Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

triet 1

I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA  TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN 

1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác  

Triết học Mác ra đời là do những đòi hỏi của thực tiễn chính trị-xã hội và là quá 

trình phát triển hợp quy luật của triết  học và của nhận thức khoa học. Nó được 

chuẩn bị bởi những tiền đề cụ thể sau: 

1.1.Tiền đề kinh tế-xã hội 

Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó là thời kỳ 

chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của cuộc cách 

mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định địa vị thống trị về kinh tế của 

mình. Cùng với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản không ngừng 

phát triển cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị 

như một lực lượng độc lập. 

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn vốn có của nó bộc lộ ngày 

càng gay gắt. Trước hết, là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội 

với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này 

biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Để 

giải quyết mâu thuẫn này, giai cấp vô sản đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp 

tư sản. Tiêu biểu như: cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (Pháp) năm 1831, Phong 

trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi 

năm 1844 ở Đức. Đặc biệt sự xuất hiện "Đồng  minh những người chính nghĩa" - một 

tổ chức vô sản cách mạng. Để đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai 

cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến 

đấu tranh chính trị, từ tự phát đến tự giác đòi hỏi phải có một học thuyết khoa học, 

cách mạng soi đường chỉ lối. Học thuyết khoa học, cách mạng ấy chính là chủ nghĩa 

Mác, mà hạt nhân của nó là triết học Mác . 

Như vậy, thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản 

nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời 

của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập 

trường của giai cấp vô sản cách mạng. 

1. 2. Tiền đề lý luận 

Sự ra đời triết học Mác chẳng những là sản phẩm tất yếu của những điều kiện 

kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX, mà còn là sự phát triển 

hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại. 

Triết học Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tất cả những tinh hoa trong lịch sử 

tư tưởng của nhân loại, mà trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học 

Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. 

Đối với triết học cổ điển Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa phép biện 

chứng của Hêghen, khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của nó. Đồng thời, hai ông 

còn cải tạo phép biện chứng ấy, đặt nó trên nền thế giới quan duy vật. C. Mác và 

Ph. Ăngghen còn kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình, 

máy móc, chưa triệt để của nó, làm giàu nó bằng phép biện chứng. Từ đó, C. Mác  

và Ph. Ăngghen xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật 

và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ, đó chính là  chủ nghĩa 

duy vật biện chứng , một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa 

duy vật triết học. 

Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là 

A. Xmít và Đ. Ricácđô là một nhân tố không thể thiếu được góp phần hình thành 

nên quan niệm về duy vật lịch sử của triết học Mác. 

Trong chủ nghĩa Mác, những quan điểm triết học được hình thành không tách 

rời với những quan điểm chính trị-xã hội qua việc cải tạo một cách có phê phán  chủ 

nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S. 

Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách 

mạng. 

1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên 

Những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu 

được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên 

làm bộc lộ rõ tính chất hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu 

hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát 

triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật. 

Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, nổi bật lên ba phát minh 

lớn:  định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá 

của Đácuyn . 

Các phát minh trên đây đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không 

sinh ra và không mất đi, nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, khẳng định 

bản chất của thế giới là vật chất, khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới và 

khẳng định tính biện chứng của thế giới vật chất. Với những phát minh lớn của 

khoa học tự nhiên đã làm cho "quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành 

trên những nét cơ bản: tất cả những gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả những gì cố 

định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại 

vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh toàn bộ giới tự nhiên 

đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu" 

C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc các thành tựu của khoa 

học tự nhiên, khái quát chúng thành các quan điểm triết học và từ đó hình thành nên 

một học thuyết triết học thực sự khoa học- triết học duy vật biện chứng. 

Tóm lại,  triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu 

lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn của giai cấp công 

nhân, đòi hỏi phải có một lý luận mới soi đường mà còn là sự phát triển hợp lôgíc 

của lịch sử tư tưởng nhân loại; đồng thời, triết học Mác ra đời cũng là kết quả tất 

yếu của những trí tuệ thiên tài, những trái tim đầy nhiệt huyết cách mạng C. Mác và 

Ph. Ăngghen.

II. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 

1. Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin 

1. 1 Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin 

Tiếp thu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành 

tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX về mặt triết 

học,  trên  cơ  sở  phê  phán  những  quan  điểm  duy  tâm  và  siêu  hình  về  vật  chất,  

V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: 

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được 

đem lại  cho con người  trong cảm giác, được  cảm  giác  của  chúng  ta chép  lại, 

chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 

Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây: 

1.1.1 “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan ..." 

  Phạm trù “vật chất” là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận 

thức. Do đó: 

     - Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không 

phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai 

lầm  khi đồng  nhất phạm  trù  vật  chất  trong  triết  học  với  các  khái niệm  vật  chất 

thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. 

  - Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về 

mặt nhận thức luận, V.I. Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan 

hệ với phạm trù đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa 

thông qua cái đối lập với nó).  

Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách 

quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của 

các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến 

nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó 

chính là  “thực tại khách quan”.  Thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại ở bên 

ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản 

để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất - cái tồn tại 

khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.  

Phạm trù vật chất trong định nghĩa này, phải được hiểu bao gồm tất cả những gì 

tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết 

học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra, 

không mất đi. Còn vật chất với tư cách là phạm trù khoa học cụ thể, đó là những 

dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra, mất đi để chuyển hóa thành 

cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất 

với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà duy vật trước 

Mác. 

  1.1.2. “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác” 

   Điều đó khẳng định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau, 

vật chất đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi 

vì, thực tại khách quan  (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con 

người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây, định 

nghĩa đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường 

của chủ nghĩa duy vật biện chứng.  

  1.1.3 .  “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, 

phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”  

  Điều này khẳng định rằng,  con người có khả năng nhận thức được thế giới 

hiện thực khách quan. Đến đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết 

được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật 

biện chứng.   

  - Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện 

thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật,  hiện tượng cụ thể mà giác quan của 

chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp, do đó về nguyên tắc, 

không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng 

vật chất chưa nhận thức được mà thôi. 

  - Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới ở bên ngoài, khi sự vật tác động vào 

giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương 

thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ...) con người có thể nhận 

thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ 

thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu tất cả những cái 

gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức 

được hay chưa nhận thức được. 

  1. 2. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách đúng đắn vấn đề cơ 

bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được tính chất trực quan, 

siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác, 

đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về 

vật chất. 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để 

đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết  một cách có hiệu quả. 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở  thế giới quan khoa học và   phương 

pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; định 

hướng, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người tiếp tục đi sâu khám phá 

những thuộc tính mới của vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của 

vật thể trong thế giới. 

  Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật 

biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là  chủ nghĩa duy vật lịch sử.  

2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất 

2.1. Vận động là gì  

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi 

nói chung. Ph. Ăngghen viết: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất - tức được 

hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất - 

thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự 

thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”

2.2. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật 

chất 

Vật chất và vận động không tách rời nhau. Ở đâu có vật chất thì ở đó có vận 

động, và ở đâu có vận động thì ở đó phải có vật chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào, 

dù trong tự nhiên hay xã hội, dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù thuộc giới vô sinh 

hay hữu sinh đều ở trong trạng thái biến đổi không ngừng. Theo Ph. Ăngghen, vật 

chất mà không vận động là điều không thể tưởng tượng được và ngược lại cũng 

không tưởng tượng nổi có thứ vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, 

không thuộc về vật chất. Vật chất chỉ có thể tồn tại được bằng cách vận động và 

thông qua sự vận động và biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, nhận thức sự vận 

động của sự vật cũng chính là nhận thức bản thân sự vật. 

Vận động của vật chất là sự tự thân vận động . Nguồn gốc của sự vận động nằm 

ngay trong bản thân thế giới vật chất, không cần đến một lực lượng siêu tự nhiên 

nào từ bên ngoài. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt, mà 

vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng không do ai sáng tạo 

ra và không thể bị tiêu diệt. Vận động của một vật thể cụ thể có thể tăng, giảm, 

nhưng vận động của toàn thế giới vật chất bao giờ cũng là một số không thay đổi. 

Định luật chuyển hóa và bảo toàn năng lượng đã cho thấy, nếu một hình thức vận 

động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay 

thế nó. Nghĩa là các hình thức vận động chỉ chuyển hóa lẫn nhau, chứ vận động của 

vật chất nói chung thì vĩnh viễn, tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. 

  2. 3. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất 

Dựa vào những thành tựu khoa học thời đại mình, Ph. Ăngghen đã phân chia 

vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: 

- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian). 

- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, 

các quá trình nhiệt, điện, từ ...). 

- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân 

giải các chất). 

- Vận động sinh học (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường). 

- Vận động xã hội (quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế-xã 

hội). 

Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, có quy luật vận động 

riêng. Vì vậy, không được quy hình thức vận động này về hình thức vận động khác. 

Ví dụ, nếu quy các hoạt động sinh học vào hoạt động cơ học, xem hoạt động của cơ 

thể sinh học, của con người như hoạt động của máy móc sẽ làm mất đặc trưng sinh 

học của các cơ thể sống. Mặt khác, trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật luôn chịu 

sự chi phối của nhiều hình thức vận động, trong đó bao giờ cũng có một hình thức 

vận động đặc trưng. Ví dụ, đối với động vật thì vận động sinh học là vận động đặc 

trưng, mặc dù trong cơ thể động vật còn có các vận động cơ học, vật lý và hóa học. 

Không thấy được điều đó sẽ không phản ánh được bản chất của sự vật. 

  2. 4. Vận động và đứng im 

Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Nhưng 

điều đó không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối. Nếu 

không có hiện tượng đứng im tương đối thì sẽ không có một sự vật nào tồn tại được, 

và chúng ta cũng sẽ không nhận thức được sự vận động của sự vật. 

Hiện tượng đứng im chỉ là tương đối và tạm thời. Vì,  thứ nhất , hiện tượng đứng 

im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ 

cùng một lúc (con tàu đứng im so với bến cảng, còn so với mặt trời thì nó vận động 

theo sự vận động của quả đất).  Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra với một hình 

thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động 

trong cùng một lúc (con tàu đứng im là xét về hình thức vận động cơ học, trong khi 

đó các hình thức vận động lý, hóa không ngừng diễn ra trong bản thân nó).  Thứ ba , 

hiện tượng đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động - vận động trong 

thăng bằng, trong sự ổn định tương đối của mỗi sự vật và hiện tượng. Trạng thái 

thăng bằng, ổn định này sẽ bị sự vận động là tuyệt đối phá vỡ. Ph. Ăngghen viết: 

"Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá 

hoại sự cân bằng riêng biệt”

. Như vậy, trong quan hệ giữa vận động và đứng im, 

vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời. 

3. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý 

thức 

Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã 

hội, triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta thấy rõ nguồn gốc và bản chất của ý thức. 

3.1. Nguồn gốc của ý thức 

Ý thức con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và của 

lịch sử xã hội. Nói khác đi, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn   gốc xã hội. 

3.1.a. Nguồn gốc tự nhiên 

a.1. Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức 

cao là bộ óc con người 

Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ 

lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác 

trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào 

cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động 

bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. 

Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, 

từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn. 

- Phản ánh của giới vô sinh là những phản ánh vật lý, hoá học. Những hình thức 

phản ánh này đơn giản, thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn. 

- Trên cơ sở phản ánh của giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh cao 

hơn về vật chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh - phản ánh sinh học. Hình thức 

phản ánh này gắn liền với sự chuyển hoá từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Phản 

ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó, các 

sinh vật thích nghi với môi trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh 

sinh vật được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích thích  trong cơ thể do 

tác động của môi trường ở thực vật, các  phản xạ ở động vật có hệ thần kinh và  tâm 

lý  ở động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật  là hình thức phản ánh cao nhất của 

động vật, nhưng đó chưa phải là ý thức, mà chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng 

do nhu cầu trực tiếp sinh lý của cơ thể và quy   luật sinh học chi phối. Cùng với quá 

trình vượn biến thành người, phản ánh ở động vật cấp cao chuyển hoá thành ý thức. 

Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là thuộc tính của dạng 

vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. 

Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hoá càng cao thì sự phản 

ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức 

cao là bộ óc của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là 

thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển; ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài 

của thuộc tính phản ánh của vật chất. Do đó, không được đồng nhất vật chất với ý 

thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất. 

  a.2. Khách thể vật chất bên ngoài  

  Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người 

là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có 

sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt 

động ý thức không thể xẩy ra. 

  Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh) 

cùng với thế giới bên ngoài (khách thể vật chất bên ngoài) tác động lên bộ óc - đó là 

nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Song, muốn có sự chuyển  biến nhảy vọt từ phản ánh 

tâm lý ở động vật sang phản ánh có ý thức của con người, ngoài nguồn gốc tự nhiên 

cần phải có nguồn gốc xã hội. 

  3.1.b. Nguồn gốc xã hội 

  Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc 

con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ. 

b.1. Lao động 

  Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, là hoạt động đặc thù 

của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác. 

  - Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử 

dụng các công cụ đó để tạo  ra  của cải vật chất. 

  -  Lao động là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm 

thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích 

cực, chủ động và sáng tạo. 

  Lao  động  giúp  cho  con  người  cải  tạo  thế  giới  và  hoàn  thiện  chính  mình. 

Thông qua quá trình lao động, bộ óc con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, 

làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển. 

  Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm 

nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển 

cùng với lao động. 

  b.2. Ngôn ngữ 

  Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống 

tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn 

tại và thể hiện được. 

Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa 

là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ 

mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin,  truyền lại tri thức từ 

thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân 

mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã 

hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. 

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát 

triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Chính vì vậy, 

Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: "Sau lao động đồng thời với  lao động là ngôn 

ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành 

bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức"

  3. 2. Bản chất của ý thức 

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh hiện 

thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất 

của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, 

tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của 

ý thức con người so với tâm lý động vật và với sự "suy nghĩ" của máy móc.  

Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy 

định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ 

và theo tính chất của quy luật phản ánh. 

Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã 

hội. Ý thức chỉ được nẩy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của 

con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do 

đó ý thức, ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con 

người còn tồn tại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: