Truyện ma
Ai Hát Giữa Rừng Khuya
Lới tác giả
Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình ảnh rõ rệt tôi được mục kích càng làm cho dữ dội, nặng nề.
Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trước mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện tượng đó có quả thực là một hiện tượng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc? Tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, nhìn rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức kinh nghiệm để chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.
Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có nghi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay như làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên thì không thấy gì nữa cả; hoặc ta đưa lên mắt một cặ ống nhòm để phóng đại trường qua sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình ảnh ta muốn thấy lại mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong như vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.
Bằng cứ chịu khó đứng xa xa mà ngắm nhìn, thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ, lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiêng của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc thời oanh liệt thuở xưa.
Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chẳng hạn. Tôi đã phải dằng lòng gắn sức đợi đến ngót tháng trời được trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.
Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được chứng kiến, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được nên tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.
Phàm giả người ta, trong buổi bình sinh, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính tình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời, thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn, chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.
Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ; một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ Ðường của Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, điệu đàn của Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc đó chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?
Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nàosiêu linh tịnh độ được, cứ mập mờ khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bờ bến. Ðiểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều khi linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng với người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn khi thác bỗng tỉnh ngộ ra, bay lên một cõi thiêng liêng cao sạch để ngao du, tĩnh dưỡng.... Còn như các linh hồn bị nghiệp duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt củ loài người, thì chúng thường hay bay vơ vẩn quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp là tất là trở về sống chung với ta, dẫu rằng trong một phút.
Ðó là những chúng sinh.
Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi cướp lộc cướp cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ lại họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.
Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên khi có xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta chịu khó bỏ hết các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàng toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là sự thực cả. Chỉ có một điều là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phải đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Thí dụ như vàng muốn biến thành nước tất pphải nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia không phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra được.
Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phải thiêng, mà muốn thiêng, thì thao như chúng ta biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ, hai là chết trẻ, ba là chết một cách thê thảm, bốn là chết oan, năm là được chôn ở đất có mạch hay là hấp thụ được khí thiêng của trời đất.
Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng tuổi, từng chỗ, từng thời mới hiện lên được...
Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phải bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó có lòng hiện lên được, vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẫn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.
Chả bù với thời thái bình êm ái thuở xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thuở đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Ðến thời nay, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời.
Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy tận mắt ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Ðó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này...
Ma Không Ðầu
Hôm đó, cách đây chừng khoảng 20 năm, tôi đi về vùng Nam Ðịnh xuống ga Gôi, vào thăm một người bạn cũ.
Lâu ngày mới được bặp nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người ra chợ đón mua những thứ quà ngon. Tôi gặp lại bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tới chiều, không biết mệt.
Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. Trời tháng quy hạ, nóng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn oi ả. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có. Lúc tôi đến, trời còn nắng chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tưới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong khoảng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết. Trời lúc nãy bị vẩn ám, bây giờ quang đãng như không, vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng trổi dậy, nhưng chậm rãi uể oải, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa nhỏ giọt.
Mặt trời, khói bị che kín sau ức màn mây tối, lại vui vẻ tia ra những luồng ánh sáng đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi cơn mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết, nhưng sự đó không mấy khi xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong cụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.
Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì hóa ra độc địa vô cùng.
Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta thường nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chốn thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thực chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy ảnh hưởng của nó mà thôi; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.
Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.
Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét duyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức có luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình vô ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đầm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không thể xét đoán được. Nó ví như những làn khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy...
Vì tình cờ run rủi, tôi đã được chứng kiến sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa trong một ngaỳ gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến điều gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi vừa nói:
-Bác hãy theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!
Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:
-Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác muốn chúng ta đi đâu?
-Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận đã xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ lỡ mất dịp này thì uổng quá!
Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. Tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Ðến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.
Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài ba bước, nghoảnh đầu nhìn cả bốn phía, rồi ngước mắt trông ra mé chân đồi như tìm kiếm cái gì. Một lát, hình như anh ta đã thấy được sự gì mà muốn cho tôi chứng kiến, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc.
-Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi, chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chín chỗ ấy, có hai người đang diễn võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...
Trong lúc bạn tôi nói, tôi chăm chú thu hết nhãn lực cố phóng luồng nhãn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi! Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gì! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì chứng tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhãn lực của anh vậy.
-Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đang vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?
Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dưới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rằng:
-Quái! Làm sao nó không có đầu.
Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bị cuốn lôi lên. Tôi níu chặt lấy bạn.
Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rất xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt. Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất, tỏ rằng cơn gió đã tan rồi.
Cố nhìn, thì chả thấy bóng dágn của hai anh chàng múa võ nữa. Tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi thì anh đã cười bảo tôi:
-Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặt biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không, ta đã được một phen khoái trá vô cùng.
-Cớ sao anh lại bảo vì tôi...
-Anh mới đến nên không biết. Sự kiện mà tôi muốn cho anh được chứng kiến là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lỡ mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em vừa mới thấy đó. Tho6i, bây giờ ta hãy đi lại nương khoa nhặt cái mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...
Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi.
Bạn cười tôi hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.
Tôi ở nhà bạn non ba tuần lễ, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nhưng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ thốt lên hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.
Thắm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy rầy bạn đã hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chíng mười giờ sáng, trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngày máy ảnh và ống nhòm rủ bạn đi lại chỗ có cái miếu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.
Tới nơi, không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.
Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được chứng kiến thật kỳ dị; từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.
Ðó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ vị không có đầu. Hai cái bóng ma cụt trốc! Ðứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không có gì là chính xác, nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tí nữa, thì rõ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm. Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khó đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Ðó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn ảnh. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cường tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo, hơn những người có mắt nhiều.
Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chả khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay thi cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời nay sánh kịp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, mộtthế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biết trong cuộc dĩ vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng chỉ còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thưở bình sinh?
Hai bóng ma kia cứ rập rờn quay lượn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ như các miếng "Song long quá hải. Mãnh hổ tầm sào, Thái sơn áp đỉnh, Hạng võ phi truy" v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bỏ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống đến cùng.
Ðứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thật là khoái lạc ý vị. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai người xử võ?
Giả sử có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chỉ toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện; mấy khi đã gặp hai thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bởi thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hền mỏi mắt.
Ngắm chán, tôi lại giơ ống nhòm lên quan sát cho rõ rệt; nhưng, thật là kỳ quặc, mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhậ được bóng dáng hai nhà võ sĩ "cụt đầu" nữa! Tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vật; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hễ đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia đã lại biến lúc nào rồi...
Kế ấy không xong, tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn, tôi còn trông rõ bón hai con ma ấy cứ mờ dần đi, rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu như không hề xảy ra chuyện gì cả. Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi được cảnh thần bí mà mắt người không thấy nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên ảnh không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả.
Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền bí của tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi.
Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chết bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó chết đã năm chục năm nay, lúc anh chưa ra đời, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên tướng cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi chỉ biết có thế thôi, câu chuyện của anh chàng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thuở bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi ngoài năm mươi năm, khối ân hận ấy vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.
Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phải tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồn nước Ðại Pháp vừa dựng cờ Bảo hộ trên đất Việt Nam này?
Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả của bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mãi mê về chuyện ma không đầu của tôí rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ, để họa may có tìm được một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách, tôi thấy nói đến rất nhiều chuyện về ấu trĩ của cuộc Bảo hộ, xong chả có pho nào đá động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...
Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật chứng lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng của mình.
Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở Viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?
Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Ðồng Giao, tôi đã không tìm được một tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.
Ma Nhập Vì Cầu Cơ
Gần đây nhiều người trong ở Hoa Kỳ bắt đầu biết đến việc cầu cơ. Những bàn cầu cơ (Ouija) được bày bán khắp mọi nơi như là một trò chơi giải trí, nhưng cơ có lên không thì tôi không có biết và tôi cũng không muốn thử vì tôi đã chơi và biết sự nguy hiểm tai hại của sự cầu cơ như thế nào rồi...
Ðó là những ngày tháng dài lê thê tại trại tỵ nạn nằm trên hòn đảo nhỏ bé của Indonesia và tại nơi này T. đã quen biết một người chuyên môn chơi cầu cơ. Mỗi ngày khi màn đêm vừa buông xuống cả đám con nít kéo nhau tụ hợp lại để cầu cơ. Khi cầu, cơ lên rất là mau nhưng đa số là không được chính xác, tụi này thường hay nói đùa cơ này chắc là người Indô nên không biết tiếng Việt Nam. Sau nhiều đêm cầu cơ, thì T. thuộc lòng những câu thơ để gọi hồn, và cũng vì tò mò cho nên T. rủ vài người bạn tìm những nơi kín đáo một chút để chơi và để hỏi những câu hỏi riêng tư... như những câu hỏi có liên quan đến tình cảm đó mà.
Cầu cơ riết rồi ghiền. Lúc đầu chỉ T. chỉ cầu buổi tối thôi nhưng sau này cả ban ngày cũng cầu cơ nữa, như là có mãnh lực nào đó nó lôi cuốn làm mình mê luôn. Cho đến một hôm...
Hôm đó khoảng 2 giờ trưa, tôi cùng với một người bạn đang nằm chuyện trò trong một căn gác được dựng lên chỉ để ngủ trưa chứ không có ai ngủ ở đó vào ban đêm, thì bỗng nhiên nghe tiếng gõ cửa. Tôi vội leo xuống giường mở cửa ra thì không thấy ai hết, vừa đóng cửa lại thì nghe tiếp, khi mở cửa ra thì lại không có ai. Tức quá tôi đứng ở ngay cửa chờ hễ vừa nghe tiếng gõ thì mở cửa ra liền. Khi đứng không được bao lâu thì nghe tiếng gõ cửa nữa, tôi liền mở cửa ra thì thấy thằng em họ của con nhỏ bạn mới 12 tuổi đứng trước cửa nhăn răng cười hì hì. Cả hai chúng tôi la cho nó một mách, nó không sợ mà còn chọc tụi tôi nữa: "C. chỉ nhát hai chị coi hai chị có sợ không?" Lúc đó bỗng nhiên tôi chợt nhớ tới việc cầu cơ nên hỏi nên con nhỏ bạn và thằng em họ có muốn chơi không, thì cả hai đều trả lời "muốn". Tôi lấy tờ giấy đã vẽ sẵn hai mươi mấy chữ cái ra, dưới những chữ cái đó tôi viết thêm 4 chữ nữa là MA, QUỈ, THẦN, THÁNH, và dưới 4 chữ này tôi vẽ một vòng tròn và đề chữ THĂNG ở trong đó. Sau đó, tôi hỏi con nhỏ bạn có đồng tiền lẻ nào không để đặc vào cái vòng tròn. Con nhỏ bạn lụt trong giỏ một hồi tìm được một cái đồng tiền lớn khoảng 25 cents bên này. Xong xuôi tôi lấy đồng tiền đặt vào vòng tròn và lấy 3 cây nhan để trên kệ gần đó đốt lên. Mặc dù con nhỏ bạn không tin vào chuyện cầu cơ, nhưng nó cũng muốn để tay lên thử xem. Khi cầu cơ chỉ có tôi và con nhỏ bạn để tay lên đồng tiền mà thôi, còn thằng em họ chỉ đứng đó nhìn.
Sau khi đốt nhan, tôi đọc 4 câu thơ gọi hồn, vừa đọc xong thì đồng tiền nằm trong vòng tròn bắt đầu nhút nhích khi đó con nhỏ bạn cũng bắt đầu khúc khích cười tại vì nó tưởng tôi đẩy đồng tiền, nhưng tôi nói là tôi không có làm và dặn nó rằng đừng có rút tay giữa chừng. Vì tôi nghe nói rằng đang cầu cơ nếu rút tay ra sẽ bị nguy hiểm, tôi chỉ biết vậy thôi. Sau đó, tôi đọc lại 4 câu thơ gọi hồn một lần nữa, và lần này đồng tiền di chuyển nhanh hơn. Tôi chưa kịp đặc câu hỏi thì con nhỏ bạn bỗng rút tay ra khỏi đồng tiền và phát cười lớn, tiếng cười nghe rất là rùng rợn. Sau đó, nó chăm chăm nhìn tôi và đứa em họ với hai cặp mắt đỏ ngầu rồi lấy tay chỉ thẳng vào chúng tôi:
- Tao lên rồi sao tụi bây không hỏi. Tiếp theo là một tràn cười quái đảng. Cười xong con nhỏ bạn nằm dài xuống như là ngủ.
Lúc này tôi sợ đến xanh mặt, bạn tôi đã bị ma nhập, rồi ba chân bốn cẳng tôi nắm tay C. phóng thẳng ra khỏi cửa. Ra ngoài tôi rất là sợ và hồi hộp, vì nếu ba của bạn tôi biết được chuyện này chắc là chết. Nhưng tôi chợt nhớ ra một điều, ngày xưa tôi có nghe ai đó nói rằng khi người nào mà bị ma nhập thì đánh họ ba cái thật mạnh để con ma xuất ra, thế nên tôi làm ngay. Từ từ tôi đẩy cửa và nhìn vào trong, bạn tôi vẫn còn nằm yên ở đó, tôi mới nhè nhẹ bước từng bước đến bên giường và đánh ba cái thật mạnh vào chân, nhưng không thấy động tĩnh gì tôi lại đánh ba cái nữa. Ba cái đánh sau, tôi cố gắng đánh thật mạnh đến nỗi cái tay đỏ xưng lên, vừa đánh tôi vừa kêu:
- H., H., tỉnh dậy mau.
Lúc này con nhỏ bạn mới từ từ mở mắt ra rồi lồm cồm ngồi dậy, nó ngớ ngẩn hỏi:
- Ủa. Hết chơi rồi sao?
Tôi kể lại sự việc đã xảy ra cho bạn tôi nghe. Nghe xong bạn tôi nói rằng khi cơ đang lên bỗng dưng nó thấy buồn ngủ quá nên nằm xuống ngủ và mơ thấy mình đang đứng giữa nghĩa địa, đang loay hoay tìm lối ra thì nghe có người kêu tên mình nên giựt mình mở mắt thì thấy tôi và C. đang đứng ở đó. Lúc đó, tôi chợt nhớ ra rằng là mình đã quên hỏi con nhỏ bạn khi bị đánh có đau không, vừa hỏi tôi vừa kéo cái quần của con nhỏ bạn lên thì thấy nơi tôi đánh in mấy dấu ngón tay còn đỏ lòm. Khi đó bạn tôi mới tin những gì tôi nói là sự thật. Còn C. em họ của con nhỏ bạn nãy giờ như người mất hồn bây giờ mới thốt lên được mấy tiếng:
- Chị H. hồi nãy chị làm em sợ quá chừng.
Rồi ba đứa chúng tôi phá lên cười thật tươi.
Từ đó mỗi lần nghe ai hỏi hay nhắc đến việc cầu cơ là T. sợ rồi. Suốt cuộc đời còn lại T. sẽ không bao giờ đụng đến cái bàn cầu cơ nữa
Ánh Sáng Xanh Trên MỒ
Dịch từ Anh Ngữ.
Bạn tôi mang thai vì bị cưỡng hiếp, nhưng cô ta can đảm giữ lại cái thai đó cho đến chín tháng khổ nhọc. Sau đó, cô y sanh ra một đứa bé trai vào tháng mười hai năm 1992. Lúc đó chúng tôi chỉ là bạn ở cùng phòng.
Khi sanh ra, đứa bé rất là yếu. Vừa chào đời, đứa bé phải vào phòng mổ để mổ tim. Bạn tôi thấy vậy nên nói với tôi rằng cô không thể chăm sóc một đứa bé bệnh hoạn như thế, nên tôi đ nhận đứa bé làm con nuôi và chăm sóc cho nó.
Ðứa bé ở trong bệnh viện được sáu tháng. Rồi, chúng tôi đem về nhà, nhưng đứa bé chỉ sống được thêm một tháng rưỡi nữa thì chết. Tôi rất là đau khổ vì tôi thương đứa bé thật nhiều. Khi đứa bé chết, tôi đau lòng như là chính con ruột của mình chết vậy. Tôi thường ra nghĩa địa thăm mộ đứa bé đến 4 - 5 lần mỗi ngày. Vì tôi nghe có người đồn rằng đừng nên vào nghĩa địa sau 4 giờ chiều vì sẽ quấy nhiễu người chết, cho nên tôi chỉ đến nghĩa địa thăm mộ đứa bé trước khi trời tối.
Nhưng một đêm, vì cái gì đó thúc giục tôi phải đi đến nghĩa địa. Ðêm đó khoảng mười giờ, tôi không ngần ngại lên xe và lái đến nghĩa địa. Mộ của đứa bé nằm ở ngay cổng trước, thường thường khi vào trong nghĩa địa tôi lái thẳng đến mộ của đứa bé và tắt máy ngồi ở trong xe chứ tôi không dám bước ra ngoài vì sợ thú hoang ở chung quanh (vì lúc trước tôi đã thấy một con gấu), vì vậy nên tôi ngồi trong xe và nhìn ngôi mộ đứa bé rồi thúc thít khóc. Ðêm hôm đó, nhằm ngày rằm nên trăng tròn sáng tỏ, vì vậy tôi mới mạnh dạn bước ra khỏi xe. Bỗng nhiên, ngay khi ấ y, một vùng ánh sáng màu xanh dịu hiện ra phía trên ngôi mộ. ánh sáng màu xanh đó tỏa sáng khoảng năm thước ngay trên ngôi mộ của em và có hình dạng giống như chữ V lật ngược, nó đã chiếu sáng trong vòng mười phút. Lúc đó tôi không thấy sợ sệt gì hết, nhưng vì thấy hơi kỳ lạ cho nên tôi vội vã bước lên xe rời nghĩa địa ngay sau khi ánh sáng đó hiện lên chừng hai phút. Tôi lên xe và đề máy. Tôi đề đến 5, 6 lần nhưng máy vẫn không nổ. Cuối cùng tôi đành ngồi đó trố mắt nhìn vì kinh ngạc. ánh sáng hiện ra trong vòng mười phút thì tan đi. Ngay khi ánh sáng biến mất, tôi liền đề thử máy xe một lần nữa thì chiếc xe lại nổ máy được và tôi vội lái ra nghĩa địa liền.
Ðúng một tuần sau, khoảng tám giờ tối, tôi và bạn của tôi (người mẹ của đứa bé) cùng với bà chị của cô ấ y, đang ngồi trong phòng khách xem truyền hình thì tôi thấy chiếc nôi nhỏ, mà chính tay tôi đã chọn mua, đang lơ lửng bay trên không ngang qua phòng khách. Lúc đó tôi cũng không sợ gì cả, vì tôi nghĩ là đứa bé làm. Ngoài ra, vào một đêm giữa khuya khi thức giấc, tôi thấy đứa bé mặc bộ đồ khi chôn ngồi trên một đám mây, ngay dưới chân giường của tôi, bé đã mỉm cười với tôi rồi từ từ biến mất.
Tôi nghĩ tất cả những hiện tượng đó đều là dấu hiệu từ em muốn cho tôi biết rằng đừng có buồn phiền vì cái chết của bé, vì bé đã không còn đau đớn vì bệnh hoạn nữa....
Quái Vật Ăn Linh Hồn
Câu chuyện này đã xảy ra mười chín năm về trước nhưng nó vẫn ẩn hiện trong tâm trí tôi như sự việc mới xảy ra ngày hôm qua...
Ðó là một buổi sáng mùa hè, khi bóng tối từ từ lui dần nhường chỗ cho ánh bình minh đang chiếu rạng khắp nơi, tôi và Paul (người bạn thân nhất) sau khi ăn sáng xong cùng rủ nhau vào khu rừng cạnh nông trại của bà nội bạn ấy để thám hiểm.
Khu rừng này nằm ở phía Tây Nam thuộc tiểu bang Missouri (Hoa Kỳ) không cách xa ngọn núi Ozark lắm. Ðịa thế của nó là một vùng đồi núi mọc dầy đặc những cây xanh to lớn. Tuy thuộc tiểu bang Missouri nhưng nó chạy dài đến tận thành phố Kansas, đó là một nơi được nhiều người biết đến vì nó có tới một trăm, không phải, một ngàn cái hang động. Chúng tôi đi cách nông trại vài cây số về hướng Tây, chỉ có Thượng Ðế mới biết đất đai này thuộc về ai khi chúng tôi tìm thấy một cái chồi cũ đổ nát. Cái chồi này bề ngang khoảng 6 thước và bề dài không hơn 8 thước, nó chỉ còn lại 3 bức tường, mái nhà thì đổ xuống dọc theo bức tường sụp, dù vậy quý vị vẫn có thể đi vào bên trong từ cửa trước nhưng chỉ đi được vài thước mà thôi. Là những thiếu niên 12 tuổi có tánh hiếu kỳ, chúng tôi chỉ làm có bấy nhiêu...
Nhìn từ những phương hướng khác nhau thì nó giống như một cái lều hoặc cái chồi được dựng lên bởi một người nào đó bị lạc đường hoặc một người chán đời muốn sống ẩn cư vì nó trông rất là thô sơ với những khúc gỗ dài ngắn không đều nhau được ghép lại bằng một lớp bùn khô. Bên trong chồi, ngoài dấu vết của một cái lò củi và một cái đầu giường làm bằng tay - hầu như bị che khuất nằm ở một góc - còn mọi thứ khác đều bị che lấp bởi mái nhà sụp đổ tạo thành một bức tường chắn ngang không cho chúng tôi dò xét thêm.
Chúng tôi lục lọi một hồi chung quanh nơi có nhiều nhánh cây non và đá sỏi nằm rải rác xung quanh cái sàn đầy bụi cát, vì đã lâu không ai đến đây ở nên mọi thứ hầu như đã tàn phai theo năm tháng. Xem không thấy gì đặc biệt, với lại rời nông trại từ sáng sớm đi bộ và leo núi đã mệt nhọc rồi bây giờ thấy cái bụng cồn cào vì vậy chúng tôi đành rời cái chồi nhỏ để trở về nông trại ăn trưa và nghỉ ngơi sau đó sẽ thám hiểm tiếp.
Khi rời căn nhà chồi, chúng tôi đi vòng ra sau và rất ngạc nhiên khi thấy những dấu hiệu kỳ lạ khắc lên những khúc gỗ trên bức tường phía sau; những dấu hiệu lạ lùng đó đa số đều bị thời tiết tàn phá nên khó mà nhận ra được là ám tự gì, nhìn thật kỹ thì quý vị vẫn có thể thấy được vài hình vẽ như cái khuôn được nối tiếp bằng nhiều dấu chấm giống như toán hình học, những hình không tương xứng. Có vài dấu hiệu đối với chúng tôi thì giống như là những chữ Phạn ngữ vào thời xa xưa, thật ra thì cũng không giống lắm. Rất tiếc tôi không còn nhớ rõ để vẽ ra làm thí dụ.
Chúng tôi dò thám xa hơn thì thấy cách đó khoảng sáu thước, từ bức tường sau căn nhà chồi, chúng tôi thấy một tấm ván lớn gần mục nát, hình như nó được đậy trên một cái lỗ. Chúng tôi vội đến đó cúi xuống khảo sát gần hơn. Nơi đây chúng tôi lại thấy những dấu hiệu, giống như dấu hiệu viết trên bức tường sau, vẽ tràn lan trên tấm ván gỗ đó. Nó bị thời tiết phá hủy nên khó mà nhận ra được là chữ gì. Tôi lấy ngón tay trỏ thử nhấn mạnh quanh bìa miếng gỗ, lúc đó chúng tôi cảm giác lành lạnh hình như không khí đang thoát ra ngoài theo những chỗ hở mà tôi đã làm.
- Tao chắc rằng đây là một cái nắp đậy lối vào của một hang động. Tôi nói.
Paul vội tiếp lời:
- Chúng ta thử xem.
Nói xong bạn ấy liền đứng dậy tìm những đá lớn nhỏ chất đầy trên tấm ván, sau đó bạn ấy lấy một tảng đá thật lớn giơ cao hơn đầu rồi liệng thật mạnh xuống ngay chính giữa làm tấm ván gỗ nát ra thành nhiều mảnh để lộ ra một cái lỗ lớn; chúng tôi có thể nói đó là lối vào của một hang động.
Chúng tôi rụt rè thò cái đầu vào hang động để xem chiều sâu của nó là bao nhiêu. Chúng tôi lấy làm thích thú lẫn ngạc nhiên thấy rằng đầu dốc hơi nghiêng nằm trong bóng tối không có sâu lắm và có thể đi vào được. Vui mừng vì sự thám hiểm tìm kiếm của chính chúng tôi về cái hang động này nên chúng tôi bàn tính phải nhanh chân trở về nông trại để lấy đèn bin, dây nhợ, và đem theo một mớ đồ ăn trưa.
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn thảo với nhau rằng nếu bị bắt quả tang trong khi lấy những vật dụng đó thì không nên nói sự thật cho mọi người biết. Paul thận trọng nói:
- Ba mẹ của chúng ta sẽ không để cho chúng ta chui vào hang động thám hiểm một mình đâu nếu không có người giám sát coi chừng chúng ta.
Tôi gật đầu đồng ý.
Chúng tôi chạy thật nhanh, nhanh đến nỗi chúng tôi trở về nông trại chưa đầy một tiếng đồng hồ. Mặt trời lúc đó ngay trên đỉnh đầu và rất nóng vì đang cuối hè.
Về đến nơi, thay vì đem theo đồ ăn trưa, chúng tôi đổi ý ăn cơm trưa tại nhà. Chúng tôi ăn thật nhanh rồi gom vội những vật dụng cần thiết - may thay không có ai thấy - sau đó, chúng tôi bay ra khỏi nhà trong tích tắc.
Chúng tôi mang theo hai cây đèn bin, một cuộn dây thừng rắn chắc dài khoảng 35 thước, và một bình nước uống rồi đi thẳng vào rừng sâu.
Vì vị trí căn chồi này không nằm trên bản đồ nên chúng tôi phải đi quanh co để định hướng, cuối cùng trèo lên đỉnh của một ngọn đồi thấp chúng tôi mới nhìn thấy cái chồi đổ nát và miệng của hang động.
Lần này, chúng tôi có cảm giác bất an, hình như có gì đó không được bình thường, không khí chung quanh có mùi hôi hám rất là khó ngửi.
Chúng tôi dừng lại xem xét những dấu hiệu lạ lùng trên bức tường một vài giây trước khi đi vào hang động; thật khó mà biết được những dấu tích bí ẩn này tượng trưng cho cái gì, hoặc có ý nghĩa gì. Mặc kệ cái cảm giác khó chịu từ lúc đầu bao quanh, Paul và tôi cũng không để cho sự yếu đuối của mình cản trở cuộc thám hiểm sâu vào hang động.
Chúng tôi cột một đầu dây trong một thân cây khô gần miệng hang động vài thước còn đầu kia thì bỏ xuống lỗ hang, vì là người đã tìm được nhiều hang động trong vùng hơn tôi nên Paul dành đi trước để rọi đường. Paul bò đến gần miệng hang và bám lấy sợi dây từ từ bò vào hang động. Vừa bò bạn ấy vừa bấm sáng đèn bin rọi xuống dưới hang, lúc đó chúng tôi mới biết rằng cái hang động này còn đi xuống sâu nữa để rồi chìm khuất trong bóng tối. Ðứng trên miệng hang dõi mắt nhìn theo bạn ấy, tôi đợi chờ bạn ấy báo hiệu rằng trong hang động rất là an toàn có thể xuống. Chưa đầy 30 giây sau, tôi nghe vang lên một tiếng la kinh hãi của Paul theo sau là một tiếng "bụp".
- Chuyện gì? Tôi la lớn.
- Ồ, không có gì. Tao nghĩ đi xuống tí nữa thì sẽ tới cuối hang nhưng bất ngờ hết dây tao bị rơi thẳng xuống dốc, may mắn thay chỉ rơi khoảng 1 thước. Bạn ấy trả lời.
- Bây giờ mày có thể xuống được rồi, đi từ từ thôi và coi chừng cái chỗ rơi thẳng xuống đó.
Mặc dù không thấy dễ chịu lắm, tôi cũng nắm sợi dây và bắt đầu đi xuống vào trong hang tối. Ðến hết sợi dây tôi từ từ thả mình nhẹ nhàng rơi xuống đất. Khi đứng ở dưới an toàn tôi mới nhìn lên cái miệng hang nhỏ xíu cao khoảng 13 thước mà chúng tôi vừa chui vào, sau đó tôi nhìn ở phía trước con đường hầm của hang động giống như một cái mạch mỏ than đá chỉ trừ là nó lấp lánh với măng đá và chuông đá. Tôi thấy bên trong hang này chiều cao khoảng 2 thước và chiều ngang gần 3 thước, nó rất ẩm ướt nhưng không thấy có nước đọng lại, đó có nghĩa là nó còn đi xuống sâu hơn nữa.
Cẩn thận bước qua chướng ngại do sự hình thành của hang động tạo ra, chúng tôi đi sâu vào hang động. Ðường hầm dẫn xuống sâu và sâu hơn như cái vực thẳm.
Càng đi xuống sâu vào lòng đất, tôi càng kinh ngạc bởi thiếu vắng sự hiện hữu của những côn trùng và động vật. Cho dù trong hang động nhỏ, quý vị vẫn có thể tìm thấy phân của côn trùng hoặc những cái màng nhện nhưng trong hang động này thì hoàn toàn không thấy dấu tích của bất cứ sự sống nào; còn một điều kỳ lạ nữa mà chúng tôi để ý đến là càng đi xuống sâu hơn thì nhiệt độ lại càng ấm áp hơn thay vì càng ngày càng lạnh hơn. Quý vị cũng biết cho dù chỉ có vài thước dưới lòng đất thì nhiệt độ cũng đã xuống thấp khoảng 10 đến 15 độ rồi, nhưng nhiệt độ trong hang động này lại ấm áp lạ thường và không khí dường như bị tù hãm và nặng nề.
Chúng tôi tiếp tục đi xuống qua cái đường hầm dài giống như một cầu thang xoắn ốc không có bậc thang cho đến khi nó nhỏ hẹp lại và thẳng dốc hơn. Từ lúc đầu chúng tôi không cần dùng dây hay dụng cụ an toàn nào thì bây giờ chúng tôi phải cẩn thận để ý nhiều hơn. Tại điểm này chúng tôi đã ở dưới lòng đất gần sáu chục thước, nhưng không có một dấu hiệu nào cho thấy ở dưới này còn hang động khác để thám hiểm thêm. "Thật ra, cái hang động này cũng đáng để thám hiểm lắm" tôi nghĩ như vậy.
Sau 15 phút hơn liên tục đi xuống, Paul và tôi cuối cùng đã đến đáy của đường hầm xoắn óc, đến tận cùng rồi. Ðó có thể là hết cuộc thám hiểm nếu chúng tôi không thấy một cái lỗ nhỏ gần mặt đất. Nó cao khoảng ½ thước và chiều ngang khoảng 1/3 thước. Paul nằm dài xuống mặt đất, lấy đèn bin rọi vào trong lỗ rồi đút cái đầu vào.
- Hay quá. Bạn ấy nói với một giọng vui mừng. Có một thành hốc khác. Tao nghĩ chúng ta có thể chui qua cái lỗ này. Ðể tao thử xem.
Bạn ấy chui vào cái lỗ, thân mình trường tới rồi uốn qua uốn lại như con rắn cuối cùng cũng qua được. Biết rằng chỉ ốm hơn Paul một tí ti như vậy thì tôi sẽ không gặp nhiều khó khăn. Sau những cái uốn qua uốn lại, tôi đã qua được. Vừa phủi bụi từ quần áo xuống tôi vừa đứng thẳng lên chiếu đèn bin chung quanh xem xét. Cái thành hốc này có một cảm giác kỳ quái lắm, dù vậy chúng tôi cũng không thấy có gì khác thường hết.
Trần thành hốc cao ít nhất 10 thước và riêng cái phòng ốc này đường kính có lẽ rộng từ 12 đến 15 thước. Ở trên tường hoặc dưới đất tại đây tương đối nhẵn, trần nhà và cái sàn đều không dính một chút bụi bậm. Người ta có thể đoán cái phòng ốc này là cái lỗ rỗng của một cái giếng nước trong lòng đất nhưng vẫn giữ khô ráo từ lúc nước rút xuống. Chúng tôi rọi đèn bin lên tường tìm kiếm đến khi tôi ra ý kiến hãy tắt đèn để xem nó thật sự tối đến đâu (đó là một sự thích thú để làm trong hang động vì không có bóng tối nào có thể so sánh được). Quý vị có thể tưởng tượng sự sửng sốt của chúng tôi khi chúng tôi tắt đèn mà vẫn có thể thấy mặt của nhau trong cái hang hoàn toàn đen tối không?
Không có bất cứ một nguồn ánh sáng nào mà toàn bộ phòng ốc lại tỏa sáng một màu đỏ chói. Bức tường có vẻ chiếu sáng và sống động một màu đỏ đậm và sáng hơn với mỗi thời khắc trôi qua, dường như chúng tôi đang đánh thức nó dậy từ một giấc ngủ ngàn năm. Chúng tôi mở đèn bin lên và bắt đầu kiếm chung quanh phòng để tìm ra manh mối vì sao bức tường lại phát ra ánh sáng kỳ lạ như vậy.
Xa trong một góc phòng, ánh đèn bin của tôi phát hiện một hiện tượng vô cùng rùng rợn.
Tôi thấy cái gì đó trông giống những khúc xương khô trong bộ quần áo rách rưới nằm chung quanh một cái sọ vỡ; và gần đó cách khoảng nửa thước lại có một cái sọ khác, cái sọ này được chẻ cẩn thận ra làm đôi và cũng nằm cạnh những khúc xương vụn nhưng nhỏ hơn. Trong đống này, tôi thấy cái gì đó như miếng vải len viền áo của một đứa bé gái hoặc áo đầm của phụ nữ. Paul cũng để ý đến những gì mà tôi đang chăm chú nhìn mà cả hai đều không thể tưởng tượng được. Vừa dự định đến gần hơn để nhìn cho kỹ, bỗng nhiên tôi nghe một tiếng nói làm ớn lạnh đến tận xương tủy.
Tôi rõ ràng nghe một tiếng con gái nói thầm thì trong tai. "Ði ra!" tiếp theo tiếng nói như thúc giục. "Chạy đi!"
Tôi sợ quá nhìn Paul và bạn ấy cũng đã nghe thấy, lúc đó chúng tôi lùi dần gần đến lỗ ra của phòng ốc.
Bỗng dưng cái sàn rung chuyển và một tiếng kêu vo ve bắt đầu vang dội cả phòng ốc. Tôi quá kinh hãi chạy thụt lùi lại, Paul nhanh chân chạy theo. Mặt đất rung động thật mạnh, tôi sợ đó là dấu hiệu của sự động đất và cái phòng ốc này sẽ sập xuống chôn vùi chúng tôi.
Tôi đã chạy đến lỗ ra của phòng ốc mà nó bây giờ trông nhỏ xíu không khác cái lỗ con chuột nhũi, tôi chui vào cái lỗ trườn tới và uốn qua uốn lại. Ở phía sau tôi nghe Paul hối thúc, khép hai chân lại tôi lấy cùi chỏ chống thân mình cố gắng đẩy về phía trước. Sau khi trở ra con đường hầm, tôi quay người lại giúp Paul. Bạn ấy gắng sức trường tới, nhưng cũng không thể chui qua nhanh được. Nếu không hiểu biết, tôi còn tưởng cái lỗ đó nó teo lại trước cặp mắt của tôi nữa.
Paul cứ gắng sức và gắng sức chui ra nhưng vẫn không qua lọt. Tôi vội liệng cái đèn bin xuống đất rồi lấy hai tay kéo bạn ấy. "Ouch" (Ao) Bạn ấy la lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình kéo mạnh quá nên Paul đau, nhưng bạn ấy nhìn tôi với cặp mắt sợ hãi với giọng nói run run:
- Có gì đó nắm chân của tao! Có gì đó nắm chân tao! Kéo mạnh lên. Bạn ấy hét.
Dồn hết sức, tôi kéo mạnh một lần nữa, cuối cùng bạn ấy cũng qua được. Khi đôi chân của bạn ấy vừa ra khỏi lỗ thì tôi nhận thấy, từ ánh đèn bin tôi đã liệng dưới đất, có dấu giống như dấu tay - một bàn tay mà không giống một bàn tay - in trên bắp đùi của bạn ấy. Nó có hình thù lồi lõm của một bàn tay quá cỡ hoặc là bàn chân không có móng. Nó gần giống như một cái bóng, trong suốt. Ðó là tất cả những gì mà tôi trông thấy bởi vì khi Paul vừa ra khỏi lỗ, bạn ấy đứng dậy chạy thật nhanh và tôi cũng quay đầu chạy theo bỏ cả cái đèn bin của tôi ở đó.
Tại vì Paul vẫn còn đèn pin nên tôi lên tiếng Paul hãy chờ tôi với, nghe tôi kêu bạn ấy chạy hơi chậm lại vừa đủ để tôi bắt kịp.
Chỉ trong chốc lát, tiếng vo ve ngân lên càng lớn và lớn hơn, ánh sáng từ cái phòng ốc bên dưới bắt đầu chiếu sáng con đường hầm; từ phía sau chúng tôi có một mùi hôi như thịt thối bắt đầu bao trùm lấy chúng tôi. Nó thúi đến nỗi chúng tôi muốn chết nghẹt luôn.
Chúng tôi té lên té xuống, ra sức chạy càng nhanh càng tốt. Tác dụng xoắn óc của đường hầm làm mất hướng và nỗi khiếp sợ bắt đầu xâm chiếm lấy chúng tôi. Nếu Paul không bị té hay đụng đầu thì tôi lại bị, lối thoát dẫn đến mặt đất có vẻ dài vô tận. Chúng tôi đã quẹo và trèo lên nhiều lần, thay vì cái ánh sáng từ bên dưới phải rời xa ở đằng sau chúng tôi nhưng nó lại càng ngày càng gần hơn, sáng hơn, chiếu sáng cả đường hầm bên dưới một màu đỏ như máu. Cuối cùng, chúng tôi đã đến đường hầm dài và thẳng hơn cũng là nơi dẫn đến rìa dốc cuối của lối ra hang động. Paul và tôi cố lấy sức chạy nhanh để lấy khoảng cách xa giữa chúng tôi và ánh sáng bên dưới và hầu như để chạy trốn mùi hôi thúi; nhưng, tiếng vo ve vẫn càng ngày càng lớn trong một mức độ cao hơn như là tiếng còi hụ của đoàn tàu xe lửa.
Paul và tôi đến rìa dốc cùng một lúc, nhưng cả hai chúng tôi đều bàng hoàng vì không thấy ánh sáng chiếu vào từ cửa hang, tất cả đều chìm trong bóng tối.
Chúng tôi chỉ ở trong hang khoảng ba mươi phút thôi, có nghĩa bây giờ bên ngoài vẫn còn là buổi trưa, nhưng sao chúng tôi không thấy ánh mặt trời rọi vào. Paul rọi đèn bin lên nơi cái lỗ hang mà chúng tôi đã chui vào làm chúng tôi sợ run cả người... sợi dây đã biến mất và miệng hang đã bị lấp lại bằng một tấm ván gỗ mà trước đây đã đậy. Paul và tôi cùng nhảy lên dốc và bắt đầu lê cái thân về phía cửa hang. Nó không có dốc lắm nhưng cứ leo lên được hơn 1/2 thước thì chúng tôi lại bị tuột xuống ¼ thước, vì vậy mà hơi chậm. Ánh sáng bên dưới lại bắt đầu xâm lấn chúng tôi, tiếng vo ve vang dội hơn và vẫn còn ở mức độ cao. Chúng tôi cuối cùng đã đến cửa hang và bắt đầu tìm cách để thoát ra ngoài. Chúng tôi đẩy và đẩy cái tấm gỗ nhưng nặng quá chúng tôi đành chịu thua.
Không còn cách nào khác, chúng tôi đành la lớn để cầu cứu, vừa la chúng tôi vừa lấy tay đập mạnh trên tấm ván gỗ. Ánh sáng bên dưới hình như đã đến cái dốc cuối và nó đang lao về phía chúng tôi với một vận tốc nhanh như chớp.
Chúng tôi vừa bịt mắt lại vì ánh sáng chói lòe vừa la thật lớn muốn bể lồng ngực. Tự nhiên tức thì, ánh sáng bỗng mờ dần và biến mất trong bóng tối giống như nó rút từ trần nhà xuống sàn như một cơn sóng nước; tiếng vo ve chợt tắt hẳn và mùi hôi thúi cũng tiêu mất, lúc đó chỉ còn lại tiếng thở nặng nề của hai đứa chúng tôi mà thôi.
- Caaái giiii'... caaái giiii'... vaaậy? Tôi hỏi và cố gắng lấy lại hơi thở đã mất vì sợ hãi.
Tao không biết. Hãy tìm cách ra khỏi đây đi. Paul trả lời rồi bạn ấy chiếu đèn bin vòng quanh bìa cái nắp gỗ để tìm xem có gì để chúng tôi có thể dùng làm một điểm bắt đầu không. Sau đó, hai đứa chúng tôi lại đập lên tấm ván gỗ.
Rồi không dấu hiệu cảnh cáo hay báo trước, chúng tôi bỗng nghe rầm bên dưới theo sau là một tiếng mà đã đem cho tôi ác mộng đến ngày hôm nay, một tiếng ùn ục rợn người đang dâng lên đường hầm như vũ bão. Ðèn bin của Paul chợt tắc và chúng tôi bị chìm vào trong bóng tối, hoàn toàn tăm tối. Tiếng ùn ục càng ngày càng đến gần, bây giờ chúng tôi quá độ kinh sợ để mà la lên. Tôi nhớ là mình đã dựa sát vào tường đá toàn thân đơ cứng vì sợ hãi. Tôi không thể nói, không thể cựa quậy, không thể thấy, mà chỉ biết im lặng để lắng nghe trong khi tiếng ùn ục bắt đầu chuyển thành như một tiếng hú khi nó bay lên đường hầm hướng về phía chúng tôi giống như một chiếc xe lửa điện chạy 100 km/giờ. Không khí bừng nóng cùng với một cơn gió rít xoáy mạnh chung quanh chúng tôi xen lẫn với tiếng kêu gào của một đứa con gái ngay trong tai tôi.
Trong lúc tôi như muốn xỉu vì quá sợ thì cảm thấy có gì đó hơi cứng lao nhanh qua chúng tôi rồi phóng vào nắp gỗ như một viên đạn pháo vô hình. Những mảnh gỗ bể rớt xuống và ánh sáng mặt trời tràn vào làm hiện rõ khuôn mặt sợ sệt của chúng tôi. Như đọc được tư tưởng của nhau, chúng tôi phóng khỏi hang động, tôi trước sau đó đến Paul. Chúng tôi nhanh nhẩu đứng dậy phủi hết lớp bụi bậm dính quần áo. Không biết là nên chạy hay ngã quỵ, chúng tôi nhìn nhau đợi chờ xem ai hành động trước thì một người đàn ông mặc áo len đi vòng ra từ cửa trước căn chồi, tóc ông ấy dài và bù xù, trên khuôn mặt cằn cõi của ông có nhiều nếp nhăn ngang dọc.
Ðôi chân muốn chạy nhưng đầu óc lại bất đồng, có gì đó về người đàn ông này đã làm chúng tôi ở lại, cái gì đó không đe dọa mà lại rất an lành. Ông ta bước từng bước chầm chậm đến chúng tôi, trong khi tiếng rú cứ lớn dần như thể nó đang từ hang động bay vút ra ngoài, lượn một vòng chung quanh những thân cây ở gần đó để trở lại thanh toán chúng tôi; chúng tôi nghe tiếng cây gẫy răn rắt trong khoảng cách như là nó đang ủi tất cả những gì cản đường nó. Một lần nữa, chúng tôi lại đứng chết trân trong sợ hãi, yếu sức để ngăn chận cái gì đó đang bay nhanh về hướng mình. Lúc này, người đàn ông với vẻ mặt lo âu khi vừa mới xuất hiện bây giờ đã biến thành một vẻ mặt cương quyết như sắt đá, ông ta giơ cao hai cánh tay lên trời và bắt đầu đọc lẩm bẩm vài câu ngôn ngữ gì đó mà chúng tôi không thể nhận ra hay hiểu được.
Tiếng hú càng ngày càng lớn vang vọng cả núi đồi. Giờ đây chúng tôi mới thấy được một cái bóng màu đen, giống như một cụm mây đen như nhọ nồi nhưng chưa đủ để kết thành một khối đặt. Nó bay xuống đồi, làm gẫy rạp những cây cối nhỏ ở giữa nó như là những cây diêm quẹt nằm trong hộp. Ông già hốc hác liền bước tới chận đứng con đường của nó tiến về phía chúng tôi, rồi ông ta tiếp tục lẩm bẩm những ngôn ngữ kỳ lạ. Lúc này, những lời ông đọc dường như vang xa và dội lại xuyên qua rừng núi như tiếng hú của một con chó sói.
Quái vật dường như chậm lại, và nếu có chân, nó đang lùi bước.
Ánh sáng lại bắt đầu phát ra từ lối vào hang động, nhưng lần này không phải là màu đỏ như máu chúng tôi đã thấy khi trong hang động mà là một ánh sáng màu trắng, nó chói sáng đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thẳng vào nó được. Hình như quái vật đang chống cự lại cái ánh sáng này, nhưng thất bại, nó đã bị lôi xuống lỗ và thét lên một tiếng nghe điếc tay để kháng cự.
Ánh sáng chói loà đó dường như bao trùm con quái vật và đưa nó về trong lòng đất sâu. Tiếng la rên rỉ đã lặng yên, ánh sáng rút xuống sâu trong hang động cùng với tù nhân của nó rất nhanh chóng như khi xuất hiện.
Bàng hoàng với những gì không thể tưởng được làm chúng tôi sửng sốt chỉ biết đứng nhìn chăm chú vào ông già. Sau khi ánh sáng cùng quái vật rút xuống hang động, ông ta mới đi tới cái miệng hang rồi vẫy tay một cái thì tấm gỗ đậy bị bể lại một lần nữa thành nguyên vẹn. Những dấu hiệu mà chúng tôi thấy trước đó bây giờ lại từ từ hiện ra như mới được khắc lên trên tấm ván. Sau khi làm xong nhiệm vụ, ông già mới chú ý đến chúng tôi và hỏi chúng tôi có bị thương tích không. Paul và tôi cùng xem xét thân thể, ngoại trừ trầy da đầu gối và khuỷu tay ra chúng tôi chỉ bị dơ quần áo vì đất cát với mồ hôi nhỏ giọt, vì vậy chúng tôi chỉ gật đầu mà không nói gì.
- Hai đứa đã gần tiêu tại đây rồi. Ông già nói.
- Ai?... Ý tôi là... Cái gì đó? Paul nói lắp bắp.
- Nó ác, dữ tợn và bất diệt. Các con có thể gọi nó là yêu ma hay ác quỷ.
Ông ta ngừng khoảng một chốc rồi tiếp:
- Nó là cả hai mà không phải cả hai.
Ông ta nói với một giọng trầm xuống.
- Ðiều quan trọng là nó không thể ăn nữa, nó càng mạnh mẽ hơn nếu nó ăn được.
Nói đến đây gương mặt ông già bỗng trở nên âu sầu, ông ta đi qua mặt chúng tôi bước về hướng căn chồi đến cái bức tường hậu hướng vách với cửa vào hang động. Ông ta tụng vài câu ngôn ngữ lạ kỳ và những dấu hiệu như biến mất bây giờ lại xuất hiện, nhìn rất mới như vừa được khắc lên. Sau đó ông ta đi vòng ra đằng trước chồi rồi biến mất.
Paul và tôi nhìn nhau không nói một lời nào rồi cùng chạy theo ông già vòng ra đằng trước căn chồi sụp để hỏi ông già thêm vài thông tin.
Chúng tôi càng ngạc nhiên hơn khi không tìm thấy dấu vết gì cả, chỉ vài giây thôi sao ông già lại đi nhanh thế, ông ta chắc chắn không có vào trong chồi để ẩn núp. Chúng tôi gọi lớn, chạy vòng quanh căn chồi, chạy cả lên trên đồi để nhìn xem ông ta có chạy trốn không, nhưng cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu hết. Lạ thật, sao không có dấu chân cũng không nghe tiếng chân đi, dường như ông ấy đã biến mất như làn khói mỏng manh.
Bây giờ với tình trạng ngỡ ngàng và bối rối, chúng tôi lại trở vào căn chồi để xác định rằng ông ta không có trốn ở trong đó. Lần này chúng tôi đẩy cái mái nhà bị xụp đổ để tìm kiếm và chúng tôi đã tìm được... Một cái xác cứng đơ gần như mục rã hết của một người đàn ông mặc đồ giống hệt như ông già đã giúp chúng tôi chỉ vài phút trước đây. Trong lòng bàn tay của xác chết chúng tôi thấy có một tấm hình trắng đen cũ rích nằm trong một cái khung bể sậm màu.
Paul nhẹ nhàng lấy tấm hình đó từ tay của thi thể rồi đưa lên nơi có ánh nắng rọi vào. Trong hình là một người đàn ông khỏe mạnh, có lẽ đó là hình dáng của ông ta lúc còn trẻ đã cùng với người vợ và đứa con gái đứng chụp trước một nông trại sang trọng trông họ rất là hạnh phúc.
Paul để tấm hình lại chỗ cũ. Lúc đó, chúng tôi để ý thấy cái gì đó nằm gần chân giường, tôi cúi xuống phủi lớp bụi bám ở trên mới biết đó là một quyển sách. Tôi cầm lên và mở ra xem từng trang. Đó là một quyển nhật ký.
- Tao chắc rằng mình sẽ tìm được những câu trả lời ở trong đây. Tôi vừa nói vừa kẹp nó vào nách. Thôi chúng ta hãy rời khỏi chỗ này ngay đi.
- Tao cũng nghĩ vậy! Paul nói.
Chúng tôi lại lấy tay đẩy những thứ đồ nằm chắn đường để vạch lối đi ra. Sau khi rời khỏi căn nhà chồi chúng tôi chạy một mạch về nông trại như những con ong bay nhanh về tổ, và con đường về nhà lần này sao chúng tôi thấy dài vô tận. Chúng tôi hai đứa không nói một câu gì trên con đường về, mỗi đứa đều ngẫm nghĩ và ước luợng những sự việc vừa mới trải qua.
Vừa đến nông trại chúng tôi vội tắm cho sạch sẽ bằng cái vòi nước ở sau vườn rồi chúng tôi vào trong nhà uống vài ly nước lạnh, lúc đó chúng tôi mới biết rằng không có đứa nào đem bi đong đựng nước về. (Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết việc gì đã xảy ra cho những bình nước uống và sợi dây thừng! Có thể nó bị rớt đâu đó trong đường hầm khi chúng tôi trên đường tìm cách thoát thân.)
Khi cảm thấy khỏe khoắn và tương đối an toàn, chúng tôi mới lấy cuốn nhật ký cũ gần rách nát đem lên một căn phòng trống trên lầu và bắt đầu đọc từng trang. Hầu hết những sự việc trong quyển nhật ký này đều nói về hang động và gì đó ở dưới lòng đất mà chúng tôi không hiểu vào thời đó. Những trang sách đều ghi đầy những ý nghĩ rối loạn và vắn tắc, còn chữ viết thì khỏi nói rất khó đọc. Cho đến vài năm sau này đọc đi đọc lại nhiều lần thì tôi mới có thể hiểu được một chút ít về sự việc đã xảy ra chung quanh hang động.
Từ đó tôi mới biết rằng:
Vào cuối năm 1890, ông cùng vợ và đứa con gái đã dọn đến vùng đồi núi xây một căn nhà thật đẹp. Họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi và trồng hoa màu trên mảnh đất mà họ làm chủ.
Có một ngày, đứa con gái đi vào rừng để thám hiểm cùng với người bạn ở cạnh nhà... Ðây chỉ là một cuộc thám hiểm bình thường thôi bởi vì theo ông ta ghi chép, đứa con gái của ông ta thà là phiêu lưu mạo hiểm, luôn luôn vào rừng để thám hiểm, nếu không đi hướng này này thì con gái của ông cũng đi hướng kia, chứ không chịu ở nhà.
Từ khi bị té trật chân không tự một mình về nhà đã làm mọi người lo lắng đổ xô đi tìm mới thấy cô con gái ngồi ở dưới một gốc cây trong rừng, từ đó thì ba mẹ cô gái bắt buộc cô ta muốn vào rừng thì phải rủ thêm một người nữa cùng đi nếu không thì cô không thể vào rừng được.
Và vào một ngày mùa thu, khi cả khu rừng nhuộm một màu vàng úa, cô bé cùng một người bạn gái đã vào rừng thám hiểm và không bao giờ trở ra nữa.
Tối hôm đó, ông ta và vợ cùng với gia đình người bạn gái tìm kiếm khắp khu rừng; cho đến cả ngày hôm sau, cảnh sát trưởng cùng những nhân viên đều chia nhau đi tìm, và những gia đình hàng xóm cũng góp tay trong việc tìm kiếm. Mặc dù tất cả mọi người kiếm tìm khắp nơi nhưng hai cô con gái vẫn biệt tích. Hai tuần trôi qua, không thể chịu được, ông ta cùng với người vợ tiếp tục lục soát từng con đường mòn đến từng hang động chung quanh nơi ở của họ. Trong lúc tìm kiếm, họ đã khám phá ra lối vào của một hang động mà từ trước đến giờ không ai biết nó hiện hữu. Lo sợ cho đứa con gái cũng đã khám ra cái hang động này nên họ quyết định đi vào để xem.
Vào hang động được hơn một thước, người mẹ tìm được sợi vải cột tóc thường ngày của đứa con gái dính đầy máu khô. Ðiên cuồng và mất trí với nỗi đau thương, người mẹ bắt đầu chạy xuống xâu hơn nữa. Người đàn ông, từ từ đi khập khễng vì bị bong gân mắt cá chân khi mới bước chân vào hang động, vì vậy mà khó có thể thuyết phục người vợ dừng lại đợi chờ ông ta. Ông ta khuyên răn người vợ nên trở về nhà để kéo thêm người đến giúp.
Mặc ông ta có khẩn thiết van xin bà hãy trở lại nhưng người vợ vì quá nóng lòng tìm con nên bà ta cứ cấm đầu chạy xuống hang động tối đen, bà ta vừa chạy vừa gào thét tên đứa con gái của bà. Biết rằng chân mình bị trật không thể nào vào sâu trong hang động được nên ông ta đành ở lại cạnh lối vào hang để chờ đợi và lắng nghe tiếng vợ của ông ra hiệu hoặc trở lại với những gì mà bà ta tìm được. Đó là lần cuối cùng mà ông thấy vợ của mình còn sống.
Ông ta nghe được tiếng vợ mình kêu tên của đứa con gái, Emily, lập đi lập lại nhiều lần, và từ từ nhỏ dần khi bà ta xuống sâu dưới hang động. Rồi, không một dấu hiệu báo trước có điều không may xảy ra, ông ta bỗng nghe vợ ông ta thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhắm mắt lại trong nỗi buồn tuyệt vọng, nghĩ rằng vợ ông đã tìm thấy thân xác nhỏ bé của con gái mình nên ông gọi vọng vào, nhưng không một tiếng đáp lại. Vào lúc đó ông mới nếm được những gì mà tôi và Paul đã chịu đựng.
Những gì ông ta cảm nhận và chứng kiến cũng giống những gì chúng tôi đã kinh nghiệm được, bắt đầu như là một trận động đất rung chuyển. Ông ta gọi vợ hãy trở lên vì sợ bà ta bị chôn vùi nhưng không một tiếng trả lời. Sau đó ông nghe thấy tiếng vo ve càng ngày càng lớn vang lên, tiếng kêu lạ kỳ không phải người. Sợ đó có thể là dã thú, nên ông cố gắng bò ra ngoài. Ông vội vã rời xa hang động đến núp sau một thân cây ngay dưới chân đồi gần đó.
Ông ta nghe cái tiếng rú càng ngày càng lớn và thấy một ánh sáng màu đỏ chói chiếu ra từ hang động, khi ánh sáng đỏ tan mất thì một cái bóng đen phóng ra khỏi hang như một viên pháo đại bác.
Cái bóng đen bay lên không khoảng 20 thước rồi quay trở về, hình như nó đang cầm gì đó. Khi nó đáp xuống đất, ông ta mới thấy đó là một cánh tay của vợ ông. Ông ta thấy cánh tay đã bị xé ra máu chảy đầy miếng vải màu xanh bị rách nát từ chiếc áo đầm vợ ông mặc. Cái bóng đen tiếp tục ăn... nó xé thịt ra từng mảnh, máu chảy đầy dẫy, dường nó cần máu hơn là cần thịt.
Ông ta viết rằng khi quái vật dính đầy máu thì nó trở nên cứng rắn hơn.
Biết rằng quái vật vừa mới giết vợ mình, và cả đứa con gái cùng người bạn, ông nhè nhẹ lén đi ra sau ngọn đồi, rồi chạy nhanh một mạch về nhà mặc cho chân mình xưng lên và đau buốt. Oán hận và tức giận với sự đau buồn, ông phóng nhanh vào nhà chụp ngay cây súng, nhét thật nhiều bao đạn vào trong túi áo và bỏ đạn vào khẩu súng rồi lên đạn. Để trả thù, ông bắt đầu chạy trở lại chỗ ẩn núp gần chân núi nhưng không thấy bóng con quái vật đâu. Ông ta cẩn thận bò từ từ đến nơi xảy ra cảnh hãi hùng gần cửa hang. Máu dính đầy trên cỏ và lá khô, những mảnh áo đầm của vợ ông bị xé nát từng sợi khó mà nhận ra được. Có những mảnh thịt nhỏ đỏ tươi nằm rải rác chung quanh, nhưng không có mảnh nào lớn để đủ nhận biết đó là con người.
Đau lòng tận cùng, ông quỵ xuống và bắt đầu khóc như mưa. Ông ở đó vài phút, bàn tay ông di động trên những miếng thịt vụn máu me để tìm kiếm vài thứ gì đó có thể nhận diện ra, như là những cọng tóc từ cái đầu của vợ ông bị dính trên một mảnh vải rách. Cảnh tượng người vợ và đứa con gái chết thảm thiết cứ ám ảnh trong đầu ông và lần nữa ông lại điên lên với cơn giận tột đỉnh. Ông ta đứng dậy, giơ cao cây súng rồi kêu lớn để con quái vật ra ngoài. Ông la lớn xuống hang, ông hét lớn vào thinh không, ông gào thét điên cuồng. Chẳng bao lâu con quái vật xuất hiện.
Tiếng hú vang dội trên đồi sau lưng ông là con quái vật, bây giờ gần như rắn chắc hơn.
Ông diễn tả con quái vật: Nó là một con vật màu đen có một lớp da dầy, mỗi lần nó di chuyển có một làn khói đen bay theo giống như than đen đang cháy bị giội nước lăn long lóc xuống đồi. Cặp mắt của nó màu đỏ chói như hai cái giùi nóng. Con quái vật lao đến ông, đôi tay của nó dang rộng với móng vuốt nhọn hoắc như dao lưỡi lìm sẵn sàng cắt ông ra làm hai khúc. Ông bình tĩnh cầm súng nhắm và chờ đợi đến phút cuối cùng khi ông cảm thấy hơi thở nóng bỏng phà vào mặt lúc đó ông mới bóp cò. Cái thân trên của con quái vật nổ tung thành một đám bụi đen nhưng thân dưới của nó vẫn còn tiếp tục tiến tới vật mạnh ông xuống đất rồi đè lên thân thể ông.
Nó quằn quại co giật trên người ông trong khi ông vùng vẫy bên dưới sức nặng của nó, nhưng từ từ nó biến thành đám bụi đen không có trọng lượng rơi xuống như đống tro tàn. Cuối cùng ông đã có thể đứng dậy. Ông lấy lại hơi thở rồi nhìn chung quanh, bỗng một luồng gió không biết từ đâu thổi đến rất mạnh mẽ, nó là một lực hút từ sau lưng ông kéo theo không khí chung quanh rồi thổi qua ông. Ông gắng sức chạy nhanh đến núp sau một thân cây nhỏ trong khi những đống bụi đen của con quái vật một lần nữa lại tụ hợp thành một cái bóng mờ nhạt, nó từ từ tiến về phía hang động. Ông lại nhắm vào nó bắn thêm một lần nữa trước khi nó khuất dạng, nhưng viên đạn của ông đã bay xuyên qua đám bụi đen trúng vào thành vách của lối vào hang động. Nó không còn cứng rắn nữa, giờ đây nó chỉ là một đám mây đen.
Ông chạy đến cửa hang nhìn xuống, trong hang tăm tối ông nghe một tiếng rên rỉ yếu ớt rồi lặng thinh. Ông quay lại đi khập khễng về nhà.
Dựa trên nhật ký, ông có đến thăm viếng gia đình cha mẹ người bạn của đứa con gái và đã giải thích cặn kẽ những sự việc đã xảy ra. Sau đó họ cùng nhau đến hang động lấy những thân cây gỗ hoặc những tàng cây chết bỏ đầy xuống lỗ để ngăn chặn bất cứ 'cái gì' muốn xuống hoặc ra ngoài hang cho đến khi một công trình xây cất chắc chắn hơn được dựng lên.
Theo sau là chi tiết về những đám tang, rồi việc bàn thảo về cuộc xây dựng cái gì đó cứng rắn để đậy lối vào hang động, và vì sao không một ai tin ông về con quái vật chỉ có bóng thôi. Mọi người trong thị xã đều nghĩ rằng ông ta bị mất trí vì thấy vợ chết một cách hãi hùng, cũng vì vậy ông đã lẫn tránh những người chung quanh và xa lánh cả xã hội; nhưng, ông ta lúc nào cũng quyết tâm điều tra xem 'cái gì' ở trong hang. Ông nghiên cứu các sách vở trong thư viện của thị xã, xem tất cả các sách thời Trung Cổ, sách Thánh Kinh, kể cả những sách thần thoại, nhưng ông không tìm thấy được một chút gì diễn tả giống như ông đã nhìn thấy và kinh nghiệm được.
Cho đến một ngày mùa đông, vài tháng sau, khi ông ta nghe có người gõ cửa đó là lúc ông tìm được câu trả lời.
Nhật ký của ông ghi lại rằng một người Mỹ da đỏ địa phương, có cha mẹ đã ở lại đó khi bộ lạc Arapaho bị đuổi để đến vùng đất dành riêng cho người da đỏ tại Oklahoma, đã nghe được câu chuyện của ông. Ông này đã xác nhận và biết về nguồn gốc của con quái vật; đó là một truyền thuyết được truyền từ đời này sang đời khác trong lạc bộ của ông ta, và họ đã sống chung quanh trên vùng đất này cả ngàn năm. Họ gọi con quái vật đó là Grosslor nghĩa là con ăn linh-hồn: con quái vật này có năng lực phi thường, nó nằm lì dưới hang qua nhiều thập niên và nó chỉ ra ngoài để ăn thịt hay linh hồn của con người sau đó lại trở về một giấc ngủ dài.
Những người gọi là Shamans đã giữ bùa và những câu thần chú trong một thời gian khá lâu để kiềm chế con ăn linh-hồn trong sự kiểm soát và giới hạn năng lực của nó, bắt nó phải ngưng hoạt động hàng trăm năm. Không may, việc dời đi của bộ lạc Arapaho đã làm con quái vật ấy lấy lại lực lượng và nó bị đánh thức bởi đứa con gái của ông và người bạn khi chui vào hang động.
Với sự hiểu biết trong tay, ông đi đến tiểu bang Oklahoma hy vọng có thể bàn thảo với những người vẫn còn biết bùa chú để kiềm chế con quái vật. Khi đến Oklahoma ông được một người đàn ông tên là Hache-hi là một người không những có thể thuật lại từng chi tiết về con ăn linh-hồn mà còn biết được những câu thần chú đã truyền xuống từ ông nội của ông ta. Hiển nhiên, người dùng những bùa phép này sẽ bị trói buộc với con quái vật trong một phương pháp được sắp đặt sẵn, cho dù đến chết cả hai vẫn không ngừng vật lộn và chống chọi nhau. Linh hồn của người dùng bùa phép sẽ tồn tại sau khi chết để chế ngự con quái vật, và sợi dây đời sống của người Shamans sẽ tiếp tục nếu cần thiết để giữ cho linh hồn sống động trên cõi giới hiện hữu này; vì không có sự duy trì thì linh hồn sẽ từ từ tan biến và qua bên cõi giới khác, lúc đó không còn gì tồn tại để kiềm chế con ăn linh-hồn.
Gia đình của ông đã đi về bên kia thế giới, ở trong vùng lại không có ai tin câu chuyện ông kể, vì vậy ông quyết định rời bỏ căn nhà đã một lần cùng vợ con sinh sống hạnh phúc để một mình đi vào rừng và dựng lên một căn chồi thô sơ gần cửa hang của con quái vật. Ông sinh sống ở đó và thường xuyên làm bùa phép đọc thần chú, và ngăn ngừa những người muốn vào hang động. Ông ta quyết tâm dành hết cuộc đời của mình để bảo vệ khu vực này không cho con quái vật lộng hành nữa. Vì không có ai tiếp nối coi chừng sau khi ông lìa đời nên ông đã khắc những dấu hiệu bùa chú trên tấm gỗ đậy hang và trên vách tường sau căn chồi đối diện cửa hang, ồn hy vọng rằng nó sẽ giúp giữ linh hồn ông lại sau khi chết cũng như có thể kiềm chế con quái vật trong ngục tù của nó.
....
Mặc dù tôi và Paul đã phá vỡ tấm ván gỗ đậy hang và bùa phép đã khắc trên đó nhưng vẫn còn đủ năng lực để ông trở lại cõi giới hiện hữu này để kiềm chế con quái vật một lần nữa, sau đó những dấu hiệu bùa phép lại hiện lên tươi mới và rõ ràng hơn...
Sau khi đọc nhật ký và hiểu rõ nguồn gốc của những sự việc đã xảy ra, tôi và Paul cảm thấy rất an toàn khi trở lại nơi đây để thám hiểm thêm, và chúng tôi đã tìm thấy cách căn chồi không xa có hai tấm bia đá không tên (có lẽ đó là hai tấm bia đá để kỷ niệm vợ và con gái ông) nằm trên khu đất mà chúng tôi nghĩ rằng đó là căn nhà hạnh phúc mà ông già đã ở giờ đây chỉ còn trơ trội lại mấy cái chân nền.
Chúng tôi không bao giờ kể chuyện này cho người khác nghe, vì ai mà tin chúng tôi chứ?
Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn có nhiều nghi vấn chưa được giải đáp. Thí dụ như là con vật đó từ đâu đến? Nó là một con quái vật thiên nhiên của địa cầu, một con ác quỷ, một người ngoại tinh, hay là một con quái vật thời tiền sử? Tại sao con quái vật kia không giết chúng tôi khi chúng tôi bị kẹt ở trong hang... có thể nó không đủ năng lực chăng? Điều kỳ lạ làm tôi đau đầu nhất là tiếng nói của đứa con gái. Có lẽ đó là hồn ma của cô gái con ông già???
Tôi biết rằng trên Địa Cầu này vẫn còn nhiều thứ để cho chúng ta khám phá và tìm hiểu. Có phải thể xác thì vô thường còn linh hồn mới là trường tồn không?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro