Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Truyen cuoi_lenghiabk05

Hồi Ba Lan còn đang dưới quyền cai trị của đảng cộng sản. Một chuyện được xầm xì phổ biến như sau.

Một cán bộ cộng sản có nhiều tuổi đảng làm đơn xin đi định cư ở nước ngoài. Anh ta được gọi đến sở di trú và xuất cảnh, và viên thủ trưởng cơ quan này rất đỗi ngạc nhiên, bèn gọi anh ta vào phòng riêng để thẩm vấn. Viên thủ trưởng hỏi:

- Một đảng viên thâm niên như đồng chí tất phải có lý do đặc biệt gì mới muốn rời bỏ quê hương XHCN tốt đẹp như nước ta chứ?

Anh cán bộ trả lời:

- Thưa đồng chí, vì hai lý do. Nguyên đêm qua có anh bạn rỉ tai tôi rằng khi chế độ cộng sản sụp đổ thì các tên cộng sản như tôi và anh ta sẽ bị nhân dân treo cổ là cái chắc! Tôi sợ quá nên xin ra đi.

Viên thủ trưởng cười cười, vỗ vai anh chàng cán bộ, rồi nói trấn an:

- Tôi bảo đảm với đồng chí là chế độ này không thể nào lung lay được. Xã hội chủ nghĩa sẽ tồn tại muôn năm…

Anh cán bộ cướp lời:

- Thưa đồng chí, đó chính là lý do thứ hai mà tôi xin ra nước ngoài để định cư đấy ạ!

(Sưu tầm)

bnh

Thuật ngữ Tin học thời cộng sản

v:shapes="_x0000_i1025">gửi bởi bnh » Thứ 3 Tháng 1 18, 2011 11:44 pm

Chuyện xảy ra ở 1 tiệm bán Computers ở Việt nam...

Một ông khách bước vào tiệm vi tính nói với cô bán hàng:

Cô ạ, tôi thấy hình như phần mềm của cô không tương thích với cấu hình phần cứng của tôi ở nhà. Khi vừa cài đặt phần mềm của cô vào ổ đĩa cứng của tôi thì sự cố đã xảy ra. Bộ xử lý trung ương của tôi đột nhiên yếu hẳn đi rồi lịm luôn. Tôi nghĩ là cô có sẵn mầm bệnh nội trú âm thầm.

Ấy chết, anh đừng nói vậỵ, phần mềm của em tốt lắm mà. Bảo đảm sạch sẽ, mọi người ai dùng qua cũng hài lòng.

Không đâu, thực sự là có vấn đề.

Thế thì lúc cài đặt anh đã kích hoạt đúng mức chưa ? Anh có điều chỉnh cổng vào cho cân đối không ?

Có chứ. Tôi đã làm đầy đủ các thao tác theo trình tự bài bản hẳn hòi.

Thế anh có thể nào cho em xem công cụ của anh được không ?

Anh chàng vội đưa cái còm lên. Cô bán hàng săm soi một hồi rồi nói :Em thấy công cụ phần cứng của anh đã cũ và yếu lắm rồi. Thế hệ của anh như thế này thì làm sao mà xử lý phần mềm đời mới như của chúng em. Phải nâng cấp thôi anh ạ... Anh có muốn sử dụng thêm loại công cụ tiện ích bổ sung không? Hàng Trung Quốc mới về, tốt lắm !

Thế nó có phục hồi và tăng cường chức năng cho tôi không cô ?

Có chứ anh. Nó giúp tái hồi bộ vi xử lý, tăng kích thước bộ mạch chính và làm tăng tốc xung nhịp của anh nữa!

Ðược rồi, cô cho tôi cái ấy ngay đi.

Vậy xin anh đặt phần cứng lên đây ngay để em truyền vào nhá. Tiếc cái là bây giờ băng thông của em quá hẹp nên anh chịu khó dẫn truyền chậm chạp từng ít một. Ðừng tham mà tiếp thu nhanh nhé, kẻo làm chúng em nghẽn mạch, còn bao nhiêu khách hàng sau đang chờ kia kìa.

(sưu tầm)

bnh

Tiếng Việt ngày nay

v:shapes="_x0000_i1026">gửi bởi bnh » Thứ 3 Tháng 1 18, 2011 11:51 pm

Chú cán bộ công an A giải phóng, thím phó giáo sư tiến sĩ Z trong một sự cố giao thông ở vùng sâu xa, hùng hiểm ngoài Bắc, chú phát hiện thím đẹp cực kỳ. Sau cuộc gặp ấn tượng đó, thím là đối tượng của chú. Chú thím thành sơ hữu, âm thầm chú tích cực truy kích tư liệu, làm rõ lý lịch trích ngang của thím, của cả các thành viên trong gia tộc thím. Té ra, thím là chị ruột của một nghệ nhân nghiệp dư trong làng Quan Họ và một siêu sao trong làng VPop. Rồi chú tranh thủ liên hệ với thím. Thi thoảng, rảnh công tác, chú đột xuất đón thím về tham quan đa số cảnh quan Hànội. Qua trao đổi, lần hồi chú trọng thị thím, thống nhất thím, và nhất trí đăng ký,tranh đấu quản lý đời thím bằng một đám cưới thuộc diện đại trà nào thực đơn cao cấp, lễ tân chiêu đãi chất lượng cao vì khách chủ yếu gồm đủ mặt quan chức các bí ban, các nghệ sĩ ưu tú, các nghệ sĩ nhân dân quanh thủ đô ngàn năm văn vật cách mạng anh hùng cho tương thích với vị trí của chú.

Cưới được vợ đẹp xong, chú hồ hởi đăng ký làm chiêu sinh ngành hải quan. Nhờ ơn đảng và nhà nước chú lại trúng thưởng xổ số quốc gia được 500 triệu. Chú khẳng định cải tạo mặt bằng căn hộ của chú, nâng cấp thành tổ ấm đúng tiêu chuẩn EU. Mua một cái đài, một đầu máy; đặc biệt một dàn vi tính HP với bộ vi xử lý P4 đương đại, truy cập nhanh, điều phối LCD, ổ cứng trên 60 tỉ bai, đầy đủ ph ần mềm như cơ sở dữ kiện, bộ gõ TCVN, truyền dữ liệu, ác liệu, phần mềm gián điệp, mạng mạch, nạp luôn chỉ trình 3Ð... cộng thêm máy quét, máy in lê-dờ, máy ảnh kỹ thuật số. Quá bận ở cơ quan, chú chỉ khẩn trương về nhà thao tác máy vi tính độ nửa giờ buổi đêm nên có khả năng không đạt yêu cầu để trúng tuyển cấp thủ trưởng ở cơ quan hải quan nhập khẩu tại cửa khẩu Việt-Kampuchia, chú quá bức xúc nên tâm tánh chú chao đảo rồi bị cao huyết áp. Một hôm chú đưa thím về thăm quê cũ, chú tham quan đa phần chợ trời miệt cửa khẩu Hoa-Việt, duy ý chí truy tầm và mua được một đùi cầy tơ về nhắm với rượu đặc sản, say sưa rồi chú tinh tướng gây thím. Vợ chú nhiếc chú là đồ tập kết biến chất, hủ hóa và hăm he đi đề nghị với bí ban. Chú quát:

- Cái thứ đàn bà chưa ai vẫy đã le te đi ủng hộ như mầy, ngủ thì tích cực lắm, mà làm thì chẳng thấy có kiên quyết gì hết. Muốn đề nghị để ông đi đề nghị cho một thể, ông trường kỳ với mầy mà...

(sưu tầm)

Cáo phó

v:shapes="_x0000_i1027">gửi bởi bnh » Thứ 6 Tháng 5 20, 2011 11:41 am

Xếp nọ là quan tham Hanoi, bị bệnh nặng. Lúc đã nguy kịch, ông dặn vợ con phải "cáo phó" cẩn thận trên truyền hình, báo chí, thông báo cho các nơi đến phúng viếng.

Bà vợ ông nghe dặn sụt sịt nói:

- Xin ông cứ yên tâm!

- Yên tâm là yên tâm thế nào! Bà phải nhớ kỹ là truyền hình thì phải thông tin vào "giờ vàng", báo phải đăng ở trang có nhiều người xem. Những nơi tôi đã từng đến mừng Tết, mừng tuổi, mừng cưới, mừng tân gia thì điện trực tiếp. Chớ để sót một nơi nào đấy, nhất là đừng quên mấy thằng tôi đã nâng đỡ, cất nhắc...

Vâng... - Bà vợ sụt sùi:

- Ông cứ yên tâm mà lên thiên đàng.

- Lên thiên đàng à! Trên ấy thế nào?

- Trên ấy cảnh đẹp như tiên, con người như thánh hiền, người tốt đều được lên trên ấy.

Ông ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:

- Thế thì không được! Tôi phải xuống âm phủ thôi. Thiên đàng như bà nói thì lên đấy còn làm ăn gì được nữa. Bạn bè tôi đã và cũng sẽ xuống cả dưới âm phủ. Bà phải cầu trời, khấn phật để tôi được xuống dưới đó, mấy người còn nợ tôi đang ở dưới ấy, tôi phải xuống tìm họ mới được.

Nói xong, ông trợn ngược mắt nấc lên. Bà vợ tưởng ông chết oà khóc. Ông mở mắt ra bảo:

- Tôi đã chết đâu mà bà vội khóc thế! Gọi ngay thằng trợ lý vào đây, tôi có việc cần căn dặn riêng nó.

Bà vợ vội quay ra tìm anh trợ lý và gọi con cháu vào. Ông đuổi tất cả ra ngoài chỉ để một mình anh trợ lý tin cẩn ở lại.

Ông hỏi nhỏ:

- Tao đối với chú mày thế nào?

- Chu... chu đáo lắm ạ. Xếp luôn nâng đỡ em. Nhờ sếp tiến cử, em vừa có quyết định đề bạt chức trưởng phòng rồi ạ!

- Thế thì tốt! Bây giờ tao dặn thế này. Hôm trước lão thầy bói nói kiếp sau tao vẫn sẽ làm sếp vậy nên khi mua vàng mã, chú mày nhớ mua và đốt cho tao một… nữ thư ký nhé!

- Vâng... vâng... em sẽ nhớ... sẽ nhớ…

- Này... này…Sếp thều thào rất nhỏ, anh trợ lý phải cúi xuống ghé sát tai mới nghe rõ. Ông nói vẻ ngập ngừng: Nhớ đốt cho tao một ít bao... cao su nhé! Xuống dưới đó lạ nước, lạ cái, chưa quen địa bàn, chưa có cơ sở tin cậy, lỡ dính vào cái khoản ết iếc SIDA thì chết mất mạng, hiểu không?

- Nhưng ở Hàng Mã mọi thứ đều có, từ người, trâu bò, voi, ngựa, ti vi, tủ lạnh, xe máy, ô tô, máy vi tính, cho đến xe tăng, máy bay, tàu hoả, vệ tinh nhân tạo, tàu du hành vũ trụ, ra đa, tên lửa, bom nguyên tử… Chả thiếu thứ gì. Nhưng cái khoản... bao cao su thì chưa thấy dân vàng mã họ làm ạ!

- Gay nhỉ? Xếp tỏ vẻ băn khoăn. Anh trợ lý chợt nảy ra sáng kiến:

- Hay là em đốt luôn các loại... bao cao su thật để sếp đem theo cho yên tâm. Loại vàng mã lỡ nó làm hàng rởm thì bỏ mẹ.

- Đúng đúng! Chú mày đúng là một trợ lý rất thông minh. Chú mày mà luôn đi theo tao thì tốt quá.

Anh trợ lý sợ tái mặt vội lủi ra ngay. Còn sếp nọ thì có vẻ rất yên tâm. Ông thở hắt ra rồi mới lịm hẳn.

KHÔNG CẦN BIẾT 

Trong cuộc họp thượng đỉnh Malta, một phụ tá của chủ tịch VN Lông Đứt Mạnh hỏi một phụ tá của tổng thống Mỹ Obama: 

– Trung bình mỗi công nhân nước ông kiếm một tháng bao nhiêu đô la ?

– Khó có con số chính xác , nhưng có thể nói khoảng một ngàn hai trăm đô.

– Thế anh ta tiêu trung bình mỗi tháng bao nhiêu ?

– Khoảng một ngàn đô .

– Còn hai trăm đô la thừa để làm gì ?

– Cái đó chúng tôi không cần biết . Thế còn trung bình mỗi công nhân VN kiếm bao nhiêu một tháng ?

– Khoảng một triệu đồng VN .

– Anh ta tiêu trung bình bao nhiêu một tháng ?

– Khoảng năm triệu đồng .

– Thế bốn triệu đồng thiếu lấy đâu ra ?

– À , cái đó chúng tôi cũng không cần biết !

 TRAO ĐỔI SẢN PHẨM TRONG CÁC NƯỚC CỘNG SẢN ANH EM .

Một người Mỹ du lịch VN, thấy có nhiều lò sản xuất gạch vĩ đại bèn hỏi người dẫn đường :

– Nước ông có nhiều lò sản xuất gạch lớn thế này chắc xây cất nhà cửa nhiều lắm nhỉ ?

Người dẫn đường đáp :

– Không phải. Chúng tôi sản xuất gạch để gửi đi Tiệp Khắc .

– Chắc Tiệp Khắc trao đổi máy móc với các ông ?

– Không phải . Người Tiệp gửi máy móc đi Bảo Gia Lợi .

– Thế hẳn Bảo Gia Lợi sẽ gửi rau và trái cây sang cho các ông .

– Cũng không phải . Người Bảo gửi rau và trái cây sang Cuba .

– À , vậy hẳn các ông nhận được đường của Cuba ?

– Không . Cuba gửi đường sang cho Nga Sô .

Ông khách người Mỹ gật gù có chiều thông hiểu :

– Ừ phải , như thế Nga Sô sẽ gởi những đồ thiết dụng cho các ông .

– Không phải nốt . Nga Sô gửi đất sét sang cho chúng tôi làm gạch .

HAI LÝ DO

Một cán bộ cộng sản có nhiều tuổi đảng làm đơn xin đi định cư ở nước ngoài. Anh ta được gọi đến sở di trú và xuất cảnh, và viên thủ trưởng cơ quan này rất đỗi ngạc nhiên, bèn gọi anh ta vào phòng riêng để thẩm vấn. Viên Thủ trưởng hỏi :

- Một đảng viên thâm niên như đồng chí tất phải có lý do đặc biệt gì mới muốn rời bỏ quê hương XHCN tốt đẹp như nước ta chứ ?

Anh cán bộ trả lời:

- Thưa đồng chí, vì hai lý do. Nguyên đêm qua có anh bạn rỉ tai tôi rằng khi chế độ cộng sản xụp đổ thì các tên cộng sản như tôi và anh ta sẽ bị nhân dân treo cổ là cái chắc! Tôi sợ quá nên xin ra đi.

Viên thủ trưởng cười cười, vỗ vai anh chàng cán bộ, rồi nói trấn an:

- Tôi bảo đảm với đồng chí là chế độ này không thể nào lung lay được. Xã hội Chủ nghĩa sẽ tồn tại muôn năm…

Anh cán bộ cướp lời :

- Thưa đồng chí, đó chính là lý do thứ hai mà tôi xin ra nước ngoài để định cư đấy ạ!

ĐÈO NGANG  

Trên đường từ Bắc vào Nam phải qua đèo Ngang. Khi qua đèo, một đồng chí Bí thư Bộ chính trị lên tiếng :  

- Đất nước mình mấy trăm năm nay làm ăn không khấm khá chắc cũng tại cái đèo này. Nó nằm ngang chình ình nên tổ tiên ta đã đặt tên cho nó là Đèo Ngang. Chính vì vậy nên làm ăn không phất lên được.                       

Mọi người thắc mắc hỏi tại sao ? Một đồng chí Bí thư trẻ hăng hái phát biểu:     

- Có gì đâu mà không hiểu. Đèo Ngang là Đang Nghèo!  Nếu bây giờ mình đổi lại là Đèo Nghếch thì Đếch Nghèo.   

Thế là cả Bộ chính trị đồng ý đổi tên thành Đèo Nghếch. Thật là linh ứng. Sau vài năm, kinh tế phát triển đi lên, làm ăn khấm khá, dân chúng ấm no. Nhưng thói đời hể no cơm thì ấm cật, vì vậy dân số càng ngày càng tăng, mà lại tăng quá mức. Vì vậy Bộ chính trị họp khẩn cấp để tìm cách chặn đứng việc bùng nổ dân số. Nhưng tìm mãi vẫn chưa ra kế hoạch nào. Bổng một chú Bí thư già khọm đưa tay xin có ý kiến. Chú nói:   

- Trước đây ta đổi Đèo Ngang thành Đèo Nghếch thì đúng là có hiệu quả như mong muốn, vậy nay ta lại đổi thêm một lần nữa xem sao vì cái tên nó nói lên cái đặc điểm của vùng đất địa linh nhân kiệt yết hầu của nước ta.  

Mọi người nhâu nhâu lên hỏi:   

- Nhưng mà ăn nhập gì tới việc kế hoạch hóa gia đình? À mà đồng chí định đổi thành tên gì ?       

Chú kia trả lời tỉnh queo :               

- Đèo Đứng !!!!!!!!!!!!   

HỌC TIẾNG DO THÁI

Một ông già ngồi trên ghế đá tại một công viên ở Mốt Cu, đang học văn phạm tiếng Hebrew thì một nhân viên KGB đi qua. Tên công an nhìn ông lão, rồi hỏi:

- Ông đọc sách gì mà chữ nghĩa kỳ cục vậy?

- Đây là chữ Hebrew của người Do Thái.

- Ông già rồi, làm gì còn cơ hội đến nước Do Thái nữa, học tiếng xứ này làm gì?

Ông già đáp:

- Lạy chúa, ông nói đúng. Tuy nhiên khi tôi lên Thiên Đàng thì ở đấy cũng nói tiếng Do Thái vậy.

Tên công an cười khẩy hỏi:

- Tại sao ông biết sẽ lên Thiên Đàng? Có thể ông xuống địa ngục thì sao?

Ông già thủng thẳng đáp:

- Cũng không sao! Vì tôi đã biết nói tiếng Nga rồi!

ĐIỆN THOẠI LIÊN LẠC VỚI ĐIẠ NGỤC.

Trong một dịp viếng thăm Moscova, thủ đô của Liên Bang Sô Viết, ông Nixon ngạc nhiên thấy có một chiếc điện thoại công cộng đề là “điện thoại dành riêng để liên lạc với Địa Ngục, giá 30 xu một phút.” Nixon dùng thử cái điện thoại đó và quả nhiên có thể nói chuyện được với quỷ sứ ở Địa Ngục.

Khi trở lại Hoa Kỳ ông ta thấy cũng có một cái điện thoại như vậy, nhưng đề giá là 3,000 mỹ kim một phút. Thấy giá cả chênh lệch một cách quá đáng, Nixon gọi dây nói chất vấn người điều hành máy điện thoại:

– Cùng loại điện thoại như vậy ở Liên Bang Sô Viết tôi chỉ phải trả 30 xu một phút tại sao ở đây lại đắt như vậy?

– Vì ở đó là “local call”, thưa ngài.

Sau khi qua Paris tham dự hội nghị quốc tế Cộng Sản, bố già mafia Minh râu mang về một đống tài liệu, do mấy đàn anh phân phát cho. Minh râu kêu Tố Hữu lại dặn dò:

- Này, công tác tuyên truyền dzất là quan trọng nhá! Đồng chí phải học tập đuờng lối cuả đảng CS quốc tế cho kỹ luỡng nhá!

Rút ra 1 cuốn sách đuợc bao bọc kỹ luỡng, Minh râu trân trọng trao cho Tố Hữu rồi tiếp tục huấn thị:

- Đây này, cầm cuốn tài liệu này về mà nghiên cứu cho kỹ này! Phải áp dụng triệt để những gì học đuợc nhá! Chú mày theo bác thì phải quán triệt đuờng lối cuả đàn anh Cộng Sản chúng ta đấy!

Nghe lời, Tố Hữu kính cẩn cầm cuốn sách mang về. Sau một thời gian đóng cưả nghiền ngẫm tập tài liệu ấy, Tố Hữu trở nên đổi tánh thất thuờng. Mỗi khi đối diện với đồng chí gái, cặp mắt hắn nhìn xoi mói chòng chọc như muốn nuốt sống. Trong nhà sàn, vô phúc đồng chí gái nào đứng gần thì thế nào cũng bị Tố Hữu bóp vú hoặc sờ mông.

Có một số đồng chí gái đi méc với Minh râu, Minh râu gọi Tố Hữu vào giận dữ bảo:

- Này! Đồng chí sao lại dám hủ hóa thế hả ?

Tố Hữu thấy bố già mafia giận dữ thì run cầm cập:

- Thì...thì...thì cháu đang học tập đuờng lối và tư tuởng cuả tập tài liệu mà bác đã giao cho đó mà!

- Láo! Tư tuởng nào, tài liệu nào mà chỉ dạy đồng chí bậy bạ thế???

- Ðây này! Cháu còn giữ đây này!

Tố Hữu vội rút cuốn tạp chí trong nguời ra đưa cho Minh râu.

Vưà cầm cuốn sách, Minh râu mặt mày tái mét:

- Chết mẹ! Lộn dzồi! Bác nhầm dzồi! Tạp chí Playboy này bác mua về, là để cho mình bác nghiên cứu thôi!!!!

*****

Đô "na" không cho chúng thoát! (1)

Dân chủ không cho chúng vào! (2)

Tự Do vào tù không có đường ra! 

*****

Việt kiều nhớ móc đô "na"

Nhân dân kêu la, Đảng ta bịt miệng

Tự Do vào tù không có đường ra! 

*****

Chú Sáu bán kem , xách thùng ra đi ra đi .

Nào có sá chi bao ngày nhọc nhằn , nhọc nhằn .

Ra đi , ra đi không tiền trong túi , 

Ra đi ra đi , bán hết mới mới lui .

Cà rem chảy nước , cái mặt hầm hầm . 

Cà rem chảy nước , chú Sáu chửi thầm .

Mẹ thằng Cộng sản bất nhân

*****

NÓ LÀ QUÂN GIAN, BẮT NGAY NÓ LẠI.

Cũng giống truyện Tỉnh Ủy chưa học hết tiểu học trong bài chủ. Tại Việt Nam, Tổng Bí Thư Đỗ Mười của Đảng Cộng Sản là tay thiến heo, vô học. Bời vậy, dân chúng truyền tụng câu truyện dưới đây:

Một hôm, đang lo thu xếp việc vặt trong nhà, vợ ĐM bỗng nghe tiếng công an gác cửa dinh Tổng Bí Thư vào báo cáo:

--Thưa bà Tổng Bí Thư...

--Có chuyện gì thế, đồng chí ? Vợ ĐM hỏi.

--Thưa...Có người muốn gặp đồng chí Tổng Bí Thư ạ.

--Họ là ai ? Vợ ĐM lại hỏi.

--Thưa... họ không nói tên mà chỉ nói là bạn học của đồng chí Tổng Bí Thư thôi ạ.

Nghe tới đây, vợ ĐM quát lớn:

--Vậy thì nó là quân gian. Hãy bắt ngay nó lại. Đồng chí TBT có đi học đâu mà làm gì có bạn học.

*****

Đảng là mẹ, Bác là cha

Từ khi Bác mất đảng ta goá chồng

Anh Chinh, anh Duẩn, anh Đồng

Cả ba đều muốn làm chồng đảng ta

nghìn người đã bị bỏ tù chỉ vì kể tiếu lâm cười chế độ

Và đây xin phục vụ các đồng chí vài truyện cười đọc chơi cho vui :yoyo113:

"Trong trại cải tạo ở Siberia, ba tù nhân nói chuyện và hỏi vì sao họ vào đây.

Một người nói: "Tôi bị tù vì hay đi làm muộn năm phút, và người ta xử tôi tội phá hoại sản xuất."

Người thứ nhì tiếp: "Tôi thì hay đi làm sớm năm phút và bị buộc tội làm gián điệp, theo dõi công xưởng cho địch."

Còn người thứ ba thì thở dài: “Tôi luôn đi làm đúng giờ và họ hỏi vì sao thì tôi lại chìa đồng hồ đeo tay ra và bị tù vì dùng hàng Phương Tây."

“Phái đoàn Gruzia đến Kremlin thăm Stalin.

''Khi họ về Stalin thấy mất chiếc tẩu liền gọi trùm mật vụ Beria vào và ra lệnh đuổi theo khám túi các vị khách.

''Năm phút sau, Stalin tìm thấy tẩu dưới gầm ghế liền gọi Beria lại. Beria báo cáo: “Thưa đồng chí, đã quá muộn, trong đoàn có 10 người thì năm người thú nhận đã lấy cắp chiếc tẩu. Năm tên còn lại đã chết trong lúc bị thẩm vấn.”

Trong đại hội 20 của đảng Cộng sản Liên Xô, chính Khrushchev-người Ukraina - cũng kể tiếu lâm sau khi đọc bản báo cáo nổi tiếng kể ra các tội ác của Stalin:

“Stalin muốn cho cả nước Ukraina đi đầy nhưng các trại ở Siberia không còn chỗ.” Bản tốc ký của đại hội còn ghi lại phản ứng của các đại biểu là “Cười!”

“Nền dân chủ của Liên Xô quả là như thiên đường vì bầu cử chẳng khác gì Thượng Đế đặt Eva trước mặt Adam và nói: “Ngươi hãy chọn đi.”

Hoặc: "Người Đông Âu nghĩ về Liên Xô như nước đàn anh hay nước bạn?"

"Dĩ nhiên Liên Xô là Anh Cả rồi. Vì anh em thì không chọn được, còn bạn thì tự mình được quyền chọn."

Cũng có tiếu lâm về người Do Thái ở Đông Âu:

"Này Hymee, em trai Joseph của anh thế nào?"

"Cậu ấy sống ở Praha và đang xây dựng chủ nghĩa xã hội."

"Thế còn chị gái Judith của bạn thì sao?"

"Chị ấy khoẻ, sống ở Budapest và đang đóng góp xây dựng tương lai cộng sản."

"Thế còn ông anh Bernie?" "Anh ấy sang sống ở Israel rồi."

"Và cũng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội bên đó?" "Anh điên à? Đời nào anh ấy chịu làm chuyện đó cho đất nước yêu quý của mình?"

windvn

05-06-2009, 06:25 PM

Quan hệ Đông-Tây cũng là đề tài cho nhiều truyện cười.

“Tôi đố bạn vì sao nước Đan Mạch không đi theo con đường cộng sản?”

“Thượng Đế thương dân tộc nhỏ bé đó quá nên không nỡ.”

“Quân Mỹ ở Tây Đức hỏi một đàn cừu từ phía Đông sang: “Sao cừu lại bỏ vùng do Hồng quân Liên Xô chiếm?

Cừu đáp: “Tất cả chỉ vì công an mật.”

“Sao thế? Họ làm gì?”

"Stalin ra lệnh cho họ bắt tất cả các con voi."

"Nhưng chúng bay có phải là voi đâu." "Thế thì các ngài thử giải thích với công an mật xem."

Các lãnh tụ cộng sản cũng là đối tượng của truyện cười. Người Ba Lan dưới thời thủ tướng Cyrankiewicz kể với nhau:

“Đồng chí thủ tướng xấu trai, đầu hói sang Paris. Vào thăm bảo tàng Louvre, đồng chí dừng lại và ngắm, tấm tắc: “Bức Picasso này tuyệt thật.” Người thư ký vội nói thầm: “Thưa thủ tướng, đây không phải là tranh Picasso mà là một tấm gương.”

Hay truyện cười về ông Brezhnev già cả, khi ra đọc diễn văn trước Thế vận hội há miệng ra "O-O-O-O-O." Người phụ tá vội nói "Không, đây là logo của Olympics.”

Ngay cả khi các lãnh tụ già nua ốm yếu, dòng tiếu lâm vẫn không dứt:

"Đài phát thanh Matscơva đưa tin: Dù chưa tỉnh cơn hôn mê, đồng chí tổng bí thư kính mến vẫn quay lại văn phòng để lo công việc cho đất nước."

* Còn ông, ông thích sưu tầm gì? - tổng thống Mỹ hỏi Brezhnev.

- Tôi á? Tôi sưu tầm truyện tiếu lâm.

- Được nhiều chưa ông?

- Ồ, khoảng 2 trại tập trung...

2. Thời nội chiến, Abramovich bị điều đi nhập ngũ. Cô vợ Shara gửi điện tín cho anh:

Shara: "Phải trồng khoaị Chấm. Nhưng không có ai cuốc đất cả. Chấm."

Abramovich: "Đừng có cuốc vườn vội. Chấm. Có một khẩu súng máy giấu trong vườn. Chấm."

Shara: "Các ông trinh sát Cheka vừa đến nhà mình hôm qua. Chấm. Họ đã đào tung cả khu vườn. Chấm."

Abramovich: "Thế là em có thể trồng khoai được rồi."

3. Cuối thời kỳ NEP (Tân kinh tế, 1921-1927), Rabinovich bị gọi đến cơ quan Cheka:

- Công dân Rabinovich, chắc anh biết chúng tôi đã khởi công xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng gặp phải những khó khăn tạm thời về mặt tài chính. Chắc chúng tôi có thể tính đến sự giúp đỡ của anh chứ? Hẳn là anh còn chút vàng dự trữ cất trong hòm. Thông minh nhất là hãy đưa nó cho chúng tôi...

- Được thôi, nhưng trước hết tôi phải bàn bạc với vợ tôi đã.

Ngày hôm sau, Rabinovich lại bị triệu đến Cheka.

- Thế nào, công dân Rabinovich? Cô vợ anh nói gì?

- Cô ấy bảo: "Nếu họ không có tiền thì xây dựng chủ nghĩa xã hội làm đếch gì!?"

4. Các thành viên ban lãnh đạo thượng đỉnh của Đảng bị bệnh chấy rận. Các bác sĩ đủ loại tìm cách diệt chấy rận, nhưng không thành. Cuối cùng, người ta cho gọi Radek, kẻ có thể tìm thấy một giải pháp gì đó cho mọi việc. Radek nói: - Không gì đơn giản hơn thế! Phải tập thể hóa lũ chấy rận! Đa số chết rụi, số còn lại sẽ tháo chạy!

5. Một người Mỹ và một người Nga tranh luận xem ai vĩ đại hơn: tổng thống Hoover hay Stalin?

- Tất nhiên là Hoower rồi! Bởi lẽ ông đã cai nghiện cho chúng tôi!

- Đã có gì là to tát! Stalin còn cai ăn cho chúng tớ thì sao!

windvn

05-06-2009, 06:29 PM

- Có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước không?

- Xây dựng thì có thể, nhưng sống ở đó thì không.

11. Nửa đêm, hai vợ chồng bừng tỉnh vì tiếng động ầm ĩ và tiếng chân người huỳnh huỵch. Đột ngột, một hồi chuông dài xé tan màn đêm và ai đó đập cửa rầm rầm.

- Mở cửa ra ngay!

Hai vợ chồng nhìn nhau nghẹn ngào. Cuối cùng, người chồng lấy hết sức lực đứng dậy và ra mở cửa. Một phút sau, anh thở dài nhẹ nhõm quay vào:

- Có gì đâu em, nhà cháy ấy mà.

12. Trong xà-lim, năm 1937.

- Cậu bị mấy năm tù?

- 25.

- Vì tội gì?

- Tớ vô tội.

- Nói láo! Vô tội thì chỉ bị 10 năm thôi.

13. Stalin phát biểu tại một cuộc họp Đảng. Trong khi ông nói, ai đó buột miệng hắt hơi.

- Ai vậy? - Stalin hỏi.

Im lặng.

- Hàng một, đứng lên! Dẫn họ đi! Xử bắn tất cả!

Hoan hô rầm rộ.

- Ai vậy? - Stalin lại hỏi.

Im lặng.

- Hàng hai, đứng lên! Bắn chết lũ chó dại ấy đi!

Reo hò không ngớt.

- Ai vậy?

Im lặng.

- Hàng ba, đứng lên! Bắn hết chúng nó đi!

Cả phòng đứng dậy vỗ tay, hò reo vang dội: "Stalin vĩ đại muôn năm!"

- Ai vậy?

- Tôi, tôi đây mà! - ai đó đứng dậy, khóc nức nở.

- Chúc sức khỏe đồng chí!

14. Người ta thông báo cho Stalin: tìm được ở Moscow một người giống hệt ông.

- Bắn chết ngay nó đi! - Stalin hạ lệnh.

- Thưa đồng chí Stalin, cạo trụi bộ ria nó đi không hơn ư ? - Yezhov, chủ tịch NKVD hỏi.

- Phải lắm! Cạo trụi bộ ria nó đi! Sau đó hẵng bắn!

windvn

05-06-2009, 06:31 PM

Thời kỳ 1957 - 1967:

1. Trong một cuộc họp đảng bộ năm 1937:

- Các đồng chí ạ, hai với hai là sáu - diễn giả tuyên bố. Mọi người hoan hô, hò reo vang dội.

- Không đúng, các đồng chí ạ - "Chiến sĩ đấu tranh cho Công lý" đứng lên phát biểu. - Hai với hai là bốn, ai cũng biết là như thế.

Lập tức anh ta bị bắt và mất tích trong vòng hai chục năm.

Trong một cuộc họp đảng bộ năm 1957: vẫn diễn giả cũ và "Chiến sĩ đấu tranh cho Chân lý", nay đã được phụ hồi.

- Các đồng chí thân mến, hai với hai là năm. Mọi người hoan hô, hò reo. "Chiến sĩ đấu tranh cho Chân lý" bất bình đứng dậy.

- Hai với hai là bốn! - Dường như anh ta vẫn chưa rút ra được bài học gì cho bản thân.

Sau cuộc họp, diễn giả tiến đến gần anh và thân thiện vỗ vai:

- Nói thử xem, anh bạn, quả thực anh muốn hai với hai lại là sáu ư?

2. Mọi người hỏi giảng viên:

- Trong chủ nghĩa cộng sản, tiền còn tồn tại không?

- Các đồng chí ạ, bọn xét lại Nam Tư bảo "có", nhưng bọn giáo điều Trung Cộng lại nói "không". Chúng ta tiếp cận vấn đề một cách biện chứng: có người có và có người không.

3. - Có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước không?

- Có, nhưng phải chuyển sang nước khác.

4. Người ta hỏi đài phát thanh Yerevan:

- Hệ thống Xô-viết ưu việt hơn các hệ thống khác ở chỗ nào?

- Hệ thống Xô-viết ưu việt ở chỗ nó có khả năng giải quyết được những khó khăn không thể nảy sinh ở các hệ thống khác.

5. Người ta hỏi đài phát thanh Yerevan:

- Cái gì có trước: gà mái hay trứng?

- Trước kia đã từng có cả gà mái lẫn trứng.

6. Một công nhân bước vào hàng thịt. Không thấy ai xếp hàng. Mọi thứ đều tinh tươm. Cô mậu dịch viên mặc áo choàng trắng muốt đứng sau quầy, ân cần mỉm cười:

- Tôi có thể giúp được gì ạ?

Anh công nhân không tin vào mắt mình. Cuối cùng, anh mới bật được ra:

- Xin cô gói cho tôi 2 cân thịt dọi và 2 cân gan!

- Đây anh ạ - cô mậu dịch viên nói, cô trải tờ giấy gói ra quầy và ngước nhìn anh công nhân:

- Anh mang thịt đến phải không?

7. - Anh bồi! Cho tôi một miếng thịt rán!

- Không có thịt rán, anh ạ.

- Không có là thế nào? Các anh chả đề trên thực đơn đây là gì: THỊT RÁN.

- Thì đã sao? Chỗ chúng tôi, người ta viết chữ Lxx lên kho chứa củi ở ngoài sân, vậy mà kho chỉ chứa củi!

8. Khrushchev đi thăm một trại nuôi lợn. Khi tập trung bài vở ở tòa soạn tờ "Sự thật" (Pravda), mọi người hoảng hốt bàn bạc nhau: phải đề thế nào dưới tấm ảnh cỡ lớn sẽ được đưa lên trang nhất. Mọi người thay nhau đưa ra những đề nghị: "Đồng chí Khrushchev giữa đàn lợn", "Đàn lợn bao quanh đồng chí Khrushchev"... Ngày hôm sau, tấm ảnh được chú như sau: "Đồng chí Khrushchev - thứ ba từ bên trái".

9. Người ta hỏi đài phát thanh Yerevan:

- Hai hệ thống nào không thể hòa hợp với nhau ?

- Hệ xã hội chủ nghĩa và hệ thần kinh.

10. - Nếu tớ không nhầm, loại nước hoa này là của ngoại phải không?

- Đúng vậy, từ phương Tây thối nát đấy.

- Ừ, có thể nó thối thật, nhưng mùi vị của nó mới vương giả làm sao!

11. Stalingrad bị đổi thành Volvograd. Ngày hôm sau, một bức điện được gửi từ thế giới bên kia đến địa chỉ Bộ Chính trị: "Tôi đồng ý việc đổi tên. Joseph Volghin."

- Thì ai nấy đều có nhà lầu, xe hơi, thậm chí máy bay riêng nữa.

- Máy bay á? Để làm gì vậy?

- Chẳng hạn nếu đồng chí sống tại Moscow và được tin ở Sverdlovsk có thịt, lúc đó đồng chí chỉ việc mặc quần áo, nhảy lên máy bay và phóng vèo đến Sverdlovsk!

Lại thêm 1 mẩu chuyện được kể từ Cụ Tô Hoài thời làm trưởng khối phố :

" Qua cái mái tôn nhà bác xích lô yêu đời, đến nhà chị ấy. Cái mái vảy ghếch vào lưng tường nhà bên cạnh, nước mưa ẩm rườn rượt mặt tường nổi rêu tối như cái hang. Ba mẹ con ở nhà, ngồi trước cái lò đun bằng giấy vụn, lá xà cừ.

Mẹ con nhà này trông ban ngày mới khiếp sao. Những đứa trẻ mặt ơ hờ như ngái ngủ, người mẹ ngôi rúm ró, đầu gối trắng nhợt lồi ra như hai củ đậu. Đêm trước mới chỉ nhìn thấy những con măt ho lao của người mẹ, con mắt trong veo bây giờ sáng rợn lên.

Chị ấy run run đứng dậy, nói:

- Bác đem phiếu cho các cháu.

- Chưa có đâu. Nhân tiện đi qua, tôi vào thăm ba mẹ con. Đun nồi gì đấy?

Người mẹ lặng yên như không nghe tiếng. Thằng bé lớn nhanh nhảu mở nắp cái xoong. Nồi rau muống đã sôi, mấy hạt cơm nhào lên nhào xuống trên mặt rau. Gọi là nồi cháo rau hay là nồi rau cháo cũng thế.

- Cơm trộn rau à?

Cái cười héo trên mặt người mẹ. Nhà cháu quanh năm cháo rau thế này, cũng quen rồi.

Chị lại kể về cái chợ tem phiếu ở trên đê. Không phải chỉ có tem phiếu đem bán, mà người ta mua tem gạo, bán lại ngay đấy cho người khác. Đổi chác cò con thế mà cũng có cai đầu dài, có buôn đi bán lại. Nhưng công an dẹp dữ, đương vơ vẩn vỉa hè, thoáng thấy bóng áo vàng đã biến sạch. Tôi chưa biết mặt mũi những cái chợ nhỡ độ đường này.

Tôi đưa chị ấy năm chục bạc.

- Cháu cám ơn bác, cháu không dám lấy.

- Tôi cho vay thôi. Bao giờ có tem phiếu bán thì trả, tôi không lấy lãi đâu. Chị cứ cầm.

Tôi đã ra tận vỉa hè, ngoảnh lại còn thấy những con mắt nhìn theo, trắng nhả như mắt người da đen ở tranh dân gian nước Kênia châu Phi. "

ngưng trích.

Một mẩu chuyện thời cải cách ruộng đất, cũng từ lời thuật cuả Cụ Tô Hoài:

" Qua chợ huyện, ai nấy đói lả. Nhưng bụng mình mình biết thế thôi. Trông vào cái chợ mùa đói, nháo nhào không biết đâu người ăn mày hay người mua bán. Sướng chưa, đội trưởng Cự bỗng nói: “Ta vào chợ kiếm cái ăn đã”. Cả bọn đi hàng một từ tốn bước sau Cự. Dường như sợ đội trưởng thay đổi ý kiến, phải cố làm ra vể hiền lành thế. Chúng tôi đều quần áo nâu bàng bạc, dép râu, mũ lá, có người mặt bạc phếch như mới ốm dậy. Đội trưởng Cự thì lúc nào cũng phừng phừng, lúc nhếch mép cười, lúc cáu kỉnh, cũng thế.

Chợ sớm dần đông. Đương mùa khô kiệt, những mạt cám bày la liệt khắp nơi. Lác đác, người đem trẻ con đi bán như trảy quả mít, một bên đứa trẻ ngồi nhấp nhổm víu quang gánh, một bên tảng đất để cho cân. Chúng tôi, anh mặc lành, anh mặc tã, dị dạng, người trong làng về chợ nhìn tránh ra chiều e dè. Đã hai năm, đoàn uỷ đóng ở cái đền này. Hàng chợ đã thấy nhiều cán bộ đi về, áo cánh, áo vét khác nhau, nhưng biết đấy là những “anh đội” xuống xã hét ra lửa. Chẳng bận đến người ta cũng ngại, lẩn đi, bước né bên đường. Đội trưởng Cự đột nhiên đứng lại: “Chúng ta ăn bánh đúc!” Cả bọn lập tức xà vào hàng bánh đúc ngô. Mụ hàng hớt hải sang bên các lều bán nộm chuối, đu đủ xanh, nước chè tươi mượn mấy mảnh tre mới đủ ghế khách ngồi.

Chợ đã nhiều người nhưng chợ sớm chưa ai lê la hàng quà. Bọn người lạ mà ai cũng biết là các anh đội, khiến những mụ ăn quà như mỏ khoét và cả đám ăn mày cũng không dám lảng vảng. Từng chiếc bánh ngô lưỡi mèo vàng hây, giữa rốn mỗi chiếc đặt mảnh cháy vàng rộm. Một bát đàn tương mặn chát. Có anh đội bưng hẳn bát tương lên để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom và ngồm ngoàm hay là cứ nuốt chửng cả cái không ai trông thấy. Anh đội cũng đói như mọi ai. Có người hỏi bâng quơ: “Bánh ngô chấm tương à?” Mụ hàng trả lời ngẩn ngơ như nói giữa trời: “Thời buổi khó khăn lắm, hạt vừng cũng là hạt vàng đấy”.

Có cái tui không hình dung nổi, sao lại đến nỗi thế : " Lác đác, người đem trẻ con đi bán như trảy quả mít, một bên đứa trẻ ngồi nhấp nhổm víu quang gánh, một bên tảng đất để cho cân. "

Có một bài viết nào đó trong TTVNOL nói rằng đặc trưng của Hà Nội là quá trình chuyển đổi từ làng thành đô thị. Tớ thấy như thế thật. Ngay cả bây giờ, đầu thế kỷ 21, Hà Nội đang tiếp thu vào mình những khu vực mà cách đây không lâu đúng là những làng thật sự: Ngọc Hà, Cổ Nhuế, Vĩnh Tuy, Nhân Chính? Khi nhớ lại thời thơ ấu của mình, tớ cũng thấy nó giống ở ?olàng? hơn là giống ở thành phố, nếu so sánh với trẻ con ở các thành phố lớn khác trên thế giới. Thậm chí cũng có đổ dế, đào củ mài, câu cá, bắt lươn, bắt rắn? chả giống gì ở Vienna, mặc dù nhà tớ chẳng xa trung tâm Hà Nội bao nhiêu, đi xe đạp 20 phút đến Hồ Gươm. Thế hệ bọn tớ là một thế hệ chuyển tiếp.

Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà tôi ở đó.

Đêm nằm nghe trong gió, tiếng sông Hồng thở than.

Và thế là, tớ được sinh ra trong thời chiến. Nhưng trong đầu không còn chút ý ức nào về bom đạn. Kể ra lúc lớn lên cũng thấy gần nhà có một cái vỏ bom to tướng, làm nơi trẻ con ẩn nấp khi chơi trốn tìm. Nhà tớ còn một tấm bản đồ năm 75. Tổng động viên, cha đang là giáo viên cũng nhập ngũ, bí mật quân sự không cho phép mẹ biết cha ở đâu. Mẹ bèn đánh dấu những nơi quân giải phóng tiến vào Nam. Rồi cha trở về nguyên vẹn, may mắn hơn nhiều người khác. Mẹ tớ là người Sài Gòn, đất nước thống nhất còn đem đến niềm vui đoàn tụ. Nhưng rồi những lo toan trong cuộc sống nhanh chóng lấn át sự vui mừng khi đất nước thống nhất.

Bây giờ, khi đã lớn, tớ mới hiểu những nỗi lo toan của cha mẹ. Như nhiều gia đình ở Hà Nội khác, lúc này miếng ăn đã không còn là nỗi bận tâm hàng ngày nữa. Lớp thanh niên bọn tớ đã trưởng thành nhòm ngó công ty nọ công ty kia, nhà nào khá giả còn bàn tính chuyện đất cát, chuyện cho con cái du học? Những ?ogiấc mơ con? bây giờ đã vượt qua khỏi chuyện chiều nay ăn gì, phiếu vải đã đến chưa, gạo mới hay gạo cũ. Nhưng ngày ấy? Những ngày cửa hàng mậu dịch có bán thịt phiếu, gạo sổ là cả một sự kiện. Cả ngõ cùng xôn xao bình phẩm, đi ra đi vào mùi mỡ rán, hành phi, mùi thịt kho thơm nức, dân mình vốn có tài trong việc tạo mùi (tớ đã làm điếc mũi các chú Tây mấy lần bằng những kinh nghiệm này). Tiêu chuẩn mấy lạng thịt một tháng được chế biến ngay với mọi sáng tạo. Người lọc hết mỡ rán ăn dần, người đem rang thịt giã ruốc cho trẻ con, có người luộc tất ăn một bữa rồi cả tháng ăn chay. Niêu tóp mỡ sau khi rán có khi dùng được cả tuần, nào rim, nào xào tỏi xào rau. (Ờ, 10 năm sau tớ lại một lần nữa nếm mùi tem phiếu, nhưng không phải ở Hà Nội, mà ở? nước Nga). Tớ có lần đọc một bài báo trong đó các phi công Mỹ bị bắt than phiền chế độ ăn uống trong nhà tù không chấp nhận được, nhưng tớ chỉ cười ruồi. Đâu chỉ tù binh Mỹ, bữa cơm của họ còn có chất đạm, cả Hà Nội hồi ấy thiếu thốn, cơm độn mỳ, su hào kho ăn cả tháng là chuyện bình thường.

Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay... câu ấy trong một bài hát nào đó tớ nghe rất nhiều thời bé.

Trước cửa nhà tớ có một giàn mướp, mùa hè hoa vàng rực rỡ. Canh mướp ăn trưa hè mát ruột. Có nhà không trồng mướp thì cũng bầu bí sắn dây, mỗi lần đào sắn dây là cả một ngày vui. Nhà nhà tăng gia, khắp nơi vườn rau tự cấp, rau cải rau muống rau ngót rau đay, nhà này bán cho nhà kia (bây giờ tớ đang thèm một đĩa ngọn bí xào tỏi đây) Không thể tưởng tượng được Hà Nội ngày ấy khác bây giờ nhiều thế nào. Tớ còn vài tấm ảnh đen trắng, trông chang một miền quê nào đó, con đường đầu ngõ vết lốp xe đạp chằng chịt, cây cối dây leo um tùm. Có lần đi học, tớ còn bắt gặp một đám đông đuổi lợn rơi từ? ban công tầng 3 xuống đất. Kết quả của kế hoạch nuôi 2 triệu con lợn để phát triển nền kinh tế chăn nuôi gia đình Ờ, mà ở Hà Nội lúc ấy còn có cả củ mài nhé, hoặc là một loại củ gì đó tương tự như thế, không hiểu sao lũ trẻ bọn tớ gọi là củ Hoài Sơn, tớ đào được hẳn một củ to đùng, dễ phải đến 4-5 ký. Hồi ở Nga có lần tớ gặp một bụi ngải cứu xanh rờn ngay sau khoa, hái về đúc trứng được mấy ngày, mấy chú Tây toàn trêu là mày giống... thỏ.

Thời ấy tớ chỉ biết vô tư chơi bời nghịch ngợm. Con trẻ con thường hay chơi đuổi bắt giữa những đường hào, những công trường cả năm vẫn thế. Buổi sáng đi học, trong túi có một cái rút dép, chạy nhiều quá đứt quai là hì hục rút, cho đến khi không còn rút được nữa thì vắt vai vác về nhà. Đi học về là quẳng ngay cặp sách lên giường, dép vào gậm giường, rồi biến. (Sau này có mốt gò trắng, nhựa trong có quai hậu hẳn hoi, ?oquân khu? đi cải tạo về thường trưng diện cùng với áo bay mũ cối nhập từ Liên Xô. Nhìn từ xa thấy một anh trông chân chất ngồi quán nước đang rít thuốc lào là phải lảng, lôi thôi ?onhìn đểu? là bị trấn khăn quàng đỏ như chơi). Việc nhà duy nhất là buổi sáng đi đá bóng về được mẹ sai ra cửa hàng rau gần Bạch Mai mua về một bó rau muống. Rau muống mậu dịch chở bằng xe tải vào đổ xuống cả một vỉa hè, xanh xanh, vàng vàng, trông xấu nhưng mà rẻ, tấp nập người xông vào chọn. Buổi trưa sau khi nghe tiếng còi báo yên lúc 12 giờ, vắt chân lên cổ chạy ra nhà bát giác để xếp hàng lĩnh bánh mỳ, đến nơi đã thấy người đứng người ngồi, người không có mặt xếp hàng bằng những viên gạch vỡ, nón rách, nón mà úp mấy viên gạch là những mấy người đã chiếm chỗ. Tiêu chuẩn 13 cân gạo một tháng, thường là 7 cân gạo 3 cân mỳ và 3 cân đổi bằng bánh mỳ. Vừa nghe câu chuyện cảnh giác vừa ngồi nhặt thóc. Vào thời ấy cái gì cũng quy ra phở, cái này được hai bát phở, cái kia năm bát.

Xếp hàng man rợ nhất có lẽ là xếp hàng mua gói đồ ngày tết (btw, cái hàng xếp dài nhất trong đời mà tớ đã nhìn thấy có lẽ là hàng người mong vào cửa hàng McDonals đầu tiên ở Matxcơva năm 92, dễ đến cả cây số, vòng quanh công viên). Nhịn ăn nhịn mặc cả năm nhưng có 3 ngày tết, trẻ con nhà nào cũng quần mới áo mới. Tính toán sắp đặt trước đó cả tháng. Ba nhà chung một nồi bánh chưng, tối 27 ánh lửa bập bùng, khoai vùi trong tro lấy ra vừa ăn vừa thổi. Lợn tiết kiệm đổ ra. Kéo nhau ra công viên Thống Nhất. Chụp ảnh. Nhặt pháo rơi. Vây quanh ông già nặn tượng. Không khí thật náo nhiệt, bây giờ ngày tết cũng không khác ngày thường bao nhiêu, giống như mấy ngày nghỉ cuối tuần.

Những trò chơi trẻ con thuở ấy rất đa dạng, phần nhiều là bằng những đồ tự tạo, nhiều khi thành mốt, cả Hà Nội rộ lên và cùng chơi. Khắp nơi trẻ con cầm một cái que đẩy một cái vòng sắt chạy leng keng, đến vỉa hè giật lên một cái điệu nghệ chạy tiếp, oai không để đâu cho hết. Mùa hè những cây nhãn trong khu đầy bọ xít, trẻ con lại có một trò chơi mới, đua bọ xít, vặt chân dán nhựa đường vào một miếng tôn. Đua xe 1 động cơ, hai động cơ, thậm chí đến 10 động cơ, trong đó có vài động cơ không thèm vỗ cánh. Rồi dính ve bằng crếp ngâm xăng. Đấy là những trò tớ thấy lạ lạ, chứ chơi bi đánh dáo, nuôi cá chọi, thả diều, chơi chun... thì chắc trẻ con ở đâu cũng chơi. Bây giờ thì thôi rồi, thằng em họ tớ chỉ có ngồi bắn Half Life suốt cả ngày thôi.

Buổi tối nằm trong cái chái nhà lợp giấy dầu, nhìn qua khe vách thấy một bầu trời đầy sao, kể cũng thú vị và lãng mạn. Nhưng nỗi khổ đến khi trời mưa, khắp nơi trong nhà là chậu, là nồi, có nơi chỉ là một cái ly để hứng những giọt mưa tý tách. Năm 84 thì phải, Hà Nội ngập lớn, cha vẫn tại ngũ, ba mẹ con ngồi lên giường, nước ngập mấp mé, nhìn thấy cả rắn nước loăng quăng bơi lượn trong nhà. Anh em tớ còn thích thú thả câu, mẹ thì lo lắng. Đi học tàu điện chết gí không chạy qua Trại Găng được, cặp sách đội trên đầu, cứ thế lội nước đến trường. Thế nhưng có một điều là bọn tớ hồi ấy lại rất chăm học, toàn rủ nhau đi mượn tạp chí Kvan về ngồi giải toán.

Không khí chiến tranh duy nhất mà tớ còn nhớ là những ngày tháng hai năm 79. Còn bé tý, tớ phải đội mũ rơm và đeo túi cứu thương đến lớp. Xung quanh nhà xuất hiện những hố cá nhân và giao thông hào được thanh niên xung phong đào bới. Không khí thật khẩn trương, radio phát bài tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới?. Trẻ con bọn tớ lại lôi súng gỗ ra chơi. Chiến tranh với lũ trẻ con ngây thơ bọn tớ giống như một trò chơi. ?oLệnh bắt sống?, ?otrên từng cây số?, những Dianov với Popov lúc ấy là những thần tượng. Ôi, giá như con người chỉ... make love, not war thì hay nhỉ

Lớn lên một chút, tớ biết yêu. Cô bé thật xinh, thích Dianov, và tớ cũng thật lỳ. Dù tớ vốn nhút nhát, không có thể hình cũng như năng khiếu gì đặc biệt, tình yêu đã là động lực để tớ học (hy vọng gây ấn tượng). Mà đã nói yêu gì đâu, cầm tay cũng không. Nhưng cả hai biết rằng có một cái gì đó lớn hơn tình bạn, vì mắt trong mắt nói rất nhiều Kỷ niệm trong hành trang lên đường là một tấm hình 6x9 đen trắng. Tấm hình đã theo tớ rong ruổi ở xứ người.

Nhét vào đây thêm hai cảm nghĩ của tớ:

Ngày đặt chân đến nước ngoài: Cảm giác ấy vẫn còn trong đầu tớ như mới ngày hôm qua vậy. Thằng tớ lần đầu tiên bước chân lên cái máy bay IL86 to vật lúc mới 16 tuổi, nhìn cái gì cũng lạ, cũng thơm một mùi sang trọng. Thậm chí tớ sợ làm rớt đồ ăn ra khay, sợ sẽ làm bẩn một cái khay đẹp như thế. Các bác thông cảm, Việt Nam lúc ấy còn nghèo, chưa được như bây giờ. Máy bay xuống Sheremetievo 2, sân bay quốc tế, từ sáng sớm. Mùa hè nhưng nhìn qua cửa sổ thấy sương mù dày đặc. Bị bỏ đói cho đến trưa, bọn tớ được ùa ra canteen, nhìn món ăn nào cũng ngây ngất, có điều khi ăn thì không thể nào nuốt nổi, món nào cũng đầy váng sữa, kể cả súp và Salad (mấy năm sau ăn như điên, còn đổ thêm cả váng sữa vào đó nữa). Bước ra ngoài trời, mịa kíp, cái gì thế này, không gian trong không chịu nổi. Chả bù cho ở nhà, khói và bụi trên đường B52 đi học hàng ngày đã thành quen trong tiềm thức. Không khí trong vắt, tớ nhìn thấy cả những cái cây xa tít ở chân trời, trong đến mức tớ cảm thấy choáng, cứ ngỡ như ảo ảnh, phải ra đứng sau? cái ống xả xe buýt một lúc mới bình tĩnh lại được (j/k). Con đường vào thành phố thì dài, nhưng tớ thấy cũng như đường Nguyễn Trãi nhà mình thôi, nhà tập thể giống nhau như đúc, cứ một đoạn lại cảm giác mình lặp lại. Có điều, sao mà chúng nó to đến thế, lại sạch như lau như ly. Đầu buổi chiều, tớ trốn vào thành phố chơi, lang thang khắp nơi trong những bến tàu điện ngầm hai ba tầng được xây như những cung điện, dạo bước trên những viên gạch của phố cổ Arbat, đứng nhìn nhà thờ trên quảng trường Đỏ, cái mà tớ vẫn nhìn thấy từ bé qua tranh ảnh. Chắc là những người xung quanh lúc ấy có nhìn tớ thì sẽ thấy buồn cười. Một cảm xúc nổi bật trong muôn vàn cảm xúc mà tớ có lúc ấy, bây giờ tớ vẫn nhớ. Đó là mong muốn có bên cạnh mình một người, giá như người ấy có mặt ở đây cùng với mình, cùng chia sẻ bao nhiêu những cảm giác mình đang có, thì hay biết bao.

Ngày về: trên máy bay tớ cứ bồi hồi, chỉ mong cho mau đến nhà. Cô bạn gái tớ đã đi lấy chồng. Máy bay phải đổi rất nhiều chặng, càng gần Việt Nam thì càng đông người Việt, mấy tiếng đồng hồ cuối cùng từ Sài Gòn vào Hà Nội máy bay giống y cái xe buýt. Nhốn nháo, khạc nhổ, trẻ con khóc í éo, người lớn cãi cọ. Hành lý để khắp nơi, nào khăn mặt, nào giấy báo, nào mũ nón. Ấy là mùa hè năm 96. Trên máy bay đã thấy ruộng đồng nhà cửa nhom nhem. Đến Nội Bài, sân bay quốc tế lụp xụp. Ra đến cửa thì thấy người là người. Sao mà nhiều thế, vẫy, gọi, la hét. ?oCô ơi? ?obác ơi? ?ođi đằng này đằng này? ?onhìn cái vali kìa? ?oxê ra nào? ?oem về Hà Nội hả, để đấy anh xách cho?. Đường cao tốc Bắc Thăng Long bé tý, có đàn trâu đi ngang qua. Tay bám chặt vào ghế, tớ hoảng sợ trước những tiếng còi xe.

Nhưng tình cảm của tớ về quê hương thân yêu nhanh chóng thay đổi. Ký ức hiện về rõ nét. Tớ thì thầm với mình tên những con đường quen thuộc khi xe đi ngang qua. Đây Cầu Giấy, đường Láng, Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng. Kia rồi hồ Bảy Mẫu rợp bóng cây, Đại Cồ Việt với những rặng Bằng Lăng tím... âm thanh phố phường mới hấp dẫn làm sao, ai cũng nói tiếng Việt, nghe cái hiểu ngay. Đến khi gặp mẹ già thì tớ đã hiện nguyên hình là đứa con trai Hà Nội. Những ngày sau đó tớ không nén nổi xúc động khi gặp lại bạn xưa. Cô hàng xóm bé nhỏ ngày nào, rất thích mài sắn dây, giờ đã là hoa khôi trường Ngoại Ngữ. Thầy giáo cấp hai tóc đã bạc trắng, sau một lúc vẫn nhận ra thằng học trò cũ. Bọn đồng lứa vẫn đá banh, đuổi bắt có thằng bây giờ vợ con đùm đề. Tớ cảm thấy thời gian ở VN là quá ít.

Quay lại châu Âu, tớ lại choáng lần nữa, lần này có điềm đạm hơn. Khi nhìn những phong cảnh bên này, tớ hậm hực một điều là người VN mình vẫn chưa được hưởng những sung sướng ấy. Bây giờ tớ đã quyết định, tương lai của tớ là ở VN.

Bên box ITC có một bác nào sống ở nước ngoài lâu mới về, post rằng ai bảo là sống ở Việt Nam là khổ, ở nước ngoài họ lo lắng đủ thứ, ở nhà tha hồ ăn chơi. Tớ lại thấy ngược lại. Những nỗi âu lo của người Việt mình, nó cứ bám lấy suốt đời, như một định mệnh. Thằng bạn trong một buổi chiều ngồi uống cà phê giữa quảng trường đầy chim bồ câu đã than thở ?osao tao thấy những khuôn mặt Tây ở đây nó sáng sủa hạnh phúc quá, cuộc sống thật đơn giản, không phải nghĩ ngợi nhiều, người Việt lo đủ thứ?. Một buổi sáng đi qua Ngã Tư Sở, giờ đi làm bị tắc đường, cả một biển người kẹt cứng, khói xe máy um cả lên, tớ có dịp ngắm nhìn những khuôn mặt người Hà Nội, đăm chiêu. Những nỗi lo muôn thuở, vụn vặt, lo đến cơ quan đối phó với xếp, lo học này học kia, lo lương lo thưởng, sáng sớm đẩy cái xe máy ra đường đã bắt đầu phải lo. Hát karaoke đấy, uống bia đấy, nhưng vẫn là khuôn mặt của những lo toan không dứt.

Giò bò thì nghe ông anh chú bác ở quê bảo là có thành phần cơ bản từ thịt trâu, màu càng đỏ hàm lượng thịt trâu càng nhiều, năm 2007 nằm viện cùng phòng với 1 đứa có gia đình chuyên làm giò, mẹ nó nói giò nào mà chả có hàn the!    

Bò khô (và cả hươu, nai khô) trên Tây Nguyên họ làm từ phần thịt thứ phẩm của bò, cá biệt có thịt bò chết, bò bệnh, nghe "thổ địa" kể thế   

Nhưng lão yên tâm đi, giò bò tớ lấy của 1 dì bán thịt lâu năm ở chợ Đống Đa, thịt dì này bán chưa hề bán thịt heo bò chết/bệnh, giò thì có việc nhà tớ cũng hay mua nhưng ăn chưa bị gì bao giờ. Còn bò khô lấy của 1 shop quen ở ĐN, làm tại ĐN luôn. Em chủ shop dán nhãn ghi rõ thông tin về shop của em lên tất cả các hàng em bán.   

Tất nhiên là cái gì cũng có rủi ro nhưng xác suất rủi ro trong trường hợp này tớ nghĩ là thấp  

Trở lại chuyện bao cấp, hồi nhỏ hay đá banh, chơi năm mười (trốn tìm) trong trong 1 cơ sở đào tạo quản lý NN, khát nước thì ngậm vòi nước máy. Điện phập phù khiến cho nước thành phố hồi đó rất yếu,  thành ra nhiều lúc mở vòi hết cỡ mà ngậm chả được mấy nước, muốn nhanh dịu cơn khát thì phải mút thật mạnh. Có lần chơi đêm khát nước theo thói quen ngậm vòi, mở hết cỡ và mút, cùng với dòng nước mát lạnh tràn vào cổ, trên môi cảm giác có cái gì đó cồm cộm không phải là kim loại, đến nhả ra nhìn kỹ lại thì thấy 1 con ễnh ương con đang hấp hối. Không hiểu sao lúc đấy chẳng sợ nhưng nhớ mãi đến giờ.

Lũ con gái xóm tôi cũng nghịch và rách rưới như lũ con trai, có đứa mặc quần đáy rách toác mà chả xấu hổ gì cả cứ dùng tay túm chỗ rách lại mà đá banh, lũ con trai thì cũng chả quan tâm đến cái quần rách, chỉ mãi lo cướp banh

Tôi sinh năm 1975, năm nay đã ngoài ba mươi tuổi. Nói đến kỷ niệm, chắc hẳn ai cũng có, không ít thì nhiều, thậm chí là rất nhiều.

Thuở nhỏ, tôi sống ở Khâm Thiên cùng với gia đình có ông bà ngoại, vợ chồng anh trai của mẹ, các anh các chị con bác, các cháu và mẹ tôi. Ba tôi không sống cùng ở đó, ông làm việc tận Quảng Ninh. Ngày bé, tôi sợ ba nhất, mỗi lần ba về thăm mẹ con tôi, tôi tìm mọi cách trốn chui trốn lủi, khi thì nấp sau bụi mía, lúc thì đằng sau cánh cửa. Chẳng hiểu tại sao lại thế, đáng ra, khi ba về tôi phải vui mừng mới phải. Có lẽ là vì tôi hay bị ba mắng, khi thì vì tôi nghịch quá, khi lại vì tôi không chịu nghe lời, lúc thì vì… nói chung là nhiều lý do để không lần nào ba về thăm nhà mà tôi lại không… bị mắng, hoặc bị đánh đòn. 

Mẹ tôi đi làm suốt cả tuần từ hồi tôi được vài tháng (ấy là tôi nghe mẹ kể thế, còn lúc đó bé quá tôi cũng không thể nhớ được những gì đã xảy ra). Từ đó, tôi ở nhà với bà ngoại, bà là mẹ hai của mẹ chứ không phải mẹ đẻ. Bà thương bọn tôi lắm, hồi đó, ở nhà với bà còn có anh trai tôi, cháu tôi… nói chung bà là bảo mẫu, quản khoảng ba bốn đứa cháu gì đó. Sáng nào bà đi chợ về cũng có quà cho bọn tôi, khi thì cái bánh đa, khi thì quả chuối, lúc lại là vài quả ổi. Những món quà trị giá vài hào, nhưng bọn tôi thích, thấy bà đi chợ về là lại hò nhau “A, bà đã về!”. Không phải mừng bà đâu, vì chả đứa nào nghĩ tới việc bà có mệt hay không, chỉ chăm chăm xúm vào cái rổ bà cắp bên hông vừa đặt xuống. Bọn chúng tôi, đến giờ đứa nào cũng còn nhớ câu “Bà ơi, cháu ỉa xong rồi!”. Chúng tôi vẫn đua nhau đi ị, và rồi đua nhau gọi bà, để bà rửa đít cho như thế!  Bây giờ bọn tôi không gọi bà là “bà” nữa, chúng tôi đã gọi bà là “cụ” thay cho lũ con của chúng tôi. Cụ vẫn xuýt xoa “Tớ thật chán, không còn đủ sức khỏe để bế con cho chúng mình!”. Bà tôi, năm nay đã gần một trăm tuổi.

Mọi người thường khó mà nhớ nổi những gì đã xảy ra hồi ba bốn tuổi. Tôi cũng vậy, đến giờ tôi chỉ nhớ một vài sự kiện khá ấn tượng mà thôi. Năm tôi lên ba tuổi, một lần ba tôi trở về từ Quảng Ninh. Mọi người ai thấy ba cũng vui. Tôi cũng vui, nhưng tôi sợ không dám đến gần. Nhà bác tôi có ba gian, cột gỗ rất đẹp. Ba tôi và mọi người ngồi gian giữa, nói chuyện vui lắm. Ba tôi ngó quanh, không biết ba tìm gì. Còn tôi đứng núp sau cánh cửa chính, ghé mắt qua khe cửa nhìn vào nhà. Chợt, như ba đã nhìn ra tôi, ba vẫy tay gọi “Con gái cưng của ba, vào đây với ba”. Tâm trạng của trẻ con thật khó hiểu, khao khát được nhìn thấy mặt ba, nhưng nghe thấy ba gọi đến thì hoảng loạn. Tôi dón dén đi vào, đến cửa thì căng thẳng quá đến tè ra quần. Tôi khóc òa, vì sợ hay vì ngượng??? Cả nhà đều ngạc nhiên, chị họ tôi bế tôi ù té chạy ra ngoài. Tôi không còn nhớ chuyện gì sau đó!

Sau đó một thời gian tôi không được ở nhà với bà ngoại nữa. Tôi và con trai của anh họ được đưa gửi mẫu giáo. Ở nhà bà ngoại còn phải trông những đứa khác? Tôi cũng không biết lý do người lớn đưa trẻ con đi học là vì sao? Tôi cũng vui vẻ đi. Đường từ nhà đến lớp mẫu giáo, bây giờ thấy quá gần, sao hồi đó xa thế, đi mãi không tới. Lớp mẫu giáo của chúng tôi nằm trong đình Xã Đàn, giờ vẫn còn nằm trên đường Nguyễn Lương Bằng. Mỗi sáng đều gặp một đứa lớn tuổi hơn tôi, da trắng, người mập mạp, đứa bé bị bệnh đao. Nó ngồi trên một chiếc ghế nhìn chúng tôi rồi nhoẻn miệng cười. Miệng nó vốn dĩ đã méo, mỗi lần cười lại méo xệch đi hơn nữa. Mắt nó, thường thì đó là cặp mắt vô hồn, thi thoảng lắm mới thấy lóe sáng lên, như ánh sáng của hy vọng. Gặp nó, mấy đứa trẻ con chẳng ai bảo ai cứ hát rống lên để trêu “bà ba béo, bán bánh bèo, bên bờ biển, bị bom bi bắn ba bốn bận”. Mỗi lần đi đến đoạn đó tôi đều ngó quanh xem có nó không, đôi khi bị nó đuổi ù té chạy, đôi khi lại thấy nó cười với mình. Không gặp nó, thấy nhớ nhớ. Về sau này tôi chuyển nhà, rồi ít gặp nó, rồi đến một ngày không gặp nó nữa. Nghe bảo nó đã chết, vì chất độc màu da cam. Hồi bé ngây ngô, chẳng hiểu “da cam” là thứ chất độc gì mà kinh khủng thế, sao lại có thể giết chết được con bé?

Học mẫu giáo, tôi chẳng học được mấy ngày. Thật không phải tôi không thích học. Tôi thích lắm, thích các bạn, thích những con sư tử đá trong đình làng Xã Đàn, nơi tôi học. Thích cây đa già đầu cổng, nơi chúng tôi thường chạy đùa nhau quanh đó trong giờ nghỉ trưa. Không biết có phải vì chúng tôi nghịch quá hay không, hay vì một lý do nào đó mạo phạm thánh thần. Một lần, khi ba bốn đứa chạy quanh cái cây, rồi chúng bỏ đi hết, còn mỗi tôi và đứa cháu. Cô giáo gọi tôi lại, bắt tôi xòe tay ra và cầm thước vụt vào tay tôi mấy cái, để cho tôi nhớ đã phạm lỗi. Tôi chẳng nhớ ra là mình đã phạm lỗi gì, tôi khóc. Không phải vì bị đau. So với những trận đòn của ba, mấy cái vụt của cô giáo chỉ là “muỗi”. Tôi khóc vì uất ức. Vì không chịu nổi, cứ tưởng đi học không bị đánh, hóa ra cũng thế, cô giáo gì mà ác. Thằng Trung cháu tôi thấy tôi khóc, nó xót tôi. Nó là thằng bé rất có cá tính, dắt tay tôi, chui ra khỏi cổng đình, đi bộ về nhà. Lần đầu tiên trong đời bỏ học, sao tôi lại thấy thích thú thế. Như thoát ra khỏi trại giam!

Bà ngoại thấy chúng tôi bỏ về giữa giờ thì ngạc nhiên lắm. Làm sao mà chúng lại về được khi bà chắc chắn là cổng trường đã đóng cửa. Bà dặn chúng tôi ở nhà chơi, bà đi ra trường đón chúng tôi, nói ở nhà có việc phải đón các cháu bà về. Lúc đó cô giáo mới hoảng hốt bủa đi tìm trong đình. Tìm sao mà thấy, chúng tôi đang ở nhà cơ mà! Bà làm um lên, trông trẻ mà làm mất những hai đứa cháu của bà, rồi bà bỏ về. Cạnh nhà bà tôi cũng có cô giáo dạy ở trong đình, cô về nhà bà xin lỗi bà và thấy chúng tôi. Tôi loáng thoáng nghe cô nói với bà là cô giáo đánh tôi rất sợ, biết lỗi rồi, mong bà xin lỗi. Điều mà tôi ngạc nhiên là tại sao các cô chỉ xin lỗi bà, không xin lỗi tôi? Có phải vì tôi là đứa trẻ. Từ đó, tôi không đi học mẫu giáo. Mẹ nói thế nào tôi cũng không đi, bà cũng không đồng ý cho tôi đi, bà nói ở nhà bà trông. Tôi đã luôn bị ám ảnh với việc mắc lỗi gì đó, với ai đó, cho dù đó là một thứ lỗi mà thông thường chẳng ai để ý!

Bác trai là anh ruột của mẹ tôi thì tuyệt lắm! Chẳng lúc nào bác đánh mắng chúng tôi. Tôi có cảm giác bác lúc nào cũng nhẹ nhàng và chu đáo, hơn cả một người mẹ. Bác lo cho cả gia đình, ai cũng chu toàn. Tôi lúc nào cũng nhớ hình ảnh bác gầy gầy lóc cóc chiếc xe đạp đi làm rồi về nhà. Không bao giờ nghe thấy bác than thở điều gì, chỉ thấy bác làm việc. Ngày tôi còn bé, bác tôi kiếm rất nhiều việc phụ về nhà để người nhà cùng làm. Bác trai tôi rất khéo nấu nướng. Tết năm nào bác cũng gói bánh chưng, và chắc chắn là chúng tôi, mỗi đứa nhỏ đều có một cái nhỏ nhỏ xinh xinh. Món giò thủ bác trai tôi làm rất ngon, lần nào bác làm tôi cũng ngồi bên cạnh để xem và hỏi. Nhưng đến giờ thì tôi chẳng nhớ mình đã hỏi gì, tôi không biết gói giò… chắc là vì chẳng nhớ gì! Bác cũng rất để ý tới sở thích của từng người. Với tôi, tôi thích ăn thịt “nửa nạc, nửa mỡ”, đặc biệt là thịt 3 chỉ, tôi thích nhất. Cái thứ thịt luộc cũng ngon, kho cũng ngon. Bác cũng biết tôi thích ăn thịt, một lần tôi đã nói, do tôi nói nhỏ nên bác chỉ nghe được “mỡ”. Thế là, lúc nào vào bữa, có thịt, bác lại gắp thịt mỡ cho tôi. Tôi ăn ngon lành, mặc dù đôi lúc nhìn miếng có nạc cũng thèm! Bây giờ tôi không thấy mọi người gói bánh chưng, càng không có chuyện phải thức đêm trông nồi bánh chưng, chứ ngày trước, năm nào bác tôi cũng bắc bếp rất muộn, bọn trẻ chúng tôi sẽ quây một cái chiếu gần bếp và ngồi chơi, chờ các anh lớn bới khoai lang nướng ra để xâu xé. Vừa thổi bằng mồm vừa ngoạm, thậm chí, khi miếng khoai nằm gọi trong mồm rồi vẫn còn phải há mồm hà hơi ra ngoài… cho nguội bớt! Bác tôi mất năm tôi 20 tuổi, bệnh ung thư. Mẹ tôi trước đó nói với tôi “chị cả bảo bác uống thuốc bắc vào sẽ khỏi”. Nghe được thế, tôi chợt nhớ ra bố đứa lớp trưởng lớp cấp 3 của tôi là viện trưởng viện y học dân tộc. Tôi chạy thục mạng đến lắp bắp hỏi bác ấy có loại thuốc nào. Bác ấy hỏi lại tôi “Ai nói với cháu uống thuốc bắc chữa được ung thư?”. Tôi lúng túng, tôi không thể nói người đã nói với chị tôi. Trong một số trường hợp, nói dối mang lại niềm tin vào cuộc sống cho người khác và cho gia đình họ, tại sao lại không? Chưa bao giờ tôi nghĩ tới việc bác tôi đã chết. Mỗi lúc ngửng mặt lên, tôi luôn có cảm giác bác nhìn tôi cười, và bụi bánh rơi hết vào mặt tôi. Đấy là lần bác đưa tôi về quê hồi bé. 

Gia đình tôi không ở Khâm Thiên từ năm 81, do cơ quan mẹ tôi chuyển đi chỗ khác, và mẹ tôi được các cô chú ở cùng cơ quan xúi “nhảy dù” vào phòng làm việc cũ. Chỉ bằng cách đó chúng tôi mới có nhà, không phải đi ở nhờ nhà bác như trước. Thế là nơi làm việc cũ của mẹ trở thành nhà mới của chúng tôi. Ở đấy, tôi có thêm rất nhiều bạn mới, nhiều chuyện cũng trở thành kỷ niệm của tuổi thơ tôi. Câu chuyện "nhảy dù" để có nhà chắc sau này cũng sẽ là đề tại của nhiều nhà văn, nhà biên kịch, nhưng hồi đó, nhảy dù chỉ là để có được chỗ ở. Các phòng chia nhau bằng ri đô, hoặc may lắm thì bằng cót ép. Người ta còn cấp cho 2 đến 4 người chưa vợ, chưa chồng chung một phòng khoảng 18 m2. Sau này, đây cũng là một bi kịch của việc 2 gia đình sống chung trong 18 m2. Khi mà trai đến lúc lấy vợ, gái đến lúc lấy chồng. 2 anh bạn cùng phòng rõ là thân, thế mà cãi nhau chí choét vì mỗi tội: không thể yêu nhau vô tư được (ngay cả khi tối trời); vợ anh này đá đồ của vợ anh kia; vợ anh kia nguýt dài vợ anh này, v.v và v.v...

Người lớn là thế, còn với trẻ con, ở tập thể vui tuyệt! Nhiều bạn cùng tuổi, được chơi nhiều trò. Khu tập thể Nguyễn Công Trứ rộng lớn là thế mà không ngõ ngách nào chúng tôi không biết. Làm cái gì chúng tôi cũng tập thể. Ăn tập thể, tắm tập thể, thậm chí… đi ị cũng tập thể. Trung bình mỗi gia đình có hai đứa trẻ, trạc tuổi tôi cũng có, hơn tôi vài ba tuổi cũng có, kém tôi một hai tuổi cũng có. Chúng tôi chơi với nhau rất vui, nhất là ngày nghỉ hè. 

Ngày bé, có chú Trường ở khuất phía trong cùng của khu tập thể. Chú rất vui tính, lại hay kể chuyện ma cho chúng tôi nghe. Trẻ con, đứa nào chẳng thích nghe chuyện ma. Nào là Ma Cà rồng, Ma mặt thớt, Ma cây… đủ cả. Rồi chú lại bày ra trò đi tuần tra khu tập thể sau mỗi lần kể chuyện ma. Chúng tôi đứa nào đứa nấy mặt mũi xanh lét sau khi đi tuần về. Tôi nhát gan lắm, sợ bóng tối, sợ ma. Một phần là vì ở đấy trước kia là nghĩa địa của lính da đen. Tôi nghe nói vậy, nhưng tôi tin, vì ở cạnh đấy vẫn còn cái nhà đá rất to gọi là Nhà Quàn. Nhà Quàn trước đây chính là nhà quản xác của lính tây, hồi chúng tôi chuyển về đấy ở, Nhà Quàn là doanh trại bộ đội, hình như đơn vị công binh thì phải. Bé quá nên tôi cũng chẳng biết, chỉ biết các chú ấy sáng dậy sớm tập thể dục rồi ăn sáng. Họ nấu cơm không bằng nồi như thông thường mà bằng chảo. Một cái chảo rõ to, dụng cụ đảo cơm to như cái xẻng. Họ ở đấy hơn một năm rồi chuyển đi đâu đó, chỉ còn một vài “chú bộ đội” sau khi ra quân lại yêu mấy chị ở đấy nên nán lại làm ăn, và làm quen.

Ở đấy vui nhất khi còn có anh Sơn, anh Hoàn. Thủy, đứa bạn bằng tuổi tôi hồi còn bé hình như thích anh Sơn thì phải. Tình yêu tuổi thơ cũng hay hay và là lạ. Anh Sơn đẹp trai lắm. Da trắng, mắt trong thông minh và học giỏi bậc nhất. Má con trai mà lúc nào cũng đỏ hồng. Gặp anh Sơn lần nào Thủy cũng kiễng chân lên, bắt anh ấy nghiêng người cúi xuống để béo má một cái, sau đó thì anh Sơn mới được buông tha. Lâu lâu chẳng có tin tức gì của các anh ấy, nghe nói anh Sơn thi đỗ Học viện Quân Sự, đi nước ngoài học, giờ đã là Trung tá hay gì gì đó. Còn anh Hoàn, tôi không hỏi đến, cũng chẳng nghe ai nhắc đến, vì hồi bé, anh Hoàn bị lu mờ bởi bóng dáng anh Sơn. Thủy bây giờ cũng đã có chồng, một đứa con gái 4 tuổi, xinh và nghịch y như mẹ nó hồi bé.

Tập thể chúng tôi khoảng hơn 20 hộ, 1 cái bản tin quét sơn đen, các hộ dùng chung nhau 2 cái nhà tắm, 2 dãy nhà vệ sinh (bên nam có 2 phòng vệ sinh nặng, và 4,5 chỗ đi nhẹ; bên nữ chỉ duy nhất 1 phòng vệ sinh nặng, 4,5 chỗ đi nhẹ). Bọn trẻ con chúng tôi có thể đi chung nhau 2 đứa /1 lần đi, còn người lớn thì đố có thể đi chung như thế. Nhiều lúc bí bách, bọn trẻ con còn rủ nhau đi sang khu bên cạnh để đi. Nghĩ đến cảnh nhà vệ sinh thời bao cấp mà phát ói, khu nào cũng bẩn, giấy và phân lẫn lộn với nhau. (Thời kỳ nghèo khổ, nghèo cả nước). Chiều đến, khi các cô chú đi làm về thì một cảnh buồn tình nữa lại diễn ra: Xếp hàng chờ tắm. Mỗi người xách 1 xô nước từ nhà ra nhà tắm, chờ người trong tắm xong, người sau mới được vào. Cứ như thế, đến tối mịt, may ra mới có người tắm hết. Bọn trẻ con thì sướng hơn, đứa bé thì trần truồng, còn đứa lớn thì cởi trần, mặc quần đùi tắm ngoài sân. Vớ phải cơn mưa thì cả trai lẫn gái, cả lớn lẫn bé đều trần trùng trục đứng tắm mưa, có vẻ sung sướng lắm. Như nắng hạn gặp mưa rào!

Nghịch cảnh xếp hàng mua gạo, mua dầu, có lẽ những người sống ở nông thôn thời đó không gặp; còn các bạn trẻ thời nay cũng chẳng thể tưởng ra. Một lần, 20 năm sau, tôi kể lại cho cả nhà nghe nỗi kinh hoàng của việc xếp hàng mua gạo. Anh tôi bảo “Mày cũng biết chuyện đó à?”. Buồn cười nhỉ? Đó là những ngày kinh khủng nhất trong cuộc đời tôi, khi mới 6 tuổi, 4 giờ sáng đã phải thức dậy và đi ra cửa hàng gạo, xếp hàng. Thế mà lúc đó đã có đến chục người. Thấy tôi nhỏ, các bác lớn tuổi hơn nhường cho tôi, đến 8 giờ các cô mậu dịch viên mở cửa, tự nhiên lòi đâu ra cả đống sổ gạo đã xếp sẵn đấy rồi. Đúng là ác mộng. Từ 4 giờ sáng, đến 10 giờ trưa mới mua được 10kg gạo. Mà khốn nỗi, gạo đâu có ra gạo, màu tím ngắt, đặt vào chậu nước vo, mọt gạo nổi lềnh phềnh, còn chưa kể gạo trộn lẫn sạn! Thật khủng khiếp!

Đâu chỉ có gạo, từ rau đến thịt, từ mắm đến muối, từ dầu đến… lá dong (chỉ được mua vào ngày tết) tất cả đều phải xếp hàng. Số may thì được ngon, không may thì mua phải của dởm. Số hên gặp người tử tế thì đủ, còn thiếu là chuyện bình thường. Đấy là còn nghe nói khu tập thể Nguyễn Công Trứ được xếp vào dạng ưu đãi nhất, còn các khu khác trên cả nước... cứ chờ đấy!

Khu nhà tôi có nước được vài năm đầu mới lắp đường ống nước, sau này lại thiếu trầm trọng, nước chảy nhỏ giọt.. toong… toong… hứng được 1 gáo thì sốt cả ruột. Thế là cả khu rủ nhau sang bên tập thể lớn NCT để lấy nước. Đúng là cùng sống dưới 1 bầu trời chỗ thì thừa, nơi thì thiếu, nơi ngập úng, chỗ hạn hán. Khu Nguyễn Công Trứ nước chảy hoang cả ngày, không có khóa, mỗi ngày không biết chảy hết mấy trăm hay mấy ngàn khối nước, trong khi bên khu nhà tôi, cách có 200m, nước không có mà dùng. Lũ trẻ con bọn tôi rủ nhau, mỗi đứa 1 gánh, rồng rắn nhau đi sang bên khu kia lấy nước. Bên đó,  nước thừa, nhưng người thì keo kiệt. Thấy dân bên khu tôi sang lấy nước thì lại dở giọng “chó cậy gần nhà”, bảo: nơi khác đến lấy phải chờ!

Đối với những kẻ từ nơi khác đến như bọn tôi, đến 1 nơi nhiều nước, nhiều vòi nước bỏ không thì ở đây hay xa hơn một chút thì có gì là ngại. Bắt phải chờ, tôi đi chỗ khác!

Đời người, của trời dùng mà không tiết kiệm, rồi có lúc cũng hết, huống chi là nước của nhà nước. Đến một ngày, khu nhà tôi được lắp nước Phần Lan, nước vào đến tận nhà, còn bên khu kia, bịt hết đường ống nước cũ, dùng phải toan tính, phải tiết kiệm hơn. Rõ khổ!

Giờ đây, tập thể NCT hỗn độn người và chợ, chợ Giời ngày trước nhỏ thôi mà giờ lan rộng khắp toàn khu. Muốn giải tỏa để xây nhà cao tầng cũng khó. 

Nói đến Chợ Giời, phải kể đến Chợ Giời thời bao cấp. Có đủ mọi thứ để bán, có đủ mọi thứ để mua. Người dân bình thường không có việc chắc chắn không qua Chợ Giời, vì sao? Chỉ cần trên xe đạp có buộc 1 thứ gì (chả cần biết là gì) thế nào cũng bị dân buôn, dân phe giữ lại hỏi mua cho bằng được. Hết người này hỏi, đến người kia hỏi. Hồi đó, nhớ mãi có anh Tây Lai người Pháp (sau này cũng đóng phim) cũng ra chợ làm phe, chặn hết các xe của mấy cô, mấy bác già đi vào chợ để hỏi mua hàng. Không mua được chạy vào quán nước cười hả hê vì đã trêu người đi đường phát sợ.

Vài chuyện góp vui với các bác gọi là, còn nhiều chuyện buồn - cười nữa của thời bao cấp, để lúc nào có thời gian lại buôn tiếp!

Góp với các bác 1 chuyện thời "hậu bao cấp"

 Hai sọt su hào to tướng, sọt tre to bự chứ không phải sọt bằng sắt:1 bên là su hào Trung quốc, lá to, củ to, phấn xanh rất đẹp mắt, bên kia là sọt su hào Hà giang, lá nhỏ hơn, củ cũng bé hơn. Sằn sàng phục vụ khách hàng theo sở thích "hàng ngoại-hàng nội"-Ngày ấy thiên hạ đang sính "hàng ngoại"

 Xuất phát, lão ta ra lệnh. Hai anh em chổng mông lên dốc cầu TL(tầng 1), sau khi đã "tráng miệng" 2 nắm cơm nắm mà u làm cho từ nửa đêm.

 Xuống dốc, đúng là "Xe tôi không chuông, không phanh, không gác đờ bu..."-Nói theo bài hát "Tôi người lái xe", xe lao như tên bắn. Lão cười hu hú "Khoái quá...mát như...trê đẻ". Xuống tới chân dốc, than ôi, giày "bát kết, mắt trâu" của 2 anh em nó chỉ còn...mỏng dính vì...đạp gót giày vào bánh trước thay phanh(thắng).

 Phố phường HN ngày ấy quá vắng vẻ, 2 anh em...chổng mông cố đạp con xe thồ nặng kĩu kịt. Mong sao ra chợ Cầu giấy cho sớm, cất buôn xong, để quay về tranh thủ chuyến nữa thì thầy u mới khen.

 Cái vùng quê chỉ thích đánh nhau, Tây, Mỹ, Pốt, Tàu oánh tuốt, bây giờ thì chỉ thích trồng su hào. Sao năm nay bội thu thế? Củ to bằng cái bát yêu(bát loa), ranh rờn, đẹp như...gái mười tám. Năm nay thu hoạch khá đây? CNXH đang "sập đổ", lấy đâu EEC nữa, em chẳng cần các bác nữa đâu, em có "ối" rau xanh đây này, cũng chẳng thèm xuất khẩu sang các bác nữa đâu. Phục vụ Thủ đô là ổn rồi. Em đang nghĩ miên man, nhưng mồm, mũi vẫn tranh nhau thở! Nặng quá, 250 củ*0,4 cân/củ=100 cân(kilogam, ký). Thế mới biết các bậc tiền bối thồ hàng trong KCCP, KCCM quá cao thủ

 3h, chợ Cầu giấy đây rồi, ôi sao lắm su hào thế? Hóa ra 2 anh em đi muộn nhất, dân làng đã có mặt tại đây từ nửa đêm, dân buôn mua chán chê rồi. 2 kẻ đi chậm trầm ngâm bắn thuốc lào, uống chén trà trong cái quán cóc xiêu vẹo bên đường Láng, mặt...dài như cái bơm.

 4h, 4 sọt vẫn đầy ụ, chẳng ma toi nào thèm hỏi, sắp đến giờ công an họ dẹp đường rồi(ngày ấy nút giao thông Cầu giấy bé tí tẹo). Lão quát "Tao-mày sang chợ Thành công"!

 4h30, chợ Thành công vẫn vắng ngắt, không 1 bóng người, ngoài mấy bà buôn rau từ Cầu giấy sang, đang loay hoay sắp chỗ bán hàng.

 5h30, 4 sọt vẫn tú tù lu, chẳng ma toi nào mua.

 "Lên chợ tam đa, lên chợ Ngọc hà"-lão quát. Lại đi.

 11h mỗi anh em còn tới 1/2 số rau, trời hoe nắng, lá su hào ngã gục, rũ rượi, phấn bay sạch.

 "Về"-lão lại quát.

 12h về tới giữa cầu TL. "Nghỉ tý"-"Vâng", em vẫn lễ phép. Trầm ngâm nhìn sông Hồng cạn trơ bãi cát, hút liền 3-4 điếu thuốc lá Kỳ hòa, đột nhiên lão cao hứng "Chú mày biết hồi 1985 bọn anh phòng ngự chốt trên Hà tuyên thế nào không"?

 "Em biết sao được, chỉ biết các bác trên ấy chết đói vì rau xanh thôi".

 "Thế này, này", lão lập tức túm "tóc" các củ su hào rồi liên tiếp liệng xuống sông Hồng, rồi nói "Bọn anh dùng lựu đạn mỏ vịt, cầu bi, ném thế này này, ném sái tay thì chúng mới sợ, ném cho bọn Tàu kinh 8 đời luôn"

 Em cười hô hố, rồi giật giọng "Ấy huynh, ném thế nhỡ trúng vào người ngồi trên thuyền đang đi dưới sông thì sao, nguy hiểm lắm"

 Lão đột nhiên dừng lại " Ờ nhỉ, nguy hiểm thật, thôi chịu khó chở về ném xuống ruộng, thay phân bón, đỡ phải 2 sọt sang Cổ nhuế, Nhổn"(Giai thoại này khối bác biết, trong đó có câu "Xin thề")

 Lời kết: Ôi thời dặt dẹo nay còn đâu(nguyên tác theo Tôn ngộ không trong Tây du ký" Ôi thời oanh liệt nay còn đâu"). Em mong sao con, cháu mình không lặp lại cái cảnh "Nửa mếu, nửa khóc" đó.

Nhà mình thời 7x ... ông già bị kỉ luật. Cơ quan cho ông già ngồi chơi xơi nước. Nhưng mà ông già đâu có chịu ngồi yên. Ổng đi khắp các cơ quan cấp trên làm đơn thưa tùm lum. Cơ quan ghét ... nói ông già không có mặt tại cơ quan tức là bỏ việc nên không chấm công và cắt lương, chỉ còn 70%.

Mà các bác biết rồi đó, hồi ấy tất cả chỉ có bấy nhiêu, hết!

Đương nhiên là chuyện cắt lương ảnh hưởng trực tiếp, có hiệu quả ngay tắp lự đến bữa ăn của gia đình nhà em. Mẹ em thì theo trường đi sơ tán tận đẩu tận đâu ở cái gì "rừng lim" chỗ nào đó.

Ông già nuôi ăn 2 chị em nhà em mà không có mẹ em thường xuyên nhòm ngó ... thật là quá sức!

Nhớ có lần hết lương, ông già vào cơ quan xuống căn-tin xin 1 mớ vỏ lon sữa bò đặc có đường. Nhân viên căn-tin hỏi lấy về làm gì? Ổng trả lời lấy về làm đồ chơi cho 2 chị em ...

Ngày hôm đó, nhà em đóng kín cửa, ông già lấy dao khui từng lon ... vét chút sữa thừa cho vào bát ... 2 chị em chấm bánh mì ăn ... ôi sao ngon thế! Sướng quá, em và chị la chí choé giành nhau vét lon. Ông già giận đem vứt hết vỏ lon không ... không làm đồ chơi nữa!

Hơ hơ, cái chủ đề này dạo này xôm nhỉ, em cũng chém gió phát  ; tất nhiên là không bằng các bác cựu được nhưng ngày xưa em cũng được dính tý bao cấp, dính tý chuyện ngày sửa ngày xưa đây:

- ăn mỳ tôm sống,  . Trẻ con đứa nào chả thích được ăn mỳ tôm sống, cầm một nắm vừa chạy chơi vừa nhai. Khoái quá còn gì. Thế nhưng hồi bé bọn em đã có những 3- 4 tháng ăn mỳ : sống, mỳ nấu, mỳ ... chả có gì. Sao thế nhỉ? Cơ quan bu sản xuất máy nông nghiệp cho nông dân, chả bán được cho ai, một ông mang máy vào nông trường miền nam chào hàng bán được một số - họ trả toàn mỳ tôm - hàng đổi hàng mà -thế là tươi rồi , nhà máy trả lương cho anh chị em bằng hiện vật. Mấy ngày đầu thì sướng lắm, có cái mà ăn hơn các nhà chả có gì ăn; sau nhìn thấy sợ mà vẫn cứ phải chiến  . Có lẽ nhắm mắt cũng nuốt được nên có di truyền đến tận giờ,  cái con bé con nhà em giờ hình như cũng thích mỳ tôm ăn sống,  .

- xếp hàng lấy nước: cả khu tập thể có một cái bể nước to lắm, đường nước bơm vào đó rồi mọi người cứ việc mang thùng sắt ra xếp hàng mà hứng, xách về đổ vào phi nhà mình. Em được bu giao nhiệm vụ lấy nước. Thế là cứ hết giờ học là ba chân bốn cẳng về, nào có dám chơi với lũ bạn, tao về còn lấy nước  , không chiều về cả nhà cứ gọi là .... Xếp hàng là cả một nghệ thuật, vừa nói chuyện vừa để ý lấy chân đá thùng nước nhà mình lên trước hứng nước. Bác nào không để ý có mà mãi tít đằng tắp nhé. Mà xếp hàng không cẩn thận thì đánh nhau cãi nhau như chơi chả đùa. Ngày nào cũng tập thể lực vài thùng nước đầy - toàn thùng tôn thùng sắt nhé - có lẽ giờ vậy nên mẹ cháu chê còi,    .

Vài chuyện nữa hôm nào kể nốt, nhớ lại một thời thơ bé

Em xin góp chuyện thời bao cấp, nhà em có đứa em thứ ba sinh 1981, chả có tiêu chuẩn gì, đi nhà trẻ cũng là nhờ bà trông trẻ thương, trông giúp. Chuyện mua gạo theo sổ thì khổ ... em theo các chú các bác xếp gạch từ 4 giờ sáng, tới lượt có lần hết gạo, nhà cũng hết, vay cũng nhiều, chả còn cách nào..đợi hết giờ xin vào quét kho, bọn trẻ có tiêu chuẩn vào hót trước, e thì ké hót sau, chỉ được tý gạo mốc xanh chúng nó chê bỏ lại, về cũng nấu ăn được hai ngày. Chắc không bao giờ quên được. 

Còn tem mua thịt thì chỉ có đúng một lần em đi mua, được tý bạc nhạc, trong khi thịt ngon đầy, nhìn chị mậu dịch, chị ấy bảo tem của em thì chỉ được thế thôi, thèm, tủi thân. hihi.

Quần áo thì được ông bác làm ở nhà máy cơ khí quang trung cho một bộ xanh công nhân, mặc đi học suốt mấy năm. Lúc ấy mùa đông em chỉ ao ước có cái áo trấn thủ . Trẻ con có lẽ vẫn vô  tư khi chịu khổ, đói. Chỉ thương mẹ, ốm sốt chỉ uống nước đun sôi với mấy viên thuốc cảm cơ quan cho, người lả đi vì thiếu ăn. Sau được một ông bác sỹ quân y hàng xóm cho mấy viên thuốc bổ, hôm sau lại đi làm vì nghỉ hết phép rồi.

Hà nội còn thời cấm rượu, mẹ em bảo chả còn cách nào, mày đi lên Bắc ninh mua rượu về bán cho mấy bà hàng nước, lần đầu mẹ dẫn đi, lần sau em tự đi một mình, lên đến làng Vân mua về, đến cầu Long biên phải xuống xe ngay đầu cầu, có lần bị bắt tịch thu hết, nhưng đa số là thoát, về pha ra bán cũng kiếm được tiền mua gạo. em chi xách được cái túi nilon xanh 5 lít thôi, về pha thêm một lít bán kiếm đủ tiền mua 3 cân gạo trắng, lúc ấy ăn ngon lắm. 

Sau này em thấy sao mà khổ thế, có lối đi tập thể, hai bên còn tý đất, tranh thủ trồng rau, mỗi nhà được hai m2 đất trồng rau. cá thì đi câu trộm, bảo vệ gác xách súng ra bắn chỉ thiên, chả dám đi nữa. 

Cắt gà bằng kéo thì cũng không có gì ghê gớm bác ạ. Đúng là cắt bằng cách này thi hàng xóm có áp tai vào tường cũng không nghe thấy gì, nhưng không phải người ta dùng nó chỉ vì muốn dấu diếm. Nhiều bà, nhiều cô ngày nay vẫn dùng cách này, vừa đỡ dao thớt, vừa an toàn (với một số người), vừa tiện lúc muốn lọc thịt (xé phay chẳng hạn); bản thân em thi thoảng cũng vẫn dùng.

Nhưng đúng là thời đó có miếng ngon nào là cứ giấu như đi ăn vụng, ăn trộm vậy.

Hồi bao cấp em còn bé, nên nhớ loáng thoáng, nhưng ngồi nghĩ lại thì thấy như có 2 hình ảnh khác nhau. Một vui, một buồn. Vui vì hay chia sẻ, tối tối mọi người quây quần ấm trà, điếu cày, điếu bát, nghe đài, tán chuyện; trẻ con đứa ngoẹo đầu, ngoẹo cổ tập viết, đứa "sinh hoạt" văn nghệ, thi thoảng bị người lớn bắt ra biểu diễn rất vui.

Buồn vì (lúc ấy chả nghĩ thế) chập tối lợn kêu eng éc, khói bếp mù mịt, nhà này mắng con, nhà kia cãi nhau, điện đỏ như con đom đóm đực, có để cho có, lúc học thường phải thắp đèn.

Một bữa canh thì đủ mọi loại rau: mùng tơi, rau đay, lang, muống, ngót thập cẩm loại trong vườn "mót" về. Tối tối mùa hè thường trải chiếu ra hè ăn vừa mát vừa ngắm trời sao (ăn trong nhà chắc chịu không thấu). Cua cá hồi đó còn nhiều, trẻ con bọn em nghỉ hè sáng sáng đi lượn một vòng cũng kha khá, nhưng chủ yếu cũng một quãng thời gian sau vụ gặt đó thôi. Các thức ăn khác thì ít hơn. Thi thoảng thịt lợn, lâu lâu thịt gà. Chắc vẫn còn tốt hơn chán so với thế hệ phụ huynh thời xưa đợi đến Tết để được miếng thịt mỡ "ngập chân răng". Nói chung hình như cũng không đến nỗi quá tệ, nhưng có một giai đoạn sau này thì ban-căng hơn, nhà em thì ăn độn, nhà nhiều đứa bạn ăn sắn toàn diện. Thế nên có lúc nghe có đứa ở phố nói chán ăn thịt, thấy có đứa đi ăn cưới bóc thịt mỡ vứt đi là tụi em choáng. Người ta xào rau cần vứt bỏ hết lá đi là mình cũng phải băn khoăn.

Giai đoạn cuối bao cấp tụi em cũng choai choai rồi. Hầu hết "giúp đỡ" bố mẹ. Sáng đi học, chiều bốc vác như người lớn, có tiền phì phèo tí thuốc men cũng "phởn". Nhiều đứa lên lớp ngủ ngay tại trận, rơi rụng, bỏ học vãn cả. Sau này còn có "phong trào" bỏ nhà đi Nam. Bố mẹ có chửi, có đòn uất quá là găm tạm ít tiền ra nhảy xe ngay. Cũng may nhà mình còn điều kiện hơn một chút. Thày bu lại ưu tiên cho học hành nên cũng đỡ.

Có lẽ chẳng phải riêng gì bao cấp, nhưng nhớ lại ngày xưa là nhớ Tết, nhớ pháo (chả biết bao giờ được gặp lại em này). Chuẩn bị Tết các nhà trong khu "đụng" thịt lợn rất rộn ràng; mổ lợn, chia thịt, giã giò rộn rịp cả buổi; các nhà tranh thủ quét vôi tường; trẻ con được cho trông nồi bánh chưng chung là cái thùng phuy, được ăn bánh cóc; được quần áo mới, được mừng tuổi nên cứ háo hức lắm. Không khí rất tươi mới.

Đêm 30 vừa châm pháo vừa run, điện đóm tắt đi để nhìn chớp pháo. Đếm những quả "tạch" để đợi quả "đùng", ngửi mùi pháo ...ôi sao mà thèm quá. Giờ Tết chả hứng thú gì nữa, trách nhiệm là chính, trẻ con chắc cũng không mấy đứa thiết tha.

Thời trước 75, ở ngoài Bắc gần như người ta chẳng phải lo nghĩ về vật chất, tiền nong nhiều lắm. Ở tuổi thanh niên trai tráng mà luẩn quẩn ở nhà thì xấu hổ kinh khủng. Ở phố chỉ khác ở quê là đóng cửa khi vắng nhà, còn thì đều "tối lửa tắt đèn có nhau" cả. Ngày có tờ lịch đỏ thì cả khu tập thể, cả ngoài dân phố nhà nào cũng tổ chức "ăn tươi" cả có gì mà phải giữ ý. Những vấn đề gọi là "tế nhị" chỉ xuất hiện trong giai đoạn khó khăn như đã nêu thôi. Đó là lúc người ta bắt đầu nghĩ về bản thân nhiều hơn, nghĩ về quyền lợi nhiều hơn, và cũng bắt đầu từ đó người ta lo thu vén cho gia đình của mình nhiều hơn. Rồi thì đạn đồng không chết mà "chết" bởi các "viên đạn bọc đường". Và dĩ nhiên khi thấy mình khác với đa số mọi người xung quanh thì bởi cái sĩ diện còn cao nên mới phải tế nhị "chặt gà bằng kéo" là thế.

Ở nông thôn thì chó, gà, cá ăn thoải mái miễn là có để mà ăn bất kể thời nào.

Thời HTX thì có trò khử lợn bằng vồ đập đất.

Ngày bấy giờ, mỗi lao động nông nghiệp (từ 16 tuổi đến 65 tuổi ) phải nộp x. kg lợn hơi. Nếu vượt sản thì nhà nước ( Các cty thực phẩm cấp 3 ) ghi cho cái phiếu trừ vào vụ sau hoặc lấy thóc, lấy tiền với giá rẻ mạt. Vì vậy dân ta mới có trò '' giết lợn lậu '':

 Sáng sớm lấy chày hoặc vồ táng thật mạnh vào sống mũi lợn. '' Hứ...!'' một phát là xong. Tức tốc báo với đội trưởng đội sản xuất, thú y xã. Biên bản kết luận : Lợn phải gió. Thịt ! Trưa ấy nửa xóm có bữa cháo lòng . Trẻ già hỉ hả.Thành phần mâm trên chỉ có ông chủ nhà và mấy ông có lợn đã bị '' phải gió''. Mâm này đặc biệt có món tiết canh tươi rói. Tuyệt đối không có cán bộ, Đảng viên. Ông thú y được học từ thời Tây thì đánh chén vô tư. Ngoài bữa ăn tại gia chủ, mỗi nhà trong xóm được biếu một phần thịt. Biếu để lúc nhà người ta có '' lợn chết'' người ta biếu lại. Chứ không bán, bán sẽ bị thu thuế sát sinh. Con lợn ỷ chừng 30 cân hơi được giải quyết chóng vánh. Nhà chủ rán chút mỡ rót vào chai ăn dần.

 Xung quanh chuyện '' giết lợn lậu'' cũng lắm cái dở khóc dở cười. Lúc nào rảnh em kể chơi.

Nam nữ từ 16 tuổi đã là lao động chính.Tức là mỗi công có thể được 4 ->5 điểm.

 Lợn vượt sản còn gọi là '' ngoài nghĩa vụ'' có thể cho hộ khác vay bằng cách cân chung. Có thể lưu chuyển cho vụ sau (mỗi năm cân lợn nghĩa vụ 2 lần) hoặc bán hoặc đối lưu hàng công nghệ phẩm với nhà nước (cty thực phẩm ). Trao đổi với nhà nước thì dân thiệt về kinh tế ( giá rẻ, cân điêu, khó lấy tiền nếu là hàng công nghệ phẩm thì toàn hàng thứ phẩm có khi bị đổi hàng '' gia công'').Bù lại, được cái giấy khen cấp huyện. Khi có dịp cưới hỏi, liên hoa con đi bộ đội, Tết nhất..được mua lại thịt lợn của nhà nước. Ở quê em lợn thay nhau '' phải gió ''. '' Phải gió '' đến mức hết cả gió lạ bị sập tường, chết đuối, bừa rơi. Có con bị điên , chủ nhà cho phát K44. .

 Tết đến, XTH cho đội sản xuất mổ lợn chia theo từng hộ. Mỗi hộ nhiều ít lại tính theo nhân khẩu : lao động chính + ăn theo (trẻ con, người già , bệnh tật mất sức lao động). Ngày mổ lợn Tết thật sự là một ngày hội. Những chiếc chảo to tướng của tổ kỹ thuật thường để nấu nước ủ mầm có dịp chứa đầy nước suýt.

 Cũng có nhà thịt lợn Tết một cách công khai. Âý là những nhà chạy được cái giấy mua lại con lợn nhà mình do Cty thực phẩm bán lại. Muốn có cái giấy này, chủ nhà phải thừa lợn nghĩa vụ đã bán cho nhà nước hay lý do đặc biệt như con mới xuất ngũ, đv cho vê  ăn Tết ...Thường thì lượng thịt được mua ít hơn trọng lượng con lợn đang nuôi. Người ta lại rủ nhau thịt chung gọi là '' đụng lợn''. Những con lợn này chết một cách chính nghĩa nên ban xã ban thôn được mời đánh chén cũng rất chính nghĩa.

à, thằng nào quân khu nam đồng đấy, có nhớ đánh nhau tranh dừa ở bệnh viện đống đa ko, tranh cả chỗ câu rô phi trộm đằng sau toa lét bệnh viện, công nhận cái thính ấy tốt thật  .

ở quê đến tết là "đánh đụng", đụng trong "chung đụng", nghĩa là chung. Thường thì xóm giềng họ hàng độ 2-4 nhà chung nhau 1 con lợn của ai đó trong hội, chung thế không sợ nhồi nhét thêm bớt, gắn bó anh em, mà có thịt đúng 30 tết, có trước nó "hao" nhanh đến tên chả còn gì cúng, lại nhiều món. chỉ 2-4 nhà vì lợn ngày ấy bé tẹo, độ 30-40kg hơi / con, mổ ra được độ 60% thịt. Mổ đánh đụng cái gì cũng chia đều hết, tim cật tì đến cả cái cuống họng cũng chia đều, 1/4 con lợn gọi là 1 chân. Mổ như thế không phải bán chác đi đâu, nếu như không đến nỗi bị cả làng thù thì xã đội đố dám đến lằng nhằng, lôi quyền họ hàng ra tẩn bỏ mợ. Cái này thì đồng bằng, lên trung du thì đến cả anh em, xã đội với du kích cũng vào lột. Tất nhiên là hiểu nhau thôi, đừng làm quá, cả chi họ nhà mình đến gần tết mới nấu một nồi rượu đúng nếp cái hoa vàng, chứ tháng nào cũng đụng lợn thì nó cho ăn... cám.

Vì đánh đụng mổ lợn này mà chiều 30 có lễ hội ăn lòng lợn tiết canh, cả năm mới bắt đầu thấy tết, cứ gọi là bét xác   .

Ở thành phố thì gọi ba toa. Khoảng 3 h sang mình chuẩn bị sẵn nước, họ đến, làm gọn trước trwoif sáng đem đi, cân móc hàm, họ có lại quả một chút, nhưng không nhiều, muốn thêm thì phải trừ tiền cân. Trách nhiệm bắt mổ lợn lậu ở tiểu khu (phường) là công an khu vực. Công an ông nào còn tí tốt đẹp, trách nhiệm.... là buồn chán bất mãn thải hồi hàng loạt, người nào có tâm càng khổ. Chú An tiểu khu mình lằng nhằng với bà góa bị thải hồi, cũng là do gánh nặng của cái nhân tâm. 

Vụ ông Chẩn vua lốp ở Nguyễn Thái Học thì nhiều người còn nhớ.  Câu chuyện này còn dài, xuất xứ của cái đám lốp tanh này là ông Đề. Tạ Đình Đề là một nhà tư bản công hiến toàn bộ cuộc đời tài sản cho cách mạng, trực tiếp chiến đấu ở những mặt trận cam go nhất. Đến cuối đời, bọn khốn nạn đặt vè tuyền truyền vu ông là quân địch. Ông chán nản với cách quản lý của bọn chó điên hồng vệ binh, lập ra xưởng cao su, mấy lần bị bắt vì những tội bao dung những số phận nhân tâm.... có vấn đề. Ông là một nhà tư bản, sớm nhìn thấy sức mạnh của cao su Việt Nam đã được người Pháp nghiên cứu, và nhìn thấy cuộc cách mạng giả của chó điên nó tàn phá tận gốc những tế bào xã hội thế nào. Xưởng nhanh chóng có những công nghệ kỹ thuật vượt trội nhất nước đơn giản chỉ vì không... ăn cắp của nhau từng tí một, dối trá nhau từng câu một, và là chỗ duy nhất ở hà nôi có những người gọi là thợ, là giai cấp công nhân.

Và vì thế ông bị đì, nhưng thế ông to , làm gì được nhau. Xưởng sau bị bán đất co lại, ngày xương đồng không mông quạnh, ở chỗ đại sứ quán Mỹ bây giờ. Nếu các bạn còn thật sự nhớ thời bao cấp thì không thể quên những mặt hàng danh giá của xưởng.

Vậy là con người "độc nhất vô nhị" của HN ngày đó bác qtdc cũng đã từng gặp từ những năm tháng đó à ?

 Năm 1972 lúc đó BY đang học lớp 6 tại trường Nguyễn Du trên đường Lý Thái Tổ , hàng ngày vẫn cùng chúng bạn đi về hướng phố Hồ Hoàn Kiếm nhân tiện ghé hiệu sách Kim đồng ngó nghiêng xem ké mấy quyển sách trong tủ kính hoặc ngó xem rạp Hòa Bình hôm nay chiếu phim gì .

 Lúc đó cái góc nhỏ phố Hoàn Kiếm còn mấy ông Tàu bán nộm thịt bò khô với cái kéo cầm trên tay luôn lách cách theo nhịp rất ư là chuyên nghiệp và đầy tính kích động dịch vị , chính cái chỗ đó lại là bến xe với những chiếc xe Hải Âu chạy tuyến Chợ Mơ , Mai Động và luôn luôn có 1 anh như bác đã tả với cái túi đủ cả rau dưa , cá , thịt , có hôm BY còn thấy anh ấy khoe cái túi có cả cái chân giò lợn mới mua .

 Một người thuộc loại có của ăn của để thời đó nhưng lại có 1 lý do hết sức chính đáng là đã chót tiêu hết tiền do mua đồ ăn nên giờ thiếu mất tiền đi xe trở về nhà , một sự trình bày đầy thuyết phục khiến cho bất kể ai có tiền trong túi cũng không nỡ từ chối anh ta .

 BY bị 2 lần anh ta trình bày và xin tiền đi xe , lúc đó HN rất ít tiền lẻ , câu châm ngôn cửa miệng tưởng rằng vô lý mà rất có lý đó là : Tiền lẻ hơn thẻ thương binh nên rất ít ai có tiền lẻ sẵn trong túi . Lần đầu BY có tiền lẻ đâu 1 hào đỏ ngày đó cho anh ta người lỡ độ đường , nhưng cũng cách đó thêm vài ngày lại cũng chính anh ta xin tiền mình với cái lý do đúng như lần trước , BY đã nghi ngờ nên trả lời rằng : Em không có tiền lẻ , anh ta cứ nằn nỳ xin và bảo đưa tiền chẵn đây anh ta trả lại và BY đưa tờ 5 hào ra cho 1 hào anh ta trả lại tiền lẻ cho mình nhưng về cuối anh ta cũng cố xin thêm của mình 5 xu nữa . Khi xong đi được 1 đoạn thì BY chợt nhận ra là mình dại quá , tự nhiên chẳng quen chẳng biết bị anh ta lừa lấy đi 1/3 số tiền ăn sáng của mình rất vô lý và cũng chợt nhớ ra anh này lần trước cũng xin tiền mình đúng với cái lý do này .

 Từ đó anh ta xin tiền mình thêm vài lần nữa nhưng BY dứt khoát không cho , thế rồi trước 1975 không thấy anh ta xuất hiện ở đó nữa . Nhưng cỡ khoảng năm 1984 thì BY lại gặp chính con người này và vẫn cái trò xin xỏ đó với cả các cháu thiếu nhi đi học giống BY ngày nào .

 Chẳng thể hiểu nổi con người này đã nghĩ gì khi hành động như vậy ?Những năm tháng sau này lớn lên đi xa HN tôi cũng vẫn luôn nhớ về những mẩu chuyện vụn vặt về HN với những tay quái kiệt nào đó . Và chuyện anh chàng hâm hâm dở dở kia cũng theo tôi đi khắp nơi mà mình từng bước chân đến .

 Nằm móc võng giữa cánh rừng ngước mắt nhìn Trời đầy sao mà nhớ về HN và hình bóng anh chàng ăn mặc sạch sẽ gọn gàng rất trí thức đó lại hiện ra như gắn liền với ký ức tuổi thơ của mình vậy . Nhiều lần BY cũng đã tự hỏi : Phải chăng anh ta "thần kinh không ổn định" song lý do này cũng không ổn bởi cách anh ta xin tiền cùng hành động đó thì khôn hơn người bình thường , nhiều người cũng biết chuyện về anh chàng này và cũng không lý giải nổi nên cuối cùng đều kết luận :

  Anh này bị Giời đầy bởi kiếp nạn anh ta phải như vậy , trả nợ đời hoặc đòi nợ đời và ai từng cho anh ta tiền thì do kiếp trước từng nợ nần anh ta chưa trả nên kiếp này anh ta đòi . 

 Ngẫm đi ngẫm lại thì BY chỉ "nợ" anh ta có 2 hào 5 xu và cũng đã trả đủ . 

 Ông Thông say khắc bút máy một thời nổi tiếng HN là khắc chữ vẽ hoa lá chim cò và cả Hồ Hoàn Kiếm trên bút máy rồi bôi màu rất đẹp thường đứng đón khách chỗ Đền Ngọc Sơn hoặc bến tàu điện cũ , thường thì các anh bộ đội trước khi đi Nam hay khắc bút của ông Thông say , ông này cao to lực lưỡng chất giọng khàn khàn và luôn ngọt như mía lùi , dù đã lớn tuổi nhưng với ai cũng xưng em ngọt xớt , tất nhiên là đối với đám trẻ con lúc đó hay ngó nghiêng xem khắc bút thì thường bị lão Thông say trợn mắt quát nạt đuổi đi . 

 Ông Thông say cũng là 1 "quái kiệt" của HN ngày nào nhà ở phố Cổng Đục song song với phố Phùng Hưng chỗ cuối phố hàng Mã , người có hoa tay viết chữ vẽ cảnh đẹp và bay bướm đầy tính sáng tạo , những ngược lại thì lại nát rượu , chỉ cần uống tý chút rượu vào là say bí tỷ rồi khật khưỡng chân thấp chân cao lê bước trên đường phố HN , ông ấy cũng rất hay hát và luôn nghêu ngao bài hát : 

- Anh Thông say nhà anh ở Cổng Đục nhưng lòng anh không đục .

 Cũng chỉ vì quá nát rượu nên vợ con bỏ rơi đuổi ra khỏi nhà khiến anh ta phải lang thang ghế đá bờ lai hiên mà ngủ , được cái thương con hôm nào kiếm được nhiều tiền thì biết mang về cho con cái , đã có thời BY thấy ông ta đi đâu cũng dắt theo đứa bé trai béo tốt sạch sẽ và luôn mua quà cho nó ăn cùng dỗ nó rất ngọt ngào . Cũng vì quá nát rượu nên nhiều lần bị người ta đánh vỡ đầu chảy máu , mặt mũi xưng vù và mấy ông công an đồn 16 trên phố Hàng bạc mỗi lần thiếu "bị bông" để tập võ thì thường kéo ông Thông say này vào đồn cùng tập . Tất nhiên ông Thông say chẳng bao giờ là người thắng cuộc trong trận tập võ đó mặc dù ông ấy to con gấp rưỡi những ông công an kia . 

 Bờ Hồ Hoàn Kiếm HN xưa kia còn có bà lùn hát xẩm trên tàu điện hoặc bãi đất gần chỗ cây 9 gốc dưới cái loa treo ngược như tổ ong bên kia đường là sở điện lực HN . Bác nào còn nhớ không ? Nét văn hóa quần chúng dân gian của người HN xưa giờ đây thấy thiêu thiếu .

Một thời cỡ khoảng năm 1997 , hơn chục năm rồi người ta dùng bạt quây kín cái tháp Rùa lại rồi họ làm gì ngoài đó không ai biết . Thế rồi bỗng 1 hôm họ mở những tấm bạt đó ra thì người HN ngơ ngác trước 1 vật thể lạ đứng giữa hồ Gươm , nét cổ xưa cùng rêu phong và bãi cỏ xanh ven chân tháp Rùa biến mất , thay vào đó là cái tháp lạ hoắc cùng sân gạch đỏ lát quanh chân tháp . Đã có 1 nhà kinh doanh vui chơi giải trí nào đó tính đến chuyện đưa du khách ra đó thư giãn uống nước ngắm cảnh hồ để vô tư "chặt chém" , không có tiền trả thì chỉ có nước cởi quần áo ra mà bơi vào bờ . 

 Thực ra thì tháp Rùa hồ Gươm cũng chẳng đẹp thật , nét cổ kính cùng rêu phong cộng với cảnh hồ kết hợp và nhìn quen mắt lâu nay khiến người ta từng "ngộ nhận" , tháp Rùa hồ Gươm là 1 phần của hồ Gươm HN . BY không bình luận chuyện xấu đẹp và lão thợ "soi" thì soi kỹ đến mức nhìn thấy cái tháp Rùa hồ Gươm thành nhố nhăng . 

 Chuyện truyền khẩu của những cụ già kể lại từ cái thời mà BY còn bé tẹo , chuyện không biết đúng sai chúng ta cứ coi như câu chuyện tầm phào :

 Xưa kia có 1 chú Khách qua VN làm ăn , hợp thời hợp đất nên lão ấy phất lên giàu xụ , khi tuổi đã gần đất xa trời lão tính chuyện nơi ăn nghỉ ngàn vạn năm nên về tận bên Tàu mời thầy phong thủy qua VN tìm đất phát cho đường con cháu sau này . Thầy phong thủy sau khi đi khắp đó đây tìm kiếm huyệt mộ cho chú Khách đều không hợp , nhiều lần bấm độn ngón tay vẫn chưa quyết được chú Khách nên nằm chỗ nào để yên ấm ngàn năm , bởi lâu nay lão buôn gian bán lận lừa lọc người Việt nhiều rồi nếu nằm chỗ tiện đường qua lại thì có ngày bị biến thành "bình địa" hoặc sang thời 1979 dễ bị con cháu người Việt nó đặt "bể phốt" lên trên mộ thì bỏ bố . Nhất là sang thời 2011 này nữa thì lại càng chết , tấc đất đống tiền giữa kinh thành Thăng Long thì nơi an nghỉ ngàn thu của lão càng nhanh bị "hóa vàng". 

 Sang VN làm ăn tuy hợp thời , hợp đất nhưng lại không hợp thổ nhưỡng , khí hậu khiến chú Khách phát ban người luôn đỏ như con tôm luộc và ngứa ngáy vô cùng , vào mùa hè chú Khách như kẻ phát điên phát dại vì bệnh tật và tất nhiên ngày đó không có máy điều hòa không khí như hôm nay rồi , chứ nếu không thì chú Khách đó cũng chẳng ngần ngại gì mà không lắp cái máy điều hòa trung tâm cho cuộc sống của mình lúc đó .

 Vì vậy ông thầy phong thủy kia quyết định nơi an nghỉ ngàn thu của chú Khách là phải ở dưới nước cho nó mát hợp với bệnh tật của chú Khách và ngàn thu chú Khách không lo chuyện ngứa ngáy khó chịu khi mùa hè đến . Khi chú Khách "ngỏm" con cháu nó mang ra vứt ngoài sông Hồng thì rất dở bởi nó có thể trôi chú Khách ra biển và cá mập nó xơi thì hỏng bét nên lúc còn sống chú Khách phải tính cho kỹ .

 Cuối cùng nhờ có nhiều tiền nên chú Khách cũng lo lót xin được xây dựng 1 cái tháp giữa hồ Hoàn Kiếm , quan phụ mẫu người Việt nhà ta lúc đó cũng "ngáo ơ" nên ký duyệt cho chú Khách xây tháp giữa hồ bởi xét cho thật cùng thì : Chẳng mất gì của nhà ta , xây tháp giữa hồ chứ có làm gì đâu , vô tư đi . Và ngày đó cũng chẳng có ai tính đến chuyện cảnh quang , môi trường phức tạp như bây giờ , đất rộng người thưa và chú Khách muốn xây thì anh cho chú xây miễn là anh "toàn được". 

 Cái tháp Rùa xây rất nhiều năm , nhiều cọc tre , cọc gỗ đóng xuống lòng hồ rồi thuyền trở đất từ trong bờ mang ra để đắp lên cái gò nổi giữa hồ , tháp xây lên bị đổ lên đổ xuống mấy lần và có lần bị cả sét đánh . Nhưng với khối quyết tâm ngút trời , không tiếc tiền của nên cuối cùng chú Khách cũng toại nguyện và cái tháp chưa xây xong thì chú Khách cũng "tỏi" . Con cháu chú Khách cũng cứ y nguyên ý nguyện của người đã khuất lặng lẽ mang chú Khách ra tháp Rùa chôn cho chú Khách mát mẻ ngàn thu .

 Vì vậy sau này ai không biết thì gọi nó là tháp Rùa vì nó có cái tháp xây và rùa hồ Gươm hay lên bãi cỏ quanh tháp đẻ trứng và phơi nắng , còn những cụ già còn sống đến thời 196x thì chẳng mấy người gọi nó là tháp Rùa mà họ gọi nó là : Mả thằng Tàu , mả chú Khách .

 Thời Pháp thuộc trên ngọn tháp từng được đặt tượng bà Đầm Xòe như chúng ta đã biết , sang thời VNDCCH thì những ngày lễ lớn thường được treo Quốc Kỳ trên nóc và nhất là năm 1972 khi miền Bắc bắn cháy chiếc máy bay Mỹ thứ 4000 thì tháp Rùa từng được buộc chiếc máy bay bằng cao su bơm khí hydro cắm đầu xuống đất treo lên trời HN như 1 kỷ niệm chiến thắng lớn . Vài lần vào dịp Tết những năm 199x có thấy dịch vụ đưa người ra tháp Rùa thắp hương cúng vái . Chẳng biết họ ra đó để cúng ai nữa ? Không rõ có phải họ là con cháu chú Khách ngày xưa không ? Văn hóa cúng vái cũng loạn xà ngầu cả , họ cúng vái tất cả những gì có thể cúng được , ngay ngày 5.1 Âm lịch hàng năm cũng thấy khối thanh niên trai gái xì xụp hương khói lạy lục ở gò Đống Đa . Chịu không thể hiểu nổi . 

Ngày nay bọn trẻ 18 20 chẳng hiểu thời bao cấp là gì, nhiều câu hỏi thắc mắc về thời bao cấp rất "ngớ ngẩn". Sao không mua thịt mua cá mà ăn cho có chất mà cứ đi xếp hàng mua gạo hẩm gạo mốc làm gì? Chúng cũng không hiểu nổi là mỗi người chỉ có 2 bộ quần áo và vá lên vá xuống trong khi giờ đây đứa nào đứa ấy cả ngăn tủ lớn mà vẫn thừa không có chỗ để quần áo, lâu lâu thải ra 1 đống quần áo vẫn còn tốt nguyên.

 Các nước XHCN thì gần như chẳng có nước nào thoát khỏi chế độ tem phiếu, cung cấp theo số lượng định sẵn, ngày nay có lẽ vẫn còn như Bắc Triều Tiên chẳng hạn, các nước nghèo ở Nam Mỹ vẫn còn chế độ này, Rumani cũng sang cuối 198x mới xóa bỏ chế độ tem phiếu nhưng thực phẩm thì không có cung cấp nên "nháo nhào" cả, trao đổi bằng thịt và thực phẩm để dành được sự ưu tiên, muốn mua vài chục mét vải thì phải "biếu" bà hàng vải vài kg thịt, "biếu" tiền mặt thì không lấy, giá trị thịt bò, cừu, dê, gà, heo lợn được thay thế cho thẻ "thương binh". Nam Tư thì khan hiếm thực phẩm và đắt cắt cổ luôn, vì vậy mỗi lúc đi chợ người dân Nam Tư đi xuyên Quốc gia là chuyện bình thường.

 Đến như ông Tố hữu ngày xưa còn  phải ngợi ca những cô gái nước nga nữa là chúng mình ,ở gần "ốp" chúng tôi cỏ một trường trung cấp lâm nghiệp ,học sinh trường này đa số là nữ những cô bé mới tốt nghiệp ptth đến từ khắp nơi ,những cô gái Nga tóc vàng da trắng ,người uzbekistan da hơi ngăm ngăm và tóc đen như người Ấn độ ,còn những cô gái lai mang trong mình chút máu Digan mới hoang dã làm sao ,họ vẫn ăn mặc lòe loẹt như bản chất vốn có ,tất cả cứ như một rừng hoa ,và bông hoa nào cũng đẹp ,"ốp"tôi có khoảng dăm chục các cô gái ,có mấy đứa ở đoàn sông Đà khá xinh nhưng tất cả đều bị lu mờ trước những cô gái đến từ hàng xóm ,những ngày hội hè chúng tôi được thả cửa đón những người láng giềng xinh đẹp lên phòng của mình và nơi này đã chứng kiến khá nhiều mối tình Nga -Việt .   Nhũng ngày nghỉ ,thứ 7 & chủ nhật trong cái mát mẻ của một sáng mùa hè  bạn ra phố và thong thả dạo chơi trong công viên ,quên đi những mệt mỏi của 1 tuần lao động bỏ lại đằng sau cái hối hả tấp nập của phố phường  ,ngồi trên những chiếc ghế dài làm bằng gỗ rất đặc trưng của nước Nga ,ngắm những chân dài lượn đi lượn lại ta tưởng như đang gặp gỡ những thiên thần ,tất cả đều hoàn hảo đến khó tin ,bạn hãy nói một câu đùa bằng tiếng Nga đại loại như :em gái ơi ! em xinh đẹp quá ...bạn sẽ phải đứng tim khi đóa hoa hàm tiếu hé mở ,gương mặt thiên thần với nụ cười rạng rỡ và không ít lần bạn phải tan chảy khi bỗng dưng cô gái tiến lại đặt lên má bạn một nụ hôn nhè nhẹ mà cả trong giấc ngủ bạn vẫn thấy một mùi thơm đầy quyến rũ ,điều này không còn xẩy ra ở Hà nội nếu như bạn nói đùa (một câu không hề khiếm nhã )với một cô bé có gương mặt xinh tươi  bạn có biết bạn sẽ nhận được gì không ? câu nói được ném vào mặt bạn là :đồ điên .Cũng vì những khó khăn về  kinh tế mà ngày ấy đã 33 cái xuân xanh mà tôi chưa dám lập gia đình ,tôi cứ nghĩ là đi làm với đồng lương còm như  vậy làm sao nuôi nổi gia đình  cho nên tất cả những người đi xuất khẩu lao động đều có chung một mục đích là kinh tế ,đã có ai ai dám nói là tôi đi  dạo chơi mấy năm đẻ mở rộng tầm mắt đâu .Tôi còn nhớ những năm ấy ở hải ngoại có bài hát với những câu :em gửi về cho Anh dăm bao thuốc lá anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay ,gửi về cho mẹ dăm chiếc kim may ,mẹ may hộ con ....đọa đày . chúng tôi cũng vậy những thùng hàng 10 kg đầu tiên về Việt nam trong nỗi nhớ thương có cả những vật dụng thông thường nhưng rất hiếm ở Việt nam như chục bánh xà phòng 72%,vài tuýp thuốc đánh răng  kèm bàn chải v v . Thời ấy trong nhà có thêm chiếc quạt tai voi , cái nồi áp xuất thêm chiếc bàn là nữa là có thể nâng mức sống từ nghèo lên trung bình rồi ,chả biết bữa  ăn nhà anh có gì nhưng hàng xóm có thể đoán biết qua tiếng xì ,xì  của cái van an toàn trên vung nồi áp xuất .Không biết các bác thế nào chứ chúng tôi thượng vàng hạ cám cứ cái gì mà thông tin ở nhà bảo là bán được là mua ,mua cho hết tiền chứ ngày đó  đổi ra usd  thế nào được lơ mơ bị tom cổ rồi trục xuất về nước ngay ,đến đồ dùng cá nhân còn không được mang ,ra sân bay chỉ mỗi bộ quần áo mặc trên người ,hàng hóa thôi đành nhờ bạn bè gửi về sau chứ biết làm thế nào .Nhưng tiên trách kỷ ,hậu trách nhân tất cả là do con người gây ra mà thôi ,tôi có một kỷ niệm đầu tiên ở nước Nga ,số là sau khi khám lại sức khỏe,đã tẩy giun xong (ôi cái chuyện tẩy giun thôi nếu gõ  bằng 10 ngón  thì suốt đêm chắc gì đã hết) chúng tôi được nhận 30 rúp để tiêu vặt ,tôi một mình ra phố không dám lên xe ,vì chưa quen đường xá ,tôi cứ đi ,đi mãi đến một chỗ có vẻ giống như một cửa hàng nhỏ dạng kiot tôi thấy mọi người đang xếp hàng mua một thứ nước uống màu hổ phách  tôi nghĩ  đây chắc là sự phát  hiện vĩ đại của tôi từ khi xa Hà nội đến giờ  ,cái thứ nước ấy chắc chắn là :BIA .

Còn nhớ cái thời ấy (80 – 83) học trường cán bộ TB&XH lúc đầu cơ sở vật chất của trường hạn hẹp ( ngõ Hòa bình 4 Minh khai) mỗi buổi đi học bằng tàu điện Bờ hồ - Mơ khác với học sinh nội trú phải cọc cạch cái cặp lồng cơm với mấy củ lạc rang , vài cọng dưa muối , có hôm cơm rang … hôm nào không kịp có cơm thì ra chợ Mơ làm mấy cái bánh rán xong bữa . Trong 3 năm học thì 2 năm nhuần nhuyễn lý luận chính trị  cơ bản 1 năm chế độ chính sách , hì hì , tuy kham khổ nhưng vẫn “đầu đội chính sách , vai gánh chủ trương” như ai . Trong thời gian học cũng có tiết tiếng Nga tuy chưa biết nước Nga và cây thùy dương nhưng tập tọang hát được nhiều bài hát trong giáo trình như Đôi bờ , chiều hải cảng , thanh niên sôi nổi …nhiều phết các bác ợ !ngán nhất hôm nào đi muộn thày giáo bắt chào trả lời bằng tiếng Nga ?? thôi rồi . sau này trường chuyển về dốc Phụ nữ(sau là trường hành chính TW) không thuận tàu xe nên phải bố trí một cái xe đạp Phượng hòang cà tèng . Hôm nào gặp lão tung677 cho ôn lại mấy bài hát đó ngêu ngao đỡ buồn chứ bi giờ qua nhiều năm với lại súng đạn nó làm quên mất rùi  . Thưởng thức bia Nga , đồ nhậu Nga , hát tiếng Nga , nghe nhạc Nga còn gì vui hơn , nhưng chớ có say kiểu Nga ớn lắm . Tôi có thằng em rể ở Nga về tết mang mấy chai Votka đến mời uống vui xuân , anh em chiến lu bu thế mà nó toi trước mấy ngày sau nó hỏi :sao anh chơi khiếp thế ? tôi trả lời :tao ...luyện "Lúa mới" nhiều rồi chứ bộ , à mà lúc bấy giờ có cả "hương chanh" nữa hay sao ý ?? Noel năm nào cúng thấy mấy ông tây say ngất ngưởng ngoài Bờ Hồ nghe tiếng biết người Nga , sợ các bố ấy thật say dã man  

Chào sư đoàn 5 ,tôi đã đọc nhiều bài của bác ,cái avata ấy là bác ngày xưa đấy hả  đẹp trai dữ hè .Các bác quá là giỏi khi chiến tranh đi qua mà vẫn còn lưu giữ được nhiều kỉ niệm ,những kỉ niệm bằng hình ảnh thật là vô giá , với tôi chiến tranh là một cơn ác mộng ,có những đêm về sáng tôi luôn có những giấc mơ  khủng khiếp  lúc thì tôi hét toáng lên vì trong mơ tôi thấy 3 chiếc b52 nghiêng cánh và lượn vòng  ,ấy là lúc 30 tấn bom mỗi chiếc b52 được trút xuống ,những tiếng nổ rền vang ,sóng xung kích  ( người ta vẫn gọi thế )ép tôi vào tận góc hầm ,hai tai ù đi và khói bom sặc sụa ,đắng ngắt ,bà xã đã cứu tôi khỏi loạt bom :anh ,anh làm sao thế ...tôi sống lại và khắp người ướt đẫm mồ hôi . Tôi chẳng giữ được kỉ vật gì của đời lính thế mới chán ,tôi cũng chụp nhiều ảnh lắm này nhé 25/3/75 tôi ở An cựu  Huế sáng sau qua Trường tiền chụp ảnh với thằng ba chột , rồi Đà nẵng ,rồi Long thành ,Thủ đức ,quận 9, cổng dinh độc lập 1/5/75  rồi biên hòa ,tam hiệp ,hố nai ,long bình ...nhiều nhiều lắm vậy mà bây giờ một bức ảnh thôi cũng không còn ,chẳng đáng tiếc lắm sao ? bác sư đoàn 5 ơi  bác nói :thưởng thức bia Nga ,đồ nhậu Nga ,hát tiếng Nga  nghe nhạc Nga còn gì vui hơn ,nhưng như vậy là chưa đủ  còn thiếu một thứ bác ạ , đấy là búp bê Nga ...mà phải là cái thứ búp bê bằng xương bằng thịt hẳn hoi kia ...

    Nói về chuyện tây say thì có mà kể đến tết công gô mới hết ,những thằng tây say đái cả ra quần  và có những cảnh :uống trên tuyết ,say nằm trong tuyết (chú ý chữ trong ) .ngày 8/3 ngày phụ nữ vùng lên ,ở Nga cũng vậy ,ngày đó họ ăn ,họ uống  ,khi say họ ra đường và tiếp tục uống ,khi các cửa hàng rượu đóng cửa  những con gấu to sù say bét nhè liêu xiêu khắp phố ,đến khu người Việt ở ,họ gào lên :đai mnhe xa ma gôn ....Chả là trong cộng đồng người Việt có những người rất giỏi  đã ăn cắp được công nghệ nấu rượu kiểu Nga ,gồm có đường trắng ,nước máy và một thứ hóa chất công dụng như bột nở làm bánh mì tên là Dragon (con rồng )hay đại loại như thế mà tôi đã quên vì thời gian quá lâu rồi .Xa ma gôn là rượu tự làm và quân ta thì không ai dám uống vì độ cồn quá cao ,cái đó cái thứ nước rồ  ấy chỉ dành cho tây .Tiếng gọi  trong đêm hay tiếng kêu bán rượu cứ ám ảnh tôi mãi ,những sợi dây được thả xuống đất từ những cửa sổ sáng đèn ,những con gấu nâu hoặc đen dưới tuyết buộc những đồng rúp vào sợi dây ,chủ nhân của các ô cửa sẽ tùy theo đồng rúp được kéo lên mệnh  giá to hay nhỏ mà quyết định thả chai nhỏ hay to , những nhà buôn tương lai thời ấy đã rất trọng  chữ tín, chưa bao giờ xẩy ra trường hợp tiền trao mà cháo không được múc .

Tôi đang nói chuyện đi uống bia thì vớ ngay kvac,mà bấy giờ có biết nó là cái gì đâu ,nhân lúc trên xe đi đến nhà ăn tôi mới hỏi nhỏ cậu phiên dịch ,đại ý là ở tây mà không thấy có quán bia nhỉ ,cậu ta bảo tôi là cậu ấy mới đi uống chiều qua ,tôi mới hỏi cách nhận ra đâu là quán bia thì nó bảo chiều nay đi với em ,nhưng chiều hôm ấy cán bộ & phiên dịch phải đi họp nên một lần nữa tôi lại một mình ra phố .Nhưng lần này tôi đã gặp may ,tôi đã thấy một quán bia chính hiệu con nai vàng nó không xa nơi tôi ở là mấy ,lần này sự thận trọng của tôi hóa ra thừa ,những anh tây ,ông tây mặt như mặt trời đang làm cái công việc mà người ta gọi là :uống ,về sau này cũng vấn đề bia rượu chúng tôi chia ra làm 3 loại :

   Loại 1/ đấy là những người uống rất từ tốn mà chúng ta hay gọi là nhắm rượu .

   Loại 2/ đấy là những người bình thường nên gọi là uống rượu 

   Loại 3/đấy là người Nga mà chúng tôi gọi là nốc rượu ,

    Đúng là họ có năng khiếu về cái khoản uống ,với họ không có khái niệm đủ ,lúc nào cũng có thể ra hiệu muốn uống bằng cách búng búng ngón tay vào cổ (chỗ mang tai xuống ) .Như những người sống văn minh khác tôi đứng xếp hàng ở vị trí cuối cùng , có khoảng mươi người đang rồng rắn chờ đến lượt ,bỗng một ông tây đứng trước quay lại hỏi bằng tiếng Nga :kitai,không hiểu gì nên tôi lắc đầu và ông ta hỏi tiếp :mongol  tôi vẫn không hiểu gì cả và chỉ lắc đầu ,trong lúc ấy phía sau tôi đã có thêm quãng 2 ,3 người xếp hàng  ,quả thực là tôi rất bối rối vì mọi người nhìn  tôi cứ như người ngoài hành tinh vậy ,một ông đứng cuối cùng hỏi :vietnam, mừng quá tôi lắp bắp :vietnam,viẹtnam.ông ta nói tiếng Việt tàm tạm đủ để người nước ngoài như tôi hiểu ,ông ấy giới thiệu tên và cho biết đã công tác ở Vn 3 năm .Nắm lấy tay ông ấy đưa tôi lên trên cùng và nói một hơi dài tôi nghe lõm bõm ,V N, VN .vậy là tôi được ưu tiên kiểu như thương binh ở ta vậy ,để tỏ lòng cám ơn tôi muốn mời ông ta vài cốc mà không biết nói làm sao cho ông ấy hiểu ,chợt nghĩ ra ông ấy có thể nói thì cũng có thể nghe được tiếng Việt ,tôi nói cám ơn nhiều nhiều và mời ông ta cùng uống  ,nhưng ông ta khoát tay và ấn tôi vào cửa ,tôi lại ra hiệu bằng tay 4 cốc  và tôi được như ý . Hồi ấy ở Nga các kios có rất ít nhân viên , xếp hàng mua được bia rồi thì tự mang ra bàn mà uống  nhân viên chỉ thu hồi cốc đã sử dụng .Tôi cố tiếp cận một người bản xứ đầu tiên và chỉ sau ít phút chúng tôi đã như là bạn bè ,ông ta xé cho tôi một nửa con cá khô (tôi cứ tưởng là cá mắm )và nói :ngon lam,ngon lam ...

   Ngày ở VN tôi uống cũng vào loại thần sầu ,nên mỗi khi đi uống  để uống được nhiều mà không phải mua kèm lạc gói lại không phải xếp hàng lâu tôi đi với chú em họ là thương binh ,cứ giơ cái tay áo phất phơ lên là xong tất ,có khi còn mua cả một xô bia ấy chứ .(loại xô tráng men ).tôi đã gặp một đối thủ xứng tầm nên chiều về lúc nào không biết ,ông tây biết tiếng ta thì chưa muốn về còn tôi thì ngược lại ,chẳng phải sợ say hay sợ hết tiền mà sợ mình trở thành vô kỉ luật , chúng tôi bắt tay nhau dễ  đến hàng chục lần mà không ai đi được  vì những kẻ gần say nên hay nói .và rất may có hai người trong đó có một là phiên dịch đã có mặt kịp thời giải cứu binh nhì

Hà nội xanh ơi bác nói đến cá khô Actrakhan,làm tôi thèm rỏ rãi rồi đây này ,giờ mà có con cá  bóc ra lấy cái bong bóng  rồi bật lửa đốt cho giống anh Ivanivanovic uống bia nhỉ ,về nước bọn này ít khi được xài hàng Nga vì nhiều lí do  lúc có tiền thì không có hàng ,còn bây giờ hàng họ có đầy thì già mất rồi ,tiền kiếm chỉ đủ uống chay thôi ,hôm nào trúng mánh thì thêm con mực đĩa chả  nướng ,nhưng vẫn cứ vui vì còn có bia mà uống dài dài .ở Hà nội tôi cũng có một câu chuyện về uống bia ,đấy là cái lúc mới hết thò lò mũi xanh ,xin được kể ra đây hầu quý vị .

    Năm 1968 giữa lúc chiến tranh phá hoại của Mỹ đang ác liệt ,vào cuối tháng 9 tôi có giấy báo nhập học trung cấp ,tôi cũng không hiểu từ đâu nảy nòi ra cái giấy ấy vì tôi có xin đi học đâu , lúc ấy nhà nghèo ,nghĩ ngắn nên tôi bỏ học làm đơn xin đi làm  hoặc đi học nghề ,tôi những không muốn đi nhưng mấy chị tôi thì khuyên là cậu có duyên đi học đấy ,không vào lớp 8 (hồi đó không phải thi vào cấp 3) nghỉ 1 năm ở nhà  giờ xin đi làm lại gọi đi học vậy thì cứ đi đi ,nếu không thích lại về đi làm không bao giờ muộn hết .Vậy là tôi chuẩn bị lên đường ,tôi có ông Chú họ ,ông rất quý tôi vì tôi hay trò chuyện và thỉnh thoảng viết hộ ông cái đơn này nọ ,chẳng hạn có lần ông muốn làm đơn xin xã cho mua 50 kg xi măng rời để sửa nhà ,ông ấy nhờ em ruột  học tận lớp 10 Yên hòa viết cho ,chẳng hiểu ông chú (em) viết thế nào mà xã không duyệt ,ông mới vào nhà phàn nàn với bố tôi ,nào ngờ bố tôi bảo :để thằng Hưng nỏ viết cho ,vậy là tôi viết ,cũng có :VIỆT NAM ...trên đầu rồi trình bày thưa gửi cẩn thận ,thế mà họ lại đồng ý duyệt cho ông  mua ,ông chú vào nhà tôi bảo :nó thế mà giỏi ...làm mũi tôi nở to như cái chén tống .Ông chú biết tôi sắp đi học xa nên bảo tôi đi chơi phố một chuyến ,hai chú cháu đạp xe đi ăn kem tràng tiền ,chụp ảnh  ở bờ hồ ,dạo chợ đồng xuân ,đến trưa ông bảo về bánh tôm hồ tây .

Đêm đã về khuya lại có thời gian để mà gõ cái câu chuyện tiếp theo nói về cái thú uống bia sau này ,lại nói ông chú tôi và tôi daọ đã nhiều nơi bụng đã đói  và miệng cũng khát khô ,nay thấy ông bảo về bánh tôm hồ tây là đã khoái rồi ,vả lại đài cứ báo động có máy bay địch nên đi chơi mà mấy lần phải dừng lại đứng sẵn cạnh miệng hầm cá nhân để nếu có máy bay thì không phải đi tìm ,nhưng hôm ấy không có chiếc nào vào Hà nội ,đường thanh niên hồi chiến tranh phá hoại khá vắng vẻ dân Hà nội,  các cụ già  học sinh đều đi sơ tán những người ở lại thành phố là những người làm việc ở những cơ quan không thể sơ tán và những dân quân tự vệ sao vuông .Hai chú cháu chọn một chỗ gần hồ cho thoáng mát và ông gọi bia và đồ nhắm ,nói chuyện này không biết vào thời ấy có ai quê như tôi không ,ở cái tuổi 17 mà tôi chưa một lần rít một hơi thuốc lá còn nói gì đến chuyện bia với chả bọt ,nghe lỏm mấy đứa bạn kháo nhau uống bia khai lắm cứ như nước đái bò ấy nên tôi bụng bảo dạ tội gì mà uống cái thứ nước đái bò cho nó mang bệnh vào người ,nhưng tôi vẫn thắc mắc là sao nhiều người  thích bia thế ? bây giờ trước mặt tôi là 2 xuất bánh tôm và cả bia nữa ,chú tôi bảo uống đi và ông làm một hơi ra trò ,còn tôi cầm ngay đôi đũa gắp miếng bánh béo ngậy ...ông chú tôi ngạc nhiên hỏi :sao cháu không uống ,tôi bảo cháu không biết uống vì nghe nói nó khai lắm ,chú tôi đưa cốc vào tận mũi và bảo này ngửi đi xem nó có khai không ? đúng là có mùi gì thật nó cứ thế nào ấy ,tôi ngại ngùng đỡ lấy cốc và đánh liều uống một ngụm nhỏ ,cũng không đến nỗi ,tôi nói thế và tăng tốc ...không hiểu tôi có năng khiếu uống bia hay sao mà đến vại thứ 2 thì tôi còn hết trước cả chú ,đến cốc thứ 3 thì ông chú giơ tay hàng và bảo mày uống được cứ uống đi ,nhưng tôi ngày đó dù còn ít tuổi nhưng đã biết làm khách nên lương tâm thì muốn nữa nhưng lí trí lại bảo thôi ,ông chú bảo mặt mày không đỏ chứng tỏ mày uống được ,và tôi biết đến bia từ đó ,trải qua bao thăng trầm của cuộc sống ,khi ở Sài gòn chúng tôi uống LARUE có con sư tử chầu ,sang Nga uống bia nga , bia tiệp về VN uống bia tàu ,bia đen ,bia đỏ ,bia cỏ , bia lon hay bia gì gì đi nữa cũng không bia nào bằng bia Hà nội của chúng mình .

Đúng là chúng ta đã trải qua một thời khốn khó , cho đến tận sau này mỗi khi đề cập đến vấn đề ấy ,họ luôn bao biện và đổ cho cơ chế !!!,nhưng họ cố tình không hiểu hay không có đủ dũng khí của một người cách mạng để tự nhân rằng cơ chế do con người đặt ra ,chứ nó không có sẵn như khi ta vừa sinh ra đã thấy sao kim ,sao hỏa .Điều an ủi là đã có người sửa sai cho họ chứ nếu không tôi ,các bác còn lâu mới biết internet ,biết viết bài và đêm đêm ngồi gõ comments cho đỡ buồn .

Thời bao cấp nông dân là người thiệt thòi nhất ,họ làm ra lúa gạo nhưng có bao giờ được ăn no ,thời chiến tranh thì để nuôi quân đánh giặc ,lúc hòa bình họ vẫn phải sử dụng lương thực làm ra theo định lượng ,rồi cấm chợ ngăn sông ,người thành phố được hưởng lợi nhiều nhất ,cái gì ngon cũng được đưa lên thành phố nên ở phố to  thì cái gì cũng có ,một câu chuyện từ thời sau hòa bình 1955 đã phần nào nói lên cái quê mùa của một anh nông dân lên thành phố ,chả là ở một làng nọ ,sau khi đã thu hoạch xong vụ mùa ,sẵn có ít tiền,anh T quyết định lên Hà nội chơi một chuyến ,chẳng biết lên Hà nội anh đi những đâu ,làm những gì mà khi về làng gặp ai T. cũng khoe tôi lên phố được đi khắp nơi ăn đủ thứ của ngon vật lạ ,mọi người mới hỏi lên đấy anh ăn những gì , không cần nghĩ ngợi anh ta nói :cao lâu ,đào đĩ đủ cả rồi vênh váo bỏ đi , chuyện đến tai anh M . anh cũng muốn cho mọi người biết mình cũng chẳng kém ai ,ăn mặc chỉnh tề anh M ra Hà nội ,đi mất 1 hào tàu điện lên bờ hồ ,M hỏi đường đến hàng cao lầu , chén xong 1 bát ,thấy trời còn sớm anh tranh thủ dạo chơi ,ngắm cảnh phố phường hoa lệ ,anh ăn một que kem mất 5 xu ,và chợt nhớ còn một món nữa ,tội gì mà không thưởng thức , chọn một cửa hàng sang trọng  M.đẩy cửa bước vào và dõng dạc :cho tôi một bát đào và một bát đĩ ... đến đây các bạn có thể tự mình kết luận theo ý của mình .

Trích 1 đoạn " Năm 1965, dân Hà Nội bắt đầu phải ăn độn. Ăn độn không xa lạ với người ở nông thôn, bà con thường độn khoai lang, sắn, ngô vào cơm, nhưng ăn độn lại xa lạ với người dân thành thị, nhất là độn bột mỳ. Trước đó, dân thành thị biết đến bột mỳ qua mỳ vằn thắn, quẩy, bánh bò, bánh gối... và chỉ để ăn chơi, nay phải ăn thường xuyên thì bột mỳ trở thành nỗi kinh hoàng. Đầu tiên là nhào bột mỳ cho dẻo, sau đó nắm thành từng nắm cho vào nồi luộc, để ăn sáng và trưa, đến bữa chiều mới có cơm. Cục bột mỳ luộc ăn nóng còn mềm, nhưng để nguội thì khô và cứng đến mức "ném chó, chó chết". Trẻ em ở nơi sơ tán, ăn mỳ luộc khó nuốt, nóng bụng, nhưng sáng ra vẫn phải ăn, rồi đội mũ, đeo nùn rơm đi học. Chán luộc thì chuyển qua rán, tuy nhiên vì hiếm mỡ nên gọi là rán cho oách chứ thực ra là áp chảo. Nhà không có mỡ nghĩ ra cách nhào bột, dàn mỏng, bọc lá chuối nướng trên bếp than. Rồi có nhà bắt chước Hoa kiều làm bánh bao, không có xô tả (bột nở), họ tạo ra bằng cách gây chua bột. Không có nhân nhưng dù sao cũng đỡ ngán hơn cục mỳ luộc. Một món kinh hoàng từ bột mỳ là mỳ cán nấu. Bột mỳ trộn với nước sao cho không nát, không khô sau đó lấy chai cán mỏng rồi dùng dao bài xắt thành từng sợi. Nước trong nồi sôi mới cho sợi mỳ vào. Vì "sợi" dày nên nấu khá lâu, thỉnh thoảng phải thử bằng cách cắn đôi, nếu giữa sợi mỳ còn màu trắng đục nghĩa là chưa chín. Khi chuẩn bị nhấc nồi ra mới cho rau vào. Tuy vẫn còn hình hài sợi mỳ nhưng nước sánh như cháo, ăn nóng dễ hơn nhưng bỏng mồm, còn nguội lại đặc như bánh đúc. Bột mỳ không phải lúc nào cũng trắng và thơm, nhiều khi phải mua cả bột đen và hôi, mọt bò lổm ngổm. Thế nên nhà nào cũng phải sắm cái rây, trước khi chế biến phải rây bột, nếu không muốn ăn độn cả mọt. " ngưng trích.

Hồi mới sang CCCP qua cửa hàng thịt nhìn thấy Kolbasa bán đầy cửa hàng liền mua nửa cái khoảng 4 kg đem về lấy dao ra cắt ngay 1 khoanh rồi gặm . Vài miếng đầu cảm thấy cũng hay hay nhưng càng ăn càng chán vì nó có mùi đặc trưng khó tả ,phần còn lại cất trong tủ lạnh rồi khi có dịp lại hỏi các bậc đàn anh xem chế biến ra sao .

 Thời ấy Hanoixanh thường có mấy món sau về Kolbasa  :

 Hấp : thái khoanh cho vào cái rây bột Inox  bỏ bên trong vài khoanh bánh mì trắng hấp lên . Tắt lửa để 1 lúc rồi  cho ra đĩa chầm với sốt cà chua  trong hộp có đề chữ "COK" thêm vài lát hành tây .

Rim : thái quân cờ rồi rim qua với xì dầu bắc ra cho hành lá vào ăn với cơm và củ cài đỏ thái nhỏ trộn dấm ,muối ,tiêu ,ớt

Rán : cắt 2 lát mỏng rán qua với bơ rồi đặt xuống dưới 2 trứng ốp lết ,vài cọng hành lá dài vài ,dưa chuột và ăn với bánh mì đen.  

Xào mì : Thái vụn đảo hơi xém với hành và tỏi cho ra bát .Mì luộc lên đẻ ráo nước .Trứng  đảo qua với hành mỡ đổ mì vào xào tiếp cho bột ngọt, ít đường ,tiêu đảo lên rồi cho kolbasa vào đảo đều 5 phút to lửa .Cho rau cải vào đảo qua rồi rắc ít xì dầu

Khi ở Hà nội mỗi phiếu Nhân dân chỉ có 1 lạng thịt bạc nhạc cả bì một tháng thì Kolbasa thật tuyệt vời !

 Những năm 1983 thì nước Nga đang là 1 nước đóng cửa biên giới . Phần lớn hàng hóa và lương thực thực phẩm là tự sản tự tiêu , trong siêu thị thì rặt là thức ăn Nga . Không có gạo , không sì giầu tương ớt hay ketchup gì cả . Dẫy hoa quả chỉ thấy táo là táo . Không thấy có cam , quýt , chuối đâu .

  Mình cũng không nhớ là anh em mua được gạo ở đâu ? Nhưng gạo thì là loại gạo tròn của Ấn độ , dẻo thơm . Mỗi lần có gạo ở 1 cửa hàng thì anh em mua rất nhiều , cứ gói 1 cân 1 . 

  Còn Kolbasa thì bọn mình chỉ cắt cả khoanh , rồi rán áp chảo 2 bên cho chín lên rồi ăn thôi . Hoặc thái vuông nhỏ và đảo với mỡ cùng hành để ăn dần .

  Bữa ăn ngon đầu đời của mình là trong chuyến bay Hà nội- Moscow . Lần đầu tiên mình được ăn 1 xuất cơm  là 1/4 con gà . Mà ở quê hương Việt nam thì làm sao được phép ăn 1/4 con gà chứ .

ồi 89 em qua Mát thì đã thấy Cocacola bán rồi ,xì dầu cũng mua lại loại chai vuông dài bọc trong vỏ giấy màu xanh của tàu , thịt đóng hộp Tây đức ,tàu ,và cả trà đen Việt nam . Cam thì nhiều nhưng qua Mát một chút là không thấy đâu , chuối thì có nhưng xếp hàng thì cực nên thường không mua , ra chợ thì có rau bạc hà ,hành,thìa là, rau mùi ,chanh vỏ xanh và nhiều loại rau khác . Nhưng khi lên máy bay thì cũng hiện đại rồi nên đồ ăn đóng trong hộp bé tí để trong khay nên có lẽ gà bị  thay vào món cơm rang giò .Năm 87 lần đầu tiên em gặm 1 con gà tại ga Quảng ngãi trong khi đánh hàng Bắc -Nam sau khi tốt nghiệp trường Thương nghiệp (Thất nghiệp ) Hà nội và cũng là lần duy nhất ...Em thích con gà chặt miếng vuông vàng rộm rắc lá chanh chấm nước mắm chanh ớt hoặc chấm muối tiêu ,tiết luộc dầm ra ...

  Ở Mát thì gạo chả thiếu ,dân Cộng ăn gạo là chủ yếu ! gạo loại hạt tròn giống gạo Ấn độ là loại rẻ tiền còn loại gạo hạt dài đắt hơn và hiếm nhất là gạo dài hạt đen ,loại nay dài hơn nếp cẩm nhiều và mua ngoài chợ nông trang và giá thì mặc cả các kiểu vẫn thấy đắt .

    Món ăn từ gạo hay gặp tại Mát là món Plov

Nhớ cái tóp mỡ có lẫn trong mỡ xào rau muống em toàn ăn vụng thôi   . Bây giờ thì bác sĩ không cho phép ăn rồi ...

 Khi mới đặt chân lên Mát nhìn những đường thành cao vời vơị , những nhà thờ chóp củ hành vàng óng , những con đường thẳng tắp ,những kiến trúc đồ sộ Hanoixanh có cảm nghĩ không biết bao giờ nước mình mới có cơ sở hạ tầng như vậy ? Nước Nga với số dân bây giờ hơn gấp rưỡi Việt nam tí nhưng đủ mạnh để bảo vệ đường biên giới dài nhất thế giới ,và có tiếng nói mạnh trên thế giới cái đấy nói lên trí tuệ con người Nga ,

 Nước Nga giúp Việt nam những vũ khí hiện đại để giành chiến thắng ,nhà máy công nghiệp, điện khí hóa  và tất cả hầu như cho không . Đi dưới những hàng táo xanh rờn giữa làn xe chạy trong ngày hè nắng đẹp của Mát mới thấy cái giá của hòa bình và xây dựng .

NẮM KHÚC

Chiều hôm rồi, mấy vị tao nhân gọi ra cho uống  rượu. Mấy chén đã ấm dạ xua đi hơi lạnh từ hồ Trúc bạch đưa lên. Một vị bỗng nói bâng quơ :

-   Mưa lạnh thế này khúc lên rồi đấy.

 Câu nói không ăn nhập gì với không khí bữa rượu ấy đã vô tình gợi lại trong tôi, bồi hồi  nhớ về những nắm xôi khúc của mẹ.

                      * * * 

 Ngày ấy, những khi trời rét, mưa phùn lất phất bay. Mẹ tôi thường làm bánh khúc. Bà chọn gạo nếp mới ngâm đãi thật kỹ. Đậu xanh lòng vàng được bà tỉ mẩn nhặt hết những hạt điếc (1) hạt don(2). Rải trên cái thớt dùng chai thủy tinh xiết vỡ rồi ngâm , đãi sạch vỏ.

 Những thửa ruộng cày sau ngày gặt đang chờ nước ải. Rau khúc mọc mơn mởn trên luống cày. Những cánh lá nhỏ khẽ run rẩy trong gió Bấc. Mặt lá xinh xinh được phủ những hạt nước li ti ánh lên như kim sa. Chúng tôi lựa tay ngắt từng cây khúc tránh chạm vào đất. Giống khúc có một lớp lông mịn bao phủ nên dính đất khó rửa. Đầy mủng, đầy rá. Mang về tước cuống lá, rửa sạch cho mẹ vẩy ráo nước. Mẹ thái nhỏ lá khúc.Bắt tôi giã nhuyễn rồi cho ít bột nếp thúc cho đều hai thứ quyện vào làm một.Đỗ thổi chín.Mẹ đánh tơi rồi vê thành từng nắm nhỏ. Mỡ gáy lợn được mẹ thái nhỏ như đốt ngón tay. Véo từng miếng bột khúc, mẹ dàn mỏng. Cho thịt mỡ, đậu, chút muối trắng, bột tiêu vào trong gói lại. Mẹ xếp thành từng lớp vào chõ đồ. Để chúng không dính vào nhau, mẹ tước lá chuối lót từng lớp một. Khi bánh đã chín, mẹ xếp ra rổ cho khô bớt. Gạo đã vớt ra rá để ráo nước. Mẹ cho rải gạo vào chõ. Xếp bánh đã bỏ lá, xen đều trong gạo. Cái chõ lại được bắc lên bếp lửa đồ một lần nữa cho tới lúc mùi xôi chín bốc lên. Mẹ nhấc chõ xôi khỏi nồi nước đáy. Tay mẹ khéo léo dùng đũa cả đánh xôi.Lũ chúng tôi mỗi đứa một mảnh lá chuối chìa ra.Đứa nào cũng vòi mẹ cho thêm tí xôi nhiều hơn đứa khác. Chiếc bánh khúc được bao quanh lớp xôi trắng ngần bốc khói. Mẹ dạy chúng tôi nắm lại thành nắm sao cho bánh khúc và xôi thuôn dài đều nhau. Có lần háu ăn. Tôi càu nhàu, mẹ mắng :

-   ĂN bánh khúc phải làm như vậy cho gọn. Đưa cả nắm xôi lên miệng vừa xấu dáng, cắn không đều nhân làm mất vị bánh với xôi.

 Chúng tôi nhai bánh. Thưởng thức vị ngọt của nếp, vị béo của mỡ, vị bùi của đậu, vị cay cay của hạt tiêu. Và cái đặc biệt không gì có được là mùi thơm mát khó tả của khúc. Ăn hết nắm khúc mà dư vị vẫn còn ấm cả một chiều Đông.

 Sau này.Khi mẹ đã yếu, đồng đất chẳng còn mà hái khúc. Mua bánh khúc cho mẹ.Mẹ móm mém cười:

 - Bánh khúc bây giờ nó thế nào. Chẳng như xưa. 

 Người ta đã thay lá khúc bằng lá cải bắp già. Bột nếp bằng bột sắn. Ngay lớp xôi bên ngoài cũng bằng  gạo lai tạp chẳng được thứ nếp dẻo năm nào.

 Đêm đêm, tiếng rao ‘’ai khúc nóng đê’’ từ cái loa pin chẳng làm tôi thèm bánh khúc nữa. Chỉ gợi lên hình ảnh mẹ già ngồi nhặt những hạt xôi quanh chõ. Ánh mắt hạnh phúc nhìn lũ con vừa ăn nắm khúc của mẹ vừa chòng ghẹo nhau chí chóe.

 Đã năm năm rồi, tôi không dám ăn bánh khúc! Cũng lâu rồi!

•   Hạt điếc: Hạt đậu lép. Nó quắt lại vỏ có màu sậm. Hạt này rắn như đá sỏi

•   Hạt don : Hạt đậu bị cương không chín được. Ăn tanh. Thường là đậu để quá vụ.

SA RA

Nó tên là Sa ra, có nghĩa là Rượu theo tiếng Campuchia. Và “Nó” ở đây là con chó nhách mà chúng tôi lượm được trên vỉa hè thị xã Công pông Chơ năng chỗ gần bến cá. Mấy ngày đóng quân tại đây, cứ đúng lúc anh nuôi chia cơm thì nó băng qua cái vườn hoang sán đến. Lúc đầu còn loanh quanh, cụp đuôi vòng ngoài, thận trọng mắt trước mắt sau, liếm cái vỏ hộp thịt heo thằng Sên vứt ra. Mấy bữa quen, nó vào gần hơn, nhặt những cục cơm lính chúng tôi gảy xuống đất cho nó. Khi đơn vị tiếp tục hành quân, nó đã ton tón chạy theo trung đội như một… con chó con. Thậm chí tự tin nhảy phốc xuống tàu há mồm, cứ như lính tiểu đoàn đã nửa đời chiến chinh, chuyên nghề đổ bộ. 

Về chuyện đặt tên cho nó cũng là cả một câu chuyện. Trung đội có 8 thằng, mỗi thằng gọi nó một kiểu. Thằng thì gọi tên nó là Lu, thằng thì gọi là Mơ, rồi Riềng, rồi Lan, Vân đủ cả.... Thằng Tuỳ  thì nhất định gọi nó là Bim, mặc dù tai nó không đen và lông cũng không trắng như cái truyện chết tiệt nó đọc được ở đâu đó. Thành ra đến khi bê cái chậu chia cơm về, nó chạy loăng quăng chỗ nọ chỗ kia, không biết nghe thằng nào gọi. Cuối cùng ba Đức bảo Bim bủng cái khỉ khô gì? Gọi mẹ nó là Sa ra cho rồi! Chịu khó nuôi nấng chăm bẵm, lơn lớn chút. Mát trời thư thả, đổi “tức sa ra” về mà làm rựa mận.

Sa ra không khác các con chó mà chúng tôi thấy trên đất nước Campuchia này. Lông nó vàng xỉn, xác xơ tróc từng đám lớn. Nhưng sau một thời gian xài cơm lính, dẫu nhạt, đã bắt đầu trơn mượt. Điều đặc biệt là hai chân trước nó có huyền đề kép. Huyền đề theo tướng chó là cái móng chân thừa, dính lủng lẳng mé trên, phía trong đôi bàn chân trước. Cũng có nơi gọi nó là cái móng đeo. Chó mà có huyền đề, mà lại là huyền đề kép thì rất khôn. Chẳng biết có khôn thật hay không, nhưng có nó cũng thấy vui vui. Ngoài ra, lúc vô công rồi nghề, nó còn cải thiện thêm bằng cách rình chuột và vồ rắn mối để bổ sung chất đạm. Rắn mối thì rất nhiều, nhất là vào mùa khô. Trời càng nắng, giống này nó càng ra nhiều. Chạy loạt roạt trên mái lá thốt nốt hoặc các bờ dứa dại. Nhìn nó tiếp cận con mồi mới sướng! Bụng ép sát đất, bốn chân chúc khuỷu, nhích từng tí một. Tầm vừa rồi! Hấp một phát sau cú nhảy lẹ làng ! Con rắn mối trên cái lá dứa văng ra. Nó chẹn chân lên rồi cắn ngang đầu cái rụp. Thế là xong đời!

Một lần, nhìn nó nhai rau ráu đầu con rắn mối bự, ba Đức tụt võng, chạy tới cướp của nó mang nướng. Chẳng hiểu thằng này nghĩ thế nào hối hận, lại chia cho nó một ít. Cách thưởng thức văn minh dùng lửa này có vẻ ngon hơn chén đồ sống thì phải? Từ đó, hễ cứ vồ được con rắn mối nào, nó lại tha về vứt trước võng thằng ba Đức rồi ghếch chân trước mõm nằm chờ, như kiểu thông báo rằng đã hết phiên gác của ông rồi! Giờ đến lượt mày! Thằng này lại trở dậy lui cui nướng, rồi hai “anh em” nó chia nhau. Người góp của, kẻ góp công rất bình đẳng. Tôi không biết khi nó sống trong thị xã thì thuộc đẳng cấp nào, gia đình nào? Nhưng thực ra, cái chính phủ điên rồ mà chúng tôi vừa quật đổ và đang đánh đuổi thì làm gì có giai cấp? Vậy nên cách cư xử theo kiểu phân công cào bằng nó đang áp dụng với thằng ba Đức ngẫm ra không phải là không có lý! Hê hê! Chủ nào chó nấy mà! Và cũng rất hợp với câu châm ngôn đời lính nữa:” Chó có suất! Lính tráng có khẩu phần!”  Chớ có ai đụng vào.

Người ta hay ví: len lét như rắn mùng năm, cúp đuôi như chó sợ pháo. Điều đó có thể đúng với các con chó nào đó. Nhưng với Sa ra thì khác hoàn toàn. Hơn hai tháng trời, sau những trận đánh ác liệt, suốt dải từ Kông pông Chơ Năng tới Ô đông, nó đã trở thành “chiến cẩu” chính hiệu. Đạn rát thì nó kiếm một chỗ mát sau gốc cây nằm yên. Một tai áp xuống mặt đất. Tai kia dựng đứng, dỏng lên giời, xoay hướng nọ, ngoắt hướng kia, dõi theo tiếng rít chiu chíu của đàn ong gang thép bay qua trên đầu. Mắt nhắm hững hờ như ngủ dở, như dửng dưng với những gì đang diễn ra xung quanh. Ấy thế mà thấy khẩu DK.75 tống đạn, xoay tầm, quay đuôi về hướng nó chuẩn bị phụt là nó giạt ngang né ngay. Nó đã nhiều lần chứng kiến cái chổi lửa này chớp sáng, quét sạch tất cả những gì phía sau trong vòng bán kính 6 mét. Ngoài ra, một lần nó bị hơi phản lực nóng rẫy thổi cho lộn phộc mấy vòng, dù đứng ở xa đằng sau. Rất dũng cảm, nó đứng dậy xù lông gừ lại. Thằng ba Đức phải hét bọn DK từ từ rồi bò quay lại, ôm con chó đang đứng run bần bật. Với Sa ra, khẩu DK.75 chỉ là một con chó lửa vô dụng dài ngoẵng, xấu xí vì không có lông, hay gây phiền nhiễu. Đã thế có mỗi ba chân, thua hẳn nó một chân nên trông thậm vô lý và buồn cười. Chỉ có điều là biết sủa to hơn nên nó hơi sợ mà thôi!

Cứ thế tiểu đoàn chúng tôi đi. Một nhúm người bé nhỏ, im lặng trôi trong cái đồng bằng tít tắp, như biển không thấy bờ. Buổi trưa mùa khô, rặng thốt nốt phum xa run rẩy, nhoè trong hơi nóng bốc lên ngùn ngụt. Người há mồm, chó thè lưỡi, vượt qua những khoảng đồng không mông quạnh. Mé chân trời đằng trước loang loáng như phản chiếu mặt hồ. Dấn lên đi mãi, nhưng không bao giờ tới được cái mặt nước xanh ảo ảnh ấy. Đoàn người vẫn tiến, nhưng mọi suy nghĩ, mọi giác quan gần như tê liệt trong không gian chói chang, hầm hập xứ người… Mãi rồi cũng tới cái phum cần đến trên bản đồ. Ở đâu ra mà lắm chó thế? Chó lớn chó bé quấn nhau, chạy quẩng theo đoàn xe bò. Đùa nhau cắn nhau ủng oẳng, lăn lông lốc trên đường đầy bụi. Tiếng con gái thanh thanh vọng lại. Tụi tôi bỏ cái khăn mặt cứng như mo nang, lót trùm trong mũ xuống, chỉnh lại trang phục. Ba Đức nhổ nước miếng ra lòng bàn tay, cố vuốt cái bờm tóc mất dạy, lúc nào cũng như cố dựng đứng lên, chạy lại chỗ các cô gái xin dừa. Thấy chúng tôi qua, chó trong phum ngồi sắp hàng đều tăm tắp dọc theo đường, gióng cổ sủa ông ổng. Bọn nó phát hiện ra con Sa ra lại càng lăn vào sủa dữ dội. Đúng là chó cậy gần nhà! Con Sa ra vẫn đều bước, khinh khỉnh ra vẻ không quan tâm, đuôi nó không hề cụp lại. Nhiều con chó cái trong đám đó có vẻ thán phục tay bợm này, tuy mõm vẫn sủa nhát gừng lấy lệ. Đọc được thái độ tôn vinh đó, hệt như một thằng ma cà bông vỉa hè chính hiệu, con Sa ra sán đến một con chó cái, hít hít rồi liếm cái… đuôi sau cô nàng. Đến nước này thì mấy thằng chó đực không chịu đựng được hơn nữa, lao vào đánh hội đồng. Một bước nhảy chéo nhẹ nhàng của nó thoát ra khỏi trùng vây. Tiếp theo là ba phát AK chỉ thiên của thằng Đức giải tán cái đám chơi bẩn. Ba Đức chỉ con Sa ra, chỉ con chó cái kia rồi nhe răng cười hềnh hệch với cô áo xanh. Chị chàng cũng bật cười đỏ cả mặt. Khoản tán gái này thì con Sa ra hơn đứt thằng ba Đức. Hê hê! Dẫu sao thì tất cả các loại chó trên thế giới này đều cùng nói một thứ tiếng.  

Chúng tôi đóng tại bìa cái phum bàn đạp ven biển Hồ đó. 

Chiều tà, bầu trời thanh thiên nhanh chóng sập xuống màu đỏ tía bồ quân, in hình những bóng cây thốt nốt tối thẫm và lặng im. Trên thinh không, đàn dơi quạ hàng ngàn con, giương đôi cánh rộng chấp chới bay vô hướng, và cũng im lặng như thế. Sao Hôm vòi vọi đằng tây, nháy mắt giữa những đâm mây đen. Những đám mây được viền cam do ngược sáng, đủ các hình thù cổ quái. Hoàng hôn đất nước Chùa Tháp bao giờ cũng có những gam màu tương phản thật lạ kỳ. Mùi khói rơm un muỗi trâu bò lan toả không gian.Tiếng phụ nữ tắm đùa nhau, tông giọng cao vút ré lên phía đầu giếng. Đó đây trong khu vườn rộng, những bếp lửa nhỏ của lính sáng bập bùng. 

Phải đánh nhau thì thôi. Nhưng những buổi chiều tà thanh bình nơi phum xa thế này bao giờ cũng làm bọn lính chúng tôi nhớ nhà. Cơm chiều xong, con Sa ra đã biến đâu mất tăm tích. Chắc nó đã chuồn vào phum tán tỉnh con chó cái hồi nãy. Đúng là đồ chó dái du côn. Chúng tôi nằm võng lặng im, nghe thằng ba Đức thở dài thườn thượt. Có thể nó đang nghĩ đến em áo xanh, hoặc đang mong đổi phận thành con Sa ra thì phải? Thằng Sên đang khuỳnh chân đu đưa nhún võng, bỗng buông sõng một câu: 

-   Kiếm cái gì nhậu đi các cha!

-   Kiếm cái gì? Ở đâu? 

Tất cả gần như đồng thanh nhỏm dậy, hỏi cùng một lúc vì cái câu kia nó phang đúng chỗ ngứa. 

-   Thì đấy, sang khẩu DK, mượn cái ống đạn chúng nó vẫn trữ nước ấy. Giả vờ mượn đi lấy nước rồi đổ mẹ nó đi! Vào phum đổi gà với rượu. Mần xong gọi chúng nó sang nhậu. Mai sáng biết, trót ăn vào mồm rồi thì làm thịt được nhau à?

Nói là làm. Ba Đức quày quả sang DK ngay. Ở nhà chúng tôi đun nước chờ sẵn. Cả tiếng đồng hồ sau nó mới trở về. Một ống DK đổi hai con gà, bốn lít rượu trong hoàn cảnh này là quá hời. Gà không cắt tiết, bóp chết làm sạch cho luôn vào nồi cháo. Thằng Tuỳ sang gọi bọn DK. Mâm nhậu đêm nhanh chóng triển khai trong ánh nhập nhoạng bên đống lửa tàn. Đang dở mồm thì con Sa ra lặng lẽ trở về. Trông người nó có vẻ phờ phạc nhưng khoan khoái. Đã thế trên sườn nó có một vết đớp bết máu. Chắc là nó đã chiến nhau với tình địch. Ba Đức ôm nó vào lòng xót xa:”Chết cha mày chưa, đồ chó dái!”. Sên quăng cho nó miếng cánh, vừa nhồm nhoàm nhai vừa triết lý:” Chuyện vặt! Trước khi định đấu đuôi thì người ta phải đấu mõm đã!”. Thằng khẩu đội trưởng DK đã say liêng biêng, bật cười hô hố, lại tợp thêm ngụm rượu. Nó kéo con Sa ra lại gần, vành mồm con chó rồi bất ngờ phụt ngụm rượu trong mồm vào họng nó. Con chó vằng mạnh ra, tiện mõm đợp vào tay nó một phát, máu chảy ròng ròng. Thằng này có máu điên, phát khùng quài tay với khẩu AK. Ba Đức với tôi nhảy vô giữ tay, ghìm chặt khẩu súng:”Th..ô..i… m..à.. à..y! Ai đi chấp con chó làm gì..?”. Băng tay cho nó xong, cuộc nhậu lại tiếp tục như chưa có chuyện gì xảy ra. Con Sa ra vốn ghét sẵn khẩu DK. Nay ghét thêm thằng chỉ huy “con chó” ba chân phối thuộc ấy. 

Mình đọc topic này nhưng nay mới dám có tí ý cò ,mình cũng từng có nuôi 01 chú chó như thế năm 1978 ,mình và Hải cùng nuôi nó ,Hải lượm được nó dưới gầm xe của D 25 công binh bị mìn trên đường vào Mimốt ,chú chó con bị chết hụt và...bị chủ bỏ rơi vì khi xe bị mìn chống tăng đã kích nổ luôn lựu đạn lính ta đeo trên người nên thương vong rất cao ,con chó nhỏ đứng run rẩy co ro được Hải bồng theo có móng huyền đề (móng đeo ),mẹ nó đã bị chết cùng với người chăm sóc ,chủ cũ nó là anh Hùng D trưỡng D 25 -F 5,anh Hùng rất thương con chó mẹ vì có móng đeo và rất khôn.Con chó này theo chân mình và Hải từ Mimốt-Càtum vòng qua lộ 13 B ,lên Snoul ,lúc mùa mưa năm 78 ,Hải vì có chuyện riêng nên đã bỏ về nhà ,trước khi đi còn bàn giao con chó cho mình .Lúc mình chốt ở nhà ngói đỏ Snoul ,vì đóng gần phẩu Trung đoàn nên con chó này đã ...moi những hố mà anh em phẫu chôn sau khi phẫu thương binh để xơi,bị anh em phát hiện vì...chê cơm lính ,nó bị 01 trận no đòn vì việc này.

Số phận con chó này cũng nhiêu khê ,lúc mình bị rút về D bộ đóng ở lộ 13 ,cách Snoul khoãng 10km ,a Hùng D trưỡng công binh biết được đã cho người qua xin lại,mình đã cho lại anh Hùng ,nhưng khi về đơn vị ,B trưỡng lúc họp B đã lịnh miệng là phải....bắt con chó về vì anh em đang ...không có thức ăn,mình đi bộ qua D công binh đóng cách chổ ở khoãng 2 cây số ,vừa vào bìa rừng đã nghe tiếng sũa vang,a Hùng tiếp mình và nói :"tao biết mày qua vì con chó mấy ngày rày bỏ ăn,nhưng tự dưng hôm nay nó ngóng ra đường sũa quá trời,tao phải cột nó từ lúc mảy cho lại đến giờ ,không dám thả ra ,thôi nó quen với mày ,tao trả lại mày:".

Nghe a Hùng nói ,mình ...không muốn bắt về !!,nhưng vì sợ a Đ... trung đội trưỡng nên buồn bã dắt về .

Vài ngày sau ,có một ngày cả B ăn cơm với thịt chó nhưng mình được ăn cơm riêng với ...ruốc bông (tiêu chuẩn ếm bồng của a Đ ...cho ) vì mình không làm sao ăn thịt nó được!!??!!,viết đến đây mình nhớ thằng Hải quá.....không biết bi giờ nó ở đâu

Tôi vẫn nhớ về “ thằng ” xì ke  “ chiến hữu ” ở đơn vị tôi: 

Thằng này nguyên nó nhập ngũ ở  C1, bọn nó xin hay đô gì đó không biết nhưng nó trở thành chiến hữu của C1  từ ngày nó  còn chưa trổ mã, mỗi lần thấy nó xồng xộc chạy vào nhà BCH D vẫy đuôi thở hổn hển là biết ngay là có các xếp C 1 ở phum cách xa 20 cây số về sau nó 15 , 20 phút ! nó đến trước để báo cơm âý vậy mà !

Không hiểu nó giận hay bất mãn gì ở dưới C , mà rồi nó không về lại dưới C nữa mà ở lại luôn trên D bộ ! ừ thế thì biên chế vào D bộ vậy ...Thằng này không biết nó thuộc dòng cẩu tộc nào mà không thấy ở bên ta ! nó to con vạm vỡ hơn cả dòng bẹc giê với cái đầu to như đầu sư tử và bộ lông hung đỏ! Tuy cơm lính khẩu phần của nó cũng chỉ bọn tao sao mày vậy, cũng có hôm chỉ cơm chan nước lã mà nó cũng không kêu ca than vãn , chỉ liếc xéo ý chửi mấy cha chơi... cha, có ít đồ ăn cũng không chia xẻ ...! ờ thì thông cảm nha mày, nhiệm vụ mày được giao là nhẹ hơn tụi tao mà, chỉ có gác sách không thôi thì than vãn cái nỗi gì ! Chuyện gách sách thì thằng này tự giác lắm , nó hiểu nhiệm vụ và luôn làm tốt hơn nhiệm vụ được giao, đêm nó gác mấy ca nhất là ca đầu chập choạng tối và ca chót đến sáng, thậm chí nó thấy mấy thằng bỏ gác nó cũng không buồn đánh thức mà gác thay luôn ! Riết rồi mấy thằng cũng ỷ y có nó cứ ngủ cho khoẻ ! 

Thằng này cũng ý thức rèn luyện học tập cao, mỗi lần tập trung học chính trị hay phổ biến tình hình ... nó cũng nghiêm chỉnh ngồi ghếch mõm chăm chú nghe, có điều nó lười... thảo luận ! chỉ, ai nói cũng gật gù ... nhất trí cao ! 

Hành quân thì nó lúc thì  đi đầu cảnh giác, lúc thì tụt lại đàng sau để bọc hậu ... nói chung là một chiến sĩ thực thụ ! mỗi khi hành quân qua một phum nào mà lũ xì ke “ có cảm tình với pốt ” thù coong tóp “ ăn gan uống máu ” họ nhà cẩu phe chúng, xông ra chửi rủa  ầm ĩ ! thì lập tức thằng chiến hữu ( xin phép được giấu tên vì sợ trùng tên một ai đó ! ) khệnh khạng quát lên một tiếng là lũ “ cẩu pốt ” cụp đuôi lủi trốn ! 

Ấy vậy mà một lần bọn tôi đi càn về qua quê cũ của nó , có một thằng cẩu nhỏ con hơn nó nhiều , tướng tá ốm đói , xông ra chửi bới gì đó ( khổ cái là quân ta gây “ nợ máu ” họ nhà xì ke bên đó nhiều quá ... nên đi đến đâu là chúng nó đều chửi rủa ! ) , thằng xì ke chiến hữu gặp thằng này bỗng cụp đuôi , mắt lấm lét , lí nhí gì đó rồi trốn lủi vào hàng quân , sợ thằng xì ke đó một vành ! Hóa ra thằng xì ke đó là anh nó thì phải , đi theo coong tóp đã lâu nhưng nó vẫn nhận ra “ bề trên ” nên không dám hỗn, chỉ chào hỏi rồi lấy cớ đang làm nhiệm vụ rồi lên đường tiếp...! 

Sau này khi phải đi xa ,  thấy nó đã hoàn thành nghĩa vụ , bọn tôi cho nó về quê cũ ở cái phum chôn nhau cắt rốn của nó, nó hiểu bọn tôi ...chia tay nó cũng lưu luyến chảy nước mắt từ biệt !

Chuyện thật đấy !

Sáng hôm sau, thấy mất đồ lấy nước, bọn DK lảu nhảu chửi nhau. Thằng Minh khẩu đội trưởng tỉnh rượu, sực nhớ là đêm qua trung đội tôi có mượn. Nó chạy sang đòi. Sên_ trung đội trưởng, làm ra vẻ mặt nghiêm trọng hỏi :” Đêm qua tới giờ chúng mày có đi cầu hay ói lần nào không?”. Thằng này ngơ ngác:”Có! Mà sao?”. “Sao với giăng cái gì? Ra đấy mà tìm! Ống của mày nó nằm ở đấy cả rồi!”. Nó hiểu ra, chửi vung xích chó. Vừa mất đồ, vừa què tay quả cũng hơi khó chịu. Mọi khi nó toàn nằm võng, chờ đàn em vác nước về hầu đánh răng rửa mặt. Giờ thì nó phải tự đi ra giếng. Lại càng tức hơn khi ở giếng, thấy Ba Đức tắm trần, quấn cái khăn cà ma ướt không biết ở đâu ra. Hắn đang hùng hục kéo nước đổ vào ống DK cho chị “áo xanh”, chủ nhân con chó cái hôm rồi. Anh chàng tiền mất tật mang, thuỗn mặt nhìn chị chàng cúi xuống cài nắp bịt ống đạn, trước là của mình. Lại còn uyển chuyển vươn người, âu yếm dội gàu nước còn già nửa lên lưng kẻ tình nguyện kia đang nhe răng sung sướng. Ngắm cảnh đó, thằng Tuỳ quay sang tôi lầu bầu, dù mồm vẫn sầu bọt, trắng xoá kem đánh răng :” Đ…má ! Thảo nào hồi hôm nó đi đến hơn cả tiếng lận! Chó nào chủ nấy….!”

Nói thế có phần oan cho thằng Đức. Vì chó là chó chung chứ không có ai là chủ cả. Nhưng Sara thân với thằng Đức nhất, cho dù ban đầu chỉ là tình thân con rắn mối. Từ khi có cùng một mối quan tâm chung ở cái nhà sàn góc phum kia thì “hai anh em” nó càng thân nhau hơn. Chập tối, cơm nước xong, sau một tiếng sáo huýt là lên đường. Thằng bốn chân đi trước, thằng hai chân đi sau. Đến lúc về thì theo chu trình ngược lại. Ba Đức bao giờ cũng về trước con Sara đến gần tiếng. Trước hiện tượng này, thằng Sên bình thản giải thích :” Bởi vì  l…chó nó có hom! Chạy làng sớm thế đếch nào được! Vừa vừa thôi mày, ông Định biết thì tiêu giờ!”. Ba Đức vuốt vuốt cái bờm bất trị, nhe răng cười he he. Nó chìa ra cái ca đậu xanh với mấy cục đường thốt nốt cho thằng Tuỳ đi nấu chè. Ôi cái ca đậu xanh! Hẳn đây là bằng chứng của tình yêu quốc tế! Hay giản dị hơn: là công sức lao động khổ sai nặng nhọc, mà nó phải cuốc cày hùng hục mấy ca suốt tối đến giờ. 

Chào các bác CCB những anh hùng đã từng hy sinh một khoảng đời đẹp nhất của tuổi thanh xuân để lên đường làm nghĩa vụ Quốc tế cao cả giúp đất nước bạn 1  xứ sở đang sống trong họa diệt chủng được hồi sinh trở lại , để có được sự bình yên cho đất nước bạn những CCB VN đánh đổi bằng cả sinh mạng và tuổi trẻ tươi đẹp nhất của mình cho cuộc chiến. Có những CCB đã để lại một phần thân thể của mình trên đất bạn khi tuỗi đời còn rất trẻ . Tất cả vì nghĩa vụ thiêng liêng của người lính tình nguyện VN. Giờ đây những người lính ngày xưa tóc đã điểm bạc. Nhưng kỷ niệm đời binh nghiệp của các CCB chắc sẽ không bao giờ phai theo thời gian.

 Hôm nay em mạn phép mở topic này để cùng các bác CCB F9 thân yêu của em và các bác ở đơn vị bạn cùng nhau ôn lại chút kỷ niệm vui buồn trong thời gian sống và chiến đấu nơi đất nước Chùa Tháp. Riêng em qua K năm 1986 nên em chĩ kể lại những kỷ niệm thời gian sau còn năm1986 về trước nhờ các bác đi trước hỗ trợ để em được hiểu biết thêm về những trận đánh và sự hy sinh gian khổ của các bác ,những người CCB anh hùng. Lịch sử nước bạn sẽ nhớ mãi hình ảnh anh bộ đội quân tình nguyện VN.nhớ chút chút..........bước chân vào trung tâm huấn luyện quân đoàn 4 năm tôi vừa tròn 18 tuỗi ...3 tháng quân trường thôi thì tôi khõi phãi kễ vì tất cã các quân trường gần như là giống nhau về công tác huấn luyện quân sự cũng như chính trị ... bây giờ nhắc tới 3 tháng qt tôi chợt nhớ tới  các món ăn mà đến bây giờ tôi o quên được , đó là món canh thái bình dương và rau muống luộc chấm nước biễn những món ăn chính hàng ngày cũa chúng tôi , còn 1 món nữa đó là cơm cháy ,cứ mỗi lần xuống bếp nhận cơm thì tôi ráng xin cho bằng được miếng cơm cháy về chia cho anh em và đễ chi viện thêm cho cái bao tữ ăn không đũ no  hi hi ...ngày đó tôi nhớ nhất là món mắm ruốt xào mà bà nội tôi mỗi lần lên thăm thường mang lên cho tôi , đối với tôi đó món đặc sãn ngon nhất mà tôi o bao giờ quên ....thấm thoát 3 tháng đã đi qua ngày  chúng tôi sang k đã đến vì đã xác định được tư tưỡng trước nên chúng tôi o có bỡ ngỡ ... năm đó qd4 huấn luyện 3 tiễu đoàn khoãng 450 quân  điều chi viện hết cho f9 .. đoàn xe chỡ chúng tôi từ sóng thần tới mộc bài khoãng 1h ..trên đường đi ngang qua các chốt có công an đứng tôi thấy từ trên xe tất cã đồ dùng cá nhân có cã đá xanh tuôn ào ào xuống , công an bõ chốt tìm chỗ núp ,chờ cho đoàn xe đi qua ...mới trỡ lại chốt .. mấy chú đội mình lúc đó quậy quá .......khoãng 1h 30 đoàn xe chỡ chúng tôi từ từ lăn bánh qua cữa khẫu ..  tôi tự hõi o biết mình còn đươc nguyên vẹn đễ trỡ về đất mẹ nữa o .....

hôi khổ tôi rồi,tôi lại vừa nhắc tới con xuối dưới chân 386.Hồi ức về con xuối này lại sống động trong tôi.Theo ahuuls thì con suối này hợp giao tại Ngã 4 Đồng Đăng rồi chảy qua Thâm kéo.Tới đây con suối như dừng lại,lòng suối mở ra rộng hơn,nước chảy êm đềm ,xanh ngắt.Trên bờ có phiến đá to.Bên kia bờ suối là quả đồi ,mùa xim tím ngăn ngắt.Nếu không có chiến tranh cảnh tượng nơi đây thật lên thơ.Thời gian 83-86 ĐV tôi đóng quân nơi đây,con Suối là kho hậu cần vô tận của đv tôi.Cua ,cá nhiều lắm.Tốp lính trước đi bắt cua,cá,nước suối còn chưa trong lại, tốp lính đi sau vẫn bắt được cua,cá. Có nhiều Đêm trăng sáng bọn tôi tụ tập nâng bát ở trên phiến đá này.Chạy dọc bờ suối là ruộng của dân,hồi đó pháo TQ bắn nhiều,lên dân đi sơ tán,ruộng bỏ hoang nhiều.Trên những thửa ruộng bỏ hoang mọc đầy rau tầu bay,cần dại.Món cần dại này mùi như rau cần thật,cây nhỏ tí,ăn rất ngon.Hồi đó nhiệm vụ của ĐV là chiến đấu lên không tăng gia.Rau thì 110% là rau dại.Mùa măng ăn măng xanh cả da.Măng vầu sau mưa mà luộc qua quănng xuống suối vài hôm vớt lên nấu canh cua thì tuyệt.Từ ngày ra quân tới nay tôi chẳng khi nào được tắm suối tiên,chứ hồi trên Thâm kéo thì là chuyện hàng ngày của tụi lính chúng tôi.

m có ba tết mặc áo lính thì tết năm đầu em về nhà nên không biết đến tết trong quân đội như thế nào. Năm 84 em ăn tết đầu tiên trong quân đội thì ấn tượng duy nhất em còn nhớ đến bây giờ là tối 30 tết súng bắn thoải mái thay pháo.

 Hồi đó trưa 30 tết bọn em mới rút xuống Ngọc Đường, việc chuẩn bị bánh chưng và thịt lợn thì tụi ở hậu cứ đã lo cho đầy đủ rồi. Bọn em vừa xuống xe là vào nhà dân mà mình trọ ở đó cất ba lô súng ống, sau đó bắt đầu lo kiểm lại đạn AK còn bao nhiêu. Nếu thấy ít thì chịu khó đi đến các đơn vị có bạn mà xin, em xin được một hòm sắt 680 viên đạn lửa cộng với chỗ đạn mình có là cũng hòm hòm rồi.Lúc đó chúng em chả thiết gì đến ăn uống mà chỉ mong trời nhanh tối là bắt đầu bắn lai rai đợi giao thừa.Giao thừa năm đó em nhớ khắp khu vực trung đoàn em đóng quân đạn nổ râm ran, nhìn lên trời đạn lửa vạch đường thỉnh thoảng rạch những đường đỏ lừ lên bầu trời.

  Sáng mùng một có lệnh từ trung đoàn đưa xuống là các đơn vị không được để xẩy ra hiện tượng bắn súng nữa nếu vệ binh E mà phát hiện sẽ bắt đi phạt giam. Lúc này bọn em bắn hết đạn rồi còn đâu nên chỉ còn đi chơi lang thang ở nhà dân chúc tết và đến các đơn vị bạn chơi thôi.Em thấy dân HG nếu dân kinh thì cũng ăn tết như mình chủ yếu là bánh chưng và thịt lợn ăn trong mấy ngày tết, còn dân Tày thì có món bánh gio mà em trông kiểu gói như bánh tét trong nam ý. Chỉ thấy khác là có mỗi nhân đỗ chứ không có thịt và gạo thì ngâm vào nước gio nên khi cắt cái bánh ra trông như khoang giò lấm tấm đen và trắng nhìn rất đẹp mắt. Ngày đó em nghĩ có bộ đội ở đó nên HG đông và vui chứ nếu không thì ngày tết chẳng có gì vui. Tấp nập đi lại ngoài phố toàn là bộ đội còn dân thì ít lắm, hồi đó chỉ có cánh lính của lữ 297 là phải trực chiến sợ máy bay TQ xâm phạm vào sâu đất ta .

Chuẩn bị đón xuân 1982 , Tết Nhâm Tuất . Cái Tết lính đầu tiên của tôi . Quân cảnh địa bàn nhiều hơn , giúp việc vặt cho e bộ nhiều hơn, quản giam nhiều hơn ,gác xách nghiêm ngặt hơn. Tuy bận rộn , b vệ binh sôi động khác thường . Mấy thằng được về tranh thủ , anh H b trưởng về phép . Sáng 30 , chúng tôi lên quản lí nhận bánh chưng . Mỗi thằng hai chiếc . Bánh, mứt kẹo trà thuốc .... mõi thứ một tí .Trưa ,  anh Hiển ( giờ vân đeo sao TO lắm )trên ban tác chiến xuống quán triệt vui Tết : '' Cấm bỏ gác , cấm đốt pháo , băn súng , tăng cường quân cảnh . Lính tráng say rượu , mất tác phong bắt ngay ....''. Thấy tôi anh hỏi : 

 - Sao ko về ? Cha mẹ già yếu , nhà neo đơn . Cho về chiều mùng 2 có mặt .

 Mừng quýnh . Chẳng đợi giấy tờ , tôi vác ''gùi''dông một mạch.

 Cả đi lẫn về 3 ngày . Chiều mùng 2 tôi tới đv . Quang cảnh e bộ vắng teo . Cán bộ '' đi u '' uống rượu . Vệ binh làm quân cảnh gần hết . Tôi vào nhà b , cái bàn làm việc phủ tấm li lông được kê sát vách .Trên bánh , mứt kẹo . Chai '' Hương Chanh '' đã mở .Tôi làm một ngụm . Nhạt toẹt . Rượu hết , đổ nước lã bày cho oai . Tôi lặng lẽ đặt hộp mứt , bánh chưng vừa mang lên . Sang nhà lính , mấy thằng đang xúm xít tiến lên bôi râu . Thấy tôi chúng bỏ bài ra đón '' Lên sớm thế . Sao ko thêm mấy ngày !'' .Tôi móc chè , thuốc đưa cho anh em :'' Chán bỏ mẹ ! Lên cho sớm chợ '' .

 Ra giếng rửa mặt . Nước lạnh tê tay . Thấy mấy hạt cơm phơi trên tấm liếp tôi nói đổng '' ĐÉ..o có mà ăn còn phơi ''.Thằng Sáng dân Thái Bình đang đun nước nói vóng ra :'' Thằng Lanh phơi để nuôi gà ''. Gà ! b tôi có mấy con gà ông H đổi dầu gác từ hồi bé bằng quả quýt nay cũng kha khá .Anh em tôi uống trà , hút thuốc chuyện trò rôm rả . Chúng kể đêm 30 lính bắn nhiều lắm (?). ( đv tôi sau mấy vụ súng ống , quản lý đạn kỹ hơn , súng tập trung ở giá nhà b trưởng . Vệ binh thì súng đạn đầy đủ ).Lúc giao thừa , tập trung chúc Tết . Thằng gác khóc ti tỉ ngoài cổng . Anh Hậu b phó cho một thằng ra động viên nó . Ra một lúc thằng kia vào nói :

- Em bảo nó rồi mà nó cứ khó..ó..c . Từ khóc nó kéo dài rồi tru lên . Thế là cả b khóc theo .

Tôi bắt thằng Lanh đi bắt gà để thịt . Thằng này tính nịnh bợ được ông H giao cho ''quản gà''. Vốn sợ tôi nó nói '' Thôi để ông H lên hãy thịt . Em để phàn bác nửa con '' . Tôi cáu : 

- Đé ..o gì ! Tao vừa về , thèm gì thịt . Có mấy con gà nhiếp thịt cho anh em ăn . Ông ấy về ấp vợ sướng bỏ mẹ ( ông H chưa vợ ).Thịt 4 con . Còn 4 con để b lên đủ tao thịt nốt .

 Tôi cắt tiết , bắt thằng Lanh làm lông . Anh em thấy nó mổ gà mà mặt tái xám méo xệch không nhịn được cười . Tối ăn cơm , uống rượu thịt gà . Anh em bàn cách chống chế khi ông H lên . Tôi tuyên bố :

- Ông H hỏi chúng mày cứ chỉ tao . Không cần nói gì . Thằng nào bép xép đừng trách .( Chuỵên thịt gà ân oán còn dài . Ông H giờ vẫn đeo sao khớ lắm . Gặp nhau anh em vẫn nói chuyện gà qué . Khi nào rảnh tôi kể bê '' chuyện thường ngày ....).

 Tôi nói với anh Hậu : '' Em mới về , để em gác thông đêm ''

 Anh Hậu cười '' Cậu mới về , '' quất '' ác . Gác ngủ quên chết tao ''.

 Tôi co ro trong áo trấn thủ ra thay gác mà lòng nặng trĩu . Đêm xuân , mưa lất phất . Mùi hương trầm , mùi thuốc pháo bên xóm đưa sang càng làm tôi thêm buồn . Qua 26 năm rồi , cái buồn ấy lại trở về phảng phất trong tôi....!Tết 84 sang 85 , lúc này tôi vừa chân ướt , chân ráo về Đài TS . Từ tối 30 , mấy thằng cùng Đài đã bỏ ra bản chơi , để lại tôi 1 mình với 1 đống rượu , thịt . Cũng vì mình mới nhất , vả lại cũng chưa quen dân nên đành chấp nhận canh miếu . Làm gần nửa lít ( rượu men lá nhẹ hơn rượu dưới xuôi ) , mà lại chả ăn gì vì không ngon miệng , định bụng say để đi ngủ , đỡ bị nghĩ và bị buồn . Cũng tây tây ... Nhưng không tài nào ngủ được . Khoảng 2h nữa là giao thừa nên lính bắt đầu bắn ... Lôi súng ra bắn hết 1 băng , nhưng chán , cảm thấy tiếng súng của mình cứ lạc lõng thế nào ấy , cứ như cái thằng đốt pháo 1 mình ... Thế là chọn đạn lửa ra ngồi gõ làm pháo hoa , đang khoái chí với những luồng lửa phụt lên thì reng...reng ...reng ...Tiếng điện thoại . Vừa cầm máy thì tiếng ông D trưởng gắt trong máy hỏi ai nghịch đạn . Thôi bỏ m... rồi ! Ông ấy kiểm tra bên C3 (386) nên nhìn rõ ... Đành phải nhận ... Thế là : " Ngay lập tức sang trạm gác C1 gặp tôi ! " . Sau khi gọi về nhờ bọn hữu tuyến là :" nếu mấy ông dưới D mà gọi thì bảo hình như dây bị chập , đang nhờ mấy thằng Đài xem hộ " Tôi 1 mạch đi ra trạm gác C1 ( độ 3-4km) . Ông D trưởng đã đứng sẵn ở đấy . Không để giải thích câu nào , ông ấy bắt tôi xuống hầm ( 2m khối , ngay dưới chân trạm gác ) , xong xuôi , ông ấy bỏ đi . Thằng gác lính C1 lại không quen nên năn nỉ mãi nó cũng không đồng ý cho mình lên vì sợ " nhỡ đâu TT quay lại kiểm tra " , cũng may nó còn vứt cho bó thuốc . Thế là đón năm mới dưới hầm . Đến giờ giao thừa , lính bắn như có chiến sự , cả tiếng lựu đạn , tiếng B , tiếng M79 ...  Đang thiu thiu thì thấy thằng gác mở cửa hầm gọi dậy và thả về , lúc ấy đã hơn 1 h sáng . Hóa ra trong lúc ăn tất niên , ông D truỏng mới kể lại chuyện của tôi cho mấy ông trong ban chỉ huy D nghe . Ông Doãn D phó liền sai thằng LL gọi điện sang C1 để thả tôi . Quá may ! Các bố say sưa thế quên hết thì có mà ... Chả biết đến bao giờ mới đuọc thả .

  Hôm sau , gọi điện lên 474 rủ A Giang ( lính 80 , BĐ Hà Nội ) đi vào bản Nà Luộc chơi ( bản này cách Đài độ 7-8km ) . Tôi quen 1 GĐ trong bản do những lần đi rừng cùng anh Thìn . 

  Tới trước cửa nhà , tôi và A Giang mỗi người kéo hết 1 băng AK . Ngồi 1 lúc thì cô con gái chủ nhà (độ 18-19t , khá bắt mắt , tôi cũng có quen sơ qua ) bưng ra 1 đĩa bánh khảo và rượu . Lần đầu tiên ăn tết với dân nên tôi không hiểu , cứ nói với A Giang :" Dân ăn tết lạ thật ! uống rượu với bánh khảo thì say bỏ m... !" A Giang tuy lính cũ nhưng cũng chả biết gì ! Cô con gái chủ nhà ngồi lại tiếp rượu bọn tôi . Gái Tày rất tự nhiên , lại uống rượu khá , nên 2 chú lính cứ .. nhiệt tình . Sau đó thì có 1 tay SQ của E197 đến , lính với nhau nên dễ nói chuyện lắm ... Đang chuyện nở như ngô rang thì ông chủ nhà bưng ra 1 mâm tú ụ , toàn món ngon và "mời các chú xuống xơi cơm" . Lúc ấy mới ngã ngửa ra ... Rượu thì đã tây tây , bụng thì lưng lửng . Đồ ăn thì không ăn được mấy , nhưng rượu thì phải nói là ngon ( Rượu nóng , đang nấu , uống đến đâu chủ nhà hứng vào đến đấy ) . Nhất là A Giang , cha này tửu lượng thuộc loại thần sầu , nên cứ Pác phân  pác (trăm phần trăm ), đặc biệt là Noọng mà chúc thì ... Mình thì bắt đầu nhìn cái gì cũng thấy mờ mờ , vậy mà tay SQ 197 vẫn tỉnh như không , hóa ra hắn uống thì ít mà có 1 vốc mì chính , cứ 1 lúc lại đưa vào mồm chữa cháy ... Mặc dù đã mấy lần ra ngoài lấy nõn cây giong riềng nhai , nhưng đến lúc tàn cuộc , tôi vẫn bị say . A Giang thì say bét nhè , nói thế nào cũng không chịu về , cứ đòi ngủ lại , thế là tôi về 1 mình . Từ bản ra phải leo 1 cái dốc dựng đứng , đang say nên chưa hết dốc , tôi đã ngồi nghỉ . Ai dè ! Ôm khẩu súng ngủ quên luôn . Sáng gà gáy mới tỉnh dậy , tôi phải mất 1 lúc mới định thần được , mình đang ở đâu , hôm trước làm gì ... Vội vàng lao xuống bản , lo cho A Giang ... Nhỡ đâu bố ấy say làm gì thì chết ... Thế mà ông ấy đã dậy rồi , lại đang uống tiếp và nói chuyện chính trị với ông  chủ nhà ( ông chủ nhà trước đây tham gia KCCP nên rất thích nghe chuyện CT ) . Phải năn nỉ mãi . A Giang mới chịu về . Đã thế trên đường đi cứ tiếc là hôm trước say quá nên ngủ mất , không làm được gì ... May cho ông ấy , nếu mà được gì thì làm sao mà về quê mẹ được ...

Hóa ra cái sự nằm khóc đêm giao thừa xa nhà cũng sảy ra nhiều ra phết!  Thằng lính lúc xung trận trông cũng " hầm hố " giống như bác Haanh cả lượt, vậy mà đến thời khắc chuyển giao năm cũ - mới cũng nước mắt ngắn dài như cánh quần hồng lúc lên xe hoa về nhà chồng.

Tết Mậu ngọ ( 1978 ) tôi đang ở E36, F308 huấn luyện tân binh. Một cái tết đầu tiên xa nhà. Huấn luyện ngay ở Xuân Mai mà chẳng được về. Đêm giao thừa ngồi ven đường quốc lộ, nhìn ngóng mãi về quầng sáng Thủ đô xa xa với biết bao thèm muốn.

Không giống như bây giờ là được nghỉ từ ngày 30. Hồi ấy, chúng tôi vẫn phải hoạt động bình thường nửa ngày 30, chỉ đến chiều 30 mới được nghỉ. Doanh trại ngày tết mà vẫn như ngày thường. Chẳng hoa, chẳng cờ quạt khẩu hiệu gì hết. Không khí tết chỉ đến với chúng tôi khi nhìn lên bảng tin nhà ăn tiểu đoàn có ghi rõ thực đơn ngày tết bắt đầu từ chiều 30 đến hết ngày mùng 1 năm mới ( 3 bữa ăn tươi ). Chiều 30, mấy lão anh nuôi bếp tiểu đoàn bắt đầu vật mấy con lợn ra cắt tiết. Bữa ăn chiều ba mươi mở đầu ngày tết được mở màn bằng món lòng lợn luộc, xương lợn hầm xu hào và mấy lát thịt luộc đầy mỡ !  Và cũng chỉ có vậy. Bữa trưa mùng một tết là ăn to nhất : Cũng nem, cũng thịt rán, thịt kho.. ( không thấy có rượu ), khoai tây hầm xương lợn ( không thấy có canh măng ). Sinh hoạt văn hóa văn nghệ thì chẳng có gì ngoài mấy tờ báo tường đại đội.

Xem ra, tết đầu tiên trong quân ngũ của tôi kém xa những gì các bạn kể ở trên.   

Tết 1982 , E88 chúng tôi ăn tết ở Svaileu .

 Sáng 25 tết ( đúng ngày hôm nay ) máy bay trực thăng mang tiền và 1 ít hàng tết vào cho trung đoàn ( Đường bộ đã bị địch phong tỏa mìn trái dày đặc và luôn có nhiều toán phục kích ngăn chặn ta vào ra . Giai đoạn này chỉ có tiếp tế bằng đường không )

  Có tiền , chúng tôi tổ chức cho đi mua bò , lợn ... cho đơn vị ăn tết .

Tìm được nhà bán 1 con bò giá 1500 Rial . Ngã giá xong xuôi , sau bữa cơm trưa quản lý cùng 2 chú đội mang đủ 1500 Rial đi . Có > 1 km mà chờ mãi không thấy về 

Rồi sau cũng thấy có Bò về , nhưng lẽo đẽo theo sau là 1 bà sồn sồn , vẻ mặt căng thẳng bực bội . 

Chưa kịp hỏi gì , chú quản lý đã nói : Bà ấy cứ đòi xin CÁI ĐUÔI ( cần_tui ) bò .

 Chả hiểu ra làm sao , thì bả đã tiến tới chắp tay chào và nhã nhặn nói : Tôi bán Bò , xin Lục cho Kần_tui   .

 Không tin vào tai , mình hỏi lại : Xin cái đuôi  ? ( Xôm Kần_tui ? ) . 

 " Chà - Boòng ! " 

Không hề nghe nhầm .Quái lạ . Xin cái đuôi bò làm khỉ gì nhỉ ?

 Nhưng mình cũng nói : Chị cứ về đi , mai chúng tôi thịt , sẽ mang Kần_tui tới nhà cho chị . Bà ta " Tê , Tê " không chịu . Đòi lấy ngay . 

Mình cáu : Chị bán bò , tôi trả đủ tiền rồi . Con bò giờ là của tôi , tôi thích cho lúc nào là quyền tôi , tôi không cho cũng được đó . 

Rất thản nhiên bả nói : Anh phải cho tôi  Kần_tui . 

- Cho bây giờ , mai mới thịt , thì bò nó chết chứ sống sao được ? .

 Bả cãi : Nó làm sao mà chết ? Bò nhà tôi khỏe , có bị gì đâu .

- Cắt cái đuôi , nó chảy hết máu . Không chết thì sống hả ?

 Bà ta tròn mắt , xua tay :" Tê Tê " , tôi không lấy cái đuôi bò .

 Bà mụ này đúng là thần kinh rồi . Đòi xin Kần_tui mà không chịu lấy đuôi bò .

 Thấy ầm ĩ , bà chủ nhà tôi , từ trên sàn cao đi xuống bảo :

 Xin Kần_tui , không phải là xin cái đuôi con bò .

Mình cãi : Kần_tui là cái Kần_tui  còn gì nữa .

 Bả ôm bụng cười ha hả , chảy cả nước mắt . Hồi lâu mới nói :

Phong tục : bán Bò Trâu là người mua phải cho người bán thêm 1 ít tiền , ngoài giá đã thỏa thuận . Để nhà chủ lấy may , chăn nuôi tiếp không bị trời phạt , hại cả đàn còn lại .

 Mình hỏi bao nhiêu : Bả nói : Tùy tâm , nhưng thường là = 1/10 giá mua .

  Bỏ mịa . Thêm trăm rưởi Rial nữa thì gay go 

 Chắc thấy mình lúng túng . Bà chủ nhà bảo bà kia : Thôi , bán Xamaki cho bộ đội . Lấy Kần_tui 50 Rial là được rồi 

 Bà chủ bò , phân vân rồi đồng ý cầm 50 Rial vui vẻ đi về , và hẹn Lần sau sẽ bán cho rẻ hơn , đừng ngại .

 Nhưng : Coong top Sa mạ chất Vietnam o luy hời .

Hết tiền , nên chưa kịp tìm hiểu thêm về phong tục bán rẻ hơn cho lần mua sau là như thế nào .

 Tết Việt nơi chiến trường K - Svaileu , Xiemreap mới có vừa xa 29 năm thôi .

Chúng tôi ăn Tết ở Lào

       Thế là một cái Tết nữa lại đến với chúng tôi, những người lính của đại đội 15, trung đoàn 134, Bộ tư lệnh thông tin liên lạc đang làm nhiệm vụ tại nước bạn Lào. Đó là cái Tết Quý Sửu 1973.

Cuối năm 1970, chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, trung đoàn 134 đã thành lập một đại đội có nhiệm vụ triển khai và bảo vệ tuyến đường cáp thông tin nhằm phục vụ Đoàn 959 và Bộ tư lệnh quân khu của bạn chỉ huy các lực lượng quân đội giải phóng nhân dân Lào và quân tình nguyện Việt Nam chống lại âm mưu của địch hòng lấn chiếm vùng giải phóng Xiêng Khoảng – Cánh đồng Chum. Đó là đại đội 15 của chúng tôi.

       Đại đội 15 có 2 trung đội: trung đội 4 và trung đội 5 nối tiếp với 3 trung đội của đại đội 14 kéo dài từ Đô Lương, Nghệ An sang đến Noọng Hét (Lào) bao gồm số cán bộ khung (từ tiểu đội trưởng trở lên) lấy từ các đại đội trong trung đoàn, lớp tân binh quê ở Thái Bình và lớp sinh viên hai trường đại học cơ điện Thái Nguyên và đại học bưu điện. Đại đội chúng tôi rải dây tiếp đến tận Phôn Xa Vẳn (nay là thị xã tỉnh Xiêng Khoảng) biên chế thành 4 trạm cơ vụ và 8 tổ bảo vệ. Tôi được biên chế về trung đội 5. Ban đầu vì yêu cầu khẩn trương của chiến dịch, chúng tôi dùng dây bọc dã chiến nhưng như thế thì chất lượng không được tốt và hơn nữa, lúc đó lại đang là mùa khô, chỉ cần một tàn lửa vứt vào đám cỏ bên đường là cả một đồi tranh bốc cháy dữ dội, đường dây bị cháy chập lung tung. Sau đó trung đoàn đã cho thay thế bằng loại cáp FFK60, được chôn ngầm xuống đất để khỏi lộ và chống cháy.

       Tổ bảo vệ của tôi đóng quân tại nơi có khí hậu thuộc vào loại tốt nhất tỉnh Xiêng Khoảng. Mùa khô không đến nỗi rét lắm, mùa mưa thì mát mẻ. Nơi đây có những cánh rừng thông rộng mênh mông ngày đêm reo vi vu trong gió. Thông nhiều đến nỗi tỉnh Xiêng Khoảng có hẳn một huyện gọi là huyện Thông (Mường Pẹc). Mỗi khi xuân về, thông nhú chồi non trông như những ngọn nến xinh xinh xanh mơn mởn. Gần nơi chúng tôi ở có một bản người dân tộc Khơ Mú hay còn gọi là Lào Cang (người Lào ở lưng chừng núi). Bản lưa thưa chỉ có năm, sáu nóc nhà nằm rải rác ẩn hiện dưới những lùm cây mận, cây đào đang độ ra hoa vừa trắng vừa hồng nom thật thơ mộng. Mùa xuân ở đây, nếu không có tiếng máy bay trinh sát OV-10 suốt ngày vè vè đến là khó chịu, tiếng máy bay phản lực Mỹ gầm rú, tiếng bom nổ ì ầm đâu đó thì phong cảnh thật là hữu tình thanh bình giống như bản chất hiền lành của người dân Lào vậy. Chả thế mà mùa xuân, tiếng Lào gọi là nham đoọc mạy ban có nghĩa là mùa hoa nở.

Chúng tôi đến đóng quân ở đây đã nhanh chóng đặt quan hệ tình cảm giữa tha hản xư xản Việt Nam (bộ đội thông tin Việt Nam) với người dân địa phương. Việc quan trọng nhất lúc bấy giờ là đem lương khô, thịt hộp và muối ra đổi lấy rau tươi cải thiện bữa ăn, tăng lượng vi-ta-min C cho anh em và tranh thủ học tiếng Lào. Tôi được cái là có năng khiếu ngoại ngữ nên học tiếng khá nhanh. Mỗi khi có thủ trưởng cấp trên đến thăm tổ là tôi đưa ra bản chơi và tạm phiên dịch được. Trong bản có một ông tà sẻng (tương đương với chức chủ tịch xã ở ta), ông cho biết trước đây dân cư cũng khá đông đúc, sống thành một xã. Nhưng trong chiến dịch Cù Kiệt (Gỡ lại danh dự) 1970, giặc Mỹ và bọn tay sai Vàng Pao đã dùng máy bay lên thẳng xúc dân đưa về các trại tỵ nạn trong vùng do chúng kiểm soát. Chỉ có một số ít chạy thoát, được bộ đội Việt Nam dùng ô tô đưa về Con Cuông, Nghệ An. Sau khi quân đội giải phóng nhân dân Lào và bộ đội tình nguyện Việt nam chiến đấu giành lại vùng giải phóng Xiêng Khoảng – Cánh đồng Chum, họ mới trở về quê hương dựng lại làng bản, phục hồi sản xuất. Mặc dù mới trở về chưa đầy hai năm, cuộc sống còn vô cùng khó khăn vát vả, nhưng những người dân Lào ở đây vẫn hết lòng giúp đỡ chúng tôi từ hạt giống rau, con gà, con chó cho đến rèn cho chúng tôi những cây dao quắm để đi rừng. 

      Sau gần hai năm chúng tôi đã có “của ăn, của để”. Chúng tôi xin được một mảnh ruộng để cấy lúa nếp. Vào vụ xuống đồng, chúng tôi đi cấy giúp dân bản để một ông phò thậu (bố già) mang trâu đến cày bừa hộ chúng tôi, mạ thì xin mỗi nhà một ít. Đến mùa lúa chín, ra bản mượn liềm về gặt. Không cần biết năng suất thế nào, nhưng cứ nhìn bốn thùng phuy chứa đầy thóc là chúng tôi sung sướng lắm rồi. Gà thì nhiều không cần biết có bao nhiêu con. Chúng tôi nuôi đến ba con chó nên không sợ cáo đến rình mò bắt gà. Trong chuồng có hai chú lợn béo núc na núc ních. Bắt chước người Lào, chúng tôi lấy một sợi dây đo vòng quanh ngực của con lợn, sau đó chập đôi lại và dùng nắm tay để đo sợi dây đó, mỗi nắm tay tương đương mười cân. Một con được “năm nắm tay” và một con được “bốn nắm tay”. Vườn rau của chúng tôi thôi thì đủ các loại: cải xanh, cải trắng, cải củ, su hào, cải bắp ăn không xuể. Chúng tôi muối thành dưa để viện trợ cho mấy tổ mới được thành lập thuộc trung đội 7 phía trong Cánh đồng Chum. Mùa khô cuối năm 1972, theo đà tổng tiến công của quân ta, đại đội 15 chúng tôi đã phát triển thêm 3 trạm cơ vụ và 6 tổ bảo vệ, vị chi là 6 trạm và 14 tổ, trong đó có một trạm được vinh dự phục vụ ông Si-sa-vạt Kẹo-bun-phăn, tư lệnh quân khu Xiêng Khoảng – Cánh đồng Chum, nay là Chủ tịch Mặt trận xây dựng đất nước Lào và một trạm chỉ còn cách căn cứ Sảm Thông của phỉ Vàng Pao chưa đầy chục cây số.Đầu năm 1973, ô tô của trung đoàn chở thêm cáp và lương thực, thực phẩm sang cho đại đội dự trữ trong mùa mưa. Xe đổ hàng cho tổ tôi ở một bãi ngoài bìa rừng cạnh đường số 7 cách nhà khoảng ba cây số. Hàng nhiều đến nỗi đại đội phải điều thêm một tổ xung kích đến giúp chúng tôi vận chuyển về tổ. Chúng tôi động viên nhau cố gắng mang hết hàng về thật nhanh gọn để còn có thời gian chuẩn bị đón Tết.

      Công việc chuyên môn của chúng tôi như thay những cuộn cáp có từ hai mối nối trở lên, hàn lại những mối nối không đạt chất lượng, lau đầu cáp đã hoàn tất, chúng tôi bắt tay vào lo cho cái Tết. Gọi là lo nhưng thật ra mọi cơ sở vật chất đã khá đầy đủ. Thóc nếp có, chỉ việc mang ra bản giã nhờ. Người Lào không có cối xay như ở ta mà chỉ có cái cối dậm bằng chân. Thóc cho vào cối, giã lượt đầu cho bong vỏ trấu xong mang ra sảy, sau đó lại cho vào cối giã lần thứ hai đến khi nào trắng thì thôi. Đỗ xanh cũng có. Đỗ xanh là của binh trạm cung cấp cho đơn vị ngâm lấy giá ăn hàng ngày. Lợn, gà đã sắn trong chuồng. Lá dong mọc đầy khe suối, chỉ đi một lúc là cắt được về hàng ôm. Còn thiếu rượu, ngày Tết mà không có tý rượu thì mất vui. Tôi ra bản xin men và hỏi cách làm cơm rượu. Gạo nếp đồ lên thành cơm, để nguội, bóp vụn men rắc vào, trộn đều rồi cho vào thùng lương khô, quấn bao tải xung quanh ủ cho đến khi nào cơm rượu chảy nước, dạy mùi thơm thì thôi.

      Sáng hôm ấy, tôi gánh hai thùng lương khô đựng đầy cơm rượu và một xâu bi đông đến nhà ông tà sẻng mượn nồi niêu, đồ nghề nấu nhờ. Tôi trút cơm rượu vào một cái nồi to, đặt cái để hứng rượu có đường ống chảy ra ngoài lên miệng nồi và một nồi nước lạnh chồng lên trên cùng. Sau đó tôi nhào tý đất ướt trét kín xung quanh miệng nồi bên dưới và bắt đầu “nổi lửa lên em”. Được một lúc, tôi bỗng ngửi thấy có mùi khen khét của cơm khê. Tôi vội gọi ông tà sẻngcầu cứu. Ông cười bảo chắc là do tôi quên chưa cho thêm nước lã vào rồi. Ông bảo tôi cầm cái chậu chạy xuống suối cạnh nhà múc nước còn ông dỡ nồi nước lạnh bên trên ra. Tôi mang nước về, ông đổ ngay vào nồi cơm rượu và lấy đũa cả ngoáy đều lên, sau đó đậy điệm tất cả và trét đất lại như cũ. Tôi lại thổi lửa lên. Chỉ mươi phút sau, một dòng nước trong vắt theo đường ống chảy long tong vào chiếc bi đông mà tôi đã hứng sẵn ở ngay đầu ống. Tôi háo hức lây một cái chén con hứng một tý nếm thử. Một hương vị cay cay, tê tê, ngọt ngọt của rượu ngay đầu lưỡi làm tôi sung sướng. Thế là một thằng con trai ở nơi “đất thánh” Hà Nội, lần đầu tiên trong đời đã biết cách nấu rượu. Cứ đầy một bi đông tôi lại nếm. Được bốn bi đông tôi nếm thấy nhạt. Tôi kêu lên: “Chứt lẹo! (Nhạt rồi!)” và dập lửa không lấy thêm nữa. Tôi đổ tất cả bốn bi đông từ “nước đầu” đến “nước cuối” vào một cái nồi và khoắng đều, sau đó dồn trở lại vào bi đông mang về. Trước khi về, tôi không quên đi đến từng nhà người dân trong bản để mời sáng mùng một Tết vào kin khậu xa ma khi (ăn cơm đoàn kết) với bộ đội Việt Nam. Người Lào đón Tết năm mới không cùng với chúng ta mà diễn ra vào khoảng trung tuần tháng Tư dương lịch tức là vào thời điểm bắt đầu mùa mưa.Bun pi may (Tết năm mới) hay còn gọi là Bun hốt nậm (Tết té nước). Ngày hôm đó, người dân Lào mang những bình nước chứa đầy những cánh hoa thơm đến chùa tắm cho tượng Phật, sau đó té dội lên người nhau và khách qua đường. Họ cho rằng phải thật ướt mới gặp nhiều may mắn.

      Còn một việc khá quan trọng là phải lo trang hoàng nhà cửa và làm báo tường. Việc trang trí nhà cửa thì cũng tùng tiệm vì là vẫn trong hoàn cảnh chiến trường. Chỉ cần ra bản xin một cành đào về cắm vào thùng lương khô, thế là đã ra không khí Tết lắm rồi. Tổ tôi có năm anh em. Tôi khoán cho mỗi người phải viết hai bài báo tường. Còn nhớ ngày mùng một Tết năm ấy trùng với ngày kỷ niệm thành lập Đảng mùng ba tháng hai, tôi viết một bài “xã luận” với nội dung là “Mừng Đảng, Mừng Xuân” và một bài ca dao theo kiểu thơ Bút Tre:

 Bóng chiều của dãy núi Phu He cao sừng sững ngay phía trước nhà đổ dài trên những tràn ruộng còn trơ gốc ra của bản Nậm Cọ. Gió xuân lành lạnh lùa vào cánh rừng sau nhà nghe xào xạc xen lẫn tiếng suối chảy róc rách rì rào. Chúng tôi tranh thủ bắc bếp luộc bánh chưng để khỏi phải thức đêm. Bữa cơm tất niên chiều hôm ấy có món đặc sản tiết canh lòng lợn và một bi đông rượu  có mùi “thơm” đặc biệt vì tôi nấu quá lửa. Tôi nói vui chắc là năm nay có điềm vui. (Quả nhiên chỉ sau đó không đầy một tháng, ngày 23-2-1973, Hiệp định Viêng Chăn lập lại hòa bình trên toàn lãnh thổ Lào được ký kết. Nhưng phải đến tháng 5-1974, đơn vị chúng tôi mới được lệnh rút về nước để nhận nhiệm vụ mới). Mọi người nhắc nhau không nên quá chén đề phòng đường dây thông tin bị mất liên lạc.

   Tối hôm ấy, ngồi bên nồi bánh chưng, chúng tôi nói chuyện vui để cố xua đi nỗi nhớ nhà. Tôi vào bộ đội từ năm 1968, ăn Tết xa nhà đã quen, nhưng có đồng chí mới nhập ngũ đầu năm 1972. Loanh quanh thế nào lại chỉ nói chuyện gia đình, chuyện nhà, chuyện cửa. Tôi nói, nếu còn lành lặn trở về, thế nào cũng cố gắng đến thăm gia đình anh em trong tiểu đội dù chỉ lấy một lần.

   Thế mà phải đến tận hai mươi năm nữa, sau khi Nhà nước xoá bỏ bao cấp, đời sống khấm khá, nhất là từ khi Hội bạn chiến đấu Trung đoàn 134 được thành lập, chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau. Trọng (Thái Bình) nay là chủ tịch Hội nông dân xã. Minh (Phú Thọ) làm công việc hộ tịch ở địa phương. Lai (Hà Tây) làm việc tại một công ty xây dựng, có nhà ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Tòng (Nam Định), vốn đã có nghề loa đài từ trước khi vào bộ đội, mở một cửa hàng sửa chữa ti vi tại nhà. Riêng Tú, cậu em út của tiểu đội, quê ở Phủ Lý thì phải ba mươi năm tôi mới gặp lại, vì sau khi ra quân, Tú vào công tác tại đoàn thăm dò dầu khí đồng bằng sông Cửu Long và lập gia đình định cư ở Vũng Tàu.

   Sáng mùng một, thủ trưởng đại đội gọi điện chúc Tết đơn vị. Các tổ cũng gọi điện chúc Tết lẫn nhau. Chúng tôi làm thịt thêm hai con gà chuẩn bị đón khách.

      Khoảng mười giờ khách đến. Ông tà sẻng cùng đi với hai bà vợ, bà mia nhầy (vợ lớn) và bà mia nọi (vợ bé). Vì bà mia nhầy chỉ sinh được hai cô con gái nên ông tà sẻng lấy thêm bà mia nọi và đẻ được một cậu con trai. Kế tiếp là phò Thao La, người đã cày ruộng cho chúng tôi, với hai cậu con trai. Rồi đến ạiVăn Khăm, người đã rèn cho chúng tôi con dao quắm, đi cùng cô con gái Đuông Xỉ. Tôi mời mọi người vào bàn và bắt đầu đọc một bài diễn văn bằng tiếng Lào (vì sợ bạn đọc rối mắt nên tôi không chép ra đây), đại khái là cảm ơn sự giúp đỡ của dân bản, chúc mọi người du đi mi heng (bình yên mạnh khỏe) và chúc cho tình hữu nghị Việt – Lào đời đời “như nước Hồng Hà - Cửu Long”. Không có cốc chén, rượu được rót ra bát. Mọi người cười khen lậu xẹp (rượu ngon). Nhìn hai bà vợ ông tà sẻng lóng ngóng cầm đũa ăn bánh chưng, chúng tôi bật cười. Người Lào xưa nay vẫn có thói quen ăn bốc. Họ cho rằng hạt lúa là hạt sữa do Mẹ Đất ban tặng nên phải quý trọng nâng niu. Ông tà sẻng rất thích ăn món dồi lợn. Một lần nhà ông mổ lợn, ông nhờ chúng tôi ra làm hộ món dồi. Tôi bảo: “Anh cứ làm thịt lợn cho xong, để riêng chậu tiết, chúng em sẽ ra làm dồi”. Sáng hôm sau, tôi và Minh ra bản thì đã thấy cô con gái ông cho một bát ớt bột vào chậu tiết rồi. Tôi bực mình bảo làm thế này thì mất ngon nhưng vẫn phải làm cho xong món dồi. Bữa đó tôi ăn có một miếng mà đã xuýt xoa chảy cả nước mắt…

      Đến nay đã hơn ba mươi năm, chúng tôi vẫn ao ước có ngày được trở lại thăm chiến trường xưa trên đát bạn Lào, nơi “có những bản làng đẹp như hoa chăm pa”, thăm lại các phò mè, phì noọng và nhân dân tỉnh Xiêng Khoảng, những người đã góp phần không nhỏ giúp đỡ đại đội 15 chúng tôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chỉ có 5 năm từ khi thành lập đã được Đảng và Nhà nước tuyên dương là Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

ái tết thứ ba của tôi trong quân đội (đầu năm 81): Trong thời gian bác sapaco nằm viện f5 ở Sisiophon thì tôi ở cách đó trên 30 km về hướng Poipet trong 1 khu rừng dầu có địa danh là Don Thomo (Mỏ đá). Tết năm đó đại đội chúng tôi (c13 d3 e4 f5) được cấp 1 con heo cái nhỡ nặng khoảng vài chục kg từ trước tết cả tháng với lời dặn nuôi thúc cho nó lớn để dành ăn tết.

Ban chỉ huy đại đội của chúng tôi nuôi con heo nhỡ này chung với 1 con xa-ra nữa. Con xa-ra này là loại chó cỏ thôi. Hàng ngày nó vẫn chạy theo đít cô heo cái nhỡ kia làm một động tác duy nhất là liếm cái cơ quan sinh sản của cô heo nọ. Nó liếm riết mà con heo bị lở ch. thối thịt nằm chờ chết. Ban chỉ huy đại đội phải làm thịt sớm cô heo này, chia cho mỗi trung đội được vài ký thịt chứ mấy vì heo bệnh nên ốm nhách, thịt thà chẳng có bao nhiêu.

Heo chết có nhiều dạng, riêng dạng heo chết vì bị chó liếm... chết kiểu này lần đầu tiên trong đời tôi thấy mới lạ chứ. Chuyện thật 100% không tin hỏi boòng Hôi thì biết

ở tuổi 18, mình lần đầu tiên hưởng tết, xa gia đình và bạn bè, bù lại mình có tình đồng chí đồng đội hơn cả ae ruột thịt vì đây là chiến trường, giữa cái sống và chết gần nhau lắm, phải nói thật lòng với nhau rằng: không thể nào quên cái tết đầu tiên xa gia đình, bố mẹ, chị em vì ngày tết năm ấy, đồng đội của mình ở K 1 D 4 E 174 F 5 đã nằm lại trên lộ 10 trong đánh chặn đường rút của pốt sang thailand.

Ngày mùng 1 tết là giỗ thứ 32 của B trưởng B1 Nguyễn Quang Khởi người Hải Phòng mất lúc 11 giờ 25 ( lính 1974 )nhắc tới anh Khởi, là nhớ ngay kỷ niệm ngày 29 tết năm ấy, cả đơn vị từ trưa đã hết sạch nước uống rồi, khát khô cả họng, đến nổi trong miệng không còn nước miếng nữa, khô khốc... gần đêm thì đơn vị té xuống một con suối cạn, phép tiên đã hiện ra đâu đó còn một số vũng còn đầy nước, lấy cái nón cối tàu múc ngay một mũ, uống nó ngon và ngọt làm sao ấy, phải nói thật rằng chưa bao giờ mà uống được thứ nước ấy, nó thật ngọt và ngon như vậy, nhưng sang cái mũ thứ hai thì một mùi tre ngăm lâu ngày trong nước xộc lên ngay mũi ( trời đen thui có thấy được gì đâu )rồi đơn vị dừng chân, bố trí đội hình dọc theo con suối cạn này, gần đến giờ giao thừa thì việc cơm nước cũng đã xong ( cơm nóng với bịch bột nêm của mì gói do B  phó Liêm đưa ra ) và cái linh tính mách bảo sao đó, B trưởng Khởi, thôi mai tết rồi, giờ tao đi tắm để mai sạch sẽ ăn tết chứ, và đúng là ăn tết có đk, b 40, b41, ak bắn thay pháo và anh cũng vĩnh viễn rời xa ae đồng chí đồng đội của anh, không hiểu sao, khi đưa anh xuống lòng suối cạn, mình băng bó vết thương gây tử vong cho anh, mình lại không khóc, mặt anh lem đây thuốc súng, băng bó và vuốt mắt cho anh, mình nhìn ngước lên thấy K trưởng Riềng chảy nước mắt ( anh Khởi là truyền đạt và là đồng hương với thủ trưởng Riềng, sau này mới phân về nắm B trưởng B1 của mình ) đó năm đầu tiên ăn tết của mình là vậy đó, với các đồng đội 174 năm ấy hảy cùng lên và cùng ôn lại những ngày này năm ấy đã cách đây 32 năm, giờ ai còn ai mất   ai sẽ ra sao khi ngày tết đã gần

Năm 1983,cái tết đáng nhớ nhất trong đời lính của tôi,sau 2 tháng đi chốt trực chiến về đến D bộ,ở chốt suốt ngày nghe nhạc vàng và nghe lời kêu gọi của tên Hoàng văn Hoan,bụng thì đói,lòng thì nhớ bố mẹ,nhớ em,mình muốn đạp tan cái loa tâm lý của bọn TQ quá,mấy anh em lẩm bẩm chửi nó suốt....mẹ cha chúng mày vì chúng mày gây chuyện ...làm chúng ông khổ thế này đây..về đến D bộ không khí đón tết ngày 27+28 tết cũng buồn lắm,tiêu chuẩn 4,5 lạng thịt+2 cái bánh trưng/3 ngày tết....không trà, không rượu...không bánh kẹo...không hoa...vv...vv,mấy ông chỉ huy hô hào cho anh em ăn toàn khẩu hiệu...mấy anh em bàn nhau thôi thì mấy thằng mình tự lo vậy bằng 2 cách chính đáng và không chính đáng,thằng nào còn  quần áo thì bán đi...mua rượu...còn gà thì vào bản xa xa vay lấy một....đàn...khi nào có thì trả..ôi trời có mắt,bao nhiêu toan tính của bọn này đều trở thành hiện thực....đùng 1 cái tôi nhận được thơ và quà gia đình...vừa đọc thơ chia xẻ cùng anh em ...vừa khóc,vui quá các bạn nhỉ?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: