Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

truyen ma

Gác trường học

Từ đầu đến giờ tôi đã nghe mọi người lần lượt kể chuyện mình, và tôi cho rằng chung quy loại chuyện này chỉ có hai típ cơ bản mà thôi. Ở típ đầu tiên, ta có một bên là thế giới người sống còn kia là thế giới người chết, và câu chuyện xoay quanh việc bước qua ranh giới giữa hai cõi sống chết đó. Như những hồn ma chẳng hạn. Còn típ thứ hai là chuyện về những hiện tượng siêu nhiên hay những khả năng vượt ngoài những kinh nghiệm của thế giới ba chiều hằng ngày. Tri giác ngoại cảm, những điềm báo, linh cảm, hay những thứ tương tự vậy. Nếu phân chia đại khái thì tôi nghĩ có thể chia loại chuyện này thành hai típ như thế.

Suy rộng hơn, tôi nghĩ mọi người chỉ có thể trải nghiệm một trong hai típ mà thôi, hoặc típ này hoặc típ kia. Điều tôi muốn nói là, nếu một người đã nhìn thấy ma thì anh ta sẽ còn gặp ma hoài hoài, nhưng anh ta chẳng hề có linh cảm gì về chuyện đó. Còn người khác thì có khả năng ngoại cảm và luôn có linh cảm nhưng lại chẳng bao giờ gặp ma. Tôi không thể giải thích tại sao, nhưng dù lý do gì đi nữa thì sự việc dường như đúng như thế. Ít nhất là tôi nghĩ thế.

Và dĩ nhiên cũng có một số người chẳng thuộc nhóm nào. Như tôi chẳng hạn. Tôi đã có mặt trên đời này ba mươi mấy năm rồi mà chưa nhìn thấy con ma nào. Cũng chưa lần nào tôi có một "thấu thị" hay linh cảm gì hết. Thậm chí có một lần tôi cùng đi thang máy với hai người bạn. Hai người này đều nhìn thấy ma còn tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Họ thấy một người phụ nữ mặc quần áo xám đang đứng cạnh tôi, trong khi thật ra thì ngoài ba chúng tôi ra chẳng còn ai ở trong thang máy. Tôi nói hoàn toàn nghiêm túc đấy. Hai người bạn đó không thuộc cùng nhóm với tôi. Chắc chắn đó là một chuyện kinh dị, nhưng điều đó chỉ cho thấy rằng chẳng bao giờ tôi gặp ma.

Nhưng một lần, và chỉ một lần thôi, tôi cảm thấy sợ hãi tận đáy lòng. Chuyện xảy ra cách đây hơn mười năm và tôi chưa kể cho ai nghe cả. Ngay khi nói về chuyện đó tôi cũng đã cảm thấy sợ rồi. Tại vì tôi cảm thấy nếu kể ra thì chuyện tương tự thế có thể lại xảy ra lần nữa. Bởi thế tôi giữ im lặng suốt bao nhiêu năm qua. Nhưng đêm nay, với cương vị chủ nhà, nghe từng người kể những câu chuyện rùng rợn của họ, tôi không đành lòng im lặng cho đến lúc tàn cuộc. Vì thế mà tôi quyết định kể.

Đừng, xin quý vị đừng vỗ tay. Thực ra cũng chẳng phải chuyện gì hay ho đâu.

Như tôi đã nói, tôi chưa bao giờ gặp ma và cũng không có năng lực đặc biệt gì. Có thể quý vị cho rằng truyện của tôi không kinh dị như tôi cảm nhận, hay dù quý vị cho là như thế thì cũng có sao đâu? Và nếu quý vị cũng cảm thấy như vậy thì thật là hân hạnh cho tôi quá. Nhưng dù sao thì đây cũng là câu chuyện của tôi.

Tôi tốt nghiệp trung học phổ thông vào cuối thập niên sáu mươi. Trong khoảng thời gian đó, xã hội biến động tơi bời khiến ta cảm thấy như cơ đồ thiên hạ có thể bị sụp đổ tan tành. Về phần mình, tôi cũng bị cuốn trôi theo làn sóng đó. Và từ bỏ nghiệp nghiên bút dở dang, mấy năm trời tôi lang thang khắp Nhật Bản mưu sinh bằng những công việc tay chân. Tôi nghĩ đó là con đường đúng đắn dẫn lối đời tôi. Phải, quả thật là tôi đã làm đủ thứ việc. Một số là những việc nguy hiểm. Lúc ấy tôi còn trẻ và ngu ngốc nữa. Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi cho đó là một cách sống thú vị. Nếu được làm lại cuộc đời từ đầu, chắc tôi cũng làm như vậy. Tôi là loại người như vậy đó.

Vào năm thứ hai lang thang, tôi nhận lời làm công việc gác đêm cho một ngôi trường trung học khoảng hai tháng. Ngôi trường này nằm ở một thị trấn nhỏ ở quận Niigata. Thực tình tôi chỉ muốn nghỉ ngơi sau những tháng hè làm những công việc khắc nghiệt. Với lại làm người gác đêm nghe ra cũng vui. Tôi có thể ngủ ở phòng bảo vệ suốt ngày và đêm đến chỉ việc đi quanh kiểm tra khắp trường hai lần. Ngoài việc đó ra, tôi có thể nghe dĩa ở phòng nhạc, đọc báo ở thư viện trường hay chơi bóng rổ một mình trong phòng tập thể dục và làm tất cả những gì mình thích. Ở lại đêm một mình trong ngôi trường trung học không phải là tệ lắm. Không, hoàn toàn không tệ chút nào đâu. Vào lứa tuổi 18,19, bạn chẳng biết sợ bất cứ cái gì.

Chắc chắn trong các bạn đây chưa ai từng gác đêm ở trường trung học bao giờ, nên tôi phải nói qua về nhiệm vụ công việc của mình. Tôi phải đi kiểm tra hai lần: một lần 9 giờ đêm và lần 3 giờ sáng. Lịch làm việc là như vậy. Ngôi trường là một tòa nhà bê tông ba tầng tương đối mới, có 18 hay 20 lớp học gì đó. Tuy ngôi trường không lớn lắm nhưng cũng có phòng nghe nhạc, phòng thí nghiệm, phòng gia chánh, phòng nghệ thuật, phòng giáo viên và phòng hiệu trưởng. Ngoài ra thì cũng có quán ăn tự phục vụ, hồ bơi, phòng thể dục và thính phòng. Phạm vi tôi phải kiểm tra là như thế.

Có khoảng hai mươi điểm mà tôi phải dùng bút bi đánh dấu từng điểm một khi đi kiểm tra. Phòng giáo viên - đánh dấu, phòng thí nghiệm - đánh dấu. Đại khái vậy. Dĩ nhiên tôi cũng có thể ngủ vùi trong phòng bảo vệ mà vẫn đánh dấu là đã kiểm tra. Nhưng tôi không lười đến thế. Nói thế nghĩa là việc kiểm tra cũng chẳng tốn bao nhiêu thời gian, với lại biết đâu lại có kẻ đột nhập vào và tấn công tôi khi tôi đang ngủ.

Vì thế, vào lúc chín giờ đêm và ba giờ sáng, tôi mang theo mình một cái đèn pin lớn và một thanh kiếm đi tuần tra quanh trường. Tay trái cầm đèn pin, tay phải nắm chặt thanh kiếm. Khi còn học ở trường phổ thông, tôi đã tập kiếm đạo nên tôi cảm thấy khá tự tin về khả năng tự vệ. Nếu một kẻ chưa có kinh nghiệm dùng kiếm tấn công tôi, tôi chắc chẳng lấy gì làm hãi sợ lắm. Nhưng ấy là hồi đó, chứ phải như bây giờ chắc tôi dông cẳng chạy tuốt.

Đó là một đêm tháng mười lộng gió. Trời không lạnh lắm. Thực ra tôi cảm thấy đất trời ẩm ướt. Khi đêm xuống, lũ muỗi trở nên không thể chịu nổi, tôi phải thắp vài cây nhang muỗi. Gió hú suốt đêm. Tôi nghe như cánh cổng dẫn vào hồ bơi đã bị gió phá tan tành và cứ đập tới đập lui trong gió. Tôi nghĩ mình phải ra sửa lại, nhưng trời tối đen nên tôi bỏ cuộc. Tiếng cánh cửa va đập trong gió vang lên suốt đêm trường.

Không có gì xảy ra khi tôi đi tuần tra vào lúc chín giờ tối. Hai mươi điểm kiểm tra được đánh dấu "Ok". Các cánh cửa được khóa chắc chắn và mọi vật vẫn yên vị. Không có gì bất thường. Tôi quay lại phòng bảo vệ, vặn đồng hồ báo thức lúc ba giờ sáng rồi tiếp tục ngủ vùi.

Khi chuông đồng hồ reo, tôi thức dậy với cảm giác lạ lùng chưa từng thấy. Tôi không diễn tả được nhưng đó là một cảm giác rất lạ. Nói thẳng ra là tôi chẳng muốn thức dậy chút nào. Tôi cảm thấy thân thể mình cưỡng kháng lại ý chí muốn thức dậy. Thật kỳ lạ, bởi thường thì tôi bật dậy ngay cơ mà. Nhưng cuối cùng tôi cũng thức dậy một cách khó khăn để đi làm nhiệm vụ. Cánh cửa hồ bơi vẫn va đập trong gió như hồi đêm. Nhưng không hiểu sao, tôi cảm thấy âm thanh này là lạ khác trước. Chắc là do tôi tưởng tượng ra thôi nhưng sao tôi vẫn nổi da gà. Tôi nghĩ thầm: ớn lạnh thật. Mình chẳng muốn đi kiểm tra một tí nào. Nhưng dĩ nhiên, tôi cũng kéo lê thân xác mình dậy và bước ra ngoài. Nếu tôi chỉ giả vờ đánh dấu một lần thôi, thì tôi sẽ mãi mãi làm như thế. Tôi cầm đèn pin, nắm chặt thanh kiếm rồi rời khỏi phòng bảo vệ.

Đó là một đêm thật kinh khủng. Gió gào càng lúc càng mạnh, không khí càng lúc càng ẩm ướt. Tôi sởn gai ốc và không thể tập trung vào bất cứ cái gì. Đầu tiên tôi kiểm tra phòng thể dục, thính phòng và hồ bơi. Cả ba nơi đều không có vấn đề gì. Cánh cửa hồ bơi va đập trong gió, đóng mở liên tục như một quả lắc cuồng điên lúc lắc đầu vô nghĩa. Tiếng va đập nghe ra không theo một quy tắc nào cả. Cứ không, không, có, có... mãi như vậy. Tôi biết thật là kỳ quặc khi diễn tả như thế, nhưng đó là cảm giác thực của tôi vào lúc ấy.

Không có gì bất thường ở khu nhà chính. Vẫn như thường lệ. Tôi nhanh chóng hoàn thành việc tuần tra và đánh vào phiếu kiểm tra là Ok. Xét cho cùng thì chắc ổn cả thôi. Cảm thấy nhẹ nhõm, tôi quyết định trở về phòng bảo vệ. Điểm kiểm tra cuối cùng là nhà bếp của trường nằm kế bên quán ăn tự phục vụ ở góc phía đông xa nhất. Không may là phòng bảo vệ lại ở góc phía Tây. Do vậy tôi phải đi qua một dãy hành lang dài để trở về phòng mình. Tất nhiên trời tối như mực. Khi mặt trăng ló dạng, một quầng sáng yếu ớt hắt vào hành lang, nhưng nếu không, ta sẽ chẳng nhìn thấy gì. Tôi lần đường về nhờ ánh sáng chiếc đèn pin chiếu ngay phía trước mặt. Vì đêm đó có cơn bão sắp kéo tới nên hiển nhiên là trăng bị mây che khuất. Ánh đèn hắt lên một quầng sáng rồi tất cả lại ngập chìm vào đêm đen.

Đêm đó trên quãng đường về, tôi đi nhanh hơn thường lệ. Hai đế cao su đôi giày chơi bóng rổ của tôi va chạm với nền hành lang vang lên những âm thanh vội vã. Nền hành lang được trải thảm xanh. Thậm chí bây giờ trong tâm tưởng tôi vẫn nhìn thấy chúng rất rõ.

Lối vào trường nằm khoảng giữa chiều dài hành lang. Khi băng qua cổng chợt tôi có cảm giác hình như có một cái gì. Hình như tôi phát hiện một dáng hình nào đó trong bóng tối. Ngay trong khóe mắt tôi. Nắm chặt thanh kiếm, tôi rẽ sang hướng đó. Tim đập thình thình, tôi hướng ánh đèn pin vào bóng đêm. Có một bóng đen trên bức tường kế bên kệ để giày.

Đó là chính tôí. Điều tôi muốn nói là có một tấm gương. Không có ai khác ngoài tôi phản chiếu bóng mình trên tường. Tấm gương chắc là mới được gắn vào đây bởi vì tôi chưa thấy nó trong lần kiểm tra đêm trước. Chính vì vậy nên tôi đã bỏ qua. Tôi cảm thấy hết sức nhẹ nhõm, đồng thời lại thấy mình vô cùng xuẩn ngốc. Mình xuẩn ngốc thật, tôi nghĩ thầm. Vẫn đứng trước gương, hạ chiếc đèn pin xuống, tôi lần tìm trong túi một điếu thuốc và châm lửa. Tôi phà một hơi khói dài và nhìn vào hình bóng mình trong gương. Một chút ánh sáng đèn đường xuyên qua cửa sổ, chiếu vào tấm gương. Tôi nghe âm thanh va đập của cánh cửa hồ bơi vang vọng phía sau mình.

Sau khi rít ba hơi thuốc lá, tôi chợt nhận ra có điều gì khác lạ. Bóng hình ở trong gương không phải là tôi. Diện mạo bên ngoài thì đúng là tôi. Không cần phải nghi hoặc về điều ấy. Nhưng nó tuyệt đối không phải là tôi. Bằng bản năng, tôi đã nhận biết điều đó. Không, đợi đã, không đúng đâu. Dĩ nhiên là tôi đấy. Nhưng nó là một cái tôi bên ngoài tôi. Hình dạng là tôi mà không phải là tôi.

Có lẽ tôi diễn đạt không được tốt lắm.

Nhưng vào khoảnh khắc ấy, điều duy nhất mà tôi hiểu được là kẻ đang nhìn sâu vào tôi kia căm hận tôi đến tận xương tủy. Lòng căm thù này dâng cao như một ngọn núi băng u ám, một nỗi căm thù không ai có thể chữa lành. Đó là điều duy nhất mà tôi hiểu được. Tôi đứng chết lặng một lúc lâu, không thể nhúc nhích được tay chân mình mẩy. Điếu thuốc kẹp giữa hai ngón tay tôi rơi xuống đất. Chúng tôi cùng nhìn nhau. Thân hình tôi chết lặng như thể bị trói buộc vào nơi này.

Cuối cùng, thằng tôi kia cũng cử động. Hắn đưa những ngón tay của bàn tay trái từ từ chạm vào má và xoa khắp mặt. Tôi nhận ra mình cũng làm y chang như vậy. Như thể tôi chính là hình ảnh trong gương. Điều tôi muốn nói là, dường như hắn điều khiển được tôi.

Thế là, dồn hết sức mình, tôi thét lên một tiếng. Tôi hét vang " Grarhh". Và như thế, sợi dây trói chùng xuống một tí. Tôi vận hết sức bình sinh ném thanh kiếm về phía tấm gương. Tôi nghe tiếng những mảnh gương vỡ. Không ngoái lại đằng sau, tôi chạy về phòng mình, khóa cửa và nhảy lên giường. Tiếng va đập của cánh cửa hồ bơi kéo dài đến tận sáng. Cứ có, có, có, không, có, có, không không... suốt như vậy.

Tôi đoán chắc chắn là quý vị đã biết kết thúc của câu chuyện rồi. Dĩ nhiên là chẳng có tấm gương nào ở đó cả. Không có tấm gương nào. Chẳng có tấm gương nào được lắp ở lối vào trường kế bên kệ để giày cả.

Tất cả chỉ nói lên một điều là, chẳng phải tôi nhìn thấy ma đâu. Tôi đã nhìn thấy chính bản ngã mình. Và tôi chẳng bao giờ quên được nỗi sợ hãi tối hôm đó.

Có lẽ quý vị đã nhận ra trong nhà này không hề có gương soi. Thậm chí tôi còn không dám dùng gương để cạo râu, cho dù cách này rất mất thời gian. Là chuyện thật đấy, tôi không kể thêm đâu.TANTOAN'S GHOST STORY!!

1.TRÁI TIM CON RẮN

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thuật nín thở, lắng nghe. Nín thở, nhưng ông vẫn nghe thấy nó đang đập ở đâu đó trong người mình ồn ào, hối hả.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Càng nín thở, tiếng đập nghe càng rền rĩ. Bên cạnh Thuật, Trinh đã ngủ say, vẫn kiểu ngủ nằm sấp "thấy ghét", nhưng hôm nay Thuật đành bất lực nằm nhìn.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Vẫn nín thở, Thuật đè chặt bàn tay lên ngực trái.

Lồng ngực ông lặng thinh. Vậy thì cái gì đang đập, nếu không phải là nó, trái tim con rắn mà ông đã nuốt sống hồi chiều !

Lưỡi dao phập xuống, cái đầu con rắn bị đóng đinh xuống mặt thớt nằm lại với hai con mắt trợn trừng. Thân hình vặn vẹo những co giật cuối cùng trong đôi tay của lão nhà bếp, phun những tia máu đỏ tươi xuống chiếc phễu cắm vào cổ chai rượu thuốc. Mũi dao nhọn rạch một đường nhỏ điệu nghệ, và ngón tay thành thạo thọc vào moi ra một quả tim nhỏ bằng ngón tay, còn thoi thóp thở. Nó dường như vẫn còn co bóp, khi đã yên vị trong chiếc ly nhỏ. Người ta đổ rượu thuốc đã trộn đều với máu vào ngập miệng ly. Đó sẽ là ly rượu bắt đầu cho buổi tiệc, và theo thông lệ, luôn được dành cho nhân vật quan trọng nhất.

Hôm nay, đó là Thuật.

Với Thuật, trái tim rắn ấy phải kể ở đơn vị hàng chục. Ngay từ trái tim đầu tiên được thưởng thức, thường thì mọi người đều cảm thấy cái gì đó nhờn nhợn, nuốt vội cho trôi, thậm chí còn có người từ chối cái quyền tiên chỉ. (ưu tiên), Thuật đã chứng tỏ sự lỳ lợm khác người của mình: Ông thò hai ngón tay vào ly rượu, nhón lấy trái tim rắn và cho vào miệng nhai chóp chép ngon lành, rồi mới chiêu cạn ly rượu để đưa tiễn nó vào dạ dày mình. Đặt ly xuống, Thuật há miệng cười, khoe hàm răng còn lem nhem máu. Hành động đó được tái lập từ trái tim thứ hai trở đi, và đã làm sáng thêm cái danh "chịu chơi "của Thuật.

Nhưng chiều nay...

Thuật đã có cảm giác là lạ lúc kẹp lấy nó ở đáy ly. Dường như nó quẫy nhẹ như muốn tuột khỏi tay ông. Cảm giác chưa từng có ấy thoáng qua rất mau, và Thuật cho rằng có lẽ vì hai độ nhậu dữ dằn ở hai điểm khác kéo dài từ mười giờ sáng cho đến giờ, đã làm ông run taỵ Nhưng vừa cho nó vào miệng, thì rõ ràng nó lăn lên lưỡi của ông và tuột vào yếu hầu, rồi dường như dừng lại ở thực quản. Ngay lúc đó, ông đã nghẹn thở mất mấy giây. Ly rượu tống tiễn nó vẫn không làm ông thấy cổ họng mình thông suốt, như có gì cứ nghèn nghẹn trong đó.

- Ủa sao anh Hai không nhai nó? Một tên đàn em vọt miệng hỏị

Thuật trấn tĩnh rất nhanh, giả lả:

- Thôi mày, cho lẹ đặng nhậu cho rồi. Dô đi!

Bữa tiệc hào hứng với đám chiến hữu thân thiết và các em nhân viên mặc quần sọc, áo thun lỗ tận tình phục vụ, đã làm Thuật quên ngay cảm giác khác thường ấy. Cái quán này vốn có biệt tài đó. Vào đến đây, chuyện quốc gia trọng đại gì nữa, người ta cũng quên hết, nói chi đến cái chuyện cỏn con không nhai được tim rắn! Em nào cũng thơm như múi mít, ngồi sát rạt trong vòng tay, nân từng ly bia, đút từng miếng mồi cho mình, còn hai tay mình thì cứ tự do như chưa bao giờ được tự do như vậy. Rồi kết thúc bữa tiệc, anh thích thì em chiều, phòng riêng tại chỗ, có máy lạnh, giường đệm... Hố hố, có thằng chó nào mà chẳng mê tít mắt!

Thuật thường kết thúc hành trình một ngày nhậu của mình tại cái quán hẻo lánh này, chính là vì vậy. Để cho đầu óc nó thoải mái, đặng hôm sau mới làm việc tốt được. Chiêu đãi người ta nhân vừa "trúng" lớn, Thuật cũng dẫn lên đây. Mà được trả ơn, Thuật cũng gợi ý đến điểm "vui vẻ" này. Ai theo Thuật đến lần đầu, sau đó thảy đều giơ một ngón tay cái: Ông anh đúng là số một! Ngay chính vợ Thuật, Thuật cũng đã đưa lên đây. Từ lâu bà đã sợ Thuật như sợ cọp, vậy mà gần đây, chịu hết nỗi, dám sinh chuyện cự nự:

- Ông đi đâu mà đi hoài, đêm nào cũng một hai giờ sáng mới về? Vừa vừa thôi, ít ra ông cũng phải tôn trọng tôi phần nào chớ! Rồi uy tín làm việc của ông nữa. Cái ghế ông ngồi không phải là muôn đời đâu.

Lúc đó là năm sáu giờ chiều, Thuật ghé về nhà tắm rửa và thay quần áo lịch sự, ngồi chờ một thằng bạn đến kéo đi "tham quan" nhà hàng nổi một lần cho biết. Cú điện thoại hẹn lại giờ chót của thằng bạn, cộng với lời cằn nhằn của vợ con, bất ngờ làm Thuật nổi điên. Ông kéo tay vợ ra xe:

- Bà muốn biết tôi thường đi đâu phải không? Được rồi xin mời bà đi theo tôi!

Ban đầu, các em thấy Thuật đi với vợ, chỉ dám thập thò sau quầy ngó ra. Thuật ngang nhiên gọi một lúc sáu em ra ngồi cùng bàn, ôm hôn mỗi em một cái ngay trước mặt vợ. Bà chủ quán đi ra, chào Thuật bằng kiểu chào thường lệ; đứng sau lưng, đặt hai bàn tay lên vai Thuật, cúi xuống cọ má với Thuật. Vợ Thuật xanh mét cả mặt mày, muốn ngất xỉu. Thuật rút tiền bo cho mấy em, rồi đuổi hết cả đám đi, xong mới nói với vợ: Bà thấy chưa, ở đây chúng nó đẹp như vầy, trẻ như vầy còn bà già còm, lép kẹp như vậy, có biết mắc cỡ hay không mà đi ghen với tụi nó? Biết điều thì cứ ngậm miệng, mỗi tháng tôi phát tiền cho dư xài. Tôi còn ở với bà là phúc đức lắm rồi. Lộn xộn tôi dẹp luôn, cho treo mỏ cả lũ. Còn cái ghế tôi ngồi hả? Chắc hay không thì tôi tự biết, nhưng bà ráng mà cúng bái hàng ngày cho nó. Nghe chưa.

Thuật điềm nhiên ngồi ăn cho hết bữa, trong lúc bà vợ chạy ra ngoài vườn nôn thốc nôn tháo những miếng ăn vừa nuốt. Lần "giáo dục" kiểu đó đã có hiệu quả thấy rõ. Một tuần sau, vợ Thuật đến cơ quan tìm ông giữa trưa. Cửa phòng giám đốc chỉ đóng chứ không có khóa, vì đố thằng nào dám gnang nhiên bước vào! Thuật và một cô nhân viên đang ôm nhau trên chiếc đi văng dành cho giám đốc nghỉ trưa. Thấy vợ Thuật, cô gái sợ hãi toan vùng dậy. Thuật ghì cô ta lại, nói cứ bình tĩnh, không việc gì phải sợ. Rồi ông quay qua đuổi vợ về, mắng vợ là bất lịch sự, vào phòng không biết gõ cửa. Vợ Thuật chỉ nói được một câu: "Rồi trời sẽ tru đất sẽ diệt ông!", rồi run lập cập đi ra. Thuật cười hô hố.

Bữa tiệc vẫn tiến hành náo nhiệt, mới đó mà đã qua thùng bia thứ ba. Hai tay Thuật giang ra ôm hai cô. Miệng Thuật thỉnh htoảng há ra để ực bia, để táp mồi, để cười khùng khục, để quay qua quay lại hôn hít trên mấy cái má hồng mịn màng thơm phức. Cứ mỗi lần đến đâỵ Thuật lại có cảm giác mình đang làm vua. Có đêm, Thuật kéo luôn năm em vào một phòng, quần nhau cho tới sáng. "Nhất dạ đế vương" cũng sướng đến đó là cùng! Hôm nay là ngày Thuật trúng lớn, vừa đẩy được mấy tấn nguyên liệu còn tốt mà Thuật chạy được quy thành phế liệu, nhậu hết cái nhà hàng này còn được, nói gì đến cái bàn tiệc chục thằng này. Dzô đi, dzô nữa đi! Còn bao nhiêu bia, nhà hàng cứ đem hết ra, cho tụi này tắm bia một bữa nhớ đời! Thằng Thuật này đã từng chi ba triệu cho một bữa tiệc ở đây, bằng lương một tháng của cả văn phòng xí nghiệp cơ mà! Tên kế toán trưởng hơi chợn, nhắc Thuật nên giữ lại một tấn cho bọn công nhân có việc làm, chứ hổm rày chúng nghỉ việc ăn 70 phần trăm lương, kêu trời như bọng rồi! Thuật trợn mắt, nói đồ ngu, ai có phần nấy. Người nào đã chịu nhiều gian khổ, sống chết, thì bây giờ phải được hưởng. Còn số thằng nào mạt thì ráng mà chịụ Đời này, ai ăn được thì cứ ăn. Đã chấp nhận cuộc chơi mà còn bày đặt chuyện lương tâm!

Nỗi lo gợn lên, vào đúng lúc Thuật kê miệng húp chén cháo rắn được em Trinh bưng lên mời. Giữa ngực ông bất chợt nhói một cái đau đến nín thở. Kẹt cả hai tay, Thuật lắc đầu dùng cằm đẩy chén cháo ra. Cái gì mà đau như vậy? Thuật đổ mồ hôi khi cảm nhận dường như nó đang cựa quậy. Nãy giờ, bao nhiêu là bia là mồi tống xuống, vậy mà nó vẫn kẹt lại ở khoảng giữa ngực là sao? Thuật bỗng thấy nhợn nhạo trong họng. Ông cố trấn tĩnh, từ từ đứng dậy, gạt hai em, bước ra vườn. Đến sau một gốc cây khuất, ông đưa mấy ngón tay vào miệng, móc họng cho ói ra hết những gì vừa ăn uống. Đó là một động tác quen thuộc mỗi khi Thuật muốn hồi phục để có thể ngồi tiếp tục chiến đấu trong những độ nhậu kéo dài. Nhưng lần này không phải do ông thấy mệt, mà là để tống cái của nợ đáng sợ kia.

Hoàn toàn yên tâm, Thuật bước vào bàn nhậu đầy khí thế trở lạị Mọi việc tiếp tục diễn biến bình thường. Thuật nói nhỏ vào tai Trinh, tối nay, anh chọn em làm hoàng hậu đó nghe. Trinh giả bộ trợn mắt, rụt vai, lè lưỡi. Cái lưỡi hồng dẻo quẹo đầy hứa hẹn, vậy mà làm Thuật liên tưởng đến cái lưỡi thở phì phì giận dữ của con rắn khi nãy, lúc nó đang bị lão đầu bếp lôi vào trò đùa trước khi chết.

Cái nhói đau thứ hai xảy ra khi Thuật đã nằm trên giường, nhìn Trinh đang uốn éo cởi quần áo dưới ánh đèn hồng. Ông thánh cũng phải chào thua trước thân hình tuyệt mỹ của cô gái được phong làm hoa hậu ở quán này, vậy mà Thuật vẫn nằm yên, tay đè lên ngực. Máy lạnh chạy rì rì mà mồ hôi Thuật vẫn vã ra, ướt cả mặt đệm.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Đó là lần đầu tiên trong đời, Thuật nghe thấy những âm thanh quái đản ấy. Nó dội lên trên đỉnh đầu, rồi cứ thế bục ra.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Rồi Thuật nhìn xuống bụng, chợt ré lên một tiếng, lồm cồm ngồi dậỵ Ông vừa trông thấy đầu con rắn quặc qua quặc lại giữa hai đùi mình. Thuật đưa tay bật đèn nê- ông, lúc đó con rắn biến mất. Ông nhìn quanh quất. Còn Trinh thì co rúm người, nhìn ông bằng con mắt sợ hãi. - Gì vậy anh?

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thuật thở dài, tắt đèn, ôm lấy Trinh:

- Không có gì.

Khoảng vài phút sau, Thuật thở dài, xô Trinh ra, nằm vật xuống.

- Thôi, hôm nay cho em nghỉ. Ngủ đi.

Trinh nằm xuống bên Thuật, và chỉ vài phút sau, cô đã ngủ ngon lành. Trong khi đó, tiếng đập ồn ào trong ngực Thuật vẫn cứ vang lên đều đặn.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Ở chỗ giữa ngực ông, có cái gì đó chư nhô lên thụt xuống. Thuật úp hai bàn tay đè mạnh lên chỗ đó. Nó vẫn cứ phập phồng dưới tay ông.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thở hổn hể, Thuật ngồi bật dậy, kinh hoàng khi nhìn rất rõ giữa ngực mình nổi hẳn lên một khối u nhỏ. Thật nhanh, Thuật chộp lấy nó, nghiến răng bóp mạnh. Ông cảm thấy như nó đang vỡ ra bên trong lồng ngực mình. Một cảm giác đau chết người ập đến. Thuật lăn ra giường cố gắng lết đến bên Trinh, ông cố gắng vươn tay ra định chạm vào người Trinh để gọi cô dậy nhưng đã kiệt sức...

Sáng hôm sau, Trinh thức dậy thấy Thuật đã chết cứng đơ từ hồi nào. Khi đem xác của Thuật đến bác sĩ pháp y thử nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận rằng Thuật chết vì nhồi máu cơ tim (heart attact). Ngực ông bị tím bầm, nổi hằn những vệt móng tay của chính ông cào cấu.

Nhưng khi giải phẫu tử thi, mọi người chứng kiến đều rởn tóc gáy khi thấy ở giữa lồng ngực trái tim của Thuật là một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu ngón tay, đã bị bóp bể ra làm haị

HẾT

2.BÓNG MA TRÊN TẦNG CAO

Một ngôi nhà xanh hai tầng, một gác xép, một khu vườn, một nhà xe và rặng cây ngăn cách nhà hàng xóm. Người ta gọi là ngôi nhà xanh vì những cánh cửa sơn xanh. Ông và Baoman ở đây đã nhiều năm, đã sơn đi sơn lại cửa nhiều lần đến mức tường đá cũng có màu xanh nhạt.

Rặng cây cũng xanh, và những tấm màn cũng xanh.

Một ngôi nhà đẹp, vì một mối tình đã năm mươi năm, từ năm 1941. Mácta và Giuliút Baoman không có con nhưng hạnh phúc. Giulíut nguyên giám đốc ngân hàng, nghỉ hưu và Macta làm bánh nhân anh đào. Họ nghe đài, đôi khi cũng cùng nhảy một điệu van cũ thành Viên hoặc một bài tăng gô Achentina.

Trong khu nhà ở ngoại ô Đenve này, dưới chân những ngọn núi đá, vợ chồng Baoman được nhiều người biết, được ngưỡng mộ. Họ sống thật hạnh phúc nên cũng vui khi thấy học khoác vai nhau cùng nhau đi dạo thanh thản. Giulíut bảy mươi ba tuổi, Macta bảy mươi hai.

Macta bước xuống thang, đôi chân còn nhanh nhẹn. Bà vừa bận quần áo để đi dạo chơi và gọi:

- Giulíut, ông xong chưa?

- Tôi đã chờ bà rồi đây...

Macta Baoman cất tiếng cười vui, bỗng Giulíut nghe chuyển thành tiếng kêu. Rồi một tiếng ngã lăn, một tiếng kêu nữa và im bặt. Ông vội chạy vào phòng, thấy vợ ông nằm dài trên nền, thở hổn hển, mặt nhăn nhó đau đớn...

- Macta, có việc gì xảy ra thế?

- Tôi ngã từ thang gác... Lạy Chúa, tôi có cảm giác chân tôi bị hất lên... như có người không cho tôi đặt chân xuống đất... Ông Giulíut, tôi đau lắm.

Ông Baoman gọi hàng xóm đến cứu. Ông hơi sợ, Macta chắc chắn bị gãy chân, cong người lại một cách kỳ lạ. Hàng xóm, một đôi vợ chồng trẻ hơn gọi xe cấp cứu và ổn định tinh thần ông già.

- Thôi nào, ông Baoman... một chân gãy thì có sao...

- Họ sẽ đưa bà ấy đi bệnh viện, ông bà không biết chứ. Bà ấy không bao giờ rời tôi... và tuổi ấy mà bị gãy chân...

Bác sỹ thì đỡ lo hơn.

- Một chân gãy, dù ở tuổi bà ấy, cũng giải quyết được thôi, ông Baoman, vợ ông có sức khoẻ.

Thế là ông Baoman đưa bà vợ đi bệnh viện, chiều về buồn bã, cô đơn đến nỗi ông bà hàng xóm thương hại.

- Ông sang nhà tôi ăn tối với chúng tôi... đỡ cô đơn.

- Bà ấy phải nằm lại bệnh viện mười lăm ngày...

- Ông cứ ăn bên chúng tôi trong mười lăm ngày.

Giulíut Baoman biết ơn, nhận lời. Và tám ngày tiếp đó cứ đúng bảy giờ, ông sang ăn tối.

Ngày thứ chín, ông sang chậm; bà hàng xóm lo ngại mất nửa tiếng.

- Để tôi sang xem ông ấy đang làm gì.

Chồng bà nhún vai.

- Ông ấy ở bệnh viện về chậm, hoặc đang ngủ...

- Ông ấy không hay chậm giờ. Tôi sang xem.

Bà choàng chiếc áo mưa, thắt khăn quàng cổ và đi ra trong gió lạnh mùa thu. Đi qua bãi cỏ cách nhà bà với nhà Baoman, bà hơi run rẩy.

Không có ánh đèn, cửa đóng. Bà đứng dưới mái cổng nhìn vào nhà xe, thấy có xe, như vậy là Giulíut có ở nhà... Trong khu này người ta không đi bộ ra ngoài, nhất là buổi tối. Thành phố và hàng quán ở cách đó hơn sáu cây số. Một số quán hiếm hoi thì giờ này đã đóng cửa. Bà bấm chuông không có trả lời, ngẩng đầu lên nhìn cửa sổ tầng hai... Hình như một tấm màn lau động, nhưng đây là do được chiếu sáng; một chiếc xe vừa chạy qua hắt một luồng ánh sáng vào ngôi nhà rộngBà hàng xóm đánh trống ngực, không biết vì sao. Ngôi nhà thường ngày dễ mến, êm dịu với mọi màu xanh, tối nay giống như một ngôi nhà có ma. Trống trải, sầu thảm, hung gở. Bà đi một vòng nhìn xem các cửa sổ khác. Tất cả đều đóng kín, chỉ những cánh bên ngoài không khép. Cửa ra vào bếp và phòng khách gần khu vườn cũng vậy. Tất cả đều đóng.

Một chiếc xe khác đi qua, chiếu sáng vào cửa sổ. Bà lợi dụng ánh đèn xe ngó vào khe hở ở phòng khách.

Một tiếng kêu sợ hãi mắc trong họng.

Bà đã thấy ông Baoman nằm dài trên sàn, bất động, trong tư thế trông thật đáng sợ... Bà chạy, chạy dưới trời mưa bụi nhớp nháp. Bà có cảm giác ông Baoman đã chết. Bà biết vậy. Một thứ linh tính...

Mười phút sau khi hàng xóm báo tin, đội trưởng cảnh sát Đon Carudơ cùng hai nhân viên vào ngôi nhà xanh.

Đon Carudơ cao lớn, một loại chim có cái nhìn sắc xảo, giọng nói nghiêm khắc. Quỳ xuống bên cạnh người Giulíut, ông càu nhàu:

- Nói với bác sỹ không vội, ông già chết được một lúc rồi.

Giulíut mặc quần nhung và áo trong nhà. Tay phải ông cầm một khẩu súng ngắn, một mảng máu bắt đầu đông lại phía sau đầu.

Đon Carudơ vẫn lẩm bẩm:

- Ông già không kịp bắn, khốn khổ... này, anh bạn tìm cho tôi cái gì đó nặng gây ra vết thương này...

Rồi Đon Carudơ đi quanh nhà trong lúc hai người của ông lục lọi cẩn thận. Ông cũng có một cảm giác lạ.

- Bà hàng xóm này... bà nói cửa đóng bên trong cả à?

- Vâng, trừ cánh bên ngoài.

- Như vậy là ông già bị giết khi trời còn sáng. Điều tôi băn khoăn là kẻ sát nhân. Hoặc hắn còn ở trong nhà, hoặc có chìa khoá.

- Chẳng ai có chìa khoá. Chúng tôi cũng không.

- Thế tên kia đóng tất cả bên trong bằng cách nào?

Đon Carudơ nhìn ngó, kiểm tra... làm ông bà hàng xóm sợ.

- Ông nghĩ trong lúc này hắn ta đang ở trong nhà?...

- Nếu có, chúng ta sẽ tìm ra...

Một nhân viên bước ra:

- Thủ trưởng, chúng tôi tìm được cái này trên tủ gần lò sưởi ở phòng khách.

"Cái này" là một sắt thọc lửa to lớn, đẫm máu. Một mảng da và một số tóc còn dính ở đó.

Đon Carudơ lại quỳ xuống quan sát vết thương rồi lục túi ông già, lấy ra chiếc ví, tiền nong. ở tay trái ông già còn đeo đồng hồ, chiếc đồng hồ có giá các nhân viên tặng lúc về hưu. Như vậy kẻ sát nhân muốn gì? Nhà không bị lục lọi, không có gì bị đảo lộn. Chẳng bị lấy trộm vật gì.

Tên kia chắc gây ra tiếng động, ông già đi lấy khẩu súng trong ngăn kéo tủ hiện vẫn mở. Ông chưa kịp bắn. Sau đó hắn bỏ đi vì mấy người lục lọi khắp nhà chẳng thấy ai, không một dấu vết chạy trốn. Như vậy hắn có chìa khoá. Đon Carudơ suy đi nghĩ lại những tình huống, không thấy giả thuyết nào khác vấn đề có chìa khoá. Chắc hắn không biết ông Baoman đang có người chờ ăn tối, hy vọng còn lâu mới bị phát hiện; không rõ vì động cơ gì.

- Ông bà già có kẻ thù không?

- Ông cũng biết là không... Ông biết rõ họ như chúng tôi. Họ đáng kính phục đến thế kia mà.

Bà Baoman khốn khổ nằm trong bệnh viện không biết gì cả. Cảnh sát tìm tòi xong, thi thể ông Baoman được đưa đi. Ngôi nhà được đóng kín cùng điều bí mật của nó.

Vì có một điều bí mật. Cái gì đó mà những người cảnh sát không thấy. Mặc dù xảy ra rất gần...

Ngôi nhà xanh im lìm, mọi cửa kính đóng dưới mưa thu. ở nhà mình, bà hàng xóm đoán vậy sau bức màn cây và nói với chồng:

- Một ngôi nhà bất hạnh.

- Nào, bà, vấn đề trộm cướp thôi.

- Tôi nói với ông là ngôi nhà bất hạnh, lởn vởn như có bóng ma...

- Được rồi, chỉ còn thiếu điều đó... Bà say sưa khen ngôi nhà như mọi người trong khu phố... và bây giờ lại là ngôi nhà có ma? Bà có thấy ma không?

- Không... nhưng tôi có một cảm giác kỳ cục, viên cảnh sát cũng thế. Giống như có một sự hiện diện vô hình.

- Tốt lắm, bà cứ thêm điều đó vào nỗi đau khổ của và Macta Baoman thì sự việc sẽ hoàn chỉnh.

Bà Macta khốn khổ đúng là bị cắm chặt ở bệnh viện, thậm chí không thể dự lễ tang chồn. Khi ra viện với đôi nạng, bà đến mặc niệm trước mộ chồng và quyết định đến sống với bạn ít lâu ở Caliphocnia. Để thoát khỏi những kỷ niệm trước mắt và hạnh phúc đã mất trong ngôi nhà xanh.

Việc điều tra không làm sáng tỏ được gì. Vẫn hoàn toàn bí mật. Macta không thể nói rõ gì hơn với cảnh sát mà ngược lại. Bà không thấy ai có thể có chìa khoá nhà mình. Nếu có người nào đó có là họ làm trộm. Giuliust có lẽ biết nhưng ông chết rồi, không nghĩa lý gì cả. Không có động cơ rõ ràng.

Ngôi nhà xanh bỏ trống trong nhiều tháng. Mùa đông tới, khu vườn âm u, cây cối trụi lá, những gian phòng rộng rãi, nội thất trang trí theo lối cổ không còn vang tiếng cười của Macta, vắng tiếng nhạc, nhảy múa, hạnh phúc. Vào mùa xuân, bà Baoman trở về nhà được nhiều người chào hỏi. Ông bưu tá là người gặp bà trước tiên, thái độ kín đáo nói với bà:Bà biết không... nhà bà... ai cũng bảo là có ma...

Macta Baoman khẽ cười:

- Ông nói gì thế? Ma à? Nó ở đây suốt mùa đông, đúng không?

- Tôi nói để bà biết, thế thôi...

- Nhưng biết việc gì? Ông nhận thấy có vấn đề gì à?

- Tôi thì không, nhưng những người hàng xóm của bà có đấy... và cả những người khác nữa... rồi bà sẽ thấy...

Macta Baoman không tin vào ma quỷ. Bà vững vàng về thể chất và tinh thần. Sự goá bụa là một bất hạnh lớn nhưng bà can đảm chịu đựng, lạc quan, yêu cuộc sống như xưa nay và mê say hạnh phúc. Bà sống một mình với kỷ niệm về Giuliust và những năm qua... vì số phận đã định thế. Đừng ai nói vớ bà về ma quỷ. Đúng ra là cảnh sát phải tìm ra kẻ giết người.

Bà hàng xóm đến thăm. Lại nói về ma.

- Bà cũng nghĩ thế à?

- Không, tôi cũng như bà, không tin vào ma quỷ; đêm đó tôi có cảm giác không hay nhưng hết rồi. Chính bọn trẻ con phao đồn chuyện này. Chúng bảo nhiều lần thấy có ánh đè trong đêm, ở cửa sổ gác xép. Cảnh sát cũng đi tuần vài lần nhưng có lẽ chỉ là ảo giác... Chắc đèn ô tô... có điên chúng mới để đèn trên đó...

Một ông hàng xóm khác sang chào bà Baoman và cũng nói chuyện về ma.

- Bà biết không, chắc vợ tôi không nói với bà vì sợ là kỳ cục nhưng một hôm đi qua nhà bà, bà ấy thấy một chuyện lạ. Lúc đó bà chưa về. Một buổi sáng, đi chợ về qua nhà bà, bà ấy rú lên chạy về tận nhà như người điên, nói rằng thấy một khuôn mặt nhìn ra từ cửa sổ gác xép. Một khuôn mặt trắng bệch như bóng ma của ông nhà. Bà ấy rất xúc động nhưng bây giờ công nhận có thể là nạn nhân của ám ảnh. Với những chuyện nhà có ma người ta kể từ trước đến nay, bà đã cho lục soát hết mọi xó xỉnh của ngôi nhà chưa?

- Tôi không chỉ cho lục soát mà còn quét dọn. Tôi thuê một bà giúp việc làm; ở tuổi này tự mình không chăm lo được nữa, nhà rộng quá. Tôi đoán chắc với ông chẳng thấy con ma nào trên gác xép hoặc phía sau tủ.

Bà Baoman bỏ qua điều bí mật, không để ý đến nữa. Cũng như những nhân viên cảnh sát vậy.

Bà tỏ ra vô cảm về không khí kỳ lạ quanh mình. Thực ra có nhiều nguyên nhân. Có lẽ vì bà nguyên là giáo viên về địa lý, tính tình lạc quan, có đầu óc thực tế và những chiếc bàn quay ma quỷ hoặc có sự hiện hình không xâm nhập vào thế giới trí thức. Macta chỉ sợ những việc thật. Như ngã trên cầu thang chẳng hạn. Chân bà không vững vàng và bà tránh lên xuống cầu thang. Một vấn đề nữa là dù không muốn chấp nhận, bà đã thành nặng tai theo thời gian. Trở ngại đó không làm bà băn khoăn nhưng làm bà ngạc nhiên về những ý nghĩ của bà giúp việc:

- Thưa bà... tôi nghe có tiếng bước chân trên kia...

Cô gái Mêhicô trẻ, búi tóc đen như mực, ở một phòng trên tầng gác từ khi đến giúp việc bà Baoman. Như mọi người Mêhicô, cô quan niệm về cái chết rất đặc biệt. Thần chết hiện diện hàng ngày trong cuộc sống, những người chết luôn ở bên ta và bóng ma ông Giuliút Baoman đối với cô hoàn toàn có thể có thật.

- Thưa bà... Bà có nghe thấy không?

- Không, gì thế nữa cô?

- Như có ai bước đi trên kia... Tôi nghe tiếng động...

- Nào, cô bạn, cô tưởng tượng ra đấy.

Và bà Baoman lại tiếp tục đọc sách, đan áo hoặc nghe nhạc cổ điển.

Ban đêm, gió lay động màn cây in bóng cành lá lên tường nhà. Những chiếc đèn pha ô tô đôi khi hắt mạnh ánh sáng vào những gian phòng rộng và đồ đạc cũ trong nhà như xuất hiện từ bóng tối, có những hình thù lạ và dễ sợ.

Cô giúp việc lắng nghe, thấy, cảm nhận, phỏng đoán và một hôm tuyên bố:

- Thưa bà, nhà có ma, tôi, tôi không ở lại được...

Đến văn phòng thu xếp việc làm, bà Baoman xin một người mới với đề nghị cụ thể:

- Tôi không đảng phái cũng không phân biệt chủng tộc chút nào nhưng tôi không thích người giúp việc Mêhicô. Họ rất mê tín, ông hiểu chứ?

Không thật sự hiểu vì chẳng quan trọng gì, văn phòng tìm việc giới thiệu cho bà Baoman một quản gia chủng tộc Anglô-Xaxông, người vạm vỡ, quả quyết, chân to, tóc ngắn, có thói quen của những người đứng tuổi và làm cả một đoàn ma sợ hãi. Không vì thế mà chỉ sau một tuần làm việc bà rời bỏ bà Baoman. Bà đến cơ quan cảnh sát.

- Nhiệm vụ tôi là phải nói. Tôi thấy một con ma. Nó đi dưới chân cầu thang lên gác. Một loại thật gớm guốc. Tôi kêu lên và nó biến mất.

Viên cảnh sát ghi lời tố cáo, bỡn cợt hỏi:

- Bà kiện nó chứ?

Nhưng Đon Carudơ, người trước đây một năm được cử điều tra về cái chết Giulíut Baoman, chú ý lắng nghe. Ông đến thăm bà Baoman. Ông nói có một con ma gớm guốc ở nhà tôi à? Ông đội trưởng... Ông cũng tin có ma quỷ ư... Cái chết của ông nhà tôi không được làm sáng tỏ, tôi không trách nhưng tôi nghĩ điều bí ẩn đó gây nên những ý nghĩ ngu ngốc trong khu. Tôi đơn độc đã khá vất vả rồi và nếu những chuyện đồn đại đó cứ tiếp tục, tôi chẳng biết tìm ai giúp đỡ nữa...

- Không phải thế, bà Baoman... Tôi muốn biết bà có chắc chắn không có ai thỉnh thoảng lẻn vào nhà mà bà không biết không?

- Tôi đã nói đi nói lại, ông đội trưởng. Tôi chưa bao giờ thấy có gì không bình thường. Nếu có ai ở trong nhà thì tôi phải biết chứ...

- Có vấn đề hôm xảy ra vụ án mạng mọi cửa ngõ đều chốt bên trong... Điều đó lúc nào cũng làm tôi day dứt.

- Người của các ông lúc đó đã lục soát từ trên xuống dưới rồi còn gì...

- Tôi biết... Bà có cho phép tôi tìm kiếm lại không?

- Nếu ông thấy cần và nếu việc làm đó chấm dứt được những lời đồn đại ngu ngốc... tôi đồng ý. Với điều kiện người của ông đừng làm hư hỏng gì. Tôi đang chờ một bà quản gia mới mấy ngày nữa sẽ tới, các ông chờ cho đến khi bà ấy tới để sắp xếp lại trật tự sau khi các ông lục soát.

Đon Carudơ nhận lời. Hẹn trong tám ngày nữa.

Ý nghĩ của viên cảnh sát cũng có lý phần nào. Bà già nặng tai, một tên vô lại có thể lợi dụng ngôi nhà rộng rãi này mà ẩn náu dễ dàng. Vào ra bà ta không biết. Có thể là kẻ giết người... Có thể chỉ là người lợi dụng ngôi nhà trống sau vụ sát hại... vì những chuyện ma quỷ nảy sinh trong lúc bà Baoman đi vắng.

Nhưng hôm sau, sự việc đến nhanh hơn. Đon đang ngồi trong văn phòng, một nhân viên chạy gấp vào:

- Thủ trưởng, bào Baoman gọi điện thoại. Bà lại ngã cầu thang! Bà lê được đến bên máy. Người ta đã cho xe cấp cứu đến; trong lúc chờ đợi bà ấy muốn nói chuyện với ông. Đon cầm máy, nghe giọng nói hổn hển của bà Baoman:

- Tôi nghĩ ông có lý, ông đội trưởng... Tôi bắt đầu thấy sợ... có điều gì đó... đề nghị ông tới cho...

- Tôi sẽ tới!

Mấy phút sau viên cảnh sát đã đến bên cạnh bà già khốn khổ. Nằm dài trên cáng, nhăn mặt đau đớn, bà giải thích:

- Vẫn cái chân ấy... Ông biết lần trước chứ, tôi nhớ... rất lạ về cách bị ngã... tôi đã nói với ông nhà tôi... như có ai ngoặc chân tôi, hoặc ngăn cản tôi đặt chân xuống bậc thang... cảm giác kỳ lạ, nhưng khi ngã lăn qua nhiều bậc thì quên hết mọi chuyện.

- Lần này thì thế nào, bào Baoman, bà có thấy ai không?

- Không, ông đội trưởng ạ, nhưng trước khi ngã tôi cảm thấy có cái gì đó đụng vào mắt cá...

- Lúc ấy bà ở đâu, trên gác, gác xép hay tầng trệt?

Hỏi câu đó khi đang đứng ở sân trước, Đon máy móc nhìn lên bao lơn và ngây người. Ông vừa thấy một bàn tay trắng, gầy, thong thả nâng tấm màn cửa sổ trên tầng và bỏ nhanh xuống.

Bây giờ thì ông chắc chắn. Mẹ kiếp, có kẻ nào đó ở trong nhà này, sống ở đó, ẩn náu, mà bà Macta Baoman không biết.

- Có gì vậy, ông đội trưởng, ông thấy gì à?

- Không, không, nhưng nếu có người nào đó chúng ta sẽ tìm ra, bà đừng lo...

Chẳng làm bà già lo lắng thêm vô ích, nhất là bác sỹ bảo lần trật khớp này nặng hơn, bà ấy chắc chắn không bao giờ đi lại bình thường được.

Ông ra hiệu cho xe cấp cứu đi và chạy ra cổng ra lệnh cho một nhân viên đi theo ông.

- Trên kia có một tên. Anh cẩn thận, chắc hắn nguy hiểm đấy.

Hai người rút súng ra. Nhân viên đi với ông người to cao, một mét chín mươi, hàng ngày vẫn luyện tập ở câu lạc bộ thể thao của cơ quan. Không phải tình cờ mà Đon chỉ định anh.

Họ cùng leo nhanh lên cầu thang, lục tìm khắp căn phòng rồi đi vào một hành lang tối sát gác xép, có vẻ không dẫn đi đến đâu. Bỗng Đon nhận thấy phía cuối cùng có một tấm ván che như một cánh cửa nhỏ, động đậy... Một bàn chân trần xuất hiện, mò tìm thanh thứ nhất một chiếc thang dây. Đon ra hiệu cho nhân viên, lặng lẽ...

Anh này lại gần, hơi chúi chân lấy đà rồi dơ hai tay nhảy tới chộp lấy bàn chân đang lơ lửng. Trong bóng tối, Đon không trông rõ lắm nhưng hình như anh nhân viên đã nắm được, vì anh để treo người một lúc rồi rống lên đau đớn. Tên kia chắc đã đánh mạnh vào tay anh, anh phải thả ra và rơi nặng nề xuống đất.

- Trời, anh sao vậy?

Đon leo ngay lên thang dây, đến mấy nấc trên cao thì bắt kịp chân kẻ kia. Ông kéo mạnh và tất cả nhào xuống kêu lên đau đớn. Ông, thang dây, kẻ kia mà ông vẫn nắm chặt chân.

Trên sàn gác xép, một bóng người cựa quậy yếu ớt. Hai người cảnh sát cúi nhìn. Đó là một con ma. Khuôn mặt như xác chết, râu ria xồm xoàm, tóc dài, đôi mắt điên dại, thân hình gầy gò, quần áo tả tơi để lộ chân tay khẳng khiu. Con ma không cựa quậy nữa, nhắm mắt bất tỉnh. Trong lúc chờ xe cấp cứu, Đon quan sát chỗ ẩn của con ma. Một góc nhỏ sát mái, mạng nhện giăng đầy, chỉ có thể ngồi hoặc nằm. Có một chỗ như giường nằm, là chăn đệm cũ chất lại, cùng những hộp bìa dày, chai không. Diện tích toàn bộ dài không đến một mét rưỡi và rộng nửa chừng ấyCó tấm ván mỏng có lẽ để đấy đã lâu che kín hốc chuột đó lên đến mái nhà. Trước đây chắc có lỗ cửa nhưng đã bị bịt lại. Con ma ẩn náu trong ấy. Đã từ lâu nhưng không ai để ý đến tấm ván vì quá nhỏ, người ta không hình dung có người sau đó. Hơn nữa ván cùng màu với gác xép, đầy bụi và có vẻ được đóng chặt vào tường.

Một nhân viên cảnh sát nhớ lại:

- Thủ trưởng, lần đầu khi lục soát ngôi nhà, hôm xảy ra án mạng, tôi đã thấy chỗ này. Tôi gõ vào tấm ván, thử kéo ra không được... không ngờ...

Không ai ngờ, bà Baoman càng ít chú ý hơn. Hốc này đã bịt lại từ lâu rồi.

Con ma được bác sỹ khám; ông thấy không có trường hợp nào tương tự.

- Anh ta trong tình trạng quá yếu, do thiếu ăn uống và chắc có vấn đề ở phổi. Cú rơi xuống sàn làm anh ta hầu như hết sống. Nếu tỉnh lại tôi nghĩ còn lâu ông mới thẩm vấn được.

Đon cho chụp mấy tấm ảnh nơi ẩn náu của con ma và bản thân con ma, đưa lại cho bà Baoman xem.

Bà Baoman suy nghĩ... Khuôn mặt hốc hác, đầy râu, gần như chết rồi, không nói lên điều gì với bà... hay là... nhưng...

- Trời ơi, không thể... giống như là Giăcxơn. Êđua Giăcxơn... chúng tôi biết anh ta lúc mười tám tuổi...

- Ông bà có quan hệ với anh ta như thế nào?

- Anh ta chơi đàn, chúng tôi thích anh đến chơi. Anh ở xa đến đây vì tình trạng sức khoẻ, bệnh lai, cần không khí miền núi... Một hôm chúng tôi không nghe nói về anh nữa. Anh biến mất, chúng tôi nghĩ đã về với mẹ. Mấy năm sau chúng tôi gặp anh, đã trở thành đại diện thương mại, bảo vẫn khoẻ. Anh lại biến mất trong hai năm... và khi chúng tôi gặp lại, anh đã thay đổi ghê ghớm. Khoảng ba mươi lăm tuổi mà có vẻ như đã năm mươi. Gầy còm, thất vọng, cô đơn... bà mẹ chết rồi. Như chúng tôi hiểu, bà ấy bị người chồng thứ hai lột sạch, chàng trai không còn một xu. Chúng tôi muốn giúp đỡ anh ta từ chối. Chúng tôi vẫn yêu mến anh ấy, việc từ chối đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Rồi anh bỏ đi, chúng tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.

Tuy vậy, có đấy, họ vẫn gặp lại nhưng không biết thôi.

Mấy ngày sau báo chí đăng những lời khai của Êđua Giăcxơn với cảnh sát. Anh ta được mệnh danh "Người trên tầng cao". "Người trên tầng cao" ghét ông bà Baoman vì họ sống hạnh phúc. Chỉ có thế. Anh ta có định kiến về hạnh phúc không chịu nổi ấy, nghĩ mình là một con người bị đày đoạ, không yêu thương, bị mọi người bỏ rơi. Một tình trạng điên cuồng thực sự. Nếu người ta nói nhỏ gần anh, anh cho là nói xấu anh, nhìn anh cười là người ta chế nhạo anh. Người ta quên chào anh vì anh đáng ghét; nếu bắt tay anh thì chỉ vì thương hại.

Thể bệnh tâm thần này thật đáng sợ. Vì chủ thể nghĩ mình sáng suốt, có ý thức, chủ động. Hơi có một cử chỉ hoặc lời nói của người khác thì cho là công kích mình.

Êđua Giăcxơn bị hấp dẫn bởi hạnh phúc của ông bà Baoman và ngôi nhà xanh đồng thời căm ghét hạnh phúc đó. Đấy là một loại tự kỷ ám sự suy sụp. Nguồn gốc ám ảnh bị đầy đoạ từ chỗ đó.

Lần cuối cùng đến thăm ông bà Baoman, anh ta nhận thấy nguồn dự trữ thực phẩm bao giờ cũng đầy đủ. Về hưu, đã có tuổi, Giulíut và Macta rất ít đi mua bán. Trong bếp, chiếc tủ lạnh luôn đầy cũng dễ lấy để dùng, cũng như chiếc bàn của ông Baoman bao giờ cũng có một ít tiền mặt.

Êđua bèn quyết định lẩn tránh mọi người, đến sống ở nhà họ, bí mật, trong gác xép.

Anh ta sống ở đó nhiều tuần, nhiều tháng trong góc nhỏ kín đáo dưới mái nhà mặc nắng hạ rét đông. Từng lúc anh ta đi ăn, lấy trộm thức ăn trong tủ lạnh, mượn một cuốn sách, ngọn đèn chạy pin. Cũng từng lúc, nhất là sau cái chết của Giulíut, anh nhìn qua cửa sổ trong ngôi nhà trống vắng... với khuôn mặt ma, trong một giây rồi chẳng làm gì nữa.

Một hôm căm ghét bệnh hoạn anh tuồn một chiếc gậy vào giữa chân bà Baoman và bậc thang gác.

Khi bà đi bệnh viện, ở nhà một mình với Giulíut trong ngôi nhà hạnh phúc, anh ta bỗng nhận ra mình có thể phá tan hạnh phúc đó. Anh theo Giulíut, im lặng như chiếc bóng, từ phòng này đến phòng kia, tạm thời rời bỏ cảnh cô đơn. Nhưng như vậy, một hôm anh gặp nguy hiểm. Giulíut thấy anh, không nhận ra anh, rất sợ chạy đi lấy súng.

Êđua đánh ông bằng que sắt thông lò. Ông chết ngay.

Rồi anh tiếp tục sống như một con chuột trong ngôi nhà hạnh phúc, bà Baoman trở về, lòng căm ghét lại dấy lên, càng độc địa hơn. Người đàn bà này muốn tiếp tục sống, can đảm vượt lên sự goá bụa, vẫn luôn nghe nhạc, đọc sách, thêu đan, cười nói... Thật không thể chịu được. Bà ta không có quyền chế nhạo anh. Bà vẫn đầy đoạ anh vì hạnh phúc tìm lại đóThế là anh lại chơi trò ngáng ở cầu thang. Nhưng lần này... chiếc gậy dấu không kỹ lắm. Bà Baoman cảm thấy con ma làm hại mình...

Giới báo chí say sưa về "Người trên tầng cao" được toà án xem là tỉnh táo... Có nghĩa là ý thức được hành động của mình khi thực hiện. Nhưng khái niệm tỉnh táo có thể đến bất chợt, lúc có lúc không.

Dù sao thì anh ta cũng bị tù chung thân, trở thành người thủ thư của nhà tù và sống cuộc đời còn lại ở đấy.

Bao giờ cũng như một con chuột.

HẾT

3.MA TRONG KHÁCH SẠN

Duyên làm việc cho một công ty Thailand ở Saigon. Trong một dịp đi công tác ở Rạch Giá, cô vào đặt phòng nghỉ ở khách sạn Ngọc Hường ngay trên đường vào Thị xã Rạch Giá. Các cô tiếp tân tỏ vẻ ngần ngại một cách kỳ lạ:

- Tụi em chỉ còn một phòng duy nhất là phòng số 301 nhưng... lớn quá lại có tới hai phòng, một mình chị ngủ e trống trải quá!

Vì trời cũng đã tối và cảm thấy phòng lớn hay nhỏ cũng không quan trọng nên cô quyết định lấy phòng số 301. Trong khi làm thủ tục cho mướn phòng các cô tiếp tân nhìn nhau mỉm cười, trong ánh mắt như trao đổi điều gì khó hiểụ

- Tụi em ngủ ở hành lang cùng lầu, gần cầu thang. Nếu có chuyện gì chị cứ kêu tụi em nhe!

Nói xong cô tiếp tân đưa chìa khóa cho Duyên với ánh mắt ái ngạị Sau khi tắm rửa, Duyên lên giường bắt đầu đọc sách để dỗ giấc ngủ vốn khó khăn khi cô phải ngủ phòng lạ mỗi lần đi công tác xạ Vừa đọc được mấy hàng thì bên ngoài trời bổng nổi gió đập ầm ầm vào cánh cửa sổ. Vào mùa này trời đâu có khi nào mưa bao giờ. Duyên mở cửa sổ nhìn ra xem có phải trời sắp mưa thực sự không. Lạ thật, trời trong, trăng sáng soi rõ những ngọn dừa đứng yên bất động. Duyên đóng cửa sổ, lên giường nằm đọc sách tiếp. Lạ thay, nàng lại nghe tiếng gió rít bên ngoài và tiếng cửa sổ như bị gió đập mạnh mặc dù đã đóng kín. Nàng thấy hơi lạ nhưng lại tập trung đọc sách. Nhưng rồi Duyên không tài nào tiếp tục tự che giấu cảm giác rùng rợn khi từng luồng ớn lạnh cứ chạy dài từ gáy dọc theo cột xương sống xuống dưới lưng. Tiếng động kinh dị vẫn gầm rú như gào thét đáng kinh sợ. Duyên bật tung dậy chạy ra khỏi phòng về phía cầu thang. Các cô nhân viên cũng vừa trải chiếu giăng mùng chuẩn bị ngủ. Thấy Duyên, họ không có vẻ gì ngạc nhiên mà còn như biết trước người khách nhỏ nhắn xa lạ này sẽ cần sự giúp đỡ. Duyên nói khẩn khoản:

- Mấy em ơi, phòng 301 chị thấy có cái gì đó không ổn. Có thể em nào vô ngủ chung với chị đêm nay được không? Chị sợ lắm!

Các cô nhìn nhau không nói lời nào, cũng không ai hỏi Duyên chuyện gì xày rạ Cuối cùng một cô tình nguyện vô ngủ với Duyên. Phòng có hai giường. Cô nhân viên tên là Mai vừa giăng mùng lên là trùm mền kín bít nằm im thin thít. Duyên không đọc sách nữạ Cô nằm im lắng nghe xem có tiếng gió đập cửa nữa hay không. Quả nhiên như sự mong đợi, bốn bề đều im lặng. Duyên cảm thấy nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ vớ vẩn nữa mà bắt đầu nhớ nhà, nghĩ tới đứa con không biết giờ đã ngủ ngon chưạ Bất thình lình, nàng một bàn tay nào đó nắm lấy hai chân Duyên kéo mạnh một cái về phía cuối giường. Nàng giựt mình, rồi mau chóng trườn trở lại vị trí cũ. Cô còn chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp giải thích chuyện gì xảy ra thì lại bị kéo mạnh một cái nữa về cuối giường. Lần này nàng tốc người dậy, phóng qua giường của Mai, chui vô mền trùm kín bít. Duyên vừa nằm yên bên giường Mai thì nghe tiếng ngáy rất to phát ra từ đâu đó. Thoạt đầu, cô nghĩ có lẽ ai đó ngáy từ phòng kế bên. Nhưng sau khi lắng nghe thật kỹ thì rõ ràng tiếng ngáy phát ra từ ngay chính chiếc giường mà cô nằm trước đó chưa đầy một phút. Duyên gọi Mai dậy thì tiếng ngáy dứt ngaỵ Cô vội vàng thay quần áo và thu dọn đồ rời khỏi nơi đó ngay lập tức, khi trời còn chưa sáng.

Chú thích:

Đó là chuyện có thật 100% TBM được nghe chính Duyên, em gái mình, kể lại trong dịp về VN vừa rồị Nếu bạn nào về VN có dịp ngủ lại Rạch Giá hãy nhớ chọn phòng số 301 xem thử có gì xảy ra không nhe!

HẾT

4.NGƯỜI VỀ TỪ ĐÁY MỘ

Lão Tư cố hả miệng ngáp một cách đau đớn:

- Mày đầu độc tao... Mày đầu độc tao, con quỉ cái!

Bà Tư gật đầu, đáp bằng một giọng thật lạnh lùng:

- Đúng, tôi đầu độc ông. Trước sau gì thì ông cũng chết, thầy y tá đã nói như vậy, chỉ còn là vấn đề thời gian. Có thể một vài tháng, có thể một vài năm, và ông hiểu rằng tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Mười lăm năm nhục nhằn! Mười lăm năm đầy cay đắng!

Lão Tư nghiến chặt hai hàm răng vì đau đớn nhưng cũng ráng gừ lên một tiếng chửi rủa như lão vẫn chửi rủa vợ lão mỗi ngày trong suốt mười lăm năm qua:

Con đĩ chó khốn nạn! Trời sẽ phạt mày.

Bà Tư vẫn lạnh lùng:

- Đáng lẽ mình không nên lấy nhau. Tôi không hề yêu ông và ông cũng chẳng ưa tôi. Ông căm hận tôi vì việc ông không lấy được con Ba cháo lòng. Còn tôi, ông cũng biết rằng tôi chỉ muốn làm vợ anh Bảy thợ hồ. Chỉ vì mấy thửa ruộng của hai nhà sát bên nhau mà cha mẹ ông và cha mẹ tôi buộc tôi phải lấy ông và ông phải lấy tôi. Tôi biết đó là cả một cực hình cho ông cũng như cho tôi.

Lão Tư vừa lăn lộn vừa chửi rủa:

- Đồ con đĩ chó!

Bà Tư vẫn nói bằng một giọng đều đều:

- Tôi có ý định đầu độc ông từ khi ông mới ngã bệnh. Thầy y tá nói rằng ông có thể sống lây lất hàng năm khiến tôi không chịu nổi. Tôi không còn muốn bị ông đánh đập chửi rủa mỗi ngày nữa.

Lão Tư rên rỉ:

- Tao cầu mong cho lũ quỉ mặt xanh nanh vàng tra tấn mày dưới điạ ngục.

- Có thể... Nhưng dầu sao tôi cũng tìm được sự bình an trên cõi đời này trước đã. Sống với ông đâu có khác gì bị ác quỉ hành hạ tra tấn!

Lão Tư vặn mình đau đớn, hai bàn tay lão nắm chặt lại chịu đựng. Là một người cứng rắn và mạnh mẽ, lão cố thu hết tàn lực:

- Tao sẽ trở về từ đáy mộ... con quỉ cái...

Rồi lão ráng giơ một nắm tay về phía bà vợ:

- Tao sẽ chờ mày...

Kiệt lực, lão buông tay xuống, mồ hôi tháo ra như tắm, toàn thân run rẩy:

- Trời đất ơi! Đau quá! Như dao đâm vào ruột...

Đột nhiên bà Tư ngẩng đầu nghe ngóng. Có tiếng chuông xe đạp. Bà bước vội tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài lẩm bẩm:

- Sao thầy y tá tới sớm quá vậy hà?

Rồi bà bước tới bên giường,lượm tấm khăn lông nằm dưới chân giường cuộn thành một bó đè cứng vào mặt lão Tư. Ngộp thở, lão Tư cố vùng vẫy nhưng bà Tư đè nguyên người lên tấm khăn... Chân tay lão Tư giựt mạnh mấy cái rồi buông xuôi...

Biết lão đã tắt thở, bà Tư đứng lên thở phào nhẹ nhõm, ném cái khăn lông lên lưng ghế trước khi bước ra mở cửa.

Bà nói với thầy y tá vừa bước vào bằng một giọng lạnh lùng:

- Lão đi rồi sau khi bị bất tỉnh như mấy kỳ trước. Mấy nhỏ đi học nên tôi không biết làm sao kêu thầy. Nhưng dầu sao tôi cũng mừng khi lão không còn hành hạ tôi được nữa.

Thầy y tá lắc đầu thông cảm. ở ngôi làng này mọi người đều biết chuyện của nhau. Thầy đứng nhìn thi thể lão Tư một lát trước khi kéo cái mền phủ kín mặt lão rồi quay sang bà Tư:

- Ngồi nghỉ một chút đi bà Tư. Đừng lo nghĩ gì nhiều, để tôi cho ông Tám Tàng hay trước khi nói với thầy giáo cho con Hoa và thằng Đực về ngay bây giờ. Bà Tư có muốn kêu ai nữa không?

Bà Tư lắc đầu:

- Nhờ thầy nói ông Tám tới đem lão đi ngay dùm tôi. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Lão đi khuất mắt tôi sớm phút nào hay phút nấy. Tôi không muốn nhìn mặt lão nữa.

Bà nói tiếp bằng một giọng đầy cay đắng:

- Suốt đời lão làm khổ tôi. Tôi thù ghét lão từ ngày phải về với lão. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Tôi sẽ khóa chặt căn phòng của lão ngay khi ông Tám đem lão đi. Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy bên trong căn phòng đó nữa. Chỉ toàn là những kỷ niệm đớn đau, những lời chửi rủa, hận thù. Tôi sẽ thiêu rụi căn phòng của lão nếu căn nhà này không bị ảnh hưởng gì.

Rồi bà ngồi xuống ghế ngước nhìn thầy y tá bằng đôi mắt lạnh lùng ráo hoảnh. Thầy nhìn bà Tư, nói bằng một giọng dịu dàng, thông cảm:

- Bà mệt mỏi quá rồi. Để tôi về lấy chai thuốc bổ tới cho bà.

- Tôi không cần thuốc bổ. Cái chết của lão là liều thuốc bổ tốt nhất đối với tôi... Thầy...

Thầy y tá gạt ngang:

- Thôi, không nên nói xấu người quá cố nữa. Ai cũng biết ông Tư đối xử với bà ra sao rồi. Để tôi đi kêu ông Tám.

Chưa đầy nửa tiếng sau, ông Tám Tàng và một thanh niên phụ việc đẩy xe tới. Bà Tư đứng ngay cửa phòng chờ cho hai người vừa khiêng lão Tư ra là bà khóa cửa lại, bỏ chìa khoá vào túi áo:

- Tôi thề sẽ không bao giờ đặt chân vào căn phòng này cho tới khi tắt thở.

Hai người đàn ông lắc đầu thông cảm. Họ hiểu rõ cuộc sống khốn khổ nhục nhằn của bà bên ông Tư từ nhiều năm qua.

Những năm kế tiếp, bà Tư ra đồng làm việc cùng các lực điền, và dành dụm thêm được khá nhiều vào cái vốn đã đồ sộ của bà. Bà vẫn lạnh lùng, không hề hở môi và không hề có bạn, như lão Tư không hề có bạn.

Rồi hai đứa con bà lớn lên. Con Hoa lập gia đình rồi theo chồng về làng bên. Bà Tư không nói một lời. Thằng Đực lớn lên ra đồng làm việc phụ mẹ khiến bà giảm được một gánh nặng. Rồi thằng Đực lấy vợ và đem cô dâu mới về ở chung với bà Tư. Rồi lũ con nít ra đời, sáu đứa cả thẩy. Nếu những tiếng cười vô tư của bầy trẻ có khiến tâm hồn bà nội chúng mềm đi một chút, bà không hề để lộ ra ngoài. Suốt những tháng năm dài đó, một cái phòng, được gọi là phòng của nội, vẫn luôn luôn được khóa chặt. Cả gia đình không một ai nhắc nhở tới. Lũ trẻ biết có một cái gì - mà chúng cho là rất kinh khủng - ở bên trong nên mỗi lúc phải đi ngang phòng, chúng đi thật lẹ, và khi bóng tối bao phủ căn nhà, ánh đèn dầu lung linh tạo nên những hình nhân lắc lư rung động trên tường, chúng không bao giờ dám bước tới gần căn phòng của nội. Dĩ nhiên đầu óc trẻ thơ của chúng tưởng tượng thật nhiều.

Rồi một năm châu chấu phá hoại mùa màng. Năm sau trời hạn hán khiến giá thóc gia tăng trong khi lương bổng bị cắt giảm. Nhiều chủ điền cho thợ nghỉ việc.

Gia đình Hoa là một trong những nạn nhân đầu tiên. Mùa màng thất bát, chồng đau ốm rồi một đứa con ra chào đời! Vợ chồng Hoa bồng con về xin bà Tư cho ở chung. Bà Tư vẫn lạnh lùng như thường lệ, nhường cho vợ chồng Hoa một phòng.

Rồi tới phiên anh rể của Đực bị chủ điền cho nghỉ việc. Không công ăn việc làm, không tiền trả tiền mướn, anh ta cầu cứu vợ Đực. Nàng dâu bèn thưa chuyện với mẹ chồng.

Bà Tư, lúc này đã già, nói với con dâu bằng một giọng cương quyết trong bữa ăn chiều:

- Thêm bốn miệng ăn nữa cũng chẳng sao. Cho tụi nó tới đây. Nhưng... không biết rồi tụi nó ngủ ở đâu?

Hoa liếc nhìn Đực trước khi ngập ngừng nói lên cái ý nghĩ của tất cả mọi người:

- Phòng của nội. Mình có nên mở cửa phòng cho thoáng khí trước khi cho họ dọn vào không... mẹ?

Bầu không khí đột nhiên trở nên yên lặng nặng nề. Bà Tư liếc nhìn con gái trước khi lần lượt nhìn vào mặt từng người, gằn giọng:

- Mẹ đã thề không bước chân vào phòng đó cho tới ngày nhắm mắt.

Hoa thu hết can đảm:

- Nhưng mẹ đâu có bước vào đó làm gì. Nhà mình chật quá đâu còn chỗ nào khác nữa.

Bà Tư đặt đũa xuống bàn nói thật chậm rãi:

- Nếu có ai ngủ trong phòng đó, người đó phải là mẹ. Mẹ đã ở với cha tụi bay mười lăm năm trời, mười lăm năm đầy đắng cay thù hận. Cha tụi bay ghét mẹ hơn mẹ ghét ổng. Căn phòng đó đầy những sự thù ghét và sau mấy chục năm trời đóng kín, những sự thù ghét đó hiện đang sôi sục chỉ chờ cửa mở là tràn ra phủ ngập căn nhà này. Nhưng không sao, mẹ sẽ dọn vào đó.

Hoa nói bằng một giọng đầy hối hận:

- Phải chi con đừng đưa ra đề nghị đó. Con biết là có một cái gì giữa cha và mẹ nằm trong đó, nhưng con không biết...

Bà Tư ngắt lời con gái:

- Một cái gì mà con nói đó chính là sự thù ghét giữa mẹ và ổng. Nhưng không sao, mẹ đã già rồi, hơn bẩy mươi rồi. Chắc mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa...

Bà ngưng lại, đôi mắt già mỏi mệt nhìn thật xa xôi:

- Có thể đây là sự tiền định. Ổng nói rằng ổng sẽ chờ mẹ... Có thể... Ai biết!

Rồi bà đứng lên:

- Mẹ sẽ mở cửa phòng vào sáng ngày mai.

Dứt lời, bà mím chặt đôi môi, bước lên cầu thang về phòng ngủ trên lầu.

Vào phòng, bà Tư đóng cửa lại, ngồi yên lặng trên cái ghế nhỏ bên giường, đôi mắt mệt mỏi nhìn vào hư không trong khi cuốn phim dĩ vãng hiện ra thật rõ. Bây giờ, bà đang bị thúc giục mạnh mẽ bởi một ước muốn mà bà vẫn chôn chặt trong lòng từ gần một nửa thế kỷ, ước muốn của tất cả những kẻ sát nhân muốn nhìn lại khung cảnh phạm trường.

Ước muốn này đã tới với bà hàng ngàn lần trước đó nhưng lần nào bà cũng nén lòng được. Bây giờ, chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa căn phòng sẽ được mở ra, ước muốn lại trở về, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Căn phòng đóng kín đang réo gọi bà. Trong óc bà, một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ vang lên "Bây giờ! Bây giờ!". Tiếng nói này rất quen thuộc đối với bà vì đó là tiếng nói của chính ông Tư, người bà thù ghét, người bà đã giết chết!

Bà lặng lẽ đứng dậy, bước tới tủ áo, ngồi xuống mò dưới đáy tủ lấy cái chìa khóa mà bà đã giấu kín hàng mấy chục năm trời. Rồi bà trở lại ngồi trên ghế lắng nghe những tiếng chân lần lượt về phòng. Một lúc sau, căn nhà tối tăm đã hoàn toàn yên tĩnh.

Bà Tư đứng dậy hé cửa nhìn ra dẫy hành lang. Tất cả đều đã ngủ yên. Bà bèn trở vào phòng cầm cây đèn dầu, mở cửa thật nhẹ rồi rón rén bước xuống cầu thang.

Ngoài trời không khí bỗng trở nên nặng nề dường như muốn bão. Bà nghe tiếng gió rít qua những cành cây. Có một cái gì tương tự như tiếng gió than van ngoài đêm tối? Bà Tư ngưng lại, nghiêng tai lắng nghe và đột nhiên ký ức trở về thật rõ. Bà lẩm bẩm: Giống như đêm trước khi lão chết.

Tim bà đập mạnh hơn khi đứng trước cánh cửa đen ngòm, lạnh lùng của căn phòng chứa đầy thù hận. Sau một thoáng ngập ngừng, bà chuyển cây đèn sang tay trái, tay mặt lấy cái chìa khóa đút vào ổ khóa... Bà vặn nhẹ... Ổ khóa không chuyển động... Bà vặn mạnh hơn... Cạch! Ổ khoá bật ra. Bà đứng yên một lát, bàn tay đặt trên nắm cửa. Tự nhiên bà run lên vì lý do gì không rõ. Bà lẩm bẩm:

- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ... Lão sẽ chờ...

Bà vặn nắm cửa, đẩy mạnh. Cái bản lề cũ kỹ rít lên phản đối trước khi cánh cửa bung ra... Một làn sóng hận thù từ trong phòng tràn ra phủ kín người bà.

Bà chậm chạp bước vào, đôi môi mím chặt. Giơ cao ngọn đèn dầu, bà quan sát mọi vật trong phòng. Đó là cái giường với tấm khăn trải giường nhăn nheo, nơi ông Tư thở hơi cuối cùng - hay không thể thở hơi cuối cùng? Đó là cái gối mà ông Tư gối đầu trước khi nhắm mắt. Mọi vật không hề thay đổi.

Bà Tư thoáng nhớ rằng cả thầy y tá lẫn ông Tám Tàng, những người cuối cùng đặt chân vào căn phòng này đều đã ra người thiên cổ. Kế bên đầu giường là một cái bàn nhỏ nơi vẫn còn cái ly mà bà pha thuốc độc cho ông Tư.

Bà lẩm bẩm:

- Lão đã nói là lão sẽ chờ...

Căn phòng thật ẩm thấp và bụi bặm. Bà Tư khép cửa lại, đặt ngọn đèn dầu lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ly rồi bước tới bên cửa sổ, mở toang cánh cửa. Một ngọn gió từ bên ngoài lùa vào, rít lên...

Ngọn đèn chợt lung linh vì gió tạo nên những bóng đen quái đản nhảy múa trên tường. Trên lưng ghế, chiếc khăn lông mà bà dùng đè cho ông Tư chết ngộp đã trở thành vàng khè, tuy bà vẫn nhìn thấy thật rõ một đốm đen ở chính giữa, đốm đen mà bà biết là những giọt nước rãi cuối cùng của ông Tư.

Bà bước tới giữa phòng, đôi mắt vẫn không rời khỏi đốm đen trên chiếc khăn lông. Rồi bà lập đi lập lại:

- Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ... Lão sẽ chờ...

Đột nhiên một cơn gió mạnh thổi ào qua khung cửa sổ. Ngọn đèn chao lên trước khi tắt ngấm.

Bóng tối bất ngờ khiến bà Tư hoảng hốt. Lần đầu tiên trong đời bà biết sợ! Bà liếc nhìn về phía cái giường, và chợt nhận thấy dường như có một người đang nằm, mặt quay về phía bà đưa tay vẫy vẫy. Bà run rẩy bước lui trước khi té ngồi xuống ghế. Một cơn gió mạnh thổi chiếc khăn lông bung lên chùm kín mặt bà Tư. Bà hoảng hốt giẫy giụa trong bóng tối và cảm thấy chiếc khăn lông như một con bạch tuộc với những cái vòi gớm ghiếc đang xiết chặt quanh cổ bà. Bà đưa hai tay lên cố kéo mạnh chiếc khăn lông ra trong khi bên tai bà, tiếng ông Tư vang lên mồn một: "Tao sẽ trở về từ đáy mộ... Tao sẽ chờ mày..." Sáng sớm hôm sau, người ta thấy bà Tư nằm chết trong căn "phòng của nội". Quanh cổ bà là chiếc khăn lông vàng khè, chiếc khăn mà bà dùng hạ sát ông Tư.

HẾT

5.NGƯỜ ĐẸP ĐÔNG PHƯƠNG

Cách đây mấy năm, chúng tôi còn là một lũ học sinh ở trọ một căn gác tại Hà Nội. Một buổi tối thứ bảy trời mưa, chúng tôi ngồi nói chuyện đoán đến cách chết của mỗi người sau này.

Phát nói một cách khôi hài:

- Chắc chắn rằng mau hay lâu đây tôi cũng thua một trận oanh liệt với mấy đạo quân vi trùng lao đã một năm nay đi dạo trong phổi tôi.

- Tôi có thể tin ở bệnh đau ruột của mình.

Sau lời ý, đến tôi.

Thanh, họa sĩ nói:

- Tôi chết vì đàn bà.

Hạ cười:

- Thật không?

Thanh ngừng một lúc rồi thong thả:

- Không, tôi sẽ gãy đổ vì nghệ thuật.

Sự sống và cuộc đời đưa chúng tôi về một nơi xa khác nhau. Năm năm sau, tôi gặp Nam, Cử nhân luật ở Sài Gòn. Nam rủ tôi cùng đi ăn cơm tối. Khi tôi tỏ ý hỏi thăm các bạn cũ còn ở Hà Nội, thì Nam nói:

- Bây giờ họ không còn đủ hết đâu!

- Tại sao thế?

- Mấy người đều theo đúng lời bàn đoán trước của họ. Anh còn nhớ buổi tối chúng ta nói đến cách chết của mỗi người sau này?

- Phải, nhớ lắm. Nửa năm sau đó tôi về đây, rồi trôi dạt khắp nơi đến nay gặp anh.

- à, Phát là người đi trước, sáu tháng sau, hắn chết lúc gần kỳ thi.

- Chúng ta cả thảy là sáu - ba đứa đều đi theo mỗi cách chết riêng. ý thì lẽ tất nhiên vì bệnh đau ruột. Tứ thì vỡ não vì quá trụy lạc. Thần chết cũng chiều theo ý muốn của người đấy chứ!

- Còn Thanh họa sĩ thì thế nào?

- Thanh đã theo đúng lời hơn hết trong bọn chúng ta. Hắn gẫy đổ vì đàn bà và nghệ thuật.

- Hắn chết vì đàn bà?

- Đã mấy tháng nay Thanh ở trong nhà thương điên, thuộc vào hạng không chữa được. Người thiếu nữ làm kiểu mẫu của Thanh tan ra vì khoái lạc, dưới những cái hôn nồng cháy của hắn rồi bốc lên não làm cho hắn thành điên.

/ 72

Tôi tưởng Nam nên khôi hài một lúc khác thì hơn.

- Không, tôi có khôi hài đâu, sự thật là thế. Nam khẩy tàn thuốc, gọi thêm một cốc rượu rồi nói:

- Câu chuyện tóm tắt như tôi đã nói với anh: một thiếu nữ trẻ, đẹp chừng hai nghìn tuổi, mà Thanh vẽ rồi yêu, tan ra vì khoái lạc trong lúc Thanh âu yếm. Vì thế mà Thanh trở nên điên. HẾT! Nhưng nếu muốn rõ ràng, tôi có thể kể lại cho anh nghe.

Rồi Nam thong thả tiếp theo:

- Lúc anh từ giã Hà Nội, bốn tháng sau Thanh đến vẽ cho "Cổ viện á Đông". Tìm một họa sĩ chuyên về lối phương Đông như Thanh không phải dễ dàng. Thanh là một thiên tài và cũng vì thế mới đưa hắn vào nhà điên.

Độ ấy viên hội trưởng "Cổ viện á đông" có mua được một thứ đồ cổ rất quý, ở miền bắc á châu, không thể định giá được là bao nhiêu, vì trên mặt đất này chẳng có một vật thứ hai như thế. Đó là một khối nước đá lớn, đã mấy nghìn năm nay đựng một người đẹp còn giữ được thân thể nguyên vẹn nằm trong đó.

Việc chở "Người đẹp Đông phương" về rất khó khăn. Cái phòng làm chỗ ở cho người đàn bà lại khác lạ lắm. Một tòa nhà hai mươi thước bề cao, bốn mươi thước bề ngang và khá dài. "Cổ viện á Đông" muốn giữ được vẻ đặc biệt, cho "Người đẹp Đông phương" ở một căn phòng xây dưới đất, cả một tháp nước đá, mà nhờ các máy, khí hậu ở đây luôn luôn giá lạnh. Hai lớp cửa sắt phủ nước đá phía trong ngăn cách một gian phòng ấm áp ở ngoài. ánh đèn khí đặt rất khôn khéo chiếu sáng cái tháp mùa đông.

Ai muốn vào xem "Người đẹp Đông phương" thì phải có giấy phép của viên hội trưởng "Cổ viện á Đông". Thế rồi một người đến, và sự gặp gỡ này tai hại cho cả hai.

Thanh là người đã được chứng kiến lúc rước người đẹp đến. Nhân dịp này, có người chụp vài tấm hình về cuộc đón tiếp, nhưng hư hỏng gần hết, vì tảng nước đá phản ánh sáng, một người đàn bà bị thay đổi, như ở trong một tấm kính trá dạng. Bởi thế viên hội trưởng nhờ Thanh vẽ nàng để gửi bức tranh ấy qua trường Bác Cổ Pháp. Thanh nhận lời.

Thế rồi một sự dị thường đi qua tâm trí Thanh. Về sau các người canh giữ nhà nước đá nói rằng lúc đầu họ không thấy gì lạ trong các cử chỉ của Thanh, nhưng mấy ngày cuối cùng phải để ý vì thấy có khi họa sĩ ngồi yên hàng giờ, mắt chăm chú vào người đẹp, không vẽ một nét. Một hôm lạnh, tay cầm bút họa run, Thanh thôi, và cũng vẽ xong một bức chứa chan tài nghệ.

Trong mấy ngày trước khi thôi vẽ, Thanh nói với mấy người canh giữ ra ở phòng trước. Ban đầu họ không lấy làm lạ và cho là lòng tử tế của họa sĩ muốn được ở gian ngoài ấm áp hơn là gần khối nước đá lạnh lẽo. Thanh còn cho họ tiền riêng để họ mặc yên một mình họa sĩ. Hai lần, ở căn phòng trước, họ nghe tiếng nói trong gian phòng nước đá, và nhận ra là giọng của Thanh.

Về độ này, một hôm Thanh nói chuyện cùng viên hội trưởng mượn các thìa khoá trong gian phòng để người đẹp. Thanh muốn vẽ một bức tranh lớn về nàng và cần phải được luôn luôn tự do vô ra. Theo trường hợp khác thì Thanh đã được nhận lời, nhưng trong lúc ấy, cử chỉ của Thanh và cách yêu cầu có vẻ khác thường làm cho viên hội trưởng nghi nan liền từ chối một cách lịch thiệp. Thanh run người lên, nói vài câu vô nghĩa rồi vội vã ra ngoài, không chào nữa. Lẽ tất nhiên thái độ lạ lùng ấy làm cho viên hội trưởng thêm nghi ngờ. Ông ta bảo cùng những người canh giữ "Cổ viện á Đông" không được để một người nào vào gian phòng nước đá nếu chẳng có giấy phép có chữ ký của ông ta.

Sau đó có tin ở Cổ viện rằng có người định đánh đuổi tên canh gác để vào trong tháp nước đá. Người ấy không ai khác hơn là Thanh. Ông hội trưởng hay tin, tìm đến nhà Thanh gặp lúc Thanh đang ngồi trước đồ vẽ, mặt úp trong hai tay. Thấy khó cắt nghĩa về việc đã xẩy ra, Thanh lễ phép mời viên hội trưởng đi ngay khỏi căn phòng mà Thanh là chủ nhân. Thấy họa sĩ có vẻ kỳ dị, ông nhún vai ra về và đặt thêm ba ống khóa bí mật ở cửa phòng "Người đẹp Đông phương" và giữ chìa khóa trong tủ sắt ở buồng giấy riêng. Trong ba tháng, không có sự gì xẩy ra. Mỗi tuần hai lần viên hội trưởng cùng hai người canh giữ coi về các máy lạnh tự mình vào thăm người đẹp.

Mỗi ngày, Thanh vào phòng họa nhưng không làm việc nữa, nước thuốc khô lại, bút vẽ bừa bãi không rửa. Có lúc, Thanh ngồi hàng giờ trước giá vẽ hay là đi lui tới luôn trong phòng không nghỉ. Cách nửa tháng, một buổi khuya, tôi gặp Thanh trong một tiệm cà phê bán sáng đêm. Lạnh lùng bơ phờ, Thanh bắt tay tôi, chỉ nói một câu:

- Tôi mới bán ba bức tranh cho một người Pháp được gần một ngàn đồngRồi im lặng ngồi nhìn tách cà phê đậm đen cho đến lúc trời hừng sáng, Thanh đứng dậy nhìn tôi cười gượng đầy cả buồn rầu ra về.

Vắng Thanh khá lâu, một hôm tôi đọc thấy trên báo rằng Thanh và đồng lõa, một người thợ khóa, và tên canh giữ "Cổ viện á Đông" bị truy tố. Người thợ khóa có tiền án trốn thoát; tên canh giữ bị bắt thú nhận hết: Thanh năn nỉ nếu hắn ngủ yên trong đêm phiên gác thì sẽ cho một trăm đồng. Được món tiền lớn hắn nhận lời. Lúc chín giờ tối Thanh đến Cổ viện với một người thợ khóa, tên canh giữ mở cửa cho hai người vào phòng giấy của viên hội trưởng.

Tên thợ khóa mở cửa vào, rồi đem ra thử đủ các kiểu thìa khóa để mở tủ sắt. Hắn không phải khó nhọc lắm, vì ống khóa tủ sắt làm theo một kiểu xưa, Thanh lấy mấy cái thìa khóa để trong đó và đóng lại. Rồi cả ba người vào trong Cổ viện mở các ống khóa bí mật ở tòa nước đá để vào văn phòng trước.

Thanh bảo tên canh giữ đốt củi ở lò sưởi cho được ấm áp rồi bày thuốc màu và đồ vẽ đem theo. Thanh đưa cho tên canh giữ số tiền đã hẹn và cho tên thợ khóa ba chục rồi bảo đi ra để yên một mình Thanh. Hai đứa ra uống rượu mừng được món tiền lớn, rồi người thợ khóa đi, tên canh giữ ngả ra ngủ cho đến sáng.

Tình cờ ngày sau lại gặp hôm viên hội trưởng đến thăm người đẹp. Thấy cánh cửa sắt khóa ở trong, ông cho tìm một người thợ khóa và báo tin cùng sở cảnh sát. Sau một giờ phá, cạy, cái cửa sắt nặng rơi rầm xuống trong gian phòng ngoài. Một mùi thối ghê gớm hắt vào mặt bắt họ muốn nhào lui, long óc. Viên hội trưởng bịt mũi bằng khăn tay, chạy vào thì thấy khối nước đá đã tan vỡ và ở phía giữa, người đẹp biến mất.

Thình lình trong góc, một giọng rền rĩ, than vãn nghe như không phải là tiếng của người. Thanh đang cựa quậy trong đống nước đá bị ướp lạnh đến nửa người. Mặt và hai tay đầy máu, mình mặc sơ mi và quần áo rách hư. Hai con mắt của Thanh như lìa ra khỏi sọ dừa, nước bọt chảy đầy cả miệng. Người ta đem Thanh ra khỏi nơi này rất khó khăn. Trả lời cho những câu hỏi, Thanh chỉ lập cập nói không đâu. Khi muốn đưa Thanh ra căn phòng trước thì hắn la hét và vùng vẫy chống cự lại. Bốn người phải giữ lấy Thanh nhưng lúc đem ra gần cửa phía ngoài thì hắn giật thoát được, với một tiếng hét ghê gớm rồi chạy vào một góc trong xa. Một sự giày vò điên cuồng đưa lại cho cái thân hình đã giá cứng một sức mạnh lạ thường khiến những người canh gác phải bắt trói chân tay Thanh lại, khiêng đi như một con vật. Ra đến trước cửa Thanh còn cố gỡ thoát ra với một tiếng kêu rùng rợn, rồi rơi xuống đất, đầu gối trên một tảng nước đá, bất tỉnh.

Người ta mới chở Thanh vào nhà thương và ở đây, cách ba tháng sau, đưa vào nhà điên. Tôi có đến thăm Thanh một lần trông thảm hại quá. Hai lỗ tai và bàn tay mặt cứng giá lại, độ mười lăm phút, thì một cơn ho dữ dội làm run rẩy cả mình Thanh. Sau một đêm ghê rợn trong gian phòng nước đá, Thanh chẳng có một lúc yên. Một cơn mê sảng ghê gớm giày vò hắn cả ngày lẫn đêm.

Tôi sôi nổi giục Nam.

- Nhưng mà trong đêm đó tại "Cổ viện á Đông" đã xẩy ra những gì?

- Tôi đã hết sức chú ý, thu nhặt đến những tài liệu gần như vô ích để đi tới sự hiểu biết rõ ràng. Tôi sục sạo những tranh vẽ, các hộc bàn của Thanh; ở đây, một nét vẽ, chỗ kia một hàng chữ, cắt nghĩa cho tôi biết thấu những dây tơ tưởng, những giấc mơ của Thanh. Có lẽ tôi phải nghĩ ra nhiều trường hợp nữa, nhưng tôi chắc không đến nỗi phải lầm.

Nguyễn Thanh là một người khác thường. Thanh đi trên cuộc đời với một giấc mơ trong tâm hồn. Đối với Thanh cái gì rồi cũng ra tro bụi trong nháy mắt, cái xác con chó chết thối tha bên đường cũng như hình ảnh người đàn bà đẹp nhất bằng xương bằng thịt. Thanh muốn sự không bao giờ có thực hiện. Phải có một cái đẹp nữa, đứng trên cả thời gian và không gian: sự bất diệt.

Và sự vô vọng ấy đã thành sự thật: nhà nghệ sĩ đã tìm được nàng bất diệt, "Người đẹp Đông phương" - Một người đàn bà đẹp, đã sống mấy ngàn năm trước đây ở một góc trời á đến làm kiểu mẫu cho Thanh. Nàng đã đặt mình nằm trên sức mạnh của thời gian để gặp Thanh. Nàng đã chết. Nhưng cần gì? Thanh nói thế, dẫu nàng chết đi rồi, sao Thanh lại không có thể yêu? Người xưa đã yêu một pho tượng đá và pho tượng đã cảm động hóa ra người. Người đẹp phương Đông đã thắng được sức mạnh của thời gian trong khi loài người tiêu tan trở về với cát bụi. Nhà nghệ sĩ theo đuổi sự bất tử liền ôm ấp lấy sự phi thường ấy.

Cứ mỗi lần Thanh đến ở Cổ viện để vẽ người đẹp, thì trong hồn càng in sâu bức tranh tượng trưng sự thắng lợi của sắc đẹp trên thời gian. Và bởi đây, trí tưởng điên cuồng của nhà nghệ sĩ đã nẩy nở ra cái hoa đẹp nhất mà không bao giờ một người trần gian nào được hưởng: ái tình và Nghệ thuật hòa nhịp đời đời. Nhưng mà không phải Thanh vẽ người yêu ở trong khối óc đá. Nàng phải được tự do nằm ở gần chàng. Dưới chân nàng thời gian giết hại bất lực quỳ trước nhan sắc thắng thế.ý nghĩ đem nàng ra khỏi khối nước đá ăn sâu trong tâm hồn Thanh và những sự khó khăn phải gặp chỉ làm cho Thanh thêm bồng bột muốn đi ngay đến định tưởng. Với số tiền đã bán được mấy bức tranh, Thanh đưa cho tên canh giữ và người thợ khóa, Thanh có thể thực hiện được ý muốn. Trong thời kỳ viên hội trưởng cấm không cho Thanh vào Cổ viện, sự ước muốn gần người đẹp càng sôi nổi trong đầu óc Thanh. Và chàng đã tìm đến "Người đẹp Đông phương".

Trong khối nước đá, nàng như muốn đi ra với Thanh. Hai mắt người đẹp như chăm chú nhìn Thanh, bàn tay nàng như ra dấu trước sự mờ loạn của Thanh.

Chàng rút cái rìu nhỏ đem theo trong túi ra bắt đầu làm việc.

Nhưng với một vật nhỏ như thế không phải là dễ dàng, Thanh đã phải làm việc rất lâu. Từng lúc người đẹp như thúc giục chàng với đôi mắt xanh biếc.

- Gắng lên, người yêu của em! Chỉ trong chốc lát là em sẽ ở trong tay anh!

Bốn bề nước đá vỡ vớt ra từng mảng. Thanh phá mãi, và bồng được người đẹp ra ở phòng ngoài ấm áp và tiếng nổ trong lò sưởi như hát một điệu nhạc lạ lùng.

Nhẹ nhàng, Thanh đặt nàng trên ghế dài rồi bắt đầu vẽ. Với một sự sôi nổi dị thường, một cảm hứng kỳ lạ, Thanh đặt hết thiên tài vào tác phẩm của mình. Trong khi ấy, lửa ở lò sưởi cháy rực làm không khí trong phòng trở nên nóng bức. Mồ hôi nhỏ giọt ở trán, Thanh tưởng là sự kích thích của linh hứng đã làm cho chàng nóng nảy nên cởi áo ngoài ra mặc sơ mi để vẽ.

Có phải môi nàng đã cử động không? Thanh chăm chú nhìn nàng, môi dưới của người đẹp như thoáng một nét cười. Thanh dụi mắt tưởng mình lầm lạc. Nhưng tay nàng se sẽ cử động như tỏ dấu cho Thanh lại. Thanh vứt bút vẽ vội vàng đến bên nàng. Chàng quỳ xuống, nắm lấy bàn tay xinh đẹp in mấy làn gân xanh nhạt Nàng để yên cho Thanh. Chàng ấp vào bàn tay, ngẩng đầu lên nhìn rồi ngả mình vào lòng nàng, nhắm mắt hôn má, môi, cổ, làn ngực trắng nõn nà.

Xác thịt tan rữa, hôi nồng nặc dính vào người Thanh. Chàng lùi vài bước. Những nét đẹp mất dần... Một mùi thối ghê gớm, không thể chịu nổi lấn át Thanh và theo hơi nóng của lửa càng tăng thêm. Xác người đàn bà đẹp chảy ra. Trước mắt Thanh, một cảnh tượng khủng khiếp đi sâu vào trí não chàng: thời gian, cái vĩ đại tàn ác trả thù.

Thanh muốn trốn thoát, chạy ra cửa... nhưng thìa khóa đâu? Trong lúc ấy, Thanh không còn lý trí nữa. Chàng đánh đầu đến chảy máu, nhưng cửa sắt vẫn đóng chặt. Và cứ mỗi lúc cảnh rùng rợn càng tăng thêm. Thanh cảm thấy mùi thịt rữa nát bấu cắn lấy mũi, miệng chàng. Thanh hét lên như một con vật bị cắn họng, chàng đâm mình vào trong phòng nước đá rồi ngồi yên trong một góc mặc cho sự hối hận vò xé, đay nghiến.

Và đây, ta thấy con người bé nhỏ rồ dại tưởng có thể giãy đạp thời gian ở dưới chân.

HẾT

6.NGẪU HOA

Huyện Thương Khâu , tỉnh Hà Nam , có nho sinh tên Tống Văn Học, đến khách cư ở đất Hàng Châu thuê một gian nhà bên bờ hồ Tây làm nơi trú ngụ.

Nơi đây hoang vu vắng vẻ ít có người lui tới nên cỏ dại , giây leo mọc kín cả tường lẫn mặt đất, trông tưởng như là một tấm chăn xanh biếc. Tuy vậy, phong cảnh lại thật là u nhã, tú lệ dị thường.

Trước cửa nhà Tống có một hồ sen. Cứ vào khoảng mùa Hạ sang Thu thì sen đua nhau nở rộ, hương thơm theo gió thổi bay tỏa lan khắp mặt hồ. Tống lại vốn là người yêu sen một cách đặc biệt , nay được dịp ngắm sen nở từng đóa, ngửi hương thơm bát ngát, hứng thơ trong lòng bộc phát, bèn làm luôn một bài thơ đề là Liên Hoa Phú , để vịnh hoa sen và bày tỏ tấm lòng yêu thích sen của chàng..

Một hôm vào ngày mùa Hạ , Tống đứng dựa cửa để ngắm sen. Bất chợt chàng thấy xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ , có hai người con gái đang chèo hái hoa giữa hồ.

Một nàng mặc áo hồng. Một cô mặc áo tím. Cả hai trông đều phong tư tiêu sái , diễm lệ khác thường. Duy người con gái mặc áo hồng, nhan sắc lại có vẻ mặn mòi hơn.

Ngày đầu, Tống không biết hai nàng từ đâu tớị Sang ngày thứ hai chàng lại thấy hai nàng xuất hiện vào khoảng giờ Thân đến giờ Dậụ Rồi sau đó , cứ vào khoảng chiều chiều, không ngày nào, Tống không thấy hai nàng.

Lúc mới, Tống còn e dè gái trai cách trở, không dám hỏi han. Sau thấy nhau đã nhiều lần, chàng mới mạnh dạn, buông lời bắt Chèo thuyền là việc nguy hiểm. Còn hái sen cũng không phải là một việc gấp, cớ sao hai đằng ấy, ngày nào cũng đi hái sen như vậy, không sợ lỏng chèo buông mái ngã xuống hồ chết hay sao?

Cả hai nàng chỉ tủm tỉm, che miệng cười khúc khích không đáp. Không thấy bị quở trách, Tống được thể, lập tức lòng xuân dạt dào sôi động, bèn lả lơi ong bướm:

- Nhà tớ ngay đây, mời hai đằng ấy quá bộ uống ấm trà cho vuị

Người con gái áo hồng vẫn giữ im lặng, không trả lời , cố ra sức chèo thuyền lánh đi chỗ khác. Nhưng cô áo tím lại quay thuyền hướng vào bờ, đến bên chỗ Tống.

Tống bảo cô áo tím rằng:

- Người ta đã muốn "làm đồng đạo" chứ , thì cứ đi , ngại gì, để xem người ta đãi đằng ra sao chứ?

Từ lâu, Tống sang độc thân một mình , mỗi lần gặp người lời khác phái , trong lòng thường hứng khởi xôn xao vạn phần. Huống hồ đây lại là hai nàng, người nào cũng như hoa như ngọc.

Tống trong lòng mừng lắm , sung sướng như con sẻ nhỏ , bèn quay gót đi trước , dẫn đường cho hai nàng.

Trong nhà Tống chỉ có người lão bộc , lo việc phục dịch cơm nước cho chàng. Ðột nhiên lão thấy Tống đem về nhà một lúc hai mỹ nhân, lòng không khỏi kinh ngạc , nghi ngờ đem lời hỏi han.

Tống chẳng biết trả lời sao, chỉ đành trí trá đáp:

- Ðây là hai cô em họ tôi, từ xa đến thăm. Lão cấm tuyệt không nói cho ai biết , kẻo làm phiền khách đấy nhá!

Người lão bộc nghe dặn, gật đầu vâng lịnh rồi xuống bếp lo cơm nước , không có thì giờ hỏi rõ thêm chuyện hơn nữạ

Hai người con gái thấy vậy, cũng bật cười nhìn nhau.

Nàng áo tím nói:

- Ai dám bảo "người ta" là học trò dốt nát nào! Mồm năm miệng mười , dối trá hơn cuội như vậy mà không hề chớp mắt.

Tống nghe nàng áo tím nói thế cũng hơi có ý thẹn đỏ mặt , cười gượng gạo cho quạ

Sau đó, cả ba chẳng còn cấm kỵ , khách sáo chi nữa, cùng nhau đùa cợt lả lơi, cao hứng quên mất cả trời đã về khuyạ Khi Tống hỏi tính danh quê quán của hai nàng , thì nàng áo hồng nói:

- Thiếp tên Ngẫu Hoa, con tiểu tỳ đây là Lăng Hoa , nhà ở trên hồ này, không xa xôi gì , cũng là lân cư với chàng đấỵ

Rồi cũng tiếp tục đàm đạo rất là tương đắc.

Mãi cho đến lúc thật khuya, hai nàng vẫn còn tỏ ra quyến luyến không muốn từ biệt. Bèn tắt đèn lên giường cùng nằm với Tống, quấn quít mây mưa cuồng loạn.

Chừng có tiếng gà gáỵ Trên trời sao mai lấp lánh, hai nàng mới vội vã đứng dậy nói:

- Trời sáng rồi, bọn thiếp phải ra về thôi. Tống nào đâu có chịu, cố nài nỉ giữ lạị

Bỗng nàng áo hồng mặt hoa lộ vẻ u sầu, mày liễu ủ ê, bùi ngùi hồi lâu , mới bảo Tống:

- Thừa mong ơn chàng nhã áị Bọn thiếp lẽ nào có thể rời ngay chàng cho đành. Chẳng qua mệnh số, bọn thiếp bất đắc dĩ phải đớn đau mà giã biệt chàng. Bọn thiếp biết rõ chàng là người khoát đạt, hiểu rõ nhân tình, nên xin được cùng chàng bộc bạch. Hai chị em thiếp đều không phải người ta, mà là yêu hoạ Chàng như chẳng hề nghi ngại, chê bỏ thì xin ra giữa đám hà hoa ở ngoài hồ kia sẽ thấy một bông sen vô cùng diễm lệ. Ðó chính là thiếp. Còn bông hoa ấu màu tím ở bên cạnh, chính là Lăng Hoa đấy. Chàng có thể dời cả hai cây hoa ấy mang về nhà, nhưng chớ đừng làm hỏng rễ hay bất cứ tàu lá nào, nhẹ nhàng trồng lại trong một chiếc bình, rồi lấy nước hồ mà tưới. Trong nhà cũng xin chớ nuôi chó, sợ làm hoa kinh động. Bạn bè lai vãng, thì xin tránh bọn tục tằn , ác khách e làm ô nhục hoa. Như vậy, chị em thiếp sẽ có thể cùng chàng sớm chiều hoan hợp được.

Tống nghe nàng áo hồng nói xong, trong lòng vừa lo vừa mừng, ghi nhớ thật kỹ những lời nàng dặn. Rồi tiễn hai nàng ra hồ trở về nhà.

Lúc mặt trời đã lên cao, Tống chèo một chiếc thuyền con ra hồ, bơi đi bơi lại giữa đám hà hoa, để tìm kiếm bông sen mà nàng áo hồng đã dặn. Thì quả nhiên, thấy một bông sen hồng đẹp lạ lùng, rạng rỡ như ráng chiều, hương thơm nồng nàn như mùi băng xạ, cốt lại to hơn loại thường. Ngay bên cạnh, là một cây hoa ấu , mọc thẳng, dáng vẻ tự nhiên tiêu sáị

Tống trở về nhà, bỏ vàng ra thuê một ngư phủ, mang cả hai cây hoa ấy, lẫn bùn và rễ, về trồng trong một chiếc ang lớn.

Từ đó, chàng đóng cửa tạ khách, suốt ngày nằm bên cạnh hoa, để chờ tái ngộ mỹ nhân. Nhưng liên tiếp ba hôm như thế, không thấy hai nàng xuất hiện , lòng Tống đã cảm thấy mối nghi ngờ, tính tới tính lui, bồn chồn xao xuyến, chẳng rõ thiệt hay hư.

Ðến hôm thứ tư, giữa lúc Tống buồn buồn bất an, thiu thiu trong giấc ngủ trưa Hè, chợt bên tai nghe có tiếng xiêm y sột soạt, quét lê mặt đất, rồi tiếng bội ngọc leng keng thánh thót. Chàng mở mắt ra nhìn, té ra là Ngẫu Hoa và Lăng Hoa, đang đứng bên cạnh giường. Tống tung chăn ngồi dậy, mừng ơi là mừng, rưng rưng cảm động chừng muốn đổ lệ. Ngẫu Hoa bèn dịu dàng ôn tồn an ủi , nói:

- Nhờ chàng có lòng chăm bẳm nuôi dưỡng , ơn ấy thiếp nguyện ghi sâu, chỉ vì thể chất còn yếu , lại mệt mỏi vì nỗi thiện đồ, cho nên mấy hôm vừa rồi , thiếp phải nghỉ ngơi tỉnh dưỡng, không dám cử động , để cho chàng tịch mịch trông chờ, thật là áy náy quá.

Tống khẽ lắc đầu, đáp:

- Nhưng nay cùng được hai khanh xúm họp thường xuyên thế này, xá gì một chút vắng nhaụ Ta sống độc thân từ mấy năm nay, gặp toàn điều bất như ý. Hôm nay được cùng hai khanh kết nghĩa đá vàng, thì có chết cũng cam

Ngẫu Hoa nói:

- Có tấm lòng như chàng, trên đời này thật là hiếm. Chỉ cầu mong sao chúng ta cùng nhau chung sống trọn đời được hạnh phúc, cho dù có thân bại danh liệt, cũng chẳng xá chi cái kiếp sống nàỵ Vả lại, danh vọng chỉ là hư không, ví như những bọt nước nổi chìm trong thoáng chốc mà thôị Nếu chúng ta chẳng kịp hưởng lạc, thì có sống đến một trăm tuổi, cũng nào khác gì mấy con phù dụ Còn hai chị em thiếp đây, từ bỏ nơi rộng ngàn khoảnh, về sống trong ang nhỏ tí tẹo này, như cá trên thớt, như chim trong lưới, sự an nguy yểu thọ , khác biệt một trời một vực, nên nghĩ rằng thà lấy được người mình yêu mà chết còn hơn phải chịu côi cọc lẻ loị Rồi tặng cho Tống một bài thơ:

Ðan chỉ thiều quang dịch lão

Miết nhỡn sơ dương hựu huân

Tòng thử chiêu chiêu mộ mộ

Bắt cách thu thủy tự quân

Ba người từ đó như hình với bóng, không xa nhau một bước. Còn hai nàng Ngẫu Hoa và Lăng Hoa, danh phận tuy chủ tớ , nhưng đều lấy Tống làm chồng, nên thân thiết như chị em , áo quần hài vớ mặc chung , không phân biệt của người nào.

Nhưng sự đời , nào có ai học đến chữ ngờ , điều tốt đẹp khó được bền lâụ Một hôm Tống có việc phải ra ngoài, có hai người bạn của Tống đến thăm không gặp, thấy bông hoa ấu cắm trong bình đẹp mắt , bèn ngắt đem đi.

Ðến chiều , lúc Tống trở về thì Ngẫu Hoa vừa khóc vừa đem việc đã xẩy ra thuật lại cho Tống nghe, rồi nói:

- Như chàng còn có lòng thương Lăng Hoa thì hãy cứu lấy nó. Bằng không, thì thiếp chẳng đành tâm sống một mình trên thế gian này nữạ

Tống nghe nói cũng bi ai xúc động, hỏi:

- Vậy ta phải dùng thuật gì để có thể cứu Lăng Hoa?

Ngẫu Hoa đáp:

- Chàng chỉ việc bồi dưỡng rễ hoa cho kỹ. Mỗi sáng sớm dậy thì niệm tám mươi mốt lần Quan âm chú, sang năm Lăng Hoa có thể sống lại được.

Tống chiều theo lời Ngẫu Hoa dặn , bất kể mưa to gió lớn , sáng nào chàng cũng tâm thành tụng niệm, không gián đoạn ngày nào, lại còn thường xuyên đem nước hồ về chăm bẳm bồi thực cho rễ hoa ấu , ngày đêm không mệt mõi..

Một năm sau , quả nhiên ấu hoa sinh căn nảy rễ , rồi chẳng bao lâu , nở ra một bông hoa thật đẹp. Bỗng một hôm , Lăng Hoa thình lình xuất hiện, quần hồng áo tía, phiêu nhiên diễm tuyệt , tuy vóc dáng còn gầy ốm hơn trước.

Ðược gặp lại nhau , cả ba vừa mừng vừa tủi , kể lể hàn huyên không dứt chuyện.

Từ khi Tống được hai giai nhân ngày đêm bầu bạn, tinh thần trở nên thanh sảng phấn chấn hẳn lên , sách vở thi thư chỉ đọc qua một lượt là thuộc.

Lại đến năm sau, gặp ngày trọng Ðông, trời đại tuyết. Khí tuyết giá lạnh, làm nước trong bồn hoa bị đông kết thành băng. Tống chờ đợi mấy ngày liền không thấy mỹ nhân lại, lòng chẳng rõ nguyên cớ tại sao, chỉ một mình cô đơn, buồn khổ, quên ăn bỏ ngủ, ngồi bên cạnh bồn hoa, lâm râm cầu đảọ

Rồi Xuân qua Hè lạị Ngẫu Hoa bỗng đột ngột đến một mình, nét mặt buồn thảm, hình dung thập phần tiều tụy.

Tống ôm nàng vào lòng, rồi đặt ngay lên đùi, lấy tay lau nước mắt và vuốt tóc vỗ về an ủi, hỏi nguyên do nông nổi cùng sự vắng mặt của Lăng Hoạ Chỉ nghe nàng nức nở hồi lâu rồi òa khóc, nói:

- Lang quân còn lòng tư niệm đến Lăng Hoa sao? Vì cái lạnh khủng khiếp của mùa Ðông năm ngoái, Lăng Hoa đã chết rồị Thân thiếp cũng điêu đứng khổ sở, tuy may mắn thoát nạn. nhưng suýt nữa cũng vĩnh biệt dương thế tưởng không còn gặp lại lang quân nữạ

Tống nghe Ngẫu Hoa nói, lòng cũng xúc động vô cùng , đau đớn, than khóc cơ hồ muốn xỉụ Chàng hối hận tự trách mình đần độn, không biết cách che chở cho Lăng Hoa , để giai nhân phải mệnh một. Cũng may, chàng còn Ngẫu Hoa để bầu bạn, nên cũng không đến nỗi phải chết vì bi thống sầu muộn.

Tuy thế, Ngẫu Hoa mỗi ngày một gầy héo tàn tạ, vẽ ngọc tiêu điều khiến cho Tống muôn phần lo lắng. Bèn tìm thầy thuốc đếnLúc mới thấy mặt Ngẫu Hoa, thầy lang đã hồn tiêu phách tán. Lại thấy mạch của nàng kỳ dị, khác hẳn với những phụ nữ bình thường, nên chỉ để lại một thang thuốc. Ghi nhớ đường đến nhà , rồi vội vã ra về.

Nhưng ngày nào lão cũng đến nhà Tống nghe ngóng rình mò , mong sẽ được nhìn lại dung nhan người đẹp.

Thì may sao, một hôm Tống có việc phải đi ra ngoàị Bấy giờ vào quãng hoàng hôn, lão lén thấy Ngẫu Hoa một mình tản bộ bên bờ hồ, gót sen dịu dàng, dáng ngọc thanh tao , từng bước từng bước chậm rãi. Lão không cầm lòng được, ào tới muốn ôm chặt lấy Ngẫu Hoa , khiến nàng hoảng hốt sợ hãi , vùng vẫy nhãy vội xuống hồ. Lão cố vồ theo nắm lấy chân nàng giữ lại , nhưng chỉ nghe một tiếng "cắc" , chân Ngẫu Hoa đã bị gẩy một đoạn. Lão định thần nhìn kỹ bàn chân của Ngẫu Hoa trong tay lão , té ra chỉ là một đoạn cuống sen. Lão biết đó là yêu hoa ảo hóa , bèn đem chuyện mách cho Tống biết.

Tống một mạch chạy thẳng ra hồ , nhìn xuống hồ gọi Ngẫu Hoa khóc lóc thảm thiết. Nhưng nào đâu còn thấy bóng giai nhân nữạ Chỉ nghe tiếng gió vi vu lạnh lẽo thê lương, rờn rợn quanh hồ.

Tống có ý muốn đem việc lão thầy lang thô bạo ấy ra thưa quan phủ, nhưng người đầy tớ già cản lại nói:

- Ðây chỉ là yêu hoa ảo hóa , tướng công có đem việc thưa quan , phỏng có ích gì?

Tống cho là phải , chỉ đành ôm mối hận trong lòng.

Ngày hôm sau , chàng lại ra bờ hồ than khóc, bỗng chàng thấy một bông sen nhấp nhô chìm nỗi trên mặt nước. Chàng biết đó là di thể của Ngẫu Hoa, vớt lên mang về trồng lại vào bồn. nhưng chỉ được hai ngày , bông sen đã tàn tạ khô héo, Tống bèn sắm một cỗ quan tài gỗ thật tốt , đem hoa ra mai táng ở bên bờ hồ và làm một bài "Phú dung hoàn khiết phú" , để điếu nàng.

Sau đó , Tống xuống tóc làm tăng, vân du tứ hảị Cuối cùng không ai biết chàng đi đâu

HẾT

7.CON DAO ĐẪM MÁU

Câu chuyện xảy ra tại một ngôi làng kia có tên là làng Tân Hiệp. Dân làng ở đây sống bằng nghề mổ thịt và được cha truyền con nối từ đời này sang đời khác, có nhà đến 5-6 đời liền chuyên làm nghề mổ thịt. Làm nghề này họ cần phải có những con dao thật bén và nhọn. Mũi dao nhọn dùng để chọc tiết, mũi dao bén để cắt thịt. Có nhìn những bà, những cô hàng thịt mới biết đợ bén của lưỡi dao như thế nào. Con dao đưa tới đâu thịt của con vật bị cắt đứt ngay đến đó. Chặt xương như chặt bùn. Những người làm nghề mổ thịt thường là dân xóm chợ, trong xóm này có gia đình ông Giang chuyên làm nghề mổ thịt, nay đã 5 đời, cha truyền con nối chỉ dùng 1 con dao. Con dao dùng nhiều nên lưỡi mòn, bản dao thu hẹp lai chỉ còn khoảng 1 phần tư của con dao lúc mới làm nhưng nó vẫn còn bén vô cùng. Ông Giang nói ông nội của ông, cha ông và ngay chính ông đều dùng con dao này dể làm thịt. Nhìn con dao ai cũng bi꧴ là bén vô cùng. Ai sơ ý trúng vô nó là đứt tay ngay. Ông Giang nay đã ngoài năm mươi, con trai ông là Lập nay cũng tiếp tục nghề mổ lợn. Mỗi ngày ông hạ thịt ít nhất là hai ba con lợn để cho vợ ông và chi. Lập (vợ của anh Lập) đi bán. Ngoài ra cô Ðinh là con gái ông cũng đem thịt lợn ra bán ở những chợ gần nhà. Ông Giang chọc tiết lợn rất tài, chỉ cần một nhát dao là trúng ngay huyệt, máu chảy ra òng ọc và con lợn cũng mau chết, it' rên la hơn những con lợn bị mấy ông đồ tể khác chọc tiết sai huyệt. Anh Lập được cha truyền cho, chọc tiết lợn cũng rất chính xác. Từ ngày ông Giang năm mươi lăm tuổi ông giao hẳn công việc này cho vợ chồng anh Lập và cô Ðinh. Hai người đàn bà con gái này lấy tiết cũng taì tình không thua gì ông Giang và anh Lập. Lần đầu tiên phụ trách công việc lấy tiết, cả chi. Lập và cô Ðinh đều thấy rợn tay. Ohưng chỉ sau 1 lần cả hai chị em đều thấy lấy ti꧴ 1 con lợn sống còn dễ hơn mổ xẻ 1 con lợn đã làm lông. Diều lạ lùng là cả hai người khi cầm tới con dao gia truy꠮ kề vào cổ con lợn đều cảm thấy như có một sức mạnh vô hình nào đi꠵ kiển tay dao của mình thọc huyết con lợn rất trúng huyệt.

Chi Lập nói với chồng:

- Lạ lắm anh à, không cầm tới con dao chọc tiết thì thôi, cầm tới là em chỉ muốn được "lấy tiết".

Cô Ðinh cũng nói:

-Em cũng vậy chị ạ! Cầm tới con dao ấy, được chọc tiết 1 vài con lợn là điều thích thú. Không có lợn, giá có người cho em "lấy tiết" em cũng lấy, em tưởng tượng con người lúc ấy cũng chỉ là một con lợn cho em mổ thịt. Con dao như có thần.

Anh Lập nói:

-Con dao này từ đơì các cụ truyền lại tới nay đã có hàng vạn con lợn bị nó lấy tiết, làm lông rôìChắc là có thần" ,chi. Lập nói, thần dao chắc ưa máu lợn lắm !

Anh Lập hơi suy nghĩ, anh nhớ lại câu chuyện Nam Du Huê Quang. Huê Quang có nhiệm vụ trừ yêu quái lúc đó xuất hiện nhiều ở phương Nam, trong số những yêu quái có một con yêu do thanh long đao của Quan Vân Trường biến thành. Thanh Ðao vì đã chém nhiều đầu giặc, thấm máu người biến thành yêu và chỉ thích ăn thịt người. Còn con dao chọc tiết lợn nhà anh, đã trải qua mấy đời cha truyền con nối với hàng vạn con lợn bị nó chọc tiết làm lông mổ thịt, máu lợn phải thấm vào nó, nó cũng có thể thành yêu được như thanh long đao của Quan Vân Trường vậy. Nhưng nó chỉ dùng để giết lợn nên nó chỉ thèm máu lợn. Anh Lập nghĩ vậy nhưng không dám nói ra, sợ vợ và em gái anh không dám dùng con dao và cũng không dám lấy tiết thay anh nữa. Ngày tháng qua đi, ông Giang qua đời. Cnh Lập thay thế cha trong gia đình và nghề nghiệp. Gia đình anh tiếp tục mỗ i ngày hạ vài ba con lợn đ꿠cho bà Giang, chi Lập và cô Ðinh đem di bán. Trong ba ngươì ai cũng có dao riêng, duy có cô Ðinh là không có dao nên cô dùng luôn con dao chọc tiết để cắt thịt. Với con dao này thịt cua cô xẻ không bao giờ bị ế, có lẽ thần dao phù hộ cho cô. Con dao thật bén, cô Ðinh chặt xương cứ bay bay. Niới bán thịt ai cũng khen cô là chọc tiết lợn hay và pha xẻ lợn tài. Cô Ðinhh có một ý trung nhân, anh Trần cũng làm nghề đồ tể. Anh thường tỏ ý phục tài người yêu trong nghề lấy tiết. Anh thường khen:

- Em là con gái mà lấy tiết lợn còn giỏi hơn anh.

Cô Ðinh cười nói:

- Nghề cha, nghiệp mẹ mà anh, không giỏi kiếm ăn làm saỏ

- Khi lấy tiết em có ghê tay không?

- Nhân sát vật, trời sinh ra con lợn để cho mình chọc tiết mổ thịt, sao lại ghê taỷ Vả lại nó cũng quen đi. Bây giờ giá có phải lấy tiết ngươì vì nghề nghiệp em cũng phải làm.

- Em nói nghe phát sợ

Trần cười, Ðinh cũng cười theo. Dân làng vẫn sống bình thường, ai làm nghề nấy. Rồi, một hôm bỗng xảy ra những chuyện lạ khiến cả làng xôn xaọ

Ðêm đó tại nhà một người trong làng, nhà này có nuôi lợn, nửa đêm bỗng nghe có tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Mọi người trong nhà chạy ra chuồng lợn xem coi có chuyện gì thì thấy con lợn tuy vẫn còn nằm trong chuồng nhưng đã bị chọc tiết. Máu còn đang phun ra ồng ọc. Kẻ gian giết con lợn đã chạy mất. Mọi người bàn tán xôn xao và thắc mắc rằng tại sao ke gian chỉ thọc tiết con lợn mà lại không đem nó đi. Chuyện xảy ra ở một nhà, rồi những đêm sau chuyện này lại tái diễn ở những gia đình khác có nuôi lợn. Những ai trong làng có nuôi lợn đều để ý đề phòng. Một đêm tại xóm kia cạnh bờ sông, một nhà nuôi lợn nghe tiếng lợn chạy trong chuồng. Lập tức người trong nhà cùng với ba bốn người đàn ông lựlưỡng tay dao, tay rự chạy uà ra phía chuồng lợn. Con lợn vừa bị chọc tiết xong, đang dãy dụa với những tia máu đang phun ra. Một người ở lại lấy thau hứng tiết và đám người còn lại đốt duốc đi lùng tên giết lợn. Bỗng một bóng đen thoáng từ phía chuồng lợn chạy ra phía hàng rào và hướng về phía bờ sông. Mọi người duổi theo, tới bờ sông không thấy bóng đen đâu nữa. Mẵn đèn đuốc, người ta soi quanh sục sạo từng bụi rậm đến gốc cây gần bờ sông. Bóng đen không biết biến đâu mất, người ta chỉ thấy một con dao chọc tiết lợn nằm ngang trên bờ đê, mũi dao còn dính đầy máu. Nhặt con dao lên một người nói lớn:

- Dao chọc tiết còn đây kẻ gian chắc chỉ quanh quẩn đâu đây không xạ

Họ tiếp tục vác đuốc soi tìm, có người cho là ke gian bị đuổi gấp quá nên phải vứt dao lặn xuống sông. Cho nên là họ cho người thay phiên nhau đứng canh bên cạnh bờ sông, nhưng suốt đêm tới sáng họ cũng chẳng thấy ai dưới sông nhô đầu lên. Mọi người ra về, mang theo con dao chọc tiết đã nhặt được cùng hội họp ở nhà gia chủ đợi trời sáng hẳn mới đem trình lý trưởng. Sau khi nhìn kỹ con dao, một người trong xóm vốn cũng làm nghề mổ lợn nói:

- Con dao này chuôi sắt, lưỡi toàn thép, nhất định phải là con dao của nhà ông Giang. Con dao này sắc lắm, mấy đời cha ông ông Giang cho tới ông vẫn chỉ có một con dao này. Vợ chồng anh Lập và cô Ðinh cũng dùng nó để lấy tiết.

Ai nấy đều cho là đúng nhưng lại có ý kiến:

- Chẳng lẽ kẻ gian lại là anh Lập? Anh ta ngày nào chẳng làm thịt hai ba con lợn, hơi đâu di giết lợn của người khác.

Ngay sáng hôm đó, với sựàm chứng của mấy người hàng xóm, gia chủ tới trình lý trưởng về mọi sựiệc xảy ra đêm trước và mang theo con dao tang vật. Họ tới nơi quá sớm, lý trưởng chưa thức dậy nên họ phả i ngồi chờ nơi sân. Lý trưởng thấy có người tới trình mới dậy. Gia chủ thuật lại cho lý trưởng nghe mọi sựiệc đã xảy ra. Lý trúó?ng hỏi tới con dao, nhưng lạ lùng thay, con dao đã biến đâu mất. Mấy người họ nhìn nhau, người nọ ngờ người kia dấu, nhưng ai dấu đi đâu và dấu lúc nào. Dù mất con dao nhưng vẫn có người làm chứng. Lý trưởng ra lệnh cho Trương Tuần dẫn tuần đinh tới khám xét nhà anh Lập. Bọn họ kéo nhau tới nhà anh Lập. Khi tới nơi họ thấy vợ chồng anh vừa mới làm lông mổ thịt xong ba con lợn, mọi người đều ngạc nhiên. Vậy ra bóng đen chạy trốn lúc đêm qua không phải là anh Lập và cũng không phải vợ anh hoặc cô Ðinh. Cả ba người này đều hầu như không biết gì đến những việc đã xảy ra đêm trước. Vậy kẻ gian là ai? Anh Lập lấy làm lạ, thấy Trương Tuần dẫn tuần đinh tới nhà mình, khi được Trương Tuần cho biết lý do anh Lập mới cười bảo:

- Mỗi ngày nhà tôi làm thịt ba con lợn. Cả xóm đều biết, tôi còn đi giết lợn của nhà người khác làm gì. Con dao chọc tiết lợn của toỵ nó vẫ n đây, và sáng nay tôi vẫn dùng nó để lấy tiết ba con lợn.

Vừa nói anh vừa chỉ vào ba con lợn đã bị chọc tiết, cạo lông và mổ bụng. Anh lại chìa con dao ra và nói tiếp:

- Con dao chọc tiết của nhà tôi vẫn đây, nếu các bác nhặt được nó ở bờ sông thì sáng nay lấy dao đâu tôi làm lợn.

Trước sựiện đó, Trương Tuần, gia chủ và cả người làm chứng đều không thể buộc tội anh Lập được. Hơn nữa, bóng đen họ đuổi theo tới bờ sông thì biến mất, tất nhiên không phải anh Lập, vì cả gia chủ và những người làm chứng đều cho rằng kẻ gian giết lợn đã nhả y xuống sông không thấy nổi lên, chắc hắn đã bị chết đuối. Trương Tuần và mọi người kéo nhau ra về. Cô Ðinh bảo anh chị:

- Ngộ thật ! Nhà mình từ ông cố, ông sơ tới nay làm nghềmổ lợn, giết lợn để bán mỗi ngày cũng đã mệt, hơi đâu còn đꧮ chuồng lợn nhà người ta lấy tiết nữạ

Chi. Lập đồng ý với em chồng, còn anh Lập không nói gì hết tiếp tục làm nốt chỗ thịt lợn để còn đem đi bán. Vừa làm anh vừa trầm ngâm suy nghĩ sựiệc hồi sớm này đã xảy ra tại nhà anh trước khi Trương Tuần đến.

Nguyên sáng sớm hôm ấy, cũng như mọi ngày, vợ chồng anh và cô Ðinh dậy từ lúc gà gáy để làm lợn. Khi vợ anh tìm tới con dao chọc tiết xưa nay vẫn cài trên vách trong nhà bếp, chị ta không thấy nó. Chi hỏi chồng có cất đâu không, anh Lập trả lời anh cất dao làm gì? Chị lại hỏi cô Ðinh chiều hôm trước khi đi làm về đã cài dao vào chỗ cũ chưa, cô Ðinh cho biết là cô đã cài cẩn thận vào đó sau khi lau rửa như thường ngày. Ba người đều tìm nhưng họ tìm hoài cũng không thấy. Brời sáng dần anh Lập định lấy con dao bán thịt cua vợ để chọc tiết ba con lợn, bỗng anh nhìn lại trên chỗ cái nẹp cài dao thìcon dao vẫn cài nguyên ở đó. Anh mắng vợ và em đã quắng mắt. Con dao vẫn nằm nguyên đó mà tìm không ra, tuy chính anh cũng đã không tìm thấy. Búc đó trời đã sáng rõ, anh phai vội vàng cùng vợ và em vưࠤùng con dao gia truyền vưà dùng hai con dao khác, và ba người cùng lấy tiết, mỗ i người một con dao, để làm cho kịp có hàng bán. Vưࠬúc ba người làm xong ba con lợn thìTrương Tuần dẫn mọi người tới. Anh Lập tựﮧhĩ có lẽ vì trời chưa sáng rõ nên cả ba người không trông thấy con dao, nhưng anh vẫ n cho đây là một sựạ, trước giờchưa từng xảy ra. Phải chăng con dao đã thành tinh đi giết lợn của ngươì, rồi bị săn đuổi phải biến nguyên hình ở bờ sông? Và khi ở sân nhà Lý Trưởng thưࠬúc mọi người không để ý nó biến mất và trở về nằm nguyên trong nhà bếp. Anh nghĩ vậy nhưng không nói cho vợ và em nghe. Ngày hôm đó qua đi....và từ đó trong làng cứ cách vài ba đêm lại có nhàbị kẻ gian vào chọc tiết lợn ở trong chuồng. Cả làng Tân Hiệp bàn tán sôi nổi, Lý Trưởng ra lệnh cho Trương Tuần phai tăng cường canh giờ cẩn mật để cố bắt kẻ gian. Một buổi chiều, anh Lập cầm con dao nhìn mũi dao nhọn hoắc lại rất sắc, anh lẩm bẩm:

- Dao, có phải mày giết lợn không? Nếu là mày thì mày làm phiền cho nhà tao lắm...

Một hôm, vào buổi chiều, trong lúc ba người đàn bà đi bán thịt chưa về, anh sửa soạn đồ đạc chuẩn bị đi bắt mấy con lợn đã đặt mua tại một nhà trong làng để sáng hôm sau làm thịt, bỗng có khách. Khách là một đạo sĩ la. Ddưa khách vào nhà, sau khi mời trầu nước anh chưa kịp hỏi khách đến có việc gì thìkhách đã nói trước:

- Bần đạo tu ở núi Bách Kha, nhân đi qua đây thấy khu xóm này có yẻ khí bao trùm. Ði sâu vào trong xóm bần đạo thấy yẻ khí dầy đặc ở phía này, và nhiều hơn cả là nhà thí chủ. Có yêu khí tất có yêu quái ẩn náu. Bần đạo muốn vì dân làng, nhất là vì thiếu chủ trừ con yêu này để nó không quấy rối và báo hại mọi người. Vậy xin phép thí chủ cho bần đạo đi khắp mọi nơi trong nhà coi yêu quái ẩn nấp ở đâu, bần đạo sẽ dùng bùa trừ khử. Lời đạo sĩ khiến anh Lập giật mình. Anh nghĩ ngay tới con dao chọc tiết gia truyền. Anh nói: Xin cán ơn thầy, thầy đã có lòng muốn trừ yêu quái cứu dân, thật là may mắn cho làng chúng tôi lắm. Xin mời thầy xơi trà dùng nước, nghỉ ngơi một lát rồi tôi sẽ dẫn thày đi khắp nhà.

Khi hai người đang ngồi nói chuyên thì cô Ðinh đã về, và như thường lệ cô gài con dao chọc tiết vào cái nẹp trong nhà bếp. Anh Lập mời đạo sĩ đi thăm khắp nhà, và bỗng ông dừng lại chỗ con dao, khịt khịt mũi mấy cái như đánh được mùi gì khác lạ

Ông đưa mắt nhìn quanh rồi nói: - Yêu quái ẩn nấp nơi dây. Anh Lập nói: - Ðây là nơi thường ngày nhà tôi mổ lợn nên thầy ngửi thấy mùi máu lợn khô hơi tanh tanh đó. Ðạo sĩ không nói gì đi thẳng tới cái nẹp nơi cài mấy con dao bán thịt. Ông rút ngay con dao gia truyền của nhà anh ra nhìn ngắm rất kỹ và ông hỏi:

- Con dao này vẫn dùng để chọc tiết lợn?

Anh Lập gật đầu, ông không nói gì thêm cùng anh Lập trở lại nhà nơi tiếp khách. Tới đây ông bả o anh Lập:

- Con dao chọc tiết của thí chủ đã thành tinh, không nên dùng nữa. Con dao này được truyền từ ông tổ chúng tôi tới nay đã được sáu đời, chúng tôi không thấy gì khác. Bề ngoài không thấy gì khác nhưng nó đã là yêu tinh, thí chủ nên bỏ đi. Nếu thí chủ bằng lòng bần đạo sẽ yểm bùa nó rồi thí chủ đem vứt nó xuố ng sông hoặc chôn sâu dưới dất, ngăn không cho nó giở phép yêu ra được.

- Con dao này là của gia truyền từ cụ tổ, chúng tôi không dám vứt nó đi, e có tội với tổ tiên.

Ðạo sĩ có vẻ suy nghĩ 1 chút rồi nói:

- Nếu thí chủ không muốn vứt đi thìđể bần đạo yểm bùa rồi thí chủ cất nó vào một chiếc hộp hoặc chiếc vỏ dao, đừng dùng đến nó nữạ

Anh Lập có vẻ ngần ngại. Biết ý anh, đạo sĩ nói:

- Bần đạo biết thí chủ không muốn cất bỏ nó sợ phật ý vong hồn các vị tiền nhân. Thôi cũng đự念7907;c, vì giờ đây nếu con dao yêu tinh có hoành hành thì nó cũng chỉ giết hại lợn của người ta thôi, thí chủ phải để ý đừng để máu người giây vào nó. Biết mùi máu người nó se giết người.

Anh Lập hứa vâng theo lời đạo sĩ. Trước khi giã từ đạo sĩ trao cho anh một lá bùa và dặn rằng:

- Khi nào lỡ có máu người giây vào con dao, hoặc thấy con dao trở nên nguy hiểm, hại tới mạng người thì thí chủ dùng ngay lá bùa này quấn vào chuôi dao, lấy chỉ ngũ sắc buộc lại cất vào một nơi, yêu tinh sẽ không làm hại được ai nữa.

Anh Lập nhận lá bùa và tiễ n đạo sĩ ra cổng. Anh cất lá bùa vào ống hương trên bàn thờ, rồi anh cũng không để ý gì đến những lời của đạo sĩ đã căn dặn.

Thời gian trôi qua, thỉnh thoảng trong làng vẫn có những con lợn đêm hôm bị kẻ gian tới chọc tiết. Dần dà người ta quen đi, nhà nào có lợn bị giết, ngày hôm sau đem bán thịt và lòng cũng chẳng thiệt hại bao nhiêu chỉ mất có ít tiết. Anh Lập vẫn dùng con dao gia truyền để làm lợn và cô Ðinh ngày ngày vẫn mang theo dao đi chợ để cắt thịt, chặt xương bán cho khách hàng.

Trong một buổi chợ có một bà khách mua một mớ xương, mua xong bà mượn dao của cô Ðinh để chặt nhỏ những miếng xương lớn. Chiều khách cô cho mượn dao nhưng không ngờ bà khách loay hoay thế nào để lưỡi dao làm đứt tay chảy máu, máu ra khá nhiều loang khắp lưỡi dao. Người ta phải lấy vải buộc ngón tay cho bà. Việc này xảy ra cô Ðinh cũng quên đi và cũng chẳng ai chú ý tới, dùng dao sắc đứt tay là chuyện thường.

Vài đêm sau ở xã Ngư Ðại có chuyện lạ ! Có người đang ngủ tại nhà, bỗng nhiên bị chọc tiết như lợn, tiết ồng ộc chả y ra và chết ngay trên giường. Mạng người là quan trọng, Lý Trưởng phải bẩm quan, quan đã phái lục sựới khám nghiệm điều tra. Cả làng xôn xao về vụ án mạng này. Anh Lập sựnhớ tới lời đạo sĩ căn dặn, nhưng anh còn hồ nghi không biết có phải chính con dao là thủ phạm vụ chọc tiết người chăng??

Một vụ án mạng thứ hai lại xảy ra khi vụ thứ nhất còn đang trong vòng điều tra. Nạn nhân thứ hai này cũng bị chọc tiết như nạn nhân thứ nhất. Mũi dao đâm chính xác khiến kẻ bị giết không kịp kêu. Lý Trưởng, Trương Tuần lại bận rộn, Quan trên lần này phái Chánh Tổng Bất Phí về tận nơi để điều tra. Nnh Lập nghĩ tới lời đạo sĩ nói con dao chỉ có thể giết người khi lưỡi dao bị dính máu người. Máu ai đã dính vào lưỡi daỏ Vợ chồng anh cũng như cô em gái có ai dám giết người mà bảo lưỡi dao đã nhuốm máu người. Mnh Lập hỏi cô Ðinh, anh ngỡ cô em đã gây lộn với ai rồi dùng dao đâm người ta chăng? Nếu điều này xảy ra việc phải ầm làng lên chứ đâu thể nào. Hay là kẻ bị đâm chỉ bị thương nhẹ rồi do sựàn hòa mà mọi sự#7893;n thỏạ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: