triet 1
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Triết học Mác ra đời là do những đòi hỏi của thực tiễn chính trị-xã hội và là quá
trình phát triển hợp quy luật của triết học và của nhận thức khoa học. Nó được
chuẩn bị bởi những tiền đề cụ thể sau:
1.1.Tiền đề kinh tế-xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó là thời kỳ
chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định địa vị thống trị về kinh tế của
mình. Cùng với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản không ngừng
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị
như một lực lượng độc lập.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn vốn có của nó bộc lộ ngày
càng gay gắt. Trước hết, là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội
với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Để
giải quyết mâu thuẫn này, giai cấp vô sản đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp
tư sản. Tiêu biểu như: cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (Pháp) năm 1831, Phong
trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi
năm 1844 ở Đức. Đặc biệt sự xuất hiện "Đồng minh những người chính nghĩa" - một
tổ chức vô sản cách mạng. Để đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến
đấu tranh chính trị, từ tự phát đến tự giác đòi hỏi phải có một học thuyết khoa học,
cách mạng soi đường chỉ lối. Học thuyết khoa học, cách mạng ấy chính là chủ nghĩa
Mác, mà hạt nhân của nó là triết học Mác .
Như vậy, thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản
nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập
trường của giai cấp vô sản cách mạng.
1. 2. Tiền đề lý luận
Sự ra đời triết học Mác chẳng những là sản phẩm tất yếu của những điều kiện
kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX, mà còn là sự phát triển
hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Triết học Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tất cả những tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng của nhân loại, mà trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Đối với triết học cổ điển Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa phép biện
chứng của Hêghen, khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của nó. Đồng thời, hai ông
còn cải tạo phép biện chứng ấy, đặt nó trên nền thế giới quan duy vật. C. Mác và
Ph. Ăngghen còn kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình,
máy móc, chưa triệt để của nó, làm giàu nó bằng phép biện chứng. Từ đó, C. Mác
và Ph. Ăngghen xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ, đó chính là chủ nghĩa
duy vật biện chứng , một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa
duy vật triết học.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là
A. Xmít và Đ. Ricácđô là một nhân tố không thể thiếu được góp phần hình thành
nên quan niệm về duy vật lịch sử của triết học Mác.
Trong chủ nghĩa Mác, những quan điểm triết học được hình thành không tách
rời với những quan điểm chính trị-xã hội qua việc cải tạo một cách có phê phán chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S.
Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách
mạng.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu
được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên
làm bộc lộ rõ tính chất hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu
hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát
triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, nổi bật lên ba phát minh
lớn: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá
của Đácuyn .
Các phát minh trên đây đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không
sinh ra và không mất đi, nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, khẳng định
bản chất của thế giới là vật chất, khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới và
khẳng định tính biện chứng của thế giới vật chất. Với những phát minh lớn của
khoa học tự nhiên đã làm cho "quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành
trên những nét cơ bản: tất cả những gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả những gì cố
định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại
vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh toàn bộ giới tự nhiên
đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu"
C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc các thành tựu của khoa
học tự nhiên, khái quát chúng thành các quan điểm triết học và từ đó hình thành nên
một học thuyết triết học thực sự khoa học- triết học duy vật biện chứng.
Tóm lại, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn của giai cấp công
nhân, đòi hỏi phải có một lý luận mới soi đường mà còn là sự phát triển hợp lôgíc
của lịch sử tư tưởng nhân loại; đồng thời, triết học Mác ra đời cũng là kết quả tất
yếu của những trí tuệ thiên tài, những trái tim đầy nhiệt huyết cách mạng C. Mác và
Ph. Ăngghen.
II. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin
1. 1 Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Tiếp thu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX về mặt triết
học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất,
V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
1.1.1 “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan ..."
Phạm trù “vật chất” là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận
thức. Do đó:
- Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không
phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai
lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất
thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
- Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về
mặt nhận thức luận, V.I. Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan
hệ với phạm trù đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa
thông qua cái đối lập với nó).
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của
các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến
nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó
chính là “thực tại khách quan”. Thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại ở bên
ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản
để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất - cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Phạm trù vật chất trong định nghĩa này, phải được hiểu bao gồm tất cả những gì
tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết
học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra,
không mất đi. Còn vật chất với tư cách là phạm trù khoa học cụ thể, đó là những
dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra, mất đi để chuyển hóa thành
cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất
với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà duy vật trước
Mác.
1.1.2. “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Điều đó khẳng định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau,
vật chất đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi
vì, thực tại khách quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con
người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây, định
nghĩa đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.1.3 . “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Điều này khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hiện thực khách quan. Đến đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết
được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
- Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác quan của
chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp, do đó về nguyên tắc,
không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng
vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
- Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới ở bên ngoài, khi sự vật tác động vào
giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương
thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ...) con người có thể nhận
thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ
thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu tất cả những cái
gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức
được hay chưa nhận thức được.
1. 2. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được tính chất trực quan,
siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác,
đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về
vật chất.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; định
hướng, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người tiếp tục đi sâu khám phá
những thuộc tính mới của vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của
vật thể trong thế giới.
Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật
biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất
2.1. Vận động là gì
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi
nói chung. Ph. Ăngghen viết: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất - tức được
hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất -
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
2.2. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất
Vật chất và vận động không tách rời nhau. Ở đâu có vật chất thì ở đó có vận
động, và ở đâu có vận động thì ở đó phải có vật chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào,
dù trong tự nhiên hay xã hội, dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù thuộc giới vô sinh
hay hữu sinh đều ở trong trạng thái biến đổi không ngừng. Theo Ph. Ăngghen, vật
chất mà không vận động là điều không thể tưởng tượng được và ngược lại cũng
không tưởng tượng nổi có thứ vận động nào lại không phải là vận động của vật chất,
không thuộc về vật chất. Vật chất chỉ có thể tồn tại được bằng cách vận động và
thông qua sự vận động và biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, nhận thức sự vận
động của sự vật cũng chính là nhận thức bản thân sự vật.
Vận động của vật chất là sự tự thân vận động . Nguồn gốc của sự vận động nằm
ngay trong bản thân thế giới vật chất, không cần đến một lực lượng siêu tự nhiên
nào từ bên ngoài. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt, mà
vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng không do ai sáng tạo
ra và không thể bị tiêu diệt. Vận động của một vật thể cụ thể có thể tăng, giảm,
nhưng vận động của toàn thế giới vật chất bao giờ cũng là một số không thay đổi.
Định luật chuyển hóa và bảo toàn năng lượng đã cho thấy, nếu một hình thức vận
động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay
thế nó. Nghĩa là các hình thức vận động chỉ chuyển hóa lẫn nhau, chứ vận động của
vật chất nói chung thì vĩnh viễn, tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
2. 3. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa vào những thành tựu khoa học thời đại mình, Ph. Ăngghen đã phân chia
vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản:
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử,
các quá trình nhiệt, điện, từ ...).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân
giải các chất).
- Vận động sinh học (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
- Vận động xã hội (quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế-xã
hội).
Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, có quy luật vận động
riêng. Vì vậy, không được quy hình thức vận động này về hình thức vận động khác.
Ví dụ, nếu quy các hoạt động sinh học vào hoạt động cơ học, xem hoạt động của cơ
thể sinh học, của con người như hoạt động của máy móc sẽ làm mất đặc trưng sinh
học của các cơ thể sống. Mặt khác, trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật luôn chịu
sự chi phối của nhiều hình thức vận động, trong đó bao giờ cũng có một hình thức
vận động đặc trưng. Ví dụ, đối với động vật thì vận động sinh học là vận động đặc
trưng, mặc dù trong cơ thể động vật còn có các vận động cơ học, vật lý và hóa học.
Không thấy được điều đó sẽ không phản ánh được bản chất của sự vật.
2. 4. Vận động và đứng im
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Nhưng
điều đó không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối. Nếu
không có hiện tượng đứng im tương đối thì sẽ không có một sự vật nào tồn tại được,
và chúng ta cũng sẽ không nhận thức được sự vận động của sự vật.
Hiện tượng đứng im chỉ là tương đối và tạm thời. Vì, thứ nhất , hiện tượng đứng
im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ
cùng một lúc (con tàu đứng im so với bến cảng, còn so với mặt trời thì nó vận động
theo sự vận động của quả đất). Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra với một hình
thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động
trong cùng một lúc (con tàu đứng im là xét về hình thức vận động cơ học, trong khi
đó các hình thức vận động lý, hóa không ngừng diễn ra trong bản thân nó). Thứ ba ,
hiện tượng đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối của mỗi sự vật và hiện tượng. Trạng thái
thăng bằng, ổn định này sẽ bị sự vận động là tuyệt đối phá vỡ. Ph. Ăngghen viết:
"Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá
hoại sự cân bằng riêng biệt”
. Như vậy, trong quan hệ giữa vận động và đứng im,
vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời.
3. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý
thức
Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã
hội, triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta thấy rõ nguồn gốc và bản chất của ý thức.
3.1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và của
lịch sử xã hội. Nói khác đi, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
3.1.a. Nguồn gốc tự nhiên
a.1. Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc con người
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ
lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào
cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động
bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
- Phản ánh của giới vô sinh là những phản ánh vật lý, hoá học. Những hình thức
phản ánh này đơn giản, thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
- Trên cơ sở phản ánh của giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh cao
hơn về vật chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh - phản ánh sinh học. Hình thức
phản ánh này gắn liền với sự chuyển hoá từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Phản
ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó, các
sinh vật thích nghi với môi trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh
sinh vật được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích thích trong cơ thể do
tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở động vật có hệ thần kinh và tâm
lý ở động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật là hình thức phản ánh cao nhất của
động vật, nhưng đó chưa phải là ý thức, mà chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng
do nhu cầu trực tiếp sinh lý của cơ thể và quy luật sinh học chi phối. Cùng với quá
trình vượn biến thành người, phản ánh ở động vật cấp cao chuyển hoá thành ý thức.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là thuộc tính của dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hoá càng cao thì sự phản
ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là
thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển; ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài
của thuộc tính phản ánh của vật chất. Do đó, không được đồng nhất vật chất với ý
thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
a.2. Khách thể vật chất bên ngoài
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người
là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có
sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức không thể xẩy ra.
Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh)
cùng với thế giới bên ngoài (khách thể vật chất bên ngoài) tác động lên bộ óc - đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Song, muốn có sự chuyển biến nhảy vọt từ phản ánh
tâm lý ở động vật sang phản ánh có ý thức của con người, ngoài nguồn gốc tự nhiên
cần phải có nguồn gốc xã hội.
3.1.b. Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc
con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
b.1. Lao động
Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, là hoạt động đặc thù
của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
- Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử
dụng các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
- Lao động là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo.
Lao động giúp cho con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình.
Thông qua quá trình lao động, bộ óc con người phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm
nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển
cùng với lao động.
b.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống
tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn
tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa
là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ
mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại tri thức từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân
mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Chính vì vậy,
Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: "Sau lao động đồng thời với lao động là ngôn
ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành
bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức"
3. 2. Bản chất của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất
của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo,
tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của
ý thức con người so với tâm lý động vật và với sự "suy nghĩ" của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy
định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ
và theo tính chất của quy luật phản ánh.
Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã
hội. Ý thức chỉ được nẩy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do
đó ý thức, ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con
người còn tồn tại.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro