Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyện hay-Lenghiabk05

Gánh Xương Trâu

Với một lối tự sự như lôi từ gan ruột, "Gánh xương trâu" của Hồ Thị Hải Âu nức nở tình yêu thương quặn thắt với người cha còn hơn cả quý yêu và một mảng quá khứ đầy trớ trêu con trẻ, trong cái Tết còn chiến tranh, nghèo đói năm nào. Câu chuyện kết rồi, mà ánh sáng tự thân của nó cứ bừng sáng trong lòng chúng ta giá trị vĩnh hằng của lòng nhân ái. Thì ra dù cuộc đời có tăm tối, có khó khăn nghiệt ngã và trớ trêu và thất vọng đến đâu, chỉ cần có lòng nhân từ yêu thương, có một bờ vai tin cậy là con người nhất định sẽ vượt qua.

° ° °

1. Thuở bé, đôi khi tôi cảm thấy oán giận cha đẻ mình những khi bị ông mắng mỏ. Ba vẫn hay đe: "Giá mày là con trai, tao cho nhừ đòn". Hàng năm, cứ đến ngày tát ao cá của hợp tác xã, họ lại hốt lên hàng rổ dép guốc của tôi. Ba tôi ra xin lại. Họ nói: "Lần nào ông Ngụ cũng xin dép". Ba phân bua: "Tại con bé này - ba chỉ tay về phía tôi- có đôi nào nó lại lia tất xuống ao". Lúc đó, nét mặt của ba thật tội, tôi thấy thương vô cùng. Tôi lẽo đẽo theo ông về nhà, cùng với rổ dép cũ, tạp nham, lấm đầy bùn hôi, tanh tưởi. Ba mang đi rửa sạch, rồi bảo: "Thử xem đôi nào vừa". Chiếc xanh, chiếc đỏ, chiếc rộng, chiếc lại chật văng... Cuối cùng, ba lắc đầu, bảo: "Để ít nữa, ba sang Hà Nội đổi cho đôi mới". Tôi thừa biết ba sẽ nói thế, vì cũng như mọi lần, ông chẳng thể nghĩ được cách nào hơn.

Cảm giác xỏ chân vào đôi dép còn thơm phức mùi nhựa, làm tôi sướng rơn. Nhưng niềm vui dép mới với tôi thật chóng qua. Chỉ được ít ngày, tung tích của chúng đã nằm gọn dưới đáy ao. Tôi nhấm nháp sự thích thú khi lia từng chiếc dép xuống mặt nước, nhìn nó nổi lềnh phềnh, rồi từ từ chìm nghỉm.

Nhưng lần này, ba chẳng quát tháo. Ông chỉ lắc đầu, hăm doạ: "Tết này, mày sẽ được đi chân đất". Tôi không sợ đi chân đất, nhưng ánh mắt ông nghiêm nghị buồn buồn, khiến tôi ân hận.

Hôm ấy đã là 23 Tết, năm 1965...

2. Mẹ lo âu, nhìn xa tít ngoài vệ sông đang giăng giăng mưa phùn, nói bâng quơ: "Tết nhất gì, lo quắn ruột". Ba vẫn gõ búa đều tay gò lại chiếc xoong nhôm đen thui và méo mó, nói: "Giàu hay nghèo thì ai cũng có Tết, đừng lo".

3. Ngày 24 Tết, trời bỗng hửng nắng.

Cuối đông mà có nắng. Nắng ấm áp. Độ lượng như nằm mơ. Như thể đất trời cũng thương cho sự Tết nhà nghèo. Ba tôi đánh bùn từ ruộng lên. Ông cố tìm chỗ bùn nào thật dẻo. Trộn với rơm khô, đạp nhuyễn. Đôi chân ông vật lộn với đống bùn trộn rơm một cách vụng về, nhưng quyết liệt. Rồi trám. Trát. Vá lại những lỗ thủng trên bức vách đất đã bị bong ra lở lói. Vừa làm, ba vừa giảng giải cho tôi: "Phải miết cho kỹ, để rơm quận vào xương tre. Phải láng mịn tay để nước bùn bóng lên mới đẹp, hiểu chưa?". Ba, bốn ngày sau, trời vẫn tưng bừng nắng. Cùng với thứ gió hanh hao, nứt nẻ, nắng đã hong khô những tấm vách đất, rất vừa ý ba. Với hai thùng nước vôi xin các chú bộ đội, ba đã tẩy trắng ngôi nhà như phép màu trong cổ tích. Đôi lúc, người lớn ghét nhau, rủa nhau là đồ "bạc như vôi". Riêng tôi tin chắc rằng, vôi làm tôi hạnh phúc. Cái mùi hắc nồng của vôi khiến tôi sung sướng với một cảm giác mình được đổi đời.

Ngoài kia, mấy bà đi chợ qua, nói vọng vào: "Nhà ông Ngụ sửa Tết được nhiều chưa?". Rồi họ hối hả bước, chẳng đợi ba trả lời.

4. Sáng ngày 29 Tết.

Trong bếp, con vện đang cố sức đuổi theo chú mèo mướp quanh cái chạn bát. Và chiến tích của chúng là hất tung những chiếc nồi nhôm đen thui, trống tuếch. Chúng thi nhau lăn lông lốc. Thi nhau kêu loong coong một cách hết mình. Cảnh ấy làm tôi thích thú. Tôi bật cười nắc nẻ. Nhưng người lớn không giống tôi. Mẹ vác gậy đuổi vện chạy quắn cả đuôi, bà ngó trân trân vào đáy những chiếc nồi không một dấu mỡ và thức ăn nào. Bà thở dài. Ba đứng dậy bỏ đi. Chầm chậm trên lối mòn ngoằn ngoèo như con rắn, chạy vào làng Nỗ. Tôi nhận thấy bước chân ba nằng nặng ưu tư. Bất giác, một luồng gió mạnh từ sông ào tới làm ba thấm lạnh. Ông đưa vội hai tay khép trước bụng để che gió. Và cứ thế bước đi. Đơn độc trên lối mòn hoang vắng bóng người. Tự nhiên, tôi thấy nghèn nghẹn trong cổ, gọi với theo: "Ba đi đâu đấy?". Ba không ngoảnh lại, chỉ nói: "Kệ ba". Mẹ nhìn theo, lẩm bẩm: "Lại vào làng uống rượu", vẻ không bằng lòng. Tôi bảo: "Mấy bác ấy cũng quý ba thì phải?". Mẹ nói thủng thẳng, buồn buồn: "Quý, nhưng họ vẫn gọi ba mày là ông Ngụ".

Tôi vô tư cho rằng "Trước nay, họ vẫn gọi thế mà mẹ?". Chị gái tôi phản đối: "Không phải, ba mình tên khác". Rồi chị hỏi mẹ: "Tại sao?". Mẹ nói: "Vì nhà mình là dân ngụ cư". Mãi sau này, khi đã lớn, tôi láng máng nhận ra rằng, ba mẹ tôi đều là những người xuất thân dòng dõi. Thế rồi, chiến tranh. Loạn lạc. Những thành kiến xã hội... đưa đẩy họ và lũ con đến sống nhờ ven cái làng khuất nẻo này. Như một hương ước bất thành văn, dân ngụ cư không được cất nhà ở trong làng. Vì vậy, nhà tôi đứng chơ vơ bên vệ sông, dưới một gốc gạo to đơn độc. Mặt nhà hướng vào làng Nỗ. Vô tình mà âm thầm.

Trưa ấy, ba không về ăn cơm, càng khiến mẹ khẳng định thêm ý kiến ban đầu. Chỉ còn vài chục tiếng đồng hồ nữa là giao thừa. Văng vẳng làng xa, thôn gần, tiếng lợn kêu eng éc. Sao mà hấp dẫn. Thế mới biết, tập quán thật mãnh liệt. Mặc chiến tranh. Mặc bom đạn từng phút, từng giây rình rập. Người ta vẫn kiên trì soạn sửa Tết. Âậy là những gì tôi nghĩ được, khi đã trải qua nhiều cảnh đời. Chứ lúc ấy, tôi chỉ thấy thèm đến nhỏ dãi. Đến quắt quay cái hương vị tết nhất phả vào mũi tôi từ phía thôn Đoài. Anh chị tôi theo mẹ ra vườn nhổ sắn. Tôi tha thẩn ra vệ sông, đăm đắm nhìn về làng Nỗ, với một niềm hy vọng không đâu, nhưng rất đỗi mãnh liệt...

Kia rồi! Cái dáng xương xương của ba như oằn xuống dưới sức nặng của đôi quang tỳ trên vai người. Tôi ào tới, hét vang bờ sông: "B......a.......a....". Tôi sung sướng quá! Ba về, nghĩa là nhà tôi có Tết. Dù chỉ là không khí Tết trong câu chuyện ba kể, cũng được chứ sao? Nhưng mà ba đang gánh một gánh gì đó rất nặng. "Gì đó ba?" - tôi hỏi đầy háo hức. "Xương trâu!"- ba nói hào hển. Ba cười với tôi. Nụ cười đã bị gánh nặng trên vai kéo lệch đi đôi chút.

"Trời, sao nhiều vậy ba?" - tôi gào lên sung sướng, chân nhảy ríu rít theo gánh xương trâu cùng ba về tận nhà.

5. Chiều ấy. Tối ấy. Đêm ấy.

Nhà tôi bận rộn và vui hơn Tết. Chị tôi giúp mẹ rửa từng khẩu xương ở ngoài giếng. Anh tôi nhóm lửa trong bếp. Còn tôi ngồi xem ba sử dụng dao và thớt để chiến đấu với những khúc xương cứng đầu. Khi mọi người đã quây quần bên bếp lửa, nồi xáo xương trâu sôi xình xịch, reo vui, chứa chan hy vọng của cả nhà. Ba kể rằng, đấy là một con trâu già. "Già lắm hả ba?". "Phải, nó không cày được nữa, nên hợp tác xã cho giết thịt". Mẹ bảo: "Ông rõ dở, mình là dân ngụ cư, lấy phần làm gì, phiền lắm". Ba nói bình thường: "Không có! Tôi chỉ giúp họ chia ra gần một trăm phần giống nhau. Mỗi phần phải gồm có đầu, mông, lườn, đuôi...vân vân. Nghĩa là đủ bộ. Và đấy là một việc khó, bà hiểu chưa? Xong xuôi, tôi được trả công bằng bộ xương".

Mẹ không nói gì thêm. Anh chị và ba tôi cùng im lặng. Họ đăm đăm nhìn xuyên qua đống lửa. Tôi thấy trong mắt mỗi người, cũng đang cháy. Bập bùng tận đáy mắt. Những ngọn lửa không giống nhau, nhưng nóng bỏng và vô cùng mãnh liệt. Tôi không thấy lửa trong mắt mình. Có thể, anh tôi chị tôi hoặc ba mẹ tôi sẽ thấy. Tôi chỉ nghe tiếng lửa thét gào. Tiếng nồi xáo xương trâu réo rắt. Và tin chắc rằng, tôi đã nghe được tiếng thời gian trôi đi ào ạt.

Đêm 29, rồi sáng ngày 30, thật yên ổn. Máy bay ném bom như đã chết dưới mười tầng địa ngục, nên không nghe nó gầm rít trên đầu. Vì thế, những khẩu pháo cao xạ cũng nằm yên, hiền như một đàn trâu khổng lồ đang ngủ. Và buổi sáng ấy đã trôi vào cuộc đời tôi một vùng thời gian cổ tích, bình yên đến nao lòng.

Mùa xuân thật diệu kỳ. Không chỉ là những ngày mưa bụi bay bay, ướt mềm như môi trẻ. Cỏ cây hút nhựa lên cành, toả mùi hăng hắc, thật dễ chịu. Những tàu lá non nghên nghển trong gió xuân, hân hoan đón lấy làn hơi ẩm toả đầy không gian.... Mùa xuân còn có cả những ngày như hôm ấy. Nắng hanh hao đủ làm hồng chín những nụ đào phai mới loé trong vườn. Gió thật nhẹ, mang thêm chút lạnh dây dưa, đủ để loài người cảm nhận được hơi thở ấm áp phả vào nhau. Cây cối, chim muông và đất trời chứa đầy xúc cảm. Đến bây giờ, tôi vẫn đinh ninh rằng, lúc ấy tôi đã nghe được tiếng của cỏ cây. Mẹ mắng. "Vớ vẩn! toàn chuyện hoang đường". Ba không quan tâm, lại nói lạc đề: "Chiều trừ tịch, đón tổ tiên bằng mâm cơm với canh xáo xương cũng đủ". Lúc đó, tôi thấy ba thật trang nghiêm và đến lạ. Hình như người lớn gọi đó là cảm giác thiêng liêng, tôi không được rõ lắm.

Rồi hai phút sau đó, bầu trời pha lê vỡ nát. Lũ quỷ trời ngoi lên từ địa ngục, rú rít thứ âm thanh của chiến tranh và chết chóc. Bởi thế, nên những con trâu sắt hiền lành đã trỗi dậy, phun đạn như mắc cửi vào bầu trời. Ba đẩy tôi chạy sấp ngửa xuống hầm chữ A. Mẹ, anh chị tôi lần lượt theo sau. Cả nhà tôi đứng sát cửa hầm, nhìn lên bầu trời rách nát. Lúc ấy, và cả bây giờ, tôi vẫn không thể phân biệt được đâu là tiếng bom, đâu là tiếng đạn pháo. Nó trộn lẫn vào nhau, với cả ngàn thứ âm thanh huỷ diệt và mất mát. Nó khiến cho trẻ con khiếp đảm đến rụng rời. Đôi khi bấn loạn quá, tôi đứng khóc tỉ ti trong góc hầm và đũng quần cứ ướt loang ra lúc nào không biết. Lần này, tôi đứng cạnh những người thân ở cửa hầm, tuyệt nhiên không hề thấy sợ. Tôi nhận thấy lẩn quất xung quanh thứ mùi khoi khoi béo ngậy, thật quyến rũ. Như có luồng điện giật trong tim, tôi kêu lên thất thanh: "Nồi xương!". Rồi như một con rắn, tôi trườn lên khỏi mặt đất, chạy thục mạng vào bếp. Người nhỏ, nồi to. Chưa lúc nào tôi lại cầu mong nồi xáo xương nhỏ đi như lúc ấy. Hoảng hốt. Sợ hãi. Tôi luống cuống đánh đổ cả nồi xáo xuống nền đất. Dòng nước loáng mỡ, cùng với những miếng thịt nhỏ hiếm hoi chảy loang. Vừa lúc, cánh tay ba chộp lấy cổ áo tôi lôi xệch xuống hầm. Ông gầm lên: "Mày muốn chết hả?". Tôi chưa hết bàng hoàng khi nhận ra rằng nồi xáo xương đã tan thành mây khói, thì đã hứng ngay một cái tát của chị tôi: "Đồ ăn hại... mày là đồ ăn hại!". Rồi chị bưng mặt khóc oà. Anh tôi há hốc mồm như không tin rằng nồi xáo xương bị đổ. Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt xót thương. Đất dưới chân tôi chao đảo, bồng bềnh. Mỗi khắc trôi qua, dài như không đáy. Cuối cùng thì ba cũng lên tiếng. Ông cười khùng khục, cố ra vẻ tự nhiên. Nghe thế, chị tôi im bặt, lấy tay quệt nước mắt. Ba nhìn mấy đứa con, giọng đầy tâm sự: "Đêm qua, ngồi canh lửa nồi xương, ba nhớ ngày xưa bà nội kể rằng: Ông cu Cối ở trong làng bị chết sớm, đến khi sang cát lại chẳng còn tý xương nào. Bà bảo, vì ông Cối hay ăn xương trâu nên mọt đục rỗng cả xương". Rồi ba cười, xoa đầu tôi, an ủi.

Ba vừa ngừng lời là lúc tôi mới bắt đầu khóc. Khóc rống lên, bằng tất cả nỗi ân hận xen lẫn niềm biết ơn ba chất chứa trong lòng. Không một thứ âm thanh nào lọt vào tôi được nữa, kể cả tiếng bom đạn thét gào.Chỉ có tiếng khóc tôi tràn ngập hồn tôi. Trong nhoè nhoẹt nước mắt, tôi thấy ba cười. Thấy tấm vách quét vôi lơ lửng bay lên. Nồi nước xáo đang bốc hơi thơm phức. Cả đôi dép nhựa đỏ chót... Tất cả đều bay lên, mờ ảo trong một vùng ánh sáng lung linh.

Khi tôi thôi khóc, thì bầu trời tả tơi đã kịp ắng lại. Dường như, từ xa xăm vĩnh hằng của thời gian, nơi đây vẫn là bầu trời cổ tích, chưa từng có chiến tranh.Nắng vẫn hanh hao một sắc vàng êm ái. Gió vẫn nhè nhẹ, thổi về một màu xanh của xuân tươi. Chị tôi chạy từ bờ sông về, cười giòn thanh như miếng khế ngọt: "An ơi, cho em con trâu lá này". Bên sông, chuông chùa Tịnh thỉnh mấy hồi gióng giả. Hình như, đã đến giờ cầu kinh chiều.

6. Chiều nay, cũng một chiều trừ tịch. Nơi đó, chỉ tôi và dòng sông đối diện, nhưng cả hai đã hoàn toàn đổi thay. Tôi già đi, còn sông thì bé lại. Cũng như tôi, mẹ và các anh chị không còn ở đây nữa. Ngôi nhà tranh vách đất. Gốc gạo. Ao bèo... cũng không còn. Chỉ có ba ở lại. Vĩnh viễn. Tôi nhận thấy dáng người xương xương của ba oằn xuống dưới sức nặng của gánh xương trâu, đang chạy dọc bờ đê... Chạy ngang qua chỗ tôi đứng. Và chạy mãi... Người đàn bà 47 tuổi bỗng khóc ào như trẻ nhỏ: "Ba ơi...".

Lão Ngư

Câu chuyện giống như một huyền thoại thời nay, lẫn lộn hơi nước mắm bốc ra từ chân lông lão già đánh cá tứ cố vô thân, chiếc áo rằn ri của gã thuỷ quân lục chiến chết chìm với bông hoa muống biển màu máu trên mồ cá heo... Những chi tiết lạ thương của đời sống biển khơi tạo ra sức lôi cuốn người đọc sẵn sàng tin vào huyền thoại mang nội dung "thuyết giáo" rõ rệt về tình người chung thuỷ này.

Không ai biết tung tích lão Ngư. Nghe đồn rằng: Một sớm nọ, ông bõ già của nhà thờ xứ làng vạn chài ra mở cửa thì nghe thấy tiếng trẻ khóc oa oa từ chiếc thúng đặt ở bậc tam cấp lên xuống của nhà thờ. Đứa bé đỏ hỏn được bọc trong miếng tã lót làm bằng thứ vải buồm; thứ vải được nhuộm rất nhiều lần nước củ nâu. Từ đó cha xứ giao cho ông Bõ chăm sóc đứa bé. Những khi đói sữa đang khóc bằn bặt hễ nghe tiếng hát thánh ca của nhà thờ là nó im bặt mở đôi mắt tròn thao láo, hai vành tai nhỏ xíu giật giật, cái miệng chúm chím như đang bập vào một bầu vú vô hình nào đó trước mặt. Lên ba tuổi, thằng Ngư - tên đứa bé, được một gia đình ở xóm vạn chài hiếm con xin về nuôi và trở thành người nổi tiếng về duyên "sát cá". Đánh cá cũng như đánh bạc. Ngoài thông thạo nghề biển còn có cái duyên, cái vận. Những người không có cái duyên ấy người ta gọi là Trâu Bạc. Hễ Trâu Bạc đi xuống thuyền ai là thuyền đó làm ăn không nên nỗi gì. Đánh lưới thì lưới rách. Thả neo thì neo rê. Rồi gió bão, gãy buồm, trật lái. Trăm sự cố đôi khi ngẫu nhiên đều gán cho Trâu Bạc. Vì thế phần lớn các tên cá đều mang tên thú trên bờ, trên rừng như: Cá voi, cá bò, cá sư tử biển, cá mập, cá chó (hải cẩu), cá chim, cá kiến, cá heo, cá chuồn, cá dơi, cá ó... nhưng tuyệt nhiên không có cá trâu.

Lão Ngư quanh năm đánh độc chiếc quần đùi may bằng vải buồm, đóng từng lớp muối cứng queo đi đứng sột soạt. Những ngày đông lạnh buốt lão chống rét bằng nước mắm cốt nấu bằng mắm cá cơm; nước cứ sánh óng ánh như mật ong chỉ rơi ra vài giọt, cách hàng chục mét trong gió thoảng người ta đã biết. Lão Ngư có thể ngồi bất động hàng tiếng đồng hồ thu lu như một con thú rình mồi trên be thuyền trong cái rét như cắt da, cắt thị để săn cá ngừa giữa mùa giêng hai. Cá ngừa thịt thơm phức, béo ngậy như chim cu gáy trên đồng. Từ tấm thân cởi trần đỏ au của lão hơi nước mắm cốt bốc ra ở chân lông, kẽ tóc thành làn sương cũng có màu nâu sóng sánh tưởng có thể xắn ra từng miếng được. Nhưng hễ lão khoác chăn bông, áo ấm vào là nhức đầu, sổ mũi liền. Cái thú ăn của lão cũng khác. Suốt đời lão chỉ chén mỗi món gỏi cá, hễ ăn những thứ được đun sôi, nấu chín là cái dạ dày của lão sôi lên ùng ục. Lão thường hay chọn cá trích, cá lầm làm gỏi. Lưỡi dao thép của lão sắc ngọt mỏng như lá lúa khéo léo lách dọc thân cá còn anh ánh màu gỉ đồng được đem ướp với đủ thứ gia vị bóp với tái chanh bằng đôi bàn tay sứt sẹo có những ngón cước ăn sâu vào những vòng ngấn như chiếc nhẫn, nhưng hễ bàn tay người khác nhúng vào gỏi cá của lão là lão bị rối loạn tiêu hoá liền. Còn uống, ngoài rượu, lão chỉ quen dùng cái nước khe "Hảo Hảo" chắt từ ruột đá núi Nam Giới do một thầy địa lý người Tàu tìm ra. Gia tài đi biển của lão gói trọn trong chiếc giương rỗng hình vuông trong đó chia ra nhiều ngăn, nhiều ô, lớp trên, lớp dưới như chiếc tủ của ông thầy đựng thuốc Bắc: Ô đựng cước từ loại số 1 mảnh như sợi chỉ đến loại cước số 12 (đường kính đến 12mm) dùng để câu cá tạ trở lên; ô đựng đủ thứ lưỡi câu to, nhỏ khác nhau; ô đựng các loại hòn chì, các loại rường câu và những chiếc ống câu được tiện từ những thân tre rỗng mà già ngả sang màu nâu bóng. Dù nhắm mắt lại hay trong đêm tối mò lão vẫn có thể lấy đúng ngư cụ mà mình cần dùng. Chiếc rương gỗ của lão không biết được đóng bằng gỗ gì mà vừa nhẹ có thể khoác bên người như chiếc tay nải màu chàm của người miền núi, vừa bền, không mối mọt, không bị nước mặn ăn mòn. Gặp nước, gỗ nở ra khít lại các mối ngàm làm thành chiếc phao cứu sinh nổi bồng bềnh, sẵn dây khoác vào vai người thì đố sóng đánh bật ra được; khi cần đặt xuống thành chiếc ghế vuông chằn chặn ngồi câu thoải mái lại tiện lấy ngư cụ.

Lão sống một mình. Ngôi nhà nhỏ của lão giống như một bảo tàng thu gọn. Trên tường lão treo nhiều hiện vật lạ mắt mà chủ yếu là đồ của người chết. Là con "sói biển" kỳ cựu nhất của cửa lạch này, lão Ngư còn có một cái nghề làm tự nguyện khác, đó là khâm liệm xác những người chết biển. Chết biển tội lắm, chim tha, cá rỉa, dị dạng méo mó "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh". Khi có thuyền vớt được xác người chết dân làng bao giờ cũng nhờ lão. Họ bảo: Lão mát tay lắm mà. Chỉ cần một chai rượu ngang vừa uống vừa xát tay vào ngực cho ấm người là lão lo chu đáo từ việc tắm rửa bằng nước ngũ vị đến việc chải lại mái tóc cho những người đàn bà xấu số. Nhà lão treo những chiếc batoong, cái áo bađơxuy dạ, chiếc mũ phớt chắc là của chủ Tây từ hồi trước "cách mạng" được lão đưa tiễn về thế giới bên kia nhưng lão chưa bao giờ sử dụng. "Để ngắm thôi mà, nhưng đồ Tây nó tốt thật, chừng ấy năm rồi đố mà chưa hỏng!". Đến thời đánh Pháp, lão có thêm chiếc quần màu cứt ngựa có cái túi bắt gà to tướng của lính đồn đóng trên núi Nam Giới. Hồi chống Mỹ có chiếc tàu biệt kích mắc cạn ở hòn đá rùa ngoài mũi lố. Bọn người nhái vội vàng bơi ra tàu lớn và điện cho máy bay ở hạm đội ngoài khơi thả bom đánh chìm. Lão Ngư nghe tin uống liền mấy tô nước mắm cốt xung phong lặn xuống tháo gỡ những thiết bị hiện đại trên tàu, mặc cho bom nổ tứ phía, dưới sự yểm trợ của bộ đội phòng không bờ biển. Chiến công của lão được đưa lên đài, báo. Chiến tranh càng ác liệt. Chúng thả thuỷ lôi dày đặc; ngày nào cũng có người chết biển trôi vào. Trên tường nhà lão lại có thêm chiếc mũ tai bèo, đôi ống nhòm. Rồi những trận thuỷ chiến xảy ra trên biển. Nhà lão có thêm chiếc áo rằn ri, chiếc đồng hồ dạ quang mặt màu hồng bốn kính nặng chình chịch đeo xái cả tay không thấm nước của bọn thuỷ quân lục chiến. Xác nào, lão cũng làm chu đáo không kể phe ta hay phe địch. Thôi thì "nghĩa tử là nghĩa tận", "sống khôn, thác thiêng", lạy người ba lạy, phù hộ cho dân biển làm ăn may mắn, đừng có chiến tranh liên miên là được rồi. Sống là người còn chết thành "ngài" cả thôi.

Bạn thân của lão là con cá heo sứt mép đã cứu lão thoát chết trong một trận bão. Theo cái lệ đã thành quen, những khi thuyền lão được cá bao giờ lão cũng lấy cái tù và làm bằng vỏ ốc thổi "oa oa" trong gió. Con cá heo có tật này ít khi săn được mồi, nổi lên be thuyền và được lão đổ vào miệng từng bát cá con. Bởi lão Ngư là tay tài công kỳ cựu có nhiều kinh nghiệm dân gian đánh bắt cá nên những ngư phủ trên thuyền phải chiều theo ý lão. Những lần "tháo gió" lão đã trổ hết tài của mình khéo léo đưa thuyền vào cửa lạch. Lão bảo: "Những nạm gió "chìa vôi" ấy thấm gì?". Nhưng cứ giữ mãi cái thói quen cho cá heo ăn mồi ấy, đám ngư phủ nhiều khi cũng xót ruột. Những tiếng rì rầm bàn tán, những ánh mắt lấm lét liếc ngang liếc dọc. Lão không để ý. Những tiếng bấc, tiếng chì nói nhau nặng nhẹ trong thuyền. Lão không hèm chấp. Một hôm, sau khi cho lão uống rượu say nằm mê mệt bên bánh lái con thuyền, một người trong đám ngư phủ lấy tù và rúc lên. Con cá heo quẫy đuôi bơi lượn quanh thuyền mấy vòng. Hình như nó cũng nhận ra điều gì khác thường; nhưng vì đói mồi vội há miệng thì một bát vôi tôi to tướng rót vào cổ họng nó. Nước biển sôi lên ùng ục. Con cá heo rú lên mấy tiếng ghê rợn vì bị bỏng nặng. Lão Ngư tỉnh rượu chồm dậy hất con người độc ác đó xuống biển. Sau, mọi người can ngăn mãi, lão mới cho vớt lên và đuổi thẳng lên bờ. "Biển không dung nạp loại người ấy, cho nó đi biển trước sau gì rồi thuyền cũng bị nạn" - lão bảo thế! Từ đó dù lão có khản cổ gọi tù và con cá heo không bao giờ xuất hiện nữa. Bấy giờ bạn của lão còn lại là một ông già đóng quan tài trong làng. Lão bảo:

- Nhìn cái gió này, mây này, trăng tán này là sắp mùa bão đấy, ông chuẩn bị gỗ đi là vừa. Chiều dài thì cứ ước lượng gần giống nhau, còn chiều ngang phải đóng cái to, cái nhỏ vì nhiều xác ngâm nước trương phình lên.

Nhiều lần, hai ông lão bần thần ngồi uống rượu vừa ngắm đám trai làng lực lưỡng như đang đo đếm tính toán gì đấy. "Lại sắp có gió nhà Chắt Bảy rồi". Cái đận ấy vào dịp này nhà "Chắt Bảy" bị trúng gió chết cả thuyền. Một mình lão xắn tay lo liệu. Vì vậy đám trai làng thường đến hỏi lão cái lịch thời tiết đặc biệt chỉ có lão mới biết. Cái lịch được lập ra bằng những ngày giỗ trong làng.

Không biết lão Ngư có của hồi môn gì. Họ đồn rằng: Lão có nhiều vàng lắm, vàng đồ trang sức của những người chết biển. Nhưng chắc chắn là lão có của vì thuyền lão bao giờ cũng gặp may. Hôm ấy lão đang uống rượu với gỏi cá cùng ông già đóng quan tài thì nghe tin ngoài mũi Gò đang chuẩn bị xả thịt mọt con cá heo để bán cho dân câu cá mập. Lão vội sấp ngửa chạy ra. Trời ơi con cá heo sứt mép của lão. Lão rẽ đám đông bước vào. Tiếng bàn tán thì thầm sau lưng lão. Mấy tay buôn cá vội nâng giá khi biết con cá heo ấy là người bạn thân thiết của lão. Giá được tăng vùn vụt. Lão Ngư lấy cái túi da cá mập ném xuống trước mặt mấy gã buôn cá:

- Gia tài của tao chỉ có từng ấy. Chúng mày để lại con cá cho tao, còn tất cả của cải trong túi này cho chúng mày tất!

Lão đổ ra, mọi người trố mắt nhìn những lá vàng nhãn hiệu "Kim Thành" loé lên trong ánh chiều vàng vọt, tuyệt nhiên không thấy một vật trang sức nào của con người như vòng vàng, dây chuyền, nhẫn vàng. Chưa bao giờ ông lão đóng quan tài lại đóng một chiếc hòm to và kỳ công đến thế. Ông biếu không cho lão Ngư chôn con cá ở dưới chân núi Nam Giới.

... Tôi là người làm công tác bảo tàng, khi đi tìm hiện vật, nghe tin, đến xóm vạn chài thì lão Ngư đã thành người thiên cổ. Khi lão mất, ông già đóng quan tài chôn lão Ngư cạnh bên mộ con cá. Trên ngôi mộ của lão có tấm bia đá hình cây thánh giá. Nghe nói trong cơn hấp hối, mặc dù lão là người ngoại đạo, mọi người trong làng lại được nghe ngắt quãng nhưng rõ ràng là lão đang đọc kinh. Đây là lần đầu tiên trong đời lão đọc bài kinh bổn mà không biết lão đã học bao giờ với hai tiếng "amen" sau cùng nhoà đi trong nước mắt của mọi người. Khi tôi đến thăm mộ lão Ngư thì thật kỳ lạ: Những dây muống biển bên mộ con cá heo vắt ngang quấn lấy cây thánh giá trên mộ lão nở hoa rực rỡ. Bên những chùm hoa tím ánh lên một bông hoa đỏ như máu; và tôi nghe đâu đây tiếng người đọc kinh rì rầm trong tiếng đất, tiếng biển...

Vũng Tàu - Hà Tĩnh tháng 10.2002

Lũ Vịt Trời

Chuyện đã hơn chục năm nay, nhưng lão Khổ còn đau mãi tới giờ.

Vụ lúa chiêm năm ấy càng về cuối càng thuận. Đúng vào kỳ lúa đỏ đuôi, vòm trời thật nở nang. Nắng đến sướng. Nhờ ông trời cứ kéo cái nắng cho qua kỳ thu hoạch. Chỉ cần lôi được hạt lúa về nhà, còn sau đó chuyện phơi phóng là chuyện vặt. Từ đồng trên xuống đồng dưới lúa tràn cả lên bờ. Mỗi lần vác cuốc làm phép đi thăm đồng, lão Khổ lại khấp khởi mừng. Thật là trời giúp lão. Đúng vào năm lão nhiều công nhất thì được mùa.

Mà để có cái ngày sướng con mắt chẳng riêng gì lão, có gần ngàn dân làng Cổ đã từng héo gan, héo ruột. Những ngày ấy ruột lão tím bầm. Không biết còn mất mùa đến bao giờ. Nhổ lên cắm xuống có đến vài lượt mà vẫn chỉ thấy đất nổi váng. Mặt ruộng tím tái, se sắt như mặt người chết cóng. Nhiều người khôn ngoan khuyên lão sắm sọt chạy chợ. Lão lý lại:

- Hạt thóc chỉ có từ đất. Ai cũng chạy chợ cả thì rồi có lúc đeo vàng mà chết đói! Lão uý lạo vợ con, không có được chân trong, chân ngoài. Cả đời ông đời cha cho đến nửa phần đời lão chỉ thèm có đất. Vậy mà lúc có đất ở trong tay, lý gì lại không đào xới để thành giàu.

Bây giờ thì mọi vận hạn đã qua. Lão Khổ đứng giữa đồng lúa hít căng lồng ngực hương thơm ngầy ngậy ngòn ngọt, tâm hồn sảng khoái cực độ. Lão vốn không tin vào trời. Chẳng qua còng lưng ra mà đánh vật với đất, đào xới miếng ăn từ đất chứ cứ ngồi đấy chờ đến số, có mà giã họng!

Là một "lão nông tri điền", lão Khổ nhìn ngay ra công việc trước mắt. Lão tong tả vác cuốc về nhà, rửa ráy tươm tất rồi đi về phía nhà bí thư Đảng uỷ. Từ ngày Toản trúng bí thư, lão đâm ra ngại. Đành rằng chính lão dựng cơ nghiệp, lo vợ, con cho Toản. Nhớ lại cái đận dắt Toản đi hỏi vợ mà cực. Đến chỗ nào người ta cũng chê Toản xấu tướng. Cuối cùng lên búi, lên khóm do tài của ông mối. Rồi sòn sòn vợ Toản lòi ra một lũ con. Khi chưa trúng chân cán bộ nhất xã, đôi lúc Toản cũng ục vợ như thường. Cái thân loắt choắt ấy mỗi lần nhảy lên đấm vợ, lại ngã, thật đến tức cười. Vài lần vợ Toản mặt sưng húp dắt con đến bắt đền lão Khổ. Thỉnh thoảng đi đồng về lão lại tạt vào cho thằng cu nhớn củ khoai, bắp ngô, hay chỉ con muỗm lão vồ được.

Khi Toản lên làm bí thư, lão Khổ cũng cắt luôn cái sự đi lại. Chẳng phải lão sợ miệng thế gian dè bỉu "thấy người sang bắt quàng làm họ", mà từ lâu trong tâm sự của lão, lão giận Toản. Giận vì anh ta tham danh hám vị. Lão thừa biết rằng cái xã này vào tay Toản sẽ nát như tương. Lão thừa biết rằng ông chủ tịch Đặng mới là tay đáng mặt gian hùng! Ông ta đạo diễn cán bộ huyện dựng Toản lên để làm lá chắn cho ông ta. Sau lưng Toản, ông Đặng khoắng tay vào bị, vơ vô tội vạ. Vụ mất chục triệu đồng xây nhà máy đường biến mất, đã tưởng ông chủ tịch đi tù. Rồi ông ta chẳng làm sao, lại nuốt nốt cả tám máy bông sen. Dân tình phản đối thì ông chủ tịch tặc lưỡi: Đây là chủ trương của cấp uỷ. Mình tôi quyết định thế nào được.

Ngay như cái làng Cổ này, thật truyền đời bát cơm đầy có ngọn. Thế rồi núp dưới bóng Toản, một lũ ma cô, cường hào ngóc dậy, vừa phá vừa vơ vét. Đã thế không ai được nói lên sự thật. Một đội thanh niên do ban chỉ huy đội lập ra, chủ yếu dùng vào việc trả thù người dám đấu tranh. Nhẹ thì có "cây con" gì họ triệt bằng hết. Nặng hơn hoặc "tái phạm" có thể đang tự dưng như nhà động mồ động mả. Bếp, chồng lợn... cứ cháy đùng đùng mà chủ nhân đành chết cay chết đắng vì biết trước không thể tìm ra thủ phạm. Có lúc chính lão Khổ phải uất ức kêu lên: Dân đen còn khổ đến bao giờ?

Đang bước hăng hái lão Khổ đâm ra lưỡng lự khi sắp rẽ vào ngả nhà Toản. Vừa hay lúc lão đang loanh quanh thì Toản gọi to:

- Bác Khổ! Mời bác vào nhà. Gớm, bác khinh con cháu quá đấy.

"Tao tha không nhổ vào mặt mày chứ khinh". Lão Khổ thấy nghẹn ở cổ nhưng cố cười:

- Tại sợ ông bí thư mất việc. Các lão già chúng tôi thường hay lẩm cẩm.

Lão đưa mắt canh chừng hai con chó đang đỏ mắt vì bị xích. Lão khép nép ngồi xuống chiếc ghế tựa Toản tự tay kéo ra. Vừa rót tuần trà đầu Toản vừa hỏi.

- Bác xem lúa má năm nay thế nào?

Lão Khổ thừa biết Toản muốn kể công! Chẳng qua anh ta chưa nói thẳng: "Lão thấy chúng tôi cũng làm ăn được đấy chứ". Cứ nhìn mặt anh ta thì biết. Nó mở bung ra, mãn nguyện đến hợm hĩnh. Lão thì muốn hắt toẹt chén nước xuống nền nhà rồi đứng dậy. Nhưng nhớ đến mục địch của cuộc "viếng thăm" lão gượng cười, đáp:

- Có vẻ được mùa đấy... nhưng - Lão cố ghìm tiếng thở dài.

- Nhưng sao hả bác? Toản vờ ngạc nhiên - chỉ cầu trời khô nỏ cho ba tuần nữa, mà lúa thì bác thấy đấy...

Toản ra vẻ chăm chú chờ lão nói. Lão Khổ lại thừa biết rằng chẳng phải anh ta sẽ động não suy nghĩ trước ý kiến của lão. Anh ta chuẩn bị xổ ra hàng tràng tiếp theo những giảng giải về cơ giới vận đất, về nhân tình thế thái, như một thứ bệnh. Giọng lão Khổ nhỏ xuống.

- Kể cả ba giờ vẫn cứ mất.

Toản cười hết cỡ miệng.

- Các cụ thật khéo cẩn thận. Thôi được, theo bác thì nên thế nào?

- Tôi đến chơi anh cũng chỉ vì phải nói với anh vài nhời. Các cụ đã dạy "xanh nhà hơn già đồng". Trời thì nay nắng mai mưa, chẳng biết thế nào. Tôi xem số chân ruộng sớm đã vàng cả rồi, các anh nên có kế hoạch cho bà con kéo trước về được ít nào chắc ít ấy. Vả lại để ba tuần nữa thì gặt không kịp rụng.

Nét mặt Toản càng giãn ra như người nắm chắc bí quyết vấn đề. Với tay xé tờ lịch, Toản nói bằng giọng tự hào:

- Huyện định tổ chức tham quan xã ta. Thành phần là tất cả các cán bộ chủ chốt của mấy chục xã trong địa bàn huyện. Rồi các cơ quan huyện... theo kế hoạch thì nửa tháng nữa họ đến, Toản nhìn lão Khổ tủm tỉm, cháu muốn để các nơi họ thấy nguyên vẹn "kết quả làm ăn" của xã ta. Với lại chính anh Bùi cũng gợi ý như thế.

"Kết quả" vì ông Bùi chịu trách nhiệm về xã này chứ gì? Vì ông ta trót dựng lũ các anh lên, cứ lẹt bẹt mãi sợ lung lay đến ghế ông ta phải không? Lão Khổ muốn quát một thôi cho hả khi Toản nhắc đến cái tên Bùi. Một ông quan huyện chính cống! Chỉ lạ là mỗi bận kỷ luật ông ta lại tót lên cao hơn một bậc.

Tự dưng lão Khổ thấy vô duyên. "Thây kệ chúng mày! Đến lúc dân người ta đào mả chúng mày lên, đừng có trách".

Nhưng lão cấm chỉ vợ và con cái không được tham gia đón rước gì ráo! Có cái thói đâu chưa làm đã lo không thổi được nhau lên, ở đâu cũng "tốt đẹp" mà dân cứ đói nhăn ra thì không thấy ai hỏi.

Còn ba ngày nửa đoàn thăm quan đến xã. Loa đài gọi ơi ới, ỏm tỏi cả lên. Cửa hàng mua bán mang hàng vào tận làng Cổ, là điều xưa nay chưa từng thấy. Các loại cán bộ tự nhiên đâm ra tận tụy, hết lòng vì dân. Chẳng ai một lần chịu ngước trông trời. Đến khi cơn gió xoáy giật tung mấy băng khẩu hiệu thì chính lão Khổ thất sắc! Đánh nhoàng một cái bầu trời như toàn bằng đá! Mà đá thật. Đá trút xuống ào ào, khua lên mái ngói như sắp đổ sập tất cả. Đá đổ xuống thành lớp, dồn đống lại. Thôi thì đủ thứ kêu gào. Trẻ con nhảy lên vì được ăn đá, dùng đá xát lên mặt rồi xuýt xoa. Người nhiều công điểm như lão Khổ thì ngất đi được. Qua làn đá quất ràn rạt, hàng trăm cặp mắt thất vọng, căm tức hướng về phía những thửa ruộng đầy ắp, đang nát bét dưới tai vạ trời giáng!

Chỉ chờ dứt mưa, lão Khổ đâm bổ ra đồng. Hỡi ôi, lão úp tay lên mặt khóc rưng rức. Còn đâu là mùa màng nữa. Thay cho màu vàng óng là màu xám xịt của những cọng rơm ngấm nước rối vào nhau, đâm chổng lên trời như bị ai vò. Vạch gốc rạ, đưa tay sờ thấy một lượt thóc rải xuống bùn, tưởng ruột gan bị đâm bị rạch bằng gai.

Trong làn nước mắt cay đắng, lão Khổ thấy nếp nhà năm gian lão dự định xây bằng thóc thu hoạch vỡ tan như bong bóng.

Hôm sau lão Khổ đổ sập xuống. Có lúc mê sảng lão quát váng nhà:

- Miếng ăn kề mồm còn để mất. Ngu! Ngu!

Nhưng lão Khổ không được phép ốm lâu. Những lúc lăn lộn trên giường lão vẫn vắt óc tìm kế cứu vãn tình thế. Vốn là người phải vật lộ, giành giật miếng sống từ lúc bé, không dễ gì lão đầu hàng hoàn cảnh. Tới ngày thứ ba, cảm thấy đã đi lại được, lão bảo thằng Bình:

- Chuẩn bị mai đi với tao.

- Đi đâu hả thầy?

- Cứ biết đi, không phải hỏi.

Lão gọi bà Khổ cũng đang rầu rĩ hỏi xem lưng vốn còn được bao nhiêu. Lão nhẩm tính rồi quyết định bán đi chiếc nhẫn vàng hai đồng cân. Không ai dám gàn lão, từ tờ mờ đất bố con lão đã lọc cọc đạp xe về phía Thá. Không ai biết lão ốm gần chết.

Ở Thá, lão Khổ thấy không ăn nhằm gì, lại ngược Thường Tín. Rồi thấy bố con lão trở về, tay năm tay mười ra đồng thu hoạch lúa với mọi người. Đang giữa mùa mà làng Cổ như có dịch. Mặt ai nấy rầu rĩ ai oán. Các nơi khác họ cũng mất nhưng chỉ mất gọi là. Đa phần diện tích lúa sớm được họ lôi về nhà trước khi có mưa đá, chỉ riêng làng Cổ đau nhất bởi chỉ độc chân ruộng lúa.

Còn vài buổi nữa mới xong vụ mà lão Khổ đã có trong tay ngót nghìn con vịt thóc. Bố con lão quây vịt chật cả ao sau nhà. Bây giờ mọi người mới ngẩn ra phục tài lão. Rồi họ cũng bắt chước lão nhưng đành phải ăn giá đắt. Chưa đầy tuần sau, hàng vạn con vịt đã có mặt tại làng Cổ. Nhưng lão Khổ tính rồi. Hàng vạn con cũng chẳng thấm gì! Lão sẽ đuổi riết độ một tháng là có vịt thịt bán. Tính thật khiêm tốn mỗi con lão cũng vớt được dăm đồng. Có bốn nghìn tiền lãi trong một tháng, lão sẽ giật lại từ thiên tai hai tấn thóc. Đứa nào không tính được thế là ngu.

Ngay hôm sau lão Khổ hăm hở đến nhà đội trưởng. Lão sẽ tự giác đếm mức thuế đồng cho từng con vịt. Như mọi năm ban quản trị vẫn định mức thu mỗi con vịt năm hào. Năm nay lão Khổ định một đồng. Thế là đằng nào cũng có lợi mà lão có được miếng ăn, cũng nhẹ cái lòng với những người không tính được như lão. Ấy là lão mới định ra thế trong đầu. Lão đưa tay lần lần ngàn bạc trước khi qua cổng nhà đội trưởng. Đội trưởng đội sản xuất mới ngoài ba mươi đã có dáng cụ non. Mặt anh ta dài thuồn thuỗn, lồi lõm như mặt ngựa. Cái lưng cong xuống ở đoạn vai cộng với cặp mắt đỏ ngầu, cặp môi trễ xuống nom anh ta có tướng mạo thật gớm ghiếc. Lão Khổ chưa kịp mở miệng đã bị cái giọng xấc lấc của đội trưởng ghìm chân ở cửa.

- Ông ở ngoài ấy chờ tôi xong việc đã.

Lão Khổ nhẫn nhục, ngồi xổm trên bậc tam cấp, mắt mệt mỏi nhìn cơ ngơi của anh đội trưởng. Mang của công về đắp cho cá nhân quả là nhiều cái tiện. Cái tiện thứ nhất là cứ làm phứa đi, hỏng chỗ nào, đập ngay ra làm lại cho kỳ cho vừa ý.

Hầu như anh nào lên làm cán bộ làng Cổ cũng thế. Chỉ vài năm là đập nhà xây lại. Nhà trước cao hơn nhà mình thì xây hai tầng để được đứng trên đầu thiên hạ! Ông bí thư chi bộ đua với ông trưởng ban tài chính. Cuối cùng cơ ngơi của anh đội trưởng mặt ngựa này vẫn bề thế hơn cả.

Lão Khổ hẩy mép chua chát. Lão sờ tay vào bọc tiền, có ý sốt ruột. Trong khi đó đội trưởng đang ê a cộng nhẩm, nước dãi xều cả xuống áo. "Ba ba là chín... Tổng số năm trăm bảy mươi suất... a... vị chi là...". Anh đội trưởng toát mồ hôi tính vẫn sai. Lão Khổ ngứa tay vạch xuống đất nhân thử, lão lấy cớ xán lại:

- Vị chi là năm ngàn một trăm ba mươi...

- Cái ông này... khiến gì ông! Mà ông đến có việc gì thế? Lão Khổ chớp thời cơ nói một mạch ý định của lão về chuyện thuế đồng. Để chứng minh thiện ý của mình, lão rút phắt cuộn tiền.

- Anh nhận luôn cho ta chứ?

Đội trưởng nhăn mặt yêu cầu lão nói lại, chầm chậm thôi. Nghe xong lần thứ hai, anh đội trưởng ngẩn mặt ra, miệng lẩm nhẩm như phù chú ma quỷ rồi bỗng quắc mắt đứng dậy.

- Tôi nói cho ông biết thuế đồng năm nay sẽ là mười đồng một con... Nhưng tất nhiên làm việc gì cũng phải có sự bàn bạc. Đầu óc nông dân các ông chỉ biết tính lợi cho mình. Thóc của chúng tôi có đến hàng trăm tấn rải ngoài ruộng, ông bảo nộp một đồng mỗi con vịt, có hoạ chúng tôi ngu hết cả, chỉ mình ông khôn. Tối nay sẽ cho thông báo trước đội: Nhà ai có vịt, ngỗng... phải nhốt ở nhà trước khi có nghị quyết Đảng uỷ và chi bộ. Chứ người ta nghĩ như ông á, thà giải tán hợp tác xã cho xong. Thế thôi, ông về đi để tôi làm việc.

Cổ anh đội trưởng vươn ra, chĩa cái khuôn mặt lồi lõm về phía lão Khổ: "Cái thằng bố mày, ngu như bò ấy"! Lão Khổ rủa thầm. Lão bước nhanh qua chiếc cổng đắp nổi mấy con rồng. Tự dưng nước mắt lão ứa ra, chảy thành vệt xuống cổ áo.

Gần nửa tháng sau, qua ngót chục cuộc họp, lấy biểu quyết, vạch kế hoạch thực hiện, có cả quy kết nhau ác liệt về quan điểm, mức thuế đồng mới chính thức được ấn định: vịt thóc bảy đồng trên con, vịt đẻ bằng ngỗng thóc, tám đồng một con; ngỗng đẻ: chín đồng một con. Những gia đình có gà có người chăn dắt phải nộp ba đồng một con. Hợp tác xã miễn thuế cho số gà ăn tự do của gia đình ven đồng. Các bậc tham mưu lọc lõi tính thế này: Lấy số thóc bình quân thu được của vụ chiêm (năm ngoái) trừ đi số thóc thu được của vụ này ra số thóc bị mưa đã quất rụng xuống ruộng. Đem số thóc đó quy thành tiền theo giá chợ đen. Lấy tổng số tiền mỗi con vịt con ngỗng phải chịu. Như vậy mặc dù bị mưa đá, song do sự sáng suốt của lãnh đạo nên hậu quả của thiên tai được khắc phục nguyên vẹn.

Sau khi giải thích cho xã viên như vậy, đội trưởng hùng hồn tuyên bố: Đội đã đề nghị chiếu cố những gia đình chăn nuôi, rút đi mười lăm phần trăm mức thuế, chứ đằng thẳng ra mỗi con vịt phải mười đồng. Các chủ hộ có vịt, ngỗng ngay ngày mai nộp tiền cho đội. Ai cố tình chúng tôi không thiếu biện pháp.

Ngay lập tức một danh sách đội bảo vệ được lập và xướng tên trước đội: Mười lăm thanh niên to khoẻ, giỏi võ có nhiệm vụ không để một con vịt nào trốn thuế được phép xuống đồng. Tan họp về, lão Khổ không sao chợp mắt được. Ngoài ao, đàn vịt háo thóc kêu loạn cả lên. Buổi chiều lão đã đứt ruột đổ xuống năm cân thóc nhưng chẳng thấm tháp gì. Lão quyết định phải gặp lại Toản, hỏi cho ra ngành ra ngọn. Sao lại có chuyện đánh vào người sản xuất một cách phi lý thế này? Với mức thuế bảy đồng, lão có chăn thật giỏi, chịu đem bán chợ xa cũng còn lỗ trầy lỗ trật. Hoá ra đang dưng lão lại chuốc hoạ vào thân.

Rắp tâm cả đêm, sáng ra lão Khổ đến nhà Toản lúc ông bí thư vừa dậy. Nghe lão trình bày. Toản cười nhạt lắc đầu.

- Cháu cũng chẳng có quyền đi ngược ý kiến của tập thể. Bác có thể tin thế này: Tập thể luôn luôn làm những điều sáng suốt, có lợi cho mọi người. Bác xem tiền thuế có vào túi riêng ai đâu, lại của các bác cả đấy chứ đi đằng nào.

- Này, tôi muốn biết cái "tập thể" ấy là những ai? Lão Khổ uất quá nổi xung.

- Có những vấn đề bác chỉ biết là mình cần phải chấp hành, thế là đủ và cháu mong bác làm gương cho người khác. Chả gì...

Lão Khổ nhếch mép khinh bỉ khiến Toản không dám nói tiếp "chả gì cháu với bác cũng là chỗ người nhà". Lão Khổ định quay ra nhưng lão nghĩ thêm được câu hỏi nữa:

- Tôi hỏi anh, một con vịt cũng chỉ hơn chục bạc mà các anh bắt chúng tôi nộp bảy đồng, thì cái lý nó ở chỗ nào?

Toản cười đắc thắng:

- Thế ra tại cụ loanh quanh chưa thông quy luật sản xuất. Không ai bán hơn chục bạc con vịt khi chi phí đã ngần ấy cho mỗi con. Vậy thì tức khắc giá vịt thị trường phải tự điều chỉnh, để còn có người dám chăn vịt chứ? Đấy là quy luật "điều chỉnh tự nhiên" đấy bố ạ.

Đến lượt lão Khổ cười sằng sặc. Lão cười bằng cái tâm sự cay đắng đến tột cùng của lão. Lão cười là nghe như gầm, mỗi tiếng cười sẵn sàng cưa đứt ruột người khác.

- Các anh giỏi quá, giỏi quá! - Lão vẫn cười sằng sặc - Thật là hết chỗ nói.

Lão chắp tay lên ngực vái ông bí thư một cái rồi lẹo xẹo bước trở ra. Lão chợ thấy thương chủ nhiệm Hiếu. Đấy mới là con người đáng để lão vái bằng lòng kính trọng. Chính Hiếu chủ trương ưu tiên đặc biệt những gia đình chăn từ 300 con vịt trở lên, bằng cách từ con 301 không đánh thuế. Vậy mà Hiếu đành cô lập, chịu để bị dè bỉu khi anh ta đề nghị giữ nguyên thuế đồng như mọi năm.

Lại những đêm lão Khổ thức trắng. Lão đã từng chăn vịt chia với nhà chánh tổng những năm trước cách mạng. Một mình một thuyền, lão làm chủ cả mấy cách soi trên soi dưới. Chánh tổng bỏ tiền mua vịt còn lão bỏ sức và tài nghệ sông nước. Đã chăn chia phải chăn hàng ngàn con mới bõ. Vịt của lão thả tự do như vịt trời. Đến khi thịt được, Chánh tổng cứ đè ra cắt đôi. Số vịt ban đâu, không cần biết chủ đàn vịt còn được bao nhiêu, ấy thế lại còn được cái sòng phẳng! Tuy thế suốt đời trẻ, lão thuộc diện cùng đinh nhất. Sau cái đận vỡ cống Vọng, vịt của lão trôi tất, lão mới chịu bỏ nghề.

Ngoài ao đàn vịt đó ăn đóng đến sốt ruột, lão biết cái giống vịt thóc này đói ăn vài bữa coi như hỏng. Dù sau đó có tắm bằng thức ăn cũng không thể "to cái" được, người mua chỉ cần dùng tay bóp nhẹ đoạn ngang nách con vịt liền bỏ sang hàng khác dù có chèo kéo mấy.

Chợt lão Khổ thấy loé lên một ý nghĩ bất ngờ. Lão rón rén trở dậy. Cái bản lĩnh được tôi luyện trên đường vật lộn kiếm sống từ bé, trỗi dậy trong lão. Lão lay gọi thằng Bình, bấu thật đau cho nó tỉnh hẳn, thì thào vào tai nó mấy câu. Thằng Bình bật dậy dụi mắt mấy cái thành tỉnh như sáo. Không hề có tiếng động, bố con lão Khổ lần về phía đàn vịt.

Trời sáng trăng suông, và đủ để nhìn thấy đường. Cách nhau một đoạn không trông rõ mặt, loái cái, bố con lão Khổ đã lùa đàn vịt gần ngàn con êm nhẹ ra đường cái. Bản năng kiếm ăn của loài vịt thật tuyệt vời. Hình như chúng biết có cái gì đóng vụng trộm nên cắm đầu chạy thẳng về phía đồng. Sương buông xuống mênh mông. Chỉ có tiếng chân rạ cọ vào nhau lào thào với tiếng âm ỉ dâng lên từ đất của lũ côn trùng.

Đàn vịt ùa xuống ruộng và từ đó vọng lên tiếng mò thóc xè xè, tiếng reo thích thú đầy vẻ khoái chá của lũ vịt đói gặp mồi.

Lão Khổ kéo con ngồi xuống, đưa tay rà lên mặt ruộng. Thóc vẫn một lượt, đa phần đang nảy mầm. Chỉ cần mỗi đêm bố con lão chịu vất vả một tiếng là ổn. Lão bảo con canh một đầu, còn lão canh một đầu. Lão như mơ màng trong tiếng nổ lép bép, dâng lên sự hy vọng. Lão lại nghĩ đến hai tấn thóc bị trời cướp mất. Lão sẽ giật lại bằng mồ hôi sức lực của lão. "Bà mày ạ, tôi không xây dựng cho bà mày năm gian nhà to nhất làng, tôi nhắm mắt chưa yên".

Lão Khổ bỗng giật mình. Quanh đâu cũng có tiếng vịt ăn. Lão dỏng tai lên nghe thì cũng vừa có tiếng hỏi lào thào:

- Ông Khổ đấy phải không?

- Ai... đấy?

- Con đây... Trung đây.

Trung đã bò đến gần lão, dỏng tai lên nghe động tĩnh rồi thì thào:

- Nhiều thóc quá. Đàn cứ tròn lại như cái nong.

- Mấy đêm rồi? Lão Khổ cũng thì thào hỏi lại.

- Một tuần!

- Có ai biết không?

- Những người có vịt, chỉ ông là không biết thôi.

- Tao chịu phục tụi mày. Thảo nào!

- Biết làm sao được. Thóc thì bỏ thối mà ngày nào cũng phải xúc ở cót đổ xuống ao, xót lắm. Thôi ông ngồi đây, cháu ra chỗ bờ kia kẻo có con nào lãnh đàn, kêu toáng lên thì khốn.

"Thảo nào..." lão Khổ ngồi bó gối nghĩ. Chúng nó ranh hơn mình. Lão chịu mất ngót tạ thóc oan vì không nghĩ được sớm như tụi nó. Lão định lần theo đàn vịt thì một hồi tù và rúc lên ghê rợn. Đúng ba hồi như thế đều nhau rồi đổ hồi dồn dập theo hiệu lệnh báo động có cướp thời xưa. Cùng lúc ấy có tiếng chân người cắt qua ruộng lọp bọp, gậy gộc, tua tủa chĩa lên trời. Tiếng đội trưởng đanh thép:

- Quây chặt! Không cho một con nào thoát.

Ánh đèn pin quét loang loáng. Một luồng ánh sáng dọi thẳng vào mặt lão Khổ. Đội trưởng cười đắc thắng.

- Ông khôn làm sao bằng chúng tôi.

Lão Khổ uất sặc máu, lão gầm lên:

- Bởi vì tao không ăn cướp được nhiều như mày...

- Chưa biết ai ăn cướp - Đội trưởng quay sang mấy anh bảo vệ - Lùa gộp vào. Anh nào chống lại, trói!

Hơn bốn ngàn con vịt bị trộn lẫn kêu váng cả đồng. Một chiếc ràng khổng lồ đã quay sẵn ở sân kho để bảo vệ lùa lũ vịt "phạm pháp" vào đó. Các chủ vịt chạy theo van như tế sao. Riêng lão Khổ không thèm xin nửa câu. Lão được chiếu cố có tuổi tác, tha cho về còn lại cánh chủ vịt bị nhốt làm mồi cho muỗi.

Sáng hôm sau một nửa làng đến nhận vịt mỗi con vịt chịu phạt hai đồng và mỗi chú vịt phải nộp phạt 20 cân thóc. Thằng lùa vịt về ao, đếm đi đếm lại thiếu mất 17 con. Chúng tơi tả bẩn thỉu như vừa dính trận mưa đá cực lớn. Lão Khổ nén lòng đợi đến phiên chợ, nhờ người đem bán một chuyến. May cho lão vùng đồng ngoài không bị cấm nên lão bán được giá. Tính chi ly lão lỗ nửa tạ thóc và số tiền phạt.

Không còn ai chăn vịt, đội bảo vệ được phép giải tán. Chỉ còn lại mấy anh chuyên trách có nhiệm vụ cắm thêm biển "cấm đồng" và đề phòng vịt làng khác thả trộm. Thi thoảng có tiếng tù và vác rúc vào tầm giữa trưa. Đấy là sáng kiến của anh bảo vệ nào đó nhằm phân biệt vịt nhà với vịt trời. Nếu vịt trời, nghe tù và cả đàn sẽ nháo nhác bay lên. Mặc dù sau đó những con vịt không ai cấm, béo núng nính lại sà ngay xuống, nhưng anh bảo vệ chỉ cần biết đấy không phải là vịt nhà.

Sau mấy tháng chờ đợi, một hôm lão Khổ đọc trên báo thấy vấn đề lão thắc mắc. Lão nhìn cánh đồng trắng nước thở dài. Chẳng ai còn thấy những tấm biển cấm đồng đâu cả. Tuy thế lão cũng đọc gần thuộc lầu bài báo, nhất là câu cuối: "Chính việc làm của Bí thư Đảng uỷ và đội trưởng đội sản xuất số 9 mới là trận mưa đá huỷ hoại sản xuất nông nghiệp".

"Muộn quá!" Lão tiếc rẻ. Tuy vậy lão cũng thấy hả dạ được phần nào. Tiện qua chợ lão ghé mua đôi vịt. Lão nghiến răng khi đếm tiền trả. Nghe lão kèo nhèo, mấy anh buôn vịt chuyên nghiệp trả lời bằng giọng tỉnh bơ:

- Tôi có bảo vịt năm nay rẻ đâu. Nhưng thưa bố, sắp tới cũng không có mà bán. Thiếu một đồng một hào, xin bố để vịt lại. Muốn rẻ thì chỉ có vịt trời, lên đấy mà mua. Năm nay ở vùng này chỉ được mùa vịt trời...

Tự Do Hành Trình Gian Nan

Đến hải phận rồi, anh “nái” đi. Người tài công, cũng là chủ tàu – một thuyền đánh cá chưa đầy 12m chiều dài, chòng chành, ọp ẹp – niềm hãnh diện của hắn: Ghe ba “đầu bạc” (máy mạnh, có khả năng đi xa ). Hắn lui ra sau, tôi ra hiệu bảo hắn tiếp tục lái, “lấy 23 độ tây nam”, tôi nói. Tôi rùng mình nghe rờn rợn luồn vào sau gáy, chạy dọc sống lưng ! Lần đầu tiên trong đời điều khiển Con thuyền, gần trăm sinh mạng nương tựa vào tôi.

    Từ Phước Tỉnh, hắn vào Sài Gòn cưới vợ thành thị. Do người bạn tù vượt biên môi giới, tôi quen được hắn, tôi loè hắn nói không ngượng mồm, rằng tôi học giỏi, nói tiếng Anh giỏi, giỏi nghề đi biển, hắn chỉ lái tới hải phận, sau đó mình tôi “bao dàn”, tới Mã ngay chóc. Tôi cố thuyết phục hắn cho chuyến đi này, vì đã nhiều lần tanh bành tù tội, hắn tin tôi lắm, còn cho bớt nửa cây vàng nữa, mỗi đầu người hắn lấy 3 cây. Hắn mười mấy năm “đi chã” (đánh cá ngoài khơi ), kinh nghiệm dầy dạn, còn tôi vừa mới học lóm được vài điều sơ đẳng từ đứa cháu học trường Hàng Hải Thương Thuyền, cháu dặn: “ Cậu lấy 23 độ tây nam khi tới hải phận quốc tế để đến Mã nếu đi từ Vũng Tầu, biển mình sâu chừng 60 fathom, tháng tư tây có gió Monsoon (gió nồm), trời tháng ba bà già đi biển mà cậu !”

    Hành trang mang theo của tôi còn cuộn dây dài gần 60 sải, có một cục sắt nhỏ ở đầu dây để dò nông sâu đáy biển, một ít lương khô, sắm cái ống nhòm và hai viên hỏa pháo.

    Đi hơn một ngày đường, người tài công reo lên: “Đến rồi, đến rồi”. Sao mà mau thế, tôi không tin hỏi hắn: “ tàu em chạy mấy hải lý một giờ?”. Hắn nhăn nhó lắc đầu cười hềnh hệch. Tôi móc trong túi ra cuộn dây, thả xuống biển, hết cả cuộn dây mà có cột cục sắt vẫn chưa đụng đáy. Tôi la lên thuyền quay lại hướng cũ.

    Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chính hắn hớt ha hớt hải la to, bảo rằng thuyền đang đi ngang qua Côn Đảo, mọi người nằm rạp xuống. Mấy thanh niên vội giăng lưới lên, giả làm thuyền đi đánh cá. Phải vài tiếng sau, núi đồi Côn Đảo mới mờ dần trong tầm mắt. Giã từ quê hương yêu dấu !

    Lúc ở nhà tôi vò đầu suy tính, đi Thái Lan thì gần, nhưng sợ hải tặc, bọn chúng tàn ác, qua Phi hay Nam Dương, phải vượt đại dương, đi Mã, chọn lựa sau cùng. Bốn ngày đêm đã qua, mịt mờ bờ bến, chỉ toàn nước trời mênh mông. Dầu đã cạn cùng với lương khô và nước uống. Đàn bà, trẻ con, người già yếu, rũ rượi la liệt ngổn ngang nằm trên mạn thuyền, vài ngày nữa mà không đến là chết cả thuyền. Vì công an theo dõi ngặt ngèo, sơ hở một tí là bị tóm ngay, nhiều người phải mang dầu đi chôn. Riêng tôi dặn hắn lấy ruột tượng đựng lương khô, bỏ dầu vào bao nylon, quấn ngang người, tải từ từ lên ghe, ròng rã nhiều thàng trời mới mang được chừng năm ngày dầu. Biển lặng, có gió nồm thổi xuôi Nam.

    Xa xa có một con tàu, lấy ống nhòm ra chỉ thấy được một khoảng cách vài thước, bèn bắn pháo báo nguy, pháo xịt cả hai viên ! Tàu lại gần hơn, mọi người vẫy tay khẩn nài. Những cánh tay rã rời buông xuống, tiếng kêu tuyệt vọng dâng lên, tàu hải tặc đụng vào mạn thuyền chúng tôi, mấy tên đen ngòm, tóc xoăn, mắt trắng dã, mặt như quỷ dữ man rợ rợn người, quấn loại sà rông sắp tụt, lâm râm van vái, có tên còn lần tràng hạt ! Sau màn cầu nguyện, chúng la hét, sấn sổ nhẩy qua ghe chúng tôi, mã tấu, súng dài bắn loạn xạ.

    Chúng lùa trai tráng vào góc thuyền, phụ nữ người già lùa vào một nơi. Chung nắn, bóp, xé quần xé áo, lột cả nịt ngực quần lót ra xem ! Tháo nhẫn dựt giây chuyền, bứt bông tai, miệng hét, tay nắn, chân đạp, đồng bọn đứng gác lăm le nổ đạn. Chúng dùng dao rạch các túi hành lý, lục lọi tung toé, chọn những thứ gì có giá bỏ vào những túi lớn chúng mang theo. Sau đó quay sang đánh đập, khảo tra đám trai tráng. Không ai dám chống, trẻ nhỏ cũng im thin thít, ai nấy im lặng chờ những nhát chém lạnh như thép phậm vào sau gáy.

    Bỗng có chiếc thương thuyền đang tiến lại gần, bọn hải tặc lơ láo vội rút đi. Thương thuyền lướt qua, nhiều người quỳ xuống van lậy, xì xụp kêu gào, tế như tế sao ! Chiếc thương thuyền vẫn lặng lẽ rẽ sóng, để lại sau lưng nhiều lọn sóng cao, thuyền con chúng tôi như muốn lật nhào, tiếng khóc òa lên, vật vã kêu gào, thần chết chập chờn lởn vởn !

    Gần năm ngày đêm ròng rã, chỉ toàn mênh mông biển rộng, biển xanh liền với chân trời. Mây vàng đỏ ối nơi cuối chân trời, có bầy hải âu bay lượn, người tài công reo lên, nói rằng thuyền đã gần đến bờ, hắn bỏ tay lái để chỉ cho mọi người nhìn rác rến trôi lềnh bềnh trên mặt biển. Tôi lấy cuộn dây trong túi thả xuống nước, một nắm dây vẫn nằm trong lòng bàn tay, mà đầu dây đã chạm đến đáy biển. Tôi lẩm bẩm “ba mươi fathom, đến thật rồi !”

    Tôi cho thuyền chạy hướng chính tây để đâm vào bờ, gần nửa đêm nhìn bằng mắt thường cũng thấy đất liền, ánh đèn lập loè, tử thần đã đi qua ! Khôgn cặp thẳng bờ, tôi cho thuyền xuôi nam song song bờ biển, lánh xa vùng Bắc Mã có du kích Mã Cộng. Dự định vào đến bờ phải gặp ngay các cơ quan thiện nguyện và giới truyền thông, lọt vào tay bọn lính biên phòng, trước khi truyền thông biết là đại họa: Thuyền bị đục thủng, hút cạn hết dầu, cho tàu chiến kéo thuyền tị nạn ra khơi, chặt đứt dây. Nhiều thuyền đầy ắp người, bị kéo ra giữa khơi mùa biển động, rồi sau đó chẳng ai nghe gì về những con thuyền bạc mệnh ấy !

    Trời đã sáng nhìn rõ mặt người, dầu cũng hết, tôi cho thuyền vào bờ, thuyền cặp bãi cát của thành phố nghỉ mát Kuantan một buổi sáng đầu tháng 6 năm 1980, bãi vắng hoe, thành phố còn thiu thiu ngủ. Mọi người chạy ùa lên bãi cát, gặp ngay anh Mỹ đen, tôi khẩn nài nhờ anh giúp. Một lát sau anh quay trở lại cười báo tin vui rằng anh đã gọi được nhiều nhà báo, báo với cả Liên Hiệp Quốc, anh còn cho một cây thuốc lá Mã Stuf, ân cần dặn dò và chúc may mắn. Tôi ngậm ngùi xiết chặt tay anh.

    Chiếc thuyền cưu mang chúng tôi đã chìm hẳn, nếu không thì tôi cũng phải đục thủng nó, mọi người yên lòng: thuyền đã chìm, đã gặp được nhiều nhà báo, bọn Mã không dám đẩy chúng ta ra lại ngoài khơi. Mãi quá trưa quân đội mới tới, bốn tên lính Mã quân phục xộc xệch, đi dép nhựa, đeo súng săn, tay cầm gậy dài, hỏi chúng tôi ai là người trưởng đoàn, đập vào đầu tôi mấy hèo dằn mặt ! Không đau đòn, nhưng đau lòng, tủi phận. Sau này trên đường đi định cư Hoa Kỳ, tôi được ghé Hồng Kông để đổi máy bay, bọn chúng tôi rách rưới. Mấy tên cảnh sát phi trường dùng dùi cui xua đuổi, hăm dọa đánh đập những ai đi ra khỏi chỗ ngồi qui định. Ai đã đưa dân tộc Việt nam đến tình cảnh khổ nhục này?

    Pulau Bidong là một hoang đảo ở giữa đại dương, rộng vài cây số vương, lởm chởm núi đá, mấy chục ngàn người chen chúc, dựng lều ven vách núi chui rúc, lúc cao điểm gần 60 ngàn người. Trước ngày tôi đến đảo vài tháng, thế giới đã phải kêu lên rằng “ có phép mầu, bệnh dịch mới không xảy ra”.

    Ban ngày người ta chen nhau đi như buổi chợ phiên, bụi mù mắt, nắng cháy da, tiếng ồn ào như vỡ chợ. Có những vùng đất trống, phân người và nước tiểu lầy lội lên đến mắt cá, ruồi nhặng vù vù bay kín trời, mùi hôi thối nồng nặc, nắng trưa khắc nghiệt tăng độ nồng, cơn gió nóng thổi qua, đẩy dội ngược lại đằng sau, những ai hít phải sặc sụa cúi gập người xuống ôm ngực. Chuột từng bầy, to bằng bắp chân trẻ con, trụi lông, thân mình đỏ lòm lở lói, hai cục hạch to bằng hai viên sỏi, khệnh khạng di chuyển chậm chạp lền khên, nhìn thấy lần đầu nhiều người nôn mửa ! Dọc theo con suối cạn, xác chuột nằm rải rác kín hai bên bờ, đi hứng nước tắm phải khéo lắm mới không dẫm phải xác chuột đã sưng vù. Hằng ngày nhiều thanh niên đi nhặt xác chuột bốn năm cần xế bự đầy vun tới bốn năm thanh niên lực lưỡng khiêng mới nổi.

    Trong trại, những băng đảng nổi lên cướp bóc, hãm hiếp, mãi sau nhờ lính Mã tăng viện mới dẹp được. Những tranh giành lều chiếu, nơi ở tiện nghi, rồi nào tham ô, những lạm với những đổi chác để mong sớm được rời đảo. Có chợ mọc lên buôn bán, hàng hóa lính Mỹ đem qua từ đất liền, tiệm ăn, quán cà phê mọc lên ven bãi cát. Những máy tàu cải chế thành máy phát điện, gạo tẻ và khí đá chế thành rượu để uống say mèm quên đời lưu vong.

    Thời gian tạm trú trên đảo thường thì trên dưới một năm, một năm cũng là dài đăng đẳng ! Những cuộc tình vội vàng, chắp nối nở rộ. Lộng ngôn mới gọi đó là những cuộc tình, thật ra chỉ là những chung đụng thân xác, được vài ba tháng thì lại chia tay nhau, mỗi người đều có phận riêng. Thuốc ngừa thai được Liên Hiệp Quốc phát không rộng rãi. Thế nhưng vẫn có tiêng khóc chào đời, tiếng khóc dư thừa ngoài mong đợi. Chưa kể những thai nhi bị xóa đi dấu vết sau “những cuộc tình trên đảo”...

    Ở Bidong tôi làm việc trong phòng điều tra tội ác hải tặc, tôi thường phỏng vấn đồng bào tị nạn khắp nơi dạt vào đảo, xin kể ra đây những cảnh Kinh hoàng, tất cả là sự thật, vì trí tưởng tượng của loài người không thể nào có thể dựng lên, dù chỉ bằng phần nhỏ, những chuyện tôi sắp kể...

    Có thuyền trôi dạt, đáp vào bờ cát Bidong, thuyền gần trăm người, chết còn mươi mạng, chết vì đói, chết vì khát, bị hải tặc chém đầu ném xác xuống biển cho cá dữ rỉa thây. Có thuyền bị cháy nám, lờ đờ trôi gần đảo, con thuyền ma không còn ai cầm lái, thanh niên Bidong chèo ghe ra kéo thuyền vào bờ cát, thuyền còn lại mươi người thoi thóp, nằm la liệt trên mạn thuyền, xác người ngổn ngang bốc mùi, có những bé thơ chết hồn nhiên nằm ôm vú mẹ. Có bà mẹ được dìu xuống bến, vẫn ôm chặt đứa bé trong tay, bỗng òa lên khóc, đứa bé đã chết từ lâu, bà vật vã gào thét không ra tiếng khóc, bà vẫn mớm con bằng chính nước dãi của mình, bà vẫn lấy nước tiểu của con, vàng khè quánh đặc, để rửa kinh trong những ngày có tháng !

    Có mấy em gái khệnh khạng, áo quần tả tơi, bê bết vết máu đã khô đen, lờ đờ lảo đảo lên bờ trên cát, em chợt ngồi xuống ôm mặt thều thào gọi mẹ cah, em khóc không ra nước mắt. Lúc sau tỉnh lại, em gặp được mẹ được cha, được cả anh và cả thằng em trong đống xác người vừa mới được chuyển từ thuyền lên bãi cát, những cái xác tô hô nằm trên cát nắng thiêu người, không manh chiếc rách để liệm ! Có mấy bé trai, vùng dậy sau khi được mớm sữa, bé chạy tung tăng đi tìm cha mẹ, những người từ tâm ôm em vào lòng dỗ dành bảo rằng em sẽ được gặp lại cha mẹ !

    Vài người sống xót chẳng hiểu vì sao mình hãy còn sống, nghẹn ngào kể lại chuyện đau buồn, hải tặc bắn xối xả vào thuyền, nhiều người đã bị chết ngay lúc đó, nhiếu người hốt hoảng nhảy xuống biển, mùa biển động cá dữ đói ăn, nghe mùi máu tanh kéo đến từng bầy, vẫy vùng giành nhau phanh thây xé xác, thịt xương, áo quần, ruôt gan lóng thòng, nổi lềnh bềnh trong vũng nước đỏ ngầu, chỉ trong khoảng khắc bầy cá dữ tha đi hết thịt xương, để lại đại dương một vùng nước đỏ ngòm. Bắn xong chúng nhẩy qua thuyền, chém loạn cuồng, mã tấu bửa xuống đầu, chẻ lên vai, phạm ngang lưng, đâm vào bụng, ruột lòi ra lóng thòng trắng hếu ! Máu đỏ từng vòi phun tung toé.

    Tay chém, miệng gầm, áp đảo xong chúng bắt đầu cướp, lùa đàn bà con gái xuống khoang thuyền, những thân gái bị quăng quật, xé nát áo quần. Bọn chúng dành nhau những thân gái yếu đuối ! Những xác thân trần truồng quì xuống van lậy, chúng vẫn cười đùa chẳng tha, nhiều cô nằm thoi thóp, chúng lấy dao chích máu, rạch đùi, cắt đầu nhũ hoa, đam vào hạ bộ cười hô hố. Trước khi bỏ đi còn mang theo vài người nhan sắc, đem bán cho những thanh lâu, hay đem đến một cái hải đảo hoang vu nơi có sào huyệt của bọn chúng, nhốt ở đó để thỉnh thoảng ghé vào hành hạ, chán chường thì đem đi bán, hoặc bỏ trôi trên biển, khi chúng cướp thêm được gái mới.

    Báo chí có loan tin, vài cô trốn được kể lại những chuyện thương tâm. Hải tặc thường đâm thủng thuyền, đốt phá, tạo kinh hoàng rồi cướp bóc, cướp tất cả giết nhiều người dù không chống cự, hiếp cả người già...Sau đó cho đánh đắm thuyền để phi tang, nhiều người may mắn dạt được vào bờ thác loạn thần kinh, ngập ngừng không trả lời câu hỏi rằng đã có ăn thịt người chết để sống không? Không chắc...vì trong cơn thoi thóp có người mớm cho ăn, cũng chả hiểu tại sao còn sống được !

    Có những thiếu phụ mất tất cả chồng con, ôm trong lòng cái thai oan nghiệt. Có những ông chồng còn lại một mình lầm lủi. Những em nhỏ côi cút nước mắt chưa khô không còn ược sống hồn nhiên, có những bé trai khôi ngô mắt sáng sống đời ám ảnh cảnh mẹ, cảnh chi  bị dày vò, có những em gái đẹp hiền dễ thương, sớm bị đọa đày sống đời buông thả. Ít có gia đình còn được đầy đủ, dọc đường mất mát. Hay lúc ra đi không thể đi chung phải phân tán nhỏ để lỡ có bề nào còn chỗ nương tựa. Bên cạnh những buông thả cuồng loạn, cũng còn những thủy chung,mực thước, đời sống đơn sơ đạm bạc, nhìn về tương lai.

    Bidong được chia ra làm nhiều nơi cư trú. Khu C có bãi cát vàng, nổi lên những quán cà phê, cuối bãi có ngọn núi trọc, nơi an nghỉ sau cùng của những người chưa tìm được tự do đã vội đi vào lòng đất, nơi đây cũng là nơi an nghỉ của những cái chết đau thương. Bidong trước ngày đóng cửa vĩnh viễn đã là nơi xẩy ra những cuộc biểu tình đẫm máu của những người bị cướp đi quyền tị nạn, có nhiều người đã tự mổ bụng mình hoặc tẩm dầu thiêu rụi xác thân cháy như ngọn đuốc tự do, quyết không trở lại quê hương ngục tù.

    Có nhiều trăm ngàn người đã bỏ xác trên biển đông, cũng có hàng trăm ngàn người đã chịu nhục nhằn, nhưng cả triệu người không chùn bước lũ lượt ra đi, triệu người muôn đời không phủ nhận quê hương, muôn đời hãnh diện tổ quốc, tự hào dân tộc. Chúng tôi chỉ phủ định chế độ nên chúng tôi ra đi, coi nhẹ nguy hiểm, khinh thường cái chết, lánh xa bạo quyền.

    Mảnh đất tạm dung sẽ đến nếu là hoang vu cằn cỗi, nếu là sa mạc buồn tênh, liệu có triệu người bất kể sinh mạng liều chết ra đi? Tự do chất chứa cái quyền được sống là người, nhân quyền ấp ủ cuộc sống no lành.

    Đường đi tới tự do gian nan, phủ đầy máu lệ, thịt xương vương vãi dọc đường. Những gì thuyền nhân Việt nam đã trải qua chưa một lần xảy ra trong nhiều nghìn năm lịch sử loài người.

Chờ Rác Biển

Trên đường vượt biển , nhiều khi người ta nhìn thấy dấu hiệu sự sống , dấu hiệu của đất liền trong rác rưởi.

    Tôi chờ rác biển còn hơn chờ người tình đến. Lần thú nhất tôi thấy đám rác chỉ là những chiếc giầy cao gót của phụ nữ. Tôi vừa mừng vừa sợ. Sợ vì gàn đấy có thể có ghe đắm. Mừng vì đó cũng có thể là có một bãi cát nào rồi. Lần thứ hai thì cái đám rác đó lại có đủ thứ như giấy , lon , chai lọ , dừa khô , mấy tàu lá chuối còn tươi nữa thì cái niềm hy vọng nó càng lớn , nhưng cuối cùng cũng chỉ là mừng hụt...

    Tôi đi tất cả ba lần. Hai lần trước tới điểm hẹn thì ghe lớn không tới , lại phải trở về. Cứ chuẩn bị xong xuôi lại đình. Chờ đợi rất mệt tim. Tụi du kích , công an địa phương chúng nó “căn me” dữ lắm. Dễ gì qua mắt tụi chúng. Mua thịt về làm chà bông không đi được lại ăn hết. Ăn hết rồi làm lại , chờ họ báo để chuẩn bị đi.

    Lần thứ ba họ chỉ báo trước có hai ngày thôi. Cũng như hai lần trước , tôi không mang nhiều đồ. Ba người chị cản trở tôi quá mà tôi vẫn đi. Tôi là con Út trong gia đình. Má tôi mất từ hồi tôi mới được chín tháng. Má tôi có báo mộng cho bà chị thứ hai của tôi bảo con Út đừng có đi. Đi chuyến này khổ lắm. Nhưng tôi đã quyết định rồi. Chị Hai tôi có nhờ bà dì năm nỉ tôi ở lại nhưng tôi vẫn nhất định đi là đi. Tôi cũng thấy không có nao núng gì. Còn ba tôi thì mới mất. Thế là tôi không còn gì để luyến tiếc Sài Gòn nữa , mặc dù tôi rất khổ tâm bỏ ba người chị ở lại. Hơn nữa tôi lại có hai ông anh đang ở Mỹ rồi.

    Cứ nghĩ tới đồng lương , tương lai tù túng , mịt mù , ngày hôm sau cũng như ngày hôm nay , chán nản vô cùng. Tôi làm kế toán cho Hợp Tác Xã Cơ Khí.

    Trước khi đi tôi cũng nhờ ông thầy khá nổi tiếng chấm tử vi. Thấy bảo đến 52 tuổi tôi mới đi được. Không ngờ số 52 nó trùng với ngày sống dở chết dở của tôi trên biển thôi. Ông còn nói lấy chồng tôi sẽ bị trắc trở tình duyên. Lúc đó tôi chỉ nghĩ đến chuyện đi thôi , còn lòng dạ nào mà nghĩ tới duyên nợ. Nghe ông ấy “phán” về nhà nản quá , nhưng tôi đã nhất quyết đi rồi. Tôi thử cãi số xem sao.

    Tôi tình cờ gặp lại cô bạn cũ ở Trà Vinh đã lâu rồi không gặp. Cô này cũng quen một cô ở Trá Vinh bán vải. Cô ấy đang sửa soạn vượt biển. Tôi phải quyết định trong có ba ngày. Tôi không biết mặt cô ấy , và cô ấy cũng không bnieet1 mặt tôi. Cứ thỏa thuận và tin nhau thôi.

    Tôi tìm đến nhà cô ấy vào một buổi chiều mưa tầm tã. Tôi mặc một chiếc quần đen và một chiếc sơ mi sọc. Tôi mang theo mì gói, củ sắn , sâm caoly , hai hộp sữa đặc , và hai bốn viên thuốc chống say sóng.

    Khoảng hơn một giờ đêm tháng 9 năm 1989 , có hai chiếc Honda chở tôi , chị Nguyệt và một thằng bé. Lúc đó lạ lắm. Trời tự nhiên tạnh mưa. Tôi rất mừng vì dù sao cũng là điềm lành.

    Hai người thanh niên chở chúng tôi tới một cây cầu , rồi thả chúng tôi tại đó , và bảo sẽ có người liên lạc để đưa ra ghe lớn. Lúc đó tôi cũng thấy có bốn người đang chờ. Sợ kinh khủng. Chờ mà tim cứ đập thùm thụp. Thỉnh thoảng có xe hàng hoặc có người , mình lại phải nấp xuống gầm cầu gần đó.

    Rồi cuối cùng tôi thấy có ánh đèn pin lia đi lia lại. Biết là “phe mình” mà vẫn cứ hồi hộp. Chúng tôi thấy một ông già và ông ấy đưa chúng tôi xuống ghe. Trên ghe tôi thấy có bó mía.

    Tảng sáng thì tôi thấy có thêm ba chiếc ghe nữa cũng đang chờ ở đó. Chúng tôi lấy vải che kín cửa ghe. Ngồi chờ cả ngày rồi mới được bốc ra ghe lớn. Tôi thấy người ta cũng kéo lên ghe một cái xuống ba lá đựng mấy cần xé củi nữa. Tôi cũng chẳng biết họ mang theo xuồng để làm gì. Thế là chiếc ghe lớn rời địa điểm đổ người. Không có chuyện gì trục trặc. Tôi cũng mừng trong bụng.

    Có một buổi tối tôi nghe thấy ông Tư , người chủ ghe nói với anh tài công là phải châm dầu đều đều không thì máy tắt liền , vì máy đã cũ rồi. Tôi nghe lén thôi , điều này làm tôi hơi ơn ớn.

    Trên ghe có hai thanh niên tên Dũng. Một anh là Dũng quăn , vì anh này có mái tóc xoăn tít. Còn anh Dũng kia là anh tài công.

    Ngày thứ hai thì tôi để ý đến anh tài công để mắt đến một cô gái khá xinh. Hai người cứ quấn quýt lấy nhau như “sam” , trò chuyện huyên thuyên. Quả nhiên cái điều tôi ơn ớn vào ngày thứ ba nó là sự thật. Anh tài công mải nói chuyện với cô gái nên quên châm dầu vào máy , thế là máy chết ! Loay hoay mãi máy cũng không chạy. Mọi người lo sợ không thể tả được. Có một thanh niên còn đòi phải cho anh ta một gói mì thì anh ta mới sửa. Anh ta lấy con dao cùn và cái búa trên ghe , vặn vặn , đập đập lia lịa mà máy cũng chẳng nổ. Lúc đó vào khoảng ba giờ chiều của ngày thứ ba. Mới ba ngày mà đã có chuyện rủi ! Cuối cùng chỉ có anh sửa máy là lới được gói mì.

    Ngay lúc đó, có người nhìn thấy con một tàu từ xa tiến lại gần. Người thì la, người thì hét , người thì vẫy tay lia lịa. Rồi có thêm hai tàu nữa đến. Nó cứ đảo qua đảo lại rồi bỏ đi. Lúc đó tôi quá thất vọng. Cổ cứ khô lại , mà miệng thì đắng. Gặp tàu nó không vớt thì chừng nào mới vớt đây?

    Đêm hôm đó họ lại hì hục sửa máy , nhưng cái máy cũ quá không thể chạy được nữa.

    Sang ngày thứ tư , mọi người cứ nằm dài ra mà chờ tàu đi ngang qua đẻ kêu cứu. Rất nhiều tàu , kể cả tàu có mang cờ Nhật đi ngang qua mà họ cũng không ngó ngàng tới. Chúng tôi bắt đầu đói rồi.

    Tôi luôn luôn ôm cái giỏ đồ ăn trong người. Lúc này tôi phải nhấm sâm để cầm hơi. Sức đã bắt đàu kiệt rồi. Tôi cũng mang theo cả củ thục địa nữa. Có đồ ăn mà không dám ăn. Phải giữ để thủ thân.

    Tới ngày thứ chín , mệt quá tôi đánh lấy một hộp sữa bò rồi lấy đầu con dao cùn người ta sửa máy hôm trước , đục hai lỗ nhỏ xíu , mút một hụm sữa. Cái nỗi thèm khát nó dữ dội vô cùng. Ăn sủa xong thấy trong mình khoẻ lên. Tôi cũng cho chị Nguyệt mút một hụm.

    Đêm đó mệt lả , tôi ngủ thiếp đi , chẳng biết trời trăng là gì. Lúc tỉnh dậy , giỏ đồ của tôi mất hết trơn. Chỉ còn lại có mấy gói mì gói. Tôi la lên rồi xin lỗi mọi người , đi tìm giỏ đồ ăn. Nhưng có lẽ đói quá , họ ăn mất tiêu rồi. Lúc đó tôi thấy mạng sống của mình bị đe dọa...

    Đến ngày thứ 18 , mọi người trên tàu đều sống ngắc ngoải. Không còn cái gì có thể ăn được nữa. Cuối cùng có anh Ba Phối và một người nữa tình nguyện đi cái xuống ba lá chở củi mà lúc đó xuống đã hở rồi , để đi tìm tàu khác giúp.

    Thế là ông chủ tàu và vài người nữa phải mất một ngày “xàm” lại cái xuồng. Ông cũng yêu cầu ai còn vàng , còn thức ăn gì thì cho anh Phối và người đi cùng. Tất cả thu được chín chỉ vàng. Có một người Miên tên là Si-Ba dấu được nửa lít cốm dẹp và một ít gạo mốc đã sắp thành bột đem cho hai anh. Anh Ba Phối nói anh đi để cứu hai đứa con trai không thì chúng sắp chết đói. Thằng anh rất đuối sức. Một đứa tên Trung , một đứa tên Kiệt.

    À , tôi còn quên một chi tiết nữa. Cái con dao cùn mà tôi dùng để đục hộp sữa hôm nọ rất là được việc. Họ đã dùng con dao này đẽo một cái bơi chèo lấy từ cái bẹ ván ghe. Hai ông tài công cũng cho họ được ba xị nước. Có một người còn cho hai anh một tấm nylon để hai anh làm mui che nắng. Nắng ở biển giống như dầu hắc trải đường.

    Tảng sáng ngày thứ 18, chiếc xuống ba lá rời ghe đi tìm tàu để cầu cứu. Lúc đó trăng sáng cả một vùng biển. Lúc hai người xuống chiếc xuồng , tự nhiên nước mắt tôi cứ trào ra. Nhiều người khác cũng khóc như tôi. Tôi nghĩ giữa biển cả mênh mông , mưa gió như vậy , chiếc xuống chịu sao nổi.

    Lạ một điều là chiếc xuống đi được một đỗi là mặt biển lặng như tờ , như một cái hồ. Mặt biển im phăng phắc như một cái nhà mồ đến ba ngày như thế mà không thấy chiếc xuống của anh Ba Phối và người bạn trở về. Chúng tôi đoán chắc là cả hai người đã làm mồi cho cá mập.

    Trong ngày thứ 18 , khát nước quá , ông chủ tàu đã dùng một cái nồi nhỏ và hai cần xé củi còn lại nấu nước biển để chưng lấy nước uống. Họ tranh nhau lấy mấy giọt nước uống còn hơn giật vàng nữa. Tôi liếm nước trên cái vung đọng hơi nước mà cũng đỡ khô họng.ô1 một người đàn bà không tranh được nước , thức cả đêm nấu mà được có một chum nhỏ xíu.

    Đến ngày 19 thì trên tàu còn dầu , nhưng ông chủ tàu không cho ai đụng đến để nấu nước. Ông ta cũng có một cái vợt cá. Cái vợt mới được lắp cán. Ông giữ độc quyền vớt cá ! Ông vớt được cá là lấy dầu nấu giữ cho bốn người ăn riêng.

    Tới ngày thứ 21 có một tàu xuất hiện , nhưng nó cũng đi luôn. Qua ngày thứ 24 , lại có một tàu ghe lưới từ xa đến. Chúng tôi lấy quần áo cũ đốt để có khói cho họ nhìn thấy. Thế là nó táp lại gần. Nhưng nó lại sợ mình là cướp. Thật khổ. Mình cầu cứu người ta mà người ta lại sợ mình. Thuyền trưởng là người Mã Lai biết nói tiếng Tàu. May mà trên ghe có anh Thoại , anh ấy biết nói được cả tiếng Anh lẫn tiếng Tàu. Ông ta nói là chính phủ Mã Lai không cho tàu vượt biên vào. Ông ta quăng dây xuống biển để truyền nước và thực phẩm xuống ghe.

    Dũng quăn nhào ngay xuống nước , lẹ như một con rái cá. Anh ta kéo cái dây vào sát ghe , rồi truyền hai can nước 40 lít đổ ngay vào cái khạp làm bằng da bò để trên ghe. Mọi người tranh nhau uống. Tôi không được uống một giọt nào.

    Họ cũng cho hai con cá , mỗi con đến 10 ký , hai thùng nước ngọt. Một thùng đựng 24 lon nước chanh. Họ cũng cho thêm một túi gạo nhỏ. Nhưng chủ tàu và Dũng quăn giữ hết. Ai có đóng tiền cho hai người đi xuống ba lá hôm rồi thì mỗi người được một lon nước ngọt. Gạo thì chỉ phát cho mỗi người một chung thôi. Rang lên còn đúng một lòng bàn tay. Mấy bà có con nít thì cho gạo rang vào nước biển nấu thành cháo cho con húp. Cá thì họ khía ra từng khía phát cho mỗi người.

    Qua ngày thứ 25 , 26 , họ mới mang nước ngọt ra bán. Năn phân vàng một lon. Ai không có vàng thì đành chết khát thôi. Bao nhiêu nhẫn dây chuyền bỏ ra đổi lấy nước hết. Bán nước ngọt xong họ bán tới nước trong hai cái can mà tàu Mã Lai cho. Thời gian này anh tài công cũng vớt được cá , anh ta bán hai con cá năm phân vàng. Tôi và Nguyệt đổi hết một chỉ rưỡi để lấy cá ăn cầm hơi. Ai không có vàng thì mua chịu. Cứ ăn cầm cự như thế cho đến ngày thứ 44.

    Có những ngày hứng nước mưa cũng rất hào hứng. Chúng tôi hứng nước bằng những mảnh áo mưa đã rách tả tơi. Tôi lấy ba mảnh áo mưa rách , xoi lỗ bằng cái đầu con dao cắt móng tay , rồi tước dây nylon khâu từng mũi , ba ngày mới xong.

    Có những trận mưa nhỏ trêu chọc mình. Có rất nhiều mây đen tụ , gió gào thét dữ dội , rồi mây đen bay đi hết. Chỉ rơi lác đác có vài giọt thế mà mình cũng phải liếm để mà sống sót. Con nít sáu bảy tuổi gì cũng lấy mảnh nylon bằng tờ giấy học trò đem ra hứng nước, trông như một cái lễ đón mưa , vừa ma quái vừa vui. Như một đám thây ma đón mưa !....

    Sáng ngày thứ 44 , có một thằng bé xin ông chủ ghe cho nó một tí nước. Ông không cho và mắng; “mày làm biếng chết ráng chịu. Không chịu hứng nước như người ta. Mày mà lạng quạng tao đạp mày xuống biển.”

    Nó sợ lắm , vì ông ta đã từng đạp vài người xuống biển rồi , may mà có người vớt lên.

    Đến khoảng ba giờ chiều lúc đó , tôi đang lim dim ngủ phía sau buồng lái , chợt tôi bật dậy như cái lò xo , khi nghe thấy người ta la lên ; “ Thằng Hưng chết rồi !” Con bé Năm nó tưởng thằng Hưng ngủ , nhưng sao đầu nó chấm xuống nước , mà kêu hoài nó cũng không dậy. Nó đã tắt thở lúc nào cũng chẳng ai biết.

    Cả ghe cùng khóc , tại vì người ta thấy cái số phận của họ rồi cũng như Hưng thôi. Ông chủ ghe kêu hai người đàn ông nữa khiêng Hưng lên phía trước khoang ghe. Thằng Hưng chỉ còn da bọc xương. Hai hố mắt nó sâu hoắm. Trông nó như một khúc cây mục. Bây giờ tôi vẫn bị khuôn mặt nó ám ảnh.

    Người ta xin một bộ quần áo cũ coàng cho nó. Ông chủ ghe đem một chung nước với một cái đươi cá đã nấu chín để cúng Hưng. Tôi nghe ông khấn vái; “ Hưng ơi ! Bây giờ mày đói mày khát , cũng là lỗi tại tao. Mày sống khôn thác thiêng phù hộ cho tụi tao , đẩy chiếc ghe này vào bờ. Nếu mày không đẩy thì tụi tao chết hết mất !”

    Cúng xong ông kêu mọi người đến vuốt mắt cho Hưng. Mắt nó cứ mở trừng trừng. Tôi chỉ dám sờ nhẹ vào chân nó và lắc lắc. Tôi khấn nó trong bụng như thế này; “ Hưng ơi ! Lỗi cũng tại chị. Chị không cho em uống nước. Nhưng cũng vì sự sống mà chị phải thủ thân thôi. Em bỏ qua cho chị. nếu em phù hộ cho ghe này đến nơi an toàn , chị sẽ cúng em một mâm chị nguyện như thế !”

    Rồi người ta khiêng xác Hưng ném tùm xuống biển. Nhưng thật rùng rợn ! Cái đầu nổi lên mặt biển cứ theo sát sau đươi ghe hoài. Ông Tư bảo; “ Cái thằng Hưng này kỳ cục thật ! Nó sợ ở trên biển một mình chắc?” Cái xác cứ theo ghe đến mấy tiếng đồng hồ , cho đến lúc có một bầy cá heo nhào đến ghe , quần cái xác. Cá nhào lên nhào xuống. Tôi không biết nó có ăn thịt người không...Nhưng mấy tiếng đồng hồ sau cái xác cũng mất tiêu theo đàn cá heo. Có lúc tưởng ghe muốn lật vì đàn cá đó.

    Trời tối sập xuống thật lẹ. Hết thấy đường rồi. Mặt biển như một màn sương dầy đặc. Cũng đôi khi tôi lãng mạn là đằng khác. Đói khát như thế mà thấy trời sao thật thơ mộng. Lúc đó có cả vạn con cá táp vào hai mạn ghe loang loáng bạc dưới ánh sao đêm , trông giống như cá rô biển lắm. Mỗi con đến nửa ký. Sao , nước biển , cá , cái đói khát , cái chết...đan vào nhau thành một thứ ảo giác lạ.

    Tôi cũng nghiệm thấy trong chuyến đi này , cứ có một cái rủi sau đó lại có một cái hên , như có một bàn tay nào trên cao sắp xếp mọi chuyện. Sau khi thằng Hưng chết ông Tư lại vớt được đến 40 con cá rô biển. Không chừng nó phù hộ cho mình !

    Đêm đó trên ghe , người ta làm cá vui như ngày hội. Mọi người đều thức làm cá , chẳng ai ngủ. Cũng có lúc người ta hồi tâm. Ông chủ ghe lấy ra 17 con cá làm thịt phát không. Mỗi người được một cục thịt cá. Ông cũng phát cho mỗi người một ít nước ngọt. Nhưng sau đó thì ông ta lại bắt đầu bán cá. Một chỉ vàng mua được hai con. Có một anh tên Thanh nhờ tôi bảo đảm mua cá chịu , khi nào lên đảo sẽ trả bằng đô la ! Ông chủ rất ghét anh này. Tôi có uy tín trên ghe lắm ông mới bán chịu.

    Trên ghe có một cô tên Hồng. Cô này đi chung với chồng nhưng ghe lạc nên bị bỏ lại Việt Nam. Cô ấy mang giầy dép quần áo của chồng đưa cho ông Tư đổi lấy cá ăn. Một đôi giầy chỉ được cái đầu cá !...

    Đến ngày thứ 46 , trên ghe lại có thêm người chết nữa. Đó là một cô gài người Trung Hoa , tên cô là Lừng. Trước đó một tuần , cô ta mê sảng như người bị quỷ ám. Cô ấy có một cái áo lạnh cũng mang đổi cá để ăn. Lúc chết mình mẩy cô ta lạnh cóng và thâm tím. Trên ghe chúng tôi cúng bái cô rồi thả xác xuống biển như lần Hưng chết.

    Sau khi cô Lừng chết thì thấy có một cái máy bay xuất hiện. Nó thả một thùng gì to lắm xuống biển. Mọi người đoán có lẽ nó tiếp tế thực phẩm. Ông Tư bảo ai tình nguyện bơi ra kéo cái thùng vào ghe , nhưng chẳng ai dám liều mạng , rồi thì chiếc máy bay cũng bỏ đi.

    Sáng ngày thứ 48 , độ khoảng sáu giờ chiều , có một cái tầu tiến đến ghe. Chiếc tầu đó tắp vào ghe. Toàn công an Mã Lai. Họ kiểm soát ghe xem có vũ khí không rồi họ mới phát cơm , nước , tôm khô , trứng tráng. Lúc đó mừng quá chẳng thấy đói. Những người đói quá thì nằm liệt không ăn nổi.

    Họ cột chiếc ghe vào tàu của họ rồi kéo đi đến sáng ngày thứ 49 , rồi họ ngừng lại tiếp tế nước , bắp cải , đậu xanh hộp , dưa leo ăn một ngày không đủ. Cuối cùng họ tháo dây ròng , bỏ ghe lại ở biển. Lại tiếp tục đói , lại tiếp tục chờ đợi , tiếp tục sống trong kinh hoàng đe dọa.

    Sang ngày thứ 50 , trời mưa tầm tã. Lạnh khủng khiếp. Tôi mặc hai cái áo lạnh mà răng vẫn đánh bò cạp. Trên biển lúc đó có những đám rong to bằng cái nhà đang nổi lềnh bềnh. Thấy rong biển trôi ai cũng mừng. Ông Tư thấy một cái cây bám đầy hến. Ông vít lấy và dùng con dao cùn gạt một đống xuống sàn ghe. Người ta vớt rong ăn. Tôi ăn thử nhưng nuốt không nổi.

    Chợt có con bé tên Thoa la lớn: “Tàu đến ! Tầu đến!” Lúc ấy khoảng 10 giờ sáng. Nhưng ngay lúc trông thấy cái tàu thì một thằng bé trúng gió nặng. Người ta đánh gió cho nó. Cổ nó bầm đen. Nhưng muộn quá rồi , tôi thì cũng gãn cạn dầu gió nên phải giữ để phòng thân. Thằng Taxi đã tắt thở khi tàu Hy lạp tới.

    Mọi người quơ chân quơ tay lia lịa ra hiệu cho chiếc tàu. Lúc đó tôi vốc hai vốc đầy hến biển cho vào túi áo. Tôi cũng bốc một nắm ăn sống. Tanh mà ngọt không thể tả được. Ăn xong vốc hến , tôi như được truyền một sức sống kỳ ảo , một phép lạ. Vỏ hến mềm nên tôi nhai cả vỏ.

    Lúc cái tầu Hy Lạp tiến đến gần cái ghe , ông Tư nảy ra một ý kiến. Ông bảo khiêng xác thằng Taxi và ông Long lúc đó đã kiệt sức lắm rồi lên sàn ghe để họ biết trên ghe có người sắp chết , may ra họ cứu chăng...

    Trên tàu họ chụp hình chiếc ghe lia lịa. Tàu đi vòng đến 30 phút mà cũng không động tĩnh gì. Mọi người lại thất vọng. Chắc nó lại bỏ đi như tàu của Mã thôi.

    Cuối cùng chiếc tàu cứu chúng tôi thật ! Họ thả thang dây xuống cho những người khoẻ lên trước. Lại tranh nhau lên ! May mà không có ai rớt xuống biển.

    Những người yếu như tôi lên sau. Tôi là người lên gần cuối chót. Những người không đứng dậy được thì phải nhờ vào mấy cái cần xé đựng củi rồi kéo lên sau cùng.

    Xác thằng Taxi và chiếc ghe bị chiếc tàu dùng cái cần cẩu cẩu lên rồi đập xuống. Lúc chiếc ghe chìm , tôi và nhiều người ứa nước mắt khóc không thành tiếng.

    Lên tàu , Những người thủy thủ phải bế từng hai ngươi như bế con nít đi tắm. Lúc đó đầu tóc tôi như rơm rạ. Tôi sụt còn 29 ký ! Mặt mũi cháy đen đúa như quỷ , đau có trắng trẻo như bây giờ. Tắm xong họ phát cho phụ nữ những chiếc áo đầm rộng thùng thình , trông tức cười mà chẳng ai còn hơi để mà cười. Họ sát xà bông cho mình và kỳ lưng cho mình nữa ! May mà họ không nhìn thấy chí bò trên đầu mình. Mà có thấy thì chắc chẳng ai còn mắc cỡ gì. Mệt muốn chết.

    Làm vệ sinh thân thể xong , họ phát cho mỗi người một cục xà bông , bánh kẹo , mà đâu có ăn nổi. Chỉ khát nước thôi. Khát đến khô họng. Mà bây giờ không cần có vàng mới có nước !

    Khoảng 8 giờ đêm hôm đó , lại có một phụ nữ chết. Thật tội ! Chị mang theo hai đứa con 8 hoặc 9 tuổi gì đó. Bố chúng thì đang sống ở mỹ , chờ vợ con sang đoàn tụ. Thế mà lại có thêm một người nữa bị ném xuống biển. Hai đứa bé khóc mẹ trông thảm thương vô cùng. Tới nơi rồi mà còn chết.

    Tới 10 giờ sáng ngày thứ 52 tàu cặp bến Mã Lai. Nhưng tàu này nghèo quá không đủ tiền đóng cho chúng tôi. Lằng nhằng thủ tục giấy tờ mãi tới 7 giờ tối mới lên được bờ. May mà bà đại diện Cao Ủy Tị Nạn bảo lãnh nói sẽ đóng tiền sau. Tiền do chính phủ Thụy Điển cấp.

    Lên đến đất liền chúng tôi mới biết là cái xuồng ba lá của ông Ba Phối , bố của em Trung và em Kiệt cuối cùng đã trở về Việt Nam an toàn. Ông viết thư cho hai con nói họ phải lênh đênh trên biển cả đến 9 ngày mới gặp tàu đánh cá ở Thuận Hải vớt. Có bao nhiêu vàng nộp hết lại còn phải theo tàu đánh cá hơn 10 ngày nữa mới được thả. Thế mà chúng tôi cứ tưởng cá mập ăn hai người rồi. Số không chết là không chết.

    Bây giờ tới bến tự do , tôi lại phải vượt biển lần nữa. Cái biển ESL , cái biển công ăn viêc làm , biển hôn nhân , biển nhớ gia đình , bạn bè , quê hương.

Lễ Vật Máu

Con trâu nhà Cờ trán khoáy tam tinh gan lì như chủ nó. Có lần Cờ mắc lỗi, bố lấy roi mây đánh mấy chục cái vào mông, Cờ chỉ chảy nước mắt, người nảy lên theo nhịp roi chứ không khóc. Bố lắc đầu, bỏ mặc, lấy rượu ra uống. Ôõng say mê man. Mẹ Cờ phải bôi vôi vào bàn chân, hòa thuốc cảm đổ vào miệng, ông mới tỉnh dần. Tỉnh rượu, ông vất cây roi mây vào bếp lửa... Loài trâu cổ nải, mắt ốc bươu, khó dạy ông lẩm bẩm. So Cờ với trâu thì sai rồi. Trâu nhà Cờ bụng thon như bụng ngựa; chân hai gióng thon lẳn ;mông như hai cái lồng bàn úp... Cờ rúm ró trên lưng trâu như con mèo hen trên lưng con voi. Âấy vậy mà Cờ thi trâu lồng nhất nhì trong làng đấy.

    Chỉ thua thằng Cẩm Cóc. Vì trong làng không có con trâu đực nào nghịch ngợm, tinh ranh như con trâu nhà Cóc. Có lần, nó phóng lộp cộp, lộp cộp trên đường đất thịt, bất ngờ nhảy ào xuống ruộng, giả ngã chổng bốn vó lên. Nhanh như Cẩm Cóc mới nhảy kịp khỏi lưng trâu, tránh hai cái sừng nhọn hoắt có thể chọc thủng bụng ngay trong nháy mắt. Con trâu lăn qua lăn lại mấy vòng rồi chồm lên bờ, hai chân sau như kiễng lên. Lúc nó hạ hai chân, thì phóc một cái, Cẩm Cóc đã ở thế kẹp hai chân vào hai bên lườn nó, tay nắm ghì lấy cái u chai ở vai, vừa hét vừa quất roi dâu đen đét...

    Chiều nào Cờ và Cóc cũng rủ nhau đi chăn trâu. Hai đứa đã học lớp bốn, tuy khác lớp nhưng rất thân nhau. Thả trâu trên bãi tha ma, hai đứa hôm thì mò cá dưới đìa, hôm thì tìm đào ổ chuột. Hai con trâu thung dung gặm cỏ, đuôi ve vẩy. Thi thoảng, phởn chí , chúng đuổi nhau; rồi lại cọ sừng vào hông, vào mông nhau âu yếm. Hôm trời nóng, chúng cùng đầm mình trong một vũng nước đọng trên mặt đất, đuôi ngoe nguẩy vẩy bùn nhão lên nhau. Thân thiện y như một đôi bạn hiền.

    Thế mà, cuối tháng ba, vào dịp xuân phân, một trong hai con vật hiền lành ấy sẽ bị giết. Ngay sau hội chọi trâu làng Vớ. Tháng tám năm trước, trâu nhà Cẩm Cóc và trâu nhà Cờ đều đứng đầu hai khóm. Trận chọi trâu này chúng sẽ gặp nhau. Và, con nào thua cuộc, sẽ trở thành lễ vật dâng cúng thần làng. Đi xem chọi trâu, lần nào Cóc và Cờ cũng hò hét đến khản cả giọng vì hứng khởi. Cả sướng nữa. Nhất là lúc cầm miếng thịt trâu thui đem về cho mẹ xào với mớ rau cần mới nhổ từ ao bùn chằm lên. Cả hai không hiểu nổi tại sao người chủ trâu thua đã được làng trả tiền sòng phẳng như mua một con trâu ngoài chợ lại có thể giọt vắn giọt dài, từ chối nhận miếng thịt gọi là lộc làng... Bây giờ thì cả hai lờ mờ hiểu.

    Theo thông lệ, trước trận chọi, mỗi con trâu được thưởng một cái bánh chưng; sau đó, người ta sẽ đổ ba lít rượu vào hai cái ống nứa vạt nhọn, nâng đầu trâu lên, dốc vào miệng. Bánh để lấy sức. Rượu để tạo sự liều lĩnh, say máu. Chính rượu đánh thức thú tính của con vật nuôi hiền lành, hai kẻ say sẽ lao vào nhau như hai con thú hoang, man dại. Đầu chạm đầu cùng cục nghe như sắp vỡ hộp sọ, sừng chạm sừng chát chát, toé ra mùi khét lẹt. Rồi máu me đầm đìa. Rồi đến lúc một cái sừng nhọn như cái đòn càn tre cật xuyên bụp vào bụng con kia. Con trâu thắng cuộc hăng máu lắc lắc hất đầu lên, ruột con thua sổ ra cùng mùi phân trâu hăng hắc, cay cay... May mắn hơn, mới chọi vài chọi , một con sẽ bỏ chạy. Dĩ nhiên là kẻ thua xấu số ấy vẫn bị giết. Có điều người ta đuổi bắt nó lại, trói vào cũi và chọc tiết... "Oò... ò...ò", nó rên rỉ, nước mắt chảy ròng ròng, mắt mở trừng trừng không khép được...

    Ngày hội chọi trâu càng gần, bố Cờ càng hay uống rượu. Ông buồn. Thì uống. Và lại say. Lại khổ mẹ bôi vôi, phục thuốc cảm hòa nước. Chỉ hai con trâu là chả thèm để ý, vẫn theo hai đứa ra bãi tha ma quen thuộc. Hôm nay có chuyện gì mà Cờ và Cóc ngồi rì rầm như hai ông cụ non...

    Vào đúng ngày hội, hai ông cụ non ấy được chít khăn đỏ, tay hai đứa cầm một lá cờ đuôi nheo cũng màu đỏ, dắt hai con trâu ra sới. Khi hai chú bé và hai con trâu ra đến giữa sới, cả làng vỗ tay ầm ĩ. Đẹp quá ! Đầu trâu bôi phẩm đỏ, lưng trâu bôi phẩm xanh, bụng và chân trâu hai đứa bôi vôi trắng. Trông ngộ ngộ... Ông chủ hội đi giữa, hai cô gái làng bưng hai khay bánh chưng đi hai bên. Ông chủ hội trao bánh cho Cờ và Cóc. Chúng cho trâu ngoạm một miếng rồi úp cả hai bàn tay vào phần gạo đỗ, nhét vào miệng trâu. Sau đó thì bố Cờ và bố Cóc đổ rượu cho trâu... Xong, ông chủ hội sai họ đưa trâu về hai đầu sới, chờ trống gióng.

    Trống gióng, người la. Hai con trâu lao vào nhau. Hục hặc. Cộp. Chát. Huợch... Đất tung lên. Bụi mù... Có lúc, người ta chỉ thấy những mảng trắng xanh, đỏ lấp loáng, lấp loáng... Hai con trâu ngày thường là đôi bạn, giờ như hai thằng say rượu, quên hết tất cả, chọi nhau như kẻ tử thù...

    Tim Cờ và Cóc thót lại. Bố Cờ và bố Cóc quay mặt đi. Máu đã loang đỏ trên hai thân trâu... Bỗng Cờ bấm vào tay Cóc một cái đau điếng: "Rồi...". Cóc nhướng mắt: Ơ kìa, hai con trâu bỗng như nhận ra nhau, chúng tự dừng lại rồi cùng chạy về hai đầu sới. Lạ hơn, sau đó chúng đến bên nhau, con nọ cọ cọ vào sừng con kia. Tưởng như trước đó chưa hề có một trận hỗn chiến sinh tử vậy...

    Dĩ nhiên là hòa. Lần đầu tiên, làng không có trâu chọi dâng cúng. Người ta kháo nhau là chính thần làng đã xuống tay để cứu lấy một con trâu. Chẳng ai biết được đó là nhờ bàn tay mục đồng và vốc thuốc cảm giã rượu.

Người Có Tài Nhịn Đói

Sáng chủ nhật, tại quảng trường thành phố bao giờ cũng đông vui hơn ngày thường, bởi nơi đây không những là địa điểm tập trung những cơ quan đầu não, những công trình văn hóa có kiến trúc hết sức độc đáo, niềm tự hào của người dân thành phố, mà còn có những loại hình vui chơi, giải trí thời thượng vô cùng hấp dẫn, đặc biệt là sự góp mặt của dàn nhạc kèn của quân khu như cánh tay cô gái trẻ, duyên dáng níu chân khách thập phương xa gần. Dàn kèn quân đội xuất hiện chưa đầy một tháng nhưng đã thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều giới. Dù sao giữa trung tâm thành phố vào buổi sáng chủ nhật, trời trong gió mát, phong cảnh hữu tình, lại có sự góp mặt của những người lính quân nhạc trong quân phục toàn trắng cùng tiếng kèn cao vút như cánh chim chấp chới trên trời xanh càng tăng thêm phần lãng mạn, vô cùng nên thơ.

    Kết thúc phần trình diễn những sỹ quan quân nhạc lục tục bước lên chiếc xe buýt đã nổ máy chờ sẵn trước những ánh mắt tiếc rẻ của mọi người. Đám đông chưa kịp giải tán, bỗng từ xa bước đến một chàng trai có dáng đi khắc khổ, anh mang đôi giày đã há mõm, mấy đầu ngón chân thò ngoài bám đầy bụi bẩn. Chắc lại là bọn ăn xin hay du thủ du thực đang tính chuyện kiếm chác đây mà.

    Chàng trai rẽ vào giữa đám đông, gương mặt rám nắng ửng đỏ hiển hiện sự lúng túng. Các ngón tay thô ráp xoắn vào nhau cố kiềm nén cảm xúc. Những ánh mắt khó chịu cùng hướng về một phía. Chàng thanh niên khẽ ho húng hắng vài tiếng rồi cất giọng rè rè có vẻ thiếu tự tin:

    - Kính thưa quý vị, sau nhiều năm thử thách, rèn luyện, hôm nay tôi đến đây để xin công bố một kỷ lục...

    Đám đông bắt đầu ồn ào bàn tán như cái chợ trời tự phát. Vài người tỏ vẻ thích thú vỗ tay đôm đốp. Tuy nhiên phần đông có ý nghi ngờ. Bộ vó ốm đói của hắn, đuổi ruồi còn chưa xong nữa là chuyện kỷ lục kỷ liếc.

    Một người nói:

    - Đề nghị mọi người im lặng, theo dõi tiếp phần sau câu chuyện. Này thằng nhóc kia đừng nhảy cẫng như thế. Có đứng yên không thì bảo. Mày là con cái nhà ai?

    - Này anh bạn trẻ, anh định lập kỷ lục gì? Chạy thi với đà điểu hay đi trên dây tử thần? Tôi không tin anh có thể làm được chuyện đó đâu.

    - Đúng thế, - một người khác hùa vào,:- đừng nói là anh có thể bay như chim hay ngụp lâu dưới nước như loài cá nhá.

    - Hay là anh muốn biểu diễn cho xe lu chạy qua người như lực sĩ Hà Châu? Trò ấy khiếp bỏ mẹ, ai dám nhìn.

    Đợi cho mọi người nói đã cái miệng, chàng thanh niên mới bắt đầu lên tiếng:

    - Tôi sẽ lập kỷ lục về nhịn ăn! Vâng, là nhịn đói đấy ạ.

    Đám đông đồng thanh thốt lên:

    - Nhịn đói?

    - Dạ, tôi có thể nhịn ăn trong một tuần.

    - Mỗi một tuần mà đòi lập kỷ lục ư? Sách guiness từng ghi nhận một người Châu Phi đã nhịn ăn trong nửa tháng cơ đấy.

    Chàng thanh niên suy nghĩ một lúc, nói:

    - Vậy thì, tôi sẽ nhịn ăn trong tám ngày. Nếu sau đó sức khỏe cho phép có thể tôi sẽ cố thêm vài ngày nữa. Và biết đâu, tôi sẽ vượt qua kỷ lục Châu Phi!

    - Nghe cũng được đấy. Nhưng làm sao chúng tôi có thể kiểm soát được anh chứ. Chúng tôi đâu có thời gian ngồi đây theo dõi anh. Và anh có thể dở trò gian lận bất cứ lúc nào.

    - Tôi sẽ chui vào chiếc lồng sắt đàng kia, - chàng trai đưa tay chỉ về chiếc lồng sắt han gỉ nằm giữa công viên,: sau đó một người sẽ khóa lại từ bên ngoài. Và chiếc lồng sắt sẽ được treo lên cây bá bằng hệ thống ròng rọc.

    - Anh sẽ ở luôn trên đấy đến khi nào lập xong kỷ lục chứ?

    - Vâng, tất nhiên rồi.

    - Chuyện tiểu tiện, đại tiện anh sẽ giải quyết như thế nào?

    Chàng trai nhỏ nhẹ đáp:

    - Trước đó, tôi đã súc ruột và không ăn bất kỳ thứ gì nên không phải lo lắng chuyện đại tiện. Mỗi ngày tôi chỉ xin mười phút ra ngoài để giải quyết vệ sinh cá nhân, tắm rửa, tiểu tiện chẳng hạn. – Đoạn chàng trai đưa mắt nhìn quanh một lượt,:- có được không ạ.

    - Tất nhiên là được quá đi chứ, - tay đội trưởng bảo vệ công viên tỏ ra sốt sắng,:- nếu mọi người đồng ý tôi sẽ làm công việc giám sát anh ta.

    Một người tỏ vẻ băn khoăn:

    - Nhưng anh còn phải về nhà nữa chứ. Lúc ấy ai sẽ..

    Gã đội trưởng khoát tay lia lịa:

    - Chuyện ấy chẳng khó gì. Chúng tôi sẽ giám sát theo ca trực. Tất nhiên chìa khóa sẽ được bàn giao một lượt.

    - Ừ, cũng xuôi tai đấy. Cứ thế mà làm. Nhưng để xác nhận kỷ lục chúng ta cần sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng nữa chứ. Không có họ kỷ lục sẽ không được ghi nhận.

    Một người đàn ông có cái bụng rất phệ tách ra khỏi đám đông, cười hề hề:

    - Tôi sẽ lo phần việc này. Chuyện khác, có thể tôi không làm được chứ việc này thì vô tư đi. Bọn nhà báo, phát thanh, truyền hình với tôi là chỗ thân quen. Tôi là giám đốc công ty quảng cáo mà lại..

    Bà giám đốc công viên cây xanh đang ngồi gõ bàn phím vi tính bên cửa sổ, thấy đám đông tụ tập bèn te tái bước ra:

    - Tôi ủng hộ việc này cả hai tay lẩn hai chân. Tuy nhiên, trước hết cần phải có sự cam kết từ phía người thực hiện, rủi xảy ra chuyện gì bất trắc còn có đường ăn nói với pháp luật.

    Chàng thanh niên lập tức gật đầu. Văn bản thảo trên vi tính với nội dung tóm tắt như sau:

    Tôi tên Trần Túng Thiếu ( nghe cái tên đã thấy nghèo mạt rệp, một người trong đám đông thốt lên ), sinh năm: 1981, tại Cà Mau. Giấy chứng minh nhân dân số...cấp ngày......tại...Tôi xin cam kết hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc thiết lập kỷ lục nhịn ăn của mình. Nếu có điều gì xảy ra, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm..

    Tờ cam kết được lập thành hai bản có chữ ký của người làm chứng và xác nhận của ban giám đốc công ty cây xanh. Xong xuôi, mọi người im lặng chờ đợi chàng trai bước vào lồng sắt. Nhưng anh ta vẫn đứng im. Mắt nhìn dáo dác như tên trộm.

    - Có chuyện gì thế? Đổi ý rồi à?

    - Sợ rồi phải không? Nhịn ăn đâu phải chuyện dễ. Tôi, đúng giờ phải có thứ gì cho vào bụng, muộn một chút là tay chân cứ run lên rồi thì mồ hôi vã ra như tắm.

    - Sao không chui vào lồng đi, chúng tôi không có thời gian ngắm mấy giẻ xương sườn của anh đâu.

    Chàng trai thở ra một cái rồi bước đến đám cỏ rậm rì, lôi ra chiếc hòm giống như cái thùng phiều bầu cử. Những ánh mắt ngơ ngác cùng hướng về chàng trai lạ.

    - Tôi..tôi..- chàng trai ấp úng,:- tôi muốn kêu gọi lòng hảo tâm của quý vị..

    - À, thì ra cậu chàng bày trò kiếm chác đây mà! Ngay từ đầu tôi đã nghi rồi. Chà, xem ra anh cũng biết cách kiếm tiền đấy nhỉ!

    - Tôi, cơm thậm chí không có mà ăn nói chi đến chuyện bố thí? Miễn phí còn nghe được, chứ tiền thì thôi nhé.

    - Đúng vậy, thóc đâu mà đãi gà rừng!

    Chàng trai đỏ mặt, nói lí nhí:

    - Tôi không ép buộc ai cả. Tùy ý quí vị. Cho, thì tôi cám ơn, không có cũng chẳng sao. Điều quan trọng là kỷ lục..

    Bà giám đốc công viên cây xanh xen vào:

    - Theo tôi, chúng ta nên ủng hộ chàng trai trẻ này. Xem xiếc, biểu diễn thời trang, ca nhạc đều phải mua vé, thậm chí gánh mãi võ sơn đông cũng phải tiền. Kỷ lục về nhịn ăn không phải là chuyện bởn...

    - Nhất trí thôi.

    Chàng trai mang chai nước lọc bước vào lồng sắt. Chiếc lồng hơi hẹp, đứng thẳng không xong mà nằm duỗi chân cũng không được. Gã nhân viên bảo vệ sau khi gài chốt, liền lấy quyển sổ tay ghi vội mấy dòng ghi nhớ. Đoạn gã vẫy tay ra hiệu cho ba nhân viên đứng gần đấy kéo ròng rọc, chiếc lồng từ từ rời khỏi mặt đất. Lúc này cánh nhà báo và đài truyền hình cũng vừa đến nơi, họ tranh thủ phỏng vấn vài người xung quanh và liên tục bấm máy ảnh. Nữ phóng viên báo Chiều Thành Phố nói:

    - Thật tuyệt! Đây là sự kiện quan trọng, chúng tôi sẽ đưa lên trang nhất số báo chiều nay. Tất nhiên chúng tôi sẽ tăng số phát hành để thỏa mãn nhu cầu độc giả.

    Nhân viên đài truyền hình vừa quay xong mấy thước phim cận cảnh cũng hồ hởi xen vào:

    - Chúng tôi sẽ phát sóng sau chương trình thời sự lúc hai mươi giờ tối nay. Chúng ta cần một bác sỹ để theo dõi tình trạng sức khỏe của anh ta. Vị bác sỹ này sẽ là người quyết định nên tiếp tục hay dừng cuộc chơi. Cẩn tắc vô ái náy mà lại..

    Đoạn anh ta ngước mắt về phía chiếc lồng sắt treo lơ lửng:

    - Anh bạn trẻ thân mến, chúc anh bạn lập được kỷ lục thế giới!

    Càng về trưa, nắng càng gay gắt. Khách đến xem bắt đầu vãn dần. Đúng mười hai giờ trưa thì chẳng còn ai ngoài chàng trai đứng lom khom trong lồng sắt cùng gã nhân viên bảo vệ đang ngồi vắt vẻo trên lan can, nhai bánh mì kẹp thịt. Buổi chiều, trời mát khách lại kéo đến mỗi lúc càng đông. Và khi ánh ngày đã tắt, thì không còn một chỗ để chen chân. Không khí ồn ào, náo nhiệt như ngày hội.

    Chàng thanh niên liên tục thay đổi tư thế, hết đứng lại ngồi. Thỉnh thoảng anh nhấp một ngụm nước nhỏ cho thông cổ. Trời nắng. Chiếc lồng sắt tỏa ra hơi nóng như cái chảo rang. Chàng thanh niên ngồi xếp bằng theo kiểu hoa sen, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Trông thần sắc của anh ta hãy còn tươi tỉnh. Tất nhiên rồi, cuộc thi chỉ mới bắt đầu.

    Đúng bảy giờ tối, chiếc lồng được hạ xuống. Chàng trai từ bên trong bước ra. Anh cảm thấy cơ thể mỏi nhừ. Bác sỹ sau khi kiểm tra huyết áp và nhịp tim, gật đầu nói với mọi người xung quanh:

    - Tất cả vẫn bình thường. Anh ta có thể tiếp tục công việc chinh phục kỷ lục.

    Chàng trai được nhanh chóng đưa vào phòng bảo vệ. Anh tranh thủ tắm gội và nghỉ lưng một chốc. Đúng mười phút, hiệu lệnh vang lên, chàng trai bật dậy như chiếc lò xo và nhanh nhẹn bước vào xà lim trước những ánh mắt thán phục của mọi người.

    Đêm, không khí phần nào dễ chịu hơn ban ngày. Chàng trai ngồi tựa lưng vào khung sắt. Chiếc hòm “ công đức “ đặt dưới gốc cây, được khóa lại bằng dây xích sắt đề phòng kẻ trộm. Gã nhân viên bảo vệ ngáp vặt mấy cái rồi nhướn mắt nhìn lên:

    - Ê, hút thuốc không?

    - Hút, cho tôi một điếu!

    - Gã rút điếu thuốc trong túi áo, châm lửa rồi ném lên. Chàng trai đón lấy, rít liền mấy hơi:

    - Cám ơn!

    - Hôm nay cũng được kha khá đấy. Chập tối có bà giám đốc bỏ vào hòm những năm trăm nghìn.

    Càng về sáng, trời càng lạnh. Chàng thanh niên ngồi thu lu, hai tay bám lấy vai rên hừ hự. Đáng lẽ, anh nên phòng sẵn chiếc chăn bông. Thỉnh thoảng anh đưa tay ôm bụng. Cái đói như bàn tay bóp chặt dạ dày.

    Để giết thời gian và tạm quên cái đói, chàng trai chúi mũi vào những quyển tiểu thuyết diễm tình do bà giám đốc công ty cây xanh mang đến. Mười giờ sáng, trong công viên xuất hiện đoàn khách du lịch từ Na Uy, họ vô cùng thích thú khi mục kích cảnh tượng một người treo lơ lửng trong lồng sắt. Vài người định bấm máy thì nhân viên bảo vệ ngăn lại, bảo phải trả tiền lệ phí.

    Buổi trưa, trời như đổ lửa, chàng trai vơ vội mấy tờ báo đặt lên đầu. Cái nóng không đáng sợ bằng cái đói. Cái đói khiến mắt nổ đom đóm, tay chân rã rời như vay của người khác. Nước bọt trong miệng quánh lại như keo. Anh cảm thấy nhịp tim đập nhanh hơn. Hơi thở đi qua cổ họng phát ra những tiếng khò khè như người hấp hối. Cuộc chinh phục đỉnh cao về sức chịu đựng con người chỉ mới diễn ra ngày thứ hai, muốn phá kỷ lục Châu Phi, anh phải giam mình trong chiếc xà lim bằng sắt này thêm mười bốn ngày nữa.

    Tiền lạc quyên ngày hôm sau có vẻ khá hơn ngày hôm trước, một ông Tây đã hào phóng cho vào hòm công đức tờ một trăm đô. Một trăm đô quy ra tiền Việt là một triệu sáu. Chỉ có bọn buôn lậu mới có thể kiếm được nhiều như thế.

    Chiếc lồng sắt được hạ xuống, anh bước đi như bơi trên đất. Mắt váng. Tai ù. Thấy những cái nhìn hướng về mình, anh liền hít một hơi thật sâu vào buồng phổi rồi ưởn ngực mấy lần làm ra vẻ hãy còn sung sức lắm. Anh chàng có thể lừa được mọi người nhưng không thể nào qua mắt được ông bác sỹ đeo kính lão.

    - Chà, không tốt lắm. Anh còn có thể tiếp tục công việc? Tôi thấy lo cho anh.

    - Chẳng sao cả, - chàng trai đáp,:- một khi bộ máy sinh học không được tiếp nhiên liệu đầy đủ tất nhiên phải xảy ra sự cố.

    - Thật chứ? Nhịp tim, huyết áp của anh đều vượt qua chỉ số cho phép. Tôi e..

    - Đã bảo không có chuyện gì, sao ông cứ lải nhải mãi thế? Tôi phải biết sức của mình chứ. Trước khi đến đây, tôi đã từng thử qua nhiều lần.

    - Thôi được, - ông bác sỹ thở hắt ra:- Anh nên nhớ, tôi là người có quyền đình cuộc chơi này, khi thấy nguy hiểm sức khỏe của anh.

    - Tùy ông! – Chàng thanh niên nhún vai tỏ vẻ bất cần.

    Chín giờ tối trời mưa như trút. Tình huống này nằm ngoài dự kiến, Trần Túng Thiếu chỉ còn cách ngồi im chịu trận dưới cơn mưa kéo dài gần hai giờ liền. Ngay vừa tạnh mưa, mọi người vội lao đến. Lạy Chúa lòng thành! Anh ta vẫn còn thở.

    Sau khi được thay bộ đồ khô ráo, Trần Túng Thiếu lại ngồi vào xà lim, tiếp tục công việc chinh phục kỷ lục. Mọi người đang kỳ vọng vào anh. Mũi tên đã rời khỏi dây cung, dù muốn dù không, vẫn phải lao về phía trước.

    Thời tiết ngày thứ ba rất tuyệt. Nắng nhẹ, gió mơn man. Rất nhiều người đổ xô về công viên. Quá mệt mỏi, khi phải trả lời những câu hỏi cứ lặp đi lặp lại, nhân viên bảo vệ dùng phấn viết nguệch ngoạc lên tấm ván ép mấy chữ như cua bò “ đã nhịn đến ngày thứ ba “.

    - Hút thuốc nhả khói, ăn trầu nhả bã, đề nghị quý vị..

    Một bà có dáng đi lạch bạch như vịt xiêm xăng xái móc túi tìm tiền lẻ cho vào hòm. Vài người thấy thế cũng làm theo. Nhiều người cho nhưng chẳng được bao nhiêu vì chỉ toàn tiền xu.

    Về chiều, Trần Túng Thiếu đã gần như bất động. Ba ngày không có thứ gì cho vào bụng, lại phải hứng chịu sự hà khắc của thiên nhiên, đã vắt kiệt hoàn toàn sức lực trong cơ thể chàng trai vốn dĩ đã ốm đói. Cặp môi dày khô héo rộp lên thành vảy như vảy cá. Mồm khô đắng. Tai phát ra những tiếng u..u..như tiếng còi tàu. Anh thấy mọi vật trước mắt bỗng hóa thành ảo ảnh nhạt nhòa, chồng khít lên nhau..Anh bắt đầu rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh...

    Chiếc xà lim sắt lập tức được hạ xuống. Khi mọi người lao đến, chàng thanh niên đã ngất tự lúc nào.

    - Đưa hắn vào bệnh viện ngay, để lâu e nguy đến tính mạng!

    - Chẳng qua hắn bị đói, - ông bác sĩ gào lên:- Đề nghị mọi người tản ra để lấy không khí. Pha cho tôi cốc sữa. Nhanh lên!

     Một cô nhanh nhẹn mang ly sữa còn bốc khói. Bà giám đốc công ty cây xanh ra lệnh:

    - Cạy mồm hắn ra và đổ sữa vào! Chết thật, sức vóc như cọng bún thiu mà đòi thi với thố.

    - Dậy đi, đừng ăn vạ nữa. Còn những mười ba ngày nữa mới vượt qua kỷ lục thế giới.

    - Mẹ kiếp! Chỉ mới vài hôm hắn đã nằm thẳng cẳng. Tôi bất tài nhưng có thể chịu lâu hơn hắn. Vậy mà mở mồm ra cứ toang toác!

    - Đúng thế, ba ngày thì bõ bèn gì, bất kỳ ai cũng chịu đươc.

    - Rõ ràng hắn đã cho chúng ta ăn quả đắng. Chúng ta đã bị xỏ mũi như lừa!

    - Không nên nặng lời như thế. Dù sao anh ta đã nỗ lực hết sức, chúng ta nên ghi nhận những cố gắng của anh ta. Nói thì dễ, làm mới khó.

    - Anh ta tĩnh lại rồi kia.

    Trần Túng Thiếu từ từ hé mắt và ngồi bật dậy. Ông bác sỹ tháo ông nghe ra khỏi tai, nói:

    - Sức khoẻ của anh chưa được ổn cần đến bệnh viện kiểm tra tổng quát.

    - Tôi không sao cả, - Trần Túng Thiếu nói lào phào:- Thành thật cáo lỗi cùng quý vị vì sự cố đáng tiếc. Trời mưa ấy mà. Thật tình tôi có thể nhịn ăn hơn một tuần.

    Đoạn chàng thanh niên lảo đảo bước đi. Gã đội trưởng bảo vệ công viên cây xanh khệ nệ ôm chiếc hòm công đức đuổi theo:

    - Của anh đây!

    - Không, - chàng trai xua tay:- Tôi không xứng đáng nhận những thứ này. Tôi đã không phá được kỷ lục..

    Đám xông xúm vào, góp mỗi người một lời:

    - Của anh đấy. Nhận đi! Dù sao anh cũng đã cống hiến màn trình diễn hấp dẫn.

    - Đúng đó, anh phải nhận vì nó là kết quả lao động của anh.

    Trần Túng Thiếu miễn cưỡng gật đầu. Anh ta cặp chiếc hòm vào nách, lầm lũi hòa vào đám đông và mất hút ngay chốt đèn giao thông. Nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ thương hại..

    Hai mươi phút sau, tại nhà hàng Vườn Thượng Uyển , Trần Túng Thiếu ngồi gác chân chữ ngũ bên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ. Trên tay cầm ly cô nhắc loại năm sao.

    - Bồi!

    - Dạ, thưa quý khách dùng gì ạ? Hôm nay chúng tôi có món thịt rừng ướp ngũ vị hương rất tuyệt.

    - Món đó tính sau. Trước hết anh hãy mang cho tôi món gì có thể ăn ngay, tiền bạc không thành vấn đề. Ừ, súp bào ngư cũng được đấy, nếu có vi cá càng tốt. Nhanh lên nhé, tôi đang đói!

    Gã bồi lẫn nhanh vào bên trong. Một người đàn ông ăn mặc sang trọng từ bàn bên cạnh bước sang. Trên tay cầm cốc vang đỏ:

    - Nào, cùng chạm cốc chúc mừng. Chú mày làm ăn khấm khá nhỉ. Đợt vừa rồi kiếm chác được bao nhiêu?

    - Tạm đủ sống! Nào, chạm cốc. Mẹ kiếp! Tên bồi bàn này lâu lắc thế, đói mềm ruột rồi đây. Bồi

Bắt Hến Ở Hồ Isabella

Chừng hai tuần sau khi gia đình chúng tôi đến Hoa Kỳ và nhập cư ở thành phố này, Chung đến thăm. Trước anh một tuần thì có ông mục sư Tuế. Ông này mang cho một số thịt đông lạnh gói trong lớp giấy bọc màu vàng xỉn. Mẹ tôi đem bỏ hết vào tủ lạnh, và phải đến hơn một tuần sau chúng tôi mới khám phá ra mớ thực phẩm cao cấp này đã hết hạn cả năm về trước. Mẹ tôi mang vất thùng rác một cách tiếc nuối, nhất định bà còn chưa quên những rổ cá ươn thối cả khu phố giành giật nhau ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh đầu con hẽm nhà chúng tôi ở Sài Gòn. “Mô Phật, đừng có nói hành người ta tội nghiệp. Người ta có lòng đem cho mình mà các con.” Tất nhiên là tôi không nói gì. Mấy cái chuyện đó đã có vợ tôi và mấy cô em gái lo liệu.

    Chung đến không mang theo gói thịt cá đông lạnh nào hết. Nhưng anh có một thùng đồ nghề để trong chiếc pickup [1] màu xám của mình. Chung đi một vòng căn apartment hai phòng đầy nghẹt người và trống hoang tất cả những thứ khác, săm soi từng lỗ cắm điện, mấy vòi nước trong nhà tắm, cái bếp ga, và cái tủ lạnh mới toanh cô em gái sang Mỹ đã lâu mua cho gia đình. Cả nhà xúm lại quan sát từng cử chỉ của Chung và luôn luôn có một ai đó sẵn sàng trả lời một cách mau mắn những câu hỏi của anh. Lần viếng thăm đầu tiên của Chung đủ làm cho mẹ tôi mê anh tít thò lò. “Ôi cái thằng sao mà tử tế!” Vợ tôi nhìn cô em chồng độc thân cười cười, “Người ta có vợ hai con rồi đó mẹ à.” Cô em phát cáu, “Cái đồ thằng cha đen thui đen thủi ai mà thèm!” Mẹ tôi chấm dứt cuộc thảo luận bằng một câu tục ngữ rất chi là bóng bẫy, “Đúng là bồ hóng chê lọ nghẹ!”

    Chung và tôi làm thân với nhau rất nhanh. Ở tuần thứ ba của quãng đời tị nạn, tôi tìm được một việc làm khiêm tốn ở một tiệm ăn do người bản xứ làm chủ. Tôi sẽ tiếp tục có những công việc khiêm tốn như thế trong những năm về sau. Vào những ngày nghỉ, Chung gọi điện thoại mời tôi đến chơi, thường là vào buổi tối. Ở đó chúng tôi ngồi ở chiếc bàn ăn trong căn bếp uống bia và nói chuyện người chuyện mình. Vợ anh chẳng khi nào tham dự vào những buổi nói chuyện như vậy. Chị không biết tiếng Việt. Chị trả lời chồng với cái giọng mềm và hơi kéo dài của người miền Nam Hoa Kỳ. Đó là một người đàn bà Mỹ tầm thước, chị cao hơn Chung nửa cái đầu, và ít lời. Khuôn mặt tròn lốm đốm tàn nhang mang vẻ bình yên một cách buồn bã, hoặc buồn bã một cách bình yên, như thể hai điều này cần thiết phải đi chung với nhau. Về sau tôi biết được rằng Chung đã làm việc cực nhọc mấy năm ròng để chị có cơ hội hoàn tất chương trình y tá ở ngôi trường Đại Học nằm ở phía Tây của thành phố chúng tôi đang cư ngụ. Chung tiếp tục làm việc cực nhọc như thế sau khi người vợ Mỹ ra trường và tìm được việc làm. Chung làm thợ tiện, và xem ra anh hài lòng với công việc của mình. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hề biết gì về đoạn mở đầu của cuộc hôn nhân giữa cô gái người Mỹ và anh cựu binh thiết giáp Việt Nam. Chung chưa bao giờ kể và tôi chưa bao giờ hỏi.

    Thành phố tôi ở nằm lọt thỏm trong một thung lũng bằng phẳng kéo dài hàng trăm dặm. Từ thành phố, đi về hướng nào cũng gặp phải những cánh đồng ngút mắt, và xa hơn nữa là trùng trùng lớp lớp những núi và núi. Thỉnh thoảng Chung đưa tôi đến những cánh đồng vừa mới thu hoạch xong. Ở đó chúng tôi đi lom khom dọc những luống đất thẳng băng tìm mót tỏi, hành củ, hoặc khoai tây còn sót lại. Những chiếc bao nhựa lấy từ siêu thị Safeway hay Von’s sẽ nhanh chóng đầy lên với mớ nông phẩm và được buộc lại kỹ càng trước khi vất vào thùng chiếc pickup màu xám. Chúng tôi cười nói vui vẻ trên đường về, mặc kệ tay chân mặt mũi lấm lem bụi đất. Vào những dịp này, Chung thường nhắc lại những lần đi mót khoai mót đậu ngày còn nhỏ. Những mầm khoai lang màu đỏ tím không lớn hơn ngón tay út được phủi sơ đất cát và bỏ vào miệng nhai rau ráu. “Ngọt lịm, ông ơi!” Trong một số năm tháng sau đó, chúng tôi vẫn thường đi chung với nhau trong những chuyến “gặt hái” như vậy, có khi chỉ có hai người, có khi với một số bạn bè người Việt trong cùng thành phố. Vợ con của Chung không bao giờ hiện diện trong những chuyến đi như vậy. “Chúng nó bảo sao không ra siêu thị mua, vừa rẻ, vừa đỡ mất thì giờ.” Chung thường bảo vậy mỗi khi có ai đề cập đến việc này.

    Một hôm Chung gọi điện thoại, giọng hào hứng. “Ông qua đây, tôi có cái này hay lắm.” Khi tôi đến nơi, chỉ có mỗi một mình Chung đang loay hoay ở nhà bếp. Chắc là vợ con anh đã đi chơi hay mua sắm gì đó rồi. Chung đang nướng mấy cái bánh tráng trên cái bếp điện. “Cái hay lắm” thơm nức mùi hành mùi sả đang bốc hơi nghi ngút trong chiếc đĩa sứ lớn đặt trên bàn ăn. Thì ra là nghêu xào. “Nghêu ở đâu mà nhỏ xíu vậy?” Tôi hỏi. “Không phải nghêu, hến đó.” Chung trả lời, giọng chắc nịch. Tôi không biết là quanh đây có hến. Những con hến nhỏ bằng móng tay cái, vỏ màu xanh rêu mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn mua về nấu canh mồng tơi. Đã lâu lắm rồi tôi không còn được ăn canh hến nấu với mồng tơi. Không có mồng tơi, và nhất là không có hến ở quanh đây. Tôi cúi nhìn mấy cái vỏ hến đen xỉn cỡ ngón tay cái của mình và đâm ra nghi ngờ. Đây là những con baby clams![2] “Anh tìm chúng ở đâu vậy?” “Ở một cái hồ trên núi. Hôm nào mình đi nhé.” Chung trả lời, vẫn với cái giọng chắc nịch.

    Bỏ lại phía sau lưng những cánh đồng trồng cây ăn trái, xa lộ 178 sẽ ôm sát thượng nguồn sông Kern, the killer river,[3] như người bản xứ vẫn gọi. Bắt đầu từ nơi đây, xa lộ 178 biến thành một đường đèo hiểm trở. Con đường hẹp lại, hai lối đi ngược chiều nhau chạy vòng vèo giữa một bên là vách núi dựng dứng và phía bên kia là bờ vực chênh vênh nhìn xuống giòng nước sôi sục của sông Kern ba trăm bộ phía dưới. Dọc hai bên đường, chừng vài dặm lại có một khoảng trống nhỏ đục sâu vào vách núi hoặc nằm chơi vơi bên gành đá để xe hỏng máy hoặc chạy chậm ghé vào nhường chỗ cho những xe phía sau. Những nơi này được gọi là turnouts. Ở mãi trên đỉnh đèo, nơi con đường chấm dứt, là một chiếc hồ thực lớn. Hồ Isabella nguyên là một cái lũng thiên nhiên nằm giữa những hòn núi cao, nước từ những cơn mưa và từ những khối tuyết tan vào mùa Xuân đổ xuống đây trước khi hòa nhập vào thượng nguồn sông Kern và biến nó thành một giòng thác khổng lồ. Mặt phía Nam được chặn lại bởi một con đê bằng bê tông cốt sắt cao sừng sững như một dãy núi bị phạt ngang. Ngoại trừ cửa đập, hai bên bờ dốc thoai thoải của con đê được phủ đầy bởi những tảng đá lớn từ đó mọc lên những bụi cây nhỏ cằn cỗi. Hồ rộng mênh mông, một con đường trải đá chạy vòng vèo ôm lấy bờ hồ. Vào cuối tuần, thiên hạ từ những thành phố xa gần kéo đến cắm trại, câu cá, trượt nước làm khu hồ náo nhiệt hẳn lên. Chính là ở hồ Isabella này Chung và tôi đã đến nhiều lần để bắt hến. Nơi chúng tôi dừng lại khá vắng vẻ. Mang theo một chiếc cào sắt nhỏ và một bao cát, chúng tôi lội ra chỗ nước ngang thắt lưng, cào xới sục sạo dưới lớp bùn đen lẫn cát của đáy hồ tìm bắt những con nghêu nhỏ. Lũ nghêu sinh sôi nẩy nở khá nhiều nên công việc không mấy khó khăn. Chỉ vài tiếng đồng hồ sau, bốn bao cát mang theo đã đầy cứng những con nghêu nhỏ đen thui thủi. Chung vất chúng vào thùng xe, và chúng tôi ra về hân hoan. Xe xuống đèo, bờ vực phía tôi ngồi thỉnh thoảng biến mất trong tầm mắt ở những khúc quanh hiểm nghèo làm tôi thót ruột. Thực sâu phía dưới, dòng sông Kern quằn quại gào thét giữa hai bờ vực dốc đứng. Chung hoàn toàn không để ý đến vẻ bứt rứt của tôi. Thỉnh thoảng anh rời mắt khỏi con đường vòng vèo trước mặt, nhìn vào kính chiếu hậu. Tôi đoán Chung đang bận tâm đến những con baby clams mà anh nhất định gọi là “hến” trong những cái bao cát trong thùng chiếc pickup.

    Chung thường kể đi kể lại không mệt mỏi những lần đi bắt hến ở sông Cái. Con sông đào bên tả ngạn cướp đi dòng thủy lưu, sông Cái ngày mỗi cạn dần, có nơi lòng sông trơ ra toàn cát. Những con hến nhỏ bằng móng tay có lớp vỏ màu xanh rêu sống ở những quãng vắng, nơi nước chỉ đến thắt lưng. Chung sinh ra ở miền Trung. Con nhà nghèo. Cha mất sớm, mẹ vất vả một đời. Những mầm rễ khoai lang màu đỏ tím bám đầy đất cát, những gié lúa hiếm hoi rơi vãi trên cánh đồng mới gặt, những con hến nhỏ màu xanh rêu ở quãng sông cạn theo đuổi Chung suốt những tháng năm tuổi nhỏ. “Có khi bắt được cả chem chép. Tôi luôn luôn cạy vỏ chúng ra để tìm ngọc trai!” Tôi phá lên cười, làm gì có ngọc trai trong chem chép, hoặc ngay cả trong những con sò huyết đắt tiền. “Hồi đó mình còn nhỏ, ngu lắm. Cứ nghĩ đến truyện Trọng Thủy Mỵ Châu.”

    Cái đất nước nghèo xác của chúng tôi có nhiều huyền thoại. Gần như ai cũng biết chuyện Trọng Thủy được cha, vua nước Triệu, gởi đến triều đình vua Thục để ăn cắp chiếc nỏ thần đã nhiều lần chặn đứng những đợt tấn công của ông ta trước đây. Ông hoàng Trọng Thủy thành hôn cùng công chúa Mỵ Châu và cả hai nhất định đã có hạnh phúc với nhau, ít nhất cho đến khi Trọng Thủy đánh tráo được chiếc nỏ thần và kiếm cớ về nước. “Nếu có chuyện gì xảy ra và em phải rời bỏ kinh thành, hãy để lại dấu tích cho anh tìm em.” Ôm chiếc gối nhồi lông chim vào lòng, Mỵ Châu trả lời, “Anh đi theo con đường lông ngỗng thì sẽ tìm thấy em.” Cuộc tấn công sau đó của quân nhà Triệu xảy đến bất ngờ như cơn lốc. Vứt chiếc nỏ vô dụng, vua Thục kéo con gái lên lưng ngựa phóng ra khỏi kinh thành Cổ Loa đang bốc cháy ngùn ngụt. Trong lúc hối hả, công chúa Mỵ Châu chỉ mang theo được có mỗi chiếc gối nhồi lông ngỗng trên đó mỗi đêm nàng vẫn tựa đầu và nghĩ về những ngày tháng hạnh phúc với chồng. Những chiếc lông ngỗng trắng mềm mại từ chiếc gối được tung ra dọc con đường đào vong. Vua Thục dừng ngựa ở chiếc hồ đổ vào biển. Hồ lớn quá, không thể vượt qua, và tiếng vó ngựa của lính nhà Triệu vọng đến từ phía sau. Nhà vua quay đầu lại chính vào lúc chiếc lông chim cuối cùng từ tay công chúa Mỵ Châu rơi xuống đất. Con đường lông ngỗng đã hoàn tất nhiệm vụ đưa đường cho kẻ thù tìm đến. Vua Thục tuốt gươm ra. Mỵ Châu ngã xuống cạnh bờ nước, máu từ cơ thể nàng chảy vào chiếc hồ lớn. Những con trai trong hồ sẽ ấp ủ những giọt máu của Mỵ Châu trong lớp ngọc trắng óng ánh tiết ra từ cơ thể của chúng. Đó là chuyện về sau, rất lâu sau khi Trọng Thủy tìm đến nơi. Mọi sự đã quá trễ. Kẻ phản bội luôn luôn xuất hiện quá trễ nhưng hình phạt có khi đến rất sớm. Người ta nói rằng ngọc trai ở chiếc hồ lớn sẽ lóng lánh hơn, đẹp đẽ hơn nếu được chùi rửa bởi nước lấy từ cái giếng ở thành Cổ Loa nơi Trọng Thủy đã nhảy xuống trầm mình. Có khi quyết định của ông-hoàng-điệp-viên đến từ niềm ân hận không thể chịu đựng nổi hoặc từ nỗi nhớ thương người vợ quá cố hoặc từ cả hai. Những viên ngọc trai được mang qua bên Tàu, ở đó những ông hoàng bà chúa sẽ gắn chúng lên bộ xiêm y lộng lẫy của mình trước khi đến tham dự buổi dạ tiệc của triều đình. Không có viên ngọc trai nào dành cho đứa bé bắt hến ở con sông chảy qua ngôi làng nhỏ thuộc miền Trung nước Việt.

    Tôi tiếp tục đi bắt hến và lượm nông sản cùng với Chung một thời gian. Đến một lúc nào đó, đời sống bỗng trở nên bận rộn. Có nhiều điều bức thiết hơn những con baby clams ở chiếc hồ nhân tạo trên núi. Công ăn việc làm, những nhu cầu và những vấn đề mới trong đời sống hôn nhân đòi hỏi nhiều thì giờ và công sức để giải quyết. Khi tôi từ chối lời rủ rê đi lượm tỏi của Chung, anh không giấu được vẻ thất vọng. “Không có ai khác đi cùng anh sao?” Tôi hỏi. “Mấy người đó bảo sao không ra siêu thị mua, vừa rẻ, vừa đỡ tốn thì giờ hơn.” Những lần đi cùng Chung bắt hến ở hồ Isabella ngày càng thưa ra, và sau đó tôi ngưng hẳn. Những bất đồng ý kiến giữa vợ chồng chúng tôi xem ra không còn có thể hoá giải được nữa. Chúng tôi sau cùng quyết định sẽ tự mình thử giải quyết vấn đề theo cách riêng của mỗi người. Và chúng tôi chia tay, mang theo với mình nguyên vẹn những nan đề chưa có lời giải cộng thêm nỗi phiền muộn đến từ sự thất bại của chính mình. Về sau Chung thỉnh thoảng ghé thăm căn apartment nhỏ xíu của tôi, mang theo những nhánh tỏi còn bám đầy đất cát hoặc những con hến có lớp vỏ đen xỉn mà anh tìm bắt được trong những chuyến đi lẻ loi. Có vẻ như vợ con anh và những người bạn Việt Nam trong vùng chỉ thích dùng tỏi mua ở siêu thị. Ngay cả đĩa hến xào hành sả thơm phức và những cái bánh tráng dòn rụm sẽõ trở nên nhạt nhẽo khi phải ngồi ăn một mình.

    Chính là nhờ vào bản tin buổi tối phát vào lúc mười một giờ đêm của một đài truyền hình địa phương mà tôi biết được cái tai nạn trên đèo 178. Chiếc pickup màu xám rơi xuống bờ vực lởm chởm đá và chìm nghỉm trong giòng nước xoáy của sông Kern, mang theo những bao cát chứa đầy những con nghêu nhỏ màu xám đen. “Mọi sự đã quá trễ khi người tài xế của chiếc xe tải hạng nặng nhìn thấy người đàn ông đang lúi húi phía sau chiếc xe của mình. Nạn nhân và chiếc pickup màu xám được gởi qua bờ vực, rơi xuống dòng sông Kern ba trăm bộ phía dưới, và tức khắc bị dòng nước hung hãn cuốn đi hàng dặm về phía hạ lưu. Tất cả những gì còn lại một vệt dài những con nghêu nhỏ vỡ nát nhầy nhụa dưới bánh xe của chiếc xe tải hạng nặng.” Ống kính máy thu hình bây giờ chuyển xuống mặt đường nhựa, và tôi có thể thấy chiếc vỏ nát nhừ của những con nghêu nhỏ. Không có một lời nào về những chiếc bao cát đã rơi xuống lòng sông cùng lúc với chiếc pickup màu xám và người đàn ông xấu số. “Người ta sẽ không bao giờ biết được điều gì đã khiến người đàn ông dừng xe một cách bất cẩn ở đàng sau khúc quanh nguy hiểm bên cạnh bờ vực cheo leo ở thượng nguồn con sông Kern hung hãn.” Người phóng viên của đài truyền hình đã chấm dứt buổi tường thuật như vậy. Tôi có chỗ không đồng ý với nhận định này của ông ta. Tôi cho rằng mình có thể hiểu được phần nào những gì đã xảy ra. Tấm chắn phía sau chiếc pickup màu xám đã bung ra vì một lý do nào đó và những con nghêu nhỏ từ một trong những chiếc bao cát đã tuôn xuống dọc con đèo 178 quanh co lồi lõm. Tôi có thể hình dung ngay tức khắc Chung đang hấp tấp dừng xe bên cạnh bờ vực dốc đứng và lui cui đóng lại tấm chắn. Có khi anh còn mò mẫm trong cái chập choạng của hoàng hôn để thu lượm những con nghêu nhỏ rơi vãi trong lòng xe và có lẽ ngay cả trên mặt đường. Người phóng viên bản xứ sẽ không bao giờ hiểu được vì sao người ta có thể trở nên bất cẩn cùng cực chỉ vì những con nghêu nhỏ vô giá trị như thế. Dù sao thì ông ta cũng đã nhắc đến “con đường xác hến,” a trail of smashed baby clams. Quê hương tôi không có huyền thoại nào về hến. Những viên ngọc trai màu trắng bóng ngời đến từ những hạt máu của nàng Mỵ Châu vẫn được các ông hoàng bà chúa mang lên người trong những dạ tiệc sang trọng không có chút liên quan nào đến loài hến hèn mọn, ở quê hương tôi hay trên đất Mỹ. Những con hến đen đủi trong mấy chiếc bao cát hoặc sẽ va vào vách đá lởm chởm của sông Kern và vỡ nát hoặc sẽ rơi tỏm vào giòng nước hung hãn và nhanh chóng bị cuốn về mạn dưới. Một hành trình gian khổ cho những con hến tội nghiệp. Một số sẽ kẹt lại dưới lớp đá ngầm, một số khác sẽ bị bắn tung khỏi mặt nước, nằm phơi mình trên đá sỏi làm mồi cho lũ chim và những con rái cá háu ăn. Những con nghêu nhỏ may mắn còn lại sẽ trôi mãi về miệt hạ lưu, ở đó dòng nước chậm lại và đổ vào một chiếc hồ rộng.

    Chung quanh hồ là những cây thông, cây bồ đề, cây khuynh diệp tỏa bóng mát lên dãy bàn ghế bằng hợp kim nhôm sơn màu xám nhạt. Vào những ngày cuối tuần, người ta kéo đến và bày thức ăn lên những chiếc bàn dài, tụm lại ăn uống nói cười vui vẻ, mắt thỉnh thoảng nhìn xuống hồ trông chừng đám trẻ nhỏ đang bơi lội, đùa giỡn ở thềm nước cạn. Tôi cũng sẽ đến đó, ngồi một mình ở chiếc ghế đá cạnh bờ hồ, nhấm nháp miếng khoai tây chiên mỏng dính, mắt không rời những đứa con gái nhỏ xinh đẹp trong bộ đồ tắm sặc sỡ đang rượt đuổi những con ngỗng ngờ nghệch trên bờ cát. Rượt đuổi chán, chúng sẽ chạy ùa xuống hồ, đắm mình trong làn nước mát. Thỉnh thoảng chúng chúi xuống sâu trong nước, mò mẫm tìm kiếm. Có khi là một viên sỏi chẳng ra hình dạng gì hết, có khi chỉ là một cọng rong xanh thẩm. Cuối cùng rồi chúng cũng tìm được vật tôi muốn chúng tìm thấy. Cả bọn sẽ chạy ùa lên bao vây lấy tôi, miệng liến thoắng giành nhau nói. “Ba có biết tụi con đã tìm thấy cái gì không?” Tất nhiên là tôi biết chứ, daddy knows everything![4] “Một con cá vàng,” tôi trả lời. Cả bọn phá ra cười, “Không có cá vàng trong hồ này, cá vàng chỉ ở trong những cái chậu bằng kiếng ở nhà hàng Tàu mà thôi, ba không biết hay sao?” Một đứa trong bọn sẽ nhắc nhở tôi như vậy. Và đứa kia sẽ xòe bàn tay nhỏ xíu của nó ra một cách thận trọng. “A baby clam!” Chúng đồng loạt hét lên. Tôi sẽ cầm lấy con nghêu nhỏ trong tay ngắm nghía một lúc rồi cải chính. “Không phải, đây là con hến.” Những cặp môi nhỏ hồâng hào sẽ mở ra, cong lên, uốn éo, và từ đó phát ra những tiếng “hến” tròn trịa, trong vắt như tiếng sáo. Rồi chúng lại phá lên cười. Kéo chúng vào lòng, tôi sẽ xoay mình về hướng Đông Nam, nơi có rặng núi cao màu xanh nằm phơi mình dưới nắng chiều. Và xuống giọng thật thấp như thể đang nói về một điều gì vô cùng bí mật, tôi sẽ kể chúng nghe cuộc hành trình của con hến nhỏ trong lòng bàn tay mình, bắt đầu không phải từ đỉnh núi cao ngất trên kia, nơi có chiếc hồ nhân tạo mang tên Isabella, không phải từ cái bờ vực dốc đứng nhìn xuống dòng sông Kern hung bạo ở ba trăm bộ phía dưới, mà từ một ngôi làng nhỏ bên kia bờ Thái Bình Dương, nơi dòng sông chảy qua sẽ cạn dần theo ngày tháng.

Tiệc Đầy Tháng

Tiệc đầy tháng con gái rượu của Sếp được tổ chức tại nhà hàng – khách sạn năm sao vừa mới khai trương. Lúc đầu Sếp đặt bốn mươi bàn, sau thấy không đủ đặt thêm mươi bàn nữa. Sếp bảo không muốn làm rình rang sợ mang tai tiếng. Nếu mời hết bạn bè, bà con xa gần, dây mơ rễ má, trăm bàn còn chưa đủ. Ngoài năm mươi tuổi mới có mụn con nối dõi tông đường nhờ vào bước nhảy thần kỳ của nền sản khoa, có hoành tráng một chút cũng chẳng ai trách. Nghĩ cũng tội, Sếp giàu có về đường công danh, tiền tài nhưng lại nghèo kiết xác đường con cái. Vì thế để đánh dấu sự kiện trọng đại này, Sếp cho toàn thể công nhân được nghỉ nửa ngày.

    Hoát, công nhân nguội cùng tổ với tôi mỗi khi nói về Sếp đều biểu lộ lòng kính trọng pha lẫn sự ngưỡng mộ:

    - Sếp của chúng ta tài thật! Mới hôm nào còn là chàng kỹ sư quèn. Trọng lượng tính luôn bì, kể cả chất bã trong ruột già chưa tiêu hóa cũng không vượt quá bốn mươi lăm cân. Đám giỗ, đám ma hay dự hội thảo với chuyên gia nước ngoài cũng chỉ mỗi một bộ đồ màu cháo lòng cùng chiếc xe đạp cà tàng tróc sơn lỗ chỗ như bị lang ben. Đã thế Sếp lại mắc thêm chứng bệnh dị ứng trước đám đông. Cậu còn nhớ không, lễ báo cáo mừng công năm nào, được giám đốc phân công lên diễn đàng, Sếp cứ đực mặt ra, cả buổi không rặn nỗi một từ, rồi thì mồ hôi cha, mồ hôi con tuôn ra như tắm khiến cử tọa được một phen cười vỡ bụng. Bây giờ Sếp thay đổi như rắn lột da. Trọng lượng nặng gấp đôi lúc mới về nhà máy. Bộ cánh cháo lòng được thay bằng bộ veston được đặt may tận Hồng Kông. Tiền và quyền lực giúp Sếp trở nên tự tin có phần thái quá. Vẻ khép nép như con dâu mới về nhà chồng dạo nào chỉ còn là hoài niệm. Hơn thế, Sếp luôn nhìn thẳng vào người đối diện. Và giọng nói cứ oang oang như tiếng kèn xung trận. Thiên hạ bảo miệng nhà quan có gan có thép chẳng sai chút nào.

- o O o -

    Chiều thứ sáu, ông Phồn, quản đốc phân xưởng cơ khí khệ nệ ôm chồng thư mời từ phòng giám đốc ném xoạc xuống mặt bàn. Lấy khăn mù xoa vừa lau mồ hôi trán, vừa nói lào phào như người mắc chứng bệnh kinh niên:

    - Các cậu xem cái nào của mình thì nhận.

    Hàng trăm công nhân phế hết công việc xông vào giành giật như con chiên tranh giành từng giọt nước thánh, phép lịch sự cha mẹ, thầy cô dạy dỗ từ thuở nằm nôi tạm thời vất vào sọt rác. Những tràng từ ngữ vô cùng trong sáng tiếng mẹ đẻ được vung vãi một cách vô tội vạ. Cô Loan, nhân viên KCS, từ ngoài ôm chồng hồ sơ bước vào nhìn tôi, nói hụt hơi:

    - Anh Thân, xem cái nào của em thì lấy giúp!

    Tôi túm cổ tay thợ tiện có mái tóc rối bù ném ra xa. Nói nổi cả gân cổ:

    - Cô tự tìm lấy. Tôi lo thân mình còn chưa xong. Thằng kia, sao mày đấm vào mặt ông hử? Mặt này không dễ bắt nạt đâu nhé?

    Người phụ nữ đoạt giải thanh lịch nhất toàn ngành lập tức xông vào đám đông ô hợp, gào thét, tranh giành. Tờ thiếp được đánh đổi bằng hai chiếc cúc áo, để lộ bộ ngực tròn căng, trắng nõn.

    - Sếp Phồn, tại sao tất cả mọi người đều có, còn tôi thì không?

    - Làm sao tôi biết được. Có lẽ, Sếp không thích cậu. Chuyện đơn giản vậy, mà cậu không hiểu nữa.

    Trời ạ, Sếp mà không không ưa xem như cuối năm bị cắt suất hợp đồng. Ý nghĩ đó, khiến tôi rụng rời cả tứ chi. Chợt, cậu Thông, thợ hàn reo lên:

    - Cái ở dưới gầm bàn là của thằng nào?

    Những bài chiến thuật lăn lê, bò tòi, tôi thuộc nằm lòng thời ở quân đội bỗng trở nên hữu ích. Từ dưới gầm bàn lóp ngóp chui ra, tôi vuốt lại tờ thiếp ngay ngắn và kính cẩn cho vào túi áo. Có được tờ giấy thông hành này, tôi không phải thắc thỏm lo lắng chuyện hợp đồng. Chân thành cảm ơn Sếp.

- o O o -

    Không dám làm xấu mặt Sếp, tôi đành gửi “ con cào cào “ cách nơi chiêu đãi hai ngã tư. Trước khi bước lên bậc cấp, tôi còn cẩn thận sờ lên túi áo, kiểm tra lại phong bì. Chiếc phong bì bằng giấy chẳng thể có cánh bay như chim hay bốc hơi vào không khí như cồn, vậy mà tôi vẫn cứ lo nó biến mất bất kỳ lúc nào. Hai trăm nghìn chứ đâu phải ít. Vợ tôi bảo, nhà nghèo mà chơi sang, nhà này ngóc đầu lên không nổi là tại tôi. Theo cô ấy, một trăm là đúng tiêu chuẩn. Đàn bà là động vật có trí khôn nhưng vô cùng thiển cận. Lọt sàn xuống nia mà lại. Nếu có chỗ ở khác, tôi sẵn sàng thế chấp ngôi nhà đang ở làm tiền mừng cho Sếp. Tay Tráng cùng công ty, xét về nghiệp vụ chuyên môn như mèo mửa, nhưng khoản mua bán đổi chác thì đáng xếp vào hàng cao thủ. Hai nghìn đô nhân ngày sinh nhật Sếp đã đưa anh chàng đang trong diện tinh giảm biên chế trở thành trưởng phòng tổ chức. Việc mua quan bán tước tại công ty diễn ra công khai như phiên giao dịch thị trường chứng khoán.

    Đã từng dự hàng trăm tiệc lớn, tiệc nhỏ, nhưng tôi chưa từng mục kích buổi chiêu đãi nào rình rang, sang trọng đến thế. Thảm đỏ được trải từ chân thang máy đến tận sân khấu. Hai mươi cô người mẫu chuyên nghiệp ăn mặc theo phong cách người tiền sử xếp thành hàng ngay lối vào. Nước hoa chanel chính hiệu thơm nặc mũi. Tốp múa “ Những bông hoa biết nói “ đang tranh thủ dượt lại những động tác vô cùng gợi cảm phía sau hậu trường. Đội kịch nói “ Tuổi Ngọc “ của nhà văn hóa thiếu nhi quận cũng được lôi vào cuộc cho xôm tụ. Còn có rất nhiều bong bóng và champane đỏ của Pháp.

    Bước chân vào đại sảnh, tôi bị chói mắt bởi những ánh đèn flash của các tay phó nháy chuyên nghiệp, và ánh đèn mấy trăm watt máy quay phim hiện đại nhất. Màn hình trên sân khấu đang chiếu những cảnh sinh hoạt tại tư gia Sếp. Sếp phu nhân đang bế đứa con cầu tự với miệng cười hết cỡ bên cạnh con becgiê thuần chủng. Cảnh Sếp đang ngồi trầm tư bên máy vi tính thật sự gây xúc động trong cử tọa, vài người lấy khăn chấm nước măt. Tôi cũng muốn khóc, không hiểu sao cái miệng lại cười. Chết thật!

    Tôi chọn một chỗ gần sân khấu. Vừa kéo ghế chưa kịp đặt mông xuống, gã nhân viên tiếp tân có gương mặt hình sự từ đâu bước đến:

    - Xin lỗi, vui lòng cho xem thiếp mời!

    Đừng nghĩ thằng này đến ăn rình nhá! Sếp mời đích danh Nguyễn Văn Thân, tổ phó tổ nguội đấy. – Tôi nghĩ thầm và lấy tấm thiếp dằn mạnh lên bàn.

    - À, thiếp xanh, chỗ ngồi quý khách ở đàng kia.

    Nói đoạn, anh ta đưa hướng dẫn tôi đến phía dãy bàn kê sát nhà vệ sinh. Từ bên trong vọng ra tiếng giật nước ào ào, có lẽ, ai đó đang tranh thủ súc ruột. Hoát, công nhân cùng tổ nguội với tôi đưa tay vẫy vẫy:

    - Cậu Thân lại đây.

     Tôi ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh. Hoát cười để lộ hàm răng đóng bợn:

    - Đây là nơi dành cho cánh lính lác chúng ta. Cậu muốn bị cắt hợp đồng hay sao mà dám mon men đến chỗ của các VIP?

    Thì ra là vậy, - tôi vỡ lẽ:- Thảo nào, trên bàn đều bày sẵn chai cô nhắc loại năm sao.

    Tôi hỏi Hoát đi bao nhiêu tiền. Hoát bảo:

    - Theo tiêu chuẩn, một trăm.

    Tôi toét miệng cười thắng lợi vì tiền mừng của tôi gấp đôi Hoát. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn.

    Trước khi vào tiệc, người dẫn chương trình giới thiệu Sếp lên sân khấu phát biểu cảm tưởng. Bài diễn văn được tay Thìn, trợ lý chuẩn bị từ ba hôm trước dài mười sáu trang đánh máy. Font size cỡ 10, nhỏ li ti, nhức mắt. Trời ạ, cứ đà này chắc đến mùng thất mới được ăn tiệc.

    - Kính thưa chú Bảy, anh Năm, chị Tám!

    Sếp tằng hắng lấy giọng. Mở đầu Sếp báo cáo sơ kết kết quả sản xuất, kinh doanh trong năm của công ty, những thuận lợi, khó khăn, rồi đến phương hướng, nhiệm vụ..Tôi thật sự không hiểu, kế hoạch sản xuất thì có liên quan gì đến tiệc đầy tháng con gái rượu của Sếp.

    Theo chương trình; sau bài diễn văn tràng giang đại hải là phần tặng hoa. Bó hoa tươi đặt mua từ Hà Nội vừa chuyển vào bằng đường hàng không sẽ do bà Lan Hương, trưởng phòng tổ chức thực hiện nghi thức long trọng. Nhưng đến phút cuối, chẳng may cậu con trai đang học lớp sáu của bà trưởng phòng đột ngột bị viêm ruột thừa, phải mỗ cấp cứu. Chứng bệnh mất trật tự này có nguy cơ đẩy bà trưởng phòng hét ra lửa xuống vị trí nhân viên tạp vụ.

    - Để tôi!

    Cô Thoa, thư ký giám đốc nhanh nhẹn lách người qua khỏi dãy ghế ken đặc, tiến lên sân khấu. Sếp bà, tay bế đứa con cầu tự đứng bên cạnh chồng. Tặng hoa xong, cô Thoa không xuống ngay mà còn nấn ná:

    - Cho em chụp chung với gia đình ta một kiểu.

    Sếp phu nhân đứng bên cạnh cô Thoa hệt như con hầu với nàng công chúa. Các bác phó nhòm thi nhau bấm máy. Sếp phu nhân vốn là con ông vụ trưởng, vừa xấu, vừa mắc chứng vô sinh. Thương con, ông vụ trưởng bèn đưa ra điều kiện:

    - Đứa nào chịu lấy con gái tao, tao sẽ nhường cho căn nhà mặt tiền ba tầng lầu, cùng chiếc ghế giám đốc.

    Hóa ra, chứng loạn sắc bẩm sinh của Sếp lại là ưu thế! Cộng với tài năng và sức trẻ, Sếp đã hạ nốc ao tay Thái, phó phòng cung ứng vật tư và anh Triều, phó quản đốc để chính thức trở thành nghĩa tế ông vụ trưởng.

    Đúng một tháng sau, từ vị trí tổ phó, tổ sản xuất, Sếp điềm nhiên chễm chệ trên ghế quyền lực. Việc đầu tiên của Sếp, gạch tên ông Bính, tổ trưởng, ra khỏi biên chế với lý do sức khỏe. Ông Bính bị tống cổ khỏi xí nghiệp là đáng lắm, bởi ông không biết nhìn xa trông rộng, cứ nhè vị giám đốc tương lai bắt viết kiểm điểm vì tội đi muộn, về sớm và hay tán tỉnh các cô nữ nhân viên phục vụ nhà ăn.

    Cuối cùng cũng đến phần chiêu đãi. Khi nhân viên phục vụ bê lên “ sáu món ăn chơi “, cũng là lúc trên sân khấu bắt đầu trình diễn tiết mục văn nghệ “ cây nhà, lá vườn “. Toàn bộ các tiết mục văn nghệ, ngoài một ít sáng tác của Đoàn thanh niên, đa phần được phổ từ những sáng tác của Sếp. Đúng là tài năng không đợi tuổi. Nghe đồn, thời còn mài đũng quần ở ghế nhà trường, Sếp học rất kém môn văn. Thậm chí Sếp còn lầm tưởng Hồ Xuân Hương là em ruột của Hồ Biểu Chánh. Và đại thi hào Nguyễn Du chính là cha đẻ của Nguyễn Trường Tộ. Vậy mà, không hiểu sao từ khi ngồi trên ghế giám đốc, hồn thơ của Sếp bỗng lai láng, văn chương chảy tồ tồ. Chỉ trong khoảng thời gian ba tháng, Sếp đã lận lưng gần hai trăm bài thơ, tám trường ca, và hàng nghìn bài tứ tuyệt. Thật xúc động và xao xuyến làm sao khi đọc những vần thơ, Sếp tả ngày Quốc tế Phụ nữ 8 tháng 3:” Hôm nay ngày tám tháng ba/ Là ngày phụ nữ đi ra, đi vào/ Gặp ai các chị cũng chào/ Chào xong, rồi lại đi vào đi ra/ Mặt cười hớn hở như hoa/ Cười xong rồi lại đi ra đi vào...”. Thậm chí khi viết về kế hoạch hóa gia đình, Sếp cũng để lại rất nhiều ấn tượng lắng đọng trong lòng người đọc:” Em ơi, hãy nhớ OK / Hai con là đủ, anh mê tới già! “. Ông Nghĩa, phó giám đốc luôn miệng khẳng định, Sếp là phát hiện lớn lao của nền thi ca đương đại. Sếp là tài sản văn hóa, tinh thần của toàn ngành. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm giữ gìn và phát huy những giá trị đó. Nhưng bằng cách nào để không bị mai một và dễ dàng đến với quần chúng? Cuộc họp với đầy đủ thành phần, ban bệ, từ lúc chập tối kéo dài đến tận nửa đêm vẫn không sao tìm ra lời đáp. Trong cái khó, ló cái khôn, ông Nhượng, trưởng phòng tài chính bỗng vỗ đùi cái đét hệt như Newton tìm ra định lực vạn vật hấp dẫn:

    - Phổ nhạc!

    Chẳng hiểu, ông Nhượng quan hệ như thế nào mà chỉ hai hôm sau đã đưa đến xí nghiệp sản xuất máy nông, ngư cơ xuất khẩu một cây bút có chân trong hội nhạc sỹ thành phố. Tay nhạc sỹ trẻ đã từng đoạt giải nhất trong cuộc thi do thành phố phát động về đề tài bao cao su và đặt vòng tránh thai và giải nhì về tuyên truyền chích ngừa chó dại. Rồng mây gặp hội, những tác phẩm xuất sắc lần lượt ra đời.

    Chàng nhạc sỹ trẻ được hưởng lương cán sự xí nghiệp chỉ làm mỗi công việc phổ thơ Sếp cũng có mặt trong buổi chiêu đãi này. Anh ta đang ngồi run đùi uống cô nhắc pha sô đa, chanh bên cạnh sân khấu. Rượu ngon, pha loãng còn gì hương vị. Uống như vậy rõ ràng không phải là dân sành điệu.

    Đến món thứ ba, tôi đã uống được ba lon. Chỉ tiêu của Hoát là sáu lon. Sáu lon cộng với thức ăn, phí phục vụ tròn trèm một trăm. Nếu vậy, tôi phải uống gấp đôi mới đủ tiền mừng.

    Lúc này, Sếp cùng bầu đoàn thê tử và hai cô người mẫu đến chào từng bàn. Mỗi bàn chụp hai pô ảnh, quay hai đoạn phim. Trong khi mọi người nâng ly chúc tụng, thì hai cô người mẫu gom phong bì cho vào túi vải. Hai cô thực hiện động tác rất thuần thục chứng tỏ đã tập dượt kỹ trước đó. Sếp phu nhân đón lấy ly rượu từ đại diện bàn:

    - Nếu mỗi bàn đều uống một ly thì không còn sức để tiếp khách. Tôi xin được uống thay chồng tôi.

    Đoạn Sếp phu nhân ngửa cổ ực sạch ly bia trong sự cổ vũ của đám đông thực khách. Hoát khều vai tôi, nói khẽ:

    - Không ngờ tửu lượng của Sếp bà cũng đáng nể nhỉ.

    Tôi gật đầu, phụ nữ mà chịu uống thì cánh đàn ông cứ phải xách dép chạy dài.

    Phần trình diễn tam ca Ba con chuột vừa kết thúc, Hoát nheo mắt nhìn tôi:

    - Cậu lên làm một bản cho có khí thế.

    Tôi lắc đầu. Nhắc đến chuyện ca hát tôi vẫn còn run. Cách đây vài tháng tôi bị nắm cổ đưa vào đội văn nghệ xí nghiệp cho đủ mâm đủ bát. Chả là, tôi biết võ vẽ mấy nốt nhạc thời còn đi học. Vào đội văn nghệ được tiền bồi dưỡng, được chấm công đầy đủ kể cũng thích. Nhưng thật lòng mà nói, giọng hát hàng chợ của tôi không thích hợp với những sáng tác hàn lâm của Sếp. Đã vậy, tôi không thể nào từ chối những cuộc nhậu bạn bè mời mọc và liên tục hút thuốc lá như hun muỗi nên thanh quản luôn có vấn đề. Đợt liên hoan văn nghệ toàn ngành, tôi được bố trí hát sau tiết mục hợp ca. Bài “ Lời con gửi mẹ “, nhạc Văn Tiến, phổ thơ Sếp, qua giọng ca rè rè bia bọt của tôi biến dạng đến quái dị. Cao trào đến đến đoạn điệp khúc, thay vì “ lại mẹ con đi...” , tôi lại hát thành “ lấy mẹ con đĩ...”, khiến cử tọa được một phen cười nghiêng ngả. Sếp cũng cười. Cười vì, kiệt tác của Sếp bị tôi méo mó đến thảm hại. Sau vụ đó, tôi bị xóa tên trong đội văn nghệ, bị hạ một bậc lương. Hú vía!

    Lúc này phái đoàn của Sếp đang tiến về phía chúng tôi. Trước đó chúng tôi đã phân công Hoát đại diện cả bàn phát biểu cảm tưởng nhưng đến phút chót cậu ta bỗng đổi ý, tôi đành làm kẻ hứng mũi, chịu sào. Rót đầy bia, tôi đứng dậy. Trịnh trọng nói:

    - Dạ, nhân dịp đầy tháng của cháu, em xin kính chúc thủ trưởng dồi dào sức khỏe, lãnh đạo xí nghiệp hoàn thành kế hoạch trên giao. Dạ..em kính mong Sếp tiếp tục gia hạn hợp đồng...Dạ, hoàn cảnh của em, vợ con nheo nhóc. Dạ, em xin kính Sếp một ly.

    Sếp tím mặt. Hoát thúc chõ vào hông tôi, nói khẽ:

    - Cậu điên hả? Đầy tháng con gái Sếp, sao lại chúc Sếp.

    Chụp ảnh, quay phim xong, bầu đoàn thê tử của Sếp dợm sang bàn khác, tôi liền xăng xái:

    - Sếp cho em bế cháu một chút lấy hên!

    Trước tấm lòng quá đỗi chân thành của tôi, Sếp không nỡ từ chối. Tôi nâng niu đứa con thụ tinh nhân tạo trên tay như báu vật:

    - Bác phó nháy làm ơn chụp giùm một kiểu!

    Đèn flash nhấp nháy. Tôi mừng rơn, tấm ảnh sẽ là giấy thông hành giúp tôi thong dong trên con đường tiến thân. Cô con gái rượu của Sếp xấu tệ. Tôi e Sếp phải cáp tiền tỉ để tậu một tấm chồng sau này.

    - Cháu bé thật dễ thương. Cái mũi mới đáng yêu làm sao!

    Sếp phu nhân tái mặt. Mắt nhìn tôi tóe lửa. Đợi mọi người đi khỏi, Hoát nhìn tôi cười châm chọc:

    - Mũi như mũi lân mà cậu khen đẹp. Nói như thế khác gì tát vào mặt Sếp.

    Tôi gật mình toát mồ hôi lạnh. Bỏ mẹ rồi.

    Món thứ năm, lẩu thập cẩm. Tôi cố uống đạt chỉ tiêu, bụng óc ách chẳng nuốt nổi thứ gì. Lác đác vài người rời khỏi bàn, tuy nhiên đám đông vẫn nán lại chiến đấu tới cùng. Lẩu đã bắt đầu sôi, tôi cầm cả đĩa hải sản cho vào rồi dùng đũa ấn xuống.

    - Nào, xin mới quý vị đưa bát! Tôi xin thông báo, tiêu chuẩn mỗi người một con tôm, một con thôi nhé..

    Tôi không thích món tôm nhưng tôm lại đứng đầu nhóm hải sản các loại nên tôi phải cố cho vào mồm. Hoát vừa nhấc mông định đi vào toa lét bỗng giọng kim the thé của Sếp bà vang lên kéo cậu ta ngồi xuống ghế.

    - Mày là con đĩ giật chồng bà. Bà phải giết mày!

    Sếp phu nhân trong y phục nhàu nát, tóc tai rồi bù đang túm tóc cô Thoa thư ký giật mạnh. Tội nghiệp, cô Thoa không dám chống trả mà trân mình ra chịu trận, miệng liên tục kêu cứu.

    Sếp phu nhân trút đòn thù xuống tình địch như mưa. Cô Thoa bị xô ngã xuống nền gạch. Khắp người xây xước. Sếp bà ngồi trên bụng cô Thoa, sử dụng tất cả võ học gia truyền quyết sống mái một phen:

    - Tao không bị mù mà chúng mày qua mặt. Mày với thằng chồng bạc bẽo của tao đã làm những gì, ở đâu, tao đều biết hết. Hôm nay tao sẽ rạch nát mặt mày, để mày không còn dùng sắc đẹp quyến rũ chồng người.

    Vài người định xông vào can thiệp nhưng thấy Sếp bà dữ dội quá, cứ đúng yên như phỗng.

    - Đứa nào dám can thiệp vào chuyện riêng của bà, bà đuổi thẳng cổ ra khỏi xí nghiệp!

    Cô Thoa được tuyển vào chân thư ký cách đây hai năm. Thoa vốn xuất thân là người mẫu nghiệp dư, chữ nghĩa không đầy lá mít. Tiêu chuẩn tuyển thư ký rất khắt khe, phải tốt nghiệp đại học, sử dụng thông thạo vi tính, Anh văn. Tiếng Anh, Thoa không thuộc nổi bảng chữ cái nhưng tiếng “ em “ thì rất thạo. Sếp và Thoa đã học tiếng “ em “ nhiều lần trong khách sạn, trong nhà vệ sinh. Cái toa lét của Sếp, thậm chí còn sạch sẽ, tiện nghi hơn chỗ ở tồi tàn của đám lính thợ. Ai bảo nhà vệ sinh chỉ đơn thuần là nơi giải quyết nhu cầu của hệ tiêu hóa, hệ bài tiết, trật lất.

    Tất nhiên đi đêm có ngày gặp ma là điều không tránh khỏi. Chồng Thoa vốn xuất thân là vận động viên thể hình, đã từng đoạt giải khuyến khích cấp thành phố, sau nhiều lần thuê xe ôm theo dõi, bèn mang con dao chọc tiết lợn tìm gặp kẻ thù. Mười giờ đêm, chàng vận động viên viên hết thời đạp cửa buồng khách sạn xông vào. Nhân viên lễ tân chắc mẩm phen này sẽ có đầu rơi, máu chảy. Im lặng. Căng thẳng. Hồi hộp. Gần hai chục phút trôi qua, cả ba quàng vai bước ra cười nói vui vẻ thắm tình hữu nghị cứ như vừa kết nghĩa Vườn đào, trước ánh mắt kinh ngạc của mấy anh công an, súng ống sẵn sàng.

    Một tuần sau, chồng Thoa được cử làm giám đốc đại diện tại Hà Nội. Hoát bảo, Sếp mình tài thật, buông một mũi tên chết hai con nhạn, vừa khống chế được con bò mộng Nam Mỹ, vừa tự do vui vầy với người đẹp không sợ bị quấy rầy.

    Cuối cùng cô Thoa cũng vùng thoát khỏi, lao đến Sếp cầu cứu. Tình thế đã đến nước này, Sếp không thể ngồi yên.

    - Bà say quá rồi. Về nhà!

    Nhưng men rượu và cơn ghen đã làm mờ lý trí Sếp phu nhân:

    - Thằng khốn nạn! Đồ ăn chén đá bát! Không có cha tao ra tay nâng đỡ thì làm sao mày có được ngày hôm nay để mày chim chuột với bọn đĩ!

    Sếp giận dữ vung tay tát Sếp bà một cái đau điếng. Chẳng nói chẳng rằng Sếp phu nhân tóm lấy chiếc ghế ném mạnh về phía người chồng vũ phu, bội bạc. Sếp né người sang một bên tránh đòn, chiếc ghế lướt qua đầu ông tổng giám đốc và đâm sầm vào cửa kính, vỡ toang. Sau đó, Sếp bà lao vào tấn công tình địch. Hàm răng ba mươi hai chiếc ngoạm mấy vành tai cô Thoa, thư ký. Đòn hiểm này, Sếp bà học lóm được từ trận thi đấu quyền anh giữa nhà vô địch thế giới Mike Tyson với tay đấm thượng thặng Holyfiel được truyền hình trực tiếp trên ti vi dạo nào. Khi mọi người dằn ra, thì vành tai dễ thương cô nữ thư ký đã nằm gọn trong mồm Sếp bà.

    Mục kích cảnh tượng tan hoang như bãi chiến trường, thực khách vội vả tháo chạy như cuộc di tản sau chiến tranh, không kịp thưởng thức món trái cây tráng miệng. Tôi cố thanh toán nốt phần bia trong lon. Vừa ném chiếc lon rỗng xuống gầm bàn, ngay lối ra vào bỗng xuất hiện vài cán bộ công an. Một người, có lẽ, là chỉ huy nói:

    - Ông là Lê Tấn Tiến, giám đốc xí nghiệp sản xuất máy nông, ngư cơ xuất khẩu?

    - Vâng, chính là tôi. Có việc gì không, các anh?

    - Chúng tôi có lệnh bắt ông vì tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa. Mời ông đi theo chúng tôi đến cơ quan điều tra.

    Đoạn, viên sỹ quan khoát tay ra hiệu, ngay lập tức anh thượng sỹ đứng cạnh đấy bập vào tay Sếp chiếc còng số tám vừa mới đập hộp.

    Sếp được tống vào xe bít bùng hệt như xe bắt chó. Sếp bà và cô Thoa bỗng đổi thù thành bạn, hai người ôm nhau khóc muồi mẫn. Một người bị mất chồng, kẻ kia vốn đầu tư bị mất trắng. Hai thảm cảnh, một nguyên nhân.

    Tôi cùng Hoát chân nam đá chân chiêu bước ra phía ngoài. Tôi thấy đói cồn cào, bởi cả buổi, tôi chỉ uống chứ có ăn thứ gì đâu.

Chợ trời Dandenong

Truyện ngắn Chợ Trời Dandenong nguyên thủy có tên Người Bán Mắm, nhưng sau tác giả đổi sang tên Chợ Trời Dandenong. Dandenong là một ngọn núi nằm ở phía Đông của thành phố Melbourne, một thị trấn nổi tiếng của tiểu bang Victoria, Úc Châu. Theo như truyện ngắn, ngay tại chân núi, chợ trời Dandenong mở ra buôn bán hàng lậu, thịt, cá, và đặc biệt nhất là món mắm. Đón đọc Chợ Trời Dandenong đăng trong HỢP LƯU số 92 Xuân Đinh Hợi 2007 để biết góc cạnh phù vân và vô thường của cuộc đời, trình bày trong Sách Giảng Viên, được tác giả minh họa ra sao trong truyện ngắn thoạt tiên có tên là Người Bán Mắm...  

Núi Dandenong (Đen-đơ-nông) dáng mập tròn lùn tủn nhưng vững vàng kiên cố nằm về phiá đông của phố Melbourne. Sáng mùa hè, nhưng trời lạnh cóng như mùa đông. Khách du lịch mặc quần đùi áo thun ngơ ngác đứng nhìn trời mây xám, lạ lùng với thời tiết khi nóng nực khi rét cóng, khi nắng gắt khi mưa rào của Melbourne.

Cư dân Melbourne thì không lạ chi với khí hậu bất thường của thị trấn. Trời đang đổ lửa nổ tung đom đóm, bỗng dưng mây đen từ phía Nam Cực lồm cồm từng cụm xám dầy lô nhô kéo tới, vừa bay vừa sinh sôi nẩy nở bự to như cục nấm nguyên tử. Tới thị trấn, mây nấm dừng lại cầm từng gầu nước đổ mưa xối xả xuống phố phường, rồi thật nhanh biến mất. Thế là trời quang. Không một gợn mây. Nắng lại tấp nập trên những con đường loang loáng nước mưa. Nhiều khi trời mưa Melbourne, nhưng cách đó không xa, trời Dandenong đang nắng. Từ bao lâu rồi, giang hồ có người vẫn lẩm bẩm chửi thề, “Úc khùng!”, bởi khi thấy nắng lên, thiên hạ quẳng dù vào thùng rác, để lại áo khoác trong xe, thảnh thơi rong chơi trên hè phố. Nhưng mây xám lại kéo tới, rồi lại mưa, rồi lại nắng, và rồi lại mưa. Quần hùng trở tay không kịp với khí hậu Melbourne.

Sáng, ngôi chợ trời mở ngay chân núi Dandenong tấp nập người ra người vô. Người Úc gốc Tây sánh vai chen kẽ với người Úc gốc Việt, người bản xứ với người ngoại kiều, đàn bà với đàn ông, người người đi ra đi vô xăm xoi những món hàng dán nhãn hiệu CK, Gucci, Giordano, nhưng lại bán clearance rẻ rề, bởi được nhập lậu từ những chuyến tàu phần lớn xuất phát từ Hoa Lục, Hồng Kông, và Macao.

Khu bán rau, người ta thấy một bà Tây mặc váy đầm dáng mập mạp phúc hậu tay cầm mớ rau muống, tay kia giơ ra hai ngón nói với người phụ nữ Việt bán rau có những ngón tay thon nhọn như búp măng,

Two dollars?

Người bán rau lắc lắc đầu,

— Xin bà chị năm đồng.

Người đàn bà Tây không chịu,

No! No! Three dollars. Three dollars only!

Người bán rau quay sang nói với bà bạn hàng bán rau thơm, rồi gật đầu,

— Gớm! Có mớ rau nho nhỏ bằng mắt muỗi mà trả giá tới lui. OK! OK!

Người phụ nữ Tây hớn hở nhặt lên bó rau muống cọng mềm màu xanh mướt bỏ đi, không quên buông lời cám ơn.

Khu bán thịt, mùi thịt bốc lên quyện với mùi tanh của khu bán cá nằm ngay bên cạnh. Du khách lần đầu ghé vào đất Úc thường hay hăm hở tìm kiếm mua cho bằng được những miếng thịt Kangaroo đỏ tươi. Có du khách thắc mắc,

— Thịt Kangaroo mùi vị ra sao?

Người bán thịt hỏi,

— Có bao giờ ông ăn thịt chó chưa?

Nhìn mặt du khách ngập ngừng như đang cố gắng tưởng tượng ra mùi vị của thịt chó, người bán thịt so sánh,

— Thịt chó vị đậm hơn thịt bò, không nồng như thịt cừu, không béo như thịt heo.

Nhìn hàng người bắt đầu nối đuôi phía sau tìm mua đặc sản đại thử của đất Úc, nhìn mặt du khách tây phương tiếp tục ngớ ngẩn ngẩn ngơ, người bán thịt chép miệng, kết luận bài giảng về thịt kangaroo,

— Tới phi trường Tân Sơn Nhất, bước ra khỏi sân phi cảng, ông thấy hàng thịt chó bán đầy.

Nhưng bốc mùi nhất vẫn là khu bán mắm. Người Tây tới đây, nhiều người bịt mũi chân rảo bước nhanh nhanh bởi những rổ mắm, mắm ruốc Bà Giáo Thảo nhé, mắm nêm Châu Đốc nè, mắm tôm Nam Định bên kia, mắm tép Hồng Ngự bên này, đủ cả. Mắm Việt Nam gốc Việt Nam chen vai với mắm Việt dán nhãn hiệu San Francisco, nhãn hiệu Băng Cốc, nhãn hiệu Đài Loan. Mặt hàng nào cũng bốc cao mùi mắm nồng nặc. Bà hàng bán mắm tôm quay sang cô hàng mắm ruốc, tay chỉ người đàn ông đeo kính trắng gọng vàng đang bán mắm ngồi gần đấy,

— Không biết thằng cha từ đâu tới? Nhìn mặt mũi sáng sủa như thế mà lại đi bán mắm!

Cô hàng mắm ruốc lắc lắc đầu,

— Thằng cha? Bà đừng có nói. Người ta nhà giáo đấy. Dạy trên trường Tây lận. Chẳng hiểu tại sao lại như người ăn phải bùa? Đang dạy học, công việc ngon lành, thế mà bỏ ngang làm đơn xin nghỉ. Tưởng để làm chi? Hóa ra đi bán mắm. Cái này chắc là tại đọc sách nhiều quá, đâm ra dở hơi!

Người đàn bà trợn mắt,

— Ông giáo? Hèn chi đeo kính gọng vàng? Dạy học lâu chưa?

— Cũng lâu rồi. Dạy trường trung học trên phố, trường của mấy ông cha Dòng Tên. Vô học trong đó, tháng tháng tiền học đóng bạc vạn. Chỉ nhà khá giả có khối của, con cái mới đặt chân được tới cổng trường.

Người đàn bà nhìn cô bạn đồng nghiệp,

— Gớm! Sao có người lại rành chuyện ông giáo đến thế! Cô nhìn còn son sẻ, dáng người thon thả, xinh xắn như hoa hậu áo dài Melbourne. Hay là cho tôi ăn cái đầu heo nhé. Chịu thì tôi ra gặp ông ta, nói thêm cho vài nhời.

Cô bán mắm giãy như đỉa phải vôi,

— Thôi, em lậy chi! Người ta có gia đình rồi, cô vợ trong hình nom xinh lắm. Nhưng chết rồi. Nói theo ngôn ngữ của ông giáo là, “Vợ tôi đi bán mắm lâu rồi!”.

Mắm Ruốc

- Mẹ, con want some mắm, mẹ ơi!.

Thằng Bờm 8 tuổi, sinh ra và lớn lên tại Mỹ nói với mẹ bằng một thứ tiếng “xôi

đậu - Mỹ Việt đề huề” như thế đó.

 Tôi ngồi ăn cơm khách với người bạn học cùng lớp Đệ Thất 1, trưòng Hàm Nghi hơn

40 năm về trước, trong khi mẹ Bờm tìm trong tủ lạnh thẩu mắm của người bạn quê

Thuận An mới cho tuần trước. Bờm ăn mắm với cơm cay xuýt xoa một cách ngon lành,

rồi nói nhỏ nhẻ:

 - Mắm sounds giống Mom, mẹ hí! (Mắm nói nghe giống như mom, mẹ hí!)

 Gặp bạn cũ lâu ngày trên đất khách nói chuyện huyên thuyên “mi, tau” sướng quá

tưởng quên mất chuyện mắm ruốc quê nhà, nào ngờ thằng bạn đã lên chức ông ngoại

của tôi bỗng sáng mắt, lên tiếng phản đối:

 - Trời ơi! Có mắm cà cá cơm Thuận An mà lơ anh em đành đoạn rứa hè!?

 Vừa nói, anh vừa nhào qua gắp mắm trực tiếp bỏ vào chén cơm, và, nhai ngấu

nghiến. Âm thanh dậy lên như khúc nhạc ngũ cung. Tiếng hít hà như thổi kèn vừa

dứt; tiếng răng cắn cà lóc cóc, tiếng nhai rau ráu dòn tan, tiếng mút đũa chút

chíp, tiếng môi và lưỡi đưa gió qua kẻ răng chắp chắp, tiếng thở hơi mền mệt vì

bụng căng như trống cơm đánh bằng cùi chỏ. Cái ăn khoái khẩu của Việt Nam là một

hình ảnh đượm mùi văn hóa “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” và đầy tính dân tộc

“chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”!. Người Việt ăn ngon là cả một sự tổng hợp

nhịp nhàng của âm thanh, mùi vị, màu sắc và dáng điệu. Nó khác xa kiểu ăn ngậm

kín miệng mà nhai của người Âu, Mỹ. Kiểu ăn của họ là chẳng nói chẳng rằng, lặng

lẽ để răng nghiền thức ăn như bò sữa gặm cỏ khô; đùi tránh lắc lư và tay càng ít

tung hoành ngang dọc trên bàn càng quý phái. Bởi vậy cái tuyệt vời thống khoái

bên nầy sẽ thành ra cái vụng về thô thiển ở phía bên kia.  

 Anh bạn xua tay như đuổi tà khi chúng tôi khẩn khoản mời nhấm thêm chút thức ăn

trên những dĩa đồ ăn ê hề thịt cá đã được chuẩn bị để đón khách quý từ cả tuần

lễ trước. Nhìn ông bạn quý mồ hôi nhễ nhại vì cay, đơm cơm lia chia, tay múa thế

liên hoàn giữa nồi cơm và thẩu mắm, ít nhất cũng hơn một lần nới lỏng dây nịt

thắt lưng... mà thấy thân thương biết mấy và nhớ bâng khuâng mắm ruốc quê nhà.

 Vật lộn xong gần nửa thẩu mắm, ông khách quý phát biểu một cách thật thà nhưng

gợi hình không thể tả:

 - Mắm ngon “sút quần” bây ơi!

 Dường như cảm thấy chia xẻ tâm tình chưa đã, ông bạn còn xoay qua phía Thằng

Bờm:

 - Rứa con có biết ngon nhức răng, ngon dễ sợ, ngon ngậm mà nghe, ngon tản thần,

ngon tuyệt cú mèo, ngon đáo để... là chi không?

 Thấy thằng nhỏ trơ mắt nai nhìn ngơ ngác, ông bác thông thái liền phụ đề Anh

ngữ Giao Chỉ làm cho thẩu mắm trên bàn cũng rung rinh muốn cười:

 - Là yum yum! Yummy! Very, very yummy “mắm” a tề, biết không?

 Thằng nhỏ lắc đầu cười đáp lại và hô lên câu khẩu hiệu của cả nhà tôi:

 - Nói tiếng Việt! Everybody should nói tiếng Việt!

 Vừa hô khẩu hiệu, Bờm vừa lỉnh ra ngoài trong khi ông bác ba trợn còn cười toe

sảng khoái, âu yếm nói với theo:

 - Cha mày, bộ tưởng bác mày nói tiếng “Xì Banh Nít” chắc!

 Bầu không khí như trầm hẳn lại khi tôi thấy viền mắt của người bạn cũ long

lanh, ửng đỏ. Mắt anh cay vì mắm Thuận An nhiều ớt hay tại lòng anh đã chín vàng

tâm sự? Anh chia xẻ nỗi lòng:

 - Tao qua đây từ  75. Hai vợ chồng đi cày, gởi con vào nhà trẻ Mỹ. Nhìn con mỗi

ngày một Mỹ hoá và câm dần tiếng Việt, lo thì có lo nhưng mỗi ngày vợ chồng tau

tự an ủi nhau “ Thôi, ráng để cuối tuần rồi dạy tiếng Việt, nấu đồ ăn mắm ruốc

cho mấy con ăn”.  Nhưng hơn 20 năm rồi mà cái “cuối tuần” đầy hứa hẹn đó vẫn

chưa đến. Chừ thì muộn rồi. Nghe mấy cháu đây còn nói được tiếng Việt, còn thích

ăn mắm ruốc; nghĩ tới mấy cháu của tau chỉ thích ăn pizza, hamburger, chê cơm,

chê mắm, suốt ngày “du, mi” toàn  tiếng Mỹ mà tao thấy buồn chi lạ!

o0o

Thuở đó trên quê hương...

 Khi tôi mới lớn thì đã có những ghè mắm, lu ruốc bao quanh tôi như con sông Bồ

uốn khúc bao quanh phía Đông của làng Liễu Hạ. Tôi ăn mắm và thở quen hương mắm

tự nhiên như ăn cơm gạo mới và thở không khí ruộng đồng ngây ngấy mùi rơm, mùi

tót.

 Không biết mắm đã có tự bao giờ trên quê hương tôi, có lẽ là lâu lắm.

 Tôi cũng giống như chín mươi phần trăm những đứa trẻ Việt Nam sinh vào giữa

thập niên 40, sinh ra và lớn lên trong những vùng quê “Xôi Đậu”: Ngày Bảo Vệ,

đêm Việt Minh! Thế giới trẻ thơ đã mất dần những tiếng hát ca dao ngọt ngào để

thay vào bằng những khúc hát lổn chổn súng gươm và xám ngắt hận thù.

 Ký ức trẻ thơ của tôi sẽ không bao giờ phai mờ hình ảnh của đêm trăng sáng Việt

Minh về đánh đồn Bảo Vệ. Đám trẻ chúng tôi vừa chơi “đạp mạng” với mấy chú BảoVệ

hồi chiều trên ruộng lúa tháng Ba vừa mới gặt. Vui quá!  Trời vừa chạng vạng,

mấy chú Việt Minh ở đâu đã mang súng đạn ba lô hiện ra ở đầu xóm. Đám nhỏ chúng

tôi lại quây quần chờ nghe kể chuyện “chiến khu”, nhưng hôm nay như có gì khác

lạ, chẳng ai buồn để ý đến bọn nhỏ láu táu, chực toét miệng cười đưa những hàm

răng sún ngây ngô. Giữa đêm, mẹ tôi kéo tôi xuống hầm một cách hoảng hốt. Tôi

còn ngái ngủ nhưng vẫn nghe tiếng súng nổ ran, rồi tiếng mọt chê, lựu đạn nổ

phía đồn Bảo Vệ cạnh đình làng. Tôi tỉnh ngủ, nằm nghiêng, nhìn ngọn đèn dầu lù

mù, soi chếch những chùm rễ chuối mọc xuyên qua vách hầm ẩm ướt. Tôi chưa hình

dung nổi những chú Bảo Vệ và những chú Việt Minh đang chơi trò gì giữa đêm trăng

rằm tháng Ba đầu mùa gặt, đáng lẽ vào đêm trăng sáng đầu mùa như thế nầy, cả nhà

phải ở trần, ngồi quanh cái “nốn” tròn phơi lúa để ăn cơm gạo mới, với mắm cà

kho ớt ướp... Tiếng chó sủa và cây đèn cạn dầu phụt tắt làm tôi nhớ bến Dấu Hàn,

nhớ trăng, nhớ trò chơi hồi chiều còn bỏ dở của chú Cà Bảo Vệ; nhớ chuyện chiến

khu có con vượn biết hò ru con của chú Dưa Việt Minh kể còn dang dở...

 Sáng sớm tôi trốn mẹ chạy ra đồn Bảo Vệ. Từ xa tôi đã nghe tiếng khóc gào thảm

thiết của dì Thiệu ở phe Đông. Dì là người “có tay” làm mắm ngon nhất xứ. Mẹ tôi

thường chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng và nhờ dì Thiệu “nhận mắm” vào ghè. Mắm cà dì

Thiệu được ưa chuộng vì lát cà chín mà trong, con mắm trắng hồng và nước mắm

vàng nâu sóng sánh. Tôi chạy trong hơi sương mùa xuân còn lành lạnh, đến gần dì

Thiệu đang vật vã khóc. Bỗng người tôi cứng lại, trước khi kịp co giò chạy lui

về con đường cái. Tôi thấy rõ ràng là xác của chú Cà, chú Dưa con trai của dì

Thiệu nằm đó. Chú Dưa nằm vắt trên bờ cỏ tranh, mo cơm bới và gói mắm cà nhuộm

máu lả tả bên đường. Không lâu sau đó, dì Thiệu đã trở thành mụ điên thường lúp

cái khăn trầu đỏ trên đầu, chạy lúp xúp trên đường quan với tiếng kêu thương

buồn xé ruột: “Dưa ơi! Cà ơi! Răng bỏ mạ mà đi, mạ mần mắm cho ai ăn chừ... ?!”.

Từ ấy, như Tử Kỳ chết, Bá Nha đã ném đàn không gảy nữa, dì Thiệu đã mất trí, mất

luôn tay “nhận mắm” tài hoa không còn ai thay thế được. Cũng từ đó, tôi không

bao giờ còn được ăn lại những lát mắm cà “ngon quên no” của một thời thơ dại.

 Hàng năm, Xuân Thu nhị kỳ, hầu như gia đình nào ở những vùng nông thôn như quê

tôi cũng có cúng đất để tạ ơn thổ thần. Trong những món ăn chủ lực bày cúng

không thiếu được có món mắm nêm và rau luộc. Mắm nêm phải là mắm nguyên chất,

không pha chế và rau phải là những đọt non của rau khoai, khi luộc chín vẫn còn

giữ được màu xanh tươi. Theo thầy Thái người làng Thanh Lương, một vị thầy cúng

được ưa chuộng nhất vùng thời bấy giờ vì có đạo đức và sở học, thì mắm nêm và

rau luộc là để cúng cho thổ thần Hời, đó là những vị khai canh, khai khẩn người

Chiêm Thành.  Như vậy phải chăng mắm nêm Huế có gốc gác từ thuở hai châu Ô và Rí

còn thuộc về Chiêm Thành?

 Lần đầu tiên tôi cảm nhận được rằng, mắm ruốc là một đặc sản của quê mình khi

tôi vào học trường Bồ Đề Đà Nẵng bị tụi nhỏ cùng lớp gốc người Quảng Nam chọc là

“dân mắm ruốc”, “dân trèo đèo”. Thì ra, còn có những người ở trên hay ở ngoài

mắm ruốc! Cho đến khi sinh sống trên một đất nước hoàn toàn không có mắm ruốc

như Mỹ, tôi lại lẩn thẩn tự hỏi: “Tại sao người Mỹ cũng khoái thực phẩm lên men

đáo để như mì chua, phó mát, yogurt, pickle... mà lại không thích mắm hè? Hay vì

họ chưa được ỏkhai hóaõ?”

 Khi nói về mắm ruốc, những người phương Tây và nhiều người Việt theo “Tây” học

thường có sự lầm lẫn giữa thức ăn thối rửa (rotten food) và thức ăn lên men

(fermented food). Mắm là một loại thức ăn lên men chứ hoàn toàn không phải là

một loại thức ăn  thối rửa.

 Tuy rằng trên thế giới cũng có những nhóm dân tộc cố tình để cho cá thịt thành

ươn (chứ chưa thối) rồi mới ăn. Tất nhiên họ có lối sống và cách giải thích

riêng của họ. Như một tác giả rất điệu nghệ về ăn, Henley McKenry đã cất công đi

thám hiểm bộ lạc  Botuum vùng Trung Phi, để được nghe giải thích về thức ăn

“ươn” (slightly spoiled) của họ rằng: “Con voi, con hổ... chết, nhưng từng thớ

thịt còn tươi chưa chết nên còn run rẩy chống lại sự hủy diệt. Ăn thịt tươi vào

không tốt vì những kháng tố vô hình của thịt chưa thuần và tìm cách chống lại cơ

thể con người. Những kháng tố nầy sẽ làm cho con người bị khó tiêu, dễ mắc bệnh

và sinh ra tính tình hung dữ...” (A Review of the Strange Recipes; NY;95). Hèn

chi mấy o học trò Đồng Khánh ăn mắm Huế hơi mặn miệng nên, trên nguyên tắc, hiền

như “ma...  xơ”!

 Bác sĩ Lê Văn Lân, một tay chuyên khảo về ăn cự phách không thua gì đốc tờ

McKenry, đã cho rằng: “... xứng đáng gọi là mắm phải là những thứ thủy sản ướp

muối lâu ngày rồi để cho thiên nhiên tác dụng một cách kỳ bí bằng sự lên

men.”(Bút Khảo Về Ăn; tr.51)

 Cái hấp dẫn của khái niệm này có lẽ nằm ở chỗ “thiên nhiên tác dụng một cách kỳ

bí” nhưng lại chưa thám hiểm hết khu rừng thâm u của mắm Huế, vì mắm Huế không

chỉ là thủy sản mà còn là những thứ nông sản và thổ sản như mắm dưa, mắm cà

“ngon quá trời độ” nữa chứ.

 Mắm có lẽ bắt nguồn từ khái niệm “cá không ăn muối cá ươn...”. Muối là một hoá

chất có tuổi ngang tầm với lịch sử của con người. Muối với hai chất chính,

sodium và chlorine, là một chất khử trùng, một vị thuốc chữa bá bệnh lâu đời ở

các vùng quê như đỏ mắt thì điểm nước muối; u đầu, trầy da thì bóp muối; đau

bụng thì “chờm” muối; đau răng thì súc miệng với muối... Nồng độ và tính chất

của muối biển thường quyết định cho phẩm chất hải sản nơi đó. Như quanh các vùng

biển ở Huế thì cá và mực Mỹ Am là đựợc ưa chuộng nhất, “Dừa Mỹ Á, cá Mỹ Am, cam

Mỹ Lợi”. Người ta tin rằng nồng độ nước biển ngoài khơi cửa Tư Hiền “cao” hơn

nơi khác, nên cá mắm cũng ngon hơn (?).

 Có dịp tiếp xúc với các dân tộc Á Châu khác nhau mới thấy việc làm mắm là một

phản ứng tự nhiên để sinh tồn. Như các bộ lạc người thượng ở Việt Nam, hay các

dân tộc sinh sống tại vùng miền núi thượng Lào như người Hõmong, Miên, Lào thì

cách giữ đồ ăn phổ biến nhất của họ là xông khói thịt rừng cho đến khô quắt  mới

đem lên treo ở giàn bếp để dành. Cách cất giữ thức ăn nầy rất giống với hình

thức “smoked” của dân Âu Tây. Dân miền biển và đồng bằng thì giữ đồ ăn bằng hình

thức ướp muối (salting), ướp đường (sugaring), ướp giấm (pickling) và ướp mắm

(fermenting).

 Hình thức ướp muối và ướp mắm rất gần nhau. Tuy nhiên, ướp muối thì chỉ là một

hình thức đơn giản bằng cách dùng muối để giữ  cho thức ăn khỏi bị sự xâm lăng

của các loại vi khuẩn hoại thể trong không khí, trong khi ướp mắm cũng là một

hình thức nhằm giữ đồ ăn cho lâu dài kết hợp với nhiều hình thức “mắm hóa” như

ướp, trộn, tăng cường thêm các loại gia vị, cây trái làm cho thức ăn không phải

là “muối” mà là “mắm”. Như cà muối khác với mắm cà ; dưa muối khác với mắm dưa;

cá nục muối khác với mắm nục.

o0o

 Mùa Thu năm 1982, ghe tôi tấp vào đảo Hải Nam sau những đêm ngày vật lộn kinh

hoàng với mặt trời tháng Bảy và sóng gió biển Nam Hải cấp 5, cấp 6. Cái khát

cháy đỏ cả từng tế bào và chân tóc, cọng với cơn “say đất” lồng lộn của người đi

biển vừa bước lên bờ đã vật chúng tôi nằm quặn mình trên bãi cát. Không biết bao

lâu, tôi bò được qua đồi thông và lê gót vào khu nhà ở. Những ngôi nhà lá nhỏ

như chòi giữ vịt vắng người. Tôi gục mặt vào lu nước đầy cung quăng và uống...

uống mê man bốc khói đến ớn lạnh. Bỗng tôi đủ tỉnh để đối diện với sự kinh hoàng

của ảo giác là thuyền đã bị trôi ngược, tấp về lại Việt Nam bởi vì tôi nghe mùi

mắm quen thuộc quá. Đúng rồi! Mùi mắm nồng nồng, mằn mặn làm tôi nhớ những chén

cơm đầu mùa thơm phưng phức và những trái ớt xanh quệt mắm, cắn cái bụp, dòn

tan, ăn cho đến khi buông đũa còn thèm... Nỗi sợ hãi và mơ mộng biến thành sự

câm nín liều lĩnh của kẻ cùng đường khi toán dân quân du kích đầu tiên xuất hiện

nói tiếng Tàu xí xố. Đây không phải là quê hương tôi. Đây là nước Tàu. Mặc dù

“...nước non sông núi đã chia; phong tục Bắc Nam cũng khác”, nhưng những con mắm

trên quê tôi hay quê người có thể là từ “triệu trứng, triệu con” vừa mới chia

tay nhau từ những quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên biển Đông, rồi bị ngư phủ

của Việt, của Tàu bắt về làm mắm!

 Thế rồi, từ phía bên nầy trời quê hương, tôi lại nghĩ về một “Huế thơ Huế mộng,

Huế tộng bộng hai đầu”. Huế “đèn nhà ai nấy rạng”, nhưng Huế cũng “trong nhà

chưa rõ, ngoài ngõ đã hay”. Huế có bốn cửa thành và hào sâu bao bọc; bốn phía

đều có núi cao, biển rộng sông dài ngăn những bước tiến “rừng tàn núi lở” nhưng

Huế lại mềm lòng, khe khẻ “dạ!” để làm nhủn những bước chân hào hoa của mấy anh

học trò trong Quảng ra thi!

   Huế trở thành tộng bộng vì Huế được nghĩ đến một cách sương khói và diễm ảo

như nàng thơ. Nghĩ về món ăn Huế thì chỉ toàn món “ăn chơi” như bánh bèo, bánh

nậm, bánh canh, bún bò, chè hột sen, nem chả...  trong khi Huế có những món “ăn

thiệt” như mắm ruốc thì lại bị lãng quên, chắc vì ngại nếu đem mắm Huế vào thơ

sẽ thiếu lá me bay trên con đường tình sử!

 Có những thi nhân xứ Huế, cả một đời say ngất ngưởng men thơ như Kiêm Thêm,

người đã ăn hết bao nhiêu lu mắm cà làng Liễu Hạ và bao nhiêu là hũ mắm nục cửa

Trài; đã có những bài thơ ruột đau chín chìu cho quê hương và những bài thơ tình

lãng đãng mùi hương rêu phong của Huế, rứa mà vẫn chưa làm nổi một bài thơ nào

về mắm Huế!

 Phải chi con đường Chương Dương của Huế sẽ được cải tên là “con đường Mắm Ruốc”

như những con đường mang tên Kim Chee ở Đại Hàn, Terayaki ở Nhật hay Yogurt ở Mỹ

vốn là những vị ăn lên men như mắm muối tương cà.

 Có đi đây đó quanh nước mình và xứ người mới thấy Huế xứng đáng là quê hương

mắm ruốc.

 Chợ Đông Ba từ ngày “đem ra ngoài giại” cho đến nay thì đã có cả một dãy hàng

mắm đủ loại, đủ mùi, đủ vị dọc đường Chương Dương. Hàng mắm cũng lên màu rực rỡ

với những con mắm to nhỏ đủ loại có cả màu đen, màu trắng, màu xám, màu xanh,

màu đỏ, màu ngà... điểm những trái ớt đỏ chói và thính bắp vàng hươm. Đó đây,

những miếng cà, những lát dưa màu cổ đồng vừa bắt mắt, vừa bắt mũi làm cho khách

nghĩ đến những chén cơm nóng hít hà mà khó ngăn được suối nước bọt sẵn sàng nhỏ

ra từ kẻ răng.

 Ra khỏi thành phố Huế, đi về những vùng quê, tới những quán hàng xén đầu làng

và vào những buổi chợ trưa, chợ chiều, chợ phiên làng xã... khách sẽ thấy không

nơi nào vắng mặt các quán hàng mắm ruốc.

 Quanh năm, mùa nào mắm đó.

 Vào tiết Đông Xuân có mắm cá nục, mắm cá chuồn, mắm cá thu, mắm cá ngừ, mắm tép

chua...

 Tiết Xuân Hạ có mắm dưa, mắm cà, mắm rò...

 Tiết Thu Đông có mắm cá cơm, mắm cá “tủ” (nhiều loại cá vụn đánh bắt bằng loại

vó có lưới dày gọi là tủ, sau mỗi trận lụt), mắm cá bối, mắm thính cá lụt.

 Các loại mắm tứ thời, mùa nào cũng có là tôm chua, ruốc, mắm nêm, mắm sò. Mắm

sò chính hiệu làm với sò huyết Lăng Cô là bắt miệng và bắt mắt nhất, nhưng mắm

sò làm với các loại sò biển khác hay hến nghêu, hến bự cũng có mùi vị độc đáo

thơm ngon riêng của nó.

 Mạng lưới mắm được cất giữ trong những cái lu, cái chum, cái hũ, cái thạp

(khạp), cái vịm, cái tỉn... bằng sành hay bằng đất nung là những chiếc tủ lạnh

khổng lồ truyền thống của dân ta. Khi được mùa, cá tôm bắt được trong đầm, dưới

ao, giữa phá, trên sông, ngoài biển... được làm mắm để dự phòng thức ăn tươi

trong những khi trái gió trở trời, trên mưa dưới lụt, mùa đông tháng giá. Mắm

không những chỉ là thức “ăn thiệt” để giúp dân nghèo “Đừng chê mắm ruốc tanh

hôi, có mắm có ruốc mới rồi bữa cơm” mà còn được biến thành những món ăn ngon mà

giới trưởng giả giàu sang và hàng vua chúa đều khoái khẩu, ưa chuộng.

  Theo Hoàng Dạ Lê thì “Từ chỗ chỉ một thứ mắm nêm, ngày nay Huế phát triển hàng

chục loại mắm, mỗi thứ có một mùi vị riêng biệt.”

 Mắm Huế có thể chia ra làm 3 vị : Mặn, chua, ngọt và 3 vùng: Mắm nước mặn (mắm

biển), mắm nước lợ (mắm phá, mắm đầm) và mắm nước ngọt (mắm sông, mắm đồng)

 Mắm Huế bình dân

 Mắm Huế cổ xưa và bình dân nhất là mắm nêm. Mắm nêm có thể làm bằng các thứ cá:

Cá cơm thang, cá nục nhỏ và cá me. Những người Huế vùng quê thường ăn mắm nêm

ròng có trộn thêm ớt tươi, ớt bột, chanh, đường, tỏi với dưa, vả hoặc cà tươi. 

Mắm nêm chế biến sẽ thành loại “nước chấm độc chiêu” như Hoàng Dạ Lê diễn tả bắt

thèm: “Mắm nêm sau khi chế biến là thứ nước chấm ỏđộc chiêuõ của rau muống, rau

dại vùng Huế, mua được rau muống Cầu Ngói, Tịnh Tâm, cửa Trài càng ngon”. Cái

mùi mắm ruốc nồng nàn của mắm nêm không thể thiếu được trong những nồi canh mít

tươi nấu lá lốt, canh môn, canh chột nưa truyền thống. Thịt bò tái, bò nhúng mà

thiếu nước chấm mắm nêm cũng khó “đượm” như pha trà bằng nước nguội. Mắm nêm

cũng là linh hồn cho cả hương lẫn vị trong các món bún mắm nêm ở Huế và món bánh

hỏi thịt ba chỉ mắm nêm ở Đà Nẵng. ở Mỹ cũng có mắm nêm chai Phú Quốc, Hà Tiên,

Rạch Giá, Thái Lan... nhưng “cái mùi nồng mặn quá” trong Tiếng Sóng của Tế Hanh

làm sao giống“hương đại dương” trong Ngư Ông và Biển Cả của Hemingway được.

 Tôm chua cũng là một loại mắm nhưng người Huế không ai dùng tiếng “mắm” đi kèm

với tôm chua. Cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều có món tôm chua, nhưng tôm chua đặc

sản  của Huế vẫn thường được ưa chuộng nhất vì mùi tôm pha riềng tỏi phảng phất

nhẹ nhàng và hương vị ngọt thanh rất tự nhiên. Tôm chua ăn với thịt heo ba chỉ

kèm dưa giá mới có đủ hương vị tuyệt vời, hoặc cần cho vị giác “mát” hơn một

chút, người ta ăn thêm với dưa leo, rau thơm và xà lách.

 Mắm cà cũng là một trong những loại mắm bình dân thông dụng nhất của Huế. Cuối

mùa Xuân, những vườn cà đã hêt “nụ tầm Xuân” với những cây cà chĩu nặng những

trái cà xanh, cà trắng lớn bằng nắm tay hay vườn cà pháo trái tròn như mắt trâu.

Vườn cà vùng đồng ruộng trùng với mùa cá cơm, cá nục con vùng biển chờ những tay

làm mắm “tài tử” hay nhà nghề “nhận mắm” cà để làm thức ăn “đưa cơm mặn miệng”

quanh năm. Lát cà mắm điển hình của Huế trông đầy đặn có vẻ như còn tươi mặc dầu

cà đã hút hết những tinh chất của mắm cá, ruột và vỏ cà vẫn dính chặt liền lặn

với nhau, cắn vẫn dòn như khi vừa mới hái. Mắm cà thường được ăn dưói ba hình

thức thông dụng là mắm cà tươi, mắm cà hấp và mắm cà kho. Tôi vẫn thích nhất là

mắm cà kho với ruốc và ớt ướp. Mùa Đông trời lạnh, ăn lát mắm cà kho, quệt tí

ruốc đầu múi đũa và cắn miếng ớt ướp thơm ngầy ngậy, đầu lưỡi nóng lên, sưởi ấm

bởi men cay, lùa miếng cơm nóng vào miệng, cơm quyện với mắm thật thơm ngon như

hạt ngọc của trời.

 Mẹ tôi thường khuyên: “Một chén cà, ba chén thuốc”, không nên ăn cà quá nhiều.

Trong khi đó thì mụ Mực Thợ Rèn ở đầu xóm Kên làng tôi lại bình luận về cà một

cách “tản thần” hơn: “Một chén cà, ba chén thuốc. Ba chén cà vác cuốc đem

chôn!”.  Vậy mà đến khi tôi lên Dinh, học hè chung lớp với một cô em Bắc Kỳ nho

nhỏ ở trường Nguyễn Du, có dịp vào nhà cô bé, tôi lại thấy cà pháo ngâm muối

trong như pha lê, sắp hàng dài trong các thẩu nhỏ để trên giá nghiêm chỉnh như

đội ngự lâm quân. Bà già cô em lại bảo rằng: “Một chén cà, bằng ba chén thuốc”,

ăn mắm cà rất tốt! Riêng thực khách nòi mắm ruốc như tôi thì xin vái “trời kêu

ai nấy dạ”, chứ làm sao mà quay mặt làm ngơ cho được trước tiếng gọi thân thương

và mãnh liệt của “má...  cằm”!

 Tôi phân vân hoài về cái “thiện” và cái “ác” của cà cho đến khi gặp được Đông y

sĩ  Phạm Tuế, lý thuyết gia mà cũng vừa là trưởng nhánh của Thuận Nguyên Đông Y.

Sau khi nghe tôi nêu lên thắc mắc về dược tính của cà, Thầy Tuế đã giải thích

rằng, hai ý kiến trái ngược về cà đều đúng. Cà thuộc về âm, những người tỳ tạng

yếu hay mới đau dậy, âm tính trong người còn nặng mà ăn cà tươi, cà hấp là cũng

như tiếp viện “âm binh” vào chiến trường đang hồi âm thạnh dương suy thì “túy

ngọa sa trường thượng mã phong” là điều rất dễ xảy ra. Còn cà mà được ngâm muối

sẽ trở thành “dương hoá”. Đặc biệt là cà dầm mắm thì vừa được dương hoá, vừa

tăng độ dinh dưỡng, có khả năng cung ứng nguồn nhiệt lượng rất cao cho cơ thể.

Bởi vậy mắm cà thường được dân quê ăn nhiều vào mùa Đông để cơ thể hấp thụ thêm

nguồn nhiệt lượng phong phú mà đủ sức chống lại cái lạnh căm căm  trên dặm dài

lao động hay “buôn chợ côi lôi chợ đưới”.

 Ruốc! Có chuyện một cô dâu Bắc và bà mẹ chồng Huế đã dở khóc dở cười vì ruốc.

Bà mẹ chồng sai cô dâu mới đi mua ruốc để cố truyền nghề nấu nướng, chế biến các

thức ăn từ ruốc. Cô dâu đã bê về một giỏ thịt heo chỉ vì “ruốc” của miền Bắc là

thịt lợn nạt xé thành sợi rất nhỏ, còn gọi là thịt chà bông; trong khi “ruốc”

Huế là một loại mắm làm bằng “con khuyếc” (Xứ Bắc gọi là con ruốc). Con khuyếc

hay con ruốc nói chung là loại tép biển được hong phơi khô ráo, giã nhuyển để

làm thành ruốc. Ruốc chính gốc Huế màu nâu tím, sền sệt, vị ngọt hải sản thiên

nhiên và nặng mùi nước mắm gọi là “ruốc biển”. Ruốc nhập từ các nơi khác vào,

khô, ít nhuyển và kém vị ngọt hơn gọi là “ruốc xải hay ruốc ký lô”. Mắm ruốc của

miền Bắc và miền Nam tương tự như mắm khuyếc hay mắm tép chua của Huế.

 Ruốc là “cây đàn muôn điệu” trong các thức ăn hàng ngày của Huế. Ruốc tươi trộn

với chanh, tỏi, ớt, đường ăn với dưa, vả, cà, khế là món ăn cây nhà lá vườn, gần

như lúc nào và nhà nào ở Huế cũng sẵn sàng. Các loại canh, cá kho, bún bò, cơm

hến... mà thiếu ruốc là sẽ nhạt thếch như có đôi mắt đẹp mà thiếu nét duyên dáng

của tâm hồn. Những món giấm nuốt tươi chấm ruốc; hay dôi trường, môi mếp bò chấm

ruốc... thuộc vào loại “ngọt như đường cát, mát như đường phèn, ho hen ăn cũng

hết” của Huế.

 Người xưa đã có kẻ thích “giang sơn một gánh giữa đồng, thuyền quyên ứ hự anh

hùng nhớ chăng...”, thích gá nghĩa với gái quê mộc mạc hơn là cưới khuê nữ

trướng rủ màn che. Cũng thế, so với mắm quý tộc, mắm bình dân vẫn có cái mặn mà

hấp dẫn riêng của nó. Thử làm món trứng mắm bằng cách tìm cá nục thính, vằm

nhuyễn, đánh tan lòng trứng vịt cỏ, nêm đủ thứ gia vị như tiêu, hành, nước mắm,

ớt, tỏi, bột ngọt, đường rồi đem hấp trong nồi cơm vừa mới cạn, hay chưng cách

thủy. Mắm kẹp với vả, khế, dưa, cà, rau thơm, cải cay hay xà lách... bảo đảm ăn

xong còn nán lại vì bụng no nhưng miệng vẫn còn thèm. Món mắm cá chuồn kho với

thịt heo ba chỉ, điểm cà chua, gia thêm ớt trái, gia vị, đường thắng... chắc

chắn vừa ăn vừa tiếc hùi hụi vì cái bụng mình còn... nhỏ quá! Món rau sống thịt

heo phay cặp đôi đẹp như mơ với hầu hết các loại mắm, có lẽ vì thịt heo phay

mang tính Tiên Dung và mắm mang tính Chữ Đồng Tử nên có sẵn một sức hút tiền

định tuyệt vời!

 Mắm Huế quý tộc

 Người dân chân đất của Huế cũng có cùng bản chất “cục chắm hòn” như những người

dân quê Việt Nam khác. Thật ra cái “đài” của Huế phát xuất tự cung đình và được

giới quý tộc, trưởng giả... cũ và mới sử dụng trong cách sống, trong cách nói,

trong cách ăn, uống, tiêu khiển như một phương tiện trang sức đầy tính chất

cường điệu và tranh đua. Mắm Huế cũng như hầu hết các món ăn nổi tiếng của Huế,

không thoát khỏi sự thay hình đổi dạng rất tự nhiên của người ảo vải hôm trước,

hôm sau thi đỗ ông nghè xênh xang áo gấm về làng. “Nghè” là cái mái che cạnh

cung vua mà những người thi đình để lấy tiến sĩ ngồi dưới đó để thi nên người

đậu tiến sĩ ngày xưa còn được gọi là “ông nghè”.  Mắm ruốc bình dân qua tay quý

tộc rồi, thường cũng trở thành “mắm nghè” mặc áo gấm mà về lại với dân gian.

 Cuốn sách nghệ thuật nấu ăn quý tộc đầu tiên của Việt Nam là cuốn Thực Phổ Bách

Thiên, dạy cách làm 100 món ăn quý tộc nhất.  Tác giả là bà Trương Thị Bích,

nàng dâu tài hoa và hiền thục nổi tiếng một thời của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm

(Văn như Siêu Quát vô tiền Hán -  Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường) Bà đã dạy

về cách làm các loại mắm đặc biệt như:  Mắm cá đối, mắm thính cá dìa, mắm cá ngừ

bột, mắm cá ngừ ruột, mắm cà pháo cá ngừ, mắm nêm canh, mắm nem, mắm kho giả

rươi, mắm gạch cua, mắm ruốc khuyếc. Cách làm những lọai mắm quý tộc nầy hết sức

nhiêu khê, đòi hỏi sự cẩn trọng và tỉ mỉ không thua gì làm những tác phẩm nghệ

thuật. Chi phí và công sức bỏ vào có khi còn nhiều hơn những món sơn hào hải vị.

 Chỉ riêng một món “mắm cà pháo cá ngừ” thôi cũng đủ nói lên cái “trạng dàng

trời” của mắm Huế.

 Năm 1960, trong dịp quốc vương và hoàng hậu Thái Lan chính thức viếng thăm cố

đô Huế, để có món ăn đặc sản địa phương thết đãi quốc khách, ông Ngô Đình Cẩn,

cố vấn chỉ đạo miền Trung thời bấy giờ đã chuẩn bị hết sức chu đáo. Trong bữa

đại tiệc đó có 10 món ăn đặc biệt của Huế được chế biến từ mắm ruốc mà nổi bật

nhất là món mắm cà pháo cá ngừ do bà Hà Thị Đa ở Tây Lộc làm. Việc đặt món mắm

độc đáo nầy phải thực hiện trước gần nửa năm để cho người phụ trách có đủ thời

gian chuẩn bị. Đây là sự kết hợp rất công phu giữa cà pháo muối và cá ngừ:

 Trước hết là việc chuẩn bị mắm cá ngừ. Cá ngừ tươi vừa mới bắt chỉ lấy bộ ruột

và mang.  Cả hai thứ đều được chắt lọc rất công phu và làm sạch chi li từng bộ

phận nhỏ. Tất cả được rửa sạch lần cuối cùng và để ráo  nước, rồi trộn muối và

xóc đều. Muốn ăn nhanh thì cho non muối (tỷ lệ 6 cá 1 muối) và ăn châm thì cho

già muối (tỷ lệ 4 cá 1 muối). Hỗn hợp cá muối được cho vào thẩu, ép chặt, đậy kỹ

và đem phơi nắng liên tục trong vòng 15 ngày. Nắng phải là “nắng đầu hồi” nghĩa

là nắng đầu sân dọi gián tiếp đầu hiên nhà. Khi mắm bắt đầu chín với hiện tượng

sủi bọt đầu tiên là khi chuẩn bị cà.

 Cà phải là cà pháo trắng “bánh tẻ” (vừa lứa, không già không non). Mỗi trái cà

đều phải giữ nguyên cuống, nhưng cuống phải tách vỏ xanh, chỉ còn giữ phần lõi

trắng để trái cà pháo nho nhỏ nhìn vừa tinh khiết, vừa thanh lịch.

 Bước kế tiếp là dầm cà với nước muối bảo hòa trong một đêm, sáng hôm sau xả lại

với nước trong, để ráo nước. Sau đó cà được đem ra phơi với nắng đầu hiên là

nắng không trực tiếp nhằm giữ cho trái cà khô nhưng không được teo nên khi trộn

vào trong mắm cà còn giữ được tính chất vừa dòn vừa dai.

 Sau cùng cà đem trộn chung với mắm và nêm thêm gia vị gồm có riềng, tỏi, ớt xay

mịn cùng với chút ít nước đường phèn thắng, làm cho vị mặn của mắm trở thành dịu

hơn. Tập hợp cà, mắm gia vị được đem phơi nắng liên tiếp từ 15 đến 20 ngày là ăn

đưọc. Trái cà lúc này đã hấp thụ trọn vẹn tinh chất của mắm và gia vị nên khi

dọn khách thì chỉ dọn trái cà mà không phụ thêm mắm hay nước.

 Theo nhà thơ Phạm Nhã Uyên, hiện đang định cư tại thành phố Stockton, Hoa Kỳ

thì lời khen ngợi nhiệt tình của quốc vương và hoàng hậu Thái Lan về món mắm cà

nầy đã mang đến kết quả là thân mẫu anh, chính là cụ bà Hà Thị Đa, được một số

tiền thưởng của chính phủ “đủ xây dựng được một cái nhà bếp”.

 Vụ đãi mắm Huế cho quốc vương Thái đã tạo ra một giai thoại về chính trị ngoại

giao. Nguyên là sau khi vua Thái về nước, tờ báo The Bangkok Times thời bấy giờ

đã tường thuật lại rằng: “In Hue City, at the banquet, our king really enjoyed

the wonderful Mans of Hue which were served in the cute china disks...” ( Tại

bữa tiệc ở thành phố Huế, đức vua đã thưởng thức một cách ngon lành các món Mắm

Huế được bày biện trong những dĩa sành nhỏ xinh xinh...) Thật ra là tay phóng

viên nhà báo muốn nói đến “Mam of Hue” (Mắm Huế) chứ không phải Man of Hue

(Nguời đàn ông xứ Huế) nhưng đã in sai phụ âm cuối “m” của chữ mắm thành ra chữ

“n” . Sau đó có tin đồn là giới thân cận của cụ cố vấn đã đua nhau thông dịch

“Mans of Hue” thành ra “Các ngài ở Huế”. Như thế hóa ra là các ngài ở Huế đã

được bày trong các dĩa nhỏ xinh xinh. Ôi! Các ngài ở Huế thật là quá đỗi nên thơ

một cách ly kỳ như như những con... mắm nhỏ!

o0o

 Nhớ mắm, tôi thường nghĩ đến truyện ngắn Rừng Mắm tuyệt tác của nhà văn Bình

Nguyên Lộc. Cây mắm mọc ở vùng sình lầy nước mặn, hút chất muối trong đất. Rừng

mắm tiền phong sẽ là rừng ổi, rừng xoài mai hậu. Cũng theo nhà văn Bình nguyên

Lộc thì ăn mắm là đặc tính của các giống dân gốc Mã Lai. Bởi vậy tôi không hề có

ảo tưởng rằng, mắm là đặc tính độc đáo của riêng Huế. Sự độc đáo của mắm nằm ở

chỗ cách chế biến của từng vùng. Như miền Nam có đủ loại mắm như mắm thái, mắm

cá thu, mắm cá linh, mắm sặc, mắm cá lóc, mắm cá trèn, mắm cá thác lác (phác

lác), mắm ba khía, mắm tép, mắm trê, mắm ruột... nhưng phải là “tay chơi” mới

được nếm tới mắm chuột, mắm rùa, mắm rắn hổ, mắm cẳng ếch... vì cách chế biến

các lọai mắm sau nầy đòi hỏi phải có một “nội lực mắm” rất thâm hậu mới làm

được.

 Có người đã theo “đường bay của mắm” đi từ Nam ra Bắc mà thưởng thức những mùi

vị tuyệt thú của lẩu mắm Hộ Phòng trên đường Sài Gòn - Cà Mâu, mắm thái Châu

Đốc, mắm “dà” rau miền Tây đồng bằng sông Cửu Long. Rồi lần ra Trung để tìm cho

được mắm ruột cá của bà con vùng Phú Yên - Khánh Hòa; mắm cá thu vùng Phan

Thiết; mắm mực, mắm thơm, mắm cá chuồn thính vùng xứ Quảng; và đừng quên mắm Huế

trước khi thẳng ra Bắc để tìm tới hương vị mặn mà của mắm cáy, mắm rươi, mắm

ruốc...

 Cái ăn và phong cách ăn cũng giữ một vai trò quan trọng trong văn hóa của một

dân tộc. Sống trên đất Mỹ gần 15 năm, tôi có dịp thưởng thức và được mở rộng tầm

hiểu biết về nhiều món ăn tiêu biểu của các dân tộc, từ thịt nướng kiểu Thành

Cát Tư Hãn (Mogolian Barbecue), thịt cừu quay kiểu sa mạc Ba Tư (Kabob) đến mắm

hóc “ná thở” của người Hõmong.  Đó là những hương vị văn hóa riêng của từng nhóm

dân tộc chỉ có thể có sự kế thừa chứ không thể nào thay thế được.

 Đôi khi đi qua những khu chung cư của những người Mỹ đen, viếng những vùng Mỹ

trắng, tạt qua những con đường toàn người Mễ Tây Cơ, đi vào vùng Miên Lào, trở

về với cộng đồng người Việt, tôi đã khám phá ra những mùi khác nhau từ cách sống

mà đậm đà nhất là từ thức ăn. Tôi tạm gọi đó là “mùi văn hóa” (Cultural smell).

Và từ đó, tôi sợ nói ra sẽ có người “ngầy”, nhưng tôi vẫn cứ lẩm cẩm suy nghĩ

lan man rằng, có chút hương mắm nào phảng phất không trong mùi văn hóa của Huế

vốn đã ung dung thưởng thức những mùi xa hoa của người đời đem tặng như mùi sen

hồ Tịnh, mùi nắng sông Hương, mùi thông núi Ngự... Có những nhà nghệ sĩ phương

xa lại, ca tụng những gót sen của cô gái Huế bước qua hồn thơ hàng thế kỷ vẫn

còn thoang thoảng trầm hương. Tôi vẫn cứng đầu ngoái lại: “Mùi mắm không phải là

trầm hương của gừng cay muối mặn quyện với mùi nắng, mùi mưa, mùi tay mẹ chắt

chiu và mùi sông hồ biển cả chia xa thương nhớ ngậm ngùi sao?!”. Nếu giữa thế

giới ta bà nầy mà chỉ cần có một người tâm đắc với một người thì đã là hạnh phúc

lắm rồi. Tôi có thể cô độc nhưng không cô đơn vì ít ra cũng đã có một người muôn

năm cũ trong ca dao đã ngẩn ngơ như tôi về hương mắm Huế:

Mắm ni ăn ngậm mà nghe,

Ngẩn ngơ chi rứa ngó quê lắm chàng!

Duyên xuân

Dì Tư đưa hũ mắm cá chốt thủng thẳng nói: “ Tết, bây ăn cá thịt hoài cũng ngán. Cho bây hũ mắm này về ăn chung với chuối chát, khế chua, ớt hiểm… đổi món nghe con”.

Mới nghe tới đó, trong đầu đã mường tượng ra chén cơm trắng ăn với mắm cá chốt thơm ngon, mềm tới xương, dai dai sựt sựt… nhiêu đó thôi cũng đủ “ đánh bại” mấy món thịt quay, chả giò, chả lụa bày ê hề trên mâm cỗ mừng năm mới. Dì Tư kể, hồi mấy mươi năm trước miệt Bạc Liêu, Cà Mau cá chốt nhiều vô kể, chỉ cần vung lưới kéo lên cá mắc lưới nặng tay, thậm chí chỉ cần nhử mồi thơm ở bất kì khúc sông nào đó cá chốt nổi đầu, râu nhô lên tua tủa. Cá chốt làm mắm nguyên khạp, nấu đủ thứ món, đem biếu nhau ăn lấy thảo. Người miền Tây thiệt thà là vậy, có gì cho nấy, không câu nệ đó là cao sang hay chỉ là món dân dã bình thường. Chợt nghe cơn gió chướng se se lạnh, cơn mưa còn sót lại của mùa mưa  mới qua đủ làm mềm ướt cánh đồng miền Tây với vụ lúa ba vụ vàng đồng, cây mai vừa vặt lá trong vườn vẫn còn dày bông xen kẽ với những nụ chồi non tơ biếc rộn rã khoe sắc vàng tươi sắc nắng, óng vàng màu áo mới cô thôn nữ như nhắc nhở tết đã qua nhưng nàng xuân còn ngự trị ở nơi này…

Tết qua rồi dư âm còn để lại trên những cung đường rạng rỡ sắc xuân, cây xanh lá, áo tươi màu, sắc mặt ai cũng ngời ngời hạnh phúc. Mỉm cười nhìn mấy đứa trẻ vừa rút tiền từ những bao lì xì vừa tranh nhau kể sẽ mua cái này, cái nọ. Thấy mình như trẻ dại, hồn nhiên. Ước gì ngay lúc này, và thêm một chút thời gian tôi giữ được cái rộn ràng dư âm ngày tết của một thời mà người ta vẫn vẫn gọi là trẻ thơ, là bình yên, là kí ức đẹp một thời con nít. Dụi đầu vào ngực dì Tư còn thơm lá chuối non mới tách ở vườn, tôi đòi… lì xì. Dì cười: “Cha bây, sắp lấy chồng rồi còn nhõng nhẽo!”. “Thôi, con ở đây luôn với dì Tư hà, ai thèm lấy chồng…”. Dì Tư nói hồi bằng tuổi tôi dì đã sanh tới ba đứa con rồi. Hai dì cháu cười vang khúc sông rộng.

Anh đứng đó, tay ôm bó bông mới cắt trong vườn, xách thêm xâu cá lóc lúng túng thưa: “Má con biểu đem mấy con cá lóc đồng biếu dì Tư”. Dì Tư dòm anh, cắc cớ hỏi khó: “Ừa, dì cám ơn. Bó bông này hổng lẽ má bây cũng biểu tặng dì luôn heng…”. Tuấn đỏ mặt, miệng như ngậm bồ hòn, ngắc ngứ hồi lâu mới nói nhỏ: “Dạ hông, bó bông là con tặng cho út Thương. Nghe nói,  mai, cổ về xứ… Con qua thăm…”. Dì Tư cười cười, nói bâng quơ: “Có duyên thì biết đâu út Thương làm dâu xứ này”. Đến lượt tôi đỏ mặt, anh Tuấn nhìn tôi, ánh mắt đầy hy vọng.

Chúng tôi đi bên nhau, dưới hàng dừa gió lộng, mặt kênh êm đềm, vài khóm lục bình trổ bông tím ngắt lững lờ trôi. Anh nói với tôi rất nhiều điều trong sáng xuân hôm ấy, về cái Tết đặc biệt trong đời khi anh bắt gặp tôi đang nâng niu mang cành lộc biếc vào nhà, anh bối rối khi tôi quay lại nhoẻn miệng cười, nụ cười như những bông mai chúm chím nở những cánh vàng đầu tiên. Anh yêu mảnh đất này, nơi anh sinh ra, chẳng nỡ đi đâu xa dù có cơ hội ở lại thành phố. Mỗi dòng kênh, mỗi mảnh vườn. mỗi con đường khó nhọc miền Tây như chờ anh trở lại… Anh nhìn tôi, cái nhìn ấm áp đủ khiến tâm hòn tôi xao động: “Út Thương có chịu ở lại xứ này làm dâu?”. Tôi nhoẻn miệng cười: “Dì Tư em nói rồi, biết đâu có duyên….”.

Dì Tư rổn rảng réo: “Hai đứa bây vô ăn cơm nghen. Dì Tư mời ba má thằng Tuấn qua ăn bữa cơm tiễn Tết qua đón duyên về rồi đó…”. Hai đứa nhìn nhau bật cười… Xuân về, duyên cũng về đấy ư?

Bệnh xá Dốc Đót

Văn Chinh   

Thứ hai, 20 Tháng 10 2008 21:45

Mình in truyện ngắn này ở Văn nghệ, vào tháng 7 năm 2002; ngày 1-8-2002, mình bị tai nạn nghề nghiệp, bị kỷ luật, chuyện um cả giới. Cuối tháng 8-2002, báo Văn nghệ trao tặng mình tặng phẩm truyện ngắn hay trong tháng 7. Truyện mình viết thì không thể dở, nhưng hay thì? Không, đó là cử chỉ của Văn nghệ. Nhân kỷ niệm 60 tuổi báo, mình post lại truyện này như một tri ân.

Không ngờ có nhiều bạn đọc truyện, lại còn góp ý nữa; có người còn gọi điện thoại nhắc sai chữ này chữ kia, có chữ tôi viết sai, có chữ do chuyển font từ TCVN sang Unicode mà sai. Vậy xin sửa lại.  

Chúng tôi tề tựu tại Phùng Hưng để vĩnh biệt người bạn chung vừa ra đi đột ngột vào tuổi năm ba. Vừa hôm kia còn ngồi với nhau, sau mấy vại bia đứa nào cũng bốc đồng, đe sẽ làm một bộ phim, sẽ đỡ đầu cho bộ phim để đời ấy, cho khán giả từ nay về sau đừng có hòng đưa phim lịch sử Trung Quốc ra mà dằn mặt nhau như từ nay về trước nữa. Hôm qua nghe tin đột quỵ, điện thoại réo gọi hẹn nhau đi thăm. Thế rồi cái hẹn đi thăm đã không còn cần nữa, chuyển thành cái hẹn đi viếng. Xe chở di hài đã đi khỏi. Mấy thằng tôi bơ vơ giữa phố nắng, một lúc thì giạt vào quán cafe bên đường, vừa uống bia vừa cảm thán vụn về cái ngắn ngủi đời người. Mỗi thằng một chuyện minh họa cho câu cảm thán của mình, loanh quanh thế nào rồi cuối cùng lại quay về chuyện thời chiến tranh. Đận ấy Ban Tuyên huấn khu Năm bị đói, đói lưu đói cữu, tôi năm mươi ký còn chưa đầy bốn chục. Lại cuối mùa khô của miền Trung, đến rễ cây cũng đắng. Tôi bị kiết lị, bị đi bị lại dai dẳng hàng mấy tháng trời. Tôi nhớ ngày còn ở quê, mẹ bị kiết lỵ uống thuốc nào cũng không khỏi, người cứ rộc đi. Mẹ gần như đành chịu chết ở tuổi năm ba. Bố tôi bảo mẹ thèm ăn gì cũng cố mua cho mẹ. Mẹ phều phào nói thèm bữa lòng lợn bún mắm tôm. Điềm gở mất rồi, mẹ có bao giờ ăn mắm tôm? Là dân vùng bể, mẹ tôi rất giỏi làm các loại mắm. Mắm tôm của nhà tôi đỏ au, tháng sáu rau muống non chúng tôi hái hàng rổ về, mẹ đánh chanh bát mắm hồng tươi trào bọt, bồng bềnh như nồi chè đậu đỏ bồng sôi. Nhưng mẹ tôi không bao giờ động đũa vào nó. Nguy rồi. Tôi bán non điểm vụ mùa cho ông đội trưởng, được mười ký thóc đem ra chợ Kinh Xuyên mua được thứ mẹ thèm. Mẹ ăn như người sẽ không bao giờ còn được ăn nữa. Cứ hết mắm tôm mẹ sai tôi lấy và bảo: “Để mẹ ăn hết chỗ bún này.” Hết chỗ bún ấy mẹ bảo thêm tý bún kẻo tí mắm tôm này phí phạm. Thế rồi mẹ ăn hết rá bún có ngọn, hết lưng rá lòng sốt. Rồi mẹ khỏi, khỏi tiệt bệnh mà không cần thêm viên thuốc nào nữa. Ba ngày sau mẹ ra đồng lại lam lũ nguây nguẩy nuôi bẩy anh em chúng tôi nên người như các bạn đã biết. Ở chiến trường ác liệt này lấy đâu ra bún mắm tôm lòng lợn? Tôi đành nằm chờ chết. Sau, người chỉ còn hơn ba chục ký thì anh em hốt quá,  phải đưa tôi vào nằm bệnh xá. Được hơn một tuần, Mỹ mang bom đến quần đi quần lại, Khu dời cứ, bệnh xá dời theo; để cho gọn, bệnh xá chỉ mang theo những thương binh còn đám bệnh nhân dân sự thì gửi lại một bệnh xá huyện đóng ở dốc Đót. Gọi thế vì trên lưng dốc ấy không có nhà cửa gì, đến cái cây to cũng không có. Đất rừng Quảng Nam vốn đã tàng kiệt bởi gió tây và bão biển day dứt mấy ngàn năm, lại từng bị tàn phá từ hồi chín năm, chỗ nào cũng chỉ thấy cây bụi. Có vùng trắng phớ cờ lau. Chỗ chúng tôi đây toàn một loại cây đót, mùa nắng lá cụp xuống không thể tự che đậy nổi cho tấm thân độn mấy tầng vỏ măng vẫn rất gầy guộc của mình; mùa cuối đông có mẩy hơn một tẹo đã phải chắt mình nuôi hoa để rồi dăm ba tháng sau vui vẻ đem hoa cho người ta làm chổi. Chổi cùn, mục ra lại nuôi đất nuôi đót con và cũng có thể nuôi chính mình trong cái kiếp luân hồi nào. Tôi nghe nói chỗ này còn gọi là dốc Lò Rèn, nhưng không thấy lò rèn ở đâu, đến mạt sắt dấu than cũng không thấy nữa. Dân làng thì quá xa, trưa nắng gắt đứng trên đỉnh Dốc Đót may ra mới thấy ngôi làng mờ mịt cuối tầm. Tôi nằm khàn chờ lúc ra đi cho thật nhẹ, nhưng khó quá. Thật may là trên đời không có một điều ước có thật như trong cổ tích, vì nếu có thì tôi đã chết ngay từ ngày ấy, chết trong làn khói thuốc Rubiquyn ngào ngạt, trong khi bàn tay người đẹp ôm mặt sụt sùi. Ước chết nhẹ nhàng nhưng tôi vẫn còn tiếc. Tiếc mình chưa biết mùi đời. Hồi còn làm thủy thủ ở Hải Phòng, tôi có một mối tình, nhưng Na (hơn tôi ba tuổi) không chịu thừa nhận nó. Một hôm tôi rủ thằng Tùng, thằng Hoàng đến cố tả phù hữu bật cho mối tình của tôi. Bà giúp việc ghê lắm, đợi chúng tôi vào hẳn cổng mới thả chó ra sủa. Tả hữu tướng quân của tôi lập tức mất hút, bãi sa trường tình yêu chỉ còn lại tôi với vài thứ lặt vặt. Cái quý nhất là quả tim hừng hực thì trong lúc lâm nguy không kịp móc ra ném chó, nhìn lại chỉ còn đôi dép nhựa Tiền phong mới được mua thưởng tiêu chuẩn giá sáu đồng mốt; nó rất quan trọng với thằng con trai hai mươi thời ấy, nhờ nó mà bữa nay tôi dõng dạc đến nhà nàng. Thôi thì mạng sống trước đã, tình yêu tính sau, tôi vung dép ném chó rồi đi chân đất vào ra mắt Na của tôi. Nàng lấy thuốc Tam đảo bao bạc mời tôi hút rồi nhếch miệng: “Anh nói anh yêu tôi à? Yêu lắm à? Được mấy năm, tôi sẽ già đi, anh sẽ bỏ tôi mà đi trăm năm với em Ngỗng em Nguyệt nào đó ư? Thôi, có thể coi truyện ngắn Ban mai trên biển là cái vé vào đời của anh, nó có thể đưa anh đi xa lắm đấy.” Sáng hôm sau tôi lên Hà Nội. nộp đơn xin đi B ở ủy ban Thống nhất. Tôi có mặt ở đây lúc này là bắt đầu từ đó, từ chị Na của tôi mà cho đến tận hôm nay, cái mùi vị lan tỏa trong đêm chó sủa vẫn còn phảng phất trong lòng làm chứng rằng cái tiết trinh đã bị lung lay lắm. Nó rất giống cái mùi vị quấn lấy tôi đêm gùi gạo về cứ bị lạc, tôi đã gặp cô ta. Nói là đi gùi gạo nhưng thực ra tôi được Tuấn vổ cáng đáng hộ, thằng bạn đồng hương nói: “ Giai cứ đi với ta, kể chuyện cho ta nghe là được, sáu mươi bò gạo chả bõ sức ta, gạo của giai cứ để ta gùi.”Theo hẹn, khi sắp về cứ, tôi sẽ vác gạo của mình để khỏi bị phê bình không có tính giai cấp. Nhưng bữa ấy Mỹ ném bom, chúng tôi lạc nhau giữa rừng, tôi lang thang vừa đói vừa sợ trách nhiệm, lòng cứ như lửa đốt. Đêm ma trơi trộn tiếng hú gào của rừng đót và của cái đói như quỷ hành tôi khốn đốn. Giữa lúc ấy tôi gặp cô gái giao liên. Cái đám con gái thật giỏi trữ của. Vừa gặp nhau, nhìn thần sắc tôi cô gái đã vội vội vàng vàng xuống suối lấy nước, đun nước sôi pha sữa cho tôi uống rồi lại tất bật nấu thịt hộp cho tôi ăn. Cái đói đỡ dần còn cô ta thì cứ như càng lấn bấn hơn, cứ giục tôi ăn cho đến lúc tôi lử ra vì no qua, ợ thì cô lấy bao thuốc Rubiquyn còn nguyên nhưng vỏ bị móp, có lẽ do bị dồn ép trong bòng lâu ngày, đưa cho tôi. Tôi nằm võng hút thuốc, trong khi cô gái tròn như hột mít vẫn tất bật xuống suối. Thì ra cô tắm. Rồi cô hát. Giọng khê nồng, lại sai nhạc nữa, nhưng vẫn cô cố đi cho hết bài Tình ca. Giọng bị nhòe đi bởi nước dội ào ào, lúc tắt lúc vùng quẫy lên như người cố leo đèo, tôi thấy ngồ ngộ bởi bài ca ướt giữa đêm rừng sâu. Tôi không dám ướt theo nó, tôi từng bị kiểm điểm vì tội tán gái nhiều lần. Tôi có tội gì đâu? Giữa chiến tranh ác liệt, những câu chuyện chỉ nhằm làm vợi nhọc nhằn chết chóc, các cô gái thích tôi thì hẳn cũng chỉ vì những cái tôi mang lại. Tôi sức trói gà không nổi, tự nghĩ phải “ẵm em” thay vì “xay lúa” thôi mà; chứ sức đâu mà gái gú? Sao các thủ trưởng của tôi không thấy ra điều đó nhỉ? Ánh mắt các cô sáng lên khi nghe chuyện tôi thì nào tôi có được gì. Sao các thủ trưởng không nghĩ cách gì đó làm mắt họ sáng lên, để thử xem đấy có phải là hủ hóa không? Tôi lơ mơ ngủ sau cái no bội thực, nhưng vẫn mơ hồ cảm thấy mùi vị Na trong cái mùi xà bông Camay, không, mà hương của trinh nguyên lay động thì đúng hơn. Đêm năm canh tôi trằn trọc mất ba bốn, còn cô gái cũng hình như thế. Thỉnh thoảng tôi còn nghe tiếng hát khê nồng, tiếng thở dài duỗi ra như một buông thả hết cứ hoành cứ đêm sâu

Sáng dậy, tôi bẽ bàng xuống suối rửa mặt thay quần lót. Tôi chợt nhìn thấy đám bong bóng xà bông lấp lóe cầu vồng dưới nắng. Lạ thật, chúng không tan đi sau một đêm dài đến thế; tôi khẽ thổi, đám bong bóng xà bông lồng bồng méo đi một lát rồi lập tức lồng bồng trở lại. Tôi ứa nước mắt. Tôi nhìn quanh, cô gái đã đi từ lúc nào. Nếu không có cái bếp lửa tàn, không còn vỏ sữa Ông Thọ hờn dỗi nằm dưới chân thì có lẽ tôi đã coi cuộc gặp đêm qua là một giấc mơ như tôi quả thực có nằm mơ không hay hớm gì với Na của tôi. Nhưng không chỉ có thế. Ngày hôm sau về cứ, tôi nghe cô gái ấy bị bom trên đường về Khu. Những bức thư hậu phương, những mệnh lệnh chan hòa máu cô giao liên Huỳnh Thị Mộng Tuyền-một  trinh nữ đi qua tôi như vì sao băng.

Bệnh xá trưởng là ông to to nào đó, nhưng suốt những ngày tôi nằm bệnh không thấy ông có mặt. Người thường xuyên tiếp xúc với chúng tôi là bác sĩ Lưu Thụy Phương, người Hà Nội. Một người Hà Nội trong dáng thanh mảnh, giọng như phát thanh viên Hoàng Yến, trong nét cười hơi buồn và nhất là trong đôi mắt đen to mượt những hàng mi hình như hơi rậm. Chị vào đây sau chồng mấy năm. Anh là giáo sư chuyên nghiên cứu bệnh sốt rét, tên anh ai cũng biết vì nó được dùng làm tên gọi thứ lá chữa sốt rét thay kyninh, nhưng vì lý do mà các bạn sẽ biết sau đây, tôi không muốn nói ra tên chồng chị. Họ vẫn đang sống  với nhau ở huyện vùng sâu của đất Quảng, nhân thể cũng nói rằng cái tên Lưu Thụy Phương cũng chỉ là do tôi đặt; tên thực của chị Hà Nội hơn, hợp với người chị hơn. Có những người dù họp đồng ngũ có năm lần bẩy lượt gọi cũng không có mặt, nhưng biết làm sao. Chị vốn được tăng cường cho Đội phẫu thuật tiền phương. Các thương binh qua tay Phương mổ vẫn còn râm ran kể về chị như một huyền thoại hàng năm trời và ở khắp các mặt trận, kể cả khi chị đã bị kỷ luật. Không ít người bị bạn bóc mẽ khi trót dại nói rằng đã được hôn chị Phương khi nằm điều trị ở Đội phẫu thuật tiền phương, có tay bị đấm vỡ hàm khi dám bảo ở đùi non của Phương có nốt ruồi đỏ. Lưu Thụy Phương là mặt trăng chung của mọi người, không ai có quyền nhận làm của riêng, trừ ông giáo sư chồng chị đã lỡ rồi thì thôi. Thế rồi, trong một lần ông giáo sư đi hái thuốc bị cái trực thăng vồ mất. Chúng đánh ông, ép ông phải chiêu hồi rồi thu băng giọng ông kêu gọi “anh em trở về với chính nghĩa quốc gia để được cư xử tốt”, tiên sư cha chúng nó. Khi tôi gặp Phương thì chuyện ấy qua lâu rồi. Hình như vợ chồng cũng chưa gặp nhau được mấy lần từ năm ông giáo sư đi B. Ở chung mặt trận, nhưng khác đơn vị. Chồng chiêu hồi, Phương được điều về bệnh viện địa phương, không may cho chị, trong một lần tiêm ven Vitamin C cho một nữ huyện ủy viên, Phương tiêm nhầm thuốc kích hoạt tim, khiến cho chị cán bộ bị sốc. Phương bị điều xuống làm ở bệnh xá Dốc Đót này.

Ở bệnh xá lúc ấy cũng không đông bệnh nhân. Một anh lính tâm thần do bị sức ép bom chùm, một cán bộ cấp tỉnh bị vôi hóa cột sống, một kỹ sư lâm nghiệp bị xơ gan cổ chướng, Tuấn vổ đồng hương tôi và khoảng chục bệnh binh quân địa phương, họ đến khỏi bệnh thì đi. Tại một bệnh xá như thế, thì giờ chả biết để làm gì. Anh lính tâm thần lại là tay thạo việc. Chả mấy hôm hắn không kiếm được một cái gì đấy, củ sắn, củ mài, quả mít quả quéo. Hắn mang về, long trọng ra lệnh cho Phương nổi lửa nướng sắn, tệ cái là hắn chỉ đồng ý cho Phương chế biến cái hắn mang về, kể từ mấy con ngóe còm. Xong, hắn tỉ mỉ ngồi chia đều cho mỗi người; có nhiều hôm hắn chia đi chia lại vì cảm thấy không được công bằng lắm, thành ra củ sắn nát bét dưới bàn tay lưu cữu không rửa. Nhưng tôi để ý, mỗi lần cầm miếng sắn của hắn đưa, Phương lại thở dài. Miếng sắn quả có lớn hơn của chúng tôi. Mỗi lần được cải thiện ngoài tiêu chuẩn như thế, tay kỹ sư lâm nghiệp phấn chấn hẳn. Và thể nào hắn cũng bảo:

-Chị Phương ơi ! Quê chúng ta xa cách, nhưng ít ra là đồng hương miền, tôi chỉ xin đồng hương nhõn việc này thôi. Khi tôi chết, nhớ ghi là tôi bị bom, chứ ghi thật thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thấy người vợ xã đội trưởng của mình?

Tuấn vổ nói:

-Rách việc nhà ông lắm. Chết rồi còn sợ gì?

-Không được-ông vôi hóa nói, chết bệnh là chết bệnh. Ghi thế hóa ra ăn gian tiêu chuẩn à? Lời thề trước Đảng kỳ để đâu?

-Tôi không ăn gian tiêu chuẩn. Tôi chưa có con, nhà nước chả mất tiền mất điểm ưu tiên học hành gì, vợ tôi khỏe như ngựa cái, nó cũng không thèm. Đây là tôi lo cho tấm bằng treo có dán ảnh thờ tôi. Tôi chỉ tiếc cho thân tôi-chợt ông ta nấc lên, nước mắt chảy chẳng buồn quệt: mất công đi vào tận đây mà rồi chết vớ chết vẩn. Chị Phương, chị hứa với đồng hương đi, để tôi yên lòng.

Những khi như thế, bao giờ Phương cũng nói:

-Bác lau nước mắt đi đã, tôi mới hứa.

Và thể nào ông xơ gan cũng vội vàng lau nước mắt, vội vàng cười nói như không. Có khi còn cao hứng kể:

-Vợ tôi ấy à, nếu có thua đồng hương đây thì cũng chỉ thua tấm áo manh quần, mà khỏe hết sẩy luôn. Rung nhà sàn nhé, rên tơi tả cả vách đá nhé. Có một đêm tôi mệt, làm ăn chắc là chả bõ bèn gì, thế là nó cứ nằm mà ném tôi vào góc nhà, như ném con nhái bén, ghê chưa? Lại có bận đang làm cỏ sắn trên nương, đá sắc như thế mà nó cứ bắt tôi làm. Xong đứng dậy, lưng áo vợ đầm đìa máu, ghê chưa? nhưng nó vẫn như không cứ vừa đơn ca “không cho chúng nó thoát” vừa dẫy cỏ đến tối mịt, mặc cho tôi nằm khểnh trên lán ngáy pho pho. Chỉ con gà thiến sứt là chết oan buổi tối hôm ấy, ối giời ơi đất ơi!

Tuấn vổ nuốt nước bọt rồi bình luận:

-Quân dã man !

Phương cười độ lượng. Tôi có cảm giác tục tĩu về câu chuyện của ông xơ gan, niềm trắc ẩn trước một người đàn bà thanh nhã khiến tôi đem những câu chuyện mình từng đọc hoặc từng sống, như những chuyện vừa kể lúc nãy cho các ông nghe, hòng xua đi cảm giác bất nhã trước cái tinh tế của người đẹp. Tôi gần như độc diễn toàn bộ Hamlet, Romeo & Juliet; lại có thêm một kẻ bình luận nhảy trong mình ra ở những chỗ diễm tình nhất. Có đêm, bên bếp lửa vạc dần, tôi gần như đọc thuộc lòng truyện Những vì sao của Ansfon de Doude. Lẽ ra, khi cô gái mang cơm đã gục vào vai chàng chăn cừu mà ngủ là hết chuyện. Nhưng tôi không thể ngừng, tôi phịa ra:

-Câu chuyện về chàng chăn cừu từ thảo nguyên bao la của nước Pháp đã lan sang châu Mỹ, sang cả Trung Quốc, dội về Ấn Độ rồi theo các chàng thủy thủ vượt Đại Tây dương lên Bắc cực. Một chàng thủy thủ xứ lạnh vốn thô kệch, suốt đời chỉ biết có lau chùi máy móc và hạ buồm khi có bão một hôm nghe xong chuyện chàng chăn cừu, bỗng nhiên trở thành thi sĩ. Và đây là thơ của chàng: “Hôm nay xem đám cưới sao/ Đến hôm nào, đến hôm nào cưới ta?”

Trong những khi kể chuyện, tôi hay nhìn vào mắt người nghe, trừ Phương. Lần này, sau một lúc cồn cào không đừng được, tôi khẽ liếc nhìn Phương. Một thoáng bối rối, nhưng ngay sau đó lại nhìn tôi cười cười, cái cười đồng lõa của kẻ bắt quả tang người nói dối, nhưng tha. Phương làm như chợt nhớ, lấy từ trong tủ thuốc ra cho tôi một điếu thuốc Rubinqeen. Ông kỹ sư lâm nghiệp đã chuyển bệnh, nãy giờ nằm nghe Những vì sao bỗng khóc hu hu:

-Quê tôi không có cừu, chỉ có trâu bò thôi. Cái chuyện anh kể hệt như chuyện của tôi và vợ. Tài thật, cứ như ông người Pháp kia kể về vợ chồng tôi vậy.

Tuấn vổ bình luận:

-Thấy sang bắt quàng làm họ lắm nữa.

Ông kỹ sư cố ngước người lên, cãi:

-Đấm thèm vào nhận vơ nhé. Hồi ấy hai đứa tôi mới mười ba mười bốn. Con trâu của nhà vợ tôi bị lạc, nó vừa khóc vừa bắt đến tôi vì trâu cái nhà tôi cứ rủ rê trâu đực nhà nó. Tôi chịu không nổi nước mắt, đành phải cùng nó đi tìm. Dễ thôi, chúng tôi dắt trâu cái nhà tôi vào sâu trong bãi Ma, buộc con nghé ở bãi Trống. Trời nhá nhem trâu cất tiếng nghé ọ gọi con. Mới nghé ọ được vài tiếng, đã thấy con trâu nhà nó hộc tốc lồng về. Chúng tôi mừng như cha chết sống lại, vắt vẻo trên lưng trâu về làng. Trăng non vắt đỉnh núi, rãi vàng trên bãi sim. Tôi những muốn mặc mẹ sự đời, lấy lá cọ làm nhà, lấy lấy lá chuối rừng làm giường ôm nhau ngủ trên nương trăng; nhưng tôi không dám. Sau này thành vợ chồng, tôi nói lại chuyện ngày bé, nó nói: Sao không... bây giờ còn tiếc? Mới đấy mà nay tôi đã sắp chết mất rồi. Bây giờ có tiếc cũng chả nước non gì nữa. Nhưng không có con nhái bén tôi đây, vợ tôi nó sống thế nào hở giời? Đồng hương ơi, hứa đi, đồng hương nhớ ghi cho tôi chết giữa làn đạn quân thù, nhớ đấy.

-Bác lau nước mắt đi rồi tôi hứa!

-Không được, như thế là gian dối !

Ông kỹ sư không còn cãi gì nữa, ông đã teo lại, chỉ cái bụng ngày mỗi to ra kinh khủng. Tuấn vổ cùng mấy người ốm nhẹ mấy hôm nay đã đào sẵn một cái huyệt, đất đá cứng, sức bệnh nhân chả có mấy, mỗi ngày đào một chốc. ông kỹ sư vào lúc gắng được, cố lết ra đồi chỉ huy đám phu huyệt. Chỉ trỏ, nắn hướng, bé chỗ này, to chỗ kia. Gặp cái rễ cây, ông nói:

-Tránh, tránh cho tôi cái rễ kia kẻo mai kia rễ cây ăn mất hoa cái thì chết.

Anh em mệt, bực tức định bỏ. Tôi phải nói mãi, phải kể hết Những người khốn khổ mới xong được cái huyệt nông choèn choèn. Đất khu Năm cứng quá. Tối hôm ấy, khi anh lính tâm thần mang về ba túi mìn đầy khự củ mài, buộc quanh lưng như lính đặc công vô trận, miệng toe toét rõ ra vẻ công thần nặng. Phương không đợi hắn giục, tự giúp hắn gỡ những túi củ mài ra. Nàng cạo gọt tinh tươm rồi nấu một nồi chè. Nàng âm thầm làm, kể cả khi Tuấn vổ tán nhăng tán cuội cũng không thấy cười. Nồi chè ngon tuyệt, đường là mấy gói Gluza quá hạn sử dụng, nhưng mà thật ngon. Phương nhẩn nha cố bón cho ông kỹ sư, vừa bón vừa dỗ, kể cả dọa sẽ không ghi bệnh án như ông đề nghị mới được ba thìa. Chàng trai miền núi vâm váp ngày xưa giờ cổ ngỏng ra, nuốt mấy bận không xuôi nổi thìa chè, lạ thật, cái tạo hóa vu vơ như thế là thế nào nhỉ? Phương ghé tai tôi dặn:

-Tối nay bác ấy sẽ đi. Anh bảo anh em ngồi lại với bác ấy.

Bếp lửa bập bùng lúc tắt lúc sáng. Tôi cảm thấy rõ ràng đang có một chuyển động nào đó, thật lớn lao, đang diễn ra. Phương đã vứt ra bàn cả gói thuốc lá dở, (gói thuốc nàng vẫn dùng thay thế thuốc giảm đau cho các vết thương, cơn nghiện của tôi, suy cho cùng cũng là một thứ đau), nhưng tôi vẫn không tài nào kể chuyện được như mọi ngày. Mọi cốt chuyện trong cái kho tiểu thuyết của tôi như bị rứt ra khỏi ký ức. Tôi vừa cố nhớ vừa nghe trong người xem tại đâu. Chợt tôi hiểu ra. Cái bát chè củ mài đã làm tôi nhẹ hẳn cái bụng. Giờ thì nó êm êm nhẹ nhõm. Bát chè củ mài đã phát huy uy lực của nó, như rá bún mắm tôm lòng lợn ngày tôi còn ở nhà. Phấn chấn, tôi bèn bịa ra câu chuyện như sau:

“Ngày xưa, ở một triền núi xa có chú bé chăn trâu...”

Thật bất ngờ, vừa mở đầu như thế, ông kỹ sư đã giơ tay ngăn lại, thì thào:

-Không kịp đâu, kể từ khi tôi chết thôi. Anh bảo sao, mấy chục năm nữa, khi vợ tôi chết, chúng tôi có gặp lại nhau nữa không? Nó còn yêu tôi không, liệu có xin với giời cho nó đừng quá khỏe như thế không?

“Có chứ, bác cứ yên tâm. Vòng luân hồi của kiếp người qua mười hai giống loài sẽ trở lại làm người. Với những người tốt, chết xong lại đầu thai ngay. Và để cho tiện, giời cho đầu thai ngay vào cửa cha cửa mẹ của người chết, dĩ nhiên là làm cháu làm chắt thôi. Còn những kẻ ác nghiệt, phải cho xuống vạc dầu nấu sôi ba vạn năm mới cho hóa kiếp. Tội nhè nhẹ thì bắt leo cầu vồng, leo đến đoạn cầu vồng không nối vào nhau thì rơi xuống địa ngục bị chó ngao xé xác, như thế là chết lần thứ hai. Người tốt như chàng chăn trâu của chúng  ta thì giời cho hóa kiếp ngay, có như thế thì mới cân bằng được thiện ác ở đời. Chàng chăn trâu u ơ lớn lên, lại là đứa chăn trâu, lại làm bạn với cô gái hàng xóm nhà bên kia con suối nhỏ; lớn lên cũng sẽ đi học Đại học Lâm sinh ngoài Quảng Ninh. Trường định giữ lại làm cán bộ giảng dạy, chàng bèn đòi chế độ ăn cơm nếp, đòi uống rượu và đêm đêm được đi ngủ tiêm bao ngoài nương như tập quán mường chàng. Nhà trường hãi quá, đánh quyết định cho chàng về tỉnh, tỉnh cho chàng về lâm trường gần nhà. Thế là chàng vội vã cưới cô gái nhà bên kia con suối nhỏ. Chàng trở thành kỹ sư lâm nghiệp cơm nhà ngủ vợ.”

Người hấp hối nhệch miệng cười:

-Cậu kể hay lắm, nhưng chỉ nói sai nhõn một chữ, đã mất hay hẳn. Cánh lâm nghiệp chúng tớ nói thật, nghe hay hơn. Thôi, đồng hương Phương, chả nói dối làm gì. Đồng hương cứ ghi tôi bị xơ gan cổ chướng là được. Tuấn ơi, cậu tốt lắm, thời trẻ tớ cũng in hệt cậu. Lấy cho tớ bộ quần áo tớ mang đi từ nhà, thay cho tớ để vợ tớ nó dễ nhận ra. Chị Phương, chào chị, tôi chỉ mới đi qua Hà Nội, ghét người Hà Nội lắm, họ khác chị. Mọi người lần lượt lại gần người sắp lìa cõi đời. Tôi lại sau cùng, khi mọi người đã ra hết. Ông kỹ sư thều thào:

-Nhà văn ơi, cô Phương yêu cậu lắm đấy-tôi đỏ mặt cãi “đâu có,”thì ông nói tiếp: Có đấy,  nhìn cô ấy nhìn cậu là tôi biết liền.

Sáng hôm sau, khi chôn cất xong người quá cố, Phương đưa cho tôi giấy ra viện và nói:

-Tâm hồn anh tốt lắm, nhưng mà rồi khổ đấy. Nhớ là anh phải sống, phải sống...

- Tôi muốn nghỉ ngơi thêm mấy hôm?

- Không,  ở lại lúc này thì anh...Sẽ không còn phép mầu nào nữa đâu. Anh phải đi...Kìa anh, đi đi

Ông Đồ Gàn

BÌNH-NGUYÊN LỘC

Thầy Luyện là giáo-viên phụ-khuyết, dạy học tại tỉnh xép kia.

Đồng-nghiệp của thầy đều đồng-thinh cho rằng thầy gàn, và nhơn nghề dạy học của thầy, họ lại gọi thầy là ông Đồ.  Vậy thầy là ông Đồ Gàn.

Không rõ nghĩa của tiếng „gàn“ có sai hay không, chớ thật ra thầy Luyện chỉ là người có nguyên-tắc và nhứt-định trung-thành với mớ nguyên-tắc của mình.

Chẳng hạn thầy không bao giờ nói đến người vắng mặt, hay có nói, cũng chỉ nói những chuyện ăn trợt, hoặc khen họ, nhứt-định tránh chê-bai hay kể chuyện xấu của họ.  Thầy thường bảo: „Người ta không tự bào-chữa được, và nếu cái xấu ấy không có xảy ra hoặc xảy ra khác đi thì sao?“

Thầy lại hay chỉnh những đồng-nghiệp thân có tánh nói chuyện xấu của người đi vắng, nghĩa là thầy tự đặt cho thầy những nguyên-tắc lại bắt ép người ta theo những nguyên-tắc của mình.

Đồng-nghiệp của thầy Luyện ít ai ưa thầy vì nhiều lẽ mà nhứt là vì thầy cương-quyết không uống rượu.

Không uống rượu, ở đây, phải hiểu là không nhậu-nhẹt cả ngày, không ép nhau uống cho đến say ngã lăn ra, chớ còn thầy Luyện vẫn uống rượu, một ly nhỏ, trong các bữa tiệc.

Họ không ưa thầy Luyện, không tha-thứ thầy nhưng họ vẫn mời thầy mỗi lần có tiệc nhậu, vì họ quyết không bỏ cuộc, cố luyện cho thầy trở thành đồ-đệ của ông ấm Hiếu (1) họ mới nghe cho.

Thầy Luyện khi thì nhận lời, khi thì không, không phải tùy ngày, tùy công-việc hay tùy sức-khỏe mà theo một nguyên-tắc rõ-rệt.

Nếu đó là những cuộc nhậu-nhẹt ngày chúa-nhựt, có thể kéo dài từ mười giờ sáng cho tới mười giờ đêm thì thầy từ-chối vì thầy không thích tốn mười hai tiếng đồng-hồ vô-lối như vậy.  Bằng như nhậu thường một bữa cơm tối, ngày nào trong tuần, thầy vẫn đến vì thầy là con người thích chung-đụng chớ không phải là kẻ ẩn-thân, sống riêng-rẻ một mình.

Đêm ấy người ta tổ-chức tiển-đưa một đồng-nghiệp được thuyên-chuyển đi xa.

Tiệc mở ra tại nhà ông hiệu-trưởng trường tiểu-học của tỉnh-lỵ, do sự đóng góp của tất cả anh em song họ nhờ bà hiệu-trưởng gánh cái gánh nặng nấu-nướng, đãi-đằng.

Bà hiệu-trưởng là một tay nấu bếp khéo có tiếng trong tỉnh.  Cho đến cả những món ăn làm sẵn, bán trên thị-trường, mà bà cũng chọn thế nào cho đúng sở-thích của thực-khách, hoặc cũng lục-lạo để mua cho được những món sản-xuất ở các địa-phương xa, những món mà không phải ngày nào, gia-đình nào cũng được ăn, nếu họ có tiền đi chăng nữa.

Hôm ấy có món mắm trứng cá.

Trên thế-giới hình như chỉ có hai xứ sản-xuất mắm trứng cá mà thôi.  Miền Nam nước Việt và vài ngư-cảng của nước Nga.  Nhưng mắm trứng của Nga là mắm trứng cá biển, mà rất nhiều quốc-gia có biển, nên chi ngày nay Pháp, Anh, Mỹ gì cũng sản-xuất được món Ca-vi-a (Caviar: trứng cá muối) nên Nga mất độc-quyền, còn mắm trứng của miền Nam Việt-Nam là biệt-sắc địa-phương độc-nhứt vô-nhị trên hoàn-cầu.

Tất cả thực-khách đều hoan-hô chào đón món ăn lạ miệng nầy, chỉ có thầy Luyện là không đụng đũa tới.  Ban đầu mạnh ai nấy ăn, không ai kiểm-soát ai làm gì, nhưng thầy Hoạt, ngồi bên hữu của Luyện, chợt thấy chuyện lạ, hỏi:

-     Cữ ăn món nầy hả?

-     Không!

Mặc-dầu Luyện cải-chánh, Hoạt cũng cứ tiếp-tục nói theo chiều-hướng ý-nghĩ của thầy ta.  Ấy, trong xã-hội có lắm kẻ họ bất-kể ta nói gì, bị ý-nghĩ của họ ám-ảnh, và kể ta và lời ta như là không có:

-     Đừng có trẻ con!  Chớ bộ ăn thịt ăn cá không là sát-sanh hay sao?  Anh cữ trứng mà cứ ăn cá thì cũng chẳng thành Phật được đâu!

Luyện chỉ cười hề-hề vì biết nói làm sao bây giờ trước một người như thế ấy.

-     Gì đó?  Vài người ngồi đối-diện với họ, hỏi như vậy.

-     Anh Luyện cữ ăn trứng cá, vì sát sơ-sanh nặng tội hơn sát-sanh.

Hoạt đáp như vậy rồi cười ha-hả và nhiều tiếng cười khác phụ-họa theo tiếng cười của thầy như những tiếng vang.

Họ không cần hỏi đi hỏi lại gì cả, bởi họ đinh-ninh rằng thầy Luyện hay kiêng-cữ vì lý-do tôn-giáo.  Thầy Luyện không ăn thịt chó vì thầy biết rằng món ăn ấy rất nặng tiêu-hóa, nhưng cũng cứ thiên-hạ bất-kể đến lời giải-thích của bất-kỳ ai, nên thầy không buồn cắt-nghĩa và người ta cứ kết-luận hàm-hồ rằng thầy cữ thịt chó vì thầy là Phật-tử ngoan đạo.

Ông hiệu-trưởng khoa-học và công-bình hơn tất cả mọi thực-khách đêm nay, hỏi riêng thầy Luyện, mà hỏi to lên chớ không phải hỏi thầm:

-     Thầy không thích món nầy, hay có lý-do đặc-biệt nào để cữ ăn nó?

Ông hiệu-trưởng không bao giờ nhậu-nhẹt, nên những lần khác không có mặt ông.  Đây là lần đầu-tiên có người nghiêm-trang hỏi thầy Luyện về chế-độ ăn uống của thầy, nên thầy Luyện cũng nghiêm-trang đáp:

-     Thưa ông hiệu-trưởng, ở các nước, có đạo-luật cấm săn-bắn và câu kéo trong mùa thú và cá mang thai với lại nuôi con.  Ở xứ ta thì thả cửa, nên chi cá miền Nam đã bắt đầu khan-hiếm rồi vì ta ăn trứng cá cũng bằng như là tiêu-thụ cá một trăm một ngàn lần nhiều hơn.

Trong khi chờ đợi chánh-phủ có biện-pháp tôi nghĩ rằng những công-dân ý-thức nên tự-động làm cái gì để tránh nạn thiếu cá trong tương-lai rất gần.  Mà không có gì hay hơn là không ăn mắm trứng.  Một con cá, bị họ xúc bán cho ta, nếu nó có trứng, ta đành chịu vậy, vì không ăn trứng ấy, con cá cũng không trở xuống nước được, bởi ta không đủ giàu để phóng-sanh nó rồi mua con khác.

Chí như mắm trứng, nếu bị ta tẩy-chay thì người sản-xuất sẽ không sản-xuất nữa vì thiếu thị-trường, và cá sẽ đẻ, cá con sẽ lớn, ta sẽ hy-vọng có cá mà ăn hoài.

Cả bàn cười ồ, chỉ trừ ông hiệu-trưởng.

Thầy Thạnh hỏi:

-     Một mình anh không ăn mắm trứng, liệu cứu dân-tộc ta thoát khỏi nạn thiếu cá hay không?

-     Nếu ai cũng nghĩ như anh thì không.  Nhưng có người nghĩ như tôi và sẽ rất có nhiều người nghĩ như tôi.

Thầy Lê đùa:

-     Pháp có câu tục-ngữ: „Ai làm việc nấy thì bò sẽ được chăn kỹ-lưỡng“.  Nếu mỗi thằng dân quèn như ta lại đi giành công-việc với chánh-phủ thì nước nhà sẽ rối trật-tự đến đâu.  Nội cái việc theo đúng luật nước mà ta còn theo không đúng, giờ ta lại theo những đạo-luật mà có lẽ chánh-phủ chưa nghĩ đến thì ta sẽ chết mất thôi.

-     Chính vì chánh-phủ quên mất công-việc đó, nên ta có bổn-phận tự-động nhớ đến nó và làm cái gì để cứu-vãn tình-thế.

Thầy Huấn rán rằng:

-     Tôi không tin rằng những nước lớn như nước Mỹ, nước Anh, nước Nga, nước Pháp, chánh-phủ của họ lại bê-bối, vậy mà họ cứ cho phép sản-xuất Ca-vi-a như thường.

-     Không, anh không biết những chi-tiết sau đây.  Ca-vi-a là trứng của loài cá Et-tuyệt-giông (Esturgeon) mà cá ấy ở ngoài khơi, các chánh-phủ nói trên không thể cấm chuyện gì xảy ra bên ngoài hải-phận.

Vả lại các nhà sản-xuất Ca-vi-a họ lại ý-thức và tự-động hạn-chế việc lưới cá Et-tuyệt-giông để cá ấy còn hoài cho họ khai-thác.

-     Muỗi nhiều quá, anh đập một con muỗi hay vài mưoi con muỗi mà lại hy-vọng trừ-tuyệt giống muỗi thì quả thật anh là một ông Đồ Gàn.

Cả bàn lại cười ồ lên, trước câu nói của thầy giáo Nên.

-     Thành-thử sự hại, nếu nó lớn quá, ta nên buông xuôi cho nó sụp đổ cả?  Luyện hỏi vặn cả bàn.

Không ai đáp, chỉ có thầy Hoàn xuôi-xị giảng-hòa.

-     Hơi đâu mà lo chuyện trời sập.  Năm 1970, hết cá thì ta ăn thịt vậy.

Ông hiệu-trưởng từ nãy giờ chỉ hỏi có một câu ngắn.  Bây giờ thấy không-khí đã hết sôi-nổi ông lại hỏi, nhưng lần nầy là hỏi những người cười đùa:

-     Có phải hay không là con nhà mô-phạm không có quyền đùa với những vấn-đề nghiêm-trọng?  Thì ta cứ cười cho vui, rồi cũng phải xét việc một cách đứng-đắn.

Các anh đã tuyệt-vọng trước khi hành-động, buông trôi một cách không xứng-đáng với những nhà dìu-dắt.  Ta chỉ dìu-dắt trẻ con thôi, nhưng cũng cứ là dìu-dắt.

Nếu biện-pháp gián-tiếp của anh Luyện mà được các anh phổ-biến trong đám học-trò của các anh thì nội trong thành-phố nầy sẽ có trên một ngàn công-dân tương-lai đồng-ý với ta trong một thời-gian ngắn lối một tháng.

Miền Nam có bao nhiêu trường tiểu-học, bao nhiêu học-sinh tiểu-học, tôi không rõ, nhưng có thể đưa ra con số bốn trăm ngàn học-trò mà không sai chạy bao nhiêu.

Bốn trăm ngàn học-sinh ấy sẽ nói lại cho tám trăm ngàn cha và anh của các cháu đó hiểu biết về cái hại ăn mắm trứng, rồi sẽ có ít lắm là năm trăm ngàn người tin ta và năm chục ngàn người hành-động như thầy Luyện: không bắt cá con, không ăn mắm trứng.

Năm mươi ngàn người cũng ít quá, nhưng rồi con số ấy sẽ nở lớn ra.

Thầy Minh cười ha-hả:

-     Ông hiệu-trưởng nè.  Ta có dạy học-trò về cái hại của rượu hay không?  Bốn trăm ngàn học-sinh nghe, về nhà nói lại cho tám trăm ngàn cha và anh của các cháu ấy nghe và rốt-cuộc có lối sáu trăm ngàn người nhậu-nhẹt.

Cả bàn lại cười lên.

Ông hiệu-trưởng không hề mất bình-tĩnh.  Ông khoan-hồng giải-thích:

-     Đó là tại ta dạy bằng một bài học luân-lý ngắn trong suốt đời học-trò tiểu-học của các em.

Bây giờ về vụ cá, ta đặt thành vấn-đề lớn, gây phong-trào ồ-ạt thì các em và bực phụ-huynh không thể dửng-dưng được với vấn-đề.

-     Tại sao không tranh-đấu để làm áp-lực thế nào cho chánh-phủ có biện-pháp?

-     Tranh-đấu cách nào?

-     Bằng báo-chí?

-     Ta không có báo trong tay.  Nhưng anh nói, tôi mới nhớ điểm nầy: là một đạo-luật của cái gì đó, không hữu-hiệu bằng sự giáo-dục quần-chúng, bởi sông ngòi minh-mông, chánh-phủ khó mà kiểm-soát chặt-chẻ để sự thi-hành pháp-luật được nghiêm-chỉnh.

Tình-cờ và may-mắn, vấn-đề được đặt ra giữa các nhà giáo và tôi thấy các nhà giáo sẽ làm việc đắc-lực hơn là một đạo-luật.

Thầy Thể lại đùa:

-     Nói gì thì nói, mắm trứng cũng đã hết rồi.  Xin báo-động với các nhà ưu-thời mẫn-thế rằng mùa cá tới, ta sẽ thiếu một trăm triệu con cá.

Ông hiệu-trưởng cười hiền-lành:

-     Anh đùa, nhưng lại đúng sự thật.  Quả mùa cá tới ta sẽ thiếu một số cá vì dĩa mắm trứng nhỏ-mọn nầy.  Tuy không thiếu một trăm triệu như anh Thể đã nói quá lố để chọc cười, nhưng anh chắc-chắn là thiếu lối năm mươi ngàn con.

Số trứng mà ta ăn hôm nay cho thích-khẩu, sẽ nở ra lối hai trăm ngàn con cá.  Chúng sẽ hao-hớt đi hết ba phần tư, chỉ còn lại độ năm chục ngàn con ... nếu đêm nay chúng không bị ta đớp.

1.                           Dê ủ trấu Nga An

//

//

//

Thong dong cùng với đất trời xứ Thanh từ vài ngày trước Tết. Hôm nay mùng 4 trời ấm hơn. Trong lúc làm ấm chè chờ bạn đánh ô tô ở Nghệ An ra ăn dê ủ trấu lại rộ lên bàn luận chuyện dê.

Việt Nam riêng dê núi Ninh Bình thì quá nổi tiếng rồi phải không ạ, cũng giống như rượu Kim Sơn vậy nhưng chúng ta không bàn đến nữa. Nhưng các bạn hãy thử món dê ủ trấu xứ Thanh xem sao đây chính là đặc sản riêng có của xứ Thanh. Quê choa đi đâu cũng thấy núi từ Đông Sơn, Yên Định, Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Hà Trung, Thạch Thành...xuống đến đồng bằng Nga Sơn. Có núi là có dê.

Đi và ăn rồi mới thấy cách ăn, cách chơi, thú ẩm thực của Xứ Thanh cũng đầy thanh tao, cầu kỳ, sành sỏi và khoa học. Phải chăng tôi đã quá yêu quê nên nói vậy? Không hẳn thế. Phải chăng vì thế theo dõi trên tivi các bạn đã thấy bác Nguyễn Duy nhà ta đi lại như con thoi từ đồng Bằng, miền Tây, Miền Trung, miền Nam cho đến các vùng núi Tây Bắc để thẩm du các loại rượu, các món ăn để rồi cảm nhận, đánh giá. Thật bái phục một con người.

Bởi vì cái dạ dày của mỗi người được giáo dục từ trước là trước sao sau vậy. Tùy từng vùng miền mà có cách chế biến thịt dê khác nhau, bạn khen ngon nhưng mình ăn không hợp cũng cố mà nhuốt. Thật vậy ! Có lần đọc bài viết nào đó nói về ông cụ thân sinh của bác Nguyễn Duy chê món thịt dê, rượu không hợp khẩu vị thật là sâu sắc. Đúng là đi ngoài để thấy trời cao bể rộng nhưng rồi chợt có giây phút nào đó lại bùi ngùi nhớ về dê ủ trấu ở quê nhà.

Ăn thịt dê món gì là ngon nhất ?

-Tôi xin khẳng định: Ăn dê là phải ăn món tái ! Nếu ăn thịt dê mà không ăn món tái thì gọi là chưa biết ăn thịt dê. Còn tiết canh có thể ăn hoặc không ăn tùy sở thích. Còn các món hầm, hấp, nướng...chỉ là phụ họa trong một giàn hợp xướng thôi ạ.

Tại sao nên ăn thịt dê núi ?

-Thưa rằng thịt dê nó lành. Leo trèo nhiều giống như người chơi môn thể thao mạo hiểm vậy. Hơn nữa dê là loài ít ốm đau bệnh tật. Tận mắt chứng kiến cả đàn hàng trăm con thỉnh thoảng thấy anh họ tôi vắt chanh vào các vết xước ở mõm do vướng vào đá tai mèo trên núi thôi.

-Dê ăn lộc, lá trên núi nên chứa nhiều vitamin và thảo dược tự nhiên

-Ăn thịt dê đẹp da, vì da dê chứa nhiều Colagen.

-Tăng cường sinh lực cho nam giới.

-Đối với nam giới thì làm sao chúng ta có thể hoãn cái sự sung sướng ấy được

Ở Nga Sơn ăn dê thì phải lên Nga An. Vì đó là khu núi đá, dê chạy tung tăng, bên dưới là hàng quán chuyên về thịt dê.

Thưa các bạn, độc đáo và tinh túy của dê ủ trấu Nga An nó nằm ở món tái. . Gắp một ít tái, cuộn vào lá sung, kèm theo miếng ớt, khế rồi chấm đẫm vào tương đưa lên miệng cùng với bánh đa nhai rồm rộp thì mới cảm nhận được thiên đường là đây, hớp một ngụm rượu Nga Sơn thì mới thấy ừ nhỉ cuộc đời cũng đáng lắm chứ.

Trước khi ủ trấu dê được cạo lông sạch sẽ, nhồi lá sả vào bụng. Phủ trấu lên toàn thân dê và đốt rơm để mồi lửa. Khi ủ trấu xong thì toàn bộ dê nó sẽ chín om, da vàng rộm. Tạo ra món tái đúng nghĩa, tức là không chín hoàn toàn, thịt thái ra xoăn từng lọn nhỏ.

1.                           Nem chua toàn lá

//

//

//

Đáp lại cho câu hỏi này là...điệu cười hè hè của cụ. Tuyệt nhiên không có một cử chỉ cau có, hay gắt gỏng gì cả. Người quê tôi đúng là chân chất đến thương.

Tôi có tổng hợp sơ qua như sau:

Nào là anh hùng thì áo vải, bà tôi đi bán trứng ở Ga Lèn(thơ Nguyễn Duy), rau má, hình ảnh cụ Tú Loan dùng mảnh kính để soi và ký hợp đồng chuyển giao bài thơ 100 triệu đồng cho VITEK.

Cho đến "gã nhà quê" Trịnh Thanh Sơn

Tôi sinh ra từ cọng rơm vàng

Từ bùn tối, cánh đồng và ngọn sóng...

Nơi tôi nằm râm mát bóng lùm tre

Bước chân trâu thậm thịch trưa hè

Tiếng gà ban mai, đêm trăng chó sủa

Thành nước mắt, thịt da và hơi thở.

(Cọng rơm vàng)

Rồi bài "Cánh đồng tuổi thơ"

Ấy là khi mẹ gọi chú bé dậy vào lúc mờ sáng.

Hôm nay cắt cói đồng xa

Chú bé vừa dụi mắt, vừa nhai vội vàng mấy củ khoai luộc,

nghẹn nuốt, nghẹn nuốt...

Đầu đòn càn tòong teng mo cơm, chai nước giếng thơi mẹ chuẩn bị cho từ đêm trước

Thế nên cái đòn càn, đêm trăng chó sủa, đồng cói, mắm tôm, rượu.. nó đi vào thơ ca lúc nào không hay.

Nên cuộc sống sao thì ta phản ánh lại vậy, nó bật lên điều đó hết sức tự nhiên trong thơ ca xuất phát từ cuộc sống lao động vất vả, chống chọi với thiên nhiên. Mộc mạc, siêu giản dị. Trong cuộc sống hàng ngày khi giao tiếp với người Thanh, nếu tinh ý bạn sẽ nhận thấy. Đó chính là chất Thanh.

Trở lại chuyện nem. Cụ, một người đã đạt đến cái tuổi "trông chết cười ngạo nghễ" cho biết từ xưa đến giờ, từ thế hệ ông của cụ đã gói nhiều lá như thế thì cứ làm theo thôi. Quả thật, bốn đứa bọn tôi trải chiếu hoa để nhắm rượu với nem. Ăn đến đâu bóc ra đến đấy, nhắm xong 4 thằng cầm 4 góc chiếu mang lá chuối đi đổ. Tôi chắc rằng các bạn đã nghe câu này ở đâu đó, tôi còn nghe được những tiếng chửi "điêu" của các bà khi tàu đi qua xứ Thanh từ những năm 1985. Người mua có khi không hiểu cứ nghĩ rằng nem được làm to để bắt mắt và bóc ra ăn ngon nhưng nhiều lá. Nhưng chửi cứ chửi, bán thì cứ bán, ngon thì người ta mới mua.

Tôi đã từng đặt vấn đề trong một bữa nhậu với một bợm là thạc sĩ ngành công nghệ sinh học của Đại học Khoa học tự nhiên. Hắn ta khẳng định là nem được gói bằng nhiều lá chuối là sự kết hợp tuyệt vời, càng nhiều lá là càng tốt. Vì theo hắn là đã có những nghiên cứu về tại sao từ ngàn xưa người ta gói thịt bằng lá chuối. Hắn giải thích nôm na là lá chuối như một "chiếc áo sinh học" bảo vệ nem rất tuyệt, chống lại các vi khuẩn gây hại và cuối cùng là nó không bị lấy mùi vào thịt như gói bằng các lá khác. Nên ta hay dùng lá chuối để bó giò, gói bánh, nướng cá, nút chai, gói xôi... bằng lá chuối là vậy.

Chợt nghĩ, ông bà ta thật là khoa học và độc đáo.

Tên gọi thì đa dạng nem chua Thanh, nem Thanh, nem Thanh Hóa. Gì thì gì nhớ đừng bỏ chữ "Thanh" đi là được.

Hình thức nem thì đa dạng, dạng quả, vuông,nem dài. Thành phần thì có loại có tỏi ớt, lá đinh lặng, loại thịt được thái bằng dao phay, loại thịt xay, loại giã bằng cối...

Lưu ý: lúc mua nem phải nói rõ là ăn ngay hay đem đi miền Nam, hay đi xa để người bán lấy cho loại phù hợp. Càng đi xa thì nhiều là chuối hơn. Từ lúc gói cho đến lúc ăn có thể lên đến 10 ngày.

Nem Thanh thơm, ăn chua, dai, dòn, sần sật, ngọt nhẹ. Tuyệt đối không có vị ngọt như cho đường thì không phải là nem chính gốc rồi.

Nơi mua: thành phố Thanh Hóa, các huyện Nga Sơn, Hoằng Hóa, Bỉm Sơn thì đích thị là nói. Tôi thì thích ăn loại bó bằng lá đinh lăng, không lẫn với nem của bất kỳ tỉnh thành nào.

NHỮNG QUẢ TRỨNG TRONG MƠ - TRUYỆN NGẮN - NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

Đó là cái chòi nhỏ nằm chơ vơ trên đồng gió. Nó chỉ để tá túc khi canh đồng, dặm cua. Vào mùa nước rong còn là nơi tấp vào của mấy chiếc vỏ lãi cân tôm bán lại cho các vựa. Còn bây giờ ngoài chú Năm Hạnh, là Mười Dửng.

Nghe  kể, y tới đây cũng lâu rồi. Nghề chính của y là chăn vịt đồng. Hai người gặp nhau bỗng hạp quá xá. Ngày đầu tiên đến, chú Năm bảo y đưa tôi đi xem vịt. Cánh đồng gió đàn vịt cả ngàn con của y chạy lúp xúp thật ham. Tôi thấy Mười Dửng uy nghiêm như vị tướng quân giữa mê hồn trận của Marquez. Sau đó chúng tôi ngoạn du một vòng sông nước châu thổ. Dòng kinh thẳng tắp, chạy mênh mang. Khi đi qua các rẫy chệt, hai bên vàm sông mọc dày cỏ chát. Thứ cỏ lạ mà tay tổ lang thang như tôi chưa từng thấy mọc ở đâu. Trong gió bao lớp đè chồng ngã rạp. Khi cánh quạt mỏ vịt chém vào, lá khô kêu vè vè, bay tốc táng. Bấy giờ tháng chạp đã về. Hơi nước bốc theo gió khô khao và hanh lạnh.

Giữa khuya giấc ngủ chập chờn biển sóng. Sáng ra, sương mờ bồng bềnh. Mùa nước ròng nên cua béo. Theo phù sa là thức ăn. Lũ cua bén mùi trong những hang nẻ lóp ngóp chui ra. Trong mớ lưỡi câu ba cạnh mà chú Năm Hạnh cùng tôi bơi xuồng câu cặm lúc chiều, những con cua no mồi vẫn không chịu nhả khúc lươn nướng. Cái mùi lươn đất hơ lửa thật quyến rũ. Rượu bắt phải biết! Lũ cua cũng mê mệt cho đến khi giở vó, chúng láo liêng những cặp mắt lồi nhìn chúng tôi. Cứ như chúng không sợ bị bắt mà chỉ sợ những miếng mồi thơm bị cướp mất. Sau nhiều lần cua kẹp, tôi cũng đã biết dùng tay trái đè dí từ trên mai cua, tay phải dùng sợi dây buộc ngang cặp càng và khóa chặt các khoen chân. Lũ cua bò ngang giãy dụa rồi đành thúc thủ nằm yên. Từng con bị ném vào giỏ để mỗi sớm đưa ra sàn nước cân cho lái vựa.

Chòi gió của chú Năm Hạnh nhiều gã ghé vì Hai Trâm là một cô gái đẹp. Kể cả Mười Dửng. Y cũng thầm mơ được là bắt rể chú Năm. Đó là lý do mà y, một tay chăn vịt từ Gành Hào xuống quanh quẩn vùng này. Để đưa đàn vịt đến đây không rõ y đã đi bao xa. Tôi cũng chỉ biết quê y đi về hướng biển. Còn những đồng cỏ chát ngút trời này đang ở Lung Roi, lưng chừng cửa ngạn sông. Và nghe đâu, Hai Trâm cũng có ít nhiều cảm tình với y. Cuộc tình này âm thầm vì bị thím Năm cấm cản. Thím nói con gái thím không phải để gả cho một thằng chăn vịt. Đó là câu chuyện của những tay lái vựa, mua cua chứ chú Năm chưa bao giờ đả động tới. Câu chú thường nói mỗi chiều với kẻ đối diện là “ê, nhậu mày!”. Và chúng tôi uống đến say khướt.  

Nhiều lần tôi ngồi với Mười Dửng trên sạp còn bị vịt ngáp mỏ đớp dưới chân. Y kể từ năm bảy tuổi y đã bén nghề chăn vịt. Vì nhà nghèo quá thôi. Đến bây giờ y không biết đã rong ruổi qua bao nhiêu cánh đồng miền hạ. Nhưng y có thể tự hào mà nói rằng nếu tính theo đường chân trời thì y và những con vịt đã đi hết tất cả những cánh đồng cỏ chát rộng lớn nhất của miền Tây. Từ Vĩnh Long xuôi về Cà Mau. Có những cánh đồng rộng đến nỗi khách thương hồ gọi là đồng chó ngáp. Bởi chạy nhanh như chó cong đuôi còn phải ngáp. Nhưng với y chẳng hề hấn gì! Hai mùa mưa nắng cùng đàn vịt đi qua. Sau vụ gặt càng phải mau xua vịt tới để kiếm cái ăn. Và có rất nhiều đêm cuộc đời vịt chạy đồng của y đã phải đụng độ tóe máu khi đối đầu với những toán chăn vịt từ những miền khác đổ tới. Trong sự hỗn loạn, Mười Dửng vẫn nhận ra đàn vịt của mình từ những tiếng kêu lóp ngóp dưới chân. Thì ra cái nghề này đã ăn sâu thâm căn cố đế vào y. Không chỉ nhìn trời, nghe gió bắt mạch thời tiết mà còn giúp y tinh nhạy nắm bắt những đặc điểm cố hữu của đàn vịt. Như tiếng kêu khạp khạp đã giúp y tìm ra con vịt lạc bầy khi chạy đồng.   

Nếu như Mười Dửng đem lòng yêu Hai Trâm như những tay vựa nói và được yêu thì đó có thể là may mắn lớn nhất đời y. Bởi Hai Trâm như một đóa hoa tuyệt sắc trên đồng cỏ chát. Mười Dửng không nói ra nhưng qua những câu chuyện bâng quơ người nghe biết được niềm khát khao kín thầm đó. Chỉ cần sở hữu một người đẹp như thế, y đã có thể cúc cung tận tụy, chăn vịt hết cả cuộc đời của mình. Nhưng những đêm đối ẩm bên vàm sông, trong căn chòi đầy gió, khi chú Năm Hạnh say khướt bỏ đi nằm, Mười Dửng mới lè nhè kể. Những chuyến lang thang đã làm y mệt mỏi. Giờ đây y mơ một mái ấm gia đình. Vợ y là một cô gái đẹp, nhìn hao hao giống như Hai Trâm. Em mặc chiếc áo bà ba, ngồi bên những ổ trứng vịt đầy nhóc mặt ngời hạnh phúc. Cái khuôn mặt đầy trứng cá, bộ dạng vốn đã queo quắt của y lại càng như nhỏ thó, gầy rút lại vì những ngọn gió chướng trong đêm tôi đã không làm giảm sút ánh lửa long lanh trong hai hốc mắt. Mà thực thì y có lỗi gì? Y không có quyền mơ một tình yêu, một tổ ấm hạnh phúc hay sao? Mùa thu hoạch nào Mười Dửng cũng lựa ra những hột trứng đẹp nhất, có màu ngà, ửng hồng để gửi tặng Hai Trâm.

Y mong muốn cuộc tình thầm kín của mình cũng hồng hào, với một kết thúc có hậu, tròn vo như quả trứng vậy. Nhưng đó là suy nghĩ của y khi những giỏ trứng gửi đi. Còn thật tình y chưa bao giờ cất được bằng lời vì không đủ ngôn từ và lòng dũng cảm. Bởi thế nghe đâu nhà thím Năm trứng vịt nhiều đến nỗi xếp đầy cần xé. Rất nhiều món ăn được chế biến từ trứng cho đến khi cả nhà ớn tận óc. Người dân cả vùng đó đều được ăn trứng vịt lấy thảo của Mười Dửng. Và trứng nhiều đến nỗi nếu không cho hoặc bán đi thì đến lúc cũng không còn chỗ để. Thím Năm phải cho người ra chợ kêu mối vào bán sỉ.

Giữa hai mùa nước rong Hai Trâm vẫn ngồi một mình buồn như thế khi có việc chạy máy đuôi tôm qua chòi. Thường những lúc đó thím Năm đi cùng em khi biết chắc là Mười Dửng không có nhà. Y đang tất tả lùa vịt trên đồng. Tôi không rõ tình yêu họ dành cho nhau thực sự thế nào? Nhưng mỗi đêm về khi nghe kể lại Mười Dửng gần như phát điên vì không gặp được em. Chú Năm Hạnh vẫn thế! “Ê, uống mày!” là câu nói duy nhất còn sót lại trên bờ môi chú. Trong cơn say chú đã lầm bầm điều chi không rõ. Ai cũng biết mọi việc trong nhà do một tay thím Năm cất đặt. Phải chứng kiến những điều ngang trái đó một kẻ lang thang phiêu bạt như tôi bỗng buồn như chưa bao giờ. Mười Dửng cứ uống tỳ tỳ như hũ nút. Con mắt mở chong trong gió. Vần vũ những chân trời bão nổi.

Chỉ có một lần duy nhất tôi được chứng kiến Mười Dửng hạnh phúc khi song ca vọng cổ cùng Hai Trâm trong mùa mưa nấm mối. Cũng như quy luật trời đất vào giữa mùa gió chướng, khi mưa rây đồng nấm mối ra tai. Trên những đồng cỏ chát và những cội rơm, mấm mối mọc nhanh. Chỉ sau một đêm lũ trẻ có thể gọi nhau bẻ nấm trên đồng. Cái mùa nấm mối duy nhất đấy cũng như ngày vợ chồng Ngưu Lang - Chức Nữ hẹn gặp nhau bên cầu Ô Thước. Trưa đó, thím Năm cùng mấy người bạn qua chòi đổ bánh xèo. Hai Trâm đúc bánh rất khéo. Em tráng bột trên cái rây nhỏ từng hạt mịn màng kéo sợi.

Trời mưa, bánh nóng, hương vị đầu mùa của nấm mối khiến ai cũng tấm tắc, hít hà. Sau vài ly xoay chừng, chú Năm Hạnh nâng cây đờn lên so dây. Không gian như chìm trong một thứ ánh sáng khác. Đó là không khí phiêu diêu tài tử. Mười Dửng cất tiếng ca “Ghe chiếu Cà Mau cắm sào trên dòng sông ngã bảy. Sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào…”. Có lẽ cuộc đời phiêu bạt của y đã tích tụ qua giọng ca như một sự tuyệt vọng còn giữ lại. Tiếng ca của Hai Trâm vút lên nghe như hòa sắc điêu luyện trên một bản ngũ cung. Người nghe như thấy giọt nước mắt trong tiếng hát. “Con chim đa đa đậu nhánh đa đa. Chồng gần không lấy lấy chồng xa. Lỡ mai đây cha yếu mẹ già. Bát cơm đôi đũa chén trà ai bưng…”. Tôi bỗng nghĩ về những quả trứng màu ngà bên ngoài nhìn ngỡ rất bình yên mà bên trong chứa toàn giông bão. Trong tiếng ca, nỗi lòng của chàng chăn vịt bên cạnh nỗi niềm phận gái thuyền quyên nghe uất như một niềm căm hận. 

 Một buổi tối, khi chú Năm và tôi đi câu dặm về thì nghe tiếng vè vè của máy nổ. Chẳng biết ai lại qua chòi nửa khuya thế này? Mười Dửng cầm cây đèn hột vịt lom lom đi ra thì gặp thím Năm. Y mừng rỡ: “Ủa, sao con nghe chú nói thím đi Tắc Vân sáng mơi? Có việc gì đêm hôm quày quả vậy thím?” - “Chuyện gấp tao mới qua. Chú Năm mày đâu?”.  “Ổng với ông nhà thơ vừa đi câu về. Đang rửa chân bên hồ đó”.  “Tao qua bàn với ổng chuẩn bị cho đám cưới con Hai. Ngày kia họ nhà trai vô rồi!...”.

Chuyện ly kỳ nghe muốn rớt tim.Thì ra từ lâu nay thím Năm sốt sổi đi tìm đám môn đăng hộ đối để gả con gái. Quanh quẩn mãi với đồng cỏ chát và trứng vịt hết ngày xanh tuổi trẻ. Mà kể cũng khó tìm ra được một đám coi được nơi đồng không mông quạnh này. Giấu chú Năm, thím đón ghe lên Tắc Vân tìm bà Hai Liêng, bà mối nổi tiếng mát tay tác hợp duyên lành. Bà đã làm mai cho nhiều đám thành công có tiếng cả vùng sông nước. Tuy vậy, với đám Hai Trâm bà than là khó. Bởi cô dâu thì hiền lành mà bà sui sao dữ quá! Đặt ra quá nhiều điều kiện. Bà Hai Liêng đã giới thiệu mấy mối nhưng chưa có đám nào thím Năm chịu vừa ý. Lúc thì thím chê không môn đăng hộ đối, nhà nghèo quá. Sợ con gái sẽ cực. Có nhà tương đối kha khá thì chú rể không bình thường, tướng hèn, xấu trai. Cứ dây dưa năm lần bảy lượt như thế bà mối cũng hết ham. Thời gian cứ trôi vùn vụt thấy mà sốt ruột. Đó là lý do dạo gần đây thím Năm thường xuyên đi Tắc Vân là vậy…

Lần này thím lên lộ (1) không phải vì chuyện Hai Trâm mà đi ăn đám một người quen. Nhưng quả là duyên kỳ ngộ. Không dưng cả bà mối ông mai đều gặp nhau ở đó. Hai Liêng kéo tay một người đàn bà tên Chín Cà Đao mắt một mí, phốp pháp, vàng đeo đỏ ngực, đỏ tay đến quày quả:  “Chèng đéc(2) ơi! Đúng là ông trời xếp đặt. Giới thiệu hai bà chị với nhau. Kẻ tìm dâu, người tìm rể. Tui làm mối cho bao nhiêu đám rồi mà chưa thấy đám nào đẹp đôi như vậy!...”.

Thím Năm không biết gì, chỉ thấy ánh mắt người đàn bà đó quá lạnh lẽo. Nhưng qua những trang sức đeo trên người thì bà ta thuộc diện giàu có. Có tiền. Rất nhiều tiền. Cũng theo lời Hai Liêng, gia đình bà Chín chủ một cửa hiệu đóng thuyền composite ở tít mũi Năm Căn. Ở nhà còn có một vựa hải sản và đội tàu lớn gồm ba chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi. Tuy qua tuổi tam thập nhi lập đã lâu nhưng không hiểu sao con trai bà vẫn chưa chịu lập gia đình. Bà Chín cũng đã tìm nhiều mối cho con nhưng chưa mối nào thành. Biết đâu lần này qua môi giới của Hai Liêng sẽ tìm được ý trung quân cho thằng nhỏ. Thím Năm nghe mà lòng rổn rảng. Trong bụng thím chỉ gợn chút đỉnh là nếu chuyến này đôi lứa thành thì thím sẽ gả con gái vào một chốn xa xăm, ngút mờ chưa bao giờ đến. Như câu thành ngữ từ lâu đã lưu truyền “chắc cà đao mặc dưng, cùm chưng bằng cùm tay”(3).

Nhưng suy nghĩ đó chỉ thoáng qua, còn lúc này ma đưa lối quỷ dẫn đường sao đó, thím chỉ thấy cái vòng đeo trên cổ bà Chín lấp lánh. Hình như nó được làm bằng một loại đá quý lấp lánh những vòng quyến dụ. Ước gì thím cũng được đeo một chiếc vòng như vậy. Bà Chín lại đưa ra một đề nghị xem có vẻ lạ nhưng không hiểu sao thím Năm vẫn đồng ý. Bà nói vì ở quá xa xôi, lần đi lần khó nên nay thuận dịp, sau đám giỗ, bà xin phép ngày mai vô Lung Roi thăm gia đình và xem mặt cô dâu luôn. Nếu duyên lành tháng tốt, thì hai bên nhà trai, nhà gái tính toán rốt rẻng chứ không dần dà nữa. Xem ra, hai bà sui mới gặp mà đã tâm đầu ý hợp. Bà mối Hai Liêng hoan hỉ:  “Phen này sẽ có đám lớn nhất tại ấp Xẻo Lá này à nha!...”. 

Mười Dửng tạm biệt đồng cỏ chát, lùa vịt đi đâu tôi cũng không rõ. Y ra đi trong bóng đêm. Khi cả gia đình chú Năm Hạnh đưa Hai Trâm sang sông về “chắc cà đao mặc dưng” thì cũng là lúc Mười Dửng cùng đàn vịt lên đường. Không ai nhớ và đoái hoài về số phận trôi dạt của y. Có gì đáng nói với nỗi đau và kiếp hèn như rối trong cỏ, ngút trong cỏ? Nhưng tôi biết cỏ rất hèn nhưng với tình thì cỏ vẫn ngát hương. Có lẽ “cùm chân” hay “cùm tay” vẫn còn dễ chịu hơn khi “cùm tình”, “cùm yêu” khi ấp ủ, mang vác trong lòng một mối tình quá lớn mà không thể thổ lộ, hét to lên, hay chia sẻ được. Đó cũng là nỗi đau của tướng quân giữa trùng vây cỏ chát.

Làm sao có thể tìm Mười Dửng trên những cánh gió tốc táng, ngút ngát rợn ngợp chân trời? Để tôi có thể kể cho y nghe rằng con thuyền chở tình yêu của Hai Trâm cũng như y, đi hoài không tới. Nghe đâu, chồng của em là một gã đàn ông dở người, bại liệt và tâm thần. Di chứng để lại của cậu ấm quý tử con một gia đình của ăn của để, chơi bời trác táng. Hai Trâm tồn tại như một bông cỏ dại để những cơn điên bất lực trút bỏ. Thím Năm Hạnh không chỉ có chiếc vòng mã thạch quyến dụ đeo tay mà còn sở hữu rất nhiều thứ khác. Nhưng mỗi lần đi thăm con là lòng thím tan nát, như ai cứa, ai cắt rời từng khúc ruột vậy. Chú Năm lui cui một mình trong chòi vắng. Những con cua béo không còn bận rộn chú bằng những chai rượu bí tỉ khi có nỗi niềm cần quên đi. Riêng tôi, tiếp tục hành trình văn chương của mình bằng những quả trứng vịt. Tôi nghe những mùa gió chướng đang về lay rợn trên cánh đồng chữ.

Đôi khi cần phải đi tới một mình với ám ảnh đồng cỏ chát. Chúng ta thật bé nhỏ trước cuộc đời rộng lớn. Và giấc mơ sở hữu thực thể những quả trứng không còn của riêng Mười Dửng mà của bất cứ ai. Những quả trứng mộng ảo và hoan ca. Rồi như những con dzia-rô tròn trĩnh rớt xuống chân cỏ cay đắng của hiện thực. Tháng chạp lại đang về. Mùa nước lên, dòng sông đục ngầu vì bờ bãi phù sa và tràn ngập thức ăn. Những con cua may mắn sót lại từ mùa câu trước lại tiếp tục mơ được kẹp những khúc lươn thơm ngon là mồi nhử nướng vừa lửa. Trước khi chết vì cất vó vẫn thưởng thức hương vị ma quái đến tầng nấc cuối cùng. Những bông cỏ cũng bắt đầu trổ đòng, phơ phất. Cái sắc màu rũ liệt, hoang hoải, vô duyên ngơ ngác kéo dài đến cuối chân trời xa thẳm . Làm sao có thể sống mà không mơ ước?...

CANH RAU QUÊ HƯƠNG

NGUYỄN THỊ DỊ

Như một nén nhang để tưởng niệm  

anh LÊ QUANG THIỀU , qua đời ngày 08 tháng 4. 2008 tại Paris.

Đầu năm 1985 ông xã tôi thuyên chuyển về Saint-Aulay.

Saint-Aulay nằm gần như ngay giữa 3 thành phố lớn Périgueux (khoảng 50 cây số), Angoulême (khoảng 60 cây số) Bordeaux (khoảng 90 cây số) . Sau 3 ngày thăm viếng nhà máy trở về, ông xã tôi kể cho mấy mẹ con nghe : nơi đây có gần 2000 nóc nhà , có bác sĩ , nha sĩ , nhà thuốc tây , viện dưỡng lão, một siêu thị nhỏ, một cửa hàng bán thịt của con trai vị thị trưởng, bạn học rất thân của ông François Mitterand ... nhưng lại không có bệnh viện, trường học từ lớp vỡ lòng đến trung học cấp 1 (lớp 9) lên lớp 10 (cấp 2) học sinh phải chọn đi Ribérac(Périgeux) hoặc Coutras (Bordeaux ), bằng xe bus đưa đón .

Được thành lập từ năm 1903, nhà máy Lafarge Réfractaires Saint-Aulay là cơ sở kỹ nghệ của tập đoàn Lafarge Corporation chuyên sản xuất các sản phẩm gốm chịu lửa (réfractaires) như các khuôn mẫu để đúc tiền, đúc vỏ đạn hoặc đúc những dụng cụ trong hệ thống điện tử... với hơn 500 nhân viên mà đa số là dân địa phương của Saint-Aulay và các làng phụ cận. Họ là những nông dân , ngoài giờ làm việc về nhà làm thêm nghề thứ hai như trồng rau , lúa , trồng nho...Muà đông ở đây thỉnh thoảng mới có tuyết ...và chỉ cách biển Royan (Bordeaux ) hơn một trăm cây số như Sài gòn Vũng Tàu vậy ...

Mấy đưá nhỏ nghe nói tới "biển" hồ hởi phấn khởi thi nhau hỏi :

- Chừng nào mình đến đó ba ?

Ông xã tôi nghiêm giọng :

- Tháng 2, ba đến Saint-Aulay nhận việc , các con chờ tháng 3 nghỉ học 2 tuần muà xuân ba về đón và đi cùng lúc xe dọn nhà về , mấy mẹ con lo thu dọn những thứ không cần thiết thì vứt đi , quần áo cho vào thùng carton gọn gàng , và nhớ ghi tên ngoài thùng là thứ gì để tiện khi mình mở ra ...

Tôi tò mò hỏi :

- Nhà cửa như thế nào hả anh ?

- À ông giám đốc trước để căn nhà ông ấy ở cho mình ! nhà khá lớn , một "maison de maître" em ạ, có một tầng lầu với 5 phòng ngủ nằm giữa khoảng đất hơn 1000 mét, tầng dưới là 2 salon, 1 thư viện, 1 phòng ngủ, bếp nhìn ra sân sau và couloir rộng thênh thang đủ để cu Mỹ nhà mình đá banh, còn bên garage có thể đậu được 4 chiếc xe ... lại ở đối diện với nhà máy, anh chỉ cần đi bộ khoảng hơn 300 thước là sang đến sở làm !

Nghĩ đến ngày từ giã Nancy, thành phố gia đình tôi đã chọn để định cư từ khi đặt chân trên đất Pháp , dù ở đây mặt trời chỉ ghé chơi đôi ba tháng, nhưng nơi nầy đã cho gia đình tôi nhiều kỷ niệm buồn vui của những ngày đầu xa quê hương ... Tôi thở dài xua đuổi những suy tư vẩn vơ trong tâm trí quay về thực tại : Điều quan trọng là công việc làm cuả ông xã , nguồn tài chánh duy nhất cho gia đình !

♣♣♣

Xe chuyển bánh rời Nancy , mặt trời mới vừa nhô nửa đầu với ánh vàng dịu dàng không đủ hơi nóng để đánh tan lớp tuyết còn nằm im trên những nụ non vừa nhu nhú chào đời , chúng tôi đi từ miền đông (Nancy) đến miền tây (Bordeaux), ngang qua những thành phố lớn nhỏ , đến Saint-Aulay 19 gìờ chiều mặt trời vàng còn rực thức như đợi chúng tôi để hơn 10 đêm mới đi ngủ.

Tôi không biết gọi Saint-Aulay là : quận hay làng với dân số hơn 3000 người ? vì nếu làng thì không có trường trung học , quận thì phải có bệnh viện .

Trong nhà tạm ngăn nắp, nhìn kỹ bao gạo, chai nước mắm mang theo từ Nancy đến đây cũng sắp cạn, tôi thấp thỏm lo không biết mua ở đâu , thiếu hai thứ nầy ông xã tôi chắc không "sống nổi qua con trăng này" nhất là thực phẩm Á Châu chỉ bán ở những thành phố lớn như Périgeux, Angoulême hay Bordeaux, nhưng cửa hàng ở đường nào khu phố nào thì tôi chiụ thua. Tại Saint-Aulay chỉ duy nhất gia đình chúng tôi là người Việt , biết tìm ai để hỏi thăm bây giờ ? Sau khi luẩn quẩn suy nghĩ cả ngày trời , tôi chợt nhớ thời gian sắp rời Nancy tôi có điện thoại từ giã vài người quen thân trong số đó có bác sĩ Hiển ở Paris, nghe tôi kể sẽ về Saint-Aulay Hiển nói ngay : " anh chị xuống vùng Bordeaux , gần làng Hồng cuả Sư Nhất Hạnh , hằng năm vào muà hè mở khoá học thiền , nhiều người khắp các nước đến tham dự đấy , năm rồi tôi có đến hai tuần ", nếu có dịp anh chị sang thăm làng cho biết , tôi ghi điạ chỉ với mong ước gặp được Sư Nhất Hạnh , tác giả bài thơ được phổ thành nhạc " Bông Hồng Cài Áo " ... những bông hồng cho những ai còn mẹ hiền " giọng hát nhẹ nhàng đầy truyền cảm cuả người ca sĩ đã làm xoáy đau tim tôi, tim môt cô gái đang còn mang tang mẹ !

Cuối tuần đó ông xã tôi lái xe mang gia đình sang thăm làng Hồng , trên đường vòng quanh những khu nông trại , thăm thẳm màu xanh non mướt đồng luá mì, ruộng bắp, đồng cây mù tạc (mourtarde) vàng rực trãi dài từ ngọn đồi nầy sang ngọ đồi nọ nối tiếp với chân trời . Mấy đưà bé đề nghị ông xã tôi ngừng xe chụp vài tấm ảnh kỷ niệm để gởi bạn bè ở Nancy. Tôi đi dọc theo bờ ruộng hít thở không khí thiên nhiên, chợt đập vào mắt tôi một cụm "cỏ" xanh mướt nằm cạnh những chân hướng dương đang tuổi lưng chừng , tôi xăn quần bước xuống , ông xã tôi la lớn :

- Em định làm gì đó ? coi chừng chủ họ gọi police bây gìờ !

Ông xã tôi tưởng tôi định hái hoa, tôi ngắt ngọn rau xanh đưa lên mũi "đúng rồi" , để chắc ăn hơn tôi vò vò thân cây , hít ngửi rồi cúi xuống hái hơn nắm tay , cầm đến đưa :

- Rau dền anh à !

Ông xã tôi nhìn nghi ngờ :

Phải không đó ?

- Em ăn rau dền mòn gần nửa răng làm sao mà em lầm được ?

Tôi đưa ông xã tôi ngửi , nhưng ông lắc đầu :

- Một loại cỏ có mùi giống ! rau dền mọc xứ nóng , làm sao sống nổi nơi xứ lạnh dưới độ O hả em ? Vứt đi , nghe anh vứt đi !

Tôi làm thinh đem đến sau cốp xe:

- Lá rau dền rành rành như vầy mà anh cho là cỏ ; em sẽ ăn một mình !

Ông xã tôi phân trần với mấy đưá nhỏ :

- Ba thì không rành lắm , rủi ro không phải là rau dền mà là rau gì đó ăn vào đớ lưỡi ... ông đổi giọng nói đớ đớ , làm mấy mẹ con phải bật cười !

Sau khi đã qua khỏi Sainte-Foy-La-Grande và đến gần khu vực được chỉ dẩn trên bản đồ, chúng tôi bắt gặp 2 bảng chỉ dẫn bằng chữ Việt viết theo lối thư pháp : Làng Hồng : xóm Hạ , xóm Thượng...

Ông xã tôi nói ngay :

- Mình vào xóm Hạ trước , vì có Hạ rồi mới lên Thượng chứ , từ Thấp lên Cao theo thứ tự ... "thiên Thượng, địa Hạ, duy ngã độc tôn"

Trên đường tìm đến xóm Hạ, một chiếc máy cày đang chạy cà rịch cà tang phiá truớc , ông xã tôi chạy nhanh vượt qua mặt . 

Ngoảnh nhìn người lái xe : một thanh niên da vàng độ 20 , tôi quay sang nói với ông xã:

- Người lái xe là người Việt anh à !

Cho xe ngừng lại bên mé đường , ông xã tôi bước xuống ra dấu đón xe máy cày .

Cậu thanh niên ngừng xe máy cày lại, nhanh nhẹn nhảy xuống xe máy cày , cười toe toét :

- Dạ , chào anh chị .

Ông xã tôi vào đề :

- Chào em, em ở trong làng Hồng phải không ? Chúng tôi từ xa đến tìm thăm xóm Hạ !

- Dạ dạ anh cứ lái xe thẳng đường nầy , tới ngả tư thứ 3 anh quẹo tay phải rồi chạy chừng 3 phút , anh sẽ thấy một chòm nhà xưa tường bằng đá , anh chạy thẳng vào ... gặp anh chị cô chú chắc vui lắm ! em chào anh chị , lát nữa gặp lại anh chị há! Em tên là Dũng.

Xe tới đầu ngõ , hai đứa bé từ trong nhà chạy ùa ra sân ngoái cổ vào nhà kêu lớn :

- Ba ơi có khách !

Người đàn ông đứng tuổi, dáng cao gầy từ trong nhà bước ra, trong tay một bó rau xanh , bàn tay trái che trán , nheo nheo mắt nhìn, ông xã tôi cho xe từ từ lại gần , người đàn ông để rau trên chiếc bàn đá nhỏ , thong thả bước tới , ông xã tôi ngừng xe bước xuống tự giới thiệu :

- Chào anh , tôi là Vũ , gia đình tôi từ xa mới đến Saint- Aulay, cách đây hơn 50 cây số , bác sỉ Hiển có cho chúng tôi điạ chỉ làng Hồng...

Người đàn ông đưa bàn tay định bắt nhưng vội rút ngay lại :

- Xin lỗi, tay tôi bẩn đất , tôi là Thiều .

Từ trong nhà, một ngươì đàn bà gương mặt trắng như sữa tuơi , vội vã bước ra đi nhanh về phía chúng tôi gật đầu chào với nụ cười thật hồn nhiên!

Anh Thiều nói ngay :

- Bà xã tôi đấy

Tôi cười :

- Chào chị !

Anh Thiều gọi hai đứa bé trai lại gần :

- Tý, Miêu chào hai bác đi con !

Tý và Miêu khoanh tay kính cẩn cúi đầu chào vợ chồng tôi.

Mấy đứa con của chúng tôi cũng đã lục tục từ xe xuống , tôi gọi 5 trẻ lại chào anh chị Thiều.

Anh chị Thiều vồn vả mời chúng tôi vào nhà , chị Thiều mở lời :

- Xin lỗi anh chị nhà hơi bưà bộn, vì tụi nầy đang chuẩn bị bó rau để ngày mai đem giao bán cho cửa hàng thực phẩm dưới Bordeaux.

Chị vừa nói vừa đẩy những đống rau qua một bên , tôi cầm tay chị :

- Tôi phụ chị một tay vưà làm vưà nói chuyện được mà !

Anh Thiều kéo chiếc ghế :

- Chị lại ngồi đây, rau bó một lát xong ngay , em vào pha bình trà đi em .

Tôi xin phép theo chị vào bếp , hỏi thăm qua lại , hai chị em cùng cười nức nở , chị mang bình trà đặt trên bàn tròn hớn hở nói với chồng :

- Trái đất tròn ghê anh à, chị Vũ dân Bến Tre với em , nhưng chị ở tại tỉnh lỵ .. còn em ở Chợ Giữa cách quận Trúc Giang hơn sáu cây số.

Chị vào nhà mang bánh kẹo nước ngọt cho mấy đưá nhỏ đang ríu rít chạy theo trái banh , sau đó rủ tôi ra sân ngồi trên chiếc băng đá nhìn xuống giải đất đang khai hoang để trồng Prunes (mận), chị nhìn tôi ánh mắt rạng niềm vui ...

- Nghe chị dân Bến Tre, nhìn chị em nhớ những cây dưà xiêm nặng triũ những trái nhỏ maù vàng , dừa lửa đó chị , những tàn lá giang rộng tay che kín khoảng không... Chị nói như trong giấc mơ , rồi thở dài tiếp : Không biết bao giờ em được trở về thăm ba má và cây dưà lửa ngọt ngào ấy ?

Đôi mắt chị Thiều ửng đỏ , tôi ôm choàng bờ vai chị nói nhỏ :

- Tôi tin sẽ có một ngày nào đó mình trở về thăm quê hương , hy vọng và ước mơ sẻ cho mình quên ngày tháng nơi xứ người , hãy cố gìữ ước mơ để sống nhen chị !

Tôi chuyển sang đề tài về những cô thầy, trường trung học cấp 2.. chị gật đầu lia liạ thì ra lúc tôi lên Sàigòn học thì chị mới vào cấp 2 , tôi nhắc đến quàn chè , tiệm sinh tố trái cây cuả anh Biếu Ký , tô bún xào cuả chị Hai ...

Gương mặt chị im lìm , chị nhìn tôi thoàng nét buồn :

- Năm năm sống nơi đây, quanh quẩn chỉ có vợ chồng em với mấy đứa bé và chú Dũng lần đầu em gặp lại người cùng quê xứ dừa !

Tôi bóp nhẹ bàn tay chị không nói nên lời vì chính tôi cũng lao đao trong nhung nhớ!

Chị nhìn tôi ánh mắt rạng vui :

- Chị 9 Phượng cũng là dân Bến Tre đó chị , nhưng chị Phượng không học cùng trường với chị em mình ,chị ấy sang du học Pháp lúc mình còn học tiểu học .. chị Phượng là em gái của ca sĩ Cao Thái đấy !

Anh chị Thiều mời gia đình tôi ở lại ăn com trưa. Nói đến cơm , tôi sực nhớ đến bao gạo nên nhờ chị Thiều chỉ dẫn địa chỉ cửa tiệm thực phẩm Á châu. Chị lấy viết ghi rành rẽ đường đi , vì Bordeaux là thành phố lớn thứ 3 cuả nước Pháp , chị đãi chúng tôi canh rau tần ô nấu thịt heo nạc xay nhuyễn, thịt gà kho gừng , món hạp khẩu ông xã tôi : cà pháo ...dầm muối !

Tôi nhớ lại mấy cọng "rau cỏ" nằm sau cóp xe nên chạy ra cầm vào hỏi chị Thiều . Chị cười ngất :

- Rau dền chớ còn rau gì, bên nầy lần đầu em thấy thì em cũng như chị , tưởng nhìn lầm , chị đem về nấu canh tôm ăn hết nồi cơm luôn...

Ông xã tôi thắc mắc :

- Làm thế nào mà giống rau dền nầy có thể sang đây "định cư" nhỉ?

Anh Thiều giải thích :

- Có thể lúc những người Việt sang đây đi lính thời đệ nhất thế chiến họ mang hạt giống theo để trồng , sau đó gió mang hạt giống đi khắp nước Pháp ! nói xong anh cười lớn ...

Mặt trời nghiêng bóng khi chúng tôi từ giã , chị Thiều quyến luyến :

- À , ngày mai em theo anh Thiều giao rau ở Bordeaux , anh chị muốn mua gì nói em mua hộ cho , cuối tuần tới anh chị sang lấy ...

Tôi im lặng nhìn ông xã tôi đang làm bộ như không nghe , tôi ngập ngừng đáp :

- Cám ơn anh chị , nhưng tôi cũng muốn biết mặt mũi Bordeaux như thế nào , chẳng lẽ nhờ anh chị hoài sao ??? ...

Chị Thiều vừa ôm bó rau cải đủ loại để vào cốp xe làm quà cho chúng tôi, vừa như than thở , vừa như nỉ nài:

- Cuối tuần anh chị rảnh sang nầy chơi nhen, ở đây chỉ vỏn vẹn có gia đình em là người Việt thôi !

Tôi gật đầu hứa và chào từ giã anh chị Thiều. Từ đấy, ở vùng này, chúng tôi đã có những người đồng hương, những người bạn và cũng là những người xác định để tôi chắc chắn đó là rau dền quê hương .

Tôi đi "sưu tầm" rau dền nhất là mỗi khi đi ngang những ruộng bắp nơi rau dền ưa mọc nhất ... Có những lúc trên con đường xe chạy, chung quanh một cột trụ đèn , tôi chợt gặp một đám xanh mướt đang đong đưa vãy gọi tôi , tôi ngừng xe lại bên mé đường, bước đến nhìn rồi định hái , nhưng lại phân vân : rủi có người nào đó ở Saint-Aulay chạy xe ngang nhìn thấy thì kỳ quá , à mà cũng không nên vì nhớ lại điều ông xã tôi có căn dặn "em hái nên cẩn thận để ý xem có thuốc xịt trừ sâu bọ hay không ? có bị mấy con chó giở chân "tưới" lên đó không ?... Tôi quay lại xe, trở về nhà mà lòng tiếc hùi hụi !

Điều đáng nhớ cho tôi là người dân ở Saint-Aulay mộc mạc, hiền hoà như khí hậu ở đây, như những giòng suối nhỏ bao quanh thị trấn này . Buổi đầu khi mới đến, xe dọn nhà của chúng tôi vừa ngừng trước cổng , một số nhân công trong nhà máy đến tiếp tay, phụ khiêng đồ đạc , họ còn mang thêm cả bánh trái, nước uống cho gia đình tôi cùng hai người thợ dọn nhà , trước khi bắt tay từ giã ra về họ còn căn dặn nếu chúng tôi cần gì thì cứ đến gõ cửa nhà họ , cửa luôn mở chờ chúng tôi .

Câu nói đó đến nay, hơn 20 năm sau khi đã rời xa những người Pháp ở đây, vẫn còn văng vẳng bên tai tôi .

Rồi những bất ngờ của nhiều buổi sáng khi mở cửa để đi sang nhà máy làm việc: chồng tôi và tôi lại trông thấy món " cadeau " (qùa) treo trên tay vịn cửa nhà : một giỏ nấm cèpes khoảng 2, 3 kí lô hoặc một cây chou - fleur (súp lơ) tươi rói hay một chai rượu pineau ngọt lịm đặc biệt của vùng Saint-Aulay hoặc những trái cérises chín mộng ... Qùa của ai ? cho đến nay chúng tôi cũng không thể biết được mà chỉ biết một điều do chồng tôi thuật lại khi từ nhà máy trở về để ăn cơm trưa : chồng tôi có hỏi một số trong những người thợ làm việc , họ đều vừa cười vừa trả lời: chắc của mấy người lối xóm đó ông à ! .

Một kỷ niệm khác nữa không thể phai nhoà trong tâm tưởng của tất cả gia đình chúng tôi , những người Á châu, những người Việt Nam đầu tiên đến ngụ cư tại Saint-Aulay : Khi chồng tôi lại phải thuyên chuyển về một nhà máy khác của công ty Lafarge ở Vendeuvre-Sur- Barse - Troyes , chúng tôi đã thật vô cùng xúc động vì tình cảm của những người đã làm việc với chồng tôi mặc dù chỉ một thời gian ngắn ngủi 19 tháng : họ đã chạy xe theo để tiễn chân cho đến lúc xe chúng tôi sắp ra khỏi địa phận Saint-Aulay mới chịu dừng lại và rồi lại những màn ôm siết nhau, hôn má nhau... trong những đôi mắt của họ, của chúng tôi đều mờ đỏ vì nhoè nước mắt ...

Giã từ thị trấn nhỏ đáng yêu Saint-Aulay là tôi cũng tạm biệt gia đình anh chị Thiều, chú Dũng của xóm Hạ làng Hồng, những người đã chia xẻ với gia đình chúng tôi những cọng rau quê hương mỗi dịp qua lại và giã từ những buổi chiều thanh thản, khi mặt trời còn rực sáng đi dạo trên những con đường quê yên vắng .  

Phần tôi và hai con gái lớn trong những buổi chiều đi dạo đồng quê như thế cũng là những dịp để "sưu tầm" rau cỏ .Chúng tôi đã tìm được rau cần nước, rau cải xoong (cresson) trong những con suối nước trong suốt cạnh những cánh rừng sồi và hiển nhiên là những cọng rau dền nồng mùi vị quê hương.

♣♣♣

Rời Saint-Aulay, chúng tôi lại lên đường đến thành phố Troyes , cách Paris đúng 186 cây số .

Theo ngày tháng các con tôi như những con chim với đôi cánh vững chắc , lần lượt bay đi khắp nơi : Paris , Orsay , Toulouse , Bucarest , ...  

Ở Troyes có nhiều cửa hàng thực phẩm Á châu và bây giờ trong nhà chỉ còn lại hai người "hơi lớn tuổi" với những chiếc răng luôn luôn hăm doạ vĩnh viễn ra đi nên việc ăn uống cũng giản dị trở thành "ăn để tạm sống qua ngày" . Nhu cầu sưu tầm rau dền không còn "nhộn nhịp" như thưở nào.

Chủ nhật , đầu muà hè, khí hậu ấm áp hình như 20 độ, tôi đang đọc trang báo net Newvietart , bỗng chuông điện thoại reo vang, nhấc lên :

- Alo, Alo ...

Bên kia đầu giây, giọng lảnh lót của cô con gái lớn ở Orsay :

- Mẹ à , vợ chồng con vừa đi mua rau ở vườn Bio (*) , mình ra vườn hái loại rau nào mình muốn , sau đó đưa họ cân ký tính tiền ...mẹ biết không ?

Tôi nhẹ nhàng trả lời :

- Dĩ nhiên là không rồi !

Với giọng cười ròn tan cô con gái tiếp :

- Khi con tới mấy luống radis (một loại cải củ), con thấy rau dền màu tím , con rỉ tai chồng , dầu sao Tây với Tây nói chuyện dễ hơn... chồng con vào gặp người chủ vườn nói với ông này :

- Ông có thể đi tới luống radis với tôi được không ? vì nơi đó có loại cỏ mà mấy con thỏ của tôi rất thich ăn , nếu ông đồng ý cho chúng tôi nhổ .

Người chủ vườn theo chồng con ra xem , buồn cưòi ghê, chẳng những ông ta đồng ý cho mà còn phụ nhổ với tụi con , ông ấy còn sang bên vườn trồng cà chua nhổ thêm một bó nữa đưa cho tụi con , sau đó còn nói cám ơn tụi con đã nhổ cỏ dùm họ ... vì nhổ luôn cả rễ nên con phải lặt từ nãy tới giờ , nhớ mẹ con phone kể cho mẹ nghe ! hi..hi...

Tôi mỉm cười , qua điện thoại nói với con gái :

- Con nhớ nấu với canh tôm cho thỏ cha, thỏ mẹ, thỏ con của con ăn con nhé !

Tôi đặt điện thoại xuống , nụ cười vẫn còn trên môi, nghĩ :  

Hai mươi bốn năm sau : Rau Dền , món Canh Rau Quê Hương .

Thợ nồi đất

                                 Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh

Ô

ng Nhân bảo con trai kê chiếc chỏng tre ra nằm gần lò nồi. Kể cũng hơi gàn, nhưng biết làm sao được. Vì ông ốm hàng năm nay. Thuốc thang chạy có kể chi, nghe mách thày hay là vớ lấy, ít nhiều cũng mươi thang. Con cháu có lúc đã họp mặt đông đủ bên giường chờ nghe lời trăng trối. Nhưng như có phép tiên ông lại nuốt được cơm và nói được chuyện.

Ông phàn nàn cùng bạn già, ông làm tội con cháu. Ăn đủ miếng, thân bất toại nhưng không chịu chết cho. Ngẫm nghĩ có lẽ đời ông làm điều chi vô phúc chăng? Ông không hề ân hận gì vì ngoài làm nồi đất ra ông có tranh giành chức tước với ai. Không quan tước, không bổng lộc, không ăn điêu nói thừa để con cháu phải chịu tội.

Ông thấy nể con cháu vì không được chết. Nhưng lần này ông cảm nhận được đang lìa xa cõi sống. Đêm đêm ông thức dậy, thấy ông bà ông vẫn xúm lại hỏi chuyện. Những người thân của ông ra đi lâu rồi. Vậy mà như mới hôm qua hiển hiện về, nói chuyện với ông về những ngày thiếu thời, ông là loại lau nhau tập nghề nặn nồi.

Cha ông đánh thức ông dạy. Tiếng chuông nhà thờ đạo gõ ba tiếng rồi. Ông bày hương án ra giữa sân cúng tế, châm hỏa đốt lò nồi.

Cái vui của hôm đốt lò không chỉ được ăn cỗ xôi và thịt gà, mà gói ghém kết quả của công việc mệt nhọc. Làm gạch vất vả đã đành. Làm đất nồi còn vất vả gấp vạn. Biết đánh đấu, thái đất đã có gì là giỏi. Phải tìm được thớ đất nạc, trộn đều với đất có chút cát pha. Nếu nhiều cát quá, nồi thủng mau, người dùng oán trách. Nhưng sử dụng nhiều sét thì sinh ra nổ như pháo rang, đó là thất đức của thợ nồi.

Niềm vui của cha con ông không sao tả xiết, lấy đất mà nặn nên nồi. Từ đất làm nên cái lớn cái bé, cái nồi cái vung đủ kiểu. Cha vẫn tự hào nói với ông, sống ở đời không được ăn miếng cơm nếp nấu nồi đất, không hưởng hương vị kho cà và tép bằng nồi đất thì chết không nhắm mắt nổi.

Chả thế có dạo thằng cả thấy ông yếu nên rước lên Hà Nội để chăm, nhưng ông lại không yên lòng. Ông nhớ nhà quá. Nhưng chung quy cũng chỉ nhớ lò nồi.

Vợ chồng nó phục dịch có thiếu gì miếng ngon, nhưng ông thèm bữa cơm có cà kho tép bằng trách đất. Ông cứ ân hận mãi chuyện lộ ra với con dâu. Nó là người thị thành nhưng được cái tốt bụng. Cứ cười ngất, nói với chồng.

- Bố mình lạ thật! Thời đại người ta đi vũ trụ như cơm bữa mà bố cứ tiếc “nồi đất nấu ốc”. Nó dẫn ông đi chợ Đồng Xuân một ngày làm ông mệt một tuần. Mắt ông hoa lên vì sự giàu có xa xỉ. Trời đất ơi, vải vóc mỏng tang thế kia làm sao chịu được với dân thợ nồi. Cha mẹ ông may mặc bằng vải vuông, nhuộm bằng bùn đen và củ nâu mặc lại bền, đến lúc rách dùng tay xé còn khó. Đằng này, mỏng mảnh nhìn thấy da thế mà con dâu ông cứ nằng nặc đòi mua may bố mặc cho mát.

Ông hoa mắt vì hàng đồ nhôm. Con dâu nó cứ toét miệng ra cười:

- Đấy bố thích dùng cỡ nào con mua, nấu hết đời không hỏng. Ông ứa nước mắt ra vì nghe nó nói mà tiếc của. Công bằng mà nói, thì bụng nó hiền lương. Muốn cho bố chồng sướng nó mới gợi ý. Nhưng ông tiếc đất, tiếc nồi, cái con cái lớn úp lên nhau mới đẹp làm sao. Vợ chồng ông ra ở giêng cũng chỉ toàn nồi đất. Cái nồi nấu ba ống gạo giữ trọn mười năm. Cái hôm vì cạy miếng cháy lỡ tay làm rạn, vợ ông ngồi chảy nước mắt ra vì xót. Mẹ ông biết chuyện đã trách ông là đồ không tiếc của và khen tấm tắc nàng dâu thảo.

Ông nhìn thấy hàng nhôm mà hoa cả mắt, thích thật nhưng bụng không ưng dùng. Dù vợ chồng thằng cả thuyết phục về nền đại công nghiệp nhưng ông không nghe. Ông biết chống chúng nó khó quá. Động cái nó nói Đông Âu, Tây Âu, Tây, Tàu, vũ trụ, vi trùng... ông sợ chúng cười mình lạc hậu, khốt. Nhưng ông vẫn chán cái cách ninh thịt, xương bằng đồ điện. Ăn không dính răng, cứ trôi tuột vào họng. Chúng nó mà được ăn chân giò hầm than nồi đất nhỉ?

Thấy ông mệt nhoài vì dạo chợ, con vợ thằng cả, dẫn ông vào hiệu phở chiêu đãi. Ông phải cố mãi mới ăn hết bát phở. Ăn mới chả uống lạ đời, sao người ta ăn được nhiều thịt quá vậy. Đời ông ấy mà, một năm không quá chục lần ăn thịt. Bữa cơm không quá ba món. Bữa nào có món tép rang cháy bằng nồi đất là ăn cơm không biết no. Con dâu ông như đoán được ý nghĩ ấy nên cứ ép bố chồng ăn. Bố cứ ăn đi, bọn con kiếm được tiền mà. Dân nước mình khổ là phải vì không biết ăn ngon. Một tuần ăn thịt cá liên tục là ốm ngay. Tây nó tẩn tì tì mà có sao đâu. Nó lôi về hai chiếc nồi đất. Thương ông để đâu cho hết, nhưng mà ông giận. Ai đời, có mua một chiếc nồi vồm dùng để chứa nước, và một chiếc nồi to nấu được năm sáu ống gạo. Ông cầm xem đi xem lại chiếc nồi, tỏ vẻ không ưng. Nhưng không nói ra vì sợ hớ hênh, làm mất lòng chúng nó.

Con dâu ông không hiểu được bụng dạ ông, rước về nào cà và tép kho một nồi đầy. Thằng cả lại mời thêm vài người bạn về nhậu, nó bảo có cả món đặc sản nhà quê. Nói vậy nhưng chúng ngồi uống bia lai rai. Ông nghe tiếng nổ đến bộp một cái, con vợ toe toét miệng cười, từ bếp lên réo chồng:

- Anh ơi! Nồi nổ rồi. Mất cả món đặc sản của bố mình.

Ông nghe mà giật thót cả người. Không phải ông tham ăn, tiếc món tép kho cà đâu. Ông buồn vì người đời điêu. Ông nhận ra cái điêu ấy khi con dâu đưa nồi về. Ông lừa lúc nàng dâu còn loay hoay vui vì mua được nồi đất chiều bố chồng, đưa lưỡi vào đít nồi. Ông cảm thấy vị mặn nơi đầu lưỡi... Ông nhớ như in lời của cha dặn. Đừng nên thất đức mà làm hại người dùng, kẻ hám giàu không chỉ làm đất dối trá mà còn hồ lớp nước muối vào đít nồi cho mau nổ.

Ông bảo con trai đưa ông về quê, ông nhớ lò nồi. Ông sợ thằng con rể của ông hám giàu mà làm như người đời. Ông buồn rớt vì nghề cha truyền con nối của nhà ông đã đến lúc suy. Con cái ra thành phố tìm kế sinh nhai. Chỉ có thằng rể và con gái út là cùng ông loay hoay với lò nồi.

Có hôm nó từ thị xã gánh nồi về khóc tức tưởi.

- Bố ạ, không khéo phải bò nghề nồi thôi. Bây giờ người ta dùng nồi nhôm, còn ai thích nồi đất nữa. Ông nghe mà không cầm được nước mắt.

Có một thời vợ chồng ông không dấu đâu hết niềm tự hào. Hai gánh nồi đất đủ loại đi chặt cả đường. Là đất đấy, nhưng ai cũng phải tránh. Cầm chiếc nồi của ông gõ lên nghe như tiếng chuông. Chợ gần chợ xa nức tiếng lò nồi ông Nhân...

Đứa con rể tưởng ông ngủ nên ngó vào sát mặt. Nó khẽ lay vào tay ông:

-    Bố ơi! Nhà con đã chuẩn bị đồ cúng rồi ạ!

-    Thằng cả đâu? - Ông hỏi hơi gắt.

-   Dạ Bác ấy chạy sang xóm nói chuyện với mấy bác bạn là cán bộ huyện về chơi ạ!

- Con gọi nó về cho thày!

Gió từ sông Mã thổi lên mát rượi. Ông thiu thỉu trong mệt mỏi. Hai vợ chồng ông gánh nồi qua đò sông Mã sang chợ huyện... Những chiếc nồi đất đỏ lòng đào, màu trứng gà... Nhà ai cũng háo hức muốn có chiếc nồi kho, nấu những món ngon, ăn đậm miệng mà không thiu... Ông thành người thân thiết với mọi nhà...

Xóm lò nồi sống lại, đó là thời kỳ phồn thịnh. Những năm nồi chở đi kìn kìn. Thuyền đến chở nồi đi xuôi, về ngược. Người đến gánh nồi đi các chợ. Trẻ con dùng nồi sứt sẹo làm đồ chơi. Những mảnh vụn của nồi gài vào gốc chuối, gốc cau như những đóa hoa của đất. Mùi khói lam chiều tỏa ra trên sông, có hương vị thơm thơm của cơm nấu vào nồi đất. Tiếng kéo bát điếu bằng đất sòng sọc như tiếng con sáo hót.

Như sợ mọi việc làm không kịp, ngắn ngủi với đời người, ông Nhân giục con:

- Cúng thổ thần đi con!

Ông nhìn đăm đắm vào những sợ khói hương tỏa ra trong thinh không. Ông tìm thấy sự dễ chịu mỗi khi từng lớp tàn hương rơi xuống. Thời buổi làm cho ông phải nghĩ ngợi đến căng thẳng về các con ông. Đứa thì quá khích, chạy đi tìm tự do, phỉ báng thánh thần, coi thường tổ tông. Chúng chẳng nghĩ đến ngày tết, ngày giỗ họ mà tìm về. Cúng vái lấy lệ, thấy người đời cúng, cũng đốt hương lên mà không thành tâm. Đứa thì quá câu nệ, cúng bái rườm rà, tưởng từ đó tìm thấy vận đỏ đen may rủi. Mù quáng, thay cho bàn tay lao động cần cù.

Sợ các con ông cúng chiếu lệ mà thắp hương khấn khứa. Ông khẽ lẩm bẩm đọc lời cúng. Ông cảm nhận được đôi bàn chân mình đã giá lạnh. Cái chết sẽ đến với ông một sáng một chiều. Ông thương cha mẹ mình vất vả một đời lầm lũi, vọc đất cát nặn nồi. Ông sợ sệt một ngày nào tụi trẻ quên đi, nghề làm nồi sẽ thất truyền .

Mỗi lần nghỉ đến đó là ông Nhân ứa nước mắt vì thương Quan Ngài, không hiểu ngài có giận cái xóm nồi này không?. Người ta kể về Ngài với bao niềm tự hào. Nhắc đến ngài khi tra lửa vào cho lò nồi cháy. Khấn để ngài phù hộ cho nồi tròn, vung tròn... cho ngọn lửa làm chín đất...

Ngài là Quận công, người lo cho nhà vua có nồi dùng từng đội trong cuộc chiến tranh. Ngài đã đem đến cho người lính trận niềm vui khi cuộc đời gian nan trong khoảng khắc giữa cái sống và chết. Cha ông Nhân kể về Ngài không biết chán. Mặc dù là quận công nhưng người ít chữ nghĩa, hết chiến tranh muốn dạy cho con cháu nghề nặn nồi. Ngài lui về ven sông  này tìm đất dạy cho dân biết làm nghề khiêm tốn này nhưng mà đắc dụng. Không phải chịu cảnh ăn uống tùy tiện, sông sít qua ngày.

Ông Nhân ngửi thấy mùi khói tỏa ra từ lò nồi. Cảm giác này làm ông muốn vùng dậy tự tay mình đẩy củi vào lò. Ông không tài nào dấu được cảm xúc khi ngọn lửa liếm vào từng chiếc nồi. Mùi khét của đất bay ra. Ôi, đất chín dần và cũng có vị ngọt  mới lạ lùng. Chỉ cần quá lửa là hỏng cả mẻ nồi. Là toàn bộ nồi lớn nồi bé méo mó, già lửa là biến thành màu sành. Gạch mà chín màu sành thì còn dùng được nhưng nồi thì coi như vứt đi. Nhưng lửa non quá thì đất chẳng nên nồi. Nồi là hình dạng nhưng cứ bở tơi ra và không tài nào dùng nổi.

Vì sự thiêng của nghề, bao giờ cúng châm hỏa cũng phải chọn ngày, chọn thợ mát tay. Cha ông Nhân biết nhìn các con như thày thuốc bắc chọn người kế nghiệp. Cái nóng nảy làm méo đi đến lòng tốt, nhưng sự nguội lạnh cũng làm cho lòng tốt không chín được tới.

- Bố ơi! Con khấn rồi. Nhà con châm lửa vào lò nồi rồi ạ!

-   Thằng cả về chưa con?

-   Dạ bác ấy đang ở lò rồi!

Hỏi con đấy, nhưng thấy con thắp hương là ông đã lầm rầm khấn... Ông muốn được nhìn những chiếc nồi ra lò. Ông muốn tận tay cầm chiếc nồi đất gõ lên nghe công công kỳ thỏa thích.

Gió thổi làm những vạt mía xào xạc. Bệnh mơ màng dở thức dở ngủ làm ông thiếp đi.

Một ngày một đêm trôi qua... Các con ông đến khẽ đập vào tay dâng thức ăn. Ông không tài nào cầm mà ăn nổi. Chúng bón cho ông từng thìa. Chuyển động của miệng nhưng ông Nhân không thấy ngon. Ông không nói được cùng các con cảm giác nhai như nhai đất. Vì chúng chưa bao giờ có cảm giác này. Đời người chỉ nên biết có hai lần thôi. Lúc còn thơ, vọc đất, tưởng đất cũng ăn được và lúc ngáp trút hơi thở cuối cùng về lại đất. Thức ăn cao lương mỹ vị cũng thành vô vị đắng như nhai đất.

Ông cố định thần nói với các con:

- Bố xin các con miếng cơm nếp nấu bằng nồi đất

Ngày thứ hai ông tỉnh dậy. Ông hỏi các con về lò nồi. Thằng cả trả lời nồi sắp chín rồi. Đứa con gái út nắm cho ông cục cơm nếp vàng ươm màu mật. Ông Nhân nhai rời rạc... Ông tìm thấy vị ngọt. Có lẽ từ trong da nồi truyền cho ông sức sống hay sao, ông chống tay nhỏm dạy nhìn khói lò nồi nghi ngút bay.

Nhưng ông không dạy nổi, ánh mặt trời buổi mai chiếu vào chiếc nồi nhôm mà đứa cháu đang kỳ cọ tràn vào mắt của ông. Ông Nhân nằm lã ra, con út khóc nấc lên:

-   Ôi bố ơi! Bố ơi! Bố đừng bỏ chúng con mà ra đi!

Lửa đang liếm vào đít từng chiếc nồi. Ngọn lửa thần bí muốn chín mau để người thợ nồi nhìn thấy lần cuối cùng lúc ra đi trở về cùng đất. Ngọn lửa rừng rực, chỉ người thợ nồi nhận ra trong cái nóng cháy da cháy thịt ấy có sự mát lành, thiêng liêng... Trong ánh mắt ông Nhân có ngọn lửa ấy.

Thế là ông Nhân không dậy được để nhìn mẻ nồi ra đời. Các con ông cuống lên, thúc vội lửa chín mau cho ông kịp nhìn thấy màu hồng đào của nồi. Nhưng lúc vùi lửa ông đã mê man, không còn nhận ra các con.

Họ mạc đã đông đủ, hòm ván được chọn lựa thứ gỗ quý. Tiếng khóc không ai chuẩn bị nhưng tự nhiên cứ trào ra. Những chiếc nồi được xếp úp lại rất khéo. Muốn ông mở mắt ra là nhìn thấy. Muốn ông vui được nhìn và mang đi cái màu ong ong của ruột đất được nung chín. Mang đi tiềm thức một đời cần cù lao động. Nhưng không ai lay giục được ông tỉnh dậy. Người ta bắt đầu nấu nước thơm bằng nồi đất để tắm rửa cho ông Nhân trước lúc nhập quan. Xóm Nồi đã tề tựu xung quanh ông chờ đưa ông đến nơi yên nghỉ cuối cùng.

Như có phép lạ, ông mở mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Trí khôn mỏng manh còn lại cho ông kịp nhận ra. Đứa con gái út và thẳng cả kịp cầm chiếc nồi đất nhỏ xíu đưa đến trước mặt ông. Ông muốn cầm quá, nhưng bàn tay bất lực. Mắt ông đã kịp nhận ra màu đỏ lòng đào nơi da nồi. Kìa ông đưa được hai tay lên kìa. Bàn tay ông đang miết vào da nồi. Ông đưa lên miệng như hôn. Lưỡi ông chạm vào đít nồi. Một thoáng trôi qua. Chiếc nồi buột khỏi tay ông rơi xuống nền đất vỡ tan...

Các con ông kịp nhận ra điều ông nghĩ. Lâu rồi không đốt lò nên lò ẩm. Họ chẳng còn lòng dạ nào làm đất kỹ nên nồi không được chín. Họ muốn chiều ông mà đốt đấy thôi. Ngọn lửa không còn sức thần như những chiếc nồi đất thuở nào.

Họ thấy ông nhận ra sự dối trá của mình. Lò nồi hầu như chẳng được mấy chiếc nguyên vẹn.

Sau khi ông Nhân mất các con ông hầu như không làm nghề nặn nồi. Công xá chẳng đáng bao lăm, mới lại nồi nhôm đầy ứ ở các chợ, rẻ mà nấu lại bền. Có mấy người cũng muốn làm nhưng vì làm đất dối, đốt lửa không khéo nên không thành. Xóm nồi vẫn còn cái tên gọi nhưng không ai làm nghề nặn nồi. Đôi người cũng có lúc thèm tép kho cà nồi đất nhưng ai bỏ công ra tận làng nồi xa xôi mà mua. Người xóm nặn nồi bên sông đi làm ăn khắp tứ xứ, mỗi khi gặp một người, xếp nồi trên xe thồ chở đi trên đường, những chiếc nồi xếp chồng lên nhau, dưới cái to trên cái bé, kèm theo nó là những chiếc vung xinh xắn. Lại nhớ chuyện xưa, có ông thần, không phải bằng đồng, bằng sắt, mà ra đến đường người ta đều nể nên phải tránh đi, nhường đường cho những chiếc nồi xuất hiện. Màu đất ngọt ngào như thể là ăn được. Trong đó là niu cơm, niu cà mà mở vung ra đã tỏa mùi thơm ngòn ngọt, mang dự vị của làng quê. Một câu ca từ bên cái xóm nghèo neo đậu bên sông, ai oán:

  Đất xấu nặn chẳng nên nồi

Anh đi lấy vợ để tôi lấy chồng.

ÔNG BÉ

                                                                   Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh

Người làng Đống thiệt thòi hơn, cũng chỉ cách đập Ba za chưa đầy một ngàn mét mà chịu cây cầu sắt lót ván. ở phía trên Ba za, Thạch Bàn lại có cây cầu xi măng. Thời xa xưa, xe con của cậu Cả con quan huỵên đã qua lại rồi. Bây giờ thì đủ các loại xe. Đúng thôi, cách xã Đống chưa đầy ngàn mét có cây cầu Nam Phong bằng xi măng, đường tỉnh lộ đi qua đồng ông Trốc, ông Bờm đấy thôi. Ai qua đó làm gì, khai thác của nả chi ở cái làng nghèo ấy. Ông thành hoàng của làng Đống  là người đội nón rách, áo tơi đi củi, đi măng quang năm. Làng rậm rạp, lối nhỏ đi là đụng lá hai bên bờ rào, thật đúng với câu ca các cự hát, tự trào về sự nghèo:

                   Lên Vua thì ngại đường xa

              Về chốn áo rách làng ta thì gần

Chuyện ấy xa xưa rồi. Thời dân chủ xã Đống còn biết kêu ai nỗi khổ. Ván cầu rơi, mại, gánh gánh phân ra đồng chỉ sợ hụt chân là rơi xuống sông. Nhưng thương con trâu con bò, lúc qua cầu mùa cày bừa. Năm nào cũng vài con què phải sả thịt. Đời dân xã Đống nghèo hèn, nhưng họ tốt bụng. Nấu nồi nước chè xanh chát, là ới  cho cả làng đến uống xúm. Có lẽ nghề đi rừng tạo cho dân xã Đống quen vui với cộng đồng. Cứ ới nhau một tiếng là đi rừng. Tiếng gõ dao vào đòn gánh, đòn càn làm xao động cả màn đêm.

Đáng lý tôi cũng như trăm ngàn người qua xã Đống ít thôi, can chi mà nghĩ ngợi. Nhưng đằng này lại đi học qua sông này, qua cầu này nên buồn nẫu ruột. Buồn chi, có người hỏi vậy, thì cứ qua cầu Bàn Thạch mà xuôi về Neo. Can chi mà để bụng chuyện cây cầu xã Đống... Đừng nói thế, ở ngay đầu cầu ấy còn có túp nhà tranh, tôi nói túp vì cái lẽ, nhà trát tường bằng đất có buồng và gian nhà ngoài hẳn hoi, nhưng lại tròn như chiếc nấm ấy. Nhà anh rể tôi, ông Dơng đấy. Lúc quen dùng tiếng phổ thông người ta gọi anh Dương, nhưng gọi thế nó cương lưỡi nên khó gọi, gọi Dơng dễ mà đầm ấm hơn... Như tiếng gọi của làng này vậy... Sau này, con bé ra đời. Nó nhỏ lắm nên anh chị tôi gọi là Bé... Vậy lại  có cái tên ông Bé như người đàng trong.

Tôi qua cây cầu già nua, vài thanh sắt chữ I, lát ván là gặp anh rể tôi đứng ở vườn. Anh ddwwngs đó như là thói quen, đón tôi.

- Cậu!... Xuống đấng cậu!

Nhỏ oắt con, học lớp năm đã được người lớn chào hỏi chăm bẵm. Cả cái làng Đống này đều gọi tôi là cậu Tễnh... Ôi thích thật. Cái thủa chữ nghĩa hiếm hoi. Đói khát, mà vẫn quý cái chữ...Tôi, thế nào cũng qua. Ngồi ở lớp mà bụng cứ réo sôi ì ọp. Nhìn ở đâu cũng màu vàng. Đi đến nhà anh rể là chân cẳng đã mỏi rời. chỉ trông anh Bé ngỏ lời, là nhận lời, gọi là "bươi thì" để chân đỡ mỏi đi về nhà ở Bàn Thạch.

Ông anh rể tôi cũng chẳng may gì, điếc đặc cán thuổng, thành thử nhà ấy chẳng có chuyện gì là bí mật. Nói với nhau, mời một bát cơm, chén rượu là y như rằng cứ hét toáng lên như chửi nhau. Ban đầu tôi thấy làm lạ lắm, nhưng dần dà lại thấy khoái. Nó cứ y như là lệnh vỡ... Lại quên mất rồi, anh Bé của tôi tốt bụng lắm, ai qua; họ nhà trên này ấy mà là y như rằng cơm rượu. Về chuyện này, chị gái tôi chả khác gì mẹ, phải một đời hầu hạ chồng... Nhưng ông Bé lại khác thày tôi, ông chỉ sắm mâm, nài ép người khác thôi... còn mình thì ăn uống được gì nhiều. Răng ông rụng từ đời nảo đời nào...Ngồi chờ người ta và nốt miếng vơm là giật lấy bát, đơm cho người ta, lèn vào thật đầy.

 Ông Bé ấy mà, nổi tiếng không chỉ mình xã Đống mà xa lắm tận mạn Thọ Bình... Nơi có ông xuất hiện cũng làm khác đi đấy... Ôi cái tính của ông Bé điếc ấy mà, một đời, sinh ra là đi bộ...

*

Năm hoà bình đầu tiên (1954) lúc ấy, tôi còn bé tẹo. Nói là bé tẹo nhưng đã biết vào khu Lăng Vua để học a, b, c rồi. Thời ấy học khó, phải thuộc lòng chữ cái mới mong học ghép vần. Nhưng nói vậy để biết chuyện tính khi ham muốn sự học. Còn chuyện vui gia đình thì may quá là may. Do chị Cánh lấy anh May mà anh Dơng lên nhà tìm hiểu chị Tơ tôi. Chị Tơ lấy anh Dơng, có lẽ sau bao biến động, năm ấy nhà tôi vui nhất. Biết là thương mẹ và em đấy nhưng chị Tơ đi lấy chồng. Lại lấy được anh bộ đội phục viên, Thời đó bộ đội phục viên, nhất là lính Điện Biên thật là quý giá. Tôi nào biết được hết giá trị sự kiện này sau bao chuyện tối om om. Nhà được trả thành phần trung nông, lại có con rể bộ đội phục viên, sướng gì bằng. Nhớ lắm, cái đêm đi xem cải lương ở căng Tây Hồ, anh ấy khoắc cho tôi chiếc áo bông bộ đội. Làm sao có thể diễn tả được sự ấm áp của lúc ấy, một cái gì như sự nương tựa choán lấy niềm xúc cảm tuổi thơ tôi. Anh chị có đứa con gái ra đời, đó là con Bé, nó nhỏ lắm. Mẹ tôi lò mò xuống bế cháu. Căn nhà nhỏ như lỗ mũi ngày ấy thật là vui. Tôi đi qua chiếc cầu có khung sắt sang nhà anh Hỉm Bé. Một cảm giác không bao giờ xoá được, bắp cải luộc chấm nước cá mè mà anh ấy kéo ở cái ao đầu cống, sao mà vướng vất mùi thơm suốt một đời. Anh ấy nói to lắm, cứ như gắt gỏng người ta. Anh ấy nhanh lắm, bàn chân như chẳng hề đính xuống đất. Ô! Cậu xuống rồi. Ai đã từng được phong chức vụ này chưa. Khi còn bé tí mà đã có vai trò rất quan trọng... Chiếc cầu sắt ấy và ngôi nhà ổ chuột ấy đi suốt một thời. Đến nay dù muốn dứt ra ao khoả nước. Cái ao ấy mà, bé xíu cá chưa kịp lớn đã phải vớt lên đãi khách. Sau này tôi mới hay, giận anh Bé vì nghèo mà rộng ruột. Còn lúc ấy thật sướng mê đi, được ăn bát dấm cá. Cá thì ít nhưng cõng trên lưng cả một nồi chặt là chuối xanh, quả bé chưa kịp lớn. Có mùi tanh nên ăn có vị bùi. Cái đói làm cho ta nhận ra ăn gì cũng ngon, huống chi là cá thịt, dù mặn đắng. Bới không tìm thấy cá thịt ở đâu, chỉ có mùi vị...

Bao giờ cũng vậy khi đã phát hiện ra được nhiều điều mới lạ, khi có chút thành đạt để hưởng phần ấm áp của vinh quang. Đồng thời cũng được hưởng sự ăn uống đặc sản, là cũng đẩy người ta xa hơn, biết nhận ra sự đói kém, lạc hậu của quá khứ. Quêm đi sự ân tình của thưở túng nghèo... Anh Bé tốt lắm. Cả họ tôi ai chả bảo vậy. Túi lộn trái không dính một xu, bồ úp xuống không còn mộ hạt thóc mà cứ giữ bằng được khách ở lại để khoản đãi. Tai lại điếc không chịu nghe một lời nào ráo, cứ bắt người ta ở lại ăn lưng cơm sốt hẵng về. Lại còn quát chị tôi lo đến run người vì không còn chút gì gọi là bày cơm, chứ nói đến chuyện cỗ bàn. Tôi khoái cái cách quân phiệt của anh Bé lắm.

Tôi cũng trong số người bị giữ lại để ăn bát cơm nóng... Mà nhà có xa gì cho cam, chạy một mạch là qua Ba za về đến đầu Cầu Quán nhìn thấy Cây Thị, xóm của tôi. Nào đã học giỏi giang gì, nhưng anh Bé cứ phong cho tôi bao sự hiếu thảo, tài giỏi. Tôi được những lần cùng mẹ xuống ăn cháo lòng, tiết canh vào dịp tết. Anh Bé đấy, lại cứ giữ nón của mẹ tôi, bắt ở lại vài ngày... Nơi ấy ngắn bó với tôi đến mức sau này vào trận mạc rồi, tôi mới vẫn nhớ... Anh Bé của tôi vẫn cứ như xưa, nhiệt tình đến mức túng quẫn...

Sau này thì tôi biết, anh bị bom trong chiến dịch Điện Biên, bị điếc hai tai nên nói năng như cãi nhau. Anh đã tạo được một phong tục mới cho chị tôi và các con. Nói như hét vào tai. Cái nhà ấy chả còn giữ được chuyện gì bí mật cả. Một nồi chè xanh, một mâm rượu là y như cả làng biết chuyện. Mẹ tôi mà có riêng gì mẹ, chú, bác, người họ tôi cũng nhiễm phải cung cách nói chuyện như cãi nhau hoặc như diễn sân khấu của anh Bé:

- Đi... đâu... ý ý!

- Haa... á á á!

- Khơ ơ ơ ơ... ẻ ẻ ẻ... chớ ớ ớ ớ... ớ ớ ớ!

Người ta nào nhớ ai khác, nhớ cái gì khác khi nói chuyện với nhau. Cho bè xuống "cầu ông Bé" là yên ổn lắm rồi. Nhà chị có ở gần ông Bé không, có hả... cái ông thật tốt bụng... Ông Bé ấy à, ông ấy sống ra sao... Văn hoá anh Bé tôi nào có mấy, vài chữ bổ túc trong quân đội. Vậy mà nói lối thật hay ra trò... Anh Bé đã dạy anh trai tôi chuỵên đi rừng. Lấy măng, ngược bè, nấu ăn, tát cá... Trong lịch sử gia đình tôi lại thêm địa chỉ mới "xuống nhà Bé", bảo "nhà Bé nó lên"... Nhưng chuyện này mới nghiêm trọng, người ta không gọi cầu xã Đồng, mà gọi là  " Cầu ông Bé". Lần chiến tranh tôi về phép, anh Bé buồn thiu nói với tôi: "Cậu à! Nó ném bom đập Bàn Thạch, mà không làm sao sập được chiếc cầu sắt nhà tôi...". Vài năm sau hoà bình ông Bé mới ân hận, khi nhiìn chiếc cầu sắt gìa nua, ván bay mất cả, nói thật sốt ruột: "Cậu à! Cái thằng máy bay nó ngu thật, nó cho một quả bom vào cầu có phải nhà nước thương mà bắc cho chiếc mới... Bây giờ sang đồng mới sợ làm sao... Cậu có xuống với các cháu cũng khổ...". Nghe biết vậy tôi có quyền tước gì mà bắc cho anh cây cầu... vả lại có gì đáng giá để người ta bắc, khai thác kinh tế ở Đồng Ngâu kia... Anh Bé đâu có hiểu tới, mà chỉ ước ao...

Đó là sau những trận chị tôi ốm quặt quẹo. Anh Bé được huy động đi quốc phòng. Anh đi quốc phòng vì cái lẽ, nếu điều về quân đội, tai bị điếc mà phong cho anh bộ đội chống Pháp lù lù ấy chức vụ gì cho xứng. Mà dẫu sao cũng là "lão đồng chí chống pháp" kia mà. Thôi đi thuyền ván quốc phòng cũng là chống Mỹ. Cũng chính đi thuyền ván quốc phòng lần đó mà cái tai nghễnh ngãng kia điếc nốt... Anh quay về nhà bên chiếc cầu xiêu vẹo. Bao người tiếc rẻ, sao lại có người kỳ quặc đến thế, giấy tờ chống Pháp bị mất, không kiếm lấy tờ giấy thời chống Mỹ mà làm cái thương tật... Khổ thật, ông Bé điếc... Ông Bé để ngoài tai mọi sự bình luận... vì ông có nghe được gì đâu... ra bờ sông nhìn sang bên kia, xem có ai đến nhà mình không... lại bảo chị Tơ tôi có xuống chợ hôm mà lo mâm rượu...Không biết trên trái đất này, những người không có khách là buồn như anh Bé tôi có nhiều không?

*

Anh Bé được phong chức thủ kho là oách lắm rồi. Tính ra họ tôi có ai được một chức vụ to hơn đâu. Mới lại người ta bảo anh Bé thiệt, đáng lý có văn hoá, đảng viên xịn tiến bộ chẳng biết chừng. Nhưng riêng anh, nào có đắn đo việc tổ chức giao. Làm thủ kho cũng là làm cách mạng. Cầm cân nảy mực là vinh dự rồi. Để cái xã Đồng này không chửi thẳng cha Bé này là tham ô là vinh dự quá rồi. Anh buộc cái chìa khoá vào rút quần lủng lẳng. Mà chiếc chìa khoá nào có bé gì, do ông thợ rèn rất uy tín người Đa Lộc rèn bằng nửa chiếc đũa bếp. Làng xóm thương, ai nỡ xoáy chìa khoá của ông Bé. Người ta lại sợ ông điếc lác nên có ai dám bàn chuyện lào thào. Ông để ngoài tai ráo, lại quát um tí tỏi dù người nói chuyện với mình có đậu Đít lôm thời Pháp cũng kệ. Ông chú tôi đấy, đảng viên năm 1948 hẳn hoi, cả đời cũng chỉ dạy vỡ lòng cho đám trẻ trong xóm, ngà ngà chén tượu mới hỏi vui:

- Nhà Bé, chú mới hỏi anh, lúc cân kéo anh làm cách nào mà nghe được người ta xướng... Hay là mi bẻ que như dân da đỏ! . Anh Bé tôi cười bảo, ông lo chi đố ai mà nói dối được đâu...Họ muốn cái lợi về cho mình nên thế nào cũng bày ra mặt. Cháu chỉ nhìn mặt là hiểu được lòng dạ người kia!... Thế đấy anh Bé tôi làm thủ kho suốt mười lăm năm trường. Bằng cả đoạn trường của nàng Kiều bán mình chuộc cha. Biết bao chuyện mủi lòng  rơi nước mắt. Nhưng anh thì vẫn thế thôi: Mười lăm năm ấy chẳng hề thâm hụt một cân thóc nào. Anh thương người theo cách  riêng của mình. Mấy đứa cháu của tôi nói một cách ngậm ngùi, ai cũng như bác Bé nhà này thì lên chủ nghĩa cộng sản rồi... Vào tay cháu ấy à, thừa vài tấn lúa tội gì mà phải sung công. Thuở đó, được vài tấn lúa có mà giàu nhất vùng. Anh Bé buồn lắm. Đâu chỉ báo cáo mà còn thanh minh với Đảng nữa chứ. Tôi lấy danh dự của đảng viên mà thề, lúc cân vào không hề nặng hơn chút nào... Tôi đâu dám làm ảnh hưởng tới lợi ích người lao động. Đồng chí bí thư cứ phải vỗ về, chúng tôi tin vào đồng chí. Còn thủ kho nơi khác thì cười, chế giễu: "Ngu lắm là ngu... cân thóc lúc nỏ vào kho nó mới háo nước mà tăng lên. Có phải người ta ấy à, còn soi mói để thừa số thóc ấy, lại còn báo cáo mới chẳng báo cày". Anh Bé tôi lại khác, anh ân hận lắm. Anh bảo mình không hoàn thành nhiệm vụ... Anh đề nghị đưa số thừa vào quỹ cứu tế người nghèo đói... Chính tôi chứ ai, lúc đó đói lắm và cháu tôi nữa chứ, anh nào nghĩ được cách gì cứu giúp đâu... Nhưng mà sống cho sạch cậu ạ... cho thanh thản...Anh nói thế. Ai nói với anh cái đoạn nhà tôi thiếu gạo giáp vụ mà anh tanh minh?

Không phải uy tín của anh Bé có lúc không bị đe doạ đâu. Đó là vụ ăn cắp phân của bọn mất dạy. Nó cho thanh sắt vào nạy khoá, mất hàng tấn phân. May mà công an theo dõi tóm gọn không thì nguy. Nhưng anh là người lạ, ai lại đến xin công an đừng truy tố chúng nó. Do tôi sơ suất đi ăn cỗ mà chúng nó mới vào kho... Đừng đẩy bọn bọn hắn vào tù làm chi, ai nuôi vợ con bọn nó... Lại nứt lòi ra bọn con cái tù tội... Nói thì dễ ợt, nhưng lấy gì cho cái dạ dày của bọn lười nhác... Anh Bé chịu chết không giải thích được. Nhưng anh muốn sự công bằng. Anh muốn cho chúng nó, như tuổi con cháu mình có cơm ăn áo mặc... Cái làng ấy đồn um lên, khéo không anh Bé tôi thành anh hùng mất. Người ta nói trước lãnh đạo cấp trên, nếu chúng tôi bầu, chúng tôi giơ tay bầu anh Bé là anh hùng liền. Họ nói đúng đấy làm việc nhỏ vì dân cũng là anh hùng, phải chi giết chết được nhiều giặc mới là... Có khi anh dũng trong trận mạc mà nào có chịu bớt phần tham lam khi lấy thêm đấu thóc củ khoai, vơ vào cho nhà mình... Từ thượng cổ ai phục loại tham lam ấy.... Nhưng cũng đúng, vùng quê ấy ai đào đâu ra thần tượng. Anh Bé tuy là ít chữ nghĩa nhưng lòng anh lại quảng đại, thương người. Anh đâu nghĩ cho phấn đấu thành anh hùng... Mà xã Đố đã bàn luận, nghi quyết, anh nào có nghe thấy gì đâu. Lại cũng có chuyện bàn ngoài cuộc họp, anh mà biết được anh khước từ ngay, ai lại bầu một lão thủ kho điếc như tôi làm anh hùng... phi lí bỏ xừ đi... Anh ao ước, giá mà anh có tiền bỏ ra xây cho xã Đống chiếc cầu... Nói ra nghe cứ buồn nẫu ruột...

- Cậu ạ! Cậu mà làm đến thủ tướng, cái việc đầu tiên cậu  lo cho xã Đồng chiếc cầu cho anh nhờ với nhớ!

Tôi nghe mà toát cả mồ hôi.

- Êm phải sống được vài trăm năm may ra mới lên được...Tôi đnói đùa.

-  Phải rồi cái cầu! Anh thấy tôi cười nên tâm đắc.

- Anh mà làm thủ tuống thì sao? - Tôi gặng hỏi.

- Tôi giành lương bổng làm chiếc cầu cho xã Đống!

*

Ông Bé không phải chờ đợi lâu, xã Đống đã góp công, góp của làm xong được chiếc cầu bằng xi măng hẳn hoi. Điều mà ở xã khác người ta không làm nổi. Ông Bé lúc này đã thôi chức thủ kho rồi. Ông bảo hay hớm gì chức thủ kho, ông không đào tạo được ai thay mình cả. Đại học, giáo sư mới khó, chức thủ kho lấy ai chả được. Nhưng ông bé lại thách thức xã Đồng mất rồi. Người ta lựa mãi mà không tìm ra chân thủ kho. Vài chú bộ đội phục viên giao làm bữa trước hôm sau đã cân điều rồi. Ông Bé nào có ai nói cho biết, cái tai ông không chịu nạp lời người khác. Ông cũng không thích góp ý cùng ai. Chỉ thấy cái cậu ấy cầm chiếc cân là ông hiểu rồi. Lúc bàn giao kho người ta mới biết ông là người đáo để đấy. Ông xin xã dẫu túng thiếu cũng đánh cái khoá khác, kẻo có xảy chuyện gì thất thoát lại nói ông có chìa khóa riêng. Ông xin xã một điều, nên bớt ăn tiêu, hội họp đi mà xây cho xã Đống một cái càu cho bà con đi lại. Người xã Đồng nghe mà ngậm ngùi: "Nếu cán bộ của dân, ai cũng như ông Bé nhỉ". Họ nói rôi họ nghe lấy, ông Bé nào nghe được gì.

Chuyện làm cầu xi măng, xã này không tìm được người gác vật liệu, đành khẩn khoản nhờ ông Bé - thêm một nhiệm kỳ, gác vật liệu xây dựng cây cầu. Ông ưng liền, đất ở ngay đầu cầu là vườn nhà ông, ông cho xã để nhờ làm nơi tập kết vật liệu. Cha cái quân tầm phào, phao tin đồn nhảm, lại tưởng ông Bé thích làm dịch vụ, đổi chác thuốc lá, kẹo rượu cho đội thuỷ lợi, kiếm lợi. Cả đời, ông nào kèo níu ai chuyện tư túi...Cây cầu ra đời. Có thanh tra về đấy, nhưng đúng là chuyện cấp chỉ huy, còn ông xong cầu là sạch túi. Chị Tơ tôi nhầm, còn lỗ chè nước nữa là đăng khác. Nhưng ông Bé cười khoả lấp, phơi ra vành lợi đã bắt đầu rụng hết răng.

- Được cái cầu cho nhà mình!

Tụi trẻ nghe cười nẫu ruột:

- Bố làm như kéo được chiếc cầu về vườn nhà mình ấy!

Ông Bé vui lắm, tôi về quê không xuống được là y như rằng ông chăm bắm hỏi han. Ông tiếc nỗi, bà mà còn sống đi qua cây cầu xi măng một lần cũng thích. Lài còn bao nhiêu người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh ai quốc nữa, ông đều thương họ chẳng được sống và hưởng thụ cây cầu xã Đống. Có cầu rồi, người xã Đống cũng trẻ ra, gánh phân ra đồng thấy nhẹ người. Ông Bé thì lắm tham vọng. Ông nói với giọng buồn của người "nhường cái tai cho cho cái miệng "

- Cậu ạ! Ở ngay nhà máy thuỷ điện Bàn Thạch mà không có điện! Ý ông nói, cái xã Đống này không có trạm hạ thế. Ông thèm nghe cái ti vi nó nhảy.

- Anh cần gi nghe đài hả! Tôi muốn nói là anh điếc nghe được gì. Ông Bé cười mà rằng:

- Cho nhân dân người ta hưởng chứ cậu!

Tôi bực anh nhiều lắm, cái chứng thảo ăn, được vài con cá cứ mong có khách là vớt lên khi nó chưa kịp lớn. Cho được vài chục đồng lại muốn giữ người ta ở hàng tuần. Không nắm được gì ráo lại cứ quát mắng còn theo cái ý của mình. Lần xây mộ cho mẹ tôi, anh Bé cứ muốn làm rõ to, biết đâu sau này nó có  khá, hả cậu. Tôi thấm một nỗi đau, có học hành đâu, có ai đỡ đầu mà phát. Lại còn tính tình không chịu khom lưng nữa, thấy gì cũng tin và vin vào tài của cậu mợ. Mà nào có gì, vài ba viên gạch, cái ghế ngồi, cái áo cũ... Nếu anh ấy như kẻ khác cho con vác về tấn thóc, bì phân... Đâu có chữ nghĩa gì, lại còn xem chân gà, đọc nôm những bài cúng tổ tiên, loay hoay với đạo lý... Mắng át cả lũ con làm đội, làm xóm, cho rằng chúng vô phúc, quyên cái chén rượu gạo chỉ nốc bia, chỉ tội đi đái...

Vợ tôi hay gắt, bố mày cứ lên án anh ấy làm gì cho tội nghiệp. Anh ấy một thời là chốn nương tựa của nhà mình. Là anh bộ đội phục viên, đỡ cái phần nặng nề của họ tộc. Từng dạy anh mình đi măng, đi củi, ngược bè. Từng bó liệm cho mẹ mình lúc bố mày đi vắng. Từng mua cho mẹ túi bánh đúc, bìa đậu làm thoả khát thèm háo ăn của người già. Tại sao vậy bố, khi có chút của nả dư dật rồi là có quyền mắng nhiếc người nghèo  ư? Tại sao bố mày có học mà ít chịu xê dịch, không làm cái gì cho ra hồn. Mà vẫn phao phao cái miệng, khoe là quen biết ông này ông nọ...Cái lão tổng thống nước Mỹ có biết bao người bạn, chắc lão cũng có cả người bạn đi cày...

Tôi nhận ra điều đó. Tôi làm sao hiểu được anh Bé. Khi anh ước mơ muốn quê hương đổi mới mà  không nghĩ ra được cách gì. Tôi lo xây cất  phần mộ của mẹ, anh chị mình kẻo thất lạc. Anh Bé lại vẫn có thói quyen như xưa. Anh muốn cái nhà này phát có người thành ông lớn... Anh biết đâu, cây cầu  nhỏ nhoi mà phải một đời người mới thấy được... Huống chi, các con cháu anh nào có được học hành gì...

*

Tôi nhờ người lai về quê. Ông Bé chết thật rồi. Thằng con rể đến báo cho cậu mợ xong là lên xe về cho kịp phát tang. Chắc cả nhà cũng chờ tôi về rồi mới gọi thợ kèn. Tôi về đến nơi thì trời sang chiều. Mấy đứa cháu khóc than như xé vải.

- Cậu ơi! Thày cháu mất rồi.

Hàng xóm cũng tụ tập đông như đưa đám. Ông Bé lúc sống với họ không một người nào oán thán, đám ma của ông thành lớn nhất xã. Lại còn thằng con làm xóm trưởng nữa thành một mối lo cho chị tôi. Tôi biết nhà đã hết gạo ăn từ dạo tết. Lấy chi bày cỗ bàn cho ông đây... Lại đứa con dâu vừa đi viện, lại bao chuyện bưng mâm đặt mâm vì cái rộng rãi của ông nữa...Phong tục của làng này.

Một ông bạn của ông Bé nói với tôi, ở  nhà quê hiếm tiến mặt lắm ông ạ. Vay là phải có lãi, bán lúa non thì lấy gì mà sống... Mồ ma ông ấy lúc còn sống biết tham ô một tí con cháu nó đỡ khổ... Tôi nghe mà rầu cả ruột. Chờ cho đưa ông ra đồng là tôi đi thôi... Tôi sợ một nỗi, có tôi là thêm mâm. Chả gì cũng ông cậu làm việc nhà nước... Rồi ra chị tôi, đâu còn trẻ nữa bảo lên rừng hái củi, lấy măng... Người ta thật vô tư quá, mới lột ra ở nơi cái sắc đầy cáu bẩn, các loại giấy tờ của ông Bé. Người ta reo lên khi phát hiện ra ông Bé có chứng nhận thật, điếc là do chiến tranh. Hai lần bị bom nhồi hỏng tiệt cả hai tai. Người ta khóc ông dại khờ vì không chạy chọt được cái chính sách... Tôi lấp đất cho anh rể của mình rồi vội vàng ra đi... Tôi nghe mấy người đi chợ từ Đồng Ngâu sang Neo nói với nhau:

- Cái ông Bé - Dơng - Điếc... chết rồi bà ạ!

- Dơng Bé nào?- Bà già hỏi lại.

- Chết chửa! Cái ông Dơng Bé ở đầu xã Đống ấy... Bà không biết thật sao?

- Á...À... à  nhớ ra rồi! Cái dạo ông ấy làm thủ kho còn dư lúa ấy, không biết lấy còn giao cho hợp tác chứ gì.

- Phải đấy! - Người ta không gọi cái cầu xã Đồng bà ạ! người ta gọi cầu ông Bé - Nó gọn và dễ nhớ...

Có lẽ mai sau không ai nhớ đến anh Bé của tôi đâu. Vì anh đâu phải là danh nhân của đất nước. Nhưng họ nhớ cái cầu ông Bé... Anh là danh nhân của cái làng nhỏ bé này... Tôi có lỗi với anh, anh chỉ có một ý nguyện muốn đi thắm Điện Biên, nơi anh từng chiến đấu năm xưa... Tôi nào có dư dật gì mà đưa anh đi... Nhưng anh được bầu rồi, là danh nhân của cái làng Đống bé nhỏ, nghèo nàn...

Gã nhà quê

Truyện ngắn: Từ Nguyên Tĩnh

gười để lại cho tôi nhiều ấn tượng mà mỗi khi nhớ đến là cứ muốn cầm bút, viết một cái gì đấy là lão Cao, làm nghề chăn vịt. Suốt từ thời thơ ấu đến khi rời làng ra đi, lão luôn gần gũi tụi tôi. Lão là một người lạ hoắc thu hút bọn trẻ chăn trâu chúng tôi bằng đủ thứ chuyện. Người đời bảo lão ác, nhưng tụi tôi lại yêu quý lão. Có lão chúng tôi rất sợ, tưởng chừng mọi chuyện quỷ quái nào lão cũng biết tuốt. Lão tọc mạch từ chuyện ăn cắp vặt của cán bộ, đến chuyện bóp vú đàn bà của họ. Nhưng lão lại hiền từ tới mức mỗi đứa trẻ "môn đệ" của lão được một quả trứng. Thử tưởng tượng xem, cái thời đói khát lúc đó được chén một quả trứng vịt là sướng run lên.

Người ta sợ lão một lý nữa, lão chỉ còn một con mắt, nhưng lại tinh hơn tất cả mọi con mắt của người đời gộp lại. Con mắt hỏng chẳng thèm nhìn ai hết nhưng cứ như bắn vào người ta, có sức ma lực làm cho người khác phải chờn - Lão chột đấy, nhưng biết khối chuyện và kể chuyện lại hay đáo để.

Lúc ngật ngưỡng cút rượu ở lều vịt, lão chỉ vào một vì sao nào đó, nhấp nháy trên trời là có thể thành một câu chuyện hay vãi đái - như lời lão vẫn hay tự phụ khi gọi chúng tôi:

- Bọn con nít! Lại đây tao nói cho nghe chuyện hay lắm... hay vãi đái ra...

Lão nói thật đấy, lão chỉ cho một vũng nước có cá. Thế là cả lũ tụt ngay áo xống xuống, dùng nón mê mà tát ì òm suốt ngày, lúc mặt trời lặn cũng chia nhau mỗi đứa một xâu cá dài hí hửng lùa trâu ra về. Lão bấm vào tay tôi bảo ở lại.

Lão lùa đàn vịt đến cho ăn bữa chiều. Con mắt độc nhỡn lướt trên những chú vịt có bộ lông xốp có vẻ hài lòng. Lão dơ sào lùa chúng vào một cồn nổi có chiếc lều nhỏ dùng làm đại bản doanh, như một vị tướng hét toáng lên:

- Các! cạc! cạc!... Lão tung tay không nhưng tụi vịt ăn no chán tôm tép và quáng mắt nên cứ rúc xuống cỏ, cuộn tròn lấy một đám, réo lên nghe thật vui tai: - Quác... cắc... Quạc!

Tôi như bị ma ám theo lão ra cái vũng vừa mới tát.

- Trổ nước bắt cá về kho tương cháu ạ! - Nói chưa xong lão đã ném tung chiếc quần nâu vào bờ. Nồng nỗng lội ùm xuống hộc đấu, những hộc này vốn do lấy đất đắp đê mà thành. Lão dúi vào tay tôi quả trứng vịt nướng được bọc bằng đất sét - ăn đi không đói.

Tiếng nước réo ồ ồ nghe đến vui tai - Đã thấy lũ cá phơi lưng ra. Tôi và lão hớt vào đầy giỏ. Còn lại những chú tôm nhẩy tanh tách lão bảo để sáng mai điểm tâm cho đàn vịt.

Lão chia làm hai, cho tôi phần nhiều, còn lấy phần ít. Lão vỗ vào bờ vai đen cháy của tôi - cháu đem cá về cho thím nhé.

Tôi mệt lử theo lão lên bờ sông Đào. Thật sợ hãi khi trời đã nhập nhoạng mà phải bơi qua con sông rộng hơn trăm mét. Nhưng biết làm sao được, tụi bạn đi theo đường thẳng qua cầu. Bơi qua sông mới đón đầu được chúng. Biết tôi sợ ma, thuồng luồng kéo chân do ám ảnh bởi chuyện lão kể, lão cười khà khà:

- Chú đứng trên bờ này hô liên tục, cháu cứ thế mà bơi, đừng vì sợ mà bỏ mất xâu cá nghe chưa!...

- Tiến!... Tiến!... Tiến!... Tôi mệt nhoài thoát chết, nhưng lão cũng khát cổ vì đứng trên bờ dơ cao lá cờ chăn vịt hô tiến.

Tụi trẻ chúng tôi sợ cán bộ tét roi vào đít do để trâu bò ăn lúa ít hơn sợ lão. Bao giờ lão cũng nghĩ ra một điều gì cho chúng tôi nghịch ngợm, giúp chúng tôi bí bách trong đánh nhau cùng trẻ chăn bò làng khác. Nhưng có lẽ sự cuốn hút tụi tôi là hàng ngàn con vịt cứ sáng ra hàng thúng trứng trắng lốp. Túp lều nằm trên cồn đầy mả, chỉ mình lão như một anh hùng.

Thật ra chuyện riêng về đời lão, mãi trước đêm rời làng vào bộ đội mới được nghe, nhưng con người lão đã thu hút bọn trẻ chúng tôi từ thời chăn bò.

- Này bay... Gã nhà quê này kể cho nghe chuyện hay lắm... vãi đái ra cho mà xem! - Gã cười quệt ống tay áo bông lên mặt.

… Thời ấy, dân mình ngu hơn bây giờ. Chỉ biết nai lưng ra làm cho bọn chánh, lý hào mục hưởng. Ruộng đất vốn thế nhưng một sào ruộng được ba bốn chục cân thóc. Quanh năm đói kém. Thèm ăn đến cả củ khoai củ sắn. Một năm may ra được nhìn thấy miếng thịt. Tôm cá đầy đồng nhưng không được đánh bắt. Con người, không bằng con chó của nhà giàu. Nằm ngủ quanh năm không màn, chăn. Rét mướt thì có ổ rơm. Không có tấm khố lành lặn, chấy rận phải dùng răng mà nhai.

Lão Cao muốn ngóc đầu dậy, nhưng bọn chánh hào, lý, mục đâu có chịu. Khốn nạn cho thân thằng Cao không có miếng đất cắm dùi, đi ở cho nhà Chánh Thành lại dòm dỏ con nhà mụ Liên. Có ai thừa của để chúng nên vợ nên chồng. Chánh Thành sai bọn Trương Luận: "Chúng mày phải cùng thằng Thành trị cho thằng Cao thành thân tàn ma dại, mà có đánh chết cũng được. Ai cần lũ khố rách áo ôm ấy".

Chúng phục sẵn ở gốc cây Sun đầu chùa Con Tran chờ lúc Cao đến gặp Liên hô hoán ầm lên:

- Ối làng nước ôi! Kẻ trộm ăn trộm khoai của làng ta!

- Gậy tre nhằm vào Cao mà phang cho đến gục đổ như cây chuối bị bão. Chánh Thành bắt bốn thằng trương tuần giữ tay và chân cho thằng Thành ngủ với con Liên trước xác thằng Cao.

Sáng ra, Chánh Thành làm lễ cưới cho thằng Thành. Đám cưới về sau không ai làm to bằng. Có cả quan huyện xuống ăn mừng. Còn Cao được cô Nuôi, người tàn tật không đi được chỉ lết nhặt về thuốc thang, và họ ăn ở với nhau nên vợ nên chồng.

Những đêm trăng, bao giờ Cao cũng đến gốc cây Sun ngửng mặt lên nhìn những vì sao mà than:

- Đời hỡi đời! Có số phận nào tốt đẹp cho người nghèo được mở mày mở mặt không?

Một đêm, Cao ngủ quên ngay gốc Sun thì có người đánh thức dậy, ghé vào tai Cao thì thầm "Cứ thế... cứ thế... mà làm". Sáng ra Cao đến nhà Chánh Trương thật sớm. Cha con lão đang ngồi bên bàn trà. Lão bố quát:

- Đỏ Cao mày đến làm gì sớm?

- Dạ thưa ông, con muốn đến hầu chuyện ông ạ!

- Nói đi, tao nghe xem có lọt tai không nào!

- Thưa, ông không còn lạ gì thân con. Mối thù của con cùng cha con Chánh Thành. Con muốn làm nô lệ cho ông, đào ao thả cá, giàu có bạc vàng, mà trị cha con nhà Chánh Thành ạ!

- Là thế nào? - Nói rõ tao nghe.

- Người ta vẫn nói: "Thứ nhất thả cá, thứ nhì gá bạc".

Bây giờ ruộng vườn ông thiếu chi, ý con muốn ông nên đào một ao lớn vài chục mẫu mà nuôi cá quanh năm. Cái lợi không biết đâu mà kể. Máu địa chủ ham giàu bốc lên, lão Chánh Trương vỗ đùi khen phải. Lại được thằng con đã được Cao nhiều lần giúp sức đánh bọn Ba làng nên việc coi như xong.

Cao hăng hái cùng lũ cùng đinh ra nhổ lúa đào ao. Đào ròng rã một năm trời, một hồ cá rộng mênh mông ra đời. Nước mưa, phân chảy ráo xuống hồ nên cá của lão Trương rất chóng lớn. Cá béo đến nỗi biếu quan huyện ngài cứ tấm tắc khen và thưởng cho sáng kiến làm lợi kinh tế và dân trí của lão Trương. Vì dân mấy làng chưa bao giờ được tắm táp thoải mái như vậy.

Sáu làng còn lại Cao cũng đến khích vào đầu óc hiếu thắng và hám lợi nên thi nhau đào ao. Thế là một đồng lúa mênh mông ba bốn chục mẫu ruộng thành ao hồ liền nhau.

Lão Cao không mất gì nhưng có nơi mà chăn vịt. Nhìn đàn vịt của lão bay kín cả mặt nước bọn chức dịch tức lắm, bàn nhau phải bắt Cao nộp thuế. Thế còn chưa đủ, chúng bắt từ trai gái già cả, trẻ con trong làng phải nộp thuế ra hồ để tắm. Dân căm thù lắm nhưng đành thở dài mà chịu đựng.

Cao không ngủ được vì hàng năm phải chọn vịt béo nộp cho bọn hương lý của sáu làng để nuôi nhờ hồ nước. Như có trời xui, Cao nghĩ ra được mẹo. Xui cho bọn trai tráng các làng đến kỳ mưa bão, bơi ra các bờ ao dùng que mà bới cho không còn ranh giới nữa.

Thật lạ lùng, một sáng cả làng mở mắt ra ao rửa ráy đã thấy mênh mông không còn bờ nhỏ như con trạch ở đâu. Bảy thằng lý trưởng của bảy làng không thằng nào chịu nhau về ranh giới địa phận. Mà lúc đào thì dễ, lúc đắp con trạch đào đâu ra đất. Thôi thì mạnh cánh nào cánh ấy ra mà quét cá, tranh phần.

Bảy làng đánh nhau chí tử - chúng cho tay chân đến ỉa đầy cổng nhà hào mục. Tình hình náo loạn kéo dài một năm, quan huyện mới thị sát truyền rằng: - Tất cả không được để hồ ao cho cá nhân, giao về cho hàng xã quản lý. Hàng năm đánh bắt chia cho các làng. Nhưng bù lại phải nộp trả lại cho quan và xã bằng lúa.

Bọn hương lý, kỳ hào lạ gì lòng tham của quan lớn - cái cảnh cha chung không ai khóc lấy ai ra mà lo. Chỉ khổ mấy thằng đầu sai mà thôi.

Người ta nhớ đến cái tội đi vận động đào ao của lão Cao nên lập một án là đuổi cổ khỏi làng đi đâu thì đi. Hễ mò mặt về làng là mọi người có quyền đánh, dù chết cũng phải chịu.

Nói vậy thôi nhưng dân đen có ai đụng đến, chỉ bọn chức sắc là đầy lòng thù oán cũng do cái tham bị chạm đến.

Nhưng cũng tại cái số lão Cao phải bỏ làng ra đi. Bởi trong lòng lão đam mê Liên đến không ăn không ngủ được. Đến nhà lão không dám. Gặp nhau bất chợt trên đường đến chào hỏi cũng không được huống chi cầm tay, nói chuyện.

Chiều về mệt mỏi đến chết người, lão cởi trần mặc chiếc quần đùi vá chằng vá đụp ra hồ tắm. Lão cố trương mắt nhìn sang bên kia hồ. Dù xa đến hút mắt lão vẫn nhận ra người con gái trắng mẩng đang khỏa nước dưới hồ. Làm sao được, trận đòn ngày xưa lúc trở trời vẫn làm lão đau ê ẩm. Nhưng trái tim không tha cho lão niềm đam mê. Lão nhìn đăm đăm vào thân thể trắng toát mà mỗi lần động nước đang lan sang lão. Ước gì ta được ôm thân thể Liên nhỉ? Lão hít thật căng lồng ngực và nhằm về phía bên kia bờ mà lặn sang.

Có lúc mệt quá lão định ngoi lên để thở nhưng lại sợ lộ. Cao cố thêm từng giây. Đây rồi, mở mắt ra nhìn thấy cơ thể của nàng nồng nỗng vàng chóe dưới nước. Nhưng cốt nhất đừng làm cho nàng sợ. Cao ngoi lên từ phía sau nàng, khẽ nói:

- Liên đừng sợ nhé!

- Ối trời ơi! Anh Cao...

- Tôi xin em! Mai tôi đã bỏ làng này rồi. Liên cho tôi gặp lần cuối cùng!...

Liên đổ vào hai cánh tay Cao. Nước trong hồ cũng rùng mình đón những giọt nước mắt của họ đang tan ra.

- Đừng... Nó đánh chết anh mất!

- Có chết cũng được... Vì đằng nào anh cũng phải chết mà em!

Tiếng la lối ở trên bờ. Liên đẩy Cao ra nói hổn hển:

- Anh chạy đi mau lên nào!

Tiếng mõ khua liên hồi từ trong điếm nổi lên. Tiếng lội ào ào xuống hồ mở cuộc càn quét. Cao nổi lên nơi một bờ dứa cạnh hồ, nhưng bị bọn dân vệ đổ xô ra tóm được. Cha con lão Chánh Thành gào lên:

- Bắt sống lấy nó!

- Trói, gô cổ nó vào trong đình kia cho tao.

Cả làng xã nổi mõ trống lên như động rồ. Tất cả dân hàng xã được lùa đến đình. Người hiếu kỳ đã đành, kẻ sợ đòn roi và sợ máu không muốn nhìn cũng không thoát.

Chánh Thành, lúc này thế lực lớn nhất xã vì giàu có, lại được huyện cho cai quản hồ cá nên có coi ai ra gì. Nó thét lác:

- Phải xử chém vì tội hiếp dâm gái đã có chồng!

- Không được phải xẻo buồi nó đi cho hết gây ra cái tội đéo rông! - Nói rồi thằng Thành vớ lấy con dao nhọn chọc vào một mắt Cao. Cả con mắt phụt máu vào người làm nó rú lên ôm lấy mặt, đánh rơi con dao. Bọn đàn em hồn xiêu phách lạc không dám cầm dao để cắt buồi của Cao. Thành ra Cao còn có cái để mà vui. Với lại bọn quan làng động lòng thù địch với cha con lão chánh Thành nên mới truyền:

- Mất một mắt là được rồi!

- Cút mẹ cái thằng hiếp vợ người ta ban ngày ban mặt đi!

Cao được người vợ tật nguyền chữa chạy cho khỏi bệnh. Từ đó, chỉ có độc một con mắt. Một hố còn lại luôn nhìn đời một cách ngạo mạn. Hễ ai nhìn thấy con mắt ấy là y như giật mình, phải ngoảnh đi nơi khác.

Cao ra đám cồn hoang cắm lều chăn vịt. Người làng chỉ nhớ đến Cao mỗi khi có việc gì khó nhọc. Bọn quan lại cố đặt điều kể về chiếc hồ rộng ba mươi sáu mẫu do trời sinh ra. Nhưng dân làng biết rất rõ, cái hồ ấy là cái hồ lão Cao... cái hồ ấy mang tên lão Cao như một danh nhân.

*

Đến dạo cải cách người ta tìm người khổ nhất để về làm chủ tịch xã. Những người khổ nhất, tố nhiều nhưng đội chưa ưng. Mãi sau người ta mới à lên, nhớ đến lão Cao nơi cồn vịt là xứng đáng làm chủ tịch. Nhưng có kẻ lại đặt điều. Dù sao lão cũng đã ngủ với vợ địa chủ ở dưới hồ nước. Mới lại lão độc có một con mắt thôi, làm sao nhìn thấu đáo được công việc. Nhưng người ta cũng thừa nhận, lão là người bị ăn đòn roi của địa chủ nhiều nhất. Lão có công xui cho lũ địa chủ đào hồ cá để dân làng có lúc đói ăn trộm được con cua con tép mà lót dạ. Người ta công nhận lão trung thực vì lão đã tố đứa nào đâu mà tội của chúng ai cũng biết.

Thế là một đồn lên mười, mười khuyếch lên trăm, rằng lão Cao sắp làm chủ tịch đến nơi rồi. Kẻ nịnh nọt đến cầu lợi, kẻ có dính tội ác muốn được tha thứ đều tìm đến gian lều của lão. Từ lúc mờ sáng đến khuya khoắt, không lúc nào lão được yên. Không giường chiếu họ ngồi bệt xuống cỏ rả mà nói chuyện mà trình bày. Họ xin ý kiến Cụ chủ tịch về định lấy quả thực nhà thằng địa chủ nào. Có người khuyên nên lấy nhà chánh Thành cho nó oách và cho hả mối thù. Có người chân thật lại khuyên nên lấy quách luôn vợ nó vì đằng nào có thời "cụ chủ tịch" đã yêu cơ mà. Với lại thế mới bõ hờn cho kẻ thù. Nhưng ai lại cách mạng mà làm như thế. Bộ cách mạng không phải sống hay sao, hơn nữa đây là "quả thực" chứ có phải là ăn không vợ của quân bóc lột đâu.

Ông Cao nghe mà sướng cái bụng. Thật ra ông cũng muốn làm một keo thử xem sao, ông tưởng tượng giở chiếc xà cột vải ra lấy sổ sách, quát vào mặt những thằng mất dạy. Xung quanh ông sẽ có nhiều kẻ hầu người hạ - cả xã phải xu nịnh ông. Đi đâu chúng phải dùng võng mà cáng. Dẫu không biết chữ, cần quái gì chữ nghĩa, đông như đàn vịt mà ông còn đếm được nữa là. Mới lại, bắt mấy đứa có chữ nó làm hộ, cần gì.

Nhưng một sự kiện làm cho cả xã phải ngạc nhiên. Là vị chủ tịch tương lai có liên hệ với địa chủ. Mà với ai chứ nhà thằng chánh Thành. Lực lượng nòng cốt đã gác toàn bộ kho tàng, đuổi chúng xuống chuồng lợn mà tại sao chúng lại có trứng vịt mà ăn? Đã bắt cả nhà nó phải cởi truồng ra để soát rồi, có đồng xu nào đâu? Có người phát hiện ra, vợ chồng nhà thằng Thành mò ra cồn vịt.

Ông Cao bị đội và lực lượng cách mạng làm giấy gọi về tổng đội để tra hỏi. Ông không biết chữ, ông cóc phải về, thằng nào cần ông thì ra. Thế là có cả tự vệ đeo súng trường cùng mấy vị đeo xà cột ra cồn vịt. Họ dở sổ sách ra khảo:

- Họ tên ông là gì?

- Không biết được!

- Tên thường gọi?

- Cao!

- Văn hóa?

- Lớp 0.

- Thành phần?

- Không có.

- Tuổi?

- Không nhớ. Đẻ rơi...

Một vị nói thầm với vị đeo kính. Thành phần cơ bản rồi.

- Ông có liên quan gì với tên Thành?

- Có!

- Ông cung cấp cái ăn cho nó ngoan cố với cách mạng phải không?

- Phải?

- Vật chất gì?

- Đào ao thả cá!

- Là đội hỏi, có dư luận ông cho nhà nó cái ăn. Vì đã tịch thu toàn bộ tài sản của chúng rồi sao lại có?

- Chắc có ông cán bộ nào cho nó.

Người ta không moi được gì ở ông Cao. Nhưng uy tín của ông cũng bị giảm đi trông thấy.

Ông nhớ như in, một đêm ông định đi ngủ thì tiếng vịt la lên như báo động. Tưởng có kẻ nào ăn trộm vịt, ông quát lên: - Đứa nào kia! Đứng im.

Một bóng đen rách rưới quỳ vọp xuống chân ông, khóc nức nở: - Anh thương lấy em... Anh Cao! - Ông hoảng hồn vì Liên tiều tụy như bóng ma ôm lấy ông. Ban đầu ông căm lắm. Quân bóc lột này lại muốn dở trò cám dỗ cách mạng đây, phải cảnh giác.

- Đến đây có việc gì?

- Em đến... vì các con em đói.

- Ai bảo đến?

- Dạ... do em ạ!

- Láo!... Có phải cha con thằng Thành xui không?

- Không ạ!

- Có nói thật đi không tao cho du kích bắt bỏ tù! Mẹ quân bóc lột, phá hoại cách mạng: - Nói cho oách chứ ông đã làm chủ tịch đâu, chỉ có lũ vịt là quân của ông ngoài kia, mà xã đang nợ đìa ra vì mua chịu làm thức ăn cho đội.

- Dạ... Chồng em... mà... thằng Thành xui ạ!

- Nó xui mày ra với tao để phá hoại cách mạng, đánh đổ chức chủ tịch của tao hả?

- Trời ơi! Anh tha tội chết cho em... Em van lạy anh em thề có mặt con em... Anh không thương thì thôi... Không có đánh đổ cách mạng... chủ tịch... mà... đói... cha nó đang hấp hối... chỉ thèm quả trứng vịt... vâng... Em không đi... nó đánh em xưng cả mặt mày đây anh...

Liên cầm bàn tay Cao đặt lên mặt. Anh rờ rẫm như một thói quen. Anh chửi thầm, ra đồ khốn nạn nó cướp vợ ta, cướp cuộc đời ta... Lại cho vợ ra ngủ với ta mong tìm đường sống... ơi nàng... nước mắt Cao chảy dài xuống hai gò má... Cao quát lên:

- Gọi nó ra đây!

- Em xin anh!

- Gọi nó ra đây cho tao không chết ráo!

Liên chạy về nhà. Cao ngồi thu lu chờ đợi. Hai bóng xiêu vẹo dẫn nhau đến lều vịt. Chúng bò bằng bốn chân đến quỳ vọp xuống chân Cao.

Ánh trăng vượt qua ngọn núi Nưa, soi rõ bộ mặt trắng bệnh của chúng. Lòng căm thù bốc cháy trong lồng ngực Cao. Hố mắt trống trơ đen ngòm quét vào mặt chúng. Cao quát:

- Thằng khốn nạn, cởi quần áo vợ mày ra!

Thằng Thành run run lúng túng giằng kéo mớ giẻ rách nơi người vợ hắn ra. Một cơ thể mịn màng phô bày dưới ánh trăng. Cao lấy con dao nhọn làm chúng run bắn ôm lấy đầu gối anh. Chạm vào hai đầu vú, làm toàn thân Cao run rẩy.

- Buông ra! - Cao đến lều vịt, xắn một bãi cứt vịt tanh tưởi.

- Thằng kia! Tao ngủ với vợ mày xong thì mày phải ăn hết bãi cứt vịt. Tao cho một thúng trứng và tha tội chết cho nghe chưa!

- Dạ... xin ông cứ sai khiến ạ!

Cao rùng mình, ớn lạnh. Anh nhìn thấy người yêu của mình trần truồng nằm ngửa ra bãi cỏ. Nước mắt chảy tràn ra làm ướt cả khuôn mặt. Còn thằng Thành mặt méo xệch... khổ não. Cái khổ não mà suốt đời Cao không bao giờ có dịp nhìn thấy lần thứ hai. Anh phải ngoảnh mặt đi không dám nhìn vào dáng quỳ như con chó. Chỉ cần anh nằm lên người Liên là nó phải nhai nuốt hết bãi phân vịt.

Cao nhìn thấy rất rõ thân thể ngọc ngà của người yêu. Có lẽ sự phơi bày ra làm anh sửng sốt và đau đớn.

Anh quát lên:

- Mặc lấy quần áo... Đồ khốn nạn...

Thằng Thành lao đến chân anh như con chó ôm lấy chân chủ. Anh đạp nó ra, và chỉ vào đống trứng:

- Cho vào thúng mà đội về!

Tiềm thức mông muội của loài người mách bảo cho anh rằng - Anh có thể dùng quyền lực bắt thằng chồng ăn cứt và ngủ với vợ nó ngay trước mặt. Nhưng thà như Liên không phải là người yêu của anh. Và cuộc đời này, nó đã tước đoạt của ta, ta đoạt của nó lại như vậy ư?

- Cút đi! Đồ khốn nạn! - Cao gào lên như tắc nghẹn trong lòng.

Người ta cũng chán không muốn Cao làm chủ tịch. Cao tắt lịm ham muốn từ hôm đó. Anh cũng từ chối việc nhận nhà chia quả thực. Người ta đồn bảo anh ngu. Anh để ngoài tai mọi lời khen chê. Và cả một đời dù mùa đông hay mùa hè. Cao đều mặc áo bông nằm nơi lều vịt. Lão thích ăn tí cá khô, còn canh chiên bằng nước lã.

Tôi được nghe bao chuyện của lão, nhưng chuyện tha chết cho vợ chồng thằng Thành làm tôi thắc mắc. Tôi hỏi lão:

- Tại sao ông không ngủ với bà Liên? Ông không thích à!

- Có chứ cháu. Ông yêu bà ấy mà. Ông có thể làm ngay trước mặt thằng khốn nạn. Nhưng ông yêu bà ấy. Ông không muốn bà ấy bị sỉ nhục - ông cười buồn đến nẫu ruột. Có thể vì ông ngủ với bà ấy mà thằng Thành nó giết bà ngay đêm ấy. Nó sẽ bị tù tội... Con cái bơ vơ... và hận thù chồng chất lên nhau...

Tôi thiu thiu ngủ nơi lều vịt cùng lão Cao. Tôi vẫn nhìn thấy con mắt chột như một vì sao nhiều cánh sáng trên khuôn mặt đen đúa của lão.

*

Khi người ta phát hiện ra ông Cao chết thì đã muộn. Mối đã đùn lên thành gò không ai dám moi ra mà cho vào quan tài. Bầy vịt hơn một ngàn con của lão thì đã bay đi mất cả. Có lẽ nó về trời.

Còn lão Thành và bà Liên nghe đồn sau cải tạo về làm lại thành phần nông dân lao động, con cái họ khá lắm! Đứa đại học, đứa liệt sĩ, đứa thành Đảng viên có chức có quyền. Nhưng hàng năm về mùa xuân họ vẫn đến lều vịt tảo mộ. Có người bảo, vì nhờ ơn lão Cao, có người nói vì lão thiêng lắm giúp cho con cháu nhà lão Thành làm nên. Có người đặt điều nói đứa con đầu giống hệt lão Cao, nó có chức vụ to nhất nhà. Nếu bấm tuổi vào cái ngày lão lặn qua hồ sang với bà Liên. Tất cả đều bịa đặt hết, chỉ có điều này là có thật. Cái hồ nước mà còn đến ngày nay là do sáng kiến của lão. Dân quanh vùng vẫn gọi là hồ Lão Chột. Nước ở đây quanh năm mát mẻ là công của lão, to lắm.

Còn tôi trong cuộc đời phiêu bạt của mình ở chốn thị thành, khi nghe người ta nhắc đến chữ "nhà quê" lại nhớ đến lão Cao - Gã nhà quê - mà gã vẫn tự nhận với giọng nói đai ra - Nài... bay... Tao kể cho nghe chuyện này... Hay vãi đái ra cho mà xem...

Chuyện tình trong hang đá

Truyện ngăn: Từ Nguyên Tĩnh

   Đêm mưa êm ả. Rừng lạnh và hoang vắng, không một tiếng động hun hút trong chiều sâu hoang sơ. Một chiếc xe tải bất ngờ, không ai còn thức để kịp nhận ra. Hai đèn pha chiếu vào cửa hang. Người lái xe bơ phờ sau nhiều đêm mất ngủ, chưa vào đến cửa hang đã hét toáng lên:

   - Kho ơi...! khách!

  - Khách hả! - Tổ trưởng coi kho bật dậy càu nhàu - Chờ cả ngày không có khách, lúc ngủ lại có khách!

   - Dào! Chiến tranh lúc đếch nào có bình yên! - Cậu lái xe cười, xòe lửa ra đốt thuốc.

    Tổ trưởng coi kho dậy, hai tổ viên dậy. Họ quen với sự tiếp đón không giờ giấc này. Cáu đấy, nhưng thoắt đã vui cười ha hả.

Đón nhận phiếu xuất kho nhàu nát. Tổ trưởng coi kho quát lên:

- Bộ đây có phải bệnh viện đâu mà các ông đưa bệnh nhân tới?

- Đồng chí thông cảm. Bệnh nhân này chúng tôi được gửi thôi mà!

- Thế hả! Lấy đâu ra thuốc điều trị?

- Lá rừng chứ còn gì nữa! - Người lái xe nói khẽ vào tai tổ trưởng coi kho - Một cấp tá... không biết có sống nổi được không, các anh cố gắng lo, có xe lại chuyển tiếp...

Người ta khiêng xuống một xác èo ọt, không cựa quậy được. Ba người giữ kho và lái xe mau chóng chuyển đạn dược lên xe, chiếc xe rồ máy để lại phía sau rừng đêm lạnh, mưa lai rai và cái buồn mênh mông.

Tổ trưởng coi kho đặt bệnh nhân vào chiếc giường nứa. Tháo tấm băng phủ mặt lên xem. Anh ta còn rất trẻ, da xanh tái. Đôi mắt nhắm nghiền, hơi thở thoi thóp.

- Thôi! Hai cậu ở nhà nấu cháo, có khách đến lấy hàng cấp, tớ vào rừng lấy thuốc đây!

Hai cậu lính trẻ “ngẩn tò te” nhìn nhau không giấu nổi sợ hãi.

- Lỡ ông à... đồng chí ấy chết thì sao?

- Bậy! không việc gì đâu... tớ đi một chút thôi.

Hai chú lính mới không dám ngủ vì sợ người bệnh chết. Nhưng cũng vì sợ biệt kích đột nhập bất ngờ. Họ trông có khách đến lấy hàng. Nhưng không có bóng ma nào đến vào đêm mưa âm ĩ buồn bã này.

Tận bảnh mắt tổ trưởng coi kho mới về. Anh ôm một mớ lá rừng. Nhìn thấy hai chú lính trẻ ngủ gà ngủ gật, vừa thương hại vừa giận, anh quát tướng:

- Ngủ hả! nấu cháo chưa? - Hai cậu lính trẻ giật mình lăn ra đất nói với giọng mếu máo: - Anh tha cho, chúng em sợ biệt kích nó thấy sáng.

- Trời ơi! có khổ không chứ. Nấu cháo đi không người kia chết đói mất.

Cháo chưa kịp chín, lấy nước cháo lọc qua lá rừng giã nhỏ. Người tổ trưởng ra lệnh - Các cậu giữ tay chân cho tớ cạy răng ra đổ thuốc nhé.

Người bệnh hàm cứng lại nằm bất động, ba người vất vả lắm mới đổ nổi từng thìa cháo. Họ khiêng người bệnh vào sâu trong hang. Người tổ trưởng mệt mỏi, nói cùng hai đồng đội: - Lo cái gì mà chén kẻo bận việc lại đói meo đấy! - Anh ta ngồi xuống nền hang dựa vào người bệnh ngáy.

Hai người lính lấy cuốc chim bổ vào những thùng đạn bằng gỗ thông nhóm cho bếp lửa cháy phừng phừng. Hang đá soi bóng họ nhảy múa trên vách. Trời vẫn chưa sáng. Vì ở rừng sâu có khi đến trưa cũng không có ánh mặt trời. Gặp kỳ mưa dầm lại càng hiếm hoi có ánh sáng.

Cơm kịp chín, mùi thịt hộp thơm lừng đánh thức chim muông dậy, chúng réo lên nghe vui tai. Người tổ trưởng cũng kịp nhận ra mùi thơm, choàng mắt dậy.

- Các cậu khá nhỉ!

- Cơm chín rồi thủ trưởng ạ! - Hai chú lính trẻ tỏ ra vui trước lời khen của người tổ trưởng coi kho.

- Đánh chén.

Họ ngồi quây quần lại bên bếp lửa như ba ông đầu rau, xít xoa ăn. Chợt nghĩ ra điều gì, người tổ trưởng ngừng nhai nói với hai cậu lính:

- Mà này, tớ phải nhá cho ông ấy bát cơm.

- Gớm chết! - Một cậu lính phản đối.

- Gớm cái con khỉ! Không làm sao ông ấy sống được.

Như một người mẹ, người tổ trưởng coi kho nhai cơm mớm cho người bệnh. Mấy cậu lính trẻ ứa nước mắt nhìn, người bệnh nuốt một cách vô thức...

Hai ngày sau anh tỉnh dậy, thấy một cậu lính đang đút cho anh từng thìa cháo khóc oà lên: - Đồng chí tổ trưởng hi sinh rồi thủ trưởng ơi, cả thằng Vang nữa nó cũng hi sinh rồi. Hu... hu... Em biết làm sao được. Anh thì thầm nói với cậu bé - Còn anh đây... nín đi em. Chú lính sướng quá cười hiền lành - Trời ơi, em tưởng thủ trưởng chết, em sợ quá. Thủ trưởng đừng bỏ em thủ trưởng nhé.

Có lẽ do sự sợ hãi của cậu lính non tơ mà làm anh khoẻ lại. Anh nhắm mắt nhai mớ rau rừng, ngồi bên ngọn lửa nghe cậu lính trẻ kể lại sự việc xảy ra. Cậu năn nỉ - Giấy tờ của thủ trưởng đây ạ! Nhưng thủ trưởng đừng đi. Một mình em ở lại em sợ lắm.

*

Những chiếc xe đến nhận hàng vào tuyến lửa.

Anh thèm khát nhảy lên ca bin đuổi kịp đồng đội. Mặc dù còn rất yếu nhưng ngồi lên xe là anh khoẻ ngay. Nhưng một mình cậu lính trẻ và kho tàng làm anh áy náy. Anh lấy giấy ra viết, gửi cho những người lái xe, gửi cho người đi xa, gửi cho người đi ra và đi vào, xin người; xin người vào bổ xung cho kho X, nhưng bặt vô âm tín. Anh lại viết, lời lẽ giận hờn và cáu gắt. Vị trí của anh một trung đoàn trưởng không phải là người coi kho. Anh phải vào tuyến trong. Mặt trận nóng bỏng đạn bom đang chờ anh. Lúc ngủ, anh kê tay cho chú lính, hỏi: - Em có thích đi trận không?

- Dạ có ạ!

- Hay em đi nhé!

- Nhưng mình thủ trưởng ở lại thì buồn quá! Mới lại thủ trưởng có ích hơn em. Nó ngước cặp mắt trong veo pha chút xanh do nhiều ngày nằm ở rừng nhìn anh: - Em đi, mình thủ trưởng ở lại buồn lắm, xin thủ trưởng đừng bỏ em nhé.

Cậu bé chết trên tay anh vào một đêm âm u, buồn vắng. Anh đưa nó ra khỏi hang chôn cất, nước mắt chảy dòng dòng. Anh thương cho cuộc đời ngây thơ, thương cho tình cảnh của mình. Xe lại đến, anh thành người coi kho. Nếu ta bỏ đi theo đơn vị thì sao. Kho tàng sẽ ra sao, ai sẽ là người bảo vệ cho kho đạn dược quý này. Nhưng ai hiểu cho ta? anh lại viết thư cho các cậu đi ra Bắc và vào Nam mong trên cho người đến thay thế. Rừng vẫn mưa lâm thâm, dầm dề... ý chí và nỗi buồn trầm lắng, hoang vu.

*

Một buổi sáng trời hửng. Tiếng còi xe ô tô xao động cả hang núi. Các cậu lái xe, già có trẻ có cười thả cửa quát tướng lên.

- Thủ kho, xuất cho tụi tôi hàng đi!

- Đây phiếu ưu tiên trước!

- Loại này phục vụ cho “cú đấm sắt” nhé!

Một cậu lái láu lỉnh nhận xét:

- Trời ơi! Nom người coi kho dáng như ông tướng thế kia mà không đi trận!

- Mày bố láo, không có người coi kho lấy ai cho mày vũ khí khí tài.

Họ nhận hàng, quẳng lại vài ba gói thuốc lá, một cuộn thuốc rê. Họ để lại cho anh một người bệnh rên hừ hừ, với miếng giấy tay - “Chuyển về tuyến sau”. Bệnh nhân bị thương nặng khó sống nổi. Trời ơi! ước gì người này sống thay mình coi kho nhỉ. Anh thác tấm tăng lên - chết chửa hóa ra bệnh nhân là con gái. Anh biết làm sao được bây giờ. Nhóm lửa cho nước réo lên, anh nấu cháo, người bệnh không chịu mở miệng ra ăn. Anh lấy nắm lá của người coi kho đem về làm thuốc cứu anh, nấu đặc như cô. Ôm lấy đầu cô gái nậy đổ từng thìa nhưng nước thuốc cứ chảy ra ngoài. Cô ấy chừng bị thương mất máu nên bất tỉnh, thở khò khè, mệt nhọc.

Chúa ơi! ngài hãy chứng dám cho tôi, không vì lòng ham mê thể xác, vì mạng sống của con người kia đấy nhé. Anh súc miệng bằng nước muối, vì anh sợ do ăn uống kham khổ mà bệnh tật lây sang người bệnh. Anh truyền cho cô gái từng ngụm nho nhỏ, vì sợ cô nghẹn mà chết mất. Hết mớm thuốc, lấy lương khô nhai cùng ruốc mớm cho cô. Một ngày, hai ngày trôi qua... Anh hết chạy ra cửa kho lại trèo tít ngọn cây cao nhìn khắp bốn phương tìm kiếm. Tìm cái gì, anh chẳng biết nữa. Nhưng anh muốn có con người, dù chỉ một người thôi, cứu rỗi cho anh lúc khó khăn nặng nhọc này.

Trời nắng, rừng nồng nồng khí ẩm. Cô gái vẫn chưa tỉnh. Nhưng da mặt đã dịu lại, một điều làm anh khó xử. Vết thương nơi cô phả ra mùi khó chịu. Trời ơi! Ta bỏ đây mà đi. Đi vào trong tìm đơn vị. Vào bất cứ đơn vị nào dù làm lính thôi cũng được, rồi sẽ lập công, rồi sẽ tìm thấy niềm thanh thản. Hoặc có thể hy sinh, có sao đâu. Ai biết được ta chạy trốn nơi đây mà phỉ báng, mà lên án. Nhưng còn kho kia, còn cô gái kia và lương tâm trong sạch của đời ta...

Anh không ngủ được, không phải sợ hãi mà nghĩ ngợi. Anh nhóm lửa nấu nồi nước, anh xé chiếc màn ra làm băng. Như một người cha, dù anh chưa hề có con. Như một người chồng dù anh chưa hề có vợ. Như một bác sĩ nhưng anh chưa nhìn vào nơi đau đớn của con bệnh. Anh tháo băng quấn quanh mình cô gái. Anh thấm nước vào băng cho rơi ra từng cục máu đông. Anh như một con thú nhai lá đắp vào vết thương cho con mình. Anh lại truyền cho cô gái thức ăn bằng miệng... Thời gian, không kịp cho anh nghĩ ngợi trở lại đội ngũ. Thời gian, kịp cứu sống một con người - Cô gái kịp mở mắt nhận ra anh. Cô khẽ mỉm cười, cái cười khô héo. Thời gian giúp cho con người sực tỉnh hiểu ra tất cả. Cô gái tự nhai được lá thuốc, biết rửa vết thương cho mình. Biết rơi những giọt nước mắt trinh nguyên và hiểu ra mọi chuyện.

Thời gian, kịp cho cô nghe được câu chuyện của người thiếu tá kể về việc làm thủ kho bất đắc dĩ.

- Tên chú... à anh là gì ạ!

- Bùi... Còn tên cô? Anh hỏi.

- Cháu... tên Lan ạ!

- Thế này nhé! khoẻ, có xe ra tôi gửi cho cô một lá thư, cô đến bất cứ một cơ quan quân sự nào cũng được đưa thư này. Tôi rất cần có người coi kho để vào chiến trường. Tôi không thể là người coi kho được. Anh đau khổ nhìn cô gái. Chừng như thấu được tấm lòng anh cô vê đưa cho anh điếu thuốc.

- Vâng! Vâng... xin thủ trưởng đừng lo!

Anh trèo lên ngọn cây cao, anh mong muốn có khách đến. Anh lại không mong có khách đến, vì anh sẽ cô đơn nơi rừng sâu này. Vì anh cần có người bên cạnh.

Cô gái đứng phía sau nhìn anh viết những dòng chữ loằng ngoằng, có lẽ do lâu ngày ít cầm bút. Anh mong được trên cử người vào tiếp thu kho. Anh nói nguyện vọng của anh là vào trong.

Gấp tờ giấy cẩn thận, anh đề tên mình vào một góc.

Buổi chiều liên hoan thật buồn, có hai người ngồi trên mỏm đá làm mâm. Anh cố kiếm một con cá, cô gái lượm nấm và rau rừng, hai người cùng nấu. Hai người cụng nước luộc rau rồi cười phá lên chạm cốc.

Ăn và ít nói.

Đêm đó họ không ngủ và không nói chuyện.

Sáng mai cô gái mắt đỏ hoe dậy rất sớm nấu ăn. Cô nói cùng anh - Em cảm ơn thủ trưởng vì...

- Đừng Lan ạ! - Em ra Bắc đi. Đời em còn trẻ lắm!

Tiếng xe rồ rồi tắt máy, anh nhận hàng, anh muốn kéo dài thời gian. Nhưng người lái xe ném một câu trống hoắc:

- Ông thủ kho ạ! Ký giấy nhận đủ hàng cho tôi, kẻo còn phải qua “toạ độ chết”.

Anh ký vào giấy. Anh nói cùng người lái xe:

- Đồng chí đưa cô thương binh này ra bắc nhé!

- Vinh dự quá! - Cậu lái xe cười miệng rộng đến mang tai - Ôi! thật là lộc trời cho!

Anh quay đi che giấu sự căm giận. Xe nổ máy chạy. Anh cuống cuồng trèo lên ngọn cây cao, anh không hiểu việc mình làm nhưng anh vẫn làm như người mơ ngủ.

Hang đá lạnh lẽo, anh ngồi trầm mặc như hoá đá, không nghĩ ngợi, không lo âu trong cô đơn.

*

Đêm qua anh không ngủ vì nhớ nhung luyến tiếc. Trong anh đau vì những cái gì từng trải qua trong cuộc đời chiến trận. Anh giật mình bởi tiếng réo gọi tên anh:

- Anh Bùi ơi! Cứu em với!

Anh nhận ra, có ai đâu ngoài Lan áo quần rách nát như bươm. Chỏ vào chiếc sẹo nơi bẹn mà anh từng rửa ráy, cô ôm chầm lấy anh khóc nấc lên, nói qua hơi thở như người hấp hối:

- Thằng khốn nạn. Nó đưa em đến sau hang đá. Nó chẳng nói chằng rằng xé rách quần áo của em. Em cố sống cố chết mới thoát được. Suốt đêm qua em chạy tìm anh. Ôi may làm sao, gặp được anh rồi. Anh ơi! Em thề không đi đâu cả. Anh ra Bắc em cũng ra Bắc. Anh vào Nam em cũng vào Nam. Em là của anh! Em là của anh.

Anh khóc. Anh thương cho sự trẻ trung trinh trắng của Lan. Anh không tài nào thanh thản như lần cứu Lan vì vết thương. Từ nơi sâu lắng tâm can của anh áy náy sự tội lỗi. Không đăng ký, không kết hôn, không cầu phước lành. Không ai chứng kiến niềm hạnh phúc. Anh thấy sự xót xa. Nhưng cao hơn anh phát hiện ra chính mình. Phát hiện ra sự lãng quên nơi trần tục, anh cũng là một con người. Hang đá ấm lên bởi sự toả rạng của hạnh phúc. Anh xôn xang khi nghe tiếng chim ca, và nghẹn ngào lắng tiếng khỉ gọi bầy. Anh đón tiếng chim chiều xào xạc gọi nhau về tổ. Anh quên đi chức sắc và tưởng mình là một thủ kho vĩnh viễn. Còn nàng ríu ran, kể cho anh nghe ước mơ nóng bỏng của đời mình là mong được một đứa con. Anh lại viết thư cho xe ra và xe vào gửi gắm ước vọng của mình.

Thời gian làm cho tóc anh bạc. Làm cho Lan tràn đầy sự sống. Nàng đeo trước bụng quả địa cầu mặc dù hang đá lạnh lẽo, cô đơn.

Người vào Nam ra Bắc đến lấy hàng ở kho “vợ chồng ông già” cho quà cáp - anh chị thủ kho cần mẫn.

Một đêm, hang đá vạn năm sáng bừng lên, có tiếng oà khóc. Lan trở dạ sinh cho anh đứa con trai. Anh lúng túng vì phải làm bà đỡ cho vợ. Ôi! Sung sướng biết bao, vợ và con anh đều trọn vẹn. Anh ngồi âu tư nghĩ ngợi. Một hai năm sau anh vẫn như vậy, ngồi âu tư nghĩ ngợi. Anh muốn Lan theo đoàn xe ra Bắc. Lan âu yếm vuốt ve mái tóc anh nhuộm bạc:

- Em và con ra đi, ai chăm anh?

- Mình anh thôi, em đừng lo...

Lan không đi, cô ở lại với chàng thủ kho yêu dấu của mình. Cô làm người cấp phát cho khách hàng.

Những chuyến xe cuối cùng chở đạn dược vào chiến trường. Những chàng lái xe ra đầy phấn chấn. Họ chia sẻ niềm vui cùng người coi kho, và mau chóng về hậu phương, nơi có người thân chờ đợi.

Hang đá, bị bỏ quên lại cùng dĩ vãng. Vợ chồng người coi kho dắt nhau ra cạnh con đường làm một túp lều chờ đợi. Họ trồng tỉa lấy lương thực sống qua ngày.

Vui mừng nhưng lo âu vì sự đời trắc ẩn.

Núi rừng lùi lại phía sau. Hang núi trong âm u, kỷ niệm một thời.

*

Một buổi chiều đi rẫy về anh khựng lại trước xe con xe lớn bên căn nhà. Anh thấy những người lính đứng lố nhố bên cạnh vợ. Vợ anh đến nói cùng anh: - Các chú ấy đi tập trận. Muốn nhờ đất nhà mình làm một căn nhà cho chỉ huy tiền trạm bố đồng ý chứ?

- Ý em sao? - Anh hỏi lại.

- Rồi nhờ xe về quê thôi anh ạ!

- Em nói đúng! - Anh nhìn vợ trìu mến.

Anh nhìn thấy trên xe con những người mới tới. Họ đều hồ hởi, vui vẻ.

Trời ơi, có phải bạn bè của anh cả đấy không, anh nhận ra người mang quân hàm cấp tướng là lính của anh ngày nào. Anh có thể lao đến nói to lên: “Mình không có tội, mình hoàn toàn vô tội”. Nhưng anh khựng lại vì nỗi buồn. Liệu có ai tin chuyện anh làm thủ kho bất đắc dĩ không, hay nghĩ anh là kẻ sợ chết. Đêm ấy anh để lại vợ con và ra đi.

Khi nghe được câu chuyện này của người vợ kể, vị chỉ huy dừng tập trận đi tìm nhưng không thấy anh đâu.

Dân địa phương lại kể ở núi Hú, đêm đêm có tiếng kêu. Có lẽ người vợ tìm anh hú gọi nhưng chẳng bao giờ thấy.

*

Ba ngàn năm sau, vào năm 4993 có một đoàn khảo cổ và địa chất khai thác tài nguyên của đất nước đã đến vùng núi Hú. Họ không chịu nhau vì anh khảo cổ muốn xếp hạng di tích, còn anh địa chất muốn tìm đá quí. Vì vậy họ là một đoàn phối hợp. Lại có cả một đội quân ham giàu đi theo. Mặc dù dụng cụ thăm dò đã tối tân lắm, nhưng máy móc không phát hiện ra được trầm tích.

Họ đến hang đá, họ ném bộ xương ra khỏi hang vì phát hiện dưới bộ xương là đá quí nhất nhân loại. May mà các nhà khảo cổ ở đó kịp thời nhặt. Một nhà khảo cổ trẻ, có tài, không cần phương pháp khoa học đã tuyên bố:

- Loài khỉ, tôi tin vào chân giá của khoa học.

Người ta đưa về để khảo nghiệm. Các nhà khoa học tuyên bố CON NGƯỜI - Tư tưởng và nỗi đau đã trầm tích lại thành đá quí.

Còn câu chuyện tình không ai biết được:Điều đó không?

Lão kéo vó bè trên sông lê

                        Truyn ngn: Từ Nguyên Tĩnh

ối chưa đến tuổi bốn lăm, nhưng mọi người dân vùng này đều gọi là “Lão Bối”. Thực ra không ai đoán biết được lão già hay trẻ lão buồn hay vui. Mặt mũi bị bóc hết lớp da. Có riêng gì mặt, đầu, tay và hầu khắp người đều bị bóc như vỏ khoai. Không lông mày, không râu … may mà còn vài sợi lơ thơ tóc vàng hoe và trắng bẩng, chẳng che nổi cái sọ trọc lốc. Thành ra lão già, già đến mức không ai đoán được tuổi tác. Bối làm cái việc mà không ai dám làm. Chọn đoạn sông Lê có tiếng là lắm ma kéo vó bè. Cũng chẳng lâu đâu, mới vài năm lại đây, nhưng người đời lại tưởng có lão ở đó từ khi có con sông Lê. Nếu vắng lão vài hôm thì mất hợp lý, đến mức nhớ nhung.

 Ở đoạn này, sông nhà Lê chui qua đáy con sông Đào. Vì sông Lê ra đời từ xa xưa cùng bao chuyện vua Lê đánh giặc. Người ta kể: “ Nghĩa binh của ngài đào sông, xuất quỷ nhập thần từ Nghệ An ra Thanh Hoá đến Ninh Bình”. Sông Đào mới có non một thế kỷ từ dạo người Pháp làm đập Bái Thượng. Sông Đào trườn qua lưng sông Lê bằng một chiếc cống khổng lồ. Ở cống đó, các cụ già quả quyết rằng không ai cả gan dám bén mảng đến dù ban ngày ban mặt. Lắm chuyện quái đản về ma quỷ hiện thành người đi họp chợ, làm mụ mị những cô gái dẫn đi suốt đêm khắp cánh đồng. Vào những đêm trở trời, chó sủa trăng lu, ai mà thức dậy nhìn có quầng sáng, nghe thấy rì rầm ở đó, là họp hành của âm binh đấy.

Lão Bối sống ở đó làm nghề kéo vó bè. Đoạn sông này sâu hàng năm vào dịp ky, quan ngài thường dâng nước lên ngập đồng điền, dồn đến ê hề tôm cá. Chỉ việc hạ vó xuống cất lên là cá chui vào thả sức mà bắt. Lão nhe hàm răng trắng ởn ra khỏi môi (môi cũng bị bóc da đỏ ởn). Chẳng hiểu lão cười hay khóc, nhìn vào dòng nước, mắt dại đi. Nhìn xa tưởng vó và lều tranh của lão treo trên khoang trời, người lão dài ra như được chắp bằng những đốt tre gộc. Tôm cá rào rào chạy vào ton. Lão nghe chúng trò chuyện, cặp mắt thơ ngây nhìn lão. Có phải chúng van xin cầu cạnh hay muốn hoá kiếp. Lão châm mồi lửa rang vàng ươm, vớ lấy can rượu sủi tăm. Rưới một lớp rượu lên một lớp cá tôm lèn vào dạ dày. Khi đã lèn chặt lão lâng lâng quên quá khứ, không nghĩ ngợi như bóng ma tha thẩn ngó trời sao.

- Xì… ì… ì… ì. Lão cầm can rượu quẳng ùm xuống đáy sông. Lão xua cá tép vào vó bè. Nhẹ nhàng kéo lên cho tôm tép lọt vào ton. Lão tụt quần áo, có ma nào qua đây mà lịch sự. Dù nhìn thấy thân xác của lão cũng phát hoảng mà bỏ chạy. Cột lấy cần vó vào cọc cạnh lều, ngồi trên chiếc mủng dùng hai tay làm bơi chèo khỏa nước ra tháo ton. Đổ cả tép vào một chiếc rổ lớn, chúng nhảy đành đạch van xin. Lão nhìn vào đôi mắt nhỏ li ti thì thào trò chuyện với chúng. Nhấc nhấc từng con lên tay như người cân. Chọn một vài vốc cho vào cái đăng cạnh lều, còn lại đổ ùm xuống sông. Lão cười:

- Nào! … Đứa nào bảo ông không thương tụi bay, tao thả ra nhé, cái lũ thật lạ, ai bảo lại rủ nhau đến với bố mày… Tiếng cười lan ra sông và cánh đồng vắng.

Lão đến bên gian lều nhỏ bằng lỗ mũi. Vớ lấy điếu cày rít một khói, lão nằm trơ thổ địa ra bãi cỏ trước lều. Lũ ma có đến đây khiêng đi cũng mặc.

*

Ba năm trước lão kéo ngọn rào tre rấp cửa ba gian nhà tranh ra đi. Lão không đi đâu xa, ra sông Lê kéo vó bè. Lão chạy trốn quá khứ, nhưng quá khứ lại đeo đuổi theo. Lão không dám nhìn căn nhà, nơi đó mỗi cây cột còn in dấu vôi quết trầu của vợ lão. Lão đã im lặng chào căn nhà ra đoạn sông Lê có tiếng là lắm ma để tự tử. Nhưng lần nào vợ lão cũng biết được, kéo lão lên bờ. Lão muốn chết vì không muốn phần xấu xí của mình lây lan sang vợ con. Lão nhận ra khách của vợ đến chơi, giật mình nhìn thấy bộ mặt của lão, vội chào ra về. Day dứt, lão có độc ác với ai. Việc đi lại lão cũng chọn phần đêm. Lão tránh gặp người. Nhưng loài người không tránh lão. người quen thì cười cợt, kẻ lạ gặp lão rú lên bỏ chạy, họ sợ lão còn hơn sợ ma.

Lão cũng có một cuộc đời. Vợ là kỹ sư, đẹp gái. Lão yêu vợ với tấm lòng da diết, thề bồi. Coi thường đạn bom và nghèo khó đến mức phi thường. Lão lặn lội qua chiến tranh về cưới vợ bằng chiếc xe zeep, trên ngực lấp lánh huân chương. Lão mặc quân phục màu lá rừng, vợ lão mặc áo hồng. Lão cảm động, vợ lão tự hào. Pháo nổ, Tiếng vỗ tay. Người nói chuyện phía sau:

- Thế mới là lính chứ!

- Đẹp! … Đẹp của người anh hùng!

Vợ lão không so đo về bằng cấp. Thời chiến tranh, yêu và làm vợ người lính là thiêng liêng. Người lính có gì băn khoăn khi lấy vợ là kỹ sư. Lão yêu vợ, thư từ dùng vỏ bao thuốc lá, giấy gói chè óp bụng xuống giường viết. Thức trưa dũa gọt lược, nhẫn bằng pháo sáng gửi cho vợ. Dù sao đời lão cũng đẹp. Vợ lão đẻ cho lão đứa con trai trước khi lão đi B.

Giải phóng miền Nam, lão trở về cùng đoàn quân thắng trận. Lão mang bộ mặt hoang liêu. Tại sao lão không chết trong trận bom na pan? Loay hoay ở cổng nhà, lão day dứt. Không muốn vào nhà. Niềm cháy khát gặp vợ và đứa con, giờ đây làm lão sợ sệt. Thôi được, nhìn mặt vợ con một lần, dẫu chết cũng cam lòng. Lão như kẻ hành khất vào nhà.

- Mẹ ơi! Có ông nào vào nhà ta!

- Ai? … Ai hở con? - Vợ lão sững sờ đánh rơi chiếc nồi đất kho cá của mẹ lão để lại, đứng như trời trồng. Rồi ào đến ôm lấy lão. Tiếng khóc như đưa ma hình bóng thời trai của lão. Xóm giềng ùa đến tủi tủi, mừng mừng hỏi han. Họ nhìn cái bả của thể xác lão. Phần hồn lão đâu có đánh mất. Lão cố gắng làm cho nét mặt duyên dáng, thì vợ con lão càng sợ hãi.

Lão nhảy ùm xuống đoạn sông Lê lúc say rượu tìm kiếm cái chết. Đằng nào vợ lão cũng còn trẻ, nàng đẹp, ối người mê. Biết đâu gặp được một người tốt. Lão không thoát được bàn tay của vợ. Nàng kéo lão lên van vỉ.

- Anh đừng chết… Hãy thương lấy mẹ con em!

Lão không chết. Con lão lại chết cùng hai đứa lội xuống ao cá ở giữa huyện hái hoa súng chơi. Vợ lão ốm quặt quẹo rồi qua đời. Lão ra nghĩa địa ngồi nhìn hai nấm mồ cái lớn, cái bé như hai mẹ con dắt nhau đi. Chưa hết, người anh độc nhất của lão cũng hy sinh ở chiến trường xa làm nhiệm vụ quốc tế. Thế là một mình lão với ba gian nhà trống trơ. Đám cưới xin, giỗ chạp của bà con xóm mạc bao giờ cũng làm lão giật mình, nhói đau vì câu nói vô tình:

- Nhờ phúc đức ông bà… Mấy đứa con tôi đi trận đều trở về nguyên vẹn! - Hoá ra lão là kẻ vô phúc ư? Anh của lão và bao người khác ngã xuống chiến trường không tìm được phần mộ là kẻ cô phúc sao? Lão rấp lại cửa bằng ngọn rào ra đi. Lão bán chiếc đồng hồ Orien vật kỷ niệm chiến trường của đời lính và đôi hoa tai hồi môn của vợ sắm chiếc vó bè. Lão không dám chết, lão chết, lấy ai trò chuyện cùng vợ con. Mới lại kéo vó bè ở sông Lê, một vài bước chân là đến nghĩa địa gặp được vợ con họ hàng, lẽ nào lão tránh phần nghĩa vụ của kiếp người?

Đêm đêm lão nhìn thấy lũ ma trơi từ hai nghĩa địa lao đến đá nhau. Hồi nhỏ lão thường sợ sệt nghe mẹ kể, vào những đêm mưa thâm gió bấc, ma trơi thường xuất hiện. Mẹ và bạn bè đi gánh rạ phủ mặt bằng rạ hát:

Mực! Hỡi Mực!...

Đợi mày đã lâu

Sao không đến đón tao

Mực ơi!Là Mực...

Thế là chúng mò đến. Lão bắt chước mẹ, phủ rạ lên mặt và hát. Lão phì cười nghĩ, bom na pan không đốt được mặt lão nữa là ma trơi, lão kéo rạ ra nhìn, hai con ma trơi lao tới lướt trên mặt lão. Không dám chắc là chúng không thấy hay vì sợ bộ mặt của lão.

Đêm buồn. Lão không ngủ trọn giấc, dậy nhấc vó bè. Không tin vào mắt mình, thấy những con ma nhỏ như con chuột bám vào cọng vó. Thấy động lũ chúng cười, nhảy ùm xuống sông. Mặc chúng, lão nhấc vó lên. Chọn mấy chú cá to, còn bao nhiêu đổ tùm xuống sông.

- Lũ chúng mày... Tao thả ra cho đi sao cứ về? - Lão cười… vớ lấy đất sét cạnh lều bọc cá như kiểu tẩm bột mì. Vơ nắm rạ lão đốt nướng cá. Mùi thơm toả ra làm cái mũi sứt sẹo của lão không nhịn được phập phồng. Bóc đất bọc, dóc xương ra, tay kéo can rượu vào, rót đầy một bát. Tưới rượu lên một lớp cá, một lớp cá lên một lớp rượu lèn vào dạ dày. Lão cầm can rượu ném ùm xuống sông.

Lão nằm thẳng cẳng. Bốn con ma cao như cây cau, đi bằng đầu ngón chân lặc cò cò đến. Đứa túm tay, đứa nắm chân khiêng đi khắp cánh đồng. Chúng hát:

Chúng tao là lũ ma dưới âm phủ

Lão mày dám đến trêu người?

Trần gian không chịu sống yên

Đến nơi đây chiếm chỗ

Hỡi thằng già không tuổi không tên?

Chúng cười váng đồng. Lúc mặt trời vừa ló ra, hé những tia vàng trên đồng nội. Có lẽ kịp nhận ra khuôn mặt của lão cùng tiếng người đi chợ. Chúng ném lão xuống căn lều, nhảy tùm xuống sông.

Lão thức dậy, không kịp vốc nước rửa mặt, ra nhấc vó bè. Lão khoái chí thấy lũ cá rì rào trò chuyện. Lão quên tiệt câu chuyện của đêm qua. Chiếc vó như con nhện khổng lồ giương cong ra trong ánh bình minh.

*

Lão hay buồn khi bị người khác quấy rầy, lật tung ra quãng đời quá khứ, hoặc quan tâm, tò mò đến đời lão. Mỗi lần thằng bạn làm cán bộ thương binh xã hội đưa tiền tháng đến nói bô bô:

- Lão khốt, sống ra sao?

- Thì mày biết đấy!

- Không sợ ma à?

- Tao sợ mày thì có!

Nó cười hô hố nướng tôm chưa kịp chín đã tọng vào đầy miệng. Lão phải ba bốn lần kéo thừng nhấc can rót rượu, lão chửi ngoa đáo để:

- Bọn mày chỉ thích đớp!

- Hớ! …. Hớ! … Hớ! … ơ ớ ớ! - Nó cười bắn tung lũ tôm ra khỏi miệng như súng khạc đạn - Không ăn mẻ cũng chết. Chỉ có mày là đi tu với ma … Thiếu gì cái thú ở đời mà đọa đày ở đây.

Lão gói cho thằng cán bộ đùm tôm để nó cút về. Lão không muốn nói chuyện. Lão không tiếc của mà chỉ thương cho lũ tôm tép phải chui vào cái dạ dày kia. Chờ cho thằng bạn đi khuất, lão nhấc tấm tranh rạ lợp lên, nơi cọc tre tấm hình lồng vào khung kính. Trời ơi! Cắi thằng trung sĩ kia mới đẹp trai làm sao. Lão khóc. Khóc cái gã nơi tấm ảnh. Lão tưởng nó là con trai lão kia, nó với lão cách xa nhau một trời một vực. Nó là lão, cái ngày đến với vợ lão lần đầu.

Tay lão nhấc chiếc thừng kéo can rượu.

Lão quên hạ vó bè. Chiếc vó như chiếc mạng nhện dăng trên nền trời. Mấy bà đi chợ sớm, vạch quần đái ồ ồ… Chắc họ cho rằng lão còn ngủ nên chẳng cần ý tứ. Đến lúc phát hiện ra lão quên hạ vó mới réo toáng lên.

- Trời ơi! Lão không hạ vó xuống kìa! Rõ là tội … Nốc lắm rượu vào! …

Họ vẫn đến đổi gạo hoặc rượu lấy tôm cá. Họ sợ sệt nhìn bộ mặt của lão. Lão nhận ra sự ướt át nơi đũng quần của họ.

*

Đêm này lão buồn - Mưa gió như lần lão đưa vợ về trời. Cũng ào ào đổ nước xuống thế này, lão phải tát nước mới hạ được huyệt. Lão thương lũ cá trốn gió bão dồn cả vào vó bè của lão. Lão lại vốc từng vốc ném chúng xuống sông. Lão nào cần gì nhiều nhặn, luộc và phơi đầy hai hũ, nút chặt lá chuối, buộc lại bằng giây cao su ném ùm xuống nước cất ở dưới lòng sông. Lão biết trời cho lão cái ăn, lại cướp của đời lão niềm vui. Lão ngồi ở cửa lều nhìn trời nghĩ ngợi.

Từng đợt, từng đợt chớp như chảo cày tung xuống muốn buộc lấy chiếc lều kéo đi. Qua ánh chớp lão nhìn thấy đoàn người ngựa, áo mũ bước xuống cần vó của lão. Hoá ra khi sống con người có tham vọng ngự trị loài người, khi chết cũng muốn doạ nạt con người. Ý nghĩ ấy làm lão bật cười dơ hai tay ra đón đoàn quân của trời xuống, nhưng dường như họ cũng ngại lão mà xa lánh.

Không nhịn được cơn buồn, lão kéo chiếc thừng, lôi can rượu vào, cầm cả can mà tu. Lão muốn chạy trốn nỗi cô đơn. Lão quẳng can rượu ra giữa dòng sông. Chui đầu vào mớ rơm rạ mong tìm thấy sự nương tựa.

Chớp loằng ngoằng, sấm đùng đùng muốn tung lão và căn lều lên không trung. Lão khấn lầm rầm, lão chẳng tin vào cái gì ráo. Khấn khứa thế thôi, nếu lời khấn mà linh nghiệm thì vợ con lão đã sống lại. Lão sẽ đẹp trai như thuở nào. Có đêm lão nằm mơ có nàng tiên từ trên trời bay xuống, đến căn lều của lão. Kéo lão từ đống rơm dậy. Nàng lấy từ trong xiêm áo ra lọ nước phép rảy vào mặt lão. Thứ nước thơm lừng làm cho da mặt lão trở lại thành mịn màng. Nàng hôn lão. Nàng dắt lão cùng chiếc vó bè bay trên sông trời. Lão và nàng thi nhau tung tôm, cá xuống trần gian mong cho mọi người no ấm. Lão cười ngất để tuột tay nàng. Nàng bay đi. Lão cùng chiếc vó rơi tuột xuống dòng sông Lê. Con sông Đào đè trên lưng đau nhói làm lão thức dậy. Mở mắt ra lão vẫn còn ngửi thấy hương vị thơm thơm. Lão hít thở hương vị hư vô. Lão vùng dậy chạy ra soi mặt xuống nước. Hốt hoảng nhận ra bóng mình, lão đập hai bàn tay xuống nước cho tan bóng mình ra. Mắt lão trào ra từng giọt. Có lẽ cá tôm thương lão mà mò tới. Ma quỷ thương lão mà đến đùa nghịch.

Sấm chớp tung lưới xuống căn lều, lão nghe thấy tiếng sột soạt và bước chân. Dù sao cũng phải lau nước mắt kẻo người hoặc ma nhìn thấy. Lão nghển cổ ra cửa, ánh chớp như chiếc thừng kéo bóng ma lại gần. Lão vùng dậy lấy con dao ở dưới gối lên quát:

- Ai?

- Tôi!

- Tôi là ma nào?

- Tôi là người … đây!

Lão nén cơn sợ hãi. Sờ vào mặt tiếng nói. Thịt da thật. Ánh chớp soi rõ sự rách rưới.

- Sao lại đến đây trong lúc mưa gió này?

- Tôi đói! Con mẹ khóc, đứa bé gái cũng khóc. Lão sờ vào mặt hai mẹ con. Lão tin chúng nó là người. Lão vứt con dao vào xó, bê nồi tôm cá lẫn lộn và nồi cơm đặt đến huỵch một cái, nói xẵng:

- Ăn đi!

Hai mẹ con người đàn bà ngồi xuống vốc cơm nguội và tôm cá nhai ngấu nghiến.

Lão tin nó là người. Mà sao ăn khiếp vậy. Lão kéo chiếc thừng nhấc can rượu tu một hơi. Lão rót ra nửa bát đưa cho con mẹ kia.

- Uống đi cho đỡ rét - Lão ném tùm can rượu xuống sông. Con mẹ đàn bà làm một tợp. Khoắng nhẵn nửa nồi tôm rang và lưng nồi cơm nguội. Ánh chớp loằng ngoằng soi rõ hai con người rách rưới. Chiếc bị vứt chỏng chơ ở cửa lều. Lão quát:- Ăn xong rồi cút!

- Anh Bối! Anh thương mẹ con em.. Đi đâu được trong lúc này.

- Bối, Bối cái con khỉ! Cút đi! … - Lão thấy day dứt, lão đâu muốn nặng lời. Một lý nữa từ lâu rồi, lão nào nhớ đến tên mình, bây giờ mẹ con nó lại nhắc đến.

- Ăn no rồi, bay đi đi! - Lão Bối dịu giọng.

- Cắn rơm, cắn cỏ lạy anh, gió mưa thế này mẹ con em biết đi đâu! Lão chẳng nói gì, nằm ềnh xuống quay lưng về phía mẹ con kẻ khốn nạn. Đứa trẻ kịp chui vào ổ rơm chẳng che đậy, mà có cái gì gọi là áo xống để che.

Con mẹ nằm cuộn tròn như chó mẹ bao bọc lấy con.

Lão len lén kéo chiếc thừng nhấc can rượu lên tu. Lão sợ, muốn tìm giấc ngủ.

Lão nằm. Lão lùi dần vào góc lều. Lão sợ hơi nóng phả từ phía lưng. Lão sờ lại cạp quần xem cái túi tiền dắt vào đó có còn không. Lão lùi dần … Lão sợ hai núm vú của con mẹ khốn nạn cứ áp vào lưng lão. Lão biết chắc không phải là ma. Lão phải nói một câu gì.

- Không sợ à?

- Không!

- Sao lại mò đến đây?

- Em đi ăn mày ở chợ, nhiều lần núp ở bụi tre định đến xin anh… Thấy anh ném tôm cá xuống sông….

- Không sợ tao xấu hả?

- Không! Không! Không! - Con mụ khốn nạn khóc nấc lên. Cố nuốt hơi nghẹn trong cổ họng, - Có khinh em làm nghề ăn mày không anh?

Lão khóc. Không phải lão sợ ăn mày. Lâu lắm rồi, từ lúc kéo cành rào rấp cửa nhà ra đi, lão mới được nghe tiếng xưng với lão là “ em”. Lão đau quặn.

Ánh chớp loằng ngoằng soi vào bộ ngực trắng. Lão bò se sẽ đến bên bộ ngực trơ ra hai núm vú mà trời bỏ rơi… Tay lão run run vì sợ trời lại cướp đi của lão cái sinh linh khốn nạn kia. Lão cũng sợ qua ánh chớp mà con mẹ khốn kia nhận ra bộ mặt của lão mà bỏ chạy.

Ánh chớp. Lão úp mặt trên hai núm vú, nước mắt giàn dụa.

*

Người đi chợ qua đoạn sông Lê này vẫn gặp lão kéo vó bè mặt xấu xí như mặt quỷ. Chẳng ai thèm biết lai lịch. Họ chép miệng, vẫn hay gặp ở người đời, nhìn từ đỉnh đầu người khác mà phán quyết.

·         Đúng là người Trời! Chỉ có người Trời mới sống được!

Vợ chồng xe trâu

Gã xe trâu

Đổ xong xe vôi bên làng Tào mặt trời đã khuất sau dãy núi Rồng. Hân nhìn chồng không nhịn được cười:

- Kìa ông tướng ơi! rũ vôi đi kẻo người ta tưởng anh từ cung trăng xuống quấy trần gian đấy!

- Kệ càng đẹp! nhà tìm xem quán nào kiếm cái gì cho vào bụng, kẻo anh đói mềm ra đây này!

- Gớm! chẳng bõ bèn gì. Được vài ngàn chỉ vừa miệng lốm của bố mẹ thôi!

- Chặc! trời sinh trâu sinh cỏ, lo gì!

Nói vậy nhưng Hân họ trâu nơi quán bình dân cạnh đường. Nhanh nhẹn nhảy ra khỏi xe trâu giọng trêu chọc:

- Em cấm anh lòng lợn tiết canh về chiều đấy nhé!

Anh chồng khùng khục cười, vỗ vào bụng như khoe màu da đen nhèm:

- Gốc tre cho vào bung anh cũng nhừ nữa là!

Biết tính chồng. Hân gọi ra đĩa lòng và bát tiết canh cùng cút rượu. Hân thẽ thọt nhấm miếng gan, rồi đẩy vè phía chồng - Nhà ăn đi!...Em có thích canh đâu.

- Anh gọi phở cho em vậy! - Anh chồng không cần xem vợ có đồng ý không đã gọi toáng lên:

- Ông phở ơi - phở!

Hai con trâu một bạc một đen không tháo ách, miệng nhễu nhão nhai, nghĩ tận đẩu đâu như hai nhà hiền triết của loài trâu. Mặt trời phút chốt vụt biến sau ngọn núi. Sông Mã xôn xao dưới chân cầu sắt phụ hoạ cùng ráng chiều tô đậm xuống dòng sông xanh biếc, cuộn cuộn lao ra biển xa. Vội vã, rậm rịch con thuyền lướt trên sóng nước vượt khoảng thời gian giao nhau ngày và đêm

.

Mấy choác rượu làm cho người chồng phởn chí, nhảy phốc lên xe, nói như một vị tướng.

- Hỡi lũ voi trận, lên đàng!

Tiếng cười khúc khích của người vợ làm tan ra cùng hoàng hôn mênh mông. Con đường của họ về nhà già nua cũ kỹ đầy ổ gà. Tiếng vó trâu gõ trên nền đường đệm cho niềm lâng lâng xoa bóp của men rượu.

Cánh đồng sau mùa gặt còn trơ lại gốc rạ. Ai đó cắt thành lọn xếp gọn gàng nhìn xa như hình kim tự tháp thu nhỏ. Hương thơm của hạt lúa đang nảy mầm, mùi phân trâu từ chân ruộng thoảng theo làn gió có hương vị hoai hoải của sữa.

Đường bắt đầu vắng. Vài chiếc xe muộn mằm lao qua để lại tiếng gió réo ồ ồ va vào hàng cây thưa thớt. Tám vó trâu lộc cộc, đủng đỉnh nện trên nền đường đá cổ lỗ gõ nhịp gọi màn tối ập đến.

Phốc một cái, anh chồng nhảy sang xe của vợ. Người vợ nằm, ngửa mặt nhìn những vì sao, khẽ gắt.

- Cuội ạ! không sợ người ta cười cho à?

- Vẽ chuyện. Ai cười vợ chồng gã xe trâu.

Tám vó trâu đập xuống nền đường. Cánh đồng sau vụ gặt gió phóng túng thổi mát lịm. Sao thi nhau mọc chi chít. Dải ngân hà như được kéo sà xuống thấp...

- Anh bảo đời có số không?

- Ai biết được số ở đâu?

- Tiếng vó trâu nện trên đường lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc...

- Những vì sao trên kia, ngôi nào mang số phận của em? - Tiếng Hân nghẹn nghẹn.

Người chồng nằm xuống cạnh vợ, ngửa mặt nhìn trời. Đưa bàn tay xoa lên mặt vợ, gặp một dòng nước mắt nóng hổi. Hoảng hốt anh ngó vào mặt vợ: - Buồn hả? phải làm vợ gã xe trâu hả? Không. Em nghĩ có lúc thật ngu dại, em muốn chết. Nếu không có anh thì hôm nay...nước mắt làm cho lời nói nghẹn lại.

Con trâu bạc chở chiếc xe không nghe chừng khó chịu tung những bước lạc điệu. Những vì sao đang chầm chầm trôi...

- Nín đi nào...kẻo trâu nó cười cho đấy!

Hân đưa tay bịt lấy miệng chồng.

*

Đời lại có lúc như ta thế này ư? Lòng ta tự dưng dâng trào niềm cảm xúc mênh mông... Tiếng vó trâu khoan nhặt gõ trên con đường vắng. Vó trâu như thi cùng thời gian, chậm chạp... chậm chạp... Nắng chiều nhạt nhoà lọc qua dãy núi. Cánh đồng hun hút đón lấy những dòng vàng ngời ngợi, tan ra cùng cánh đồng mông quạnh. Nhà nông vội vàng gặt hái thửa ruộng còn trơ lại gốc rạ... Đâu đây, tiếng chuông nhà thờ đổ dồn... Ta nghe rõ tiếng con tim thì thụp trong lồng ngực. Thoắt chốc những vì sao mọc sớm gọi nhau cùng lúc ùa về. Ta kịp nhận ra sự đổi thay trong khoảnh khắc cuộc đời mình. Có thật có ta trên đời này ư? Một gã lái xe trâu cái nghề ít ai nhớ đến, bị lãng quên trong dòng đời. Ta lại có niềm hạnh phúc này chăng?

Nhìn thấy Hân nằm ngửa, mắt trân trân nhìn sao trôi đi bồng bềnh, tự dưng lòng anh trào lên niềm thương cảm. Anh nào tin được, cô gái xinh đẹp kia lại là vợ mình. Đâu đó, tiếng chuông nhà thờ rung lên. Thời gian tưởng chừng ngưng lại.

Phải. Vào một buổi chiều, có tiếng chuông ập đổ buồn bã. Anh khoác ba lô trở về chân núi đá vôi. Đón nhận sự thật đau buồn của đời mình. Người vợ xấu số của anh qua đời, để lại cho anh đứa con gái mười tuổi. Mới hôm qua. bạn bè châu tuần lấy anh, thèm khát về hạnh phúc, thì hôm nay anh rơi xuống nỗi cô đơn và bất hạnh. Mới hôm qua, đường đời mở ra đợi anh sự thăng trưởng thì hôm nay lại đẩy anh rẽ về một lối khác. Anh không bao giờ đi đến chót con đường công danh mà đời lính dành cho. Mà đáng lý trong bộ áo lính kia, người mà trong tiềm thức của dân tộc mang sự tin cậy, hàm ơn có anh tình nguyện phục vụ suốt đời. Anh khoác ba lô trở về thì mái đầu chưa kịp bạc với danh hiệu “hưu non”, coi sóc mấy gian nhà của vợ để lại. Con trâu bạc phì phò nhận ra mùi mồ hôi của anh những lần về phép dong duổi xe trâu thay cho vợ. Chắc nó cũng nhận ra hương vị mồ hôi dính dáp của vợ anh.

Đứa con gài xà vào lòng anh khóc.

- Bố ơi! mẹ mất rồi... mẹ dặn con... giữ trâu về cho bố!

Nước mắt hai cha con hoà vào nhau. Con trâu, phải rồi con trâu trung thành của vợ cũng rơi những giọt nước mắt thương cảnh ngộ cha con anh.

Anh có nhiều nghề: Sĩ quan, thợ pháo, làm sử... có lúc nào đó viết lách những mẩu tin vụn vặt, những câu thơ không hồn. Người đời bỡn cợt gọi anh là “nhà báo”.

Xóm nhỏ núi đá đói nghèo muốn anh làm một chức vụ gì đó che lợp cho cảnh đời đơn côi. Một vài người nào đó muốn cập kênh du anh lên làm đối trọng với một phe phái nào đó. Nhưng anh nào biết nhiều nhặn gì về nghề lãnh đạo. Ngay nghề làm ruộng anh cũng mù tịt, anh làm sao chỉ huy được dân. Anh chỉ có khả năng hoà nhập vào người lao động, là dân của miền quê nghèo đói này.

- Bố lại lái xe trâu của mẹ chứ bố? - đứa con gái trìu mến hỏi anh.

- Ừ! Bố sẽ lãnh đạo con trâu! Câu trả lời vô tình của anh đã thành lời nguyền cùng người vợ tội nghiệp. Anh biết đâu, con trâu lại dẫn cuộc đời anh đến với Hân.

- Anh Liệu! Anh Liệu... ngủ rồi hả? - Hân nhổm dậy cù vào nách anh. Buồn à, nhớ... hả?

- Không! Anh đang nghĩ xem tạo sao chúng mình lại đến với nhau...

- Tạo cái số đấy thôi! - Hân dai dẳng nhắc lại cái ý nghĩ của mình...

Tại cái số cả đấy thôi... Câu nói của Hân dội sâu vào tâm trí của Liệu... Tiếng vó trâu lộp cộp nện trên nền đường. Những vì sao nhấp nháy. Cánh đồng sau mùa gặt gió phóng túng lùa qua. Một hương vị mà đồng ruộng mới có được, ngai ngái nồng nồng khảm vào Liệu, lúc đi xa thành nỗi nhớ nhung day dứt. Mùi vị khai khái từ mồ hôi trâu bay lên, cảm giác từ ấu thơ lần đầu nhảy lên áp mặt vào lưng trâu. Mằm rạp xuồng như hôn vào da trâu nhìn cánh đồng nghiêng trải ánh hoàng hôn. Giật mình nghe tiếng chuông nhà thờ đổ dồn, kịp nhận ra có ta ở trên đời.

- Tại sao anh lại đến với em? - Hân khẽ cù vào nách Liệu.

- Tại số cả đấy thôi! Liệu buột miệng nhắc lại lời của Hân.

- Tại cái số cả đấy thôi...Hân mở mắt nhìn những vì sao nhấp nháy... Tiếng vó trâu nện vào nền đường như gõ vào ký ức đời cô. Hân từng ước mơ... mơ vào đại học và cô đạt được được ước mơ đó. Bốn năm sau trở thành cô giáo cấp ba. Cô sẽ kể cho các em nghe về khát vọng của lòng mình. Cô tâm sự cùng các em cảm giác khi đặt chân ra thành phố... Nhưng chỉ hai năm đầu tiên, tất cả mọi ước mơ tan như ánh nắng chiều. Hân đã trao gửi thân phận mình như bao cô gái nông nổi dại khờ lần đầu yêu. Hân đã yêu như điên và lao vào cuộc tình. Hân tự hào vì chọn được người yêu là thầy giáo trẻ đẹp, hơn cô chục tuổi. Cô hãi hùng nhận ra bụng ngày càng căng lên, cô khóc tâm sự cùng anh. Rồi cuộc chia ly đột ngột như lúc đến. Người tình bỏ nghề đi kiếm sống nơi chân trời xa lạ. Lúc yêu anh thuyết phục say mê về nghề, khi chạy trốn anh nói bao lời đơn bạc về tiền đồ tối tăm, phũ phàng của kiếp người.

Hân trở về nơi mảnh đất sinh ra mình với nỗi tuyệt vọng, đắng cay...

Tiếng vó trâu gõ trên nền đường... Một giai điều buồn buồn, gặm vào ký ức.

- Ngủ hả?

- Không!

- Sao im lặng thế?

Họ tìm đến hơi thở của nhau.

Con trâu đi trước nhẹ bẫng, tỏ ra khó chịu. Con trâu đi sau cùng phải chịu đựng, thứ chịu đựng của đời trâu. Lầm lũi kiên nhẫn, có lẽ nó nhận ra câu chuyện của vợ chống gã xe trâu bằng mũi... còn tai điếc đặc kiểu tai trâu... Tám vó gõ xuống nền đường thành hai bè:- Cộc... cộc... lộc... cộc... ông thần nông rỗi rãi sau mùa gặt chổng mông xuống trần gian, tưởng từ đó tuôn ra sự ấm no của đồng nội.

*

Không còn nữa sự hồn nhiên của tuổi ấu thơ. Tia nắng đùa nghịch nhảy nhót lung linh trên ngực trần. Hương thơm của đồng nội ùa vào bỡn đùa trong mái tóc. Ước mơ và tuối trẻ làm ngây ngất tâm hồn. Ảnh hình đàn bò gặm cỏ trên sông đang uống sự thanh bình và mát rượi của đồng quê. Bận bịu cấy cày mùa gặt, mệt mỏi của nắng hè hong hao mồ hôi làm phai màu áo. Dòng sông quê mát rượi rên rỉ tháng năm dài. Ánh mắt chẳng còn nhìn thấy tia nắng trời, tắt lịm cùng hơi thở. Và cả tiếng thì thụp của con tim nữa, cả tiếng đập của trái tim non yếu đang rõ dần và bàn chân quẫy đạp trong bụng nhói đau...Chiếc ghế bắc để đứng thắt dây thừng bị đạp đổ chỏng chơ. Chiếc thừng thẳng căng treo thân thể Hân trên cành nhãn xum xuê, khó ai nhận ra được. Khuôn mặt màu hồng chuyển sang màu trắng bệch. Đôi mắt trợn tròn muốn bay ra khỏi hố mắt. Nước mắt li ti như giọt sương tưởng chừng đang bốc hơi. Đôi tay chới với tìm chỗ bấu bíu trong không gian.

Đổ xong xe vôi, Liệu đang dong xe trở về nhà. Hốt hoảng và ngỡ ngành nhìn thấy thân thể treo lủng lẳng trên cành nhãn. Miệng Liệu đắng ngoét không nói được nên lời. Thu hết sức lực nhảy qua bờ dào đầy gai. Đạp tung cành cửa bếp tìm được con dao dựa. Dồn hết sức lực nhảy lên, một cánh tay ôm cô gái một tay chặt đứt chiếc thừng, động tác quá mạnh làm cô đè lên anh, đập vai vào chiếc ghế chổng trơ cạnh bờ rào. Không kịp biết đau, Liệu ôm người con gái èo ọt như quả mướp đặt xuống đất. Lúng túng vụng về cởi nhanh nút thừng nơi gáy. Thọc bàn tay vào ngực. Xoa vào bầu vú mạnh làm cho sữa ứa ra tay anh. Còn sống không? Ghé sát tai vào ngực lắng nghe... lắng nghe...không nghe được gì cả. Liệu đưa miệng vào hút... ôi! có thật không? Còn sống hay chết rồi? Bế cố gái đặt trên xe trâu.

- Có ai khô...ô ông? - Quái quỉ cái xóm nhỏ khốn khổ này.

- Có ai... đâââấy... không? - Chẳng hiểu sao anh lại anh một cách vô nghĩa như vậy. Chưa kịp hoàn hồn. Quất mạnh con trâu bạc cho lồng lên, lao về phía bệnh viện.

Người ta đón xác chết trên tay anh chửi rủa.

- Đồ khốn nạn!...thế mà cũng gọi là đàn ông, con vợ đẹp như tiên thế mà để cho thắt cổ. Người ta tìm thuốc cấp cứu. Người ta rủa thằng chồng phụ bạc... Trước con người khốn nạn không ai lạnh tanh được. Bây giời Liễu mới đứng thở ra ồ ồ như trâu. Nước mắt tự dưng rụng qua khẽ mắt. - Sống không? - Anh hỏi.

- Sống sít gì?... Xê ra - Bà bác sĩ quát.

- Sống rồi! - Tiếng nói như lời phán quyết của thượng đế.

- Khốn nạn! - Vẫn lời bà bác sĩ già văng vào mặt Liệu - Có triệu trứng cái thai đòi ra đây này. Làm sao đến nông nỗi này hở thằng chồng kia?...

- Xin các bác sĩ cứu sống mẹ con cô ấy! - Liệu cố nói cho rõ tiếng. Không hiểu trời đất phù hộ hay sao mà cả đứa trẻ và người mẹ đều sống. Đến lúc ấy, tiếng gà kịp gáy. Bà bác sĩ hất hàm hỏi Liệu.

- Tên?

-....

- Tên vợ?

-....

- Lý do.

- Đấy!... xin mời đức ông chồng ký vào hồ sơ bệnh án... khốn nạn... Liệu lúng túng cầm lấy bút ký.

Một tuần sau, trên chiếc xe trâu anh chở mẹ con Hân về ngôi nhà dưới gốc cây nhãn.

- Thôi! Cô ở lại đây nhé!

- Anh là ai?

- Tôi là gã xe trâu!

- Anh đừng bỏ mẹ con em nhé!

- Không!... Tôi đã có vợ rồi! - Liệu nói cùng cô gái.

- Không biết được. Sao anh lại cứu mẹ con em làm gì. Anh để cho em chết có đi có hơn không? Cô gái oà khóc.

Tiếng người lao xao phía ngoài bờ rào.

- Đồ đĩ thoả!

- Thế hoá ra nó ăn nằm với thằng xe trâu!

- Trời ơi! Khổ cho vong linh ông bà ấy hiền lành.

Liệu muốn gào thét lên: hỡi các người bạc ác kia ơi! Các người không có quyền nguyền rủa cô ấy. Ánh mắt van xin của cô gái làm Liệu dịu lại. - Em tên là gì? - Anh hỏi.

- Em... Hân! - Cô gái ôm đứa bé đỏ hỏn áp vào anh khóc.

- Đừng khóc nữa! - Anh khẽ xoa đầu Hân.

Tình cảm của người đàn ông, của người cha bao dung trào lên trong anh.

- Kìa anh chị vào nhà đi chứ! - Một người đàn bà đen đúa, mắt toét khẽ gắt.

Anh đưa me con Hân vào nhà. Anh nói cùng người đàn bà xấu xí.

- Bác lo cơm nước cho cô ấy mai cháu sang ạ!

- Anh... đừng bỏ mẹ con em nhé! - Hân khóc.

Con trâu buộc nơi gốc nhãn nhễu nhão nhai, dường như đang ngẫm nghĩ về sự đời.

*

Đám cưới gã xe trâu và Hân chẳng có gì sang trọng. Không đốt pháo, không áo cưới, không mời mọc bạn bè xa gần. Chỉ có mâm cơm cúng bố mẹ của Hân và mời họ mạc đến chia tay. Người khinh khi đến dòm ngó, chửi đồ vô phúc. Người dở nôm dở ta đến xoá đi cho cái lỗi cuộc đời, rơi giọt nước mắt ăn bát cơm gọi là. Có người am hiểu cuộc đời cho là phải lẽ, cái cảnh rổ rá buộc lại, còn bao nhiêu người muốn biết thêm chuyện cũ mèm của dương gian.

Chỉ có chiếc xe trâu chở đồ lề và mẹ con cô dâu. Một chiếc vali thời sinh viên, vài chiếc xoong nồi méo mó. Anh chồng bảo để lại, nhưng Hân xin đưa về vì nó gắn bó bàn tay chăm bẵm của mẹ thầy.

Hân ngồi trên xe ôm đứa con, nước mắt chảy ròng ròng. Thôi, tất cả kỷ niệm và ước mơ thời thơ ấu để lại phía sau. Cuộc đời nhọc nhằn đang chờ đợi Hân. Dù sao, nơi con người anh Hân chưa từng yêu dấu, nhưng mang nặng sự hàm ơn đến chết cũng không trả nổi. Anh, Hân còn bao bỡ ngỡ và lạ lẫm nhưng số phận đã run rủi cho Hân gặp được.

- Anh, bế hộ con cho em tí nào!

- Em đi đâu?

- Anh chờ em một chút thôi.

Liệu lo lắng nhìn vào nhà. Anh sợ Hân làm điều gì dại dột. Hân dẫn một bà đen đúa, mắt toét mà hôm trước anh đã gặp. Tay Hân cầm ba nén nhang.

- Cháu đi lấy chồng. Cháu biếu bà căn nhà của bố mẹ cháu để lại - Nói đến đó Hân ôm lấy bà khóc.

Chiếc xe trâu lăn bánh trên con đường cà khổ. Phía sau là chàng xe trâu, đầu trần đen láng đi theo. Tiếng vỗ tay của trẻ như gieo mừng như xua đuổi, được xem một lớp kịch lạ đời. Người lớn hai bên ngõ dồn vống lại nhìn. Trong mỗi tiềm thức trỗi dậy sự so sánh liên tưởng đến đoạn đời người. Chẳng hiểu sự khing bỉ hay lòng ghen tị về sự lạ.

Chiếc xe đủng đỉng... đủng đỉnh, chở ba sinh linh của tạo hoá ra đi. Hân không ngờ có ngày cô rời làng đi lấy chồng kỳ dị như vậy. Còn Liệu như mơ, không nghĩ ngợi, không âu lo... Anh tưởng mình đã gặp Hân từ trong tiền kiếp. Anh yêu nỗi bất hạnh, sự liều lĩnh phẫn chí của Hân. Anh không ngờ con trâu của vợ anh lại dẫn đời anh đến đoạn này.

Con trâu đủng đỉnh chở Hân ngồi ôm con, mặt như tạc bằng cẩm thạch. Đằng sau Liệu thập thững đi theo.

Đám cưới chỉ có ba người. Hân ôm đứa con, đứa con còn đỏ hỏn và Liệu. Nếu kể thêm phải có con trâu bạc đang kéo xe. Nó kéo họ hút vào con đường xuyên qua cánh đồng chiều.

*

Liệu thực sự yêu Hân, yêu đứa con không phải do anh sinh ra, không phải vì đời anh quá nhiều khắc nghiệt mà anh đón hạnh phúc gá lắp tự trên trời rơi xuống. Mà mỗi cử chỉ, lòng ẩn nhẫn của Hân đối với anh như đã hẹn gặp trong sợi tơ giăng của tạo hoá. Anh nhớ như in lời của Hân phát biểu nơi xóm nhỏ nghèo nàn, bên những chiếc lò vôi lỉnh kỉnh, cũ xưa của quê anh.

- Thưa... với nhân dân... nhà em có hai con rồi! Anh ấy một và em một, nhưng em xin nhân dân đẻ cho anh ấy một cậu “lái xe trâu” - Người ta nhận ra những giọt nước mắt mà miệng Hân vẫn cười cười...

Con trâu đủng đỉnh gõ vó xuống nền đường. Khúc nhạc trầm buồn, xa vắng dội vào muôn thuở. Liệu gác hai chân vào mông con trâu, tay ôm choàng lấy vợ.

- Nhảm!...Người ta cười cho thối mũi ra đấy!...Cái lão cuội cù lần ơi!

Đường gập ghềng. Tiếng vó trâu lộc cộc đập trên con đường cà khổ. Con trâu dường như nhận ra sự rung lên của sức nặng. Chiếc xe trâu siêu thoát cùng vợ chồng xe trâu bay lên hoà nhập cùng dải thiên hà xa xôi./.

Xóm trọ ven đô

Truyện ngắn

. NGUYỄN XUÂN HOÀ

Đã mấy tháng nay, trong những giấc mơ luôn đứt đoạn và miên man, Vi thấy xung quanh mình toàn rác. Căn phòng vốn nhỏ bé như không thể nhỏ hơn ngập những thứ mà cô vứt đi hàng tuần nay. Hồn nhiên và kiên trì, chúng tự động trở về họp mặt đông đủ và có trật tự. Nơi này cách không xa bãi rác. Nhịp sống sôi động càng xả ra nhiều rác hơn làm bãi rác quá tải. Thượng vàng hạ cám qua tay con người thảy đều gặp nhau ở đó. Thỉnh thoảng ai đó châm cho bãi rác một mồi lửa, khói cuộn lên khiến Vi phải chạy vào toalet dùng chung để nôn oẹ trong vài phút, tiếng gõ cửa bên ngoài gấp gáp, nhanh lên chứ, thử “que” trong đấy à?...

          Hay là tại Vi dạo này làm dự án vất vả nên hay ngủ mê. Hay là tại Vi mấy hôm nay nghe quen cái giai điệu của một thông điệp trên ti vi do mấy diễn viên mặc bộ đồng phục xanh – vàng vung tít chổi mà hát “hãy phân loại rác vì đó là tài nguyên quý”! Rác ơi là rác, sao cứ ở đây nhỉ, hiện hữu như chúng mới thực sự là chủ căn phòng nhỏ tí này. Căn phòng mà khi thu nhập của Vi khá lên, cô mới quyết định tạm biệt căn phòng cũ tồi tàn hơn để sang đây. Ôi, những xóm trọ như bao xóm trọ vùng ven đô này. Những sinh viên đeo kính cận ở xen kẽ chú lao động ngoại tỉnh, chị buôn thúng bán bưng, bác đồng nát vui tính, chị ca - ve làm ca đêm... Những ngõ nhỏ rải rác bơm kim tiêm, bóng tối đồng loã với những cuộc ngã giá chớp nhoáng, tiếng chửi thề, tiếng rồ máy phả khói khét lẹt… Được mỗi cái là giá phòng trọ không cao lắm, phải gồng mình lên, chung sống và riêng sống.  

Dù sao đây cũng là phòng khép kín, Vi có thể đóng cửa và ngủ bù suốt cả ngày nghỉ như một sự bồi dưỡng đơn giản rẻ tiền nhưng không dễ kiếm. Căn phòng trước “không khép kín”, nó ẩm thấp hơn, nhiều muỗi và gián. Muỗi tuy đáng sợ vì dễ lây bệnh, ở một mình sợ nhất là ốm, nhưng mắc màn là xong. Khi ra khỏi màn, Vi lăm lăm cái vợt muỗi trông như ngôi sao quần vợt giải Uym - bờ - lem - đơn mở rộng. Nhưng lũ gián thì thật kinh dị, chúng xộc vào thức ăn, giấy tờ, sách vở, quần áo của Vi, vừa nhấm nhá, vừa sinh đẻ, vừa bài tiết một cách thiếu qui hoạch tổng thể. Có bận, bộ hồ sơ cô vừa về quê làm xong mất bao công lao thì chỉ vì mất cảnh giác mà hôm sau đã nham nhở và khai khét, tình thế thật dở khóc dở cười. Chúng ẩn nấp sau lớp giấy dán tường, chúng bò lên tóc, hứng chí lên chúng xoã cánh bay ngang mặt, chạm nhẹ đôi râu hôi hám lên má cô đang hoen nước… Cô tủi quá chạy sang khóc với ông Hào…

Ông Hào, mọi người trong xóm này còn gọi ông là pháp sư nửa mùa, bởi ông hành nghề cắt tóc nhưng lại biết xem tướng khá hay. Thỉnh thoảng, ông còn đi cúng cho mấy bà sồn sồn mê tín có tiền và rỗi việc. Ông Hào bảo, tớ đứng cả ngày mỏi chân lắm, mà theo Đông y thì đứng lắm hại xương, nên thỉnh thoảng ngày rằm mồng một ngồi cúng đâm ra được thay đổi tư thế, thích ra phết! À mà thời buổi cạnh tranh khốc liệt, trên thị trường cắt tóc của tớ lại có các em mắt xanh mỏ đỏ chân dài tham gia, nhưng tớ vẫn làm không hết việc đâu. Ngoài trình độ chuyên môn cao ra lại có thêm cái bài xem tướng nữa cho nên khách quen là vẫn giữ được. Ngày xưa, tin hay không là tuỳ các cậu, ông tổ năm đời của tớ cứu được một cụ rùa to ơi là to, cụ bị lật chổng bốn vó lên trời khua khoắng mãi ở bên bờ suối. Cụ tớ đi cắt cỏ cho trâu về thấy vậy biết là rùa thiêng bèn cúi xuống cố sức lật cái mai cụ lên, nặng quá! Cụ rùa xuống được, hỏi, có cầu điều gì không, cụ cho. Cụ tớ bảo, con vất vả khổ sở quá lại hay bị bắt nạt, chỉ mong  sau này con cháu được vít đầu vít cổ thiên hạ cho bõ tay. Ôi dào, tưởng được làm ông to bà nhớn, hoá ra từ đời ông tớ đến nay chỉ toàn đi cắt tóc dạo lấy tiền độ nhật. Khổ nỗi nghề gia truyền mà chẳng ai treo biển, lại chả được phong nghệ nhân nghệ nhiếc gì ráo. Hì hì, chỉ có mỗi cái thú là vít đầu vít cổ thiên hạ. Tớ sờ mãi các loại đầu mặt đàn ông đâm quen. Lúc đầu cũng là nói khơi khơi dăm câu ba điều, ai ngờ cũng trúng được vài ý, các chú thấy thích, tưởng mình biết, cứ gặng hỏi. Chà chà, thế là tự dưng khoác áo ông thầy ẩn dật, khách đuổi đi không hết. Có ông về hưu đầu hói, tóc bạc cứ một mực lẩm bẩm, nghề của ông nhân văn lắm, nhân văn lắm! Hình như con người ta vừa thích lại vừa sợ khi tìm hiểu chính mình hay sao ấy. Lại thích nịnh, thích lừa dối chính mình để sống. Ôi, vị ấy công thành danh toại, cũng sự nghiệp lắm, vậy mà nhìn tóc mình thưa rụng cũng cảm khái khóc tu tu. Lại có ông khoe, nhà nhiều sâm nhung lắm, phen này phải kiếm bà bé. Tớ bảo, không giữ gìn nguyên khí, uống trăm thang thuốc cũng bằng không. Sống với bọn đàn ông suốt ngày e dương thịnh quá. Nghe thế, một khách cắt tóc của tớ về phô với vợ, bà này mắt tròn mắt dẹt coi tớ là một cao nhân thực thụ, mời tớ về cúng keng tại nhà. Trò đời, càng thanh minh là mình không biết người ta càng không tin. Tớ tự nhủ, thôi cũng là cái cơ duyên, hay mình có căn quả gì chăng. Âu là giúp  họ thanh thản về đường tư tưởng cũng chẳng hay lắm sao. Mình cúng qua loa rồi chỉ khuyên người ta siêng làm việc thiện, tự khắc tai ương sẽ qua. Được cái xôi, oản, bỏng, chè với hoa quả thụ lộc sau khi cúng còn xơi được đến tận hôm sau. Khá thật! Đỡ được bữa nào càng dư tiền gửi về cho bu nó ở dưới quê. Khổ, chặp này chăn nuôi tệ quá cơ, Vi ạ!

Những lúc vắng khách, ông Hào lấy chổi gon đống tóc của khách bỏ lại. Phần dài ra của những mái đầu xa lạ quyện vào nhau thật không ngờ có duyên hội ngộ. Có thể trước đây mấy phút chúng còn chễm chệ trên đỉnh đầu,  được vuốt ve chải chuốt bóng loáng, thậm chí còn loè được thiên hạ đằng khác. Đàn ông cắt xoèn xoẹt liên tục không sao chứ đàn bà nặng tình với tóc hơn, họ còn cắt ra để thề thốt với tình nhân, thế mới biết người xưa lãng mạn hơn bây giờ. Tóc xanh, cứng, mềm, khô đều biết nói cả đấy. Chia tay chủ nhân, bây giờ chúng là của ông, ngoan ngoãn, yên lặng như thiêm thiếp ngủ. Chỗ tóc này không phải là rác vứt. Thỉnh thoảng có người đến cân tóc, mang đi, người ấy sẽ trả ông một khoản tiền nhỏ, ông coi đấy là một thứ lộc của nghề nghiệp mang lại. Được cái, chỗ tóc này đều màu đen hoặc bạc, thứ tóc thật màu chứ không phải vàng hoe như của thằng Vàng...

Thằng Vàng, con cô Trầm, người của công ty môi trường đô thị. Công việc chính của cô là thu gom rác thải và quét đường phố. Cô bắt đầu công việc của mình lúc mọi người đã đi làm về và ăn cơm tối. Những tiếng chuông leng keng đầu ngõ gọi mọi người đổ rác, những nhát chổi dài tảo tần cặm cụi miết trên đường phố, những bộ đồng phục xanh có đính những vạch phản quang màu vàng để xe cộ trên đường dễ thấy. Cô Trầm hơi tự ti về nghề nghiệp của mình, họ vất vả vì ý thức người dân còn thấp, kẻ thì vứt rác lung tung, kẻ thì quẳng bọc rác vào cả người cô. Trong một đêm mưa, cô vẫn lúi húi quét thì bị một chiếc xe máy tông phải rồi chạy mất. Cô bị thương ở bàn chân, ra viện cô đi hơi tập tễnh, từ đó cô càng trầm hơn. Cô Trầm sống độc thân, khi cánh đàn ông chưa vợ buổi tối đi “tìm hiểu” thì các cô đang ở ngoài đường rồi. Cô sống một mình như thế cho đến khi bắt gặp  ở bãi rác có một cái làn trong có một thằng bé xinh xắn đang ngủ say sưa. Các đồng nghiệp đã đi trước cả, bỏ găng tay ra, bỏ cả  khẩu trang, cô bế thằng bé. Ánh đèn đường soi  mặt nó, nó khóc oe oe, thốt nhiên lời cô nựng tự bật ra. Một tình cảm như tình mẫu tử ùa đến, mênh mang, lay động. Ứa nước mắt nhưng khoé miệng cô lại cười. May cho thằng bé chưa bị lũ chó hoang  xâm phạm, một thử thách và cũng là một món quà của số phận cho cô.

Trầm dành đồng lương ít ỏi mua sữa cho thằng bé, cô tiếc không thể dành cho nó sữa của chính mình. Cũng may cho Trầm, cả ngày cô có thời gian bên nó, buổi tối đồng nghiệp của cô cho về sớm hơn. Thằng bé được cô gọi là Vàng. Con bị vứt đi ngoài bãi rác, nhưng là cục vàng của mẹ, và bởi mái tóc tơ hoe vàng của nó.

Vàng lớn lên trong sự yêu thương, và chính tình yêu đó làm Trầm lấp lánh những nụ cười hạnh phúc. Cô thấy phải dành cho nó nhiều hơn. Tối tối, những bước chân đẩy xe của cô tự tin và vững vàng, thằng con trai nhờ hàng xóm trông có thể còn chưa ngủ đang chờ mẹ về. Cô mong làm thật nhanh phần việc của mình để về với nó, hôn lên đôi má thơm thơm, vầng trán dễ thương và hai mẹ con sẽ cùng mơ một giấc mơ thật đẹp…

Bây giờ Vàng đã hơn mười bốn tuổi, mọi người quen gọi là tuổi “teen” thì phải. Thế hệ nó được gọi và cũng tự xưng là 9x. Tuổi chúng nó bây giờ cao ráo, trắng trẻo, và  dậy thì sớm hơn thế hệ trước. Chúng cũng  nhí nhảnh, hồn nhiên tệ, dễ dàng tiếp nhận những thần tượng đủ kiểu mà thế giới giải trí mang lại. Đối với nhiều đứa, cuộc sống là nghe nhạc, chơi game, đua xe, nhuộm tóc… Lác đác có những đứa nghỉ học vì nghiện hút và phá thai. Trong đám choai choai ầm ĩ một cách nhạt nhẽo, thằng Vàng chợt nổi lên vì cao to hơn bọn con nhà khá giả tay chân lại khẳng khiu, bợt bạt. Trong khi lũ cùng lứa thường xuyên phải nhuộm lại tóc, Vàng  khác bọn nó bởi mái tóc vàng tự nhiên, sang tuổi dậy thì bỗng thêm phần óng ánh lạ. Một thoáng u sầu và suy tư làm nó già trước tuổi, nó thường tách ra khỏi đám trẻ. Nó trở về với công việc yêu thích là biến những vỏ lon nước ngọt, lon bia, hay đám đồ nhựa cũ, nó sẽ cắt tỉa thành những giỏ hoa, vật trang trí hay một thứ đồ chơi ngộ nghĩnh, để lâu lâu lại đem cho khắp lượt. Một số đứa cùng tuổi đã chán cái thế giới đồ lưu  niệm tái chế của thằng Vàng. Chúng rủ nhau khám phá thế giới người lớn đầy hấp dẫn, Vàng trở nên chậm chân trong hội nhập. Nếu là những đứa khác thì đã bị bọn bạn cho một trận nên thân, nhưng ở Vàng vốn đã loé lên những tia sáng khác làm bọn bạn phải phải dè chừng. Nhiều đứa rất muốn lôi kéo Vàng vào những cuộc chơi bất tận, có một thằng được mang về từ bãi rác nhập hội chẳng hãnh diện lắm sao.

Lúc rảnh rỗi, thằng Vàng kiếm đâu cây ghi ta cũ, nó gẩy phừng phừng một bài hát chát chúa không biết học ở đâu:

Ôi bãi rác muôn màu sắc

Hàng xịn hay hàng nhái

Cùng hội tụ về đây

Bông hồng nhung, giờ vô lý quá!

Rác, nằm bên nhau như bạn bè,

Không phút giây lừa dối

Rác, ngủ quên đi, hãy quên chính mình,

Rồi hoá thân vào ngày mới… 

Tình cờ, Vi tìm được người cậu ruột lưu lạc nhiều năm. Xã ngoại thành nơi cậu sống lại nằm trong dự án làm sạch môi trường của nhóm Vi. Tối hôm trước, phát hiện một con gián nhỏ trong hòm gỗ, Vi đã chủ động tấn công. Con gián chạy trốn trong tuyệt vọng đã lao vào gói đồ của mẹ để lại, làm Vi buộc phải lục tung. Một bức thư cũ của cậu đã ố vàng đã rơi ra từ trong khe bìa cuốn sổ của mẹ. Bức thư mà mẹ đã cất kĩ rồi lại tưởng mất. Sau những lần mẹ con Vi chuyển chỗ ở, cậu đã mất liên lạc. Trước khi ra đi, mẹ đã dặn Vi cố gắng tìm người cậu duy nhất. Giờ đây, Vi có được địa chỉ của cậu nơi những nét chữ đã nhoè thêm một giọt nước mắt nóng hổi nhưng không thể đọc lầm.

Không khó khăn gì, Vi đã lần ra cậu, đúng cái nơi mà Vi đã điều tra thực tế ô nhiễm nhiều ngày. Trông cậu già hơn Vi tưởng tượng, dáng cậu liêu xiêu làm Vi nghẹn lòng. Nắm bàn tay gầy guộc, khô ráp của cậu, rồi nhớ tới mẹ nữa, Vi oà khóc …Cơn xúc động làm cậu ho một tràng dài trong căn nhà nhỏ tạm bợ bên bờ sông. Cậu bảo, lên thành phố không nghề nghiệp gì thật khó trụ lại. Cậu không quen cảnh chụp giật chợ trời. Cậu và mợ dạt ra ngoại thành sống bằng nghề bắt cá tôm trai hến trên dòng sông này, chẳng khác ở quê bao nhiêu, cũng sống được. Rồi cậu quyết tâm dành dụm đồng thời vay lãi đóng một loạt lồng cá nuôi trên sông, thế chấp bằng chính những bè cá đó. Cậu chắc mẩm sẽ thắng lợi, có món tiền về quê thăm chị, nào ngờ… Chẳng phải lũ cuốn, chẳng do mất trộm, chỉ là những nhà máy ở khúc sông trên xả nước thải ra sông, thế thôi, một việc thật bình thường với họ. Họ cũng không nghĩ rằng đã làm cho ít nhất một người phá sản. Lũ trắm, chép của cậu đang lớn như thổi, đẹp như trong tranh bỗng há miệng chết, nổi đặc trong lồng. Cậu bỗng trắng tay, cậu bỗng thành con nợ lớn. Mợ sợ quá đã bế con chạy trốn và nghe đâu đã bỏ thằng bé để theo một người đàn ông lạ, lên tàu đi biệt tăm. Cậu đã ở lại, không tiền trả thì làm không công cho cho chủ nợ nhiều năm. Cậu không thể có tiền về quê nữa. Thức ăn của cậu vẫn kiếm từ dòng sông đó, thỉnh thoảng sông đỡ hôi thối hơn, có chút trai hến sống lay lắt lại nuôi đời cậu lắt lay. Dăm năm nay, nợ đã trả hết, nhưng sức cậu yếu nhiều, phần vì vất vả, phần vì cô đơn, phần vì cậu đã ăn nhiều thứ thuỷ sản ô nhiễm ở dòng sông này… Nhiều người ở đây đã phải vào viện K, còn cậu cũng chưa dám chắc có khối u nào không. Cậu cười méo mó, hay mình cũng đang ở “giai đoạn cuối” rồi chưa biết chừng. Nhắc đến thằng Cò, cậu lại thở dài, không biết nó còn sống không, đang làm con mày, con nuôi nhà ai. Thôi cũng có thể là may cho nó, chứ ở với cậu thì khổ quá, mà cũng gần mười lăm năm rồi còn gì…

Chuyện của cậu thật buồn mà không biết trách ai. Ôi, giá như, lại giá như, dòng sông này trong lành như vốn có, cậu hẳn vẫn giữ được một gia đình hạnh phúc, và mẹ của Vi đã không phải ân hận trước khi nhắm mắt vì không gặp được em trai…

Hai cậu cháu ăn với nhau một bữa cơm trong bùi ngùi mừng tủi. Ngày cậu rời quê ra đi, Vi chưa đầy tám  tuổi. Chỉ nhớ cậu khéo tay, hay lấy đất sét nặn con giống cho Vi chơi. Cậu còn lấy lá mít làm con trâu có hai cái sừng cong vút, cậu kéo sợi chỉ buộc ở cọng lá, con trâu cúi đầu lia lịa làm Vi cười như nắc nẻ vang khoảng sân nhỏ trước nhà…                  

Cậu ăn ít, chỉ nói chuyện tích tụ bao năm ròng, hơi lộn xộn, thỉnh thoảng phải ờ à ở giữa. Cậu gắp một con cá định bỏ vào bát Vi rồi lại nặng nề bỏ xuống như sợ cháu gái nhiễm độc vậy. Cậu uống hết mấy chén rượu nhỏ. Không có cái này buồn chết, Vi à! Không đợi Vi ngăn, cậu chỉ uống thế mà đã say mèm.

Khi Vi lúi húi thu dọn  còn nghe vẳng cậu hát trên nhà :

Xỉa cá mè ơi là đè cá chép/Con nào đẹp đem tiến vua/Con vừa vừa đi chợ huyện/ Con niềng niễng để kho tương/ Trời chẳng thương, trời lấy cả/ Bóng chim, tăm cá/ Biết tìm nơi đâu?...    

Về xóm trọ, Vi thấy vắng hơn mọi ngày, rồi cũng sẽ phải vắng thôi vì một nhà máy xử lí rác thải sẽ mọc lên ở đúng nơi này. Không thấy thằng Vàng ngồi bên cửa gọt giũa mấy món đồ của nó. Theo lịch, Vi về dạy nốt nó bài phương trình bậc nhất hai ẩn.

Vi định sẽ đón cậu về quê, sau khi đưa cậu đi kiểm tra sức khoẻ. Ở quê còn vườn rộng và đỡ ô nhiễm hơn. Bật cười, Vi nghĩ, nếu thằng Vàng lại chính là con trai của cậu thì sao nhỉ. Cậu ở luôn với cô Trầm thì gọn quá, không biết cô ấy có bằng lòng không. Được rồi, Vi sẽ bí mật lấy hai sợi tóc của hai người đi thử ADN xem sao…

Bà chủ nhà chạy sang phòng Vi như có gì nghiêm trọng. Vi, cháu chưa biết gì à. Bà tuôn một hồi. Ông Hào với thằng Vàng bị công an bắt đi rồi. Trời ạ, thế có khổ tôi không cơ chứ. Tại tôi tin người, cho ở rồi người ta mang hê rô in vào cả nhà mình. Đúng là quân đồng cốt quàng xiên, phường vít đầu vít cổ thiên hạ lấy tiền. Lại còn thằng ranh con nhặt về từ bãi rác nữa chứ. Tôi biết ngay mà, tóc vàng hoe, con không cha chẳng ma nào dạy, chắc chắn nghiện hút từ lâu rồi, không khéo lại có “ết” nữa. Chúng mày về đây bà đuổi thẳng cổ. Trời ơi là trời…

          Vi thấy ù cả tai, cuộc sống đã dạy cô không dễ thất vọng, và cũng không thể tin ngay vào chuyện đó nhưng sự thực là sao đây. Vi lấy xe, ra đường đi với miên man ý nghĩ. Ông Hào cặm cụi cắt tóc kiếm từng đồng gửi về cho vợ phải chăng thấy quá vất vả so với buôn ma tuý nên đã làm liều. Vi cũng biết, không ít người ở phố, ở quê lên đã choáng ngợp trước đồng tiền mà để mất mình. Còn Vàng, thằng bé biết chăm mẹ ốm, ủ cơm trong chăn ấm phần mẹ, biết thổi hồn vào phế liệu… chẳng lẽ nay đã sa chân tuột dốc với đám bạn xấu ngay từ tuổi trăng rằm. Đáng buồn vậy sao…

Đang đi và nghĩ ngợi thì điện thoại rung. Vi táp vào lề đường và dừng xe. May cho Vi, vừa hay đằng trước là một hố ga lớn bị mất nắp, nếu không cô đã sa xuống rồi. Alô! Chị Vi à! Sao không ở nhà chờ em, em vừa về, em mong chị… 

Ôi,  thật rồi! Vàng không thể, không bao giờ  như bà chủ nhà nói, Vi mừng quá, vội quay xe về…

Thì ra có nhiều chuyện xảy ra ở xóm trọ này nhanh quá mà Vi không biết, ông Hào từng là một tay anh chị đã rửa tay gác kiếm. Một lần tình cờ phát hiện có mùi ma tuý trên tóc của một vị khách cứ mỗi tuần lại ghé quán ông. Tóc còn ngắn thì đòi cạo mặt, ngoáy tai. Khách bảo, nghe nói, ông giỏi “xem” lắm.  Ông Hào rằng, tôi biết gì đâu, chỉ nhớ, đời là khổ hải, biết quay đầu lại là đến bờ. Khách thở dài, mũi tên đã bay không trở về được, nói đoạn, trả tiền rồi đi. Thằng Vàng khi đi kiếm phế liệu cũng tình cờ phát hiện điểm trung chuyển ma tuý ngoài bãi rác… Bên công an đã theo dõi từ lâu nhưng bãi rác rất rộng, các đối tượng có thể tẩu tán nhanh, gây khó khăn cho việc phá án. Cuối cùng một phương án táo bạo được lập ra. Chỉ có Vàng hay tha thẩn nhặt phế liệu gần đó là không bị chúng nghi ngờ nên được làm “trinh sát”. Một số nữ chiến sĩ công an đã hoá trang thành các cô quét rác, đẩy xe ba gác lại gần, trong ngoài phối hợp đã nhanh chóng bắt gọn những kẻ gieo rắc tệ nạn. Tuy nhiên, khi vụ vây bắt sắp kết thúc, một kẻ đã liều mạng đâm Vàng. Chính ông Hào đã đỡ cho Vàng nhát dao đó nên bị thương…    

…Khi Vi vào bệnh viện thăm ông Hào, ông bảo, mẹ con cô Trầm vừa ở đây xong. May mắn, vết thương chỉ vào phần mềm. Ông Hào cười, lúc được chở vào bệnh viện tớ chợt nghĩ tới cái chết. Ngần ấy tuổi rồi, trải bao sóng gió của đời không thấy sợ mà thấy phí quá. Chợt nẩy ra ý nghĩ, bao nhiêu tim, gan, phèo, phổi… của mình cái gì còn tốt mà tặng lại những người đang cần đến nó thì khỏi phí của giời. Mà phải nhanh khi còn tươi nguyên mới dùng được. Vậy là mình có chết mà vẫn như sống. Có cách nào để nói với bác sĩ, nếu không, cũng thành bùn, thành đất cả, hoài của. Như cu Vàng nó biết tái chế rác thải ấy. Cái thân thằng người như tôi chẳng lẽ không bằng rác sao…

Vi cũng đùa, mạng bác lớn, chưa hết “đát”, chưa phải tái chế đâu…

Cùng lúc ấy, mấy bà sồn sồn hay mời ông Hào làm lễ  cũng vào thăm. Họ hỏi han tíu tít, xuýt xoa một lát thì quay ra buôn các loại chuyện. Không để ý có Vi ở đấy, các bà nói cả về chuyện nhận đền bù đất cát để xây dựng nhà máy xử lí rác thải. Nhiều người lì lợm đang chờ giá đất lên để đòi tăng tiền đền bù, có nhà cố tình trồng thêm các cành cây, xây cả mộ giả… để vòi tiền của dự án…

Vi lặng lẽ mở cửa phòng, bước ra ngoài hành lang bệnh viện. Cô định hít sâu một hơi bên bụi trúc đào, nhưng chợt phát hiện ra một mùi khói lạ. Vi vốn nhạy cảm với khói của rác. Hình như bệnh viện đang đốt rác thải y tế.

Nhìn về góc tây nam, gần nhà lạnh, một làn khói trắng đang nhè nhẹ bay lên.

Rất nhiều tế bào của con người đang cháy…Nhìn những sợi khói mỏng mảnh, Vi chợt nhớ tới người cậu, nhà của cậu cũng đang ở hướng đó. Muốn xét nghiệm ADN, Vi phải chọn cách khác thôi. Sáng nay, Vi mới hiểu tại sao cậu luôn sùm sụp cái mũ vải. Sống ở nơi ô nhiễm, gần chục năm nay, tóc cậu rụng hết cả rồi…

XÓM CHỢ CẠN

 Truyện Ngắn Võ Công Liêm

     Phê bình, tự kiểm làm chó gì ? Ỏm tỏi! Tụi bây khối cục u trong người, sạch sẻ gì mà phê với kiểm, họp với hành. Hắn nhủ thầm; đoạn vén quần lội ra bờ nước cạn rửa đôi chân. Mặt nước đen ngòm, chẳng thấy gì trên sông, ngước mắt nhìn trời đêm, bầu trời đầy sao lấp lánh. Hắn ngâm chân dưới nước, nhìn bâng quơ rồi quay đầu lội vô bờ. Hắn tự trách mình, trách vợ không làm gì nên nổi, lấy phải con vợ nhà quê, học vấn chưa qua lớp một cho nên văn vẻ như nước đổ đầu vịt. Vừa đi vừa tư lự, con Mực nhìn theo, lượn lờ với hai đốm vàng nâu trên mắt, gầm gừ trông dữ. Mực buồn vì sống xung quanh những thằng bất nhơn, có ngày cũng chết trên tay bọn chúng. Mực ức tiếng thở, vẫy đuôi bỏ đi. Chợ vắng trong đêm, bốc mùi dưa chua. Chả có cục xương cho Mực gặm. Mực lủi thủi mò về nhà chủ.

-  Mẹ kiếp! Có ngày tao cho mầy nằm trên thớt thịt mụ Đợi. Hắn nói trong đầu và đi vội về nhà, vợ đang chờ cơm.

Chuyên nhìn từ của sổ thấy thằng qủi cúi đầu đi, miệng lẩm nhẩm như thằng điên. Hắn đó rồi chớ còn ai nữa. Tại sao Chuyên nghĩ ngợi làm chi chuyện của người ta. Hắn đi hay đứng việc của hắn. Hay tại Chuyên thèm có ái tình. Tuổi nàng ngoài 40 động cỡn dữ. Bán rau ngoài chợ, ở với mẹ già trong căn nhà tranh mục nát chỉ nghe mưa và gió mỗi khi trở trời. Chuyên thèm tắm dưới mưa. Ghét cái thằng cha xã đội trưởng hay nhìn xoáy vào đôi vú của Chuyên, nịt kín thế, thấy cái chỗ nào mà chăm con mắt vào, thằng cha nầy không biết có vợ con chưa mà có máu ’d ê’ trong người. Kỳ hết sức; mà chả ai dám động tới nó. Động tới làm chi; một cái ’đầu tiên’ hai cái đầu tiên, thấy phát ớn.

Người ta cho hắn là thằng phản động. Thời buổi này hai chữ đó nghe xưa rồi mà không hiểu sao xã đội Tám cứ gọi Kiểm là phản động. Tám nghi ngờ Kiểm có tình ý với Chuyên. Kiểm 25 tuổi, còn độc thân con mụ Đợi bán hai món thịt chó và thịt heo, dân làng ưa lắm.Thiếu một trong hai thứ đó không được. Rứa thì cái thằng thường dưới sông đi lên chợ, miệng ấm a, ấm ớ là Kiểm ?. Đôi khi Chuyên không nhận ra được sự thật. Nghĩ mông lung; cái tuổi 40 thường hay vớ vẩn. Chuyên mong có cái gì đến với thị giữa lúc nầy cho khoẻ trong người. Rạo rực khó chịu quá. Nhứt là sau ngày trăng tàn, nguyệt lặn.

Hắn ngồi ôm hai đầu gối, nhìn trăng tắm trên sông. Trăng quyến rũ không phải dành cho mấy ông thi sĩ mà cả đám sống quanh chợ, nhiều lúc nhìn trăng cũng tấm tắc khen đẹp. Không chừng trong đám lu la đó có kẻ biết làm thơ. Đẽo thọc huyết heo biết làm thơ! Hắn ngồi ngắm trăng hay suy tư điều gì? Cái làng nầy nhỏ, dân cư sống rải rác cho nên thấy thưa; ai cũng trầm tư, kín đáo, kể từ ngày buôn bán theo lối kinh tế thị trường có định hướng. Mà có ma nào ở đây hiểu thấu suốt mấy chữ kinh tế với định hướng. Tư xích lô chả hiểu rành rọt lề lối làm ăn, bày đặt tăng cuốc xe. Thường bị chúng chưởi vào cái ’đạo dụ’ đó. Tư nghe chưởi nhưng cứ hành động theo chính sách. Dần dà mấy từ hoa mỹ đó biến dạng , không nghe buồn nhắc đến. Sau mấy năm; buôn bán lung tung, chợ đen, chợ đỏ tùm lum. Tám xã đội sanh chứng đề xuất nhiều cái bạc mạng, Kiểm sa đọa hơn, hút xách, rượu chè, buôn bán trái phép. Thằng cha có vợ thường hay xuống bến sông nhìn trăng sao, đút chân vô nước một chặp rồi lại quay đầu về nhà như thằng điên. Lại càng điên hung. Chuyên thì táo bạo, se sua, quần là áo lượt, điểm chút nước hoa ’Chùa Hương’ nội hóa, nghe mùi nồng, nhưng Chuyên lại thích. Cả làng thay đổi hẳn sau khi đổi mới.

Đêm nay trăng lu, Chuyên lại ưa đi rửa rau vào cái giờ chập tối. Cái   bóng   đen ngồi ôm đầu gối, hát thầm trong miệng bài ca đắc ý  ’Trăng Rụng Xuống Cầu’. Chuyên rửa xong đôi gióng, quảy lưng đi; nàng nghe rầm rầm sau lưng, tiếp đến nghe tiếng thở ào ạt, bất thần đẩy Chuyên vào bụi rậm, rau, gánh tung tóe.

-  Mần chi lạ rứa ? Ai …ai… đừng! Lôi tay ra. Tui la lên đây nè! Chuyên nói.

Trong phút chốc, tiếng Chuyên nghe dập trong bóng đêm chỉ còn nghe tiếng rên từng chặp rồi im bặt. Chuyên nhắm mắt như người bất tỉnh, chỉ thấy rờn rợn mấy giọt mồ hôi muối chảy trên mình nàng…

 Sáng hôm sau ; Chuyên đứng chải tóc dưới mái hiên tranh chờ nắng lên để xem chừng chợ đông chưa. Cảm giác đó đến một lúc khó cho Chuyên nhận định thật hư cuộc đời này. Tư xích lô mỉm cười chào Chuyên vào buổi chợ sáng và thong thả đạp xe đi kiếm mối cho đúng cái nền kinh tế hiện nay. Chuyên sống ở xóm chợ Cạn đã lâu nhưng lần nầy nàng thấy vui và nhẹ nhõm hơn bao giờ ./.

GIÁ ĐỜI

                                          - Truyện ngắn của Nguyễn Trọng Văn -

- Cậu là nhà văn à?

Lão chưa tới sáu mươi. Người thành phố mà sáu mươi tuổi coi như chưa được tính là già, còn phong độ chán. Nhưng nhìn cái tạng bủng bang cùng bước dật dẹo của lão thì ai cũng lắc đầu ngán ngẩm. Lão đâu phải tên là Khúng. Lão có một cái tên cũng nghe mạnh mẽ và đàng hoàng như ai. Nhưng hễ ai hỏi lão tên gì? Lão trả lời bằng một thái độ kiểu không quan tâm. Cũng không phải do mồm miệng lão móm mém. Lão nói không tròn âm nên rất khó nghe, do vậy ai cũng tưởng là lão nói tên mình là "Khúng". Để có phần còn tôn trọng tuổi tác của lão người ta gọi lão là "Lão Khúng". Lão Khúng ở vạ vật trong xóm Hòa Bắc. Xóm này thành khu tập thể với những dãy nhà năm tầng đã mấy chục năm nhưng vốn gọi là "xóm" nên quen.

- Cậu là nhà văn à?

Lão Khúng ể oải nghếch cặp mắt vằn đỏ lên hỏi lần nữa dò xét. Cặp mắt vằn đỏ không phải vì lão vừa uống rượu mà cái chính là hình như lão luôn mất ngủ. Mắt vằn đỏ của dạng người mất ngủ triền miên. Kể thì lão Khúng mất ngủ triền miên cũng phải. Lão đứng ngồi vạ vật rồi ngủ gà ngủ vịt không ra bữa và cũng chẳng ra buổi ở ngay trạm gác đầu cổng ra vào khu tập thể. Cái trạm gác này núp dưới tán rậm rì rì của cây si cổ, ban đầu nó chỉ là "Trạm bảo vệ" cho người dân của khu tập thể K. Sau này cái trạm gác ấy trở thành trạm "tuần tra nhân nhân" chung cho cả dân cư thuộc khối phố Hòa Bắc bao gồm khu tập thể Hòa Bắc và xóm Hòa Bắc cũ. Lão vạ vật ở trạm gác đó ngày ngày nhưng lại không chính thức là người của đội bảo vệ nên giấc ngủ cũng thất thường. Lúc đêm hôm vắng vẻ người ta mới cho lão vào nằm nhờ. Còn ban ngày hay chưa tới khuya lão phải gà gật kiểu nửa ngồi nửa đứng dưới mái hiên của trạm gác để nghỉ.

- Cậu là nhà văn à? Tôi chúa ghét cánh nhà văn.

Hôm nay trời lạnh khác thường. Lão Khúng co ro ngồi trên chiếc ghế nhựa, dựa lưng vào vách ngoài của trạm "tuần tra nhân dân". Cái tạng vốn bủng bang nhìn lại thêm tiều tụy. Lão vòng tay ôm bụng chẳng biết vì bụng bị lạnh hay bụng đang đói cồn cào. Lão ăn uống chẳng ra bữa. Cái chính là lão bữa nào kiếm được gì thì ăn nấy. Nói vậy nhưng lão Khúng là người khái tính bậc nhất "Hà thành". Lão không bao giờ thèm ăn của bố thí hay đồ thừa của nhà ai đó. Lão cũng chẳng bao giờ mò tới nhà người quen chứ nói gì tới nhà họ vào tầm nhà đó dọn mâm. Lão lại cũng chẳng thèm ngửa tay xin xỏ hay vay mượn.

- Cánh nhà văn các cậu xưa nay toàn viết truyện yêu đương nhăng nhít. Thế nên tôi chúa ghét.

Lão Khúng thật thà thú nhận việc lão ghét các nhà văn. Lần này thì lão thôi ôm bụng mà cánh tay vung ra kiểu những người mỗi khi nói là chém tay ràn rạt. Lão cũng có cái khiếu ăn nói giống y như các nhà hùng biện. Chỉ có điều bây giờ nghe lão nói chuyện phải căng tai ra mà nghe. Lỡ nhãng tai lơ là hay chểnh đi thiếu tập trung là không biết lão vừa nói gì.

- Mà này cậu thử viết cái gì đó đi. Cuộc đời này đáng để viết lắm.

Thì ra lão cũng là người có chính kiến. Lão ghét các nhà văn vì các nhà văn chỉ toàn viết truyện mùi mẫm. Những chuyện đời thường trái ngang nhiều vô khối hay những chuyện đời lắm rối rắm ít đụng vào. Lão ghét việc nói chỉ có màu hồng. Hôm nay lão có vẻ nhàn. Thực ra lão nhàn quanh năm. Hú họa lắm mới có người đảo qua, họ nhìn lão ngồi gà gật trên yên của chiếc xe máy cà tàng mà phân vân hồi lâu rồi mới tần ngần kêu lão chạy cho "cuốc" xe ôm. Nhưng người kêu lão chạy xe cũng phải là những người bạo gan. Nói thực ngồi sau lưng lão cũng chẳng sướng gì. Sợ nhất là lúc lão bắt đầu cho xe chạy. Chiếc "Rim" đáng thanh lý lâu rồi cùng con người lão phải khật khưỡng mãi mới ổn định được. Nhưng mà lâu lâu lão cũng làm được đôi ba "cuốc", nghĩa là lão còn kiếm được chút tiền.

- Tôi ở đây từ khi lên mười. Giờ thì bọn trẻ lên mười gọi tôi là ông.

Lão Khúng bắt đầu vào chuyện. Nghe lão kể chuyện coi như một cực hình vì lão một khi đã nói mà hứng lên thì vung tay chém ràn rạt. Cung cách đó chứng tỏ hồi còn trai trẻ lão là người ăn to và nói cũng lớn. Lão ở khu tập thể này từ hồi còn là một thằng trẻ con. So với đám trẻ con trong khu tập thể hồi đó thì bản thân lão và nhà lão có điều hơn hẳn. Thứ nhất là lão được ăn uống đầy đủ nên thể chất cũng kha khá. Thể chất ấy cho phép thằng bé con lên mười được lên mặt với lũ trẻ cùng lứa. Thứ hai là gia đình lão. Một gia đình vào loại có tiếng trọng trong khu tập thể. Cha lão, một vị lãnh đạo của một cơ quan thuộc nghành xây dựng. Còn mẹ lão, một bà cửa hàng trưởng cửa hàng thực phẩm cỡ nhất nhì thành phố.

- Hôm nay tôi phá lệ đấy nhé.

Lão Khúng vẻ mặt còn khách khí chìa tay đón chén rượu được mời. Lão đưa nó lên ngang đầu môi thì dừng lại. Lão không uống ngay. Lẽ thường với những người lâu ngày ăn uống tạm bợ thì chuyện có chén rượu phải hứng chí lắm. Lão ngược lại, lão nâng chén rượu lên ngang đầu môi dùng mũi để hít hà mới lạ chứ. Lão Khúng hít hà đến sốt cả ruột. Hít hà cho tới khi đã hít hết hơi rượu trong chén lão mới ngửa cổ dốc thẳng vào cuống họng. Đấy là lão vừa dốc chén nước lã chứ rượu lão uống bằng cách hít hà từ đầu rồi.

- Rượu chẳng cay bằng đời.

Lần đầu tiên lão Khúng buông một câu chua chát. Dường như lão đã nhập cuộc chuyện nên mới thả lòng mình. Cha lão, một vị lãnh đạo cơ quan thuộc nghành xây dựng nên rượu chẳng thiếu cho dù thời đó gạo ăn còn khó nói chi đến rượu. Rượu trong nhà lão luôn có đủ cho bốn cha con lão uống mỗi bữa cơm chiều. Nói thêm về cha lão. Đó là một người đàn ông nghiêm khắc. Mỗi khi ông lừ mắt sau cặp kính cận dầy cọm là anh em lão im thin thít. Ba anh em lão ngồi quanh mâm cơm cùng cha lão. Người đàn ông nghiêm khắc chỉ cho ba đứa trẻ ngồi hít hơi rượu chứ uống thì không. Cái chính là vào bữa cơm chiều bốn cha con phải ngồi bên mâm cơm cùng nhau.

- Cậu không ghi chép gì à? Mà ghi làm gì. Để tôi kể cậu nghe cho vui thôi.

Lão Khúng sau khi ngửa cổ dốc hết chén rượu thứ nhất vào cuống họng thì đến chén thứ hai lão lại trở nên thong thả. Lão chít chít đầu lưỡi và uống như uống từng giọt một. Sau tiếng "chít" lão mới khẽ khàng dùng lưỡi cuốn một giọt rượu nhỏ. Cách uống thật hiếm và lạ. Rất thanh tao mà cũng độc đáo. Bữa cơm chiều nhà lão luôn có rượu và luôn có mồi. Cha lão ngồi xếp bằng tròn, ba anh em lão cũng xếp bằng tròn. Cái mâm nhôm Liên Xô bầy toàn đồ nhắm nhìn mà thích mắt. Lão từ nhỏ đã khoái món đuôi lợn luộc chấm với muối ớt. Trong nhà lão có lẽ lão là người gần người cha hơn. Điều đó được thể hiện là cha lão luôn dành việc pha muối ớt cho lão. Chỉ có đĩa muối ớt do lão pha chế thì cha lão mới hài lòng.

- Chuyện dài lắm. Rượu cũng phải uống dè thôi.

Lão Khúng nhắc việc và nhắc luôn cả rượu. Từ ngày lão được cho tá túc nhờ ở trạm "tuần tra nhân dân" cánh bảo vệ không cho lão uống rượu. Lý do thật đơn giản vì trạm tuần tra còn kiêm luôn việc đăng ký khai báo tạm trú, tạm vắng cho khu phố. Đấy là nơi nghiêm minh. Lão ngồi ở đó coi như là "nhân viên" thì rượu uống sao tiện. Tối nay thật vắng vẻ. Những đứa trẻ bằng tuổi lão ngày xưa đều đã phải về nhà và học bài. Thời lão việc học cũng quan trọng nhưng không ráo riết như bây giờ. Nghĩa là bài tập xong thì nghỉ. Lão có biệt tài làm bài nhanh. Sau vài ba dòng chữ với những con số loằng nhoằng là lão kẻ vuông vắn ô ghi chữ "đáp số". Cha lão nhìn lướt qua thấy vậy gật đầu. Lão được chạy chơi. Thực ra cha lão có nhìn vào bài vở cũng chịu. Hồi "tiếp quản" ông xốc ba lô theo đoàn quân bước đi mạnh mẽ, bước đi ấy đã làm xiêu lòng bao thiếu nữ Hà thành. Nghe đâu về Hà Nội một hai năm gì đó ông "xây dựng gia đình" với một cô gái Thủ đô. Chuyện bà vợ ở quê với hai đứa con gái đã lớn coi như tạm gác đó. Ông cần có con trai để nối dõi. May thật đấy. Mẹ lão đẻ liền tù tì cho cha lão những ba cậu con trai. Lão là con thứ hai.

- Nhà văn các cậu chắc hiểu đời lắm nhỉ?

Lão Khúng ngừng chuyện hỏi cắt ngang. Chắc lão hiểu như vậy nên mới "bày tỏ" chứ lâu rồi lão sống khá khép mình. Không giao thiệp. Ngồi ngủ gà ngủ gật chờ sáng. Chén rượu thứ hai cuối cùng cũng đã cạn. Lão sẽ đặt cái chén không xuống chiếc ghế nhựa Song Long không có ai ngồi ngay trước mặt. Mắt lão lảng nhìn ra ngoài vẻ không hỏi thêm mà cũng chẳng nói thôi. Xưa nay lão vốn thế. Tuyệt nhiên không xin xỏ. Cho dù chết đói đến nơi lão vẫn không thèm hé câu "xin". Đấy là cái khí khái có lẽ ngoài lão ra chẳng có ma nào làm được điều đó. Nói chung là lão sống không chịu cúi mình.

- Cậu sẽ không thêm mắm thêm muối cho nó lâm ly bi đát chứ?

Lão nhắc khéo. Đấy chắc cũng là lý do mà lão nói ghét các nhà văn. Chuyện cuộc đời thêm mắm thêm muối làm gì. Bản thân nó đã "lâm ly bi đát" lắm rồi. Lão Khúng lại tự nhiên nâng tiếp chén rượu thứ ba lên. Vẫn "chít, chít" rồi dùng đầu lưỡi cuốn một giọt nhỏ. Lão uống như đi dạo. Nhìn mà thấy nhàn. Cái nhàn của những người chẳng nhàn hạ. Cách uống rượu kiểu ấy cũng chỉ có lão là một. Khác hoàn toàn với con người lão bây giờ.

Phải nói tối nay thật tình cờ. Khu tập thể im ắng một cách đặc biệt nên lão Khúng mới thổ lộ tâm tình. Người ta bảo "Lúc buồn nhất là lúc con người thật lòng nhất". Lão Khúng đang buồn. Lần đầu tiên thấy lão buồn thực sự. Xưa nay lão không thấy bộc lộ nỗi buồn bao giờ. Cái chính là người quanh đây biết lão đã quá lâu. Ai còn lạ gì cái lão "nửa gàn, nửa mê" ấy nữa. Cái chính là lão chẳng có ai để "tâm sự". Mà lão tâm sự chỉ có "ma nó nghe". Chuyện đời lão do chính lão tự làm nên cả mà.

- Con cậu chắc còn nhỏ...... Cậu đừng chiều nó quá.

Lão Khúng chợt quay phắt hướng của câu chuyện. Xem ra lão vẫn còn chút tình cảm con người. Những người trong khu tập thể này đều coi lão như người bỏ đi. Mà tội lỗi lại do chính lão làm nên mới chết chứ. Nhà lão đủ ăn đủ uống nên lão nghĩ việc học cũng nhàn nhạt. Cả ba anh em nhà lão chẳng có thằng nào học hành đến nơi đến chốn. Rượu thì đã có người cha đem về. Còn "mồi" thì khỏi phải bàn. Mẹ lão là cửa hàng trưởng cửa hàng thực phẩm lớn nhất nhì thành phố nên những thứ "đầu thừa đuôi thẹo" trên mình con lợn nhà lão có cả đống. Mẹ lão sau buổi đi làm đem về nhà nào là đuôi, là móng giò, là tai, là mũi.... toàn những thứ đến giờ dân uống rượu còn khoái nữa là hồi đó. Thành thử được ăn lại ăn nhiều thì việc học chẳng có ý nghĩa gì. Hơn nữa cha lão ban đầu thì chiều chuộng ba anh em lão. Sau quay ra mắng mỏ thì đã muộn. Ba thằng con trai lộc ngộc hỏi đến chữ gì cũng lắc đầu."Ngữ chúng mày đi bộ đội cũng không đắt" cha lão mắng thế rồi bắt từng đứa đi làm thợ. Được cái học hành lỗ mỗ nhưng tay chân cũng không đến nỗi vụng về. Hơn nữa thợ quét vôi thì cần gì học, cứ quét đại đi là được. Vôi ngày đó tuy không sẵn nhưng vương vãi cũng chẳng thiệt cho cơ quan. Lão và anh lão và em lão thành thợ quét vôi. Quét quanh quẩn những ngôi nhà do đơn vị cha nào thi công. Ở công trường ai cũng biết anh em lão là con ai nên chẳng ai nói gì. Ngày ngày ba anh em lão đi làm. Tối về ngồi xếp bằng tròn uống rượu. Nhà khác có nằm mơ cũng không có.

- Vợ con có cãi nhau thì cố nhịn.

Lão Khúng giọng bùi ngùi. Cái giọng đã ngấm chút men nên nghe càng bùi ngùi. Lão đã "chít, chít" xong chén rượu thứ ba. Thứ rượu quê "nút lá chuối" càng uống càng ngọt thỉu, càng mềm môi làm người uống cứ lìm lịm. Lão Khúng lìm lịm môi nên ăn nói cũng khá khẩm hơn. Thì ra muốn lão ăn nói rõ ràng phải thêm chút rượu. Những ngày lão không có rượu nên ăn nói không tròn âm. Rượu vào làm lão phấn chấn hẳn. Cũng trải lòng hẳn.

Nhà lão lâm vào khốn đốn từ sau ngày mẹ lão mất. Cha lão, một người đàn ông nghiêm khắc cũng đã về hưu vài năm. Người đàn ông nghiêm khắc ấy vẫn giữ nếp xưa. Nghĩa là bên mâm cơm tối bốn cha con ngồi xếp bằng tròn vừa ăn vừa uống rượu. Tuy "mồi" có thưa đi nhưng nhà lão chưa khi nào hết "mồi" cả. Mẹ lão thôi làm cửa hàng trưởng cửa hàng thực phẩm do tuổi cao nhưng bà là người biết lo toan nên chăm chỉ ngồi hè phố G bán xổ số. Việc bán xổ số tuy lắm nắng nhiều mưa nhưng bù lại cũng có tiền tiêu vặt hàng ngày. Mẹ lão kiếm được đồng nào lại chiều chồng, chiều con mà mua "mồi" về. Chỉ tội ba thằng con trai lộc ngộc cả cũng thấy cần phải nhắc. Cha lão nhắc anh em lão chuyện lấy vợ.

- Vợ con là duyên số mà cậu. Mệnh hệ gì cũng đừng oán thán.

Nhân chuyện cha lão nhắc tới anh em lão lấy vợ mà lão Khúng lại đưa ra một câu chí lý. Thực ra là lão nói chuyện vợ con lão. Mẹ lão mất rất đột ngột. Buổi trưa hôm ấy bà kêu mệt nên về nhà nằm nghỉ trưa. Bà ngủ luôn giấc thiên thu khiến anh em lão vô cùng bối rối. Cái gia đình mấy mươi năm đều đều ăn uống bỗng chốc vắng bàn tay đàn bà làm bốn cha con lão lúng túng. Việc đầu tiên bây giờ là thằng nào đó phải lấy vợ. Vậy là thằng anh lão lấy vợ trước cho nó có trình tự. Khổ thân anh em lão. Tuy ăn uống đàng hoàng nhưng vốn dĩ đầu óc ngại học nên trí tuệ cũng ngô nghê. Vả lại cha đã về hưu, anh em nghề ngỗng coi như không có. Con gái Hà Nội khôn phải biết nên chẳng cô nào dại gì "đem lòng yêu thương" anh em nhà lão. Tìm mãi cũng ra. Anh trai lão cuối cùng nhờ mai mối tìm được một cô hơn ba bốn tuổi, người "xấu điên", ế ẩm. Cô gái ấy người trong xóm Hòa Bắc cũ. Lễ cưới xong, cô gái "già" kéo thằng anh lão về trông nhà cho cô ấy. Thành thử chuyện kiếm "bàn tay phụ nữ" cho cha con lão coi như "hỏng".

Vỏn vẻn chỉ hai tháng sau, cha con lão nhận được thông báo: anh lão bị bắt do buôn bán ma túy gì đó. Thì ra "cô gái già" cũng được cha mẹ dành cho một quán nhỏ để bán nước qua ngày. Cái quán nước nằm hút trong xóm Hòa Bắc cũ bỗng thành nơi mua qua bán lại những gói thuốc màu trắng cho dân ghiền quanh quẩn. Anh lão bị bắt khi vừa trao một gói nhỏ cho ai đó. Cha lão bị "sốc" thực sự. Quan trọng nhất là chuyện tai tiếng.

- Không có học đầu óc không sáng được.

Đến giờ lão Khúng mới nhận ra việc học hành quan trọng đến mức nào. Lão không trách móc ai hết. Việc trách móc là không đàng hoàng. Anh trai lão vốn cũng như lão vì ngại học mà lâm vào lao lý. Ở tù đâu như chưa được một tuần thì hung tin báo về: Anh trai lão chết. Hồi đó đã có người khuyên cha lão đi kiện. Chắc không bị công an nã tay mà chết thì cũng bị "đầu gấu" dằn no đòn mà chết". Anh em nhà lão vốn quen ăn ngon nói to thì lão lạ gì. Thằng anh lão vào tù mà cứ "xưng xưng" bị xơi tẩn là cái chắc. Hơn nữa đi kiện chỉ tổ bẽ mặt thêm. Cha lão cúi đầu im lặng. Lão và thằng em kế cũng cúi đầu lặng im. Người thì đã mất rồi. Vả lại kiện cũng phải có tiền chạy kiện. Những ngày đó chẳng riêng gì nhà lão mà cả nước đều khó khăn. Đi kiện lại vác nhọc thêm vào thân. Đành nhẫn nhịn. Buồn thêm nữa là sau đó không

lâu "bà chị dâu" cũng "đứt" quan hệ với nhà lão luôn.

- Cậu đừng hỏi: Vì sao? (im lặng) - Mà hãy nghĩ: Sau đó thế nào?

Quả tình tuy ít chữ nhưng lão Khúng cũng biết xử thế. Cha lão tính khôn hơn. Ông cụ tính cho thằng em kế đi "lao động xuất khẩu". Ngày đó nhà nào có con đi xuất khẩu lao động là nhất rồi. Cả nhà lo vay mượn, dồn tiền lo lót, cuối cùng thằng em lão cũng được "bay". Đó là những ngày tuyệt diệu. "Bọn tây nó ngố lắm" thư gửi về nhà cho cha con lão thằng em lão đã nói hào hứng: "Mấy cái quần bò rởm bán đầy "chợ Giời" sang đây hết vèo". Lão trở thành người "chạy hàng" cho thằng em hết sức mát tay. Tuy học ít nhưng chuyện săn đồ rởm lão lại "bén" và thành thạo. Những chuyến hàng gửi đi và nhận về những đồng Đô la "đều như vắt chanh". Nhà lão giờ chỉ có hai cha con nên cũng phóng khoáng hơn.

- Cái gì cũng có giá của nó.

Niềm vui "vắn chẳng tày gang", thằng em lão không may sa lưới công an bên đó vì tội buôn bán hàng lậu. Tiền lại gửi ngược sang để lo "chạy" cho thằng em thành thử vừa ấm đã lạnh. Cha lão sụp xuống rồi đổ bệnh. Được cái lão biết vào bếp nên chuyện cơm nước cho người cha ốm nằm viện lão cũng vẹn toàn. Nhưng buồn nhiều quá mà cha lão mãi không bình phục. Lão nghĩ luẩn quẩn. Nhất là khi được tin thằng em sau khi thoát chuyện công an bên đó bắt thì vượt biên sang Tây Đức. Nó ngỡ sang đó có hy vọng hơn đâu ngờ sa vào tội "vượt biên trái phép". Đã quẩn lại thêm quẫn. Nghe đâu thằng em lão bị giam ngoài đảo xa, ngày ngày trại chỉ cho ăn chứ không cho ra ngoài. Tương lai mù mịt hẳn. Thực ra trong trại cũng có người được tự do. Đấy là những người bày tỏ thái độ không "hài lòng" với quê nhà. Việc đó thằng em lão không dám. Gì thì gì thằng em lão còn biết phải trái. Nó chịu ngày ngày đứng nhìn biển xanh qua hàng rào kẽm gai và nhận khẩu phần ăn mỗi bữa. Chuyện "xuất khẩu lao động" cũng coi như xong.

- Là nhà văn chắc cậu đi nhiều nơi?

Xem ra lão Khúng vẫn còn trông vời xa xăm. Còn hy vọng nào đó. Lão cúi xuống nâng chén rượu thứ năm lên. Mình lão đã uống xong bốn chén rượu. Kể ra lão cũng có sức. Chỉ uống và nói thôi. Tối nay lão khá thoải mái. Chắc lâu lắm rồi lão mới có dịp thoải mái như vậy. Khu tập thể Hòa bắc chẳng có ai là không biết lão. Mỗi người nói mỗi cách. Người biết lâu thì thương cảm mà bùi ngùi, mà thấy tiêng tiếc cho gia cảnh nhà lão. Người mới biết hoặc biết qua lời kể thì buông câu thây kệ. Lão cũng nghe được hết mọi câu cảm thông hay trách cứ. Vốn là người bộc trực và không biết xin xỏ bao giờ nên lão chẳng đoái hoài. Lão không thanh minh hay chờ đợi người ta rủ lòng tốt.

- Ở đời sợ nhất là sự ngộ nhận.

Đêm khuya hẳn lão Khúng mới nói bộc bạch. Nhưng câu chuyện "tình yêu" của lão mới là chuyện đáng để nói. Hệt như trong những tiểu thuyết diễm tình mà ở đó lão đóng vai "chàng hoàng tử" ra tay cứu người đẹp đang bị "bọn ác hãm hại". Lão cười khùng khục khi bắt đầu kể chuyện tình yêu của mình sau khi phán một câu "triết lý" xanh rờn. Rượu cũng lìm lịm nên lão chẳng cần giấu giếm. Lão thong thả nói bằng giọng của người đã đi qua cái sự từng trải của cuộc đời. Phải công nhận lão cũng khá rành rẽ. Chuyện cũ không oán trách. Chuyện mới không vội vàng. Lão đã quá hiểu đời cho dù chỉ là cuộc đời của mình lão.

Tối đó sau khi giắt màn cho người cha nằm ngủ xong xuôi lão mới đạp xe từ Bệnh viện Việt Xô trở về nhà. Chiếc xe đạp khô dầu kêu cót két nhưng lão vẫn vân vi huýt sáo. Đoạn đường chạy ngang bệnh viện nằm sát chân đê nên đã tối lại thêm vắng vẻ. Lão cũng có chút e ngại kiêm rờn rợn vì cho dù là đường nhưng lại là đường chạy ngang nhà tang lễ của bệnh viện nên có gì đấy khiến những người yếu bóng vía không dám qua lại. Lão đạp xe thật thong thả để vừa đi vừa nghe ngóng. Có tiếng ai đó gọi vọng từ gốc cây ra làm lão giật bắn, lão hoảng cả hồn. Toàn thân lão sởn da gà và lạnh toát. Tiếng ai đó gọi lần thứ hai thì lão cũng đủ tỉnh táo để biết đấy là người gọi chứ không phải "ma trêu". Lão một chân chống xuống đất, một chân để sẵn sàng lên bàn đạp. Lão hướng mắt nhìn về gốc cây tối mù mù.

Một cô gái bước nhanh về phía lão. Thoắt một cái cô gái đã ngồi gọn sau lưng lão và bấu bàn tay vào mạng sườn lão thúc đạp nhanh rất quyết liệt. Như một cái máy và có cả vô thức nữa, lão cắm cúi đạp xe thật nhanh. Lão đưa cô gái trẻ về nhà mình. Từ bữa cha lão nằm viện lão toàn ngủ một mình nên chuyện đưa cô gái lạ lùng về nhà coi như cũng chẳng sao.

- Nhà văn các cậu hay gọi đó là tình huống phải không?

Chẳng đợi câu đáp lão Khúng lại "chít, chít" rồi lia đầu lưỡi cuốn một giọt rượu. Xem ra lão vẫn uống rượu với kiểu uống độc đáo của mình mặc kệ thời gian đã đi đến đâu và người ngồi nghe lão có sốt ruột hay không. Lão Khúng lạnh lùng đến phát ngại. Lại lia đầu lưỡi "chít, chít" thêm giọt rượu nữa. Lão Khúng mím môi nuốt để giọt rượu như ngấm kỹ hơn rồi mới thong thả nói tiếp. Nhìn lão lúc này thấy không biết thương hay biết ghét. Nói chung những người như lão thương hay ghét đều vô nghĩa. Lão đâu có cần ai thương, lão đang cần người khác nghe lão nói cho đêm đỡ dài thôi.

- Lòng tốt chính là con dao hai lưỡi.

Rất triết lý, lão Khúng bắt đầu nói tiếp.

Thì ra cô gái ấy vốn là một cô gái giang hồ. Ngay đêm hôm đó khi lão như thằng dại lột trần, lột truồng cô gái ấy trên giường lão đã thấy những hình xăm chim bướm trên bụng của cô gái. Lần đầu tiên lão được làm chuyện ấy nên nhiều lóng ngóng. Cô gái không nói gì và cũng chẳng chống cự. Cô mệt mỏi mặc cho lão muốn làm gì thì làm. Cô ngủ thiếp đi ngon lành trong khi lão bắt đầu lo sợ. Lão lo sợ nhìn hình xăm chim bướm trên bụng cô gái. Lão nửa muốn đuổi cô ta đi nửa thương hại muốn níu lại. Lão cúi xuống nhìn kỹ hơn khuôn mặt của cô gái. Trong giấc ngủ mê mệt nhưng được cưu mang nên trông cô gái cũng tồi tội. Một gương mặt đẹp đang giãn ra với một nụ cười trong mơ làm lão động lòng. Lão cả đêm hôm đó ngồi trên giường, toàn thân run cầm cập chỉ sợ cô gái đó bật dậy mà vùng chạy. Hình như tận sâu thẳm trong lòng lão đang lóe chút cảm tình với cô gái. Lão lơ mơ đoán định cô gái này đang cần có sự chở che của lão.

- Cậu đừng nên quá tin vào một điều gì đó.

Mãi sau này khi ở nhà lão được vài hôm cô gái mới cho lão hay. Cô trốn từ một chốn ô uế ra. Cô muốn lão giấu cô trong nhà. Lão im lặng nghĩ ngợi. Nghĩ không lâu thì lão gật đầu. Cái chính để lão gật đầu là trong thâm tâm lão thấy chính lão mắc tội với cô chứ không phải người khác. Là con nhà tử tế nên lão cho rằng: một khi đã chung đụng thể xác rồi coi như là đã ràng buộc. Nói chung ở khía cạnh này lão là người có trách nhiệm.

Cha lão ra viện. Ông cụ ngẩn người nhìn cô gái trong nhà và đưa mắt cảnh cáo lão. Lão cười biết lỗi hơi lui ra rồi nháy mắt ra hiệu cho cô gái lạ. Cô gái quay vào bếp. Lát sau cô bưng ra một mâm cơm rượu rất chu đáo. Cha con lão lâu rồi thiếu bàn tay phụ nữ nên đón nhận cô như một thành viên. Vả lại lúc cô vào bếp lão đã nói sơ sơ về hoàn cảnh của cô. Cha lão, một người đàn ông nghiêm khắc nên nhiều chục năm trôi qua vẫn cảm thấy thiếu xót với bà vợ ở quê. Ông cụ hình như muốn chuộc lỗi đối xử tệ bạc với vợ con ở quê của mình.

- Cuộc đời như cái vòng luẩn quẩn đúng không cậu?

Lão Khúng lại đột ngột dừng câu chuyện và hỏi như tự hỏi. Lão chắc đã ngấm rượu nên giọng nói có phần ể oải. Thực ra lão ể oải vì câu hỏi của mình. Câu hỏi chắc lão không thể lý giải được. Trời gần về sáng, bằng chứng là đã đâu đó vọng lại tiếng chim gáy nhà ai kêu "Gù, gù". Lão Khúng bật ho. Lão đưa cả hai tay lên ôm ngực. Kể với một người tuổi tác lại thức đêm nói chuyện cuộc đời cũng phiền. Nhưng ho xong lão Khúng lại "chít chít" thêm giọt rượu nữa.

Sau hai năm "trốn" trong nhà lão thì cô gái chính thức trở thành vợ lão. Thật ra thời gian cũng để người ta quên đi thân phận của mình. Cô gái những ngày ở trong nhà đâm xinh ra, trắng nõn và cũng mơn mởn. Lão không muốn mất đi sự "thơm tho" đó nên tha thiết đề nghị cô chính thức làm vợ. Một lễ cưới tằn tiện nhưng cũng đủ lệ bộ khiến cha lão như tỉnh bệnh tuổi già. Ông cụ chắc cũng mãn nguyện mà đồng tình. Những bữa cơm có bàn tay phụ nữ bao giờ cũng hơn bữa cơm do đàn ông chuẩn bị. Cô gái có bàn tay khéo léo của đàn bà và có cái nhìn "thấu bụng" những người đàn ông mà cô mang ơn. Gia đình lão vui vẻ hẳn lên và cũng ấm áp hẳn lên.

- Tôi không tin đời còn có chữ ngờ.

Cha lão cuối cùng cũng tìm về tiên tổ. Rồi thằng em kế lão nữa vì chẳng có tiền lại tha hương nơi đất khách quê người nên sinh bệnh. Ngày lão ra sân bay nhận "lọ tro" thằng em lão đã muốn chết. Khổ thân lão. Bà mẹ cả cùng hai người chị ở quê vốn "căm thù mẹ lão và anh em lão" đến xương tủy được tin dữ cũng chỉ nhắn người hỏi thăm qua quýt. Quả tình đàn bà một khi đã oán thì oán dai hơn đỉa. Lão cũng buồn nhưng cô vợ lão đứng bên cạnh ưỡn cái bụng lùm lùm. Lão sực  tỉnh cúi bê "lọ tro" thằng em lặng lẽ về quê chôn bên cạnh mộ cha, mộ mẹ và mộ người anh của mình. Lão là người còn lại đau khổ nhất thế giới.

- Để tôi khuyên thật cậu nhé. Đừng tìm cái đã mất.

Lão Khúng đã mất mát quá nhiều. Cái còn lại quý giá bây giờ đối với lão là cô "vợ nhặt" cùng thằng con trai vừa sinh ra đã lóe lên hy vọng. Giời như đã rủ lòng thương lão. Thằng con trai kháu khỉnh và mau lớn trông thấy. Năm lão dắt con vào lớp Một thằng bé đã khiến các cô phải tròn mắt. Nó lễ phép khoanh tay chào từng cô một. Khác hẳn lão. Lão mồm miệng phùng phàng, vừa nói vừa chém tay ràn rạt làm mấy cô giáo trẻ nhìn mà hai hãi. Chỉ khi thằng con cất tiếng chào mấy cô mới nhẹ người đi. Mặt thằng bé khác hẳn mặt lão. Khuôn mặt trẻ con trong veo cùng tiếng "ạ" được mấy cô mở lòng. Với lại các cô biết không dại gì dây dưa với lão. Thực ra lão chỉ có bộ dạng làm người ta sợ chứ xem ra lão hiền và chăm chỉ. Lão có tài chăm chỉ cơm nước từ nhỏ nên khi có vợ rồi lão vẫn xăng xái vào bếp. Ban đầu gia đình nhỏ của lão sống khá hòa thuận. Cô vợ cho dù lánh đi mấy năm nhưng vẫn ngại ra ngoài. Cô sống kín đáo và hầu như chẳng bao giờ to tiếng với hàng xóm. Những người dân trong khu tập thể khen lão tốt số. Hình như họ cho rằng lão được "giời thương".

- Bản chất con người do cuộc mưu sinh mà ra.

Lão Khúng làm nghề chạy xe ôm. Chiếc xe mua được từ người hàng xóm "nâng đời" xe nên họ bán rẻ như cho. Lão ban ngày chạy xe ôm tối về nhà ôm vợ xem ra cũng mát mặt. Nhưng nhu cầu gia đình mỗi ngày mỗi thêm. Vợ lão mạnh dạn rời khỏi nhà đi làm giúp mấy nhà hàng xóm. Đơn giản như trông con nhỏ hay nấu giúp bữa cơm. Được ra khỏi nhà người đàn bà ấy như lột xác. Hăng hái hơn và giao thiệp cũng rộng hơn. Lão coi đó là điều mừng vì chẳng lẽ vợ cứ quanh quẩn trong bốn bức tường mãi sao thấu. Phải công nhận vợ lão cũng là người lanh lợi. Giao thiệp rộng làm người đàn bà ấy mở tầm mắt cho lão. Vợ lão bàn với lão bán nửa căn hộ đi lấy tiền làm vốn kinh doanh. Lão gật đầu vì nghĩ đơn giản bán đi kiếm vốn trước. Làm ăn lãi lờ chẳng mua được nhà to rộng hơn chứ lị.

Thế là nhà lão có ô tô con. Có xe con nhưng lão không biết lái nên phải thuê lái. Cũng chẳng sao miễn là xe ấy kiếm ra tiền về. Hà Nội ngày ngày nhu cầu đi xe càng nhiều. Xe đi lễ hội ngày xuân. Xe chở khách về quê dự đám hiếu. Nói chung khách đi xe rất đông. Vợ chồng lão hí hứng lắm. Cô vợ lại bàn tiếp bán nốt cả căn hộ. Chỗ ở ư? Thuê tạm còn hời chán.

- Cậu nhớ đừng để đồng tiền làm lú lẫn.

Thuê một chỗ để ở xong vợ lão mua liền ba chiếc xe con nữa. Nhà lão vênh vang hẳn lên. Dễ phải tính đến lập công ty mất. Lão khoái lắm. Việc của lão bây giờ không phải chạy xe ôm nữa. Lão làm chân "thư ký" ngồi tại nhà nghe điện thoại và báo cho vợ để vợ lão lên "kế hoạch" điều xe. Cũng phải nói thêm là lão rất thương vợ. Thằng con trai càng lớn càng ngoan nên lão lại càng "nể" vợ hơn. Có bữa thư thả lão cho cả vợ lẫn con về quê chào mẹ cả và chào hai chị. Con người ta kể cũng mau quên đi oán hận. Mẹ cả lão tuy rất già nhưng còn đủ sức nằm trên giường nghe lão kể chuyện làm ăn. Giữa cái thời buổi "sôi sùng sục" này ai không bung ra làm ăn mới là lạ. Người nhà quê chỉ nghe nói thế cũng thấy hoa đầu. Mẹ cả và hai chị lão đành biết ậm ừ mà nghe, họ hay gì đâu mà bàn với góp chuyện. Được cái hai chị lão cũng tuổi cao nhưng nghĩ đến "một giọt máu đào hơn ao nước lã" mà thân tình hơn. Vả lại lão đâu có lỗi. Lỗi của người lớn sao bắt con trẻ chịu. Thế là gia đình lão hòa thuận. Cũng một phần nhờ vợ lão. Người đàn bà hình như đã chịu nhiều éo le hay thiệt thòi về mặt gia đình lại tỏ ra rất chu đáo với mẹ già và hai chị lão. Quà cáp rồi thăm hỏi thường xuyên hơn. Vợ lão được lòng lại được cả uy tín. Hễ vợ lão bàn bạc gì mà lão chưa thông thì vợ lão lại rủ lão về quê. Sau chuyến thăm quê về thì những việc vợ bàn lão đều nghe cả. Lúc ở quê các chị lão được vợ lão tỉ tê nên "thuyết phục" cậu. Việc bán cả căn hộ ở khu tập thể Hòa Bắc và mua thêm ba xe con một phần cũng nhờ vào "công" hai chị lão nói vào.

Cái căn hộ này giờ lão chẳng có anh em nào nữa để mà tranh giành thì đương nhiên là của lão rồi. Những người hàng xóm bảo với lão rằng lão số sướng vì lão được hưởng tất. Chứ chẳng như nhà họ vợ chồng bố, vợ chồng con lớn, vợ chồng con bé ở díu cả với nhau trong một căn hộ.

- Có số mà cậu. Làm sao cưỡng lại được số.

Đời lão mang số khổ về già. Một tay thày bói vô danh nào đó nhân chén rượu đã thì thào vào tai lão như vậy. Xem ra tay thày bói này khá tinh tường. Bằng chứng là đời lão chẳng có gì yên ả được lâu. Vợ lão từ khi có nhiều tiền đâm ra chi tiêu như "báo thù". Hình như người đàn bà này phải "nhịn" quá lâu giờ mới được dịp trở lại chính mình. Ở với nhau vài năm vợ lão mới thổ lộ. Thì ra người đàn bà này đâu phải trốn ra từ một nơi ô uế. Cô ta từng một dạo chơi bời lêu lổng cùng đám "con quan" lại mắc chuyện "kéo hội" đánh người mà trốn chạy. Lão nghe đành chậc lưỡi coi như xưa rồi.

Chuyện mua lại nhà cứ lần khân cho đến một ngày vợ lão "đánh cược" đổ hết vào chứng khoán. Có nhiều tiền là mơ ước của tất cả mọi người chứ đâu gì vợ chồng lão. Mới đầu cũng thấy hời hời xem ra cũng dễ ăn. Dễ ăn thì làm tới, làm cho tới khi chứng khoán tiêu thì tiền cũng hết. Xe cộ trong nhà cũng kéo nhau sang tay người khác dần. Lại thêm ở lão có cái tính nể người. Có người cần thuê xe tự lái lão cũng gật tuốt. Thủ tục rất giản dị vì lão tin vào tờ giấy "chứng minh nhân dân" nhầu nhĩ mà những người đến gặp lão để thuê xe đưa cho. Chiếc xe cuối cùng còn lại đem cho thuê tự lái đã "một đi không trở lại". Đấy là nguyên nhân chính khiến vợ chồng lão cãi nhau hàng ngày. Cãi chán không lại được mồm vợ, lão vung tay tát cho vợ một cái. Vợ lão dắt con vùng vằng nói chuyện sẽ bỏ đi. Đi đâu cũng chẳng rõ. Chỉ biết lão không giữ mà cũng chẳng đi tìm. Thằng con vừa lên mười tuổi, bằng đúng tuổi lão năm nào. Thằng bé khoanh tay "ạ" chào lão. Lão băn khoăn một thoáng rồi phẩy tay ý bảo thằng bé cứ nghe theo mẹ. Lão nhớ hồi trạc tuổi nó lão chỉ ăn với chơi nên chẳng chịu học hành. Lão không muốn thằng bé ở với lão sau lại học hành "lớp không ra lớp". Lão cũng biết nhận thức.

Lão mò về tá túc ở trạm "tuần tra nhân dân" ở ngay đầu lối ra vào khu tập thể Hòa Bắc. Nơi này lão đã có những ngày tháng được sống và sống. Cái chính là còn có người nói "cũng biết" lão. Với lại trong ký ức của đứa trẻ lên mười, thì đây là nơi đầu tiên và là nơi cuối cùng lão biết đến đã từng là nhà của mình. May cho lão là vẫn còn chiếc xe máy cà tàng ngày nào. Lão không về quê như ai đó đã khuyên. Về mà làm gì. Có còn gì đâu mà về. Lão vốn tính khí khái mà, về quê trong nghèo hèn tuyệt nhiên là không được. Mẹ cả cũng đã mất. Hai chị cho dù là máu mủ nhưng "anh em kiến giả nhất phận". Hai chị lão mắng: "Cậu được bố cho cậu hết. Cậu không biết giữ thì cậu chịu". Lão nghe mà buốt trong ruột. Hình như hai chị lão cùng mối "oán thán" ngày xưa chỉ mới có nguôi nhưng chưa ngoai. Lão chấp nhận vạ vật như một cách tự hành xác mình hay như lão đã nghĩ "có số cả".

- Cậu có đúng là nhà văn không đấy?

Thực ra lão là người biết điều. Thứ nhất coi như lão chẳng còn ai thân thiết chứ nói gì đến thân tình. Vợ lão chỉ là chuyện "gá nghĩa" nên lão cũng chẳng oán trách. Thứ hai lão bây giờ chẳng còn gì gọi là của cải ngoài cái thân hình bủng bang và dật dẹo. Đau nhất là chuyện thằng con. Thì như con vợ lão viết giấy để lại. "Nó không phải con ông đâu. Đừng tìm tôi và nó làm gì". Tức là lão chẳng có gì để mà phải đi tìm cả. Có lẽ kiếp trước lão nắc nợ gì cô ấy? Lão hài lòng vì đã trả xong "món nợ kiếp trước". Lão thấy sung sướng vì lúc này lão không phải lo cho ai. Lão sung sướng vì gì thì gì đời lão lão cũng đã "làm phúc" cho được một người - con vợ lão đấy. Lão đã làm được một việc mà lão cho là có ý nghĩa nhất trong đời.

- Còn ối người đàng hoàng hẳn đấy nhưng có ra gì đâu.

Lão Khúng vung tay chỉ bâng quơ ra ngoài. Trời đã sáng hẳn, rượu cũng vừa đến giọt cuối cùng và cặp mắt vằn đỏ của lão bây giờ mới cụp xuống, nặng trĩu. Nhưng vào giờ này ở trạm "tuần tra nhân dân" không ai cho lão vào ngủ cả. Lão cứ ngồi như thế mà ngủ trong cái thức trong trong.

HÃY GÁY LÊN ĐI

Trời chớm xuân nên mới hơn 5 giờ sáng, mà đường đi đã tỏ mặt người. Tôi đứng ngó nghiêng trước hiên nhà. Những người đi bộ thể dục buổi sáng ngang qua nhà tôi, hầu hết là những người tôi quen biết, phần lớn trong đó là những công chức về hưu. Họ đi bộ theo từng nhóm hai ba người, vừa đi vừa chuyện trò rôm rả, nghe có đủ các giọng Trung, Nam, Bắc. Họ thường chào hỏi tôi và tôi cũng hay nói tếu táo với họ vài câu cho vui. Tôi cũng có cùng “đẳng cấp” với họ, đều là công chức về hưu, nhưng là người hưu trí trẻ nhất khu phố. Cũng thiệt ngộ, những người siêng năng rèn luyện thân thể, thường là những người đã ở bên kia dốc của đời người. Tôi rất ít khi tập thể dục buổi sáng, phần vì lười, phần do bàn chân trái của tôi có vấn đề về xương khớp, cứ hễ đi bộ hoặc vận động nhiều là nó sưng lên đau nhức không chịu nổi. Và cũng còn có một lí do khác nữa. Đó là vì tôi không muốn việc gì cũng làm theo đám đông.

Trong cuộc sống, tôi thường tách ra đi riêng một lối, trong tư duy cũng như trong hành động. Do đó, tôi đã xin nghỉ hưu trước tuổi, sớm hơn năm năm, chủ động thoát khỏi công việc của một chiếc máy ghi âm, thu phát theo lệnh, một đời chuyên “ăn theo nói vuốt”… Tôi rất khoái câu trả lời của giáo sư Đặng Vũ Khiêu (người có công lớn trong sự nghiệp nghiên cứu và phát triển khoa học xã hội và nhân văn của nước ta, được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và phong danh hiệu anh hung lao động) với câu hỏi của các nhà văn thuộc thế hệ sau lúc đến thăm ông, nhân ngày mừng thọ 92 tuổi (năm 2008) về bí quyết sống lâu, khỏe mạnh, trí óc sáng suốt, sức làm việc dẻo dai của giáo sư. Ông trả lời, chẳng có bí quyết gì, chỉ là "không khát khao danh lợi; sống vui vẻ; luôn xác định không có gì để mất; chẳng tập thể dục bao giờ và ăn uống cũng không kiêng khem gì” (theo nhà thơ Phạm Khải).

- Ò ó o...o...o!                                                                                          

           Tiếng gà gáy đột ngột, nghe thật dõng dạc, vang và thanh. Tiếng "o" sau cùng ngân dài như khẳng định sức mạnh của mình. Tiếng của thủ lĩnh gà chứ chẳng chơi. Nghe đến lần thứ ba, tôi mới xác định được hướng phát ra tiếng gáy. Thật bất ngờ, tiếng gáy của chú gà trống thủ lĩnh này ở ngay sát vách nhà tôi, trên lưng chừng một cây keo cao tầm tám thước.

Tôi chuyển về ở khu dân cư mới của thành phố đang phát triển mạnh về du lịch ven biển này, chừng mười năm nay. Khi tôi bắt đầu về nhà mới, thì trước mặt, sau lưng và bên trái nhà tôi đều còn là đất không. Nhưng chỉ mấy năm sau, nhà cửa lấp kín hết những bãi đất trống. Nhà xây dựng càng về sau càng hiện đại hơn và nhiều tầng hơn. Nhà tôi bây giờ trở thành người lùn trong xóm phố. Tuy vậy, cũng nhờ mười năm nay, mấy lô đất sát bên trái nhà tôi, không thấy làm nhà, nên nhà tôi chưa đến nỗi bị lọt thõm vào giếng sâu, được tạo nên bởi những ngôi nhà cao tầng bao chung quanh. Mấy lô đất trống đó, có lẽ của cùng một người chủ. Từ ngày về ở đây, chưa bao giờ tôi và những người hàng xóm được gặp người chủ đất này. Hằng năm, ông khu phố trưởng đi gởi giấy báo nộp thuế nhà đất cho từng nhà. Khi đến nhà tôi, ông hay hỏi tôi có biết chủ đất bên cạnh không? Đến cả chính quyền địa phương, người đi thu thuế nhà đất tại khu phố cũng không biết chủ đất là ai, thì làm sao mà tôi biết được. Như vậy là hằng năm, có thể họ không hề thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất. Có lần, nhà đối diện nhà tôi sửa chữa lớn. Vì không có chỗ để đổ vật liệu, nên nhà ấy đổ tạm lên đám đất trống đó. Ngay ngày hôm sau, liền có người đến hỏi tôi, ai đổ vật liệu lên đất và định làm gì. Khi nghe tôi trả lời, anh ta đi ngay. Tôi đồ rằng, người hỏi tôi là người của chủ đất.

Sở dĩ tôi nói hơi nhiều về mấy lô đất trống này, vì có lí do riêng. Ai cũng biết đất bỏ không qua nắng mưa năm tháng, cỏ, cây sẽ mọc lên tự do thoải mái. Lúc đầu, chỉ có cỏ dại mọc, sau đến cây bụi sinh sôi và cuối cùng là cây thân gỗ cũng theo đó mà sinh trưởng. Những năm đầu, khi cây bụi bắt đầu lấn cỏ dại, phát triển nhanh chóng trùm hết đám đất, vào dịp gần tết, tôi cùng một người hàng xóm phải thuê người phát quang sạch sẽ, để cho muỗi mòng bớt nơi trú ẩn và cũng để cho sạch đẹp thành phố du lịch. Nguyên gốc đất này là bãi sình lầy, nên lớp mùn bên dưới rất dầy. Nhờ vậy, những lần phát dọn đó chỉ làm cho cây cối phát triển mạnh thêm. Công phát dọn năm sau gấp đôi năm trước. Và, chẳng lẽ, tôi cứ phải dùng tiền lương hưu trí eo hẹp của mình để làm vệ sinh đất cho một người nào đó mà tôi không hề biết mặt mũi sủi tăm hoài hay sao? Thật là hết sức vô lý!

Tình cờ, có một lần, tôi thấy một con gà nước (còn gọi là gà quốc) dẫn một bầy con lít chít đen đúa như cục than chạy từ con suối sau nhà vào những lùm bụi trên miếng đất ấy. Hình như chúng đã định cư nơi đây. Sự tồn tại của mẹ con bầy gà quốc đưa tôi đến quyết định, từ nay, tôi sẽ không phát quang cây bụi nữa, cứ để nguyên như thế. Cây cối cũng cần có một khoảng không gian tự do để phát triển. Như vậy, tôi vừa đỡ tốn tiền vô lối vừa tạo được môi trường thiên nhiên thân thiện cho các loài sinh vật hoang dã sinh sống, một thảm thực vật nho nhỏ giữa lòng thành phố ngày càng đặc cứng người cùng với sắt thép, bụi bặm. Tôi vốn quen sống ở ruộng đồng và núi rừng từ nhỏ, nên có một mảnh đất mọc đầy cây cối bên cạnh dòng suối (mặc dầu đã bốc mùi ô nhiễm) sát cạnh nhà mình, cũng làm cho tôi có được cảm giác ấm áp, thanh thản đôi chút, sau những căng thẳng của cuộc mưu sinh.

Tiếng gà gáy sáng nay làm cho tôi giật mình thật sự. Một âm thanh không bình thường giữa phố thị. Tiếng gà nghe lanh lảnh, sảng khoái, như muốn thông báo cho chung quanh biết về sự có mặt của mình - một thủ lĩnh gà, thể hiện một tư thế sống tự do, tự tin, tự tại. Tôi đứng cách cây keo chú gà đang đậu chừng hai mươi mét. Chú quay mặt nhìn tôi như ước lượng, đánh giá đối tượng. Im lặng hồi lâu, bỗng chú gà cúi đầu xuống lấy trớn, rồi ngẩng lên, ngửa cổ thật cao, đập nhẹ cánh, dùng hết sức đẩy làn hơi tràn đầy sinh lực thoát ra khỏi cổ họng:

- O ó o...o...o!

Không biết có lẩn thẩn không, nhưng tôi chợt nghĩ rằng, đây mới chính là tiếng gáy đẹp nhất, hay nhất, oai phong nhất của chú gà, tiếng gáy chỉ có được khi chú vượt thoát khỏi ngục tù, tự giải phóng mình khỏi sự tầm thường của cuộc sống phụ thuộc trước đây, trở thành một con gà tự do, tự tại. Đó giống như con người, là một sự sáng tạo bất ngờ khi đạt được sự tự do “tự nhiên nhi nhiên”.

Những người đi tập thể dục đều đứng lại nhìn và lắng nghe chú gà đang gáy. Chú gà trống này có dáng to con, hùng dũng, lông thật dài màu đỏ tía, chùm lông viền cổ màu tím than óng mượt. Không thể nhìn thấy được cựa gà từ xa, nhưng căn cứ vào vóc dáng, tiếng gáy, có lẽ chú cũng khoảng hai năm tuổi trở lên. Tuổi trưởng thành viên mãn của loài gà.

-  Quanh đây có nhà nào nuôi gà không?

-  Chỉ có quán phở gà thôi.

-  Vậy chắc là gà bị xổng ra từ quán phở.

-  Bán phở gà ai lại mua gà trống già...

Mỗi người một câu nói nhằm xác định lí do sự có mặt không đúng nơi đúng lúc của chú gà. Ai đó nói thêm:

-  Gà “đơn thương độc mộc” mà trông hùng dũng khí thế ghê!

-  Oai thật!

-   Ò ó o...o...o!

Như không hề để ý tới lời bàn tán của mọi người, chú gà lại cất tiếng gáy, lần này còn to hơn, rõ hơn nữa. Tất cả mọi người đều cười ồ lên vui vẻ...                  

-    Cây lùm bụi dầy đặc như rừng thế này, làm sao bắt gà lại được?

-  Ừ, chắc thua rồi!

-  Con gà này cũng biết tự tìm cho mình một chút tự do hiếm hoi trong cuộc sống bon chen nhiều trói buộc này. Ta nên tôn trọng sự lựa chọn tự do của nó.              

Câu nói của một bác nào đó đượm màu thế sự nhân tình và có chút triết lí hơi khác luồng suy nghĩ chung đã làm cho mọi người đột nhiên im lặng một lúc.

-  Nếu không ai bắn hoặc bẫy, con gà này có thể làm “kê vương” ở "khu rừng" này lâu.

        Ai đó nói vui làm cho mọi người cười phụ họa, đồng tình. Ừ, đám đất này có vẻ cũng giống rừng lắm. Mấy lô đất trên, nhờ sau chục năm để tự do phát triển, giờ đây cây cối đã mọc thành các tầng rõ rệt như rừng tự nhiên. Tầng dưới cùng là cỏ và các loài cây thân mềm, cao không vượt hai mét. Tầng hai cao hơn, là của giống cây bụi, có gai và không gai, mọc dầy đặc chiếm lĩnh hầu hết diện tích khu đất. Phủ trên tầng cây bụi là vô số những loại dây leo: sắn mủ, bìm bìm, miểng bát... Bà xã tôi và các chị láng giềng thường hay hái đọt miểng bát về nấu canh, ăn rất mát và bổ dưỡng. Vì vậy, nhìn từ trên xuống, không thể thấy được gì ở bên dưới đám cây bụi này. Tầng trên cao nhất, chỉ độc một loại keo, đầy gai, mọc khoảng chục cây, thân đã cao bằng cột điện rồi.

Những người tập thể dục đã về nhà. Tôi vẫn còn đứng ngắm cái khu rừng tí hon và suy nghĩ về cuộc diện hiện tồn của chú gà. Trên mảnh đất bên cạnh nhà tôi này, của một chủ nhân nào đó, bằng thế lực của mình, có thể là tiền hoặc quyền hoặc cả hai, đã xác định sự hiện hiện của một hành vi “tự do vô chính phủ”. Họ tự cho mình có quyền không nộp thuế, không phát quang bụi rậm, đã làm ảnh hưởng đến cư dân chung quanh, mà điều quan trọng ở đây là, không ai làm gì họ cả. Và chú gà kia, vừa thoát ra khỏi chuồng của người mua bán gà nào đó, bay tới khu rừng tí hon được tạo ra do một sự tự do vô chính phủ này. Tại đây, chú gà cảm thấy mình được tự do. Chú đã cất cao tiếng gáy để khẳng định sự tồn tại tự do đó của mình. Nhưng chú làm sao biết được hậu quả của hành động tự giải phóng với sự đơn độc trong cộng đồng nhiều cáo hơn gà này. Trong tương lai trước mắt của mình, chú gà phải đối diện với cuộc sống hoang dã, mà lại là một chút hoang dã hiếm hoi chưa bị hủy diệt giữa đô thành mà tốc độ bê tông hóa ngày càng nhanh không gì cản nổi. Một sự tự do tạo được không có triển vọng hướng đến tự do lâu bền hoàn hảo. Nhưng dù sao, chú gà yêu tự do kia chỉ cần một khoảnh khắc tự tại đủ cho tiếng gáy của tự do cất lên là hạnh phúc rồi. Hãy gáy lên đi!

-  Ò ó o...o...o!

Hình như chú gà hiểu điều tôi suy nghĩ, nên cất tiếng gáy biểu thị sự đồng tình. Nếu đứng ở góc độ của chú gà, có lẽ tôi cũng phải cảm ơn người chủ của miếng đất này. Sự tự do vô chính phủ đôi khi cũng tạo ra điều kiện nào đó thích hợp cho sự thực hiện một hành động tự do trên thực tế, như hành động của chú gà có giọng gáy thủ lĩnh này. Chưa biết chú có thể tồn tại trong khu rừng bé con này được bao lâu; nhưng chắn chắc, sáng mai, tôi sẽ thức dậy thật sớm để đối diện với thế sống của chú gà hiện tại, cùng suy nghĩ về tự do với chú và đương nhiên sẽ được thưởng thức tiếng gáy tự tại của một chú gà tự do, như nhận được sự đồng cảm khó nhìn thấy được từ cộng đồng của tôi mà tôi đã cố công tìm kiếm./

CHUYỆN VỢ CHỒNG HAI GỒ

                                                                          * Bút kí

I

Tự nhiên, sáng nay lại nhớ Hai Gồ, rồi lại nhớ tới người phụ nữ miệt Cà Mau, to con, nói năng rổng rảng, tánh tình rộng rãi, vô tư, khoáng đạt như sông nước miền Nam, là vợ Hai Gồ. Hai Gồ lớn hơn tất cả bạn học toàn con trai, cùng lớp phổ thông ngày xưa, chừng vài ba tuổi, tướng to con bặm trợn, nhưng tính lại rất hiền và bộ dạng y chang nông dân thứ thiệt. Hai Gồ, cái tên mà tôi có nhắc tới trong bút kí “Giọt nước mắt hạnh phúc”. Năm nay, Hai Gồ hơn 60 tuổi rồi. Anh là lớp trưởng của tôi mấy niên cuối trung học đệ nhị cấp, vào những năm 70- 72 thế kỉ trước… Cả lớp bọn tôi kêu Hai Gồ bằng anh, xưng em tự nhiên, nên kêu luôn vợ anh bằng chị, lại xưng em, mặc dù tuổi vợ anh còn nhỏ hơn nhiều đứa trong lớp. Tôi không biết tên thật của chị Hai Gồ là gì. Quen miệng cứ kêu chị Hai, không cần tìm hiểu thêm. Có điều tôi phải tâm sự một chút. Không biết sao, tôi và tất cả bạn bè cùng lớp, hễ mỗi lần gặp chuyện bất như ý trong cuộc sống, phát sinh buồn tình, chán đời, cứ thường thử đặt vợ chồng Hai Gồ vào hoàn cảnh của mình để hình dung ra cách ứng xử như thế nào, thì, tự nhiên lòng thấy nhẹ nhàng như không. Không ai nói ai, nhưng bạn bè đều cảm thấy vợ chồng Hai Gồ có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của mình biết dường nào. Vợ chồng Hai Gồ không bao giờ khuyên bảo người khác về cách sống; và có lẽ, cả vợ lẫn chồng anh cũng không biết cách để khuyên bảo người khác…

Hiện nay, anh em cùng lớp phần lớn là ở Phan Thiết. Nhà Hai Gồ ở Cua Chuối Hột trên quốc lộ 1A, cách Phan Thiết 10 cây số, lại nằm sâu trong động cát, đường ngoằn ngoèo khó đi, nhưng bọn tôi lại thích tụ nhóm tại đây nhậu nhẹt, tán dóc, kể chuyện ngày xửa ngày xưa, rồi cười hả hả, thỉnh thoảng cũng có thằng uống chừng một xị đế, nhắc chuyện cũ khóc hu hu… Chỉ cần gọi điện thoại hỏi, gà vịt còn không chị Hai, mai tụi em lên. Hỏi “còn không”, vì đám bạn tôi hay lên bày nhậu, thét, sợ gà vịt lớn theo không kịp. Chị Hai nói liền, giọng muốn bể loa điện thoại:

- Mai mấy chú nhớ lên đó nghen, không lên tui đem gà vịt luộc xong sắp ra sân thắp nhang “dzái” mấy chú đó!

Vậy là bọn tôi lên nhà, có gì xách theo thứ nấy, có rượu đem rượu, có bia xách bia, không rượu bia thì mua bánh kẹo lên cho cháu ngoại, chỉ là để khỏi mắc cỡ hai tay không thôi.

Hai Gồ có mấy sào ruộng “nước nhỉ”. “Nước nhỉ” là nước mạch ngầm từ trong động cát mênh mông trời đất chảy ra quanh năm. Nước trong vắt và rất mát. Nhờ nguồn nước mạch trời cho này, nên hai vợ chồng Hai Gồ trồng rau thoải mái. Ngoài trồng các loại rau mà mấy bà nội trợ mua hằng ngày ở chợ, vợ chồng anh còn trồng các thứ rau đặc sản Nam Bộ. Trong đó, tôi khoái nhứt là rau nhút, bồn bồn (làm chua). Rau nhút bỏ vào nồi lẩu cá đồng, thêm bồn bồn chua và bông điên điển nữa thì chỉ có nước đem đổ hết nồi lẩu… vô bụng. Kha kha!

Có lần tôi hỏi chị Hai:

- Cây bồn bồn trồng ở lao (cù lao) miệt dưới chắc làm chua ngon nhứt xứ phải không chị Hai?

- Ừa, bồn bồn nước nhỉ không có phù sa làm sao bì được bồn bồn lao!

Tôi cười thầm trong bụng đồ đi đồ lại “bồn lao”:

- Dzậy là bồn lao nhứt xứ, hèn chi anh Hai…

Anh Hai ôm bụng cười quá xá:

- Bà bị thằng Mười Miên nó nói xạo đó!

Chị Hai hiểu ra la lên:

- Đồ quỷ, chú này nói bậy bạ không hà.

Chị lại cười ha hả, khoái. Tôi cũng cười he he!

Nói vậy, nhưng nhiều khi thấy những cây điển điển mọc nơi mép ruộng quanh nhà Hai Gồ cao quá đầu người trổ bông vàng hườm, tự nhiên thấy lòng mình nao nao. Cái nao nao đó là tự nhiên của sự đồng cảm khi nghĩ đến lời nói tâm sự của Hai Gồ:

- Nhiều khi thấy bả ngồi ngó trân mấy cây điên điển trổ bông, rưng rưng nước mắt. Bả nhớ hồi còn con gái dưới quê chống xuồng ngắt bông điên điển trên đồng nước mênh mông mùa nước nổi... Tao thấy cũng thắt ruột.

Học chung lớp tôi có mấy thằng ở Mỹ. Trong đó có thằng ở Cali. Nó chuyên trồng rau bán cho người Việt ở bên đó. Thằng này biết tính toán, nên đất nhà nó chỉ trồng rau vừa đủ lớn là cắt bán rồi trồng lứa khác ngay. Hột giống rau ở bên đó rất mắc tiền, nó không tự lấy giống vì trồng rau giống chiếm dụng đất thời gian lâu không có lợi. Nó biết mấy đám đất của Hai Gồ rất phù hợp để trồng rau lấy hột giống cho nó. Vậy là nó gởi một số hột giống về Việt Nam, vợ chồng Hai Gồ trồng giúp, thu hột giống gởi qua Mỹ cho nó. Nó cười he he thu lợi. Tất nhiên là nó có đưa lại cho Hai Gồ một số tiền với lời cảm ơn kèm theo, coi như là trả công, nhiều gấp mấy lần tiền công ở đất động nước nhỉ này. Vợ chồng Hai Gồ cũng cười he he nhận tiền. Tôi đã thấy các cây rau giống Mỹ trồng tại đất Hai Gồ. Hình như cái gì của Mỹ cũng to bự, từ xe hơi, tới tủ lạnh, tới… Thấy lá mồng tơi Hai Gồ trồng bằng hột giống Cali to bằng 5, bằng 10 cái lá… cây đa, tự nhiên lại nhớ câu chuyện tiếu lâm về dân Texas. Dân Texas lúc nào, ở đâu cũng tự hào về xứ Texas của mình cái gì cũng to bự nhứt nước Mỹ. Một hôm chàng Texas bán bầy bò lên New Yort chơi xả láng sáng về sớm, gặp một em chân dài vú bự, thích mê, tán tỉnh xong dắt vô hotel… Sáng hôm sau, chàng chăn bò Texas thức dậy, chưa kịp rửa mắt, đã ôm mặt khóc hu hu. Em chân dài thức giấc, nói giọng ngái ngủ:

- Sao you (mày) khóc?

Chàng Texas nói tiếng Mỹ pha tiếng Đan Mạch:

- Đ. M. tao cứ tưởng cái gì của Texas tao cũng bự nhất nước Mỹ. Ai dè, hu hu, vừa lên New Yort ngủ một đêm, thấy của New Yort còn bự hơn của Texas… Hu hu!

- Tưởng gì, nín đi, tao cũng là người Texas mà, khóc gì!

- Hả?!

Hi hi!

II

          Năm học đệ tam (lớp 10 bây giờ), tui và mấy thằng bạn chí cốt cùng lớp đã nghiện cà phê và nghiện cả thuốc lá rồi.

Thời đó, ngồi quán cà phê rất dễ sanh sự đánh lộn, vì choai choai với nhau, chỉ cần một ánh mắt nhìn không thân thiện là có thể bị hỏi độp ngay:

          - Kênh(1) hả mày?

Nếu nhắm bắt nạt được thì đứng dậy cầm cái ghế bước qua phang thẳng vào bàn của nhóm vừa hỏi xấc. Nếu bọn kia xin lỗi hoặc bỏ chạy thì tốt, còn ngược lại thì mình phải chạy trước, lơ mơ ôm mặt máu về nhà là thường. Chuyện đó xảy ra hoài. Vì vậy để tăng cường khả năng đánh lộn, bọn này rủ nhau đi học võ và khi đi ngồi quán cà phê, phải tìm cách kéo Hai Gồ cùng đi. Thấy tướng Hai Gồ ô dề, cao một thước tám, nặng trên tám chục kí, mặc dù coi cái bản mặt hiền khô, nhưng không đám du côn nào dám động tới.

Bọn này “ngồi đồng”(2) quán cà phê Muôn Phương thường xuyên, lấy nơi này làm nơi tập hợp nhóm. Đây là một trong vài quán cà phê khá nhất của thị xã bằng lổ mũi này. Cà phê phin tuyệt hảo. Âm nhạc được phát ra từ hai loa của chiếc máy quay băng AKAI hiện đại. Nghe nhạc bằng âm thanh stereo là thuộc loại hot (như cách gọi bây giờ) nhất thời đó. Ngồi mơ màng trong khói thuốc thơm Capstan, hớp từng ngụm nhỏ cà phê cứt chồn Ban Mê Thuột, nghe những giai điệu trữ tình của các bài hát tiền chiến, nhạc tình của Phạm Duy… và của Trịnh Công Sơn, rồi tự ám thị mình sống hiện sinh trong thế giới tràn ngập sự chết chóc, giết người và bị giết này. Chủ quán là một cô gái tóc dài đen mượt, da trắng, khuôn mặt bầu bĩnh, không đẹp nhưng có duyên, tính tình ăn nói dễ thương, tên là Lan. Chỉ tội là mụn to mụn nhỏ thi nhau trồi lên lớp da hồng hồng trên hai má. Lan lớn hơn bọn tôi chừng vài ba tuổi, nhưng lại ngang bằng hoặc nhỏ tuổi hơn Hai Gồ. Tôi kêu Lan bằng chị, Lan xưng bằng tên với tất cả bọn này. Một hôm, tới quán một mình, quán vắng khách, Lan ra ngồi với tôi nói chuyện chơi. Đột nhiên Lan hỏi:

- Miên thấy Lan có dễ thương không?

- À… ừ… à…  

Tui lóng ngóng không biết trả lời ra sao hết. Chắc chết, tự dưng lại hỏi kì ta, hay là… Lan thương mình, mụ nội ơi! Ừ mà mình là thằng đẹp trai nhứt nhóm mà (he he), lại có cả xế Dame(3) nữa, không thương cũng uổng.

- Miên cứ nói thiệt đi, có sao nói vậy người ơi.   

Tui làm một hơi hết li cà phê, kéo mấy hơi thuốc nữa mới đủ gan đáp lời:

- Mình thấy chị Lan… đẹ… ẹp đẹp lắm!

- Sao lại cà lăm vậy Miên. Nhưng nè… 

Ngập ngừng một chút, hai má Lan hồng lên, chắc sắp tỏ tình với mình đây. E hèm, lúc đó tôi nhớ mình nín thở chuẩn bị tâm thế để nghe lời tuyên án, tiêu đời trai rồi thằng tôi ơi.

- Nè, Miên thấy… anh Hai có để ý gì tới chị không?

Nghe Lan xưng chị với mình ngon lành, tui như quăng được tảng đá to đội trên đầu. Tui thở một hơi phì phì như trâu ngợp nước vừa ngoi lên bờ, ngả người ra sau, rít thêm mấy hơi thuốc nhả khói lên trần nhà. Chà, vậy là mình thoát nạn. Kha kha, tôi cười thầm trong bụng và cái đầu u mê của tôi bỗng thông minh đột xuất đã nghĩ ra cách xử lí tình huống vừa làm mát lòng cô chủ quán, vừa có lợi cho cả bọn nghiện cà phê này, chỉ tội cho Hai Gồ, phen này dính đạn rồi.

- Có… có mà, anh Hai khen chị miết!

Hai má Lan đỏ chín như bồ quân, mắt chớp chớp. Phải công nhận Lan có đôi lông mi cực đẹp, cong vút, mấy lâu nay mình không để ý. Người con gái có lẽ đẹp nhất là lúc nghe lời khen của người mà mình yêu thích, dù có khi chỉ qua miệng người khác.

- Miên này, chị nói cái này, đừng cười chị nghe. Chị thương anh Hai thiệt đó, Miên ơi.

Lan nói rất nhanh như sợ nếu nói không kịp thì lưỡi bị thut lại zậy. Mình cười hi hi trong bụng, có chuyện vui rồi.

- Chị Lan có muốn mình nói lại với anh Hai không?

- Không, không, đừng nói, mắc cỡ chết, Miên đừng nói với anh Hai và đừng nói với ai hết nghe. Miên mà nói là khỏi ghé quán uống cà phê nữa đó.

- Ừa, biết rồi, nhưng không nói làm sao anh Hai biết chị Lan thương…

- Miên rủ anh Hai tới quán thường xuyên nghe. Chị chỉ cần có anh Hai ngồi ở quán chị là thấy sướng rồi.

Trời ạ, chỉ cần bi nhiêu đó thôi mà đủ thấy sướng, khó hiểu, con gái, đàn bà thật khó hiểu… Sau này, kinh nghiệm chiến đấu tình trường đã dạy cho tôi biết sự khó hiểu đó của đàn bà cũng đơn giản, dễ hiểu, có thể giải được hầu hết những khó hiểu đó, giống như khi mình học toán phải thuộc và lấy định lí ra giải toán vậy thôi.

Tôi vô đề:

- Ừa, được rồi, nhưng… đâu phải lúc nào mình cũng có tiền để ngồi quán?

Lan chồm tới đập tay lên vai mình, cười lích rích:

- Hơi đâu mà lo chuyện tiền bạc, quán nhà mà.

Nghe hai tiếng “quán nhà” tôi như được uống li nước mát lúc khát khô cổ họng. Vậy là cả bọn có chỗ uống cà phê chùa rồi, he chỉ cần Hai Gồ chịu xáp vô…

Kha kha kha!

III

          Sau 1975, Hai Gồ cưới vợ. Vì chưa có nhà riêng nên hai vợ chồng ở chung với ông bà già và mấy đứa em. Tánh chị Hai bộc trực, thẳng tuột như cái máng hứng nước mưa. Chị ăn khoẻ, làm khoẻ, công chuyện làm nông của nhà, chị và anh Hai đội mưa đội nắng làm khoẻ “ge”(4). Chị có cái tánh không để bụng được chuyện gì lâu, giận ai là hùng hùng hổ hổ rồi quên tấp lự, như nước tạt xuống đất khô không thấy nữa. Thương ai nói thương, ghét ai nói ghét (sao mà giống “Lời mẹ dặn”(5) của Phùng Quán quá), hàng xóm có chuyện hiếu hỉ, xăn tay áo liền liền, chân bước tấp tả tới nơi miệng nói tay làm. Nhưng khổ nỗi, chính cũng vì cái tánh đó mà sanh sự. Bà già Hai Gồ tánh khó giàng trời, ông già còn chịu hổng nổi. Trong nhà, bà già là “sếp” như mấy nhà người dân tộc trên núi theo mẫu hệ, lời của bà nói ra là chiếu chỉ vua ban. Mấy lần Hai Gồ nhắc chị là đừng để ý, má nói sao làm vậy, không cãi, chị nghe làm theo.

Hồi Hai Gồ chưa dẫn chị Hai về, bà già ở nhà có nhắm một cô cùng xóm Cua Chuối Hột định chờ Hai Gồ về là cưới ngay. Nhưng ai dè, bất đồ Hai Gồ chơi ngẵng không thèm hỏi ý kiến ông bà già, dẫn chị Hai từ Cà Mau về nhà giới thiệu rồi làm đám cưới luôn. Bà già Hai Gồ buồn. Từ buồn chuyển qua giận. Giận ai? Giận Hai Gồ chẳng nhằm nhò gì, vậy là trút giận lên vợ Hai Gồ cho biết mặt… Cũng có lúc chị Hai nói lại, nhưng nói lại đúng ba lần, và nói chỉ một câu ba tiếng như nhứt không sai một tiếng:

          - Dạ, con biết!

Nấu cơm, ai cũng vậy, có bữa này bữa khác, khi ngon, lúc dở. Vợ Hai Gồ nấu ngon, bà già không hề khen một tiếng, nấu dở, bà già “gầy gà” cả một buổi. Chị Hai có tật, hễ lúc làm công chuyện, miệng thích hát hò mấy câu cải lương hay bản nhạc của Vinh Sử, Thanh Sơn… mà Thanh Tuyền, Chế Linh… hay hát. Bà già nghe gắt liền:

- Làm không lo làm, cứ lo hát hát hò hò!

Chị Hai đi chợ. Chợ nông thôn ít đồ bán. Cá chạy chợ phụ thuộc hoàn toàn vào một, hai bà bán cá. Họ bán gì mua nấy, lấy đâu mà lựa mà chọn ngon dở. Vậy là vợ Hai Gồ, mỗi lần đi chợ mua cá về, hầu như đều bị bà già “giả cua” rôm rốp. Thấy vợ khóc, chồng an ủi vợ theo đúng kiểu Hai Gồ chánh hiệu:

          - Nín đi, khóc làm gì, hàng xóm người ta cười nghe chưa!

(He he, thua luôn…)

Nghe bà già chồng chửi mắng, nhịn được không sao hết, nhưng còn cái chuyện này là nhịn hổng nổi à nghe. Cái “em gái” cùng xóm Cua Chuối Hột kia, hình như được bà già cho phép, nên cứ lui lui tới tới nhà hoài, miệng thì thưa hai bác con mới tới, nhưng mắt thì liếc Hai Gồ muốn lủng mặt, như ngầm nhắn nhe, anh Hai ơi, lúc nào em đây cũng chờ anh Hai hết đó nghe... (Hai Gồ sướng thiệt, be he he!). Tội cho chị Hai, cái cảnh ứa gan đó cứ diễn đi diễn lại, chịu sao thấu hở trời. Rồi tới một bữa, đi chợ sáng, chị Hai gặp “em gái” Cua Chuối Hột đang mua mít. Em gái tĩnh bơ như nai tơ ôm trái mít bự chãng chín thơm lừng đưa cho chị Hai:

- Bác gái với anh Hai thích ăn mít nghệ lắm, em nhờ chị đem về nhà giùm. (kha kha, gan cùng mình!)

Cho đến tận bây giờ, qua ba mươi năm, nghe kể lại chuyện này không biết bao nhiêu lượt, nhưng lúc nào tôi cũng vẫn có cảm giác như mới nghe lần đầu. Chuyện diễn ra như sau:

Thấy cái bản mặt câng câng, miệng cười cười nói nói như giỡn chơi, như thiệt lòng của “em gái”, máu nóng sôi lên rùng rùng dồn lên mặt muốn say xẩm, chị Hai nổi sùng, nhưng cồ dằn xuống, chị lầm bầm lẩm bẩm như mấy bà già mắc bịnh “nói lịu”: “cù nèo cù né bồn bồn điên điển lục bình cá hú cà kèo cá tra Năm Căn Đất Mũi bần bần đước đước…”. Sau khi kêu hết những thứ quê kiểng xứ Cà Mau, như nhờ đất đai linh thiêng phò hộ, chị kéo tay “em gái” ra khỏi chợ, rồi bình tĩnh nói nhẹ nhàng rành rọt như không, giống như đã chuẩn bị sẵn kịch bản:

- Nè, cô em, cái cục muốn anh Hai của cô em chạy tới háng rồi hả? Chịu hết nổi rồi phải hông? Được, chị Hai đây sẵn lòng nhường anh Hai cho cô em cái “gụp”, không nói chơi đâu, chị “chống xuồng”(3) quay dzề Cà Mau liền tay. Nhưng mà cô em phải có giao ước với chị Hai đây. Cô em với anh Hai, kẻ có mồi, người có “gụ” (rượu) hùn dzô nhậu chơi, nhậu chán tràn họng thì thôi, lo mà mần ăn, cấm say xỉn quậy quọ xóm làng. Hai năm sau, chị Hai dzề lại, chừng đó nếu thấy hai người ở dzới nhau được, thì chị Hai đây đi luôn, dzĩnh biệt Cua Chuối Hột này. Được chưa? Còn nữa, cô em ôm trái mít theo chị Hai dzề nhà, chị Hai nói chuyện với anh Hai cho “gõ gàng” rồi chị đi…

Vậy là, miệng nói, chân đi liền…. Chị dắt tay đứa con gái đầu lòng bỏ Cua Chuối Hột về lại Cà Mau, không khóc một tiếng, không có giọt nước mắt nào nhỏ xuống Cua Chuối Hột, miệng cắn chặt suốt dọc đường từ nhà ra quốc lộ đón xe. Đứng trên lề đường trước khi bước lên xe đò, chị chỉ hát đúng một câu: “Ngày xưa hai đưa thương nhau, bây giờ hai đứa trầu cau lỡ làng” (tui hổng biết nhạc của ai mà chú thích) … 

Hu hu, thương chị Hai quá, anh Hai Gồ ơi!

IV

          Tính từ cái hôm chị Hai tay dắt đứa con gái đầu lòng bước lên xe đò đi thẳng về Cà Mau “chống xuồng”, không biết trong bụng Hai Gồ có ray rứt nhớ vợ nhớ con không, mà không thấy Hai Gồ ra đồng ra ruộng gì hết, chỉ nghe bà Tư bán quán nhậu cóc kẻng ở xóm khuyên lơn Hai Gồ:

          - Cái thằng, có thương vợ, nhớ con thì bắt xe mà đi tìm con gặp vợ, chớ mày cứ uống rượu hoài, vợ mày nó dẫn con về chắc?

Chỉ thấy Hai Gồ hết vò đầu lại bứt tai, có lúc lại lấy cả bàn tay to như cái quạt đập lên cái đầu bù xù không thèm chải nghe bộp bộp, thấy mà thương tâm. Bên hiếu bên tình, bên nào cũng nghĩa, đạo phu thê, tình phụ tử…, ông bà xưa dạy người đời sau thuộc nằm lòng, nhưng khi chính mình ngộ cảnh, ông bà nào đâu biết cách chi mà chỉ bảo xử cho đẹp, cho vẹn đôi đường. Nghĩ càng thương cho Hai Gồ, thân này khó xẻ làm hai.

Ông già thấy Hai Gồ bỏ ăn cả tháng, chỉ uống rượu với mồi trái cây tổng hợp cóc- ổi- khế- me- chùm ruột, chắc bị “sỏ”(7) chừng chục kí lô, thương thằng con trưởng ăn ở hiền hậu, lo lắng sợ nó sống thất đức, nên lén lén ra quán bà Tư đập tay Hai Gồ hai chỉ vàng và một ít tiền, nói gọn lỏn:

          - Thằng Hai mày xuống Cà Mau đi!

          Hai Gồ đang xỉn, nhưng nghe được hai tiếng “Cà Mau” là tĩnh như trời đang nắng nóng trâu được dầm xuống ao, sướng hung, không kịp nói một câu nào với cha, chạy một hơi ra đường quốc lộ. Bộ quần áo mà Hai Gồ bận gần cả tháng nay chẳng cần thay, cứ vậy mà leo lên xe đò đi vô, bụng sướng hết biết, chắc tới nơi cách một cây số chị Hai đã nghe mùi rồi… He he!

Chị Hai từ hôm về tới nhà, giao con cho đứa em gái, nói mày giữ gùm chị, rồi chạy thẳng ra rặng trâm bầu sau nhà khóc một thôi một hồi chừng một tiếng đồng hồ, vắt nước mũi, chùi nước mắt, khóc thêm ba tiếng hu hu hu, mặt nghinh lên trời bước vào nhà, chào má, chào tía… Thật là kính phục chị Hai!

          Em gái chị Hai có đứa con gái cũng bằng tuổi con chị Hai, nên hai đứa chơi với nhau suốt ngày. Nhờ đó, ngay ngày hôm sau, chị Hai đã chống xuồng ra chợ nổi mua mua bán bán, chiều tối mịt mới về tới nhà.

Tối, ăn cơm xong, mẹ con hủ hỉ, một hôm con nhỏ nói:

          - Má ơi, trưa nay, ông dượng “oánh” dì, dì quên nấu cơm, ngồi khóc miết.

          Hỏi ra mới biết, thằng em rễ bỏ bê vợ con, chạy theo con nhỏ bán trái cây trên chợ nổi. Gặng hỏi, em gái mới chịu khai tên con nhỏ kia, tên là Sáu Sầu Riêng, vì chuyên bán sầu riêng trên chợ nổi lâu nay.

Sáng hôm sau, chị Hai bới tóc gọn gàng, bận quần bó, áo cụt chống xuồng ra chợ. Chỉ cần hỏi một câu là biết ngay xuồng của Sáu Sầu Riêng đậu ở chỗ nào. Chị Hai cầm đuôi tôm(8) chạy lạng lách cặp sát xuồng con nhỏ liền. Chị Hai tính trước sẽ chỉ nói chuyện nhỏ nhẹ với con nhỏ cho nó biết phải quấy thôi, nhưng khi tới nơi, nhìn thấy thằng em rễ đang giỡn hót với Sáu Sầu Riêng trên xuồng, máu nổi lên rần rần chịu hết thấu, chị thả đuôi tôm, nhảy một phát qua xuồng con nhỏ. Chị Hai nặng hơn tám chục kí, nhảy trúng be xuồng, xuồng nghiêng lật úp luôn. Chị Hai rớt xuống nước, định chụp tóc con nhỏ nhậng nước cho biết mặt, không ngờ, con nhỏ như rái cá, lặn một hơi mất biệt, không biết nó nổi lên chỗ nào.

          Tối đó, thằng em rễ biết sợ, gặp chị Hai cười bẽn lẽn:

          - Chị Hai, em biết lỗi của em, em bỏ nó luôn rồi, chị tha cho nó nghen chị Hai!

          - Ừa, cái đó là do dượng thôi, nếu dượng bỏ nó, thì tui không để bụng nữa.

Sáng mai, chị Hai ra chợ mua bán bình thường, vừa tới nơi, chị nghe tiếng nói lớn trên một chiếc xuồng:

          - Mẹ nó chớ, bả ghen giùm cho em gái, làm gì tao, em rễ bả dính chặt với tao rồi, dứt ra hổng dễ đâu, em gái bả trước sao cũng bị chồng bỏ…

          Chị Hai lầm bầm, mày chết với chị rồi nghe em. Lần này, chị cẩn thận lách xuồng phía sau lưng con nhỏ, khi cặp sát nách, chị nhẹ nhàng bước qua.

          - Sáu! Chị Hai !

          Có ai đó la lên, Sáu nhảy qua xuồng kế bên và chạy một hơi qua chục chiếc. Chị Hai nhảy bám sát, làm cho cả chục chiếc xuồng này đều chìm nghĩm. Tới xuồng thứ mười một, Sáu và chị nhảy cùng một lượt, sức nặng của hai người làm chiếc xuồng lật ngang, chị Hai túm được chiếc áo bà ba của Sáu.

          - Chết nghe em!

Sáu liều nhảy ùm xuống sông, chị Hai túm chéo áo nhảy theo. Vừa rớt xuống nước là chị Hai ngoi lên, lật ngữa Sáu lên và cho Sáu mấy cái bạt tai. Tay phải chị Hai nắm cổ áo Sáu, tay trái bơi. Chị Hai kéo Sáu nhẹ như kéo cái phao vô bờ. Sáu bị uống nước căng bụng xỉu luôn trên tay chị Hai…

Cái chuyện đánh ghen của chị Hai làm chìm mười một chiếc xuồng nổi tiếng khắp xứ Cà Mau. Thằng chồng nào lẹo tẹo, chỉ cần nghe con vợ nói sẽ mét với chị Hai, là ngay tấp lự vừa le lưỡi vừa thun cha nó cái “quyền trượng” của đàn ông liền liền…

          Sau này, có lần tôi hỏi chị Hai:

          - Bộ cha nào có bồ nhí, vợ nó nhờ, chị cũng xử hết sao?   

          - Hổng có đâu, phải phân biệt chớ chú. Thằng chồng nào có bồ bịch mà đàng hoàng với dzợ con, và con dzợ không than phiền gì, thì thôi. Còn thằng chồng nào ăn mánh rồi dzề nhà hành hạ, đánh đập, hắt hủi dzợ con, khi con dzợ nó nhờ tui là tui xử ngay, xử thiệt thà, cho tởn tới già!

Khâm phục chị Hai quá! Nếu mọi người cũng khâm phục chị Hai như tôi, thì hãy cùng tôi đề nghị ghi tên “Vợ Hai Gô” vào ghi- nét Việt Nam về “tinh thần nhân văn đánh ghen”. Ghen cở Hoạn Thư không đáng một cọng lông… măng dưới… bắp chân chị Hai.

Khơ khơ khơ!

V

Hai Gồ vừa xuống xe, nghe mấy bà bán hàng thúng bánh trái ở bến xe Cà Mau ca ngợi hết lời một người tên “Chị Hai” về tinh thần nghĩa hiệp giúp đỡ phụ nữ bị chồng hắt hủi, thấy hay hay, không biết “hiệp sĩ bà bà” nào trùng thứ với vợ mình, định bụng về tới nhà sẽ hỏi chị Hai cho rõ.

Tới nhà, không thấy chị Hai, chỉ có con Ba em vợ ở nhà. Nhỏ con gái nhà anh chạy ra mừng ba quấn quíu, nói ngọng nghịu:

          - Ba… ba… ba ơi…

Bắt cười con nhỏ, chỉ nói được bi nhiêu đó rồi cười lòi hai hàm răng sún trống hoác để gió chạy vô bụng ào ào, hổng biết nói gì nữa hết trơn, anh Hai chỉ sợ con nhỏ đau bụng. Cha con ôm nhau chảy nước mắt. Thương cho tình cha con cách biệt tháng trời, giờ mới gặp lại. Nếu có tui ở đó chắc khóc theo quá.

Con nhỏ vừa bình tình trở lại, la lớn:

- Sao quần áo ba thúi quá dzậy?

Lúc này, anh Hai mới sực nhớ mình bận bồ đồ cả tháng không thay, hổng biết cái lần mình tắm rửa gần đây nhứt là bao lâu. Hi, nhớ vợ chạy lẹ về Cà Mau, quên cả chuyện thúi thơm. Hai Gồ cười một mình rồi ra sông, cái dáng gù gù với bước đi chậm rãi in bóng lên lưng trời lừng lững. Hai Gồ để nguyên cả quần áo nhảy ùm xuống sông phía trước nhà, vừa tắm mình mẩy vừa giặt luôn quần áo. Hai Gồ vừa tắm vừa nhớ tới cái khuôn mặt bầu bầu, nước da mướt rượt, mềm nhũn dướn bàn tay thô ráp sần sùi như vỏ cây ngủ chiều của mình, Hai Gồ lẩm bẩm “tối nay, tối nay”. Hi hi!

Rồi tới tối nay, chập tối thui, lên đèn đường, chị Hai mới về tới nhà. Gặp anh Hai, hổng biết bụng dạ chị Hai làm sao mà không thấy chị rối rít ngọng nghịu như con gái chị khi gặp ba, mà chỉ nghe chị Hai tĩnh rụi hỏi đúng hai câu trống không với anh Hai:

- Mít nghệ ngon lắm hả?

- Thịt với “gụ” hùn dzô nhậu đã hông?

Anh Hai ngó trân vợ, như không nghe chị Hai hỏi cái gì hết. Ừa, đúng là cái mặt tròn quảo này, cái eo lưng đầy đầy chắc nụi êm êm như cái bao bột nè, cái bàn “tạ” tròn ủm như cái mủng gieo(9) nè, cái giọng nói nghe tưởng như trống không nhưng lại bùi ngùi chùi nước mắt, lọt vô tai chạy xuống dưới thủng tim Hai Gồ luôn nè! Ui, tối rồi…

- Có đoàn cải lương “Sống Giang” dzề hát ngoài chợ, tối nay cả nhà đi coi luôn nghe!

Nghe vợ thông báo tối đi coi cải lương, Hai Gồ chưng hửng bật ngửa luôn. Tối rồi nè trời! Bổng dưng Hai Gồ thấy ghét cải lương vọng cổ dễ sợ. Miệt sông nước, hát cải lương dưới ghe, sân khấu trên sông coi sướng lắm. Đào kép nhiều khi quê tại đây, nên thường hát theo hứng thiên thu đại hải khỏi cần giờ giấc, có khi lên diễn hát tới mờ sáng luôn. Nghe nói hồi nẫm, má của bầu đoàn hát “Sống Giang” này đẻ ổng trên ghe tại bến này, chút nữa rơi sông. Vậy là tiêu rồi, tối nay hát sáng đêm là chắc như ăn bắp rang rồi. He he, thương anh Hai quá!

Tối đó, anh Hai ra coi chút xíu, kệ tuồng “Lá sầu riêng” thiệt hay, tính bỏ về. Thằng em rễ vừa mới rã bồ, lòng cũng thấy buồn, rủ anh Hai qua ghe của thằng bạn nó nhậu chơi, sẵn dịp tâm sự chuyện của mình cho anh Hai nghe luôn. Nghe thằng Ba giới thiệu chồng chị Hai mới xuống, đám bạn thằng Ba dòm lom lom vô mặt anh Hai với con mắt vừa tò mò vừa thương cảm, vừa như kính nể. Một thằng tuổi còn nhỏ, đầu trọc lốc, để bộ râu dài cả tấc đen hin có dáng chủ xị cầm li đế nâng hai tay ngang mặt hướng về anh Hai hát tuồng:

- Chúng đệ đệ kính mừng đại huynh quay trở lại giang hồ… Khà khà, em mời anh Hai cưa(10) với em cái!

- Ừa, anh chào mấy chú!  

Hai Gồ tiếp li rượu lớn hơn li cà phê quứt phát đúng y nửa li. Phục trình độ cưa chính xác của anh Hai, phải là người chiến đấu trường kì trên chiếu nhậu mới có được kinh nghiệm như vậy. Ở miệt này, gặp nhau lần đầu trên chiếu nhậu, người ta thường nhìn cách cầm li, cách uống rượu để đánh giá nhân cách người. Người can trường mã thượng cầm li bằng năm ngón tay, vừa nhấc khỏi chiếu là hả miệng thì rượu đã vào cổ, không kịp thấy nuốt xuống lúc nào, mắt sáng lên, mĩm cười hoặc e hèm rồi nói câu gì đó lí thú. Kẻ tiểu nhân bủn xỉn, tay cầm li rượu thật chặt như sợ rớt lại xuống chiếu, miệng nói lời cảm ơn hoặc xin mời, mắt thì he hé nhìn người đối diện rồi nhìn chung quanh vẻ láo liên …, cánh tay co lại, cả bàn tay cầm li rượu chỉa thẳng vào miệng, cùi chỏ chìa ra phía trước như phòng khi người ta chơi xấu mình thì có cùi chỏ đỡ đòn, miệng mở vừa phải, uống rượu như sợ người khác thấy mình uống rượu.

Li rượu chạy qua chạy lại được mấy tua liền lạc không bị đắp mô(11), tự nhiên chú em râu dài hỏi anh Hai:

- Coi tướng anh Hai như dzầy chắc có thêm bà giá(12) anh Hai hén?

Hai Gồ chưa kịp trả lời, có người nói xen:

- Hổng dám đâu, anh Hai hén, chị Hai…

Nói kiểu lửng lơ, rồi cả chiếu nhậu cười ồn ào làm Hai Gồ lờ mờ đoán hình như có chuyện gì đó liên quan tới mình. Hai Gồ quay qua hỏi thằng em rễ, nhưng cũng là hỏi cả chiếu:

- Dượng Ba mày nói nghe có chuyện gì phải hông?

Thằng em rễ mặt buồn buồn, kể lại từ đầu tới cuối chuyện chìm mười một chiếc xuồng trên chợ nổi. Hai Gồ ôm bụng cười quá xá quà xa:

- Bộ anh Hai hổng ngán chị Hai sao mà còn cười? 

- Anh Hai đây có cái gì đâu mà ngán, mấy chú. Chị Hai mày dẫn bà giá zề cho anh Hai, anh đây còn hổng chịu, làm chi mấy chuyện kia.

Thấy mấy bạn nhậu của mình chưa tin lời anh Hai nói, thằng em rễ liền kể chuyện “trái mít nghệ” ở Cua Chuối Hột cho nghe, cả chiếu bái phục quá chừng chừng. Chủ xị râu dài chắp hai tay vái anh Hai mấy cái, kêu hai tiếng: “tổ sư” mấy lần rồi rót rượu cung kính mời anh Hai như kiểu phật tử dâng trà cúng Phật.

- Dzậy chớ anh Hai có thích em nào ngoài chị Hai hông?

- Mấy chú hỏi lạ, đàn ông ai cắt tay lại không chảy máu. Máu còn chảy là còn thích gái. Nhưng léng phéng rồi lại không biết giấu như mèo giấu cứt mà còn dzề nhà hắt hủi dzợ con thì anh Hai đây rất ghét. Thôi, hà hà, nhậu đi, hỏi chuyện đó hoài…

- Thưa anh Hai, em giơ tay xin hỏi câu cuối: “của” anh Hai chắc “giàu” lắm nên nhiều em theo phải dzậy hông, anh Hai?

- Mấy thằng trời đánh này, nhậu dzô nói tầm bậy tầm bạ trúng tùm la tùm lum không hà. Nhưng anh Hai cũng trả lời, mấy chú phải thuộc nằm lòng câu tục ngữ: “mồm miệng đỡ tay chân” này nghe. Khe khe!

Tiếng loa phát giọng hát thật ấm của kép nào đó đang xuống xề nghe não nề. Giọng ca trôi trên sông hoà cùng tiếng bập bờ của sóng tạo thành những âm thanh vừa lạ vừa quen như tiếng hát vọng về từ kí ức ngàn xưa của lưu dân sông nước trôi dạt về xứ sở đồng bưng “muỗi bay như vãi trấu, cá lềnh như bánh canh” này.

- Anh Hai, biệt danh Hai Gồ từ đâu cód zậy anh Hai?

Ai đó cắt ngang dòng suy tưởngcủa Hai Gồ, kéo Hai Gồ trở về với chiếu nhậu.

- Để em đoán coi có trúng hông nghe anh Hai?

- Ừa, chú nói đi!

- Có phải thời anh Hai đi học mô đen là quần bó xệ đì(13) hông?

- Ừa, có, nói tiếp đi!

- Anh Hai bận quần xanh áo trắng bỏ dzô quần, cái chỗ đó bị bó chặt nên gồ lên một đống, nên mấy nữ sinh khoái quá tặng cho anh biệt danh “Gồ”….

Ha ha ha! Ai cũng cười chảy nước mắt, muốn nín thở luôn, có mấy người đứng dậy nhảy loi choi cùng lúc làm chiếc xuồng úp mẹ nó xuống sông.

Vậy là liên quan với vợ chồng Hai Gồ, có tổng cộng mươi hai chiếc xuồng bị chìm tại bến chợ nổi Cà Mau này.

Hai Gồ vừa bơi vô bờ vừa lầm bầm “hết cha nó một đêm rồi”. Hai Gồ chỉ còn nước kêu trời.

Hu hu!

_____________________________  

(1): “Kênh”, tiếng lóng, đồng nghĩa với thách thức

(2): “Ngồi đồng” hoặc “ngồi cốt” nghĩa là ngồi một chỗ với thời gian rất dài, có khi ngồi lâu ở quán cà phê vì không có tiền trả quán.

(3): “Xế Dame” là xe Honda dame (honda nữ). Những năm cuối thập niên 60 thế kỉ trước, người có “Xế Dame” là sang rồi.

(4): Dân Cà Mau thường phát âm “r” thành “g”, “khoẻ re” thành “khoẻ ge”

(5): Trong bài thơ “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán có mấy câu:

“ Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chìu/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao doạ giết/ Cũng không nói ghét thành yêu”

(6): Trong ngữ cảnh này, có lẽ chị Hai nói theo hai cách:

1. “chống xuồng”, hiểu xuôi là về lại quê, chèo xuồng mần ăn.

2. “chống xuồng”, hiểu theo cách nói lái là “xuống chồng”, nghĩa là bỏ chồng.     

(7): có nghĩa là “ốm” (gầy- tiếng Bắc)

(8): Cầm cần quạt nước điều khiển tốc độ và hướng lái xuồng máy.

(9): Một loại thúng nhỏ vừa tầm ôm của một cánh tay, dùng để gieo (sạ) lúa.

(10): Một phong cách uống rượu của dân Nam Bộ. Trong bàn nhậu, mình kết ai thì mời cùng chia đôi li rượu đầy.

(11): “Đắp mô”, trong chiến tranh, du kích thường đào ngang đường và đắp thành những mô chắn để cắt đường giao thông .  Trong trường hợp này, ý nói, li rượu tới tua của người nào đó mà để lâu hoặc để lại không uống.

(12): Chỉ người phụ nữ goá chồng hoặc lớn tuổi mà chưa có chồng.

(13): Mốt quần tây mấy năm đầu thập niên 70 thế kỷ trước, có lưng xệ xuống dưới lổ rún cả gang tay, như loại quần model của con gái bây giờ, khi ngồi xuống lòi cả mông ở phía sau.

Lũ đầu mùa

TRUYỆN NGẮN CỦA TRƯƠNG ANH QUỐC

Cha mẹ không còn, anh em không có, gà chó cũng không nuôi. Ai mà không biết đó là Qoèo ở làng Gia Cát, kể cả một đứa con nít.

Qoèo chẳng trùng với tên ai trong cái làng, cái xã này; cũng có thể trong cái huyện này nữa. Có lẽ người ta biết Qoèo vì Qoèo thường đi làm công khắp nơi, hôm nay chú Chín Sún xóm trên gặt lúa: Qoèo ơi, ngày mai cô Tư xóm giữa bừa đám ruộng lầy: Qoèo hỡi, ngày kia nhà ông Năm Dừa xóm dưới đào giếng: Qoèo à, giúp dùm vài bữa nghe mày. Qoèo nhận lời hết, được thể ai cũng xí phần Qoèo.

Hôm cô Tư đi chợ nấu cơm trưa cho đám gặt, thấy Qoèo hì hục phụ hồ xây chuồng heo nhà ông Sáu, cô dừng xe chống nạnh hỏi nửa đùa nửa thật:

- Ê sao hôm qua ừ với tao rồi mà hôm nay lại làm ở đây mày ?

 Qoèo gải đầu gải tai:

- Tại nhiều người dặn quá nên tui quên, thôi ngày mai tui sẽ sang, chút xíu là xong chứ mấy !

Ông Sáu nghe cô Tư rủ rê mới nói với Qoèo:

-  Mai tiện tay mày làm ở đây luôn đi, khi nào xong thì qua làm cho cô Tư cũng không trễ, mà thôi, nếu xong sớm thì mày qua sớm chứ để cô Tư chờ...

Qoèo nghe mát cái lổ tai, gật gù cái đầu, Qoèo vác xẻng xúc hồ, bưng gạch ào ào mà không thấy mệt, làm cho xong để đi làm cho cô Tư. Ai cũng thích kêu Qoèo làm vì Qoèo làm khỏe mà không cần trả tiền công, chỉ nấu ăn hai bữa trưa tối với nửa buổi là xong, việc nặng thì thêm một bữa nửa chiều, thỉnh thoảng có gói thuốc chim xanh, thế là việc gì cũng rẹt rẹt ba mươi giây.

Đến mùa, Qoèo làm việc không ngơi tay nhưng Qoèo lại mập mạp, còn hết mùa không làm gì nhiều mà Qoèo ốm nheo, Qoèo ở trần, hai cái xương vá nhô cao. Do không đi làm Qoèo ăn uống không đầy đủ. Qoèo hay có tật xâm, hễ mệt và đói là té, có lần té sấp, có lần té ngửa. Mấy người nói Qoèo bị té ngửa nên thần kinh bị chập nhưng Qoèo chối, rằng cứ nói xấu Qoèo hoài rồi Qoèo ế vợ là Qoèo bắt đền, chỉ thấy cái lần té sấp, hai cái răng cửa của Qoèo bị gãy thiệt. Răng gãy mà Qoèo lại hay cười mới chết chứ ! Mấy cô gái làng trên xóm dưới lại thích chọc cho Qoèo cười hoài. Nhiều người bày là phải trồng răng giả để mà ăn nói với con gái chứ. Qoèo thấy có lý, dành dụm mấy tháng trời, trồng lại hết mớ tiền, lại thiếu, Qoèo đi mượn. Hàng xóm nghe Qoèo trồng răng để gặm xương nên ai cũng thương mà cho không. Nhưng mới trồng được mấy bữa, khi đi đêm về, đang xuống dốc, đường vồng, cái đèn pin đứt tóc, Qoèo lại lao xuống ruộng sâu, hàm răng giả rơi xuống đám lúa đang trổ bông. Hôm sau Qoèo dậy sớm tìm cả ngày mà cũng không ra. Qoèo nói không có hàng…tiền đạo thì hậu vệ chắc cũng tốt, với lại răng trống khi cười sẽ thông mũi mát họng chứ có sao đâu !

Dạo rày việc đồng áng cũng thơ thơ. Không như lúc trước còn làm ba vụ nên phải chọn lúa ngắn ngày; lúa ngắn ngày năng suất thấp, suốt ngày trên đồng để sạ, làm cỏ, đắp nước, bón phân rồi lo gặt lại... Nội việc lúa má đã thở không kịp lại còn trồng mía ép đường, rồi trồng sắn khoai, sắn thì phải bào vỏ chặt phơi khô nên công việc ngập đầu. Bây giờ đất không còn trồng mía do nhà máy đường thua lỗ nặng phá sản từ mấy lâu rồi. Trồng sắn cũng khỏe re vì bán sắn tươi cho nhà máy tinh bột. Thuế ruộng đất cũng đã giảm rất nhiều, làm có hai vụ cũng đủ ăn, xuống giống diệt cỏ là xong, đến kỳ bón phân rồi chờ đến ngày gặt. Tuốt lúa cũng tuốt bằng máy có gắn động cơ chứ không đạp bằng chân hùng hục hay đạp trâu như trước nên phụ nữ hay con nít tuốt cũng được. Cũng đạp máy tuốt mà Qoèo làm hư mấy cái trong xóm rồi, Qoèo đạp mạnh quá, cái thì vỡ nhông cái thì gãy chân đạp. Gối vụ, đàn ông con trai xong mùa màng ra thành phố làm việc hết, phụ hồ cũng có ít tiền chứ ở nhà đâu có việc chi. Đi hết rồi ông hai Héo trong xóm chết không có người khiêng, một mình Qoèo phải chịu một đòn.

Mấy bữa này bà Tính bệnh không dắt bò ăn được, bà thấy Qoèo ở nhà không làm gì thì nhờ giữ giùm. Qoèo thấy thương cho bà Tính, nhà không có người mà nuôi bò như nuôi con mọn chi cho cực. Bà Tính lại nói không có con cháu gì, nuôi con bò cho có bạn cũng vui. Qoèo đồng ý giữ bò cho bà Tính vài bữa đến khi bà hết bệnh chứ con bò mới đẻ con, không có cỏ là không sữa cho bú, bò con sẽ mất sức mà không lớn vì đâu như con nít, mẹ không có sữa là ăn sữa bột hay đi bú nhờ, bò mà đi bú ké là bị đá cho dập răng hàm răng dưới. Qoèo thấy mấy cái răng bị gãy mà nhai cơm đã trệu trạo. Bò chỉ có một hàm răng dưới, gãy thì lấy chi gặm cỏ ! Không biết bò mấy tuổi thì thay răng, bò bị gãy răng, răng có mọc lần thứ hai hay không? Qoèo đứng trầm ngâm suy nghĩ trước chuồng bò một lúc lâu rồi mới gọi bà Tính.

Bà Tính ráng dậy tháo nêm cổng chuồng bò, tay bà run lắm, thấy thế Qoèo đỡ lấy cái dùi cui đóng ngược chiếc nêm văng, tháo ba thanh cổng dựng vào góc cẩn thận rồi dắt bò ra khỏi chuồng. Bà Tính dặn với theo:

-  Con chỉ dắt ra bờ mương thôi chứ đừng có dắt vô bờ ruộng của người ta nghe con !

-  Dạ.

Qoèo cầm dây mũi dắt con bò ra đồng, con bò con lông vàng ươm lon ton chạy theo sau, có lúc nó dừng lại ngửa cổ lên nhìn trời nhìn đất nhìn mây trông chừng lạ lắm. Mới ra cửa đồng, thấy bà Út đang bưng cái mủng hốt phân urê vãi trên bờ cỏ, Qoèo thấy lạ hỏi :

-  Bà bị khùng hay sao mà không vãi phân dưới ruộng mà vãi trên bờ ?

-  Mi bị khùng thì có ! Bón phân để lấy cỏ cho bò ăn đó ! Hôm nay mới mua bò hả ?

Bà Út chọc chứ bà biết thằng Qoèo giữ bò dùm cho bà Tính, thấy con bò là biết ngay rồi. Nhưng Qoèo cứ chối giãy nảy:

-  Tui giữ dùm thôi chứ tiền không có mua gạo lấy đâu mua bò, tại bà Tính đang bị đau…

-  Đau gì, có nặng lắm không ?

-  Sao tui biết, hỏi bả ấy !

Bà Út thấy cái thằng hôm nay nói chuyện dễ ghét quá, bà lật đật vãi cho hết nhúm phân rồi cắp cái mủng te tái chạy về.

Qoèo nhìn quanh, thấy bờ ruộng nào cỏ cũng xanh um nhưng hai đầu bờ đều đóng cọc và rào bằng mấy nhánh gai tre. Qoèo nhớ lại mấy bữa rồi xã bắt loa rao cấm lẻ trâu bò ăn trên bờ ruộng. Qoèo thấy cũng kỳ, con trâu con bò quanh năm nai lưng cày bừa trên cánh đồng lại không được gặm cỏ trên chính cánh đồng ấy. Thế thì tội nghiệp quá, bất công quá ! Phải chi có máy cày thì cũng đỡ tội cho chúng, nhưng ruộng bậc thang và lầy lội thế này thì làm sao dùng máy cho được, thôi làm thân con trâu con bò thì suốt kiếp mang cái ách trên cổ. Nghĩ đến đó tự nhiên thằng Qoèo bật cười khanh khách, tuy nó làm nhiều chứ cũng sướng hơn con trâu con bò vạn lần.

Qoèo không biết cho bò ăn chỗ nào, thấy bờ mương không có ai rào Qoèo dắt đại ra bờ mương. Bờ mương để dẫn nước chung nên không ai rào là phải. Nước mương đầy mắp chắc là thôn Gia Cát Hạ  đang đắp nước. Qoèo cho con bò mẹ nhảy qua mương. Nó nhảy qua cái vèo rồi gặm cỏ rào rạo, nó ăn liếng thoắng, trào cả bọt ra hai bên mép, gặm đến nhổ cả gốc cỏ lên như là lâu lắm rồi không được gặm cỏ. Một lát sau con bò con cũng nhảy được qua mương và chạy lại gần bò mẹ, bò mẹ chỉ liếc nhìn con rồi cắm đầu cắm cổ ăn.

Qoèo ung dung nhìn trời nhìn đất. Bỗng có tiếng xe máy chạy ngang đường, có người hô lên: Bắt trâu bò đó ! Qoèo hoảng hồn kéo cho bò chạy, nhưng con bò mải ăn không chịu đi, nó gằm đầu xuống gặm cỏ. Qoèo dùng hai tay kéo dây thừng dừa ướm chừng như đứt cả cái lổ mũi con bò, nó nhăn mặt, nước mắt nước mũi chảy thòng lòng nhưng cũng không chịu bước, nó lè cái lưỡi dài ngoằn cố gặm thêm chút nữa. Ông trưởng thôn thôn bên đã chạy xe đến gần rồi. Qoèo lại không có cầm theo roi, không biết phải làm sao. Qoèo chạy ra phía sau đẩy đít con bò nhưng nó khỏe quá, bốn chân trụ vững như cột nhà. Bí quá Qoèo trở ngược khúc dây mũi quất túi bụi vô chân, vô mông, vô khấu đuôi nó. Con bò đau quá nhảy qua bờ mương và chạy một mạch đến rừng keo gần đó, Qoèo đánh thêm một cái thật mạnh cho con bò chạy thẳng vào rừng keo mới lớn um tùm.

Qoèo nhìn lại, thấy còn con bò con vẫn đứng nhìn ngơ ngác, nó chẳng biết chuyện gì xảy ra, và nó cũng không nhảy qua con mương để chạy theo mẹ được. Không lẽ để con bò con đứng đó thì trước sau gì cũng bị phạt, Qoèo cột dây mũi bò vào thân keo rồi quay trở lại. Làm sao đây? Chú bò con chưa được xỏ mũi. Nó cũng còn nhỏ quá để làm giòm, làm sao dắt đi cho được. Bí quá Qoèo ôm con bò nhảy qua mương chạy một mạch vào rừng keo.

Mấy hôm sau có giấy báo cho bà Tính đóng phạt, bà chưa hết đau nên nhờ Qoèo đi ra xã đóng dùm, bà dặn kỹ là nhớ khi đóng phạt xong rồi thì đi đâu hãy đi. Qoèo nghĩ tại mình bà Tính mới bị phạt nên sốt sắng đi, cắm đầu cắm cổ ra xã, cầm tiền với cái giấy báo khư khư trong tay, ai hỏi chi cũng không nói, nói ra sợ quên rồi lỡ việc lớn.

Qoèo đi sớm chứ ra xã chẳng có thấy ai làm việc. Qoèo ngồi chờ mãi đến khi nộp phạt xong ra về thì trời đã nắng chang chang. Lúc đi ngang qua trạm xá thấy có bóng cây da mát rượi Qoèo dừng lại nghỉ cho đỡ mệt. Mới đứng có một chút xíu thì ai đó gọi:

-  Ê Qoèo! Vào trong này chơi đi!

Qoèo nghe lạ, ai lại kêu mình ? Qoèo tò mò bước vô. Thì ra là anh Bảy - phó chủ tịch, nhà ở thôn Gia Cát Thượng, anh đưa chiếc ghế nhựa cho Qoèo ngồi rồi ghé sát tai:

-  Mày thích cô Hương không, cô ấy thương mày lắm đó!

Qoèo cười khà khà, nhìn theo phía tay anh Bảy chỉ. Một cô gái mặc bộ đồ trắng muốt đang ngồi băng bó cho bệnh nhân, Qoèo thấy cô đẹp quá chừng chừng, chưa bao giờ Qoèo gặp một cô gái đẹp như thế.

-  Thiệt không? Cổ thương tui thiệt không? Mà sao cổ không thương anh Bảy?

Câu hỏi ngu ngơ làm anh Bảy giật mình.

-  Tao…đã có vợ con, mày còn là trai tân nên cổ mới thương mày chớ!

Anh Bảy có gia đình rồi mà còn tiếc của đời, tại cô Hương đẹp lại không chịu yêu một ai. Nghe nói thời sinh viên cô cũng yêu một anh cùng trường, thậm chí giúp đỡ mọi thứ cho anh chàng ấy học hành nhưng khi ra trường thì anh chàng ấy đi cưới con gái của ông giám đốc bệnh viện để có được chỗ làm tốt. Buồn đời, buồn tình, ra trường cô tình nguyện xin đến làm ở tận cái xã này. Không chỉ anh Bảy mà nhiều người cũng tán tỉnh cô Hương nhưng tim cô không còn rung động nữa, biết làm sao được, tình yêu đâu có thể so sánh với bất kỳ thứ nào khác. Nghe Qoèo hỏi, anh Bảy như chạm tự ái, anh vỗ vỗ vô vai Qoèo:

- Mày ở lại nói chuyện với cô Hương, anh có việc phải về trước nghe !

Qoèo gật gật đầu, chờ cho anh Bảy nổ máy xe đi khỏi mới lại gần cửa đứng nhìn cô Hương, Qoèo mân mê cái vạt áo rách hồi lâu, rồi bỗng nhiên Qoèo  bước nhanh lại cô Hương và hỏi:

-  Cô Hương…thương tui thiệt hông ?

Cô Hương giật mình làm rơi cái kéo, nãy giờ cô mải làm không chú ý, bây giờ nhìn lên, cô cười cười, nhưng rồi biết là anh Bảy xúi bậy, cô nghiêm mặt quát:

-  Mày khùng hả ?

-  Tui… tui chỉ hỏi vậy thôi mà !

- Về đi, đứng đó tao tiêm cho một mũi vô mắt là đui luôn đó !

Cô Hương dứ dứ cái ống tiêm, Qoèo thấy cũng ớn, định bỏ về nhưng trời còn nắng quá, chợt nhớ lại lời dặn của anh Bảy nên đi loanh quanh trạm xá chơi, gặp chị Hiền cùng xóm làm trong trạm xá, chị cũng mặc đồ trắng, Qoèo liền hỏi:

- Cô Hương thương tui phải không chị Hiền ?

- Ừ, thương mày chứ chẳng lẽ thương… tau !

Chị Hiền trả lời mà không cần nghĩ, nói xong chị quay mặt và bụm miệng cười. Cái Hương kén quá, chị chỉ chọc cho vui thôi. Nghe vậy Qoèo mừng quá đi một mạch về nhà. Qoèo đi nhanh lắm, bước chân thình thịch, thấy Qoèo đi là xe cũng phải né, còn khi Qoèo đi xe đạp là người đi bộ cũng phải tránh từ xa chứ sợ Qoèo mang vô thì khổ. Có hôm Qoèo đi đâu đó, ăn mặc chải chuốt mượt lắm, khi dong xe xuống dốc, chân dốc lại có cái cống nhô lên, xe nẩy lên, Qoèo cùng xe ngã lăn quay xuống ruộng, hư một vạt lúa, Qoèo lấm lem bùn. Qoèo quay về tắm rửa thay bộ đồ mới. Qoèo đi ba lần vẫn chưa qua khỏi cánh đồng làng. Khi còn bộ đồ cuối cùng Qoèo không đi xe nữa mà đi bộ. Còn lần thấy bé Chút mang chiếc cặp to đùng đi học về giữa trời nắng như đổ lửa, đường lại xa, Qoèo liền chở dùm. Mẹ bé Chút  hú hồn hú vía dặn là thấy anh Qoèo thì tránh xa coi chừng chết có ngày !

Qoèo về không kịp đưa biên lai cho bà Tính mà lôi chiếc xe đạp trong buồng ra ra hiên sửa, xe bị hư cái ghi đông do lần trước Qoèo té, cũng chẳng thèm nấu cơm trưa mà hì hục sửa cả buổi chiều, đến chập tối mới xong. Qoèo đi tắm rửa, hái lá chanh gội đầu cho mượt tóc, thay bộ đồ đẹp nhất, đi ra trạm xá. Qoèo nghĩ lúc trưa tại Qoèo đi bộ nên cô Hương đuổi về, bây giờ Qoèo có chiếc xe đạp rồi, Qoèo sẽ chở cô Hương đi chơi, nhất định Qoèo sẽ chở cô Hương đi chơi.

Khi đến nơi Qoèo chẳng thấy cô Hương đâu, Qoèo ngồi chờ mãi chờ mãi cho đến lúc trời tối thui. Qoèo dắt xe ra khỏi sân trạm xá nhưng không còn thấy đường về, Qoèo ra dựng xe bên gốc da và ngủ lại, Qoèo nghĩ sáng ra cô Hương dậy quét sân sớm, thế nào Qoèo cũng gặp.

Khuya, sương lạnh từ tán lá da chảy xuống làm Qoèo tỉnh giấc. Trăng cuối tháng cũng vừa mọc khỏi rặng cây, sáng lờ mờ. Qoèo ngồi dậy, muỗi vo ve hai bên tai, cắn vô chân, cắn trúng chỗ mắt cá, đau điếng. Qoèo đứng dậy ngần ngừ, dắt xe đi về.

Đến cánh đồng làng thấy có ánh đèn chập chờn ở mép bờ mương, Qoèo ghìm hai tay vô ghi đông thật chặt, bước từng bước. Nghe tiếng sột soạt và thấy bóng người nhờ nhờ, ánh đèn cũng vụt tắt, Qoèo cũng dừng lại không dám bước thêm bước nào nữa, hai đầu gối cũng va vào nhau lập cập. Chẳng lẽ đứng miết ở đây, quay lại thì biết đi đâu ? Qoèo còn chần chừ thì có tiếng hỏi, giọng nghe quen lắm:

- Ai?

- Qoèo đây mà!

Qoèo mừng húm, vậy mà Qoèo cứ tưởng ma. Qoèo bước mạnh chân. Ánh đèn cũng được bật sáng lên, Qoèo dòm dòm:

- Sao anh Ba chích cá khuya vầy chưa về ?

Anh Ba Gà cũng mừng húm, mới đầu anh tưởng cán bộ đi bắt sẽ thu bộ sò, mất bộ sò thì không biết mấy đứa con nhỏ nhà anh ăn cơm với gì. Anh định nói là phải lén đi chích khuya chứ đi sớm hay ban ngày, bị cán bộ xã bắt thì sao, nhưng cái thằng Qoèo này khùng mà nói với nó làm gì.

- Chích khuya mới…nhiều cá, mày đúng là khùng, không biết cá đi ăn khuya à ? Mày đi đâu giờ này mới về ?

-  À, trời tối quá, tui ra nhà bạn chơi rồi…ngủ quên !

Anh Ba cười sằng sặc. Thằng Qoèo nói dóc dữ, ai mà thèm làm bạn với nó ! Qoèo cũng cười theo rồi dòm vô cái giỏ anh mang bên hông, thấy chỉ có mấy con cá nhỏ xíu. Ừ bây giờ cá mú đâu còn khi cứ dùng thuốc cỏ, thuốc trừ sâu tràn lan, không như ngày Qoèo còn nhỏ, ra đồng một chút xíu là bắt cá về ăn mệt nghỉ. Qoèo vẫy tay bái bai (chữ này Qoèo học lõm của mấy đứa nhỏ xóm dưới) anh ba Gà, về tới nhà nhìn xuống vẫn thấy ánh đèn lúc sáng lúc tối theo dọc con mương.

Mấy bữa Qoèo đi làm xa, về trễ, tối đến trời không có trăng, Qoèo chưa mua đá pin kịp. Không thấy Qoèo ra mấy người ở trạm xá cứ cáp đôi cô Hương mãi, cô Hương chỉ cười, không giận. Hơi đâu giận người khùng ! Cũng như cô Hương nếu hay giận thì làm sao làm được bác sĩ ở nơi heo hút này.

Hết làm xa, Qoèo ra trạm xá nhưng chỉ đi loanh quanh, Qoèo gặp chị Hiền, gởi bức thư. Chị Hiền đưa cho cô Hương, cô Hương biểu đem ra coi, thư viết nhiều lắm trong đó có đoạn: “ ANH muốn làm dòng sông để tắm mát EM vào mùa đông và sưởi ấm EM vào mùa hè… ”. Khùng, đúng là khùng ! Lại còn có từ YÊU trong đó nữa chứ ! Khùng hết mức, khùng hết chỗ nói ! Chị Hiền nói ai nói thằng Qoèo khùng, khùng sao biết nói tiếng yêu. Cô Hương cười đến chảy cả nước mắt. Anh Bảy nghe cũng cười thầm.

Mấy hôm sau cả xóm làm đường, Qoèo cũng đi làm đường. Qoèo nói phải làm con đường chứ mỗi lần đi bị té thì phải về tắm và thay đồ lại mệt lắm, tức lắm ! Chưa nói mùa mưa đến, đất bùn nhão nhoẹt lún tới đầu gối, Qoèo đã hai lần mất dép, đều là dép bên chân phải, một chiếc dép rọ và một chiếc dép Lào, nó lún dưới bùn Qoèo tìm hoài hổng có ra, mất một chiếc là quẳng luôn chiếc kia. Sau này rút kinh nghiệm Qoèo mua đôi dép mới cùng loại với dép cũ, nếu bị đứt hay mất một chiếc thì còn tận dụng được chiếc còn lại. Đáng lý ra con đường đã được tráng bê tông từ lâu rồi nhưng trong khi kinh phí nhà nước cho thì dân bận làm mùa, tổ trưởng lại không hăng hái nên bỏ lỡ dịp, bây giờ làm, xin kinh phí 30 phần trăm cũng khó nên phải tự làm thôi, trước hết là đóng góp để đúc xi măng mấy cái cống và san bớt cái con dốc bên đồi cho thấp xuống, lấy đất đổ xuống con đường giữa đồng cho cao chứ mỗi mùa mưa lũ, nước cứ cuốn trôi hết.

Mấy chục người cùng đào con dốc rồi kéo đất bằng xe bò, Qoèo cũng cầm cần kéo một chiếc xe bò. Mới sáng Qoèo khỏe lắm, kéo không cần người đẩy nhưng gần đến trưa có đến hai người đẩy mà cũng bị té, lại té sấp. Qoèo đứng dậy giải thích:

- Không phải tui yếu mà do hết xăng (ý nói là đói bụng), cái chân bước theo không kịp tui mới ngã chứ bộ, nếu không thì còn lâu !

Ai cũng ôm bụng cười, nhưng nhìn kìa, máu từ miệng Qoèo chảy ra kìa, có gãy răng nữa hay không ? Qoèo hả miệng cho mọi người dòm rồi phun phun, không thấy cái răng nào văng ra hết, như thế là không bị gãy, cũng may hai cái răng cửa đã bị gãy mất chứ không thì…Bị dập môi rồi kìa, phải chở thằng Qoèo đi thôi, mấy phụ nữ la lên. Đi làm đường không ai có xe. Anh Cả chạy về lấy xe chạy ra nhưng Qoèo chạy bộ bằng đường tắt qua cánh đồng Gia Cát Đông để đến trạm xá mất rồi.

Cô Hương hỏi có bảo hiểm không. Qoèo không nói, chỉ lắc lắc cái đầu. Cô nghĩ thầm trong bụng, không để Qoèo làm tới, không được để anh Bảy đắc ý, lần này thì biết tay bà nghe ! Cô Hương lấy nước muối và oxi già xát mạnh vô miệng Qoèo, chỗ máu đang rỉ ra, cô khâu lại mà không tiêm thuốc tê, khâu xong cô còn nghiến răng xát thêm nước muối mấy lần, Qoèo cắn răng chịu đau, lại còn cười mếu máo.

- Có tiền mua thuốc không ?

Qoèo lại lắc đầu, mặt Qoèo hơi cúi xuống một chút. Cô Hương thích hỏi thế thôi chứ dư sức biết Qoèo làm chi có tiền. Khi Qoèo bước đi, cô Hương gọi lại cho mấy viên thuốc kháng sinh, lọ Povidine với bịch bông hấp, cô nói như ra lệnh:

- Về nhà xức vô, tuần sau ra đây cắt chỉ !

Qoèo cảm ơn rối rít, đi rồi mà cứ quay lại hoài. Chưa đủ tuần, Qoèo đã ra trạm xá. Hôm đầu cô Hương không chịu cắt chỉ, hôm sau Qoèo lại ra tiếp. Cô Hương nghĩ cắt quách cho xong để nó khỏi ra nữa, Thấy miệng Qoèo cũng đã lành lành, da thịt nó hiền cắt sớm một vài bữa cũng không chi. Cô lại nghiến răng nghiến lợi cầm kéo cắt,  Qoèo cứ nhăn mặt cười, xong xuôi cô Hương nói:

- Lành rồi đó, từ rày đừng có ra đây nữa nghe chưa !

Qoèo gật gật cái đầu rồi cũng đi về, trông Qoèo buồn thiu. Mấy bữa Qoèo còn đau miệng không đi làm đường, Qoèo ở nhà buồn lắm. Rồi trời đổ mưa, năm nay mùa mưa đến sớm, mưa liên tiếp mấy buổi chiều liền.

Chiều đó trời cũng mưa to, nước cứ rơi xuống vườn chuối sau hè lộp độp, Qoèo ngồi nhà nghe buồn quá không biết làm gì, lát sau thấy Qoèo ôm cái tay đầy máu, đội cái nón cời chạy ù ra trạm xá. Không có cô Hương ở đó, chị Hiền cũng đi đâu mất, trời mưa to sấm sét thế này mà đi đâu hết vậy cà ? Chờ ở trạm xá lâu lắm chẳng có ai về, máu ở tay nhỏ cả xuống bậc thềm, Qoèo xé vạt áo quấn đỡ. Rồi máu cũng cầm lại, Qoèo nghe cũng bớt đau. Qoèo nhìn ra đường thấy người ta mang áo mưa, mang tơi đi xuống phía sông, mang theo nhá (*), giỏ bội với sào dài, chắc là để bắt cá. Thấy thich thích Qoèo cũng đi theo. Người đứng ở hai bên bờ sông bắt cá đông lắm. Cá từ hồ chứa nước trôi theo mặt tràn ra bị va đập vào đá, vào cây cối hai bờ sông mà chết, không chết cũng ngất ngư trôi dạt vô bờ, nào là cá mè cá chép, cá trắm…

-  Trời năm nay lạ thiệt, mới mấy cây mưa nước lũ đã dâng cao như lũ năm Thìn !

-  Có chi đâu mà lạ, tại rừng đầu nguồn bị chặt bị đốt hết, không có nước lũ mới lạ !

-  Chứ có cái hồ chứa nước Phú Long đó chi, hồ sẽ điều tiết lưu lượng nước chứ !

-  Ôi, mấy cái ông thủy lợi ! Mùa nắng thì đóng hổ khảo bắt ép nông dân ký nộp lúa nước, mùa mưa thì không xả theo đập tràn mà xả thả ga theo kênh, kênh lại không chịu nạo vét, nước tràn vô ruộng, dân đồng Rộc gieo sạ không được, thủy hại thì có !

-  Nhưng có cái hồ chứa thì mỗi mùa lũ còn có cá để bắt chứ…

Chẳng lẽ công trình thủy lợi to đùng như thế chỉ để nuôi cá ? Qoèo nghe người đứng bắt cá bàn tán xôn xao cũng thấy vui vui, Qoèo cũng xuống sát bờ sông để coi thử có con cá nào dạt vô không. Qoèo đứng thật xa mọi người để mọi người không chọc, Qoèo không thích mọi người cứ nói Qoèo  khùng, với lại Qoèo không thích giành giật với ai, họa may có cá vô phước dạt vô thì Qoèo còn bắt được. Mấy lần Qoèo phải thụt lùi vì nước dâng lên chỗ Qoèo đứng, nước mấp mé triền ruộng gò. Qoèo đứng gần một bụi cây duối, có mấy nhánh lài đang trổ bông bò ngang. Qoèo bứt mấy bông cầm, chút nữa thấy bãi cứt trâu nào thì cắm. Nghe nước trên kia réo ầm ầm, Qoèo nhìn lên phía cây cầu Chìm bị nước phủ qua. Chắc lại hư thôi vì cây cầu đang làm mới, phá cũ làm mới chứ cũng chỉ cao hơn có vài phân chứ mấy, sao người ta không làm cao hẳn lên không biết, mà làm chi mà lâu lơ lâu lắc rứa, lần trước Qoèo đi ngang qua đây đã thấy khởi công rồi, cũng đã mấy năm chứ có ít đâu, bây giờ vẫn chưa xong. Qoèo giật mình khi có tiếng kêu nhao nhao:

-  Cá ra nhiều lắm bà con ơi !

Qoèo cũng nhìn ra sông, mưa giăng mù mịt, đứng cách mấy mét cũng không nhìn rõ, dòng nước đỏ ngầu ngầu chảy cuồn cuộn, ai cũng lo bắt cá, chỉ có Qoèo đứng chờ, có mấy con cá ngất ngư trôi dạt vô gần đến chỗ Qoèo đứng, Qoèo cũng không dám nhảy xuống, Qoèo biết mình bơi không có giỏi lắm, mấy ngón tay lại bị đau, trời mưa thế này xuống nước lạnh thì đau lắm. Lại có tiếng đứa con nít kêu to:

-  Con cá kia mới to kìa, sắp trôi lại gần chỗ anh Qoèo đứng đó !

Qoèo lao xuống dòng nước đang réo sùng sục, ngụp lặn, bờ gần xít xìn xịt, Qoèo với tay cũng không tới, nước lại cuốn Qoèo ra giữa dòng, có lúc chẳng thấy Qoèo đâu, Qoèo bị dòng lũ nhấn chìm, có lúc thấy Qoèo trôi qua bờ đá, có lúc thấy Qoèo với được một nhánh cây sung. Nước mạnh quá nhánh sung giữa dòng cũng bị tước mà trôi theo Qoèo. Qoèo cố sức vùng vẫy, thấy Qoèo ôm được một gốc cũi khô. Cuối cùng Qoèo mắc lại trong lùm gai tre gần bờ, có người vừa chạy tới vừa la:

- Thằng Qoèo thế mà giỏi, đã bắt được con cá thiệt to, chắc là cá mè chúa!

Mọi người chạy đến, không phải cá. Cô Hương. Giòng sào ra vớt được Qoèo và cô Hương vào bờ, không thấy ai còn thở cả, cô Hương mềm nhũn, mắt Qoèo thì trợn ngược, trắng dã.

- Huớ làng huớ xóm ! Có người chết ! Huớ xóm huớ làng !

Chị Hiền nghe vội mang áo mưa chạy xuống, thấy cô Hương nằm sóng soài trên bãi cỏ liền nhào tới sờ mũi sờ ngực, tim còn đập nhưng yếu lắm. Chị Hiền nhờ mọi người xách nhổng hai chân cô Hương lên, nước trong miệng chảy ra đục ngầu rồi đặt cô xuống, mấy người cởi áo mưa cầm bốn góc đứng che. Chị Hiền hà hơi thở ngạt và ấn ngực, cô Hương dần dần thở được. Chị Hiền nói mưa gió thì đừng có đi đỡ đẻ trong tuốt Thuận Long chi nhưng cô Hương không nghe, bây giờ ra nông nổi này. Thấy lũ sao không chờ nước rút hãy qua sông, chị Hiền khóc thút thít.

Qoèo cũng được sơ cứu như thế nhưng người Qoèo đã lạnh lắm rồi, tay chân Qoèo cứng đơ đơ, mắt cứ trợn ngược.

Nghe tin Qoèo trôi sông, già trẻ xóm Qoèo chạy ra thăm, bu quanh đông nghịt. Bé Chút chen đám người chui lại chỗ Qoèo nằm, cầm cái tay dập nát của Qoèo khóc hu hu:

- Hồi chiều con còn thấy ảnh lấy cán dao đập vào tay cho chảy máu kia mà!

Mọi người tròn xoe mắt, đúng là cái thằng Qoèo khùng, khi không lại đập mấy ngón tay dập ra thế kia ! Nghe tiếng con nít khóc, mắt cô Hương từ từ mở ra, rồi như kiếm tìm điều gì, khi nhìn thấy Qoèo mắt cô sáng lên và mỉm cười. Có người thấy lồng ngực Qoèo cũng mấp máy.

SAU CÁI NHẾCH MÉP

                                                            TRUYỆN NGẮN LÊ VI THỦY

 Cô ghét cái kiểu cười mỉa mai đó, dù cô đang sống với gã. Chẳng có gì ngoài cái nhếch mép, cô nổi loạn trước cái nhếch mép của gã. Mặc nhiên, gã chẳng bao giờ phản ứng lại trước hành động của cô, chỉ nhếch mép rồi đứng dậy ra cửa.

*

Hơi cay của rượu lan dần cổ họng chạy dọc thân thể. Cảm giác đầu lưỡi ngọt dư vị rượu trắng không pha như hôn nhân không giá thú, biết nguy hiểm nhưng vẫn dấn thân. Lâu dần cô ghiền cái hơi của gã, không thể sống thiếu gã. Cô thấy mình bị một sợi dây vô hình thít chặt ngang cổ, càng quẫy đạp càng riết chặt hơn, cô kêu cứu nhưng chẳng ai nghe được bởi gã đã ăn mất lưỡi của cô sau từng muỗng hôn ngọt ngào, gằn xé lẫn khinh bỉ. Rượu thấm dần cơ thể, nóng bừng. Cởi dần áo quần, cô gào thét trong đêm như một con thú bị thương đang chết dần chết mòn với chính vết thương của mình.

*

Từ đống rác, cô được sinh ra. Và Chúa đã quên sự tồn tại của cô khi Người quăng cô từ cánh cò trắng muốt xuống vùng đen sẫm, cứ leng keng lúc hai giờ sáng, ngày mới bắt đầu sặc mùi hôi thối, ẩm mốc của hàng ngàn hàng vạn tấn trương phình từ cái khu văn minh sáng đèn nhấp nháy kia. Từng hơi thở, từng nụ cười, từng sợi tóc của cô nhuốm mùi nồng nặc. Nếu thiếu nó cô sẽ không ngủ được, không thở được, lâu dần sẽ chết. Cô tin điều đó như một đức tin vào Chúa.

Gã bước vào đời cô nhẹ như gió, bồng bềnh, phiêu diêu. Lần đầu tiên gặp gã, cô say mê ngay đôi mắt đẹp như thiên thần của gã, đôi mắt mà cô đã thấy trong từng giấc mơ chập chờn, nó thân thuộc mà xa lạ, mỏng manh nhưng bền vững, điều đó làm cô cảm thấy yên tâm để lọt thỏm trong đôi mắt gã rồi trôi lênh đênh giữa mênh mông biển lớn không biết đâu là bờ.

-         Đói hả? Ăn không? – gã đưa ổ bánh mì đang ăn dở cho cô.

Cô lắc đầu.

-         Mày không nhìn ổ bánh mì chứ mày nhìn gì nãy giờ?

-         Nhìn mày!

-         Tao đẹp trai lắm à? – gã ngửa cổ cười sằng sặc.

Cô gật đầu. Gã cười to hơn. Nụ cười ăn sâu vào tiềm thức. Có những đêm cô giật mình thức giấc vì nụ cười của gã chờn vờn nhảy nhót xung quanh thân thể cô, mơn trớn cô.

-         Đi theo tao không?

Cô nhìn gã, sự bối rối hiện lên trên khuôn mặt. Đôi mắt gã ấm áp nhìn cô, nhấn chìm nguyên cơ thể cô. Cô nhìn thấy một gia đình, cô thấy nụ cười của ba. Đôi mắt của ba cũng hiền từ như gã, cứ nhòa dần nhòa dần trong nước mắt, nhợt nhạt theo năm tháng. Nhưng rồi ba đã ra đi đột ngột như cái cách ba đến, rất nhanh, rất nhẹ nhàng, xuyên thẳng từng vết thương vào lồng ngực mẹ. Mẹ ở lại với những tiếng nấc kéo dài, xộc xệch một cuộc đời, kéo lê chiếc bóng chảy dài, đổ xệ theo chiều tà, cứ chạy theo múc từng ngụm trên bàn tay trống không, tuột dần qua khẽ tay.

Cô gật đầu.

*

Ý nghĩ loang qua đầu gã thật nhanh. Gã phải có cô ngay khi gã bắt gặp cô cứ len lén nhìn gã. Gã, một gã trai mười lăm, vết rạch ngang dọc cho những trận ẩu đả giành khách và giành gái. Gã bỏ nhà đi năm chín tuổi, sáu năm sống lang bạt ở bên lề cuộc đời, chui lủi như con chuột cống lúc nào cũng nơm nớp lo sợ và hôi thối như một loài gặm nhắm. Những ngày đầu lang thang, cái đói khiến gã giành co với những con chuột cống. Người ta xua đuổi và đánh đập gã như cách gã đập nát tươm với mùi máu tanh nồng bốc lên từ những con chuột cống giành ăn với gã. Năm mười một tuổi, gã trốn khỏi nhà tình thương để đi theo mụ tú bà mà gã tình cờ quen được. Từ đó gã hành nghề dắt gái. Mười ba tuổi, gã biết mùi đàn bà bắt đầu từ con gái mụ tú béo ụ. Nó lớn hơn gã 4 tuổi, cái tuổi mười bảy phổng phao đến lạ. Gã hay rình nó tắm, tò mò với những rung cảm giới tính đang phát triển trong gã. Gã thấy cơ thể mình rạo rực. Và gã đã xông vào phòng tắm đè ngửa nó ra. Đôi mắt nó nhìn gã bất ngờ, nhưng nó không hề kêu la mà đồng tình cho gã biết thế nào là mùi đàn bà. Gã quan hệ với nó rồi với nhiều ả điếm khác, nhưng chẳng ai cho gã cảm xúc, tất cả chỉ là sự ham muốn nhuốm lấy gã, một lần, hai lần và sau nữa thì trở thành một thói quen.

Khốn khiếp thật, khi gã nhìn thấy cô trong lòng gã rộn lên một cảm xúc khó tả. Gã định nhử cô để kiếm tiền nhưng khuôn mặt cô quá giống với người mẹ quá cố của gã. Sự giống nhau đó khiến gã ray rứt, vừa hận vừa yêu. Mẹ gã đẹp. Mẹ gã thiên thần. Gã tự hào khi mẹ dắt tay gã đến trường trước sự trầm trồ khen ngợi của đám bạn cùng lớp. Gã cứ thế ngẩng cao đầu bước vào lớp, đó là sự ngây ngô của học sinh lớp một, tự hào của học sinh lớp một. Gã sẽ còn tự hào hơn nữa nếu như lần đó gã không về nhà sớm, chứng kiến mẹ gã với một người đàn ông xa lạ không một mảnh vải che thân đang đùa giỡn với nhau trên cái giường quen thuộc mà ngày nào mẹ gã cũng đọc truyện cổ tích cho nghe và gã lim dim dụi đầu vào ngực mẹ mà ngủ. Những tiếng la khóc, trận cãi vả giữa bố và mẹ gã ngày càng gay gắt. Gã trở nên im lặng và lui lủi như một con thú bại trận. Gã không còn ngẩng cao đầu khi đến lớp. Mỗi khi có ai nhắc đến mẹ thì gã giật thót mình, lấm la lấm lét như một kẻ tội đồ. Ba gã trở nên bẳn tính và nát rượu. Ba gã cứ uống cho say để ngủ, tỉnh giấc lại uống cho say mèm rồi ngủ. Cơn say triền miên tràn từ ngày này qua ngày khác khiến căn nhà đã u ám càng u ám hơn. Gã bỏ đi, đi khỏi sự u ám, hổ thẹn và cái ảo giác sợ gặp mọi người.

Gã dắt cô về ngôi nhà của riêng gã, ẩm móc và hôi hám. Gã đã chuẩn bị tinh thần cho sự bỏ trốn của cô. Gã sẽ tóm cô về bằng bất cứ giá nào. Nhưng cô không bỏ trốn. Cô ở bên cạnh ngoan ngoãn như một con mèo và chăm sóc gã. Chính gã cũng không hiểu tại sao cô lại như vậy. Cô có thể bỏ đi. Cô và gã chẳng có gì ràng buộc với nhau, quá chăng chỉ là món nợ xác thịt.

*

Cô đến Bệnh viện phụ sản không rụt rè như lần đầu, không còn cảm giác khó chịu khi chạm ánh mắt nửa khinh bỉ, nửa thương hại của bác sĩ. Ánh đèn vàng bật sáng, rọi thẳng vào khuôn mặt nửa mê nửa tỉnh, cho biết đứa con thứ hai của cô sẽ không bao giờ thấy ánh mặt trời.

Lần đầu tiên trên bàn mổ, hai chân dạng ra như lời hướng dẫn, cô hổ thẹn, gầm mặt xuống không dám cho ánh mắt của mình chạm bất cứ ai trong phòng mổ. Cô sợ những cái nhìn như những mũi kim nhọn cứ đâm thẳng vào ngực cô, xoáy sâu vào tim, rỉ máu. Mỗi động tác của bác sĩ làm cô giật mình thon thót. Cô bịt tai, bịt mắt cho không nghe không thấy, môi cắn chặt. Những giọt nước mắt cứ chảy đều…

Cô sợ nghe tiếng trẻ con khóc. Cả tuần liền trong cô chờn vờn hình ảnh đứa trẻ ẩn hiện không đầy đủ bộ phận đôi, mắt tròn xoe gọi mẹ, rồi khóc, bò theo từng bước chân cô, níu lấy tay cô van nài. Tiếng khóc âm ỉ tâm trí, sợ hãi, trốn chạy rồi tìm thấy, như một vòng cút bắt, ráo cạn nước mắt, hốc hác, trắng bệch, phạc phờ.

Gã bưng cho cô tô cháo lỏng lét như chính sự thờ ơ của gã và dỗ dành cô, trân trối, nhếch mép.

Cô phát hiện đứa thứ hai sớm hơn đứa thứ nhất khoảng một tuần khi biết mình trễ kinh. Cô muốn giữ nhưng gã nhất quyết không. Những ám ảnh về đứa thứ nhất vẫn chưa nguôi. Gã chấn an cô, một kiểu chấn an tinh thần mà cô nghĩ, nếu trong quân đội họ dùng cách này thì có lẽ những tên cứng đầu nhất cũng khai ráo những gì hắn biết. Cô ngoan ngoãn như một con cừu để gã dắt đi.

Tiếng dao kéo lách cách, những mũi kim kéo xèn xẹt như may một miếng vải mục diễn ra nhanh chóng và chuyên nghiệp như họ sinh ra chỉ để làm có bao nhiêu đó việc. Cô bước ra ngoài run rẩy như con mèo ướt, yếu đuối ngã quỵ. Gã đón lấy cô, nhếch mép mãn nguyện.

*

Cô tập cách nhếch mép của gã khi gã dắt một cô gái mới về và làm tình ngay trong phòng ngủ của cô và gã. Cô không ghen, nói đúng hơn là không có quyền ghen. Sự căm giận dồn vào tiếng nuốt ừng ực khi cô vốc nguyên chai rượu vào mồm, hơi cay nồng làm cô dễ chịu nhưng nó cũng làm cô muốn đập phá và nổi loạn. Cô đập thẳng chai rượu vào cửa phòng, và khóc. Gã thủng thẳng mặc quần áo, nhếch mép và kéo cô gái kia ra khỏi nhà. Ngằn ngặt nước mắt không tràn qua khóe mi cứ đọng lại một chỗ mà cắn xé, cô cảm thấy lúc này mình ở nơi còn tanh tưởi hơn mùi rác. Cô thèm hương vị của rác, thèm cái cảm giác nó chạy xộc vào mũi cô một cách vô phép. Cô muốn nổ bung mình ra trong căn phòng chật hẹp đầy ẩm mốc và tanh tưởi trên một đống drap nhàu nát sau cuộc hoan lạc trước mặt. Cô không hiểu sao gã lại làm vậy. Gã muốn trêu ngươi cô? Hay muốn đánh giá lại bản chất đàn ông của gã, cô không hiểu và càng không hiểu hơn bởi gã cứ nhốt cô trong phòng như vật sở hữu, như đồ chơi, như đồ xả stress, như thỏa mãn nhu cầu tình dục cho gã.

Một cuộc tẩu thoát khỏi bốn bức tường rêu xám, quanh năm ẩm móc bốc mùi thuốc lá, mùi cống rãnh, tanh tưởi, khinh bỉ của nhân phẩm bị hạ nhục. Cô trốn chạy. Xa những tai mắt của gã, luồng qua khe hở khổng lồ mà gã đã quăng mạng lưới đi khắp nơi.

Cô bình yên với biển, nằm vật ra trên bãi cát để nghe biển rì rầm, hít không khí trong lành căng tràn cánh phổi, ngắm nhìn thỏa thích bầu trời màu xanh mà lâu nay cô tưởng nó đổi màu xám. Khốn khiếp cái cuộc đời, sinh ra ai cũng khóc như nhau, nhưng sao cái số kiếp nó khác nhau đến thế. Cô không tin vào bói toán vớ vẩn, một trò mê tín dị đoan, nhưng cô tin vào số kiếp. Kiếp sau cô sẽ không làm người, cô sẽ là hạt cát, cứ nằm dập dìu để sóng cuốn trôi đời có phải nhẹ nhàng hơn không? Trong mơ màng cô nghe thấy tiếng bước chân của gã, nó nặng nề nhưng vững trãi. Cô đã nghe thấy tiếng chân ấy đi về hàng đêm, nó nhịp nhàng và quen thuộc đến nỗi nhắm mắt cô cũng biết là gã. Bao nhiêu lần tiếng bước chân ấy bước vào giường với những cử chỉ nhẹ nhàng, vuốt ve nhưng cũng bao lần tiếng bước chân kèm theo những cái bạt tai trời giáng, cô phản kháng thì gã nhếch mép kéo cô vào lòng và ghì chặt cô với cái lưỡi sắc nhọn đầy tham lam, ve vuốt quấn lấy cái lưỡi của cô nhấn chìm vào cơn hoan lạc.

Cô chợt giật mình ngồi dậy. Cô không mơ. Gã đứng trước mặt cô không có vẻ gì là giận dữ, chỉ có bước chân là nhanh hơn tiến lại gần cô, xán mạnh cô bằng những vỏ chai rượu lăn lóc mà cô đã uống đêm qua. Từng mảnh chai nhỏ xíu găm vào da thịt cô, rướm máu. Khi máu cô đã chảy thành dòng thì gã dừng lại, nhìn cô, cái cách nhìn từ trên xuống với đôi mắt đẹp của gã lia từ đầu đến chân giống như cách nhìn của một kẻ ban ơn. Cô thấy sự khinh miệt phì ra trên mặt gã mà đáng lẽ ra cái sự khinh miệt đó phải là cái nhìn của cô dành cho gã. Gã đứng nhìn cô bất động rồi bất giác gã ôm ghì lấy cô, cái ghì rất chặt làm cho những miếng mảnh chai li ti kia càng ghim chặt vào da thịt cô hơn, gã nói qua kẽ răng:

-         Tại sao mày chạy trốn?

Cô im lặng. Sự im lặng của cô càng làm cho gã điên lên.

-         Mày là của tao!

Bằng tất cả sức lực, cô cho gã một cái tát trời giáng rồi nằm vật trên bãi cát. Gã bàng hoàng. Có lẽ lúc này gã đang ngạc nhiên vì những biểu hiện nổi loạn của cô ngày càng rõ rệt hơn, còn cô thì không biết vì sao mình lại tát gã. Vì danh dự ư? Không. Cô đã bán danh dự cho chó ăn rồi. Cuộc đời cô chẳng còn gì, không cha mẹ, không anh chị, không bà con, cô chỉ có gã là chỗ bám víu duy nhất. Mỗi buổi sáng thức dậy cô nhìn thấy gã đang ngủ say bên cạnh, khuôn mặt hiền như đứa trẻ. Cô dậy sớm chỉ để ngắm khuôn mặt gã đang ngủ, giấc ngủ dường như rất sâu với gã. Cô thích vuốt tóc gã khi ngủ và đôi khi cô còn hôn trộm gã. Gã hiển nhiên trở thành mục đích sống của cô. Cô tát gã vì sự căm ghét phì ra trên khuôn mặt. Cô căm ghét gã. Cô ghét cái dương dương tự đắc. Cô ghét cái nhìn một phần tư mặt của gã với con mắt như muốn lọt con ngươi ra ngoài mỗi khi gã bước đi nhưng đôi mắt vẫn để lại trên khuôn mặt cô. Cô ghét mọi hành động thể hiện của gã nhưng cái tát này còn hơn là sự căm ghét mà đó là sự pha trộn của mọi tâm trạng ghét, danh dự, sự sỉ nhục và hơn hết cô biết cái tát đó là sự ghen tuông nổi loạn chất chứa trong cô, bởi đơn giản một điều cô không bao giờ thừa nhận đó là cô yêu gã.

          Gã ôm xiết cô. Cô thấy trên khuôn mặt của mình có những giọt nước mắt ấm nóng chảy dài. Cô tưởng mình khóc. Nhưng không phải. Những giọt nước mắt đó của gã. Gã khóc, sau bao năm sống cùng gã cô chưa bao giờ thấy gã khóc, chưa bao giờ gã để cho cô thấy sự mền yếu của gã.

*

          Nụ cười của mẹ cứ nhợt nhạt dần như hạt nắng mùa đông leo lét lả tả vài hạt xuống dương gian. Không thể nhớ nổi khuôn mặt mẹ như thế nào, chỉ biết nụ cười thật hiền, đôi mắt sáng đẫm nước mắt khi mẹ bảo cô ngồi đợi mẹ, mẹ sẽ quay lại ngay. Sự cô độc của chuỗi thời gian cứ kéo dãn dài ra trước mắt. Đôi mắt cô ngơ ngác nhìn những dòng người tấp nập đang ngược xuôi đua chen, cái bánh trên tay chảy dài ẽo ặc với dòng nước sốt cà đỏ như máu chảy ngược vào cánh tay. Cô đã ngồi đợi mẹ trong bao lâu không rõ, nỗi sợ hãi cuốn lấy một đứa bé ba tuổi. Cô bắt đầu khóc. Cô đứng dậy bước đi rồi lọt thõm giữa dòng người qua lại, tiếng khóc, tiếng gọi mẹ hòa lẫn trong tiếng còi inh ỏi của xe cộ qua lại, tiếng cười nói vun vãi trên từng con phố, với đôi mắt của đứa trẻ cứ lùi dần lùi dần trong cái bóng tối đầy rác. Cô muốn gào lên, nhưng cổ họng bị nghẹn lại bởi cơn đau co thắt đến ngợp thở, muốn đập nát những bức tường đang bọc quanh cô, muốn lao thẳng ra nơi có ánh sáng ngập tràn nhưng cô sợ, sự sợ hãi đã kiềm chân cô lại, một sợi xích vô hình.

Cô thức giấc với những vết thương bầm tím khắp người. Cô nhìn gã đang nằm bên cạnh cô hiền lành, với những giọt nước mắt đang đọng ở khóe mắt. Một gã trai hiền lành. Nếu cuộc sống không cướp đi của cô những gì cô có, có lẽ cô không gặp gã. Gã là sự may mắn hay bất hạnh cô cũng không thể định nghĩa được, nhưng cô không thể rời bỏ gã. Cô cần gã, gã cũng cần cô, cả hai cứ mong manh như sợi tơ trước gió tưởng chừng sẽ đứt. Nhưng không, nó vẫn chưa đứt dù nó đã bị kéo căng hết mức. Toàn thân cô rã rời khi cô trở mình.

-         Cô dậy rồi à? – gã cựa mình đứng dậy – cô ngồi yên kẻo động vết thương, tôi sẽ lấy cháo cho cô.

Gã đút cho cô từng muỗng cháo. Cô ăn nhưng cảm giác sợ sệt vẫn còn giăng kín căn phòng 16m2.

-         Ăn xong chúng ta sẽ đi dạo. Cô thích gì tôi sẽ mua.

Cô nhìn gã. Một gã lạ lẫm từ trên trời rơi xuống. Lần đầu tiên sau bao năm sống với gã, cô thấy gã chưa bao giờ như lúc này. Phải chăng gã đã thay đổi?

-         Đừng nhìn bằng đôi mắt đó. – Gã hất hàm về phía cô

Từ hôm đó gã không dắt gái về ngủ trong nhà nữa. Cô cũng không bị những trận đòn vô cớ của gã. Chỉ thấy đêm nào gã cũng về nhà lúc 3h sáng, say khướt và liên tục chửi rủa một ai đó. Cô im lặng giả vờ nằm ngủ khi những nụ hôn chưa kịp chạm đến cô thì gã đã lăn ra ngủ với tiếng ngáy đều đều. Lúc hắn về là cô lại thức tới sáng. Cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra với gã. Cô không dám hỏi, chỉ lặng lẽ quan sát.

*

          Những cơn ác mộng cứ cuốn lấy gã, hành hạ thể xác và đầu óc gã. Gã thấy mình bị bỏ rơi, giữa hoang vu không một bóng người, không còn tiếng inh oang ồn ã tất bật. Một sự im lặng rợn ngợp, sợ hãi gã chạy mãi trong một không gian bất tận, bốn phía giống hệt như nhau, không một mảng màu sáng tối, mọi thứ cứ lờ nhờ nhợt nhạt, tím tái như nhau, không thể xác định được hướng đi cho chính mình. Gã sợ hãi nhắm mắt rồi cắm đầu chạy, đến khi gã mở mắt, một khung cảnh hiện ra quen thuộc trước mắt gã. Gã thấy nhơ nhớp, khuôn mặt người đàn bà đang nằm bên cạnh gã chợt hiện ra khuôn mặt mà gã yêu thương nhất cũng như căm thù nhất, sự yêu thương và căm thù cứ đan lấy nhau rồi thít chặt đến nghẹt thở. Gã ú ớ khi thấy khuôn mặt của mẹ gã cứ rõ ràng trong tâm trí gã, tiếng gào thét vẫy vùng của gã vô tác dụng khi bốn phía đều là mẹ gã bước đến, tay nắm sợi dây thừng yêu thương và thù hận, cuốn lấy gã, xiết chặt gã như một con lợn chuẩn bị chọc tiết. Gã hét lên tiếng hét man rợ không kém gì gã đao phủ chuẩn bị hành xử. Gã thấy mẹ gã ngất xỉu bởi cái điếu cày của bố. Tiếng xèn xẹt ghê rợn của dây thừng chậm rãi kéo từng chút một trong không gian tĩnh mịch của buổi chiều sẫm tối. Mẹ gã lơ lửng trong không gian, đôi mắt vẫn nhìn gã trìu mến. Bàn tay gã run rẩy. Gã hét lên tỉnh giấc, mồ hôi túa ra đẫm ướt, khuôn mặt gã căng thẳng, mọi dây thần kinh trên thân thể gã căng cứng. Gã thở hồng hộc. Mỗi đêm cơn mơ đến với gã rõ ràng hơn. Dáng người nhỏ nhắn cứ lủng lẳng trong tâm trí gã. Gã bỏ chạy. Gã nghĩ mình đã xóa hết cái tủi nhục kia. Gã nghĩ gã đã xóa được cái hình ảnh hai thân thể trần truồng cuốn lấy nhau kia. Gã nghĩ gã đã bỏ được hết những ám ảnh đó. Nhưng sự dai dẳng trong tiếng khóc rấm rức của cha gã làm gã rực lên sự căm thù tột độ. Gã đã dành cho mình quyền xét xử, quyền giải thoát mà trong đám tang gã đã gào lên thảm thiết cho một cái mặt nạ hoàn hảo.

*

Cô không bỏ chạy. Mỗi đêm cô yêu gã bằng tình yêu của một người đàn bà. Mâu thuẫn trong cô trải đầy, giữa sự ra đi và ở lại, giằng xé, cô không thể bỏ gã - một kẻ đáng thương, cô đơn như những cái dằm trong tim cứ cắn xé gã từng ngày. Cô muốn câm lặng đi bên gã đến cuối cuộc đời nhưng dường như khó quá, cô không thể biết mình muốn gì khi cô kinh tởm sự ngọt ngào của gã, thà rằng gã cứ dọng cô bằng cái cùi trỏ hay những cái tát trời giáng cô sẽ thấy yên tâm hơn khi gã cứ ăn cô bằng những nụ hôn ngọt ngào, đè nén cô nghẹt thở. Sau những cuộc làm tình cô lại tởm lợm những cái gọi là ngọt ngào và cô nôn mửa ngay trước mặt gã. Gã nhìn cô nhếch mép rồi bỏ đi.

-         Tao có thai. – cô nói trong cơn nôn mửa.

-         Bỏ đi. – Gã nói mà không quay đầu lại.

-         Không bao giờ, không! – cô hét lên sau lưng gã.

Gã quay lại với đôi mắt rực lửa túm lấy cô, bóp mạnh vào cổ làm cô ngẹt thở không nói nên lời, chỉ ú ớ rồi tắt lịm đi.

Tỉnh dậy, cô thấy gã ngồi bên những giọt nước mắt ngắn dài đua nhau chen lấn giành lối đi. Cô giả bộ ngủ để nghe tiếng gã thổn thức, lòng cô đau nhói như ngàn mũi kim đâm vào mình. Cô yêu gã.

*

Gã thấy cha gã bóp cổ mẹ gã đến chết, ngụy tạo bằng một sợi dây thừng tòng teng giữa nhà, với sức mạnh của sự kiêu hãnh, sự sỉ nhục và lòng căm phẫn đã bóp chết người vợ mà cha gã yêu thương. Gã đã nhìn mẹ gã ngã oạch trong tay gã mềm nhũn rồi lạnh dần, đôi mắt trắng dã cứ trợn ngược nhìn đứa con trai bé bỏng. Mẹ gã không hề chống cự, cứ mặc cho cha gã dùng hết sức mạnh, dồn sự căm thù vào đó. Gã oặt người nức nở với sợi dây thừng bên cạnh. Ba gã bàng hoàng buông tay người vợ đã mềm nhũn từ lúc nào, từ thảng thốt chuyển sang thinh lặng đứng nhìn mẹ gã cứ lơ lửng giữa không gian không một lời nói, không một ánh nhìn, chỉ có điếu thuốc này đến điếu thuốc khác tàn dần trên tay ba gã, cháy xém đầy tàn tro.

          Gã thét lên, mồ hôi lấm tấm. Trong cơn mê gã níu lấy cô như một cái phao cứu sinh lênh đênh giữa sóng lô nhô lúc cao lúc thấp. Cô nhìn gã thương hại lẫn yêu thương gằn xé. Một người đàn ông mà cô không bao giờ khước từ bất cứ lời đề nghị hay một sự cưỡng bức nào, cô chấp nhận như một con nô lệ bị bán đi với những đồng xu lẻ rẻ đến tủi nhục. Cô nắm chặt tay gã trong những cơn mê ú ớ, những cơn ác mộng hoành hành từng đêm. Cô không hiểu chuyện gì đang xẩy ra trong gã nhưng cô biết một nỗi đau quá lớn đang bao trùm lấy gã, một nỗi đau mà cô muốn chia sẻ cũng không thể nào sẻ chia được. Cô chỉ biết câm nín đi bên cạnh gã như một chiếc bóng, câm lặng với những trận đòn cho cơn cuồng phong của gã, câm lặng trước những vuốt ve âu yếm của gã, căm lặng trước sự cưỡng bức ham muốn của gã, câm lặng cho những tủi nhục số kiếp của mình, câm lặng.

*

- Phá đi. – Tiếng gã cứ dập dìu như sóng biển lúc nhanh lúc chậm, lúc hiền hòa lúc gào thét.

- Không. – Khuôn mặt cô ương bướng và nghênh chiến cho bất cứ sự phá hoại nào.

Gã nhìn cô, nhìn đôi mắt đầy quyết tâm và câm hờn của cô, gã ngồi thụp xuống và bắt đầu khóc. Cô nhìn gã ngạc nhiên. Cô đang đợi những cái tát, những cú hấp trời giáng xuống nền nhà. Nhưng không, mọi sự yếu đuối đang đổ ập lên gã. Gã ôm mặt khóc rấm rức như một đứa trẻ.

-         Tao không muốn nó mang hận thù, tao không muốn! – Gã vò đầu bứt tai, rấm rức.

Cô nhìn gã, nhìn những quá khứ đi qua trong gã như những đường gân xanh lượn lờ trên khuôn mặt, trên trí não của gã không thể nào biến mất. Gã đã có một tuổi thơ dữ dội ám ảnh lấy gã, cuốn lấy từng giấc mơ và uống từng giọt máu trong huyết quản của gã. Cô ôm lấy gã, nâng niu như một tặng phẩm của Chúa, cô hôn gã, nụ hôn của sự chân thật, trìu mến và cả tình yêu lớn lao.

-         Nó sẽ sống bằng tình yêu có thật, không nhơ nhớp, không bỏ rơi, không hận thù.

Gã nhìn cô, đôi mắt gục xuống bờ mi tội lỗi, tìm một sự vỗ về mà gã biết nó luôn sẵn sàng chờ gã.

ĐÁNH   DẬM

                                                                                                                  Ngọc Châu

(Tặng các chiến sĩ Hải Quân thuộc Công ty 128

đang làm nhiệm vụ bảo vệ dầu  khí và chủ quyền Biển đảo)

Ngồi uống bia cỏ với bạn bè sau cuộc gặp mặt của Phân hội Cựu chiến binh, khi Nam tỏ ý muốn viết gì đó về những năm tháng phục vụ ở Đoàn 8 Hải quân mấy đồng đội cũ đã cười ầm lên. Một tay đặt phịch can bia truớc mặt anh rồi hỏi “Ông có nhìn thấy cái gì đây không ?” làm Nam ngớ ra, tuởng hắn đã phê phê. Tuy nhiên với loại “ba say chưa can” như cha này thì chả mần mò gì, vẫn đang tỉnh như sáo sậu. Hắn phát biểu rằng cái “Đoàn Đánh dậm” thì có gì mà viết hồi ký, sau đó dẫn hai câu lục bát "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia mực vẫn còn gào dô!"- Thế đấy, hồi tưởng của tớ chỉ là bia và mực khô xả láng trong những năm phục vụ trên đoàn tàu đánh cá Hải quân. Can, can, tôi can ông hiểu chưa!?

Xét về một mặt nào đó thì cha này cũng có lý nhưng Nam thấy tức ở trong bụng. Không phải ai cũng ở tàu, mà ở tàu không phải ai cũng có điều kiện được ghi tên vào “bia mực” như hắn. Sau giải phóng miền Nam Hải đoàn 8 (bây giờ là công ty 128 - Hạ Đoạn Hải Phòng) hầu như là đơn vị đầu tiên của quân đội được giao nhiệm vụ làm kinh tế kết hợp quốc phòng, có thể nói được toàn quân biết đến như một hình mẫu làm kinh tế mang tính bài bản, thời đó còn rất mới với “anh bộ đội cụ Hồ”. Có bao nhiêu công việc khác nhau đối với một đơn vị vừa phải quản lý kĩ thuật tàu thuyền, vừa tuần tra canh giữ hải phận,  vừa phải xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho cho cả hai nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng. Với lại Nam  không có ý định viết lịch sử  Trung đoàn, còn hồi ký đâu phải chỉ để viết về những chiến công kinh thiên động địa, những sự kiện hào hùng, những gian khổ khó khăn ghê gớm hoặc những kỉ niệm đáng làm vặn vẹo con tim nguời ta? Phải nghĩ rằng sự nghiệp anh hùng, chiến công vĩ đại cũng như niềm tự hào lớn lao của quân đội ta là một sự tổng hòa của cả thành công lẫn thất bại trong thời chiến cũng như thời bình, của cái vĩ đại lẫn cái tầm thường, của trí tuệ xen lẫn những ngu dốt không tránh khỏi. Vậy nên Nam vẫn cầm bút ghi lại những gì đáng nói đối với riêng mình kể từ ngày được quân chủng phân về công tác ở Đoàn 8, hồi đó mang con dấu đối ngoại là “Đơn vị 7054”.

Hải Đoàn hình thành từ cuối những năm 60, đến đầu những năm 70 thì được giao nhiệm vụ vừa đánh cá vừa tuần tra canh giữ hải phận. Đó thực sự là một chủ trương hết sức sáng suốt vì cùng lúc có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ một cách hợp lý là bám biển dài ngày canh giữ và tuần tra tại những toạ độ biển ấn định, vừa dễ dàng đóng vai dân sự khi không cần thiết phải đụng độ, lại có hải sản để ăn, dư thừa thì chế biến hoặc bảo quản để cấp cho nhu cầu của quân đội.

Tuy là dân “đánh dậm” theo cách nói đùa của bạn bè ở các Đoàn khác nhưng suốt mười lăm năm phục vụ trong quân ngũ, từ binh nhất lên đến thiếu tá lúc chuyển ngành, Nam không hề cầm chiếc “dậm” lần nào, có nghĩa là chưa bao giờ  đi theo tàu cá vì nhiệm vụ của anh là xây dựng cơ bản, kiêm luôn công tác quản lý doanh trại. Thế nên năm thì mười hoạ, gặp được một cậu nào quen ở tàu cá vừa cập vào khu Cảng Vụ anh mới được nếm vài con mực khô mà khôi.

Có nhiều chuyện cười ra nuớc mắt trong những ngày đầu các anh “Vệ túm” chen chân vào lĩnh vực kinh tế. Đầu tiên là vấn đề nhân sự. Sau năm 75 bộ đội “thất nghiệp” dài dài nên không thiếu gì lực lượng để bổ sung cho “đoàn quân đánh dậm” đang được quan tâm phát triển. Có dư  kỹ sư về cơ khí, sửa chữa tàu thuyền, về khai thác, chế biến hải sản đến độ Trạm Chế biến nằm ở vùng biên ven đê cực bắc của đơn vị, mới có vẻn vẹn chục chum mắm chượp mà đã nhận về tới bốn, năm “cô hàng mắm” có bằng cử nhân của truờng Đại học Thuỷ sản, vậy nên các cô phải cầm xẻng ngoáy chượp như công nhân. Mà cũng phải chia nhau số chum hiện có, mỗi cô hai chiếc, trước sau chỉ một bóng người, giữa hai chum chượp đang cười gió đông như cánh sĩ quan vẫn trêu chọc các nàng.

Cán bộ chính trị cũng được bổ sung thoải mái. Nam nhớ hồi đó Đoàn có Chính uỷ, phó Chính uỷ, Chủ nhiệm chính trị, hai phó Chủ nhiệm chính trị và một bộ sậu đông đảo trong Ban Chính trị. “Làm kinh tế là lắm vấn đề phức tạp vậy nên phải hết sức chú ý đến việc giáo dục tư tưỏng”. Chưa có tiền lệ trong việc tổ chức một đơn vị làm kinh tế sao cho có hiệu quả, nên việc chỉ đạo từ các cấp trên không thể tránh được những suy nghĩ mang tính duy ý chí như thế.

Phải nói là rất vui, đông tốt nhiều sỹ, vì Đoàn được bổ xung vài trăm tân binh, hầu hết là các cô binh nhì quê  ở Hải Phòng, Thái Bình. Những nữ chiến sĩ mới này không xa lạ gì với các việc đan lưới, làm mắm từ lúc còn chưa biết mùi cơm lính. Họ được biên chế về Trạm Đan lưới và Trạm Chế biến mà Nam đang vắt chân lên cổ để xây cho nhanh các bể chượp, nhà nấu mắm, kho muối, kho đá cũng như xưởng đan lưới. Đông người nhưng chuyện kỳ đà cản mũi nhau cũng nhiều, thường là trục trặc giữa “cánh chỉ huy” và “cánh chính trị”. Các bộ phận trưởng tối tăm mặt mũi vì công việc chuyên môn, việc gì cũng cần làm gấp, cái gì cũng thiếu phải xin xỏ ở cơ quan cấp trên, phải chờ chỉ tiêu, chờ lĩnh, chờ kế hoạch xe để chở về vì chưa có thị truờng dịch vụ như ngày nay. Nam cũng như các Truởng bộ phận khác (đa số là các kỹ sư mới gia nhập quân đội) do quá tất bật nên thường sơ sót về những việc quản lý mang tính thường ngày như  chào cờ buổi sáng, đọc mười lời thề truớc cờ, đọc báo, điểm danh lính tráng vào 8 giờ rưỡi tối chủ nhật v.v. v. Ngoài ra còn có “tội” hay nói huỵch toẹt sự việc, “yếu về việc tu dưỡng phẩm chất chính trị” nên hay bị “cánh Chính trị” ghi “phốt” vào sổ “Thù Vặt” trong khi chính bên Tham mưu lại dễ tặc lưỡi thông cảm vì họ cũng quá bận việc chỉ huy tàu thuyền trên biển với các sự cố có khi dồn dập cả ngày lẫn đêm. Nam từng bị kỷ luật khiển trách ghi lý lịch vì đánh mất quyển “SỔ CÔNG TÁC” vừa lĩnh ở văn thư, mới vẽ được vẻn vẹn bản phác thảo dãy nhà xí nam-nữ kiểu vệ sinh thùng cùng với bản dự toán xây dựng nó để xin Đoàn Truởng thông qua. Không thể nào xin “ân xá” vì từ truớc đến nay quyển sổ đó vẫn được coi là tài liệu mật!

Tuy nhiên ngay “cánh Chính trị” khi tiếp cận cái mới cũng gây nên một giai thoại nhớ mãi với những ai có mặt thời ấy. Đó là buổi chào cờ đầu tháng khá trang trọng, mấy hôm truớc Đoàn được cấp phát một bộ loa đài cát-xét khá xịn cùng một số băng ghi sẵn các bài hát truyền thống. Trợ lý Tuyên huấn chắc là đã cẩn thận trong việc nghe và đặt băng sao cho khi tiếng hô chào cờ vừa xong thì bài quốc ca sẽ nổi lên thay cho dàn “phá hợp xướng” tự nguyện mọi khi. Tuy nhiên sự việc lại diễn biến rất hài hước.

- Chào cờ, chào! - Chẳng  hiểu sao cái loa phản chủ bỗng réo lên: "Tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ..." Đến đây thì tay trợ lý cũng bị một cú vỗ, do  quá khẩn cấp nên không khéo chút nào của đồng chí Phó chính uỷ đang đứng cạnh: nó vào nửa gáy, nửa mặt, cũng hơi bị nặng tay. Sau đó chính vị này cũng không nhịn được, phải quay mặt vào tường gập bụng xuống để cười như mọi cán-binh khác.

Có thể nói linh hồn của Hải đoàn lúc đó là Đoàn truởng Kim, ngưòi Đồ Sơn, gốc gác dân chài chính hiệu, nhìn trời biết hôm nay nên điều tàu đến toạ độ nào đánh bắt, nhìn tăm biết cá hay cua rùa đang vui vẻ ở dưới nước biển, vì vậy mà được Bộ Tư lệnh Quân Chủng đặc biệt tín nhiệm. Với các sĩ quan lúc thường Đoàn trưởng hay xưng hô anh em thân mật, nhưng ở ngôi thứ ba thì  họ thường gọi Đoàn trưởng là “cụ”, có lẽ vì ai cũng nể trọng và có phần sờ sợ. Mặc dù Đoàn có nhiều cán bộ kỹ thuật đã qua đại học hoặc những cán bộ thuyền đã từng vào sống ra chết nhưng ai cũng phục “cụ” là người nhiều mẹo, thông minh và năng động, biết sử dụng đúng tài năng của cán bộ dưới quyền và có tính quyết đoán  cao, tối cần đối với việc chỉ huy một đơn vị rất phức tạp về nhiệm vụ.

 Những buổi giao ban ngày đó nếu bộ phận nào cũng báo cáo tình hình thì họp cả ngày chưa xong vì lẽ có nhiều bộ phận với nhiều công việc không tuần nào giống tuần nào. Tuy chỉ có ba ban Chính trị, Hậu cần, Tham mưu và các Tiểu đoàn tàu như mọi đơn vị khác nhưng “rất là đông vấn đề” vì có nhiều bộ phận trực tiếp sản xuất. Có Xây dựng cơ bản với dăm bảy công trình cùng lúc triển khai, có Trạm kỹ thuật với rất nhiều máy tiện, nguội, công nhân quốc phòng... với cả một chiếc ụ nổi để sửa chữa tàu của mình và bắt đầu chữa thuê cho đơn vị bạn, có Trạm luới với hàng trăm nàng “Tiên... diệt cá” dệt những tấm lưới khổng lồ cho tàu 300 sức ngựa, có Trạm chế biến cũng rất đông quân ủ chượp, ngoáy chượp, nấu lọc mắm và bán nước mắm. Ngoài ra còn Cảng vụ cung cấp đá và vật tư cho tàu thuyền đánh cá, tổ chức bốc và giao cá mỗi khi có tàu về bến (những ngày bốc cá thực sự là các ngày hội của quần chúng vì đầy đủ người mua, người bán, người đến xin, thậm chí cả đánh qủa nếu “ông mặt sắt đen xì” - Cảng vụ truởng Thái - có việc phải đi vắng). Đoàn còn có ba tiểu đoàn với hơn hai chục con tàu đánh cá, tàu đông lạnh với bao nhiêu vấn đề trên biển cần phải xin ý kiến: lúc thì tàu hoạt động tại toạ độ chỉ định đã mấy ngày mà tôm cá đi trảy hội ở nơi khác hết, đề nghị cho chuyển toạ độ đánh bắt. Lúc đã tan hết đá, có lệnh về bến thì tự dưng gặp hàng lô hàng lốc cá thu, cá ngừ đang kéo nhau về dự  “phét-sờ-tí-van” Cá Đông nam Á! Thế là phải gấp rút cử tàu chở dầu và đá ướp cá ra bổ sung để khỏi phải đưa về bến một con tàu không ai dám đến gần nếu không đeo mặt nạ phòng hơi độc.

*

*    *

Nam ôm tập bản vẽ và dự toán xây dựng khu bể chựơp cá lên phòng làm việc của Đoàn truởng Kim. Truớc kia việc xây dựng thường chỉ cần mấy tờ giấy vạch vạch để miêu tả mặt bằng và ước toán chi phí, nếu thấy hợp với yêu cầu sử dụng và ở mức kinh phí trên dự định cấp cho là có thể ra quyết định, nhưng giờ đây vốn Xây dựng cơ bản không do Bộ Tư lệnh cấp xuống mà phải có đủ thủ tục để giải ngân ở Chi hàng Kiến Thiết thành phố. Mời các kỹ sư ngày nay thử tưởng tượng việc lập hồ sơ đầy đủ cho thi công một công trình (mà còn rất nhiêu khê vì phải tính đến từng cân xi măng, từng mét khối cát cho mỗi hạng mục công trình) bằng cách vẽ tay và kéo thước Lo-ga-rit, vì cả thế giới hồi đó cũng chưa có khái niệm về Autocad với Excel như ngày nay.

- Trong quí này đồng chí phải xây cho được ba bể, mỗi bể có dung tích 50 tấn chượp để chứa hết lượng cá của mười chuyến tàu về bến. Đấy mới là quí này, quí sau còn phải xây lượng bể chượp gấp đôi. Mục tiêu cuối cùng là 1000 tấn chứa cho Khu Chế biến. Đồng chí nhớ là xây không kịp thì khi cá về không có chỗ chứa tôi sẽ cho đổ đầy nhà Bộ phận Xây dựng các anh, thừa nữa thì đành đổ vào phòng tôi!- Sau khi nghe Nam trình bày bản vẽ và dự toán, Đoàn truởng giao nhiệm vụ trực tiếp cho Nam như vậy.

- Này, thằng em này - thấy Nam không kêu than gì về tính gấp gáp của công việc - “cụ” nói giọng vỗ về. Em phải hết sức vấn đề cẩn thận. Nghe nói chỉ có ngoài đảo Cát Hải mới có thợ xây đuợc vấn đề bể chượp. Sở Thuỷ sản có xây cho Xí nghiệp Nước mắm Cầu Niệm (xí nghiệp này đã giải tán khoảng những năm 80 thế kỷ truớc) một số bể mà bị rò mắm nhiều lắm. Nghe nói họ đã phải xây vấn đề bể bé hơn, lọt trong lòng bể lớn để chống rò mà mắm vẫn theo rươi ra sông. Khéo không rồi lại có vấn đề chuyện ăn vỏ khoai lang trả tiền bánh rán đấy thằng em ạ! - Nam mỉm cười vì những câu ví von của cụ. Ở  Đoàn này “cụ” và Chủ nhiệm hậu cần Ngư nhiều lúc hay ví von dân dã, phải nhận là rất hợp cảnh và hóm hỉnh. Riêng “cụ” có tật nói câu nào cũng có vài từ “vấn đề” đệm vào lúc đang tìm cách diễn đạt. Không biết “cụ” có để ý hay không, anh em cán bộ thì rất buồn cười nhưng vì nể và trọng “cụ” nên bấm bụng cho qua rồi nghe mãi thành quen, cũng không thấy dị ứng gì nữa.

Hôm sau Nam phải thu xếp công việc ở nhà để đáp tàu khách ra Xí nghiệp mắm Cát Hải. Mặc bộ áo lính thuỷ màu xanh với những dải sóng trắng của đại dương trên vai, anh không giới thiệu mình là kỹ sư kỹ sọt gì, cứ đứng hàng ngày trời ngoài nắng xem động tác của thợ nề xây bể, hỏi han về cách chọn gạch, chọn cát, lúc nào thì vào màu lót, trát lót bao lâu mới trát lớp chính, thời điểm nào thì bắt đầu đánh màu, đánh mấy lớp màu và độ dày cuối cùng là mấy li. Nam để ý cách che nắng và phun nuớc duỡng hộ để chống rạn chân chim. Hồi đó thợ cả chịu trách nhiệm về xây bể chượp được trả công ngang với thợ cả chuyên  ấp trứng vịt lộn là 500 đồng một tháng, trong khi lương thiếu uý như Nam chỉ có 65 đồng. Vậy nên họ cũng dấu nghề, nhưng anh là người tinh tế trong lĩnh vực xây dựng nên khi trở về đã lên ngay được một qui phạm rất nghiêm ngặt trong việc xây bể.

Đầu tiên là phải chọn loại gạch đặc phẳng phiu nhẵn nhụi nghĩa là không non, không già quá. Nhưng lớp trát-đánh màu mới là vấn đề cốt tử nên phải chọn cát hạt thô cầu Cầm, không đuợc để lẫn một cọng thực vật nào, nếu lẫn một cọng cỏ thôi thì khi cỏ mục đi sẽ tạo lỗ công cống cho mắm chui qua được lớp vỏ trát bên trong. Gạch và vữa xây có độ cản mắm kém nên để cho mắm chui từ chỗ nọ đến chỗ kia, tới lúc gặp lỗ thông tương tự qua lớp trát bên ngoài thì tung tăng chuồn ra sông! Có lẽ đó chính là nguyên nhân rò mắm không chữa được ở xí nghiệp mắm Cầu Niệm vì không ai nghĩ là mắm chui vào ở chỗ này lại chui ra ở chỗ khác, thậm chí ở phía thành kia của bể.

Để cẩn thận Nam đề nghị Đoàn truởng cho thuê một tốp thợ Cát Hải vào xây bể mắm đầu tiên. Cả ngày quẩn quanh khu cá mắm mới thấy thấm thía câu Nằm đất với cô hàng Hương còn hơn nằm giuờng với chị hàng Mắm. Thấy Chủ nhiệm Ngư đến xem xét Nam đùa “Chủ nhiệm xem này, không ăn lươn cũng phải chịu nhớt”. Là kho tục ngữ dân ca nên Chủ nhiệm Hậu cần đối đáp ngay: Làm nghề chài phải theo đuôi cá, đồng chí ạ. Nhưng là kỹ sư xây dựng công trình cảng lại đi xây bể chượp thế này liệu có ổn không? Thật cẩn thận vào nhá. Để mất mắm như ở  Cầu Niệm thì toi. Lo nhất là chửa làm thì vốn còn dài, làm rồi thì vốn theo ai lên trời. Nhưng cứ phải lên gân thôi, ở cái đoàn 8 này ai cũng nhọc nhằn lắm đấy!”

Chủ nhiệm vừa đi thì thiếu uý Liễu, Truởng Trạm chế biến, cũng là dân Đại học Thuỷ Sản nói với theo “Đúng là nuớc lên rồi nuớc lại lùi, đi đâu cũng gặp “cụ” Bùi Duy Ngư” khiến “cụ” quay lại cười hà hà. Chắc chắn Chủ nhiệm Hậu cần đã lăn lộn ở nhiều đơn vị của Hải Quân lắm nên mới có câu ca này. Đã hai ba lần Nam thấy các sĩ quan ở Đoàn khác đến đây làm việc hoặc mua cá, mua mắm, họ hay chào “cụ” bằng câu ấy. 

 Để đẩy nhanh tốc độ Nam tổ chức nhóm thợ nề thứ hai từ mấy xóm gần khu Hải Đoàn để xây một bể nữa. Anh cùng vài chiến sỹ nghĩa vụ, do anh tự đào tạo thành các giám sát thi công, hướng dẫn và theo dõi hết sức sát sao việc thực hiện các thao tác xây trát, dưỡng hộ lớp trát như của nhóm thợ Cát Hải, nhưng thêm  một yêu cầu là khi xây nếu đặt một viên gạch lệch thì không đuợc dùng dao xây gõ lại cho thẳng như kiểu xây tuờng nhà, phải dỡ cả gạch và vữa ra để xây lại ngay các viên đó. Nêu yêu cầu đó vì Nam nhận thấy vữa xi măng-cát mác cao khi đặt viên gạch vào là khô ngay, nếu gõ chỉnh thì tường vẫn chắc, thậm chí rất chắc vì không ai tiếc xi măng trong việc xây bể mắm, nhưng thực tế sau cú gõ đã có một vài khe li ti tạo ra, không còn khít khao như khi xây bằng vữa ba-ta có cả vôi dẻo quẹo. Các khe nhỏ đó cũng chính là các lỗ công cống cho mắm luồn lách tìm đường trốn trại. Ban đầu đội thợ Cát Hải cũng lấy làm lạ, nhưng thực tế cho thấy là họ chuyên nghề xây bể nên đặt gạch viên nào ngon viên đó, không phải gõ chỉnh bao giờ, trong khi nhóm thợ mới chưa bao giờ được xây bằng vữa nhiều xi măng như vậy, nghĩ rằng tường bể này có dùng  búa tạ mà phá cũng om xương nên cứ gõ chỉnh thoải mái như xây nhà, không hề biết đến hậu quả.

 Nam hơi bị phổng mũi khi ông già tổ truởng thợ Cát Hải khen anh rất tinh, chẳng mấy chốc mà thợ Cát Hải sẽ thất nghiệp. Tuy nhiên anh còn có dự tính khác trong đầu, nhưng còn phải chờ xem sao đã.

Sáu bẩy tháng sau, khi các ô bể chứa chượp đã bốc mùi thơm quyến rũ của mắm cao đạm mà không hề thấy Trạm Chế biến kêu ca gì về việc rò mắm, phải nói là từ Đoàn truởng Kim đến Ban Hậu cần và Bộ phận Xây dựng đều phấn khởi như ngày nào trông thấy tên lửa ta bắn hạ tại chỗ Thần Sấm của giặc Mỹ. Nam đưa ra đề nghị đổ bê tông bể chượp là việc chưa ai làm bao giờ. Mặc dù có người lo lắng hoặc dèm pha là chưa nóng nước đã vội đỏ gọng nhưng ý kiến phân tích rất khoa học của anh có sức thuyết phục. Nam tin rằng nếu chọn cát đá tốt và rửa sạch thì đổ bê tông sẽ đặc chắc và đồng nhất hơn xây bằng gạch, cái quan trọng nhất vẫn là trát, đánh màu và che đậy-duỡng hộ để chống vết rạn chân chim. Đổ tường bể bằng bê tông sẽ thi công nhanh do dùng bộ cốp pha định hình bằng thép, gia công ngay tại Trạm Sửa chữa của Hải Đoàn và chỉ cần mấy người thợ giỏi để trát thôi. Đoàn truởng Kim gật gù ủng hộ nên ý định của anh đã thành công, chấm dứt huyền thoại rằng chỉ thợ Cát Hải mới xây được bể chượp. Sau này có khá nhiều đơn vị khác trong quân đội đến học cách xây bể của Đoàn 8 và bộ cốp pha thép còn được đưa vào tận Vũng Tàu để đổ bê tông bể mắm ở trong đó.

Trong vòng xoáy của công việc làm kinh tế, mới mẻ, bận rộn nhưng háo hức, Đoàn 8 cứ phát triển từng ngày. Đã thành lập Tổng cục Xây dựng Kinh tế trên Bộ Quốc Phòng, Đoàn truởng Kim lên làm Cục truởng của Cục Xây dựng Kinh tế Hải Quân bao gồm năm “Đoàn đánh dậm” nằm suốt trung-nam-bắc.

Nam chuyển sang công việc sở truờng của mình là xây dựng Cảng cá bê tông cốt thép dài 200 mét cho Đoàn 8 sau khi Trạm Lưới và Trạm Chế biến đã hòm hòm. Thời điểm đó cảng của quân chủng Hải Quân ở ngoài Bắc hầu như không có gì đáng kể, vài chiếc đã xây thì bị bom Mỹ đánh hỏng trong cuộc chiến tranh phá hoại mới kết thúc. Có lần một phái đoàn quân sự của bạn Lào sang thăm, Bộ Tư lệnh đã phải dẫn xuống tham quan chiếc bến gỗ dài có 28 mét của đoàn 8 (cũng đã xẹo xọ vì chẳng biết “cụ càu tàu” này lên thượng thọ từ khi nào). Nam buồn cuời khi thấy các vị khách trầm trồ và thích thú vì thấy cảng làm bằng gỗ. Một sĩ quan của bạn sau khi nghe Nam nói về cách xây dựng cảng đã thốt lên “Làm bằng gỗ như thế này thì Lào tha hồ làm, to bao nhiêu cũng được, Lào nhiều gỗ lắm!” Nhưng khi Nam hỏi định làm ở đâu thì anh chàng đực mặt ra vì đất Lào làm quái gì có biển!

*

*     *

Cục Xây dựng Kinh tế hình thành đánh dấu sự phát triển của Hải Quân cùng với toàn quân tham gia làm kinh tế đồng thời với nhiệm vụ quân sự, trong một giai đoạn của lịch sử quân đội. Mặc dù về sau phải có những quan điểm khác, tư duy khác trong việc quân đội làm kinh tế nhưng nếu không có cây dại, thú hoang trong buổi sơ khai thì làm sao có cây trồng và vật nuôi, để rồi tiến tới những sản vật lai tạo và biến đổi gien như ngày nay để chúng ta có thể chọn thương hiệu mới ăn, mới mặc. Thời sau 1975 của Nam và đồng đội chỉ cần “diều” được căng căng và tên gọi “Vệ túm” bị quên đi cũng đã thấy là tốt chán. Tuy nhiên giá rút ngắn lại giai đoạn mười năm truớc thời kỳ đổi mới, đừng quá say sưa trong hào quang chiến thắng với những ý tưởng kiểu như lập “Hạm đội Biển Đông” để tham gia cách mạng thế giới tại vùng Đông Nam Á! thì may mắn cho dân tộc ta biết bao. Nhưng cái gì đã qua thì để cho nó qua đi (như người Anh hay nói Let's bygones be bygones") và Nam nhớ lại thời kỳ anh lên Cục phụ trách công tác Xây dựng cơ bản cho toàn Cục XDKT Hải quân.

Cục Trưởng là người có nhiều tham vọng, không hề cho cá nhân “cụ” mà cho sự phát triển của Cục. Tuy Việc nước xưa nay có bại, thành như một lãnh tụ quá cố của Đảng ta đã viết, nhưng Nam và anh em cán bộ dưới quyền luôn cảm thấy nhiệt tình nóng bỏng trong mỗi chủ truơng và nhiệm vụ mà “cụ” bàn bạc trao đổi trong giao ban, cũng như khi gặp riêng từng người phụ trách từng mặt công tác. Hôm ấy Cục truởng gọi Nam lên ăn bữa cơm chia tay với một Cục phó chuẩn bị bay vào chỉ đạo Đoàn 9 ở Cát Lái (Vũng Tàu). Trong bữa ăn “cụ” nói chuyện nọ chuyện kia, lấy làm phiền rằng đã có cán bộ thuyền dung túng hoặc thông đồng cho anh em chiến sỹ bán cá, bán dầu trên biển mặc dù có cán bộ Tham Mưu của Hải đoàn đi theo đốc chiến. “Người nhà mình chưa tóm được mà chẳng hiểu sao chuyện đã đến tai Bộ Tư lệnh, đúng là ấm no vua bếp hay, đắng cay ông gừng chịu”- “cụ “ than thở.

- Nhưng gà ngủ, cáo không ngủ, Cục Truởng ạ - Nam đế vào- Chúng khẩu cứ đồng từ, đợi ông sư ngủ trong ca bin mới vẫy thuyền dân để sang be thì tham mưu hay tham mẹo cũng chịu bó tay.

- Còn các anh nữa đấy, tôi nghe nói mấy anh Hai (Cục truởng muốn nói mấy cán bộ Đoàn của các đơn vị phía Nam) chỉ sau vài bữa nhậu đã ký hợp đồng thi công, chẳng biết có thiết kế, dự toán hay không. Nghe nói thằng cha chủ thàu ở Dương Đông chỉ biết viết mỗi một cái tên của hắn dưới mục chữ ký bên B. Anh này - ”cụ” quay sang cục phó Chư - Thế mà thằng cha nghe nói có hàng chục chiếc xe “Reo”, xe ủi, máy xúc với xe cẩu, thiết bị của hắn là điều nằm mơ đối với một Trung đoàn xây dựng của mình đấy. Các anh Hai trong ấy làm ăn cũng dữ dằn đấy nhỉ?

- Đồng chí thu xếp nhanh việc ngoài này rồi vào Phú Quốc để giúp họ triển khai xây dựng triền tàu An Thới, xưởng chế biến tôm xuất khẩu và một nhà máy sản xuất nước đá để cấp cho tàu đánh tôm của Đoàn 33 - “cụ” nói tiếp với Nam - Đưa tàu vào Kiên Giang lấy đá, ra đến ngư truờng đã tan non nửa thì còn đánh đấm nỗi gì, chưa nói lượng dầu tiêu thụ cho 14 giờ hành trình. Sẵn đá của mình thì chẳng được cái trắm cái chép cũng được cái tép cái tôm . Chỉ cần vài năm vấn đề bán đá cho tàu thuyền đánh bắt quanh đảo cũng đủ tiền xây rồi.

Nói chung bao giờ “cụ” cũng có tầm nhìn chiến lược cần thiết cho việc phát triển của Cục, Nam thầm công nhận, anh còn biết “cụ” đang giục đưa nhanh tàu đông lạnh HQ18 vào để gom tôm he trên biển trong khi chờ xây dựng nhà máy nuớc đá, cũng là một cách để ngăn chặn việc có tàu nào thoái hoá lén  bán tôm bán dầu cho dân chài.

Từ ngày về Hải Quân đến nay Nam chưa từng đi theo tàu đơn vị lần nào. Chỉ có một lần đang đứng ở khu xây bể chựơp thì thấy Song - bạn anh - sửa máy trên chiếc ca nô vẫy bảo có đi thử  máy một tẹo không. Nam lập tức leo qua tấm ván sang ca nô, nhưng vừa len lỏi qua con lạch ngoằn ngòeo giữa rừng sú vẹt ngập mặn ra tới dòng chính sông Cấm thì động cơ lại “xin nghỉ phép”. Ca nô cứ thế trôi theo dòng triều đang rút vào ven đảo Vũ Yên nơi có tấm biển gỗ ghi “Thuỷ lôi chưa gỡ, các phương tiện tránh xa” cùng với chiếc sọ người nguyệch ngoạc nhưng trông cũng đủ ghê. Song đang cố bắt cỗ máy làm việc trở lại vội ngẩng lên hô lớn “Tất cả đứng nhún chân trên boong, không bám tay vào cái gì cả. Nếu thuỷ lôi nổ văng xuống sông, cố mà bơi vào bờ! Không bám tay vào đâu cả, nếu không sức nổ sẽ xé rách bả vai nghe chưa!” Đã quen với mọi kiểu báo động nên năm sáu người có mặt trên ca nô đều buông tay đứng lom khom như lũ chim cánh cụt. May là con tàu nhỏ chỉ trôi sát tấm biển rồi lướt ra xa không có tiếng nổ nào. Hút chết, nhưng trưa đó cả bọn phải đào còng ở cuối đảo Đình Vũ, nơi ca nô dạt vào bãi cát, nướng ăn thay cho bữa trưa!

Lần này cũng lại Song và thuyền truởng HQ18 rủ anh theo tàu xuôi Phú Quốc. Mặc dù có tiêu chuẩn đi máy bay khi công việc cần đến nhưng một chuyến đi xuyên Việt dọc theo bờ biển cũng khá hấp dẫn nên Nam đã khăn gói quả mướp xuống ngủ ở phòng thuyền truởng để cùng hành trình.

HQ18 rời bến, thuyền truởng chọn được giờ rất đẹp nhưng Song có biệt danh “Paven-Coocsaghin của Trạm Sửa chữa” vẫn mang vẻ băn khoăn trên mặt.

- Nếu cho mình thêm hai ngày chỉnh sửa nữa thì có thể yên chí ngủ suốt hành trình. Thậm chí mình không phải đi theo tàu, anh em khác đi cũng được. Bộ lọc dầu và lọc khí hơi bị kém mà kế hoạch quí này đã lĩnh hết rồi. Giá có bọn nào bán chui mình sẵn sàng bỏ tiền túi ra mua cho nó yên tâm - Song nói.

- Paven-Coocsaghin lại định tiếp tay cho bọn ăn cắp à. Dẹp chuyện ấy đi, có Trùm máy nổ biệt phái đi theo tàu là bọn này yên chí lớn rồi. Vào đây nhâm nhi tí đã - Thuyền truởng vừa mở khóa ngăn tủ đặc biệt của mình bưng ra một bình đặc những quái vật thời tiền sử, toàn là khủng đẻn (rắn biển), khủng tắc kè, khủng hải mã chen chúc nhau nên cả chiếc bình to đùng chỉ gạn ra được vài lít rượu vàng xanh sánh như mật ong - Thuyền trưởng HQ03 tặng tớ bình này từ năm ngoái, vừa rồi thằng HQ08 lại thảy cho kí mực khô. Nào chúc cuộc hành trình thuận buồm xuôi gió, neo cứng sóng mềm nào!

Nam và Song đều không phải con cháu Lưu Linh hay Thần rượu nho Bacchus nên mỗi người chỉ tợp được một chén nhỏ, nhai “mồi” là chính nhưng đám bậu xậu trên tàu thì chưa đủ ướt môi. Thuỷ thủ trưởng lôi đâu ra can rượu Thanh Hoá đổ đầy vào bình, hắn cẩn thận cho chiếc bình vào tủ, nói như giao hẹn với thuyền truởng “Cứ để đây, sao vàng hạ thổ 24 tiếng là mai lại đặc ngay đấy mà!”

HQ18 là con tàu đông lạnh, có thể ướp đông được vài chục tấn hải sản có giá trị. Nó là con chủ bài của Cục truởng trong vụ tôm đông năm nay, trên tàu còn chở theo hai cuộn cáp to đùng để đi lại hệ thống điện trong Hải đoàn 33 và khá nhiều quân trang, nhu yếu phẩm. Ngoài Nam ra cũng còn gần chục  nhân viên kĩ thuật, sĩ quan chuyên nghiệp đi theo tàu để vào bổ xung cho hai hải đoàn ở Vũng Tàu và Phú Quốc.

Nhưng trời chẳng chiều người. Nửa đầu của cuộc hành trình vào đến Đà Nẵng thì đúng là thuận buồm xuôi gió, con tàu đi nhanh và êm ả. Cập vào bán đảo Sơn Trà khi đài báo đợt gió mùa đông bắc cấp 4 cấp 5, ngoài biển cấp 6. Thời tiết này thì chỉ tàu xuyên đại dương mới dám hành trình, đành phải đợi vài ba ngày cho sóng gió êm. Nhờ đợt nghỉ này lần đầu tiên Nam được xem Bảo tàng Điêu khắc Chàm và các danh thắng của thành phố Đà Nẵng mặc dù thành phố này đã kết nghĩa với Hải Phòng của anh hàng mấy chục năm nay.

Con tàu phải bỏ dở nửa sau của cuộc hành trình do gió mùa đông bắc cứ bổ xung hết đợt này đến đợt khác, tàu đang chạy men ven bờ để tranh thủ thời gian thì chết máy vì phải liên tục hoạt động hết công suất trong khi hệ thống lọc dầu, lọc gió đã quá cũ. Sau hơn hai ngày trôi dạt trên biển giữa sóng gió cấp 6 cấp 7 tàu HQ18 đã bị các đợt sóng ngang của bờ biển Tuy Hoà đẩy nghiêng vào bãi cát ven bờ, nơi có mấy chiếc tàu to hơn của Mỹ-Nguỵ cũng gặp tai nạn tuơng tự, giờ đây đã bị cát lấp gần hết, cũng may là HQ18 bị cạn truớc khi trôi qua bãi đá Đại Lãnh, nếu không con tàu đông lạnh đã hoàn toàn bị xoá sổ khi lạc vào bãi đá ngầm giữa những đợt sóng khủng khiếp của miền gió ngang nổi tiếng hung dữ này.

Ngày đó Nam không tham gia vào việc cứu tàu vì nhiệm vụ của anh là vào nhanh Phú Quốc để xây nhà máy nước đá và các công trình khác để bù đắp cho thiệt thòi của việc con tàu bị nạn. Phờ phạc vì mất ngủ và vì phần lớn thứ cố nhét vào dạ dày đều bị trục xuất ra boong tàu nhưng Nam cũng vẫy xe đò đi thẳng từ Tuy Hoà vào Nha Trang. Anh ngủ ở đây một buổi chiều và một đêm liền tù tì mới hồi sức. Từ thành phố Hồ Chí Minh bay ra sân bay Rạch Sỏi thì gặp Cục truởng Kim đã vào Rạch Giá, thế là Nam bỏ chuyến bay ra đảo đã mua vé mà xuống tàu tháp tùng Cục truởng cùng Bộ truởng Bộ Thuỷ Sản đi khảo sát mấy hòn đảo với mục đích nghiên cứu thuỷ sản trước khi ra khu quân sự An Thới của Đoàn 33.

- Thằng em ạ - Cục truởng nói với Nam lúc hai người đứng trên boong nhìn  Hòn Tre mà tàu sắp cập vào-  Đúng là lươn bò để tanh cho rổ , thằng HQ18 bị  như thế rồi, còn lâu mới kéo được nó ra. Nhưng thôi ốc làm chẳng nên thì sên phải chịu, phải nghĩ cách khác ngay. Mình sẽ phải kết hợp với một số công ty của Bộ Thuỷ sản cùng khai thác và chế biến vấn đề tôm đông lạnh để xuất cho Nhật Bản. Ra ngoài ấy em phải làm sao giúp bọn chúng xây thật nhanh xưởng chế biến tôm và nhà máy nuớc đá, sẽ nhờ ông Trịnh - Bộ truởng bảo mấy công ty trong Thành Phố cho một số kỹ thuật viên và công  nhân lành nghề ra  hợp tác với mình ban đầu để lính tráng Hải Đoàn 33 quen dần vấn đề công việc. Rán lên đồng chí nhá!

- Báo cáo Cục truởng, tôi sẽ hết  sức cố gắng ạ! - Nam đáp một cách nghiêm túc nhưng thấy Cục truởng có vẻ suy tư anh nói thêm cố làm cho “cụ” vui lên - Thân lươn không quản lấm đầu đâu ạ, Cục truởng cứ yên tâm.

Công việc “đánh dậm” này chẳng hề dễ hơn việc đánh giặc ngày nào - Nam nghĩ - cũng là một hòn đá thử vàng mà giữa trần ai ai đã biết ai. Nhưng phải đọc ít tài liệu về công nghiệp đông lạnh này đã,  may mà mượn được của tay Thư ký Bộ truởng. Ra ngoài kia làm cách nào sao lại đuợc mấy chương thì tốt…

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: