Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

truyen-Lenghiabk05

Khu Phố Nhỏ

T ôi gọi khu phố đang ở là nhỏ, song thực ra nó chẳng có vẻ nhỏ chút nào. Trái lại đó là những dãy nhà nằm ngay ở con đường trung tâm thành phố, gần trường, gần chợ, gần xe buýt, kề công viên, giá thuê rẻ, đông đồng hương, dễ dàng đi bộ đến các nơi mua sắm, tiệm ăn, dịch vụ linh tinh, ấy là mẫu quảng cáo ra rả được các vị có nhà mời chào khi cần gọi người đến thuê ở.

Ai cũng coi là nhỏ vì dân cư rặt toàn một nhóm người bộ tộc như nhau, ra vào không thể lẫn lộn. Cư dân chẳng cần phải học tiếng nước ngoài vẫn băng băng tiếp xúc được với nhau rào rào, thấu đáo. Còn về phong tục lề thói thì nơi đây ăm ắp có thừa, nón lá, bà ba, dép Nhật, quần ngắn vốn không thiếu.

Nếu trời không làm một cuộc phong ba, khiến dân tôi rủ nhau ào ào nhảy ra biển chạy trối chết thì chắc là khu phố này chẳng lấy đâu ra cái nhóm người ngụ cư của đất nước tôi. Có lẽ muôn năm nơi ấy còn thuộc về sắc dân khác.

Ấy thế rồi người nước tôi ngày đông dần, những trung tâm mọc lấn ra nhanh chóng, nhóm đa số ngày trước bỗng trở thành ít đi, chẳng cần đuổi họ cũng mau doãi ra, nhường cho đám đầu đen da vàng lấn chiếm dần nhà cửa và biến đổi các nơi chật hẹp thành những trung tâm mua bán, chuyển tiền, văn phòng làm răng, chỉnh hình và cơ man là bác sĩ, tiệm thuốc.

Đến khi nghề địa ốc nổi như cồn, lại một phen đổi đời, đâu cũng thấy văn phòng giao dịch mua bán nhà đất. Và tiệm neo, hớt tóc, mát xa, cà phê, nhà hàng, tiệm vải, bún, phở, chả giò, chè bà ba bà bốn, bánh mì, hủ tiếu, heo quay, thịt nguội mở vung tí mẹt ra. Thế là lăng xăng thêm một vài tòa báo cũng góp sự hiện diện vào, đề bảng tòa soạn hẳn hoi, có thực, có giả, có đông, có vắng, chẳng ai lần ra đúng sai hết.

Khi lọt vào thuê được một căn phòng bé tí tẹo với cái giá hời hời, tôi đã sướng run người. Bà chủ phố đồng hương lấn dần đất trong căn phố, mở thành những phòng tùm hum nóng nực, thậm chí đến cái ga ra cũng làm thành phòng đăng bảng cho thuê trọ luôn. Miệng các vị ấy dẻo queo viện dẫn đến tình đồng hương, đồng khói, giúp đỡ nhau khi cơ nhỡ bần hàn, song có vào trong chăn mới biết bé cái lầm.. Trăm thứ tiền đóng góp vào chung: tiền điện, tiền nước, tiền rác cứ nhích tăng rào rào như mưa vãi. Ngược lại nếu có được các vị nhờ làm thứ gì thì kèn cựa trả hết sức nhỏ giọt cho nhau.

Ví dụ có ông bà chủ thầu được món nhồi bông hay nhận phân chia nhãn quảng cáo, các cư dân thuê phòng đều được mời góp tay vào. Giá cả cò kè bớt từng xu, công nhân cong lưng làm suốt từ ngày đến tối. Đã thế lại còn bị đòi đưa số an sinh xã hội để các trự khai trừ thuế cuối năm. Người dễ dãi thì xa va, nhưng ai đắn đo thì từ chối là y như có chuyện. Có nhà đông con nít, gạ bà con trông hộ cháu, tiền do cơ quan xã hội trả mà vẫn xén bớt làm của riêng, thậm chí còn léo lận để ăn luôn phần người giúp việc nữa. Hễ mở miệng là nêu việc làm phước, kể công dẻo queo như san nhà xẻ cửa cho nhau vậy

Thành viên khu phố tôi gom lại có giới trẻ với giới già. Gọi như thế cho gọn, chứ rạch ròi phân hạng thì nhiêu khê lắm. Chằng hạn già có thứ già sồn sồn hoặc gìà hoắc cần câu, còn trẻ thì cũng dăm bảy đường, trẻ ngon trẻ ngọt, hoặc đắng như khổ qua, bồ hòn ấy chứ lị.

Dù là giới nào đi nữa thì rõ rệt nhất các vị lớn tuổi vẫn là cái hàn thử biểu sống để thiên hạ nhìn đoán được ra thời tiết hôm sau. Cứ thấy bỗng dưng một sáng đẹp trời các cụ đua nhau mặc dầy, mặc ấm là y như báo trước thời tiết thay đổi nay mai đó thôi. Chỗ này các cụ hắt hơi, chỗ kia ngáp vặt, nước mắt nước mũi đổ dài, chân bước đi nhấc không muốn nổi, các cụ than ôi cái tuổi già chết tiệt sao không chết phứt cho rồi.

Ấy vậy nhưng chẳng mấy cụ chịu xuôi tay nhắm mắt mà vẫn dung dăng dung dẻ đến hay. Cụ chống gậy, cụ ì ạch cái xe đẩy, nhưng đâu cũng thấy bóng các cụ. Cà phê, cà pháo, tiệm bún, hàng cơm, cho đến hội hè, họp mặt chẳng ai từ nan không đến dự. Các cụ than bị con cháu bỏ rơi, cuộc đời buồn, hăm he đòi trở về quê cha đất tổ, ấy vậy mà cứ thấy các cụ bám mãi cái đất này. Ai có đùa vặn hỏi thì cụ nào cũng bảo sắp sắp rôi.

Thực ra, các cụ có muốn đi cũng không đi được. Ở đây buồn nhưng còn cơ quan xã hội họ lo, tháng tháng chi cho dúm tiền, ốm đau vào nhà thương làm phúc, mua thuốc khỏi trả một xu, đi đâu cần xe có người lo cho đến nơi đến chốn. Buồn tình lâu lâu về thăm lại quê hương, lờ đi việc báo bổ để khỏi bị cắt tiền. Chơi dăm tuần, hàng tháng lại trở sang để than buồn, than muốn về nữa. Ôi cái sự đời rắc rối làm sao.

Giới trẻ thì đua nhau học chết bỏ. Phần đông chọn các môn khó nuốt, khó nhằn vì hi vọng tốt nghiệp được mời đi làm và chia “ se “ cả cọc. Năm nào các trường tổng kết, giới trẻ ta luôn đạt thứ vị cao. Người chán chữ nghĩa thì rủ nhau đi học và đầu quân vào ngành “ neo “, kiếm tiền chẳng ít. Lắm cô chỉ làm rặt một nghề cầm tay cầm chân khách mà nhà cửa, xe cộ ầm ầm, tiền rủng ra rủng rỉnh, một hai năm lại làm một chuyến du lịch khắp nơi.

Chả biết việc nào hay, việc náo dở, ở xứ này chỉ có đồng tiền là trên hết. Kẻ có tiền, nói nhăng nói cuội cũng có người nghe, không tiền ngồi chảy thiu chảy thối cũng chẳng ai thèm hỏi.

Tình yêu nơi đây cũng dăm bảy mươi đường. Y như kiểu xập xám binh thế nào cũng gọn. May thì hơn nhau tí ách, tí già hoặc không may thì chèn nhau bắng một đôi lớn hơn một tẹo.

Năm có bốn mùa các cô thay nhau diện ơi là diện. Lúc nào cũng lăm lăm cái điện thoại cầm tay. Vừa ở nhà thoát ra đã móc gọi linh tinh vi vút, lái xe ra chẳng kể nhìn trước hoặc nhìn sau. Làm cái ào còn nhanh hơn gió cuốn, rồi lái xe mà tai bịt kín cái i-pod hay miệng lâm nhâm nhịp một điệu hát phừng phừng. Lắm lúc người đi đường cảm thấy ớn ợn vì nhỡ các đấng rửng mỡ lái văng tê, sơi ngọt mất cái chân hay hạ nằm đài chờ xe cứu thương đến rước.

Mốt miếc đời nay thấy mà sợ, cả trên người chỗ nào cũng có khoen. Thứ to, thứ nhỏ, lủng la lủng liểng, bước chân đi nghe xào xạc vang rền, tưởng như xe bán kẹo kéo bên nhà vừa chuyển sang mời chào bằng điệu nhạc.

Lỡ ai có ý kiến ý càng là bị ngay một cái nguýt sắc hơn dao cau. Vô phúc lại bị tương một câu tiếng Anh giọng Đan Mạch nghe mà đau điếng. Các mợ đi với nhau nói toàn chuyện trên trời, thằng này mê, tay kia bị đá cho một hèo rớt tuốt. Cô nào cũng thấy mình đang là người mẫu chân dài hay tài tử xi cà la ma sắp nổi tiếng.

Nghe quí nàng khen lẫn nhau, cứ tưởng các vị đang ngủ mê. Cô khoe giống Jennifer Lopez, cô nịnh bạn chao ôi đằng ấy giống vô cùng với Aniston đấy. Sướng nhé, mũi nở phồng hơn cả lốp Bridgestone, chả thế mà cửa hàng nào “ xeo “ chẳng mấy khi các nàng vắng bóng.

Nói đến tủ áo, kệ giầy kể cũng công phu. Màu mè trăm kiểu, mẫu mã ngàn “ xai “, lại thêm giày da, dép mỏng, mùa nào thức ấy. Chả hiểu tiền ở đâu mà các quí mợ sắm ê càng.

Ngày tôi mới đến ở, xem ra dân Mễ vẫn còn nhiều. Cuối tuần hay các ngày giỗ tết nhức cái đầu vì loa mở hết cỡ và dặm giọng bass uỳnh uỳnh muốn vỡ tim. Trẻ con thì chạy xồng xộc, đâm quàng vào bất kể ai không tránh kịp. Đàn ông, đàn bà uống xoành xoạch bia rượu và hát ồm ồm.

Tôi nghĩ chắc sắp tới họ dựng thủ đô luôn tại đây thì mỗi năm ngày Cinquo de Mayo có nước lặc lè ngáp ngáp, tuổi thọ bị rung rinh. Vậy mà chỉ loáng vài năm, các đấng âm thầm dọn đi sạch, trả lại cái giang sơn ở đợ lại cho sắc dân tôi. Bây giờ thì thắp đuốc ba năm chẳng còn một gia đình Mễ nào nữa.

Của đáng tội là vẫn có lảng vảng họ đấy chứ, song là do dân ta hằng anh dũng thuê các đấng về để làm hộ khu vườn, tráng cái nền, đào con mương và chiều đến trả công kèm thêm bonus một xách bia là được cám ơn rối rít.

Có họ thì ồn ào, song vắng họ lại thấy buồn tênh. Chả là ban ngày ban mặt hầu hết nhà đi vắng, chỉ còn đông các cụ hay các bà ở nhà. Các cụ thì vì chân yếu tay mềm, chưa đi đã muốn thở rốc ra, còn các bà thì là nữ tướng nội vụ lo bữa cơm, giặt giũ ấy mà. Hẳn nhiên là mười nhà hết chín đều mở đài xem phim bộ hay ca nhạc, cải lương. Hoặc là mua, hoặc là thuê, cho mượn nhau lòng vòng rồi mới trả.

Chả cần nghe than gạo lên, thịt mắc. Bọn trẻ đi học, chiều về mới thấy bóng chạy rông. Ôi, văn minh khiến ể mình ể mẩy. Đứa chơi skateboard, đứa đạp xe rào rào, nói với nhau toàn tiếng Anh, tiếng Mỹ. Nhà có gọi về ăn cơm thì cũng hết cả hơi, chúng vùng vằng chán mới lò dò về tới. Câu đầu tiên là chúng khiếu nại lung tung Mom với Dad nhặng lên rau rảu.

Đấy cái khu phố nhỏ của tôi nhiêu khê và phức tạp thế ấy. Rất nhiều lần tôi muốn dọn đi chỗ khác cho rồi, song lại sợ thả mồi thì vớ phải một chỗ còn tệ hơn. Vả chăng, như người ở gần đường tàu đêm đêm bực mình vì chuyến xe qua lại làm cho mất ngủ, dời đi rồi thì lại vắng tiếng động nên cũng thao láo cặp mắt ra. Thôi thì dù sao đồng hương đồng khói vẫn là mình với mình, gần cận nhau để nhỡ khi tối lửa tắt đèn còn nhờ vả nhau chút chút cũng vui.

Cho nên tính ra tôi là con dân của khu phố nhỏ này dễ cũng đến dăm năm nào có ít.

Chuyện Của Hắn

Nguyễn Hữu Duyên

Quê hắn cách Sài Gòn một đêm nằm ngủ trên xe là sáng đến nơi. Nhưng gần mười năm rồi, hắn không về nhà trong dịp Tết. Ai cũng bảo làm suốt năm Tết cũng phải về quê thắp ông bà nén nhang chứ. Mà đâu phải chỉ mình hắn tha hương. Hắn nói hắn nghèo không có tiền về xe. Hắn nói thiệt nhưng chẳng ai tin hắn. Ở tuổi gần sáu mươi, nhưng chẳng thấy hắn già tí nào cả. Tóc, lấy đèn soi cũng không thấy sợi bạc. Khi có bạn mời uống cà phê, hắn  ngồi quán trông cũng bài bản. Áo bỏ trong quần và được ủi thẳng tắp. Giày tất hẳn hoi. Cứ nghe hắn nói chuyện xã hội có người tò mò hỏi hắn là học những điều đó từ đâu, ai dạy. Hắn bảo, hồi hắn được mười tuổi, chiến tranh lan rộng ở nông thôn, hắn cùng gia đình về nhà ngoại ở thị trấn tạm cư. Vì là cháu ngoại trai duy nhất nên hắn được ông bà ngoại cưng. Hắn được ưu tiên học bài ở nhà trên. Và lúc nào cũng vậy cứ mỗi tối, ông ngoại dành ra nửa tiếng biểu hắn đọc các câu trong Tam Thiên Tự, Minh Tâm Bửu Giám và giải thích cho hắn nghe. Ban đầu thì hắn không hiểu, nhưng về lâu thấy thích rồi đâm ghiền. Hắn thuộc lòng mấy câu nhập môn: Thiên: trời, địa: đất, tử: mất, tồn: còn, tử: con, tôn: cháu…Đặc biệt là ông ngoại còn dạy hắn những câu hát hò đối đáp, những câu ca dao mộc mạc của đồng quê, cách tính can chi: bính, đinh, tý, sửu…Nhờ biết điều ấy nên khi xuống thị xã nhận thẻ căn cước, tay cảnh sát nhìn hắn hỏi, cái bộ như vậy mà mười lăm tuổi, thế mày tuổi con gì? Năm ấy hắn mười bảy, tuổi Ất Mùi, trụt lại hai tuổi, hắn nói ngay: tuổi Đinh Dậu. Thế là thoát. Còn nói về hò, hắn luôn là thủ lĩnh của nhóm bạn hay của lớp, của trường. Và gần như chưa có lần nào hắn bị thua cả dù là khi tham gia cắm trại ở cấp huyện, hay cấp tỉnh. Hồi đó, khi còn học đệ ngũ, tức lớp 8 bây giờ, hắn luôn là người được cả tổ chọn lên thuyết trình, phân tích nội dung, chủ đề tư tưởng tác phẩm của các tác giả Tự lực Văn đoàn. Sau này, khi bước vào đại học, ngay cả lớp đàn chị năm ba, năm tư cùng khoa Việt văn cũng không thắng được hắn ở những câu hò đối đáp ngẫu hứng thực sự thuyết phục.

Từ nền tảng kiến thức của ông ngoại dạy, hắn lại đam mê đọc sách nên hiểu biết nhiều mặt so với bạn bè cùng trang lứa. Khi học phổ thông, hắn thường được nhà trường giao nhiệm vụ mang báo, đặc san của trường xuống các trường ở thành phố để bán. Các lớp đàn anh thường thất bại, nhưng nhờ khả năng diễn thuyết, đoàn của hắn bao giờ cũng gặt hái mỹ mãn. Trong một cuộc thi kể chuyện toàn tỉnh, hắn về nhất. Khi lên học đại học, dù chỉ là năm nhất, nhưng hắn đại diện cho hàng ngàn sinh viên của Viện Đại học sinh hoạt giao lưu với các trường đại học khác, không hề có sự thua kém. Mới ngoài ba mươi, hắn đã được ngồi họ đám cưới mà ngồi đầu dòng. Bà con dòng họ ai cũng đều nể hắn với tài ăn nói và vốn kiến thức có từ lúc ông ngoại dạy cho hắn. Bạn bè cũng công nhận, hắn là đứa thông minh…

Hắn say sưa với điều mình có được, sống trong vỏ bọc của chữ nghĩa. Hắn ngất ngưởng cứ cho mình là nhất, không quan tâm đến cơm áo gạo tiền. Hắn mơ ước sau này trở thành dân biểu, nghị sĩ, hoặc là ông nầy bà kia lo chuyện kinh bang tế thế ở tầm vĩ mô... Trong khi thiên hạ kẻ vào Nam, người lên Tây nguyên, lăn xả vào công việc có được để kiếm từng đồng chăm lo cuộc sống gia đình,  và cũng có biết bao kẻ lừa đảo tráo trở vì tiền, thậm chí có kẻ giết người vì muốn có nhiều tiền, nhưng hắn vẫn thản nhiên, vẫn sách, vẫn báo, vẫn bàn chuyện thời sự từ xóm làng đến thế giới.

Ngày thằng con trai lớn vào đại học, hắn bán chiếc xe máy nộp học phí. Rồi hắn bán luôn mảnh đất thị trấn cấp để có tiền gửi hằng tháng cho con. Sài Gòn mà, không tiền sao sống được. Tiếp đến, con gái út vào đại học, hắn hết đường, dắt vợ vô Sài Gòn bán bún nuôi hai đứa con ăn học. Điều vất vả từ cái thiếu hoặc không có tiền, hắn đã được người cô ruột cảnh báo, nếu hắn không yêu quý đồng tiền thì đồng tiền sẽ rời xa hắn - đó là quy luật không chỉ dành riêng cho con người hay con vật. Và đây là thời gian hắn thấm đòn vì tiền. Hắn lang thang nhiều tháng liền tìm cho được cái mặt bằng vừa túi tiền ít ỏi để thuê, và đặt gánh bún ở đó.  Lúc đầu chưa bán được nhiều nên trễ tiền nhà, chủ mắng như tát nước vào mặt. Bạn bè ở quê thời học trò thành đạt ở Sài Gòn sợ hắn nghèo khổ đến mượn tiền nên tránh mặt. Điện thoại không bắt máy. Cách nhau chỉ hơn cây số nhưng gần mười năm ở trọ chẳng thấy thằng bạn cùng học cấp hai nay giàu có ở thành phố đến thăm. Thức khuya dậy sớm, lao lung vất vả, hắn mất sức, té khi đang  bưng tô bún đến cho khách. Hắn khóc. Dù có sốt, hay tiêu chảy, hoặc bị một bệnh nào khác mà còn đứng được, uống thuốc xong rồi làm liền, chứ đâu có nghỉ được. Hắn khóc. Nhưng có điều quái lạ là hắn không hề biểu hiện một chút gì về sự thay đổi nhận thức của mình trước thực tế chua xót phũ phàng của chuyện áo cơm. Vợ hắn coi hắn như thằng phụ quán. Hai đứa con tốt nghiệp xong rồi, không còn nghe lời hắn nữa. Vậy mà chuyện vợ con thì hắn không khóc. Hắn chỉ buồn và nhớ lại cái ngày mới cưới vợ. Hắn mơ ước một gia đình chan hòa tình yêu thương. Nếu có nước mắt chỉ là nước mắt của hạnh phúc. Và con của hắn phải là thế này, phải là thế nọ…

Xưa, hắn vốn con nhà khá giả. Ba hắn có xe khách chạy liên tỉnh. Má hắn có một sạp đường lớn nhất nhì chợ trung tâm huyện. Quần áo của hắn thuộc loại vải đắt tiền, đẹp. Về thăm quê, ai xin tiền hắn cũng cho. Anh chị em con chú, con cô, con cậu, con dì thấy hắn có cái đồng hồ, đôi giày, quyển sách hay cây viết mới, muốn làm của thì hắn cũng không tiếc. Nhà bạn bè thiếu gạo ăn cũng đến nhờ hắn giúp năm ba ký, vân vân và vân vân…Hắn nghĩ đời hắn chắc chắn sẽ không bao giờ nghèo khổ, bởi hắn là con đầu lòng, sẽ kịp thừa hưởng cái gia tài của cha mẹ để lại, chứ không đến nỗi nào…

Thế rồi một ngày tai nạn ập đến gia đình hắn. Chiếc xe khách nhà hắn bị lật dưới chân đèo, ba hắn bị thương rất nặng, chữa trị kéo dài nhiều năm liền. Bao nhiêu của cải đội nón ra đi, kể cả cái nhà ở thị trấn cũng bán luôn và gia đình hắn đành phải về quê ở. Có một điều rất kỳ lạ là hắn không quan tâm đến lĩnh vực kinh tế. Hắn kể rằng, ngày mười hai mười ba tuổi, hắn chứng kiến hai anh em ruột vì tranh giành miếng đất mà phải chở cái hòm đặt trên miếng đất ấy theo kiểu một mày chết hai tao chết. Hắn tởm lợm và khinh bỉ cái cảnh cốt nhục tương tàn nhục nhã và xấu xa ấy. Trong cuộc sống này có những cái đến rồi đi rất nhanh, chẳng còn ai nhớ và nhắc đến làm gì. Nhưng trong hắn cái cảnh ấy ngày càng khắc sâu, đã đưa nhận thức từ một đứa trẻ hơn mười tuổi cho đến tuổi xấp xỉ sáu mươi, gần như không một chút thay đổi. Hắn thường nói, nếu con người sinh ra mà chỉ biết kiếm ăn thì có khác chi con gà, cứ khi bước xuống khỏi chuồng là bắt đầu tìm trong đất cát, lau lách…kiếm cái để nuôi sống mình. Hắn thần phục những trang sách của những con người vĩ đại vì sự khai phá tri thức của nhân loại. Từ các câu ca dao đến những kiến thức bác học luôn là nỗi khát khao của hắn. Hắn thần tượng đến mê muội. Áo cơm rượt đuổi hắn, đè và ghì hắn xuống dưới mặt đất. Hắn vẫn tìm cách ngoi lên, sau đó đâu vẫn hoàn đấy. Vẫn yêu thương những con chữ. Hắn viết truyện làm thơ, và gửi đi khắp nơi nhưng không có báo nào đăng. Khả năng viết lách của hắn cũng tàm tạm chỉ chừng ấy, nhưng quan điểm và nhận thức của hắn thì đã lỗi thời. Hắn viết, cứ lấy chữ tình mà nói, vì tình người ta sẵn sàng hy sinh tất cả, sá gì mấy đồng bạc. Không ai nghe hắn. Hắn tự nói với chính mình, chuyện gì cũng vậy, nhất thân nhì thế mà! Thiên hạ bảo, hắn sinh nhầm thế kỷ. Hắn gàn và lập dị, đến nỗi hắn gần như không còn một thằng bạn, kể cả cái thằng bạn nghèo khổ ngày xưa mà hắn thường cho tiền để cả nhà nó mua gạo sống qua ngày, nay làm ăn khá ở Sài Gòn cũng lờ hắn đi, coi như không biết hắn đang ở thành phố này. Hắn nghĩ, có lẽ nó không muốn một ai còn biết những ngày đói rách của gia đình nó. Vợ hắn đưa đơn li dị. Hắn ký, không buồn đọc kỹ nội dung, cũng chẳng hỏi nguyên nhân. Hai đứa con vốn nghe lời mẹ, trăm sự mẹ lo nên không còn quan tâm đến hắn. Từ chỗ có nơi đi về dù là nhà thuê, giờ hắn lênh bênh không còn gì cả ngoài cái vali sách và cái xách đựng mấy bộ đồ. Cũng may là hắn cũng  tìm được một chỗ trọ giá bình dân để sống tạm qua ngày...

Rồi không còn cách nào khác, hắn trở thành người bán vé số dạo - một việc mà báo chí thường hay nói cho văn vẻ là người đi bán giấc mơ triệu phú. Hắn không thể tưởng tượng được có một ngày hắn lại như thế này. Và hắn cứ phân vân mãi cái thuyết nhân - quả. Có lẽ những việc thiện việc tốt hắn làm trước đây chỉ đến với hắn kiếp sau thôi. Hắn tự an ủi mình như vậy. Khoảng gần một tháng sau, hàng xóm phát hiện hắn chết tại phòng trọ, trong tư thế áo còn bỏ trong quần, bên cạnh hắn là cái vali sách.

Thiên hạ bàn ra bàn vào về chuyện vì sao hắn chết? Mà quan tâm đến điều ấy để làm gì, bởi dù sao hắn cũng đã không còn nữa. Mà ai có thể tránh được cái chết? Chỉ tội nghiệp cho hắn vì đến lúc chết, hắn vẫn cô đơn. Nói như vậy, bởi trước đó, những tháng năm dài đằng đẵng, hắn luôn cô đơn trong chính gia đình của mình./.

Phía tây Hà Nội

TTCT - Đã một tuần nay, cả nhà náo loạn vì một cái hẹn đi ăn tiệc. Háo hức nhất là trẻ con. Ý tưởng sẽ được đến ăn nhà hàng Hàn Quốc ở Keangnam rồi “thể nào cũng được chơi” ở tầng trò chơi cảm giác lạ làm bọn nó sôi sục.

Bố mẹ chúng thì không như vậy. Hưởng biết Linh bất đắc dĩ phải đi thôi, khi Nga, bạn cũ thời phổ thông, mời đi ăn sau mười mấy năm bặt tin. Giá kể lôi nhau ra quán lẩu hay bia hơi Hải Xồm thì anh cũng thoải mái. Linh nói: “Nhà cái Nga giàu, hai vợ chồng mỗi người một xe”. Xe dĩ nhiên là xe hơi.

Linh gặp Nga tình cờ hôm cô đi lấy hàng ở chợ. Nga đi chơi, thăm lại chợ Hàng Da mới xây thành trung tâm mua sắm xem có gì hay hay. Vậy là Nga chở Linh về tận nhà, đúng lúc thằng Việt đang dắt xe đạp ra cửa. “Ra dáng thanh niên quá - Nga mỉm cười khen khi Việt chào để đi học - Thế nó học tận đâu?”. “Tít mãi trường Ams ấy”. “Giỏi thế, nhưng đạp xe mười mấy cây số thì vất quá nhỉ”. Linh mời Nga ở lại ăn trưa, nhưng cô khoát tay bảo có việc rồi, hẹn luôn cả nhà Linh hôm tới đi ăn. Nga nhìn Linh: “Hôm nào tôi dắt bà mua mấy bộ. Trông người vẫn ổn đấy”.

Nói là làm. Hai hôm sau, Nga đỗ xịch ở trước quán hàng của Linh: “Bà đóng cửa hàng, đi với tôi”. Cái xe đỗ kềnh càng ở mé cửa quán tạp hóa. Linh không có cách nào khác ngoài việc phải vội thu dọn hàng và khóa cửa. Kết quả sau hai tiếng mua sắm, Nga đã lựa cho Linh hai bộ váy với giày guốc. “Phải cẩm lê thế mới được, ngố ạ”. Cẩm lê là gì, Linh ngớ ra, tiếng Tây à? “Tao cũng chịu, nghĩa là đủ lệ bộ, như mày đi dự tiệc phải xách ví đầm đi theo. Đàn bà ra đường không mang ví cũng như cởi truồng ấy. Cái này thì bọn Tây nó nói”.

Cái váy hoa hai dây và đôi guốc cao gót làm Linh bất ngờ vì hóa ra trông mình không đến nỗi nào, nhưng điều cô bất ngờ hơn là Hưởng không phản đối. Hưởng là bộ đội, vốn chỉ quen vợ mình diện nhất là mặc áo dài cũng như nghe nhạc chỉ nghe Trọng Tấn, Anh Thơ là hết.

Hưởng không vui ở chỗ phải đi dự tiệc ở một nơi anh chưa biết thế nào. Anh bị đại tràng, không ăn được món lạ. “Hay em với hai đứa đi thôi, anh không đi đâu”.

“Ơ hay, thế hôm nọ anh đồng ý rồi”.

“Anh có ăn được đồ Hàn đồ hiếc gì đâu”.

“Anh thật là, ở đấy có nhiều món khác nhau. Mà Hàn Quốc cũng có thịt chó nhé”.

“Quần quần áo áo ngồi ngay đơ ở bàn, biết nói gì”.

“Chồng nó cũng có nói được tiếng Việt đâu”.

Người không chỉ không vui mà còn khó chịu với bộ váy của Linh là thằng Việt con cô. “Trông cứ hở hang thế nào ấy mẹ ạ”. Linh cũng thấy quả tình là hơi cách mạng quá so với lối ăn mặc lâu nay của cô, nhưng cô tặc lưỡi, khoác thêm cái áo ren mỏng là đủ. Cô đã thấy Nga mặc rồi.

“Mẹ, mẹ. Con cô Nga xinh không? - cái Mai hỏi lúc lật đi lật lại cái váy kia của Linh.

“Mẹ đã gặp đâu”.

“Chắc xinh nhỉ. Con lai mà”.

Trước hôm đi ăn tiệc, bà chị gái của Linh xộc vào nhà. “Mai mày đi ăn cỗ hả?”.

“Cỗ bàn nào? Con bạn cũ nó muốn gặp. Bạn em mời“.

“Nó làm ăn gì mà lại gặp mày?”.

“Chị hỏi buồn cười. Gặp là gặp thôi chứ làm ăn gì”.

“Mày cẩn thận đấy. Bọn nó hay dùng cái trò bạn cũ rủ rê này, rồi dắt mày vào tệ nạn”.

“Chị đọc lắm báo pháp luật rồi đấy”.

Mai chen vào: “Cô Nga cô ấy còn mua váy cho mẹ cháu nhá”.

Trước khi Linh kịp làm gì, Mai đã lôi hai cái váy ra.

“Ối giời ơi! Váy vó gì như đồ cave thế này!”.

Linh lẳng lặng giật lấy hai cái váy, mang cất vào buồng. Rồi cô vào toalét, mặc cho bà chị ngồi nói oang oang bên ngoài. “Mẹ mày giờ đổi mới tư duy ác thật”. Linh ngồi phịch xuống bệ xí, mặc cho nước mắt chảy ra.

***

Từ nhà Linh đến tòa nhà Keangnam ở khu Mỹ Đình phải đi xuyên qua thành phố. Mỹ Đình là khu mới ở phía tây của Hà Nội, Linh chưa đến đấy bao giờ. Chỉ trong mấy ngày, thằng Việt và cái Mai đã phổ biến thông tin. “Keangnam là tòa nhà cao nhất Việt Nam”. “Tầng trên cùng có triển lãm tranh thế giới ảo, chiếu phim 5D mẹ ạ”. “Bọn bạn con đứa nào cũng lên đấy chụp ảnh, thích ơi là thích”.

Nga nhắn tin: “Bà nhớ đến đấy nhé, tôi đặt hết cả rồi”. Rồi lại nhắn: “Ăn uống bình thường ấy mà. Đừng có mà ngại. Xưa bọn mình khổ bỏ xừ, tôi lạ gì. Không nhắn lại nữa. Chấm hết”.

Lúc lên taxi, câu chuyện Keangnam lại tiếp tục. Lần này cái Mai thỏ thẻ: “Nhưng vé lên tầng 70 đắt lắm”. Việt chen vào: “Nhỡ cô Nga mời thì sao?”. Hưởng đang ngồi ghế trên, quay xuống: “Tao cấm hai đứa mở mồm ra gợi ý người ta nghe chưa. Bố mẹ chưa để đói bữa nào cả, nhé”. Hưởng nhấn mạnh chữ “nhé” rồi quay lên ngồi yên nhìn ra phía trước.

Trong khi cả nhà mải mê nhìn những đường phố mới Hà Nội, Linh nhắm nghiền mắt. Cô không quen đi xe nên hơi váng vất. Cuối cùng xe cũng đỗ ở sát vỉa hè lối vào khu tòa tháp. Linh bơ phờ bước ra, gió lộng táp vào mặt. Hưởng chăm chú nhìn số tiền trên đồng hồ đếm, rút trong tập tiền buộc sợi dây chun mấy tờ để trả tài xế. Hôm nay Hưởng mặc cái áo sơmi mới cắm thùng, nhìn cũng bảnh bao hơn. Linh yên tâm khi thấy cả nhà trông có vẻ tươm tất tương xứng với khung cảnh hào nhoáng ở đây.

“Từ từ! Đợi bố mẹ!”. Hai đứa trẻ đã chạy ùa đến cái sảnh.

Gió từ khoảng giữa các tòa tháp thổi bạt làm Linh một tay giữ váy, một tay bíu lấy chồng. Hai người liêu xiêu bước đến cửa ra vào.

Việc đầu tiên là phải xác định xem nhà hàng ở tầng nào. Vì Linh không nhớ chính xác tên của nhà hàng, một cái tên Hàn Quốc rất dễ lẫn.

“Con đảm bảo là ở tầng trên khu Parkson. Họ đề Food Court mà - thằng Việt quả quyết sau khi xem sơ đồ - Ở đây nhiều nhà hàng lắm”.

“Để mẹ gọi cô Nga cho chắc. Nhỡ leo lên không phải lại mất thời gian họ đợi”.

“Mày cứ lanh chanh” - Hưởng lừ mắt với con trai.

Nga reo lên trong điện thoại: “Đến chưa, đến chưa. Tầng trên của Parkson nhé”.

Thằng Việt đắc thắng khi đã đúng, giơ ngón tay bấm nút lên thang máy rất thiện nghệ. Hưởng hầm hừ làm Linh bật cười. “Thôi, bọn này nó dắt đi đâu thì bọn mình đi đấy anh ạ”.

Nga ân cần chạy đến đón cả nhà Linh rồi đưa vào bàn trong gian phòng rộng, đèn chùm chiếu ánh vàng hơi nhòa nhòa. Nhà Nga chỉ có ba người. Ông chồng Hàn Quốc mập mạp, đeo kính cận. Đứa con gái mắt một mí giống bố, nhưng cái miệng rộng giống mẹ.

“Phương, chào cô Linh chú Hưởng đi con”.

Đứa con gái chào rành rọt bằng tiếng Việt làm cả nhà Linh ngạc nhiên. Nga hân hoan giải thích: “Tớ vẫn nói chuyện với cháu bằng tiếng Việt. Tên Việt Nam đặt cho con là ý của anh Suno đấy”. Nga quay sang mỉm cười với chồng. Ông ta giơ tay nắm lấy tay vợ, gật gật cái đầu theo cách Linh vẫn thấy trên phim truyền hình.

“Thôi, vào bàn đi. Cho gọi món em ơi!” - Nga vẫy vẫy tay. Hai cô phục vụ mau chóng bước ra.

Linh ý tứ quan sát chồng và hai con. Hưởng lúng túng khi được cô phục vụ giúp trải khăn ăn lên đùi và gắp khăn nóng đưa tận tay.

“Hai con thích ăn gì? Đồ Hàn Quốc cay có ăn được không? Hay món Tây?” - Nga hỏi Việt và Mai. Linh định mở miệng nói thay nhưng Nga đã mỉm cười: “Cho các con thoải mái cậu ạ”.

“Cháu ăn mì Ý”.

“Mày dốt lắm. Đi nhà hàng Hàn Quốc lại ăn mì Ý. Phải ăn kim chi” - Việt giễu em.

“Ở đây đồ Tây cũng ngon lắm. Em Phương cũng hay thích đồ ăn nhanh. Các con cứ gọi vô tư”.

Cuối cùng việc gọi món cũng xong, ai nấy đều đã tìm được thứ mình cần, Linh khẽ thở phào. Hưởng bảo: “Em ăn gì anh ăn nấy”. Ông chồng Hàn Quốc của Nga cũng tỏ ra thân thiện. Việc căng thẳng nhất đã có vẻ trôi qua. Hai đứa con của Linh đã xúm lại quanh Phương, châu đầu vào xem chung cái iPad, mặc cho bốn người lớn nói chuyện. Mà thực ra là chỉ có Nga và Linh.

Lúc này Linh mới rõ thêm về cuộc sống gia đình của Nga. “Thật ra sống bên Hàn cũng khổ lắm. Giá đắt kinh người”. Suno cũng lặp lại “Đắt”, đưa tay lên cứa cứa cổ. Linh và Hưởng nhìn nhau cười ngượng nghịu. “Chỉ có Việt Nam là sướng. Cái gì cũng có mà lại rẻ”. Nga nói như reo lên. Cô nói sắp tới Suno sẽ phải về nước để tập huấn thêm.

“Thế là cả nhà lại về Hàn Quốc à?” - Linh thắc mắc.

“Chỉ anh Suno thôi. Nhưng anh ấy muốn mẹ con tớ về cùng để còn lo việc nhà”. Nga ngần ngừ định nói gì thêm vẻ khó nói nhưng rồi tươi nét mặt khi thấy phục vụ bưng đồ ăn ra. “Thôi ăn đi nhỉ. Đồ Hàn phải ăn ngay mới ngon. Các con, không chơi nữa, ra ăn”.

Bữa tiệc đã đi tới hồi ai cũng ngây ngấy no. Việt đã có một cuộc nói chuyện bằng tiếng Anh trôi chảy với Suno, rồi làm phiên dịch những câu Suno bắt chuyện với Hưởng. “Mừng cho các con quá, bà ạ”. Nga ghé miệng nói vào tai Linh, lúc này đang hân hoan trong bụng. Mặt Hưởng lẫn Suno ửng hồng vì men bia. Ba đứa trẻ đã ra nửa nằm nửa ngồi trên cái sofa ở góc phòng, Việt cầm trịch cuộc chơi trên iPad, hai đứa con gái chỉ chỏ bên cạnh. Nga nhìn theo rồi quay lại cười.

“Đúng là trẻ con ở đâu cũng thế. Hội nhập nhanh nhất” - Hưởng giờ mới lên tiếng. “Ừ, vợ chồng nhà này lắm cái có biết gì đâu. Bọn nó sờ đến cái gì, năm phút sau là biết hết cả. Chỉ đạo bố mẹ luôn”. Suno nhíu mày: “Chỉ đạo?”. Nga bật cười, nói gì đó với chồng bằng tiếng Hàn rồi quay ra giải thích: “Tớ vừa nói cho anh Suno chỉ đạo nghĩa là gì. Anh ấy bảo tiếng Hàn âm cũng gần gần thế, nhưng dùng cho công ty, như giám đốc chỉ đạo nhân viên chứ không dùng ở gia đình”.

Linh và Nga rôm rả nhắc lại chuyện ngày xưa. Hồi phổ thông, hai người đều không học khá. Linh chật vật lắm mới tốt nghiệp được, về nhà phụ mẹ bán hàng rồi lấy chồng khi chưa đến hai mươi tuổi. Còn Nga... Nga kể thì Linh mới biết bạn mình đi làm tạp vụ ở một công ty Hàn Quốc rồi gặp ông chồng bây giờ. Mọi chuyện như thế khác gì một giấc mơ.

“Thế này anh Hưởng và Linh ạ. Em biết là đường đột nhưng không có dịp nào hơn - Nga hối hả nói như thể sợ bị cắt ngang - Em và anh Suno muốn xin cháu Việt làm con nuôi”.

Tim Linh đánh thụp một cái rồi như muốn rụng xuống. Cô liếc nhìn chồng. Hưởng xoay xoay cái chén trà trong tay, khớp ngón tay trắng bệch.

Như đoán trước phản ứng, Nga không mỉm cười mà ngồi yên, giọng ủ ê: “Em vô sinh rồi. Còn anh Suno cũng lớn tuổi nên khả năng có con rất khó. Em thật sự...” - Nga khóc nức lên.

Linh thở dài, vội kéo ghế ngồi sát Nga rồi đưa tay nắm lấy tay cô. Nga ngả rụp người vào một bên vai Linh, rung rung người trong tiếng khóc. Hưởng bối rối nhìn hai người rồi nhìn ba đứa trẻ con đằng xa, lúc này vẫn đang chăm chú chơi. Suno rít thuốc trầm tư, quan sát cuộc hội thoại như hiểu hết.

Nga ngồi ngay người lên, tiếp tục nói: “Vả lại, anh Suno có một khoản thừa kế nhưng với điều kiện phải có con trai. Em vẫn nhớ đến bạn Linh của ngày xưa... Mười mấy năm rồi, vẫn không thay đổi gì. Tốt mà rất hiền... Em thật sự muốn làm một việc có ích cho cả hai nhà... Cháu Việt về nhà em thì sẽ có điều kiện đi học, khoản thừa kế ấy rồi cũng sẽ chia cho cháu, rồi sau này báo hiếu được cho cả... bố mẹ đẻ lẫn bố mẹ nuôi... Em không có ý gì khác...”.

Linh ngồi ngây ra, đầu rối bung lên. Ra là vậy.

Giải pháp mà Nga đưa ra rất dễ chịu. Việt sẽ tiếp tục học hết phổ thông ở Việt Nam, và hằng tuần tới ghé thăm nhà của vợ chồng Nga, lúc này là cha mẹ nuôi của nó. Nga sẽ có trách nhiệm hỗ trợ cho con nuôi vào đại học ở Hàn Quốc. Vợ chồng Nga sẽ chu cấp ngay từ bây giờ. Một tháng nữa, Nga sẽ quay lại Hà Nội và nếu nhất trí, hai bên làm thủ tục.

Linh và Hưởng muốn về suy nghĩ và bàn bạc đã. “Mong cậu và anh Hưởng giúp mình. Mình sẽ đợi”.

***

Dĩ nhiên là Hưởng không đồng ý: “Dưng đâu người ta lại tốt với mình thế? Mình làm thế bằng bán con”.

Đột nhiên, Linh duyệt lại tất cả đầu dây mối nhợ quan hệ với cô bạn cũ. Nghĩ nhiều thì sinh nghi. Nhưng tương lai quá hấp dẫn cho thằng con trai khiến cô không thể từ chối phắt. Hai vợ chồng thống nhất là chưa vội nói với bọn trẻ.

“Cô Nga ngày xưa học giỏi không, mẹ?” - câu hỏi của Việt bung ra trong bữa cơm làm Linh lúng túng. Hưởng khẽ liếc vợ, nhưng không tỏ thái độ gì.

“Cũng bình thường, nhưng chăm. Cái chính là chịu khó con ạ. Rồi cơ hội sẽ đến”.

Lúc Linh rửa bát, Hưởng xuống bếp, giả vờ tìm cái búa: “Cô nói gì với nó rồi?”.

“Em đã nói gì đâu”.

“Thế sao nó lại hỏi? Tôi biết thừa bụng cô rồi”.

“Anh nghĩ em là cái giống gì? Thế anh nghĩ em hám lợi cho mình lắm chắc?”.

“Lại bắt đầu nước mắt đàn bà đấy” - Hưởng càu nhàu, quẳng trả cái búa vào khay nhôm đồ sửa xe đạp, bỏ ra sân hút thuốc.

Liền mấy ngày sau, hai vợ chồng gần như không nói chuyện với nhau. Lũ trẻ biết phận, không dám hó hé gì trước màn chiến tranh lạnh.

Buổi tối, dường như cả nhà chăm chú hơn khi xem những bộ phim Hàn Quốc trên tivi. Đúng hơn là Linh thấy căng thẳng, và cô cảm thấy sự căng thẳng của mình đang tỏa ra xung quanh như phóng xạ.

“Đi học toàn thấy yêu đương, sướng nhỉ” - Việt xuýt xoa khi phim có cảnh đôi nhân vật chính ngồi trong giảng đường.

“Mà các chị ấy cũng xinh ơi là xinh” - Mai đế vào.

Hưởng hầm hừ, cầm điều khiển chuyển kênh.

“Ơ, bố. Phim đang hay mà”.

“Phim nhố nhăng. Mẹ con mày mê Hàn Quốc lắm rồi đấy”.

Linh cảm thấy máu dồn lên mặt: “Anh đừng có chụp mũ thế nhé”.

“Cô ấy! Tôi biết mà. Cô mà không mờ mắt tiền nong thì cái Nga đã chẳng có cửa xin thằng Việt làm con nuôi!”.

Hai đứa trẻ trố mắt nhìn. Linh hít hơi dài, nhắm mắt lại, huơ tay ra hiệu. “Đấy, anh nói đi”.

Sau khi Hưởng thông báo tin cho con trai, cả hai chờ đợi phản ứng của nó. Thằng bé như đoán được mấu chốt vấn đề, hỏi bâng quơ: “Thế ý bố sao ạ?”. Hưởng ngồi thừ, nói chủng chẳng: “Sao với giăng gì. Cứ học xong rồi vào đại học đã”.

“Con nghĩ thế nào?” - Linh thận trọng hỏi.

Việt nhún vai: “Con cũng chẳng biết. Con chịu”.

Hưởng gầm lên: “Chẳng biết là thế nào? Mày muốn thì mày bảo luôn!”.

Linh can: “Thôi, anh sao lại nói thế”.

Mai bíu lấy tay mẹ: “Nhưng quá mười tám tuổi thì làm sao được nhận làm con nuôi ạ?”.

Hưởng điên tiết, cầm cái chén uống nước ném choang một cái vào tường.

Hai tuần tiếp theo, cả nhà như có đám. Những bộ phim Hàn Quốc dường như bị trục xuất khỏi tivi. Cái hẹn với Nga sắp đến làm bầu không khí ngột ngạt. Đôi lần Linh gặp ánh mắt chờ đợi của con trai khi gặp mẹ lúc đi học về rồi lại thất vọng. Hưởng lầm lì, đi ngủ hay trở mình. Linh chỉ dám nằm yên.

Hôm trước ngày hẹn, hai vợ chồng đi ngủ sau khi hết bộ phim buổi tối. Bỗng Hưởng quay sang vợ: “Nhớ bảo cô Nga cho nó về thăm mình mỗi năm mấy lần nhé. Nghỉ hè là phải về nhà”.

“...”

“Anh không phải là hẹp hòi gì. Nhưng sợ con mình ham phú quý, dễ hỏng”.

“...”

“Nhưng giờ có cơ hội thế này, không cho nó đi mình lại ân hận. Hai vợ chồng mình vẫn còn cái Mai...”.

Linh khóc không thành tiếng, Hưởng vỗ vỗ vai vợ: “Thôi nín đi, không bọn nó lại nghe thấy bây giờ. Anh tắt đèn đây”.

72 giờ sau

TT - 1. X nửa mê nửa tỉnh. Khi tỉnh, X biết hết mọi chuyện đang diễn ra trong phòng anh. Chỉ tiếc là anh không cất được lời nói nào. Mọi người bàn với nhau sẽ làm theo lời anh dặn. Không chôn mà thiêu

Tro cốt khỏi gửi nhà chùa, cứ đem rải hết xuống sông. Mà phải đứng trên cây cầu sắt nhiều kỷ niệm của đời anh để rải. Phòng của anh nhỏ, chỉ có mười hai mét vuông, có ở thì cũng chỉ được một người nên cứ để trống. Vả lại, cũng không nên để bất cứ ai trong nhà ở phòng anh, kẻo họ sợ. Nhất là đám con nít. Ảnh thờ của anh thì cứ để ở bàn thờ chung nơi phòng khách. Biến căn phòng của anh thành phòng lưu niệm là tốt nhất.

X cho rằng mình đã hoàn thành tốt đẹp một đời người. Dù anh mới chỉ bốn mươi tuổi! Bốn mươi thì đã sao? Chẳng thiếu gì người sống đến bảy, tám mươi mà có đạt được ước mơ đời mình đâu. Ông D rời bỏ quân ngũ để theo nghề viết báo, đến tận lúc về hưu cũng không thành nhà báo nổi tiếng. Đồng ngũ không xem ông là cựu chiến binh đã đành, mà cánh nhà báo trẻ cũng coi thường ông. Ông P bỏ nghề giáo ra làm kinh tế. Ba chục năm lặn ngụp trong chốn thương trường, cuối cùng vẫn ở trong căn nhà cấp bốn ngày nào. Còn may là không bị nợ nần. Còn ông H mới đáng buồn. Sống thọ tám mươi sáu tuổi, cả đời không dám ăn bát phở cho bõ thèm vì "tiền bát phở được một ngày đi chợ, ăn tiếc lắm!". Đến những ngày cuối đời, thập tử nhất sinh rồi mới sai con cháu mua cho bát phở đặc biệt thì không còn ăn được nữa, chỉ ngửi mùi phở mà chết!

X khác. Anh làm được điều mình ao ước từ khi còn là một chú bé. Anh cũng đã "hưởng" mọi thứ trên đời, kể cả việc đôi ba lần lén vợ đi "ăn bánh trả tiền". Vậy thì anh còn lý do gì để ân hận khi phải vĩnh biệt cõi hồng trần ở tuổi bốn mươi nữa...

2. Đại đức chùa ĐG bảo chỉ để bảy mươi hai giờ là động quan. Thế mới được giờ tốt. Thôi cũng được, ba ngày cũng đủ để người thân, người quen đến viếng tang. Như vậy là đúng sáu giờ sáng thứ hai, cậu X sẽ được đưa đến nghĩa trang thành phố hỏa thiêu. Đầu tuần lắm việc, chắc cơ quan cậu ấy chỉ cử vài người đại diện đi tiễn. Bạn bè cánh công chức các cơ quan khác chắc cũng chỉ những ai thân nhất mới xin phép nghỉ buổi sáng. Nhưng bà con làng xóm thì chắc không đến nỗi.

Thế là sướng rồi! Cuộc đời cậu X dường như được lập trình sẵn theo một kiểu mẫu. Học hành vào loại khá từ bậc tiểu học, trung học đến đại học. Trở thành công chức mẫn cán, làm việc đúng ngành nghề được đào tạo. Cứ ba năm lên một bậc lương. Rồi cưới vợ, rồi có con, một trai một gái, đúng chỉ tiêu; cả hai đứa cùng dễ thương, ngoan ngoãn, học hành bằng chúng bằng bạn. Vợ là cô giáo dạy một trường khá nổi tiếng ở địa phương, là vợ đảm, mẹ hiền, dâu thảo. Bà con lối xóm chưa bao giờ nghe vợ chồng cậu X to tiếng với nhau. Trái lại, cứ cuối tuần là mọi người lại thấy vợ chồng con cái họ chở nhau trên hai chiếc xe máy đi ăn sáng ở đâu đó. Thỉnh thoảng cả nhà dẫn nhau đi siêu thị, đi nhà sách.

Cuộc đời cậu X như thế chẳng có gì phải phàn nàn! Chắc chắn thế!

3. Khi chỉ còn là một linh hồn, X theo dõi những gì xảy ra cho phần xác của anh. Mọi việc đều đúng như lời anh dặn. Thiêu. Vợ con đem bình tro cốt ra cây cầu sắt, rải tất cả xuống dòng sông.

Vợ X không khóc nhiều. Hai đứa con của anh cũng không khóc nhiều. Đúng như lời anh dặn. Nhưng mẹ anh thì rũ người ra trong nước mắt và tâm trạng "tre già khóc măng non". Anh hiểu lòng mẹ.

Coi như cả khi anh ra đi, mọi chuyện đều tốt đẹp.

4. Ở quán cơm tấm ven sông, vào buổi sáng ngày tro cốt của X được rải trôi theo con nước của dòng sông, có người nhắc chuyện mới ba ngày trước mình còn ngồi ăn cơm tấm bì cùng bàn với X rồi tắc lưỡi: “Nó đi lẹ quá!”. Bà bán quán góp chuyện: “Nghe nói đang trên đường từ cơ quan về nhà, vừa dừng xe trước đèn đỏ thì bị chiếc tải nhỏ chạy phía sau với tốc độ khá nhanh tông vô. Tới bệnh viện vẫn còn tỉnh táo, dặn dò vợ con đủ chuyện. Vậy mà chỉ mấy tiếng sau đã đi rồi...”.

5. Vẫn ở quán cơm tấm ven sông, những buổi sáng sau đó nhiều tháng vẫn có những người đến ăn như mọi ngày. Không nghe ai nhắc đến X nữa.

Cuộc đời anh chẳng có gì để nhắc. Trừ chuyện anh bị chiếc xe tải nhỏ không chịu dừng đèn đỏ tông chết.

Nhưng chuyện ấy thì bà bán quán đã nói một lần rồi! Mà ai cũng biết!

Truyện ngắn: Nhục hơn con điếm

01/08/2009 16:49

Hai chị em ngồi im lặng cả giờ. Mỹ bối rối vì lần đầu tiên thấy Sơn có mùi rượu mà cô lại không dám hỏi. Cô chờ mãi, chờ mãi cho đến khi Sơn hỏi cô nghĩ sao về Sơn.

Nghĩ sao à, có gì đâu nhỉ. Sơn rất đẹp trai, trắng trẻo và thanh tú, Sơn 18 tuổi...

Sơn buồn buồn nói em nhục hơn con điếm.

Mỹ giật mình. Các cô ca ve dù có ăn mặc, để kiểu tóc như mọi người thì vẫn bị những con mắt trong sạch của thiên hạ nhặt ra khỏi đám đông. Vì thế các cô thường ít dám đi chơi. Mỹ vẫn tưởng Sơn không biết nghề của cô. Vậy chắc Sơn nói câu ấy là để an ủi cô, làm gì có ai nhục hơn một con điếm.

- Cách đây hai năm em làm ở cơ sở mát-xa của tỉnh. Lão ấy đến vài lần rồi giở trò với em. Em không dám phản ứng gay gắt mà chỉ gạt tay lão ra và không xoa bóp nữa. Lão ấy nói sao đó mà cuối cùng em phải thôi việc. Em đã đi một nơi nữa cũng bị lão theo, đây là nơi thứ ba và có lẽ cũng là nơi cuối cùng. Chiều nay lão đến, bảo em nếu khó chịu thì làm một ly rượu. Cái cảm giác chiều nay ấy... buồn nôn lắm.

Đó cũng là cảm giác thường trực của Mỹ. Những bộ mặt nhầy nhụa mồ hôi, những cái miệng bốc mùi chuột chết, những bàn tay xù xì rách da rách thịt... Nhưng sao Sơn không thấy cô nhục bằng nó?

- Chị dù sao cũng thuận theo lẽ tự nhiên khi phải chung đụng với đàn ông. Còn em... Em cũng biết em khó mà lấy vợ nhưng em vẫn ham muốn con gái. Lão ấy cứ tự nhiên đến, không biết lúc nào để mà đề phòng, chỉ chọn mình em, bỏ ra bốn chục nghìn và em phải xoa bóp cho lão một giờ theo đúng quy định của một suất mát-xa. Lão nằm đó, tận hưởng em, bóp em đau điếng. Em hết đường rồi, em có phải là điếm đâu mà hoàn lương.

Mỹ nghe lòng quắt lại. Ừ, đúng là nghề của cô vẫn còn có một con đường.

- Chị ạ, chiều nay em không khóc nữa nhưng em cứ nấc suốt cả suất mát-xa. Những tiếng nấc ấy dội ngược vào trong em, đè trái tim em trĩu xuống. Xuống tận gan, ruột non, ruột già... Khi em đi cầu, trái tim em sẽ đi ra luôn. Mà cho dù nó không ra thì nó cũng thối hết rồi.

Mỹ nhìn Sơn qua hàng nước mắt. Sơn làm sao đổi nghề được, làm sao thoát được cái gã đàn ông - đàn bà kiên nhẫn, tham lam và nhiều dục vọng ấy được. Nó chỉ là một đứa bé nghèo khiếm thị phải đi làm cho cơ sở mát-xa Ánh Sáng.

Lẩu thập cẩm

TTCT - Ở xứ này người ta ăn mọi thứ nhúc nhích! Gã vừa nói vừa thả cho bàn tay mình đi hoang lên phần thịt trần trên gối của cô em đang đứng khui bia làm cô nàng nhảy nhổm ra xa rồi buột miệng: Quỷ sứ anh à!

- Em mà nhúc nhích là anh cũng ăn thịt em luôn! - gã ngả ngớn.

Cô nàng cũng chẳng phải tay vừa, nguýt một cái sắc lẻm:

- Vậy ăn hết hay là còn chừa chỗ nào?

Gã đớ lưỡi. Khúc rắn mối nướng muối ớt vừa chui vào cổ họng đã nghẹn ngang.

Quán Trần Thế nằm lọt thỏm trên con đường Ăn Nhậu, tưởng như sắp bị đè bẹp bởi các quán sang trọng xung quanh nhưng ngược lại, lúc nào nó cũng đông khách, nhất là những buổi chiều tan sở. Chẳng hiểu vì xứ này có nhiều đàn ông thích kéo dài thời gian độc thân tạm thời hay vì Trần Thế luôn thủ sẵn cả chục món độc mà các quán khác có nằm mơ cũng không tưởng tượng ra nổi?

Gã lui tới cái quán này không biết đã bao nhiêu buổi chiều. Cũng giống như lý do để quán đông khách, gã vẫn chưa hiểu cái tên Trần Thế có nghĩa là gì. Chủ quán tên Thế, thường cởi trần khoe một bầy rồng rắn đang lồng lộn trên người? Hay quán là nơi duy nhất để người ta thưởng thức đủ mùi vị của cuộc đời chỉ bằng cách nhai và nốc?

Nhậu thì lo nhậu, thắc mắc chi cho nhiều! - Tửu thánh, bạn nhậu của gã, cau có. Tay này vừa trúng một vụ áp phe làm ăn khá lớn - là kẻ sẽ chi tiền cho buổi chiều hôm nay. Mà dẫu không trúng đậm thì những buổi trước kia cũng vậy, không khi nào gã có cơ hội làm vơi đi những tờ tiền lương thiện của mình. Tửu thánh luôn gọi những đồng bạc trong túi gã là những tờ tiền lương thiện.

Có lần gã nổi khùng tống cho bạn nhậu một đạp ngã ngửa ra giữa quán vì nghĩ rằng hắn đang mỉa mai mình. Thằng này lồm cồm ngồi dậy, không giận mà lại kể cho hắn câu chuyện về cây quất: Người phương Nam có cây quất trái rất ngọt mà lại sai quả, người phương Bắc thấy vậy bèn xin chiết một nhánh đem về xứ mình trồng. Không ngờ vừa ít quả mà lại chua loe chua loét. Ông và tôi cũng giống như hai cây quất cùng một gốc đó. Có điều trồng ở hai nơi khác nhau nên cho trái ngọt trái chua mà thôi!

Nghe xong gã ngu thêm một tí.

Nhân đây cũng xin giới thiệu đôi nét về gã:

Trưởng phòng một cơ quan nhà nước. Thích bù khú bạn bè vào mọi buổi chiều tan sở. Gan thỏ đế. Vì vậy, gần hai mươi năm mòn ghế trưởng phòng mà vẫn chưa có cơ hội ngồi lên ghế mới. Chỉ có tửu lượng là mỗi ngày mỗi lên, uống thần sầu quỷ khốc nên được bạn nhậu tặng cho hỗn danh Tửu quỷ.

Còn bạn của gã - không phải vì ngang ngửa đô với gã mà vì khả năng kiếm tiền. Chỉ có tài thánh mới kiếm được nhiều tiền và xài tiền như nước cỡ Tửu thánh. Có phải Tửu thánh là tổng giám đốc của một tập đoàn nào đó đâu, mà chỉ là sếp một đơn vị hành chính sự nghiệp, cũng cán bộ công chức như gã. Cuộc đời mỗi người mỗi khác, giống như ở hai bên sườn núi: ở sườn Đông thì mưa dầm dề, bước qua sườn Tây thì lại nắng chang chang.

Vậy mà Tửu quỷ và Tửu thánh lại chơi thân với nhau được, ít ra là ở quán này vào mỗi buổi chiều. Nhị Tửu cùng đối ẩm giữa Trần Thế - nghe cũng khá phong lưu.

Gần đây, bàn của gã lại có thêm một kẻ mới gia nhập: gã chủ quán cởi trần. Lý do: Nghe hai huynh nói chuyện hấp dẫn quá, muốn được hầu chuyện cùng!

- Vậy có chuyện gì thì góp vô đi! - gã hất mặt.

- Thưa hai huynh - gã chủ quán làm ra vẻ trịnh trọng - Tiểu đệ sinh ra vốn chẳng phải dân buôn bán mà chính gốc Hai lúa. Từ ông cố, ông nội đến ông già tía đều sống bám vào mấy công đất ruộng. Đến đời đệ thì giải tỏa quy hoạch, được một mớ tiền của ông già chia cho. Đệ làm chuyến ly nông, mong học được một nghề, ngồi không mà ăn thì đến núi cũng lở chứ nói chi vài mươi triệu bạc. Chẳng biết ma đưa lối quỷ dẫn đường làm sao, khi số vốn lận lưng sạch nhẵn, không học được nghề nào ra hồn đã đành mà còn sa chân vào hắc đạo.

Bóc lịch mấy năm, đệ quyết chí làm lại cuộc đời. Nhờ ông già chết, thỉnh được một mớ tiền phúng điếu nên mới mướn miếng đất mở cái quán nhậu này. Theo lẽ thường, ông bà cha mẹ của đệ là nông dân hiền lành thì đến đời đệ nếu không làm nông dân thì cũng kiếm sống được bằng một nghề lương thiện nào khác chứ làm gì đến nỗi nếm cảnh tù tội một thời gian. Nghe câu chuyện của hai huynh, đệ mới ngộ ra: mình cũng giống như cây quất cây quýt gì đó, tùy theo thổ nhưỡng nên cho trái chua hay ngọt mà thôi!

Nghe xong câu chuyện của gã chủ quán, Tửu thánh vỗ đùi cười ha hả:

- Hay, hay! Ngộ tính của ông quả nhiên là cao. Tôi mời ông trăm phần trăm nghen!

Ngộ tính cái con khỉ! Tửu quỷ hậm hực trong lòng vì tự dưng có thằng cha căng chú kiết chen ngang dự phần. Gã cụng ly nhưng không uống mà lại đưa mắt lơ đễnh nhìn khắp quán. Không còn một chỗ trống. Bàn nào cũng ngùn ngụt khói, không của món lẩu thì cũng của món nướng. Từ xa nhìn vào giống như một đám sương mù quỷ quái vây lấy người bên trong, càng ngày càng thít chặt. Khói bám lên trần nhà lâu ngày dày thành một lớp nhờn như từ thiên thu đọng lại. Có lẽ do thói quen của thực khách nên ngay chỗ gã ngồi tựa lưng, khói chỉ bám chung quanh và tạo thành một hình người. Dọc theo vách tường, có đến hàng chục hình người như vậy.

- Nào cạn đi chứ, chưa chi mà đã say rồi sao? - Tửu thánh chạm mạnh vào ly của gã.

- Cỡ ông anh đây thì làm gì có chuyện say, phải không? - giọng gã chủ quán như khiêu khích. Tửu quỷ nhếch mép, chỉ cần ngửa cổ ực một hơi là cạn sạch. Tự tay khui thêm lượt chai mới đặt lên bàn.

- Vậy mà làm tôi tưởng ông bạn mình bữa nay xuống đô chứ, đang tập trung tư duy gì thế? - Tửu thánh đặt vào chén gã nguyên một con rắn bông súng nướng mọi - Thứ này bây giờ hiếm lắm nghen!

Gã trỏ tay vô những hình người trên vách tường. Tửu thánh nhướng cặp mắt đầy túi mỡ của mình nhìn theo hồi lâu, nhíu mày ra vẻ không hiểu ý. Riêng gã chủ quán, sau khi lần lượt trút đầy bia vào ba chiếc ly trên bàn thì mỉm cười ranh mãnh:

- Đó là hình ảnh của linh hồn! Mỗi người sau khi đến đây đều để lại một phần linh hồn của mình trên vách quán. Đã có hàng trăm phần linh hồn của hàng trăm con người xếp chồng lên nhau. Mỗi phần linh hồn là một nét tính cách của con người. Một đặc trưng không lẫn vào đâu được ở quán của đệ!

- Khi nào thì những linh hồn ấy bước ra khỏi vách và cụng ly với chúng ta? - gã bắt đầu thấy hứng thú với gã chủ quán này.

- Khi mỗi hình người như thế có đủ mọi tính cách của con người trần tục!

- Hèn gì cứ đến chiều là tay chân bụng dạ tôi lại ngứa ngáy, mà phải đến Trần Thế mới đã ngứa. Thì ra cái phần linh hồn của tôi ở đây nó đang réo gọi! - Tửu thánh nâng ly phụ họa.

- Nhưng các huynh cũng nên cẩn thận: có để lại thì cũng có mang đi - gã chủ quán làm ra vẻ bí hiểm - Những phần linh hồn xếp chồng lên nhau nếu tìm được thân xác thích hợp thì sẽ tự động ráp với thân xác đó. Nếu may mắn ráp về nơi cũ thì không nói làm gì... Gã chủ quán buông lửng.

- Ha ha, ông nói y như trong phim kinh dị! - gã ôm bụng cười rũ rượi. Cùng lúc cô em phục vụ thường ngày đi ngang qua, tự dưng gã lại muốn nhảy dựng theo cặp mông lắc lư của cô nàng. Sự hứng khởi đột ngột này làm gã cũng cảm thấy lạ vì từ trước tới giờ tuy ngoài miệng cợt nhả nhưng gã vẫn tự hào rằng tâm của mình luôn bình trước nhan sắc. Gã láng máng nhớ: hình như trước đó có cảm giác một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng mình, lúc tựa vào tường.

Cuộc trò chuyện giữa Tửu thánh và gã chủ quán dần dà trở nên rôm rả, cứ như trong mắt hai người, gã đã trở thành một kẻ vô hình. Gã nghe họ đang luận về tiền, Tửu thánh rút trong túi ra một tờ tiền đặt lên trên bàn:

- Đây chính xác là tiền thật, tôi vừa rút từ máy ATM ra hồi sáng. Cứ cho nó là không sạch đi, vì nó vào tài khoản của tôi bằng cách mà tôi không thể nói ra. Vậy tại quán ông có cách nào rửa cho nó sạch để xứng với những đồng tiền lương thiện của ông bạn tôi đây?

Gã chủ quán cầm tờ tiền lên soi vào bóng đèn, lật qua lật lại. Chưa hết, còn đưa lên mũi hít hà. Xong, gã có vẻ đăm chiêu:

- Tiểu đệ đây chưa hiểu lắm ẩn ý của ông anh! Nhưng nếu muốn nó sạch thì cứ lấy nó để thanh toán chầu nhậu này, vào túi đệ thì nó khắc trở nên sạch.

Tửu thánh cười ha hả, vỗ vai gã chủ quán cứ như họ đã là tri kỷ từ lâu:

- Đã nói ngộ tính của ông cao, có sai đâu!

Tửu quỷ cảm thấy nóng mặt. Cứ như nội dung cuộc trò chuyện của bọn họ thì hóa ra những buổi chiều như thế này chính là những buổi rửa tiền ư? Và vô tình gã trở thành kẻ đồng lõa? Tay bạn nhậu lại có ý đem những đồng lương còm cõi của mình ra để mỉa mai đùa cợt. Thật là quá quắt, chẳng còn tình nghĩa gì ráo trọi! Nghĩ vậy gã xô ghế đứng dậy, xin kiếu trước cặp mắt chưng hửng của Tửu thánh và gã chủ quán.

oOo

- Dạo này anh thay đổi nhiều quá! - vợ gã đang ngồi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nhĩ sau một ngày ngồi cong lưng ở sạp trái cây ngoài chợ. Nhiều lần gã muốn độn thổ khi mấy chị em trong cơ quan vừa sáng sớm gặp gã đã mắng vốn: Hôm qua em mua có một ký cam của chị, về nhà coi lại thì thấy hư gần phân nửa; lần khác là: Chôm chôm chỗ vợ anh bán mắc hơn chỗ khác, tính đâu người quen không cần trả giá, ai dè...

Nhiều khi gã ngờ rằng sự giậm chân tại chỗ của mình phần lớn là do cái sạp trái cây của vợ. Chẳng hiểu có phải vì càng lớn tuổi càng đâm ra trái tính trái nết hay không nhưng đúng là lúc này gã vô cùng khó chịu khi nhìn nàng đếm tiền bán trái cây và cả khi gã rút tiền lương của mình - mặc dù một thời gian dài gã đã tự hào rằng nó là những đồng tiền sạch! Sạch thì có sạch đấy nhưng chỉ là bụi cám nếu so với tiền của thằng bạn nhậu.

- Tôi muốn trở thành cây quất chua! Gã điện thoại nói vu vơ với bạn.

Một tràng cười đắc ý vang lên đầu máy phía bên kia: Chẳng cần đem trồng ở phương Nam phương Bắc chi cho xa xôi, chỉ cần thay đổi cách chăm sóc mà thôi!

Cách của bạn hóa ra không phức tạp nhưng lại hiệu quả đến không ngờ. Chỉ vỏn vẹn một câu: Thấy lợi thì làm ngay! Trong vòng chưa đầy một năm, gã đã đổi ghế trưởng phòng thành ghế sếp phó, không chỉ vậy, còn nằm trong diện quy hoạch để thay thế sếp lớn chuẩn bị về hưu. Công việc bận rộn đến nỗi gã không còn có thời gian nào rảnh rỗi để đến quán Trần Thế như trước và cũng chẳng nhín ra được chút thời gian nào đến tòa án để giải quyết đơn ly hôn với vợ. Trong đơn ly hôn vợ gã ghi lý do: Không hợp nhau. Không hợp nhau mà có đến hai mặt con, đúng là đàn bà. Ly hôn thì ly hôn, gã ngán đến tận cổ cái món trái cây của nàng lắm rồi.

Sau khi cầm được quyết định giải quyết ly hôn của tòa án, tự dưng gã muốn tìm chỗ nào đó để giải khuây. Không phải vì buồn mà vì cảm thấy trống vắng. Gã nghĩ ngay đến tay bạn nhậu thân thiết và quán Trần Thế. Cũng khá lâu không gặp mặt nhau còn gì. Nhất định lần này gã sẽ là người trả tiền và bảo chủ quán Trần Thế đoán xem tiền của mình là sạch hay không sạch. Gọi điện thoại thì nghe giọng bên kia nhẹ hẫng:

- Tôi về quê hưởng thú điền viên cả tháng nay rồi!

- Sao? Có thấy báo chí nói gì đâu? - gã chới với.

- Thì có sơ sẩy gì đâu mà báo chí dính dáng vào, chỉ tự nhiên thấy chán nên làm đơn xin nghỉ vậy thôi! Dứt lời, bạn cũng ngắt máy.

Một mình gã mò đến Trần Thế. Vẫn bàn vẫn ghế, vẫn màn khói mù mịt thân quen cũ. Chủ quán nhìn thấy gã đi một mình lại chẳng tỏ ra ngạc nhiên. Mời gã vào ngồi ở chỗ cũ, cũng chẳng hỏi dùng gì mà bước ngay ra sau bưng lên một cái lẩu ngồn ngộn khói:

- Ông anh ăn thử món lẩu của quán em, bữa nay thằng em đãi!

Gã cầm đũa chọc chọc vào lớp nước sôi sùng sục, gắp lên những miếng thịt không ra thịt, rau chẳng phải rau. Chẳng biết gọi tên là gì. Gã chủ quán hiểu ý:

- Xin giới thiệu với ông anh, đây là món lẩu thập cẩm độc nhất vô nhị. Món lẩu Đời người. Đến Trần Thế ăn lẩu Đời người thế mới gọi là dân sành ăn nhậu!

Gã đưa một miếng thịt - rau ấy vào miệng, gật gù:

- Lạ miệng đó, vậy sau khi nếm xong đời người, no căng bụng thì sẽ ra sao?

- Cái đó còn tùy từng quý khách, có người thì chẳng bao giờ cảm thấy no, có người thấy người khác ăn thì khởi phát cơn thèm nhưng khi ăn thì chẳng được bao nhiêu, đành bỏ mứa. Nhưng hễ bập vào món lẩu này thì chắc chắn là sẽ nghiện - gã chủ quán cười ranh mãnh.

- Vậy thì phiền ông dọn món này vào! - gã ném đũa xuống đất.

Gã chủ quán ra hiệu cho cô em phục vụ đứng gần đó bưng Đời người vào trong, không có vẻ gì phật ý:

- Tiểu đệ cũng biết ông anh đến đây không phải để ăn nhậu mà là để tìm...

- Làm như ông đi guốc trong bụng tôi, vậy nói thử: tôi đến tìm gì?

- Tìm cái đã để lại và trả cái trót mang đi... Chủ quán lấp lửng.

- Một phần linh hồn à? - gã gập người cười rũ rượi.

- Ồ, đó chỉ là một câu chuyện đùa. Cả chuyện chúng ta đang nói nãy giờ cũng là chuyện đùa nốt! - gã chủ quán đột nhiên phát cười lớn.

Trước khi rồ xe ra khỏi Trần Thế, gã chủ quán kề miệng sát tai gã thì thào:

- Nếu khi nào ông anh muốn tìm cái đã để lại và trả cái trót mang đi thì hãy tìm bạn của mình. Nhưng tôi dám chắc: đời nào ông ta chịu nhận!

Giống như vụ cây quất lần trước, lần thứ hai gã thấy mình ngu thêm một tí!

Hai nhà cạnh nhau

Cập nhật lúc 14:13, Thứ Tư, 18/04/2012 (GMT+7)

Nếu tính theo dải đất thì đúng là nhà tôi và nhà lão ở cạnh nhau. Nhưng toàn bộ cơ ngơi của lão rộng những hai nghìn mét vuông nên nói “cạnh nhau” thực ra nhà tôi chỉ giáp với góc khu vườn cây nhà lão. Còn cái vi - la nghễu nghện giữa trời kia của lão cách cái nhà cấp bốn lụp xụp của tôi theo đường chim bay cũng đến cả trăm mét. Nói vậy để thấy rằng, tuy ở cạnh nhau nhưng giữa nhà tôi và nhà lão hoàn toàn không có tính “láng giềng”.

Cũng phải thôi, tuy đã về hưu nhưng lão vốn là tổng giám đốc một tổng công ty lớn, còn tôi chỉ là anh thợ chữa xe đạp. Bây giờ thì trong các cuộc họp lão chỉ được giới thiệu là “nguyên tổng giám đốc”. Nhưng “nguyên tổng giám đốc” chắc chắn cũng oai hơn cái… chức vụ “đương nhiệm chữa xe đạp” của tôi nhiều.

Nhưng dù thế nào thì tôi vẫn vui. Hồi còn thanh niên tôi đã là anh thợ chữa xe đạp. Bây giờ ngoài sáu mươi, tôi vẫn hành nghề, nên chưa ai gọi tôi là “nguyên” cả. Vậy thì về mặt nào đó tôi cũng đáng tự hào lắm chứ. Tôi vẫn đương nhiệm, còn lão thì đã “nguyên”. “Nguyên” có nghĩa là đã về vườn, nghĩa là chẳng còn hữu ích gì cho xã hội.

Từ ngày lão xây cái vi - la và về đây ở, không hiểu ma xui quỉ khiến thế nào mà đầu óc tôi bỗng xuất hiện một câu hỏi mang tầm… triết lí thời đại: “người giầu khác kẻ nghèo ở điểm nào?”.

Tất nhiên, cái điều sờ sờ trước mắt mà ai cũng nhận thấy là người giầu được hưởng thụ nhiều hơn kẻ nghèo. Thì đấy, nhà lão những hai ô tô loại sang, hai ô - sin loại xịn (thời nay người ta đã bắt đầu phân loại ô sin chứ không đánh đồng như ngày xưa, cũng như người ta phân biệt tiến sĩ xịn với tiến sĩ giấy, và vân vân). Lão đi một bước là lên xe xuống ngựa. Năm đi nghỉ mát ít nhất một lần, thứ bảy, chủ nhật nào cũng vi vu, không Tam Đảo thì cũng hồ Núi cốc, suối Phượng Hoàng. Còn tôi, tuy “đương nhiệm” đấy nhưng suốt ngày phải cắm mặt vào săm, lốp, pê - đan, xích, líp… mồ hôi vã ra như tắm. Tôi nói vậy không phải để than thân trách phận mà chỉ nhằm bổ sung cho cái triết lí “người giầu khác kẻ nghèo” ở điểm nào thôi. Chắc chắn đó là một điểm khác nhau rõ ràng nhất. Tuy nhiên, ở đời đâu chỉ có mỗi chuyện hưởng thụ vật chất như thế. Vậy thì tôi và lão còn khác nhau ở điểm nào nữa? Đọc đến đây chắc độc giả sẽ cười thầm, cho rằng cái gã chữa xe đạp quèn như tôi mà sao hay rắc rối sự đời làm vậy. Cũng xin tiết lộ với độc giả, tôi có cái tính hay lí sự ấy có lẽ là do ông bác tôi trước đây từng làm cái nghề viết bình luận văn học, tiếng tăm nổi như cồn. Nói như các nhà khoa học thì đó là sự di truyền gien dung gì đó. Nhưng chán quá, cái gien của ông bác tôi chỉ di truyền sang tôi một cách dở dương, nửa đời nửa đoạn nên tôi mới không có khả năng viết bình luận văn học mà chỉ thành anh thợ chữa xe đạp gàn dở như bây giờ. Nhưng mà thôi, không sao cả. Chẳng ai lại đi trách tiền nhân về những chuyện như vậy. À, mà tôi nghĩ ra rồi. Tôi và lão thử cân đo nhau về chuyện tiếng tăm và quan hệ cộng đồng xem sao. Tất nhiên, so với cái ngày lão đang chễm chệ ngồi ở cái ghế tổng giám đốc thì tôi không dám. Nhưng lão đã về hưu gần chục năm như bây giờ thì chưa chắc đã mèo nào cắn mỉu nào. Thì đấy! Nhà lão quanh năm đâu thấy bóng dáng một vị khách nào, ngoại trừ mỗi tháng đôi lần, ông tổ trưởng dân phố đến thu tiền thuế, tiền ủng hộ này nọ. Còn nhà tôi, chẳng khoe khoang gì đâu, nhưng từ sáng chí tối, cứ gọi là đông nghìn nghịt. Nào khách chữa xe, nào mấy ông bạn cựu chiến binh, mấy bác say cờ tướng, nào mấy bà đồng nát, mấy chú tiếp thị micrôphốt. Và đặc biệt là các bác nhà thơ phường, cứ làm được bài thơ nào lại vác sang nhà tôi đọc. Họ bảo thích sang cái quán của tôi trình diễn là vì ở đấy có độc giả. Họ giải thích, thơ mà không có độc giả thì vứt cho chó gặm còn hơn. Dĩ nhiên rồi. Thì mấy khách hàng chờ chữa xe, lại có thi ca phục vụ, muốn hay không thì thơ vẫn cứ giã vào tai, ai chả phải thưởng thức. À, mà tôi kể thêm cho độc giả nghe chuyện này nữa, để các bạn thấy cái danh của tôi nổi hay của lão nổi nhé. Nhà tôi và nhà lão ở cạnh nhau các bạn đã biết rồi. Mà nhà đã ở cạnh nhau thì thế nào cũng xảy ra cái chuyện mỗi khi cần tìm nhà này thường hay lấy nhà kia làm chuẩn, hoặc ngược lại. Tất nhiên, những nhà có danh tiếng hơn bao giờ cũng trở thành tâm điểm. Tỉ như, nếu nhà bạn ở cạnh nhà ông chủ tịch thành phố chẳng hạn thì khi chỉ đường vào nhà bạn bao giờ người ta cũng bảo “Cái nhà bên cạnh nhà ông chủ tịch thành phố đấy”. Tất nhiên là thế, bởi cái danh ông chủ tịch nổi hơn cái danh của bạn nhiều. Ấy vậy mà có lần tôi đã nghe thấy mấy người ở cuối phố nói với người hỏi đường vào nhà ông “nguyên tổng giám đốc” như thế này: “Đấy! Cái nhà to bên cạnh nhà ông Giang chữa xe đạp đấy”. Thấy chưa? Như thế có nghĩa là cái nhà của tôi có tiếng tăm và được nhiều người biết đến hơn nhà lão. Vậy thì, đứng trên mặt danh tiếng, tôi có thể dạng chân nhìn về cái vi - la ngất ngưởng nằm trên dải đất vài nghìn mét vuông kia của lão mà cười khẩy: “Này! Nhạt toẹt nhé!”.

Nhưng cũng có một điều, tôi phải thừa nhận là thua xa lão. Đấy là cái chuyện quanh năm ngày tháng vợ chồng lão không hề to tiếng. Ừ! thì người ta vẫn bảo, khi kinh tế khá giả chẳng còn điều gì phải bức xúc, nên vợ chồng thường hạnh phúc đầm ấm. Vợ chồng tôi, hẳn là vì còn nghèo nên thi thoảng vẫn hay tiếng bấc tiếng chì với nhau. Đôi khi, có tí men, cộng với cái chất yêng hùng luôn thường trực trong người, tôi cũng thượng cẳng chân hạ cẳng tay tí ti làm cho bà ấy giận tái giận tê. Gia đình tôi không ít lần mất danh hiệu gia đình văn hoá chỉ vì điều này. Chuyện là thế, nhưng thực ra tôi là người nhất mực thương yêu vợ và ngược lại, bà ấy cũng rất thương yêu tôi. Nhưng rõ ràng về văn hoá ứng xử vợ chồng tôi phải học lão nhiều. Tính tôi nhiều khi sĩ hão thật nhưng được cái cầu tiến bộ. Tôi thường bảo vợ: “Chẳng phải học ai ở đâu xa, riêng việc cư xử vợ chồng, ta cứ học ngay bác nguyên tổng giám đốc bên cạnh nhà là đủ”. Quả là sau đó, tôi đã sửa được tính thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ. Riêng về chuyện này, tôi luôn ngầm cảm ơn lão. Có lão ở cạnh nhà nên tôi mới sửa được tính xấu.

Vậy mà đùng một cái, cái tin vợ lão đã bỏ sang nhà cô em gái ở hơn một năm nay vì phát hiện ra chuyện mười mấy năm về trước tức là ngày còn công tác lão từng có một cô bồ. Hơn một năm nay lão phải sống thui thủi một mình mà cả cái phố này không ai biết. Nhận được thông tin này, tôi cứ đờ đẫn cả người, không biết nên suy nghĩ thế nào cho phải. Không hiểu sao, tự nhiên tôi lại thấy thương lão. Trời ơi, sao vợ lão lại cố chấp đến thế. Dốt! Đã là chuyện của  mười mấy năm về trước mà còn tự mua dây buộc mình như thế làm gì. Trên đời này, thằng đàn ông nào, từ gã phu khuân vác đến giáo sư tiến sĩ, đến thứ, bộ trưởng mà chẳng có tí ti cái chuyện mon men bên vườn cấm cơ chứ. Nhưng tôi cũng có điểm trách lão. Ai bảo lão cứ kín cổng cao tường cho lắm vào, để đến cái nỗi việc tày đình xảy ra mà hàng xóm láng giềng vẫn không hề hay biết. Nếu tỏ tường mọi chuyện, mỗi người góp một ý, biết đâu vợ lão lại nghe ra, không bỏ nhà bỏ cửa mà đi như thế. Người giầu thì khôn thật, chuyện gì cũng kín như bưng. Nhưng khôn quá hóa dại. Chứ người nghèo như tôi đây, xấu tốt cứ toẹt móng heo ra. Tốt thì phát huy, xấu thì sửa. Chuyện dẫu tày đình, có khi hơ hớ cười một trận lại huề cả làng. Hóa ra người giầu và kẻ nghèo còn có nhiều điểm khác nhau quá. Còn khối chuyện để tôi khai thác.

Sáng nay, thoáng thấy cái bản mặt u sầu của lão trên chiếc xe mec-xê-đet bóng nhoáng lướt qua cửa nhà, tôi thấy mủi lòng. Nếu như cái hình ảnh kia rơi vào mấy hôm trước thì thế nào tôi cũng vếch mặt nhìn và hắt theo một câu gay gắt: “Sĩ! Phởn!”.

Nhìn theo lão, tôi chợt giật mình nhận ra một điều, lão đã sinh sống ở đây hơn ba năm rồi mà sao cả tôi và lão chưa bước sang cửa nhà nhau lấy một lần nhỉ? Có lẽ tôi thì do tính sĩ, còn lão chắc cũng vì thể diện. Mà thể diện thì cũng chỉ là cách gọi khác của tính sĩ chứ còn gì nữa. Như thế là dở ẹc.

Trong nhiều cái khác nhau, hình như đó là cái khiếm khuyết giống nhau mà cả nhà giầu lẫn kẻ nghèo đều phải sửa.

Thôi được, cho qua cái tính sĩ, tối nay nhất định tôi sẽ sang nhà lão.

Sài Gòn đắc địa

Chủ nhật, 26/08/2012, 03:53 (GMT+7)

Góc ngã ba nối liền con đường lớn và ngõ hẻm có một vỉa hè lát gạch rộng rãi, giữa còn giữ lại một gốc sao dầu tỏa bóng mát là nơi cánh xe ôm tập trung chờ khách, đông đủ là năm xe. Thời buổi kinh tế này, đô thị như cái ao trũng, nước ở khắp nơi đổ về, tốt xấu đủ cả nhưng đều sống theo câu hò xưa:

Đến đây thì ở lại đây

Chừng nào bén rễ xanh cây hãy về

Đừng tưởng rằng dân xe ôm chỉ biết có rù ga hứng những núm vú thỉnh thoảng ịn vào lưng là không có tính linh hoạt văn hóa chính trị thời cuộc. Thử tính nếu sáng sớm họ ngưng mua báo xem các tờ báo lớn hàng ngày có điêu đứng không?

Gần đây, cánh xe ôm lo lắng vì nạn lấy chồng ngoại của gái đẹp ở những vùng đất nghèo.

- Tại anh em mình, đã ít tiền lại không ga-lăng nên chị em họ buồn, kiếm cách đổi đời bằng việc lấy chồng ngoại thôi.

Nói là nói vậy cho có vẻ dân thành thị am hiểu thời cuộc nhưng thật ra mỗi người đều có chút đắng lòng vì cảnh ngộ quê nghèo. Xưa, mỗi một Nguyệt Nga đi cống Hồ phiên quốc mà nhân gian đã dậy sóng ba đào, huống chi nay hàng vạn nữ nhi biệt xứ nơi xa lạ, bị chọn mua như con cá, lá rau.

Năm anh em tổ xe ôm có Hai Được, Tư Đen, Ba Đồng, Năm Hoàng và ông Lục Tàu lai.

Xe ôm thời hiện đại bắt khách bằng điện thoại cầm tay.

Hai Được có ông khách quen Việt kiều Úc mang họ Phạm năm nào cũng về Việt Nam đôi ba lần, mỗi lần lưu lại Sài Gòn cả tháng, đi đâu cũng gọi ông, trả tiền xe không cần thối, lại còn kéo vào quán cà phê vỉa hè, để qua cái miệng tía lia của anh chàng vui tính nghiên cứu bổ sung tình hình quê nhà. Anh xe ôm thở than về chuyện gái miệt vườn rủ nhau lấy chồng Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, còn nói: “Ông ở xứ văn minh về, hiểu biết nhiều, ông góp ý xem phải làm sao đây”. Ông họ Phạm nói:

- Không chỉ Hàn Quốc, Đài Loan thôi đâu. Dân Việt kiều hải ngoại cũng rần rần về kiếm con gái Việt Nam rước ra nước ngoài làm vợ. Nhưng các chị em đừng lo không có người phất cờ đi đầu bảo vệ quyền bình đẳng của chị em phụ nữ. Đó là thím Năm - vợ của chú Út tôi. Thím chủ trương gả bắt rể. Có thật lòng yêu nhau thì khăn gói đến nhà bà ở rể làm ăn, sinh con nuôi lớn. Mối lái môi giới hôn nhân đặt lễ hàng chục triệu bà cho de tất, đến bây giờ cô Quỳnh Hương, con gái út của bà được một Việt kiều ở Pháp - Trancois Nhiều - về cưới, nhập quốc tịch Việt Nam, ở rể ngay trên đất hương hỏa nhà bà.

Ông Lục Tàu lai hưởng ứng ngay: “Có vậy đó, Ngày trước người như bà Năm gả con đòi bắt rể nhiều lắm mà. Không có các bà ấy làm gì Sài Gòn có Chợ Lớn như bây giờ”.

Chuyện đời nghe chính người trong cuộc kể lại mới vui. Anh Tư Đen của tổ xe ôm kể: Nói các cha không tin, nhưng thật ra vợ tôi bây giờ hàng ngày đi giao bánh mì chứ trước cũng là một cô gái Cà Mau bị người ta môi giới gả bán cho người Hàn Quốc. Bữa ấy, tôi đang vừa chạy xe vừa ngóng khách, bỗng có một cô gái từ khách sạn tư nhân bên đường ra vẫy gọi, chưa kịp hãm phanh cô đã nhảy phốc lên xe, giục đi nhanh lên, hỏi đi đâu cô bảo đi về Long An. Xe đến xa cảng, cô vỗ lưng bảo dừng lại: “Thú thật với anh, em còn có hai mươi ngàn, anh vui lòng cầm lấy, đi nữa em không có tiền trả cho anh đâu”. Cô nói mà rơm rớm nước mắt, tội con nhà nghèo chả lẽ vô tâm, xuống đây rồi cô đi đâu? '

Còn biết đi đâu nữa? Em đang chạy trốn để khỏi bị gả bán cho nước ngoài. Chỗ em vẫy xe anh là nơi họ tập hợp gái quê lại cho bọn Hàn Quốc và Đài Loan già khú đế coi mắt, mua về xứ nó làm vợ, em thừa lúc họ sơ ý lẻn trốn, may nhờ gặp anh. Thân gái dặm trường, đường sá lạ hoắc, tiền không có em đi thế này không ổn đâu! Anh cũng là dân nghèo dưới quê lên, nếu em tin tưởng, tạm về nhà anh ẩn mặt đi một thời gian rồi sau sẽ tính. Vậy là cô ấy theo tôi về nhà trọ bên quận 4 cho đến bây giờ, chồng chạy xe ôm vợ đi giao bánh mì bằng xe đạp, sống ngon ơ. Mỗi khi ôm tôi, cô ấy thường thốt lên rằng chúng tôi có được nhau do ông trời sắp đặt. Tôi là kẻ vô thần không tin có thế giới bên kia nhưng mỗi khi nghe câu nói tâm linh về tình yêu ấy, tôi cũng thấy khoái chí.

Dịp Tết Tân Mão, ông họ Phạm bên Úc lại du lịch về quê thăm lần nữa. Từ Sài Gòn về miền Tây, ông không bao taxi nữa mà rủ Hai Được chở đi. Không phải tiếc tiền mà ông muốn thăm thú nhiều nơi, người thân bạn bè ở các thôn xóm và có người lái xe thuyết minh chuyện quê hương khắp nẻo.

Đây rồi, đi nửa vòng trái đất lại gặp nhau, muôn nẻo về một mối. Trước nhất cho mình rảo một vòng xem cơ ngơi thím Năm cho mãn nhãn, chuyện trò cho đã. Biệt thự khang trang, đầy đủ tiện nghi, sân vườn đầy hoa trái lại có bàn tay tiên chăm sóc còn gì bằng. Hai người đi bên hông nhà, dọc theo một hàng lu chứa nước mưa, ra sau bếp chào: “Thưa thím Năm! Chúc mừng thím mạnh khỏe! Con và anh lái xe xin đăng ký ở lại hai ngày để được thưởng thức tài nấu nướng của thím, nhớ lại mùi vị quê hương. Thím Năm tài thiệt đó, dám bắt rể từ bên Tây về nuôi phởn phơ béo tốt thế này…

Vào phòng khách, chàng rể Việt kiều mới thổ lộ: “Tôi mơ tưởng hình bóng cánh hoa trắng, nhụy sen vàng, kẻ si tình này từ bên kia trỗi dậy, một mình xách va ly bay về quê hương xin được ở rể. Ngày đầu tiên được ăn bữa cơm canh chua cá kho tộ. Thằng bé mừng rơn lại xộ ra một câu không hiện đại tí nào: “Quỳnh Hương ơi! Em đã từng yêu ai chưa?”. Yêu làm sao được khi mà má em quả quyết đòi bắt rể”.

- Nói nghe coi! Từ ngày được bắt rể, anh cảm nhận như thế nào?

- Tuyệt vời chứ như thế nào nữa. Có gì đáng hãnh diện cho thằng đàn ông bằng có vợ đẹp. Nàng là giáo làng mà có vẻ kiêu sa như người đẹp chính khách.

- Ngôn ngữ thời thượng có khác đây, sao lại gọi là người đẹp chính khách.

- Chính khách là phải đẹp, người đẹp là phải có trình độ chính khách như bà Nguyễn Thị Bình, Tôn Nữ Thị Ninh, bà Bhutto, chứ béo trục béo tròn cái mặt chần vần mà đại diện quốc gia đi ngoại giao thì mất thể diện hết. Quỳnh Hương của tôi nhìn ảnh đã ngất ngây, về nước tận mặt rồi còn hết ý. Rõ mặt đàn bà nước Nam.

Trancois Nhiều nói tiếp: Cái sướng nữa của kẻ lá rụng về cội như tôi là đã hiện thực hóa được một sa lông văn hóa tại ngôi nhà mới của mình, anh em trang lứa, bà con cô bác trong làng hợp ý với mình, định kỳ đến nói chuyện chơi như một câu lạc bộ, có tốn kém gì chỉ cần nước sôi pha trà thôi mà tình làng nghĩa xóm đổi trao xôm tụ lắm. Tôi phục lăn bà con nông dân xứ mình là những cây hài hước rất tầm cỡ.

Nước mắt chảy xuôi

Thứ bảy, 11/08/2012, 23:06 (GMT+7)

Ngày cha chuẩn bị đưa con vào thành phố thi, mẹ tất tả lo nào quần áo, đồ dùng, thuốc bổ, luộc mấy quả trứng gà mới đẻ, mấy trái bắp non cho cha con ăn dọc đường, thêm mấy lát gừng ngậm ấm bụng. Mấy ngày trước nghe cha mẹ bàn bạc chuyện tiền bạc cho con đi, mẹ phải vay tiền trước đại lý nông sản. Cuối mùa thu hoạch cân lúa bán cho họ với giá rẻ, cha đầu tắt mặt tối nhận đủ thứ việc người ta thuê, có hôm tối mịt trở về với cái bụng đói meo. 

Con vẫn nhớ món ăn quen thuộc của nhà mình là cà muối, cà mẹ trồng trong vườn nhà và cả mấy luống rau đủ làm cho bữa ăn thêm hương vị quê nhà. Thỉnh thoảng mẹ nhặt về những trái dưa leo cuối mùa bé tẹo người ta bỏ lại sau thu hoạch, muối chua rồi kho với cá, tìm mỏi mòn trong nồi dưa mới thấy một con cá cỏn con, mẹ lại nhường hai anh em con ăn phần nhiều thịt nhất, phần xương cha mẹ ăn một cách ngon lành.

Những ngày con ôn thi, mẹ không cho con động tay chân vào bất cứ việc gì, chỉ ăn, học và ngủ. Còn cha mẹ thì rời khỏi nhà buổi sáng sớm khi sương còn long lanh trên ngọn cây, đọt cỏ, và trở về khi hoàng hôn đã buông xuống từ lâu. Chuẩn bị bữa ăn tối cho gia đình xong mẹ lại lo chăm đàn heo, mấy con gà, cha tranh thủ sửa lại những lỗ thủng trên trần nhà sợ đêm mưa gió.

Thường là những ngày nắng, mặt trời chiếu ánh sáng xuyên thẳng xuống nền nhà, những hôm trời mưa, cha mẹ lại lục đục lấy thau để giữa nhà hứng nước. Ngày ấy con luôn xấu hổ vì gia đình mình nghèo, cha mẹ làm thuê, chưa bao giờ dám đưa bạn bè về nhà, viện lý do cha mẹ khó tính mặc dù mẹ luôn bảo con đưa bạn về chơi.

Và hôm nay trên chiếc xe đông nghẹt người, hành khách đa phần là thí sinh vào thành phố thi đại học, có bạn được cha mẹ đi cùng, có bạn ngồi co ro một mình nhìn xung quanh, thỉnh thoảng lại cúi đầu thở dài, lòng tủi thân và đôi mắt bạn hoe đỏ. Con cũng có cha đưa đi cùng nhưng nhìn cha với quần tây bạc thếch, chiếc áo chợt nhuốm vàng dù mẹ đã lựa cái mới nhất trong những chiếc quần áo của cha, đôi dép lào mòn đế, chân tay chai sạn, đậm màu phèn, con cố tình ngồi cách xa cha, sợ người khác biết cha là cha con thì quê chết.

Đến bến xe, bảo con ngồi trông đồ đạc, cha hỏi thăm các anh chị sinh viên tình nguyện nơi ở và trường thi, nhìn dáng cha lam lũ, các anh chị tận tình đưa hai cha con đến phòng trọ cạnh trường, giá lại rẻ, ở đây còn có một ngôi chùa lớn, hàng ngày các bậc ni sư đều phát cơm từ thiện cho các gia đình đưa con đi thi, trong khi cha mừng vì tiết kiệm được chi phí, con lại xấu hổ xếp hàng nhận cơm, có hôm giả mệt đợi cha mang về phòng ăn.

Khi nào mang cơm về cha cũng mua thêm cái đùi gà, lúc mấy miếng sườn ram và cá chiên giòn cho con ăn, còn cha vẫn cặm cụi với hộp cơm nguội lạnh.

Con bước vào phòng thi với ánh nhìn đầy hy vọng của cha, giọng nói lo lắng của mẹ từ quê gọi vào “Gắng nhen con, học kiếm cái nghề, đừng để nghèo như cha mẹ”, xa xa ngoài cổng trường, bàn tay cha vẫy vẫy trong ánh nắng hanh vàng.

Rời phòng thi, nhìn cha mẹ bạn khác người đọc báo, uống cà phê, nghe nhạc đợi con, còn cha ngồi tựa đầu vào gốc cây bên đường, kéo chiếc mũ qua mắt tránh ánh mặt trời, da cha đen sạm và áo ướt đẫm mồ hôi.

Thi xong đại học, đến thi cao đẳng, cha vẫn đưa con đến tận trường dù bất kể trời nắng hay mưa, ở phòng trọ ngay bên cạnh trường, bồi bổ cho con những món ăn mà khi ở nhà chỉ là mơ ước, cha bảo dù con có lớn đến cỡ nào thì trong mắt cha mẹ con vẫn mãi là thằng bé, thằng bé chỉ biết nhận những yêu thương từ cha mẹ như đó vốn dĩ là trách nhiệm, mà vô tâm quên mất mình đã trưởng thành.

Ngày nhận giấy báo từ trường, con về nhà báo tin cha mẹ biết, cha không nói gì chỉ nhìn con bằng ánh mắt đầy tự hào, mẹ chạy từ dưới đồng lên, hai chân lấm bùn, mồ hôi nhễ nhại, mắt lệ nhòa, cười mừng mừng tủi tủi, ôm con vào lòng, mùi đồng khô mặn đắng. Tối đến, ai đến nhà mẹ cũng khoe con đậu đại học, con lại mừng vì sắp được xa nhà, vào thành phố hòa cùng nhịp sống đô thị.

Ngày mai con lên xe vào thành phố nhập học, mẹ thu xếp đồ đạc, mua đủ thứ thức ăn cho con mang theo, lại còn nào thuốc cảm, đau đầu, đau bụng... cha đưa con ra bến xe, đưa con lên tận chỗ ngồi, xe dần dần chuyển bánh mà cha vẫn nhìn theo không chớp mắt, bóng cha xa dần, có nụ cười trên môi và đôi hàng nước mắt, cha mẹ cứ dặn con lo học, đừng đi làm thêm, hàng tháng cha mẹ lại gửi tiền con chi tiêu đầy đủ, có khi gửi thêm con gà, ít trái cây quê nhà.

Con cứ thế, thuộc hạng “không làm vẫn có lương”, học và chơi, hè lại kéo nhau về nhà bạn bè cùng lớp, chưa một lần nghĩ về nghỉ hè cùng gia đình. Mỗi khi cha mẹ gọi điện hỏi thăm, con lại cảm thấy mình mất tự do, chỉ gọi về nhà khi tiền đã tiêu hết. Tết đến về nhà mấy ngày con lại nôn nóng vào thành phố, bởi về nhà mọi thứ đều buồn chán và tẻ nhạt, không khí gia đình sum vầy không đủ níu chân con lại với vùng quê nhỏ bé.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, ngày con làm lễ tốt nghiệp, cha bảo sẽ thu xếp vào với con, con lại nói không cần như thế vì sau buổi lễ, con còn đi ăn mừng với bạn bè, cha ngậm ngùi bảo đã chuyển tiền vào thẻ cho con.

Buổi tối đang tiệc tùng vui vẻ, mẹ gọi điện hỏi con đã ăn gì chưa, con trả lời qua loa để tiếp tục cùng những bản nhạc karaoke sôi nổi. Bỗng tiếng thằng Út vang trong điện thoại “Út ăn cà muối hoài chán quá anh Hai ơi”. Tiếng mẹ la thằng Út kèm tiếng nấc nghẹn.

Chuông điện thoại tút những hồi dài. Con chợt thấy mặn đắng trong lòng, ngồi thẫn thờ nghĩ về cha, về mẹ, về những khoản tiền hàng tháng con nhận, nghĩ về nét mặt nhăn nhó ngán ngẩn của thằng Út mỗi khi bữa cơm đạm bạc thường chỉ rặt chén cà muối mặn chát năm này qua năm khác… để con có đủ tiền ăn học, và con nghĩ về bốn năm qua, đã coi thành phố là nhà và quê nhà chỉ là chốn trọ.

Đêm muộn, thành phố có chuyến xe khách cuối cùng rời bến, đưa con trở về… 

Một lần ra phố

Thứ bảy, 30/06/2012, 22:39 (GMT+7)

Hắn được má giao nhiệm vụ đưa em gái lên TP dự thi đại học. Quãng đường từ miền Tây quê hắn đến trường thi phải qua một lần xuồng và một lần chuyển xe nữa mới tới nơi. Từ bé tới giờ chưa có dịp đi xa nên hắn rất lo lắng. TP mà theo hắn nghĩ là nơi nhộn nhịp, xô bồ và đầy bất trắc. Nơi đó có biết bao nhiêu cạm bẫy đang chờ anh em hắn.

Má căn dặn: “Nhà mình nghèo, con sớm thất học nên tương lai chỉ trông chờ vào em gái con. Con phải cố gắng đi đến nơi về đến chốn, nghen con!”. Hắn dạ dạ liên hồi mà bụng lo đến buốt ruột, còn con Nhím – tên gọi ở nhà của em gái hắn, thì háo hức ra mặt, luôn mồm nhắc: “Ngày nào mình lên đường anh Hai?”.

Má cẩn thận khâu một cái túi nhỏ rồi dồn số tiền chẵn và dính chắc chắn vào chiếc quần đùi nó mặc. Còn số tiền lẻ đủ mua vé xe và chi phí dọc đường cho hai anh em được nhét vào đáy túi xách. Vậy mà má vẫn chưa yên tâm cứ dặn đi dặn lại hoài khiến hắn phải càu nhàu: “Má nghĩ con còn con nít lắm sao?”. Má nó cười: “Ừ! Thằng Hai với con Nhím cố mà thi cho giỏi nha”.

TP đúng là cái gì cũng hay cũng lạ thiệt. Hai đứa cứ lơ ngơ như bò đội nón. Thằng anh đeo hành lý vào cổ, xoay ra phía trước để tránh bị kẻ gian rạch túi. Mặt cố tỏ ra vẻ thản nhiên, bình tĩnh, dày dạn nhưng những bước đi của nó cứ lập bập mấy lần suýt té, cộng thêm nước da đen nhẻm màu bùn chính gốc dân miền Tây lắm kinh nhiều rạch không thể lẫn vào đâu được.

Con Nhím líu ríu theo anh, mắt ngước nhìn những tòa nhà cao ngất ngưởng đến nỗi chiếc nón vải trên đầu bị rơi xuống đường buộc hắn phải mấy lần ra hiệu cho em gái: “Nhìn thẳng phía trước mà đi”. Mải ngắm nghía bên này bên kia, lâu lâu hắn lại giật mình thọc tay vào túi quần sờ nắn cái chỗ cồm cộm phía trong và biết nó vẫn yên vị thì thở phào nhẹ nhõm. Kể ra thì cũng bất tiện thiệt nhưng an toàn là việc cần thiết nhất thì phải ưu tiên thôi.

- Bạn gì ơi! Hai người lên dự thi đại học phải không? Các bạn có cần sự giúp đỡ gì không vậy?

Có tiếng gọi và một người cỡ tuổi hắn chạy lại bảo.

Chết cha! Sao nó biết hè – hắn cảnh giác – bọn lừa đảo ghê thiệt, cái chi cũng biết hết, giả đò làm quen làm biết để tìm cơ hội móc túi phải không, tao không mắc mưu tụi mày đâu hén. Nghĩ vậy, hai tay vẫn nắm chặt quai túi xách, như một cái máy, hắn chối biến:

- Không! Tụi tui lên bệnh viện thăm người nhà bị bệnh.

Hắn nghĩ rằng như vậy sẽ rất tốt vì dù sao cũng sẽ đánh vào lòng trắc ẩn của con người dù người đó là kẻ cướp đi chăng nữa, ai đời lại đi cướp của những người ở vào hoàn cảnh éo le khổ sở như hắn (?!).

- Thế người nhà của bạn nằm ở bệnh viện nào?

- À… à Bệnh viện… Chợ Rẫy - hắn nói đại vì chợt nhớ ra đây là một bệnh viện lớn mà có lần hắn đã nghe ai nói thì phải.

- Vậy thì bạn nhầm đường rồi, Bệnh viện Chợ Rẫy ở quận 5, còn đây là quận Thủ Đức, hai bạn nên quay lại theo đường này, đi tiếp một đoạn khoảng cây số rồi kiếm mấy anh công an giao thông đứng ở ngã tư đường hỏi thêm thì mới đến nơi được.

Nói xong, người mặc áo xanh chạy vội đi. Hắn ngơ ngác nhìn theo, không phải là lừa đảo sao?

Loanh quanh hỏi dò một hồi, được bác xe ôm chỉ đường cặn kẽ, hai anh em hắn cũng tìm được chỗ cần tìm. Đứng trước cái cổng to uỳnh là dòng chữ “Trường Đại học Nông Lâm”. Điều hắn lạ lùng hơn nữa là có rất nhiều người cũng trạc cỡ tuổi  hắn mặc áo màu xanh, đầu đội nón tai bèo, lúc nào cũng bận rộn với việc đón tiếp các sĩ tử từ các nơi kéo về. Họ chỉ dẫn tận tình, chu đáo. Con Nhím bảo: “Anh Hai nè, họ là những sinh viên tình nguyện đó”. Hắn chặc lưỡi “Ờ… vậy sao”.

* * *

Hai anh em được bố trí ở trong khu ký túc xá sinh viên, trong phòng có bốn chiếc giường tầng với tám người vừa đến. Theo sự giới thiệu của ban sinh viên tự quản, hai anh em hắn ra ngay tiệm cơm gần trường, làm hai phần cơm bụi, có nước rau muống vắt chanh ngon đáo để mà giá bình dân, lại thêm dì chủ tiệm vui tính, thì hắn bỗng nghiệm ra rằng, có những điều trên phố khác xa với những lo lắng của nó. Chắc cái bụng rồi, hắn mắc màn đi ngủ sau một ngày đường vất vả và căng thẳng, không quên gối chiếc túi xách kê đầu.

Ba hắn mất vì bệnh hiểm nghèo khi hắn đang học lớp tám. Nhà neo quá, hắn phải bỏ học giữa chừng. Dù tuổi còn nhỏ nhưng hắn đã là một lao động chính trong nhà. Mùa nước nổi, hắn theo bạn bè giăng câu, thả trúm cũng kiếm được ít tiền phụ với má. Mùa cạn, hắn theo đám vịt chạy đồng lang thang cả tháng trời ngoài bưng ngoài ruộng. Buổi sáng thì lùa đám vịt bầu ra đồng bằng cây sào có túm lá chuối khô phất phơ đầu ngọn, sau về lượm hột vịt cho má đem ra chợ bán.

Hôm đó má bàn với hắn bán phân nửa đàn vịt làm lộ phí cho hai anh em lên đường. Bà con xóm ấp cũng đến động viên đông đủ, người dăm ba chục, kẻ một trăm góp vào với lời chúc Nhím đậu đại học, đặng làm kỹ sư nông nghiệp sau về quê giúp bà con mần ăn cho đỡ cực, cho bà con nở mày nở mặt với xóm dưới ấp trên.

Thế nhưng giờ đây dù đã hết sức cảnh giác, hắn bỗng hoảng hồn khi lần tìm mãi mà cái túi vải không còn chỗ cũ. Hắn hoảng hốt thật sự khi thấy một kẻ lạ mặt nào đó đã không biết bằng cách nào lấy được số tiền lộ phí của anh em hắn. Ý thức về chuyện không hay xảy ra, hắn vừa kêu “Cướp! Cướp!” vừa co giò phóng vút qua đám gạch vữa lổn nhổn mà tên cướp vừa chạy qua. Càng cố sức đuổi theo tên cướp nhưng chân hắn sao cứ nặng như đeo đá. Bỗng nghe cái “oạch”, hắn bị trượt chân, va vào tảng đá đau điếng nhưng miệng vẫn không ngớt kêu mọi người giúp đỡ bắt tên cướp lại.

- Có chuyện gì thế?

Điện bật sáng, mọi người trong phòng tỉnh dậy đã thấy hắn chổng ngửa trên sàn nhà sau một cú bay từ tầng trên xuống, giữa trán hắn nổi một cục u tím bầm như trái măng cụt lép hột. Tiếng người láo nháo ngoài sân, rồi có hai người mặc áo xanh tay đeo băng đỏ đi vô hỏi thăm có chuyện gì đã xảy ra. Mấy người cùng phòng đỡ hắn ngồi dậy: “Không sao anh ta mơ ngủ thôi mà”. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Ai đó đưa hộp dầu nóng vừa bóp bóp vào cục u vừa an ủi “Đau lắm không?”.  Còn hắn một tay ôm trán còn tay kia như thói quen, thọc nhanh tay vào túi và nhận ra mọi chuyện vẫn như cũ.

Hắn suy đi tính lại, ừ sao mà ở phố vẫn có nhiều người tốt quá, không như những gì mình nghĩ. Đành rằng ở đâu cũng có người ngay kẻ gian, nhưng rõ ràng cái xấu chỉ lẩn khuất đâu đó thôi, chứ xung quanh cái thiện vẫn hiện hữu như cuộc sống vốn có. Tự nhiên hắn thấy sự lo lắng không đâu đã làm hắn đâm mệt mỏi, căng thẳng không đáng. Cảm giác yên tâm hơn lần đầu đến với hắn kể từ khi bước chân từ xuồng lên lộ. Hắn thấy TP thân thiện và đáng yêu quá chừng. Vừa chợp mắt được một lúc, bầu trời đã chuyển sang ngày. Ánh bình minh rực rỡ xuyên qua khung cửa sổ làm sáng cả một góc phòng. Lấp lánh.

Mớ xương gà

Chủ nhật, 22/04/2012, 00:08 (GMT+7)

Tự nhiên tôi có chị dâu, cả cháu gái, giống như từ trên trời rơi xuống. Nghĩa là anh Hai tôi và chị không chờ gia đình cưới hỏi mà tự chung sống, mang thai rồi âm thầm đi nơi khác sinh nở. Nghe nói trong thời gian đó, chị làm thuê đủ việc, từ giặt giũ đến quét dọn kiếm tiền, anh Hai tôi cũng lén mang thêm gạo thóc, ít tiền qua giúp chị. Cháu gái vài tháng, cứng cáp, má tôi mới làm cái lễ nhỏ rước chị về. Anh Hai tôi ngượng ngùng, bỏ đi đâu biệt cái bữa chị ngập ngừng bồng con bước vô căn nhà nhỏ của gia đình. Thằng bạn hàng xóm cười khà khà với anh tôi:

 - Nhìn mày lù khù vậy mà vác lu chạy hồi nào hổng hay.

 Anh làm thinh, chỉ cười trừ. Mấy cô bác lớn tuổi hơn thì từ tốn:

 - Sao mà vội vàng vậy cháu?

Anh bảo: Nhà nghèo vậy biết chừng nào cưới được vợ, kệ làm liều thôi. Nó nghèo chịu theo mình là tốt rồi.

Nhà thêm người, lại càng khó khăn hơn. Chị dâu tôi không đẹp, gương mặt xương xương, cằm dài, da ngăm ngăm, đôi tay khẳng khiu nhưng được cái chịu khó, không nề hà cực khổ. Bữa nào nhà không có đồ ăn, chị ra hái rau vườn nấu canh, hết gạo chị sang hàng xóm mượn đỡ.

Anh Hai tôi không giỏi, tánh lại hay sĩ diện hão, không bao giờ đi đâu cùng chị, sợ người ta cười chê cái chuyện dắt vợ. Cũng không hay ẵm con đi chơi nhà hàng xóm, sợ bạn bè trêu ghẹo mà không đủ lời lẽ đáp trả. Cũng chính vì khởi đầu như vậy nên cuộc sống hai người cũng không êm đềm gì lắm.

Cháu gái hơi lớn, má tôi cho anh chị ra riêng, căn nhà nhỏ cất trên mảnh vườn má chia cho. Hai người làm ăn lây lất, nhà cửa ngày càng rách nát hơn. Chị mang thai đứa con thứ hai. Tánh anh tôi vẫn hay mắc cỡ. Ngày chị chuyển dạ, anh kêu chị tự đạp xe vô trạm xá sinh. Chị mang cái bụng bự chảng leo lên yên xe trầy trật hoài mà không được. Má tôi miệng thì chửi anh tôi, rồi ba chân bốn cẳng chạy ra chở chị đi sinh. Chắc chị cũng tủi thân nhưng sau này tôi nghe chị kể lại bình thản với một nụ cười.

 ***

Năm ba bữa, nửa tháng là nhà anh tôi lại cơm không lành canh không ngọt. Bởi chị đi làm trong nhà máy chế biến thủy sản. Đi sớm về tối, con cái nheo nhóc, anh kham hổng nổi. Chị nói “Chẳng lẽ ngồi đó chờ đói hay sao”. Ban đầu làm công nhân thái cá, đứng trong xưởng tanh tưởi, lạnh căm, không quen, chị xỉu lên xỉu xuống, dần cũng quen nhưng tan ca là mình mẩy rêm nhức như ai cầm búa dần cho mềm xương thịt, phải uống thuốc nhức mỏi đều đều. Rồi cũng chẳng bao lâu, nhà máy thủy sản vỡ nợ, giám đốc nợ lương công nhân trốn biệt, chị nhìn những chiếc xe hơi của họ chạy mất mà chẳng biết làm sao. Đành tạm biệt đám dao rổ thái cá về tiếp tục bòn mót ít vườn nhà, bấp bênh, kham khổ. Anh tôi chửi:

 - Đồ ngu, mang cái thân đi làm không công cho nó.

 Chị cãi:

 - Ai biết đâu, thấy nó giàu vậy mà, quảng cáo rần rần trên truyền hình đó, bữa khai trương nhà máy mới cũng có mấy ông bự tới dự, bắt tay chúc tụng um sùm, tiệc tùng dài dài, ai dè đâu bây giờ mới nghe ra nó toàn vay nợ không.

Anh tôi sùng bố, văng tục:

 - Bà mà biết cái gì, đã nói từ đầu rồi, làm công nhân quèn, người ta trả cho ba đồng vài cắc, mà bị nó “đông lạnh” cho vài năm về đi hổng nổi, tới chừng nó kêu lỗ xù nợ bà có được cái gì đâu, kêu ai, có ký giấy tờ gì, thấy chưa. Dẹp hết, về làm vườn.

Chị thút thít:

 - Có bao nhiêu đó sao đủ nuôi con, hổng ấy anh kiếm gì làm thêm.

Anh chửi:

 - Mặt tao vầy đi làm mướn sao, bạn bè coi ra gì?

 Anh phủi đít cái rột bỏ đi để lại chị một mình thẫn thờ nhìn đứa con nhỏ buồn hiu.

***

Bịch. Bịch. Tiếng khóc la của chị, của hai đứa nhỏ, tiếng anh Hai tôi chửi um lên. Đó là mớ âm thanh quen thuộc ở căn nhà nhỏ sau vườn. Má tôi thở dài:

 - Lại cái tật nhậu vô quậy vợ con, nghèo không lo làm ăn còn sinh chuyện.

 Tôi vọt miệng:

 - Tại nghèo bứt rứt mới vậy. Mà anh Hai cũng kỳ thiệt, không chịu đi làm mà chỉ đi cũng không cho, kiếm tiền nuôi con, phụ hồ thì có gì xấu đâu.

 - Tại con hổng biết, thằng anh mày tánh sĩ diện, nó nói vợ đi làm vậy người ta cười cho, nhà có đất cát hồi đó giờ đâu phải làm mướn làm thuê, mà làm cái chỗ toàn đàn ông không, chỉ có mấy phụ nữ, chắc nó ghen...

Tôi cãi:

 - Nhưng mà, hồi đó khác, giờ khác, ảnh làm có miếng đất bằng bàn tay sao đủ ăn, thất bát thấy mồ. Ảnh cứ vậy hoài, hay là xúi chỉ bỏ cho rồi.

Má tôi nạt:

 - Bậy nè, ở với nhau hai mặt con rồi bộ dễ bỏ lắm hả? Thôi đi học đi, đừng có ở đó mà nói xàm.

 Chị Hai tôi giỏi, hay như má tôi nói đói thì đầu gối phải bò, chị làm không từ công việc nào, phụ hồ, buôn bán nhỏ, gần đây lại đi làm phụ bếp cho nhà hàng lưu động của người bà con. Công việc phụ bếp thức đêm thức hôm trắng mắt, chạy tới chạy lui đãi tiệc mướt mồ hôi, nhưng mà được cái là anh tôi không la mắng như hồi đi làm phụ hồ nữa. Chắc không ghen vì ít có đàn ông, với lại làm cho người quen cũng yên tâm hơn. Cuộc sống của anh chị vẫn chỉ đắp đổi qua ngày.

 Một bữa, chị vừa về tới nhà hào hển chạy qua kể cho má tôi nghe:

 - Bữa nay đi phụ nấu ăn đãi tiệc cho một gia đình giàu có, tình cờ nhìn thấy bà chủ công ty thủy sản con làm hồi đó. Bả đi xe hơi, ăn mặc sang trọng, nói cười tươi như hoa.

Má tôi hỏi:

 - Rồi có ai nói gì tới vụ nợ tiền công nhân không?

 Chị sụ mặt, phân trần:

 - Chỗ khách khứa sang trọng không, có mấy ông quan chức gì nữa, mình chỉ phụ đãi ăn cho người ta thôi, có dám hó hé gì đâu, người ta giàu mà. Mà má ơi, họ đặt hàng toàn là thức ăn sang không, tôm cá, gà vườn, rắn rùa ê hề, ăn dư quá trời luôn. Được cái là đãi xong chủ nhà boa cho mỗi đứa một trăm ngàn đồng.

 Má tôi thở dài:

 - Thôi coi như làm không công mấy tháng. Nghĩ nhiều thêm mệt. Về chuẩn bị cơm nước cho tụi nhỏ đi con. Tội nghiệp nó trông mẹ quá chừng.

 ***

 Bẵng đi một thời gian, tôi đi làm, có gia đình riêng, cũng nhín nhúc gởi về giúp đỡ ít nhiều tiền tập vở, quần áo cho các cháu đi học. Nhưng cũng không thấm vào đâu. Anh Hai tôi tàng tàng với mấy chục gốc xoài, cũng nhậu đều. Chị vẫn đi phụ bếp, rồi bữa nào rảnh thì chạy chợ bán hàng bông, đi cắt lúa mướn kiếm gạo cho chồng con ăn.

 Bữa tôi về, tạt qua thăm, thấy anh Hai đang lui cui nấu gì đó trong bếp, hai đứa nhỏ ngồi chồm hổm kế bên chờ cơm. Hình như chị vừa đi phụ bếp về, đang thay quần áo trong buồng. Nhìn vô cái nồi đang sôi sùng sục, tôi thấy lỏng chỏng đám xương gà. Anh giải thích:

 - Mẹ nó mới đem về, tao hầm bí đao.

 Chị Hai tôi từ trong buồng bước ra, tay vén lại mớ tóc, mắt thâm quầng, chắc thức đêm mấy hổm rày, cười với tôi:

 - Lát ở đây ăn cơm với chị nghen! Chị Giàu chủ nhà hàng cho xương gà đem về nấu cho mấy đứa nhỏ ăn. Mấy bữa hổm, đầu bếp xé gà làm gỏi còn sót thịt nhiều hơn, nay gà mắc quá, mấy ổng xé sát rạt hết trơn. Kệ, ăn đỡ!

Anh Hai với mấy đứa nhỏ húp canh cũng khí thế lắm, con nhỏ lớn nắm cái cổ gà nhai rôm rốp, bé Út thì cầm cái xương sườn gà gỡ từng miếng nhỏ, mặt mày mồ hôi mồ kê đầm đìa. Chị nhìn chồng với hai đứa con mắt lấp lánh niềm vui.

Tôi cảm thấy mấy cái xương gà nhọn nhọn đâm vào miệng mình nhột nhạt, nhưng cũng ráng nhai, hình như có chút vị ngọt. Giống như cái vị ngọt của nồi canh cua đồng mà má tôi đi bắt về nấu cho tụi tôi ăn những ngày mưa dầm dầu dãi mà nhà không có xu nào mua cá. Nhai lát nữa lại nghe đăng đắng, vị đắng của rau diệu vườn tôi hái luộc chấm nước mắm suông ăn với cơm gạo mượn. Có cái gì đó dậy lên trong cổ, chua chua như những lúc mang bụng đói đi học, cồn cào ruột gan, dịch vị chua từ dạ dày trào ra mà vẫn phải nuốt tuột vào. Và mằn mặn, giọt nước mắt nào lặng lẽ chảy vào tim...

Chợt giật mình khi nghe chị hối tụi nhỏ ăn lẹ lên rồi còn tắm rửa học bài. Trời sắp tối rồi, anh Hai đứng dậy đi bật bóng đèn tròn trong bếp. Ánh sáng đỏ lan tỏa, hình như gương mặt mọi người hồng hào, mớ xương gà lộn xộn trong nồi cũng dễ coi hơn. Và nét mặt thon dài của chị Hai tôi cũng dịu dàng, không còn thấy quá rõ nét quầng thâm, tiều tụy nữa.

Tường

Một khe khẽ đẩy viên gạch. Gạch cũ ẩm mốc tưởng đã mủn ra đến mức gẩy nhẹ là rơi được, thế mà vẫn chắc đến độ vài tháng nay Một kiên trì ngồi gõ mà vẫn chỉ đục được một lỗ nhỏ trên tường.

Bờ tường ẩm mốc đầy rêu, muốn chạm vào gạch được phải gạt một mảng rêu đi. Khu vườn nhỏ gần như là hoang. Cũng ít ai bước ra chốn ấy. Nhà ống có một mảnh thừa nhỏ ở sau nhà, không để làm gì, kể cả nuôi gà. Sân gạch xi măng cỏ dại đã mọc chen giữa các chỉ gạch, hứng đất bụi tích tụ qua năm tháng mà lớn lên, ẩy gạch xiên xẹo nằm chênh vênh. Một vài cây xương xông mọc giữa vườn, lá dầy đến độ phe phẩy làm quạt được, hoa thì ra trắng xoá, cũng chẳng ai buồn hái ăn. Một vài cây dại len lách giữa những chỉ gạch và kẽ tường. Vườn xanh một mầu xanh ẩm ướt. Cuối vườn là tường, một bức xanh rêu:

Bên kia tường, là một giọng nói.

Một nghe giọng nói ấy từ hồi còn bé tý. Câu chuyện bắt đầu thế nào Một không nhớ, những gì nhớ được chỉ là bên kia tường có một giọng nói. Một lớn lên giọng nói cũng lớn lên. Giọng nói có lẽ đã trải qua thời vỡ giọng, nhưng vì trò chuyện với nhau hàng ngày nên Một không nhận ra điều ấy. Một ngày ngày vẫn xách ghế ngồi sát tường chờ giọng nói cất lên rồi bắt đầu những câu chuyện vớ vẩn. Chuyện bắt đầu từ hồi hôm nay Một làm mất cục tẩy, đến đoạn hôm nay thứ hai mà Một không mặc áo dài bị giám thị phạt đứng ngoài một tiết, nhưng áo dài trắng hôm nay Một không mặc được vì lý do tế nhị. Một đi làm rồi kể chuyện sếp chuyện đồng nghiệp cả chuyện có bà hàng hoa sáng sáng chờ Một đi làm qua nhặt một bó nhài, quen đến độ Một đi làm muộn bảo vệ không nhắc trưởng phòng không trừ lương mà bà hàng hoa càu nhàu cô hôm nay đi muộn tôi chờ mãi. Chuyện đều vị như trà pha quen cữ, hôm nào cũng một vị ấy, có ngày chát hơn một chút, có ngày nhạt hơn, nhưng vị nói chung vẫn thế. Giọng nói ít kể chuyện hơn mà chủ yếu nghe Một nói, trả lời những câu giống nước rơi ở giọt gianh, có khi trúng có khi trật câu chuyện, mà nói nhiều thành quen, thành thuộc, nước rơi trật thì Một giơ tay hứng. Nói chuyện với nhau thế mà chưa bao giờ Một hỏi tên, cũng chẳng xưng tên, là cứ ơi rồi gọi nhau thế.

Tự dưng đến ngày Một muốn nhìn một cái sang phía bên kia tường. Không biết bên ấy có gì? Bên này ít nắng, ẩm ướt, xanh mướt, không khí đọng lại không chảy nữa từ cả chục năm nay. Một ngồi quen trong vườn như ngồi trong một căn phòng, thấy thân thuộc dễ thở, như về chốn của mình. Một sinh ra vốn đã chỉ có một mặt. Ấy là điều không hay lắm, ở đây ai cũng có hai mặt. Những người xung quanh Một đều vậy. Người một mặt thường không được ưa thích, chẳng có luật nào thành văn nhưng ít nhiều vẫn bị kỳ thị. Một vì thế ít bạn từ bé, trẻ con vốn chẳng quan tâm trên cổ của đứa kia là đầu chó hay đầu mèo, trẻ con chơi thì vô tư thôi. Nhưng người lớn cứ hay mở đầu rót những điều từ đầu mình sang đầu trẻ, rớt vài giọt của người lớn vào trẻ con đã thành ra nhìn nhau kỹ hơn, nghĩ kỹ hơn trước khi chơi với nhau. Một biết một mặt không phải chuyện gì hay ho và giả sử có bị bạn bè xa lánh thì đành chịu. Một biết thân biết phận từ bé, và vì thế Một hay ngồi trong khu vườn, định đếm hết lá của đám rêu trên tường thì sẽ bước ra ngoài tìm bạn. Đến giờ Một vẫn chưa bước ra khỏi khu vườn ấy. Trừ những lúc phải đi làm những việc bắt buộc, còn không thời gian rỗi Một dành hết trong khu vườn.

Chưa bao giờ Một dám hỏi vì sao bên kia bờ tường cũng có người ngồi đấy lâu thế trò chuyện cùng Một. Cũng không hẳn là không dám hỏi, nhưng có lẽ nhiều chuyện để nói quá đến độ Một chưa nhắc đến chuyện ấy nữa. Khi nào đếm hết lá đám rêu trên tường chắc Một sẽ hỏi câu ấy. Sao bên kia bờ tường cũng có người sẵn lòng ngồi đấy nói chuyện ngần ấy tháng năm với Một.

*

Một lấy cái búa nhỏ gõ vào tường, chậm rãi nhẹ nhàng và cẩn trọng. Một vừa muốn nhìn được sang bên kia tường, có điều gì sau bờ rêu ấy? Một lại cũng vừa e ngại nếu nhìn thấy bên kia bờ tường ấy, thì sao? Nếu nhìn thấy giọng nói vẫn trò chuyện cùng Một ngày ngày, thì sao? Giọng nói cũng sẽ nhìn thấy Một: Một mặt.

Vì thế Một cẩn trọng lấy búa gõ nhẹ cho rơi từng bụi gạch mỏng. Một tạo được một cái lỗ nông, vừa gõ vừa gẩy bụi ra. Giữa bức tường rêu xanh lộ ra một con mắt sâu không có con ngươi, con mắt méo mó mỗi hôm lại được nới rộng ra ở một góc. Một không biết bức tường này dầy bao nhiêu, còn gõ bao nhiêu bụi gạch nữa mới nhìn sang được phía bên kia. Tường cao sừng sững một mầu xanh xầm xì. Một thường gõ những lúc nghĩ giọng nói không có ở bờ bên kia. Một không muốn ai biết điều Một đang làm, nhỡ đâu giọng nói không muốn? Biết là tường đục rồi không nhặt lại được ngần ấy bụi và lấp vào lỗ trống. Một gom hết bụi gạch lại dẫu biết bụi chẳng bao giờ thành lại gạch được nữa, và có đặt những viên gạch mới vào thì con mắt méo mó sẽ vẫn còn đấy trên tường thôi.

Búa gõ đã thấy gạch mỏng lắm, có lẽ chỉ một lớp thật mảnh nữa là một sẽ thấy bên kia bờ tường. Lúc này Một lại ngập ngừng, không biết nên làm gì, gõ tiếp hay dừng lại. Nếu Một dừng lại, bên kia tường không bao giờ biết Một đã đục một lỗ to ngần ấy, nhưng con mắt méo mó sẽ vẫn hiển hiện trên bờ tường, phía Một, và chẳng ngày nào trôi qua mà Một không nhìn thấy con mắt to gần bằng nửa người Một ấy.

Vậy là Một gõ tiếp, và khi cảm giác như chỉ một lớp mảnh những bụi gạch nữa rơi xuống là sang được đến bên kia rồi, Một bỗng dừng lại, và lấy tay ẩy lớp gạch ấy. Không mỏng và không nhẹ như Một nghĩ. Bức tường tưởng ẩm mốc và vẫn chắc vô cùng. Một lại lấy búa gõ nốt đến khi lớp gạch cuối cùng rơi xuống, và tưởng như có thể thấy được một dòng trào qua lỗ thủng ấy sang bên này bức tường, một dòng đầy những mùi ẩm mốc, nhưng là những ẩm mốc khác, không phải ẩm mốc như bên này tường

Lúc ấy bỗng giọng nói cất lên

- Ai đấy?

Một giật mình. Một những tưởng bên kia chẳng có ai. Hoá ra giọng nói vẫn ở đó, im lặng cho đến khi lớp gạch cuối cùng rơi xuống.

- Mình.

Một trả lời trong khi tim đập thình thịch và không biết điều gì có thể diễn ra. Nếu giọng nói ngó qua lỗ thủng và nhìn thấy Một, một mặt, điều gì sẽ xảy ra? Nhưng giọng nói không ngó, mà ngần ngừ một hồi rồi hỏi

- Tên gì?

Có ai nghĩ sau ngần ấy năm trời trò chuyện không cần tên, bỗng dưng, giờ, lại hỏi. Câu hỏi đột ngột làm Một tự dưng không trả lời được, cứ như thể phải nghĩ mãi mới nhớ ra mình tên gì

-Tên là Một. Thế còn ấy tên gì?

-Tên là Không.

Câu chuyện lúc này thành gượng gạo. Giá kể cứ kể lể không tên như bao lâu vẫn thế, Một sẽ thấy quen hơn. Bỗng dưng giờ đây lại có một người có tên đứng trò chuyện với Một, qua bờ tường, bờ tường giờ có cả một lỗ thủng, mọi chuyện trở nên xa lạ quá. Một và Không im lặng một hồi lâu, rồi một mảng tường bên cạnh lỗ Một đục bỗng rụng xuống, vụn rơi lả tả. Hai cái lỗ méo mó nằm cạnh nhau trên bờ tường, cách một viền mỏng. Một còn đang không hiểu chuyện gì xảy ra thì Không đã gõ cho viền kia rơi nốt, hai cái lỗ thông lại thành một lỗ lớn đủ để người nhỏ chui qua.

Và Một, đặt búa xuống nền gạch đã bị cỏ ẩy lên cho nghiêng ngả, khom người, sải chân, bước sang bờ bên kia

Một nhìn thấy những gì bao lâu nay Một vẫn chờ đợi để nhìn thấy. Bên kia của bờ tường cao tưởng như bất tận phủ toàn rêu, bờ bên ấy, rêu cũng phủ kín. Những cây dại len lách giữa các đường chỉ và đẩy gạch lô xô. Mép tường có cây xương xông to như cổ thụ và những lá dương xỉ chen chúc ngó ra từ khe đất. Không đứng đấy, trong một mảnh xanh ẩm mướt không khác gì cái mảnh bên kia bờ tường. Không đứng đấy, cũng chỉ, có một mặt.

Không với Một đứng im một lúc, lặng người, nhìn nhau. Có những dòng chảy đã tràn qua lỗ thủng ở bờ tường ấy, những ẩm mốc phía bên này trào sang phía bên kia. Phía bên kia hứng rồi gửi lại một phần ẩm mốc của mình. Những mùi hương vừa lạ vừa quen của đất, của rêu, của cỏ, của những viên gạch bị xô lố nhố. Không đưa tay ra lấy ngón trỏ chạm vào ngón trỏ của Một, khe khẽ vuốt lên rồi đan hai bàn tay vào nhau, kéo Một lại thật gần, hít thật sâu mùi hương mà lâu nay Không chỉ thấy qua giọng nói. Một phần cuộc sống đã được gửi vào hai bên bờ tường rêu từ bao lâu nay. Rêu dầy lên từ những câu chuyện. Không từ từ ôm Một, khi họ chạm vào vai nhau đèn hắt thành một bóng hai mặt. Khi ôm nhau họ có một cái bóng bình thường như những người được cho là bình thường khác.

Mà, ở một nơi nào đó, chỉ không và một cũng tạo thành cả thế giới.

Không bảo Một này, mai, mình sẽ đục nốt cả bức tường kia.

Tường, từ lâu đã như một biểu tượng. J.P.Sartre, nhà văn Pháp từ chối giải Nobel văn học, cũng đã từng có "Bức tường" (Le Mur). Tường là cần thiết cho sự riêng tư, làm nên căn nhà, nhưng cũng có thể tạo ra sự cách biệt, ngăn trở. Ấy là nói theo lẽ thường vốn thế. Khi không thể hiểu nhau, thông cảm với nhau, người ta thường nói, là đối thoại giữa hai bức tường. 

Tôi không nhớ tên, hình như là một nhà thơ nổi tiếng nước ngoài đã viết, mỗi bức tường (cũng) phải là một 

cánh cửa. 

Cây bút trẻ Chu Thùy Anh đương nhiên cũng có, không chỉ một, mà vài, thậm chí nhiều bức tường. Truyện ngắn này có thể gợi cho ta cảm giác như là một dụ ngôn, hay dễ dãi hơn, là thứ "đồng dao đương đại". Viết rất khéo, từ cách đặt tên nhân vật là Một và một phần cái Tôi khác là Không.

Tất cả con số cũng là khởi đầu. Tôi tin Chu Thùy Anh đang đi những bước đầu tiên trong sáng tạo. Nhưng không vô vọng. Bức tường đang mở, dù mới chỉ là gỡ những viên  gạch đầu tiên...

Nổi nang làng nước

Năm giờ chiều tháng sáu ngột ngạt, dẫu biết chưa dịu nắng, nhưng bác Dày gái vẫn đẩy tung cửa sổ buồng.

Nắng xiên khoai chọc thẳng vào căn buồng nóng ẩm bốc mùi buồn chán cũ kỹ. Buồng ngủ cửa sổ hướng Tây nên vợ chồng bác hay cãi nhau, lục đục là phải. Nhưng mảnh đất cha mẹ chia cho xoẳn có thế, xoay vào đâu được, chả lẽ xây nhà úp mặt vào đít nhà hàng xóm?

Bác Dày gái vớ mấy bộ quần áo mốc xì bốc mùi mồ hôi chua lòm định mang đi giặt, thì mắt lại vướng phải cái sào ngang buồng treo quần áo giăng đầy mạng nhện và dày bụi, rồi còn những bao thóc chưa khô kiệt chờ phơi lại xong trút vào hòm, đống khoai lang củ thối củ lành, ngổn ngang dưới gầm giường… Có dọn mấy ngày cũng không xuể, mà tâm trạng bác Dày gái thì bấn loạn thế này. Bác cứ làm việc này được một lúc thì lại bỏ dở chạy sang vơ việc khác để làm, việc nào cũng dở dang ráo cả! 

Dạo này bác Dày trai lại giở thói tòm tem. Cả làng Ngọ đồn ầm chuyện bác Dày trai đi chơi gái, thậm thụt với cái đĩ Phên góa chồng ở ngõ Duối, mà lại toàn chơi sang, dẫn nhau đi nhà nghỉ mãi tận phố huyện. Cả đời bác chỉ hầu hạ chồng, sinh giống sinh má cho chồng mà chưa một lần được chồng cho nghỉ, dẫn đến nơi nào sạch sẽ thơm thoáng hơn cái buồng vợ chồng hướng Tây nóng nực ngột ngạt mùi mồ hôi chua, mùi mạng nhện mốc, mùi khoai thối, thóc mục này. 

Bác Dày gái bực bội ném vèo củ khoai thối qua cửa sổ. Bác phải nghĩ cách làm sao để cái đĩ Phên chịu nhục. Phải xé tanh bành nó ra. Nó dám hưởng cái giường nhà nghỉ trắng bóc thơm tho bằng tiền làm lụng cơ cực bán mặt cho đất bán lưng cho giời cả đời bà à.

Bác sẽ đến tận nhà đĩ Phên, vạch mặt chỉ tên con đĩ rạc cho cả làng Ngọ biết, (thực ra cả làng đã biết), cho cháy mặt với xóm giềng (nhưng nếu biết ngượng thì con đĩ đã chả dám ngang nhiên đi nhà nghỉ với chồng mình); sẽ phanh thây, đốt nhà con đĩ (nhưng sau đó con đĩ chết, nhà nó cháy thì mình phải đi tù là cái chắc)…

Suy đi tính lại quay cuồng mà cách nào cũng chưa phải tối ưu. Chửi chồng róc ráy ngày này qua ngày khác thì xấu mặt với con dâu, mà lão ý cũng chẳng chừa. 

- Từ ngày mai, vợ chồng mày gửi con Tép sang bà ngoại hay gửi nhà trẻ thì tùy. – Bác Dày gái tẽ đũa gắp quạc rau lang luộc to tướng bỏ bát mình, nói – Tao sẽ đi làm phu hồ, kiếm thêm tý tiền tiêu, phòng tuổi già.

- Ơ hay, - thằng Cả ngạc nhiên bỏ đũa – thầy, u có sổ tiết kiệm dăm chục triệu cơ mà, u còn tham thế!

- Sổ tiết kiệm thầy mày giữ, giờ chả biết còn đồng nào nữa không hay chơi gái tuột hết rồi! – Bác Dày gái thở dài – Tao phải tự lo thân thôi. Giờ còn tý sức phải kiếm mấy đồng để riêng. Già rồi mới biết dại!

- Thôi, u cứ ở nhà trông cháu cho chúng con – Cô con dâu táo tợn đề nghị - Chúng con sẽ gửi u mỗi tháng ít tiền, u không tiêu đến thì gửi vào sổ tiết kiệm riêng của u. Dù sao bà trông cháu vẫn tốt hơn người ngoài.

- Tao không lấy tiền của chúng mày, mang tiếng bà trông cháu lại đi tính tiền con cái thì chết không nhắm mắt! – Với lại tao cứ ở nhà mãi bí bích lắm! Trong lúc lão già đổ đốn kia vui thú gái gú bên ngoài. Tao chết vì tức mất thôi.

Hôm sau bác Dày gái đi làm phu hồ thật.

***

Rẽ vào ngõ nhà mình, lòng bác Dày nhẹ tâng, môi bác lấp ló nụ cười tủm. Bác nghĩ lần tới sẽ sắm cho người tình trẻ một cái áo lụa màu lòng tôm. Làn da nõn như lòng trắng trứng gà của đĩ Phên mà mặc hàng lụa thì ngon phải biết! Bác nuốt ực nước miếng, tự nhiên thèm điếu thuốc lào.

Đẩy cánh cổng sắt gỉ ngoèn rít ken két của nhà mình, bác Dày không khỏi liếc xéo một cái sang cổng nhà đối diện – cổng nhà Giò, em ruột bác. Em ruột cái chết tiệt! Bác nhổ toẹt bãi nước bọt về phía cái cổng to, nghênh ngang xây gạch vững chãi, với cánh sắt hoa sơn xanh đậm của nhà Giò. Nó sẵn tiền bán đất, xây cái nhà ba tầng cao vượt lên, ngạo nghễ nhìn xuống cái nhà một tầng lợp ngói của nhà bác. Cái cổng cũng xây hoành tráng hơn. Bác Dày giận dữ đá cánh cổng nhà mình khép lại, bước vào khoảng sân hẹp. Quái, sao nhà vắng như chùa Bà Đanh thế này? Chỉ có con chó Vện lao ra, hai chân chồm lên người bác, đuôi ngoáy tít, lưỡi thè ra liếm lấy liếm để tay bác. Bác gạt con chó ra, nhâng đầu gối lên dọa nó. Con Vện vẫn vừa ngoáy đuôi, vừa đi giật lùi tránh bác. Lẽ ra hai bà cháu nhà nó phải ở nhà chứ nhỉ, hay là sang hàng xóm chơi? Nhưng dù thế thì giờ này cũng phải về thổi cơm rồi.

Lôi cái điếu cày giắt sau cánh cửa, nhưng bác không vê thuốc ấn nõ điếu mà dựng cạnh hàng hiên rồi bồn chồn đi ra cổng.

Bác va phải bà Ngông, miệng bỏm bẻm nhai trầu, hai tay chắp sau hông, thong dong đi về phía cổng nhà Giò. Thoạt thấy con trai cả, bà Ngông vội lảng mắt, giả vờ không nhìn thấy. Bà thò tay vào trong cánh cổng, mở cái chốt sắt.

Nhưng bác Dày không để cho đấng sinh thành ra mình thoát đi dễ dàng. Nhanh như cắt bác lao ra, tóm lấy tay bà cụ.

- Bà đứng lại cho con hỏi đã. – Bác Dày cố tình nói oang oang. – Bà nói với vợ chồng thằng Giò chưa? Bao giờ nó giả phần tiền bán đất cho con?

Bà cụ giật mạnh cánh tay, cố thoát khỏi con trai:

- Nó sẽ giả mày, nhưng mày phải để nó có thời gian làm ra tiền đã chứ! Làm gì cứ sồn sồn như l… phải nước sôi thế! – Nói rồi bà Ngông nhổ toẹt bã trầu xuống rãnh nước bên cổng.

- Bà không thể nói thế được! – bác Dày buông tay ra nhưng cố tình dúi mẹ một cái vào cánh cổng – con gia hạn cho nó đến tháng sau, nó mà không nôn tiền thì con ném xăng vào nhà nó!

Loạng choạng lấy lại thăng bằng, bà Ngông điên tiết chửi:

- Tổ sư thằng tim la mất nết! Mày chơi gái hết tiền vợ rồi lại về nã tiền mẹ mày à. Đã thế đừng hòng tao chia phần tiền đất của tao cho mày. Tao để tiền tao ăn quà đến kiếp sau, nhé!

Hồi ông Ngông mất, theo di chúc của ông, mảnh đất tổ tiên để lại rộng năm sào được chia ba phần. Bà Ngông một phần, Dày một phần, Giò một phần. Còn bác Chả, phận gái lấy chồng hưởng phúc phận nhà chồng, không được tính vào đấy. Nhà bác Dày cất lên được một manh nhà lợp ngói, cách đây 15 năm kể ra thì cũng khang trang. Còn bà Ngông ở chung với nhà Giò trong ngôi nhà gianh cũ mà các cụ để lại bao đời, nhà cũ giột nhưng mọi việc yên ổn trôi qua. Nào ngờ dăm năm nay, đất làng cũng sốt lên sình sịch, do có mấy khu công nghiệp từ thành phố di dời về đây. Đất giải tỏa, đền bù xây nhà máy, rồi phong trào cho công nhân thuê nhà trọ… làm cả làng nhốn nháo. Nghe nhà Giò thậm thụt to nhỏ thế nào, mà bà Ngông đồng ý cho thằng Giò bán suất đất nhà nó, dùng tiền bán đất xây lên một ngôi nhà ba tầng ngạo nghễ trên đất bà Ngông. Âm mưu và lòng tham của thằng em thì bác Dày không khó gì mà đoán ra. Thế là bác sang nhà nó nói chuyện phải trái. Bác đòi nhà Giò phải chia cho bác nửa số tiền bán đất. Lý do ư? Bà Ngông trước sau gì cũng về với tổ tiên, phần đất của bà phải chia đều cho Dày và Giò. Nay Giò ở trên phần đất của bà Ngông, coi như chuyện chia chác chưa cần bà Ngông phải sang thế giới bên kia mới diễn ra, mà đương nhiên là phải làm ngay và luôn rồi. 

Nhà Giò tất nhiên hiểu cái lý lẽ ấy, nhưng thứ nhất là bà Ngông còn ở với nhà nó, thứ hai là nó bán đất có tiền thật, nhưng tiền đấy nó xây nhà hết rồi, không có đâu mà trả lúc này. Bác Dày quay sang đòi bà Ngông sang nhà mình ở, bà Ngông đời nào chịu. Anh em máu mủ dùng dằng mãi chuyện tiền nong ấy, thành ra khó nhìn mặt nhau.

Có tiếng xe máy bành bạch. Thằng Cả con bác Dày chạy cái xe Tàu tã tượi đâm thẳng vào cổng, chạy thẳng tới sân. Thấy cha về nhưng nó lỳ lỳ cái mặt, chẳng nói năng gì! Bác đành hỏi nó trước: 

- Sao chả có mống nào ở nhà thế này? U mày đâu?

- Gớm, thầy còn hỏi u làm gì? – Thằng Cả gạt chân chống xe cái tạch – Chim chuột no nê nơi khác rồi thì thôi chứ lị. U tôi chả phải bát cơm thiu.

- Tổ sư thằng mất dạy! – Bác Dày nổi đóa, nhưng nó đã vào nhà và chả thèm nói câu nào nữa. 

Ngồi bệt xuống đầu hè, bác kéo cái điếu cày ra, bắn một nõ. Giờ phải làm thế nào có món tiền kha khá, cuối năm giúp đĩ Phên sửa lại nếp nhà, chứ để ba mẹ con nó chui rúc trong mái gianh nát bấy ấy lòng bác không an. Hôm nọ bác đã bỏ ra ngót chục triệu khoan cái giếng cho đĩ Phên đỡ vất vả, sổ tiết kiệm giờ còn chưa tới năm triệu, vài lần cùng đĩ Phên hẹn hò trên phố huyện nữa là hết xoẳn! Ngước mắt coi cái nhà ba tầng đối diện của thằng Giò mà lòng bác lại uất hực lên.

***

Đều đều hắt từng xẻng cát lên cái sàng mắt lưới dựng nghiêng, bác Dày gái vẫn không nguôi nghĩ về cái sổ tiết kiệm chung bị lão chồng đổ đốn chiếm dụng đi chơi gái. Đúng là chả cái dại nào giống cái dại nào. Giờ già rồi mới biết dại! Hời ơi, buồn nẫu ruột! 

Một đôi ủng đen lép nhép dính vữa đẩy cái xe rùa chở cát lại gần, mũi bác Dày gái thoảng mùi mồ hôi đàn ông chua mặn khẳn. Không hiểu sao bác Dày gái lại thấy dễ chịu, bác chống xẻng nhìn lên. Lão Bò nháy mắt với bác, giọng hỉ hả:

- Còn khỏe gớm! Xúc cát nhoay nhoáy ăn đứt chán vạn đám thanh niên rơm rác. Này, chiều nay xong việc ta xuống giữa làng vào quán thịt chó nhà Nghênh làm tý cho vui?

- Phải gió nhà ông! – Bác Dày mắng, nhưng lòng bác nhẹ tâng như có gió thổi. – Đàn bà con gái vào quán rượu thịt chó để cả làng nó chửi cho à.

- Gớm! Già rồi sợ chó ai. Đến lúc xuống lỗ không được miếng dồi chó thì phí cả đời – lão Bò cười rinh rích đắc chí, rồi hạ giọng nhẹ nhàng – có bi đông nước nhân trần tớ để trên đống gạch, ra mà tu cho mát ruột, nhá!

Rồi lão đẩy cái xe rùa đi, tuyệt không vương hạt cát nào ra đường, người đâu mà khéo tệ! Bác Dày mỉm cười, lão Dày thổ tả nhà bác có bao giờ biết nói ngọt hay mời vợ được miếng nước nào đâu, kể cả khi vợ ốm. Rõ thật là… Hay tối nay cứ đi rượu thịt chó với nhà Bò? Cả đời bác giữ tiếng gái ngoan đàn bà chính chuyên, có bao giờ dám ngồi quán xá!

Mà gái hư thì sao chứ! Như cái đĩ Phên ấy, mặc làng trên xóm dưới xì xào, mặc cho những bà những cô tam tòng tứ đức dài môi bĩu mỏ chửi sau lưng nó là đồ đĩ, nhưng rút cục nó có làm sao! Con đĩ ấy lại còn tươi mơn mởn ra, được đàn ông chăm nom thèm thuồng đưa đón, còn được đến nhà nghỉ phố huyện nằm tênh hênh cho mát hĩm. Tặc lưỡi. Bác quyết định. Dẫu biết dở dang thì cũng mặc. Cùng lắm đến lúc buông tay rồi thì chỉ cần “lục bản mộc, nhị lạng đinh” là thăng chứ gì!

Miếng dồi chó nóng thơm, béo, bùi, ấm chân răng, một tợp rượu nếp ngòn ngọt cay cay xộc lên mọi ngõ ngách ngũ giác, thông cả tâm tình tắc tị bấy lâu. Cả đôi già tuôn chuyện như thác đổ, chuyện con cái, chuyện chồng vợ đểu như nhau, câu chuyện bện vào nhau chặt như vặn thừng. Dưới ánh đèn điện vàng vọt nhờ nhờ từ cái bóng nhỏ bằng hạt lạc, hai mái đầu đen bạc lẫn lộn khật vào nhau, hương rượu, mùi thịt chó gây gây ngậy ngậy quện vào câu chuyện nhừa nhựa. Chưa bao giờ Dày gái thấy đời nhẹ như thế, hay như thế, càng uống càng hay!

“Thi thoảng bà đi rượu thịt chó với tôi cho vui nhé”. Lão Bò nói ân cần trước khi liêu xiêu bỏ đi. Dày gái tần ngần đứng nhìn theo cái dáng liêu xiêu ấy một lúc thì về nhà. Giá lúc này, có một mái nhà riêng, bác về đó, lăn vào giường ngủ một mình trong hơi ấm cuộc rượu vương lại, không chồng, không con, không cháu, như thế có phải là cái hay được trọn vẹn không.

Nhưng bác lại phải về nhà, trong nỗi ước ao giá có một đêm được cô đơn trọn vẹn, đổi một đêm làm người đàn bà vô chủ, bác xin trả bằng những tháng năm còn lại. Cái kiếp đàn bà chồng con đề huề ấy đã tàn sau một cuộc rượu hay, sau một lần tuyệt vọng, nó vô nghĩa làm sao!

Bác phải về nhà, nơi có người chồng sống chung ba chục năm trời có lẻ, để lão chửi bác tơi bời vì dám đi uống rượu với giai, già rồi còn đổ đốn. Chẳng nói chẳng rằng, nương theo hơi men, bác vớ cái lu sành đầu hiên nhà ném thẳng vào đầu chồng. Lão né được, lu sành vỡ toang. Lão lao vào túm tóc vợ, giáng cho mấy cái tát như trời giáng. May mà thằng con giai xông vào lúc ấy, đạp bố nó ra, nâng mẹ dậy, bác Dày gái mới thoát.

***

Bác Dày gái lôi cái gương tròn nhỏ viền đồng từ thời con gái dưới đáy hòm lên, bước tới bên cửa sổ. Vệt tím trên má từ cái tát của lão già lang chạ còn hằn trên má rõ quá biết hôm nào mới tan, mà nhóm thợ xây hôm nay lại gọi bác rồi. Bác chải thật kỹ mái tóc đã khô, xơ và rụng vợi hơn nửa so với thời con gái, thở dài thườn thượt. Búi gọn tóc lại, bác chọn một cái áo cánh màu tươi. Kể ra đi làm phu hồ mà mặc áo này thì không tiện lắm, nhưng cái áo rõ đẹp, không bây giờ thì bao giờ? Và bác muốn trông mình tươi thắm hơn. May nó đã lâu, thích lắm nhưng bác có dịp nào để diện nó đâu, ngoài việc đi làm? Mấy hôm nữa cưới con nhà Giò, nhưng lão Dày đang thù thằng em thế thì mặt mũi nào đi ăn cỗ? Thôi cứ mặc cái áo này đi phu hồ vậy, được lúc nào hay lúc ấy.

Lão Bò giữ càng xe rùa, nháy nháy mắt:

- Áo mới hả? Trông giòn gớm!

- Mới gì! Mấy năm rồi, nhưng ít mặc. Chả có lúc nào muốn mặc!

- Ăn cho mình, mặc cho người! Phải vì ai thì mới mặc áo đẹp chứ! Lão Bò khoái chí rinh rích cười.

Công việc nặng nhọc bỗng hóa nhẹ nhàng vì những tiếng cười, lời qua tiếng lại, những cái ngắt véo xen những cử chỉ quan tâm.

Cuối chiều, lúc bác Dày gái và lão Bò vừa kịp ngồi vào bàn rượu thịt chó thì có kẻ không mong đợi xuất hiện.

- Gớm nhỉ, bà bắt quả tang thằng ngô con đĩ nhá! Già long già lở mà còn dám tìm dựa hơi giai à!

Bác Dày gái chưa kịp đối phó thì vợ lão Bò đã nhảy xổ đến, vơ bát mắm tôm trên bàn đổ ụp vào đầu bác, tối tăm mặt mày, nào bát, nào ghế túi bụi ném vào người bác.

Sau một hồi giằng xé, cuối cùng bác Dày gái cũng thoát được. Bác ù té chạy ra giếng làng, giúi đầu xuống gột mắm tôm, rồi bác vừa khóc vừa nhảy ùm xuống giếng làng, dìm ngập người một lúc, trôi lơ lửng như xác chết. Mặc cho nước mắt tan ra, mong nỗi cực nhục sẽ tan ra, hòa nhạt trong nước. 

Đêm ấy bác Dày khóc suốt, cả làng đã biết chuyện. Nhưng bác hận, hận chính mình. Lẽ ra bát mắm tôm ấy phải đổ lên đầu cái đĩ Phên với lão chồng đốn mạt của bác. Tại sao bác hèn thế, bác không dám đánh tung xác con đĩ Phên, mà lại để vợ nhà Bò đánh ghen bác tan tác xác thân thế này! Bác phải làm cái gì chứ!

Lòng u uất, bác Dày gái dậy sớm, đi bộ lên phố huyện. Cái đầu miên man đưa chân bác đi. Cái đầu thì mệt mà cái chân không biết mệt. Đây rồi, dãy nhà nghỉ! Chắc đĩ Phên và lão Dày thường lui tới sung sướng ở đây. Bác mong sẽ gặp chúng ở đây sáng nay, bác sẽ trút lên chúng đòn thù. Lúc đầu bác còn ngó nghiêng bên ngoài, sau thì bác vào hẳn bên trong nhà nghỉ, hỏi giá thuê phòng, lên tận phòng xem mặt mũi ruột gan phèo phổi cái nhà nghỉ nó ra sao mà đời bác chưa một lần tiến kịp tới cái giường của nó đã bị đánh ghen tơi bời.

Xế trưa nắng chói gắt, máy lạnh trong cái nhà nghỉ làm bác ngây ngấy sốt khó chịu. Bác Dày trả phòng, trả tiền rồi xót ruột đi bộ trở về làng. Bác mong cái mệt cái đau thân xác sẽ tới để cái đầu bớt nặng. Không nghĩ được gì sáng suốt trong lúc này, đôi chân theo thói quen đưa bác về nhà. Có lẽ bác cần ốm một trận thật nặng. Trong lúc nằm ốm, bác sẽ nghĩ cách thay đổi, nếu không nghĩ ra, bác sẽ cứ thế mà ốm chết thôi.

Giữa chiều, nhà vắng tanh. Vợ chồng thằng Cả đi làm, cháu đi nhà trẻ. Còn lão Dày thì… Bác chợt lắng tai nghe, cả cơ thể bác mở toang các lỗ để lắng nghe.

Bác đạp tung cửa buồng hướng tây. Chồng bác tơ hơ vội dừng điệp khúc dập dình trên thân thể trắng lôm lốp của cái đĩ Phên. 

Định thần lại, bác Dày gái ném bất cứ cái gì vớ được vào hai con sâu dục kia và cố hét thật to, nhưng chúng chỉ thoát ra thành tiếng nấc cụt.

Chỉ một loáng sau, bác Dày gái thấy mình đã bị nhốt lại trong cái buồng hướng tây của mình. Hai kẻ nọ khỏe hơn đã khống chế được bác. Trong cơn điên giận bất lực cuồng loạn, bác Dày gái run rẩy lôi chai thuốc sâu trong góc buồng ra, nốc cạn. 

***

Đám tang bác Dày gái phải ách lại một ngày sau đám cưới con nhà Giò. Cười trước khóc sau. Luật làng thế rồi. Bác Dày gái nằm buông kín màn, mặt phủ tấm giấy bản. Em gái bác ở làng dưới lên khóc lăn lộn nhưng cấm kêu to một tiếng, kẻo ảnh hưởng tới đám cưới bên kia.

Họ hàng hai bên nhà bà Ngông được cái tiện thể. Hôm nay đi ăn cỗ cưới, mừng cho nhà Giò xong thì tạt ngay sang cổng nhà đối diện, hỏi thăm đám ma luôn. Bên đám cười ồn ào xôn xao, bên đám khóc thì thào cố nín lặng. Nỗi đau này không thể ca hát lên, cũng không thể bù lu bù loa lên.

Việc ai nấy làm.

Chỉ có bà Ngông đi ra đi vào áy náy không yên. Còn lão Dày ngồi thừ lừ ở đầu hè suy tính chuyện tương lai… 

 Ngỡ như một truyện ngắn dòng “hiện thực phê phán” những năm 1930-1945, nếu không có từ ngữ mới, với chuyện bán đất, nhà nghỉ, bỏ nghề nông... Và cũng như thế là một kết cục buồn, chỉ có điều cái chết đến bằng thuốc trừ sâu. Quả thật, chuyện nông thôn thời nào cũng buồn, buồn kiểu rất cũ.

Điều đáng khen ở tác giả - dù đã sống ở thành thị nhiều năm - vẫn hướng về cội nguồn của hầu hết mọi người là làng xóm quê hương, bởi nhiều cây bút trẻ - nữ lại nhiều hơn - chỉ nhăm nhăm viết về đời sống cái tôi quá nhỏ bé, quẩn quanh ở chốn phố phường mà chẳng nói được gì... 

Y Trang

Con vật trung thành

Sau chuyến công du Nhật, sếp rước thêm nàng Ki Ki (đặt theo tên con cún yêu trong phim nổi tiếng “Ki Ki cô phù thủy bé nhỏ”). Nhìn cục cưng mới tậu xinh đẹp nõn nà của sếp, mấy tay phó nhấp nha nhấp nhổm nhưng rồi cả ba đều phải kềm chế cái lòng ham của mình, bởi họ biết cái giá phải trả khi chơi trội hơn sếp.

Chỉ khi sếp rinh được cục cưng thứ ba, thì các phó mới có thể nghĩ đến việc sở hữu thêm một con thú cưng nữa.

Cả công ty, ai cũng tìm cách chiêm ngưỡng dung nhan mỹ miều của Ki Ki. Người khen Ki Ki như một chùm anh đào rung rinh trước gió (nàng đến từ xứ sở hoa anh đào mà). Người khen sếp có con mắt tinh đời, chọn chó như chọn người. Người thì vừa khen Ki Ki lại vừa ca Totoro, con chó cưng đầu tiên của sếp (cũng đặt theo tên của một chú cẩu trong phim), đã quá thân thiết với cả công ty. Có người còn xa gần so sánh, tuy diện mạo Ki Ki không cao lớn bệ vệ như cô chó Connie nhưng lại có thần thái cao quý chẳng khác gì cục cưng của tổng thổng V.Putin.

Tôi không chịu lép. Khi mọi người ra sức hết khen Ki Ki rồi con Totoro và dốc sức cho những lời tụng ca có cánh dành cho chủ của chúng thì tôi ho khan một tiếng, hắng giọng hai cái, mào đầu vắn tắt rồi rút tỉa những ý hay trong bài diễn văn của luật sư Georges Graham Vest (được xem là một trong những bài diễn văn kiệt xuất của nhân loại mà tôi cóp trên mạmg và cố sức học thuộc) bào chữa cho con chó trung thành của thân chủ ông ta. Tôi rưng rưng đọc:

- Duy chỉ có người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta…

Sếp cúi xuống, nâng báu vật Ki ki trên đôi tay. Rồi bằng cái giọng xúc động, sếp lặp lại:

- Người bạn không bao giờ bỏ ta, không bao giờ vô ơn hay tráo trở…

Thấy đoán trúng mạch cảm xúc của sếp, tôi bơm tiếp:

- Con chó trung thành sẽ hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này…

Sếp lướt mắt nhìn một lượt những kẻ cố thể hiện lòng tận tụy trung thành rồi nói đôi mắt nhòe lệ:

- Trung thành… đó chính là đức tính mà tôi cần ở tất cả các anh các chị!

* * *

Giữa buổi chiều hôm sau, sếp gọi tôi vào phòng làm việc và thật bất ngờ: sếp quyết định cho tôi được thăng chức.

Hóa ra, việc bổ nhiệm nhiều khi cũng từ năng lực của cái lưỡi. Từ phó phòng, sau khi biết trích đoạn bài diễn văn đúng chỗ đúng nơi đúng thời điểm, tôi được ngồi vào cái ghế trưởng phòng mà mấy tháng qua còn trống bởi sếp còn đo đếm lòng trung thành. Vẻ mặt vừa ngạc nhiên vừa từ tốn nhưng trong lòng tôi lại thầm cảm ơn những con cún yêu của sếp và lầm thầm khấn vái vong linh luật sư Georges Graham Vest tiếp tục phù hộ độ trì cho những kiếp trung thành.

Với chức trách mới, tôi phải tối mặt tối mũi với công việc, nhất là việc quà cáp điếu đóm và tiệc tùng của công ty. Khổ hơn cả có lẽ là việc tổ chức tiệc sinh nhật của các chú chó.

Tiệc sinh nhật dĩ nhiên là tổ chức ngoài giờ làm việc và thường vào buổi tối. Khách mời, sinh nhật chó dĩ nhiên là phải có những bạn… chó. Mà mời chó phải mời chủ nhân của chúng. Chủ nhân lắm khi không chỉ là một, nhiều lúc cả đôi vợ chồng, lắm lúc phải mời cả những đứa con của họ. Bởi, thời này, những người thật sự nhiều tiền lắm của, người ta tránh cái việc khoe xe, khoe nhà, khoe đất, khoe châu báu, khoe tài khoản… Họ thường chưng diện sành điệu bằng các mối quan hệ và những chú chó trung thành. Mà đã là chó thì con nào cũng đi bằng bốn chân, dù chúng được đặt những cái tên theo xuất xứ giống nòi, nào Ki ki, Totoro, Peritas, Milou, Finot, Toby, Titac… Và một khi đã di chuyển bằng hai chân trước rồi hai chân sau thì con nào cũng khoái ị bậy, dù dưới chân chúng được trải tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ.

Con Totoro trong ngày sinh nhật, lộng lẫy trong chiếc áo gi-lê thắt nơ bươm bướm cũng chui xuống góc bàn làm bậy, lập tức vài ba chú cún cưng khác cũng a dua, làm theo. Tôi toát mồ hôi, lăng xăng chạy tới chạy lui, huy động từ bồi bàn đến tiếp tân lao vào hốt dọn, lau chùi, xịt nước hoa và canh chừng... cái đuôi của chúng.

Khi mọi người tiếp tục chạm ly chúc mừng vừa chó lẫn người, thì cái di động trong túi tôi rung lên. Tôi lẻn ra ngoài, áp tai vào điện thoại. Vợ tôi vừa nói vừa thở:

- Anh phải có mặt để thắp đèn sinh nhật cho cu Bi!

- Anh… anh về trễ một chút.

- Không dây dưa thêm giây nào hết. Nội ngoại cô chú cậu dì bạn bè đủ mặt cả chỉ thiếu mỗi mình anh!

- Em với mọi người thông cảm, anh… anh kẹt sinh nhật… sếp anh.

- Sinh nhật sếp anh tuần trước em cũng có mặt, anh quên rồi sao? À, hay anh đang kẹt với con nào?

Nghe tiếng giận dữ của vợ, tôi ấp úng:

- Anh kẹt tổ chức… sinh nhật cho con… Totoro.

- Totoro? Anh nói sinh nhật con Totoro? - Vợ tôi gầm lên -Vậy là lâu nay anh đã lừa dối tôi, anh có con riêng…

Tôi chết điếng khi nghe tiếng òa khóc kêu gào của vợ. Tôi hét to vào điện thoại:

- Em hiểu lầm rồi. Totoro là con chó của sếp anh.

- Anh nói sao? Sinh nhật… chó… Trời ơi… trời ơi… anh có còn là con người nữa không?!

Tôi rụng rời buông điện thoại. Tôi có tắt thở lìa đời, có lẽ vợ tôi cũng không khóc thảm như vậy.

Ngỡ như, viết truyện ngắn hài hước dễ, nhưng hóa ra thật khó. Không chỉ văn chương, mà sân khấu cũng vậy. Làm người ta buồn chứ chưa dám nói là khóc có lẽ còn dễ hơn nhiều để cười. Nước mình giờ lắm chuyện phải cười, nên cười, nhưng viết để người ta cười, quá khó.

Trong văn chương ta, xưa nay đã hiếm, nhà văn nữ viết lại càng hiếm. Bích Ngân, dân xứ Cà Mau - quê hương chuyện "bác Ba Phi" hình như đang cố gắng "nối nghiệp". Một nhà văn có bản lĩnh, thế mạnh ở những chuyện thế sự, đã từng thành công qua các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn "nghiêm túc", và nhiều năm qua lại thỉnh thoảng thích cười...

Tôi nghĩ Bích Ng khác

ân... có duyên trong những truyện ngắn để người ta cười. Và quan trọng hơn, là sau đó để ngậm ngùi

Lấy chồng làng khác

Thật thì cũng làng trên chạ dưới trong hàng huyện, chẳng xa mấy. Đứng gốc cây đề ngoài cổng đồng trông qua bờ đìa, mờ mờ trong lùm cây muỗm cổ thụ nhô lên hai cái cột trụ tam quan đình, những hôm quang trời, bên này cũng thấy được trên lằn đê chắn ngang tầm mắt. Thế mà ngỡ như đám mây trắng mùa hạ lững thững mãi mới sang đến bên ấy. Nghĩ ra thì là cách trở, cả đời cô Vải cứ tưởng như thế.

Mấy phiên áp Tết, chợ huyện đông như nêm cối. Bà Chồi quảy ống dong ra chợ. Vườn nhà bà có búi dong, Tết nào cũng được vài gánh, đỡ tiền chợ. Vừa khéo vào một chạp, những bụi dong vừa già ống, chẻ lạt được. Tết nhất, mái bếp nhà nào cũng giắt nắm lạt, lắm việc phải cần đến.

Ở chợ, có những mặt hàng chỉ Tết mới có bán. Bao tuần chợ xếp cả ra bãi ngoài. Gánh lá dong, ống dong, những quảy thùng mật, lão hàng gáo dừa, chợ Tết người ta sắm bó đũa, cái gáo, cái muôi mới. Mấy con bò buộc tận ngoài rệ sông, bò rống ò ò lẫn tiếng lợn eng éc trong giọ.

Chợ trước, gánh ống dong của bà Chồi đến nửa buổi đã hết tiệt. Cũng đã đào, chặt ống cả trăm cái, nhưng còn phơi nóc chuồng lợn, chưa se mặt. Phiên này phải đi hai gánh dồn một có thể mới đủ bán.

Bà Chồi nhấc gánh rồi nói:

- Cái Vải ra quảy đỡ cho tao mấy được.

Vải buộc thành bốn bó dang nặng. Vải quảy, mẹ chỉ phải vác một bó. Chưa đến nửa buổi, cả gánh dong còn có mấy ốc điếc, ống lép. Hàng bên kia, bà bán mật đong không ngớt muôi. Hàng ống dong, hàng mật chạy tay, nhà nào chẳng gói bánh, cột bếp lại lủng liểng miếng thịt bò quấn lạt, rồi nồi chè con ong, chè bà cốt ngọt lừ.

Bà hàng mật hấp tấp sang hàng bà Chồi:

- Nhờ bà để mắt trông giúp hàng nhà cháu một mảy. Quái, cái thằng chết toi chỉ sai đi chặt mấy cái ống nứa đựng mật mà mất mặt từ nãy.

Rồi bà lão chạy qua đám chọi gà đầu bãi. Thì trông thấy thằng con dựng đống ống nứa bên nách, đương chầu hẫu xem đá gà - hay là nó cũng đánh gá, người chăm chú, người tíu tít cá cược. Mấy tay chủ gà loay hoay mặt rượu đỏ lựng hay đỏ cay cú.

Con trai bà bán mật ngồi ngây mặt ra. Bà lão kêu: Chết thật! Chết thật! Rồi vào lôi ngật nắm tóc đuôi hoa roi. Thằng con phải chống hai tay xuống như con gọng vó mới khỏi ngã ngửa ra. Rồi nó đứng lên, vác bó nứa cong cổ chạy.

Chỉ một chốc, những ống dong, những ống nứa đựng mật đã hết sạch. Hai bà lão thong thả ăn trầu môi cắn chỉ nhai bỏm bẻm. Thằng con trai xách những thùng mật ra bờ sông té nước gột. Cái Vải nhà bà Chồi đã lồng quang gánh để đấy, vào trong chợ, dạo xem hàng Tết.

Bà bán mật vuốt quết trầu mép hỏi bà Chồi:

- Cái cháu quảy dang là thứ mấy nhà ta?

- Cháu thứ ba, bà ạ.

Bà bán mật hỏi ngay một câu:

- Bà cho tôi nhả?

Bà Chồi chưa biết nói thế nào, bà kia quết vôi lấy miếng trầu mời đon đả:

- Cái thằng quảy mật ấy.

Rồi đưa bà Chồi miếng trầu mới têm. Bà Chồi nhổ bã trầu vào gốc cây quay lại nhón tay lấy miếng trầu mới của bà bạn hàng. Và nói:

- Ồi chà, con cái Vải nhà tôi ấy à, có nhớn mà chẳng có khôn đâu. Bà xem đấy, mặt trời đã lấp bóng đa rồi mà còn lượn chợ, rõ con nhà.

Bà bán mật lại vuốt mép, nhổ quết trầu rồi cũng nói ồi ồi:

- Thì cái thằng hai nhà tôi cũng như cái đụn rạ. Đấy, đi theo đỡ mẹ mà lại rúc vào đám chọi gà.

Câu chuyện qua lại mắng vui mắng yêu giữa hai bà về con cái mà rồi nên duyên chúng nó.

Tháng ba năm ấy, cô Vải lấy chồng bên Lở. Bấy giờ đã có mưa mới. Những trận mưa rào đầu mùa như mưa dứ chốc ào ào chốc tạnh, con ngòi ngoài đìa có lúc nước ngập đến gối, đến bụng.

Họ nhà trai sang đón dâu, các lão ông, lão bà, các cô phù dâu thoạt chỉ xống áo như người đi làm đồng. Người xắn quần, người ôm váy, bì bõm lội. Sang đến đồng Lở, đám rước dâu ghé vào cái quán gốc cây muỗm, như khách đường xa nghỉ chân. Bấy giờ mới lấy trong tay nải ra những buồng cau, những hũ rượu. Rồi thì áo the, khăn vố của ông cầm hương, các bà váy chồi thâm lồng ngoài váy nâu da bò, các cô thì khăn vuông mỏ quạ tua dây hoa đỏ. Chú rể đi lẫn trong đám trai áo năm thân nhuộm cậy.

Đã tinh tươm ra đám đón dâu. Đi vào làng, ông cầm hương áo the khăn lượt chít, vừa lội ngòi, quần xắn móng heo, vẫn đi chân không - cả đám rước dâu chân đất, chả cứ ông cầm hương. Hương đen thơm nghi ngút trước hai người đội mâm cau, mâm rượu phủ vuông lụa điều.

Vào trong xóm, nhấp nhô người lớn trẻ con các ngõ đổ ra. Trẻ con cuống quít chăng dây, vớ được dây mướp, dây gác, cái thắt lưng dải yếm cũng chăng ra - chỉ kiêng không được chăng thừng. Chằng chịt như mạng nhện, những cái dây cản bước, như không muốn người con gái đi lấy chồng làng xa. Ấy thế nhưng đã có người nhà trai lo sẵn, xong cả. Trẻ mỏ chỉ khó cho thêm vui. Mỗi cái dây nhận phong bao một mảnh giấy điếu. Mở ra, thấy mấy đồng chinh, đồng kẽm, đứa nào cũng hí hửng, giựt dây mở đường.

Đám đón dâu có lời nói trước, đôi bên đã thoả thuận từ con lợn, thúng gạo, gánh rượu, quan tiền. Nhà trai nhà gái ăn cỗ mỗi bên, bởi vì đường đất cách trở, hai họ chỉ miếng trầu và chén rượu hả hê rồi lễ tạ xin dâu về.

Đám rước dâu đã ồn ào ra đến ngoài ngõ. Bà Chồi đứng trong cổng ném vốc muối theo rồi cúi mặt, quay vào. Còn Vải thì cảm thấy đi đâu chưa biết, nhưng thế là xa nhà từ đây. Nước mắt Vải đẫm cả hai bên má.

Rước dâu về, hai họ lại tay nải đeo vai, xúm xít, hỗn độn như đi chợ Tết. Mặt trời đã ngả đằng sau chân tre, sương mờ khắp cánh đồng. Hai bên bờ nghe tiếng nhái, tiếng chẫu.

Vải ngước mặt lên. Chỉ thấy bóng tối mờ mịt, mới vài bước đường mà xa, sao mà thật xa.

Lội xuống ngòi, đã nhá nhem tối, tiếng chân bì bõm, nhưng chẳng ai trông thấy chân ai. Vải quay nhìn lại bóng tối lần nữa.

Được mấy hôm ăn cỗ lại mặt rồi, vợ chồng Vải về làng ngoại làm lễ nộp cheo. Lấy chồng làng khác, lệ phải có lễ cheo mới được làng nhận rể.

Chồng xách cái giọ mới đan nhốt con gà trống thiến, con gà mái rồi ra cổng đồng, như người đi làm. Chỉ khác đầu quấn cái khăn lượt, lại mặc áo năm thân nhuộm cậy, như hôm đám cưới. Ra tới cầu ngói thì ngồi đợi vợ. Đến lúc trông thấy Vải trong khoanh tre đi ra thì chồng đứng dậy, lại cung cúc đi. Người đi trước cách quãng người đi sau, vào đến gốc đề đầu xóm Vải mới mở khăn vuông lấy cái áo dài nâu non mặc. Vạt áo thắt quả găng, lất phất bay lẫn hai dải yếm lụa.

Váy áo tinh tươm rồi, Vải lại càng đi nán xa. Vải chẳng muốn ai trong làng gặp vợ chồng đi tay đôi. Vào đến cổng ngăn, Vải đã thấy chồng cắt tiết xong cả hai con gà, đương nhấc nồi nước sôi ra cầu ao giội làm lông.

Vải vào bếp. Chẳng đợi mẹ bảo, Vải cầm dao cắt tàu lá chuối lót lên cái nong rồi dỡ chõ xôi. Ngả chiếc mâm gỗ đơm xôi, mùi hương nhà trên quyện khói xôi ngào ngạt. Con gà thiến đã được vớt từ nãy, để ghếch trên miệng nồi rồi người khía chân, khía cánh với mỏ, đặt nguyên cả con lên đỉnh mâm xôi để ra miệng vại dưới gốc cau. Trên mỏ con gà, từ lúc nào ai đã cài ngậm cái hoa đơn đỏ.

Bây giờ, vợ chồng lại khăn áo chỉnh tề. Vợ đội mâm xôi, chồng hai tay bưng hũ rượu, hai người đem lễ ra đình. Vào tam quan, vợ hạ mâm xôi xuống cửa bên. Chồng ấn lại vành khăn lượt trên đầu cho chặt, vợ từ từ đưa mâm xôi lên. Chồng trịnh trọng đội mâm, một tay nắm cổ hũ rượu nút lá chuối khô.

Vợ bước theo, vào trước bậc cửa đình thì đứng lại đấy. Đàn bà, con gái xưa rày không được đặt chân vào chốn đình trung. Vợ đứng nhìn bâng quơ ra ao làng. Năm xưa mùa này những hôm nắng to cả lũ đem sảo ra bắt ốc nhồi nổi lên tránh nóng trong chân bụi cúc tần.

Nghe tiếng người rì rào, không phải tiếng quát lác. Mùi hương đưa ra, có lẽ nắm hương chồng vừa thắp thêm. Vải cũng không dám ngoảnh mặt nhìn vào.

Người mõ ở ngoài lều bờ sông tất tưởi bước tới. Đòn gánh xỏ một bên quang có chiếc thúng trong để con dao phay với cái thớt. Chỉ vậy, nhưng bởi vào nơi trang nghiêm phải có ý, không dám khua múa con dao cái thớt.

Chồng hai tay đặt hũ rượu lên hương án cùng với mâm xôi con gà. Rồi quỳ xuống lễ thánh, xong xuôi bước ra vái hai bên các ông chức việc, các quan viên rồi cứ chắp hai tay, cúi đầu so vai lom khom bước lùi qua bậc cửa đình.

Ở nhà, mâm rượu con gà mái đã sẵn sàng. Đám chén mời ông chú, có lão ông cầm hương hôm đưa dâu cháu.

Sáng nắng thế mà giữa trưa đổ cơn mưa. Trận mưa rào đầu mùa ào ạt một lúc lại tạnh. Hai vợ chồng trở về bên Lở.

Có hơi rượu chếnh choáng, chồng chạy cung cúc như ma đuổi. Nước mưa đồng cao dồn về, con ngòi ngập đến thắt lưng. Nhìn lại, chưa thấy vợ, chồng ngồi đợi.

Vải đã ra khỏi cổng đồng. Trông hút đồng sâu, chỉ thấy bóng nước lấp loáng. Chắc là có khi nó lội qua ngòi rồi. Người trong xóm lác đác ra bờ tre bắt cá rô rạch. Gặp Vải, có người chào, có người hỏi chớt nhả. Thím về bên nhà... Sang báo tin mừng cho mẹ Chồi à... Cái bụng trông ngon mắt thế kia rồi...

Vải đỏ mặt cúi xuống vuốt cái khăn vuông bọc đĩa xôi và cái tỏi gà. Lại nhớ năm ngoái, năm kia, Vải chạy tớn lên theo chúng nó ra bờ chuôm bắt cá rạch.

Cánh đồng mù mịt trắng những nước. Con ngòi ngập cả lên bờ cỏ. Đàn đỉa trâu, đỉa hẹ lượn lên lượn xuống cung quăng tìm chân tay người thò xuống nước.

Vải đã ra đến bờ ngòi. Chồng đương ngồi úp mặt xuống đầu gối, dáng ngủ. Nhưng không, như anh ả đã đánh hơi thấy vợ. Anh ả ngẩng mặt nhăn nhở cười, hai con mắt rượu vằn vằn đỏ.

Hỏi:

- Nhà mày có lội được không?

Vợ lắc đầu, nhìn lại đằng xa. Chồng cười tủm:

- Cõng nhẻ?

Vợ lại lắc đầu, vẫn tần ngần ngoảnh mặt trở lại. Chồng đứng lên, xoe ống quần, buộc hai dải áo vào bụng. Anh ta đương nghĩ câu nói thế nào để dỗ, để doạ, để vợ cho cõng. Thì vợ đã bíu tay ôm cổ chồng, rún lên, chân đạp như trẻ con chơi hún đu. Hai tay chồng ôm chặt đít váy vợ rồi lội xuống nước.

Chồng nói lỡm:

- Này này buông xuống cho đỉa cắn nhẻ!

Vợ đá chân xuống mặt nước, như trêu tức. Những đàn đỉa đói nhao nhao lượn theo. Đã thế, ông dìm cho một cái.  Nhưng chị ả đã cong chân lên làm anh ả loạng choạng suýt ngã. Thì vừa sang đến bờ bên kia.

Hai con đỉa trâu bám vào bắp chân chồng, như hai quả chuối bụt, máu chảy loã lợi xuống gót, xuống cỏ.

Vải tụt trên lưng chồng xuống. Nhìn hai con đỉa lủng lẳng ở ống chân chồng, ả nguýt một cái.

- Rõ đáng đời!

Chồng nhìn quanh, chỉ thấy bóng nước, bóng cỏ. Chẳng nói chẳng rằng, lẳng vợ một cái ngã bệt xuống. Tốc váy vợ, làm một quắn.

Rồi anh chàng ngủ một giấc mê mệt. Đến lúc thấy lạnh bên bả vai mới mở mắt, bốn bên vắng lặng. Ngôi sao hôm lay láy đã lên đằng kia.

Hàng năm, vợ chồng Vải về bên ngoại vào tết nhất hay các dịp góp giỗ. Cẩn thận, giữ lệ. Khi con gà, hũ rượu, lại có khi vác cả bó mía, dựng bên bàn thờ làm gậy cúng các cụ. Khi nào gặp mưa, nước ứ trong ngòi, chồng lại cõng vợ, rồi cõng cả con sang bờ bên kia.

Năm ấy, chỉ có hai mẹ con về bên ngoại góp giỗ. Nguyên vì anh theo bạn buôn lên Mường mua mía về kéo mật bán chợ Tết. Khi lên theo đường bộ, về thì cho mía lên bè xuôi sông Đà. Năm nào cũng đi thế. Chuyến ấy ngược, dọc đường, cả bọn ngủ lại cửa rừng dốc Cun. Nửa đêm, con hổ ra ăn thịt mất anh ấy.

Năm năm, mẹ con nhà Vải vẫn giữ lệ về góp giỗ. Khi qua ngòi, gặp nước đầy hay nước cạn, mẹ Vải cũng cõng con lội. Cu con đã lên chín, lên mười, "chân nó dài bằng cái sào mía" - người ta cười thế, mẹ vẫn cõng con lội sang - người ta lại bảo nhà này chiều con quá.

 “Lấy chồng khác làng” có một số phận hơi đặc biệt. Suýt nữa nó không bao giờ đến tay bạn đọc, bởi đây là bản viết tay của nhà văn Tô Hoài đã sửa lại kỹ lưỡng, sau đó gửi cho tôi, nhưng tôi để đâu mất. Có lẽ đến gần chục năm rồi, ngẫu nhiên tôi mới tìm lại được.

Trong bức thư gửi cho tôi ngày ấy, nhà văn Tô Hoài viết: “Tôi đương viết một loạt chuyện phong tục theo cách của tôi, như truyện này...” Tôi chưa dám hỏi ông loạt truyện ngắn ấy ông đã viết được bao nhiêu, nhưng gần đây biết ông một mắt không không nhìn được nữa, một bên mắt rất yếu, chỉ còn để loáng thoáng xem tivi. Với một sức viết, sức đọc khủng khiếp như Tô Hoài mà nay phải ngừng lại thì quả là sự nuối tiếc lớn cho văn học nước nhà chứ không chỉ của riêng ông.

Kể từ khi Tô Hoài cầm bút, theo thiển ý của tôi, ông là nhà văn tả chân, nhà văn phong tục - tôi thích cái cách gọi xưa cũ như thế - bậc nhất của nền văn học Việt Nam.

Tìm hồn

Mưa lê thê. Hai chị em tôi xo ro tìm chỗ trú mưa. Chẳng đâu an toàn bằng trại ông Sáu. Gọi là trại vì so ra nó có vẻ kiên cố hơn cái chòi nhưng lại nhỏ và không tiện nghi bằng nhà. Trại lợp lá, vách dừng cũng lá, chia làm hai gian hẳn hoi. Gian trước đặt chiếc chõng tre, những miếng vạt tre lên nước bóng nhoáng. Trên chõng lúc nào cũng túc trực ấm trà nguội ngắt với mấy cái ly đóng cáu vàng khè. Bên cạnh là bộ bàn đóng bằng các thứ gỗ tạp, bốn cái ghế đôn thì hết ba cái bị sứt chân

Mỗi khi trời mưa, trại ông Sáu lúc nào cũng đông nghịt khách đến xin trú mưa. Ông chủ cười khề khà dễ dãi:

Vậy chớ không đụt đây thì đụt đâu mà xin với xỏ. 

Gian trong cũng có một chiếc chõng tre, trên trải chiếu, có cả mùng, mền, gối được xếp cẩn thận. “Chắc đây là chỗ ngủ của cô Ri”. Tôi thẽ thọt vào tai chị sau khi đã quan sát kỹ lưỡng các thứ từ gian trước tới gian sau.

Cách chiếc chõng không xa là... bếp. Bếp gồm ba ông Táo xếp bởi ba viên đất sét được xắn vuông vắn, các cành củi khô vương vãi trong góc bếp, bồ hóng ám đen sì tấm vách chắn trước mặt, trên nóc và cả mấy cái cột tre, trông nham nhở, bẩn thỉu. Đầu bếp chính chắc cũng chẳng ai khác ngoài cô Ri. Tôi vừa nghĩ thế thì lập tức nghe tiếng nhừa nhựa của ông Sáu từ nhà trên gọi xuống:

- Ri! Nướng cho ba mấy con khô.

Cô Ri đang ngồi cạnh cửa sau, ngó ra cánh đồng chỉ thấy giăng mù một màn mưa trắng xám, tay liên tục rứt tóc, rồi đưa bàn tay đầy tóc ra sáng, ngó nghiêng ngó ngửa, xong cười khan một mình. Tôi thấy hàm răng trên của cô mất hết cái răng cửa. Lúc đó không hiểu cô Ri nghĩ gì, đôi mắt như muốn xé màn mưa mà nhìn, nhưng thực ra không nhìn gì cả. Mấy lúc thấy cô Ri ngồi rứt tóc như thế, tôi sợ điếng người, ôm cứng vai chị mà mắt không thể rời khỏi người phụ nữ ngây dại một cách bí hiểm ấy.

- Ri!

Đến khi có tiếng gọi lần thứ hai, cô Ri mới chậm rãi đứng dậy, tiếng “Ừ... ừ... ừ” còn trong thanh quản không buồn thoát ra khỏi miệng. Cô lừ đừ tiến về phía bếp.

Ở cái xứ này, ai cũng bảo cô Ri khùng. Chỉ có người khùng mới hay rứt tóc, cho tóc rụng từng mảng, rồi xòe tay ra nhìn, cười. Chỉ có người khùng mới hướng đôi mắt trống không ngó ra ruộng, ngó mông lung, xa khuất. Ngó mà như không thấy gì. Nhìn đăm đắm mà như không tìm gì.

Nhưng lạ một điều là tôi chưa từng thấy người khùng nào hiền như cô Ri vậy. Không nói nhảm, không đánh đập, cấu xé ai, lại còn biết nấu ăn, biết chăm sóc cha hết sức cẩn thận chu đáo.

Có người lại bảo cô Ri không phải khùng. Chẳng qua hồn vía cô bị lạc loài đâu đó.

Thế nên cô mới cứ ngó mông lung. Cô tìm hồn mình lạc.

***

Theo lời nội tôi, cô Ri ngày xưa đẹp nhất vùng, mà lại hiền hậu nết na, là đứa con gái cưng duy nhất của ông Sáu Kham trong số bảy người con, sáu trai, một gái. Gia tộc của ông Sáu đã mấy đời giàu nứt đố đổ vách. Ngày xưa, tất cả điền ruộng ở đây đều là của ông, cha ông Sáu. Đến đời ông, tuy có rơi vãi bớt bởi vài đứa con biết phá của, nhưng đất đai cũng còn nhiều, ông cũng vang danh là người giàu có nhất vùng như thời cha ông vậy. Quá nửa đất đai ở đây đều thuộc quyền sở hữu của dòng họ ông.

Nội hay thở dài: “Không biết kiếp trước con Ri làm chuyện gì tày trời mà kiếp này mang cái họa lớn quá. Cái họa đánh đuổi cả cuộc đời”.

Mỗi lần nghe tôi tò mò hỏi về cô Ri là mỗi lần nội nghẹn ngào kéo khăn lau mắt: “Con mẹ Hai Phưa, rồi trời không tha con mẻ”.

Nội kể: Cô Ri đem lòng yêu anh Bền là người xứ khác trôi dạt tới ở làm ruộng thuê ăn cơm trừ công cho nhà ông Sáu. Anh cần cù chịu thương chịu khó, chí thú làm ăn nên nhà chủ thương, cho thêm mỗi tháng hai chục đồng bạc trắng. Ấy vậy mà không biết điều, dám leo trèo làm con gái nhà chủ bụng mang dạ chửa. Khi gia đình ông Sáu phát hiện thì cái thai đã hơn hai tháng. Chẳng một gia đình danh gia vọng tộc nào lại chấp nhận chuyện cả dòng họ cao quý của mình tự dưng để lọt vô đứa hậu sinh của một thằng ở đợ. Bà mụ vườn trong xóm tên Hai Phưa được bí mật vời tới, cô Ri bị buộc phải uống một tô đầy thứ nước lá xanh đen, đặc quánh. Bà mụ thì hớn hở lãnh thưởng năm trăm đồng bạc te tái ra về. Đến nửa đêm hôm đó, người ta nghe tiếng thét kinh hồn phát ra từ ngôi nhà nền đúc rộng ba gian của ông Sáu. Cái thai đã trụy ra, còn cô Ri thì chết ngất.

***

Nỗi khổ tới đó chưa phải là cùng cực. Cô Ri vẫn chưa dứt được nợ đời. Cô không chết luôn, mà tới chiều hôm sau lồm cồm tỉnh dậy. Ôm cái bụng nhẹ hẫng, cô hỏi bà Sáu: “Má, con của con đâu rồi?”. “Hứ, cái đồ tội báo oan gia đó giữ làm gì mà hỏi”. Cô Ri ngước nhìn trời, không khóc, đôi mắt trỏng lơ, giọng ráo hoảnh: “Con ơi con, sao con không chọn chỗ mà đầu thai, đòi làm con má làm gì để chưa kịp tượng hình đã bị người đời ăn thịt”. Bà Sáu gầm gừ: “Mày rủa tao đó hả Ri? Có cha mẹ nào không muốn tốt cho con cái. Đời con còn dài, ráng tịnh dưỡng cho khỏe, tháng sau bên nhà thằng Tư Hò người ta tới hỏi đó. Họ giàu có đâu thua kém nhà mình, lại biết mầy như vầy, mà nó cũng cứ thương, người như vậy dễ tìm lắm sao con”.

Khi chuyện cô Ri có thai vừa bị phát giác, mà thủ phạm chính là anh Bền lập tức anh bị tống cổ ra khỏi nhà. Thế nhưng, anh vẫn chưa chịu về xứ mà còn loanh quanh trong xóm. Ai ngó bộ dạng anh Bền cũng thấy vừa thương vừa giận. Thương cho thân phận nghèo hèn, trôi sông lạc chợ, tứ cố vô thân. Giận vì không chịu thức thời, biết thân biết phận. Gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới đất mà chồm lên cao. Ông Sáu Kham nghiến răng: “Cái thằng này muốn chết, thì tao cho chết”.

Bị mất đứa con, dẫu đau buồn nhưng cô Ri vẫn còn tỉnh táo. Cô chỉ thật sự điên dại khi chứng kiến cái cảnh một bọn người trong đó Tư Hò cầm đầu, đánh đập dã man anh Bền bằng những đoạn tầm vông còn tươi rói. Nhìn thấy anh Bền thoi thóp trên vũng máu, cô rú lên rồi ngất xỉu. Người ta mang cô về nhà, làm cho tỉnh lại. Tỉnh là tỉnh xác, chớ hồn cô vĩnh viễn lưu lại trên đoạn đê nhuốm đầy máu tươi nhầy nhụa, nhảy múa reo ca trên cánh đồng xanh mướt mạ non.

Không hiểu anh Bền chết sống thế nào mà sau đó không nghe ai nhắc tới tên anh nữa. Tư Hò vẫn cứ nhởn nhơ lấy vợ, sanh con, chiều chiều vận bộ đồ thiệt bảnh, tóc tém bảy ba, thả dài vô xóm.

Ông bà Sáu chạy thầy chạy thuốc cho cô Ri tốn tiền bạc không biết bao nhiêu mà kể. Lớp mời bác sĩ Tây, lớp kiếm thầy thuốc ta, kể cả những ông lang vườn, rồi mấy lão thầy cúng nhảy chồm chồm mồm hét inh ỏi gọi hồn gọi vía... Vậy mà cô vẫn cứ ngẩng mặt lên trời, đôi mắt trỏng lơ tìm trời xanh mây trắng, miệng tủm tỉm cười khan. Bà Sáu buồn rầu bỏ ăn mất ngủ ngót một năm rồi chết. Ông Sáu hận đời chia chác ruộng đất hết cho mấy người con trai, chừa lại miếng ruộng mà cô Ri đã chứng kiến cảnh anh Bền bị đánh đập, cất trại đem cô vô ở cùng ông. Vì ông nghĩ, hồn cô mất ở đó, biết đâu có ngày trời thương cho tìm lại được.

Ngày ngày, người ta vẫn thấy cô Ri đi đi lại lại trên đoạn đê đó, đôi mắt trống không nhìn chăm chăm vào cái gì không rõ, miệng tủm tỉm cười. Cô đau quá mà không khóc được nữa nên cười chăng? Trông cái dáng lừ đừ của cô, ai cũng bắt mủi lòng. Chắc cô chưa tìm hồn được.

Ông Sáu ngày ngày vẫn cắp chai đi mua rượu, không có bạn nhậu thì uống một mình. Uống tới say túy lúy rồi lăn quay ra vạt tre mà khóc, mà rên ư ử. Ông đang tự sám hối.

***

Năm nay, ruộng lúa trúng mùa. Tía tôi biểu, chưa năm nào lúa tốt như năm nay, bông lúa sai oằn, không một hột lép, mà thân thì đứng sững không ngã một cây. Tôi cũng chưa bao giờ được ngắm cánh đồng lúa chín đẹp như thế này, dưới một buổi chiều khô hanh nắng dịu nhẹ, gió vi vu. Căng ngực hít thở bầu không khí nồng nàn mùi lúa chín, lẫn lộn mùi bùn đất chưa kịp ráo dưới gốc rạ khô.

Nông dân hào hứng thu hoạch lúa. Vụ mùa cuối năm rôm rả tiếng cười nói, người người xôn xao bàn bạc tới một cái Tết tươm tất sum vầy. Cánh đồng sau mùa thu hoạch trống trơ mà vẫn thơm ngát mùi lúa chín. Mấy cây bạch đàn trên bờ đê thẳng vút lên trời cao, tự tình với gió, bẹo bỡn mây xanh. Trời đất giao hòa, lòng dạ người đàn bà để lạc mất hồn hình như cũng nghe xao xuyến. Cô Ri chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, miệng tủm tỉm cười, mắt chăm chú nhìn, như muốn lật từng hòn đất, vạch từng ngọn cỏ.

Ngày đó Tư Hò đành chịu ấm ức về không. Không về không chớ chẳng lẽ cưới con khùng làm vợ? Đau. Tư Hò chửi đổng: Từ trước tới giờ Tư Hò này qua mặt ông trời nhiều rồi, hổng lẽ ổng muốn chơi xỏ mình một phen cho bõ tức?

Hắn cất cái ấm ức đó trong lòng, chớ không chịu bỏ qua. Mấy lần qua qua lại lại trại ông Sáu, Tư Hò xẩn bẩn ngó lom lom cô Ri ngồi trên vạt tre rứt tóc, đôi mắt trống không ngó mông ra ruộng, không còn sót lại một mảy nào hình bóng của cô Ri một thời làm hắn mê mẩn, thèm muốn điên dại, đến nỗi sẵn sàng giết người vì cô. Một lúc lâu, hắn mới lắc đầu, tặc lưỡi bỏ đi.

Nhưng lần này, hắn đã ngà say, lại đụng phải cô Ri trên nhánh đê hẹp té, nơi hai mươi mấy năm về trước anh Bền bị đánh đập dã man. Chắc cô lại nhớ nên ra đây tìm hồn.

Từ Hò chộp lấy cô, lựa nhựa: “Em đây hả Ri? Cớ gì mà em ghét tui tới vậy? Em trốn tui, trốn tới trên trời tui cũng tìm em lôi xuống”.

Cô Ri giãy giụa la hét dữ dội. Khi ông Sáu nghe thấy lật bật chống gậy chạy ra thì chuyện đã rồi. Nhìn đứa con gái ngây dại, quần áo rách nát, nằm thoi thóp trên triền đê, ông Sáu rên ư ử đầy đau đớn huơ gậy giáng tới tấp vào Tư Hò, vừa giáng ông vừa chửi: “Đồ cầm thú, đồ vô nhân. Con nhỏ ra tới nông nỗi này rồi mà mày cũng chưa chịu tha sao, hả?”. Tới gậy cuối cùng, Tư Hò đỡ được, hắn quật mạnh làm ông Sáu té xiểng liểng. Hắn chỉ thẳng vô mặt ông, kể tội: “Ông còn lớn tiếng rộng họng với tui? Con Ri nó điên là tại ông biểu tui đánh chết thằng Bền, ông nhớ chưa?”. “Nói bậy. Tao biểu mày đánh chết thằng Bền chớ không biểu mày đánh trước mặt con Ri”. “Làm sao tui biết con Ri nổi hứng lội ra ruộng lúc nào mà tránh? Ông là quân nói ngang, may mà thằng Bền chưa chết, chớ nó chết, ông đổ cho tui ngồi tù một mình...”. Vừa nói tới đó, Tư Hò kêu rú lên, thoắt nhìn đã thấy cô Ri đu trên người hắn. Cái mũi hắn bị cô Ri cắn phập, một dòng máu tươi chảy ròng ướt đẫm...

***

Không hiểu hồn tìm về với cô Ri từ lúc nào, lúc bị Tư Hò đè vật cô ra giữa triền đê, hay lúc ông Sáu và Tư Hò đối đáp. Hay là hồn nào khác nhập vào cô? Cô không im lặng, không tủm tỉm cười, đôi mắt không trổng lơ ráo hoảnh nữa. Cô bắt đầu biết khóc. Cô bắt đầu nói chuyện, dẫu là nói một mình. Cô cất những tràng cười dài nghe buốt óc. Cười xong, một tay chống nạnh, một tay cô chỉ thẳng ra trước mặt, nói như quát vô mặt người nào đối diện: “Tao không điên. Tao phải tỉnh để nhìn chúng bây ăn thịt nhau. Tao đi nhặt xương”. Nói xong, cô lại cười rũ rượi. Tràng cười này nối tràng cười khác, eo óc, thê lương.

Mấy ngày Tết năm đó, ở trong xóm người ta cứ nghe vẳng tới những tràng cười ghê rợn, mà không biết là của ai. Hết Tết, mọi người lại lục tục kéo vô ruộng, dọn đất, đốt đồng chuẩn bị cho vụ sau, họ không thấy cô Ri lững thững vô ra trong trại nữa. Cô đi đâu, không ai rõ. Ông Sáu nằm lăn lộn trên vạt tre khóc ư ử một mình. Người ta đồn cô Ri đã tỉnh, cô đi qua bên kia con sông Cái, t

Đánh đổi tình yêu

Hải vừa ra trường, đi làm lương không được bao nhiêu nhưng tháng nào Hải cũng trích khoảng hai phần ba gửi về cho ba má. Ba Hải đi qua hai cuộc chiến tranh, tóc trên đầu bạc gần hết, hằng ngày vẫn cặm cụi cọc vé số trên tay đi bán dạo. Ai có hỏi ba luôn nói: “Ở nhà quẩn chân quẩn tay. Kệ, đi vầy vừa kiếm chút tiền ăn sáng vừa tập thể dục”. Má thì buôn bán ba cọc ba đồng hàng ăn ngoài chợ

Hải ơi! Có điện thoại...

- Dạ...

- Cái thằng đi làm mà sao không sắm một cái điện thoại cầm tay đi con. Bà chủ nhà nhẹ nhàng nhắc khéo dù mỗi lần nghe điện thoại xong lần 

nào Hải cũng đưa bà 2.000 đồng tiền “cảm ơn”.

- A lô... Con nè má. Sao ba bị bệnh nữa hả? Dạ... nhưng lương tháng này con ứng gửi về cho má hồi đầu tháng rồi mà... dạ... để con cố gắng.

Hải buông tai ống nghe cố gắng nở nụ cười với bà chủ nhà và không quên đưa bà ta tiền “cảm ơn”.

Hải lên phòng thả người xuống chiếu. Thâm, bạn cùng phòng hỏi:

- Sao nghe điện thoại ai mà mặt mày bơ phờ thế Hải?

- Má gọi điện nói ba bị bệnh tái phát.

- Ối trời. Thằng bạn thốt lên.

Hải vừa ra trường, đi làm lương không được bao nhiêu nhưng tháng nào Hải cũng trích khoảng hai phần ba gửi về cho ba má. Ba Hải đi qua hai cuộc chiến tranh, tóc trên đầu bạc gần hết, hằng ngày vẫn cặm cụi cọc vé số trên tay đi bán dạo. Ai có hỏi ba luôn nói: “Ở nhà quẩn chân quẩn tay. Kệ, đi vầy vừa kiếm chút tiền ăn sáng vừa tập thể dục”. Má thì buôn bán ba cọc ba đồng hàng ăn ngoài chợ. Cố gắng lắm Hải mới học xong đại học. Cuộc sống với Hải không dễ dàng gì nhưng trông Hải lúc nào cũng lạc quan. Hải luôn tự kỷ ám thị rằng cuộc sống luôn dành cho Hải những khó khăn như một thử thách để Hải vượt qua. Ba Hải ngày trước bị trúng đạn nên thỉnh thoảng vết thương cũ hành ba đau đớn.

- Hải ơi! Có điện thoại.

- A lô...

- Anh nghe nè em... Về quê?... Hải hỏi lại.

- ... !

- Anh biết là anh cần phải về nhà em không phải một lần, nhưng...

- ... !

- Không phải là anh không yêu em. Thụy à, anh...

- Tít... tít...

Thụy dập máy. Hải không biết lúc này mình phải làm gì?

Thụy, người yêu của Hải, đã cùng anh đi qua quãng đời sinh viên khó khăn. Hải luôn có mặc cảm với chính mình. Hải không cho Thụy một tình yêu có hoa hồng và sô-cô-la. Nhà Thụy ở quê cũng khó khăn. Thụy là chị hai nên trách nhiệm với mấy đứa em, với gia đình không khác gì Hải. Là người yêu nhưng Hải không giúp được gì nhiều cho Thụy. Tình yêu hai đứa vẫn ngọt ngào. Thụy là người con gái siêng năng, hiểu biết và thông cảm. Thụy hiểu Hải là một người đàn ông có hoài bão, có mục đích sống, nhưng anh còn nghèo, anh chưa có cơ hội để phát huy. Thụy nói với Hải như thế.

Lần này nhà Thụy ở quê có đám, đây là một cơ hội để anh về quê ra mắt nhà Thụy. Nhưng anh không thể về nhà, ra mắt ba má Thụy với bộ dạng như thế này. Thụy không cần sĩ diện, Thụy chỉ cần anh về ra mắt mọi người để chúng ta sống có trách nhiệm với nhau hơn. Thụy biện giải như thế. Nhưng Hải là một thằng đàn ông, anh không thể đến với hai bàn tay trắng, không một món quà về nhà Thụy, dù chẳng đáng là bao. Ba Hải ở quê đang chờ tiền Hải gửi về, anh còn đang lúng túng tìm cách chưa ra, giờ đến Thụy. Hải muốn nói với Thụy rằng anh yêu Thụy, cuộc đời này anh chỉ có Thụy là niềm tin, là cuộc sống, anh không thể sống thiếu Thụy. Nhưng lúc này anh không đáng mặt là một thằng đàn ông, anh không thể đem lại cho Thụy một tình yêu ngọt ngào, một cuộc sống no đủ khi mà cuộc sống của anh còn đang túng quẫn. Thụy cũng không thể giúp gì anh, có nói ra cũng chẳng giải quyết được gì, chỉ làm Thụy thêm lo lắng.

- Hải ơi! Có điện thoại...

- Dạ.

- Cái thằng, đi làm mà sao không sắm một cái điện thoại đi con.

- A lô... Hải nghe! Trung nào?

- ... !

- À, em nhớ rồi nhưng em đã nghỉ làm thêm ở câu lạc bộ BTX rồi mà.

- ... !

- Em chỉ đi làm thêm bằng sức lao động của mình. Em không phải là "call boy".

- ... !

- Em...

- ... !

- Buổi chiều em trả lời anh được không?

Hải lững thững đi lên phòng, cố gắng lắm mà không thể nở nụ cười với bà chủ nhà đang theo dõi những thay đổi trên nét mặt Hải.

* * *

- Hơn tháng nay em thấy anh thay đổi rất nhiều. Tiền ở đâu anh có để mà sắm sửa, mua cái này cái kia cho em?

- Anh đi làm, anh không có quyền lo lắng cho em sao?

- Không phải, ý em không phải vậy. Bạn em thấy anh trong bar Vila.

Hải giật mình chột dạ. Anh biết sớm muộn gì ngày này cũng xảy ra nhưng anh không nghĩ nó đến sớm như vậy. Không biết anh có nên nói thật tất cả sự việc với Thụy. Anh muốn dừng lại cuộc chơi. Anh không muốn mất Thụy. Nhà Thụy rất tin anh, ba Thụy đã gật gù đặt tay lên vai anh tin cậy.

- Bác tin người như cháu sẽ đem đến hạnh phúc cho con Thụy. Chúng ta nghèo nhưng mình có ý chí phải không con. Nghèo không phải là một cái tội.

Dạ phải, nghèo không phải là một cái tội, mà là rất nhiều tội, và cái tội lớn nhất là cái tội nghèo. Ba má Hải ở quê cố gắng chắt chiu dành dụm cho Hải đi học, kiếm lấy cái chữ để thoát nghèo. Nhưng cái nghèo khó đã không buông tha anh.

Không, anh không thể nói tất cả với Thụy. Thụy sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó. Hình ảnh của Hải sẽ vỡ vụn dưới chân Thụy. Nhưng nếu anh không nói, Thụy sẽ không bao giờ hiểu được anh đã phải vượt qua nỗi khổ như thế nào. Tiền là giấy, nhưng là một loại giấy có màu và cuộc đời con người cũng sẽ đổi màu như màu của tờ tiền. Nghe sao chua xót quá nhưng đó là cuộc sống. Cuộc sống là những nỗi nhọc nhằn, mưu toan tính toán. Tâm hồn Hải dường như cũng chai sạn dần theo thời gian.

Để có tiền gửi về chữa bệnh cho ba. Để có tiền về Bến Tre ra mắt gia đình Thụy một cách tự tin. Để có tiền trả tiền nhà trọ, sắm sửa bản thân và cho Thụy một tình yêu có hoa hồng và sô-cô-la Hải đã đánh đổi. Hải đã đồng ý qua đêm với một người đàn ông, tại một khách sạn trong thành phố. Cái giá Hải đánh đổi là thân xác. Hải luôn tự tin mình là đàn ông, đó chỉ là những phút ngông cuồng. Nhưng rồi cuộc sống cứ cuốn lấy Hải, cho Hải những điều mới mẻ mà Hải chưa bao giờ khám phá được. Hải bước chân vào một thế giới mới. Ở đó có nhưng món ăn ngon, cuộc sống vui vẻ chẳng có lo lắng, tiền bạc xài thoải mái, đi du lịch Vũng Tàu, Đà Lạt cuối tuần, gặp gỡ những người thượng lưu trong xã hội.

Thụy sẽ không bao giờ chấp nhận một người yêu như Hải. Và Hải cũng không thể quay lại con đường của ngày hôm qua, cái khó nghèo, những bữa cơm rau dưa, những lời của bà chủ nhà khi gọi Hải nghe điện thoại. Hải không muốn phải vắt óc hằng đêm tìm cách kiếm tiền. Frans lo cho Hải tất cả mọi thứ, cuộc sống ba má Hải ở quê cũng được an nhàn lúc tuổi già. Hải gửi tiền về sửa lại ngôi nhà, mở một tài khoản cho ba má trong ngân hàng, Hải còn phụ giúp cho em của Thụy tiền học phí, má Thụy ở quê vừa mổ ruột thừa. Trong khi Hải đi làm chỉ là làm động tác giả, lương của Hải chẳng đáng được bao nhiêu. Tất cả Frans đều lo cho Hải, Frans rất quan tâm đến Hải, chỉ cần Hải nhíu mày!

Frans là người Pháp gốc Việt, anh là người đồng tính, đang làm giám đốc điều hành một công ty mỹ phẩm có chi nhánh ở Việt Nam. Frans rất cô đơn, anh qua đây đi làm, xa gia đình và vừa chia tay với người yêu. Gặp Hải trong một lần đi bar, được sự giới thiệu của Trung “tú”, Frans thấy Hải hiền, đẹp trai nên rất thích. Hải là một thằng đàn ông, không một điều gì có thể thay đổi được sự thật đó. Có đôi lần Hải thầm so sánh Thụy và Frans, ai mà không muốn tìm cho mình một cuộc sống sung sướng. Bên Thụy chỉ toàn là những lo lắng cho ngày mai, kiếm tiền và kiếm tiền. Đồng tiền làm tâm hồn Hải như chai cứng lại. Tình yêu, Hải chợt nhận ra cũng chỉ là một thói quen của mình với một ai đó. Thụy bên Hải trong suốt những năm đại học, ra trường đi làm và cơm áo gạo tiền đã không còn chỗ để Hải có thời gian tìm cho mình một cánh cửa mới. Sao Thụy và Hải không tìm cho mình một người mới, người có thể đem lại hạnh phúc cho mình mà cứ phải yêu nhau, cùng nhau cam cộng những khó khăn của nhau?

Ở bên Frans, Hải như trút được gánh nặng đang đè trên vai. Frans quan tâm, lo lắng, cho Hải rất nhiều, khi bên Thụy anh không bao giờ tìm thấy được. Cuộc sống này không có cái gì là vĩnh cửu, ngay cả sự vĩnh cửu cũng chỉ là một khái niệm, vậy tại sao Hải không thể thay đổi mình. Với lại Hải không phải là người đồng tính. Hải tự tin khẳng định điều đó. Hải đến với Frans chỉ qua là người sắp chết đuối bỗng vớ được chiếc phao giữa dòng nước xoáy. Hải không quá khắt khe với người đồng tính. Và Hải không quan tâm dư luận.

- Anh Hải... anh Hải...

Hải giật mình quay về thực tại: Gì vậy em?

- Anh không có gì để nói với em sao?

- Em muốn anh nói gì?

- Sự thật.

- Sự thật! Hải cắn nhẹ môi, sự thật vẫn mãi là sự thật không thể chối bỏ, trước sau gì Thụy cũng biết khi Hải dọn qua nhà Frans ở để khỏi tốn tiền nhà trọ. Hải quyết định nói toàn bộ sự thật. Anh... anh...

- Anh không cần giải thích gì đâu. Sự ấp úng của anh là câu trả lời rồi đó.

Nói rồi Thụy đứng lên quay mặt đi. Thụy là một cô gái cá tính mạnh mẽ, quyết đoán. Thụy chấp nhận mất tất cả hơn là bị lừa dối. Hải biết, nhưng Hải không biết phải bắt đầu từ đâu để nói cho Thụy hiểu rằng anh vẫn còn yêu Thụy nhiều lắm, Thụy hãy hiểu cho anh và cùng anh vượt qua những thử thách này.

Frans như chiếc phao giữa dòng nước xoáy mà Hải túm lấy được, Hải đã suy nghĩ tại sao mình yêu Thụy. Và khi tình yêu đang vỡ vụn dưới chân Hải mới thảng thốt giật mình. Anh yêu Thụy, tình yêu ấy vẫn vẹn nguyên như ngày nào. Hải ôm lấy ngực, nhói đau khi Thụy bước đi.

* * *

- Hê! Hải lâu quá không gặp.

Hải đưa tay chào, một cái nheo mắt như ngầm ý gặp lại sau.

Ngụm rượu X.O trôi qua cuống họng cay nồng, thơm thơm. Nhạc vũ trường giờ cao điểm đập mạnh, đèn flash xoay tròn trên cao. Dưới sàn gần cả trăm con người nhồi nhét nhau lắc lư, uốn mình cuồng nhiệt. Mùi bia rượu, mồ hôi, tiếng cười nói, nhạc ầm ầm tạo nên một thứ âm thanh hỗn loạn. Hải gào qua tai Frans.

- Em qua gặp bạn một chút.

- OK.

Hải lách người qua đám người đang nhốn nháo nhảy múa gào thét. Rượu trong ly Hải sóng sánh theo cái uốn người lách đi.

- Hê! Dạo này làm ăn được không ku? Hải vỗ lên vai một thằng bạn lúc trước làm cùng nhóm với Trung “tú”.

- Đâu ai may mắn như mày. Có tiền cho anh em một chầu đi mày.

- OK, tối nay tao “xử ” anh em chiến đấu một bữa nha.

- Dzô... dzô...

- À... thằng bạn mới nhập bàn như sực nhớ, uống tiếp ngụm rượu rồi nói với Hải:

- Mày nhớ thằng Tony không?

- Tony nào?

- Thằng Tony mà Trung “tú” giới thiệu cho tao nhưng nó kết mày đó.

- À, thằng Tony mà người nó đầy lông chứ gì?

- Đúng rồi đó.

- Sao?

- Nó bị sida rồi.

- Sao?

- Tao nghe nói nó bị sida nên về nước rồi. May cho mày là hôm đó mày "chảnh" không đi với nó, không là mày ăn “sầu riêng” rồi.

Ly rượu trên tay Hải rơi xuống đất vỡ tan.

Làm sao thằng bạn biết được Hải đã chơi “tay trên” với Trung “tú”. Nhờ vốn ngoại ngữ giỏi, thân hình rắn chắc, khỏe mạnh, khuôn mặt sáng và là một người mới trong hội, Hải đã gật đầu “đi ngoài” với Tony không thông qua Trung “tú”. Và lần đó Hải đã nói không với sự bảo vệ.

Sống ở bãi biển

Suốt cả tháng nay, thằng Bảy chẳng làm được “phi vụ” nào. Nó ăn uống thất thường, đói khát, sống vất va vất vưởng. Theo như lời kể của đám móc túi ngoài bãi biển, thằng Bảy quê ở ngoài Bắc. Năm mười ba tuổi, cha chết, mẹ có chồng khác, nó cãi vã với ông dượng rồi đón xe đi hoang đến bãi biển du lịch này hành nghề móc túi, đến nay đã ba năm

Có lần nó giật được giỏ tiền của bà Tây, trong đó ngoài tiền Việt Nam còn có một ngàn đô la, kèm theo cái máy hình. Đồng tiền bất chính thằng Bảy thấy lạ lắm, hối hả vào túi ngược lại cũng mau chóng đi ra. Chẳng hiểu sao, tiền xài đâu hết veo, bây giờ trong túi nó chẳng có đồng nào. Thằng Bảy bắt đầu chán nản cho cái nghề móc túi của mình, lúc có lúc không, tiền trong túi luôn luôn thiếu thốn. Nó mong kiếm một “phi vụ” nào đó ngon lành, có tiền xe về quê, đi học nghề sửa Honda hoặc một nghề nào đó đàng hoàng như người ta cho rồi. Chứ cái nghề móc túi này, lúc may mắn chôm được giỏ tiền người ta có tiền ăn tiêu thì không sao, nhưng xui rủi mà bắt ngay tại trận, người ta xót của đánh người như đánh trái banh, máu mồm máu mũi tuôn ra, nếu không chết thì cũng đau bệnh, tuổi thọ tính bằng ngày tháng. Người đứng xem, chẳng ai thương tình bênh vực cho thằng móc túi cả, ngược lại còn xúm lại đánh cho đã tay. Thôi, bỏ nghề đi cho rồi! Nhưng bỏ nghề rồi, ở đây nó sẽ làm gì? Ai dám thuê mướn một người làm công không quen biết, không một tờ giấy tùy thân? Bây giờ làm gì để có miếng ăn?...

Có tính toán làm gì cũng để từ từ rồi tính, cái trước mắt bây giờ là thằng Bảy phải kiếm miếng ăn vào mồm. Nó phải tìm cách chôm xe đạp, hoặc giật cái giỏ xách du khách, lấy tiền, mua thức ăn mới bỏ vào mồm nhai được. Thằng Bảy ngồi dậy, mệt mỏi nhìn du khách đến biển chơi. Du khách đến biển để được hóng gió mát, nghe tiếng sóng vỗ rì rào, ngắm cảnh bình minh hoặc hoàng hôn, tắm cho thỏa thích. Ngược lại, thằng Bảy ở biển thì thích ngắm du khách sơ hở để kiếm tiền! Khách lưa thưa rải rác, toàn là mấy cô bác bán hàng cua ghẹ, cốc ổi, kẹo kéo, thuốc lá, nước sâm lạnh, mấy ông chụp hình dạo... những người lấy bãi biển làm đất sinh sống của mình. Những người này quá quen mặt, hơn nữa nghèo khổ chẳng có tiền nhiều mà móc. Thằng Bảy những lúc chôm được chiếc xe đạp, có tiền, thường hào phóng dắt đám móc túi đi nhậu rượu trắng, nói: “Làm đĩ chín chỗ, còn một chỗ lấy chồng”. Ý nó muốn nói, có ăn cắp thì cũng ăn cắp những người giàu sang, rảnh rỗi xuống biển chơi bời hóng mát, còn những người quen mặt nghèo khổ ở biển thì tuyệt đối không đụng tới. Nói thì nói vậy, lúc có tiền thì nó thực hiện đúng nguyên tắc, còn đói quá nó cũng chôm ẩu làm càn. Ngay bây giờ đây, nó muốn làm càn cũng không được. Nó nghĩ thôi, chờ đứa nhỏ học trò ngây thơ nào xuống biển một mình, hù dọa xin đểu vài ngàn mua ổ bánh mì ăn tạm.

Vừa lúc này, có đôi nam nữ tay trong tay hạnh phúc đi dạo bãi biển. Mỗi người cầm một giỏ xách nhỏ, bề ngoài thuộc diện giàu sang, giống như vợ chồng mới cưới đến đây hưởng tuần trăng mật. Họ vừa đi vừa lấy tay chỉ chỉ những cánh dù bay cao ngoài biển, những cánh buồm thể thao... vừa thích thú lấy máy hình ra chụp lia lịa. Họ đang ngất ngây với cảnh đẹp nơi đây, tự nhiên và vô tư, không chú ý đến ai. Thằng Bảy nhìn cặp khách, liền nghĩ ngay đến ổ bánh mì, dĩa bánh xèo, tô bún bò có cục thịt giò to tướng nóng hổi. Thằng Bảy nghĩ đúng là đang buồn ngủ, lại gặp được chiếu manh. Đang đói khát, có người vô tình mời đi ăn tô bún, quả thật may mắn! Thằng Bảy hối hả ngồi dậy, lấy tay phủi đất cát, rình mò đi theo cặp khách, giống như con thú đang ngủ vùi ở bãi cát rũ mình mấy cái rồi đi tìm mồi. Cặp khách dừng lại ngồi vào ghế đá ngắm cảnh nói chuyện, thằng Bảy sợ phát hiện cũng dừng lại, lẩn tránh phía sau gốc dừa hoặc cây dương, giả vờ là người đàng hoàng, huýt sáo, đứng ngắm biển, làm bộ làm tịch giống như người yêu thiên nhiên cảnh đẹp. Cặp khách ngắm cảnh nói chuyện chán chê, đứng dậy đi tiếp. Thằng Bảy cũng rình mò tiếp tục bước theo sau, giống như người thợ săn âm thầm đuổi bắt con mồi, chỉ khác một điều là người thợ săn đường đường chính chính, còn nó luôn sợ sệt những người xung quanh phát hiện, đánh cho vỡ mồm.

Trời đã trưa, có lẽ cặp khách đã mệt, nên ghé vào nhà hàng bên bờ biển ăn uống thứ gì đó. Ở nhà hàng, nhiều vệ sĩ có khuôn mặt lạnh lùng đứng bảo vệ, canh chừng an ninh bảo đảm cho du khách. Thằng Bảy là dân móc túi, không thể vào đây được. Cho dù nó có tiền, nhìn bề ngoài của nó dơ dáy, ăn mặc rách rưới, nó có vào người ta cũng lôi ra cho khỏi dơ bẩn quán. Thằng Bảy hết cách, đứng ở ngoài thèm thuồng nhìn người ta ăn uống. Đến đây, nó đã bắt đầu thấm mệt. Ổ bánh mì, dĩa bánh xèo, tô bún nóng hổi, bốc hơi thơm ngát, thoáng qua trong đầu nó rồi tan biến. Cái ước nguyện làm một phi vụ ngon lành, có tiền về quê học nghề, cũng tan thành mây khói. Thay vào đó nó cảm thấy đói bụng, ruột gan cồn cào. Nó thất vọng, chán nản cuộc sống vô cùng, đi tìm “con mồi” khác. Khách ở biển hôm nay không đông đúc. Có nhóm học sinh chơi với nhau, có gia đình tổ chức ăn uống, có cặp tình nhân ngồi ghế đá, có người ngồi hóng biển một mình, khoảng cách không xa không gần. Theo kinh nghiệm móc túi của thằng Bảy, một là khách đông như ngày lễ, hai là khách vắng vẻ như ngày biển động, như vậy mới dễ móc túi. Khách đông người với người gần nhau, dễ tiếp cận móc túi, không ai chú ý. Khách vắng, nếu có giật giỏ xách, người mất cắp có phát hiện la toáng lên, những người xung quanh không kịp đến giúp đỡ. Khách bình thường, khó tiếp cận móc túi đã đành, nhưng nếu có giật cái giỏ xách mà bị phát hiện, khó có đường thoát thân. Thằng Bảy lang thang nhìn soi mói du khách đến biển chơi, nhưng không có ai sơ hở cả. Tiền bạc mà, người ta giữ bo bo, làm sao sơ hở cho được! Nó cảm thấy bất lực và yếu đuối, nhìn người nào cũng lạnh lùng, dữ tợn, nếu có lỡ sờ vào cái giỏ đồ kiếm vài ngàn, người ta sẽ đánh cho nhừ xương ra. Những lúc đói quá, trong lòng nó quay ngược sang trách móc người ta ác độc, sao không sơ hở để nó kiếm ít tiền mua thứ gì đó ăn cho đỡ đói!

Khoảng 3 giờ giờ chiều, thằng Bảy từ sáng đến giờ vẫn chưa ăn thứ gì, bụng đói quay quắt. Nó mệt lắm, đến độ không còn sức “đi làm” nữa, thì cặp khách giàu sang hồi sáng nó theo rình mò lại ra biển tắm. Nhìn thấy “con mồi”, chẳng hiểu sao thằng Bảy không thấy đói nữa. Ngược lại, nó cảm thấy trong lòng hừng hực, khỏe hẳn ra. Cặp khách thong thả đi trước, thằng Bảy hối hả ngồi dậy, chậm rãi bước theo sau. Cặp khách đi tới mép biển, thay đồ ra, bỏ trên bờ, chuẩn bị đi xuống biển tắm thì bỗng dưng dừng lại. Chàng trai nói: “Không biết bỏ đồ đây có ai chôm không?”. Cô gái nói“ Em thấy mấy người xung quanh đây, cũng bỏ đồ trên bờ”. Chàng trai nói: “Anh có cầm theo cái bóp tiền, máy hình, sợ!...”. Cô gái: “Mình xuống biển tắm, nhìn lên bờ, mà sợ gì?”. Nói xong, chàng trai và cô gái chẳng lo gì cả, cầm tay nhau nhảy ào xuống biển. Thằng Bảy rón rén đến gần đống đồ, nhìn qua ngó lại những người xung quanh, nhưng chưa dám làm gì. Nó kiên nhẫn đợi khi nào cặp khách mải mê tắm biển, lơ đễnh, những người xung quanh không chú ý, mới dám xuất chiêu. Cặp khách lúc đầu chú ý đến giỏ đồ, sau vui quá quên hẳn đi, chơi trò cút thi, xem thử ai hơi dài hơn ai. Một, hai, ba, ở dưới biển cặp khách thi nhau cút dưới nước. Ở trên bờ, thằng Bảy nhìn láo lia thấy an toàn, cũng đếm một, hai ba, chôm đống đồ, chuồn thẳng!...

“Xung kích”, người giữ an ninh trật tự ở biển, đại diện cho pháp luật. Trong danh sách từ trung cấp cho đến đại học, không thấy có trường nào tên “xung kích” cả, nhưng những người dân ở biển thường thấy họ mặc áo màu xám tro, tay cầm dùi cui, mặt đen đúa, lạnh lùng, thỉnh thoảng thường chắp tay sau lưng, đi một vòng dòm ngó dưới bãi biển. Họ đi đến đâu, mấy ông bán kẹo kéo, cô bác bán hàng rong cua ghẹ, bánh tráng, sâm lạnh, em bé bán đậu phụng, thuốc lá... thấy họ là sợ chạy te te, thiếu điều té đái trong quần. Họ đi rồi, đâu cũng vào đấy, cô bác bán hàng rong quay lại bãi biển buôn bán như cũ. Có lần, cô Thân đang bán con ghẹ to ú cho khách thì xung kích xuống biển, sợ quá quẩy gánh bỏ chạy. Xung kích đi rồi, cô quay lại chỗ cũ thì khách đi mất tiêu, chẳng chịu trả tiền. Cô bực tức lắm, chẳng chịu chửi khách ăn chạy, mà quay ngược sang xung kích mà chửi: “Lũ thất đức!”. Có người khách đang ăn ghẹ của cô, thấy lạ hỏi: “Sao chị thấy xung kích lại gánh chạy?”. Cô Thân nói: “Tụi nó cấm, không cho bán!...”. Người khách ngạc nhiên: “Thế sao họ lại không cho bán?”. Cô Thân lắc đầu, nhún vai: “Biết gì đâu mấy ông bà có chức có quyền! Tui mà biết được, chết liền!”.

Độ nửa giờ sau, thằng Bảy bị hai anh xung kích bắt tréo tay ra sau, dẫn dọc bãi biển về đồn. Thằng Bảy lom khom đi, mình mẩy “bầm dập”, chẳng ai đánh mà khai to: “Trời ơi! Tui mới ăn cắp được 5 triệu bạc, kèm theo cái máy hình, bị xung kích bắt lấy rồi!”. Có nhiều người hiếu kỳ xúm lại xem thử mặt thằng móc túi. Có người nói: “Cũng may! Có mấy anh xung kích bảo vệ an ninh ở biển, còn không, cái đám móc túi này lộng hành ai chịu nổi!”. Có một ông vạm vỡ, nghĩ tức sao đó, chồm đánh hôi thằng Bảy một đấm cho đã tay, rồi nói: “Hồi bữa con tao ra biển chơi, bị mất chiếc xe đạp, thằng này lấy chứ ai nữa! Bắt nhốt, đánh một trận, cho chừa thói ăn cắp!”. Có người đứng nhìn thằng Bảy biết đó là tên móc túi, đáng bắt đánh lắm, nhưng họ thấy thằng bé bị cột tréo tay khổ sở là thương tâm, im lặng. Còn thằng Bảy bị bắt rồi mà cứ rướn cổ lên la: “Trời ơi! Tui ăn cắp 5 triệu bạc, kèm theo cái máy hình, bị xung kích bắt lấy rồi!”. Nó cố la thật to cho mọi người đều nghe!

Một thời gian sau, thằng Bảy lại xuất hiện ở bãi biển, trông ốm nhom thảm hại. Thằng Hùng, người địa phương, hễ cha mẹ đánh là đi hoang ra biển làm nghề móc túi, vài ba ngày thì về, cha mẹ đánh thì lại tiếp tục ra biển. Hôm thằng Bảy bị xung kích bắt, thằng Hùng nhìn thấy, thương đàn anh lắm, nhưng chẳng dám giúp được gì. Bây giờ gặp đàn anh, thằng Hùng vui mừng, thắc mắc hỏi:

- Em thấy lạ quá! Hôm bữa bị xung kích bắt, anh cố la to mãi cái câu “Tui ăn cắp được 5 triệu bạc, kèm theo cái máy hình, bị xung kích bắt lấy rồi!” chi vậy? Anh không la, biết đâu chừng, người ta thương tình tha cho mình!

Thằng Bảy nổi nóng:

- Mẹ kiếp, mình có tội, có bắt nhốt, đánh làm sao cũng được! Nhưng tao phải la to cho mọi người nghe. Nếu không la, mình rình mò khổ cực bị “tụi nó” ăn ngang, tao tức lắm!

Thằng Hùng không hiểu, ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại tức?

Thằng Bảy kinh nghiệm nói:

- Lần trước tao chôm được 7 triệu đồng, bị xung kích bắt, tưởng đâu nhừ xương ra. Ai ngờ, đám xung kích đó không đánh đập chi cả, ngược lại còn dẫn tao đi nhà hàng ăn, cho tao hai trăm ngàn, rồi tha về. Tao đoán biết, số tiền đó xung kích nó nuốt tươi luôn, không nộp cho Nhà nước đâu! Vì vậy, tao mà không ăn được, tao la toáng cho mọi người cùng biết, đừng hòng nó ăn!

Thằng Hùng nổi nóng:

- Sao anh không đi kiện, cho chết cha tụi nó luôn?

Thằng Bảy tỏ vẻ hiểu biết:

- Mình là dân ăn cắp, cô thân độc mã, sao lại đi kiện người có chức có quyền? Mày ngốc quá!

Tịnh thủy

Ông nội tôi mất được ba năm thì sang cát. Cỗ áo quan của ông, bố tôi đem về ngâm xuống ao một thời gian rồi lôi lên đóng làm cầu ao. Trước, cầu ao nhà tôi ghép bằng hai khúc cây, lúc nào cũng bám đầy rêu nhớt, yếu chân tay như bà tôi bước xuống cứ run lẩy bẩy. Cây cầu ao mới rộng rãi, tôi có thể ngồi ở đấy chơi đánh chuyền; mẹ tôi có thể thong thả ngồi nhặt rau tán gẫu với hàng xóm; chị tôi có thể đem nồi bồ kết ra đấy để gội đầu

Duy có bà tôi không vui. Bà bảo đáng lẽ nên đốt đi, chứ mỗi lần nhìn mấy tấm ván đó bà lại nghĩ đến ba năm nó nằm dưới đất sâu chứng kiến sự tan rã của thân thể ông tôi. Tôi nhớ lúc sang cát ông, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy một con 

người chỉ còn một bộ xương không. Tôi ngỡ khi mở nắp quan tài, khuôn mặt quen thuộc của ông tôi sẽ hiện ra như ngày nào. Nhưng không còn gì để tôi có thể nhận ra ông nội nữa, ngay đến bộ quần áo mới ông mặc ngày ra đi cũng không còn lại một chút gì. Xung quanh tôi, những người thân cất tiếng khóc vang, mái đầu quấn tang trắng của họ cứ chực lao xuống hố, nhưng người nọ níu người kia rốt cuộc vẫn ngồi trên bờ tất cả. Khi ông Tuất, ông già chuyên đi bốc mộ, nói không tìm thấy được ngón xương út của ông tôi, bố tôi thở dài bảo: “Ông tìm kỹ hộ con xem có lẫn đâu đó chăng? Nếu không thấy nữa thì cũng đành thôi, có lẽ nó đã tan mất cùng da thịt rồi”.Tôi nghĩ thầm, nếu không có ngón út, ông nội tôi đành chịu khiếm khuyết rồi. Nước mắt tôi bỗng chảy ra. Sau này tôi nằm mơ thấy ông, bàn tay ông quả nhiên là thiếu ngón út.

Khi còn sống, ông hay đi chăn bò ở khu mả này. Thỉnh thoảng tôi vẫn đòi đi theo ông. Lúc ấy, chắc là ông tuyệt nhiên không thể biết mình sẽ nằm ở chỗ này, cạnh khu mộ tổ nhà họ Trần và gần bên cây gạo nở hoa đỏ rực. Hoa rụng xuống mộ ông một vài bông. Trước đây có lần ông nhặt những bông hoa ấy xâu lại cho tôi chơi. Vui biết bao nhiêu. Vậy mà ngoảnh đi ngoảnh lại, người đã không còn nữa. Tôi biết ngoảnh đi ngoảnh lại cả tôi cũng không còn nữa, giống như ông nội tôi vậy. Ai rồi cũng có cái hố đất của riêng mình. Mỗi khi suy nghĩ ấy bao trùm lấy tôi, hồn tôi buồn hiu hắt, và sợ hãi đến mức hoảng loạn. Tôi cố quên nó đi bằng cách nhập vào một đám đông nào đấy, hay chạy đi tìm bà tôi, hoặc làm những công việc linh tinh bất kỳ. Tôi cố gắng xác lập ý nghĩa, mục đích cho sự sống của tôi rồi theo đuổi nó một đời. Những chi tiết và ngôn ngữ sẽ lấp đầy cuộc sống ấy, cho đến khi hố đất kia chiếm được tôi mãi mãi.

“Em không có cách nào thoát khỏi sự bao bọc của hơi thở của anh. Hơi thở của anh vừa làm em say đắm vừa nhói đau trong tim. Không thể nào quên. Mùi vị mưa tháng sáu. Hoa sứ trắng ngần ngoài cửa sổ có rèm che màu xanh nhạt. Em nằm nép vào ngực anh dưới tấm chăn sa-tanh mỏng. Chương trình phim hoạt hình trên truyền hình cáp, hình như là một kênh nào đó của Trung Quốc. Tiếng nhạc vui nhộn rộn ràng, tiếng con nít lanh lảnh ngộ nghĩnh, giọng của người thuyết minh thì rất trầm. Anh bảo không thích có tiếng ồn xen vào, nhưng em sợ sự tịch mịch của căn phòng nên không tắt ti vi đi.

Khi anh bắt đầu hôn em trong tiếng mưa thầm vọng đến như từ một chốn rất xa xăm, chứ không phải ngay bên ngoài cửa sổ kia, em ngỡ mình như một giọt mưa sẵn sàng tan biến. Trong em chỉ còn cảm giác khao khát chưa từng có trong đời. Hơi thở anh dồn dập, giữa những tiếng thở ấy là những tiếng rên mơ hồ của em. Ngoài đường thi thoảng vang lên những tiếng rao, đại loại như “Ve chai, báo cũ bán không?”; “Ai chè, chuối chiên hông?”. Những tiếng rao buồn buồn bình thản ấy làm em bần thần nhợt nhạt, lòng đau như dao cắt. Em tự nhủ đừng đau làm gì, mỗi người có một phận số. Số phận của em đã an bài là phải gặp anh, giờ này, phút này hai chúng ta giao hòa với nhau làm một. Mắt nhìn vào mắt, hai tấm thân gắn chặt ở phía dưới, khóe môi ngưng đọng một niềm hạnh phúc mênh mông. Em không hề hối hận đã cùng anh, bởi trong sâu thẳm em nhận ra anh hiện hữu là để đợi em ở giây phút này, em sinh ra đời là để gặp anh ở giây phút này. Dường như giây phút này đã ám ảnh chúng ta từ rất lâu rồi, có lẽ là từ tiền kiếp mù xa nào đấy. Và chỉ một lần duy nhất đó thôi. Những lần sau chỉ là hình bóng của lần đầu tiên, chúng ta mải miết tìm kiếm cái cảm giác ban đầu ấy nhưng vĩnh viễn không bao giờ gặp nữa. Những lần sau chỉ là những hoan lạc nhuốm đầy mặc cảm tội lỗi, như một hố lầy mà chúng ta ngày một đắm sâu vào. Hai chúng ta cùng rơi sâu xuống đấy, rồi cùng đau khổ, tuyệt vọng. Không có một lối thoát nào dành cho chúng ta. Em vẫn để ti vi nói những lời vô thanh để giảm bớt không khí tịch mịch mỗi khi hoan lạc phai dần, tan rã trong thân thể. Chúng ta nằm im lìm bên nhau, trong căn phòng mướn vài giờ trong ngõ hẻm yên tĩnh giữa trung tâm thành phố. Những tiếng rao bên ngoài đời thường vẫn chui vào tim em với nỗi đau quen thuộc. Em để mặc nó xâm chiếm từng ngõ ngách trong thân thể mình. Lý trí cũng đành bất lực vì không cứu được em nữa. Lý trí của em bây giờ chỉ để ý thức về nỗi đau em tự tạo ra cho bản thân mình mà thôi”.

Tôi thức dậy ngay sau giấc mơ. Một giọt nước mắt to rơi xuống. Nước mắt chảy ra từ giấc mơ của tôi. Tôi nằm mơ con tôi ngồi trên bậc cầu ao ghép từ cỗ ván của ông tôi. Nó sao mà giống tôi hồi nhỏ lạ lùng, như là bản thể xưa cũ của tôi hiện về vậy. Nó ngồi lặng lẽ chơi với những bông hoa hòe rụng đầy trên mặt ván. Mây xanh, mây trắng, mây vàng trôi dưới đáy ao. Những con sóng lăn tăn nhẹ nhàng trôi từ xa về bên nó. Nó ngồi lặng lẽ đắm chìm như trong giấc mơ của chính nó. Còn tôi, từ cõi vô thức, hạnh phúc cảm nhận sự hiện hữu của con tôi, chợt thấy thương quặn lòng hình ảnh yêu dấu ấy. Đồng thời, tôi cũng chợt thấy dâng trào tình yêu với anh. Anh có thấy con của chúng ta đó không? Đứa con mang tâm hồn của chúng ta mà anh vẫn luôn khao khát. Khuôn mặt nó phảng phất nỗi buồn của em, ẩn chứa đam mê của anh. Rồi đây nó sẽ sống một cuộc sống cho ra sống, sẽ là một con người mà cả anh và em đều mong muốn được trở thành. Bỗng ảo ảnh vụt tắt. Tôi mơ màng thấy tôi nằm trên chiếc giường đơn độc trong bệnh viện. Bụng đau khôn cùng. Máu âm ỉ chảy như trong kỳ kinh nguyệt.

Tôi có đứa em mẹ tôi đẻ non ba tháng. Đó là đứa em trai kế tôi. Nó chỉ thở ở trên đời vỏn vẹn có một vài giây ngắn ngủi. Tôi vẫn hay nghĩ giá mà tôi có thể chia bớt cho em hơi thở của mình để em được sống. Đôi khi vì nghĩ ngợi như thế đột dưng tôi thấy hơi thở của mình nghẹn lại như bị ngạt, tôi rơi vào ảo giác đau đớn như thể tôi đang trải nghiệm những giây phút đầu tiên cũng là cuối cùng của cuộc đời em tôi. Mộ nó nằm bên cạnh mộ ông nội, một lớn một nhỏ. Mỗi lần ra thăm tôi đều gọi thầm ông ơi, em ơi. Gọi một tiếng lập tức nước mắt chảy ra rất nhiều. Mẹ tôi nằm mơ thấy em, em bé mặc cái áo cũ nát, miệng gọi mẹ ơi mãi. Bà tôi bảo mẹ đi mua áo giấy về đốt cho em, nhưng mẹ khăng khăng không chịu. Mẹ tự tay cắt cho em tôi cái áo bằng vải màu xanh, cỡ áo dành cho bé trai chừng 10 tuổi. Mẹ nói từ nay mẹ sẽ may áo hằng năm cho em, cũng như những đứa con khác của mẹ sống trên đời. Người chết cũng lớn lên chứ, em tôi vẫn lớn lên bình thường trong tâm hồn mẹ. Nó không ở mãi cái tuổi sơ sinh.

Tôi có tiền sử bệnh cường tuyến giáp nên không thể phá thai bằng thuốc. Tư vấn cho tôi là bà bác sĩ có khuôn mặt tròn lúc nào cũng ưng ửng đỏ, khí sắc sung mãn của bà làm tôi thấy mặc cảm ghê gớm. Nước da của tôi xanh nhợt, tôi không ngừng chóng mặt, buồn nôn từ lúc thai kỳ. Bà cầm bàn tay lộ những đường gân xanh xao của tôi nghe mạch, sau đó xem xét những giấy tờ xét nghiệm của tôi rồi khẽ lắc đầu. Ánh mắt bà lướt trên khuôn mặt tôi cái nhìn chẳng biểu lộ sự thương cảm hay ít nhất là sự trấn an nào, dường như điều đó chưa từng tồn tại trong nghiệp vụ của bà. Tôi chắc chắn không thể nói với bà rằng tôi hoàn toàn không muốn phá bỏ đứa con này, hay lòng tôi vô cùng đau đớn. Điều đó chỉ tổ xấu hổ thêm và thực sự chẳng có ý nghĩa gì bởi vì cuối cùng tôi vẫn phải phá thai, vấn đề còn lại là bằng cách nào, bằng thuốc hay thủ thuật ngoại khoa.

Trần bệnh viện rất thấp, phòng nào cũng vậy. Tôi cảm thấy thiếu không khí để thở, nhất là trước khi bước vào phòng thủ thuật, cô hộ lý trẻ trung mặc váy trắng đồng phục đưa cho tôi viên thuốc ngậm dùng để làm mềm âm hộ. Tôi thay váy, ngậm thuốc và chờ cho thuốc tan dần. Nhưng miệng tôi khô khốc, không tiết ra một chút nước bọt nào. Không thể tả được tâm trạng của tôi lúc đó, nó sợ hãi một cách hèn nhát. Tôi ngồi trên giường và gắn cái nhìn bất động của mình vào những bông hoa vải tim tím treo trên tường, gần cái đồng hồ chỉ 12 giờ 19 phút. Thiếu một chút nữa là tròn 12 giờ 20. Đúng lúc đó thì đến lượt tôi. Có tất cả ba người ở quanh bàn thủ thuật. Một người nói chuyện với tôi còn hai người kia thì chuẩn bị gây mê. Trong số đó có một người đàn ông. Chính anh ta cầm tay tôi lên để gắn mũi tiêm. Khi tôi đã hơi mê man thì bà bác sĩ có khuôn mặt hồng hào bước vào, ngồi xuống phía dưới tôi. Tôi chỉ nghe thấy giọng nói của bà. Sau đó tôi hoàn toàn không còn hay biết gì nữa.

Cái thai quá nhỏ, nó mới được 6 tuần tuổi, nếu phá bỏ khi ấy có thể bị sót nhau. Bác sĩ hẹn tôi một tuần sau quay lại. Tôi gọi điện cho anh: “Em không chịu đựng được nữa. Nếu để đến tuần sau, chị gái của em sẽ biết.” . Anh bảo tôi bình tĩnh, mọi chuyện để anh lo. Một lát anh gọi lại nói với tôi sáng mai lên bệnh viện. Anh đã dùng cách nào đó nên người ta bằng lòng giải quyết cho tôi ngay sáng hôm sau. Một tuần sau đó tôi hết chảy máu. Đi siêu âm lại, cái thai đã biến mất khỏi tử cung của tôi. Không thấy dấu hiệu bị tổn thương hay nguy hiểm nào cả. Vết thương đã lành rồi. Mối quan hệ giữa tôi và anh sau sự cố đó một thời gian cũng dần trở lại bình thường. Hoan lạc không hề giảm bớt. Nhưng sau lần đó anh không bao giờ nhắc đến chuyện con cái với tôi nữa.

Tôi cắt vụn những thứ giấy tờ siêu âm, xét nghiệm của lần đó bỏ vào bọc ni-lông đen, cất trong ba lô, dự định sẽ bỏ nó ở một nơi xa lạ nào đó. Trong nhật ký, tôi ghi lại số hồ sơ ở bệnh viện và tên loại thuốc kháng sinh người ta đã cấp cho tôi. Chỉ là để lưu lại một chút dấu vết. Còn cái bọc ni-lông tôi vứt nó trong thùng rác bên cạnh một gốc cây chiu liu. Tôi làm tất cả điều đó thật bình tĩnh, bình tĩnh đến mức tôi tự rẻ rúng mình.

11 mm là sinh thể của đứa con tôi. Có lẽ nó đang háo hức lớn lên, có lẽ có một linh hồn đang bay lượn quanh nó chờ hóa nhập thân xác nó, nhưng chỉ trong nhấp nháy mọi thứ đã chấm dứt. Nó biến mất khỏi thân thể tôi vô tăm tích. Ra khỏi cơ thể tôi nó trở thành một thứ rác thải của bệnh viện, và sẽ bị xử lý một cách nào đó. Tôi không có tư cách nào để khóc nó. Và quả thật tôi đã không hề rơi một giọt nước mắt nào. Nhưng anh lại khóc, bảo là anh mất một đứa con. Tôi im lìm ráo hoảnh nhìn anh khóc, trong lòng thầm nghĩ giá như anh đừng khóc thì hơn.

“Anh à, chúng ta quả thật rất đáng thương và tội lỗi. Mỗi lần đến với nhau chúng ta đã phải vứt bỏ đi nhiều thứ để có được những phút giây hoan lạc cùng nhau. Nếu những giây phút ấy kéo dài mãi mãi thì có lẽ chúng ta là những người hạnh phúc nhất thế gian này, nhưng tiếc là nó quá ngắn ngủi. Ngắn ngủi đến độ hư vô. Khi em vẫn còn ôm anh trong tay thì cảm giác hoan lạc đã rời bỏ chúng ta rồi. Có phải vì thế mà càng khát khao, càng tham lam hay không? Em rất hòa hợp với anh, cả về tâm hồn và thể xác. Khi giao hòa với anh, bản ngã của em tồn tại một cách vô cùng mãnh liệt và em biết vì sao em được sinh ra trên cuộc đời này. Nhưng kết quả của sự hòa hợp đó là đứa con thì chúng ta lại không giữ được. Tương lai, danh dự, tên tuổi, gia đình, chúng ta sợ mất nó nên phải hy sinh đứa con. Tự thâm tâm chúng ta biết rằng chúng ta cần có nhau, nhưng rốt cuộc anh vẫn sống với tên tuổi, danh dự, uy tín của anh và em thì có cuộc đời khác của em. Cái nào là quan trọng, hay tất cả đều trống rỗng một cách vô nghĩa”.

Tôi viết Tịnh thủy sau khi nằm mơ thấy con tôi ngồi chơi trên cái cầu ao tuổi thơ vời vợi của tôi. Tôi nghĩ đến tịnh thủy như là một cái gì lặng lẽ và chân thật nhất, như là ý nghĩa cuối cùng của đời người, như là cái chết. Biểu hiện rõ rệt nhất của tịnh thủy trong tôi là cái cầu ao làm bằng cỗ áo quan của ông nội tôi. Ba năm nằm dưới đất sâu, nó chứng kiến thân xác ông tôi tan rữa, phân hủy. Tôi luôn nghĩ rằng bản thân nó đã mang trong mình một hiện thực là cái chết. Tôi từng ngồi trên nó mà nhìn ngắm cuộc đời. Áng mây trôi qua đời tôi, mặt nước phản chiếu tồn tại của tôi, đến một lúc nào đó cũng sẽ bị phân hủy cùng với tôi và biết bao những kỷ niệm, trải nghiệm tôi gặt hái trong đời.

Tính già

Móng cột đã đào xong, tới phần đổ bê tông bà già vợ của ông Sáu “quy tiên cưỡi hạc”. Phận rể con không thể không về nên ông phải đi một chuyến, chỉ còn thằng con thứ ba ở nhà, mọi việc đâu đó êm xuôi rồi, chỉ còn làm theo đúng ý ông nữa là xong. Nhưng chẳng biết thằng Ba bị tay thầu nhỏ to tâm sự thế nào mà không chịu đổ đá hộc vào móng cột như ý cha mình, mà nó “ô kê” cho đổ đá 4x6 và đá 1x2 với lập luận: Đá hộc lớn quá, nhiều kẽ hở, mai này nhà dễ... sập nếu lên “tấm”.

Ông Sáu Niểng cất nhà mới.

Nói “nhà mới” cho oai vậy chứ thật ra sáu mươi tuổi đời ông Sáu mới có căn nhà tường tinh tươm, khang trang bằng bè bằng bạn. Từ bao 

nhiêu năm qua cả đại gia đình ông chỉ sống trong mái nhà tranh vách lá mà thôi. Vậy mà sự cố liên tiếp sự cố cứ xảy ra dù cái nhà chỉ có 5,4 x 18 m. Để rồi cả ba tháng trời mà nhà làm cũng không xong nhưng không phải do thiếu tiền.

Dạo trước, ông Sáu Niểng tới nhà ông bạn già Tư Đen chơi, thấy ông Tư cất cái nhà quá “hoành tráng”, móng cột sâu cả thước, đều đổ đá hộc, đổ xong thì đầm thật lâu, đầm xong cho hồ xuống rồi đầm nữa coi bộ công phu lắm. Hỏi làm chi mất công vậy thì ông Tư bảo để mai này mấy đứa con làm ăn khá giả, có lên mấy “tấm” cũng không ngại gì.

Ông Sáu gật gù khen phải, hớp một ngụm trà đặc quánh, ông bảo: “Nhà tui tới bốn thằng con, làm như anh Tư tốt quá rồi còn gì... mai này không phải lo”.

Vậy mà “đùng một cái” khi ông Sáu làm nhà bao việc không muốn cứ ùa về.

Ông bảo, chả cần bản vẽ bản viết gì, chỉ tổ nuôi mấy thằng kiến trúc sư... giấy (chắc ý ông Sáu nói kiến trúc sư dỏm). Bây nhìn đi, bao công trình của Nhà nước, phải qua mấy lớp kiến trúc sư mà có mấy cái ngon lành đâu, không thừa cái này, cũng thiếu cái kia. Lắm khi có công trình vừa thừa vừa thiếu nữa kìa! Bốn “thằng ông con” cãi liền: “Cái nào thừa, cái nào thiếu, ba nói cụ thể đi, đừng vơ đũa vậy không tốt!”. “Thiếu hả con, cái rạp chiếu phim ở huyện mình đó, có cả khu vực nhà hàng, giải khát. Dự kiến ngày chiếu phim - mà phim màn ảnh rộng nghe con - tới hai buổi lận đó! Nhưng không có một nhà vệ sinh nào hết! Thi công hoàn tất rồi mới “tá hỏa” ra, báo hại không sử dụng được, phải nằm chình ình hàng chục năm trời, giờ sắp tu sửa lại, hổng biết có nhớ cái khoản “nhỏ mà không nhỏ” này không à?!”. “Còn nơi nào thừa ba nói luôn đi?”. “Thừa thì dễ ợt. Bây đã đi tới tòa Y, viện X, trụ sở Z... chưa? Cái nhà chần vần vậy chứ diện tích sử dụng thực tế hổng bao nhiêu hết à! Toàn khu vực WC là nhiều thôi. Tầng 1, tầng 2, tầng 3, tầng 4... gì mấy cái chỗ “nhỏ mà tự dưng to” này cũng chiếm hết cả dãy. Phải chi người ta “tốp” ba cái vụ này lại, ví như bốn tầng thì hai nơi vệ sinh thôi, bớt thừa phải không con?”. “Trời chuyện của người ta, ba nói chi mà lớn tiếng quá vậy?. “Tại bây hỏi nên tao mới nói. Còn chuyện nhà này, kêu thằng Hai Ngũ thợ hồ nhà ở xóm dưới tới đây. Nó là thợ giỏi nhất xứ này. Tao khoái cái nhà như ông Tư Đen, kêu nó làm y như vậy là êm”.

Thế là Hai Ngũ “thầu” cái nhà của ông Sáu Niểng. Nhưng trên đời chắc không có mấy ông chủ nhà lại “chằn ăn trăn quấn” như ông Sáu. Ngày cửa hàng vật liệu xây dựng Chín Trực chở vật liệu tới đổ, cần trục xe đã vươn lên rồi nhưng ông cản lại, hỏi tài xế:

- Này chú em, cho tui hỏi, xe mình chở mấy khối?

- Dạ... bốn khối, bác Sáu.

- Ừ, xe tốt, lớn, chở một hai lần là xong, khỏi mất công chở hoài. Con Út đâu, lấy cho ba cây thước coi!

- ???

- Chú em, bây nói tao già lẩm cẩm rồi hả, xe chở có ba khối hai mà nói bốn khối là sao? Thằng Hai Ngũ “ăn rơ” với cha Chín Trực phải không?

- Dạ... việc này cháu không biết. Chú Chín bảo chở đi tới cho bác Sáu thì cháu chở vậy thôi.

- Nhưng làm tài xế lâu năm như chú em, lý nào không biết tải trọng của thùng xe? Hay là lấy bằng lái máy cày ra lái xe tải? Để im đó, tui gọi cho cha Chín Trực thì biết liền!

Rồi ông đi vô nhà mặc cho tay tài xế loay hoay như gà mắc tóc. Một lúc sau...

- Chở về trả cho cha Chín Trực đi, tui không làm ăn với hạng gian dối như mấy người! Bạn bè bao năm, giờ có mấy khối cát đá cũng ăn gian nhau. Số tiền đó không biết có nuôi mình suốt đời, có cứu được cái mạng mình khi tới tuổi “về với ông bà” không nữa à!

Tay tài xế mang nét mặt hầm hầm lái xe đi tuốt. Ông Sáu tức sự đời thì ít mà tức Hai Ngũ thì nhiều nhưng để “hỏi chuyện” nó sau. Bây giờ ngày tốt để “động thổ” thì không thể dời lại nên ông phải tức tốc đến cửa hàng vật liệu xây dựng khác. Và cửa hàng Thanh Liêm là nơi ông chọn.

Lần này ông cũng sai con gái út lấy thước dây ra cho ông đo thùng xe. Ông đo thật kỹ càng. Nhưng cái sự kỹ của ông hóa ra thừa bởi cửa hàng Thanh Liêm làm ăn đúng như tên tuổi. Vui vì lòng người còn tin cẩn được, ông mời tay tài xế và hai nhân công uống trà, ăn bánh. Cao hứng lại gọi nhỏ út mang cho ông mấy chai bia cùng bịch mực ăn liền. Tiền bạc thanh toán sòng phẳng, chủ – khách hỉ hả thì tay tài xế thưa:

- Thưa bác Sáu... số tiền đó là của vật tư thôi. Còn công xe xin bác tính cho anh em tụi cháu nhờ...

- Trời đất! Sao thấy ghi là “Giao hàng đến tận nơi”?

- Dạ, thì tụi cháu giao hàng đến tận nơi chứ có để bác phải cực công đem xe tới chở đâu ạ!

- Hổng phải tiền xe đã tính chung với vật liệu rồi sao?

- Dạ... trường hợp đó đôi khi cũng có. Nhưng đó là khi có giao kèo và hàng mấy chục khối trở lên, chứ... bác thì... Biết bác vui tính, rộng rãi mà, phải không bác Sáu?

Dù tức cành hông nhưng nghe tụi nó “vuốt” một câu nghe khá được, lại cũng vui lòng vì không bị ăn gian vật tư nên ông Sáu cũng bóp bụng mà trả thêm tiền công xe cho chúng với giá 15.000 đồng/khối cát, đá.

Móng cột đã đào xong, tới phần đổ bê tông bà già vợ của ông Sáu “quy tiên cưỡi hạc”. Phận rể con không thể không về nên ông phải đi một chuyến, chỉ còn thằng con thứ ba ở nhà, mọi việc đâu đó êm xuôi rồi, chỉ còn làm theo đúng ý ông nữa là xong. Nhưng chẳng biết thằng Ba bị tay thầu nhỏ to tâm sự thế nào mà không chịu đổ đá hộc vào móng cột như ý cha mình, mà nó “ô kê” cho đổ đá 4x6 và đá 1x2 với lập luận: Đá hộc lớn quá, nhiều kẽ hở, mai này nhà dễ... sập nếu lên “tấm”.

Ông Sáu vò đầu bứt tai nhưng bê tông đã đông cứng rồi, không lẽ làm lại? Chỉ có thể chửi thằng con ngu ngốc, tuổi trẻ không lường được sự đời còn dễ thông cảm, nhưng nó cứ vênh mặt lên cho rằng ông bị Tư Đen “dụ” thì không thể tha thứ được. Làm sao nó biết, nó đã bị Hai Ngũ lừa; công đầm đá hộc rất tốn, còn đổ đá nhỏ thì chẳng mất công là bao, nhưng tiền vẫn tính bằng đá hộc!

Cái nhà mới xong phần móng đã gặp bao nhiêu là việc rắc rối.

***

Hai Ngũ là tay thợ có thâm niên. Từ mười tuổi đã theo ông già đi làm cu li nên từng đường ron, nét nối những viên gạch tinh tế đến không thể nào chê được. Chỉ hiềm nỗi khuôn mặt không mấy thiện cảm với người đối diện với mặt nhỏ như chuột nhắt, trán dô, mắt lồi, miệng hô, răng vàng xỉn vì thuốc lá...

Chủ nhà tin cẩn Hai Ngũ một phần vì tay nghề khá, phần vì uy tín ông già để lại cho Hai Ngũ cũng không ít, nhưng từ dạo lùm xùm chuyện nhà ông Sáu Niểng thành ra lắm người ngại anh ta. Một buổi chiều khề khà bên mâm rượu, Hai Ngũ oang oang với thằng Tí sún và thằng Lang “beng”:

- Sáu Niểng thật “già cơ”, nhưng còn lâu mới qua đại ca của tụi bây được! Ông giao thầu vật tư thì tao “ăn rơ” với chủ cửa hàng xén bớt. Ông muốn làm tính ngày thì tao làm, nhưng đúng theo giờ “hành chánh” đó, mà tụi mày biết hành chánh là gì không? Là “hành là chánh” chứ làm việc là phụ thôi. 7 giờ 30 tao mới tà tà tới công trình, rửa bàn chà, bay, rồi đủng đỉnh trộn hồ cũng qua 8 giờ mới lên giàn giáo. Tao cho trộn đống hồ thật to, 11 giờ xuống rửa lại đồ nghề, tà tà 11 giờ 30 “biến”. Đống hồ còn dư đầu giờ chiều làm. Tụi mày có thấy ai trộn hồ để lâu kiểu đó không? Nó “chết”, không mịn, đường ron sượng trông xấu như thằng ghẻ lở. Thế là ổng nóng ruột bảo trộn đống hồ khác! Hí... hí... còn lúc xây, tao không thèm cho lấy manh bao hứng hồ rớt ở chân tường đâu, cứ cho đổ thoải mái...

- Thì đại ca được ăn chia với cửa hàng vật liệu xây dựng theo “đầu” bao xi măng, khối cát, đá như mấy “em” bia ôm ăn “đầu” lon bia, mấy ông bác sĩ ăn “đầu” từng viên thuốc với công ty dược vậy mà!

- Giỏi, giỏi... thằng này hậu sinh khả ố... í quên, “hậu sinh khả úy”.

Nói vậy chớ nhà bác Sáu Niểng anh coi chỉ đạo tụi em làm lẹ lẹ. Lỡ ổng “chầu ông bà via” hổng có cái nhà mới tội lắm anh. Thằng Lang “beng” dè dặt nói.

- Thì tao có muốn “câu rê” như vậy đâu! Tại ổng đó chứ! “Tính già hóa non” mày biết câu này chưa?

- Dạ biết... nhưng anh coi biểu mấy thằng điện nó làm cho xong, tụi mình tô với lăn bê chút xíu nữa là giao nhà, nhậu một bữa nổ trời chứ đại ca!

- Nói tới mấy thằng điện thì khỏi lo, “đàn em” tao cả mà. Không có tao, tụi nó không có cháo mà húp! Thôi, dzô đi tụi mày.

Truy tìm kỷ vật

Cập nhật lúc 22:53, Thứ Bảy, 17/12/2011 (GMT+7)

(QBĐT) -

 Đã hai ngày nay, ông Mão buồn lắm, cứ như người mất hồn. Hai tay chắp sau lưng, ông đi vào rồi lại đi ra mà không biết phải làm gì. Thỉnh thoảng ông thở dài đánh sượt, làm bà Tâm vợ ông cũng sốt ruột không kém. Không nói nhưng bà cũng hiểu tâm trạng của chồng. Bà biết ông đau lắm, xót lắm và cả bực mình nữa. Bà chỉ dám an ủi ông đôi câu chiếu lệ, rồi cũng phải chợ búa, cơm nước và những công việc linh tinh trong gia đình.

Vậy là chiếc thùng gánh nước đã bị  kẻ gian cuỗm mất. Chỉ một sơ suất nhỏ mà xảy ra cơ sự. Mà cũng lạ thật, mới sáng ra, định xách mấy thùng nước tưới đám rau đầu hồi nhà, nhưng thấy mình mẩy không được khoẻ nên ông bỏ ra thăm ao cá, cho chúng mấy bao cỏ, xem có rò rỉ nước chỗ nào không rồi quay vào nhà ngay thì không còn thấy chiếc thùng đâu nữa.Cũng may là ông còn kịp khoá nhà, nếu không kẻ gian còn có thể lấy thêm nhiều thứ nữa.

Chao ôi! Thời buổi này lạ thật. Cứ sểnh ra là mất. Mà mất cái gì không mất, lại mất chiếc thùng, kỷ vật còn lại của ông sau mấy năm quân ngũ, chiếc thùng là món quà, là bạn, là dấu ấn một thời vinh quang và khổ đau. Làm sao ông không tiếc cho được.

Suy đi nghĩ lại, ông Mão cho rằng, chỉ có mấy thằng trẻ con trong xóm trộm thùng của ông đem đổi kem đổi kẹo chi đây. Mà cũng có khi mấy con mụ đồng nát thường qua ngõ nhà ông mỗi ngày bì bọp chiếc kèn nhựa rao mua nhôm nhựa, giấy loại, thấy nhà vắng người nên thừa cơ lấy mất thùng của ông.

Thấy chồng khó ở, bà Tâm khẽ khàng:

-Hay ông làm đơn báo Công an xã, nhờ họ tìm cho.

-Không được! Cuối năm cuối tháng người ta nhiều việc lắm, không có thời gian giải quyết những việc vặt vãnh này đâu. Mà xét cho cùng thì cái thùng đó cũng không có giá trị mấy về mặt kinh tế. Làm vậy họ lại đánh giá mình nữa- Ông nói.

Rồi như chợt hiểu ra điều gì, ông chém tay vào không khí, giọng quả quyết:

- Tự tay tôi sẽ đi tìm lấy! 

Đã nói là làm. Tính ông vốn vậy. Bà không dám bàn cãi điều gì nữa. Đầu tiên, ông Mão định hướng cho việc truy tìm tung tích chiếc thùng.

Trời  vừa nhá nhem,  mặc thêm chiếc áo đại cán, cổ quấn khăn len dận thêm đôi giày da cũ, ông Mão đi ra đường. Đêm cuối năm sâu hun hút và tối như bưng. Gió bấc từng đợt rít lên nghe sởn cả da gà.Thỉnh thoảng đâu đó tiếng chó sủa vu vơ lọt thỏm vào không gian đặc quánh. Ở quê vào giờ này xóm làng đã tường cao cổng kín. Ông lặng lẽ một mình rảo quanh các xóm. Không gian tĩnh mịch, yên bình nhưng cứ gờn gợn một cái gì mà ông không thể cắt nghĩa được. Có lẽ do ông quá bận tâm về chuyện mất chiếc thùng nên không cảm nhận hết được những nồng ấm của quê hương vào những ngày giáp Tết. Hay tại cái sự bình yên rất đỗi mộc mạc thôn dã ấy mà ông dự cảm hình như cuộc hành trình của ông đêm nay sẽ không có kết quả chăng.

Chợt ông Mão phát hiện phía cuối xóm có ánh đèn sáng choang hắt mãi ra ngoài đường cái. Rồi lại nghe tiếng cười nói rôm rả vọng lại. Ông tò mò đi về đó xem thử có chuyện gì. Đường làng đổ bê tông phẳng lỳ, rộng rãi. Nhưng cái tiếng lộp cộp của đôi giày da vang lên trong đêm tĩnh mịch như càng rõ thêm khiến ông thấy ngài ngại.

Đã sắp đến nơi, lại định quay về, bỗng có tiếng nói vọng ra làm ông chú ý:

-Hôm trước ông anh trúng "quả" đậm hay sao mà chiêu đãi bạn bè hoành tráng thế.

-Ha ha. Cuối năm kiếm chút đỉnh tiêu Tết , có gì đâu.

-Mà cũng tại lão ấy quá cẩn thận, nếu không tôi còn kiếm thêm nữa - Tiếng nói lại vọng ra.

Tự nhiên ông Mão thấy hồi hộp. Tim đập thình thịch.Mấy thằng này đang kể chuyện gì thế nhỉ.

Rồi tự nhiên ông Mão ép mình vào dãy râm bụt, men theo bờ rào.Và chỉ một vài động tác quen thuộc kiểu chiến thuật tiếp cận mục tiêu gần được huấn luyện thời bộ đội, ông đã ở ngay trong bụi chuối phía cửa sổ ngôi nhà. Từ đây ông yên tâm quan sát rõ từng khuôn mặt của đám người dự tiệc mà không sợ bị phát hiện. Hơn nữa những lời nói dù khẽ vẫn có thể nghe rõ. Một điều quan trọng hơn nữa là tránh được mấy con chó dữ nhờ hướng gió ngược với nơi đặt bàn nhậu.

Trong nhà, tiếng nói cười lại tiếp tục:

-Mấy cái đồ đồng nát ấy thì đáng được bao nhiêu đâu.Cơ bản là anh trúng cái khác kia.

À! Thằng này là thằng Thắng con bà Doãn. Nó với ông cũng bà con họ hàng xa. Mà từ trước tới giờ hắn cũng khá ngoan, có nghe nói trộm cắp hút xách gì đâu. Không lẽ...- Ông nghĩ.

Tiếng thằng Hưng con ông Khánh làm ông chú ý:

-Ý của anh muốn nói là lão ấy hôm đó không bất chợt trở về thì còn lãi to phải không?

-Ừ. Đúng !

Tai ông Mão ù đi. Rõ ràng mấy thằng này bàn chuyện ăn cắp đồ của ông. Sáng đó nếu ông vào nhà muộn một tý là không khéo chúng còn cạy cửa nhà ông cũng nên. Khiếp thật, đúng là bây giờ bọn trẻ không ra thể thống gì nữa. Không bù cho thế hệ ông hồi đó. Thanh niên trai tráng trong làng đủ tuổi là xung phong ra trận hết. Những ai vì một lý do nào đó mà phải ở lại coi như bị mọi người coi thường, đi đâu không dám ngẩng mặt. Còn bây giờ ấy à, hư hết, hư hết. Khó khăn lắm ông Mão mới gìm được tiếng kêu trong cổ họng, miệng ông đắng chát. Gió vẫn rít lên từng hồi. Lạ thật, năm nay thời tiết thất thường quá. Tết nhất đến nơi rồi mà trời lạnh căm căm thế này, không khéo lúa mới cấy chết sạch chứ chẳng chơi. Lại ao cá nữa, sau đợt lũ lụt vừa rồi ông mất trắng, mới gây lại đàn cá giống mà xem chừng kiểu này cũng chẳng ăn thua. Miên man trong suy tư rối bời, thỉnh thoảng ông Mão lại đưa tay gãi gãi dưới chân. Không biết lũ kiến ở đâu chui ra đốt khiến ông khó chịu. Chúng lại chui sâu vào quần nữa chứ. Bực mình không kể được, nhưng vì nhiệm vụ là bằng mọi giá phải tìm cho ra chiếc thùng nên ông vẫn cắn răng chịu đựng.

Trong nhà vẫn tiếng thằng Thắng vọng ra:

- Thế lão ấy không thử máy móc ra làm sao à?

- Ôi! Anh nói rồi mà chú em chưa hiểu.Tại lão về mới kiểm tra lại máy móc, thấy trục trặc chút nên bớt tiền. Chứ thằng con lão đã Ok rồi. Trời. Mấy thằng này bàn chuyện mua bán xe cộ gì đó. Vậy mà mình tưởng chúng nó kể chuyện ăn cắp thùng của mình. May quá.

Rời khỏi chỗ nấp, ông Mão thõng thượt đi về.Vậy là cuối cùng manh mối về chiếc thùng đã đi vào ngõ cụt. Mất cả tiếng đồng hồ rình rập. Chịu đựng cái lạnh đến thấu xương thịt và làm mồi cho lũ kiến tha hồ cắn chích khiến ông vừa thất vọng vừa bực mình. Vừa đi ông vừa gãi sồn sột, người ngợm ngứa ngáy không chịu được. Ông quyết tâm sáng ngày mai lên phố huyện xem mấy chỗ đại lý thu mua phế liệu may ra có thể tìm lại vật đã mất. Nhưng ông Mão không có cơ hội để thực hiện quyết tâm ấy. Ông bị ốm.

Sáng 28 Tết, ông Mão nằm trong chăn rên hừ hừ. Nhà vắng ngắt. Vợ ông đi chợ từ rất sớm. Bát cháo hành đặt đầu giường đã nguội ngắt. Miệng ông đắng chát, đầu ong ong như búa bổ, chân tay tê cứng lại. Nhưng ông vẫn cứ miên man suy nghĩ về chiếc thùng bị mất mà thấy xót cả ruột. Ừ! Nếu là chiếc thùng ấy cũng như bao chiếc thùng khác. Nghĩa là dùng để múc nước tưới rau hay đựng vài thứ lặt vặt thì đâu phải để ông phải bận tâm day dứt đến thế. Chiếc thùng của ông đã gắn bó với ông trong những năm dài của cuộc chiến tranh. Nó là sợi dây kết nối tình cảm sâu sắc tình đồng chí đồng đội và chỉ có ông mới hiểu hết giá trị của nó. Lúc đó, ông và thằng Bảy, lính tân binh, được giao nhiệm vụ coi giữ kho vũ khí của trạm giao liên T53 .

Cái trạm này nằm hút trong rừng già Trường Sơn. Lúc đầu, đây là nơi trung chuyển vũ khí, quân lương và thương binh.Cũng là nơi bộ đội ta dừng chân nghỉ ngơi trên con đường tiến ra mặt trận. Lúc đầu nơi đây cũng khá đông đúc, ồn ào. Nhưng không hiểu sao khoảng năm 70- 71 tự nhiên trạm T53 bỗng vắng vẻ hẳn đi. Ông và Bảy hằng ngày vẫn trông chờ người đến nhận và bàn giao số vũ khí để được trực tiếp cầm súng đánh giặc như ao ước thủa nhập ngũ. Ngày nhận nhiệm vụ đặc biệt này, chỉ huy của ông hứa rằng, chỉ thời gian ngắn thôi, khi số vũ khí này được chuyển đi thì ông sẽ được toại nguyện.

Nhưng rồi chờ mãi mà chẳng thấy có ai đến nhận số súng đạn ấy cả. Vậy là ông và Bảy hằng ngày ngoài việc lau chùi , bảo quản số súng đạn ấy còn phải lo kiếm cái ăn cho mình. Khi thì săn thú rừng rồi tăng gia sản xuất tự túc lương thực. Rau thì rất sẵn nhưng gạo muối lại khan hiếm. Có bữa hai người chỉ ăn toàn thịt nướng chấm với tro tranh. Gian khổ thì chưa nói nhưng sự chờ đợi tưởng như vô vọng. Hình như cấp trên đã quên mất cái trạm giao liên này?

Bữa ấy, Bảy tình cờ nhặt được một cái ống pháo sáng. Suốt mấy ngày tỉ mẩn gò gò dập dập, cuối cùng Bảy cũng làm được một chiếc thùng khá đẹp. Nhờ có nó mà cuộc sống của hai anh em được cải thiện trông thấy, dùng nó để xách nước dưới suối về ăn uống, để ướp thịt . Nếu trời lạnh thì là cái để đun nước rất tốt.Thỉnh thoảng để đỡ buồn, Bảy còn dùng nó như một nhạc cụ khua âm thanh lùng bùng ấy vang cả một vạt rừng già.

Cuộc sống cứ thế trôi đi. Một ngày Bảy bị cơn sốt rét ác tính quật ngã.Giữa đại ngàn mây núi âm u, thuốc men không có, ông cố gắng cứu bạn bằng những bài thuốc bằng lá cây, vài viên ký ninh cuối cùng được đem ra nhưng không giữ được mạng sống của đồng đội. Trước khi nhắm mắt, trong vòng tay của ông, Bảy thều thào:

 - Anh Mão ơi ! Em đi đây. Anh ở lại cố gắng chờ thêm ít  thời gian nhất định có người đến. Khi nào xuất ngũ, anh nhớ đem em về với. Và anh hãy coi chiếc thùng như một kỷ vật mà em lúc nào cũng ở bên anh, anh nhé. Ông ôm xác bạn trong tay, nước mắt chảy ngược vào trong.

Sau đó ít lâu, có người tìm đến thật. Một tiểu đội theo lệnh cấp trên cắt rừng nhận số vũ khí đó. Ông cũng theo đơn vị tham gia những trận đánh cuối cùng. Sau giải phóng, ông đươc đi an dưỡng một thời gian rồi xuất ngũ về địa phương. Ngày trở về, hành trang của ông ngoài chiếc ba lô cũ bạc màu, ông còn đem theo chiếc thùng bằng nhôm sáng bóng, ai trông thấy cũng ngạc nhiên, người ta về quê nào bánh ngọt quà ngon, còn ông thì...

Về quê, ông cưới vợ rồi sinh một đứa con gái giờ cũng đã lấy chồng xã bên. Cuộc sống bình thường như bao gia đình khác.  Vậy mà chiếc thùng ấy lại bị mất, thử hỏi làm sao ông không tiếc đến nỗi bị ốm như thế.Vừa nghĩ, ông Mão lại ứa nước mắt. Bảy ơi, tao đã không giữ trọn lời hẹn với mày rồi.Mày có tha lỗi cho tao không?

Đang chìm trong ký ức về một thời trận mạc, chợt ngoài sân có tiếng gọi to:

- Bố mẹ ơi!

Nghe giọng con gái, ông Mão chẳng buồn lên tiếng. Sự mất mát quá lớn khiến ông không còn bụng dạ nào nữa. Ông khẽ quay mặt vào trong tường.

- Lạ nhỉ! Không có ai ở nhà sao cửa vẫn mở toang thế này?

Cô con gái ông đi vào, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ. Chợt "xoảng" một cái, ông Mão giật nảy mình, ngồi phắt dậy, mắt nhìn chòng chọc về nơi vừa phát ra âm thanh ấy. Ông la lên thất thanh:

- C.. á..i ... thùng, mày lấy ở đâu vậy con?

Rồi ông chạy đến, ôm chiếc thùng vào lòng như sợ ai cướp mất.

- Dạ, con đem trả cho bố mẹ mà - Cô con gái trả lời - Hôm trước con định sang  mượn bố mẹ cái thùng này về ngâm giá đỗ. Hôm đó do vội quá mà nhà không thấy ai nên con cầm về luôn.Có sao không hả bố?

- Trời ơi! Con biết mấy bữa nay bố ốm cũng vì chiếc thùng đó không hả! Con với cái!

- Dạ, Bố nói gì con không hiểu?

- Bố tưởng thằng nào lấy mất rồi chứ. Mà con đâu hiểu được chuyện này. Con có biết cái thùng này đối với bố quý như thế nào không?

- Ồ, vậy mà con cứ tưởng... Cô gái hồn nhiên trả lời.

Khuôn mặt ông giãn ra. Những vết nhăn biến đâu mất. Tự nhiên ông thấy khoẻ khoắn hẳn lên. Đưa tay nhận quà Tết đứa con gái đem biếu, ông vừa cười vừa trách con gái sao lớn rồi mà tính khí như trẻ con. Rồi ông Mão xách chiếc thùng vào nhà, thành kính thắp nén hương trên bàn thờ, miệng lẩm bẩm khấn " Bảy ơi! Hôm nay đã hai chín tết rồi, em cố về ăn tết với anh nhé. Cái thùng năm xưa vẫn còn đây, nhớ em, anh chỉ biết giữ gìn nó như là giữ những kỷ niệm của anh em mình những năm tháng Trường Sơn gian khổ, không bao giờ trong anh lại phôi pha điều đó, Bảy ơi!".

Ngoài đường, tiếng lao xao của mấy bà đi chợ về, tiếng chày giã thịt bùm bụp. Mùi hương trầm thoang thoảng trong gió sớm. Mùa xuân đã đến rất gần.

Cửa sổ nhà đối diện

Cập nhật ngày 24/05/2010 1:05:54 SA

1. Tốt nghiệp ĐH, nàng không về quê mà quyết trụ lại Hà Nội. Gần nửa năm trôi qua, ban đầu người ta thấy nàng tất bật với những bộ hồ sơ xin việc đi đi về về suốt ngày. Nhưng quãng độ hơn tháng trở lại đây, người ta chẳng mấy khi thấy nàng ra khỏi nhà nữa hoặc có chăng chỉ thoáng chút vào buổi tối, chắc là đi dạo hoặc đâu đó với người yêu. Nhiều người đoán già, đón non chắc nàng có tâm sự. Hoặc là do gia đình có chuyện buồn, hoặc công việc không suôn sẻ và thậm chí có người bạo miệng đoán nàng đã trót dại với người yêu nên phải nhốt mình trong nhà trong thời kỳ thai nghén. 

Nhưng không ai biết được rằng nàng không muốn ra khỏi nhà hay nói cho đúng hơn là chưa muốn ra khỏi nhà chỉ vì nàng chưa xin được việc. Nàng đã quá mệt mỏi vì phải chờ đợi và không muốn mệt mỏi thêm nếu như gặp gỡ người quen và đối diện với những câu hỏi đại loại như: “Công việc ổn chứ? Thu nhập thế nào? Định khi nào theo chàng về dinh...” 

Vốn dĩ là một người thẳng tính, thậm chí là có chút kiêu căng, chưa và không muốn nói dối ai bao giờ nên những câu như thế với nàng giống như là một cực hình. Nếu nói thật rằng chưa đâu vào đâu rồi thì thể nào có đứa ổn hơn sẽ lại được dịp ra giọng bề trên, khuyên bảo này nọ, mà nói dối bạn bè thì không phải là thói quen của nàng... nàng nghĩ thế nên sợ ra ngoài, sợ phải đối diện và thanh minh về hiện tại và tương lai của chính mình. 

2.

Giờ thì đến lượt nàng sợ nàng vì thấy sầu uất nặng nề, không xứng đáng với những gì bố mẹ đã quan tâm dành cho. Rồi nàng tự kết tội bản thân và hoang mang cho rằng mình đã mắc bệnh trầm cảm và không thể chữa khỏi. Nàng mất ngủ nửa đêm về sáng, kèm theo các biểu hiện về cơ thể như đau mỏi, khó chịu,... và nàng muốn tự sát vì cảm thấy như mình bị bỏ rơi. Nàng muốn thoát ra khỏi căn phòng của nàng, căn phòng chỉ duy nhất có một cái cửa sổ. Nàng hành động như một kẻ rối loạn tính cách khi đạp tung cửa sổ ra để giao hòa với trời, đất. Đối diện với nhà nàng là dãy nhà tập thể cao ngất, không cả cho nàng thấy được một khoảng trời dù là bé bằng bàn tay. Đã thế, nhà đối diện với căn phòng của nàng, nàng để ý cũng duy nhất có mỗi cái cửa sổ và hình như từ ngày nàng đến, thậm chí là trước đó cửa sổ ấy chưa được mở ra bao giờ. Nàng ngửa mặt cười rồi đột ngột hét lên...

Cửa sổ nhà bên bật mở cùng với đó là tiếng mắng mỏ: “Điên à! Thần kinh à? Chập mạch à?” Nàng quay lại phía cửa sổ nhà đối diện. Người vừa mắng nàng là một thanh niên cỡ tuổi em trai nàng, trắng trẻo và nom rất tri thức với đôi kính cận đeo trễ trên sống mũi. Nàng ấp úng: Xin lỗi, em đang ôn thi à? Ừ nhỉ, cuối tháng 5 rồi còn gì...? Hắn không nói gì, bấu tay vào chấn song cửa sổ ngửa mặt lên nhìn trời, miệng khẽ cười.

3.

Có tiếng chuông gọi cửa. Nàng nhìn qua cửa sổ xuống dưới thấy mẹ hắn đang đứng trước cửa. Nàng nghĩ bụng: Vì cú hét của mình làm kinh động đến việc học hành của con bà nên bà sang nhắc nhở đây”.

Mở cửa, nàng đang định cất tiếng: “Cháu xin lỗi vì đã làm phiền tới em nhà mình, làm phiền bác. Lần sau cháu sẽ không thế nữa...”. Nhưng người đàn bà chỉ hiền lành đứng nhìn quanh căn phòng nàng, nhìn nàng chăm chú rồi nói: “Bác khuyên cháu không nên nhốt mình trong nhà nữa. Bác nghĩ những gì cháu đang vướng phải chỉ là một căn bệnh”

Nàng tròn mắt: “Dạ thưa, bác nói gì cháu không hiểu! Sao bác lại... nói cháu như vậy?”. Người phụ nữ nhìn ra cửa sổ nhà mình, nơi cậu con trai đang bấu tay vào chấn song ngước mắt nhìn trời cười. Bà nói với nàng: “Trước đây nó là một người hoạt bát, chan hòa với mọi người và học giỏi. Nhưng rồi vì một sơ suất nhỏ khiến nó bị thi trượt đại học. Nó cho đó là nỗi nhục và tự cô lập với mọi người. Nó luôn tưởng tượng rằng tất cả mọi người đều soi mói vào thất bại đó của nó và khinh thường nó. Cháu là người ngoài, nhìn nó qua ô cửa sổ thì thấy nó hoàn toàn khác, thậm chí thấy đáng ganh tỵ với nó. Người ngoài nhìn cháu cũng vậy. Ấy thế nhưng các cháu luôn tự làm khổ mình chỉ vì những thất bại ban đầu...”  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: