TÔI NÓI CHUYỆN VỚI CÁI MÔNG CỦA MÌNH MỘT NĂM LIỀN (Phần 1)
Hồi nhỏ, tôi cứ nghĩ rằng con lân và ông địa đều có thật. Tôi luôn háo hức vào dịp Trung thu vì được xem đoàn múa lân đi qua ngõ, tiếng trống và chiêng vang vọng khắp xóm làng.
Khi lớn hơn chút ít, tôi mới hay con lân kia chỉ là hai gã trai tráng đeo bộ da thú. Và ông địa cũng chỉ là bác Hiển hàng xóm nhà tôi đeo một cái mặt nạ làm bằng nan được tô sơn lên. Bác ấy gầy còm nên mỗi lần đóng địa thì phải độn bụng cho có vẻ mập mạp.
Khám phá ấy khiến tôi có chút thất vọng. Nhưng niềm đam mê với múa lân vẫn nguyên vẹn trong tôi.
Mỗi mùa trung thu, tôi lại hồi hộp chờ đợi đoàn lân đi ngang hẻm để được xem. Tôi thích chiêm ngưỡng những cái đầu lân chạm khắc cầu kỳ, thích nghe tiếng trống chiêng rền vang, và nhất là thích xem các nghệ nhân nhảy múa uyển chuyển, khéo léo. Lòng tôi ước ao có một ngày được nhảy cùng đoàn lân, được cầm chiếc đầu rồng hay sư tử trong tay và nhảy múa cùng tiếng trống vui tai. Thậm chí ngày thường, tôi cũng hay tự diễn lại màn múa lân. Tôi buộc cái chăn mỏng thêu hoa của bà vào ghế nhựa rồi đội cái ghế lên đầu, nhảy nhót tưởng tượng mình là nghệ nhân lân. Trò nghịch của tôi khiến bố mẹ tôi rất khó chịu, nhưng tôi vẫn mặc kệ.
Ngôi nhà tôi ở nằm trong khu ngõ hẻm Hà Nội điển hình, với những con hẻm ngõ quanh co và các số nhà xếp chẳng theo thứ tự gì. Phòng tôi ở tầng ba. Ở đây, chỉ cần đứng ra ban công là có thể nhìn rõ ràng cả đoàn lân đang diễu qua ngõ. Bởi thế mà mỗi mùa trung thu, tôi chỉ việc đứng hóng ở ban công và đợi đoàn lân đi qua, đỡ phải chen chúc cho mệt.
Năm nay cũng thế, không khí trung thu đã chạm đến đầu ngõ của khu phố chúng tôi từ mấy tuần trước. Lũ trẻ không thể nào bình tĩnh nổi. Các hiệu tạp hóa đã bắt đầu nhập về đèn lồng, bánh trung thu. Mùi thơm ngào ngạt từ bánh trung thu lan tỏa cả khu phố, khiến cho chúng tôi ai cũng hồ hởi chờ đợi.
Nhưng đúng ngày trung thu, trời bỗng đổ mưa rào ùn ùn.
Tất cả kế hoạch thế là đều đổ bể hết. Không rước đèn, không phá cỗ, càng không có múa lân nữa.
Khỏi phải nói tôi thất vọng biết nhường nào. Tôi khóc lóc um sùm, không ai dỗ nổi. Cha mẹ và bà đều bất lực. Họ mời tôi ăn bánh trung thu nhưng tôi cứ lắc đầu. Họ bật ti vi cho tôi xem chương trình thiếu nhi nhân ngày trung thu, nhưng tôi không thèm nhìn đến. Tôi chỉ ngồi thừ trên phòng, nhìn màn mưa phủ kín cả khu phố. Trong đầu tôi chỉ hiện lên hình ảnh con lân và ông địa, những thứ đáng ra phải xuất hiện ngày hôm nay.
Đến tối, bố tôi bỗng nảy ra một ý tưởng.
Bố vội vàng xách ô chạy qua nhà bác Hiển, mưa vẫn đổ xối xả. Một lát sau, tôi nhìn thấy bác Hiển và bố tôi cùng che chung một ô, từng bước một chật vật chạy về nhà. Cảnh tượng ấy thật buồn cười làm sao.
Bác Hiển sống cô độc, không vợ con thân thích. Tính bác hài hước, thích nói chuyện và rất mực yêu trẻ. Chính vì thế mà mỗi lần có đoàn lân qua làng, bác đều tình nguyện đóng vai ông địa.
Tuy nhiên, bác có chút lập dị. Ngôi nhà nhỏ của bác lúc nào cũng đầy đủ mọi thứ kỳ quái không rõ từ đâu mà có. Tôi từng vài lần sang nhà bác mượn đồ cho cha mẹ, và thấy treo đầy trên tường là các loại mặt nạ kỳ dị. Trong tủ gỗ, bác cất giữ những pho tượng thú nhỏ xíu rồi khóa lại, không hiểu vì sao. Mặc dù lũ trẻ chúng tôi rất mến bác Hiển, nhưng căn nhà của bác quả thực hơi quái dị. Vì vậy, chúng tôi hiếm khi tự tiện ghé qua đó nếu không có việc gì. Thỉnh thoảng bác Hiển mang bánh kẹo ra mời, nhưng chúng tôi vẫn e ngại không dám vào.
Quay lại câu chuyện, tôi ngồi im lặng trên phòng, chờ xem ý định của bố là gì.
Quả nhiên, không lâu sau tôi nghe tiếng gõ cửa.
"Ai đấy?" - tôi hỏi.
Bên kia trả lời:
"Ông đây!"
"Ông nào?" - tôi biết tỏng là bác Hiển rồi nhưng vẫn giả vờ.
"Ông Địa đây!"
Rồi cánh cửa bật mở, một gương mặt tròn xoe cười toe toét thò vào.
Tôi không nói gì, tiếp tục tỏ ra giận dỗi.
Bác Hiển tiến vào trong phòng và ngồi xuống cạnh tôi.
"Sao cháu buồn thế?"
"Bác biết rồi còn hỏi."
"Ông Địa ở đây rồi mà."
"Thôi bác đừng có giả vờ nữa!"
Tôi kéo cái mặt nạ của bác ấy xuống.
Bác Hiển nhăn mặt. Bác thở dài. Rồi bác quay sang tôi, giọng dịu dàng:
"Cháu thèm được xem múa lân lắm phải không?"
Tôi không trả lời, chỉ vùi đầu vào vòng tay của mình.
"Thế này nhé, khi nào đến Đông Chí bác sẽ đưa cháu đi xem múa lân."
Tôi ngẩng lên nhìn bác.
"Vẫn còn múa lân ạ?"
"Có chứ. Nhưng cháu phải đi cùng bác. Múa lân này không phải ai cũng được xem đâu."
Tôi nhìn bác một cách hoài nghi.
"Chưa tin à?" - Bác cười - "Thế Giáng Sinh cháu sang nhà bác ngủ một đêm. Bác sẽ dẫn cháu đi xem múa Lân. Chịu không?"
Nghĩ đến việc tới ngủ nhà bác khiến tôi có chút lạnh gáy. Nhưng vì quá tò mò không biết cái thứ "múa lân đêm giáng sinh" mà bác nói là như thế nào, tôi đánh liều gật đầu.
"Rồi. Giờ vui lên nha. Xuống kia xem TV với bác và bố mẹ đi." - Bác Hiển xoa đầu tôi.
***
Đông Chí đến nhanh hơn tôi tưởng. Ở các nước phương Tây, đây cũng gần tới lễ Giáng Sinh.
Lũ trẻ chúng tôi khi đó không phân biệt rõ Tết ta hay Tết Tây. Chỉ biết có Tết là được vui chơi. Trung Thu cũng rộn ràng, mà Giáng Sinh cũng sôi nổi không kém. Nhưng riêng tôi không mấy thích Giáng Sinh, vì nó không có múa lân.
Nhưng Giáng Sinh năm ấy thì khác. Tôi có một cuộc hẹn với bác Hiển.
Không mấy khó khăn để xin phép cha mẹ và bà cho tôi sang nhà bác ngủ một đêm. Bác quen thân với gia đình nên họ đồng ý ngay.
Tuy nhiên, trước khi đi, ba mẹ khoác cho tôi tới ba lớp áo ấm. Họ còn dặn dò tôi phải xin phép bác mọi việc, kể cả ăn uống.
Khoảng 8 giờ tối, bác Hiển sang đón tôi.
Đi cùng bác, tôi vừa háo hức vừa sợ hãi.
Trái với suy nghĩ của tôi, bác không đưa tôi đi đâu xa cả. Bác lại dẫn thẳng vào nhà mình.
Bác để tôi bước vào căn phòng chật hẹp đầy đồ đạc kỳ lạ của bác, rồi khóa cửa lại. Lúc này tôi hơi ân hận vì quyết định của mình.
"Mình không đi xem múa lân à bác?" - tôi lo lắng hỏi.
"Có chứ, đang đi đấy!" - Bác trả lời.
"Nhưng mà..."
"Vào đây với bác rồi cháu sẽ biết!"
Hành lang trong nhà bác sâu một cách bất ngờ. Bề ngoài căn nhà của bác rất bé, tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào một cái hành lang dài thế này lại có thể nhét vừa trong căn nhà. Bên trên tường của hành lang treo đủ các thể loại mặt nạ.
"Cháu đi vệ sinh được không ạ?" - Tôi hỏi.
"Được chứ!" - Bác gật đầu, rồi bác chỉ cho tôi cánh cửa nhà vệ sinh - "Nhớ đi nhanh nhé, không là lỡ mất đấy."
Tôi vâng dạ rồi chạy vào nhà vệ sinh.
Trái với phần còn lại của căn nhà, vốn bừa bộn và tuyền toàng, cái nhà vệ sinh lại sạch bóng một cách kỳ lạ. Nó còn không có mùi, không có cáu bẩn, mà mặt gương sáng loáng.
Ra ngoài, tôi thấy bác Hiển đợi sẵn ở cuối hành lang, bên cạnh một cánh cửa đóng kín. Tôi lại gần bác.
"Từ đây, cháu nhớ phải sát bác, đừng chạy lung tung nghen!"
Tôi gật đầu dù không hiểu lắm. Cánh cửa này vốn dẫn ra sân sau mà? Tôi đâu có lạ gì nơi ấy. Tôi thường xuyên chơi ở con hẻm ấy với lũ bạn. Thế thì có việc gì mà phải đi sát với bác?
Thế nhưng tôi vẫn gật đầu.
Bác Hiển mỉm cười, rồi bác tra chìa khóa vào ổ và mở nó ra.
Tôi không biết rằng khoảnh khắc ấy đã thay đổi góc nhìn của tôi về bản chất của thế giới này mãi mãi.
Phía sau cánh cửa không phải là sân sau quen thuộc của nhà bác Hiển. Mà là một con phố cổ, với những ngôi nhà thấp có mái ngói đỏ xếp san sát. Cảnh tượng như thuộc phố cổ Hà Nội, nhưng vắng vẻ và cổ kính hơn nhiều. Nếu đúng là phố cổ Hà Nội, thì phải ồn ào, náo nhiệt với du khách mới đúng. Nhưng nơi đây im ắng khác thường. Cửa các nhà đều đóng im ỉm, chỉ hắt ra ánh đèn mờ từ bên trong.
Dọc phố treo đầy đèn lồng đỏ, nhưng vẫn không xua tan được vẻ u tịch. Xa xa, sương mù mờ ảo khiến tôi không nhìn rõ được cuối con phố.
"Còn sớm lắm!" - Bác Hiển nhìn đồng hồ - "Đói bụng chưa cháu?"
Tôi còn đang choáng ngợp trước cảnh tượng này. Phải đến lần thứ hai bác hỏi, tôi mới giật mình trả lời có.
Bác Hiển mỉm cười, hàng ria mép rậm của bác hếch lên.
"Vậy bác cháu mình đi ăn phở cho ấm người đã. Còn gần một tiếng nữa đoàn lân mới tới."
Tôi gật đầu, ngoan ngoãn đi theo bác dọc con phố lạ lùng ấy. Lúc ngoái đầu nhìn lại, tôi mới hay cánh cửa vừa bước ra là cửa chính một ngôi nhà xa lạ, giống như những ngôi nhà khác quanh con phố này, chứ không phải nhà bác nữa.
Một lúc sau, chúng tôi đi tới một quán ăn nhỏ có cánh cửa gỗ đóng im ỉm. Tôi vội vàng nói với bác Hiển rằng có lẽ nơi này đã đóng cửa, không còn bán nữa. Nhưng bác vẫn nắm chặt tay tôi, mở cánh cửa cũ kỹ ra và bước vào bên trong.
Bên trong là một quán ăn chật hẹp với không gian tối tăm, ánh đèn vàng vọt.
Sàn nhà được lát bằng những viên gạch men màu vàng đã bong tróc nhiều nơi. Xếp san sát là những chiếc bàn ghế gỗ sơ sài, cũ kỹ. Tôi tự hỏi sao họ không dùng bàn ghế nhựa tiện lợi hơn. Trong bếp, hơi nước nghi ngút bốc lên từ nồi nước sôi làm mờ cả tầm nhìn.
Quán chỉ có vài vị khách. Có người trông bình thường, nhưng cũng có người rất kỳ quặc. Kẻ thì đeo đôi cánh chuồn chuồn rũ xuống tận gót chân, kẻ thì lại có cái mai rùa sừng sững trên lưng. Có lẽ đây là các diễn viên trong đoàn hát, nên phải trang điểm hóa trang cầu kỳ.
Ở góc phòng có một lão xẩm già đang ngồi bệt dưới đất kéo đàn phục vụ khách. Nhưng lão không dùng que nứa để kéo vào dây mà lại dùng cái bắp chân khẳng khiu dài ngoằng của mình, trông đến là dị. Giai điệu lão kéo lên réo rắt réo rắt chả vui nổi, mà lại pha lẫn với tiếng rin rít như thể tiếng dế kêu.
Chúng tôi ngồi xuống một bàn gần cửa.
Một lúc sau, một người đàn ông mập mạp, đầu hói, quàng trên cổ chiếc khăn đẫm mồ hôi tiến đến bàn chúng tôi. Ông hỏi han bác Hiển rồi bất ngờ liếc mắt nhìn tôi.
"Lâu lắm mới thấy bác tới quán nhà em. Quà quê à?"
"Dở hơi à? Cháu tôi đấy!" - Bác Hiển nhăn mặt.
Ông chủ quán lúng túng cười xòa rồi hỏi chúng tôi muốn gọi món gì.
"Cho hai bát phở bò tái đi!"
"Không có hành ạ!" - Tôi nói.
"Một bát không hành"- Bác Hiển nói.
"Hai tái, một không hành" - Chủ quán cười toe toét - "Sẽ có ngay".
Lúc sau, hai bát phở nóng hổi đã được dọn ra trước mặt chúng tôi. Bát phở của tôi đương nhiên trông kém sắc hơn vì không có hành, nhưng tôi húp nó sì sụp như thể đây là bữa ăn cuối cùng trong đời. Phở ngon kinh khủng. Ở Hà Nội từ khi mới sinh mà tôi chưa bao giờ được ăn bát phở ngon như thế.
Nhưng đối với bác Hiển thì khác. Bác vừa ăn vừa nhăn nhó. Tôi tự hỏi rút cuộc khẩu vị của bác ấy thế nào mà món phở ngon thế nào lại khiến bác khó chịu đến vậy. Chắc không phải vì hành chứ?
"Sao thế bác?" - Tôi hỏi.
"Không có gì, phở ngon mà bác đau bụng quá!" - Bác nói, vừa ăn vừa vặn vẹo mình.
"Vậy đi vệ sinh đi bác!" - Tôi đề nghị.
"Nhưng mà bác đi lâu lắm, sợ bỏ lỡ tiết mục múa lân của cháu!"
"Ì áu ự a em ũng ược à!" (thì cháu tự ra xem cũng được mà) - Tôi vừa nhai vừa nói.
"Không được!" - Bác Hiển nghiêm mặt - "Cháu không được đi đâu một mình. Bác đã dặn rồi."
Lúc này, mặt bác Hiển đã bắt đầu tái đi rồi. Bác ôm bụng, quệt mồ hôi đầm đìa trên trán.
"Thì cháu chờ bác, cháu hứa không đi lung tung đâu mà!" - Tôi trấn an bác.
Bác hiển thở dài.
"Thôi được rồi. Nhớ đấy nhé. Ông được rời khỏi chỗ đâu đấy!"
"Dạ!" - Tôi gật đầu lia lịa.
Sau một hồi do dự, bác Hiển gật đầu rồi vội vã chạy vào nhà vệ sinh.
Tôi thong dong tiếp tục tận hưởng nốt bát phở.
Bác Hiển đúng là đi vệ sinh lâu thật. Tôi từng nghe bác phàn nàn với bố rằng bác bị táo bón mãn tính nên mỗi lần đi vệ sinh là chật vật. Mãi tới lúc tôi thấy phở trong bát của bác nở phồng ra hết rồi mà bác vẫn chưa ra.
Thế rồi bất chợt, tôi nghe thấy có tiếng nhạc.
Đó là tiếng chũm chọe và trống con vọng vào từ bên ngoài đường.
Những vị khách trong quán đều ngẩng đầu nhìn ra ngoài.
Tuy cánh cửa quán đóng kín, nhưng có thể thấy những ánh sáng vàng lấp lánh lọt qua khe. Tiếng chiêng trống càng lúc càng to và dồn dập. Tôi có thể nghe thấy tiếng ồn ào vọng vào như thể có một đám đông đang xuất hiện, trái ngược với sự vắng vẻ của con phố từ nãy tới giờ.
"Đoàn múa lân đến rồi các bác ơi! Nghỉ mồm ra xem tí rồi vào! Bác nào nguội đồ thì em thay bát khác cho!" - Ông chủ đứng từ trong bếp xướng lên.
Những người khách trong quán tỏ ra hồ hởi, cười nói với nhau. Tôi thấy đôi cánh trên lưng một số người còn vẫy vẫy nhẹ. Ông xẩm ngồi góc nhà ngưng kéo đàn, lặng lẽ đếm tiền.
Tôi bắt đầu sốt ruột. Tại sao bác Hiển đi lâu thế nhỉ?
Những thực khách bắt đầu bỏ đũa và đứng dậy, họ tiến về phía cửa quán và mở toang nó ra.
Con phố nhỏ lúc này đã sáng trưng, đầy người. Các cánh cửa đều đã mở và mọi người trong nhà ùa ra đường để đón đoàn rước lân.
Tôi gõ đôi đũa xuống bàn, bẩm bẩm cầu trời bác Hiển đã đi vệ sinh xong. Nhưng vẫn chưa thấy bác đâu.
Khách trong quán và cả người ngoài đường đứng che kín hết cả cửa quán. Tôi ngồi bên trong không nhìn thấy gì cả.
Tôi muốn đứng lên khỏi chỗ lắm rồi, nhưng nghe lời bác Hiển dặn nên tôi không làm.
Lúc này, tiếng chiêng trống đã sát tới tận cửa quán. Phía trên đầu của những người đứng xem che kín cửa, tôi nhìn thấy thứ gì đó nhọn và bọc vàng, cứ ló lên rồi lại thụt xuống theo điệu nhạc. Đó chắc chắn là cái sừng của con lân. Nó bọc vàng lấp lánh, đẹp hơn nhiều lần so với con lân bằng giấy mà tôi từng được xem ở nhà.
Trong lòng tôi cảm thấy chộn rộn chộn rộn, lo lắng sẽ bỏ lỡ mất dịp này.
Mọi người la hét, cổ vũ ầm ỹ. Tôi còn nghe thấy cả tiếng pháo nổ lộp bộp nghe rất vui tai.
Tôi gọi vào bên trong nhưng không thấy bác Hiển trả lời.
Đoàn múa lân đã bắt đầu đi qua hết. Bác Hiển vẫn chưa ra.
Tiếng nhạc và tiếng hò reo đã bắt đầu nhỏ dần đi.
Không thể bình tĩnh thêm được nữa. Tôi đứng bật dậy khỏi ghế.
Tôi sẽ chỉ chen ra đến ngoài cửa để xem đoàn múa lân. Làm sao mà có thể lạc được chứ? Xem xong là tôi lại trở về chỗ cũ thôi. Tôi sẽ không để mình bị đoàn người cuốn đi xa. Chắc sẽ không có chuyện gì đâu.
Thế là tôi chạy ra ngoài.
Tôi chật vật len qua những người đứng đầy trước quán để ra tới ngoài đường. May thay, do cơ thể nhỏ bé, cuối cùng tôi cũng ra được tới bên ngoài.
Cảnh tượng tiếp theo chắc chắn là một trong những thứ tôi không bao giờ quên.
Con lân đang nhảy múa. Từng cái vảy trên người nó, từng sợi râu, cho đến cái sừng vàng, tất cả đều sống động. Từng nhịp vặn uốn, lăn lộn của nó đều điêu luyện và ăn nhập với nhau như thể đó không phải hai người đàn ông đang đóng giả, mà là một sinh vật có thật.
Và kia rồi, Ông Địa!
Ông Địa cầm cái quạt phẩy phẩy, nụ cười toe toét. Ông ta béo, béo thật chứ không cần độn mông độn bụng.
Một loạt tiếng pháo lại nổi lên, mà mọi người la hét ầm ỹ hơn.
Đôi mắt tôi như nhòe cả đi. Tôi như sắp khóc. Thật tuyệt vời. Tất cả mọi thứ đều quá hoàn hảo.
Thế rồi bất chợt Ông Địa đứng lại, giơ tay lên. Tiếng kèn trống im bặt. Con Lân cũng đứng lại, không nhảy múa nữa. Những người xung quanh cũng ngưng hò reo.
Mọi thứ trở lại im lắng.
Ông Địa vừa giơ tay, vừa làm động tác như đang ngửi ngửi thứ gì đó trong không khí.
Thế rồi bất chợt, ông quay ra nhìn về phía tôi.
Ban đầu tôi nghĩ ông đang nhìn một người nào khác. Nhưng rồi tôi lập tức cảm thấy lạnh gáy, vì tất cả mọi người cũng đều đồng loạt quay ra nhìn thẳng vào tôi. Khi tôi nói tất cả, ý là tất cả mọi người trong khu phố. Kể cả con lân. Nó cũng đang nhìn tôi chằm chằm.
Tôi đứng như trời trồng, sợ hãi đến mức không thể cử động.
Ông Địa tiến về phía tôi, mọi người dạt ra cho ông đi.
Tôi ngẩng mặt lên nhìn ông, vì tuy to béo nhưng ông rất cao, phải đến hai mét là ít. Vàkhi vừa nhìn kỹ mặt ông, tôi đã suýt hét lên..
Đó không phải là mặt nạ, mà là mặt thật. Da thật, đôi mắt thật. Tôi còn có thể nhìn thấy mồ hôi lấm tấm trên trán ông ta. Ông Địa có một cái mặt thật to, tròn và bẹt như cái mâm. Nó tròn bẹt đến mức vô lý, tới nỗi mà trước đó tôi đã nghĩ nó chỉ là cái mặt nạ.
Ông cười, nụ cười rộng ngoác tới tận mang tai.
"Con người ..." - Ông ta phát ra thứ tiếng thì thào nhưng vang như sấm - "... sao lại có con người ở đây?"
Lúc này tôi đã sợ hãi lắm rồi. Nhưng cơ thể tôi như bị trói chặt, không cử động nổi. Những người xung quanh vẫn nhìn tôi chằm chằm, khuôn mặt họ vô cảm đến đáng sợ.
Ông Địa cúi sát, nhìn vào mặt tôi. Tôi có thể thấy nước dãi ông chảy ra ướt nhẹp cả miệng.
Thế rồi ông ta cười to. Và mọi người cười theo. Tất cả họ đều đồng loạt cười ầm ỹ. Tôi co rúm lại vì hoảng loạn, mếu máo.
Ông Địa đứng thẳng dậy, huýt sáo.
Con Lân từ phía xa bất chợt đứng dậy và tiến về phía tôi. Lúc này tôi cũng đã nhận ra lý do vì sao mà con Lân lại có thể nhảy múa uyển chuyển và linh hoạt đến thế.
Nó là một con lân thật. Những lớp vảy là thật. Râu tóc cũng là thật. Cái sừng là thật. Tôi có thể thấy lỗ mũi nó đang phập phồng.
Con lân tiến lại gần tôi, há cái miệng đỏ lòm, đầy răng, với cái lưỡi nhớp nháp thè ra ngoài.
Và thứ tiếp theo tôi thấy là cái miệng ấy đang ngoạm lấy tôi ...Và mọi thứ chìm vào trong bóng tối.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro