Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyen ngan chon loc(ttt)-Lenghiabk05

Lão Khương Câm

Ở cái làng Rế nằm rìa ngoài thị trấn A.H không ai không biết lão Khương câm nổi tiếng với cái tài chăm đào, tỉa quất. Cũng ở cái làng Rế này, ngoài đất nhà lão Khương câm không đất nhà nào có được cây hải đường cao hơn 3 mét, sống hơn 100 tuổi mà vẫn say nụ, lắm hoa. Tết vừa rồi, người làng kháo nhau, lão Khương câm bán đào, bán quất, bán hải đường thu được hàng chục triệu. Mà dường như tết nào cũng vậy. Chưa kể chuyện đầu tháng Chạp năm Ngọ, cha con nhà Chức béo cậy giàu, sắm Dream thùng đèo nhau, phóng như điên trên con đường bê tông rộng chưa đầy một mét, quẹt vào người lão Khương câm. Đã không nói xin lỗi, Chức con lại còn gạt chống xe, chống nạnh, chỏ mồm chửi: “Địch mẹ, đi đứng thế à?”. Lão Khương câm nhưng nhìn cách nhép môi, lão biết hắn nói hổn nên trở đòn gánh, phát nhẹ vào mông. Ai ngờ, Chức con tung một cú “thôi sơn phá thạch”, đẩy luôn 5 cái răng của lão rớt xuống đường, máu văng tung toé. Cha con nhà Chức bị dân quân bắt trói, giao cho xã. Nhà Chức muốn lão Khương bãi nại nên đến ỉ ôi xin bồi thường mỗi cái răng 500 nghìn… Hết tết, lão thuê người đóng gạch, dựng hẳn một ngôi nhà đúc, gắn cửa gỗ kiểu Hàn Quốc, mua cả đầu vi déo, ti vi nội địa ngày nào cũng mở băng xem Xuân Hinh, Minh Vượng hát liên khúc chèo pha vọng cổ, run đùi cố rặn cười ặc ặc.

 

 

 

 Làng Rế có hơn trăm nhà, nhưng hình như chỉ có bố mẹ tôi là có thể hiểu được ngôn ngữ tay chân của lão Khương. Khi vui, lão sang nhà tôi, vung vẩy hai tay rồi đưa mẹ tôi nắm tiền là bà hiểu, chạy ra chợ mua ký thịt, chai rượu nếp về cho lão và bố tôi. Khi buồn, lão cũng sang nhà tôi, lắc lắc đầu là bố tôi kéo lão vào trong, pha ấm chè thật nóng, vỗ vỗ lên vai lão an ủi. Sau này, tôi mới biết, ngày xưa lão Khương là bạn thân của bố mẹ tôi thưở nhồng nhổng bắt cua, bắt cái ngoài bãi bồi ven sông Nhuệ.

 

 

 

Lúc nhỏ, lão Khương quý tôi lắm, đi đâu về lão cũng có quà, khi thì nắm kẹo, lúc thì mớ táo. Vào những ngày hội làng, lão Khương vác tôi lên vai, chơi suốt từ sáng sớm đến tối mịt. Bây giờ, tôi đã hơn 30, lại có nghề nghiệp ổn định nhưng mỗi lần lão Khương mang cho tôi hộp dao cạo râu hay tút thuốc Ngựa Trắng (White Horse) mà tôi không nhận là mắt lão rơm rớm, tay đâm đấm lên ngực. Thi thoảng, thấy tôi đèo cô bạn gái rề rà đi trên đường làng, bận đến mấy lão Khương cũng chạy sang nhà, cà kê vài ly rượu với cha tôi nhưng mắt vẫn không rời từng cử chỉ, dáng đi của tôi lẫn cô bạn. Lấy làm lạ, tôi định tìm hiểu nhưng bận bịu, việc nọ xọ việc kia nên quên bẵng.

 

 

 

***

 

 

 

Bố tôi kể: Lão Khương câm không phải do bẩm sinh, lão từng biết nói và nói rất hùng hồn, rất có thần nên được phân công làm phát thanh viên của làng. Mỗi sáng, cứ đúng 6 giờ 30 là nghe giọng lão oang oang trên mấy chiếc loa treo tòn ten trên ngọn cây đa đầu làng: “Đây là tiếng nói của nhân dân làng Rế…”.

 

 

 

Bố tôi kể tiếp: Lão Khương nổi tiếng giỏi võ lại có tài thổi sáo. Đêm đến, lão Khương thường ngồi một mình với chai rượu trước hiên nhà. Khi đã ngà ngà say, lão Khương đưa ống sáo lên môi, mắt nhắm nghiền, gà gật, ngữa nghiêng. Những âm thanh réo rắt, khi bổng, khi trầm, như một thứ ma âm len lỏi vào da, vào thịt, lâng lâng rồi tê bại. Tiếng sáo bay qua hàng rào dâm bụt, luồn lách trong những bụi tre trúc, quẩn quanh trên từng mái nhà. Tiếng sáo đã làm không ít gái làng mê tít. Lão Khương lại đang tuổi trai tráng, lão chẳng dại gì mà từ chối những tình cảm họ dành cho lão. Thỉnh thoảng, nửa đêm, người làng Rế bừng tỉnh khi nghe tiếng tru tréo vọng vang, tiếng khóc rấm rứt, sáng hôm sao, phát hiện gái làng vắng một đứa, họ kháo nhau ”thằng Khương lại làm con gái người ta chửa hoang” dù thật tình thì chẳng ai bắt được quả tang “trai trên gái dưới”.

 

 

 

Nghe đồn, có người ôm hận, mài một con dao yếm bén ngót, bày mưu dụ lão ra khu mã Tây, đang lúc mây mưa, nắm chặt “chim” lão định phạt một phát. Nhưng chẳng biết lão nói thế nào mà cô gái quẳng dao, ôm quần áo chạy biến về nhà. Trai làng tức lắm, mấy lần xách gậy phục, nhưng chỉ cần mấy bước chân đảo qua, đảo lại, nhoáng một cái là lão đã chạy thoát.

 

 

 

Tôi không tin, hỏi ngược lại: “Giỏi thế, sao không tránh được cú đấm của Chức con?”. Bố tôi không trả lời, mày chau lại, thở một tiếng sượt dài rồi quờ tay lấy ống điếu châm lửa, rít sồng sộc, ngửa cổ nhả khói mù mịt.

 

 

 

***

 

 

 

Một ngày tháng bảy, tôi được công ty phân công vào giải quyết một số việc ở Sài Gòn. Tàu rời ga, chạy đến quãng Vinh, bố tôi gọi điện thoại bảo, bằng mọi giá, kể cả mất việc, cũng phải về nhà ngay. Nhưng khi tôi hỏi chuyện gì, ông lại không nói.

 

 

 

Về đến đầu làng, tự dưng tôi cảm thấy bồn chồn, lo lắng. Chưa đến cổng nhà, bố tôi đã lao ra, nắm tay tôi lôi nhanh về phía nhà lão Khương câm. Đến nơi, tôi mới biết lão Khương câm vừa qua đời. Gần như cả làng Rế đều tụ tập trước khoảnh sân nhỏ nhà lão Khương, có cả cha con nhà Chức.

 

 

 

Lão Khương chết. Người làng tôi bảo, cái chết của lão rất xứng đáng được ghi vào quyển lịch sử làng Rế dày cộm viết bằng chữ nho, chữ Pháp lẫn chữ quốc ngữ. Chiều hôm ấy, trời quần vũ, sấm chớp ì ầm, mưa như trút. Gió giật từng cơn, lồng thốc vào những gian nhà lợp thiếc, tung lên, dập xuống “xèn xèn” nghe rợn người. Không ai bảo ai, người làng Rế đều trông đứng, trông ngồi, mắt căng ra nhìn về phía bến sông Nhuệ chờ con đò đưa đón con, cháu học trường làng mãi bên kia sông. Họ lo sợ, con sông Nhuệ ngày thường hiền hoà, lừng lững chảy trôi xuôi nhưng nó sẽ bùng lên, mặt nước chao nghiêng dữ dội mỗi khi trời mưa bão. Người làng kể lại, chẳng biết bằng cách nào lão Khương biết con đò lật úp khi đã qua gần nửa dòng. Lão băng mình dưới mưa, đập cửa từng nhà, mặt hoảng hốt, ú ớ quơ tay chỉ về phía bến sông. Và cũng chính lão Khương là người đầu tiên lao xuống dòng nước sủi ngầu bọt. Đứa cháu đích tôn của nhà Chức được đưa lên trước nhất, rồi con nhà Sửu, cháu nhà Dần… Cứu được hết, duy chỉ có mỗi lão Khương là mất hút. Mãi đến 3 ngày sau…

 

 

 

***

 

 

 

Một trường hợp anh hùng, tôi nghĩ thế! Nhưng bố tôi đã không để cho tôi kịp nghĩ ngợi gì thêm, ông ẩy tôi dúi dụi, bắt tôi phải quỳ trước quan tài lão Khương, còn mẹ tôi thì cầm một mảnh vải trắng, một chiếc mũ rơm và cây gậy đưa cho tôi. Bố tôi nghẹn ngào kể:

 

 

 

… Tôi không phải là con của bố mẹ tôi mà là kết quả của một đêm mặn nồng giữa anh lính Khương trẻ tuổi, nhiều tài vặt và một cô gái thanh niên xung phong trong một chặng dừng chân giữa đường Trường Sơn máu lửa. Tất cả cho miền Nam, anh lính Khương theo đoàn quân ào ạt đi, qua Huế, qua Đà Nẵng, Nha Trang rồi giải phóng Sài Gòn. Chiến thắng. Vui cùng với niềm vui chung của cả nước, anh lính Khương trở lại làng Rế học lái xe công nông, xe tải chở hàng, ngược xuôi Bắc Nam, Nam Bắc. Có một ngày cô gái thanh niên xung phong năm xưa, tức mẹ ruột tôi, bồng con, tức là tôi, tìm đến làng Rế nhưng không gặp lão Khương, tức là bố ruột tôi, đành tá túc qua đêm ở nhà bố mẹ nuôi tôi bây giờ. Khuya, cũng mưa, cũng gió, bà bỏ tôi lại, đi mất. Năm ấy tôi vừa tròn 2 tuổi. Mẹ nuôi tôi không con, nhìn trẻ khóc nấc vì vắng mẹ, bà sót lắm, cứ dỗ dành tôi mãi trên tay. Lão Khương về, ông không tin tôi có thể tựu hình sau một đêm gấp gáp, vội vàng nên không muốn nhận. Ông đi tìm người con gái năm xưa nhưng trời đất mênh mông biết đâu mà tìm. Ông đi, bỏ tôi lại cho bố mẹ nuôi tôi.

 

 

 

Vẫn tính cũ, phong trần lãng tử, mỗi chặng dừng chân, ông có có một bến đỗ. Bến muôn đời cũng chỉ là bến, là nơi đợi chờ, héo hắt trông ngóng con thuyền đi rồi về, về rồi đi. Cũng vì cái thói trăng hoa ấy mà ông ôm hận. Trong cơn say tình, say ánh mắt của một cô gái người dân tộc, ông đã trót thề độc “câm suốt đời” nếu phụ tình. Thế là câm thật, câm cho đến ngày nhắm mắt.

 

 

 

… Nghe hết chuyện, tôi khuỵu xuống, muốn khóc, nhưng mắt ráo hoảng. Ngước nhìn tấm ảnh chân dung lão Khương, mà không, ông bố ruột tôi, bổng nhiên, chẳng hiểu tại sao tôi chỉ dập đầu vái ba lạy rồi đứng dậy quay lưng, bỏ lại mảnh khăn trắng, chiếc mũ rơm và cây gậy. Len qua đám đông người làng Rế, tôi đi về phía bến sông Nhuệ. Có tiếng thở dài. Rồi những tiếng thở dài.

Cái Tình Chi...

Lão ốm nhom, cao kều, nâu sạm như vừa từ lò sấy chui ra. Lão đi hai hàng, lằng ngoằng quăng quật. Chiếc đầu trọc lốc, lồi lõm và chiếc mũi mỏ chim nhọn hoắt luôn ngọ nguậy. Trông lão giống như một quái nhân cao thủ trong truyện chưởng của Kim Dung. Người trong hẻm gọi lão là Lão Xỉn.

Cũng bởi dân gian quen gọi người theo ấn tượng. Cơ quan có một tay cán bộ đầu to, nhưng trí thức thì quá bé nhỏ, được anh em gọi là Thiên Lôi bởi gã chỉ biết làm theo lệnh trên chỉ đâu đánh đó, mà đã đánh là đánh dữ bất chấp tình lý, phải trái. Lại có một anh chàng "bạch diện thư sinh" dáng vẻ nho nhã lịch thiệp nhưng hiểm ác khôn lường, ai cũng phải dè chừng, gọi là "Bạch Xà đực". Ngay trong hẻm này, người ta cũng đặt tên gọi cho nhiều người theo ấn tượng hình thể và tính cách. Như cô bán chè đậu xanh là cô "chè đá", anh đạp xích lô là "lô lùn", bác thợ cắt tóc hói đầu là "cạo hói"... Có điều hơi khác nơi công sở, người trong hẻm đặt biệt danh cho nhau không phải do ác ý, nhấn mạnh điểm xấu. Cái tên lão Xỉn cũng vậỵ

Người đặt tên cho lão ấy để ghi nhớ những cái hữu ích của lão khi say xỉn. Lão không phải xỉn quậy, mà là xỉn hữu dụng. Cũng là điều lạ trong cái xóm hẻm này. Xưa nay, người ta thường nói "say xỉn làm càn" chứ tuyệt nhiên chưa thấy ai nói "say xỉn hữu ích" cả. Chẳng thế mà Chính phủ mới ra lệnh cấm say xỉn đó thôi. Cũng cần phải nói thêm cho có ngành có ngọn về việc đặt tên lão Xỉn, ở cái hẻm có 23 hộ này, đàn ông say xỉn là chuyện thường ngày, là việc đương nhiên như đến mùa mưa thì mưa đến, mưa nhiều thì ngập nước... Có đến 90 phần trăm đàn ông trong hẻm mê bia, rượu và hầu như tất cả đều say xỉn sau khi nhậu. Có bữa, họ xỉn đồng loạt quậy phá lung tung khiến đàn bà con nít kêu khóc om sòm, chạy tới chạy lui như cứu hoả và ba anh công an phường phải tả xung hữu đột hơn một giờ mới dẹp yên. Người ta nói mỗi năm ở hẻm này có hai ngày "dịch xỉn" tức là ngày bọn đàn ông đồng loạt xỉn. ấy là ngày rằm tháng bảy cúng cô hồn và ngày giáp Tết Nguyên đán đưa ông Táo về Trời. Cớ sao họ lại chọn hai ngày ấy để quậy ? Mỗi người nói ra một lý do chẳng ai giống ai, nhưng chắp nối lại cũng có thể hiểu được : bởi làm nghề tự do, bám lòng lề đường kiếm sống, nay được mai thua nên họ lắm mê tín, lấy hai ngày đó làm ngày xả xui. Lại phải nhắc lại, con hẻm này vốn là "vương quốc" của dân nghèo tự dọ. Trước 1975, người trong hẻm có bốn cái không : không được đi lính, không học, không trộm cắp, không xỉn không về. Sau giải phóng, hai cái không đầu phải bỏ. Trẻ con phải đi học, thanh niên phải đi nghĩa vụ quân sự. Cái không trộm cắp, xóm vẫn giữ được trọn vẹn, nếu có xảy ra chuyên mất đồ cũng là do kẻ gian nơi khác đến. Còn cái "không xỉn không về" vẫn tồn tại trong thế nổi chìm, khi có khi không. Cánh đàn ông trong hẻm say xỉn càng quấy nhiễu như vậy sao không ai được gọi là xỉn ? Người xứ khác tò mò hỏi. Các bà giải thích : "Có gì lạ đâụ Ma men đã nhập, họ phải quậy thôi. Không có gì đáng nói. Chỉ có ông ta mới là lạ. Khi xỉn, ông dễ thương lắm". Có bà con nói "dễ thương dễ sợ".

Thật ra, cái tên đầu tiên người trong hẻm đặt tên cho lão là ông "kì cụt" (đúng ra là kì cục, nhưng vì dân ở đây không quen nói nặng, đổi âm cục thành cụt). Ông "kì cụt" đến hẻm này bất ngờ như thể từ trên trời rơi xuống từ dưới đất chui lên, hay nói theo thời đại của ti vi là "đột ngột như đổi kênh truyền hình". Tối không thấy gì. Đêm không thấy gì. Sáng ra, người ta thấy ông lừng lững ở đầu hẻm, sa sả rao báo : "Báo mới đây ! Tin mới nhất về cuộc chiến vùng vịnh. Quân Mỹ - Anh đã tiến sát thủ đô Bát đạ.."

Hồi ấy xảy ra cuộc chiến vùng Vịnh, liên quân Mỹ-Anh tiến đánh Irắc người đọc thành phố sôi nổi bàn luận. Giới cá cược bóng đá cũng nhảy vào cuộc. Người ta cá độ "Ông Hútxen cầm cự được bao lâu ?". Cánh đàn ông trong hẻm vốn là đệ tử túc cầu giáo và cũng là cư dân có hộ khẩu thường chú ở làng cá độ C,D trên sân Thống Nhất, nhanh chóng bắt mồi. Mất chẳng đáng là bao (có 5 ngàn đồng) nhưng nếu được thì được nhiều thứ, tiền bạc chỉ là phụ. Cái được lớn nhất là vẫn là danh giá. Người trong hẻm tin cậy ông, nhờ ông làm quân sư. Ông đoán trúng phóc ngày kết cục cuộc chiến. Cánh đàn ông trong hẻm thắng lớn, mở tiệc chiêu đãi ông. Họ say xỉn, về nhà tìm chén mẻ để đập, ghế gẫy chân để phá, hò hét doạ nạt vợ con... Ông "kì cụt" cũng xỉn nhưng không quậy phá như họ. Ông lang thang khắp xóm biểu diễn văn nghệ. Đầu tiên ông hát xẩm một kiểu hát rất lạ tai đối với cư dân ở hẻm này. Hát rằng :"Cái tình là cái chi chi - như dây trong cổ dắt đi, kéo về - Cái tình có lắm thuốc mê- Trời rung đất lở, khen chê mặc đời - Cái tình là gã dở hơi - mượn nơi khố rách, đãi nơi quần hồng - Cái tình nhẹ tựa như bông - Lại nặng như núi chất chồng tháng năm...". Sau khi kể một thôi một hồi về cái tình nào đó là con đười ươi giữ ống, con cá lội, con chim baỵ.. đệm nhạc bằng chiếc thanh la nhỏ, ông chuyển sang hát tân cổ giao duyên với lối diễn của các ngôi sau nhạc rốc pha trộn tấu hài khiến mọi người thích thú cười hể hả. Cuối cùng là tiết mục độc tấu sáo trúc. Đây mới là điều để người ta có ấn tượng sâu đậm. Có bà đa cảm, nghe tiếng sao, khóc sụt sùi nói :"Đúng là Trương Chi tái thế". Cái sự ví von này dầu không hợp nhẽ nhưng cũng có thể hiểu được tầm mức ca ngợi của bà. Cũng chẳng riêng gì bà đa cảm nọ, hết thảy mọi người trong hẻm từ già đến trẻ đều khen tiếng sáo của ông là hay. Nó tha thiết trầm bổng. Nó véo von day dứt, lúc chậm lúc nhanh mà theo lời ông giáo già đã 40 năm gõ đầu trẻ con ở đầu hẻm nhận xét, tiếng sáo ấy như Nguyễn Du mô tả tiếng đàn của Kiều :"Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa..." Tiếng sáo khiến mọi người phải bồi hồi thảng thốt nhớ lại những chuyện ân tình, những gương mặt thân quen, những kỷ niệm đẹp... Nó mang đến cho người ta cái gió mát lành, sắc trời trong trẻo, vầng trăng sáng lung linh và những cồn mây bảng lảng mơ màng. Lòng người lắng dịu, êm ả. Nóng mấy cũng phải nguội. Chao ôi ! Âm nhạc kỳ ảo, kỳ diệu làm sao. Có ông say xỉn họ hăm he lấy mạng kẻ thù, chợt buông dao thở dài ca rằng :"Người ta ai chẳng là người, con đau của xót thích đời giàu sang..." Bác "cạo hói" tỏ ra am hiểu về nghệ thuật, bình phẩm rằng : "Cũng là nhờ say xỉn cả đấỵ Có ông hoạ sĩ chỉ vẽ được khi xỉn. Có ông nhà thơ khi xỉn mới ra thợ Say xỉn mới có giây phút xuất thần, thăng hoa cảm xúc, hứng khởi trào dâng..." Đám đàn ông vỗ tay :"Hoan hô say xỉn". Đàn bà đồng thanh nói :"Xỉn thế mới là xỉn". Họ không gọi ông là "kì cụt" nữa, mà gọi Lão Xỉn. Cái tên ấy "đóng chết" vào lão mặc dầu sức vóc lão còn khoẻ, giọng nói sang sảng, giọng ca mạnh mẽ, không thể gọi là già. Không một ai biết tuổi của lão. Khi lão ngồi tưởng già, lúc đứng lại thấy trẻ, sáng thấy già, chiều thấy trẻ... Không biết đâu mà lường. Lao Xỉn không có nhu cầu tâm sự cá nhân với người tạ Không diễn trò thì lão cúi đầu im lặng. Có ai đó bị đứt cầu dao điện gọi lão đến sửa dùm. Rồi thì cái xe bánh mì của cô Ba bị hư, lão mang kềm búa đến sửa dùm. Nhà ai có giỗ, hô một tiếng, lão sẽ vui vẻ đến ngay phụ giúp việc bếp núc. Chưa bao giờ lão từ chối điều gì khi người trong hẻm nhờ cậy, khi tỉnh cũng như khi xỉn, kể cả chuyện làm mặt dữ, diễn trò ma quỷ để doạ trẻ con nín khóc. Sáng sớm lão đi, trước đây lão có sạp bán báọ Khi có chỉ thị dẹp lòng lề đường lão bỏ sặp bán báo dạo. Không chỉ có bán báo, trên chiếc xe đạp của lão có nhiều thứ văn phòng phẩm, kẹo cao su, nhịp nhổ râu, đồ lấy ráy tai... Nghe nói, lão còn làm nhiều nghề khác. Lão về lúc trời gần tối, ngả nghiêng, xiêu xiêu, vẹo vẹo, như đổ sấp, như ngã ngửa, như té ngang, té dọc. Nhưng chưa bao giờ lao té ngã cả. Trẻ con lần lượt rồng rắn theo lão. Chúng vỗ tay hát "Nhà ta có mái, Mái che nắng che mưa. Nhà ta có tường. Tường để đỡ mái. Nhà ta rộng rãi. Không ghế, không bàn. Chỗ ngủ, chỗ ăn. Thích đâu nằm đó. Nhà ta có cửa. Cửa luôn rộng mở. Chờ người đợi người..."

Đấy là bài hát về cái nhà của lão, một cái hẻm cụt sửa sang lợp mái thành một cái nhà, trống rỗng như một toa tàu hàng. Đây là quà tặng của cư dân trong hẻm dành cho lãọ Trong hẻm có lắm ông gàn, nhiều bà ngang ngạnh đanh đá. Kể từ ngày sau giải phóng 1975 đến nay, dân trong hẻm mới chỉ đồng tâm nhất trí 100% có hai điều. Thứ nhất là việc chung sức, góp tiền sửa đường, thông cống. Thứ hai là nhất trí giúp lão Xỉn có nhà ở và bảo lãnh cho lão. Cũng bởi lai lịch của lão mơ hồ, không rõ ràng nên công an phường gây chuyện khó dễ. Lão không tỏ ra bất bình hay ca thán gì cả. Lão thản nhiên nói : "Tôi sẽ đi". Bọn trẻ biết chuyện, báo cho cả hẻm. Mọi người xúm lại giữ lão, đồng tâm nhất trí bảo lãnh cho lão :"Ông ấy là quý khách của chúng tôi. Chúng tôi bảo đảm sự trong sạch, lương thiện của ông ấy". Họ nhất loạt nói vậy. Công an phường đành cười xoà cho qua. Thêm một điều lạ nữa. Người trong hẻm này vốn có ác cảm và luôn cảnh giác với người lạ, nhất là người xứ khác đến. Từ xưa đến giờ chưa hề có một người lạ, nhất là người xứ khác đến. Từ nay, chỉ có người đi chứ chưa có người đến. Người xa khác đầu tiên đến đây là lão. Mà hầu như hết thảy mọi người đều không biết lai lịch, gốc tích của lãọ Người ta đoán già đoán non, mỗi người một ý, không ai giống ai. Lão nói giọng xứ Bắc, nhưng gốc không phải ở Bắc. Lão sinh và lớn lên ở đất Sài Gòn - Gia Định này. Lão có giấy chứng nhận là Việt kiều Thái Lan về nước, sống ở vùng Phú Thọ ngoài Bắc những năm 60. Lão còn giữ cả giấy chứng nhận lao động tiên tiến ở nông trường chăn bò vùng Ninh Bình năm 1970. Lại có giấy khen của Công ty Cầu đường tỉnh Phú Khánh tặng cho lão năm 1982. Cứ theo những giấy tờ của lão, người ta chỉ biết lão đi một vòng trái đất, rồi từ Bắc vào Nam, về lại nơi mình đã sinh ra. Bởi vậy có người đoán : lão sinh ra nơi nào đó trong con hẻm hoặc gần với hẻm này. Cuối đời "lá rụng về cội" là lẽ đương nhiên...

Nhưng, cũng có người nói lão bôn ba khắp nơi là để tìm kiếm người tình. Trong bóp lão có giữ tấm ảnh một cô gái, dầu đã bị thời gian làm cho mờ ố, nhưng trông còn đẹp lắm. Lão đi bán dạo khắp thành phố cũng là để tìm kiếm người xưa. Tiếng sáo của lão không phải là tiếng gọi bạn thì là tiếng gì ?

Cái ý kiến này xem ra có vẻ nghe được. Và người ta càng tin vào cái giả thiết này hơn khi có người phát hiện ra rằng đã gần một năm lão không hề say xỉn. Lão chỉ giả vờ say xỉn để diễn trò mua vui cho cả hẻm mà thôị Lão không hề uống một giọt bia rượu nào khi chiều làm sao có thể xỉn được. Bởi vì, chiều nào, từ năm giờ đến sáu giờ rưỡi lão đều đến một căn nhà sang trọng mặt tiền ở một phố lớn có nhiều tiệm đồ sang trọng, dắt một bà lão bị mù ra công viên ngồi hóng gió. Anh "lô lùn" đem cả bài vị ông cố nội ra thề đó là sự thật. Anh còn nói thêm :"Tôi biết nhà bà lão này. Nhà rất giàu, lắm con nhiều cháu nhưng ăn ở bạc lắm, không ai chăm lo bà lão cả".

Có người hỏi lão "vì sao vậy?", lão không trả lời, giả vờ say xỉn khật khưỡng hát :"Cái tình là cái chi chi..."

Sát cẩu

Năm ngoái, một hôm trời nắng ráo hiếm hoi của Oregon, ra sân tennis của một trường học chơi với mấy người bạn, tình cờ quen một anh bạn Bắc Cờ cũng khá đặc biệt.

 

Gọi là anh cho thân mật, chứ ông thầy cũng tròm trèm gần 60 tuổi. Anh đang làm process engineer cho Intel ở New Mexico, được gởi sang training ở Intel Oregon khoảng một năm. Gặp vài lần trên sân tennis rồi cũng thành thân, anh bạn mời về nhà...ăn phở, tên anh là Phùng. Nhà đây thực ra là apartment được Intel mướn cho anh ở trong thời gian học. Mình là dân ghiền ăn phở thứ dữ, nhưng ông thầy mời ăn phở, trong bụng không tin tưởng tay nghề của ông thầy lắm, cũng ậm ừ cho qua chuyện, không ngờ đúng giờ hẹn, ông thầy lên tận nơi làm việc, áp tải về "ăn phở". thiệt không ngờ, phở ông thầy nấu quá ngon, cỡ cỡ phở Tàu Bay Saigon chứ không thua, vừa bước vào căn phòng nhỏ của anh Phùng, mùi phở và bò thơm bốc ngào ngạt, chưa ăn, biết ngay là dân có nghề.

 

Anh Phùng tâm sự, đời anh trải qua 9 lần "major surgery", thôi thì tim, gan, phèo, phổi, bộ đồ lòng, cái gì cũng được móc ra chùi giấy nhám, dán lại xài. Anh cởi áo cho coi, thẹo đầy người như vết thù trên lưng ngựa hoang. Nghĩ thấy phục ông thầy thiệt, tuổi 60, người thì mổ đầy thẹo, ra sân tennis vẫn chạy như ngựa, không bỏ sót một trái banh nào. Ăn phở xong, anh bạn móc cây đàn guitar gãi nhè nhẹ vài nốt nhạc.

 

- Này nghe thử bài này xem sao?

 

Tắng hắng vài cái, miệng còn loang loáng mỡ bò, anh cất giọng chơi luôn một mạch một bài tình ca, nghe cũng phê phê, có vài chữ Oregon, rồi mưa lạnh cô đơn gì gì trong đó.

 

- wow, bài này lạ quá, nghe cũng hay, nhạc này ở đâu ra vậy anh Phùng?

 

- Tôi mới sáng tác đó!

 

- Hả, trời không ngờ anh Phùng đa tài dữ vậy ta, nấu phở một cây, còn sáng tác nhạc nữa!

 

- Bài này, hồi mới sang Oregon, buổi tối đầu tiên, nhìn ngoài trời mưa buồn nhớ bà xã quá, tôi viết bài này tặng bả. Sáng tác xong cũng 1 giờ sáng, tôi gọi bả, bả làm swing shift vừa đi làm về, tôi hát luôn trong phone tặng bả, bả cảm động quá trời.

 

- Thiệt tình nể anh quá, tuổi 60 mà còn tình còn lãng mạn quá hén?

 

- Bữa nào tới chơi, tui hát bài "Bún Riêu Ốc" cho nghe, cũng phê lắm.

 

- Hả, bài gì mà cái tựa nghe chảy nước miếng vậy cha?

 

- Số là, mấy chục năm trời lấy nhau, từ VN sang tới Mỹ, tôi có bao giờ nấu ăn đâu, toàn là bả làm hết, tính bả mê món "bún riêu ốc" lắm, nhưng bả không trổ tài nấu thì cả nhà lấy đâu ra mà ăn, tuần lễ đó, bả bị đau, vẫn phải cố gắng đi làm. Tôi ở nhà, lục sách nấu ăn của bả ra, mày mò nấu món bún riêu ốc, đợi đúng một giờ đêm, bả đi làm mệt mỏi về, bưng tô bún nghi ngút khói thơm nồng lên cho bả ăn, bả xúc động nghẹn ngào đến ăn không vô, bả không ngờ tui nấu bún cũng ngon không thua gì bả, đó cũng là mốc khởi điểm bắt đầu cuộc đời nấu nướng của tui. Đêm đó bả vui, tui có thưởng..vui quá, nửa đêm tôi thức dậy, trông đèn, gãi đàn, sáng tác bài tình ca "bún riêu ốc". Đáng nể anh bạn Phùng này, Phạm Duy, ông tổ âm nhạc VN, nổi tiếng về sáng tác đủ loại nhạc, nào là đạo ca, dâm ca, tục ca, vậy mà vẫn còn thiếu "đồ ăn" ca, nhạc sĩ tài tử Phùng Bích lạng quạng dám đi vào lịch sử âm nhạc VN với bài tình ca "bún riêu ốc" chứ chẳng chơi. Câu chuyện tài nấu nướng của anh Phùng từ từ được bắt sang những món ăn đặc biệt của dân mình.

 

- À mà này, ông bà cụ nhà là người Bắc hả?

 

- Dạ, mẹ em người Bắc, ba em người Huế, em sinh trong Saigon.

 

- Thế có bao giờ ăn thịt chó chưa?

 

- Dạ hồi ở VN có một lần duy nhất, thằng bạn dắt vào một quán thịt chó gần chùa Vĩnh Nghiêm, nhưng vừa chuẩn bị gọi đồ ăn, nhìn sang bên cạnh, một bợm nhậu vừa ngậm, vừa mút mút nữa cái đầu chó còn nguyên hình dạng, nhìn ớn da gà quá, nên em dzọt luôn...

 

- Thế là một mất mát lớn của cuộc đời cậu đấy.

 

Sang Mỹ này có được ăn thịt chó bao giờ chưa?

 

- Hả, bên Mỹ, chó đào đâu ra mà ăn, anh giỡn mặt hoài! Anh Phùng cười hà hà.

 

- Vậy mà tui ăn hơn chục lần rồi đấy.

 

Tui quá ngạc nhiên hỏi tới.

 

- Mà mà anh mua ở đâu, ở Little Saigon thì có thể có, chứ anh ở New Mexico làm sao ai bán chó cho anh ăn?

 

- Tự tui làm, tui ăn, chứ đâu cần mua ai. Anh cười hiu hiu tự đắc.

 

Rồi không chờ tui hỏi thêm, anh tường thuật lịch sử câu chuyện ăn thịt chó của đời anh.

 

- Số là, không hiểu cha sinh mẹ đẻ ra làm sao, tui lại nghiền cái món thịt chó mới chết chứ. Hồi mới sang Mỹ, đi học community college, vào học một lớp ESL, hôm đó bà giáo ra đề luận văn "how to..." bạn có thể viết về bất cứ cách thức làm về một cái gì. Tự dưng cơn thèm thịt chó bùng phát, hứng quá, tui viết luôn một mạch bài văn "how to cook dog in seven dishes" - cách thức làm chó bẩy món, tui viết theo kinh nghiệm thực tế từ cách lột lông chó, đến cách làm các món rựa mận, chả chìa, dồi chó. Oh my God, khi bà giáo đọc bài tui, cả lớp như điên dại, bà cô giáo Mỹ, giận đến miệng sùi bọt mép, tay run run chỉ trỏ mắng mỏ tui gì đó, tui đâu hiểu, bài văn của tui hay và chi tiết như vậy, mà con mẹ cô giáo cho tui có điểm D. Từ đó, tui mới biết Mẽo, nó quý chó đến thế.

 

- Trời anh giỡn mặt chính quyền thiệt, bà giáo đó không nghĩ hoàn cảnh tỵ nạn mới sang của anh, dám đưa anh ra tòa về tội hành hạ súc vật đó nhẹ Hồi mới sang Mỹ, có thời gian em làm cashier cho một tiệm grocery store lớn ở Dallas kiểu Albertson. Một bà Mỹ to béo bệ vệ bước ra quầy em tính tiền, bả dùng tiền foot stamp trả cho những lon đồ hộp đồ ăn của chó (tiền phiếu trợ cấp của chính phủ Mỹ cho người nghèo, chỉ được dùng để mua thức ăn cho người). Điều này sai nguyên tắc, em dứt khoát không đồng ý bán cho bả. Bả sùng quá, đùng đùng trở vô chợ, đem ra mấy miếng thịt bò beef steak ngon lành, quát vào mặt thằng em.

 

- OK, mày không cho chó tao ăn đồ của nó, tao cho nó ăn thịt bò ngày hôm nay, được không hả hả?

 

Mình tức ói máu, nhưng cứng họng, bả chơi đúng luật, tiền foot stamp trả cho thịt bò, chuyện bả cho chó ăn thịt bò là quyền của bả, ai cấm được. Không có cái xứ nào trên thế giới, chó mèo sướng hơn cái xứ Mẽo này. Vẫn còn thắc mắc câu chuyện sực chó trên đất Mẽo của anh Phùng, tui gợi lại câu hỏi.

 

- À mà nói lại chuyện sực chó, anh đào đâu ra chó để nằm thịt ở New Mexicỏ chẳng lẻ anh mua chó về nuôi rồi thịt như gà?

 

- Đào đâu ra chó nuôi rồi ăn, vả lại cách đó tốt kém lắm, chú biết chó nuôi bên Mỹ này tốn kém lắm, nào là tiền thú y, tiền bảo hiểm, tui có cách khác độc chiêu hơn nhiều.

 

Anh từ từ diễn tả kỹ thuật truy cẩu trên đất Mẽo.

 

- Đầu tiên, tui xem báo, coi nhà Mỹ nào chó sinh nhiều quá đăng cho. Mỹ nó ngộ lắm, chó nó thương không bán, nhưng sinh sản nhiều quá, nuôi không xuể thì cho, đăng báo đàng hoàng, trao con chó cho mình, mà vợ chồng con cái nước mắt lưng tròng, bao nhiêu lời gởi gấm như trao tặng tri kỷ, người yêu của nó cho mình. Thế là a lê hấp, chó đem về nhà là tui cho vào nhà tắm, vặn cổ lột lông ngay, chỉ đến tối là các món rựa mận, chả chìa đã sẵn sàng nóng hổi dọn lên bàn. Đồ ăn ê hề mà đâu có dám mời ai, sợ chúng thưa thì bỏ bố, có con chó, mà vợ chồng, ba thằng con trai, ăn mấy ngày mới hết. Tang vật xương xẩu, đợi đêm xuống, đem ra vườn sau, chôn giấu sạch sẽ.

 

- Thế mà có lần tưởng bị chúng bỏ tù đấy ông ạ, nó cho con chó đi rồi, lần đó bà xã tui quên cho nó số phone-địa chỉ thật, nó gọi lại hỏi "You know, Charlie is doing OK? we miss him so much" Charlie là tên con chó, anh Charline lúc đó tui đã cắt cổ, nằm quay lơ trong bồn tắm, nghe nó hỏi mà tui toát mồ hôi lạnh, tui trả lời run run trong điện thoại "Ơ, Charlie is doing just fine, don't too worry, OK?", ấy thế mà mươi phút sau, cả vợ chồng con cái nó chạy xộc tới nhà tui ông ạ, may mà thằng út tui nó báo động kịp thời, tui vác ngay anh Charlie đầu riêng một gói, thân một bọc đem dấu dưới basement, ra mở cửa tui bảo với vợ chồng con cái chúng, đang còn sụt xịt nước mắt nước mũi lòng thòng nhớ Charlie, rằng bà xã tui dắt Charlie đi khám bác sĩ, thế mà cả gia đình nó ngồi đợi đến nửa tiếng mới chịu về.

 

- Phục anh thiệt, miếng ăn căng thẳng như thế mà anh cũng ráng hỉ?

 

- Của đáng tội, cái gì úp úp lén lén như vậy, nó ngon lắm ông ạ. Để tôi tảo lùng thành phố Oregon này kiếm thể nào cũng ra một em cẩu, làm thịt, mời anh lại dùng thử tài nấu thịt cầy của tui.

 

Tôi giật mình khiếp vía.

 

- Thôi, thôi tui can anh. Tui không có ăn chó đâu, mà anh cũng đừng liều nữa, có miếng ăn mà ở tù không đáng.

 

Anh Phùng nhìn tôi cười cười thương hại.

 

- Tội nghiệp cậu này thiệt, cậu có nghe câu "sống trên đời không ăn được miếng dồi chó, chết xuống âm phủ lấy đâu ra mà ăn"?

 

Bẵng đi một thời gian, anh Phùng học xong, rời Oregon trở về New Mexico, một bữa chiều nọ, đang làm, tui bổng nhận được cú điện thoại của anh.

 

- Hà hà đang xơi cầy đây, bổng nhớ đến cậu, gọi hỏi thăm tí.

Gã trốn lính

Tất cả chúng tôi đều run. Mồ hôi toát ra đầm đìa. Giữa, Nhẫn và Út đã bị gập chặt lại, còn Cái chìa ra, chỉ có tôi đơn độc trên cái thớt gỗ. Cái thớt mốc vẫn còn mùi thịt lợn ôi, lờm lợm.

 

Ðơn độc, tôi chỉ còn biết phó mặc cho số phận. Ðây là lần thứ ba trong ngày, ngày thứ ba trong tuần. Mà đã có lần thứ ba, ngày thứ ba, thì may ra cũng sẽ có lần thứ tư, ngày thứ tư. May hơn nữa, còn có ngày thứ năm. Và biết đâu, thứ sáu, thứ bảy. Biết đâu, ông chủ đột nhiên đổi ý.

 

Cái gặp may, Giữa, Nhẫn và Út cũng gặp may. Tôi cảm thấy cay đắng, nhưng không hề ghen tị. Số phận là thế, đời tôi nhiều vinh dự thì cũng nhiều nguy cơ.

 

Tay trái, ông chủ cầm con dao pha cán gỗ. Sống dày, lườn đen, lưỡi xanh, con dao ấy sắc như nước. Giống hệt bên tay phải, cả năm ngón trái toát mồ hôi hột. Cái Trái và Trỏ Trái run nhất. Vì không quen. Lần đầu tiên cầm dao, run là phải. Mà nói đúng ra, đây đã là lần thứ chín - lần thứ ba trong ngày, ngày thứ ba trong tuần.

 

Bình thường, cầm dao là việc của tay phải, trước hết là của tôi và Cái Phải. Suốt đời mình, tôi làm gì thì hầu như bao giờ cũng cùng làm với Cái Phải. Dĩ nhiên, trong nhiều việc, như việc cầm dao, cũng ít nhiều có sự trợ giúp của Giữa, Nhẫn và Út. Tôi muốn nói là Giữa Phải, Nhẫn Phải và Út Phải.

 

Công việc của chúng tôi lặp đi lặp lại hết ngày này đến tháng khác. Mỗi khi có khách, một bà to béo chẳng hạn, hay một ông gầy như que củi, hay một chị bụng to như cái thúng, đại loại thế, ông chủ quẳng súc thịt đỏ hỏn lên mặt thớt và cầm dao. Gân căng lên, tôi miết chặt lấy cán gỗ. Như một ánh chớp, con dao pha bổ xuống tảng thịt. Sụt! Thật nhẹ. Thật ngọt.

 

- Nửa cân chẵn, ông chủ nói, quấn miếng gói thịt bằng một mảnh ni lông và trao cho khách hàng.

 

Cầm dao, đó là một công việc cao thượng. Anh không những phải cắt miếng thịt sao cho gọn, đẹp, ngon mắt, mà còn phải chính xác. Nửa cân, một nhát dao. Hai cân, cũng một nhát dao. Hai nhát là vứt.

 

Cầm dao là một công việc cao thượng còn vì một lý do khác. Anh phải biết điều chỉnh. Nhỏ thôi, nhưng phải biết điều chỉnh. Khách quen không giống khách sơ. Với khách quen anh cắt nhỉnh thêm tí chút. Với khách sơ, anh cắt hụt tí ti. Cầm dao là việc mang đầy tình người.

 

Cầm dao, đó là việc của tôi với Cái Phải, nhưng lúc này, lại là việc của Trỏ Trái và Cái Trái. Ðây là lần thứ ba, ngày thứ ba, Trỏ Trái và Cái Trái cầm dao. Mới chỉ là cầm, chứ chưa bao giờ chặt thịt. Mà nói chung, anh ta chưa chặt bất kỳ một thứ gì. Như thế thì run là phải.

 

Tôi vẫn hy vọng ông chủ sẽ đổi ý, hay ít nhất là hoãn lại đến ngày mai. Nhưng tôi cũng lờ mờ cảm thấy lần này sẽ là lần định mệnh. Tôi không thể giải thích tại sao, nhưng cảm giác ấy rất rõ. Có thể vì tay ông chủ run hơn, nhưng điều đó tôi cũng không dám chắc.

 

Ông từ từ hạ con dao xuống. Lưỡi dao lạnh chạm vào lưng khiến tôi rùng mình.

 

Thú thật, tôi vốn là kẻ nhát gan, cứ nhìn thấy lưỡi dao sáng loáng là hoảng. Hơn ai hết, tôi biết rõ tất cả những ngón nghề của hắn ta. Những mũi rạch, những đường thái, những vết cắt, những cú chặt, những nhát xả, và cả những đòn trở sống lưng gớm ghiếc. Ngón nào cũng lạnh lẽo, chết chóc. Cũng may, tôi luôn luôn là người cầm dao.

 

Trước kia, ông chủ không bao giờ chạm lưỡi dao vào lưng tôi, mặc dù vào bụng thì thường xuyên. Ðúng hơn là ông gại gại bụng tôi vào lưỡi dao, có khi để thử xem dao có sắc không, có khi chỉ vì thói quen. Da bụng tôi dày, tiếng gại vào dao khột khột, khạp khạp, cao thấp khác nhau. Nếu dao cùn, ông gại vào thanh đá mài. Nhưng chuyện đó chỉ xảy ra có một lần. Nói chung, con dao này sắc như nước.

 

Ông để lưỡi dao yên lặng hồi lâu trên lưng tôi, khẽ ấn, giữ yên, nghiêng một bên, nghiêng về bên khác, rồi khẽ ấn nữa. Lớp da mỏng trên lưng tôi đau nhói, như sắp đứt.

 

Ông cứ đứng nhứ thế hồi lâu, rồi đột ngột nhấc dao lên, thở dài. Tôi thoáng mừng thầm. Giống hệt hôm qua, khi ông nhắm mắt lại, thở dài, toàn thân tôi lạnh buốt. Tôi đợi ông lắc đầu, gạt cái thớt sang một bên rồi vào bếp, cất dao lên giá. Vậy là sẽ có ngày thứ tư. Biết đâu còn có ngày thứ năm. May hơn nữa, thứ sáu, thứ bảy. Biết đâu, ông chủ đột nhiên đổi ý.

 

Ðột nhiên ông đấm cái “rầm”. Bằng một động tác quyết liệt, tay trái ông bổ xuống một nhát trời giáng. Con dao cắm ngập vào cái thớt gỗ. Cái thớt gỗ nhớp nháp, nồng nặc mùi mỡ lợn ôi, nảy lên vì giật mình trên mặt bàn cũng dính đầy mỡ lợn.

 

Miệng nghiến ken két, ông chủ đi lòng vòng quanh bàn, lòng vòng trong phòng. Ông lại gần giá đồ nghề, lần lượt cầm từng con dao lên ngắm nghía. Tần ngần, ông đưa tôi vào miệng, cắn nhè nhẹ giữa hai hàm răng, day day như dò hỏi. Tôi chợt nhớ những ngày xa xưa, khi còn nhỏ, ông vẫn dùng răng cắn và day tôi như thế mỗi lần có điều gì sợ hãi.

 

Năm lên bốn ông bị ốm. Một bệnh gì đó không rõ, nhưng có vẻ rất trầm trọng vì ông thở khò khè, không ăn uống gì được. Mẹ ông dẫn ông đến thầy thuốc. Ông chủ tôi khóc ngằn ngặt trong khi ông thầy thuốc vẫn nhẹ nhàng dỗ dành. Ông ta ngửa lòng bàn tay ông chủ, bôi cồn lên bụng tôi, chỗ đầu ngón, rồi bất ngờ cắm phập một chiếc kim dài đúng vào cái hoa văn xoáy tròn. Tôi co rúm người lại. Ông chủ tôi thét lên một tiếng rùng rợn, rãy rụa tuyệt vọng, nhưng ông thầy thuốc không chịu tha. Ông ta bóp mạnh khiến máu chảy ra thành dòng, đen như máu cá. Ðến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác máu trong mình bị vắt ra đau buốt đến tận xương tủy. Khi máu đen đã ra hết, ông thầy thuốc ấp lên bụng tôi một miếng bông tẩm cồn, cười rất tươi: “Xong rồi, như con kiến đốt thôi mà!”. Ông chủ tôi vẫn khóc. Ông vứt miếng bông xuống đất, đút tôi vào miệng và mút.

 

Có thể lúc này ông không nghĩ đến chuyện ấy. Ông để tôi lướt nhẹ trên hàm răng thô và khấp khểnh. Hồi lâu sau, ông ra sau nhà, vẫn dùng tay trái, cầm chiếc rìu lên ngắm nghía. Chiếc rìu dùng lâu năm, cán bóng lộn, nhưng lưỡi cũng sáng loáng như lưỡi dao. Ông thấm nước bọt vào bụng tôi, quệt lên lưỡi rìu rồi khe khẽ lắc đầu.

 

Trở vào nhà, ông mở cái hộp gỗ nhỏ, vẫn cố không để tôi chạm vào. Cái hộp cũng đen đủi và nồng nặc mùi mỡ ôi. Trong hộp ngoài ít tiền lẻ chỉ có hai tấm ảnh đã ố vàng. Ông nhìn chăm chú vào hai tấm ảnh, thở dài, và lại lắc đầu.

 

Tôi gần như tê liệt khi ông đóng cái hộp, đứng dậy. Trong khi đó, ông có vẻ đã bình tĩnh trở lại. Chậm rãi, ông lại gần cái bàn nghề, dùng tay trái lay nhổ con dao vẫn còn cắm ngập vào cái thớt. Ông lay rất lâu, nhưng khi nó vừa lỏng ra thì ông nâng lên một cách dứt khoát.

 

Ngay cả lúc ông gầm lên trong cổ họng tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Máu phun ra đỏ cả mặt thớt. Tay trái ông chủ rút từ túi quần ra một cuộn gạc, quấn chặt lấy vết thương.

 

Tôi không hiểu gì cho đến khi tay trái ông chủ nhặt tôi lên, gói vào một miếng vải trắng.

 

Trong cổ họng, ông vẫn gầm gừ vì đau đớn, nhưng môi ông nở một nụ cười hãnh diện.

Ký ức làng cùa

» Tác giả: Đặng Văn Sinh

» Dịch giả:

» Thể lọai: Truyện dài

» Số lần xem: 52025

1. Phần thứ nhất - Chương một

Vào một đêm mùa hè năm Mậu Ngọ, có ngôi sao băng từ dải Ngân Hà rơi xuống phía đông nam làng Cùa, kéo thành một vệt sáng chói, cong như lưỡi kiếm, kèm theo tiếng nổ rùng rùng như sấm động.

Sáng ra dân làng vô cùng kinh ngạc khi thấy dải đất trồng dâu đồng Bìm Bịp bị khối thiên thạch khoét thành một cái đầm lớn, nước đục ngầu, vẫn còn sôi sùng sục....Cái đầm ấy giờ gọi là đầm Ma.

Ký ức làng cùa

1

          Gần trưa ngày mười tư tháng bảy, chánh tổng Khúc Đàm đang xử một vụ tranh chấp đất đai ở làng Bối Khê thì hay tin bà Ba bị đắm đò sông Lăng, sắp đến rằm xá tội vong nhân, già nửa đàn bà con gái làng Cùa kéo nhau sang chợ Lành mua hoa quả, vàng hương, tiền giấy, voi giấy, ngựa giấy và cả chó giấy về cúng cháo thí

          Sông Lăng ngày thường rộng chưa đầy trăm thước, nước trong vắt, có thể nhìn rõ những con cá đồng tiền lượn lờ giữa đám rong đuôi chồn vảy lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Những chú cá măng kìm mõm dài ngoẵng, lỗ mũi phình ra như mũi lợn rừng, lao vun vút tựa tên bắn rượt theo đám đòng đong. Lũ “thảo dân” này có cái đầu quá khổ vì phải vác đôi mắt thô lố, gồ lên, đỏ đòng đọc chẳng khác gì ngọn đèn báo hiệu lâu ngày không được lau chùi trước cửa các tiệm cô đầu. Thỉnh thoảng vào những hôm đẹp trời, dòng nước trong vắt như mắt mèo, sau một cơn mưa bóng mây, bỗng như có phép thần, chuyển sang vàng sẫm rồi đỏ hồng như màu cà chua chín. Khối màu sắc lạ mắt này không ổn định mà cứ chuyển động uốn éo tựa như dải san hô với hàng tỷ xúc tu mềm mại đang đưa đẩy theo nhịp thở của biển. Đám du ngư ấy là loài cá trầm ba sọc từ cửa sông ngược về thượng nguồn, tìm loại rêu ký sinh bên vách đá vôi trên ngọn thác cao nhất của dãy Nham Biền. Cá trầm ba sọc nhỏ bằng bàn tay, toàn thân vàng óng như quả mướp vừa chín hoặc hồng nhạt tựa trái doi rừng, dưới bụng có ba vệt đen mảnh như sợi chỉ, đem tẩm rượu rồi hấp cách thuỷ thì không có một món cao lương mỹ vị nào sánh kịp. Từ lâu lắm, người dân làng Cùa truyền lại cho nhau, chỉ vào những năm loạn lạc hoặc thiên tai mất mùa cá trầm ba sọc mới kéo nhau ngược sông Lăng tìm rêu đá. Đã mấy chục năm rồi, bắt đầu từ cuối tháng ba, người ta lại được chứng kiến canh tượng trên.

Bây giờ sông Lăng đang mùa lũ. Nước lên ngập lút cả rẻo cồn bên phía làng Nội. Mặt sông mở ra gấp ba bốn lần. Từ trên cao nhìn xuống, con đò ngang giống hệt chiếc lá tre mỏng manh, đơn côi bập bềnh giữa dòng nước chảy xiết. Đó là chiếc thuyền gỗ rạn nứt, bạc phếch, và đầy bất trắc, là vật sở hữu của ông Tình - một lão già chống thuyền thuộc loại siêu đẳng nhưng nát rượu - đã ba mươi năm nay. Không ai biết rõ bệnh tật con thuyền bằng chính ông chủ của nó, nhưng mỗi khi lão Tình đến trình Hội đồng sắc mục xin tiền sửa chữa thì lý Lượng lại bảo:

- Con đò ấy đóng bằng gỗ thành ngạnh còn tốt chán. Lão chờ ít lâu nữa đến vụ thuế làng sẽ lo.

Lý trưởng hứa ba năm liền nhưng sau vụ thuế chẳng thấy động tĩnh gì. Những chỗ rạn nứt, nước ngấm vào, lão phải trộn vôi cát với mật mía trét tạm. Vậy là con đò vẫn lầm lũi sang ngang. Mỗi chuyến chở được mười hai người kể cả lái thuyền. Dân làng Cùa thích chợ Lành hơn là chợ Cháy dù rằng đi chợ Lành phải qua sông Lăng. Chợ Cháy chính là chợ Huyện, vừa xa nửa ngày đường vừa bị thu thuế cả người bán lẫn người mua. Viên khán thị là cháu tri huyện Cáp Văn Tòng, người làng Vũ La nổi tiếng tham ăn. Thành thử mấy năm qua, bà con các làng ven sông Lăng bảo nhau dạt sang chợ Lành buôn bán, tuy cách sông nhưng chỉ mất một thôi đường. Vậy là cái cửa khẩu sông Lăng ngày càng trở nên sầm uất, nhất là vào dịp tết hoặc hội làng, đình đám.

Hôm ấy, mặt trời lên chừng hai con sào, lái Tình đã đưa được ba chuyến sang sông. Mặc dù dòng nước chảy cuồn cuộn, thỉnh thoảng một luồng gió ngược thốc mạnh chồm tới tưởng có thể nuốt chửng toàn bộ con thuyền cùng đám hành khách mặt vàng như nghệ, nhưng lão vẫn bình tĩnh, môi hơi mím lại, trán lấm tấm mồ hôi, thong thả đưa con đò già nua ra khỏi vùng nguy hiểm. Xong chuyến cuối cùng, lão cắm thuyền, vào túp lều cạnh đê, lôi ra quả bầu khô, mở nút lá chuối làm một tợp. Thứ rượu làng Đọi cất bằng gạo nếp con, men Trại, uống vào ruột gan cứ lâng lâng như đang bay trên mây. Lão cắn một miếng chuối xanh chấm muối ớt rồi ngẩng lên nhìn trời. Vòm trời cao vút, xanh đến nhức mắt. Từ  đâu đó vọng lại tiếng ì ầm. Lão vừa nhắm rượu vừa càu nhàu:

- Mả mẹ nó! Mưa gì mà lắm thế.

Vừa dứt câu chửi, một tiếng sét long trời sạt ngay trước mái lều. Căn lều bốc cháy ngùn ngụt. Lão đang chếnh choáng chỉ kịp vơ vội nậm rượu vọt ra. Lửa lém cả vào mông đít, khói bốc khét lẹt. Lão vội nhảy ùm xuống sông, quả bầu khô tuột khỏi tay nổi lềnh phềnh giữa đám rều rác. Phù sa mát lạnh làm lão Tình tỉnh rượu và sực nhớ ra nhiệm vụ phải đón các bà đi chợ về. Lão nhanh nhẹn lẩn vào bụi duối bên miếu Đức Ông, cởi chiếc quần đùi và chiếc áo cánh nâu mốc thếch vắt cho ráo nước, lấy dây gai buộc túm chỗ bị thủng, mặc vào rồi chèo thuyền sang bên kia sông. Lúc ấy gió đang đổi chiều. Những cụm mây màu cánh vạc hình thù kỳ dị không giống bất cứ thứ ma quỷ nào trong tưởng tượng của con người, thốc ngược từ ngã ba Môi lên, trong giây lát nở tung toé, giống hệt loài bạch tuộc gặp kẻ thù phun ra thứ hoả mù, làm bầu trời tối sẫm, lạnh lẽo. Con đò rời bến chừng nửa khắc thì trời đổ mưa. trận mưa rào kèm theo những viên đá bằng hạt ngô rất hiếm thấy vào dịp tháng bảy, rơi lộp độp vào nón lá, áo tơi, thúng mủng của các bà đi chợ về. Đá gõ xuống sạp thuyền, be thuyền rào rào. Những viên đá trong suốt, lạnh buốt, tan trong chớp mắt qua lần áo mỏng làm các bà các cô  run rẩy, co người lại, ngồi sát nhau tìm hơi ấm. Bà Ba mua một gánh hàng mã. Hàng cồng kềnh. Tấm vải buồm che không xuể, bị nước mưa tuốt sạch lớp giấy hồng điều, trang kim, còn trơ lại bộ xương tre dính nhoe nhét hồ và phẩm màu. Nhìn đống hoa man, chỉ vì trận mưa quái ác, bỗng chốc trở thành đồ phế thải, bà Ba nghiến răng nghiến lợi, lầm rầm trong miệng rồi quẳng tất cả xuống nước tiến cống thần Thuồng Luồng. Những bộ xương voi, ngựa, chó… lặn hụp một lúc giữa dòng phù sa đỏ như máu rồi biến mất dưới lớp sóng cuồn cuộn gầm réo ùng ục. Lão lái gò lưng chèo ngược nước cố ghếch mũi thuyền để nó khỏi bị hút về phía vực xoáy. Mưa sầm sập như trút nước. Mặt sông mỗi lúc lại rộng thêm. Mặt nước và bầu trời phút chốc như hoà vào nhau, tạo thành một khối xám xịt, bùng nhùng. Gió và sóng lưỡi búa vặn đò kêu răng rắc. những âm thanh

chết người ấy lúc rồ lên như kéo bễ, lúc lại khò khè như hơi thở của lão già sắp lìa đời bởi căn bệnh suyễn kinh niên. Mười một khuôn mặt trắng bệch cùng với mười một cặp mắt thất thần đang trong trạng thái tột cùng của nỗi kinh hoàng. Lão Tình gồng người uốn cong mái chèo, chân choãi ra cố giữ thăng bằng nhưng con thuyền quá già nua chẳng những không hề nhích thêm một bước mà còn đang có xu hướng trôi dần về phía vực xoáy. Bỗng “rắc” mái chèo gỗ nhãn bị gẫy, con đò lập tức nhấc bổng lên và chỉ trong chớp mắt, nó đã mất hút sau khi đã xoay đủ một vòng quanh cái phễu nước không đáy, sôi sùng sục như vạc dầu khổng lồ của Diêm Vương. Lái Tình vốn là tay giỏi bơi lội. Lão quẫy đạp một cách ngoan cường, đầu chúi xuống, mông chổng lên trời để hở cả mảng quần cháy buộc túm bằng dây gai nhưng đã bị tuột ra trong lúc nhào lộn giữa sóng dữ. Nhưng, nói như câu châm ngôn trong sách của ông đồ Khúc Kiệt, “Nhân giả, bất khả kình thiên dã ”, bản mệnh của lão lái đò đã được đến giờ Tỵ ngày mười bốn tháng bảy. Lão không bị Hà Bá cuốn xuống vực nhưng lại chết vì thiếu chất men trợ sức. Mấy hôm sau, người ta tìm thấy lão tấp lên mép cồn Vành. Người lão lép kẹp, chiếc quần lá toạ bở bùng bục nhũng nhẵng bám ngang sườn như là không muốn rời khổ chủ, khuôn mặt sạm nắng gió vẫn thanh thản như đang ngủ chẳng có gì giống một kẻ chết trôi.

 

 Trong số mười một nạn nhân, chỉ có bà Ba, lúc rơi vào vực xoáy là hai tay vẫn bám chặt vào gióng ngang cuối mũi thuyền. Hành động này có lẽ do bản năng sinh tồn khơi dậy trong tiềm thức hơn là kinh nghiệm tích luỹ được của một cô gái hai mươi tuổi. Sau khi đã nhấn chìm hết lần lượt đám hành khách xấu số, con thuyền bị sức nước đẩy trồi lên cách miệng vực xoáy chừng dăm chục thước, phần lái vỡ toác, phần mũi vặn vỏ đỗ, nửa nổi nửa chìm trông giống như cái vây lưng của cá nhà táng.

 

Vào lúc ấy, có một người đàn ông quăng chài ở cồn Vành nhìn thấy con thuyền gặp nạn. Anh ta vội quẳng đồ nghề, bất chấp dòng nước chảy xiết, nhoài ra, và chỉ bằng mấy sải tay đã bám được vào be thuyền. Phải mất khá lâu người đàn ông mới gỡ được hai bàn tay cô gái ra khỏi gióng ngang, đặt đầu nạn nhân lên vai rồi nương theo dòng nước tấp vào bờ. Người đàn bà hầu như đã chết. Mái tóc bết lại, nhờn nhờn một lớp phù sa đặc quánh. Chiếc váy lĩnh chẳng biết tuột ra từ lúc nào,trên tấm thân tím tái chỉ còn trơ lại manh áo dài bằng lụa điều nhưng đã bị nước dứt hết phần vạt, ngang đến thắt lưng. Vốn đã quen với những tai nạn sông nước như thế này, người đàn ông bình tĩnh cởi chiếc quần lửng mặc cho người thiếu phụ, tháo ruột tượng sồi vẫn quấn ngang lưng làm khố rồi xốc ngược cô ta chạy trên mặt ruộng đầy những thân ngô mà do mùa lũ đến sớm dân làng Nội chưa kịp thu hoạch. Chừng già một khắc, khi bà Ba nôn ra hết thứ nước hung hung đỏ như gạch cua thì anh quăng chài đặt cô ta nằm ngửa lên gò đất cao, trèo lên bụng, hít một hơi thật dài rồi kề cái mồm đầy râu vào miệng nạn nhân mà thổi. Hơi thở nóng bỏng, nồng nàn đầy truyền cảm và sự đụng chạm xác thịt dần dần có tác dụng. Đến lần thứ chín hay mười gì đó thì cặp môi xinh đẹp nhưng hơi đầy của người đàn bà bắt đầu động đậy…

 

Khi dân làng Nội hay tin đò ngang của lão Tình bị đắm, kéo ra cồn Vành thì bà Ba đã được anh thuyền chài cứu sống. Mãi đến gần tối, cơn mưa tạm ngớt, một chiếc thuyền đinh bên tả ngạn mới dám vượt sông sang đón bà Chánh về.

 

Ngày hôm sau, tức là rằm tháng bảy, chánh tổng Khúc Đàm cùng mười gia đình có người nhà ngộ nạn ra bờ sông Lăng làm lễ cầu hồn. Riêng ông Chánh còn có một lễ tạ ơn thần Thuồng Luồng đã không bắt vợ mình xuống thuỷ cung làm nữ tỳ.

 

2

 

Cơ ngơi của chánh Đàm thuộc loại bề thế nhất làng Cùa nhưng không phải gia sản của ông cha để lại mà do mới phất lên từ khi lão đi lính về. Nghe đâu hồi ở chiến trường Tây Âu, chánh Đàm đóng đến lon đội, có huân công, được thưởng Anh dũng bội tinh nên khi giải ngũ về nước được chính phủ Pháp trợ cấp một khoản niên bổng. Số tiền này đủ để lão sống an nhàn đến cuối đời, nếu thời cuộc không thay đổi.

 

Bố chánh Đàm vốn là một trùm cướp khét tiếng vùng Ba Tổng. ông ta thường đóng giả dân đò dọc xuôi ngược khắp vùng hạ du sông Lăng, ban ngày lên các chợ tìm mối hàng nhưng thực ra là thu thập tin tức về cánh nhà giàu rồi mấy đêm sau kéo đồng đảng đến khảo của. Toán cướp trang bị toàn súng mút với mã tấu. Bọn có máu mặt ven sông sợ khiếp vía, ngay cả những lúc vắng mặt cũng gọi họ bằng "các quan”. Nổi tiếng nhất là trận cướp nhà lý Sáng làng Bối Khê vào tháng chạp năm Nhâm Thìn. Năm ấy rét đến mức cá rô chết cóng nổi lên mắc vào rễ bèo tây. Nước ao trong vắt nhưng lạnh thấu xương. Trời xanh thẫm không một gợn mây. Hôm ấy nhằm ngày hai  mươi. Cả làng Bối Khê đang hối hả chuẩn bị cho tết ông Táo lên trời. Buổi trưa có một thầy bói áo the, khăn xếp, mắt mang cặp kính đen tròn như hai chiếc trôn bát, tay xách tráp, được một thằng bé tóc trái đào chừng tám chín tuổi dẫn vào nhà lý trưởng. Lý Sáng vốn ghét các loại thầy bịp bợm, lại đang giấc ngủ trưa nên càu nhàu:

 

- Nhà ta ăn nên làm ra, chẳng có vận hạn gì, mời thầy sang nhà ông Chánh hội xem sao. Hình như bên ấy có chuyện…

 

Chánh hội Bường với lý Sáng vốn có hiềm khích từ lâu. Đẩy lão thầy bói nửa mùa này sang quấy rối giấc ngủ trưa để hắn nổi khùng lên tí chút cũng là một cách trả thù. Chánh Bường vừa nóng tính vừa hách dịch, chưa biết chừng lão mù dở còn được ăn vài hèo mây cũng nên. Tuy nhiên, tay thầy bói kiêm thầy tướng vẫn lừng khừng trước cửa, giọng lạnh như tiền:

 

- Nhà ông Lý không tin chuyện bói toán nhưng phải nghĩ đến sự yên ổn của toàn gia. Hiện ngôi mộ ngũ đại của dòng họ Tào ở đồng Mả Gạch bị sạt một góc về phía tây nam…

 

- Cái gì?- Lý Sáng đang ngáp ngủ tỉnh như sáo- Sao nhà thầy biết rõ chuyện ngôi mộ?

 

Lão thầy bói hếch cặp mắt giả thong manh qua đôi tròng kính đen bóng như mực Tàu, giọng thủng thẳng:

 

-  Từ xưa đến nay, liệt tổ liệt tông thường để lại phúc cho con cháu. Nơi yên nghỉ của các vị ấy mà bị động chạm  thì hậu quả không biết đâu mà lường. Đừng nên nghĩ mình giàu có mà quên chuyện mai sau. Thầy trò tôi xin chào ông Lý. Ta đi con!

 

Lý Sáng bị chạm nọc vội huơ tay:

 

- ấy khoan đã, xin mời vào nhà. Vừa rồi tôi lỡ lời mong thầy bỏ quá cho.

 

ông thầy bói ở nhà lý trưởng hai ngày không lúc nào rời cặp kính kể cả lúc đi ngủ. Bàn về tướng số cũng như thuật phong thuỷ lão tỏ ra đặc biệt am tường, miệng trơn như cháo chảy, chỉ rõ từng thời điểm gia chủ gặp điềm lành điềm gở, khiến lý Sáng đã từng mấy năm học hành về trò bịp bợp này bái phục tôn là “tiên sinh” và biếu hẳn hai chục đồng Đông Dương làm lộ phí.

 

Lão “tiên sinh” vừa đi hôm trước thì hôm sau nhà lý trưởng bị một toán cướp mặc toàn đồ đen, đeo mặt nạ xông vào nhà lúc đầu giờ Sửu. Đàn chó vằn vện hơn chục con dữ như hùm beo hoàn toàn im hơi lặng tiếng, mắt lờ đờ, mõm nhểu đầy nhớt dãi bất lực nhìn các vị khách không mời, lần lượt vượt tường không hề gây ra một tiếng động. Tên cầm đầu tỏ ra khá thông thạo đường đi lối lại trong nhà. Hắn kề dao vào cổ lý Sáng quát khẽ:

 

- Mang hết đồ vàng bạc ra đây thì được tha mạng!

 

Lý trưởng giọng run cầm cập, giọng lí nhí:

 

- Trăm lạy các quan thương tình. Tiếng là làm việc làng nhưng chúng tôi thanh bạch, nhà lại đông miệng ăn, không có của để giành.

 

Tên trùm cướp ấn lưỡi dao vào yết hầu lý Sáng cười nhạt. Tiếng cười rất quen, hình như ông ta đã nghe được ở đâu đó:

 

- Mỗi vụ thuế đinh, thuế điền, ông kiếm được bao nhiêu nhét vào chiếc tráp sơn mài để trong khám thờ phật Quan Âm, hãy mang ra đây nộp các quan, nếu không muốn toàn bộ dinh cơ bị hoả thiêu.

 

Lý Sáng lạnh sống lưng, mắt lấm lét nhìn quanh. Ông ta chợt nhớ ra giọng nói của lão thầy tướng hôm nào.

 

Các thành viên trong gia đình họ Tào đều bị trói, nhét giẻ vào mồm. Bọn cướp lăm lăm súng trong tay canh chừng. Những tên khác sục sạo khắp nhà trên nhà dưới khoắng sạch các thứ  đồ quý giá kể cả nồi đồng mâm thau, lư hương rồi lôi cả chủ  nhà theo làm con tin. Mãi đến gần sáng ông Lý mới lần được về nhà sau mấy giờ bị toán cướp bịt mắt trói gô lại như trói lợn vứt ở bãi tha ma đồng Chó Đá. Mất của nhưng lý Sáng không dám kêu mà chỉ lẳng lặng lên huyện trình quan. Quan phụ mẫu là lão già hủ nho, gàn dở, suốt ngày mải chơi mạt chược, nhìn thấy viên xã trưởng mặt xanh như chàm đổ báo việc mất cướp, nhếch mép bảo:

 

- Có của thì phải giữ. Thời buổi này trộm cướp như rươi, hở một tí là chúng khoắng sạch ngay. Đầu tháng trước, nhà phó tổng Yên Cư bị cướp giữa ban ngày. Bọn chúng có cả một chiếc ô tô hòm thầy biết không?

 

Lý Sáng tức như bò đá, nhìn bộ mặt xương xương với chòm râu dê của viên tri huyện chỉ muốn đấm cho lão một quả. Dân vùng Ba Tổng kháo nhau, tên trùm băng cướp ấy có tài xuất quỷ nhập thần, bất cứ phi vụ nào cũng làm trót lọt. Lão chính là Khúc Tuệ, bố đẻ ra chánh Đàm. Làm nghề đạo tặc nhưng Khúc Tuệ không giàu. Cướp được bao nhiêu, sau khi chia chác cho bọn đàn em, phần còn lại lão ném vào những cuộc đỏ đen. Khúc Tuệ chơi bạc thâu đêm suốt sáng, uống rượu như nước lã, và khi say sẵn sàng hạ gục đối phương ngay giưa chiếu bạc. Cuối năm Kỷ mão, trong một cuộc ẩu đả tranh giành địa phận làm ăn với toán cướp vùng Nam Mẫu, Khúc Tuệ bị cai Thìn vốn là lính khố xanh xuyên cho một mũi mác búp đa vào mạng sườn. Bọn đàn em khiêng ông ta về đến nhà thì tắt thở để lại bà vợ goá cùng với hai đứa con trai, lớn là Khúc Đàm, nhỏ là Khúc Kiệt. Hai thằng con trai khinh bố ra mặt vì cái nghề bất hảo. Nhìn cái xác rách mướp nằm co quắp giữa sân, mắt Khúc Đàm ráo hoảnh, không hề có chút thương xót. Thằng em mặt lạnh như tiền, thỉnh thoảng lại cười gằn. Trong đám tang, hôm ấy có một người đàn ông còn khá trẻ, để ria mép, tóc bới củ hành, mặc đồ cháo lòng, bưng mâm lễ phúng rất hậu. Đó không phải là khách quen, chẳng riêng gì gia chủ mà ngay cả bọn đàn em của Khúc Tuệ đến hộ tang cũng trố mắt ra nhìn. Lúc sắp về, anh ta cố ý nấn ná đến bên Khúc Đàm nói nhỏ:

 

- Thừa lệnh quan lớn… đến viếng ông nhà và chia buồn cùng gia quyến, nhưng cậu đừng cho ai biết chuyện này.

 

Khúc Đàm nhếch mép cười nhạt :

 

- Tôi hiểu.

 

3

 

Bà chánh Ba tên thật là Mạc Thị Lánh, về làm vợ chánh Đàm từ năm Tân Hợi. Thị Lánh vừa trẻ đẹp nhưng là cái đẹp theo kiểu chợ búa mang màu sắc thớ lợ của một gia đình có truyền thống mấy đời làm nghề lái trâu. Công bằng mà nói, lái trâu không xấu nhưng cái xấu nằm ở cung cách làm ăn cụ thể của ông bố hám tiền thông qua hàng loạt trò lừa đảo ngoạn mục. Bất cứ con trâu nào vào tay lái Lự cũng lập tức trở thành của quý. Lão uốn ba tấc lưỡi dùng đủ các mĩ từ phù phép cho món hàng rồi ra một cái giá cắt cổ thăm dò. Nếu gặp đối phương là tay sành sỏi trong thương trường thì lão xuống giọng bớt tí chút làm ra vẻ mình biết điều. Gặp phải ông nhà quê thuộc loại trọc phú, lại có máu bốc đồng, nói một tấc đến giời thì xem như hôm ấy thần tài gõ cửa. Lão tâng bốc ông bạn vàng có “con mắt tinh đời” rồi cuỗm sạch hầu bao của khách sau khi làm thủ tục ngoắc tay trao thừng một cách trịnh trọng. “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”, thiên hạ từ cổ chí kim thiếu gì những kẻ lừa đảo thuộc hàng thượng thặng. Lừa người lắm thế nào cũng có lúc bị người lừa lại. Hôm ấy đúng phiên chợ Sài. Chợ Sài từ xưa vẫn nổi tiếng là chợ trâu bò của phủ Đông Giàng. Lái Lự đang mặc cả mua con trâu đực chừng hai tuổi thì có người khách râu rậm phong thái rất chững chạc, cứ đi lại bên cạnh, dáng vẻ băn khoăn. Lão ngẫm nghĩ một thoáng rồi chủ động làm quen:

 

- Ông khách không chọn được hàng vừa ý à?

 

Người râu rậm nheo mắt lắc đầu:

 

- Chả giấu gì ông, tôi tìm mua trâu cho đồn điền Ba gia. Ông chủ dặn, lần này ít nhất phải chọn được mười con khoẻ, kéo cày dai sức để vỡ hoang vùng bãi sông Vệ. Ông chủ là người khó tính mà tôi lại rất ít kinh nghiệm mua bán sợ bị bọn cò mồi chơi khăm, thành ra…

 

Ngửi thấy mùi tiền, lái Lự bỗng sáng mắt, hơi lấp lửng:

 

- Cần những mười con cơ à?

 

- Khai khẩn đồn điền mà lại.- Người khách chép miệng- Thế là còn ít đấy. Chỉ riêng cái trại Cổ Bi cũng ngót nghét bốn trăm mẫu, ông tính xem phải dùng bao nhiêu trâu cho kịp thời vụ?

 

Lái Lự đảo mắt đánh giá ông khách lạ, phác trong đầu một con tính theo kiểu nhà nghề rồi gật gù ra vẻ am hiểu :

 

- Phải… Những bốn trăm mẫu, ít ra cũng đến hai chục con. Mà này, trâu trên Bắc thiếu gì, sao phải xuống đây cho diệu vợi?

 

Ông khách lắc đầu tỏ vẻ thất vọng về vốn kinh nghiệm làm ăn của lái Lự, khoác khăn gói lên vai, thủng thẳng bảo:

 

- Trâu Bắc không quen thuỷ thổ, chưa bắc ách cày sá nào đã đổ hàng loạt, ông bảo rước về làm gì?

 

 Lái Lự nghĩ đã đến lúc ra đòn quyết định để dồn con mồi vào bẫy, bất ngờ tuyên bố:

 

- Tôi có thể kiếm cho ông đủ số cần thiết.

 

Người khách há hốc mồm tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên:

 

- Từ nãy đến giờ tôi vẫn nghĩ ông là người đi tậu trâu?

 

- Tôi là lái Lự ở kẻ Bòng… chắc ông có nghe…

 

- Nửa tháng sau, lái Lự gom được mười tám con trâu đực thuộc loại cực tốt thuê một anh lực điền lùa lên chợ Sài. Người khách khoác tay nải đã chờ sẵn ở một hàng cơm cuối phố. Ông ta đảo đi đảo lại xem kỹ từng con một rồi mới mời thầy trò lái Lự vào mâm rượu đã bày sẵn trong một gian riêng. Sợ chủ hàng còn bán tín bán nghi, ông ta rút trong hầu bao ra xấp tiền mặt đặt trước mặt lái Lự:

 

- Chừng này tôi đưa trước đặt cọc, còn bữa rượu này là do ông chủ đồn điền khoản đãi. Ông chủ có nhã ý mời ông và anh vào trong ấy thăm cơ ngơi, nhân tiện lùa giúp đàn trâu và nhận nốt phần còn lại. phí tổn dọc đường sẽ do chúng tôi đài thọ.

 

Bữa rượu kéo dài đến quá trưa. Món lẩu hổ lốn Quảng Đông lạ miệng cùng với rượu nếp cẩm pha mật rắn hổ chúa làm lái Lự mềm môi, say mèm mãi cuối giờ Mùi mới thũng thẵng dẫn đàn trâu về đồn điền.

 

Đồn điền Ba gia nằm ở thung lũng Tam Cốc cách sông Vệ chừng dăm bảy cây số vốn là của Tây Ba gia chuyên trồng ngô và cỏ ba lá nuôi bò cung cấp sữa cho quân đội Pháp. Được khoảng hơn chục năm ,Tây Ba gia bị sốt rét rụng tóc gần chết, hắn hốt qúa giao lại đồn điền cho người quản lý, về Pháp chữa bệnh. Sau gần ba tháng lênh đênh trên tàu thuỷ, đến Địa trung hải, viên chủ đồn điền chết đột ngột bởi một cơn co thắt động mạch vành. Trong khi ấy ở xứ An Nam, gã quản lý tằng tịu với vợ Ba gia. Cô này là gái làng chơi, xinh đẹp mà lại hát cô đầu có tiếng ở đất Bắc Kỳ nên được gã chủ Tây chuộc ra với cái giá ba mươi lượng vàng. Về danh nghĩa, đồn điền do madame Anne Phi Yến quản lý nhưng thực chất mọi quyền hành đều nằm trong tay ký Tam. Từ khi nhận được tin Ba gia về với Chúa trên hành trình hồi hương, ký Tam bàn với mụ me Tây chuyển một phần nông trại sang trồng lúa. Lương thực lúc này đang là thứ hàng được giá. Nếu thời tiết thuận lợi chẳng mấy chốc sẽ phất to. Toàn bộ câu chuyện về đồn điền Ba gia được người khách kể lại khá tỷ mỉ với thứ ngôn ngữ truyền cảm không chê vào đâu được. Chân bước tuy vẫn còn xiêu vẹo tí chút nhưng trong đầu lái Lự lại vô cùng tỉnh táo. Lão chắc mẩm, với mối làm ăn này, chỉ từ giờ đến cuối năm là có thể tậu được hai chục mẫu ruộng, thứ ruộng nhất đẳng ở đồng Báng Thượng mà bố lão hồi còn sống có nằm mơ cũng không thấy được. Sau khi ngoắc tay thoả thuận giao kèo, lái Lự gom góp toàn bộ vốn liếng của cả một đời bươn chải trên thương trường cùng với số tiền thế chấp sản nghiệp vay của Khúc Đàm bên làng Cùa quyết chí chơi canh bạc lớn. Lão định bụng , xong thương vụ này sẽ tự hồi hưu, đoạn tuyệt với cái nghề mà thiên hạ rất cần nhưng lại hay rỗi hơi đàm tiếu. Lái Lự không có con trai mà chỉ có một cô gái rượu, năm ấy xuýt soát mười chín, có nhan sắc nhưng tính khí thất thường. Vợ lái Lự liệt nửa người sau khi đi chợ Lành bị cơn gió độc, suốt ngày ở trong buồng, ăn cực khoẻ mà không dậy được, nằm đâu ỉa đái ra đấy. Lão phải khoét cái giát giường đặt bên dưới một thúng tro để đỡ ngày mấy lần vần bà ta dậy làm công việc bài tiết. Mạc Thị lánh sợ bà mẹ bán thân bất toại như quỷ nhập tràng. Hiếm hoi lắm mới có dịp cô ta vào buồng. Thành thử cái sảo tro dưới gầm giường, hai ba ngày mới được mang đi đổ. Có lần lái Lự sang chợ Gành mua trâu gặp nước lũ vỡ đê Quai Xanh, mãi bốn ngày sau mới về. Vừa bước vào nhà, lão đã phải bịt mũi bởi thứ mùi thối khẳn đến lộn mửa từ gian buồng xộc ra. Dưới gầm giường ruồi bay vù vù. Lũ nhặng xanh chao lượn theo một vũ điệu kỳ quái, phát ra thứ âm thanh vo ve ở tần số cao nửa như thoả mãn nửa như những tín hiệu đặc trưng gọi bạn.Trên giường, người đàn bà bị giời đày chỉ còn thoi thóp thở. Bà mẹ bị bỏ đói gần một tuần còn cô con gái xinh đẹp chẳng biết biến đi đằng nào. Mãi trưa hôm sau mới thấy Thị Lánh dẫn xác về . Buổi tối Lái Lự bảo con gái:

 

-  Có khi thầy phải tìm một người về chăm nom mẹ mày .

 

Cô con gái giẩu mỏ nguýt dài :

 

- Thầy mà cưới vợ bé là tôi ra đầm Vực ở với thằng chăn vịt.

 

- Nhưng mày bỏ đi đàn đúm suốt ngày để mẹ ở nhà một mình, hôm qua tao không    về kịp thì đã thành ma đói từ lâu rồi. - Lão lái trâu sa sầm mặt càu nhàu.

 

Thị Lánh mặt câng câng, giọng xanh rờn :

 

- Ôi dà thầy sợ cái gì. Cứ cho bà ấy liều thạch tín là hết nợ .

 

- Mày chỉ láo ! Con với cái.

 

Cô con gái đánh mắt lườm bố :

 

- Tôi biết thầy nghĩ đến chuyện ấy từ lâu, chỉ có điều chưa dám làm thôi.

 

Lái Lự định vả cho Thị Lánh một cái nhưng kịp hãm lại. Từ trước đến giờ lão vẫn có vẻ gờm con gái. Về phần mình, Lánh chẳng coi bố ra gì. Dưới mắt cô ta lão chỉ là lão lái trâu bẩn thỉu chuyên lừa thiên hạ bằng những ngón nghề hạ đẳng. Rằng lão tham lam và ăn độc như chó , trước sau cũng chết bất đắc kỳ tử. Điều tệ hại là, trong thâm tâm , lái Lự đặt cả niềm tin, hy vọng vào đứa con gái có phẩm chất lăng loàn chẳng kém gì giặc cái này. Lão chiều chuộng bao nhiêu thì Lánh coi thường nhân cách của ông bố bấy nhiêu . Từ mấy năm nay chưa bao giờ nó nói với lão được lời tử tế .

 

Những lúc bực tức vì sự hỗn xược của con yêu nữ, không có cách nào giải toả, lái Lự thường trút cơn giận lên người đàn bà bán thân bất toại bằng những câu chửi rủa mang đậm phong cách lái trâu , nghĩa là thô tục, độc địa tai ác. Bà vợ hoàn toàn bất lực mặc cho chồng sỉ vả, phản ứng duy nhất có thể có được là từ từ đảo tròng mắt trái lờ đờ, không sinh khí rồi nở một nụ cười ngớ ngẩn trên khoé miệng đầy nhớt dãi .

 

Sáng hôm sau, vợ lái Lự lên cơn co giật khi ăn xong cặp bánh dày Thị Lánh mua của con mẹ hàng rong đầu làng. Bà ta quằn quại trong nỗi đau xé ruột gan. Nửa người bị liệt, những mảnh thịt ở mông và lườn mền nhũn, đôi chỗ đã mủn ra, tím như quả bồ quân bốc mùi thum thủm. Phần còn lại trắng nhợt, dày bình bịch, giống hệt như thứ thịt lợn chết toi, ngâm hàn the vừa vớt ra chưa ráo nước. Trước khi tắt thở, đầu người đàn bà bất hạnh ngoẹo sang bên phải, bàn tay duy nhất còn cử động được đôi chút cố nâng lên chỉ về phía bàn thờ nhưng đôi mắt lại long lên sòng sọc, vằn tia máu như mắt của loài chó ăn phải bả độc .

 

Khi bà vợ lên cơn hấp hối thì lái Lự chạy xuống nhà ngang, đóng cửa lại, vớ chai rượu ngang tu già nửa. Đầu óc lão không còn đủ bình tĩnh để phân tích hành vi của đứa con gái sau tấn bi kịch mà không chóng thì chầy chuyện ấy sẽ xảy ra .

 

Người đàn bà được rửa mặt, chải tóc, lau chùi qua loa rồi chọn giờ nhập quan. Bà ta lâm bệnh nặng lâu quá rồi nên hàng xóm láng giềng xem việc ra đi là một sự giải thoát khỏi nỗi thống khổ của một kiếp  người. Lúc đưa tang, Mạc Thị Lánh khóc mẹ ai oán đến mức những người xung quanh ai cũng động lòng. Cô ta xổ tóc rối bù, lăn ra đường gào thét điên loạn, quần áo bê bết bùn đất trông chẳng khác gì con điên đang lên cơn. Lái Lự mặt khó đăm đăm đi sau quan tài thỉnh thoảng lại lấy tay quệt mắt .

 

                                                *

 

Ba người dẫn đàn trâu rẽ vào con đường mòn nằm giữa một vùng đồi bát úp. Chen giữa những sườn dốc thoai thoải mọc toàn một thứ sậy gióng dài như những gióng trúc, hoa trắng giống hoa sở phất phơ chẳng khác gì lông đuôi gà trống là những bãi ngô non bắt đầu trổ cờ. Không gian vùng bán sơn địa này thật yên tĩnh. Nắng chiều nhạt dần. Một đàn cò trắng giăng hàng chẳng theo một trật tự nào , bay hối hả như đang đuổi theo vầng dương đã khuất dần vào giữa chân mây xốp như bông nõn đang trôi bồng bềnh cuối chân trời . Khi những dẻ sáng cuối cùng như ánh hồi quang quét sáng một vệt mỏng trên dải đồi hoang thì vô vàn những chiếc đuôi gà trống biến từ màu trắng thành màu mỡ gà như có phép lạ. Gió sà xuống thấp hơn và toả một mùi thơm quyến rũ ve vuốt những hàng ngô xanh thẫm tạo thành thứ âm thanh rào rào, lúc gần lúc xa, lúc hư lúc thực nghe như tiếng vuốt nhẹ của bàn tay ca kỹ trên phím đàn tỳ bà ở quãng trầm.

 

Bãi ngô không một bóng người. đâu đó có tiếng gà gáy rất xa. Con gà báo trời sắp tối có lẽ là một chú gà trống  choai. Tiếng của nó lanh lảnh ra vẻ ta đây là một gã đàn ông có quyền gửi thông điệp đến lũ gà mái trong lãnh địa bằng thứ giọng hoàn toàn chưa vỡ, chốc chốc lại đứt quãng như là ngừng lại lấy hơi. Lái Lự nghe thấy tiếng trống choai chợt cất tiếng lẩm bẩm : “ Con gà chết tiệt này chắc là báo điềm gở”. Cùng lúc ấy có khoảng năm sáu lính khố xanh cùng với Nhà đoan, chân quấn xà cặp , súng trường và súng khai hậu lăm lăm trong tay, ra hiệu cho cả bọn dừng lại :

 

- Các người lùa trâu đi đâu ?

 

Người đại diện đồn điền Ba gia vội vượt lên trước bảo :

 

- Tôi là Lý Ba, người của đồn điền đi chợ Sài mua trâu .

 

Tên cai khố xanh có cặp mắt xếch, đội mũ lie bọc vải kaki trông như nửa quả dưa chụp lên đầu , sừng sộ :

 

- Có giấy phép của sở Nông lâm Bắc Kỳ không ?

 

Lái Lự giật mình toát mồ hôi hột :

 

- Thưa ông cai, chúng tôi có giấy thông hành của quan phủ Đông Giàng .

 

- Phủ Đông Giàng có cấp môn bài cho các cho các anh đi buôn trâu không ?

 

Lý Ba nhăn nhó nhìn đám nhân viên Nhà đoan , giọng thiểu não chẳng biết thật hay giả vờ :

 

- Chúng tôi ở đồn điền Ba gia thật mà. Chắc các ngài biết ông chủ Tây?

 

- Nhà nước bảo hộ đã có sắc lệnh cấm buôn bán trâu.- Viên thuế đoan nhìn đàn trâu béo mập con nào da cũng láng bóng như ánh sừng nheo mắt cười một cách khó hiểu- Kẻ nào vi phạm chẳng những bị tịch thu mà còn phải nộp tiền phạt, nếu chống lại người thi hành công vụ là bỏ tù. Đây đếch thèm biết Tây Ba gia là ai, cứ theo phép nước mà làm . Nào anh em trói mấy tên gian thương này lại, dẫn đàn trâu đi .

 

Chuyến ấy lái Lự mất sạch cơ nghiệp may mà nửa đêm trốn được ra ngoài. Đến lúc ấy lão mới cay đắng nhận ra mình bị một vố lừa chết người . Câu chuyện Tây Ba gia chẳng qua chỉ là màn kịch . Bọn đạo tặc đã diễn xuất một cách hoàn hảo với những chi tiết tình tiết như thật. Chung quy cũng chỉ tại lão ngu. Thất thểu lê bước về đến bến Cẩm Đàn, lão định nhảy xuống sông để tự trừng phạt mình và cảnh cáo những kẻ hậu sinh hám hơi đồng. Nhưng lái Lự vốn sợ chết. Từ xưa đến nay phương châm của lão là sống nhục còn hơn chết vinh. Chết là hết dù cho người ta có đắp lên mộ cả một đống vàng và tâng bốc bằng ngàn vạn lời hoa mỹ. Sống còn có cơ may thay đổi hoàn cảnh. Tội gì mà chết để thiên hạ chửi cho. Lại nữa, lão còn đứa con gái. Thị Lánh tuy hỗn láo, cãi bố đôm đốp nhưng nó vẫn còn là con lão. Lão mà về chầu trời, nó sẽ bơ vơ nơi trần thế , biết nương tựa vào đâu? Điều lái Lự sợ nhất bây giờ là món tiền vay của Khúc Đàm. Tay này trước là lính tập, đã từng sang Pháp trong những năm Thế chiến, lại là chánh tổng đương chức xem ra rất khó khất nợ .

 

Đã quá hạn mười ngày không thấy lái Lự sang trả tiền, chánh Đàm sốt ruột đích thân đi đòi nợ . Đường đất từ làng Cùa đến kẻ Bòng khá xa vì phải vượt sông Lăng. Dịp này đang mùa lũ lão không dám đi đò bến Trại mà phải đến bến Lở rồi vòng lối đầm Vực. Tiếp giáp với đầm Vực về hướng tây nam là khu ruộng trũng chừng vài chục mẫu của phó hội Bảng chuyên nuôi vịt đẻ. Chếch về hướng đông bắc một chút là bãi tha ma rộng hàng trăm mẫu khá bằng phẳng, đây đó còn lô xô những gò đống vô chủ, cái thấp cái cao mọc toàn dứa dại. Nghe nói dải đất hoang này, thời Lê mạt đã từng là nơi giao tranh khốc liệt giữa nghĩa binh Tây Sơn và đạo tán binh cờ xanh của quận công Đinh Tích Nhưỡng . Quận Nhưỡng thua trận bỏ lại vài trăm tử sĩ trên chiến địa. Đêm hôm ấy dân mấy làng thắp đuốc mang cuốc xẻng đào mười tám cái huyệt chôn vội vàng những chiến binh xấu số . Từ đấy cứ đến ngày giỗ trận, cánh kỳ mục lại thay mặt hàng tổng mang hương hoa, giấy tiền ra mộ địa tế các vong hồn. Mấy trăm năm qua đi, vầng dương mọc rồi lại lặn nước sông Lăng khi đầy khi vơi, biết bao vật đổi sao dời nhưng ký ức của người dân Ba Tổng về một vùng đất bí hiểm thì vẫn còn đó.

 

Chánh Đàm xắn quần , tay cầm hèo mây, bước thấp bước cao qua khu ruộng vàn nhà phó hội Bảng. Sát bờ đầm có chiếc lều canh vịt lợp rạ . Cái mái khum khum của nó có lẽ chỉ nhỉnh hơn chiếc lều vó của của lão Kếu cổ ngẳng một chút . Từ xa Khúc Đàm thoáng thấy bóng người. Lão Chánh nghĩ đó có lẽ là thằng chăn vịt của nhà phó hội . Tự nhiên lão nảy ra một ý định muốn đến tận nơi xem lũ vịt Kỳ Lừa được thiên hạ truyền ngôn như một thứ đặc sản của cha con họ Quách mà bản thân lão chưa bao giờ tin là có thật.  Đến bờ đầm chánh Đàm định khoắng chân xuống nước rửa qua loa để xỏ vào đôi dép da trâu có bốn quai vặn xoắn như sợi thừng tre, bỗng lão lặng người khi nhìn rõ trước cửa lều không phải là thằng chăn vịt mà là cô gái mặc áo cánh trắng, váy thâm được vận lên quá đầu gối, để lộ cặp đùi non mơn mởn, đang nhặt những quả trứng rải rác trên mặt ruộng xếp vào chiếc làn tre đựng trấu. Cô gái còn quá trẻ , chỉ khoảng mười chín đôi mươi , sức vóc ngồn ngộn bởi bộ ngực căng phồng và tấm lưng thon uyển chuyển thót lại như eo bọ ngựa cái thời kỳ mang trứng. Cặp vú bánh dầy mẩy và chắc như hai trái lê bị ép một cách tượng trưng sau lớp yếm mỏng cứ nhảy tâng tâng theo mỗi nhịp bước lom khom. Nhìn cặp tuyết lê đồ sộ đầy khêu gợi, Chánh đàm nuốt nước bọt thầm nghĩ: “ Mẹ kiếp, cái ngực kia, cái lưng ong kia mắn đẻ phải biết”. Cô thôn nữ tiếp tục nhặt trứng có vẻ như không thèm để ý đến kẻ đang ngắm trộm “toà thiên nhiên” của mình, miệng he hé cười thầm. Vốn là phường hám gái, Khúc Đàm không thể nhịn được nữa , lão vứt hèo, quẳng đôi dép da trâu, thủng thẳng đến cạnh lều như người đi thăm đồng . Lúc này lão đã nhìn rõ mặt cô gái. Đó thực sự là khuôn mặt đẹp nhưng gợi chút hoang dã bởi đôi chân mày rất rậm chờm xuống cả đôi mắt và sống mũi cao, phần cuối hơi hếch lên đối xứng với cặp môi ướt át, trề ra đầy vẻ khêu gợi . Cô gái không hề ngạc nhiên nhìn Chánh Đàm nửa như muốn cười tình nửa lại muốn ông khách không mời cuốn xéo càng nhanh càng tốt. Chánh Đàm đã có nhiều kinh nghiệm trong nghệ thuật giao tiếp với đàn bà, nhất là loại đàn bà lẳng lơ, nên không dễ gì bỏ qua dịp may bằng một câu ướm hỏi đầy chất phong tình, chẳng tương xứng chút nào với địa vị xã hội của mình :

 

- Cô em có bán trứng ta mua hết ?

 

Cô gái liếc Chánh Đàm, giọng bỡn cợt :

 

- Trứng vịt Kỳ Lừa đắt lắm , những hai mươi đồng một chục, ông chánh Kim Đôi có mang đủ tiền không ?

 

Chánh Đàm giật mình , có vẻ ngượng. “Bỏ mẹ” Con bé biết tên mình. Chuyện này mà biết thiên hạ đồn ầm lên là chánh tổng đi tán gái thì còn mặt mũi nào ra đình mà quát tháo sai phái bọn chức dịch hàng tổng. Nghĩ vậy lão làm ra vẻ bề trên hỏi :

 

- Nói đùa vậy thôi. Ta có chút việc sang làng Bòng lối này. Hỏi khí không phải, cô là con gái ông phó hội Bảng ?

 

Cô gái hình như chẳng coi gì cái chức danh chánh tổng ra gì vẫn tiếp tục đối đáp với Khúc Đàm bằng giọng cợt nhả :

 

- Chắc ông chánh muốn tìm thêm bà ba cho vui cửa vui nhà ?

 

Chánh Đàm thấy con bé mỏng mày hay hạt, lời ăn tiếng nói nghe vẻ đong đưa trong bụng thích lắm , quên phắt vai kịch đạo mạo đang đóng, thả lời ong bướm :

 

- Nếu ta cho người sang thưa chuyện với ông phó hội em có bằng lòng không ?

 

Cô gái tinh nghịch, nheo mắt nhìn ông khách xấp xỉ tuổi bố mình , giọng chua như giấm :

 

- Trông ông Chánh còn tráng kiện lắm , nhưng hỏi thật, giả sử nhạc phụ tương lai là một lái trâu ông có chịu cưới con gái lão ta không ?

 

- Vậy ra cô em là con ông lái Lự ?

 

-  Ông nhìn kỹ xem kẻo lại nhầm .

 

- Sao lại chăn vịt ở đây?

 

Cô gái chỉ tay về phía đầu làng, có một người đang đi ra :

 

- Tôi nhặt trứng giúp thằng Côi . Nó về nhà lấy chài đánh cá .

 

- Hôm nay ông Lái có nhà không ?

 

Cô gái nói trống không :

 

- Đi biệt tăm nửa tháng nay... Mà ông Chánh hỏi làm gì ?

 

Chánh Đàm giấu biệt chuyện lái Lự vay nợ trả lời ậm ừ :

 

- À, cũng không có gì hệ trọng, đợi khi nào ông ấy về tôi sang cũng được .

 

Lúc lên bãi tha ma, chánh Đàm quay lại nhìn về phía lều vịt, trong đầu luôn tự hỏi: "Con bé này với thằng chăn vịt nhà phó hội Bảng có quan hệ thế nào nhỉ ? Hay là chúng đã... Đồ đàn bà lăng loàn” Mải ngẫm nghĩ về người đẹp, quên cả đường, chánh Đàm bị gai găng đâm vào bàn chân. Lão giật thót , nhảy lò cò đến gờ ngôi mộ cổ ôm chân nhăn nhó trong lúc đôi dép da trâu vẫn lủng lẳng trên cổ. Chiếc gai nhọn hoắt đã khô, xuyên thấu lớp da dầy , bị gẫy một đoạn rồi nằm cứng trong đó làm Khúc Đàm đau nhói. Đã thế lại không có ghim băng mang sẵn bên mình, thành thử ông chánh Kim Đôi đành phải cà nhắc đến bến đò miệng không ngớt xuýt xoa .

 

4

 

Từ ngày mẹ chết, Mạc Thị Lánh ít ở nhà. Lái Lự không bảo được con, phải nhờ người cháu họ bên làng Nội trông nom cửa nhà mỗi khi lão đi vắng. Con gái kẻ Bòng có khi chưa đến tuổi cập kê đã thành gia thất, mười chín đôi mươi đã con bế con bồng, riêng cô gái rượu của ông lái trâu thì không một gia đình tử tế nào dám hỏi , trừ bọn mèo mả gà đồng với ý định bờm xơm, trăng gió. Như trên đã nói, Mạc Thị Lánh đẹp nhưng là vẻ đẹp vượt ra ngoài khuôn khổ nhận thức của làng Bòng vốn dĩ đầy định kiến với những hủ tục lạc hậu. Đàn ông từ thằng trẻ ranh còn cởi truồng tắm sông đến các bậc chức dịch đáng kính tóc đã muối tiêu hễ nghe đến tên Thị Lánh đều nhất loạt bĩu môi khinh bỉ, nhưng chẳng may một mình gặp cô ta thì mắt lại lấm lét, miệng nuốt nước bọt đến đờ đẫn, mất hết cả hồn vía. Căm thù ra mặt là các bà các cô. Họ sợ ả yêu tinh đó làm hư hỏng chồng con , bại hoại gia phong , nhất là đôi mắt lẳng lơ đầy ma lực như có yêu khí quyến rũ các bậc mày râu háo sắc. Đám này thuộc phái chính chuyên, luôn miệng lên giọng răn dạy con cái sống theo quy phạm đạo đức.

 

Thị Lánh, ngược lại không bao giờ xem các bà các cô chính chuyên ở làng Bòng là hiện thân của công dung ngôn hạnh. Cô ta bảo cánh đàn ông thích của lạ: “Các mẹ ấy còn cái gì rao bán ngoài cặp vú mướp giắt vành váy mốc mà chẳng lên mặt đạo đức giả”. Dạo này Lánh hay ra đầm vực chơi với thằng chăn vịt. Cô nàng có vẻ thích món trứng luộc chấm muối ớt nên thỉnh thoảng xách làn lội ruộng ra mua, dần dần nghiện luôn cả thằng chăn vịt. Mỗi ngày không nhìn thấy hắn là cô ta ăn không ngon ngủ không yên. Côi là đứa không cha mẹ được phó hội Bảng đưa về từ lúc còn bé. Nó kém Lánh hai ba tuổi nhưng cao lớn ra dáng một đấng nam nhi với khuôn ngực trần rám nắng vồng lên cùng đôi bắp tay cuồn cuộn ở tuổi dậy thì. Thấy Lánh hay ra chơi thằng Côi thích lắm nhưng chẳng biết nói gì. Mỗi lúc nhìn cô nàng mặt nó lại đỏ lên, miệng lúng búng chẳng nói được câu nào ra hồn . Thực ra Côi là gã trai khá mơ mộng, sức sống hừng hực, tuy ăn uống kham khổ nhưng được sống tự do giữa thiên nhiên phóng khoáng, hít thở khí trời trong lành nên có vẻ tự bằng lòng với thân phận mình. Giờ được một người con gái để ý đến, thỉnh thoảng liếc mắt đưa tình một cách suồng sã làm con tim gã lịm đi tựa như được uống một liều tiên dược. Có lần, lúc ấy trời đã về chiều, đồng vãn người, Lánh ỡm ờ hỏi :

 

- Bao giờ Côi lấy vợ ?

 

Tay chăn vịt thật thà bảo :

 

- Phận đi ở nghèo rớt mồng tơi , chả ai người ta để ý đến .

 

Lánh lại hỏi :

 

- Côi thấy tôi thế nào ?

 

Côi ngẫm nghĩ một thoáng rồi bảo :

 

- Chị đẹp lắm ,đẹp hơn cả tiên .

 

- Có... thích Lánh không ?

 

Tay chăn vịt không còn vẻ ngô nghê nữa, cũng nửa nạc nửa mỡ :

 

- Làm vợ chồng ấy à?

 

- Biết rồi còn hỏi .

 

- Nhưng tôi không có tiền với lại ông phó hội đánh chết .

 

- Mặc kệ- Thị Lánh ngúng nguẩy ngồi sát vào thằng chăn vịt- Có muốn... thử ?

 

- Thử gì ?- Thằng Côi run run đặt tay lên cặp đùi non mà không hiểu vô tình hay cố ý cô nàng đã kéo váy lên quá mức trước lúc ngồi xuống .

 

Lánh hất thằng chăn vịt ra : “ Không được động vào đấy...” Nhưng đôi mắt thì lại bùng cháy ngọn lửa đam mê như là hối hả mời gọi. Gã trai chỉ đợi có thế. Nó đột nhiên ôm choàng lấy cô gái, dằn ngửa ra, kéo tuột váy lên cổ, hau háu nhìn vào cái hõm mờ mờ ảo ảo giữa hai đùi. Cô gái vòng tay ôm lấy lưng thằng Côi, ghì chặt thở hổn hển chờ đợi... Nhưng gã vốn dĩ là gã trai mới lớn, chưa từng biết mùi đàn bà, thành thử người cứ run bần bật, tim đập thình thịch như đánh trống. Đợi mãi, đến khi không thể chịu được nữa, Thị Lánh hơi nhổm dậy, lấy tay kéo tuột chiếc quần đùi rách vá chằng vá đụp xuống chân thằng Côi thì mới phát hiện ra nó đã ướt nhoe nhoét như bị nước mỡ dây vào. Quá thất vọng, cô nàng đẩy thằng chăn vịt khỏi bụng, ngồi dậy, kéo váy xuống rồi hậm hực bảo:

 

- Đồ vô tích sự. Thế mà cũng là đàn ông...

 

5

 

Hôm ấy Chánh Đàm đến kẻ Bòng sau khi đã sai người thăm dò biết chắc lái Lự ở nhà. Lần này lão bắt ông Tình chở cả ngựa qua sông cho oai. Vừa đến sân, Khúc Đàm chợt sững sờ trước cảnh hoang tàn như là ngôi nhà vừa bị mất cướp. Toà chính đường trước bày toàn sập gụ, tủ chè, tràng kỷ gỗ trắc, câu đối, hoành phi sơn son bóng loáng, giờ trống hoác trơ ra nền gạch Bát Tràng và những viên tảng chạm hoa văn đỡ hàng cột nặng nề. án thư cũng đã theo chân lão lái trâu ra chợ từ mấy hôm trước. Những thứ gì có thể quy được ra tiền đều lần lượt về nhà chủ mới. Lúc này vật đáng giá nhất chỉ còn lại cái xác nhà và khu vườn nhãn. Lão đã tính trước, nếu chánh Đàm xiết nợ, đành phải gán dinh cơ cho hắn rồi đưa con gái sang làng Nội làm ăn. Bên Nội, lão vẫn còn khoảnh đất rìa làng được ăn thừa tự của ông bác ruột không có con, mới mất cách đây hai năm. Sông có khúc, người có lúc. Kẻ đi buôn lên voi xuống chó là chuyện thường. Thiên hạ thiếu gì những đứa nhẹ dạ cả tin. Rồi chúng mày xem, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. Tự trấn an mình như vậy nhưng vừa nhìn thấy chách Đàm với cái roi ngựa trên tay, lái Lự bỗng tái mặt. Tay này nổi tiếng hách dịch, coi người như rác, không trả hết số nợ cho hắn thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Thế nhưng, khi nghe lái Lự trình bày cái sự bị lừa mất sạch cả vốn lẫn lãi bằng bộ mặt đưa đám và thứ ngôn ngữ thớ lợ khá mùi mẫn, chánh Đàm không trở mặt giận dữ mà lại bình thản bảo:

 

- Trong nhà ông Lái còn có một thứ quý hơn cả vàng bạc.

 

Lái Lự khịt mũi nghĩ Khúc Đàm xỏ xiên nên chỉ nhếch mép:

 

- Ông chánh cứ đùa.

 

- Tôi không đùa. - Chánh Đàm đảo mắt nhìn tứ phía rồi bất chợt hỏi - Cô nhà đi đâu?

 

       Đến lúc ấy thì lái Lự vỡ chuyện. Lão ngập ngừng hỏi:

 

- Ông Chánh nói con Lánh nhà tôi ?

 

Chánh Đàm gật đầu:

 

- Gia sản của ông giờ tiêu tán hết rồi mà số tiền nợ tôi lại khá lớn dẫu có gán cả dinh cơ này cũng chẳng đủ. Nói thật, nhà tôi hiếm người, nếu ông bằng lòng, nay mai tôi sẽ nhờ người mang lễ vật sang hỏi cô nhà làm bà ba. Về công nợ coi như xí xoá, ông tính sao ?

 

       Nghe chánh Đàm gợi ý, lái Lự mừng quá, xuýt ngất xỉu, nhưng vốn là một lái trâu lọc lõi, đầy mánh khoé, lão dùng kế hoãn binh, chậm rãi uống chén nước để lấy lại thăng bằng sau cú sốc rồi mới thong thả nói:

 

- Cái này là việc cả một đời người, ông để tôi lựa lời nói với cháu xem sao đã.

 

Chánh Đàm hạ giọng:

 

- Từ xưa đến nay việc dựng vợ gả chồng cho con đều phải do bố mẹ xếp đặt, đó chính là gia pháp. Gia pháp không nghiêm sẽ loạn ngay. Phận nữ nhi không thể vượt ra khỏi mấy chữ  "Tam tòng tứ đức", cho nên ...

 

- Mà nếu nói lời không nghe, vẫn còn ngang bướng thì tôi sẽ vụt cho một trận rồi tống cổ ra khỏi nhà. Cái lý ở đời cứ già đòn là non nhẽ.

 

- Ông chớ làm thế ! - Chánh Đàm xua tay - Cứ lấy lời ngon ngọt mà khuyên bảo có khi lại được việc. Hơn nữa, tôi thấy cô nhà cũng sắc sảo, biết ăn nói lắm.

 

Lái Lự thoáng nghĩ đến đứa con gái bất trị. Đến nước này thì không thể thương được nữa. Lão càng cưng chiều nó càng hỗn láo. Để ở nhà ngày nào nó gây tai hoạ ngày ấy. Phương thuốc trị bệnh tốt nhất là nhanh chóng gả chồng. Con gái xuất giá tòng phu. Cứ để lão chánh tổng dại gái này trị con giặc cái. Vạn nhất không trị được bị nó xỏ mũi cũng đáng đời hắn. Trước mắt lão được hai cái lợi, vừa không phải trả nợ vừa được làm bố vợ tay chánh tổng Kim Đôi gần bằng tuổi mình, ở đời mấy ai được như thế ?

 

Hai lão đang lần lượt thảo luận từng điều khoản trong bản hợp đồng hôn phối thì Thị Lánh chẳng biết ở đâu về bằng lối cổng hậu. Lái Lự lấm lét nhìn con gái còn chánh Đàm đứng dậy chào. Lánh liếc mắt nhìn họ khúc cười nhạt:

 

- Chào ông Chánh. Hôm nay chắc ông sang đòi nợ ?

 

- Ấy chết, tôi đâu dám. - Chánh Đàm cười nịnh - Chả là ông nhà cho gọi ...

 

- Tôi hiểu rồi - Lánh chẳng nể nang gì, nói tưng tửng theo kiểu hàng tôm hàng cá - Ông lái trâu bị mất sạch gia sản, không trả được nên làm văn tự gán con gái cho chánh tổng Kim Đôi phải không ?

 

Lái Lự sượng mặt lườm con:

 

- Đừng có hỗn. Nhà ông Chánh nền nếp lại giàu có nhất vùng, được vào đấy khác gì chuột sa chĩnh gạo. Nếu mày bằng lòng, mấy hôm nữa bà Chánh sẽ mang trầu cau sang ăn hỏi.

 

Thị Lánh mỉm cười nhìn ông khách vùng Ba Tổng:

 

- Thế tôi về làm dâu ông Chánh hay làm vợ bé ông Chánh ?

 

Lái Lự quắc mắt:

 

- Mày đừng có lộng ngôn. Ông Chánh chưa có con trai nên mới phải đi tìm người, chứ con gái nhà tử tế bây giờ thiếu gì.

 

Lánh cười gắn, còn lão lái trâu ngầm đưa mắt cho Khúc Đàm. Cả hai đều im lặng chờ đợi phản ứng xem ra chẳng có gì là tốt lành từ phía cô gái. Nhưng thật không ngờ, Mạc Thị Lánh lại chấp nhận cuộc hôn nhân mua bán nhanh đến thế:

 

- Tôi bằng lòng, nhưng với một điều kiện.

 

- Xin cô cứ nói.

 

- Tôi phải giữ tay hòm chìa khoá.

 

- Tưởng gì, chuyện ấy thì được - Chánh Đàm gật đầu.

 

Ba hôm sau, bà Chánh mà hàng tổng vẫn gọi là bà cả Huê mang trầu cau sang chạm ngõ, hẹn đến đầu tháng ba thì rước dâu. Trước ngày cưới ít lâu, Thị Lánh lại ra đầm Vực mưa trứng. Lúc ấy đã vàng vàng mặt trời, khu đồng trũng vắng vẻ, cô tịch như một vùng hoang địa. Kể ra, lấy trứng xong, vẫn còn kịp về làng nhưng cô ta lấy cớ sợ ma ở lại qua đêm với tay chăn vịt. Lần này thằng Côi không còn lớ ngớ như buổi ban đầu. Hai đứa trần truồng quấn riết lấy nhau như một đôi rắn lịch kịch suốt một đêm trên chiếc ổ rạ được trải manh chiếu cói mà hắn lấy được ở đình Trụ. Trong cơn hoan lạc, niềm đê mê ngây ngất đến tột đỉnh, Thị Lánh ghì lấy cổ thằng Côi bảo:

 

- Mấy hôm nữa Lánh lấy chồng phải xa mình rồi.

 

Thằng chăn vịt thở hổn hển:

 

- Sau này biết bao giờ gặp lại ?

 

- Thỉnh thoảng tôi đi chợ qua đây ?

 

Sau ngày cưới, Mạc Thị Lãnh thành bà chánh Ba. Bà Ba trẻ nhất, đanh đá nhất nhưng lại có quyền hành nhất trong nhà họ Khúc. Đêm tân hôn, chánh Đàm trải tấm vải trắng xuống giường. Thị Lánh là cô gái từng trải trong chuyện phòng the nên đã chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết. Mới có đầu giờ Hợi, chánh Đàm đã tắt nến lôi tuột vợ lên giường. Trước khi lão lột váy trườn lên người thì cô ta bí mật bóp cái bong bóng cá đựng tiết vịt hãm muối mà thằng Côi đã đưa cho vào miếng vải .

 

Chánh Đàm đã có hai vợ. Vợ cả là bà Huê, cưới từ lúc chưa đầy mười sáu, đến giờ vẫn chẳng đẻ đái gì. Trước lúc đăng lính ít lâu lão đón cô Phùng Thị Thoả ở làng Nội, bên kia sông Lăng về làm thứ thất cũng chỉ được một mụn con gái khoèo tay. Lần này họ Khúc rước Mạc Thị Lánh về là mong có kẻ nối dõi tông đường, cứu cho gia tộc khỏi nguy cơ tuyệt tự.

 

Từ nhỏ, Khúc Đàm đã là gã trai phóng đãng, khác hẳn em ruột là Khúc Kiệt. Hai anh em lớn lên đều cảm thấy con mắt dè bỉu của làng trên xóm dưới về cái quá khứ bất hảo của người cha, nên trong lòng luôn nuôi chí rửa nhục theo cách riêng của mình. Khúc Đàm đăng lính còn Khúc Kiệt ở lại làng tìm thày học chữ Nho. Thừa hưởng khí huyết của người cha, từ nhỏ Khúc Đàm đã nổi tiếng thích phiêu lưu. Hắn còn là gã thanh niên đẹp trai, miệng tán gái dẻo như kẹo mạch nha và đam mê cờ bạc. Năm hai mươi hai tuổi, Khúc Đàm bị động viên sang Pháp. Binh đoàn thuộc địa số 5 của hắn được điều đến đồn trú ở vùng An dát. Dịp ấy vào cuối năm thứ hai của Thế chiến thứ nhất, Nhà nước bảo hộ trưng tập hàng ngàn lính Đông Dương bổ sung cho quân số bị hao hụt trên chiến trường Pháp - Đức. Làng Cùa có bốn thanh niên xuất chinh, sau này chỉ mình Khúc Đàm hồi hương. Hai người tử trận, một người bị thương ở lại chính quốc mở quán thịt chó.

 

Hôm tiễn Khúc Đàm xuống tàu há mồm vượt trùng dương sang Pháp là một ngày đáng nhớ. Mặc cho vợ cả, vợ hai khóc hết nước mắt, vật vã, lăn ra đất van nài, Khúc Đàm vẫn quyết dứt áo ra đi. Vợ hắn có biết đâu nỗi mặc cảm của anh em họ Khúc với dân làng Cùa. Phải gột rửa quá khứ bằng niềm vinh quang của kẻ làm trai cưỡi sóng đạp gió ngao du khắp hoàn cầu, và sau hết, kiếm được tiền rồi lựa thời cơ mua một chân chức sắc để có vị thế trên chiếc chiếu cạp điều giữa đình làng. Vạn nhất, nếu bỏ xác nơi sa trường thì dòng họ nhà hắn vẫn còn Khúc Kiệt. Em hắn là gã hủ nho mọt sách, suốt ngày ê a đọc Tứ thư, Ngũ kinh, không có chí lớn, sẽ thay hắn giữ gìn hương hoả.

 

Vào những năm Đại chiến thế giới, làng Cùa gần như bị bỏ rơi. Tiếng đại bác gầm bên trời Âu hầu như chẳng có tác động gì đến nếp sống thường nhật khép kín vùng Ba Tổng. Làng vẫn cứ phạt vạ nếu có gái chưa chồng chửa hoang, và khổ chủ, tức gia đình cô gái hư hỏng kia phải biện đủ lễ vật để các vị chức sắc cúng thần trừ tà rồi ngả mâm đánh chén. Ban đêm, trai đinh cắt phiên nhau tuần tra. Nếu chẳng may có trộm vào làng thì phát lệnh bằng mõ cá, tù và sừng trâu hoặc trống ngũ liên. Chỉ trong khoảnh khắc, cả xóm thắp đuốc chạy ra, kẻ giáo mác, người dao chín hoặc tay thước, hô hét rầm trời. Bọn đạo tặc cùng đường có thằng nhảy xuống ao, có thằng đánh liều thượng lên mái đình, cuối cùng vẫn bị lũ chó phát hiện, chịu trói nộp quan.

 

Làng Cùa rộng nhất tổng Kim Đôi được bảo vệ bằng luỹ tre dày chỉ thông với bên ngoài bằng hai chiếc cổng xây gạch vồ trên có vọng lâu, dưới là những cánh cửa lim nẹp sắt dày mười sáu phân. Có một con ngòi từ đầm Ma xuyên qua làng nhưng không thẳng mà lại cong queo như con rồng uốn khúc. Ông thầy phong thuỷ xứ Đoài đi qua, nhìn thế đất lắc đầu bảo: "Làng này bị con ngòi giống loài rắn nước chẻ làm đôi, phá vỡ huyệt đất quý thành ra nhân tài không phát được. Tiếc thay !".

 

Những năm ấy, ở đất Bắc Kỳ, đạo Nho đã đến hồi mạt vận, nhưng ở vùng Ba Tổng người dân vẫn còn trọng chữ nghĩa. Khoá Kiệt học giỏi nổi tiếng trong vùng được các phụ huynh làng Bích La bên kia sông đón sang dạy con em mình. Làng Cùa từ lâu khuyết chân giáo thụ, học trò toàn dạt đi thiên hạ kiếm chữ vừa vất vả vừa tốn kém nhưng cánh chức dịch ghét cái nguồn gốc đạo chích của nhà họ Khúc thành thử bảo nhau tẩy chay không mời đồ Kiệt. Trái lại, anh em Khúc Đàm chẳng biết căn cứ vào nguồn tư liệu nào thường tự nhận là hậu duệ của Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ người làng Cúc Bồ đã có công khôi phục quyền tự chủ của đất Giao Châu thời Hậu Đường. Khúc Kiệt dạy học một năm thì được cụ thứ chỉ làng Bích La gả con gái cho. Bà này mắn đẻ, trong vòng chưa đầy một giáp đã sinh Khúc Văn, Khúc Vĩ, Khúc Thị Nhân, Khúc Thị Lễ, Khúc Thị Nghĩa. Cái chí học gạo làm quan của thầy đồ Khúc tan biến như bong bóng xà phòng khi hay tin Nhà nước bảo hộ huỷ bỏ vĩnh viễn các kỳ thi Hán học. Nhà nghèo lại đông con, chạy ăn từng bữa khiến Khúc Kiệt rầu lòng sinh bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, rượu say lại ôm mặt khóc như trẻ con bị bố mẹ đánh.

 

6

 

Nỗi khổ đầu tiền của Khúc Đàm khi vượt biển sang nước Đại Pháp là bệnh say sóng. Chiếc tàu há mồm cao lừng lững, dài sáu bảy chục thước tây là một khối sắt thép đồ sộ với những thứ dây rợ lạ mắt giăng mắc ngang dọc trên các cột cùng lá cờ tam tài bay phần phật trước gió làm cánh lính thuộc địa, lần đầu xuất dương, vô cùng thán phục kỹ nghệ Thái Tây. Khúc Đàm chỉ ngắm trời ngắm nước được chừng vài giờ thì ruột gan bắt đầu lộn tùng phèo khi chiếc hạm thuyền cưỡi lên những con sóng bạc đầu lừng lững như trái núi, thực hiện những cứ nhào lộn, nhồi lắc dữ dội, vượt xa sức tưởng tưởng táo bạo nhất mà con người có thể nghĩ ra được. Từ lúc ấy, Khúc Đàm nằm bẹp dưới khoang tàu, trong căn hầm ẩm ướt, bẩn thỉu, lúc nào cũng tối tăm như cảnh âm cung. Mười bốn lính thuộc địa gồm cả Việt, Miên, Lào chen chúc trong cái hộp sắt chưa đầy chín thước vuông như thế nên nhất cử nhất động của một người đều phát sinh sự đụng chạm mang tính dây chuyền. Hầm nóng như nung. Không khí đặc quánh lại và ô nhiễm nặng chẳng khác gì xà lim biệt giam tử tù. Khẩu phần hàng ngày gồm bánh mỳ đen bở bùng bục, cá trích đóng hộp và thứ xúp thịt cừu loãng mới ngửi đã lộn mửa. Nước ngọt quý như vàng, ngày được một lít, uống còn không đủ nói gì đến tắm giặt.

 

Tàu qua Bắc Phi, vào biển Đỏ, khẩu phần được tăng thêm chút ít nhưng vẫn không phục hồi được sức khoẻ của phần đông lính mắc bệnh kiết lỵ do thiếu nguồn rau xanh. Hành trình hơn ba tháng, khi con tầu vào cảng Mác xây thì binh đoàn Đông Dương số 5 được một đoàn xe cam nhông đưa ngay lên cao nguyên đông bắc. Nơi đây là vùng đệm tiếp giáp với dải phòng ngự chiến lược của sư đoàn 13 do tướng Pốtchiê làm tư lệnh. Đối diện với hệ thống chiến hào chạy ngoằn ngoèo như hình con trăn khổng lồ uốn khúc giữa dãy đồi mọc toàn cây vân sam là phòng tuyến quân Đức. Bọn này suốt ngày chui rúc dưới hầm, quấn mình trong những chiếc Pa đờ xuy dạ thô nặng trịch ngốn bánh mỳ với mỡ lợn hoặc loại xăng đuých rắn như đá vì lạnh với nhứ rượu vang Pađờ Cale chua loét như cứt mèo mà chúng cướp được ở các nông trại trồng nho.

 

Cần phải nói thêm, tiểu đội của Khúc Đàm do viên cai Trần Thái chỉ huy không thuộc quân số chiến đấu mà là lính phục dịch. Công việc hàng ngày là sửa chữa những chỗ chiến hào bị sạt lở, vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nếu cần kiêm luôn cả công việc tải thương. Bấy giờ đang là cuối thu, mà mùa thu ở miền đông bắc xứ Phú Lãng Sa lạnh thấu xương. Tuyết rơi ban đêm, sáng ra rắn lại như băng. Khúc Đàm cùng Phan Thế Thanh khiêng một hòm đạn đui sết sơn vàng nhạt, nặng trịch, ì ạch leo lên sườn dốc của một quả đồi nằm chếch về phía tây tuyến phòng thủ của sư đoàn Héc man. Đêm hôm trước, tướng Pốt chi ê vừa mất một tiểu đoàn. Họ bị rơi vào trận địa phục kích của đại tá Héc man, sau đó tiếp tục làm mồi cho hai mươi bảy họng súng cối sáu mươi ly. Bọn Đức trinh sát rất kỹ. Chúng căn các nòng moóc chi ê, khoá đầu khoá đuôi thung lũng Patxcan, bắn như giã giò, chần cho  tiểu đoàn công binh 32 của đại uý Sác lơ tối tăm mặt mũi. Đến gần sáng, chỉ còn không qúa ba chục tay súng mình đầy thương tích thất thểu quay về. Chiến hào quá hẹp, chỉ đủ hai người tránh nhau. Nước mưa lẫn với bùn đất cùng lớp tuyết rơi đêm qua tạo thành thứ hỗn hợp nhão nhoét, bềnh bệch, ngập đến cổ đôi giày xăng đá làm Khúc Đàm có cảm giác như bị kim châm khắp lượt bàn chân. Trên đầu, vòm trời loang lổ những cụm mây xám, mây trắng và mây màu hạt dẻ bập bềnh như những tảng băng trôi. Từ góc khuất của nhánh công sự tạm thời có thể nhìn thấy phần ngọn của một cây sồi đơn độc, tán lá tròn như chiếc dù xanh mà trên cành cao nhất, không hiểu theo lệnh của ai, mấy chàng lính trẻ tiểu đội 3 đã buộc lên đấy lá cờ ba sọc rách tướp đang bay phần phật. Một con chim ưng mỏ trắng, cặp cánh rộng xoè ra, liệng trên vòm trời màu thiếc, đảo đôi mắt tròn quét một lượt khắp khoảng rừng tìm những chú thỏ ngờ nghệch, tựa hồ như chẳng hề biết đến hai đạo quân đang tìm cách tàn sát nhau dưới những con hào ngoằn ngoèo kia.

 

Khúc Đàm đang ngây người ngắm mảnh trời Âu giữa lúc cả hai bên ngẫu nhiên ngừng tiếng súng thì một viên quan hai người Pháp từ một ngách hào gọi to:

 

- Ê ! Mấy anh kia, có phải các anh thuộc tiểu đội phục dịch của hạ sĩ Trần Thái ?

 

- Bẩm quan lớn, đúng ạ ! - Khúc Đàm vừa lấy tay ra hiệu vừa trả lời bằng thứ tiếng Pháp bồi, các âm tiết đều bị tách ra rời rạc làm tay sĩ quan thông tin chẳng hiểu gì, hỏi lại như quát:

 

- Phục dịch phải không ?

 

- Đúng !

 

- Về trung đội ngay ! Có lệnh chiến đấu.

 

Bây giờ thì không còn phải khiêng đạn và đào chiến hào ở tuyến sau nữa mà là thực sự cầm súng bắn nhau với bọn Phổ.  Khúc Đàm bất giác rùng mình. Tiểu đội được phiên chế vào tiểu đoàn cơ động. Tiểu đoàn này toàn lính thuộc địa gồm hai đại đội Ma rốc, một đại đội Lê dương Xê nê gan và một đại đội Đông Dương. Hướng hành quân hôm nay không phải là ngọn đồi có cây sồi đơn độc mà chếch về phía nam, nơi có trang trại trồng nho. Ông chủ nhà đã bị bọn Đức bắn chết sau khi cướp toàn bộ số rượu vang dưới hầm dự trữ từ năm 1896.

 

Trang trại hồ đào tuyệt đẹp nhất là vào lúc chiều tà khi mặt trời vẫn còn cách đỉnh núi Guy đi ông chừng nửa con sào. Trước chiến tranh, mảnh đất này vốn thanh bình. ánh hoàng hôn nhuộm đỏ mái nhà thờ thánh Giăng với tháp chuông nhọn chạm nổi hình chiếc bánh xe mặt tiền trông ra sông Đia xanh màu lam ngọc. Đàn cừu gặm cỏ dưới chân núi, nhìn từ xa, trắng toát như một khối bông di động. Những chú cừu non vừa chào đời không theo kịp đàn, run rẩy trên đôi chân mảnh khảnh, ngơ ngác nhìn chung quanh thỉnh thoảng lại be be gọi mẹ. Sườn đồi thoai thoải, chếch về phía nam một chút là những chiếc cối xay gió xếp hàng xoè ra những chiếc cánh quạt dài, mỏng mảnh quay một cách miễn cưỡng mặc dù có lúc gió từ triền sông thổi về rất mạnh. Trên đỉnh chiếc chong chóng cao nhất, hình như đã bị hỏng, một con quạ già trụi sạch lông đầu, cái mỏ rũ xuống, đứng trầm tư nhìn xuống khu vườn nho. Xa hơn chút nữa, chếch về hướng tây bắc là cánh đồng lúa mạch đang chín. Lũ chim dẻ quạt, bồ các và sáo đen chao lượn như mắc cửi. Chúng lao vun vút nhìn ngó tứ phía, thỉnh thoảng lại cụp cánh thả mình rơi xuống mổ đám châu chấu ma đang nhảy tanh tách giữa những nhánh lúa. Vài con dẽ gà tinh khôn rất có kinh nghiệm tìm những đám lúa mới chín. Chúng lủi thật nhanh vào giữa ruộng, đánh đu lên cây nhằn hạt.

 

Nhưng bây giờ thì khung cảnh êm đềm ấy không còn nữa. Từ lâu nó đã thành bãi chiến trường. Nhìn cảnh tượng một vùng quê nước Pháp, Khúc Đàm chợt nhớ đến mảnh đất làng Cùa vùng Ba Tổng của mình. Hắn đang thả hồn phiêu diêu về xứ sở An Nam với nền văn minh lúa nước và những chiếc cối xay tre đắp đất nhích tùng vòng nặng nề quay từ cả ngàn năm trước thì có lệnh hành quân. Tất cả tiểu đội ba lô lên vai, lưng thắt bao đạn, vai khoác trường mút hoặc rê minh tơn chụp mũ ca sô lên đầu rồi nối nhau bước trong chiến hào. Cuộc chạm súng bắt đầu từ ba giờ chiều khi những quả moóc chi ê tám mươi mốt ly từ phía sau những chiếc cối xay gió bay tới chiến hào tiền duyên. Đấy là moóc chi ê của quân đội Pháp nhưng bị bọn Bốt xơ cướp được từ tuần trước, mở màn cho bản đại hợp xướng máu lửa.

 

Lính Đông Dương vốn thể trạng thấp bé lọt thỏm trong bộ quân phục rộng thùng thình như là quần áo đi mượn của mấy ông "nhiêu" trong ngày tế đám. Đã thế, lại vì thời tiết khắc nghiệp, nhiệt kế xuống đến mười hai độ âm, nên mọi người còn phải đóng thêm chiếc áo dạ màu cứt ngựa, vừa dài vừa nặng, thành thử mỗi bước đi, hai vạt xoè ra quết bùn đất trông thật thảm hại. Viên ách di đăng chỉ huy trung đội là một người Pháp lai. Hắn nói tiếng Việt rất sõi, thỉnh thoảng còn chửi lính bằng thứ thổ ngữ vùng Kim Sơn Ninh Bình chính hiệu. Trước đó nửa giờ Trần Thái bị trúng mảnh moóc chi ê. Mảnh đạn phạt vào đầu từ trên xuống bóc hẳn một mảng thịt nhầy nhụa máu cùng với nửa vành tai. Chiếc mũ rách toạc nham nhở như bị chó gặm. Trần Thái rú lên một tiếng thảm thiết rồi ngã chúi xuống nằm chắn ngang đoạn hào nông choèn đã bị đạn pháo làm sập vài chỗ.

 

Đại đội Xê nê gan cao to lừng lững như hộ pháp, da đen bóng, ôm súng lom khom triển khai đội hình dưới đường hào cận tuyến. Phía sau họ chừng ba chục thước, tuyến tán binh thứ hai gồm tiểu đoàn Đông Dương số 2, số 7 và đại đội Lê Dương triển khai theo đội hình tác chiến yểm hộ cho những chiến binh Phi châu. Đối diện với họ, sau vườn nho là những cứ điểm phòng thủ của bộ binh Đức. Chúng tác chiến theo một trình tự khá bài bản và đặc biệt ít khi lộ diện nếu như chưa phát hiện ra vị trí đối phương. Cuối cùng thì những khẩu cối 81 và 105 ly của trung đoàn Li ông cũng khai hoả. Tiếng đề pa nghe rõ mồn một chứng tỏ những thiên thần hộ mệnh cho bộ binh này ở cách đây không xa. Trận địa phút chốc trở thành một cuộc đấu pháo ngoạn mục với hàng ngàn vạn âm thanh hỗn tạp, đinh tai nhức óc làm rung chuyển bầu trời vốn là nơi tuyệt đối yên tĩnh. Khói bay lơ lửng giữa từng không rồi xộc vào chiến hào. Mùi lưu huỳnh vừa nồng vừa khét làm nhiều người ngạt thở, ho sặc sụa. Mặt trời chiều không thể xuyên nổi lớp khói dày đặc. Không gian bùng nhùng âm u như địa ngục. Khúc Đàm phải lấy chiếc khăn bông bẩn thỉu ấp vào mũi, một tay xách súng dò từng bước lên sườn một quả đồi thấp mọc toàn cây lúp xúp tựa như cây dành dành ở quê nhà. Viên chuẩn uý cầm khẩu rê minh tơn trong tay đứng thẳng người dõng dạc hô:

 

- Trung đội, bên trái quay ! Về hướng cối xay gió.

 

Tiếng hô vừa dứt, từ trên cao, hơi chếch về mỏm đồi Chó Sói, những vệt lửa loằng ngoằng kèm theo tiếng nổ đanh, đều, từng loạt một nhằm vào hàng lính Đông Dương.

 

- Anh em ơi xông lên, quyết tiêu diệt bọn Phổ !

 

Có tiếng ai đó thét lên bằng tiếng Pháp. Lính Xê nê gan chạy ngược lên đồi Cối Xay Gió chẳng theo một bài bản nào, thành ra khi bị hoả lực đối phương quất trực diện thì chẳng ai bảo ai, quẳng súng chạy như một đàn vịt. Trận tấn công thất bại. Viên chuẩn uý bị đạn xuyên qua bả vai, gẫy xương quai xanh được Khúc Đàm dìu về chiến hào tiền duyên. Nửa giờ sau, một viên thiếu uý rậm râu người vùng A vi nhông, nói tiếng Đức lưu loát được điều về làm trung đội trưởng. Hắn chửi rủa lính thuộc địa không tiếc lời, tất nhiên là bằng thứ ngôn ngữ Avinhông rồi huơ huơ khẩu súng lục to tổ bố trước hàng quân lấm lem như ma vùi.

 

- Lần này không có lệnh của tôi, kẻ nào quay đầu nhìn lại phía sau là bắn.

 

Lời răn đe của viên quan một tỏ ra có hiệu lực. Lính thuộc địa sợ khẩu súng của Đuy mông hơn là lửa của bọn Đức. Cuối cùng thì tiểu đoàn thuộc địa cũng chiếm được cao điểm Cối Xay Gió. Bọn Phổ rút đi bỏ lại mấy chục xác chết dưới chiến hào hoặc trên mặt đất. Khúc Đàm bị một viên đạn súng trường khoan vào mông, gẫy xương chậu. Cánh phục dịch khiêng hắn về tuyến sau trên chiếc cáng gỗ bạch dương vừa dài vừa hẹp, thỉnh thoảng lại thúc vào vách hào. Máu chảy ra như xối mặc dù mông hắn đã được tay y tá người Pháp sơ cứu. Hắn nằm sấp trên cáng kêu ồ ồ như lợn bị chọc tiết.

 

Trạm xá trung đoàn là một toà lâu đài bỏ hoang từ cuối thế kỷ trước nằm trong cánh rừng bạch dương, cách khu Cối Xay Gió, trung tâm của trận đánh vài dặm nhưng tương đối an toàn bởi công trình này khá kiên cố. Tường xây toàn bằng đá tảng dày bốn mươi bảy phân, dưới có tầng hầm, trước dùng chứa rượu và bắp cải muối, có thể sơ tán thương binh nếu bị quân Đức pháo kích. Cuộc phẫu thuật không có thuốc gây tê để lấy những mảnh vỡ trong vết thương do các bác sỹ gần như đã kiệt sức vì mấy chục ca mổ trong ngày làm Khúc Đàm xuýt nữa thì về chầu ông vải. Rất may hắn được cô y tá người Angiêri là Miriam chăm sóc chu đáo nên mới thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Khúc Đàm vốn có thể trạng tốt, lại gan lì chịu đau để cô hộ lý thay băng trong tình cảnh gần như cởi truồng nên tất yếu không tránh khỏi sự đụng chạm vào "của quý" của hắn. Mỗi khi bàn tay xinh đẹp hơi ngăm ngăm của Miriam luồn băng qua háng, dương vật của hắn lại cứng ngắc, ngỏng lên. Lúc đầu cô gái Bắc Phi còn đỏ mặt, đến lần sau, chẳng nể nang gì, Miriam cầm chiếc panh vụt thật mạnh làm gã lính tập kêu rú lên như là đang bị thiến.

 

Ba tháng sau, khi vết thương đã lành, Khúc Đàm được điều về đại đội phục dịch. Lúc này hắn đã được phong hạ sỹ và ở ngoài chiến hào, thỉnh thoảng lại nhận được thư của Miriam bằng thứ chữ loằng ngoằng như giá đỗ. Tất nhiên hắn không thể đọc những bức thư kiểu ấy cũng như cô y tá chẳng hiểu gì những ký tự nguệch ngoạc tượng hình mà hắn gửi đáp lại tấm tình cô ta. Công việc phục dịch tuy không phải cầm súng nhưng chết như bỡn nếu rơi vào trận địa pháo của Đức. Mới hôm qua, chính hắn đã phải khiêng xác Lê Văn Ngọ, Thân Quang Đính và áp đu la về cuối đường hào số 4. Chỗ ấy là nơi tập kết những xác chết. Trời băng giá, nhiệt độ quá thấp, những cái xác cứng lại trong chiếc capốt lính màu xám. Nhìn thi hài hai người đồng hương xấu số, bất giác Khúc Đàm thở dài, chảy nước mắt. Trung đội cũ của hắn cứ hao hụt dần. Hắn biết được tin này qua anh chàng Thiệp chân sếu quê ở Ngân Sơn Bắc Cạn. Thiệp là người Tày đã có vợ con nhưng do thua bạc, nợ nần nhiều quá phải đăng lính lấy tiền trang trải. Tay này mỗi khi ra trận đều đeo chiếc bùa do một bà đồng người Sán Dìu bán cho hồi còn ở nhà. Chẳng biết có phải được thần phật che chở hay không mà suốt mấy năm chạm nhau với bọn Đức hắn chưa hề mất một sợi tóc. Mối tình của cô gái Angiêri với Khúc Đàm có vẻ như ngày càng sâu nặng. Chẳng bao lâu, cả hai đã nói được với nhau bằng thứ tiếng Pháp lơ lớ chẳng cần chia động từ và hoàn toàn bỏ qua trọng âm. Khúc Đàm đã có chủ ý, nếu trời phật để cho sống sót qua cuộc chiến, hắn sẽ đưa Miriam về làng Cùa, mặc cho chiên hạ đàm tiếu, cưới cô làm bà ba và sinh con đẻ cái nối dõi dòng họ như bất cứ gã đàn ông nào khác. Có điều, ý nguyện của hắn không thành. Cô y tá Bắc Phi bị thương nặng trong một trận ném bom dữ dội của không quân Đức khi chúng phát hiện được bệnh viện dã chiến nằm trong toà lâu đài. Miriam chết vì vết thương ở bụng mất quá nhiều máu. Trung đội của Khúc Đàm được lệnh chôn cất người chết. Trong số mười ba nạn nhân có hai phụ nữ, Miriam và bác sĩ ngoại khoa Bêatơrít.

 

Chiến tranh thế giới kết thúc, binh đoàn Thuộc Địa cho lính giải ngũ. Khúc Đàm về Mác xây cùng với phần lớn cựu chiến binh Đông Dương chờ ngày xuống tàu về nước. Tại hải càng này, hắn đã đi lại với một gái điếm người Pháp tên là Luy xi và bị lây bệnh giang mai. Chưa đầy một tuần, dương vật của hắn sưng tấy lên, thỉnh thoảng chảy mủ, bốc mùi rất khó chịu. Nhiều khi đau quá, đứng ngồi không yên hắn đã nghĩ đến chuyện ra cầu tàu nhảy xuống biển tự tử. Cái thứ bệnh quái ác ấy theo hắn vượt trùng dương về tận làng Cùa, sau này phải mất khá nhiều thời gian và tiền bạc mới chữa khỏi. Cũng may chuyến viễn chinh mấy năm của hắn được chính phủ Pháp tặng thưởng mề đay "Anh dũng bội tinh" vì có huân công kèm theo mấy trăm bạc Đông Dương trợ cấp thương tật. Khoản tiền đó làm Khúc Đàm trở thành giàu nhất vùng Ba Tổng.

 

Công việc đầu tiên sau khi hồi hương là Khúc Đàm kén thợ xây một dinh cơ bề thế hơn hẳn toà nhà bát giác kệch cỡm của lão lý Lượng để phô trương với thiên hạ. Toà nhà chính hai tầng xây theo kiểu Pháp, trần xi măng cốt thép, mái lợp ngói tây chống nóng, nền lát gạch men hoa. Hai dãy nhà ngang đối nhau qua cái sân rộng lát gạch Bát Tràng được cánh thợ Nam Định dựng hơn một năm mới hoàn công. Hai toà nhà này, trừ mái ngói âm dương còn toàn bộ kiến trúc đều bằng gỗ kể cả sàn và ván thưng bốn chung quanh. Đây là kiểu nhà do chính họ Khúc thiết kế. Hắn đã khéo léo kết hợp hai phong cách kiến trúc Âu á để tạo ra một sản phẩm khá lạ mắt ở làng Cùa. Các ngài chức sắc hễ có dịp ra đình ngồi với nhau là dè bỉu vệ Đàm đài các rởm. Khúc Đàm biết tỏng bọn này ngoài miệng chê bai nhưng trong lòng thì ghen tức, càng tìm cách trêu ngươi.

 

Được hơn một năm, sau khi làm xong toàn bộ dinh cơ, Khúc Đàm ra tranh chức lý trưởng làng Cùa. Bọn hào mục ghét họ Khúc bèn đệ đơn trình quan phủ tố cáo bố đẻ Khúc Đàm trước đây là trùm cướp, hoành hành khắp vùng Ba Tổng, quấy nhiễu dân lành. Tri phủ Đỗ Khánh vốn là một gã vô học nhưng lại là cháu họ quan Khâm sai Bắc Kỳ, được sung chức do hối lộ chứ không có thực tài, rất hách dịch. Nhận được đơn, Đỗ Khánh nổi giận, gửi trát đòi Khúc Đàm lên phủ đường để trị thói chơi trèo và dạy cho bài học về tôn ti trật tự. Mãi trưa hôm sau Khúc Đàm mới cưỡi ngựa đến trình diện. Hắn nghênh ngang bước vào công đường, không chắp tay vái mà chỉ khẽ gập đầu chào làm Đỗ Khánh tím mặt.

 

- Tên kia có phải Khúc Đàm làng Cùa ?

 

Khúc Đàm bấy giờ mới chắp tay hỏi:

 

- Quan lớn cho gọi chúng tôi lên đây có việc gì ạ ?

 

Viên tri phủ cầm phiến đá chặn giấy đập đến chát một cái xuống bàn, dõng dạc bảo:

 

- Có đơn của hội đồng kỳ mục làng Cùa kiện nhà anh về tội mạo phạm ra tranh chức lý trưởng.

 

Khúc Đàm cười nhạt:

 

- Bẩm quan lớn, tôi ra tranh cử lý trưởng là căn cứ vào các điều khoản quy định trong văn bản hướng dẫn của văn phòng thống sứ Bắc Kỳ và ngài khâm sai đại thần thay mặt chính phủ Nam triều năm Mậu Tý, sao lại gọi là mạo phạm ?

 

Đỗ Khánh đập án quát:

 

- Anh này lý sự gớm. Anh có biết vì sao người làng đệ đơn tố cáo không? Nói cho mà biết, chính là vì bố anh trước đây làm quân đạo tặc.

 

Khúc Đàm không hề thay đổi sắc mặt khi nhìn thấy vẻ hí hửng của viên tri phủ. Hắn thong thả rút trong túi ra tấm "Anh dũng bội tinh" và tấm bằng tưởng thưởng công lao của trung sĩ Khúc Đàm trong Đại chiến thế giới đối với nước Đại Pháp, đặt trước mặt viên thừa phái rồi hất hàm bảo:

 

- Ông đọc lên cho quan lớn nghe xem những thứ này có đủ tư cách bảo lãnh cho chiếc triện đồng không ?

 

Nhìn thấy những thứ ấy, khuôn mặt Đỗ Khánh trở nên trắng bệch. Viên thừa phái thì thầm vào tai ông ta mấy câu, ngài tri phủ vội đứng lên rời khỏi bàn, bước lại gần Khúc Đàm, hơi cúi đầu, nói nhỏ:

 

- Chuyện này quả thực bản chức không biết. Ông cứ về chuẩn bị nhận việc, còn cánh lý Lượng cứ để tôi trị.

 

Cầm triện đồng trong tay rồi, lý Đàm bắt đầu củng cố vây cánh mà việc đầu tiên là vận động cánh kỳ hào bầu Khúc Kiệt làm chánh hội. Khúc Kiệt biết tin bảo các con:

 

- Ta thà chết đói còn hơn bám đít Tây kiếm bơ thừa sữa cặn.

 

Khúc Đàm tức lắm mắng em trai là đồ ngu. Ông em vốn tính gàn, xưa nay không chịu luồn cúi ai, nhà nghèo rớt nhưng cậy có tí chữ, coi thiên hạ bằng nửa con mắt.

 

Bẩy năm sau, tuy chưa đến tuổi bốn mươi mà Khúc Đàm đã giữ triện đồng hàng tổng, danh tiếng nổi như cồn nhưng vẫn chưa có con trai. Trước khi hắn viễn chinh sang Pháp, bà hai Thoả đã đẻ được Khúc Thị Hài nhưng mắc chứng khoèo tay bẩm sinh. Nhìn con bé dị dạng, Khúc Đàm ghét lắm, vì thế ghét luôn cả vợ. Chưa có người nối dõi tông đường, chánh Đàm rất sốt ruột. Cũng từ đấy lão nghĩ đến chuyện cưới bà ba.

Rượu cần đêm mưa

Người đàn bà đứng như chôn chân, nhìn tôi bằng đôi mắt mở to một thoáng rồi cúi mặt. Trong bóng tối nhập nhoà tôi vẫn nhận ra Sa. Tôi nói, không nhận ra mình à? Không. Mắt chớp nhẹ, giọng nói ngập ngừng và cái lắc đầu làm tôi buồn se sắt.

Căn nhà sàn ọp ẹp, trống trải nằm cuối bản Mạy chìm trong bóng tối đầu hôm. Bên kia cánh đồng ruộng bậc thang nơi tôi vừa đi qua, thị trấn miền núi ánh điện giăng giăng, lung linh trong bầu trời sương đêm mờ ảo. Vượt khỏi cái dốc khúc khuỷu đã từng quen thuộc, tôi dừng xe bên chân cầu thang ngôi nhà rồi mạnh dạn bước lên. Tôi nhận ra ngôi nhà có cây dừa đổ nghiêng nơi chái sau. Cây dừa ngày trước, lần đầu tiên đưa tôi về nhà, Sa đứng ở chái sau chọc quả cho tôi uống nước. Căn nhà tàn tạ đang chìm trong màn đêm. Trên nhà chỉ le lói ánh đèn dầu. Trong ánh sáng đèn pha xe máy, bóng người đàn bà mặc chiếc váy tiều tụy bước vội vào ngăn buồng cạnh bếp. Tiếng rột rệt của nhà sàn vang lên gấp gáp. Khi tôi vào đến cửa thì Sa cũng từ sau vách bước ra. Trong bộ quần áo vừa thay bằng vải ka tê hoa đã đổ màu và nhăn nhúm, ống quần xoắn như lò xo trông Sa càng thê thảm hơn.

- Không nhận ra tôi thật ư? - Tôi hỏi lần nữa.

- Không! - Vẫn không nhìn lên, Sa trả lời. - Ngồi chơi đi. - Sa đẩy đến trước mặt tôi chiếc ghế kết bằng mây đã xộc xệch rồi ngồi xoè tay trên bếp lửa. Thế có nhớ thầy Lân ở Huổi Chây không? Thầy Lân thì nhớ. Thế nhìn lại coi. Sa từ từ ngẩng mặt rồi ánh mắt lại cụp xuống. Không nhớ. Lâu quá rồi mà. Sa chăm chăm đẩy củi vào bếp, như sợ rằng không như vậy ngọn lửa sẽ tắt mất.

Tôi thất vọng đứng dậy, định ra về nhưng ái ngại, dùng dằng… Người đàn bà trước mặt tôi tiều tụy quá. Chỉ còn lại chiếc răng khểnh. Chiếc răng khểnh khoé trái nơi cái miệng tươi như hoa của Sa hồi đó hút hồn tôi bao nhiêu thì giờ đây nó lại khó nhìn bấy nhiêu. Lâu nay, mỗi lần nghĩ đến Châu Hà, Sa trong tôi vẫn là một thiếu nữ hồn nhiên như bông Bạc May rực vàng bên suối tháng ba. Dù bông Bạc May có xát vào lòng tôi vết xước buốt nhói nhưng tôi vẫn không sao quên được. Dù sao thì Sa cũng đã cho tôi biết thế nào là sự ngọt ngào của mối tình đầu tiên. Tôi cố tìm những nét ngày xưa nơi cô gái mang hai giòng máu Kinh - Thái mà một thời đã làm tôi mê đắm. Người đàn bà trước mặt tôi với Sa ngày nào cách nhau ngót ba chục năm. Tôi đảo mắt nhìn chung quanh. Trong góc nhà vài cái gùi rách lăn lóc. Nơi vách nứa, mớ váy áo loang lổ vắt vội, chồng chất. Căn buồng cạnh bếp cũng trống huơ hoác. Tôi đoán chẳng có gì trong đó. Chạn bếp lủng lẳng vài túm ngô giống hình như mới được treo lên. Mới Tết ra, sao đến nông nỗi này?

- Sa ở nhà một mình à. Người nhà đi đâu cả rồi?

- Ông ấy đi họp bản. Con đi làm…

- Sa không nhận ra tôi thật ư? Thế có nhớ anh Thái không? Một thoáng rùng mình nơi Sa.

*

Tôi về xã Châu Hà của huyện Châu Quý dạy học lúc tròn hăm hai tuổi. Trường cấp hai lúc đó đóng ở bản En. Bản En, bản Mạy và các bản khác của xã Châu Hà, nhà sàn rất to. Nhà nào cũng có đàn vịt bầu béo múp. Mùa đến, các bản ở quanh cánh đồng chìm lút trong màu vàng của lúa. Sáng sáng, lúc sương còn mờ mịt, bản đã dậy lên thậm thịch của tiếng chày giã gạo. Tiếng gõ loỏng lách cách vang xa, náo nức như nhịp sống bình yên của núi rừng từ ngàn xưa. Mùi nếp mới, mùi cá suối nướng, mùi măng chua ninh thơm lừng. Từng tốp trai gái hát “suối” đối đáp nhau mê mẩn, đắm say. Con gái đầy đặn, nở nang và trắng hồng. Mắt cô nào cũng trong veo như nước suối và ngơ ngác như mắt nai. “Thầy giáo à, thầy giáo có chịu ở rể Châu Hà không? Đẹp trai như thầy giáo không chịu lấy gái bản mình đâu”. Tôi biết mình không đẹp, họ khen cho vui và vì tôi là người lạ. Tôi cũng cố mạnh dạn: “Con gái cũng thích người đẹp trai à? Thích. Nhưng tôi không đẹp”. “Thầy có đẹp mà, đẹp nhiều mà””. “Thế cô nào thích tôi làm chồng?”. “Noọng này này. Hắn đã có mấy bộ chăn nệm rồi thầy giáo à. Hắn muốn có người làm chồng rồi đấy”. Các cô đùa vui hồn nhiên làm tôi quên cả nhớ nhà và sự thiếu thốn của cuộc sống miền núi. Hồi đó tôi còn ngơ ngác lắm, chẳng biết tí gì về phong tục tập quán của người dân ở đây. Tôi làm gì, vào nhà ai cũng chỉ sợ mắc phải một điều gì cấm kỵ của bà con. Với con gái tôi cũng thấy sợ. Lên miền núi dạy học, mẹ dặn tôi cẩn thận kẻo con gái dân tộc bỏ bùa mê là không về được đâu. Tôi vừa thích vừa sợ.

Lớp sáu tôi chủ nhiệm, con trai còn lộc ngộc, ngờ nghệch mà lũ con gái đã ý tứ, khôn ngoan. Con gái mười lăm, mười sáu tròn trịa, mềm mại, da thịt căng mẩy, tóc đen óng mượt và lông măng óng ánh trên làn da phớt hồng. ánh mắt long lanh, các cô nhìn thật bạo dạn. Tôi hỏi bài, các cô đứng dậy rồi cười: “Em không được học thầy giáo à. Em không được nhớ mà”. Ra khỏi lớp, các cô coi tôi như bạn. Họ trêu tôi, họ đùa tôi. Vui lạ. Nhiều lúc tôi quên họ là những học trò. Họ cùng lứa tuổi trẻ như tôi, lứa tuổi đầy nhạy cảm và khát khao. Tôi tếu táo đối đáp và trả lời những câu hỏi ngây thơ của các cô. Chỉ đến khi họ chào ra về tôi mới dám nhìn theo những eo hông mềm, những bắp chân trần chắc nịch sau gấu váy và ngây ngất trong hương thơm của hoa rừng, của các cô gửi lại. Rồi có một ngày, tôi nhận được một ánh mắt khác lạ.

Hôm đó có việc, tôi phải ra Phòng giáo dục, về đến Huổi Chây thì trời sắp tối. Nước Huổi Chây chảy ào ào bởi có nhiều tảng đá to cản lối. Rừng già âm u đã tràn đầy bóng tối. Tôi xắn quần và bám theo từng hòn đá vừa thả quần bước lên dốc thì thấy Sa, cô học trò lớp bảy người bản Mạy đang ngồi bệt bên mép đường, mặt tái nhợt, miệng xuýt xoa và hai tay giữ chặt lấy bàn chân phải. Váy kéo cao gần đầu gối, hai chân Sa xếp nghiêng song song như cặp măng tre vừa tước bẹ đặt cạnh nhau. Màu trắng hồng của đôi bắp chân hút lấy mắt tôi. Bên cạnh Sa, cái gùi thả chỏng chơ và lăn lóc mớ khoai mài.

- Sao vậy Sa? - Tôi hốt hoảng, quên cả cặp măng mập mạp vừa tước bẹ.

- Cái mai chắn đứt ngón chân em rồi. Lúc này tôi mới nhận ra hai bàn tay Sa đã đầm đìa máu. Máu trên mu bàn tay thì đã khô, trong các kẽ ngón, máu tươi vẫn không ngớt trào ra.

- Chẳng có ai qua đây để em nhờ cả. Thầy hái cho em nắm lá - Sa chỉ cho tôi đám lá phía sau lưng. Tôi vặt vội và nhai ngấu nghiến nắm lá rồi đắp lên chỗ vết thương. - Thầy cõng em về được không? Tôi ngần ngại, rụt rè ghé lưng cho Sa. Sa ôm riết lấy cổ, ghì tôi đến nghẹt thở. Trên lưng tôi là một khối ấm nóng, mềm mại. Hơi thở Sa nóng rực, vài sợi tóc, hình như cả làn môi mơn man trên vành tai, trên gáy tôi. Tôi bước đi loạng choạng như người ngấm men rượu.

*

Tôi đưa mắt tìm bàn chân người đàn bà. ánh đèn dầu và ánh lửa chỉ soi sáng được một quầng nhỏ trước chỗ Sa ngồi. Vết thương khiến tôi và Sa thương nhau chìm đâu đó trong bóng tối. Cũng từ vết thương đó mà ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau. Con gái Thái đã yêu là yêu kinh khủng. Hôm nào đến trường Sa cũng đi sớm để đón nơi chân dốc bản En rồi cùng tôi vào trường. Không ngại lũ bạn trêu, Sa có vẻ tự hào vì yêu được thầy giáo. Tôi nhớ cặp mắt Sa lúc đó. Đôi mắt bồ câu sáng trong dưới cặp lông mày không tỉa tót, đen nhánh, nhìn tôi đến chói chang.

- Bố em người Kinh, em muốn theo anh về xuôi để đi thăm quê bố. - Sa nói. Hai mẹ con Sa ở với nhau trong ngôi nhà sàn nhỏ rìa bản. Nhà Sa tuy nhỏ mà ấm cúng lạ. Tôi nghe hơi hướng người đàn ông bố Sa để lại ở những mẩu quặng, đôi xà cạp chống vắt và cuốn sổ chi chít những lộ trình… Mẹ Sa là người đẹp nhất bản. Sa không nói thì tôi vẫn nhận ra điều đó. Bố Sa là cán bộ địa chất. Hai người có thai với nhau và chưa kịp cưới thì ông gặp nạn. Bố Sa chết trong lúc đi khảo sát vỉa quặng thiếc phía bắc huyện. Mẹ Sa mang tiếng là gái không chồng mà có con. Từ trước đến nay bản Mạy chưa bao giờ có chuyện như thế. Lớn lên không biết mặt bố, Sa chấp chới và khao khát tình cảm của một người đàn ông trong gia đình. Phải chăng vì vậy mà bao nhiêu tình cảm Sa dành hết cho tôi. Học hết cấp hai, nghe lời tôi Sa đã đi học sư phạm. Tôi chờ Sa thêm ba năm ở Châu Hà. Học xong, Sa về dạy ở Châu Hợp. Từ Châu Hợp về bản Mạy, Sa đi bộ mất gần một buổi. Ba năm đi học, Sa trở về, tôi không nhận ra một nét gì nơi Sa trước khi đi. Sa cao lên và cơ thể cân đối, nở nang hơn. Sa uốn tóc, mặc áo sơ mi, quần ống chẽn, đi guốc cao, biết hát tình ca, mặn mà, cuốn hút.

Thái người cùng quê với tôi, vừa tốt nghiệp trung cấp lâm nghiệp, được điều về làm kiểm lâm ở Châu Hà. Tôi và Thái là bạn cùng học thời cấp hai. Thái học kém. Các bài kiểm tra thường phải nhờ tôi mới đủ điểm. Thái không hề mặc cảm chuyện mình học kém. Thái nói hồn nhiên rằng cậu chỉ hơn mình chuyện học thôi. Các chuyện khác thì mình sẽ chẳng kém đâu. Thái đã nói đúng. Mấy năm xa nhau giờ gặp lại tôi thấy Thái khác hẳn, hoạt bát và chững chạc lên rất nhiều. Tôi đưa Thái về cùng ở một phòng trong mấy gian nhà nứa mà ủy ban dựng lên cho các giáo viên. Hồi đó người miền xuôi lên công tác miền núi còn ít, hơn nữa trong cảnh buồn tẻ, hoang vắng nên con người rất dễ gần nhau. Huống chi tôi và và Thái lại là bạn học cùng quê. Khác với tôi, gầy nhẵng và trắng xanh,Thái cao to và hồng hào. Tôi đứng bên Thái giống như con vịt cỏ đứng cạnh con ngỗng Bắc Kinh. Mấy năm học ở ngoài bắc làm Thái trở nên một người lịch sự và điệu đà. Học lâm nghiệp mà chẳng bao giờ tôi thấy Thái nói tới một tí chuyên môn cũng như chẳng có lấy một cuốn sách nghiệp vụ nào. Thái khoe với tôi đã quen được chú chủ tịch và ông bí thư huyện. Họ đã coi Thái như người nhà. Thái thường nói chuyện yêu đương, trai gái. Quanh đi quẩn lại là các em ở đây nào là ngon như mít chín, thơm như thịt rán… Thái hỏi mày có em nào chưa? Tôi nói có rồi. Mày đã làm gì nàng chưa? Làm gì? Tôi ngây thơ. Ngốc thế. Con gái khi đã thích mình thì mình phải… Chính họ muốn thế mà. Thái lọc lõi và nói chuyện chơi gái tự nhiên như chuyện lấy tiền của mấy tay chở gỗ lậu mà hằng ngày Thái gặp.

Sa dạy xã bên, cuối tuần về lần nào cũng sang thăm tôi. Sa chỉ gật đầu với Thái nhưng Thái lại nhìn Sa như con hổ nhìn con dê, đắm đuối và man rợ. Đã là con gái, được một người con trai như Thái ham muốn, theo đuổi ai mà không thích. Dần dần, Sa về và chăm sang chỗ tôi hơn nhưng không phải vì tôi mà là vì Thái. Tôi hoang mang và linh cảm được điều mình sắp sửa mất Sa. Thái tìm mọi cách để được gần Sa. Thái đón đường để đưa Sa vào trường. Thái dùng chiếc xe đạp Pha vô rít màu cánh chả đưa Sa ra huyện mua thịt tiêu chuẩn… Đi với nhau, Sa vòng tay ôm ngang hông Thái. Hai người nói chuyện, cười với nhau rất tình tứ. Tôi và Sa chưa bao giờ cười với nhau như vậy. Có lẽ điều lo lắng của tôi đã thành sự thật.

Tối đó, khuya, Thái về và nói rằng nàng đã mê hắn. Thái khoe một cách hồn nhiên như Sa chưa từng là người yêu của tôi. Buồn đến lịm người, tôi nằm thở hắt ra như người sắp hết hơi. Thế là tôi mất Sa. Mất người yêu ai chả buồn, mà lại mất vào tay bạn bè. Chẳng lẽ tôi cãi nhau, đánh nhau với Thái. Đã bao lần cãi nhau, giận nhau, nhưng cũng chỉ được một lát, Thái làm cho tôi không giận được nó lâu. Với Sa tôi chỉ buồn mà không trách. Tôi nghĩ Thái xứng đôi với Sa hơn. Sa lấy Thái sẽ sướng hơn lấy tôi. Thái là dân thị trấn. Bốmẹ Thái có buôn bán, hơn nữa gia đình Thái là Việt kiều từ Thái Lan về nên ít nhiều có của nả. Còn nhà tôi có gì? Tôi chẳng dám ghen với Thái. Tôi nghèo thảm hại. Còn Thái, đi đâu về cũng có quà cho Sa, lúc miếng xà phòng thơm, hôm thì tấm lụa… toàn những thứ có nằm mơ tôi cũng không thấy. Hồi tôi còn ở một mình, bữa ăn may lắm có chút cá khô còn thường là rau, nước mắm. Thái về hai đứa ăn chung, Thái vào bản mua gà, mua vịt làm thịt, mua nếp nấu xôi. Đi làm về Thái cũng quẳng xuống xâu thịt rừng, ống bương mỡ lợn… Tôi được hưởng lây cái sung sướng của Thái. Cũng phải nói rằng hồi đó Thái là người vô tư, chẳng tính toán và tốt bụng. Thỉnh thoảng rủ đi chơi, Thái bắt tôi mặc áo quần của Thái cho đẹp cả hai. Lần đầu đưa Thái vào nhà Sa, mẹ Sa cho chúng tôi uống rượu cần. Mẹ Sa ủ rượu cần rất nồng, rất ngọt. Thái lóng ngóng cầm cần và phồng má hút trông đến buồn cười. Vậy mà chỉ ít tháng sau, vào nhà Sa, Thái đi lại, nói năng và uống rượu cần thành thạo như đã quen thuộc từ lâu. Mẹ Sa quý cả hai người. Ba chúng tôi vít cần, bà đong từng sừng trâu nhỏ nước suối đổ vào ché rượu, miệng “chơ mơi”, mắt long lanh nhìn tôi và Thái. Tôi nghĩ bà quý tôi nhưng có lẽ ưng Thái làm con rể. Chắc bà mừng lắm khi con gái mình có được một thanh niên đẹp trai và hào hoa như Thái. Tôi chạnh lòng thoáng buồn mà chẳng dám tỏ thái độ. Sa quỳ đối diện T hái, hai bắp chân trắng hồng căng chật gấu váy thêu, miệng chúm chím và mắt cười với Thái. Thỉnh thoảng cô quay sang tôi:

- Thầy không uống à? Nhìn em với anh Thái đây này. - Sa bỏ tôi để yêu Thái thật dễ dàng. Đã khá lâu, Sa không gọi tôi bằng anh.

*

- Thầy còn giận em nữa không? Người đàn bà ngước lên nhìn tôi hỏi nhỏ. Thế Sa bây giờ ra sao? Sa thở dài như một cơn gió lạnh… Em không được đi dạy lâu rồi… Không hiểu sao hồi đó em si mê và mù quáng đến vậy. Sa đột ngột trở nên sắc sảo, ví von. Lúc đó em như cây củi khô nỏ và sẵn sàng bốc cháy khi gần Thái. Mà Thái thì… lúc nào cũng như lửa độc. Em vẫn thương thầy nhưng không cưỡng được mỗi lần bên Thái. Sa nói mà không ngước lên, giọng ráo hoảnh, ngột ngạt. Khi em báo có thai, Thái bảo uống thuốc lá cho ra đi. Thái bảo không thể cưới em được. Em không chịu, Thái nói em muốn họ đuổi việc anh à. Khi chưa gặp nhau thì giận em, gặp Thái rồi em chẳng làm được gì, nói được gì nữa. Uỷ ban huyện xây một cái nhà cho kiểm lâm và Thái chuyển ra huyện. Em có ra tìm nhưng lần nào Thái cũng tránh, không cho em được gặp. Thái về xuôi lúc nào em cũng không biết. Mẹ không cho em uống thuốc lá. Mẹ bảo không có bố tao cũng nuôi lớn được mày đó Sa à. Sắp đến ngày sinh em bé thì mẹ mất. Một mình em sinh con, phải bỏ dạy. Định chờ khi con lớn sẽ xin đi dạy lại. Nhưng nó ốm yếu mãi… Bỏ lâu quá, lúc đó nếu họ cho dạy cũng không dạy được nữa, quên hết rồi…

Tuy cùng ở chung nhưng chẳng mấy khi Thái ngủ ở nhà. Thái bảo rằng phải đi xuống các bản kiểm tra tình hình. Dân các bản, dân miền xuôi dạo này hay vào rừng chặt trộm gỗ. Hôm thì Thái bảo phải đi gác, hôm thì đi họp… Một hôm Thái về, đêm đến chui vào chăn tôi cười rúc rích. Chuyện vui quá, Thái không giữ riêng được một mình: - Mình được ngủ với Sa rồi. Tuyệt lắm Lân ạ. Thái khoe Sa còn trinh. Thân thể Sa trắng ngần, ngực Sa mẩy và cứng, chân Sa thẳng và mập… Tôi nóng ran cả người mà có cảm giác như vừa bị người ta xối một ống bương nước lạnh vào mặt. Tôi buồn đến rụng rời và muốn hét vào mặt Thái rằng mi là đồ đểu. Yêu Sa, tôi chưa dám đụng vào người, dù rất muốn. Chúng tôi mới chạm vào người nhau chỉ duy nhất cái lần tôi cõng Sa ở Huổi Chây về nhà. Còn Thái, mới chỉ sau mấy tháng đã “ăn tươi, nuốt sống” Sa...

Sa cầm cái dao cùn chọc mãi vào cây củi trong bếp. Thỉnh thoảng ngọn lửa lại bùng lên, chập chờn khuôn mặt già nua của người đàn bà. Có tiếng bước chân ngoài cầu thang rồi một ông già bước vào. Không ngẩng lên, Sa nói ông ấy đấy.

- Có khách à? - Người đàn ông sững lại nơi khuôn cửa lên tiếng. Mời khách ngồi chơi. Rồi ông quay ra. Tiếng cọt kẹt xa dần ngoài cầu thang rồi mất hút trong bóng đêm.

- Con Hồng được mười hai tuổi thì ông ấy về ở với em. Ông ấy chết vợ và sống một mình đã lâu. Hai người có con với nhau không? Không. Con Hồng đi đâu? Hắn về xuôi làm ăn, thỉnh thoảng có gửi tiền về. Làm nghề gì? Không biết…

- Thế anh Thái có lên thăm con Hồng lần nào không? Không. Không được thăm lần nào cả. Thế con Hồng có biết chuyện bố nó không? Biết. Nó cũng muốn đi tìm bố nhưng không biết ở đâu mà tìm. Em không cho con Hồng biết bố nó ở đâu. Mấy năm huyện mở hội, nghe đâu ông ta cũng lên… Sa ấp úng…

*

Thái được bổ nhiệm làm trưởng Phòng văn hoá huyện. Tôi ngạc nhiên, Thái bảo thế ông không nhớ mình biết đàn, biết hát và có hoa tay à. Đó là chưa kể về vốn hiểu biết văn hoá vùng cao mà mấy năm ở Châu Hà, Thái đã thu lượm được. Thái kể về các phong tục, tập quán của người Thái, người Thanh. Thái hát những điệu dân ca miền núi một cách say sưa. Đặc biệt, Thái nói về tục uống rượu cần, những quy định và ứng xử của người uống một cách rành rẽ.

- Ông xuôi được một năm thì tôi đi Hà Nội học ngành văn hoá. Ông không biết à? - Học xong, Thái về Châu Hà làm thủ tục chuyển về xuôi. Bây giờ thì đường đường Thái là một trưởng phòng, còn tôi là hiệu trưởng trường làng. Cũng không đến nỗi lắm nhưng tôi có cảm giác lúc nào mình cũng thua Thái về mọi phương diện. Tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô giáo cùng trường, cùng tuổi, chẳng có gì gọi là đẹp nhưng được cái nết dịu dàng. Thái cho hẳn một tốp nhận viên vào giúp chuyện phông màn, trang trí và phục vụ nhạc sống. Ngoài ra Thái còn đưa cho tôi một số tiền có thể mua đủ các vật dụng cần thiết cho một cặp vợ chồng ra ở riêng. Tôi không nhận. Thái bảo đây là tiền tôi mừng ông cưới vợ chứ tôi có cho ông đâu. Chẳng ai đi mừng đám cưới với số tiền lớn như vậy. Sao Thái tốt với tôi thế? Tôi băn khoăn. Vợ tôi cười bảo rằng chừng đó anh ấy cũng chưa trả hết nợ cho anh. Tôi ớ ra. Té ra vợ tôi biết hết những chuyện trên Châu Hà. Nhưng nói cho vui vậy thôi. Vợ tôi bảo “Của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Không biết tôi và Thái thì ai nợ ai.

*

Người đàn ông, chồng Sa đi đâu một lúc thì về. Tiếng bước chân lên cầu thang có vẻ nặng nề. Tiếng rột rệt của sàn nhà vang lên sau lưng tôi. Chồng Sa đặt hũ rượu xuống cạnh bếp rồi đứng thở: - Ta mời khách uống rượu cần thôi. Chẳng mấy khi nhà mình có khách. Ông xuýt xoa vì lạnh. Mái tóc lưa thưa bết xuống cái trán đầy nếp nhăn. Khuôn mặt nhăn nheo, già nua đã tái nhợt vì lạnh. Hai vai áo dính chặt vào người làm nhô ra đôi vai gầy gò, nhọn hoắt. Ông lẩy bẩy ra chạn sau, có tiếng múc nước oạp oạp đổ vào thau… Rồi ông bưng vào thau nhôm nước. Nước suối đựng thau nhôm trong vắt nhìn đã thấy ớn lạnh.

*

Thái làm trưởng Phòng văn hoá được hai năm thì được điều về tỉnh làm phó giám đốc Sở Văn hoá - Thông tin. Một lần tôi có việc lên tỉnh và gặp Thái, Thái lôi tôi về nhà và giữ lại chơi. Thái nói vào đây để ta ôn lại một chút kỷ niệm về Châu Hà. Thái sai vợ bưng ra một hũ rượu cần và bảo rằng huyện Châu Quý vừa gửi xuống cho. Chả là dạo này người ta đang có xu hướng bảo tồn vốn văn hoá truyền thống. Cô vợ có lẽ kém Thái đến mười lăm tuổi, trẻ, đẹp đến sững sờ. Tôi chỉ dám nhìn một chút rồi thôi. Đàn bà đẹp, lại là vợ bạn, nhìn nhiều bất tiện. Cô ta lại sà xuống cạnh tôi cười ý nhị, mùi nước hoa, mùi da thịt ngầy ngậy:

- Bạn bè như các anh thật là quý. Có cần em mời thêm người cho vui không? Không cần, hôm nay chỉ “nội bộ” để các anh “ôn nghèo kể khổ”. Em phục vụ cho các anh nhé. Thái nói với vợ rồi nhìn sang tôi như muốn nói rằng ăn đứt cô Sa miền rừng chứ hả? Vâng, ăn đứt… Sao Thái sướng thế. Lúc nào Thái cũng sướng. Tôi nghĩ. Người như T hái đi đâu cũng gặp may, làm gì cũng thuận buồm xuôi gió. Thái như một cái cây được cắm xuống một mảnh đất màu mỡ hay cái cây này có bộ rễ cực khoẻ, bao nhiêu muối khoáng trong đất nó hút hết nên thành ra luôn xum xuê và thừa mứa. Tôi nghiệm lời Thái năm nào. ở đời chẳng ai chịu kém ai đâu. Anh kém điều này thì lại giỏi chuyện khác. Âu đó cũng là bản năng sinh tồn, chẳng mấy ai cam chịu để cho cuộc đời vùi dập… Người như Thái chẳng gì vùi dập nổi. Thái đang sừng sững và ngạo nghễ trước cuộc đời. Học giỏi như tôi cuối cùng cũng chỉ là anh hiệu trưởng quèn mà thôi. Còn Thái thì… Nghe Thái nói, tôi đồ rằng cái ghế giám đốc Sở đang chờ Thái. Vợ Thái bày ra cái bàn khảm xà cừ nào bò khô, mực nướng, hạt điều chiên. Trên cái bàn thấp đặt cạnh còn đựng chai rượu ngoại và mấy hộp bia.

- Gì mà lắm thế?

- Cứ thoải mái. Không uống thì bỏ đi đâu cho hết, chẳng lẽ lại mang đi bán. - Thái bảo - Của người ta mang cho đấy mà.

Bập vài hơi, Thái buông cần chê rượu nhạt hoét. Thứ này lâu nay mình có uống đâu. Chẳng lẽ người ta biếu lại không nhận. Ông có thích thì cứ uống.

- Ngày trước ông thích lắm cơ mà? - Tôi nói.

- Ngày đó nói làm gì. - Thái nằm ngửa trên xa lon với cái ly pha lê sóng sánh màu hổ phách. Cặp mắt lim dim, mặt Thái tràn trề vẻ mãn nguyện. Thấy tôi có vẻ tiếc vò rượu ngon uống dở, Thái cười: “Vứt cha nó đi, tiếc làm gì. Đến đây dùng cái khoản này thú vị hơn nhiều”. Thái chỉ chai rượu ngoại vừa khui. Lát nữa, có muốn “vui vẻ” một chút để mình bảo mấy đứa nó đưa đi. Chắc ông chưa được hưởng cái khoản đó nhỉ. Rồi Thái lại cười. Thái nói khi cô vợ trẻ, đẹp xin phép “đi nghỉ trước cho các anh thoải mái”. “Đi một lần cho biết ông ạ”. Thấy tôi vẫn vít cần rượu Thái bảo rằng hằng năm vẫn lên Châu Quý nhưng chẳng mấy khi uống rượu cần nữa. Tôi nhắc chuyện cũ, Thái lừ mắt khi nghe bước chân vợ. Tôi nín thinh.

*

Chồng Sa mở nút lá trên hũ rượu, đổ vào một gáo nước nhỏ, cắm hai cái cần, xọc xọc rồi nút thử. - “Đạy lẹo” (Được rồi). - Ông khách về dự hội mà cũng ghé thăm vợ chồng tui, tui quý lắm đó. Đã về thăm là phải uống nha, uống thật lòng nhá. Làm khách là ta giận đó. Làm khách là không tốt đâu. Sa cời than nhặt ra mấy bắp ngô vừa nướng xong đặt xuống cạnh bếp trước mặt tôi. Nhìn Sa, tự dưng tôi thấy lại hình ảnh Thái chiều nay. Trên hàng ghế đại biểu phó giám đốc sở bệ vệ đứng dậy tiến lên lễ đài giáng hồi trống khai mạc. Thái phát biểu ý kiến ca ngợi nét đẹp văn hoá vùng cao, văn hoá rượu cần. Thanh niên nam nữ, các già làng nhìn Thái với vẻ xúc động trang nghiêm. Bài nói của Thái xong một lúc mọi người mới bừng tỉnh rồi vỗ tay rào rào.

- Lúc chiều Sa có dự lễ hội không?- Sa im không trả lời nên tôi biết mình lỡ miệng. Người đàn ông trao cần cho tôi và Sa:

- Bà uống trước với khách đi. Sa đón cần rượu từ tay chồng, mắt nhìn tôi đờ đẫn:

- Thầy uống tạm đi, rượu không được ngon như hồi mẹ em làm.

Ngoài nhà trời đen thui, mưa đã nặng hạt và nhì nhằng ánh chớp. Bất chợt có tiếng sét đầu mùa nở oà giữa thinh không. Giữa đêm đen rừng núi, tiếng sét kinh hoàng làm cho ba con người trong ngôi nhà xiêu vẹo trở nên nhỏ bé và thảm hại đến kinh khủng. Tiếng mời rượu “lẩu kin chăm mơi” của người đàn ông chìm lấp trong tiếng ầm ào của mưa gió. Người đàn bà trước mặt tôi vẫn ngồi im như pho tượng. Dòng nước nồng nồng, ngai ngái theo cần rượu chảy vào cổ làm họng tôi buốt lạnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: