du khách đi, du khách đã đi rồi.
Sài Gòn 1954.
Đó là thuở mà phòng trà là chốn ma mị làm mê dại lòng người, là thời điểm nở rộ lên thứ âm nhạc sang trọng đã giữ chân biết bao khách vãng lai ghé ngang qua chốn đây cốt để thưởng thức tiếng hát của một nàng ca sĩ. Người đến phòng trà đa số là tầng lớp khá giả, bỏ ra một số tiền để ngồi giữa ánh đèn nê-ông xanh tím đủ màu, miệng nhâm nhi một ly trà còn nghi ngút khói, phảng phất bên tai là tiếng hát ngọt ngào như chất mật vàng sóng sánh của loài ong cần mẫn, thật giống như biệt đãi của một quý ông phương Tây nào khi ghé qua thăm chốn thành đô.
Quán Nghệ Sĩ là phòng trà nổi danh nhất thời bấy giờ, vì các ca sĩ ở đây không phải hát theo chủ đề có sẵn như thường thấy trên vô tuyến hay các sân khấu ca múa nhạc. Họ hát về mọi thứ, mọi khía cạnh, mọi ngóc ngách. Bởi người ta đến phòng trà vì mê mẩn cái không khí huyền hoặc nơi ấy, chứ không phải để đếm xem mỗi chủ đề có bao nhiêu bài hát.
"Trăng về viễn xứ" là ca khúc nổi tiếng nhất Quán Nghệ Sĩ, không chỉ bởi cái điệu nhạc sầu khổ như đang vắt đến tàn kiệt một trái tim phải rỉ máu vì tình, mà còn bởi người thể hiện ca khúc đó, là một nghệ sĩ vô danh.
Ừ thì mà là, chủ phòng trà, ông Nam Tuấn đã gọi tên chàng như thế, ngay từ cái ngày chàng bỡ ngỡ bước chân lên sân khấu cất những tiếng hát đầu tiên, cho đến khi tên tuổi của chàng đã phủ rộng khắp các mặt báo Sài Gòn. Người ta kháo nhau rằng, đó là một chiêu giữ khách rất hay của ông chủ Tuấn, cốt là để cho Quán Nghệ Sĩ vẫn có chỗ đứng vững chắc trên thị trường khi tân nhạc đã bắt đầu nở rộ.
Người ta đến phòng trà đâu phải chỉ vì mê đắm một bóng hồng mang nét cười tinh khiết như sương mai hay quyến rũ như màn đêm ở phố thị, mà còn đến bởi giọng hát nổi danh như tiếng chuông ngọc rung lên nơi thiên đàng màu nhiệm - giọng hát của người nghệ sĩ vô danh. Chẳng phải có thời người ta đến Quán Nghệ Sĩ nghe chàng hát "Trăng về viễn xứ" mãi mà không chán. Còn nhớ mỗi khi chàng hát bài hát ấy, người ta đã phải đau đớn, thổn thức như thể chính mình là thủ phạm làm tan nát trái tim chàng.
Hôm nay, phòng trà vẫn đông như lệ thường vốn thế. Người ta kéo đến chật kín những bàn tròn màu trắng nhỏ đã được bày đầy lối đi, để chuẩn bị đắm mình trong một miền cố hương xa xôi nào, có vầng trăng nhạt màu dở dang như mối duyên đầu e ấp của người thiếu nữ thôn quê trong "Trăng về viễn xứ".
"Đêm đông mờ nhạt ánh trăng vàng
Nghe sầu viễn xứ mỗi đông sang
Và hồn buốt giá trong trăng lạnh
Đau mãi trong lòng buổi ly tan.
Ai về quê cũ cho tôi nhắn
Nhớ quá vầng trăng ở quê nhà
Ánh trăng huyền diệu trên cành lá
Lóng lánh sương đêm, chiếu sáng lòa.
Trăng xứ người vầng trăng không tỏ
Bởi ánh đèn đêm đã nhạt nhòa
Trông áng mây chiều vươn khói tỏa
Trăng buồn viễn xứ mấy đông qua." (*)
Cả khán phòng lặng thinh, chỉ còn lại tiếng hát thiết tha, nghẹn ngào như đang than khóc cho một mối sầu tơ vương thật đẹp. Thái Hanh nương theo tiếng ca đã làm ông mê đắm không biết bao nhiêu lần mà đưa mắt về phía chàng ca sĩ đang cất tiếng phía sau rèm che. Hôm nay rèm đỏ ấm, cả sân khấu được bày trí như phòng tân hôn của một cặp vợ chồng son mới cưới nào, tha thướt phủ xuống che khuất dáng vẻ người nghệ sĩ, chỉ để lộ ra chất giọng dịu dàng như ánh trăng xua tan đi mây mù giăng lối, trong trẻo như ánh nắng đầu ngày lặng lẽ soi mình dưới sương khuya.
Không xương vóc, chỉ một bóng dáng huyền hồ nhưng cũng đủ làm trí óc ông tê dại. Ông tự hỏi rằng đã bao lâu mình chưa về quê cũ, đã bao lâu mình chưa về lại miền kí ức đã phủ kín rêu phong thuở xưa ấy để tìm kiếm một bóng hình xa lạ nhưng quá đỗi thân quen? Thái Hanh không chắc mình còn nhớ nổi gương mặt người ấy, thứ duy nhất ông có thể nhớ, thứ duy nhất ông có thể khắc sâu trong lòng chỉ là một dáng cười đẹp như hoa mai nở ngày xuân. Ý thức bỗng tách rời khỏi thân xác mà thả mình trôi theo dòng chảy thời gian, dòng chảy của những kỷ niệm xưa đang ùa về lấp đầy tâm trí.
Thái Hanh im lặng lắng nghe, dường như trong giọng hát này chất chứa một điều gì khiến đáy lòng ông xao động thật nhẹ - cái điều mà mãi đến hôm nay ông mới nhận ra dù rằng ông đã nghe đi nghe lại bài hát này nhiều lần đến nỗi cái đài cát-xét ở nhà bị hỏng băng.
Nó giống như tiếng ai đó khẽ thả một chiếc lá vàng khô lên mặt hồ đang yên ả, làm gợn lên những đường sóng lăn tăn chạy mãi về vô tận, lại giống như tiếng gió hát trên cao nguyên đại ngàn lồng lộng núi nước mây trời và da diết, khắc khoải như đang khóc than cho cánh cò cánh vạc lạc đàn khi chiều vắng.
Tiếng hát của chàng chưa kịp dứt, phía dưới đã vang lên tiếng vỗ tay như sấm dội. Thái Hanh đứng dậy, trên tay ôm một bó hoa hồng được gói cẩn thận trong giấy kiếng và ruy băng, đi về phía sân khấu, nhẹ nhàng đặt lên đài biểu diễn. Chợt ông Nam Tuấn từ phía cánh gà bước ra giữa sân khấu, giọng nói trầm bổng vang lên khắp khán phòng.
"Hôm nay là tròn một năm Quán Nghệ Sĩ xuất hiện trên cái đất Sài thành này, và để kỷ niệm dịp vui hiếm có đây, tôi xin giới thiệu cho các vị một nhân vật đặc biệt."
Ông Nam Tuấn khẽ đưa cánh tay ra hiệu, trong phút chốc ánh đèn sân khấu vụt tắt, tấm rèm đỏ được kéo lên, một dáng người dong dỏng cao gầy từ phía sau bước ra. Chàng bận một chiếc áo sơ mi cổ lật kiểu cách xưa cũ, quần tây đen dài ôm lấy đôi chân xương gầy, đầu đội nón nỉ trắng, nom hệt như mấy tay công tử bột vừa đi du học ở bên trời Tây về.
Chàng đứng đấy giữa muôn vàn tiếng vỗ tay, có trầm trồ, có tán thưởng, lại xen lẫn cả chút ngỡ ngàng. Mái tóc dài "che nửa mặt hoa" khẽ rũ xuống ôm lấy bờ vai ngây thơ. Phiến môi khẽ cong lên một nét cười và đôi mắt sáng ngời như một đốm lửa hồng ai thả vào đêm tối.
Thái Hanh ngồi phía dưới khán phòng, tim lặng đi, đôi mắt khẽ chớp như không dám tin vào những gì mình vừa trông thấy. Cả đời này có lẽ, không bao giờ ông có thể quên được cái khoảnh khắc khi ông nhìn thấy gương mặt người kia, khi ánh mắt hai người gặp lại nhau, khi phiến môi khẽ vô tình thốt lên hai cái tên đã thuộc về quá vãng.
"Em Quốc"
"Anh Hanh"
Tựa như một sợi dây mỏng manh nối liền những hồi ức quá khứ, để rồi biết bao tháng ngày đã từng qua nơi quê nhà ngày xưa ấy bỗng chốc ùa về lấp đầy tâm trí, khiến cõi lòng vốn chênh vênh bỗng trở nên câm lặng.
Người đi như chuyện xưa, không một lần ngoái lại, tháng năm lùi xa mãi, ngỡ chìm vào bình yên. Hay chăng những phù hoa chốn đô thành đã khiến ta trở nên vô tình với làng quê xưa, khiến cho ta nỡ lòng quên đi mối tình ngây thơ vụng dại thuở thiếu thời.
Khiến cho ta quên mất rằng,
đã từng là tất cả của nhau.
***
Ngược thời gian, trở về quá vãng, chớp mắt lại hiện lên khung cảnh làng quê một buổi chiều tà.
Tiếng hò ngân lên giữa lòng sông vắng lặng như họa vào nhân gian một vài câu ca khơi gợi tình ý. Từ mấy dãy nhà hai bên bờ sông, khói lam chiều tỏa lên nghi ngút khiến cho cảnh vật xung quanh như chênh vênh giữa đôi bờ hư - thực. Sông Ngân Giao đẹp như một dải lụa đào tha thướt cứ thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương khói cõi mơ. Nước sông không lăn tăn gợn về vô tận mà lững lờ trôi như muốn thêm vào điệu hò vài nét phong tình lơi lả. Tiếng ca cứ thế vang lên giữa sông nước mênh mông, rồi lại được gió trời mang đi khắp nẻo.
Tà dương như máu nhuộm vào thiên thanh, khiến cả bầu trời bỗng rực lên tựa lửa cháy. Mấy khóm tre ngà dần khuất trong ráng chiều, từng dáng tre mảnh mai vươn cao lên như thể đang thảo trên cái nền rực rỡ ấy một vài nét đen trầm mặc. Giữa hồ, mấy đóa sen đã sắp tàn. Cái sắc hồng phớt dịu dàng ấy chẳng đẹp tươi trong mấy chốc mà đã vội phôi phai. Từng cánh sen nhợt nhạt lặng lẽ rơi trên mặt hồ đang gợn sóng lăn tăn. Hình như không ai để ý rằng chúng im lặng, im lặng như thể đang đợi chờ một điều gì xa xôi lắm. Đợi một bàn tay người đến giữ lấy, hay đợi sóng nước dập vùi mà chẳng biết đỗ bến nơi đâu?
Rồi giữa ánh tà dương cô tịch, nơi sông hồ lại vang lên câu hát của cô thôn nữ đang chèo thuyền hái sen.
" Nước non non nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ xin đừng xa nhau
Trăm năm lòng gắn dạ ghi
Dầu ai đem bạc đổi chì mặc ai
Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim." (**)
Quốc tựa đầu vào vai Hanh, ngồi bên hiên nhà hong tóc. Cái buồn bã của ráng chiều như thấm sâu vào tâm hồn non nớt của cậu, khiến nó khẽ xao động rồi bất chợt lặng im.
"Má anh Hanh giục anh đi xem mắt suốt mấy hôm rày mà anh chẳng nói cho Quốc biết."
"Thì, Quốc biết cái chuyện đó làm gì. Tôi không ưa nổi mấy cô ấy, má tôi ưng chứ tôi đâu có ưng."
Quốc nghiêng đầu cười nhưng trong lòng chát chúa, cậu không biết còn có thể ở bên cạnh anh bao lâu. Dù Hanh nói như vậy nhưng tận sâu trong lòng Quốc vẫn hiểu, phận cậu chỉ là con ong cái kiến, còn anh Hanh lại có cả một tiền đồ sáng lạn phía trước đang chờ. Cậu nào dám mơ ước gì cao xa, chỉ dám mơ thời khắc này mình còn được ở bên cạnh anh, nghe anh gọi một câu "em Quốc".
Mới hôm qua thôi, Quốc còn nghe người ta kháo nhau rằng cậu cả Hanh nhà ông huyện Kim sắp làm đám hỏi với cô Mai Hương, con một ông quan phiên dịch tiếng Pháp. Cả đời này, cho đến khi nhắm mắt, có lẽ Quốc vĩnh viễn không bao giờ quên được cái cảm giác trái tim như chết đi trong lồng ngực khi ấy. Giống như một người đang ngấp nghé bên bờ vực tối đen mà nhìn xuống chỉ thấy toàn khổ đau, tuyệt vọng.
Suốt mấy ngày hôm sau, Hanh không đến tìm cậu nữa. Quốc không buồn, cũng chẳng khóc mà chỉ thấy xót xa trong lòng. Cậu biết anh đang vui duyên mới, còn biết sau ngày cưới, anh sẽ theo cô Mai Hương lên Sài Gòn lập nghiệp. Ân tình xưa đã lỡ, thời gian nào vội xoá, kỷ niệm nào ai đành lòng quên?
Vẫn bến trăng xưa nơi hai đứa thường hò hẹn, Hanh chìa tay đưa cho Quốc tấm thiệp hồng. Ánh trăng vằng vặc sáng, soi rõ hai hàng nước mắt chảy dài trên gò má, Quốc cố nén lòng mình, đưa tay lên giữ lấy.
"Thiệp này em nhận, còn tình trả lại cho anh."
"Em Quốc."
Thế rồi Quốc khóc, quay đầu chạy vội đi bỏ lại anh đứng đó. Duyên không vẹn, còn vấn vương nhau để làm gì? Hanh buông thõng hai tay, thẫn thờ nhìn theo bóng Quốc dần khuất sau màn đêm đen đặc, giống như cậu cũng đem tình mình thả vào cái màn đen quạnh vắng ấy. Hanh lặng im nghe cơn đau đang giày xéo nơi lồng ngực, tự tay anh làm đứt mất sợi tình rồi, làm sao nối lại được đây?
Hanh đi giữa khung trời nhớ, nghe bao yêu thương rạn vỡ, để nỗi sầu cuồn cuộn dâng lên như bão cuốn trong lòng.
Quá khứ thủy chung luôn là vậy, không bao giờ biết dối gạt ai. Tình yêu xưa qua rồi, ánh trăng xưa còn đây mà người thương nào thấy, nhắc lại chỉ càng thêm nhói đau.
***
Thái Hanh lặng yên nhìn người trước mặt, dường như gió sương đã khiến chàng đổi khác, càng lúc càng giống như một cái bóng đen lầm lũi, chất chứa không biết bao nhiêu u hoài, giống như chàng đã đem hồn mình cất giấu giữa muôn ngàn vết nứt nhạt nhòa.
"Quốc đi hát ở phòng trà này lâu chưa?"
"Cũng được một năm rồi."
Tình là làn gió cất tiếng hát giữa nhân gian, mà giờ đây tan thành khói ngang trời. Cách biệt mấy năm ròng, mà khi gặp lại chỉ như người dưng nước lã. Quốc ngồi trên ghế, đưa tầm mắt dõi ra xa, cái ánh nhìn đau đáu giống như chàng cũng đang khao khát tìm lại một dáng hình "em Quốc" thuở nào.
"Quốc làm nghề này, có tốt không?"
Thái Hanh ngập ngừng hỏi, ông biết cái nghề cầm ca này có bao nhiêu bạc bẽo. Đêm đêm phòng trà dâng tiếng hát cho mọi người bỏ tiền mua vui, để rồi khi màn nhung vừa khép, lại trở về với những nỗi niềm riêng không ai hiểu thấu. Trăm người đến nhưng chỉ đến khi vui, còn lúc buồn lại chẳng ai bầu bạn, chỉ đành mượn lời ca tiếng hát cho khuây khỏa nỗi sầu. Đời là bến để ngàn con thuyền neo đậu, nhưng khi tình cạn rồi thuyền lại chẳng thấy bến nơi đâu. Ông xót xa nhìn Quốc, là ông có lỗi, là ông đã phụ tấm chân tình bền chặt khi xưa ấy.
Quốc không đáp, vì chàng không dám nói, vì chàng không dám để ai biết được những đắng cay lòng chàng. Thời gian đầu đi hát, gặp không biết bao nhiêu khó khăn từ chỗ ăn ở cho đến chỗ để hát, rồi phải tập luyện rất nhiều để được đứng trên sân khấu vì tâm lý lúc đầu ai cũng lo lắng, hồi hộp như ai. Kiếp cầm ca, bạc bẽo là lẽ đời. Người ta khóc vì tiếng hát chàng ca sĩ, còn người ca sĩ khóc vì đời mình quạnh vắng thê lương. Khoé môi cong lên một nụ cười nhạt, Quốc lắc đầu.
"Đã trót mang duyên kiếp cầm ca, thì cũng bằng lòng nghe tiếng trách chê của đời, có còn gì nữa đâu."
"Quốc, là tôi có lỗi với Quốc."
Thái Hanh muốn nắm lấy tay chàng nhưng Quốc lại né tránh, để bàn tay ông lạc lõng giữa một khoảng trống lạnh lùng. Bây giờ chàng đâu còn là Quốc của ngày xưa nữa, lời thứ tha kia chỉ đành gửi về quá khứ, có dáng ai mòn mỏi bên hiên nhà trông đợi một tình yêu đã chết trong đêm trăng. Ngoảnh mặt nhìn ông, Quốc cười cay đắng.
"Thôi, nhắc nhở để mà chi, quay về xưa làm gì? Giờ hai lối mộng hai hướng đi. Tình yêu tôi đã mất, tình riêng anh anh cất, cho vẹn lòng nhau."
Giờ còn gì đâu, vầng trăng xưa phai màu, dở dang như mối duyên đầu. Trách chi được trời không trao duyên số, trời chỉ cho phận, mà phận chẳng đành. Giờ chia tay lần cuối gượng cười, nhưng ai biết trong tim đang đau đớn rã rời?
Thái Hanh nín lặng, ông còn gì để mà nói nữa đây? Thương nhớ vẫn đong đầy nhưng tình đành dang dở. Là vì ai cho ai khổ vì ai? Gặp nhau đêm này, ai biết đâu lại là đêm cuối của nhau.
Quốc nhìn ông, khẽ nâng lên ly rượu nhấp trên đầu môi.
"Đã gặp nhau, chuyện cũng nói hết, chỉ mong sau này đường ai nấy bước.Tình không mua bằng lời, nên có nói gì chăng nữa cũng chỉ thế mà thôi."
Rượu này ta uống, cho đẹp lòng nhau.
Rồi Quốc đi, bỏ lại ông đứng đó, đêm nay cũng là một đêm trăng. Rượu nồng không say, sao tái tê đêm dài, cho sầu đau vương khắp lối. Lời nào đã hứa, còn lưu giữ chi thêm thừa? Cố níu thời gian, nhưng thời gian lặng lẽ, để người thành cố nhân.
***
Mưa rơi mãi không ngừng.
Thái Hanh đứng trước chuyến tàu cuối cùng của ngày, lòng nặng trĩu tâm tư. Chỉ một lát nữa thôi khi đoàn tàu rời bánh, đưa ông ra khỏi đất Sài thành, là hết. Ừ, là hết. Ân tình tựa như mây cao, hay chỉ còn trong chiêm bao, mà giờ đây cách xa nhau thật rồi.
Lúc này, ông bỗng nhớ lại lời Quốc nói trong cái đêm kia, thèm được về quê, như trăng về viễn xứ. Hoá ra Quốc hát bài ấy, cốt là để giãy bày tâm tư. Chàng nhớ ánh trăng nơi quê cũ, nhớ buổi chiều nào tựa vai nhau bên hiên nhà hong tóc, và chút tình xưa vụng dại nói mãi chẳng tròn câu. Có lẽ khi hát, chàng cũng đã gặp lại "anh Hanh" của chàng, nhưng ông biết, người đó vĩnh viễn chẳng phải ông.
Thái Hanh bước lên tàu, ngồi vào vị trí gần khung cửa sổ, đưa tầm mắt trông ra phía nhà ga. Hình như có ai đang đứng đó nhìn ông mỉm cười, Quốc đấy à, ông khẽ thì thầm. Khói thuốc hun nhèm mắt ông, mũi cay nồng, rồi bỗng dưng bật khóc. Thầm gọi tên nhau, mà đau đến tận ngày sau.
"Quốc, em Quốc."
Ông đưa tay lên khẽ vuốt ve gương mặt chàng, nào đâu chạm vào lại là khói sương tan.
Hết.
Tựa đề thuộc về Xuân Diệu.
Một số câu văn mình xin phép được dẫn ra từ một bài báo về Sài Gòn xưa mà mình đã đọc cách đây rất lâu rồi nên không còn nhớ rõ là báo nào, chỉ còn lại một vài câu văn ghi chép của mình trong sổ.
Truyện được lấy cảm hứng từ một số bài hát trữ tình mình được nghe, một số lời thoại và câu văn được dẫn ra từ lời những bài hát đó, và các đoạn in nghiêng được trích từ một số bài thơ mình sưu tầm. Những phân đoạn này không thuộc quyền sở hữu của Vanbever.
Một số câu văn, câu thoại được trích từ:
(*) Sưu tầm
(**) Ca dao
- Hai lối mộng (Trúc Phương)
- Kiếp cầm ca (Huỳnh Anh)
- Tình xưa vụng dại (Lê Minh)
- Ảo mộng tình yêu (Nhạc Hoa lời Việt)
- Mối tình đầu (Bình Nguyên Trang)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro