trngjkfl 2
3. Hiến pháp năm 1959.
a. Hoàn cảnh ra đời.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954). Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là: xây dựng chủ nghĩa XH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Thêm vào đó, quan hệ giai cấp trong XH miền Bắc đã thay đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Liên minh giai cấp công nhân và nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh. Hiến pháp 1946 "đã hoàn thành sứ mạng của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy chúng ta cần sửa đổi Hiến pháp ấy" (Hồ Chí Minh- báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959).
Ngày 23/1/1957 tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá I đã ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập ban sửa đổi Hiến pháp đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 1/4/1959, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến. Tại Kỳ họp thứ I Quốc hội khoá 11, ngày 31/12/1959, Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp này.
Sở dĩ Hiến pháp 1959 được gọi là Hiến pháp sửa đổi là vì 1ý do chính trị. Lúc đó, nước ta bị chia cắt thành hai miền, không thể tiến hành tổng tuyển cử để bầu ra một Quốc hội để xây dựng một bản Hiến pháp mới. Chính vì vậy cần phải lấy danh nghỉa Hiến pháp sửa đổi để đảm bảo việc sửa đổi Hiến pháp vẫn được thông qua bởi các đại biểu đã được bầu trong tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 với đầy đủ thành phần đại biểu của nhân dân hai miền.
b. Nội dung cơ bản:
(1) Về hình thức:
- Hiến pháp 1959 gồm có lời nói đầu và 112 điều chia thành 10 chương.
(2) Về nội dung:
+ Lời nói đầu khẳng định những thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam, khẳng định những truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam) đồng thời xác định bản chất của NN ta là NN dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Khẳng định vị trí của Việt Nam trên thương trường quốc tế
Chương I: Gồm 8 điều quy định về "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà": chính thể của NN ta vẫn là NN cộng hoà dân chủ nhân dân, xác định tất cả quyền lực của NN đều thuộc về nhân dân. Hiến pháp khẳng định Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia cắt, khẳng định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc...
Chương II: Gồm 13 điều quy định về "Chế độ KT và XH" bao gồm đường lối, chính sách phát triển KT, các hình thức sở hữu (NN, tập thể, của người lao động riêng lẻ và của nhà tư sản dân tộc), về chính sách KT của NN đối với các thành phần KT ... so với Hiến pháp 1946 thì chương này là một chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước XHCN. Vì vậy, ngoài việc quy định KT quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền KT quốc dân, Hiến pháp còn quy định NN lãnh đạo hoạt động KT theo một kế hoạch thống nhất.
Chương III: Gồm 21 điều quy định "Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Ở chương này, Hiến pháp1959 đã kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946 về các quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định những quyền và nghĩa vụ mới như: quyền của người lao động được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (điều 32); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật (điều 34); quyền khiếu nại, tố cáo (điều 29); nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (điều 46)......
Chương IV: Quốc hội, bao gồm 18 điều quy định các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Quốc hội-cơ quan quyền lực NN cao nhất. So với nhiệm kỳ của Nghị viện theo Hiến pháp1946 thì nhiệm kỳ của Quốc hội dài hơn (04 năm so với Hiến pháp 1946 là 03 năm). Hiến pháp 1959 thì quy định quyền hạn của Quốc hội cụ thể hơn (điều 50). Quốc hội có cơ quan thường trực là Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngoài ra, Quốc hội còn thành lập các Uỷ ban chuyên trách (Uỷ ban dự án PL, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban thẩm tra tư cách của các đại biểu và các Uỷ ban khác mà Quốc hội thấy cần thiết)....
Chương V: Chủ tịch nước, bao gồm 10 điều. Theo Hiến pháp 1959 thì Chủ tịch nước và Phó chủ tịch nước không nằm trong thành phần Chính Phủ. Chủ tịch nước chỉ là người đừng đầu NN về mặt đối nội cũng như đối ngoại. Vì vậy, chế định Chủ tịch nước được quy định thành một chương riêng. So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước từ 35 tuổi trở lên, là công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Quyền hạn của Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1959 hẹp hơn so với Hiến pháp1946.
Chương IV: Hội đồng Chính Phủ bao gồm 07 điều. Theo quy định của điều 71 thì Hội đồng Chính Phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực NN cao nhất và cũng là cơ quan hành chính cao nhất. Quy định này chứng tỏ Hội đồng Chính Phủ theo Hiến pháp 1959 được tổ chức hoàn toàn theo mô hình Chính Phủ của các nước XH chủ nghĩa. Về thành phần của hội đồng Chính Phủ (điều 72) không có Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước và các Thứ trưởng.
Chương VIII: HĐND và Uỷ ban hành chính địa phương các cấp bao gồm 14 điều. So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 quy định 04 cấp chính quyền (trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã), cấp bộ được bãi bỏ. Các đơn vị hành chính đều tổ chức HĐND và Uỷ ban hành chính, các cơ quan dân cử được đề cao, được xác định là cơ quan quyền lực NN ở mỗi cấp. Uỷ ban hành chính cấp nào do HĐND cấp đó bầu ra.
Chương VII: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân gồm 15 điều. Hiến pháp 1959 quy định thành lập hệ thống Toà án tương ứng với các cấp chính quyền địa phương từ cấp huyện trở lên, do cơ quan dân cử cùng cấp bầu; quy định thành lập hệ thống Viện kiểm sát độc lập, theo nguyên tắc tập trung thống nhất để thực hiện chức năng giám sát theo PL và công tố....
Chương IX: Quy định về Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô.
Chương X: Quy định về sửa đổi Hiến pháp.
c. Nhận xét chung:
- Văn phong và cách trình bày từng chương, từng điều, khoản cụ thể, dài, và chi tiết hơn so với Hiến pháp 1946. Cụ thể lời nói đầu dài gấp 4 lần lời nói đầu của Hiến pháp 1946.
- Thứ tự sắp xếp và tên gọi của từng chương có sự thay đổi. Ví dụ: Chương I " Nước Việt nam dân chủ cộng hoà"; Chương II "chế độ KT và XH"; Chương III "Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân"
- Nội dung quy định trong Hiến pháp phong phú , đa dạng hơn, trải rộng tên các lĩnh vực KT, văn hoá, XH, giáo dục, khẳng định các quyền cơ bản của công dân.
- Bộ máy NN được tổ chức với 4 hệ thống cơ quan theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực vào cơ quan đại diện cao nhất ( Quốc hội).
- Ý nghĩa của Hiến pháp 1959.
- Hiến pháp 1959 ghi nhận thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân ta, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
- Hiến pháp 1959 là Hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nguyên tắc tập quyền XHCN được đề cao.
- Hiến pháp 1959 là cương lĩnh đấu tranh để thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
4. Hiến pháp năm 1980.
a. Hoàn cảnh ra đời .
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976, cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976), Quốc hội đã thông qua những Nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 vị do Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm chủ tịch.
Sau hơn một năm chuẩn bị khẩn trương, dự thảo Hiến pháp đã được lấy ý kiến, thảo luận trong cán bộ và nhân dân. Ngày 18/12/1980 tại kỳ thứ 7 Quốc hội khoá VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới. Hiến 1980 được xây dựng và thông qua trong không khí hào hùng và tràn đầy niềm tự hào dân tộc sau Đại thắng mùa xuân năm 1975. Với tinh thần" lạc quan cách mạng" và mong muốn nhanh chóng xây dựng thắng lợi CNXH tiến tới CNCS ở nước ta, bản Hiến pháp này không tránh khỏi các quy định mang tính chủ quan, duy ý chí và quan niệm giản đơn về CNXH.
b. Nội dung cơ bản.
(1) Về hình thức : Hiến pháp 1980 bao gồm lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
(2) Về nội dung:
Lời nói đầu khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, xác định những nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp 1980 đề cập.
Chương I: Qui định về "Chế độ chính trị của NN CHXHCN Việt Nam", bao gồm 14 điều.
Chương này xác định bản chất giai cấp của NN ta là NN chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của NN ta là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS (Điều 12). Lần đầu tiên Hiến pháp 1980 thể chế hoá chính thức vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với NN bằng quy định của một điều luật cụ thể (Điều 4). So với Hiến pháp 1959 còn ghi nhận thêm một nguyên tắc hoàn toàn mới là nguyên tắc pháp chế XHCN,...
Chương II: Chế độ KT gồm 22 điều.
NN tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần KT phi XHCN, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu XHCN nhằm xây dựng một nền KT quốc dân chủ yếu có hai thành phần là: KT quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và KT hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể (Điều 18). NN lãnh đạo nền KT quốc dân theo kế hoạch thống nhất (Điều 33)...
Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; bao gồm 13 điều.
Đây là một chương hoàn toàn mới. Chương này quy dịnh mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá (Điều 37), xác định chính sách về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và các công tác thông tin báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình,...
Chương IV: Bảo vệ tổ quốc XHCN; bao gồm 3 điều.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, vấn đề này được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Chương này xác định đường lối quốc phòng của NN (Điều 50), xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51) và việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự (Điều 52).
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bao gồm 32 điều.
Kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp 1980 quy định thêm một số quyền mới của công dân như quyền tham gia quản lý công việc của NN và XH (Điều 56), quyền học không phải trả tiền (Điều 60), khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62),...
Về các nghĩa vụ của công dân, Hiến pháp 1980 qui định thêm: Công dân có nghĩa vụ tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân (Điều 77), nghĩa vụ tuân theo kỷ luật lao động, bảo vệ an ninh chính trị, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống XH (Điều 78), nghĩa vụ lao động công ích (Điều 80)....
Do quan niệm giản đơn về CNXH, cũng như bệnh chủ quan, duy ý chí khi thông qua Hiến pháp 1980, nên nhiều quyền của công dân đề ra quá cao, không phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển KT - XH và vì thế các quyền này không mang tính khả thi, không có điều kiện vật chất để đảm bảo thực hiện.
Chương VI: Quốc hội; bao gồm 16 điều.
So với Hiến pháp 1959 thì về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội theo Hiến pháp 1980 là không thay đổi. Nhưng về cơ cấu tổ chức Quốc hội thì có sự thay đổi lớn. Theo Hiến pháp 1980, cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng NN, đây cũng là Chủ tịch tập thể của NN CHXHCNVN. Hiến pháp 1959 quy định khi Quốc hội họp thì bầu chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp. Theo Hiến pháp 1980, thì Quốc hội sẽ bầu ra Chủ tịch và Phó chủ tịch Quốc hội. Đây là những chức danh mới theo Hiến pháp 1980.
Hiến phápđề cao quá mức quyền hạn của Quốc hội bằng quy định:"Quốc hội có quyền tự định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết".
Chương VII: Hội đồng NN; bao gồm 6 điều.
Đây là một chương mới so với Hiến pháp 1959. Hội đồng NN vừa là cơ quan cao nhất, hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là Chủ tịch tập thể của nước CHXHCNVN. Hội đồng NN có nhiệm vụ, quyền hạn rất lớn bởi vì vừa thực hiện chức năng của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng Chủ tịch nước. Quốc hội có thể giao cho Hội đồng NN những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Thể chế Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như vậy thường vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc nhiều khi chậm chạp, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng NN chưa thật rõ ràng...
Chương VIII: Hội đồng Bộ trưởng; bao gồm 8 điều.
Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ của nuớc CHXHCNVN là " cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực NN cao nhất". Với quy định này, chúng ta thấy tính độc lập của Chính phủ trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế. So với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định cho Hội đồng Bộ trưởng một số quyền hạn mới cho phù hợp với nhu cầu XH như tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài NN về KT, tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm NN....Hiến pháp 1980 qui định trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng NN.
Chương IX: HĐND và Ủy ban nhân dân (14 điều ).
Chương này quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và Uỷ ban nhân dân. Hiến pháp 1980 quy định nước ta có ba cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn.
Khu tự trị đã được bãi bỏ nhưng lập thêm khu vực hành chính đặc khu. Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập HĐND và Uỷ ban nhân dân...
ChươngX: Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân (15 điều).
Các quy định về chương này về cơ bản giống với Hiến pháp 1959.
ChươngXI: quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô.
Chương XII: Quy định hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
c. Nhận xét chung.
- Số lượng chương, điều tăng hơn so với Hiến pháp 1959, trong đó có bổ sung một số nội dung hoàn toàn mới như đã trình bày;
- Chế độ KT quy định khác hẳn so với HP 1959.
- Quyền công dân còn mang tính hình thức, không khả thi.
- Tổ chức bộ máy NN được quy định từ Chương VI đến Chương X mang dấu ấn của quan điềm về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quan điiểm này được xem như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nội dung và tinh thần của Hiến pháp 1980. Nhưng ảnh hưởng mạnh mẽ và rõ nhất là trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy NN, đó là việc áp dụng chế độ làm việc tập thể trong hoạt động của các cơ quan NN, không chỉ là ở các cơ quan dân cử (QH, HĐND) mà còn ở cả chế định nguyên thủ quốc gia - cũng làm việc theo chế độ tập thể ( bỏ chế định chủ tịch nước, thiết lập chế định hội đồng NN - là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên và là chủ tịch tập thể của nước CHXHCNVN); các cơ quan chấp hành và điều hành ở trung ương (Hội đồng bộ trưởng) cũng như địa phương (UBND) đều làm việc theo chế độ tập thể. Có quy định mang tính chất nguỵ biện "HĐBT là chính phủ của nước công hoà XH chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính NN cao nhất của cơ quan quyền lực NN cao nhất" ( Điều 104).
- Đề cao quá mức vai trò, thẩm quyền của các cơ quan dân cử ở trung ương cũng như ở địa phương như : "Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, xét khi thầy cần thiết" ( Điều 83) với quan niệm cho rằng QH phải là cơ quan quyền lực NN cao nhất, tập trung mọi quyền lực NN vào QH thì mới thể hiện được quyền lực nhân dân . Hội đồng nhândân là cơ quan quyền lực nàh nước ở địa phương có quyền "Quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa phưong về mọi mặt" (Điều 144).
Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng Hiến pháp 1980 vẫn có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta.
- Ý nghĩa.
o Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của nước CHXHCNVN thống nhất, Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước.
o Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỉ qua, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta quyết tâm xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
o Hiến pháp 1980 thể chế hoá cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, NN quản lý".
5. Hiến pháp năm 1992.
a. Hoàn cảnh ra đời.
Nếu như Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong hoàn cảnh đất nước chan hòa khí thế lạc quan, hào hùng của đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được ban hành vào cuối những năm 60-70 đã khẳng định đây là thời kì xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng KT- XH của đất nước.
Sau một thời gian dài áp dụng, Hiến pháp 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện KT, XH của đất nước. Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực KT, chính trị, XH, chính sách đối ngoại,...đặc biệt là đổi mới về KT - đây là Đại hội mở ra thời kỳ mới về phát triển KT đất nước với những chủ trương của Đảng là nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện ra những sai lầm trong chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và NN, phát huy nền dân chủ XH chủ nghĩa, phát huy sự sáng tạo của nhân dân lao động từ đó nhận thức đúng đắn hơn về chủ trương, chính sách của Đảng và NN, làm cho dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, văn minh.
Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách đối ngoại, tháng 12/1988 Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu Hiến pháp 1980, bỏ hết những câu chỉ đích danh từng tên thực dân, từng tên đế quốc,...để thực hiện phương châm "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" với những nước đã từng xâm lược và gây tội ác đối với nhân dân ta.
Để dân chủ hoá đời sống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường vị trí và vai trò của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30/6/1989, tại kỳ họp thứ 5 nhiệm kỳ khoá VIII đã thông qua Nghị quyết sửa đổi 7 điều Hiến pháp 1980 để qui định thêm công dân có quyền tự ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND quy định việc thành lập cơ quan thường trực HĐND từ cấp huyện trở lên.
Cũng trong kỳ họp này, Quốc hội ra Nghị quyết thành lập Uỷ ban soạn thảo sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Uỷ ban này gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng NN Võ Chí Công làm chủ tịch.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Ngày 15/04/1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp 1992.
b. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo của Đảng đối với việc sửa đổi Hiến pháp 1980.
Sự lãnh đạo của Đảng thông qua Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương, thể hiện rất rõ trong tiến trình soạn thảo Hiến pháp sửa đổi. Sự lãnh đạo đó thể hiện qua những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất: Hiến pháp mới trong mối quan hệ với đường lối đổi mới toàn diện của Đảng:
(1) Cơ sở lý luận để tiến hành đổi mới: Phải dựa vào và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH vào những hoàn cảnh cụ thể của nước ta, những kinh nghiệm đúc kết được qua quá trình thực hiện ba bản Hiến pháp, cũng như đóng góp của cán bộ, nhân dân và kinh nghiệm của nước ngoài.
(2) Định hướng đổi mới: Phải khẳng định mục tiêu xây dựng CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn
(3) Căn cứ cụ thể để tiến hành đổi mới: Phải căn cứ vào những nội dung chủ yếu của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược phát triển KT - XH đến năm 2000 do Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra.
(4) Nội dung đổi mới: Hiến pháp mới phải thể chế hoá đường lối đổi mới toàn diện của Đảng bằng việc đẩy mạnh đổi mới KT đồng thời đổi mới vững chắc về chính trị.
Thứ hai: Hiến pháp mới với những vấn đề liên quan đến quyền lực NN:
(1) Vấn đề bản chất của NN:
Hiến pháp mới phải khẳng định tính chất NN ta là NN chuyên chính vô sản. Tính chất giai cấp của NN không thay đổi. Nội dung thể hiện của chuyên chính vô sản là chính quyền NN thuộc về nhân dân. Chính quyền đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Trong điều kiện hiện nay, việc thể chế hoá nội dung trên cần thận trọng, cần phải có các quy định cho thích hợp, căn cứ vào cách ghi trong cương lĩnh.
(2) Vấn đề chủ thể quyền lực NN và cách thức thực hiện quyền lực NN, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan NN trung ương.
Hiến pháp mới phải tiếp tục khẳng định mọi quyền lực NN thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực thông qua Quốc hội do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy NN theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực NN thống nhất tập trung vào Quốc hội, không phân chia các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo "Thuyết tam quyền phân lập". Chỉ có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ , Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình, với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực NN thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
(3) Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị và bộ máy NN:
Hiến pháp mới phải đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện quản lý NN bằng PL, tăng cường pháp chế XH chủ nghĩa. Bộ máy NN nói chung và hệ thống hành chính nói riêng cần được đổi mới một cách vững chắc, có bước đi thích hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện nước ta, phù hợp với cơ cấu KT và cơ chế quản lý KT mới; kế thừa, phát huy kết quả và kinh nghiệm thực tế đã thu được trong việc xây dựng bộ máy NN mấy chục năm qua, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài
Thứ ba: Hiến pháp mới với nền dân chủ XHCN:
1. Hiến pháp mới phải thể chế hoá nền dân chủ XHCN (nhân dân làm chủ đất nước) bằng việc quy định rõ hơn và đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của công dân, các quyền cơ bản của con người được tôn trọng và bảo vệ bằng PL.
2. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân phải kết hợp hài hoà những yêu cầu của cuộc sống với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm lợi ích của NN, của tập thể, của cá nhân và có khả năng thực hiện trên thực tế.
3. Đi đôi với mở rộng quyền tự do dân chủ phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật, tránh tình trạng lợi dụng các quyền công dân để gây mất ổn định chính trị, làm thiệt hại đến lợi ích chung của NN và nhân dân.
Thứ tư: Hiến pháp mới với vai trò lãnh đạo của Đảng:
(1) Hiến pháp mới phải khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo NN, XH. Vai trò và trách nhiệm đó do sứ mệnh lịch sử giao phó, nhân dân thừa nhận và phải được Hiến pháp quy định.
(2) Đảng lãnh đạo XH bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, các chủ trương lớn được thể chế hóa trong Hiến pháp và PL. Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức và bằng hành động gương mẫu của Đảng viên. Đảng giới thiệu những Đảng viên ưu tú và công dân ngoài Đảng có đủ năng lực và phẩm chất ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của NN.
Tất cả những tư tưởng chỉ đạo trên đây đều được thể hiện rõ nét và cụ thể trong các quy định của Hiến pháp 1992.
c. Nội dung cơ bản:
Hiến pháp 1992 gồm lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu: Ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam, xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới và xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp sẽ quy định.
Chương I: Chế đô chính trị cũng bao gồm 14 điều như Hiến pháp năm 1980.
Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 không dùng thuật ngữ "NN chuyên chính vô sản" mà dùng thuật ngữ "NN của dân, do dân và vì dân". Việc thay đổi này không làm thay đổi bản chất của NN mà chỉ làm rõ thêm bản chất của NN "của dân, do dân và vì dân" phù hợp với chính sách đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp trong XH cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới và thời đại. Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Hiến pháp 1992 quy định một đường lối đối ngoại rộng mở.
Chương II: Chế độ KT gồm 15 điều.
Chương này được thay đổi một cách cơ bản nhất, thể hiện rõ nét quan điểm đổi mới của Đảng và NN ta. Hiến pháp 1992 đã chuyển đổi từ nền KT kế hoạch hóa tập trung hai thành phần sang nền KT hàng hoá thị trường nhiều thành phần. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định: KT cá thể, KT tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh (Điều 21). Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần KT được liên doanh, liên kết với các cá nhân, tổ chức KT trong và ngoài nước theo quy định của PL (điều 22). Như vậy, Hiến pháp đã xác định sự bình đẳng của các thành phần KT trước PL. Hơn nữa, NN ta còn khuyến khích đầu tư nước ngoài...
Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ; bao gồm 14 điều. Xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam, "giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". Có thể nói rằng, Hiến pháp 1992 đánh dấu bước phát triển mới trong chính sách giáo dục và đào tạo của nước ta.
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; bao gồm 5 điều. Xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Hiến pháp 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân...
Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bao gồm 34 điều. So với Hiến pháp 1980 thì chương này trong Hiến pháp 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền lợi và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Lần đầu tiên trong Hiến pháp 1992 quy định"Các quyền con người về chính trị, dân sự, KT, văn hoá và XH được tôn trọng" (điều 50), quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (điều 57), công dân có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức KT khác" (điều 58). Công dân có "quyền được thông tin". Ngoài việc thiết lập các quyền mới kể trên, hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện KT XH của đất nước và không có tính khả thi.
Chương VI: Quốc hội; 18 điều.
Hiến pháp 1992 có bổ sung thêm về quyền hạn của Quốc hội như quyết định xây dựng chương trình luật, pháp lệnh; quyết định chính sách dân tộc của NN; quyết định trưng cầu dân ý (điều 48). Về cơ cấu tổ chức Quốc hội, Hiến pháp 1992 có một số thay đổi nhất định: bỏ thiết chế Hội đồng NN, khôi phục lại chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước như Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1992 qui định Chủ tịch, các Phó chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các Hội đồng, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc chuyên trách (điều 94, 95). Hiến pháp 1992 còn đề cao vai trò của Đại biểu Quốc hội,...
Chương VII: Chủ tịch nước; bao gồm 8 điều.
Với Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước cá nhân được quy định thành một chế định riêng biệt như Hiến pháp 1959. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 quyền hạn không rộng như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước là người đứng đầu NN, thay mặt nước CHXHCN VN về đối nội và đối ngoại.
Chương VIII: Chính phủ; bao gồm 19 điều.
Hiến pháp 1992 kế thừa Hiến pháp 1959 xây dựng chế định Chính phủ theo quan điểm tập quyền "mềm", nghĩa là quyền lực NN vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân biệt chức năng giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, Hiến pháp 1992 quy định" Chính Phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực NN cao nhất và là cơ quan hành chính NN cao nhất của nước CHXHCN VN". Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Ngoài ra, Hiến pháp 1992 còn tăng thêm nhiều quyền hạn khác cho Thủ tướng trong các khoản 2,4,5 điều 114.
Chương IX: HĐND và Ủy ban nhân dân; bao gồm 8 điều.
Hiến pháp 1992 nhấn mạnh tính đại diện của HĐND thông qua điều 119. Hiến pháp 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân 1989 về thành lập Thường trực HĐND ở cấp tỉnh (thành phố thuộc trung ương) và cấp huyện (quận, thành phố thuộc tỉnh), thành lập các ban của HĐND. Theo Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân được tăng cường.
Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; bao gồm 15 điều.
Trước năm 1992 trong hệ thống Toà án nhân dân ở nước ta chỉ có Toà án hình sự và Toà án dân sự. Đến nay trong hệ thống tổ chức Toà án cấp trung ương và cấp tỉnh còn có thêm Toà KT, Toà lao động và Toà hành chính. Hiến pháp 1992 thực hiện chế độ Thẩm phán bổ nhiệm. Đối với Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu. Theo Hiến pháp 1992, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (thành phố thuộc trung ương) thành lập Uỷ ban kiểm sát. Hiến pháp 1992 còn có quy định mới về Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước HĐND về tình hình thi hành luật ở địa phương và trả lời chất vấn của Đại biểu HĐND (Điều 140).
Chương XI: Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, Quốc khánh; bao gồm 05 điều.
Chương XII: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
d. Nhận xét chung:
- Về bố cục, Hiến pháp 1992 klhông có sự thay đổi lớn mà có thay đổi những cái chi tiết, cụ thể như thuật ngữ, câu chữ.
- Lời nói đầu quy định ngắn gọn hơn, vẫn mang những nội dung truyền thống nhưng súc tích hơn, vừa máng tính NN vừa chứa những quy phạm PL giáo dục tư tưởng, chính trị, XH, thể hiện bản chất của Hiến pháp XHCN.
- Nội dung của Hiến pháp, đặc biệt là chương chế độ chính trị khẳng định rõ xu hướng cải tiến trong quan hệ chính trị, đẩy mạnh quan hệ ngoại giao với tất cả các nước.
- Ý nghĩa của Hiến pháp 1992:
Hiến pháp 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam, bởi vì:
o Một là: Đây là bản Hiến pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về KT, từng bước và vững chắc về chính trị.
o Hai là: Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của các Hiến pháp 1946, 1959 và 1980; đồng thời đã vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
o Ba là: Hiến pháp 1992 đánh dấu sự phục hưng và phát triển của nền KT XH Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XX. Nó cũng là tấm gương phản chiếu những tư tưởng đổi mới trong tư tưởng lập hiến và lập pháp của con người Việt Nam.
o Bốn là: Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trong tiến trình phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền triết học pháp quyền thể hiện bản sắc dân tộc; đồng thời thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát triển những tinh hoa của văn hoá pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá thế giới.
e. Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992.
Để đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước do đại hội Đảng lần thứ IX đề ra, tại kỳ họp thứ 09 khóa X (ngày 29/06/2001), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 gồm 22 thành viên do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An là chủ tịch. Ngày 25/12/2001, Quốc hội thông qua Ngị quyết số 51/2001/NQ-QH10 để sửa đổi, bổ sung lời nói đầu và 23 điều của Hiến pháp 1992 nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu là:
(1) Về chế độ chính trị: Sửa đổi, bổ sung 04 điều của Hiến pháp 1992 (điều 02, điều 03, điều 08 và điều 09).
Quan trọng nhất là Điều 02 với hai nội dung:
• Khẳng định NN Việt Nam là NN pháp quyền XHCN.
• Khẳng định quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Điều 03: bổ sung một tư tưởng quan trọng, xác định mục tiêu phát triển chế độ chính trị, mục tiêu của NN ta là nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Điều 08: được sửa đổi nhằm nhấn mạnh thêm tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Điều 09: bổ sung để làm rõ bản chất, cơ cấu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị XH, tổ chức XH và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp XH, các dân tộc, các tôn giáo và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Các sửa đổi, bổ sung nói trên vào chế độ chính trị của Hiến pháp 1992 có ý nghĩa:
• Không làm thay đổi bản chất chính trị, bản chất giai cấp của NN ta.
• Xác định rõ hơn tính nhân dân, tính dân chủ, tính pháp quyền của NN ta; làm rõ hơn cơ chế và phương thức hoạt động của NN Việt Nam.
(2) Về chế độ KT: Sửa đổi, bổ sung thêm vào 05 điều của Hiến pháp 1992 (gồm điều 15,16,19,21,25), trong đó quan trọng nhất là Điều 15 và Điều 16 nói về đường lối, chính sách và mục tiêu xây dựng, phát triển nền KT của NN ta.
Các sửa đổi, bổ sung có những điểm mới sau:
• Xây dựng nền KT độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập KT quốc tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
• Tiếp tục khẳng định tính nhất quán của nền KT thị trường, định hướng XHCN.
• Bổ sung thành phần KT có vốn đầu tư nước ngoài, xác định các thành phần KT đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền KT nước ta.
• Xác định rõ các thành phần KT được tự do phát triển, không bị phân biệt đối xử, được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà PL không cấm. Khuyến khích, tạo điều kiện hơn nữa cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam....
Ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung vào chế độ KT.:
• Không làm thay đổi mục tiêu và bản chất của chính sách phát triển KT của NN ta là: phát triển nền KT thị trường định hướng XHCN.
• Động viên, phát huy tối đa mọi tiềm lực của đất nước để phát triển KT.
(3)Về bộ máy NN: Sửa đổi, bổ sung vào 8 điều (gồm điều 84, 91, 103, 112, 144, 146, 136 và 140), trong đó có những nội dung quan trọng liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan NN then chốt ở trung ương như:
- Đối với Quốc hội (theo sửa đổi, bổ sung Điều 84):
• Chỉ quyết định phân bổ ngân sách trung ương chứ không phân bổ ngân sách NN nói chung như trước đây.
• Có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn....
- Đối với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (theo sửa đổi, bổ sung Điều 91).
• Không còn quyền phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khi Quốc hội không họp như Hiến pháp năm 1992 trước đây.
• Chỉ trong trường hợp "Quốc hội không thể họp được", Uỷ ban Thường vụ mới có quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược ...
- Đối với Chủ tịch nước (theo sửa đổi, bổ sung Điều 103):
• Bổ sung quyền ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong tình trạng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được.
• Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh (chứ không phải cả Nghị quyết như khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 1992 trước đây) ...
- Đối với Chính Phủ : sửa đổi quan trọng nhất liên quan đến các cơ quan thuộc Chính Phủ là: từ nay Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Chính phủ không còn quyền ban hành các văn bản quy phạm PL (quyết định, thông tư, chỉ thị) như trước đây.
- Đối với Viện Kiểm sát nhân dân (theo sửa đổi, bổ sung điềi 137 Hiến pháp 1992).
• Bỏ quy định về chức năng kiểm sát chung của viện kiểm sát nhân dân các cấp (tức là Viện kiểm sát không còn thực hiện kiểm sát vịêc tuân theo PL đối với các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức KT, tổ chức XH, đơn vị vũ trang và công dân,...như Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định).
• Quy định viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (bao gồm kiểm sát các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, cải tạo và thi hành án phạt tù ) đảm bảo PL đuợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Ý nghĩa sửa đổi, bổ sung liên quan đến bộ máy NN:
- Phân định hợp lý thẩm quyền của các cơ quan NN. Tập trung và tăng cường quyền hạn của Quốc hội đồng thời đề cao trách nhiệm của những người giữ các chức vụ chủ chốt của các cơ quan NN ở trung ương trước cơ quan đại diện quyền lực NN cao nhất của nhân.
6. Những tư tưởng xuyên suốt lịch sử lập hiến Việt Nam.
Trong lịch sử Hiến pháp Việt Nam, mặc dù có những thay đổi nhất định song những tư tưởng sau đây được xem là nhất quán và xuyên suốt trong các bản Hiến pháp:
Thứ nhất: Độc lập dân tộc gắn liền với tự do nhân dân. Xuất phát từ bài học đấu tranh giành độc lập đầy gian khổ và hy sinh, các bản Hiến pháp của NN ta đều khẳng định rõ: NN ta là một NN độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Trên cơ sở đó, các bản Hiến pháp đều khẳng định NN ta là NN "của dân, do dân và vì dân". NN đảm bảo và không ngừng pháp huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm lợi ích của tổ quốc và nhân dân. Xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp, thực hiện công bằng XH, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi quyền lực NN đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực NN của mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan đại diện do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Thứ hai: Việc tổ chức quyền lực NN theo nguyên tắc tập quyền XHCN chứ không phân chia theo nguyên tắc " phân quyền triệt để - tam quyền phân lập" như các NN tư sản. Quyền lực NN tập trung vào nhân dân và nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên cơ sở trao quyền cho các cơ quan đại diện ( QH,HĐND) " Quyền lực NN không phân chia và được trao cho Quốc hội và HĐND các cấp" trên cơ sở có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan tạo thành hệ thống thống nhất các cơ quan NN.
Thứ ba: Việc tổ chức quyền lực NN luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - Đảng của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp trí thức được tổ chức dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư: Hiến pháp Việt Nam ngày càng thể hiện xu thế có tính quy luật: mở rộng quyền lợi của nhân dân Việt Nam, thể chế hoá kịp thời những đường lối, chủ trương mà Đảng Cộng sản đề ra. Do đó, nó phản ánh kịp thời những yêu cầu của XH.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro