Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

TRUYỆN NGẮN LENGHIA3

CON GÀ CỦA BÀ

Kể tuổi tác thì chị mái này đã sắp thành lão bà trong làng gà. Chẳng biết vì sao mà bà lại quý nó đến thế. Ngay cả trong thời son trẻ nó cũng chẳng nhan sắc gì cho lắm. Lông độc một màu vàng phờ phệch. Càng tuổi tác càng phờ phệch. Được mỗi cái dáng son sẻ, chân ngắn, đầu nhỏ, mỏ to. Và mắn đẻ. Đến một nửa đàn gà là con cháu của nó. May cho bọn gà, trời không phú cho cái khả năng tự hào nhớ ơn vớ vẩn. Chứ không, suốt đời chịu đựng bà cụ tổ già cốc đế mà vẫn có vẻ tinh anh sống sờ sờ bên cạnh thì cũng tàn một đời gà.

Đàn gà là niềm tự hào của bà. Nhớ năm ấy chiến tranh đánh phá lần thứ nhất vừa dừng. Từ một cái làng có những người đàn ông đàn bà tóc lõa xoã quanh vai đi lại thoăn thoắt trên những con đường cỏ mọc thẳng từ ruộng lầy bước mỗi bước lại rùng rà rùng rình, bà dẫn bầy cháu lít nhít trở về. Nhà của bà, bộ đội đóng quân vừa rút đi, trống huơ trống hoác từ mái cho tới nền. Bà làm một mâm cơm cúng ông, rồi sai mấy chị em xếp gạch vỡ quây một góc bếp lại, đặt mấy thanh củi gộc lên trên. Rồi bà trịnh trọng tháo lạt chằng cái rọ vốn dùng nhốt lợn con đem bán ở chợ, nắm hai cổ chân chị mái vàng kéo ra, thả vào đó. Không biết bà xin giống nhà ai, nhưng lúc đó con mái vàng đã lớn và chỉ mấy hôm sau nó đã quen chuồng rồi nhảy ổ. Lần sơ tán sau, cách đó mấy năm, ngoài bầy cháu và mấy cái tay nải, đi đâu bà cũng sai chị Ty xách theo cái rọ nhốt con mái vàng. Bà cứ một mực là giống nó tốt. Tốt gì mà tốt. Về già, con mái vàng đẻ trứng bé như trứng chim. Có đập cả lứa trứng của nó rán ăn một bữa cũng chẳng đủ cho ba cái mồm háu đói của mấy chị em. Đã thế, con mái vàng lại mắc tật ấp bóng. Cứ được vài trứng là nó nằm xềm xệp trên ổ, xùy thế nào cũng chỉ tục tục hết sức thảm thiết nhưng nhất định không chịu nhảy xuống. Mấy lần bà đã phải túm cẳng nó mang ra sông dìm nước cho quên cái thói ấp vô tội vạ.

Trừ cái tội ấp bóng này con gà già chả có vẻ gì là lẩm cẩm. Mấy con ngan ục ịch vẫn nằm vầy bùn chỗ nhà hàng xóm đặt chum nước hết sức kính nể nó. Con mèo mướp thì sợ nó hết hồn. Chú mướp thường nằm lim dim hong nắng ở góc sân, nhưng hễ con gà già vỗ cánh lạch phạch rời gốc chuối là mèo ta lừ lừ lảng. Sợ mẹ mái già này là phải. Hồi mấy bà cháu tha nhau vào sơ tán trong Đồng Mít, con gà già đã lập chiến tích đánh nhau với cả quạ làm lũ trẻ con sướng mê tơi quên cả nhảy xuống hầm lúc máy bay tới. Nó không hãi cả con cầy hương tai quái ở rệ đê đã cắn cổ không biết bao nhiêu gà trong xóm. Bọn trẻ trong nhà, từ chị Ty trở xuống, nó coi khinh, cứ thản nhiên mổ ngô phơi trên cái nia đặt đầu mé sân, không thèm để mắt tới cái sào gảy rơm chị Ty tự trang bị. Điều quan trọng nhất khiến con gà già được tất cả bọn chó mèo vịt ngan trẻ con kính nể là sự bao bọc rất không công bằng bà dành cho nó.

Ở nhà quê, gà qué sẵn nhưng là để bắt mang ra chợ kiếm món tiền trang trải vào trăm ngàn việc. Năm thì mười họa các nhà mới làm thịt một con. Còn thì toàn chờ đến lúc có dịch gà toi mới lo xơi cuống xơi cuồng. Bà thì hơi khác. Tại vì trong nhà từ bố mẹ cho tới các cô chú ai cũng thoát ly đi công tác ngoài Hà Nội cả. Bà nuôi gà chỉ để tiếp tế cho người nhà nước lương ba đồng ba cọc. Những lúc chỉ có mấy bà cháu, bà hay lên cái chợ đầu cầu mua tép đánh giậm, hay chờ chiều tối đón thuyền chài hỏi mua cá về kho tương với lá gừng ăn quanh cùng rau cỏ trong vườn. Rau muống, rau dền, lá sắn, ngọn khoai, rau ngót, rau cần... Cùng lắm thì bát canh rau tập tàng, vài ba lá mảnh cộng, dền cơm, rau muối nấu láo nháo với dăm ba lá ớt. Ăn thế cũng đủ để mấy chị em chưa hết tháng đã đả hết tiêu chuẩn gạo mì bố mẹ đưa về. Nhưng những khi bố mẹ với cô chú về hay lúc có khách thì bà phóng tay bắt gà. Con thì thịt, con thì bà lấy rơm trói cẳng treo dốc đầu ghi đông xe đạp cho mọi người mang ra Hà Nội. Lúc thì bạn bố mẹ tiện đường lên nơi sơ tán thăm con cái tạt qua thăm mấy bà cháu. Lúc lại là người cùng làm một chỗ với cô với chú đi công tác ghé qua cho biết nhà. Bà chẳng để ai về tay không. Mãi sau này mấy bà cháu mới biết các cô chú khách đó chẳng phải ai cũng thật vì tiện đường mà ghé, mà là người của chi bộ đi thẩm tra lý lịch để xét kết nạp Đảng mấy cô chú trong nhà. Có khách, bà thịt gà làm cơm ngon, bớt hẳn món khoai khô độn, còn ngoài ra, tứ thời mấy bà cháu trung thành với cá mú. Mà nói cho đúng, cá mú chỉ béo mồm mấy chị em, bà thì chỉ hai vực cơm với mấy quả đỗ non, hạt lạc kẹ, hay mươi đọt lá núc nác đắng teo lưỡi bỏ nồi cơm hấp lên.

Thành thử ở nhà quê mà mấy chị em chỉ nhớ độc có một lần ăn thịt gà chua cả răng. Đó là hồi chạy lụt. Trận lụt năm ấy đến là to. Nhà bà ở ngay bên bờ đê, nhưng chỗ đất cao. Kể nước có dâng nữa cũng chưa mùi mẽ gì nếu không có chuyện chia lũ về sông Đáy cứu Hà Nội khỏi ngập. Chạy lụt, chợ búa không có, rau cỏ cũng không, chẳng có gì nuôi gà, mang được con nào theo bà thịt bằng hết cho các cháu trong nhà và trẻ hàng xóm ăn. Ăn thế dĩ nhiên là chẳng còn ngon lành gì.

Nếu không tính cái lần ăn thịt gà trừ rau ấy ra thì sau lúc từ giã bà trở ra Hà Nội, mỗi bận thịt gà đều là sự kiện với chị em Tâm và trẻ con hàng phố vào cái thời cả lũ vẫn phải thay bố mẹ đi xếp hàng mua lương thực thực phẩm chất đốt và đứa nào cũng thuộc tem phiếu hơn cả thuộc bài. Bao nhiêu ngày tháng đã qua, và Tâm vẫn khảnh ăn, thế mà những điều bé nhỏ như thế Tâm nhớ mãi. Như mỗi lần thịt gà. Thường là ngày nhà có giỗ. Hay cảnh thằng bạn bị mẹ tát cho lệch cả mặt khi hãnh diện khoe có ông bác được treo ảnh ở Bờ Hồ. Thằng bạn chưa biết chữ không biết ông bác vượt tuyến vào Nam không hề có tên trong lý lịch của bố mẹ nó, cũng không biết là ông bác vừa bị bắt sống trong chiến dịch gì đó mùa khô năm đó, và cái ảnh ông bác được phóng rõ to trên bảng tin thắng trận treo ở phía trước câu lạc bộ Thống Nhất, to đến mức đứng đầu Hàng Khay cũng nhìn rõ đã làm cả nhà nó sợ rúm tứ túc, họa chăng chỉ có ông bà nó là mừng.

Thằng bạn và Tâm thân nhau từ hồi bé bằng cái mắt muỗi. Một tình bạn phải đi vào bí mật để trốn những lời chế của bọn trẻ cùng ngõ thành thử vô cùng sâu sắc và đầy sẻ chia. Nên cái cẳng gà và nắm xôi được mẹ dành riêng trước bữa bao giờ Tâm cũng mắt trước mắt sau đem cho nó, dù rằng thèm đến mức không dám nhìn nó ăn. Mỗi lần nhà thịt gà như thế đều là một sự kiện có khả năng phát triển tình bạn bé nhỏ và đẹp đẽ giữa hai đứa. Nhưng Tâm nhớ những lần đó như một sự kiện trước hết là bởi cái chết của con gà già.

Cái hôm đó chú về bất chợt. Suốt cả tuần nghe phong thanh Hà Nội bị B52 rải thảm, ruột gan mấy bà cháu nóng như lửa đốt. Tâm và ông anh kế thì chỉ mới biết sợ. Bà hết đứng lại ngồi lại loanh quanh lên đầu cầu ngóng tin. Còn chị Ty thì ra sau vườn củ bột ngồi khóc thầm. Chú về báo tin bố mẹ và các cô chú còn nguyên vẹn, mấy bà cháu nhẹ hẳn người. Bà mừng, luýnh quýnh suýt quên cả chuyện đi giúp một nhà có đám. Quay ra quay vào mấy lượt, lúc thì đậy điệm lại nồi cá vừa kho, lúc lại châm thêm nén hương đặt vào thúng chuối rấm đất đèn thúc cho mấy nải chuối chín nhanh, cuối cùng bà hạ lệnh:

Hôm nay bà đi ăn cỗ một mình. Mấy đứa ở nhà chơi với chú. Rồi chốc nữa mấy chị em bốc nắm thóc lừa bắt con gà chú cháu thịt mà ăn. Đừng có phần bà nhé - Bà moi từ thắt lưng đồng bạc đưa chị Ty

Bảo em chạy ù lên chợ đầu cầu mua lấy rá bún về. Bà ngâm măng để giỗ ông, chắc được ăn rồi. Con luộc qua rồi nấu bún măng cho chú với em ăn. Chặt gà nhớ để cho em cái cẳng.

Bà tong tả gánh hai cái thúng bên đựng gạo bên đựng buồng chuối xanh đi đến nhà có đám. Cái viễn cảnh được gặm ít nhất là một trong hai cái chân gà làm Tâm khuây ngay nỗi thất vọng không được theo bà. Mấy chị em râm ran vâng dạ, rồi lại vâng vâng dạ dạ nhưng bớt phần râm ran hơn khi ông chú trẻ cân nhắc một hồi rồi ra chỉ thị thực hiện lệnh của bà:

Thôi! Con Ty đi nấu cơm. Có biết nấu cơm độn mỳ không? Chú mới mang về. Thổi thử xem mì tháng này có ngon không? Kia kìa. Con gà già ngủ gật ở gốc chuối kia kìa. Ra lấy cái lồng chụp nó mang vào chú thịt. Thịt gà rang gừng, đợi chiều bà về ăn cùng. Được chưa? Còn giờ thì ăn cá kho. Gớm, chạy bom chạy đạn có cái mà ăn thế là bố tướng rồi - chú cười cười nhìn Tâm bùng xụng bùng xịu - chúng mày được ở với bà, chứ đi sơ tán cùng bọn trẻ con cơ quan bố mẹ chúng mày ấy à...

Con gà già tự tin đến nỗi không thèm rảo cẳng khi chị Ty vác cái lồng đi tới. Kết quả là chị Ty chụp một phát đã trúng. Nồi thịt gà rang thơm phức kích thích mấy chị em suốt cả chiều. Bóng bà xiêu xiêu đầu ngõ lúc trời nhập nhoạng làm mấy chị em mừng. Bà vào nhà, cởi cái bao lưng đũi chỉ thắt vào những dịp đi đám cưới đám giỗ trong làng, lần lần móc từ trong đó mấy miếng cau nhặt ở đám về, rồi ngồi xuống bên cái mâm chõng, giục giã:

Mấy chú cháu ăn đi chứ chờ bà làm gì! Mà có mỗi con gà sao không ăn hết từ trưa lại còn để rang gừng nhiều thế này?

Chị Ty ấp úng:

Con gà già bà ạ...

Bà quên cả mấy miếng cau:

Cái gì? Con gà già làm sao? Mày thịt con gà già của bà rồi à? Sao lại thịt con gà già?

Chú vui vẻ:

Con bảo các cháu đấy mà u. Nó già quá rồi còn gì. Đẻ trứng chả ra trứng. Dai nhách. Mấy đứa tý nữa có gắp ăn khéo phải đạp chân vào tường mà rứt. U tiếc nó làm gì. Gà cả đàn. Lần này đi con chỉ xin trứng thôi, không mang gà của u theo nữa đâu.

Ôi giời ơi con ơi. Nào có phải mẹ tiếc đâu. Nuôi gà không để mà ăn thì để thờ à. Nhưng sao mày không bảo chúng nó bắt con khác, để con gà già ấy sống cho u...

Bà lẩm bẩm, thần người ra, và không hề động đũa một lần đến đĩa thịt gà, cứ bần thần như thế suốt bữa. Chú thở mạnh đến mức cả mâm nghe rõ. Mấy chị em Tâm cắm cúi ăn, cảm giác rõ ràng không khí quanh mâm y như lúc trời ỳ ạch nổi giông. Ông chú trẻ phát cáu thật:

U không thích thì cũng gắp lấy một miếng cho bọn trẻ nó ăn. Mấy đứa ăn mạnh dạn lên chứ sao lại ngồi nhấm nhót thế. Cái con TuTy này... Đưa bát đây chú cho miếng đùi... Đằng nào thì cũng thịt nó rồi. Không lẽ u lại thích cung phụng con gà già này cho đến lúc nó chết thì đem chôn. Nó sống thế cũng gần hết tuổi trời cho rồi. Hơn cả bao nhiêu người. Kia kìa. Mới tuần rồi Hà Nội bị B52. Tận ngày hôm qua con với anh cả vẫn còn phải cùng anh em tự vệ dọn dẹp Khâm Thiên....

Bà luống cuống:

ấy ấy con. Đừng to giọng thế các cháu nó sợ. U hôm nay ngồi cùng mâm với mấy bà, các bà ấy cứ gắp cho, thịt mỡ mỡ là, không muốn cũng phải cố ăn, giờ vẫn còn đầy bụng chứ không phải là... là... U có tiếc gì con gà. U chỉ thương nó. Con gà già đã sống sắp hết đời nó rồi. Thời buổi này... Biết đâu nó sống được hết tuổi trời, nó lại chẳng được hóa kiếp...

U thì chỉ... Nếu có kiếp sau thì chết kiểu gì mà chẳng hóa được. U muốn con gà già được hóa thành kiếp gì? Kiếp người nhé! Hoá kiếp người thì được ăn thịt gà như thế này là cùng chứ gì? Rồi theo nhau chết cả đống. Rồi lại hóa kiếp. Kiếp gì?

Chú nói nửa than vãn nửa cãi giả. Trong nhà chưa lần nào chưa có ai dám ăn nói với bà như thế. Mấy chị em Tâm im thin thít, quên cả nhai. Bà mắng chú, rất nhẹ lời:

Anh này ăn nói đến hay. Khổ nhục thế nào thì cũng là người. Biết sống ra người thì chết thế nào cũng vẫn lại được làm người. Nói thế phải tội con ạ.

Chú im. Bà nhìn mấy chị em Tâm, nhìn chú, đưa đũa về phía đĩa thịt gà. Gió thốc vào căn nhà nhỏ của bà. ánh đèn dầu chập chờn. Mấy chị em lén nhìn, sợ sệt. Cái gì như nước lóng lánh trên gương mặt của cả bà và chú.

CẬU ẤY MAY LẮM ĐẤY

Lần đầu tiên mà tôi giơ khẩu súng lên, sắp bóp cò để bắn con chim gáy đậu trên ngọn tre, trong lòng tôi xốn xang vô hạn.

Thì các bạn hãy thử nghĩ xem. Ngón tay này mà tôi co lại ấy là kết liễu một sinh mệnh. Mà cũng viên đạn nhỏ xíu, cũng cò máy xinh xắn ấy, trỏ nó vào bụng người ta, mà làm một phát tức khắc mình trở nên đồ sát nhân, bị toà án xử cho mình mất chỗ đội mũ. Thế mà lại mang nó đi doạ dẫm nước khác để xâm chiếm đất đai, thì mình còn trở nên đồ phát xít bị báo Đông Pháp chửi bới nữa, mới "giết đệ" chứ!

Con chim gáy chẳng biết đang ở giây phút nghiêm trọng. Nó vẫn cúc cu gáy đều. Thế giá nó có chết cũng không thể cãi được rằng không phải số. Tôi bỏ hết những điều nghĩ ngợi vô ích, cố ngắm cho đúng để bóp cò. Phải, nếu tôi có bắn tài đi nữa, cũng không đời nào tôi có thể thành đồ sát nhân hoặc đồ phát xít được. Cớ ấy rất dễ hiểu, là tôi không có súng. Hơn nữa tôi là dân An Nam, lẽ tất nhiên không được phép tự do có khí giới để muốn doạ lấy nước nào làm thuộc địa cũng được.

Súng ấy nguyên là của ông bạn với chú toi. Vì hai ông đương ăn cơm trong buồng, nên tôi táy máy mang ra nghịch. Và nhân thấy có tiếng chim gáy ở đầu nhà, tôi bèn nếm mùi săn bắn xem nó ngon lành đến bực nào.

Con chim vẫn hót những tiếng véo von.

Đứng nấp ở cạnh đống rơm tôi hết sức láy gân, gò lưng ra đằng trước, tỳ mạnh đầu báng súng vào xương vai, áp thật ghịt vào má và nhắm kỹ một mắt lại trống ngực tôi nổi mạnh. Bụng tôi sôi lên ùng ục.

Đoành!

Lá rụng lạt sạt. Con chim tốt số vỗ cánh bay đi.

Nhưng bộp! bộp! Và đồng thời với hai tiếng rơi ấy, tôi thấy tiếng trẻ con reo ầm.

- A, hai con?

Tôi chửa kịp ngạc nhiên, thì nỗi mừng đã đến. Một đứa trẻ chạy vào cổng, đưa trả tôi một đôi chim xám vừa béo vừa to.

Trên nhà, mọi người nghe tiếng nổ, tất cả chạy ra sân Nhưng khi ai nấy thấy sự tinh nghịch của tôi đã đem về một kết quả phi thường, thì không những không ai mắng, còn khen tôi là khác. Một phát, tôi đã trúng hai con gầm ghì.

Ông khách lấy làm bái phục tôi, nói:

- Phát đầu tiên, Quốc nó đã tỏ ra là bắn giỏi. Rồi sau này, nó sẽ ăn đứt chúng ta.

Tôi cười lạt một cách nhũn nhặn, để ngoa ngoắt mà chịu tiếng khen. Tôi cảm ơn hai con chim khốn nạn đã hy sinh cho tôi được danh dự. Tôi lặng ngắm cây đa rậm lá mọc sau bụi tre, và nghĩ mãi không hiểu sao đôi gầm ghì này đỗ ở đâu, để tôi bắn lầm phải, đến nỗi chết một cách oan uổng.

Song than ôi, ở đời này, có biết bao nhiêu kẻ vô tài trở nên danh tiếng lẫy lừng do những sự tinh cờ tức cười hoặc biết bao nhiêu đứa xây danh dự mình lên trên đống thây đồng loại. Thì tôi mới giết oan có hai con chim, cái sĩ diện bắn giỏi của tôi nó có to gì mà phải nghĩ ngợi với ân hận?

Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Mà cố nhiên tiếng bắn giỏi là tiếng đồn lành. Nó đồn di xa lắm, vào tận Ninh Bình, lọt đến tai ông chủ đồn điền Quýnh.

Ông Quýnh có hơn tám trăm mẫu ruộng, mà chỉ có mỗi một con gái, mặc dầu ông bắn rất giỏi. Trong hai mươi năm trời, ông hạ được ba mươi con cọp bằng bốn mươi phát đạn. Người ta cứ bảo vì ông tàn sát nhiều thiên tướng, nên trời bắt tội ông không được có con trai. Chứ bắn giỏi, khoẻ lại hay bắn như ông, lẽ nào chỉ đẻ có mỗi một cô con gái? Nhưng cái đó thuộc về dị đoan.

Song, không hề gì. Miễn là ông Quýnh biết có tôi đây là nhà thiện xạ, để ông bằng lòng gả cô Mai cho tôi.

Ông Quýnh giàu hơn tám trăm mẫu ruộng. Cái mỏ ấy thực tốt cho những kẻ muốn khai. Trời sinh ra tôi tên là Quốc, lại sinh con gái ông tên là Mai. Hai chữ tên này thực hợp và cần cho sự đào mỏ bằng cuốc, bằng mai không nói. Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông còn cạn nữa là.

Ông Quýnh yêu cô Mai lắm. Lẽ đó cố nhiên. Ông muốn có con rể cũng như ông, nghĩa là bắn giỏi, để giúp ông giữ vững lấy đồn điền, sợ khi điền tốt "nổi loạn".

Điều đó không phải ông đã quá lo xa, vì ngoài sự ông đáng thờ vì có con gái đẹp và giàu, ông phải cái xấu là có tâm hồn Hít le, nghĩa là cứ thích chiếm ruộng đất của bọn dân nghèo khố ở sát cạnh khu vực của ông.

Khi chú tôi nghe tin ông Quýnh hâm mộ tiếng tôi rồi, thì ông nghiêm nghị bảo tôi rằng:

- Mày không xem chỗ nào có súng mà mượn để tập bắn, rồi về nhà người ta thì làm thế nào?

Chú tôi coi tôi như đi làm dâu vậy. Vì ông Quýnh vẫn tuyên bố, ai lấy con ông, tất phải ở gởi rể. Rồi một khi tôi đã được vác áo thụng xanh đến nhà ông, tôi lại không biết loay hoay khẩu súng thế nào, thì người ta bảo ở nhà có người lớn mà không biết dạy.

Trong việc hỏi Mai, bạn chú tôi làm mối. Sau lời quảng cáo phóng đại, lấy sự bắn đầu tiên mà chết cập rập những đôi gầm ghì làm chứng cớ, ông Quýnh đã hơi xiêu lòng.

Rồi sau hết, ông nói:

- Cháu nó cũng đã có nhiều người hỏi, song tôi xét ra toàn hạng văn dốt vu dát, tôi sợ không coi nổi cơ nghiệp này. Hiện nay cũng còn hai đám nữa, nhưng tôi chưa nhận lời. Vì tôi còn phải dò la lâu.

Thế rồi muốn cho cuộc nhân duyên mau mau có kết quả mối tìm dịp cho tôi làm quen với Mai. Chúng tôi vụng trộm thư từ cùng nhau. Và sau hai tháng trời tấn công ái tình bằng lối du kích, tôi bàn với Mai nên để cuộc yêu nhau này thành công khai, nghĩa là Mai cứ thú thực cùng cha để đòi lấy tôi cho kỳ được.

Ông Quýnh chiều ý con, nhưng nói:

- Tao cũng vẫn bằng lòng gả mày cho nó, nhưng tao muốn chờ khi nào người ta nói lại thì nhắn nó về đây, bảo nó đi bắn thử, xem tài nó thực hư thế nào.

Điều kiện ấy, tôi rất lấy làm lo ngại. Mà tôi ác cảm cái lối tuyển người trong thời buổi cạnh tranh này làm sao! Thì ra ai muốn chiếm được cái gì, cũng phải qua một kỳ thi. Chỉ trừ làm vua là không phải sát hạch gì hết, nên bất cứ thế nào cũng có thể chễm chệ trên ngai vàng, còn thì tuốt tuột là phải thi cả.

Ác hại quá, bây giờ tôi lại phải thi làm rể? Kỳ viết - viết thư tình cho Mai - đã trót lọt, nay đến kỳ khấu vấn. Mà kỳ khẩu vấn này, lại chẳng như những kỳ khẩu vấn thường dùng đến miệng người ứng thí, mà phải mượn đến miệng súng? Thật là lối nói chuyện của các bố phát-xít bên Âu châu. Song, ở phía trời Tây, mấy xừ ấy họ phát-xít vì họ muốn độc tài. Chứ nhút nhát như tôi, thì độc gì. Chửa nghe thấy tiếng súng đã són ra ấy. Có hoạ là độc dạ, vì mình quen theo chủ nghĩa phát xia?

Song, đã liều ba bảy cũng liều.

Về đến đồn điền, tôi được ông Quýnh tiếp rất chu đáo. Nên tôi phải gãi vào chỗ ngứa của ông:

- Thưa ông, quanh đây có rất nhiều chim. Nhất là mạn gần sông, lắm giang quá. Có lẽ ít lâu nay ông thưa săn bắn.

Ông Quýnh cười, gật:

- Phải, vì đến bốn tháng nay, tôi bận hết việc nọ đến việc kia, chứ trưa, ngày nào tôi cũng vác súng đi, thì chim chóc dạt đâu mất cả.

Rồi ông tiếp:

- Mai cậu cứ lấy súng của tôi mà bắn.

Tôi làm bộ ngại, để tỏ ra mình thạo:

- Nhưng lỡ có ai hỏi...

Ông Quýnh cười:

- Làm gì có ai dám hỏi. Trong đồn điền, toàn người nhà cả.

Tôi vui mùng:

- Thế thì thích quá.

Kỳ tình, đêm hôm ấy, tôi lo mê.

Hôm sau, không thể lấy cớ nhức đầu sổ mũi để trốn thi. Tôi định vác súng ra đi. Thấy tôi nai nịt gọn gàng, Mai mỉm cười, nhìn tôi rất tình tứ.

Trời nắng. Cái nắng tháng ba làm cho người ta dễ ốm, nếu người đi nắng không có một hy vọng tốt đẹp là lấy được vợ giàu.

Tôi đi rõ thật xa. Đến tận chỗ mà giá có tiếng to như tiếng súng, ông Quýnh cũng không nghe thấy.

Những đàn giang xoè cánh bay lượn trên không, làm rợp cá thửa ruộng. Nhiều con lò dò trên bùn lầy, ngỏng cổ lên bờ đường để nhìn.

Hay là bắn giang?

Đó là một ý hay. Giang to, dễ trúng. Tội gì tôi không nắm cổ những dịp may mắn tình cờ. Tôi lấy làm lạ cho những thằng đã hỏi Mai trước. Ý hẳn chúng nó cầu kỳ, cố tìm cho được những thứ chim hiếm có và bắn khó để khoe tài. Chúng nó ngu thì chúng nó chết. Ngày xưa, người ta mới kén rể bằng cách bắn sẻ, chứ ông Quýnh có thách như thế đâu? Âu là tôi cứ bắn những con giang to bằng cái mẹt này. Hễ ông chê giang không quý vì thịt không ngon, thì tôi sẽ chống chế là định tâm bắn thứ chim này để nhân tiện thử tài nội trợ của Mai một thể. Phải, với thịt giang mà Mai làm được món ăn ngon, thì thuyền quyên ấy mới sánh được vai anh hùng này. Hẳn là ông Quýnh không thể "truy" tôi vào đâu được nữa.

Tôi đứng nấp sau gốc cây, chờ dịp thuận tiện để đưa ra những phát đạn hùng dũng. Tôi dương súng ngắm kỹ, rồi bóp cò. Nhưng lần nào cũng vậy, những con nhát thì vỗ cánh bay đi. Nhưng con bạo còn quay cổ, lơ láo nhìn, rồi rắc lại ít phân làm kỷ niệm, mới bay theo các bạn.

Tôi xấu hổ.

Và nực nữa. Mồ hôi ra, vừa vì xấu hổ, vừa vì nực.

Tôi lại đi.

Lại một đàn giang nữa đậu ở bờ sông. Tôi phải báo thù cho hai phát ban nãy.

Đoành?

Cũng một lượt, chúng nó bay mất.

Ba viên đạn làm tôi nhục nhã.

Mà viên đạn cuối cùng trong túi, nó cũng chẳng tử tế gì đâu Tôi ngồi nghỉ ở cạnh đường, đặt súng vào lòng, thở dài. Hỏng, không khéo phen này thì mất vợ!

Tôi đã tính đến nước chuồn thẳng. Song không trôi.

Còn cái nó cạnh tôi, tôi không đem nó đi theo được.

Người An Nam không có tự do mang khí giới, thật là hết sức tai hại. Đã chẳng chiếm nổi một tý thuộc địa nào thì chớ, lại còn những lúc này, không thể mang súng của người khác mà đi bài tẩu mã được.

Thôi thì tôi đành vác mặt mo về đồn điền để hàng ông Quýnh và từ biệt Mai. Số phận của nhân duyên tôi phó mặc trời, chứ biết nói thế nào cho xuôi được? Đạn mang đi bốn, nay còn có một. Chẳng lẽ nói mình đau bụng, nên thấy trong có thuốc, đã trót nuốt chửng mất ba viên.

Khốn nỗi, thuốc ấy lại là thuốc súng.

Bỗng một ý kiến nảy ra trong óc tôi. Người thông minh nhanh nhẹn, láu lỉnh trong lúc cùng, thường bật ra được những mưu kế phi thường, các bạn ạ. Tôi chợt nhớ ban nãy, qua chợ, có thấy bán rất nhiều giang sống. Âu là tôi chịu hy sinh mấy đồng bạc để bảo toàn lấy danh dự vậy.

Tôi hăm hở đi.

Đến chợ, tôi mặc cả giang và chọn bốn con to béo nhất. Được lắm. Bốn phát đạn mang đi thì đây, tôi đem về bốn con giang nặng trĩu. Thiện xạ, thế chứ còn thế nào! Tôi xách giang đến một gốc cây, treo ghì cẳng cả bốn con vào cành, thiết rõ chặt, rồi dí miệng súng vào tận nơi, ngắm cho phát đạn xuyên qua cả bốn bụng, rồi mới mắm môi mắm lợi, bóp cò. Bay nữa đi?

Phát súng nổ, bốn con giang trước không thể cựa quậy được, nay thêm nữa là chết ngoẻo.

Tôi cởi trói, xách riêng từng con, đi về, sĩ diện như ông tướng.

Thấy tôi đến cổng, ông Quýnh chạy ra đón như đón một chàng rể hiền. Mai cũng mừng rỡ khen tôi rối rít.

Tôi làm bộ mệt nhọc, vứt giang ra hè, và thở, ông Quýnh nhìn bốn con chim ủ rũ, gật gù nói:

- Thế thì cậu bắn lần này may lắm đấy.

Tôi sung sướng, trỏ một con:

- Thưa con này, con phải đuổi theo nó đến mười thửa ruộng. Nó động thấy con là bay mất.

Ông Quýnh cười:

- Giống giang tinh mắt lắm. Cho nên bắn nó rất khó.

Thật là cậu rất may. Tôi càng đắc chí, trỏ con khác và nói khoác đẫy.

- Con này khoẻ quá, bị đạn rồi mà còn cố bay. Một suýt nữa nó sang bên kia sông thì mất. May quá, mới đến chỗ cây đề thì nó kiệt lực, đụng vào cành, rơi xuống.

- Phải, tôi đã bảo cậu may lắm mà?

Mai nhìn cha, nói:

- Cũng phải biết bắn, chứ cứ may thế nào được.

Thấy người yêu bênh, tôi càng như cởi tấm lòng.

Theo đà nói khoác, tôi trỏ con thứ ba.

- Con này thì mải ăn, con dò đến tận sau mà không biết.

Cả mấy người cùng cười. Ông Quýnh nói:

- Tham ăn cho chết. Tôi không mấy khi được những dịp ấy. Vì giống giang rất tinh mắt cho nên tôi bảo cậu may là đúng lắm.

Thấy tiếng may, tôi liếc Mai. Mai cũng nhìn cha, có ý không bằng lòng. Như thế đủ cho tôi rồi. Được Mai đồng ý, tôi hả hê lắm. Cho nên còn con thứ tư, tôi nói kháy ông Quýnh:

- Con này thì thật không tinh mắt tí nào, vì con đứng ngay đằng trước mà bắn, lúc nó đang nuốt dở con cá.

Ông Quýnh gật gù:

- Tôi bảo cậu may là đúng lắm, vì mọi khi giống giang rất tinh mắt.

Mai thấy cha cố dìm nhân tài, bèn lườm và nũng nịu:

- Thầy lại cứ bảo thế!

Ông Quýnh ngọt ngào cười, nhìn con gái, nhìn tôi rồi ngồi xổm cạnh bốn con giang, ông cầm cả bốn cái cố giơ lên như để phân vua, và giảng:

- Thầy bảo cậu Quốc bắn được lũ giang này là may lắm, thầy nói chẳng ngoa, vì xưa nay giang rất tinh mắt. Đây con xem nếu cậu ấy không may, sao tình cờ lại gặp cả bốn con bị khâu mắt sẵn thế này mà bắn bao giờ.

Thôi chết rồi! Tôi giật mình đánh thót, cố dương to mắt để nhìn kỹ. Bỗng cá trong người tôi như bị cái gì nó bò khắp mạch máu. Thì ra bấy giờ tôi mới trông thấy mắt giang bị khâu bằng chì thâm thật!

Trời ơi! Túi tôi hết đạn, tôi tự tử bằng cái gì bây giờ.

CHIẾC QUAN TÀI

Chiếc quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu. Một người đàn bà, quần áo nâu bạc, ngồi phệt ở bên, úp mặt vào cánh tay khoanh cạnh ván thiên, thỉnh thoảng hé vuông vải nhỏ mới, ghé ra ngoài xỉ mũi xuống nước. Gần đó, một thằng bé con, chỉ mặc một manh áo rách, thò cái gậy tre vừa đẵn, nghịch với những tăm bọt sủi trên mặt lượt bùn.

Bỗng bốn người đóng khố, lực lưỡng, đẩy chiếc mảng chuối áp đến hè, rồi cùng nhau vào, khỏa chân để rửa, nói mấy câu, và đứng lên phản, bắt tay vào cỗ ván.

Họ còng lưng, ưỡn ngực, để khênh cho thăng bằng. Song, họ không thấy nhọc nhằn, vì chiếc áo quan ấy nhẹ quá. Nó bằng gỗ tạp, lỗ chỗ những vết mọt đen, mỏng vừa một đốt ngón tay. Họ chép miệng, phàn nàn với nhau, thương hại anh Cu xấu số, khổ cho đến lúc chết, chết ngay vào độ trời làm vỡ đường.

Mảng chuối chở chiếc quan tài lềnh bềnh theo tay bốn người đẩy ra cổng. Chị Cu trùm khăn lên mặt, khóc thảm thiết. Cứ cả quần áo thế, chị lội bì bõm, đi sau chồng.

Giá không có mảnh vải trắng che mặt, đố người lạ nào bảo chị là người nhà người chết. Và giá không có tiếng khóc, đố ai đoán là ngoài đường có đám ma. Thằng Cu thì chẳng biết gì. Nó thấy người ta ghé lưng, bảo nó ôm cổ để cõng. Nó ngơ ngác làm theo, hình như thích chí vì được đi lội.

Bốn người đẩy mảng, dò từng bước. Đi dưới nước đã chậm, thế mà đường lại trơn. Những bọt nước tóe bắn lên, làm tắt cả hương. Mấy cây nến cắm trên khúc chuối, bị gió, không sao cháy được. Người ta đã nhiều lần thắp lại cả hương lẫn nến, nhưng vẫn tắt như thường.

Xung quanh, làn nước đỏ mênh mông, từ sáng đến bây giờ, mỗi lúc lên một cao. Chị Cu gào mãi nên rát cổ. Chị phải thôi khóc. Và cố bấm đầu ngón chân xuống đất, cho khỏi ngã.

Mực nước chỗ thấp thì đến bẹn, chỗ cao thì đến thắt lưng hoặc đến ngực. Cả làng chỉ còn có mỗi một nơi cao nhất, là khu giữa vườn nhà ông Lý, may quá, chưa bị ngập. Cho nên ngay từ khi anh Cu ngáp cái sau cùng, chị Cu phải kiếm cơi trầu lên xin với chủ đất, để nhờ chỗ chôn chồng. Ông Lý thương hại, vui lòng nhận lời, lại khuyên chị nên đưa ngay anh Cu "ra đồng" kẻo chỉ một giờ nữa, vườn ông cũng tràn nốt. Thật thế, cả làng, hiện nay chỉ có khu vườn ấy là hở. Còn thì từ ngoài đồng cho đến khắp các xóm, chỗ nào cũng những nước là nước. Nói đúng ra, giữa đồng cũng còn vài ba cái gò là còn nổi lên. Nhưng những đường ra đấy, từ khi mới có tin vỡ đê, tuần đã chặt tre rấp ngang lối, vít kín cả lại rồi. Chỉ còn một lỗ con con chui khe luỹ, người ta vẫn đánh trâu qua để thả cho nó bơi đến các gò, đứng nắng và ăn bèo Nhật Bản, thì lối ấy nhỏ quá. Vả trừ trâu ra, ai dám bơi qua những nơi ruộng sâu đến một con sào.

Chiếc mảng lênh bênh độ một lát, thì quàng vào ngõ xóm Trung. Tuy đường hẹp, nhưng lối đi cao dần. Nước đến thắt lưng, sau đến bẹn, rồi sau đến đầu gối. Rồi sau cùng, mảng chuối chịt lại, mắc cạn, không đi được nữa.

Người ta ghé tay bê áo quan. Chị Cu vác vồ cuốc lên vai, đi theo. Nước rẽ qua những cẳng chân đen thủi, kêu rào rào, tóe bọt trắng sang hai bên.

Chị Cu giục mọi người mau tay lên, vì chị lo ngại quá.

Quả nhiên, mới từ nãy đến giờ, nước đã láng gần khắp vườn nhà ông Lý. Chỗ đất vừa đào cách đây độ một giờ đã có những dòng nước ngòng ngoèo bò theo nơi thấp, và rỉ vào, ngập đến lưng huyệt.

Bốn người rảo cẳng, rồi đặt quan tài xuống. Họ nhảy vào hố, hai tay bốc nước, thoăn thoắt tát ra. Nhưng vô ích. Nước ra bao nhiêu, lại vào bấy nhiêu. Mà nước vào lại mạnh hơn nước ra. Tát cũng không kịp.

Bốn người thất vọng, bảo nhau khênh bốn góc cỗ ván. Hai người tiến, hai người lui, rồi cùng đứng ngay ngắn ở hai đầu huyệt. Họ cúi lưng, đưa thấp dần dần tay xuống. Chiếc quan tài hạ từ từ. Cảnh đau đớn làm chị Cu đứt từng khúc ruột. Chị muốn khóc cho hết nước mắt, gào cho hết hơi, để được chôn theo chồng. Nhưng bỗng chiếc quan tài đứng sững lại, không xuống được nữa. Nước ở dưới đội nổi lên. Tiếng khóc im bặt.

Bọn người nhìn nhau lo sợ. Lúng túng. Làm thế nào? Bàn tán hồi lâu, hai người nhảy xuống, đứng ở hai đầu áo quan để lấy sức nặng, thì nó mới chìm được. Nhưng nước vào huyệt đã nhiều, nên khi người ta vừa nhảy xuống, nước ở dưới dềnh lên, tràn qua ván thiên. Quan tài như chiếc thuyền đáy phẳng, nó bập bềnh. Hai người mất thăng bằng, ngã khuỵu, thụt cẳng xuống huyệt.

Cách ấy không được. ỳ ộp, mỗi người nói ra một kế. Chỉ làm sao thắng nổi có mỗi một tí nước, mới chôn được dễ dàng. Chị Cu tưởng tượng đến chồng bị ngâm sũng, chị thút thít, kể lể, thương con người đến chết còn vất vả.

Chẳng mấy chốc, chiếc quan tài vì nhẹ, lại tự nhô lên đến gần mặt đất. Cả huyệt đầy những nước mất rồi. Bây giờ mới là lúc khó khăn. Họ vẫn luẩn quẩn bàn bạc.

Sau hết, ba người phải lấy lưỡi cuốc, hếch kẽ ván cho nước ồ vào thực nhiều và cùng nhau đứng về một đầu cho sức nặng đủ dận được xuống đất. Một người lấy vồ chêm vào thành huyệt, ghì chặt lấy. Một người cuốc đất, và chị Cu khuân vội vàng, vứt xuống hố. Thấy thây chồng đầu cao đầu thấp, chị đau đớn lắm. Nhưng biết làm thế nào?

Họ lèn đất vào thành huyết và áo quan, rồi quẳng những tảng to lên trên. Cho đất đủ sức dìm một đầu quan tài, họ lại đứng sang đầu bên kia. Và cũng làm như trước. Họ thở ì ạch, khó nhọc như một cuộc vật lộn. Khi cỗ ván đã bị chèn chặt hai đầu, họ bèn rủ nhau lên, để hết sức đào đất cho nhanh chóng mà quẳng xuống. Nhưng họ vừa bước chân khỏi, cỗ áo quan đã bềnh lên theo. Song, được cái nó không nổi cao quá. Biết rằng sức phấn đấu có công hiệu, họ huỳnh huỵch làm một lúc nữa thật mau. Chiếc quan tài lần này chịu nằm gí xuống tận đáy huyệt.

Bây giờ họ đã đỡ vất vả. Chỉ còn việc đắp đất lên cho thành nấm mà thôi. ấy thế mà khi ngôi mả đắp vừa xong, nước đã láng vào khắp vườn, không còn hở một chỗ nào nữa.

Những con giun đất màu đen to bằng ngón tay út nổi lềnh bềnh, dập dềnh theo đà sóng, trôi với đám bọt rác.

+ + + Một giờ, lại một giờ. Mực nước lên cao dần, cao trông thấy.

Xung quanh mả anh Cu, có những lá tre khô bám vào. Rồi có bèo Nhật Bản. Rồi có cả bọt rác nữa. Thứ này bám vào chốc lát, rồi bị sóng lôi đi. Thứ kia ôm lấy nhau, nhảy nhót, chạm óc ách vào nấm đất mới đắp. Nước dập dờn liếm mãi vào khe những mảng đất, làm cho nó mủn ra. Rồi nó lở thành những cục con con, lả tả rơi từng tý một.

Độ nửa ngày, nước tràn qua mặt mả.

Gió hiu hiu. Bụi tre cót két như nghiến răng. Những lá vàng rào rào bay xuống, chạy trên mặt nước như thuyền buồm thuận chiều. Lúc nào sóng cũng dập dờn làm ải đất mả đắp dối. Hòn to không mấy chốc thành hòn nhỏ. Hòn nhỏ không mấy chốc bị cuốn đi. Nấm mồ bị vẹt dần. Rồi nó không cao hơn mặt vườn nữa. Rồi chẳng bao lâu, tự nhiên, ở dưới, nhô lên một tầng đất mới.

Tầng đất này cũng mỗi lúc một tý, bị sóng đánh, bị ải, và bị cuốn đi. Rồi hết lượt này đến lượt khác, đất ở dưới cứ nhô lên và cứ bị cuốn đi từng hòn nhỏ cho đến hết. Rồi sau hết, ục một tiếng, cả chiếc quan tài tự nhiên nổi bềnh lên. Nó nghiêng đi, hất tảng đất cuối cùng trên mặt ván trơn bùn như mỡ. Tảng đất rơi tõm xuống nước. Cỗ áo quan tròng trành, rồi đứng yên trên huyệt như chiếc thuyền bị cạn.

Chiếc quan tài nổi theo mực nước lên cao dần. Sóng bập bềnh cứ vỗ mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị vướng gì nữa. Nó quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc trôi ngang, lúc trôi dọc.

Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn, cạnh bờ lạch. Đến đây, nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó. Rồi một bè ngổ bám cạnh nó. Rồi một cụm bèo bám cạnh nó. Rồi cả một mảng vừa ngổ, vừa dừa, vừa bèo. Cả tảng bị nước đẩy ra lạch, nhưng không nổi.

Chiều gió đổi làm nhích dần mọi vật, mỗi lúc một tý. Nhưng cỗ ván gặp cành giong tự nhiên, rúc đầu vào bụi. Rồi lái ngang, hẩy mảng bèo ra cho nó chui qua khe rặng tre và theo dòng lạch trôi nhanh như mũi tên. Rồi một mình chiếc quan tài cựa quậy, như cũng muốn tìm lối ra chỗ rộng. Nhưng nó nặng nề, nên hết xoay dọc lại xoay ngang. Nó tiến rất chậm chạp, vì thỉnh thoảng có gióng tre cản lại.

Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt cỗ ván và cong vênh một phần nắp lên. Cả người nằm trong, trương phềnh ra, cũng hình như không chịu được chỗ quá chật hẹp.

Chiếc quan tài như con thuyền không chủ, bập bềnh, lách theo lũy tre. Lúc nó dừng lại. Lúc nó nhích đi. Lúc nó giúi nghiêng, lại bạt vào bụi. Rồi sau hết, nó tới một chỗ có khe rộng. Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh vào tre hai bên, rồi đâm thẳng ra giữa lạch chảy xiết. Đến đây, nó quay mấy vòng, rồi lừ lừ, nó trôi dọc theo dòng nước...

ANH XẨM

Từ chiều, lại bắt đầu trở rét.

Gió.

Mưa.

Não nùng.

Đường vắng ngắt. Chưa đến 8 giờ mà đường đã vắng ngắt. Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải tia ra hai bên cánh gà hai dòng khói thuốc lá. Lại thỉnh thoảng một người đi lén dưới mái hiên, run rẩy, vội vàng. Thật là cả một đụn vải chỉ hở có cái mặt. Trên đầu một cái mũ tủm hum xuống đến mi, quanh cổ, một cuộn khăn len dầy cộm.

Rồi áo, quần, giầy, bít tất, găng tay, có bao nhiêu thứ để chống nhau với rét, đều quện cả vào người xù xù.

Mưa như rây bột, như chăng lưới. Phố xá lờ mờ trắng ra. Xung quanh ngọn lửa điện đẫm lệ rây nước loáng sáng thành một quầng vàng tròn. Đường bòng nhoáng như mặt hồ lặng sóng, chiếu lộn những vệt ánh đèn dài.

Gió giật từng hồi. Lá vàng trút xuống mặt đường lăn theo nhau rào rào. Hơi lạnh thấm buốt đến tận xương.

Cây và cột đèn rú lên.

Nhưng một giọng hát ảo não xen lẫn vào tiếng gió.

Hội Chùa Thầy anh em ơi còn đương lúc đua chen,

Hễ nhanh chân thì tới, chứ ươn hèn thì í xa.

Dưới mái hàng nước đầu ngã ba, một anh xẩm đương lắc lư, nghêu cổ lên mà hát.

Anh ngồi trên manh chiếu, trước cái xoong sắt tây thủng, một đùi ghếch lên mặt đàn. Tay nắm cần, tay bật dây, anh uốn cung đàn trầm bổng theo tiếng hát khàn khàn. Cái mũ dạ, trơn từ đỉnh đến rìa, mềm oặt theo khuôn đầu, che cho anh khỏi lạnh gáy. Nhưng cái áo tây vàng rộng thùng thình không giữ nổi hơi rét cắt da. Mặt anh xám lại.

Hết bài xẩm chợ, anh quay ra cải lương. Anh ngâm:

Hai năm i i mới rõ la à mười i,

Hễ mà hai sáu ú ú, tôi i thời mười i hai ai...

Mà chứ tôi cảm tạ các à ngài...

Điệu hành vân bắt đầu.

Anh ngửa đầu, dúm gân mặt, há mồm ra mà hát. Tiếng đàn từng tưng hoà theo, lúc khoan, lúc nhặt.

- Nào các ông các bà cho nhà cháu kiếm bữa.

Anh nhăn răng ra cười.

Nhưng mà...

Gió vẫn giật từng hồi. Lá vàng trút xuống mặt đường lăn theo nhau rào rào. Ho lạnh thấm buốt đến tận xương. Cây và cột đèn rú lên.

Mưa vẫn như rây bột, như chăng lưới. Phố xá lờ mờ, trắng ra. Xung quanh ngọn lửa điện đẫm lệ, rây nước loáng sáng thành một quầng vàng tròn. Đương bóng nhoáng như mặt hồ lặng sóng, chiếu lộn những vệt ánh đèn dài.

Đường vẫn vắng ngắt. Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép, chạy uể oải, tia ra hai bên cánh gà hai dòng khói thuốc lá lại thỉnh thoảng một người đi lén dưới mái hiên, run rầy, vội vàng.

Thế mà anh xẩm vẫn hát. Anh kể sa mạc:

Mà chứ anh khoá ơi, em tiễn chân anh xuống tận bến tàu,

Hai tay sém xách cái khăn giầu em lấy đưa anh.

Và đến Ma-đơ lông:

Là bá i a phố rrề.

Thau anh vẫn không một tiếng vang động. Một xu cũng chẳng có. Một chinh to cũng chẳng có. Một chinh con cũng chẳng có. Anh càng hết sức để hát, để đàn, và để... không ai nghe.

Bởi vì...

Đường càng vắng ngắt. Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải, lại thỉnh thoảng một người đi lén dưới mái hiên, run rẩy, vội vàng.

Bởi vì...

Mưa càng như rây bột, như chăng lưới. Phố xá lờ mờ trắng xoá. Xung quanh ngọn lửa điện đẫm lệ, rây nước loáng sáng thành một quầng vàng tròn. Đường bóng nhoáng như mặt hồ lặng sóng, chiếu lộn những vệt ánh đèn dài.

Bởi vì...

Gió vẫn giật từng hồi. Lá vàng trút xuống mặt đường lăn theo nhau rào rào. Hơi lạnh thấu buốt đến xương. Cây và cột đèn rú lên.

Nhưng anh xầm có trông thấy đâu cảnh ấy.

Anh lại nói:

- Các ông các bà bớt chút ít cho cháu kiếm bữa gạo.

Ông nào? Bà nào? Quanh anh nào có ai?

Song anh vẫn cứ hát, hát một mình.

Anh, anh cùng em, có giời có giời xui khiến

Cho chúng ta dịp này.

Rồi lại kể chuyện Sài Gòn:

Anh tiếc cho cô mình mơn mởn đương tơ,

Buồng không lạnh ngắt đương chờ đợi ai.

Và thỉnh thoảng lại giục:

- Các ông các bà thương kẻ khó, các ông các bà ơi.

Anh tưởng đông người đứng nghe lắm.

Chứ biết đâu, xung quanh anh, gió giật từng hồi, lá vàng trút xuống mặt đường, lăn theo nhau rào rào.

Mưa như rây bột, như chăng lưới. Đường bóng nhoáng như mặt hồ lặng sóng, chiếu lộn những vệt ánh đèn dài.

Đường vắng ngắt. Thỉnh thoảng những chiếc xe cao-su kín mít như bưng, lép nhép chạy uể oải. Lại thỉnh thoảng, một người đi lén dưới mái hiên, run rẩy, vội vàng.

Anh cứ hát. Hết sức hát. Gò ngực mà hát. Há miệng to mà hát. Hát như con cuốc kêu thương.

Ông giăng lên cao, ông giăng xuống thấp, ông giăng lẩn bóng chuối, chứ ông giăng lại i a mờ.

Và khi đã đến hết tất cả các bài anh thuộc, anh ngồi im lặng để chờ và để nghe. Sau hết, sờ tay vào lòng thau không để vét.

Rồi anh run cầm cập, xếp thau, ôm đành cuốn chiếu, cầm gậy, đứng dậy, thong thả lần lối đi.

Gió.

Mưa...

Não nùng.

1936

BẠC ĐẺ

..."Nhân ông Cửu đi vắng, ông Trưởng bèn một mình lẳng lặng vào buồng dò xét... Ông soi kỹ mọi nơi, bỗng giật nẩy mình, ông thấy có một viên gạch giữa gậm phản bị cậy lên. Ông nhấc gạch lên, bới đất ra, thì lạ quá, một cọc bạc mười đồng, buộc chằng dây đỏ chữ thập nằm nghiêng ở đó. Ông cởi dây, xem kỹ từng đồng, thì quả là đồng bạc ta vẫn tiêu, gõ kêu rất ròn tiếng. Ông bèn buộc cẩn thận lại, để trả vào chỗ cũ, lấp đất lên, chặn lại hòn gạch, nhưng nhất định rồi sẽ hỏi ông Cửu cho ra việc lạ này. Nếu có điều gì ám muội ở trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt..."

Một hôm ông Trưởng Sắc đương ngồi dưới giàn thiên lý để lau từng cái lá lan một, thì có người em họ ông là Ba Tuần buôn bán ở tận ngoài Cẩm Phả về chơi. Ông Ba Tuần đi với một người lạ mặt.

Người lạ mặt trạc độ ngót bốn mươi tuổi, khăn áo chỉnh tề, mặt mũi đầy đặn, tay xách cái va-ly da, ra dáng nặng nề lắm.

- Ông này là bạn thân tôi, ông Ba Tuần giới thiệu, bạn thân tôi là ông Cửu ấu, muốn nhờ bác một gian buồng dưới nhà ngang để ở trọ trong ít bữa.

Ông Cửu ấu đỡ lời:

- Tôi nghe ông Ba nói chuyện ngài là người dễ dãi, cẩn thận, nên tôi mới dám phiền ngài.

Thấy ông Trưởng ra ý phân vân, ông Ba nói:

- Xin bác chớ nề hà, rồi sau đâu sẽ có đó. Ông Cửu đây là người hào hiệp, rộng rãi, xin bác chớ bận lòng. Bác cứ tin ở tôi.

- Không phải như thế, tôi rất tin chú, nhưng tôi e nhà tôi chật hẹp quá chăng, chú ạ.

- Bác đừng ngại, công việc của ông Cửu là phải đi vắng luôn, rồi ông ấy thế nào, bác sẽ biết, tôi không cần khoe trước.

- Nếu ngài không sợ phiền, ông Cửu dõng dạc nói, thì sau này dù thế nào tôi cũng không dám quên ơn.

Dứt lời ấy, ông Ba bấm ông Trưởng ra đằng sau và thì thầm:

- Rồi hắn làm nên, anh em ta cũng có phận nhờ. Người này chỉ đi làm điều hay cho người khác và hay cứu kẻ nghèo. Tôi không muốn nói rõ vội. Chẳng nhẽ chỗ anh em thân, tôi lại không rủ hắn đến ở đằng bác, e rồi bác lại trách tôi là đem mối lợi cho người ngoài.

Ông Cửu trố mắt lên để nghe, thấy nói tiếng lợi, tuy chưa rõ là lợi thế nào, nhưng đã híp mắt lại, gật lấy gật để.

Ngay từ hôm đầu người khách trọ đã làm ông chủ nhà bằng lòng quá: Ông Cửu ấu mở va-ly ra, lấy một đồng bạc, đưa ông Trưởng.

- Tính tôi thích vui, nhờ ông cho làm một bữa chén; anh em ta trước lạ sau quen, khi tôi ở lâu, ông mới biết tôi được.

Rồi ông đếm mười đồng nữa, dí vào tay ông Cửu mà rằng:

- Gọi là có món tiền mọn, tôi đưa ông để đỡ ông sự phí tổn vì tôi phiền ông trong tháng đầu.

Ông Trưởng cầm cọc bạc, vui sướng quá. Nhất là khi ông liếc trộm vào cái va-ly của ông Cửu thấy đến năm sáu cọc tròn mà dài, gói giấy cẩn thận thì bụng bảo dạ: Tay này cũng sù đây, được lắm. Ông Cửu xếp lại đồ đạc trong va-ly, ông Trưởng thấy những gói ấy nặng trĩu, lấy làm thích lắm. Xếp xong, ông Cửu nhìn ông Trưởng nhếch mép cười, rồi đóng va-ly, khóa lại.

Ông Cửu ở dưới nhà ngang, nhưng thường đi vắng luôn. Song hễ ở nhà, thì ông tay hay mượn chiếc chậu thau đồng lên buồng làm gì, để hàng hai ba tiếng đồng hồ, rồi khi dùng xong thì tự tay mang ra ao, lấy trấu và cát đánh cho thực sáng, mới đem trả. Ông ta có một tính khác người thường, là hễ ở nhà, thì không thích cho ai lên buồng riêng của mình, có một lần ông đã mắng thằng đầy tớ vô ý trước khi mở cửa vào, không đánh tiếng hoặc gõ cửa, nhưng mà khi ông đi vắng thì tha hồ, ai vào cũng được, tuy đồ đạc, quần áo, ông để bừa bãi, mà có một lần ông Trưởng sợ quá, cái va-ly của ông Cửu, trong để rặt những bạc đồng, mà ông ấy quên không khóa. ấy là lần đầu, mà cũng là nhân tiện, nên ông Trưởng mới mở va-ly ra thì biết thế, chứ ông không có tính tò mò, việc ai mặc người ấy, ông không muốn để mắt vào cách hành động của ông khách trọ làm gì.

Ông Cửu ấu là một người vui chuyện, thích đánh chén, cho nên hễ động ở nhà thì y như ông đưa tiền mượn ông Trưởng làm rượu. Ông Trưởng lấy làm hả về chỗ ấy lắm. Nay thịt gà, mai thịt chó, thôi thì tha hồ mà đánh ngã từng chai bố; không mất tiền, ông uống vô tội vạ.

Một hôm, trong lúc say sưa, ông Cửu nghiêng ngả nói:

- Chẳng giấu gì ông. Tôi thì tiền bạc chẳng thiếu, duy chỉ thèm thuồng...

Ông Cửu ghé vào tận tai ông Trưởng mà nói.

Nhưng nói xong, ông Cửu giật mình, có ý hối hận vì đã quá lỡ mồm trong khi vui chuyện, bèn dặn thầm:

- Chết chửa! Nhưng tôi xin ông giữ kín cho việc ấy, chớ nói với ai mà lộ chuyện của tôi.

Song việc đời nó đi như vậy: cái gì đã cố giữ kín tức là cố để hở, cho nên muốn để hở một cách kín đáo, không gì bằng ta bịt kín nó một cách hớ hênh. Bà già thấp thoáng sau bức rèm, còn khiến bọn thiếu niên công tử sái cổ lệch mắt bằng mấy cô thiếu nữ đứng lộ ngay ra ngoài cửa. Cho nên từ hôm đó ông Trưởng phải chú ý đến cách làm việc của ông Cửu, mà cũng từ hôm đó nhà ông Trưởng có nhiều khách ra vào hơn trước mà khi qua nơi ông Cửu ở, ông khách nào cũng cố lách vào một đuôi con mắt tò mò. Họ đến chơi, mục đích chỉ có thế.

Nhưng ông khách nào đã được làm quen với ông Cửu, thì tất nhiên là được ông Cửu chèo kéo ở lại đánh chén: vì vậy không mấy chốc, mà tiếng hào hiệp, nhã nhặn của ông Cửu đã đồn dậy khắp làng trên làng dưới, cho nên bọn sâu rượu sợ vợ, nhất định không chịu bỏ phí dịp mà không đến gạ gẫm tỏ tình thân ái với cái hũ nhà ông khách quý, mà họ cho là trời đánh rơi!

Ông Trưởng nhận thấy việc ông Cửu làm, rất có vẻ bí mật. Có khi ông ta đi vắng từ sáng sớm, đến nửa đêm thì về; có bận ông đi vắng từ nửa đêm, đến gà gáy hôm sau nữa thì về; cũng có lúc trời mưa gió đùng đùng, ông cũng xách ô ra đi, rồi giữa trưa hôm sau thì về. Sự đi về rất thất thường, không bao giờ giống nhau cả. Ngày đi ông ta không nói trước, nhưng ngày và giờ về rất đúng hẹn. Một lần ông Cửu dặn 2 giờ sáng hôm sau thì về, thế mà ngay từ nửa đêm, trời nổi một cơn phong ba bão táp, vậy mà khi đồng hồ vừa điểm xong hai tiếng, thì ở cửa đã có tiếng ông ta gọi, chó tứ phía sủa vang.

Thấy ông Cửu có lắm cách hành động khác thường, nên ông Trưởng càng tò mò dữ. Một hôm, thằng đầy tớ chạy lên nhà trên trợn mắt, trợn mũi, thì thào với ông rằng:

- Con thấy cái chậu thau đen quá, ông ạ. Con không biết ông ấy làm gì mà bắt con đánh mãi không sạch.

- Thế à? Ông Trưởng cũng trợn mắt to không kém mắt đầy tớ, đâu! Ðâu? Chậu đâu?

- Con đánh sạch rồi.

- Bận sau ấy nhé, mày đem lên cho tao xem nhé.

- Nhưng mới bận này ông ấy mới bảo con đánh, mọi bận ông ấy vẫn làm lấy.

- Thế à? Bận sau, thấy ông ấy sắp đánh, mày nói với ông ấy rằng để mày đánh hộ nhé.

- Vâng, nhưng con sợ ông ấy mắng. Vì ông ấy dặn con đừng nói với ông.

- Thế à? Quái nhỉ.

Rồi tối hôm ấy, ông Trưởng luẩn quẩn cả đêm, đâm lo, không biết người này là mật thám thực hay chính là tay hội kín. Nhưng chẳng có lẽ ông Ba Tuần là em họ rất thân, rất đáng tin không khi lại nỡ lừa dối, để làm tai làm vạ cho ông như thế. Hay là ông Cửu sẽ làm lợi cho ông những gì mà ông chưa biết chăng? Ông càng cần phải dò xét ông Cửu từng bước.

Một hôm, lẳng lặng, ông thân hành đi theo ông Cửu, thì quả nhiên ông thấy ông ta xuống dưới cuối tổng vào hàng nước nhà bà Tổng ích ngồi từ sáng đến trưa, rồi đứng ở gốc đa đầu làng vơ vẩn đến tối mịt thì về. Ông hỏi bà Tổng ích, thì bà ấy cũng bảo đã đến hơn tháng nay, vẫn thấy người này vào nghỉ chân ở hàng ấy, có khi ngồi cả ngày, nhưng không nói chuyện với ai, hoặc hỏi han dò la gì cả.

Hôm sau, lúc đương uống rượu với chả cá, ông Trưởng đánh liều, hỏi:

- Thế nào? Việc ông làm sắp có hiệu quả chưa?

Ông Cửu ra dáng sợ hãi, vội bịt miệng bạn, xua tay nói:

- Chớ! Bất khả lộ ngôn! Tối bất khả!

Rồi ông đánh trống lảng ngay ra chuyện khác, khiến cho ông Trưởng càng đâm nghi.

Tối hôm ấy, ông Cửu ấu bảo thằng người nhà lấy cho mượn cái thau đồng, rồi ông đóng chặt cửa buồng lại.

Ông Trưởng nghe tin, bèn rón rén dòm qua khe vách. Ông thấy ông Cửu cởi trần ra, mở va-ly, đếm lấy ra mười đồng bạc, bầy sát nhau trong lòng thau trắng xóa. Ðoạn ông đứng chắp tay một cách rất cung kính, miệng lẩm bẩm câu gì, rồi với vào gầm giường lấy lên một cái chai lớn, đổ nước đen đen vào trong thau. Ông lắc thau đến hàng năm sáu mươi lần, rồi sau đánh cái diêm, châm lửa vào nước, thì tự nhiên thấy khói um, không trông rõ gì nữa. Ngay lúc ấy, ngọn đèn tắt phụt, trong buồng tối um, ông Trưởng không thể nhận rõ được ông Cửu làm những gì cả. Một lúc lâu đến ba bốn giờ đồng hồ sau, trong buồng lại bật sáng, thì không có gì khác thường. Ông Cửu tự mang thau đi đánh, rồi ngay lúc ấy, dễ đến mười hai giờ đêm rồi, ông ta khăn áo ra đi, dặn đến bốn giờ chiều mai thì về.

Nhân ông Cửu đi vắng, ông Trưởng bèn một mình lẳng lặng vào buồng dò xét. Ông soi đèn vào gầm lấy cái chai ra xem, thì thấy có một thứ nước gì đen kịt như mực. Ông soi kỹ mọi nơi, bỗng giật nẩy mình, ông thấy có một viên gạch giữa gậm phản bị cậy lên. Ông nhấc gạch lên, bới đất ra, thì lạ quá, một cọc bạc mười đồng, buộc chằng dây đỏ chữ thập nằm nghiêng ở đó. Ông cởi dây, xem kỹ từng đồng, thì quả là đồng bạc ta vẫn tiêu, gõ kêu rất ròn tiếng. Ông bèn buộc cẩn thận lại, để trả vào chỗ cũ, lấp đất lên, chặn lại hòn gạch, nhưng nhất định rồi sẽ hỏi ông Cửu cho ra việc lạ này. Nếu có điều gì ám muội ở trong, tất ông không tha, thế nào cũng trình quan về bắt.

Ðã là thân, tôi không giấu giếm ông một mảy may, ông Cửu nói với ông Trưởng thế. Ông tính tôi không làm gì mà quanh năm được phong lưu, tức là tôi chỉ nhờ ở cái phép lạ này thôi.

- Phép gì?

- Phép làm cho bạc đẻ.

- Ồ, ông có phép làm cho bạc đẻ? Lạ nhỉ!

Thấy ông Trưởng rất ngạc nhiên, ông Cửu cười đáp:

- Phải, cho nên ai biết tôi thì biết, không biết thì thôi, tôi không cần. Rồi tôi cũng định đền ơn ông một bận.

Ông Trưởng vội trợn mắt, nói lấy lòng:

- Chết, ông nên sẽ chứ?

Không cần. Tôi có đúc bạc giả, có đi ăn trộm ăn cướp của ai đâu mà sợ.

Ông Trưởng cười ích kỷ:

- Nhưng người ngoài biết ông lắm tiền thì...

- Tha hồ cho họ cướp! Cướp bao nhiêu, tôi lại làm ra được bấy nhiêu. Tôi vẫn đi giúp người nghèo khó chả vẻ thay nữa là.

- Ông làm bạc đẻ thế nào?

- Cứ một đồng thì đẻ ra một đồng; chứ không đẻ ra hơn được. Ví dụ tôi muốn có mười đồng thì tôi làm phép cho mười đồng của tôi ở cữ. Tôi học được phép này ở trên Mường phải cầu thần chú và có thuốc.

Ông Trưởng sực hiểu, tròn miệng lại và nói:

- Ồ, thảo nào!

- Lần vừa rồi, tôi thấy bạc không đẻ, tôi biết ngay bị lộ, tất thế nào cũng có hơi người lạ mó đến nó. Vì bạc nó ở cữ phải đúng giờ cho nên hẳn ông thấy mọi khi tôi về lúc nào cũng đúng hẹn lắm. Tôi cần phải đi xa khi nó thụ thai, vì nếu tôi ở gần, thì không những nó tịt không đẻ, mà nó lại tiêu sản, hỏng cả mẹ lẫn con, nghĩa là bạc biến thành ra đất cả!

- Nhưng sao tôi thấy khi ông đi vắng lâu, khi thì ông đi vắng chóng?

- À, đó là tùy số bạc cần đẻ. Muốn làm độ hai ba đồng, thì đi vắng ít, nhưng muốn làm hàng chục, hàng trăm, thì phải đi vắng nhiều hơn. Cái đó phải tính trước chứ. Chỉ lỡ về sớm hay muộn một chút là mẻ bạc ấy hỏng toi!

Ông Trưởng tủm tỉm nói:

- Ông làm thử cho tôi vài đồng nhé.

- Ông Cửu cười, gật đầu:

- Ðược, nhưng mà...

- Nhưng mà sao? Hay là làm hộ không được?

- Không phải thế. Cái phép đẻ bạc cũng như đẻ con. Ông lấy bà ấy thì đẻ ra con là con ông, tôi không nhận là con tôi được. ấy nó như người, chẳng khác một tý gì cả. Bạc của tôi đẻ, đố ông tiêu được.

- Lạ nhỉ. Thế đi vay mà cho nó đẻ có được không?

- Ðược chứ sao lại không? Miễn là chính tay ông đưa tôi, thì thế nào tôi cũng làm được. Nhưng có một điều kỵ là bạc của tôi mà cho ông vay thì không tài nào tôi làm cho nó đẻ được. Cũng như hai người đàn bà lấy nhau có khi nào đẻ được ra con? Hà! Hà! Hà! Ông hiểu không? Hay lại bảo tôi đón đầu!

- Không, chết! Chết! Có khi nào thế! Tôi hiểu rồi!

- Phải, bởi vì tôi thiếu gì, cho ông vay bao nhiêu mà tôi hết được, vả có mất đi đâu mà sợ, nhưng chỉ tại không làm cho nó đẻ được thì tổ phí thuốc mà thôi, vì như thế cũng như lộ vậy. Ta có việc gì giấu được quỷ thần đâu? Ðến ngay như ta với nhau cũng còn không giấu được nhau nữa là! Hà! Hà! Hà!

Ông Trưởng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đứng dậy, mở hòm lấy ra năm đồng đưa ông Cửu nói:

- Nhà tôi chỉ còn từng này bạc đồng, ông làm ơn hộ tôi một món.

- Vâng, nhưng ông bảo đánh mấy đồng này rõ mới hộ tôi. Rồi tôi làm cho mắt ông trông thấy nhé.

Ông Trưởng mừng rỡ, cảm ơn ông Cửu, và tạ lòng trời run rủi cho được gặp ông thần giáng phúc, từ nay khỏi nỗi vất vả về cách kiếm tiền.

Khi mấy đồng bạc đã đánh thực sáng nhoáng, ông Cửu bèn vào buồng với ông Trưởng giải cả tiền lên mặt chậu thau, rồi miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú, đổ vào thuốc, và lắc đi lắc lại mãi. Ðoạn ông đánh diêm châm thuốc vào thuốc thì khói um tỏa khắp bốn bên, rồi đèn tắt; một lúc, ông Cửu bảo thắp đèn, thì đã thấy chậu thau khô, mà năm đồng bạc buộc với nhau bằng chiếc dây đỏ chằng chữ thập ở giữa đáy chậu.

- Thôi, bây giờ thì ông phải để tôi làm một mình tôi đi chôn bạc đây, cũng như ta dưỡng thai ấy mà, ông đừng xem mà lộ. Lộ thì không những không thành, mà bạc lại tiêu sản hết mất.

Nói xong, một mình ông Cửu ra vườn, ông Trưởng không dám dòm theo nữa. Một lúc ông Cửu trở về vội vã giật lấy cái khăn và chiếc áo, vừa đi vừa rảo bước ra cổng, vừa quay lại nói:

- Tìm được đất chôn lâu quá, nên tôi sợ muộn, tôi xin phép ông tôi phải đi ngay. Năm giờ rưỡi sáng mai tôi về. Thật là vì ông anh nên tôi mới phải lật đật đấy nhé. à, ông chớ nên nói với ai việc này.

- Vâng! Cảm ơn ông anh.

Trong khi vắng ông Cửu, ông Trưởng thấp thỏm không sao ngủ yên, trong bụng khấp khởi mong cho chóng đến sáng. Ðộng chợp mắt được một tý là đã nằm mê thấy mình trở nên nhà cự phú, có đồn điền, có ô-tô. Rồi vừa tảng sáng, ông đã ngồi nhổm dậy, tỉnh như con sáo, tay xách cái đồng hồ, ra cổng đứng ngóng, nhìn theo từng phút.

Ðến năm giờ hai mươi thì, đúng hẹn quá, ông Cửu đã ở đằng đầu làng đi lại, đến cổng nhà thì vừa năm giờ hai mươi chín. Ông Trưởng trỏ đồng hồ vội la rầm rĩ:

- Ấy chết! Sớm một phút có được không?

- Ðược, không ngại, tôi đến nhà nhưng không lên tiếng vội, cũng như tôi về đúng giờ.

- Thế ngộ muộn vài phút có được không?

- Ðược, nhưng muộn quá thì không hay.

- À, ra nó cũng như uống thuốc.

- Chính thế! Thôi, đúng giờ rồi, ông ra gốc cây cam xanh mà đào lên.

Ông Trưởng mừng rỡ, tất tả ra vườn đào đất, thì quả nhiên có hai món năm đồng buộc riêng đôi bằng cái dây đỏ, giống nhau như đúc! Những đồng tròn, trắng, xỉnh xình xinh, mới nguyên, lóe sáng trước ánh mặt trời buổi sớm, như hé một nụ cười vui vẻ để chào chủ. Ông Trưởng ngắm nghía, gõ thử, sướng lắm. Ông Cửu nói đùa:

- Hay ông cho tôi nào?

Ông Trưởng dúm miệng vào mà cười, và nói đùa lại:

- Vâng, ông có tiêu được, mời ông cứ tiêu giúp.

- Xin cảm ơn ông. Giá tôi có tiêu được thì ông chả phải bảo! Bây giờ ông có quẳng ra đường, cũng không mất.

- Thật à? Thế nhà tôi tiêu có được không?

Thấy ông Trưởng ngơ ngác, có ý sợ hãi, ông Cửu phì cười:

- Ðược, nhưng ông phải nói: ù-ù cạc-cạc, ta cho đồng bạc, phải cảm ơn ta, đi mà tiêu pha, ù-ù cạc-cạc.

- À, lạ nhỉ ù-ù cạc-cạc, ta cho đồng bạc, phải cảm ơn ta, đi mà tiêu pha, ù-ù cạc-cạc.

Từ hôm sau, không những ông Trưởng Sắc và ông Cửu ấu phải tiếp khách ăn ghẹ, mà bọn nhà giàu, ngốc, cũng kéo nhau đến chơi rất đông. Ai nấy đều muốn tỏ lòng thân thiện, và cố mời cho được ông Cửu đến chơi nhà, uống rượu. Ông Cửu cảm động, thường nói với ông Trưởng:

- Tôi đi thiên hạ đã nhiều, nhưng không thấy đâu văn vật như vùng ta. Tôi xem ra, ở đây, ai cũng trung hậu, biết quý người lắm.

Nhưng họ chiêu đãi ông Cửu để họ lợi dụng ông ấy, vì cái phép bí mật làm cho bạc đẻ mà ông Cửu dặn ông Trưởng giấu kín, nó đã hở toác ra mất rồi. Cho nên không ngày nào ông Cửu không có người nhờ làm bạc đẻ. Tuy ông cũng biết rằng đã ăn của người ta một bữa thì phải trả ơn, nhưng họ nhiễu quá, mà từ chối thì nể. Ông Trưởng thấy vậy, lấy làm ngượng, song biết làm thế nào? Nào có mất gì của riêng ông đâu mà ngại, vả lại họ nể ông Cửu thì họ nể cả ông, ông Cửu được họ chiêu đãi sao, thì ông cũng được hưởng như thế. Thôi thì được một dịp cho người làng nước nhờ vả, mà người làm ơn vẫn vui lòng, không phàn nàn, thì ông cũng mặc ông Cửu với họ. Cho nên, người đưa một đồng, kẻ đưa dăm đồng, ai nấy đều nhờ ông Cửu làm thử cho một bận. Ðồng bạc con, họ thấy như hệt đồng bạc mẹ, mà tiêu pha dễ dãi như thường, nên họ đều nghĩ như nhau, cố giấu giếm mối lợi, để găm cho riêng mình cái mỏ mà đi vay mượn chỗ xa xa cho dễ dắt. Các ông nhà giàu thì định thả con săn sắt để bắt con cá sộp, nên định chờ dịp tốt hơn để mời hẳn ông Cửu đến ở nhà mình, mà nhờ ông một chuyến.

Nhưng được độ mươi hôm, ông Cửu tuyên bố một tin, làm cho dân làng đều ngao ngán:

- Tôi không ở đây nữa. Tôi lấy làm nhớ các ngài lắm.

- Ô hay! Ông giận gì chúng tôi?

- Phép bạc đẻ như thế, hễ tôi ở đâu quá hai tháng thì không làm được nữa. Các ngài có lòng yêu mà lưu tôi lại cũng vô ích.

- Vậy ông đi đâu, cho chúng tôi biết, hoặc ông cho chúng tôi rõ quý quán về đâu.

- Tôi quê ở Hà Nội. Tôi có năm mươi nóc nhà ở các phố. Lại tỉnh nào tôi cũng có một nếp nhà. Nhưng tôi không thể làm phép này ở ngay nhà của tôi được nữa. Vì nhà nào tôi cũng ở qua hai tháng rồi. Trời ơi! Tôi còn nhớ khi tôi ở Hà Nội, sao mà bận thế. Ai cũng đem tiền đến để nhờ đẻ, đến nỗi không lúc nào được nghỉ cả.

- Vậy ông định đi đâu?

- Tôi cũng chưa định. Thôi, gặp nhau như thế là đủ, khi nào tôi nhớ các ngài, tôi sẽ đến chơi, có ngại gì?

- Nhưng mà tôi muốn nhờ ông thí cho dân chúng tôi cái ân cuối cùng.

Ông Cửu bùi ngùi cảm động:

- Lọ là các ngài còn phải nhắc. Tôi ở đây bấy lâu được nhờ vả dân làng, cho nên trước khi đứng dậy, tôi cũng muốn gọi là trả lại chút nghĩa ấy, để lưu lại cái tiếng về sau.

Ai nấy đều hởi dạ, nói:

- Vậy hôm nào ông từ giã chúng tôi, chúng tôi xin mời ông dự một bữa tiệc để tỏ lòng quyến luyến.

- Các ngài có lòng tốt, tôi không dám từ.

Cả làng, từ ông già bà cả cho chí trẻ con, ai cũng tấp nập rủ nhau đến nhà ông Trưởng để đưa bạc đi đẻ. Thôi thì có bao nhiêu bạc giấy, hào, xu, họ đổi thành bạc đồng, và đánh cho thật bóng loáng. Ông Cửu mỏi tay biên sổ trong hai ngày, vì từ thằng khố dây trong làng, cũng cố cầm cố bán trác đồ đạc trong nhà để kiếm vài đồng bạc trắng. Ông Chánh bá, giầu nhất tổng, đưa đẻ hẳn năm trăm, mà còn tiếc vì vội quá, không kịp bán nốt mấy chục mẫu ruộng, ông Lý Thới, ông Lý Sang, ông Phó Ung, ông Cả Sích, vân vân và những nhà có máu mặt, đều cùng nhau đưa hàng trăm, còn hạng đưa hàng chục, hàng đồng, thì tên biên vừa đen kịt hai mươi trang giấy. Khi cộng sổ, ông Cửu phải lắc đầu lè lưỡi nói với ông Trưởng:

- Sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, chà! Có lẽ tôi phải lánh đến bẩy tám hôm chắc!

- Ông Trưởng cười gượng:

- Chúng tôi chỉ dám phiền ông có lượt này nữa thôi đấy. Ông chịu khó vậy.

- Vâng, tôi có dám phàn nàn đâu!

Vừa xẩm tối, mọi người đã chen chân nhau vào nhà ông Trưởng để được xem phép lạ.

Nhưng họ có được trông thấy gì đâu, vì phải đứng cả ở ngoài sân, mà ông Cửu thì ở tận trong buồng để làm việc. Hàng năm sáu giờ đồng hồ sau, bỗng ông Trưởng, vẻ mặt quan trọng như ông tướng chạy ra hè hô lớn:

- Bây giờ ai phải về nhà nấy để bạc dưỡng thai. Cấm không ai được dòm, vì nếu có người lạ thì bạc tiêu sản, biến ra bùn mất cả. Ai không tuân lệnh mà làm hỏng mẻ này, thì phải đền sáu nghìn bảy trăm sáu mươi tư đồng, một thành hai!

Mọi người thấy câu nói đều sợ thiệt đến của riêng, bèn kéo ồ cả ra về. Ðộ năm phút sau, sân nhà vắng vẻ, ông Cửu bèn đi dò la chung quanh hàng rào, rồi một mình, khênh bạc ra vườn, lúi húi làm nốt công việc.

Lúc chôn xong, thì vừa hai giờ sáng, ông Cửu mệt nhoài, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng theo phép, ông phải lánh xa chỗ bạc dưỡng thai, nên ông vội vã khăn áo ra đi, và dặn lại ông Trưởng:

- Bốn giờ kém năm sáng hôm thứ bảy sau, tôi sẽ trở lại. Trong chín hôm tôi không có đây, ông phải cấm không được cho ai lai vãng ra vườn nhé.

Chẳng phải nói thì độc giả thừa hiểu rằng ông Cửu ấu đi lượt ấy thì thôi không trở lại cái làng văn vật này nữa, mà số bạc ngót bảy nghìn, không những không làm mẹ đồng nào mà lại thành ra con ông cả.

Thế mà đúng ngày hẹn, cả làng, lớn bé già trẻ đều phớn phở đến sân nhà ông Trưởng để chờ ông Cửu về. Họ nóng ruột nên cố thức suốt đêm, đến tận bốn giờ kém sáu phút, nhưng cũng không thấy bóng ông thầy Mường đâu cả. Ðào vườn thì không ai dám đào, vả biết chỗ nào mà đặt lưỡi cuốc?

Ðồng hồ chỉ bốn giờ kém bốn phút, mọi người không kiên gan nữa, bèn bàn nhau cứ đánh bạo mà đào. Nhưng sục sạo cả vườn, họ chỉ thấy... số bạc đã bị tiêu sản, tiêu cả con lẫn mẹ!

Việc lừa dối vỡ lở ra, cả làng đến chửi rủa ông Trưởng Sắc, bắt ông phải đi tìm cho được thằng bợm để làng đi trình quan, bỏ tù, nhưng nghĩ đến ông Ba Tuần sợ môi hở răng lạnh, nên ông Trưởng phải câm như hến. Tức quá, ông bèn nhất định đi ra Cẩm Phả, để trút cho ông Ba Tuần những của chẳng ngon mà làng nước tặng ông xơi, và bắt ông ấy phải đi tìm đứa gian phi, kẻo ở làng họ làm sốt ruột lắm.

Ðến nơi, mặt hầm hầm, ông đem lời trách móc, thì ông Ba Tuần cứ cười nhạt mà xin lỗi hoài. Rồi sau, chẳng làm thế nào hơn được nữa, ông mới dịu, thì ông Ba Tuần ghé vào tai ông, hỏi nhỏ:

- Bác mất bao nhiêu tất cả?

- Ðúng ba trăm.

- Thế bác có muốn hắn đền lại hay không?

Ông Trưởng bĩu môi, nói nhiếc:

- Hắn đền! Biết hắn ở đâu mà đền?

- Ðược, tôi biết. Nhưng bác đừng lôi thôi với hắn. Bác cứ để cho hắn làm chỗ khác mới được.

- Nhưng hắn lấy gì mà đền tôi?

- Bác về làng, phải mật chuyện này đi. Này, hắn sẽ lấy của người khác đền bác.

- Hắn còn lấy của ai được? Ai dại gì mà tin hắn nữa?

- Ồ, thiếu gì, lại những hạng có tiền và dại dột như tôi và bác chứ gì!

- À, ông Trưởng sực hiểu, nói: - À, ra chú lập tâm giới thiệu hắn với tôi đấy à?

Ba Tuần cười:

- Phải, vì trước kia tôi bị chú Hai Ðông giới thiệu, nên xuýt mất với nó hai trăm rưởi, nhưng chú ấy xui tôi nên im đi, mà rủ một người thân thích và có của vào cạm để nó lừa thì nó trả.

- À, nó ranh quá nhỉ. Thế bây giờ chú bảo tôi cũng làm như chú à?

- Ừ, tội gì.

Ông Trưởng cắn ngón tay nghĩ ngợi một lúc, rồi gật gù nói:

- Ðược, ông cậu ruột tôi là ông Nghị Thăng, giàu có tới vạn, mà cũng thực thà dễ bảo như anh em mình. Ông ấy tin cậy tôi lắm. Ðể tôi giới thiệu cho nó!

Nói đoạn, đắc trí, ông Trưởng Sắc cười xòa, mà ông Ba Tuần cũng ôm bụng, gò lưng, mép soạc đến mang tai mà cười như nắc nẻ...

CÔ KẾU-GÁI TÂN THỜI

Nhưng cô có nhận cái tên ấy nữa đâu!

Kếu là nghĩa thế nào? Nghĩ bao nhiêu, cô lại oán cha trách mẹ, không đặt cho cô cái tên mỹ miều. Mà chữ nho, nào thiếu gì tiếng hay, sao cô chịu mang cái tên nôm na xấu xí ấy mãi? Nhất là đi ngoài phố, bay là ở chỗ đông người, mà mẹ cô gọi: Kếu ơi! Thì cô đỏ mặt tía tai, hậm hực, lấy làm ngượng quá! Lại còn những chị em bạn cô? Cứ những lúc ở Bờ Hồ, hay thấy cô gặp một công tử quen nào, là nhè ngay cái tên cúng cơm của cô ra mà réo quang quác, rồi cười rúc rích.

Nhiều lần cô đã van lạy, xin rằng giữ sĩ diện cho cô mà gọi cái biệt hiệu cô mới nhờ người ta đặt hộ là Bạch Nhạn ấy, nhưng các mẹ ranh tai ngược, cứ vờ quên, để bêu cô, mới tức chứ?

Cô Bạch Nhạn - phải đấy, bởi vì cô đã thề độc đứa nào còn bêu cái tên cúng cơm của cô - cô Bạch Nhạn buồn lắm. Vì cổ hủ hết cách. Cái tên đã là "Ca êu sắc" mà lại ăn mặc lối cổ? Ấy thế cũng mang tiếng là con gái Hàng Đào! Các bạn cô, cô Bích Ngọc thì đã được mặc quần trắng và áo sáu khuy. Cô Song Khê đã được cạo răng. Đến ngay như cô Mộng Lê, mà bà cụ cũng chịu để chị đánh phấn và mặc áo mầu nữa là! Ấy là chẳng dám so kè với cô Minh Nguyệt, được mẹ chiều chuộng quá mà cho phép đi học cả nhẩy đầm ở nhà bạn trai đấy!

Thế mà cô Bạch Nhạn ta, úi chào, động có chải cái tóc xoè xoè ra một tí, là bị chửi liền.

Ức nhất là quanh năm cô chỉ được mặc đồ thâm như người có trở, trông tối sầm như bà cụ.

Ấy, giá cô không mua cái khăn nhung và nhờ bà mợ vờ đem lên cho, thì có lẽ bây giờ cô còn phải chít cái khăn xa-tanh trông như con Sen con Nụ.

Cô bực mình quá! Sao lại có bà cụ nghiệt như mẹ cô bao giờ. Bà cụ tưởng cứ đánh phấn với mặc áo mầu là đĩ cả đấy!

Bà cụ biết đâu rằng các cô gái non bây giờ, mỗi năm mỗi mốt, thay đổi xoành xoạch, thi nhau mà quần nọ áo kia.

Mà có phải nhà cô nghèo kiết gì cho cam! Tiền của nhà cô, tưởng có sắm ăn, sắm mặc bằng mấy người ta, cũng còn thừa nữa là. Nhưng bà cụ cứ bắt na bắt nét, bắt tập những nết ăn, ý ở, bắt học những câu nói, việc làm.

Một hôm, cô rình lúc bà mẹ ngủ, mới khẽ lấy hộp phấn Cô-ty mà cô nhờ người mua hộ, vẫn cất kỹ ở trong hòm. Cô đánh mặt cho rõ trắng, bôi cả nốt ruồi giả bên cạnh má. Cô ngồi soi gương, ngắm đi ngắm lại một mình độ nửa giờ. Rồi lại phải đi rửa mặt cho thật kỹ mới dám đi ngủ.

Năm nọ, cô có giấu mẹ, may ngầm một cái áo lam.

Nhưng cô chẳng mặc lần nào. Đến bây giờ mầu ấy lại là mầu cổ nhất rồi. Những lúc cô có việc đi cùng chỉ em bạn, thì tự cô thấy ê chệ nhất đám, vì cách ăn mặc của mình. Cô than thở, thì cô Song Khê xui rằng:

- Tội gì! Có tiền, cậu cứ sắm văng đi! Mẹ cậu có giết được cậu đâu mà sợ!

Nhưng cô không dám liều thế. Vì lỡ bị mẹ chửi thì cũng khổ. Cô Bích Ngọc cũng phàn nàn hộ cô:

- Ở đời này mà cử ăn mặc theo lối cổ, thì bất quá lấy được anh giáo học là cùng! Những thằng Cao đẳng nó chỉ ưa tân thời thôi.

Thấy bạn vẽ cái tương lai, cô lại thở dài, oán cái nền nếp nhà cô. Sao trời đã sinh ra cô là con gái; con gái phố Hàng Đào; con gái phố Hàng Đào có nhan sắc; con gái phố Hàng Đào có nhan sắc của một nhà giàu; đương thì đào tơ mơn mởn, mà không được sinh trưởng vào một cái gia đình được ăn mặc tự do, để được xứng đáng với từng ấy cái mà cô được hơn người.

Cô bực. Cô bực quá!

Thỉnh thoảng, cô ngồi trông hàng, ló mắt ngắm các tiểu thư đi ngang qua nhà mà đâm ghen.

Nhiều cô thực là xấu, cái môi cong tớn, cái mắt ốc nhồi, thế nhưng hễ ăn mặc đúng mốt tân thời thì trông không thấy xấu nữa. Thế thì cô, tuy trẻ và đẹp, nhưng vì ăn mặc đen thì cớ lẽ cái nhan sắc cũng bị tiêu đi mất rồi chứ còn gì? Gớm! Thế thì chán thật. Cô thèm! Cô thèm quá!

Năm nào cô cũng lên Hàng Ngang vài chục lần, để xem hàng mặc mới. Nhiều thứ đẹp và rẻ lắm! Cô ước ao.

Cô giơ tung cả cuộn của người ta ra mà ướm vào mình, đứng trước cái gương, ngắm nghía thật kỹ. Cô lấy làm thích lắm. Rồi cô lại nhà bạn, mượn áo mới may để mặc thử, rồi đi lấy dáng tha thướt, thì ai cũng phải khen:

- Bạch Nhạn nó mặc tân thời ăn lắm nhỉ! Thử cởi cái quần thâm ra xem nào.

Rồi họ lại nói:

- Ừ ra cứ mặt trái xoan và người thon thon, thì ai mặc quần trắng áo mầu cũng nổi.

Mỗi bận cô được khen như thế, thì về nhà, cô lại đâm nghĩ. Cô mơ màng đến ngày cưới cô, quyết thế nào cô cũng xin mặc quần trắng và áo sa-tanh hồng, thêu hoa to bằng cái bát. Rồi cô tưởng tượng đến người bạn trăm năm của cô, trẻ, đẹp, đẫy đà cứ chiều chiều dắt cô ra Bờ Hồ hóng mát. Những người ấy phải mặc quần Tây phẳng nếp, đầu chải thật bóng. Mà cô thì cầm cái mũ cho chồng, mặc lối tân thời từ đỉnh đầu đến dưới gót!

Cô mơ màng cho nên cô thèm quá rồi? Cô không chịu nổi nữa. Cô đánh liều. Cô giấu bà cụ, sắm một mẻ toàn nhưng thứ tân thời.

Cô mua đôi giầy cao gót, mũi vá; may một cái quần lụa Nhật Bản có bốn nếp gấp ở lườn, lại khâu trái một đường ở ống, mà ống thì hẹp, và vén gấu; một cái áo sơ mi viên đăng-ten và thêu hai bông hoa ở hai bên ngực; một cái áo cánh kín tà dài đến hông, cũng viền đăng-ten xung quanh; và một cái áo dài sặc sỡ, chi chít những hoa là hoa vẽ rắc rối như thời cục nước Tàu; một cái ví đầm bằng da hung hung, trong có sẵn những đồ để trang sức.

Cô sắm những thứ ấy, nhưng không dám để ở nhà. Cô gửi đằng chị Bích Ngọc, ở phố Hàng Trống.

Rồi từ đó, mỗi buổi chiều, cô thu thu hộp phấn vào bọc, cô đến chơi nhà cô Bích Ngọc.

Đến nơi, cô xổ khăn, lấy lược ra chải lại mái tóc. Rồi rẽ lệch đường ngôi.

Rồi uốn lại mái tóc cho cong xuống và thò ra mang tai. Rồi cô bôi phấn khắp mặt, tai và gáy. Rồi cô vươn cổ ra để xoa cho đều. Rồi cô rề dài môi ra để tô son. Nhưng cô bạn dạy rằng đừng nên bôi cả vào bề dầy của môi mà xấu, phải làm cho cái miệng chúm lại, nghĩa là phải theo chiều cái môi mà vẽ đỏ một cái môi giả, mỏng và hẹp hơn làn môi thật, gọi là môi quả tim. Rồi cô mặc quần trắng, xếp cho thẳng nếp, đứng ống. Rồi cô vận cái áo sơ-mi, cái áo cánh và áo dài sặc sỡ, vuốt cho phẳng phiu. Xong đâu đấy, cô lận đôi giày mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tú gương mà đứng. Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại. Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô bình phẩm. Cô khoái lắm!

Rồi trong độ nửa giờ, ngắm chán, cô trút hết bộ cánh ra, xin thau nước, lau kỹ cái mặt rồi mặc quần áo thâm, đi về.

Ấy chẳng ngày nào là cô Bạch Nhạn không diễn tân thời một mình, một lúc như vậy. Có thế cô mới đỡ thèm, đỡ hậm hực Nhưng những hôm mưa lướt sướt cả ngày, thì cô nóng ruột quá. Mà cứ đến cái giờ ấy, quái lạ, cô nằm bẹp gí, chẳng thiết làm cái phải gió gì cả.

CỤ CHÁNH BÁ MẤT GIÀY

Phải hiểu rằng cụ chánh bá có thương nhà này thế nào, cụ mới quá bộ đến xơi rượu, chứ như nhà khác, dễ mà mời nổi cụ đấy hẳn? cụ lại không mắng cho vô số, chứ lại thèm đi à? ấy thế mà mới chập tối, họ đã để ngay đứa nào nó xà lọn mất đôi giày mới của cụ, có chết không! ừ thì đông người thì đông chứ, nhà có việc, nhà nào chả có nhiều kẻ ra vào! nhưng cụ ngồi chơi tận trên nhà trên thăm thẳm, thì còn kẻ gian nào dám lẻn vào đó? vả riêng mình cụ ngồi ở sập giữa, thì còn ai ngờ đi lẫn được giày? chẳng qua là lỗi tại chủ nhà không biết trông nom cẩn thận người nhà người cửa, trong khi chúng hầu hạ mà thôi! mà đứa nào lấy đôi giày ấy cũng to gan thực! hỗn với ai thì hỗn, chứ sao được hỗn ngay của cụ chánh bá! thực là vuốt râu hùm!

may thay cho nhà chủ, là tự nhiên lại biết ngay rằng cụ mất giày. chứ đợi đến lúc cụ ra về, hay vô phúc cụ đi giải, mà tìm giầy không thấy, thì không biết làm thế nào? lại cũng may nữa, là cụ chưa biết rằng đôi giày mới của cụ không cánh mà bay đấy. chứ mà cụ biết, thì chết với cụ! xưa nay cụ chúa ghét những thói gian giảo. ngay như đầy tớ cụ, đứa nào mà lảng vảng ra chợ, tắt mắt đồ đạc của người ta, người ta có bắt được và trình cụ, thì cụ cũng không tha. cụ nhất định giữ lấy đồ ăn cắp, rồi sai đánh cho một trận thật.

thế cho nên cụ chánh bá mất giày, nhà chủ sợ xanh mắt:

- Đôi giày của cụ như thế nào, hở cậu?

- mới nguyên, kiểu gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng.

+ + + Độ một tháng nay, cụ chánh bá bực mình vì đôi giày của cụ nó móm quá. anh người nhà nói rằng nó mới, kiểu gia Định, đế cờ lếp, là anh đã làm một lối văn "cổ điển" đẹp lời, chứ nếu theo giọng "tả chân" thì phải nói rằng nó xấu và cũng không có chữ để tả nữa!

Đôi giày ấy, chẳng biết cụ mua từ khải Định mấy niên, đến bây giờ, đóng lại đế là lần thứ bốn, mà nó vẫn hoàn không đế. mũi thì nứt rạn và vá nhiều nơi. cái cá đã đóng thêm lượt nữa, nhưng nó vẫn thủng. lượt da thì ải và bật dây gần hết. bọn thợ khâu giày phải trốn như chạch, vì lỡ ra không nhẹ tay mà chọc mạnh cái dùi vào, là nó toạc ra - vì tất nó toạc ra - thì oan gia.

cho nên chiều hôm ấy, trước khi đi ăn cỗ, cụ đội khăn, mặc áo chỉnh tề, mà cụ ngắm đến đôi giày, thì cụ phát khùng lên. cụ cầm cái giẻ, nhổ tí nước dãi, lau lại cái mũi cho đỡ mờ, nhưng cụ ngắm, cụ vẫn phải nhăn mặt.

cụ đi đi lại lại vài lượt, ra ý nghĩ ngợi, rồi gọi anh đầy tớ thân và sai rằng:

- Đội khăn, đi hầu tao.

anh đầy tới gẩy cái bã điếu, lau qua cái tráp, rồi đứng khoanh tay chờ lệnh. cụ bá nhìn vào đôi giày, nghiêm sắc mặt lại, gắt:

- mày làm tao xấu hổ về đôi giày!

thấy khí giận ngầu ngầu trên mặt chủ, anh này gãi tai không dám trả lời.

- tao bực lắm! làm thế nào bây giờ?

anh đầy tớ không biết nói tiếng gì hơn là tiếng "dạ" đỡ đòn. nhưng cụ bá lại gắt:

- tao không thể đi đôi giày được nữa. kệ chúng bay! muốn làm thế nào thì làm!

câu gắt khí lạ, các ngài nhỉ! giá chúng mình làm nũng vợ, hay bắt nạt em gái, thì dùng câu ấy được đấy. nhưng bắt đền người nhà thì kém "logic" lắm!

nhưng mà cụ chánh bá tôi nói thực đấy! Đôi giày của cụ cũ và xấu, là lỗi tại đầy tớ ngu. nay cụ bắt phải có đôi khác thay vào, thì không đứa nào được trái ý.

anh đầy tớ lo lắm. nếu anh bẩm cụ mua giày mới, thì khổ anh. vì cụ cứ ừ, nhưng không đưa tiền. nếu không có giày cho cụ, thì cụ đánh đòn về tội kiệt.

cụ để cho anh luống cuống một lúc, rồi cụ mới dịu nét mặt, khoan thai vẫy lại gần, rỉ tai nói nhỏ. Đến câu chửi kết luận, anh ta mới tủm tỉm cười, phục ngầm thầy là mưu cao, và thấy nhẹ nhàng, đỡ lo đôi chút.

ấy thế rồi hai thầy trò đi.

Đến nơi, nhà chủ đón chào rất trân trọng. họ mời cụ lên nhà trên, hầu hạ kính cẩn, sợ hãi. lại còn sợ không quen tính cụ xưa nay ra sao, nên cứ phải thì thào hỏi dò cậu người nhà từng tí. và nhờ cậu luôn luôn đứng cạnh cụ, xem thiếu thức gì, thì cứ việc sai bảo tự nhiên.

cụ ngồi một mình trên sập giữa, và xơi riêng một mâm rượu đầy tú ụ. nhà chủ không dám ghép ai ngồi hầu, mà cũng chẳng ai dám ngồi hầu. vì lỡ ra có sơ suất hay thất thố, thì thà cụ cứ mắng chửi ngay cho lại là phúc. Đằng này, cụ cứ im, rồi để bụng. thế là mất làm ăn.

lúc chập tối, trong khi có hai thầy trò cụ chánh bá ở nhà trên, thì cụ khẽ gật tên đầy tớ, và liếc mắt một cái. anh này hiểu ý, ra hiên đứng nhìn, rồi đến cạnh cụ, cúi xuống nhặt... rồi thu thu vào trong bọc. rồi len lén ra ngoài ao. rồi giơ thẳng cánh tay, ném xuống nước. tõm!...

vì thế cho nên cụ chánh bá nhà tôi mất đôi giày mới nguyên.

+ + + cụ chánh bá mất giày! may mà cụ không biết đấy! chứ giá cụ mà biết, thì chết nhà chủ! vì cụ xưa nay chúa ghét những thói gian giảo! to gan thay, đứa nào dám vuốt râu hùm!

lúc cụ xơi cơm xong, nhà chủ mới lên mời cụ đánh tổ tôm. cụ vui vẻ cho phép ngồi, và hỏi dăm ba câu chuyện. nhà chủ ngồi xổm ở cạnh sập. và trong khi hầu chuyện, anh ta vớ lấy cái điếu để hút. Đấy, chính lúc ngọn đóm lập loè dưới gậm, anh ta mới nom rõ bốn xung quanh giường, không thấy đôi giày nào cả. anh ta tái mét mặt, đến nỗi chưa hút được xong hơi thuốc, thì mối lo đã đùn đùn đưa lên đến ngực, đến nỗi anh ta sặc và ho sù sụ! sợ quá! nhưng không dám nói ra, anh ta mới lẳng lặng soi khắp nhà. quái! không tìm thấy đâu cả.

nhà chủ xin phép cụ cho bốn người lên hầu bài, rồi đi xuống. lúc gặp cậu người nhà, anh ta mới hỏi khẽ:

- Đôi giày của cụ, cậu có cất không?

- không! sao bác hỏi lố bịch thế?

- vậy thì mất à? Đôi giày của cụ như thế nào, hở cậu?

- mới nguyên, kiểu gia Định, đế cờ lếp, mua những ngót ba đồng!

hỏi xong, nhà chủ sai người đổ đi soi đèn, tìm khắp mọi nơi, sau nhà, bờ giậu, xó bếp, ngoài vườn, chuồng trâu, cũi chó. nghĩa là những chỗ có thể ngờ là kẻ gian giấu được, hoặc các nơi mà đàn chó con mọi khi vẫn chơi đùa.

càng không thấy, nhà chủ càng lo. cậu người nhà thỉnh thoảng lại nói một câu dậm dọa:

- hay là tôi lên trình cụ xem nhé!

trình cụ! coi không cụ biết thì cụ chửi cho ủng mồ! nhà chủ cứ bắt gia nhân đi tìm mãi, nhưng vẫn chẳng hy vọng gì, bèn đánh liều bỏ phí một đồng bạc để treo giải thưởng cho người tìm thấy.

nhưng có mà trời tìm! giá có cao đoán rằng cụ đã mật sai người nhà cụ vứt bõm xuống ao rồi, mà mò, thì cũng vô ích. vì từ nãy đến giờ, thì giờ cũng đủ cho đôi giày rữa ra và tiêu hết rồi, chứ còn gì!

nhưng mà mất giày cụ chánh bá! việc to! chết!

ấy, ở trên nhà, cụ vẫn đương vui vẻ gọi phỗng, và tính nước bài. chứ nếu ai mà hót với cụ rằng đôi giày mới của cụ, có đứa nào thó mất, thì hẳn cụ quăng bài đó, rồi cụ tra tấn cho ra. vì xưa nay cụ dữ như con hùm, khét tiếng trong hàng tổng là quyền hành, hách dịch, thét ra lửa!

cụ thét ra lửa thật hay dối? ấy là tán rộng thế cho nó hay đấy. chứ nếu biết rằng mất giày mà cụ thét ra lửa thực, thì cháy tiệt cả nhà, còn gì nữa? mà nhà nước thấy cụ có phép lạ, thì đã gửi toách cụ sang tây từ đời nào, để viện hàm lâm khoa học, các ông bouvier, caulery, gravier, joubin, marchal, mesnil khảo cứu. và như thế thì chắc chắn cụ được đôi giày tây để đi, chứ cụ có còn ở nhà nữa đâu mà mất đôi giày gia Định, đế cờ lếp! nhưng nói cho cụ đỡ oan, là từ ngày cụ có chân sơ học yếu lược tới nay, được đổi ngạch bá hộ sang văn giai, thì cụ cũng hiền lành hơn trước một chút. cho nên, giá cụ có biết rằng cụ mất giày, thì cũng mặc kệ cho nhà chủ tự xử trí.

tìm mãi không thấy, hai vợ chồng nhà chủ trợn mắt trợn mũi, luống cuống, chỉ trỏ bàn nhau. không biết làm thế nào cho êm chuyện. rồi thở ngắn than dài, hối mãi vì sự trông nom không cẩn mật để xảy ra sự mất mát đáng tiếc ấy.

rồi đến hai giờ sáng, xong ba hội tổ tôm, mọi người mời cụ chánh bá nghỉ, kẻo mệt. nhà chủ sai đốt đuốc để tiễn cụ lại nhà. khi chỉ còn một mình cụ ở lại, cụ mới quàng cái khăn vào cánh tay, rồi lấy đóm soi đôi giày dưới đất. Đôi giày của cụ thật mới, bóng nhoáng, kiểu gia Định, và đế cờ lếp, được để cận thận bên gậm sập. cụ hiểu ý, liếc mắt nhìn nhà chủ. nhưng cụ lại thấy nhà chủ cũng nhìn trộm cụ, thì cụ lại phải soi đóm xuống lần nữa, và làm như ngạc nhiên, không hiểu, nên nói:

- ớ! không phải...

nhà chủ, trống ngực thình thình, vội vàng đáp để đánh trống lấp - dạ! bẩm phải đấy ạ.

thế rồi cụ làm như vô tâm, và hay tin người, cụ vươn vai, ngáp, rồi cót két đôi giày mới, đi về, lấy làm vừa lòng lắm...

THỊT....

Thảy đã xảy đến rất là đơn giản và không lôi thôi tí nào cả. Vì những lý do tốt hơn chớ nên kể ra, quần chúng đã bị thiếu thịt trầm trọng. Mọi người đều lo lắng. Có kẻ đã xuyên tạc bằng những lời chua chát, có kẻ đã bàn tính chuyện nổi loạn. Nhưng rồi, theo thông lệ, sự phản đối không đi xa hơn sự hăm doạ suông, và người ta được chứng kiến cái cảnh dân chúng kiệt quệ bức lá bức cỏ bỏ vô mồm nhai nuốt.

Tuy nhiên, bác Ansaldo thì không cần làm như thiên hạ. Rất ư là tỉnh bơ, bác ấy lấy một con dao xắt thịt lớn đem ra mài, rồi lập tức quần tuột xuống tới gối, bác thẻo một miếng bíp tết thật to bên mông trái. Sau khi rửa sạch và tẩm muối dấm, bác nướng sơ trên vỉ sắt rồi chiên trên cái quánh để rán trứng trong ngày chủ nhật. Xong, bác mang miếng bíp tết lớn ra bàn ngồi xơi ngon lành. Bỗng nhiên có tiếng gõ cửa, một trự hàng xóm chạy qua tâm sự -. Bác Ansaldo trịnh trọng chỉ cho ông bạn láng giềng xem miếng thịt chiên. Người hàng xóm tò mò hỏi, Ansaldo chỉ cần chìa cái mông trái ra cho y coi. Khỏi cần phải nói. Ông hàng xóm phục lăn và á khẩu, bỏ đi rồi trở lại tức thì với ông thị trưởng. Ông này bày tỏ với bác Ansaldo cái ước nguyện được thấy đám quần chúng yêu mến của ổng có thể sống tự túc như bác Ansaldo. Hay nói cách khác: có thể nuôi thân bằng chính thịt của mình. Quyết định nhanh, rồi trao đổi chóng những lời nồng nhiệt giữa dân có giáo dục, thế là bác Ansaldo bươn bả đi ra cái công trường lớn, để, theo đúng nguyên văn của bác, cống hiến "một màn biểu diễn thiết thực cho đám đông.

Vừa tới nơi, bác bảo mọi người nên cắt hai miếng bíp tết bên mông trái, giống hệt từng điểm một với miếng thịt bằng thạch cao màu đỏ toòng teng trên cái móc sắt lóng lánh. Hai miếng thay vì một, bác tuyên bố như vậy: hai miếng để chẳng có ai bị thiệt thòi, mọi người đều có thịt thà đồng đều như nhau, được ngốn hai miếng bíp tết, bởi vì cắt một miếng bên mông trái bác đã làm rồi. Sau các lời chính xác ấy, mọi người bắt đầu thi hành phận sự cắt hai miếng bíp tết bên mông trái. Một cảnh tượng vô cùng ngoạn mục, nhưng đã có yêu cầu không nên mô tả lại. Người ta bắt đầu làm bản thống kê để tính xem dân chúng sẽ được hưởng món thịt trong khoảng thời gian bao lâu. Một nhà giải phẫu học xuất chúng đã dự tính, nếu dựa trên sức nặng một trăm cân và trừ bớt bộ đồ lòng và những bộ phận không ăn được, thì mỗi người có thể xơi thịt trong khoảng một trăm bốn mươi ngày theo dung lượng nửa cân thịt mỗi ngày. Dù sao thì đó chỉ là một bài toán hão huyền. Điều cốt yếu là ai cũng được nhai một miếng bíp tết bự.

Chẳng bao lâu đã có nhiều bà ca tụng sự khám phá của bác Ansaldo. Thí dụ, các bà đã xơi vú mình, thấy chẳng cần phải che đậy bộ ngực nữa, và áo quần của họ chỉ còn lên tới trên mức lỗ rốn tí thôi. Vài bà khác, nhưng không phải là tất cả, đã thôi chuyện trò, vì họ đã nhai nuốt lưỡi. Mà cũng xin thưa rằng, lưỡi là một món ngon đặc biệt, thuộc hàng vương giả. Ngoài phố đã diễn ra những cảnh tượng quá đỗi tuyệt vời, chẳng hạn, có hai bà nọ xa cách nhau lâu ngày, khi gặp nhau lại, thì không thể hôn nhau, vì họ đã dùng môi để lăn bột chiên, sáng tạo một món mới rất thành công. Ông giám đốc nhà lao thì không thể ký tên vào bản án tử hình của một tội nhân vì ổng đã gậm sạch các đầu ngón tay, mà những tay sành ăn (ông giám đốc cũng là một người sành ăn) bảo rằng đã cho ra đời cái câu nói rất thông dụng: "Ngon như liếm ngón"

Thỉnh thoảng cũng có vài cuộc phản kháng. Nghiệp đoàn công nhân may áo nịt vú đệ trình một bản kiến nghị và được nghe chính phủ bảo rằng chẳng còn "khẩu hiệu" nào trên thế giới có thể thuyết phục được giới phụ nữ mang xú chiêng. Nhưng chúng chỉ là những cuộc nổi loạn vô hại, không thể biến đổi tình trạng dân chúng tiếp tục đớp thịt của mình.

Một trong những biến cố ngoạn mục nhất ở cái thời điểm rất dễ thương này, là việc thẻo miếng thịt cuối cùng trên mình một nghệ sĩ vũ múa quốc gia. Vì tôn trọng nghề nghiệp, anh này để dành các ngón chân quí đẹp tới phút cuối cùng. Hàng xóm nhận thấy vẻ lo âu của anh trong những ngày gần đây. Anh chỉ còn vỏn vẹn cái phần nhiều thịt nhất của một ngón chân cái. Anh triệu tập bằng hữu tới nhà để chứng kiến cảnh anh ra tay. Trong sự im lặng đẫm máu, anh thẻo cái phần thịt cuối cùng, và không cần đưa qua đưa lại trên lửa, ném thẳng nó vào cái lỗ nhỏ đã từng là một chiếc miệng xinh. Một nét trang nghiêm bất thần xuất hiện trên khuôn mặt anh.

Nhưng dù sao thì mọi người vẫn tiếp tục sống và đó là điều cốt yếu. Hay là không phải vậy? - Phải chăng vì lý do trên đây mà đôi hài của một vũ công hiện được trưng bày trong một gian phòng của viện bảo tàng Kỷ Vật Danh Tiếng? Người ta chỉ được biết rằng một trong các nhân vật béo bự nhất của thành phố (ông ta cân nặng hai trăm kí) đã tiêu thụ hết cái phần thịt dự trữ khả dụng chỉ trong vòng mười lăm hôm (ông ta rất háo ăn và cơ thể ông ta cần những dung lượng thực phẩm vĩ đại). Từ dạo ấy, ông ta đã biệt tăm biệt tích luôn. Chắn chắn ông ta đã ẩn mặt. Nhưng chẳng riêng ông ta thôi, nhiều người khác cũng hành động y hệt. Vì thế mà một ngày đẹp trời, bà Orfila hỏi đứa con nhỏ - nó đang nhai rạu rạu cái vành tai trái - bà hỏi nó đã cất dấu ở đâu một món gì đó, tôi không biết, mà không có đối đáp. Van nài, đe doạ cũng đều vô hiệu quả. Được mời thỉnh tới nhà, một chuyên viên về các vụ mất tích chỉ tìm thấy một đống cứt tại cái chỗ mà bà Orfila thề có đất trời chứng giám rằng đứa con của bà đã ở đấy khi bà chuyện trò với nó. Dù sao thì mấy cái tai nạn be bé ấy cũng không phương hại đến sự vui vẻ của thị dân. Bởi họ đâu có lý do gì để mà than phiền khi cuộc sống đã được bảo đảm? Cái vấn đề hệ trọng thuộc về trật tự công cộng do nạn thiếu thịt gây ra đã chẳng được giải quyết một cách rất ổn thoả rồi à? Nếu các người kể trên đã luân phiên biến mất thì cũng chẳng ăn nhập vì tới sự cốt lõi của vấn đề, mà chỉ là một sự xiển dương không gây trở ngại tí nào cả cho sự quyết tâm của dân chúng trong việc tự kiếm lấy cái thức ăn quí báu bằng cách đó. Phải chăng đó là cái giá mà mọi người đều phải trả để có da có thịt trên cơ thể? Thế nhưng tốt hơn nên tránh cái chuyện đê tiện là đặt ra những câu hỏi khiếm nhã như vậy, bởi đây là thực kiện: các công dân ngoan ngoãn ấy đã được nuôi nấng rất ư là tuyệt trần.

VIỆC TUẦN PHÒNG Ở CÁC LÀNG

Hương thôn có tuần tráng cũng như ở thành thị có cảnh sát, để ngày đêm canh giữ trong làng và ngoài đồng, ngăn ngừa trộm cướp, cấp cứu thủy hỏa cùng thi hành những mệnh lệnh của dân. Người đi tuần đã vì công an, công ích mà xuất lực, thì phận sự của người cùng làm đều vui lòng báo lại bằng lệ lấy lúa sương, mỗi sào vài lượm, hoa màu ngô khoai thì mỗi sào mấy xu, trong làng thì cho thu tiền nóc nhà chia ra làm ba hạng, nhà ngói nhà gỗ và nhà tre, thuế trâu bò và tiền cheo của con gái khi đi lấy chồng. Cổ lệ, thì mỗi làng cắt mười người đàn em chia nhau canh gác trong năm trống canh, hai người trương tuần thì hiệp lực với phó lý để trông nom đốc thúc. Những món lợi hàng năm mà dân cho chẳng qua chỉ là món phụ cấp, chứ không phải lương, vì món tiền ấy chẳng được bao nhiêu. Về sau, những nhà giàu có, đến tuổi đóng góp với làng không chịu gánh vác việc khó nhọc ấy, nhà nghèo thì trông vào số lợi ấy không đủ nuôi thân cũng sinh lòng chán nản, người ta mới nghĩ cách mua nhiêu mua xã để cho hạng bạch đinh trọc phú bỏ của ra cho khỏi phải chịu việc khó nhọc. Thế là từ đấy, những việc gian lao nguy hiểm ấy trút cả cho bọn cùng đinh. Bắt những người nghèo khó, nhà tranh vách đất, ăn đói mặc rét, phải canh giữ cho những người giàu có sung sướng. Bọn đó cố nhiên là ai cũng có quyền khinh rẻ thì những món lợi mà dân để cho lại bị bọn tổng lý, nha lại, lính lệ, lính tuần lấy thế là người được quyền kiểm soát, đốc thúc rồi cũng tìm cách ăn bớt, ăn chặn mất cả. Ngoài việc phận sự canh gác, lại còn phải hầu hạ các ông tổng lý, nào là theo hầu ông lý ông bá trong các đình đám, nào là phục dịch trong nhà các ông ấy khi có giỗ chạp, hoặc sai bảo việc này việc khác của những ông có quyền đánh mắng. Quyền lợi đã không có, công việc lại khó nhọc, thế mà trong việc canh giữ nguy hiểm thì khí giới không có, luyện tập cũng không thì địch lại thế nào được những quân trộm cướp hung bạo.

Một khi trong làng có trộm cướp xảy ra, nếu không đút lót cho tổng lý, van lạy sự chủ thì sẽ bị người ta khép vào tội không ứng cứu mà bắt đền, bắt lỗi nữa. Xưa nay việc trộm cướp xảy ra trong làng phần nhiều là do bọn du thủ du thực kết nạp với bọn ở ngoài mà đem việc trộm cướp về làng. Việc xong rồi cũng có người biết là tự thằng nọ thằng kia mà không dám nói rõ trước mặt nhà chuyên trách, vì việc thám báo đã chẳng lợi gì, mà có khi mắc tội man báo, có khi bị chúng nó thù oán khó lòng làm ăn yên ổn được. Bọn tổng lý nhân đấy tìm cách ăn thông với cướp, tìm cách che chở bênh vực, dọa nạt sự chủ, tuần phiên, rồi lập tờ trình qua quýt cho xong chuyện, ngoài việc dối trá trong việc khai trình, còn bắt sự chủ và tuần phiên đút lót với quan nữa. Việc phòng thủ thôn quê hiện nay có mấy điều khó khăn là cấp lương cho tuần phiên thì dân đinh, điền họ đóng góp nặng nề lắm rồi, không chắc có thể nuôi nổi lương tuần, mà tuần có lương, tổng lý không có lương thì trước hãy xảy ra một cuộc đấu giá cho nha lại tổng lý, rồi sau này anh nào được còn phải cung ứng cho khỏi bị họ hành hạ để bóp nặn. Việc luyện tập thì không có người huấn luyện, mà cũng chưa biết huấn luyện theo phương pháp võ nghệ của ta, hay theo lề lối của nhà binh. Nếu tập theo võ nghệ của ta thì môn ấy đã thất truyền từ lâu, và có cũng không thể đem giáo mác gậy gộc ra đối địch với quân cường đạo có súng ống đạn dược.

Nếu tập theo cách nhà binh thì hẳn là chính phủ không bao giờ dám cấp súng cho tuần. Việc dò xét trộm cướp cần phải có một cơ quan thám thính, thì hiện nay sở liêm phóng bắt buộc sự chủ phải nộp tiền lệ phí rất nặng, rồi mới ra lệnh truy tầm là một sự rất khó khăn, mà quan bản hạt thì trăm việc đổ vào đầu, không sao làm xiết được, nếu trong hạt mà trộm cướp nổi lên lại là một dịp kiếm tốt, một việc không quan thiết tới cuộc thăng thưởng của mình như việc bán rượu cho chạy, thu thuế cho róc, thì tội gì vất vả khó nhọc, mà có khi lại còn nguy hiểm tới thân...

HỌ VẪN ĂN VÀO CÁI XÁC CHẾT

Ông lý Bá làng tôi đáo để thật! Tôi xin thuật ra đây một cái "đáo để" mà ông ta đã dùng để kiếm tiền.

Một hôm trời gần tối, người tuần phu đến lượt quét chợ, hấp tấp chạy vào trình rằng ngoài chợ có bà lão ăn mày chết. Ông ta hỏi:

- Nó nằm ở gian hàng nào? - Bẩm ông, nằm ở gian hàng bà năm Ngẩn.

- Có phải gian hàng bán quà bánh phải không?

- Bẩm vâng!

- Được rồi, thế thì mày đi gọi con mẹ năm Ngẩn lại đây, bảo đã.

Anh tuần chạy đi một lát thì thấy mụ năm Ngẩn lật đật chạy theo đến. Ông lý ra vẻ ôn tồn nói:

- Chỗ bà con tôi bảo thật, ngày mai có phiên chợ, gian hàng bán quà bánh của bà lại có cái xác mụ ăn mày nằm chết tại đấy, thì ngày mai bà hãy nghỉ hàng, vì tôi còn phải trình quan khám biên đã rồi mới đem nó đi chôn được, và sau này bà có phải lên tỉnh xuống huyện khai báo về cái xác chết ấy thế nào, bà cứ liệu mà nói. Nhưng khéo ra bà cũng phí tổn ít nhiều, vì nó chết ở gian hàng của bà, nếu không khéo thì cũng rầy rà kia đấy.

Mụ Ngẩn nghe nói rụng rời, những nghe nói hàng mình có xác chết đã sợ, lại thấy nói phải lên quan thì kinh hãi biết dường nào, hàng bán đồ ăn thức uống, thuế nộp rồi, nếu cả chợ họ biết người chết ở gian hàng mình thì còn ai mua bán gì nữa. Mụ bèn năn nỉ nói:

- Chết chửa, thế thì làm thế nào? Thưa ông, nhờ ông nghĩ giùm cháu, nhờ ông châm chước đi cho.

- Châm chước thế nào? Xác chết ở hàng nhà bà, chẳng lẽ bây giờ bà bảo tôi đem về nhà tôi chăng?

- Thôi, trăm sự nhờ ông, ông nghĩ cách nào cho cháu nhờ thì cháu không dám quên ơn ông.

- Cứ về lo lấy chục quí (10p) đem lại đây thì tôi liệu cho. - Chết! Nhà cháu còn có gì nữa, vốn liếng được bao nhiêu, ông dạy thế thì cháu lo liệu làm sao cho được, lạy ông giơ cao đánh sẽ, xin ông làm phúc giúp cháu.

- Thôi thế thì chục gián (6p) là nhẹ lắm rồi, chẳng qua là cái hạn của bà, bán đường dài mua đường ngắn chỗ bà con tôi cũng đành cáng lấy cái chết cho bà vậy, nếu bà còn nói lôi thôi nữa thì tôi mặc, sau này bà phí tổn vài ba chục thì bà đừng trách tôi khoảnh độc.

Mụ Ngẩn tụt bao lưng, giốc ra một cái túi vải nâu, đổ ra đếm cả xu lẫn hào và tiền trinh được 1p30 và ba cái giấy một đồng, vừa khóc vừa nói:

- Thưa ông, cả cửa nhà cháu chỉ có thế này, xin ông làm ơn nhận giúp cho, nếu còn nữa, cháu không dám tiếc, nếu bây giờ đi vay mượn đâu, sợ lộ chuyện có đứa nó cáo giác ra thì cháu chết, thôi xin ông dón tay làm phúc.

Ông lý ngần ngại một hồi mới chịu nhận và dặn phải kín đáo. Anh tuần phu chạy theo đánh chó cho mụ Ngẩn đi ra rồi lại quanh vào đứng dựa cột chờ lệnh ông lý. Ông lý ngước mắt nhìn bác tuần phu ra vẻ đắc chí.

- Con mẹ này xưa nay vẫn có tính keo bẩn, bây giờ bóp cổ mới chịu lè lưỡi. Thầy trò ta có chén rồi đây! Bây giờ mày chịu khó một tí nhé, mày ra kéo cái xác con mẹ ăn mày đến gian bán thịt của thằng Khướu, rồi mày lại gọi nó đến đây cho tao, ông cho thằng này một vố nữa đã!

Anh tuần phu dạ một tiếng dài, một tiếng dạ có hơi kim khí! Lanh lẹ ra đi một lát đã thấy bác Khướu, rượu say bí tỉ, miệng bỏm bẻm nhai trầu tiến vào, tưởng là cụ Bá có lợn muốn bán. Sau tiếng chào của bác Khướu, cụ Bá hất hàm hỏi:

- Mai anh mổ mấy lợn?

- Bẩm cụ, mai vừa tết Đoan ngọ lại chính phiên chợ, cháu mổ cả thảy ba lợn, lại lấy thêm thịt bò về bán kèm nữa, trong cụ có lấy gì xơi không?

Cụ Bá cau mày:

- Thế thì lỡ việc của anh rồi, tuần nó vừa vào trình tôi rằng tại gian hàng của anh có người ăn mày chết về bệnh tả, anh thử ra xem có thực thế không, nhưng đừng làm huyên náo mà mất cả buôn lẫn bán đấy.

Câu nói của cụ Bá chẳng khác gì tiếng sét đánh vào tai bác Khướu, mắt tròn lên, miệng há hốc ra, hơi men như ngừng bốc, những giọt mồ hôi trên trán toát ra. Giữa tình trạng ấy, cụ Bá cứ làm thinh lơ đãng như không để ý.

- Chết! Lợn, cháu đã lấy về lò sát sinh rồi, thịt bò, cháu đã đặt tiền rồi, làm thế nào hở cụ?

- Làm thế nào, anh hãy nghỉ hàng, mai tôi còn trình quan khất khám, còn tẩy uế đã, rồi trước mặt quan, cửa hàng của anh có xác chết, anh muốn khai thế nào thì khai, tôi biết đâu.

Anh tuần đứng ngoài hớt vào:

- Thôi, bác nói với cụ, nhờ cụ che chở châm chước đi cho, buôn bán còn lâu dài, nếu để đến ngày mai, cả chợ họ biết gian hàng của bác có người chết dịch tả thì bác bán thịt cho ma nó ăn.

- Vâng, bác ấy nói chính phải, cháu cũng nghĩ thế, thôi xin cụ làm ơn giúp nhà cháu, hay là cụ để cho cháu ra vác nó đi chôn quách một chỗ là xong, ai biết đâu.

- Anh nói đã dễ chưa, mạng người có họa là cái bánh hỏi, lỡ gặp phải anh nào nó biết thì anh mất nghiệp. Ừ, anh muốn thế, tôi thây kệ anh, anh có giỏi thì thử ra vác đi tôi xem nào.

Bác lái lợn xem ra đã chợn, đứng đực mặt, chẳng biết nói sao. Cụ lý ôn tồn bảo:

- Này tôi bảo, muốn xuôi việc thì cứ "con công", "con công" tớ giúp cho yên ổn, ngày mai lại buôn bán như thường, nếu không thì tùy ý, muốn làm thế nào thì làm.

Bác lái được lời cụ lý truyền cho, nhẹ mình như cất gánh nặng, đành nhắm mắt, nặn hầu bao lấy đủ năm đồng, đặt vào cái đĩa, rồi gãi đầu xin cụ thu xếp đỡ cho.

- Thôi được, cứ về, nhưng phải câm nhé, nếu có đứa nào nó biết thì tôi không thể nào che chở được mà anh thì tiền mất tật mang đấy, thôi anh tuần đánh chó cho anh ấy về.

Bác Khướu về khỏi, cụ Bá tính gộp lại hai món được 9,30. Anh tuần còn nhắc:

- Bẩm cụ, con lại lôi sang gian hàng khác, cụ nhé!

Cụ Bá tủm tỉm lườm anh ta một cái rồi chửi yêu: - Lôi mẹ mày đi đâu mà lắm thế! Ăn lắm không sợ hóc à? Này đây ông cho bữa chén.

Miệng nói tay vứt cho anh tuần 1p30 và dặn: - Bây giờ một mình mày làm thế nào tha con mẹ ấy ra quán Trúc mà để, đấy là địa phận làng Yên Xá rồi.

Sáng hôm sau, nghe ngóng mới biết lý dịch Yên Xá đã kéo xác mụ ăn mày xuống bờ Trầm mây, địa phận làng Lôi! Đấy, một cái xác chết của kẻ khốn cùng, họ nỡ nhẫn tâm như thế. Nếu hỏi họ tại sao làm điều vô đạo ấy thì họ thản nhiên mà đáp: Pháp luật bây giờ lắm khi vì làm phúc mà phải tội là thường.

MỘT VIỆC ĂN VẠ

Hôm ấy nhằm phiên chợ Đình, cái chợ mà cả làng Đ.G. đều sống về nó. Tôi đi đến đầu làng ấy giữa lúc người làng đi chợ đương đông. Quái lạ! Làm sao hôm nay không có đàn ông, trên đường rặt những đàn bà. Kẻ gồng rau, người gánh gạo, bà này gồng chiếc lồng lợn, bà kia quẩy đôi lồng gà, hết lũ dài dến lũ ngắn, người ta tiếng to tiếng nhỏ, nhao nhao nói chuyện với nhau.

- Khốn nạn! Trông thấy tình cảnh ông Sửu mà tôi thương quá. Hôm qua đến giờ, bà vợ lúc nào nét mặt cũng ủ rầu rầu, ông chồng chỉ nằm thở dài, có lúc đấm mãi hai tay vào ngực, hàm răng nghiến lại kèn kẹt...

Bà ấy còn định nói nữa, nhưng bị bà khác cướp lời:

- Tôi cũng ái ngại cho ông ấy. Tội nghiệp! Cả vợ lẫn chồng ai cũng hiền lành biết điều, thật thà như đếm. Không hiểu cớ gì lại bị nhiều người ghét bỏ đến thế? Phen này không khéo hết cả cơ nghiệp!

Một bà thứ ba nói xen: - Các bà là bậc nhân đức từ bi, các bà cứ thương ông ấy. Riêng tôi, tôi chẳng thương một chút nào!... Anh em ít, cánh vế không có, thế mà vẫn không biết thân, lại còn cứ bướng, thì ai người ta để cho yên lành!

Lại một bà nữa tiếp theo:

- Phải, bà nói phải đấy! Mình ở trong làng, sống nhờ làng, chết nhờ làng. Cái người đã dám vác miệng chửi làng, thì bị trừng trị là đáng kiếp lắm. Hơi đâu mà thương.

Rồi một bà nữa cãi lại: - Các bà đừng nói thế, oan cho ông ta! Chẳng qua ghét nhau thì họ gắp lửa bỏ vào bàn tay... chứ đời nào ông ấy dám động đến làng. Luôn mấy năm nay, hết người này ăn hiếp, lại đến người kia đè lấn, ông ấy vẫn nhịn như nhịn cơm sống, có dám bướng bỉnh với ai đâu!

Còn nữa! Làn sóng dư luận còn kéo dài mãi ở dọc đường. Nhưng nó mỗi lúc mỗi theo những gánh gà lợn, rau gạo đi xa dần, nên khi bay lại tai tôi, không còn rõ là tiếng gì nữa. Cố nhiên tôi không có ý nghe chi những chuyện giữa trời, nhưng vì nó đã ngẫu nhiên lọt vào tai, tôi cũng ngẫu nhiên bận óc vì nó. "Chắc là trong làng đã có người nào bị đánh bị trói gì đây". Với câu phỏng đoán đó vơ vẩn trong óc, tôi lững thững đi vào cổng làng. Người làng ở trong các xóm, lũ lượt kéo ra con đường giữa làng, già có, trẻ có, con nít cũng có. Trái lại với quang cảnh của đoạn đường lúc nãy, ở đây rất nhiều đàn ông, thỉnh thoảng mới có một người đàn bà. Với những tiếng cười cười, nói nói, vui như đám hội, người ta đổ xô về nẻo cuối làng. Xen lộn vào sự xôn xao của đám đông người, ở trong các xóm, lại có tiếng lợn eng éc. "Không phải là chuyện đánh nhau, trói nhau, có lẽ người ta sắp sửa có cuộc ăn uống. Phải rồi, hôm nay đàn ông vì bận ăn uống, nên mới nhường hết quyền đi chợ Đình cho bọn đàn bà, đoạn này toàn là đàn ông", tôi vừa cải chính cái câu của tôi phỏng đoán mới rồi, vừa im lặng đi theo một con đường với lũ người ấy. Và tôi đã từ biệt họ khi đến khỏi đình: họ đi tấp nập kéo vào điếm đình, thì tôi rẽ sang nhà Khóa Trúc, người bạn đồng học với tôi năm xưa. Bởi vì chúng tôi có hẹn trước nên lúc ấy anh Trúc đương vơ vẩn đón tôi ở chỗ đầu ngõ. Đường đi tuy rằng hơi xa, nhưng nhà anh này lại ở kề với sân điếm và chỉ cách khu điếm một bức rào bằng găng tây. Vào ngồi trong nhà anh ấy, tôi còn thấy rõ hết thảy cảnh tượng trong điếm. Cái điếm rộng quá!

Ngoài một tòa chính ở giữa lại có hai tòa giải vũ kèm ở hai đầu, mỗi tòa độ bốn năm gian. Đám người lúc nãy lần lượt tiến vào đến cửa điếm. Các ông già và người cao tuổi lên thẳng tòa chính, còn người ít tuổi và đám con nít thì xuống hai tòa giải vũ. Giây lát, ba bọn đàn ông lực lưỡng khiêng ba con lợn bị trói đặt vào trước sân, và một lũ người khác đài tải tới đó đủ hết các thứ: bát, đĩa, dao, thớt, rổ, rá và nồi ba mươi. Rồi đó, bọn này bắc nồi đun nước, bọn kia đè lợn chọc tiết. Bắt đầu câu chuyện, tôi phải hỏi ngay anh Trúc:

- Đám ấy là đám gì, đám gì mà có đủ từ ông bạc đầu đến lũ trẻ con!

Anh Trúc mỉm cười đáp:

- Đó là một đám ăn vạ!

Rồi vừa pha nước, anh ấy vừa tiếp:

- Cái tục ăn vạ, thiên hạ cũng nhiều nơi có. Nhưng mà có lẽ không đâu nặng bằng làng tôi. Bởi vì theo lệ làng tôi, quyền hành của bốn "trùm nhất" lớn lắm, bao nhiêu công việc trong làng đều do bọn họ quyết định, lý dịch cũng phải theo họ. Người nào cưỡng lại với họ, ấy là họ sẽ tìm cách ăn vạ.

Như đã thấy tôi không hiểu "ăn vạ" là gì, anh Trúc uống cạn chén nước rồi thêm:

- Chắc anh chưa được chứng kiến cuộc ăn vạ nào thì phải! Có gì đâu, người nào có lỗi với "làng" thì "làng" cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người có lỗi đó phải chịu. Hôm nay họ ăn vạ lão Sửu. Tội nghiệp! Lão ấy hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ vì nhà đã lép vế, lại có bát ăn, một hôm một ông trong bốn ông "trùm" đến nhà hỏi vay gánh lúa, lão ta đi vắng, mụ vợ chối là không có, ông trùm kia lấy làm thù, cách vài hôm sau hắn mượn việc làng sinh sự cãi nhau với lão ấy, rồi hắn vu cho lão ta chửi làng và đem chuyện đó trình "làng". "Làng" là bọn đó chứ có ai đâu! Chúng với hắn cũng như một đào một kép, cho nên khi thấy hắn trình, chúng liền hùa nhau bắt vạ lão Sửu.

Anh Trúc rót chén nước nữa cho tôi, rồi tỏ vẻ ái ngại:

- Cuộc ăn vạ này, chúng làm hại lão ta đến hơn trăm bạc. Bởi vì chúng ăn to lắm, ăn suốt từ trên đến dưới. Những đứa con nít toét mắt, ỏng bụng mà anh thấy đó, cũng đều được ăn tất cả. Chúng nó cũng là "làng". Hễ ai là "làng", hôm nay đều được ra ăn, chỉ trừ đàn bà và những trẻ con ẵm ngửa.

Tôi vẫn chưa hiểu:

- Thế thì những tiền mua lợn, mua rượu, mua gạo đó ai ứng ra cho làng?

Anh Trúc trả lời:

- Chẳng ai phải ứng hết thảy, họ đi mua chịu tất cả. Mà hễ họ đã hỏi mua, thì ai cũng bán. Bởi vì bán chịu cho "làng" như thế, sau này có thể tính với khổ chủ một giá rất cao và tính bao nhiêu, khổ chủ phải trả bấy nhiêu, không được bớt xén một đồng nào hết.

- Nếu như khổ chủ không chịu thì sao?

- Khổ chủ không chịu thì họ phải lấy tiền làng mà chi. Nhưng rồi họ sẽ họp làng tại đình, đóng chiếc đinh cù vào cột đình và phát thệ rằng: "Nhà ấy đã không thèm tuân lệ làng, từ sau trở đi, những lúc làng có ăn uống, không ai được ngồi với người nhà ấy, và rồi nhà ấy có người nào chết, bất kỳ đàn ông, đàn bà, họ xa, họ gần, làng sẽ không khiêng". Ở thôn quê, cái người lúc sống không ai ngồi với, lúc chết làng không khiêng cho, là người cực nhục, sống cũng như chết. Vì vậy từ xưa đến nay, họ đã ăn vạ người nào, người ấy cứ phải bán nghiệp mà trả. Không ai dám bướng.

Anh ta đương nói, thì ở bên điếm, có tiếng nói lớn:

- Thưa "chạ"! Hôm nay từ trên già lão đến dưới trai đinh, tất cả hơn hai trăm xuất, ăn ba con lợn có lẽ không đủ, xin "chạ" cho bắt thêm một con nữa.

Thế rồi, một lúc sau, lại nghe có tiếng lợn kêu. Cuộc ăn uống linh đình mãi đến quá trưa mới tan.

Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã có tin nói lão Sửu thắt cổ chết ở trong nhà, lý dịch còn đi khất quan về khám.

BẦY HEO CON

Người đàn ông luống tuổi cất tiếng từ trong nhà vọng ra.

- Chấn! thằng chết bầm đâu rồi! sao chưa cho heo ăn để cho bầy heo đói nheo nhóc la ỏm tỏi thế này, tao lại quất cho mấy roi bây giờ.

Chấn đang chơi với lũ trẻ ngoài sân nghe tiếng cha la vội chạy nhanh vào trong sợ cha đánh đòn. Mới hơn mười hai tuổi đầu mà Chấn đã phải làm việc quần quật suốt ngày. Sau khi học xong tiểu học nó bị bắt phải ở nhà lo giúp việc. Trong khi người anh kế hơn nó bốn tuổi vẫn còn được đi học.

Chấn đi vội ra sau chuồng heo, trộn cơm thiu với rau khoai lang, nấu thêm một lúc cho ấm sau đó bỏ vào máng heo, bầy heo đói ăn chạy sộc đến tranh nhau ăn. Heo mẹ và bầy heo con ước chừng đến 10 con chen chúc nhau chõ mõm vào máng ăn lấy ăn để. Thằng bé chưa kịp đổ hết vào máng, các chú heo con háu ăn dơ lưỡi liếm vào nồi thức ăn còn ấm dính vào cả tay Chấn. Mỗi lần thấy bóng Chấn các chú heo con sấn lại gần vì biết rằng thế nào chúng cũng có cái ăn. Chấn quen với cái cảnh này, người và vật quấn quít nhau. Nó lúc nào cũng đánh cái quần đùi người để trần không cả mặc áo lót. Như vậy tiện lợi khỏi phải lo áo bẩn.

Hàng ngày từ sớm Chấn sách cái thùng nhôm đi qua mấy nhà quen cùng khu phố, xin cơm và đồ ăn thừa để làm đồ ăn phụ cho heo. Mùi xú uế chua lè của đồ ăn thừa có đến vài ngày bốc thẳng vào mũi khiến cậu bé nhăn mặt. Nguyên dẫy phố đều biết mặt Chấn, cứ cách hai hoặc ba bữa Chấn lại trở về căn nhà trước đã xin đồ ăn thừa. Cậu bé lễ phép thưa gởi và cám ơn đàng hoàng mỗi lần ghé qua lấy đồ ăn.

Sau đó buổi chiều khi chợ sắp tàn Chấn lại phải ghé vào khu bán rau cải để xin mấy thứ rau dập nát bị vất đi. Chợ trong những ngày vào mùa mưa, lầy lội và bẩn thỉu, Chấn thường đi chân không lội vào chợ, có đôi chỗ trũng nước ngập lên đến mắt cá. Ngày nào cũng như ngày đó công chuyện xin cơm thừa và rau dập được lập lại liên tục.

Chấn tuổi còn nhỏ nên vẫn còn ham chơi, đôi lúc trốn ra ngoài nhập bọn với bọn trẻ cùng xóm đi hái trôm trái cây. Về đến nhà y rằng bị cha lấy roi mây đánh cho vài roi để chừa cái tật đi chơi.

- Con cái nhà mất dậy đã cấm đi chơi mà dám cả gan trốn đi! không coi tao ra gì cả.

Cha nó mới quất nhứ vài roi mây lên người. Thằng bé đã khóc rống lên như thể đau đớn lắm.

- Cha ơi! lần sau con không dám nữa đâu.

- Mày chỉ có gìa cái miệng.

Những lần như thế mẹ nó lại đứng ra xin dùm cho nó.

- Thôi tôi xin ông đánh nó như thế đủ rồi.

- Thằng Chấn không mau xin lỗi cha.

Có lẽ Chấn là con nuôi hay sao đó mà bố đối xử Chấn khác với người anh. Chấn chỉ hiểu mang máng là đứa con nuôi khi bị mấy đứa trẻ trong xóm trêu trọc.

- Thằng Chấn là đồ con nuôi đó tụi bay biết không.

Chấn nghe giận lắm nhưng không làm gì được. Dần dà Chấn cũng hiểu nó là đứa con nuôi. Trời đầy đọa nó đã là đứa không cha mẹ, chiếc chân phải lại bị tật, đôi mắt ti hí mỗi lần đọc báo hay ngó xa nó phải ráng dương cặp mắt cho lớn, có lẽ nó bị cận hay sao đó, mà nó cũng chẳng thèm để ý vì nó có phải đi học nữa đâu mà cần lo lắng. Làn da hơi đen đủi với đôi bàn tay chai dầy vì làm lụng vất vả, làn da của con nhà nghèo. Còn anh nó thì tối ngày chỉ có học trông vẻ trắng trẻo thư sinh. Nhìn mấy đứa trẻ trong khu phố được đi học, nó nhìn với con mắt thèm muốn. Trình độ học của nó vừa đủ đọc báo tin xe cán chó, vài ba câu chuyện tình lãng mạn, hay vài bộ truyện chưởng, mà nó cũng đâu còn thì giờ rảnh rỗi đâu mà đọc. Tính toán thì chỉ biết cộng trừ nhân chia vậy là đủ sống với đời. Mà nó cũng đâu cần học cao cho lắm, cha hắn kia có biết chữ nhiều đâu mà buôn bán cũng ra phết, tính nhẩm thối tiền cho người ta rất nhanh, không trật đi đâu được. Rõ là vẽ chuyện! cha nó thường gạt đi mỗi lần nó mở lời muốn đi học.

- Ngữ mày mà học hành cái gì thôi ở nhà giúp tao buôn bán nuôi đàn heo còn có ích hơn.

Trái hẳn với bề ngoài không được mấy sáng sủa, nó rất hiền lành chất phác, chịu khó làm việc. Mà không chịu khó cũng không được với cha nó. Nó trở thành một thứ người làm bất đắc dĩ. người đi ở thì còn có lương chứ nó không có đến một đồng xu dính túi.

Bạn bè thì ít, loe ngoe vài mống và thường nó ít được đi ra ngoài. Nên đám heo con là bầu bạn của nó. Chiều đến nó lo tắm rửa cho đàn heo con dễ thương, nó ôm từng con heo con dội nước trên người kỳ cọ như một người mẹ. Mấy chú heo được tắm rửa sạch sẽ mát mẻ, vẫy cái đuôi bắn văng cả những hạt nước còn đọng lại lên mặt và người Chấn. Đúng là heo ăn đâu ỉa đó, từng bãi phân được các chú heo phóng uế không ngừng nghỉ. Cậu bé cầm vòi nước xịt những phân heo trôi theo rãnh nước thoát ra ngoài sân sau. Dù đã được chùi rửa cẩn thận mùi thúi của phân heo vẫn còn bám rễ không thế nào dứt đi được. Người lạ đi ghé ngang qua chắc chắn ngửi thấy mùi nồng nực của chuồng heo, nhưng với Chấn chiếc mũi đã mất khứu giác để phân biệt, mùi vị quen thuộc đã bám vào con người nó hàng ngày để rồi tự nó mất cái khả năng cảm nhận. Như người ghiền hút thuốc hàng ngày, họ không còn nhận ra mùi khói thuốc hôi hám bám vào quần áo.

Trong nhiều năm dài nó đã chăm sóc biết bao đợt heo đẻ rồi lớn lên, những con heo mập núng nính này được đem bán cho các lái heo. Ngày tháng trôi qua nó đã qua cái tuổi trẻ thơ, bây giờ nó đã là một người lớn quá tuổi đôi mươi, ông anh đã tốt nghiệp xong cử nhân hóa còn nó thì ngay cả cái bằng tiểu học làm vốn cũng nằm ngoài vòng tay. Nó càng bận bịu thêm với công việc nuôi heo và bếp núc. Chính cái công việc bếp núc tưởng như tầm thường đã tạo cho nó căn bản, giúp ích cho nó rất nhiều trong việc làm ăn sau này. Những bạn bè cùng lứa tuổi hồi nhỏ trong khu phố, đứa lên đại học, đứa đăng vào sĩ quan, đứa đi du học nước ngoài. Số phần may mắn của những đứa nó biết đều tốt đẹp cả, chúng được trời ưu đãi, nó thì vẫn lụi đụi trong xó bếp với bầy heo. Nó an phận với những gì đang có, một xếp đặt từ thủa lọt lòng mẹ, nó chỉ còn biết trách ông trời. Riết cuộc sống là một sự chịu đựng, không còn biết làm sao để vươn lên, đầu óc lười suy nghĩ trong nhiều năm trời đã trở thành thói quen thụ động, đến đâu hay đến đó. Chấn cũng mong muốn có một nếp sống gia đình, lấy vợ đẻ con, đi làm kiếm ít tiền để dành. Nhưng nó không biết làm sao để thoát ra cái thói quen đã thành nếp.

Rồi thêm hai chục năm nữa trôi đi nhanh chóng, công việc chăn nuôi bầy heo được lập lại hàng ngày, hết năm này qua năm khác như một mảnh đời bám vào nó, nó đã trở thành một người đàn ông trung niên lúc nào không biết, vậy mà nó vẫn tưởng như mới ngày nào. Bầy heo con cũng vẫn còn là bạn của nó, hết đợt này đến đợt khác. Đời sống tình cảm lứa đôi cũng không được may mắn như cuộc đời nó, thèm thuồng thì có nhưng nó chẳng dám mơ ước. Đã hơn bốn chục tuổi đầu rồi nó vẫn sống độc thân. Các cô trong phố toàn là các tiểu thư khuê các, có học, họ còn đang mơ mộng đến những mối tình cao đẹp nào đó, thì có hơi đâu mà để ý đến đứa dở dở ương ương như nó, mùi hôi kỳ cục lúc nào cũng phảng phất trên người, mùi của heo quả thật cũng khó ngửi và bám lâu. Nhiều cô còn sống sượng bịt cả mũi lại mỗi lần nó đi phất ngang qua. ngữ này khinh người quá lắm mai mốt có mà chống ề, nó lầm bầm rủa thầm trong miệng.

Cho đến một hôm nó thấy có cô con gái hay gánh đôi quang gánh rau muống ngồi bán từ sáng sớm trước cửa nhà, nhìn dáng cô gái vẫn còn trẻ tính ra phải thua nó cỡ trên một con giáp. Khu ngã ba này có một thứ chợ thật lạ, khỏang gần 5 giờ sáng đã thấy ồn ào. Nào thúng, nào quang gánh được bâỳ ra cho các bà nội trợ thích đi chợ sớm, gần đến bảy giờ tiếng ồn ào bỗng im vắng, làm như chưa hề có cuộc họp chợ ở đây, có thể gọi đây là thứ chợ chồm hổm, chỉ họp chợ khoảng hai tiếng rồi chạy. Kiểu họp chợ này đã xuất hiện tại khu này khá lâu từ hồi Chấn còn nhỏ. Cũng chính tại ngã ba này buổi chiều từ 5 giờ tới khoảng 9 giờ tối, có nhiều gánh hàng bán các món ăn chơi trong đó có món hột vịt lộn, cô gái tối nào cũng mang một rổ hột vịt lộn ngồi bán. Nó hay lân la đến làm quen cô gái, lúc mua bó rau muống, lúc mua ít hột vịt lộn. Nó chẳng biết tán tỉnh, thích cô ta nó tìm đến giúp cô cái này cái nọ, nó tỏ tình bằng những cử chỉ chân thật ngây ngô, không biết những lời lẽ tán tỉnh văn hoa bay bướm. Có lẽ cô gái cũng cảm nhận được điều khác thường này. Dù nó không biết nói chuyện như người ta, nó cũng đã loáng tháng hiểu về đời tư của người con gái, cô gái trôi dạt từ làng quê nghèo miền trung vào đây kiếm ăn, tự nhiên nó cảm thông với cái khó nghèo của nguời con gái. Nó nghĩ giá nó có thể bảo bọc và chăm sóc cho cô ta thì hay biết mấy. Tình yêu như một động lực thúc đẩy nó can đảm trình bày ước nguyện của nó cho mẹ. Mẹ nó vui mừng sao lại có người con gái nào chịu để ý đến nó.

- Bằng này tuổi đầu còn ai chịu lấy mày? nếu có tao sẽ bằng lòng mà chắp tay lạy giời đã ban phúc cho mày.

Bà cụ vài hôm sau lân la làm quen cô gái. Hỏi chuyện trên trời dưới đất, làng quê ở đâu. Cái điều mà người con trai rất khó mở miệng khi đứng trước người con gái, bà đã gần tám chục mà trông còn mạnh khoẻ, nói chuyện vẫn minh mẫn. Nể bà cụ cô gái trả lời khéo léo phải lo làm ăn kiếm tiền gởi về quê chưa muốn nghĩ đến việc lập gia đình, vì như thế chỉ thêm gánh nặng, hiện cô đang ở nhờ nhà người quen cùng quê. Dù sao Chấn cũng hơn cô một con giáp nên sợ cảnh chồng gìa vợ trẻ, vả lại hình như Chấn cũng không có công ăn việc làm gì rõ ràng ngoại trừ công việc Chấn đang nuôi đàn heo con trong nhà sau.

Chấn bỗng thấy cô gái mất biến vài hôm không họp chợ. Hay cô ta bị cảm! Chấn nghĩ thầm. Chấn ngày hôm sau lòng như lửa đốt, bận bộ quần áo vía chỉ dành mặc cho ngày tết, thường ngày Chấn ăn vận rất xuề xòa có khi chỉ vận độc cái quần cụt, Chấn mua một bịch cam đi tới xóm lao động nghèo. Sở dĩ Chấn biết nhà vì Chấn đã âm thầm theo cô gái về nhà nhưng chỉ dám đi đàng sau thật xa. Chấn gõ cửa, người đàn bà từ trong nhà đi ra, Chấn hỏi thăm về cô gái, người đàn bà chỉ tay vào góc phòng, trên chiếc giường tre ọp ẹp Chấn thấy cô gái nằm rũ người đang thiêm thiếp. Chấn rón rén đi đến bên giường, khẽ ngồi vào cái ghế đẩu sợ đánh thức cô gái dậy. Hồi lâu cô gái choàng mắt dậy ngỡ ngàng thấy Chấn ngồi bên cạnh, cô gái bối rối thấy rõ lúc đầu sau đó cô tỏ vẻ cảm động vì sự viếng thăm bất chợt này. Chấn lên tiếng xin lỗi đã đường đột đến thăm. Cô gái tính ngồi dậy, nhưng đầu nặng như búa bổ lại nằm vật xuống giường.

- Cô cứ nằm xuống nghỉ ngơi. Nếu mà cô bằng lòng thì từ nay tôi sẽ là người chăm sóc cho cô bất kể ngày đêm.

Chấn vừa thốt ra điều đã ấp ủ bấy lâu nay. Chấn cũng tự lấy làm bàng hoàng sau khi thốt ra lời nói trên. Quỉ đưa đường hay sao mà nó xuất thần mở miệng. Nó lúng túng đỏ mặt ngồi đợi sự phản ứng bất lợi từ cô gái.

Ngược với điều Chấn lo sợ, cô gái không nói gì khẽ nắm bàn tay Chấn, đôi mắt mệt nhọc tỏ vẻ cảm động. Tình yêu mộc mạc nảy nở tự nhiên. Chấn thực sự xúc động, lần đầu tiên Chấn được nắm bàn tay một người con gái. Tình yêu đến chậm ở cái tuổi hơn 40. thật đơn giản như con người của nó.

Đám cưới diễn ra đơn giản. Sau ngày cưới hai vợ chồng được cho trú ngụ trong phòng duới hầm cầu thang. Gọi là cái phòng cho nó có vẻ riêng tư, chứ thật ra chỉ là chỗ khoảng trống bên dưới cầu thang, một cái giường nhỏ được kê ngay chỗ thanh thiên bạch nhật đó. Chuyện vợ chồng thì thật là oái ăm, ban ngày hay trước khi về đêm dù vợ chồng có muốn âu yếm nhau cũng phải dằn lòng chịu đựng. Ấy vậy mà họ cảm thấy thật hạnh phúc, họ mãn nguyện bằng lòng để được sống với nhau như thế. Lấy nhau xong ít lâu, cái con người chất phác hiền lành như nó bỗng nhiên lại thông đạt được một điều. Ừ nhỉ! tại sao không làm một hàng bán bún riêu cho vợ nó ngồi bán ngay đàng trước cửa nhà thay vì gánh rau muống. Bà cụ giờ còn có mình nó, ông cụ thì đã về chầu chúa từ lâu, các anh chị đều lần lượt đi ra ở nước ngoài hết từ sau ngày nó cưới vợ. Thôi thì con nuôi cũng là con, bà cho nó mượn vốn mở hàng bán bún riêu. Rồi giao hết đàn heo con cho nó nuôi luôn bà cụ cũng chẳng thèm ngó ngàng đến bầy heo đó nữa. Ngày hai buổi bà cụ đi lễ và chầu mình thánh trong nhà xứ gần phố, có vợ chồng nó bên cạnh bà cụ cũng cảm thấy yên tâm. Trái nắng trở trời cũng có một tay nó lo lắng cho bà, họa hoằn lắm các anh chị mới trở về ít lâu rồi lại đi ra khỏi xứ.

Nó đi lùng mua những con ghẹ vào buổi sáng, về sau này quen rồi người ta mang thẳng đến giao cho nó mỗi ngày. Buổi chiều sau khi đã chăm lo cho đàn heo con xong nó bắt tay vào việc làm riêu. Nó chứng nào tật đó dù đã có vợ, nó vẫn cởi trần trùng trục đánh độc chiếc quần đùi đã sờn chỉ. Nó chăm chỉ ngồi bóc từng con ghẹ, bẻ càng và lột vỏ cứng, phần thịt mềm được bỏ qua cái chậu lớn đổ đầy nước ngay bên cạnh. Vợ nó ngồi trên giường day vú cho con bú, vừa nhìn chồng làm việc. Những ngày đầu lấy nhau người vợ rất lo lắng, sợ người chồng hiền lành không biết làm công việc gì để mà nuôi sống hai vợ chồng và rồi còn con cái nữa. Cái lo của chị rồi cũng từ từ tan theo ngày tháng trôi đi. Giờ chị bỏ hẳn bán gánh rau muống chỉ còn ngồi bán nồi bún riêu ngày hơn hai tiếng, và suốt ngày ở trong nhà trông coi con không phải đi ra ngoài như hồi xưa bán gánh rau muống, bao nhiêu cực nhọc người chồng gánh hết. Thỉnh thoảng hai vợ chồng dư tiền mua vài lượng vàng làm của. Cuộc đời chị tưởng cái nghèo sẽ bám riết suốt đời, nào ngờ định mệnh đã sắp xếp cho gặp người chồng bề ngoài như quả dưa xanh vỏ mà bên trong đỏ lòng.

Cả một nồi ghẹ to tổ chảng đã được nó thanh toán gọn lẹ. Rửa sạch số ghẹ được bóc vỏ ngoài rồi cho vào cối đá gĩa cho nhừ. Mồ hôi trán chảy xuống mặt nó, hơi mệt nhọc nhưng có đáng là bao, nó còn phải để dành tiền về sau này ráng lo cho con được có chữ hay như người ta, đời nó đã thất học. Đang nghĩ miên man nó giật mình số ghẹ được gỉa nát từ hồi nào, nó đổ vào rổ lớn để lọc lại lần cuối bớt số bã để lấy phần nước cốt. Cuối cùng nồi bún riêu lớn đã được nó hoàn tất, nghe có vẻ dễ những cũng mất khá nhiều thì giờ. Vợ nó ngồi bán gánh bún riêu từ 3 giờ đến 5 giờ chiều là hết nồi bún riêu, nó làm khá ngon nên khách ăn uống đến nườm nượp. Ngày bán hai tiếng nó cũng dư sống nuôi cả gia đình. Chấn không ngờ cách pha chế làm bún riêu của nó nghĩ ra lại được bà con hưởng ứng khen ngon. Những sợi bún nhỏ được thay vào bún có sợi to. Tiếng đồn đi xa, người này kháo đến tai người nọ, hàng bún nhiều khi khách phải xếp hàng chờ đợi làm cản trở lưu thông trên con đường vốn đã nhỏ bề ngang.

Bà cụ ngồi ngó khách hàng ra vô ăn uống cũng lấy thế làm vui, ít ra bà cũng không bõ công nuôi Chấn, nó chịu khó làm việc và còn dành thời giờ săn sóc cho bà. Các con bà đã lần lượt đi ra nước ngoài sống, bà gìa rồi không muốn đi xa xóm làng, ít ra ở đây bà còn nghe hiểu, có những người gìa cùng trạc tuổi bà ngồi lê mách lẻo cũng qua được những chuỗi ngày về chiều. Thằng bé con Chấn đi chập chững đến bên cạnh bà nội, kêu bập bẹ bà bà, bà ôm nó vào lòng. Hạnh phúc nhỏ nhoi cuối đời bà. Rút cục chỉ có nó đứa con nuôi bà thường bạc đãi ít để ý nhất lại là người thân thiết gần gũi với bà đến cuối cuộc đời.

Nhận được thư của cậu con trai lớn từ nước ngoài gởi về than khổ vì hoàn cảnh gia đình không được êm ấm, hai vợ chồng nó đã ly dị, người vợ bỏ đi lấy một người ngoại chủng để lại mấy đứa con. Người con dâu hồi còn ở chung với bà, tính tình cũng được lắm, biết kính trên nhường dưới. Vậy mà ai ngờ qua xứ người cô ta lại thay đổi ghê gớm như thế, bà không thể hiểu nổi. Bà suy nghĩ thương con đâm bệnh, sau đó ra đi vì chứng bịnh của tuổi gìa. Chấn chạy ngược chạy xuôi lo đám tang cho mẹ, người mà đã nuôi nấng Chấn từ hồi còn nhỏ. Các anh chị cũng từ nước ngoài về đưa đám. Sau đó vài tuần lễ người chị cả trước khi lên đường trở về xứ ngoài, cầm lá thư đưa cho Chấn bảo đây là di chúc của bà cụ.

"Chấn con, mẹ đã nhờ người viết di chúc này và dặn chừng nào mẹ ra đi sẽ đưa cho con đọc. Thật ra từ nhỏ cho đến lớn mẹ chưa một lần đối xử tốt với con, trong khi các anh chị khác thì được mẹ giúp đỡ. Hai vợ chồng con cứ ở lại trong cái nhà này dù sao cũng có công đóng góp của con, căn nhà này con đã được nuôi dưỡng suốt hơn 40 năm trời. Mẹ chia đều căn nhà này cho con và các anh chị, mỗi người một phần, bây giờ con cứ ở lại lo trông coi căn nhà, và dùng cửa hàng để buôn bán. Mẹ nghĩ các anh chị ở nước ngoài chắc thỉnh thoảng về thăm xứ sở cũng cần chỗ nghỉ ngơi qua ngày. Con ráng giữ căn nhà như một gia phả. Dù con ít học, điều này cũng là lỗi của mẹ đã không để con đi học, nhưng với sự cần cù làm việc của con, mẹ chắc con sẽ thành công trên đường đời.

Có một điều cho đến lúc chết mẹ vẫn còn hối hận là đã không để cho con học hành đến nơi đến chốn như người anh của con. Nhiều lần con đòi đi học mà mẹ viện đủ thứ lý do để cản trở, không thử thì sao biết con có học được hay không? Mẹ giúp con mở quán bán bún riêu và con đã thành công, thì biết đâu nếu con được học hành đầy đủ con chẳng đã thành công như các đứa trẻ khác cùng phố mà con hằng ngưỡng mộ họ."

Đọc xong Chấn ứa nước mắt hai bên khoé mắt. Nó không ngờ mẹ nó bên ngoài cái vẻ khó khăn nhưng vẫn kín đáo để ý đến cuộc sống của nó. Bầy heo con đói kêu ỏm tỏi, Chấn ngồi dậy đi về phía nhà sau. Bầy heo thấy bóng nó đi tới lại càng ồn ào hơn.

- Ụt ịt!!!

- Tiên sư bố mấy anh! Có để tôi yên không nào!

Chị vợ nhìn theo chồng khẽ mỉm cười. Sao thấy anh dễ thương! tự nhiên đôi má chị đỏ hồng lên, chị muốn thêm một đứa con nữa với anh.

CHÒI MÍA

Người dân miền Trung nói chung và Quảng Ngãi nói riêng, ngoài công việc cày cấy và trồng ngũ cốc, dựng bờ xe nước để đưa nước từ sông ngòi vào ruộng đồng, người ta còn trồng mía và làm đường mía. Cuộc sống bên cạnh bờ xe nước, và chòi mía đã đi vào văn hóa đặc thù của người dân Quảng Ngãi trong một thời gian dài.

Mãi đến sau năm 1975 thì hai "sinh hoạt đặc thù" này bắt đầu mai một, và đến khoảng năm 1985 thì bờ xe nước trên những con sông lớn của Quảng Ngãi (như sông Vệ và Trà Khúc) và những chòi mía đã biến mất. Những hoài niệm chỉ còn lại ở những người lớn tuổi. Buồn thay cho những công trình thủ công bị mai một do những kỹ thuật của nền văn minh ngày nay!!!

Ngày trước, mỗi năm, sau tháng Giêng là người dân Quảng Ngãi lại bận rộn lo lập chòi mía để nấu đường. Mùa làm đường mía ở miền Trung thường kéo dài từ cuối tháng Giêng đến tháng Ba âm lịch.

Chòi mía thường được cất trên một miếng đất gần những đám mía. Chòi thường được làm bằng tre, lợp bằng lá mía khô hay rơm (cây lúa sau khi giũ sạch hột và phơi khô).

Chòi mía được chia làm hai phần:

Phần ngoài, khá rộng, trống trải, có bộ che gồm ba ông che, một che trống và hai che mái, nằm ở giữa chòi mía. Ông che trống được gắn vào một cái đòn quay và cuối đòn quay là cái nài dùng để buộc vào cổ trâu hay bò để đẩy che. Hai ông che mái gồm ông che mía và ông che bã. Phần này của chòi mía không có vách, chỉ có những trụ bằng tre chống đỡ. Chưn ba ông che được đặt trên một cái bồn hình chữ nhật, gọi là bồn dưới, có ba lỗ, mỗi lỗ cho một trục che. Trục che được bao bọc bằng một miếng da trâu, xoa nhớt cho trơn. Và cổ ba ông che được gắng vào một cái bồn (gọi là bồn trên hay khẩu). Khẩu và bồn che kèm ba ông che lại bằng hai trụ gỗ gắn liền bồn và khẩu che.

Phần đầu của che trống và hai che mái được chạm thành những khớp răng gọi là bông tai che. Bông tai che hình vuông, bầu bầu ở ngoài cùng, là hệ thống răng dùng để xoai tròn ba ông che. Hai khúc gỗ dài gắn vào trục đầu che trống tạo thành hình chữ V gọi là đòn quay, khi trâu hay bò đẩy đòn quay để xoai tròn che trống, những bông tai trên che trống ăn khớp vào bông tai của hai che mái và xoai hai che mái chạy theo. Ông che trống quay ngược chiều kim đồng hồ, hai ông che mái đều quay theo chiều kim đồng hồ.

Phần giữa của bồn che cao và lài lài dần ra bìa. Chung quanh bìa bồn dưới là một cái rãnh dùng để tích tụ nước mía. Một đầu bồn có đào một lỗ dưới đất và đặt cái thùng chứa nước mía. Rãnh bồn che dưới có bắt một máng nhỏ để mước mía trong rãnh chảy vào thùng chứa.

Phần trong, chòi mía được ngăn cách phần ngoài bằng một tấm vách lá đơn sơ dùng để chắn gió, có một cửa nhỏ thông ra phòng che. Phần này có bốn chảo nấu đường, mỗi chảo có đường kính cỡ 1m, làm bằng gang. Trước khi đặt chảo, người thợ nấu đường đào một cái lò lớn hình bầu dục, trên mặt lò được phân chia ra làm bốn lỗ cho bốn chảo.

Một đầu lò có cửa nhỏ để thông khói gọi là cửa lù, và đầu kia là cửa lò hình chữ nhật, dài và dốc lài lài lên mặt đất, dùng để đưa chà hay bả mía khô vào đốt lò. Giữa cửa lò và bốn chảo đường là một cái cầu bằng đất, rộng cỡ một thước, bắt vòng trên cửa lò. Cầu này dùng cho thợ nấu đường đi qua đi lại múc nước đường chuyển qua những chảo trên lò.

Bốn lỗ trên lò được ngăn chia bằng những trục tre bao bọc bởi đất sét trộn với rơm. Những trục được uốn theo hình cong cong để ăn khớp với hình tròn của chảo, và trên mặt trục được bao bọc bởi một lớp lá Gáo để cho nước đường không thấm vào trục. Công việc đặt trục tre, đắp đất sét trộn rơm chung quanh trục, và bao lớp lá Gáo trên mặt trục gọi là bó giang. Khi giang khô cứng thì bốn chảo nấu đường được đặt lên và khằng lại bằng đất sét cho hơi trong lò không thoát qua được.

Sự sắp xếp vị trí các chảo trên lò không nhất thiết phải theo một thứ tự nhất định nào. Thông thường thì tính theo ngược chiều kim đồng hồ, chảo đầu tiên (chảo số 1) dùng để đun sôi nước mía nằm gần cửa lò. Kế đến là chảo nước chè hai (chảo số 2), chảo cửa lù hay chảo mật (chảo số 3), và cuối cùng là chảo thắng mật (chảo số 4). Bên cạnh chảo nước chè hai là thùng chè hai dùng để đựng nước chè hai sau khi đun sôi từ chảo một. Và bên cạnh chảo thắng mật (chảo số 4) là thùng chứa mật được đưa từ chảo mật (chảo số 3) qua. Bên cạnh thùng chè hai được đặt một thùng nhỏ chứa vôi, và bên cạnh thùng mật là một vài cái ui dùng để đựng bọt đường múc từ chảo ra. Trên đầu những chảo đường người thợ đường treo những gáo lớn nhỏ dùng để múc nước đường và bọt.

Để chuẩn bị cho mùa làm đường, người chủ đường cần phải lo sẵn sàng những điều tất yếu gồm: che, chảo, và muỗng đường. Trước khi dựng chòi người chủ phải lo tìm thợ rà che. Thợ rà che là một người thợ mộc, nhưng không phải người thợ mộc nào cũng biết rà che.

Người thợ rà che ngoài việc cần có những mũi dao đặt biệt, còn phải biết xem xét và sửa chữa ba ông che, bông tai che, và bồn che cho đều để công việc ép nước mía đạt được kết quả cao. Mỗi năm che cần phải rà lại vì qua một mùa làm đường ba ông che sẽ bị mòn không đều, tạo nên lồi lõm trên mặt che.

Khi che được rà lại thì bông tai che và bồn che cũng phải được điều chỉnh cho ăn khớp nguyên bộ. Trước khi rà người thợ rà che đào một cái lỗ sâu hơn nữa đường kính ông che và dài bằng ông che. Một hệ thống trục bắt vào cỗ che và chưn che để che có thể quay tự do trong lỗ, và một dàn vịn song song với lỗ đào.

Một người đứng trên ông che dùng chân đạp cho che xoai tròn, người thợ rà dùng lưỡi dao rà che để kiểm soát độ tròn của ông che và rà thân hình che cho đều. Sau khi che đã rà xong, thợ rà che kiễm soát lại các nêm của bồn trên và bồn dưới để khi đặt che vào bồn độ hở giữa ba ông che không khít quá và cũng không hở nhiều quá. Che khít quá làm cho trâu bò kéo không nỗi và có thể làm hư che; Che hở quá sẽ ép không sạch nước mía. Ngoài việc rà che thợ nấu đừơng phải lo kiểm soát lại các chão nấu đường, và muỗng đỗ đường phải ngâm rữa sạch trước khi dùng.

Nhiên liệu đốt lò là những bó chà và những bó bả mía khô từ mùa làm đường năm trước. Khi mía cao cỡ nào người thì chủ mía bắt đầu nghĩ đến chuyện hạ chà. Chà là những tạp cây nhỏ, bụi trên rẫy, rừng, được chặt phơi khô và buộc thành những bó tròn cỡ một ôm tay, mang về chất chung quanh chòi mía để đốt lò.

Thợ nùi (người thợ chuyên lo chụm lò) thả bó chà hay bả mía khô trước mặt cửa lò, xong dùng một cây sào dài đẩy vào lò. Thỉnh thoảng thợ nùi dùng một cái trang dài để tản tro lửa trong lò cho đều, và khi tro trong lò đầy thì thợ nùi dùng trang cào ra đem đổ bên ngoài.

Mía ngoài đám được hạ xuống bằng một cái rựa, to và nặng, dài cỡ hai gan tay. Mía hạ xuống sẽ được dứt (chặt) ngọn, phần đầu cây mía được dứt ra để dành làm giống cho năm sau. Lá mía tươi dùng cho trâu bò ăn, và thân mía được róc sạch lá khô, lá mía khô được mang về để đốt lò mía. Mía được bó lại thành bó và ngựa về chòi, hoặc bỏ lên xe đạp thồ về chòi.

Gọi là ngựa vì người ta đóng một con ngựa (một khúc gỗ có bốn chưng, hai đầu được cơi bốn cây dài thêm ra) và bỏ mía trên đó để vác về chất thành vòng bên cạnh chòi mía. Thường thì có bốn người chụm mía cho che. Mỗi bên hai người, một người chụm mía và một người rút bả mía. Người lớn thì mỗi bên chỉ cần một người. Người chụm mía đưa mía vào giữa hai ông che (che trống và che mía), che xoai ép mía lấy nước chảy vào máng, và đẩy mía qua bên kia sẽ được người chụm mía bên kia đưa lại vào hai ông che đối diện (che trống và che bã) bằng bàn lùa. Bàn lùa là một miếng gỗ được cưa ra thành nhiều khe và đẻo gọt sao cho ăn khớp vào khe giữa che trống và che bã. Mía được chụm qua một lần sẽ dẹp lại và người chụm mía đưa vào bàn lùa để tiếp tục ép lấy nước. Khi mía đã được ép sạch nước thì người kéo bả bỏ ra ngoài. Bả mía sẽ được đem đi phơi khô dùng để nấu lò năm tới hay nấu bếp.

Trong chòi mía, phía trước cửa lò, thường được cơi thêm ra và đặt một cái bàn ăn cho thợ nấu đường và người làm trong chòi dùng cơm. Một nơi cho người chủ chòi ngủ qua đêm canh chừng chòi mía. Phía bên ngoài gần lò nấu đường được đặt sẵn những muỗng đường trống, nhét nùi sẳn thành một hàng, khi cần, thợ đường sẽ mang vào. Muỗng đường làm bằng đất sét, hình nón, cao gần một thước.

Phía đầu miệng muỗng lớn cỡ miệng nón lá, phía đuôi muỗng túm nhỏ lại cỡ cán dao. Trước khi đổ đường vào muỗng, muỗng được nhét một cục rơm khô (gọi là cùi) bịt lỗ nhỏ của muỗng lại để đường không chảy ra. Bên trong phần thắng đường, thợ nấu đường đào lỗ dưới đất cao chừng một phần ba muỗng đường và đặt một hàng những muỗng trống.

Chòi mía thường có hai cái chuồng cho trâu bò đạp mía ở. Chuồng trâu/ bò thường không có mái, chỉ có hàng rào chung quanh để giữ trâu/ bò ở tạm trong thời gian đạp mía. Trâu bò đạp mía thường thì đạp đôi, nhưng đôi khi trâu đực khỏe mạnh thì có thể đạp chiếc. Trâu/ bò được buộc vào đòn kéo che và đi trên một vòng tròn chung quanh ba ông che. Phải có một người đi sau trâu/ bò đánh nó đi cho đều. Thường thì những con trâu không cần người đi sau đánh, khi mắc vào nài là trâu nó đi một mình vì nó đã "quen" với nhiệm vụ.

Nước mía che ép ra chảy vào thùng chứa. Khi nước mía đã đầy thùng ở ngoài vòng che thì người thợ nấu đừơng sẽ múc đổ vào chảo 1 ở cửa lò để đun sôi, trong khi ba chảo còn lại sẽ được chứa nước lạnh để chảo khỏi bị nóng. Gai đoạn này thợ nấu đường bỏ vôi bột vào nước mía. Vôi có công dụng làm sạch nước mía và làm cho nước đường dễ kết tinh thành đường ở chảo thắng. Lượng vôi dùng tùy thuộc vào miá của mỗi vùng, đây là bí quyết của từng người thợ có kinh nghiệm.

Khi nước mía ở chảo số 1 chín sôi, vớt bọt đổ vào ui bên cạnh chảo, xong sẽ được múc đổ vào thùng chè hai, nước này được gọi là nước chè hai. Nước chè hai uống có vị ngọt thanh, ngon, là một trong những đặc sản nơi chòi mía được ưa chuộng bởi nhiều người. Một buổi trưa nắng nóng, uống một bát nước chè hai sẽ nhớ mãi hương vị của chòi mía!

Khi thùng nước mía tươi thứ hai ngoài vòng che đã đầy, ngừơi thợ xả nước chè hai từ thùng xuống chảo chè hai (chảo số 2) để có chỗ trống cho lượng chè hai kế tiếp (đây là tiến trình bắt đầu nấu mật). Khi thùng nước miá tươi thứ ba đã đầy, thợ mới sang nước từ chảo chè hai sang chảo lù (chảo số 3) để có chảo trống xả nước chè hai từ thùng xuống và lấy thùng chứa chè hai lựơt thứ ba. Khi thùng nước mía thứ tư đầy người thợ lại dồn nước từ chảo ở cửa lù (chảo số 3) sang chảo mật (chảo số 4) và nứơc từ chảo chè hai sang chảo lù. Và tiếp tục cho chảo nứơc mía tươi thứ năm. Khi thùng nứơc miá tươi thứ năm sắp đầy cũng là lúc chảo mật (chảo số 4) hoàn tất và đựơc cất vào thùng mật. Cứ thế tiép tục cho đến hết buổi.

Khi ngoài vòng che ngưng hoạt động và nghỉ trưa là lúc thợ bắt đầu đổ nước mật từ thùng mật ngược ra bốn chảo để thắng thành đường. Lúc đường sắp thắng xong thì vòng che họat động trở lại và cứ thế tiếp tục cho đến hết buổi chiều. Khi chiều về, chòi mía ngưng đạp và thợ nấu đường lại đổ nước mật từ thùng mật ngược ra chảo để thắng cho hết trước khi đóng cửa chòi về nghỉ.

Khi nước mật thắng thành đường sẽ được đổ vào muỗng. Muỗng đường được đổ làm hai đợt, đợt thứ nhất đổ lưng hơn nửa muỗng. Sau đợt một, đợi đường trong muỗng nguội lại thì thợ đường dùng một cái dao dài cào chung quanh thành muỗng và trộn đều đường trong muỗng. Xong để nguội đến chiều hoặc qua ngày hôm sau. Lúc này đường trên mặt muỗng sẽ rút lại ở giữa muỗng và có nhiều đường nứt. Thợ đường sẽ cào lớp đường trên mặt bỏ vào chảo mật thắng cho kỳ sau. Và khi nước đường kỳ sau đã tới, thợ đường sẽ đổ lên phần trũng của muỗng lúc trước. Đến đây thì muỗng đường được đầy đặn và chờ cho nguội chở về nhà.

Ở chảo thắng mật (chảo số 4) lửa được cân nhắc cẩn thận, thợ chính thử độ keo của đường bằng cách dùng gáo múc lên rồi đổ xuống để xem khi nào mật thành đường. Khi nước mật trong gáo đổ ra gần hết tạo thành những sợi tơ nho nhỏ là lúc mật thành đường. Nấu được đường tốt hay xấu (tức là đường không non hoặc có mùi khét) là do người thợ chính giỏi hay dở. Người thợ giỏi, kinh nghiệm phải biết nghe mùi nước đường để chuyển từ chảo này qua chảo khác, và biết nhìn độ keo khi đường đến.

Thợ nấu đường rất hiếm, mỗi làng có được vài thợ, nên nhiều khi chủ chòi mía phải đi làng khác mướn thợ, hoặc hai ba chủ mía hùn nhau lập một chòi mía. Đồ nghê của thợ nấu đường gồn nhiều cái gáo lớn nhỏ làm bằng trái bầu, mấy cây sào dài để đưa nùi vào lò. Những kinh nghiệm quý báu của thợ nấu đường ngày xưa có lẽ bây giờ khó mà tìm!

Những muỗng đường sau khi đổ đầy, để nguội, sẽ được gánh về nhà. Muỗng đường được rút cùi ra, đặt lên một cái ui, và tráng một lớp đất bùn trên mặt muỗng. Lớp bùn trên mặt làm giảm áp suất trong muỗng và làm cho mật rút xuống ui chậm lại. Và làm cho tinh thể đường bám chặt nhau hơn, kết quả đường sẽ cứng và rắn chắc hơn. Mật trong muỗng đường sẽ rút xuống ui một thời gian dài tám, chín tháng. Mật rút từ trên xuống đáy nên khi lấy đường ra, phần trên đường trắng hơn và càng xuống phía đáy đường càng có màu đen đậm của mật.

Khi mật rút gần hết, muỗng đường được đem ra, lật úp lại, lay qua lay lại cho đường sút ra khỏi muỗng. Phía trên, đường kết tinh lại cứng hơn phía dưới, được chặt ra thành từng tảng đem đi phơi. Trong khi thắng đường, bọt được vớt ra bỏ trong ui. Và bọt này được thắng lại thành một lọai đường vụn goi là đường đinh. Đường càng phơi nhiều nắng càng trắng và lúc bán giá càng cao. Trước khi bán, đường được chặt thành cục lớn hơn cổ tay một chút. Vì vậy mới có tên là đường cục. Mật thì bán cho con buôn hoặc trộn vào rơm sú cho trâu bò.

Việc nấu đường cần phải được thuần nhuyễn và liên tục, nghĩa là nước đường trên các chảo lúc nào cũng được châm đầy và liên tục. Một ngày nấu đường thường bắt đầu từ sáng sớm (trâu bò còn khỏe) đến trưa, trâu bò nghỉ ngơi, xong buổi chiều đạp tiếp đến bốn năm giờ lại nghỉ.

Chiều về, khi mặt trời còn vài cây sào là chòi mía ngưng đạp. Những tiếng kêu kẻo kẹt của ba ông che và tiếng hò hét trâu bò cũng lắng đọng, người ta nhìn vào chòi chỉ thấy khói lam chiều bay phản phất với hơi thơm ngọt dịu của mùi nước mía.

Và mùa đạp mía cũng là mùa gió biển trở lại, những con gió làm lay đọng lòng đáy biển để cho cá biển được mùa. Những con cá mòi dầu thơm ngát, và những con cá chim mập béo được mang ra tận chòi mía bay mùi thơm ngào ngạc làm tăng vẽ quyến rủ của không khí chòi mía. Nhưng không ngừng nơi đây, những cuộc vui bên chòi mía còn kéo dài với biết bao nhiêu điều thú vị.

Người ta sẽ không bao giờ bỏ qua những món ăn đặc biệt chỉ có ở chòi mía, như đường tô, kẹo kéo, khoai lang, bánh tráng... nhúng đường, và những buổi chiều rủ nhau đi hù chim cút trong mía. Đường tô (tộ) là khi đường tới nước thay vì đổ vào muỗng, người thợ đổ vào tô, chén để dùng trong thời gian gần. Đường tô, chén đã nguội nhưng vẫn còn dẽo, ăn bằng cách dùng chiếc đủa con dích lên, xoay tròn vài lượt, đường sẽ dính trên đầu đủa thành một cục.

Những chảo đường đầu tiên chắc chắn sẽ được đổ vào tô, chén mang về cho những người con trong gia đình thưởng thức đầu tiên! Và cũng từ những tô đường này người ta có thể làm thành kẹo kéo. Lấy đường trong tô ra móc vào một mắt cây, xong dùng tay kéo ra, chập vào mắt cây, rồi lại kéo ra, chập vào, làm thật lẹ và liên tục một hồi như thế đường sẽ trở thành dây lẹo kéo, trắng, dòn. Lấy ngón tay lãy cái cốc, kẹo kéo gãy ra. Mội lối ăn khác nữa là đổ đường thắng vào máng chuối. Thân cây chuối còn tươi, tốt, bóc ra chặt giữ một khúc cứng cáp thành một cái máng. Đường từ chảo đổ vào máng chuối sẽ chảy dài thành một lớp mỏng, không dính vào thành chuối. Dùng đủa con dích ra ăn.

Món ăn không thể thiếu ở chòi mía là khoai lang nhúng chảo đường. Khoai lang tươi mang về, rửa sạch, xét mỏng thành miếng xong đem xỏ xâu bỏ vào chảo đường (chảo cuối cùng.) Một hồi sau nước đường sôi sùng sục, có vị thanh của vôi ngấm đều vào khoai lang, đem ra để nguội.

Những ai đã từng sinh hoạt bên chòi mía, có lẽ khoai lang nhúng chảo đường là kỷ niệm không thể quên trong đời! Những miếng khoai lang vừa dẽo vừa ngọt, cái ngọt từ đường mía mà không phải cái ngọt của đường làm người ta cứ hấm hứt đi đào khoai lang mỗi buổi chiều khi chòi mía ngưng đạp.

Chiều xuống, khi trâu bò được tắm rửa sạch sẽ và nằm ngơi những ngọn mía tươi trong chuồng, là lúc những người trong chòi mía rũ nhau đi hù chim cút. Họ mang theo một chiếc ràng lớn và mấy tấm vĩ vào đám mía. Đặt ràng một đầu đám mía, đặt vĩ từ hai bên miệng ràng và giăng ra thành hình nón. Lấy lá mía khô rải trên tấm vĩ cho chim cút khỏi sợ. Rồi một đám người, lớn bé đều có, bắt đầu rãi rác từ đầu kia đám mía đi ngược về ràng, vừa đi vừa khua lon lẻng kẻng và miệng kêu nho nhỏ: hù hu hù. Những con cút nghe động sẽ chạy, khi gần đến ràng nó men theo những tấm vĩ mà đi, đi miết...vào ràng! Có những buổi hên, người ta có thể hù được năm bảy con cút cụt đuôi.

Và khi trở về chòi, bên lò lửa nóng ấm, những con cút được xỏ xâu nướng bay mùi thơm ngát. Họ trải chiếc chiếu bên cửa lò, nằm nhìn trăng sao giăng khắp bầu trời, miệng nở nụ cười đắc chí, hỏi rằng: Con cút cụt đuôi, ai nuôi mầy lớn?!

Ngày nay, công nghệ hóa đã đưa những nhà máy đường về xây dựng khắp nơi. Công xuất và biến chế đường từ mía sẽ hiệu quả hơn. Nhưng người của năm xưa, mỗi lần đi qua đám mía ở Gò Lăng, hương vị của miếng khoai lang nhúng đường, mùi thơm con cá mòi dầu, tiếng lon hù cút khua lẻng kẻng hình như vẫn còn đâu đây. Và tiếng kêu kẻo kẹt của ông che trong buổi chiều nắng ấm lại vọng về. Rồi tự hỏi: Tại sao kêu bằng Ông Che, có lẽ ông đã già rồi!

BẪY CHIM

Tháng Chín (trời Quảng Ngãi) thường có những cơn mưa phùn, những hạt mưa li ti bay nghiêng nghiêng theo chiều gió, nhìn xa xa như những sợi tơ trời buông lững lơ trên khắp cánh đồng. Bầu trời dường như thấp lại, và mang theo những luồng mây màu xám tro bao trùm lên những chồi cây trên gò Đồn. Những cây lúa cao nghêu nghễu trên cánh đồng đang run rẫy trước cơn gió Bấc, làm cho cánh đồng gợn thành sóng; Và năm ba con trâu đang cắm đầu gặm những ngọn cỏ, cùn và xơ xác trên gò Đồn.

Hai bóng người nhỏ bé cở chín, mười tuổi, mang trên vai hai chiếc áo tơi rộng lỏng le, vừa đuổi đàn chìm Chà Chiện từ gò Đồn dưới bay về; Ngồi núp bên cạnh gò mã, ngước đầu nhìn chằm chặp vào cái cần cong vòng của chiếc bẫy lồng vừa đặt trên miếng đất mới to bằng miệng cái nón lá. Mưa vẫn bay bay, và cơn gió Bấc thổi nhẹ vào hai chiếc áo tơi làm kêu thành tiếng lật bật. Hai chiếc áo tơi nằm rạp xuống mặt đất và bốn con mắt cắm chặt vào chiếc bẫy. Rặc một cái, cần bẫy bật ngược lại, giựt tung chiếc bẫy lên khỏi mặt đất. Hai bóng người lẹ như chớp, bật người dậy, cắm đầu chạy về chiếc bẫy:

- A! Dính một con!

- Con này của em nhe.

- Hứ, em cái gì. Để đó, lát nữa đem về nhà đả.

- Anh ăn hiếp em hoài, về mắc cha đó.

- Ăn hiếp hồi nào, không cho đi theo nữa bây giờ.

- Đó, ăn hiếp đó. Em đi hái hoa rừng chơi, không thèm đi theo anh nữa.

- Ừ, đi đi. Coi chừng con rắn mái gầm trong rẫy đó.

Nó nhớ có một lần đứa em gái này -Búm, kể lại: một hôm trời trăng sao, Búm chạy nhảy trên con đường trước nhà để lên ngôi trường làng chơi cùng đám bạn; Búm đang tung tăng dưới ánh trăng bất thình lình đụng phải con rắn roi đang bò qua đường, con rắn nhỏ tí bị chạm vào thân nó liền quấn lên cổ chân cô bé xong vuột ra chạy biến mất vào bờ rào. Cái lạnh rợn người từ thân loài bò sát áp vào chân Búm quá đột ngột làm cho nó hoảng sợ đến bấn loạn. Cái cảm giác lạnh rợn tóc gáy đã nhanh chóng ấn sâu vào tâm não của đứa bé ngay khi con rắn vừa rút ra khỏi chân nó, và từ đó, dấu ấn sợ rắn đã nằm vĩnh viễn trong khối óc của Búm. Và cũng sau ngày ấy Búm sợ hết những loài bò sát, kể cả thằng lằn, rắn mối, mà nhất là rắn nó sợ còn hơn sợ cọp! Ngay nghe anh nó nhắc đến rắn nó ghét cay ghét đắng. Nó nói:

- Bang ngày làm gì có rắn ở đây!

- Hôm nọ anh thấy con rắn đen thui, to bằng cổ chưn bò từ đầu rẫy này đến đầu rẫy kia đó.

- Á! Ghê quá, sao ác quá vậy. Đưa chim đây em cầm.

- Nề. Cầm cho cẩn thận nghe hong. Em đi kiếm bãi phân trâu khô đào con sùng đi.

- Còn anh?

- Anh phải lên khu kia làm đất mới để đặt lại chiếc bẫy.

- Nhở gặp rắn mái gầm rồi làm sao. Em không đi một mình đâu, em đi với anh.

- Phải làm lẹ lên chứ lát nữa trời hết mưa giông đâu còn chim đi ăn.

- Ai biểu nhát em chi.

Đứa anh không ngờ lời nhát vừa rồi lại hại chính nó. Nó nói lẩm bẩm những gì trong miệng và không muốn cho đứa em gái biết rằng: con rắn nó thấy hôm nọ là sự thật. Con rắn đã cắn con trâu đang rúc lá bên bờ rẫy đến nhảy nhõm!

Hai chiếc bóng cứ chạy lăng xăng trên gò Đồn trên, lật ngược những bãi phân trâu khô để tìm những con sùng con. Rồi mang chiếc bẫy lồng đến khu đất trống, dùng khúc cây khô bươi đất lên, lấy sạch cỏ bỏ qua một bên, khoải đất bằng phẳng, cắm hai chưn chiếc bẫy lên miếng đất mới. Nó mở nắp bửng chiếc bẫy ra, cột con sùng vào cái chốt mồi nhỏ, xong hoằng cần xuống móc sợi dây giựt cần vào chốt mồi giữ cần cong lại. Hai sợi dây nhỏ còn lại trên đầu cần nó buột vào hai bên nắp bửng được mở ra nằm trên mặt đất. Hai chiếc bóng lấy tay khoải một lớp đất mỏng lên nắp bửng, thế là xong. Bây giờ nó phải đi tìm chim!

Bầy chim lúc nãy bị bẫy đập mất một con nó hoảng sợ bay đi đâu mất rồi! Hai chiếc bóng lại chạy ra cánh đồng, chạy vòng bọc lên đâu trên gò Đồn chạy vô. Đàn chim Chà Chiện khoảng trên mười con đang đi tìm thức ăn, chạy lăng tăng dưới hạt mưa. Hai chiếc bóng tách ra hình cánh cung và đi chầm chậm, đưa cái nón lá lên đuổi bầy chim cho bay về hướng chiếc bẫy. Những con chim khi bay trên cao nhìn xuống thấy khu đất nào mới nó sẽ hạ xuộng kiếm ăn. Nhưng nhiều khi nó cũng làm lơ bay qua luôn. Và lần này cũng vậy, bầy chim không đáp xuống miếng đất nó bươi sẳn mà lượn một vòng rồi bay về gò Đồn dưới. Vậy là hai anh em nó lại chạy theo về gò Đồn dưới tìm chim đuổi cho bay về khu nó đặt bẫy.

Nó đuổi hoài mà chim không chịu đậu ăn bên bẫy mà cứ bay vòng về gò Đồn dưới, bực bội nó cùng đứa em mang bẫy về gò Đồn dưới, làm đất mới rồi đặt bẫy, thì bầy chim lại bay về gò Đồn trên! Hai anh em lại chạy về gò Đồn trên đuổi chim bay về gò Đồn dưới. Cứ như thế hai thân hình nhỏ bé trong hai chiếc áo tơi rộng thình thoàng chạy theo bầy chim Chà Chiện đuổi suốt buổi chiều. Dường như cái đam mê, sự thử thách và lòng bướng bỉnh của những con chim cứng đầu kia đã làm tăng sự chịu đựng của hai con người nhỏ bé dưới cơn mưa phùn.

Rồi buổi chiều cũng qua đi, hai chiếc bóng trải dài trên mặt đất. Đồi bàn chân đã mỏi mệt. Anh em nó ngồi xuống bên bìa gò Đồn:

- Đưa con chim anh xem thử.

Đứa em nhìn vào lồng chim.

- Ý cha! Nó chết rồi! Đứa em buồn thiu, đôi mắt gần như ướm lệ.

- Sao em làm nó chết vậy?

- Em có làm gì đâu, em xách nó trong lồng chạy theo anh thôi mà.

- Em lắc mạnh quá con chim chết rồi.

- Bi giờ làm sao? Hồi nãy anh không chịu cho em bi giờ nó chết rồi, em mắc đền anh đó. Rồi giọt nước mắt chạy dài trên gò má người con gái ngây thơ.

- Thồi nín đi. Ngày mai anh gài con khác đền cho.

- ....

- Mà em nhồi nó chết chứ có phải tại anh đâu mà khóc.

Búm lấy con chim trong lồng ra đặt trên bàn tay:

- ... Em muốn ...giử nó nuôi ...mà ...nó chết rồi, bây giờ làm sao.

Miệng mếu máo với tiếng thút thít, Búm đưa tay lên quẹt ngan con mắt. Anh nó thấy vậy cũng buồn, và nói:

- Mình đem chôn con chim này đi rồi hôm nào anh bắt con khác cho.

Hai anh em đào một cái lỗ nhỏ, đặt con chim xuống, lấy lá cây đắp lên rồi lấp đất lại. Và hạt mưa, vẫn còn mưa bay.

BẮN CHIM

Một buổi trưa hè nóng cháy trên gò Rú, bốn đứa bé, đầu trần, mặt quần xà lỏn, chân không mang dép, lăng xăng chạy từ gốc cây gòn này đến gốc cây gòn khác trong vườn ông Trì. Trên tay bốn chiếc bóng cầm sẳn cái ná, và tám con mắt lức láo nhìn lên ngọn cây gòn:

- À! Nó kia kìa.

- Đâu, đâu chỉ coi.

- Trên cành kia kìa. Một đứa vừa nói vừa chỉ tay lên cây gòn.

- Có thấy chỗ nào đâu. Ba cái đầu nhỏ, cở bảy tám tuổi, chụm lại nhìn theo ngón tay của đứa kia.

- Không phải trên đầu ngón tay tao đâu! Nó đứng trên cành cây kìa, thấy chưa.

- À! thấy rồi, để yên, đừng la lớn tiếng.

Rồi bốn đứa bé rón rén như mèo rình chuột, cùng dương ná lên bắn ... một con cu ... đất ... mới vừa biết bay. Hụt. Con cu đất hoảng sợ liền chuyền qua cây gòn khác.

Gò Rú, một ngọn đồi thấp, nhỏ, chỉ có những bụi cây lòi còi và nhiều nhất là gai mắt mèo và sỏi đá. Gò Rú nằm dưới chân núi Vàng, cách ngôi làng bằng một cánh đồng, con đường cái quan và cái mương Dân. Đó là phía trước gò Rú, còn phía sau gò Rú một bên tiếp xúc với đồng Sa Băng sâu thẳm và trên đồi gò Rú trãi dài đến tận núi Đuôi Chuột. Càng vào sâu trong gò Rú là những lùm tre ngà um tùm. Chen kẻ những lùm tre ngà có nhiều hầm hố được đào lên thời chống Pháp. Những hầm hố này một thời dùng để trốn bom đạn và là công sự chiến đấu của dân làng chống lại thực dân Pháp. Càng đi sâu vô nữa sẽ đến con truông và đèo Mướp, đường dẫn vô Đồng Ngỗ. Những buổi chiều khi mặt trời quá xế, con đường trong truông trở nên âm u cô tịch, không một bóng người lai vãng. Nơi đây chỉ còn lại tiếng kêu la của loài cầm thú, và một số người bí ẩn.

Ngày xưa người ta làm nhà và sinh sống trong gò Rú. Bây giờ những căn nhà vẫn còn đó nhưng người thì đã vắng bóng. Nó nhớ có ba khu vườn trong gò Rú, nhưng thường chỉ vào chơi trong vườn ông Trì, vì ông Trì có thằng con tên Một, bạn bắn bi của nó. Ngày nay ông Trì và những người kia đều phải dọn nhà vào ở bên trong bờ rào ấp chiến lược, để đêm đêm khỏi bị người ta đến bắt đóng góp lúa gạo, ngũ cốc.

Vườn ông Trì rộng và trồng nhiều cây gòn. Những trái gòn to, dài, treo lũng lẳng trên cành cây như những trái cà tím, có điều là trái gòn có màu xanh và lớn hơn. Khi trái gòn khô thì nức ra, để lộ những sợi bông gòn trắng phếu. Một cơn gió bay qua, vài sợi bông trắng rời khỏi trái gòn, bay phất phơ trong gió. Trong vườn ông Trì còn có nhiều cây xoài và những hàng tre cao vút. Hằng gầy ông Trì và một ít người vô đây trồng trọt và trông nom khu vườn. Nhưng hầu hết khu vườn ông Trì luôn vắng bóng người, nên chim chóc về đây làm tổ, sinh nở nhiều hơn.

Từ đường cái quan băng qua một khu ruộng lúa là đến gò Rú. Những ngày đi học ở trường làng, nó thường rũ những đứa bạn băng qua cánh đồng vào gò Rú bắn chim và hái chùm chày, mẫn khiểng.

Hôm nay ngôi trường làng đóng cửa nghĩ hè. Bốn đứa bé lại rũ nhau đi vào vườn ông Trì.

- Dở thiệt! Gần xịt mà cũng bắn hụt. Một đứa lẩm bẩm, hối tiếc nhìn con chim cu bay qua cây gòn khác.

Rồi bốn đứa lại chạy theo con chim đến cây gòn bên cạnh. Nhìn con chim cu mới vừa ra ràng, ngây thơ, đang chập chững tập bay vào đời, nên bay không xa. Bốn đứa bé bao vây chung quanh dưới gốc cây, rón rén rình bắn con chim cu.

Đôi cánh chim non mới chập chững vào đời mà gặp ngay phải mấy đứa bé sát sinh làm con chim con run rẫy. Nó lay quay trên cành cây, mắt lức láo nhìn xuống mấy đứa bé mà tâm tư dường như đang lay động, mong ngóng đôi cánh che chở của mẹ hiền. Con chim đi qua, đi lại trên cành cây nhỏ bé, nó muốn bay thật xa cho khỏi tầm tay của những đứa bé tinh nghịch, nhưng đôi cánh, đôi cánh của nó yếu ớt quá!

Bốn đứa bé bắn hụt con chim, chim bay, nó liền chạy theo như hình với bóng. Nhìn thấy chim con đang đậu trên đầu, ngon quá, nó muốn lập một chiến công hiển hách để đem về khoe cùng đám bạn. Không muốn để hụt kỳ này nữa, nên một đứa trèo lên cây gòn cho gần con chim hơn. Miệng đứa bé ngậm cái ná, nó trèo lên khi cách con chim chừng năm sáu thước, nó nằm dài trên nhánh cây, thò tay trong túi lấy ra một hòn đá bỏ vào bao ná. Con chim con nghe tiếng rọt rẹt, nó quay lại nhìn thằng bé, chân nhúc nhích và đầu gật lên gật xuống, như muốn năng nỉ điều gì. Thằng bé từ từ dương ná lên, và bao nhiêu con mắt dưới gốc cây đang hồi hộp nhìn lên. Đứa bé trên cây thầm nói:

- "Kỳ này cho mầy chết."

Nó nheo mắt lại, nhắm thật kỷ, thả ngón tay trên bao ná ra, rặc một cái, nó đưa mắt nhìn theo con chim. Hụt! Con chim cu lại bay đến cây gòn khác, và lần này nó bay hơi xa hơn lần trước. Thằng bé trên cây nhìn theo con chim mà lòng tức tối, nó lật đật tuột xuống đất. Ba đứa bé dưới gốc cây dõi mắt nhìn theo con cu và lật đật chạy về cây gòn con chim cu vừa bay đến.

Miệng xì xào chê đứa bé kia bắn dở quá. Rồi ba đứa nó đưa tay ra đánh hoảnh-tù-tì. Đứa thắng lại trèo lên cây gòn. Con chim cu đậu mút ngoài đầu cành cây gòn. Đứa bé rón rén trèo lên được một khúc, nó sợ con chim phát hiện rồi bay nữa nên nó nằm úp lên nhánh cây, và dương ná ra, bắn. Hòn đá bay ra đụng vào cành cây kêu cái bụp, con chim cu hoảng hồn liền bay đi. Hụt nữa! Và một lần nữa, con chim cu lại bay qua cây gòn khác.

Cứ thế, bôn đứa bé lại chạy theo chim con, leo lên cây gòn đuổi bắn nó. Và bốn đứa bé lại cứ bắn hụt! Mỗi lần thoát khỏi tử thần, chim con lại bay xa hơn lần trước. Và càng lúc nó bay càng giỏi hơn.

Cuối cùng chim con đã bay đậu tận ngọn tre. Bốn đứa bé chỉ còn biết đứng dươi gốc cây nhìn lên, rồi cũng dương ná lên bắn. Nhưng những hòn đá rời khỏi những bàn tay yếu ớt bay vào không gian, lạc lõng.

Khi mặt trời đứng bóng, bốn đứa bé mặt mày nhể nhại mồ hôi, và bước chân đã mỏi. Nó quay gót rời khỏi vườn ông Trì, bước xuống mương Dân. Nó lội qua cánh đồng lúa ra về; Nhìn lên ngọn tre, con chin con vẫn còn đó. Và trong tiếng gió, có tiếng nói nho nhỏ: "Tức cái mình."

CON DẾ MÙA LỤT

Tháng Mười trời Quảng Ngãi bắt đầu đổ mưa. Những cơn mưa nhiệt đới kéo dài lê thê từ ngày này qua ngày nọ. Hạt mưa to, đậm, gió thổi tạt vào chân nghe đến rát da, và trên chiếc nón lá tiếng mưa rít từng hồi nghe kêu lộp độp. Có những buổi chiều, nhìn trên cánh đồng thấy bóng người cuộn tròn trong chiếc áo tơi như những con kênh kênh, và hơi gió bắt đầu mang theo cái lạnh, vậy là mùa mưa đang đến.

Mưa miền Trung rất dai và kéo dài qua nhiều ngày. Mưa đổ trên những triền núi, trên những con suối và chảy vào sông, ruộng đồng. Mà núi miền Trung thì trùng trùng điệp điệp, còn ruộng đồng và sông thì nhỏ hẹp. Cho nên vào mùa mưa miền Trung thường bị ngập lụt. Nhiều làng mạc nằm giữa sông và cánh đồng, mà trời thì thường bày cơn lụt mỗi năm, nên dường như năm nào người dân cũng điêu đứng vì cơn mưa. Và năm đó, năm 1964, mùa mưa đã đưa làng mạc ở Quảng Ngãi nằm trong biển nước.

Vào đầu tháng Mười Một năm 1964, những cơn mưa dường như không ngớt. Ngày lại ngày, mưa gió bão bùng, nước trên nguồng tuông đổ vào sông Vệ, và những cánh đồng hai bên bờ sông ngập đầy nước từ những con suối đổ vào. Làm mực nước dâng cao và tràn vào làng mạc. Thế là nước sông và nước đồng hoà lẫn nhau gây nên lụt lội.

Sông Vệ hằng ngày nhỏ hẹp nhưng năm đó nước lụt tràng ngập hai bên bờ cát làm cho con sông trông rộng mênh mông. Bầu trời u ám, gió mạnh, và mưa to làm cho nước trên sông dân cao, chảy ào ạt mang theo đủ thứ như gà, vịt, heo, chó, mèo, v.v. và nhiều nhất là những cành cây khô trên rừng. Những cành cây nhỏ có, to có, cong queo trôi theo giòng nước cùng với rác rến, và xác cầm thú trên sông. Nhìn trên giòng sông người ta thấy bao nhiêu của cải và ngay cả dấu vết những tấm vách, và mái nhà của người dân trên thượng nguồng trôi dạt trong con nước đục ngầu. Và trong tiếng mưa người ta nghe cả tiếng heo kêu en éc cuống đi trong giòng nước. Rồi những người dân sống hai bên bờ sông lại thập thò bên con nước lũ, cố vớt những cành cây khô, những con gà, vịt trôi theo giòng nước mang về.

Người ta thấy buồn và khổ cho những căn nhà nằm ven sông và cạnh cánh đồng. Cứ vào mùa lũ lụt lại có những căn nhà bị con nước cuốn đi. Và năm nay căn nhà bà A nằm cheo leo bên bờ rào vi, nơi đầu làng bên cánh đồng, đã trôi bềnh bồng theo con nước! Bà A là bà hóa, chồng bà, ai biết đã đi đâu? Bà chỉ có mỗi một người con trai duy nhất, tên Thà. Vậy mà anh Thà đã vào quân đội để lại bà A một mình ở nhà. Những năm sau này có lẽ buồn nhớ con và cảnh đời trơ trụi đã làm bà A trở nên quẩn trí. Bà thường đi ra đi vô và nói một mình như bà điên. Nhưng qua mùa mưa này, rồi bà A sẽ ở đâu?

Mưa và lũ lụt cũng đồng nghĩa với nỗi buồn muốn chết của những người lớn, nhưng đối với con nít thì khác. Nước ngập càng cao, con nít càng thích thú!

Mưa gió vừa tạnh thì hai đứa bé, một trai, một gái nháy mắt nhau làm hiệu lòn ra ngõ sau nhà để đi ra bãi cát sau làng. Trên tay hai đứa bé cầm hai cái đụt, và lúp xúp bước đi trong con nước.

- Anh chắc có nhiều dế hông? Đứa em gái - Dưa, hỏi anh nó.

- Chắc mà. Năm ngoái anh theo cha ra bãi bắt nhiều dế lắm.

- Em bắt nó cắn em hong?

- Một chút thôi.

- Ý, em sợ lắm! Thôi anh đi một mình đi.

Dưa dùng dằng đứng lại bên đường.

- Như con kiến cắn thôi, nhưng mà vui lắm. Em có đi không?

- Anh nhớ đó nghen, nó mà cắn đau là em về méc mẹ đó.

Miền Trung đất khô ráo. Dọc theo hai bên bờ sông thường có đất phù sa bồi đắp nên trong đất có pha nhiều cát. Và đất cát rất tốt cho công việc trồng dâu tằm. Cũng vì vậy mà khúc bãi cát nằm sau thôn Đồng Xuân, (xã Nghĩa Thành, quận Nghĩa Hành) người ta trồng hàng hàng lớp lớp những đám dâu tằm. Đặc biệt len lỏi trong những luống dâu tằm có rất nhiều dế cơm đào hang sống trong đất cát. Dế cơm lớn hơn dế quạ (loại dế mà ở thành thị những đứa bé thường mua về nuôi để đá) một chút và có màu nâu nâu. Ở quê miền Trung người ta thường bắt nhiều dế cơm về rút ruột, ngắt cánh, ngắt đầu, rữa sạch. Rồi bắt chảo dầu lên. Dế rữa sạch ướp chút hành, tiêu, tỏi, ớt, đem bỏ vào chảo dầu thật nóng. Tiếng xèo xèo của dế trong chảo làm người đứng bên cạnh thèm, phải chảy nước miếng. Lấy chiếc đủa trộn lên vài ba lần và đảo cái chảo cho đều, khi thấy những con dế đổi thành màu đen đen vàng vàng, là chín. Mang dế ra và rót một ly rượu đế thật đầy thì bao nhiêu cảm giác lạnh lẽo của mùa Đông cũng thành mây khói. Thế người ta mới nói dân mình thấy con gì cục cựa là bắt ăn hết! Nhưng hãy thử đi, khi nào có dịp về miền Trung vào mùa mưa, theo những người nông dân hay những đứa trẻ trong làng đi bắt dế cơm về chiên ăn một lần rồi sẽ thấy nó ngon hết biết! Những ngày khô ráo những đứa trẻ thường đào bên cạnh gốc dâu tằm bắt dế xỏ thành xâu mang về. Nhưng vào những ngày lụt lội, nước ngập đến gần nữa thân cây dâu tằm làm cho những hang dế ngập nước. Vì bị ngột nên dế phải rời hang bò đeo lên thân cây dâu tằm. Và những đứa trẻ chỉ cần ra bãi dâu trong ngày nước lụt thì tha hồ bắt dế!

Dưa xách cái đụt lủi đủi đi theo anh. Qua khỏi nhà một lối hai anh em rẽ vào con đường duy nhất dẫn ra bãi. Con đường chạy song song với bờ mương nước. Nhưng hôm nay chỗ nào cũng là mương nước! Hai anh em nó bước lủm bủm giữa hai hàng tre phủ rợp để ra bãi cát. Đi trên con đường làng không quá một cây số là hai anh em đến bờ rào vi. Bắt đầu từ đây con đường trở nên trũng xuống cho nên nước trên đường sâu dần. Và chỗ sâu nhất nước ngập trên rún của đứa em.

- Nước sâu quá, làm sao em đi?

- Em nắm tay anh dắt đi.

- Mà nước cũng gần tới ngực anh rồi. Em sợ.

- Sao nhác quá vậy, anh nói không sao đâu mà, đưa tay đây.

- Anh la em hoài.

- Không thì đeo lên cổ anh cỏng qua.

- Anh lại đây đi.

- Nề. Ôm cổ cho cứng đó.

- Được rồi, đưa cái đụt của anh em cầm cho.

Con nước lớn vẫn chảy xoi qua từng cành cây bên bờ rào. Và hai bóng người nhỏ bé với hai cái đụt đã qua khỏi khu nước sâu. Đến bãi dâu tằm nước ngập lai láng, hai anh em nó lội vào. Mặt mày hớn hở, hai bóng người tay chụp lên chụp xuống liên hồi trên những cành dâu tằm, bắt những con dế cơm bỏ vào đụt. Lần đầu tiên Dưa theo anh đi bắt dế, đứa bé thấy ngồ ngộ, nó nhìn những con dế lạnh run người bám vào cành dâu. Những con dế đã lạnh và mệt mỏi nên cũng không buồn nhảy đi khi bàn tay đứa bé đưa ra nâng niu nó. Nó ngoan ngoãn đậu vào lòng bàn tay và ngỡ rằng nó đang được cứu vớt!

- Sao nó không cắn em anh ơi!

- Sao em nhiều chuyện quá vậy. Không sợ nó cắn đau nữa sao?

- À, để em bắt nó bỏ vào đụt nha.

Trong chốc lác hai cái đụt đã chứa đầy dế. Hai anh em nó rời bãi dâu trở về nhà. Nó dẫn em lội qua những đám dâu trở ra con đường nhỏ vào làng. Khi đến khu đất trũng, nó nắm lấy tay đứa em dắt qua. Nhưng bây giờ con nước đã dâng lên cao hơn lúc trước, mực nước cao đến ngực của đứa em. Nó rùn chân lại và đứng phân vân tìm cách lội qua.

- Nước sâu quá, làm sao đây anh?

- Để anh coi.

Dưa nắm chặt cái đụt dế, đua mắt nhìn anh.

Đứa anh mân theo bờ rào, và nói:

- Em nắm hai cái đụt và đeo lên lưng anh cỏng qua như hồi sáng vậy đó.

Dưa không nói một lời, lặng lẽ đến ôm vào cổ anh nó. Rồi anh nó lần mò cỏng em qua khỏi khu nước sâu. Bước chân thập thỏm rà trên từng tất đất. Bất chợt bàn chân đứa anh sụp vào lỗ bún, nước ngập đến đầu! Nó lật đật ngoi ngóp lội ra vũng nước. Khi ra khỏi lổ bún thì Dưa đã lọt khỏi cổ đứa anh và đứng nhảy chồm chôm trong giòng nước. Nó vội nắm lấy tay đứa em lôi ra khỏi con nước, và kéo lên chỗ cạn.

- Em có sao không?

- Có sao đâu, em có sao đâu.

- Vậy mà làm anh sợ gần chết. Hứ, lì dữ hén. Hai cái đụt đâu?

- Kia kià, trôi kia kià. Dưa chỉ tay về hai cái đụt đang trôi trong giòng nuớc.

- Trời! Tiêu rồi. Mấy con dế chui ra bò lên bờ rào hết rồi.

- Kệ nó, em không muốn thấy chúng nó bị thiêu trong ngọn lửa đâu!

- Mùa lụt năm tới anh không dẫn em theo nữa.

Hai bóng người nho nhỏ nắm tay nhau đi về trên con đường ngập đầy nước. Một hồi, đứa anh quay lại nhìn, thì hai cái đụt đã trôi thật xa, và những con dế, đang nằm sưởi ấm trên cành cây.

MÙA ỄNH ƯƠNG

Trời sắp vào cuối Thu, miền Trung thường có những cơn mưa tầm tả. Những cơn mưa nặng hột kéo dài lê thê, nhiều khi cả tuần mà mưa vẫn rơi. Mưa rơi khắp xóm làng với những cơn gió to như giông bão. Mưa triền miêng làm những ao hồ trong vườn ngập đầy nước, và những con ểnh ương lại xuất hiện.

Những buổi chiều mưa rơi, Búm ngồi trên hiên nhìn ra sân thấy cóc nhái nhảy lụp bụp, và tiếng ùm oang của ểnh ương vang lên từ những bờ ao bên cạnh lùm tre làm lòng Búm buồn vời vợi. Cả một năm trời vắng bóng nhưng đến khi sắp vào mùa Đông, những cơn mưa đổ xuống suốt ngày đêm là loài ểnh ương lại bắt đầu sinh nở. Thân hình trơn lu, màu vàng có những sọc đen chen kẻ chạy từ đầu đến đuôi, không biết từ đâu mà nó nổi lên đầy bờ ao. Để rồi những chiều mưa đổ, nó phình hông lên to tròn như quả bóng, và cứ ùm oang, ùm oang, nó kêu gọi như gọi tên ai, nghe não nề!

Loài ểnh ương có lẽ chỉ để gieo nỗi buồn cho nhân thế! Vì nó chỉ sinh ra và sống trong ao hồ trong những ngày tháng âm u, buồn bả của mùa Đông; Có lắm lúc nó chui vào chiếc nón sắt và gọi tên Đương những đêm giá lạnh buồn tênh.

Trời bây giờ sang Đông. Nhà ông bà Thi cũng như mọi người nông dân trong làng, chỉ biết ngồi trong nhà nhìn mưa rơi hết ngày này qua ngày nọ. Không gì làm nên Búm cùng người chị lấy nếp ra rang và giả cớm để gia đình sum họp, nhai ngoáp ngóep cho vui miệng những chiều gió Đông. Có lẽ cớm nếp chỉ được làm vào dịp mùa Đông (những mùa khác bận rộn đâu còn nhàn rỗi để giả cớm!)

Những buổi sáng mùa Đông giá buốt Búm lại cùng mấy đứa em dậy thật sớm ra bờ tre tìm nhổ nấm tre. Những chiếc nấm mới lú lên từ gốc tre già, chóp nấm màu xám nhưng thân nấm lại trắng nên dể phát hiện. Nấm tre thường mọc thành đám. Nhiều khi tìm được vài ổ nấm là Búm có cả một rổ nấm rồi!

Rồi Đông cũng qua đi, Xuân đến và Búm cũng lớn thêm một tuổi. Sự sống ở nông thôn lại bắt đầu chu kỳ mới. Những thửa ruộng được cày, cuốc lên, trâu bò mang ra kéo bừa cho đất nhuyễn ra. Khi những luống mạ xanh um, cao chừng vài gan tay là mùa cấy lại bắt đầu.

- Con có phải đi cấy không me? Búm hỏi.

- Sống ở miền quê không đi cấy lấy gì ăn con.

- Hồi nào giờ con có đi cấy đâu mà biết. Búm ái náy khi nghĩ đến giẫm chân xuống những đám ruộng bùn lầy.

- Thì con phải ra ruộng học như mọi người khác vậy đó. Bà Thi nhìn con với đôi mắt ân cần.

Hôm sau Búm đội chiếc nón lá ra đồng cấy lúa. Từ chiều hôm trước ông Thi đã chặt bờ sạch sẽ, xong cày và bừa thửa ruông thật nhuyễn. Sáng nay nhìn thửa ruộng bình yên không một gợn sóng như mặt hồ lặng gió. Rồi những người nông dân gánh những bó mạ rãi thành hàng trên đám ruộng. Búm cùng những người thợ cấy xăng quần lên khỏi đầu gối, để lộ làng da trắng như ngà, và lội xuống ruộng. Búm bước những bước chân lệch lạc trong bùn lầy đến lấy bó mạ, bất chợt nàng thấy những con vật đen, dài, đang bơi ngạo nghễ bên cạnh bước chân, Búm ré lên và lật đật trèo lên bờ.

- Cái gì vậy Búm. Tím hỏi.

- Con đĩa, con đĩa ghê quá.

- Trời ơi! đĩa thì bắt ném đi, làm gì mà em la như bị ai ăn trộm aí tình vậy.

- Cái này còn hơn bị ăn trộm nữa, ghê quá! Chị lại đây đi.

Búm đứng trên bờ nhìn những con đĩa bơi lội trong nước mà rùn vai, lắc đầu. Nàng đứng thun người lại, nhìn chăm chăm xuống ruộng như sợ những con đĩa bò lên bờ để bu vào chân nàng không bằng.

- Điệu này làm sao em đi cấy được đây. Tím nhìn Búm với đôi mắt thương hại.

Búm vẫn đứng trơ người trên bờ ruộng. Một hồi nàng thò tay vào túi lấy chiếc khăn tay. Búm vừa thọt tay vào thì thấy vật gì trơn và lạnh trong túi, nàng liền rút tay ra. Bàn tay vừa ra khỏi túi áo Búm lại ré lên, một tay nắm lấy Tím, người ưỡn ra và tay kia chỉ lên bụng, miệng thì la ú ớ.

- Cái gì vậy, Tím hỏi, cái gì mà em la lên nữa vậy.

- Con đĩa, ...

- Đĩa ở dưới ruộng thì mắc mớ gì mà em sợ dữ vậy.

- Không. Nó trong ...trong túi ...trong túi áo em nè. Bắt nó ...dùm đi.

- Làm sao đĩa lại chun vào túi áo em.

- Không biết.

- Đưa đây chị bắt ra cho.

Tím thò tay vào túi áo Búm và lôi ra một lượt ba bốn con đĩa to bằng đầu chiếc đủa con!

- Ác nhơn, ai ác nhơn quá vậy!? Búm xé tan túi áo vứt xuống ruộng, giọng nói run lên và mặt cắt không được giọt máu!

- Sáng giờ em đi với ai ra đây? Tím hỏi.

- Băng. Em đi với Băng ra đám mạ.

- Em nhớ rồi, Băng chứ không ai hết. Nó nói túi áo em dơ quá để nó lau dùm cho em. Nó đâu mất rồi, em phải đi tìm Băng mới được.

- Nó đứng cười nhăn răng đằng kia kìa. Tím chỉ tay về chỗ Băng đứng.

Búm vội chạy đến chỗ Băng.

- Tại sao, tại sao em ác quá vậy?

- Ai biểu đi Đà Lạt về mà không mua quà cho tui, còn bảo Tím không giặt đồ của tui nữa.

- Quà của em chị mua rồi sao nói không, tại suốt ngày em lo đi bắt chim nên mấy đứa kia nó lấy ráng chịu chớ. Em quá trời nghe hong, chị về nhà méc cha cho biết.

- Không sợ.

Búm ngoe ngoãi đi một mạch về nhà. Vừa đi nàng ngoái đầu lại:

- À, mi đâu có sợ ai, nhớ đó nghe hong.

Chiều tối về, cả nhà ông Thi ngồi vào bàn ăn:

- Cha, Băng nó bắt đĩa bỏ trong túi áo con. Búm nhỏng nhẽo với ông Thi.

- Vậy hả, thì con bắt bỏ ra, ba con đĩa mà nhằm nhòi gì. Thằng nhỏ đó nó lộn ngược đĩa ra nó phơi nắng hoài có sao đâu.

- Nhưng con sợ đĩa.

- Ông ngồi đó mà nói, bà Thi nhìn ông Thi, thằng nhỏ bắt đĩa nhát con Búm sợ muốn đứng tim và nó bỏ cấy đi về nhà từ hồi sáng giờ đó.

- Vậy hả, thằng nhỏ đó đâu rồi, sao không thấy ra ăn cơm. Ông Thi hỏi.

- Nó nói nó không sợ cha đâu. Nó trốn rồi. Gương mặt Búm sáng ngời lên.

- Thôi chuyện đó bỏ qua đi, bà Thi nói. Me thấy con làm nông không xong rồi. Ngày mai con khỏi đi cấy lúa nữa. Cha sắp nhỏ phải tìm cái gì cho con Búm nó làm đi.

- Me cho con đi học may đi me. Búm reo lên.

- À, được đó. Con lên tiệm con Linh học may đi.

- Linh nào me? Búm vui mừng.

- Linh con bà Hạt đó.

Thế là xong, từ nay Búm sẽ không còn nhìn thấy những con đĩa xấu xí kia nữa. Lòng nàng rộn lên một niềm vui, âm thầm bỏ đủa xuống và rời bàn ăn, đi tìm Băng.

ĐẠI BÀNG GÃY CÁNH

Trời vào mùa Đông, cảnh núi đồi trở nên trơ trụi, đó đây một vài cánh chim bay lượn. Dưới cánh đồng lộng gió, những ngọn cỏ chết khô vì giá buốt, đang rạp mình dưới chân con mèo hoang rình mồi. Và trên sườn núi, cánh chim đại bàng đang na cành về làm tổ.

Mùa Đông đang về với núi rừng Phi Châu. Những cánh đồi xanh tươi, tràn đầy nhựa sống, bây giờ xơ xác, thiếu cả tiếng xào xạc của rừng lá trông đến vắng lặng. Những thân cây cổ thụ bày cành trơ trụi trước gió đông, và nơi đây, chỉ có những ngọn gió thổi rì rào trên bải cỏ hoang tàn. Trên không là một cặp trống mái đại bàng, đang nhào lộn, lách mình xuyên qua những cành cây khô trụi lá, để lùng bắt những con mồi xấu số. Gió thổi càng mạnh đại bàng càng thích thú. Cặp mắt sáng quắt, đại bàng vươn đôi cánh trên cành cây khô, và cơn gió từ từ bốc người bay lên. Rồi nhào một cái là cả đám côn trùng lẫn chuột, thỏ đều kinh hồn chạy tán loạn.

Sự sống và cái chết trên triền núi này chỉ là gang tấc.

Mùa Đông đến mang theo cái lạnh về với rừng núi. Cũng là lúc đại bàng xây tổ uyên ương. Có những chiều gió lạnh, cặp đại bàng trống mái cùng nhau đi săn mồi mang về tổ ấm. Cái tổ ấm đơn sơ, chỉ có chổ nằm nhưng không có chổ che nắng che mưa, được xây lên bên cạnh vách đá. Rồi những cuộc tình mây mưa giữa gió trời lồng lộng, trống mái cuộn tròn trong nhau, cho rơi tự do với tốc độ ái ân. Rồi đùng một cái chàng đưa nàng bay bỗng lên trời cao, như đã đến tột đỉnh của tình yêu, nàng xòe đôi cánh thả mình lơ lửng trong bầu trời xanh lơ. Một thoáng qua đi, rồi cơn gió đưa nàng trở về bên tổ ấm. Tình yêu thật màu nhiệm, để bây giờ trong nàng, cuộc sống mới bắt đầu chớm nở.

Dưới thời tiếc khô khan và giá buốt, những ngọn cỏ trên cánh đồng hoang càng ngày càng già úa. Sức sống cỏ cây ở đây cũng tàn lụi dần theo cái lạnh của mùa đông. Và cánh đồng bây giờ lại càng rõ nét, nên bầy thỏ, chuột lại mất đi tấm màn bảo vệ. Những con mồi béo bõng hằng ngày vẫn lồ lộ trước mắt nên đại bàng suốt ngày no nê, chỉ một mình đại bàng trống cũng có thể tìm được bửa ăn hằng ngày cho "gia đình."

Có lẽ vì thế mà đại bàng chỉ sinh nở vào mùa đông.

Từ trên vách đá cheo leo đại bàng cất cánh. Hắn xòe đôi cánh ra để đón gió, trong một cái liếc mắt, những ngọn gió luồng dưới đôi cánh khũng lồ, và nghiêng người đi một cái, hắn đã đưa thân hình bay bỗng lên không trung. Gió vẫn thổi, và cũng hai đôi cánh, hắn đứng yên trong vòm trời. Với hai con mắt tò vọ, hắn đão nhìn xuống phía dưới. Bóng dáng con thỏ vừa xoai mình nhảy ra khỏi buội rậm là hắn xếp cánh, như một chiến đấu cơ, đại bàng cắm xuống, rà phía sau con thỏ xấu số. Rồi nhanh như chớp những vuốt chân xòe ra rồi chụp lại. Hai đôi cánh lại quạt liên hồi, và trong nháy mắt hắn đã kẹp con mồi bay về tổ ấm.

Hắn ân cần xé từng miếng mồi nhỏ cho nàng, rỉa từng sợi lông trên đôi cánh của nàng như một cử chỉ yêu đương triều mến.

Gió mùa đông càng về sau càng lạnh, nàng dùng đôi cánh và những sợi lông mềm mại đẻ ấp ủ trứng. Rồi ngày tháng cũng đến, trứng vỡ ra, một cuộc sống mới lại chào đời. Như mừng rỡ nhìn thấy giọt máu của mình, hắn lại cất cánh bay đi, nhặt một cành cây khô thật lớn, bay vút lên không trung. Hắn thả cành cây cho rơi tự do, rồi lao mình bay theo chụp lại. Rồi lại thả cho rơi tan tành trên vách đá.

Có lẽ chỉ có nàng mới hiểu nỗi sự vui mừng của hắn!

Bên cạnh hai chiếc áo giáp màu đen với thân hình khổng lồ lại là một đứa bé nhỏ xíu với bộ lông trắng nõn. Chào đời giữa mùa đông, nhưng đứa bé luôn được ấp ủ bởi đôi cánh ấm áp. Đại bàng con ăn nhiều chóng lớn. Màu lông trắng từ từ chuyển qua màu vàng nâu, và những móng chân sắc bén bắt đầu thực tập trên những miếng mồi.

Và mùa đông cũng đã đi qua.

Trên sườn núi, và cánh đồng dưới chân, đang mang dấu mùa xuân trở lại. Bầy chuột và thỏ bây giờ cũng đông hơn. Trống mái thay phiên nhau đi săn mồi đem về cho đại bàng con. Trên vách đá đại bàng con suốt ngày lẫn quẩn trong ổ. Nhìn xuống cánh đồng những hoa, quả và màu xanh từ từ trở lại, nó cũng muốn tung đôi cánh theo bố mẹ nhào lượn dưới đó. Để sửa soạn cho ngày đó, ngày mà cả ba trong gia đình dìu nhau rong chơi trên cánh đồng hoang trước mặt, bố đang tập cho nó từng bước di chuyển và cách xử dụng đôi cánh. Đôi cánh vụng về đang đập bành bạch trong gió, đôi khi làm nó chúi nhũi.

Gia đình, cái không khí gia đình thật là ấm cúng. Hằng ngày trống mái đại bàng vẫn quanh quẩn tìm mồi về nuôi con. Cũng như như bao nhiêu cặp đại bàng khác, nó chỉ sinh ra một đứa con vào mùa đông, bảo vệ và nuôi nấng cho lớn. Khi vào mùa hè thì đại bàng con sẽ được huấn luyện đầy đủ để một thân một mình bay vào cuộc sống.

Nhưng lần này thì khác.

Cái ấm cúng gia đình đang chớm nỡ thì đại bàng mái lại đi xây tổ ấm khác. Mỗi ngày sau khi cho đại bàng con ăn xong, nàng lại đi na cành vè xây một tổ ấm bên sườn núi phía dưới. Rồi những cuộc tình mây mưa giữa bầu trời lại tái diễn.

Mùa xuân chóng qua, mùa hè lại đến, đại bàng lại đến ngày sinh nở. Nàng cho ra đời hai quả trứng. Rồi một cảnh hai quê, nàng vừa ấp ủ trứng vừa phụ chàng nuôi nấng đại bàng con.

Rừng hoang nào lại không có thú dữ! Và mèo hoang vẫn luôn rình mò đi tìm miếng mồi béo mỡ.

Mùa hè càng ngày càng gay gắt, màu xanh cây cỏ cũng từ từ biến thành màu nâu vàng úa. Côn trùng, chim chuột cũng hao mòn và lẫn trốn xa dần cánh đồng hoang.

Cuộc sống ở đây ai cũng là thợ săn mà cũng là con mồi.

Ðại bàng ngự trị trên không, tung hoành khắp đó đây với đôi cánh khỏe mạnh và đôi chân sắc bén. Dưới ánh nắng hừng hựt của mùa hè, đại bàng xòe đôi cánh, in hình trên thảm cỏ khô là cả bầy chim, chuột khíp cả hồn vía. Nhưng ở đây không những chỉ có đại bàng mà còn ác thú khác nữa là mèo hoang. Ngày và đêm, trong từng bụi rậm mèo hoang vẫn luôn rình mồi. Với bước chân nhẹ như tơ hồng, mèo hoang thụt thùi bên bụi cỏ. Rồi cơn gió thoảng đi qua, mang theo mùi hôi da thịt mèo hoang làm cánh nhạn cất cánh bay lên. Nhanh như chớp, mèo hoang phóng mình nhảy lên rồi chụp xuống. Thế là những sợi lông chim lại bay phất phơ trong gió, để tiếc thương cho một linh hồn vừa rời khỏi xác.

Càng vào mừa hạ thức ăn càng khan hiếm. Ðại bàng hằng ngày phải đi săn lùng liên tục may ra mới có đủ bửa ăn gia đình. Những con mồi càng ngày càng quen thuột với thói quen của kẻ đi săn, nên đại bàng phải làm việc cực nhọc hơn và phải đi xa để kiếm ăn. Ánh nắng vẫn hừng hựt nun đốt cỏ cây trên triền núi. Rồi một ngày nóng cháy hai trứng kia cũng đến lúc vỡ ra chào đời.

Ðại bàng lần đầu tiên phá thông lệ sinh ra hai lần trong một mùa.

Ðứa anh cả suốt ngày trông đợi bố mang mồi về, nhưng thức ăn lúc này bửa đầy bửa vơi. Nó năng tập tành đôi cánh để sớm vươn chải nuôi lấy bản thân. Cuộc sống càng khó, trống mái đại bàng sợ một ngày nào đó không đủ thức ăn, đại bàng anh có thể cắn chết hai đứa em. Nên nó đã xô đuổi đứa con lớn đi thật xa, xa khỏi tầm nguy hiểm của hai đại bàng mới sinh. Vậy là từ đó một mình đại bàng con tìm đường sinh sống nơi vách đá xa xôi. Với đôi cánh thiếu kinh nghiệm, đại bàng con nhiều lần đành ngó con mồi vuột đi trong nổi hối tiếc.

Ðêm xuống vùng đất sa mạc càng giá lạnh, đại bàng con co ro một mình trên vách đá. Những miếng ăn tiếp tế từ đại bàng trống càng ngày càng thưa dần, đại bàng con càng ốm yếu. Và xa xa bên kia hai đứa em bắt đầu thấy đói. Ðứa chào đời trước lớn hơn, dành giực thức ăn của đứa ra sau. Nên sự chênh lệch về thể xác đã trở thành rõ rệt. Những con mồi bây giờ trở nên khôn ngoan, một mình đại bàng trống không còn đủ sức bắt mồi cho cả gia đình, vậy là trống mái phải cùng nhau đi săn chung. Hai đại bàng con không còn đôi cánh của mẹ chăm sóc, và vì đói khác, đứa lớn đã cắn chết đứa nhỏ.

Tiếc trời sa mạc, cái nóng bang ngày vẫn tiệp tục dâng lên và cái lạnh về đêm vẫn tiếp tục hạ xuống.

Trống mái đại bàng lại càng quẩn trí khi miếng ăn cho hai đứa con không còn đều đặng. Trống mái thường rời khỏi tổ ấm, bỏ đại bàng con mới sinh ra một mình để đi săn. Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không có đôi cánh của đại bàng mẹ che chở, đứa con như nằm trong cơn lửa. Ðại bàng anh bất lực săn mồi, và ngơ ngác như một con nai tơ bên cạnh những móng vuốt tử thần hằng đêm rình rập. Nhưng vì sự sống của gia đình, trống mái đại bàng phải cùng nhau đi săn.

Hôm nay không tìm được con mồi, dù chỉ là con chuột nhỏ bé. Trống mái đại bàng đành phải làm một cuộc phiêu lưu. Hai đôi cánh vẫn rông rũi từ cánh đồng hoang này đến cánh đồng hoang khác tìm mồi về cho con. Trong cuộc săn lùng nó đã đi quá xa và trời đã tối. Bỏ lại hai con một mình trong đêm vắng. Ðến ngày hôm sau, trống mái na về một con thỏ béo mỡ. Nó bay thật nhanh đem về cho đứa con nhỏ. Nhưng khi về đến tổ ấm, dưới cái nắng như thiêu như đốt của sa mạc, đứa con nhỏ đã chết.

Nhìn thân xác đứa con nhỏ nằm chết co ro dưới cái nắng, đại bàng lại mang con mồi béo mỡ đi tìm đứa con lớn. Trên triền núi, bên cạnh những vách đá cheo leo, đại bàng phát hiện đứa con chỉ còn lại hai đôi chân sắc bén nằm chơi vơi trên tảng đá. Và bên bụi cây, mèo hoang đang liếm những vết máu trên từng vuốt chân.

Nó thả con mồi nằm bên cạnh đôi chân lạnh buốt, đưa mắt nhìn về phương trời xa xăm, cất tiếng kêu oan oát, rồi bay đi. Và tiếng gió, vẫn thổi rì rào qua cánh đồng hoang

CANH CHUA

* Thương nhớ Gò Công, quê tôi với hai mùa mưa nắng

Tôi sinh ra và lớn lên trong một miền đất phèn chua nước mặn, có một bờ biền kéo dài từ cửa sông Soi Rạp chạy tới cửa sông đầu tiên của Sông Cửu Long đó là Cửa Tiểu, mùa nắng thì đất nức nẻ, mùa mưa có lầy lội nhưng tương đối dễ chịu hơn, ruộng đồng có nhiều tôm cá, rau cỏ mọc xanh non, người dân miền Tây, hay nói riêng người dân Gò Công trong việc cơm nước hàng ngày thường thích ăn hai món, thứ nhất là mắm kho, thứ nhì là canh chuạMắm kho thường trên măm chỉ độc nhất một món mắm và dĩa rau, khi thì rau luộc, khi thì rau tươi tủy mùa và tùy hoàn cảnh sống, canh chua thường kèm theo một món mặn khác nữa thường là tôm rang hoặc là cá kho. Tôi là người Gò Công dĩ nhiện cũng không qua được thói quen sở thích dó. Canh chua, một món canh, được thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, từ rau cho tới thit, tôm, cá, nấm...

Tôi chỉ kể đến những tô canh chua mà tôi đã được ăn, do mẹ, do chị tôi nấu, do chính tay tôi nấu, do ăn từ tiệm cơm, nhà hàng, những tô canh chua lén nấu trong tù và những tô canh chua trong một vài nhà hàng tại thành phố Houston.

Canh chua thì phải có chất liệu làm ra chua, chất chua thường được lấy từ me, me thì có nhiều lọai tùy theo tuổi của trái me, khoảng tháng năm sau những trận mưa đầu mùa cây me bắt đầu rụng lá, người Sài Gòn một thời ở lứa tuổi đôi mươi, lứa tuổi còn cắp sách đến trường không thể nào quên được những chiếc lá me rơi rụng bay bay trên vành nón lá, bay bám trên vai áo ai mà vải lụa còn nguyên màu trắng, màu trinh nữ, của những con đường Gia Long, Đồn Đất,... nhìn những tà áo thướt tha của những người đẹp từ Trung Tâm Văn Hóa Pháp chậm bước năm ba cô, trời thì phơn phớt mưa bụi bay, gió nhè nhẹ thổi... Từng chiếc lá, từng chiếc lá, rơi bay bám trên nón, trên tóc... Nhìn cảnh nầy dù cho lòng ai đang chai đá cũng dễ dàng rung cảm viết ra ...thơ, hơi dong dài một chút. Khi cành me trụi lá, cây me sẽ được thay bằng một màu áo mới, lá me non mọc ra từ từ, lá me non là chất liệu nấu canh chua thật ngon. Mỗi năm cây me chỉ thay lá một lần thì làm sao có đủ lá me nấu canh chua quanh năm, ngoài việc thay lá hàng năm, me vẫn tăng trưởng bằng cách ra thêm đọt, hái đọt hơi lâu hơn hái lá non đúng mùa thay lá, ngoài ra người ta còn dùng lửa ( đốt bằng đuốc) đốt sơ một vài nhánh thấp, sau đó lá me bị đốt rụng đi, và một lớp lá me non sẽ mọc ra thay thế.. thế là lại có lá me nấu canh chua. Me ra hoa và kết trái, me mới ra trái là me mắt mèo, me gần chín bong vỏ ra là me dốt,Mấy cô thường ít dám ăn me dốt trước chỗ đông người vì sợ bị chọc là ăn me dốt...lại, me chín được hái lột vỏ chít bỏ hột, trộn ít muối vắt lại thành từng vắt bán ngoài chợ, mẹ tôi thường mua me chín về lột vỏ chít hột trộn chút muối phơi vài nắng rồi nhận vào khạp để dành ăn quanh năm Mỗi một lọai cá, lọai tôm, lọai thịt nấu với một lọai me hay lá thích hợp sẽ ngon hơn khi nấu với thứ chua khác.

Ngoài me và lá me, ở Gò Công còn một lọai cây thuộc thân thảo đó là cây Giấm., cây nầy có dáng dấp bằng cây đậu bắp( bắp tây) lọai 3 tháng lá có hình khuyết sâu, mặt lá hơi nhám, một nồi canh chua khoảng 3 tô nước thì hái chừng mươi lá là đủ chua nồi canh. Gò Công không có cây Vang mọc nhưng ngoài chợ thỉnh thoảng cũng có bán lá vang, lọai nầy có vị chua thanh thường dùng để nấu canh chua gà, kẹt lắm người ta mới nấu canh chua bằng giấm hay chanh.Ngoài ra còn có canh chua khóm, canh cải chua, canh măng chua, canh môn chua, canh khế chua, canh bần chua....

Những năm còn cắp sách đến trường, buổi trưa tan học, trên đường về mưa rơi lất phất,bụng đói meo, tới nhà cất cặp, mũi hít hít đánh mùi canh chua từ nhà bếp... măm cơm với tô canh chua lá me, mẹ nấu với cá chốt, con cá chốt tôi không nhớ rõ tháng nào, mà con nào cũng đều có cặp trứng vàng ló ra ngoài bụng cá, nồi canh có lá me, giá, cà chua, mẹ nêm ớt xắt khoanh, rau ngò om xắt nhuyển, mùi lá me chua, mùi thơm rau om... thấy ruột cào xót xa..., măm nhôm với tô tai bèo canh, một dĩa nhỏ đưng nước mắm, ớt đỏ dầm bể bể... cơm nóng, năm đệ tam, tôi dzớt liền 5 chén kiểu có hình ông rồng mà miệng vẫn còn muốn ăn nữa, trứng con cá chốt nó bùi, thịt cá chốt gắp nguyên con, suốt bỏ xương sống, chút lá me, chút cà giá.. chấm nhẹ lên dĩa nước mắm, ôi...chua cay béo ...răng bén nhai thấy ngọt ngào làm sao.. Bên Mỹ nầy bao nhiêu tiền mới đổi lấy được tô canh chua lá me nấu với cá chốt? Ngoài cá chốt cũng với các lọai rau tẩn liệm như trên mẹ còn nấu với đầu cá Gún, với ruột con nghêu trắng, với con Còng, với con Rạm, với con cá bống kèo, riêng với cá kèo khi nấu, cá kèo không cắt ra làm hai mà phải để nguyên con, vì bụng con cá kèo với mật đăng đắng, với ruột gan béo ngậy, các đôi đũa chỉ thường chỉa vào khúc đầu mà ít chịu chỉa khúc đuôi, nên sau nầy nấu canh chua cá kèo mẹ để nguyên con cho khỏi cảnh lựa chọn; để rồi mẹ phải ăn toàn là đuôi cá.

Những ngày tết, ngày mồng một nhà thường cúng ông bà bằng cơm chay, ngoài các món thường lệ, mẹ không quên nấu nồi canh chua chay, cũng giá, cà, bắp tây, bạc hà, thay vì nấu với thịt cá, mẹ nấu với nấm búp chẻ hai, với tàu hủ chiên xắt vừa miếng gắp, nấu với me chín, phải biết dằn chút đường, muối nồi canh mới thơm chua dịu, mới ngọt ngào, rau nêm vẫn là ngò om hay là ngò gai, cũng có khi là rau tần dày lá. Buổi cơm tết, tô canh chua nầy ăn với mì căng xé sợi xào với nước tương, xả ớt,với tàu hủ ky. Củ bo rô, chị làm bó sổ,hấp chín xong chị cắt thành khoanh kho tiêu, cũng có bì cuốn chay, nem chay cô thứ tư làm bằng vỏ bười... Đi chúc tết về, bụng lép. Gặp măm cơm nầy ...mẹ ngồi bên nồi cơm xúc muốn mỏi tay..., canh chua chay ngoài rau rác như trên những ngày rằm mùng một mẹ còn nấu canh chua nấm rơm tàu hủ với khóm, thêm chút giá cà chua, rau nêm bằng lá quế xắt nhỏ, cũng không quên chút ớt cắt khoanh ăn với ruột hột khổ qua bầm nhuyển xào xả ớt, thêm một dĩa nhỏ chao hiệu Ông Phật ở trần, một dĩa rau sống...thì chay cũng ngon miệng như mặn.

Canh khóm mẹ với chị Hai thường nấu với cá biển, khóm Bến Lức nấu canh với đầu cá thu hay là cá Chim Điệp,cá Cu Đen đặc biệt khóm nấu tôm đất cắt đầu nêm lá quế là hết chê, ăn kèm món canh khóm nấu tôm đất là một dĩa tôm đất cắt đầu rang muối ớt đường, trời chiều bảng lảng măm cơm dọn trên bộ ván nhà bếp trống vách, nhìn mây trời lờ lững trôi, từng đàn chim bay hình chữ V về ổ, thỉnh thoảng chim lạc đàn buông vài tiếng kêu văng vẳng từng không, với nồi cơm nóng nấu bằng gạo nanh chồn,cơm cạn để lên mặt nồi cơm vài cọng lá dứa, tô canh khóm tôm rang dĩa muối ớt đỏ cay xé, trên thành măm để vài trái ới chỉ thiên hườm chín... Thôi thì ...nuốt như cò!

Tháng mười một tháng chạp ta, gió chướng thổi về, mới đầu mùa gió chướng yếu trong mình dễ sinh bệnh, phong dao có câu " Gió nào độc bằng gió Gò Công" thì Gò Công có cây so đũa bắt đầu trổ trắng bông, Sau nầy có thêm một loại hoa so đũa màu tím. Lúc tôi ở tù về trông thấy hoa so đũa tím tôi nhìn hoài vì với tôi màu tìm có nhiều kỷ niê.m.Cây so đũa tơ cao khoảng mét rưởi hái còn dễ chứ cây vài tuổi phải dùng sào thọc, ngước mặt lên trời, cổ mỏi mê, người dân thường dùng chữ đi thọc bông hơn là đi hái bông, lặt bông bỏ cuống, bỏ nhụy( Nhụy có phấn vàng ăn hơi nhẩn nhẩn), đậu rồng xắt liễn,, với hai thứ nầy cũng đã đủ nấu nối canh chua với me dốt dầm bỏ hột, nêm ngò gai nấu với tôm đất dùng kéo cắt đầu, chưn, đuôi cho sạch sẽ, đặc biệt dân Gò Công ăn canh nầy chấm với muối ớt chứ không chấm nước mắm, khi bắt đầu nấu ăn thì cối muối ớt được đâm trước, ớt sừng trâu đâm đủ bể chứ không cần nhuyển, trộn với muối đem để lên mặt hồ nước phơi nắng ngoài sân, tới bữa ăn muối khô trắng điểm ớt cay hồng rất ngon. Bông so đũa nấu với cá kèo cũng rất ngon.Canh chua để cúng giổ mẹ thường nấu với cá lóc, cá lóc cở trên kilo, lạng da lòi thịt trắng bóc, cũng cà giá bắp tây hay đậu rồng, bạc hà, tùy mùa , nồi canh chỉ cần bốn vị rau là quá đủ, tô canh chín vớt đầu cá lóc bây giờ đã chín nở nang để gần bít dĩa bàn trắng, cái đùm ruột lòi ra với lá gan ngà vàng, lớp mỏng mở trắng, túi mật nhỏ xanh đen.. bỏ vào chén, kèm vài lá quế, húng cây, lua vô miệng, rau thơm, gan ruột béo ngậy, mật đăng đắng.. cắn một khúc ớt chỉ thiên, nhai ngập răng, chiêu một ly nhỏ rượu nếp Bình Ân ... khà một tiếng, mệt nhọc của buổi làm tan biến ngay. Ngồi chung măm nhiều người nếu thấy tuổi tác mình còn kém nhiều người trong bàn thì đừng bao giờ chòi đũa vô gắp đùm ruột cá lóc.... Đó là biết cách trọng người trên dù chỉ là luật bất thành văn. Khi người lớn tuổi nhất bàn gắp ruột bỏ vào chén ai thì người đó cám ơn rồi hưởng tự nhiên...Thời tôi chưa vào lính còn ăn cơm nhà tôi chưa biết ăn cá tra vì ba tôi tính rất kỷ lưởng khác hẳn tôi tính ăn tạp, Ba tôi có mặc cảm cá tra ăn cức, nên dù cá tra nuôi cám ba cũng không ăn nên mẹ tôi đi chợ không bao giờ mua lọai cá nầỵCá tra nấu canh chua nhậu rất là hao rượu.

Mỗi lần mẹ nấu canh chua, thấy tôi mẹ thường bảo tôi ra vườn chuối xem quài chuối nào già bẻ vài trái chuối ở nải chuối chót, mẹ gọt bỏ vỏ xanh, cắt từng khoanh, nồi canh chín, chuối thấm chua ngọt mặn, cắn vào miệng, lưỡi sẽ báo cho cảm giác chuối dẽo, bùi nhai nuốt xong miếng chuối là chòi đũa tìm gắp miếng chuối khác ngay...

Nhiều khi đổi rau nấu, mẹ ra vườn chuối lựa một cây chuối con bụ bẩm, bỏ một vài bẹ già bên ngoài xắt thật mỏng ngâm liền vô nước pha với chút giấm cho chuối khỏi đen, rau chuối nấu với lá me tôm đất, nêm rau tần dày lá, ăn xong tối ngủ thấy mát mẻ trong mình. Bên nầy tôi cũng có trồng mấy cây chuối, hôm nào rảnh cắt cây chuối con nấu canh chua, tôi xắt chuối mà nhớ mẹ thấy mắt cay cay...Nhớ con tôm đất nằm trong rổ còn kêu ro re... Tàn đời cũng không quên được cảnh quê nhà..

Cá lóc lạng da, cắt khúc mẹ chiên sơ với tỏi phi vàng, nồi canh cải chua đang sôi mẹ thả cá vào , nhìn cá vừa chín tới mẹ thả thêm cà chua nêm hành lá, dằn khá đường cho nước chua dịu, canh nầy ăn cũng quên thôi, bởi cá lóc thịt vốn ngọt sẵn, nay chiên sơ áo mở da rám cưng cứng, thịt nở thấm chua, lưởi vừa chạm vào chưa kịp nhai là đã muốn nuốt để gắp miếng khác...Ngoài cá lóc, Gò Công còn có con cá ngát, cá ngát có ba ngạnh, đâm trúng thịt dễ bị làm độc sưng vù. Cá ngát mẹ tôi mua về tới nhà thường còn sống khá lâu, mẹ đập đầu, vuột tro. Thịt cá ngát dai hơn cá lóc, canh chua cá ngát cũng là món đặc biệt của Gò Công.Nhà có khách...nhậu, múc tô canh chua với đầu con cá ngát, dĩa nước mắm trong dầm ớt, chủ khách sương sương cũng phải nửa lít mới hết tô mồi..

Môn chua và măng chua me tôi thỉnh thoảng mới nấu, ba tôi không thích hai lọai chua nầy lắm. Măng chua nấu với cua nghé ( Cua ...vị thành niên), loại cua sông cua biển lứa, không lớn lắm, tách ta bỏ mu, lấy gạch, bỏ yếm chặt cua ra làm đôi rồi làm tư, canh chua măng nấu với cua lạ miệng ăn cũng hao cơm lắm.

Canh chua ngoài việc ăn cơm rất hao gạo, canh chua còn là món nhậu rất bắt mồi, tất cả các loại đầu cá nấu chua đều được dân nhậu chiếu cố, nhậu với canh chua không dùng cơm trắng mà ăn kèm với bún, với rau thơm như húng cây, mò om, ngò gai, quế, giá...gắp một đũa bún, chan nước chua có rau như đậu bắp, cà giá, dẽ một miếng cá, gắp thêm vài cọng rau sống, lua vào miệng, vừa nóng, vừa nước, trơn trơn như bún, ngot thịt cá, thơm rau, chỉ có rượu đế hay rượu Tây nguyên chất mới trị nỗi món nầy.

Đầu mùa mưa lúc mà lá me non trổ thì ngoài chợ cũng bán đầy ếch nhái, ếch nhái sống thì buột eo ếch lại từng chùm, nhái làm sẵn lột da trắng phíếu, canh chua lá me nấu với ếch hoặc nhái ăn kèm với nhái xào bột cà ry, hay ếch xào xã ớt...nhắc lại mà đã tiết tâm linh huống hồ gì được trông thấy măm cơm trước mặt...

Đại khái vài lọai canh chua mà mẹ và chi tôi thương hay nấu trong các bữa ăn thường ngày, tôi học được hết các món nầy và dễ dàng thực hiện , khi khoát áo nhà binh, rời khỏi vòng kiểm soát của gia đình, tôi quên vội vàng đời sống mẫu mực ở nhà, bắt đầu lưu linh lưu địa, bởi thời chinh chiến đời lính quá mỏng manh, dù là tôi chỉ là lính bán tác chiến. Thời chiến, dân còn bị chết một cách oan uổng thì nói gì đến lính... Đơn vị tôi thuộc đơn vị tổng trừ bị nên rày đây mai đó trên khắp bốn vùng chiến thuật, ăn quán ngủ đình ngủ chợ, từ những món ăn bình thường tôi được nếm thử nhiều món lạ địa phương, tôi về Chợ Gạo đước ăn canh chua chuột với chuột muối xã ớt chiên dòn, mới đũa đầu còn bờ ngở, nuốt khỏi họng thấy ngon quá, thịt chuột có thua chi thịt gà, nhất là chuột chiên sả ớt,Con chuột được làm lông, mổ bụng lấy bỏ những gì phải bỏ, hái lá chanh bao quanh chuột đem nướng sơ rồi mới chặt miếng ướp gia vị đem chiên.Chuột chín vàng tươm mở, thơm ngon béo làm sao, gắp miếng chuột đưa vào răng cắn dòn khứu, thịt chuột dai, thơm xả, cay ới, mặn mà của muối, nước miếng tuôn ra trơn cổ nuốt như cò. Hôm nào có chút đỉnh "Anh hai"của chị đi chấm thi chia cho tiền phơi đờ rút, hay của mẹ nhét cho khi về phép...Tôi làm một màn xi nê Lê Lợi với cô bé mắt nâu, xuất 9 giờ tới 12 giờ, tan hát, miệng còn thơm mùi môi của nhau, hai đúa tà tà ghé vào Hương Lan, áo trận giày sô với một hoa mai vào đây thì lương phạn thấy ngại ngần. Em cũng biết điều, kêu một tô canh chua gà nấu lá vang, một tô cá rô kho tộ, Vị chua của lá vang khác hẳn mọi vị chua khác, thịt con gà giò, gặp nước chua săn cứng, cá rô trong tộ bóng mở hành, thơm tiêu đang sôi sùng sục, chưa ăn tôi đã vội kêu thêm một dĩa cơm trắng... làm như đói thời Cộng Sản, với một chai 33, với tôi thà không uống chứ uống một chai nhột cổ lắm, vậy mà cũng nhín nhín uống tới tàn bữa cơm..bởi cái bóp quá lép. Sài Gòn thời thập niên 70 tràn ngập quán ăn nhậu, ở đâu có trại lính là ở đó có quán nhậu, tựu chung món canh chua trong quán nhậu có chút biến đổi hình thức, trước dây người ta gọi là ăn Cù lao sau nầy quen gọi là lẩu, chữ cù lao thì dễ hiểu vì than lửa được đặt ở giữa, còn lầu thì ai chuyên môn tìm hiểu giùm, tôi thì không rõ nghĩa,Nước chua được đặt trong lầu, một dĩa đủ các lọai rau nấu như bạc hà, giá, bắp tây, cà chua, ớt, ngò gai, rau om. Kèm một dĩa bún và dĩa rau sống, thường là con lươn chiên sơ với mở phi tỏi gọi là lẩu lươn, nếu thay lương bằng cá bông lau thì là lẩu cá bông lau... quán nhậu nào cũng đại khái như vâ.y. Đơn vị tôi đóng cuối đường Phan Đình Phùng trải dài trên bờ sông Thị Nghè nên anh em chúng tôi thường nhậu gần khu đài phát thanh, quán chị Ba Mập ngả tư Tự Đức và Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay ra Phan Thanh Giản về hướng xa lộ thì thường xuyên vào quán Lường Nghi, có khá tiền thì vào Thanh Thanh để nhậu còn nghe nhạc sống, lẩu lương đường Sương Nguyệt Anh buổi tối cũng rất đông khách, lẩu chua ở quán Biên Thùy, ở Thanh Hải( Ngả tư Quốc Tế) thường các món nhậu ngon dở là ở vài đũa đầu, dô vài chai rồi thì quán nào như quán nấy, lậm men thì cũng khó phân biệt ngon với dở.Lúc ra Pleiku, thành phố chỉ độc nhất có quán cơm Mỹ Tho, lương quan hai tôi với thằng em, Trung Sĩ Mỹ, mỗi tháng chỉ dám ghé vào đây một lần ăn cơm với canh chua cá lóc và cá lóc kho tộ. thời cuối năm 1974 quốc lộ 19 bị cắt, cá lóc tươi từ Sài Gòn ra Pleiku phải đi bằng máy bay, hai thầy trò kêu một chai bia trâu....Ôi tiền lính, tiền xương máu sao mà ít thế...

Lúc vào trại tù Mỹ Phước Tây, đi đào kinh, bắt đườc con cá con tôm con ếch con cóc...thường chiều về xuống tắm dưới kênh Dương văn Dương, vừa tắm mát vừa vớt lục bình bẻ cọng non thế làm bạc hà, me có sẳn nhà thăm nuôi cho. Nấu lon gô canh chua với rắn bông sún, rau nêm không có cắt đở lá cà nêm cũng thơm, vậy mà ngoài phần cơm trại phát nấu thêm lon sữa bò gạo, vét láng sạch nồi mà miệng vẫn còn muốn ăn nữa... Những gia đình còn khá, gửi thăm con em bằng khô cá tra... Nhiều bạn đồng cảnh nấu nồi canh chua với đầu con khô cá lan phồng... Mùi thơm bay điếc mũi, đầu khô chín, nở nang trông như đầu cá tươi tôi không dám nhìn nồi canh chua nầy lâu vì quá thèm..Ngày tháng lưu đày ra đất Bắc mới biết ăn chua cơm mẻ; ba tháng mới được nhận gói quà 5 kilô thì chỉ có bổ xương, Xương không tẩm bổ sao lại lồi ra từ xương mặt, xương sườn , xương đít, người tù Cộng sản nào mà không bổ xương.Cơm mẻ cũng là loại chua quý vì thực tế cơm không có ăn lấy đâu ra mà làm mẻ. Rau muống lén hái nhét cứng trong lon gô, độn thêm trong bụng trong lưng. Về xổ ra cũng nấu được một soon khoảng 4 tô, vậy mà chỉ rau muống với cơm mẻ, chút nước muối... kèm chén bắp... ăn xong nồi canh còn liếm mép thèm thuồng Lúc ở Hà Tây tôi ở đội rau nên tương đối có rau ăn đầy đủ,Hột giống bắp tây đem từ trong Nam ra, Cộng Sản Bắc Kỳ không biết ăn đậu bắp, chúng chê ...dzớt dzớt", mùa giáp tết có bắp cải, có rau cần nước... Cần và bắp cải nấu canh chua với tôm khô, đậu bắp nấu lẫn rau muống ăn để mà sống tạm qua ngày ... Món canh có tôm khô là món" Cao cấp" trong tù. Lúc qua Nam Hà, tháng 3 trời nóng đổ lửa mà trại Nam Hà lại trồng nhiều bí rợ( Ngoài đó gọi là bí ngô), trời nóng mà ăn bí luộc hoài ngán chết, tôi đi đốn củi trên rừng bứt lá vang về nấu với bí. Lá vang bí rợ và nước muối chỉ thế thôi mà lại dễ nuốt hơn bí luộc không.

Ngoài ra người miền Nam còn nấu canh chua với rau nhúc, một lọai rau trồng trong ao nước ngọt , nước phải trong sạch rau mới sống, đây cũng là lọai rau khá đắc tiền bán ngoài chợ

Những ngày tới miền đất tự do, tôi tạm dung trên một thành phố lớn thứ tư xứ Mỹ, với người Việt đông đứng thứ hai ở hải ngọai nên chợ Việt bán dầy đủ các thứ ở Việt Nam có. Chút đất quanh nhà tôi trồng bạc hà, đậu bắp. rau quế, ngò om... cá thịt chợ bán ê hề.. thành phố nầy nóng muốn ...khét luôn nên canh chua cũng lại là món ăn khoái khầu, tôi vẫn thường nấu chua với gà, cá bông lau, tôm, hay canh chua chay nấm tàu hủ chiên... măng chua vô keo sẳn, cải chua tôi tự làm lấy ăn lai rai quanh năm... Nhìn măm cơm rõ ràng của dân mít mà sao tai nghe tiếng máy lạnh chạy sè sè, nhìn màn ảnh truyền hình thấy mũi lỏ tóc vàng....Chóc chóc hai con trong nhà có việc cần gọi...Tía; nghe con gọi bằng tía... Thấy nhớ ba nhớ mẹ, nhớ măm cơm nghèo buổi chiều trên bộ ván với ngọn đèn dầu thỉnh thoảng chao gió,... Ăn cơm mà không có con chó, con gà quẩn quanh bên chân, không nghe tiếng chim chiều về tổ,cảnh quê nhà có thiếu thốn chút đỉnh mà có cha có mẹ có anh chị bên cạnh đầy tình thân ái, bên nầy ngồi ăn rất nhiều khi chỉ một mình, con bưng dĩa gì đó vào phòng, cửa đóng Im ỉm, vợ làm ca hai chưa về... tiếng nhạc từ máy cát sét ẻo lả giọng ca quen thuộc với những ca khúc cũng rất quen thuộc thời còn khoát áo lính... Ơi Hoàng Oanh, Thanh Lan, cùng lứa tuổi với tôi, Elvis Phương, Duy Khánh cùng đơn vị với tôi, ôi Thái Thanh, Thanh Thúy.. tuổi của chị tôi... Giọng ca xưa còn đó, lời nhạc cũng như xưa... Chỉ có cảnh đời là thay đổi

Ôi! Tạo hóa gây chi cuộc hý trường... Tô canh chua cũng bạc hà cà giá, đầu con cá bông lau chín nở nang to bít dĩa, thịt thà trắng phao, ly rượu chát đỏ sóng sánh trong ly... mà sao lòng tôi chùng xuống, miệng thấy như đăng đắng... Ba ơi! Mẹ ơi! Bây giờ ba mẹ ở đâu.? Gò Công ơi! Bao giờ ta trở lại...

Các bạn có yêu cầu truyện thì addnick iu_mua_longkhanh yêu cầu rồi mình up lên..

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: