Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

TRUYỆN NGẮN LENGHIA2

NGÔI MÃ CŨ

- Thành ra cái hồi cụ án nhà mất thì cậu mới có ba tuổi.

- Dạ.

- Thế cậu không rõ cái người phân kim cắm huyệt cho cụ án hồi ấy là ai à?

- Dạ, thưa không.

- Tôi thấy cậu là người còn ít tuổi, mà có chí như thế, tôi có bụng yêu. Bồ côi cha, bồ côi mẹ, sống cái tuổi thơ ấu giữa cảnh loạn lạc và nghèo túng, vậy mà vẫn có chí theo đuổi được việc sách đèn, tôi lấy làm khen lắm. Giá như con nhà khác thì lêu lổng và hỏng từ bao giờ rồi còn gì. Cái thiên lương của cậu tốt lắm.

Cậu Chiêu ngồi hầu chuyện cụ Hồ Viễn, lòng buồn rười rượi. Mồm thì dạ vâng để giữ lễ mà óc thì bận nghĩ giật lùi về cái hồi nhỏ bé của mình. Cụ án ông mất, cụ án bà cũng mất theo liền. Cách nhau không đầy ba tháng, cậu Chiêu mang luôn hai cái tang lớn... mấy ông chú, bắt đầu phá tán cái gia tài cỏn con... một mình ở với chị, lúc ấy chị mới có mười hai tuổi... bấy giờ lại đang loạn lạc. Trăm họ tan lìa... Bao nhiêu ông già bà cả chạy giạt vào cái thăm thẳm của rừng Hưng Hoà. Màn trời... có những vòm lá cây âm u. Chiếu đất... có những cỏ áy, sim lụi và những cành cây mục bở với những đàn kiến lửa nối nhau ngày đêm bò liền liền như là quan quân đi tiễu giặc. Nhớ đến cái mình sống hồi ấy giữa cảnh ly loạn, cậu Chiêu hình dung thấy rõ mồn một cái đứa trẻ bồ côi rất đáng nên tội nghiệp kia. Cậu đấy. ừ, tưởng là chết được lắm, chứ có ai ngờ đâu còn sống được đến bây giờ và lại còn được ăn học đến nơi đến chốn nữa. Cái thân một người con quan lúc bấy giờ thật đã khốn cực đủ trăm phần.

Ông cụ Hồ Viễn vẫn nói và uống. Càng nói chuyện, cụ càng uống rượu; càng uống rượu, cụ càng được nói chuyện nhiều. Mỗi lúc bị hỏi gặng, cậu Chiêu lại như tỉnh cơn mơ nhỏ.

- Dạ?

- Thưa vâng.

Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái cảnh màn trời chiếu đất của ngày bé bỏng. Dưới cái màn trời triền miên những kinh động ngờ sợ, ánh sáng tối và ẩm ướt của rừng tị nạn đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chùm tóc mới vừa tơ mà đã nhuộm màu tang. Trên cái chiếu đất dằng dặc mùi côi cút, một cặp chân có khóa bạc vòng vàng đang in đôi gót đỏ như son lên cái rêu nhầy nhờn, của ngày đau khổ và lẩn lút. Có những ngày liên tiếp cậu Chiêu và chị - cô Tú - phải nấu củ rừng ăn với cháo chó, những con chó trung thành cùng theo chủ vào ruột rừng Hưng Hoá.

- Cậu còn nhớ chỗ để ngôi mộ cụ nhà đấy chứ?

Cậu Chiêu choàng ngồi thẳng mình lên và ngừng tay quạt ruồi chờn vờn trên mâm cơm, vội thưa với cụ Hồ Viễn:

- Dạ thưa cụ, cháu nhớ lắm. Có ai mà lại đi quên được mồ mả cha ông. Vả chăng, vẫn còn có tấm bia ở đấy.

- ờ. Đấy là xứ Đồng Cồn phải không? Từ ta đây mà xuống dưới xứ Đồng Cồn thì đi như thế nào nhỉ?

- Dạ như chúng tôi đi bộ thì mất trọn một ngày, nếu không nghỉ ở dọc đường. Nhưng cụ có đi thì phải thuê cáng. Và đi cáng đòn ba thì tinh mơ đi, độ quá giờ ngọ đã tới.

- Thôi được rồi, để hôm nào mát trời, tôi và cậu sẽ xuôi xuống Đồng Cồn. Ngôi mộ cụ án thể nào cũng phải phúc lại. Mộ để như thế, hỏng hết. Ai lại tọa như thế, hướng như thế bao giờ. Minh đường có mà thành ra nghịch thủy hết cả. Cậu nói qua qua thế, tôi cũng đủ rõ rồi.

Mâm rượu vừa bưng đi xong, cậu Chiêu kính cẩn mời cụ Hồ qua giường bên nghỉ.

Bấy giờ cậu Chiêu mới lùi vào nhà trong qua bên trái buồng cạnh. Cô Tú ngừng tay gieo thoi trên khung cửi vải, vuốt mái tóc xuề xòa dưới vành khăn nâu mỏ quạ.

- Thôi, em đi ăn cơm sớm đi chứ. Cơm ủ trong chăn đã ôi hết cả rồi. Có cái đĩa nõn khoai kho tương, chị để phần cho em một ít đấy.

- Em nhớ ra rồi. Hôm nay ngày rằm, chị ăn chay.

Cô Tú cười. Nét cười dè dặt lẫn có mùi vị của hy sinh.

Với cô Tú, cuộc đời giờ đã hết tất cả xán lạn rồi. Bởi vì đời đã sớm đòi hỏi cô nhiều về bổn phận. Cô nhất định không đi lấy chồng và vui lòng sống vậy cho đến lúc nào cậu Chiêu em đi thi được và làm nên được. ở trong cảnh côi cút với sự thanh bạch, cô Tú ngày ngày dệt vải, và khâu thuê vá mướn cho người xóm làng. Những lúc rời tay kim tay thoi thì cô lại lên tiếng ngầy ngà đến người em lúc quên mặt chữ sách hay là bỏ dở một trang quyển bài viết. Cái bây giờ của cô Tú đã là không đáng kể và cô chỉ sống bằng mong chờ về cái mai sau của cậu Chiêu. Dưới quang đèn dầu bông, nhiều khi người em đã rầu lòng, tỏ lời hối lỗi vì những lúc làm phiền lòng cô Tú mà cậu coi như là mẹ, một người mẹ rất trẻ, đầy âu yếm và thừa đức tin vào mình.

Chị ngồi chờ em ăn xong bữa cơm rau dưa, đưa tăm nước cho em rồi mới hỏi chuyện về việc ông cụ Hồ Viễn đã nhất định hôm nào thì đi xem lại ngôi mộ cha cất ở Đồng Cồn chưa. Cậu Chiêu thở dài, tỏ vẻ sốt ruột:

- Cụ Hồ ở nhà ta có đến hơn một tháng rồi mà cứ nay lần mai lữa mãi. Em thấy tốn nhiều quá chị ạ.

- Em coi chừng lời nói, kẻo cụ Hồ nghe thấy thì uổng cả cái bụng thành kính của mình đi.

- Chị thử nghĩ, mỗi ngày hai bữa rượu và mỗi phiên chợ lại một bữa thuốc phiện. Ông cụ Hồ khó tính quá. Thuốc phiện nếu không phải là thứ một lạng đựng vào cóng thì không hút. Gớm, không hiểu ông cụ Hồ để móng tay làm gì mà dài đến thế. Móng tay út lá lan của cụ uốn hai vòng như râu rồng. A chết chửa, hình như hôm nay quên không mua chanh để chút nữa cụ dậy rửa móng tay.

- Có trong kia rồi.

- May quá. Chị chưa thấy cụ Hồ gắt gỏng mỗi khi bưng thau nước ra mà không kèm vào vài quả chanh.

- Em phải nên chiều cụ. Những lúc đêm hôm, em chịu khó hầu hạ cho được vừa lòng cụ. Cả nhà có hai chị em, chị là gái, vậy chị trông cậy ở em. Em nên biết, rước được cụ Hồ về nhà khó lắm.

- Nhà ta nghèo, cái đó cụ Hồ rõ lắm rồi còn gì nữa. Vậy mà cụ bày vẽ ra nhiều quá. Một tháng, hai tháng, cố gắng thì may cũng chiều đãi được chu tất. Nhưng em chỉ sợ cụ cứ ở lỳ mãi đây, hết trông trời lại đến xem lịch, mà vẫn không chịu đi xem hộ ngôi mộ của thầy, rồi thì sao?

- Chị ngờ cụ Hồ muốn thử đến lòng kiên nhẫn của chị em nhà mình, xem mình có được chí thành không. Tại sao, ở vùng đây, khối người giàu có, cụ không thèm tới, tuy họ chèo kéo. Em nên nhớ đến câu này nữa. Là hồi xưa, cụ Hồ đây có biết thầy lắm.

- Vậy hở chị? Sao em không nghe chị nói bao giờ. Chị kể cho em rõ.

- Cụ Hồ nguyên là tướng Cờ Đen. Tên cụ khác kia. Chú Thủ nhà có biết vì nhiều lần chú Thủ có nói đến rồi. Nhưng chị quên...*. Một cái cờ, cán dài hơn con sào, lá to bằng cả một cánh buồm thuyền lớn; lụa chập ba sợi xe làm một rồi mới dệt, rồi mới nhuộm đen. Đấy, vì thế mà gọi là Cờ Đen. Viền chung quanh lá cờ to tướng là những hàng móc sắt, sắc hơn lưỡi câu. Người ta nói chuyện lại rằng cụ Hồ, hồi còn làm tướng quân Cờ Đen, mỗi lúc cụ trương lá cờ đầu khi xuất quân, trông oai phong lẫm liệt. Bên thắt lưng điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoản mã và phía bên phải là một khẩu súng thập bát hưởng bắn một lúc những mười tám phát liền*.

Có lẽ hồi nhỏ, những lúc ở trong thành xây đá tổ ong tỉnh Sơn, hồi thầy còn ở chức, chị cứ nghe thấy tiếng kèn tàu và loa đồng và trống trận nổi lên nhiều, là chính vào lúc quân Cờ Đen tế cờ ăn mừng được trận như thế. Quân Cờ Đen có cái tục tế cờ lúc thu quân... Nào ai biết. Thấy các ông già bà cả bảo thế.

- Cụ Hồ mà tài giỏi và dữ thế kia?

- Vậy mà những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài "sường xám", đội mũ "sường chí" có quả bông đỏ, cầm quạt vào chơi trong dinh với thầy, thì trông nhàn nhã và văn vẻ lắm. Cụ Hồ yêu thầy vì thầy viết chữ rất tốt. Chú Thủ thường nói chữ thầy viết có gân có mác như chữ lá thiếp. Bao giờ thầy cũng cầm bút đứng thẳng cái quản, chỉ thẳng vào đầu mũi và cùi tay không tỳ xuống văn kỷ. Nên những nét sổ rất khỏe và rất thẳng. Hôm nào em giở cuốn gia phả ra mà xem thì rõ.

Cậu Chiêu nghe chị kể chuyện, thích lắm. Vì chung quanh cái thân thế một ông già mà cậu vẫn chỉ cho là một ông thầy địa lý khó tính chỉ đáng trọng một cách vừa phải mà nhiều khi còn gượng ép nữa kia, bây giờ cậu thấy cả một huyền sử bọc quanh một lão tướng võ nghệ cao cường và bí mật. Cái ông tướng tài giỏi ấy, ngày ngày cậu gần kề và chuyện trò cùng. Vậy mà hơn tháng nay, cậu không biết gì cả.

Giàn bầu nậm ở ngoài sân, dây leo và lá chằng chịt lấp chật ô giàn nứa, đã làm dịu hẳn cái nắng tháng tư ở trước mặt nhà. ánh nắng đổ xuống giàn, khi lọt xuống sàn bị cái cốt xanh ngắt của cây lá lọc qua một lượt, rồi đổ dồn và vờn vào áo vải trắng dài cậu Chiêu đang ngửng đầu ngắm những quả bầu nậm buông thõng xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng cậu Chiêu đã biến thành một áo lụa màu xanh của người phong lưu và đa tình. Đấy là cái màu dịu mát của chất ngọc bích; đấy là màu xanh ở những cánh đồng lúa non ngút ngàn của những xứ yên ổn không bao giờ có nạn binh lửa.

Gió nam từ ngoài lũy tre già thưa đưa vào, làm va đụng vào nhau những bình rượu của Tự Nhiên. Những quả bầu mà được cứng lần cùi như chất vỏ cây khô, thì mỗi khi cơn gió vèo đẩy những bình rượu ấy văng cụng vào nhau, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái hình và cái tiếng của lũ khánh đất nung và cá đất nung ở cái sân cây cảnh một gia đình thanh bạch.

Cậu Chiêu nắm từng quả bầu nậm. Lúc buồn tay, lắc quả bầu thật mạnh, ở trong nghe như có tiếng có nước ọc ạch. Trông sướng mắt và có thể vui tai đến chừng nào! Chẳng trách được, chiều chiều ông cụ Hồ Viễn cứ ra sân đùa mãi được với lũ bầu nậm lòng thòng trước khung cửa sổ như nhắc nhỏm một người đã mệt với cuộc sống chỉ còn nên uống rượu chơi thôi. Trái bầu nậm còn tươi dưới lỗ giàn là một cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và bóng!

Giời chiều, đứng nắn bầu nậm cho cụ Hồ, cậu Chiêu thấy có hứng thú. Vì cậu đã bắt đầu mến được ông già Hồ. Trước kia cưỡi ngựa, cầm cờ, đánh Tây, bắn súng; bây giờ đi phân phát hạnh phúc bằng cách tìm đất để mả cho những kẻ thất thế, và lúc nhàn rỗi thì uống một đôi rượu của những người biết nhớ ơn mình.

Xé mảnh vải điều, buộc vào cái nấc ngẫng quả bầu, cậu Chiêu nói với cái vắng vẻ của buổi chiều nhà quê: "Thắt chặt dây lại tị nữa, thì dáng bầu sẽ thon. Nó chỉ nhớn được theo chiều dài. Trôn quả này méo, sẽ làm tội mình ngày mấy buổi ra đây nắn mãi cho nó bớt tật đi".

Cụ Hồ thức giấc, ra vườn, thấy cậu Chiêu đang nắn cái quả bầu mình đã rấm sẵn từ tháng trước, liền nói:

- Tại chị em nhà cậu tặng tôi mấy cái chén ngọc liệu nên tôi mới nghĩ đến việc lấy bầu nậm. Cái chén uống rượu của nhà này phải dùng với cái bình đựng rượu cũng của nhà này. Cậu biết chưa!

Cô Tú nghỉ tay thoi, bước ra nghe chuyện, đỡ lời em:

- Dạ thưa cụ, cảnh nhà nghèo bí, cũng chẳng còn có gì. Có bốn cái chén ngọc là của gia bảo còn lại, chị em chúng tôi kính biếu cụ gọi là đền đáp mới được có một chút đó mà thôi. Sau này nếu trời thương lại và nhờ được mạch đất tổ tiên có cơ hồi lại, nếu nghiệp nhà có thể trung hưng lên được, thì chị em chúng tôi còn phải tạ cụ nhiều. Có lẽ quả bầu nậm ở giàn này, chỉ là mẫu vẽ trước của một cái bình bằng ngọc thực mà sau này chúng tôi phải kính dâng cụ.

Cụ Hồ lấy làm thưởng thức cái câu cô Tú nói một cách trung hậu mà cũng rất văn hoa. Người như thế mà còn nghèo mãi thì còn để thiệt thòi cho thế gian nhiều. Cụ Hồ nghĩ mà thấy buồn buồn.

Hai cái sừng trăng đã mở to, đã đầy dần. Rồi vừng trăng tròn vẽ lên trời, lần thì cái quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở đầu ngọn tre, những lúc gió sớm giục canh gà gọi nước bể dâng lên. Trăng tháng tư đã gần hết một tuần. Trong cả một cữ tháng tư này, cô Tú đã thức rất khuya để dệt cho được nhiều tấm vải, để góp công nhật của mình lại cho được thừa thãi, để có đủ một số tiền thuê cáng cho cụ Hồ và em trẩy xuống Đồng Cồn, nơi để phần mộ cụ án ông - cụ án cha mình lúc nằm xuống trả lại lộc cho Triều đình, em mình mới có ba tuổi.

Cái ngày đi Đồng Cồn đã đến.

Cậu Chiêu ra đi từ lúc tối đất, lúc hàng xóm mới nổi lửa thổi cơm cho thợ gặt, bây giờ đã trở về với bốn năm người già cả rách rưới. Thấy cô Tú, bọn người già nua kia đều kính cẩn chào.

- Các bác đã xuống đấy ư? Chắc cậu Chiêu cũng đã nói rõ muốn mượn anh em ngày mai làm cáng hộ xuống xứ Đồng Cồn. Hai chiếc. Chiếc của cụ Hồ thì phải đi đòn ba. Cụ đẫy người và có tuổi. Vậy các bác định lấy bao nhiêu?

- Đồng Cồn. Thế này là phải mất những ba trạm. Đại Đồng này, Trạm Trôi và Mai Dịch này. Hai trạm ngắn và một trạm dài. Và một con đò ngang.

- Phải, đò sông Hát. Chiếc cáng đòn ba, sau khi nghỉ ở Mai Dịch, sẽ đi luôn xuống trạm Hà Trung.

- Thưa cô, thế là về tận Hà Nội?

- Có một mình cụ Hồ đi về Hà Nội thôi. Cậu Chiêu nhà đi đến Mai Dịch rồi trở về.

- Thế này thì cô cứ cho anh em một lượt mỗi trạm ngắn là một quan và quan năm tiền một trạm dài. Còn như cáng đòn ba thì xin tùy cô định cho. Ngày xưa, anh em đã có dịp được hầu cáng quan án nhà nhiều chuyến lắm. Cụ ngày xưa thường có săn sóc đến anh em chúng tôi. Giờ là ngày mùa, nhưng được tin cô gọi, anh em cứ xuống ngay là vì anh em nghĩ đến cái tình quan án ngày xưa hay thương đến. Còn tiền nong, thôi, cô cho thế nào cũng được. Chúng tôi không dám kỳ kèo.

Họ ăn trầu, vừa thổi lửa nùn rơm vặn ăn thuốc lào, vừa ngồi xổm thưa chuyện bên khung cửi. Thoáng thấy cái ngáng võng ngà gác ở trên cột bương, họ lôi xuống ngắm đi ngắm lại và nói với nhau:

- Này bác Xã, cái ngáng ngà này không phải cái ngáng võng điều của quan án ngày trước. Nó sứt mất một đầu kia mà. Bác còn nhớ chứ? Cái lần qua đò sông Hát, trời mưa gió to quá, tôi lẩy bẩy trượt chân, ngã khuỵu xuống. Một đầu đòn cắm hẳn vào bùn. Vỡ cái nấc chạm rồng.

Một người quay lại phía cô Tú:

- Cụ án nhà kể ra là người có bụng thương kẻ dưới lắm. Con tưởng cứ kể như vị quan khác, thì đến làm tội chứ chẳng phải chuyện chơi đâu.

Sau cùng, cuộc thuê cáng ngã giá đúng tám quan, một cáng đòn ba đi thấu đến trạm Hà Trung và một cáng đòn đôi chỉ đi đến làng Vòng thôi. Và sớm mai bắt đầu khởi hành.

Bữa cơm chiều hôm ấy là bữa cơm cuối cùng đãi một ông thầy địa lý. Cơm có rượu ngon, rất nhiều, và có cả một cái sỏ lợn. Cô Tú và cậu Chiêu cùng ngồi ăn với cụ Hồ vì cụ muốn thế. Cậu Chiêu thấy cụ Hồ hôm nay lấy cái bộ áo lề chí sẩu ra mặc, trông cụ lại càng có vẻ Tàu lắm. Thảo nào mà ngày xưa cụ Hồ là tướng Cờ Đen!

Cô Tú còn ít tuổi mà đã có nét mặt và dáng dấp của người góa trẻ phải nuôi con nhỏ. Trông cô hôm nay già thêm. Lòng tưởng nhớ vong linh cha và thương em và tủi cho mình, ở người cô, chiều bữa nay oằn nổi lên nhiều hơn tất cả bao giờ. Thỉnh thoảng cô quay mặt ra ngoài hỷ mũi kín đáo. Rồi cô lấy dải yếm đưa qua cặp mắt đỏ hoe. Cụ Hồ vẫn cười nói, uống rượu.

- Cô Tú lẩn thẩn lắm. Ông Giời có đóng cửa ai bao giờ. Chị em nhà cô, thế nào sau này cũng khá.

Đến đây thì cô Tú khóc lên thành tiếng. Cụ Hồ nói tiếp:

- Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn. Xong rồi tôi xuôi luôn Hà Nội. Tháng sau, tôi sẽ về qua đây, để chỉ bảo cách xoay lại ngôi mộ... Cô đừng nên vội nói đến chuyện tạ ơn. Còn về lâu dài. Đáng lẽ bộ chén ngọc đó tôi không nhận đâu. Lấy những cái gì là gia bảo của người làm của mình là một cái tội. Nhưng vì nghĩ rằng, trong lúc chị em cô còn nhỏ tuổi, chửa chắc đã giữ nổi, thiếu gì kẻ dòm ngó. Thôi tôi cũng giữ hộ cô và cậu. Độ mươi năm sau, lúc đất có thể phát được rồi, tôi sẽ trở lại đây. Lúc bấy giờ mới là lúc cô Tú nên nói đến việc đền đáp công ơn. Lúc bấy giờ tôi sẽ trả lại cô Tú và cậu Chiêu bộ chén ngọc liệu. Cụ án nhà lúc sinh thời quý nó lắm. Đi lại với cụ luôn luôn, mà cụ án nhà chỉ mang chén ra dùng với tôi có hai lần. Nếu tôi không sống được đến ngày đó, mấy đứa con tôi sẽ đưa chén ngọc đến làm của tin để nhờ cô Tú giùm giúp cho chúng. Cái đức nhà tôi xem chừng cũng bạc thế thôi. Có lẽ đến đời con tôi là không còn gì nữa. Cô Tú và cậu Chiêu nhớ hộ tôi câu nói chí tình này.

Cô Tú vờ đứng dậy, vừa sụt sịt, vừa xếp hành lý cho cụ Hồ mai xuôi sớm. Trong cái tráp sơn đen, cô đã chèn nhiều giấy bản vào kẽ tráp để chén khỏi va đụng lúc đi đường. Rồi cô xếp luôn cả quả bầu nậm vỏ đã khô và ruột đã tóp lại. Quả bầu mới hạ khỏi giàn được mấy bữa nay.

*

* *

Hai chiếc cáng đi từ sớm, qua đò sông Hát, đã gác đầu đòn lên mấy cái ấu cáng cắm sẵn ở trước một cái quán nước chỗ Trạm Trôi. Cậu Chiêu vội mời cụ Hồ vào quán nghỉ và tay cậu vẫn khư khư cái la bàn có vẽ bát quái đồ của ông thày Tàu.

Mấy người bộ hành có vẻ học trò nghèo, ngồi ăn bánh ở quán, đang đố nhau một vế câu đối mà một người vừa tức cảnh nghĩ: "Ngồi nghỉ Trạm Trôi ăn bánh trôi". Ông cụ Hồ xòe cây quạt thước, quạt quạt và bảo cậu Chiêu soát lại quân còn lại của ván cờ tưởng đã đến lúc gần tàn cục. Từ sớm tới giờ, muốn quên cái đằng đẵng của mấy thôi trạm trên đường xứ Đoài, ông cụ Hồ và cậu Chiêu đã đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày. Họ đã đánh cờ bằng miệng chứ không phải bằng tay đụng quân. Khi mỗi người đi một nước thêm cho ván cờ tưởng, họ lại vén cái rèm cáng, nghển cổ ra ngoài nói chõ sang cái cáng đồng hành đi ngang hàng.

- Xa cửu bình bát.

- Tốt thất tiến nhất.

Bây giờ ngồi soát lại quân của mỗi người, thì cụ Hồ còn một xe và hai pháo. Và cậu Chiêu còn hai tốt đã sang hà và một ngựa một pháo. Hai bên sĩ tượng đều song toàn.

- Cậu rồi ngày sau khá. Cứ một cái lối đánh cờ của cậu tôi cũng thấy được một phần cái tương lai của cậu. Nhiều nước cờ bắt bóng, chiếu rứ, có vẻ tài tử lắm. Tôi nghiệm ra cậu không hay rình chiếu bí. Đáng để ý nhất trong lối xuất quân, là cậu đánh mấy ván đều vào pháo đầu cả. Người hào hùng đánh cờ bao giờ cũng vào ngay pháo đầu. Đánh cờ tức là người đấy. Rồi cậu cứ nghiệm mà xem, trong mười kẻ tầm thường, nhút nhát, không khoáng đạt là có đến chín người ghểnh tượng ở nước đầu.

Cái xóm hàng quán chỗ Trạm Trôi đã lùi lại trong nắng lòa của trời hè. Hai chiếc cáng vẫn nhấp nhô xuôi về phía phủ Hoài.

Gần tới phủ Hoài thì xong một ván cờ nữa. Cậu Chiêu thua, sắc mặt vẫn tươi tỉnh. Cụ Hồ thì nghiêm trang.

- Cậu thua vì đã khinh thường con tốt biên của tôi và để nó lọt qua hà. Rồi lại cho nó nhập được vào cung. Một con tốt lọt qua sông là cái giá trị nó bằng nửa sức con xe rồi. ở đời không nên khinh thường cái gì. Con tốt mà sang hà, tức là đứa tiểu nhân lúc đã đắc thế. Tha hồ mà phá phách. Mạng nó đổi lấy quân nào nó cũng lấy làm sở nguyện rồi kia mà.

Cậu Chiêu cười xoà, cụ Hồ mệt mỏi chợp giấc. Cáng vẫn song song trên đường dài.

Con đường xứ Đoài, cát bụi nhiều quá. Được một thôi nữa, bỗng cụ Hồ hỏi sang bên chiếc võng gai cậu Chiêu:

- Cậu thường có hay đánh cờ đất không? Cờ đất khó hơn cờ bàn; phải tinh lắm mới đánh nổi. Để tới vụ xuân sang năm, tôi sẽ rủ cậu lên Hưng Hóa đấu cờ với một người bạn gái bằng trạc tuổi cậu. Cô ta khiến đôi ngựa rất nhanh, và có cái nước mã ngọa tào lạ lắm. Mà cưỡi ngựa cũng rất tài.

Trời vẫn nắng như rang.

Thế chốc nữa, ở làng Vòng cậu lại ngược ngay về Sơn, thì mãi đến hết canh một mới tới nhà đấy nhỉ?

- Dạ thưa cụ, có lẽ đêm nay chúng tôi phải nghỉ đêm ở làng Nhổn. Chị tôi dặn lúc về thì tiện đường rẽ qua vào đấy thăm ông Cử hai và nhân tiện đòi bộ Lữ hành thi tập của thầy tôi làm hồi theo đoàn sứ qua Bắc Kinh.

CON CUA TÁM CANG

Ông lão đang ngồi lơ mơ. Bỗng thoáng một cái gì đụng đậy ngoài sân đất. A, con cua, con cua bò lổm ngổm dưới bờ ao lên. Lại một con nữa. Hai con cua, cái càng giơ lêu ngêu. Ngoài đồng bây giờ chẳng có bóng một con cua. Người ta bỏ cái thuốc sâu, như thuốc mối thuốc mọt ấy mà, đến thằng nhện nước loăng quăng cũng chết mất giống. Những con cua sống sót này ranh ma thế. Nó khôn bằng mấy người già đấy, biết chạy chết vào các ao trong làng.

Ông lão cúi ngắm nghía con cua đồng như chưa trông thấy con cua bao giờ. Cái càng cua huơ lên định quắp. Con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt rõ ràng con cua. Con cua có tám cẳng, con cua đến lắm chân. Cứ đương bò ngang con cua lại bò dọc, hu ríu chẳng chân nào bảo được chân nào. Phải rồi, cho nên người đời mới mắng nhau: Ngang như cua, ngang như cua bò.

Chẳng phải đứa nào đâu xa, bà lão nhà này vẫn nhiếc tớ, tớ chỉ được cái nói ngang, ngang như cua. Chẳng biết bà lão hay lẩm bẩm về tớ như thế từ bao giờ. Ở với nhau cả đời, sao mà cứ ngày lại thấy ra một cái tật, một cái chẳng hay ho ra làm sao. Bà lão bảo lão ngang như cua, lão chỉ thấy cái miệng bà lão nói dối dựng đứng. Nó đi chợ về, nó bảo nó ra bến. Nó ngỡ nếu nói là đi chợ thì lão này lại cho là bà lão đi chợ ăn quà. Không biết lão có nghĩ thế không, nhưng lão đoán có phần có khi đúng, không phải lão ngang như cua.

Thế là lão bực, lão dúi một cái. Bà lão ngã ngồi xuống. Nhưng bà lão đã nhổm lên, đẩy ông lão một cái ông lão lăn chiêng ra, hay là ông lão nằm ăn vạ ông lão quờ quạng như con cua bò thế rồi lại rên phè phè như con rắn hổ mang.

Bà lão lập cập bước ra ngõ, nói trống không:

- Đứt đuôi con nòng nọc, đứt đuôi con nòng nọc, từ đây cơm ai người nấy ăn.

Mấy hôm sắp trở trời hay sao, cái mảnh mìn giắt trong bắp chân làm ông lão lại nhức nhối. Ông lão được trợ cấp thương tật, nhưng có đứa bảo đấy là ngày trước tại lão đi vô ý giẫm phải. Không biết mìn ta hay mìn Tây, ông không cãi lại với ai bao giờ. Chỗ ấy là ven đường thằng Tây qua lại, chỗ nào Tây gài mìn thì đấy là mặt trận, có là du kích cảm tử như tao mới dám ra đấy biết chưa. Bà lão dỗi thật. Cả ngày hôm sau, cái bếp im ắng. Đúng là bà lão dỗi thật rồi. Mặc kệ. Có lúc ông lão muốn lên tỉnh chơi với thằng giáo. Nhưng mới nghĩ đến nó, ông lão đã bực mình. Trẻ con bây giờ hỗn. Đời ông, cầm súng cũng có, cầm cuốc cũng có, ông chẳng phải đi học trường thấp đẳng, cao đẳng gì cả. Nhưng cái gì ông cũng biết, cái gì không đúng "quy lát" cũng không qua được mắt ông. Mày cậy mày có đôi ba chữ, mày cũng bảo ông nói ngang như cua. Mày bảo ông im đi, ông đừng nói nữa. Con nhà láo đâu mà láo thế. Cái con mẹ mày cả đời chỉ biết dựa cột cũng vào hùa với mày. Chúng mày ếch ngồi đáy giếng thì có. Mẹ mày bảo từ giờ mỗi người một niêu. Ông sợ gì. Ông lên nhà thương nhà nước trên huyện ông ở cho mà xem. Ông có sổ ốm, ông đi bệnh viện lúc nào cũng được. Nhưng mà ông cũng nghĩ doạ chúng nó thôi, có bần cùng mới đến cái chỗ chứa người bệnh, người chết cho nó ốm đau sầu não người ra.

Ông cũng có việc của ông. Đến mùa hanh hao, ông đi mua những cây tre chết dóc. Tre ấy chẳng bán thì cũng đẵn bỏ cho măng mọc, người ta bán như cho không. Ông vác tre về, chặt từng đốt, ngâm bùn phơi rồi chẻ ra vót đũa cả, đũa quấy bánh đúc. Cái tre chết dóc, lại tre cật, trông đôi đũa chưa gác bếp đã muốn mua rồi, mà nhà nào cũng phải có đũa, có đũa cả, chưa dùng đến thì cũng cắm vào rọ cho đẹp bếp, đẹp chạn, cho vẻ nllà phong lưu. Nó là cái đũa cả, đũa đầu họ nhà vua bếp. Ông chỉ vót đũa cả. Cả chợ gọi ông là cụ "đũa cả" ông cười.

Chẳng qua ông lão nghĩ ồn ào thế chứ anh giáo có dám láo, hỗn gì với cụ đâu. Anh giáo chỉ ngượng mỗi cái gì ông cũng bảo ông biết, ai cắt nghĩa ông cũng có ý kiến. Cái rađiô, cái truyền hình ấy a, chỉ hơn được là trông thấy cái thằng người chứ nó cũng ở cái galen mà ra. Chỉ được cái không phải dựng cây tre ngoài sân, không lo bị sét đánh, chứ nó cũng eo éo thế thôi, có gì đâu... Hội hè à, ngày trước, ông mà đi hội Lim ấy a, con gái Lim có mà theo ông hàng đàn. Chúng mày bảo tham ô là thế nào, đứa nào cầm tiền trong tay chẳng muốn tiêu, ngày xưa việc vua quan việc thằng Tây cũng vậy thôi. Ông đã bảo mà.., mày thấy tao nói cái gì không đúng. Ông không biết à? ông biết tất... Rồi cả mấy hôm nay không có khói bếp. Cơ mà bà lão bỏ bếp thật. Thế thì ông đi. Ông đi cho mà biết tay cho mà thấy là ông đi đâu cũng được. Nhưng ông không lên nhà anh giáo trên tỉnh. Ông lại lên bệnh viện. Cái sổ ốm của ông lão và cái chân ông đau, cả hàng huyện người ta đã quen mặt, quen bệnh ông rồi. Từ hôm lên đây lão không nhắn thằng giáo, nó không biết mà về thăm ông đã đành, nhưng cũng không thấy mặt bà lão. Thế là ra sao nhỉ, ông mà có thế nào ở đây, ông mà chết ở đây cho chúng mày trắng mắt ra. Ông lão nói quở mình thế, nhưng mấy hôm nay ông lão cũng ê ẩm cái chân thật. Có người thấy ông vắng nhà, hỏi thì bà lão nói: "Ông lão đi ăn cơm hà nước rồi". "Ông ấy đi ăn cơm tù hay sao mà cơm nhà nước ạ?". Biết người ta trêu, nhưng bà lão cũng chửi: "Quân này xấc nào? Nhà nước mời ông ấy lên trên nhà thương, không phải chuyện đùa đâu" - "À ra thế... Thế thì bà cũng lên huyện ăn cơm nhà thương một thể, tội gì!" - "Ăn cơm nhà thương ghê chết được".

Bề ngoài thì cứ như thờ ơ, như đủng đỉnh, chả biết ông bà khinh khỉnh với nhau từ bao giờ. Cái lúc còn trẻ chẳng biết thế nào, mà lúc còn trẻ bao nhiêu chuyện, thì nói làm gì. Vả chăng, ông lão ba hoa cứ ba hoa ông lão vẫn vót đũa bán được tiền, bà lão chỉ để ý có thế. Rồi đôi khi ông lão hay vặc nhau với thằng giáo trên tỉnh về - nhưng thằng giáo mà giảng giải, mà đưa tiền biếu, lão cũng im. Nhiều lần như thế bà lão mới nhận ra quả là ông lão hay nói ba hoa như tướng thế mà cái số ông lão sướng. Ông lão là tướng xó nhà. Nhưng bà lão không như thằng giáo, mà bà lão thấy ông trái mười mươi cũng chẳng biết nói thế nào, bà lão im, bà lão nhịn. Cái khó chịu nhau lịm vào trong từ bao giờ.

Ừ cứ để nằm như con gà rù ở đấy vài hôm cho bớt rác tai. Bà lão bảo thế, nghĩ thế nhưng rồi cũng sốt ruột. Buổi chợ hôm ấy có người dưới bãi đem lên chợ bán cái mía bãi mềm và ngọt. Bà lão mua hai cây.

Chốc nữa tan chợ, tạt sang bệnh viện.

Bấy giờ ông lão vẫn đứng nhìn con cua ở ngoài sân. Ông đi bắt cua từ thuở bé, mà cũng không bao giờ tẩn mẩn nhìn con cua như hôm nay. Những cái chân cua, càng cua líu, ríu xô ngang đằng này, xô dọc đằng kia, tám cái mỗi cái một phách làm cho cái mai cua cứ xoay ngang xoay dọc. Buồn cười đấy Nhưng mà cái thằng giáo bảo ông ngang như cua thì không được. Con cua là con cua, con cua bò ngang con cua bò dọc, thì nó là con cua chứ nó có phải là ông đâu.

Ông lão đã ra ngoài thềm, ngồi xuống, tay cầm cái túi nilông. Con cua bò nghênh càng lên định cắp, ông lão chộp chộp.., hai ngón tay nhón xuống, nhấc mai con cua, ông lão thấy ông vẫn nhanh vẫn thạo chẳng khác ngày trước đi bắt cua ngoài đồng. Ông lão đã nhón được mấy con cua bỏ vào túi. Những chân cua quào quào trong cái giấy bóng mà không leo lên được. Còn ở khe gạch thập thò mấy con cua nữa. Ông nhấc gạch bắt nốt. Chốc nữa, ông xuống nhà bếp. Hái vài cái rau dền cơm, thế là được bát canh cua ngọt. Hay là đem nướng ăn chơi, cua nướng chấm muối nhắm rượu, nghe cũng được đấy

Bên kia bờ ao, thoáng bóng người đi vào. Hình như trên tỉnh người ta sắp về khám, cho nên nhà thương đã đuổi không cho đám người nhà thổi cơm ngoài hiên, lại che mắt cán bộ đem chậu vôi quệt trắng nham nhở lên những góc tường ám khói bếp. Thôi, nghỉ tay cái đã. Ngộ nhỡ các cô y tá vào, thấy ông bắt cua phê bình ông "đau chân mà đi bắt cua, cụ khỏi rồi ạ" rồi bảo ông bác sĩ cho ông đem sổ ốm về thì rầy rà. Ồi, mà cũng phải ngả dưng. Chỉ cúi xuống nhặt con cua mà cái sống lưng đã lục cục tê tê như bị ai dằn xuống.

Ông lão nghiêng đầu nhìn ra. Người nào lù rù đi vào như cái bà lão đụn rạ nhà mình. Không, không phải. Nhận ra người nào, nhận ra ai rồi. Cái bà lão ngày trước ở dưới bãi đây mà, chỉ thoang thoáng cũng nhận nhau ngay. Thuở con gái, ả này mê mình, mê tơi, đã thề không lấy được nhau thì nhảy xuống sông trẫm mình, thì uống dấm thanh thuốc phiện mà chết. Thế rồi mỗi người lại đi một ngả. Cho đến bây giờ, dường như đã quên nhau. Bây giờ làm sao lại biết ta ở đây mà mò vào. Vào đây có việc hay là bà lão thăm ai, nhưng mà ông lão cứ bỗng nhiên thấy mình như ngày xưa, như ngày xưa. Đằng ấy biết tớ ở đây, ư, gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó, đi đâu cũng đánh hơi được Thánh thiên tử thật. Mà đã bao nhiêu năm nay ai biết ai thế nào, nó đi lấy chồng xa tận đâu, tít tận đâu chẳng biết. Ông lại càng thấy ông đương trở về ngày trước. Mày đến chấp chới tao.

Thế đấy... Thế đấy...

Bà lão đã bước lên thềm.

- Ông đấy à?

Bà lão cất tiếng trước. Ông lão làm như bây giờ mới nhìn ra và im lặng, ông lão thật thấy bà lão nhưng bởi vì cái giọng rè rè của người già lại làm cho cái thuở trẻ mơ hồ kia nhàn nhạt đi. Không phải cái bà lão rồi... Bà lão lại kêu lên trước:

- Ôi giời ôi? Sao lại hom hem mõ ra thế kia?

Tiên sư con quạ mổ, ông chúa ghét cái đứa độc miệng. Đã kêu giời, lại rủa hom hem mõ ra là thế nào. Ông lão bực mình, ông lão lầm lì không hỏi lại một câu. Ông câm như thóc. Nhưng bà lão dường như thương hại ông gầy yếu quá, bà lão tần ngần ngồi ngay xuống đầu giường.

- Ông ốm đến thế cơ à?

Ông lão lại cáu nữa. Bà lão nói:

- Tưởng ông đi đông đi tây ông lên xe xuống ngựa thế nào chứ ông lại co quắp mốc meo thế này à?

Con mẹ này nói đến thế thì ngu quá. Thôi chấp gì cái đứa lú lẫn đến nỗi cái lưng còng như con rùa cả đời nằm trong xó luồn bắt muỗi thế kia mà. Nhớ rồi, con này ngày ấy là cái đứa ăn nói ba toác, bạ gì nói đấy. Đàn bà ti hí mắt lươn, chúa ớ, chỉ khỏe nhìn trộm. Bây giờ mà cái quần vẫn bê bết bùn như lội dưới ao lên. Cái đũng sứt chỉ xuống đến đầu gối mà vẫn để toạc tè he như thế. Mày mới là con mẹ mõ già, mày mới là con mẹ sắp xuống lỗ.

Nghĩ thế, tưởng như đã hả, lão ra ý thương hại. Lão dịu giọng hỏi:

- Làm sao biết ở đây mà vào?

Bà lão cười nhe hai cái lợi nhợt nhạt chẳng còn chiếc răng nào. Ông lão cúi mặt, ghê cả người, không nhìn.

Thì bà lão nói nhỏ:

- Yêu nhau tam tử núi cũng trèo... Nói đùa chứ, nghe ở ngoài chợ họ rủa cái lão "đũa cả" lên nằm nhà thương rồi.

Ở ngoài chợ cũng phải đồn về tớ. Ông lão khoái bởi cái câu bà lão nói, nhưng ông chỉ thích nghe ra cái nửa câu nỉ non véo von Yêu nhau tam tứ núi... ông lại hỏi khe khẽ, đã nhãng những khó chịu từ nãy.

- Người ta nói láo thế à?

- Chúng nó còn bảo nhà lão ấy bây giờ hai niêu. Thế mà lão cứ bốc vụng cơm, bà lão tức không thổi nữa. Đói quát phải lên xin cơm nhà nước. Nghe thế cũng chạnh lòng, thử tạt vào xem thế nào?

Hai tiếng "chạnh lòng" làm cho ông lão nghĩ lại cái đời mình, cũng thấy ngậm ngùi, ông quên cả những lời đồn ác. Nhưng ông lại tỏ ra cứng cựa ngay. Ông hét:

- Xà! Mồm thiên hạ như cái đít trẻ con?

- Nằm chong gọng một xó thế này dễ người ta bêu xấu oan đấy?

Ông lão không nói gì nữa. Chẳng nhẽ lại đi cãi nhau với cái đứa lắm lời này. Bây giờ ông mới tẩn mẩn nhìn mặt bà lão, hai hàm răng rụng tiệt, cái cằm móp dẹt lại, trông như mặt con tườu. Ông lão nhớ ông có cái thú thỉnh thoảng ông ngồi đếm tay xem ngày trước đã có bao nhiêu đứa con gái mê ông, lần nào cũng đếm lẫn, ông thích đếm lẫn. Nhưng mà tớ phải cái tính dễ tặc Lưỡi, gái nào cắn câu cũng tặc lưỡi. Chứ người như con khỉ con tườu thế kia, đâu đã đáng lọt vào đuôi mắt, thì lão phải lòng phải bề nỗi gì. Trong khi lão rủa thầm, lão chê bà lão thì bà lão thở dài:

- Ngỡ những thế nào rồi mà bây giờ ngồi vót đũa...

- Xà Mày thì.., mày thì... Câm đi

- Ờ, cái gì sột soạt... Cái gói kia, cái gói gì đấy>

Ông lão nhìn chiếc túi nilông treo trên đầu giường ngay bên chân bà lão. Ông nói ơ hờ:

- Mấy con cua...

- Đồng áng nước trong như mắt mèo thế này mà bắt được cua, giỏi nhỉ?

- Mày thì biết gì! Cua thằng chủ nhiệm biếu... Người ta biếu?

- Thì vưỡn!

Ông định nói có ăn cua thì mang về. Mỗi con cua bây giờ cũng bạc trăm, mà phải lên chợ, chứ ra bến đâu dễ đã chuốc được. Ông lão định bảo bà lão thế, bởi ông lại nhớ cái tính ông huếch, ngày trước hay đi bẫy con gáy, có khi vác cần đi câu được con cá con chim lại đem cho các cô nhân ngãi. Ôi chao, bây giờ thì ông nói: Của thằng chủ tịch, thằng chủ nhiệm.., nghe cũng oai oai.

Bà lão nói: "Vào cữ này cua đồng ngọt thịt. Ngày trước, chỗ cánh ruộng nào cũng ối cua...". Ông đương nói: "Này có..." thì có một bà lão xách hai cây mía, tò tò vào. Bà lão ở trong vẫn ngồi vắt chân lên đầu giường. Ôi chao, mắt toét nhoẻn mắt quáng gà hay sao.

Bà lão kia chống hai cây mía đứng ngoài hiên. Rồi nói vào như quát:

- Có nuôi được nhau thì đem nhau về.

Rồi vác hai cây mía, cung cúc đi ra. Ngoài cổng, các cô y tá ở ngoài chợ về, thấy bà lão đi xăm xăm, nước mắt nước mũi giàn giụa. Các cô hỏi:

- Cái gì hả bà? Ông ấy làm sao, hả bà?

Bà lão đứng xững lại, không nói. Mấy cô hốt hoảng chạy vào, xem ông lão làm sao.

THỊT CHIM RỪNG TRỜI VÀ CON BƯỚM

Hôm ấy, trời hiu hiu, tôi bỗng nổi máu ăn thịt chó, đã hẹn được một bọn. Nhưng gặp nhau thì việc thịt chó đâm ra hỏng.

- Mát trời, đi đả khuyển kama hay lắm.

(Chữ kama, sáng tạo của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, trong kháng chiến ở Việt Bắc. Ka ma là bốn chữ đầu: "không ai mời ai", có nghĩa là canh ty tiền đi đánh chén).

Tôi bị hỏi lại:

- Hôm nay ngày mấy, biết không?

- Mùng một dương lịch.

- Âm hay dương, mặc giời, phiên chợ đầu tháng, chẳng ma nào bán cái xúi quẩy ấy đâu.

Nhưng tôi chưa thất vọng. Có bạn nói.

- Ta đi chén thịt rừng.

Cả bọn hoan hô.

Ở chợ Bưởi hay chợ Mơ đôi khi cũng có thịt rừng - thịt rừng rởm. Cánh gà công nghiệp chặt ra, nướng cháy vàng, chủ quán bảo là thịt gà rừng. Cũng chịu. Bởi nó thơm thơm, khen khét, lại rắc đôi chút ngọt mì chính. Cãi với nhà hàng thì không cãi nổi, đánh nhau thì chắc thua, đành ngồi ăn lặng im vậy. Thịt rừng thứ thiệt, ở trên Lương Sơn kia. Hà Nội lên Lương Sơn (Hoà Bình) hơn bốn mươi cây số, áng chừng bằng đi Sơn Tây, chỉ trong ngoài một tiếng xe ôm.

Ở phố huyện này có hai ba quán treo bảng: thịt tươi hươu, nai, gà gô... Nơi địa đầu sơn cước mà nhà hàng khá vui mắt, bàn ghế Xuân Hoà và phòng riêng, rèm trứng sáo. Nghe nói khách thành phố thường ôtô biển trắng, biển xanh dập dìu. Hàng quán ở cạnh rừng và núi đá, có thể tin là thịt thú rừng thật.

Chủ quán mừng rỡ. Các ông may quá, hôm nay có thịt rồi, con rúi mới mua được của phường săn, có tiết canh, rượu tiết. Ngày trước, ở cánh đồng Mường Lò mùa gặt, tôi đã được ăn thịt rúi đào được ở chân đồi thịt nướng thơm như thịt con nhím. Chúng tôi gọi món thịt rúi, nhưng cũng cẩn thận ăn món giả cầy, không gọi thịt luộc. Cái rượu tiết chẳng biết tiết gà hay tiết ngan. Còn giả cầy thì bì dai như da trâu. Con rúi hay con gì, nào biết được. Mới tỉnh ra một điều. Các thứ thịt quen thuộc con gà, con chó, con bò cũng có con béo, con bệnh, có con chết rồi người ta đi bán chui. Mà các bà các cô ở nhà đi chợ mua đều phải nắn lườn, xem chân, xem mỏ chứ đâu phải con nào cũng béo tốt. Huống chi con vật hoang dại trên rừng đâu phải lúc nào cũng ngon thịt cho ta chén.

Mới đây, nhiều báo đăng tin báo động: rừng quốc gia trên núi Tam Đảo người các làng ở quanh kéo vào rừng bắt bướm, từ bướm ma cho đến bướm rồng, bướm nào cũng bắt đem về bán cho khách du lịch người nước ngoài. Có loại bướm quý được trả đến 200 đô la một con. Cho nên, ở bốn phía Tam Đảo từ Vĩnh Phúc sang Thái Nguyên người ta vào rừng bắt bướm nhiều lắm, chẳng ai ngăn cấm như rình bọn trộm gỗ, nhưng thấy bán được nhiều tiền thế cũng đâm sợ, cho nên cứ bán ngay cho Tây đã đợi ở cửa rừng mắt trước mắt sau như bán ma tuý.

Núi Tam Đảo sắp hết giống bướm. Tôi tin ngay như thế. Bởi vì cách đâu đến mười mấy năm tôi đi nghỉ trên Tam Đảo, lần nào cũng gặp có người nước ngoài, người Pháp người Anh, người Nhận họ leo núi tay xách lồng tay cầm vợt với một lũ trẻ con vác sào chạy theo. Thấy bảo đấy là trẻ con đi bắt bướm, mỗi con bướm được Tây cho bao nhiêu tiền đấy.

Việc xảy ra đã từ nhiều năm nay rồi đến bây giờ còn rầm rộ hơn thì bướm chẳng tiệt giống thì cũng sắp mất giống.

Xin trích tình cờ một cái tin vặt về bướm đã đăng trên báo nước ngoài: Bướm họ Tridơ Alôtây (Troide Aliotei) ở quần đảo Salômôn nam Thái Bình Dương được người chơi bướm cho là loại bướm đẹp nhất thế iới. Năm 1966, một con bướm Tridơ ướp hộp kính bán đấu giá ở Paris, những nhà sưu tập bướm các nước đến tranh nhau đặt giá mua, sau cùng, xác con bướm hoa nọ được giá lên tới 9000 phơrăng pháp

Ở trong thành phố bây giờ khó lòng còn nghe tiếng chim hót, chim kêu - không kể mấy con khướu bị giam trong lồng. Nửa đêm về sáng cũng không còn tiếng vạc đi ăn đêm về kêu xa xa tiếng một. Hoạ hoằn chỉ nghe tiếng chim lợn bay kêu éc éc rợn tai- con chim lợn báo điều không tốt lành sắp đến, ai cũng sợ.

Kể ra, người giết chim cũng đã nhiều, nhiều lắm. Mấy năm trước, mùa nào chim ấy, chim được đem bán hàng thúng những con ngói, con sẻ, con nhạn nước đã làm lông, moi bụng sẵn. Chim ngói người ta đặt lưới bắt ở những cánh đồng vừa gặt. Chim sẻ thì bẫy ở cái bãi rác. Con nhạn nước thì chăng lưới các gốc cây ở bờ hồ Hoàn Kiếm và đường Thanh Niên, hai bên hồ Tây, hồ Trúc Bạch, sáng sớm mùa đông sương mù, cả nghìn cả vạn con nhạn nước lượn về mắc lưới.

Lại dạo ấy, thỉnh thoảng thấy cái xe máy buổi chiều chủ nhật đi từ ngoại ô vào, người trên xe, vai khoác khẩu súng săn, trong túi trước mặt quàng một xâu dài các thứ chim và con cò, con diệc, con sâm cầm, con đen con trắng. Họ ra các ven hồ đầm ngoại thành bắn chim về "cải thiện". Mấy năm nay không thấy nữa. Chắc phải đi quá xa, mà đi xa quá thì lại gặp người ở Phủ Lý, ở Sơn Tây cũng đi bắt chim "cải thiện".

Những chìm nổi đời chim ngày một tàn tạ. Đọc cái truyện ngắn của Nguyễn Quốc Trung ở tạp chí Văn nghệ Quân đội thấy đời con chim, con người cứ vui ít buồn nhiều như thế.

Chuyện rằng ở Sài Gòn bây giờ, bà con đi chùa cũng bắt chước bên Nôm Pênh hay mua chim rồi thả phóng sinh lấy khước, lấy phúc. Người nhà giàu nọ đi chùa lễ cầu tài, cũng mua chim thả, lại muốn mua cả cái lồng về cho con chơi. Nhưng ông lão chỉ bán chim, không bán lồng. Người nhà giàu mắng thằng già gàn sắp chết đói lại làm phách. Ông già gàn xách cái lồng về, đi cùng với người viết lại câu chuyện, lên nhà ngồi uống nước trên sân thượng. Mấy con chim vừa bán đã bay về xúm xít vào cái lồng quen thuộc. Sớm mai ông già lại xách cái lồng chim ra ngồi cửa chùa, đàn chim được người mua phóng sinh lại bay về. Mẹo kiếm ăn còm, thì cái lồng chim cũng là cái cần câu cơm của ông lão.

Thuở bé, tôi nuôi chim chào mào, cho con chào mào chén cơm muối, chào mào đâm nghiện thức ăn mặn. Có thả ra, chim cũng chỉ bay quanh quẩn rồi lại vào lồng.

Nhưng những vui buồn cỏn con ấy với con chim cũng tan nát đến nơi rồi, không còn nữa. Mới đây, được tin dữ, mới đây thôi, khủng khiếp quá. Dạo này, ở Cần Thơ, ở Sóc Trăng, tận các thành phố huyện hẻo lánh, thế mà cũng có nhiều nhà hàng bán buôn cò, vạc, diệc và nhiều quán nhậu đặc sản thịt cò, cò ấau bún, cò rán chả, cò nướng nhậu lai rai.

Bẫy được cò nhiều lắm, ấy bởi người ta vừa sáng chế ra cái máy bẫy chim hiệu nghiệm cực kỳ. Máy gồm có: bộ lưới dài có thể úp được cả đàn chim hộp cát xét chạy pin có băng thu được tiếng chim, cò kêu, bìm bịp kêu, cuốc kêu, chim kêu thứ thiệt. Người đánh chim căng bẫy, giăng lưới, rồi mở băng. Trong đêm hay giữa ban ngày, tiếng chim trong loa gọi líu lo, đàn chim đương bay liệng xuống với đàn bạn, thế là toi mạng. Đồng bằng mênh mang cánh đồng, lạch nước và chim sa lưới một mẻ có khi được đến trên năm trăm con vạc, con mồng két, con cò lửa...

Đài tiếng nói Việt Nam, mục "Thị trường giá cả phát lúc 5 giờ sáng kể ở các chợ thị trấn đồng bằng sông Cửu Long bán những bộ máy bẫy chim như thế, cả lưới và cát xét mỗi máy giá 3 triệu. Thế thì sắp tiệt giống chim rồi. Cả những con chim lợn kêu eng éc báo điềm xấu cũng chẳng thoát. Người ta mở băng có tiếng chim lợn mái kêu, mày ngỡ vợ mày gọi, mày sà xuống thì mày bỏ đời.

Ca dao mới:

Con cò con vạc con nông.

Ba con cùng béo vặt lông con nào

Vặt lông tuốt tuột cho tao.

NHỮNG NĂM 44-45

Đảng cần phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hoá đặng gây ra một phong trào văn hoá tiên bộ, Văn hoá Cứu quốc, chống lại văn hoá phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hoá như Hà Nội, Sài Gòn, Huế... phải gây ra những tổ chức Văn hoá Cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai đặng đoàn kết các nhà văn hoá và trí thức.

(Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25/2/1943)

Một hôm, Hương "đen" lên Nghĩa Đô, đến nhà tôi.

Hương bảo tôi:

- Họp ở đây được không?

- Được! Nhiều người hơn mọi khi đấy.

- Độ bao nhiêu?

- Khoảng mười người mà có thể liền một hai ngày...

- Bao giờ?

- Cứ lo sẵn đi. Rồi có người đến hẹn nữa.

Hương "đen" ngẩn ngừ hỏi lại tôi:

- Có cáng nổi không?

Tôi cũng ngẩn ngơ rồi ầm ừ, không đậm không nhạt.

- Được!

Hương "đen" dường như cũng chẳng để ý vẻ ngần ngại thế nào của tôi, lại móc trong lưng ra một khẩu súng Brôning nhỏ, đen bóng như con quay sừng. Bao giờ thấy súng tôi cũng có một cám tưởng nghiêm trọng khác thường. Cách mạng phải có những cái này chứ, tôi vẫn cho là thế.

Ít lâu sau ngày cách mạng thành công. Xuân Thuỷ chủ nhiệm báo Cứu Quốc cho tôi một khẩu súng lục. Chắc là súng giả, vì trông nó gồ ghề màu bồ hóng không loang loáng như súng của Hương "đen". Tôi giắt sau lưng áo, cũng không mở xem bao giờ. Thế mà tôi đã đeo khẩu súng ấy với cái máy ảnh Leica - mà tôi không biết chụp - làm phóng viên báo đi Nam tiến, vào tận mặt trận Nha Trang và Củng Sơn ở Nam Trung bộ.

Còn Hương "đen" thì như nghiện súng. Mỗi lần tôi lại được Hương "đen" khoe một khẩu brô-ning mới soi gương được còn bọc giấy bóng. Có lẽ rồi cái thú mê súng đã đưa Hương "đen, vào ngành an ninh. Suốt kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, Hương "đen" ở chiến trường miền Nam. Khi chế độ Ngô Đình Diệm chết, Hương "đen" thoát được khỏi cái hầm đất nhà tù của bạo chúa Ngô Đình Cẩn ở Huế. Hương "đen" đã bị nhốt ngồi một mình dưới đất suốt năm năm trời. Tôi ôm Hương "đen", sờ thấy cái lưng gù gù hết hiên ngang và hai cánh tay lòng không dài hơn trước. Cặp môi vẫn hơi dầy, nước da ngăm ngăm. Tiếng nói giọng mũi vẫn ấm và thân thương như ngày trước. Sau đấy, Hương "đen" lại vào chiến trường, lại làm nghề "cá" cho tới Sài Gòn giải phóng.

Thật sự tôi cũng cứ "ừ" thế, nhưng ngổn ngang những cái phải lo chưa biết lo thế nào. Đảo chính Nhật rồi, các hoạt động của Việt Minh còn táo tợn hơn trước, dẫu cho bộ máy cả sở Liêm phóng Bắc Kỳ, người Pháp đã phải "bàn giao" nguyên vẹn cho người Nhật, ông chủ mới của Đông Dương. Mỗi khi máy bay Mỹ và Anh của Đồng Minh đến ném bom giải thảm xuống Hà Nội, quân Pháp bị xích chân ở các pháo đài Xuân Canh, pháo đài Láng, pháo đào Cáo vẫn phải bắn cao xạ lên phối hợp với súng phòng không Nhật mà người thành phố phân biệt được khói trắng đạn Nhật, khói đen đạn Pháp. Nhiều mật thám sừng sỏ thời Tây đã bị Việt Minh tiêu diệt. Những Phơtô, Luýt thì chết ngay rồi. Đội Sinh bị giết ở cống Mọc. Cai Long, Ba Lự người Yên Thái thì Thôi Hữu, cán bộ phụ trách ngoại thành đã bắn chết ở dốc Tam Đa, ở lều tiệm hút nhà thổ mụ Tíu đầu làng Bái.

Nhà tôi ở trong giữa làng, không có vườn hay luỹ tre trổ ra đồng, nhưng nếu động, có thể chui rào sau nhà chạy sang làng Tân được.

Lo chính là cái ăn. Đã bao lâu, không còn thấy mặt hạt gạo. Người đói la liệt các xó xỉnh. Không phải đâu xa, mà ngay trong nhà tôi. Nguyễn Xuân Huy không lên ở chung với Nam Cao và tôi nữa. Có lẽ cũng không hẳn vì thiếu ăn, bấy giờ Nguyễn Xuân Huy đương dạy trường tư Nguyễn Vạn Tòng, nhưng từ hôm giữa trưa về, Nguyễn Xuân Huy rỉ tai tôi: "Vũ Quốc uy bị bắt", rồi đi thẳng. Tôi vẫn đoán Nguyễn Xuân Huy đã dính líu với những tổ chức bí mật khác, có thể là tờ-rốt-kít mà đôi khi tôi có được đọc tờ báo Tranh đấu in thạch của một nhóm làm nhà in Lê Văn Tân, cũng như Nguyễn Xuân Huy đã tha về cho chúng tôi cả một bộ ba quyển tự truyện Đời tôi của Trôtky.

Có hôm Nguyễn Xuân Huy chong đèn viết đến khuya, anh không viết truyện thơ mộng kiểu "Nắng đào, Hoa lưu động khẩu lưu trường..." và làm cho xong tập 13 bài thơ không bao giờ xuất bản, mà Nguyễn Xuân Huy vươn vai, da trắng bệch, râu tua tủa, vừa ngáp vừa vuốt nách kêu: lúc này không còn lòng dạ thơ mộng nào nữa. Nguyễn Xuân Huy viết sách lý luận. Chữ Nguyễn Xuân Huy chân phương nhà giáo, cả đến chi tiêu hàng ngày cũng ghi: tiền giặt là, tiền xe điện, tiền mỗi tháng đi nhà thổ một lần, viết đều nét như anh đương soạn tập lý luận văn học Sống và viết, nhà văn mộng mơ này cũng xông vào chính trị rồi.

Cũng như đã lâu không gặp lại Nguyễn Tế Mỹ, cái chàng tờ-rốt-kít bạn tôi này đã viết bài khen tiểu thuyết Quê người của tôi trên báo Tin mới.

Cái khó về cuộc họp cũng không phải có hay không có Nguyễn Xuân Huy khác xu hướng chính trị cùng ở mà trước nhất, vì tiền. Từ năm ngoái, khi tôi bị bắt, thì hầu như các chủ báo, xuất bản đều hững hờ và xa lánh. Tất nhiên vì chúng tôi có mùi Việt Minh mà vì sách báo thời buổi này đương ế quá. Nam Cao đã phải về quê rồi. Ở quê nhà, con bé Bình Yên mới sinh - tội nghiệp cháu sinh ra, được đặt tên là Bình Yên. Chắc là mẹ con đã rau sam, rau rệu nhiều quá mà "cháu đã phải nhà hàng bún bắt đi rồi". Thôi thì về, ra thế nào thì ra, đến phải chết thì cùng chết mà thôi. Những nhân vật trong sáng tác của Nam Cao càng ngày càng không cất đầu nổi lên trên miếng ăn, chẳng qua cũng là cái bóng xót xa mà hàng ngày chúng tôi phải chịu giữa bao nhiêu con người đói khát vạ vật trên chợ

Bưởi, ngoài đầu làng kia.

Hôm mới rồi, Trần Độ hỏi tôi: "Có phải mình gặp Nam Cao cái hồi đói mà họp ở nhà cậu được ăn bánh chưng ấy phải không?"

Lúc thiếu đói, miếng ăn ngon no bụng bao giờ cũng nhớ lâu, nhưng không phải, Nam Cao đã về quê sống liều chết liều từ tháng trước rồi.

Cũng chỉ còn mình tôi ở nhà. Mấy tháng nay bà ngoại tôi đã lên ở Sơn Tây. Cái xe ba gác bán đinh vít, đinh đỉa, lưỡi thuổng Thừa Lệnh của chú dì tôi mỗi phiên chợ Gạch, chợ Nghệ cũng còn bới đất lật cỏ được ra miếng cơm cho mẹ già. U tôi quang gánh giấy phèn, có khi mấy ngày mới về, chân tay vàng ửng như chát hòe. Người nói có hôm sang Bắc Bỏi, qua tận chỗ Ao Cả, Vực Dê. Các làng bên ấy ai người ta mua thứ giấy hẩm lau bát ấy làm gì bây giờ. Hay là u tôi tránh mặt đi làm mướn, đi ăn mày ở xa, cho tôi không biết.

Chỉ còn có em không đi đâu được nữa. Em tôi ốm. Mấy tháng nay em thúng thắng ho, gầy rạc đi. Mấy cô trong xóm cùng lứa tuổi đi mua nhặt sách cũ nắng nôi vất vả quá Nam Cao đã đưa em tôi xuống Kẻ Chợ khám. Bác sĩ bảo thử đờm mới biết bệnh. Nhưng phải mất tiền, mà nhà thương thí ở Phủ Doãn không nhận người ốm ho hay lây. Chẳng biết làm thế nào.

Người ta bảo hồi cải cách ruộng đất, các làng đem đốt mất nhiều sách chữ nho ngày xưa. Tôi thì tôi trông thấy trong nạn đói năm ấy người ta huỷ hoại sách mới ghê. Ở các chợ, những quang sách chữ hán bìa màu cánh gián chất đống như gò cỏ khô, bán làm nòm, làm củi, lấy cái sưởi cho qua đêm rét khủng khiếp. U tôi và em với lũ con gái làng lứa tuổi ấy đi các xóm mua sách quảy lên chợ. Chẳng ai nhòm đến, có buổi tối người đói đem đốt sách để sưởi như cháy chợ.

Bây giờ lấy đâu ra cho cả chục người ăn hai ngày họp. Làng tôi tuy đói dài, nhưng hầu như cả làng đã vào Việt Minh. Thôi Hữu vượt ngục Hoả Lò ra, bí danh là Tấn, là Thường, thỉnh thoảng đưa tôi xem tờ Đuổi giặc nước cơ quan của Việt Minh Thanh Hoá.

Thôi Hữu vẫn có liên lạc với quê. Lê Hữu Kiều đã giới thiệu cho tôi quen Thôi Hữu khi các anh ấy làm báo Bạn đường. Sau khởi nghĩa, Thôi Hữu không làm cán bộ chính trị nữa, mà làm phóng viên báo Thủ đô rồi báo Vệ quốc quân, đến năm Thôi Hữu bị máy bay Pháp bắn chết ở Hợp Thành trên Thái Nguyên, bấy giờ đương làm báo Sự thật. Ở làng trong các chị em phụ nữ cứu quốc, cô Thu yêu Tấn lắm. Có hôm hai đứa đèo xe đạp hôn nhau, chốc lại loạng choạng đâm vào đường tàu điện. Cũng chính ở quãng Cổng Dong cạnh hồ Quần Ngựa năm trước Tấn đã bắn chết mật thám Cai Long. Tôi biết đêm đêm những gánh sách báo, giấy mực, thuốc súng từ trong thành quảy ra qua vùng này sang bên kia sòng Cái và ở cánh đồng Mả Mái sau làng tự vệ chiến đấu ra tập quân sự ngay từ chập tối.

Dù đói đến thế, nhưng phiên nào cũng có mít tinh ở chợ Canh, chợ Trôi. Cô Thu, áo nâu non đổi vai, vạt thắt quả găng, trễ một bên khẩu súng bro-ninh nữ, chít khăn mỏ quạ, mắt đeo kính râm. Cán bộ Việt Minh xuất hiện diễn thuyết giữa chợ hô hào phá kho thóc, đánh đuổi phát xít Nhật.

Nhưng tôi không dám bảo với Thôi Hữu rằng sắp có họp ở nhà tôi, giúp cho tôi ít nhiều. Tôi giữ nghiêm ngặt kỷ luật hoạt động bí mật. Giữa lúc ấy, Nguyễn Hữu Đang tới. Nguyễn Hữu Đang đến xem lại tôi đã sửa soạn thế nào. Pháp chết rồi, nhưng tay chân Nhật vẫn nhan nhản, mặc dầu cũng không khó bằng trước.

Có lần chúng tôi họp tới mười mấy người ở nhà Nguyễn Huy Tưởng giữa phố gần chợ Hôm. Lần đầu tiên tôi gặp Lưu Văn Lợi, Thép Mới, Nguyễn Công Mỹ... nhưng vẫn cứ phải cẩn thận.

Nguyễn Hữu Đang hỏi tôi:

- Công việc đến đâu?

- Nhà vắng không có ai, bờ rào đằng sau nhà, có gì thì chạy sang làng bên.

Nguyễn Hữu Đang xuống bờ cái chuôm cạn gật gù nhìn sang gò đất trống bên kia mấy bụi cây ráy.

- Cũng được.

- Nhưng chưa có tiền.

- Chưa có tiền?

- Thằng... thằng... có đưa mày đồng nào không?

Tôi nói tránh.

- Không sao, anh em ở địa phương đã cho ít gạo và cá khô, đủ rồi.

Nguyễn Hữu Đang làu bàu chửi mấy thằng trong thành phố nhà còn có máu mặt.

- Tiên sư những đồ khốn nạn, tao đã bảo chúng nó biết họp ở đây mà mày thì đào đâu ra tiền. Nhà chúng nó vẫn còn có ăn. Không cứu nhau lúc này thì lúc nào!

Làng tôi ở vào một thế hết sức oái oăm. Các làng bên kia, Yên Thái, Đông, Hồ thuộc thành phố, được phát "bông" mua gạo hàng tháng. Làng Nghĩa Đô ở ngay đường bên này, nhưng đã sang địa phận tỉnh Hà Đông, đói lăn ra cũng không đáng quan tâm. Tây cũng như Nhật không cần giữ thể diện như đối với Hà Nội.

Nhiều nhà từ thiện trong thành phố như cụ Ngô Tử Hạ đã đứng ra tổ chức cứu tế các tỉnh đói. Việt Minh chủ trương đẩy nhanh tiến tới Tổng khởi nghĩa, không kéo dài cái sống ngắc ngoải. Cũng là hai công tác xã hội, nhưng thái độ và chủ trương của Việt Minh đối với Tổng hội Cứu tế khác với phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Nhớ lại chuyện hồi ấy bây giờ có người không biết hoặc lẫn lộn.

Nguyễn Hữu Đang cũng xem qua loa chiếu lệ. Tình thế bây giờ đã khác hồi mùa thu 1944, khi bọn mật thám Huýt đẩy Vũ Quốc Uy về nhà này nhận mặt tôi rồi xích đi. Nguyễn Hữu Đang cho tôi một tờ giấy năm đồng. Tờ giấy bạc vẽ con công - năm đồng bạc ngày ấy khi mà sáu đồng Bảo Đại ăn một chinh Khải Định thì năm đồng tiền Đông Dương giá trị còn to lắm. Thế là yên trí rồi. Nguyễn Hữu Đang vốn thẳng tính và tính việc nhanh, ở cơ sở nào cũng thân như người nhà. Còn nhớ như nhà ông Mai ở Hàng Điếu, nhà ông thợ điện ở hàng Quạt mà chúng tôi đã đi ăn cưới con trai ông ấy, như ruột thịt.

Năm mươi năm sau, mới đây, tôi được Phùng Quán và Phùng Cung mời đến dự ở nhà Phùng Quán cuộc mừng Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi mà vẫn độc thân. Nguyễn Hữu Đang chụp chung với tôi bức ảnh, mới đấy mà bây giờ đã lụ khụ cả, anh có đề một câu rằng "... tặng Tô Hoài để ghi nhớ buổi họp mặt mừng tôi "sống dai" 80 tuổi...! Hôm ấy, Nguyễn Hữu Đang trịnh trọng cầm giấy phát biểu hùng biện, rành rẽ, vẫn thế mạch lạc một, hai, ba, bốn hô hào thanh niên cầu tiến tha thiết. Tôi bồi hồi và buồn bã, bâng khuâng. Cô Phương Quỳnh ngồi bên đã nói một câu lạ lùng mà thật vậy, tôi bàng hoàng thấy ra sự thật mà tôi không bao giờ có thể nhận xét được như thế "Nhớ ngày nào liễu mới giâm. Le te bên vũng độ tầm ngang vai. Chợt đâu bóng lả cành dài. Đã sương, đã khói...!" (Nguyễn Huy Tự). Cô Phương Quỳnh bảo rằng cụ Đang nói hăng hái như cụ ngủ từ 1945, bây giờ vừa mới trở dậy. Quả như rằng, cụ mà mặc cái áo năm thân nhuộm cậy, vẫn cái mặt đói hốc hác năm ấy, thì đúng là ông phụ lão cứu quốc đi dự mít tinh chợ Canh... Thôi cũng là đời. Nghe nói mấy lâu nay cụ nghiền ngẫm Lão - Trang.

Rồi ngày họp đã tới. Các bạn lác đác về như tình cờ đến chơi. Như Phong, Trần Huyền Trân. Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng. Trần Quốc Hương đến từ sáng sớm. Chập tối, Trần Độ mới vào. Sau này mới biết nơi công tác đội của Trung ương ở ngay ngoài đê, chỉ qua cánh đồng Dàn, Cáo thì tới làng tôi, Trần Độ đã thuộc nhiều đường nên không muốn đi ban ngày. Trần Độ và Trần Quốc Hương là cán bộ trên đến truyền đạt công tác. Văn hoá Cứu quốc ở Hà Nội liên lạc trực tiếp với Trung ương theo cách thức hoạt động đơn tuyến - chỉ có một người biết. Tổng bí thư Trường Chinh phụ trách công tác hội Văn hoá Cứu quốc. Ngày ấy, nghe nói "thượng cấp" tưởng ở những đâu, rồi sau mới biết các anh Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ ở ngay những làng ven đê sông Cái cũng thường qua lại làng tôi. Chỉ thị của anh Trường Chinh được Trần Độ làm công tác đội đưa đi. Người đón nhận tài liệu, giữa đường là Hương "đen", rồi từ Trần Quốc Hương đến Lê Quang Đạo, bí thư ban cán sự thành phố. Trong ban cán sự chỉ có một mình Lê Quang Đạo liên lạc với một tổ Văn hoá Cứu quốc, là tổ của Vũ Quốc Uy- Như Phong và tôi. Các tổ cứ độc lập phát triển, ba người một... Lần này họp thiếu Lê Quang Đạo. Cuối năm ngoái, Lê Quang Đạo bị bắt hụt ở nhà Vũ Quốc Uy số 125 phố Lốc-Cốc-No (phố Phó Đức Chính bây giờ).

Nghe nói Lê Quang Đạo không còn ở Hà Nội, đã lên chiến khu.

Nhà tôi là ngôi nhà hương hoả của ông bà ngoại - ông tôi đã mất, năm gian nhà ngói cổ, hoang vắng, tiều tuỵ, đã đổ nát nhiều. Cả tháng chẳng ai tới, cửa ngõ đóng, cỏ rêu lên tận thềm. Nhưng cũng cứ cẩn thận, chúng tôi chỉ ở trong buồng, chỗ phản nằm của Nam Cao và tôi. Chúng tôi cũng làm việc thông thường và cần thiết mỗi lần họp, dặn nhau các cách đối phó, nếu bị "chó" xộc vào thình lình. Mọi người quây quần hai ngày hai đêm đái ỉa xuống chỗ chuôm cạn dưới kia. Đã lâu mới gặp nhau đông thế, lại họp đấy, ăn ở đấy, trời lạnh, tối đắp chiếu, chăn Nam Định, lăn lóc co quắp ngủ ngay trên phản.

Vẫn những tài liệu ấy, những công việc ấy, lại bàn nhưng vẫn thấy mới. Cái mới thấy được chính là quang cảnh ở ngoài đường, trên chợ ùa vào. Người chết đói càng nhiều. Việt Minh tập quân sự, chuyển sách báo và thuốc súng. Có tối thuốc súng để ở nhà cô Thu bị bén lửa, cháy cả nhà. Lính Nhật trên đồn Bưởi xuống nghe ngóng nhưng cũng chỉ biết là cháy nhà. Cô Thu cũng phải nhờ ông Bảy Nền đấm mõm ông bá Kế mấy đồng bạc. Sau khởi nghĩa ông bá đến trả tiền lại cô Thu và xin lỗi. Chúng tôi ở trong cái nhà vắng mà cũng cảm thấy chuyển động, tưởng như nghe tiếng chân người bước rầm rập. Tôi lại nhớ ông ngoại tôi kể chuyện ngày trước các cụ đem nghĩa quân về cánh đồng ban đêm bắc loa gọi vào các làng: bớ ba quân thượng hạ... không trông thấy mà vẫn như trông thấy.

Đổi khác đến nơi rồi. Trần Độ và Hương "đen" kể tội ác phát xít Nhật và tin tức nhiều nơi trong nước đã lập các khu giải phóng. Dạo đó tôi đã viết bài "Đội nữ du kích Ba Bể" in báo Cứu quốc bí mật theo lời kể của Lê Quang Đạo.

Hai tài liệu của Trần Độ mang tới để nghiên cứu và thảo luận là: Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 của Trung ương đảng cộng sản Đông Dương và Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh (in năm 1944). Đề cương chưa in, Trần Độ đọc bản chép tay. Đề cương này sau được đăng tạp chí Tiên Phong của Hội Văn hoá Cứu quốc Việt Nam số 1 ngày 10 tháng 11 năm 1945 tại Hà Nội.

Tôi đã có dịp kể: Đề cương văn hoá đã nghe đọc nhiều lần. Hồi ấy, "Chương trình Việt Minh, có bản lưu hành viết thành những câu năm chữ gọi là "Ngũ tự kinh" để dễ đọc và dễ nhớ. Đề cương văn hoá cũng được là "Ngũ tự kinh" của chúng tôi. Hình như mỗi người đã kín đáo chép lấy một bản và lần họp nào cũng đem ra đọc. Chúng tôi hiểu và đón nhận đây là một mệnh lệnh, mệnh lệnh chiến đấu của chiến sĩ văn hoá - người chiến sĩ chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, xung quanh đương sôi súc chuẩn bị khởi nghĩa. Lý tưởng, lẽ sống, mong ước và chờ đợi và sẵn sàng ấy đã được cảm và thấy như thật không phải chỉ có ở đề cương văn hoá Việt Nam 1943 mà từ lâu ở những tài liệu Nam kỳ khởi nghĩa, tập "Kinh nghiệm Bắc Sơn khởi nghĩa", những quyển Ba trẻ anh hùng ở Hạ Môn, Du kích Tôn Tử (chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn ở Việt Bắc, bí mật đưa về xuôi in lại) và các báo chí bí mật Cờ Giải phóng, Tạp chí Cộng sản (Đảng Cộng sản Đông Dương), Cứu Quốc (Tổng bộ Việt Minh), Hồn nước (Đoàn Thanh niên Cứu quốc), Kèn gọi lính (Hội Binh sĩ cứu quốc): những trang sách báo ấy ngày nào còn in đất, in thạch, in đá, bây giờ con chữ đàng hoàng (do tổ Công nhân Cứu quốc ở báo Tin mới gửi chữ ra).

Trông hình thức cũng hiểu được tình hình. Có lần tôi hỏi Lê Quang Đạo ngày khởi nghĩa thì Văn hoá Cứu quốc làm gì. Lê Quang Đạo nói: "Văn hoá Cứu quốc cũng như mọi đoàn thể, cầm võ khí chiến đấu". Chúng tôi chuẩn bị dao găm, đèn pin, lắc lê để phá đường tàu, quyên quần áo rét ủng hộ chiến khu Bắc Sơn. Chúng tôi đương làm như thế. Sự thực tình hình, tình thế, thực trạng văn hoá và chiến đấu là như vậy.

Đến tổng khởi nghĩa thành công, sau 19-8-1945, một số hội viên Văn hoá Cứu quốc và trí thức, sinh viên cứu quốc đều được phân công vào các công tác văn hoá. Tôi còn nhớ: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng (Hội Văn hoá Cứu quốc), Nguyên Hồng, Tô Hoài (Báo Cứu quốc), Trần Lâm, Nguyễn Văn Thân, Trần Kim Xuyến (Đài phát thanh) Nguyễn Công Mỹ (Bình dân học vụ), Trần Huyền Trân (kiểm duyệt sân khấu), Như Phong (kiểm duyệt sách báo)...

Không phải cuộc họp ít ý kiến trao đổi, nhưng cũng chẳng bao lăm. Nhóm các tổ Văn hoá Cứu quốc là những tiểu tư sản trí thức không gây được ảnh hưởng và tác động rộng rãi, mà chỉ quan hệ qua lại và lôi kéo được trong những trạc như nhau, mà cũng không phải đơn giản. Có người thủ an, có người nhận là cảm tình nhưng không đi họp, không đóng nguyệt liễm ngại liên luỵ, có người rong chơi, không thích chính trị, sợ vào hội kín. Đinh Hùng kể rằng cậu ấy uống rượu rồi ngủ suốt ngày 19 mãi đến trưa 20 ở nhà trong Ngõ Bò trông ra ngã tư Trung Hiền thấy cờ đỏ sao vàng la liệt mới biết trời đất đã đổi khác. Đến kháng chiến, Đinh Hùng làm báo Cứu Quốc khu ba ít lâu.

Nhóm tuần báo Thanh nghị của Vũ Đình Hòe hay tạp chí Khoa học của Nguyễn Xiển chúng tôi không với tới. Vũ Văn Huyền, Thẩm Hoàng Tín đều có quen Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Hữu Đang nhưng cũng chỉ thế thôi, không giác ngộ được. Đặng Thai Mai tán thành Việt Minh và đường lối Đảng cộng sản nhưng chỉ giao thiệp với một người đến liên lạc (Vũ Quốc Uy). Các vị tờ a, tờ b, báo Tri Tân của Nguyễn Văn Tố - mà Nguyễn Huy Tưởng viết truyện lịch sử Đêm hội Long Trì đăng báo ấy - thì không thành lực lượng, cũng như các tay phò tá giải thưởng Alêchxan đơ Rốt cũng đã tàn. Văn đoàn Tự lực lúc ra tập "Giai phẩm" không còn hấp dẫn như trước; vả chăng, nhiều người trong văn đoàn và một số trí thức đã đi vào hoạt động chính trị thân Nhật, ủng hộ Nhật. Người Nhật lúc đầu còn nhẹ nhàng dưới hình thức văn hoá và giao lưu. Một số hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Tỵ được mời thăm Nhật, hoạ sĩ Phuzita người Nhật sống ở Pháp về Hà Nội, nhà văn hoá Kôn-su giỏi quốc ngữ và chữ Hán khi đảo chính rồi làm kiểm duyệt, cho Nguyễn Giang ra nhật báo Bình Minh, mấy nhân sĩ Trần Trọng Kim, Vũ Đình Dy đã lục tục ở Chiêu Nam (Singapore) về. Thật ra, nhà xuất bản Hàn Thuyên chưa bao giờ thành nhóm, hội nhưng những khuynh hướng gần nhau năm trước bây giờ cũng không còn gắn bó rõ rệt. Nguyễn Tế Mỹ, Lương Đức Thiệp, khác Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh, Phạm Ngọc Khuê, cũng khác cả tay cơ hội Hồ Hữu Tường (về sau, người thì hoạt động chống đối, nhưng người thì đi kháng chiến). Đồ Phồn, Nguyễn Đình Lạp, thì hồ như xa lánh đã lâu, từ sau mấy cuốn tiểu thuyết "dã sử" nhà Hàn Thuyên in loại phổ thông, không ký tên Đồ Phồn. Mặc dầu vậy, tư tưởng con người ta cũng lạ, nếu đọc lời bạt ở tiểu thuyết Khao của Đồ Phồn in năm 1945 thì lại thấy hơi hướng "phá sạch sành sanh (table rase), khác nào những năm trước đấy, kiểm duyệt của Pháp và Nhật đã khéo léo như chỉ riêng để sách của nhà Hàn Thuyên được dùng những chữ "giai tầng", "đấu tranh giai cấp", "thế giới hoà đồng"... Nhiều trí thức và sinh viên đã được các tổ chức khác nhau của đảng giác ngộ. Đảng Dân chủ Việt Nam được thành lập đã gia nhập Mặt trận Việt Minh. Bài hát Tiến quân ca của Văn Cao và bài hát Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi lần đầu tiên đã in trên báo Độc lập của Đảng Dân chủ Việt Nam phát hành bí mật. Đến khi cả hai vợ chồng Dương Đức Hiền được coi như thủ lĩnh sinh viên bấy giờ cũng đã thoát ly đi hoạt động, thanh thế của các đoàn thể cách mạng văn hoá và trí thức càng có tiếng vang lớn, không phải trực tiếp chỉ ở thành tựu của nhóm Văn hoá Cứu quốc.

Thời Pháp rồi Nhật, mọi hoạt động công khai đều bị săn chặn khắc nghiệt. Đỗ Xuân Dũng - em luật sư Đỗ Xuân Sảng - được Nguyễn Hữu Đang làm "quân sư quạt mo" mở nhà xuất bản Gió muôn phương, Nguyễn Hữu Đang làm cái quảng cáo tên các tác giả in chung trong một hình ngôi sao năm cánh ở trang bìa sau, Sở Liêm phóng Bắc Kỳ gọi từng người lên. Tôi bị hỏi và đe: "Ngôi sao hả? Sao cộng sản sao Việt Minh chứ gì! Muốn được ở yên thì bỏ cái trò bịt mắt mật thám đi nhé".

Riêng hội Truyền bá Quốc ngữ thì Việt Minh vào được êm đẹp. Nguyễn Hữu Đang - trưởng ban dạy học của Hội, kể khi xin phép định đặt tên là hội Chống nạn mù chữ, nhưng sau thấy cái chữ "chống" và chữ "mù" ấy thì dẫu ông hội trưởng hiền hậu như Nguyễn Văn Tố cũng khó qua được mắt cú vọ mật thám. Rồi mới thành tên hội Truyền bá Quốc ngữ đúng nghĩa và vừa phải. Hội đã phát triển ở Hà Nội và lan dần ra các tỉnh.

Ở Hà Nội, hầu hết người hoạt động Truyền bá Quốc ngữ đều bí mật là hội viên các đoàn thể cứu quốc khác nhau của Việt Minh. Trong công việc tổ chức ngày mít tinh 2 tháng chín năm 1945 ở Quảng trường Ba Đình có phần góp sức lớn của lực lượng Truyền bá Quốc ngữ ở Hà Nội. Mấy năm ấy Nam Cao và tôi đều đi dạy học buổi tối ở trường đình Yên Thái và Nghĩa Đô miền Tây Hà của Hội. Rồi hầu như tất cả anh chị em hoạt động và giáo viên vùng này đều tham gia tổng khởi nghĩa.

Hai đêm ngày bàn bạc, bao nhiêu lo toan và hứng khởi tưởng như khởi nghĩa tới nơi, mà thật, cũng chỉ một lần họp sau ở Hà Đông, thì Văn hoá Cứu quốc đã có đại biểu, Nguyễn Hữu Đang. Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng đi dự hội nghị Tân Trào trên châu Sơn Dương. Càng găng, càng khẩn trương, hơn một năm nay cuộc họp nào cũng lại nghe đọc thông báo kích động thống thiết về cái chết của Hoàng Văn Thụ.

THÔNG CÁO HÃY RA SỨC TỔ CHỨC MỘT LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI

Hỡi các đồng chí!

Hỡi các đảng bộ

Bọn phát xít Pháp vừa mới xử bắn đồng chí Hoàng Văn Thụ thân mến của chúng ta.

Cái chết của đồng chí Hoàng Văn Thụ chứng tỏ rằng: quân thù càng sắp tới ngày rẫy chết càng tàn nhẫn gấp bội.

Cái chết của đồng chí Hoàng Văn Thụ còn chứng tỏ rằng: quân thù rất sợ Đảng ta và tinh thần phấn đấu của các đồng chí chúng ta.

Cũng như các đồng chí trước kia đã hy sinh trong khi làm tròn nghĩa vụ, đồng chí Hoàng Vãn Thụ đã chết để bảo toàn cho Đảng, để nâng cao tinh thần anh dũng của dân tộc bị áp bức Đông Dương.

Bằng những hy sinh của các đồng chí đã khuất, nhất định chúng ta sẽ thắng!

Một đảng viên chết đi phải được muôn nghìn đảng viên mới nối chí.

Các đảng bộ phải tổ chức thêm một lớp đảng viên mới, gọi là lớp Hoàng Vãn Thụ.

Mỗi đồng chí trong thời hạn một tháng phải giới thiệu một đảng viên mới vào Đảng.

- Phản đối khủng bố trắng - Tinh thần Trung ương uỷ viên Hoàng Văn Thụ muôn năm.

- Cách mạng Đông Dương thành công muôn năm

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG

Nhiều năm sau này, ở nhà anh Trường Chinh thường có những dịp gặp gỡ anh em Văn hoá Cứu quốc ngày trước. Vũ Quốc Uy chịu trách nhiệm tổ chức và nhắn anh em, anh Trường Chinh cẩn thận, kỹ lưỡng, bao giờ anh cũng xem tờ giấy ghi tên người dự, và thiếu ai, thừa ai, anh bảo ngay. Cái lần tôi đi Thất Khê viết tập truyện ký Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ cho Nhà xuất bản Thanh niên, anh dặn dò tỉ mỉ, anh bảo: nghe kể lại chuyện cũ phải tinh ý phân tích bởi mỗi người một tâm sự, một nguyện vọng của mình trong câu chuyện. Có người nói sự thật, có người khoe khoang báo công, có người nói dối, có người minh oan. Rồi tôi nghiệm thấy đúng như vậy. Bấy giờ cụ ông sinh anh Hoàng Văn Thụ đã mất, chỉ còn bà chị ruột của anh.

Anh Trường Chinh gửi quà biếu cẩn thận, anh kể anh đã đón ông cụ xuống ở nhà ít lâu. Ông cụ cứ đi chơi phố rồi vào chợ Đồng Xuân uống rượu say, ngồi xích lô về tận cửa, anh Trường Chinh nói: "Lộ bem (bí mật) quá, nhưng biết làm thế nào". Rồi anh cười to.

Anh Trường Chinh hay kể lại hồi ấy ở bí mật cùng anh Hoàng Văn Thụ, khi Xuân Đỉnh, khi Phú Thượng huyện Từ Liêm, anh Hoàng Văn Thụ dạy anh học bạch thoại. Biết đọc rồi, anh hay đọc sách báo tiến bộ Trung Quốc có nói về tân văn hoá, anh đã viết dự thảo Đề cương văn hoá Việt Nam hồi này, anh nhớ hình ảnh và hay nói đùa: "Mình là học sinh Hà Nội hẳn hoi mà mỗi khi ra đường phải đóng vai lý Đình Dù khăn xếp, áo the, ô khoác tay, chân đi giày ta. Hoàng Văn Thụ người miền núi mà giả trang đẹp trai lắm, mặc quần áo tây, đi xe đạp cách như thầy ký, như sinh viên. Đề cương văn hoá mà Trần Độ đưa đi phổ biến cho chúng tôi, anh Trường Chinh khởi thảo, anh Hoàng Văn Thụ tham gia ý kiến rồi anh chữa lại. Tình hình gấp gáp đến độ không kịp đưa đi cơ quan "ấn" (in), chỉ truyền miệng như các cậu biết đấy". Năm trước, một lần Trần Độ chuẩn bị giúp anh Trường Chinh một số tài liệu về hoạt động Văn hoá Cứu quốc. Trần Độ hỏi, tôi nói còn nhớ được gì thì tôi đã viết cả trong tập Tự truyện. Chỉ nghĩ rằng cuộc cách mạng giành độc lập của đất nước ta không như ở một số nước khác mà những hoạt động văn hoá làm chấn động tinh thần con người trước đã.

Không, ở nước ta, trước nhất là cuộc sống và chiến đấu tư tưởng và cách nghĩ này cứ tự nhiên ảnh hương trong tôi suốt các thời kỳ kháng chiến mà tôi đã viết ý nghĩ ấy trong nhật ký, những khi chứng kiến tổ chức kết nạp Nam Cao và Nguyễn Tuân vào đảng.

Mấy hôm sau, anh em tôi được bữa no. Có gì đâu, còn lại vài lẻ gạo và một xâu cá mắm. Lâu lắm, em tôi mới được ngửi mùi thơm cá nướng. Chao ôi, mới đấy mà "đã sương đã khói" hơn năm mươi năm qua rồi.

Anh chỉ còn nhớ mả em ở cánh đồng làng chỗ gò Mũ Đồng Cân trông ra

O CHUỘT

Trong nhà, trừ người, chó và mèo làm chúa tể. Chó giữ về mặt bộ, mặt thuỷ. Hắn có phận sự chạy nhông khắp chốn để đánh hơi, để hỏi han và để mắng những người lạ đi tơ mơ vào trong ngõ. Có khi cao hứng hắn lội xuống ao, tắm; hoặc nếu có ai cầm hòn gạch ném vào nước và huýt mấy tiếng còi, hắn cũng động cỡn mà nhảy tùm xuống. Một đôi bận, sự đùa cợt của hắn cũng được việc. ấy là khi hắn bơi ở trong ao để dồn vịt về chuồng. Chó hay lèm bèn, ủng oẳng, sinh sự nhỏ nhen. Nhưng tính tình hắn lại phổi bò, dễ dãi và thường chóng quên. Con mèo rất khác. Mèo lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quí phái và trưởng giả. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưa toan một việc gì ghe gớm lắm. Có phải thế chăng, hỡi cái gã lừ đừ và nghiêm nghị kia? Gã lại càng làm ra vẻ khó hiểu tợn. Nhưng ngoài cái vỏ ngoài chưa thể đủ để nói rõ được bề trong. Biết đâu, mèo ta không khó chịu như mình tưởng. Mà vốn hắn lại hiền lành cũng nên?

Hôm nay, tôi kể chuyện một gã mèo, một gã mèo trẻ tuổi. Y sống lặng lẽ trong một nếp nhà ngói cổ kính, giữa một vườn cây rộng, ở làng Nghĩa Ðô, cùng một sân với bọn chó, bọn gà ri, bọn ngỗng...

Y là một chàng mèo mướp. Giống đó, nhà quê người ta nuôi nhiều. Cái bộ lông mèo mướp thực là dị kỳ. Nó vừa trắng màu lụa, vừa xám màu tro lại vừa đen xỉn. Khắp mình, ba màu ấy trộn lẫn với nhau, mà trôn rất nhỏ, hoà hợp lại thành một màu đặc biệt như màu cái chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Màu mướp ấy trông bẩn, vì đen ngòm ngòm, nhưng chính ra sạch lắm. Nó sạm như đất, mà không phải là có đất bám. Nó lại mờ mịt như có tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo - mà thực ra cái bờm lông xấu xí đó chẳng vấn một chút bụi tro. Ngắm thì không đẹp mắt, nhưng nếu sờ tay vào, nó muốt như sờ tay trên tấm nhung tơ.

Hai mắt mèo tròn và quắc như hai hòn bi ve để dưới ánh mặt trời. Hắn không có môi, song hắn có cái mũi đo đỏ, đẹp như môi son hồng của các cô con gái đương thì. Ðàn bà không ưa cái mũi đỏ ấy. Người ta bảo mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng. Hai bên mép hắn có hai hàng ria cứng nhắc như ria làm bằng thép nước. Lũ trẻ con, có lúc nghịch, đè ngửa hắn xuống, lấy kéo cắt trụi cả đôi hàng ria xuôm đuột. Nhưng chỉ qua ít ngày, nó lại trổ ra như thường.

Gã mèo mướp ăn ở thì giờ như một người đúng mực. Ban ngày hắn ngủ hoài, cái dáng mèo nằm, dáng êm, dáng thanh, dáng lâng, đẹp biết bao! Lúc bấy giờ, cái thân hắn nhẹ muốt, chỉ như một chút gợn gió phẩy bay một nắm bông gạo nõn.

Mà giá ban ngày hắn có thức cũng không làm gì; hắn chỉ nằm gù gù. Ðể đến đêm, trong cái bóng tối mung lung, hắn mới ra tay hoạt động. Hắn đi rà rà thâu canh như người trương tuần. Gã mèo có cái vẻ đạo mạo như một ông đứng tuổi, đương bắt đầu để râu. Hắn hiền hiền mà lại ang ác. Nghĩa là trông hắn thì không tài nào đoán được trong óc hắn nghĩ ngợi gì. Mà chừng hắn chẳng tư tưởng chi ráo! Hắn chỉ là một người rong chơi lông bông.

Chẳng có những bác trông mặt thì ra dáng đăm chiêu tư lự mà thực ra trong đầu không chứa đựng một ý nhỏ định nào.

Gã ngồi đấy, ở trên mặt dại bể. Hai chân trước đứng thẳng, đôI chân sau gấp lại, y như lối ngồi xổm. Ðôi mắt nhìn xa sôi... Thỉnh thoảng, theo thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên gãi mép, cũng như người ta đưa tay lên vuốt râu cho nó oai vậy. Trời đã xế chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng nhạt đọng trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang, tiếng guồng tơ quay đều đều. Trên đường cái, lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la, nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng khơi, người ta kéo nước rào rào. Cái gáo mo lạt sạt đụng vào thành giếng đá. Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán. Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về căn nhà hiu quạnh. Hắn bước từ tốn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi qua gốc cau, chẳng biết ý định sao, hắn leo tót ngay lên, quào quào mấy móng sắc vào cái vỏ cây cau điệp trắng, rồi lại tụt xuống, rồi đi lểu đểu, đạo mạo như trước. Hắn thường có những cử chỉ đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong lòng đang khoan khoái một điều mà hắn thường nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét tư lự.

Y ngồi vào thì lì bên bếp tro. y nghiêng mang tai để rũi vào một ông đồ rau, to bằng hòn gạch vồ lớn. Lúc nào y cũng ngứa và cần gãi.

Bỗng y đứng im. Y nghếch đầu lên. Hai cái tai mỏng vểnh ra để nghe ngóng. Hình như có tiếng lịch kịch ở sau đống củi. Nhưng khi bước lại thì không thấy đọng gì nữa. Gã quay đầu ra, ngước mắt nhìn lên đám mạng nhện có mắc bồ hóng đen xạm, bị gió đưa lúc lắc trên trần bếp.

Có tiếng động thực. Lần này gã mèo dúm bốn chân lại, bước từng bước rất nhẹ về phía đống củi. Ðống củi đó người ta để phiền quá, vừa chướng bếp, vừa làm cái rừng bùm tum, chỉ tiện ch quân gian núp náu.

Giống mèo là một giống, đứng ở chỗ nào, không thể chịu có được một tiếng động nhỏ. Ðã có khi gã mèo mướp nằm ngủ suốt đêm ở trên một đống củi. Ðấy là chỗ ra vào của lũ chuột ngày, cái lũ chuột con rất tinh ranh, hễ tha được một hột cơm nhỏ cũng chạy thọt ngay vào đó để nhấm nháp.

Mèo và chuột là đôi loài có thù không đội trời chung với nhau. Mèo ghét chuột quá, ghét kịch liệt. ý giả mèo ta tin rằng giống mình giỏi nhất thiên hạ; những tên chuột, tất cả lò nhà chuột, chỉ đáng đem thân làm nô lệ cho loài mèo thần thánh. Thế mà cái giống thấp hèn ấy không biết điều mà lại hay tắt mắt, táy máy, bặng nhặng làm nghịch mắt và rác tai bề trên.

Hai cái tai mèo mướp hơi động đậy. ấy là khi anh hết sức lắng nghe. Tai mèo mỏng tanh, gần soi bóng qua được, dỏng lên như chiếc tai lừa tý hon. Cái vòng tai rộng mở và loe ra. Chả trách gã nghe rõ lắm.

Gã khum hai chân trước xuống nhìn vào gầm đống củi. Rõ ràng gã trông thấy một chiếc đuôi nhỏ và dài thò lò dưới một mẩu gỗ. Ðúng cái đuôi chuột. Gã nép về một bên, thon người lại. Lúc này trông gã mèo quái ác dị thường, thoát hẳn cái dáng lừ đừ, hiền hậu hàng ngày. Y quời quời cái chân. Sau y biết làm thế hấp tấp quá. Phải chờ cho cái đuôi chuột lùi ra nữa mới được.

Lại có tiếng rúc rích ở trong. à có hai thằng chuột rửng mõ đang đùa nhau. Chúng nó hẳn đến ngày tận số. Ai đời chuột lại dám đánh đu ở miệng mèo!

Tuy cáu nhưng mèo cũng đủ kiên nhẫn để chờ cơ hội tốt đến. Trong kia, hai con chuột vô tình, vẫn đùa cợt vui vẻ. Nhiều lúc, có nhách lại chạy ra tận ngoài. Thò cái mõm nhọn ngửi xung quanh. Lộn tiết, gã mèo đã toan chộp, nhưng chuột lại ngay vào mất. Con mèo lại yên lặng, chịu khó ngồi rình.

Bóng tối chùm xuống mau nhẹ. Vừa với nhọ mặt người, bây giờ đã đêm hẳn. Ðêm nay là đêm rằm. Mặt trăng đã nhô tròn ở đầu đường. Một mảnh sáng nhờn nhợt in trước sân bếp. Trên nhà, người đã quẹt diêm để châm sáng đền cho trẻ học. Tiếng những đứa trẻ ra ao rửa chân, vừa đi vừa khua guốc lóc cóc.

Hai chú chuột ở trong gần đống củi hẳn thấy trời tối rồi thì muốn ra ngoài chơi lắm. Cái thằng mèo mướp ốm bệnh hen cò cửi qunh năm mà không chết ấy, bữa nay chắc đi chơi đâu vắng; nếu nó có nhà tất đã thấy nó rên gừ gừ ở trên đầu ông đầu rau. Chúng mình ra ngoài kia đùa một tí hoặc kiếm chác một cái gì ăn thì hay quá.

Hai cái đầu ló ra. Rồi hai gã chuột bước hẳn ra đống củi đi lần về phía bếp. Chúng vui vẻ cãi nhau choe choé.

Hai cái bóng bé nhỏ quá, chụm lại với nhau chưa bằng một ngón chân người lớn ta. Ðấy là hai con chuộc nhắt. Chuột nhắt bé hơn chuột chù. Nhưng nó nhanh và hoạt bát hơn nhiều. Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu - cứ vác cái mõm đã đủ mệt - đi đến đâu cũng rụt rụt, rè rè. Hễ hơi có cái gì đáng sợ là vội hốt hoảng chạy cuống lên, vãi cả đái và kêu rối rít. Ðã thế còn chậm và không biết leo tường, leo cột, chỉ luẩn quẩn sát mặt đất. Thật là một thứ chuột cùng dân, thấp kém nhất trong xã hội chuột. Vậy mà thiên hạ lại ưa thứ chuột đó. Không phải là ưa cái thân hôi hám của nó - chẳng đã có câu mỉa "Hôi như chuột chù" - nhưng người ta chỉ ưa có tiếng kêu "chuúc...chuuuúc...". Các cụ ta nói: " ấy chuột chù bảo: túc, túc, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài".

Và đây chỉ là hai con chuột nhắt. Thân chúng nhỏ nhắn, mõm chúng xinh xinh vừa phải. Về sự nhanh nhẹn, phải biết rằng nhờ ở cái thân hình bé bỏng, chúng leo vun vút, chúng chạy nhoăn nhoắt như có phép biến hoá.

Thoạt thấy bón đôi chuột lúi húi ra khỏi đống củi, gã mèo mướp mừng khấp khởi. Nhưng rồi chàng chán đớ ra ngay. Nó tưởng chuột chiếc to tát thế nào, chứ nếu biết chỉ là hai chuột nhắt tép ranh ấy thì nó đã bước từ nãy, không phải tốn công, tốn sức mà rình nấp vô ích. Mèo ta cũng khá đại lượng. Song thực cũng tại cái tính lười nhác cố hữu chả muốn cất đại công trình mà được chỉ có một tí ti kết quả đó thôi.

Nhưng đã thế này thì cứ bắt chơi. Hầy! Ðùa một mảy vậy. Nghĩ vậy, mèo ta co lưng lại để lấy thế rồi vươn hai chân ra chộp cả hai bóng đen ngọ nguậy ở trước mặt. Có tiếng kêu "chí...i...". Một con thoát được, còn một bị nắm lại. Mèo gầm gừ để thị uy và doạ dẫm. Chú chuột khốn nạn bị túm lại, nằm ngất trong hai bàn tay sắt đầy vuốt cong và sắc của ông mèo, y như cái cảnh rúm ró của chị cua nhà quê mà bị cụ ếch đại vương lấy một bàn tay mà vỗ vào vai.

Chú chuột nhắt bị mèo tha ra đến cửa bếp và được thả xuống đấy. Mèo không hề chú ý đến sự nhắm chú chuột nọ. Dễ thường chàng ta ví mình như một người anh hùng cái thế, có thèm sát hại lũ trẻ oắt bao giờ đâu! Sinh phúc cho chúng sống, còn hơn là túm lấy chúng mà nhai. Chưa bõ dính răng. Nhưng vốn mèo vẫn ác tính. Gã không ăn mà gã cũng không thả chuột ra. Cái mùi hôi ở lông chuột khiến cho gã mèo nhớ rằng thịt chuột ngon và loài chuột là loài đáng ghét lắm.

Mèo nhả chú chuột xuống đất, rồi ngồi ngây ra mà nhìn. Con vật khổ sở nằm co ro. Mèo ta đắc chí, lấy một chân vờn vờn vào mặt chuột. Bất tỉnh nhân sự từ nẫy giờ mới lại hoàn hồn, chuột khe khẽ thoi thóp thở. Mèo yên lặng, dáng ngẫm nghĩ. Gã không để ý đến chú chuột đương giương đôi mắt lồi như hai hột chàng ràng ra nhin gã. Chỉ ti hí mắt lương mà ranh thượng hạng.

Bỗng, thoáng một cái, chú chuột chạy vụt vào phía trong. Nhưng chàng mèo vẫn nhanh hơn. Chàng vươn tay ra. Lại chộp liền ngay lấy gáy chú nhỏ. Ôi chao! Chàng ta mới chộp cho chú nhỏ một cái nhá! Chú nhỏ kêu "chíi...chíi..." rầm cả lên.

Có lẽ nhân cuộc chạy trốn ấy, gã mèo bầy ra một trò chơi tiêu khiển qua thì giờ. Gã đem chuột ra chỗ ánh trăng, giả vờ để yên chú ra đấy. Rồi mèo yên lặng. Chú chuột sợ hãi không nhúc nhích.

Nhưng chính ra chuột vẫn rình mèo và mèo cũng lại rình chuột. Ðể hễ khác ý là chuột lại chuồn biến. Còn mèo, mèo cũng chỉ chờ chuột chạy là vồ ngay lấy. Gã mèo giương oai thả lỏng và chắc chắn chẳng khi nào chú chuột chạy thoát nổi đôi bàn chân nanh móng của gã.

Mà cũng thế thật. Chú chuột tưởng bác mèo hấc lờ, cứ xểnh một chút lại chạy. Có đến mươi lần. Nhưng cũng không lần nào khỏi bị tóm lại. Mỗi bận chuột động chân, mèo ta chỉ nhoi lên một tí, đã túm được dễ dàng. Mãi rồi con chuột hoá mệt lử. Nó chạy chậm dần và cuộc chơi cũng dần mất thú vị.

Khi đó, trong đống củi, bõng lại có tiếng rúc rích. Lại có tiếng lao xao của lũ chuột nào khác. Chả biết là chúng đùa nhau hay chúng định chơi cái lối chó cậy gần nhà, đứng trong ấy mà chửi đổng ra. Toan nhảy vào vồ cho chúng chết một mẻ, nhưng mèo vướng có con chuột tù binh ở dưới chân. Ðã thế, phải mắng cho chúng một trận mới được. Mèo liền gầm gừ, gầm gừ làm như sắp lăn ngay vào chiến tranh với những quan thù cỏ rác kia. Lũ chuột nhép câm ngay. Song chúng cũng không câm hẳn. Hễ mèo mà ngắt tiếng là chúng nó lại "chiií...." rầm rầm. Làm điệu như xỉ vả bác mèo.

Bực mình, mèo ta nhảy một bước. Chú chuột nhắt đang nằm yên như chết vụt vùng chạy. Mèo hoảng hốt thò dài chân ra, nắm lấy nó. Nhưng chỉ nắm hụt được bóng cái lưng của chú chuột in thoáng trên nền đất dài đầy ánh trăng. Hai mắt mèo long lanh, sáng quắc! Cũng không thể đủ sáng để chọc thủng bóng tối dầy ra, mà tìm thấy chú chuột nhắt tí hon.

Gã mèo sục vào đống củi. Giá gã đâm đến vỡ đầu ra cũng chẳng tóm được một nỡm chuột. Mà những tiếng chíi...chíi quái ác, rất khó chịu vẫn văng vẳng đâu hai bên lỗ tai.

Chàng mèo mướp - mà chàng nào cũng thế - không cố ý ăn thịt chuột nhắt bao giờ. Mèo chỉ bắt những con chuột tiểu yêu đó để đùa nghịch và để hả cơn cáu kỉnh; vì loài chuột nhép cứ bặng nhặng, rúc rích trong xó bếp, là chỗ nghỉ ngơi của mèo. Chính những con chuột lớn lại đứng đắn, không ầm ĩ đến thế. Chỉ vì bực mình mà mèo bắt chuột nhắt. Nhưng chú chuột nhỏ khôn ngoan vẫn hay chạy trốn được. Ðời đời, cái giống chuột nhắt tai quái cứ làm rức tai loài mèo.

Suốt đêm hôm đó, gã mèo mướp kia chỉ đi quanh đi quẩn để tìm, để lùng bắt chuột nhắt. Và có những đêm sau, hắn cũng đi tìm chuột, nhưng - vẫn khờ dại như thường - hắn chỉ tìm để đùa chơi một chút. Rồi nó có rông mất, hắn lại khó chịu, bực dọc, hậm hực mà đi lùng bắt những con khác. Cái loài chuột nhãi cứ làm ta rối đầu và ngứa mắt quá.

Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ luẩn quẩn đi o chuột.

CÂY MÍA ĐỎ

Nhà nào cũng gói bánh chưng hôm hăm bảy tết. Nồi thịt bò quấn lạt kho chín nục, đã treo lên cột chạn bếp rồi. Những chùm khánh đất trên cây nêu reo leng keng trong gió ngoài vườn.

Năm nào bà cũng đi buổi chợ tết cuối năm - có khi hăm chín bắt làm ba mươi, ngày áp Tết thật túi bụi, tất bật. Hầu như chẳng còn việc gì bận bịu đến chợ búa, bà vẫn đi phiên chợ tất niên. Bà đi với cháu. Thằng bé năm nay đã lên tám.

- Bé lon ton đi sắm Tết với bà. - Bà ơi? Bà lại đi mua cỗ ăn Tết à? Bà mua những gì nữa?

Bà nói:

- Không. Bà chỉ còn đi sắm gậy cho cụ. Đường xa mà mưa phùn lầy lội cả ngày thế này các cụ phải có gậy chống mới về kịp ăn cỗ tối ba mươi được Mai đã ba mươi rồi.

Hai bà cháu đã đi đến cây đa đầu làng. Mới hôm nào, giữa trưa nắng hè, những quả đa chín vàng rụng lộp độp, rơi cả xuống đầu. Nhưng không phải tự dưng có quả đa rơi đâu. Trên cao cao kia, những con chim bồ các đứng len lỏi rúc trong những đám lá đa tìm ăn quả đa chín. Thế mà gió bấc về lúc nào không biết. Cây đa cổ thụ kia đã trơ trọi cả lá chỉ còn nghe tiếng gió à à. Những con quạ phờ phạc trong hốc đa tung cánh bay ra thế là lại đến Tết.

Bà vào hàng mua mía ngay đầu chợ. Cô hàng mía chít khăn vuông kín mít chỉ còn thấy hai con mắt to hó, cô đã đặt gánh xuống hai bó mía. Cô cởi ra từng cây, dựng đứng ngoài tường. Những cây mía mỗi đốt đỏ lựu màu mận, trên ngọn để búp lại như cái bắp ngô xanh xanh. Rõ là cây mía thờ bán chợ Tết.

- Bà ơi? Bà mua mía làm gì?

- Đã bảo mà. Gậy của các cụ chống, các cụ về ăn Tết.

Bà chọn hai cây mía. Cô bán mía lấy cho bà lão hai cây mía mẫm hơn, rồi bó lại. Bà xách đuôi cho cháu vác ngọn mía. Cháu nghênh ngang đi trước. Cái chợ ồn ào đằng sau lưng như không còn gì.

Một quãng xa.

Đã lại về đến gốc đa, gió rét thổi ràn rạt. Chẳng biết vẫn con quạ ban nãy hay những con quạ rét quá vừa ngủ dậy, bấy giờ mới bay ra gió sởn cả lông lên. Bà cháu đã mau chân về đến nhà. Cái mâm chõng làm bàn thờ đã được kê bốn hòn gạch vồ đẩy lên cao. Trên mâm, bên cạnh ống hương, cái mâm bồng ngũ quả nhô ra nải chuối xanh. Nén hương đen dài khói lơ lửng khắp gian nhà cũng được bố thắp từ sáng sớm.

Cháu đã thuộc mọi việc bày bàn thờ Tết. Cháu vác hai cây mía ra chum nước rửa. Bà thắp một tuần hương nữa rồi xếp cây mía vào bức vách hai bên giường thờ.

Bà ngoảnh ra sân mưa phùn rồi bảo cháu: Các cụ phải đi nhanh mới về kịp giao thừa được chiều ba mươi rồi.

Cháu nhìn lên giường thờ, nói:

- Thế thì các cụ đã có cây mía làm gậy đây rồi.

Song nước đời thường

Năm đó bố tôi không bệnh tật gì mà chết, gọi là chết đói cũng được. làng đò dọc chuyên chở khách buôn và củ nâu từ chợ Phố xuống Vinh chết già một nửa. Những người chết đầu tiên trong các làng là thợ rèn, sau đó đến phiên những người đi đò dọc, trong khi những người này chết đói thì dân vạn chài ven sông Phố ăn cá nướng trừ bữa. Rồi đến họ cũng chết. Cuối cùng là nông dân. Cả một vùng ven sông Phố chết vãn người. Bến sông vắng ngắt. Chỉ có những con ngựa Nhật thả rong gậm cỏ. Chúng cũng bị giết thịt. Người ta biết chắc chắn là ăn thịt ngựa vào sẽ đi ỉa chảy mà chết ngay, nhưng dù có thế nào thì cũng có cái để cho vào mồm mà nhai cho đỡ cơn đói. Cho đến lúc không còn ai đủ sức cầm dao mổ ngựa nữa. Và những con ngựa Mãn Châu lính Nhật bỏ lại cũng tự chết, xác kềnh càng ven bờ sông không ai dòm ngó gì đến.

Vậy là chỉ còn mẹ tôi và tôi. Mẹ không còn sức lực gì, cứ thả "nốc" xuôi sông Phố. Không có tiền nộp để qua âu thuyền Bến Thủy vào thành phố Vinh, mẹ tôi cứ để thuyền trôi ra biển. Một ông vạn chài Cửa hội góa vợ, cột thuyền của chúng tôi vào thuyền của ông. Ông nuôi hai mẹ con tôi. Rồi ông lấy mẹ tôi làm lẽ. Cá không đánh được. Cả nhà lại đói. Bà vợ cả đánh ghen. Một hôm bố dượng bảo tôi: "Tao không có chi cho mi ăn nữa. Cũng không thịt mi trừ bữa được. Tao thả mi lên bờ rồi vô Vinh mà kiếm ăn. Ðừng cho mẹ mi biết. Nếu có chết đói thì nhớ phù hộ cho mẹ mi và cho tao!" Tôi “dạ" rồi lên bờ. ở Vinh thì khó chết đói hơn. Vì người đông như kiến. Mỗi người đánh rơi một hạt cơm cũng đủ nuôi được bao nhiêu người. Tôi vẫn sống. Cứ sống. Gan lì bươn chải đủ cách. Cách hay làm nhất là ăn xin. ¡n xin cũng có số. Có người xin được, có người không. Tôi thường được nặng bị hơn kẻ khác. Mới bảy tuổi, tôi nuôi một bà già. Bà thường bắt rận cho tôi, ăn với tôi những miếng bánh chưng dính đầy cát người ta đánh rơi xuống đất hay những vốc cơm thừa, hạt khô hạt nhão, hẩm trắng lẫn lộn, nồng nặc mùi bao dứa Sài Gòn. Rồi ở ga Vinh có những đoàn tàu chở người vào Nam đánh nhau với Tây. Tầu nam tiến. Tôi trốn lên toa chở than, đi đến đèo Cả, tức là hết đường tàu chạy thì thôi. Các anh bộ đội nhặt tôi về. Nhỏ con quá, biết làm gì bây giờ. Dù sao thì không bỏ tôi ở đâu được. Tôi trở thành "chú liên lạc" từ đó. Bộ đội ta đánh nhau một thời gian thì lên Tây nguyên. Các anh bộ đội gửi tôi về Bắc trên chuyến tàu hỏa cuối cùng. Nó khật khừ hàng chục ngày dọc đường như người ốm dở, chạy rồi ngừng, chạy, lại ngừng, tưởng chúng ngừng hẳn nhưng rồi lại chạy cho đến Ninh bình. Thì chết. Tôi đành xuống Ninh Bình. Ði ăn xin, chiều ra sông Ðáy tắm, tối lên chùa Non nước ngủ. Một ông chủ thuyền đinh thấy tôi bơi giỏi bảo tôi lên thuyền làm việc vặt cho ông. Thuyền ông buôn gạo, hái ra tiền. Suốt cả thời chống Pháp tôi là bạn sào, đứa ở và về sau là chồng cô con gái thứ hai của ông chủ. Người yêu của tôi tên là Hồng, đằm thắm, nở nang và rực lửa. Chúng tôi làm tình với nhau lần đầu tiên trong khoang thuyền, trong lúc ông chủ và những người khác lên phố xem hát. Năm ấy tôi bước vào tuổi hai mươi, lông mới mọc, ngứa ngáy suốt ngày.

Sau ngày giải phóng thuyền ông chủ tôi hợp đồng chở đá từ núi Cánh Diều lên Trung Hà rồi ngược sông Ðà, thả xuống chân kè Thái Bạt. Sau đó lại lùi theo sông Hồng, xuống Cố Ðô, bên này Việt trì, rồi Bồng Lai, Yên Cảnh, Thường Tín. Công việc dài như đê sông Hồng, làm quanh năm không hết.

Tôi không thể quên những ngày đó. Ngược nước, im gió. Chúng tôi buộc chão đay vào cọc chéo ở mũi kéo thuyền đi suốt ngày đêm. Tôi, Hồng, Ðến và Phải. Tất cả bốn đứa. Ðứa nào cũng xấp xỉ hai mươi, cũng như mọi thằng bạn sào, Ðến, Phải và tôi đều khỏe, da bóng như cái chày giã gạo gỗ lim, ngực cu gáy, vai lõm mấy đường do giây kéo thuyền đè lên. Cả hai đứa đều mê Hồng. Ðến thì mê thật. Còn Phải thì cứ nhìn cái mắt hau háu của hắn tôi cũng biết là hắn chỉ thèm Hồng. Hay là hắn yêu theo kiểu của hắn. Một con đực hẳn hoi. Chắc cả hai đứa chỉ mang máng có chuyện gì đó giữa tôi và Hồng chứ không biết cụ thể gì.

Sông Hồng bát ngát phía tay trái chúng tôi. Trời tháng bảy oi nồng. Nước lũ trung phục cuồn cuộn chảy, đỏ ngầu dưới ánh trăng. Những cây đại ngàn to lớn, cành lá xum xuê với những cái rễ một người ôm trôi lẫn xác người chết. Ca-nô Thuận Hưng đắm ở Việt Trì. Có những cái xác bị trói cánh khuỷu đàn ông và đàn bà. Chúng tôi rạp người về phía trước, gấp khúc lại, tay trái duỗi ra sau, đè lên dây chão. Chão cũng run bần bật. Hồng đứng đầu giây. Rồi đến tôi. Sau đó là Phải. Cuối là Ðến. Không một chút gió để căng buồm đã đành. Mà cũng không có gì làm mát nổi bốn tấm thân tắm trong mồ hôi của chúng tôi.

- Nghỉ! chờ gi...ó.gi...ó!

Từ dưới dòng sông rực sáng trong ánh trăng, tiếng ông chủ ngồi cầm lái gọi vọng lên bờ. Chúng tôi đang qua một chỗ dốc đứng. Nước xoáy sát bờ kéo theo từng đám bọt đen đúa, rều và rác nhớp nhúa. Thỉnh thoảng một miếng đất dễ đến nửa sào rơi ầm một cái xuống sông, cuốn theo đám cây mít già đời. Sông đang đổi dòng trong đêm.

Chúng tôi tu nước nước trong quả bầu mang theo. Cái chão cột vào gốc một cây si thỉnh thoảng run bắn lên như có ma quỷ nào giật.

Chúng tôi lấy áo lau mồ hôi, vo viên thành cục vứt xuống đất. Người cởi áo cuối cùng là Hồng. Chỉ còn một cái áo lót ba lỗ dệt riêng cho con gái trên người. ánh trăng chập chờn bờ sông. Cái áo lót mỏng như lẫn vào da thịt. Tôi hỏi Phải:

- Mày nhìn gì mà nhìn gớm thế?

Phải rời mắt khỏi chiếc áo lót của Hồng, lia sang tôi:

- Tao ngắm của Trời, mắc gì mày?

- Này, nói cho mà biết, còn giương mắt cá mương ra như thế nữa thì tao cho tròng đen bay ra khỏi mắt đấy.

Tôi cảm thấy giọng mình nặng chịch như đang khạc những hòn đá bay ra khỏi cổ.

Phải đứng dậy.

- Cái thằng đ... chịu, đừng nói láo! Mày đ... cái Hồng rồi, phải không? Khai đi con.

Tôi không nhìn thấy Hồng phản ứng gì trong ánh trăng. Nhưng tôi không thể để thằng chó dái này làm nhục hai đứa chúng tôi. Tôi thộp cổ Phải:

- Mày nhìn thấy tao đ... chịu bao giờ, thằng mặt dày không có phao câu kia?

- Thách hả, dân đò dọc xứ Nghệ?

Rồi nó bắt chước giọng tôi, nghêu ngao đắc chí:

- Trăng lên khỏi núi mui Rùa - Cho anh đụ chịu đến mùa trả khoai! Có phải thằng xứ Nghệ nào đó đụ chịu rồi đẻ ra mày không?

Tôi tống vào mặt thằng Phải một quả. Nó ôm mặt, không đấm lại. Rồi nó lết đến, quỳ xuống trước mặt Hồng:

- Em Hồng! nó lừa em còn anh thì yêu em! Em nói một tiếng anh đánh chết nó liền trước mặt em.

Hồng bảo nó:

- Xin lỗi người ta đi.

- Ðừng bắt anh làm thế. Anh gây với nó là vì em.

- Thì ra chỗ khác mà đánh nhau. Nhục lắm!

Phải đứng dậy, bước đến chỗ tôi:

- Có giỏi thì ra kia.

Tôi lầm lì bước tới đám đất trống. Cát trắng mờ mờ. Hồng vẫn ngồi yên, nhìn theo. Còn Ðến thì run như giẽ. Chúng tôi quần nhau một trận. Tôi thấy mình mạnh mẽ và nhanh nhẹn ghê gớm. Tôi không thể thua thằng này trước mặt Hồng. Tôi gập người húc cả cái đầu vào bụng thằng Phải. Nó ngã sóng soài xuống đám cát. Dưới sông có tiếng gọi:

- Ði thôi... ôi...

Tôi lấy tay và cả chiếc áo cộc lau máu trên mặt, bảo Hồng:

- Ðợi thằng này dậy cái đã.

- Cứ đi rồi nó theo sau cũng được - Hồng nói.

Phải bật ngồi dậy. Nó dụi mắt. Tôi không nhận ra khuôn mặt trước đây của nó nữa. Máu me và sưng vù. Nó lảo đảo đứng lên:

- Hồng ơi, em tệ lắm. Em định bỏ anh chết ở đây thật ư?

Chúng tôi lại cầm chặt sợi dây chão. Suốt đêm hôm đó chúng tôi kéo thuyền ngược hơn hai mươi cây số dọc sông Hồng. Phải không nói một lời. Hai hôm sau chúng tôi đến Bất Bạt giao đá cho công trường. Ông chủ ôm một bọc tướng về. Thằng Phải và tôi nhận tiền công. Tôi rủ nó đi ăn phở, quán phở thịt cầy mới dựng từ ngày có công trường thả kè. ¡n xong, Phải nói:

- Mày làm lành với tao hả? Có mỗi con Hồng mà hai đứa thì thừa quá. Tao đi đây. Chủ ca-nô An Sơn ở Hải phòng rủ tao làm cho ông ta. Tao chào mày, tha cho mày tội cái đêm mày định giết chết tao!

Tôi nói:

- Mày đi là phải.

Ông chủ biết chuyện chúng tôi khi Hồng có thai. Rồi ông cho chúng tôi cưới. Mười ba mâm mời các ông chủ và bạn sào các đoàn thuyền chở đá kè. Cả cán bộ công trường nữa. Ba tháng sau thì ông chết. Ðến thấy bơ vơ, sang thuyền khác làm chân sào. Hôm đi hắn khóc. Tôi biết Hồng đã lấy mất hồn thằng bé từ lâu. Lúc ra đi hắn chỉ nhìn Hồng như một con chó nhìn chủ khi mang ra chợ bán. Rồi lấy hết can đảm nó nói: "Chưa ngủ được với chị em ân hận suốt một đời". Ði. Hồng đẻ một đứa con trai nhưng không nuôi được. Chúng tôi buồn, bỏ đoàn thuyền chở đá kè, bán thuyền to mua thuyền bé xuôi ngược sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý tìm hàng lẻ để chở. Nhiều lần chở vật tư cho các công trình thủy lợi ven đê.

Rồi có tin là các thuyền phải vào hợp tác xã. Hồng bảo tôi:

- Không vào. Hai vợ chồng một cái thuyền vào ra gì!

Tôi nói:

- Cả nước người ta vào. Mình ở ngoài sao được.

Hồng nói:

- Cả nước vào, tôi không vào thì sao? Ðồ hèn!

Chúng tôi không đậu vào bến nào lâu. Bốc xong hàng là cho thuyền rong ruổi. Nhưng kiếm ăn rất khó khăn. Thuyền thì bé. Các cơ quan nhà nước ngại mướn thuyền cá thể. Vả lại, phải nói dối, phải trốn tránh nhiều. Nhưng liệu có trốn mãi được không? Suốt một giải lưu vực sông Hồng đâu cũng có tổ chức hợp tác, biết chạy vào đâu? Có lúc chúng tôi làm thuê cho một hãng ca-nô lớn ở Hải Phòng. Hãng này cũng đã vào công tư hợp doanh. Họ cột thuyền chúng tôi cùng với những chiếc khác kéo đi. Ði đâu, về đâu, chở hàng gì đều do họ quyết định. Chúng tôi chỉ lĩnh một số tiền còm, gọi là tiền công và tiền khấu hao. Ðược vài chuyến, Hồng bảo tôi:

- Tôi là chủ thuyền mà phải làm đầy tớ cho người ta. Nhục mà không ăn thua. Thôi đi!

Chúng tôi lại tách ra, lại chui lủi, đơn độc tìm khách hàng, bến đỗ. Rồi một đêm, phía dưới cầu Bo một đoạn, có tiếng súng bắn và tiếng ca-nô. Một chiếc thuyền căng buồm lướt qua chỗ chúng tôi gọi với sang: "Chạy đi! Ca-nô đi gom thuyền cá thể đấy!". Chúng tôi từng nếm cảnh này ở Nam Ðịnh rồi, mấy lần đều chạy thoát. Họ bắt được thì phải tịch thu sổ hành then. Cột thuyền vào một chỗ, bắt học tập chính trị, đến lúc chịu vào hợp tác xã mới thả ra. Hai vợ chồng kéo buồm. Gió Tây Nam thổi thuyền chúng tôi băng băng về phía cửa Trà Lý.

Tôi cầm lái. Hồng đứng đằng mũi. Chân trời trước mặt sáng bừng nhờ biển đang tới gần. Hồng vịn một tay vào cột buồm, mái tóc xõa trong gió trông như một nữ tướng trước hàng quân. Ðó là một ngwòi đàn bà khác biệt, có thể làm đàn ông mê mẩn vì những cái không đâu vào đâu và sau đó thì ngoan ngoãn trước cô ta như một con chó con. Nếu anh phản ứng lại vì danh dự của một thằng chồng thì ngay đêm hôm đó cô ta trở lại là một con mèo dịu dàng, quyến rũ, rồi bất thần vồ lấy anh như một con hổ cái lên cơn, nghiến ngấu anh trong vòng tay và những cơn bão dữ dội và ngọt ngào cho đến lúc anh lặng lẽ quy hàng trong một nỗi mệt mỏi đầy khoái trá mà anh không bao giờ quên được. Sau cái đêm anh bị đắm như một chiếc lá giữa dòng thác bấn loạn của cơn cớ yêu đương ấy, anh biết rằng anh mãi mãi là một con chó của cô ta. Tình cảnh đó kéo dài cho đến lúc anh thấy mình chỉ còn là một miếng giẻ, sức cùng lực kiệt, ý chí nhão nhoét. Tôi biết Hồng trong trắng. Tôi biết mình là người đàn ông duy nhất của Hồng. Vậy thì cái cơn bão dịu ngọt ấy đến từ đâu? Không phải từ kinh nghiệm của những người đàn bà trải đời. Từ sông nước và từ cuộc sống phóng túng tự do trên sông nước, từ cái đầu mù chữ và một dòng máu thủy thần chưa bị pha trộn. Một đêm, sau khi tôi đã thở hắt ra và con thuyền đã hết chòng chành. Hồng lặng lẽ vuốt tóc tôi rồi phá lên cười.

- Cười gì thế, con điên? - Tôi hỏi.

- Mới thế mà đã phờ râu ra. Thế mà gọi là trai xứ Nghệ. Này, trong quê anh có cái câu ấy thật à?

- Câu gì?

- Có phải mùa nào cũng chỉ có khoai là khoai phải không?

Tôi nhớ ra câu ca dao thằng Phải nói dạo nào.

- ừ, trên trời dưới khoai. Thuyền bố mẹ anh vẫn chở thuê khoai cho người ta đưa xuống tỉnh.

- Thế cái chuyện ấy có thật không? Cái chuyện ấy mà!

Nỗi ám ảnh dầy vò tôi. Bản thân tôi chưa hề nghe câu ca dao ấy. Tôi cũng chưa thấy ai phải nợ nhau về chuyện ấy bao giờ. Nhưng có một vùng đất cằn sỏi đá, mỗi năm ba tháng gió Lào rên rỉ, người và cây cối quắt queo tưởng đốt cháy được vậy mà cũng không có nơi nào hoa thơm cỏ ngọt bằng nơi ấy. Không có nơi nào con người dữ dội, tràn trề sức sống, yêu đương mãnh liệt bằng nơi ấy. Và câu ca dao ấy là có thật!

Tôi trở mình, kéo Hồng xuống ngực tôi. Tôi phải đuổi nỗi ám ảnh cho Hồng. Câu ca dao và thằng Phải! Tôi biết bằng giác quan thứ sáu của người chồng là Hồng vẫn chưa quên thằng Phải! Tôi vồ lấy Hồng, nghiến

ặt cho ông. Thuyền ông buôn gạo, hái ra tiền. Suốt cả thời chống Pháp tôi là bạn sào, đứa ở và về sau là chồng cô con gái thứ haín đã tàng ẩn trong máy móc vô tri ấy.

Tôi run tay. Có tiếng súng bắn chỉ thiên phía sau. Mũi thuyền nhẹ nhẹ hướng bờ. Tôi muốn đầu hàng.

Con thuyền không thể vượt qua được hai chiếc ca-nô. Một chiếc rẽ sóng bươn lên đón đầu. Có tiếng loa chát chúa: "Yêu cầu neo thuyền để kiểm tra. Yêu cầu neo thuyền kiểm tra!" Chiếc ca-nô vượt lên trước bỗng quay mũi lại.

Nó phăm phăm lao thẳng vào thuyền chúng tôi.

- Kéo lèo trái - tiếng Hồng hét phía sau lưng tôi.

Tôi làm theo. Cọc bánh lái trèo trẹo. Con thuyền gạt ngang nước, uống trọn một cơn gió giật, băm vào bờ trái. Tôi chưa kịp trở tay thì mũi thuyền đã húc cái ầm vào vỉa đá kè. Nước chảy ào ào vào khoang qua chỗ vỡ, con thuyền chúi mũi xuống đám đá. Hồng đã đứng sau tôi, vai khoác chiếc tay nải.

- Lên bờ chạy đi! Hồng nói.

- Còn thuyền?

- Kệ mẹ nó, quay lại vớt sau!

Chúng tôi nhảy đại lên bờ, đi vào một con đường đá giữa hai hàng tre rồi biến mất trong một cái ngõ. Phía sau tiếng ca-nô lặng dần.

Ðêm đó chúng tôi xin ngủ nhờ một gia đình nông dân. Sáng tinh mơ cả hai ra đường để xin đi nhờ một chiếc xe tải lên thị xã Thái Bình. Trong một cái quán đầu cầu Bo, Hồng mở tay nải lấy một xấp tiền, chia hai phần bằng nhau, rồi đưa cho tôi một phần. Hồng nói:

- Tôi không lận anh đồng xu nào. Còn cái thuyền kể ra anh cũng có phần nhưng tôi đánh đắm mất rồi, sau này có dịp tôi sẽ đền cho anh. Anh với tôi không hợp. Anh luôn muốn vào cũi còn tôi muốn tự do. Bây giờ mà ôm lấy nhau thì chết cả hai, nếu không thì cũng cắn nhau suốt ngày. Thuyền không còn nữa, anh đường anh, tôi đường tôi, chia tay bây giờ để giữ lấy cái tình, còn chút nghĩa nào cũng khỏi mất nốt.

Ngừng một lát, Hồng nói thêm:

- Nếu người ta không kéo mất thuyền, tôi sẽ quay lại vớt nó lên. Rồi tính sau.

Chúng tôi cùng ra bến ô tô. Hồng nhảy lên một chuyến xe chạy đường Nam Ðịnh. Còn tôi ra Hải Phòng ngay hôm đó.

Tôi chỉ lang thang mất ba ngày thì xin được vào làm ở một đoàn sà lan chạy đường sông. Lần đầu tiên tôi được lĩnh lương và tự thấy mình sung sướng vì ngoài công việc cực nhọc của một thủy thủ, tôi có cái ăn, cái mặc mà không phải lo nghĩ gì. Nhưng lòng tôi nhớ Hồng khôn nguôi. Thằng đàn ông nào mà lại quên được một cô vợ như thế?

Tôi gắng gượng sống, làm việc, tham gia mọi chuyện đời, kể cả chuyển dầu, súng đạn và lương thực dưới mưa bom bão đạn trong chiến tranh. Nhưng càng ngày tôi càng hiểu ra một điều mà lúc chia tay Hồng tôi chưa kịp nhận thấy: tôi sống mà không có Hồng thì cũng như là chết. Ngồi trên sà lan trong những chuyến đi dằng dặc với tốc độ lờ đờ, buồn tẻ, tôi thấy mình đã để lại cuộc đời ở đâu đó, một cuộc đời nhọc nhằn, cay đắng, nô lệ cho một người đàn bà. Nhưng nó là chính cuộc đời tôi, số phận an bài cho tôi. Tôi đã mất nó trong cái đêm nọ trên sông Trà Lý khi tay tôi run và ý chí tôi mềm nhũn. Và cái khoảng trống vô bờ bến Hồng để lại trong tôi không biết bao giờ mới khỏa lấp được. Tôi đúng hay Hồng đúng? Tôi tự hỏi mà không hề tìm câu trả lời. Bởi vì ai đúng hay sai thì cũng chẳng để làm gì. Ai đúng hay sai thì bây giờ tôi cũng không còn Hồng bên cạnh nữa.

Chúng tôi đi về, chuyến này đến chuyến khác. Chúng tôi tự vớt thủy lôi địch thả xuống để dọn đường mà đi. Chúng tôi còn bắc đại liên lên nóc ca-bin để bắn máy bay nữa. Ðoàn sà lan của tôi được thưởng huân chương. Thuyền trưởng về thành phố báo cáo. Tôi không biết anh ấy báo cáo những gì. Chỉ biết lúc trở về chúng tôi được chia kẹo và mỗi người được một cái khăn tay. Thuyền trưởng mở đài nghe suốt đêm người ta nói về mình, anh em thủy thủ trên các sà lan ca hát. Tôi ngồi nhìn họ, nghe họ, cũng như mọi chuyến đi khác, tôi làm như trâu lăn, làm những việc cực nhọc nhất, nguy hiểm nhất. Nhưng không nói một lời. Không ai biết tôi ôm mớ gì trong bụng, đang nhớ đến ai.

Thế rồi một đêm, trên sông Ruột Lợn. Chúng tôi chở than từ Hòn Gai về Hải Phòng. Chiến tranh đã kết thúc bảy năm rồi. Nhưng công việc thì vẫn thế. Sà lan trôi trong đêm yên tĩnh, tối mò. Ngoài tiếng xế dịp của chiếc tàu đẩy, tôi không còn nghe được gì hết, cả tiếng sóng vỗ bên mạn cũng không vì quen rồi. Ðâu đó ở chân trời phía cửa Nam Triệu những phao đèn nhấp nháy. Và Cảng vẽ một đường sáng xanh lè phía xa.

Tôi ngồi bên mạn sà lan nặng mớn, canh chừng cho thằng bạn sang tầu đẩy đánh bài. Trên tầu đẩy thuyền trưởng vừa đón được một cô điếm nghe nói dạt từ Sài Gòn ra. Tám Bính luân hồi. Không biết mấy ông mãnh đang làm gì với cô ta. Tôi dửng dưng và nguội lạnh.

Bỗng có một bàn tay trắng nhợt níu mạn sà lan cạnh chỗ tôi ngồi. Một người đàn ông đang quẫy dưới nước. Anh ta bơi đến từ phía sau nên tôi đã không nhìn thấy. Khi đã níu chắc được vào mạn sà lan, người đàn ông hổn hển nói:

- Cứu tôi mấy, anh!

Tôi kéo anh ta lên. Trên người y chỉ có mỗi chiếc quần đùi. Nước nhoang nhoáng chảy xuống chân, qua bộ ngực thủy thủ. Chưa kịp hỏi han, anh ta vội nói:

- Còn một người nữa!

Tôi bấm đèn pin xuống nước và nhìn thấy một sợi dây ni lông nơi tay người đàn ông. Một cái can nhựa to cột cạnh thân người đàn bà. Người đàn ông bậm môi kéo vội chiếc can và người đàn bà vào sát mạn rồi cúi xuống, ôm xốc lên.

- Chết thật rồi! anh ta nói, khuỵ xuống, hai tay chống lên mép thuyền.

Cùng lúc tôi nhận ra người đàn bà. Hồng! Hồng của tôi, người tôi đã đánh mất, đã tìm kiếm hàng chục năm trời mà không thấy. Và thằng Phải, chính nó. - Phải - Tôi như một con chó điên tru giữa đêm hè - Mày làm sao đến cơ sự này?

Tôi vồ lấy cái xác của Hồng lắc đầu, hà hơi vào miệng. Nhưng người đàn bà của tôi, bà chủ của tôi, cơn bão dịu dàng của tôi đã chết. Chết thật rồi. Tôi lặng đi, buông tay ra. Chiếc đèn pin rơi tõm xuống sông Ruột Lợn. Bao nhiêu năm nay có một ý nghĩ dày vò tôi nhưng tôi muốn giấu cả chính tôi nữa. Ðó là tôi luôn nghĩ rằng Hồng sẽ gặp được thằng Phải. Nhất định là như thế. Và tôi điên cuồng lên vì ghen tuông. Nhưng bây giờ tôi bình tĩnh nhìn Phải. Tuy đêm tối, tôi biết nó cũng đã già. Cũng như tôi đã già.

- Hồng bắt đưa thuyền và cả đứa con trai sang Hồng Kông. Nhưng giữa đường thuyền đâm phải cọc đáy. Bây giờ thì chết hết rồi. Chết cả rồi. Những mười hai mạng. Thằng con trai với chín người đi theo.

Lặng đi một lúc, Phải tiếp:

- Nó mười bảy tuổi rồi, Hồng bảo nó là con anh đấy.

Tôi cúi xuống Hồng: "Em ơi, bây giờ thì em không còn phải chạy trốn nữa". Tôi cởi nút sợi ni lông vứt xuống sông. Ðó là việc đầu tiên phải làm. Còn những việc khác?

Chín giờ sáng mai đoàn sà lan mới về đến bến nhà máy Xi măng.

NGƯỜI BẪY CHIM TRÊN NÚI CU KỲ

Cả làng gọi y là "thằng Lợi" dù y đã ba mươi. Giàu thì người ghen ghét, nghèo thì bị khinh bỉ. Lợi không bị ghen ghét vì y nghèo. Y cũng không bị khinh. Vì đi cà nhắc, tàn tật như y, mồ côi sớm như y mà sống đến từng này tuổi, tự làm nhà, tự kiếm sống được, ai dám khinh. Gọi y là "thằng Lợi" không phải vì ghen, vì khinh mà vì thương.

Lợi biết thế. Nhưng y không để ai thương hại. Cho nên khi nghe tin ông Binh Ðao rao bán cái sân bẫy chim nổi tiếng trên núi Cu Kỳ để mua thuyền câu mực, Lợi săn đón ngay. Y moi tiền để dành đưa đặt cọc, ba hôm sau bán đứt cái nhà rồi lên núi ở. Mặc dù trong cái làng Ngang nghèo đói ở Kỳ Anh có tới ba chục người sống bằng nghề bẫy chim cu kỳ, nhưng sáng đi tối về, chưa ai dám ở lại như thằng Lợi. Không ai biết cái nghề này đã có từ bao giờ, có lẽ từ ngày có ngọn núi. Hàng năm từ tháng Hai đến tháng Bảy, cu kỳ về từng đàn bay lượn sáng đến tối. Lợi biết nhiều người thèm cái sân bẫy chim lát đá trắng của ông Binh Ðao, thời xưa có người đã đòi đổi cho ông nội ông ta hai mẫu ruộng mà không được. Vì cái sân nhìn ra biển Thiên Cầm đẹp như mơ, vì một cái khe róc rách bên cạnh cái hang rộng cho người bẫy chim, vì ngọn gió đông nam vờn qua sườn dốc rồi thổi xuống sân chim, tấm lưới trở nên dịu dàng, quyến dũ, những con chim mồi kêu lên thiết tha... cái duyên ấy phải đổi bằng vàng. Sau khi lên núi và có sân bẫy của ông Binh Ðao, gặp Lợi mang tiền đi gửi ngân hàng, người ta vẫn một "thằng Lợi", hai "thằng Lợi" nhưng trong giọng nói đã bốc mùi ghen ghét.

Lợi biết thế. Nhưng y không quan tâm. Vì y ít khi về làng, ngoại trừ khi ông chú đang làm chủ tịch xã thỉnh thoảng nhắn nhe về ăn giỗ hay sai bảo y làm chuyện gì đó. Y dọn ổ trong hang đá, vài ngày một lần gánh hai lồng chim về các hiệu ăn, nhà nghỉ khu bãi tắm. Mới một mùa chim mà Lợi đã sởn sang ra trông thấy. Chỉ có hai cái không thay đổi, đó là cái hang và nỗi buồn cô đơn của y.

Bán ba mươi bảy con cu kỳ, Lợi nhét vào túi hơn năm trăm ngàn ở quầy thủ quỹ nhà nghỉ Hải Ðông. Y vứt luôn đòn tre và đôi lồng, bước ra vênh cái mặt và đôi mắt hiếng nhìn thằng Nông bảo vệ. Theo lệ, lần nào y cũng dúi vào tay thằng Nông một tờ giấy năm ngàn. Không có món lót tay thì giạt ra, đừng hòng qua cổng nhà nghỉ lớn nhất khu nghỉ mát này. Nông vồ tờ giấy bạc, thả luôn vào cổ áo, y có một cái túi như diều con bồ nông để giấu những thứ trấn được. "Em bảo cái này - Nông nói - có một con ve tuyệt cú mèo mới trôi về đây, chiến hữu có thử một cuốc mát xa không?" Lợi ngần ngừ, Ba mươi tuổi đầu, bao nhiêu lần y đã nằm mơ ngủ với o này o khác trong làng, nhiều lần y đã thử tán tỉnh, bờm xơm, sờ mó, nhưng chỉ nghe chửi tục và ăn đạp đau điếng người. Lúc đó y nhận ra mình chỉ là một thằng cà nhắc, xấu trai khốn khổ. Trong hang đá, y nằm mơ và các cô gái chỉ đến với y trong giấc mơ. Trong những cô gái ấy, thỉnh thoảng có bóng dáng những cô cave y nhìn thấy đi qua sân nhà nghỉ thơm phức đến làm y ngạt thở. "Hai con cu kỳ một suất mát xa - Thằng Nông lại nói - hai con cu kỳ là cái chó chi, thử cái cho biết" Lợi nói: "Nhưng tao ăn mặc thế này, vô trong đó răng được?" Thằng Nông cười phá lên: Ông anh cà nhắc chứ có hủi đi nữa mà có tiền cũng xong. Có những thằng trông còn hủi hơn ông anh nữa kia. Hai con cu kỳ mà được đấm bóp, nắn xương, mân mê, hai con cu kỳ..."

Lợi vào một cái buồng nhỏ, cửa sổ chăng màn. Y không chịu cởi quần dài, không phải y ngượng mà vì y còn dắt mấy trăm ngàn tiền bán chim trong túi. Cô cave tên là Phượng, người dỏng cao, hai đầu vú nhọn hoắt dô lên dưới áo. Người ngợm thì như một ngọn lửa trên bếp lửa, nhưng mặt mũi buồn thiu. Cô ta bắt Lợi cởi quần dài bằng được, Găng nhau mất toi mười lăm phút. Cuối cùng Lợi rút bọc tiền đút xuống dưới gối cho ăn chắc. Y lim dim mắt chờ. Trời ơi, cho đến nay chưa lần nào y được một bàn tay mềm mại, thân ái chạm vào người. Nhưng đôi bàn tay của con bé lạnh như nước đá. Nó nắn bả vai, xoa ngực y, bẻ mấy lóng xương ngón tay y kêu cục cục và chỉ có thế. Ba mươi phút nữa trôi qua. "Làm gì nữa đi... - Lợi nói và y nhớ lời thằng Nông - o tưởng tui chỉ có mấy cái ngón tay thôi à? Làm gì nữa đi!" Cô gái nhếch mép: "Sắp xong rồi, anh có thấy khoẻ khoắn hơn không?" Khoẻ khoắn? Y vào đây đâu chỉ muốn khoẻ khoắn, cái khoản đó y có thừa. Y vào đây là muốn được mệt. Y ngồi phắt dậy quát: Mất hai con cu kỳ vô đây để coi cái mặt hãm tài của o à?" Cô gái nói: Anh muốn chi? Lợi kéo cái đầu xinh xinh của cô ta lại sát mình: "Hun tui cái, tui chưa được đứa nào hun" Cô gái nói: "Anh có mùi gì hoi hoi, em không hôn anh đâu" Nghe giọng nói pha Bắc, bàn tay trắng lạnh, Lợi biết ngay cô ta là gái tỉnh thành. Y xuội đi trong một nỗi buồn thân phận, đúng là mình có mùi hoi của chim của bùn đất. "Thì cười lên cái coi, buồn chi mà như chó chết con rứa?" Cô gái cười. Nụ cười méo xệch. Thế rồi cô xuôi tay, ôm mặt. Bây giờ Lợi không thấy tiếc hai con cu kỳ nữa. Y mạnh bạo đưa tay vuốt tóc cô gái. "Thôi, tui mặc quần áo đây, coi như xong!" Cô cave ngước mắt nhìn y, hình như cô đang hối vì mình đã nói thật lòng. Quả thật cái mùi hoi hoi của ông khách làm cô muốn ói. "Lần sau anh lại đến nhé. Anh cứ đòi đích danh em. Em tên Phượng" Lợi nói: "Tui nỏ dại, mát xa mát gần chi mà chán. O khinh tui nhà quê không biết ăn chơi phải không?" Phượng nói: "Lần sau anh đến, em chiều anh". Nó chiều mình như thế nào nhỉ? Lợi ngẫm nghĩ, rồi nói: "Ba ngày nữa, tui đến bán cu kỳ, o đợi tui ở đám phi lao trước đền Tam Tang, được không?" Cô gái nhìn y ngạc nhiên: "Em không hứa, nhưng ra được thì em ra".

Lợi không ngủ được. Ðã có bao giờ y mất ngủ đâu? Từ ngoài biển, sóng theo thủy triều lên đập ầm ầm vào vách đá. Y không thấp thỏm như mọi đêm. Con nước cường, sóng to là những ngày chim về nhiều. Y chỉ nghĩ tới cô gái có tên là Phượng ở nhà nghỉ. Lần đầu tiên trong đời, y được đụng chạm vào một cô gái mà không bị chửi, không bị đạp, không bị rủa là gà què ăn quẩn cối xay. Bây giờ hồi lại y vẫn thấy nhớ những cái vuốt ve vờ vịt, lạnh lùng nhưng vẫn đang râm ran trên da thịt y. Khỉ thật, thì ra đàn bà họ cũng làm mình sung sướng. Y nhìn quanh quẩn cái hang, bộ ấm chén mẻ, mấy cái bát và ổ nằm lót cỏ khô. Y trở lại phòng mát xa mấy lần. Thằng Nông nói: "Ông nghiện thật rồi, ông phải thưởng cho tôi mới được". Thực ra mấy lần đó y mất tiền toi. Y không gặp được Phượng dù y đã nói với cô bán vé là y muốn cái cô Phượng cao cao nói giọng Bắc. Nhưng bước vào phòng chỉ là một cô gái khác. "Bọn em phải xếp lốt - cô gái nói - Phượng nó đi ca trước rồi" Y hết hứng liền, ra ngay, tiếc rẻ hai con cu kỳ. Người y mỗi ngày một xác đi. Bữa thứ mấy rồi, mất hết bao nhiêu con cu kỳ rồi, không nhớ, y mới gặp được Phượng. Y lại hẹn và dọa. "O không ra thì tui giết!" Nói thế nhưng y giết được ai. Trong đám phi lao, y vồ lấy Phượng, cái chân cà nhắc kêu một tiếng khục tưởng gãy. Phượng bảo phải trốn ra, thằng Nông thấy thì nó nhốt vào buồng mấy ngày, ăn cơm muối. "Không ai tin mồm mấy con cave như em. Nhưng em nói anh có tin không?" Y nói tin. Cô gái kể đã phải đi nạo thai hai lần với một thằng đo đường đã có vợ, một lần với một ông giáo, bố mẹ cô buôn bán bị giật, phải bán nhà bỏ trốn không biết di đâu. Ngồi bán hàng nước, rồi bạn rủ đi làm nhà hàng. Dạt vào thị xã, rồi chủ này đổi cho chủ kia để luôn có người mới. Nơi thì lạnh nhạt, nơi thì xót thương, bây giờ trôi dạt về đây. Hai năm cực nhọc, nhục nhã mà không để ra được đồng xu nào. Tại em xấu, cô nói, tính lại bướng nên ít khách. Tiền bo chỉ vừa đủ son phấn, quần áo. Y hỏi: bo là cái chi? Phượng nói một hồi y mới hiểu. Im lặng lúc lâu, thị hỏi y: anh cứu em ra khỏi đây có được không? Y thấy thương, nói: Chẳng phải anh em ruột rà, cứu sao được? Cô ôm lấy cổ y: em lấy anh làm chồng, được không? Y bảo: "Nhưng em đừng lừa tui. Người ta bảo mấy o cave là thợ lừa". Phượng xuôi tay, ôm mặt. Y kéo tay Phượng ra và những giọt nước mắt còn nóng hổi chảy qua kẽ ngón tay cô gái. Lòng ruột y đảo lộn cả lên. Y có cái tính xấu là không chịu được nước mắt đàn bà. Thấy họ khóc là y cũng muốn khóc luôn. "Ðược, để tôi lo" y hứa.

Chong mắt suốt đêm. Muốn quên nó đi cho nhẹ mình mà không được. Nó cứ luẩn quẩn trong đầu mình. Thằng Nông nói: ông đưa tôi hai trăm tôi cho con bé trốn khỏi đây với ông. Sau đó tôi không biết. Cũng chỉ mười lăm con cu kỳ. Lợi vét tiền đưa cho nó. Phượng về đây vào ban đêm. Không may là đêm đó có một cơn lốc có giông. Hai đứa ướt như chuột. Ðốt lửa lên sáng cả cái hang. "Ta cởi quần áo hè!" Lợi nói. "Anh ngủ với em rồi, anh có cưới em không?" Phượng hỏi. "ờ, để tui tính" Lợi nói, bần thần vuốt đôi vai trần của Phượng mà y thấy tuyệt đẹp. Hai hôm sau y đưa Phượng về quê chào ông chú đang làm chủ tịch xã, lại cũng muốn hỏi chuộc lại cái nhà. Trước sau cũng phải về làng thôi. Có thêm người, ở đây sao được. Bà thím quay mặt đi bĩu môi. Ông chú mời nước, kéo y ra vườn: "Tao nói mi biết, con ni là cave. Nó đã mát-xa cho tau một lần, hôm khánh thành trụ sở, bọn B chiêu đãi tau. Mi lấy nó răng được?". Y hỏi: "Chú đã mần chi nó chưa?" Chú y bảo: "Chưa, hôm ấy nó chỉ đấm bóp. Nhưng không tau thì thằng khác" Y đau trong ruột, bặm môi nói: "Nó chưa mần chi với chú là được. Còn thằng khác cháu không chấp! Lấy đĩ làm vợ còn hơn có vợ đi làm đĩ" Nói xong y thấy hối. Y vô tình nhưng chắc ông chú chạm nọc. Vì thím ấy, con đầu sắp lấy chồng mà hở ra là ngủ với người khác ngay. Người ta bảo ông chú là quan thị, hồi nhỏ bị chó đớp mất một đoạn may không chết. Hai đứa con, đứa đầu con một ông thầy cúng, đứa sau con một ông sư không biết thật hay giả mặc áo vàng đi khất thực qua làng ngủ nhờ mấy ngày. Sau thím ấy đặt vòng, lang chạ thoải mái nhất là với mấy ông giao thông hồi chiến tranh qua lại giải tỏa mặt đường. Nhưng không đẻ đứa nào nữa. Ông chú tát y một cái: "Mi xỏ lá, ý tứ chuyện nhà tau. Từ nay tao cấm cửa mi với con đĩ rạc của mi" Y ôm một bên má vô nhà, cả hai khăn gói tếch thẳng. Từ hôm đó y củng cố lại cái hang, hai đứa ở đây luôn, quyết trữ tiền chuộc lại cái nhà.

Chiều ấy tôi đi về Thiên Cầm với Phượng. Cô ấy đi bán cu kỳ ở khu nghỉ mát, nơi tôi đã thuê sẵn một phòng trước khi đi câu mực, nghe lời tán tỉnh của ông Binh Ðao, ông ấy nói như hát: "Vô núi Cu Kỳ để kỳ cu..." nghe thật bùi tai. Tôi mê mẩn với cái hang của Lợi, ông Binh Ðao đợi không được nhổ neo về trước. Ðành ngủ lại một đêm trong hang. Vợ chồng Lợi không có thuyền nên Phượng đưa tôi qua một hẽm núi, vòng về Cửa Nhượng rồi đi qua những cánh rừng phi lao bên bờ biển. Phượng gánh đôi lồng chim đi trước, tôi theo sau. "Hôm qua ông có ngủ được không?" - Phượng hỏi tôi khi chúng tôi ngồi nghỉ trên một thảm lá phi lao. Rừng chiều ẩm ướt và đơn côi. "Không" - tôi nói. "Em cũng thế. Ông nghĩ đến chuyện chi mà không ngủ" Tôi nói: "Lúc đầu thấy thằng Lợi khâu mắt mấy con chim mồi, tôi muốn tát cho nó một cái. Dã man quá. Nhưng nó cũng đã cứu được một con người" Phượng nói: "Em cũng như mấy con cu kỳ chết vì bạn. Ðúng là em đang nằm trong lưới thì anh ấy thả em ra" Tôi nói: "Nó bị đôi mắt lúng liếng của cô sập bẫy" Phượng nói: "Em không biết có phải thế không. Em cắn cỏ chịu ơn anh ấy suốt đời. Nhưng rồi em sẽ phải đi. Sống thế này không chịu nổi" Tôi ngạc nhiên: "Ði? Lợi yêu cô mà cô thì chịu ơn hắn? Cô sợ bà con của hắn sao?" Phượng nhìn ra khoảng trống của rừng cây. Phía xa là biển, hào phóng một cách hoảng hốt. "Em không quen được, ông ạ. Ngày nào em cũng phải nhìn thấy cảnh chăng lưới, chim mồi, rồi sập bẫy. Em hãi lắm. Trả xong món nợ cu kỳ, em sẽ rủ anh ấy đi. Anh ấy không đi thì em đi" Tôi hỏi: "Nợ cu kỳ?" Phượng đáp: "Vâng, thằng Nông bảo vệ vẫn dọa bắt em về vì em hợp đồng miệng với họ làm tiếp viên hai năm. Em có nhận một số tiền để may quần áo. Biết chúng em chẳng có gì, chúng nó xiết nợ ngày hai con cu kỳ, cho bằng hết mới thôi".

Tôi không nói gì. Tôi cũng không hỏi Phượng xem số tiền hai người còn nợ họ bao nhiêu. Hàng trăm năm nay, cu kỳ bay về núi này, biển này. Chỉ núi này, biển này mà thôi. Bay về để làm gì, không ai biết. Tên của chúng cũng là tên ngọn núi. Nhờ chim mà núi có tên hay đàn chim bí ẩn đã lấy tên của núi trong những cuộc bay hành hương tiền định? Những con cu kỳ, những con cu kỳ. Chúng đâu biết đang phải lấy mạng mình ra trả nợ từng con một cho những món nợ người?

PHƯỜNG SĂN

Hồng lĩnh vô gia huynh đệ tán

Bạch đầu đa hận tuế thời thiên

(Nguyễn Du)

Ðàn chó sủa vang đầu ngõ, mỗi con một phách. Nguyễn bừng tỉnh, ngẩn ngơ tiếc một giấc mơ. Chàng mơ thấy gì? chàng đang ân ái. Không phải với vợ, cũng chẳng phải với người cũ Thăng Long. Mà với chắt Ðiu, cô gái hát phường vải mới quen vài hôm trước. Chắt Ðiu kéo chàng đi, những đống rạ lù lù trên cánh đồng. Cô nàng rút rạ trải xuống đất, nằm xuống. ánh sao mờ tỏ, sương lạnh thấm qua đôi giầy nhung sờn của Nguyễn. Chàng ớn lạnh nhưng trước mặt chàng là cô gái đang nằm trên mớ rạ vừa trải xuống đất, cái váy lụa đen nhánh tốc lên hớ hênh dưới ánh sao. Nguyễn không đừng được. Cách đây ba hôm chàng đi sau chắt Ðiu, đã ngắm dáng đi ngoe nguẩy và bí ẩn của cô gái, đã tưởng tượng và thèm và khát.Chàng ngồi xuống đống rạ, cởi giầy. Ba mươi lăm tuổi, gầy yếu vì thiếu ăn nhưng chàng đâu đã già. Ðó là lần đầu tiên chàng buông thả. Ai chẳng buông thả sau mười năm ba đào lầm lạc? Muời năm khư khư lòng trung với một ông vua hèn đớn chịu nhận một chức tam phẩm của vua Tàu? Chàng đánh mất mười năm trẻ trung đời mình. Chàng phải lấy lại.

Nhưng cái can đảm buông mình đầu tiên ấy cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi. Chàng vừa tiếc vừa mừng vì may chỉ là một giấc mơ và mệt rã rời. Nguyễn đỏ mặt xấu hổ. Cái máu đa tình thì họ Nguyễn nhà chàng ai cũng có. Nhưng với ai kia, chứ chắt Ðiu thì... Dù chàng đã thèm, đã muốn cô ta, muốn được ngủ với cô ta không phải một lần. Nhưng thôi, soạn sửa đi với phường săn cái đã! Ðàn chó đang giục. Chúng nhặng xị cắn nhau chí choé. Cứ ba con chó là có chuyện cắn nhau - chàng nhận xét - cũng như hai thằng đàn ông đang yên lành mà có một người đàn bà xuất hiện là y như họ đánh nhau.

Ðợi Nguyễn ở ngoài ngõ tre là ba người đàn ông trong phường săn Hồng Lĩnh. Cháu Hối, nghĩa Hợp và chắt Khôn. Ba người ba tuổi nhưng đều lực lưỡng, da đen bóng, tóc đen bóng búi thành cục như nắm đấm. Trước đây cả ba đều là con cháu tá điền mấy đời của cha và ông chàng. Cháu Hối là con u dĩ, người bồng bế và chăm bẵm chàng hồi trứng nước. Còn nghĩa Hợp là con trai một ca kỹ được cha chàng tha từ Thăng Long về rồi gian díu sao đó mà đẻ ra Hợp. Tự Nguyễn cũng thấy anh ta hơi giống mình nhưng cả hai không nhận anh em. Hợp làm con nuôi của ông phó Ðại. Còn chắt Khôn? Anh ta có dòng máu thuần khiết nhất của một gia đình người Lào sống trên mái phía đông dãy Giăng Màn. Giữa trận lũ to, người làng vớt được anh ta trong một cái thúng, tám tuổi, chưa biết nói tiếng Kinh. Cháu Hối và nghĩa Hợp mang súng kíp. Chắt Khôn cầm tay một cái nõ. Bảy con chó đủ màu đen vện vàng vây quanh sủa nhức cả óc.

"Ông cậu! Trưa trật rồi, có đi không thì bảo anh em." Cháu Hối nói. Khi Nguyễn về làng, mọi người thấy rất khó xưng hô với chàng. Trước đây chàng là một ông quan võ, chức nhỏ thôi nhưng cũng là quan, về làng người ta gọi chàng là "ông cậu". Thân phận chàng vẫn le lói chút hào quang của một danh gia vọng tộc hết thời. Nguyễn xách ra một ngọn giáo, hỏi:

"Mang cái này, được chưa?". Nghĩa Hợp đưa tay vuốt cái lưỡi giáo sắc lẹm rồi nhanh như chớp phóng cái vèo. Ngọn giáo xuyên suốt cây chuối cạnh ngõ, cán run bần bật. "Ðược!" anh ta nói. "Chừ vô truông Hút săn nai. Chắt Huề bảo có một đàn tám con nai hương mới về." Y xăm xăm bước lên trước.

Vốn ít nói, Nguyễn lầm lũi đi sau ba tay phường săn. Họ qua ngôi nhà có dãy cột đá của ông anh thích xa hoa Nguyễn Khản, từng là Hiệp Trấn Sơn Tây. Ông bỏ tiền ra dựng nhà này ở quê, vừa ở, vừa để thờ, ông chưa ở ngày nào, nay hoang phế. Thật ra Nguyễn có quyền sửa dọn lại rồi đón vợ con ngoài Thái Bình về ở đó đến trọn đời. Nhưng chàng không muốn. Chàng không nghĩ là mình sẽ ôm ban thờ tổ tiên để chết ở đây. Núi Hồng, sông Lam, bến Giang Ðình. Dù chàng chưa thấy ở đâu sông núi đẹp như quê nhà. Như là chàng về đây chỉ để săn nai, săn lợn lòi. Chàng cùng phường săn tìm giết chúng, ăn thịt chúng. ở Bắc chàng bôn ba dựng lại triều Lê, xung khắc chí hướng với ông anh vợ vẫn bao dung chàng và vợ con, vào Nam đi tìm Chúa mới, không đội trời chung với ngụy triều, rốt cuộc tưởng rục xương trong ngục Tây Sơn. Mọi ngả đều là ngõ cụt. Như con nai bị dồn vào vách núi, chàng về quê tìm chốn nương thân, sống nhờ vào chút tô tức mấy mẫu đất cha ông để lại, đợi thời. Vậy mà trong thơ, chàng lại viết mình về quê để “làm bạn với hươu nai, giả khượt! Thực ra mộng gác vàng chưa hết vấn vương. Thơ với phú! Chỉ là thơ của một anh bất mãn! Tranh nhau làm đầy tớ vua mà không được làm thì quay ra chửi đời, rồi ghép vần mua vui. Nguyễn chua chát cười một mình. Người làng lạ về cái cười ấy, tưởng chàng điên. Không ai cười mỉm một mình như chàng.

Từng thi Tam trường, từng làm quan võ, Nguyễn không ngán ai trong phường săn. Họ cũng vì nể cốt cách của chàng. Chỉ có nghĩa Hợp thường bỗ bã quát tháo chàng lóng ngóng khi chàng sơ ý làm sổng mất con nai hay con lợn lòi. Y ngầm bảo: tớ hơn chú hai tuổi, tớ cũng từ cái sinh thực khí của ông tể tướng họ Nguyễn nhà ta mà ra. Vậy mà tớ mang phận chó mực! "Hây! đi săn mà chậm như rận bò mu l..rứa!" Y quát ông quan võ thất thế như mắng đầy tớ. Nguyễn mỉm cười cam chịu. Trong thâm tâm chàng tin những lời đồn và thông cảm với cái uất ức của giọt máu rơi ấy. Bề ngoài, Hợp rất giống chàng, giống cả quan Hiệp Trấn Nguyễn Khản, nghĩa là rất giống các ông anh. Ông anh cả Hiệp Trấn cũng chỉ lo cho chú em lạc đàn chức nghĩa để khỏi đi phu. Anh nghĩa chỉ nhỉnh hơn anh nhiêu ở chỗ được làng chia thêm một miếng mồng gà. Nhưng cả cái ân huệ mạt hạng ấy Hợp cũng không được hưởng. Tây Sơn coi chức sắc Lê triều như mớ giẻ lau, bắt lính bắt phu tuốt. Ðã ba lần Hợp đi phu tải gạo qua đèo Ngang tiếp lương cho quân lính Trần Quang Diệu vừa bỏ thành Quy nhơn kéo quân ra. Y hút chết vì thương hàn, kiết lỵ và tên bay đạn lạc, nếm đủ mọi điều tân khổ. Dưới mắt y số phận chàng còn may mắn chán. Y bất mãn, quát tháo chàng cho bõ hận đời.

Chốc lát phường săn đã mất hút vào đại ngàn núi Hống. Họ dừng chân suối Ma, một trảng cỏ gianh và rừng chuối. Hoa chuối đỏ như đuốc trên nền xanh lá cây. Nghĩa Hợp đi sau đàn chó, xua chúng sục sạo dưới lòng khe, dồn bầy thú chạy thục mạng vào các ngả đường mòn cho ba tay giáo đón lõng. Y dẫn chàng tới một mái núi có con đường mòn đầy vết chân nai, bảo: "Ông cậu đứng đây. Có con nào chạy qua thì lia một nhát cho nó ngọt như hồi sáng tui phóng vào cây chuối. Ði săn không như múa võ mô!". Rồi bỏ đi. Ðứa con hoang vừa đi phu về ăn nói với chàng như thế đó. Tại sao cha mình không nhận y? Lần đầu Nguyễn đặt câu hỏi ấy. Cha có ba người vợ, hai mươi mốt đứa con. Nhận thêm một đứa nữa thì ăn nhằm gì. Hồi đó cha được vời làm tể tướng, dân làng mở hội ba ngày ăn mừng cha từ Thăng Long về. Cha sợ mất uy tín vì đã làm một con hát phễnh bụng. Cha muốn làm thành hoàng. Cha muốn hiển thánh. Than ôi, khổ thay cho cái thói đa tình của vĩ nhân. Hình như Hồ xuân Hương có lần nói với mình thế. Chắc hẳn đó là chiêm nghiệm của một đời tài bạc mệnh.

Nàng đang ở đâu?

Xa vắng, hẫng hụt. Nguyễn thấy nhói trong lồng ngực. Ông bạn vong niên Huyền Hư Tử bảo chàng có hỏa nhập tim. Vốn là ngự y, khi biết mấy thứ cam thảo quế chi không chữa nổi bệnh trầm kha thời đại, trên đường sang Tàu ông vờ đi ỉa rồi bỏ trốn khỏi đoàn người "muôn dặm tòng vong" của Lê tự hoàng. Ông về quê gọt đầu đi tu tại ngôi chùa lợp cỏ do cha chàng dựng lên ở lưng chừng núi Hồng Lĩnh. Tự chàng cũng thấy trong ngực mình thường vẫn có một ngọn lửa đang cháy, không biết ngọn lửa ấy là cái gì mà hành hạ chàng như lửa hỏa ngục.

Nguyễn chờ nghĩa Hợp đi khuất sau đám rừng dổi. Chàng không cầm giáo đợi thú như y bảo mà ngồi bệt xuống cỏ. Chàng đói. Sáng ra chỉ mới kịp ăn một củ khoai chiêu với chè xanh. Ruột chàng nôn nao. Nhưng không phải chỉ vì đói. Chàng đã quen đói rét mười năm. Ngày mới về Hồng Lĩnh ăn thịt nai, chàng đi té re một trận tưởng chết, phải cáng lên chùa xin thuốc Huyền Hư. Ông bạn bảo: "Cái nhục hình Trời Phật trừng phạt bọn trọc phú và quan tham là bắt ăn uống như heo và xuất tinh vô tội vạ. Xa vợ, mất chức và đói là ba thang thuốc trường sinh của chú. Nhờ thế mà chú bế tinh, dưỡng khí và tồn thần." Chàng ngồi xuống vì cỏ dưới chân mời mọc, cỏ tranh cháy trong vụ gió Nam tháng bảy đang đâm chồi lên từ tro than, màu xanh rợn sườn núi. Sau này chàng sẽ viết cỏ non xanh rợn chân trời, thực ra cái quê Hà tĩnh bốn bề núi của chàng đâu có chân trời? Từ khắp nơi chỉ thấy dãy Giăng Màn xanh ngắt, bên kia là một xứ Lào bí ẩn. Cái chân trời này ở đâu ra? Văn chương hữu hạn là thế.

Những lá cỏ bị chàng dẫm nát dưới chân thơm hắc. Cách dăm nước bước là con đường mòn. Ðáng ra thì chàng phải nghe lời Nghĩa Hợp, nấp sau đám cây giẻ kia, thu mình lại như một con báo nham hiểm chờ bầy nai chạy qua. Rồi lia một mũi giáo thật ngọt. Nhưng dưới chân chàng là cỏ. Chàng không nỡ. Cỏ hiền lành, thấp mà không hèn, không ty tiện. Chàng nhớ những bãi bồi bên sông Luộc, sông Trà Lý, bến đò Tịnh Thủy mấy lần giặc giã đốt phá, phiên chợ chiều xơ xác, gương mặt người đàn bà nổi gân xanh nhìn chàng mời mua mấy bắp ngô. Chàng nghẹn không trả lời. Chàng đang đói và chẳng đủ tiền mua mấy cái bắp ngô kia. Từ hôm đó chàng quen vợ chồng ông tú Sinh Từ. Nhưng cuộc giao du với đám người khoa cử không làm chàng cao cả lên chút nào. Chàng nhìn rõ bản thân mình hơn mà thôi. Vì chàng cũng chính là họ, chàng còn nòi hơn họ nữa. Họ muốn gì, những kẻ trói gà không nổi ấy? Họ muốn người khác làm hộ tất cả những gì họ nghĩ ra trong đầu. Mà đầu họ thì thiên kinh vạn quyển, nhất dạ bách kế. Họ muốn dựng lại cả một triều vua mà không xa nổi cái tráp đựng mấy quyển sách nát. Họ tán dương mỹ nhân, sang sảng ngâm tương tư hoàng diệp lạc* của Lý Bạch mà không dám cất hộ cái váy đụp của vợ lúc trời mưa. Ngửi được mùi đỉnh chung, dù chỉ mới thoang thoảng trong không khí là họ hướng mũi tới liền. Tóm lại là họ hèn. Nhờ giao du với họ mà chàng thấy được mình chẳng khác gì họ mấy. Mấy ai dám ngồi chơi với cỏ.

Và bây giờ chàng đang ngồi trên cỏ. Dưới xa một chiếc xe trạm chạy trên đường thiên lý về phía Ðèo Ngang. Một đoàn binh lính giáo mác tua tủa đi sau mấy con ngựa chiến có người cưỡi. Họ đi đâu? Lính Tây Sơn từ thành Nghệ an vào hội sư với quân Trần Quang Diệu? Một triều đại ngắn ngủi sắp đổ nát. Những con người đi giết và để bị giết. Chẳng bao giờ biết được mình chỉ là đám quân cờ trong tay một kỳ thủ nát rượu và ngủ gục vì sắp thua. Cái khác là những quân cờ này biết ăn và cần ăn, cần mặc. Họ đi lính vì ở nhà thì chết đói, khác hẳn với hàng vạn tay gươm tụ tập dưới cờ cái ngày Nguyễn Huệ dừng lại chân thành Nghệ An trên đường ra Bắc đánh đuổi Tôn Sỹ Nghị và Lê tự hoàng. Hồi đó chàng đang trôi giạt ở Hưng Yên, Thái Bình, nôn nao với khí thế nuốt Ngưu Ðẩu đang dâng trên đất Nghệ, dòng máu võ quan kinh bang tế thế rạo rực trong tim. Chàng muốn rút gươm ra khỏi vỏ. Muốn giết giặc hoặc sẽ bị giặc giết. Nhưng chàng không thể. Không thể chống lại Tự Hoàng dù ơn vua lộc nước chỉ là một cái tú tài chưa xong! Chàng xin âm dương trước ban thờ cha. Cả ba lần hai đồng tiền đều nói với chàng: "Không!" Ðó là một mệnh lệnh dứt khoát từ nghĩa trung quân chảy trong huyết quản dòng họ Nguyễn của chàng? Hay là do hèn nhát? Hay là vì thơ đã nuốt mất đời chàng cùng với cây kiếm? Chàng đã không làm như Ngô Thời Nhiệm, như Phan Huy ích. Và hôm nay chàng đang ngồi với cỏ.

Trong đám chuối rừng dưới khe sâu tiếng Nghĩa Hợp suỵt chó ầm ĩ man dại. Bầy chó sủa gắt. Chừng như có lợn lòi. Chắc là lợn vì nếu nai thì chúng đã vọt lên từ lâu. Nai đẹp, thịt ngon nhưng không gan lỳ như lợn. Bọn thợ săn bảo chim với thú đẹp thì nhát. Chúng biết giữ tấm thân đáng giá ngàn vàng, đẹp và tài là sẽ khốn nạn vì tai ương. Lợn lòi thì khác, ranh ma, hung dữ, bị chó dồn chúng không bỏ chạy thục mạng mà cố tìm cách xông ngược trở lại, nếu cần thì xé xác cả thợ săn. Bố chắt Hối bị một con lợn độc tợp nát bắp chân mất máu mà chết. Chúng biết tỏng mưu mô của lũ người. Nghĩa Hợp đang xua chó cố dồn con lợn vọt qua những nơi có Nguyễn và bọn Chắt Khôn đón lõng. Thỉnh thoảng y rú lên trong cơn say máu. Tiếng lợn hộc trong lòng khe. Nguyễn ngồi dậy, đến nấp sau cây săng lẻ. Chàng nghe tim đập mạnh, cố bình tĩnh vuốt đi vuốt lại cái lưỡi mác lạnh và sắc. Tiếng người lẫn tiếng thú đã đến gần nguồn suối. Nguyễn đứng né bên con đường mòn, không được đối mặt con thú. Chàng sẵn sàng trong một thế võ để kịp phóng lưỡi mác trúng họng con thú vọt qua. Cho đến khi con lợn và chàng, một trong hai sẽ chết.

Nhưng tiếng chó xa dần. Con lợn đã vòng qua ngả khác hay lộn trở lại chân núi để thoát ra trảng cỏ? Nguyễn thở phào. Thực ra chàng không sợ nhưng thật bất đắc dĩ phải rời miếng cỏ tranh non và những suy tư đang làm chàng thích thú. Chàng cắm phập lưỡi giáo xuống đất.

“ Em chào ông! “. Nguyễn quay đầu. Chắt Ðiu đang đội một bó củi khô, những thanh củi loòng cháy nham nhở. Mặt Chắt Ðiu nhem nhuốc tro than dưới cái khăn mỏ quạ nâu sồng.

"O đi lấy củi xa rứa?" - Nguyễn nói, tự thấy cái giọng Nghệ của mình nó trọ trẹ, nó miễn cưỡng thế nào. Xa quê đã lâu, giọng chàng không nặng như người ta. Chàng đỏ mặt nhớ lại giấc mơ ái ân lúc tảng sáng.

Chắt Ðiu đặt bó củi xuống đất, ngồi lên, cởi khăn lau mồ hôi mặt. Nguyễn buồn cười thấy mặt cô nhem nhuốc hơn. Nhem nhuốc nhưng vẫn đẹp. Tự nhiên chàng hết thèm muốn, thay vào đó là một tình cảm hoàn toàn khác. Chàng lại đỏ mặt, giấc mơ vẫn không buông tha chàng.

"Bao giờ lại có đêm hát nữa, ông cậu?" - cô gái hỏi.

"Tôi cũng không biết. Bữa gặp o ở đám phường vải tôi tưởng o là con nhà quan." Nguyễn bảo.

"Ông cậu thì có!" - Chắt Ðiu nguýt một cái dài. "Em đi củi bán lấy tiền đong gạo. Răng mà em được sung sướng như ông cậu."

Nguyễn nhớ lại những ngày ở Thái Bình, cả nhà ông tú Sinh Từ và chàng châu đầu quanh nồi cháo rau má. Bát cháo nóng húp quanh, mùi rau má tháng giêng thơm nồng. Lúc đó chàng ăn không ngon, nghĩ đến lũ trẻ ở nhà. Chàng lên ông bà tú vay tiền, cả nhà không còn gì ăn. Không ngờ ông Tú cũng đói. Cái hèn kém của kẻ sĩ là hết gạo thì chạy rong, không dám vô rừng như chắt Ðiu! Không phải lần đầu chàng thấy mình thảm hại. Không phải lần đầu. Nhưng chàng đang mủi lòng nghĩ tới lúc cô gái mảnh dẻ, có giọng hát quyến rũ còng lưng dưới bó củi.

"Mẹ em mù, ông biết không, cứ vài ngày nhà em ăn hết hai gánh củi."

Mình phải quỳ xuống lạy cô ta mới phải - Nguyễn nghĩ thầm - Chàng nghĩ tới ông vua đang chầu chực xin ăn bên Tàu. Vậy mà, lần đó theo cha vào cung, mình đã quỳ lạy trước ông ấy! Mình đã mất mười năm vì cái gì? Vì cái gì? Chàng lại nhớ tới giấc mơ. Chàng muốn nói một lời sám hối, không sao gạt bỏ được sự xấu hổ vì đã có một giấc mơ bậy bạ đang giày vò chàng.

Tiếng chó, tiếng người la làm Nguyễn chợt tỉnh. Chàng chạy tới cây mác đang cắm trên đám cỏ cạnh gốc cây. Xẹt, ầm ầm, tiếng hộc hộc như sấm rền. Một con lợn độc to bằng con bê từ lòng khe vọt lên. Nó cúi đầu phóng như bay rồi biến mất sau đám cỏ tranh cao quá đầu người trước khi chàng rút được ngọn giáo lên. Bầy chó vừa sủa vừa tràn qua. Chúng không để ý gì đến Nguyễn và cô gái, đuổi theo con lợn.

Cuối cùng là Nghĩa Hợp. y mệt mỏi, mắt đỏ như máu, quần áo rách như xơ mướp, cây giáo dài cầm trong tay. Thấy Nguyễn nhìn mình vẻ hối lỗi như một chú lính không làm tròn phận sự trong quân ngũ, y đưa mắt nhìn khinh bỉ. Nhưng ngay lúc đó y nhìn thấy Chắt Ðiu. Nghĩa Hợp hét một tiếng rõ to, quát:

"Tít mắt với gái, để sổng mất con lợn! Ðồ..."

Rồi y phóng mũi giáo thẳng vào Nguyễn, như muốn ghim ông anh cùng cha khác mẹ vào gốc săng lẻ. Chắt Ðiu rú lên, ôm mặt. Nguyễn nằm rạp xuống đất tránh được.

Cụ cử Nguyễn Ðình Mai nói đã đọc được một cuốn gia phả không phải của họ Nguyễn Tiên Ðiền có chép lại chuyện này, ghi rằng, năm Nhâm Tuất tức Thế Tổ Gia Long nguyên niên Nguyễn Hầu suýt bị tổ phụ ta giết may mà thoát chết. "Tổ phụ ta" nói ở đây tức là Nghĩa Hợp. Qua tuổi trưởng thành, có người bàn ông nhận họ Nguyễn nhưng ông nhất định không nghe. Ông tự đặt cho mình một họ riêng, ở làng Tiên Ðiền chưa hề có là họ Ðoàn. Sau buổi săn hôm ấy ông nói với bố nuôi đi ăn hỏi Chắt Ðiu, rồi cưới vào tháng sáu, giữa mùa gió Lào. Con cháu đầy đàn, đời nọ nối đời kia, nay vẫn còn. Ông chết sau Nguyễn Du sáu năm, thời đó thì cũng gọi là thọ.

Ðó là buổi săn cuối cùng của Nguyễn ở núi Hồng. Chàng rời phường săn vì cứ mỗi lần nhìn thấy cây giáo là mồ hôi vã trán. Chàng thường lui tới ngôi chùa của Huyền Hư Tử. Ba năm sau chàng vào kinh theo lệnh vời của vua Gia Long.

Cũng thật may, nếu không thì Truyện Kiều chỉ còn là những giọt máu đầu ngọn giáo.

THUẾ GIƯỜNG

Một trong những sai lầm của ông có lẽ cưới phải một bà vợ hơi bị trẻ. Bà thua ông dễ đến mười hai tuổi. Ông cưới bà lụp chụp, tức tưởi sau chuyến tu nghiệp ở Ðức về với tiền nong, xe cộ, thùng hàng và cái bằng tiến sĩ ngôn ngữ học xênh xang. Bà cô già của ông, ở vậy một đời cô đơn để chăm chút cháu. Bà, người ơn, chỉ thị cho ông là đến lúc phải cưới một con vợ cho nó vun quén, giữ gìn mớ của nả ăn một đời không hết, cũng như chăm chút cơm canh đặng ông còn tiến lên nhiều nữa trên bước đường danh vọng đã bắt đầu thênh thang. Bà giới thiệu cho ông một cô hàng vải trong khu phố, "đẹp mê hồn", đúng là bọc trong nhung lụa vì cô bán buôn, bán lẻ những thứ đó. Cũng như những cuộc tình trời cho khác chủ yếu nhờ hoàn cảnh ngẫu nhiên, ông bị ngã nước sau khi xuống sân bay được mấy ngày. Với sự a tòng và giúp dập của bà cô, cô hàng vải ngày ngày chăm chút cháo lão cho ông trong bệnh viện. Khi ông lành bệnh thì rơm đã ngấu và Thượng Ðế quẳng vào một que diêm, lập tức lửa bùng cháy trong căn phòng nhỏ dành cho ông, giữa những kiện hàng chưa mở, xe Sim Son, áo lông Ðức và trên bàn là cái đíp-lôm đỏ chói. Ông không còn nhớ sự kiện trọng đại ấy diễn ra như thế nào. Bà cô và cô hàng vải đưa ông từ bệnh viện về sau những ngày hồi phục khá nhanh, bà bỗng biến đâu mất, điện lại bị cúp đột ngột (dạo đó tổ máy 1 của Sông Ðà chưa chạy), gió mùa đông bắc ào ào thổi tới thành ra phải đóng hết cửa, đất nước thì chưa đổi mới nên cả một bao diêm chỉ cháy được hai que, một que bị tắt ngay vì tay ông run rẩy, que kia thì cháy đủ để tìm thấy cái đèn dầu hỏa nhưng đó là que diêm cuối cùng. Lúc đó ông không nhìn thấy gì hết trong căn phòng tối om, tim ông đập loạn xạ. Rồi ông thấy lướt qua mình cái Ðẹp được bọc trong bộ quần áo mềm và thơm nức, hàm chứa quá nhiều ẩn ý. Ông ý thức được mình lúc đó là một thằng đàn ông mới cường tráng trở lại, liền vòng tay quờ một cái, thế là như ông chạm phải một quả mận đã chín mùi, quả mận rơi xuống trong căn phòng tối. Mọi việc sau đó xảy ra thế nào thì ông không nhớ nổi nữa. Chỉ biết là, mãi sau này, những lúc thấy mình quá bất hạnh trong cuộc hôn nhân không vừa ý, ông đổ cơn giận lên đầu Sở Ðiện Lực và Nhà máy Diêm.

Ông thực sự bất hạnh. Của cải mang từ Ðức về nhiều thứ, nhiều món, thùng này thùng kia, rất có ý nghĩa với ông và những người nghèo trong cơ quan, đường phố nhưng không còn đủ để gây được ấn tượng như lúc ban đầu đối với vợ ông nữa. Vì lấy chồng, chị đành phải rời sạp vải về vun quén của cải và chăm bẵm ông. Tất nhiên, dù là tiến sĩ, lương của ông lĩnh ở Viện đưa, chị tiêu vèo một cái như chiếc lá rơi, những khoản chi tiêu to lớn còn lại đều dựa vào các thứ mang nhãn hiệu Ðức. Khi những thứ này vơi đi và cạn kiệt thì chị phải sờ tới món dành dụm, bớt xén được của bà mẹ hồi bán vải. Chị không cho ông biết là chị có món tiền đó. Chị phải thủ chứ! Chị đâu phải là thứ dại trai hay dại chồng! Cái dại nhất của chị là dù ngồi sạp vải từ hồi còn thiếu nữ, chị vẫn ước lượng và đánh giá quá sai lệch mớ của cải ông mang về, cũng như đánh giá quá cao mảnh bằng của ông. Chị có yêu ông không? Có lẽ là có. Ðã mủi lòng khi ông ốm, hào hứng trước những triển vọng bà cô vẽ ra, xiêu xiêu vì lời nỉ non của mẹ, nhà ta có tiền rồi chỉ thiếu cái danh, cuối cùng đổ cái rụp vì chất lượng diêm nội hóa. Sau đêm ấy chị coi như mình đã có chồng, người chồng đó đã là ông!

Nhưng củi nào lửa ấy. ánh hào quang của đống của cải chóng phai mờ như những say đắm ban đầu của tình yêu do hiệu ứng hàng Ðức một thời. Chị trở lại là người bán vải sáng suốt, một số biện pháp mà các nhà làm ngân sách gọi là những biện pháp khắc kỷ tình thế. Gia sách này chính là nguồn gốc bất hạnh của ông.

Chị cắt món thuốc lá, rồi đến cà phê, sau đó giảm bớt các khoản chi tiêu hàng ngày. Vì sao ông lại cần hun khói và uống cà phê nhiều đến thế để thức gần trọn đêm viết những bài tiểu luận dài dằng dặc phân tích một câu nói chẳng hạn "Tôi buồn" hay "Tôi đói" là chứa mấy hàm ngôn và hiển ngôn! Còn bà cô thì đi lễ chùa cầu tự thằng cháu đích tôn nối dõi quá nhiều và tốn kém (chị vẫn không sao sinh đẻ được) trong khi chị biết không phải Phật giúp mà chỉ cần ông chăm chỉ và mạnh mẽ hơn trong việc chăn gối. Khoản đồ lễ, tiền xe và cúng đường tam bảo của bà cô phải bớt.

Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng giải pháp tình thế thì bao giờ cũng chỉ là tình thế, không thể duy trì lâu dài. Trước hết, chị là người chủ xướng triết thuyết tiết kiệm nhưng lại phá rào đầu tiên. Khi cả nhà, nghĩa là bà cô tốt bụng, nhà ngôn ngữ và chị mỗi người một góc ăn hết bát cơm chiên (có lúc không mỡ) của mình để ai làm việc nấy xong thì chị ra chợ vào hàng bún ốc lừng danh rất quen miệng hồi còn bán vải. Chị gọi bún, gọi ốc, xin thêm nước lèo, nước me, nước bỗng, rồi ớt, rồi rau rồi hành thút thít chén phủ phê đến mức phải chống hai tay lên đầu gối mới đứng dậy nổi. Chẳng có gì phải áy náy lương tâm, chị không ăn bằng tiền áo lông Ðức mà bằng tiền của chị góp nhặt được nhờ trí thông minh vô hạn của một cô hàng vải Hà thành. Hàng chục năm chị đo hụt của khách hàng mỗi khúc vải vài xăng-ti-mét thôi thì chị không sắm hạt xoàn mà chỉ ăn bún ốc là còn phúc đức chán. Còn ông, hãy để ông nhấm nháp hiển ngôn, hàm ngôn của ông thay cà phê còn bà cô thì cứ tự làm no bụng bằng kinh A-di-đà buổi sáng.

Tất nhiên những bí mật vụn vặt đó dần dà chẳng còn là bí mật nữa. Cái bụng mỡ và thân thể phốp pháp đã tố cáo chị trước bàn dân thiên hạ. Bà cô lo lắng cho sự nối dõi, nó xa nói gần đến "cây đu đủ đực nhà tôi", ông tiến sĩ Ðức quốc bắt đầu thấy uể oải vì ăn uống không được phủ phê như ngày mới về nước, ông không thể có phản ứng gì trước hành vi ăn uống thiếu gương mẫu của người cầm tay hòm chìa khóa là chị. Tuy thế, không ai bắt buộc ông phải giữ lòng tin và tình yêu đối với chị như trước đây. Cái béo tốt, cái phì nộn thường khó đi đôi cái mỹ miều, cái dễ thương cho nên đã có lúc ông thấy nhờm tởm trước cơ thể mầu mỡ của chị như nhà tu hành đạo cao đức trọng mà không may bị mời vào bữa cỗ thịt chó của phường tham ăn tục uống. Thay vì mùi mẫn chị, ông say mê khoa học ngôn ngữ. Ông lao vào viết báo để kiếm thêm tiền cà phê và nhân thể quảng bá cho dân chúng môn khoa học cao siêu dạy người ta từ ¡N có ba mươi hai nghĩa trong đó có nghĩa không ai ngờ như làm tình (ăn nằm) vân vân. Tất nhiên phản ứng ấy của ông đã gây ra hậu quả tiêu cực vì đương nhiên khoa học thường mâu thuẫn với ái tình. Ông thức đêm khi chị ngủ và chờ đợi, ông ngủ khi chị đi chơi ngồi lê đôi mách với hàng xóm. Cái cộng đồng nhỏ được gắn lại bằng hàng Ðức, bằng cấp Ðức trước đây trở nên lỏng lẻo vì không chỉ hết hàng, hết tiền, bằng cấp xếp xó mà còn vì thiếu cả tình yêu, nhất là tình dục. Tất nhiên tình trạng ấy dẫn tới sự phát triển không đồng đều của các thành viên. Chị thì mỗi ngày một phởn phơ, láng bóng, ông teo tóp, gầy còm, bà cô thưa đi lễ chùa hơn đến mức tạo ra được một tin đồn là do bà bị một ông sư phụ tình. Rốt cuộc chỉ ngôn ngữ học nước nhà và đạo Phật là bị thiệt.

Cho đến một ngày định mệnh, khi nền kinh tế mấp mé vực thẳm đến chỗ không còn cơm nguội để chiên buổi sáng nữa, chị ngủ dậy trưa, mặt phờ phạc vì suốt đêm thao thức bày mưu tính kế, bước tới cái bàn viết của ông, giật chiếc bút bi trong tay ông đặt lên bàn rồi nói với vẻ trang trọng:

- Anh Ðán, tôi muốn bàn với anh một việc. Từ ngày mai anh với cô ở nhà lo liệu, tôi đi buôn đường dài!

Anh ngớ ra, đang nghĩ xem câu nói xanh rờn này có hàm ngôn gì không thì chị đã nói xối xả:

- Anh biết rồi đấy, từ khi cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi chưa biết khổ là gì. Lấy anh tôi phải bỏ sạp vải. Bây giờ người ta cho mua bán thoải mái rồi, con Loan mới ra chỗ mẹ hơn một năm mà lên được Ðờ-rim. Thằng chồng nó chẳng có bằng cấp gì sất mà xây một lúc ba cái vila cho Tây thuê tháng. Người ta thị trường thì tôi cũng thị trường, tôi kém cạnh gì ai mà phải ngồi chết già ôm gỗ mục.

Ông mừng rơn. Kể ra mấy từ ôm gỗ mục đương nhiên là biểu tượng hai mặt có ẩn ý, rất không có lợi, nhưng ông cần quái gì mà chấp ngôn ngữ đàn bà. Cái cốt yếu là chị đi buôn đường dài, mở ra một sinh lộ cho cả nhà, dù là gỗ mục thì ông cũng phải thích thú được bao cấp để nghiên cứu khoa học và được xa cái Ðẹp phì nộn mà ông đã chán tới tận cổ. Ông nói với chị:

-Cái này thì tùy em. Nhưng...

Ông định cảnh báo mấy câu như mọi ông chồng khác vẫn làm trách nhiệm của mình để gìn giữ gia phong trong trường hợp vợ sắp đi xa. Nhưng ông không nói nữa, bởi vì ông vốn rụt rè và từ trước tới nay chưa hề nghi ngờ hay nghe dược tiếng tăm gì về mặt tiết hạnh của chị.

ở đây cần làm rõ điều này mà chẳng cần trí lực của một Sê-lếch Hôm. Khi một đôi vợ chồng không có con cái mà quan hệ lỏng lẻo tới mức tiền ai nấy tiêu, chăn ai nấy đắp thì trong trường hợp người vợ đi "buôn chuyến đường dài", các thống kê xã hội học tin cậy cho biết có đến 91% các bà không giữ được an toàn văn hóa. Chị ra đi đúng trong hoàn cảnh gia đình như vậy, đương nhiên là để tìm ra lối thoát cho mình về mặt kinh tế và thẩm mỹ. Sau này thực tế chứng minh chị thành công. Nhà đang túng, chị làm ra tiền. Là người đẹp bị bỏ rơi, chị được một hoàng tử đến ôm ấp, vuốt ve. Người đàn ông bạn buôn của chị cũng là một kẻ thông minh tuy ít học, trẻ hơn chồng chị năm tuổi, anh không biết từ ¡N có ba mươi hai nghĩa nhưng rất sành ăn và cái quan trọng hơn nhiều là anh tìm ra đủ tiền để thỏa mãn cái sành ăn đó của mình và của chị nữa. Hà Nội - Ðồng Ðăng có bao xa, đổ hàng vải xuống chợ Ninh Hiệp xong là chị về nhà với ông, với ngôn ngữ học, không quên mua nào lê, nào táo, nào tượng Phật, chuỗi hạt cho anh và bà cô, hào phóng khác thường về mặt tài chính, chị để lại cho hai cô cháu những món tiền lớn mỗi tuần, lớn đến mức ông khôi phục được món cà phê có thuốc lá buổi sáng và thuốc lá có cà phê buổi chiều. So với thời gian bán áo lông Ðức để tiêu pha thì thành quả của nền kinh tế thị trường thật tuyệt vời đối với gia cảnh ông. Cứ sau bảy ngày, nghĩa là vừa vặn một chuyến khứ hồi Hà Nội - Ðồng Ðăng, một kiện, làm luật nghi binh, đấu trí với các trạm thuế, đổ hàng, lại gom tiền, bắt mối... Ðoạn mềm mại nhất trong chuỗi xích khắc nghiệt đó là một ngày một đêm cùng người bạn buôn về nghỉ ngơi zui zẻ ở một khách sạn nhỏ tỉnh lẻ quanh Hà Nội, khi Bắc Ninh, khi Hải Dương, khi Hà Ðông, có lần ngay ở Gia Lâm.

Hoàn tất xong chương trình giải trí vừa đúng chiều thứ bảy, chị về nhà, đặt lê táo lên bàn thờ, đưa tiền cho ông, ngủ một đêm, sáng hôm sau gặp lại người bạn buôn - bạn tình ở nơi nào đó rồi lại lên tàu, lại mở đầu vòng quay huyền diệu mê ly khác. Sự có mặt hàng tuần của chị đưa lại sinh khí mới cho căn nhà vắng vẻ đang túng thiếu, ông nhờ có cà phê mà đẩy mạnh được nghiên cứu ngôn ngữ còn bà cô trở thành một trong những người cúng dường tam bảo hậu hĩnh nhất, cũng nhờ thế bà rửa được cái tiếng oan Thị Kính ngày nào. Mọi người, kể cả tôi nữa đều ca ngợi công ơn chị đối với đạo Phật và ngôn ngữ học nước nhà cũng như chắc mẩm rằng cái gia đình ấy đang trở lại hạnh phúc.

Nhưng nghĩ như thế là hơi bị nông cạn. Quả là cuộc sống vật chất được khởi sắc đã làm thay đổi trạng thái tinh thần của ông. Ðầu tiên, ông nhìn nhận chị bỗng có giá trị hơn là ông tưởng, té ra chị không chỉ là một người đàn bà đẹp, mũm mĩm mà còn đảm đang và tài ba, có thể gồng gánh lên vai cả một gia đình qua cơn nguy khốn. Chị vui vẻ, lịch sự và có phần yêu chiều ông hơn trước rất nhiều. Sự kính trọng được lấy lại cộng với sắc đẹp ở người vợ được phục hồi tất yếu là phải kéo theo sự hồi sinh của tình yêu. Cũng như chị, trong thời kỳ băng giá giữa hai vợ chồng, ông vẫn tự hỏi là khi cưới chị, ông có yêu chị không? Dạo đó ông không dứt khoát trả lời có, nhưng bây giờ thì ông thấy quả là có. Với tâm trạng đó, ông thấy cái béo tốt của chị là một diễm phúc trời ban cho thân thể gầy mòn của ông, đôi mắt lúng liếng của chị là cửa sổ một tâm hồn nồng nhiệt. Dù chưa một lần đi khám bác sĩ, ông tự nghĩ sở dĩ chị chưa mang bầu được với ông là do chính ông chứ không phải Trời Phật ghen ghét. Ông mong chị về nhà hàng giờ, hàng ngày, không phải vì món lê, táo Trung Quốc hay bọc tiền mà với sự mong mỏi của thằng đàn ông xa vợ, cái mà những nhà tâm lý học cao siêu ghi vào sách là hội chứng nhớ. Sự suy nghĩ nông cạn của chúng ta, dù quý độc giả là những người rất thông minh chính là chỗ này: chúng ta nhìn sự vật hơi tĩnh mà không tính đến sự thay đổi tình cảm rất lô-gích của ông. Chúng ta chỉ biết ông chán chị như người đời chán món cơm nếp nát chứ chúng ta không đoán nổi sự thay đổi thầm kín trong ông, một con đực mấy lâu ngủ quên vì hiểu lầm và bị hiểu lầm. Ông rạo rực, ông thèm khát, ông từng chán món cơm nếp, nhưng đó là khi ông no, còn bây giờ ông đang đói, thậm chí đói rã họng cả tuần lễ.

Theo lệ thường, chiều thứ bảy chị về. Chị xử sự như mọi người đàn bà ngoại tình nhưng đoan chính khác là không bao giờ họ vắng mặt vào chiều hay tối thứ bảy. Ðó là buổi tối thiêng liêng của những cặp vợ chồng bận bịu vì công việc cơ quan, vì đưa đón con cái học hành và tiếp khách suốt tuần. Những người vợ thích đùa khi ngồi lại với nhau thường gọi ngày thứ bảy là ngày nộp thuế tuần, họ coi trọng ngày đó như người Mỹ coi trọng ngày 15 tháng Tư là ngày đóng sổ thuế năm vậy. Tất nhiên đó chỉ là một cách nói để ám chỉ một đêm đóng thuế ngọt ngào. Chiều thứ bảy đầu tiên, mọi việc giữa ông và chị đều suôn sẻ tuy tẻ nhạt như trước đây. Tuần lễ thứ hai, thứ ba cũng thế. Nhưng...

Ðến chiều thứ bảy của tuần lễ thứ tư, chị lại về như lệ thường. Bà cô đã xong cơm nước, ông cắm bình nóng lạnh sẵn. Toa lét được bổ sung thêm một miếng CAMAY đầu đen. Về phần mình, ông tắm rửa từ chiều, tạm ngừng việc viết bài khai thông dân trí về ngôn ngữ, ngồi đọc cuốn sách tiếng Ðức trong đó tác giả ba hoa về khả năng vô tận của người đàn ông để củng cố lòng tin, nạp thêm hai cốc nhỏ rượu tắc kè, ông ngồi đợi chị với nỗi háo hức của người chồng nghèo nhưng sẵn sàng và chung thuỷ. Ông không hề biết là sáng hôm đó - đây là lần đầu tiên - sau khi đổ hàng, gom xong tiền ở chợ Ninh Hiệp, chị và người bạn buôn mới được đề bạt là người tình của chị hai ngày nay, đã nhảy ô tô buýt xuống Gia Lâm thuê một phòng ở khách sạn Trăng Tròn. Tuy là ngày đầu tiên sống với người tình nhưng chị cũng kịp thức giấc vào quãng bốn giờ chiều, tân trang lại những thứ nhàu nát, kể cả nụ cười, từ giã anh bạn buôn rồi lên xích lô về nhà chỉ cách khách sạn ba cây số đường chim bay. Ông cảm động vì sự đúng giờ của vợ, mềm lòng dưới những cử chỉ âu yếm từ phía người đàn bà mà ông vẫn tưởng là không còn biết âu yếm nữa.

Chị chăm chút gội đầu, tắm táp, mở máy sấy tóc xè xè, trong khi làm tất cả những việc ấy đầu óc chị vẫn lâng lâng những cảm giác lạ lùng ở căn phòng khách sạn, cái cảm giác mà không người ăn vụng nào không có. Ông sốt ruột nằm đợi chị trên giường. Khi đã khô tóc và thấm mệt (chắc quý độc giả đã hiểu vì sao chị lại thấm mệt), không có cách nào khác, đúng hơn, không có chỗ nào khác, chị đành bước vào phòng ngủ với ông. Nhưng trong khi giá trị của chị đang tăng vọt lên trong mắt ông thì, buồn thay, giá của ông lại hạ xuống kinh khủng trong mắt chị. Chị vẫn không dứt được hình ảnh người tình, cái cung cách anh điều quân khiển tướng để thoát được trạm thuế Ðồng Bành, cái uy nghi đầy vẻ hảo hán của anh khi anh đè bẹp yêu sách của bọn cửu vạn và cơn bão táp ngọt ngào trong căn phòng đầy đủ tiện nghi vừa mới qua trưa nay. Trước mắt chị, trên cái giường trải nệm nhưng cái nệm đã quá đát như người nằm trên đó, nhà ngôn ngữ học với bộ tứ chi dài ngoẵng mang hình chữ Y, chữ I thẽo thượt và lỏng lẻo. Có lần ông bảo: "Tất cả giá trị của tôi là ở trong đầu tôi". Vì chúng nằm trong đầu ông nên chị chưa bao giờ nhìn thấy chúng, đếm được chúng, trong khi chị đã tận hưởng cái giá trị trời cho đó ở bắp tay, bắp chân người bạn buôn, những tệ, những USD, những đồng trong cái ví da cá sấu của anh ấy. Và cách anh trả tiền mới tuyệt làm sao! Anh xòe mớ bạc mới như người đàn bà quý phái xòe cái quạt, người tài phán khách sạn chỉ việc tự đếm lấy đủ số. Chị uể oải nằm xuống cạnh ông và trong khi ông quýnh lên như một con rối trong tay thần Dục Vọng, chị khẽ đặt tay mình lên tay ông như để can ngăn và nói một câu cho đến tận bây giờ vẫn làm đau đầu các nhà ngôn ngữ học: "Tối nay thứ bảy, em mệt".

Giá như ông là một lò lửa thì gáo nước lạnh chị vừa dội xuống thừa sức làm nó tắt ngấm. Nhưng ông lại là một nhà khoa học, lửa của ông là lửa tình và như quý độc giả từng trải đã rõ, cái thứ lửa đó càng dội nước càng bùng lên. Ông vật lộn, van nài, cáu kỉnh cho đến lúc mọi thèm khát, hào hứng tắt ngấm mà vẫn không lay chuyển được tảng băng giá mệt mỏi trên giường. Ông đành ngồi dậy, đến bàn làm việc hút thuốc, suy nghĩ và cầu cứu ngôn ngữ học, mong có cơ may phanh phui, phát hiện cái mới trong câu nói xanh rờn của chị đó. "Tối nay thứ bảy, em mệt!". Câu này rõ ràng có một hiển ngôn, đó là cô ấy mệt thật, cái mệt thuộc về thực thể sinh vật. Nhưng hàm ngôn của câu nói ấy là gì? Với tư cách người chồng lại chuyên về ngôn ngữ, ông phải tìm ra bằng được. Theo Descartes, với những khái niệm thuần tuý cổ điển, thì câu nói này ít nhất có ba hàm ngôn. Một, "còn chậu đồ vừa thay ra đó, anh giặt hộ em, anh yêu". Hai, "sáng mai chúng mình không nấu nướng như ngày chủ nhật trước mà đi ăn tiệm". Ba, có thể đây là hàm ngôn chính: "Ðêm nay anh đừng...". Ông vò đầu. Tư duy của nhà khai sáng Pháp không thể chối cãi. Nhưng tại sao có thể như thế cơ chứ? Trả lời câu hỏi này của ông là một chuyện hiểm hóc. Hiểm hóc như cái nút trong đền thờ thần Dớt ở Gordon mà một sấm truyền cho biết ai mở được nó sẽ làm vua châu á. Tìm ra hàm ngôn này ông sẽ làm chủ được chị, ông sẽ trở lại ngai vàng đêm nay. Ông cáu giận, xin độc giả cảm thông, ai mà không cáu giận trong hoàn cảnh éo le như thế cơ chứ? Rồi, như Alexandre Ðại Ðế - người không thèm mở mà chặt phăng cái nút ở Gordon bằng một nhát kiếm coi khinh thần linh, ông gầm lên như một gã vũ phu: "Thì cô cũng phải đóng thuế cho tôi chứ!". Lại xin độc giả lượng thứ, ai mà không vũ phu trong hoàn cảnh éo le như ông?

Hình như chỉ chờ có thế, chị gập người ngồi dậy. Và chị xỉa xói như cái vòi nước rửa xe mà chúng ta vẫn thấy trên vỉa hè:

- Tôi nói cho anh biết, anh đừng có giở cái giọng ấy ra. Vậy anh không biết những đồng những cắc mà tôi mang về cái nhà này là nhờ trốn thuế à? Nhà nước còn chưa thu nổi thuế tôi huống gì anh!

Tuy giận đến điên người nhưng ông hiểu ngay rằng, trong những ngày trước mắt, có thể những năm trước mắt, khi ngôn ngữ học chưa trở thành món ăn của quảng đại quần chúng thì ông vẫn chưa thể có cách nào làm ra chừng ấy số tiền như số tiền chị vẫn đưa hàng tuần cho ông. Và như một quả táo xanh lại một cách miễn cưỡng, ông cười nhạt một cái rồi nằm xuống bên chị. "Ông bất cần!", ông khịt khịt khinh bỉ, ngụ ý như thế.

Vì vẫn không có cách gì làm ra tiền, ông đành chịu trong cảnh "cám treo heo đói" như thế trong hai năm. Chị vẫn về nhà đều đặn hàng tuần như những người đoan chính khác. Cả khu phố - tất nhiên trừ những độc giả quý mến đã đọc truyện này - thì vẫn nghĩ là vợ chồng ông tràn trề hạnh phúc. Cho đến một hôm, số phận đã mỉm cười với ông. Trong trận chung kết Mondial vừa qua, nhờ lây sở thích ham mê bóng đá ở người tình, chị đưa bóng đá lên giường. Trong không khí cực kỳ vui vẻ, chị thách ông cá độ. Chị hào phóng hứa sẽ nộp thuế cho ông nếu ông thắng. Ông mừng rơn, bắt ngay Braxin trong khi chị sùng bái và gửi gấm lòng tin vào những cầu thủ ý to con và đẹp mã. Như ta đã biết, ông thắng. Chị giữ lời hứa một cách nghiêm chỉnh, nghĩa là nộp thuế cho ông, tuy vậy chị không lấy gì làm thú vị vì đã trót hứa với người tình chỉ làm chuyện đó sau khi anh ta chết mà anh ta lại trẻ hơn ông đến năm tuổi.

Sau ngày vàng son của trận chung kết Mondial, ông lại vẫn chưa làm ra tiền và vẫn phải sống trong cảnh "cám treo heo đói". Dù ông đã từng buôn lậu bên Ðức nhưng giờ đây, tận trong tâm khảm, ông chân thành căm thù những người trốn thuế.

Ông ngóng chờ Paris. Chắc đến năm 1998, ông vẫn chưa già bao nhiêu. Nhưng liệu chị còn mê bóng đá và ham cá độ nữa không?ă

ĐI ĐÊM

Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân

(Trên con đường cũ, gió lạnh thổi cả vào một người)

(Nguyễn Du)

Ðêm từ sông La tràn lên cánh đồng nhưng trên đỉnh núi Hồng Lĩnh vẫn còn một khoảng sáng. Từ ngày về quê, Nguyễn đã nhiều lần ngắm núi. Lần nào chàng cũng nhìn thấy một khoảng rừng thưa và sáng, không có cây mà chỉ có cỏ. Một làn sương mỏng bao quanh, khí núi bốc lên ngùn ngụt. Thân phụ chàng một lần đưa chàng về làng, nói với con trai: "Chỉ những thằng ngu mới không biết cúi đầu trước núi ".

Chàng đang cúi đầu trước núi Hồng Lĩnh. Trên lưng chừng núi, người bạn thơ, bạn rượu của chàng là hoà thượng Huyền hư tử có lẽ đang chờ chàng. Ðêm nay cũng như mọi đêm. Trong ngôi chùa lưng núi chỉ có nhà sư và con chó đốm. Nó bỏ một cuộc săn, ở lại chùa không về làng với chủ cũ nữa. Huyền hư không tin là nó muốn đi tu dù ông nói với Nguyễn là nếu biết đường tu thì con chó cũng có thể thành Phật. Con đốm chán đời. Chán săn đuổi và ngốn ngấu thịt sống khi ngoạm được vào mông con lợn rừng hay con nai, tận hưởng dòng máu ấm và ngọt trôi xuống họng trong tiếng la hò thất thanh của phường săn. Nó quen chàng nhưng bao giờ cũng nhìn chàng bằng đôi mắt cảnh giác như chàng chưa đủ tư cách mon men đến mảnh đất thoát tục của nó và chủ nó.

Thực ra chàng đang có tâm trạng chán chường nên mất tự tin mỗi lần đặt chân vào con đường mòn dốc đứng dẫn tới ngôi chùa. Mười năm lầm lạc, mình không hơn gì một tên vô lại. Không nuôi nổi vợ con. Không nên cơm cháo gì trong cuộc phục hưng một vương triều mà cái gốc đã trốc. Ðã hơn một tuần trăng chàng không lên núi. Chàng nhớ tới đôi mắt của con Ðốm nhìn mình mà ngần ngại. Nhưng đêm đã xuống, bóng tối đậm đặc vây chặt ngôi nhà làm những cột đá xanh thành mầu đen thẫm. Chàng thấy bơ vơ. Anh em mỗi người một ngả. Vợ con vứt ở góc trời chưa đón về được mà cũng không biết đến bao giờ mới đón về được. Không thể ngồi trong nhà dưới ánh sáng đĩa đèn dầu lạc và tự ngâm ngợi những câu thơ chán chường làm hồi còn nương thân trong nhà ông anh vợ ở Thái Bình.

Lão Tân ho trong bếp. Người lão bộc ấy vẫn trông coi những thứ còn sót lại của một danh gia vọng tộc giàu có nay đã thành tay trắng. Thóc lúa, tiền tài không mà danh vọng cũng không. Lão ở lại đây với chàng chỉ vì chút nghĩa cũ. Mấy mẫu ruộng hương hoả cho người ta cày rẽ không nuôi nổi lão trước đây, nay lại thêm chàng nữa. Thật tội cho lão quá. Chàng chỉ lo lão hiểu lầm tưởng chàng về đây để chia sớt với lão mấy mẫu ruộng cho cày rẽ, không còn nuôi nổi ai. Nhưng không về làng thì Nguyễn biết đi đâu? Hôm chàng mới về ông lão bộc bảo: "Có cậu về con thấy vững dạ lắm. Một mình con giữa lũ vô ơn, con chỉ lo thất thố với hương hồn cụ nhà '. Chàng biết giậu đổ thì bìm leo, có một anh tá điền đã ngang nhiên đái vào cánh cổng nhà thờ họ Nguyễn trong ngày giỗ trọng khi lão bộc không cho anh ta vào ăn cỗ. Chàng nói để ông lão bộc yên tâm: 'Tôi thì cũng như rơi vào giỏ giam [1], bị kẹp bốn bề. Ðược về nhà ở với lão đã là may lắm!"

- Cậu ơi, cậu đi ngủ chưa để con còn cài cửa. - người lão bộc dưới bếp đi lên hỏi - Hay là con đốt ít trầm để cậu làm thơ?

Nguyễn bỗng dưng ngửi thấy mùi trầm ngào ngạt tuy chàng biết ông lão đã đốt trầm đâu. Chàng hỏi:

- Sao? vẫn còn trầm cơ à?

- Dạ vâng. Con cất được một ít cho ngày giỗ cụ.

- Thôi - Nguyễn nói, chàng nẩy ra ý định lên chùa thăm Huyền hư tử - hay là lão cho tôi một nhúm, được không?

Ông lão đưa cho chàng một nhúm trầm. Chàng mặc vào người tấm áo kép, khoác áo lương xanh bên ngoài, đội lên đầu chiếc khăn nhiễu Tam Giang đã sờn mép. Lão bộc hỏi:

- Cậu định đi đâu giữa đêm hôm thế này?

- Tôi lên chùa thăm "ông già". Lão cứ đóng cửa ngõ tử tế, đừng chờ tôi.

Ông lão nhìn chàng như nhìn đứa con trai thơ dại sắp xông pha vào mưa gió.

- Ðể tôi lấy cà-boong cho cậu.

Ông quay xuống bếp cầm lên cây cà-boong đã châm lửa. Khói nhựa trám tràn ngập mấy gian nhà gỗ, vờn quanh hàng cột lim đã mấy đời. Ông lão nhìn chàng thư sinh cạnh chiếc cột, nhớ lại một thời, lửa cháy trong sân dinh thự mênh mông, những con bê thui nằm vắt vẻo trên giá gỗ chờ xả thịt để chia phần. Ðó là ngày cụ quận hồi hương khao bà con, rượu thịt ăn no nê, có hai người chết vì bội thực. Bây giờ thì hương lạnh khói tàn, trẻ con ngồi trên lưng trâu diễu qua cổng đá ngêu ngao hát ghẹo cảnh con vua đi quét chùa. Không biết ai bày cho mà một lũ mới nứt mắt đã biết châm chọc ông quan võ thất thế về làng. Lão biết cậu Nguyễn không chấp nhặt nhưng chắc cậu buồn lắm. Chỉ sợ cậu ấy phẫn chí. Lão thường không ngủ, dỏng tai nghe động tĩnh nhà trên, theo dõi từng bước chân cậu chủ. Nhà này đã có hai người đàn ông phẫn chí treo cổ lên cây xà ngang.

Nguyễn bước xuống sân, dụi tàn đuốc vào mấy bậc tam cấp, chợt nhớ ra điều gì, quay lại ông lão bộc đang co ro chờ đóng cổng:

- Ông tổng Tích có lại thì bảo tôi không đi Châu Phố với ông ấy vào ngày mai nữa. Lão nói hộ thế nhé!

Nguyễn quay ra cổng, phăm phăm đi vào bóng đêm. Chàng tự thấy mình đã xử sự đúng. Ông cựu chánh tổng là một người đáng trọng vốn trước đây có kết thân với quan Hiệp Trấn, anh cả chàng. Nghe tin chàng từ Bắc về, ông mừng lắm, đến thăm ngay, lại còn xách tay một con gà trống nữa. Ông hỏi chuyện Bắc Hà, nói với chàng chí hướng nối lại dòng vua đã tuyệt. Chàng nghe ông, thấy ông hăng hái mà lặng đi vì buồn. Giá như ông biết được mười năm trước đây chàng cũng hăng hái không kém gì ông. Chàng cũng muốn vá trời lấp bể như ông, cũng muốn dựng lại một triều vua, kinh bang tế thế, phỉ chí vẫy vùng, về già thì đọc sách ngâm thơ, chết được lưu danh sử sách. Chàng đã muốn và đã làm. Nhưng ba mươi tuổi chàng về quê với mái đầu bạc trắng. Ông tổng Tích là người có học, từng đỗ tú tài, quân Tây Sơn ra Bắc Hà, ông ngược lên Lào định đưa vợ con sang ở bên đó luôn. Nhưng không ăn được cơm nếp, ông lại về. Lũ chó săn của vua mới quấy nhiễu, hạch sách, ông lên nguồn sông Phố lập trại gần chùa Hầm Hầm, nơi ở ẩn của Hải Thượng Lãn Ông. Ông thường đến uống rượu, ngâm thơ với nhà danh y nhưng ý tưởng hai người có khác. Ông tổng thường ngâm câu "thời lai đồ điếu"của Ðặng Dung mà nuối tiếc đời trai thời loạn không nên cơm cháo gì. Còn Hải Thượng thì nghe mà chỉ cười không nói. Cho đến một hôm ông "già lười" không mời ông uống trà mà chỉ bảo tiểu đồng pha một ấm hoa hòe. Chủ khách yên vị, vị đại y sư mấy đời khoa bảng nói: "Ðạo như khí trời, ở đâu cũng có, làm cho con người ta ấm no, yên ổn, khỏi bệnh tật là đắc đạo, đạo gì cũng quý. Duy chỉ có cái đạo đè đầu cưỡi cổ dân đen, lấy công thiên hạ làm công một người thì mỗ đây không ham."Ông chánh tổng chấp tay: "Thế còn Ðức Thánh? Tu tề trị bình thì sao? Ngài không làm thuốc vì muốn chữa cho dân căn bệnh trầm kha là tính nô bộc và vô trách nhiệm". Hải Thượng cười: "Không phải ông Thánh nào cũng làm thuốc được. Cụ Khổng bôn ba giữa thời liệt quốc mà không ai dùng là may mắn cho cụ lắm."Rồi ông rót cho ông tổng một chén trà hòe, nói: "Ông uống đi, hoa hoè là thứ hạ hoả."Từ hôm ấy ông tổng Tích không đến uống trà ở chùa Hầm Hầm nữa. Nghe ông kể đến đó, Nguyễn cười ngất. Mình có lẽ đã gặp may, chàng nghĩ bụng. Năm Quang Trung thứ tư, Hải Thượng Lãn Ông mất. Ông tổng Tích nhịn ăn và cho vợ con để tang ba ngày. Ông nói con người này khinh bỉ nghề vua chúa chứ không hèn.

Nguyễn rất tiếc là chàng về Hồng Lĩnh thì Hải Thượng vẫn còn, từ nhà chàng lên châu Phố không bao xa thế mà không kịp đi thăm vị danh y chàng từng biết tiếng hồi ở Bắc Hà. Ông tổng Tích buồn, không còn người đối ẩm. Các nho sĩ trong vùng sợ Tây Sơn như cọp, họ ẩn náu trong những khu vườn mênh mông, ăn nhút quanh năm ngồi khua chuyện Lão Trang. Khi nghe tin cậu tam trường cùng tuổi con cụ quận Tiên Ðiền về quê, ông đuổi khắp vườn bắt được con gà trống gáy hay nhất xóm, đến ngay. "Sao ông không để nó gáy mà bắt nó cho tôi?"- Nguyễn hỏi. Ông tổng quật con gà xuống đất, nó dãy đành đạch rồi chết hẳn. "Nó gáy đủ rồi. Bây giờ tôi đi vặt lông." Ông lão bộc đi mua rượu về thì hai người đã ngồi bên đĩa gà luộc với bát nước dùng thả mấy lá hẹ lơ thơ. Tính tình phóng túng của tổng Tích làm Nguyễn thích thú. Chàng đã quen sống với người Bắc, lúc đầu cái mềm mỏng của họ làm chàng cảm phục nhưng sau thì chàng sợ. Một lần chàng đã suýt bị một ông tú tài mới quen bắt nộp quân Tây Sơn, hôm đó trên đường về Phụ Dực, y với chàng trú trong cái điếm canh đê, bên ngoài mưa to gió lớn đầy trời. Y ngon ngọt rủ chàng về nhà nghỉ qua đêm, chàng thuận lời. Nhưng y đưa nộp chàng cho một toán lính Tây Sơn đồn trú bên bờ sông Luộc. Chàng đành thúc thủ, chỉ nhớ tới câu chuyện thương tâm của tiến sĩ Lý Trần Quán mới xẩy ra không lâu. May sao, người quản cơ đội đồn trú hôm đó lại là bạn chàng hồi Nguyễn còn là một ông quan võ ở Thái Nguyên. Anh ta cho chàng uống rượu, bảo: "Làm vua thì không chắc đến phần huynh, còn làm một anh quan võ thì đánh thuê cho vua nào mà chẳng được. Tôi về với Tây Sơn là vì thế. Xem ra họ cũng biết quý kẻ sĩ." Rượu ngon nhưng miệng chàng đắng ngoét. Chàng kể chuyện đó cho tổng Tích nghe. Ông ta nói: "Sao huynh không phang cho hắn một dao? Chẳng nhẽ lòng trung quân xứ Bắc đã mạt đến thế ư?" Nguyễn không trả lời, hỏi lại: "Có phải hồi Nguyễn quang Bình ra Bắc, ông ấy có đến tận núi Thiên Nhẫn gặp La Sơn Phu Tử?"Tổng Tích nói: "Nếu có vậy thật thì cũng là mẹo. Vua nào mà chẳng mị trí thức. May mà Phu Tử không ra. Ngài không như bọn Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích."Nguyễn thở dài, nhớ lại lần gặp người bạn ở đầu sông Luộc, nói: "Xem những việc ông ấy làm mấy năm nay thì cũng chẳng phải chỉ biết dương oai diễu võ không đâu!" Ông chánh tổng nhìn chàng lúc lâu, mặt buồn hẳn đi. Rồi nói: "Hay bác lại định ra làm quan?"Nguyễn cười. Người đời hiểu được nhau cũng thật khó. Tổng Tích mời chàng lên Hương Sơn, về thăm cảnh châu Phố, bảo trại ông ấy có ba mươi con chó săn đủ ba màu lông mực vàng vện, mỗi thứ một chục. Toàn lai chó Lào, chó Mẹo cả. "Dân đinh lúc nào cũng sẵn, tôi hô là họ đến liền! Tây Sơn bắt họ làm thẻ bài để bắt lính, họ lên núi Giăng Màn chặt cây, vỡ hoang trốn biệt."Nguyễn thôi cười: "Bác rủ tôi làm loạn phải không?" Tổng Tích bảo: "Tôi muốn chữa bệnh hèn cho kẻ sĩ. Kẻ sĩ hèn thế đủ rồi ".

Nguyễn hứa lên Hương Sơn. Nhưng bây giờ chàng không muốn đi nữa. Ðêm nay chàng muốn lên núi. Cái hèn của kẻ sĩ là bệnh trầm kha, không nhờ một ông chánh tổng bốc thuốc được.

Nguyễn đi mà như đang lần mò trong bẫy. Ðuốc cà boong chỉ soi lập loè được một vòng sáng nhỏ quanh chàng. Thỉnh thoảng một con mai gầm đuổi theo ăn tàn đóm. Nguyễn rất sợ rắn. Chàng có can đảm lao thẳng ngọn mác vào con lợn lòi đâm bổ tới mình, nhưng lại không dám bước vào vạt cỏ tranh nhặt một con chim vừa bắn hạ. Chàng sợ rắn, lũ trơn lưng, cơ hội và nham hiểm. Thế mà đêm nay chàng thản nhiên nhìn những con mai gầm vút qua đường trước mắt mình. Chàng nghĩ tới Huyền hư tử, người tu hành trên lưng núi. Chắc ông ấy đang chờ mình - chàng nghĩ bụng và dấn bước.

Ðuốc đã tắt. Cõi thâm u nuốt chửng chàng. Rừng dày đặc, cây to, bóng cả nhưng ít rậm rịt hơn vì lũ giây leo, hoàng xà và cỏ dại không còn đất sống. Dưới chân chàng không phải cỏ mà đá sít vụn lổn nhổn trên con đường mòn do phường săn và lũ chó tạo ra vào ban ngày, đàn hươu nai và cả hổ, lợn lòi ban đêm. Một con chim "bắt cô trói cột"thảm thiết

kêu theo người đàn ông đang một mình phăm phăm đi trong đêm rừng. Nó chuyền cành dõi theo chàng như bạn đồng hành, không ngừng "bắt cô trói cột". Có tiếng hổ gầm trong núi xa. Cu Nứa bảo có đôi vợ chồng hổ bơi qua sông Lam đầu tuần trăng tháng vừa rồi, chính anh ta nhìn thấy dấu chân ở bãi Long Vỹ. Y nói đúng vì chàng vừa nghe tiếng hổ, không phải một mà hai con. Ðàn nai chạy từ đồng cỏ lên núi tìm nơi ẩn nấp. Cái sợ làm con nai cũng như con người trở nên ngu xuẩn, chạy vào miệng cọp lúc nào không biết. Chính vì thế mà lũ hổ mới gầm. Nếu bầy nai khôn ngoan hơn thì mấy con oọp phải bỏ đi nếu không muốn chết đói.

Một đốm lửa lập loè lưng chừng núi. Hồng Lĩnh như một bức tường đen án ngữ chân trời. Nguyễn nghe tiếng sóng biển ì ầm phía sau. Biển động, chàng tưởng như đang nhìn thấy từng đợt sóng ầm ầm chạy từ Hội Thống về phía Nam rồi tan dần. Lòng chàng lâng lâng trước cảnh hùng vĩ của quê hương và bỗng chốc chàng quên hẳn tiếng hổ gầm trong núi. Chàng lần trong bóng đêm đi về phía đốm lửa, biết chắc đó là ngôi chùa của Huyền hư và mình đã không lạc đường.

Cửa Phật rộng mở. Nguyễn đi cạnh con Ðốm xun xoe đón khách. Nhà sư đang ngồi toạ thiền trước tam bảo, không quay đầu lại. "Nam mô A di đà Phật!"Ông chào Nguyễn. Chàng đáp lời rồi bước sang gian tả, ngồi lên tấm phản gụ trước đây thân phụ chàng cúng dường nhà chùa. Ngôi chùa cũng do ông xây lên sau ngày vinh quy. Ông bảo: "Ðã làm quan thì cũng phải biết tìm chỗ mà chui" Ông định chui vào cửa Phật nhưng rồi cũng không kịp.

Hai người tự pha trà uống. Nguyễn đốt trầm trong cái đỉnh đất nung. Huyền hư cởi áo cà sa. Ông mặc một bộ lụa nhuộm nâu, thứ lụa Hạ mà lần nào về quê anh em chàng thế nào cũng sắm mỗi người một bộ để đưa ra Bẵc mặc mùa hè.

- Tôi cho bác gặp một bất ngờ. Trà ngấm rồi, tôi vào gọi ông ấy dậy.

Nhà sư bước xuống nhà ngang.

Nguyễn nhìn thấy tổng Tích đi sau Huyền hư lên gặp mình. Chàng nghiêng người chào.

- Sao ông không ghé qua nhà tôi?

- Xin lỗi bác - tổng Tích nói, có vẻ ngượng - tôi tiện đường nên vào núi với sư thầy luôn.

ấm trà nhài lẫn mùi trầm rất thơm nhưng vẫn không át được mùi hương mộc tràn qua cửa sổ. Ôi, hương mộc! Ðó là tuổi thơ, là bầu không khí để hít thở của anh em Nguyễn. Nhà thờ họ Nguyễn có hai cây mộc trở thành cổ thụ, sau vì ít được chăm sóc, chúng chết già. Thân phụ chàng cho người cưa ngang gốc làm hai cái bàn con đặt hương hoa trước khi bày lên ban thờ. Ông không cho trồng mộc nữa. Ông nói: "Mộc là thứ hoa của thánh thần, không nên trồng ở sân nhà thờ họ' Ông anh cả chàng nói: 'Nơi thờ cúng quan Thái Bảo quận công mà cha chưa coi là nơi thần thánh ư?"Quận công Thái Bảo Nguyễn Nhiệm là ông nội chàng, ông không làm quan nhưng có năm người con là đại thần triều Lê. Cha chàng nói: "Ông nội con không viết được sách." Anh chàng nói: "Cha và các chú con thì sao?" Cha chàng nói: "Tay đã nhúng chàm cả. Ðã làm chính trị thì không nên làm thánh nữa. Hai thứ ấy không hợp nhau." Rồi ông vỗ nhẹ vào vai chàng, cười rất hiền: "Họ Nguyễn nhà mình với hậu thế may ra còn Du này thôi!"Hồi đó chàng chưa biết làm thơ, cái tú tài cũng chưa đỗ, không hiểu sao cha chàng lại nói vậy. Ông có hai mươi mốt người con chứ phải ít đâu. Ông xem tướng chàng hay vì ông quá yêu mẹ chàng, người vợ lẻ mọn xứ Bắc Ninh hào hoa? Hay ông diễu cái thói đa sầu đa cảm, suốt ngày ôm sách mà thi không đỗ của chàng? Chàng không biết nữa. Chỉ thấy run sợ khi nghe cha nói thế. Mồ hôi túa ra đầy mình còn mặt thì đỏ như gấc. Xem ra thì cha chàng đã đoán nhầm rồi. Ba mươi tuổi có lẻ mà chửa nên cơm cháo gì. Họ Nguyễn chắc rồi phải chịu nhục vì có một người vô tích sự như chàng.

Khi lập chùa, thân phụ chàng cho trồng ngay hai cây mộc. Giờ đây hương mộc đang làm Nguyễn ngây ngất. Huyền hư rót trà:

- Lứa nhài đầu thu này không được thơm vì móc xuống sớm hơn mọi năm. Lại vì tôi đuổi mất chú tiểu nên không hái kịp. Hoa nở hơi quá.

Giờ Nguyễn mới sực nhớ đến chú Nuôi, chàng thanh niên tu hành nhưng lại rất thích thơ và hâm mộ chàng.

- Sao ông lại đuổi chú ấy? - chàng hỏi.

- Nó làm một con bé hái củi phễnh bụng ra. Tôi bảo hoàn tục đi mà cưới người ta cho rồi, vô trách nhiệm với đàn bà thì tu mấy kiếp cũng không thành Phật được.

Tổng Tích cười nói:

- Xem ra quý sư ông cũng thoáng lắm!

Huyền hư phẩy tay áo:

- Ông xem, cửa chùa tôi có đóng bao giờ đâu? Tôi gần Phật nhưng không xa đời. Chú tiểu Nuôi nó bảo tôi: "Thưa thầy, con quý nhất thầy ở chỗ không đạo đức giả!"

Nguyễn không nói gì. Chàng nghĩ chú tiểu chỉ làm chuyện ai cũng làm, chỉ có điều là không nên làm chuyện ấy trong chùa thôi. Tổng Tích có vẻ sướng khi thấy quanh bàn trà đã có chuyện đời. Ông lên núi gặp nhà sư không phải để bàn chuyện đạo. Ông nói với Nguyễn:

- Thật may mà gặp bác ở đây. Tôi mong ngày mong đêm được đón bác ở châu Phố. Cả sư huynh Huyền Hư đây nữa.

- Thì ra huynh còn định rủ ông hòa thượng khả kính của tôi cùng làm loạn?

Tổng Tích không biết Nguyễn nói thật hay đùa, im lặng. Huyền hư nói:

- Không có ông ấy thì đời cũng loạn rồi. Tôi xem ra, mình cứ tụng kinh, uống trà để chờ Tây Sơn đổ là hơn. Ông vua con mười tuổi với bọn họ Bùi, họ Trần cũng chẳng được mấy nả. Ông Tổng, ông định mưu tính gì bây giờ?

- Dân tình khốn khổ quá !

Huyền hư liếc nhìn Nguyễn:

- Ông có định lên Hương Sơn một chuyến không?

Nguyễn nhìn tổng Tích:

- Xin bác tha lỗi. Tôi đành thất hẹn với bác.

Tổng Tích chừng như đã liệu trước chuyện này. Ông vẫn thường có định kiến với bọn nho sĩ. Lần này ông quyết nói toạc ra.

- Trí thức các ông thường vẫn quen dùng máu của người khác để rửa nhục cho mình.

Huyền hư e ngại nhìn bạn. Ông biết Nguyễn vẫn coi thường bọn hào lý. Có lần chàng nói với ông: "Trong dinh thân phụ tôi trước đây có một anh dạy chó, một anh nấu ăn từng là chánh tổng" Chàng bảo hào lý không nằm trong thập loại chúng sinh. Lần đó Huyền hư bắt bẻ: "Còn vua quan thì sao? Họ là Thánh à?" Nguyễn nhớ lại lời cha hôm nói về cây mộc, bảo: "Họ có học hơn bọn hào lý. Nhưng tay người nào cũng nhúng chàm.". Như vậy là Nguyễn không trả lời thẳng vào câu hỏi, có lẽ quá khó đối với chàng. Ðức Khổng hay cả Ðức Phật nhiều khi cũng lúng túng trước những câu hỏi của trẻ con, huống gì chàng. Trong thâm tâm Huyền hư vẫn coi hào lý như những con đỉa mén nhung nhúc quanh mấy con trâu hiền lành quanh năm cày sâu cuốc bẫm. Còn quan lại thì cho lên chảo từng con đỉa một và chiên ăn dần. Cái sang của họ là thế. Tổng Tích có khác. Ông ta có học, tính nết cang cường. Giá như có ai khuyên ông ta xây tường thành vây quanh tổng An ấp của ông ta lại rồi xưng vua ông ta cũng nghe. Ôi, cái ngông cuồng của tuổi trẻ. Con người ấy chỉ loanh quanh câu hỏi: "Làm sao cứu được dân đây?" Còn Nguyễn thì loay hoay mười năm để "cứu một triều vua" đang như một lũ nha môn thất sủng bên Tàu.

Huyền hư lim dim mắt như ông muốn tránh nhìn thẳng vào hai người, nói:

- Ông tổng đây rủ chúng ta lên Hương Sơn dạy dân không đi lính, đi phu cho Tây Sơn mà chỉ đánh nhau cho ông ấy thôi. Còn anh - ông nhìn sang Nguyễn - anh muốn cứu cựu triều hay chỉ để giữ danh dự cho chính bản thân anh?

Tổng Tích như chạm phải lửa:

- Ông nói oan cho chúng tôi. Vậy theo ông thì ai là người tâm huyết với dân với nước đây?

Nguyễn mỉm cười, nụ cười của chàng hiền từ tỏ ra không tự ái, nhưng ai cũng nhìn thấy được một vẻ cao ngạo giấu bên trong. Huyền hư chờ nhưng thấy chàng không nói gì, trả lời tổng Tích:

- Triều vua nào thì dân cũng khổ. Họ sẽ có cách. Cứ mỗi lần nho sĩ chõ mũi vào là máu chảy đầu rơi. Còn vua thì... không đáng cứu.

Nguyễn chợt nhớ những chuyện nhà sư kể cho nghe hồi ông phụng giá đưa Lê tự hoàng sang Tàu rồi nửa chừng trốn về quê đi tu. Chàng tự hỏi, nếu hồi đó chàng cũng tòng vong với nhà vua thì không biết có đi đến cùng như bọn Lê Quýnh? Chắc là không! Ðối với chàng thì có lẽ danh dự bản thân được coi trọng hơn một ông vua thật. Ðiều này chàng chưa thổ lộ với ai, chàng cũng không nói lên trong thơ mình, ngay trong ý nghĩ cũng không dám vì đó là một trọng tội. Chẳng thà chết dưới chân một ông vua hèn đớn nhưng không thể chịu nhục nơi đất khách quê người. Dưới gầm trời này chỉ có Huyền hư mới dám nói ra điều mà chàng chôn chặt trong góc sâu thẳm của tâm hồn đó.

Và Nguyễn mở miệng:

- Vậy thì ai? Ai sẽ là người cứu nhân độ thế?

- Ðức Thích Ca. - nhà sư nói.

Tổng Tích cúi đầu. Nguyễn biết anh chàng có máu hoàng bào này không biết xử sự nào khác hơn vì anh ta không dám bổ báng trước mặt một người như Huyền hư. Tự dưng chàng thấy trong lòng mình một tình cảm khác lạ. Lòng yêu kính một người như Ðức Thích Ca hoà lẫn với tâm trạng của kẻ cùng đường không dẫn chàng tới vực thẳm mà đưa chàng bay lên bầu trời. Chàng thấy mình không còn là mình trước đây nữa. Ông quan võ Nguyễn Du, nho sĩ Cần Vương Nuyễn Du đã biến mất như chưa hề có. Mạch máu chàng sôi trong huyết quản, một dòng máu khác, mới hơn, nồng thắm hơn và mạnh mẽ hơn đang chảy. Chàng nói:

- Thơ! thưa bác, còn thơ nữa. Thơ sẽ cứu nhân độ thế! Thơ sẽ mạnh hơn cả gươm giáo !

Nguyễn đứng dậy. Cái sức mạnh sáng tạo vừa chợt bùng lên trong lòng chàng như ngọn lửa, như rượu mạnh làm chàng nhìn quang cảnh ngôi chùa lưng núi trở nên xa lạ, tổng Tích là một người xa lạ, người bạn vong niên đã lâu năm của chàng là Huyền hư tử cũng trở nên xa lạ. Trước mắt chàng chỉ còn bầu trời mênh mông mà chàng vừa chợt phát hiện thấy như trong một cơn mơ khi chàng bay lên từ nỗi đau khổ vô bờ bến của nhân dân. Chàng phải về ngay, về với cái nghiên mực đã sứt một miếng nơi miệng, cái nghiên mà ông nội chàng đã dùng để viết bài Gia huấn ca răn dạy năm người con trai tu tề trị bình, cha chàng đã dùng để viết những bài thơ thổ lộ những ẩn ức tình cảm dồn nén với mỹ nhân tuy ông đã có quá nhiều nhưng vẫn không bao giờ đủ. Chàng hốt hoảng tưởng như cái nghiên mực ấy đang bị kẻ trộm lấy mất trong khi chàng đang ngồi ở đây, cái nghiên, quản bút, bộ "văn phòng tứ bảo" cha chàng thửa mua tận bên Tàu đã lâu lắm rồi bị bỏ xó, chàng không đụng tới vì còn mải mê với mộng mưu bá đồ vương và những con thú săn núi Hồng Lĩnh. Chàng muốn về nhà ngay xem tất cả có còn đó hay không, những thứ xưa kia đã cùng với những con người trác việt làm nên danh tiếng họ Nguyễn Tiên Ðiền. Nhưng cái danh tiếng ấy không còn làm chàng tự hào nữa. Không phải chàng không tin vào lòng yêu chúng sinh của Ðức Phật. Không phải chàng kiêu ngạo, hỗn láo hay thất lễ. Nhưng chàng đang tin vào chính bản thân chàng, tin vào những gì chàng sẽ làm khi ngồi bên cái án thư, mài mực và mở nắp hộp sơn Tàu của bộ tứ bảo. Rồi chàng sẽ cầm bút lông lên. Ôi, niềm vui độ thế đang tràn ngập lòng chàng!

- Ðêm tối thế này mà ông về? - Huyền hư ngạc nhiên nhìn chàng, hỏi. Lòng ông đau quặn. Ông linh cảm thấy người bạn vong niên duy nhất của ông, con người tài hoa ông luôn kỳ vọng sẽ có một ngày nào đó không còn lên chùa uống trà và thổ lộ những suy nghĩ chán chường với ông nữa. Cái ngày ấy đang đến đêm nay. Tổng Tích có lẽ cũng chỉ là một cái cớ ngẫu nhiên và không đáng kể. Cái nguyên cớ ở bên trong chàng nho sĩ đầu bạc ở tuổi tam tuần này lớn hơn nhiều.

- Tôi xin kiếu hai bác...

Nguyễn vái hai người một vái, nghiêng mình thi lễ rồi bước vào đêm tối.

Chàng không lạc đường nhưng mãi đến tang tảng sáng mới về đến nhà. Ðêm ấy, giữa tiếng beo gầm và bầy chim đêm chao chác trong rừng Hồng Lĩnh, chàng đã ngồi lại một mỏm đá lưng chừng núi, nhìn xuống sông Lam và bãi Long Vỹ mơ màng trong đêm, con đường thiên lý chạy qua Bãi Vọt, nơi xưa kia có một trạm ngựa của tiên triều, những cuộc chinh chiến không ngừng không nghỉ đã qua đây và không biết bao giờ mới dứt. Chàng vun một đống lá và đốt lên trong đêm, chàng không lạnh nhưng hình như ngọn lửa vừa bất chợt cháy trong lòng chàng đã bắt sang đống lá. Trước ánh lửa rừng đêm ấy, chàng không nghĩ tới, không nói ra, chính bản thân chàng cũng không biết những gì vừa xẩy ra trong lòng mình một cách rõ ràng nữa, nhưng chàng biết chắc một điều là chàng đã được trời đất và đêm tối chứng giám cho một Nguyễn Du không còn như trước.

Con đường xuống núi đã mờ ảo hiện ra trước mặt, phía xa. Gió thổi từ sông Lam lên mạnh hơn rất nhiều. Nguyễn cúi khom thân mình gầy guộc vì thiếu ăn và những đêm không ngủ đi ngược làn gió thổi trên con đường mà ông nội, cha chàng, các anh chàng đã từng đi nhưng hình như họ không bao giờ đến một nơi nào cả, không trả lời được một nan vấn nào cả. Tất cả họ đi đâu hết rồi? Chỉ trơ lại mình chàng, gió dồn cả vào mỗi mình chàng.

Ðêm đó chàng ngồi vào án thư, viết một mạch xong bài Dạ Hành, bài thơ Ði đêm...

VẠT ÁO ĐỜI NGƯỜI

Khi con đường bao chạy qua làng khởi công, đất làng hắn thành vàng. Hắn bàn với mẹ bán một nửa miếng vườn. Cầm một cục tiền to chưa từng mơ tới, đưa cho mẹ, hắn nói: "Cụ cho con xin một triệu chữa xe!". ừ thì một triệu. Hắn lấy xe, phóng như bay vào thành phố. Suốt ngày nghe đài, xem báo thấy người ta nói chuyện bia ôm, chuyện mấy đứa ca-ve mà hắn, mang tiếng dân ngoại thành nhưng vẫn chưa biết mô tê gì. Hắn phải biết! Mấy đứa bạn khác trong làng nếm mùi cả rồi, dịp trời cho này hắn phải biết. Hắn đẩy tấm cửa kính màu âm u của quán Trăng lưỡi liềm, bước vào. Không ngờ hắn đang bước vào một cuộc đời mới.

Trưa hôm sau hắn đưa về làng một cô ca-ve. Tưởng là gì ghê gớm hóa ra cũng giống như gái làng. Ðẹp hơn tất cả các cô gái làng hắn. Không quê quán, không cha mẹ thế cũng hay, khỏi phải làm rể. Làm rể phiền toái lắm, vẫn có câu chó nằm gầm chạn. Lại không phải cưới xin lôi thôi, tốn kém. Vợ không cưới, không mất lợn mời làng mà làm ăn giỏi ra phết. Ngay hôm đầu về nhà đã kéo cho mẹ hắn đầy hai bể nước. Còn đòi đi làm cỏ khoai tây nữa. Hắn không cho, nói là để từ từ, người ta làm ngoài đồng rỗi miệng hay bới móc. Quen quen hẵng hay, lúc đó có ra đình múa cũng không ai nói. "Mày định cho nó ở luôn đây à?" Mẹ hắn hỏi. Hắn đáp tỉnh bơ: "Vợ tôi không ở đây thì ở đâu?" Mẹ bảo: "Không cưới xin gì thì ra uỷ ban đăng ký cho người ta khỏi bắt bẻ." Hắn vê vê cái cằm lún phún: "Không có chứng minh thư đăng ký làm sao? Nó hăm lăm rồi, tôi không ngủ với trẻ con, sợ gì." Mẹ hắn than: "Ðồ vô phúc, mày bắt tao quỵt nợ bà con!" Nói thế nhưng mẹ hắn vui. Trốn được đám cưới thì nhẹ mình quá. Hắn là con một. Tính nết hay vùng vằng như con trâu cày trưa nhưng chăm làm, tính việc giỏi, thương mẹ. Mẹ chiều hắn như chiều vong. Bà mẹ nào mà chẳng đội con lên đầu!

Thằng Khoa nhặt được vợ trên phố! Chẳng mấy chốc tin ấy lan ra khắp xóm. Người ta chưa thấy hắn cho vợ đi làm đồng hay đi chợ. Họ tìm cớ ghé qua nhà để xem cô ca-ve. Tưởng thế nào chứ cũng như gái làng, chỉ đẹp hơn mà thôi. Ngay hôm đầu tiên gặp trong quán bia ôm, thằng Khoa cũng thấy như thế. Hắn bảo cô ta tắm. ứ, em không quen tắm hoa sen. Cô ta mở nước chảy xuống chậu rồi lấy gáo nhựa dội. Hắn dội cho cô ta. Anh muốn gì em chiều. Chẳng muốn gì. Nằm đây nói chuyện cái đã. Có mùi gì hăng hăng. Một vốc hoa bưởi dưới gối. Em mua ngoài chợ. Cho nó át mùi nước hoa với mùi mồ hôi cháy trên gối, ghê ghê buồn nôn. Bà chủ mua hai mươi ngàn một lọ nước hoa Tàu, sáng nào cũng rưới lên đầu bọn em. Ra thế! Gái quê hả? ở đâu? Em mồ côi. Tám tuổi ông chú bảo em: nuôi thế đủ rồi, vô trại chăn bò mà kiếm ăn. Chăn bò cho người ta đến mười lăm tuổi. Kiếm đủ cơm ăn mà còn được ông chủ trại cho học chữ, đọc được báo. Thôi nhé, dạy nữa thành trí thức, đâm khinh người! Mười chín tuổi lấy chồng. Nó cờ bạc như điên. Gì nó cũng đưa lên chiếu. Gán tất! Nhưng thôi, em chỉ kể đến đó. Anh muốn gì em chiều. Còn mười lăm phút nữa là bà chủ gọi cửa đấy. Giờ giấc nhà này nghiêm. Anh qua đêm được không? Ðược chứ. Nhưng phải ba trăm ngàn, anh chịu không? Thì ba trăm ngàn đây, chưa đến một mét vuông đất. Ðêm đó hắn tỉ tê mọi điều. Hắn không gạn hỏi vì sao “đằng ấy” lại vào đây. Sợ người ta thẹn. Mà hỏi làm gì? Vào đây cách nào thì cũng thế! Rồi hắn nẩy ra cái ý nghĩ ấy trong đầu. Sĩ làm gì? Lấy đĩ làm vợ còn hơn chán thằng lấy vợ làm đĩ. Rồi hắn bàn cách đi trốn. Hắn trả tiền cho bà chủ, bẹo má bà ta một cái rồi lấy xe máy bảo đi mua thuốc lá. Cô ta thì trèo tường sau. Ðón nhau ở cổng chợ gần đó. Cũng may lúc đó công an đến kiểm tra nhốt bọn bảo vệ ở phòng ngoài nên chúng không đuổi được. Thế là thoát!

Ðược mười lăm hôm hắn bảo mẹ: "Bây giờ thì ổn rồi, mẹ nhé!" Mà cũng ổn thật. Mẹ thương cô ta. Mười lăm ngày cho lợn ăn, cơm nước, giặt rũ, kéo nước dưới giếng lên, nết ăn nết ở thì không giấu được ai. Mẹ nói con này được. Cũng còn hơn dâu ông chủ tịch xã. Nó đưa trai về nhà, còn móc trộm con dấu đóng cho thằng ấy một cái giấy giả để đi lừa thiên hạ. Chuyện ầm cả làng ai cũng biết. Tự dưng Trời cho đứa con dâu. Mẹ bảo hắn: "Thong thả rồi tìm hiểu xem nó quê đâu, đăng ký đi cho êm." Hắn nói: "Tôi không truy lý lịch người ta làm gì. Với lại, họ đang lo chia nhau tiền hoa hồng bán đất công, chẳng ai mó tới chuyện nhà này đâu." Thằng Ninh bạn hắn bảo: "Vợ mày sõi đấy, đẹp đấy. Nhưng dù sao cũng là hàng xê-cần-han. Hôm nọ tao mua một cái áo phông mặc chẵn năm ngày thì rách." Hắn trừng mắt: "Mày đã chắc vợ mày chưa?" Thằng Ninh cúi xuống, lẩm bẩm: "ừ, khó biết thật, cái ao bèo." Rồi nói an ủi hắn: "Thôi, cũ người mới ta. Nó đẹp mà nết cũng được là của hiếm!" Hắn cười khì, sung sướng.

Một hôm đang đầu gối tay ấp, vợ hắn khóc. Nhớ phố, hay nhớ bà chủ? Hay nhớ mấy thằng làng chơi? Hay chê đây nghèo? Nói đi, muốn gì đây cũng chiều. Không, không phải. Rồi vợ hắn ngồi dậy, lau nước mắt, nói: "Em nhớ con..." Lại kể nốt chuyện bỏ lửng hôm đó. Thằng chồng đánh bạc quỵt tiền, bị người ta đánh. Bán sạch sành sanh chạy thuốc mà không cứu được, ba tháng thì chết. Em bế con ra phố kiếm cơm. Gặp bà chủ. Bà ấy nói gái một con trông mòn con mắt, nhan sắc thế này chỉ tân trang mấy hôm là hái ra tiền đừng buồn khổ mà phí đi. Thôi, để chị bày cách giải quyết đứa con. Chị biết có một nhà hiếm. Phố ấy. Số nhà ấy. Cứ chờ sáng sớm hay tối mịt, đưa thằng cu đặt trước cổng người ta. Nhớ cho bú thật no, mặc âm ấm vào kẻo nó sưng phổi. Ðừng khóc. Cái giống cờ bạc chẳng tiếc làm gì. ở đây với chị vài năm là đời em lên hương, chị kiếm cho em tấm chồng giàu có, tử tế. Còn thằng cu biết đâu lại được ăn học nên người. Thế là mẹ cũng tròn con cũng vuông. "Bây giờ cô tính sao?" Hắn hỏi. "Em nhớ con, tội nghiệp con tôi, mới kém hai ngày thì đầy sáu tháng, vậy mà tôi nỡ bỏ nó trước cổng nhà người ta." Hắn phát bẳn: "Tôi hỏi cô tính sao?" Ðáp: "Em chẳng biết tính sao." Hắn nằm xuống, nghe vợ thút thít bên cạnh. Bộ ngực nhô lên rồi hạ xuống, khuôn mặt đẫm nước mắt càng dễ nhìn làm lòng hắn tan nát. Nghĩ ngợi một lúc, hắn ngồi dậy: "Anh tính thế này, (ít khi hắn xưng anh em với vợ), anh với em ra tỉnh, đến nhà người ta xin lại thằng cu!" Vợ hắn quay người, ôm choàng lấy hắn, phủ lên hắn một trận mưa hôn: "Trời ơi, anh nhân đức quá, được như thế thì mẹ con em đội ơn anh suốt đời!" Rồi cô ta lấy dưới gối ra mấy tờ bạc: "Tiền tàu xe đây, mai ta xin phép mẹ rồi đi! Hồi còn trên phố lần đi khách nào em cũng véo ra một ít để ngày nào đó chuộc lại thằng con." Vợ hắn nhắc tới một quãng đời làm lòng hắn quặn thắt. Hồi còn trên phố...cả hai không bao giờ cùng lên phố, khi nhắc tới cuộc đời trước kia vợ hắn vẫn thường nói trẹ ra thế. Hồi còn trên phố... Hắn giật lấy, quẳng xấp tiền xuống chân giường: "Cầm lấy! Hay đốt đi. Ðây đếch cần."

Ðúng phố ấy nhà ấy nhưng sao cái cổng trông khác quá. Trước đây đâu có cửa sắt mà cửa gỗ. Ngôi nhà cũng không phải. Nó nhỏ cơ, không to thế này. Vợ hắn thì thầm bên tai, tay run run vịn vào bức tường. Nắng buổi sáng vón lại trên những lá tường vi vươn qua đầu tường, mấy bông hoa tường vi chạm vào bàn tay bé bỏng đang run của vợ hắn. Một đám mây lang thang phía sau ngôi nhà cao nhất dãy phố. Hắn nói: "Thì phải khác trước chứ. Tôi bấm chuông đây!" Khoan đã! Cô ta giữ tay hắn. Em sợ. "Sợ cái gì mới được chứ" Cô vợ nói: "Người ta giàu. Em hãi người giàu lắm!" Vớ vẩn! hắn nói, tôi bấm chuông đây. Như để trả lời hắn, từ trong ngôi nhà ba tầng, có tiếng một thằng bé khóc, nghe rõ tiếng bàn tay đập đập liên hồi lên mặt bàn. "Nó đấy, con em đấy. Chà cu cậu đang dỗi, ứ ăn ứ ăn. Ra dáng con nhà giàu lắm. Con tôi..." Hắn đưa tay bịt miệng cô vợ lại: "Vớ vẩn. Tôi thì đang lo nẫu ruột đây. Có cớ gì bảo nó là con cô nào? Không dưng người ta lại đưa con cho hai vợ chồng cha vơ chú váo như tôi với cô?" Cô vợ không chú ý nghe lời chồng. Cô ta vẫn lắng nghe tiếng trẻ con khóc dỗi trong nhà. Như từ một thế giới khác. Xa và lạ, một cuộc đời khác mờ dần qua làn nước mắt. Bỗng cô ta giật mình, tỉnh mộng. Rồi cúi xuống mở cái túi xách tay nhàu nát, cũ kỹ. "Em có cái này..." cô ta nói, đưa chồng xem cái vạt áo trẻ con. Em xé ra khi bế nó đến đây. Thế nào người ta cũng hiểu, người ta cũng giữ lại cái áo ấy để so sau này. Rồi quả quyết: "Anh bấm chông đi!"

Người vợ gầy teo tóp còn ông chồng thì mập ú. Người vợ rõ là vẫn chưa nguội chuyện ngày xưa, nói: "Thằng bé kháu kháu là. Tôi lên đồn công an bảo là tôi nhặt được, ở cổng nhà tôi tức là của tôi, tôi xin nuôi. Người ta bảo ừ thì để bà nuôi nhưng mà nuôi không tử tế thì chúng tôi đưa nó vào trại trẻ lúc ấy đừng buồn. Sao không tử tế được?" Bà đứng dậy lấy trong tủ ra cái áo trẻ con bị xé một vạt. "Vâng, thấy cái áo bị xé là tôi hiểu ngay. Chồng tôi bảo sẽ có ngày người ta đưa vạt áo ra nhận con đấy. Y như là." Thằng bé ba tuổi, ngồi trong lòng bà mẹ, đưa đôi mắt sáng choang nhìn tất cả mọi người. Sao người lớn cả mà ai cũng khóc nhè thế này? "Cái vạt áo khớp rồi, chị không phải phân trần nữa. Với lại, hai mẹ con giống nhau như hai giọt nước thế kia..." Ông chồng đấm đấm hai nắm tay múp míp như hai củ khoai tây được mùa, bảo: "Nói anh chị đừng giận, về bên ấy chắc thằng bé không đầy đủ như ở đây. Hay là anh chị cứ để tôi nuôi nó khôn lớn, cho nó ăn học, nó có hai cha hai mẹ thì hơi nhiều nhưng chắc không ai để nó khổ." Hắn đưa tay áo quệt má, bảo thế cũng được, đội ơn hai ông bà, rồi cháu cũng là con của xã hội cả thôi, chỉ xin hai ông bà cho cháu về chào bà nội. Ông chồng sốt sắng: "Ðương nhiên rồi, để tôi đưa cháu đi cho biết nhà tiện thể!"

Bà mẹ hắn nâng thằng bé lên, dụi dụi mũi vào bụng nó, nói một câu xanh rờn: "Khổ chưa, cháu tôi hoàn cảnh thật, nhà thì nghèo mà bố mẹ lại đông quá...nuôi sao xuể đây!" Thằng bé khóc thét lên vì nhột. Bà trao nó cho ông bố mập rồi xuống bếp làm nốt con gà. Từ bên hàng xóm, mấy người nghe tiếng trẻ con khóc trong nhà hắn. Chị hai Xoan chạy sang ngay. Nắng chảy như mật trên mái tóc vừa gội chưa kịp khô của chị. Không phải chị sang xem con ca-ve như hôm nọ, mà xem tại sao nhà chúng nó lại có tiếng trẻ khóc.

CÔ BÉ BẮT CHUỘT

Trong thời gian đi thực tập dạy học ở Long Xuyên, tôi đã được ăn thịt chuột lần đầu tiên ở một quán bán cơm tháng. Gắp miếng thịt chuột nướng lá cách bỏ vào miệng, tôi vừa sợ vừa run như lần đầu tiên hôn đại vào má người yêu.

Hai mươi năm sau, có dịp trở lại đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã được đi bắt chuột và ăn thịt chuột do một cô bé nấu nướng. Lần này, thịt chuột thơm ngon và quyến rũ như đôi môi người tình.

Hỡi cô bé bắt chuột, em còn nhớ đến tôi hay chỉ nhớ đến... chuột?

*

* *

Nhân dịp đi lắp đặt máy vi tính cho một Công ty ở Cần Thơ tôi tranh thủ ghé thăm người bạn thân ở xã Thới Long. Anh đã từng học chung với tôi ở Đại Học Tổng hợp Sài Gòn. Ba năm rồi chúng tôi không gặp nhau nhưng vẫn thường thư từ với nhau. Anh cho biết đã về dạy tại trường trung học ở huyện Ô Môn. Khi nào có dịp tôi ghé nhà anh chơi và anh sẽ đãi một món ăn đặc sản quê hương: chuột đồng khìa nước dừa.

Thú thật bạn thân thì bạn thân mà ở xa xôi cách trở qua hai cái bắc, tôi cũng chỉ biết gửi "tấm lòng" là quí, chứ ít khi chịu gửi tấm thân ốm nhách của mình. Nhưng nghe bạn hứa sẽ chiêu đãi một món ăn đặc sản mà ở Sài Gòn không có thì đôi chân tôi dù có lỡ bị tai nạn, tôi vẫn cố chống nạng lên đường. Với tôi, một món ăn luôn luôn hấp dẫn hơn tình bạn, tình yêu vì những thứ đó tôi khó mà nắm bắt và bỏ vào miệng nhai nuốt như món ăn.

Chiếc xe lôi chở tôi, đậu lại ở một ngã ba đường đầy sỏi đá. Người lái xe nói:

- Đến nơi rồi. Anh đi bộ theo hướng này hỏi thăm nhà, chứ đường ruộng xe vào không được.

Tôi trả tiền xe, cám ơn anh rồi lững thững đi bộ trên con đường đất mấp mô. Trời xế trưa nắng gắt. Hai bên đường là những cánh đồng lúa mới gặt xong còn trơ gốc rạ. Xa xa còn một vài thửa ruộng gặt muộn, lúa đã chín vàng. Tôi thử quan sát thật kỹ một thửa ruộng bên đường xem có thấy bóng dáng một con chuột nào không. Nhưng chỉ thấy mặt ruộng nứt nẻ và những gốc rạ khô khốc. Tôi hy vọng bạn tôi đã nuôi sẵn chuột trong nhà để đãi khách, nếu không tôi đành phải than cho số phận hẩm hiu của mình. Món thịt chuột còn bị hụt ăn thì đừng mơ tới chuyện tình yêu.

Ở làng xóm, các ngôi nhà đều không có số. Tôi phải hỏi thăm gần chục người mới biết nhà bạn tôi phía trước có hàng cây so đũa và cái cổng gỗ sơn màu xanh. Cây so đũa là cây gì vậy trời? May thay cuối cùng tôi cũng đi tìm ra cái cổng gỗ sơn xanh, đã khóa. Tôi gọi lớn tên người bạn:

- Tuấn ơi, Tuấn!

Một con chó mực chạy ào ra sủa vang đáp lời gọi của tôi, cứ y như nó tên là Tuấn. Tôi vốn ghét loài chó vì tính ưa "theo đuôi" chủ của nó (người ta thường gọi văn hoa là lòng trung thành), nhưng tôi lại rất thích ăn thịt chó. Thật kỳ lạ, con vật nào mình càng ghét, ăn thịt lại càng ngon. Tôi nghĩ nếu không có chuột đồng, tôi sẽ xúi bạn tôi "hạ cờ tây".

Một cô gái mặc bộ bà ba lấm tấm bông xanh, đỏ, tím, vàng đi ra. Em hỏi:

- Ông hỏi ai?

- Có anh Tuấn ở nhà không em?

- Mời ông vào.

Cô bé mở cổng gỗ cho tôi vào. Em gõ nhẹ lên đầu con mực, nó không còn nhe răng gầm gừ mà chúi đầu vào chân em. Bước đến hiên nhà lợp lá dừa, cô bé gọi:

- Anh hai ơi, có khách.

Cô bé và con mực đi thẳng vào trong nhà. Một lúc sau, Tuấn chống nạng bước ra. Bàn chân phải của anh bó băng trắng che khuất mắt cá. Tôi sững sờ. Vậy là xong! Với cái chân bị thương đó. Tuấn chẳng thể đi bắt chuột nấu món ăn đặc sản đãi tôi.

Tuấn ôm vai tôi, mừng rỡ nói:

- Cơn gió nào đã đưa bạn hiền tới đây!

Tôi buồn bã nói:

- Chẳng có cơn gió nào hết, tôi phải đi bộ muốn gãy chân để tới đây. Chân cậu bị sao vậy?

Tưởng tôi chia buồn, Tuấn cười nói:

- Không sao, không sao. Bị tai nạn xe cộ khi tôi về Cần Thơ. Ông vào nhà ngồi chơi. Tối nay ở lại đây nghe.

Tôi theo Tuấn vào nhà và ngồi xuống bộ bàn ghế đánh vẹc-ni láng bóng. Tuấn quay vào trong gọi:

- Út ơi!

Cô bé mặc áo bà ba lấm tấm bông ở nhà sau đi lên, đứng ở cửa. Tuấn nói:

- Em chặt một trái dừa đãi khách.

Tôi vội nói:

- Thôi khỏi. Hãy để dành dừa làm món chuột đồng khìa nước dừa.

Tuấn cười:

- Ông khỏi lo. Nhà còn mấy cây dừa ở phía sau.

Rồi anh quay qua nói với cô em:

- Nè Út, em đi bắt mấy con chuột để anh làm đồ nhậu đãi bạn.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Bộ cô bé không sợ chuột à?

Cô bé che miệng cười.

Tuấn nói:

- Chuột sợ nó thì có.

Đang ngồi ôn lại chuyện ngày xưa cùng đi học với Tuấn bên ly nước dừa, tôi thấy cô bé tay cầm cái chĩa, tay cầm lồng sắt đi ra cổng. Con chó mực lẽo đẽo chạy theo sau. Tôi vội nói với Tuấn:

- Để tôi đi phụ bắt chuột với cô bé nghe.

- Ông cứ ngồi đây chơi, một mình nó làm được mà.

Tôi cười nói:

- Tôi muốn đi thực tế. Vả lại chính tay mình bắt được chuột đem về nấu ăn mới ngon.

Tôi đuổi kịp cô bé khi em vừa ra khỏi cổng một đoạn đường. Con chó mực quay qua tôi gầm gừ, chắc nó sợ tôi dành chỗ nó "theo đuôi" cô bé. Tôi vội bước lên đi ngang hàng với em. Cô bé nói:

- Ông tuổi con gì?

- Tuổi tý.

- Vậy ông nên ở nhà.

- Trời đất! Đi bắt chuột mà cũng kị tuổi à?

- Ông hạp tuổi con chuột nên mới khó bắt, vì ông dễ dàng buông tha "đồng loại".

- Sức mấy mà tôi buông tha. Tôi đang muốn tìm vài "đồng hương" để khìa nước dừa. Còn em chắc tuổi con mèo, sát tinh của loài chuột?

- Không. Em tuổi con rắn. Ở miệt quê rắn bắt chuột giỏi hơn mèo.

Tôi mừng thầm. May mà tôi không ở miệt quê, nếu không chắc em sẽ "nuốt" tôi dễ dàng. Tôi hỏi:

- Em học lớp mấy rồi?

- Hơn anh em một lớp.

- Xạo!

- Thiệt mà, em học lớp 12, còn anh em dạy học lớp 11. Ông cũng đi dạy học như anh em?

Tôi gật đầu:

- Anh em dạy chữ, còn tôi dạy sử dụng máy vi tính.

- Vậy ông có thể lập chương trình bắt chuột trên máy vi tính được không?

- Được chứ, nếu em cung cấp cho tôi những dữ kiện.

Đang đi bỗng cô gái quay trở lại, nói:

- Vậy chúng ta về nhà.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại về nhà?

- Đi bắt chuột làm chi cho mất công. Về nhà, em sẽ cung cấp cho ông những dữ kiện để ông đem về Sài Gòn khìa chuột đồng trên máy vi tính.

Tôi lắc đầu cười. Cô bé này quá lanh. Tôi ở thành phố còn chịu thua huống chi mấy con chuột ở đồng.

Cô bé dẫn tôi đến một cánh đồng lúa vừa mới gặt còn lác đác những hạt lúa rơi. Em dặn:

- Ông đứng im một chỗ, đừng đi lung tung, chuột nghe động bỏ chạy.

Tôi đứng trên bờ ruộng nhìn con mực trổ tài. Nó đi dọc theo bờ ruộng hít hít rồi sủa vang trước một miệng hang chuột. Cô bé quơ mớ rơm ở ruộng, đốt lửa, dúi vào miệng hang rồi em đứng dậy cầm cây chĩa ngạnh bén ngọt chờ đợi. Khói xông vào hang, một con chuột ngộp thở chạy ra, cô bé lanh lẹ đâm thẳng cây chĩa vào b%

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: