TRIET
CÂU 1: LÀM RÕ NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ? Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI THỰC TIẾN VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY?
1.1.1 Khái niệm quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất cuả sản xuất và trao đổi hàng hoá .Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị.
1.1.2 Nội dung và sự vận động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá.Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết,cụ thể là:
-Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợpvới hao phí lao động xã hội cần thiết.Vì trong nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không.Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được .Mức hao phí càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh,thu được nhiều lợi nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
-Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết,tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.
Đòi hỏi trên của quy luật là khách quan ,đảm bảo sự công bằng ,hợp lí,bình đẳng giữa những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi cuả nó thông qua “ mệng lệnh” của giá cả thị trường.
Tuy nhiên trong thực tế do sự tác động cuả nhiều quy luật kinh tế ,nhất là quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hoá thường xuyên tách rời giá trị.
Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị,C.mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị.Trong vẻ đẹp này ,giá trị hàng hoá là trục ,giá cả thị trường lên xuống quanh trục đó.Đối với mỗi hàng hoá ,giá cả của nó có thể cao thấp khác nhau,nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất định ,tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của nó
Giá cả thị trường tự phát lên xuống xoay quanh giá trị là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị.
1.2 VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG .
1.2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Thực chất điều tiết sản xuất cuả quy luật giá trị là điều chỉnh tự phát các yếu tố sản xuất như: tư liệu sản xuất ,sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác,từ nơi này sang nơi khác.Nó làm cho sản xuất hàng hoá của ngành này ,nơi này được phát triển mở rộng ,ngành khác nơi khác bị thu hẹp,thông qua sự biến động giá cả thị trường.Từ đó tạo ra những tỷ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành ,các vùngcủa một nền kinh tế hàng hoá nhất định.
Quy luật canh tranh thể hiện ở chỗ :cung và cầu thường xuyên muốn ăn khớp với nhau,nhưng từ trước đến nay nó chưa hề ăn khớp với nhau mà thường xuyên tách nhau ra và đối lập với nhau.Cung luôn bám sát cầu ,nhưng từ trước đến nay không lúc nào thoả mãn được một cách chính xác
Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợpsau đây:
-Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá,trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
-Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị ,hàng hoá bán chạy,lãi cao .Những người đang sản xuất những loại hàng hoá này sẽ mở rộng quy mô sản xuất và sản xuất hết tốc lực ;những người đang sản xuất hàng hoá khác ,thu hẹp quy mô sản xuất cuả mình để chuyển sang sản loại hàng hoá này.Như vậy tư liệu sản xuất ,sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng lên,cung về loại hàng hoá này trên thị trường tăng lên
-Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị,hàng hoá ế thừa ,bán không chạy,có thể lỗ vốn.Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất loại hàng hóa này phải thu hẹp quy mô sản xuất ,chuyển sang sản xuất loại hàng hoá có giá cả thị trường cao hơn ;làm cho tư liệu sản xuất ,sức lao động và tiền vốn ở ngành hàng hoá này giảm đi.
Thực chất điều tiết lưu thông của quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự phát khối lượng hàng hoá từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao,tạo ra mặt bằng giá cả xã hội.Giá trị hàng hoá mà thay đổi ,thì những điều kiện làm cho tổng khối lượng hàng hoá có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi .Nếu giá trị thị trường hạ thấp thì nói chung nhu cầu xã hội sẽ mở rộng thêm và trong những giới hạn nhất định ,có thể thu hút những khối lượng hàng hoá lớn hơn.Nếu giá trị thị trường tăng lên thì nhu cầu xã hội về hàng hoá sẽ thu hẹp và khối lượng hàng hoá tiêu thụ cũng sẽ giảm xuống.Cho nên nếu cung cầu đIũu tiết giá cả thị trường hay nói đúng hơn đIũu tiết sự chênh lệch giũa giá cả thị trường và giá trị thị trường thì trái lại chính giá trị thị trường điều tiết quan hệ cung cầu ,hay cấu thành trung tâm ,chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi trong cung cầu làm cho những giá cả thị trường phải len xuống.
Trong xã hội tư bản đương thời ,mỗi nhà tư bản công nghiệp tự ý sản xuất ra cái mà mình muốn theo cách mình muốn ,và với số lượng theo ý mình .Đối với họ số lượng mà xã hội cần là một lượng chưa biết ,cái mà ngày hôm nay cung cấp không kịp thì ngày mai lại có thể cung cấp nhiều quá số yêu cầu .Tuy vậy người ta cung thoả mãn được nhu cầu một cách miễn cưỡng ,sản xuất chung quy là căn cứ theo những vật phẩm người ta yêu cầu
“… Khi thực hiện quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá trong xã hội gồm những người sản xuất trao đổi hàng hoá cho nhau ,sự canh tranh lập ra bằng cách đó và trong điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và mộy tổ chức duy nhất có thể có cuả nền sản xuất xã hội .Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người sản xuất hàng hoá riêng lẻ biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số lượng bao nhiêu”(C.mác:sự khốn cùng của triết học ,nhà xuất bản Sự thật {8,19_20})
1.2.2. Kích thích lực lượng sản xuất phát triển,tăng năng suất lao động xã hội
Để tránh bị phá sản ,giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu hút được nhiều lãi, từng người sản xuất hàng hoá đều tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật ,hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất để giảm hao phí lao động cá biệt của mình ,giảm giá trị cá biệt của hàng hoá do mình sản xuất ra.Từ đó làm cho kỹ thuật của toàn xã hội càng phát triển lên trình độ cao hơn,năng suất càng tăng cao hơn.
Như thế là chúng ta thấy phương thức sản xuất tư liệu sản xuất luôn bị biến đổi ,dẫn đến sự phân công tỉ mỉ hơn dùng nhiều máy móc hơn,lao động trên một quy mô lớn đưa đến lao động trên một quy mô lớn hơn như thế nào.
1.2.3. Phân hoá những người sản xuất thành người giàu,người nghèo.
Trong xã hội những người sản xuất cá thể , đã có mầm mống của một phương thức sản xuất mới .Trong sự phân công tự phát ,không có kế hoạch nào thống trị xã hội, phương thức sản xuất ấy đã xác lập ra sự phân công ,tổ chức theo kế hoạch ,trong những công xưởng riêng lẻ ;bên cạnh sản xuất của những người sản xuất cá thể nhỏ đã làm xuất hiện sản xuất xã hội .Sản phẩm của hai loại sản xuất đó cùng bán trên một thị trường ,do đó giá cả ít ra cũng sấp xỉ nhau.Nhưng so với sự phân công tự phát thì tổ chức có kế hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều ;sản phẩm của công xưởng dùng lao động xã hội là rẻ hơn so với sản phẩm của những người sản xuất nhỏ,tản mạn.Sản xuất của những người sản xuất cá thể gặp thất bại từ nghành này đến nghành khác .Trong nền sản xuất hàng hoá ,sự tác động cuả các quy luật kinh tế ,nhất là quyluật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả:những người có điều kiện sản xuất thuận lợi ,nhiều vốn,có kiến thức và trình độ kinh doanh cao ,trang bị kĩ thuật tốt sẽ phát tài ,làm giàu.Ngược lại không có các điều kiện trên ,hoặc gặp rủi ro sẽ mất vốn phá sản.Quy luật giá trị đã bình tuyển ,đánh giá những người sản xuất kinh doanh .
Sự bình tuyển tự nhiên ấy đã phân hoá những người sản xuất kinh doanh ra thành người giàu người nghèo.Người giàu trở thành ông chủ người nghèo dần trở thành người làm thuê.Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá đã chỉ ra là quá trình phân hoá này đã làm cho sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
CÂU 2: PHÂN TÍCH 2 PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ HỘI. TỪ ĐÓ HAY CHO BIẾT Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HAI PHƯƠNG PHÁP NÁY ĐỐI VỚI THỰC TIẾN HIỆN NAY?
+ Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố sản xuất chủ yếu, sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng. Ví dụ như: Phát minh khoa học, cãi tiến kỷ thuật hay lao động sản xuất ra của cải vật chất, ... khi sức lao động trở thành hàng hoá giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao dộng tạo ra hàng hoá. Trong quá trình ấy, chính lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động , tức là tạo ra giá trị thặng dư.
+ Giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra, dôi ra ngoài giá trị sức lao động , là kết quả lao động không công của người lao động. Do đó, nếu quá trình lao động dừng lại ở điểm mà giá trị sức lao động thì chỉ có sản xuất giá trị giãn đơn, khi quá trình lao động vượt quá điẻm đó mới có sản xuất giá trị thặng dư.
- Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối
1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuát giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu; trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
· Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn thấp.
· Với lòng tham không đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên không thể kéo dài vô hạn. Mặt khác, còn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp công nhân đòi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian loa động thặng dư lên trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động cũng như cũ.
· Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy, phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.
- Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân không chỉ đủ nuôi sông mình, mà còn tạo ra phần thặng dư. Song, hai phương pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động thặng dư.
Ý nghĩa:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
CÂU 3: TRÌNH BÀY BẢN CHẤT, NGUYÊN NHÂN VÀ TÍNH CHU KỲ CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN?
a. Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.
Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự phát triển chức năng làm phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng khủng hoảng kinh tế. Trong chủ nghĩa tư bản khi nền sản xuất đã xã hội hoá cao độ, khủng hoảng kinh tế trở thành hiện thực. Hình thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra hàng hoá không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà là "thừa" so với sức mua có hạn của quần chúng lao động.
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.
- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra vào năm 1825 ở nước Anh và cuộc khủng hoảng đầu tiên mang tính chất thế giới tư bản chủ nghĩa nổ ra vào năm 1847.
b. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng từ 8 đến 12 năm nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chukỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chukỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Khủng hoảng là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Trong giai đoạn này, hàng hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.Tiêu điều: đặc điểm của giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái đình trệ, không còn tiếp tục đi xuống nữa nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hoá được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn sống sót tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn lợi trong tình trạng hạ giá, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên. Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông nghiệp. Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong công nghiệp. Sở dĩ như vậy là do chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất đã cản trở việc đổi mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trong nông nghiệp vẫn còn một bộ phận không nhỏ những người tiểu nông, điều kiện sống duy nhất của họ là tạo ra nông phẩm hàng hoá trên đất canh tác của mình, vì vậy họ phải duy trì sản xuất ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưng nhờ có sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế làm cho tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt. Song sự can thiệp này không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế. Khủng hoảng kinh tế nổ ra làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bị phá hoại dữ dội; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản với vô sản; giữa tư bản với các dân tộc thuộc địa.
CÂU 4: TRÌNH BÀY TÍNH TẤT YẾU NỘI DUNG VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LIÊN MINH GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỚI GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN LAO ĐỘNG TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA?
a. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân là điều kiện cơ bản để tăng cường lực lượng và nếu không có liên minh này thì giai cấp công nhân không thể dành chính quyền và giữ vững chính quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy nếu giai cấp công nhân không liên minh với nông dân thì không thể giành được thắng lợi trong cách mạng xã hội. Để xây dựng xã hội mới, giai cấp công nhân cũng nhất thiết phải liên minh với nông dân vì đó là lực lượng đông đảo, là một động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở khách quan của việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp côngnhân với nông dân. Liên minh công - nông là do mối liên hệ tự nhiên, gắn bó và thống nhất về lợi ích cơ bản của công nhân, nông dân. Giai cấp nông dân cũng là giai cấp bịbóc lột do đó là người gần gũi với giai cấp công nhân. Liên minh công - nông là do sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp, đólà hai ngành sản xuất chính của xã hội. Công nghiệp tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp tạo ra lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu của toàn xã hội, đồng thời nó cũng tạo ra nông sản phục vụ cho sản xuất công nghiệp.Liên minh công - nông là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; đó là lực lượng chính trị xã hội cơ bản của cách mạng, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, nông dân trở thành người bạn tự nhiên, tất yếu của giai cấp công nhân.
b. Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
Nội dung chính trị của liên minh:
- Xuất phát từ mục tiêu của CNXH: Nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của CN, ND, TT và của cả dân tộc là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
+ Mỗi GC, tầng lớp ở mỗi giai đoạn đều có lập trường chính trị tư tưởng của mình, khi liên minh không phải là thực hiện sự dung hoà lập trường tư tưởng, chính trị của cả 3 GC, tầng lớp này.
+ Trong CMXHCN, liên minh giữa 3 giai tầng này phải dựa trên lập trường chính trị tư tưởng của GCCN. Vì: Chỉ có dựa trên và phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng của GCCN => mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu, lợi ích của GCCN, GCND, tầng lớp trí thức .
- Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng của GCCN lãnh đạo.
+ Để thực hiện từng bước mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh trên lập trường tư tưởng, chính trị của GCCN => liên minh này phải do Đảng lãnh đạo.
+ Trong TKQĐ, liên minh C- N- TT là nền tảng chính trị- XH và KT của Nhà nước XHCN, nòng cốt của MTTQ để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN.
- Liên minh gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị:
+ Yêu cầu thực hiện liên minh là: Xây dựng nền DC XHCN => Đối mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước ( Mối quan hệ Đảng - Nhà nước- nhân dân ).
+ Nội dung hoạt động chính trị phải gắn và thông qua hoạt động SX, KT, KH- CN, VH XH …
b. Nội dung kinh tế của liên minh:
- Vị trí của nội dung kinh tế trong liên minh:
+ Nội dung KT là nội dung cơ bản, quyết định nhất là cơ sở VC- KT vững chắc của liên minh trong TKQĐ vì: Trong thời kỳ này, nhiệm vụ CM chuyển trọng tâm sang lĩnh vực KT. Thực chất của nội dung KT là kết hợp đúng đắn các lợi ích KT của các giai tầng XH được lấy làm trọng tâm.
+ Việc thực hiện kết hợp các lợi ích KT được xác định bởi các nhu cầu KT của các chủ thể lợi ích và các điều kiện thực hiện nó.
- Nội dung KT của liên minh trong TKQĐ ở Việt Nam:
+ Xác định cơ cấu KT hợp lý => Phải xác định nhu cầu KT của CN, ND, TT của toàn XH trong điều kiện, thời gian cụ thể => Cơ cấu KT chung của cả nước là “Công- Nông- Dịch vụ”. Hiện nay Đảng ta xác định: “từng bước phát triển KT tri thức”. Nhu cầu KT là cú hích ban đầu của sự phát triển vì: có phát hiện đúng nhu cầu KT => mới có sự đầu tư đúng, hành động đúng.
+ Nhu cầu KT của ND: Có đất đai, tự chủ SX đảm bảo cuộc sống. Hiện nay, lao động trong nông nghiệp đạt gần 70% thời gian, còn lại là nông nhàn => thiếu việc làm => hậu quả XH : Di dân ra thành phố lớn; tệ nạn XH gia tăng. Hiện nay xảy ra tình trạng thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh … 2một% số hộ thiếu hoặc không có đất.
+ Nhu cầu KT của CN: Thường xuyên có việc làm trong SX công nghiệp ; được phân phối theo lao động và đóng góp khác. Hiện nay, tỉ lệ thất nghiệp của CN từ 6,5 -> 7% , thu nhập còn thấp.
+ Nhu cầu KT của TT: Là chủ sở hữu trí tuệ, phát huy trí tuệ trong quá trình lao động sáng tạo; được phân phối công bằng theo lao động với những giá trị trí tuệ mà họ đóng góp.
- Phát triển KT dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu trong: SX, lưu thông, phân phối giữa CN- ND- TT, giữa các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, KH- CN và dịch vụ khác.
+ Chủ trương: Coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông - lâm - ngư gắn với công nghiệp nhóm B. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng, xây dựng kết cấu hạ tầng KT.
+ Biện pháp: Khuyến khích, tạo điều kiện cho ND chủ động trong hợp tác, liên kết với CN, TT và các thành phần KT => Phát huy tiềm năng của ND; Nhà nước, GCCN, TT thực sự đến với ND, nông thôn => hợp tác, hướng dẫn, giúp đỡ, cải thiện đời sống KT cho nông thôn và ND.
Ví dụ: Quan hệ 4 nhà: Nhà nước, nhà KH, nhà doanh nghiệp, nhà nông.
- Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh.
+ Phát triển da dạng, đổi mới hình thức hợp tác KT, HTX, KT hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn.
+ Hình thành QHSX trên cơ sở công hữu hoá TLSX chủ yếu, KT Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, KT tập thể - nền tảng => phát triển KT theo định hướng XHCN.
- Vai trò của Nhà nước trong thực hiện liên minh:
+ Thể hiện thông qua chính sách khuyến nông, bộ máy Nhà nước, tổ chức khuyến nông, cơ sở KT Nhà nước.
+ Chính sách của Nhà nước đối với ND và trí thức.
c. Nội dung văn hoá- xã hội của liên minh:
- Xuất phát từ mục tiêu XH trong TKQĐ: Tăng trưởng KT gắn liền với công bằng, tiến bộ XH, giữ gìn, phát huy bản sắc VH dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái- ưu việt của CNXH với mục tiêu: cho con người, vì con người, do con người.
- Thực hiện xoá đói giảm nghèo cho C- N- TT: Bằng phương pháp tạo việc làm, kết hợp giải pháp hỗ trợ, cứu trợ => khắc phục hạn chế của chế độ tư hữu trước đây.
- Đổi mới thực hiện tốt các chính sách XH như: Hỗ trợ CN- ND- TT khắc phục khó khăn sau chiến tranh, với ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống cho XH, thế hệ sau.
- Nâng cao trình độ dân trí - nội dung cơ bản lâu dài.
+ Xoá nạn mù chữ, phổ cập giáo dục THCS, THPT.
+Nâng cao kiến thức KH- CN, chính trị, KT, VH- XH.
+ Khắc phục tệ nạn XH, hủ tục lạc hậu, biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu.
+ Phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, chăm chỉ, cần cù => đầu tư cho giáo dục về VC và tinh thần.
- Gắn quy hoạch phát triển cong nghiệp, KH- CN với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hoá, CNH trọng điểm ở nông thôn, kết cấu hạ tầng thuận lợi, hiện đại.
+ Xây dựng cơ sở giáo dục, y tế, VH, thể thao, công trình phúc lợi XH …
+ CNH,HĐH, đô thị hoá nông thôn.
+ Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao KH- CN ở khu vực nông- lâm- ngư.
Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp trong khối liên minhcông - nông. Xây dựng khối liên minh công – nông không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp này, mà phải đi theo đường lối của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, giai cấp nông dân chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn của xã hội mới. Hai là, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Có thực hiện được tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới bền vững và lâu dài. Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công nhân và giai cấpnông dân. Đây là hai giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất với nhau. Sự thống nhất về mặt lợi ích là điều kiện quan trọng để thực hiện liên minh
CÂU 5: DÂN CHỦ LÀ GÌ? LÀM RÕ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ?
-Dân chủ
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người.Ngay trong trong công xã thị tộc (thời nguyên thủy), thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc được các thành viên của bộ tộc bầu ra hoặc phế bỏ. Điều này cho thấy quyền dân chủ ra đời từ rất sớm. Trong xã hội Hy Lạp cổ đại, khi mà nhà nước dân chủ chủ nô Aten ra đời(khoảng thế kỷ VI trước công nguyên), khái niệm dân chủ được hiểu là: việc cửra hay phế bỏ người đứng đầu là do “quyền và sức mạnh của nhân dân”. Chỉ đếngiai đoạn này thì danh từ dân chủ mới chính thức được sử dụng. Như vậy, về thực chất ngay từ thế kỷ VI (tr.CN) với hình thức nhànước đầu tiên trong lịch sử, giai cấp đứng ở vị trí trung tâm lãnh đạo xã hội, áp bức bóc lột - giai cấp chủ nô đã dùng pháp luật và bộ máy thống trị của mình để chiếm mất quyền lực đông đảo của quần chúng nhân dân lao động là những người nô lệ. Nhân loại suốt 2600 năm qua đã trải qua bốn hình thức quyền lực: chuyên chính chủ nô; chuyên chế phong kiến; chuyên chính tư sản; chuyênchính vô sản. Thực chất của chuyên chính hay chuyên chế đều là quyền lựcchính trị của một giai cấp nào đó để lãnh đạo xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một kỷ nguyênmới: lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động giành được quyền lựcthực sự của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnhđạo thông qua chính đảng của nó trở thành nhà nước đầu tiên thực hiệnquyền lực của nhân dân.
Kế thừa những những quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và từ thựctiễn phát triển của xã hội đương thời, V.I.Lênin đưa ra quan niệm về dân chủnhư sau: Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, dân chủ là một nhucầu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực của nhân dân. Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền do đó không có dân chủ “phi giai cấp, dân chủ chung chung”. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này là đã hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Điều này là tất yếu cho mọi chế độ dân chủ, kể cả chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánhtrình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp , dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới - hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”.Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất,tính chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp, nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó.Nhà nước bảo đảm thoả mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân.Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó nó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Hai là: nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội.Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình xã hội hoá ngày càng cao của sx nhằm thoả mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động.Đây là đặc trưng kinh tế cuả nền DCXHCN.Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.Đó là quá trình cải tạo và xây dựng lâu dài kể từ khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH cho đến khi CNXH thực sự trưởng thành.
- Ba là: Trên là cơ sở của sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn thể xã hội, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên , thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xh mới.Trong nền dân chủ XHCN, tất cả các tổ chức chính trị xã hội , các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào mọi công việc của nhà nước.Mọi công dân đều được bầu cử ,ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà nước các cấp.
- Bốn là nền dân chủ XHCN cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp.Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và phản động.Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau.Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.
CÂU 6: DÂN TỘC LÀ GÌ? PHÂN TÍCH NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LENIN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT DÂN TỘC, TỪ ĐÓ HÃY GIẢI THÍCH CHO THẤY NGUYÊN TẮC NÀO LÀ CƠ BẢN NHẤT ?
Khái niệm dân tộc
Hiện nay trong ngôn ngữ biểu đạt, thuật ngữ dân tộc được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, hay Việt Nam có 54 dân tộc như: dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Dao …
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa, trong dó có 2 nghĩa được dùng phổ biến nhất.
* Nghĩa hẹp: dân tộc là một bộ phận của quốc gia (dân tộc Tày, Nùng, Chăm) Dân tộc là cộng đồng tộc người được hình thành và phát triển trong lịch sử. Cụ thể:
Dân tộc chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc có các dấu hiệu sau:
- Có sinh hoạt KT chung
- Có ngôn ngữ riêng và những nét VH đặc thù:
- Có ý thức tự giác tộc người.
* Nghĩa rộng: Chỉ toàn bộ nhân dân của quốc gia đó - quốc gia dân tộc. (dân tộc Việt nam, dân tộc Nga, dân tộc Trung Hoa )
Chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền KT thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, KT, truyền thống VH và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
Nội dung của Cương lĩnh gồm: Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm cho mọi dân tộc dù đông người hay ít người, dù có trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế. Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan và chủ nghĩa phát xít mới. Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết. Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của mọi dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc trước hết là quyền tự quyết về chính trị, tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện quyền làm chủ vận mệnh dân tộc mình mà không một dân tộc nào được quyền dùng áp lực can thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác. Quyền tự quyết dân tộc bao gồm: quyền tự do phân lập và quyền các dân tộc tự nguyện liên hiệp lại thành một liên bang các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, giúp nhau cùng tiến bộ. Do đó, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc cơ bản nhất là nguyên tắc 3 vì: Mục đích đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới là nhằm xóa bỏ hận thù các dân tộc, đạt được sự đoàn kết giai cấp công nhân cả nước. Và việc thực hiện 2 nguyên tắc trên phụ thuộc vào nguyên tắc thứ 3.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro