa.

- Dạ vâng, con lạy Thánh, con lạy Thánh, Thánh nói phải quá ạ!

- Vậy bây giờ nhà cô hãy đi lo ngay cái lễ đó đi. Ngay đầu cổng nhà thầy, mấy đứa em nó bán đồ lễ đấy. Đủ cả.

- Dạ…

Cô Hồng Cái tất tả chạy ra đầu cổng một lúc sau lễ mễ trở lại điện thờ với đầy đủ lệ bộ theo đúng lời “thánh phán” và không quên kéo phéc mơ tuya chiếc túi xách lấy ra 5 triệu đồng tiền mặt. Cả năm kiếm hàng trăm triệu, bỏ ra vài triệu cúng tiến đáng gì… 

Liếc mắt thấy sự thành tâm của cô Hồng Cái, thầy cúng bắt đầu lầm rầm khấn vái. Xong được mục thứ nhất cũng đã gần tới giờ Ngọ. Thầy lại bảo thầy kiêng không cúng giờ này, vì Thánh còn bận ngủ trưa. Cô cứ ngồi chờ đến đầu giờ chiều thầy sẽ cầu Thánh giúp cho mục thứ hai. Cô Hồng Cái lại vâng vâng dạ dạ cúi đầu rất lễ phép, rồi len lén ngồi xuống góc chiếu trải dưới chân điện thờ đang khói hương nghi ngút. Nếu ai mà chứng kiến được cái cảnh cô Hồng Cái khúm núm trước mặt thầy cúng thế nào, rồi lại được chứng kiến cái cảnh cô cãi nhau tay bo với mẹ chồng thì cũng chỉ mong mẹ chồng cô sớm chuyển sang làm nghề thầy cúng ngày nào thì được yên phận ngày đấy!...

Rồi Thánh cũng đã ngủ dậy, thầy cúng cũng ngáp ngắn ngáp dài từ trong buồng nghỉ bước ra. Vừa ngáp thầy vừa hỏi, mục khấn thứ hai của cô là gì nhỉ?

Cô Hồng Cái chắp hai tay trước ngực, miệng thưa: dạ mục mẹ chồng ạ!

- À ừ, mục mẹ chồng. Nói rồi bỗng dưng thầy cúng  chăm chăm nhìn vào mặt cô Hồng Cái một lúc lâu khiến cô Hồng Cái cứ toát mồ hôi rần rần. Bỗng thầy  hỏi: Cô cho thầy biết cái mồm của mẹ chồng cô có giống của cô không, cái môi mẹ chồng cô có giống của cô không? Nghĩ ngợi một lát cô Hồng Cái trả lời dạ không ạ. Môi mẹ chồng con thì chỉ giống chồng con thôi, chứ làm sao mà giống môi con được ạ, có phải máu mủ nhà con đâu ạ. Thầy lại phán: Cái môi nhà cô thâm sì cong vênh như cuốn lô, cái miệng nhà cô rộng ngoác ra như thế kia thì chả trách mẹ chồng cô được. Bây giờ muốn tránh chuyện mẹ con mâu thuẫn chỉ có hai khóa lễ: một là năm nay cô phải động đến dao kéo, tức là phẫu thuật thẩm mỹ khâu bớt mồm cô lại cho đỡ rộng, nếu cô không muốn phẫu thuật thì phải làm cái lễ thứ nhất. Hai là phải cầu thánh làm cho mẹ chồng cô chết đi thì mới được. Cô chọn khóa lễ nào?

Cô Hồng Cái nóng ran cả người, mồ hôi túa ra như tắm nhưng rồi cũng bình tĩnh lại đáp nhỏ nhẻ: Lạy thánh mớ bái từ bé đến giờ con rất sợ dao kéo. Thầy gật gù. Thế có nghĩa là phương án hai. Để thực hiện cái lễ này, cô phải làm cái lễ tạ 1 tỷ đồng. Vì cầu cho người chết là tội ác, mà lại cầu mẹ chồng mình chết là bất nhân, là loạn luân. Nếu phạm tội giết người, Thánh đi tù như chơi. Tiền là để Thánh lo chạy án, chứ không phải là Thánh ăn hối lộ của nhà cô đâu nghe chửa?

Cô Hồng Cái lúc này cũng bắt đầu lo lắng, có lẽ cô lo vì nghĩ đến khoản tiền 1 tỷ đồng. 1 tỷ đồng thì cũng lo được, nhà chồng cô để lại cho vợ chồng cô mấy miếng đất, chỉ có điều hơi tiếc, nhưng rồi cô cũng quyết. Cô lại khẩn khoản nói với thầy cúng: để con sắm lễ.

Vậy là mục khấn thứ hai đã được quyết định một cách nhanh chóng, bây giờ đến mục thứ ba, là mục con cái. Thầy cúng châm lại mấy nén hương, tay với cốc bia hợp lấy một ngụm rồi quay sang bảo với cô Hồng Cái:

- Cầu con chứ gì. Để thầy lạy Thánh. Khấn khấn vái vái một lúc, thầy cúng quay ngoắt vào mặt cô Hồng Cái bảo Thánh phán rằng: cầu con cũng không phải là điều khó lắm. Nhưng khốn nạn là ở chỗ, kiếp trước nhà cô ăn ở bất nhân thất đức, đến kiếp cô, cô lại cầu cho mẹ chồng cô chết thì con trai cô nó chửi vào mặt cô cũng là phải rồi. Thánh bảo có cho cô cả chục đứa con nữa cũng được, nhưng rồi lần lượt nó lại tát vào mặt cô thôi. Nếu cô chấp nhận thì để thầy cầu cho.

- Vâng, vậy thì dạ thôi ạ, lạy Thánh con thôi ạ.

Lần lượt, mục, thứ ba, đến mục thứ tư, thứ năm, thứ sáu… cô Hồng Cái và thầy cúng cũng đã giải quyết xong xuôi, cái nào được, cái nào không, lễ bái thế nào được cái thầy cúng đều báo giá sòng phẳng. Lễ bái xong xuôi cũng đã sâm sẩm tối. Lúc này cô Hồng Cái mới nhớ ra một việc chưa xin với thầy cúng, cô vội vàng nói với thầy khi thầy đang sửa soạn đóng lễ: 

- Dạ thưa thầy, con còn một điều này muốn xin với thầy, một điều nhỏ thôi ạ.

- Nhà cô cứ nói.

- Dạ chả là hôm nay đang là ngày làm việc, công việc của con là phóng viên. Sếp con có chỉ đạo đầu năm đi viết bài về tệ nạn mê tín dị đoan. Con đã nhận việc nhưng mà từ sáng đến giờ bận lễ bái, mà tối con phải nộp bài rồi. Đây con mang sẵn băng ghi âm đây rồi, thầy với tư cách là một công dân, hãy cho con xin vài nhời về việc phòng chống mê tín dị đoan ạ.

- Thầy cúng chẳng cần phải nghĩ ngợi gì lâu thầy chõ mồm vào băng ghi âm nói ông ổng:

“Mê tín dị đoan hiện nay đang là tệ nạn hoành hành khắp chùa chiền miếu mạo, khắp làng trên khắp xóm dưới, khắp hang cùng ngỏ hẻm, khắp cơ quan công sở. Chúng ta phải cùng nhau bài trừ tệ nạn này, đây là cơ hội kiếm tiền cho những kẻ buôn thần bán thánh. Đầu xuân năm mới cán bộ công chức bỏ việc đi lễ, đi cúng thì phải đuổi việc ngay. Cho chuyển sang làm thầy cúng”!

Vô địch nhịn...

A-

 

A+

 

‹Đọc›

Trong nh

ng th

p niên v

a qua cái thích thú trong ngh

trình di

n nh

n đói rõ ràng gi

m xu

ng nhi

u. Ngày tr

ướ

c ng

ườ

i ta th

ườ

ng tr

r

t h

u đ

đ

ượ

c riêng xem nh

ng trò trình di

n vĩ đ

i, nh

ư

ng ngày nay không th

nh

ư

th

ế

đ

ượ

c. Chúng ta s

ng trong m

t th

ế

gi

i khác đi r

i

Có một thời toàn thể cả thành phố đều quan tâm một cách nhiệt liệt đến người nghệ sĩ làm trò nhịn đói, trong cuộc nhịn đói của anh ta càng ngày cái sự khích động càng lên cao; mọi người đều muốn ít nhất phải đến xem anh ta mỗi ngày một lần; có nhiều người lại mua vé bao hết những ngày sau chót và ngồi từ sáng đến tối trước cái lồng có chấn song của người nghệ sĩ nhịn đói; cả ban đêm cũng có những giờ người ta đến xem, nhất lại dưới ánh đuốc chập chờn càng nhiều kích thích; còn vào những bữa đẹp trời thì cái lồng được để ra ngoài trời và thế là đặc biệt trẻ con xúm lại xem người nghệ sĩ nhịn đói; đối với phụ huynh chúng thì người nghệ sĩ đây chỉ là một trò đùa thời trang, nhưng đối với chúng, chúng là trẻ con, cứ đứng há hốc mồm ra xem, tay chúng nắm với nhau để đỡ sợ và chúng ngó anh ta một cách dị kỳ, trong khi anh ta vẫn ngồi yên, xanh xao trong bộ đồ đen chật bó lấy người, xương sườn nổi hằn lên rõ rệt; mà anh ta không ngồi trên ghế, lại ngồi dưới đất trên một ổ rơm, thỉnh thoảng lại gật đầu chào một cách lịch sự, mỉm cười hết sức nhã nhặn để trả lời những câu hỏi, hoặc thò một cánh tay ra khỏi chấn song cho người ta sờ xem tay anh ta ốm đến chừng nào, rồi lại rút vào thản nhiên, chẳng quan tâm đến ai hay đến sự vật gì, kể cả đến tiếng gõ nhịp rất quan trọng của chiếc đồng hồ, là vật trang bị duy nhất trong chiếc lồng của anh ta; anh ta chỉ nhìn đăm đăm vào khoảng hư vô, đôi mắt lim dim, thỉnh thoảng nhấp một chút nước trong cái ly nhỏ cho ướt môi.

Ngoài những người đến xem bất chợt, thì có những người thay phiên nhau thường trực canh chừng, do công chúng lựa chọn và lạ thay, những người canh chừng này thường là các tay hàng thịt, nhiệm vụ các người này là ngày đêm canh chừng người nghệ sĩ nhịn đói, xem anh ta có bí mật ăn uống gì không; cứ mỗi phiên là ba người. Đây chỉ là chuyện canh chừng cho có hình thức để làm quần chúng tin tưởng, chứ còn những người chủ trương việc đó họ cũng biết rõ rằng suốt trong thời gian trình diễn nhịn đói, nhà nghệ sĩ kia không bao giờ ăn một chút gì, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa; dù bị ép phải ăn đi nữa; là vì danh dự nghề nghiệp cấm anh ta ăn như thế. Tuy vậy không phải người gác nào cũng hiểu được cái danh dự đó, nên có nhiều người gác đêm cố ý chểnh mảng trong việc gác chừng, cố ý xúm vào một góc nào đó đánh bài một cách say mê, ý rằng để cho người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói kia có dịp ăn uống lén lút một chút gì mà anh ta giấu đâu đấy. Thật là không có gì làm khổ người nghệ sĩ bằng mấy ông gác đêm đó; họ làm cho anh khó chịu; họ làm cho anh ta cơ hồ không chịu nổi cơn nhịn đói; đôi khi anh ta phải hát ca lên không ngớt để dằn sự cám dỗ, để chứng tỏ cho các người đó biết rằng họ lầm. Nhưng vô hiệu. Các người đó càng lấy làm lạ là làm sao anh ta tài tình vừa nhịn ăn vừa hát. Người nghệ sĩ chỉ thích thú nhất là với các người gác đêm mà ngồi sát lại trước cái lồng, ánh đèn trong phòng chưa đủ cho họ vừa ý, họ còn dùng đèn pin để soi vào quan sát người nghệ sĩ. Ánh đèn pin chói lòa không làm người nghệ sĩ khó chịu chút nào; vì dù trong trường hợp nào thì anh ta cũng không thể ngủ được, cho dầu ánh đèn thế nào và dù lúc nào, và dù trong phòng đông người xem ồn ào đến đâu đi nữa, anh ta cũng chỉ buồn ngủ chút chút thôi. Anh ta hãnh diện nếu qua được một đêm mà không ngủ chút nào trước mắt người xem biết chú tâm đến anh ta; anh ta sẵn sàng làm trò cười cùng họ, kể chuyện cho họ nghe về cuộc sống vô định của anh ta, một cuộc sống không có gì có thể nói là làm cho họ thao thức cả và anh cho họ thấy là trong lồng của anh ta chả có gì ăn được cả và anh ta nhịn đói trình diễn như thế này họ khó mà làm theo cho được. Nhưng giờ phút thú vị nhất đối với anh ta là lúc sáng sớm ra, anh ta chịu trả tiền để đãi các người gác đêm một bữa điểm tâm đầy đủ, các người này đổ xô lại ăn một cách ngon lành sau một đêm thức mệt nhọc để canh chừng. Dĩ nhiên nhiều người lý luận rằng bữa điểm tâm này là một cố gắng không tốt, nhằm hối lộ các người gác đêm kia. Nhưng họ lý luận như vậy là đi quá xa, đến khi mời chính họ gác đêm, đừng cho họ ăn sáng như vậy thì họ lại chuồn mất, để rồi lại vẫn cứ nghi ngờ một cách ngoan cố.

Dù sao, những sự nghi ngờ như thế không thể không có đối với nghề nhịn đói biểu diễn. Bởi không ai có thể liên tục ngày đêm canh chừng người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói, nên không ai có thể làm chứng hiển nhiên rằng quả thật cuộc trình diễn nhịn đói đã tiếp diễn hết sức đứng đắn; chỉ có chính người nghệ sĩ trình diễn là tự biết điều đó, thành ra chỉ có mình anh ta là kẻ chiêm ngưỡng thỏa mãn nhất về cuộc trình diễn nhịn đói của mình. Tuy thế, có nhiều điều khác, anh ta lại không được thỏa mãn; như có lẽ không phải chỉ vì nhịn đói mà anh ta ốm giơ xương, ốm đến nỗi nhiều người không dám nhìn, đành bỏ qua không dám xem cuộc trình diễn của anh ta, mà anh ta ốm xuống như thế có lẽ còn vì không được toại nguyện với chính mình nữa. Không có ai, ngoại trừ chính nhà nghệ sĩ kia, biết được rằng cái chuyện nhịn đói rất là dễ. Nó là việc dễ nhất trên đời. Nhà nghệ sĩ đã không dùng một bí quyết nào cả, thế nhưng thiên hạ lại không tin như vậy; giỏi lắm là họ tin rằng anh ta nói nhũn nhặn thế thôi. Còn hầu hết thì nghĩ rằng anh ta nói như vậy là nói quảng cáo, hoặc là lường gạt, đã có một bí quyết nhịn ăn, rồi mới nói ầm lên nhịn ăn là dễ này nọ và trình diễn như thế. Nhà nghệ sĩ đã phải chịu đựng những nghi ngờ như thế, lâu rồi thành quen, nhưng trong thâm tâm sự bất mãn luôn luôn ngấm ngầm, và chưa bao giờ sau một cuộc trình diễn nhịn ăn mà anh ta đứng dậy dời khỏi chiếc lồng một cách thỏa mãn - hẳn thế! Cuộc trình diễn ở những đô thị lớn; và dĩ nhiên có lý do để ông bầu quyết định như vậy. Kinh nghiệm cho biết rằng trong khoảng bốn mươi ngày thì sự chú tâm của quần chúng hết sức là dễ khích động nhờ hiệu năng quảng cáo, nhưng sau khoảng thời gian đó thành phố bắt đầu mất dần sự chú tâm thích thú và sự nâng đỡ về mặt cảm tình mất dần đi rõ rệt, dĩ nhiên không phải đến nơi nào cũng thế, mỗi thành phố hay mỗi địa phương đều là có chút ít khác nhau, tuy nhiên lệ chung thì vẫn là trong giới hạn bốn mươi ngày. Tới ngày thứ bốn mươi, chiếc lồng trang điểm nhiều hoa của nhà nghệ sĩ nhịn đói đó được mở ra, các người xem đứng chật cả rạp, một giàn nhạc nhà binh trổi nhạc, hai vị y sĩ bước vào lồng để đo nghiệm những hậu quả của cuộc nhịn đói, các hậu quả đó được đọc to lên máy phóng thanh, và cuối cùng có hai vị phu nhân quý phái, nét mặt tươi vui sung sướng vì được tuyển chọn danh dự, đến đỡ nhà nghệ sĩ bước xuống mấy bậc cấp tới một chiếc bàn nhỏ trên đó đã dọn sẵn một bữa ăn nấu cẩn thận hợp cho người còn yếu. Và cho đến lúc đó nhà nghệ sĩ vẫn tỏ ra chưa chịu. Anh ta có thể đưa đôi cánh tay gầy ốm ra cho hai vị phu nhân đang cúi xuống đỡ lên, nhưng còn chuyện đứng dậy thì anh ta không chịu đứng dậy. Tại sao lại phải ngưng trình diễn nhịn ăn vào ngày thứ bốn mươi đặc biệt như vậy? Anh ta sẽ chịu đựng được một thời gian dài, một thời gian dài không giới hạn; tại sao bây giờ phải ngừng đang khi trình diễn hay nhất, hoặc nói cho đúng hơn đang khi chưa hoàn toàn nhịn đói tới độ hay nhất? Tại sao người ta lường gạt anh, không cho anh được cái danh tiếng là nhịn lâu hơn nữa, không cho anh được cái danh tiếng là một nghệ sĩ trình diễn nhịn đói không những phá kỷ lục từ xưa tới nay mà còn phá được chính kỷ lục của mình bằng một cuộc trình diễn nhịn ăn vượt ngoài sức tưởng tượng của con người, điều mà anh cảm thấy anh có thể làm được đến vô giới hạn? Công chúng giả bộ ngưỡng phục anh quá nhiều, mà tại sao họ không có chút ít kiên nhẫn cùng anh ta; anh ta có thể nhịn ăn lâu hơn thì tại sao họ không chịu đựng xem anh lâu hơn? Vả lại, lúc bấy giờ anh thấy mệt, ngồi trong ổ rơm bấy lâu dễ chịu, bây giờ phải đứng thẳng lên để đi dùng một bữa ăn mà chỉ nghĩ đến bữa ăn đó thôi anh ta đã thấy lợm giọng; cố gắng lắm và nhất là vì sự có mặt của hai vị phu nhân kia, anh mới không nói điều đó ra. Và anh ta nhìn vào mắt hai vị phu nhân, hai người bề ngoài có vẻ thân ái nhưng thực ra rất độc ác, anh ta lắc đầu, chiếc đầu như quá nặng trên cái cổ không còn sức lực của anh ta. Đúng vào lúc đó thì điều luôn luôn xảy đến là: Ông bầu của anh ta bước tới, không nói không rằng gì cả - có nói thì ban nhạc cũng lấp mất tiếng nói - đứng trước mặt chàng nghệ sĩ, đưa hai tay lên trời, như muốn mời Thượng Đế hãy nhìn xuống đứa con của ngài trong ổ rơm đây, một kẻ có thể nói là tuẫn đạo - mà thực ra là kẻ tuẫn đạo thật dù có một ý nghĩa hoàn toàn khác lạ, rồi ông bầu ôm lấy cái eo tiều tụy của người nghệ sĩ, cẩn thận một cách quá đáng như thể rằng ý thức sự yếu đuối mong manh của nghệ sĩ; nâng anh ta lên giao cho hai vị phu nhân đang tái mặt và không quên bí mật lắc người nghệ sĩ một cái, buộc chân anh ta phải cử động bước tới và thân hình anh ta phải di chuyển. Bấy giờ thì người nghệ sĩ hoàn toàn chịu khuất phục; đầu anh ta ngoẹo xuống ngực như nó vô tình mà ngoẹo xuống; thân hình anh ta hốc hác; hai chân anh ta giựt giựt để cố đứng vững, hai đầu gối như dính lại nhau; thế mà cũng quèo quào trên mặt đất như thể đất nghiêng ngả và hai chân anh ta như đang tìm một miền đất vững vàng; toàn thể sức nặng của thân thể anh ta - thực ra chỉ nhẹ như lông - khụy tựa lên một vị phu nhân, vị phu nhân này nhìn quanh để cầu cứu và hơi thở có phần hổn hển - nàng không ngờ cái vị trí danh dự lại là như thế - trước hết nàng ngửa cổ để tránh cho cái mặt mình khỏi chạm tới người nghệ sĩ, rồi thấy không tránh được, mà người bạn gái cùng với mình cũng tay đang run run để đỡ cái bộ xương nghệ sĩ, nàng liền bật lên khóc trước sự đang vui của mọi người và thế là phải đưa một vị phu nhân khác, đã đợi sẵn từ lâu vào thay nàng. Rồi tới bàn ăn, ông bầu tìm cách đưa chút đồ ăn lên môi người nghệ sĩ trong khi anh ta ngồi im như trong một cơn xuất thần ngây ngất và giàn nhạc thì trổi lên ầm ĩ như để làm xao lãng bớt sự chú tâm của công chúng đang để ý đến tình trạng sức khỏe của người nghệ sĩ; sau đó, dường như là do người nghệ sĩ nói khẽ vào tai ông bầu, một ly rượu được anh ta nâng uống chúc mừng công chúng; giàn nhạc lúc đó trổi lên một điệu hết sức rộn rã, các người đi xem lần lượt tan dần và không ai vì lẽ gì mà chẳng vừa ý được, ngoại trừ chính chàng nghệ sĩ trình diễn nhịn đói, luôn luôn chỉ một mình anh ta là không mãn nguyện.

Cứ thế qua bao năm, trừ những khoảng ngắn đều đặn để phục hồi sức khỏe, còn thì người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói luôn luôn chỉ một mình anh ta là không mãn nguyện.

Cứ thế qua bao năm, trừ những khoảng ngắn đều đặn để phục hồi sức khỏe, còn thì người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói sống trong vinh quan trông thấy, sống trong sự được thế giới cảm phục; thế mà tinh thần anh ta vẫn bực bội và càng bực bội vô cùng là không ai coi điều bực bội của anh ta là điều qan hệ. Vậy anh ta cần sự an ủi gì? Anh ta ao ước điều gì hơn nữa? Một người bộc trực nào đó, giá mà cảm thấy thương hại anh ta, đến để an ủi anh ta bằng cách chỉ cho anh ta thấy rằng nỗi buồn trong lòng anh có lẽ do sự nhịn đói mà ra; thì anh ta sẽ bừng bừng nổi giận, nhất là ngay lúc mà anh ta đã nhịn đói được một thời gian, và thế là anh ta rung lắc những chấn song của chiếc lồng, trông tựa một con thú dại. Tuy nhiên ông bầu anh ta có một cách trừng phạt những cơn nổi giận đó và ông rất thú vị mỗi khi đem ra thi hành cách trừng phạt này. Ông ta sẽ xin lỗi công chúng về thái độ nổi giận của người nghệ sĩ, nói là thái độ đó đáng tha thứ và nói là do ở sự nhịn đói gây ra; người ăn uống no đủ khó mà hiểu được tình trạng của anh ta; rồi, một cách rất tự nhiên ông bầu bắt qua nói về cái tính khoe khoang khó hiểu của người nghệ sĩ dám quyết rằng có thể nhịn đói lâu hơn thời gian anh ta đã thực hiện được; ông bầu không phải là không ca ngợi cái ước vọng cao xa, cái thiện chí, cái sự quên mình cao cả hàm chứa trong sự khoe khoang của người nghệ sĩ, nhưng ông đưa ra những bức hình, những hình này cũng để bán cho công chúng, chụp hình ảnh người nghệ sĩ nhịn đói ở ngày thứ bốn mươi nằm trên một cái giường, trông kiệt lực gần chết. Chuyện giải thích sự thật một cách sai bậy như thế tuy người nghệ sĩ chịu đựng quen rồi, nhưng bao giờ cũng cứ làm cho anh ta thêm một lần cảm thấy bải hoải. Cái hiệu quả của việc sớm ngưng cuộc trình diễn nhịn đói của anh ta, lại bị trình bày ở đây như là nguyên nhân! Chiến đấu chống lại sự thiếu hiểu biết như thế, chống lại cả một thế giới không hiểu biết như thế, là một điều vạn nan. Thỉnh thoảng có khi người nghệ sĩ cố tin tưởng, bèn vịn chấn song đứng lên nghe ông bầu của mình nói, nhưng đến khi những bức hình được đưa ra thì anh ta đành thở dài ngồi phịch xuống đống rơm và đám công chúng bị thuyết phục bởi ông bầu liền đến gần để quan sát người nghệ sĩ một lần nữa.

Mấy năm về sau này khi những người đã từng chứng kiến các cảnh trên, nhớ lại các cảnh đó, họ cũng không thể nào hiểu chính mình ngày đó chút nào. Là vì, như đã nói lúc đầu có một sự đổi khác trong quan niệm thưởng thức của công chúng; sự đổi khác đó tựa như xảy ra chỉ qua một đêm; hẳn phải có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng ai bận tâm làm gì để biết; một ngày đẹp trời, người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói bấy nay được quý mến bỗng hôm nay thấy bị bỏ lơ, những người đi tìm vui lạnh lùng đi lướt qua trước mặt anh ta để tìm những thú hấp dẫn hơn. Lần cuối cùng, ông bầu của người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói đã đưa anh ta đi vội vã qua gần khắp nửa Châu Âu để xem đó đây họa chăng còn sống dậy cái quan niệm thưởng thức cũ kia chăng; nhưng vô ích; khắp nơi như tuồng theo một sự đồng tình bí mật đều rõ ràng từ khước thưởng thức trò trình diễn nhịn đói. Dĩ nhiên, thực ra thì sự kiện không thể nào xảy ra đột ngột nhanh như vậy, đã có những triệu chứng báo trước, nhưng trong lúc còn thành công rực rỡ, những triệu chứng đó đã không được nhìn thấy ra, hoặc đã bị át đi, bây giờ hồi tưởng lại thì thấy rõ nhưng đã quá chậm để mà có biện pháp đối phó. Có thể rằng trong tương lai trò trình diễn nhịn đói lại được thịnh hành nhưng điều đó chẳng có gì an ủi được những kẻ đang sống bấy giờ về nghề đó. Thế rồi, người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói phải làm việc gì đây? Anh ta từng được hoan hô đã nhiều trong đời, thì khó mà hạ mình trình diễn trong một quán nhỏ bên đường vào những lần hội chợ làng; còn tập một nghề mới khác thì không những anh ta đã lớn tuổi mất rồi, mà còn đã quá lỡ hiến mình cho nghề trình diễn nhịn đói. Thành thử anh ta phải từ giã ông bầu của mình, cũng là một người bạn nghề, để đến làm việc cho một gánh xiệc lớn; anh ta đã không đọc hết các điều kiện trong bản giao kèo ký với gánh xiệc, để tránh những cảm xúc của riêng anh ta.

Một gánh xiệc lớn có sự sắp xếp và tuyển mộ người, vật, dụng cụ... một cách quy mô, thì luôn luôn lúc nào cũng có thể thu dụng một người, dù là một nghệ sĩ trình diễn nhịn đói, miễn rằng người đó đừng đòi hỏi gì quá nhiều; và trong trường hợp người nghệ sĩ này, không những người ta thu dụng anh, mà thu dụng cả cái danh tiếng có được từ lâu của anh. Thật vậy, xét tính chất riêng biệt trong sự trình diễn của anh ta, thì thấy không hề kém đi vì tuổi tác; người ta không thể nói rằng anh ta là một nghệ sĩ đã về già, không còn đạt tới mức tuyệt đỉnh của khéo léo nghề nghiệp, muốn tìm một chỗ an thân trong gánh xiệc; mà trái lại, người nghệ này còn quả quyết rằng anh ta có thể trình diễn nhịn đói giỏi như bao giờ, một điều quả quyết hoàn toàn tin được. Anh ta còn quyết rằng nếu được phép nhịn đói theo ý muốn - điều này khó nhọc gì mà người ta không hứa chấp thuận cho anh ta - thì anh sẽ làm ngạc nhiên mọi người bằng cách ghi một kỷ lục chưa từng có; một lời quyết như thế hẳn gây ra một cái cười mỉm giữa những kẻ chuyên nghiệp khác, vì người nghệ sĩ tỏ ra không quan tâm đến sự thay đổi trong quan niệm của quần chúng; trong lúc hăng say anh ta đã quên sự thay đổi kia.

Tuy nhiên, thực ra anh không mất ý thức về hoàn cảnh thực tại, và anh ta coi như một điều dĩ nhiên rằng anh ta và chiếc lồng của anh ta sẽ được đặt không phải giữa sân khấu để lôi cuốn sự chú tâm, mà được đặt bên ngoài, gần những lồng nhốt thú vật, một nơi làm sao cho dễ tới gần. Những tấm bảng quảng cáo lớn, vẽ màu sắc vui tươi làm thành một cái khung cho cái lồng và báo hiệu cho người xem biết trong lồng có gì. Khi công chúng đi ra ngoài rạp để giải trí trong thời gian cách khoảng của các phần trình diễn, họ đến xem các con thú thì phải ngang qua chỗ cái lồng của người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói, họ dừng lại xem một lát. Nhưng họ không thể đứng lại xem lâu vì phía sau có nhiều người ùn tới, ai cũng nôn nóng xem các con thú của gánh xiệc, thành thử không ai đứng cản đường đặng mà mải mê xem người nghệ sĩ nhịn đói. Chính vì lý do đó mà người nghệ sĩ thay vì chờ mong giờ phút khán giả đến xem này, như một sự chờ mong thể hiện nghề nghiệp của mình, thì lại rùng mình ghê sợ khán giả. Lúc đầu anh ta đã hồi hộp đợi cái thời gian khán giả nghỉ giải lao kia, thấy khán giả đi về phía anh ta, anh ta rất lấy làm thú vị, thế rồi liền sau đó, dù ngoan cố tự lừa phỉnh thế nào, anh ta cũng phải nhận ra rằng hầu hết các khán giả không trừ một ai, xét theo các cử động của họ thì họ chủ tâm đi về phía có nhốt các thú của gánh xiệc. Lúc nhìn thấy họ đằng xa thì còn đỡ, chừng họ tới gần cái lồng của người nghệ sĩ thì anh ta điếc tai lên vì tiếng ồn ào om sòm của họ, cãi cọ nhau giữa hai nhóm, một nhóm muốn dừng lại ngắm xem người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói, một nhóm muốn đi thẳng tới xem các con thú. Anh ta ghét cái nhóm thú nhất vì họ dừng lại xem không phải vì thích thú mà vì ương ngạnh trong vị trí của họ. Khi cái đám đông ồn ào này qua hết rồi, thì có một số người lẻ tẻ đi tới, lẽ ra không có gì cản ngăn các người lẻ tẻ này đứng lại lâu để xem người nghệ sĩ trình diễn nhịn đó, thế mà họ cũng không đứng lại xem, mà còn như không để mắt đến nữa là khác, cứ vội vã bước nhanh về phía các con thú của gánh xiệc cho kịp xem. May đâu thì cũng chỉ có một người cha dẫn mấy đứa con dừng lại trước lồng người nghệ sĩ, trỏ vào người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói và giải thích cho các con ông ta một cách rành mạch về ý nghĩa của hiện tượng trình diễn nhịn đói, kể cho chúng nghe những câu chuyện của những năm trước, hồi chính ông ta từng xem những vụ trình diễn như thế này nhưng hồi hộp hơn; mấy đứa trẻ vẫn chưa hiểu, vì ở trong trường hoặc ngoài đời chúng chưa được dạy cho hiểu gì về ý nghĩa của sự nhịn đói cả - tuy nhiên qua các cặp mắt sáng ngời và chăm chú của mấy đứa trẻ, thì có thể là những thời kỳ mới và tốt đẹp hơn sắp đến với người nghệ sĩ. Nhiều lần nhà nghệ sĩ đã tự nhủ rằng có lẽ sự việc hẳn tốt đẹp hơn nếu cái lồng của anh ta không để quá gần với các lồng nhốt các con thú của gánh xiệc. Để gần như thế, như thế, người nghệ sĩ chịu đựng khổ sở cái mùi hôi hám của thú vật, cái ồn ào cựa quậy suốt đêm của chúng, cái cảnh tượng người ta đem thịt tươi đến cho các con vật ăn, cái tiếng hét kêu của chúng khi được cho ăn v.v... đều làm cho người nghệ sĩ khốn đốn miên man. Nhưng anh ta không dám than phiền với ban quản lý; dù sao thì cũng nhờ có các con thú đó mà khán giả mới đi ngang qua lồng của anh ta, trong đám khán giả đó thỉnh thoảng có người chú ý đến anh ta; và nếu anh ta kêu ca than vãn để người ta chú ý đến sự hiện hữu của anh ta, một sự hiện hữu mà nói cho đúng ra như là một trở ngại trên lối đi đến xem các con thú, thì người ta sẽ lại đem anh bỏ vào một góc xó nào ai biết!

Một trở ngại nhỏ, hẳn nhiên là thế; và là một trở ngại nhỏ càng ngày càng nhỏ đi. Người ta đã quen với cái ý tưởng lạ lùng rằng họ bị yêu cầu phải chú tâm đến người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói, vì chính vì quen nghĩ tưởng như thế mà thành ra họ chống lại anh ta. Anh ta cố gắng nhịn được cho thật lâu, nhưng rồi vô vọng, người ta đi qua không chú tâm đến anh ta nữa. Làm sao giải thích cho ai nghệ thuật nhịn đói! Không ai thích nữa thì ai hiểu nữa! Các tấm bảng quảng cáo càng ngày càng bẩn và hầu như không còn đọc được vì bị hư nhiều chỗ; tấm bảng ghi số ngày đã nhịn được thì lúc đầu người ta cẩn thận thay đổi hàng ngày, nay cứ nằm ỳ với nguyên một con số, vì sau vài tuần dường như không ai làm cái việc thay bảng đó nữa; thế là người nghệ sĩ chỉ có việc cứ tiếp tục nhịn đói như đã từng mong muốn; anh ta đã từn bảo là nhịn đói bao lâu cũng không sao; thế nhưng chẳng ai đếm giúp số ngày cho anh ta, chính anh ta cũng không biết mình ghi được kỷ lục là bao nhiêu ngày rồi; nghĩ tới đó chợt lòng anh ta nặng chùng xuống. Thảng hoặc có một người nào lững thững đi ngang qua, đứng lại cười ngạo với con số cũ mèm ghi trên bảng và chơi cái trò ghi một con số lường gạt vào, thì đó là một cái trò ngu si vô ý thức nhất, vì chính ra không phải người nghệ sĩ lường gạt; anh ta đã trình diễn hết sức của mình, để người đời chơi xí gạt công lao của anh mà thôi.

Nhiều ngày trôi qua, sự việc phải đến một lúc cuối. Một hôm một người giám thị trong đoàn xiệc chợt để mắt đến cái lồng của người nghệ sĩ, và ông ta hỏi các người làm trong đoàn rằng tại sao cái lồng còn tốt kia lại để làm gì một cách vô dụng với đống rơm bẩn trong đó vậy; chẳng ai biết để trả lời ông ta cả, cho đến khi một người nhìn thấy tấm bảng dơ bẩn, sực nhớ ra có người nghệ sĩ trình diễn nhịn đói. Họ liền lấy cây thọc vào đống rơm và thấy người nghệ sĩ trong đó. Người giám thị hỏi: "Anh còn nhịn đói à? Chừng nào thì chịu dừng lại?". Nhà nghệ sĩ thì thầm rất nhỏ, chỉ có người giám thị để tai sát vào chấn song là nghe: "Xin mọi người tha lỗi". Người giám thị một ngón tay đập đập lên trán mình để có ý cho các người đứng đấy biết tình trạng của người nghệ sĩ và nói: "Dĩ nhiên chúng tôi tha thứ cho anh". Người nghệ sĩ nói: "Tôi luôn luôn muốn các ông phải phục sự nhịn đói của tôi". Người giám thị nói một cách hòa nhã:"Chúng tôi phục lắm"... Người nghệ sĩ lại nói:"Nhưng ông không nên phục lắm". Người giám thị bảo:"À, thế thì chúng tôi sẽ không phục lắm, nhưng tại sao chúng tôi lại không nên phục lắm?". Người nghệ sĩ nói:" Là tại vì tôi phải nhịn đói, chứ không làm sao hơn". Người giám thị nói: "Anh bạn là người thật lạ, thế tại sao anh không thể làm khác hơn?". Người nghệ sĩ hơi ngẩng đầu lên, môi anh ta hơi chu ra như để hôn và nói từng tiếng một vào tai người giám thị: "Là tại vì tôi không tìm được thứ thực phẩm tôi thích. Chứ nếu tìm được thực phẩm tôi thích, thì ông cứ tin tôi đi, tôi không làm điệu bộ gì đâu, tôi ngốn như ông hay như mọi người ngay!". Đây là những lời nói cuối cùng của anh ta, nhưng trong đôi mắt lờ mờ của anh ta vẫn còn sự cương quyết, tuy hết sự kiêu hãnh, cương quyết tin tưởng rằng anh ta vẫn tiếp tục nhịn đói.

"Thôi, dọn sạch cái này đi!". Ông giám thị nói xong, mọi người đào chôn người nghệ sĩ, luôn cả rơm anh ta đang lót ngồi. Rồi họ đem một con báo con nhốt vào cái lồng đó. Dù một người lạnh lùng thế nào cũng thấy vui tươi khi nhìn con vật hoang dại nhảy tưng tưng trong lồng, cái lồng bấy lâu nay buồn thảm. Con báo con coi bộ hay quá. Các người làm không ngần ngại mang ngay thức ăn thích thú của nó đến cho nó; mà nó dường như không mất mát gì sự tự do của nó cả; cái thân hình quý đẹp của nó như chứa đầy đủ tất cả gì cần thiết, như đi tới đâu mang tự do tới đó; đâu đó trong cái hàm của nó như ửng lửa; và từ cổ họng nó như tiết ra dòng sống vui đến nỗi như làm cho các người xem khó chống nỗi cám dỗ. Họ kết chặt tay nhau đứng chung quanh cái lồng không muốn bỏ đi.

Bạch Cúc

A-

 

A+

 

‹Đọc›

“Tôi sẽ đấm gãy răng hắn, tôi sẽ đánh cho chiếc ví đã sờn và bị mọt ăn rơi ra khỏi bàn tay thô lỗ và đầy lông lá của hắn; tôi sẽ ép cho con mắt hắn rớt ra khỏi tròng hay làm vọt hơi ra khỏi mắt, mí mắt bắt đầu co rúm lại, sau đó nước mắt chảy ràn rụa rồi đổi sang màu xanh, con ngươi sẽ sưng vù lên và hắn sẽ không còn khép mắt được nữa, hai con mắt sẽ biến thành chất lỏng và tan biến… biến mất dưới hai mi mắ

Tôi sẽ giết hắn với hai bàn tay này… Tôi sẽ xé xác hắn ra, tôi sẽ vui thú nhìn những mảnh thịt đỏ của hắn… Nếu hắn muốn tôi làm nhanh thì tôi đã về tới nhà rồi bởi vì vào lúc này tôi không phải đi tới các tiệm khác, việc buôn bán mệt mỏi biết chừng nào. Tôi có thể đọc xong cuốn sách, tôi có thể đến hồ bơi hay tới nhà Adya, bạn gái của tôi”.

 

Tôi đã mười sáu tuổi. Hai bên thái dương phật phồng, mạch máu chảy nhanh hơn, tim đập mạnh hơn. Nhưng khi nghĩ tới việc trả thù, nếu hắn bị mù hay bị giết có nghĩa là mức thu nhập của gia đình tôi sẽ bị giảm hẳn xuống. Vào lúc này cha làm việc quá cực nhọc vì có nhiều cạnh tranh.

 

Tôi nhìn hắn với sự ngưỡng mộ giả tạo. Tôi biết là nước mắt đang ứa ra.

 

- Ông kiếm được nhiều tiền quá, ông Van Manan ạ. Tại đây ông kiếm được nhiều tiền, đó là điều lạ lùng trong cộng đồng nghèo khổ này. Ông biết cách cư xử với khách hàng, ông đã ngồi trên đầu họ. Không ai có thể làm thương mại như ông được.

 

Giọng nói một đứa trẻ như tôi mang tội lỗi gì ngoài sự thành thật. Tôi muốn buồn nôn. Trước kia tôi thường sợ hãi những tương phản giữa cách cư xử bên ngoài với ý nghĩ thực trong đầu. Giờ đây tôi đã làm được như vậy vì chỉ lý do buôn bán. Tôi vui mừng vì có thể ca ngợi một người mà hôm trước đã không tiếc lời sỉ vả hắn với đám bạn bè.

 

- Hố, hố. Mày thử đoán trong chiếc ví này có bao nhiêu tiền?

 

Hắn nhìn thẳng vào đôi mắt hau háu của tôi rồi đập đập chiếc ví da trước mặt tôi. Hắn lặp lại với giọng nói hung dữ bất thường:

 

- Mày có đoán được không? Cha mày không biết cách làm tiền, ông ta không biết đến những điều căn bản về việc kiếm tiền.

 

Hắn mở chiếc ví ra. Chúng tôi đang đứng trên chiếc gác xép, lưng hắn dựa vào chiếc tường phủ đầy rêu xanh. Dưới ánh sáng vàng yếu ớt của một ngọn đèn dầu đặt trên bàn, tôi nhìn thấy một bó tiền bẩn thỉu. Hắn cười toe toét, gương mặt đầy góc cạnh với chiếc hàm dưới rộng, hai gò thái dương gồ lên. Chắc là các thầy tướng số phải đoán hắn là con người đầy dục vọng. Còn đôi mắt tham lam nhìn như thôi miên người khác dưới hàng lông mi dầy không đều. Hắn rút ra một tờ giấy bạc cầm bằng hai ngón tay rồi rung lên, tiếng sột soạt giống như cành dương liễu đập vào nhau trong đêm gió bão. Lúc này, một tay hắn tì trên bàn đầy hoa. Hắn trạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình to lớn kềnh càng, có một bà vợ gầy gò xanh xao. Bà ta thường đứng ngay cửa ra vào với nụ cười uể oải mệt nhọc. Họ không có con cái gì cả.

 

Hắn nói như quát với tôi:

 

- Đếm đi.

 

Mùi ẩm thấp của căn gác xép xông lên mũi, chung quanh chúng tôi là những thùng đựng những hoa, nào là thược dược, lay ơn, cẩm chướng, hồng , huệ. Tất cả như có màu tái. Phía sau lưng tôi là chiếc thang bước xuống cửa tiệm phía dưới, nhưng chiếc cửa đã đóng. Mỗi lần chúng tôi lên lầu, hắn thường đóng cửa lại. Tôi cầm bó bạc trong tay.

 

Hắn nhìn tôi như soi mói:

 

- Đếm, đếm đi, đồ khỉ.

 

Tôi không phản kháng mà chỉ muốn đếm cho xong mớ bạc rồi đi về, phải đếm cho xong. Tiếng động ngoài phố vang vọng bên tai, mặt trời ngoài kia chắc mọc cao rồi và trời chắc nóng lắm. Các bạn tôi giờ đây chắc đang ở hồ bơi hay đang uống bia tại tiệm Riche National hay Velper Square. Tôi đếm… đếm… nhưng đếm nhầm. Tôi liên miên nghĩ đến nhiều chuyện quá, rồi Adya, có lẽ đang đợi tôi dưới hầm nhà vì bố nàng cấm tôi gặp nàng. Những chuyện nọ quyện vào chuyện kia trong trí làm tôi không thể nào tập trung tư tưởng được nữa. Ý của hắn là ý trời. Hắn tưởng là tôi phục hắn lắm, nhưng hắn phải thông minh một chút để biết là tôi ghê tởm hắn chừng nào… Đằng sau tôi là chiếc cầu thang sẽ đưa tôi ra khỏi đây, ra khỏi chiếc gác xép tối tăm ma quỷ này, thoát khỏi đôi mắt hung dữ lúc nào cũng nhìn chằm chập vào tôi.

 

Giọng nói ồ ồ, một giọng nói ồm ồm quái đản đặc biệt mà chưa bao giờ tôi nghe thấy:

 

- Tiếp tục đếm đi.

 

Cuối cùng tôi đưa bó bạc cho hắn:

 

- Ông giàu quá. Bốn mươi cả thảy, bốn mươi bó một trăm guilder. Tôi chẳng bao giờ có món tiền này cả. Tôi không hiểu sao ông kiếm được nhiều tiền đến thế. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy món tiền lớn như thế này, cả cha tôi cũng vậy.

 

Đây là những lời hắn mong tôi nói, mỗi lần nói tôi thường thay đổi đi chút ít, nhưng đại khái đều tương tự như nhau.

 

- Ông là một nghệ sĩ cắm hoa tài ba nữa. Tôi chưa từng thấy người nào làm một vòng hoa phúng điếu đẹp và nhanh như ông.

 

Hắn bỏ tiền vào ví rồi đút vào túi chiếc áo dài bẩn thỉu rồi ra lệnh cho tôi.

 

- Tới đây, đứng ngay đây.

 

Tôi đứng lại gần chiếc bàn. Hắn với tay lấy chiếc khuôn treo trên tường:

 

- Tao sẽ cho mày thấy một chuyên viên làm vòng hoa phúng điếu như thế nào. Không cần dao kéo gì cả, chỉ hai bàn tay không mà thôi.

 

Hắn thọc tay vào những chiếc xô, cầm hết nhánh hoa này rồi tới nhánh hoa kia, ném tất cả lên bàn.

 

- Nhìn xem tao làm như thế nào.

 

Hắn nắm hai cành hoa một lúc, bẻ bớt cọng rồi uốn vào chiếc khuôn. Nào là hoa huệ, lay ơn, thược dược… hắn làm với tốc độ thần tốc, miệng gầm gừ như con chó đói, nước dãi chảy ra ở khóe miệng. Cuối cùng hắn ném cho tôi cái nhìn chiến thắng và mỉm cười nửa miệng. Tôi hiểu là hắn đang đợi lời ca tụng của tôi. Đối với tôi, những vòng hoa tang kia chẳng khác nào những lời nguyền rủa, kích động và dơ bẩn mà hắn muốn gởi cho người chết. Ví dụ như có lần hắn nói với tôi:

 

- Mày có biết cô ta bao nhiêu tuổi không? Chưa đầy ba mươi đó. Cô ta có thể ngủ với bất cứ người đàn ông nào, cô ta lại luôn luôn làm theo ý mình vì vậy bị mọi người xa lánh. Mà chẳng hiểu vì sao mà chết nữa.

 

Trong khi nghe những mâu thuẫn khó hiểu đó, tôi thường chỉ giả bộ chăm chú nghe, đôi khi hắn nói:

 

- Đừng nhìn tao như vậy.

 

Tôi chẳng biết làm gì hơn, hắn cắm chiếc hoa cuối cùng vào cái khuôn, dưới mắt tôi đó là một vòng hoa quái đản, nhưng khi đem tới nghĩa địa lại được bao nhiêu người ca tụng. Hắn cầm chiếc bình nước vẩy vào vòng hoa.

 

Gác xép trở nên nóng, không một luồng gió nào lọt vào, chiếc cửa ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Tôi nhìn chiếc bóng của hắn trên tường, những cử động đầy nhiệt tình và ma quái.

 

Thình lình, một tay hắn nắm xiết lấy tay tôi, tôi thấy đau buốt tới xương, tay kia nắm gáy tôi rồi dí mặt tôi xuống vòng hoa mới làm, mặt tôi ngụp lặn trong nhựa hoa, mồm tôi đầy những cánh hoa. Tôi sặc sụa, dẫy dụa.

 

Vợ hắn dưới nhà nói vọng lên:

 

- Có khách, có điếc không vậy, đồ khốn nạn.

 

Hắn buông tôi ra và mở cửa đi xuống. Tôi lấy chiếc khăn lau mặt. Tay tôi cũng đầy nhựa tím. Tôi đứng im lặng, lòng tràn niềm uất hận, rồi cũng theo hắn đi xuống nhà dưới như con chó chạy theo chủ vậy. Vợ hắn đứng gần cầu thang, người ốm teo như cây sậy.

 

Mỗi lúc khách khứa tới càng nhiều. Hắn nghênh ngang đi đi lại lại, tung hứng những bó hoa, miệng cười cười nói nói và chửa thề hung dữ. Trong cơn kích thích, hắn tặng một bà khách một cành hoa hải đường.

 

Khi khách đã đi hết, hắn hỏi tôi số tiền mà tôi đã giao hoa bữa nay. Hắn nói:

 

- Ngày mai mang tới hai mươi lăm bó dương xỉ nữa nhé.

 

Khi bước ra khỏi cửa tiệm, nhìn mặt trời tôi có thể đoán là đã gần trưa. Hắn giữ tôi gần hai tiếng đồng hồ. Nghĩ tới đây tôi bật khóc.

 

Trong những tuần sau đó, cha tôi đi giao hàng thay cho tôi.

 

Cha tôi có một vườn ươm cây nhỏ trong làng rất gần thị trấn. Chung quanh vườn là hàng cây trăn to sừng sững với những bụi cây gai mọc ở giữa. Một bên vườn là nghĩa địa Công Giáo, một bức tượng chúa Giê Su to lớn được dựng bên một cây phong. Tôi thường nghe ông lẩm bẩm trong khi săn sóc luống hoa: “Ngươi đừng làm ra những hình ảnh cho chính người hay giống như bất cứ vật gì trên trời kia hay dưới mặt đất kia hay dưới mặt biển kia. Ngươi cũng sẽ không cúi đầu trước những hình ảnh đó hay thờ phụng chúng”.

 

Làm việc trong vườn hoa là một lạc thú của cha. Mục tiêu chính của vườn là trồng cây dương xỉ. Ông làm việc với tất cả tấm lòng, săn sóc cẩn thận từ cái mầm nhỏ tí tới cây đã trưởng thành. Tôi vẫn còn nhớ tên La-tinh các giống như: adianthum fragans, tremula wimsetti, pellea frondiflora… Các tiệm bán hoa thường dùng vào việc làm các vòng hoa phúng điếu. Những cây hoa này thường không cao quá năm mươi centimét, nhưng có khi cao tới trên ba mét.

 

Mặc dù cha tôi thấy việc quản lý có gì sai, nhưng ông không muốm thay đổi. Ông cũng không hạ thấp mình đi bỏ mẫu tại các tiệm, “Nếu họ không tự theo ý muốn mà gọi hang thì đó là một điều đáng buồn”. Ông là một người sùng đạo và không mong mỏi điều gì ở người khác cả. Ông thường hát những bài thánh kinh trong phòng khách vào khoảng tám giờ sáng ngày chủ nhật trong khi tôi vẫn còn nằm trên giường suy nghĩ về buổi party vào tối hôm trước.

 

Cũng có những lần, thường thì vào mùa hè, khi những chiếc khay đầy những hoa phong lữ đẹp như gấm, cây giọt băng đầy màu sắc, lúc đó việc buôn bán rất khá. Nhiều lúc mẹ tôi và tôi thay ông gọi điện thoại cho các tiệm hoa để hỏi xem họ có cần loại nào không. Có khi hàng ngàn cây huyền sâm nở rộ một lúc. Cắt bỏ thì chẳng khó gì, nhưng gọi mời các tiệm mua thì ít khi có kết quả. Khi gọi đến cho họ, ông nói thật nhỏ nhẹ như sợ làm phiền người mua. Khi đặt ống nghe xuống và không bán được một cây nào, ông thường nói:

 

- Đấy nhé, bố đã cố gắng rồi, chúng ta chỉ làm được như vậy thôi, thành công hay không là tùy vào thượng đế.

 

Mỗi khi nghĩ đến công việc trồng trọt cực khổ của cha, tôi không thể nào an tâm được. Tôi đang theo học lớp sư phạm trên tỉnh. Ngồi trong lớp không lúc nào là tôi không nghĩ tới ông cả. Khi có thời giờ tôi thường giúp ông, sau giờ học tôi đạp xe về nhà phụ ông, sau đó mới đạp xe trở lại tỉnh, đằng sau chiếc xe là chiếc thùng gỗ vuông cột chặt đựng các mẫu, tôi thay cha gọi đến các tiệm hoa trong tỉnh và tôi thường thành công với những mối hàng nhỏ. Tôi lại trở về nhà chọn lựa hoa với ông, đựng vào trong những chiếc hộp rồi lại trèo lên chiếc xe ba bánh đạp về tỉnh. Tôi làm việc không mệt mỏi. Tôi phải đạp thật nhanh vì các cửa tiệm thường đóng cửa lúc sáu giờ chiều và lại nằm rải rác khắp nơi. Đối với tôi, một buổi chiều đạp sáu mươi tới bảy mươi cây số là chuyện thường.

 

Một buổi chiều, chúng tôi đứng bên cạnh bồn nước trước nhà. Những con chuồn chuồn bay lơ lửng hay bất động trong không khí. Chúng tôi nhìn vào vườn ươm bất chợt nhận thấy một tai họa: rễ cây phong nhú ra khỏi chỗ rạn của chiếc tường nhà ươm. Lúc này cha tôi đau nhiều nên không chú ý thấy. Những cơn đau nơi cổ và tay làm ông thường mệt luôn. Ông nói với tôi:

 

- Con là đứa con ngoan.

 

Tôi thấy ông chảy nước mắt. Đây là lần thứ nhì tôi thấy ông khóc.

 

Van Manan là một trong những chủ tiệm mà cha tôi cung cấp hoa đều đặn. Đã bao lần tôi ao ước có đôi tay to lớn với những ngón tay to và rắn chắc, thân hình cao lớn lực lưỡng như vậy. Đã bao nhiêu lần tôi tưởng tượng hắn ta đang thở hổn hển, năn nỉ tôi trong khi bàn tay run rẩy làm chiếc ví đầy nhóc tiền rơi xuống đất… Nhưng hắn ta mua rất nhiều hoa và nghề trồng hoa của cha tôi không thể tiếp tục được nếu không có hắn.

 

Việc hành hạ tôi trên gác xép hôm nào không nghĩa lý gì cả nếu so sánh với việc hắn đã sỉ nhục cha tôi. Đó là một việc làm hung dữ, một tội ác, một sự xảo trá bội bạc mà tôi chỉ có thể ghi khắc lại trong tâm trí với dòng nước mắt mà thôi và mãi mãi chẳng bao giờ quên. Đầu tiên tôi nghĩ là chỉ ghi lại trong lòng và tôi sẽ chôn chặt trong trái tim tôi. Những hình ảnh đó in sâu đậm trong trái tim tôi mãi mãi. Nhiều khi tôi muốn tự trừng phạt vì đã gợi nhớ những hình ảnh này, nhưng tôi lại cho đó là một điều cần thiết. Ý nghĩ trả thù là một chất độc dày vò tâm trí tôi, tôi không cần dấu diếm về hắn cũng như nơi cư ngụ của hắn.

 

Tiệm hoa Van Manen nằm ngay tại góc đường Rosendaal Road và Hof Avenue. Tiệm đó có hai cửa sổ trưng bày quay ra cả hai con đường. Một bên là khu nhà lao động màu xám thu mình như một con quái vật khổng lồ thu mình được xây từ thế kỉ mười chín, một bên là một tu viện có những bức tường ngờan ngoèo bao quanh, phía trong là những cây anh đào và những dàn cây lê có những trái chín mọng đỏ. Cửa hiệu bán hoa Van Manen nằm ngay giữa thế giới giàu và nghèo này.

 

Vào tuần lễ cuối cùng tháng mười, ban đêm trời hơi lạnh. Ngòai vườn, những chùm hoa thược dược đã biến màu thành đen. Một làn sương mù mỏng đã che phủ các căn nhà, vườn ươm cây cùng những đống phân trộn.

 

Thứ Sáu, chỉ còn hai ngày nữa là tới ngày lễ các Thánh của đạo Công Giáo. Lúc đó là mười một giờ sáng. Hắn kêu lại cho cha tôi:

 

- Đem cả vườn hoa lại đây. Tổ cha nó chứ, chúng nó hốt tất cả tiệm rồi.

 

Cha tôi hơi nhấc chiếc máy ra khỏi tai ông và khẽ nhíu mày. Đôi mắt xanh của ông sáng hơn bình thường.

 

- Còn giá cả thì sao? Giọng nói của cha tôi nhẹ nhàng và như rụt rè. Rõ ràng là ông lo ngại giọng nói bình dân và thô lỗ đầu dây bên kia.

 

- Giá cả, mẹ nó, hố, hố, giá cả. Không ai có thể than phiền tiệm hoa Van Manen này được cả. Van Manen luôn luôn trả hậu mà.

 

Tôi và mẹ đang đứng gần chậu nước mà cũng nghe giọng nói to và thô lỗ của hắn. Cha nói tiếng cám ơn rồi đặt ống nge xuống, có vẻ như còn giận vì lời nói bổ báng của hắn. Sau hết ông cũng gọi đến cho con người ghê tởm đó, nói là đó không phải là ý của ông mà do vợ và con bắt ông phải hỏi giá cả trước. Cha tôi khôn khéo giải quyết vấn đề cho đi qua.

 

Mẹ nhìn ông phân trần:

 

- Thấy chưa, ngày nay ông phải gọi đến cho khách hàng. Họ không gọi cho ông nữa đâu. Ông phải cho họ biết là mình có hàng tốt, nếu không thì chỉ có cách là ném công lao của ông vào đống rác kia thôi.

 

- Đúng vậy, đó là điều đáng buồn. Năm nay hoa nở đẹp quá, lá lại mọc nhiều nữa, nhưng điều quang trọng hơn hết là nở đúng thời hạn, không sớm quá mà cũng không muộn quá. Mình có thể bán vào tuần cuối của tháng mười được.

 

Tôi nói với cha:

 

- Con sẽ giúp cha đóng thùng. Cha phải đi giao hàng vì chiều nay con có lớp.

 

Tôi theo ông vào nhà kiếng. Trên những dãy bàn phía bên phải và trái là những hàng cây hoa bạch cúc. Thật trắng, sáng chói làm cho tôi phải nhắm mắt lại một vài giây. Từng cụm hoa nặng trĩu đong đưa trên thân cây mảnh khảnh. Năm nào cũng vậy cứ vào mùa này là có rất nhiều đòi hỏi hoa cúc. Người ta mua chúng để đặt trên mồ mả trong dịp lễ các Thánh. Cha thì bực mình vì ông nghĩ đến việc trồng hoa để phục vụ cho việc sùng bái ồn ào như vậy. Tuy vậy việc buôn bán lúc này cần thiết hơn vấn đề lương tâm.

 

Tôi mang từng bó cúc ra phòng làm việc. Tôi phải ôm lấy nó để tránh các cuống hoa bị gãy. Chúng tôi cẩn thận rửa những chiếc chậu hoa, dùng bàn chải cứng tẩy hết mốc xanh đi. Khi làm công việc này, tôi giữ cây hoa còn cha thì chà chậu để tránh những xê dịch có thể làm cho gãy cành. Tôi nói với cha:

 

- Chưa bao giờ cúc đẹp như năm nay. Rất có giá trị.

 

Cả hai chúng tôi đều thích thú với công việc và không nói nhiều. Chúng tôi dùng giấy báo bao chúing lại.

 

- Con cho là nên bao hai lần giấy để những cánh hoa khỏi bị sương mù. Chúng mong manh quá và dễ biến ra màu nâu.

 

Chúng tôi dùng những chiếc ghim kẹp giấy báo ở đầu bó hoa lại rồi xếp vào thùng, chung quanh để thêm dăm bào và chèn thêm giấy. Cả thảy tám thùng, mỗi thùng một chục chậu hoa. Cha mặc đồ ấm: áo ấm, mũ có đồ che tai. Trước khi đi, ông hút một điếu xì gà, tôi thấy ông rất vui, nhìn tôi cười. Tôi thấy mẹ nhìn theo cho đến khi cha và chiếc xe ba bánh khuất hẳn sau những hàng cây.

 

Một giờ sau đó tôi trên đường từ trường trở về nhà. Tại tỉnh O., tôi đang thực tập môn sinh vật với các học trò mười ba tuổi. Trời bắt đầu đổ mưa. Trên chiếc xe đạp, tôi cúi đầu thấp xuống tận chiếc ghi đông xe. Chiếc kính cận thị bị ướt và hơi nóng làm mờ đi. Tôi đang đạp qua Insula Dei - một chiếc nhà Thiên Chúa Giáo lập ra nuôi những người tàn tật, đau ốm và già nua. Tôi không còn nhìn thấy gì nữa nên phải ngừng xe để lau kính. Và tôi gặp cha đứng ở đây. Những mảnh giất tơi tả đang bay tung trong chiếc xe, vài tờ bị thấm nước vắt ngang qua thành xe. Những cành hoa cúc bị xếp đống vô trật tự trong xe và những cánh hoa mảnh dẻ trơ ra với mưa và gió. Tôi băng qua đường. Tôi thấy hầu hết thân hoa bị gãy, những cụm hoa gãy gục bẩn thỉu. Tôi nhìn cha, nước mắt cha chảy. Tôi không nói gì. Một lúc sau ông nói, trong khi trời bắt đầu mưa nặng hột với những luồng gió rét mạnh thổi qua:

 

- Cha mở các bó hoa ra. Lúc đó trong tiệm có rất nhiều khách hàng. Hắn rút một nhánh bạch cúc bằng cái cụm ở đầu làm cho nó bị gãy, cả chiếc chậu hoa rơi xuống đất. Hắn la lên: “Đồ gian lận, đồ gian manh mang rác rến lại tiệm tao. Đem ngay đồ rác rưởi này ra khỏi tiệm ngay tức khắc. Tiệm này không phải là nơi đổ rác… Những người kháchtrong tiệm cười ồ lên, sau đó cha phải dọn tất cả ra xe”.

 

- Còn người vợ đâu?

 

- Thì vẫn đứng bên cửa ngó vậy thôi.

 

- Bà ta không nói gì à?

 

- Không, bà ta không nói gì, cha nghĩ là bà y cười hùa theo nhưng không can thiệp vào.

 

Tôi hôn lên trán cha rồi đạp xe theo sau. Buổi chiều hôm đó, chúng tôi không nhắc nhở gì tới Van Manan cả. Cha ngồi đọc cuốn “Noi gương Chúa” của Thomas à Kempis. Tôi không thấy ông giở trang, nhìn qua vai ông, tôi thấy mắt ông nhìn vào đoạn cuối chương tám cuốn đầu: “Chỉ muốn được biết đến Chúa và các Thánh Thần nhưng không muốn làm quen với loài người”.

 

Khi tôi trưởng thành thì cha đã mất nhưng mẹ còn sống và ở với tôi. Thực là may mắn, tôi đi dạy học và có một số lương đủ sống, thỉnh thoảng tôi cũng làm thơ nhưng chẳng bao giờ quên được tên khốn nạn đã nhục mạ cha tôi. U sầu, phiền muộn và tâm trạng tôi lúc nào cũng không được yên. Tôi không còn nhớ đã biết bao nhiêu lần đậu xe, ngồi im lặng bên lề phố Hof Avenue, tay cầm một viên gạch. Tôi đợi, chờ đợi trong bóng tối sau hàng cây thủy lạp, lòng tràn đầy hận thù. Tôi chăm chú theo dõi, tính toán rồi lại bỏ cuộc. Nhiều lần tôi bắt gặp hắn hay vợ hắn nhìn thoáng ra phía tôi. Một cái bóng, cái bóng mờ của một cái bóng mà thôi, rồi tim tôi đập mạnh. Tôi chỉ đứng im lặng, viên gạch nóng bỏng trong tay. Tôi là đồ gà chết, tôi đợi chờ một dịp tốt hơn hay để tự thời gian làm việc vậy.

 

Một ngày kia, tôi mặc một bộ đồ vét nhạt màu, chiếc áo sơ mi có sọc xanh và một chiếc kính có cái gọng to. Hắn sẽ không nhận ra khi tôi ăn mặc như vậy. Khi tới khung cửa trưng bày, tôi nhận thấy tên hiệu đã thay đổi. Một người đàn bà trẻ bước ra với một bó bạch cúc. Tôi hỏi thì bà ta cho biết là hắn đã chết cách đây vài tháng. Tôi hỏi thêm chi tiết.

 

Một ngày kia, hắn không ngồi dậy được, hai chân bị tê liệt. Tại bệnh viện hắn được khám và cho biết là bị xuất huyết não và bắp chân bị co giật. Phần dưới thân bị liệt và rất khó nói.

 

Bà ta kể tiếp:

 

- Nhưng dần dần tình trạng cũng khả quan. Hắn phải ngồi xe lăn và thỉnh thoảng cũng tới tiệm.

 

Tôi ngắt lời bà ta:

 

- Trước khi kể tiếp, bà cho biết người vợ hắn ra sao?

 

Bà ta nhún vai:

 

- Tôi không biết nhiều về bà ta. Tôi có nghe là hình như bà ấy biến mất không vết tích gì khoảng một tháng trước khi hắn bị bệnh, có người nói là bà ta chết sau một biến cố thật đau buồn, có người nói là bà ta về ở với người em ruột, có người cũng nói bà ta tự tử, chẳng ai hiểu rõ cả.

 

- Rồi cuối cùng ông ta ra sao?

 

- Một bữa kia, ông ta định tới nhà người anh sống ở dãy phố đằng kia.

 

Bà ta chỉ về phía sau lưng tôi.

 

- Có lẽ chiếc thắng của chiếc xe lăn hỏng hay sao mà đâm thẳng vào chiếc xe ủi đất. Ông ta chết ngay tại chỗ.

 

Tôi cố cầm lòng nhưng bụng tôi đang reo hò vui mừng. Tôi vào nhà thờ cất cao lời cầu nguyện. Tôi ôm lấy chiếc cột to lớn nhảy múa. Tối đó, tôi uống gần hết chai rượu.

 

Sáng hôm sau, tôi dậy sớm và thấy nhức đầu. Khi trời sáng rõ tôi ra nghĩa địa, đặt trên mộ hắn một bó bạch cúc. Nhưng tôi đã đập cho bó hoa tan nát trước khi đặt trên mộ phần của hắn.

 

Trần Hồng Văn

 

Trích trong tuyển tập truyện ngắn chọn lọc: “Chuyện kể đêm đông”, Trần Hồng Văn, 2002, sẽ xuất bản.

 

Tác giả: Jan G. Siebelink sinh năm 1938, dạy Anh văn tại một trường đại học Hà Lan và cộng tác với tờ De Haagse Post mục văn học Pháp. Nhiều truyện ngắn của ông đã được đăng trên các tạp chí văn học quốc tế.

 

Trần tục

A-

 

A+

 

‹Đọc›

Phi rít m

t h

ơ

i thu

c lá xong, m

i g

t gù trong làn khói: Ph

i r

i! Cái gì cũng ph

i l

y “Con ng

ườ

i” là chính

!

Khói luẩn quẩn trong gian buồng hẹp. Mà một góc có hai chiếc giường cố nép vào nhau nhưng vẫn cồng kềnh. Còn góc bên, một chiếc bàn khấp khểnh nằm thu lu.

Phi ngồi tiếp khách ở đó. Anh mặc budông kaki bạc, quần tím, cổ cuốn phu-la chân rết nâu trắng. Vóc dáng anh cao lớn. Khuôn mặt to tướng, cặp mắt hơi nhỏ, miệng cũng nhỏ, lại viền tí ria mép, khiến bộ mặt Phi nằng nặng lầm lầm. Phi là một nhà văn. Anh trạc 35, 36 tuổi.

Ngồi đối diện Phi là Huy, cũng nhà văn. Huy có lẽ dưới 30, dáng cao ngỏng gầy gò, quần áo đại cán tím xỉn, càng nổi bật khuôn mặt khô khốc, vàng ệch.

Hai văn sĩ đương đàm luận về vấn đề “Con người”. Huy nói :

- Lâu lắm rồi, người ta hầu như quên cái điều giản dị là:“Tôn trọng con người”! Có lẽ đó là một “Kết quả” đau đớn của một thời chiến tranh đã qua. Con người khi đó chết như rạ. Nên bây giờ, người ta không quan tâm đến điều đó nữa. Người ta khô đi! Tình cảm người ta cạn dần đi như suối cạn!

Phi bổ sung cho bạn :

- Chúng ta vừa được nhiều, nhưng cũng vừa mất nhiều trong chiến tranh! Nhưng có lẽ, lý do căn bản vẫn là chúng ta để nhiều tệ tục phát triển! Sùng bái nào, chủ quan độc đoán nào... Những tệ đó đều xâm phạm con người! Con người bị hạ giá! Từ tình yêu, từ suy nghĩ, từ ngôn luận, tất cả đều bị xâm phạm!

Huy tán thành:

- Phải! Có thể chiến tranh là nguyên nhân chính! Không biết Trung ương đã biết tới hiện trạng này chưa?

Phi giương con mắt nhỏ ra, giọng giải thích :

- Thì chính những tệ lậu ấy đã ngăn cách Đảng với Quần chúng chứ sao! Đó là một tấm màn đen bưng bít! Trung ương khó mà biết cho đủ đầy!

Phi rót nước, buồn bã. Bộ mặt anh to, hai má phinh phính xị xuống như trẻ con, còn đôi ria bên đôi má lại lộ ra nét nhàu của người đã già. Sự mâu thuẫn đó làm khuôn mặt Phi ngồ ngộ đáng yêu...

Huy cũng hơi buồn... Hai nhà văn đương thành hai nhà đạo đức...

Phi tiếp mạch suy tư day dứt:

- Luân lý bị xúc phạm nặng nề... Không trọng người là không trọng cái gì cả!...

Huy đặt một vấn đề khác:

- Nhưng thế nào là trọng người? Vấn đề là ở chỗ đó! Trọng người bây giờ là đòi hỏi con người phải thật đúng, phải thật tốt thì mới trọng đúng không?

Phi gật gù:

- Chính vấn đề là ở đó! Đòi con người toàn thiện toàn mỹ mới trọng tức là không muốn trọng con người!

Phi phả khói thuốc, vẻ mặt anh rung mờ vì làn khói.

- Chứ gì nữa? Trọng người tức là phải trọng con người trần tục. Con người trần tục..., rất trần tục,... thì nó có đúng có sai, có tốt có xấu. Nó đầy tương lai nhưng cũng nặng dĩ vãng ... Có yêu được con người trần tục ấy thì mới có thể gọi là yêu người.

Huy phát triển ý bạn :

- Đúng lắm! Surhumain est inhumain(**)! Cái gì siêu nhân đều là bất nhân! Chỉ yêu con người lí tưởng tức là chỉ biết yêu con người giả, tức là giả dối trong tình yêu...

Huy lại phát biểu :

- Đúng thế! Cứ tìm trong cuộc đời này một người công nhân, nông dân y như trong sách để mà yêu thì ngàn đời chẳng kiếm tìm được ai!

Phi lại phát triển :

- Đúng lắm! Đó là chạy theo một ảo tưởng. Yêu một ảo tưởng. Mà lại bỏ mất hàng triệu con người thực... Đó là duy tâm... Đó là thả mồi bắt bóng...

Hai văn sĩ thi nhau nói và... hút. Khói thuốc rẻ tiền khen khét cả cuộc thảo luận. Huy lại nghiêng bộ mặt khô vàng trên nền bộ quần áo tím xỉn. Anh đặt một vấn đề nữa:

- Yêu con người trần tục, thế thì bạ ai cũng yêu à?

Phi lại tròn xoe cặp mắt nhỏ, đôi ria ngó ngoáy, giải thích :

- Chỉ trừ phía địch thôi. Đó là thứ trái cấm không được hái trong vườn hoa tình yêu. Còn phía bên ta thì được yêu hết, không trừ ai... Một người xấu nhất ở bên ta cũng đáng gọi: “Bạn ơi!”. Phải yêu người trong xã hội ta chứ! Tốt với xấu không phải là cái thước đo tình yêu. Có khi đứa con hư, tật nguyền lại phải yêu hơn đứa con ngoan, khỏe khoắn ấy chứ!...

Trong khi hai người đương cao giọng đàm đạo như thế thì một người đàn bà khăn vuông đen, áo bông đen, quần cũng đen đứng nép trong bóng tối ngoài buồng, qua kẽ cửa dòm vào. Xong chị ta đi xuống bếp, miệng lẩm bẩm:

- Bẩy giờ hơn rồi! Khách với khứa!.

Lát sau chị lại lên, lại dòm vào, lại vẫn thấy hai kẻ sĩ khoái trá trò chuyện rôm rả như pháo nổ. Người nọ khen người kia: “Đúng lắm!”. Người kia khen người nọ:“Đúng! Đúng!”. Rồi lại những chữ: “Con người, con người” cứ oang oang mãi không dừng. Rồi thì khói thuốc bốc mờ cả bóng đèn điện trong gian buồng. Khói bay cả ra ngoài cửa làm khét cả mũi chị. Chị lại bỏ xuống bếp, miệng lẩm bẩm:“Gần 8 giờ rồi! Con người với con ngợm mãi!...”.

Gió lạnh rít qua con hẻm, thốc vào gian bếp. Người đàn bà đang nóng ruột lại càng tức tối. Chị ta là vợ Phi...

Phi thì say sưa lắm rồi :

- Trọng con người tức là đối xử với con người phải hết sức nhân đạo! Chụp mũ này, đao to búa lớn này, mệnh lệnh này, đàn áp tư tưởng này... v.v. Tất cả đều là những phương pháp bất nhân !...

Huy lại phát triển :

- Đúng lắm! Mình thấy ối cán bộ cấp cao hẳn hoi mà đối xử với vợ con cũng cục cằn, cáu kỉnh. Thậm chí họ còn chửi mắng nữa... Thế còn ra thể thống gì nữa!...

Phi lại tán thêm:

- Đúng quá! Đầu gối tay ấp, họ còn thô bạo thế nữa là người dưng! Họ không biết yêu hay sao ấy?... Tình cảm, tâm hồn con người cần phải giáo dục lại hết...

Huy lại phát triển:

- Đúng rồi! Tình yêu cần được giáo dục lại... Phải chống bằng được những cư xử vũ phu đối với con người!

Phi bốc đồng:

- Mình cũng thế! Tập sách của mình sắp tới sẽ có tựa đề là “Vũ phu”. Mình sẽ đả vào cái lề lối cán bộ chuyên đi úp bệnh cho người ta...

Phi nhấn mạnh:

- Đúng lắm! Nhưng phải làm sao để nhân dân ta căm thù cả cái lối “Nói nặng” nữa chứ!

- Nói nặng á?

Phi gật đầu:

- Phải! Nói nặng cũng là vũ phu đối với con người.

Huy tán thành và khen:

- Ý kiến mới đấy!

Phi nhũn nhặn không nói trực tiếp về lời khen ấy mà cứ điềm nhiên phát triển sự mới mẻ cái suy tưởng vừa rồi của mình:

- Phải làm sao cho con người trong xã hội mới, họ biết yêu nhau đến mức êm ái nhẹ nhàng trong mọi trường hợp... Chứ “nói nặng” cũng vẫn là một hình cụ. Đối với xã hội hiện đại thì tỉ lệ dã man của nó chẳng kém gì những cái vạc dầu, cái cũi sư tử của xã hội thời Trung cổ xa xưa!..

Huy khoái lắm :

- Phải đấy! Nhân văn con người mới phải cao như thế! Đến như cái lối “nói nặng” cũng loại bỏ! Phải lắm! Trường hợp nào cũng không được nói nặng! Người ta chửi mình, mình cũng phải nhẹ nhàng!

Thế là hai văn sĩ đồng ý sẽ viết một số truyện. Chủ đề còn chống cả đến cái tệ tục “nói nặng” nữa. Họ bàn nhau rằng có thể sẽ in chung...

Xịch! Cửa mở tung.

Phi thấy một luồng gió lạnh phả vào mặt. Nhìn ra, anh thấy người vợ đen ngòm, mặt xương xẩu, mồm hơi vẩu đang bê mâm cơ bằng gỗ đi vào ... Phi khó chịu quá. Còn Huy thì giật mình, anh áy náy hỏi chị vợ:

- Chết chửa! Nhà ta chưa ăn cơm ạ ?

Người vợ định nói gì, xong gặp cái mặt anh chồng hơi dữ dằn cùng cặp mắt lườm xéo một cái. Chị ta đành nói :

- Dạ! Không... anh cứ ngồi chơi!... Đây là phần cơm cháu nó đi họp thiếu nhi chưa về đấy ạ!

Huy thở phào:

- À ra thế!

Vợ Phi đặt mâm cơm trên cái phản góc nhà kề bên, xong đi ra.

9 giờ!...

Việc gì ở đời rồi cũng đến hồi kết... Hai văn sĩ bắt tay nhau, lưu luyến lắm! Phi tiễn bạn ra tận ngõ, còn dặn :

- Nhớ tập truyện “Chống nói nặng” nhé!

- Ừ! Nhớ! Sinh tử đấy! Mới lắm đấy!

Thế rồi một con người là Huy ra đi, một con người là Phi trở lại nhà, để đối chất với một con người là vợ Phi đang hầm hầm nét mặt, hai tay chống nẹ, đợi anh ở giữa buồng... Vừa thấy Phi bước vào, chị chàng xổ một tràng ngoa ngoắt:

- Khách với khứa!... Khách đâu mà có thứ khách khốn nạn thế!... 9 giờ vẫn chưa được miếmg cơm nào tọng vào bụng! Ôi hết cả! Thịt bò xào dai như đỉa còn gì?... Lại còn cái hạng chồng nào như thế này bao giờ! ...

Phi đứng nhìn cái mồm vợ cứ vâu vẩu ra mà nói, tức quá :

- Ơ hay! Khách đến, chẳng lẽ đuổi người ta đi à ?

Chị vợ vẫn vẩu mồm ra, nhe hàm răng đen ra, tuôn tiếp hàng tràng :

- Chả đuổi à? Người ta đã bưng cơm lên, có đồ ngu mới cứ cố mà ngồi ì ra mãi thế!... Lại còn có cái hạng chồng lườm mới nguýt!... Bây giờ mới tọng thì đến bao giờ mới rửa xong bát?... Quần áo hàng rổ thế kia ai mà vá được nữa?... Hết thằng bố lại thằng con!... Nó đợi cơm mãi rồi nó đi chơi bố nó đâu rồi? Ai đi tìm được nó về bây giờ?... Khổ cái thân tôi chưa! Cái thứ chồng với cái thứ con!...

Phi tức quá, cặp mắt nhỏ căng ra, đôi má nặng xuống, ria mép dựng ngược lên. Phi quát:

- Câm! Câm ngay!

Người vợ cũng chẳng vừa, nhất là đang nổi cơn ghê gớm thế này. Chị xô cái ghế vào bàn đánh xầm một cái :

- Câm à? Câm à? Có cái thứ đàn ông làm khổ vợ khổ con mà còn chửi người ta à?... Bà con hàng xóm ơi!... Khổ cái thân tôi chưa?

Chị dậm chân thình thịch...

Phi cáu quá. Anh ù tai đến mụ trí rồi. Mặt anh dữ tợn như mặt một nhà quân sự giữa trận tiền. Anh quát tướng :

- Câm! Câm ngay! Ông lại đập bố nó ra cả bây giờ!

Người vợ càng làm già, gào kêu hàng phố...

Choang!

Thế là một nhà văn chủ trương không nói nặng một ai trong bất cứ trường hợp nào, nay bỗng vớ một cái cốc, đập tan tành trên sàn nhà...

Chao ôi! Sao cái lý luận nó hay cãi nhau với cái thực hành như thế!

Người Phi nóng bừng, anh chạy vội ra đường kẻo chị vợ túm được... Anh bước rảo cẳng, gần như chạy trốn. Tiếng chị vợ gào ngoa ngoắt vẫn bám riết theo anh...

Rặng đèn vàng dọi sáng nhờ nhờ dọc con phố nhỏ hun hút. Phi bước nhanh vô định. Anh chỉ mong được những cơn gió rét lạnh buốt quất vào mặt cho cái nóng trong óc hạ nhiệt bớt đi...

Anh vẫn đi như chạy, để thoát được cái thứ âm thanh tru tréo vẫn nhằng nhẵng phía sau. Anh quặt vội ở ngã ba... và đâm sầm vào một cái xe đạp dựng rất chướng ngay lối rẽ trên vỉa hè. Lúc đó, đầu óc anh mới đỡ quay cuồng, tai anh mới đỡ ù, lưỡi anh mới đỡ ríu... và mồm anh mới kịp văng ra một câu chửi độc: “Đời!... Mẹ sư đời!”.

Anh chửi cuộc đời nhỏ nhen, eo ót. Nó níu kéo anh lại, không cho anh được dễ dàng bay lên khoảng trời lý luận cao thâm, để làm một cái gì thực ra trò...

1-12-1956

Mười Khoan

A-

 

A+

 

‹Đọc›

Anh tên là M

ườ

i Khoan. Dáng h

pháp, n

ng tám ch

c kí lô. B

p tay, b

p chân anh cu

n cu

n, loang loáng m

hôi. Trông anh b

c

i đã c

con m

t. Cây búa t

vung lên, ph

p xu

ng nh

p nhàng, c

i tóe ra thành đ

ng xung quanh

Ngày nào cũng vậy, mới tám giờ sáng Mười Khoan đã vội vã gom củi, bó lại, chất vô đống rồi phủi tay vô quần, hất hàm nói với đứa con gái lớn trông vựa một câu muôn thủa:

 

- Trông hàng cho ngon nghe! Ba về nhà uống nước!

 

Con bé nguýt ba nó một cái dài:

 

- Uống nước? Uống mà phải đóng cửa?

 

Mười Khoan cười hề hề, vừa đi vừa vắt cái áo bạc phếch lên vai:

 

- Chuyện nhỏ!

 

Những lúc vui, gặp bạn bè, Mười Khoan thường nháy nháy mắt, giỡn:

 

- Khoan này hổng phải tạm ngưng đâu nghe. Là mũi khoan đó!

 

Chà chà, khoan mười mũi một lúc thì đến tường bê tông cũng sập…

 

Khác với chồng, chị Tư Ốm, vợ Mười Khoan, thiệt là ba má đặt tên đâu trúng đó, có tới bốn cái ốm. Mặt chị hóp lại, hai mắt lỗ đáo, lúc nào cũng lờ đờ như người thiếu ngủ. Thân hình chị cứng nhắc, phía trước ngực cũng như sau lưng đều thẳng đuột. Mười Khoan biểu khỏi lo, đã có hãng Trump phụ giúp, khiếm khuyết của vợ anh cũng chẳng đến nỗi nào. Chân tay chị có vẻ như hơi dài, nổi đầy gân xanh. Nhưng người gầy là thầy mọi thứ đó nghe, năm trước mới nghe chị sanh, bẵng đi một thời gian lại đã nghe chị đang có bầu. Cây khế, cây ổi, cây me quanh nhà chả mấy khi đủ trái cho chị Tư đỡ bị ói khan…

 

Trời cho vợ chồng anh Mười tới mười đứa con. Tuy ít học nhưng bù lại, đứa nào đứa nấy tròn trùng trục như cối đá lỗ, lăn ra đâu là ngủ đó, ăn chỉ thấy ngán chứ chẳng mấy khi biết no. Anh Mười mê mải bổ củi, đến cái quán nhậu cách nhà có mấy căn anh cũng chẳng chịu hạ cố ghé qua nâng lên đặt xuống dăm ba ly cùng bè bạn. Anh chỉ mê nước chanh nóng chị Tư chế mỗi khi anh bỏ vựa về nhà giải khát. Ồ, cũng chả tốn kém là bao, ngày anh Mười về nhà sáu bảy lượt mà cũng chỉ xài bốn năm trái chanh, một trăm gam đường trắng…

 

Anh Mười cưng vợ, không chịu cho chị Tư đi làm. Mà anh có cho chị cũng không đi nổi. Đứa con này của chị vừa mới ráo máu đầu, đứa kia lại đã ló ra. Chúng mè nheo, quanh quẩn níu áo, đòi cho ăn, đòi tắm rửa, đòi đi ị khiến chị Tư tối mặt tối mũi. Dĩ nhiên, đối với một người đàn bà ít nhan sắc như chị, như vậy cũng là mãn nguyện lắm rồi.

 

Vậy mà bỗng nhiên chị Tư không chịu yên phận, một mực nằng nặc đòi ly dị chồng. Anh Mười Khoan há hốc mồm, ú ớ không nói được câu nào vì quá kinh ngạc. Bà con chòm xóm thì biểu chị khùng. Không khùng sao lại chê chồng? Mà chê chồng thế nào? Chê người chỉ biết say mê bổ củi kiếm tiền! Chê người bắt chị phải ăn nhiều, uống nhiều: “ Uống thật nhiều thuốc bổ vô nghe em, cho nó khoẻ”. Nghĩa là chê người thương mình hết mực! Chà, lòng người nông sâu ai dò cho hết? Hay là chị phải thằng cha nào? “Trời ơi, đừng có đặt điều oan cho vợ tui”, anh Mười thề, “Nó hổng phải lòng ai hết, có lẽ nó đoạ chết à? Cho nên nó mới đòi bỏ tui. Mà nó học ở đâu cái thói đó chớ? Nó hổng học ở đâu hết, chắc nó nghe đứa nào xúi khôn xúi dại thôi. Rằng người ta có cả trăm con vẫn còn chia tay vì không hợp kia kìa. Ở đâu à? Ở trong sách tập đọc của con Út Sáu nhà mình chớ ở đâu! Đấy, nó có một mớ lý này lý kia, nghe lạ huơ lạ hoắc à. Nghe tối cả tai”…

 

Rồi đến ngày Tòa kêu hai vợ chồng anh Mười Khoan đến hòa giải. Trên đường đi anh Mười biểu vợ:

 

- Làm thế khó coi quá, khó coi quá, ta về đi.

 

Chị Tư hặc:

 

- Về là về thế nào, ý tui đã quyết, búa đã chém vô củi, có trời cản. Nói hoài, nói hoài, anh có chịu nghe tui đâu. Tại anh cả đó chớ…

 

Tòa hỏi chị Tư lấy anh Mười Khoan có được hạnh phúc không?

 

Chị trả lời:

 

- Dạ thưa, tụi tui có tới mười đứa lận…

 

Tòa hỏi tiếp:

 

- Chị Tư còn thương ảnh không?

 

Chị Tư nói:

 

- Thương! Thương dữ lắm chớ! Không thương mà…

 

Tòa lại hỏi anh chị có hay cãi nhau, đánh nhau, có gì trái ý nhau không?

 

Chị Tư hạ giọng:

 

- Dạ, thưa Tòa, ngày nào tụi tui cũng tự dưng đánh nhau vài trận. Còn cãi nhau thì không, vì cứ mỗi lần tui định cãi, hay định kêu lên cho lũ trẻ tới cứu, ảnh đã đưa bàn tay hộ pháp ra bịt vô miệng tui rồi. Mà không kêu được thì lại thấy cái không hợp, không thích tự dưng biến ráo trọi hết. Xong rồi mới thấy ấm ức. Ấm ức lắm, bị bắt buộc, bị ăn hiếp, làm sao không ấm ức. Ức thế nhưng lúc thấy ảnh cười hề hề tự dưng tui lại bỏ qua cho luôn…

 

Tòa gặng:

 

- Chị Tư đã bỏ qua sao còn khăng khăng đòi bỏ anh Mười?

 

Chị Tư bỗng hét lên:

 

- Không, ảnh cứ vậy, cứ vậy! Tui hết chịu nổi rồi! Tui dứt khoát …

 

Tòa hỏi anh Mười có đúng thế không?

 

Anh Mười chỉ gãi đầu, biểu:

 

- Nhà tui nó chỉ nói đúng trở lên. Tui thấy tui sai nhưng hổng biết sai đâu. Mong Tòa chỉ giùm đâu sai để tui sửa. Sai đâu sửa đó. Còn sai đó sửa đâu thì Tòa lại chỉ. Tui chỉ mong Tòa chớ có cho vợ tui nó bỏ tui…

 

- Vậy thì - Tòa lại hỏi chị Tư- Ảnh đã nói thế, chị có chịu ly dị nữa không?

 

Chị Tư mếu như cười:

 

- Sao Tòa lại vừa nói vừa cười, như vậy là có ý gì. Tòa bênh anh Mười phải không? Tòa mà bênh ảnh thì tui sao qua mặt được Tòa? Tòa nói sao tui cũng theo Tòa. Nhưng mà- chị Tư tiếp- Tui đòi Tòa phải bắt anh Mười…

 

Tòa ngạc nhiên:

 

- Anh ấy có tội gì mà bắt? Luật pháp ta bắt người đâu dễ thế. Mà Tòa bắt anh Mười, chị Tư ở với ai, ai nuôi con cho ảnh?

 

- Không- Chị Tư bẽn lẽn- Tui nói là bắt ảnh không được tự ý bỏ vựa củi về nhà ngày mấy lượt thôi. Ảnh đâu có uống nước…

 

Tòa hỏi anh Mười có chịu làm theo ý chị Tư không. Anh Mười lại gãi đầu, biểu:

 

- Dạ thưa, được, được, tui làm được…

 

Sau lần được Tòa hoà giải thành, chị Tư rút đơn. Anh Mười Khoan thì cứ vô tư cười hề hề, biểu nhứt định sẽ tự kềm chế không về nhà uống nước nữa. Dành hết thời gian để làm việc, ngày anh bổ tới năm tạ củi. Nhà đã dư dả, con cái học hành tấn tới nên chị Tư mừng lắm.

 

Bây giờ, ban ngày bổ củi ở vựa đã đời, tối về nhà, ăn cơm xong là anh Mười lên giường lăn ra ngủ. Trời ơi, người đâu mà vô tâm vô tính, cứ ngủ như chưa bao giờ được ngủ vậy! Ngủ lắm thế khác chi bỏ mất nửa cuộc đời?

 

Thương chồng, chị Tư lại lay lay đánh thức anh dậy. Cực quá mình hà, cả ngày mình không được uống nước. Hay là tui đi mua cho mình tô phở nha! Có tí nước tí cái cho dễ nuốt. Hồi này mình có vẻ xuống sức. Tội nghiệp, tội nghiệp thiệt, chị chép miệng...

Nguyễn Quốc Văn

Đêm trừ tịch ở Chiến khu D

Chủ nhật, 20/01/2013, 08:58 (GMT+7)

Đêm ba mươi ở khu rừng già tĩnh lặng lạ thường. Từ phía nghĩa trang Mã Đà tiếng gà rừng xen lẫn tiếng ve, tiếng suối róc rách tạo nên những âm thanh lạ lùng cứ đều đều ngân nga trong đêm tĩnh mịch. Trong khoảng đêm sâu mênh mông, Minh cố nhìn thật lâu khuôn mặt Hoàng, thằng bạn nối khố đã ba mươi năm nay. Cái thằng nổi tiếng “gàn” nhất lớp hồi còn học phổ thông kể cả thời đi bộ đội trên đất Campuchia với nhau. Bù lại, nó hát và đàn rất hay, chỉ mỗi tội là ai nói gì nó cứ cười cười không thèm đếm xỉa bình luận đúng sai. Tóc Hoàng đã bạc khá nhiều. Nằm đong đưa trên chiếc võng dù, thỉnh thoảng Hoàng lại ho sù sụ vì cơn bệnh suyễn kinh niên đeo đẳng, Minh thấy thương bạn nhiều quá.

Rời quân ngũ năm 1981, cả hai đều thi đậu đại học. Minh chọn ngành báo chí để có dịp bay nhảy thỏa thuê. Riêng Hoàng khăng khăng chọn học ngành lâm nghiệp. Ban đầu bạn bè trêu chọc nó hơi “mát mát” nhưng rồi thấy thái độ kiên quyết rất lạ thường của nó riết rồi cũng thôi. Càng lạ lùng hơn khi tốt nghiệp xong nó nằng nặc xin về công tác ở khu bảo tồn thiên nhiên và di tích lịch sử chiến khu này dù rằng quê nó mãi tận Tiền Giang, còn quê vợ nghe nói ở Bà Điểm - Hóc Môn.

Mới đó đã hai mươi lăm năm trôi qua. Nó vẫn bám trụ nơi rừng thiêng này với niềm say mê rất lạ. Lúc chiều chở nhau trên chiếc xe cà tàng “sim sơn” của Hoàng, Minh rất ngạc nhiên khi nghe Hoàng kể vanh vách tên của hàng trăm loài gỗ quý như cẩm lai, trầm hương, chò chỉ, gõ đỏ, sao… hàng ngàn loài động, thực vật hiếm đang có nơi đây như bò tót, vọc, cá bơn, lưỡi mèo… Nó còn rành rọt về quy luật sống, thói quen, khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với từng loại. Có lẽ chúng đã ăn sâu vào tâm trí nó rồi và chỉ cần thì xổ ra như những thước phim không lẫn vào đâu được. Nó thuộc làu đường đi nước bước của cả chiến khu rộng mấy mươi ngàn hécta này như ruộng vườn gia đình nó. Minh nghĩ mãi cũng không hình dung được vì sao nó nhớ dai đến như vậy?

- Mày định ở đây đến bao giờ? Còn vợ con tính sao?

- Biết sao bây giờ? Tao không thể bỏ rừng mà đi được.

- Tại sao? Minh xẵng giọng.

- Tao cũng không biết, nhưng… mà… đêm nay nói chuyện khác đi.

Hoàng quay quả bước vào lán trại dọn ra một ấm trà lá xanh nguyên chất mùi ngọt ngon ngót thơm dịu kèm một tô chè khoai mì nấu với mè. Ở đây được gọi là thành phố ba không, không điện thắp sáng, không sóng điện thoại di động, không có hàng quán. Hoàng bỗng cất giọng cười sang sảng trong đêm lạnh. Đôi mắt u uẩn của nó chợt ánh lên những tia rất lạ thường khi đăm đăm hướng về phía rừng sâu hun hút đầy tiếng gió hú.

Ấm trà thứ hai rồi thứ ba, thứ tư cứ tiếp nối nhau theo mạch kể chuyện của Hoàng. Hình như người ta đã quên đi sự cần thiết của những cánh rừng nguyên sinh và sẵn sàng triệt hạ không thương tiếc để trồng lại cây khác dù việc này cần thời gian đến vài mươi năm, thậm chí hàng trăm năm nữa. Đã vậy thỉnh thoảng lâm tặc cũng lén lút khai thác gỗ lậu quý hiếm làm máu của rừng tuôn chảy đến đau lòng. Hoàng kể thêm về tai nạn thảm khốc ngay trên mảnh đất chiến khu này đến nay mỗi khi nhắc đến ai cũng phải rùng mình. Ngày ấy hàng ngàn người kéo nhau về phá rừng để tìm vàng theo một lời đồn đại vu vơ nào đó. Rừng bốc cháy. Tiếng cuốc xẻng đào bới lén lút tạo nên những hố sâu thăm thẳm đen ngòm đang há miệng nuốt sống dân đào vàng. Và cái gì đến phải đến, hàng chục người bị vùi lấp bỏ thây khi hang sụp. Lần khác nó suýt bị bọn săn thú hiếm sát hại khi cố tình ngăn cản việc săn lùng bò tót, thú thuộc loại hiếm nhất ở chiến khu. Mặc. Nó bất chấp. Vả lại cái tính gàn gàn rất lính của nó không ai ngăn cản được.

Cơ quan này không ai còn lạ gì sự bất thường của người kỹ sư lâm nghiệp suốt ngày lặn lội chốn rừng sâu. Có khi nó đứng lặng hàng giờ trước các loại cây rừng bỗng dưng chết rụi không rõ nguyên nhân. Đào. Bới. Ghi chép. Trầm tư nghĩ ngợi. Cái điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại mấy mươi năm qua không hề thay đổi. Có chăng là sự thay đổi trên mái tóc bờm xờm không chải chuốt nay đã hoa râm. Đổi lại nó đã đưa ra hàng loạt đề tài sáng kiến rất thành công để bảo vệ, gây rừng và động thực vật quý hiếm.

- Mày sống kham khổ quá rồi được gì khi đến tuổi về hưu? Tụi mình đã tuổi năm mươi rồi chớ có còn trẻ trung gì đâu, liệu tính toán cho cẩn thận. Không có mày cũng có khối người khác làm thay. Minh hằn học.

- Tao hiểu, nhưng nếu ai cũng như mày, cũng bỏ rừng, bỏ đồng đội, bỏ đây về thành phố thì chuyện gì sẽ xảy đến. Mà nè, tại mày chưa hiểu rừng đó thôi. Nếu hiểu, có khi mày lại mê hơn tao nữa thì sao? Nhà thơ Tố Hữu từng nói trong kháng chiến “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Nếu xưa không có rừng, liệu nay có được cuộc sống hòa bình? Mà thôi số tao đã như vậy rồi, có gì mà hối tiếc.

Hoàng thản nhiên châm chọc rồi phá lên cười lồng lộng, nụ cười thật đôn hậu tự tin. Minh nhìn sâu vào đôi mắt của Hoàng và bắt gặp một điều gì đó rất bí ẩn, thâm u pha lẫn niềm tự hào đang ánh lên kỳ lạ. Bao giờ cũng thế, Hoàng luôn lạc quan yêu đời như bao gian khổ chưa từng đi qua đời nó.

Hoàng chậm rãi bước đến thắp hương ở tượng đài. Nó lẩm bẩm điều gì thiêng liêng lắm mà có lẽ chỉ mình nó mới hiểu được.

Tiếng ca sĩ nào đó văng vẳng từ chiếc radio cũ mèm đang lăn lóc trên chiếc võng của nó bỗng vang lên “… rừng chiều nghe lao xao, tiếng lá non gọi gió. Tôi đến giữa rừng xanh, mà say trong hương rừng…”.

Đêm trừ tịch ở Chiến khu D sâu thăm thẳm thật lạ lùng

Đợi

Chủ nhật, 13/01/2013, 08:40 (GMT+7)

Không phải là người đưa đò nhưng cha con lão Quyện vẫn thường sang sông chở giúp người này, người nọ. Con sông làng Gòn không lớn nhưng nước chảy xiết và có nhiều trũng xoáy nên rất nguy hiểm, lạ tay chèo để thuyền sa vào đó sẽ bị xoáy nhấn chìm hoặc quay mòng mòng. Không chìm thì cũng sợ xanh máu mặt.

Do là con trai của lão năm ấy học lớp 11 nhưng cao lớn phốp pháp như một thanh niên lực lưỡng, đôi tay rắn chắc, da ngăm đen, hiền nhưng lầm lì. Nó là con trâu đực của cái làng thuần nông này, luôn được các thiếu nữ quê nhìn thầm thương trộm nhớ. Ngày ngày lão Quyện đánh đu trên mặt sông cắm lờ, thả lưới. Gia đình lão nghèo nhưng chưa bao giờ thiếu cái ăn, nhất là cá

Lão ăn nói thô lỗ, cộc cằn. Ngược lại, bà vợ hiền lành như khoai như ngô. Còn đám con của vợ chồng lão thì mới ngoan ngoãn làm sao. Khi lão sừng sộ thì chúng tùy nghi di tản, đợi khi lão nguôi giận rồi thì chúng ùa vào tấn công kiểu mạnh hổ nan địch quần hồ:

- Cha chỉ giỏi làm cho tụi con sợ và…ế chồng.

Lão cười tít mắt :

- Ế thế nào được, cả cái làng này không ai là không nợ tao. Nợ tao qua sông qua suối, nợ tao lôi họ từ tay Hà Bá ra. Tới chết còn chưa trả hết nữa là.

- Làm phúc thì đừng kể công. Kể thì nó trôi tuồn tuột - Vợ lão háy nguýt.

Thằng Do nghe mẹ nó nói thế thích lắm. Nó nghĩ tới đám bạn mà nó từng đưa qua sông Gòn này không biết bao nhiêu lần mà tính. Nó cũng chưa bao giờ nhận của họ đồng xu cắc bạc nào. Lâu lâu có đứa bao ly chè, cốc nước là vui rồi. Nó còn là thầy dạy bơi cho hầu hết bọn trẻ trong làng này nữa. Nên chuyện các cô gái ở đây làm kiểu làm cách với nó là không có, bởi dù gì thì các cô cũng đã từng nằm trên đôi cánh tay rắn chắc của nó mà hể hả tập bơi. Chỉ cần nó nhìn các cô cười cười là đôi má các cô đã dậy lửa rồi. Duy chỉ có một người không bao giờ bối rối trước nó là Hồng, cô con gái rượu của nhà máy xay lúa. Nhà Hồng có ghe to chạy bằng máy nổ để chở lúa. Ghe neo đậu ở dưới gốc cây sung cổ thụ mọc sát mép nước, là chỗ để Hồng ngồi giặt giũ hay học bài. Thằng Do cũng đã có lần chèo thuyền đến đó thăm chơi. Nó thích con ghe này lắm, nó mơ ước xa xôi:

- Bà và chiếc ghe này đã đi tới những đâu rồi?

- Xa nhất là lên huyện, mua xăng dầu về chạy máy.

Vừa trả lời xong, cô bé lại thắc mắc:

- Sao hôm nay ông rảnh vậy, không đưa đón ai à?

- Hôm nay nghỉ học mà, bà quên rồi sao. Vả lại tôi đâu có trách nhiệm phải làm chuyện đó.

- Tui biết ông thích ai trong đám con La, con Cúc rồi nên mới cất công làm vậy.

- Không thích ai hết.

- Xạo.

- Thật mà. Không có tui thì họ phải lặn lội lên tuốt làng bên mới qua sông được. Tội nghiệp.

- Ông còn nhớ nhỏ Thu không?

- Thu nào, Thu ròm chứ gì. Làm sao mà không nhớ.

- Nó thường tâm sự với tui là nó ơn ông suốt đời.

- Có gì đâu.

Do nhớ lại ngày đó, nó đang cùng cha thả lưới phía dưới bến sông, nghe tiếng la thất thanh của bà Tầm mẹ Thu.

- Cứu cứu… ông Quyện ơi.

Vừa nghe thế là cha con nó đã hiểu chuyện gì, cùng lao nhanh xuống nước đón lõng và bơi ngược lên để tìm con Thu. May mà hôm ấy nước sông trong veo nên cha con nó nhanh chóng tóm được con bé và đưa vào bờ. Cha nó cầm hai chân dốc ngược con bé xốc nước, còn nó chạy lên chặn đường không cho bà Tầm đến gần. Cha nó bảo phải làm thế chứ không thì không cứu được. Rồi cả làng ào đến, người nhóm lửa, kẻ thay áo quần. Hơi xấu hổ một chút nhưng nó kịp nhìn thấy con Thu trắng như hoa dành dành nở dọc thềm sông.

- Sao không có gì, ơn cứu mạng bạc vàng cũng không trả được, chỉ còn cách…

- Cách gì?

- Lấy ông làm chồng.

- Vớ vẩn.

Mười năm qua đi nhanh quá, giờ nghĩ lại thấy buồn buồn. Công việc ở thành phố bận rộn Do không mấy khi về thăm xóm làng. Ngần ấy năm, ngần ấy thay đổi. Lớp bạn bè xưa của nó hẳn đã lập gia đình cả rồi. Người quê dựng vợ gả chồng cho con rất sớm. Con ế là nỗi đau của cha mẹ. Nó biết điều đó nhưng không thể lấy vợ sớm hơn được, bởi vì đồng lương của nó không nuôi nổi nó thì còn nuôi được ai. Hơn nữa, nó quê mùa, cục mịch con gái thành phố nào mà thèm. Chỉ có quê thôi, quê mới là chùm quả ngọt.

Chiếc sà lan neo vào sợi dây cáp căng ngang sông là phương tiện qua lại của cư dân hai làng được nhà nước đầu tư đã thay cho chiếc thuyền nan ọp ẹp của lão Quyện. Nhờ đó mà Thu thường xuyên qua nhà lão biếu mớ rau, quả cà…và được mẹ Do tặng mớ cá về nấu canh chua. Hăm lăm, hăm sáu tuổi rồi mà Thu vẫn chưa chịu lấy chồng. Thu đợi ai làm sao vợ chồng lão Quyện không biết, nhưng họ không dám mở lời bởi chưa hỏi ý kiến con trai. Trong lòng họ thì Thu nết na, hiền lành được con dâu như thế thì phước nhà to lắm. Bà Quyện thăm dò:

- Sắp tết rồi, nghe nói năm nay công nhân viên chức nghỉ tết tới 9 ngày, thế nào thằng Do cũng về. Con qua chơi nhé.

Thu dạ lí nhí, hai má ửng hồng lên chắc nghĩ đến chuyện ngày xưa. Cô đưa mắt nhìn qua phía bên kia sông nơi cha con lão Quyện cứu cô ngày nào. Hoa dành dành đã nở khắp dọc dài thềm sông, đẹp như một dải lụa. Trên cành cao nhất của cây sung già, đôi cò trắng mê mải chải chuốt lại bộ lông xấu xí của mình sau một ngày vất vả tìm kiếm thức ăn. Đâu mơ ước gì cao xa, chỉ như đôi cò trắng kia là hạnh phúc lắm rồi. Thu đặt hết niềm tin vào tình yêu chân thật của mình

Món quà quê

Chủ nhật, 30/12/2012, 08:58 (GMT+7)

Bà lão ăn mày ngập ngừng trước cánh cổng của một ngôi nhà có giàn hoa giấy. Cổng hé mở, bà rất muốn đi vào nhưng bà cũng rất sợ khi phải đón nhận những câu xua đuổi quen thuộc.

 

- Chào cụ!

Bà lão giật mình khi nghe tiếng chào từ sau lưng mình. Có lẽ người ta nhầm mình là người ở quê lên thành phố hỏi thăm nhà. Họ đã coi mình không phải là kẻ ăn mày thì thôi mình cũng chẳng dám mở mồm ra mà xin xỏ nữa.

 

- Cụ đi ăn xin à? Mời cụ vào trong nhà uống chén nước.

Người đàn ông trung niên cầm tay dẫn bà lão ăn mày đi vào trong nhà, mời bà ngồi ghế sa-lông, rót cốc nước mời bà. Chè xanh? Bà có vẻ ngạc nhiên, ở thành phố người ta hay uống trà, cà phê chứ mấy ai uống thứ nước của người nhà quê?

 

- Cụ uống đi, hay cụ chưa ăn sáng sợ uống chè xanh bị say?

- À, ờ.

Bà lão nhấp một ngụm nước, đúng là vị chè xanh chan chát nhưng không thể bằng thứ chè xanh đặc quánh như quê bà. Người đàn ông nói rằng tuy sống ở thành phố mấy chục năm nhưng vẫn nghiện cái món chè xanh ở quê ông, ăn cơm xong, có cốc nước chè xanh mà uống thì sung sướng chả khác gì được thưởng thức đặc sản. Bà lão ăn mày nhỏ nhẹ nói:

- Bác ở quê lên phố sống mà vẫn giữ được gia phong.

- Dạ, cụ cứ quá lời!

- Tôi nói thật lòng đấy. Tôi đi ăn xin, người ta thường gọi tôi là đứa ăn xin, con ăn mày, thế mà bác lại gọi tôi bằng cụ!

- Dạ, ở quê người ta vẫn hay gọi thay con cháu. Cụ chắc bằng tuổi bà nội cháu?

Bà lão ăn mày kể lể bà năm nay bảy sáu tuổi, nhờ còn khỏe nên vẫn nhúc nhắc đi kiếm ăn được. Người đàn ông móc túi lấy ra tờ bạc năm mươi ngàn, đặt vào tay bà lão:

- Dạ, cháu xin biếu cụ chút tiền lẻ, cụ chắc chưa ăn sáng, cụ ra phố ăn tô phở để lấy sức còn đi.

Bà lão ăn mày mới cầm tiền chưa kịp cảm ơn thì người đàn ông đã vui vẻ cất lời:

- Cảm ơn cụ đã nhận tiền của cháu!

Bà lão ăn mày nhìn người đàn ông, ngơ ngác:

- Trước nay kẻ ăn mày vẫn phải cảm ơn người cho tiền, sao bác lại ngược đời thế?

Người đàn ông khẽ đáp:

- Thiên hạ cho thế là thuận lẽ đời nhưng cháu nghĩ khác. Cháu biếu bà ít tiền nhưng lại nhận được cái phúc lớn từ cụ ban cho. Người được hưởng phúc thì vợ chồng, con cháu sẽ sống no ấm, vui vẻ cả cụ ạ!

Bà lão ăn mày sung sướng lắm, bà sung sướng không phải nhận được năm mươi ngàn mà vì lần đầu tiên kể từ khi đi ăn xin, bà được người ta trọng vọng mình. Bà mải nghĩ về lòng tốt của con người nên quên không cất tờ năm mươi ngàn vào túi, một thanh niên nam đi sát bên bà cất tiếng:

- Cháu chào bà! Bà già thế này mà vẫn phải đi ăn xin à?

- Chào anh, vâng nhà nghèo nên phải đi ăn xin anh ạ!

Anh thanh niên móc túi lấy ra một tờ mệnh giá một trăm ngàn bảo xin biếu bà năm mươi ngàn còn năm mươi ngàn phải đi mua thuốc cho mẹ. Bà lão bảo anh, mẹ đang ốm để tiền mua thuốc cho mẹ, bà không lấy đâu. Anh thanh niên liến thoắng, không không mua thuốc chỉ hết có hơn bốn mươi ngàn thôi, xin biếu bà năm mươi ngàn, bà hãy cầm lấy để mẹ cháu được cái phúc của bà mà mau khỏi bệnh. Anh đưa bà một trăm ngàn, bảo bà đưa cho anh năm mươi ngàn.

 

Thật là một buổi sáng đầy may mắn, phải tự khao mình một bát phở mới được. Bà nghĩ vậy nhưng khi đi qua hàng phở thì lại do dự, một bát phở những hai, ba chục ngàn bằng cả một ngày ăn của mình, lãng phí quá, thôi mua cái bánh mì kẹp thịt cũng là khao rồi. Bà đi lại chỗ một người đàn ông đang bán bánh mì bảo làm cho bà cái bánh mì kẹp thịt với cái giá rẻ nhất. Người đàn ông trung niên nhìn thấy bà ăn mày, thương bà, anh làm cho bà cái mì kẹp thịt giá mười lăm ngàn nhưng chỉ lấy bà có năm ngàn. Bà lấy tờ một trăm ngàn mà anh thành niên đưa để trả tiền bánh mì. Người đàn ông cầm tờ một trăm ngàn lên mắt lật đi lật lại và phát hiện ra tiền giả.

- Bà ơi, ai cho bà một trăm ngàn này?

- À, cái cậu thanh niên tốt bụng cho tôi năm mươi ngàn, không có tiền lẻ nên đưa cho tờ một trăm này, tôi đưa cho cậu ấy năm mươi ngàn.

- Bà ơi, tiền giả, bà bị nó lừa rồi. Có phải cái thằng mặt hốc hác, mặc áo sơ mi trắng sơ vin phải không bà?

Bà lão ăn mày bảo phải, người bán bánh mì giận dữ nói rằng nó là thằng nghiện hút đang bị HIV giai đoạn cuối, nó chuyên đi lừa đảo, hiện nó đang ăn phở ở trong quán bên kia đường để cháu vào lôi cổ nó ra nện cho một trận. Bà lão bảo thôi thôi, nó bị bệnh ấy chả sống được bao lâu nữa, giá nó xin bà bà cũng cho, tội gì phải đi lừa thế.

 

Chủ nhật tuần sau, người đàn ông đi công tác về. Ông nhớ nước chè xanh nên vừa về đến nhà ông đã bê chiếc bình vẫn hãm nước chè xanh quen thuộc ra bàn, rót nước chè ra chiếc cốc thủy tinh trong vắt. Người đàn ông uống một ngụm chè xanh, ông ngạc nhiên, sao vị chè thơm và ngon thế! Ông hỏi con hôm nay mua chè ở đâu mà khác hẳn chè mọi khi?

 

- À, hôm trước có một bà cụ đem một bọc chè xanh đến bảo biếu. Con hỏi cụ là ai, cụ ấy bảo cụ ấy là người ở quê!

Người đàn ông lặng đi vì xúc động khi biết được người đã biếu chè xanh cho mình. Hai tay ông run run làm sóng sánh cốc nước chè xanh đặc quánh.

Chị Xít

“Ông Bỗ chết rồi!”. Mẹ tôi loan cái tin ông anh chồng chết với vẻ mặt tỏ ra nhà có đám. Bố tôi bần thần, rồi hỏi: “Thằng Bộ có gọi con Xít về không?”.

Bộ là con trai trưởng của ông Bỗ. Tên đẻ ra là Bọ, nên cô em có tên Xít. Tôi cũng không hiểu tại sao ông bác tôi lại có thể đặt tên con quái gở thế. Có phải thời xa xôi gì đâu mà phải đặt hèm. Sau này anh Bộ ra Hà Nội, thêm cái dấu mũ, thế là thoát ly được hoàn toàn cái gốc quê mùa. Anh lại lên tới chức to, có khi cấp dưới nịnh hay là cợt bằng cách thêm vào thành Bộ Trưởng. Rồi thành biệt hiệu luôn. Chị Xít thì không có cái may mắn ấy. Chị đã bỏ nhà đi lâu lắm rồi, sau một lần ông Bỗ đánh chị thừa sống thiếu chết.

“Biết tìm nó ở đâu? Hồi trước nó ở cái trại gì trên Ba Vì ấy, giờ chả biết còn sống hay chết rồi”. Mẹ tôi rên lên, giọng điệu như đã ủ sẵn câu chuyện, nhắc đến là như tua băng. “Năm nay nó mà còn sống cũng phải năm mươi rồi”.

Năm mươi rồi sao, tôi nhớ ngày bé từng gặp chị Xít đôi lần. Chị hồi ấy mới chớm bị chứng tâm thần, đầu buộc một cái khăn lụa hoa như kiểu công nhân nông trường. Chị từ quê xuống sau khi ông bố đánh. Ông bảo chị ăn cắp, nhưng bố tôi cũng kể hồi bé cũng từng bị ông Bỗ vu ăn cắp và đánh đòn. Nhưng lần cuối cùng xuống nhà tôi, chị Xít chỉ ở đúng một buổi chiều.

“Hồi cái Xít xuống đây, bảo nó ở nhà mình mà không chịu, rồi nó lên cái trại ấy”.

Cái cách kể chuyện của người già là vậy, toàn dùng những từ như “ấy, gì, đó”, những đại từ gợi nên một quá khứ đã kể đi kể lại nhiều lần. Nhưng rõ ràng trong câu chuyện mà bố mẹ tôi kể, chị Xít không thấy gây hành động gì khủng khiếp hoặc mất kiểm soát mà người tâm thần vẫn mắc phải như mất trí, xé quần áo, ăn mặc bẩn thỉu, cười nói ngây ngô ngoài đường. Mà thực ra đấy cũng chỉ là hình ảnh tôi thấy đôi lần ở những người tâm thần. Chứ người tâm thần hiếm hoi tôi biết là một ông chú hàng xóm ở khu nhà cũ của tôi. Chú Tuân, như tôi còn nhớ hồi bé, gọi là anh thôi, vui chuyện lắm. Anh đi đôi dép nhựa bộ đội có quai hậu màu nâu, dáng anh lại cao lớn, mặt mũi sáng sủa. Vừa đan phên, anh vừa vui vẻ trả lời những câu hỏi đủ loại của tôi, đánh nhau ra sao, bắn súng thế nào. Nhưng hình như anh trả lời hơi nhiều, chẳng hiểu anh có rõ tôi hỏi gì không nữa.

“Nó bị tâm thần đấy”.

Tâm thần lúc ấy là một từ rất nặng để trẻ con đem ra miệt thị nhau.

“Nó bị bom, điếc lòi. Cứ há há hớ hớ”.

“Tịt cả ngòi luôn ấy chứ! Thế nên có đứa nào lấy đâu”.

Một người khác là chị Thơ. Nghe đồn chị học đại học, học nhiều quá nên phát điên, rồi mất suất đi Nga, có người lại bảo chị điên vì thất tình. Chả hiểu thế nào. Chỉ biết mỗi lần sinh hoạt hè, chị lại đứng chống nạnh ở chỗ đám trẻ con chúng tôi, hát những bài hát Nga rồi kể đủ thứ chuyện bằng cái giọng sang sảng bất thường.

Rồi như mọi người tâm thần khác, họ gần như biến mất khỏi tầm nhìn của ta khi ta lớn lên. Tôi cũng không thấy ai nhắc đến chị Xít và tôi cũng quên hẳn chị.

Cho đến ngày bác tôi mất. Đám ma thân sinh anh Bộ dĩ nhiên là phải to. Mọi chuyện cứ rầm rập huyên náo cả mấy ngày, từ việc cắt đặt ai sẽ lo việc gì, nhưng chủ yếu là quân của anh Bộ. Chị Hoa, vợ anh quyết không cho họ hàng nhúng vào. “Cháu cảm ơn các cụ đã có nhời. Nhưng ma chay của tứ thân phụ mẫu cán bộ có tiêu chuẩn cả rồi. Ma chê cưới trách, thôi thì các cụ cũng vì sự nghiệp của nhà cháu”. Mẹ tôi tức giận vì bị gạt ra khỏi “ban tổ chức”, gì thì gì về thứ bậc, mẹ tôi cũng là dâu thứ của họ. “Bố mày với chú mày còn đó, cái con vợ nó dám tôm lộn cứt lên đầu à”. Mấy ngày trời, cả phái đoàn họ hàng từ quê lên, chỉ có bàn chuyện làm thế nào để dạy cho vợ anh Bộ một bài học.

Đám ma to có khâu đăng cáo phó lên báo và truyền hình. Việc này do cấp dưới của anh Bộ lo. Một chuyện không ai để ý cho đến lúc chú tôi cầm tờ báo lên đọc, là ở chỗ “Thay mặt gia đình” bên dưới dòng “Trưởng nam: Trần Minh Bộ” là “Thứ nữ: Trần Thị Xinh”.

“Ơ, nhà ông Bỗ có đứa nào tên là Xinh đâu, chỉ có con Xít chứ”.

“Ông ngẩn thế, nó đổi tên cho đẹp. Bọ hóa Bộ thì Xít thành Xinh khó gì”.

Nhưng rắc rối là biết tìm chị Xít ở đâu? Còn có ba ngày nữa là làm lễ viếng.

Nếu phái đoàn ở nhà tôi râm ran chuyện chị Xít một thì nhà anh Bộ ầm ĩ mười. Đấy là nhà tôi nghe mấy người họ hàng qua nhà anh kể lại. Chị Hoa nổi cơn tam bành khi thấy tên chị Xít ở bản cáo phó trên báo đài. Cấp dưới anh Bộ đã mắc cái lỗi quá nhanh nhẹn khi lấy thông tin từ lý lịch cán bộ của anh mà điền vào. Hay gì đâu việc có con em tâm thần đứng tên cùng mình. Bây giờ thiên hạ đi dự đám ma, sẽ tọc mạch. Rồi chẳng may có đứa xấu bụng nó tố lên thì tiêu.

Anh Bộ thì không thấy lên tiếng, hoặc đúng hơn là nhà tôi chưa nghe thấy anh nói gì về chuyện này.

Bố tôi quyết định gọi điện cho anh Bộ. Khó khăn lắm phái đoàn mới liên lạc được với anh vào gần nửa đêm.

“Anh phải báo cho cái Xít chứ nhỉ”.

“Ông thông cảm, nhà cháu đang rối bời cả lên, thôi thì ma chay xong, cháu sẽ đi tìm nó. Rồi bốn chín ngày ông già cũng vẫn kịp”.

Khỏi phải nói bố tôi, người vốn hiền lành yếu đuối, cũng phải nổi cơn lôi đình thế nào. Nhưng mọi người đều cho rằng anh Bộ không xấu, mà do chị vợ giật dây hết. Chị ấy vun vén làm ăn như thế thì anh Bộ sợ là phải.

Cuối cùng tôi với tư cách thanh niên có phương tiện và cũng đã từng gặp chị Xít (từ hồi còn bé tí) được giao nhiệm vụ đi tìm chị.

***

Nếu chỉ là tìm chị Xít và đưa chị về thì có lẽ mọi sự đã đơn giản. Sau một ngày quần thảo các trại người cơ nhỡ, trại tạm lánh, trại tâm thần, các khu phục hồi nhân phẩm, rồi vào tận hai nông trường khắp huyện Ba Vì, và lục lọi quan hệ của bạn bè, tôi cũng tìm thấy chị Xít. Tôi cũng không hiểu làm thế nào mình lại nhìn thấy chị, vào đúng khu nhà của chị ở chân núi Chẹ bên bờ sông Đà.

Chính xác là chị thấy tôi.

Tôi đang hỏi đường vào nông trường X ở sườn bên này dãy Ba Vì, thì thấy mấy người phụ nữ dáng như vừa đi làm ruộng về, mặc bộ đồ bảo hộ màu xanh, đầu bịt khăn.

“Bảo!”.

Nghe tên mình giữa chỗ lạ, tôi ngẩn ra một lúc. Một người phụ nữ bịt mặt vẫy vẫy tôi. Đấy là chị Xít. Mà vì sao chị nhận ra tôi thì cũng lạ, tôi của năm ba mươi lăm tuổi khác với năm lên năm, cũng như thế giới kịp qua hai cuộc đại chiến.

“Cậu giống ông lắm”.

À ra vậy. Nghĩa là cũng có nét giống ông Bỗ và anh Bộ luôn. Chị Xít đã thành một bà già, các nét khắc khổ heo héo. Mặt chị có cái vẻ bơ bơ của người sống tách biệt với xung quanh. Trái với hình dung của tôi, chị chỉ lặng người đi một lát khi nghe tin tôi báo. Rồi chị bình thản nói: “Tôi không về đâu. Tôi còn phải dọn nốt cái đồi chè nữa”.

Tôi nói đang có xe, chị tiện thể về luôn, mà về sớm thì còn gặp gỡ họ hàng luôn. Mọi người mong chị.

“Không. Tôi đã nói rồi. Cậu về đi. Cậu mang các thứ về, trên này tôi đủ rồi”.

Chị hối hả dúi cái phong bì và túi hoa quả tôi mang lên vào tay tôi. Búi tóc chị xổ ra, mắt chị long lên sáng quắc. “Cậu đi đi. Tôi không quen biết gì cậu”. Sự quyết liệt lạ lùng của chị làm tôi sợ. Tôi gần như bị tống ra khỏi khu nhà.

***

Chị Hoa căn vặn tôi mãi xem chị Xít có đúng là không còn ở Ba Vì nữa không. Tôi định nói chị vào nam hay sang Trung Quốc rồi nhưng nghe vậy có vẻ tàn nhẫn quá. Tôi chỉ dám nói là chị đã chuyển đi, người ở nông trường không còn liên lạc gì nữa.

Hai ngày sau đấy, tôi lo lắng liệu người nhà tôi có ai cũng lại mò lên Ba Vì nữa không. Cách có bốn năm chục cây số, không quá khó tìm, nhất là tôi đã lộ ra tên nông trường kia. Nhưng công việc của đám ma và các thủ tục mọi người bày vẽ ra đã cuốn tất cả vào guồng. Kịch bản có thể đưa ra là cô em gái vụ trưởng đang ở nước ngoài không về kịp. Chuyện đó bây giờ quá phổ biến. Đấy là kịch bản của phái đoàn ở nhà tôi đưa ra, chứ không có đến tai hai vợ chồng anh Bộ. “Mà nhà nó cỡ ấy rồi, lắm thủ đoạn, chả nghĩ khôn hơn đám ngu dân nhà quê bọn mình. Còn phải dạy đĩ vén váy”.

Anh Bộ đã đích thân vào nhà tôi “xin lỗi các cụ” và mời phái đoàn đi đưa tang. “Chả cần anh mời chúng tôi cũng đến, nhé. Anh đừng tưởng anh làm to mà chúng tôi phải xin phép đưa ma anh mình”. Nói vậy nghĩa là đã xuống nước, bỏ qua cho rồi.

Đám tang diễn ra ở nhà tang lễ thành phố. Cả đường phố trước mặt trông ra vườn hoa kẹt mất một tiếng đồng hồ. Xe hơi nhích từng mét một. Vòng hoa ùn ùn mang vào trong.

Lẽ ra bố tôi, chú và bà cô tôi cũng đứng vào hàng cùng gia đình anh Bộ nhưng phần vì chị Hoa muốn đám ma kiểu tây để tiếp đón các vị lãnh đạo, phần vì phái đoàn nhà tôi vẫn giận nhà anh chị, nên chỉ thắt khăn ngồi ở bàn uống nước gian bên cạnh. Mọi người sẽ chỉ xuất hiện lúc đọc điếu văn và di quan. Chú tôi buông một câu: “Ngồi đây tao được rít thuốc lào thoải mái”.

Đám ma dường như vô tận với liên tục các đoàn vào viếng. “Đám ma thành phố có khác. Sao họ đi đám mà ăn mặc cầu kỳ thế hở Bảo. Không có bát âm, đưa đò gì. Mất gốc hết cả. Cái họ này rồi biết đi về đâu”.

“Ngay từ đầu là tôi đã phản đối việc hỏa táng rồi. Ai lại để ông cha mình chết cháy bao giờ, thành ra chết hai lần à?”.

“Thế sao bà không vào nhà nó mà cản?”.

“Ơ hay, ông là chú nó, ông phải vào chứ. Tôi nói, nó lại bảo mụ già nữ nhân ngoại tộc lắm điều”.

“Mà con Xít ba hồn chín vía đâu không về. Trời hỡi ôi, có phải thời chiến tranh đâu mà cha con ly tán… Hờ ơi…”.

Cô tôi nức lên, khóc ầm ĩ. Những người phụ nữ có vẻ dân công sở đang xếp hàng vào viếng nhìn cô vẻ khó chịu. Chú tôi gắt. “Khóc lóc cái giề! Im!”. Cô tôi thôi kêu la, chỉ còn nức nở.

Rồi cũng đến lúc làm lễ truy điệu. Phái đoàn nhà tôi lục tục thả chân xuống đất tìm dép. Cấp phó của anh Bộ đứng đọc điếu văn, điểm lại cuộc đời người quá cố. “Ông Bỗ hóa ra cũng hoạt động cách mạng oách phết nhỉ. Hơ hơ”. Chú tôi cười khục khục. “Điếu văn viết hay quá, thằng Bảo mày nhớ xin lại cho tao mang về quê nhé”.

“Trưởng nam Trần Minh Bộ, vợ Lê Kim Hoa cùng thứ nữ Trần Thị Xinh có lời cảm ơn các ban ngành đoàn thể cùng bà con cô bác gần xa đã đến đưa tiễn cụ Trần Văn Bỗ về nơi yên nghỉ cuối cùng”. Vợ chồng anh Bộ cùng một người phụ nữ trùm khăn xô bước ra.

“Ơ? Con Xít đấy à?”.

“Có phải con Xít đấy không, Bảo?”.

Tôi căng mắt ra nhìn, nhưng chỉ thấy cái lưng của người phụ nữ quay lại. Chị Xít đổi ý rồi sao? Nhưng dáng người phụ nữ này trông rất thành thị, không có giống người phụ nữ ở nông trường hôm kia. Hay đây mới là chị Xít thật? Có khi tôi nhầm cũng nên.

Tôi len người lên phía trên để nhìn cho rõ. Chắc chắn là một người tôi chưa gặp. Mấy người phái đoàn nhà tôi cũng cố kiễng chân lên nhìn từ phía sau.

“Xít! Xít ơi!”. Cô tôi kêu lên, nhưng người phụ nữ chít khăn xô chỉ rung rung cái đầu. Mấy người đứng bên cạnh cô tôi giơ ngón tay ra hiệu im lặng. Anh Bộ cất tiếng, nói anh em chúng tôi xin cảm ơn các ban ngành đoàn thể…

Có một tiếng gào thét nào đó vẳng lại từ ngoài sân nhưng mau chóng bị bạt đi khi tiếng nhạc kèn trỗi lên. Quan tài được khiêng ra. Khi đám đi ngang qua sân, bỗng một người phụ nữ lao vọt tới, kêu thất thanh: “Bố ơi!”.

Một cảnh tượng huyên náo diễn ra. Chị Xít - người tôi đã gặp - xông vào quan tài, lăn lộn kêu khóc. Mọi người xôn xao. Tôi không kịp nhìn phản ứng của anh Bộ chị Hoa nhưng đã thấy mấy người nhanh chóng áp tải chị Xít đi. Tiếng chị vẳng lại đầy oán hờn. Cả nhà tôi chạy theo, hút bóng chị ở góc phố bên cạnh. Rồi một cái xe ô tô đưa chị đi mất. Cô tôi ngồi phịch giữa đường, gào khóc ầm ĩ. Ai nấy bối rối trước cảnh một bà già nhà quê khóc hờ.

“Bảo, mày lấy xe máy đuổi theo đi”, chú tôi giục.

Một bà bán vòng hoa đứng trên vỉa hè cất giọng lanh lảnh: “Cái con ấy chuyên ăn cắp ở đám ma mà. Ở đây bọn tôi lạ gì”.

Mấy người nhà tôi nhìn nhau.

“Về đi cô ạ”. Bố tôi vỗ vai bà cô.

Tôi vẫy taxi. Mọi người thất thểu bước lên. Cách đó vài trăm mét, đoàn xe đi xuống đài hóa thân đã chuyển bánh. Dòng xe máy bị tắc lúc nãy giờ rùng rùng chuyển động phía sau.  

Mỹ nhân làng Nhan

 

Truyện ngắn.

 

Võ Thị Xuân Hà

Làng Nhan nằm ở lưng chừng hõm núi Sót, giữa những mảng đá lô nhô chạy cuối dãy Trường Sơn.

Làng chỉ có vài chục hộ, sống chủ yếu bằng việc cấy những mảnh ruộng sát chân mấy quả núi nhỏ tạo thành thế đứng của núi Sót. Lúc rảnh rỗi thì họ rủ nhau đi rừng lấy măng, mật ong, và những sản vật đầy rẫy, cứ lấy đi lại mọc lên sinh ra.

Giữa làng Nhan có một giếng hồ cổ. Gọi là giếng hồ vì vừa là giếng nông, vừa là hồ nhỏ. Trẻ con trong làng không dám nhảy xuống tắm trộm dù nước chỉ ngang cổ đứa trẻ lên mười. Cá trong giếng hồ chỉ khi mặt trời chưa lên, người ra lấy nước sớm nhất mới nhìn thấy. Cả đàn cá lấp lánh sáng lượn lập lờ trên mặt nước giếng hồ, ngửa cổ đớp sương. Khi nhác thấy bóng người, lũ cá quẫy đuôi rồi lặn mất suốt cả ngày đến đêm, không ai còn nhìn thấy chúng nữa. Người tinh mắt nhất cũng không nhìn thấy lũ cá nằm ở đâu trong đáy hồ, mặc dù nước trong suốt có thể nhìn thấy đáy với những cọng rong rêu đung đưa. Hình như có một khe nhỏ nào đó mà mắt thường không thể nhìn thấy.

Vào mỗi sáng sớm, khi mặt trời chưa lên, người trong làng tự giác mỗi nhà chỉ dám vục một gánh nước nguồn sớm gánh về chứa trong chum vại. Nước này chỉ dùng để ăn. Các cô gái làng cũng thường dùng để tráng người sau khi tắm xong. Chỉ thế thôi thì da dẻ trắng trẻo. Nếu ngâm người vào trong nước này lâu, sự việc sẽ ngược lại.

Đã có những trường hợp xảy ra thật kỳ lạ.

Ấy là trường hợp bà Thảo Lăm.

Bà tên Thảo, chồng tên Lâm. Nhưng cả làng cả huyện gọi là bà Thảo Lăm. Không hiểu người ta cố ý nói trại cái tên Lâm thành Lăm, là do bà Thảo hồi mới đẻ thằng con đầu bỗng nhiên nói nhịu, phải đi quét chùa một thời gian, hay do ông Lâm hồi mới ở chiến trường ra bị sức ép bom nên nói mãi mới tròn câu. Ông Lâm may chỉ là thương binh hạng nhẹ, cũng được suất thương binh, nhưng không ảnh hưởng lục phủ ngũ tạng, không ảnh hưởng chuyện sinh con cái. Ông Lâm ở chiến trường ra, nom đẹp trai rắn rỏi hơn hẳn thời còn là cậu học trò nhút nhát ở nhà, nên tuy giọng nói hơi bị méo vẫn khối cô gái làng mê. Người ông dong dỏng, dẻo dai như rái cá.

Thời trẻ bà Thảo mê ông Trạo, nhà ở sát chân núi Sót. Khi ông đi bộ đội, ngày tiễn ông, bà chạy theo xe đưa tặng ông cuốn sổ có vẽ đôi chim bay bằng bút mực đỏ. Nhưng suốt mấy năm chiến tranh, bà không nhận được lá thư nào của ông gửi về. Ấm ức mãi thì rồi cũng quên. Sau này, bà gật đầu nhận lời lấy ông Lâm, cùng học cấp ba, lại cùng đơn vị chiến đấu với ông Trạo, nhưng được về làng trước nhất, ngay sau khi hết chiến tranh.

Đêm động phòng, ông Lâm không nhịn được, buột miệng: thế này mà ngày ở trong đó, thằng Trạo cứ nhất quyết không chịu biên cho cô một chữ. Đang đêm tân hôn, bà chột dạ hỏi nhỏ nhẹ: thế anh biết gì về thằng cha bạc bẽo ấy? Chàng thương binh Lâm thật thà: ai khiến cô vẽ đôi chim màu đỏ. Nó bảo cô trù ẻo nó chứ mê gì nó. Nó chê cô da ngăm đen, nom không sánh được con bé Huyền xóm dưới. Con bé Huyền thì tặng cho thằng Trạo cái khăn mù xoa. Bà Thảo Lăm tức khí bật dậy khỏi giường tân hôn, kiếm cái ảnh của Trạo đốt chết tươi dưới ngọn đèn dầu.

Ông Lâm khi ấy mới ở chiến trường về, quý vợ mới cưới hơn củ tam thất núi, bên ngoài tỏ ra không ghen mà lại còn phụ họa với vợ (nhưng thực chất bên trong ai bảo ông không ghen sôi sục?): ngu gì ngu hơn con dúi trên núi, vợ ta như củ tam thất chín năm ra mầm, mười ba năm ngậm nước núi thế này mà nó dám bỏ mặc, dám chê đen. Đen thế này chứ đen nữa con Huyền làm sao sánh nổi. Ông Lâm nâng bổng bà Thảo lên, người bà Thảo cũng mảnh mai, dáng nét nhân ngư, nên cung cách của ông Lâm tự nhiên cứ như lũ trai phố.

Chuyện này cũng có căn nguyên của nó. Vào dịp giải phóng miền Nam, khi tràn vào Sài Gòn, cánh lính đơn vị ông bắt dược những tấm ảnh “đen”, trước khi nộp cấp trên, cả đống anh chàng trai tân lộc ngộc quê Bắc Kỳ mới trên núi xuống trố mắt ngắm nghía đến đỏ mặt hình ảnh những cuộc mây mưa kỳ quái của đám gái Việt với tụi lính Mỹ.

Bây giờ ông Lâm chỉ mới bắt chước chút đỉnh, đã khiến bà Thảo đỏ hết cả người, cứ nhắm chặt mắt lại không dám mở ra nhìn chồng mới cưới. Kỳ thực đấy là lần đầu tiên bà thấy ông Lâm thật sự đẹp trai như lời khen của mọi người. Mọi khi bà mải nhớ người cũ, không thiết nhìn chàng trai nào. Không ngờ chồng bà là người đàn ông rất ra dáng. Bà không bao giờ quên được cái đêm tân hôn đó, như lần đầu tiên được đi máy bay cùng chồng vào thăm Sài Gòn (cái gì lần đầu mà chả nhớ dai?). Sau này đầy lần ông Lâm cho vợ niềm vui thích, nhưng bà thì cứ nhớ mãi đêm tân hôn ấy.

Nhưng bà cũng không quên mối thâm thù kia. À, ra lão chết tiệt chê mình đen, không bằng con mụ Huyền cong cớn xóm dưới. Thảo nào mà lúc ở trại thương binh về làng là lóc cóc đi hỏi con mụ ấy làm vợ. Bà quên mất mình đã là vợ ông Lâm ba năm rồi thì ông Trạo mới dám cả gan vác mặt về làng, chân đi thiếu một ống. Thời gian quên ấy là bà đang sung sướng với người chồng bộ đội vinh quy về làng, lành lặn, và đẹp trai phong độ, đi đâu cũng được nở mày nở mặt.

Bà bèn làm chuyện tày đình là phá bỏ lời dặn truyền đời của các cụ: Chỉ được phép tráng nước giếng hồ khi tắm táp xong xuôi, không được ngâm người trong nước ấy. Các cụ cứ cấm thế nhưng biết đâu chả có những cụ đã phá lệ mà ngâm trộm mình trong nước giếng hồ. Vì cứ như bà suy ra, tắm xong tráng nước giếng hồ lần một người thơm thảo, tráng nước giếng hồ lần hai, trắng tinh trắng nõn... Huống chi ngâm mình trong nước ấy. Có khi do bà tổ Dong ghét thói đời đen bạc, nên mới cấm tiệt không cho con gái trong vùng được phép xinh đẹp quá. Nhưng con gái làng Nhan vẫn nổi tiếng cả vùng vì đẹp. Đã nhiều đời trôi qua, lính lệ vẫn thường về làng bắt đi bao nhiêu cô gái đẹp mang về triều thi thố chọn cung nữ. Những mỹ nữ cứ bước từ làng Nhan ra, dáng đi tha thướt, cái dáng đi truyền hết đời này sang đời khác khiến bao nhiêu quan lại và vua chúa phải mê đắm.

Bà Thảo suy đi tính lại nát óc. Thôi thì cứ thử phá lệ một lần xem nó ra làm sao. Biết có phải lệ làng thật không hay chỉ là huyền thoại?

Huyền thoại ấy như sau:

Thời Đức Thái Tổ chưa lập chiếu dời đô, vua vô cùng yêu một nàng phi. Nàng tên Dong, được một người làng Nhan nuôi từ nhỏ. Nàng từ đâu tới, cha nuôi cũng không biết. Chính ông nhặt được nàng từ khi mới được mấy ngày tuổi, nằm ngọ ngoạy trong đống lá dong khô bên cạnh giếng hồ. Hôm ấy ông ra giếng hồ sớm nhất làng. Ông người xấu xí, lưng cong như con khỉ già nên gái làng chê. Hồi trẻ, ông bỏ làng đi đâu đó rất lâu rồi trở về, râu tóc tua tủa, mắt nhìn ngơ ngác. Ông chỉnh trang lại căn nhà nát rồi lặng lẽ sống, không động chạm đến ai. Chỉ có một câu chuyện truyền miệng, người kể không mỏi miệng, người nghe cứ há hốc mồm, đó là thi thoảng vào buổi chiều tà, có những người nhìn thấy một con khỉ ôm một xác con thỏ hay xác con nai con còn tươi đến hiên nhà ông gù thả xuống rồi chạy mất dạng. Người kỹ càng hơn thì bảo đó là một con khỉ cái đuôi đỏ, gương mặt nom như một thiếu phụ, đôi mắt long lanh nước. Con khỉ cái thả thức ăn của rừng xuống hiên nhà ông gù rồi, vẫn còn lưu luyến tần ngần mãi mới bỏ đi. Nghe người già kể lại, ngày nhặt được nàng Dong, người nàng đầy lông lá. Nhưng đôi mắt thì mở to nhìn mọi người như là đứa trẻ đã hiểu mọi sự.

Nàng Dong càng lớn càng đẹp u uẩn, khiến trai trong vùng bỏ hết việc tìm đến, họ tụ tập tranh giành trước cửa nhà. Một người đi qua, chỉ mặt nàng Dong, bảo: tai họa. Cha nuôi nàng lạy lục mãi, thầy mới phán cho câu tiếp: cải họa thành phúc, một đóa dâng lên ngôi cao. Cha nuôi hiểu ra quyết dâng tặng Đức Thái Tổ đứa con gái nuôi.

Nàng Dong vào cung, hàng ngày đi tha thẩn trong vườn uyển, chỉ mỉm cười mà không mấy khi mở miệng nói. Đức Thái Tổ yêu mê mẩn khiến hoàng hậu và nhiều phi tần ghen ghét nàng. Họ cho người tìm đến nhà cha nuôi, tìm hiểu cặn kẽ về nàng. Tin tức cho hoàng hậu và các phi tần được biết rõ, vùng đó có một giếng hồ, con gái vùng này ai ai cũng có nước da mịn màng trắng ngần nhờ ăn nước giếng hồ và tráng thứ nước ấy sau khi tắm xong. Hàng ngày nàng Dong vẫn thường ăn và tắm nước ấy mà lớn lên. Hoàng hậu liền cho người đến múc nước giếng hồ đem về cung để uống và tắm táp. Các phi tần được lòng hoàng hậu cũng được bà ban phát cho thứ nước thiêng này. Dần dà cả những người vợ của đám lính cũng bí mật lấy cắp nước giếng hồ. Nguồn nước vì thế mà sắp cạn, không đủ cho dân làng dùng. Cả làng chỉ trông chờ vào nguồn nước ăn duy nhất này.

Đàn cá cũng đã lâu không ai còn nhìn thấy nữa. Điều này khiến dân làng lo lắng. Lũ trẻ theo lời người già chỉ bảo, thì thào rủ nhau rình suốt đêm không dám trái lời đứng lên để chạy về nhà ngủ. Khi người ra lấy nước giếng hồ đầu tiên thấy lũ trẻ ngủ quên bên thành giếng, đập cho vài phát mới tỉnh. Tỉnh dậy kể rằng đêm qua chúng mở to mắt ra hết cỡ, thở cũng không dám thở, vẫn không thấy chút động tĩnh gì. Chúng nằm úp sấp, đầu gối lên thành giếng mà căng mắt ra để nhìn xuống mặt nước, căng mắt quá nên nước mắt tiết ra, rồi nước mắt ấy rơi xuống giếng hồ, tan ra cùng nước.

Sương mù phả xuống làng Nhan những hạt li ti mang vị muối. Sương ấy cũng nhỏ xuống lòng hồ, tan loãng.

Đàn cá vẫn biệt tăm.

Như kẻ tha hương, nàng Dong ngồi trong vườn uyển, gảy khúc ca của dân làng Nhan:

Gió xuân ơi hãy thổi xanh đồng cỏ.

Ánh nắng ơi hãy chảy chan hòa trên những ngọn núi…

Mùa khô năm ấy kéo dài. Đám lính quây kín giếng hồ không cho dân làng ra lấy nước. Người cha nuôi bèn khăn gói đi lên kinh thành tìm nàng Dong. Nhưng ông đi chưa được nửa đoạn đường thì bị hoàng hậu cho người giết chết.

Nàng Dong về làng chịu tang cha. Trên đường về, nàng thoát chết mấy lần nhờ có đám cận thần vốn xưa kia cũng có những người từng si mê nàng. Cũng vì si mê mà họ đã theo chân nàng sung lính thị vệ, rồi cũng nhiều người dần có được những chức sắc quan trọng.

Về làng, nàng mới hiểu hết mọi chuyện. Khi ấy đám lính do hoàng hậu sai quây kín giếng hồ cũng được lệnh tạm rời khỏi nơi ấy, tránh bị nàng Dong tâu lên vua sự việc này.

Mộ cha nuôi đắp chủ yếu bằng đá tảng. Nàng đặt mộ cha quay hướng về rừng. Đêm đắp xong phần mộ cha, nàng nghe có tiếng rên rỉ phía rừng. Rừng bạt ngàn bí ẩn. Tiếng nỉ non như gió như bụi, vương thoang thoảng, tan loãng vào sương khói. Nàng đứng lên, đi về phía có tiếng khóc. Nhưng rừng vẫn lặng lẽ và rì rào, không có muông thú rình rập quanh mộ, không có ngay cả những chiếc lá vàng rơi rụng. Vì đã qua mùa rụng lá. Lá rừng đang lên xanh dưới tấm thảm mưa nhẹ nhàng phủ xuống vạn vật.

Sau khi mộ cha nuôi đã đắp xong, nàng Dong đến bên giếng hồ nguyền một câu: nước giếng hồ này chỉ dành cho những ai biết đủ dùng.

Đêm đêm nàng ngồi bên giếng hồ nhìn chong chong xuống đáy hồ như gọi như chờ đợi ai. Rồi như có tiếng réo sôi, như những khúc nhạc thiên hồ rớt xuống đáy những vì sao, cả đàn cá ngoi lên tung tăng vẫy gọi nàng Dong.

Lúc đó, một thầy địa lý tâu lên nhà vua: giếng hồ làng Nhan là cái rốn rồng. Nếu cái rốn rồng này mà suy thì vận nước sẽ suy. Vua bèn ra lệnh cho một nhóm lính thị vệ tức tốc về làng Nhan để tăng cường bảo vệ nàng Dong, rồi cắt cử trông nom giếng hồ.

Nàng Dong tự mình ngâm trong bồn gỗ ngọc am chứa đầy nước giếng hồ ba ngày ba đêm. Khi nàng bước ra khỏi bể ngâm, người làng không còn nhận ra nàng Dong mảnh mai dịu dàng, đẹp u uẩn trước đây nữa. Nàng trở nên lạnh lùng và sắc nhọn. Đám lính thị vệ rong ruổi đưa nàng về cung, không hiểu đi đường ra sao mà mãi ba tháng sau, nàng mới về tới. Gương mặt đẹp u uẩn giờ trở nên lạnh băng. Vua càng say mê nhưng chỉ ngồi trên cao mà ngắm vẻ lạnh băng đó, không dám vui vầy cùng thân xác nàng nữa.

Khi Đức Thái Tổ dời đô, nàng Dong xin được trở lại làng. Vua phần thấy nàng Dong nay đã dường như kẻ lạ, dường như người của cõi mộng; phần nể tình nàng bấy lâu, bèn đồng ý. Hơn nữa thực sự là cái rốn rồng không thể thiếu nhan sắc trụ trì trông nom. Tuy nhiên cũng vì sự xếp đặt của tự nhiên để nơi đó là rốn rồng nên cũng không được phép thay đổi xây cất nhiều, sẽ động chạm đến phong thủy.

Nàng Dong về làng lập lại lệ nông, cắt đặt mọi việc như cấy lúa, chăn nuôi gia súc, dạy dệt thổ cẩm cho những nhóm tộc khác biệt gồm toàn người tứ xứ tụ về. Nàng cắt đặt mọi việc, gương mặt lạnh lùng bí ẩn mà bước đi vẫn nhẹ như tơ như giọt sương mai.

Chiều chiều, nàng ngồi bên giếng hồ, nâng cây đàn một dây ca bài ca tứ xứ:

Không thơm như hoa, không cao như cây.

Tôi chỉ là nhánh cỏ. Cỏ mướt xanh. Gió xuân làm cho tôi mướt xanh.

Ánh dương chiếu rọi vào tôi…

Khi ấy trong rừng thốt nhiên có những tiếng lao xao. Một vài cái đuôi khỉ đập đập như đang múa cùng lá rừng. Rồi hàng đàn khỉ múa lượn theo khúc nhạc. Một con khỉ cái ngồi im dỏng tai nghe khúc ca, mắt âng ẩng nước.

Sau này người làng bảo: Nàng Dong chính là con gái của một con khỉ cái đuôi đỏ. Lại cũng có người nhất quyết rằng Mẫu Dong là con gái của một nàng tiên cá.

Không biết nàng là nhân ngư hay hậu duệ của Tề Thiên Đại Thánh, khi Mẫu Dong mất, hàng đàn khỉ chạy về ngồi trước mộ, khóc nỉ non hàng tuần. Sau đó chúng kéo nhau đi đâu mất tích. Rừng vắng như rừng hoang. Còn đàn cá cũng bỗng nhiên biến mất.

Giếng hồ ngày nay cũng chỉ còn lại mấy con cá đuôi cờ lượn qua lượn lại lười biếng. Dù nước giếng vẫn như ngàn năm trước, trong veo, vẫn làm thứ nước thơm cho làn da của những mỹ nhân làng Nhan.

*

Trở lại câu chuyện về bà Thảo Lăm. Bà lấy nước giếng hồ đổ vào thùng tắm đóng bằng gỗ ngọc am. Khi đổ nước vào thùng, gỗ thùng cứ thế mà đỏ dần lên như một khối son. Bà Thảo Lăm cởi hết áo quần bước vào. Người bà nóng giãy đam mê trả thù nỗi đau thời con gái. Bà quên hết lời nguyền xưa kia, quyết ngâm cho cái đen như củ tam thất trên da dẻ của mình tan biến.

Khi bà bước ra khỏi thùng nước, cả thân hình như một khối đỏ. Những khối đỏ xoay tròn quanh da thịt bà Thảo Lăm như những bông hoa điên điển tới mùa rụng cánh.

Sau vụ việc trên, bà Thảo Lăm ngồi thiền trước ngôi đền Mẫu Dong ba tháng trời. Bà ngồi quên ăn quên ngủ, khiến ông Lâm suýt chút nữa bị bà Huyền bỏ bùa mê thuốc lú. Sau ba tháng ngồi thiền và cầu xin thành tâm, bà Thảo Lăm được Mẫu chứng, cho quẻ săm khá đẹp nước.

Bà Thảo Lăm trở thành người thắp đèn, châm hương, dọn lễ và quét đền thờ Mẫu Dong từ bận ấy.

Bà Huyền nước da trắng như trứng bóc.

Thời còn đi học, Huyền được cánh trai làng chấm điểm 8, thắng cô bé Thảo một điểm vì có nước da trắng hơn Thảo, nom cũng đa tình hơn. Huyền học không giỏi lắm, thường hay phải chạy sang nhà Trạo nhờ giảng toán. Nhưng Trạo chỉ coi Huyền như em gái.

Nhà gần nhà Huyền, nhưng khi đi học Trạo thường thích đi con đường ngang qua nhà cô bé Thảo, học lớp dưới. Khi đi ngang qua, Trạo nhìn vào thấy Thảo đang thắt khăn quàng đỏ thì huýt sáo gọi.

Khi ấy Lâm thường hay láng cháng quanh hai người. Nhưng Lâm hiền khô, cứ đứng xa xa mà nhìn Thảo. Vào lớp rồi, Lâm vẫn nhấp nhổm đợi xem Trạo có ra đầu hồi lớp huýt sáo gọi Thảo hay không, dù chưa bao giờ Trạo gọi gì Thảo trong trường. Lâm giấu nỗi buồn của mình trong lòng, cứ thế mà ra chiến trường.

Thảo đã quen với tiếng huýt sáo hàng ngày của Trạo, nên mới vẽ đôi chim bay ngang trời màu đỏ tặng chàng trai Trạo khi anh lên xe ra chiến trường

Nhưng Thảo không biết, khi ấy Trạo đã làm hỏng chuyện của hai người rồi.

Mỗi khi đi học Thảo không biết có người luôn đi phía sau hai người, vô cùng ấm ức và khổ não. Huyền cứ đi vòng vo phía dưới một đoạn, có khi đi cùng bạn nhưng tai không nghe bạn nói gì, mắt chỉ nhìn thấy hình ảnh hai người phía trước. Trạo đi sau Thảo một đoạn, đủ để không bị bạn bè chế. Huyền được trai làng chấm điểm cao, nhưng trong lòng chỉ có Trạo. Cô học kém dần, chỉ nghĩ mưu để chia rẽ Trạo và Thảo. Huyền tích cực sang nhà Trạo nhờ giảng bài hơn. Cậu học trò to nghệch, tỏ rõ chí khí người anh, lại không tinh chuyện người lớn bằng cô bé ít tuổi hơn mình.

Đêm hôm đó, nghe chỉ bài xong, Huyền nhờ Trạo đưa về. Đấy là một đêm mưa gió. Gió từ trên núi Sót tràn xuống như đổ ụp cái lạnh vào thung sâu. Huyền bước thấp bước cao với cây đèn sắp hết dầu.

Gần đến giếng hồ thì Trạo bảo:

-   Để anh chạy ù về châm cái đèn ở nhà.

Huyền níu tay Trạo:

-   Không cần đâu, để em vặn cái bấc lên.

Huyền đặt cây đèn xuống đường, vờ vặn bấc lên, nhưng mồm thổi nhẹ một cái khiến đèn tắt ngấm. Đường làng vắng tênh. Giếng hồ reo long tong như khúc nhạc từ miền u uẩn vọng về. Núi rừng đồng lòng thổi gió xuống thung u u.

Huyền hốt hoảng ôm chầm lấy Trạo, miệng ú ớ:

-   Ôi, anh Trạo ơi…

Trạo không ngờ đến tình huống này. Huyền không mặc nịt áo con, cái áo mỏng bị gió làm tuột hết khuy tung ra để lộ bộ ngực thanh tân dưới ánh đêm nhờ nhờ. Hình như khi ấy trăng sắp hé. Trăng cuối tháng nằm vắt ngang núi, bị mây che lấp. Huyền ép chặt bộ ngực trần vào ngực Trạo.

Rồi bằng động tác bất ngờ, Huyền kéo bàn tay Trạo đặt lên cái vú chũm cau đang căng cứng trong cơn gió lạnh tràn về từ núi cao…

Những ngày sau đó, Huyền không muốn tắm. Cô muốn giữ nguyên hơi ấm bàn tay Trạo trên ngực mình.

Sau một tháng trời không tắm, không động một chút nào nước giếng hồ, bên vú có bàn tay Trạo nắn vào bị sạm đen. Cái vết nám cứ ngày một rõ khiến Huyền rất lo lắng, nhưng không dám cho ai biết. Điều này mãi sau khi trở về làng với một bên chân, ông Trạo mới biết. Ông không còn nỗi đau tự mình dằn vặt mình vì Thảo nữa. Vả lại, ông đã chối bỏ Thảo ngay khi còn ở chiến trường, cả khi cái chết kề bên. Ông chối bỏ vì ông không còn lối thoát nào hơn là đành nhường cô cho người bạn, vì ông biết ông Lâm vẫn thường đi sau hai người một cách lặng lẽ…

Sau này, đôi khi bà Huyền cũng cởi khuy áo giả vờ bị gió làm tuột như xưa kia, với những người đàn ông khác, trong đó có lần với ông Lâm. Thực ra từ khi một bên vú bị sạm đen, bà Huyền càng ham muốn được bàn tay ông Trạo ve vuốt. Nhưng ngày ông Trạo ra đi đã không thèm chia tay như cách bà muốn. Đêm đêm Huyền đi lang thang trên con đường ngày nào đã ôm cứng Trạo, cảm nhận lại cảm giác ngày ấy. Rồi bà gặp một, hai, ba… người đàn ông còn sót lại trong làng hoặc đi qua làng, những người đàn ông vì nguyên cớ nào đó không phải ra mặt trận. Họ đưa tay nắn vết sạm trên bầu vú con gái quá thì. Bà Huyền thả mình cho những cơn mê tưởng. Bà như tìm lại được cảm giác với ông Trạo.

Khi đã lấy nhau, bà Huyền đã sinh ra Mãnh, nhưng dường như bị ngấm thuốc si mê, đêm đêm bà Huyền vẫn thường trốn ông Trạo, vật vờ trên con đường làng đi qua giếng hồ. Bà đã ngấm cảm giác được trốn chạy khỏi cuộc sống tẻ nhạt thường ngày, bằng việc mở khuy áo ngực cho những bàn tay đàn ông vục vào. Tuy vậy bà quyết không đẻ con lạc loài. Vì bà không thể tìm được cảm giác nào đắm đuối hơn bàn tay ông Trạo khi run rẩy chạm vào ngực bà năm xưa…

*

Con gái thứ hai của ông bà Thảo Lăm tên là Nhan Bình. Cô học giỏi nhất trường làng, rồi học lên nữa. Nhan Bình có cặp mắt hồ đào, nước da mịn màng trắng kỳ ảo, người mềm mại uyển chuyển, mảnh như sợi tơ. Hồi nhỏ mấy lần tưởng con bé Nhan Bình không qua khỏi sài đẹn, có bận sốt co giật suýt chết. Ông bà Thảo Lăm phải nhờ nhà lang Mường cứu. Thầy cúng súc miệng bằng nước giếng hồ, rồi phì ra khắp người con bé sài đẹn, mặc kệ cho nó khóc ngằn ngặt. Nhưng thật kỳ lạ, qua ba ngày, con bé Nhan Bình tỉnh lại, cười toét miệng, lại ăn bột thun thút. Bà Thảo Lăm quấy bột bằng nước giếng hồ, lại lấy nước ấy xông hơ cho con bé mỗi tuần một lần, cho tới khi Nhan Bình lớn cao bằng cây mai già trước cửa nhà. Nhan Bình sau trận ốm đó, cứ thế mà lớn không đau ốm gì nữa, nhưng người mảnh tơ, đôi khi đi qua ai đó mà như làn gió lướt qua.

Người già trong làng bảo Nhan Bình có dáng nét của bà Mẫu Dong xưa.

Nhan Bình không hay biết chuyện xưa của người lớn, ngay từ nhỏ đã thích đi theo thằng Mãnh, con trai duy nhất của ông Trạo và bà Huyền, leo lên núi cao để tìm phong lan.

Mãnh hơn Nhan Bình một tuổi nên ra dáng đàn anh. Nhưng Mãnh không đi học, không thể học được chữ nào. Mãnh nói ít, lầm lì như kẻ tự kỷ. Mãnh khi mới sinh ra cái đầu đã bị dẹt, đôi mắt ngơ ngác, thân thể dài ngoẵng. Mặc dù vậy, trí não của cậu chứa đầy sức mạnh của một chàng trai xứ núi.

Bác sĩ bảo trong máu của ông Trạo vẫn còn ngấm chất độc ngày ông ở trong chiến trường. Vì thế nên hai ông bà chỉ dám sinh con một lần.

Nhan Bình sinh ra lớn lên ở làng Nhan, nhưng chí khí của cô không chỉ dừng lại bên chân núi Sót. Cô được trời phú cho nhan sắc, lại được cả trí tuệ. Đám trai làng không anh chàng nào học vượt được Nhan Bình. Thậm chí trai huyện cũng thua Nhan Bình cả bậc dài. Cô không chơi quá thân với ai. Gặp ai cũng lễ độ và hồ hởi. Sẵn sàng giúp bạn bè những gì có thể. Nhưng không ai đọc được ý nghĩ của Nhan Bình.

Vậy mà Mãnh lại có thể đi cùng cô, lúc lên rừng, lúc leo núi. Buổi sớm, Mãnh thường gánh hộ Nhan Bình gánh nước giếng hồ về đổ vào bể. Biết Mãnh bị thiểu năng, bà Thảo Lăm không cấm cậu ta lui tới với con gái mình. Ngay cả anh trai Nhan Bình, một chàng trai khôi ngô nhất xứ núi bấy giờ cũng rất thích cặp kè với Mãnh, dù hơn Mãnh tới ba tuổi.

Nhan Bình mê phong lan liễu. Loài phong lan này thường mọc trên những mỏm đá tai mèo. Cánh lá nhỏ như ngón tay con gái. Hoa màu hồng nhạt, điểm xuyết cánh ren tím. Mãnh thường leo núi tìm bằng được loài phong lan này mang về cho Nhan Bình.

Nhưng rồi hai anh em Nhan Bình vẫn ra đi. Họ đi lên thành phố, nơi mịt mù không có gió núi thổi tới những hạt sương tinh khiết mỗi khi trăng lên. Nơi nhộn nhịp đời sống công nghệ hiện đại. Nơi họ dần quen với những bụi xăng và nhà cao tầng, những mái đầu xù, kem dưỡng da, những bar đêm, sàn nhảy, những lớp học ban đêm học cũng nhiều mà tụ tập chơi bời cũng lắm... và còn nhiều thứ khác mà kẻ ở núi không thể không tò mò.

Nhanh chóng, Nhan Bình được thế giới của đô thị đón nhận vào lòng, như thể cô chính là thành viên nhào nặn ra nó. Cô mang dáng nét uyển chuyển của bà tổ Dong, nét lạnh lùng và vững chãi như dãy núi Sót. Cô khiến cho nhiều chàng trai không thể không đi theo cô, khi họ nhìn thấy vẻ đẹp như một nàng hồ ly còn sót lại trên thế gian.

Mãnh trở nên lì lợm hơn. Thường xuyên lên núi một mình tìm hoa phong lan. Anh mang về treo trên những cành cây trong vườn. Những giò phong lan cũng kéo ong về đầy vườn mỗi khi có mùa hoa rộ.

*

Cuối năm, những vạt rừng đổ lá vàng. Đây đó lác đác những cánh lá đỏ, như bài hát của một nhạc sĩ đã tả cái màu đỏ hiếm hoi của lá rừng thời chiến tranh.

Mùa đông bắt đầu chuẩn bị trút hết những cơn gió lạnh trả về núi. Trên những sườn núi cao thấp thoáng những nụ hoa đào hoa mận khiến người lên núi trong lòng bâng khuâng. Có vẻ năm nay hoa sẽ rất đẹp. Rất nhiều nụ chi chít trên những cành cây. Đứng từ dưới thung nhìn lên, lòng thấy phấn chấn.

Mãnh đi sang nhà Liêu dặn:

“Tôi đi lên núi đây. Tôi sẽ mang về những cành hoa thật đẹp để cho mấy nhà chúng ta, nếu có hơn sẽ đưa ra thị trấn bán. Tôi nhờ Liêu trông mẹ giúp vài ngày”.

Bà Huyền nằm ho trên giường. Cả tháng nay ông Trạo đã được đón đi chữa trị những căn bệnh lạ do chất độc ngấm trong cơ thể. Mãnh đi ra đi vào tần ngần. Nhưng bà Huyền xua tay bảo Mãnh cứ lên núi kiếm cho bà cành đào thật đẹp. Tết sắp đến. Bà muốn đón ông Trạo về với cành đào rực rỡ trong nhà.

Liêu chạy theo dúi cho Mãnh gói xôi cô đồ trên chõ lũa, chuẩn bị sáng nay lên nương:

“Anh yên tâm. Liêu sẽ nấu cháo cho mẹ, xong rồi mới đi nương”

Liêu là chị em hàng xóm với Nhan Bình. Liêu âm thầm lớn lên trong làng Nhan. Hàng ngày cô lên nương trồng sắn, âm thầm thương Mãnh. Chỉ có đất làng Nhan biết cô vẫn chờ Mãnh, chờ anh qua cơn bạo bệnh nhớ Nhan Bình.

Nước mắt Liêu thấm xuống đất làng Nhan.

Mãnh leo lên núi.

Những bậc đá hoang không chân người dẫm lên bao nhiêu thời gian giờ được bước chân chàng trai làng Nhan đạp lên. Cỏ như được hồi sinh. Dường như nếu không có người dẫm lên, cỏ sẽ tàn úa âm thầm. Bước chân Mãnh đi thật khéo léo mạnh mẽ, như con nai con hoẵng. Phía trên vạt núi cao, trên những mỏm đá tai mèo, có một vạt rừng xanh thấp thoáng trong mây. Những nụ đào đang tỏa sắc hồng dưới những tia nắng cuối đông lạnh lẽo.

Mãnh đeo nải chứa đồ ăn và bình nước. Trong nải còn có lá thư Nhan Bình gửi về, tối qua lão Khang người buôn dưới xuôi lên mang đến tận nhà. Lão Khang

 

người buôn dưới xuôi

 

đưa thư cho Mãnh, mắt nhìn ngang ngửa xem trên giàn bếp có xâu thịt trâu khô nào để tiện tay bốc cái về nhắm rượu lá lam chiều.

Mãnh tay run run cầm lá thư.

“Chào Mãnh, tôi phải đi lấy chồng rồi. Tôi dính hắn như cách Mãnh ngấm rượu lá lam chiều…”

Bỗng nhiên Mãnh nhớ đến hình ảnh cô bé Nhan Bình năm nào trong làng. Có thể giờ đây Nhan Bình không còn nhớ Mãnh của ngày xưa nữa. Cô đã là người thành phố, uống nước nơi xa lạ, nơi mà Mãnh chưa một lần biết đến.

Hồi Nhan Bình về làng chơi rồi lại đi, khi cô đi khuất rồi, Mãnh mở chum lôi ra chai rượu lá lam chiều. Ngửa cổ tu ực mấy ngụm rượu lá cho đỡ nóng trong ngực. Một lúc sau thấy trong người rạo rực. Mãnh nhìn thấy Liêu đi từ ngoài cổng vào, nom giống Nhan Bình. Mà đúng là Nhan Bình đang trở lại với Mãnh. Cô ngồi thụp xuống bên cạnh Mãnh, lấy tay đỡ Mãnh đứng lên. Rồi không hiểu bằng cách nào ngực Nhan Bình chạm vào ngực Mãnh tê dại. Mãnh ngả người ôm ngang lưng Nhan Bình, rồi đặt lên môi cô nụ hôn đầu đời…

Tỉnh dậy, Mãnh nhìn thấy Liêu.

Mãnh hỏi:

-  Liêu sang khi nào?

Liêu mặt đỏ ửng:

-  Khi anh mới uống say, nằm dưới đất.

-  Nhan Bình đâu? Tôi thấy Nhan Bình về mà.

Liêu lắc đầu:

-  Chị ấy có về đâu. Là em.

Mãnh tỉnh hẳn:

-  Khi nãy là anh nhìn thấy Nhan Bình. Liêu… đừng giận nhé.

Liêu gật. Mặt Liêu từ đỏ lựng chuyển sang tái nhợt. Đôi môi vừa mới đây như nụ hoa đào, giờ héo rũ như tàu khoai.

Cô chạy về nhà, dội nước giếng hồ lên tóc lên vai, rồi nước ngấm khắp thân thể con gái của Liêu. Cô òa khóc. Nước mát làm mịn màng những nơi thô ráp.

Làm người

VanVN.Net – Lời tác giả: Truyện ngắn Làm người của tôi có thể “giả tưởng” về chi tiết nhưng không giả tưởng về sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm, độc ác của con người - tính cho đến đầu thế kỷ 21 này. Trong bức tranh tối sáng về phận người, bên cạnh rất nhiều những lòng tốt “cho gió cuốn đi” cũng còn không ít những gì phũ phàng, bỏng rát do nhân gian gieo rắc mà nhân vật của tôi phải gánh chịu. Tôi cũng từng là nạn nhân của những gì phũ phàng, bỏng rát ấy. Cho nên quả quyết rằng đó không phải là giả tưởng. Đọc truyện “giống như là giả tưởng” để biết trân trọng, sẻ chia những ấm áp, hài lòng, diệu kỳ mà cuộc sống đã ban tặng chúng ta… Tôi viết Làm người trong xúc cảm khi biết các bác sĩ không cứu được cặp song sinh một mình hai đầu ở Sóc Trăng năm 2011. Tưởng tượng nếu hai bé sống được và sau này lớn lên…

Gã bước ra khỏi phòng thí nghiệm tan hoang như một bãi chiến trường. Những vệt thảm cháy loang lỗ dính lam nham vào hai lòng bàn chân gã bỏng rát. Nhưng hề gì, gã chỉ cảm thấy rát thôi, chứ không đau. ý thức trong gã mơ hồ, lộn xộn. Gã thấy nhà cửa, cây cối, xe cộ và những con người ám ảnh vây quanh gã. Nhưng không biết gọi thành tên. Môi gã mấp máy liên tục, thứ âm thanh phát ra rồ rồ trong cổ họng nhiều lúc làm gã muốn bóp nát chính mình. Gã là cái gì? Là cái gì mà dường như biết dường như không tất cả mọi thứ? Là cái gì? Là cái gì? Là cái gì? Gã đấm ngực thình thịch rồi gào lên a a a...

Tiếng gào của gã làm rối loạn cả một góc đường. Ban đầu, mọi người quay lại nhìn gã trân trối. Sự gớm ghiếc, sợ hãi từ dây thần kinh thị giác đưa về não chỉ bằng một phần ngàn giây. Người nhát gan dẫm đạp lên nhau tìm đường thoát càng xa nơi gã đứng càng tốt. Người tò mò nán lại chập chờn trước gã đưa máy ảnh lên bấm liên tục. Người quá khích ném đá vào gã. Gã lạ lùng trước những thực thể giống như mình. Con bé ba tuổi mặc chiếc đầm hồng xinh xắn như một thiên thần đứng tần ngần mút tay, giương mắt tròn xoe nhìn gã. Gã nhoẻn miệng cười, lần đầu tiên trong đời gã cười. Cười là gì nhỉ, cười là thấy nhẹ nhõm cả người, thấy có làn gió mát sục vào từng kẽ trong cơ thể nóng như đang sôi lên trong gã. Gã bước tới mấy bước, ngồi xổm trước con bé, đưa tay ra... Không không không, ai đó gào lên thảm thiết, con bé bị bế xốc đi. Bừng tỉnh. Mọi người bắt đầu một cuộc tập kích gã với gậy gộc và những bước chân rượt đuổi rầm rập. Đuổi thì gã chạy, mà cũng không biết tại sao chạy và chạy để làm gì. Chỉ biết rằng gã đang gieo rắc sự kinh hoàng cho mọi người.

Không kinh hoàng làm sao được khi gã chào đời với hình hài gớm ghiếc quái dị. Gã chào đời ở tuổi trung niên trong một cơ thể vá víu nhập nhằng. Chiếc đầu trọc của gã bị bổ đôi như người ta bổ một trái dừa rồi vá chằng vá đụp bằng những mũi khâu to đùng. Mắt mũi miệng gã méo xộc méo xệch với mươi vết chém ngang dọc vá lại vội vàng, nhìn như mặt người trong những bức chân dung siêu thực tả nỗi thống khổ cùng cực của con người. Nhưng tất cả cũng chưa đáng sợ bằng cái đầu trọc thứ hai mọc lên lúc lỉu bên vai phải của gã. Người em song sinh trứng chia không hoàn hảo của gã không có thân hình nên phải sống ký sinh vào tim gã, óc gã và mọi thứ của gã. Các nhà khoa học đã làm gì anh em gã? Họ làm gì mà thằng em dở sống dở chết trên người gã? Mà có phải là em không nhỉ? Có lẽ, ai sở hữu được thân mình toàn vẹn thì người đấy là anh. Giây phút bước ra khỏi cái phòng thí nghiệm nóng bức và hôi nồng nặc ấy, gã bỗng thấy khoẻ mạnh, cường tráng và khao khát khám phá thế giới chung quanh. Nhưng bây giờ mọi người đang rượt đuổi gã. Đuổi thì chạy thôi. Đầu thằng em rũ xuống trên vai gã, giựt giựt theo từng cú gã phóng nhanh và mạnh như một con gấu xổng chuồng bất kham. Chiều xuống. Mặt trời khoanh đỏ rực màu máu bên kia bờ núi đá, dòng người thôi không đuổi theo gã nữa. Gã bước vào cửa rừng, đầu thằng em lắc lư, lắc lư, lắc lư... theo từng nhịp đi mệt nhoài của gã. Vừa đi gã vừa nghĩ đến chuỗi âm thanh của đám người đuổi gã phát ra: “Quái vật hai đầu! Quái vật hai đầu!”. Gã nhíu mày, cong môi lặp lại: “Quái vật hai đầu, quái vật hai đầu”. Là cái gì ấy nhỉ, chịu, làm sao gã biết được.

*

Con suối róc rách nước trong veo hiện ra trước mắt gã. Đôi chân gã chẳng đặng đừng bước đến. Hụt chân, rơi tõm trong dòng mát lạnh, một cảm giác bềnh bồng lan toả. Theo bản năng, gã đập tay đập chân cho người nổi lên và trôi theo dòng nước. Bềnh bồng bềnh bồng. Lạ lẫm lạ lẫm. Gần đến cuối dòng, cành cây khô đang chơi vơi trong làn nước ngáng gã lại. Gã nương theo cành cây bò lên bờ, nghe bụng sôi réo ầm ào. Cảm giác đói lần đầu trong kiếp làm người của gã. Nhặt cành cây làm gậy, gã men theo đường mòn đến ngôi nhà hình nấm thấp lè tè nằm dưới gốc cổ thụ loà xoà râu. Có lẽ bớt mệt bởi được đắm mình trong dòng suối mát, đầu thằng em song sinh thôi không lặc lè nữa, nó nghển cổ nhìn quanh, mắt đờ đẫn vô hồn.

Bước chân khựng lại, gã nép vào một lùm cây. Người phụ nữ phốp pháp bê thau cám heo nghi ngút khói ra khỏi ngôi nhà hình nấm, ngay sau đó, bà chui vào túp lều be bé bên cạnh. Chờ người phụ nữ bước ra, gã xông vào túp lều. Bốn chú heo trắng múp míp đang hồng hộc tranh ăn trước máng cám. Bụng gã lại cào lên. Gã ngồi thụp xuống, thọc hai tay vào máng, vốc từng vốc cám to lên miệng, trệu trạo nhai và nuốt ngấu nghiến. Lần đầu trong đời được ăn, gã sung sướng thoả lòng. Như lũ heo, sau khi no bụng, gã chuồi mình nằm xuống góc chuồng và lim dim ngủ, cũng là giấc ngủ đầu tiên trong đời. Đầu thằng em song sinh không chịu ngủ, chốc chốc nó lại kêu grừ grừ trong cổ họng. Ban đầu gã nghĩ chắc tại nó đói nên đứng lên đi về phía máng cám, song lại chậc lưỡi, chà, nó có bụng như gã đâu mà phải ăn. Thế là quay về góc chuồng ngủ tiếp.

Thế giới loài người mở ra trong gã trước tiên từ chiếc máng sứt to đùng cũ kỹ lâu ngày úp ở góc chuồng. Mỗi khi người phụ nữ vào chuồng tắm heo hoặc cho heo ăn thì gã cuộn tròn mình trong chiếc máng cổ tích ấy. Tiếp theo là những song cửa bằng tre nối chuồng heo với ngôi nhà hình nấm ấm áp. Nấp từ song cửa nhìn qua, đêm đêm dưới ánh đuốc bập bùng, gã thấy cả nhà người phụ nữ quây quần ăn cơm, thấy hai đứa trẻ ôm nhau cười đùa khúc khích, thấy người cha dạy chúng học hành, thấy người ông đọc thơ cho cháu nghe, thấy cả việc cha mẹ bọn trẻ làm với nhau chuyện đàn ông đàn bà. Từ ngạc nhiên, gã chuyển sang hăm hở nhập cuộc một mình. Gã học nói, học cười, học khóc qua song cửa tre từ những thành viên trong gia đình người tiều phu tráng kiện, chơn chất. Sau đó là học chữ, học đọc thơ, học những điều hay lẽ phải từ người ông dạy cháu. Gã khá thông minh, chỉ đôi lần lặp đi lặp lại một điều gì đó là đã thuộc làu và hiểu hết mọi thứ. Gã sung sướng với chiếc máng sứt và bầy heo trắng múp míp. Gã ghiền món cám thơm thơm, chua chua mùi thức ăn ôi mốc. Duy chỉ có chuyện đàn ông đàn bà là gã làm không được. Đôi lần gã định quay sang hôn môi đầu thằng em song sinh, nhưng không tài nào được. Có thể được nếu hai đầu chịu quay lại nhìn nhau. Đàng này, thằng em không hiểu, không biết và không có ý định gì cả thì làm sao được. Không được phần đầu, nghĩ đến phần đuôi. Đêm đêm dưới ánh trăng bàng bạc trên đồi chè bát ngát sau nhà, gã trút bỏ bộ quần áo nặng mùi mặc từ phòng thí nghiệm, khoả thân tự sướng. Nhưng mãi rồi cũng chán, thằng em lặc lè một bên cổ khiến gã không tài nào thăng hoa. Gã nhắm mắt, tưởng tượng đến bung cả óc mà rốt cuộc chỉ nghe tiếng thở khào khào của chiếc đầu thừa, thế là tuột cảm xúc và không còn đủ sức để làm lại từ đầu. Gã chán. Từ đó mỗi lần nhìn qua song cửa mà thấy chuyện ấy thì gã nhắm mắt lại...

Lâu dần, gã thấy mình như một thành viên chính thức trong gia đình nhà hình nấm. Ban ngày, khi cả nhà đi vắng, chỉ còn người ông già lắm ngồi trong nhà với những cơn ho khọt khẹt, gã đi quanh vườn tìm búa chẻ củi; xong lại vỡ đất trồng khoai, tỉa bắp. Xong, định ra sông tắm thì bọn trẻ đi học về, thế là gã vội vội vàng vàng chui vào chiếc máng sứt. Đêm, gã vừa tắm trăng vừa ra sức dựng lại hàng rào tre bị cặp trâu tơ nổi cơn húc đổ ban chiều. Cũng có khi chỉ trong một đêm, gã đã san bằng ngọn đồi nhỏ bên hông nhà để đào ao thả cá theo dự định của vợ chồng người tiều phu.

Chuyện về một người giấu mặt được kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần trong bữa cơm tối gia đình nhà hình nấm. Người chồng nghi ngại, đòi báo công an. Người vợ bảo báo làm gì khi người ta toàn làm việc tốt và có lợi cho gia đình mình, ngần ấy việc, về xuôi thuê mười người đưa lên chưa chắc bằng sức làm việc của anh ta. Sao lại anh ta. Thằng con nhỏ thắc mắc. Thằng lớn trả lời, chỉ có đàn ông Hecquyn mới đủ sức làm việc nhanh và nhiều như thế. Người ông ngồi im không nói gì. Sau những cuộc tranh luận hay chuyện trò của cả nhà, ông thường giục mọi người đi ngủ sớm để ngày mai còn làm việc, học hành.

Có một sáng mặt trời lên như thường lệ, bọn trẻ đến trường, vợ chồng người tiều phu dong cặp trâu tơ vào rừng lấy củi, người ông nằm nhà ho khọt khẹt; người giấu mặt hai đầu bước vào gian bếp sau nhà sửa lại chiếc cối xay bằng đá, công việc mà khi tối ông chồng nói với bà vợ là phải làm xong trong vòng hai ngày để có cái xay bột làm bánh cho bọn trẻ.

- Anh đấy phải không, đến đây, đến đây uống với tôi ly trà!

Người ông lên tiếng. Gã lực điền hai đầu với sức mạnh vô song chợt run bắn người đứng bật dậy...

- Không không, xin anh đừng hốt hoảng, từ lâu tôi đã biết sự có mặt của anh trong nhà này...

- Ông ông ông...

Môi gã mấp máy phát ra tiếng người, được mấy tiếng lại im bặt, không biết nói gì.

Tĩnh tại đưa cây gậy dò đường, người ông bước đến ngồi trên băng ghế dài cạnh bếp lò:

- Anh đừng nói gì cả, đến đây, cho tôi nắm bàn tay anh một chút...

Gã đến gần, tần ngần đưa tay ra. Bàn tay ông già truyền hơi ấm dạt dào cho gã. Lần đầu tiên gã được chạm vào con người.

- Anh là một người đàn ông cao to, mạnh khoẻ và tốt bụng như con voi trên rừng, đang có gì ẩn ức mà phải sống chui nhủi trong chuồng heo nhà tôi cả mấy tháng nay?

Vẫn để tay trong tay ông già, gã cúi đầu và khóc. Lần đầu tiên gã được quan tâm như một con người. Trái tim gã đập lung bung từng nhịp, từng nhịp, từng nhịp. Đầu thằng em vẫn cứ lắc lư, lắc lư, lắc lư vô cảm trên vai gã. Gã muốn nói lắm rằng, gã yêu ông già nhưng không biết nói làm sao. Ông già nói thật nhiều, gã cố dỏng tai nghe nhưng không hiểu hết. Xúc động quỳ xuống, gã cầm bàn tay ông già áp vào một bên má, bên có những giọt ấm nóng lã chã rơi...

- Con khóc à? Đừng khóc, mỗi người có một số phận... con à. Dù con đang là người đau khổ nhất trên đời, hoặc là trộm cướp hay giết người đi nữa thì ta vẫn biết con đang ăn năn hối cải, muốn được là người tốt trong những tháng ngày này. Cách sống cùng những việc làm âm thầm của con cho gia đình ta mấy tháng qua đã mách bảo ta rằng, con là một người nhân hậu. Chỉ tiếc là ta mù, không thấy được mặt con...

Bất ngờ, vợ chồng người tiều phu quay trở lại nhà lấy vật dụng đi rừng bỏ quên. Người vợ bước vào trước, trông thấy gã, bà hét lên một tiếng hãi hùng rồi té lăn ra xỉu. Người chồng lao vào với cây rựa trên tay, ông chém tới tấp vào người gã:

- Quái vật, đồ quái vật, cút khỏi nhà tao!

Gã gầm lên một tiếng như hổ chuẩn bị vồ mồi rồi phóng đi mất dạng.

Ngay trong đêm đó, người tiều phu đốt nhà và sơ tán cả gia đình đi nơi khác.

Đêm. Trăng thượng tuần bàng bạc trên cao. Gió thổi hanh hao buồn. Từ trong xó xỉnh nào, gã xuất hiện lừng lững một bóng đen hai đầu. Dẫm bước đi trên đám cháy hoang tàn, gã theo dấu tìm về chuồng heo cũ. Không còn gì ngoài chiếc máng sứt cháy dở dang. Gã thất vọng, chán chường ngồi gục đầu bên gốc cây gãy dưới chân đồi sau nền nhà cũ. Chiếc đầu thừa dường như cũng biết gã buồn, nó tựa vào đầu gã rên grừ grừ. Hoang hoải trong nỗi cô đơn cùng cực của một con người vừa biết nhận thức, gã phát điên dang tay đấm bình bịch vào chiếc đầu thừa. Nó la lên và khóc, kiểu khóc lu loa của đứa trẻ vừa mở mắt chào đời đòi vú mẹ. Dần dần gã cũng thấy đau. Từ trong sâu thẳm, gã chợt hiểu thằng em cũng chính là mình. Buồn thương trĩu nặng, bất lực gã ngước mắt nhìn trời gào lên như con thú hoang...

Đám đông bất thần xuất hiện như  người từ trên trời rơi xuống. Tên cao to nhất bọn quẳng sợi dây thừng xiết chặt lấy người gã. A, thế là gã bị bắt. Bị bắt là gì? Bị bắt là người ta trói gã lại như người tiều phu trói heo mang đi trước khi phóng hoả đốt nhà vì ghê tởm, khiếp sợ hình hài quái dị của gã. Sau đây thì người ta đốt cái gì? Gã không biết nhưng nghe bọn người nói lao xao...

- Bây giờ xử nó sao?

- Nhà nghiên cứu Thời Thôi quyết định sao?

- Bắn là xong, tha hồ moi móc tim gan phèo phổi nó, phải không nhà nghiên cứu?

Gã quay sang nhìn người được gọi là nhà nghiên cứu Thời Thôi. Trạc tuổi gã nhưng râu tóc hắn rậm rì, mắt hắn lơ mơ ngái ngủ. Thời Thôi nghĩ ngợi một chút rồi chậm rãi bảo:

- Không được bắn, nghe tiếng súng, công an vào, rắc rối to, chúng ta sẽ phải đi tù vì tội giết người.

- ủa, mình giết thằng quái này bằng gì cũng là giết người mà, đại ca?

Thời Thôi bảo:

- Nhưng mà các người ngu quá, nó là sản phẩm nghiên cứu khoa học của ta nên ta toàn quyền. Toàn quyền theo kiểu riêng ta, đừng để mấy thằng công an dính vào rách việc. Vả lại, nếu ta giết nó bằng cách bắn vào đầu hay lồng ngực thì không giữ toàn vẹn được mớ lục phủ ngũ tạng mà ta dày công mong đợi. May nhờ thằng tiều phu ra chợ la hoán lên mới biết nó ẩn núp trong cánh rừng này, ta đã mất bao công sức truy tìm từ ngày nó được cải tử hoàn sinh và chạy phăm phăm ra khỏi phòng thí nghiệm. Nay bắt được “vàng” rồi thì phải tính cách tận thu sao cho hiệu quả chứ!

- Xin lỗi cho tụi em hỏi nghe, làm cách nào mà trước kia đại ca có được thằng hai đầu này làm thí nghiệm?

- Anh em sinh đôi quái dị nhà này được ta mua từ một nhà xác bệnh viện khi chúng bị mấy thằng bác sĩ tào lao mổ xẻ nhừ tử mà vẫn không có khả năng bóc tách, khi đó chúng chỉ là hai đứa bé chưa tròn tháng tuổi và đang hấp hối...

- Nhưng mà ai cho bán xác chết, đại ca?

- Ta “móc” được một tay trong chuyên tẫn lịm xác chết giả, tất nhiên xác trong quan tài đưa về cho mẹ chúng chỉ là búp bê.

- Rồi sao nữa đại ca?

- Cả đời nghiên cứu khoa học, ta thèm khát được sở hữu và săm soi các cơ quan nội tạng con người trong hình hài đặc biệt. Bọn bây đã từng thấy trái tim người có bốn tâm thất và bốn tâm nhĩ hoặc lá phổi người có năm buồng chưa? Toàn “hàng độc” của thằng hai đầu này đấy!

- Hàng độc vậy sao đại ca để nó xổng đi?

- Trong giây phút thiếu tập trung, ta đã cấy hoá chất và mầm tế bào vào cơ thể nó một lượng quá liều khiến nó sống lại quá mạnh. Chẳng những sống lại mà nó còn già đi trong phút chốc kèm theo sức mạnh phi thường nên ta không làm gì được nó. Thế là ta phải thuê bọn bây quần khắp nơi để tìm ra nó bằng mọi giá...

- Và bây giờ ta bắt được nó là một người có trí khôn hẳn hoi, điều lạ của thằng quái này sẽ khiến đại ca không ngờ...

Thời Thôi ngạc nhiên cực độ:

- Trí khôn à? Từ khi được tái tạo đến giờ, nó có được tiếp xúc với con người đâu mà có trí khôn?

- Đại ca nhầm to, không nghe những điều thằng tiều phu lu loa với mọi người về nó sao?

- Nếu vậy thì phải xử nó nhanh, ta mua nó với bộ dạng con người để nghiên cứu chứ đâu phải để cho nó làm người...

Nghe đến đây, cảm xúc gã hai đầu trào dâng cực độ. Hai tay gã nắm lại, cằm gã bạnh ra, mắt gã vằn lên tia nhìn ngầu đỏ. Chiếc đầu thừa dựng đứng lên ngoa ngoắt. Gã biết giây phút này, gã đã chính thức là một con người. Gã gào lên ầm ào núi rừng rồi gồng cứng người cho sợi dây thừng đứt ra. Bọn giết người thuê và tên nhân danh nghiên cứu khoa học một cách bệnh hoạn bỏ chạy tán loạn. Gã hai đầu nhắm hướng chạy của Thời Thôi bước tới. Một bước của gã bằng mười bước chạy của Thời Thôi nên chẳng mấy chốc gã tóm được hắn bên bờ suối. Thời Thôi quỳ xuống van xin:

- Xin... xin... xin anh xin anh, đừng... đừng... đừng giết tôi...

Gã hai đầu không biết dùng lời đáp trả. Tay gã túm cổ áo Thời Thôi nhấc người hắn lên khỏi mặt đất, miệng lầm bầm:

- Phải chết, phải chết, phải chết...

Rồi quẳng mạnh tên nhân danh nghiên cứu khoa học một cách bệnh hoạn vào vách núi đá bên kia bờ suối. Xác Thời Thôi mắc lửng lơ trên một gờ đá, máu từ cổ hắn phụt ra xối xả hình tia cầu vồng làm đen ngòm mặt suối lấp lánh ánh trăng...

Rừng trở lại yên ắng như chưa bao giờ yên ắng.

Thỉnh thoảng có tiếng bọn bò sát đuổi nhau lạo xạo thảm lá rừng.

Những giọt trăng rơi rơi qua vòm lá phủ tràn hai mái đầu trọc đã bắt đầu nhú lên những mầm tóc sau một thời gian dài gã hai đầu loanh quanh trốn chạy con người, loanh quanh muốn được con người xem là đồng loại. Cảm giác đắng cay, cô đơn cùng cực ứ tràn trái tim tám ngăn của gã. Đất rừng mênh mông với nguồn oxy vô tận bỗng chốc không đủ cho lá phổi năm buồng tha thiết sống của gã. Gã đưa hai tay đấm mạnh ngực gào lên:

- A... a a a...

Theo thói quen, bước chân đưa gã quay lại nền ngôi nhà hình nấm vẫn còn ngun ngút khói. Gã ngồi như tượng bên gốc cây gãy mà gã hay ngồi. Chợt thấy cách đó không xa, cạnh lùm cây xanh có chiếc can trắng còn ít xăng và chiếc bật lửa. Người tiều phu bỏ lại dụng cụ đốt nhà sau khi phóng hoả. Gã chầm chậm bước đến, chầm chậm làm như người tiều phu đã làm với ngôi nhà hình nấm, chầm chậm tưới xăng lên người rồi bật lửa. Nóng quá, chiếc đầu thừa gào lên thảm thiết:

- A... a a a...

Trời nổi gió. Mây đen vần vũ kéo về. Trăng tắt. Mưa đến rất nhanh. Một cơn mưa lớn chưa từng thấy đổ tràn qua thân xác gã. Chiếc đầu thừa cháy thành tro, tan mất vào dòng nước rừng băng cuồn cuộn. Thêm một cành cây vô tình ngáng ngang đường nước chảy giữ gã lại, người gã cháy quắt queo nhưng gương mặt hãy còn tươi lắm, chết mà như ngủ. Một người bình thường ngủ.

Đời!... Mẹ sư... đời!

Phi rít một hơi thuốc lá xong, mới gật gù trong làn khói:   

- Phải rồi! Cái gì cũng phải lấy “Con người” là chính!

Khói luẩn quẩn trong gian buồng hẹp. Mà một góc có hai chiếc giường cố nép vào nhau nhưng vẫn cồng kềnh. Còn góc bên, một chiếc bàn khấp khểnh nằm thu lu.

Phi ngồi tiếp khách ở đó. Anh mặc budông kaki bạc, quần tím, cổ cuốn Phu-la chân rết nâu trắng. Vóc dáng anh cao lớn. Khuôn mặt to tướng, cặp mắt hơi nhỏ, miệng cũng nhỏ, lại viền tí ria mép, khiến bộ mặt Phi nằng nặng lầm lầm. Phi là một nhà văn. Anh trạc 35, 36 tuổi.    

Ngồi đối diện Phi là Huy, cũng nhà văn. Huy có lẽ dưới 30, dáng cao ngỏng gầy gò, quần áo đại cán tím xỉn, càng nổi bật khuôn mặt khô khốc, vàng ệch.   

Hai văn sĩ đương đàm luận về vấn đề “Con người”. Huy nói:   

- Lâu lắm rồi, người ta hầu như quên cái điều dản dị là: “Tôn trọng con người”! Có lẽ đó là một “Kết quả” đau đớn của một thời chiến tranh đã qua. Con người khi đó chết như rạ. Nên bây giờ, người ta không quan tâm đến điều đó nữa. Người ta khô đi! Tình cảm người ta cạn dần đi như suối cạn!   

Phi bổ sung cho bạn:   

- Chúng ta vừa được nhiều, nhưng cũng vừa mất nhiều trong chiến tranh! Nhưng có lẽ, lý do căn bản vẫn là chúng ta để nhiều tệ tục phát triển! Sùng bái nào, chủ quan độc đoán nào... Những tệ đó đều xâm phạm con người! Con người bị hạ giá! Từ tình yêu, từ suy nghĩ, từ ngôn luận, tất cả đều bị xâm phạm!  

Huy tán thành:  

- Phải! Có thể chiến tranh là nguyên nhân chính! Không biết Trung ương đã biết tới hiện trạng này chưa?  

Phi giương con mắt nhỏ ra, giọng giải thích:  

- Thì chính những tệ lậu ấy đã ngăn cách Đảng với Quần chúng chứ sao! Đó là một tấm màn đen bưng bít! Trung ương khó mà biết cho đủ đầy!  

Phi rót nước, buồn bã. Bộ mặt anh to, hai má phinh phính xị xuống như trẻ con, còn đôi ria bên đôi má lại lộ ra nét nhàu của người đã già. Sự mâu thuẫn đó làm khuôn mặt Phi ngồ ngộ đáng yêu...

Huy cũng hơi buồn... Hai nhà văn đương thành hai nhà đạo đức...

Phi tiếp mạch suy tư day dứt:

- Luân lý bị xúc phạm nặng nề... Không trọng người là không trọng cái gì cả!...

Huy đặt một vấn đề khác:

- Nhưng thế nào là trọng người? Vấn đề là ở chỗ đó! Trọng người bây giờ là đòi hỏi con người phải thật đúng, phải thật tốt thì mới trọng đúng không?  

Phi gật gù:  

- Chính vấn đề là ở đó! Đòi con người toàn thiện toàn mỹ mới trọng tức là không muốn trọng con người!  

Phi phả khói thuốc, vẻ mặt anh rung mờ vì làn khói.  

- Chứ gì nữa? Trọng người tức là phải trọng con người trần tục. Con người trần tục..., rất trần tục,... thì nó có đúng có sai, có tốt có xấu. Nó đầy tương lai nhưng cũng nặng dĩ vãng... Có yêu được con người trần tục ấy thì mới có thể gọi là yêu người.  

Huy phát triển ý bạn:

- Đúng lắm! Surhumain est inhumain! Cái gì siêu nhân đều là bất nhân! Chỉ yêu con người lí tưởng tức là chỉ biết yêu con người giả, tức là giả dối trong tình yêu...  

Huy lại phát biểu:  

- Đúng thế! Cứ tìm trong cuộc đời này một người công nhân, nông dân y như trong sách để mà yêu thì ngàn đời chẳng kiếm tìm được ai!  

Phi lại phát triển:  

- Đúng lắm! Đó là chạy theo một ảo tưởng. Yêu một ảo tưởng. Mà lại bỏ mất hàng triệu con người thực... Đó là duy tâm... Đó là thả mồi bắt bóng...   

Hai văn sĩ thi nhau nói và... hút. Khói thuốc rẻ tiền khen khét cả cuộc thảo luận. Huy lại nghiêng bộ mặt khô vàng trên nền bộ quần áo tím xỉn. Anh đặt một vấn đề nữa:  

- Yêu con người trần tục, thế thì bạ ai cũng yêu à?   

Phi lại tròn xoe cặp mắt nhỏ, đôi ria ngó ngoáy, giải thích:  

- Chỉ trừ phía địch thôi. Đó là thứ trái cấm không được hái trong vườn hoa tình yêu. Còn phía bên ta thì được yêu hết, không trừ ai... Một người xấu nhất ở bên ta cũng đáng gọi: “Bạn ơi!’. Phải yêu người trong xã hội ta chứ! Tốt với xấu không phải là cái thước đo tình yêu. Có khi đứa con hư, tật nguyền lại phải yêu hơn đứa con ngoan, khỏe khoắn ấy chứ!...

 

Trong khi hai người đương cao giọng đàm đạo như thế thì một người đàn bà khăn vuông đen, áo bông đen, quần cũng đen đứng nép trong bóng tối ngoài buồng, qua kẽ cửa dòm vào. Xong chị ta đi xuống bếp, miệng lẩm bẩm:  

- Bẩy giờ hơn rồi! Khách với khứa!...   

Lát sau chị lại lên, lại dòm vào, lại vẫn thấy hai kẻ sĩ khoái trá trò chuyện rôm rả như pháo nổ. Người nọ khen người kia: “Đúng lắm!”. Người kia khen người nọ: “Đúng! Đúng!”. Rồi lại những chữ: “Con người, con người” cứ oang oang mãi không dừng. Rồi thì khói thuốc bốc mờ cả bóng đèn điện trong gian buồng. Khói bay cả ra ngoài cửa làm khét cả mũi chị. Chị lại bỏ xuống bếp, miệng lẩm bẩm:“Gần 8 giờ rồi! Con người với con ngợm mãi!...”   

Gió lạnh rít qua con hẻm, thốc vào gian bếp. Người đàn bà đang nóng ruột lại càng tức tối. Chị ta là vợ Phi...   

Phi thì say sưa lắm rồi:  

- Trọng con người tức là đối xử với con người phải hết sức nhân đạo! Chụp mũ này, đao to búa lớn này, mệnh lệnh này, đàn áp tư tưởng này ... v.v. Tất cả đều là những phương pháp bất nhân!...

Huy lại phát triển:

- Đúng lắm! Mình thấy ối cán bộ cấp cao hẳn hoi mà đối xử với vợ con cũng cục cằn, cáu kỉnh. Thậm trí họ còn chửi mắng nữa... Thế còn ra thể thống gì nữa!...   

Phi lại tán thêm:   

- Đúng quá! Đầu gối tay ấp, họ còn thô bạo thế nữa là người dưng! Họ không biết yêu hay sao ấy?... Tình cảm, tâm hồn con người cần phải giáo dục lại hết...  

Huy lại phát triển:   

- Đúng rồi! Tình yêu cần được giáo dục lại... Phải chống bằng được những cư xử vũ phu đối với con người!   

Phi bốc đồng:  

- Mình cũng thế! Tập sách của mình sắp tới sẽ có tựa đề là “Vũ phu”. Mình sẽ đả vào cái lề lối cán bộ chuyên đi úp bệnh cho người ta...  

Phi nhấn mạnh:  

- Đúng lắm! Nhưng phải làm sao để nhân dân ta căm thù cả cái lối “Nói nặng” nữa chứ!  

- Nói nặng á?  

Phi gật đầu:  

- Phải! Nói nặng cũng là vũ phu đối với con người.

Huy tán thành và khen:

- Ý kiến mới đấy!

Phi nhũn nhặn không nói trực tiếp về lời khen ấy mà cứ điềm nhiên phát triển sự mới mẻ cái suy tưởng vừa rồi của mình:

- Phải làm sao cho con người trong xã hội mới, họ biết yêu nhau đến mức êm ái nhẹ nhàng trong mọi trường hợp... Chứ “nói nặng” cũng vẫn là một hình cụ. Đối với xã hội hiện đại thì tỉ lệ dã man của nó chẳng kém gì những cái vạc dầu, cái cũi sư tử của xã hội thời Trung cổ xa xưa!...

Huy khoái lắm:  

- Phải đấy! Nhân văn con người mới phải cao như thế! Đến như cái lối “nói nặng” cũng loại bỏ! Phải lắm! Trường hợp nào cũng không được nói nặng! Người ta chửi mình, mình cũng phải nhẹ nhàng!  

Thế là hai văn sĩ đồng ý sẽ viết một số truyện. Chủ đề còn chống cả đến cái tệ tục “nói nặng” nữa. Họ bàn nhau rằng có thể sẽ in chung...

 

Xịch! Cửa mở tung.

Phi thấy một luồng gió lạnh phả vào mặt. Nhìn ra, anh thấy người vợ đen ngòm, mặt xương xẩu, mồm hơi vẩu đang bê mâm cơm bằng gỗ đi vào... Phi khó chịu quá. Còn Huy thì giật mình, anh áy náy hỏi chị vợ:

- Chết chửa! Nhà ta chưa ăn cơm ạ?

Người vợ định nói gì, xong gặp cái mặt anh chồng hơi dữ dằn cùng cặp mắt lườm xéo một cái. Chị ta đành nói:

- Dạ! Không...  anh cứ ngồi chơi!... Đây là phần cơm cháu nó đi họp Thiếu nhi chưa về đấy ạ!

Huy thở phào:

- À ra thế!

Vợ Phi đặt mâm cơm trên cái phản góc nhà kề bên, xong đi ra.

 

9 giờ!...

Việc gì ở đời rồi cũng đến hồi kết... Hai văn sĩ bắt tay nhau, lưu luyến lắm! Phi tiễn bạn ra tận ngõ, còn dặn :

- Nhớ tập truyện “Chống nói nặng” nhé!

- Ừ! Nhớ! Sinh tử đấy! Mới lắm đấy!

Thế rồi một con người là Huy ra đi, một con người là Phi trở lại nhà, để đối chất với một con người là vợ Phi đang hầm hầm nét mặt, hai tay chống nẹ, đợi anh ở giữa buồng ...Vừa thấy Phi bước vào, chị chàng xổ một tràng ngoa ngoắt:

- Khách với khứa!... Khách đâu mà có thứ khách khốn nạn thế!... 9 giờ vẫn chưa được miếmg cơm nào tọng vào bụng! Ôi hết cả! Thịt bò xào dai như đỉa còn gì?... Lại còn cái hạng chồng nào như thế này bao giờ! ...  

Phi đứng nhìn cái mồm vợ cứ vâu vẩu ra mà nói, tức quá :

- Ơ hay! Khách đến, chẳng lẽ đuổi người ta đi à ?

Chị vợ vẫn vẩu mồm ra, nhe hàm răng đen ra, tuôn tiếp hàng tràng :

- Chả đuổi à? Người ta đã bưng cơm lên, có đồ ngu mới cứ cố mà ngồi ì ra mãi thế!... Lại còn có cái hạng chồng lườm mới nguýt! ... Bây giờ mới tọng thì đến bao giờ mới rửa xong bát?... Quần áo hàng rổ thế kia ai mà vá được nữa?... Hết thằng bố lại thằng con!...Nó đợi cơm mãi rồi nó đi chơi bố nó đâu rồi? Ai đi tìm được nó về bây giờ?... Khổ cái thân tôi chưa! Cái thứ chồng với cái thứ con!...

Phi tức quá, cặp mắt nhỏ căng ra, đôi má nặng xuống, ria mép dựng ngược lên. Phi quát:

- Câm! Câm ngay!

Người vợ cũng chẳng vừa, nhất là đang nổi cơn ghê gớm thế này. Chị xô cái ghế vào bàn đánh sầm một cái: 

- Câm à? Câm à? Có cái thứ đàn ông làm khổ vợ khổ con mà còn chửi người ta à?...  Bà con hàng xóm ơi! ... Khổ cái thân tôi chưa?  

Chị dậm chân thình thịch...

Phi cáu quá. Anh ù tai đến mụ trí rồi. Mặt anh dữ tợn như mặt một nhà quân sự giữa trận tiền. Anh quát tướng:

- Câm! Câm ngay! Ông lại đập bố nó ra cả bây giờ!

Người vợ càng làm già, gào kêu hàng phố...

Choang!

Thế là một nhà văn chủ trương không nói nặng một ai trong bất cứ trường hợp nào, nay bỗng vớ một cái cốc, đập tan tành trên sàn nhà ...

Chao ôi! Sao cái lý luận nó hay cãi nhau với cái thực hành như thế!   

Người Phi nóng bừng, anh chạy vội ra đường kẻo chị vợ túm được... Anh bước rảo cẳng, gần như chạy trốn. Tiếng chị vợ gào ngoa ngoắt vẫn bám riết theo anh...    

Rặng đèn vàng dọi sáng nhờ nhờ dọc con phố nhỏ hun hút. Phi bước nhanh vô định. Anh chỉ mong được những cơn gió rét lạnh buốt quất vào mặt cho cái nóng trong óc hạ nhiệt bớt đi...    

Anh vẫn đi như chạy, để thoát được cái thứ âm thanh tru tréo vẫn nhằng nhẵng phía sau. Anh quặt vội ở ngã ba... và đâm sầm vào một cái xe đạp dựng rất chướng ngay lối rẽ trên vỉa hè. Lúc đó, đầu óc anh mới đỡ quay cuồng, tai anh mới đỡ ù, lưỡi anh mới đỡ ríu... và mồm anh mới kịp văng ra một câu chửi độc: “Đời!... Mẹ sư đời!”.     

Anh chửi cuộc đời nhỏ nhen, eo ót. Nó níu kéo anh lại, không cho anh được dễ dàng bay lên khoảng trời lý luận cao thâm, để làm một cái gì thực ra trò...

1/12/1956

Thằng “Tít rằn”

Tôi có thằng bạn, tôi không gọi nó bằng tên tục mà gọi “Tít rằn “. “Tít rằn” quê tôi cho là keo kiệt, bủn xỉn. Tốt nghiệp đại học cùng khóa, cùng cơ quan, lương thưởng cũng kha khá, nhà cửa con cái đàng hoàng thế mà chọn cách sống của Grăngđê bên nước thực dân cách đây cả thế kỷ. Thời đại a còng, người ta thi nhau uống bia ruợu có chữ tây như “Heniken”, “Tiger”, “ Black and White ”, … thì hắn chỉ kêu “333” như là chỉ mình hắn yêu hàng nội. Sáng nào hắn cũng đi sớm, thực tình chẳng có việc gì mà bận rộn như vậy, hắn đến tự pha cà phê để tiết kiệm 4 ngàn, bật quạt, coi báo trên mạng… toàn những thứ mà ở nhà phải trả tiền.

Gặp hắn ăn tiệm khó hơn trúng xổ số, thế mà, một sáng chủ nhật, tôi mục sở thị hắn vào quán phở Bắc “bình dân” đường Trần Phú. Hắn vào trước, ngồi lựa hàng và chuẩn bị sướng thì thấy tôi loay hoay đưa xe máy lên lề. Lập tức hắn đứng dậy thì thầm với chủ quán cái gì đó rồi nhanh nhảu bước ra. Khi chạm mặt nhau, hắn: “Xin chào, cà nhà vui vẻ nhỉ. Tớ xong rồi”, còn lấy tay trỏ tăm vào miệng mới tức chứ. Nó tưởng tôi không biết, chưa đầy năm phút mà xong rồi à, chắc chắn nó thoát khi thấy đoàn tàu há mồm nhà tôi chuẩn bị đỗ ga và tự dưng không mời… Mà mời thì chắc chắn không đủ tiền, trong túi nó có trăm ngàn thì nằm mơ nhé.

Nhìn bộ cánh hắn diện in chữ “nước ngoài” hình diêm dúa, tôi thừa biết rặt hàng sida rẻ tiền. Hắn chỉ dùng đồ mới là áo may ô, bàn chải đánh răng và…dao cạo râu.

Một trưa chủ nhật, đang nằm viện, tôi lẩn thẩn dạo qua khu cơm miễn phí cho bệnh nhân nghèo, thấp thoáng thấy ai như thằng Tít. Làng nước ơi, hết chỗ hay sao mà đến chốn này ké cơm, đốn mạt thế là cùng. Tôi không tin, gỡ kính ra, đưa kính vào, không nhầm được, nó còn bày đặt chỉ món này món nọ như vô nhà hàng thấy tức nổ con mắt. Tôi định chạy đến tặng hắn tiếng chào, như mèo ăn vụng thấy động, hắn lẫn vào đám đông, mất hút. Trước mắt tôi là những bệnh nhân tàn tạ, rách rưới ngơ ngác chờ đến lượt chia phần.

Tôi hỏi thăm một người bạn mà thứ bảy, chủ nhật nào cũng đến đây làm công quả: “Em biết anh mặc áo… lúc nãy không”. “Có chứ, chủ nhật nào anh ấy cũng đến, ít thì đưa vài trăm, nhiều thì một triệu không chừng, nhờ những người như anh ấy mới duy trì được bếp”.

Tôi không nén nỗi bàng hoàng, bật ra một câu chửi đổng: “Đ.m. thằng Tít, sống với nhau bao lâu mà tao không hiểu mày...”.

Từ hôm đó, Liêu âm thầm đi bên cạnh Mãnh, nhưng cô không hé răng nói điều gì về cái nụ hôn hôm Mãnh say rượu nhớ Nhan Bình.

Mãnh nhìn thấy một chùm phong lan liễu bên mép đá tai mèo. Anh đặt mấy cành đào đã chặt xuống. Những mỏm đá tai mèo trơn láng dưới những hạt bụi sương phủ mờ trên núi. Mãnh cố với chùm phong lan.

Nhưng đá trơn khiến anh trượt chân lăn xuống vực.

Lá thư Nhan Bình gửi Mãnh rơi ra, bay bay như cánh chim cô độc…

Mãnh tỉnh dậy trong một hang đá.

Anh cố gắng định thần nhớ lại. Không hiểu đang ở đâu. Cái ngách hang tối mờ mờ. Cả người đau vì bị bầm dập. Nhìn ra cửa hang, Mãnh thấy mấy cành đào anh đã chặt được xếp gọn gàng một bên cùng con dao đi núi. Nhìn sâu vào trong hang, là một khoanh rộng dưới vòm hang xếp đá tảng rất đẹp làm thành một cái giường lớn, trên cái giường đó là những lớp lá khô được rải như lớp chiếu. Một bức đá mỏng đặt ngay ngắn cuối chân giường. Đá như bức phù điêu che cho chiếc giường ấm cúng và kín đáo.

Lúc đó Mãnh mới nhận ra mình đang nằm giữa một đống lá tươi, gần một cái bếp bắc bằng đá, xung quanh anh là đệm lá ấm áp, loại lá mà loài thú rừng thường nhai để đắp vết thương. Những vết bầm dập trên đùi và ngực, dường như có ai đó đã nhai và đắp lá lên.

Nằm trong trạng thái vô thức và đau nhức khắp người, Mãnh thiếp đi trong giấc ngủ sâu.

Trong cơn mơ ngủ, Mãnh nhìn thấy một con khỉ cái đuôi đỏ có đôi mắt khá đẹp đang nướng một củ mài trên bếp lửa.

Dường như lại có khúc nhạc đá đang tràn ngập lòng hang sâu.

Không thơm như hoa, không cao như cây.

Tôi chỉ là nhánh cỏ…

*

Khi Mãnh về đến làng thì mùa xuân cũng về tới. Anh không ngọng nghịu như mọi khi nữa mà đã trở nên một chàng trai mạnh mẽ, rất ra dáng. Anh không kể  suốt những ngày qua mình đi đâu, làm gì. Bà Huyền ông Trạo mổ con lợn lửng mời cả xóm đến ăn mừng sự kiện con trai mất tích đã trở về, lại còn đẹp đẽ sáng láng hơn xưa.

Mãnh lấy chiếc nhẫn bằng đá mà anh tự mài từ một mẩu đá thạch anh đỏ ra đeo vào tay Liêu.

Liêu là con gái làng Nhan. Cô không đẹp như Nhan Bình. Không sánh được với bà Thảo bà Huyền thuở còn trẻ. Cô là hậu duệ kém may mắn của bà tổ Dong. Nhưng nếu có một ngày, có một đứa trẻ được đặt ở hiên nhà, Liêu sẽ ôm nó vào lòng và ủ ấm cho nó.

Rừng bí ẩn và xanh bạt ngàn.

Những tiếng lao xao như tiếng của ngàn xanh đẩy gió trải khắp thung dài…

Mẹ xóm Đòai

22/02/2013

 

.NGUYỄN ĐĂNG AN

 

 

Bà mẹ xóm Đoài không chịu nổi căn phòng nhỏ thó tám mét vuông kín bưng như nhà tù dưới gầm cầu thang. Những ngày cô con dâu đi vắng, bà thường lẻn ra phòng khách ngồi ăn trầu cho thoáng. Người ta nói: “Đi đêm lắm có ngày gặp ma”. Nghĩ cho đúng, bà không phải là người đi đêm nhưng bà đã gặp ma thật. Hôm đó, nửa chừng cô con dâu đột ngột trở về. Không kịp giấu bộ đồ nghề ăn trầu nên bà đã bị bắt quả tang. Cô con dâu mặt đỏ tía tai, gầm lên như con hổ cái:

- Trời ơi! thế này thì sống làm sao được đây. Ông Nam đâu rồi xuống xem bà mẹ yêu quí của ông làm khổ tôi đây này.

Từ tầng ba, ông Nam phi xuống phòng khách, hốt hoảng:

- Gì thế em?

- Anh nhìn đi, nước bã trầu vãi khắp nơi. Mùi hắc không thể ngửi, kinh lắm. Khách chiều nay là ông Bộ trưởng đấy. Anh phải dọn dẹp và xịt nước hoa tẩy uế cho nhanh đi. Anh nhớ nhắc bà mẹ răng đen của anh không được xuất hiện đâu đấy.

Quá quen với thói hành xử hỗn hào của cô con dâu, cứ mỗi lần như thế, bà liếc nhìn con trai. Hễ thấy nó luống cuống là bà sửa sai ngay cho dù có nhiều lần bà đúng. Lần này thấy nó lo lắng, mặt thuột ra ngây dại. Bà vội xin lỗi con dâu rồi đứng lên thu dọn lại căn phòng. Chờ bà lau xong những vết bẩn trên bàn, Nam kéo mẹ đi vào căn buồng tám mét vuông, mồm méo xệch:

- Mẹ ơi, mẹ thương con với. Mẹ nhớ đừng ăn trầu trong phòng khách nữa. Chiều nay vợ chồng con tiếp ông lớn. Mẹ nhớ ở trong phòng đừng ra mẹ nhé.

- Mẹ nhớ rồi, con yên tâm. - Nói xong bà ém tiếng thở dài.

 

*

*   *

 

Vợ chồng mới sống với nhau được hai năm, khi cái bụng bà mới lùm lùm ông chưa kịp vui thì đột ngột qua đời. Ngày bà sinh Nam, bên nội cho ba sào đất và ngôi nhà lợp ngói khang trang. Bà ở vậy nuôi Nam khôn lớn. Bà đã khước từ hàng chục đám dạm hỏi, quan to có, trai tân có để Nam không phải chịu cảnh sống với bố dượng. Với bà, những gì Nam vui là bà vui, Nam buồn là bà buồn. Nói đúng hơn, Nam là tất cả cuộc đời bà. Con bồ côi bồ cút nhưng Nam chẳng thua kém một ai trong làng, học đến đâu biết đến đó, rồi niềm vui như vỡ oà khi Nam được đi học ở nước ngoài. Sau bốn năm đèn sách, Nam về nước. Lần này Nam đem theo cả bạn gái người Hà Nội gốc tên Thùy Giang, người đẹp như tranh về cùng.

Đám cưới Nam - Giang tổ chức tại khách sạn Thống Nhất. Bố Giang là ông lớn nên đám cưới tổ chức rất hoành tráng. Điều làm bà chạnh lòng tí chút là hôm ra khách sạn, theo yêu cầu của Giang, Nam nói bà ở nhà và mời cặp vợ chồng ông chủ tịch huyện - không họ hàng thân thích gì - đóng vai người nhà Nam để giữ thể diện với bên vợ. Nhưng rồi bà nghĩ: “Nhà người ta danh giá, mình quê mùa đứng vào chỉ làm xấu mặt con thôi”. Thế là bà cho qua.

Sau đám cưới, Nam ở rể nhà vợ. Ngôi biệt thự to lớn đã làm bà lóa mắt trong một lần đến thăm con. Bà thấy tội nghiệp cho con trai quá. Vì  nghèo nên con bà phải sống kiếp “chó chui gầm chạn”. Trở về nhà, bà cứ buồn buồn như thể mình có lỗi. Nhưng biết làm sao được. Lực bất tòng tâm, bà đành cam chịu.

Thế rồi bỗng dưng bà trở thành tỉ phú. Đó là ngày người ta mở một con đường quốc lộ ngay sát mảnh đất màu gan gà “khỉ ho cò gáy” của bà. Có tin vui, vợ chồng Nam phóng xe về ở với bà một đêm. Cô con dâu vui vẻ mẹ mẹ, con con ngọt như mía lùi. Bà mừng không biết để đâu cho hết. Bà sờ nắn tóc tai thằng con như sờ một đứa trẻ. Bà mắng yêu: “Dạo này con gầy và xanh lắm. Đừng có làm quá sức con nhé”.

Đêm ở quê, trời tối đen như mực. Ngọn đèn dầu cháy leo lét chỉ đủ thắp sáng một vùng nhỏ. Nam ngồi bên mẹ trên chiếc chõng tre dưới mái hiên ngôi nhà đã từng in dấu tuổi thơ anh. Vợ Nam lót chồng báo khiêm nhường ngồi trên bậc cửa thấp hơn chiếc chõng tre nửa thân ghế. Nam bắt đầu câu chuyện hệ trọng:

- Mẹ ạ, dạo này vợ chồng con bận quá. Phần lo công việc, phần phải lo cho hai cháu Hiền, Tú ăn học, nên không về thăm mẹ luôn được. Con tính đưa mẹ ra ở với chúng con để tiện việc chăm nom. Mẹ có đồng ý không?

Bà móm mém nhai trầu không trả lời, chỉ đến lúc Nam giục:

- Ý mẹ thế nào ạ?

 Bà mới khom người nhổ miếng bã trầu vào ống bơ để dưới gầm bàn rồi nói: 

- Được ra ở với vợ chồng con lúc tuổi già thì quí hóa lắm. Nhưng mẹ cứ ngại ngần vì mình con ở nhờ nhà người ta đã là quá rồi. Bây giờ gánh thêm mẹ e không tiện con ạ. Với lại mẹ phải ở nhà để thắp hương thờ cúng cha con và tổ tiên chứ.

- Con sẽ mua nhà riêng cho mẹ.

- Đất đai đắt đỏ, các con lấy tiền đâu mà mua?

- Thì mình đổi mảnh vườn quê lấy nhà phố mẹ nhé.

- Thế còn việc thờ cúng bố con và tổ tiên thì sao?

- Thì nhà mình, mình lập bàn thờ gia tiên thôi.

- Mẹ không biết gì đâu. Tất cả nhà này là của con. Con tính thế nào đó cho thuận là được.

 

*

*    *

 

Nhờ tài tháo vát của vợ, chỉ trong vòng một tháng, việc bán đất và mua nhà đều diễn ra theo ý muốn. Vợ Nam bỏ ra thêm một tháng tân trang ngôi nhà mới theo gu thẩm mỹ phương Tây. Hôm khánh thành, vợ Nam tổ chức buổi liên hoan hoành tráng. Khách cơ quan đoàn thể nhất là bên bố vợ Nam đến nườm nượp. Tiền thu về lãi lớn, vợ chồng Nam có thêm con xế hộp để đi.

Mẹ ra, Nam bố trí cho bà ở cả tầng tư. Mỗi lần lên xuống, thở không ra hơi. Nam chuyển hai đứa con đổi chỗ cho bà. Ở tầng ba cũng không đỡ hơn là mấy. Bà phải vin cầu thang đếm từng bậc mới xuống tầng một ăn cơm được. Thấy không thuận, Nam bàn với vợ đổi chỗ cho mẹ ở tầng hai. Vợ Nam nhíu mày gắt toáng lên: “Anh xem tôi phải đầu tư biết bao nhiêu công sức mới có căn phòng cho hai vợ chồng. Bây giờ lên tầng ba phải làm lại từ đầu trong khi mẹ ở đây lại quá phí phạm”.

Đúng lúc đó bà đi qua. Bà đã nghe được lời cô con dâu nói. Khi gặp Nam, bà đề nghị:  

- Mẹ không leo tầng được đâu, cho mẹ ở tầng một, con xem có thể sửa chỗ cầu thang…

- Được mẹ ạ, để con lo cho. 

Cô con dâu như từ trên trời rơi xuống nói thay Nam. 

Chỉ vài ngày sau, gầm cầu thang nhà Nam đã thành căn phòng khá đẹp. Vợ Nam mua cho bà chiếc giường nệm nhỏ xinh và chiếc tủ đựng quần áo hợp với căn phòng. Một chiếc bàn gỗ vuông dành cho bà ngồi ăn trầu. Hơn cả mong đợi, vợ Nam còn mua chiếc bô đựng bã trầu có hoa văn Bát Tràng nhìn rất ưa mắt.

Mới đầu vào ở, bà rất thích. Bà thấy thuận tiện và tự do. Nhưng ở lâu bà không chịu nổi. Căn phòng kín quá. Nếu đóng cửa bà không tài nào thở được. Bà phải mở cửa suốt ngày đêm. Những hôm có khách, bà ngồi trong phòng đóng kín chỉ mỗi việc chắp tay cầu trời khất Phật cho đám khách về nhanh để mở cửa.

Một hôm, Nam đột ngột bước vào, anh thấy mẹ ngồi nhắm mắt, chắp tay như tụng kinh: “Các ngài về nhanh lên cho tôi mở cửa, nếu không tôi chết mất”. Nam hốt hoảng: “Mẹ ơi sao mẹ không nói sớm. Để con tìm cách”.

Ngay hôm đó, đám thợ cũ có mặt. Họ thay cho bà cánh cửa mới có nửa phần trên thông thoáng và lắp chiếc quạt thông hơi xuyên qua nhà vệ sinh. Thời đại khoa học đúng là có khác. Với sự thay đổi ấy, việc hít thở không khí của bà không thành vấn đề nữa. Nhưng vấn đề mới lại xuất hiện. Bà vốn quen với khoảng trời mênh mông. Bước ra cửa là đồng bãi bạt ngàn cây cối. Bây giờ ngồi mãi trong căn phòng tám mét vuông, bà thấy bức bí. Đó là lý do để bà mắc lỗi với cô con dâu và bị cô con dâu chì chiết những lời khó nghe như thế.

 

*

*   *

 

Sau hôm sự cố ăn trầu ngoài phòng khách, lần đầu tiên bà chủ động gọi con trai vào phòng mình. Bà nhìn con với ánh mắt buồn rất hiếm hoi khi cả đời bà chỉ biết sống cho con:

- Mẹ thấy mình không hợp với ngoài này. Mẹ đi lên tầng không được. Mẹ sống trong căn phòng nhỏ này cũng không được. Mẹ muốn con về quê chuộc lại ít mét đất nhà mình đủ làm cho mẹ căn nhà nhỏ. Con hãy để mẹ về.

- Mẹ ơi, chỗ đất nhà mình đắt lắm, con lấy tiền đâu để mua hả mẹ.

 Đúng lúc đó, vợ Nam đẩy cửa bước vào. Cô nhíu mày:

- Mẹ nói vậy cũng đúng, người già cần có không gian, con cái nên chiều theo ý mẹ, anh ạ.

Vợ Nam thường có quyết định nhanh và “hợp” ý mẹ nên anh phải thực hiện ngay. Nam mua đất, xây nhà và đưa mẹ về ở. Từ đấy, dân làng bỏ cách xưng hô mẹ Nam mà chuyển sang gọi bà là Mẹ xóm Đoài.

Về làng, Mẹ xóm Đoài như con chim sổ lồng. Bà đi hết nhà bà con trong làng hỏi han trò chuyện. Ai cũng quí và thương bà. Thấy bà côi cút, Tùng cháu họ xa của bà, làm phó thôn thường đến thăm. Một hôm, Tùng trách:

- Tại sao bà cứ sống cho anh Nam mãi thế. Bà phải sống cho bà nữa chứ. Anh Nam có vợ con đàng hoàng rồi. Nhẽ ra anh phải lo cho bà mới đúng…

ùng lúc đó, Thúy bạn học thời phổ thông với Nam nay là bí thư chi bộ xã bước vào nhẹ nhàng nói:

- Tùng nói đúng đấy bà ạ, con thấy anh Nam bây giờ khác trước nhiều quá. Anh quen dựa vào sự chở che vô điều kiện của bà nên sống ích kỷ, thực dụng. Nếu bà cứ tiếp tục sống như thế, con tin anh Nam sẽ còn trượt sâu thêm trên con đường lầm lạc ấy. 

Nghe Tùng và Thúy nói, bà ngồi lịm đi một lúc rồi thở dài:

- Bà quen sống như thế, nay bảo bà sống khác đi, bà không làm được. Thế hệ bà xưa cũ quá phải không các cháu?.

 

*

*   *

 

Hai năm đầu tính từ ngày bà về lại quê, cả gia đình Nam thường về thăm bà vào dịp hè. Hai đứa con sống thật khó khăn ở quê. Đứa em nói:

- Nhà vệ sinh ghê quá anh ạ, em không dám đi.

- Tao cũng vậy. Thôi cố nhịn về Hà Nội thôi.

- Em đã nhịn được mấy lần rồi, nhưng lần này không được. Em phải làm sao đây?

 Thằng anh nêu sáng kiến: 

- Em lấy bông của mẹ bịt vào hai lỗ mũi và dùng khăn tắm bịt mắt lại mà đi nhanh lên.

Nam nghe con nói chuyện với nhau mà lòng quặn đau. Sau lần ấy, anh thường về thăm mẹ một mình, nhưng mật độ thưa dần.

 

*

*   *

 

Mẹ xóm Đoài ốm, bà bị cảm lạnh để quá lâu dẫn đến phổi bị hoại tử. Sau một tuần chữa trị ở bệnh viện tỉnh, bác sĩ điều trị nói riêng với Tùng:

- Do để quá lâu, phổi của bà bị hoại tử nghiêm trọng. Bà chỉ sống được ít ngày nữa thôi. Gia đình nên chủ động lo chuyện hậu sự cho bà đi, anh ạ.

 Chờ lúc bà tỉnh, Tùng hỏi:

- Bà có điện thoại anh Nam không để cháu gọi anh về.

 Bà vừa thở vừa nói: 

- Có nhưng bà làm mất rồi.

 Nói xong, bà đi vào hôn mê sâu.

Trong làng xã, Nam chẳng giao du với ai. Những lần về, chiều mẹ, Nam lên mộ tổ trên núi và nhà thờ họ thắp hương. Cứ làm xong là Nam về, không chuyện trò nên chẳng ai quan tâm đến Nam cả.

Hai ngày sau thì bà tỉnh lại, bà gọi Tùng đến bên:

- Cháu tính xem tổng số tiền bà chữa bệnh và trang trải đám tang hết bao nhiêu? 

- Chắc gần ba mươi triệu bà ạ.

- Thế nhà của bà bán được khoảng bao nhiêu?

- Dạ khoảng 70 triệu đồng.

- Bà còn hai mươi triệu để trong chum thóc cháu bán giúp bà cái nhà, chi mười triệu cho con cháu đến trông nom bà mấy ngày qua rồi giữ lại hai mươi triệu thắp hương ông bà tổ tiên hàng năm thay Nam. Làm ma chay xong còn lại bao nhiêu cháu đưa cho hai đứa cháu nội giúp bà. Bà muốn cháu nói với bà con xóm làng là tha thứ cho Nam, đừng trách Nam vì bà biết Nam cũng chẳng sung sướng gì.

Dặn Tùng xong, mẹ xóm Đoài lặng lẽ ra đi trong niềm thương tiếc của chòm xóm.

 

*

*    *

 

Nam nói với vợ:

- Anh thấy nóng ruột quá, chủ nhật này anh về thăm mẹ.

- Bà đang khỏe không việc gì đâu. Anh không nhớ chủ nhật này có hẹn đến nhà ông thứ trưởng à? Em đã mua cho bà điện thoại để bàn rồi. Hôm nào về ta lắp cho bà để tiện liên lạc. Dịp này em muốn anh tập trung vào việc như bố dặn, đề bạt viện trưởng xong, ta về vẫn chưa muộn anh ạ.

Tính từ ngày bà mất cho đến ngày Nam nhận quyết định Viện trưởng vừa tròn một tuần. Khi chiếc xe ô tô của Nam đỗ trước cổng anh gọi toáng lên:

- Mẹ ơi, con về đây này. Mẹ ơi! Mẹ ơi.

 Không có tiếng trả lời. Cửa vẫn cài chốt bên trong. Nam kiễng chân ngó vào. Bên trong có người, không phải một mà có nhiều người. Nam lay cánh cổng bằng tôn hỏi: 

- Có ai trong nhà không, mở hộ cửa với.

 Khoảng năm phút sau, Tùng đi ra nhìn Nam chằm chằm:

- Ông hỏi ai? 

- Tùng không nhận ra anh ư? - Nam ngạc nhiên - Là Nam đây mà.

 Tùng thủng thỉnh:

- Tôi chẳng biết Nam nào cả?

- Mẹ anh đâu?

- Mẹ anh chuyển chỗ rồi.

- Mẹ anh chuyển về đâu, cho anh biết đi.

- Ngoài… nghĩa địa làng.

Nam quát:

- Mày nói cái gì?

Tùng đưa cho Nam tờ giấy bán nhà, bản quyết toán tiền thuốc, chi phí ma chay và phong bì ba lăm triệu đồng, thêm năm triệu tiền phúng viếng. Mặt Nam tái đi rồi quay lại nhìn vợ, cái nhìn quyết liệt chưa từng có. Nam tiến lên vung tay tát vào mặt vợ rồi quát:

- Cô đã giết mẹ tôi.

 Người vợ nhìn Nam ngạc nhiên. Cô đã bắt gặp sự phản kháng dứt khoát chưa bao giờ có của chồng. Đột nhiên, cô bừng tỉnh nhận ra lầm lỗi của mình. Cô không khóc mà nhắm mắt đứng chờ cát tát tiếp theo của chồng. Nam tính vung tay lên tiếp thì Tùng lao vào vằn mắt lên và giữ tay Nam lại.

Nam buông tay ngồi gục xuống khóc hu hu: 

- Mẹ ơi! Con sai rồi. Con sai rồi…

 

*

*     *

 

Khu nghĩa địa làng nằm ở chân đồi thông nhìn xuống khe suối nước trong veo. Mộ bà mẹ xóm Đoài vừa chôn đất còn mới cỏ mọc lưa thưa. Vài nén hương cháy giữa chừng, đen sẫm vì mưa gió ngả nghiêng. Nam ôm mộ mẹ khóc như mưa. Vợ Nam quì xuống bên mộ bà nước mắt âm thầm chảy.

Mặt trời vội vã bị hoàng hôn nuốt trọn, trong ráng chiều loang lổ những vệt nắng đang tàn lụi, Nam liêu xiêu theo vợ đi ra xe.  

Đêm đó trời nổi giông. 

Sấm chớp rạch xé không gian vỡ vụn. Trên cao, những dòng nước xối xả đổ xuống nghĩa địa. Người xóm Đoài bảo nhau: Mưa thế này, những người dưới mộ mát mẻ lắm! 

Đại bàng và Thỏ trắng

18/02/2013

 

.KHUẤT QUANG THỤY

 

 

I

Như mọi khi, lại tắc đường. Đã là chuyện thường ngày, chẳng còn ai thấy ngạc nhiên nữa, dòng xe dòng người kiên nhẫn nối đuôi nhau nhích lên từng mét. Người đi xe máy còn có thể len lỏi tìm các khoảng trống, thậm chí trèo cả lên vỉa hè để lách lên, chứ đã ngồi trên ô tô thì chịu. Năm ngoái, nhờ  có thêm chút lộc vợ “về một cục” Vinh đã quyết liều sắm được một con “xế hộp” tầm tầm. Cứ nghĩ mình vất vả lầm than cả đời rồi, cũng chỉ còn non một năm nữa là về hưu, chả lẽ cứ thua bè kém bạn mãi. Hí hửng vì được lên đời, tọc tạch đánh xe đi làm được một tuần thì cả tuần đều đến sở muộn, tháng đó bị cắt thưởng, chi phí xăng dầu đội lên gấp mấy lần đi xe máy, lại kèm thêm hai xuất phạt vì đỗ xe sai qui định. Hạch toán ra thì thấy tiền lương của mình không thể đủ chi trả cho sự sung sướng được ngồi trên xe máy lạnh ngắm thiên hạ lầm than len lỏi trên đường phố chật cứng cùng những chiếc xe máy. Bèn quyết định lại xuống đường, hòa mình cùng nhân dân anh hùng mỗi ngày hai cữ đi và về từ nhà đến chỗ làm.

Chuyện kẹt xe ở Thủ đô người ta đã nói quá lâu, từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Và quá nhiều, từ quán nước vỉa hè, trong bữa cơm gia đình, phòng ngủ của vợ chồng đến diễn đàn Quốc hội. Nhưng nói thì nói, kẹt vẫn kẹt. Hình như người anh hùng, đấng cứu nhân độ thế có thể ra tay dẹp được nạn kẹt xe ở cái thành phố này vẫn còn chưa ra đời. Vì thế cũng chẳng nên sốt ruột làm gì. Cứ kiên nhẫn mà nhích dần, nhích dần từng chút một. Ba nhịp, bốn nhịp đèn đỏ rồi cũng sẽ qua được một ngã tư.

Vậy mà sáng nay cái ngã tư này làm sao vậy? Năm nhịp, sáu nhịp đèn đỏ rồi mà vẫn chưa qua được? Rất nhiều người đã văng tục. Thời buổi này cái sự văng tục ngoài đường đã trở nên mất giá đến mức nó chẳng còn khiến ai chú ý nữa. Vì thế Vinh cũng quyết định văng tục một câu cho đỡ sốt ruột. “Mẹ khỉ! Có cái con c… gì ở trên đó mà ùn hết cả lại thế này?” Không ngờ câu chửi đổng vu vơ của Vinh lại nhận được sự hưởng ứng. Một người đàn bà có cái mông to bè ngự trên chiếc xe ga màu đỏ  quay lại cười toe toét: “Đường xá thế này các ông có bày của quí ra người ta cũng chẳng thèm quan tâm đâu”. Một gã thồ mấy cây nước đá ngất ngưởng cười khớ khớ “Đúng luôn! Hôm qua có một cô điên “nuy” một trăm phần trăm đứng giữa ngã tư Trịnh Hoài Đức làm cảnh sát giao thông tình nguyện mà có ai thèm dừng lại xem đâu! Rõ phí cả cái l…!” Gã nước đá cố tình ngân nga, cảm khái khi phọt ra câu cuối cùng khiến cô nàng mông to cười ré lên: “Lão già mất nết! Đèn xanh rồi kìa. Cứ tít cái mắt lên rồi lại húc vào đít người ta bây giờ!”

Qua ngã tư, nhích lên được chừng hơn trăm mét thì mới rõ nguyên vì sao tắc đường lâu thế. Thì ra sáng nay trên con phố này có một siêu thị điện máy làm lễ khai trương. Một cái lều vải dựng trên vỉa hè với những hàng ghế trắng có thắt nơ đỏ, một đội lân đang nhảy múa, tiếng trống phách, thanh la não bạt vang lên inh ỏi. Và hoa, rất nhiều lẵng hoa bày tràn cả ra vỉa hè. Và… lạ chưa, thỏ trắng! Có tới vài chục cô chú thỏ trắng tung tăng nhảy múa trên hè phố. Có chú hứng chí nhảy xuống cả lòng đường đang ken dày xe cộ. Màn nhảy múa của bầy thỏ trắng có lẽ là hấp dẫn nhất, độc đáo nhất là “điểm nhấn”của buổi lễ khai trương này. Đến nỗi nhiều  người đi đường, trong đó có cả Vinh và lão “nước đá” như bị thôi miên, dừng xe, đứng ngây ra giữa lòng đường trố mắt ra nhìn khiến từ bốn phía bắt đầu vang lên tiếng còi xe gắt gỏng xen với những lời quát lác, chửi bới tục tĩu thì mới bừng tỉnh vê ga nhả phanh cho xe nhích lên. Thoát khỏi “khu vực thỏ trắng” một đoạn thì đường thông, Vinh thở phào thong dong phóng xe tới cơ quan. Vừa kịp để không bị lão bảo vệ xấu tính ghi vào “sổ đen” để cuối ngày báo cáo sếp.

Ngồi vào bàn, mở máy tính ra làm việc nhưng không hiểu sao đầu  óc Vinh vẫn mông lung. Bèn liếc nhìn qua bàn bên, thấy cậu đồng sự trẻ có vẻ không chú ý liền lén nhấn chuột vào mạng tìm trang “Mua may& bán đắt”. Gõ dòng từ khóa khai trương siêu thị điện máy… Và đây rồi… thỏ trắng! Bái phục thời đại công nghệ thông tin. Buổi lễ khai trương SIÊU THỊ ĐIỆN MÁY THỎ NGỌC đang được tường thuật trực tiếp trên mạng. Đàn thỏ trắng vẫn đang nhảy múa. Đoạn đường vẫn tắc nghẽn, đông nghẹt xe cộ. Và kia, cô nàng mông to với chiếc xe ga màu đỏ vẫn đứng đó nghển cổ chấp nhận làm khán giả một cách say sưa. Quan khách đã ngồi gần kín những chiếc ghế trắng thắt nơ đỏ. Giây phút long trọng đã đến, một dàn kèn đồng xuất hiện trước cửa siêu thị. Điều khá lạ là hơn chục nhạc công kèn đồng đều hóa trang thành những chú đại bàng trắng với những bộ trang phục lạ mắt với đôi cánh trắng, thắt nơ đỏ, đội mũ có mào màu đỏ. Một hồi kèn dõng dạc vang lên. Đàn thỏ trắng dừng nhảy múa, đứng xếp thành hai hàng trước lối vào siêu thị. Và cuối cùng… nhân vật chính xuất hiện. Đó là ông chủ của Siêu thị điện máy Thỏ Ngọc. Ông ta diện bộ comple màu trắng, thắt nơ đỏ giống y trang phục của các nhạc công kèn đồng, dĩ nhiên không có đôi cánh và cái mũ có mào đỏ. Quan khách đứng dậy vỗ tay rào rào. Một cú room cận của máy quay, khuôn mặt ông chủ siêu thị hiện lên choán hết màn hình. Và Vinh bỗng giật mình thảng thốt. Anh đã nhận ra hắn, đúng là hắn, hắn chính là Đại Bàng.

Vội vàng nhấc máy điện thoại, bấm số. Từ đầu giây bên kia một giọng nói thều thào,yếu ớt vang lên:

- Tôi nghe đây. Thức nghe đây.

Nhìn lên màn hình, Đại Bàng vẫn đang chém gió. Đàn thỏ trắng vẫn đang tung tăng nháy múa. Chợt Vinh thấy không nên nói điều định nói bèn hỏi một câu chiếu lệ:

- Em đây, anh Thức à. Nghe nói anh mệt nên gọi điện hỏi thăm thôi.

Cái tổ chim của đám lính trinh sát pháo trên chốt Động Mã được gọi là “tổ đại bàng” không phải vì nó quá hoành tráng mà vì nó gắn với tên của cậu tổ trưởng tổ trinh sát này. Cậu ta tên là Bàng, Trần Văn Bàng, từng tốt nghiệp trung cấp kế toán thương nghiệp. Thời đó, trung cấp đã là ghê lắm rồi vì ở các trường trung cấp chuyên nghiệp người ta dạy dỗ rất cẩn thận, ra trường là có chân trong các cơ quan Nhà nước hẳn hoi. Bàng vừa ra trường, được điều động về công tác tại một công ty chất đốt và vật liệu xây dựng làm kế toán được nửa năm thì dính kì tuyển quân, chưa phải là tổng động viên nhưng chỉ tiêu phân công về các cơ quan vẫn có. Công ty chất đốt khi ấy chỉ có ông giám đốc và Bàng là đàn ông, mà ông giám đốc thì đã vào tuổi ngũ tuần nên Bàng phải lãnh cái xuất chỉ tiêu này là đương nhiên. Bàng vui vẻ lên đường vì cũng chưa vướng bận chuyện gia đình, vợ con, ông giám đốc động viên rằng khi nào hết giặc trở về công ty thì cậu sẽ thay tôi làm giám đốc. Bàng cũng chẳng tin lắm vào lời hứa trời ơi đó, đi là đi thôi, biết sống chết thế nào mà hứa với hẹn.

Với dòng chữ ghi là “kế toán trưởng” trong hồ sơ nhập ngũ nên vừa xong đợt huấn luyện tân binh là Bàng được điều về trung đoàn pháo binh của sư đoàn làm kế toán pháo ở đại đội chỉ huy. Một đằng là dầu nhớt, than củi, gạch ngói xi măng, một đằng là tính toán các phần tử, xác định tọa độ bắn cho pháo binh là rất khác nhau, nhưng ngày ấy chỉ cần có trình độ tính toán đã là quí lắm rồi nên Bàng nhanh chóng được trọng dụng sau một thời gian ngắn được “đào tạo lại”. Khi sư đoàn hành quân vào chiến trường Bắc Quảng Trị, tuy chưa đánh trận nào nhưng Bàng đã được đề bạt làm tổ trưởng một tổ trinh sát pháo lên cắm chốt trên dãy Động Mã. Nhiệm vụ của tổ trinh sát này dĩ nhiên là quan sát các khu vực mục tiêu, xử lí các số liệu do trinh sát mặt đất báo về để xây dựng hệ thống dữ liệu, phần tử bắn cho các trận địa pháo tầm xa. Trong giai đoạn đầu của chiến dịch, sư đoàn tổ chức mấy trận đánh “cài thế” chủ yếu là chia cắt giao thông trên đường 9, pháo binh hỗ trợ khá tốt cho bộ binh tác chiến trên thực địa nên được cấp trên khen ngợi, tổ trinh sát trên đỉnh Động Mã được hẳn một cái huân chương, tiếng tăm của Bàng nổi như cồn, mấy ông trợ lí tác chiến, trợ lý ban pháo binh sư đoàn lên tận nơi úy lạo động viên và thân ái gọi cái đài trinh sát pháo ấy là “tổ đại bàng” và kể từ đó tổ trưởng Trần Văn Bàng trở thành Trần Đại Bàng.

Nhưng đến khi sư đoàn bước vào giai đoạn quyết liệt nhất của chiến dịch thì “tổ đại bàng” lại làm ăn ấm ớ.  Thế quái nào mà trong trận tiến công Chi khu quân sự quận lỵ Cam Lộ “tổ đại bàng” trên Động Mã lại chỉ thị cho pháo binh bắn trùm lên cả đội hình của đội dự bị khiến hơn chục chiến sĩ  bị thương, trong đó có cả ông  tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn dự bị, đó là tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Thức vốn là Trợ lý Ban tác chiến của sư đoàn vừa được điều xuống làm tiểu đoàn trưởng. Trớ trêu là chính ông này vừa  lên thăm và đọc quyết định khen thưởng của cấp trên cho  “tổ đại bàng”  mấy tuần trước. Cũng may chỉ bị thương nhẹ nên sau một tuần nằm điều trị vết thương ở trạm quân y tiền phương ông được ra viện. Trước khi về lại tiểu đoàn ông quyết định ghé thăm “tổ đại bàng” một lần nữa, nhưng lần này là để … thoi vào mặt tổ trưởng Trần Đại Bàng một nắm đấm và vung ra những lời chửi rủa rất thậm tệ cho hả cơn giận vì đã “đấm vào lưng” ông, loại  ông và hơn một chục chiến hữu khỏi đội hình ngay trước một trận đánh lớn. Những chuyện như thế xảy ra trong chiến tranh cũng là chuyện bình thường, chẳng mấy người lấy đó là điều, chẳng mấy người còn nhớ.

Tiểu đoàn trưởng Thức cũng nhanh chóng quên đi chuyện không vui đó. Nhưng Đại Bàng thì không bao giờ quên. 

Hơn chục năm sau, Đại Bàng trở thành Chánh thanh tra của Sở Thương nghiệp tỉnh vào đúng thời kì nền kinh tế của đất nước đang rơi vào khủng khoảng trầm trọng. “Cùng tắc biến”, những  chính sách mới ra đời với điểm khởi đầu là xóa bỏ “ngăn sông cấm chợ” để cho hàng hóa, nhất là lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng được tự do lưu thông trên thị trường. Ba ri e đã mở, nhưng đấy là trên tầm vĩ mô, còn nhiều điểm của chính sách mới chưa thật rõ ràng, chưa được “thể chế hóa”. Và trong cái khoảng nhá nhem sáng tối ấy nhiều kẻ đã biết tranh thủ làm giàu, nhưng không ít người cũng đã trở thành nạn nhân, thành tội đồ.

Anh tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn dự bị ngày nào cũng rơi vào cảnh ngộ ấy. Chẳng hiểu trời kia đất nọ xui khiến thế nào mà sau khi đất nước hòa bình thống nhất, Nguyễn Đình Thức lại trở về làm cán bộ mậu dịch? Anh được giữ một cái chức rất nhập nhằng là Trưởng phòng Kinh doanh tổng hợp của Sở thương nghiệp một tỉnh nhỏ vừa sáp nhập vào một tỉnh nhỏ khác để thành một tỉnh lớn, cái tỉnh lớn ấy dĩ nhiên có Sở thương nghiệp lớn mà Đại Bàng làm Chánh Thanh tra. Giống như mọi cuộc sáp nhập từ xưa tới nay, cuộc “sáp nhập” này cũng đẻ ra hàng loạt hệ lụy trong đó có việc đấu đá kiện cáo lẫn nhau để giành một vị trí chính thức trong đội hình lớn.

Trưởng phòng Kinh doanh Tổng hợp Nguyễn Đình Thức khi còn ở tỉnh nhỏ đã được tiếng là người thức thời, biết đi tắt đón đầu, xé rào làm một số vụ buôn bán “xuyên quốc gia” khá đình đám. Chủ yếu là tìm cách đưa được lương thực từ các tỉnh lúa Nam Bộ về giải quyết một phần nạn thiếu lương thực kinh niên ở một tỉnh chủ yếu là rừng núi và những vùng bán sơn địa chó ăn đá gà ăn sỏi. Khi còn trong “tỉnh nhỏ”, việc làm của Thức là chưa hợp pháp nhưng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt nên vẫn được lãnh đạo địa phương mắt nhắm mắt mở cho qua. Nhưng khi bắt đầu sáp nhập thì tất cả những “nghi án” đó trở thành thứ vũ khí cực mạnh cho những kẻ cơ hội. Đơn kiện Trưởng phòng Nguyễn Đình Thức tới tấp bay về Sở lớn và Trần Đại Bàng là người chịu trách nhiệm thụ lí đầu tiên.

Ngày Nguyễn Đình Thức về Sở lớn gặp Chánh thanh tra, nhận ra bạn chiến đấu cũ, anh hồ hởi chìa bàn tay ra. Đại Bàng nhìn trừng trừng vào mắt anh rồi cười khẩy, chỉ lên mắt mình:

- Cú đấm của anh ngày ấy khiến tôi sáng mắt ra nhiều đấy. Chính vì vậy nên tôi mới có ngày hôm nay.

Nghe cái giọng lạnh như băng ấy, Thức biết rằng tốt nhất là không nên nói gì nữa. Đại Bàng sắp gọi hỏa lực.Và dĩ nhiên lần này hắn sẽ chỉ thị mục tiêu một cách cực kì chính xác

Cường cá kình

25/01/2013

.MAI HƯƠNG

 

 

Tên khai sinh của gã là Lê Nam Cường, nhưng biệt danh của gã thì rất nhiều. Hồi trẻ, gã gầy lẻo khoẻo, đi lại có phần lả lướt nên bạn bè gọi gã là Cường cò lả. Tin đồn, hồi mới đi lính, sau ba tháng huấn luyện tân binh, gã bắn đạn thật chẳng trúng phát nào. Lần đầu, mắt gã ngắm mục tiêu mà cả tay và chân đều run sầy sậy, khi chỉ huy hô bắn cũng là lúc đũng quần gã ướt đầm. Chẳng hiểu thực hư ra sao nhưng câu chuyện ấy cứ âm ỉ lan truyền nên cái tên Cường cò lả cứ vậy mà đeo đẳng gã khá lâu. Trong cơ quan, có kẻ nói với gã rằng vì anh cao như tụi Tây nên em gọi anh là Wiliam Cường. Mới đầu không biết, gã thấy thích cái tên Tây sang trọng. Sau này, thấy vài đứa trong cơ quan bụm mồm cười khi gọi gã như vậy, gã sinh nghi. Tìm hiểu, hóa ra là chúng nó đểu, viết tắt của Wiliam Cường là W.C. Mẹ cha lũ mất dạy. Sau này, thân hình gã có “của ăn của để” một tý thì mọi người hay gọi là Cường cá kình. Gã có vẻ thích cái biệt danh đó hơn cả. Chính vì thế, có ai gọi điện, gã thường cao giọng trả lời: A lô, Cường cá kình nghe! Lâu dần, cái tên đó được mọi người chấp nhận vì nghe có vẻ chuẩn hơn cả.

 

Mặc dù dáng lòm khòm nhưng Cường cá kình vẫn cao hơn tất thảy mọi người trong cơ quan. Mái tóc xoăn bốc cao lại càng làm cho gã cao hơn. Cái miệng rộng, nói toang toác liên hồi khiến gã trở thành tâm điểm chú ý những nơi gã có mặt. Không có gã, cuộc nhậu trở nên nhạt nhẽo, vô duyên, anh em tản mát. Có gã, cốc bia hình như cũng sủi bọt nhiều hơn, câu chuyện râm ran hơn. Ở cơ quan cũng vậy, có hôm gã ngồi bất động trong phòng làm việc, chẳng nói năng gì nhưng không khí xung quanh vẫn khác hẳn lúc gã đi vắng bởi chỉ nhìn bộ dạng của gã thôi, người ta cũng đã thấy buồn cười. Gã hay mặc áo hoa sặc sỡ, đeo kính râm. Thỉnh thoảng nhìn gã, tôi lại liên tưởng đến Maicơn Giắcxơn. Ấn tượng nhất là đôi giày của gã, đen bóng và dài như một chiếc phi thuyền. Có lần đèn đỏ, dừng xe ở ngã tư, gã thả dàn hai chân dài ngoằng xuống đường. Một chiếc xe buýt trờ tới, nghiến qua chân gã. Mọi người dừng xe bên cạnh thót tim, kêu oái lên. Còn gã vẫn đứng trơ trơ. Hóa ra chân gã chỉ chiếm hơn nửa phần giầy.

 

Giống như AQ, nhân vật của ông Lỗ Tấn ở bên Tàu, gã có một điểm yếu, cấm đứa nào được phạm tới. Nguyên do tại gã bị vẩu nặng. Hội già, sống lâu với gã thỉnh thoảng bâng quơ “Ăn đu đủ không cần nạo” hay “Chân chưa đến Bờ Hồ, răng đã vồ Tổng hợp”, cái bách hóa tổng hợp ngày trước vốn ở bên hồ mà. Những tưởng cái tên Cường vổ, Cường vẩu, Cường xicavâu một thời đã lùi vào quá khứ thì nay lại được bọn nó bóng gió, văn vẻ. Sợ đụng chạm, bọn trẻ trong cơ quan thường phải tránh từ “không cần nạo” và “tổng hợp”, tất nhiên là cả những từ vâu, vẩu, vổ. Gã mà giận thì mất vui.

Hôm nào sếp đi vắng, bọn trẻ thường chạy mua quà vặt, phục vụ cả phòng. Khi thì bánh rán, lúc hoa quả, rôm rả phết, nhưng có lẽ màn ăn kem là thú vị nhất. Gã rất thích kem, ăn một cách say sưa. Một tay gã giơ cái kem ngang trán, tay kia cầm sẵn giẻ lau. Vì răng gã như thế nên khi ăn kem gã thường dùng lưỡi. Gã thè lưỡi, uốn lên cao để mút, mắt nhắm tịt trong khi tay kia liên tục cầm giẻ lau kem rớt trên mặt bàn.

 

Cơ quan tuyển nhân viên mới, gã là chủ tịch công đoàn nên cũng có chân trong hội đồng. Một bà ở phòng thí nghiệm có đứa cháu thi tuyển đợt này, lo lắm. Mai là vòng sơ khảo, phỏng vấn trực tiếp, bà gọi thằng nhỏ đến dặn dò:

 

- Mày đạt hết các tiêu chuẩn nhưng tao vẫn lo, vì mày học Đại học Tổng hợp.

 

- Sao cô lại lo thế? - Thằng cháu không hiểu thế nào.

 

Bà đành phải nói thật và dặn đi dặn lại thằng cháu:

 

- Trong hội đồng có một lão rất ghét từ “tổng hợp”. Mày cứ biết thế. Mà câu đầu tiên hội đồng hỏi bao giờ cũng là tốt nghiệp trường nào? Mày mà trả lời học Tổng hợp thì phạm húy. Vì vậy, nếu họ có truy thì mới được nói nghe chưa?

 

Thằng cháu bắt đầu lờ mờ hiểu cơ sự nên khi vào phỏng vấn, chủ tịch hội đồng hỏi:

 

- Anh tốt nghiệp đại học gì?

 

- Dạ, tôi tốt nghiệp Đại học Vật lý hạt nhân.

 

Thằng nhỏ cố tình dõng dạc.

 

- Trường nào?

 

Thằng nhỏ lúng búng:

 

- Dạ, dạ… đại học… Tổng hợp ạ.

 

Một vài người khẽ nhếch mép cười. Còn gã, mặt cứng đờ. Thằng nhỏ hú hồn, may cũng qua được vòng sơ khảo.

 

*

*     *

 

Học xong đại học, gã đi bộ đội theo lệnh tổng động viên. Rời quân ngũ, gã đi xuất khẩu lao động ở Nga. Hết thời hạn làm việc, gã ở lại buôn bán ở chợ Vòm. Có chút vốn liếng tích cóp được, gã cũng  lăn lộn lắm nhưng phập phù lúc được, lúc mất. Đến lúc trắng tay, gã trở thành kẻ làm thuê ở chợ. Ai thuê gì gã cũng làm, miễn là kiếm được tiền. Bản năng con người là kiếm sống. Bản năng ấy còn mạnh mẽ, khốc liệt hơn khi đằng sau gã còn cha mẹ nghèo và một đàn em nheo nhóc. Nhờ cái duyên ăn nói mà các chủ hàng thích gã chở thuê. Xe thường chạy trong đêm nhưng có gã lái, gã tán đủ chuyện, hết cả căng thẳng và buồn ngủ. Ban đêm chở hàng thuê. Ban ngày gã bốc vác. Có đoàn sang công tác ngắn ngày, cần mua tủ lạnh, nồi áp suất,… nhờ manh mối biết gã có năng khiếu mua hàng thì tìm đến gã. Thế là gã làm dịch vụ mua hàng. Năng khiếu của gã là đóng vai người tàn tật. Gần đến cửa hàng, gã bắt đầu lệch pha, méo miệng, tay khèo, chân đi cà thọt cà nhắc. Gã nhích từng bước rồi ngoan ngoãn xếp vào hàng người dài dằng dặc. Ai cũng tưởng gã là bệnh nhân đột quỵ. Sẵn có dòng máu lịch sự và đạo đức xã hội, tụi Tây không ai bảo ai, nhường gã hết. Cứ thế, nghiễm nhiên gã lên vị trí số một. Nhân viên bán hàng thấy gã vừa ngọng ú ớ, vừa chỉ chỏ mà ái ngại, liền đáp ứng hết nhu cầu của gã. Mỗi lần như thế, gã kiếm được cũng khá.

 

 Gã dành dụm, dè xẻn, chẳng dám phung phí lấy một đồng kô-pếc, thế gã mới có tiền gửi về cho cha mẹ ở quê nhà, quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Còn chút ít, gã dắt lưng, sau bốn năm về nước, gã mua được cái nhà nhỏ trong ngõ Lò Lợn, lấy chỗ chui ra chui vào, lấy vợ đẻ con, rồi cưu mang cả đùm ở quê, mỗi lần ra Hà Nội khám bệnh, đi chơi có chỗ mà tá túc.

 

 Tôi giúp gã về cơ quan. Thời đó, biên chế khó khăn lắm. Lúc đầu, chưa sắp xếp được công việc, gã làm bảo vệ, mất hai năm. Chân chạy như gã mà ngồi một chỗ làm bảo vệ, quả là thử thách. Thời gian đầu, gã có vẻ bứt rứt tợn, sau cũng quen dần. Làm bảo vệ, gã áp dụng nguyên tắc nhà binh với tất cả mọi người trong cơ quan và khách đến công tác. Ai cũng phải tắt máy, xuống xe, dắt bộ. Các bà, các chị là khổ nhất, xe to xe nhỏ, váy ngắn váy dài, guốc cao gót nhọn đều phải dừng xe ở cổng, dắt xe tuốt. Là khách, còn bị gã vặn vẹo chán chê, trình đủ các loại giấy tờ, gã mới cho vào cơ quan. Việc gã hắc xì dầu, giám đốc biết hết nhưng cũng chẳng làm gì được, vì gã làm đúng nguyên tắc. Chẳng qua cái thái độ của gã làm người ta khó chịu. Mà thái độ thì trừu tượng, khó bắt bẻ.

 

Đến khi có người về hưu, trống chỗ, gã mới được chuyển lên phòng nghiệp vụ. Gã không làm bảo vệ nữa, khách đến liên hệ công tác vào ra, thở phào nhẹ nhõm. Nhưng khách nào đến làm việc ở bộ phận của gã thì không thoát, vẫn phải gặp gã, vẫn bị nguyên tắc cứng đờ của gã hành hạ khổ sở. Nhiều người trong cơ quan cũng muốn góp ý nhưng lại ngại vì gã chẳng làm gì sai, vẫn chỉ là đúng nguyên tắc.

 

Ngoài điểm đó thì gã là người nhiệt tình, vui vẻ, thẳng thắn nên anh em tín nhiệm bầu gã làm chủ tịch công đoàn mấy khóa liền. Trong cơ quan ai ốm ai đau hoặc đám ma đám cưới đều có tay gã góp vào chăm chút. Nhưng, dù tôi có yêu quý gã đến mấy cũng phải nói thật: Gã xicavâu thế, làm chủ hôn thì được nhưng làm trưởng ban lễ tang thì có phần hơi thất lễ. Gã biết thế, nên đám ma nào gã cũng trang phục rất cẩn thận, đi lại nghiêm ngắn, đặc biệt hạn chế nói nhiều. Những lúc như thế gã trở nên một người khác hẳn mọi ngày.

 

Mùa hè, công đoàn đứng ra tổ chức cho anh em đi nghỉ mát. Sau khi lo xong xuôi chỗ ăn ở cho mọi người trong đoàn, gã dành thời gian chơi đá bóng với lũ trẻ. Đứa nào cũng yêu bác Cường, nhất nhất bác Cường. Đến khi xuống biển, gã ngồi trên bờ, ôm quần áo cho mọi người xuống tắm. Thế mà có đứa còn xỏ lão: Bố già cá kình ơi, không về với nước à? Bố sợ nhảy ngược sóng, mất quần đùi Ôlympic à?

 

*

*     *

 

Gã lấy vợ cũng là cả một câu chuyện. Gã quen cô nàng tại một đám cưới ở quê. Gã nhận chân dựng rạp, tưởng nàng là người nhà của chú rể nên gã sai nàng như sai ôsin. Gã đứng trên cây thị, dòng dây, phủ bạt. Cô nàng phụ bên dưới, một dạ hai vâng, thỉnh thoảng được gã động viên:

 

- Nào, cô em lấy hộ anh cái búa, lấy dây dù buộc lại cho anh, buộc cẩn thận vào, kẻo anh kéo lên nó lại tuột mất. Đấy, cô em giỏi lắm. Anh đứng trên này ngắm em làm việc mà thấy em đẹp ngời lên trong lao động đấy.

 

Cô nàng sướng, cười hích hích.

 

Đám cưới bạn xong, gã mới biết nàng là hàng xóm của nhà chú rể. Chưa đầy năm sau, nàng thành vợ gã. Vợ gã ở nhà nội trợ, chuyện gì cũng nhất nhất hỏi ý kiến chồng. Vợ gã tốt tính nhưng vụng, nhiều khi gã cũng bực vì một mình phải đảm đương mọi việc. Từ việc xin học cho con, đến con ốm con đau, nằm viện nào, cũng đến tay gã, rồi đối nội đối ngoại, trăm thứ bà rằn đổ lên đầu gã. Có hôm, gã vừa phóng xe vào cơ quan vừa điện thoại ào ào: “Người ta ở nhà mãi thì không đau, bây giờ tự dưng trở chứng kêu đau bụng. Chịu khó chạy ra đầu ngõ mua thuốc đi, cứ bảo mua berberin, họ khắc bán cho… Dở người à, giờ này tắc đường, đi mãi mới lên được đây, bây giờ lượn về nhà mua thuốc thì có mà tịt mẹ mấy lứa. Thôi được rồi, để tôi thuê thằng xe ôm nó mang thuốc về cho. Tiện thể, bảo nó đấm bóp luôn cho sướng”.

 

*

*    *

 

Gã là linh hồn của đám đông nên gã khuấy kiểu gì cũng vui. Thế mà…

 

Một hôm, tôi đang ngồi viết báo cáo trong phòng. Gã gõ cửa bước vào, dáng vẻ rất trịnh trọng :

 

- Kính anh! Biết anh đang bận làm báo cáo cuối năm nhưng em chỉ xin anh vài phút. Có việc muốn nhờ anh.

 

- Anh em với nhau, làm gì mà cậu trịnh trọng quá. Nào có gì, cậu cứ trình bày thẳng đi.

 

- Dạ, kính anh, em đã trình bày trong đơn rồi ạ. Dạ, em có chai rượu biếu anh. Anh cứ đọc xong, em mời anh uống chén rượu nhạt này, rồi em xin trình bày thêm. Bây giờ cũng hết giờ rồi mà anh.

 

Nói rồi, gã móc trong túi quần chai rượu vốt ca và chìa cho tôi tờ đơn xin chuyển công tác. Gã làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi vốn hiểu gã, yêu quý gã nên việc gã đột ngột xin chuyển công tác làm tôi hơi sốc. Gã mà chuyển công tác thì chắc chắn tôi buồn. Chẳng là tôi và gã gắn bó với nhau từ hồi đi lính, ở cùng Quân đoàn 2, chiến đấu ở mặt trận Tây Nam, rồi lại cùng nhau hành quân ra mặt trận biên giới phía Bắc. Mặc dù không cùng tiểu đoàn nhưng mọi hoạt động của gã tôi biết hết vì gã là lính cậu. Gã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Văn, lại có khiếu văn nghệ, ăn nói nên gã được phân công làm công tác tuyên truyền, văn hóa văn nghệ. Gã đi đến đâu, vui đến đó, động viên tinh thần của anh em, chiến sỹ rất nhiều trong các trận đánh.

 

Đọc xong, tôi đặt tờ đơn xuống bàn, nghe gã trình bày.

 

- Dạ, em ở đây đã hơn hai mươi năm. Nay, đã ngoại tứ tuần, trẻ chưa qua, già chưa tới nên cũng muốn thử sức mình ở lĩnh vực mới xem sao. Anh giúp em lần này nữa nhé. Với lại em muốn nhờ anh, phê cho em một câu trong lý lịch thế này: có biểu hiện hối lộ cấp trên.

 

Đang rưng rưng, tự nhiên gã chém một câu thế làm tôi bừng tỉnh. Cái biệt danh mồm chó vó ngựa mà hội bia bọt đặt cho gã cũng chẳng sai tẹo nào.

 

*

*      *

 

Bữa liên hoan gã chuyển công tác, có lẽ là vui nhất. Mọi người thay nhau nâng cốc chúc tụng gã, thực lòng ai cũng mong gã đổi đời. Người ta nhớ đến gã không chỉ vì gã tốt tính, hay giúp đỡ mọi người, không nề hà bất cứ việc gì mà còn vì cái duyên ăn nói trời cho của gã. Cả cái hình thức cá biệt của gã nữa. Trên người gã có đến mười mấy cái phụ kiện kèm theo. Một đồng hồ, một dây chuyền, một lắc tay, một nhẫn. Trong túi áo, hai chiếc bút bi xanh, đỏ, một kính, một lược. Nhưng khủng nhất là chùm chìa khóa thật to và có tới bốn chiếc điện thoại của bốn hãng khác nhau, giắt quanh thắt lưng. Mà cái nào gã cũng cài toàn nhạc sến. Chưa hết, trong túi quần của gã còn có cả cái múc giầy.

 

Riêng chuyện gã dắt quanh thắt lưng bốn chiếc điện thoại cũng từng là đề tài bàn tán ở cơ quan. Người thì bảo gã dở hơi, sĩ diện, nhà quê. Kẻ thì bảo gã làm ăn mafia lắm, kiếm tiền như rác, thế mới dùng đến những bốn cái như thế. Rồi câu chuyện không chỉ dừng ở đó. Nó lan truyền và được thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ. Nào là, ngày xưa hồi ở bên Nga lão làm ăn to lắm. Vốn liếng hồi ấy gã đã có cả triệu đô. Yêu một con Tây bị nó lừa nên mất sạch, phải ôm bọc quần áo rách quay về đây làm bảo vệ. Rồi thì gã làm ăn thua lỗ nhưng được mụ nạ dòng cỡ soái bên ấy cung phụng nên về đây, gã vẫn mua được cái nhà to đùng ở mặt phố Khâm Thiên, một tháng cho thuê cả ngàn đô. Gã giàu lắm, chẳng qua gã giả vờ vậy thôi… Chao ôi, cái đời sống công chức tẻ nhạt, khiến người ta sẵn sàng bỏ thêm muối vào bất cứ việc gì. Gã biết hết lời ong, tiếng ve nhưng gã phớt. Gã vẫn sống theo kiểu của gã. Một mình một kiểu, không giống ai.

 

Gã chuyển công tác, không khí cơ quan trầm hẳn. Thỉnh thoảng, áp lực vì công việc hoặc buồn buồn, tôi bốc máy gọi gã. Nhiều khi cũng chỉ để nghe tiếng a lô vui vẻ của gã, để được nghe gã buôn chuyện trên trời dưới biển cho sướng lỗ tai, xả stress cho đỡ căng thẳng.

 

Còn nhớ, hồi tôi ở cùng phòng với gã, phòng phải làm báo cáo gấp cho lãnh đạo mà gã thì mất tích từ đầu giờ sáng, trong khi gã giữ chìa khóa tủ tư liệu. Cả phòng “pó tay”, thay nhau gọi điện thoại nhưng đều nhận được thông báo ngoài vùng phủ sóng. Hết giờ chiều mới thấy gã mò về, mặt mũi bơ phờ. Bọn trong phòng lo thay cho gã vì bà trưởng phòng đang cáu tiết. Vừa thấy gã xuất hiện ở cửa, trưởng phòng mát mẻ:

 

- Anh sướng nhỉ, giờ này mới về cơ quan. Cả phòng ngồi chơi cả ngày nay, chờ mỗi mình anh để lấy số liệu làm báo cáo, nộp sếp trong hôm nay đấy.

 

- Dạ, xin bà chị bớt giận, nóng giận làm bà chị không xinh bằng lúc nãy. Em có tý việc, phải tạt về quê gấp quá nên không kịp báo cáo bà chị.

 

Nghe gã nói thế, cả bọn không nhịn được cười. Quê gã tận Sơn Tây, cách Hà Nội hơn bốn mươi cây số mà gã kêu “tạt” về quê. Trưởng phòng cũng không nhịn được cười.

 

Sau này, tình cờ trên máy bay vào thành phố Hồ Chí Minh công tác, tôi ngồi cạnh một người cùng làng với gã, mới biết lần ấy gã mất mặt, tắt máy di động cả ngày là do mẹ của bạn thân gã ốm nặng. Nhận được tin báo, gã phi về quê ngay, đưa bà cụ ra Hà Nội cấp cứu. Bạn chiến đấu cùng thời với gã ở biên giới phía Bắc, là thương binh nặng nên gã gánh trách nhiệm chăm nom bà cụ. Bà cụ mổ, nằm bệnh viện điều trị cả tháng trời, một tay gã chăm sóc, đón đưa. Thảo nào, trình bày với bà trưởng phòng xong, gã về phòng ngồi thừ mặt một lúc, có vẻ nghĩ ngợi nhiều. Gã bị tiền “vật”. Gã chẳng dư giả gì nên phải đôn đáo khắp nơi lo mấy chục triệu tiền thuốc men, viện phí cho bà cụ. Cả tháng đó, gã thoắt ẩn thoắt hiện, sắc mặt kém vui, hững hờ mọi chuyện.

 

 Lại được biết hàng tháng gã còn chu cấp một khoản tiền cho gia đình người bạn đó. Một mình gã đi làm, nuôi cả nhà bốn miệng ăn, con cái học hành. Vậy mà gã còn lo cho cả nhà bạn. Thế mới biết gã đã phải vật lộn rất nhiều với thu nhập hạn hẹp của một công chức. Gã cũng phải tay năm tay mười ra sao…

 

Bỗng dưng nghĩ đến gã, thấy mình thật hẹp hòi, thu vén. Cùng vốn là thằng lính với nhau nhưng chẳng giúp được điều gì cho bạn bè, đồng đội. Thấy người này, người kia xì xầm không tốt về gã, chẳng những không bênh vực mà còn hoang mang, nghi ngờ bạn mình.

 

Một lần, nhân dịp cuối năm, tôi gặp lại gã trong buổi gặp mặt cựu chiến binh của Quân đoàn 2. Gã thay đổi nhiều, tóc bạc, gầy và đen hơn trước. Duy chỉ có khẩu khí là vẫn như xưa. Gã nói nhiều về những dự án, về những công trình gã đang tham gia. Một luồng sinh khí mới đang thổi ào ào trong gã. Đang say sưa, bỗng dưng gã đột ngột chuyển chủ đề. Gã hỏi thăm cơ quan, hỏi thăm từng người. Giọng gã chùng xuống. Vài người nói, có hôm về muộn bắt gặp gã đứng bên kia đường, lập lòe điếu thuốc trong bóng tối lặng lẽ, gã đứng nhìn sang cơ quan, lưu luyến…

 

Dường như càng hiểu về gã, tôi lại càng cảm thấy như không thể hiểu nổi  gã. Gã bô lô bô la thế mà lại nguyên tắc cứng đờ khi làm việc? Bô lô bô la thế nhưng lại rất chu đáo với mọi người? Mồm chó vó ngựa nhưng vẫn trầm mặc, sâu sắc.

 

Gã thoắt ẩn, thoắt hiện hữu, hòa đồng và cô đơn với thực tại.

 

Thế mới biết hiểu được một người thật không dễ…

 

Lon Ghi-Gô

-“Nhìn kìa, thằng bé nhỏ xíu thọt chân chéo qua sườn xe để đạp trông vui hông! Tướng nhỏ chút như con khỉ ông Đặng Dưỡng bu trên chiếc xe đạp, giống như chiếc xe đạp tự động và không người lái mà biết chạy vây đó. Mà nó ở đâu mới xuất hiện đi bán bún trong xóm này vậy hổng biết, thấy lạ hoắc.”

Người thiếu nữ nói xong đưa tay ngoắt đứa bé đang chạy xe ngoài đường:

-“Nhỏ, nhỏ kia ơi, đem bún vô đây bán cho chị vài ký coi.”

Tiếng kêu của người thiếu nữ vừa dứt thì chiếc xe đạp đòn dông chạy chậm lại rồi đứng hẳn giữa đường. Một đứa bé vận quần đùi, áo nâu sầm, đầu trần chân trần đẩy chiếc xe đạp, trên ba-ga có buột một thúng bún tươi, vào cái sân nơi người thiếu nữ đang đứng. Nó đưa mắt nhìn người thiếu nữ xinh đẹp, rồi nói:

-“Chị à, bún này không bán cho chị đâu.”

-“Sao lạ vậy, bộ khinh chị không tiền mua sao?”

-“Không phải, bún này có người đặt rồi và em mang đi giao cho cái tiệm đằng kia nề. Sắp đến Tết rồi tiệm nào cũng đặt bún Mẹ em hết. Chị muốn mua mấy ký để một lát em mang lại bán cho chị.”

-“Vậy hả, lát nữa mang lại cho chị hai ký để chị cúng Tết, mà nhớ bún phải tươi không thì chị không mua đâu nghen.”

-“Mẹ em bán bún tươi không hà, chị khỏi lo, bún còn bốc hơi luôn đó.”

-“Ừ, nhớ bún còn bốc hơi đá nghen, bún mà không bốc hơi là em bốc hơi đó.”

Đứa bé nhe răng cười không hiễu người thiếu nữ kia nói gì rồi thọt một chân chéo qua chiếc xe đạp đạp đi. Tướng nó nhỏ và thấp chủn làm gì ngồi trên yên xe để đạp được!

Trong căn nhà nhỏ nằm trên đường lên Chợ Chùa, Hùng đang lau chùi những võ đạn canh nông to bằng bắp chưn, xong cưa bỏ phần cổ làm thành một cái ống ngay thẳng. Ở phần đuôi, nơi hột nổ đã bị phá, Hùng khoan những lỗ nhỏ cách nhau đều đặng trên những vòng tròn. Thế là những võ đạn canh nông bây giờ biến thành ống ép bún! Những trái đạn từ bên này hay bên kia đã đốt cháy nhà cửa và giết chết người đâu đó trên quê hương làng mạc của Hùng, những trái đạn đã biến cuộc sống gia đình Hùng từ vinh quang xuống bùn lầy! Bây giờ trong những võ đạn trần trụi đó con người lại tìm thấy miếng ăn. Ngày này qua ngày nọ những giọt mồ hôi nhuể nhại rớt xuống thành từng hột trong những lần quết bột và ép bún, Hùng đã mệt mỏi và không muốn nhìn những võ đạn này nữa. Đôi bàn tay chai cứng do suốt ngày cầm chày quết và nhồi bột đã làm Hùng nổi quạo mỗi lần nghĩ đến cuộc sống thanh bình nơi quê xưa. Có nhiều lần Hùng không chịu nổi sự cực nhọc đã vức bỏ mọi thứ và òa khóc như một đứa bé. Nhưng cuộc đời đưa vào ngõ cụt nên Hùng chỉ biết thầm khóc trong thân thể rả rời vì miếng cơm manh áo. Giữa nổi buồn tận cùng đáy lòng Hùng, thì một đứa bé chạy vô nhà hồn nhiên vui vẽ nói:

-“Tiền bán bún đây nề, anh thấy nhiều không.”

Hùng cũng không buồn nhìn mớ tiền đứa em vừa bán bún mang về.

-“Anh bỏ bún vô rổ đi, em mang đi bỏ mối nữa.”

Đứa bé lại chéo chân qua chiếc xe đạp chạy đi bỏ mối bún. Trời vừa qua cơn mưa, đường sá nhiều chỗ ngập nước. Đứa bé đạp xe băng trên con đường nó đi mỗi ngày, đến nơi nước ngập đứa bé vấp phải ổ gà, và, ập một cái chiếc xe đạp ngã chênh vênh. Rỗ bún trên xe trút nhào xuống vũng nước trên đường. Đứa bé đứng nhìn những con bún ngập nước, nó bỗng thấy lo sợ, rồi không một chút phân vân nó cuối xuống hốt hết bỏ vào rổ, rửa sơ lớp bún trên mặt và tiếp tục đạp đi giao cho tiệm ăn nọ. Người chủ tiệm không có gì thắc mắc, lấy rổ bún mang vô nhà và trả tiền đầy đủ cho đứa bé. Nó chạy về mà mặt mày vẫn còn lo sợ! Nó nói:

-“Tiền bán bún đây nề, em không đi giao bún nữa đâu.”

-“Sao lại không đi giao bún nữa?” Hùng hỏi.

-“Em sợ!”

-“Sợ cái gì?”

-“Không nói đâu.”

-“Chứ bây giờ em làm gì ăn?”

-“Em đi bán bánh mì.”

Sau ngày đó mỗi buổi sáng đứa bé lên lò bánh mì Chí Thành lấy bánh đi bán. Cuộc đời non dại của nó thật sự chưa hiểu được giá trị đồng tiền thì chuyện buôn bán lời lỗ chỉ là một khái niệm mù mờ, mù mờ như tuổi thơ của nó. Những buổi sáng tinh sương nó cõng trên lưng một bao bố bánh mì nóng dòn đi rao bán. Trưa về nó vui mừng đem khoe với anh Hùng rằng nó bán bánh mì lời nhiều lắm. Hùng hỏi tiền đâu, nó móc hết tiền trong túi đêm bỏ trên bàn. Hùng đếm xong rồi nói:

-“Hồi sáng anh đưa cho em 200 đồng đi lãnh bánh mì bán, bây giờ em bán hết bánh mì mà đêm về chỉ có 180 đồng, thì lời chỗ nào?”

-“Em thấy tiền nhiều lắm mà, bỏ đầy túi mà.”

-“Em bán bao nhiêu một ổ?”

-“Ba đồng.”

-“Ba đồng một ổ thì phải có 300 đồng chứ.”

-“Em không biết, em nói ba đồng một ổ, người ta dí tiền vào tay em, em bỏ vào túi em. Vậy thôi. Hồi sáng anh đưa có hai tờ giấy bạc, bây giờ em đem về một đống mà sao không lời?”

-“Thôi, nghỉ bán đi. Bỏ ra 200 đồng đi buôn mang về chỉ có 180 đồng mà nói lời quá chừng! Hai tờ hồi sáng là hai tờ 100 đồng, còn đống tiền đây là đống tiền lẽ. Ngu vừa thôi!”

Hùng nói trong bực bội. Nhưng thôi, trách ai đây. Ba tháng trước em chỉ là một đứa bé rong chơi, hồn nhiên như chú nai con. Nhưng bây giờ em phải lo đi buôn bán kiếm cái ăn cái mặc, em chỉ nghĩ bán buôn như những lần em chơi trò bán buôn với chúng bạn trong làng, thì tiền bạc có nghĩa gì đâu, vì đó là những tờ giấy bạc bằng lá mít!

Rồi cuộc đời thay đổi, một hôm đứa bé lên phi trường đưa cha vào Sài Gòn để lo cho mấy người anh phải bỏ học và lâm vào cuộc sống cực khổ. Ngày mua vé bà Khanh chỉ bán cho cha đứa bé một vé máy bay duy nhất. Đứa bé lủng đủng theo cha vào sân bay, và đi thẳng lên máy bay luôn mà không bị ai ngăn chặn. Đứa bé nghĩ mình được “đi chui máy bay” nên mừng hú vía. Khi vào Sài Gòn điều ngạc nhiên đầu tiên là cha đứa bé lắc đầu lia lịa, nói xứ sở gì đâu mà không thấy núi rừng, đi đâu cũng chỉ thấy ruộng đồng ngập đầy nước, và điều làm ông ái ngại nhất là những nấm mồ! Những nấm mồ nằm trong giữa ruộng đồng, những khi mưa lớn nước dâng cao tràn lên mồ mả. Nên ông nói chắc phải về quê thôi, về quê để khi chết khỏi bị chôn trong sình lầy!

Nhưng trước mắt ông phải đi làm để sống.

Ông chỉ là một người nông dân và nghề của ông là cày bừa ruộng lúa. Nhưng ở đây ông làm gì có ruộng để ông cày, ruộng của ông người ta đã cướp sạch rồi! Nên bắt đắc dĩ ông trở thành một lao công bến cảng, hằng ngày khuân vát những bao lúa mì từ dưới khoan ghe bầu để kiếm tiền nuôi vợ con. Nhưng không may trong khi lo khuân vác dưới hầm tàu ông bị những bao lúa mì đổ xuống đè gãy chân!

Những ngày nằm bệnh viện người chăm sóc cho ông chính là đứa con nhỏ đi chui máy bay ngày nào.

-“Du, con nằm ở đâu?”

-“Dưới nầy nề cha, dưới chân gầm giường của cha nề.”

-“Thôi được, để cha nói với nhân viên bệnh viện để con ngủ đây với cha.”

-“Họ thấy con nằm đây mà có nói gì đâu?!”

Rồi hằng ngày đứa bé lo cơm nước thuốc thang cho Cha. Thỉnh thoảng ông thấy đứa bé gặm bánh mì thịt, ông hỏi:

-“Tiền đâu con mua bánh mì?”

-“Người ta trả công cho con.”

-“Con làm gì ở đây mà trả công? Hay là con xin ai. Con không được xin tiền ai nghe không.”

-“Cha coi nề, con có cái lon ghi-gô (guigoz) nầy nề. Mỗi ngày con dùng lon ghi-gô đun nước sôi cho mấy chú bác nằm chỗ kia và họ cho con tiền. Con còn trong túi nhiều tiền lắm, cha muốn ăn gì hông con mua cho cha.”

-“Mới đây con không biết đếm tiền, đi bán bánh mì lỗ hết vốn mà nay con biết làm ra tiền rồi sao! Ôi cũng chỉ vì chiến tranh mà ra!” Ông nói trong nghẹn ngào.

-“Cha không biết đó chứ mỗi ngày con dọn dẹp, ném rác, đun nước sôi và chạy ra kia mua bánh mì thịt giùm cho mấy chú kia, mấy chú cho con tiền chứ con có xin ai đâu. Ngoài cửa bệnh viện có mấy xe bán bánh mì thịt ngon lắm, để con mua cho cha ăn.”

-“Làm sao con đun được nước sôi?”

-“Con đun dưới gốc cây ngoài vườn kia. Con dùng lon sữa ghi-gô, đặt ba cục gạch làm ông táo rồi con lượm cuổi khô trong vườn để đun nước. Ở đây không hiểu sao mà người ta cần nước sôi nhiều lắm cha.”

-“Con của cha bây giờ giỏi rồi!”

-“Thôi, con buồn ngủ rồi, sáng ngày con mua hột vịt lộn và bánh mì thịt cho cha ăn.”

Ông kêu đứa con lại gần đầu giường rồi nói:

-“Tội nghiệp cho con quá, mấy đứa kia vì việc này việc khác, chỉ có một mình con bỏ học lo cho cha thôi.”

Xong ông nói nhỏ những gì trong tai đứa bé, những lời nguyện cầu và dặn dò nhở sau này ông không còn sống nữa. Rồi đứa bé cũng thiếp đi dưới chân giường của người cha. Có nhiều đêm nó biết cha nó thức giấc giữa đêm nói lẩm bẩm những điều bực bội và không ngủ được, vì chân ông bị ngứa muốn điên lên mà không gãi được! Những con rệp chun vào nơi bó bột của cái chân ông và sinh sôi nẫy nở trong đó. Chúng cắn và hút máu để sống, làm ông đau ngứa muốn điên lên nhưng không làm sao đụng tới chúng được. Ông chỉ biết nghiến răng chịu chết để đám rệp hoành hành nổi đau trên cơ thể!

Một thời gian sau Bác Sĩ bệnh viện Saint Paul báo cho gia đình ông biết là căn bệnh của ông đã di căn và không còn cách chữa. Họ bảo mang ông về nhà với gia đình vì ông chỉ còn vài ba tháng. Trong những ngày cuối cuộc đời bổng nhiên ông thích ăn hột vịt lộn, thức ăn khó tiêu vậy mà ông cũng đòi cho bằng được. Lúc còn tỉnh táo ông nói với vợ con bằng cách nào cũng đem ông về quê để mất, ông sợ cảnh mồ mả nằm bên cạnh ruộng nước! Rồi ngày đó cũng đến, gia đình mua vé máy bay một chiều đưa ông về quê, nơi ông sinh ra, lớn lên và gắn bó gần cả cuộc đời. Ngày đưa ông lên phi trường có đầy đủ vợ con ông, nhưng người đưa ông về quê chỉ có vợ và đứa con gái út. Đứa bé ngày ngày nuôi ông trên bệnh biện theo ông vào phi trường, nhưng lần này nó không được “đi chui máy bay”. Nó mở lon ghi-gô lấy nước cho cha lần cuối. Nhìn cha âm thầm đi vào cõi chết mà nước mắt nó chảy dài trên gò má.

Khi máy bay cất cánh đứa bé đưa mắt nhìn theo đến khi chiếc máy bay khuất bóng vào chân mây. Cái lon ghi-gô trong tay bây giờ trở thành vô dụng. Nó bước chân ra về trong tiếng kêu lẻng kẻng của chiếc lon ghi-gô lăn lóc trên mặt đường. Nó nhớ có lần ai đó kể câu chuyện “Chiến tranh và hòa bình” nghe bi thảm lắm. Nó cuối mặt bước đi, mắt u buồn và hiểu rằng, từ đây trên cõi đời này, sẽ không còn có Cha nữa!

- See more at: http://elib.quancoconline.com/ui/ViewContent.aspx?g=120043#sthash.eeA2qHfo.dpuf

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: