穿越成反派要如何活命
“Thân vô thái phượng song phi dực*, ta cao hứng muốn đi dạo một mình.”
(*nghĩa là thân ta không có đôi cánh phượng lộng lẫy bay cao, trích từ bài thơ Vô đề của Lý Thương Ẩn -《无题》- 李商隐)
“Nhưng (Khả - 可)… …”
“Khả lân hàn thực dư thanh minh*, lời thừa ít chút có được không?”
(*Thơ Đường bài Sơ nhập Tần xuyên lộ phùng hàn thực của Lý Long Cơ - 《初入秦川路逢寒食》- 李隆基)
“Nhưng (Đản - 但)… …”
“Đản sử Long Thành phi tướng tại*, nói thêm câu nữa ta đánh ngươi.”
(*Xuất tái của Vương Xương Linh - 《出塞》王昌龄)
Trong nguyên tác đã dùng một bài thơ mà miêu tả công chúa Vĩnh Ninh, chính là phương bắc có giai nhân, cái bài nhất cố khuynh nhân thành tái cố khuynh nhân quốc*.
Trích Thục Đạo Nan - trong thơ ca của Lý Bạch thời Đường
Tiêu Dư An: “Khục… … Thật ra là, bởi vì tình yêu, sẽ không dễ dàng bị tổn thương, cho nên tất cả cũng đều là diện mạo của hạnh phúc.*
(*Dành cho ai chưa biết đây là bài hát Bởi vì tình yêu của Trần Dịch Tấn và Vương Phi - 因为爱情 陈奕迅 & 王菲
Tiêu Dư An uể oải, yếu ớt mà trả lời: “Chiếc lá lạnh lẽo phóng khoáng rơi vãi đầy mặt ta, con ta phản nghịch làm tổn thương lòng ta*.”
(*Gốc: 寒叶飘逸洒满我的脸,吾儿叛逆伤痛我的心。là một đoạn nhạc nhỏ trong trong quảng cáo《难忘的家中美味》- Mỹ vị khó quên của gia đình
*đồng quy vu tận - 同归于尽: cùng đến chỗ chết, ngọc thạch câu phần - 玉石俱焚: ngọc nát đá tan; tốt hay xấu rồi cũng bị tiêu huỷ
(*Gốc là: 岁将暮,时既昏。寒风积,愁云繁. - Tuế trương mộ, thời ký hôn. Hàn phong tích, sầu vân phồn. Xuất phát từ bài <Tuyết Phú> của Nam bắc triều Tạ Huệ Liên - <雪赋> 南北朝:谢惠连)
(*Hưng sư động chúng - 兴师动众: ra quân ồ ạt, phát động nhiều người làm một việc gì đó, rất hoành tráng.)
水逆 - Thủy nghịch còn gọi là sao thủy nghịch hành, là thuật ngữ mạng, chỉ những chuyện xui xẻo, làm gì cũng không thuận
Cupid<丘比特> hán việt là Khưu Tỉ Đặc, Hồng tụ nghe thành cầu tất thức<球必忑> không có nghĩa, vì âm đọc của những chữ đó gần giống nhau; còn chữ Tiêu<萧> âm một họ của Tiêu Dư An, Hồng Tụ nghe thành tiếu<笑> âm tư nghĩa là cười
Âm soa dương thác (阴差阳错): Một tai nạn xảy ra do nhiều nguyên nhân
不怒自威 - không nộ tự uy: nhìn vẻ ngoài không tức giận nhưng vẫn có uy nghiêm của một người lãnh đạo
贤侄 - hiền điệt: là một cách xưng hô khen ngợi đối với người trẻ tuổi, ví dụ như con cháu tài đức của ta
ngọc bàn-玉盘: là một cái chậu hoặc là khay làm bằng ngọc
Oanh đề vũ yến - 啼莺舞燕: Chim oanh hót ca, chim yến lượm múa tung bay
Cửu tân -九宾: là lễ nghi ngoại giao long trọng nhất của Trung Quốc, gồm có chín người quan chức điều khiển hành lễ cho xướng lễ đón khách, mời và dẫn đắt lên điện.
(*广寒与清虚 - quảng hàn cùng thanh hư: mình hiểu sơ sơ hình như là chỉ cung điện)
(*人长久,共婵娟 - người lâu dài, cùng thuyền quyên: ý nghĩa là chỉ những người mình nhớ nhung có thể sống lâu dài cùng ngắm trăng đẹp, thường dùng để tưởng nhớ người thân sống ở xa và cùng những lời chúc tốt đẹp dành cho họ)
Chàng trai bắt ngựa ơi ngươi uy vũ mạnh mẽ, tuấn mã phi như bay tựa cơn gió mạnh! Vùng đất quê hương mênh mông bát ngát thỏa sức lang bạt!*”
(* tên bài hát: 乌兰托娅套马杆 - Sáo Mã Can - Ô Lan Thác Á
“折煞” = “chiết sát”: ý chỉ người hưởng thụ quá mức mà giảm phúc giảm thọ, cũng có nghĩa là không thể thừa nhận nổi.
“Đó là con đường thần kỳ dẫn đến thiên đàng ai ai~”*
(*Từ bài hát thiên lộ《天路》cũng là một bài hát Mông Cổ có Vietsub)
Phạm Thống <范统> và thùng cơm <饭桶> là từ đồng âm đều đọc là ‘fàn tǒng’.
Sinh vinh tử ai <生荣死哀>: Sống được người khác kính phục, chết rồi khiến người khác bi thương, thường dùng để ca tụng người đã quá cố được người khác kinh trọng, thán phục
li thủ quy phu <螭首龟趺>: là một kiểu mộ bia mà bên dưới có một vật giống một con rùa nâng bia
Bên Tiêu Dư An kéo căng cổ họng nói mình muốn hát, hát cái câu trước đây là ngươi muốn chia tay, chia tay thì chia tay*.
(*Tên bài hát là: Mua Bán Tình Yêu của Mộ Dung Hiểu Hiểu <爱情买卖 - 慕容晓晓>)
Chủ nghĩa Marx (马克思主义)
Tửu trì nhục lâm (酒池肉林): Chỉ cuộc sống xa hoa lãng phí
Tiên phát chế nhân(先发制人):đánh đòn phủ đầu; hành động trước để kiềm chế đối phương
tiếu lý tàng đao(笑里藏刀): trong cười có dao, miên lý tàng kim(绵里藏针): trong bông có kim. Ý là bề ngoài biểu hiện rất tử tế, nhưng trong thâm tâm rất độc ác
lăng đầu thanh(愣头青): Là một từ ngữ đời sống, chỉ những người không có não hoặc là hành động không suy nghĩ, người làm việc mù quáng
Hỏa chiết (火折): một vật có thể tạo ta lửa ở thời cổ đại tựa như hột quẹt thời nay
Tiếp sóng tin tức - Xinwen Lianbo (新闻联播): là một chương trình tin tức hàng ngày được sản xuất bởi Đài truyền hình trung ương Trung Quốc
sự sụp đổ lượng tử (量子坍塌)
Tru tâm <诛心>: Nó tựa như giết chết con tim, tổn thương nội tâm
*Giải thích một chút về tiêu đề: Gốc là <望穿他盈盈秋水,蹙损他淡淡春山> nghĩa là chờ người đến mòn mỏi cả mắt, cau mày buồn rười rượi.
Ma tước tuy nhỏ, ngũ tạng câu toàn <麻雀虽小五脏倶全>: ý chỉ có những thứ tuy thể tích hoặc quy mô nhỏ bé nhưng bên trong có đầy đủ hết
gốc là <世外桃源>: thế ngoại đào viên
Nổi dậy từ vụn của bèo tấm, kết thúc giữa lùm cỏ dại. <于青萍之末,止于草莽之间>: Ý chỉ những việc lớn lao bắt nguồi từ những thử nhỏ nhặt khó thấy nhất.
Nhất tần nhất tiếu <一顰一笑>: lúc cau mặt tươi cười nhíu mày, chỉ nếp gấp trên mặt lúc cười
Cư an tư nguy <居安思危>: sống yên ổn nghĩ đến ngày gian nguy; trong thời bình phải nghĩ đến thời loạn
Vũ tượng chi niên <舞象之年>: Tuổi từ 15 ~ 20
Nhược quán<弱冠>: thời xưa gọi thanh niên khoảng 20 tuổi là nhược quán
Sơ tâm <初心>: Lòng dạ ban đầu, ý định ban đầu
Hoa chi loạn chiến <花枝乱颤>: cười đến run rẩy cả ngườ
Giả thích một chút về đoạn thơ trên, gốc là <灭六国者,六国也,非秦也。族秦者,秦也,非天下也。>: Kẻ diệt lục quốc không phải Tần mà là lục quốc. Kẻ diệt Tần chính là Tần chính là Tần, không phải là thiên hạ. Ý của Tiêu Dư An là ở đây là Bắc quốc diệt vong là do Bắc quốc chứ không phải do ai khác
Vô tâm vô phế [没心没肺]: Tạm hiểu là “Không tim, không phổi”, thường chỉ người vô tâm, nhẫn tâm, hay suy nghĩ đơn giản, thiếu suy nghĩ, thậm chí là… ngu đần
Họa địa vi lao <画地为牢>: nghĩa là quy định phạm vi hoạt động, kiểu một vòng tròn trên đất rồi tự giam mình trong đó.
*Tình thâm bất thọ <情深不寿>: là mối tình sâu duy nhất trong cả cuộc đời
Long chương phụng tư <龙章凤姿>: Hiểu đơn giản là đẹp, rất đẹp, cực kỳ đẹp, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành
Trích lời bài hát Sự Mê Hoặc Của Chàng Trai <郎的誘惑> của cặp đôi Phượng Hoàng Truyền Kỳ <凤凰传奇>
Kim thủ chỉ <金手指>: Từ này có nhiều nghĩa, thường hay chỉ những kẻ gian lận hay gian tế, những kẻ hay đâm sau lưng
滑脉: hoạt mạch: Một loại mạch tượng. Hoạt là trơn tru, sức mạch đi trơn tru như chuỗi hạt châu (viên ngọc) lăn (động) dưới ngón tay.Theo y học cổ truyền Trung Quốc, phụ nữ bình thường nếu có mạch thai thì được gọi là hỉ mạch(喜脉). Nếu kỳ kinh của phụ nữ không tới, không có bệnh tật gì, lại có mạch tượng là hoạt mạch(滑脉), thì phải suy xét có mang thai hay không
Lạn hảo nhân (烂好人): người biểu hiện ra ngoài quá mức tốt, luôn muốn làm vừa lòng mọi người xung quanh
Hàn mai <寒梅>: hoa mai nở vào mùa đông)
(*Phương hoa sáng rực <芳华灼灼>: Khoảng khắc hay khoảng thời gian đẹp nhất)
Hạnh bất tri tâm, cũng hận bất tri tâm <幸不知心,也恨不知心>: hạnh phúc vì không biết nỗi lòng cũng hận vì không biết nỗi lòng
Kinh thế hãi tục (惊世骇俗): Những lời nói, hành động khác với lẽ thường dễ gây cho người khác cảm giác chấn động
Minh minh chi trung <冥冥之中>: Ý nói những việc mà người thường không thể đoán trước và không thể lí giải. Nó là 1 cách gọi của vận mệnh, hay nói cách khác việc đó xảy ra là đã được định trước trong số mệnh con người. Tuy nhiên vận mệnh có thể nắm được và thay đổi được
Lão thiết <老铁>: là từ xuất hiện của người Đông Bắc chỉ mấy anh trai thanh niên cứng
Tiêu Dư An thanh thanh cổ họng liền bắt đầu hát: “Để chúng ta được bầu bạn cõi hồng trần, sống hào sảng phóng khoáng, thúc ngựa phi nhanh như cơn gió, cùng tận hưởng nhân thế phồn hoa, đối rượu ca hát, hát cho con tim mừng vui, sục sôi cuồng nhiệt giữ chặt lấy năm tháng thanh xuân!”
(*trên là bài Động Lực Hỏa Xa <動力火車
Móng heo lớn: Hán việt: Đại trư đề tử <大猪蹄子>: là thuật ngữ mạng, chỉ “Đàn ông không có thằng nào tốt đẹp cả. Thường hay được các cô gái đúng để diss những thằng thay lòng đổi dạ, nói không giữ lời; và cũng có thể dùng để nhổ nước bọt những thằng không hiểu phong tình,quá thẳng tính
Tây tử bổng tâm <西子捧心>: tương truyền thời Xuân Thu có một vị mỹ nữ Tây Thi có bệnh đau tim, thường hay nắm lấy lồng ngực chỗ trái tim cà cau mày, nhưng mà vẫn là hiện lên đẹp vô cùng. Sau này ‘Tây tử bổng tim’ là chỉ dáng vẻ đang bệnh của mỹ nữ, càng tăng thêm sự xinh đẹp
tình thương <情殇>: Là vết thương của tình yêu
giấc mộng Hoàng Lương <黄粱梦>: trong truyện "Chẩm Trung Ký" thời Đường kể chuyện một chàng trai gặp một đạo sĩ trong một quán trọ. Đạo sĩ cho chàng trai một chiếc gối bảo ngủ đi. Bấy giờ chủ quán đang nấu một nồi cơm kê vàng, chàng trai nằm mộng thấy mình được làm quan, hưởng phú quý, nhưng khi tỉnh dậy, cơm kê vàng vẫn chưa chín, sau ví với sự vỡ mộng
du vân kinh long <游云惊龙>: Đi ngao du trên mây sợ làm kinh động lên rồng
Đó là một vở kịch Côn khúc của người trung tên Mẫu đơn đình <牡丹亭> câu chuyện kể về tình người duyên ma
tam cấp <三急>: chỉ những việc hàng ngày mà chúng ta phải làm thường thì không thể nhịn được đại tiện, tiểu tiện, thả rắm
Bá Lạc thức mã <伯乐识马>: Thành ngữ, dùng để chỉ người giỏi phát hiện, tiến cử, bồi dưỡng và sử dụng nhân tà
Chỉ nguyện giống như lương thượng yến, tuế tuế trường tương kiến.*
(*Gốc là <只愿如同梁上燕,岁岁长相见. >: Ước mình như đôi chim yến trên xà nhà, suốt đời đều ở thể gặp nhau, ở bên nhau)
Đảng chương <党章>
đại bi chú <大悲咒>
Dạ tập <夜袭>: tập kích ban đêm
Trường tương tư hề trường tương ức <长相思兮长相忆>: Nghĩa là nhớ mong lâu, này cứ thương nhớ hoài. Trích trong bài Thu phong từ <秋风词> của Lý Bạch
(1) Thu phong từ <秋风词> của Lý Bạch: chỗ này đã giải nghĩa ở đầu chương
(2) Đào yêu <桃夭>: Cây đào tơ xinh tươi, hoa nhiều và rậm. Thanh đi lấy chồng, thì ắt thuận hoà êm ấm cảnh gia đình.
(3) Việt nhân ca <越人歌>
(4) Bạch đầu ngâm của <白頭吟> Trác Văn Quân
(5) Cửu ca – Tương phu nhân <九歌•湘夫人> của Khuất Nguyên)
nhàn vân dã hạc <闲云野鹤>: Chỉ cuộc sống ẩn cư tự do tự tại, thoải mái, không bị ràng buộc
Câu trên Dư An có nói ‘ăn cơm của nhà bọn họ rồi à? <吃他们家大米了?>’ làm mình nhớ đến bài hát Cô gái không có eo <少女没有腰> của Vương Thất Thất <王七七> trong đó cũng có câu ‘ăn cơm của nhà bạn rồi sao, phí vải liệu của nhà bạn rồi à <吃你家大米了吗, 废你家布料了吗>
Cảm vật thương hoài <感物伤怀>: cảm nhận sự vật, cảnh vật làm tổn thương nội tâm.
Tình thê ý thiết <情凄意切>: chỉ tâm trạng vô cùng bi thương
Cung thành đoàn hồi lẫm nghiêm quang, bạch thiên toái toái đọa quỳnh phương <宫城团回凛严光,白天碎碎堕琼芳>: Lấy từ bài tạp khúc ca từ - tháng mười hai lạc từ tháng mười một <杂曲歌辞•十二月乐辞•十一月> của Lý Hạ <李贺>: Diễn tả cảnh cung đình ngày tuyết trắng xóa, tuyết vụn rơi lên trên những mái ngối xa hoa tinh xảo
Lòng dạ Tư Mã Chiêu <司马昭之心>: Nguyên câu là lòng dạ Tư Mã Chiêu, người ngoài đường cũng biết, Tư Mã Chiêu chuyên quyền âm mưu cướp ngôi nhà Nguỵ, ý chỉ âm mưu không che giấu ai được
Binh hồn tiêu tận quốc hồn không <兵魂销尽国魂空>: linh hồn của binh lính mà tiêu phí hết, thì linh hồn của quốc gia cũng trở nên trống rỗng
Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt <青山有幸埋忠骨>: nghĩa là núi xanh nơi đây có vinh hạnh chôn cất hài cốt của người trung thành
Yêu nhi <幺儿>: nghĩa là con út trong nhà
Sơn vũ dục lai phong mãn lâu <山雨欲来风满楼>: nghĩa là cơn giông trước lúc mưa nguồn. Trước khi xảy ra sự việc lớn thường có những biến cố báo hiệu bất thường
Quân mai tuyền hạ nê tiêu cốt <君埋泉下泥销骨>: dịch nghĩa là Quân dưới suối vàng xương cốt đã hóa thành bùn đất. Được lấy trong bài Mộng Vi Chi của Bạch Cư Dị
Ngã ký nhân gian tuyết mãn đầu <我寄人间雪满头>: Ta gửi nơi nhân gian đầu đầy tuyết trắng, cũng lấy trong bài Mộng Vi Chi của Bạch Cư Dị, tiêu đề 181 và 182 là hai câu thơ nối tiếp nhau của bài Mộng vi chi
Thượng cùng bích lạc hạ Hoàng Tuyền <上窮碧落下黃泉>: nghĩa là lên tận cùng trời xanh, xuống tận cùng suối váng, trong bài Trường Hận Ca <長恨歌> của Bạch Cư Dị <白居易>
tự tước vương vi công <自削王为公>: Tự mình bãi bỏ ngôi vua của mình và trở thành công tước
*giáng tôn thị hảo <降尊示好>: giáng chức xuống để biểu thị mình có ý tốt
thiên nhai hà xứ vô phương thảo <天涯何处无芳草>, đây là thành ngữ có xuất xứ từ bài thơ “Điệp luyến hoa – Tình xuân” của Tô Đông Pha đời Tốn
Đại phí chu chương <大费周章>: chỉ việc hoang phí, khổ tâm vào những việc không đâu
Dục dữ quân tương tri, trường mệnh vô tuyệt suy <欲与君相知,长命无绝衰>: Nguyện được cùng chàng tương tri (yêu nhau), duyên tình mãi mãi không dứt
Cẩm thư <锦书>: Chỉ những cuốn sách hoa mỹ
*Loan kính <鸾镜>: một cái gương trang điểm của nữ tử thời cổ, làm bằng đồng có trang trí chim loan trên đó
Nhất thiên nhật sắc hàm sầu bạch, tam nguyện sơn hoa tác ác hồng <一天日色含愁白,三月山花作恶红>: đây là câu thơ trích từ bài thơ của vua Càn Long, ông viết vì nhớ hoàng hậu đã mất của mình, nghĩa là: Mặt trời ban ngày được bao phủ bởi màu sắc u sầu, đến hoa núi tháng ba cũng trở thành màu đỏ khiến người khác chán ghét.
tự tác đa tình <自作多情>: Tự ảo tưởng
Lòng Biết Ơn <感恩的心> của Âu Dương Phi Phi
lương khổ dụng tâm <良苦用心>: dùng nhiều tâm tư trí lực để suy đi tính toán cân nhắc lợi và hạ
Cao xứ bất thắng hàn <髙处不胜寒>: xuất từ bài Thủy điệu ca đầu của Tô Thức, nghĩa đen là ở trên vị trí cao không thắng nổi (chịu nổi) phong hàn lạnh lẽo. Còn nghĩa ẩn dụ là người chức cao quyền trọng sẽ ko tránh được phải chịu cảnh cô đơn lạnh lẽo, ko có bạn tri kỷ
Thủ đắc vân khai kiến nguyệt minh <守得云开见月明>: Chờ đợi mây đi ra khỏi sẽ thấy được trăng thanh, muốn nói con người phải biết kiên trì đến cùng
Tang ma <桑麻>: là dâu tằm, nhưng nó còn một phép ẩn dụ là chỉ vụ mùa, cây trồng của nhà nông
Bài <好日子 - 龚玥> Good Days - Gong Yue
phụng quan hà phí<凤冠霞帔>: mũ phượng và khăn quàng vai
Kim cương Vương Lão Ngũ <钻石王老五>: Chỉ những người đàn ông độc thân lại có tiền
Nhân sinh nhược chỉ như sơ kiến<人生若只如初见>: Nhân sinh nếu mãi chỉ như khi mới gặp
<Tổng tài và kim sí điểu hắn giam giữ đều có đều có bệnh - 总裁和他圈养的金丝雀都有病>
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro