Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

totem soi part1- khuong nhung

Tôtem sói

Khương Nhung

Trần Đình Hiến dịch

Mục lục:

LỜI TỰA:

LỜI NGƯỜI BIÊN TẬP

Chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?

LỜI NGƯỜI BIÊN TẬP

Chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?

Mã Ba Thuấn

Đây là một bộ sách lạ - một kỳ thư duy nhất trên thế giới, mô tả nghiên cứu về sói thảo nguyên Mông Cổ. Đọc sách này, chúng ta được thưởng thức một món ăn tinh thần vô tận về tôtem sói. Bởi lẽ nó vô cùng phong phú, bởi lẽ nó không thể tái hiện. Vì rằng những đoàn thiết kị Mông Cổ và sói Mông Cổ tự do tung hoành trên thảo nguyên đang hoặc đã biến mất, tất cả những truyền thuyết, những câu chuyện về sói đang mất dần trong ký ức chúng ta, và chỉ lưu lại trong ta và trong các thế hệ mai sau những ký hiệu ngôn ngữ của lời nguyền rủa và chửi bới cay độc. Nếu như không có sách này thì sói, đặc biệt là sói thảo nguyên Mông Cổ - bộ máy phát lực của sùng bái vật tổ và sự tiến hoá tự nhiên cuả nền văn minh cổ đại Trung Quốc, chẳng khác những vật không phát sáng trong vũ trụ, rời xa quả đất và nhân loại, lênh đênh trong cõi vô cùng tận bất khả tri, lạnh nhạt trước sự dốt nát ngu xuẩn của chúng ta.

Vậy mà giờ đây, trong tình trạng thiên nhiên rệu rã, các loài vật giảm đi nhanh chóng, tinh thần và tính cách nhân loại ngày càng tồi tệ, đọc Lang đồ đằng một tác phẩm có tính sử thi mà sói là đối tượng miêu tả, thì quả thật là dịp may cho độc giả. Hàng ngàn năm nay, hồng học cự nho chiếm địa vị chủ đạo chính thống, sợ sói như sợ hổ, cho rằng sói gieo tai hoạ mà ghét bỏ, trong nền văn hoá Hán tồn tại bao nhiêu là sự hiểu lầm và thiên kiến đối với sói, vậy mà có một cuốn sách hay như vậy về sói, coi sói như đồng đội, như bè bạn.

Cảm ơn tác giả Khương Nhung! Cách đây hơn ba mươi năm, là thanh niên trí thức Bắc Kinh, ông tình nguyện về lao động ở thảo nguyên Ơlôn Mông Cổ mười một năm, tính đến năm 1979 thi đỗ nghiên cứu sinh Viện Khoa học xã hội Trung Quốc. Ở thảo nguyên, ông từng chui vào hang sói, từng đào bắt sói con, từng nuôi sói nhỏ, từng chiến đấu với sói, cũng từng sống chung với sói. Thậm chí đã từng chung hoạn nạn với sói con, trải qua cuộc sống tinh thần “du mục” cực khổ thời trai trẻ. Bầy sói Mông Cổ dẫn ông đi xuyên suốt mê lộ ngàn năm, tới trung tâm của những câu hỏi lớn. Chính là sự khôn ngoan và trí tuệ của sói, tài năng quân sự và tính cách ngoan cường của sói, tình yêu và hờn giận của người thảo nguyên đối với sói, sức hấp dẫn ma mị của sói, khiến Khương Nhung gắn bó với sói như một mối lương duyên. Sói là ông tổ, là tổ sư, là thần chiến tranh và là tấm gương sáng của người thảo nguyên; tinh thần đồng đội và trách nhiệm đối với dòng họ của sói, trí tuệ của sói, tính cách ngoan cường và nghiêm cẩn của sói, công việc huấn luyện đội thiết kị và bảo vệ môi trường thảo nguyên của sói, sự sùng bái tột đỉnh của dân thảo nguyên đối với sói, nghi thức thiên táng thần bí cổ xưa của người Mông Cổ. Lại nữa, tiếng hú của sói, tai sói, mắt sói, thức ăn của sói, khói sói, cờ sói… Hàng nghìn chi tiết liên quan đến sói đều làm cho tác giả mê mẩn, từ đó tiến hành hơn ba mươi năm nghiên cứu và suy ngẫm để viết một tiểu thuyết trường thiên về quan hệ giữa con người và thiên nhiên, nhân tính và sói tính, đạo của sói và đạo của trời. Ngày nay, giữa lúc xã hội Trung Quốc đang chuyển đổi mô hình, tính cách quốc dân hình thành từ nền văn minh nông canh đang níu chân mọi người tiến tới, học giả Khương Nhung đã đánh dấu son lên tác phẩm đồ sộ mà ông tâm huyết cả nửa cuộc đời, để rồi hoàn thành sứ mạng tái hiện “Lang đồ đằng” (tôtem sói), trở thành người đúc kết chân lý về sói.

Cuốn truyện tập hợp mấy chục chuyện về sói, tình tiết gay cấn, quyết liệt mà lạ lùng thần bí. Mỗi chương, mỗi tính tiết đều đem lại khoái cảm cho độc giả, đã đọc là không thể dừng lại nửa chừng. Giống như thần linh, những con sói Mông Cổ bất thình lình từ trong sách nhảy ra mà cất tiếng tru, chiến thuật cao siêu của sói mỗi cuộc trinh sát, cách bày binh bố trận, phục kích, tập kích, sự lợi dụng tài tình về khí tượng, địa hình; khí phách coi cái chết nhẹ như lông hồng và tinh thần bất khuất; tình thân ái trong cộng đồng; mối quan hệ giữa sói và muôn vật trên thảo nguyên; quá trình trưởng thành đầy khó khăn của sói con, sự ngang ngạnh đáng yêu một khi đã mất tự do, chuyện nào cũng khiến ta liên tưởng tới con người, từ đó mà suy ngẫm về những câu hỏi lớn cho đến nay vẫn chưa được giải đáp trong lịch sử nhân loại: Năm xưa chỉ vẻn vẹn hơn chục vạn quân kị mà sao Mông Cổ tung hoành ngang dọc từ Á sang u? Đất đai Trung Hoa rộng lớn như ngày nay, nguyên nhân sâu xa vì đâu mà được như vậy? Rốt cuộc trong lịch sử, văn minh Hoa Hạ chinh phục các dân tộc du mục, hay là các dân tộc du mục đợt này kế tiếp đợt khác không ngừng tiếp máu cho văn minh Trung Hoa. Vì sao dân tộc sống trên lưng ngựa ở Trung Quốc không thờ tôtem ngựa mà lại thờ tôtem sói? Văn minh Trung Hoa không đứt đoạn, phải chăng đó là do có nền văn hoá sùng bái sói tồn tại ở Trung Quốc? Vậy là, ta không thể không suy xét ngọn nguồn, không thể không đặt câu hỏi trước những thăng trầm của đất nước. Chúng ta luôn miệng thừa nhận là con cháu của Viêm Hoàng, nhưng rất có thể “tôtem rồng” là diễn biến từ “tôtem sói”. Tấm màn bí mật “sùng bái rồng” của dân tộc Hoa Hạ từ đó được vén lên. Vậy thì rốt cuộc chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?

Chương 1

"Tộc Khuyển Nhung tự nhận tổ tiên của họ là hai con chó trắng, tôtem của họ là chó."

(Phạm Văn Lan - Trung Quốc thông sử giản biên, tập I)

"Chu Mục Vương chinh phạt Khuyển Nhung, đem về bốn sói trắng, bốn hươu trắng."

(Hán thư - Hung Nô truyện)

Khi Trần Trận phục trong hố tuyết dùng ống nhòm đơn chộp được một con sói gộc vào trong ống kính, cậu thấy ánh mắt con sói Mông Cổ nhọn như mũi dùi thép. Khắp người cậu nổi da gà, áo sơ mi bị đội lên, gần như không dính vào da thịt. Có ông già Pilich ở bên, lần này Trần Trận không đến nỗi hồn vía lên mây, nhưng mồ hôi lạnh cứ túa ra từ lỗ chân lông, áo ướt đẫm. Tuy lên thảo nguyên đã hai năm, nhưng cậu vẫn sợ sói gộc và sói đàn. Trong núi sâu, xa lều trại, gặp đàn sói đông đến như thế, hơi thở của cậu cũng run. Trần Trận và ông già Pilich lúc này trong tay không súng, không mác, không thòng lọng bắt ngựa, thậm chí ngay cả chiếc bàn đạp bằng sắt cũng không. Hai người chỉ mỗi hai cây roi, lỡ ra bọn sói ngửi thấy hơi người, chắc chắn cả hai chầu trời sớm.

Trần Trận thở hổn hển, ngoảnh sang nhìn ông già. Ông đang quan sát vòng vây của bọn sói bằng chiếc ống nhòm đơn. Ông kìm giọng, nói khẽ: Cậu nhát như thỏ đế, chẳng khác lũ cừu tí nào! Người Hán các cậu sợ sói từ trong máu, nếu không, sao cứ vào đến thảo nguyên là bại trận? Thấy Trần Trận không nói gì, ông khẽ nạt: Lần này thì đừng có cuống lên, phải quan sát động tĩnh, bọn sói không rửng mỡ đùa nghịch cho vui đâu. Trần Trận gật đầu, cậu bốc một nắm tuyết nắm chặt, tuyết trong tay cậu đóng thành băng.

Dốc núi chênh chếch phía trước mặt, đàn dê vàng đông đúc trong khi tranh thủ bứt cỏ vẫn đề cao cảnh giác, nhưng hình như chúng chưa phát hiện ra âm mưu của sói. Một đầu của vòng cung bao vây ngày càng tới gần chỗ nấp của hai người. Trần Trận không dám cử động, cậu cảm thấy như bị đóng băng.

Đây là lần thứ hai Trần Trận gặp đàn sói lớn như thế trên thảo nguyên. Lúc này, nỗi kinh hoàng khi lần thứ nhất gặp đàn sói khiến toàn thân cậu run rẩy. Câu tin rằng, bất cứ người Hán nào gặp cảnh ngộ như cậu mà gan mật không bị tổn thương thì chớ kể.

Cách đây hai năm, khi Trần Trận từ Bắc Kinh về lao động ở mục trường vùng biên này đã là cuối tháng 11, đây đó tuyết trắng mênh mông. Chưa có lều cấp cho thanh niên trí thức, Trần Trận đến ở cùng gia đình ông già Pilich, đảm nhiệm công việc chăn cừu. Hơn tháng sau, một hôm cậu cùng ông già lên Ban Quản lý mục trường xa hơn tám mươi cây số nhận tài liệu học tập, nhân tiện mua sắm ít đồ nhật dụng. Lúc sắp ra về, ông già là uỷ viên Uỷ ban cách mạng mục trường phải ở lại họp đột xuất, nhưng tài liệu thì mục trường chỉ thị phải đem về ngay, không được để chậm. Trần Trận đành ra về một mình. Ông già đổi cho cậu con ngựa ô cao lớn của ông, nó vừa chạy nhanh vừa thuộc đường. Ông dặn đi dặn lại đừng đi đường tắt, cứ đường lớn mà đi, dọc đường hai ba mươi dặm lại có một lều dân, sẽ không xảy ra chuyện gì.

Trần Trận lên yên, lập tức cảm thấy sức mạnh tràn trề của con ngựa Mông Cổ thượng thặng, liền nảy ra cái ý muốn phóng thật nhanh. Vừa lên đầu dốc, ngó thấy đỉnh Sacanôla, nơi trú ngụ của đại đội, cậu liền quên béng lời dặn của ông già, bỏ con đường vòng dài hai mươi cây số, chạy theo đường tắt về thẳng đại đội cho nhanh.

Trời mỗi lúc mỗi lạnh, đi được nửa đường thì có lẽ vì rét, mặt trời run rẩy lẩn xuống dưới đường chân trời. Hơi lạnh từ mặt tuyết dâng lên, vạt áo da cứng ngắc. Trần Trận co duỗi cánh tay, khuỷu tay và kích áo kêu sột soạt. Một lớp trắng như sương muối phủ kín mình con ngựa ô, chân lún trong tuyết dày, con ngựa chạy chậm dần. Đồi núi nhấp nhô, cái nọ tiếp cái kia, nhìn khắp không thấy một sợi khói bếp. Con ngựa vẫn chạy nước kiệu, nó chưa mệt, nước chạy ổn định, người cưỡi không bị lắc. Trần Trận buông lỏng dây cương, mặc cho con ngựa tự điều chỉnh tốc độ và hướng chạy. Cậu bỗng chột dạ mà không rõ nguyên nhân cụ thể. Cậu sợ con ngựa lạc đường, sợ trời trở chứng, sợ bão tuyết, sợ chết cóng trong thảo nguyên, nhưng còn một nỗi sợ nữa mà cậu quên: Sợ sói.

Sắp tới một cái khe. Con ngựa ô dọc đường hoạt bát nhanh nhẹn, tai đảo bốn phía dò động tĩnh bỗng dừng phắt. Nó nhìn như đóng đinh về phía sau khe và bắt đầu khịt mũi, bước chân rối loạn. Đây là lần đầu Trần Trận một mình một ngựa chạy đường trường trên thảo nguyên, cậu không biết sự nguy hiểm đang rình rập phía trước. Con ngựa ô nở to cánh mũi, mắt trợn tròn, tự động đổi hướng. Nó định tránh đường, nhưng Trần Trận không hiểu con ngựa, cậu gò cương bắt nó chạy theo hướng cũ. Nước kiệu con ngựa càng rối, trở thành nửa chạy nửa lắc, vậy mà tiếng vó thì lại rất khoẻ, có thể chuyển sang nước đại bất cứ lúc nào. Trần Trận hiểu rằng mùa đông phải giữ sức cho ngựa nên gò cương không cho nó chạy vụt lên.

Con ngựa thấy hàng loạt cảnh báo mà không có tác dụng, bèn quay lại ngoạm ủng da trên chân cậu. Nhìn vào ánh mắt sợ hãi của con ngựa, Trần Trận chợt cảm thấy hình như có chuyện nguy hiểm. Nhưng lúc này thì đã muộn, con ngựa đã run rẩy bước vào cửa khe thăm thẳm hình phễu.

Khi nhìn thẳng vào bên trong khe, Trần Trận suýt ngã ngựa. Trong ánh hoàng hôn, một đàn sói Mông Cổ lông vàng rực, sát khí đằng đằng đang đứng trên một đồi tuyết cách khoảng bốn mươi mét. Tất cả đều nhìn thẳng hoặc nhìn nghiêng, tia mắt như những chùm lông nhím bay về phía cậu. Phía gần nhất là mấy con sói gộc, lớn như báo gấm, to gấp đôi, cao gấp rưỡi, dài bằng một thân rưỡi những con sói trong vườn thú Bắc Kinh. Lúc này những con đang ngồi đứng vụt cả dậy, đuôi duỗi thẳng như lưỡi lê tuốt khỏi vỏ, như cánh cung từ trên cao chĩa xuống, chuẩn bị một cuộc xung sát. Những con sói gộc vây quanh con sói chúa lông trắng, nhưng cổ, ức và dưới bụng thì lại màu xám tro sáng như bạch kim, đầy vẻ dữ dằn. Đàn sói không dưới bốn chục con. Sau này, khi Trần Trận kể lại chi tiết cách bài binh bố trận của bầy sói cho ông Pilich nghe, ông dùng ngón tay trỏ gạt mồ hôi trán rồi bảo, có đến tám phần là đàn sói đang họp, chúng đang phân công tập kích một đàn ngựa sau núi. May mà đàn sói khi ấy không đói. Sói đói thì lông không phát sáng.

Trong một thoáng, Trần Trận mất sạch cảm giác. Cái dấu hiệu cuối cùng mà cậu nhận biết được là một tiếng động rủn người như hai đồng bạc trắng đập vào nhau, chắc chắn đó là tiếng va chạm của hồn vía cậu đập vào thiên linh cái khi thoát ra khỏi đầu. Cậu cảm thấy dễ đến mười mấy giây sinh mạng của cậu đã đứt đoạn, chỉ còn là cái xác không hồn. Cậu sở dĩ không ngã bởi vì con ngựa mà cậu cưỡi không phải con ngựa thường. Nó là một con ngựa săn nổi tiếng, trưởng thành qua hàng trăm trận chiến đấu với sói.

Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, con ngựa trở lại bình tĩnh đến ngạc nhiên. Nó làm ra vẻ không trông thấy đàn sói, hoặc ra cái điều ngẫu nhiên bắt gặp bầy sói đang tụ tập, tiếp tục chậm rãi bước tới như một khách qua đường. Nó tỏ ra gan lì, bước chân đĩnh đạc, không dụt dè, cũng không cướp đường mà chạy, mà như một diễn viên thượng thặng đội giàn cốc pha lê trên đầu, nó điều chỉnh nhịp đi sao cho uyển chuyển để người cưỡi trên lưng khỏi ngã xuống làm mồi cho sói.

Có lẽ do dũng khí và sự thông minh của con ngựa mà hồn vía Trần Trận lại trở về với cậu. Cũng có thể Trần Trận được trời rủ lòng thương, trả lại linh hồn và thổi vào đấy lòng tin và nghị lực. Khi thể xác nhận lại hồn vía, cậu coi như từ cõi chết trở về, điềm tĩnh đến ngạc nhiên.

Trần Trận ngồi thẳng đuỗn trên yên. Cậu tự dưng bắt chước con ngựa làm ra vẻ phớt đời, không thèm nhìn lũ sói, chỉ vội vàng liếc xéo một cái và có cảm giác chúng ở ngay bên cạnh. Cậu biết tốc độ của sói thảo nguyên, chỉ vài giây là đã vọt tới trước mặt con mồi. Người ngựa ngày càng gần lũ sói phía bên. Trần Trận rất hiểu không được mảy may tỏ ra sợ sệt, phải như Khổng Minh bày không thành kế, làm như trong tay nắm hàng triệu quân, sau lưng có hàng vạn quân thiết kỵ. Chỉ có như vậy mới có thể bình tĩnh trước sói Mông Cổ - sát thủ hung hãn và đa nghi trên thảo nguyên.

Cậu cảm thấy con sói chúa vươn cổ nhìn phía sau lưng cậu. Đàn sói như một dàn rađa, nhất loạt vểnh tai về hướng nhìn của con sói chúa. Các sát thủ im lặng đợi sói chúa ta lệnh. Cặp người ngựa tay không tấc sắt này mà dám ngang nhiên diễu qua trước mặt, khiến sói chúa sinh nghi.

Hoàng hôn sẫm dần, người ngựa càng tới gần lũ sói. Giờ đây chỉ mấy chục bước chân nhưng là nguy hiểm nhất trong đời Trần Trận, và cũng là quãng đường dài nhất đối với cậu. Con ngựa lại tiến thêm mấy bước, Trần Trận bỗng cảm thấy có một con sói chạy lên đầu dốc sau lưng, cậu đoan chắc đó là con sói trinh sát theo lệnh sói chúa, xem phía sau có quân mai phục không? Cậu lại cảm thấy hồn xiêu phách lạc lần nữa.

Con ngựa hình như cũng bối rối. Cặp đùi Trần Trận và thân ngựa đều run, rồi thì do cộng hưởng, cái run nhanh chóng chuyển sang sợ hãi. Con ngựa vểnh tai về phía sau, sốt ruột nghe ngóng con sói do thám. Khi con sói phát hiện ra sự thật là không có gì, cũng là lúc cả người lẫn ngựa đã đến chỗ gần đàn sói nhất. Trần Trận tưởng như cậu đang chui vào một cái miệng sói khổng lồ, phía trên là những răng sắc nhọn, phía dưới cũng là những răng sắc nhọn, biết đâu khi vào đến giữa hai hàm răng, con sói sẽ bập miệng một phát. Con ngựa ô nhún thấp khuỷu chân sau chuẩn bị lấy đà xung trận. Nhưng do tải nặng, nó khó mà thoát hiểm.

Đột nhiên, Trần Trận kêu trời y hệt dân du mục những lúc nguy cấp: Trời ơi, trời cao đất dày ơi, xin Người hãy giúp con! Rồi cậu lại gọi ông già Pilich. Tiếng Mông Cổ, Pilich có nghĩa là khôn ngoan. Cậu hi vọng ông già sẽ nhét vào đầu cậu sự khôn ngoan của dân thảo nguyên Mông Cổ. Thảo nguyên im lặng, không một hồi âm. Cậu tuyệt vọng ngước nhìn trời, cậu muốn nhìn lần cuối màu trắng xanh của bầu trời băng giá.

Đột nhiên, lòi ông già như tiếng sấm ngang tai: Sói sợ nhất là súng, thòng lọng và đồ vật bằng sắt. Súng và thòng lọng, cậu không có. Đồ vật bằng sắt thì sao? Bàn chân cậu nóng ran, có đấy! Dưới chân cậu là hai bàn đạp to tướng. Cậu mừng đến nỗi chân run bắn.

Ông già Pilich đổi ngựa cho cậu nhưng không đổi yên. Thảo nào ngay từ đầu, ông đã lựa cho cậu một cặp bàn đạp to bự, hình như ông tính có lúc phải dùng đến chúng như hôm nay. Nhưng khi đó ông bảo, mới tập cưỡi ngựa, bàn đạp không to thì ngồi không vững, rủi bị hất ngã, rút chân cũng dễ, tránh được trọng thương hoặc chết vì ngựa đá. Cặp bàn đạp này miệng rộng gót tròn, so với cặp bàn đạp bình thường, to gấp đôi, nặng gấp ba.

Đàn sói đang đợi con sói trinh sát. người và ngựa đã mặt đối mặt với chúng. Trần Trận rút chân khỏi bàn đạp rồi cúi xuống mỗi tay cầm một chiếc. Sống chết là ở phút này đây. Cậu vận sức lên đôi tay, ngoảnh mặt về phía đàn sói quát lên một tiếng rồi giơ bàn đạp ra trước ngực đập vào nhau “keng”một tiếng!

Keng! Keng! Keng!

Tiếng “keng” trên thảo nguyên chát chúa như búa tạ đập đường ray, xoáy vào tai lũ sói khiến chúng giật thót. Với loài sói, tiếng va đập của kim loại còn kinh khủng hơn tiếng sét trên trời, tiếng bẫy sập trên đồng cỏ. Trần Trận gõ tiếng thứ nhất, đàn sói run bắn. Gõ mạnh mấy tiếng nữa, đàn sói cụp tai, rụt cổ, lặng lẽ bỏ chạy theo sói chúa, thoắt cái đã mất dạng. Con sói trinh sát cũng bỏ luôn nhiệm vụ, chạy theo đàn.

Trần Trận quả thực không dám tin vào mắt cậu, đàn sói đông là thế mà bị hai chiếc bàn đạp đuổi toé khói. Phấn khởi quá, cậu đập liên hồi cặp bàn đạp, vừa khoát tay về phía sau như dân du mục, vừa quát lớn: Khơlơtâng! Khơlơtâng! (Mau lên, mau lên!) ở đây rất nhiều sói.

Có thể những con sói Mông Cổ nghe hiểu tiếng Mông Cổ, hiểu cái khoát tay của cánh thợ săn Mông Cổ. Chúng tưởng bị bao vây nên nhanh chóng rút lui, nhanh nhưng vẫn rất trật tự, chạy như gió nhưng vẫn giữ được đội hình muôn thuở: Sói khoẻ đi đầu, sói chúa phía trước, sói gộc đoạn hậu, không tán loạn như loài cầm thú khác. Trần Trận đứng ngây ra nhìn.

Đàn sói thoáng cái đã mất dạng, trong khe chỉ còn lại bụi tuyết.

Trời tối sẩm, Trần Trận chưa kịp nhìn lại bàn đạp thì con ngựa đã nhằm cụm lều mà nó quen thuộc, lao đi như mũi tên. Gió lạnh lùa vào ống tay áo, vào cổ, mồ hôi trong người Trần Trận gần như đóng băng.

Thoát khỏi miệng sói trở về, Trần Trận từ đó tin là có trời như dân du mục. Hơn nữa, cũng từ đó cậu đâm sợ, kính nể và say mê sói. Với Trần Trận, sói Mông Cổ không những đụng vào tâm linh cậu, mà còn từ tâm linh hiện ra những cơ thể sống. Làm sao trong mình con sói tiềm ẩn sức hấp dẫn mạnh mẽ nhường ấy! Cái vật nhìn không thấy, sờ không được, hư vô mà hiện hữu này, có lẽ nó là sự sùng bái vật trong tâm linh, còn gọi là tôtem. Trần Trận mang máng cảm thấy hình như cậu đã tiếp cận lĩnh vực tinh thần của dân tộc thảo nguyên, tuy cánh cửa mới mở hé, nhưng cậu đã nhìn được vào bên trong với một tâm trạng hứng khởi.

Hai năm sau đó, Trần Trận chưa lần nào gặp một đàn sói lớn như thế. Ban ngày chăn cừu, cậu chỉ trông thấy từ xa một hai con, mà dù có đi xa vài chục, thậm chí hàng trăm cây số, cũng chỉ gặp nhiều nhất là hai ba con, bốn năm con sói. Nhưng cậu thường thấy bò dê cừu bị sói ăn thịt, ít là một hai con, nhiều là hai ba con cừu, ba bốn con ngựa, nhiều thì xác nằm ngổn ngang. Đến thăm các gia đình có thể thấy tấm da sau khi ăn thịt sói. Nó được treo lên ở đầu sào, bay phất phới như lá cờ phướn.

0O0

Ông già Pilich nằm yên trong hố tuyết, nheo mắt nhìn chăm chú đàn dê trên sườn dốc và đàn sói ngày càng tiến lại gần, bảo Trần Trận: Ráng đợi chút nữa, học săn bắt, trước hết phải học tính kiên nhẫn của sói.

Có ông già bên cạnh, Trần Trận vững tâm hơn. Cậu gạt băng đọng trên lông mi, chớp chớp mắt nhìn ông già, giơ ống nhòm quan sát đàn dê vàng trên sườn dốc chênh chếch trước mặt và vòng vây của bầy sói. Bầy sói chưa hành động.

Từ sau lần con ngựa ô chạm trán với bầy sói, cậu hiểu con người trên thảo nguyên thực tế luôn bị sói bao vây rất gần. Ban ngày chăn cừu, ra khỏi lều không xa là đã trông thấy hàng loạt dấu chân còn mới, trên dốc dưới bãi dấu chân càng nhiều hơn, có cả những bãi phân sói màu xám nhạt. Đêm đêm cậu gần như trông thấy bóng sói vật vờ như trong cõi u linh, nhất là trong những đêm đông rét buốt, những cặp mắt sáng xanh như đom đóm chỉ cách đàn cừu vài chục mét, ít là hai ba cặp, năm sáu cặp, nhiều là mười mấy cặp, nhiều nhất là cái lần cậu dùng đèn pin của con trai ông già, đếm được hai mươi lăm cặp. Du mục nguyên thuỷ cũng như du kích hành quân, càng gọn nhẹ càng tốt. Chuồng cừu mùa đông chỉ là xe cũ, rào lưu động và những tấm thảm lớn quây thành một vòng bán nguyệt, chỉ chắn gió, không ngăn được sói. Khoảng trống rất lớn ở phía nam hoàn toàn dựa vào đàn chó và đám phụ nữ gác đêm. Đôi khi sói lọt vào trong chuồng, sói và chó cắn nhau văng vào vách lều, đụng phải người ngủ sát bên trong. Trần Trận từng hai lần bị đánh thức kiểu ấy, nếu không có bức vách, con sói rơi trúng người cậu. Du mục nguyên thuỷ, người và sói thảo nguyên chỉ cách nhau hai lớp thảm. Có điều cho đến bây giờ, Trần Trận chưa có dịp nào quần nhau với sói. Những con sói Mông Cổ thiện chiến xuất quỷ nhập thần hơn du kích đồng bằng Hoa Bắc. Những đêm bị sói quấy nhiễu, Trần Trận buộc phải tỉnh ngủ, cậu dặn Caxưmai trực đêm thấy sói vào chuồng nhớ đánh thức, cậu sẽ giúp một tay. Ông già Pilich thường vê vê bọ râu dê mà cười mỉm, ông bảo ông chưa thấy người Hán nào hăng hái như cậu. Hình như ông già rất bằng lòng về chàng thanh niên trí thức Bắc Kinh đầy nhiệt huyết này.

Rồi thì Trần Trận cũng được chứng kiến một cuộc ác chiến giữa người và sói dưới ánh đèn pin trong một đêm giông bão cuối năm.

"Trần Tận (Trận)! Trần Tận (Trận)!"

Trần Trận bị tiếng gọi giật giọng của Caxưmai và tiếng chó sủa điên cuồng đánh thức. Đêm đã khuya. Cậu xỏ vội đôi ủng và chiếc áo khoác ngoài, cầm đèn pin và roi ngựa bước ra khỏi lều, hai chân run bắn. Trong quầng sáng đèn pin có tuyết bay lất phất, cậu trong thấy Caxưmai đang túm chặt cái đuôi rất dài một con sói gộc. Con sói có chiều dài suýt soát một thân người trưởng thành. Caxưmai định lôi nó ra khỏi đàn cừu dày đặc. Con sói muốn quay lại cắn ngưòi, nhưng đàn cừu vì sợ gió, sợ lạnh nên đỏ xô về phía bức tường chắn gió, ken chặt đến nỗi nửa thân trước của con sói bị kẹt cứng không cựa quậy được, chi còn mỗi cách cắn văng mạng những con cừu hai bên và hai chân trước bám đất chơi trò kéo co với Caxưmai để thoát ra khỏi đàn cừu, quay lại cắn trả. Trần Trận loạng choạng chạy về phía Caxưmai, nhất thời chưa biết xử lý ra sao. Hai con chó to lớn sau lưng Caxưmai cũng bị đàn cừu che chắn, không thể tiếp cận con sói, chỉ quáng quàng bên ngoài mà sủa uy hiếp con sói. Năm sáu con chó nhà ông Pilich và toàn bộ chó của những nhà lân cận đang quần nhau với bầy sói tại phía đông chuồng cừu. Tiến sủa, tiếng rú, tiếng gào kinh thiên động địa. Trần Trận rát muốn giúp Caxưmai một tay, nhưng cậu run quá, không nhích nổi nửa bước. Cậu vốn rất muốn chạm tay vào con sói, giờ đây ý tưởng đó tan như bọt xà phòng. Nhưng Caxưmai thì cứ tưởng cậu định đến giúp, vội hét: Đừng lại gần kẻo bị sói cắn! Đuổi đàn cừu để lấy chỗ cho chó vào!

Caxưmai ngả người về phía sau, ra sức kéo đuôi con sói đến nỗi mồ hôi đầy mặt. Cô dùng cả hai tay bẻ gập đuôi khiến nó đau quá, há miệng đỏ lòm hớp gió lạnh, hận nỗi không thể quay lại cắn chết tươi con người phía sau cho hả giận. Trườn lên không ăn thua, con sói bò giật lùi thật nhanh, quay được người lại cắn Caxưmai. “Soạt”, vạt áo dài của cô bị rách toạc. Cặp mắt lá răm của cô gái Mông Cổ loé sáng như mắt con báo hoa, cô vẫn túm chặt đuôi sói, nhảy lùi một bước để kéo thẳng nó như cũ, rối ra sức lôi con sói về phía mấy con chó.

Trần Trận hoa mắt, cậu giơ cao đèn pin để Caxưmai nhìn rõ con sói, còn tay cầm gậy thì vụt lia lịa, bất kể vào đầu hay vào tai nó. Đàn cừu nhốn nháo, vì sợ con sói trong bóng tối nên tranh nhau chạy tới chỗ quầng sáng. Trần Trận đâm ra bất lực, không xua được đàn cừu theo ý muốn. Cậu nhận ra Caxưmai đang yếu thế, con sói đã dướn lên một bước.

"A má! A má!" - Có tiếng trẻ kêu thất thanh.

Bayan, đứa con trai lên chín của Caxưmai xông ra khỏi lều, trông thấy mẹ với con sói, nó kêu lạc cả giọng. Như chơi trò nhảy cừu, nó nhảy tưng tưng trên lưng những con cừu đến chỗ mẹ, cùng mẹ tóm đuôi con sói. Caxưmai hét to: Tóm cẳng nó! Bayan chuyển một tay tóm cẳng con sói rồi ra sức kéo. Sức dướn của con sói bị giảm nhiều, hai mẹ con đã ghìm được nó tại chỗ. Tiếng chó vẫn sủa râm ran phía đông. Đàn sói rõ ràng giương đông kích tây. Bộ phận chủ lực khống chế đàn chó, yểm hộ cho những con xông vào chuồng cừu. Mạn giữa và phía tây hoàn toàn do hai mẹ con Caxưmai cố thủ, không cho con sói gộc dồn một số cừu ra ngoài bằng cách chọc thủng tấm thảm chắn.

Ông già Pilich cũng ra chỗ đàn cừu. Ông vừa dồn cừu, vừa gọi: Balưa! Balưa! Balưa tiếng Mông Cổ có nghĩa là “hổ”. Đó là con chó săn sói, giống chó Tạng, to lớn nhất đàn, cực kỳ hung hãn, thân tuy không dài bằng, nhưng cao và ức nở hơn sói nhiều. Nghe tiếng gọi của chủ, Balưa lập tức rút khỏi cuộc chiến, chạy tới bên chủ, hơi thở toàn mùi máu. Ông già vội đón chiếc đèn pin từ tay Trần Trận soi về phía con sói. Balưa lắc đầu một cái thật mạnh, buồn như vệ sĩ bị mất chức, điên cuồng nhào tới chỗ con sói, đạp cả lên đầu lũ cừu. Ông già bào Trần Trận: Dồn cừu về phía sói! Lèn chặt sói lại, không cho nó chạy thoát! Nói rồi ông nắm tay Trần Trận, hai người dồn cừu về phía con sói và mẹ con Caxưmai.

Con Balưa hung dữ miệng phì khói, cuối cùng vào tới chỗ Caxưmai, nhưng con sói bị kẹt giữa đàn cừu không một kẽ hở. Những con chó săn khôn ngoan của Mông Cổ đều không cắn vào những chỗ có thể làm hỏng bộ da sói. Con Balưa tìm không ra chỗ thích hợp để cắn, nó cuống quít rên ư ử. Thấy con Balưa,Caxưmai liền né sang bên, tì đuôi sói vào gối rồi dùng sức mạnh toàn thân mà bẻ, “rắc” một tiếng, xuơng đuôi con sói bị gãy. Con sói đau quá tru thảm thiết, bốn chân bám trụ lơi ra, mẹ con Caxưmai nhân đà giật mạnh nó ra khỏi đàn cừu. Con sói toàn thân run rẩy, ngoái lại nhìn vết thương. Balưa thừa cơ nhảy tới ngoạm trúng cổ họng con sói, rồi mặc cho nó quẫy đạp, con Balưa dùng hai chân trước chặn ức, hàm răng sắc nhọn bập trúng họng, máu sói vọt ra hai bên mép chó. Con sói giãy giụa trong vài phút rồi ngã vật, thân mềm nhũn. Caxưmai chùi máu trên mặt, thở ra một hơi. Trần Trận nhìn sắc mặt đỏ au tưởng chị dùng son làm bằng huyết sói, đẹp man rợ như phụ nữ thời tiền sử.

Mùi máu sói lan ra không khí, đàn chó im bặt, lũ sói bỏ chạy, thoáng cái đã mất hút trong đêm. Chỉ lát sau, từ những trảng cỏ phía tây bắc vọng lại tiếng hú dài thê thảm tiễn đưa viên tướng của chúng vừa trận vong.

Mình là đồ vô tích sự, dát như cừu! Trần Trận thẹn thùng tự trách. Mình không bằng những con chó thảo nguyên, không bằng phụ nữ thảo nguyên. Đứa trẻ lên chín mình cũng không bằng. Caxưmai cười, lắc đầu bảo: Không đúng, nếu không có chú đến giúp thì nó bắt mất cừu rồi. Ông già Pilich cũng cười: Học trò người Hán như cậu mà biết dồn cừu, biết soi đèn pin, tôi mới thấy là một.

Rốt cuộc Trần Trận cũng sờ được vào cái xác còn nóng của con sói. Cậu hối hận vì hồi nãy không kéo đuôi con sói cùng với Caxưmai, bỏ lỡ dịp ngàn năm có một tay không bắt sói. Sói Ơlôn quả thực to vật vã, lông lá đầy mình như hắc tinh tinh, chết rồi mà vẫn oai phong, chỉ như say rượu nằm dưới đất, có thể vọt dậy bất cứ lúc nào. Trần Trận sờ cái đầu to đùng của con sói, lấy hết can đảm ngồi xuống, giang ngón cái và ngón giữa đo chiều dài từ chóp mũi dến chót đuôi. Chín gang tay, vị chi là một mét tám, cao hơn cậu mấy phân. Trần Trận hít hà ngạc nhiên quá đỗi.

Ông già Pilich dùng đèn pin soi đàn cừu. Có ba bốn con đã bị sói cắn cụt khu đuôi béo mẫm, mỡ và máu trộn lẫn, chảy từng vệt. Ông già bảo, đổi bốn năm cái đuôi cừu lấy một con sói không lỗ vốn. Ông cùng Trần Trận kéo con sói về lều, đề phòng lũ chó hàng xóm cắn xé bộ da cho đỡ tức. Trần Trận cảm thấy chân sói to hơn nhiều so với chân chó. Cậu xoè bàn tay ướm thử, trừ các ngón tay, bàn chân sói vừa bằng bàn tay người lớn. Thảo hèn sói chạy rất ổn định trên tuyết hoặc trên đá sỏi. Ông già bảo: Ngày mai tôi dạy cậu lột da sói làm xà cạp chân.

Caxưmai bê từ trong lều ra nửa chậu thịt vụn lẫn xương khao Balư và lũ chó. Trần Trận cũng ra theo, luôn tay vuốt ve cái đầu to bự và tấm lưng cánh phản của con Balư. Con chó vừa nhai xương rau ráu vừa vẫy đuôi tỏ vẻ biết ơn. Trần Trận không nén được, hỏi Caxưmai: Lúc nãy chị có sợ không? Cô cười: Sợ chứ, tôi sợ sói bắt mất cừu, mất công điểm. Tôi là Tổ trưởng sản xuất, để mất cừu thì xấu hổ chết! Caxưmai võ vỗ đầu con chó, luôn miệng khen: Balư sai (giỏi lắm)! Balư sai (giỏi lắm)! Con Balư nhả miếng xương, ngẩng lên đón bàn tay của cô chủ rồi rúc mõm vào ống tay áo cô, đuôi phe phẩy. Trần Trận thấy rõ con Balư nhận ra tình cảm của cô chủ đối với nó trong lúc đói lòng giữa đêm đông. Caxưmai bảo: Cậu Trận này, sau Tết, tôi sẽ cho cậu một con cún rất đẹp, chăn nuôi đúng kỹ thuật không khó, cậu nuôi tốt, nó sẽ như con Balư. Trần Trận rối rít cảm ơn.

Vào trong lều rồi, Trần Trận vẫn chưa hết sợ, nói: Hồi nãy cháu sợ quá. Ông già nói: Khi ấy tôi cũng thấy thế khi cầm tay cậu. Mà sao cậu run ghê thế? Ra trận mà tay run thế thì làm sao cầm chắc tay dao? Muốn trụ lại trên thảo nguyên, phải tài giỏi hơn sói. Từ nay tôi sẽ thường xuyên đưa cậu đi săn sói mới được. Xưa kia Thành Cát Tư Hãn tuyển quân, bao giờ cũng tuyển những thợ săn giỏi.

Trần Trận gật đầu liền mấy cái, nói: Cháu tin là như thế. Chị Caxưmai mà lên ngựa ra trận, tài giỏi hơn Hoa Mộc Lan nhiều. Hoa Mộc Lan là một nữ tướng rất nổi tiếng đời Hán.

Ông già nói: Hoa… Hoa Mộ La (Mộc Lan) của người Hán rất hiếm, còn Caxưmai của Mông Cổ thì rất nhiều, nhà nào cũng có. Ông già cất tiếng cười khà, y hệt tiếng cười của con sói chúa.

Từ ấy Trần Trận ngày càng muốn tiếp cận, quan sát, nghiên cứu lũ sói. Cậu lờ mờ cảm thấy rằng, thảo nguyên và người thảo nguyên có mối quan hệ bí ẩn. Có lẽ phải hiểu rõ sói thảo nguyên thì mới hiểu được thảo nguyên và người thảo nguyên, mà sói thảo nguyên là khâu bí ẩn nhất. Trần Trận rất muốn có thêm những cảm xúc chân thực của cậu về sói, thậm chí cậu rất muốn tự mình bắt được sói con đem về nuôi. Khi nảy ra ý nghĩ này, bản thân cậu cũng giật mình. Nhưng mùa xuân càng tới gần, ý nghĩ này càng mãnh liệt.

Tuy vậy, cậu vẫn vô cùng cảm kích về tấm lòng của ông già.

Trần Trận cảm thấy ông già hích tay cậu rồi chỉ lên sườn dốc. Cậu vội chĩa ống nhòm về phía ấy, đàn dê vàng vẫn đang hối hả gặm cỏ. Nhưng cậu trông thấy một con sói lớn tách khỏi vòng vây, nhằm hướng núi phía tây chạy đi. Cậu chột dạ, khẽ hỏi ông già: Chẳng lẽ đàn sói bỏ cuộc, hoài công mình phục cả buổi ở đây!

Ông già bảo: Đàn sói không dễ bỏ qua một dịp may. Hẳn là sói chúa thấy đàn dê quá đông, nên sai lính về điều thêm quân. Dịp may như thế này năm sáu năm chưa chắc đã gặp một lần. Xem ra đàn sói muốn vớ bẫm, khoắng một mẻ lớn. Hôm nay không uổng công khi dẫn cậu đến đây. Cậu thấy chưa, đi săn là phải kiên trì.

Chương 2

Thuyền Vu (Hung Nô) sinh hai con gái nhan sắc tuyệt trần, người trong nước gọi là thần nữ. Thuyền Vu nói, con gái ta không thể gả cho người thường, mà phải hiến cho trời. Bèn sai dựng chòi cao phía bắc đất nước, nơi không có người, rồi đưa hai con gái đến ở để trời tự đón lên. Một năm qua đi, chỉ thấy mỗi con sói lớn ngày đêm canh gác căn chòi, đào hang mà ở không đi. Cô em nói, cha bố trí chị em mình ở đây là để trời đón, giờ thì lại là sói, hay sói là thần vật trời sai đến lấy chị em mình. Cô chị cả sợ nói, lấy đồ súc sinh này thì nhục cho cha mẹ. Người em không nghe, xuống chòi làm vợ sói, sinh con. Sau sinh sôi nảy nở thành một nước. Vậy nên, người nước này tiếng hát dài như tiếng sói tru.

- Chu thư, Nhu nhu Hung Nô đồ hướng Cao Xa liệt truyện.

Lại thêm sáu bảy con sói lớn lặng lẽ nhập bọn, tạo thành vòng vây ba mặt hình cánh cung. Trần Trận kéo ống tay áo da cừu che kín mũi miệng, khẽ hỏi: Bố, đàn sói bắt đầu bủa vây rồi phải không?

Ông già cũng trả lời khẽ: Phải lúc nữa, con sói đầu đàn đang đợi. Sói bao vây chặt chẽ hơn người. Trước tiên, phải phân tích sói chúa đang đợi gì? Ông già chớp chớp hàng mi cho những bông tuyết rơi xuống. Chiếc mũ lông cáo dùng để che trán, che mặt, che vai bán đầy tuyết xốp phủ kín người ông già, chỉ chừa lại đôi mắt đồng tử màu hổ phách.

Hai người phục trong hố đã hơn nửa ngày. Lúc này, họ theo dõi chặt chẽ đàn dê trên dốc núi trước mặt, gần một nghìn con. Mấy con đực trên đầu có cặp sừng rất dài, miệng nhai cỏ, mắt nhìn ra xa, mũi khịt khịt đánh hơi trong không khí. Những con khác ăn như rồng cuốn.

Đây là bãi chăn dự bị khi có thiên tai của đội Hai, dọc ngang hai ba mươi dặm, vắt ngang sườn núi, thoáng gió, cỏ thân cao, mọc dày, chất lượng tốt, bão không đổ, tuyết lớn không phủ kín.

Ông già nói nhỏ: Cậu nhìn kỹ là biết ngay bãi cỏ có vị trí đặc biệt tốt, đúng hướng gió tây bắc, tuyết càng lớn càng không đọng lại được. Năm tôi lên tám, thảo nguyên Ơlon gặp họa lớn. Tuyết ngập lút lều Mông Cổ. May mà phần lớn đàn gia súc được mấy ông già dồn đi từ lúc tuyết mới đến đầu gối. Các cụ tập trung ngựa lại, dùng sức của hàng nghìn con ngựa mở đường, tiếp theo là mấy chục đàn bò dẫm cho tuyết rắn lại, hình thành một con mương cạn. Đàn cừu và bò di chuyển ròng rã ba ngày ba đêm mới tới bãi cỏ này. Tuyết ở đây chỉ dày chừng một hai thước, ngọn cỏ nhô lên ba đốt ngón tay. Đàn bò và cừu vừa đói vừa rét, trông thấy cỏ liền be rầm lên, chạy tới. Mọi người phục xuống đất mà khóc, đập đầu lạy đến nỗi mặt mũi đầy tuyết. Đến đây, cừu và ngựa có thể bới tuyết ăn cỏ, những con chưa biết bới thì đi phía sau mót cỏ mà ăn. Quá nửa sống sót đến khi tuyết tan. Những gia đình không kịp di chuyển thì thảm quá, tuy người thoát, nhưng gia súc thì hầu như bị vùi trong tuyết, chết sạch. Nếu không có bãi cỏ này thì người và gia súc ở thảo nguyên Ơlon không còn một mống. Từ đó, thảo nguyên Ơlon không còn sợ tuyết lớn nữa. Hễ có tuyết lớn, chuyển về đây là thoát nạn.

Ông già thở dài nhẹ: Đây là bãi chăn cứu mạng trời ban cho người và gia súc chúng ta. Trước kia, người dân năm nào cũng tế trời và sơn thần trên núi. Hai năm nay do có phong trào (cách mạng văn hóa), không ai dám cúng bái công khai, nhưng trong bụng vẫn khấn thầm. Núi này là núi thiêng, người dân Ơlon dù khô hạn đến mấy, thiếu cỏ đến mấy cũng không dám đụng vào bãi cỏ này, dù chỉ một cọng. Dân chăn ngựa mất bao tâm huyết mới giữ được đồng cỏ này. Bầy sói ngày đêm bảo vệ những quả núi. Cứ khoảng năm sáu năm chúng lại giết một lô dê vàng tế thần núi, tế trời. Những quả núi ở đây không những cứu người và gia súc, mà cứu cả sói. Sói tinh hơn người, người chưa kịp đến, sói đã đến trước. Ban ngày sói nấp sau những đống đá trên đỉnh núi hoặc chỗ tuyết rắn phía sau núi. Ban đêm bới tuyết ăn bò cừu chết vì lạnh. Chỉ cần có cái ăn là sói không quấy rầy con người.

Vài đám mây trắng như bông vét quang bầu trời. Ông già ngẩn nhìn da trời xanh trong với ánh mắt thành kính. Trần Trận cảm thấy ánh mắt ấy chỉ thấy trong những tranh tôn giáo phương tây.

Năm nay thảo nguyên có tuyết sớm nên nửa thân cỏ chưa kịp vàng đã lút trong tuyết. Cỏ trong tuyết chẳng khác rau xanh đông lạnh, mùi thơm ngọt bay lên từ những cọng cỏ rỗng ruột hoặc từ những vết tuyết nứt. Đàn dê từ bên nước láng giềng bị tuyết lớn và cái đói truy đuổi, vượt biên về đây, gặp đồng cỏ Ơlon như gặp ốc đảo giữa mùa đông. Mê mẫn vì mùi cỏ thơm, chúng ở lại, không đi đâu nữa. Bụng no tròn như cái trống, chúng gần như chạy không nổi.

Chỉ sói chúa và ông già Pilich mới nhìn ra đàn dê đã phạm sai lầm lớn.

Đàn dê này chưa phải đông nhất. Trần Trận còn nhớ năm đầu tiên khi về Ơlon, thi thoảng lại trông thấy một đàn đông hàng vạn con. Nghe cán bộ mục trường nói lại, thời kỳ khó khăn những năm sáu mươi, bộ đội các đại quân khu phương bắc dùng xe nhà binh và súng máy bắn chết rất nhiều dê lấy thịt cho các cơ quan quân khu. Hậu quả là đuổi sạch dê ra khỏi biên giới. Những năm gần đây biên giới căng thẳng, những cuộc săn bắt dê quy mộ lớn đã chấm dứt. Thảo nguyên Ơlon xinh tươi lại được trông thấy những đàn dê đông đúc. Trần Trận khi chăn cừu vẫn gặp những đàn dê lớn lướt qua như cơn lốc màu vàng ngay bên sườn, khiến đàn cừu của cậu giật mình dồn thành đống, nhìn những con dê tự do bay nhảy bằng ánh mắt thèm thuồng.

Đàn dê vàng trên thảo nguyên Ơlon hoàn toàn coi khinh những người trong tay không súng. Một bận, Trần Trận thúc ngựa tạt sườn, xông vào một đàn, hi vọng nhân lúc nhốn nháo tóm được một con, thưởng thức món thịt vào loại cao lương mỹ vị. Nhưng chúng chạy quá nhanh, dê vàng chạy nhanh nhất trong số loài vật bốn chân, chó săn hoặc sói không bao giờ đuổi kịp. Trần Trận mấy bận thúc ngựa xông vào giữa đàn nhưng không thể đụng tới sợi lông của chúng. Chúng tẻ sang hai bên, cậu lọt vào giữa, cách mỗi bên chừng hai mươi mét. Chúng tiếp tục phi như gió, bỏ cậu lại phía sau. Chạy xa rồi, chúng mới nhập đàn làm một, cậu chỉ còn cách giương mắt ếch mà ngó.

Đàn dê vàng trước mặt cỡ trung bình, nhưng Trần Trận thấy đàn sói chỉ mấy chục con - dù là sói gộc, thì đàn dê vẫn là quá lớn. Người ta thường nói, lòng tham của sói là lớn nhất. Trần Trận muốn biết tham vọng ấy lớn chừng nào. Cậu cũng rất muốn biết đàn sói vây ráp giỏi đến mức nào.

Đàn sói rất thận trọng khi bủa vây, động tác nhẹ nhàng, chậm rãi. Chỉ cần một vài con dê ngẩng đầu lên, là cả đàn nằm rạp xuống cỏ bất động, ngay cả hơi nước thở ra từ mũi cũng từ từ.

Đàn dê tiếp tục gặm cỏ như điên. Hai người im lặng chờ đợi. Ông già nói nhỏ: Dê vàng mới là đại họa của thảo nguyên. Chung chạy nhanh, ăn khoẻ. Cậu thấy đấy, chúng đã ăn không biết bao nhiêu là cỏ ngon. Người và gia súc gian nan vất vả mới để dành được bãi chăn này, vậy mà chỉ mấy hôm chúng đã xực mất non nửa. Nếu về vài đàn lớn nữa là đồng cỏ đi đứt. Tuyết năm nay lớn, không khéo gặp đại họa. Không giữ được bãi chăn này là cực kỳ gay go. May mà có đàn sói, chỉ trong vài hôm là đà dê toi mạng hoặc bỏ chạy, chắc chắn là thế.

Trần Trận giật mình nhìn ông già: Thảo nào bác không giết sói!

Ông già nói: Bác cũng giết sói, nhưng không giết nhiều. Sói chết sạch thì thảo nguyên cũng hết sống. Thảo nguyên mà chết, người và gia súc sống nổi không? Người Hán các cậu luôn luôn không hiểu điều này.

Trần Trận nói: Đúng thế thật. Bây giờ cháu mới hiểu đôi chút. Cậu thấy trong lòng rạo rực, hình như đã mường tượng ra cái bóng của tôtem sói. Cách đây hai năm, trước khi rời Bắc Kinh, cậu đọc và thu thập rất nhiều sách báo viết về dân tộc thảo nguyên, khi ấy cậu chỉ biết tôtem của họ là sói, nhưng hình như lúc này cậu mới bắt đầu hiểu vì sao dân thảo nguyên thờ phụng sói - con vật mà người Hán với nền văn minh nông canh, thù ghét nhất.

Ông già cười mỉm liếc Trần Trận: Căn lều của đám thanh niên trí thức Bắc Kinh các cậu thảm tường quá mỏng. Dịp này ta lấy phần nhiều hơn một chút, chở dê lên trạm thu mua Hợp Cung tiêu đổi lấy thảm, bốn cậu sẽ ấm hơn trong mùa đông này. Trần Trận nói: Vậy thì hay quá! Lều chúng cháu, thảm tường chỉ hai lớp mỏng, mực viết đóng băng vỡ cả lọ. Ông già cười: Xem này, đàn sói trước mặt sắp sửa tặng quà cho chúng ta!

Ở thảo nguyên Ơlon, một con dê nguyên vẹn giá hai mươi tệ gần bằng nửa tháng công điểm cố định của người chăn ngựa. Da dê là nguyên liệu thượng hạng may áo jacket. Người ở trạm thu mua còn nói, áo bay của phi công cũng bằng da dê, nhung phi công Trung Quốc không được mặc. Hàng năm Nội Mông xuất khẩu toàn bộ da dê sang Liên Xô, Đông u, đổi lấy sắt thép, xe hơi và súng đạn. Thịt dê philê đóng hộp đứng đầu bảng, cũng xuất khẩu tất. Người trong nước chỉ được ăn chỗ thịt loại ra, mua bằng phiếu ở các quầy cung cấp trên huyện, kỳ (huyện tự trị), vì là mặt hàng quý hiếm.

Mùa đông năm nay đàn dê vượt biên từng đàn lớn, khiến các công xã chăn nuôi vùng biên và lãnh đạo các huyện, kỳ rất mừng. Trạm thu mua các cấp đã bố trí nhà kho, chuẩn bị thu mua. Cán bộ, thợ săn và mục dân vui mừng như dân chài gặp đàn cá lớn. Thợ săn và dân chăn ngựa là chân chạy, hầu hết đã lên yên, ngựa khoẻ, đem theo chó săn, súng trường, chuẩn bị cho cuộc truy sát. Trần Trận bị đàn cừu níu chân, lại không có súng. Với lại, dân chăn cừu chỉ có bốn con ngựa thường, không như dân chăn ngựa có tới bảy tám con, mười mấy con ngựa chuyên dùng. Đám thanh niên trí thức đành giương mắt nhìn các thợ săn xuất quân. Đêm hôm kia Trần Trận đến lều anh thợ săn Lanmutrac. Đàn dê mới về có mấy hôm mà anh ta đã bắn được mười một con, trong đó có một phá xâu táo, hạ hai con. Thu nhập của vài ngày săn bắn bằng cả ba tháng lương của người chăn ngựa. Anh ta giọng hể hả, nói ràng đã kiếm đủ tiền thuốc lá trong một năm, chỉ vài hôm nữa, anh sẽ mua một đài bán dẫn Hồng Đăng và để nó ở nhà, còn cái đài cũ thì đem ra lều dã chiến. Lần đầu tiên Trần Trận được ăn thịt dê vàng tươi, ngon lạ lùng, thế mới gọi là thịt. Trên mình con dê vàng không có chỗ nào bỏ đi. Vì là loài chạy khoẻ, nên mỗi đường gân thớ thịt của nó đều là tinh hoa của cả một quá trình rèn luyện trong cuộc thi chạy với sói. Thịt dê vàng ngon không kém thịt nai.

Từ khi đàn dê vàng về thảo nguyên Ơlon, đám thanh niên trí thức Bắc Kinh bị rớt xuống công dân loại hai. Hai năm qua, đám này đã có thể chăn cừu một mình, nhưng kiến thức săn bắt thì hãy còn mít đặc. Vậy mà săn bắn chiếm vị trí rất quan trọng trong phương thức sản xuất của vùng biên Nội Mông. Tổ tiên người Mông Cổ là dân tộc săn bắn cư trú tại thượng lưu Hắc Long Giang, sau tiến dần về thảo nguyên Mông Cổ sống cuộc sống nửa săn bắt nửa chăn thả. Săn bắn là nguồn thu nhập quan trọng của mỗi gia đình, thậm chí là nguồn thu chính. Ở thảo nguyên Ơlon, dân chăn ngựa có địa vị cao hơn cả. Những thợ săn giỏi thường xuất thân từ dân chăn ngựa. Đám thanh niên trí thức rất ít người có thể trở thành dân chăn ngựa, mà nếu có thì cũng chỉ là người học việc, thân phận học trò. Vì vậy khi cái tin sắp có cuộc săn lớn lan ra, những thanh niên trí thức Bắc Kinh những tưởng mình đã là dân du mục kiểu mới, mới biết mình nhầm to.

Trần Trận ăn no thịt dê vàng, nhận thêm một đùi - quà biếu của Lanmutrac, rồi đến luôn lều ông già Pilich.

Đám thanh niên trí thức tuy đã có lều riêng, nhưng Trần Trận vẫn thích đến lều ông già. Căn lều của ông rộng và đẹp, chắc chắn và rất ấm. Trên tường treo đầy thảm tranh đề tài tôn giáo, dưới đất trải thảm tranh có hình hươu trắng. Trên chiếc bàn vuông, bát bạc, chậu đồng, bình thiếc bày trên giá, đều được lau chùi bóng lộn. Nơi đây vùng sâu vùng xa, phong trào "phá bốn cũ" của Hồng Vệ binh chưa kịp đến để rạch nát những tấm thảm treo tường của ông già. Lều Mông Cổ của bọn Trần Trận có bốn thanh niên trí thức là bạn học cùng lớp của một trường phổ thông trung học Bắc Kinh, trong đó có ba là con em của bọn "xã hội đen đi theo con đường tư bản chủ nghĩa", bọn "độc quyền học thuật phản động". Do cảnh ngộ tương tự, nên tư tưởng hòa đồng, rất ác cảm với bọn hồng vệ binh ngu si dốt nát, nên đầu mùa đông năm 1967 cùng nhau từ biệt Bắc Kinh ồn ào, đi tìm cuộc sống yên bình trên thảo nguyên Nội Mông. Họ đối xử tốt với nhau, căn lều Mông Cổ của ông già y như đại bản doanh của một đại tù trưởng trên thảo nguyên, bọn Trần Trận được bảo ban chăm sóc, khiến các cậu cảm thấy thân thiết và yên ổn.

Hai năm nay, gia đình ông già coi Trần Trận như người trong nhà. Hai hòm sách đầy ắp đem từ Bắc Kinh về, nhất là những sách liên quan tới lịch sử Mông Cổ viết bằng tiếng Trung Quốc hay bằng tiếng nước ngoài, càng thắt chặt mối quan hệ giữa ông già và cậu thanh niên người Hán. Ông già cực kỳ hiếu khách, từng có bạn là những nghệ nhân người Mông, họ biết nhiều lịch sử và truyền thuyết Mông Cổ. Trông thấy sách, nhất là được xem tranh minh họa và bản đồ, ông già rất thích những quyển sử Mông Cổ do những nhà văn, nhà sử học người Trung Quốc, người Nga, người Ba Tư và người các nước khác viết. Biết chút ít chữ Hán, ông già tranh thủ dạy tiếng Mông Cổ cho Trần Trận, ông muốn càng sớm càng tốt giải mã những gì viết trong sách. Ông kể cho Trần Trận nghe chuyện kể Mông Cổ. Sau hai năm, cuộc đối thoại bằng hai ngữ Mông - Hán giữa một già một trẻ đã diễn ra khá trôi chảy.

Nhưng Trần Trận chúa dám kể cho ông già nghe người Trung Quốc xưa và một số nhà sư học phương tây đã nhìn Mông Cổ bằng con mắt thù địch, đầy ác ý. Về thảo nguyên, Trần Trận không bao giờ dám ngâm bài thơ "Mãn giang hồng" của Nhạc Phi, không dám nhắc đến "Tiếu đàm", "Khát ẩm". Cậu rất muốn tìm hiểu nguyên nhân vì sao trong lịch sử, dân tộc nông canh và dân tộc du mục lại thù ghét nhau và vì sao dân tộc Mông Cổ với số dân ít ỏi lại bùng nổ như phản ứng nhiệt hạch đáng sợ đến thế trong lịch sử nhân loại.

Trần Trận vốn không muốn rời căn lều của ông già Pilich, nhưng thảo nguyên Ơlon màu mỡ, đàn gia súc ngày càng đông có đàn sau kỳ sinh nở lên tới ba ngàn con, quá tầm một người chăn, do đó phải chia đàn. Trần Trận cực chẳng đã phải rời căn lều Mông Cổ, cùng ba thanh niên trí thức dựng lều ở riêng. Có cái tốt là không xa nơi ở cũ bao nhiêu, cừu kêu chó sủa vẫn nghe thấy, sớm tối đi về vẫn gặp nhau, lều nọ sang lều kia ngồi chưa nóng yên ngựa đã tới, tiếp tục câu chuyện bà dở. Có điều lần này là chuyện dê vàng, không phải chuyện sói.

Trần Trận vén rèm cửa - tấm thảm len dệt đồ án cát tường, bước vào trong lều, ngồi uống trà sữa trên tấm thảm dày. Ông già nói: Đừng thấy người ta bắn được nhiều mà đỏ mắt lên, ngày mai tôi sẽ đưa cậu đi lấy đầy một xe dê vàng đem về. Ba bốn hôm nay, tôi đã tăm cả vùng này, đã thấy chỗ nào có thể bắt dê vàng. Thật đúng dịp, tôi cũng muốn cho cậu hiểu thêm về sói. Cậu luôn ca cẩm sói phải không? Người Hán là con cừu ăn cỏ nên dát như thỏ đế, người Mông Cổ ăn thịt nên bạo gan như sói. Mình nên có cái gan của sói.

Tinh mơ hôm sau, Trần Trận cùng ông già mai phục trên một cái dốc phía tây nam dãy Đại Sơn. Ông già không đem theo súng và chó, chỉ đem theo chiếc ống nhòm. Trần Trận mấy bận theo ông già đi săn cáo, nhưng đi tay không thế này là lần đầu. Cậu hỏi đi hỏi lại ông già, phải chăng ông bắt dê bằng ống nhòm? Ông già chỉ cười không trả lời. Ông thích để cho học trò của ông chất đầy câu hỏi trong đầu khi học ông.

Chỉ khi phát hiện đàn sói lặng lẽ bao vây đàn dê vàng, Trần Trận mới đoán ra cách săn của ông già Philich. Cậu khoái quá ông già cũng nhìn cậu mỉm cười láu lỉnh. Trần Trận thấy mình như ông lão đánh cá trong chuyện trai cò tranh ăn, nhưng cậu chỉ là ngư ông dởm, ngư ông đích thực phải là ông Pilich. Ông già túc trí đa mưu của thảo nguyên dẫn cậu đến đây để ngồi không ăn sẵn. Từ lúc trông thấy đàn sói, Trần Trận quên cả rét, máu chảy nhanh gấp đôi trong huyết quản, nỗi sợ của lần đầu gặp sói cũng tan biến.

0o0

Không một gợn gió trên bãi cỏ trong núi sâu, trời hanh khô, lạnh buốt. Hai chân gần như cứng đờ, phía dưới bụng khí lạnh ngày càng đậm, giá có tấm đệm bằng da sói thì tốt. Một câu hỏi loé lên bất chợt trong đầu, Trần Trận hỏi ông già: Bác bảo đệm da sói là ấm nhất, thợ săn và người dân ở đây săn được rất nhiều sói, mà sao cháu chẳng thấy nhà nào dùng đệm da sói? Ngay cả dân chăn ngựa ngày đêm nằm trên tuyết cũng không dùng? Cháu chỉ trông thấy ở nhà Đansai có đệm da sói, còn thấy bố Đansai có đôi bao chân bằng da sói bên ngoài chiếc quần da dê, mặt có lông bên ngoài. Ông nói ông quần da sói rất tốt cho những người bị thấp khớp. Mặc được mấy tháng, cái chân ông trước đây luôn lạnh ngắt, bây giờ đã ra mồ hôi. Bác ơi, bác gái cũng bị thấp khớp phải không, sao bác không may cho bác gái đôi bao chân như thế?

Ông già nói: Nhà Đansai thuộc dòng Mông Cổ đông bắc, quê cũ làm ruộng, có chăn nuôi tí chút. Vùng đó người Hán đông nên theo phong tục Hán. Đám dân ngụ cư này đã quên thần linh của người Mông Cổ, mất gốc rồi. Họ cho người chét vào quan tài gỗ đem chôn, không để sói ăn, dĩ nhiên là họ dám ngủ đệm da sói, mặc quần da sói. Trên thảo nguyên chỉ da sói lông sói là dày nhất, rậm nhất, chống rét tốt nhất, hai tầm da cừu chồng lên nhau không ấm bằng một tấm da sói. Ông trời ưu ái loài sói, ban cho bộ lông chống rét. Nhưng người Mông Cổ xưa nay không dùng da sói làm đệm vì kính trọng sói, không kính trọng sói không phải người Mông Cổ đích thực. Người Mông Cổ thà chịu rét chứ không nằm đệm lông sói. Nằm đệm lông sói là miệt thị thần linh Mông Cổ, mà như vậy thì linh hồn họ làm sao lên trời? Cháu thử đoán xem, vì sao ông trời bảo vệ loài sói?

Trần Trận đáp: Bác có nói sói là hộ thần của đồng cỏ mà!

Ông già nheo mắt cười: Đúng! Trời là cha, đồng cỏ là mẹ. Sói ăn thịt những sinh vật làm hại đồng cỏ, trời không bảo vệ sói sao được?

Đàn sói lại có những động thái mới. Hai người vội chĩa ống nhòm về phía những con sói ngẩng cao đầu, nhưng chúng đã lại cúi xuống, nằm yên. Trần Trận quan sát thật kỹ những co sói trong đá cỏ cao, nhưng không nhìn rõ chúng đang làm gì.

Ông già đưa chiếc ông nhòm đơn cho Trần Trận để cậu ghép chúng lại, quan sát nguyên chiếc. Chiếc ông nhòm quân dụng này là của Liên Xô, bội số cao, ông già nhặt được nơi xảy ra cuộc chiến Xô - Nhật cách đây hơn hai mươi năm. Thảo nguyên Ơlon nằm ở vị trí phía tây nam dãy Đại Hưng Yên, chính bắc Bắc Kinh, tiếp giáp với Mông Cổ, là chiến trường cũ giữa các dân tộc, các bộ tộc du mục, và cũng là nơi tranh chấp giữa các dân tộc du mục với dân tộc nông canh. Trong thế chiến thứ hai, cách biên giới không xa, nơi đây từng xảy ra trận kịch chiến trên quy mô lớn giữa hồng quân Liên Xô và quân đội Nhật. Cuối thế chiến thứ hai, nơi đây cũng là con đường tiến quân của quân đội Xô - Mông đi đông bắc. Đến nay, ở Ơlon vẫn còn vết xe tăng như một con mương cạn, và những xác xe tăng, xe bọc thép Liên Xô. Người dân ở đây hầu như đều có một vài thứ của Liên Xô như lưỡi lê, bi đông, xẻng quân dụng, mũ sắt, ống nhòm. Chiếc xích dài Caxumai dùng để xích bê con là xích chống lầy của xe com măng ca Liên Xô. Trong các đồ quân dụng đó, người Mông Cổ yêu thích nhất là ống nhòm, nay đã trở thành công cụ sản xuất chủ yếu trên thảo nguyên.

Dân du mục Ơlon thích tách ống nhòm đôi thành hai ống đơn, vừa thu gọn thể tích, vừa tiện mang xách và sử dụng bền gấp đôi. Họ rất quý những gì họ chưa làm được. Dân du mục Mông Cổ mắt tinh lắm, nhưng không tinh bằng sói. Chỉ cần ống nhòm đơn cũng nhìn xa hơn sói rồi. Ông già Pilich nói, từ khi có ống nhòm, người ta săn được nhiều hơn, ngựa lạc tìm thấy cũng dễ. Nhưng ông già lại nói, ông cảm thấy ánh mắt sói cũng sắc sảo hơn trước kia. Nếu mình dùng ống nhòm quan sát sói từ xa, có khi nhìn thấy con sói cũng đang nhìn mình không chớp.

Trần Trận ở với ông già được nửa năm, một hôm ông lấy từ đáy hòm một chiếc ống nhòm đơn cho cậu. Chuyện này khiến con trai ông hơi bực, vì chiếc ống nhòm của Batu là hàng nội. Cái ông nhòm Liên Xô này tuy rất cũ nhưng độ phóng đại lớn, ống kính vẫn tốt nguyên tuy vỏ ngoài đã rỗ lấm tấm. Trần Trận thích mê, dùng vải điều bọc cẩn thận, cất kỹ, chỉ khi đi tìm bò lạc giúp bạn, cậu mới đem theo.

Trần Trận dùng ống nhòm sục sạo bãi sân. Được vũ trang bằng cặp mắt người đi săn này, máu săn tiềm ẩn trong người cậu được dịp trỗi dậy. Tổ tiên của tất cả mọi người là thợ săn. Đó là vai diễn đầu tiên của nhân loại trên thế giới, và cũng là vai diễn lâu đời nhất. Trần Trận nghĩ, mình từ cái nơi phát triển nhất là Bắc Kinh về nơi thảo nguyên hoang dã nhất này, sao mình không tiếp tục sống cuộc sống hoang dã để nếm lại cái thi vị được sắm vai diễn nguyên thuỷ của nhân loại. cậu thấy đến bây giờ thuộc tính săn bắn của cậu mới được đánh thức thì quá muộn. ‎Cậu rất buồn khi thấy mình là hậu duệ của bộ tộc nông canh. Các tộc nông danh trong khoảng thời gian mấy chục đời, thậm chí hàng trăm đời ăn rau ăn cỏ, trở nên nhát như cừu, mất đi từ lâu dòng máu du mục Viêm Hoàng, không những máu săn không còn, trái lại, trở thành đối tượng săn đuổi của các cường quốc.

Đàn sói chưa có dấu hiệu hành động. Trần Trận gần như hết kiên nhẫn trước tính nhẫn nại của đàn sói. Cậu hỏi ông già: Đàn sói hôm nay có ý định bủa vây hay thôi hả bác? Phải chăng chúng đợi đến tối mới hành động?

Ông già nói khẽ: Đánh trận mà không kiên nhẫn thì làm sao thắng? Thành Cát Tư Hãn chỉ một dúm kỵ binh làm sao đánh bại trăm vạn quân Kim, chiếm mấy chục nước? Con sói không chỉ dựa vào sức mạnh, mà còn phải biết kiên nhẫn. Kẻ thủ đông đến mấy, mạnh đến mấy cũng có lúc hớ hênh. Con ngựa to đùng mà hớ hênh thì cũng bị con sói con ăn thịt. Không kiên nhẫn thì không phải sói, muốn hiểu Thành Cát Tư Hãn thì trước hết phải kiên trì mai phục ở đây.

Thấy ông già có vẻ không bằng lòng, Trần Trận không dám hỏi gì thêm, cố rèn cho mình tính kiên nhẫn. Cậu chĩa ống nhòm vào một con sói mà cậu đã quan sát nhiều lần. Nó nằm im một chỗ, rất lâu không đổi tư thế.

Giọng ông già đã dịu đi: Cậu đã đoán ra sói đang đợi cái gì chưa? Trần Trận lắc đầu. Ông già nói: Sói đang đợi dê vàng ngủ gật sau khi ăn no.

Trần Trận sững người, vội hỏi: Sói thông minh đến thế hở bác? Nó biết đợi dê vàng không chạy được mới ra tay?

Ông già nói: Người Hán các cậu không hiểu gì về sói, sói tinh vi hơn con người. Tôi hỏi cậu: Một mình con sói gộc có bắt được một con dê gộc không?

Trần Trận nghĩ một thoáng, trả lời: Phải ba con. Hai con đuổi, một con đón đầu thì mới bắt được. Một chọi một thì bắt không nổi.

Ông già lắc đầu: Cậu tin không, một con sói lợi hại, có thể một mình bắt dê vàng ngon ơ.

Trần Trận ngạc nhiên nhìn ông già: Bắt kiểu nào hở bác, cháu nghĩ không ra.

Ông già nói: Sói có một tuyệt chiêu để bắt dê vàng. Ban ngày, con sói chỉ canh chừng một con dê vàng, chưa đụng vội. Đêm đến, con dê tìm một chỗ khuất gió có cỏ dày nằm ngủ. Lúc này sói chưa bắt nổi dê vì khi ngủ, mũi và tai dê không ngủ, hễ có động là dê chạy liền, sói đuổi không kịp. Cả đêm sói không động thủ, phục một quãng xa mà đợi. Sáng ra, sau một đêm bàng quang dê đầy căng nước tiểu, đúng khi ấy, sói xông lên. khi chạy dê không đái được, chỉ một quãng là bọng đái bị vỡ, chân sau lập tức bị chuột rút, không chạy được nữa. Cậu xem, dê vàng chạy nhanh là thế mà cũng có lúc chạy không được. Những con sói dày kinh nghiệm biết đó là lúc có thể vồ được dê. Chỉ những con dê tinh khôn nửa đêm rời chỗ nằm rất ấm đái bớt đi một nửa thì lúc này mới chạy kịp. Dân Ơlon thường dậy rất sớm cướp lấy con dê từ miệng sói. Mổ ra, bụng dê đầy nước đái.

Trần Trận nói: Trời ạ, có đánh chết cháu cũng không nghĩ ra lại có chuyện ấy. Quả là kiên trì! Mà người Mông Cổ quả ranh ma!

Ông già cười khà: Thì đã hẳn, học trò của sói mà lại!

Phần lớn những con dê vàng đã ngẩng đầu lên, cái bụng lại càng to vì cả đêm không đái. Có con no quá phải choãi chân mà đứng. Ông già dùng ống nhòm quan sát hồi lâu, nói: Dê không hoạt động nữa. Sói sắp ra tay rồi!

Trần Trận cuống lên. Đàn sói đã lặng lẽ khép vòng vây. Ba mặt đông, bắc, tây là sói, còn mặt nam thì là một cái dốc. Trần Trận đoán phỏng bên kia dốc hẳn có một số sói đợi sẵn. Khi đàn sói tổng công kích, đám sói này đón lõng, cùng với những con trên tuyến bao vây hạ sát đàn dê. Cậu thường nghe mục dân nói những con sói thường vây bắt dê bằng cách này. Cậu hỏi: Đàn sói đón lõng phía sau có bao nhiêu con, hả bác? Nếu ít quá chẳng bắt được mấy con.

Ông già cười hóm: Phía sau dốc không có con sói nào hết. Sói chúa không sai một con nào ra phía ấy.

Trần Trận vô cùng băn khoăn: Vậy thì chúng bao vây kiểu gì?

Ông già cười khẽ: Thời tiết này, địa hình này, vây ba mặt bắt được nhiều hơn bốn mặt.

Trần Trận nói: Cháu vẫn chưa hiểu sói còn mánh khoé gì nữa.

Ông già nói: Phía sau dốc là một hồ tuyết khổng lồ. Cái đèo chênh chếch trước mặt kia rất hút gió. Khi bạch mao phong thổi tới, tuyết trên đèo bị thổi bay xuống chỗ đất trũng đó, tạo thành cái hồ, không phải hồ nước, mà là hồ tuyết, rất kín gió, tuyết rất sâu, ven bờ cũng đã ngang thắt lưng, vào giữa lút con sào. Lát nữa, sói từ ba phía dồn dê vàng qua dốc, cậu sẽ biết sói bao vây kiểu gì.

Trần Trận mắt tối sầm như rớt xuống một cái hang sâu đầy tuyết. Cậu nghĩ, giả sử mình là kỵ binh Hán xâm nhập thảo nguyên, mười mươi là không nhìn ra âm mưu và cái bẫy này. Cậu lờ mờ hiểu ra nguyên nhân vì sao đại tướng Từ Đạt triều Minh bên này cửa quan thì đánh đâu thắng đó, nhưng khi đánh sang thảo nguyên thì quân sĩ không còn một mống. Còn một vị đại tướng triều Minh nữa, họ Khưu tên Phúc dẫn mười vạn đại quân đánh sang thảo nguyên Mông Cổ, đến tận sông Khơluluan, nhưng cuối cùng thân cô thế cô, trúng kế mà chết, quân sĩ của ông ta rối loạn, bị kỵ binh Mông Cổ bắt sống.

Ông già nói, đánh trận thì sói thông minh hơn người. Người Mông Cổ săn bắt, bủa vây, đánh trận đều học từ sói. Bên đất người Hán không có những đàn sói lớn, nên người Hán không giỏi trận mạc. Đánh giặc mà chỉ dựa vào đất rộng người đông thì không ăn thua. Thắng hay bại còn phải xem anh là sói hay là cừu...

Đột nhiên, đàn sói bắt đầu tổng công kích. Hai con sói gộc phục mãi tận cùng phía tây dưới sự chỉ huy của con sói chúa ức trắng, nhanh như chớp chạy lên chiếm lĩnh mỏm đồi gần đàn dê vàng nhất, rõ ràng đây là khoảng đất trống cuối cùng, chiếm được mỏm đồi, vòng vây hình thành. Hành động của nhóm sói này như phát súng lệnh cho cả ba mặt xuất kích, những con sói nấp sau những bụi cỏ vọt lên, tấn công đàn dê từ ba phía đông, tây, bắc. Trần Trận chưa bao giờ trông thấy một cuộc tiến công hãi hùng đến thế. Đội quân của người khi tiến công thì hò hét trợ oai, đàn chó khi xung phong thì sủa ăng ẳng để tăng thanh thế. Nhưng đó chẳng qua là sự biểu hiện của sự thiếu tự tin. Còn sói thì cứ lì lợm tiến tới, không một tiếng sủa, không một tiếng gầm gừ, và nỗi kinh hoàng hiện lên trong mắt, trong tim, trong gan người và động vật do sự xuất hiện của sói vì nó đi đôi với những gì tàn nhẫn nhất.

Mấy chục con sói chạy băng băng trên đồng cỏ như những quả ngư lôi có hàm răng sói nhọn hoắt, rẽ nước xông tới đàn dê.

Những con dê bụng lặc lè, đứng không vững. Tốc độ là thứ vũ khí mà dê dùng để đối phó với sói. Một khi không còn tốc độ, dê chẳng khác con cừu hoặc một súc thịt cừu. Trần Trận nghĩ, đàn dê sợ sói hơn cậu lần đầu gặp sói. Phần lớn đàn dê đã sợ vỡ mật, hồn vía lên mây. Một số đứng đực ra, run lẩy bẩy. Một số ngã lăn, thè lưỡi, cái đuôi ngắn tũn giật giật.

Trần Trận quả được một bài học thế nào là trí tuệ, sự kiên trì, tính tổ chức kỷ luật của sói thảo nguyên. Nhịn đói nhịn khát, kiên nhẫn đợi một trận chiến dễ gì đã gặp, đàn sói đã nhẹ nhàng tước vũ khí của lũ dê.

Một ý nghĩ loé trong đầu Trần Trận: Nhà quân sư vĩ đại Thành Cát Tư Hãn một chữ bẻ làm đôi không biết, và những tướng lĩnh Khuyển Nhung, Hung Nô, Khiết Đan, Đột Quyết, Mông Cổ mù chữ hoặc mù chữ một nửa, mà lại giỏi hơn cả cường quốc Hoa Hạ có trong tay "binh pháp Tôn Tử" lừng danh thế giới, đánh cho cường quốc này điên đảo càn khôn. Thì ra họ có người thầy vĩ đại, một huấn luyện viên tài ba về quân sự là sói. Họ được kiến tập những trận chiến đấu trên thực tế, họ có thực tiễn chiến đấu lâu đời với đàn sói. Trần Trận cảm thấy chỉ vài giờ quan sát mà thu lượm được nhiều hơn mấy năm học binh pháp Tôn Tử và Clausowist. Nó tác động rất nhiều đến tính cách và linh hồn người đọc. Từ nhỏ, cậu đã mê lịch sử, những muốn làm rõ một trong những vấn đề tồn nghi của lịch sử: Một dân tộc Mông Cổ bé nhỏ nhưng đã dựng nên một đế quốc vĩ đại trải dài từ Á sang u trong lịch sử nhân loại. Vậy tài năng quân sự của họ từ đâu mà có? Cậu không chỉ một lần hỏi ông già Pilich. Ông già tuy không bằng cấp, nhưng hiểu nhiều biết rộng, ông dùng phương thức giảng dạy rất nguyên thủy mà cũng rất hiện đại, giải đáp cho cậu. Trần Trận đâm ra kính nể sói thảo nguyên và các dân tộc thảo nguyên sùng bái tôtem sói.

Cuộc chiến và kiến tập vẫn tiếp tục.

0O0

Cuối cùng, đàn dê buộc phải khởi động. Chỉ những con dê già nhiều kinh nghiệm trận mạc và con dê đầu đàn là cưỡng lại được mùi thơm hấp dẫn của cỏ tươi mùa đông mà chỉ ăn lửng dạ, giờ đây theo bản năng chạy về phía con dốc không có sói, cuốn theo gần như cả đàn. Bụng lặc lè, chân đạp tuyết, lại leo dốc, số phận những con dê thật thê thảm. Đúng là một cuộc tàn sát, và cũng là sự trừng phạt của trí tuệ đối với ngu xuẩn. Theo quan điểm của ông già Pilich, sói đang thay trời hành đạo, đang làm một việc thiện cho thảo nguyên.

Đàn sói không thèm để ý những con dê no vỡ bụng, không đánh mà tự thương. Sói xông thẳng vào những con to nhất cắn đứt họng, máu tươi vọt lên trời, tung toé trên mặt cỏ. Không khí lạnh ngắt đẫm mùi máu. Đàn dê thị giác, khứu giác cực kỳ mẫn cảm, trông thấy cái trò giết gà dọa khỉ sợ quá cố sống cố chết chạy lên dốc. Vài con đực dẫn đầu một số con lên đến đỉnh dốc đột nhiên dừng lại, xoay tròn như đèn kéo quân, không con nào dám nhảy xuống. Rõ ràng là chúng đã cảm thấy mối nguy hiểm đang chờ đợi trên mặt tuyết phẳng lì, không một ngọn cỏ nhô lên. Cũng vậy, những con dê già lập tức nhận ra quỉ kế của đàn sói.

Đột nhiên, đàn dê dày đặc trên đỉnh dốc bỗng chạy ngược trở lại, ầm ầm như đá chạy cát bay. Mười mấy con đực linh cảm thấy mối nguy rình rập cả hai phía, chúng chọn phía ít nguy hiểm hơn để phá vây. Chúng nổi khùng bất kể sống chết, quyết đối đầu với lũ sói. Tốp năm tốp ba, vai ken vai, bụng ken bụng, cắm đầu chĩa những cặp sừng nhọn hoắt như mũi xà mâu, nhằm đàn sói xông tới. Những con dê còn khả năng chạy vội vàng theo sau. Trần Trận biết cặp sừng của dê vàng rất lợi hại. Mục dân dùng nó làm dùi khâu đồ da, đột lỗ, dày như da bò cũng xuyên thủng chứ nói gì da sói. Những cặp sừng nhọn hoắt của dê vàng lập tức tỏ ra công hiệu, vòng vây của đàn sói bị vỡ, một làn sóng màu vàng ùa ra chỗ đó như vỡ đê. Trần Trận cuống lên, chỉ sợ đàn sói mất công toi. Nhưng cậu nhìn thấy con sói chúa đã đứng ngay bên cửa khẩu, tư thế đĩnh đạc y hệt người gác đập mở cửa xả bớt nước khi thấy cơn lũ quá lớn, con đập chứa không hết. Khi những con dê có sừng và còn có sức chạy ra ngoài vòng vây, sói chúa cùng lũ sói lập tức bị chặt cửa khẩu. Lúc này, trong vòng vây chỉ còn lại một lũ đần độn không còn khả năng chạy, không vũ khí, không đầu óc. Trước sự tấn công của đàn sói, đám dê ô hợp đã mất con đầu đàn, hoảng sợ chạy trở lại đầu dốc và tất cả nhào xuống hồ tuyết. Trần Trận hoàn toàn có thể hình dung những con dê chân mảnh bụng lặc lè, kết cục sẽ như thế nào.

Đàn dê vàng và đàn sói đều mất hút tại đường chân trời, nơi tiếp giáp giữa trời và núi. Chiến trường rầm rập hàng ngàn tiếng chân chạy và máu me vung vãi, bỗng lặng ngắt. Trên bãi cỏ bảy tám xác chết, mấy con bị thương đang giãy giụa. Trận đánh từ lúc phát lệnh tổng công kích đến khi kết thúc, chỉ diễn ra trong vòng mươi phút đồng hồ. Trần Trận nín thở theo dõi, nhiều lúc thót tim.

Ông già đứng dậy vươn vai rồi ngồi xếp bằng tròn sau đám cỏ rậm, lấy trong túi Mông Cổ chiếc tẩu chạm ngọc lục, nhồi thuốc, châm lửa, nén tàn thuốc bằng cái nắp làm từ đồng bạc trắng, rồi rít một hơi dài. Trần Trận biết bộ đồ hút này ông già đã đổi bằng hai mươi tấm da cáo cho một thương lái người Hán chuyên đánh hàng sang Mông Cổ. Các thanh niên trí thức kêu đổi vậy quá đắt, nhưng ông già mê chiếc tẩu, không kể đắt rẻ. Ông còn bảo, người đi buôn cũng lắm gian nan, đường xa dặm thẳm, lỡ gặp cướp thì ngay cả tính mạng chưa chắc đã còn, kì kèo với người ta làm gì.

Rít liền mấy hơi, ông già nói: Hút xong tẩu thuốc này ta về.

Trần Trận đang cao hứng, vội nài: Sao không sang bên kia dốc xem sói đã dồn được bao nhiêu con mồi xuống đó?

Chỉ có hai người mà cậu dám sang đó? Ông già nói: Hỏi vậy thôi, không sang cũng biết. Tối thiểu vài trăm con. Ngoài những con còn nhỏ, gầy gò, những con may mắn chạy thoát, số còn lại đều chầu trời. Cậu đừng sốt ruột, đàn sói ăn không hết bao nhiêu, cả tổ mình đến lấy vẫn không hết.

Vì sao những con nhỏ hoặc gầy lại thoát hả bác? Trần Trận hỏi.

Ông già hấp háy mắt: Nhỏ và gầy thì nhẹ, mặt băng không vỡ nên chạy thoát. Sói cũng không dám đuổi theo. Ông lại cười: Bây giờ cậu đã thấy sói lợi hại chưa? Sói không những canh gác đồng cỏ, mà còn tặng quà Tết cho ta. Năm nay thì ta có cái Tết tươm rồi. Trước đây, moi lên được bao nhiêu dê vàng đều phải nộp cho mục chủ. Sau ngày giải phóng, dân được hưởng tất. Ơlon có quy định, ai trông thấy thì người ấy được lấy. Ngày mai các cậu nên lấy nhiều nhiều một tí, bọn mình trông thấy đầu tiên mà! Người Mông Cổ rất coi trọng tình nghĩa, từ nay các cậu và những người Hán khác chớ có nằng nặc đòi giết hết sói nữa nhé.

Trần Trận sướng quá, những muốn chắt đầy ngay một xe dê vàng kéo về. Cậu nói: Về thảo nguyên đã hai năm khổ vì sói, không ngờ bây giờ lại có lộc do sói đem lại.

Ông già Pilich nói: Người Mông Cổ kiếm được từ sói nhiều thứ. Cầm roi chỉ ngọn núi xa xa, ông nói tiếp: Dãy núi đó vẫn thuộc địa phận mục trường ta, rất nổi tiếng. Nghe người già kể lại, một tướng của Thành Cát Tư Hãn là Muhoali đã lừ được mấy nghìn quân kỵ của Đại Kim sa xuống trũng tuyết ở đó. Mùa xuân năm sau, Khan cho người đi thu nhặt chiến lợi phẩm, đao thương cung kiếm, giáp trụ yên cương chất cao như núi. Chẳng phải học từ sói đó sao? Cậu đếm thử mấy chục trận đại thắng của người Mông Cổ mà xem, trong đó quá nửa là học cách đánh của sói.

Trần Trận gật đầu lia lịa: Quả vậy. Con trai út Thành Cát Tư Hãn là Thác Lôi chỉ huy chiến dịch Tam Đảo ở Hà Nam, chỉ dùng hơn ba vạn kỵ binh mà tiêu diệt hai mươi vạn kỵ binh Đại Kim. Sau trận đó, nhà Kim diệt vong. Thác Lôi lúc đầu thấy quân Kim mạnh, không ra ứng chiến. Cũng như sói, ông ta đợi khi tuyết xuống liền dẫn quân đi ẩn nơi ấm áp, đợi miết cho đến khi quân Kim người ngựa ốm đau quá nửa mới kéo quân tới bao vây. Thác Lôi cũng như đàn sói này, không dùng gươm đao, mà dùng bão tuyết diệt địch. Mưu mẹo ấy, đức kiên trì ấy, đởm lược ấy y như sói. Thực ra, kỵ binh Nữ Chân của Đại Kim đâu phải đồ bị thịt, họ đã tiêu diệt Đại Liêu và Bắc Tống, chiếm được một nửa Trung Quốc, bắt sống hai Hoàng Đế Trung Quốc! Thác Lôi chỉ vài vạn kỵ binh mà dám đánh một trận bao vây lớn như thế. Binh thư Trung Quốc có nói, vây đánh thì quân số phải đông gấp mười. Kỵ binh Mông Cổ lợi hại như sói, một chọi trăm. Cháu quả thực phục sát đất. Đương thời cả thế giới cũng rất khâm phục...

Ông già gõ gõ cái tẩu, cười: Cậu cũng biết trận ấy hả? Nhưng đoán chắc là cậu không biết chuyện trận ấy tuyết rơi ba ngày ba đêm là vì sao? Đó là trời ủng hộ. Pháp sư Bồ Man của quân Mông Cổ cầu trời cho tuyết rơi xuống. Kim là kẻ thù lớn của Thành Cát Tư Hãn, vua nhà Kim cùng với kẻ đồng lõa là Tháp Tháp giết Éucai, bố đẻ Thành Cát Tư Hãn, giết cả chú ruột Thành Cát Tư Hãn Anbacai. Họ chết rất thảm. Đánh thắng trận này, người Mông Cổ mới hả dạ. Cậu xem, chẳng phải ông trời luôn luôn đứng về phía sói đấy ư. Ông già cười khà, như nếp nhăn hằn rõ trên mặt nhưng dính nhưng sợi lông cừu.

Hai người đi về khe núi phía sau, con ngựa ô trông thấy chủ gục gặc đầu mừng rỡ. Mỗi lần gặp con ngựa đã cứu sống mình, Trần Trận lại xoa đầu nó tỏ ý cảm ơn. Nhưng chính lúc đó Trần Trận lại nảy ra một ý muốn khó cưỡng là xoa đầu con sói.

Hai người cởi thừng buộc chân ngựa, lên yên, chạy nước kiệu về nhà.

Ông già ngẩng đầu nhìn trời, nói: Đúng là trời phù hộ chúng ta, ngày mai không có bão tuyết. Nếu đêm nay bạch mao phong tràn về thì một con cũng không còn.

Chương 3

Y Tôn, vương hiệu Cônmo. Cha Cônmo, trị vì một nước ở phía tây Hung Nô. Hung Nô giết cha Cônmo khi Cônmo mới sinh vứt ngoài đồng, được sói cho bú sữa. Thuyền Vu lấy làm lạ, cho là thần, bèn đem về nuôi, lớn lên cho cầm quân, lập nhiều chiến công...

Tư Mã Thiên, Đại Uyển liệt truyện.

Sớm hôm sau quả nhiên lặng gió, tuyết cũng ngừng rơi. Khói bếp trên nóc lều thẳng tắp như cây bạch hoa chĩa thẳng lên trời. Bò, cừu còn đang nhai lại. Ánh nắng xua tan khí lạnh ban đêm, lớp sương đọng trên mình chúng biến thành hơi nước rồi nhanh chóng thành lớp băng mỏng.

Trần Trận nhờ anh hàng xóm Quanbu chăn cừu hộ một hôm. Quanbu thành phần mục chủ, đang bị quản chế, đã bị tước quyền chăn dắt, nhưng bốn thanh niên trí thức khi cần vẫn nhờ chăn hộ gia súc, Caxumai tính đầy đủ công điểm cho anh ta. Trần Trận và một thanh niên chăn cừu tên Dương Khắc, lên cỗ xe bò trục sắt gọn nhẹn, đến nhà ông già Pilich.

Dương Khắc ở chung lều với Trần Trận là con trai một giáo sư nổi tiếng của một trường đại học nổi tiếng Bắc Kinh. Tủ sách nhà cậu ta tương đương một thư viện nhỏ. Hồi học cao trung (cấp 3), Trần Trận và Dương Khắc thường trao đổi sách, giao lưu cảm tưởng, thường là ý hợp tâm đầu. Hồi còn ở Bắc Kinh, Dương Khắc tính khí điềm đạm, gặp người lạ còn đỏ mặt. Chẳng ngờ lên thảo nguyên Mông Cổ mới hai năm ăn thịt cừu, uống sữa bò, ăn đậu phụ, bốn mùa đội tia tử ngoại trong cái nắng trên thảo nguyên, cậu đã trở thành một thanh niên cường tráng, mặt và chây tay đỏ au như dân du mục, tính cách cũng không còn vẻ thư sinh. Lúc này, Dương Khắc còn hăng hơn Trần Trận. Cậu ngồi trên xe dùng gậy gỗ gõ sống lưng con bò, miệng nói: Đêm qua mình ngủ không ngon giấc. Từ nay bố Pilich có đi săn thì cậu nhớ gọi mình đi với, dù nằm phục hai ngày hai đêm mình cũng chịu được. Mình chưa từng nghe sói làm điều tốt đến như thế cho người. Hôm nay phải chính tay tớ đào lên một con dê vàng thì tớ mới tin... Có thật là chúng mình được lấy đầy một xe không?

Sao lại không thật? Trần Trận cười: Bố Pilich đã nói, dù khó bới đến mấy cũng bảo đảm chúng mình lấy đầy xe để đổi lấy các thứ cần dùng, sắm một ít thảm dày...

Dương Khắc thích quá, giơ gậy vụt lia lịa. Trần Trận nói: Xem ra hai năm nay cậu mê sói không uổng công. Từ rày tới phải học bính thư của sói, biết đâu sau này chẳng có lúc dùng. Hình như điều cậu nói là một quy luật, dân tộc nào sống cuộc sống du mục nguyên thủy trên thảo nguyên, cuối cùng cũng sùng bái sói, tôn sói làm thầy như các dân tộc Hung Nô, U Xôn, Đột Quyết, Mông Cổ vẫn làm. Sách chép như thế. Nhưng tộc Hán thì ngoại lệ. Tớ dám khẳng định là người Hán chúng ta có ở đến vài thế kỷ trên thảo nguyên cũng không sùng bái tôtem sói.

Chưa chắc - Trần Trận nói - Như tớ chẳng hạn, tớ đã bị sói thuyết phục. Vậy mà tớ mới ở có hơn hai năm.

Dương Khắc hỏi vặn: Nhưng mà Trung Quốc đại đa số là nông dân, hoặc xuất thân nông dân, ý thức tiểu nông của người Hán chai lì như thép không gỉ. Họ đến thảo nguyên mà không bắt hết sói để lột da thì chớ kể. Tộc Hán ở Trung Quốc là tộc nông canh, ăn rau cỏ, sợ sói từ trong máu, làm sao có chuyện sùng bái sói? Người Hán ở Trung Quốc sùng bái Rồng chủ quản công nghiệp. Trông thấy tôtem Rồng chỉ dập đầu lạy, bảo gì nghe nấy. Đâu dám như người Mông Cổ học tập sói, bảo vệ sói, sùng bái sói nhưng vẫn giết sói. Tôtem của họ trực tiếp tác động đến tinh thần, tính cách của họ. Có sự khác biệt rất lớn giữa dân tộc nông canh và dân tộc du mục. Khi xưa tính cách nông canh tệ hại ẩn trong cái biển mênh mông của tính cách Hán nên chưa thấy, nhưng lên thảo nguyên lập tức bị bóc trần. Cậu chỉ thấy bố tớ là một giáo sư nổi tiếng, chứ cậu chưa biết ông nội tớ, bà ngoại tớ đều là nông dân...

Trần Trận tiếp lời: Đặc biệt là thời kỳ cổ đại, dân tộc Mông Cổ chỉ bằng 1% dân số người Hán mà ảnh hưởng đối với thế giới vượt xa người Hán. Đến bây giờ, phương tây vẫn coi Trung Quốc thuộc giống Mông Cổ, bản thân người Hán cũng tiếp nhận cách gọi đó. Vậy mà khi Tần Hán thống nhất Trung Quốc, tổ tiên người Mông Cổ còn chưa có tên, thế mới sầu đời!

Người Trung Quốc thích xây trường thành tự nhốt mình lại mà huênh hoang khoe mẽ là trung tâm thế giới, là đế quốc trung tâm. Nhưng trong con mắt người phương tây cổ đại, Trung Quốc chẳng qua là "nước tơ lụa", "nước gốm sứ", "nước trà", thậm chí nước Nga còn gọi các nước Khiết Đan bé tí là Trung Quốc, đến nay vẫn không sửa, vẫn gọi Trung Quốc là "Kitai"!

Xem ra, sói rất đáng hâm mộ. Dương Khắc nói, tớ cũng bị lây cậu rồi, thành thử mở sách sử ra là tới cứ dò theo hướng Tây Nhung, Đông Di, Bắc Địch, Nam Man. Tớ ngày càng muốn giao lưu với sói, học hỏi cái hay của sói.

Trần Trận nói: Xem kìa, cậu sắp biến thành người Mông Cổ rồi. Tiếp ít máu sói vào, giống lai mới ưu việt!

Dương Khắc nói: Tớ phải cảm ơn cậu về chuyện rủ tớ về thảo nguyên. Cậu có biết, tớ bị câu gì của cậu điểm trúng huyệt không? Quên rồi hả? Đó là câu: Thảo nguyên tha hồ tự do.

Trần Trận thả lỏng dây cương, nói: Tớ nói như thế bao giờ? Cậu lại xuyên tạc rồi.

Hai người cười thoải mái, cỗ xe tiếp tục lăn, để lại hai vệt bánh xe trên tuyết.

0O0

Người, chó và xe cộ nhộn nhịp, như lễ hộ của người Chiphuchai trên thảo nguyên.

Người và xe của các tổ viên tổ sản xuất Caxumai, của bốn Haotho (một cặp gồm hai lều Mông Cổ là một "Haotho"), và của tám lều Mông Cổ đều được huy động. Tám chín cổ xe lớn chở thảm dày, dây thừng, xẻng gỗ, củi và câu liêm. Mọi người đều mặc áo da cũ, bẩn và đen mốc, khuy đồng màu vàng xỉn. Nhưng người và chó thì rất vui, như bộ lạc Mông Cổ thời xưa đi theo các chiến binh thu dọn chiến lợi phẩm, dọc đường vừa uống rượu vừa ca hát, bình rượu hình mật lợn bên ngoài bọc nỉ được chuyển từ đầu hàng đến cuối hàng, từ tay phụ nữ chuyển sang tay đàn ông. Đã hát là hát dân ca, tán ca, tình ca Mông Cổ, đã hát là ào ạt tuôn ra như vỡ đập nước. Bốn năm con chó Mông Cổ lông dày được tham dự cuộc hành trình hi hữu, sướng như điên, nô dỡn lăn lộn trên tuyết trắng.

Trần Trận cùng hai mã quan (người chăn ngựa) Batu, Lanmutrac, và năm sáu tay chăn bò, chăn cừu, xúm quanh ông già Pilich như dân thiểu số xúm quanh tù trưởng. Lanmutrac mặt vuông mũi thẳng mắt to - đặc điểm người Đột Quyết, nói: Cháu có bắn giỏi đến mấy cũng không kiếm được bằng ông. Ông không tốn một viên đạn mà cả tổ sống sung túc. Ông đã có đồ đệ người Hán, nhưng xin đừng quên học trò cũ người Mông này, ông nhá. Làm sao cháu không nghĩ ra hôm qua đàn sói có thể vây bắt bọn dê vàng kia chứ?

Ông già liếc xéo anh ta, nói: Từ rày cậu đi săn về hãy nhớ đến người già và mấy cậu thanh niên trí thức trong tổ, đừng để họ ngửi suông, không cho họ được miếng thịt nào. Trần Trận đến nhà, cậu mới cho cậu ta một đùi dê, người Mông Cổ đãi khách như thế đấy hả? Hồi trẻ chúng tôi biếu người già và khách khứa hẳn một con dê vàng đầu tiên của mùa săn. Các bạn trẻ đã quên hết nếp sống của người Mông rồi! Tôi hỏi cậu, thiếu mấy con nữa thì cậu bằng Buho, dũng sĩ săn sói của công xã Bayincaoti? Cậu định lên báo lên đài lĩnh thưởng chăng? Cậu bắn hết sói thì sau khi chết cậu về đâu? Chẳng lẽ cậu làm như người Hán, khi chết bứng cỏ đào huyệt chôn dưới đất cho giòi bọ ăn? Linh hồn cậu không lên trời được rồi - Ông già thở dài - Hôm tôi họp trên Kỳ (huyện), người già của mấy công xã mạn Nam đều rất buồn. Họ bảo, đã nửa năm nay chưa trông thấy sói. Họ định chuyển về Ơlon ở.

Lanmutrac hất vành mũ phía sau gáy, nói: Batu là con trai ông, ông không tin cháu thì thôi, nhưng ông có tin Batu không? Ông hỏi cậu ấy xem cháu có định trở thành dũng sĩ không? Hôm ông nhà báo phỏng vấn cháu ở chỗ đàn ngựa, Batu cũng có mặt ở đấy. Cháu giấu bớt một nửa số sói không kể, ông hỏi Batu xem có đúng không.

Ông già quay lại hỏi Batu: Có chuyện ấy hả?

Batu nói: Đúng thế ạ. Nhưng mà người ta không tin. Họ lấy số liệu từ Hợp Cung tiêu, biết Lanmatrac bán bao nhiêu bộ da sói. Bố cũng biết, mỗi bộ da sau khi phân loại định giá trả tiền, trạm thu mua còn thưởng 20 viên đạn. Người ta tra sổ là biết. Nhà báo đưa tin trên đài phát thanh, nói Lanmutrac đã đuổi kịp Buho. Lanmutrac hoảng quá, phải nhờ người khác bán hộ.

Ông già nhíu mày: Các cậu bắn dữ quá, hai cậu bắn nhiều nhất mục trường đấy!

Batu phân trần: Bãi chăn của chúng cháu liền kề Ngoại Mông, phải coi là nơi nhiều sói nhất, không bắn thì chúng sang càng nhiều, đến nỗi ngựa choai chẳng còn được mấy con.

Ông già lại hỏi: Đi cả hai, chỉ còn mỗi Trương Kế Nguyên ở lại trông nom đàn ngựa?

Batu nói: Đêm mới nhiều sói. Chúng con sẽ gác đêm. Cậu ấy chưa quen bắt dê bằng chúng con.

Mặt trời mùa đông trên cao nguyên không lên cao, trái lại, đi ngang đường chân trời. Trời xanh chuyển sang trắng, cỏ vàng cũng chuyển màu trắng. Tuyết tan lớp trên mặt, long lanh như kính phản quang. Dưới nắng gắt, người, chó và xe cộ biến thành ảo ảnh. Mấy người chăn ngựa bị bệnh mù dở do tuyết, vội nhắm tịt mắt nhưng nước mắt vẫn ứa ra. Cánh đàn ông vội đeo kính râm. Phụ nữ và trẻ em lấy ống tay áo che mặt. Vậy mà những con chó gộc mắt vẫn mở trừng trừng, quan sát đàn thỏ nhảy nhót phía xa, hoặc cúi xuống đánh hơi hàng dãy dấu chân cáo còn mới trên tuyết.

Đến gần bãi vây, đàn chó nhanh chóng phát hiện ra mùi lạ liền xông tới, sủa ẳng ẳng. Một vài con chó bụng còn đói, tranh nhau ăn chỗ thịt thừa đàn sói bỏ lại. Con Balua và mấy con chó săn của tổ lông gáy dựng đứng, sục sạo dấu vết của đàn sói trên tuyết, mắt đảo tròng, thận trọng dò tìm số lượng và thực lực đàn sói và con sói chúa. Ông già nói: Balua biết hầu hết những con sói vùng Ơlon. Quá nửa số sói cũng biết Balua. Lông gáy Balua dựng đứng, chứng tỏ đàn sói này đáng gờm.

Mọi người cưỡi ngựa tiến vào bãi vây theo hàng dọc, cúi xuống quan sát kỹ mặt đất. Trên dốc, con dê chỉ còn lại cái sọ và những khúc xương dóng. Ông già Pilich chỉ vào những dấu chân sói trên tuyết, nói: Đêm qua có mấy đàn sói khác về đây. Ông còn chỉ những sợi lông màu xám rụng trên tuyết, nói tiếp: Chúng cắn nhau. Có thể là đàn sói bên kia biên giới lần theo dấu vết đàn dê đến đây. Bên ấy thiếu cái ăn, sói rất dữ.

Rồi thì tốp ngựa lên dốc. Như tìm ra kho báu, mọi người hò reo ầm ĩ, khua mũ báo cho đoàn xe phía sau. Caxumai là người đầu tiên xuống xe, dắt bò chạy gằn. Đám phụ nữ làm theo Caxumai, nhất loạt xuống xe, thúc bò chạy. Bò khoẻ xe nhẹ, đoàn xe chạy nhanh.

Lanmutrac nhìn xuống chân núi, con ngươi như muốn bật ra: Eo ơi, dồn được bấy nhiêu dê xuống trũng, lũ sói quả không vừa. Năm xưa, hơn hai chục thợ săn giục ngựa chạy đứt hơi mà chỉ dồn được hơn ba chục con.

Ông già Pilich dừng ngựa, dùng ống nhòm quan sát dưới trũng và các mỏm núi xung quanh. Mọi người gò cương nhìn bốn phía, đợi lệnh.

Trần Trận cũng nâng ống nhòm lên. Dưới trũng là mồ chôn rất nhiều dê, có thể đây cũng là nơi chôn vùi biết bao dũng sĩ thời cổ đại. Giữa lòng trũng, mặt đất bằng phẳng, như một cái hồ tuyết lớn trên núi cao. Bên mép hồ, mấy chục bộ xương dê vàng vung vãi trên đầu dốc. Hãi nhất là giữa lòng hồ có đến mấy chục chấm vàng đang cựa quậy. Trần Trận nhận ra đó là những con dê rớt xuống chỗ nông, chưa bị chìm nghỉm trong tuyết. Mặt hồ những chỗ gần có mấy chục hố tuyết to nhỏ, càng gần bờ càng nhiều. Đó là dấu vết lưu lại của lũ dê xấu số. Khác với hồ nước, tất cả những vật thể rớt xuống lòng hồ tuyết đều để lại dấu vết trên mặt.

Ông già Pilich bảo Batu: Các cậu ở lại xúc tuyết mở đường cho xe áp sát mép hồ. Nói rồi, ông, Trần Trận và Lanmutrac đi rất chậm vào trong hồ. Ông bảo Trần Trận: Phải nhìn cho rõ rồi đặt chân lên dấu chân dê hoặc dấu chân sói, tuyệt đối không được dẫn lên chỗ không, có cỏ ló lên.

Ba người thận trọng cho ngựa xuống dốc, tuyết ngày càng dày, cỏ ngày càng ít. Đi thêm khoảng chục bước. Mặt tuyết dày đặc những lỗ nhỏ bằng đầu đũa. Những ngọn cỏ màu vàng cứng đơ từ những lỗ nhỏ ló lên, gió lay mà thành cái lỗ. Ông già nói: Những cái lỗ đó là do trời tạo nên để ban cho sói, nếu không thì tuyết sâu như thế, sói làm sao ngửi thấy mùi gia súc bị vùi sâu phía dưới. Trần Trận mỉm cười tán thưởng.

Lỗ nhỏ và ngọn cỏ là dấu hiệu an toàn. Đi thêm hơn chục bước nữa, mặt tuyết phẳng lì, không còn lỗ và cỏ nhô lên nữa, nhưng dấu chân dê vàng và sói thì vẫn rất rõ. Những con ngựa Mông Cổ khoẻ mạnh dùng vó đập vỡ tuyết cứng, rồi chân lún sâu trong tuyết, từng bước lần ra giữa hồ, nơi có những xác dê vàng. Cuối cùng, ngựa không bước nổi nữa. Ba người xuống ngựa, lập tức lún sâu trong tuyết. Họ ra sức dò dẫm tìm một chỗ đứng chân. Ngay bên cạnh Trần Trận là một con dê bị ăn dở, thịt xương vung vãi trong tuyết, có cả cỏ văng ra từ bao tử. Khoảng ba bốn chục con dê trưởng thành bị sói bắt đi hoặc ăn thịt, còn đàn sói cùng dừng lại ở đây.

Nhìn ra, Trần Trận chưa bao giờ trông thấy một cảnh kỳ lạ và bi thảm đến thế: Cách khoảng trăm mét, bảy tám con dê vàng cả lớn lẫn bé đứng run lẩy bẩy trên dốc và giữa hồ tuyết. Xung quanh chúng là những hố tuyết, phía dưới là mồ chôn những con dê. Những con còn sống sợ đến nỗi không dám nhúc nhích vì mảng tuyết dưới chân chúng có thể vỡ vụn bất cứ lúc nào. Có mấy con bụng mắc lại trên tuyết cứng, còn bốn chân thì chơi vơi phía dưới. Những con mắc kẹt trên mặt tuyết tuy còn sống nhưng không cựa quậy được. Những sinh linh tự do chạy như gió trên đồng cỏ, giờ đây vừa đói vừa rét, không nhích nổi nửa bước, bị thần chết dày vò tàn nhẫn. Kinh khủng nhất là mấy cái đầu vẫn ló trên mặt tuyết, còn từ cổ trở xuống thì đã vùi rất sâu. Trần Trận nhìn qua ống nhòm, vẫn thấy chúng đang há miệng kêu nhưng không có tiếng. Có thể những con dê đó đã chết cóng, thân thể bất động như những pho tượng.

Tuyết trên dốc và trong hồ ánh lên những tia trắng tuyệt đẹp nhưng nham hiểm. Đó cũng là ám khí và vũ khí lạnh đầy uy lực, sức sát thương lớn mà trời ban cho sói và người thảo nguyên để bảo vệ đồng cỏ. Váng tuyết mùa đông trên thảo nguyên Ơlon, là kiệt tác của bạch mao phong và ánh nắng. Từng đợt bạch mao phong thổi bay lớp tuyết xốp, để lại tuyết hòn như những viên bi dày đặc. Tuyết hòn rơi xuống phủ một lớp rắn trên mặt tuyết. Những buổi sáng hoặc giữa trưa nắng gắt và lặng gió, lớp tuyết mặt tan thành nước, quá trưa có gió lạnh, chúng đóng lại thành băng. Sau vài trận bạch mao phong thì hình thành lớp váng tuyết dày ba đốt ngón tay, trong váng tuyết có băng, trong băng có tuyết, chúng cứng hơn tuyết, phẳng lì trơn tuột, dày mỏng không đều, chỗ rắn nhất người khoẻ mạnh dẫm không vỡ, còn hầu hết là đỡ không nổi sức nặng của bầy dê.

Chỗ gần nhất lại càng kinh hoàng: Những con dê vàng mà sói có thể với tới đều bị lôi lên khỏi hố, kéo đi, vết tích còn lại là mặt tuyết hằn sâu từng rãnh. Cuối các rãnh là bàn tiệc dã ngoại của lũ sát sinh. Chúng cực kỳ lãng phí, chỉ ăn tim gan và thịt bắp. Hiển nhiên là lũ sói thấy động, vừa mới bỏ đi, tuyết hòn vướng chân sói vẫn đang lăn, đám tuyết dưới bãi phân sói chưa kịp đóng băng.

Sói Mông Cổ là bậc thầy về nghệ thuật đánh cơ động trên tuyết. Chúng biết lui biết tới trong cuộc chiến. Với những con dê càng sâu bên trong thì dù ló đầu lên hay chìm nghỉm trong tuyết, chúng cũng không màng, ngay cả thăm dò cũng không. Chúng chỉ lấy đủ ăn. Số dê còn lại như để trong tủ lạnh, mùa xuân sang năm sẽ là món ăn khoái khẩu, khi tuyết tan. Một vùng hồ mênh mông trở thành kho đông lạnh của lũ sói. Ông già Pilich nói: Ở Ơlon, chỗ nào cũng có hầm lạnh của sói, hồ tuyết chẳng qua là cái kho lớn nhất mà thôi. Lũ sói thi thoảng lại bổ sung một ít thịt vào những cái kho này, đề phòng sang xuân thiếu ăn. Đàn dê vàng béo mẫn này là thực phẩm cứu sinh của đàn sói gầy khi sang xuân. Chúng nhiều mỡ hơn những con dê sống đến mùa xuân. Ông già chỉ cái hầm lạnh, cười: Sói thảo nguyên rất giỏi thu xếp cuộc sống. Đầu đông hàng năm, mục dân giết thịt những gia súc béo rồi đem đông lạnh để dự trữ. Cách này cũng học từ sói.

Balua và lũ chó gộc đánh hơi thấy mùi dê sống, máu săn nổi lên. Chúng sủa ầm ĩ, lội ào ra, nhưng đến chỗ sói dừng thì chúng cũng dừng lại, không dám tiến nửa bước, chỉ vươn cổ ra mà sủa. Vài con dê sợ quá lội bừa vào bên trong, nhưng chỉ được mấy bước, mặt tuyết vỡ, chúng chìm xuống như bị lún trong cát, cố sức giãy giụa mà không thoát. Hố tuyết chuyển mình, tuyết chảy xuống phía dưới như cát lún, càng chảy càng sâu, cuối cùng thành hình cái phễu. Một con dê lúc tuyết vỡ, hai chân trước còn móc được vào một chỗ chắc chắn còn thân thì rơi xuống, coi như mới được cứu sống một nửa.

Cái rãnh để cho xe vào đã hình thành. Đoàn xe xuống dốc. Khi không thể nhích thêm tí nào nữa, các xe dàn ngang thành hình chữ nhất, dọn tuyết xung quanh lấy chỗ chất hàng.

Cánh đàn ông đi lại chỗ ông Pilich. Ông già nói: Trông này, mạn tây tuyết rắn, hố tuyết chẳng được mấy cái, dấu chân cũng rất ít, chứng tỏ đàn dê chạy thoát khá nhiều.

Tay chăn cừu Tang Kiệt nói: Cháu thấy lũ sói cũng có chỗ tính chưa hết. Giá như sói chúa điều thêm quân bịt con đường này lại, thì đàn dê không con nào chạy thoát.

Ông già hừ một tiếng, nói giọng mũi: Cậu mà là sói chúa chắc chết đói. Bắt một lần hết sạch thì sang năm kiếm đâu ra dê? Sói không tham như người, sói biết tính toán, sói tính giỏi hơn người.

Tang Kiệt cười: Năm nay dê nhiều, bắt thêm vài nghìn con cũng không ăn nhằm gì. Cháu muốn kiếm thêm ít tiền sắm căn lều, cưới vợ.

Ông già trợn mắt quát: Vậy khi con cháu cậu lớn lên thì đà dê đã bị giết không còn một con. Thanh niên các cậu lạ thật, ngày càng như dân ngụ cư ấy!

Ông già thấy đám phụ nữ đã dỡ các thứ trên xe xuống và cho xe xuống rãnh, liền bước lên một mô tuyết, ngửa mặt lên trời, miệng lầm rầm khấn. Trần Trận đoán ông đang cầu trời cho phép kéo dê vàng lên. Ông nhắm cả hai mắt, lát sau mở ra, bảo mọi người: Dê chìm dưới đáy nhiều lắm, đừng tham quá, hãy thả hết những con còn sống rồi thu hoạch những con đã chết. Trời đã không bắt chúng chết thì ta nên để chúng sống. Ông già cúi bảo Trần Trận và Dương Khắc: Thành Cát Tư Hãn mỗi lần vây bắt dề đều thả bớt non nửa. Người Mông Cổ đánh vây đã mấy trăm năm, vậy mà năm nào cũng có dê để bắt, chính là học từ sói, không bắt hết.

Ông già Pilich phân chia địa bàn hoạt động cho các gia đình. Theo quy ước mọi người nhường đoạn gần và có nhiều hố cho ông già Pilich và thanh niên trí thức Trần Trận.

Ông già dẫn Trần Trận và Dương Khắc đến bên xe nhà, dỡ xuống hai tấm thảm dày, mỗi tấm rộng hai mét, dài bốn mét. Hình như trước đó thảm được phu nước, cứng queo. Trần Trận và Dương Khắc mỗi người lôi một tấm, tiến lên. Ông già vác chiếc sào gỗ dài, đầu sào lồng móc sắt. Vợ chồng Batu cũng mỗi người xách một tấm thảm dày đi tới chỗ tuyết sâu. Bé Bayan vác chiếc câu liêm, đứng sau lưng bố mẹ.

Đến bên một hố sâu, ông già bảo hai cậu thanh niên trước hết trải một tấm thảm xuống tuyết rồi bảo Dương Khắc vốn nặng cân, nhảy lên nhún thử. Tấm thảm vừa dày vừa cứng như một ván trượt, tuyết phía dưới chỉ lạo xạo chứ không bị lún. Dương Khắc phát huy sáng kiến, nhảy lên mấy cái, thảm chỉ lõm xuống một chút. Ông già vội ngăn lại, nói: Vào sâu bên trong thì không được làm thế nữa, thảm rách là người bị chìm luôn, không phải chuyện đùa. Thế này nhé, Trần Trận nhẹ người hơn, tôi dẫn Trận vào lấy hay con. Lần sau thì hai cậu vào lấy. Dương Khắc đành nhảy ra, đỡ ông già trèo lên tấm thảm lớn. Trần Trận cũng lên theo. Tấm thảm dư sức chở hai người, chất thêm hai con dê lên cũng không hề hấn gì.

Đứng vững chân, hai người kéo tấm thảm thứ hai lên phía trước tấm thảm thứ nhất, cắn mép ở chỗ tiếp giáp của hai tấm, rồi sải chân bước sang tấm thảm thứ hai, lần này đem theo câu liêm. Tiếp theo, lặp lại động tác cũ, kéo tấm thảm phía sau lên phía trước, hai tấm luân phiên đổi chỗ cho nhau. Hai người như lái xe trượt tuyết, nhích dần đến chỗ một con dê phía xa.

Vậy là Trần Trận đã được ngồi lên con thuyền kỳ lạ của thảo nguyên Mông Cổ. Nó là loại công cụ giao thông do người Mông Cổ tạo ra để đối phó với tuyết lớn. Hàng nghìn năm nay, nhờ có loại thuyền này mà biết bao người đã thoát chết trong gang tấc, nhờ có loại thuyền này mà cứu được bao nhiêu là cừu và chó. Và cũng nhờ loại thuyền này mà vớt từ đáy hồ lên bao nhiêu là chiến lợi phẩm bị sói, người đi săn và kỵ binh dồn xuống. Ông già Pilich không hề giấu giếm người đồ đệ ngoại tộc những bí mật của người Mông Cổ, trái lại, còn giúp Trần Trận nắm vững thứ vũ khí này. Trần Trận là học sinh người Hán đầu tiên học được cách thao tác con thuyền Mông Cổ nguyên thủy.

Thảm thuyền càng trôi càng nhanh, có thể nghe thấy tuyết lạo xạo phía dưới. Trần Trận có cảm giác như ngồi trên tấm thảm thần kỳ, nhẹ nhàng, phấn kích, lâng lâng như đi vào cõi tiên. Cậu vô cùng cảm ơn sói và người thảo nguyên đã đem đến cho cậu một cuộc sống nguyên thủy như trong thần thoại. Trên mặt hồ, tám con thuyền, mười sáu tấm thảm bay vuông vức hè nhau cùng tiến làm bắn lên từng đám bụi tuyết. Chó sủa, người reo, ông trời cười mỉm. Một đám mấy dày bay tới phả khí lạnh xuống, tuyết trên mặt vừa tan lại đóng băng ngay lập tức, tăng hệ số rắn chắc trên bề mặt lên gấp ba lần, đảm bảo an toàn khi lôi dê lên. Mọi người nhất loạt bỏ kính râm, ngửa mặt nhìn trời mà gọi tên vị chúa tể, động tác đẩy thuyền càng nhanh càng chững chạc. Trong một thoáng Trần Trận cảm nhận được sự tồn tại của đấng Cao Xanh của người Mông Cổ, và linh hồn cậu, một lần nữa, được Người che chở.

Bỗng từ đầu dốc vọng lại tiếng hoan hô của Dương Khắc và Bayan. Trần Trận ngoảnh lại nhìn, Dương Khắc và Bayan la to: Được một con rồi! Được một con rồi! Trần Trận giơ ống nhòm lên nhìn, thấy Bayan bày cách gì mà Dương Khắc đã bới được một co dê gộc. Hai người nắm chân dê lôi lên bờ. Những người còn ở trên bờ cầm lấy xẻng, tranh nhau lôi ra chỗ tuyết sâu.

Chiếc thảm - thuyền rời xa khu vực an toàn, tiếp cận một con dê gộc. Đây là một con cái, ánh mắt thất thần cầu cứu. Xung quanh toàn những hố sâu, mảnh đất dưới chân nó chỉ bằng mặt bàn, sụt lở bất cứ lúc nào. Ông già bảo: Cho thảm - thuyền lướt bên cạnh, đừng chậm quá khiến nó hoảng sợ. Có thể nó đang chửa, mở cho nó con đường sống.

Trần Trận gật đầu, cúi xuống khẽ đẩy thảm trước qua miệng hố đến chân con dê mà tuyết rắn trên mặt không bị vỡ. Con dê có thể đã từng được cứu hoặc biết chớp thời cơ cho đứa con trong bụng, nó nhảy luôn lên tấm thảm rồi nằm phục xuống run như cầy sấy, mắt đờ đẫn vì sợ. Trần Trận thở phào, cùng ông già bước sang tấm thảm, thận trọng kéo tấm sau vòng qua miệng hố lên chỗ tuyết cứng phía tây, đổi chỗ hơn chục bận mới đến một chỗ không có hố nhưng đầy dấu chân và phân dê.

Trần Trận chậm rãi đến bên con dê. Trong con mắt cậu, nó đâu phải con dê, mà như một con nai cái, mắt nó đúng là mắt nai, rất đáng yêu. Trần Trận xoa đầu nó. Nó gương cặp mắt sợ hãi xin cậu tha mạng. Trần Trận vuốt ve con dê yếu đuối không nơi nương tựa, mà cảm thấy trong lòng bất nhẫn: Sao mình không bảo vệ loài động vật ăn cỏ hiền lành xinh đẹp này, mà lại đứng về phía bọn sói hiếu sát? Xưa nay chỉ nghe kể "Cô bé quàng khăn đỏ", "Đông Quách tiên sinh và con sói", toàn những chuyện căm thù sói, Trần Trận buột miệng: Thương lũ dê quá. Bọn sói thật đáng ghét, giết hại kẻ vô tội, coi sinh mạng như cỏ rác, đáng đem ra tùng xẻo...

Ông già giận đỏ mặt. Trần Trận căm bặt, biết là mình đã xúc phạm tới điều thiêng liêng nhất trong lòng ông già, xúc phạm linh vật của các dân tộc thảo nguyên. Nhưng đã lỡ miệng mất rồi.

Ông già trừng mắt, nói như quát: Thế cỏ có phải sinh mạng không? Thảo nguyên có phải sinh mạng không? Cỏ và thảo nguyên là sinh mạng lớn, tất cả những thứ khác là sinh mạng nhỏ. Sinh mạng nhỏ sống nhờ sinh mạng lớn. Sói và người đều là sinh mạng nhỏ. Những con ăn cỏ đáng ghét hơn những con ăn thịt. Cậu thương lũ dê vàng, thế cậu có thương cỏ không? Dê có bốn chân, chạy rất nhanh. Nó mà chạy, sói rượt đứt hơi cũng không kịp. Dê khát thì ra sông uống nước, rét thì lên đầu dốc mà sưởi nắng. Còn cỏ thì sao? Cỏ tuy mạng lớn nhưng phận quá mỏng, quá khổ! Rễ thì nông, đất thì mỏng, sống trong đất, có chạy cũng không quá nửa thước, có bò cũng không quá ba phân, ai cũng có thể giẫm, có thể đạp, có thể ăn, có thể gặm, có thể hành hạ, một bãi nước đái ngựa cũng đủ chết cả một mảng! Cỏ mọc trên cát hoặc trong kẽ đá mới đáng thương làm sao, không nở được hoa, không gieo được hạt. Trên thảo nguyên đáng thương nhất là cỏ. Người Mông Cổ thương yêu nhất, đắm đuối nhất là cỏ thảo nguyên. Nếu bảo là sát sinh, dê tàn sát cỏ còn dữ hơn máy cắt cỏ. Dê ăn trụi cỏ thì là gì nếu không phải là sát sinh, là sát hại sinh mạng lớn thảo nguyên? Trên thảo nguyên, sinh mạng lớn bị giết thì các sinh mạng nhỏ cũng chết sạch. Khi đã thành cái họa thì dê vàng đáng sợ hơn sói. Thảo nguyên có hoạ trắng, họa đen, còn có hoạ vàng. Xảy ra họa dê vàng có khác gì dê ăn thịt người!

Chòm râu lơ thơ của ông già run lên, run hơn con dê trước mắt.

Trần Trận xúc động sâu sắc, mỗi lời ông già như tiếng trống xung trận, khiến cậu choáng váng, tim đập thình thịch. Cậu cảm thấy dân tộc thảo nguyên không những hơn hẳn dân tộc nông canh về tri thức quân sự, về tính cách kiên cường dũng cảm, mà về một số quan điểm cũng hơn hẳn. Cái lô gíc cổ xưa của thảo nguyên đã bó chặt tộc ăn thịt và tộc ăn cỏ, là nguyên nhân sâu xa của những trận chém giết khốc liệt hàng ngàng năm nay. Lời ông già chính xác và sâu sắc đến nỗi giỏi biện luận như Trần Trận cũng cứng lưỡi, không cãi lại được câu nào. Ông như thảo nguyên Mông Cổ so với đồng bằng Hoa Bắc, trình độ chênh lệch rõ rệt. Trần Trận với những quan điểm về sinh mạng, sinh tồn, về cuộc đời của loại văn hóa nông canh, bỗng chốc tiêu tan quá nửa khi đụng phải lôgic của thảo nguyên. Cậu phải thừa nhận rằng, đạo trời nên đứng về phía dân du mục. Dân tộc thảo nguyên bảo vệ "sinh mạng lớn" - sinh mạng của thảo nguyên và của thiên nhiên, quý hơn sinh mạng con người. Còn tộc nông canh thì bảo vệ "sinh mạng nhỏ" - sinh mạng con người và cuộc đời, coi là quý giá nhất. Nhưng "sinh mạng lớn không còn, thì các sinh mạng nhỏ cũng mất tiêu". Trần Trận lẩm bẩm nhắc lại câu trên với ý nghĩ chua xót. Cậu càng cảm thấy nghi ngờ nhận thức của mình về những cuộc tàn sát của tộc thảo nguyên đối với tộc nông canh trong lịch sử, và những hành động san ủi ruộng động khôi phục lại thảo nguyên của họ. Trước kia cậu cho rằng hành động đó là kéo lùi lịch sử, là dã man. Nhưng qua lý lẽ ông già, đặt nó trong mối quan hệ giữa sinh mạng lớn và sinh mạng nhỏ mà đánh giá sự việc, cậu thấy không thể gọi hành động đó là dã man, vì rằng trong cái dã man đó lại bao hàm ý nghĩa bảo vệ nền văn minh của nhân loại. Nếu như đứng trên lập trường sinh mạng lớn mà xét, tộc nông canh ra sức đốt rẫy khẩy hoang vùng biên, phá hoại thảo nguyên và thiên nhiên - sinh mạng lớn khiến sinh mạng nhỏ là con người bị vạ lây, dã man hơn cả dã man ấy chứ? Phương Đông và phương Tây đều nói trái đất là bà mẹ của nhân loại, chẳng lẽ giết mẹ lại được coi là văn minh?

Trần Trận rụt rè hỏi: Vậy sao bác lại thả những con dê còn sống? Ông già nói: Để chúng phân tán bớt đàn sói. Sói bắt dê, bò cừu của chúng ta cũng đỡ thiệt hại. Săn dê là nghề phụ có thu nhập đáng kể của chúng ta. Rất nhiều người Mông Cổ nhờ săn bắt dê mà mua được lều, cưới vợ, nuôi con. Một nửa dân Mông Cổ là thợ săn. Không đi săn thì khác gì ăn thịt không muối, cơ bắp sẽ nhão ra, đầu óc sẽ ngu đi. Người Mông Cổ săn bắn cũng là để bảo vệ sinh mạng lớn thảo nguyên. Họ săn bắt con vật ăn cỏ gần gấp đôi con vật ăn thịt.

Ông già thở dài: Người Hán các cậu còn rất nhiều điều chưa biết. Cậu đọc nhiều sách, nhưng trong những sách ấy có bao nhiêu điều không đúng. Người Hán viết sách toàn nói hay cho người Hán, cái thiệt của người Mông Cổ là không biết viết sách. Nếu như cậu trở thành người Mông Cổ để viết sách cho người Mông Cổ thì hay biết mấy.

Trần Trận gật đầu. Cậu bỗng nhớ lại rất nhiều chuyện đồng thoại mà cậu đọc hồi nhỏ, con "sói xám" trong truyện hầu hết là ngu xuẩn, tham lam và tàn nhẫn, còn con cáo thì thông minh, nhanh nhẹn đáng yêu. Về thảo nguyên, Trần Trận mới phát hiện ra rằng, trong thiên nhiên không có con vật nào hoàn hảo hơn sói, thế mới biết sách vở cũng có nhiều chỗ sai, đồng thoại lại càng sai

Ông già dựng con dê cho nó đứng dậy rồi khẽ đẩy nó ra ngoài thảm. Trên mặt tuyết ló lên mấy ngọn cỏ lau. Con dê đang đói liền bước tới đớp luôn. Trần Trận nhanh nhẹn rút tấm thảm vuông. Con dê lẩy bẩy đi vài bước, chợt trông thấy hàng dãy dấu chân đồng loại, nó phóng một mạch lên dốc rồi mất hút sau triền núi.

Batu và Caxumai cũng kéo một con dê choai lên bờ, chỗ đất cứng. Caxumai vừa kéo vừa lầm bẩm: Đáng thương quá! Miệng nói tay vỗ lưng con vật, thúc nó chạy lên dốc. Trần Trận giơ ngón cái về phía Caxumai tỏ ý khen. Caxumai cười, bảo cậu: Mẹ nó sa xuống hố tuyết, nó cứ chạy quanh không chịu bỏ đi, bọn tôi phải dùng thòng lọng mới bắt được đấy.

Những thảm - thuyền lần lượt cập bờ. Những con dê được cứu sống tập hợp thành một đàn nhỏ, trèo sang bên kia dốc. Ông già nói: Lũ dê này khôn ra rồi đấy. Từ nay sói đừng hòng bắt được chúng.

Chương 4

Đột Quyết là một tộc khác Hung Nô, họ Asưna thị, có bộ lạc riêng. Sau bọ nước láng giềng giết sạch. Tộc này có người con trai mười tuổi, quân lính thấy còn bé, không nỡ giết, bèn chặt hai chân vứt trong đầm cỏ, được sói cái cho ăn thịt. Lớn lên lấy sói cái và có chửa. Vua nước đối địch nghe tin người con trai còn sống bèn cho quân truy sát. Sứ giả thấy con sói đứng bên người con trai, định giết cả sói cái. Sói cái bỏ chạy lên núi Bắc nước Xương, trên núi có hang… Sói cái ẩn trong hang, sau đó sinh 10 con trai. 10 con trai lấy vợ ra ở riêng, sau đó mỗi người một họ, tức là nước Asưna…

“Chu thư. Đột quyết”

Cuối cùng mọi người có thể nhận phần quà mà mình được hưởng. mặt hồ mỗi lúc một lạnh. Ông già bào đám thợ săn: Trời đang giục chúng mình đấy, nhanh tay lên! Mọi người lướt như tên về địa bàn mình, một cảnh tượng ồn ào, phấn chấn trùm lên bãi săn.

Ông già dẫn Trần Trận đến bên một cái hố vừa phải, không to không nhỏ thì dừng lại. Ông bào: Đừng chọn những hố to. Hố to thì có qua nhiều dê ở dưới đáy. Bảy tám con dê gộc chất đống lên nhau, hơi nóng toả ra khiến tuyết trong hố không đủ độ để đông lạnh. Những con dê ủ trong hơi nóng gần một ngày một đêm, bụng chướng lên, chân cẳng sưng to, da tím ngắt, thịt ôi đến non nửa. Lúc này thì chúng đã đông lạnh nhưng đông lạnh của thịt ôi. Những con như vậy bán cho Trạm thu mua, may lắm được nữa tiền. người ta chỉ cần xem bụng con vật là đánh tụt hạng, chỉ trả tiền da, còn thịt thì một xu cũng không trả. Nhưng sói thì rất mê thịt ôi. Chắc chắn đàn sói Ơlôn không quên đàn dê bị vùi ở đây. Mình hãy để lại cho chúng những con chúng thích nhất.

Ông già thọc câu liêm xuống, hố sâu vừa đúng hai mét. Ông dò từng tấc một, chỉ lát sau là ghìm chặt cán câu liêm, bảo Trần Trận: Móc được một con rồi, nào cùng lôi lên! Hai người vừa lôi vừa dùng chân lùa tuyết hòng lấp đầy khoảng trống dưới chân con dê, cho đến khi đầu nó ló lên. Lưỡi câu liêm móc đúng yết hầu, không làm rách da trên người. Trần Trận cúi xuống ôm đầu con dê, dùng sức lôi nó lên tấm thảm. con dê đã đông cứng nhưng bụng không chướng, da không tím chứng tỏ nó bị chết tức thì do nghẹt thở. Ông già bảo: Con này bán được loại Một, giá cao nhất.

Ông già thở ra một hơi, nói: Dưới hố vẫn còn, cậu móc đi! Cứ làm như móc thùng dưới giếng ấy, móc đúng chỗ hãy kéo lên, đừng để rách da. Da rách là bị cấn giá, chẳng được mấy đồng. Trần Trận vâng dạ luôn miệng, đón lấy câu liềm lùa xuống hố, thấy hình như còn hai con. Thăm dò hồi lâu mới lần ra hình thù con dê, sau đó mới dò thấy yết hầu để móc câu liềm vào. Thế là lần đầu tiên Trần Trận câu được một con “cá kình”, con mồi nặng năm sáu mươi cân, dù có cưỡi ngựa xích thố cũng không đuổi kịp. Cậu vui vẻ gọi Dương Khắc: Xem này, mình cũng câu được một con đực. Khoái quá! Dương Khắc sốt ruột: Cậu quay lại mau, để mình thế chân bố Pilich!

Mặt hồ đây đó vang tiếng hò reo, từng con dê nguyên vẹn, béo mẫm được lôi lên. Từng chiếc bè trượt băng băng vào bờ. những người tháo vát đã được chuyến thứ hai, Batu, Caxưmai và Lanmutrăc móc giỏi nhất, vừa chính xác, vừa nhanh, lại toàn là dê lớn dê béo. Nếu móc phải những con to hoặc nhỏ nhưng bụng trương phềnh hoặc tím tái, có nghĩa là không bán được tiền, liền quăng trả xuống hố. Thảo nguyên tĩnh mịch rộn lên cảnh tượng ngày mùa. Lũ sói đứng trên đỉnh núi xa xa nhìn về, chắc tức lắm. Kẻ cướp trên thảo nguyên lại bị kẻ khác trấn lột! Nghĩ vậy, Trần Trận không nhịn được cười.

Ông già và Trần Trận chở hai con dê vào bờ. Dương Khắc và Banyan đỡ ông già bước ra. Trần Trận vần hai con dê ra ngoài thảm, bốn người lôi chúng đến bên xe bò. Trần Trận thấy trên xe đã có mấy con dê lớn, liền hỏi đầu đuôi. Dương Khắc nói: Mình và Bayan chỉ móc được mỗi con, mấy con kia người ta biếu. Họ bảo lệ là như thế. Dương Khắc cười: Chúng mình theo chân bác Pilich đúng là vớ bở. Ông già cũng cười: Các cậu cũng là người của tháo nguyên, từ rày phải nhớ luật lệ của thảo nguyên!

Ông già đã thấm mệt, ngồi xếp bằng tròn trên xe bò, hút thuốc. Ông bảo: Hai cậu xuống đi. Phải hết sức cẩn thận, nếu thấy lún thì phải lập tức giang rộng chân tay, nín hơi thì có lún cũng không sâu. Người trên thảm phải thò ngay câu liêm cho người kia nắm lấy. Nhớ là không được móc vào mặt kẻo sau này khó lấy vợ. Ông bị sặc, vừa ho vừa sai Bayan chụm củi đốt bếp, chuẩn bị bữa trưa.

Trần Trận cùng Dương Khắc hăng hái bước lên thảm – thuyền. Ở chỗ tuyết sâu Trần Trận phát hiện ra một đường hầm trong tuyết dẫn đến một nơi sâu hơn. Dương Khắc cười, nói: Hồi nãy có mặt ông già mình không dám kể. Đây là cái hốc do mình và Bayan đào. Chính chỗ này đào được con dê gộc. Bayan quả là gan cóc tía. Thấy cậu và bác Pilich đi rồi, nó cậy nhẹ cân, trải áo khoác làm bàn trượt, trườn ra hồ. Tuyết chịu được, không lún. Nó phát hiện ra cách năm mét có một cái hốc, liền quay lại cùng mình đào một đường hầm, chỉ một lúc là xong. Nó chui vào, lấy thừng xích chân con dê rồi quay trở lại, cùng mình ra sức kéo con dê vào bờ. Bayan đúng là to gan, mình cứ sợ tuyết sẽ vùi nó dưới hố.

Trần Trận nói: Chuyện to gan thì mình đã chứng kiến. Dám tay không túm cẳng sói thì cái hang này nhằm gì! Trẻ con Mông Cổ còn bé mà đã gan cóc tía, lớn lên chắc dũng mãnh phải biết! Dương Khắc nói: Mình bảo Bayan đừng chui vào. Nó bảo: Đã dám chui vào hang sói thì sợ gì hang tuyết? Thằng nhỏ kể hồi lên bảy, nó chui vào hang bắt cả một ổ sói con. Con chẳng phải rất thích đi bắt sói con đó sao? Khi nào đi, cho nó đi cùng. Trần Trận vội thoái thác: Mình thích thì có thích nhưng không dám. Còn chuyện tính cách của người Mông Cổ thì mình xin bái phục!

Dương Khắc và Trần Trận trèo lên bè. Dương Khắc cười vui, mặt hằn những nếp nhăn. Cậu bảo: Đi săn trên đồng cỏ quả thật thú vị. Ban ngày chăn cừu, tối đến trực đêm, đơn điệu dễ chán. Mình thấy đánh bạn với muông thú thì cuộc sống sẽ phong phú hơn.

Trần Trận nói: Thào nguyên đất rộng người thưa, mươi dặm mới thấy một chiếc lều, không đánh bạn với sói, không săn bắn thì buồn chết. Cách đây ít lâu, mình có đọc một cuốn sách viết về Mông Cỗ, thì ra họ sùng bái tôtem sói hàng ngàn năm nay.

Bữa sáng hai người ăn thịt bò nướng, lúc này sức lực đang sung mãn, hai người luôn chân luôn tay đổi chỗ cho nhau, chiếc bè chạy băng băng trên tuyết như xe gắn máy. Rồi thì Dương Khắc cũng móc được một con dê bự. Cậu nhảy cẫng suýt lật bè, may mà Trần Trận vội ấn xuống. Dương Khắc vỗ vỗ đầu con dê, gào lên: vừa nãy xem người ta móc dê lên tưởng mình nằm mơ. Giờ thì như đang mơ chợt tỉnh. Quả thật có chuyện mê li đến thế này sao? Cảm ơn, cảm ơn sói nhiều lắm!

Dương Khắc giữ chặt câu liềm không nhường cho Trần Trận. Trần Trận sợ lật bè, không dám giằng lấy câu liềm, đành phải gò lưng mà kéo. Dương Khắc móc một hồi được ba con dê bự, thoả thuê rồi, cậu ta mới bàn: Móc hết lên rồi hãy chuyển vào bờ thì năng suất cao hơn. Nói rồi, cậu ta xếp những con dê ngay ngắn trên mặt tuyết rắn.

Trên bờ, hút xong tẩu thuốc, ông già Pilich bảo mọi người dọn quang một chỗ bên đoàn xe. Đám phụ nữ nhặt nhạnh vàn gãy, trục xe hỏng chất thành hai đống giữa bãi trống; trải đệm cũ ra, xếp lên những bình trà sữa đầy, những hồ rượu, bát gỗ và lọ nước. Tang Kiệt và một chú chó làm thịt hai con dê bị lạnh cóng nhưng chưa chết, dùng cho bữa trưa. Lũ chó đã no nê sau khi thừa hưởng chỗ thịt thừa của đàn sói bỏ lại, không thèm ngó hai con dê đã lột da, móc ruột, đang bốc hơi. Một đống lửa được đốt lên, ông già Pilich cùng lũ trẻ cầm xiên sắt hoặc xiên gỗ xâu thịt, rắc muối lên rồi vừa nướng vừa ăn bên bếp lửa. Mùi trà sữa, mùi thịt nướng thơm lừng bay xuống hồ như mời gọi cánh thợ săn lên ăn trưa.

Gần trưa, các thảm- thuyền đã chở được hai ba chuyến. Trên mỗi cỗ xe đã có bảy tám con dê vàng. Lúc này đám đàn ông được đổi phiên để ăn trưa. Phụ nữ vả lũ trẻ thay họ xuống hồ tuyết, tiếp tục đưa dê lên bờ.

Thịt dê vàng là món ăn khoái khẩu trên thảo nguyên Mông Cổ, nhất là khi cuộc đi săn kết thúc, một đống lửa được dốt lên, tay nướng miệng ăn tại bãi săn. Đó là niềm đam mê của các Khan và tầng lớp vương công quý tộc Mông Cổ, và cũng là niềm vui của người dân thường khi có dịp. Vậy là Trần Trận và Dương Khắc đã dự một bữa ăn thình soạn với tư cách là thợ săn. Hai cậu quên luôn món thịt quay Bắc Kinh. Sự hưng phấn và lao động chân tay khiến cho mọi người ăn rất ngon miệng. Trần Trận cảm thấy mình vui hơn các Khan Mông Cổ, vì được ăn ngay bên cạnh những mẫu xương dê của lũ sói bỏ lại. Các cậu ăn như rồng cuốn, như sói tranh mồi, ăn với một khoái cảm đặc biệt.

Trần Trận và Dương Khắc bỗng lây tính cách hào phóng của người Mông Cổ không hẹn mà cùng giơ tay giằng lấy hồ rượu của người ngồi bên, tu ừng ực.

Ông già Pilich cười khà: Chỉ một năm nữa là ta không dám đi Bắc Kinh gặp phụ huynh của các cậu đâu. Các cậu đã thành dân du mục thực thụ rồi. Dương Khắc miệng sặc hơi rượu, nói: Người Hán cần cái khí phách của người Mông Cổ, lái đại xa vượt Cư Dung Quan hộp nhập cùng thế giới.

Trần Trận gọi liền ba tiếng: Bố, bố, bố! Rồi nâng hồ rượu lên ngang mày mời “đại tù trưởng”. Ông già Pilich uống liền ba ngụm, cũng vui vẻ gọi to ba lần: Milihu (con ta), milihu (con ta), milsaihu (con trai của ta)!

Batu rượu ngà ngà, xéo bàn tay gấu vỗ mạnh lưng Trần Trận, lắp bắp: Cậu… cậu mới Mông Cổ một nửa. Khi nào lấy vợ Mông Cổ, đẻ một đứa con trong lều Mông Cổ, thì mới được coi là người Mông Cổ thực thụ. Cậu ẻo lả quá, không ổn. Gái Mông Cổ trong chăn dữ hơn sói cái! Trai Mông Cổ sợ vợ như cừu sợ sói.

Tang Kiệt cười: Ban đêm đàn ông như cừu, đàn bà như sói. Caxưmai lợi hại số một!

Đám thợ săn cười rú.

Lanmutrăc hào hứng bốc Dương Khắc quẳng xuống một hố tuyết dày. Anh nói: Khi nào cậu quật ngã được tôi, khi đó cậu mới được gọi là người Mông Cổ. Dương Khắc cố sứ quật lại, nhưng chính cậu lại bị ngã lộn ba vòng. Lanmutrắc cười: Người hán ăn cỏ yếu như cừu. Người Mông ăn thịt khoẻ như sói.

Dương Khắc rũ tuyết trên người, nói: Hãy đợi đấy! Sang năm tôi sẽ mua hẳn một con bê, ăn bằng hết, và tôi sẽ cao hơn anh một cái đầu, khi ấy anh sẽ yếu như cừu cho mà xem!

Đám thợ săn vỗ tay tán thưởng: Hay lắm!

Người thảo nguyên Mông Cổ uống nhiều hơn ăn. Bảy tám hồ rượu lớn thoắt cái cạn tới đáy. Thấy rượu đã hết, Dương Khắc tưởng bở, thách Lanmutrắc: Đấu vật không thắng, giờ xin đấu rượu với anh. Lanmutrắc cười hóm: Cậu ranh như cáo ấy! Nhưng trên thảo nguyên cáo không khôn bằng sói. Đợi tí, tớ vẫn còn rượu. Nói rồi, anh đến bên con ngựa của mình, lôi từ đây vài hồ rượu trắng to tướng và hai chiếc cốc. Mọi người la: Phạt rượu, đáng phạt rượu!

Dương Khắc cười gượng: Đúng là cáo không bằng sói, tôi xin chịu phạt.

Lanmutrắc nói: Cậu… cậu nghe đây! Theo quy định, phạt bao nhiêu phải uống bấy nhiêu. Có lần tôi nói sai một câu, bị ông phóng viên người Han thông thạo cả tiếng Trung Quốc lẫn Mông Cổ, đổ rượu say bí tỉ. Giờ thì cho cậu nếm mùi… Nói rồi, anh ta rót đầy một cốc giơ lên, nói bằng thứ tiếng Hán bập bõm: Bách linh bay từng đôi, mỗi cánh đèo hai cốc!

Dương Khắc tái mặt: Bốn cánh, mỗi cánh hai cốc, vị chi tám cốc. Nhiều quá, xin bớt cho một chén mỗi cánh. Lanmutrắc nói: Nếu cậu không giữ lời, tôi tăng mỗi cánh thêm một cốc bây giờ.

Mọi người, kể cả Trần Trận la to: Uống, phải uống thôi!

Dương Khắc đành phải uống một mạch tám cốc rượu. Ông già Pilich cười: Ở thảo nguyên này mà láu cá thì thiệt đấy!

Trần Trận và Dương Khắc đón xiên thịt đã nướng chín từ tay ông già, ăn luôn, nước thịt hồng hồng ứa ra hai bên mép. Hai cậu đã ăn được thịt lòng đào.

Trần Trận nói: Bố, đây là lần đầu tiên con ăn thức ăn của sói. Từ bé đến giờ mới có món thịt ngon đến thế. Giờ con đã hiểu vì sao các vua chúa và con cái của họ lại thích săn bắn đến thế.

Đường Thái Tôn là ông vua kiệt xuất đời Đường. Ông ta mê săn bắn. Thái tử, là người sẽ nối ngôi vua cũng thường dẫn vệ binh Đột Quyết săn bắn trên thảo nguyên. Thái tử còn dựng lều giữa sân điện, rồi cũng như chúng ta ở đây, làm thịt cừu, quay chín, dùng dao xẻo thịt ăn. Ông ta mê thảo nguyên đến nỗi không muốn làm vua, chỉ thích giương ngọn cờ đầu sói của Đột Quyết rong ruổi trên đồng cỏ, sống cuộc sống du mục. Về sau, quả nhiên ông không được làm vua, Đường Thái Tôn không truyền ngôi cho ông ta. Cuộc sống trên thảo nguyên quả thực hấp dẫn, đến nỗi có người bỏ cả ngôi vua.

Ông già trố mắt ngạc nhiên: Chuyện này chưa nghe cậu kể. Hay lắm, rất có ý nghĩa. Nếu như người Hán ai cũng yêu thích thảo nguyên như ông vua kia thì hay biết mấy. Và nếu ông ta không mất ngôi lại càng hay. Các vua nhà Thanh đều thích thảo nguyên Mông Cổ, thích lấy phụ nữ Mông Cổ, lại cấm người Hán đến Mông Cổ khai hoang. Thời ấy, người Hán, người Mông không đánh nhau, thảo nguyên sống trong hoà bình.

Ông già Pilich rất mê Trần Trận kể chuyện lịch sử. Mỗi lần nghe, ông đều tặng lại Trần Trận một vài chuyện kể Mông Cổ. Ông bảo, ở thảo nguyên mà chưa ăn thức ăn của sói, thì chưa phải là người Mông Cổ. Không có thức ăn của sói, có lẽ không có người Mông Cổ. Xưa kia, người Mông Cổ bị dồn đến bước đường cùng, phải sống nhờ vào sói. Ông tổ của Thành Cát Tư Hãn bị dạt vào rừng sâu với hai bàn tay trắng, suýt chết đói. Không còn cách nào khác, ông bí mật theo dõi con sói. Sói bắt được mồi, ông đợi. Sói bỏ đi, ông ăn thức ăn thừa của sói bỏ lại. Vậy mà cầm cự được mấy năm, cho đến khi anh trai tìm thấy, đón ông về. Sói là ân nhân cứu mạng của người Mông Cổ, không có sói thì không có Thành Cát Tư Hãn, không có người Mông Cổ. Thức ăn của sói ngon tuyệt! Cậu xem, sói đem đến cho chúng ta là quà tặng theo mùa. Có điều thức ăn của sói không phải lúc nào cũng dễ kiếm, sau này cậu sẽ rõ.

Ăn sạch hai con dê, không còn một mẩu. Bếp lửa lụi dần, nhưng ông già Pilich vẫn cẩn thận sai người xúc đất lấp kín đống tro.

Mây đen tích tụ ngày càng dày. Trên đỉnh núi, tuyết bị gió hất lên như những dãi lụa trắng. Đám trai tráng lại leo lên bè, tiến ra hồ, tranh thủ lấy đầy xe trước khi tuyết lấp đầy các hố. thêm một con dê vàng là thêm bảy bánh trà gối Tứ Xuyên, hoặc hơn chục tút thuốc lá thơm Hải Hà (Thiên Tân), hoặc mười lăm mười sáu bình rượu trắng Nội Mông. Dưới sự chỉ đạo của ông già Pilich, đám thợ săn chuyển hết bè từ chỗ sâu đến chỗ nông, tranh thủ lấy hết số dê vàng ở những chỗ dễ móc lên. Ông gài còn chia nhóm, những ai giỏi móc thì chuyên móc, những ai giỏi chuyên chở thì vận chuyển. Bè khá gần bờ, những sợi thừng dài bắt đầu phát huy tác dụng. Vài người khoẻ mành đứng trên bờ ném thừng lên bè, người trên bè buộc một đầu thừng vào bè rồi ném trả vào bờ. Trên bờ kéo chiếc bè vào rồi ném trả rồi ném trả người dưới hồ để họ kéo chiếc bè ra. Hiệp đồng kiểu này, tiến độ nhanh trông thấy.

Rồi thì những người trên hồ bị bóng núi nuốt chửng, các xe đều đầy ắp. Vậy mà một số thợ săn vẫn muốn đốt lửa làm thêm vào ban đêm. Xếp đống những con phải để lại, cử người mang súng canh gác, hôm sau chở nốt. Nhưng ông già Pilich lớn tiếng bào thôi. Trời đã cho ta một ngày lộc thì chỉ nên thu hoạch một ngày. Ông Trời đã rất công bằng. Sói ăn thịt cừu và ngựa của ta thì Trời bắt sói phải trả nợ cho ta. Giờ gió đã nổi, nghĩa là Trời muốn dành cho sói số dê còn lại, không nên cưỡng lại ý Trời. Ai dám ở lại vùng gió xoáy này? Nếu đêm nay bạch mao phong cùng đàn sói tràn về, thì sự thể sẽ ra sao?

Không ai nói một câu. Ông già lệnh cho cả tổ rút. Đoàn người mệt mỏi nhưng hân hoan đẩy những cổ xe nặng lên dốc, rồi người lên xe, kẻ lên ngựa trở về nhà.

Trần Trận đàm địa mồ hôi, cậu phát sốt, run cầm cập. Trong hồ ngoài hồ, trên dốc dưới dốc, chỗ nào cũng lưu lại dấu vết của con người: bếp tro, cuống thuốc là, vỏ chai rượu và vết bánh xe. Gay nhất là vết bánh xe dẫn đến khu lều trại. Trần Trận thúc ngựa chạy tới bên ông già, hỏi: Bố, bị vố đau thế này, liệu sói có trả thù không? Bố vẫn nói rằng sói nhớ dai mà!

Ông già nói: Ta lấy không nhiều, quá nửa vẫn để lại cho sói, ta không tham. Muốn lấy nữa chỉ việc neo sào trên những hố, bạch mao phong có thể lấp bằng các hố tuyết, nhưng không vứt được sào đi, ta có thể lấy nốt số dê còn lại. Nhưng mà làm như vậy thì Trời không nhận linh hồn ta. Ta phải vì mục trường. Sang xuân, sói có thịt đông lạnh ăn, sẽ không bắt gia súc. Sói làm nhiều việc tốt cho con người, ta không nên uống nước cả cặn! Yên tâm đi. Sói chúa biết suy xét đâu ra đấy.

Chiều tối, bạch mao phong lồng lộn trên thảo nguyên. Trong căn lều của đám thanh niên trí thức, bếp lò cháy rực. Trần Trận gấp cuốn “Mông Cổ bí sử”, bảo Dương Khắc: Cái ông ăn thức ăn thừa của sói ấy là ông tổ tám đời của Thành Cát Tư Hãn, tên là Hao Đan Sa Nhi. Dòng họ Thành Cát Tư Hãn có tên Hao Nhi Chi Cân, bước lên vũ đài lịch sử từ đời Hao Đan Sa Nhi. Đương nhiên mấy đời sau đó cũng có nhiều thăng trầm.

Dương Khắc nói: Nói vậy là, nếu không có sói tức không có vị quân sư và vị huấn luyện viên sói ấy thì hẳn là không có Thành Cát Tư Hãn và dòng họ của ông ta, không có kỵ binh Mông Cổ trí dũng song toàn. Sói thảo nguyên quả thật thiêng liêng với dân tộc Mông Cổ.

Trần Trận nói: Phải nói rằng, với Trung Quốc ảnh hưởng càng lớn hơn. Từ khi có Thành Cát Tư Hãn và kỵ binh Mông Cổ, lịch sử Trung Quốc từ nhà Kim đến nam Tống về sau phải viết lại hoàn toàn. Lịch sử châu Á, Ba Tư, Nga La Tư, Ấn Độ… phải viết lại tất. Thuốc súng của Trung Quốc được đưa sang phương tây theo con đường Á – u làm kỵ binh Mông Cổ mở ra, phá huỷ thành luỹ phong kiến phương Tây, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Rồi sau đó, hoả pháo ấy của phương Tây công phá cổ ngõ Trung Quốc, bắn nát kỵ binh Mông Cổ, thế giới chao đảo… Vậy mà vai trò của sói trong lịch sử bị lờ đi trong những bộ sử do con người ghi chép. Nếu ông Trời chép sử, chắc chắn sói có vai trò xứng đáng.

Anh chàng chăn ngựa Cao Kiên Trung còn đang phấn khích vì được một xe Trời cho, vội nói: Các cậu toàn nói những chuyện viễn vông ở đâu ấy. Công việc cấp bách bây giờ là tìm cách lấy hết số dê còn lại. Phát tài to! Trần Trận nói: Ông Trời ưu ái sói mà cho ta một xe đầy thế này là tốt rồi. Bạch mao phong ngắn nhất cũng ba ngày ba đêm, hố tuyết sẽ dầy thêm nửa thước, không còn trông thấy một hố nào nửa. Khi ấy mò dê chẳng khác nào đáy biển mò kim! Cao Kiện Trung bước ra bên ngoài nhìn trời, quay vào bảo: Đúng là phải ba ngày ba đem mới tạnh. Giá hôm nay mình đi thì hay quá, mình sẽ cắm nêu ở những hố to nhất. Dương Khắc nói: nếu vậy, cậu đừng hòng ăn phù chúc của Caxưmai. Cao Kiện Trung thở dài: Đành để sang xuân vậy. Khi ấy mình sẽ lấy đầy một xe đem lêm Trạm thu mua Bayancaobi. Nếu hai cậu không nói, chắc không ai biết chuyện này.

Nửa cuối mùa đông, quả nhiên đàn gia sức không xảy ra chuyện gì đáng kể. Đàn sói Ơlôn rượt theo đàn dê vàng ở đâu không rõ. Cuộc khủng bố trắng đã không diễn ra.

Mùa đông im ắng, Trần Trận ban ngày chăn cừu hoặc ban tối trực đêm, hễ rảnh rỗi cậu lại sưu tầm những mẩu chuyện về sói. Mất nhiều thì giờ nhất là chuyện “sói bay”. Truyền thuyết “sói bay” lưu hành khắp vùng Ơlôn, chuyện xảy ra chưa lâu, địa điểm thì hình như ở ngay đại đội của cậu. Trần Trận quyết tâm làm rõ chuyện, giải mã cho bằng được vì sao sói có thể bay trên thảo nguyên Ơlôn.

Đám thanh niên trí thức vừa về Ơlôn đã nghe rằng, sói Ơlôn do trời sai xuống, nên biết bay. Hàng ngàn năm nay, mục dân Ơlôn khi chết, thi thể được đưa tới bãi thiên táng cho sói xử lý. Nếu sói ăn hết thì coi như ”thiên táng” thuận lợi. Căn cứ để nói “thiên táng” là sói biết bay. Sói bay lên trời, đem theo linh hồn của người đã chết, như kiểu thần ưng của phương Tây. Đám thanh niên trí thức coi đó là mê tín dị đoan thì dân Mông Cổ khẳng định như đinh đóng cột là có thật. Xa xôi ở đâu không biết, chuyện gần đây thôi, trước cách mạng văn hoá ba năm, một số sói bay vào chuồng cừu của đại đội Hai, ăn thịt hơn chục con, cắn chết hơn hai trăm con. Ăn no rồi, lũ sói bay ra khỏi chuồng. Cổng đóng, tường cao sáu bảy thước, người không thể trèo qua, lũ sói vào bằng cách nào? Bức tường nay vẫn còn, không tin, các cậu đi mà xem. Hôm ấy, trường bãi Ulichi dân chức sắc đến tận nơi, đồn trưởng Công an Halapala cũng có mặt. Nào chụp ảnh, nào đo đạc tính toán. Tường vây rất cao, không lỗ thủng, sói vào ra bằng cách nào. Điều tra mấy ngày liền nhưng không ai biết được. Mục dân biết, nhưng để bụng không nói ra.

Câu chuyện trên ám ảnh Trần Trận một thời gian. Khi sưu tầm truyền thuyết đã thành niềm đam mê, cậu liền nhớ lại. Thế là cậu lập tức lên ngựa, phi một mạch trên mười dăm đến căn chuồng xây bằng đá xem xét rất kỹ mà vẫn không hiểu sói vào bằng cách nào. Cậu đã tìm gặp ông già Xưlangđaochi. Ông già nói: Không hiểu thằng con trời đánh thánh vật của tôi đã làm cái gì đắc tội với trời, mà cho đến bây giờ gia đình tôi vẫn bị người ta nguyền rủa. Nhưng người con đã học xong Trung học của ông thì lại bảo chuyện này là lỗi tại Ban Quản Lỳ bãi chăn. HỒi ấy, vùng Ơlôn chưa có tường vây bằng đá, Ban Quản Lý muốn giảm bớt công điểm trực đêm, lại nghĩ có thể bảo đảm an toàn cho đàn cừu, bèn xây mấy căn chuồng đá cho cừu đẻ. Họ bảo, chuồng đó sói không vào được, do đó không cần trực đêm. Đêm hôm ấy tôi nghe chó sủa rất lạ, hình như sói về nhiều, nhưng vì Ban Quản Lý nói không cần trực đêm nên tôi cũng cho qua, không ra xem có chuyện gì. Ai dè sáng ra mở cửa chuồng bước vào, đã thấy cừu chết la liệt, cả nhà chết sững. Nền chuồng máu chảy thành vũng, dầy đến hai đốt ngón tay, trên tường cũng vấy đầy máu. Những con cừu đều chết bởi bốn vết thương trên cổ. Máu tràn ra ngoài chuồng. Có cả bãi phân sói… Ban Quản Lý quy định lại, những gia đình gần chuồng lại phải cử người trực đêm, được tính công. Những năm đó, loại chuồng đá cho cừu đẻ ngày càng nhiều, có trực đêm, không còn chuyện sói bay vào trong ăn thịt cừu.

Trần Trận vẫn không chịu tin, lại hỏi rất nhiều người, ai cũng bào sói biết bay. Họ còn bảo sói chết nhưng hồn sói thì bay lên trời.

Về sau, đồn trường Ha được “giải phóng”(1), trả về từ Uỷ Ban Kiểm Tra cán bộ cũ, phục nguyên chức. Trần Trận đem theo vài bao thuốc lá ngon Bắc Kinh đến thăm ông, mới hiểu sói “bay” kiểu gì vào chuồng cừu? Đồn trường tốt nghiệp trường nghiệp vụ Công an, nói tiếng Hán trôi chảy. Ông nói, vụ này đã kết luận, tiếc rằng những lý lẽ rất khoa học của ông đã không được chấp thuận, phần đông mục dân không tin, họ vẫn cho rằng sói biết bay. Chỉ một số thợ săn có văn hoá, có kinh nghiệm là bị ông thuyết phục. Đồn trưởng ha cười, nói: Nếu có ý tôn trọng tín ngưỡng và tập quán dân tộc, thì bảo sói bay vào trong chuồng cũng không hoàn toàn sai, vì rằng tối thiểu một đoạn sói bay trong không trung..

Ông nói tiếp: Hôm ấy mọi người sợ lắm, nghĩ rằng trời giáng hoạ xuống đầu dân Ơlôn. Đám chăn ngựa bỏ cả ngựa trên núi chạy về. Người già và phụ nữ phủ phục dưới đất vái lia lịa. Trẻ con sợ đến nỗi bị đánh không dám khóc. Trưởng bãi Ulichi sợ ảnh hưởng đến sản xuất, lệnh cho nội ttrong hai ngày phải phá án. Tôi tập trung cán bộ mục trường lại, phân công bảo vệ hiện trường. nhưng hiện trường đã bị xoá. Tất cả những dấu vết bên ngoài chuồng đều bị gia súc hoặc dấu chân người xoá sạch. Tôi đành dùng kích lúp soi từng xăngtimét trên tường, cuối cùng tìm ra hai vết chân sói dính máu mờ mờ trên mặt tường góc đông bắc, mới kết thúc vụ án. Cậu thử đoán xem, sói vào chuồng bằng cách nào?

Trần Trận lắc đầu.

Đồn trưởng Ha nói: Tôi đoán chắc rằng đã có một con sói cực lớn chồm hai chân trước lên mặt tường, hai chân sau trụ đất, dùng thân làm cầu cho đàn sói trèo qua. Những con sói từ khoảng cách vài chục mét chạy lên lưng con sói bắc cầu, dùng nó làm bàn đạp nhảy vào trong. Nếu từ bên trong nhìn ra, chẳng phải đàn sói bay vào là gì?

Trần Trận ngẩn người hồi lâu, nói: Sói Ơlôn thông minh đến thế là cùng. Chuồng đá vừa ra đời, chúng đã có cách đối phó. Chúng quả đã thành tinh! Người dân nói sói bay cũng không sai. Đoạn đường di chuyển từ mặt tường vào bên trong đúng là bay. Thấy sói từ trên cao rớt xuống giữa đàn, gì mà cừu chẳng chết khiếp! Đàn sói vờ bẫm, ăn no, giết thả giàn. Chỉ mỗi con sói bên ngoài là thiệt, chẳng được miếng nào. Chắc hẳn nó là con đầu đàn, phong cách cao thượng, tất cả vì bầy đàn.

Đồn trưởng Ha cười: Không hẳn! Theo tôi thì con sói này cũng bay vào ăn đủ. Cậu không biết, sói thảo nguyên ý thức bầy đàn rất cao, không bao giờ bỏ rơi đồng loại. Những con bên trong sau khi ăn no, liền bắc cầu cho một con nhảy ra ngoài. Sau đó, con này làm cầu cho con thứ nhất nhảy vào. Máu trên tường chính là con sói từ trong nhảy ra. Nếu không, nó từ đâu ra? Vì rằng, con thứ nhất khi làm cầu, chân nó chưa dính máu, đúng không? Cậu thử tưởng tượng tình hình khi ấy, đúng là đàn sói trêu ngươi con người, đồng loạt nhảy vào tàn sát. Con người xây chuồng đá để ngăn sói, giờ thì ngược lại, tường đá chặn đứng lũ chó ở bên ngoài. Ông Xưlengđaonhichi chắc tức điên! Chó săn không dám bắt chước sói bay và trong chuồng quần nhau với sói. Chó nhà không khôn bằng sói.

Trần Trận nói: Cháu cũng không bằng sói. Nhưng còn vấn đề này nữa: Sói làm thế nào ra hết bên ngoài? Ý cháu là, con sói cuối cùng ra bằng cách nào?

Đồn trưởng Ha vui hẳn lên, nói: Đúng là người không khôn bằng sói. Khi ấy ai cũng thắc mắc. Cuối cùng, Trưởng bãi lội vào quan sát, mới vỡ lẽ. Tại góc đông bắc có một đống xác cừu, chí ít bảy tám con. Mọi người cho rằng, con sói cuối cùng chắc rất có bản lĩnh và sức khỏe. Nó tha những con cừu chết chất thành đống sát tường rồi trèo lên, nhảy ra. Có người lại bảo, chất đống xác cừu là công việc tốn sức, không chỉ một con mà mấy con cùng làm, rồi lần lượt nhảy ra. Sau đó, Trưởng bãi triệu tập các đội trưởng, tổ trưởng đến hiện trường phân tích cặn kẽ, diễn tập các thao tác của lũ sói, mục trưởng mới thôi xôn xao. Ban Quản lý cũng không phê bình hoặc trách phạt Xưlengđaonhichi. Trưởng bản làm bản tự kiểm điểm, tự nhận chủ quan khinh địch, có thái độ lơ là đối với sói.

Trần Trận nghe mà sởn gai ốc. Cậu tuy rất tin những kết luận khoa học của đồn trưởng Ha, nhưng từ đó hình ảnh những con sói bay luôn xuất hiện trong giấc mơ của cậu. Cậu thường tỉnh dậy mồ hôi đầm đìa. Cậu không dám nhìn nhận những truyền thuyết trên thảo nguyên bằng con mắt của thợ săn thuần túy. Cậu bắt đầu hiểu vì sao một số nhà khoa học phương Tây lại chăm đi lễ nhà thờ.

Sau một thời gia, Trần Trận bắt đầu khảo sát hai bãi “thiên táng” của đại đội, một ở phía bắc núi Đaolơcai, một ở đông bắc Đá Đen. Nhìn bên ngoài, hai bãi này không khác mấy so với bãi cỏ thông thường. Nhưng quan sát kỹ, có sự khác biệt. Hai bãi này cách rất xa con đường di chuyển truyền thống của mục trường, nằm ở vị trí phía bắc – một góc chết vắng vẻ, gần đàn sói, gần Trời, tiện cho linh hồn lên Trời. Hơn nữa, địa hình gồ ghề, rất thích hợp cho phương thức “thiên táng” bằng xe bò.

Hàng ngàn năm nay ở Ơlôn khi có người chết, người ta cởi bỏ quần áo người quá cố rồi dùng thảm cuộn lại, buột chặt, cũng có người để nguyên quần áo đang mặc rồi dựng đứng trên xe bò, buộc ngang hai đầu càng xe một thanh gỗ. Vào giờ Dần, hai bậc đàn anh của người chết mỗi người cầm một thanh gỗ rồi lên ngựa phi tới bãi thiên táng, cái xác rớt xuống chỗ nào thì chỗ ấy là địa điểm thiên táng, kết thúc cuộc đời gian truân của một thành viên bộ tộc trên lưng ngựa. Nếu thi thể cuộn trong tấm thảm, thì hai vi huynh trưởng xuống ngựa mở tấm thảm ra, đặt người chết trên bãi cỏ, tênh hênh như lọt lòng mẹ. Từ lúc này trở đi, người chết thuộc về sói, về Thần linh. Còn như người chết có về Trời được không, còn phải xem sinh thời người ấy thiện hay ác. Nói chung, chỉ sau ba ngày là biết. Nếu sau ba ngày, cái xác chỉ còn lại ít xương thì có nghĩa là người chết đã lên trời; nếu sau ba ngày người chết vẫn còn nguyên thì đúng là thảm họa. Nói vậy thôi, Ơlôn nhiều sói, Trần Trận nghe nói, chưa có người nào chết không được lên Trời.

Trần Trận có biết tục thiên táng của Tây Tạng, còn của Mông Cổ thì trước khi đến thảo nguyên Ơlôn cậu chưa nghe nói do sói đảm nhiệm, mà vẫn tưởng do chim kền kền. Do vậy cậu càng tò mò. Từ miệng ông già chở vật tư cho đội, cậu biết ang áng địa điểm thiên tán và đã bí mật đến đó hai lần, nhưng vì tuyết quá dày, cậu không xem được những gì muốn xem.

Cho đến một hôm mùa đông sắp kết thúc, cậu nhìn thấy những vệt bánh xe và những dấu chân người chân ngựa trên đường dẫn vào bãi thiên táng. Cậu trông thấy xác một người chết vì bệnh tật hình như vừa đưa đến. Vết chân người ngựa và bánh xe còn rất mới, chưa bị tuyết xóa. Người ấy nằm ngửa trên tuyết trắng, nét mặt thanh thản, lớp tuyết phủ trên người như một tấm khăn mỏng.

Trần Trận ngạc nhiên sững sờ. Tâm trạng thấp thỏm dọc đường dần được thay thế bằng một tình cảm chân thành thiêng liêng. Đâu phải người chết này “rơi vào cõi chết”, mà như lên Trời dự yến tiệc, rồi nhận một kiếp sống mới cho mình. Thêm một lần Trần Trận tin rằng tôtem sói của người Mông Cổ là có thực. Một con người đế phút cuối cùng của cuộc đời dùng hình thức lõa thể làm cống phẩm để đi đến tận cùng của sự giải thoát cho bản thân, thì không ai còn có thể hoài nghi vào đức tin của người Mông Cổ với Trời và thảo nguyên.

Trần Trận không dám dừng lại lâu ở nơi thiêng liêng này. Cậu chỉ sợ quấy quả linh hồn người quá cố, sợ bị coi là không tôn trọng tín ngưỡng thiêng liêng của dân tộc thảo nguyên, bèn cung kính lạy từ biệt người chết, dắt ngựa rút khỏi nơi thiên táng. Nhìn những vết xe ngoằn ngoèo trên đoạn đường cuối cùng, trước mắt cậu như hiện ra cỗ xe bò lắc lư. Cậu dùng chân đo đoạn đường, khoảng bốn mươi mét. Cả một cuộc đời thăng trầm rút gọn lại trong quãng đường có bấy nhiêu! Đời người sao mà ngăn ngủi, còn ông Trời thì vĩnh hằng! Từ Thành Cát Tư Hãn đến người dân thường cũng chỉ một câu: Trời ơi, ông Trời bất tử! Còn sói là chiếc thang cho linh hồn của dân thảo nguyên lên Trời.

Sau ba hôm không thấy gia đình người chết có hiện tượng bất thường, Trần Trận mới yên tâm. Vì rằng qua thời gian đó, gia đình người chết phải đến bãi thiên táng kiểm tra, có thể họ đã nhìn thấy dấu chân của cậu và ngựa, nhưng họ không trách cứ cậu. Nhưng nếu như linh hồn người chết không được lên Trời thì sự thể sẽ khác. Và vậy là sự hiếu kỳ của cậu bắt đầu vấp phải những điều cấm kỵ của thảo nguyên. Cậu càng phải chăm nom đàn cừu tốt hơn, gần gũi hơn với những người mà cậu cảm thấy lạ lùng, bí ẩn và rất đáng kính nể.

Mùa xuân năm nay đến rất sớm, trước một tháng. Sau vài cơn gió ấm, thảo nguyên đã phủ một màu vàng rạng rỡ. Cỏ thu bị tuyết phủ kín, giờ ló ra tua tủa, thậm chí đã nảy mầm trên những sườn núi ngoảnh về phía mặt trời. Tiếp thao là trời ấm nắng hanh. Đến với các đội đang chuẩn bị cho mùa sinh sản, chỗ nào cũng thấy mọi người bận rộn với công việc phòng cháy, chống hạn và bảo vệ cừu non.

Cao Kiện Trung đã chậm một bước. Một số hộ ngụ cư đến cùng đội xây dựng cơ bản đã chứng kiến cảnh tấp nập của đội sản xuất Caxưmai tại Trạm thu mua mùa đông vừa rồi. Họ bám dính cánh thợ săn dò hỏi về bãi săn, cánh thợ săn nói dê lấy hết rồi. Họ lại dùng kẹo Quan Đông dụ dỗ Bayan, thằng nhỏ chỉ cho họ một thung lũng chẳng có gì hết. Cuối cùng, những người Mông Cổ mà đa số thuộc vùng nông nghiệp này đã tìm ra điểm yếu chết người của dân Mông Cổ thảo nguyên: Rượu. Họ đem rượu mạnh nấy bằng cao lương đổ cho Tang Kiệt say bí tỉ, do đó biết chính xác địa điểm đông lạnh dê vàng. Thế là họ ra tay trước, ngay trước mũi bầy sói và Cao Kiện Trung. Khi những con dê vừa mới lộ ra, họ đã cắm lều kín xung quanh, vét sạch dê trong một ngày bất kể tốt xấu to nhỏ, và ngay đêm hôm đó chất lên xe tải hạng nặng chở lên Trạm thu mua của công xã Bayincaoti.

Cánh chăn ngựa của đội Hai mấy đêm liền nghe tiếng gào thét phẫn nộ của bầy sói đói phía sau núi. Họ hoảng hốt thật sự, ngày đêm không rời đàn ngựa nửa bước, khiến các cô bồ rải rác ở các túp lều Mông Cổ tha hồ mà than vãn trách móc.

Ít hôm sau, Ban Quản Lý chính thức thông báo về việc phục hồi hoạt động đào bắt sói con mỗi năm một đợt. Theo đề nghị của đại diện quân đội BaoThiện Quý, tiền thưởng nhiều hơn năm trước. Nghe nói giá thu mua da sói con đặc biết cao. Da sói con mềm mại, là nguyên liệu cao cấp may áo khoác nữ, giờ đây đang là mốt của các phu nhân hàng tỉnh. Nó cũng là cống phẩm cao giá trong giao dịch “đi cửa sau”.

Ông già Pilich không nói gì, liên tục rít tẩu. Trận Trận chỉ nghe một lần ông lẩm bẩm: Đàn sói nổi giận rồi!

Chú thích:

(1) Những cán bộ cũ sau khi bị đấu tố, được ra làm việc lại trong Cách mạng văn hoá (ND)

Chương 5

"Chuyện rằng, tổ tiên người Đột Quyết ở Sách quốc, phía bắc Hung Nô. Bộ lạc này người lớn thì gọi là Abangpu. Trong mười bảy người lớn, có một người tên Doanchiniixưtu do sói sinh ra. Các Bangpu đều đần độn, nên mất nước. Chỉ mỗi Nixưtu tư chất khác người, biết hú gió gọi mưa. Lấy hai vợ, con gái của thần mùa Hạ và thần mùa Đông, sinh liền bốn trai… Chuyện tuy lạ, nhưng đúng họ thuộc giống sói."

(Chu thư. Đột Quyết)

Mây đen dầy đặc từ chân trời phương bắc cuồn cuộn đổ về, hung hãn chiếm lĩnh trời xanh. Loáng cái, bóng mây nuốt chửng bóng núi, chụp bàn tay khổng lồ lên mục trường. Phía tây, mặt trời màu da cam chưa khuất hẳn. Đồng hành với gió bắc là tuyết dày càn quét vùng Ơlôn. Những bông tuyết bay ngang dưới ánh nắng chênh chếch trông như hàng tỉ con châu chấu đói giương đôi cánh màu vàng đua nhau xông tới mục trường phì nhiêu.

Ngạn ngữ Mông Cổ: Hoạ sói về cùng gió. Đàn sói Ơlôn mấy chục năm nay di chuyển như du kích hai bên biên giới, lợi dụng đợt rét muộn hi hữu vượt mốc giới, băng qua dải phòng cháy, tràn qua đường tuần tra biên phòng, tiến vào thảo nguyên Ơlôn cận vùng biên. Bên kia biên giới rét buốt, đất đai nghèo xác, sói đói không có cái ăn. Năm nay, vùng biên bên này, thực phẩm dự trữ của sói bị cướp sạch, bên kia càng khó khăn. Đàn sói khó mà bắt những con dê vàng chạy như bay như biến. Hầu hết sói đói tập kết trên đường biên. Vượt biên lần này, đàn sói mắt đỏ ngầu, háu ăn khủng khiếp, thủ đoạn tàn nhẫn, hoạt động liều lĩnh, mỗi con mang theo tâm trạng phục thù, sẵn sàng đổi mạng lấy cái ăn. Vậy mà Ơlôn đang là lúc đào bắt sói con, lơ là cảnh giác.

Những năm giữa và cuối thập kỷ 60, trình độ dự báo thời tiết cho vùng Ơlôn: báo mưa không thấy nước, báo nắng không thấy mặt trời. Trưởng bãi Ulichi bảo, khí tượng rặt một lũ nói bậy! Ngoài ông già Pilich và mấy bô lão khác tỏ ra lo lắng khi Ban Quản lý điều động quá nhiều lao động đi đào bắt sói con, những người khác không ai dự đoán được trận rét muộn khủng khiếp và tai hoạ do sói gây ra. Ngay cả sĩ quan và lính biên phòng là những người rất quan tâm đến dân du mục và công việc chăn nuôi cũng không có dự báo hoặc nhắc nhở. Trước kia mỗi khi phát hiện đàn sói vượt đường tuần tra, họ đều báo ngay cho mục trường và người dân. Vùng biên Ơlôn núi đồi thấp bé không vật cản che chắn, bạch mao phong bất thình lình tràn về nhanh như chớp, và đàn sói thiện chiến lợi dụng bão tuyết tổ chức những cuộc tấn công chớp nhoáng.

Tại bãi chăn tốt nhất ở tây bắc Ơlôn, có một đàn ngựa mới tập kết mấy hôm nay. Đó là những con ngựa thượng thặng do trung đoàn X thuộc sư X kỵ binh dân quân tuyển từ hơn chục đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn. Khoảng bảy tám mươi con ngựa đang đợi bản kết quả kiểm tra sức khoẻ, chỉ cần không có bệnh lở mồm là lập tức lên đường. Công việc chuẩn bị chiến tranh rất khẩn trương, trách nhiệm trên vai những mã quan (người chăn ngựa) rất nặng nề. Đại diện quân đội và Uỷ ban cách mạng mục trường đã chọn ra bốn mã quan tinh thần trách nhiệm cao, cảnh giác tốt, can đảm và kỹ thuật chăn nuôi giỏi, chia hai ca, luân phiên trực 24/24 giờ trong ngày. Batu - Đại đội trưởng dân quân của đội II, được cử làm Tổ trưởng. Đề phòng ngựa nhớ đàn bỏ về, Batu đã cho di chuyển các đàn ngựa lùi xa mấy chục dặm. Mấy hôm trước thời tiết thuận, ăn uống đầy đủ, lại được một bữa mầm cỏ ngon miệng, những con ngựa chiến không nhớ nhà, đàn ngựa yên ổn. Bốn chàng mã quan cũng làm hết sức mình, mấy ngày trôi qua bình yên…

Thoạt tiên, gió lạnh tạm ngừng, và bạch mao phong thảo nguyên cường độ trên cấp 10 quét ngang, nước hồ tràn lên bãi cỏ như lũ lụt, đàn gia súc phá rào bỏ chạy. Những căn lều giữa luồng gió vặn như chão, xoắn lại rồi đổ sập. Những cỗ xe bị giật mui tung lên trời. Tuyết dày đến nỗi người ngồi trên yên không nhìn thấy đầu và đuôi ngựa. Tuyết hòn bay mù trời, rào rào như đạn ghém bắn ra từ súng săn, kéo theo ngàn vạn sợi trắng như bạc.

Người già bảo, ngày xưa một pháp sư Mông Cổ có tên Xaman từng nói: Bạch mao phong là con yêu tóc trắng (bạch mao). Do đó có tên bạch mao phong. Nghe nói đến bạch mao phong, người và gia súc sợ mất vía. Người la, ngựa hí, chó sủa, cừu kêu, trộn tất cả những âm thanh ấy lại là tiếng rú điên cuồng ma quái của bạch mao phong!

Những thợ săn sói con đang chuẩn bị cho cuộc đào bắt ban đêm thì bị kẹt trong núi, về cũng dở, ở lại cũng dở. Người nào ra về thì giữa đường bị lạc. Những người ở nhà trông nom gia súc thì cùng với trẻ già lớn bé liều chết dồn đàn gia súc về. Trên thảo nguyên, thường chỉ một ngày hay một đêm là còn hay mất tiêu những gì tích cóp trong nhiều năm.

Mục tiêu công kích số một của đàn sói vượt biên là đàn ngựa béo. Hôm ấy, ông già Pilich tưởng đàn ngựa chiến đã được gửi đi đúng thời gian qui định. Khi bạch mao phong tràn về, ông đã mừng, nhưng sau mới biết, đàn ngựa phải lùi lại một hôm vì chưa có báo cáo kết quả kiểm tra sức khoẻ, mà người nhận báo cáo thì hôm ấy cùng đại diện quân đội Bao Thuận Quí lên núi đào bắt sói con. Sói con năm nay bắt được nhiều, không dưới mười mấy ổ, tổng cộng hơn một trăm con. Những con sói mẹ mất con gào thảm thiết, khiến đàn sói càng điên cuồng hung hãn.

Người già bảo: Đây là cơ hội ông Trời tạo ra cho sói chúa. Dứt khoát đó là con sói trắng trên thảo nguyên Ơlôn sau khi quan sát kỹ, đã chọn đúng mục tiêu trả thù.

Gió vừa nổi, Batu đã chui ra khỏi chiếc lều dã chiến. Ban ngày anh nghỉ vì đã trực liền mấy đêm, nhưng anh vẫn không sao chợp mắt được. Lớn lên giữa đàn ngựa, Batu đã nhiều phen chịu trận những gì bạch mao phong đã gây ra. Liên tiếp mấy ngày bình yên một cách đáng ngờ khiến thần kinh căng thẳng như sợi dây đàn, thoảng chút gíó là rung lên thành tiếng. Dân chăn ngựa đều nhớ nằm lòng câu châm ngôn bằng máu: Trên thảo nguyên Mông Cổ, phía sau bình yên không bình yên, đằng sau nguy hiểm vẫn còn nguy hiểm.

Batu vừa ra khỏi lều, liền ngửi thấy mùi bạch mao phong. Ngước nhìn hướng gió từ phương bắc tới, sắc mặt anh đang đỏ au bỗng xám ngoét, con ngươi màu hổ phách loé sáng. Anh lập tức trở vào lều đạp một phát cho anh bạn chăn Xaxưleng tỉnh dậy, rôi cầm lấy đèn pin, lên cò súng, lồng roi ngựa vào cổ tay, khoác áo da, dập lửa bếp, không quên đem theo hai áo khoác da cho hai người trực. Hai người khoác súng lên vai, cầm đèn pin dài hai thước, lên yên, nhằm phía đàn ngựa phóng đi.

Mặt trời vừa khuất sau dãy núi phía tây, thảo nguyên Ơlôn đã một màu xám xịt. Hai con ngựa vừa phi xuống dốc liền gặp bạch mao phong, người ngựa lập tức bị nuốt chửng, gíó cà rát mặt, mắt không mở được vì tuyết hòn, ngựa liêu xiêu không vững.

Hai con ngựa như ngửi thấy mùi gì đó, đầu lắc liên hồi, chỉ rình chạy tháo thân. Hai người vẫn sát bên nhau nhưng Batu giơ tay nhìn không thấy ngón, sốt ruột gào toáng lên vẫn không thấy Xaxưleng đáp lại. Bão tuyết gào rú, nhận chìm tất cả. Batu gò cương lau mồ hôi và tuyết trên trán, định thần lại, rồi đổi tay cầm roi, cầm chắc đèn pin, bật công tắc. Bình thường đèn của anh sáng như đèn pha, ngoài trăm mét nhìn rõ ngựa, giờ chỉ nhìn được hơn chục mét, tuyết lông chim bay dày đặc trong quầng sáng. Lát sau, cặp người ngựa trắng như tuyết quét đèn lại phía anh, ánh đèn nhợt nhạt thảm hại. Hai người khua đèn một vòng tròn, tìm cách cho hai con ngựa đang kinh hoảng xáp lại gần nhau.

Batu kéo Xaxưleng lại gần, lột bao che tai của cậu ta, nói như quát: Dừng ở đây! Cho ngựa rẽ hướng đông, tránh hồ lớn! Không thì chết hết!

Xaxưleng cũng hét vào mặt Batu: Ngựa tôi sợ, e có sói. Bốn người làm sao chống lại?

Batu cũng hét: Phải chống thôi, chết bỏ!

Nói rồi, hai người giơ cao đèn pin rọi theo hướng bắc và liên tục khua tròn, phát tín hiệu cho hai mã quan và đàn ngựa.

Một con ngựa bờm và lông màu xám lao vào trong quầng sáng đèn pin rồi dừng lại đột ngột bên cạnh Batu như gặp được cứu tinh. Con ngựa chưa hoàn hồn, thở phì phì, dưới cổ có vết cắn máu chảy đầy ức, miệng vết thương bốc hơi, máu rỏ giọt. Con ngựa của Xaxưleng hoảng sợ chồm hai chân trước rồi đầu cúi gằm, cổ vươn dài, nó bất chấp tất cả, phóng như điên theo chiều gió. Batu vội thúc ngựa bám sát Xaxưleng. Con ngựa xám cũng biến mất.

Loay hoay một lúc lâu, Batu mới tóm được cương con ngựa của Xaxưleng. Lúc này, đàn ngựa cũng đã chạy tới bên anh. Dưới ánh đèn pin loang loáng, những con ngựa mà anh nhìn thấy đều tỏ ra sợ hãi tột độ, hồn vía bay đâu mất, chẳng khác con ngựa xám lúc nãy. Đàn ngựa hí dài theo gió, vừa chạy vừa đá lung tung, hàng trăm cặp vó hất tuyết bay lên như sóng bạc đầu, trong tiếng gầm rú điên cuồng của bạch mao phong. Khi Batu và Xaxưleng rọi đèn xuống thấp, cả hai giật nảy người. Xaxưleng vội ghì chặt cổ ngựa để khỏi bị ngã. Tuy chỉ thoáng qua, nhưng với con mắt tinh tường của dân chăn ngựa, hai người đã nhìn thấy sói trong đàn ngựa. Những con ngựa ở vòng ngoài, gần như con nào cũng bị hai ba con sói đeo bám, những con sói trắng toát do bạch mao phong cài tuyết đầy người. Eo ngựa lớn hơn rất nhiều so với lúc thường, trắng lốp. Bầy sói như hung thần ác quỉ khiến cánh mã quan chết khiếp. Những con sói lúc thường thấy ánh đèn pin là bỏ chạy, lúc này chúng chẳng sợ gì cả, chúng đang nổi cơn điên vì căm thù.

Batu toát mồ hôi, chạm trán với bầy sói, anh cảm thấy như bị Trời trừng phạt. Tuy nhiên, là mục dân Ơlôn, ai mà chẳng chôn trong bụng sói, khi chết vẫn được sói xử lý gọn ghẽ để linh hồn được về với Trời. Nghìn năm qua là thế, nghìn năm nữa vẫn vậy. Nhưng người ta dù khoẻ mạnh hay đau yếu vẫn sợ sói, không muốn bị sói ăn thịt khi chưa hết tuổi trời.

Batu và Xaxưleng không nhìn thấy hai mã quan kia. Anh đoán hai người hoặc đã bị thương vì bạch mao phong, hoặc ngựa của họ khiếp đảm chạy bạt mạng. Hai người trực ban ngày, không súng, không đèn pin, không áo khoác dày. Batu đành phó mặc cho may rủi, bảo Xaxưleng: Kệ họ, cứu đàn ngựa đã!

Đàn ngựa vẫn chạy theo ánh đèn của Batu. Bảy tám mươi con ngựa này là tinh hoa của các đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn và là tâm huyết của mấy chục mã quan, toàn là ngựa thuần chủng, rất quí, giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng thế giới, sách gọi là ngựa Đột Quyết. Chúng có thân hình tuyệt đẹp, sức chịu đựng tốt, giỏi nhịn đói nhịn khát, chịu mưa chịu nắng, chạy nhanh và dai sức. Thường ngày, người cưỡi chúng là mã quan và những người đứng đầu cơ quan quản lý mục trường. Giờ phải điều cho sư đoàn kỵ binh dân quân để chuẩn bị cho cuộc chiến, mục trường rất khổ tâm mà không nói ra. Đàn ngựa này mà bị sói ăn thịt, hoặc chết đuối dưới đầm lầy, thì đám mã quan sẽ xé xác anh ra! Batu điên đầu khi nghĩ đến những mã phu ngày thường vốn không phục anh.

Thấy Xaxưleng còn chần chừ, Batu thúc ngựa vọt lên, gõ roi vào đầu anh ta, cho ngựa ép anh ta về phía đàn ngựa. Anh huơ đèn pin mấy vòng trên đầu làm hiệu, quát: Cậu mà bỏ chạy, tôi bắn chết! Xaxưleng la to: Tôi không sợ, nhưng ngựa tôi sợ! Xaxưleng cầm cương vụt liền mấy cái lên đầu con ngựa của cậu ta, nó mới chịu áp sát đàn ngựa. Hai người dùng ánh đèn pin chỉ huy đàn ngựa, vụt thẳng cánh những con không tuân lệnh và những con vẫn chạy theo chiều gió, cố lái đàn ngựa chạy chếch về hướng đông. Batu đoán hồ lớn ngày càng gần, chỉ khoảng hai chục dặm. Những con ngựa chiến này đều là ngựa thiến, cổ cao ức nở, không lấn bấn vợ con như những con ngựa khác nên di chuyển nhanh, với tốc độ này thì chỉ sau nửa giờ là cả đàn tới đầm lầy. Cái đầm này nguy hiểm ở chỗ chiều bắc nam hẹp, đông tây rộng, án ngữ ngay trên đường chạy. Nếu gió không đổi chiều thì khó thoát. Batu hình dung cái đầm như miệng con quái vật há hốc, đang chờ thần gió và thần sói dẫn đàn ngựa tới.

Bạch mao phong không đổi hướng, tiếp tục lồng lộn từ bắc xuống nam. Trong đêm tối, Batu có thể qua tiếng chân ngựa chạm đất mà đoán được địa hình cao thấp, chất đất mịn thô, để biết mình đang ở đâu và gió chiều nào. Giờ đây lòng như lửa đốt, anh cảm thấy những con sói mẹ mất con còn điên cuồng hơn sói chúa. Bất chấp đang bị đàn sói bao vây, bất chấp con ngựa anh cưỡi có thể bị cắn chết, bị té, quẳng anh xuống đất cho đàn sói xé xác, anh chỉ một ý nghĩ: Phải lái đàn ngựa rời hướng bắc nam, chạy vòng hồ lớn để tập kết chúng tại khu lều Mông Cổ rồi huy động đàn chó và mọi người ra đối phó với đàn sói.

Đàn ngựa chạy theo sánh sáng đền pin, hai mã quan bám sát, luôn miệng gào thét và quất roi tới tấp. Chúng hình như đã có con đầu đàn: Một con ngựa bạch cao lớn tách ra, vươn cổ hí dài, tỏ ý tự nguyện đảm nhiệm vai trò của người hướng đạo. Batu và Xaxưleng vội rọi đèn về phía con ngựa bạch. Có ngựa đầu đàn, đàn ngựa tỏ ra phấn khởi, tinh thần bầy đàn lập tức được khôi phục, thế trận truyền thống tự ngàn đời lập tức được tổ chức để đối phó với bầy sói. Con đầu đàn bỗng phát tiếng hí lệnh, đàn ngựa đang bị sói phá tan đội hình, lập tức co cụm về phía con đầu đàn, vai ken vai, bụng ken bụng đến mức gió thổi không lọt. Hàng trăm cặp vó đồng loạt nện mạnh xuống phía dưới. Lũ sói trở tay không kịp, mất lợi thế, đã có những con bị què chân, gãy xương sống, vỡ đầu chảy máu. Giờ thì tiếng rú tiếng kêu thảm thiết của sói át cả tiếng gầm gào của bạch mao phong. Batu nhẹ cả người. Anh thấy chí ít có bốn con sói bị chết hoặc bị thương. Anh nhớ nơi này, đợi khi gió tạnh trời quang, anh sẽ trở lại lột lấy da. Đàn ngựa sau khi làm cuộc đại sát giới, nhanh chóng chỉnh đốn đội hình, con yếu vòng trong, con khoẻ vòng ngoài, hình thành cụm phòng ngự với những cú đá hậu như trời giáng bởi những cặp vó đóng cá sắt.

Khoảng cách với hồ lớn không còn xa. Batu rất bằng lòng về đội hình chính qui của đàn ngựa vừa được tổ chức lại. Đó là đội hình có thể hành động theo chỉ huy, chỉ cần điều khiển được con đầu đàn là trong khoảng thời gian ngắn có thể lái đàn ngựa chạy về phía đông của hồ lớn. Nhưng Batu vẫn còn một mối lo: Đàn sói này không bình thường. Không nên đả thương những con sói khùng, vì càng bị đánh chúng càng dữ. Ai cũng biết sói thảo nguyên trả thù ghê gớm như thế nào. chắc chắn đàn sói nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của những con sói bị thương ban nãy, đoạn đường sắp qua sẽ đầy nguy hiểm. Batu nhìn lướt đàn ngựa, nhiều con đã bị thương. Đàn ngựa này toàn ngựa tốt, ngựa chiến, vừa đánh nhau với sói, dù bị thương sẽ vẫn chạy theo đàn, không chịu rớt lại để sói có dịp tấn công.

Nhưng đàn ngựa cũng có chỗ yếu chí mạng: Là ngựa thiến nên chúng thiếu tính dũng mãnh chủ động tấn công của con đực. Thảo nguyên Mông Cổ có hơn chục dòng ngựa lớn nhỏ, mỗi dòng có một con đầu đàn, vó bằng, bờm chấm đất, cao hơn những con khác một cái đầu, tướng mạo khôi ngô hùng vĩ. Đó là con đầu đàn, dìu dắt cả đàn và là sát thủ thực thụ. Gặp sói, dưới sự chỉ huy của con đầu đàn, đàn ngựa lập tức quây thành vòng tròn, ngựa cái và ngựa con bên trong, ngựa khoẻ bên ngoài. Con đầu đàn đứng riêng, tấn công trực diện kẻ thù. Nó lắc bờm, khịt mũi, hí vang, hai chân trước chồm lên, đứng bằng hai chân sau sừng sững như quả núi nhỏ trên đầu sói, rồi bổ cặp vó xuống đầu sói bằng cả sức nặng của cơ thể. Nếu sói bỏ chạy, ngựa đầu đàn đuổi theo, đầu cúi gằm, vừa cào vừa cắn. Những con đầu đàn to lớn còn biết ngoạm sói tung lên trời, quật xuống đất rồi giẫm chết. Trên thảo nguyên, sói dữ đến mấy cũng không phải là đối thủ của ngựa đầu đàn. Ngựa dầu đàn bảo vệ đàn ngựa không kể ngày đêm. Khi gặp sói đàn, gặp sấm sét, cháy đồng, ngựa đầu đàn tận tâm bảo vệ dòng họ, biết cách giảm thiểu thương vong, đưa bầy đàn đến nơi an toàn.

Lúc này Batu rất nhớ con ngựa đầu đàn của anh. Con ngựa bạch và đàn ngựa đều là ngựa thiến, khoẻ đấy, nhưng đã mất nam tính, chiến đấu không hăng. Batu nghĩ mà buồn. Mấy năm liền bộ đội chính qui không về tuyển ngựa chiến, mọi người đã quên khuấy sự tai hại của một đàn ngựa chiến mà không có con đầu đàn. Có người đã nghĩ tới, nhưng lại thấy không cần, vì chỉ vài hôm là đàn ngựa sẽ chuyển đi., mà đã chuyển đi thì chẳng còn chuyện gì liên quan tới mục trường. Tưởng không thể sinh chuyện, ai đè đó chính là điểm yếu cho sói lợi dụng. Batu càng nghĩ càng phục con sói chúa. Có thể nó phát hiện rất sớm đàn ngựa chiến không có con đầu đàn. Batu áp sát tận nơi mới vụt cho con đầu đàn một roi thật mạnh, bắt nó rẽ sang hướng đông, đồng thời xoay khẩu bán tự động ra trước ngực, mở chốt an toàn, nhưng nếu không thật cần thiết thì anh cũng không nổ súng. Đàn ngựa hãy còn là tân binh, nổ súng không những không doạ được sói, mà còn khiến ngựa vỡ đàn. Xaxưleng cũng làm mọi công việc chuẩn bị như Batu. Bạch mao phong ngày càng mạnh, hai người tay đã mỏi dừ, giơ không nổi chiếc thòng lọng dài thượt. Hồ lớn cũng ngày càng gần, bình thường đã có thể ngửi thấy mùi muối. Batu cáu tiết bèn lấy độc trị độc. Anh vụt con ngựa đầu đàn một roi thật mạnh, tiếp theo là tiếng huýt sáo gọi đàn đi uống nước. Con đầu đàn và đàn ngựa rất hiểu ý chủ, hướng nam chính là hồ lớn mà cứ hai ngày một lần chúng đến đó uống nước. Mùa xuân năm nay hạn liên tiếp, nước đã rút xuống giữa hồ, xung quanh là bãi lầy, chỉ còn đôi chỗ đất cứng vì là lối đi của gia súc nên tương đối an toàn, những nơi khác đều nguy hiểm. Từ đầu xuân đến giờ rất nhiều gia súc đã bị sa lầy mà chết. Đàn ngựa đi uống nước, dù là theo chân mã quan, chúng vẫn hết sức dè dặt. Ngay dù ban ngày, không một con ngựa nào dám chạy ào ra đầm lầy.

Tiếng huýt sáo lệnh của Batu quả nhiên linh nghiệm. Đàn ngựa vốn quen thuộc bãi chăn, nhận ra ngay mối nguy đang chờ đợi ở phía nam. Chúng hí vang, cả đàn chỉ dừng lại trong một thoáng rồi tất cả chuyển hướng, liều chết rẽ sang hướng đông nam, mặc cho bão tuyết tạt sườn với sức mạnh khủng khiếp. Phía nam là đầm lầy, phía bắc ngược gió, chỉ còn mỗi phía đông nam là con đường sống, Lũ ngựa mở to cặp mắt thất thần, cắm đầu chạy, thở hồng hộc, không hí lấy một tiếng. Đàn ngựa chạy đua với thần chết trong một tâm trạng kinh hoàng.

Đàn ngựa vừa đổi hướng, tình hình đã đổi khác. Khi chuyển sang hướng đông nam, đội hình ngựa bị hở sườn cho sói công kích. Không còn đội hình ken dày, đá hậu là môn võ sở trường không còn phát huy tác dụng. Gió tạt sườn làm chậm tốc độ - vũ khí chống lại sói của đàn ngựa. Nhưng gió tạt sườn lại giúp sói, như hổ mọc thêm cánh. Thông thường, tốc độ của sói dù xuôi gió hay ngược gió đều nhanh hơn tốc độ của ngựa. Thuận gió, sói chạy nhanh, nhưng ngựa cũng không chậm. Nhưng sói không dám nhảy lên lưng ngựa từ phía sau, vì gặp phải con ngựa tinh khôn tăng tốc đột ngột, sói sẽ rơi vào chân sau của ngựa, không chết cũng bị thương. Muốn đạt kết quả, sói chỉ có thể nhảy tạt ngang, nhưng nếu tạt ngang thì tốc độ của sói bị ảnh hưởng, vồ trúng cũng hoá trượt, giỏi lắm cũng chỉ cào rách da, tỉ lệ cắn chết không đáng kể. Lúc đàn ngựa đổi hướng, tốc độ chựng lại, đã tạo cho sói một cơ hội vàng, sói nhanh vồ ngựa chậm, sói không cần tạt ngang mà chỉ cần bổ nhào từ trên không xuống lưng ngựa, hàm răng rắn như thép bập một phát vào chỗ chí mạng rồi nhảy trái ra. Ngựa dùng cách lăn đất để rũ sói trên người, nếu là sói độc, một chọi một còn khả dĩ, nếu là sói đàn thi khi ngựa lăn đất, đàn sói bu lại xé tan xác.

Đàn ngựa hí thảm thiết, từng con bị thương một bên eo hoặc một bên ức, máu me vung vãi, thịt da tơi tả, cuộc tàn sát đẫm máu khiến đàn sói càng hung hăng lạ thường. Chúng không kịp ăn, mà chỉ điên cuồng cắn xé. Ngựa bị thương ngày càng nhiều, còn sói thì liên tục tấn công, đợt này tiếp đợt khác. Sói chúa và sói đầu đàn vượt lên trước, chồm lên mình ngựa cắn một miếng ngập răng rồi hai chân sau làm điểm tựa, hai chân trước làm điểm tì, mình cong như cánh cung, dùng sức bật khủng khiếp bứt miếng thịt trên mình ngựa. Con sói nhả miếng thịt còn cả lông ra, lộn ba vòng, rồi nhảy lên, cắn tiếp. Đàn sói theo sau, tranh nhau bắt chước sói chúa và con sói đầu đàn, phát huy đến tận cùng bản năng săn mồi trong huyết quản.

Đàn ngựa thương vong nhiều, máu me vung vãi, tuyết lạnh lại phủ lên, xoá sạch dấu vết. Cảnh tàn khốc tái diễn trên thảo nguyên tàn khốc. Đàn sói ngốn ngấu biết bao sinh linh của thảo nguyên, đời này sang đời khác lưu lại dấu ấn bằng máu.

Dưới ánh đèn pin loang loáng, Batu và Xaxưleng thêm một lần mục kích cảnh tàn sát trên thảo nguyên, nhưng lần này thì lại càng không chịu đựng nổi, vì đây là số ngựa được tuyển mộ cho quân đội. Chúng là những con ngựa chiến nổi tiếng làm vẻ vang cho thảo nguyên Ơlôn, đã bao lần thoát hiểm từ miệng sói, những đứa con cưng được mã quan trong nhiều năm ra công chăm chút. Giương mắt mà nhìn lũ sói cắn xé đàn ngựa, Batu và Xaxưleng khóc không ra tiếng, lửa giận bừng bừng nhưng phải cố nén để đủ tĩnh trí bảo về cho số còn lại. Batu mỗi lúc mỗi lo, bằng vào kinh nghiệm bản thân, anh thấy đàn sói này không bình thường, kẻ cầm đầu của chúng rất mưu mẹo, tính toán, thông thạo vùng Ơlôn. Đó là con sói trắng. Đàn sói này, những con sói đực thì căm thù vì bị cướp mất miếng ăn, những con sói cái thì điên dại vì mất con. Nhưng con sói chúa thì không điên. Nhìn đàn sói ép đàn ngựa chạy về hướng nam, có thể đoán sói chúa định giở trò gì? Nó định dồn đàn ngựa xuống đầm lấy! Đây là chiêu thức quen dùng của sói chúa trên thảo nguyên. Batu càng nghĩ càng hãi. Trước đây anh có lần chứng kiến sói chúa dồn dê vàng xuống đầm lầy, cũng từng thấy sói dồn bò, ngựa xuống đầm lầy, nhưng số lượng không nhiều. Còn như dồn cả một đàn ngựa thì anh chỉ được nghe người già kể lại. Chẳng lẽ đàn sói hôm nay cũng làm thế? Chẳng lẽ chúng ăn gỏi cả một đàn ngựa? Batu không dám nghĩ tiếp.

Batu huơ đèn gọi Xaxưleng. Hai người liều mạng chạy vòng từ tây sang đông, trực tiếp cản đàn sói, dùng thòng lọng, đèn pin để doạ sói. Sói vốn sợ thòng lọng, sợ ánh đèn chói mắt. Hai người hai ngựa tả xung hữu đột dưới ánh đèn, tạm thời bảo vệ được mạn sườn phía đông của đàn ngựa. Đàn ngựa từ trạng thái kinh hoảng, dần trấn tĩnh lại, nhanh nhẹn điều chỉnh bước chân, tranh thủ chạy về phía đông của đầm lầy. Chúng biết rằng, chỉ cần vòng qua đầm lầy từ phía đông, thuận gió chạy về khu lều nuôi cừu mới đẻ, nơi có rất nhiều căn lều, có nhiều người quen, có nhiều tiếng hò, nhiều ánh sáng chói mắt, lại có những người bạn thân - đàn chó săn. Đàn chó trông thấy sói là choảng liền, cùng với những chủ chó cứu đàn ngựa.

Nhưng sói là thần chiến tranh kiên trì tìm kiếm cơ hội và biết chờ đợi cơ hội trên thảo nguyên. Mỗi khi chộp được một cơ hội, sói quyết không buông, chưa vắt kiệt sức chưa bỏ cuộc. Đang nổi khùng mà có cơ hội như thế này, sói lập tức ăn sống nuốt tươi, không cho con ngựa nào chạy thoát. Đàn ngựa đã chạy đến bãi cỏ ven đầm, vó ngựa cày tuyết trên mặt và cả đất phèn phía dưới, mùi cay xộc lên mắt lên mũi người và ngựa, họ hiểu rằng, đang trên bờ vực thẳm. Xung quanh một màu đen kịt, không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được mùi vị của đầm lầy. Người và ngựa bất chấp mắt mũi cay xè tiếp tục chạy. Khi nào không thấy mùi cay bốc lên từ vó ngựa, có nghĩa là đã tới con dốc thoai thoải phía đông đầm lầy. Khi ấy đàn ngựa sẽ tự động chuyển hướng, men theo bờ phía đông, xuôi gió chạy về nam.

Người, ngựa, sói cùng chạy. Sói tạm ngừng tấn công, nhưng Batu vẫn căng thẳng tới mức bàn tay cầm súng ướt đẫm mồ hôi. Kinh nghiệm mười máy năm chăn ngựa đã mách anh, đàn sói sắp sửa phát động cuộc tổng công kích lần cuối, nếu không, sẽ chẳng còn dịp nào khác. Đàn sói quyết không bỏ lỡ một dịp trả thù. Chịu đựng hơi phèn đỏ mặt mũi, chúng chạy mò cùng ngựa một đoạn đường. Chỉ cần đàn ngựa chạy lên dốc là Batu nổ súng, vừa giục ngựa chay nhanh vào đường rẽ, vựa giết sói doạ sói, vừa báo động cho mọi người đến cứu. Batu cố kìm cho tay bớt run, nhằm chỗ sói đông nhất lẩy cò. Xaxưleng cũng làm như anh.

Batu chưa kịp trở tay, đàn ngựa bỗng hí vang, kinh hoảng tột độ. Con ngựa anh cưỡi hình như bị vướng chân. Anh dụi mắt soi đèn lên phía trước. Dưới ánh đèn, mấy con sói gộc chụm vào nhau chạy tới trước ngựa anh. Chúng không sợ ngựa xéo để cản mũi anh. Batu ngoảnh lại nhìn, Xaxưleng cũng đang bị sói chặn hậu. Lũ sói bắt đầu tấn công con ngựa của Xaxưleng. Batu hươ đèn ra hiệu cho Xaxưleng chạy tới bên anh, nhưng con ngựa của cậu ta không nhích nổi một bước. Những con sói luân phiên xốc tới, con ngựa của Xaxưleng mình đầy những vết cào cấu, áo khoác của cậu cũng bị đóp mất vạt dưới. Xaxưleng vứt bỏ thòng lọng giờ đã trở thành vô dụng, dùng đèn pin làm vũ khí vụt ngang vụt dọc, đèn bẹp gí, đầu sói toé khói vẫn không chặn được chiến thuật luân xa của bầy sói. Một con ngoạm đứt miếng thịt mông con ngựa Xaxưleng đang cưỡi. Con ngựa bất chấp mối hiểm nguy sẽ gây ra cho chủ, cố hí lên một tiếng thảm thiết rồi cắn chặt hàm thiết, chạy tháo thân về hướng tây nam. Xaxưleng không cản nổi con ngựa chưa lâm trận đã bỏ chạy. Lũ sói thấy đã tống khứ được một đối tượng kỳ đà cản mũi, liền quay lại tấn công đàn ngựa.

Lúc này chỉ còn lại Batu và đàn ngựa. Nhóm sói gộc lập tức nhằm vào anh và con ngựa ô của anh. Con ngựa thở phì phì, mắt mở to, giẫm đạp, đá hậu… liều chết chống cự. Batu lâm vào tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh biết có chạy cũng không thoát, chỉ còn cách chống lại. Quẳng cây thòng lọng, anh nhổm người trên cọc yên, rút cây gậy thép giắt dưới đệm, lông dây da ở đầu gậy vào cổ tay, thay hình đổi dạng từ người chăn ngựa thành dũng sĩ Mông Cổ, quyết một trận sống mái với sói. Cây gậy thép dài như thanh đao, là vật báu gia truyền của tổ tiên, một vũ khí dùng để đối phó với sói, do ông Pilich truyền lại cho anh. Thân gậy và chỗ tay cầm to bằng nhau, phần chót nẹp toàn sợi thép dẻo, các kẽ có nhiều vết ố. Đó là máu sói. Lũ sói luân phiên vồ ngựa từ hai bên, do đó anh ở vị trí dễ đánh trúng nhất, vấn đề quan trọng là phải can đảm và độ chính xác đến đâu.

Batu ý đã quyết, anh bặm môi, khẽ chuyển dịch ánh đèn sang bên phải, rồi giơ cây gậy cao quá đầu, nhằm đúng con sói lúc nó đang chững lại, anh giáng một gậy vào răng, bộ phận rắn nhất nhưng cũng yếu nhất, chí mạng nhất của con sói. Con sói nhe nanh múa vuốt nhảy lên đón trúng cây gậy từ trên quật xuống, gãy liền bốn chiếc răng cửa. Nó đã bị Batu giáng cho một đòn choáng váng và về tổn thất thì không gì có thể bù đắp.

Con sói ngã bổ chửng, há cái miệng đầy máu mà gào thảm thiết, giá như nó chết còn đỡ khổ hơn. Trên thảo nguyên mông cổ, hàm răng chính là sinh mạng của sói. Vũ khí lợi hại nhất của sói là bốn chiếc răng cửa của hàm trên hàm dưới, không còn răng thì tất cả những phẩm chất ưu việt và không ưu việt như dũng cảm, kiên cường, tinh khôn, ranh mãnh, tàn bạo, tham lam, tham vọng, dã tâm, chí lớn, sự kiên nhẫn, tính linh hoạt, tính cảnh giác, sức mạnh, dẻo dai đều bằng số không. Trong thế giới của sói, nếu chột một mắt, què một chân, mất hai tai vẫn có thể tồn tại. Nhưng nếu khuyết răng thì về cơ bản đã bị tước đoạt quyền sinh sát - cái quyền đưa nó lên vị trí chúa tể trên thảo nguyên, đẩy sói vào tình cảnh coi miếng ăn bằng trời chứ không phải quyền sinh sát bằng trời. Sói không còn răng coi như sói không có trời, không còn cái thú lớn nhất của loài sói là săn bắt gia súc lớn, không còn đủ sức phòng vệ cuộc tấn công của chó săn và tranh cướp của đồng loại, không còn khả năng xâu xé, ngoạm những miếng to, uống từng ngụm lớn máu tươi con mồi; không còn khả năng bổ sung kịp thời năng lượng cho mình trên thảo nguyên khốc liệt. Sói sẽ trắng tay, mất sạch nét kiêu hùng và chí lớn, mất sạch địa vị trong bầy sói và sự kính nể của đồng loại, nó chỉ có thể sống một cuộc sống tạm bợ, đắp đổi qua ngày. Cuộc sống có miệng mà không có ăn, giương mắt nhìn đồng loại tàn sát và yến ẩm, thu vào mắt tất cả những gì mà nó không muốn nhìn. Sau đó nó chỉ còn một con đường: cái chết. Chết gầy, chết cóng, chết vì tức giận, chết ấm ức.

Nhìn đàn ngựa bị hạ sát hết con này đến con khác, Batu những muốn dùng phương thức cực độc, cho chúng nếm mùi tàn nhẫn của con người thảo nguyên. Anh nhân lúc chúng chưa kịp có phản ứng, lại nhắm một con quật mạnh cây gậy, nhưng lần này không trúng răng mà đập trúng mũi con sói. Lá mía nát bét, con sói ngã lăn, co rúm như một quả cầu bông. Tuyệt kỹ giết sói của Batu, tiếng rú của hai con sói lớn, khiến lũ sói bâu quanh anh sững lại vì kinh hãi. Chúng không dám chồm lên, nhưng vẫn dám dàn hàng ngang trước đầu ngựa, ngăn anh tiếp cận đàn ngựa.

Batu đánh lui đợt tấn công của lũ sói nhằm vào anh. Nhìn ra anh thấy những con sói lớn đều tập trung phía đông đàn ngựa. Chúng cảm thấy thì giờ gấp gáp, đồng thời cũng thấy đồng bọn phía sau đang núng thế. Cả đàn cất tiếng hú như tiếng gió lướt trên dây điện, đậm mùi chết chóc và kích động. Dưới sự chỉ huy của sói chúa, đàn sói điên khùng đánh canh bạc dốc túi. Chúng sử dụng cách đánh tàn bạo nhất, đẫm máu nhất, không bút mực nào có thể diễn tả là tấn công tự sát, đồng loạt công kích đàn ngựa. Từng con từng con, nhất là những sói cái mất con chồm lên nhằm thóp bụng ngựa là chỗ da mỏng nhất mà đớp, bất kể cái giá phải trả cho nửa thân sau treo lủng lẳng dưới mình ngựa, dùng sức nặng nửa dưới cơ thể xé toạc mình ngựa. Đó là một tư thế nguy hiểm cho cả sói lẫn ngựa. Với sói, treo dưới bụng ngựa cầm bằng treo cổ dưới cây thập giá, ngựa chạy, nửa mình sói rơi vào nửa thân sau của ngựa, con ngựa muốn thoát thân cứ thế mà đá hậu như điên, trúng một cú là tan xương nát thịt. Chỉ những con sói lớn, răng sắc mới không cần mượn sức. Răng sắc, cơ thể nặng, chúng cắn rách bụng ngựa rồi nhảy xuống để bảo toàn mạng sống. Tuyệt chiêu này rất nguy hiểm cho ngựa, không rũ được sói thì ngựa rớt đàn vì đeo nặng rồi chết vì bị sói bổ vây; nếu đá trúng con sói thì hoá ra giúp sói giật mạnh vết cắn, rách bụng tự dẫn đến tử vong.

Đàn ngựa bị giết và đàn sói tự sát đều trong trạng thái tuyệt vọng, chúng run như giẽ.

Những con sói bị thương hoặc bị đá văng ra từ chân ngựa, hầu hết là sói cái. Chúng nhẹ hơn sói đực. Nếu chỉ trông vào sức nặng cơ thể thì khó mà xé rách bụng ngựa, chỉ còn cách liều mạng mượn sức ngựa. Những con sói cái đúng là liều mạng chỉ nghĩ đến trả thù, coi cái chết như không, can đảm đến thế là cùng. Chúng sẵn sàng tan xương nát thịt, chết cùng đàn ngựa.

Một con sói đói bị đá văng khỏi mình ngựa, bụng rách toác, gào thảm thiết. Vậy mà nó còn nhổm dậy lết bằng hai chân trước tới bên con ngựa ngã xuống nhưng chưa chết, ngoạm luôn một miếng. Nó không bỏ qua cơ hội cuối cùng. Chỉ cần còn miệng, còn răng thì dù không còn cái bụng con sói vẫn ăn, miếng thịt ngựa trôi qua họng rồi truồi ra ngoài, con sói không còn bụng làm cữ là con sói tham ăn nhất, ăn nhiều nhất, và chắc chắn nó là con sói ăn nhiều thịt ngựa nhất trong một bữa ăn tàn bạo cuối cùng của cuộc đời. Những con ngựa bị sói xé rách bụng vốn no căng, dạ dày chứa toàn cỏ non năm nay và cỏ thu năm ngoái, thuỷ phần đầy đủ nên rất nặng, một khi bụng rách, dạ dày và ruột lập tức văng ra ngoài, lòng thòng trên tuyết. Hai chân sau của ngựa vẫn chạy theo quán tính giẫm rách dạ dày, cuốn ruột vào chân, chỉ nháy mắt dạ dày vỡ toạc, thức ăn tung toé, ruột gan nát bét. Vậy mà con ngựa sợ đến mất trí vẫn lồng lên, cuốn vào chân sau tất cả nội tạng: dạ dày và ruột, cuối cùng đến tim phổi, khí quản đều bị lôi hết ra. Con ngựa chết vì chính nó giẫm lên gan ruột của nó, có thể tự giẫm phải mật, chết vì vỡ mật; có thể tự dẫm phải tim, chết vì vỡ tim; có thể tự dẫm bẹp phổi, chết vì nghẹt thở. Tự sát của sói vô cùng đau đớn và tàn khốc, do vậy sói không cho đối thủ được chết thanh thản, bắt đối thủ nếm trải nỗi kinh hoàng của tự sát Ngựa bị sói giết, nhưng một nửa cái chết của ngựa là tự sát. Cái chết của ngựa càng đau đớn càng oan khuất càng thê thảm.

Cuộc tấn công tự sát cuối cùng của đàn sói, đập tan sự chống trả có tổ chức của đàn ngựa, thảo nguyên trở thành chiến trường, những con ngựa tự dẫm lên gan ruột đang giẫy chết, khoang bụng khoang ngực vẫn nóng hôi hổi, chỉ một thoáng đã lạnh ngắt vì tuyết lọt vào. Những con khác lần lượt ngã xuống, không ngừng co giật, máu phun có vòi, nhuốm đỏ những bông tuyết bay qua. Hàng triệu viên tuyết hòn nhuốm đỏ đuổi theo những con ngựa kinh hoàng thất thố mà bỏ chạy. Bão tuyết càng mạnh lên, tiếp tục rượt theo đàn ngựa đến hơi thở cuối cùng.

Batu đứng như trời trồng trước cảnh báo thù tự sát của bầy sói, chân tay run bắn, mồ hôi trên người cũng đã đóng băng. Anh biết đại sự đã hỏng, không thể cứu vãn, nhưng anh vẫn muốn cố giữ lại vài con đầu đàn, bèn gò cương cho ngựa lấy đà rồi thúc ngựa bằng gót ủng, nhả cương cho con ngựa ô vọt qua đầu lũ sói chặn đường, lướt tới con ngựa đầu đàn. Nhưng đàn ngựa đã bị sói quần cho tơi tả, binh bại như núi lở, toàn bộ số ngựa còn lại chạy xuôi gió tháo thân, nhanh như tên bắn, quên phắt phía nam là đầm lầy.

Con dốc xuôi về phía đầm lầy, thành ra đàn ngựa tăng tốc tự nhiên, bạch mao phong càng mạnh, đẩy sau lưng với sức mạnh khủng khiếp, đàn ngựa như vừa bay vừa chạy, ào ào núi lở đá lăn, lao tuột xuống đầm lầy. Tức thì băng mỏng vỡ vụn, bùn lầy tung toé, đàn ngựa đã sa xuống đầm. Chúng tuyệt vọng hí vang, giãy giụa điên cuồng mong thoát hiểm. Ngựa khiếp đảm trước hành động phục thù mang tính khủng bố của bầy sói, do dự một lát, rồi ra sức trườn vào nơi sâu hơn, thà chết đuối còn hơn rơi vào miệng sói, không cho kẻ thù truyền kiếp vớ bở. Những con ngựa đã bị con người diệt mất nam tính này khi cận kề cái chết đã vùng lên phản kháng lần cuối, lấy tự sát tập thể đối phó với tấn công tự sát của bầy sói. Chúng là những sinh mệnh mạnh mẽ nhất trên thảo nguyên.

Nhưng thảo nguyên tàn nhẫn coi khinh và không hề thương xót kẻ yếu. Khí ôn về đêm đã mau chóng kết thành một lớp băng mỏng trên mặt đầm, ven đầm tuy đông cứng, nhưng bên trong đầm vẫn lút một phần chiều cao của ngựa. Khi đàn ngựa lao xuống đã đụng lớp bùn đặc quánh so với lúc thường, bão tuyết và giá lạnh càng làm cho bùn đặc như keo níu chân đàn ngựa. Đàn ngựa ra sức trườn, miết, gồng mình lên mà bò, nhưng sau mỗi cử động, gió lại lùa tuyết vào khe hở giữa thân ngựa và đất bùn nhiều hơn, cuối cùng đàn ngựa kiệt sức, không cử động gì nữa. Con ngựa đầu tiên xông vào vẫn hở đầu, hở cổ, hở lưng, không lún sâu thêm. Những con phía sau thì mới lút bốn chân, mình vẫn trên mặt bùn. Lúc này đàn ngựa y hệt những tử tù trên pháp trường, băng tuyết trên mình như trói kiểu ngũ hoa, muốn chết mà không chết cho, hí thảm thiết, hơi phả ra như sương bám trên mặt lông. Đàn ngựa hiểu giờ đây không ai cứu nổi chúng, không ai cản được cuộc tàn sát tập thể đối với chúng.

Batu điều khiển con ngựa ô thận trọng tiến vào ven đầm. Chân vừa chạm bùn, con ngựa khịt khịt mũi, cúi thấp nhìn mặt đầm băng tuyết, không dám bước tiếp. Batu rọi đèn vào bên trong, trong tíc tắc tuyết ngừng rơi, anh nhìn thấy bóng dáng đàn ngựa. Vài con cố lúc lắc cái đầu kêu cứu về phía chủ. Batu thúc ngựa tiến lên, con ngựa dụt dè bước lên năm sáu bước rồi hoảng hốt nhảy giật lùi cho đến khi gặp đất cứng mới dừng lại. Batu vụt con ngựa một roi vào mông, nó vẫn ỳ ra không chịu tiến. Anh định bỏ ngựa, tiếp cận đàn ngựa rồi bảo vệ chúng bằng súng. Nhưng nếu không cưỡi ngựa mà gặp sói thì mất lợi thế từ trên đánh xuống, đàn sói sẽ không sợ anh, cả người lẫn ngựa sẽ bị xé xác. Với lại, anh chỉ có mười viên đạn, bản lĩnh bằng trời thì cũng chỉ mỗi phát một con, không thể bắn chết hết. Mà dù anh có đuổi được đàn sói đi, thì chỉ qua nửa đêm bạch mao phong càng lạnh, sẽ đóng băng toàn bộ đàn ngựa dưới đầm lầy. Còn nếu như anh chạy về đại đội bộ cầu cứu thì đang lúc bão to như thế này, nhà nhà đang dốc sức bảo vệ đàn cừu, đại đội không thể điều lao động và xe đi cứu. Batu băng bám trên mặt, anh ngoảnh về phía đông, khấn: Lạy trời, lạy ông trời trường sinh bất tử! Hãy cho con trí tuệ, hãy cho con sức khoẻ như thần, hãy giúp con cứu lấy đàn sói! Nhưng ông Trời phồng mang mà thổi cho bạch mao phong át đi lời thỉnh cầu của anh.

Batu dùng bao tay bằng da cừu non lau nước mắt, lồng dây gậy vào cổ tay, sau đó anh gỡ quai, cầm súng trong tay cùng đèn pin, đứng đợi đàn sói. Lúc này, trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: phải giết thêm mấy con nữa!

Sau đó một lúc Batu rét đến nỗi không thể ngồi vững trên yên. Bất chợt đàn sói lướt bên anh mà xuống đầm như một làn khói đen, chúng dừng lại ở rìa phía đông, làm tung lên một đám tuyết trắng. Một con sói nhỏ dáng thanh mảnh tách ra, thận trọng bò về phía đàn ngựa, thăm dò độ cứng của đất dưới chân. Batu thấy con sói nhỏ, không bắn. Con sói bò một quãng ngắn rồi chạy gằn về phía đàn ngựa, nó chưa đến nơi thì một cơn lốc hình thành từ mép đầm di chuyển về phía nó, đất trời nhập làm một, trắng xoá, cảnh tượng như bộ tộc bán khai tóc tai bù xù nhảy múa quanh đống lửa, người và gia súc bị làm vật hiến tế.

Batu không mở được mắt vì tuyết hòn. Anh cảm thấy rất lạnh, run cầm cập. Con ngựa ô khứu giác cực nhậy của anh đã bị nhiễm lạnh, run lẩy bẩy, cất tiếng hí đứt quãng. Đêm đen nặng nề, tuyết đầy trời, lại một lần nữa xoá sạch dấu vết cuộc thảm sát trên thảo nguyên.

Batu lạnh cứng người, anh lóng ngóng tắt đèn pin để bản thân anh chìm hẳn trong bóng tối, rối chĩa súng rất thấp về phía đầm lầy, nhưng sau đó đột nhiên anh nâng đầu nòng cao hơn nửa mét, lẩy ba phát: đoàng, đoàng, đoàng!

Chương 6

Vũ khí của Đột Quyết có cung tên, minh đích tiên bắn đi phát ra tiếng kêu gặp thương đao kiếm. Chốp cán có gắn đầu sói bằng vàng. Lính thị vệ gọi là Phụ Ly, tiếng Đột Quyết nghĩa là sói. Do sói sinh ra nên không quên gốc.

"Chu Thư. Đột Quyết"

Batu được Saxuleng tìm thấy trong một cái chuồng cừu cũ ở phía nam đầm lầy sau khi bão về một đêm và sáng hôm sau. Khi ấy anh đã bị thương đi không nổi, sắp chết vì lạnh. Saxuleng vực Batu lên con ngựa bị thương của cậu, đưa Batu về nhà. Để tổ điều tra nắm được đầu đuôi sự việc, Batu gượng đau cùng đến hiện trường. Hai mã quan kia tuy thương tích đầy mình, vẫn bị tạm giam để điều tra.

Trần Trận đi sau ông Pilich, cuối đoàn. Cậu hỏi nhỏ: Bố, trên sẽ xử lý thế nào về anh Batu?

Ông già dùng bao tay gạt sương trên bộ râu dê lưa thưa, cặp mắt đồng tử màu hổ phách ẩn chứa một tình cảm phức tạp. Ông không ngoảnh lại, mắt vẫn nhìn ra dãy núi xa xa, nói: Thanh niên trí thức các cậu thấy cần kỷ luật nó hay sao? - Quay lại, ông bổ sung một câu - ban quản lý mục trường và đại diện quân đội rất coi trọng ý kiến của các cậu. Mời các cậu đi cùng là để các cậu cho ý kiến.

Trần Trận nói: Batu là một hảo hán, anh ấy vì đàn ngựa mà suýt mất mạng, tiếc rằng anh không gặp may. Con thấy cứu được đàn ngựa hay không thì anh Batu vẫn là anh hùng thảo nguyên. Con ở với bố một năm, Batu là anh cả của con. Con hiểu thái độ của Bao Thuận Quý, ý kiến của con chẳng có ý nghĩa gì, sẽ không được coi trọng. Với lại các thanh niên trí thức cũng không thống nhất ý kiến. Con nghĩ, bố là đại biểu mục dân nghèo, lại là Ủy Viên Ủy ban cách mạng, mọi người đều nghe bố, bố nói thế nào, chúng con sẽ nói như thế.

- Những thanh niên trí thức khác nói gì? - Ông già hỏi.

- Các thanh niên trí thức đội con đều nhận xét tốt về anh Batu. Đợt bão tuyết sói này khủng khiếp quá, ai rơi vào hoàn cảnh ấy cũng thế thôi. Không thể kỷ luật anh Batu! Vậy mà có người bảo, có kẻ lợi dụng thiên tai để phá hoại, chống quân đội, chống cách mạng, nhất định phải điều tra thành phần xuất thân bốn mã quan!

Sắc mặt ông già càng u ám, ông không hỏi nữa.

Đoàn người vòng qua phía đông đầm lấy tới địa điểm Batu nổ súng lần cuối. Trần Trận cố trấn tĩnh, cậu chuẩn bị tinh thần mục kích cảnh tàn sát đẫm máu.

Vậy mà không trông thấy giọt máu nào. Tuyết dày hơn thước đã phủ kín tất cả những gì đêm trước đã diễn ra, chí ít là đầu những con ngựa mà cũng không thấy. Mặt đầm lổn nhổn những mô tuyết, giữa các mô là tuyết dày, sau mỗi mô là một đuôi tuyết dài do gió tạo nên, giấu đi những xác ngựa lẽ ra rất nổi bật. Mọi người lặng nhìn, không ai xuống ngựa, không người nào muốn vén tấm chăn tuyết, chỉ đứng đó tưởng tượng sự việc đã diễn ra.

Tiếc quá - Ông Pilich mở miệng đầu tiên. Ông giơ roi chỉ bờ đầm phía đông - Các vị xem, chỉ chạy thêm một quãng ngắn nửa là không việc gì. Batu dẫn được đàn ngựa từ Bãi Bắc về đây quả không dễ. Bão to sói đông cứ cho là người không sợ, nhưng con ngựa có sợ không? Batu từ đầu chí cuối bám đàn ngựa quyết tử với lũ sói. Nó đã làm tròn trách nhiệm.

Ông già không câu nệ, thanh mình cho con trai.

Trần Trận lại gần Bao Thuận Quý, nói: Vì tài sản của tập thể mà Batu đã chiến đấu suốt đêm với sói. Nên báo cáo lên trên sự tích anh hùng này.

Bao Thuận Quý trừng mắt quát: Gì mà anh hùng! Anh ta bảo vệ được đàn ngựa thì mới là anh hùng - Quay lại, ông ta giận dữ bảo Batu - Tại sao hôm ấy cho ngựa ăn cỏ ở Bãi Bắc? Chăn ngựa bấy nhiêu năm, chẳng lẽ anh không biết hể nổi gió bắc là đàn ngựa chạy xuống đầm lầy? Trách nhiệm lớn nhất của anh là ở điểm này.

Saxuleng dập đầu vào bụng ngựa, ngẩng lên cãi: Đó là bãi chăn do bản quản lý chỉ định, còn nói rằng ở đó còn nhiều cỏ thu và cỏ xuân thì đã mọc mầm. Những con ngựa chiến đi xa, cần được ăn uống tốt, béo lên một chút để các kỵ binh dân quân vui vẻ tiếp nhận. Tôi còn nhớ anh Batu hôm ấy nói tại hội nghị "Năm khâu cách mạng, đẩy mạnh sản xuất", rằng chăn ở Bãi Bắc không an toàn. Nhưng ban quản lý bảo, mùa xuân phần lớn là gió tây bắc. Ai ngờ lại có gió bắc? Ông cũng đồng ý với ban quản lý, vậy sao khi sinh chuyện ông lại đổ hết cho Batu?

Mấy ông trong ban quản lý không nói gì. Trưởng bãi Ulichi đằng hắng một tiếng, nói: Saxuleng nói đúng, quả là có chuyện ấy. Mọi người ai cũng có tâm, muốn đàn ngựa béo khoẻ, góp chút công sức cho cuộc chiến. Ai ngờ lại xảy ra cơn bão, lại là bạch mao phong, lại thêm đàn sói, trăm năm mới gặp một lần. Tôi là người nắm sản xuất, tôi xin chịu trách nhiệm trong chuyện này.

Bao Thuận Quý giơ roi chỉ vào mũi Saxuleng, nói: Trách nhiệm của anh cũng không nhỏ. Ông Pilich nói đúng, chỉ chạy một quãng nữa là thoát nạn, nếu ba anh không bỏ chạy mà cùng Batu dồn đàn ngựa thì không đến nỗi sinh chuyện.

Ông Pilich dùng cây gậy dằn cây roi của Bao Thuận Quý xuống thấp, nghiêm mặt nói: Thưa ông đại diện quân đội, ông tuy là người Mông nông nghiệp, nhưng cũng nên hiểu phong tục của người Mông du mục. Trên thảo nguyên chúng tôi, không cho phép chỉ roi vào mũi người khác khi nói. Chỉ có bọn vua chúa, bọn Đaichi, bọn chủ bãi chăn thả mới làm như thế. Không tin, ông đi hỏi thủ trưởng phân khu. Đợt kiểm tra sắp tới ông ấy về đây, tôi và ông sẽ hỏi.

Bao Thuận Quý chuyển roi ngựa sang tay trái, chỉ ngón trỏ vào mặt Saxuleng, quát: Còn anh nữa, sao không xuống ngựa xúc tuyết? Xúc đi chứ! Tôi cần kiểm tra từng cái xác, để xem sói lợi hại đến mức nào mà tất cả đều đổ lên đầu chúng? Mao Chủ Tịch đã dạy: Nhân tố con người quyết định tất cả!

Mọi người xuống ngựa, cầm lấy xẻng gỗ, xẻng sắt và chổi tre, bắt đầu dọn tuyết. Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, lấy máy ảnh Hải u ra chụp làm tư liệu, miệng sa sả: Dọn sạch, dọn hết! Vài hôm nữa, tổ điều tra quân sự Minh và Kỳ (cấp huyện) cũng về điều tra tiếp.

Trần Trận cùng các ông Ulichi, Pilich và Batu lội sâu vào tận trong cùng, băng phía dưới chưa tan, tuyết phía trên kêu lạo xạo dưới chân. Ông già Pilich nói, chỉ cần xem con ngựa trong cùng có bị sói ăn thịt không, sẽ biết đàn sói lợi hại đến mức nào!

Trần Trận vội hỏi vì sao.

Ông Ulichi nói: Cậu thử nghĩ mà xem, vì rằng càng vào sâu bên trong càng nguy hiểm, sói cũng biết thế. Vậy nếu con ngựa này cũng bị cắn chết, thì đúng là đàn sói vô cùng nguy hiểm.

Ông già ngoảnh lại bảo Batu: Có bắn cũng chẳng ăn thua!

Batu nhăn nhó khổ sở: Con đem theo có mười viên đạn, chỉ một lúc là hết nhẵn. Bạch mao phong át hết tiếng súng. Sói sợ bỏ chạy, nhưng khi thấy hết đạn, chúng liền quay lại. Trời tối, đèn lại sắp hết pin, con nâng tầm bắn cao lên một thước.

- Khi ấy đâu có nghĩ dài dòng - Batu dùng ngón tay ấn nhệ vết thương trên mặt, nói - Trời tối mà tuyết thì lớn, chỉ sợ bắn phải ngựa. Con cầu trời tạnh gió, đầm không đóng băng, sói không ra được, ngựa sẽ sống sót một số. Con nhớ là đã nâng đầu nòng lên một thước.

Ông già Pilich và Ulichi thở dài nhẹ nhõm.

Đến bên mô tuyết trong cùng, Batu do dự một thoáng, rồi nhanh nhẹn xúc sạch tuyết ở chỗ đầu con ngựa. Mội người lập tức bị sốc. Con ngựa bạch to lớn bị cắn đứt một nửa cổ, đầu ngật ra phía lưng, mắt lồi hẳn ra ngoài như quả trứng muối bóc vỏ, trong suốt. Sự sợ hãi tột độ còn hằn trên khuôn mặt ngựa. Thật kinh khủng! Tuyết dưới đầu ngựa đã đóng băng, thấm máu tươi, xẻng xúc không vỡ. Mọi người hì hục xúc và quét, hai thân ngựa lộ ra. Trần Trận có cảm giác đây không phải là những vết cắn, mà như một quả tạc đạn nổ trong bụng, hai bên sườn vỡ toạc, ruột gan văng ra ngoài xa vài mét, một nửa mông không còn, xương lộ ra trắng hếu. Rải rác trên tuyết những đoạn xương, những mảnh da và lông. Sói chỉ ăn tim gan và một ít thịt bắp. Con ngựa chỉ là đối tác cho sót trút cơn giận. Trần Trận nghĩ, hình phạt phanh thây đối với con người phải chăng học từ sói? Hay là phần thú tính của nhân tính cùng một nguồn gốc với chất sói trong thú tính? Trong các cuộc đấu tranh trong lịch sử nhân loại, quả thật người ta đã áp dụng luật sói đối với nhau. Mục kích cuộc tàn sát quy mô lớn của sói, thú tính trong con người Trần Trận cũng nổi dậy, cậu tiếc không chộp ngay được một con sói để lột da, cắt gân cho hả giận! Chẳng lẽ người đánh bạn với sói lâu ngày sẽ biến thành sói? Hoặc con người ngày càng nhiễm chất thú!

Mọi người lặng nhìn. Trần Trận cảm thấy chân tay lạnh thấy xương!

Ông già Pilich hai tay tì lên cán xẻng, vẻ đăm chiêu, nói: Có lẽ đây là đàn sói nếu không đông nhất nhì thì cũng đông thứ ba tôi thấy trong đời. Con đầu đàn mà bị cắn xé đến như thế này, thì những con khác tôi không cần xem nữa, đảm bảo không còn con nào nguyên vẹn.

Ulichi mặt sa sầm, thở dài: Con ngựa này tôi cưỡi hai năm, bắt được ba con sói. Nó chạy nhanh nhất nhì trong đàn. Năm xưa tôi là đại đội trưởng kỵ binh đem quân đi tiễu phi, chưa khi nào được cưỡi con ngựa nào hay như nó. Chiến lược chiến thuật của đàn sói này còn hay hơn cả bọn phỉ họ Mã năm xưa. Chúng triệt để lợi dụng bạch mao phong và đầm lầy khiến ta cảm thấy con ngựa lười suy nghĩ. Nếu tôi thông minh hơn sói một chút thì con ngựa này không chết. Để xảy ra chuyện này, tôi xin chịu trách nhiệm, giá khi ấy tôi khuyên lão Bao một câu thì đâu đến nỗi!

Trần Trận vừa nghe chuyện hai ông già, vừa nghĩ chuyện của mình ở Trung Quốc, người ta thường coi hổ bảo sài lang là mãnh thú. Nhưng hổ báo là loại thú hiếm, không sống theo bầy đàn, chuyện về chúng không nhiều. Còn sài lang (sói) thì tương đối phổ biến, đâu cũng có. Chúng sống thành đàn, có nhiều chuyện động trời. Sói là loại thú dữ uy hiếp con người lớn nhất, nhiều nhất, lập lại nhiều lần nhất. Trên thảo nguyên, sói là thiên địch lớn nhất của người, ngựa, bò, cừu. Vậy vì lẽ gì các tộc trên thảo nguyên lại sùng bái sói? Trần Trận rút lại lập trường mà gần đây cậu mới xác lập.

Bãi tha ma đã dọn được quá nửa, mặt đầm thây ngựa ngổn ngang, máu loang tuyết trắng đỏ ngầu, chẳng khác mặt trăn bị bom đạn cày đi xới lại. Những sinh mệnh đầy sức sống chuẩn bị ra trận bị phạt ngang, biến thành mồi cho pháo đạn. Cảnh tượng thê thảm của từng con, cùng một dạng với con ngựa bạch. Xác ngựa dầy đặc, xương cốt chân cẳng lẫn lộn, chỉ căn cứ vào cái đầu và màu lông để đếm. Hai mã quan ngồi xổm trên băng, dùng bao tay và cả vạt áo khoác lau mặt ngựa, vừa lau vừa khóc. Mọi người thẩn thờ vì thảm cảnh trước mặt. Trần Trận và mấy thanh niên trí thức Bắc Kinh chưa bao giờ mục kích cảnh tàn sát tập thể dã man kiểu này, nên cứ đứng nhìn nhau, không thốt được lời nào. Phản ứng đầu tiên của đám thanh niên trí thức là, người nào trong chúng ta gặp đàn sói này, thì có bị phanh thây như đàn ngựa không?

Trước mắt Trần Trận hiện ra cảnh thảm sát Nam Kinh, qua tính cách của sói, cậu nhìn thấy tính chất phát xít của bọn giặt Nhật. Cơ thể cậu phản ứng dữ dội: Kinh tởm, phẫn nộ, buồn nôn, muốn nguyền rủa, muốn giết hết lũ sói. Một lần nữa, cậu buột miệng nói trước mặt ông già Pilich: Loài sói dã man quá! Dã man hơn cả bọn phát xít Nhật! Phải xé xác chúng mới hả giận!

Ông già nhìn Trần Trận, mặt như chằm đổ nhưng giọng nói thì chắc nịch: Tính phát xít của Nhật Bản là có từ trong máu, không phải học từ sói. Tôi đã đánh Nhật tôi biết, Nhật không có thảo nguyên lớn, không có đàn sói lớn. Người Nhật thấy sói bao giờ chưa? Vậy mà chúng giết người như ngoé? Tôi dẫn đường cho Hồng quân Liên Xô, đã từng thấy những việc lầm của người Nhật. Đường Thạch Tử là con đường từ mục trường ta đi Cát Lâm, Đông Bắc, riêng sửa đường đã chết bao nhiêu người? Xương trắng đầy hai bên đường, mỗi hố to chất đống mười mấy sinh mạng, một nửa là người Hán, một nửa là người Mông.

Ulichi nói: Chuyện này cũng không nên chỉ quy tội cho sói. Con người cướp hết lương thực cứu đói của sói, bắt đi bao nhiêu sói con, làm sao nó không trả thủ? Có trách là trách chúng ta không trông nom đàn ngựa cẩn thận. Sói rất ham sống, nếu không cùng đường, sói không cắn người. Người có chó, có súng, có thòng lọng. Trên thảo nguyên sói sợ người, đa phần sói bị người giết. Còn giặc Nhật thì sao? Trung Quốc chúng ta chưa bao giờ xâm lược họ, còn giúp họ nhiều chuyện, vậy mà họ giết người Trung Quốc như ngoé!

Ông già Pilich rõ ràng là không bằng lòng, lườm Trần Trận, nói: Người Hán ngồi không vững trên yên ngựa, ngồi đã không vững thì khi bị vấp dễ lộn cổ xuống đất.

Trần Trận rất ít khi bị ông già mắng. Lời ông khiến đầu óc cậu sáng ra. Cậu hiểu ý tứ trong câu nói của ông. Cậu nhận thấy tôtem sói ngự trong ông già vững vàng hơn kỵ sĩ Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa. Các dân tộc thảo nguyên qua ngàn năm vật đổi sao dời, nhưng tôtem sói thì nghiễm nhiên tồn tại cho đến bây giờ, không dao động mảy may vì cái chết của bảy tám chục con ngựa chiến. Trần Trận chợt nhớ lại những câu: Hoàng Hà trăm hai, không lai một giầu", "Hoàng Hà vỡ đê, người biến thành cá", "Hoàng Hà sông Mẹ", "Hoàng Hà - cái nôi của dân tộc Trung Hoa". Dân tộc Trung Hoa không vì Hoàng Hà gây trăm hại mà không gọi bằng "Mẹ". Thì ra, trăm họa có thể song hành với Mẹ. Tôtem sói của dân Mông Cổ cũng được coi trọng như "sông Mẹ" của dân tộc Trung Hoa.

Bao Thuận Quý cũng không nhăn nhó nữa. Ông ta vẫn ngồi trên mình ngựa để quan sát hiện trường rõ ràng hơn. Ông ta không hề nghĩ rằng sói Mông Cổ lại tàn bạo đến như vậy, cũng không nghĩ rằng đàn ngựa đông như thế mà vẫn bị sói xơi tái. Ông ta ngạc nhiên từ đầu đến cuối. Trần Trận trông thấy ông ta run run khi cầm máy ảnh, ông ta liên tục đổi cách cầm mới không bị rơi.

Ông già Pilich và ông Ulichi xúc tuyết bên một lô xác ngựa ở giữa đầm, hai ông đào bới như đang tìm cái gì ở đó. Trần Trận vội đến đào giúp. Cậu hỏi ông già Pilich: Bố tìm cái gì thế? Ông già trả lời: Tìm đường đi của sói. Kìa cậu, xúc nhẹ thôi! Trần Trận cẩn thận lựa chỗ đặt chân rồi cúi xuống quan sát. Lát sau ba người đã tìm ra con đường của sói - con đường tuyết dày bốn lóng tay, rất rắn, được hình thành trên mặt bùn nhão. Quét sạch lớp tuyết xốp mới phủ bên trên thì thấy dấu chân sói, to thì như chân bê, nhỏ như chân chó gộc. Mỗi dấu để lại vết lõm, có vết còn vương máu ngựa.

Ông Ulichi và ông già Pilich gọi mọi người lại, tập trung quét sạch con đường sói. Ông bảo, quét sạch tuyết sẽ đoán được đàn sói lớn hay nhỏ. Quét được một lúc, mọi người nhận thấy đường sói không thẳng mà cong, quét tiếp lại thấy đó là đường cánh cung, quét hơn một giờ, thì ra nó là một đường tròn, một đường tròn bằng tuyết rắn, trong tuyết có máu, mặt đường cao hơn mặt bùn một cạnh bàn tay, băng thấm máu tươi khiến người kinh hãi, y như con đường dẫn xuống âm phủ, như một đồ thị đầy những ký hiệu quái quỉ. Đường rộng hơn mét, chu vi năm sáu chục mét, bên trong tập trung rất nhiều xác ngựa. Mặt đường dày đặc những dấu chân sói vấy máu. Mọi người sợ run, bàn tán sôi nổi:

- Tôi ngần này tuổi đầu chưa bao giờ thấy dấu chân sói to như thế?

- Đâu phải sói, yêu quái thì có!

- Đông khiếp!

- Ít nhất cũng bốn năm chục con. Batu bợm thật! Một mình mà dám chơi đàn sói này. Phải tôi thì đã ngã ngựa, làm mồi cho sói rồi!

- Đêm ấy tối trời mà tuyết thì lớn, cháu chẳng nhìn thấy gì, đâu biết đàn sói đông như thế.

- Rồi ta sẽ gặp nhiều rắc rối đây!

- Đám con gái còn dám đi đêm nữa không?

- Các ông trên mục trường bộ thiển cận quá, cướp sạch thức ăn dự trữ cứu đói của sói, khiến chúng nổi khùng. Tôi mà là sói, tôi chén sạch gà lợn của các vị ấy.

- Ông nào dở thế không biết. Đào bắt bao nhiêu là sói con, hèn gì chúng chẳng nổi điên? Những năm trước bắt ít, đàn ngựa có sao đâu!

- Ban quản lý cũng nên làm vài việc nghiêm chỉnh. Phải tố chức diệt sói. Cứ đà này, sói sẽ ăn thịt người!

- Bớt họp đi, tập trung vào những việc thiết thực.

- Tình hình này thì đàn gia súc không đủ cho sói tráng miệng.

- Lãnh đạo mục trường có một số xuất thân nông nghiệp, làm toàn những chuyện thất đức nên Trời sai sói xuống cho một bài học.

- Đừng có phát ngôn bừa bãi! Có muốn đấu tố không?

.......

Bao Thuận Quý cùng Ulichi và ông già Pilich quan sát, chụp ảnh con đường của sói, chốc chốc lại trao đổi ý kiến. Nét mặt cau cau của ông, Bao Thuận Quý bắt đầu giãn ra. Trần Trận đoán ông già đã tác động được vào "nhân tố con người quan trọng nhất" của ông ta. Tai họa cỡ này, con người làm sao chống lại? Tổ nào về điều tra cũng vậy thôi, nhìn hiện trường là thấy sức người khó mà đối phó, nhất là với bầy sói ranh ma quỷ quyệt lợi dụng bạch mao phong tấn công về đêm.

Trần Trận thấy đỡ lo cho ông già Pilich và ông Ulichi.

Trần Trận bắt đầu suy nghĩ về con đường của sói, một đường tròn ma quái khiến người rợn tóc gáy. Nó như xiết từng vòng quanh ngực cậu, vòng sau chặt hơn vòng trước, khiến cậu tức thở. Vì sao lũ sói chạy một đường tròn như vậy? Động cơ nào? Mục đích gì? Hành vi của sói thảo nguyên người ta không hiểu. Mỗi dấu vết của sói để lại thường là câu hỏi hóc búa.

Chống lạnh ư? Để cho nóng người lên? Có thể như thế. Bởi vì đêm ấy có bạch mao phong, lạnh ghê gớm. Đàn sói đang chạy đường dài mà đột ngột dừng lại, chắc không chịu nổi rét, nên sau khi ăn no, chúng chạy cho nóng người lên.

Giúp tiêu hóa chăng? Tiêu hao năng lượng để có thể ăn thêm. Cũng có thể. Bởi vì sói không phải loài chuột. Chuột biết tích trữ lương thực trong hang. Sói không biết để dành, muốn sử dụng thức ăn được nhiều hơn, sói chỉ mỗi cách nhồi nhét, sau đó chạy để tiêu hóa nhanh thức ăn, tăng nội dưỡng, tạo ra chỗ trống trong dạ dày để rồi nhồi tiếp. Nhưng đó phải là loại dạ dày sắt thép, đàn hồi, cao su, hoặc là không có manh tràng (ruột thừa) nên không sợ viêm. Nếu vậy thì đáng sợ.

Hay là chúng duyệt binh, chuẩn bị cho trận đánh tiếp? Hay là chúng điểm quân? Cũng có thể. Xem dấu chân ta thấy sói rất có ý thức tổ chức kỷ luật. Con đường chỗ nào cũng rộng hơn mét, rất ít bước ra ngoài. Không phải là duyệt binh thì làm sao đội ngũ chỉnh tề như thế? Nói chung, sói độc lập tác chiến, hoặc hành động theo nhóm, một nhóm bốn năm con, tổ chức vây ráp thì chỉ một gia đình bảy tám con, còn tác chiến với quy mộ binh đoàn thì rất hiếm. Trần Trận không thể hiểu, sói vốn quen độc lập tác chiến, vì sao bỗng dưng chuyển sang vận động chiến với quy mô binh đoàn? Năm xưa Bát lộ quân và Tân tứ quân tốn bao công sức mới nâng cấp được như thế. Chẳng lẽ sói có tài năng quân sự bẩm sinh? Hay tổ tiên nhà sói rút kinh nghiệm từ những cuộc tàn sát đẫm máu, truyền lại cho sói con cháu? Nhưng sói không biết nói thì truyền bằng cách nào? Quả là khó hiểu.

Vậy thì, hay là sói ăn mừng chiến thắng? Hay là một nghi thức trước hay sau khi ăn? Khả năng này cực lớn. Cuộc truy kích thắng đậm, đàn ngựa không sót một con, sói đã bảo thủ tuyết hận, có thể coi là toàn thắng. Đàn sói đói hạ gục một đàn ngựa béo, ai bảo không sướng? Hẳn là khi đó sói sướng như điên, diễu hành rất lâu xung quanh những xác ngựa đến nỗi thành con đường.

Trần Trận lấy cái bụng của con người để hiểu sói, cắt nghĩa một số hành động của sói. Chó hiểu tính người, người hiểu tính sói hoặc sói hiểu tính người. Thiên địa nhân là một. Sói, người, chó không thể không liên quan với nhau. Có lẽ nghiên cứu về người nên bắt đầu nghiên cứu từ sói, hoặc nghiên cứu sói nên bắt đầu nghiên cứu từ người, khoa sói học liên quan mật thiết với nhân học - một bộ môn khoa học vĩ đại.

Một đoàn người theo sau Batu, lần ngược con đường dẫn đến sự cố, lên phía bắc. Trần Trận lại gần ông Pilich, hỏi: Bố, vì sao sói chạy thành một con đường như thế? Ông già nhìn quanh, cố ý buông lỏng dây cương cho ngựa đi chậm lại, nói khẽ: Tôi sống ở Ơlon đã 60 năm, chưa bao giờ thấy đàn sói lớn như thế! Hồi nhỏ tôi cũng từ hỏi ông thân sinh ra tôi. Ông bảo, sói là do Trời sai xuống bảo vệ quả núi thiêng Bayinoloa và thảo nguyên Ơlon. Kẻ nào phá hoại, Trời nổi giận, sai sói xuống cắn chết rồi thưởng luôn cho sói ăn thịt. Mỗi khi được thưởng, sói vui sướng chạy quanh phần thưởng nhiều vòng, tròn như mặt trời mặt trăng. Vòng tròn này là hồi âm của sói, giống như thư cảm ơn bây giờ. Sau khi trời nhận được hồi âm, sói ăn thoải mái. Sói thích ngửa mặt nhìn trăng, hếch mũi lên trời mà hú dài, nếu như trăng có quầng, chắc chắn đêm ấy nổi gió, sói không đi săn mồi. Sói dự đoán thời tiết giỏi hơn người, sói biết khi nào trăng tròn, biết vẽ hình tròn, chính là sói có khả năng thông thiên.

Trần Trận như mê đi, cậu vốn thích thần thoại. Giải thích về đường tròn của sói, bản thân nó đã đầy đủ xét từ góc độ văn học. Vả lại, không thể nói thuyết này không khoa học. Trong quá trình săn bắt lâu dài, người ta đã biết đá đổ mồ hôi thì mưa, trăng có quầng thì gió. Trần Trận tấm tắc: Hay thật! Những quy luật của tự nhiên trên thảo nguyên, mặt trời có quầng, mặt trăng cũng có quầng. Mục dân ra hiệu cho người khác đi tới thì giơ tay vẽ một vòng tròn. Cái vòng tròn đúng là một tín hiệu ma quái! Chuyện của bố làm con tỉnh người, sói thảo nguyên quá giỏi, biết vẽ vòng tròn, biết phát tín hiệu, sợ thật! Ông già Pilich nói: Sói thảo nguyên rất tinh quái! Tôi cả đời đối mặt với chúng mà không khi nào thắng. Tôi không lường trước được sự cố tai hại này. Sói luôn hành đọng đúng lúc, đúng chỗ mà ta không ngờ, đã đến thì cả bầy. Cậu bảo nếu không có Trời giúp thì làm sao sói lợi hại đến như thế!

Đoàn người ngựa phía trước dừng lại, có người xuống ngựa, bới tuyết. Trần Trận thúc ngựa chạy theo ông già lên chỗ đó. Đã phát hiện những xác ngựa, nhưng không tập trung, mà bốn năm con rải thành một vệt. Ở một chỗ xa hơn, có người kêu: Có xác sói! Trần Trận nghĩ, chắc đây là nơi sói tấn công tự sát như Batu đã kể. Và cũng là bước ngoặt dẫn đàn ngựa đến tử vong. Cậu thót tim, trống ngực đập thình thịch.

Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, vung cây roi quá đầu quát: Không được lộn xộn! Tất cả quay lại, trước hết bới hai con ngựa, sau đó mới đến sói. Mọi người chú ý kỷ luật chiến trường. Tất cả xung công! Ai vi phạm sẽ bị đưa đi học tập cải tạo.

Mọi người nhanh nhẹn tập họp xung quanh hai con ngựa, bắt đầu gạt tuyết.

Hai con ngựa đã lộ ra. Ruột gan tim phổi của từng con đều bị chính nó giẫm nát, vương vãi đến mấy chục mét. Hai con này không bị sói xé xác sau khi chết. Có lẽ chúng đã ăn no ở chỗ đầm lầy nên bỏ qua. Tuy vậy, Trần Trận vừa bới vừa nghĩ, con ngựa này tuy không bị xé xác, nhưng cái chết của chúng thê thảm hơn, đáng sợ hơn cái chết của đồng loại ở đầm lầy, cặp mắt thất thần khi chết gây một ấn tượng hãi hùng.

Bao Thuận Quý giận giữ gầm lên. Lũ sói này tàn bạo như giặc Nhật! Làm sao chúng nghĩ ra cái cách cắn rách bụng để ngựa tự lôi ruột ra mà chết cơ chứ! Độc ác quá đi mất! Bọn này đúng là tinh thần võ vĩ đạo của bọn Nhật, dám tấn công tự sát. Sói Mông Cổ thật đáng sợ. Tôi mà không giết sạch chúng thì chớ kể.

Trần Trận không nhịn được, xen vào: Không nên coi tự sát là tinh thần võ sĩ đạo của bọn Nhật. Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, Dương Văn Tư dám cùng chết với kẻ thù, nhưng đó không phải võ sĩ đạo. Một con người, một dân tộc nếu không có tinh thần thà chết chứ không chịu khuất phục, không dám chết cùng kẻ thù thì chỉ có làm nô lệ, bị người khác thống trị. Tinh thần tự sát của sói vận dụng đúng chỗ thì là anh hùng, đáng ca ngợi, không đúng chỗ thì là võ sĩ đạo của chủ nghĩa phát xít. Nhưng nếu không tinh thần quyết tử thì cầm chắc không thể thắng tinh thần võ sĩ đạo.

Bao Thuận Quý im lặng hồi lâu, hừm một tiếng: Cái đó thì đã hẳn.

Ulichi nét mặt đăm chiêu, nói với Thuận Quý: Kiểu tấn công tàn bạo này thì Batu và đàn ngựa làm sao chống lại? Batu quần nhau với sói từ Bãi Bắc về đến đây quả không đơn giản. Không chết người là may rồi. Cứ để tổ điều tra về đây, tôi tin là họ sẽ có kết luận chính xác.

Bao Thuận Quý gật đầu, ông ta bắt đầu dịu giọng, hỏi Batu: Khi ấy cậu có sợ lũ sói ăn thịt con ngựa cậu đang cưỡi không?

Batu ngượng nghịu trả lời: Cháu căng thẳng đến mức chẳng còn nghĩ gì khác. Tiếc quá, chỉ chút nữa là thoát đầm lầy!

Bao Thuận Quý lại hỏi: Thế sói không vồ cậu à?

Batu chìa cây gậy thép ra trước mặt Bao Thuận Quý: Cháu đập gãy răng cửa một con, đánh giập mũi một con khác bằng chiếc gậy này, nếu không, chắc là bị chúng xé xác. Các cậu Saxuleng không được trang bị súng, gậy, nên không có phương tiện phòng thân. Đừng kết tội họ đào ngũ.

Bao Thuận Quý cầm cây gậy nắn thử, khen: Gậy này thì hay rồi. Cậu cũng tàn bạo đấy chứ! Tốt, với sói thì càng tàn bạo càng tốt. Cậu can đảm, có bản lĩnh, khi cấp trên về điều tra, nhớ kể tường tận chuyện đánh nhau với sói.

Nói xong, Bao Thuận Quý trả lại cây gậy cho Batu rồi ngoảnh lại nói với Ulichi: Tôi thấy sói Mông Cổ khủng khiếp quá, đầu óc hơn con người. Tôi đã hiểu cách đánh của chúng. Chúng có mục tiêu cụ thể, đó là bằng mọi giá dồn đàn ngựa xuống đầm lầy. Anh xem này - Ông ta xoè bàn tay - Sói biết thời tiết, biết đánh gần, biết chọn thời cơ, biết địch biết ta, biết chiến lược chiến thuật, biết đánh đêm, biết đánh du kích, biết đánh cơ động, biết đánh lén, biết tập trung ưu thế binh lực đánh tiêu diệt, lại còn xây dựng kế hoạch tác chiến, từng bước tiêu diệt đàn ngựa. Binh pháp này có thể đưa vào sách giáo khoa quân sự! Hai ta xuất thân bộ đội, tôi thấy trừ trận địa chiến, đánh lấn bằng giao thông hào là sói chưa biết, còn thì toàn bộ chiến lược chiến thuật của du kích, của Bát lộ quân, sói biết hết. Không ngờ sói thảo nguyên tài tình đến thế, cứ tưởng chúng hữu dũng vô mưu, chỉ biết trộm gà bắt chó...

Ulichi nói: Kể từ khi tôi chuyển ngành về đây, chưa thấy mình đã xa chiến trường. Quanh năm chiến đấu với sói, súng bất li thân, giờ đây tôi bắn còn chuẩn hơn lúc ở bộ đội. Đúng như anh nói, sói rất giỏi binh pháp, chí ít biết vận dụng hữu hiệu những nguyên tắc quan trọng trong binh pháp. Đối mặt với sói mấy chục năm, tôi đã học được nhiều điều. Giờ mà cho tôi đi tiễu phỉ, bảo đảm là tôi làm tốt.

Trần Trận càng nghe chuyện càng mê, vội hỏi: Vậy binh pháp của người là học từ sói?

Ulichi mắt sáng lên, nói với Trần Trận: Đúng, rất nhiều điều trong binh pháp con người học từ sói. Trước kia dân thảo nguyên vận dụng binh pháp của sói đánh nhau với dân tộc nông nghiệp bên quan nội. Người Hán không chỉ học dân du mục mặc áo ngắn, quần đi ngựa, cưỡi ngựa bắn cung mà dân sách vở gọi là "Hồ phục kị xạ", còn học binh pháp của sói từ dân du mục. Năm học bổ túc chuyên ngành chăn nuôi ở Hồi Hột, tôi đọc khá nhiều binh thư, thấy binh pháp Tôn Tử không khá mấy binh pháp của sói. Thí dụ: "Biết mình biết người, binh quý ở thần tốc, ra quân khi địch không ngờ, tiến đánh khi địch chưa kịp chuẩn bị"... sói thuộc lòng từng khoản.

Trần Trận nói: Vậy mà binh thư Trung Quốc không hề nhắc đến dân tộc và sói thảo nguyên, quả không công bằng chút nào!

Ulichi nói: Sự thua thiệt của người Mông Cổ là lạc hậu về văn hóa, ngoại trừ cuốn "Mông Cổ bí sử" là có giá trị, còn những sách khác chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể.

Bao Thuận Quý bảo Ulichi: Xem ra, ngành chăn nuôi trên thảo nguyên phải nghiên cứu kỹ về sói, phải nghiên cứu binh pháp, nếu không sẽ thiệt. Muộn rồi, ta đi xem mấy con sói chết, tôi cần chụp mấy phô ảnh.

Hai ông đầu ngành đi rồi, Trần Trận đứng thần người. Chuyến khảo sát thực địa này khiến cậu càng mê những kỳ tích của mục dân thảo nguyên và Thành Cát Tư Hãn. Chỉ vẻn vẹn hơn một vạn quân kỵ mà Thành Cát Tư Hãn và các con cháu ông ta tung hoành từ Á sang u, tiêu diệt mấy chục vạn thiết kỵ Tây Hạ, một triệu quan của nhà Đại Kim, hơn một triệu thủy quân và kỵ binh Nam Tống. Làm thế nào chiếm được Trung Á, Hungari, Ba Lan, toàn bộ nước Nga, Iran, Ấn Độ, lại còn bắt Hoàng Đế Đông La Mã thực hiện chính sách hòa thân của Trung Quốc, gả công chú Mali cho chắt của Thành Cát Tư Hãn, dựng nên một đế quốc lớn nhất trong lịch sử thế giới? Một dân tộc bé nhỏ khi khởi nghiệp ngay cả chữ viết và mũi tên bằng sắt chưa có, vẫn phải dùng xương thú làm mũi tên, lấy đâu ra sức mạnh và tri thức quân sự lớn lao đến thế? Đây là một câu đố chưa có lời giải. Hơn nữa, kỳ tích của Thành Cát Tư Hãn và các con cháu không phải ở chỗ lấy thịt đè người, lấy mạnh thắng yếu, mà ngược lại, lấy ít thắng nhiều, thắng bằng mưu trí. Phải chăng họ dựa vào trí tuệ của sói và tốc độ của ngựa? Dựa vào tố chất và tính cách của sói? Và tinh thần dân tộc được nuôi dưỡng bằng Tôtem sói?

Hai năm nay Trần Trận đối mặt với sói, kinh nghiệm và những câu chuyện thu thập cùng với những điều mắt thấy trong khi đi thực địa sói bắt dê vàng, tính kinh điển trong trận sói tận diệt đàn ngựa, khiến Trần Trận càng tin rằng những kỳ tích của Thành Cát Tư Hãn có khả năng từ sói.

Chiến tranh là hành vi vũ lực giữa quần thể này với quần thể khác. Chiến tranh khác về bản chất với săn bắn. Chiến tranh có tiến công, có phòng ngự, hai bên tham chiến đều vũ trang đến trận răng. Còn săn bắn thì con người chủ động hoàn toàn, hầu hết con mồi ở vào thế bị động, bị săn đuổi. Săn thỏ, rái cá trên cạn, dê vàng đều là săn bắn, nhưng là lấy thịt đè người, quyết không phải chiến tranh. Tuy rằng săn bắn có thể học được một số kỹ năng quân sự, nhưng chỉ có chiến tranh thật sự mới cung cấp cho người ta kiến thức toàn diện về quân sự.

Trần Trận lật lại vấn đề: Trên thảo nguyên không có những đàn hổ, đàn báo, đàn gấu, đàn sư tử, đàn voi. Chúng không thể tồn tại trên thảo nguyên Mông Cổ khắc nghiệt. Cho dù chúng thích ứng với điều kiện tự nhiên, cũng không thể thích ứng với những cuộc chiến tranh sinh tồn tàn khốc trên thảo nguyên, không thể chống lại những cuộc vây ráp của sói và người trên thảo nguyên. Chỉ người và sói là cặp đối thủ hạt giống trong cuộc quyết đấu trên thảo nguyên Mông Cổ. Các sách giáo khoa quân sự trước kia cho rằng, kỹ năng quân sự trác việt của dân du mục có nguồn gốc từ săn bắn. Ta không phủ nhận ý kiến này. Nhưng kết luận chính xác phải là, tài năng trác việt của dân du mục bắt nguồn từ cuộc đấu tranh sinh tồn dai dẳng và tàn khốc giữa dân du mục và đàn sói. Đó là một cuộc chiến cân sức, kéo dài hàng vạn năm. Qua thực tiễn lâu dài đó, con người và sói đã rút ra những kinh nghiệm mà sau này các binh thư coi là những nguyên tắc và tín điều cơ bản, tỉ như biết mình biết người, binh quý ở thần tốc, binh không ngại trí trá, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, chuẩn bị sẵn sàng, tránh đụng tinh nhuệ, ra quân bất ngờ, đánh địch lúc chúng chưa kịp chuẩn bị, chắc thắng mới đánh, không chắc không đánh, đả thương mười ngón không bằng chặt đứt một ngón, địch đến ta rút, địch ở ta quấy, địch mệt ta đánh, địch chạy ta đuổi... Sói tuy phân bố khắp địa cầu, tuy thảo nguyên Mông Cổ không có tường cao hào sâu như những vùng văn minh nông nghiệp, nhưng đây vẫn là chiến trường chính trong những cuộc quyết đấu - đấu trí và đấu lực, giữa người và sói.

Theo dòng suy nghĩ đó, Trần Trận cảm thấy mình như đang đứng trước cửa đường hầm năm nghìn năm lịch sử văn minh Hoa Hạ. Trên cao nguyên Mông Cổ, cuộc chiến giữa người và sói lúc ban ngày, lúc ban đêm, chạm trán như cơm bữa, đôi khi lại một trận lớn, xảy ra nhiều hơn tất cả những cuộc chiến tranh giữa sói và người, giữa người và người ở khu vực nông nghiệp cộng lại. Thậm chí về tần suất còn cao hơn các cuộc chiến giữa các bộ tộc du mục phương Tây ngoài chiến trường chính là chiến trường giữa sói và người. Thêm vào đó cuộc chiến dai dẳng, tàn khốc giữa các bộ tộc du mục, những cuộc chiến tranh dân tộc, chiến tranh xâm lược, khiến tài năng quân sự được rèn luyện không ngừng.

Do đó, dân tộc thảo nguyên Mông Cổ thiện chiến hơn, hiểu chiến trận hơn, kiến thức quân sự bẩm sinh ưu việt hơn tất cả các dân tộc nông nghiệp và du mục khác. Từ nhà Chu, Xuân Thu Chiến Quốc, Tần Hán Đường Tống toàn là những nước văn minh nông nghiệp, có ưu thế tuyệt đối, đất rộng người đông, vậy mà luôn bị một dân tộc du mục bé nhỏ trên thảo nguyên Mông Cổ đánh cho thất điên bát đảo, nhục nhã ê chề. Đến cuối đời Tống thì bị Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ làm chủ trung nguyên trong một thế kỷ. Vương triều cuối cùng của Trung Quốc - triều Thanh, cũng do một bộ tộc du mục sáng lập. Tộc Hán - nông canh không có huấn luyện viên tài giỏi về quân sự, không được thường xuyên rèn luyện trong cuộc chiến đấu với sói. Người Hán cổ có binh pháp Tôn Tử, nhưng chỉ là đánh giặc trên giấy, vả lại, Tôn Tử Binh Pháp có nguồn gốc từ binh pháp của sói.

Trần Trận hình như đã tìm ra cái vực thẳm chôn vùi hàng triệu sinh linh dân tộc Hoa Hạ trong mối họa phương bắc. Và hình như cũng tìm ra thủ phạm gây nên hao tài tốn của trong công cuộc xây dựng trường thành, vét sạch quốc khố Trung Quốc qua các triều đại. Cậu cảm thấy như tỉnh ra, đồng thời lại thấy đầu óc mụ đi vì đau xót. Quan hệ nhân quả giữa muôn vật quyết định lịch sử và số phận con người. Tài năng quân sự giữ nước giữ nhà là cái vốn để lập thân, là cội nguồn của sự tồn vong của một dân tộc.

Mọi người ồ lên rồi chạy ra một chỗ xa. Trần Trận đang mơ màng chợt tỉnh, cũng lên ngựa đuổi theo.

Hai con sói đã được bới lên. Đây là một phần cái giá phải trả của đàn sói cho việc dồn đàn ngựa xuống đầm lầy. Trần Trận bước lại gần con sói. Batu và Saxuleng vừa quét sạch tuyết trên mình nó vừa kể cho mọi người nghe lối đánh phanh bụng ngựa của đàn sói. Con sói trước mặt tương đối nhỏ, đó là một con cái, nửa thân sau bị ngựa giẫm nát nhưng vẫn thấy những bầu vú vồng lên, sữa trộn với máu tươi ướt đẫm.

Ông già Pilich nói: Thương quá! Con sói này chắc là bị người ta bắt mất con, nó gọi cả đàn đến trả thù, bản thân nó cũng không thiết sống. Trên thảo nguyên, làm bất cứ việc gì không nên cạn tàu ráo máng. Chó cùng rứt giậu, mẹ bị dồn vào ngõ cụt là cắn trả.

Trần Trận nói với các thanh niên trí thức: Sử chép rằng, sói mẹ trên thảo nguyên mang thiên chức của tình mẫu tử, chúng nuôi trẻ con. Tổ tiên của dân tộc Hung Nô, Cao Xa là con của sói, được sói mẹ nuôi dưỡng.

Bao Thuận Quý nói xen vào: Nuôi với nấng! Sói ăn thịt người mà lại nuôi trẻ con? Chỉ nói bậy! Người và sói không đội trời chung, phải giết chúng không còn một mống. Chính tôi ra lệnh bắt sói con. Trước kia ta bắt mỗi năm một đợt, tác hại quả có giảm nhưng vẫn chưa đủ, phải giết sạch. Phải bắt bằng hết các ổ sói. Sợ chúng báo thủ hả? Chết sạch rồi còn sống đâu mà báo thù? Tôi chưa rút lệnh, xử lý xong vụ này lại tiếp tục bắt. Hai hộ phải nộp một bộ da, không có sói con thì cho phép nộp sói lớn. Không nộp, trừ công điểm.

Bao Thuận Quý chụp ảnh những con sói chết, rồi hạ lệnh khiêng ra xe.

Mọi người lại tới bên con sói thứ hai. Trần Trận ở cao nguyên đã hơn hai năm, thấy rất nhiều sói, sống có, chết có, nhưng cậu không thấy con nào lớn như con này. Đầu nó to gần bằng đầu con báo, vòng ngực thì lớn hơn, tuyết trên người đã phủi sạch, lớp lông màu vàng rợm, những sợi lông cứng như dây thép thò ra từ đám lông mềm mại. Nửa thân dưới bị xéo nát, máu me vung vãi.

Batu thử đùn cái xác đã đông cứng, không chuyển. Anh lau mồ hôi: Con này hơi chậm, ngoạm không chuẩn. Ngoạm đúng chỗ thì khi ngựa rách bụng, sói rơi ra liền, ngoạn chệch, răng mắc xương, kẹt cứng. Rủi cho nó!

Ông già Pilich nhìn con sói hồi lâu ngồi xuống vạch đám lông đẫm máu ở cổ: Hai lỗ thủng đầy máu. Đám thanh niên trí thức ngạc nhiên. Những lỗ thủng này trông rất quen, thường thấy ở cổ những con cừu bị sói cắn chết. Tất cả bốn lỗ, mỗi bên hai lỗ. Đó là vết răng sói cắn thủng động mạch cảnh. Ông già nói: Con sói này bị ngựa đá trọng thương nhưng chưa chết. Nó bị một con khác sau khi ăn no thịt ngựa, cắn chết.

Bọn sói này ác như thổ phỉ, giết cả thương binh.

Ông già Pilich nhìn Bao, nói: Thổ phỉ chết không được lên trời, còn sói thì lên. Con sói này chết không chết được, sống không sống nổi, thà chết còn hơn. Những con còn sống đành cắn chết nó, thân đỡ khổ mà hồn thì lên trời. Con sói đầu đàn không ác, mà chính là có thiện tâm. Nó sợ đồng loại bị hạ nhục khi rơi vào tay con người. Sói là loại thà chết chứ không chịu nhục. Con đầu đàn không muốn người anh em của nó bị lâm nhục. Anh Bao này, anh xuất thân nghề nông, nơi anh có mấy người thà chết không hàng giặc? Tính cách này của sói thảo nguyên khiến cánh già chúng tôi mỗi khi nghĩ đến lại ứa nước mắt.

Ulichi thấy Bao Thuận Quý có vẻ không vui, vội nói: Anh có biết vì sao sói thảo nguyên chiến đấu hăng như vậy không? Là vì sói luôn khử thương binh nặng, giảm nhẹ gánh năng cho đàn, bảo đảm đội ngũ nòng cốt chiến đấu hiệu quả. Điều này khiến ta phải cẩn thận hơn khi chiến đấu với sói.

Bao Thuận Quý như hiểu ra, gật đầu: Quả vậy, trong chiến đấu, bộ đội thường mất khá nhiều nhân lực: Cáng thương, y tá, bảo vệ, hộ lý, bác sĩ, lại còn xe cộ, bệnh viện... Tôi có làm hậu cần mấy năm, tính ra có đến mười mấy người phục vụ cho một thương binh, quả là một gánh nặng, ảnh hưởng rất nhiều đến sức chiến đấu của bộ đội. Vậy là tính cơ động của sói cao hơn bộ đội, nhưng mà thương binh đa phần chiến đấu hăng, sau khi lành thương, vẫn là nòng cốt của quân đội. Vì sao sói giết thương binh mà lại không ảnh hưởng đến sức chiến đấu của đàn sói?

Ulichi thở dài, nói: Sói dám giết thương binh là có lý do. Sói mắn đẻ, mỗi lứa bảy tám mười, mười mấy con, tỉ lệ sống rất cao. Có lần vào mùa thu, tôi trông thấy con sói mẹ dẫn một đàn mười một con đẻ trong năm, con lớn nhất chỉ ngắn hơn con mẹ nửa cái đầu, chạy nhanh không kém mẹ. Hai năm sau, con cái trong đàn đã sinh con. Bò mẹ đẻ bò cái, ba năm thành năm con. Sói mẹ đẻ sói cái, ba năm bao nhiêu con? Tôi cho rằng, ít nhất một trung đội. Sói bổ sung quân số nhanh hơn người. Sói chỉ hai năm là trưởng thành. Mùa xuân đẻ, mùa xuân năm sau đã là con sói trưởng thành, biết đủ mọi thứ. Chó một tuổi biết bắt thỏ, sói một tuổi biết bắt cừu, trẻ con một tuổi còn mặc quần thủng đít. Người không trưởng thành nhanh bằng sói. Nguồn bổ sung binh lực của sói phong phú, cho nên sói dám giết thương binh. Tôi cho rằng, sói giết sói bởi vì sói đông quá, ngay chúng cũng cảm thấy nhiều. Sói giết sói là thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Cưỡng bức giảm quân số, chỉ để lại quân hùng tướng mạnh, sói thảo nguyên ngàn năm nay nhuệ khí không suy giảm vì lẽ đó.

Bao Thuận Quý mặt giãn ra: Chuyến đi này giúp tôi hiểu hơn về sói. Chống thiên tai có sự hỗ trợ của dự báo thời tiết, còn chống sói thì ai hỗ trợ? Dân nông nghiệp chúng tôi hiểu rất sai về sói thảo nguyên. Đúng là con người không thể chống lại sự cố vừa rồi , trên có về điều tra cũng phải thấy như thế.

Ulichi nói: Phải là con người minh bạch thì mới làm rõ được sự việc.

Bao Thuận Quý nói: Bất kể trên có xuống hay không thì chúng ta vẫn phải tổ chức vài chiến dịch diệt sói. Nếu không, mục trường của ta sẽ trở thành nhà ăn tập thể của đàn sói. Tôi sẽ xin trên ít đạn nữa.

Nhóm thanh niên trí thức chụm lại một chỗ, bàn tán sôi nổi. Hồng vệ binh Lý vốn là học sinh cấp II, cầm đầu đội "thi hành án" hồng vệ binh Bắc Kinh, tỏ ra bức xúc: Sói đúng là kẻ thù giai cấp. Bọn phản động trên thế giới đều là sói dữ. Sói độc ác quá, đã tàn sát đàn ngựa, tài sản của nhân dân, lại giết cả đồng loại. Ta phải tổ chức diệt sói, phải chuyên chính vô sản với sói, kiên quyết và triệt để tiêu diệt sói. Kiên quyết phê phán những quan điểm, phong tục, tập quán cổ hủ đồng tình thương cảm sói, thậm chí khi chết còn đem thân cho sói ăn thịt.

Trần Trận thấy Lý Hồng Vệ chĩa mũi nhọn vào ông già Pilich, liền cắt lời cậu ta: Cậu ăn nói quá đáng! Chỉ vạch thành phần giai cấp đối với động vật đứng trên hai chân thôi. Nếu xếp sói vào đội ngũ giai cấp thì cậu là sói hay người? Cậu không sợ bỏ cùng một rọ lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản với sói? Với lại, người giết người có phải là tàn sát đồng loại không? Người giết người nhiều hơn sói giết sói. Thế chiến I chết vài triệu, Thế chiến II chết vài chục triệu. Sau người vượn Bắc Kinh, con người đã nhiễm tập tính giết đồng loại. Bản chất người tàn nhẫn hơn sói. Cậu cần phải học nhiều!

Lý Hồng Vệ nổi đóa, trỏ roi ngựa vào mũi Trần Trận: Cậu là theo đóm ăn tàn, đọc toàn những sách độc hại của tư bản, phong kiến, xét lại. Cậu chịu ảnh hưởng rất sâu cái lão đẻ ra cậu, ở trường thì cậu ngậm miệng ăn tiền, về cái nơi bần cùng lạc hậu này cậu như cá gặp nước, chơi với toàn kẻ xấu.

Trần Trận nóng mặt, chỉ muốn nện cho hắn một cú ngã ngựa, nhưng chợt nhớ tính kiên nhẫn của sói, cậu chỉ trừng mắt nhìn hắn rồi vụt hai roi thật mạnh vào ủng dưới chân, bỏ đi.

Trời chạng vạng tối, những thanh niên trí thức đã quen với nếp sinh hoạt trà sáng cơm chiều, nên lúc này đói meo. Các vị cán bộ mục trường cùng một số mục dân, thanh niên trí thức trở về cùng cỗ xe ngựa chở hai con sói. Trần Trận ở lại cùng Batu, Saxuleng đi tìm hai chiếc thòng lọng, và cũng hy vọng phát hiện thêm một hai con sói. Riêng Trần Trận rất thèm nghe chuyện quần nhau với bầy sói của hai mã quan.

Chương 7

"Sói xám là khẩu lệnh của quân ta!"

Ánh nắng ban mai dọi vào trường Uhu Khan, một sói đực lông xanh bờm xanh hiện ra trong nắng, dùng tiếng sói tâu lên Uhu Khan:... Thần xin dẫn đường cho Khan...

Uhu Khan nhổ trại, con sói đực lông xanh bờm xanh đi trước dãn đường, đại quân theo sau.

Sau đó, Uhu Khan gặp lại con sói lông xanh bờm xanh, sói dùng tiếng sói bảo Khan: "Lập tức lên ngựa cùng quân sĩ!" Uhu Khan lập tức lên ngựa. Sói bảo: "Dẫn theo tất cả A Khun và dân chúng, thần xin đi trước dẫn đường."

Từ đó Khan luông cùng sói xanh xuất chinh...

"Sử thi Uhu Khan".

Hàn Nho Lâm trích dẫn từ "Cùng Lô tập"

Trên thảo nguyên Mông Cổ, cuộc vây ráp quy mô lớn được tổ chức vào đầu mùa đông, khi những con rái cá cạn đã ngủ đông, trong hang. Rái cá lớn hơn thỏ, béo núc ních, món ăn khoái khẩu của sói, là nguồn thực phẩm quan trọng của sói trên thảo nguyên. Khi rái cá ngủ trong hang, sói đói bắt đầu tấn công đàn gia súc, mục trường phải tập trung thợ săn đối phó. Đầu mùa đông là lúc sói có bộ lông dài chống rét, da mềm, lông sáng màu, tuyết lông mịn, những bộ lông thượng hạng như vậy chỉ có ở mùa này và được trạm thu mua định giá cao nhất. Săn bắn mùa đông là nghề phụ quan trọng của mục dân. Săn bắn là dịp để các mã quan rèn luyện và khoe tài cưỡi ngựa, tung thòng lọng và sự gan dạ; cũng là dịp thi thố tài chỉ huy, trinh sát, chọn địa điểm, định giờ giấc, tổ chức, điều phối, hiệu lệnh; cũng là một dịp để các tù trưởng, các Khan, Đại Khan, Đại Đinh huy động bộ tộc diễn tập quân sư trên thực địa, một truyền thống từ ngàn xưa để lại cho đến tận bây giờ. Trận tuyết đầu mùa vừa dứt, công việc chuẩn bị cũng đã hoàn tất. Lúc này, dấu chân sói trên tuyết rất rõ, đàn sói dễ bị lần ra tung tích. Sói tuy chân dài, nhưng không thể chạy nhanh trên tuyết mới, dễ dàng bị ngựa đuổi kịp vì chân ngựa dài hơn.

Tuyết đầu mùa và thời điểm đầu đông rất bất lợi cho sói, mục dân trên thảo nguyên lợi dụng thời tiết này rửa hận cho người và gia súc một năm khổ vì sói.

Thế nhưng, con người nắm được quy luật của thảo nguyên thì sói cũng không lại gì quy luật của thảo nguyên. Những năm gần đây sói ngày càng tinh quái, sói biết mỗi năm một lần săn, nên khi tuyết đầu mùa vừa ngưng rơi là chạy hết sang bên kia biên giới, hoặc chui vào thâm sơn cùng cốc bắt dê bắt thỏ cầm hơi, hoặc nằm co nhịn đói, gặm xương khô hoặc xác súc vật thối, đợi khi tuyết rắn lại, chạy trên tuyết đã quen và người thì đã nản, chúng mới kéo về phá phách.

Tại cuộc họp trên mục trường, Ulchi nói: Mấy năm nay, đầu vụ đông chỉ săn được vài con, mà toàn là những con sói choai. Từ nay ta cũng phải làm như sói, hạn chế đến mức thấp nhất cách đánh đúng bài bản, mà phải làm cho rối tinh rối mù, đánh rồi ngừng, ngừng rồi đánh, tuy không đúng binh pháp, nhưng sói không mò ra quy luật. Thường thì không săn vào mùa xuân, nhưng nay ta làm một cuộc tập kích lớn vào mùa xuân xem sao? Lúc này, bộ da không tốt bằng bộ da mùa đông nhưng vẫn còn được, một tháng nữa sói mới rụng lông, tuy không được giá, nhưng được thưởng đạn.

Hội nghị quyết định, quán triệt tinh thần chỉ thị của trên về việc diệt sói trên cao nguyên Ơlon, xóa bỏ ảnh hưởng rất xấu do sự cố đàn ngựa, huy động toàn thể mục dân triển khai phong trào diệt sói trên quy mô lớn. Ban quản lý nói: Bây giờ là mùa bắt sói con, huy động nhân lực không dễ, nhưng phải kiên quyết tổ chức cuộc săn, nếu không, ăn nói làm sao với thiên hạ!

Ulichi nói: Kinh nghiệm cho thấy, sau một trận đánh lớn, sói chủ lực chắc chắn rút xa, chúng biết con người sẽ trả thù. Lúc này chúng đang quanh quẩn vùng biên, hễ có động là vọt sang bên kia. Vì vậy những ngày sắp tới không nên đánh, phải đợi cho thịt ngựa trong bụng sói tiêu hoá hết, chúng sẽ nhớ đến đàn ngựa đông lạnh. Rái cá cạn và chuột đồng chưa ra khỏi hang, sói đói ăn, chắc chắn phải tìm về ăn thịt ngựa.

Ông già Pilich gật đầu tán thành: Tôi sẽ cùng một số anh em đi đặt bẫy quanh hồ tuyết để đánh lừa. Sói chúa thấy ta đặt bẫy cho rằng ta chỉ nghĩ đến phòng thủ. Trước kia ta thường thu hết bẫy về trước khi tấn công để chó nhà khỏi nguy hiểm. Lần này ta để bẫy đấy không thu về, sói chúa tinh ranh đến mấy cũng bị lừa. Nếu một vài con mắt bẫy, đàn sói sợ chỉ đứng xa mà nhìn, ăn không dám ăn, bỏ đi thì tiếc. Khi ấy ta lập tức bủa vây, chắc chắn bắt được không ít, biết đâu vớ được con đầu đàn cũng nên.

Bao Thuận Quý gọi ông Pilich: Nghe nói sói ở đây rất khôn, đặt bẫy không mắc. Sói già và sói đầu đàn còn cắn bỏ hoặc đánh dấu chỗ thịt tẩm độc để sói cái và sói con ăn chỗ không độc. Có con lôi bẫy lên để trêu ngươi, có thật không?

Ông già Pilich trả lời: Cũng không đúng hẳn. Bả sói của Hợp Cung tiêu rắt nặng mùi, chó nhà còn nhận ra huống hồ sói? Xưa nay bọn tôi không đánh bả, sợ chết chó nhà. Tôi ưa đánh bẫy. Tôi mà đặt bẫy là không thể ngửi thấy, trừ sói thần.

Bao Thuận Quý cảm thấy ban quản lý mục trường giống hệt một bộ tư lệnh, hội nghị sản xuất giống hệt hội nghị quân sự. Xem ra năm xưa trên điều đại đội trưởng kỵ binh Ulichi về đây là đúng chỗ. Với ông ta cũng vậy, làm đại diện quân đội cũng hợp. Ông ta gõ bút vào cốc trà, tuyên bố: Quyết định như vậy nhé!

Ban quản lý ra lệnh: Nếu chưa được sự đồng ý của ban quản lý, cấm các đội và cá nhân tự ý đi săn ở mạn bắc mục trường, đặc biệt không được nổ súng làm kinh động đàn sói. Mục trường sẽ tổ chức cuộc săn sói quy mô lớn, các đội chuẩn bị sẵn sàng, đợi thông báo.

Các đội bắt đầu chọn ngựa, vỗ béo chó, sửa thòng lọng, mài dao, lau súng, tất cả chuẩn bị theo trình tự như khi đi bắt sói con vào tiết thanh minh, xén lông cừu vào mùa hạ, cắt cỏ vào mùa thu, giết thịt cừu vào đầu đông, bận rộn nhưng không lúng túng.

0o0

Sáng sớm, mây đen đầy trời sà thấp cắt ngang các đỉnh núi. Thảo nguyên Ơlon phẳng lì như bị nén. Tuyết lất phất, gió hiu hiu, ống khói trên nóc lều thở khò khè nặng nhọc như người lên cơn hen. Khói sà xuống mặt tuyết đầy phân cừu, phân bò và cỏ vụn. Đợt rét muộn hình như còn dài, chưa có dấu hiệu chấm dứt. May mà gia súc vẫn còn mỡ dự trữ, dày khoảng đốt ngón tay, đủ cầm cự đến khi trời ấm lên, tuyết tan, cỏ bắt đầu mọc. Phía dưới tuyết vẫn còn cỏ, cừu có thể bới tuyết mà gặm.

Đàn cừu nằm ườn trong chuồng nhai lại thức ăn, không muốn ra. Ba con chó sủa suốt đêm, giờ vừa rét vừa đói, nằm run rẩy trước cửa lều. Trần Trận vừa đẩy cửa, con Vàng đã vùng dậy chồm hai chân trước lên vai cậu mà liếm mặt, đuôi vẫy rối rít đòi ăn. Trần Trận bê từ trong lều ra một lô xương chưa lọc hết thịt cho lũ chó. Chúng tranh nhau mỗi con tha một khúc ra một chỗ nằm xuống, hai chân trước ôm khúc xương mà gặm sồn sột, rồi chén tuốt cả xương lẫn tủy.

Trần Trận lại vào trong lều lấy ra mấy miếng thịt mỡ cho con chó cái Ilo. Ilo lông đen mượt, đầu dài, thân dài, chân dài, eo thon, lông mỏng. Hai con này thuộc giống chơ Hưng An, chạy nhanh, ngoặt gấp nhanh, biết giữ và xẻ con mồi, trông thấy sói là lao lên như động đực. Cả hai là cao thủ bắt cáo, nhất là con Vàng học được tuyệt kỹ săn mồi từ bố mẹ. Nó không bao giờ bị con cáo mê hoặc, đớp rất trung đuôi rồi ghìm chặt để con cáo cố trườn lên rồi bất thình lình nhả ra, khiến con cáo chổng bốn vó, con Vàng xông tới cắn một phát đứt họng. Cắn vào họng thì bộ da lành lặn, bán được giá. Những con chó lười nhác thì bị vướng đuôi cáo gãy chân, hoặc cắn con cái nát bét, thường ăn đòn của chủ. Con Vàng và con Ilo không sợ sói. Chúng nhanh nhẹn tránh né cầm chân sói, tạo điều kiện thuận tiện cho người đi săn và chó hạ thủ.

Con Vàng là của ông già Pilich và Caxumai cho Trần Trận. Ilo là của chủ nhà Dương Khắc cho. Dân thảo nguyên Ơlon luôn tặng học sinh Bắc Kinh những thứ tốt nhất. Vì thế, con Vàng và con Ilo lớn lên đẹp hơn những con khác. Về sau Batu thường rủ Trần Trận và Dương Khắc đi săn cáo, lý do chính là vì Batu rất thích hai con chó. Mùa đông vừa rồi, con Vàng và con Ilo bắt được năm con cáo lớn. Hai chiếc mũ lông cáo Trần Trận và Dương Khắc đội trên đầu là tặng phẩm của hai con chó cưng. Sau tết, con Ilo đẻ một lứa sáu con; ba con đã bị ông Pilich, anh Lanmutrac và một thanh niên trí thức bế đi; còn lại ba con thì một cái hai đực, hai vàng một mực, béo mũm mĩm trông chẳng khác lợn bột, rất đáng yêu.

Dương Khắc chăm sóc con chó hơi quá đáng. Cậu ngày nào cũng nấu cho Ilo một nồi cháo đặc gồm thịt vụn và kê. Đã dùng hết quá nửa kê tiêu chuẩn của trạm lương thực cấp cho thanh niên trí thức. Khi đó thanh niên trí thức vẫn hưởng tiêu chuẩn lương thực của Bắc Kinh: 30 cân (15 kilogam) một tháng, nhưng chủng loại thì không như ở Bắc Kinh, 3 cân gạo rang, 10 cân bột mì, còn lại 17 cân là kê. Kê dùng để nuôi chó, đám thanh niên trí thức ăn thịt như dân du mục. Tiêu chuẩn lương thực của dân du mục chỉ 19 cân một tháng. Cháo kê nuôi chó rất tốt, cách nấu do Caxumai dạy cho. Ilo nhiều sữa, đàn chó con của bọn Trần Trận bụ bẫm hơn chó của mục dân.

Một con chó mực giống Mông Cổ to lớn khác thường chừng năm sáu tuổi, đầu vuông miệng rộng, ngực nở chân dài, trường thân, tiếng sủa như hổ gầm. Nó thương tích đầy mình, đầu và lưng nhiều chỗ trụi lông, da đen nhẻm. Nó vốn có hai con mắt giả ở phía trên mắt thật, nhưng nay chỉ còn một, cùng với hai con mắt thật hợp thành ba mắt như Nhị Lang Thần, mặc dù con mắt giả không cân đối trên mặt.

Con Mực hung thần ác quỉ này, Trần Trận nhặt được khi đi mua hàng trên cung tiêu. Hôm ấy trên đường về, Trần Trận luôn cảm thấy có luồng khí lạnh phía sau, con bò cũng có vẻ sợ sệt. Cậu ngoảnh lại trông thấy một con chó to như sói, lưỡi thè ra rất dài lẳng lặng theo sau. Cậu suýt ngã xuống xe vì sợ. Cậu giơ roi dọa đánh, nó không đi, cứ theo về nhà. Đám mã quan biết con chó. Nó có tật cắn chết cừu, bị chủ đuổi ra khỏi nhà, lang thang đã hai năm, tuyết xuống thì nằm dưới chân tường, ban ngày tự đi kiếm ăn: bắt thỏ đồng, rái cá cạn, ăn thịt súc vật chết, nhặt lương thực rơi vãi, và đôi khi tranh ăn với sói độc. Nó cũng đã từng tự đến ở một vài nhà, nhưng vì cái tật cắn chết cừu, lại bị đuổi ra khỏi cửa. Nếu người ta không thương vì nó từng hạ thủ mấy con sói thì họ đã đánh chết nó rồi. Theo quy định, chó nhà cắn chết cừu là phải giết đi, để phòng nó liên kết với sói nổi loạn, và cũng là để răn đe những con chó vẫn còn thú tính. Mọi người khuyên nên đuổi con Mực đi, nhưng Trần Trận thấy nó rất đáng thương. Cậu cũng rất tò mò về nó. Nó đã từng sống chung với sói, từng tồn tại qua những mùa đông khắc nghiệt, rõ ràng là nó rất có bản lĩnh. Với lại, từ sau khi dọn nhà xa con Balua oai phong lẫm liệt, Trần Trận cảm thấy thiếu người đỡ đần bên cạnh. Cậu nói với các mục dân, chỗ các cậu chỉ có chó săn tuổi còn non, thiếu một con chó dữ để trông nhà, nên tạm thời giữ con Mực lại. Nếu nó cắn chết cừu, cậu sẽ bồi thường.

Vài tháng trôi qua, "Nhị Lang Thần" không cắn chết con cừu nào, nhưng Trần Trận vẫn nhận ra nó cố gắng kiềm chế, chủ động lánh xa đàn cừu. Cậu nghe ông già Pilich nói, vài năm trở lại đây có một số lưu manh đến làm thuê ở Ơlon, đã giết thịt hầu hết những con chó hoang. Họ dụ chúng vào trong lều, đóng cửa lại rồi giết thịt. Hình như con Mực đã có lần bị bắt nhưng chạy thoát. Nó không dám lang thang, không dám trở thành chó hoang. Chó hoang không sợ sói, nhưng sợ người giết. Con Mực rất dữ, gác đêm sủa tới sáng, tấn công sói quyết liệt, lúc nào cũng có máu sói dính trên mép. Một mùa đông đã qua, đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc không con nào bị sói vồ hoặc bị cắn chết. Nhiệm vụ chính của chó thảo nguyên là gác đêm, giữ nhà và đi săn. Ban ngày chó không đi theo đàn cừu và cũng không ở cùng đám cừu non vì cách bức tường xây. Có lẽ vì thế mà con Mực dần cải tà quy chính.

Mấy cậu thanh niên trí thức ở cùng Trần Trận cũng đối xử rất tốt với con Mực, thường cho nó ăn. Nhưng con mực chưa khi nào tỏ ra gần gũi với người, chưa bao giờ biểu thị tình cảm đối với những người đã bao dung nó. Nó không chơi đùa với con Vàng và con Ilo, ngay cả khi gặp chủ, phải tinh mắt mới thấy nó vẫy đuôi. Buổi sáng rảnh rỗi, nó thường đi dạo một mình trên đồng cỏ hoặc nằm một nơi rất xa căn lều ngắm trời ngắm đất, trầm tư mặc tưởng, cặp mắt lim dim, biểu lộ một tình cảm lưu luyến đặc biệt với thảo nguyên.

Một lúc nào đó, Trần Trận chợt thấy con Mực không giống chó mà có phần giống sói. Tổ tiên của chó là sói. Khuyển Nhung là bộ tộc có mặt sớm nhất trên thảo nguyên tây bắc Trung Quốc, tự nhận tổ tiên của họ là hai con chó trắng. Tôtem của Khuyển Nhung là chó. Trần Trận thường tự hỏi: Vì sao một bộ tộc mạnh trên thảo nguyên lại thờ một con vật đã bị nhân loại thuần hóa làm vật tổ? Có lẽ cách đây vài ngàn năm, sói thảo nguyên cực kỳ dũng mãnh, đầy thú tính, hoặc giả là chó nhưng chưa mất hết thú tính. Hai con chó trắng mà tộc Khuyển Nhung sùng bái có thể là sói trắng. Trần Trận nghĩ, phải chăng con Mực hung dữ mà cậu đem về là một con chó nhưng mang đầy đủ tính sói? Hay là một con sói nhưng một trăm phần trăm tính chó? Hay là nó có những dấu hiệu trở lại sói?

Trần Trận thường ngồi xuống bên cạnh vuốt ve, gãi ngứa cho con Mực, nhưng nó ít khi hưởng ứng, ánh mắt không rõ u tối hay thâm trầm, đuôi phe phẩy rất nhẹ, chỉ cậu mới cảm thấy. Trần Trận không hiểu nó cần gì để giúp nó trở lại tập tính thông thường của loài chó như con Vàng chẳng hạn, có công ăn việc làm, có người thương, sống bằng sức lực của mình, một cuộc sống vô lo. Nhưng đôi khi Trần Trận cũng nghĩ lan man: Chẳng lẽ nó không muốn cuộc sống bình thường của chó, trở về với thế giới của loài sói? Thế thì vì sao hễ trông thấy sói là nó nổi hung, coi như kẻ thù không đội trời chung? Đó là nhìn vẻ bên ngoài. Nó là một con chó một trăm phần trăm, lông đen tuyền đã đủ vạch rang giới giữa nó với loài sói. Nhưng sói Ấn Độ, Liên Xô, Mỹ, cổ La Mã và sói Mông Cổ ngày xưa từng nuôi dưỡng trẻ con. Chẳng lẽ nó không thích nuôi chó con? Nhưng nếu nó gia nhập đàn sói thì là tai họa cho những đàn ngựa, đàn bò, đàn cừu. Có thể nỗi đau của nó là cả chó và sói đều không nhận nó, hoặc giả nó không muốn ngả về bên nào. Trần Trận nhiều lúc nghĩ, nó quyết không phải chó - sói, chó - sói tuy dữ nhưng tính chó trăm phần trăm. Có thể nó là loài sói - chó rất ít gặp, hoặc tính nết mỗi thứ một nửa, hoặc tính sói trội hơn tính chó. Trần Trận chưa hiểu sâu con Mực. Cậu thấy nên đối xử tốt với nó, dần dà sẽ hiểu nó. Cậu rất muốn trở thành người bạn của nó. Cậu định bụng sẽ không gọi nó là "Nhị Lang Thần" mà gọi "Nhị Lang", gọi đúng tên, không thần thánh gì hết.

Trần Tận cho lũ chó ăn để đợi Dương Khắc và Cao Kiên Trung ngủ dậy. Cậu cũng vuốt ve con Nhị Lang luôn luôn tỏ ra vô cảm.

0O0

Bốn học sinh cùng lớp ở cùng lều đã hơn một năm. Bốn người: Một mã quan (chăn ngựa), một ngưu quan (chăn bò), hai dương quan (chăn cừu).

Mã quan Trương Kế Nguyên năng nổ, cẩn thận, cùng Batu và Lanmatrac chăn đàn ngựa chừng năm trăm con. Ngựa ăn nhiều tốn cỏ, nên phải đi xa để không tranh ăn với bò, cừu. Vào những nơi thâm sơn cùng cốc xa xôi cách trở, sói đàn lảng vảng, chen chúc trong lều dã chiến chỉ vừa đủ cho hai người nằm, đun nấu trên cái lò bằng sắt tây, nhiên liệu là phân ngựa khô, cuộc sống còn hoang dã hơn sống trong lều Mông Cổ. Công việc của mã quan nguy hiểm và gian khổ, trách nhiệm thì nặng nề, nhưng mã quan có địa vị cao nhất trong cộng đồng. Đây là cái nghề đáng tự hào nhất của bộ tộc sống trên lưng ngựa.

Tung thòng lọng bắt ngựa là một nghệ thuật, đẹp và hấp dẫn. Cũng có thể dùng thòng lọng bắt sói. Mã quan gần như ngày nào cũng dùng đến thòng lọng để đổi ngựa cưỡi, sửa bờm ngựa, cho ngựa uống thuốc hoặc tiêm chích, kiểm tra ngựa, luyện ngựa... Mã quan nào cũng rèn luyện kỹ thuật bắt ngựa bằng thòng lọng. Sử dụng cây sào dài, trên mình con ngựa phi như bay, nhắm chuẩn, rướn người tung cuộn dây thòng lọng trúng cổ ngựa. Mã quan giỏi hễ tung là trúng, rất ít khi hụt. Với kỹ năng này mà bắt sói, chỉ cần ngựa chạy nhanh, cự li gần, có chó săn giúp sức, là có thể tròng trúng cổ sói rồi phóng ngựa trở về, sói sẽ bị xiết cổ chết, hoặc cho chó cắn chết. Ban ngày, sói rất sợ mã quan, hễ thấy mã quan cầm thòng lọng là chạy trối chết hoặc nấp trong cỏ rậm. Trần Trận nghĩ sói sợ ban ngày mà không sợ đêm, có lẽ liên quan tới chiếc thòng lọng. Chiếc thòng lọng bắt ngựa của mục dân Mông Cổ đã có lịch sử mấy ngàn năm, thời gian ấy đủ để thay đổi tập tính của sói.

Cây thòng lọng trên thảo nguyên Ơlon là cây thòng lọng đẹp nhất, đắc dụng nhất và hoàn mỹ nhất mà Trần Trận từng thấy. Nó dài hơn, tinh vi hơn, thực dụng hơn những cây thòng lọng mà cậu đã thấy trên sách báo phim ảnh của mục dân nơi khác. Mã quan Ơlon thường tự hào mà khoe cây thòng lọng của họ là loại cao cấp nhất, lợi hại nhất và đẹp nhất so với toàn Mông Cổ. Thảo nguyên Ơlon nằm ở phía bắc lưu vực sông Mã Câu nổi tiếng của Mông Cổ, nơi sản sinh chủ yếu giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng (xưa gọi là ngựa Đột Quyết). Ngựa là bạn, là chiến hữu thân thiết của người Mông Cổ. Cây thòng lọng bắt ngựa cũng không thể tùy tiện, xấu tốt cũng năm sáu mét đến bảy mét. Nó thường được ghép bởi hai mảnh bằng gỗ bạch hoa. Trần Trận có lần trông thấy cây thòng lọng dài tới chín mét. Sào càng dài càng dễ tròng trúng cổ sói. Thẳng thì như cây trúc không đốt. Muốn thẳng, mã quan bào phẳng các mắt gỗ, chỗ nào cong thì dùng phân ngựa tươi để hun cho mềm ra, sau đó nắn thẳng bằng cách ép khít vào một vật phẳng. Đầu cây sào còn cột một đoạn roi nhỏ dài chừng nửa mét, thô bằng ngón tay, đầu roi nhỏ tết một cái khuyết bằng lông bờm ngựa, dây thòng lọng luồn qua khuyết đó sẽ không bị trơn. Dây thòng lọng bắt ngựa là loại dây bền nhất, chịu lực tốt nhất, không làm bằng những sợi da bò, mà bằng ruột cừu bện như thừng. Đây là một công nghệ phức tạp, mã quan không tự làm được mà phải mua trên Cung tiêu. Công đoạn cuối cùng là trộn phân cừu tươi với lông cừu, miết trên cây sào từ màu trắng chuyển sang màu phân cừu, đợi phân khô, lấy khăn lau sạch. Lúc này cây sào có màu đồng điếu, giống như một loại vũ khí bằng kim thuộc thời xưa.

Khi mã quan ngồi trên ngựa nách kẹp cây sào, ngọn sào chúc xuống tự nhiên theo sức nặng, thòng lọng đung đưa theo nhịp chân ngựa, linh hoạt như con rắn dài. Lũ sói đều đã từng trông thấy cảnh tượng hãi hùng khi thòng lọng xiết cổ. Có lẽ trong con mắt sói, chiếc thòng lọng đáng sợ như long thần. Ban ngày trên thảo nguyên, bất kể lớn bé già trẻ, dù chỉ đi một mình trên đồng cỏ vắng vẻ hoặc trong thung lũng heo hút, chỉ cần trong tay có cây thòng lọng là bình yên vô sự. cây thòng lọng coi như một đạo bùa.

Trương Kế Nguyên làm mã quan đã được một năm. Cậu tay nghề kém, thường tung thòng lọng không trúng. Cậu không thể tự thay ngựa, mà phải nhờ Batu giúp. Có khi cậu thòng trúng, nhưng trong khoảng khắc khi chiếc thòng chưa tròng vào cổ con ngựa, cậu không kịp ngồi lùi lại phía mông, để dùng yên làm vật cản giữ người lại, cây sào liền bị con ngựa giật khỏi tay, chỉ lát sau cái vật mà cậu mất mấy ngày mới làm ra đó, bị ngựa xéo gãy làm ba khúc. Cậu thường đến chỗ đàn cừu để luyện khiến đàn cừu chạy tán loạn, có con suýt trụy thai, ông già Pilich phải có ý kiến mới thôi. Về sau ông già bày cho cậu tập tung thòng lọng vào chiếc cọc phía sau xe bò, cậu tiến bộ trông thấy, đã có thể đổi ngựa cho cả ba người, một vấn đề không dễ dàng thực hiện. Trương Kế Nguyên rất ít khi về nhà, một tháng về tổng cộng một tuần là nhiều. Về đến nhà là lăn ra ngủ, thức dậy lại kể cho cánh Trần Trận nghe những chuyện về người, ngựa và sói.

Mã quan có nhiều ngựa tốt, được đi nhiều biết nhiều. Mục trường cấp cho mã quan bảy tám con ngựa chuyên dụng, còn được sử dụng những con ngựa mới nhập đàn, ngựa vô chủ. Mã quan gần như thay ngựa mỗi ngày, có khi ngày hai lần. Mã quan không nương nhẹ con ngựa, hễ lên yên là phóng như điên bất kể đường ngắn đường dài. Mã quan đến các lều đổi ngựa theo yêu cầu, đưa thư hoặc chở giúp đồ đạc, mời thầy thuốc, báo tin. Mã quan nhận được nhiều nhất những nụ cười duyên của các cô gái, khiến các cậu dương quan (chăn dê) rất hâm mộ, vì các cậu này chỉ được cấp bốn năm con ngựa, còn thông tin thì mù tịt. Nhưng chăn ngựa là công việc nặng nhọc và nguy hiểm trên thảo nguyên. Nếu không có những tố chất của loài sói: kiên trì, dũng cảm, khoẻ mạnh, mưu trí, nhạy cảm, cảnh giác, chịu đói chịu khát, dãi dầu mưa nắng... thì mục trường không tuyển. Cứ bốn người mà chọn được một mã quan thì đã là may rồi. Những chuyện về sói Trần Trận thu thập được phần lớn do Trương Kế Nguyên kể. Mỗi khi về nhà, Trương Kế Nguyên thường được Trần Trận chăm sóc chu đáo từ cái ăn cái uống. Hai người rất hợp gu trong những chuyện về sói. Mã quan là những người đứng trên tuyến đầu chiến đấu sinh tử với sói, nhưng thái độ đối với sói thì rất mâu thuẫn. Trần Trận, Dương Khắc, Trương Kế Nguyên thường trò chuyện tới khuya, đôi khi tranh luận không dứt. Trương Kế Nguyên bao giờ cũng trở về với đàn ngựa hơi muộn. Cậu mượn của Trần Trận vài quyển sách đọc cho đỡ buồn.

Cao Kiện Trung chăn hơn một trăm bốn mươi con bò. Chăn bò là công việc thoải mái nhất trên thảo nguyên. Người Mông Cổ có câu: ngưu quan sướng hơn huyện quan. Đàn bò đi sớm về muộn, thuộc đường ra bãi, nhớ đường về nhà. Bê con buộc thành hàng vào sợi thừng tết bằng lông bờm ngựa trước lều, bò mẹ về cho con bú rất đúng giờ. Chỉ lũ bê choai là đáng phàn nàn đôi chút. Đâu có cỏ non là chúng chạy đến và sau đó không thích trở về. Vất vả nhất là đi tìm bò lạc và đuổi bò về. Một con bò khi đã nổi khùng thì gân cổ lên, mắt trợn trừng, ỳ ra không chịu bước, những muốn đập cho một trận. Ngưu quan có nhiều giờ rỗi, cần giúp việc gì có thể nhờ họ. Mông Cổ mà không có bò thì rất vất vả. Kéo xe, dời nhà, cho sữa, các món ăn bằng sữa bò, thịt, da, phân, tất cả trông vào con bò. Dân tộc trên lưng ngựa, tất yếu gia đình trên lưng bò. Ngưu quan, mã quan, dương quan ba loại công việc gắn với nhau như một chuỗi xích, không thiếu được khâu nào.

Trần Trận và Dương Khắc cùng chăn đàn cừu hơn một ngàn bảy trăm con, hầu hết là giống cừu đuôi to nổi tiếng của vùng Ơlon, khu đuôi to như cái đĩa cỡ trung bình, mỡ màu trắng đục, ròn mà không ngấy, thịt thơm mà không có mùi hôi. Ông Ulichi nói: Cỏ ở Ơlon tốt nhất so với cỏ các nơi trong khu vực, mà cừu Ơlon cũng là giống cừu tốt nhất, xưa kia là cừu tiến vua, là món thịt cừu mà Hốt Tất Liệt sau khi tiến vào Bắc Kinh đích thân tuyển chọn. Ngày nay khi lãnh đạo nhà nước tiếp nguyên thủ các nước A Rập theo đạo Islam đều chọn cừu Ơlon. Nghe nói nguyên thủ các quốc gia đó thường bỏ bê việc nước để đến thăm xứ sở của loại cừu này. Trần Trận nghĩ, sói Ơlon cao lớn lạ thường, đầu óc tính toán nhanh hơn người, có thể là do ăn thịt cừu Ơlon. Trong đàn cừu có những con lai giống Tân Cương với giống bản địa, lông mịn, cho len tốt, sản lượng cao gấp ba bốn lần cừu nội, nhưng thịt nhão, không thơm, dân du mục không thích ăn. Rồi đến sơn dương, số lượng rất ít, chiếm khoảng 1/30 đàn cừu. Tuy sơn dương ăn cỏ cả rễ phá hoại đồng cỏ, nhưng bộ lông rất được giá, hơn nữa, những con sơn dương thiến sừng nhọn rất dũng cảm, dám quần nhau với sói. Đàn cừu nào mà có sơn dương là có thể chống lại sói độc. Do vậy, đàn cừu Mông Cổ thường là do vài chục con sơn dương làm nhiệm vụ đầu đàn. Sơn dương nhớ bãi chăn, nhớ đường về, lại dám tự quyết, gặp cỏ ngon là cho đàn dừng lại ăn, cỏ không ngon thì dẫn đàn đi nơi khác. Sơn dương còn một ưu điểm nữa so với cừu. Đó là khi bị sói công kích, chúng be rầm lên và chạy lung tung, mục đích là báo động cho cả đàn. Còn cừu thì bị cắn thủng bụng mà vẫn im như thóc không dám be một tiếng, mặc cho sói xé xác. Trần Trận nhận thấy dân du mục Mông Cổ rất giỏi lợi dụng sở trường các các loài vật trên đồng cỏ, nhằm mục tiêu hại ít lợi nhiều.

Hai cậu dương quan, một chăn ban ngày, một gác đêm. Ngày công, ban ngày mười điểm, ban đêm tám điểm, hai người luân phiên hoặc đổi phiên cho nhau, người này đi vắng thì người kia làm thay. Nếu chó tốt thì gác đêm vụ xuân có thể ngủ đẫy giấc. Nhưng ba vụ sau là du mục, không có chuồng xây để chăm sóc cừu con như vụ xuân, chỉ dùng xe bò, hàng rào tạm và thảm quây thành hình bán nguyệt, hoàn toàn không ngăn nổi sói, nếu nạn sói nghiêm trọng thì đúng là khổ sai, suốt đêm đừng hòng chợp mắt, cầm đèn pin lượn quanh chuồng, quát tháo khản cổ lũ chó. Ông Ulichi nói: Trực đêm chủ yếu là phòng sói, hàng năm công điểm trực đêm bằng 1/3 tổng số công điểm của mục trường. Đó chính là khoản chi rất lớn về sói. Trực đêm là công việc chính của phụ nữ Mông Cổ. Phụ nữ ban đêm trực, ban ngày làm việc nhà, rất ít khi ngủ đẫy giấc. Người ban ngày làm lụng, sói ban đêm quậy phá; người khốn đốn, sói hung hăng. Sói thảo nguyên quậy phá đến nỗi con người ăn không ngon ngủ không yên. Sói đánh gục từng gia đình, từng thế hệ phụ nữ. Do vậy, các nữ chủ nhân thường ốm đau, chết yểu. Nhưng cũng có nhiều người có sức khoẻ, trụ vững. Sói thảo nguyên sinh sản quá nhanh, còn người thì không thể tăng trưởng nhanh trên quy mô lớn. Do đó xưa nay chưa hề xảy ra nạn nhân mãn mà chỉ có chuyện khai khẩn đất hoang để có cai ăn. Chính là sói đã khống chế sự phát triển dân số trên thảo nguyên.

Đàn cừu là nền tảng của nghề chăn nuôi trên thảo nguyên. Nuôi cừu để có thịt ăn, có áo mặc, có phân khô để đun nấu, thu nhập hai công điểm một con, bảo đảm cuộc sống nguyên thủy của người thảo nguyên. Vậy mà cuộc sống của người chăn cừu tẻ nhạt, mòn mỏi và tù túng, từ sáng tới đêm một mình với đàn cừu trên đồng cỏ ngút mắt hoặc tuyết trắng. Từ trên cao nhìn ra, vài chục dăm vuông không một bóng người. Không có người để chuyện trò, có sách không dám đọc chăm chú, vì phải coi chừng sói tập kích. Ngày nào cũng cảm thấy mình như Tô Vũ chăn dê, cô đơn thui thủi, con người khác gì cỏ dại. Cảm giác này đuổi không đi, vì nó đã thấm sâu vào xương tủy. Trần Trận thường cảm thấy mình đã già, rất già, già hơn cả Tô Vũ. Ngàn năm nay thảo nguyên không hề thay đổi, con người vẫn sống cuộc sống du mục nguyên sơ, vẫn đang tranh giành miếng ăn với sói, quyết liệt và bất phân thắng bại. Trần Trận cảm thấy mình như người vượn Bắc Kinh, kẻ thù là sói. Nếu như một ngày nào đó Tô Vũ tay cầm gậy trúc, hoặc người vượn quấn tấm da thú xuất hiện trước mặt, thì cậu cũng không lấy làm lạ. Có thể trong câu chuyện giữa họ với nhau, đầu đề vẫn là sói. Thời gian trên thảo nguyên Ơlon đọng lại như hóa thạch. Cái gì đã giữ nguyên bộ mặt của thảo nguyên từ thời viễn cổ, không mảy may thay đổi? Phải chăng là sói?

0O0

Với Trần Trận, chăn cừu là công việc rất có lợi. Cậu có thì giờ một mình nghiền ngẫm, cho đôi cánh của tư tưởng tự do bay lượn. Hai hòm sách to tướng đem từ Bắc Kinh về, lại thêm một hòm sách lịch sử và sách cấm có chọn lọc của Dương Khắc, cậu có thể tiêu hóa tất cả số sách bằng cách nhai lại của con cừu. Ban đêm, cậu ngốn sách kinh điển như cừu ngốn cỏ; ban ngày cậu ngốn tinh hoa văn hóa Trung Quốc và nước ngoài. Cậu nghiền ngẫm, suy từ, coi sách vẻ khô khan như cỏ non đầy nhựa. Ban ngày chăn cừu, cậu thường dành nhiều thời gian cho suy nghĩ, cậu chỉ đọc lướt, chỉ khi chắc chắn không có sói, cậu mới đọc thật sự. Chẳng lẽ như lời ông già Pilich: Phải hiểu thảo nguyên, hiểu người Mông Cổ thì mới hiểu được sói! chẳng lẽ thảo nguyên ngàn vạn năm vẫn giữ nguyên bộ mặt, dân tộc thảo nguyên không thể phát triển thành dân tộc lớn, liên quan tới sói? Cậu cho là có thể như thế. Chỉ ít sự tấn công của sói đã gây ra những tổn thất có thể tính đếm cũng như không thể tính đếm cho mục trường, khiến sự nghiệp chăn nuôi và sự nghiệp con người không thể tích luỹ nguyên thủy, khiến người và gia súc dừng lại ở trình độ tái sản xuất giản đơn, duy trì nguyên trạng trình độ nguyên thủy, không thể dôi ra nhân lực và tài lực để phát triển mậu dịch, thương nghiệp, nông nghiệp, càng không thể phát triển công nghiệp. Những vấn đề mà sói can dự rất rộng và rất sâu. Vậy mà hiểu được sói thì khó quá. Người ở chỗ sáng, sói trong bóng tối. Tiếng tru của sói có thể nghe thấy từ xa mà không thể lại gần. Trần Trận rất muốn nuôi một con sói nhỏ ngay bên lều để cậu ngày đêm quan sát từ lúc còn nhỏ tới lúc lớn.

Cậu lại nghĩ tới con sói cái tha con cừu non đi đâu, và ổ sói con ở chỗ nào?

Hôm ấy sau khi quan sát đàn cừu một lượt thấy không có gì, cậu bèn nằm ngửa trên bãi cỏ ngắm con chim ưng đang bay lượn trên trời xanh. Thấy đàn cừu có vẻ xôn xao, cậu bật dậy trông thấy một con sói lớn xông vào giữa đàn cừu ngoạm lấy gáy một con cừu non hất lên vai, chạy dọc theo khe về phía Núi Đen, thoáng cái đã mất hút. Cừu non thường hay kêu, tiếng kêu lảnh lói. Chỉ cần nghe tiếng kêu của con cừu non là xảy ra phản ứng dây chuyền, hàng trăm con cừu non và cừu mẹ kêu đinh tai nhức óc. Nhưng con sói ngoạm vào gáy, khiến họng con cừu không phát ra thành tiếng, rồi sói mẹ lẳng lặng rút lui, khiến hầu hết những con cừu không biết đã xảy ra chuyện gì, có thể cừu mẹ cũng không biết đã mất con. Nếu Trần Trận không tinh mắt và cảnh giác cao thì chiều về điểm lại số cừu mới biết. Trần Trận kinh hoàng như đụng phải một phi tặc vào loại cao thủ, thó túi tiền ngay trước mũi cậu.

Khi đã bình tĩnh, Trần Trận cưỡi ngựa đến chỗ con sói bắt cừu non. Cậu nhìn thấy trong bụi cỏ rậm có một cái hố, cỏ trong hố bẹp đi. Rõ ràng là con sói nằm phục tại đây từ lâu chứ không phải chạy từ đâu tới, nếu chạy đến thì cậu đã nhìn thấy. Trần Trận nhìn mặt trời, nhẩm tính con sói đã phục ở đây hơn ba tiếng đồng hồ. Chỉ sói mẹ mới bắt cừu non trong mùa này, nó dùng con mồi còn sống để dạy con. Và cũng là để cho các con ăn vì chúng đang cai sữa. Thịt cừu non dễ tiêu.

Trần Trận rất căm con sói, nhưng cậu thấy vãn còn may. Gần đây cậu và Dương Khắc cứ hai ba hôm lại mất một cừu non, các cậu nghi cho chim ưng hoặc đại bàng bắt. Loại giặc nhà trời này nhanh như chớp lao xuống quắp lấy một con cừu non rồi bay vút lên cao. Nhưng khi chúng bổ nhào thì đàn cừu kinh hãi chạy tán loạn, các cậu không thể không biết. Vì vậy, các cậu không hiểu cừu non vì sao mà mất? Cho đến khi mục kích con sói dùng kỹ xảo bắt cừu và trông thấy cái hố, Trần Trận mới vỡ nhẽ. Nếu không, con sói cái còn tiếp tục bắt trộm.

Mặc cho mọi người nhắc nhở, Trần Trận vẫn để xảy ra sai sót. Binh vô thường pháp, sói thảo nguyên rất giỏi tùy cơ ứng biến, sử dụng rất nhiều đấu pháp. Sói không có cánh nhưng cứ như từ trên trời rơi xuống, khiến anh trơ mắt ếch, không khôn cũng phải khôn ra.

Trần Trận vuốt ve con Mực, nó không tỏ vẻ hàm ơn.

Tuyết rơi, Trần Trận chui vào trong lều cùng Dương Khắc, Cao Kiện Trung uống trà, ăn thịt hun, ăn đậu phụ của Caxumai cho, bên bếp lò đun bằng phân ngựa. Trần Trận lại thuyết phục Dương Khắc và Cao Kiện Trung cùng cậu đi bắt sói con. Phải nuôi một con để có sự hiểu biết về sói, biết địch biết ta.

Cao Kiện Trung nướng thịt bên bếp lò, mặt ỉu xìu, nói: Bắt sói con đâu phải chuyện đùa. Cách đây mấy hôm, các anh Lanmutrac hun khói một hang sói. Sói mẹ liều chết chống lại, suýt cắn đứt cánh tay Lanmutrac, ba bốn mã quan, ngưu quan cùng bảy tám con chó xúm lại mới tóm được con sói. Cái hang sâu quá, họ thay phiên nhau đào hai ngày mới thấy sói con. Cừu mẹ bênh con dám húc người, sói mẹ bảo vệ con dám chết bỏ. Chúng mình không có súng, chỉ dùng xẻng và roi ngựa thì làm sao đánh lại? Đào hang sói đâu phải việc nhẹ, lần trước tôi đi cùng Tang Kiệt, đào hai ngày mà vẫn chưa tới ổ, cuối cùng đành hun khói rồi lấp hang, không hiểu sói con có chết không? Tang Kiệt bảo, sói mẹ biết bị khói, trong hang có lỗ thông hơi ngầm. Sói thường xuyên di chuyển chỗ ở. Mục dân bắt sói con mà khó như thế, không hiểu chúng mình có làm nên trò trống gì không?

Dương Khắc trái lại rất vui. Cậu bảo Trần Trận: Tớ sẽ đi với cậu. Tớ có một cây gậy sắt, đầu vát nhọn như mũi giáo, đảm bảo gặp sói mẹ chiến đấu được. Lại có cả dao quầm, giá gỗ có chân. Giờ mà đánh bắt được một con sói gộc thì chúng ta tha hồ mà vênh váo!

Cao Kiện Trung trêu: Lại một tấc đến trời rồi! Cẩn thận kẻo sói biến cậu thành "nhắm lại anh hùng có một người" - anh chột, thành chó dại, à mà không, thành sói điên thì rầy rà to!

Dương Khắc lắc đầu: Không sao, tớ cao số, hồi vũ đấu ở trường, tổ tớ có năm người thì bốn thằng bị thương, chỉ mỗi mình tớ là không việc gì. Vì sao người ta cứ lo sợ vẩn vơ thế nhỉ? Người Hán như cậu mới để cho dân du mục vào chiếm trung nguyên! Lanmutrac bảo tớ là cừu ăn cỏ, anh ta là sói ăn thịt. Ta mà bắt được sói con thì Lanmutrac không gọi ta là "đồ con cừu" nữa! Tớ dám lấy một mắt để đánh cuộc!

Trần Trận nói: Được rồi, nói lời thì phải giữ lời, không được bỏ cuộc đấy nhé!

Dương Khắc dằn chén trà lên mặt bàn, hỏi: Khi nào đi? Đi càng sớm càng tốt. Để muộn thì có khi mục trường điều chúng mình đi vây ráp đàn sói. Với lại, mình cũng thích công việc này lắm.

Trần Trận đứng lên nói: Vậy thì ăn xong đi luôn, phải trinh sát trước.

Cao Kiện Trung quệt mép, nói: Được, lại phải nhờ Quanbu chăn cừu hộ, vậy là bọn mình mất một ngày công.

Dương Khắc nói khảy: Lần kéo về một xe đầy ắp dê thì được bao nhiêu công điểm. Cậu keo kiệt thế?

Cao Kiện Trung và Dương Khắc đang chuẩn bị yên cương chợt thấy Bayan cưỡi con ngựa lông vàng chạy tới nói ông Pilich muốn gặp Trần Trận. Trần Trận nói: Bố già chắc có chuyện quan trọng. Dương Khắc nói: Chưa chắc đã phải chuyện vây ráp, cậu đi ngay đi, nhân tiện hỏi cách nào bắt sói con.

Trần Trận lập tức lên yên, Bayan thấp bé không lên ngựa được ở chỗ đất bằng. Dương Khắc định bế Bayan lên yên nhưng cậu bé không chịu. Cậu dắt ngựa tới bên cỗ xe bò, trèo lên xe, lồng chân vào bàn đạp rồi nhảy lên ngựa. Hai người ra roi cho ngựa phi nước đại.

Chương 8

Đời Minh Đế nhà Đông Hán, các bộ Bạch Lang, Bàn Mộc phía tây quận Văn Sơn gồm một triệu ba mươi vạn hộ, sáu triệu nhân khẩu, tình nguyện quy thuộc nhà Hán. Họ dâng tặng nhà vua ba chương thơ có tên "Bạch Lang ca", tỏ ý "Sói chúa trắng vì ái một (nhà Hán) mà về với chính nghĩa"...

Trương Truyền Tỷ

"Trung Quốc đại sử cương" Quyển thượng.

Trần Trận chưa xuống ngựa đã ngửi thấy mùi thịt mà không phải là mùi thịt cừu, bay ra từ trong lều ông già Pilich. Cậu lấy làm lạ, liền xuống ngựa bước vào. Ông già Pilich bảo cậu đừng vào vội. Trần Trận dừng chân, thấy các góc đông, tây, bắc của căn lều, các tấm thảm trải dưới đất đã được cuộn lên. Trên những tấm da ngựa chưa thuộc bầy la liệt những chiếc bẫy sói bằng thép, chí ít bảy tám cái. Một nồi to trên bếp lò giữa căn lều sôi sùng sục, mùi thịt bay ra từ đấy. Caxumai mồ hôi nhễ nhại, đang lúi húi thêm phân vào lò. Đứa con gái năm tuổi của chị - Xixico đang chơi với một đống mạt chược, có đến sáu bảy mươi quân. Batu ngồi bên lau bẫy, những vết thương trên mặt đang mọc da non. Bà vợ ông Pilich tên Ơchi cũng đang lau chùi bẫy. Trần Trận không biết ông già đang nấu thịt gì trong nồi. Ông Pilich dẹp một chỗ cho Trần Trận ngồi.

Trần Trận pha trò: Bố ninh bẫy để ăn hả bố? Răng cụ còn khoẻ gớm.

Ông Pilich cười tít, nói: Cậu mới đoán trúng một nửa. Tôi đang luộc bẫy. Răng của tôi thì không ổn rồi, chỉ có răng của bẫy là tốt. Cậu xem đây, bẫy đầy răng.

Trần Trận ngạc nhiên hỏi: Bố luộc bẫy để làm gì?

Bẫy sói - Ông già Pilich chỉ vào nồi - Tôi kiểm tra cậu nhé, thịt gì trong nồi?

Trần Trận lắc đầu. Ông già chỉ vào khay thịt để bên lò, nói: Đây là thịt ngựa tôi lấy từ hồ tuyết về. Luộc một nồi thịt ngựa, lấy nước luộc bẫy sói. Cậu biết vì sao lại phải làm thế không? Là để bẫy khỏi gỉ. Trần Trận hiểu ra, tỏ vẻ thích thú: Thế này thì sói dính bẫy rồi, sói làm sao địch nổi người?

Ông già vê vê bộ ria bạc: Cậu nghĩ thế là không trị nổi sói. Sói thính mũi hơn chó, hơi có mùi gì sắt là biết liền. Có lần tôi chùi thật sạch, hơi sắt hơi người đều không có nhưng sói không dính bẫy. Nghĩ mãi mới nhớ ra là hôm ấy đặt bẫy xong tôi vô ý nhổ đờm, nếu như có đờm trên tuyết thì cũng không sao, đằng này tôi lại dùng gót chân di đi rồi gạt tuyết lên, tưởng thế là ổn, ai ngờ sói đánh hơi thấy.

Trần Trận ngạc nhiên quá đỗi, than: Cái mũi của sói kinh khủng quá!

Ông già nói: Sói có linh tính, có thần bảo hộ, có ma trợ giúp, rất khó chơi!

Trần Trận định hỏi tiếp về quỉ thần, nhưng ông gài đã quì xuống để vớt bẫy. Bẫy sói khá cồng kềnh, mỗi nồi chỉ luộc được một chiếc. Trần Trận dùng thanh gỗ khều cái bẫy đặt xuống tấm vải đầu, rồi thả chiếc khác vào nồi. Ông già nói: Hôm qua huy động cả nhà chùi cả ngày. Luộc một lần rồi, lần này là lần thứ hai. Chưa xong đâu, lát nữa còn phải trộn mỡ ngựa với lông bờm ngựa rồi chà kỹ lên bẫy. Khi đặt bẫy phải đeo găng tay, rồi rắc phân ngựa khô lên trên. Bắt sói như bắt giặc, không tỉ mỉ không thắng. Tỉ mỉ hơn phụ nữ, hơn Caxumai ấy chứ! Ông già vừa nói vừa cười.

Caxumai ngó Trần Trận bảo: Tôi biết chú đang muốn uống trà. Tôi dở tay, chú tự lấy mà uống. Trần Trận không thích uống nước gạo rang, chỉ thích ăn óc đậu do Caxumai làm. Cậu xúc bốn năm miếng óc đậu rồi rót một bát đầy sữa. Caxumai bảo, Batu định đi nhưng những vết thương trên mặt không cho phép ra khỏi nhà, đành để chàng trai người Hán này đi. Trần Trận cười: Hễ có chuyện liên quan tới sói là bố lại nhớ tới con, phải không bố?

Ông già nhìn Trần Trận, nói: Xem ra cậu đã mê sói rồi đấy. Ta già rồi, muốn truyền nghề cho cậu. Chỉ cần say mê là học được. Nhưng cậu phải nhớ rằng sói là do trời sai xuống bảo vệ đồng cỏ, sói không còn thì thảo nguyên cũng không còn, người Mông Cổ không còn thì thảo nguyên cũng không còn.

Trần Trận sửng sốt: Bố bảo sói và người đều là vệ binh của thảo nguyên?

Ánh mắt ông già trở nên xa lạ. Ông nhìn Trần Trận đăm đăm: Đúng vậy, nhưng cái lý này người Hán không hiểu đâu.

Trần Trận giật mình, vội nói: Bố ơi, bố cũng rõ là con phản đối kịch liệt chủ nghĩa Đại Hán. Con cũng không tán thành đưa người lên thảo nguyên khai hoang.

Nét mặt giãn dần, ông già vừa chùi bẫy vừa nói: Mông Cổ người ít, bảo vệ đồng cỏ không dễ. Không diệt sói, người Mông Cổ còn ít hơn nữa, mà diệt nhiều sói quá, dân số Mông Cổ cũng lại giảm.

Lời ông già có điều gì đó khó hiểu, Trần Trận đành bỏ dở câu chuyện.

Các bẫy đã xử lý xong, ông già bảo Trần Trận: Đi cùng tôi, cậu sẽ thấy phải làm như thế nào.

Ông xỏ đôi găng tay bằng vải bạt, đưa cho Trần Trận một đôi, rồi xách bẫy chui ra ngoài lều, đặt lên cỗ xe bánh sắt. Sàn xe lót thảm đẫm mỡ ngựa. Trần Trận cùng Batu khuân hết các bẫy ra xe, mỡ ngựa gặp lạnh đông lại thành một lớp phủ bên ngoài. Khi các bẫy đã đưa lên hết, ông già trở lại lều lấy một túi phân ngựa khô đưa lên xe. Mọi việc xong xuôi, ba người lên ngựa. Caxumai gọi với: Trần Trận đừng để bẫy kẹp phải tay! Cô dặn Trần Trận mà như dặn Bayan không bằng.

Trông thấy những chiếc bẫy, Balua và mấy con chó liền nổi máu săn, nhao ra định chạy theo. Batu vội túm gáy con Balua, Caxumai cũng giữ rịt cổ một con khác. Ông già Pilich nạt lũ chó ở nhà, rồi dắt con ngựa kéo cỗ xe bò, ba người ba ngựa chạy nước kiệu tiến về phía đầm lầy.

Tầng mây dày vẫn áp sát đỉnh núi, tuyết lại rơi nhẹ, bông tuyết khô và xốp. Ông già Pilich ngửa mặt lên trời, chỉ lát sau mặt ông loáng nước. Ông tháo găng xoè bàn tay hứng tuyết rồi chà lên mặt, nói: Mấy hôm nay bận quá quên cả rửa mặt. Rửa mặt bằng tuyết thích thật. Quanh quẩn suốt ngày bên bếp, mặt ám khói, phải rửa sạch mùi khói, công việc mới đảm bảo.

Bắt chước ông già, Trần Trận cũng rửa mặt. Ngửi ống tay áo thấy có mùi khói của phân cừu, rất có thể vì chi tiết này mà tất cả biến thành công cốc. Cậu hỏi ông già: Mùi khói trên người có sao không hở bố?

Ông già nói: Không sao, đi đường sẽ bay hết. Nhớ là lúc đặt bẫy không được để vạt áo chạm vào thịt ngựa.

Trần Trận nói: Chơi nhau với sói quá mệt! Đêm qua sói tru, chó sủa tới sáng, con chẳng ngủ được mấy tí.

Ông già nói: Thảo nguyên không như dưới xuôi. Dưới xuôi người Hán có thể ngủ một giấc tới sáng. Còn thảo nguyên là chiến trường, người Mông Cổ là những chiến binh, ông trời bắt phải thế. Chỉ muốn ăn no ngủ kỹ thì không phải là chiến binh chân chính. Phải học được cách nằm xuống là ngủ, có tiếng có sủa là mở mắt. Sói ngủ nhưng hai tai vẫn dựng đứng, có động là bỏ chạy. Muốn bắt sói phải có bản lĩnh hơn sói. Ta cũng là một con sói già: ăn được, ngủ được, săn bắt được, tàn một tẩu thuốc đã được một giấc. Sói Ơlon căm ta lắm, chắc chắn khi ta chết chúng sẽ ăn sạch không còn một mẩu. Vậy là ta chầu trời rất nhanh.

Trần Trận vừa ngáp vừa nói: Bọn thanh niên trí thức chúng con ốm nhiều lắm, đã phải gửi về Bắc Kinh một cô. Cứ đà này thì phải gửi về đến một nửa. Con nhất định không cho sói ăn thịt. Phải hỏa táng mới sướng!

Ông già cười hề hề: Người Hán lãng phí quá. Chết mà cần quan tài làm gì. Gỗ ấy đóng được bao nhiêu là xe bò.

Trần Trận nói: Con không cần quan tài, hoả thiêu trực tiếp là xong.

Ông già cười: Nhưng vẫn phải dùng rất nhiều củi đun, lãng phí quá. Người Mông Cổ tiết kiệm làm cách mang, khi chết đặt lên xe bò chạy về hướng đông, rớt xuống chỗ nào đợi sói ăn ở chỗ ấy.

Trần Trận cũng cười: Nhưng mà thảo nguyên làm gì có gỗ hả bố? Ngoài lý do lên chầu trời, phải chăng còn vì tiết kiệm củi, thảo nguyên không thấy có cây cối.

Ông già nói: Ngoài chuyện tiết kiệm củi, còn vì "ăn thịt thì phải trả bằng thịt"!

Ăn thịt phải trả bằng thịt, Trần Trận lần đầu tiên nghe câu này nên chưa hiểu. Cậu vội hỏi: Ăn thịt trả bằng thịt là thế nào hả bố?

Ông già nói: Người thảo nguyên suốt đời ăn thịt, sát hại không biết bao nhiêu là sinh mạng, tội to đấy! Vì vậy khi chết con người trả lại thịt cho thảo nguyên mới công bằng, linh hồn không đau khổ trên thiên đường.

Trần Trận cười: Như vậy quả công bằng. Nếu con không bị sói trả về Bắc Kinh thì con cho sói ăn thịt lại hóa hay. Đàn sói chỉ một loáng là xong, nhanh hơn thiêu bằng củi.

Ông già rất vui, nhưng rồi ông lại lo: Trước kia thảo nguyên không nhiều người Hán. Cả mục trường có trăm ba trăm tư gia đình, khoảng bảy tám trăm người Mông Cổ. Trong cách mạng văn hóa, thanh niên trí thức Bắc Kinh lên đây trên một trăn, lại còn bộ đội, tài xế xe lớn xe nhỏ, thợ xây dựng... Họ đều ghét sói. Rồi đây hết sói, cậu muốn cho sói ăn thịt cũng chịu.

Trần Trận cũng rất vui. Cậu nói: Bố đừng lo, sau này có đánh nhau thì đánh bằng bom nguyên tử, người và sói chết sạch, chẳng còn ai ăn ai nữa.

Ông già khoát tay vẽ một vòng tròn, hỏi: Nguyên... nguyên tử là bom gì?

Trần Trận giải thích một hồi mà ông già vẫn không hiểu, đành thôi.

Sắp đến chỗ những con ngựa chết ở mạn bắc của đầm lầy. Ông già để Bayan ở lại cùng với con ngựa kéo và cỗ xe. Ông xách hai cái bẫy, một chiếc xẻng nhỏ, một túi phân ngựa khô, rồi cùng Trần Trận đi về phía những con ngựa đông cứng, lúc lúc dừng lại, nghiêng ngó. Mấy con ngựa đã bị đụng tới, những vết răng hằn rõ dưới lớp tuyết mỏng và những dấu chân sói xung quanh. Trần Trận không nhịn được, lại hỏi: Sói đã đến hả bố?

Ông già không trả lời, tiếp tục quan sát, sau đó ông bảo sói lớn chưa tới. Ulichi đoán đúng, đàn sói lớn vẫn còn ở phía bắc đường biên phòng, chúng quả thật kiên trì.

Những dấu chân sói này là thế nào hở bố? - Trần Trận chỉ những dấu chân trên tuyết, hỏi.

Ông già nói: Những dấu chân này phần lớn là của cáo, chỉ có một vết của sói mẹ. Đây, phía này là một cặp sói mẹ sói con đi ăn lẻ - Ông già có vẻ suy nghĩ - Mình định bẫy sói đầu đàn hoặc sói gộc trong đàn, nhưng đây toàn là dấu chân cáo, không có sói lớn.

Vậy là công cốc hả bố?

Không hẳn vậy, nhiệm vụ của mình là đánh lạc hướng đàn sói. Thấy mình đánh bẫy, chúng tưởng rằng mình không tổ chức vây bắt, nên kéo về ăn thịt ngựa. Khi chúng về ta mới bủa vây.

Trần Trận hỏi: Có cách nào bắt được một con sói lớn không bố?

Có thể - Ông già nói - Giăng tất cả số bẫy đem theo, chốt sâu một tí, cỡ cho sói và cáo không mắc.

Ông già cho ngựa dạo hai vòng quanh con ngựa chết, chọn điểm đặt bẫy. Trần Trận vội xuống ngựa, xúc tuyết trên mặt rồi dùng cuốc chim đào một hố tròn đường kính bốn mươi phân, sâu chừng mười lăm phân, giữa hố còn đào một hố nhỏ. Ông già đeo găng tay tẩm mỡ ngựa cầm bẫy đặt xuống hố, dùng chân lèn chặt hai bên lưỡi kẹp hình bán nguyệt rồi dùng sức banh lưỡi kẹp đầy răng cưa sang hai bên cho tới khi chạm đất. Sau đó đặt miếng đệm vải hình tròn vào giữa lỗ tròn nhỏ, luồn chiếc tăm sắt dưới tấm đệm rồi luồn vào hố khẩu cái bẫy.

Trần Trận thấp thỏm theo dõi một loạt thao tác vô cùng nguy hiểm của ông già, chỉ cần sơ ý là gãy tay lập tức. Ông già co chân ngồi xổm trên tuyết, mồ hôi rỏ giọt, thở phì phò. Ông lấy ống tay áo lau mồ hôi trên mặt, không cho rớt xuống miếng thịt ngựa. Lần đầu tiên theo ông già đi đặt bẫy, Trần Trận mới hình dung được con sói sập bẫy như thế nào. Chỉ cần đặt chân lên miếng đệm vải rớt xuống, chiếc tăm bật khỏi hố khẩu, bộ lò xo thép với sức bật vải trăm cân đẩy hai hàm răng thép bập vào chân con mồi, gãy xương luôn. Thảo nào sói rất sợ bẫy kẹp. Cái hôm gặp đàn sói, nếu chúng không sợ tiếng va đập của sắt thép thì Trần Trận đã mất mạng.

Việc còn lại là nguỵ trang. Cũng hết sức tỉ mỉ, không được sai sót. Ông già bảo: Không phủ tuyết lên bãy, sức nặng của tuyết có thể làm rớt miếng đệ, hoặc nắng nóng làm tuyết tan ra nước, khiến bẫy bị kẹt vì đóng băng. Cậu đưa cho ta túi phân ngựa.

Ông già đón lấy túi phân, bốc một nắm, vừa vê vừa rắc lên miếng đệm, phân mịn lấp kín các kẽ răng cưa và miệng bẫy. Lúc này miếng đệm vẫn lửng lơ, không sợ phía trong đóng băng. Rồi thì chiếc xích sắt của cái bẫy được móc vào bộ xương con ngựa chết, phủ tuyết mới lên trên. Ông già bảo Trần Trận gạt tuyết lên bẫy, phủ kín bè và lò xo, lấy tuyết xốp rắc lên trên phân ngựa. Cuối cùng dùng mảnh da cừu san nhẹ mặt tuyết phẳng như xung quanh.

Tuyết hoa vẫn nhẹ nhàng rơi. Lát sau, tất cả các dấu vết trên mặt tuyết đều không nhìn thấy nữa. Trần Trận hỏi: Cái bẫy này chỉ sói mới mắc, còn cáo thì không hả bố? Ông già bảo: Đẩy cái then sắt sâu thêm một chút, cáo nhẹ đạp không tụt, sói nặng mới bật then ra.

Ông già nhìn quanh rồi tính cự li bằng bước chân, chọn một địa điểm cách chỗ cũ hai bước, đặt cái bẫy thứ hai. Ông bảo: Cậu đặt đi!

Trần Trận hỏi: Sao hai bẫy đặt gần nhau? Ông già nói: Cậu không biết, có con rất hung, nó cắn đứt cái chân mắc bẫy rồi bỏ chạy bằng ba chân còn lại. Ta đặt thêm một bẫy để khi con sói giằng cái xích, chạy tới chạy lui để rút chân thì chân thì chân sau dẫm phải cái bẫy thứ hai. Chỗ này vừa vặn chiều dài của cái xích. Nếu con sói bị kẹp hai chân thì dù nó cắn đứt cả hai, nó vẫn không chạy thoát. Thử hỏi, chỉ còn hai chân thì chạy sao được?

Trần Trận rùng mình. Cuộc chiến giữa người và sói trên thảo nguyên quả thực tàn khốc. Cả sói và người đều dùng tàn bạo chống lại tàn bạo, tàn nhẫn chống tàn nhẫn, quỉ quyệt đối phó quỉ quyệt. Nếu cứ tiếp tục lấy oán báo oán, gần mực thì đen, con người rồi sẽ biến thành sói, mặt sứa gan lim, không còn tình người. Tuy rất căm thù sói, vậy mà khi đặt bẫy, tay cậu run lên. Cái bẫy này rất hiểm. Nó ở ngay phía trước con ngựa chết béo mập, rất hấp dẫn, chỉ ngửi thấy mùi thịt và phân ngựa, không thấy hơi người và mùi gỉ sắt. Trần Trận tin rằng, con sói ranh mãnh nhất cũng bị đứt gân lòi xương, bị người ta lột lấy da, còn xác thì vứt trên đồng cỏ. Đây mới chỉ bẫy một con, nếu trên quy mô lớn thì đâu chỉ vài con sa bẫy! Cậu nghĩ tới biết bao nhiêu quân sĩ các triều Chu, Tần, Hán, Đường, Tống, Minh... bị dụ vào nơi thảo nguyên heo hút này rồi rơi vào cái bẫy sắp đặt tinh vinh mà toàn quân bị diệt. Xưa kia kỵ binh thảo nguyên không chỉ dựa vào tính hung hãn mà đập tan quân đội của các nước tiên tiến. Họ là những người bảo vệ thảo nguyên, họ học tài năng quân sự và trí tuệ của sói để giữ gìn thảo nguyên, đập tan các cuộc tấn công của sắt và lửa, cày và cuốc của người Hán vào thảo nguyên. Ông già Pilich nói đúng. Trần Trận nghĩ mà sợ.

Ông già cười khà: Sợ rồi phải không? Đừng quên thảo nguyên là chiến trường, kẻ nào sợ máu, kẻ ấy không phải chiến sĩ. Sói dùng quỉ kế sát hại của ta cả một đàn ngựa, cậu có xót xa không? Con người không giở độc chiêu thì không thể thắng sói.

Trần Trận bình tâm lại, cẩn thận gạt tuyết đào hố. Khi đặt bẫy, tay cậu lại run, lần này thì sợ kẹp tay, vì đây là lần đầu. Ông già vừa hướng dẫn, vừa nhét đầu gậy vào hố khẩu để bảo vệ cái tay Trần Trận phòng khi bẫy sập. Cảm kích vì được bảo vệ, Trần Trận cố gắng đặt chính xác. Lúc đứng lên lau mồ hôi, cậu trông thấy ông già mồ hôi nhiều hơn cậu. Ông thở ra một hơi khoan khoái: Này con trai, ta hướng dẫn con đặt một cái nữa, đến cai thứ ba thì con tự làm lấy. Ta thấy con đã thạo rồi đấy. Trần Trận thưa vâng. Cậu theo ông già trở lại chiếc xe lấy hai cái bẫy rồi chọn một con ngựa chết, xác định chỗ đặt bẫy. Bốn chiếc bẫy còn lại, chia nhau mỗi người hai cái, đặt xong. Ông già bảo bé Bayan phụ việc cho cậu.

Trời gần tối mà tuyết vẫn không tạnh. Ông già cẩn thận kiểm tra từng chiếc bẫy của Trần Trận, cười vui: Không thể phát hiện ra. Ta mà là sói thì cũng bị lừa. Ông nhìn cậu đăm đăm, hỏi: Giờ thì làm gì? Trần Trận nghĩ một thoáng, nói: Phải xoá sách dấu chân của ta, đếm lại dụng cụ, không được bỏ quên. Ông già rất thỏa mãn: Cậu thành tinh rồi đấy!

Ba người bắt đầu từ phía bắc quét xuống, vừa quét vừa kiểm tra cho đến chỗ để xe thì dừng. Trần Trận thu nhặt đồ dùng, hỏi ông già: Ngần ấy cái bẫy thì được mấy con hả bố? Ông gài nói: Đi săn thì không được hỏi săn được mấy con, nếu kể số lượng ra thì không bắt được con nào hết. Mưu sự tại người, thành sự tại trời!

Ba người lên ngựa ra về.

Ông già nói: Cho dù sói mắc bẫy, ta cũng không được đến lấy, phải để cho lũ sói nhìn thấy. Không thấy người đến, chúng càng nghi tợn, và sẽ bám riết đàn ngựa chết. Nhiệm vụ của ta là dụ được cả đàn sói về đây, chứ không phải chỉ bẫy vài con, mục trường yêu cầu như thế. Phải đợi thôi, ngày mai cậu không cần đến, mình ta theo dõi từ xa là đủ.

Ba người ung dung ra về. Trần Trận nghĩ tới đàn sói con, định bụng hỏi ông già cách đào bắt. Bắt sói con là công việc nguy hiểm, nặng nhọc, kỹ thuật cao trong nghề săn. Nó được coi như biện pháp chủ yếu ngăn chặn sự phát triển vô độ của sói thảo nguyên. Một ổ sói con có bảy tám con, có khi mười mấy con. Thức ăn của sói vùng Ơlon rất phong phú, tỉ lệ trưởng thành cao. Đầu xuân triệt một ổ, coi như trong năm diệt một đàn. Để bảo vệ sói con, đàn sói rất lắm mưu và cả sự liều mạng. Trần Trận đã được nghe không ít chuyện may rủi trong khi đào bắt, nên cũng đã chuẩn bị về tư tưởng. Đã hai mùa xuân qua đi, hơn một trăm thanh niên trí thức tới mục trường chưa một ai bắt được một ổ nào. Trần Trận cũng không mong tóm được cả ổ, mà chỉ mong được đi theo ông già vài chuyến để học nghề. Nhưng sau sự cố đàn ngựa, ông già không còn thì giờ cho việc bắt sói con, Trần Trận đành hỏi kinh nghiệm ở ông.

Trần Trận hỏi ông già: Cách đây mấy hôm, một con sói mẹ đã cắp con cừu non chạy về phía núi Đen. Con nghĩ ở đó có sói con nên định sáng mai đi tìm. Con muốn được bố dẫn đi.

Ông già nói: Ngày mai thì không được rồi. Chuyện ở nhà rất quan trọng, ban quản lý đang đợi tin ta. Ông ngoảnh lại hỏi: Nó chạy về phía núi Đen hả? Vâng. Ông già vê vê chòm râu hỏi: Thế lúc ấy cậu có đuổi theo không? Trần Trận nói: Nó chạy nhanh quá, con không kịp lấy ngựa đuổi. Ông già bảo: Như vậy còn được. Nếu cậu đuổi theo, con sói sẽ đánh lừa cậu. Nó không chạy về ổ, mà chạy đi hướng khác.

Ngẫm nghĩ một lát, ông già bảo: Con sói này khôn thật. Mùa xuân năm trước, tôi đào bắt một ổ sói ở đó. Năm nay không ai đến nữa, không ngờ con sói bất ngờ đẻ ở đấy. Ngày mai cậu cứ đi, nhớ rủ thêm vài người, đem theo nhiều chó. Phải chọn những người dũng cảm, có kinh nghiệm. Không được đi một mình, rất nguy hiểm!

Đào bắt sói thì nguy hiểm ở chỗ nào hả bố?

Ông già nói: Đào bắt đã khó, nhưng tìm ổ còn khó hơn. Ta mách cậu một cách: Sáng sớm mai. Lúc còn tối đất, cậu trèo lên đỉnh đồi dưới chân núi Đen mà phục, đợi sáng ra, sau một đêm hoạt động kiếm mồi, sói mẹ trở về cho con bú, nó về chỗ nào, chỗ ấy có sói con. Có điều khi thấy rồi đào bắt mới khó, sợ nhất là trong hang có sói mẹ. Các cậu phải hết sức cẩn thận!

Mắt tối sầm, ông già có vẻ buồn: Nếu không vì chuyện đàn ngựa đã bị giết sạch, ta không muốn các cậu đi bắt sói con. Người già Ơlon không bao giờ thích làm chuyện này.

Trần Trận không dám hỏi tiếp. Ông già vốn đã khó chịu về chuyện phát động phong trào diệt sói con với quy mô lớn, hỏi nữa có khi ông không cho cậu đi. Nhưng muốn trị sói thì phải có kiến thức, phải hiểu tập tính của sói, nên cậu định nuôi một con. Nếu bây giờ không tranh thủ bắt ngay thì khi chúng mở mắt sẽ rất khó nuôi. Dứt khoát phải nuôi từ lúc nó chưa mở mắt, chưa phân biệt bạn thù, chuyển nó từ thế giới của sói sang thế giới của người. Cậu e tính cách hoang dã của sói khiến nó khó nuôi hơn chim sẻ. Chim sẻ rất khó tính. Bị giam trong lồng, nó nhắm tịt mắt, không ăn không uống chỉ chờ chết. Sói con không dễ bắt như chim sẻ. Nếu như tốn bao công sức mà chỉ vài ngày nó chết thì uổng công quá. Trần Trận định bụng hỏi Batu. Anh nổi tiếng khắp mục trường về tài săn bắt sói. Mấy hôm trước bị sói cho một vố, anh đang tức, chắc chắn sẽ phổ biến kinh nghiệm cho cậu.

Về đến lều trời tối hẳn. Căn lều đã được thu dọn, những tấm thảm đẹp đã được trả lại chỗ cũ, ba cây đèn mỡ cừu sáng rực, hai đĩa lớn thịt cừu, lòng cừu bốc hơi thơm phức. Miệt mài cả ngày trời, ai nấy bụng đói meo. Trần Trận cởi phăng áo ngoài, ngồi xuống bên bàn ăn. Caxumai bê đĩa tràng - món cậu thích nhất, đặt trước mặt cậu; bê đĩa sườn cừu, món ăn ông già ưa nhất, đặt trước mặt ông già. Sau đó, cô trộn xì dầu với tương nấm, món hỗn hợp Bắc Kinh - Mông Cổ mà Trần Trận ưa thích nhất, và đã trở thành món nước chấm thường xuyên của cả nhà. Trần Trận gặp miếng tràng chấm nước chấm rồi đưa lên miệng, thơm ngon đến nỗi cậu nhất thời quên cả chuyện bắt sói con. Tràng là phần ngon nhất trong nội tạng con cừu, chỉ dài một thước, gọi là "béo" nhưng chẳng béo chút nào, gần như toàn bộ phế thải tích tụ về đây, nhưng lại là món ngon nhất trong bữa ăn của người Mông Cổ, giòn và thơm, có mỡ nhưng không béo.

Trần Trận nói: Người Mông Cổ rất tiết kiệm, ngay cả hoành cách mô cũng không bỏ, mà cũng rất ngon.

Ông già gật đầu: Con sói khi đói ăn cừu cả lông, lẫn móng guốc. Khi trời ra tai, người và sói đều kiếm ăn không dễ, phải ăn bằng hết những gì trên thân con cừu.

Trần Trận cười: Vậy là người Mông Cổ bắt chước sói, ăn cừu cả con!

Ông già cười, luôn miệng bảo đúng. Trần Trận gắp miếng tràng thứ ba.

Caxumai rất vui. Trần Trận nhớ có lần chị nói, chị thích những ông khách ăn hùng hục như sói. Cậu hơi ngượng, thấy mình lúc này có vẻ giống sói. Cậu biết cả nhà ông Pilich thích ăn tràng. Vậy mà loáng cái, cậu đã ăn hết quá nửa. Caxumai nhổm dậy, dùng dao rạch khoang bụng dưới con cừu, lấy ra một cái tràng nữa, cười bảo: Biết cậu đến là không định đi đâu nữa, nên luộc hai cái, một cái phần cậu. Cậu nên học tập sói, ăn bằng hết. Cả nhà cười, Bayan vội gặp miếng tràng vào đĩa thịt trước mặt. Đã hai năm mà Trần Trận vẫn chưa phân định được vai vế của Caxumai đối với cậu. Caxumai đáng tuổi chị dâu, nhưng có lúc cậu có cảm tưởng chị gái, có lúc lại như em gái, như bà dì, như bà trẻ. Caxumai vui vẻ hồn nhiên và phóng khoáng như thảo nguyên.

Trần Trận ăn hết cái tràng, bê bát trà sữa uống hết một nửa, hỏi Caxumai: Bayan dám tóm đuôi sói, dám vào hang bắt sói con, dám cưỡi ngựa chưa thuần, liệu còn chuyện gì đáng ngại không?

Caxumai cười: Người Mông Cổ ai cũng thế từ bé. Batu hồi nhỏ còn bạo gan hơn Bayan. Cái hang mà Bayan chui vào không có sói mẹ, sói con thì chưa biết cắn, nên chẳng có gì ghê gớm. Còn Batu thì trong hang có sói mẹ, anh ấy tóm lấy sói mẹ lôi ra khỏi hang nữa kìa.

Trần Trận ngạc nhiên. Cậu vội hỏi: Chuyện này sao anh chưa nói. Kể đi anh.

Batu cười, tợp một ngụm rượu, kể: Năm ấy mình mười ba tuổi. Bố và mọi người tìm suốt mấy ngày mới tháy một hang sói con. Hang to và sâu, không đào được. Bố sợ có sói mẹ nên cho hun khói. Khi hết khói mà vẫn không thấy sói mẹ chạy ra, mình cầm đuốc và bao tải chui vào hang. Nào ngờ vừa chui được một khoảng thân người rưỡi thì mình trông thấy cặp mắt con sói chỉ cách hai thước, mình sợ suýt bĩnh ra quần, vội huơ cây đuốc, thấy con sói cũng đang run cầm cập. Khi sợ, chó và sói có điệu bộ giống nhau: cụp đuôi giữa hai chân sau. Mình không dám động đậy. Lửa đuốc vừa tắt, con sói liền xông ra, mình không kịp rút, bụng nghĩ phen này chắc chết. Không ngờ con sói không định cắn, mà định nhảy qua đầu mình vọt ra ngoài. Khi ấy mình sợ bên ngoài không kịp đối phó, sợ sói cắn phải bố, và không hiểu vì sao mình bạo gan đến thế, mình nhổm dậy đội đúng chỗ họng con sói, ép đầu nó lên nóc hang. con sói bị kẹt, cào cấu lung tung, quần áo mình rách tơi tả. Mình cũng đánh liều, ngồi thẳng lên cho đầu tì giữa hàm dưới con sói, ép chặt hơn nữa đầu nó vào nóc hang, rồi ngồi thở, mệt đứt hơi. Batu kể lại một cách bình thản, y như chuyện của người khác: Bên ngoài đợi rất lâu không hiểu vì sao không thấy ra. Bố vội chui vào giơ đuốc soi thấy mình và con sói thì sợ toát mồ hôi, vội bảo mình ngồi yên rồi ông ôm eo mình lôi dần ra. Mình vừa tì chắc cái đầu con sói lên nóc hang, vừa lôi hai chân trước của nó, lôi nó ra từng tí. Khi ra đến mép hang, mọi người mới rõ chuyện, liền đâm một nhát xuyên từ miệng ra phía sau đóng đinh lên nóc hang, sau đó lôi hẳn nó ra ngoài, đập chết. Sau khi nghỉ cho lại sức, mình lại chui vào hang. Càng vào trong càng hẹp, chỉ trẻ con mới vào được. Bên trong cùng hóa ra rất rộng, mặt đất trải đầy da và lông cừu, một đàn sói con đang nằm thu lu, tất cả chín con, đều còn sống. Để bảo vệ lũ con, sói mẹ lấp quá nửa chiều cao của hang, con mẹ ở phía ngoài. Khi hun khói, nhờ mấy lỗ thông hơi nên khói tản đi nơi khác. Mình phá cái đập chắn, lôi từng con ra nhét vào bao tải rồi lôi ra ngoài hang...

Trần Trận nín thở nghe Batu kể. Mọi người hình như không muốn nhớ lại chuyện này nên nghe có vẻ thờ ơ. Trần Trận thấy câu chuyện không giống chút nào với những chuyện bắt sói mà cậu được nghe, liền hỏi: Em nghe nói sói mẹ rất dữ khi bảo vệ con, dám cắn người, vậy sao con này lại không dám?

Ông già nói: Thực ra sói thảo nguyên sợ người. Chỉ có người mới đánh chết sói. Con sói mẹ đã bị choáng váng vì khói, lại thấy người cầm đuốc chui vào, sao nó không sợ? Con này tuy to xác nhưng xem ra nó mới hai tuổi, đẻ lứa đầu. Rất đáng thương, hôm nay cậu không hỏi thì chẳng ai muốn nhắc đến nó. Caxumai không còn tươi cười như lúc thường, mắt cô có ngấn nước.

Bayan nói với Caxumai: Ngày mai chú Trận lên núi đào sói, con định giúp các chú một tay. Các chú to con chui không lọt hang sói. Đêm nay con ngủ cùng các chú để mai đi sớm. Caxumai nói: Được cho con đi nhưng phải cẩn thận đấy. Trần Trận vội xua tay: Đừng, đừng đi, em sợ có chuyện gì xảy ra. Chị chỉ có mỗi cục cưng này. Caxumai nói: Xuân này tổ mình mới đào bắt được một ổ, còn thiếu ba ổ nữa. Không đào cho đủ, ông Bao Thuận Quý lại tế cho. Trần Trận nói: Thôi chị ạ, thiếu thì thiếu, em vẫn không thấy nên cho cháu đi. Thà không đi còn hơn. Ông già ôm Bayan vào lòng nói: Bayan không cần đi, chắc chắn ta sẽ có một hai con sói lớn. Không nộp da sói con thì thay bằng da sói lớn vẫn hoàn thành định mức.

Chương 9

Xưa, ông tổ người triều Nguyên là con trai của một cặp mà chồng là sói xám, vợ là hươu trắng, sau khi phối giống vượt sông Tăngchiso, rồi lại vượt nguồn Cannan đến trước dãy Bunhan thì ở lại, mà sinh ra, tên Bataxihan.

Trích dẫn Dư Đại Quân dịch chú "Mông Cổ bí sử"

Ba rưỡi sáng, Trần Trận và Dương Khắc đem theo hai chó săn, lặng lẽ trèo lên đỉnh đồi kề bên dãy núi Đen. Hai con ngựa đã được cột chân ở một chỗ khuất phía sau. Con Nhị Lang và con Vàng rất nhạy cảm, thấy ra đi từ đêm, chúng biết là đi săn, giờ đây chúng nằm im trên tuyết, cảnh giác nhìn tứ phía. Mây dày che khuất trăng sao. Thảo nguyên tối đen, giá lạnh và đáng sợ. Trong khuôn viên mấy chục dặm vuông mà chỉ có hai người, mà lại là lúc sói thường xuất hiện, thấy người là tấn công. Dãy Đen như những con thú khổng lồ đè nặng phía sau, khiến Trần Trận sống lưng lạnh toát. Cậu lo cho hai con ngựa, và bắt đầu sợ cho hành động phiêu lưu của mình.

Bỗng có tiếng tru của sói từ phía đông bắc vọng tới, trầm như tiếng tiêu, dài lê thê, dư âm ba bốn phút sau mới tắt. Rồi lại có tiếng chó đàn cùng sủa từ xa vọng lại. Hai con chó nằm bên Trần Trận vẫn im lặng. Chúng biết quy tắc: Nếu là canh đêm thì phải sủa như điên, nhưng nếu là mai phục chờ lệnh tấn công thì phải im như thóc. Trần Trận luồn tay dưới nách con Nhị Lang, tay kia ôm lấy cổ nó. Trước khi lên đường, Dương Khắc đã cho hai con chó ăn lửng dạ, vì ăn no khiến chúng lười nhác, mất ý chí chiến đầu, ăn đói khiến chúng đuối sức. Thức ăn đã phát huy tác dụng trong cơ thể con Nhị Lang: Tay Trần Trận ấm sực, cậu úp lòng bàn tay lên cái mũi lạnh ngắt của con chó. Nó vẫy đuôi khẽ. Có con chó săn bên mình, Trần Trận thấy đỡ lo.

Sau mấy ngày đêm bận tối mắt tối mũi, Trần Trận rất mệt. Tối hôm kia, Dương Khắc rủ mấy thanh niên người Mông đi bắt sói con, nhưng họ không tin ở núi Đen có ổ sói nên không ai chịu đi cùng, lại còn khuyên hai người đừng đi mà phí công. Hai người không chịu, quyết đi bằng được. Vậy nên lúc này chỉ có hai con chó nhà làm bạn, hơi đơn độc, thiếu khí thế.

Dương Khắc ôm chặt con Vàng, bảo nhỏ Trần Trận: Đừng sợ. Sắp sáng rồi. Ban ngày sói sợ người, ta còn đem theo cả thòng lọng.

Trần Trận cũng run như con Vàng, cậu cố trấn tĩnh, nói: Chúng mình như bộ đội đặc công hoạt động sau lưng địch, hết cả ngái ngủ.

Dương Khắc cũng cố tỏ ra cứng cỏi: Đánh sói như đánh giặc, cả đấu trí lẫn đấu lực, trong 36 chước chỉ trừ mỹ nhân kế, những kế còn lại đều có thể thi thố. Bố Pilich quả thật đa mưu, phải cho chúng một trận mới hả.

Trần Trận nói: Nhưng mà đừng có chủ quan, mình thấy 36 chước vẫn chưa đủ để đối phó với sói.

Dương Khắc nói: Đúng vậy. Chúng mình đang dùng kế lợi dụng sói mẹ về cho con bú để tìm hang sói đấy thôi.

Trần Trận nói: Lũ sói sát hại nhiều ngựa quá, bố Pilich quá bức xúc mà phải ra tay đấy thôi. Hôm nọ mình đi đặt bẫy mới biết nhiều năm nay ông già không bẫy sói. Ông không có ý tuyệt diệt họ nhà sói.

Trời rạng dần, dãy núi Đen không còn giống những con thú khổng lồ nữa, hiện nguyên hình núi đá. Từ phương đông, những tia sáng xuyên qua màn mây mỏng, ngày càng loang rộng trên thảo nguyên. Người và chó phủ phục trên tuyết, Trần Trận chĩa ống nhòm quan sát tứ phía, mù quá dày, mọi vật không nhìn rõ. Cậu chỉ lo sói mẹ được sương mù che chở lúc này trở về hang, thì cả một đêm thức trắng trở thành công cốc. May mà mù tản nhanh, biến thành màn sương mỏng, lượn lờ trên mặt cỏ. Nếu có thú đi qua, màn sương lay động là biết liền.

Bỗng con Vàng ngoảnh nhìn phía tây, lông gáy dựng lên, toàn thân căng thẳng. Con Nhị Lang cũng ngoảnh nhìn về hướng con Vàng. Trần Trận biết có chuyện, vội chĩa ống nhòm nhìn theo, nơi có vạt đất lau lách mọc đầy, nối liền chân núi với đồng cỏ, chạy dài theo hướng đông bắc. Đây là nơi vắng vẻ, khuất gió, là bức màn ngụy trang mỗi khi sói xuất kích trên thảo nguyên. Ông già Pilich nói, mùa đông và mùa xuân, đây là nơi sói ẩn nấp, di chuyển và ngủ; đồng thời cũng là bãi săn của dân du mục. Con Vàng và con Nhị Lang rất có thể đã nghe thấy tiếng chân của sói trong bãi lau. Thời gian đúng, phương hướng đúng, Trần Trận tin chắc con sói mẹ sắp về ổ. Cậu quan sát cẩn thận bên rìa vạt lau, đợi sói mẹ xuất hiện. Người già nói không sai, bãi sậy trũng, mùa xuân ngập nước, sói không làm ổ ở đấy. Ổ sói thường ở chỗ cao, tránh lũ. Trần Trận cho rằng, dù con sói xuất hiện ở hướng nào thì ổ sói vẫn ở sườn núi gần đó.

Hai con chó săn nhìn không chớp vào một bụi cây sậy. Trần Trận nhìn theo. Cậu giật thót: Một con sói lớn ló nửa người ra ngoài, nhìn tứ phía. Hai con chó săn lập tức nằm thấp hơn nữa, cằm sát đất. Cậu và Dương Khắc cũng nằm xuống. Con sói quan sát tứ phía trong một thoáng rồi ra khỏi bụi cây, chạy một mạch về cái khe phía đông bắc. Trần Trận vẫn dùng ống nhòm theo dõi con sói. Cậu thấy con này hao hao giống con sói đã bắt con cừu của cậu. Con sói chạy nhanh nhưng dáng kềnh càng, hẳn là đêm qua nó đã bắt trộm cừu, no cành hông. Cậu nghĩ, nếu hôm nay chỉ mỗi con sói này thì chẳng có gì đáng sợ. Hai người hai chó, nhất là có con Nhị Lang, chắc chắn đối phó tốt.

Con sói mẹ trèo lên một cái dốc nhỏ. Chỉ cần xem nó rẻ hướng nào là có thể đoán ra vị trí cái hang. Nhưng đúng lúc ấy, con sói quay lại nhìn tứ phía, và nhìn rất lâu về phía hai người và hai con chó đang mai phục. Trần Trận căng thẳng đến nghẹt thở, chỗ đứng của con sói cao hơn dưới vạt sậy. Dưới vạt sậy, nó không nhìn thấy người, nhưng trên đỉnh dốc này, rất có thể nó nhìn thấy. Con sói tỏ vẻ sốt ruột, nó chạy quanh tại chỗ hai vòng trù trừ một thoáng rồi bất chợt men theo con dốc thoai thoải chạy một mạch về phía đông, dừng lại ở một cửa hang rồi chui tọt vào trong.

Ngon rồi, ta có thể vớ cả ổ rồi! - Dương Khắc vỗ tay reo lên.

Trần Trận cũng phấn khởi vùng dậy: Lên ngựa mau!

Hai con chó cuống quýt chạy quanh, hắt hơi liên tục đợi lệnh chủ. Trần Trận bối rối quên cả khẩu lệnh, vội chỉ tay về phía hang, miệng quát: Bắt lấy nó! Hai con chó lập tức chạy bay xuống dốc, phóng thẳng về phía cái hang. Hai người cũng chạy xuống chân đồi cởi dây buộc chân ngựa, lên yên, ra roi phóng tới. Hai con chó đã tới, chõ vào miệng hang mà sủa dữ dội. Trần Trận trông thấy con Nhị Lang chồm tới rồi lại lui ra nhưng không dám chui vào sâu trong hang. Con Vàng thì đứng bên sủa gay gắt trợ oai, hai chân cào đất tung toé. Hai người nhào xuống ngựa, chạy tới miệng hang chợt giật thót: Hang hình bầu dục, rộng khoảng tám mươi phân, con sói cái đang án ngữ đường vào hang, điên cuồng cắn trả con Nhị Lang. Nó còn nhô hẳn nửa người ra ngoài miệng hang, sau khi con Nhị Lang buộc phải rút lui.

Trần Trận quãng cây thòng lọng, vớ lấy chiếc cuốc chim nhằm đầu con sói bổ xuống. Con sói phản ứng rất nhanh, lưỡi cuốc mới giáng xuống nửa chừng, nó đã rụt đầu vào bên trong rồi lại nhe răng xông ra. Dương Khắc bổ một nhát nhưng cũng bị hụt. Mấy bận như thế, cuối cùng Trần Trận cũng đập trúng đầu con sói. Dương Khắc cũng đập trúng một nhát. Nhưng con sói vẫn rất hung hãn. Nói lùi sâu khoảng một mét, đợi con Nhị Lang xuống theo liền đợp một phát giữa ngực. Con Nhị Lang máu me đầy mình rút ra ngoài, mắt long sòng sọc, sủa lên mấy tiếng rồi lại chui vào, bên ngoài chỉ còn trông thấy cái đuôi phe phẩy.

Trần Trận chợt nhớ tới cây thòng lọng, liền nhặt lên. Dương Khắc hiểu ý, giục: Phải đấy, tròng lấy cổ nó. Trần Trận tròng dây thòng lọng vào miệng hang, con sói chui ra sẽ mắc cổ, khi ấy có thể dùng cuốc chim cùng với hai con chó để hạ gục con sói. Trần Trận căng thẳng tới mức thở không ra hơi. Nhưng cậu chưa kịp đặt ngay ngắn cái thòng hình bán nguyệt vào miệng hai thì con Nhị Lang đã vướng vào chân sau, tiếp theo, con sói máu me đầm đìa nhảy vọt ra, chân sau dẫm lên cây thòng. Con sói trông thấy cây thòng, run lên như bị điện giật, lập tức chui trở vào, không dám ló đầu ra nữa. Trần Trận ngó vào, cái hang dốc khoảng 35 độ, sâu hai mét thì rẽ, không hiểu bên trong còn sâu bao nhiêu. Dương Khắc nổi cáu quát liền ba tiếng vào trong hang. Tiếng quát chui vào đất, không một tiếng vọng. Trần Trận ngồi phệt bên miệng hang than thở: Mình ngốc quá, đặt thòng lọng ngay từ đầu thì con sói này toi rồi. Đúng là phải linh hoạt, không được sơ sểnh một li.

Dương Khắc còn buồn hơn, cậu bổ một nhát cắm cuốc chim xuống đất, chửi: Mẹ kiếp, con sói này khinh mình quá. Mình mà có súng, phải bắn bể sọ nó ra!

Trần Trận nói: Đã có lệnh cấm nổ súng, vì đây là tuyến một. Cậu có súng cũng bằng thừa.

Dương Khắc nói: Thế này thì lôi thôi rồi. Hay là ta đánh bằng pháo nhị thanh?

Thì cũng khác gì nổ súng - Trần Trận trấn tĩnh lại, hạ giọng nói: Nếu làm kinh động đàn sói trên đường biên, kế hoạch vây bắt sói phá sản, chúng mình sẽ bị chửi mất mặt. Với lại pháo nhị thanh, sói không chết.

Dương Khắc không chịu, nói: Không chết thì cũng sợ mất mặt. Đây cách đường biên bảy tám mươi dặm, sói không nghe thấy tiếng nổ. Nếu cậu còn ngại thì ta lấy áo khoác bịt kín miệng hang. Bên ngoài không nghe thấy gì đâu.

Trần Trận hỏi: Nếu nó không ra thì sao?

Dương Khắc vừa cởi thắt lưng vừa nói: Ra là cái chắc. Tớ nghe mã quan nói, sói rất sợ tiếng nổ và mùi thuốc súng. Chỉ cần thả vào trong hang ba quả pháo nhị thanh là có sáu tiếng nổ. Hang kín, tiếng nổ to gấp ba bốn lần ngoài trời, sói dứt khoát bị choáng. Hang hẹp khói đậm, sói sẽ bị sặc. Tớ đánh cuộc là chỉ ba quả nhị thanh này là nó phải trườn ra cho cậu chộp. Cậu cứ đợi. Tớ cho là sẽ có cả sói con cùng chạy ra, ta vớ cả mẹ lẫn con.

Trần Trận nói: Vậy thì làm theo ý cậu, nhưng phải chuẩn bị kỹ một tí. Đế tớ xem còn lối thoát nào nữa không? Thỏ khôn có tới ba cái hang. Sói lại càng ranh ma, chắc không chỉ có một hang. Người khôn đến mấy cũng vẫn thua sói.

Trần Trận lên ngựa dẫn theo hai con chó đi vòng tròn lấy miệng hang làm trung tâm, rà soát kỹ xung quanh. Tuyết trắng, hang màu đen, nếu có rất dễ phát hiện. Nhưng trên một diện tích hàng trăm mét vuông không thấy cái hang nào. Trần Trận xuống ngựa, dẫn hai con ngựa ra một chỗ xa, cột chân lại rồi cậu quay về chỗ miệng hang, đặt thòng lọng, bày búa chim và gậy. Cậu thấy con Nhị Lang cắm cúi liếm vết thương. Nó lại bị con sói cắn một miếng nữa giữa ức, vết rách to bằng hai ngón tay, thịt đang co giật. Nó rất đau nhưng không hề rên la. Hai người không đem theo bông băng, đành giương mắt mà nhìn con Nhị Lang tự chữa chạy bằng phương pháp cổ truyền của họ nhà chó: giảm đau bằng cách liếm và khử trùng bằng nước bọt. Đành để về nhà băng bó vậy. Xem ra tất cả những vết sẹo trên mình nó đều do sói cắn, thảo nào trông thấy sói là nó nổi hung. Trần Trận thấy mình trước đây đã hiểu sai con chó. Nó đúng là giống chó Mông Cổ, dữ hơn sói.

Dương Khắc đã chuẩn bị xong. Cậu khoác áo da, tay cầm ba quả pháo nhị thanh cỡ lớn, miệng ngậm điếu thuốc lá thơm Hải Hà đã châm lửa. Trần Trận vừa cười vừa nói: Làm như dưới dang là giặc Nhật không bằng. Dương Khắc cười hì hì: Mình nhập gia thì phải tùy tục, bài bản y chang dân địa phương. Trong hang không có thiết bị ngăn sóng âm đâu mà lo. Trần Trận bảo: Được rồi, ném vào đi! Xem có ăn thua gì không?

Dương Khắc dùng điếu thuốc đang cháy châm ngòi pháo rồi ném vào trong hang. Cậu châm ngòi rất nhanh hai quả pháo còn lại. Ba quả pháo lăn theo độ nghiêng vào sâu trong hang. Dương Khắc lập tức lấy áo khoác da bịt kín miệng hang. Chỉ lát sau, những tiếng nổ trầm đục từ dưới vọng lên, sáu tiếng tất cả. Quả núi rùng mình, mùi lưu huỳnh sặc sụa. Chưa khi nào có tiếng nổ lớn như thế trong những hay sói Mông Cổ. Tiếc rằng hai cậu không nghe thấy tiếng gào thét của sói mẹ sói con dưới hang sâu. Hai người còn ngửi thấy mùi hôi xộc lên mũi.

Dương Khắc hai tay ôm chéo bờ vai cho đỡ lạnh, hỏi Trần Trận khi nào thì bỏ áo ra. Trần Trận nói: Lát nữa. Trước tiên phải mở hé, khi thấy khói bay ra thì hãy mở hẳn. Trần Trận vén một góc lên, có khói nhưng không đáng kể nên đậy lại. Thấy Dương Khắc bị lạnh, Trần Trận cởi dây lưng, định bụng hai người khoác chung một áo. Dương Khắc xua tay: Cẩn thận, nó sắp lên đấy. Cậu mà bỏ dây lưng thì áo xoè ra, rất vướng. Kệ mình, không lạnh lắm đâu.

Hai người đang nói chuyện chợt thấy con Vàng và con Nhị Lang đứng vụt dậy nhìn ra hướng tây bắc, miệng gừ gừ ra vẻ bồn chuột. Hai người nhìn theo, chợt thấy mặt đất cách chỗ cậu đứng hai chục mét bay lên sợi khói màu xanh nhạt. Trần Trận bật lên tiếng kêu: Hỏng rồi, ở đấy có hang. Cậu canh chừng ở đây để tớ đi xem sao. Trần Trận vừa nói vừa cầm lấy cuốc chim chạy đi, hai con chó chạy theo. Đúng lúc ấy, một con sói lớn ý hệt quả tên lửa đất đối đất, đội đất vọt lên ở chỗ có khói, chạy thục mạng vào bãi sậy và mất hút trong đó. Con Nhị Lang bám riết phía sau, nhìn xa thấy ngọn lau rẽ thành một vệt lên phía bắc. Trần Trận sợ có chuyện bất trắc liền quát con Nhị Lang quay về. Có thể con Nhị Lang đã nghe thấy tiếng gọi nhưng ham mồi vẫn cứ đuổi. Con Vàng chạy tới bãi sậy nhưng không dám vào, sủa vài tiếng lấy lệ rồi rút.

Dương Khắc vừa mặc áo ngoài vừa chạy tới chỗ rỉ khói. Trần Trận cũng chạy theo. Cả hai giật mình khi trông thấy một cái hang đất đá đều mới, rõ ràng là con sói vừa đào trong lúc nguy cấp. Chỗ này vốn là đất bằng, nhưng khi xảy ra cuộc chiến, liền biến thành đường hầm.

Dương Khắc tức đỏ mắt, chửi: Con sói chết tiệt! Nó giỡn mặt chúng mình.

Trần Trận thở dài, nói: Thỏ có ba hang nhưng đều trông thấy được. Còn sói thì không biết có bao nhiêu hang? Cái hang này có tính toán hẳn hói, cậu xem, miệng hang liền kề cái dốc chạy thẳng xuống bãi sậy, con sói chui ra chỉ vài bước là an toàn. Con này chỉ số thông minh rất cao, tính toán giỏi hơn thỏ. Sói quả là nhà quân sự bậc nhất trong thiên hạ. Bao Thuận Quý có nói sói biết đánh gần, đánh đêm, đánh tập kích, đánh du kích, đánh vận động chiến. Khi gặp, cậu nói với ông ta: Sói còn biết đánh địa đạo chiến, ú tim chiến, lại biết kết hợp cả hai phương thức tác chiến địa đạo và ú tim.

Dương Khắc vẫn chưa hết bực: Phim ảnh về đánh du kích ở đồng bằng Hoa Bắc phét lác một tấc đến trời, khoe đó là phát minh lớn trong thiên hạ, thực ra sói đã nghĩ ra cách đây hàng ngàn năm.

Chịu thua rồi chứ? - Trần Trận sợ Dương Khắc bỏ cuộc - Bắt sói đâu có dễ, một người làm không nổi.

Không thua. Chăn cừu vốn là công việc buồn tẻ, giờ có dịp đấu trí đấu dũng với sói, thích lắm. Tớ là dương quan, chăn cừu đuổi sói là nhiệm vụ của tớ.

Hai người tới bên miệng hố. Khói đã nhạt nhưng mùi thuốc súng thì vẫn nồng nặc. Dương Khắc ngó vào trong hang, nói: Lẽ ra lũ sói con đã phải ra rồi. Nổ to như thế, mùi cay như thế, chúng chịu sao nổi. Hay là chết cả rồi?

Trần Trận nói: MÌnh cũng nghĩ vậy. Đợi nửa tiếng nữa mà không thấy ra là gay rồi. Hang sâu thế này thì đào làm sao, tốn công hơn đào giếng. Chỉ hai chúng mình phải ba ngày ba đêm chưa chắc đã tới nơi. Bộ móng của sói mới khiếp chứ, đất đá này mà đào hẳn một đường hầm to đùng. Nhưng mà này, nếu sói con chết cả rồi thì đào làm gì?

Dương Khắc thở dài: Giá có thằng nhỏ Bayan ở đây thì hay quá, nó mới chui vào được.

Trần Trận thở dài, nói: Có thằng Bayan ở đây tớ cũng không dám bảo nó chui vào. Cậu dám đảm bảo bên trong không có sói lớn? Người Mông cũng có nhiều chuyện gay cấn lắm. Caxumai chỉ mỗi thằng nhỏ mà đành để nó kéo đuôi con sói, rồi thì chui xuống hang bắt sói con. Xưa kia Trung Quốc có câu "Tiếc con thì không bắt được sói", xem ra câu này hẳn là của người Mông Cổ trên thảo nguyên. Mông Cổ thống trị Trung Quốc gần một trăm năm. Trước kia mình không hiểu ý nghĩa của câu này, không đành lòng cho trẻ đánh nhau với sói, chẳng lẽ dùng trẻ nhỏ làm mồi nhử sói? Về sau mình mới hiểu, vì sao phải cho trẻ con mạo hiểm vào hang sói, một là, hang sói chật, trẻ con mới chui lọt, hai là rèn luyện lòng can đảm. Nếu người Mông o bế trẻ con như người Hán thì dân tộc Mông lụn bại từ lâu. Vậy nên trẻ con Mông Cổ lớn lên đứa nào cũng dũng mãnh.

Dương Khắc vẫn cay cú: Mẹ kiếp, sói thảo nguyên quả lợi hại. Khả năng sinh sản đã lớn hơn người Hán, đã vậy lại còn đào những cái hang vững chắc như thế này để bảo vệ con. Mình e công sức bỏ ra là công cốc. Ta ăn chút gì đi, mình đói bụng rồi.

Trần Trận đến chỗ con ngựa lấy túi vải bạt đem về cửa hang. Con Vàng trông thấy cái túi màu vàng dính đầy mỡ thì mừng quýnh, vẫy đuôi chạy tới ư ử đòi ăn. Đây là cái túi đựng thức ăn chuẩn bị cho hai con chó. Trần Trận mở miệng túi bốc ra non nửa số thịt vụn cho con Vàng, chỗ còn lại dành cho Nhị Lang. Giờ này mà con Nhị Lang chưa quay lại, Trần Trận lo thay cho nó. Vào mùa đông và mùa xuân, bãi sậy là địa bàn hoạt động của bầy sói. Nhị Lang bị con sói mẹ dụ vào đấy, chắc dữ nhiều lành ít. Nhị Lang là quân chủ lực bảo vệ đàn cừu, bây giờ mà mất nó thì thiệt to.

Con Vàng vừa ăn vừa vẫy đuôi. Nó rất nhanh nhẹn và rất dũng cảm khi gặp thỏ, cáo, dê vàng. Nhưng khi gặp sói nó biết cân nhắc tình thế, nếu sói ít chó nhiều là nó lập tức lao lên đánh vỗ mặt; nhưng nếu chó ít sói nhiều, nó không đơn thương độc mã xông lên. Vừa rồi nó rút lui vì nó sợ trong bãi sậy có đàn sói mai phục. Do bản năng sinh tồn, con Vàng rất biết giữ mình. Biết vậy, nên Trần Trận không trách con Vàng thiếu nghĩa khí. Có điều, từ sang xuân đến giờ, cậu ngày càng thích con Nhị Lang. Hình như thú tính của nó ngày càng nổi trội, nó gần như không còn tính người. Trong thế giới cạnh tranh quyết liệt để sinh tồn, một dân tộc nếu không có dũng khí và tính cách của loài thú dữ thì không có điểm tựa cho trí tuệ và văn hóa. Tính cách dân tộc một khi đã bạc nhược thì chỉ có cầu thân, đắp thành luỹ, đầu hàng chịu thân phận bề tôi và đẻ nhiều như thỏ thì mới mong sống còn. Trần Trận đứng lên chĩa ống nhòm về phía bãi sậy để xem con Nhị Lang đang ở đâu.

Nhưng con Nhị Lang đã mất dạng. Trần Trận lôi trong bọc ra cái túi bằng da cừu chưa thuộc chống được ẩm, không thấm mỡ, nhét trước bụng không bẩn quần áo, do Caxumai tặng. Cậu lấy ra bánh nướng, thịt vụn và sữa bánh, chia cho Dương Khắc, rồi cả hai cùng ăn. Cả hai không biết sau đó sẽ làm gì, vừa ăn vừa nghĩ.

Dương Khắc bẻ một mẩu bánh to đút vào miệng, nói: Cái hang sói thật đấy mà giả đấy, tưởng rằng phải hóa ra không phải. Chúng mình tìm ra được một ổ đâu có dễ, cho nên đừng bỏ cuộc. Hun khói không chết thì ta đổ nước cho chết sặc. Chở vài chục xe nước dưới đập lên, chắc bắt được chúng.

Trần Trận nói: Thảo nguyên đất cát pha, cậu có chuyển cả đập nước lên đây cũng vô ích, chỉ một lát là cạn sạch.

Dương Khắc suy nghĩ hồi lâu: Đúng rồi, trong hang không còn sói lớn thì ta cho con Vàng vào lôi bọn sói con ra.

Trần Trận không nhịn được cười: Chó đã nhiễm tính người thì bỏ tính sói. Mũi chó hễ ngửi là ngửi thấy mùi sói, không phân biệt mùi sói mẹ hay sói con. Nếu nó phân biệt được như thế thì khi sói mẹ đi vắng, nó chui vào hang bắt hết sói con. Cậu là dân du mục mà ngố thế!

Dương Khắc vẫn không chịu, nói: Thì mình hãy thử xem, không mất nhiều công sức lắm đâu. Nói rồi, cậu gọi con Vàng đến bên miệng hang. Mùi thuốc súng đã tan đi phần lớn. Dương Khắc chỉ vào hang "súy" một tiếng. Con Vàng hiểu ý cậu, sợ hãi lùi lại. Dương Khắc kẹp con Vàng giữa hai chân, hai tay cầm hai chân trước của nó đùn vào trong hang. Con Vàng cụp đuôi rên ư ử gồng người lên nhìn cậu cầu cứu. Trần Trận nói: Thấy chưa? Tiến hoá đã khó, thoái hóa lại càng khó. Chó không thoái hóa thành sói. Chó chỉ có thể biến thành chó tồi, chó lười, chó ngu. Con người cũng thế. Dương Khắc thả con Vàng ra, nói: Tiếc là con Nhị Lang không ở đây, tính sói của nó mạnh, dám chui vào hang.

Trần Trận nói: Nhị Lang chui vào sẽ cắn chết hết sói con, mà mình thì muốn chúng còn sống để nuôi.

Dương Khắc gật đầu: Quả vậy, sói mà gặp Nhị Lang thì chỉ có chết.

Con Vàng ăn xong linh đi chơi. Nó đánh hơi, chốc chốc lại ghếch chân sau đái vài giọt để đánh dấu. Nó đã đi rất xa mà con Nhị Lang vẫn chưa quay lại. Trần Trận và Dương Khắc ngẩn ngơ không biết nên làm gì bây giờ. Trong hang không một tiếng động. Một đàn sáu bảy con sói con, hun khói hoặc đánh pháo nhị thanh cũng không thể chết hết, thế nào cũng có con còn sống sót chạy ra theo bản năng. Lại nửa giờ nữa trôi qua vẫn không thấy con nào chui ra. Hai người đoán: Một là chúng chết hết, hai là không có con nào trong đó.

0O0

Giữa lúc hai người đang thu xếp đồ đạc để quay về, chợt nghe tiếng con Vàng sủa ran phía sau đồi, có vẻ như phát hiện con mồi. Hai người lập tức lên ngựa phi về phía đó. Lên đến đỉnh đồi vẫn không nhìn thấy con Vàng, hai người giục ngựa chạy theo tiếng sủa, nhưng được một quãng vó ngựa đã vấp đá củ đậu, phải cho ngựa dừng lại. Mặt tuyết đầy dầu chân thỏ, cáo, chuột cát, thỏ tuyết, và cả dấu chân sói. Phía dưới toàn là đá, có mao mọc giữa các kẽ, cao ngang thắt lưng, đã chết khô, trông như những nấm mồ trên biên ải heo hút. Trần Trận và Dương Khắc thận trọng cho ngựa đi từng bước để khỏi trượt ngã. Chỗ này không có cỏ gia súc, bò cừu không đến, Trần Trận và Dương Khắc cũng chưa đến lần nào.

Tiếng sủa của con Vàng nghe càng gần, nhưng hai người vẫn chưa nhìn thấy nó. Trần Trận nói: Hình như con Vàng thấy con gì đó, mình phải đến nhanh. Dương Khắc nói: Vậy là không đến nỗi công cốc. Hai người vòng qua bụi gai, men theo một cái rãnh, qua một lằn rẽ, liền trông thấy con Vàng. Lần này thì Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên hơn: Con Vàng đang chõ mõm vào một cái hang mà sủa. Cái hang này to hơn nhiều, đen ngòm, mùi sói theo gió lạnh ùa tới, khiến Trần Trận rợn tóc gáy, cảm thấy mình sa vào trận địa mai phục của bầy sói, vô vàn những cặp mắt đang nhìn cậu.

Hai người cột ngựa vào một chỗ, cầm đồ nghề đến bên miệng hang. Cái hang quay mặt về hướng nam, miệng rộng chừng sáu mươi phân. Trần Trận chưa bao giờ thấy một cái hang to như thế, to hơn miệng địa đạo Bình Sơn - Hà Bắc thời chống Nhật mà hồi là học sinh trung học cậu đã từng về đấy để học làm ruộng, đã nhìn thấy. Cái hang khuất sau một nếp gãy nhỏ trong khe, phía trên là những bụi gai rậm, phía dưới lởm chởm đá tai mèo, không đến gần khó mà nhận ra. Con Vàng thấy hai chủ đến thì rất mừng, chạy quanh Trần Trận như kể công. Trần Trận bảo Dương Khắc: Dứt khoát trong hang có chuyện. Chắc là con Vàng đã nhìn thấy sói con. Cậu xem, nó đang khoe đây này. Dương Khắc nói: Mình cũng thấy thế. Đây mới đích thực là hang sói, âm u dễ sợ. Trần Trận nói: Toàn mùi sói, chắc chắn ổ sói ở đây.

Trần Trận quan sát vội những dấu vết trên gò đất trước cửa hang. Đây là đất đá được đùn ra khi con sói đào hang. Hang càng to, gò càng lớn. Cái gò này to bằng hai mặt bàn, không có tuyết mà có nhiều dấu chân, một ít xương vụn. Trần Trận rất hồi hộp, đây là cái mà cậu muốn nhìn thấy. Cậu bảo con Vàng ra chỗ khác, đứng canh chừng cho cả bọn rồi cùng Dương Khắc quan sát kỹ các dấu vết đã bị con Vàng làm biến dạng, nhưng vẫn nhận ra dấu chân của hai con sói lớn và bảy tám con sói nhỏ. Dấu chân sói con hình hoa mai, lớn bằng đồng hai xu, rất xinh. Tất cả các dấu chân đều mới, chúng đang chơi đùa ở đây, thấy con Vàng mới chui vào hang. Mặt gò không có tuyết, có lẽ sói mẹ chọn nơi đây làm sân chơi cho lũ con, có một ít lông và da cừu non còn lưu vết răng của sói con. Mép gờ có những cục phân tươi bằng đầu đũa, dài khoảng hai phân, đen nhánh như viên thuốc tễ.

Trần Trận vỗ đánh bộp một phát vào đầu gối, reo lên: Lũ sói con mà mình cần đây rồi. Thì ra hai thằng mình đã bị con sói mẹ đánh lừa.

Dương Khắc cũng như chợt tỉnh, vỗ lên mặt gờ, nói: Đúng rồi, con sói mẹ lẽ ra chạy về hang này, nhưng thấy bóng người nên nó chuyển hướng, dụ chúng ta đến một cái hang không có gì. Nó làm như thật, cắn nhau với chó của ta để bảo vệ đàn con. Mẹ cha con sói, tao phục mày sát đất! Trần Trận nhớ lại lúc con sói đổi hướng, cậu đã nghi, nhưng nó giả bộ giống quá, nên hết cả nghi ngờ. Ai ngờ con sói giỏi tùy cơ ứng biến đến thế. Nếu không choáng vì pháo nhị thanh, nó có thể chơi ú tim với cậu đến tối.

Dương Khắc nói: May mà chúng mình có hai con chó săn, nếu không thua chỏng gọng.

Trần Trận có vẻ bức xức: Giờ thì gay đây. Con sói lại gây cho ta nhiều khó khăn, thời gian thì đã mất toi nửa ngày, pháo nhị thanh mất toi ba quả. Chẳng hiểu cái hang này liệu có sâu hơn, phức tạp hơn cái hang đầu tiên?

Dương Khắc cúi nhìn hồi lâu vào trong hang. Thời gian không còn mấy, pháo nhị thanh thì đã hết, chẳng còn cách nào khác. Công việc cấp bách bây giờ là phải xem còn cửa hang nào nữa thì lấp hết lại, ngày mai rủ thêm một số mục dân cùng đào. Cậu cũng cần tranh thủ ý kiến bố Pilich.

Trần Trận vẫn chưa chịu về không, cậu bảo Dương Khắc: Mình có chiêu này, ta thử xem. Địa đạo ở Bình Sơn có thể xuống, vậy sao mình không chui thử vào trong hang. Chắc là con Nhị Lang đã đuổi hai con sói bố mẹ đi nơi khác, ở đây không còn sói lớn nữa. Cậu hãy lấy dây lưng buộc cổ chân mình, cầm chịch cho mình trườn xuống từ từ, biết đau tóm được sói con, mà nếu không có sói con thì mình cũng muốn biết chúng cấu trúc cái hang như thế nào.

Dương Khắc lắc đầu quầy quậy, nói: Cậu không sợ chết hay sao? Giả dụ trong hang còn sói lớn thì sao? Chúng mình đã bị lừa một lần, cậu có dám chắc cái hang này là của con sói mẹ hồi nãy? Nếu là của con khác thì sao?

Nguyện vọng ấp ủ hai năm nay chợt bùng lên át cả nỗi sợ. Trần Trận nghiến răng: Trẻ con Mông Cổ còn dám chui vào hang bắt sói mà ta không thì xấu hổ chết. Tớ phải xuống, cậu giúp một tay. Tớ có đèn pin và chòng, nếu có sói lớn, đối phó được.

Dương Khắc nói: Nếu nhất định phải xuống thì để tớ. Cậu gầy hơn tớ, nhưng tớ khoẻ hơn cậu.

Trần Trận nói: Hang hẹp, đến lúc nào đó cậu bị kẹt. Thôi đừng tranh luận nữa, ai béo người ấy ở lại.

Trần Trận cởi phăng áo ngoài, Dương Khắc bất đắc dĩ phải đưa cho Trần Trận đèn pin, chòng và bao tải, buộc hai chân Trần Trận bằng dây lưng Mông Cổ dài hai trượng, lại cởi dây lưng của cậu buộc một đầu vào thắt lưng Trần Trận. Trước khi chui xuống hang, Trần Trận nói: Không vào hang sói, làm sao bắt được sói con! Dương Khắc dặn đi dặn lại: Nếu gặp sói lớn thì hét to lên, co chân làm hiệu kéo lên. Trần Trận bật đèn pin, trượt dốc 40 độ chui xuống. Trong hang sặc mùi sói, đến nỗi cậu không dám thở mạnh. Cậu nhích từng tí. Cái hang tương đỗi nhẵn, một ít lông sói mắc lại trên đất đá. Mặt đất đầy dấu chân sói con. Trần Trận mừng quá, tưởng chỉ vài mét là tóm được sói con. Cậu đã chui hẳn vào trong hang. Dương Khắc nhả dây lưng từng tí một, luôn miệng hỏi đã muốn lên chưa. Trần Trận lớn tiếng giục nhả dây, rồi dùng cùi chỏ thay cho tay, cậu nhích xuống từng tấc một.

Cách miệng chừng hai mét, cái hang rẽ ngang, bò thêm chút nữa, ánh sáng bên trên bị che khuất, Trần Trận phải chĩa đèn ra phía trước, tất cả nhờ ánh sáng đèn pin.

Qua khúc rẽ, lòng hang không dốc nữa nhưng thót hẳn lại, phải chui đầu so vai mới chui lọt. Trần Trận vừa bò vừa quan sát mặt và vách hang, ở đây bóng hơn nhiều so với miệng hang, nhẵn nhụi tưởng như đẽo bằng rìu. Vách hang rất ít đất đá vụn, chọc bằng chòng cũng chỉ rơi vài mẩu, Trần Trận yên tâm, không sợ lở hang. Cậu không thể tưởng tượng chỉ với hai chân trần mà con sói đào được cái hang sâu như thế. Những tảng đá hai bên sườn cạnh nhẵn thín, có tảng hình trứng, căn cứ vào độ mài tròn, cái hang có tuổi hàng trăm năm, không biết bao nhiêu con sói, đực và cái, đã ra vào hang này. Trần Trận cảm thấy cậu đã lạc vào thế giới của sói, mùi hôi kinh người.

Trần Trận tiếp tục bò, ngày càng sợ. Ngay trước mũi cậu là mấy dấu chân sói lớn bị lũ sói con dẫm chồng chéo. Giả dụ có sói lớn thì đèn pin và cái chòng này có đánh lại được không? Hang hẹp, sói không cắn tới, nhưng chân trước của sói rất dài, thừa sức cào tới người. Sao mình không nghĩ tới nanh vuốt của sói nhỉ, Trần Trận toát mồ hôi lạnh. Cậu chững lại, chỉ cần co chân một cái là được kéo lên. Nhưng cậu lại nghĩ lũ sói con đã rất gần, tám chín con, mươi mười mấy con chứ ít đâu. Cậu nghiến răng liều mạng chui tiếp. Cậu nghĩ, mình không phải một thợ săn, mà y như một tên đào mả trộm. Không khí càng ít, mùi sói càng đậm, cậu chỉ sợ chết ngạt như đã từng xảy ra với những tên đào mả trộm.

Đến đoạn thắt cổ chai khiến cái hang càng hẹp hơn. Chỗ này chỉ chui lọt sói mẹ, còn người lớn thì không lọt, rõ ràng là sói thiết kết cái hang như thế này là để chống lại thiên địch duy nhất của loài sói trên thảo nguyên - con người. Trần Trận cho rằng, sói đã phòng ngừa bằng cách bít chặt không cho nước hoặc khói vào bên trong. Chỗ thắt cổ chai, thực tế là công cụ phòng ngự, chặn con người lại. Trần Trận không chịu bỏ cuộc. Cậu dùng chòng tông mạnh chỗ thắt cổ chai để mở rộng cửa. Nhưng con sói đã có lý khi chọn chỗ này làm công sự. Trần Trận chỉ tông được mấy nhát là phải dừng vì gặp toàn đá tảng, chọc không vỡ. Cậu hít thở khó khăn không còn hơi sức để đào, mà đủ còn sức cũng không dám, lỡ hang sập làm mồi cho sói.

Trần Trận buộc phải hít mạnh, dù rất hôi nhưng trong đó còn có ít nhiều oxy. Cậu đâm nản vì không bắt được sói con. Nhưng cậu cũng không chịu rút ngay, vẫn nấn ná mong nhìn thấy một con. Dồn hết sức còn lại cho mục đích cuối cùng, cậu ló đầu và cánh tay phải vào bên trong. Cảnh tượng dưới ánh đèn pin làm cậu nản hoàn toàn: Cái hang đi ngược lên và chẳng nhìn thấy gì nữa. Chỗ trên ấy chắc dễ chịu cho cả sói mẹ lẫn sói con, khô ráo và thoát nước. Trần Trận đã chuẩn bị cho những tình huống phức tạp, nhưng thực dụng kiểu này khiến cậu kinh ngạc.

Trần Trận ghé tai nghe. Trong hang không một tiếng động, có lẽ đàn sói con đã ngủ say. Cũng có thể chúng đang nấp một chỗ theo bản năng, im thin thít khi có tiếng động lạ. Nếu không quá mệt, Trần Trận rất muốn hát tặng bầy sói mấy câu đồng dao: Sói con ngoan nào, mở cửa ra, mở cửa ra! Rất tiếc ông ngoại người Hán chưa tóm được cháu ngoại sói Mông Cổ! Trần Trận khó thở tới mức mặt mày xây xẩm, cậu co chân giật mạnh. Dương Khắc vừa sốt ruột vừa mừng kéo mạnh Trần Trận lên cửa hang. Trần Trận mặt mũi phờ phạc, ngồi thở dốc, bảo Dương Khắc: Chẳng thấy gì hết, như hang quỉ, không biết đâu là tận cùng. Dương Khắc thất vọng, trùm áo lên người Trần Trận không nói gì.

Nghĩ đã đỡ mệt, hai người liền sục sạo trong phạm vi hai trăm mét vuông, chỉ thấy một cái hang thông với hang chính, bèn bịt lại bằng đá tảng, những hòn đá tảng rất to, sói không thể đẩy ra, lại còn lấy đất trét kín các kẽ. Trước khi ra về, Trần Trận vẫn chưa hết bực, cậu bổ một nhát cuốc chim lên miệng hang, nhắn sói mẹ: Hãy đợi đấy, ngày mai bọn tao còn đến.

Trời gần tối, Nhị Lang vẫn không thấy quay lại. Con sói mẹ ranh ma quỉ quyệt, Nhị Lang chỉ dùng sức chưa chắc đã là địch thủ của nó. Hai người lo thay cho Nhị Lang. Trần Trận cùng con Vàng về gần tới nhà thì trời đã tối mịt, cậu bảo Dương Khắc mang dụng cụ về trước, bảo Cao Kiện Trung là không xảy ra chuyện gì, còn cậu thì phi một mạch đến lều ông già Pilich.

Chương 10

Biên niên sử (bản chép tay) của người Mông Cổ chép rằng:... Người Thaiuxiuthi bắt nguồn từ Saliho Linhcon, con trai Haido Khan thực tổ Thành Cát Tư Hãn - người dẫn chú). Haido Khan có ba người con trai. Con cả tên Baxanghonhi (Ngũ tổ Thành Cát Tư Hãn), một chi của tổ tiên Thành Cát Tư Hãn bắt đầu tự ông này. Chi ấy đứng đầu là Saliho Linhcon. Anh trai là Batanghonhi chết, Salitho Linhcon lấy chị dâu làm vợ, bà này là mẹ Đonnhinai Khan (Tư tổ Thành Cát Tư Hãn), sinh hai con trai, một người tên Jiando Xichna, người kia tên Uthosan Xichna. Hai tên nêu trên có nghĩa là "sói đực" và "sói cái".. Những người thuộc chi này đều gọi là Xichnaxu (Xicha, tiếng Mông Cổ nghĩa là sói, "xu" chỉ số nhiều, tức "đàn sói".

(Ba Tư) Laxit "Sử tập. Quyển Một"

Ông già im lặng ngồi hút thuốc nghe Trần Trận kể. Nghe xong, không khách sáo gì hết, ông xạc cho Trần Trận một mẻ: Đáng giận nhất là hai cậu học sinh người Hán này đánh thuốc nổ hang sói. Ông không phải không biết uy lực và hiệu quả của thuốc nổ khi phá hang. Ông bóp mạnh cái tẩu, bộ ria rung rung vì giận. Ông nói với cậu: Hỏng bét! Rách chuyện rồi! Mấy quả pháo của các cậu đuổi đàn sói đi rồi. Các cậu làm vậy còn nguy hiểm hơn người Mông hun khói, con sói không kịp đào đất lấp hang. Sói Mông Cổ sợ nhất mùi thuốc súng. Nếu các cậu đánh thuốc nổ thì sói trong hang sẽ chạy hết ra cho các cậu bắt. Bằng cách này thì chẳng bao lâu sói thảo nguyên sẽ không còn một con. Đồng ý là phải diệt sói, nhưng không được diệt như thế. Diệt kiểu ấy ông trời sẽ giận, thảo nguyên sẽ không còn. Từ nay trở đi không được đánh bắt sói bằng thuốc nổ, không bao giờ được bày cho đám mã quan và những người khác dùng thuốc nổ. Các cậu làm hư đám mã quan rồi...

Trần Trận không ngờ ông già giận đến như thế. Qua lời ông già, cậu đã nhận ra hậu quả tai hại của chuyện đánh thuốc nổ. Cách này mà phổ biến rộng rãi thì dù phòng ngự nghiêm ngặt đến mấy cũng không chặn được tiếng nổ và mùi thuốc súng. Thảo nguyên không có tục đốt pháo trong ngày Tết, những thứ này do đám lưu dân và thanh niên trí thức đem đến. Súng đạn trên thảo nguyên bị quản lý chặt chẽ, nhưng với bộc phá thì chưa kịp ngăn chặn, con đường từ nội địa lên cao nguyên không kiểm tra, rất dễ đem theo. Nếu như pháo nổ đem lên thảo nguyên với khối lượng lớn cùng với bom cay, thuốc xịt chảy nước mắt thì là tai họa cho họ hàng nhà sói vốn thống trị thảo nguyên hàng vạn năm nay, chúng sẽ bị tuyệt diệt. Thuốc súng đối với thảo nguyên trong giai đoạn du mục nguyên thủy, có sức sát thương khủng khiếp. Một dân tộc mà để cho tôtem bị hủy diệt thì dân tộc ấy cũng có khả năng bị tàn sát, hơn nữa, thảo nguyên mà dân tộc đó dựa vào để sinh tồn cũng tàn lụi theo.

Trần Trận có vẻ sợ. Cậu lau mồ hôi trán: Bố đừng sợ, con xin hứa từ nay trở đi không dùng thuốc nổ phá hang sói, cũng xin hứa không bày cách này cho bất cứ ai. Người thảo nguyên lấy chữ tin làm gốc, là một trong những huấn lệnh của các Khan để lại. Giữ lời là vô cùng quan trọng, các bộ lạc trên thảo nguyên đều giữ lời hứa. Trong cuộc rượu, có khi vì một lời hứa mà mất con chó quý, mất con ngựa hay, mất con dao sắc, mất cây thòng lọng, thậm chí mất người yêu.

Nét mặt giãn ra, ông già nhìn Trần Trận nói: Tôi biết cậu diệt sói để bảo vệ cừu và ngựa, nhưng bảo vệ thảo nguyên còn quan trọng hơn. Hiện nay các mã quan trẻ thi nhau diệt sói. Người khu vực nông canh đến quản lý khu vực du mục cứ nhắm mắt làm bừa. Bao nhiêu tội vạ đều đổ lên đầu người thảo nguyên.

Caxumai bê cho Trần Trận một bát xáo thịt cừu, còn đặc cách cho cậu một lon rau phỉ. Chị quỳ bên bếp, múc cho bố chồng một bát xáo thịt rồi bảo Trần Trận: Bây giờ ít người nghe lời bố, muốn người khác không giết sói mà mình cứ giết thì mình nói ai nghe.

Ông già cười buồn tiếp lời con dâu: Cậu có tin lời ta nói không?

Trần Trận nói: Con tin. Không có sói, thảo nguyên rất dễ bị phá hoại. Có một nước ở mãi tận phương nam xa xôi là nước Úc, đồng cỏ thì rất rộng nhưng không có sói, cũng không có thỏ. Sau có người nhập thỏ về nuôi, một số con chạy ra đồng cỏ. Không có sói, nên thỏ sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều, đến nỗi đồng cỏ đầy những hang hốc, cỏ chăn nuôi bị thỏ ăn hết quả nửa, nông nghiệp bị tổn thất nặng nề. Chính phủ Úc đã áp dụng tất cả các biện pháp nhưng đều vô hiệu. Họ mua lưới thép về căng trên đồng, cỏ chui lên, nhưng thỏ thì không thể chui lên, bị kẹt dưới lưới. Nhưng đất đai rộng lớn, lấy đâu ra lưới thép nhiều như thế, thành thử kế hoạch thất bại. Con nghĩ, thảo nguyên Mông Cổ tươi tốt chắc rất nhiều thỏ, nhưng khi đến Ơlon lại thấy không nhiều, chắc đây là công của sói. Khi chăn cừu, con từng thấy sói bắt thỏ, hai sói bắt một, thỏ khó mà chạy thoát.

Ông già nghe say sưa, nét mặt dịu dần, miệng lẩm bẩm: Nước Úc, nước Úc! Rồi bảo Trần Trận: Mai đem bản đồ lại đây cho tôi xem cái nước Úc đó. Để xem còn ai đòi giết hết sói thì kể chuyện nước Úc cho họ nghe. Thỏ phá hoại đồng cỏ mới khiếp, một con thỏ cái một năm đẻ mấy lứa, mỗi lứa đông hơn sói. Mùa đông, rái cá cạn và chuột đồng ngủ vùi trong hang, chỉ thỏ là vẫn đi kiếm ăn. Thỏ là thực phẩm mùa đông của sói. Sói bắt thỏ thì đỡ bắt cừu, vậy mà không thể bắt hết thỏ. Nếu không có sói thì cứ ba bước chân lại có một hang thỏ trên thảo nguyên.

Trần Trận nói: Mai con đem bản đồ đến, bản đồ thế giới rất to, bố tha hồ mà xem.

Bấy giờ thì cậu về nghỉ, vất vả cả ngày rồi còn gì - Thấy Trần Trận nấn ná chưa muốn về, ông hỏi - có phải cậu muốn hỏi làm thế nào để bắt được ổ sói con, phải không?

Trần Trận gật đầu, nói: Đây là lần đầu con đi đào bắt sói, bố cố giúp con thành công.

Ông già nói: Bày cho cậu thì được, nhưng phải hứa là từ nay không được bắt nhiều.

Vâng - Trần Trận hứa lần nữa.

Ông già cười mỉm: Cậu mà không hỏi ta thì đừng hòng bắt được ổ sói này. Theo ta thì cậu nên tha cho con sói mẹ, đừng dồn nó đến bước đường cùng.

Trần Trận vội hỏi: Vậy con phải làm thế nào để bắt lũ sói con?

Ông già không cười nữa: Cái hang đầu tiên cậu đã đánh thuốc nổ, cái hang thứ hai có hơi người vì cậu đã chui vào, cửa hang đã bị lấp. Vì vậy, chắc chắn đêm nay con sói sẽ dọn nhà. Nó sẽ đào một cái hang mới, chuyển đàn con tới trạm trú, nó còn đào tiếp một cái hang nữa rồi một cái nữa, ở một nơi không ai tìm ra.

Trần Trận vô cùng hồi hộp, hỏi: Cái hang tạm ấy tìm có dễ không hở bố?

Ông già nói: Người không tìm ra, nhưng chó tìm ra. Con Vàng, con Mực đều được. Xem ra cậu quyết ra tay với con sói mẹ.

Trần Trận đề nghị: Hay là mai bố dẫn con đi. Dương Khắc bảo, cậu ấy sợ mưu của sói lắm rồi.

Ông già cười: Ngày mai ta bận đặt bẫy. Đêm qua một con sói lớn mắt bẫy của ta đặt hôm nọ. Nhưng ta chưa đụng đến nó. Đàn sói phía bắc đã đói, chúng sẽ trở lại đây. Mai phải đem tất cả các bẫy đi đặt. Chuyện ổ sói con thì sau khi đánh bắt đàn sói hãy bàn.

Trần Trận sốt ruột, mặt đỏ gay. Ông già nhìn cậu, nói nhỏ: Đã vậy thì ngày mai hai anh em đi xem thử, hang sói mùi rất đậm, dắt chó đi vài tua là phát hiện ra. Hang mới không sâu, nhưng nếu sói mẹ tha con đến một hang cũ thì rất gay vì khó đào. Đào bắt sói cũng có may có rủi. Nếu không đào được thì tôi đi. Tôi mới dám cho Bayan chui vào hang.

Bayan tỏ vẻ thành thạo: Cái hang thắt cổ chai mà chú nói ấy, cháu chui vào được. Phải thật nhanh, nếu không, bị nghẹt thở. Chú cho cháu đi với, cháu sẽ bắt cả ổ.

Trần Trận trở về lều, Dương Khắc vẫn đợi cậu. Trần Trận nói lại những nhận xét của ông già, Dương Khắc vẫn không yên tâm.

Nửa đêm, Trần trận bị tiếng chó sủa dữ dội đánh thức. Con Nhị Lang đã trở về, nó không bị đàn sói bao vây. Trần Trận nghe tiếng chân chắc nịch bên ngoài, định trở dậy cho nó ít thịt vụn và băng bó vết thương cho nó, nhưng cậu buồn ngủ đến nổi không sao dậy được. Bên ngoài con Nhị Lang sủa dóng một, còn Trần Trận ngủ say như chết.

Sáng ra, lúc Trần Trận ngủ dậy đã thấy Dương Khắc, Cao Kiện Trung và Đan Chi đang uống trà bên bếp, bàn cách bắt sói con. Đan Chi là ngưu quan tổ 3, hai bốn hai lăm tuổi, già dặn, xốc vác, học hết cấp 2 thì nghỉ học đi chăn bò kiêm chức kế toán của tổ, và là thợ săn nổi tiếng toàn mục trường. Bố cậu là dân Mông - nửa làm ruộng nửa chăn thả vùng Đông Bắc. Sau khi thành lập mục trường, ông chuyển cả gia đình về đây sinh sống, là một trong những hộ ngụ cư ở Ơlon. Phong tục tập quán của người Mông Đông Bắc và người Mông bản địa khác nhau khá xa, rất ít khi gả bán cho nhau. Tộc Mông - nửa làm ruộng nửa chăn thả, nói tiếng Hán trôi chảy bằng giọng Đông Bắc. Họ là người phiên dịch và thầy dạy tiếng Mông đầu tiên cho các học sinh Trung Quốc. Ông Pilich hầu như không tiếp xúc với số người Mông này. Đám thanh niên trí thức thì không muốn giữa họ có mâu thuẫn. Dương Khắc mời Đanchi đến lều từ sáng sớm, khẳng định nỗi lo của cậu là lại sợ bị sói lừa hoặc gặp nguy hiểm, nên mời Đanchi làm cố vấn. Đanchi là con người đã nói là làm, sự có mặt của cậu ta là một đảm bảo cho công việc tốt đẹp.

Trần Trận vội dậy mặc quần áo, chào Đanchi. Cậu ta nhìn Trần Trận cười: Cậu dám chui vào hang bắt sói con? Cẩn thận đấy, sói mẹ ngửi hơi cậu, cậu đi đâu nó theo đó.

Trần Trận giật mình, xỏ nhầm tay áo: Vậy ta phải diệt con sói mẹ, không thì mình chết mất.

Đanchi cười: Mình dọa cậu thế thôi. Sói sợ người. Nó có nhận ra cũng không dám làm gì cậu. Sói ghê gớm đến thế thì mình tiêu từ lâu rồi. Mình chui vào hang sói từ năm 13 tuổi, vậy mà đến giờ vẫn sống nhăn.

Trần Trận như trút được gánh nặng, hỏi: Cậu là lao động tiên tiến về diệt sói, đã hạ tất cả bao nhiêu con?

Không kể sói nhỏ, khoảng sáu bảy chục con sáo lớn, sói con thì bảy tám ổ.

Bảy tám ổ thì chí ít cũng năm sáu chục con. Vậy là cậu đã diệt hơn một trăm hai mươi con. Sói có trả thù cậu không?

Sao lại không? Mười năm qua, sói đã cắn chết của nhà mình bảy con chó, cừu thì nhiều hơn, không nhớ cụ thể là bao nhiêu.

Cậu giết quá nhiều sói, nếu không còn sói thì người Mông khi chết làm thế nào?

Phong tục người Mông vùng Đoanmen chúng tôi như người Hán, khi chết không cho sói ăn thịt, mà cho vào quan tài đem chôn dưới đất. Người Mông ở đây lạc hậu lắm.

Phong tục ở đây là cho sói ăn, còn ở Tây Tạng thì cho chim kền kền ăn. Cậu bắn chết nhiều sói như thế, người dân ở đây có ghét cậu không?

Sói Ơlon nhiều vô kể, làm sao diệt hết? Chính phủ kêu gọi diệt sói. Diệt một con sói bảo đảm cho một trăm con cừu; diệt một ổ sói con, bảo đảm cho mười đàn cừu. Mình diệt đã thấm gì. Cong xã Bayincaoti có nhiều dân ngụ cư, nhiều dân Mông Đông Bắc, nhiều thợ săn nên sói rất ít.

Trần Trận hỏi: Chăn nuôi ở đấy thế nào?

Đanchi trả lời: Chẳng ra sao cả, thua xa ở đây. Các bãi chăn ở đó không tốt, thỏ và chuột nhiều vô kể.

Trần Trận mặc vội áo ngoài, ra cửa ngó con Nhị Lang. Nó đang chén một con cừu non đã lột da. Về mùa xuân, cứ cách hai ba hôm lại có cừu non chết cóng hoặc ốm chết, là thức ăn mà chó rất thích. Chó chăn cừu trên thảo nguyên chỉ ăn những con cừu đã lột da, không ăn cừu còn sống. Nhưng Trần Trận phát hiện con Nhị Lang khi ăn con cừu chết, mắt vẫn nhìn đau đáu những con cừu sống trong chuồng. Trần Trận cất tiếng gọi, nhưng con Nhị Lang vẫn không ngửng lên, chỉ mỗi cái đuôi là khẽ phe phẩy. Còn con Vàng và con Ilua thì nhào tới chồm hai chân trước lên vai Trần Trận. Dương Khắc đã băng bó cho con Nhị Lang, nhưng nó tỏ ra không thích, chỉ muốn gỡ bỏ băng để liếm vết thương. Nhìn vẻ phấn kích của nó, Trần Trận thấy có thể cho nó đi theo.

Ăn sáng xong, Trần Trận đến nhà Quanbu nhờ anh ta chăn cừu hộ. Cao Kiện Trung thấy Trần Trận và Dương Khắc đi đào bắt sói con, một công việc mà cậu rất mê, liền đi nhờ con trai Quanbu chăn giúp một ngày. Ở thảo nguyên Ơlon rất vinh dự khi đào bắt được một ổ sói con.

Bốn người đi theo hàng dọc, đem theo đồ lề, vũ khí và hai con chó, nhắm núi Đen chạy tới. Mùa xuân năm nay lạnh buốt, đến ầm ầm như băng vỡ, đi chậm chạp như nhả tơ. Ba bốn ngày trôi qua mà cái nắng vẫn không chọc thủng nổi tầng mây, thảo nguyên u ám, khiến sắc mặt mục dân đen sạm, mất đi vẻ tươi tắn. Những mầm cỏ dưới tuyết chuyển dần thành màu vàng như giá đậu ủ dưới chăn, hoàn toàn không có màu xanh lục điệp, ngay cừu cũng chê, không thích ăn. Đanchi nhìn những đám mây tơi tả như giẻ rách, vui mừng ta mặt: Trời lạnh nhiều ngày nay sói không có gì cho vào bụng. Đêm qua chó canh cừu sủa dữ dội, chắc là đàn sói đã về.

Bốn người lần theo những vết chân ngựa hôm qua, đi hơn hai tiếng đồng hồ tới một cái khe rậm rạp. Cái mai vẫn cắm trên miệng hang đã bị lấp, nhưng chúng không đụng đến đất đá lấp cửa hang, hình như sói mẹ trông thấy cái mai, sợ quá bỏ chạy. Hai con chó săn trông thấy cái hang liền quýnh lên, cắm đầu đánh hơi. Con Nhị Lang lại càng hăng, mắt vằn những tia lửa phục thù. Trần Trận giơ tay chỉ sườn núi gần đó, chụm miệng suỵt một tiếng, hai con chó lập tức chia hai hướng, vừa đánh hơi vừa lần theo vết chân sói. Bốn người lại đi tới một lối ra khác, xung quanh miệng hang có rất nhiều dấu chân sói còn mới, đất đá lấp miệng hang vẫn không suy suyển. Đanchi phân công từng người đi tìm các cửa hang xung quanh. Cả bọn đi chưa được hai vòng, chợt nghe tiếng sủa ầm ĩ của con Nhị Lạng và con Vàng từ phía bắc vọng lại. Trần Trận cầm lấy cây mai, cùng ba người kia chạy về sườn núi phía bắc.

Qua đỉnh dốc mọi người trông thấy hai con chó đang sủa như điên. Con Nhị Lang vừa sủa vừa cào bới, con Vàng cũng chổng mông mà cào. Đất vụn bắn tung toé. Đanchi reo to: Thấy hang sói rồi! Bốn người phấn khởi tới mức bất chấp đá sỏi dưới chân, thúc ngựa chạy một mạch tới chỗ hai con chó liền xuống ngựa. Hai con chó không nhường chỗ cho chủ, vẫn tiếp tục cào bới. Con Nhị Lang đã rúc mõm vào trong hang, quyết lôi bằng được con mồi ra. Trần Trận bước tới ôm eo con Nhị Lang lôi nó ra, nhưng những gì trông thấy trước mặt khiến cậu hơi thất vọng: Trên mặt đất bằng phẳng, cái hang nhỏ xíu, chỉ rộng chừng ba mươi phân, so với những cái hang mà cậu đã từng trông thấy, thì cái này không thể gọi là hang. Miệng hang lại không có gờ, chỉ một ít đất vung vãi trên tuyết đã bị hai con chó giẫm nát.

Cao Kiện Trung bĩu môi: Thế này mà là hang sói? Hang thỏ thì có. Không thỏ thì rái cá.

Đanchi từ tốn: Cậu xem này, đây là hang mới đào, chắc chắn sói mẹ tha con tới đây.

Trần Trận tỏ vẻ không tin: Dù mới đào nhưng hang sói đâu có nhỏ như thế này. Sói mẹ chui vào bằng cách nào?

Đanchi nói: Đây là hang tạm. Sói mẹ mình thon, chui vào được. Nó giấu tạm ở đây, vài hôm nữa, khi đào xong hang lớn ở nơi khác, nó sẽ chuyển đi.

Dương Khắc giơ cao cây mai: Bất kể là sói hay thỏ cũng phải bắt bằng được, khỏi uổng công. Các cậu tránh ra!

Đanchi vội ngăn: Để mình xem nó sâu bao nhiêu, có gì trong đó không đã. Nói xong, cậu cầm ngược cán thòng lọng, luồn vào trong hang sâu khoảng một mét. Chợt cậu mừng rỡ: Đụng rồi, có cái gì mềm mềm. Cậu thử đi. Trần Trận cầm cây thòng lòng luồn vào, quả nhiên đụng một vật đàn hồi. Khoái quá, Trần Trận cười toe toét: Đúng là có con gì rồi, phải sói con thì hay quá. Dương Khắc và Cao Kiện Trung cũng thử, đều khẳng định là bên trong có cái gì đó, nhưng chưa dám chắc là sói con.

Đanchi luồn cây thòng tới đáy hang, giữ nguyên chỗ tay cầm làm cữ, cậu rút cây thòng ra, chiếu theo lòng hang để xách định hướng rồi dùng mũi giày đánh dấu vị trí, nói: Đào chỗ này, cẩn thận kẻo làm chúng bị thương.

Trần Trận cầm lấy cây mai trong tay Dương Khắc, hỏi: Sâu bao nhiêu?

Đanchi nói: Khoảng hai thước. Thân nhiệt của lũ sói con khiến đất mềm ra, nên đừng mạnh tay quá.

Trần Trận dùng lưỡi mai gạt tuyết trên mặt rồi dùng chân ấn lưỡi mai từ từ ăn sâu vào lòng đất. Mặt đất đột nhiên bị sụt, hai con chó chồm tới sủa ầm ĩ. Trần Trận đỏ bừng mặt, xúc động như đào thấy mộ Tây Hán. Trong đám đất vụn là những con sói con lông xám, lông gáy màu đen. Ba cậu thanh niên trí thức Bắc Kinh ngớ ra một lúc rồi mới reo ầm lên. Trần Trận và Dương Khắc đừng như bụt mọc. Công trình mà các cậu lao tâm khổ từ suốt mấy ngày đêm, cứ tưởng phải một trận ác chiến hoặc tốn công tốn sức một thời gian dài mới gặt hái, nào ngờ chỉ một nhát mai đã kết thúc. Hai người không dám tin những con vật bé tí trước mặt lại là sói, những con sói Mông Cổ xuất quỉ nhập thần, tinh thông binh pháp, xưng hùng xưng bá trên thảo nguyên mà lại bị đám thanh niên trí thức mò đến tóm tận ổ? Dương Khắc nói: Mình cứ tưởng nằm mơ! Không nghĩ rằng ổ sói này lại rơi vào tay chúng ta! Cao Kiện Trung cười diễu; Không ngờ mèo mù Bắc Kinh vớ cá rán Mông Cổ.

Trần Trận ngồi xổm nhặt những viên sỏi trên mình những con sói, cẩn thận đếm: Bảy con tất cả. Mỗi con to bằng nắm tay, đầu đen nhánh, nằm cuộn tròn không động cựa nhưng mắt mở, con ngươi phủ một tấm màng màu xám trong suốt, mọng nước. Con ngươi đã có màu đen. Cậu bảo lũ sói con: Tao tìm chúng mày đã lâu, cuối cùng ta đã gặp nhau.

Đanchi nói: ổ này được khoảng hai mươi hôm, sắp mở mắt rồi.

Trần Trận hỏi: Chúng ngủ say hay sao, chẳng động cựa gì hết.

Đanchi nói: Bọn sói tinh ra từ bé. Vừa rồi tiếng người tiếng chó đánh thức chúng dậy nên chúng đang giả vờ chết. Không tin, cậu thử xách một con lên xem.

Lần đầu đụng tay vào con sói, Trần Trận hơi do dự. Cậu không dám đụng vào mình nó, mà chỉ dùng ngón trỏ và ngón giữa cầm tai nó nhấc lên. Nó vẫn không cử động, bốn chân thõng thượt như đã chết. Con sói được đưa đến trước mắt mọi người. Trần Trận đã nhiều lần nhìn thấy chó con, nay thấy sói con, cậu thấy chúng khác nhau khá xa. Chó con lông bóng mượt, rất xinh. Còn sói con thì không thế. Sói là loài thú hoang dã, lông dày màu xám, nhưng giữa đám lông mềm mại đâm ra tua tủa những chiếc lông dài và cứng, còn lông đầu thì đen như phết hắc ín. Mắt chưa mở nhưng răng đã mọc, hàm răng trắng nhởn trông phát khiếp. Sói con hôi rình, không dễ thương như chó con. Tuy vậy trong con mắt Trần Trận, sói con là con vật cao quý nhất, hiếm gặp nhất, đẹp đẽ nhất trên thảo nguyên.

Trần Trận vẫn xách tai con sói con. Nó vẫn giả vờ chết, không chống trả, không kêu rên. Vậy mà khi sờ vào ngực, tim nó nhảy thình thịch, không nghĩ là tim đập nhanh đến thế. Đanchi bảo: Cậu thử đặt nó xuống đất mà xem. Trần Trận vừa đặt xuống, con sói liền cựa quậy, trườn rất nhanh về phía không có người và chó, nhanh như đồ chơi bằng dây cót. Con Vàng chỉ ba bước đã đuổi kịp, định cắn thì bị cả ba người quát nạt. Trần Trận vội nhặt con sói cho vào túi xách. Con Vàng nhìn Trần Trận tỏ vẻ bất mãn, nó chỉ muốn cắn chết tươi mấy con sói cho hả giận. Trần Trận nhận thấy con Nhị Lang đứng ngẩn nhìn mấy con sói, đuôi khẽ vẫy.

Trần Trận mở miệng túi vải bạt, ba thanh niên trí thức Bắc Kinh vui như trẻ nhỏ ra ngoại thành bắt được ổ trứng chim, tranh nhau xách tai từng con sói con bỏ vào trong túi. Trần Trận buộc chặt miệng túi, đeo bên hông ngựa, chuẩn bị ra về. Đanchi nhìn bốn phía, nói: Chắc sói mẹ quanh quẩn đâu đây, ta nên đi vòng xa một tí, nếu không, nó theo ta về tận nhà. Nghe nói vậy, ba người chợt nhận ra mối nguy, mới hiểu trong túi xách không phải trứng chim mà là những con sói mà mỗi khi nhắt đến, người Hán nào cũng tái mặt.

Chương 11

Anh trai chết, Saxwhailinhhu lấy chị dâu sinh hai con trai, một người tên Càndo Xichna, một người tên Uydochinh Xichna, tiếng Mông Cổ "xichna" là sói. Sử tập còn giải thích cặn kẻ là sói đực và sói cái.

Xíchnaxu chỉ số nhiều, tức đàn sói.

Hàn Nho Lâm "Thành Cát Tư Hãn thập tam dực khảo"

Ba người vội vàng lên ngựa theo Đanchi nhằm hướng tây xuyên qua bãi sậy, rồi rẽ hướng nam, vòng qua bãi đất phèn - toàn những nơi ít để lại dấu chân ngựa. Trên đường về, ba cậu thanh niên Bắc Kinh không những không cảm thấy vui, mà còn thấp thỏm như những tên trộm vặt, chỉ sợ chủ nhà đuổi theo.

Nhưng khi nhớ lại con sói mẹ cướp đi con cừu non thì Trần Trận lại thấy đỡ dằn vặt, cậu đã trả thù cho con cừu non vô tội. Diệt được một ổ sói con là bảo vệ được một đàn cừu. Nếu như các cậu không bắt được ổ sói này, thì đàn cừu chắc chắn gặp đại họa. Đào bắt sói con là biện pháp hữu hiệu trong cuộc chiến một mất một còn giữa người và sói trên thảo nguyên Mông Cổ. Bắt một ổ sói con tương đương tiêu diệt một đàn sói nhỏ. Đào bắt bảy con sói con tuy vất vả, nhưng không khó bằng diệt bảy con sói lớn. Biện pháp này đã thực thi từ lâu, vậy vì sao vẫn không giảm được tai họa do sói gây ra? Trần Trận bèn hỏi Đanchi. Đanchi nói: Sói rất khôn khi chọn thời điểm đẻ con. Cách đây hàng vạn năm, sói và chó nhà là một, nhưng thực tế sói khôn hơn chó nhà. Chó nhà sau Tết khoảng nửa tháng thì đẻ. Nhưng sói lại chọn lập xuân, là lúc tuyết vừa tan, cừu vừa đẻ.

Chăm sóc cừu đẻ là thời gian bận bịu nhất, vất vả mệt nhọc nhất trong năm. Một đàn xẻ thành hai dàn, toàn bộ sức lực đầu tư vào đấy. Mệt đến nỗi cơm không buồn ăn, nói gì đến đi đào bắt sói con. Công việc chăm sóc cừu non bắt đầu rảnh, thì khi ấy sói đã lớn, không ở trong hang nữa. Ngày thường sói không ở hang, khi đẻ mới ở. Sói con khoảng một tháng thì mở mắt, một tháng nữa là lăng xăng theo mẹ. Khi ấy mới đi đào, thì chỉ còn hang không. Nếu sói đẻ vào mùa hè, mùa thu hoặc mùa đông thì chắc chúng tuyệt diệt từ lâu, vì khi ấy con người nhàn rỗi. Sói chọn mùa xuân còn một cái lợi nữa: Bắt cừu non về cho con tập vồ mồi và ăn thịt. Thịt cừu non là món ăn khoái khẩu của sói con. Chỉ cần có cừu non là sói mẹ không sợ thiếu sữa, đẻ một lứa mười mấy con cũng sống tất.

Dương Khắc ngồi trên yên chép miệng than: Sói ơi là sói, tao phục mày sát đất. Quả có thế thật, chăm cừu đẻ rất mệt. Đựng cừu non vào tải, mỗi tải bốn năm con, mỗi ngày một người vận chuyển mươi mấy chuyến, mệt đứt hơi. Nếu đây không phải là lần đầu thì mình hơi đâu mà đi với các cậu. Từ nay mình không đi nữa. Còn bây giờ thì phải ngủ cho lại sức.

Dương Khắc ngáp dài. Trần Trận cũng cảm thấy buồn ngủ ríu mắt, nhưng cậu vẫn bám sát đề tài, hỏi Đanchi: Người dân bản địa theo Lạt Ma giáo, mỗi gia đình đều có người đi làm Lạt Ma. Lạt Ma làm việc thiện, không sát sinh, giết sói con sẽ tổn thọ. Mình không theo Lạt Ma, không sợ tổn thọ. Người Mông Đông Bắc chúng mình khi chết không hiến cho sói, nên mình không sợ hết sói. Người Mông Đông Bắc khi đã biết làm ruộng thì tín ngưỡng như người Hán, địa táng.

Đoàn người rời cái hang mỗi lúc một xa, nhưng Trần Trận vẫn cảm thấy như có làn gió lạnh từ cõi u linh bám sau lưng, khiến cậu tâm thần bất định, lo sợ vẩn vơ. Lớn lên ở thành phố, chưa từng có quan hệ với loài sói, vậy mà giờ đây cậu quyết định số phận của bảy con sói Mông Cổ. Con sói mẹ quả tinh khôn, đàn sói này chắc là hậu duệ của sói chúa, chí ít cũng là sói Mông Cổ thuần chủng. Nếu như cậu không mê sói, thì những con sói này sẽ thoát nạn, sẽ sống khoẻ, trở thành những dũng sĩ trên thảo nguyên khốc liệt. Vậy mà sự có mặt của cậu đã làm thay đổi tận gốc số phận những con sói con. Và bằng hành động này, cậu gắn kết với sói, đồng thời trở thành kẻ thù của sói thảo nguyên. Họ hàng nhà sói Ơlon dưới sự chỉ huy của con sói cái thông minh đêm đêm truy kích cậu, uy hiếp linh hồn cậu. Trần Trận nhận ra cậu đã phạm sai lầm.

Về đến nhà, đã quá trưa. Trần Trận treo túi đựng sói lên vách lều.

Bốn người ngồi quanh bếp uống trà, ăn thịt nướng, vừa ăn vừa bàn cách xử lý lũ sói con. Đanchi nói: Xử lý như thế nào thì không cần bàn, ăn xong mình sẽ cho các cậu xem, khoảng hai phút là xong.

Trần Trận biết sẽ gặp một vấn đề hóc búa: Nuôi sói. Khi trong đầu nảy ra ý này, Trần Trận đoán có thể bị tất cả mục dân, cán bộ và thanh niên trí thức phản đối. Bất kể từ góc độ nào, chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc, hoặc từ phương diện sản xuất và an toàn, nuôi sói đều bị hiểu là có dụng ý xấu, đáng phỉ nhổ. Thời kỳ cách mạng văn hóa, một nhân viên vườn thú nhốt chung con hổ mất mẹ với con chó cái cho sữa, lập tức trở thành vấn đề chính trị nghiêm trọng, bị coi là tuyên truyền học thuyết điều hòa giai cấp, anh nhân viên đó bị đấu lên đấu xuống. Vậy thì nuôi một con sói bên cạnh đàn cừu, đàn chó, hóa ra không phân biệt địch ta, coi thù là bạn đó sao! Sói thảo nguyên là kẻ thù, đồng thời là thần linh, là tôtem của dân du mục, là con tàu chở linh hồn họ lên trời. Mà đã là thần linh, là tôtem, thì chỉ có thể thờ phụng, không được nuôi trong nhà như nô lệ để sai khiến. Nuôi sói, nuôi hổ như nuôi ong tay áo, tai họa xảy ra không biết lúc nào. Lại còn chuyện này nữa: Ông già Pilich còn nhận cậu làm con nuôi nữa không?

Nhưng Trần Trận không hề có ý coi thường thần linh, coi thường tình cảm tôn giáo của dân tộc Mông Cổ. Trái lại, cậu coi trọng tôtem sói của người Mông, một đề tài sâu sắc huyền ảo. Vì vậy ước nguyện nuôi sói của cậu càng bức xúc.

Hành tung của sói xuất quỷ nhập thần, nếu như cậu không có một con sói bằng xương bằng thịt, sờ mó được, thì nhận thức của cậu về sói chỉ dừng lại trong những chuyện dân gian hoặc ở trình độ phổ thông như những người khác, thậm chí rơi vào thiên kiến của người Hán: Căm ghét sói. Kể từ năm 1967 lớp thanh niên trí thức đầu tiên rời Bắc Kinh, và rất đông những người từ dưới xuôi cùng với bao nhiêu là súng đạn ồ ạt đưa lên thảo nguyên Mông Cổ, sói Mông Cổ đang giảm dần, có lẽ chỉ ít năm nữa, khó mà bắt gặp một ổ bảy tám con, muốn xin mục dân một con về nuôi lại càng khó, muốn nuôi thì đi mà bắt về. Vậy thì cậu cứ nuôi một con, nhưng phải tìm lý do để tình cảm mục dân, nhất là tình cảm của những người già không bị tổn thương.

Trước ngày đi bắt sói con, cậu suy nghĩ mãi mới kiếm được một lý do có vẻ hợp lý: Nuôi sói để thực nghiệm khoa học: sẽ cho chó sói phối giống với chó bécgie. Chó bécgie rất nổi tiếng trên thảo nguyên Ơlon. Bộ đội biên phòng có bảy tám con bécgie cao to lừng lửng, chạy cực nhanh. Chó bécgie mà săn cáo thì mười con không sai một. Có lần đồn trưởng biên phòng dẫn hai chiến sĩ cùng hai con bécgie về Ơlon kiểm tra công tác dân quân. Dọc đường, hai con bécgie săn được bốn con cáo to tướng khiến mọi người trố mắt. Mục dân muốn xin một con bécgie để nuôi, nhưng thời bấy giờ chó bécgie được coi là loại vật tư quý hiếm, quan hệ quân dân có tốt đến mấy cũng không có mà cho. Trần Trận nghĩ, bécgie chẳng qua là con lai giữa bố sói với mẹ chó nhà. Nếu như nuôi một con sói đực rồi cho nó giao phối với chó nhà, chắc chắn sẽ đẻ ra bécgie. Nói rằng sẽ tặng những con bécgie đó cho mục dân, vậy là có lý do nuôi sói. Với lại, sói Mông Cổ là loại sói tốt nhất thế giới, nếu như thí nghiệm thành công, sẽ lai tạo ra những con bécgie tốt hơn cả becgie Đức, bécgie Liê Xô. Hơn thế nữa, biết đầu từ đó mở ra một nghề mới: sản xuất chó giống.

Trần Trận đặt bát xuống, bảo Đanchi: Cậu xử lý sáu con, để lại con đực khoẻ mạnh nhất cho mình nuôi.

Đanchi ngẩn người, nhìn Trần Trận không chớp có đến mười giây đồng hồ, hỏi: Cậu định nuôi sói?

Trần Trận nói: Ừ lớn lên cho nó phối giống với chó nhà, chắc chắn sẽ đẻ ra béc giê như chó biên phòng. Chó béc giê thì ai mà chẳng thích.

Đanchi chớp mắt, trong một thoáng ánh mắt cậu loé lên như con thú trông thấy con mồi. Cậu ta thở gấp: Ý tưởng này quả không tồi! Biết đâu lại thành công. Mình có béc giê thì săn cáo, săn sói ngon lành hơn nhiều. Ta còn có thể xuất chó giống nữa chứ, tha hồ mà phát tài.

Trần Trận nói: Mình sợ đội không cho nuôi.

Đanchi nói: Nuôi sói là để trị sói, bảo vệ tài sản tập thể. Người nào phản đối, ta sẽ không cho chó giống.

Dương Khắc cười, nói: Thế ra cậu cũng định nuôi?

Đanchi tỏ ra kiên quyết: Các cậu nuôi thì mình cũng nuôi một con.

Trần Trận nắm tay nọ đập vào lòng bàn tay kia đánh bốp một tiếng: Tốt rồi, hai nhà cùng nuôi, càng chắc thắng.

Trần Trận có vẻ đăm chiêu: Còn một chuyện mình chưa rõ. Tức là sói đực có chịu giao phố với chó cái không?

Đanchi nói: Chuyện ấy khỏi lo. Mình đã có cách. Năm kia mình đem về một con chó cái định cho giao phố với chó đực nhà mình. Nhà mình có mười con chó thì tám con là đực, tốt xấu lẫn lộn. Nếu để tự do, lỡ phối với con đức xấu thì hỏng bét. Thế là mình đào một cái giếng sâu hai tầm với, rộng bằng căn lều Mông Cổ, rồi thả con cái và một con đực đã chọn lọc xuống cùng với một con cừu đã lột da. Sau đó, cứ vài ngày mình lại tiếp tế thức ăn thức uống. Hai mươi ngày sau, mình cho hai con lên, thấy con cái đã có chửa, sắp lập xuân đẻ một lứa tám con. Mình quật chết bốn con cái, để lại nuôi bốn con đực. Hiện giờ nhà mình có hơn chục con chó, nhưng bốn con kia là tốt nhất: nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, hung dữ. Chúng săn được quá nửa số sói và cáo săn được trong cả năm. Nếu ta áp dụng biện pháp này, chắc chắn sẽ có béc giê con. Nhớ là phải cho sói con và chó con sống với nhau từ bé.

Trần Trận và Dương Khắc tán thành.

Bao tải khẽ động, lũ sói con chen chúc trong đó đã bị mỏi hoặc đói. Chúng không giả vờ chết nữa, bắt đầu cựa quậy, định chui ra ngoài. Chỉ riêng chuyện này đã khiến Trần Trận phục sát đất. Nhưng hễ nghĩ tới năm con trong đó sẽ bị quật chết, cậu lại thấy trong lòng nặng nề. Cậu nhớ tấm pano bên cổng vườn thú Bắc Kinh, nếu đưa được năm con sói này về đấy thì hay biết mấy. Chúng thuần giống Mông Cổ. Lúc này, cậu càng thấy lòng tham vô đáy và thói chuộng hư vinh của con người thật đáng sợ. Cậu đi đào hang sói là để bắt sói về nuôi. Mà nuôi thì chỉ cần bắt một con sói đực về là xong, cho dù chọn lấy con đầu đàn to đẹp nhất cũng không có gì quá quắt. Vậy thì vì lý do gì cậu ôm cả đàn sói về? Đúng là không nên cho Đanchi và Cao Kiện Trung đi cùng. Nhưng nếu không có hai người này, phải chăng cậu cũng chỉ bắt một con? Chắc là không. Bắt cả đàn đồng nghĩa với thắng lợi của lòng dũng cảm, của lợi ích vật chất, là vinh dự cùng với sự ngưỡng mộ của mọi người. Đặt những thứ ấy lên bàn cân, thì những con sói chỉ là hạt cát!

Trần Trận thấy bụng đau quặn vì thương lũ sói. Cậu thích chúng đã hai năm nay, thích đến mê mẩn. Cậu muốn giữ lại tất cả nhưng chắc là không được. Phải tốn nhiều thức ăn mới nuôi được cả đàn. Cậu chợt nghĩ, hay là đem năm con về trả cho sói mẹ. Sẽ không ai đi cùng cậu, trừ Dương Khắc. Đi một mình thì cậu không dám, bốn tiếng đồng hồ cả đi lẫn về, người ngựa đều không chịu nỗi. Chắc là con sói mẹ đang kêu gào bên miệng hang. Giờ mà một mình đến đó, chết là cái chắc.

Trần Trận xách cái túi đựng sói, bước ra ngoài, nói: Để mấy hôm hãy xử lý, mình muốn quan sát chúng kỹ một chút. Đanchi hỏi: Cậu lấy gì nuôi chúng? Trời lạnh thế này, chỉ một ngày không ăn là chúng chết hết. Trần Trận nói: Mình vắt sửa bò cho chúng uống. Cao Kiện Trung sa sầm mặt. Không được! Sữa bò là để cho người. Sói ăn thịt bò, giờ lại lấy sữa bò nuôi sói, trên đời làm gì có cái lý ấy! Mà làm thế, đội sẽ không cho mình chăn bò nữa.

Dương Khắc tính chuyện được cả chì lẫn chài, nói: Phải cho Đanchi xử lý thôi. Caxumai đang lo cuống lên vì chưa hoàn thành chỉ tiêu. Nếu ta nộp năm bộ da sói con thì có thể nuôi vụng được hai con. Nếu không nộp con nào thì nuôi vụng một con cũng không xuôi. Để Đanchi hạ thủ mới nhanh, mình không hạ thủ được, cậu cũng chịu. Đã mấy khi mời được Đanchi tham gia.

Trần Trận ứa nước mắt, thờ dài. Cậu chẳng còn cách nào khác, đành quay vào trong lều bê ra chiếc thùng gỗ đựng phân bò khô. Cậu dốc hết phân trong thùng rồi trút ổ sói trong bao tải vào thùng. Lũ sói bò lổm ngổm ra các phía, nhưng khi đụng cạnh thùng, chúng liền nằm im giả vờ chết. Những sinh mệnh bé bỏng gắng chống chọi lần cuối với may rủi. Chúng run như giẽ, những sợi lông dài rung bần bật như có dòng điện chạy qua. Đanchi lấy ngón tay lẩy từng con sói như người ta đếm thỏ, bảo Trần Trận: Bốn đực, ba cái. Con khoẻ nhất phần cậu. Con này thì cho mình. Nói xong, Đanchi bỏ năm con còn lại vào bao tải rồi xách ra chỗ đất trống trước lều, lôi một con ra nhìn bụng và bảo: Cho con cái này lên chầu trời trước tiên. Nói xong, cậu đưa tay về phía sau, nhún thấp chân phải rồi tung con sói lên cao - y như xử lý đối với chó con thiếu sữa - hồn lên trời, thân xác thì xuống đất. Trước đây, Trần Trận và Dương Khắc nghe nói có nghi thức này, nhưng chính mắt trông thấy thì đây là lần đầu. Hai người mặt như chàm đổ, sắc mặt như bãi tuyết bẩn dưới chân lều.

Con sói trước đó vẫn giả vờ chết. Nhưng khi bị ném lên cao, theo bản năng, nó biết là đi đâu, liền quẫy đạp lung tung mong sói bố hoặc sói mẹ đến cứu. Trần Trận như nhìn thấy màng mắt con sói nứt ra vì sợ, để lộ cặp mắt đỏ ngầu. Nó mở mắt sớm trong không trung, nhưng không nhìn thấy trời xanh, vì trời bị mây đen che kín, và mắt nó thì nước mắt pha máu che phủ. Nó há hốc miệng rơi theo đường cầu vồng xuống mắt tuyết rắn.

Con sói rơi đánh bộp xuống đất như một quả dừa non, cái thân bé bỏng không kịp giẫy giụa đã bất động, máu rỉ ra từ tai, mũi, mắt, miệng, đỏ nhờ như pha sữa. Trái tim Trần Trận chạy từ ngực lên họng rồi lại từ họng xuống ngực, đau đến nỗi mất hết cảm giác. Ba con chó lập tức xông tới nhưng bị Đanchi quát lui. Cậu sợ lũ chó xé rách bộ da quý hiếm. Điều bất ngờ là con Nhị Lang hộc lên một tiếng vọt lên trước chặn con Vàng và con Ilua, không cho cắn con sói. Nó thích con sói, nó không nhiễm thói xấu hành hạ kẻ đã chết, đúng phong độ của bậc đại tướng.

Đanchi lại lôi một con ra. Con này hình như đã đánh hơi thấy mùi chết chóc, nên không giả vờ chết mà cựa rất dữ, những cái móng bé tí cào trắng mu bàn tay cậu. Đanchi định ném lên nhưng cậu bất chợt dừng lại, bảo Trần Trận: Lại đây, cậu cũng phải tập dần cho quen. Giết một co để can đảm lên. Trên thảo nguyên, người chăn cừu nào cũng phải giết sói.

Trần Trận lùi lại, bảo: Cậu làm nốt đi!

Đanchi cười, bảo: Dân Hán nhát như thỏ, ghét sói là thế mà một con sói nhép cũng không dám giết, vậy ra mặt trận thì đánh đấm gì! Chẳng trách các vị xây vạn lý trường thành! Hãy xem đây! Lời chưa dứt, con sói đã bị tung lên, chưa rớt xuống đất, con khác đã bị tung tiếp. Đanchi càng tung càng hào hứng, luôn miệng la: Lên trên đó đi, lên đó mà hưởng phúc!

Trần Trận không sao bình tĩnh được, tim cậu như bị nén chặt. Cậu cảm nhận sự khác nhau rõ rệt về mặt tâm lý giữa dân tộc nông canh và dân tộc du mục, sự thích ứng với sắt thép và máu lửa giữa dân tộc cầm đao sát sinh và dân tộc cầm liềm hái. Người Hán sao không giữ lại một quần thể du mục mang nét văn hóa Hán trong nội bộ dân tộc Hán? Trong phạm vi quốc thổ, nếu như có thảo nguyên thích hợp với du mục, hoàn toàn có thể bồi dưỡng nên một kiểu Ca Dắc của dân tộc Hoa Hạ. Nói cho cùng, để bảo vệ biên cương, việc xây thành đắp lũy, xây đồn lập ấp, không bằng sử dụng dân du mục. Dân du mục trong hoàn cảnh khốc liệt, càng tỏ ra kiên cường dũng cảm.

Năm con sói đáng thương đã lên trời, năm cái xác đẫm máu đã rơi xuống đất. Trần Trận nhặt tất cả bỏ vào sọt rồi ngửa mặt nhìn trời hồi lâu, cầu trời thu nhận linh hồn chúng.

Đanchi hình như rất thỏa mãn. Cậu lau tay vào ủng, nói: Hiếm có dịp một ngày giết năm sói. Con người không lợi hại bằng sói. Một con sói dữ một lần hạ sát một hai trăm con cừu. Mình giết có năm con mùi mẽ gì. Muộn rồi, mình về đây. Nói xong, cậu đem con sói của cậu đi. Trần Trận bảo: Cậu lột da giúp bọn mình. Đanchi nói: Được, đã thương thì thương cho trót, một loáng là xong!

Nhị Lang nằm phục bên cạnh cái sọt, nhìn Đanchi gầm gừ, Trần Trận vội ôm cổ giữ nó lại. Đanchi lột da sói như người ta lột da cừu, vừa lột vừa nói: Sói con da mỏng mịn, cực tốt, có bốn mươi tấm là đủ may một áo chẽn, nghìn vàng cũng không có mà mua. Lát sau, cậu đã lột da cả năm con.

Đanchi bốc tuyết rửa tay. Cậu vào trong lều lấy xẻng ra, nói: Các cậu để mình làm hộ việc này nữa. Chó nhà không bao giờ ăn thịt sói, nên phải chôn năm con này. Mà phải chôn thật sâu, để sói mẹ đánh hơi thấy thì đàn cừu của ta rắc rối ngay lập tức. Cả bọn ra chỗ cách lều vài chục mét, đào một hố tròn sâu khoảng một mét, bỏ năm con sói con xuống lấy đầy, nện kỹ, rồi rắc lên ít bột DDT để cho mất hẳn mùi. Trần Trận hỏi: Có cần làm cho con sói một cái ổ? Đanchi nói: Đào cho nó một cái hang. Trần Trận và Dương Khắc đào một cái hang sâu sáu mươi phân, rộng chừng một mét, bỏ xuống vài mảnh da cừu rách, một ít đất bùn khô, rồi thả con sói đực xuống.

Con sói vừa chạm đất đã khác hẳn, linh hoạt hẳn lên. Nó hít hít ngửi ngửi, bò quanh hố mấy vòng, tưởng như đã trở về hang cũ. Nó yên trí nằm cuộn tròn nhưng mũi vẫn đánh hơi xem các em nó có đấy không. Trần Trận định lấy lại con sói của Đanchi cho con sói của cậu có bạn. Nhưng Đanchi bỏ luôn con sói vào túi, lên ngựa phóng như bay. Cao Kiện Trung cũng nhìn con sói bằng cặp mắt dửng dưng, rồi lên ngựa trở về chuồng bò.

0O0

Trần Trận và Dương Khắc ngồi bên hố nhìn con sói mà tâm trạng rối bời. Trần Trận nói: Mình quả thực không biết nuôi nó bằng gì bây giờ! Rồi sẽ rất phiền đây. Dương Khắc nói: Chúng mình nuôi sói, chuyện hay thì chưa thấy, chuyện dở thì đồn đại gần xa. Hiện cả nước đang triển khai chiến dịch "chưa diệt hết sói, quyết chưa rời chiến trường", còn chúng mình thì nuôi sói, coi sói là bạn. Trần Trận nói: Nơi này khỉ ho cò gáy, không ai biết đâu. Mình chỉ sợ bố Pilich không cho nuôi thôi.

Dương Khắc nói: Bò mẹ đã về chuồng, để mình đi vắt ít sữa, con sói chắc đói lắm rồi. Trần Trận xua tay: Không nên, phải cho nó ăn sữa chó, sữa của con Ilua ấy. Chó có thể cho hổ con bú sữa. Trần Trận cầm con sói lên, ôm trước ngực. Một ngày không ăn, con sói bụng lép kẹp, có vẻ yếu hơn khi mới đem về. Trần Trận ủ con sói trong bọc, truyền hơi ấm cho nó.

Trời chạng vạng tối. Đã đến giờ Ilua cho con bú. Trần Trận và Dương Khắc đi về phía ổ chó con. Cái ổ dưới đống tuyết lớn đã tan ra nước dưới nắng, giờ phải chuyển về đống phân bò khô trước lều. Người ta đào một cái hốc nhỏ, dưới đáy trải những miếng da cừu rách, miệng hố đậy bằng tấm da ngựa chưa thuộc. Đây chính là nhà của con Ilua và đan con của nó.

Dương Khắc cho con Ilua ăn cháo thịt. Ăn xong, con Ilua dùng mõm gạt tấm da ngựa chui vào ổ rồi thận trọng nằm dài ra. Ba con chó con lập tức tìm thấy đầu vú, mút chùn chụt.

Trần Trận nhẹ nhàng đi tới bên con Ilua, cúi xuống dùng tay xoa đầu để che khuất tầm nhìn của nó. Ilua được cưng, sung sướng liếm tay chủ. Dương Khắc gạt một con cún ra, rồi một tay vắt, tay kia khum lại để hứng sữa. Hứng được lưng bàn tay, Trần Trận lén lôi con sói ra khỏi bọc để Dương Khắc bôi sữa lên đầu lên lưng và bốn chân nó. Đây là biện pháp hữu hiệu để con Ilua cho sói con nhập đàn. Cừu mẹ nhận nuôi cừu mồ côi cũng bằng cách này. Nhưng chó thông minh hơn cừu, khứu giác cũng nhạy hơn cừu. Giá như các con nó bị chết hết, hoặc bị người ta bắt đi hết, có lẽ nó nhận nuôi con sói. Nhưng hiện giờ nó có ba đứa con, chắc chắn nó không nhận con sói làm con nuôi. Con sói vừa nhập đàn, Ilua lập tức phản ứng. Nó ra sức ngẩng lên để nhìn đàn con, nhưng Trần Trận và Dương Khắc cứ vít đầu nó xuống, vừa dỗ dành vừa nạt nộ, không cho nó ngẩng lên.

Con sói con vừa rét vừa đói được đặt giữa đàn chó. Ngửi thấy mùi sữa, bộ dạng vờ vịt lập tức biến mất, nó giương nanh múa vuốt, thái độ cực kỳ hung hãn như loài sói ngửi thấy mùi máu. Con sói sinh sau những con chó nửa tháng, nhỏ hơn một chẹt tay, ngắn hơn một cái đầu, nhưng về sức khoẻ thì nó hơn hẳn, kỹ năng giành vú cũng không con chó con nào theo kịp. Chó mẹ có hai dãy vú lớn nhỏ không đều, tất nhiên lượng sữa cũng không đều. Điều khiến Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên là sói con không ti vội, mà nó thử một lượt các núm vú, gạt bắn những con chó con sang một bên, ổ chó nhốn nháo như bị đánh cướp. Cuối cùng nó dừng lại ở bầu vú bự nhất ở khoảng giữa bụng con chó mẹ, ti một bầu, chân chụp một bầu bên cạnh cũng to như bầu đang ti. Nó không chế đàn chó, không chi xẻ bầu vú bất cứ con nào.

Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên thật sự. Dương Khắc nói: Thú tính của sói khiếp thật! Chưa mở mắt mà đã thực hành bá đạo. Chả trách con này lớn nhất đàn, nó không coi sáu con kia là anh em trong nhà.

Trần Trận tuy rất thích nhưng có điều khiến cậu suy nghĩ. Cậu thấy cần quan sát kỹ vì quả có nhiều điều đáng suy ngẫm. Cậu bảo Dương Khắc: Cậu xem, ổ chó này là hình ảnh thu nhỏ lịch sử thế giới. Mình vừa nhớ lại câu nói của cụ Lỗ Tấn "người phương Tây nhiều thú tính hơn, còn người Trung Quốc gia súc tính nhiều hơn".

Trần Trận chỉ con sói, nói: Thú tính đây - Lại chỉ lũ chó con - gia súc tính đây. Người phương Tây ngày nay phần lớn là hậu duệ của giống người Nhật Nhĩ Man, người Ăng Giô Xắc Xông man rợ. Khi nền văn minh cổ Hi Lạp và cổ La Mã phát triển khoảng hai nghìn năm, họ từ trong rừng rậm xông ra ăn thịt cổ La Mã. Đồ dùng để ăn của họ toàn là dao với dĩa, thức ăn toàn là bít tết, phó mát và bơ. Do đó người phương Tây thú tính đậm hơn, man rợ hơn những dân tộc nông canh. Hơn trăm năm nay, người Trung Quốc gia súc tính bị người phương Tây thú tính khinh rẻ. Chả trách hàng ngàn năm dân tộc Hoa Hạ đông đảo là thế mà cứ bị các dân tộc du mục nhỏ bé đánh cho khốn đốn.

Trần Trận xoa đầu con sói, nói: Tính cách không những quyết định số phận mỗi con người, mà còn quyết định số phận của cả dân tộc. Các dân tộc nông canh mang đậm tính gia súc, chính nhược điểm đó quyết định số phận của họ. Bốn nền văn minh lớn trên thế giới đều là những nước nông canh. Ba nền văn mình đã bị xoá sổ từ lâu. Nền văn minh Hoa Hạ sở dĩ không bị tiêu diệt là nhờ cư trú trên lưu vực hai con sông lớn - Hoàng Hà và Trường Giang - dân số đông nhất thế giới nên các nền văn minh khác không dễ ăn sống nuốt tươi. Ngoài ra, có lẽ còn do công sức to lớn của dân du mục đóng góp cho văn mình Hoa Hạ... Về mối quan hệ này mình nghĩ chưa chín. Lên thảo nguyên đã hơn hai năm, mình ngày càng thấy chỗ này có vấn đề...

Dương Khắc gật đầu, nói: Thì ra ngoài việc nuôi để nghiên cứu về sói, còn có thể nghiên cứu về nhân tính, thú tính, sói tính, gia súc tính. Thành phố và nông thôn không có những điều kiện này, nhiều lắm cũng chỉ nghiên cứu quan hệ giữa người và gia súc...

Trần Trận nói: Nhưng nếu không có sự so sánh giữa nhân tính, gia súc tính với sói tính, thú tình, thì chẳng thấy được điều gì.

Dương Khắc cười: Đúng thế, xem ra ngày đầu tiên nuôi sói đã cho thu hoạch. Vậy là quyết định nuôi nhé.

Lũ chó con nhốn nháo, cất tiếng rên rỉ vì bị con sói con xua đuổi khiến con Ilua càng nghi tợn. Nó định vùng dậy để xem phía sau xảy ra chuyện gì. Trần Trận sợ Ilua cắn chết con sói con nên ghim đầu nó xuống, vừa vỗ về vừa gọi tên nó, để sói con có thì giờ bú no. Con Ilua ngoảnh lại, lập tức phát hiện trong ổ thừa một con. Nó hồi hộp ngửi hít từng con, nhưng có lẽ trên người sói con có hơi sữa của nó, nên con Ilua lưỡng lự. Nó dùng mũi đủn con sói con ra chỗ sáng hơn để xem cho rõ.

Trần Trận vội ấn con Ilua nằm xuống. Cậu phải làm cho nó hiểu ý cậu, để chấp nhận một thực tế. Rên lên ư ử, hình như nó biết con thừa ra đó chính là con sói chủ nó bắt từ trên núi về, nó phải nuôi kẻ thù không đội trời chung này. Chó thảo nguyên khác chó dưới xuôi. Chó dưới xuôi tầm nhìn hạn hẹp, chưa hề nhìn thấy sói và hổ, nên giao cho nuôi hổ con, chó cứ thế mà cho bú. Còn thảo nguyên là chiến trường quyết liệt giữa sói và chó, chó cái không bao giờ coi thù là bạn. Ilua mấy bận định vùng dậy không cho con sói bú tí, nhưng đều bị Trần trận giữ chặt. Nó rên rỉ, phẫn uất, vô cùng khó chịu nhưng không dám phật ý ông chủ, đành nằm im.

Trên thảo nguyên, con người nắm quyền sinh sát đối với chó. Con người dùng bạo lực và miếng ăn để thuần hóa chó hoang thành gia súc. Những con chó chống lại chủ đều bị đuổi ra khỏi nhà, bị chết đói, chết rét hoặc bị sói ăn thịt, hoặc bị chủ giết chết. Từ lâu, chó đã mất ý thức độc lập của thú tính, mang nặng tính gai súc, lệ thuộc hoàn toàn vào con người. Trần Trận buồn thay cho Ilua. Trong xã hội loài người, nếu như thế lực chuyên chế trấn áp quá mạnh, thời gian trấn áp lại quá lâu, con người sẽ mất dần thú tính trong nhân tính, dễ bảo như gia súc, hoàn toàn mất khả năng chống đối, cúi đầu chịu làm bề tôi cho kẻ khác, hoặc bị tiêu diệt, trở thành địa chỉ khảo cổ, nền văn mình xán lạn một thời của họ chỉ còn thấy trong bảo tàng.

Ổ chó trở lại yên tĩnh. Ilua do Trần Trận và Dương Khắc trực tiếp nuôi, chăm sóc chu đáo từ khi nó mang thai, đẻ con và cho con bú. Nó rất tốt sữa. Sau khi người ta lấy đi mấy con, sữa con Ilu càng thưa, giờ thêm sói con chẳng có gì đáng kể. Ba con chó con tuy bị con sói gạt ra, phải ti những vú nhỏ hơn, nhưng vẫn no. Chúng bắt đầu trèo lên lưng lên cổ mẹ, căn đuôi cắn tai nhau. Riêng con sói con vẫn ti như điên. Trần Trận nghĩ, một ổ bảy con mà con nào cũng ngổ ngáo như những tên cướp, nếu không giành được vú, chắc chắn chết đói. Con này dù lớn nhất nhưng chưa chắc đã được bú no. Giờ đây, tại ổ chó này, con sói mới có đất dụng võ. Nó vừa bú vừa rên lên khoan khoái, ra sức ti, bất kể sức chứa được bao nhiêu.

Trần Trận nhìn con sói, cảm thấy có gì không ổn. Nó đã phình ra bằng con chó con. Cậu sờ bụng nó mà giật mình: Mỏng như tờ giấy. Cậu sợ nó vỡ bụng, vội túm gáy nhấc nó ra. Nhưng con sói con vẫn ngậm chặt, núm vú bị kéo dài đến tai tấc khiến Ilua đau quá kêu thành tiếng. Dương Khắc vội lấy tay bóp miệng cho con sói há miệng ra. Cậu thở ra một hơi: Mục dân nói bụng sói là bụng cao su, giờ thì mình tin. Trần Trận không giấu được niềm vui: Cậu xem nó háu ăn như thế, chắc là lớn rất nhanh. Nó không khó nuôi, chỉ cần ăn uống no đủ.

Quan sát con sói vừa rời ổ, tận mắt trông thấy khả năng cạnh tranh và tính cách ngoan cường của nó, Trần Trận đã có phần hiểu được tính cách của họ hàng nhà sói.

Trời đã tối. Trần Trận đem con sói vào hang của nó, đồng thời thả một con chó cái vào để chúng quen hơi bén tiếng trước khi mở mắt, cho chúng làm bạn với nhau. Hai con ngửi lẫn nhau, cùng một mùi sữa nên không cảm thấy khác biệt, gối đầu lên nhau mà ngủ. Con Nhị Lang đứng bên từ đầu đến cuối quan sát động tác của chủ. Nó vẫy đuôi - lần này vẫy mạnh hơn - tỏ y hoan hô chủ đã nuôi con sói. Để bảo vệ con sói, Trần Trận bê chiếc thớt gỗ đậy lên miệng hang, còn chèn lên trên một tảng đá rất nặng.

Anh chàng Quanbu hiền lành lùa cừu về chuồng, nghe tin cánh Trần Trận bắt được sói con liền cầm đèn pin chạy tới xem rõ thực hư. Khi trông thấy những tấm da sói con phơi trên nóc lều, cậu ngạc nhiên đến sững sờ: Xưa nay chưa có người Hán nào ở Ơlon bắt được sói con, chưa có ai! Giờ thì không tin cũng phải tin.

Ba người đang ăn mì thịt cừu bên cái bếp lò làm bằng thùng sắt tây, chợt nghe tiếng chó sủa và tiếng chân ngựa dồn dập bên ngoài. Trương Kế Nguyên vén rèm, đẩy cánh cửa gỗ, một tay nắm hai dây cương, hai con ngựa đang sốt ruột gõ móng xuống đất. Cậu ngồi xuống cửa lều, nói vọng vào: Ban quản lý cho hay, đàn sói trên đường biên đã chia nhau kéo về đây. Lệnh cho ba đại đội sản xuất của mục trường tập trung ở ba địa điểm đã ấn định để vây bắt. Đại đội ta phụ trách đoạn tây bắc, ban quản lý sẽ điều một số tay súng chi viện, do ông Pilich chỉ huy. Đại đội thông báo: một giờ sáng mai tập kết ở lều ông Pilich. Ban quản lý yêu cầu các hộ gia đình trừ người già và trẻ con ở lại chăn cừu và bò, tất cả những người khác đều tham gia bủa vây. Các mã quan phải chuẩn bị đủ ngựa cho những người không có ngựa. Chúng ta phải đi vòng, mai phục tại một địa điểm. Các cậu tranh thủ ngủ đôi chút. Tôi đi đây. Nhớ đừng ngủ quên.

Trương Kế Nguyên sập cửa, nhảy lên ngựa phóng đi.

Cao Kiện Trung đặt bát cơm, nhăn nhó: Hết sói nhỏ đến sói lớn, chúng mình mệt chết thôi. Dương Khắc nói: Cứ đà này ở thêm vài năm, đảm bảo chúng mình biến hết thành sói.

Ba người phân công chuẩn bị cho cuộc vây ráp. Cao Kiện Trung chạy ra bãi cỏ dắt ngựa của ba người về kho chứa cỏ, quẳng cho mỗi con một ôm cỏ tươi. Dương Khắc bốc trong sọt một ít xương, một ít thịt cừu cho lũ chó. Sau đó, cậu kiểm tra kỹ dây thắng, yên cương, thòng lọng, lại cùng Trần Trận kiếm đâu ra hai chiếc đai cổ bằng da cho hai con chó. Hai cậu đã từng tham gia vài cuộc vây nhỏ nên hiểu rằng không được coi thường đai cổ chó và dây thừng. Trần Trận đeo cho Nhị Lang chiếc đai da, rồi như luồn chỉ trôn kim, cậu luồn đầu sợi thừng qua vòng đồng trên đai, so hai đầu thừng cho bằng rồi chập làm một nắm chặt. Dắt Nhị lang đi vài bước, cậu trỏ về phía chuồng cừu "xuỳ" một tiếng, đồng thời buông một đầu sợi thừng, con Nhị Lang vọt lên, sợi thừng tụt khỏi vòng đồng, một đầu vẫn trong tay Trần Trận. Loại xích chó này khi cần, có thể khống chế hoàn toàn, không cho con chó tự do hành động ảnh hưởng bố trí toàn cục; khi chó tấn công, không bị vướng dây thừng, ảnh hưởng đến tốc độ.

Dương Khắc cũng đeo đai cổ cho con Vàng, luồn thừng và diễn tập một lượt. Hai con chó chấp hành tốt mệnh lệnh của chủ, còn chủ thì thao tác đúng cách, không để chó vướng thừng.

Chương 12

Trong giáo lệnh, Thành Cát Tư Hãn dặn dò các con phải thường xuyên đi săn, qua săn bắn mà rèn luyện tài thao lược. Người Mông Cổ khi không đánh nhau với người, nên đánh nhau với thú. Đầu đông, Mông Cổ điều động quân lính bủa vây bãi săn, Khan là người đầu tiên dẫn thê thiếp và tùy tùng tham gia, vui vì săn bắt được cầm thú không biết bao nhiêu mà kể. Thời gian sau cầm thú còn rất ít, các bô lão đến trước Khan xin tha cho chúng, để chúng sinh sôi nảy nở, dành cho những lần săn bắt sau.

(Phùng Thừa Quân dịch Đa tang Mông Cổ sử)

Đại đội nhân mã và đàn chó săn theo sau ông già Pilich tiến gấp lên phía bắc trong đêm. Gần như mỗi người dắt theo một con chó, thậm chí có người hai con. Gió từ hướng tây bắc thổi tới, không mạnh không yếu, những tảng mây dày đặc sà xuống đè lên thảo nguyên. Bầu trời bị che khuất, không một ánh trăng sao. Bốn bề im ắng, tuyết dưới chân ngựa cũng màu đen. Trần Trận cố mở to mắt mà vẫn không nhìn thấy gì, y như đã bị mù. Đã hơn hai năm, Trần Trận nhiều lần đi đêm, nhưng như đêm nay thì chưa. Cậu rất muốn bật que diêm để kiểm tra mắt nhưng không dám.

Dựa vào thính giác, cậu tiến sát ông già Pilich hỏi khẽ: Soi đèn pin trong tay áo có được không, bố? Mắt con hình như bị mù. Ông già khẽ gắt: Đừng, giọng căng thẳng lo lắng. Trần Trận lập tức bặt im, mò mẫm đi theo.

Đàn ngựa và chó lặng lẽ đi trong đêm tối. Sói thảo nguyên giỏi đánh đêm. Người thảo nguyên sở trường tập kích vào ban đêm. Trần Trận cảm thấy đàn sói này không bình thường, đã đói mà còn chọn đêm tối như thế này mới xuất kích. Ông Pilich phán đoán cuộc chiến cũng khác người. Và cuộc chiến đang tiến triển theo ý ông. Trần Trận trong lòng rộn lên, được tham gia cuộc đấu sức giữa hai sói chúa trên thảo nguyên, làm sao không xúc động?

Đoàn ngựa xuống một đoạn, bắt đầu leo lên con dốc lớn hơn. Lúc này, ông Pilich mới lại gần Trần Trận, dùng ống tay áo che miệng, nói với cậu, giọng đã dịu xuống: Muốn làm một thợ săn giỏi, cái tai phải tinh. Tai sói tinh hơn mắt sói. Trần Trận cũng lấy tay áo che miệng, hỏi: Nói chuyện lúc này có sợ sói nghe thấy không hả bố?. Ông già nói khẽ: Ta đang leo dốc, có núi che chắn, lại ngược gió, nói nhỏ không sao. Trần Trận lại hỏi: Chỉ dựa vào thính giác mà đến được địa điểm mai phục, hở bố?. Ông già nói: Chỉ dựa vào tai cũng chưa ổn, mà phải nhớ giỏi, nghe tiếng chân ngựa biết là đang đi trên vùng đất nào, phía dưới tuyết là cỏ, cát hay đá sỏi thì biết đó là những nơi nào; lại còn ngửi nữa, ngửi mùi mà tiến thoái. Trong gió có mùi tuyết, mùi cỏ, mùi cát, mùi đất phèn, mùi sói, mùi cáo, mùi phân ngựa và mùi lều trại. Đôi khi không mùi vị, phải dựa vào tai và trí nhớ, tối đến mấy ta cũng nhận ra đường đi. Trần Trận vô cùng cảm phục, nói: Biết đến khi nào con mới làm được như bố?....

Trần Trận cảm thấy ngựa vẫn đang leo dốc, liền tranh thủ hỏi tiếp: Ở ta có bao nhiêu người giỏi như bố? Ông già trả lời: Các mã quan và những con sói già. Vậy con người đáng gờm hay sói đang gờm? Ông già nói: Con người làm sao bì được với sói. Trước đây có một con sói đầu đàn giết hại gia súc nhiều vô kể, cắn chết cả con ngựa quý của Vương gia. Điều động toàn bộ thợ săn giỏi nhất vùng, kiên trì lùng sục suốt nửa năm mới tóm được, té ra nó là một con sói mù dở: một mắt đui, một mắt chột!....

Lưng ngựa phía dưới mông người cưỡi đã phẳng ngang, ông già lập tức ngừng câu chuyện. Đoàn người ngựa vượt đỉnh dốc, đi xuống một bãi cỏ bằng phẳng. Ông Pilich thúc ngựa chạy nhanh hơn, đại đội nhân mã lặng lẽ bám sát ông. Không còn nghe tiếng cười rúc rích của trẻ em và phụ nữ, đoàn người ngựa như những kỵ sĩ được huấn luyện chính quy đang chấp hành nhiệm vụ tác chiến. Vậy mà trên thực tế, đây là những người mới được tổ chức, có rất nhiều người già, trẻ em và phụ nữ chân yếu tay mềm. Vậy thì đội quân chính quy gồm những chiến sĩ thiện chiến sẽ như thế nào? Trần Trận cảm nhận được ngay tính phổ cập tố chất tuyệt vời về quân sự ở dân tộc này. Tại trung nguyên Hoa Hạ, toàn dân là lính chỉ là khẩu hiệu suông hoặc mơ ước của người cầm quyền, nhưng trên thảo nguyên Mông Cổ, hàng ngàn năm nay câu đó đã là hiện thực.

Càng tới gần địa điểm chỉ định, đội ngũ càng khẩn trương. Cách đây không lâu, lũ sói tiêu diệt toàn bộ đàn ngựa chiến. Chúng thắng đậm. Hôm nay, người Ơlôn huy động toàn bộ sức mạnh đến đây, chưa rõ thắng bại ra sao? Trần Trận bắt đầu lo. Vận dụng cách đánh sở trường của sói là đánh đêm, tập kích và bao vây tiêu diệt để đối phó với lũ sói mà khứu giác, thính giác đều tinh hơn con người, thì khác nào múa rìu qua mắt thợ! Những năm trước, năm nào mục trường cũng tổ chức vây bắt nhưng kết quả rất thường, mười lần xuất kích thì năm lần về tay không. Chả thế có câu giễu: Bủa vây ôi bủa vây, cứ như diều không dây!

Do ảnh hưởng cực xấu về chuyện đàn ngựa chiến bị diệt, lần bủa vây này nếu không đem lại thắng lợi cho cấp trên vui lòng, thì rất có thể bộ sậu lãnh đạo mục trường bị cách chức. Nghe đồn cấp trên đã nhắm một dũng sĩ diệt sói về lãnh đạo mục trường Baolicơ vùng Ơlôn. Vì vậy mà ông Ulichi, ông Pilich và các mã quan chuẩn bị chơi một trận hết mình, hạ gục khí thế của đàn sói thảo nguyên. Phải kiếm được vài chục bộ da sói thượng hạng nộp thượng cấp, nếu không sẽ có người khác về cai quản Ơlôn.

Đêm càng tối càng lạnh. Cái giá buốt lúc rạng sáng và bóng đêm nhập nhoạng đè chặt tim mọi người, ai cũng khó thở. Dương Khắc lặng lẽ lại gần Trần Trận, ghé tai nói thầm: Đội ngũ tản ra thì khoảng cách càng rộng, sói luồn dưới chân ngựa cũng không nhìn thấy, chẳng hiểu ông Pilich có cao kiến gì không? – Cậu ta ghé sát ống tay áo nhìn đồng hồ dạ quang – Chúng mình đi được hơn hai tiếng rồi, đã đến lúc tán khai chưa nhỉ? Trần Trận níu tay áo Dương Khắc, rúc đầu vào trong để nhìn giờ trên chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Cậu dụi mắt, càng lo.

Đột nhiên một mùi thơm từ trên không sà xuống, mùi thơm nồng của cây thanh hao làm thuốc. Ông già Pilich gò cương dừng ngựa trên đám đất trồng thanh hao. Cả đội dừng lại theo. Ông già ngoảnh lại nói nhỏ mấy câu với các Tổ trưởng sản xuất và đám thợ săn. Họ liền tản khai đội hình theo hai hướng, hơn một trăm con người từ hàng dọc chuyển thành hàng ngang, hình thành rất nhanh tuyến tản binh. Tiếng vó ngựa xa dần cho đến khi mất hẳn. Trần Trận bám sát ông già.

Trần Trận chợt nhìn thấy luồng ánh sáng chói lòa phát ra từ chiếc đèn pin đại trên tay ông già. Liền đó, từ những nơi rất xa của hai phía, có những ánh đèn trả lời. Ông già nháy đèn ba lần, các nơi cũng đáp lại ba lần.

Ông già cất tiếng hú. Tiếng hú lan xa trong không khí lạnh giá. Thảo nguyên đang im lìm bỗng rộ lên những tiếng hú của đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ. Gần nhất là tiếng hú của mấy cô gái trong tổ sản xuất của Caxưmai, trong như pha lê, tiếng vọng mãi không dứt. Tiếng hú của Caxưmai càng lanh lảnh. Cả đại đội hò la như khi trực đêm đuổi sói, dồn dập như sóng biển dồn lên phía tây bắc. Cùng lúc, hơn trăm con chó săn to khỏe, kéo căng dây thừng, sủa như điên. Mở màn là cuộc chiến bằng âm thanh, tiếp theo là cuộc chiến bằng ánh đèn pin, những cột ánh sáng mạnh có, yếu có, to có, nhỏ có, trắng có, vàng có, tất cả đều chĩa về hướng tây bắc, thảo nguyên đen như mực bỗng sáng lòa ánh hào quang do tuyết trắng phản chiếu ánh đèn, những cột sáng dựng tua tủa như biển giáo rừng gươm.

Tiếng hú và những cột ánh sáng lấp đầy khoảng trống giữa người và người, giữa chó và người. Trong khoảnh khắc, tấm lưới do người, chó và tiếng hú dệt nên trải dài mênh mông, tuy thưa mà không gì chui lọt, bao vây gọn đàn sói.

Trần Trận, Dương Khắc và đám thanh niên trí thức choáng ngợp trước cảnh tượng kỳ vĩ trên thảo nguyên. Mọi người hò reo phấn khởi. Trần Trận nhận ra nơi cậu đang đứng là bờ đông đầm lầy, nơi đàn sói tiêu diệt đàn ngựa chiến. Ông Pilich dặn mọi người trước tiên đến địa điểm tập kết, sau đó mới giăng lưới. Lúc này, người và chó đã vòng qua đầm lầy, nhanh chóng triển khai vòng vây trên phần đất dài và hẹp phía bắc đầm lầy.

Ông Pilich gò cương, cúi soi dấu chân sói trên tuyết, tiện thể kiểm tra độ dày mỏng của vòng vây để điều người bổ sung, Trần Trận theo sát ông già, không rời nửa bước. Ông già thở phào: Đàn sói vừa qua đây, khá đông. Cậu xem này, dấu chân mới tinh. Lần này thì đúng rồi, không uổng công thức trắng đêm. Trần Trận hỏi: "Sao không vây chúng trong đầm lầy? Ông già nói: Không được. Đàn sói về ăn thịt ngựa vào lúc nửa đêm, bỏ đi khi trời sắp sáng. Nếu bao vây khi chúng còn trong đầm lầy thì trời quá tối không thể bắt chúng bằng thòng lọng, chó cũng không nhìn rõ chúng. Đàn sói sẽ tản ra bốn phía, thế là công toi. Vây bắt thì phải triển khai vào nửa đêm về sáng, trời rạng bắt đầu dồn đuổi, sáng bạch thì chúng co cụm lại một chỗ.

Bên trái bên phải đều có tín hiệu đèn pin. Ông Pilich nhổm người trên yên, liên tục phát đi mệnh lệnh cho các tổ trưởng. Tín hiệu của ông lúc dài lúc ngắn, khi ngang khi dọc, lúc chữ thập lúc khoanh tròn, ngôn ngữ đèn pin khá phức tạp. Vòng vây hình cánh cung triển khai chậm nhưng chắc, người la ngựa hí, chó sủa từng đợt dậy như sóng cồn, ánh đèn pin xòe nan quạt trên bầu trời. Nhìn dấu chân sói, người và chó phấn khởi kêu lạc cả giọng, hồi hộp trước một trận đánh lớn.

Trần Trận hỏi: Bố ra lệnh gì thế? Ông Pilich vừa đánh tín hiệu vừa trả lời: Bảo phía tây tiến chậm một chút, phía đông nhanh hơn chút nữa, nhanh chóng khớp với đoàn người phía núi. Còn phải lệnh cho những người ở đoạn giữa tà tà thôi, nhanh quá chậm quá đều hỏng việc. Trần Trận ngẩng đầu nhìn trời: màu sắt gỉ đã biến mất, đã có thể nhìn thấy những cụm mây trôi về phương nam, kẽ mây màu xám nhạt.

Đàn chó đánh hơi thấy mùi sói, sủa càng dữ. Con Nhị Lang bắt đầu giằng dây thừng ở cổ để xông lên. Trần Trận kìm chặt, dùng cán thòng lọng gõ nhẹ lên đầu Nhị Lang, ra hiệu cho nó phải nghe lệnh.

Phần lớn dấu chân sói đi lên hướng tây bắc, cũng có một số theo hướng khác. Ông Pilich lần theo dấu chân, ra lệnh tiếp. Trần Trận hỏi: Xưa kia chưa có đèn pin thì bao vây như thế nào? Ông già nói: Dùng đuốc. Đuốc là cây gậy một đầu quấn giẻ tẩm mỡ bò. Thấy đuốc, sói càng sợ. Phải biết sử dụng đuốc, nếu không bị xém hết lông.

Rạng sáng, Trần Trận nhận ra bãi cỏ trước mặt, nơi cậu đã chăn cừu mấy tháng. Cậu nhớ phía tây bắc có một thung lũng lòng chảo, ba mặt là núi, một mặt là con dốc thoai thoải. Có lẽ đây là bãi vây mà ông già Pilich đã nói. Các mã quan mai phục phía sau núi, chỉ cần đàn sói lọt vào bãi vây là người ngựa và chó phía sau xông lên, lập tức bịt chặt cửa vào, trận tiêu diệt chiến bắt đầu. Trần Trận vẫn không rõ có bao nhiêu con sói bị vây trong thung lũng, nếu chúng quá đông, một trận đánh xáp lá cà sẽ xảy ra. Cậu gỡ cây gậy cài bên yên, lồng dây vào cổ tay. Cậu bắt chước cách đánh của Batu, run lên vì hồi hộp.

Gió tây bắc mạnh dần lên, mây bay ngày càng nhanh, ánh sáng lọt qua kẽ mây, đồng cỏ khi mờ khi tỏ. Tới gần cửa khẩu, mọi người giật mình la lớn: Chừng hai chục con sói lớn đang dáo dác nghiêng ngó, lúc đi lúc dừng, không chịu vào hẳn trong thung lũng. Gần đó, một đàn sói nữa cũng đang lưỡng lự, hình như chúng cảm thấy có chuyện. Có thể chúng đánh hơi thấy sự nguy hiểm từ hướng tây bắc.

Trần Trận ngày càng thán phục cách căn thời gian và sự điều chỉnh chính xác của ông già Pilich – Khi đàn sói nhìn rõ tất cả thì vòng vây đã khép chặt, ánh đèn pin yếu đi là lúc các cây thòng lọng dựng lên tua tủa. Đàn sói đã bị bao vây gọn, hai đầu cánh cung đã tiến sát thung lũng. Có thể thời viễn cổ, khi đất đai rộng lớn ở trung nguyên chưa bị khai khẩn thành đồng ruộng, những người thợ săn lão luyện đã thuộc lòng cách đánh này. Đàn sói thiện chiến trên thảo nguyên đã đào tạo ra một dân tộc tài năng hơn hẳn cha ông.

Vài con sói đầu đàn khi thấy rõ tình thế liền nhào trở lại. Lũ sói vừa chén no thịt ngựa, thể lực sung mãn, sát khí đằng đằng, chúng liều chết xông tới. Đám mã quan xông lên ứng chiến, người từ hai phía vội dồn lên lấp đầy chỗ trống của vòng vây.

Đàn sói không chùn bước, nhưng đã đổi hướng tấn công. Chúng xông thẳng vào đám phụ nữ quần áo lòe loẹt, trong tay không có cây thòng lọng. Đám Caxưmai cũng không vừa. Họ đứng thẳng trên bàn đạp, vung cả hai tay mà hét, thiếu nước dùng tay không để cản đàn sói. Đàn sói đã nhận ra chỗ yếu của vòng vây, liều chết xông vào. Trần Trận cũng thấy rõ mối nguy hiểm, sợ đứng tim.

Đúng khi đó, ông già Pilich nhổm người trên yên, tay chém không khí quát lớn: Thả chó ra! Vòng vây dày đặc đây đó nổi lên tiếng suỵt chó. Tất cả dây da được thả ra. Hơn một trăm con chó săn mắt đỏ ngầu vì bị ức chế, từ ba phía đông, nam, tây bứt xích xông vào đàn sói. Balưa, Nhị Lang và mấy con chó sát thủ của đội nhắm thẳng con sói đầu đàn. Bám sát phía sau, lũ chó săn cậy có chủ bên cạnh, tranh nhau xông lên, sủa râm ran.

Mọi người điều chỉnh thế trận, vung thòng lọng thúc ngựa chạy theo đàn chó. Bụi tuyết mù trời, các dũng sĩ Mông Cổ với tiếng hô "sát!", "sát!" ngắn gọn từng tiếng khiến cả thế giới kinh hoàng, hòa cùng tiếng vó ngựa dồn dập như trống trận, xông vào giữa đàn sói.

Đàn sói kinh hoảng trước sức tấn công như vũ bão, con sói đầu đàn quay đầu chạy về phía núi, nhanh chóng họp đàn, chạy thêm một quãng rồi chia làm mấy ngả chạy theo mấy con dốc nhằm chiếm lĩnh cao điểm, từ đó chúng chạy dạt về phía bên kia, hoặc tổ chức phản công, từ trên cao đánh xuống.

Vòng vây cánh cung kéo thẳng như sợi chỉ, bịt chặt cửa khe, đàn sói đã bị dồn vào bãi săn do ông già Pilich đã tính trước.

Từ mỏm núi phía sau bãi vây, bãi trưởng Pilich cùng đại biểu quân đội Bao Thuận Quý đang theo dõi trận chiến với một tâm trạng sốt ruột. Toàn cảnh bãi săn đều trong tầm mắt. Bao Thuận Quý phấn khởi đấm xuống tuyết, nói: Ai bảo ông Pilich chuyên nương tay với sói? Thánh thật, trong một thời gian quy định mà dồn được cả bầy sói lớn như thế vào bẫy. Tôi chưa từng thấy đàn sói đông như thế này bao giờ. Thật đáng khâm phục, mình phải đề nghị khen thưởng cho ông già mới được!

Ulichi cũng cảm thấy khoan khoái, nói: "Đếm dấu chân, đàn sói có bốn mươi con, năm xưa vây được đàn sói một hai chục con đã sướng rơn. Ông Pilich đúng là đàn sói đầu đàn của người Mông thảo nguyên. Năm nào mục trường tổ chức săn sói mà không có ông là cánh thợ săn không tham gia. Lần này, lũ sói hủy diệt đàn ngựa, ông Pilich tức điên. Ulichi quay lại bảo Batu: Bảo mọi người không được nổ súng, dù chỉ bắn chỉ thiên. Hôm nay người đông, lỡ cướp có là rách việc. Batu nói: Cháu đã nhắc nhiều lần rồi.

Phía sau núi, các mã quan và cánh thợ săn đã sẵn sàng trên yên, có lệnh là xuất kích. Họ đều là cao thủ của mục trường, tài nghệ hơn hẳn mọi người từ tài cưỡi ngựa, tung thòng lọng cho đến cách sử dụng gậy, người nào cũng lập kỷ lục bắt và diệt sói. Lại nữa, họ cưỡi những con ngựa nhanh nhất, linh hoạt nhất, biết ngoạm con mồi săn được, những con ngựa mà ngày thường để dành không nỡ cưỡi. Họ căm vì đàn ngựa bị diệt, đang chuẩn bị hôm nay trả thù. Ngựa của họ đã nghe thấy tiếng chó sủa ở bãi săn, đã ngửi thấy bầu không khí nóng bỏng của cuộc vây bắt, chúng cúi đầu giằng dây cương, giơ chân cào tuyết, cơ bắp hằn trên ức trên đùi, hai chân sau căng thẳng như lò so bẫy thú, chỉ cần chủ nhân lỏng cương là lao đi như mũi tên. Những con chó của đám thợ săn đều tinh tuyển từ chó nhà, con nào cũng được huấn luyện đến nơi đến chốn, rất thiện chiến. Tuy đã nghe thấy tiếng hò la từ lâu dưới bãi săn, nhưng chúng vẫn im lặng, chỉ nghiêng đầu nhìn chủ, tỏ ra rất thông thạo trận mạc.

Ulichi và Batu nhổm người lên, chuẩn bị ra lệnh.

Chủ lực của bầy sói tập trung phá vây ở cao điểm phía tây bắc. Trên thảo nguyên, người không phải là đối thủ của sói trong việc chiếm lĩnh độ cao. Sức bền và sức bật mạnh, sói thảo nguyên thường dùng tốc độ cao vọt lên đỉnh núi để cắt đuôi kẻ thù phía sau. Cho dù chạy rất nhanh trên đất bằng, nhưng chó và ngựa không bao giờ đuổi kịp sói khi leo dốc. Lên tới đỉnh, những con sói dừng lại lấy hơi, rồi trong một thoáng ngoài tầm nhìn của kẻ rượt đuổi, chúng nhào xuống chỗ dốc dựng đứng, mau chóng mất hút. Khi người ngựa lên tới nơi thì lũ sói đã biệt tăm, mà dù còn nhìn thấy thì cũng đã ngoài tầm súng.

Đàn sói không giảm tốc độ, băng lên đỉnh dốc. Đàn chó và đoàn người ngựa bị bỏ lại một quãng xa. Dần dần bầy sói là mấy con chạy nhanh nhất, con đầu đàn và mấy con sói gộc chạy chếch phía sau. Ulichi chỉ con sói cổ và ức màu xám tro, bảo Batu: Con đầu đàn đấy, chính nó hạ sát đàn ngựa. Tôi giao nó cho cậu, bắt đầu đi!

Đàn sói đã vọt lên được khoảng hai trăm mét. Batu chống sào nhảy lên lưng ngựa. Ông Ulichi cũng lên yên, quát to: Xuất kích! Batu giơ cao cây thòng lọng như một ngọn cờ. Các mã quan đều suỵt chó xông lên. Ba chục con chó và ba chục con ngựa như những quả ngư lôi, phóng thẳng về phía đàn sói. Hai phần ba mã quan tách ra chiếm những vị trí thuận lợi nhất ngang sườn núi, hình thành một cánh cung khớp với tuyến của ông Pilich. Một phần ba những người cầm thòng lọng xông về phía đàn sói.

Đàn sói vốn đã nơm nớp, giờ thấy có quân mai phục, liền rối như canh hẹ. Cuối cùng, chúng rơi vào cái bẫy mà chúng quen sử dụng. Chúng bối rối hơn những con dê vàng khi sa bẫy, nhưng cũng tỏ ra quyết liệt hơn, quay ngoắt lại lao thẳng xuống, quyết một mất một còn với đoàn người ngựa và chó dưới dốc. Đàn sói đã nổi hung, bất kể sống chết nhào vô đánh dạt đàn chó sang hai bên. Một cuộc hỗn chiến diễn ra, răng bập vào răng, tuyết bay tung tóe, lông lá tơi tả, máu tuôn xối xả, chó khóc sói gào. Đám thanh niên trí thức chưa từng chứng kiến một trận huyết chiến dữ dội đến như thế, cứ ngây ra mà nhìn không chớp.

Trên đỉnh dốc, Batu mắt không rời khỏi con sói chúa. Vừa xuống dốc, anh đã tung thòng lọng về phía nó, nhưng nó không chạy xuống dốc theo đàn, mà thoắt cái, tạt ngang sang hướng tây, bốn năm con sói vệ sĩ chạy xúm xít xung quanh. Batu cùng hai xạ thủ và bốn năm con chó săn quyết truy kích đến cùng. Nhưng con sói chúa đã thực thi phương án hai, chọn đoạn đường hiểm trở nhất, mặt đất đầy đá sỏi trơn tuột, kêu lạo xạo dưới chân khi trượt xuống, nhưng con sói không ngã vì bàn chân có lớp đệm dày giúp nó trụ vững, không bị lăn xuống vực cùng sỏi đá. Bàn chân chó nhỏ hơn bàn chân sói, nhưng chó cũng không dám liều mạng, loạng choạng lao xuống đuổi theo, còn ngựa thì móng guốc không thể chạy trên đá sỏi. Một mã quan thúc ngựa chạy được một đoạn liền bị ngã chổng bốn vó, cây thòng lọng gãy làm ba. Hai mã quan kia vội gò cương, tìm cách cứu người bị ngã.

Batu quyết chí phục thù. Anh xuống ngựa dựng đứng cây thòng, biến nó thành cây gậy chống, cắm mặt vát của cán thòng vào kẽ đá làm điểm tựa, một tay dắt ngựa tiếp tục truy kích, miệng hô lớn "tiến lên!", "tiến lên!". Vượt sang bên kia một con đèo, nghe thấy tiếng chó kêu thảm thiết, Batu vội vàng lên yên đuổi theo. Chỉ lát sau, anh đã thấy một con chó gộc bị sói cắn trọng thương đang quằn quại, còn một con bị cắn đứt một bên tai, máu me đầy mặt. Ba con khác sợ thất thần, lông gáy dựng đứng chỉ chực tháo chạy. Con sói trông thấy cây thòng liền bỏ chạy về phía bãi sậy. Batu dẫn một thợ săn và ba con chó đuổi theo.

Ulichi thấy Batu đã sang bên kia đèo, liền dẫn Bao Thuận Quý chạy tới địa điểm quan sát tốt nhất để tùy tình hình mà điều phối nhân lực xiết chặt vòng vây, không cho con nào trong đàn sói chạy thoát. Thợ săn Mông Cổ đều là những chiến binh lão luyện, biết nhìn toàn cục, hiểu nhiệm vụ, không tranh công, không cướp công. Những thợ săn ở vòng ngoài thấy người và chó ở vòng trong tung hoành ngang dọc, hâm mộ đấy nhưng không một ai rời vị trí. Một con sói phá vây chạy ra vòng ngoài, liền bị một hai thợ săn đón đánh tức thì, hoặc bị đuổi trở lại hoặc bị tròng cổ bằng thòng lọng. Chỗ trống phía sau anh ta liền bị các thợ săn khác trám đầy, đảm bảo vòng vây không có kẽ hở.

Chính giữa thung lũng, người chó và sói quần nhau kịch liệt. Những con sói và chó ngã xuống đều đã nằm im, miệng vết thương bốc hơi. Hơn bốn chục con sói bị một trăm sau mươi bảy con chó vây chặt. Lũ sói quây thành một vòng tròn, vai chen vai, đuôi nối đuôi, các hàm răng chĩa hết ra ngoài, chiến đấu tập thể, quyết sống mái với bầy chó. Cả sói lẫn chó đều có những con bị cắn rách vai, rách ngực, máu chảy dầm dề. Vòng ngoài của đàn chó là mấy chục thợ săn thiện nghệ, dùng cây thòng vụt tới tấp những con sói ở vòng trong. Sói và chó quần nhau kịch liệt, không thể phân biệt con nào là sói, con nào là chó. Thợ săn tuy đông, nhưng không dám tung thòng lọng vì sợ bắt lầm. Những thợ săn có ngựa cao lớn cũng không dám xung trận vì số sói trong vòng vây khá đông mà cũng chưa hao tổn là mấy, vạn nhất chúng liều chết xông ra tứ phía, hai lớp vòng vây có thể bị đứt đoạn, vòng ngoài cùng thì quá mảnh không cứu ứng được nhau.

Những thợ săn có kinh nghiệm, điều khiển thòng lọng như thật như đùa trên đầu lũ sói, con nào nhảy lên đớp liền bị tròng vào cổ, hoặc vào thân hoặc eo, múi thòng lập tức xiết chặt, con sói bị lôi ra ngoài để lũ chó cắn đứt họng.

Cánh thanh niên trí thức và đám phụ nữ được bố trí ở mạn nam bên ngoài vòng vây. Ông già Pilich chỉ định Trần Trận và Dương Khắc án ngữ ở đoạn dốc giữa dốc núi, địa thế tương đối cao, nhìn thấy toàn cảnh cuộc tàn sát khủng khiếp như trên đấu trường La Mã. Hai cậu vừa mong một con sói nào đấy phá vòng vây chạy tới để có dịp sử dụng thòng lọng, nhưng lại ngại đó là một con sói gộc vì sói gộc chạy rất nhanh, không còn cơ hội tung thòng lần thứ hai nếu lần đầu bị trượt. Cũng may vòng trong người và chó chiếm ưu thế, sói không thể đột phá vòng vây chạy ra ngoài.

Những đàn sói lớn lần lượt bị thòng lọng lôi ra ngoài và bị chó dữ cắn chết. Đàn sói tru dài, giọng khản đặc. Chúng thay đổi chiến thuật, không nhảy lên đớp thòng lọng mà cúi gằm ăn miếng trả miếng với lũ chó, làm mất công dụng của cây thòng.

Trần Trận dùng ống nhòm quan sát tình hình. Cậu nhận thấy lũ sói tuy đã rơi vào tử địa, nhưng chúng chưa mất lý trí. Chúng không đơn thuần mạng đổi mạng, mà ra sức sát thương chó chủ lực. Tốp năm tốp ba, chúng phối hợp nhanh như chớp đả thương lũ chó, cắn miệng nào chí mạng miếng đó, máu tuôn như suối. Những con sói gộc còn triển khai thủ đoạn vô cùng tàn nhẫn của sói Mông Cổ, giả vờ hớ hênh cho chó ngoạm vào những chỗ phạm để có dịp cắn rách cổ hoặc bụng con chó. Vì vậy lũ sói gộc máu me đầy mình, nhưng rất ít con bị hạ gục. Trái lại lũ chó thì bị thương la liệt như ngả rạ, sủa ăng ẳng khiến những con khác sợ khiếp vía. Sau khi giao phong vài chục hiệp, lũ sói dần thắng thế. Một khi chó săn bắt đầu sợ thì lũ sói chớp thời cơ đột phá cả bốn phía.

Đúng lúc này, ông già Pilich đột nhiên gọi to: Balưa! Balưa! Xông lên! Và giơ tay ra hiệu lùi lại. Trần Trận và Dương Khắc hiểu ngay ý đồ ông già, gọi toáng lên: Nhị Lang! Nhị Lang! Tiến lên! Hai con chó dữ mắt đỏ ngầu hiểu ý chủ, đột nhiên lùi lại mấy chục bước, hộc lên một tiếng, điên cuồng xông tới con sói đầu đàn ở giữa đàn sói. Con Nhị Lang chạy nhanh hơn, tông một phát khiến con sói bắn xa đến mấy thước chứ không ngã. Lúc này con Balưa lừng lững như cây vồ phá cổng thành lao thẳng vào con sói khiến nó ngã lộn mấy vòng, chưa kịp nhổm dậy đã bị con Nhị Lang bập một phát giữa họng, máu tươi phọt ra nhuốm đỏ đầu Nhị Lang và bãi tuyết xung quanh. Đàn sói sợ run. Con sói đầu đàn cào như điên lên đầu, ngực và bụng con Nhị Lang, nhưng Nhị Lang còn dữ hơn, kiên quyết không nhả vết cắn cho đến khi con sói chết hẳn. Đàn sói thấy Nhị Lang là chó dữ đều sợ hãi lùi lại. Balưa thấy con mồi của nó đã bị Nhị Lang giành mất, tức lắm nhưng giờ không phải lúc nổi cáu, đành quay sang tấn công con sói khác.

Đàn chó như được tiếp thêm sức mạnh, đồng loạt tấn công kẻ thù. Nhị Lang và Balua ra sức sát giới, cuối cùng trận địa sói vỡ tung từng mảng, các thợ săn thừa thắng xông lên, dùng thòng lọng chia cắt bầy sói. Bầy sói phơi mình trước những cây thòng lọng và răng chó.

Đàn sói thấy tình thế bất lợi bèn tản ra bốn phía, từng con phá vây. Vòng trong loạn tùng phèo, lũ sói định thừa cơ thoát hiểm, nhưng chẳng được mấy chốc, mỗi con sói đều bị hai ba con chó và thợ săn quây chặt. Phụ nữ, trẻ em vòng ngoài cùng hò hét trợ oai, các thợ săn vung cây thòng uy hiếp vòng trong.

Vòng trong, Lanmutrăc tự ví mình như sói, thấy đàn chó đã quây được một con sói gộc, liền cúi rạp lia cái thòng lọng trên mặt đất, bỏ qua phần đầu và hai chân trước, đến phần eo thì anh xiết thòng lọng rồi xiết chặt eo con sói, vỗ đầu ngựa chạy trở lui, kéo ngược con sói như kéo chiếc bao tải. Con sói không thể vùng dậy, hai chân cào đất thành rãnh, Lanmutrăc vừa kéo ngược con sói vừa quát lũ chó xông vào.

Trên thảo nguyên, tròng cổ một con sói đã khó, giết chết con sói càng khó hơn. Cổ sói ngắn, con sói lắc đầu là tuột ra, mà dù thòng lọng không tuột, xiết chặt thòng cũng không dễ. Lỡ gặp phải một con cổ thô như khúc gỗ thì dù thòng trúng cũng bật ra. Vì vậy, thợ săn có kinh nghiệm thích tròng vào eo là chỗ thắt cổ chai trên mình con sói, chỉ cần thòng trúng, xiết chặt, con sói chạy không thoát. Nhưng đến đoạn hạ sát thì mới gay. Thòng vào cổ thì kéo ngược kiểu nào, con sói cũng không chết. Nếu chỉ một mình thì khó đối phó, chỉ cần xuống ngựa là con sói chạy lộn lại phía chót thòng lọng, bẻ gãy chỗ mảnh nhất của cây thòng, rồi hoặc tháo chạy, hoặc đả thương người rồi mới thoát thân. Chỉ có những thợ săn thuộc loại cao thủ, mới có thể vừa nhảy xuống đất đã xiết chặt thòng lọng, lôi sói đến trước mặt rồi dùng gậy hoặc dao giết chết con sói. Rất nhiều thợ săn không dám hi sinh bộ da sói, cứ thế mà kéo đến nơi có chó sát thủ, để người hoặc chó giết hộ con mồi.

Lanmutrăc chuyên chọn nơi có tuyết dày để kéo sói, vừa kéo vừa tìm chó sát thủ. Vài con chó chạy quanh, sủa ầm ĩ, đớp bừa một miếng rồi nhảy ra, không con nào dám cắn vào chỗ chí mạng. Lanmutrăc bất chợt trông thấy con Nhị Lang vừa cắn đứt yết hầu một con sói gộc. Anh biết con chó dữ này, nên kéo con sói về phía nó, miệng thét: Giết, giết, giết! Con Nhị Lang nghe hô giết liền nhả con sói chưa chết hẳn, xông tới. Nhị Lang làm một động tác thuần thục. Vòng ra phía sau gáy con sói, một chân giữ đầu, một chân giữ vai con mồi rồi cắn một phát đứt động mạch cảnh. Con sói chống lại quyết liệt, nhưng không sao cào trúng Nhị Lang. Lanmutrăc xuống ngựa , gọi to: Lôi hết sói về phía này mau! Con chó này còn dữ hơn sói! Ở một chỗ cách đó không xa, con Balưa cũng vừa cắn đứt cổ một con sói. Thế là mọi người đua nhau kéo sói về phía hai con chó. Trên bãi săn, ngoài hai con Nhị Lang và Balưa, còn có nhiều chó dữ to lớn như chó của người Exkimô cũng được mọi người chú ý. Đó là tám con chó nhà Đanchi, con nào cũng thuộc loại sát thủ chuyên nghiệp. Chúng phối hợp chặt chẽ, trên dưới đồng lòng, phân công rành rẽ, binh lực tập trung, từng con đột phá. Lần này là tám chọi một, giết hết con nọ đến con kia, chỉ một loáng đã thanh toán gọn ba con sói.

Trên bãi săn, các thợ săn cũng tổ chức từng nhóm từ ba đến năm người. Hễ có người tròng được sói, những người khác liền xuống ngựa xông tới nhè đầu con sói mà đập. Góc tây bắc bãi săn vang lên những tiếng thét man rợ. Bốn năm thợ săn cưỡi ngựa đuổi theo hai con sói. Một mã quan cầm cây thòng nhổm người trên yên mà vụt. Con sói chạy sùi bọt mép. Đợi con sói chạy với tốc độ cao nhất, một mã quan khác lại xông lên. Cuối cùng, Saxưleng đón đường từ phía bên tung thòng lọng xiết chặt cổ sói rồi bất thình lình nhả dây thòng. Con sói ngã lộn bảy tám vòng. Đợi nó gượng dậy, ba bốn mã quan khác lại dùng sào mà vụt, buộc con sói phải chạy tiếp, bị tròng cổ rồi nhả bất chợt, lại ngã lăn năm sáu vòng. Mỗi lần sói ngã, đám thợ săn lại vỗ tay hoan hô cho hả cái giận bầy sói giết đàn ngựa của họ.

Hai con sói bị rượt đuổi đến nỗi không còn biết phương hướng mà chạy. Một con mệt đứt hơi, không chạy nổi nữa. Saxưleng bỏ cây thòng lọng, rút chân khỏi bàn đạp, ngồi xổm trên yên, rồi như một con báo bay xuống cưỡi trên mình sói, hai tay nắm hai tai con sói mà dúi mõm nó xuống đất khiến mặt mũi con sói đầy máu. Ba bốn mã quan cùng xuống ngựa, cưỡi lên mình sói để Saxưleng kết thúc bằng một nhát dao. Con sói kia cũng bị ba bốn mã quan cưỡi trên mình như chơi trò ngựa gỗ một hồi mới hạ thủ.

Trần Trận, Dương Khắc và đám thanh niên trí thức cầm chúc cây thòng lọng. Các cậu chỉ đứng nhìn từ đầu đến cuối cuộc vây bắt hi hữu, mấy năm mới có một lần. Các cậu chỉ tiếc mã quan Trương Kế Nguyên không tròng được con sói nào. Một con sói gộc đã dùng kế áp sát mà vuột mất khiến cậu trở tay không kịp, suýt nữa gãy đầu thòng. Hai mã quan khác cũng đã trở thành khán giả xem người khác hành động, lại còn để xổng một con chạy mất.

Ông già Pilich thấy công việc đã hòm hòm, liền tới bên Trần Trận và Dương Khắc. Ông nói: Các cậu cũng đã lập công. Nếu không có các cậu án ngữ, tôi không thể điều một số thợ săn đi bắt sói. Thấy Trần Trận và Dương Khắc vẫn tỏ ra tiếc rẻ, ông già cười: Con chó của các cậu cũng lập công lớn. Một mình nó cắn chết hai sói, giúp thợ săn cắn chết hai sói nữa. Các cậu sẽ được chia hai bộ da, còn hai bộ nữa, theo lệ, chia cho hai thợ săn. Ông vừa nói, vừa dẫn hai thanh niên xuống dốc.

Trận bủa vây này, trừ vài con dùng tốc độ cực nhanh và kỹ thuật đâm sầm vào đối phương chạy thoát, tất cả những con còn lại đều bị giết sạch.

Người ngựa ở vòng ngoài vừa hò reo vừa chạy tới xem chiến lợi phẩm ở vòng trong. Ông già Pilich đã sai người kéo hai con sói phần của Trần Trận và Dương Khắc vào một chỗ. Ông xắn tay áo cùng Trần Trận và Dương Khắc lột da hai con sói. Caxưmai cũng kêu người kéo xác hai con sói do con Balưa cắn chết và một con do chó nhà Tang Kiệt cắn, xếp vào một chỗ. Tang Kiệt và Quanbu chủ động bước tới lột da.

Trần Trận đã học được cách lột da sói từ ông già, giờ cậu dạy lại cho Dương Khắc. Trước tiên dùng dao Mông Cổ khoanh đứt da đầu rồi lột bỏ đi. Dương Khắc luồn dây da qua kẽ răng sói neo chặt con sói lại để Trần Trận lột ngược da từ đầu đến đuôi như người ta cởi áo thun. Loại bỏ thịt và mỡ dính trên da, cắt rời đuôi và bốn chân, lúc này bộ da sói da phía ngoài, lông phía trong, lộn trở lại là được một bộ da sói hoàn chỉnh hình ống.

Ông già ngó qua, bảo: Được đấy, không dính mỡ. Về nhà, các cậu nhét đầy cỏ khô vào rồi treo lên đầu sào. Từ nay, người thảo nguyên Ơlôn công nhận các cậu là thợ săn.

Nhị Lang và con Vàng nằm bên xem lột da. Nhị Lang liên tục liếm máu sói và máu của chính nó trên ngực và hai chân trước, có vẻ ngon lành. Con Vàng giúp Nhị Lang liếm máu sói trên đầu. Con Vàng sạch bong, không hề bị thương cũng không dính một giọt máu sói, y hệt một công tử ăn chơi. Vài thợ săn khen con Vàng, nói nó cắn chân sau của sói, không có con Vàng, Lanmutrăc chưa chắc đã thòng được con sói. Dương Khắc nghe vậy mừng rơn, vậy là cậu cũng như Lanmutrăc, hưởng phần của chó.

Trần Trận thò tay vào bọc lấy mấy cái kẹo sữa thưởng cho hai chiến tướng. Nhị Lang ba cái, con Vàng hai cái. Cậu có dự cảm hai con sẽ biểu hiện rất tốt trong lần bủa vây này. Hai chân giữ cái kẹo, dùng miệng xé giấy bọc, sau đó dùng lưỡi lấy kẹo đưa vào miệng, ngửa đầu nhai côm cốp, khiến những con khác thèm dỏ rãi, tranh nhau liếm miếng giấy bọc. Từ khi đám thanh niên trí thức về đây, lũ chó thảo nguyên mới biết trên đời lại có những thứ quý hiếm và ngon đến thế. Được ăn kẹo sữa Bắc Kinh là niềm vinh dự của chó thảo nguyên. Caxưmai cười, bảo Trần Trận: Cậu dọn đi rồi, quên cả chó nhà này. Nói rồi, chị thò tay vào túi áo Trần Trận lấy hai cái kẹo sữa cho con Balưa. Trần Trận vội lấy tất mấy cái còn lại đưa cho Caxưmai. Chị cười, bóc một cái bỏ vào miệng.

Bãi săn nhộn nhịp, xác sói, thân ngựa, mõm chó, thái dương người bốc hơi. Từng nhóm người tuần tụ theo gia tộc đang lột da sói. Chiến lợi phẩm được phân phối theo truyền thống trên thảo nguyên, không hề có mâu thuẫn. Trí nhớ người đi săn cực tốt, chó của nhà nào cắn chết con sói nào, thợ săn nào tròng được con sói nào, không hề lầm lẫn. Chỉ trong trường hợp hai người cùng tròng trúng con sói thì có tranh chấp đôi chút. Một câu phân xử của ông Pilich là xong: Bán bộ da mua rượu, mỗi người uống một nửa. Những thợ săn và mục dân không được chia phần cũng háo hức xem người khác lột da, cũng bàn luận sôi nổi về giá trị của từng bộ. Chó tốt thì bộ da sói miễn chê, chó dở thì bộ da sói toàn lỗ thủng. Những người có thu nhập cao lớn tiếng mời mọi người về nhà họ uống rượu. Trên thảo nguyên, tham gia vây bắt ai cũng có phần.

Bãi săn trở lại yên lặng, mọi người nghỉ ngơi tại chỗ.

Buồn nhất là đám phụ nữ, hầu hết đang băng bó cho những con chó bị thương. Chỉ khi đi săn, đàn ông mới sử dụng chó, còn phụ nữ thì đêm nào cũng phải nhờ cậy chó. Chó cũng được phụ nữ các gia đình chăm bẵm như nuôi trẻ từ nhỏ đến lớn. Chó chết hoặc bị thương, phụ nữ xót xa nhất. Mấy con chó chết trận nằm nguyên tại chỗ, trên thảo nguyên, chó chiến chết ở chỗ nào thì đó là nơi linh hồn chó lên trời, và thực hiện công việc thiên táng ấy lại chính là sói – kẻ thù không đợi trời chung của loài chó. Ông già Pilich nói: Như vậy mới công bằng, chó nên cảm ơn sói, nếu thảo nguyên không có sói thì mục dân cũng không cần nhiều thịt đến thế để nuôi chó, những con chó sau khi sinh đều phải ném lên trời.

Những con chó chết trận nằm trên đồng cỏ, không một người Mông – Cổ - thảo – nguyên nào tính chuyện lột lấy da. Chó thảo nguyên là bạn chiến đấu của người, bạn chiến đấu thân thiết, tình nghĩa. Người thảo nguyên sống bằng hai nghề chính: Săn bắn và chăn thả. Người thảo nguyên săn bắn dựa vào chó, bảo vệ đàn cừu dựa vào chó. So với con trâu của nông dân trung nguyên, chó quan trọng hơn, còn là công cụ sản xuất và vệ sĩ của người thảo nguyên. Chó hiểu người hơn trâu, là chỗ dựa không thể thiếu về tình cảm và là người bạn tinh thần của người dân trên thảo nguyên hoang vắng.

Thảo nguyên Mông Cổ đất rộng người thưa, hoàn cảnh khắc nghiệt. Chó thảo nguyên còn lập những kỳ tích về báo động cứu người. Caxưmai không bao giờ quên ơn con Balưa đã cứu chị. Cuối thu năm ấy chị đổ tro bếp lò, không nghĩ tới có một cục phân cừu chưa cháy hết. Gió tây bắc rất mạnh, thổi tàn lửa ra đống cỏ khô trước lều. Khi ấy ở nhà có chị, lão Ơchi và con trai. Chị khâu vá ở trong lều, không biết bên ngoài xảy ra chuyện gì. Đột nhiên chị nghe thấy Balưa vừa sủa vừa cào cửa. Chạy ra xem, chị đã thấy vệt lửa dài hơn hai trăm bước, rộng hơn chục bước. Xa hơn nữa là bãi chăn mùa đông của một đại đội, cỏ cao và rậm, đã bắt lửa thì không có cách nào dập tắt, quá nửa đàn gia súc nếu không bị thui bị bỏng thì cũng không còn cỏ mà ăn trong mùa đông, chị cầm chắc sẽ bị bỏ tù. Con Balưa báo động kịp thời đã cho chị chút thời gian quý hơn cả mạng sống. Chị thấm ướt một tấm thảm lớn, cuộn mình trong thảm lăn đi dập lửa kiểu cuốn chiếu, cuối cùng dập tắt được ngọn lửa trước khi cháy lan sang bãi cỏ dày. Không có Balưa chị cũng hết đời.

Caxưmai có lần kể với Trần Trận và Dương Khắc, đàn ông trên thảo nguyên rất ham rượu, thường say rượu ngủ gục trên yên, ngã xuống tuyết chết cong. Những người không chết là nhờ chó. Con chó chạy về nhà, lôi vạt áo bà chủ gọi người đi bới tuyết cứu ông chủ về. Trên thảo nguyên Ơlôn, nhà nào cũng có chó cứu chủ, lều nào cũng có đàn ông hay đàn bà được chó cứu.

Vì vậy trên thảo nguyên, hành vi giết chó, ăn thịt chó, lột da chó, đi tất da chó, đều bị coi là vong ơn bội nghĩa, là tội ác không thể tha thứ. Cũng vì vậy mà người thảo nguyên Mông Cổ có ác cảm với những nông dân làm thuê hoặc người Hán từ nơi khác đến.

Ông già Pilich từng nói: Xưa kia, quân Hán vào thảo nguyên Mông Cổ là giết chó hàng loạt để ăn thịt khiến mục dân nổi giận đứng lên chống lại. Hiện nay, một số lưu manh đến từ nội địa cũng thịt trộm chó, chuyển bộ da đi Đông Bắc hoặc bên kia quan ải. Chó Mông Cổ có bộ da lớn, tuyết dày, rất ấm, người Hán phía Bắc coi là nguyên liệu cao cấp may mũ, may tất chống lạnh. Ông già Pilich tỏ vẻ cáu: Vậy mà không thấy nói gì đến chuyện ấy trong sách của người Hán?

Cả nhà ông già Pilich thường hỏi một câu khiến Trần Trận rất khó trả lời: Vì sao người Hán ghét chó, chửi chó và giết chó để ăn thịt? Trần Trận suy nghĩ một thời gian dài mới giải thích.

Một tối, bên bếp lò, Trần Trận nói với cả nhà: Người Hán không có nghề chăn thả, thợ săn cũng không nhiều, những gì ăn được là người Hán ăn sạch, vậy nên người Hán không biết chó có ích như thế nào. Người Hán đông, không cô quạnh, không cần chó bầu bạn cho vui. Người Hán có hàng chục câu chửi về chó: Lòng lang dạ chó, không bằng con chó, chó cũng không lọt tai, đồ chó đẻ, chó cậy gần nhà, chó cùng giứt giậu, chó nhảy bản độc, đồ chó má xem người chả vỡ, đồ tay sai, đánh chó phải đánh cho chết, miệng chó không ló ngà voi, xui chó bắt chuột – chỉ vẽ chuyện, bánh bao ném chó – có đi không về … Bây giờ lại có cả những khẩu hiệu chính trị, cả nước đang "đập nát cái đầu chó Lưu Thiếu Kỳ", "đả đảo Lưu Thiếu Cẩu"… người phương Tây cũng không hiểu vì sao người Trung Quốc lại dùng chó để nói những chuyện trên.

Vì sao người Hán ghét chó ư? Cái chính là chó không hợp với quy củ của người Hán. Mọi người có biết ngày xưa Trung Quốc có một ông thánh tên là Khổng Tử? Hoàng đế các triều đại Trung Quốc đều lạy trước tượng ông ta. Ông ta đặt ra rất nhiều quy củ làm người, ngàn vạn năm nay người Trung Quốc làm theo những quy củ đó. Những người biết chữ luôn trong tay có quyển "Ngữ lục" giống như quyển bìa đỏ bây giờ, ai không làm theo, người ấy là kẻ mọi rợ, đặc biệt nghiêm trọng thì bị chặt đầu. Nhưng con chó có cái tật là không theo những quy định của Khổng Tử: Một là Khổng Tử dạy người ta phải lễ phép, hiếu khách và tôn trọng khách. Nhưng chó trông thấy người lạ là bất kể giàu nghèo, già trẻ, bạn bè thân thiết hoặc quý khách tiện dân, xông tới đớp liền, khiến người Hán vốn coi trọng lễ nghi cảm thấy thất lễ, ngượng mặt, nổi cáu. Hai là Khổng Tử dạy trai gái không được loạn luân, quan hệ bừa bãi, phạm vào những chuyện này là phải nghiêm trị. Nhưng chó thì bất kể anh chị em hoặc bố với con gái, mẹ với con trai, không kiêng kị gì hết, khiến người Hán vừa sợ vừa căm, chỉ sợ người bắt chước chó. Ba là Khổng Tử dạy người ta phải ăn sạch ở sạch, nhưng chó lại thích ăn phân người, khiến người Hán cực kỳ ngán ngẩm. Còn một điểm nữa, người Hán nghèo ít nuôi chó, người còn không đủ ăn, lấy gì nuôi chó? Còn người giàu thì nuôi chó để giữ nhà, lại thường thả chó cho cắn người nghèo, nên người nghèo ghét chó. Vậy nên người Hán chửi chó, giết chó, ăn thịt chó cũng không lấy làm lạ, hơn nữa, người nào đã ăn đều bảo thịt chó rất thơm. Người Hán bảo, lợn có thể giết thịt, cừu có thể giết thịt, vậy sao chó không thể giết thịt? Chúng đều là gia súc đấy thôi. Người Hán ghét chó, giết chó, ăn thịt chó vì người Hán thuộc tộc nông canh, không phải dân du mục, luôn muốn cải tạo thói quen của người khác theo thói quen của mình.

Ông già Pilich và Batu nghe xong hồi lâu không nói gì, cũng không phản cảm về những lời giải thích của Trần Trận. Lát sau ông già mới nói: Con ơi, giá như giữa người Hán và người Mông Cổ có nhiều nhiều một chút những người thông tỏ như con thì hay biết mấy. Caxưmai tỏ vẻ bất bình, nói: Chó ở với người Hán thiệt thòi quá, bao nhiêu cái hay không được dùng. Thói hư tật xấu của chó đều bị người Hán nắm hết. Tôi mà là chó thì tôi không thèm đến ở với người Hán, dù có bị sói ăn thịt, tôi vẫn cứ ở lại thảo nguyên.

Trần Trận lại nói: Lên thảo nguyên em mới biết chó hiểu tính người đến thế, đúng là bạn tốt của người. Chỉ những tộc làm ruộng nghèo khó mới ăn sạch những thứ không nên ăn, thịt chó cũng không tha. Khi nào người Trung Quốc giàu lên, lương thực thừa mứa, khi ấy mới kết bạn với chó, không ghét, không ăn thịt chó nữa. Từ khi lên thảo nguyên, em rất thích chó, một ngày mà không trông thấy con chó của em là em thấy chống chếnh thế nào ấy. Giờ mà kẻ nào thịt trộm chó, em và Dương Khắc quyết sống mái với hắn, nên chó hắn ói ra những thứ đã ăn… Trần Trận không kìm được lời lẽ, xưa nay cậu vẫn theo phương châm "người quân tử nói năng hòa nhã", vậy mà hôm nay lại văng tục!

Caxưmai hỏi dồn: Vậy khi về Bắc Kinh, cậu còn nuôi chó nữa không? Trần Trận cười: Em sẽ yêu chó suốt đời, như nhà ta ấy. Chẳng giấu gì chị, gia đình em gửi cho ít kẹo sữa, em cất dành không dám ăn, ngay cả cho chị và Bayan cũng tiếc, chỉ là để dành cho chó. Cả nhà cụ Pilich cười chảy nước mắt. Batu thụi Trần Trận một quả vào lưng: Cậu Mông Cổ quá nửa rồi đấy!...

Lần nói chuyện ấy cách đây đã hơn nửa năm, nhưng Trần Trận không quên lời hứa.

Bãi săn trở lại im ắng. Những con chó quá mệt hoặc bị thương buồn bã. Vài con quẩn quanh thi thể đồng bọn, khịt mũi đánh hơi, coi như nghi thức chia tay. Một em nhỏ ôm khư khư con chó nhà em đã chết, khi người lớn khuyên can, em òa khóc, những giọt nước mắt rớt trên mình chó bắn xuống đất bột, biến mất. Tiếng khóc của thằng nhỏ vang xa trên thảo nguyên, Trần Trận thấy hai mắt cay xè.

Chương 13

Tiết Độ sứ Lô Long Lưu Nhân Cung thừa biết Khiết Đan không thực lòng. thường đem quân sĩ vào tận Trai tinh linh tập kích vào cuối thu, Khiết Đan rất sợ. Mỗi khi sương xuống. Nhân Cung sai quân đốt sạch cỏ khô, ngựa Khiết Đan chết nhiều vì đói.

Tư Mã Quang. "Tự trị thông giám. ĐườngChiêu Tôn Thánh Mục Cảnh Văn Hiếu Hoàng Đế hạ chỉ thượng"

Mông Cổ tập quán pháp: "Kẻ nào khai khẩn đất mà dùng lửa đốt đồng cỏ thì bị giết cả nhà."

(Tổng) Bành Đại Nhã "Hắc đạt sự lộ".

Bao Thuận Quý và Ulichi sau khi dẫn các cán bộ mục thường thị sát một vòng bãi săn, liền đến bên ông Pilich. Bao Thuận Quý xuống ngựa, vui vẻ bảo công già: Thắng lớn! Thắng lớn! Lập công lớn rồi! Tôi phải báo công cho ông với cấp trên! Nói rồi ông ta chìa cả hai tay về phía ông già. Ông Pilich chìa hai ban tay đầy máu sói: Bẩn quá, xin ông cho qua! Bao Thuận Quý vẫn túm chặt tay ông già, nói: Dây chút máu sói, cũng là được lây cái phúc của ông, cái vinh quang của ông!

Ông Pilich mặt sa sầm, nói: Đừng báo công báo kiếc làm gì, công càng to tội càng lớn. Từ nay không được diệt sói kiểu này nữa. Cứ đà này thì khi sói không còn, dê vàng, hoàng thử, thỏ, rái cá cạn sẻ nổi loạn, thảo nguyên biến mất, ông trời sẻ nổi giận, bò, cừu, ngựa và cả chúng ta sẻ đi tong. Ông già giơ hai bàn tay đầy máu nhìn trời, nét mặt kinh hoảng.

Bao Thuận Quý cười gượng, quay lại nhìn Nhị Lang máu me đầy đầu, vẻ cảm khoái: Chẳng phải con chó hoang đây sao? Bộ dạng đến khiếp! Đứng trên đỉnh dốc, tôi đã thấy nó rất giỏi đánh hội đồng, đúng là một viên mãnh tướng. Nó là con đầu tiên xông vào đàn sói, cắn chết con đầu đàn, khiến đàn sói nhụt nhuệ khí. Nó cắn chết bao nhiêu sói cả thảy? Trần Trân trả lời: Bốn con. Bao Thuận Quý luôn miệng khen: Giỏi thật! Giỏi thật! Người ta nói với tôi, các cậu có nuôi một con chó hoang thường cắn chết cừu, rằng các cậu đã phá vỡ quy củ của thảo nguyên, bảo tôi nên bắn chết con chó đó. Tôi nói vậy thôi, các cậu cứ nuôi, và nuôi cho tốt. Sau này nếu còn cắn cừu thì cũng miễn cho tội chết. Có điều, da cừu là phải sung công, còn thịt thì cho bán lấy tiền Trần Trận va Dương Khắc vâng dạ cho qua.

Trần Trận nói: Trận nay, thanh niên trí thức chúng cháu chẳng bắt được con sói nào, thanh niên trí thức không bằng chó, không bằng con Nhị Lang. Mọi người cười ầm, đám thanh niên trí thức cũng cười.

Ulichi vừa cười vừa nói: Cậu ăn nói chẳng còn ra vẻ người Hán. Ông Pilich cũng rất vui, nói: Anh chàng này quan tâm mọi chuyện trên thảo nguyên, rồi sẽ trở thành một tay cự phách cho mà xem. Ulichi hỏi: Nghe nói các cậu bắt một ổ sói con phải không? Dương Khắc thật thà trả lời: Vâng, hôm qua, bảy con tất cả. Không có ông Pilich chỉ vẽ, chúng cháu làm sao bắt nổi? Bao Thuận Quý nói: Bảy sói con, đến mùa thu thì là một đàn, không đơn giản! Vài hôm nữa, các cậu nộp da cho tôi. Tôi trả giá cao nhất, còn thêm cho các cậu ít đạn. Nói rồi, ông ta nhặt hai bộ da sói dưới đất lên, nói: Tôi đã xem khắp lượt, chỉ hai bộ này lông đẹp nhất, nên tôi cũng đặt hàng với các cậu, cũng trả giá cao nhất. Thủ trưởng cũ của tôi xưa kia nằm sương gối tuyết, bị chứng thấp khớp, vẫn muốn có cái quần bằng da sói, tôi phải tặng ông ấy một chiếc. Trần Trận nói: Cháu còn phải hong khô mấy ngày nữa, va cũng còn phải thanh minh cho con chó hoang. Bao Thuận Quý cười gượng: Năm ngày nữa tôi sẽ đến lấy da.

Bãi săn đây đó toàn là máu và những xác sói trần trụi, chỉ còn dính một ít da ở cẳng chân. Bao Thuận Quý bảo các thợ săn tập trung tất cả xác soi lại. Chỉ lát sau, hơn ba mươi cái xác soi đã được chất đóng cao gần bằng đầu người, xếp chồng lên nhau kiểu cũi lợn. Bao Thuận Quý chĩa máy ảnh chụp một lèo bốn năm kiểu từ những góc độ khác nhau. Sau đó, ông ta bảo hơn ba chục thợ săn có thành tích diệt sói xếp thành hai hàng ngang, tay giơ cao những tấm da sói đuôi gần như quét đất. Hàng trên cũng là những con chó săn sói máu me thương tích đầy mình, ngồi xổm mà thở. Bao Thuận Quý bao Trần Trận bấm máy, ông ta đứng giữa hàng, tay giơ cao bộ da sói to và dài nhất, cao hơn tất cả mọi người. Còn ông già Pilich thì kẹp một bộ da ở nách, đầu hơi cúi, cười đau khổ. Trần Trận chụp liền hai kiểu.

Bao Thuận Quý tiến lên sáu bảy bước, quay lại nói với đám thợ săn; Tôi thay mặt Ủy ban cách mạng Kỳ (huyện) và lãnh đạo quân sự phản khu, cảm ơn mọi người! Các bạn đều là dũng sĩ diệt sói, vài hôm nữa sẽ có ảnh đăng báo. Tôi muốn mọi người biết nạn sói ở Ôlôn nguy hại như thế nào, một trận vây mà đã diệt bấy nhiêu con! Chúng phần lớn từ Ngoại Mông tới. Chính chúng đã tàn sát đàn ngựa chiến. Tôi cũng cần tuyên bố với thiên hạ, rằng cán bộ và mục dân Ơlôn, và cả thanh niên trí thức nữa, không một ai chịu cúi đầu trước tai họa do sói gây ra. Vì có quyết tâm và tổ chức tốt, đã giáng trả bầy sói nhữmg đòn đích đáng Cuộc chiến với sói mới bắt đầu, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, bầy sói Ơlôn sẻ bị tiêu diệt!

Cuối cùng, Bao Thuận Quý hô to: "Chưa diệt hết sói chưa rời trận địa"

Những người trong gia đình Đanchi và vài thanh niên trí thức vỗ tay lẹt đẹt. Bao Thuận Quý ra lệnh giải tán, nghỉ ngơi tại chỗ đợi Batu.

Bao Thuận Quý ngồi xếp bằng trên mặt đất, bảo Ulichi: Giờ đây công tác biên phòng cực kỳ khẩn trương, cấp trên giục ta tranh thủ thời gian huấn luyện quan sự. Không ngờ cuộc săn này biến trận giả thành trận thật ngon lành. Ulichi noi: Người Mông - Cổ - thảo - nguyên đều là lính chiến bẩm sinh. Nếu xảy ra chiến tranh, chỉ cần phát súng là họ có thể ra ngay mặt trận. Hôm nay đồng chí được cả chì lẫn chài, vừa diệt được sói, vừa luyện được quân. Hãy viết hai bản báo cáo tổng kết, chắc chắn cấp trên sẽ rất thích.

Đám thanh niên trí thức tập trung tại lều Trần Trận va Dương Khắc để xem bộ da sói. Người nào cũng sờ một cái tỏ vẽ hâm mộ. Vương Quan Lập nói: Nếu không có con chó hoang của các cậu, đám thanh niên trí thức xấu hổ chết vì chỉ là chân điếu đóm cho kỵ binh Mông Cổ. Trần Trận nói: Xưa nay, sức mạnh và dũng khí người Hán không bằng người Mông Cổ, chi bằng ta học họ. Nếu như được đi theo họ để học tập trên thực địa thì còn gì bằng. Vương Quân Lập không chịu, nói: Dân du mục tuy nhiều lần xâm phạm trung nguyên, hai lần thống trị toàn Trung Quốc, nhưng cuối cùng đã bị văn hóa Hán chinh phục. Dân thảo nguyên dũng mãnh thật đấy, nhưng chẳng qua chỉ là đám vũ phu, chỉ biết giương cung bắn ó diều!

Trần Trận phản đối: Chưa hẳn, cậu đừng khinh võ trọng văn. Triều đại nào cũng vậy, không có võ công, làm sao có văn trị? Không có võ công thì văn hóa dù rực rỡ cũng thành phế tịch. Văn trị của Hán, Dường được xây dựng trên sức mạnh. Trong lịch sử thế giới, rất nhiều nước lớn văn minh đã bị nước nhỏ lạc hậu tiêu diệt, biến mất toàn bộ, từ ngôn ngữ văn tự đến chủng tộc. Cậu nói văn hóa Hán đã chinh phục các dân tộc lạc hậu trên thảo nguyên. Nói vậy cũng chưa đúng hẳn. Dân tộc Mông Cổ đã kiên trì gìn giữ ngôn ngữ văn tự, tín ngưỡng thần linh, tập tục dân tộc, đến nay vẫn bảo vệ vững chắc thảo nguyên. Nếu như Mông Cỏ tiếp thu văn hóa nông canh của Hán tộc, biến thảo nguyên thành đồng ruộng, rất có thể văn minh Hoa Hạ Trung nguyên đã bị cát vàng vùi lấp Khơrutxốp đã dùng văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp Nga La Tư chinh phục văn minh du mục Cadactan, kết quả ra sao? Biến một thảo nguyên vào loại đẹp nhất thế giới thành sa mạc...

Nữ thanh niên Tôn Văn Quyên thấy Các bạn nam thích gây gổ sắp sửa có cuộc khẩu chiến, vội gạt đi: Thôi nào, ngày nào cũng chăn thả mỗi người một nơi, xa nhau mấy chục dặm, đã mấy khi gặp mặt. Vậy mà gặp nhau là cà khịa. Các bạn hình như đã biến thành sói thảo nguyên rồi. Có thôi hay không thì bảo!

Nhị Lang thấy có nhiều người sờ mó bộ da sói, tỏ vẻ khó chịu. Nó chậm rãi đi tới. Văn Quyền cho rằng chó của thanh niên không bao giờ cắn thanh niên, nên lấy ra hai miếng đậu phụ thưởng cho Nhị Lang. Cô gọi: Nhị Lang! Nhị Lang giỏi lắm!...

Nhị Lang lặng im, đuôi không vẫy, giương cặp mắt dữ dằn đi tới chỗ mọi người. Văn Quyên sợ, lùi lại liền mấy bước. Trần Trận quát: Quay lại! Nhưng đã muộn, con Nhị Lang hộc lên một tiếng nhảy xổ vào đám thanh nien, khiến Văn Quyên ngã ngồi xuống đát. Dương Khắc giận quá, mắng: Đồ khốn! Rồi nhặt cây gậy lên định đánh, nhưng con Nhị Lang vươn cổ ra, có ý bảo, đánh thì đánh chết không bỏ chạy. Con chó này đã cắn chết bốn con sói, Dương Khắc đụng vào thú tính của nó nên không dám đánh, đành bỏ cây gậy xuống.

Vương Quân Lập giận tím mặt: Từ nay ai còn dám đến căn lều của các cậu? Nếu không vì có công diệt sói, mình dứt khoát lột da, ăn thịt nó. Trần Trận vội vàng xin lỗi: Con chó này hơi dữ, tính sói còn nhiều nên chưa hiểu người. Các cậu đến chơi luôn nó sẽ quen.

Phần lớn thanh niên trí thức đã ra về. Trần Trận vỗ đầu con Nhị Lang, bảo: Thấy chưa, mày làm mất lòng các bạn tao rồi! Dương Khắc giằn giọng nói khẽ: Nuôi con chó dữ mà mọi người đã sợ chết khiếp, nếu như... nếu như sói con lớn lên, còn ai dám đến lều chúng mình? Trần Trận nói: Không đến thì thôi, con vật co khi tốt hơn một số người. Chúng mình đánh bạn với sói với chó vậy.

Trương Kế Nguyên bước tới xoa đầu con Nhị Lang, nói: Con người phải có đôi chút sói tính mới ổn. Mình không tròng được con sói ấy, không phải do kỹ thuật, mà vì mình nhát, run tay.

Nhị Lang đi mấy bước về phía đống xác sói trắng nhởn, mắt đờ đẫn. Mấy chục con chó gộc đứng xa, tỏ vẻ nể sợ con Nhị Lang, chỉ mỗi con Balưa đàng hoàng bước tới trước mặt con Nhị Lang cũng đàng hoàng chào hỏi bằng cách đụng mũi. Con Nhị Lang sau khi được lãnh đạo mục trường tuyên dương thì cũng được đàn chó của đại đội Hai chấp thuận nhập đàn, nhưng Trần Trận nhận ra vẽ chán chường trong đôi mắt nó. Cậu ôm cổ con Nhị Lang, không biết nên an ủi nó như thế nào.

0O0

Ông Pilich bị Bao Thuận Quý mời vào tận vòng vây trong cùng có rất nhiều thợ săn, dùng phân khô ngựa và cừu giải thích chiến thuật bao vây. Mọi người nghe chăm chú. Bao Thuận Quý vừa nghe vừa hỏi, thỉnh thoảng lại khen. Ông ta bảo: Trận này của ông đáng được đưa vào sách giáo khoa quân sự, tinh vi hơn cái cách đàn sói diệt đàn ngựa. Ông bảo đúng là nhà quân sự thực thụ. Trận này giả dụ điều một trung đoàn trưởng về chỉ huy, chưa chắc đã đánh thắng. Trần Trận nói xen vào: Ông mà ở vào thời Thành Cát Tư Hãn thì dứt khoát là đại tướng, chẳng thua kém Hoamuli, Zhibiêt và Xuputhai chút nào...

Ông già luống cuống khoát tay, nói: Đừng so sánh như thế, nói về tôi như thế Trời sẽ giận. Các vị ấy đều là bậc thánh của người Mông Cổ, đã đánh là đánh bại bảy tám nước, vài chục thành trì, vài chục vạn quân đội. Không có các vị ấy, thảo nguyên Mông Cổ đã bị người ta khai khẩn thành ruộng từ đời nào, một lão nô như tôi đâu dám so với các vị ấy

Gần trưa Batu vẫn không trở lại. Đại đội nhân mã chuẩn bị trở về. Lúc này, một ngựa lưu tinh phi tới như gió. Tới gần, mã quan Puxich thở hổn hển nói với Ulichi và Bao Thuận Quý: Batu mời các ông sang bên kia. Sáng nay các vị mới vây được rnột nửa đàn sói, một nửa nữa đã chạy vè bãi lau chân núi mạn tây bắc từ khi trời chưa sáng. Ông già Pilich trợn mắt: Có lẻ không nhiều đến thế? Puxich nói: Cháu va Batu đã chui vào bãi sậy, trên tuyết toàn là dấu chân sói, mới nguyên. Batu bảo chí ít hai mươi con. Con sói trắng già hình như có trong đàn, chính là con đã giết đàn ngựa. Batu bảo phải tóm cổ nó bằng được!

Ulichi bảo Bao Thuận Quý: Người ngựa không có gì vào bụng dã một đêm và nửa ngày rồi, chó cũng bị thương không ít. Bãi sậy ấy tôi biết, lớn lắm, mấy nghìn mẫu, ta không vây nổi dâu, bỏ thôi.

Bao Thuận Quý nhìn ông Pilich, vẻ ngờ vực: Những người ngụ cư và đám thanh niên trí thức nói rằng ông luôn bênh lũ sói Có phải ông định nương tay với chúng? Với số người và chó đem theo, có thể bủa vây 20 con sói, vậy được, bọn tôi sẽ xử lý hết.

Ulichi vội nói: Ông nói vậy chưa đúng lắm. Lũ sói vây được sáng nay vừa xoẳn so với vòng vây, ví như người ta làm bánh nhân thịt ấy, nhân vừa phải thì còn được, nhân nhiều quá vỏ bánh bị vỡ.

Bao Thuận Quý bảo ông Pilich: Tôi cho rằng ông cố ý cho thoát bấy nhiêu con.

Ông Pilich trừng mắt: Vây bắt sói không như các ông khoắng miền trong bắt. Trời thì tối, khoảng cách giữa người ngựa rộng như thế, làm gì chẳng có một số con chạy thoát. Nếu để ông chỉ huy, e rằng không tóm nổi một con!

Bao Thuận Quý đỏ mặt, rồi chuyền sang tím tái. Ông ta đập roi ngựa vào lòng bàn tay, gầm lên: Người ngựa chó tuy không đủ, nhưng súng vẫn chưa dùng đến. Bất kể ra sao, đã phát hiện ra lũ sói đang trong bãi sậy là tôi không bỏ qua. Tôi đích thân chỉ huy cuộc vây này.

Bao Thuận Quý cưỡi ngựa lên cho cao, bảo mọi người: Các đồng chí, bãi lau phía tây bắc phát hiện đàn sói. Trong chúng ta co nhiều người chưa được bộ da nào, đúng không? Nhất là các thanh niên trí thức, các cậu vẫn trách lãnh đạo không cho lên tuyến đầu, đúng không? Lần này cho các cậu lên tuyến đầu! Chúng ta phát huy tinh thần chiến đấu, không sợ mệt mỏi, liên tục tác chiến, kiên quyết tiêu diệt đàn sói này!

Trong đám người, có máy thanh niên trí thức và thợ săn cũng muốn thử vận may.

Bao Thuận Quý hô to: Giờ tôi công bố kế hoạch của tôi. Kế hoạch này các anh không mất tí công sức nào. Toàn đội bao vây bãi lau rồi đánh bằng hoả công, đốt lửa đuổi sói chạy ra rồi hạ thủ bằng súng. Mọi người đừng sợ lãng phí đạn.

Mục dân và thợ săn nghe nói đánh hỏa công thì sững người. Đốt đồng là chuyện tối kỵ trên thảo nguyên, thợ săn chỉ được đốt lửa nhỏ, chưa bao giờ dám đốt trên diện rộng. Mọi người bàn tán sôi nổi.

Ông Pilich nói: Đốt đồng cỏ là phạm vào điều cấm kỵ hun đen khuôn mặt của trời, vậy trời có còn cho con người bộ mặt đẹp nữa không? Nhuộm đen nước sông, vậy sông có còn tích nước cho người và gia súc uống nữa không? Saman va Lạtma đều không cho phép đốt lửa trên thảo nguyên. Xưa kia, người nào đốt thảo nguyên, Khan Mông Cổ giết cả nhà người ấy. Nhà nước bây giờ cũng cấm đốt đồng cỏ.

Caxưmai giận đỏ mặt: Lửa là đại họa trên thảo nguyên. Lúc thường trẻ con nghịch lửa còn bị đánh sưng đít. Hay nhỉ, lần này thì lửa rợp trời. Từ nay trẻ con nghịch lửa tức là chúng bắt chước đại biểu Bao, ông chịu trách nhiệm chứ?

Lanmutrăc tức bạnh cổ gầm lên: Ngày xưa quan quân nhà Hán sử dụng một chiêu độc là đốt đồng cỏ. Giờ đây người Hán không dám đốt, vậy thì vì sao người Mông Cổ lại đốt đồng cỏ của mình? Ông Bao, ông có còn là người Mông Cổ hay không?

Tang Kiệt nói: Hiện giờ mặt đất có tuyết, chưa phải mùa phòng hỏa. Nhưng đã đốt một lần thì sau này khó mà ngăn ngừa. Với lại, đốt thì lông sói bị sém, bán không được tiền.

Saxưleng nói: Dùng lửa đốt sói, chiêu này tốn kém quá. sói chết hết thì gặp năm đại dịch gia súc chết dầy đồng, không con sói lấy ai xử lý? Đồng cỏ đầy uế khi, dịch tể xảy ra, người cũng không sống nổi. Sói chết hết rồi, chuột, thỏ đồng đào hang đùn cát lên như trên sa mạc Gôbi!

Trương Kế Nguyên nói: Ba mã quan chúng cháu đi cả, bỏ lại đàn ngựa một ngày một đêm rồi. Giờ mà khoông về thì bọn sói ná làm loạn. Phải cho đàn ngựa về ngay, xảy ra chuyện gì thì chết.

Lanmuttrăc giương cặp mắt tròn xoe như mắt sói, gào toáng lên: Ông thích thì cứ việc! Tôi là tôi không đi! Tôi phải cho ngựa về chuồng. Vài mã quan vội vã quay đầu ngựa: Về thôi! Về thôi! Bao Tlhuận Quý quất một roi trên không, quát: Các cậu bỏ việc là tôi cách chức mã quan! Cách chức luôn những kẻ giật dây!

Ông Pilich liếc Ulichi, khoát tay tỏ vẻ bất lực: Đừng có làm ồn. Tôi cầm đầu cuộc vây bắt hôm nay, chuyện này để tôi giải quyết. Mỗi đàn ngựa một mã quan, về ngay lập tức. Những người còn lại đi cùng đại biểu Bao. Quyết định như vậy đấy.

Lanmutrăc nói với Trương Kế Nguyên: Vậy tôi về với đàn ngựa. Xong việc, cậu nên về nhà nghỉ hai ngày. Nói xong, anh ta dẫn bảy tám mã quan của đội mình và của đội khác, phóng đi.

Đoàn người ngựa theo Bao Thuận Quý vượt ba con dốc, dưới chân núi là bãi lau khô mênh mông, cờ lau trắng toát. Bốn bề tuyết chưa tan hết. Vương Quân Lập cùng năm sáu thanh niên trí thức xúm xít quanh Bao Thuận Quý, đều nói đây là chiến trường lý tưởng cho hỏa công. Vương Quan Lập hồn thơ lai láng, cất tiếng ngâm sang sảng:

Muốn diệt sói lang .

Tất dùng hỏa công.

Chuẩn bị chu đáo.

Có thừa tây phong.

Batu từ trong bãi sậy phóng ngựa chạy tới trước mặt Bao Thuận Quý và Ulichi, nói: Cháu chưa đánh động đàn sói. đông lắm, tất cả trong bãi lau. Bao Thuận Quý trỏ roi ngựa, phân công: Các tổ trưởng nghe đây! Tổ Một phía đông, tổ Hai phía tây, tổ Ba phía bắc. Bao vây bãi lau từ ba phía. Tổ Bốn đi vòng xuống phía nam. trước tiên phóng hỏa phía đông nam cắt đường rút chạy của sói, nổi lửa xong phải tránh xa đầu gió. Các tổ Một, Hai, Ba khi thấy phía nam có khói, liền phát hỏa từ ba phía. Toàn bộ người, ngựa, chó đều đứng đợi ngoài vòng lửa, thấy sói chạy ra liền thả chó đuổi theo và dùng súng hạ sát. Chấp hành đi!

Đám thanh niên trí thức tổ Bốn xông lên trước tiên, các mục dân chạy theo sau. Các tổ khác lần lượt chiếm lĩnh địa điểm quy định.

Trần Trận cùng ông Pilich đi vào bãi lau xem kỹ. đây là bãi lau lưu niên chưa hề bị đốt, cao hơn hai tầm với, lau già chết khô trên mặt đất dày hơn nửa thước, lau củ lau mới đều khô khốc, rất dể bén lửa.

Ông già nói: Lúc này chắc hẳn bọn sói đã nghe thấy động tĩnh bên ngoài, nhưng chúng không sợ đâu. Lau mọc dày đặc, chó không thể chạy nhanh, người cũng khó sử dụng thòng lọng, bên trong bãi vừa tối vừa nhòe, ngựa dẫm trên lau xào xạc, đi đến đâu biết đến đó. Trong bãi có rất nhiều lối đi, người ngựa chó vào phía trước, lũ sói chạy về phía sau. Mùa đông, mùa xuân, bãi lau là giang sơn của sói, vào đây bắt sói không dể. Sói thảo nguyên Ơlôn từng bị đốt đồng, nhưng chúng chưa hề nghĩ tới con người lại đốt bãi lau, xưa nay chưa hề có chuyện này trên thảo nguyên. Các hộ ngụ cư chú ý nhiều đến chuyện này. Phen này thì lũ sói đi đời rồi.

Đột nhiên có người gọi to: Đốt! Đốt! Trần Trận cầm rọ mõm lôi con ngựa của ông già ra khỏi bãi lau. Phía đông nam đã thấy khói đen cuồn cuộn bốc lên, loáng cái, các phía tây, nam, bắc đồng thời phát hỏa mấy chục điểm. Bao Thuận Quý còn sai người đốt thành một vành đai lửa, rồi ông ta chui sâu vào bên trong bải lau. Lau mọc dày đặc, những cây lau võ ngoài có dầu, gặp gió bùng lên như cháy kho thuốc súng, ngọn lửa cao hàng mấy trượng, khói đen cao vài chục trượng cuồn cuộn bay lên. Mấy nghìn mẫu cỏ lau biến thành biển lửa, lá thân lau theo khói lửa bay tới tấp về hướng đông nam, đen đặc như bầy dơi che khuất cả bầu trời. Bao Thuận Quý đứng trên dốc cao như đại tướng Đông Ngô chỉ huy đốt thuyền liên kết dài bảy trăm dặm trên sông Xích Bích.

Phía tây, trong khói lửa cuồn cuộn miên man, ông già Pilich bỗng quỳ xuống, ngoảnh mặt về phía đông mà lạy, nước mắt ràn rụa, miệng cầu khẩn. Trần Trận nghe không rõ nhưng cậu biết ông già nói những gì.

Gió đột nhiên đổi hướng, khói lửa cuồn cuộn bay về phía ông già. Trần Trận nhìn ông, trong lòng nảy sinh niềm kinh sợ của người tôn sùng vật tổ, khói lửa bay lên, đem theo linh hồn ngoan cường bất khuất của người dân Mông Cổ, còn đám anh em con cháu còn lại thì mặc sức hoành hành trên thảo nguyên, đem lại niềm tự hào vẻ vang cho dân tộc này.

Gió to lửa lớn đốt sạch bãi lau, tung tàn tro dầy đặc lên trời, phủ đầy lên đồng cỏ phía nam. Lửa cháy hơn nửa buổi chiều. Những nơi lửa tràn qua, lau lách không còn một cọng. Rồi thì lửa cũng tắt, hàng nghìn mẫu lau vàng óng đã biến thành đất đen. Nhưng các phía đông, nam, tây, bắc không hề nghe thấy tiếng chó sủa và tiếng súng.

Gió cuốn hết khói bay đi, biển lửa dần lạnh ngắt. Bao Thuận Quý ra lệnh cho người ngựa chó triển khai hình chữ nhất càn lên như người ta chải lược bí để tìm xác sói, thông kê chiến quả. Có người đoán ít nhất trên hai mươi con sói chết cháy. Người thì bảo thu hoạch sẽ nhiều hơn buổi sáng. Bao Thuận Quý nói, bất kể nhiều ít, cháy xém cháy đen đều tìm hết ra cho tôi, đánh mã số hẳn hoi, báo cáo chiến lợi phẩm là không được phịa. Tôi muốn cả Huyện cả Kỳ đều biết đây mới thật sự là diệt sói trừ hại chứ không phải đi săn lấy da.

Ở tận cuối đoàn người ngựa, Trần Trận bám sát ông già, khẽ hỏi: Bố, theo bố thì sói chết bao nhiêu con? Ông già nói; Đốt đồng cỏ là cách làm của người Hán, người Mông Cổ rất sợ lửa, làm sao biết có bao nhiêu con sói chết cháy? Tôi e rằng Bao Thuận Quý có ý định khai hoang,..

Hai người thủng thẳng tiến lên cùng với đoàn người vừa đi vừa xem xét mặt đất, chỗ nào có tro dày là lại dùng cán thòng lọng xâm kỹ, khi không thấy có gì, ông già lại thở phào nhẹ nhõm.

Gió đã yếu, nhưng tàn tro dưới vó ngựa bay lên, khiến người ngựa chó chảy nước mắt, chốc chốc trong đội hình lại nổi lên tiếng ho của người và chó. Có khi chó dẫm phải tàn lửa kêu ẳng ẳng. Đội hình đã càn qua trên nửa diện tích mà vẫn không thu được gì. Bao Thuận Quý không bình tĩnh được nữa, hét to: Chậm thôi, đừng bỏ sót đống tro nào!

Nét mặt rầu rầu của ông già Pilich dần giãn ra. Trần Trận không kìm được, hỏi: Có phải sói đã chạy thoát từ trước? Sao chẳng thấy con nào? Ông già cũng mong như thế, nói: Trời ủng hộ sói! Bỗng xa xa có người la to: Ở đây có xác một con! Ông già mặt sa sầm, hai người thúc ngựa chạy tới chỗ có người la. Đoàn người cũng chạy về hướng đó. Bao Thuận Quý đã có mặt, Ông ta bảo ông già Pilich nhận diện con mồi.

Một cái xác đã thành than nằm co quắp, mùi thịt cháy khét lẹt xốc vào mũi. Mọi người bàn tán, mỗi người một câu. Vương Quan Lập phấn khởi nói: Hỏa công thắng lợi rồi! Thấy một con nhất định thấy cả đàn. Saxưleng nói: Hình như không phải sói, sói sao nhỏ thế? Bao Thuận Quý nói: Cháy co lại thì phải nhỏ đi chứ. Vương Quan Lập gật đầu. nói: Chắc là con sói con.

Ông Pilich xuống ngựa, dùng cán thòng lọng lật cái xác nhưng phía bên kia cũng cháy rụi, không còn một sợi lông. Rõ ràng là nó bị gác lên đám lau dầy nên mới cháy như thế. Ông già nói: Không phải sói, đây là một con chó già. Bao Thuận Quý hỏi: Sao ông biết. Ông Pilich nói: Không sai đâu, nhìn hàm răng là biết. Răng sói dài hơn mà lại nhọn hơn răng chó. Không tin ông chụp ảnh gởi lên trên mà báo công. Cẩn thận gặp người trong nghề sẽ bảo ông phịa chó thành sói. Bao Thuận Quý sốt ruột. nói: Đánh dấu chỗ này, tìm ra vài con sẽ phân biệt được đâu là chó đâu là sói.

Ông già buồn rầu nhìn cái xác cháy đen của con chó, nói: Con chó già này biết mình không còn sống được mấy nổi nên tìm đến đây xử lý. Chỗ này khuất gió, sói nhiều. thương quá, làm sao sói không phát hiện ra nó?

Bao Thuận Quý hét to: Dàn hàng ngang, theo tôi! đoàn ngựa lại đi theo đội hình chữ nhất, tiếp tục tìm kiếm. Mọi người gạt hết đống tro này đến đống tro khác, vẫn không tìm được gì. Mấy cậu thanh niên trí thức cảm thấy có gì không ổn, sợ thợ săn từng xông pha trăm trận cũng cảm thấy lạ, chẳng le Batu báo sai?

Bị hỏi, Batu cuống lên, trả lời: Xin thề với Mao Chủ tịch, xin thề với Trời, chính mắt tôi và Phuxich nhìn thấy mà lại. Các bạn cũng đã thấy bao nhiêu là dấu chân mới đây thôi! Bao Thuận Quý nói: Thế thì lạ thật!Chẳng lẻ sói mọc cánh bay đi? Ông già Pilich cười mỉm: Thấy sói biết bay rồi chứ? Sói tinh quái lắm, không cánh mà bay! Bao Thuận Quý nổi đóa: Vậy hồi sáng làm sao bắt được nhiều thế? Ông già nói: Đập chết bấy nhiêu sói vừa đủ trả thù cho đàn ngựa. Nhiều hơn nữa Trời không cho vì không công bằng. Bao Thuận Quý ngắt lời: Giời với đất! Đồ lạc hậu! Còn khoảnh đất cuối cùng. tìm cho tôi!

Bỗng có tiếng kêu giật giọng của hai mã quan phía trước: Hỏng rồi! Hai con bò mộng chết cháy đây này!

Đám người rùng rùng chạy về phía hai mã quan. Mục dân và thợ săn nhìn nhau bối rối.

Bò mộng là con vật sống tự do thanh thản nhất, được mọi người tôn trọng nhất trên thảo nguyên Mông Cổ, được những ngưu quan có kinh nghiệm chọn lựa từ số bê đực để truyền giống. Bò mộng khi đã trưởng thành, trừ mùa hạ là mùa giao phối, bò mộng đến với các đàn bò để phối giống, thời gian còn lại, nó không đi với đàn nào, choi nhảy tung tang, tự do tự tại, không cần người chăm nom săn sóc. Bò mộng thân hình đồ sộ, cổ ngắn là khỏe, từng búp lông xoăn tít rất đẹp mọc đầy mặt, cặp sừng nhọn chĩa thẳng - vũ khí sát thương lợi hại hơn cả đoản kiếm của dũng sĩ La Ma thời xưa.Đàn sói dù đói vẫn không dám tính chuyện cà khịa vì cắn không thủng bộ giáp dầy, đấu không lại sức mạnh của bò mộng.

Do vậy trên thảo nguyên, bò mộng không có thiên dịch. Bò mộng thường hai con một cặp, ban ngày chọn bãi cỏ ngon nhất ăn no, tối đến nằm tráo đầu đuôi mà ngủ. Bò mộng là bò thiêng, tượng trưng cho sức mạnh, tinh đàn ông, sinh sôi nảy nở, dũng cảm, tự do tự tại của thảo nguyên. Các đồ vật Mông Cổ đều gọi là Phuxich tức bò mộng. Đàn ông Mông Cổ cực kỳ hâm mộ bò mộng, vì bò mộng thê thiếp từng đàn, sống như một anh độc thân chẳng chịu trách nhiệm gì với gia đình.Sau mùa giao phối, bỏ lại vợ con cháu chắt cho đồng cỏ nuôi dưỡng. Vì vậy đàn ông Mông Cổ rất thích lấy tên là Phuxich. Bò mộng được người dân thảo nguyên coi là thần vật, bò mộng khỏe mạnh thì là điềm dê cừu sinh sôi nảy nở, bò mộng gầy yếu coi như tai họa sắp giáng xuống đỉnh đầu. Bò mộng rất ít, mỗi đàn bò chỉ một con. Các mục dân khi nghe tin hai bò mộng chết cháy đều kinh hoảng như trời sập, mọi người ùa tới như cảnh chạy tang.

Tất cả xuống ngựa, lặng lẽ đứng quanh hai con vật to lớn. Chúng đã chết, bốn chân duỗi thẳng trên đất đen, bộ 1ông rậm đã vón cục thành than, bộ da dày một tấc nứt nẻ như mai rùa, mỡ vàng hươm trông thấy qua kẻ nứt, cặp mắt lòi ra như hai bóng đèn, lưỡi thè dài nửa thước, nước màu đen gỉ ra từ lỗ mũi. Đám phụ nữ và cánh ngưu quan nhận ra hai con bò này qua cặp sừng. Mọi người phẫn nộ.

Caxưmai nói: Đây là hai con bò tốt nhất của đội tôi. Quá nửa đàn bò đội tôi là con cháu của hai con này. Ai lại đốt đồng cỏ? Đồng cỏ sớm muộn sẽ bị hủy diệt trong tay các ông!

Ông Pilich nói: Hai con bò này thuộc giống bò tía, giống tốt nhất trên thảo nguyên. Con của chúng nếu là cái thì sữa nhiều, nếu là đực thì cho thịt nhiều và ngon. Chuyện này tôi phải báo cáo lên Kỳ. Đội điều tra về, tôi lại phải dẫn họ đến đây. Tổn thất do con người gây ra lớn hơn sói nhiều.

Ulichi nói: Năm trước, Cục chăn nuôi định lấy hai con này, mọi người tiếc không cho, sau chỉ cho hai con của nó. Tổn thất này quá lớn!

Saxưleng nói: Bãi lau kín gió, là chỗ tốt cho bò nghỉ, việc gì phải cho một mồi lửa. Bò chạy chậm, làm sao vượt được tường lửa. Khói cay, sặc khói mà chết. Xưa nay chưa bao giờ có chuyện thiêu chết bò mộng trên thảo nguyên! Không tin Trời thì báo ứng nhãn tiền!

Da bị cháy đen vẫn tiếp tục nứt. Những vết nứt chằng chịt trên mặt da đáng sợ như những câu phù chú trong sách cổ. Đám phụ nữ sợ quá, lấy tay áo che mặt chạy ra ngoài. Mọi người tránh xa Bao Thuận Quý như tránh ôn dịch. Ông ta đứng một mình bên xác hai con bò, người lấm lem, mặt tím tái. Bỗng ông ta gào lên. Chết bò là do lũ sói. Các vĩ muốn nói gì thì nói, tôi quyết diệt bằng được bầy sói Ơlôn!

Ráng chiều đã xỉn màu. màn sương buông xuống trong khi trời se lạnh. Đoàn người ngựa vừa đói vừa khát ủ rũ ra về như đám tàn quân. Không ai biết đàn sói do sói chúa trắng dẫn đầu bằng cách nào chạy thoát bức tường lửa? Mọi người bàn tán rầm ran, phấp phỏng lo so, cho rằng sói đã bay đi. Ulichi nói: Cuộc vây này có một điểm sơ suất. Đó là người và chó đánh động nhiều quá trước khi bủa vây, lão sói trắng dẫn quân chuồn trước.

Các mã quan vội vã trở về với đàn ngựa. Trần Trận và Dương Khắc nhớ con sói con ở nhà. Hai người rũ Trương Kế- Nguyên và Cao Kiên Trung rời đại đội chạy theo đường tắt về nhà.

Dương Khắc vừa chạy vừa băn khoăn về chuyện trước khi đi lúc nửa đêm, chỉ cho con sói con một miếng thịt cừu chín, không hiểu nó đã biết ăn thịt chưa? Nghe Đanchi nói, sói con một tháng mới cai sữa. Trần Trận nói: Không sao, hôm qua nó tì căng bụng, không ăn miếng thịt ấy cũng không chết đói. Mình lo là đi vắng cả ngày, sói mẹ sục vào hậu phương của chúng mình thì rắc rối đấy.

Ngoài con nựa của Trương Kế Nguyên, ba con kia đều chạy không đạt tốc độ, mãi gần nửa đêm mới về đế nhà. Nhị Lang và con Vàng đang đứng trước hai cái khay đợi ăn. Trần Trân vội xuống ngựa, trước tiên cho hai con chó mấy miếng thịt và xương lẫn thịt. Trường Kế Nguyên chui vào trong lều rửa mặt, pha trà, chuẩn bị ăn uống xong la ngủ. Trần Trận và Dương Khắc chạy vội ra chỗ hang con sói, bê cái thớt ra chỗ khác, soi đèn xuống, con sói con nằm trên miếng da cừu, ngủ rất say. Còn con chó cún thì đói, sủa nhanh nhách, ra sức trèo lên miệng hang tí sữa mẹ. Con Hưa loanh quanh miệng hố, vẻ cáu kỉnh. Trần Trận vội lấy con cún lên giao cho Ilưa. Nó ngoạm con đem về ổ.

Trần Trận và Dương Khắc xem xét kỹ đáy hang. Hai miếng thịt chín không còn. Hai bên sườn con sói căng phồng, khoé miệng còn dính mỡ. Mắt nhắm, mép hơi nhếch lên, hình như nó đang mơ một giấc mơ đẹp. Dương Khắc ca mừng: Thằng nhỏ này nuốt chừng miếng thịt. Trần Trận thở ra một hơi khoan khoái, nói: Xem ra mẹ nó không còn thì giờ để nghĩ đến nó nữa!

Chương 14

Một người Mông Cổ tên Minhuli có một đàn cừu. Một đêm sói lọt vào cắn chết quá nửa. Hôm sau, Minhuli đến vương đình kiện con sói. Khan (Nguyên Thái Tôn Uokhothai - người dẫn chú) hỏi con sói từ chỗ nào xông vào cắn đàn cừu? Đúng khi ấy đô vật Musolin bắt sống được một con sói ở ngay chỗ người kia nói, trói lại đem đến. Vương mua con sói với giá 100 soli, bảo người Mông Cổ: "Giờ giết con sói này cũng chẳng lợi gì cho nhà ngươi". Bèn cho Minhuli 1000 con cừu, nói: "Ta sẽ thả con sói này để nó kể lại câu chuyện với bạn bè và chúng sẽ đi nơi khác". Con sói được tha, dọc đường gặp lũ chó, bị xé xác, Vương cả giận, lệnh giết hết lũ chó. Khan nói với quần thần: "Ta cơ thể suy nhược, muốn cứu con vật để được trường sinh (trời) giáng phúc mà thoát nạn. Con sói không thoát khỏi lũ chó, ta cũng khó thoát khỏi hiểm nguy."

(Ba Tư) Thixu Dodinh "Sử Tập. Uokhothai ký, phần ba"

(Chu Lương Tiêu dịch chú)

Cảm thấy ánh nắng xa lạ lọt qua khe hở cây cột chính, từ nóc lều chiếu xuống, Trần Trận mở mắt, nhìn thấy mảng trời xanh lạnh lẽo trên thảo nguyên. Cậu vùng dậy, khoác vội áo ngoài chui ra ngoài, đến chỗ con sói con. Vừa ra khỏi lều, cái nắng thảo nguyên khiến cậu lóa mắt.

Quanbu cho đàn cừu mẹ cùng con ra khỏi chuồng. Không đợi dương quan hướng dẫn, đàn cừu bước chậm rãi, tự trèo lên sườn đồi trước mắt. Một đàn cừu khác cũng dẫn đàn con đến bãi cỏ phía tây gần đấy. Cừu chưa đẻ con rất ít, ì ạch bước đi. Trần Trận thấy Dương Khắc vẫn chưa đi, Quanbu đang bày cho Trương Kế Nguyên cách nhét cỏ khô vào bộ da sói hình ống. Hai bộ da đã được đặt trên chiếc xe bò bỏ không. Trần Trận lập tức đi về phía họ. Ông bố Quanbu ôm từ trong lều ra một ôm cỏ khô. Ông già cuộn cỏ khô thành từng nắm rồi thận trọng nhét vào bên trong bộ da cho đến khi căng phồng, to bằng con sói lúc sống. Ông già bảo, phải nhét căng để da không bị nhăn, ảnh hưởng tới chất lượng. Sau khi đã nhét đầy cỏ, Quanbu luồn sợi dây da nhỏ qua lỗ mũi con sói, hỏi Trương Kế Nguyên đã chuẩn bị cây thòng lọng bắt ngựa chưa? Trương Kế Nguyên nói đã chuẩn bị rồi. Ông bố Quanbu bước tới bên cỗ xe bò, chọn trong bốn năm cây sào gỗ lấy ra một cây thẳng nhất, dài khoảng sáu bảy mét rồi cột sợi dây da ở mũi bộ da sói lên đầu sào, sau đó đào một lỗ cách lều ba bốn mét, dựng cây sào có bộ da sói lên. Hai bộ da sói được phơi theo kiểu như thế, bay trước gió như cờ lệnh.

Ông già nói: Phơi kiểu này vừa hong khô bộ da, vừa có ý khoe thành tích săn bắn của thợ săn Mông Cổ. Trước đây, khi nhìn thấy loại cờ hiệu này, bọn trộm ngựa, bọn thổ phỉ không dám đến gần. Hai ngọn cờ sói lạ lùng hấp dẫn tới mức Trần Trận , Dương Khắc và Trương Kế Nguyên không muốn đi nữa.

Hai lá cờ sói bị gió xuân nâng lên theo phương nằm ngang trên không trung, những sợi lông rối bù được vuốt thẳng ép xuôi chiều trên mặt da, trông như một cặp sói sống đang phi trên thảo nguyên với tốc độ chóng mặt.

Trần Trận hít hà: Sói chết, nhưng hình ảnh sói, linh hồn sói không chết. Hai con này vẫn như đang xung phong, khí thế hừng hực khiến mình sợ quá.

Trần Trận giọng cảm khái, nói với Dương Khắc và Trương Kế Nguyên: Nhìn hai lá cờ sói này, mình lại nghĩ đến lá quân kỳ gắn hình đầu sói bằng vàng của tộc Độc Quyết ngày xưa. Xung phong hãm trận dưới lá quân kỳ này, các kỵ binh của thảo nguyên với dòng máu sói trong người, học từ sói ý chí kiên cường và sự gan dạ đi chinh phục thế giới. Trong lịch sử thế giới, kỵ binh Đột Quyết khôn ngoan dũng mãnh. Tây Đột Quyết sau khi bị nhà Đường đánh bật khỏi Trung Quốc, đã rất nhanh tìm được địa bàn mới và dần trụ vững, vài trăm năm sau đột nhiên quật khởi, thế như chẻ tre, đánh chiếm những nơi mà ngay cả Mông Cổ cũng chưa bao giờ chiếm được như thủ đô La Mã và Ai Cập cổ, thống nhất Trung và Tây Á, dựng nên một đại đế quốc Oxman trải dài từ Á sang u, chặt đứt con đường thông thương u - Á, dùng sức mạnh của quốc gia và sức mạnh quân sự đè đầu cưỡi cổ phương Tây trong khoảng một trăm năm không ngóc đầu lên nổi. Tất cả những nền văn minh tiên tiến bị xua đuổi. Sói rừng phương Tây bị sói đồng cỏ phương Đông đuổi ra biển Đen, ra khơi, ra đại dương, trở thành sói biển càng hung dữ. Họ đi trên những con thuyền già cỗi của châu u hoặc thuyền của bọn hải tặc vượt đại dương, tìm đường sang phương Đông. Kết quả, trong cái rủi có cái may, họ phát hiện ra đại lục mới - châu Mỹ, cướp được đất đai giàu có gấp mấy lần châu u, những con tàu chở vàng bạc của người Inca và người Indian tích lũy nguyên thủy cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Kết quả, sói biển phương Tây trở thành sói tư bản, sói công nghiệp, sói kỹ thuật, sói văn hóa lớn nhất thế giới, phản công trở lại phương Đông, đập tan đế quốc Oxman, cuối cùng đánh bại sói thảo nguyên già cỗi, còn con cừu nông danh phương Đông thì chẳng cói gì đáng bàn...

Trương Kế Nguyên nói: Giờ đây tôi cũng cảm thấy khoa học về sói là một bộ môn lớn, đụng chạm đến nhiều vấn đề, chả trách cậu mê sói đến thế. Dương Khắc nói: Ba chúng mình đừng tự học chương trình đại học, đi sâu vào đề tài này cũng hay đấy.

Quanbu nhìn ngọn cờ sói hồi lâu không chịu đi, nét mặt kính cẩn. Người già bảo: Dùng gió chải sạch bụi bặm trên lông sói nên lông không bị rụng. Gió thổi vài hôm là rất mượt, màu rất sáng, có thể chạy được rồi... Các cậu xem, hai con sói như đã sống lại, cùng nhau bay lên trời... thuận buồm xuôi gió nhé! Quanbu nhìn lần nữa hai ngọn cờ sói bằng ánh mắt thành kính, rồi mới đi thu dọn chuồng cừu. Trần Trận, Dương Khắc, Trương Kế Nguyên rối rít cảm ơn.

Gió xuân trên thảo nguyên thổi mạnh, rít ù ù bên tai như tiếng gào khóc của đàn sói xa xa, lại như tiếng rên rỉ trầm lắng của chiếc đại phong cầm trong giáo đường Kito ở Bắc Kinh, khiến Trần Trận thấy lòng tê tái. Hai bộ da sói đón gió bay ngang trời, sắc lông vàng rộm, mượt như nhung, rực rỡ dưới nắng, đẹp như trang phục lễ hội. Hai con sói đùa rỡn ben nhau dưới bầu trời xanh, chốc chốc lại ôm nhau mà nhào lộn, thanh thản vì được giải thoát. Trần Trận không hề có cảm giác bên trong con sói toàn cỏ khô, trái lại, cậu chỉ thấy chúng có hồn và đầy sức sống. Khói bếp thoát ra từ nóc lều cuồn cuộn bay qua, hai con sói như đang rẻ mây bay lên trời, lên chòm sao Thiên Lang, lên thiên đường tự do mà chúng hằng ngưỡng mộ, đem theo linh hồn người thảo nguyên.

Trần Trận ngước nhìn hai con thiên lang đến nỗi không còn nhìn thấy gì xung quanh, núi đồi, lều trại, xe bò và cừu đều không thấy, trong mắt cậu chỉ có cột cờ và cặp sói đang bay. Dòng suy nghĩ của cậu bị ngọn cờ cao vút dẫn dụ rời đồng cỏ, bay lên trời xanh. Cậu nghĩ, chẳng lẽ người ta trồng cây cờ sói chỉ để khoe thành tích chiến đấu? Phải chăng đó là một phương thức Saman theo một truyền thống xa xưa, nhằm siêu độ cho linh hồn sói, phải chăng đây là một nghi thức thiêng liêng mà dân tộc này biểu thị sự tôn sùng với tôtem. Trần Trận nhận ra cái cách cậu đứng nghiêm ngửa mặt lên trời cũng là một nghi thức, cậu đặt mình dưới bóng tôtem mà ngước nhìn lên. Tinh thần thảo nguyên và tín ngưỡng như không khí bao vây xung quanh cậu, chỉ cần linh hồn đang khát vọng là lập tức cảm thấy.

Dương Khắc và Trương Kế Nguyên cũng ngước nhìn đến mỏi cổ. Trương Kế Nguyên nói: Chúng mình ăn mặc, sinh hoạt không khác dân du mục là mấy, ngay cả sắc mặt cũng giống. Nhưng tôi vẫn cảm thấy chúng mình chưa thật giống người thảo nguyên, căn lều của chúng mình có cái gì đấy chưa phải Mông Cổ. Bây giờ có cây cờ này, nhìn từ xa ai chẳng bảo căn lều chúng mình không phải lều Mông Cổ...

Trần Trận xoa xoa cái cổ mỏi dừ, nói: Trước khi rời Bắc Kinh, mình vẫn thường hình dung Mông Cổ "trời cao ghê, đất rộng ghê, gió đè ngọn cỏ thấy cừu dê", cực kỳ thanh bình yên ổn... Sau đó mới biết "xalaca" là một bài ca của tộc Tiên Ty, thảo nguyên đích thực khắc nghiệt lắm, tinh thần thảo nguyên thực ra tập trung hết ở sói.

Dương Khắc gật đầu: Tôi nghĩ rằng những bài ca phản ánh thật sự về tinh thần thảo nguyên không được lưu truyền, chỉ những bài hợp gu người Hán mới được sao chép truyền lại đến bây giờ. Tôi có hỏi một số mục dân, không ai nghe nói có bài ca đó.

Trương Kế Nguyên mắt vẫn nhìn lá cờ sói, chân dạo quanh cột cờ mấy vòng, vẻ bức xúc: Ai cũng biết hai con sói này bị chó cắn chết. Mình là một mã quan Ơlon, nhất quyết phải tự tay giết một con sói, nếu không làm sao được mã quan?

Nhị Lang thấy hai con sói bị nó cắn chết giờ đang bay trên trời thì nổi cáu, đứng trên hai chân sau mà sủa, nhưng hai con sói không sợ, tiếp tục bay. Con Nhị Lang đành chào thua, gương mắt mà nhìn hai con sói, nhưng ánh mắt đã dịu, hình như nó bắt đầu thích tấm chiến bào trên mình con sói.

Đàn cừu đang đẻ đi xa dần. Dương Khắc khoác cái đẫy đựng cừu lên vai, lên ngựa đuổi theo. Đàn cừu có con nhỏ đang tản khai nhưng vẫn trong tầm nhìn của người và chó. Trần Trận bảo Trương Kế Nguyên: Cậu chỉ nhớ mỗi truyện diệt sói! Diệt sói! Đi, đi xem con sói con!

Hai người đi về phía cái hố nhốt con sói. Trần Trận bê tảng đá chặn miệng hố ra chỗ khác, gỡ miếng ván. Con chó dưới hố vẫn ngủ ngon lành trên tấm da cừu, không hề nhớ giờ ti sữa mẹ. Nhưng con sói con thì đã ngồi xổm ngước nhìn trời, sốt ruột đợi ăn. Ánh sáng lọt xuống đáy hố khiến con sói rất phấn chấn. Nó đứng trên hai chân sau, dùng hai chân trước bám thành hố trèo lên, được vài tấc, rồi ngã lộn nhào xuống đáy. Nó nhổm ngay dậy, dốc sức trèo tiếp, những cặp vuốt còn non ghim chặt thành hố như con thạch sùng bò trên tường. Thành hố đất mủn, con sói lại rớt xuống, nó cáu tiết, ngước nhìn cái bóng đen trên miệng hố, giận dữ tru thành tiếng, trách bóng đen sao không đưa nó lên.

Trương Kế Nguyên cũng là lần đầu trông thấy sói con sống, định đem nó lên xem cho đã. Trần Trận nói: Gượm hẵng, để xem nó trèo lên được không, nếu lên được phải đào sâu hơn chút nữa.

Con sói sau hai lần ngã không dám trèo nữa. Nó bò quanh đáy hố, vừa bò vừa nghe ngóng như đang nghĩ cách. Bò mấy vòng, chợt phát hiện ra con chó, nó lập tức trèo lên lưng rồi lên mặt lên đầu con chó để lấy đà lên mặt đất. Đất vụn rơi đầy mặt đầy người con chó cún. Nó sực tỉnh, rên rỉ, rùng mình rũ bụi đất khiến con sói đứng trên mình nó ngã lăn. Con sói nổi cáu, quay lại nhe răng nhe lợi gầm gừ với con chó. Trương Kế Nguyên cười, nói: Con sói này tuy nhỏ nhưng chất sói không nhỏ. Xem ra nó rất thông minh.

Trần Trận thấy mới có hai ngày mà màng mắt con sói đã mỏng đi nhiều tuy vẫn còn nước, nó đã lờ mờ nhìn thấy những gì trước mắt, huơ tay trước mặt, nó đã có phản ứng. Trần Trận xoè bàn tay chuyển sang đông, đầu con sói cũng ngoảnh sang đông; bàn tay chuyển sang tây, đầu con sói cũng ngoảnh sang tây. Để tập cho nó phản xạ có điều kiện, Trần Trận gọi nhỏ: Sói... con... ăn... cơm... nào! Con sói nghiêng đầu có vẻ sợ nhưng rất háo hức.

Trương Kế Nguyên nói: Để mình xem nó còn ấn tượng gì về họ hàng nhà sói không? Nói rồi cậu khum lòng bàn tay che miệng, bắt chước tiếng tru của sói: U...u...u...! Con sói rúm người lại như bị động kinh, rồi sau đó điên cuồng dẫm đạp lên mình chó để trèo lên. Ngã xuống mấy bận, con sói đành cuộn mình nép sát vách hố như định rúc vào nách mẹ. Hai người cảm thấy bất nhẫn, lẽ ra không nên cho nó nghe thấy tiếng gọi của thế giới sói. Trương Kế Nguyên nói: Mình thấy nuôi con này không dễ. Sói ở vườn thú Bắc Kinh cách ly hoàn toàn với thế giới nhà sói, có thể giảm dần sói tính. Còn trong điều kiện du mục nguyên thủy như ở đây, đêm nào cũng nghe sói hú sói gào, làm sao sửa được tính sói? Con này lớn lên không cắn người thì chớ kể! Cậu phải cẩn thận với nó.

Trần Trận nói: Mình không chủ trương làm mất sói tính của con sói, nếu vậy chả còn ý nghĩa gì nữa. Mình chỉ muốn gần gũi con sói, có thể sờ mó nó, hàng ngày quan sát nó từ cự li gần, tìm hiểu đến nơi đến chốn chất sói của nó. Không vào hang sói làm sao bắt được sói con? Bắt được sói con rồi, càng không sợ sói cắn. Mình sợ nhất dân du mục không cho nuôi.

Con sói vẫn cố trèo. Trần Trận nắm gáy xách nó lên. Trương Kế Nguyên nâng con sói trên lòng bàn tay, ghé mắt quan sát kỹ, lại còn dùng một tay vuốt ve. Lông con sói không thể chải mượt, vừa buông tay ra, chúng lại dựng đứng như cũ.

Trương Kế Nguyên nói: Hay thật! Một mã quan như mình mà lại được vuốt ve con sói ở chỗ một dương quan như cậu. Mình đã hai lần cùng Lanmutrac đi đào bắt sói, nhưng đều về tay không. Ở Trung Quốc mà một người Hán có thể sờ mó một con sói sống tại thảo nguyên Mông Cổ thì thật hi hữu, chục vạn người chưa chắc đã có một. Người Hán ghét sói, ghét luôn cả tài năng của sói. Học được bản lĩnh của sói chỉ có dân du mục.

Trần Trận tiếp lời: Trong lịch sử thế giới, người phương Đông mà đánh sang tận phương Tây, chỉ có ba tộc: Hung Nô, Đột Quyết, Mông Cổ. Còn người phương Tây đánh sang tận phương Đông đều là con cháu của các tộc du mục. Xây dựng thành La Mã cổ đại là hai anh em trai được sói mẹ nuôi, đến nay hình ảnh sói mẹ và sói con vẫn được gắn trên thành La Mã. Sau đó, các tộc Điều Đốn, Nhật Nhĩ Man, Anglo Xacxong càng hung tợn hơn, dòng máu sói chảy trong huyết quản các dân tộc lớn. Vậy nên tính cách nhu nhược của người Hoa Hạ chúng ta cần phải bổ sung dòng máu tiến thủ mạnh mẽ của sói. Không có sói, không thể có lịch sử thế giới như ngày nay. Không hiểu sói thì không hiểu được tinh thần và tính cách dân du mục, càng không thể phân biệt sự khác nhau và mặt yếu mặt mạnh của tộc du mục và tộc nông canh.

Trương Kế Nguyên nói: Mình quả thực muốn biết vì sao cậu nuôi sói? Mình sẽ làm hộ mọi công việc đội giao cho cậu.

Trần Trận ôm con sói đi về phía ổ chó. Khi con Ilua phát hiện con sói đang ti sữa của nó, nhân lúc Trần Trận không phòng bị, nó lập tức đứng dậy, quay đầu định cắn. Nhưng con sói ngậm chặt vú không nhả, bám dai như đỉa, rất giống cái bình đeo dưới vú, con Ilua xoay mấy vòng, con sói lủng lẳng xoay theo, Ilua mất bao công sức mà không sao ngoạm trúng. Trần Trận và Trương Kế Nguyên đứng bên vừa tức cười vừa bực. Trần Trận bóp nhẹ miệng con sói cho nó nhả vú ra. Trương Kế Nguyên cười, nói: Đúng là con quỉ hút máu!

Trần Trận giữ con Ilua cho con sói bú no rồi đứng lên, bảo: Giờ là lúc cho chúng chơi với nhau. Hai người ôm bốn con béo mũm mĩm ra chỗ cỏ khô. Trần Trận thả con sói vào giữa đàn chó. Vừa tiếp đất, con sói bò rất nhanh về phía không có chó và người. Lũ chó con còn chưa đứng vững, bụng sát đất, bốn chân như bơi chèo, y hệt những con rùa có lông. Một con cún đực bò theo con sói, nó quay lại nhe răng gầm gừ đe dọa.

Trần Trận giật mình: Khi đói thì ai có sữa nó nhận là mẹ, no rồi thì phớt tỉnh, không nhận nữa. Tuy chưa mở mắt nhưng mũi đã biết phân biệt, mình biết mũi sói cực thính.

Trương Kế Nguyên nói: Mình nhận thấy con sói không coi đây là nhà của nó, chó cái không là mẹ của nó, lũ chó con cũng không phải là anh chị em nhà nó. Trần Trận nói: Lúc mới đào lên, nó còn giả chết nữa kìa!

Hai người đi theo con sói một khoảng cách chừng bốn năm mét, tiếp tục quan sát hành vi của nó. Con sói bò càng nhanh trên tuyết vụn và cỏ khô được vài chục mét thì dừng lại, bắt đầu ngửi mọi vật xung quanh: phân ngựa, phân bò, khúc xương, tất cả những thứ nổi cộm trên cỏ khô. Có thể nó chỉ ngửi thấy mùi phân và nước tiểu của chó nên bỏ qua, tiếp tục ngửi. Trần Trận và Trương Kế Nguyên đi theo con sói hơn trăm mét, nhận thấy con sói không bò vu vơ, nó có mục tiêu rõ rệt: Tránh xa các lều trại, chuồng cừu, hơi người, hơi chó, hơi súc vật.

Trần Trận cảm thấy con sói chưa mở mắt mà đã có đầy đủ bản năng và thiên tính đáng sợ và đáng nể trọng. Trong giới sinh vật, Trần Trận khâm phục loài chim sẻ, nổi tiếng vì không thuần dưỡng được. Hồi nhỏ, cậu đã từng bắt chim sẻ về nuôi, lớn nhỏ có đến mười mấy con, nhưng chúng đều nhắm mắt tuyệt thực kể cả nhịn uống nước, không còn tự do thì chúng thà chết chứ không chịu nhục. Trần Trận chưa nuôi sống đuợc chim sẻ dù chỉ một con. Nhưng sói thì lại khác. Sói coi trọng tự do và cũng coi trọng mạng sống. Bị bắt, sói vẫn ăn ngủ như thường, không những không nhịn, trái lại ăn càng khoẻ, ngủ càng đẫy, và chỉ rình thời cơ để chạy trốn, giành lấy cuộc sống mới và tự do. Trần Trận thấy chỉ các đấu sĩ bị giam trong các hang động bẩn thỉu mới có tính cách và phẩm chất ấy. Nhưng họ so với cả tộc người thì chỉ là những hạt vàng trong cát, còn tính cách này ở sói thì rất phổ biến, thấm từ trong máu, đời trước truyền cho đời sau, không một ngoại lệ. Mà những con sói có đầy đủ tính cách ấy lại là thần linh, tôtem, thần chiến tranh và tôn sư, thì khó có thể tưởng tượng ảnh hưởng của chúng đối với dân tộc đến mức nào. Thường nói sức mạnh của tấm gương là vô cùng vô tận, nhưng sức mạnh tinh thần của tôtem còn cao hơn tấm gương nhiều, nó được đặt ở vị trí thần linh.

Trần Trận nhìn con sói mà sinh lòng cảm kích. Tấm thân tuy bé nhỏ nhưng nó đã dẫn đường cho cậu vén lên bức màn che khuất nghìn đời, đi thẳng vào những bí mật lớn của thảo nguyên.

0O0

Quanbu phóng ngựa tới gọi Trần Trận đối chiếu số cừu non. Đa số những con cừu non đang ngủ giữa đàn cừu, cừu mẹ thì đang tha thẩn gặm cỏ. Trần Trận đem con sói về chỗ ở của nó, rồi lên ngựa tới chỗ đàn cừu. Hai người gom đàn cừu lại. Gần hai nghìn con cừu lớn nhỏ, cừu mẹ gọi cừu con, cừu con gọi cừu mẹ, tiếng be động trời như có sói xông vào đàn. Hai người dùng thòng lọng cản hướng đàn cừu định đi, sau đó thu nhỏ lại thành một cửa khẩu, gần một ngàn con cừu non, cừu mẹ nào nhận đúng con rồi thì cho qua, cừu mẹ nào nhận sai thì bắt quay lại tiếp tục tìm. Trần Trận đã nhận biết chính xác con cừu mẹ nào nhận sai con. Chỉ cần nhìn con nào be rầm lên mà không ngó ngàng đến con cừu non bên cạnh, thì dứt khoát không cho qua. Từng cặp mẹ con sau khi qua cửa khẩu, cừu non liền quỵ hai chân trước ngẩng lên ti sữa mẹ, cự mẹ nhìn con bằng ánh mắt hiền từ. Hai người chỉ cần bỏ ra một tiếng đồng hồ là khớp xong mẹ con đàn cừu, ngày hai lần, mỗi lần khớp một lần cho bú. Nếu không khớp thì những con cừu không mẹ sẽ chết đói. Khớp đàn cũng là lúc đếm cừu, tìm ra những con sợ nắng, rúc vào hang chuột để ngủ. Không đếm thì mất cừu lúc nào không biết. Có lần Trần Trận thấy thiếu, liền đi tìm quanh, cuối cùng lôi ra ba con ngủ trong hang chuột.

Quanbu rất bằng lòng về đàn cừu. Anh nói: Ơlon cỏ nước đầy đủ, cừu mẹ nhiều sữa đều nhận con, đỡ tốn sức cho một lần khớp đàn. Nếu như cỏ xấu, cừu mẹ không sữa, không nhận con để cho bú, thì dù có huy động tất cả lao động hát bài khuyến mãi ca, giỏi lắm một ngày chưa bú được một lần. Một trận bạch mao phong tràn về, mấy chục nghìn con cừu chỉ vài ngày là chết đói chết rét, họa sói có lớn đến mấy cũng không bằng tai họa do con người và thiên tai gây ra. Ban lãnh đạo cũ của Ơlon giỏi, hiểu thảo nguyên, hiểu sói, mối quan tâm lớn nhất là cỏ, là đồng cỏ, chứ không phải đàn cừu. Vấn đề then chốt mà tốt thì những chuyện như khớp đàn sẽ tốt theo. Các dương quan ở Ơlon đừng lo, vài ngày nữa một mình tôi có thể khớp đàn...

Trần Trận hiểu ra, Quanbu không cần đến từng nhà mà vẫn nắm vững tình hình của cả mục trường.

Chương 15

Thành Cát Tư Hãn rất coi trọng săn bắn. Ông thường nói, săn bắn là công việc chính đáng của quân quan, rất có ích, binh sĩ được rèn luyện, người lính thì làm hết nghĩa vụ của mình. Họ được học cách truy đuổi con mồi, cách bắn hạ con mồi, cách bày trận, cách triển khai vòng vây bằng vào số người nhiều ít... Khi không có chiến trận, họ thường tổ chức săn bắn, khuyến khích binh sĩ đi săn. Mục đích không chỉ vì săn được con mồi, mà còn có thói quen săn bắn, sử dụng thành thạo cung tên và chịu đựng gian khổ.

Tifiner "Tiểu sử những kẻ chinh phục thế giới" - Quyển Thượng.

Gió xuân ấm và ẩm ướt thổi trên thảo nguyên Ơlon, từng cụm mây trắng đến lóa mắt sà thấp, thảo nguyên đơn điệu bỗng trở nên linh hoạt, lúc sáng lúc tối, lúc vàng lúc trắng, đổi màu liên tục như ảo đăng. Khi đám mây lớn che khuất mặt trời, Trương Kế Nguyên cảm thấy khắp người nổi gai vì lạnh. Nhưng khi đám mây bay đi, cái nắng gay gắt như nắng đầu hạ, khiến mặt và chân tay cậu toát mồ hôi, ngay cả áo ngoài cũng khét mùi nắng. Cậu đang cởi khuya áo để hóng gió thì một đám mây lớn lại che khuất mặt trời, đưa cậu trở lại cái rét âm của mùa xuân.

Băng đã mềm ra, tuyết đã tan, từng vạt đất cỏ màu vàng lộ ra. Mầm cỏ xuân nhú sớm bị tuyết vùi có màu vàng, chỉ chỗ nhọn thoáng chút xanh. Không khí sặc mùi cỏ úa, các rãnh nhỏ đầy nước tan từ tuyết. Từ trên đỉnh dốc nhìn xuống cánh đồng, những chỗ trũng và ao hồ đều đầy nước, hàng trăm hàng ngàn những hồ ao như thế soi bóng những đám mây trắng bay qua. Mây trắng trên trời, mây trắng dưới nước bay qua từ phía sau lưng.

Trương Kế Nguyên và Batu mai phục trong những bụi cỏ vồng đã hơn một tiếng đồng hồ. Họ đang đợi sói. Sự cố đàn ngựa và chuyện đưa tin rởm khiến uy tín của anh sa sút nghiêm trọng, anh chuyển hướng cơn giận sang đàn sói. Trương Kế Nguyên cũng để lỡ thời cơ tại bãi vây, giờ muốn lấy lại ảnh hưởng. Hai người sau khi nghỉ ngơi vài ngày, đem theo hai khẩu bán tự động trở lại sườn dốc bên đầm lầy. Batu đoán đàn sói tiếc những con ngựa chết dưới đầm lầy, tuyết đã tan, băng đã tan, nhưng vẫn có thể lôi những con ngựa bên rìa đầm lên để ăn. Lúc này mà đàn sói không hành động thì chúng không còn dịp nào nữa.

Những vũng nước lúc sáng lúc tối tiếp tục làm lóa mắt. Hai người vừa lau nước mắt, vừa chĩa ống nhòm sang con dốc phía đối diện, quan sát kỹ từng chấm đen, chấm nâu, chấm vàng. Bỗng Batu cúi xuống nói nhỏ: Nhìn dốc bên trái. Trương Kế Nguyên nhẹ nhàng chuyển động ống nhòm, cố trấn tĩnh nhưng vẫn không nén được tâm trạng hồi hộp. Cậu trông thấy hai con sói lớn đang chậm rãi đi tới, thoạt tiên là cái đầu, sau đến cổ và ức.

Hai người bám sát con mồi. Hai con sói từ phía sau dốc ló ra đến quá nửa thân thì dừng lại, quan sát tỉ mỉ những chỗ khả nghi trong tầm mắt. Chúng không tiến lên nữa, mà nấp sau những bụi cổ vồng, nấp kỹ, y như chúng cũng là thợ săn. Hai người, hai con sói đều nấp sau những bụi cỏ vồng đợi thời cơ. Trương Kế Nguyên nhận thấy những người đi săn chuyên chọn những bụi cỏ cao để nấp, chính là học từ sói. Hai con sói không vội, chúng đợi xem con người giở trò gì. Sói đủ kiên nhẫn đợi trời tối mới hành động.

Cỏ vồng là cái tên đám thanh niên trí thức đặt cho một loại cỏ thường gặp trên thảo nguyên Mông Cổ, rất đẹp và rất lạ. Trên mặt đất phẳng hoặc trên sườn dốc đột nhiên mọc lên những bụi cỏ cao ngang ngực, thẳng đuỗn, đều tăm tắp, trông giống những cây lúa nước hoặc những cây lau cạn. Sang thu, chúng nở đầy hoa trắng như bông lau, nhìn ngược ánh sáng, chúng như lông vũ thiên nga, dưới ráng chiều, chúng lấp lánh như những đốm lửa. Trên mặt bằng thấp, chúng nổi lên như những đàn hạc, đàn gà, đập vào mắt hơn những bông hoa dại nở khắp đồng. Sang đông, lá và bông bị gió cuốn đi, nhưng thân cỏ thì kiên cường trụ lại, và cũng như sói, uốn không cong, đè không gãy, bảo không nghe. Bạch mao phong có thể đè rạp chúng xuống, nhưng gió ngừng thổi là chúng lại đứng dậy, chĩa thẳng lên nền trời xanh. Từng búi như vương miện của quốc vương châu u. Mục dân dùng thân chúng làm chổi quét nhà hoặc chổi bếp, đẹp và bền.

Cỏ vồng không chỉ đẹp mà còn rất lạ. Lạ ở chỗ mọc từng khóm một. Cỏ vồng, thân mọc thành vồng, bên ngoài ken dày, bên trong rỗng, trông như cái rèm bằng cây sậy, chu vi tròn như vẽ bằng compa rồi gieo hạt trông theo đường tròn, to có nhỏ có. To thì đường kính hơn một mét, nhỏ đường kính chỉ hai tấc. Mục dân cần nghỉ ngơi, xuống ngựa ngồi đè lên một nửa, phần ngồi lên trở thành cái đệm mềm mại có tính đàn hồi, phần không bị đè lên, trở thành tay vịn và tựa lưng. Trong lều Mông Cổ không có sôpha, nhưng trên thảo nguyên bất cứ chỗ nào đều có ghế sôpha để ngồi. Đám trí thức Bắc Kinh lên thảo nguyên thích ngay cỏ vồng, có cậu đặt luôn cho cái tên "cỏ sôpha", "cỏ ghế tựa".

Trên thảo nguyên trơ trọi, cỏ vồng với hình dáng đặc biệt, đã trở thành nơi trú ngụ trời cho. Các bậc anh hùng trên thảo nguyên thoạt trông tưởng như nhau, nhưng sói mới là kẻ thống trị đầu tiên, và cũng là kẻ đầu tiên phát hiện và sử dụng cỏ vồng. Batu bảo, sói thường nấp trong đám cỏ vồng, tập kích dê vàng đi qua hoặc cừu của người. Trương Kế Nguyên từng thấy phân sói trong khóm cỏ vồng, xem ra chúng rất thích loại cỏ này. Ông Pilich nói cỏ vồng do trời sai xuống để cho sói che thân.

Lúc này người và sói đều ẩn nấp rất có nghề. Sói không nhìn thấy người. Người cũng không thể ngắm bắn sói. Sói bị người phát hiện trước, nhưng Batu còn phân vân, Trương Kế Nguyên cũng còn lo, liệu hai người có bị con sói khác nấp trong khóm cỏ vồng đối diện phát hiện trước?

Chơi nhau với sói trên thảo nguyên, phải luôn tâm niệm câu "chuyện gì cũng có thể xảy ra". Đây là điều lệnh cơ bản nhất mà sói dạy cho các chiến sĩ Mông Cổ trên thảo nguyên.

Batu chỉ nghĩ, chưa hành động, tiếp tục quan sát địa hình dốc núi đối diện, chỉ cho Kế Nguyên ghi nhớ đặc điểm con dốc bên cạnh. Hai người lẳng lặng lùi xuống cởi dây buộc chân ngựa, nhẹ nhàng dắt ngựa xuống chân dốc, đi một quãng xa, mới nhẹ nhàng lên yên, từ chỗ ngược gió đi vòng qua chỗ hai con sói ẩn nấp. Ngựa đi trên đất ẩm không gây tiếng động, gió thổi ù ù che giấu hành tung của người và ngựa. Trương Kế Nguyên cảm thấy hai người như hai con sói tập kích cừu.

Trên đường đi, Batu phân biệt kỹ lưỡng hình dáng mắt bên của cái dốc. Nửa giờ sau, hai người đã tới chỗ sau dốc rất gần hai con sói. Batu một lần nữa nhận diện mấy hòn đá và bụi cỏ trên đỉnh dốc mới xuống ngựa, chậm rãi dắt ngựa lên dốc. Khi gần tới đỉnh, Batu buộc chân trước con ngựa bằng một nút buộc sống. Trương Kế Nguyên hiểu ý, cũng thắt một nút sống vào chân con ngựa của cậu.

Hai người mở chốt an toàn, khom người đi lên, lặng lẽ tiếp cận đỉnh dốc. Lên tới đỉnh, hai người bắt đầu bò cho tới khi trông thấy sói. Lúc này, đuôi và nửa thân sau của sói, nhưng đầu, ngựa và bụng sói thì vẫn bị che khuất, con sói như chó đã thuần dưỡng nhốt trong một lồng chim lớn.

Xem ra hai con sói vẫn để ý cái nơi hai người nấp hồi nãy. Chúng ngẩng đầu lên quan sát động tĩnh, hai tai dựng lên xoay theo hướng khả nghi. Tuy vậy sói vẫn không ngơi cảnh giác các hướng khác, luôn hếch mũi lên trời đánh hơi sự nguy hiểm trong không khí.

Batu nhường Trương Kế Nguyên con đường gần hơn bên trái, còn anh đi xa hơn. Gió thổi ào ào, những khóm cỏ vông uốn rạp hình cánh cung, để lộ thân sói. Sau khi chớp mắt, Trương Kế Nguyên không nhìn thấy con sói đâu nữa.

Hai người đợi cái khoảnh khắc gió uốn rạp cỏ. Batu dặn đi dặn lại Trương Kế Nguyên, khi anh nổ súng thì cậu ta lẩy cò. Trương Kế Nguyên không cảm thấy căng thẳng. Cậu có bắn trượt thì Batu sẽ bồi luôn mấy phát. Batu là tay thiện xạ nổi tiếng mục trường, trong khoảng 200 mét con mồi khó thoát. Nghe thợ săn kể, sói thảo nguyên Ơlon thấy người đeo súng cách 500 mét không chạy, cách 400 mét không chạy, cách 300 mét không chạy. Sói có thói quen này là do Batu. Lúc này sói chưa tới 200 mét, Trương Kế Nguyên có thể bình tĩnh mà ngắm mục tiêu.

Đúng lúc gió dịu, cỏ vươn dậy để lộ sói ra thì từ khóm cỏ vồng bên cạnh mục tiêu, một con sói mảnh mai chui ra, chạy xuống dốc, ngay trước mắt hai con sói lớn. Hai con sói lớn bật dậy như bị rắn đớp, đầu cúi gằm, chúng chạy theo con sói kia sang dốc tay bắc. Rõ ràng là con sói kia là lính gác và là vệ sĩ cho hai con sói lớn, đảm nhiệm canh gác phía sau, khi người nhìn rõ sói thì cũng là lúc sói nhìn thấy người. Sói mà có cảnh vệ không phải chuyện đùa. Lớn nhất là con đầu đàn. Ba con sói chọn con dốc hiểm nhất lao xuống phía dưới.

Batu vọt dậy hò lên ngựa. Hai người chạy về bên kia dốc, lên ngựa đuổi theo. Qua đỉnh là một con dốc hiểm đến nỗi Trương Kế Nguyên hét: Ôm chặt cọc yên mà xuống! Batu thì không sợ, anh coi thường nguy hiểm, dũng mãnh như một chiến sĩ Mông Cổ, anh kẹp chặt ngựa lao xuống dốc.. Trương Kế Nguyên thoáng nghĩ: Liều mạng hoặc sợ vỡ mật là lúc này đây! Cậu nghiến răng nhả cương cho con ngựa lao xuống. Xuống dốc hiểm là điều tối kỵ của thuật cưỡi ngựa, nhất là dốc hiểm tự nhiên, không lường được khi nào vấp phải hang chuột, hang thỏ hoặc hang chuột. Bước hụt là người ngựa ngã lăn, không chết cũng bị thương. Trịnh Lâm, mã quan tổ ba xuống dốc không kìm được, ngựa quỵ chân trước, người bay lên cao, vỡ xương chậu, còn bị con ngựa đè lên người, lúc này đang chữa trị tại Bắc Kinh. Nếu như đập đầu xuống đất, chắc đi suốt.

Trương Kế Nguyên rất mê nghề chăn dắt ngựa. Cậu thấy nghề này tính cách đàn ông nhất, dũng cảm nhất thế giới. Mã quan Mông Cổ là chiến sĩ thời binh, là dũng sĩ thời chiến. Phụ nữ Mông Cổ dù can đảm hơn cả đàn ông người Hán, nhưng ở Ơlon chưa bao giờ có một mã quan là nữ. Cuộc sống du mục hàng ngàn năm nay, một đàn ngựa Mông Cổ chỉ bố trí hai mã quan, từ khi đám thanh niên trí thức về, thêm một mã quan là thanh niên trí thức, mục đích là để thử viện. Nhưng đã hơn hai năm, trong bốn mã quan thanh niên trí thức của đội Hai, một bị thương cho rút, một không chịu được khổ, không can đảm nên cho chuyển sang công việc khác, trước mắt chỉ một có triển vọng trở thành mã quan chính thức, nên bố trí cùng hai mã quan Mông Cổ trông nom một đàn ngựa. Hai mã quan thanh niên trí thức người Hán trông nom một đàn ngựa riêng rẽ là chuyện động trời, đám thanh niên trí thức chưa bao giờ dám nghĩ tới, Trương Kế Nguyên cũng thế, nhưng cậu rất muốn trở thành mã quan, rồi đây sẽ cùng Batu hoặc Lanmutrac cai quản một đàn ngựa. Trước mắt cậu chỉ là chân học việc.

Hai năm dãi dầu sương gió, Trương Kế Nguyên hiểu rằng, cắn răng lại cậu có thể chịu được khổ, có thể học được kỹ thuật chăn ngựa cực kỳ cao siêu, thiếu chăng là thiếu sự can đảm trong việc thuần dưỡng những con ngựa bất kham hoặc ngựa hoang hung dữ. Không làm nên chuyện trong trận bủa vây là do cậu thiếu dũng khí. Cậu nhớ rất rõ khi cậu rung sào tung thòng lọng, thì trước đó tim đã đập loạn xạ.

Trương Kế Nguyên liều mạng! Cậu liền vì muốn trở thành một mã quan thực thụ. Lúc này cậu muốn thử nghiệm bản thân, xem mình có còn cái khí phách của dân tộc Hoa Hạ thời Hán Đường truy quét Hung Nô, tiễu trừ Đột Quyết?

Con ngựa lao xuống dốc như từ trên vách núi nhảy xuống vực, người và ngựa như đang rơi tự do, lưng ngựa dốc đến nỗi người không thể ngồi thẳng. Cậu một tay bám chặt cọc yên, ngả người ra sau gần như dán lưng trên mông ngựa, hai chân thẳng băng trên bàn đạp áp sát tai ngựa, hai chân kẹp chặt hai bên mỏm yên. Đó là động tác duy nhất khó thực hiện nhưng bảo đảm tính mạng cho kỵ sĩ. nếu như lúc này tỏ ra mềm yếu, chắc chắn hồn cậu sẽ lên trời. Sau đó mấy hôm cậu trở lại chỗ này, mới phát hiện có đến bảy tám cái hang chuột, sợ toát mồ hôi. Batu bảo, trời rất thích những người dũng cảm, nên xê dịch những cái hang đó, ngựa không bước hụt.

Xuống đến chân dốc, Trương Kế Nguyên thấy cậu chỉ cách Batu nửa thân ngựa. Batu ngoảnh lại nhìn cậu, cười khoái trá. Trương Kế Nguyên cảm thấy nụ cười của Batu quý hơn vàng ròng.

Dân chăn ngựa Ơlon có đặc điểm là thắng kiêu, bại nản. Hai con ngựa thấy chỉ một con dốc đứng đã rút ngắn một phần ba khoảng cách với hai con sói thì như được tiêm một liều đôpinh, vọt lên với tốc độ dê vàng, rút ngắn thêm một đoạn đường dài trước khi sói lên tới đỉnh dốc. Batu nhìn thoáng sói và địa hình nói: Chúng sắp chia hai ngả. Con nhỏ ta cho qua. Truy kích hai con lớn. Lát nữa cậu xem tôi bắn con nào, cậu liền nhắm phiến đá trước mặt con ấy mà nổ súng, bắn con bên phải trước. Hai người giương súng đợi. Ngựa chạy nhanh nhưng thân ngựa không lắc, rất dễ ngắm bắn. Ba con sói đã nghe thấy tiếng đuổi gấp nên tăng tốc lên đỉnh dốc. Ngựa và sói không chạy được lâu với tốc độ cao. Batu đợi con sói chạy rẽ ngang, chạy thẳng mục tiêu nhỏ, rẽ ngang mục tiêu lớn. Khi chia đường, một con rẽ ngang là lúc nổ xuống.

Ba con sói thấy không bứt khỏi cuộc truy kích thì hơi hoảng. Hình như chúng sắp chia đường mà chạy. Chia đường thì tối thiểu có một con không bị đuổi theo. Chạy được ba trăm mét, hai con chạy bên con đầu đàn rẽ sang hai phía. Batu lập tức bắn con lớn bên phải nhưng không trúng. Trương Kế Nguyên nhắm phía trước con đó nổ liền hai phát, một trúng mặt đất, một trúng phiến đá toé lửa, tung lên một đám bụi trắng. Con sói sợ chững lại, chính trong khoảnh khắc đó, Batu nổ súng. Con sói gục xuống, chỗ lưng bung lên một chùm hoa. Trương Kế Nguyên vui sướng reo lên, còn Batu thì buồn rầu than thở: Hỏng rồi, hỏng mất bộ da rồi!

Hai người chỉnh hướng cho ngựa đuổi theo con sói đầu đàn. Batu dặn: Cậu không cần nổ súng, mình sẽ có cách đối phó với nó. Hai con ngựa săn thấy chủ đã hạ được một sói thì vô cùng hưng phấn, leo dốc với tốc độ nhanh nhất. Nhưng lên được mấy chục mét thở không ra hơi, tốc độ giảm dần. Trái lại, sói trổ tài leo núi, càng leo càng khoẻ, bước chân càng dài, bước chân càng tự tin. Batu và trương kế Nguyên vụt liên tiếp lên mông ngựa, còn thúc cực giày vào sườn ngựa. Hai con ngựa ngày thường không bị đòn, giờ sùi bọt mép, phóng như điên. Con sói đầu đàn không giảm tốc độ, càng chạy càng ung dung chững chạc. Batu cúi xem dấu chân sói thấy bước chạy của sói dài hơn bước chạy của ngựa, con sói đầu đàn ngày càng tới gần đỉnh dốc - nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Nếu con sói vượt qua nơi ấy, thợ săn đừng hòng thấy lại nó.

Đúng lúc ấy, Batu hét to xuống ngựa, rồi gò cương. Phàm là ngựa săn, con nào cũng có tuyệt kỹ: Dừng đột ngột. Đây là bản lĩnh rèn luyện được trong quá trình bắt ngựa bằng thòng lọng, đem dùng lúc này rất hợp. Hai con ngựa dừng đột ngột khiến hai người suýt văng khỏi yên theo quán tính. Batu nhân đà nhảy xuống đất, nhanh nhẹn nằm xuống giương súng, nín thở nhằm chuẩn đỉnh dốc. Trương Kế Nguyên cũng nằm xuống giơ súng lên.

Con sói đang chạy như điên, chợt không còn nghe tiếng chân ngựa phía sau, liền cảnh giác dừng lại nghe ngóng. Sói thảo nguyên cổ ngắn, muốn nhìn lại phải xoay hẳn người, với lại bình thường lên dốc phải dừng lại lấy hơi và quan sát lần cuối đường chạy và vị trí kẻ đuổi theo để đối phó. LÚc này trên đỉnh dốc, nơi tiếp giáp giữa trời và đất, hình thù con sói quay ngang hiện lên sắc nét như tranh trổ, to gấp ba lần so với hình dọc theo thân, y hệt tấm bia vẽ con sói trong trường bắn. Đây là thời cơ duy nhất cho thợ săn nổ súng, nhưng phần nhiều sói không cho thợ săn có thời cơ ấy. Nhưng Batu đã lừa cho sói sinh nghi, quay lại xem thợ săn giở trò gì.

Lúc này con sói đã trúng kế. Batu nổ súng, chỉ thấy nó gục xuống rồi không còn thấy trên đỉnh dốc. Batu nói: Rất tiếc! Xa quá không trúng chỗ hiểm. Nhưng nó không thoát đâu, đuổi mau! Hai người phóng ngựa lên đỉnh dốc, chỉ thấy máu vương trên cỏ và đá vụn, không thấy bóng dáng con sói. Dùng ống nhòm cũng không thấy, hai người đành cho ngựa chạy chậm theo vết máu. Trương Kế Nguyên than thở: Giá cho chó đi theo thì hay biết mấy. Nhưng hai người từ đàn, xưa nay trên thảo nguyên, chó lều trại không theo đàn ngựa, chỉ theo dương quan, ngưu quan, không theo mã quan, trừ phi dắt theo.

Hai người ngồi trên ngựa cúi xuống xem xét, đi rất chậm. Được một đoạn, Batu nói: Mình đã bắn gãy một chân trước của nó, cậu xem, một bước của nó chỉ có ba dấu chân, cái chân bị thương không chạm đất. Trương Kế Nguyên nói: Lần này thì nó chạy không thoát, sói ba chân chạy sao bằng ngựa bốn chân? Batu nhìn đồng hồ, nói: Khó nói lắm. Nó là con đầu đàn, giờ mà nó rúc vào một cái hang nào đấy thì sao? Phải đuổi gấp.

Vết máu lúc có lúc không, hai người đuổi theo đã hơn một tiếng đồng hồ. Tới một trảng cỏ, hai người đứng sững: Một bàn chân sói xương trắng hếu trên mặt đất, trên đó còn lưu nhiều vết răng sói. Batu nói: Cậu xem, con sói vướng cái chân bị thương, liền cắn bỏ. Trương Kế Nguyên thót tim như bị sói đớp. Cậu nói: Từng nghe tráng sĩ chặt đứt cánh tay khi trúng tên độc, nghe nhưng chưa nhìn thấy. Nhưng sói tự cắn đứt chân thì tôi đã chứng kiến hai lần, lần này là thứ ba. Batu nói: Người có người thế này người thế khác, sói thì con nào cũng tiếc...

Hai người tiếp tục tìm kiếm. Dần dà phát hiện ra, sau khi cắn đứt chân, bước chạy con sói dài hơn. Điều đáng ngại là hình như con sói chạy về phía đường biên phòng, mà phía bắc đường biên là khu vực cấm. Batu nói: Con này lợi hại thật, chúng mình không thể đuổi theo từ phía sau. Hai người chạy tắt lên đường biên phòng.

Càng lên phía bắc cỏ càng cao. Những trảng cỏ màu vàng rơm như những tấm da sói lớn. Trương Kế Nguyên cảm thấy tìm sói trong cái đám "vàng rơm" còn khó hơn tìm cừu non trong đống lông cừu. Trời và người rất khó hợp nhất. Nhưng sói và thảo nguyên thì hòa vào nhau như sữa với nước. Một con sói thọt có thể chạy ngay dưới mũi mà anh không nhìn thấy. Trương Kế Nguyên một lần nữa nhận ra mối quan hệ sâu xa giữa sói và thảo nguyên, giữa sói và đức chúa trời: Mỗi khi gặp nạn nguy hiểm đến tính mạng, con sói lại dựa vào thảo nguyên mà thoát hiểm. Mỗi khi gặp nguy hiểm, thảo nguyên như gà mẹ, xoè cánh ra che chở cho sói. Thảo nguyên và sói như một cặp vợ chồng già khăng khít bên nhau, suốt đời chung thủy. Người Mông Cổ rất mong trung thành với thảo nguyên hơn sói mà vẫn chưa thay thế được vị trí của sói. Vậy mà người Mông Cổ ở mạn nam khai phá thảo nguyên thành ruộng, chuyển đổi chăn nuôi thành trồng trọt ngày càng nhiều. Trương Kế Nguyên không ngờ con sói bị mất một chân mà còn có thể chạy xa và lâu đến thế, bỏ lại người và ngựa phía sau. Cậu không muốn đuổi nữa, cậu cảm thấy có một ông thầy nữa như ông thầy Batu bên cạnh.

Hai con ngựa lúc chạy lúc dừng, dần đã lại sức, lại bắt đầu truy kích. Dãy núi lớn phía bắc ngày càng gần, mà trảng cỏ này chạy dài mãi tới chân núi. Nghe mục dân nói, núi này có nhiều hang động to và sâu, lạnh thấu xương, là căn cứ địa cuối cùng của sói mà không ai làm gì nổi. Nhưng con sói thọt vào đấy rồi sẽ sống như thế nào? Cậu lấy mình để đánh giá sói. Người ta có thể giết hết sói, nhưng không bao giờ hủy diệt được ý chí và tính cách kiên cường của sói.

Cuối cùng, hai con ngựa đã đặt chân lên đường biên phòng. Gọi là đường, thực ra chỉ là một loại đường rất đất để lính biên phòng đi tuần, chính xác hơn là con đường cát. Xe com măng ca và xe tải chuyên chở vật tư xẻ một cái rãnh sâu một mét, toàn bộ con đường là một cái máng chỗ cao chỗ thấp, quanh co khúc khuỷu, xa trông như một con rồng màu vàng đáng sợ chỉ chực bay lên. Vó ngựa tung cát bụi, người và ngựa như biến vào trong sa mạc Gôbi mịt mùng.

Hai người men theo con đường biên phòng chạy về hướng đông, trên đường không thấy dấu chân sói. Vượt qua quả đồi nhỏ, chợt trông thấy nó cách ba chục mét. Nó đang bên rìa đường phía bắc, khó nhọc trèo lên gờ đường. Bình thường chỉ một bước nhảy là qua, vậy mà giờ đây gờ đường trở thành cái ngưỡng cuối cùng không thể vượt của cuộc đời! Con sói trèo không qua, nó co rúm khi ngã xuống, chỗ chân đau đụng cát.

Xuống ngựa! Batu vừa nói vừa nhảy xuống mặt đường. Trương Kế Nguyên cũng xuống ngựa. Cậu sốt ruột quan sát từng động tác của Batu và cây gậy sắt nặng trịch bên yên ngựa. Nhưng Batu không gỡ cây gậy, cũng không tiến lên. Anh thả cương cho con ngựa đi ăn cỏ, còn anh thì ngồi xuống gờ đường lấy ra bao thuốc rút một điếu đưa lên miệng, lặng lẽ châm lửa hút. Qua làn khói, Trương Kế Nguyên thấy mắt anh có vẻ đăm chiêu. Cậu cũng xuống ngựa tới ngồi bên Batu, hỏi xin một điếu thuốc, hút chậm rãi.

Con sói mệt nhọc lật nghiêng người ngồi dậy, đám máu trước ngực dính đầy cát. Nó nhìn hai kẻ đuổi theo bằng ánh mắt điên dại. Nó chưa quên đẳng cấp và thói quen, rùng mình mấy cái để giũ cát và cỏ rác bám trên người, sạch sẽ và oai vệ như cũ. Nhưng nó không kìm được cái chân đau co lên trước ngực, chốc lại run lên bần bật, nhưng cặp mắt thì hung hãn lạ thường. Nó thở dốc, gắng thu gom sức lực cuối cùng để liều mạng. Trương Kế Nguyên cảm thấy cậu không dám nhìn thẳng vào mắt con sói. Trên thảo nguyên cổ kính, đứng trên lập trường thảo nguyên, chính nghĩa hình như đã thuộc về sói!

Batu ngừng hút thuốc, đăm chiêu nhìn con sói, ánh mắt đầy vẻ hối lỗi của một học sinh đã lỡ làm tàn phế thầy giáo của mình. Con sói thấy rất lâu không hạ thủ, liền dùng một chân bới gờ đất. Đất mặt không dày, chỉ ba mươi phân là tới cát và đá cuội. Rồi thì nó bới được một chỗ, mảng cỏ lăn xuống, gờ đường sụt một đoạn nhỏ, con sói trườn lên rồi cà nhắc cà nhót chạy về phía con đường phòng hỏa và mốc giới.

Phía bên này đường phòng hỏa, trạm phòng cháy dùng xe ủi một dải dài theo đường biên giới, rộng khoảng trăm mét. Dải này năm nào cũng cày xới, nhưng đã bị xa mạc hóa, không mọc được bất cứ cây gì, chỉ có tác dụng ngăn lửa từ phía bên kia biên giới cháy sang hoặc những đám cháy từ phía bên này. Dân du mục chỉ chấp nhận con đường này. Người già ở thảo nguyên Ơlon nói, đây là mặt tốt duy nhất của nông khẩn.

Bụi đỏ trên đường bốc lên trong gió tây trông còn đáng sợ hơn lửa đồng, may mà nó chỉ là một dải.

Con sói vừa chạy vừa nghỉ một hồi rồi chui vào đám cỏ cao, tiếp tục tiến lên, trước mặt nó, không còn gờ đất nào nữa.

Batu đứng dậy lặng lẽ nhìn theo hồi lâu rồi cúi xuống nhặt mẩu thuốc lá trên cát tắt đi bằng nước bọt, lại dùng ngón tay chọc một lỗ trên cát chôn hai mẩu thuốc, nén chặt, bảo Trương Kế Nguyên: Phải tập thành thói quen. Dứt khoát không được ẩu trên thảo nguyên. Rồi anh đứng lên: Về thôi, về tìm con sói bị bắn chết!

Hai người lên ngựa chạy gấp về Ơlon. Tuyết tan, chân ngựa nhẹ tênh, hai người không nói gì trên đường về.

Chương 16

Thái tử Thừa Càn (con trai Đường Thái Tôn) thích gái đẹp và săn bắn... lại rất thích ngôn ngữ và trang phục Đột Quyết, chọn trong đám tả hữu những người có khuôn mặt giống Đột Quyết, năm người thành một nhóm, bện tóc mặc áo cầu chăn dê, may cờ phướn có 5 đầu sói, đắp bếp lò, Thái tử trong đó nướng cừu, dùng dao găm xẻo thịt ăn. Lại bảo tả hữu: Ta giả làm Khan (vua) chết, các ngươi tổ chức cúng bái theo nghi lễ. Bèn nằm thẳng cẳng trên mặt đất, mọi người gào khóc, dắt ngựa đi quanh... Thái tử nói: Một ngày nào đó ta có thiên hạ, dẫn vài vạn quân kỵ đi săn ở Kim Thành Tây, sau đó xõa tóc làm dân Đột Quyết...

Tư Mã Quang "Tư trị thông giám. Quyển thứ 198"

Sau trận mưa xuân, dưới nắng ấm, khu lều trại gần núi và đồng cỏ sặc mùi thối. Qua một mùa đông dài, những con vật chết rét vì yếu, những con gia súc bị sói cắn chết ăn không hết, đều thối rữa, xác chết chảy nước màu đen, cỏ thu bị vùi thối chảy nước, tất cả thấm vào cỏ. Rồi thì phân cừu, phân bò, phân chó, phân sói, phân thỏ, phân chuột đều chảy nước đen tưới cho thảo nguyên.

Trần Trận không vì mùi thối ấy mà cụt hứng. Thảo nguyên già nua cần nước thối, những chất bài tiết của gia súc trong cả mùa đông, thịt thối vương vãi trong cuộc chiến giữa người và sói, máu và xương phân hủy, tất cả đem lại chất bổ dưỡng đạm, kali và lân cho thảm cỏ mỏng tang. Ulichi nói: Cán bộ thành phố và các nhà thơ thích về đây ngửi hương thơm của hoa xuân, còn tôi, rất thích ngửi mùi thối của mùa xuân. Một con cừu một năm cho gần 1500 cân phân, bón cho cỏ, hỏi được bao nhiêu cỏ? "Phân bò lạnh, phân ngựa nóng, phân cừu bằng công sức hai năm". Nếu như điều chỉnh tốt số lượng gia súc, bò cừu sẽ không phá hoại, mà còn nuôi dưỡng đồng cỏ. Trước đây các đầu mục giỏi còn biến trảng cát thành trảng cỏ nữa kia.

Thảo nguyên Ơlon mùa xuân nước phân đầy đủ, cỏ lớn như thổi, nắng ấm liên tục trong nửa tháng, mặt đất phủ màu xanh, đồng cỏ sườn dốc đã lục hóa hoàn toàn. Cỏ xuân, hoa xuân cắm rễ trong đất màu, gia cố tầng đất mỏng trên mặt khiến sa mạc và Gôbi phía dưới vĩnh viễn không thể trồi lên. Trần Trận cưỡi con ngựa to lớn lông vàng của ông Pilich chạy nước kiêu, dọc đường thưởng thức màu xanh mới của thảo nguyên. Cậu cảm thấy cuộc cạnh tranh tàn khốc giữa người và sói trên vũ đài thảo nguyên, cuối cùng chuyển hóa thành tình cảm ấm áp cho mẹ thảo nguyên.

Bầu sữa cừu mẹ đã căng, màu lông cừu con đã trắng, tiếng rống của bò đã tròn vạnh, ngựa bắt đầu thay lông, súc vật trên thảo nguyên sống lại vì cỏ chăn nuôi đã trở lại màu xanh. Thảo nguyên Ơlon lại có một vụ thu hoạch hiếm có. Đợt rét đầu xuân chết rất nhiều cừu non, nhưng tỉ lệ sống của cừu non là 101% không ai nghĩ rằng cừu đẻ sinh đôi lại nhiều đến thế, mỗi đàn cừu tăng chí ít trên một nghìn con cừu non, bãi chăn vốn được coi là bất tận, nay trở nên căng thẳng.

Cừu non tăng đột ngột, bãi chăn thả bốn mùa của mục trường Baolico vùng Olon bị quá tải. Nếu như để cân bằng sức chứa mà bán bớt hoặc giao nộp lên trên, mục trường sẽ không hoàn thành chỉ tiêu đã ấn định của cấp trên. Đội đã triệu tập mấy cuộc họp, Ulichi cho rằng, lối thoát duy nhất là mở một bãi chăn mới trong khu vực mục trường.

Trần Trận cùng Ulichi và ông Pilich đi khảo sát mục trường mới. Ông già có ý cho cậu cưỡi con ngựa vừa chạy nhanh vừa dai sức của ông. Ông Ulichi khoác khẩu bán tự động, ông Pilich đem theo con Balua, Trần Trận thì đem theo con Nhị Lang, để con Vàng ở lại trông nhà. Dân du mục đi đâu thường không quên đem theo vũ khí và chó săn. Hai con chó săn rất háo hức, dọc đường ra sức đánh hơi, phấn chấn không khác Trần Trận. Ông Pilich cười, nói; Dương quan và chó canh cừu bị đàn cừu níu chân hơn một tháng, mệt bã. Trần Trận nói: Cảm ơn bố cho con một dịp xả hơi. Ông già nói: Tôi sợ cậu cứ dán mắt vào mấy quyển sách đến mù mắt!

Tận cuối mạn đông bắc nông trường bộ có một quả núi hoang diện tích chừng bảy tám chục dặm mà theo lời ông Ulichi thì xưa nay chưa hề khai phá, cỏ dày, cao hơn một mét, có đầm nước rất to, cỏ lụi trên mặt đất dày hàng thước. Nước nhiều cỏ dày, nên ruồi muỗi ở đây cũng kinh người. Đến hè và thu, muỗi ở đây cắn chết bò. Mỗi bước chân có hàng ngàn con muỗi bay lên, sợ như đi trên đất cỏ gài mìn. Người và gia súc vật không dám bén mảng đến quả núi này. Cỏ già dày quá, cỏ non phải vươn cao mới đón được ánh sáng mặt trời nên vừa dài vừa mảnh, súc vật không thích ăn, cỏ ăn cũng không béo.

Ông Ulichi với tư cách một trưởng bãi lâu năm, rất muốn khai phá bãi chăn thả mới này. Từ lâu ông đã tiên đoán, chính sách trọng số lượng hơn chất lượng sớm muộn bãi chăn ở Ơlon sẽ quá tải, nhiều năm nay ông đã để ý quả núi hoang, mong một cuộc cháy đồng thiêu trụi hết cỏ già, để rồi sang xuân, ông lùa hàng vạn gia súc lên núi giẫm tơi đất, ăn sạch cỏ non, khống chế chiều cao của cỏ. Và như vậy là đất thì xốp, nhiều màu, cỏ mọc thấp, muỗi cũng không còn. Chỉ vài năm sau, nơi đây trở thành bãi chăn thả mùa hạ chất lượng cao, thêm một bãi chăn nữa cho cả mùa hè của mục trường. Tiếp đó, sẽ cải tạo bãi chăn mùa hạ thành bãi chăn mùa xuân và mùa thu, tính ra gia súc của mục trường có thể tăng gấp đôi mà không quá tải.

Những năm trước lửa đồng mấy lần chiếu cố bãi chăn Ơlon, đáng tiếc là chưa lần nào lan đến nơi này, mãi đến cuối thu năm ngoái, đám cháy mới lan đến núi hoang. Sau đó trời mưa, núi hoang đen như dầu. Ulichi quyết tâm thực thi kế hoạch của ông, Bao Thuận Quý ủng hộ không điều kiện, nhưng bị một số mục dân phản đối. Ai cũng sợ muỗi nơi đó. Ulichi mời ông bạn già Pilich giúp một tay, cùng lên núi hoang khảo sát, chỉ cần ông chấp thuận là đề nghị ông dẫn đại đội Hai đến bãi chăn thả mới.

Ba người đi xuyên bãi cỏ đông của đội bên cạnh. Trần Trận cảm thấy ngựa vướng chân, liền cúi xuống nhìn, thấy cỏ thu năm ngoái tốt nguyên, cao chừng bốn đốt ngón tay. Cậu hỏi Ulichi: ông thường kêu thiếu cỏ, ông xem đây, cừu ngựa ăn cả một mùa đông mà cỏ vẫn còn nhiều thế này.

Ulichi cúi xuống nhìn, nói: Toàn là thân cỏ, rất cứng, gia súc bứt không dứt, nhưng nếu dùng sức thì lôi cả rễ lên. Rễ cỏ không bổ, ăn vào không béo, mà ăn đến vậy thì phải gặm, gặm mãi, bãi cỏ thoái hóa... Người Hán nội địa đẻ nhiều quá, cả nước thiếu thịt, thiếu nước uống, dầu mỡ, thịt bò thịt cừu đều lấy từ Mông Cổ, lấy nữa cầm bằng lấy mạng sống. Cấp trên vừa giao chỉ tiêu cho Ơlon. Một số Kỳ ở phía nam đã sa mạc hóa.

Trần Trận nói: Cháu thấy chăn thả khó hơn làm ruộng.

Ông Ulichi nói: Tôi sợ nhất là biến đồng cỏ thành sa mạc. Thảo nguyên quá mỏng manh, sợ rất nhiều thứ, sợ giày xéo, sợ gặm cả rễ, sợ sơn dương, sợ ngựa đàn, sợ châu chấu, sợ chuột, sợ thỏ đồng, sợ dê vàng, sợ nông dân, sợ vỡ hoang, sợ người nhiều, sợ người quá tham, sợ đồng cỏ quá tải, sợ nhất là sợ người không hiểu thảo nguyên...

Ông Pilich gật đầu: Thảo nguyên là sinh mệnh lớn, nhưng mạng sống của thảo nguyên còn mỏng hơn mi mắt con người, bề mặt thảo nguyên mà bị vỡ thì thảo nguyên coi như bị mù, cát vàng nguy hiểm hơn bạch mao phong. Thảo nguyên không còn thì những mạng sống nhỏ nhoi như bò, cừu, ngựa, sói và người cũng không còn, ngay cả Trường Thành và thành phố Bắc Kinh cũng không giữ được.

Ulichi lo lắng: Trước kia, cứ cách vài ngày tôi lại lên họp ở Hồi Hột, đồng cỏ ở đó thoái hóa tới mức thảm hại, phía tây Trường Thành mấy trăm dặm đã bị cát vùi. Nếu trên còn giao nhiệm vụ kiểu áp đặt, thì e rằng đông Trường Thành sẽ gặp nguy. Nghe nói chính phủ các nước có pháp lệnh nghiêm ngặt về quản lý thảo nguyên, bãi chăn thế nào thì được nuôi bao nhiêu gia súc, một hecta bao nhiêu đầu gia súc quy định rất chặt, người nào vi phạm liền bị phạt tiền phạt tù. Nhưng như vậy mới chỉ bảo vệ đồng cỏ không thoái hóa, còn những đồng cỏ đã thoái hóa thì khó mà khôi phục. Đợi đến khi thảo nguyên đã biến thành sa mạc người ta mới hiểu thảo nguyên thì đã quá muộn.

Ông Pilich nói: Lòng tham thì nhiều, người không hiểu gì cũng lắm, nói chuyện với những con người ngu xuẩn ấy cũng bằng thừa. Ông trời thế mà minh bạch, để đối phó với loại người ấy, trời giao cho sói bảo vệ đồng cỏ, như vậy mới bảo vệ được thảo nguyên.

Ông Ulichi lắc đầu, nói: Biện pháp ấy của trời đã lỗi thời. Giờ Trung Quốc đã có bom nguyên tử, định tiêu diệt sói chỉ là chuyện vặt.

Trong lòng Trần Trận như nhét đầy cát vàng, cậu nói: Mấy đêm nay không nghe thấy tiếng sói tru. Bố, có lẽ bố mà sói sợ, chạy hết rồi. Nếu chúng không quay lại, thảo nguyên không còn sói, con thấy trái khoáy thế nào ấy.

Ông già nói: Ba mươi con thì chỉ bốn năm ổ chứ mấy. Sói Ơlon còn nhiều, chúng chưa về không phải vì sợ. Tháng này chúng đang bận việc khác.

Trần Trận bắt đầu hào hứng, hỏi: Chúng đang bận việc gì hả bố?

Ông già chỉ tay về phía những quả đồi xa xa, nói: Cùng tôi tới đó mà xem! Nói rồi ông vụt một roi vào mông con ngựa của Trần Trận, nói - Cho nó phi nước đại, sang xuân phải cho nó đổ mồ hôi nhiều nhiều một tí, mồ hôi nhiều, lông rụng nhanh, ngựa chóng béo.

Ba con ngựa phóng nhanh lên đỉnh đồi như chạy đua, vó ngựa có màu xanh vì dẫm nát cỏ non. Mấy tháng nay, ngựa không qua lại đường này. Trần Trận chạy sau cùng, cậu bắt đầu hiểu ra ý nghĩa của câu "thảo nguyên sợ ngựa đàn". Đúng là cuộc sống của người Mông Cổ đầy mâu thuẫn.

Ba con ngựa lên đỉnh dốc. Khắp nơi vang lên tiếng "khịt khịt", "khụt khụt" của con rái cá cạn. Rái cá cạn là con vật chỗ nào cũng gặp trên thảo nguyên, ở Ơlon quá nửa các sườn núi đều có hang rái cá cạn. Mùa thu nào Trần Trận cũng thấy ông già Pilich đi săn rái cá, thịt rái cá béo và thơm phức. Chúng là loại động vật tích mỡ qua đông như gấu trong rừng. Thịt của chúng không giống bất cứ loại thịt nào khác trên đồng cỏ: Giữa da và thịt có một lớp mỡ trắng phân biệt rất rõ với thịt nạc màu hồng, ngon nổi tiếng, hơn cả thịt bò cừu. Một con rái cá lớn to bằng cái phích hai lít rưỡi, được một chậu đầy thịt, đủ một bữa cho cả nhà.

Trần Trận nhìn thấy thế trận liên hoàn của rái cá cạn mà rùng mình. Trên mười mấy quả đồi như bát úp, bảy tám chục con to nhỏ đứng im, trông như những cây còn lại đoạn gốc sau khi phá rừng. Hai rái cá cạn càng nhiều thì nấm cát trước cửa hang càng nhiều, trông như hang vẩy cá dưới xuôi. Mỗi nấm như thế ba mặt sa thạch đùn ra lấp đầy bãi cỏ trên sườn dốc, y hệt các cửa lò ở mỏ. Trần Trận có cảm giác như đến Thiểm Bắc, núi đồi đầy hang động, lòng núi gần như bị đào rỗng. Mỗi nấm to bằng chiếc bàn, đều có một con rái cá đứng hoặc nằm, nấm to hơn thì một con đực lông màu nâu sẫm độc chiếm. Đứng trên những hang cụm hoặc hang lẻ là rái cá mẹ thân hình mảnh hơn, lông màu vàng rơm như lông sói. Đứng bên rái cá mẹ là rất nhiều rái cá con, to bằng con thỏ, có năm bảy tám con. Thấy người, tất cả những con rái cá không chạy ngay vào hang, đa số chỉ lui lại một bước, hai chân trước khoanh trước ngực, đứng trên hai chân sau, kêu "khịt khịt" loạn xạ, mỗi khi kêu một tiếng, cái đuôi bé tí như bàn chải rửa phích nước lại bật thẳng lên trời một cái như thị uy, như phản đối, như trêu ngươi.

Hai con chó thấy một con rái cá rời hang đã xa bèn xông lên đuổi, nhưng con rái cá chạy tới đứng trên nấm cát của một cái hang gần đó, giương cặp mắt như mắt thỏ mà nhìn, đợi lúc chó chỉ còn cách năm sáu mét liền thủng thẳng chui luôn vào trong hang, khi chó bỏ đi được mươi mét, nó lại ló đầu lên, hướng về phía chó mà kêu ầm ĩ.

Ông Pilich nói: Đây là ngọn núi nổi tiếng, có tên là núi Rái Cá. Rái cá nhiều đến nỗi không đếm xuể. Mạn nam của bắc đường biên rái cá còn nhiều hơn ở đây. Xưa kia quả núi này là cứu tinh của dân nghèo vùng Ơlon. Sang thu, khi rái cá béo núc ních, dân nghèo lên núi bắt rái cá ăn thịt, còn da và mỡ thì đem bán, đổi bạc trắng hoặc đổi lấy thịt cừu. Người Hán các cậu rất mê áo khoác ngoài bằng da rái cá. Hàng năm cửa hàng kinh doanh đồ da Trương Gia Khẩu đều lên thảo nguyên thu mua nấm và da rái cá, đắt gấp ba lần da sói non. Con rái cá đã cứu không biết bao nhiêu người nghèo. Gia đình Thành Cát Tư Hãn lúc hàn vi sống được nhờ săn bắt rái cá.

Ulichi nói: Rái cá cạn ngon ở thịt mỡ của nó. Trên thảo nguyên, những con chuột, thỏ đồng đều trữ lương thực trong hang để sống qua mùa đông, rái cá không tích trữ lương thực, rái cá tiêu thụ mỡ trong người qua đông.

Ông già nói: Rái cá đã qua một mùa đông trong hang, lúc này mỡ không còn bao nhiêu, nhưng thịt thì nhiều. Cậu trông, nó không nhỏ đấy chứ! Năm nay cỏ xuân tươi tốt, chỉ ít bữa là chúng béo ngay.

Trần Trận vỡ lẽ: Thảo nào mấy hôm nay sói không đến quấy phá, thì ra chúng đang đổi khẩu vị. Nhưng mà hang rái cá thì sâu, rái cá lại hoạt động bên ngoài hang, sói bắt bằng cách nào?

Ông già cười, nói: Sói nhiều bùa phép lắm. Sói lớn có thể mở rộng hang, bố trí những con khác chực sẵn ở tất cả các miệng hang, rồi chui vào bắt cả ổ đem lên ăn thịt. Nếu không thế thì sai một con sói choai chui vào ngoạm từng con rái cá lên. Cáo sa mạc cũng chui xuống hang ăn thịt rái cá. Năm nào tôi cũng bắt được bốn năm con cáo sa mạc ở chỗ hang rái cá, có lần còn bắt được một sói choai. Dân Mông Cổ cho trẻ em chui vào hang bắt sói con là học từ sói. Hang nông không chống được lạnh, nên rái cá đào thật sâu, có hang sâu tới mấy trượng. Ông già chợt hỏi: Cậu có biết, mùa đông sói không ở trong hang, vậy vì sao hang sói lại sâu đến thế? Trần Trận lắc đầu. Ông già nói: Rất nhiều hang rái cá được cải tạo thành hang sói. Sói mẹ mở rộng hang rái cá cho sói con ở.

Trần Trận sững người: Tàn bạo quá! Đã ăn thịt cả nhà, lại còn chiếm cả ổ.

Ulichi cười rũ, hình như rất khoái sự tàn bạo của sói. Ông nghiêng đầu bảo Trần Trận: Sói mà không tàn bạo thì làm sao trị nổi rái cá? Ăn thịt rái cá, như vậy là sói có công với thảo nguyên. Rái cá là mối hại lớn của thảo nguyên, sườn núi chỗ nào cũng có hang của chúng. Cậu xem, cả một vùng đồi núi đầy hang hốc như thế này! Rái cá mắn đẻ, mỗi năm một lứa, mỗi lứa sáu bảy con, hang nhỏ thì chật, hang lớn thì đùn ra bao nhiêu là cát, hủy hoại bao nhiêu cỏ? Thảo nguyên có bốn đại họa: Chuột, thỏ đồng, rái cá cạn, dê vàng. Rái cá cạn xếp thứ ba. Rái cá cạn chạy chậm, người đuổi kịp. Vậy vì sao phải đáy bẫy? Vì rái cá ỷ lại vào hang động, thấy động là chui luôn vào hang. Rái cá cạn ăn cỏ rất dữ, về mùa thu chuyên ăn hạt cỏ, ăn vài mẫu ruộng hạt cỏ mới béo được như thế. Hang sói tác hại càng lớn hơn. Mã quan sợ nhất hang rái cá, hàng năm rất nhiều ngựa gãy chân, nhiều mã quan bị thương vì thụt hang rái cá.

Trần Trận nói: Nếu vậy đúng là sói có công lớn với thảo nguyên.

Ulichi nói tiếp: Trên thảo nguyên, hang rái cá rất đáng ghét, chúng dung túng cho lũ muỗi qua đông. Muỗi miền đông thảo nguyên Mông Cổ nổi tiếng thế giới. Muỗi rừng đông bắt cắn chết người, muỗi miền đông thảo nguyên Mông Cổ cắn chết bò. Thảo nguyên không nhất thiết năm nào cũng có họa trắng, hoạ đen (mùa đông không có tuyết), nhưng muỗi thì năm nào cũng về. Người và gia súc sợ muỗi hơn sợ sói. Trong một năm, muỗi hút ba bốn phần mười mỡ trên mình gia súc. Lẽ ra nhiệt độ âm ba bốn mươi độ, bò còn chết cóng, không muỗi nào sống nổi, các lều Mông Cổ cũng không có chỗ cho muỗi trú, vậy vì sao muỗi yên ổn sống qua mùa đông? Đó là nhờ có hang rái cá. Trời bắt đầu lạnh, rái cá chui xuống hang, muỗi xuống theo. Rái cá khi đã bịt miệng hang thì bên trên bão tuyết mù trời, trong hang vẫn ấm như bếp lò. Rái cá trong hang không ăn không uống, muỗi cắm vòi trên mình rái cá ăn uống suốt ngày, ung dung sống qua mùa đông. Sang xuân rái cái chui lên, muỗi lên theo. Thảo nguyên Ơlon nhiều nước, nhiều ao hồ, muỗi sinh sôi nẩy nở, đến mùa hạ thì thiên hạ là của muỗi. Cậu bảo rái cá có phải là kẻ gieo họa cho nghề chăn nuôi của thảo nguyên không? Trên thảo nguyên, sói thích ăn thịt rái cá, sói đóng vai trò chủ lực diệt rái cá. Thảo nguyên có câu: Rái cá chui ra, sói ta lên núi. Rái cá ra khỏi hang, gia súc chậm tiêu thụ một thời gian.

Trần Trận đã bị muỗi cắn hai mùa hè, nghe nói đến muỗi, cậu thấy người nổi da gà, thanh niên trí thức sợ muỗi hơn sợ sói. Sau đó nhắn Bắc Kinh gửi màn lên mới ngủ được. Mục dân rất thích cái màn, qua mùa hè, cái màn đã trở nên phổ cập trong các lều Mông Cổ. Dân du mục đặt cho nó cái tên "Ilacualua" - buồng muỗi.

Trần Trận không ngờ đàn muỗi kinh hoàng trên thảo nguyên lại từ hang rái cá bay ra. Cậu bảo Ulichi: Hai ông là chuyên gia của thảo nguyên. Té ra muỗi và rái cá quan hệ khăng khít, hang rái cá trở thành sào huyệt của muỗi, còn sói lại là khắc tinh của rái cá. Cháu chưa bao giờ thấy những điều này trong sách.

Ulichi nói: Thảo nguyên rất phức tạp, mọi chuyện móc xích với nhau, sói là mắt xích lớn nhất, mất mắt nào đều là m hỏng mắt xích lớn nhất này, nghề chăn nuôi trên thảo nguyên sẽ khó mà duy trì. Cái lợi của sói đối với thảo nguyên không thể kể hết, tóm lại một câu, công nhiều hơn tội.

Ông già Pilich cười, nói: Nhưng mà rái cá cạn cũng không hoàn toàn xấu. Da thịt, mỡ đều quý. Da rái cá là thu nhập phụ quan trọng của mục dân. Nhà nước dùng nó để đổi lấy xe hơi, đại bác. Sói rất thông minh, không bao giờ giết hết rái cá, chừa lại hàng năm có cái ăn. Mục dân cũng không giết hết rái cá, chỉ bắt con to không bắt con nhỏ.

Ba con ngựa chạy nhanh, lũ rái cá không biết sợ, tiếp tục đùa rỡn. Đại bàng thảo nguyên liên tục bổ nhào, nhưng mười lần nhào xuống chín lần hụt. Càng đi về phía đông bắc càng vắng, càng ít dấu vết con người, giếng ăn biến mất, cuối cùng phân ngựa cũng không thấy.

0O0

Ba người trèo lên một con dốc cao. Dãy núi lớn xuất hiện phía xa xanh đến nỗi như không có thực. Quả núi mà ba người vừa đi qua tuy đã khoác lên màu xanh mới, nhưng là xanh pha vàng cùng với màu vàng xỉn của cỏ thu năm ngoái. Còn màu xanh của dãy núi xa, xanh như phẩm vẽ trên tấm phông nhà hát, như cảnh thần tiên trong tranh liên hoàn. Ulichi giơ roi trỏ dãy núi, nói: Mùa thu năm ngoái đến đây, dãy núi một màu đen kịt. Giờ toàn là màu xanh của cỏ, y như được khoác lên chiếc áo dài bằng lụa. Ba con ngựa trông thấy núi xanh liền chạy nhanh hơn. Ulichi chọn trảng cỏ độ dốc không lớn, dẫn hai người chạy vào.

Ba con ngựa chạy qua hai cái dốc đến một sườn núi xanh mượt, cỏ non xanh như lúa mạch, thuần chủng không một ngọn tạp, mùi thơm ngày càng đậm. Vài bận đánh hơi, ông Pilich cảm thấy có gì không ổn, liền cúi xuống quan sát kỹ. Hai con chó hình như đánh hơi thấy con mồi liền cắm đầu mà hít, chạy vòng quanh loạn cả lên. Ông già nghiêng hẳn người xuống nhìn cỏ non cao nửa thước dưới chân ngựa. Ông ngửng lên nói: Hai người ngửi xem nào! Trần Trận hít một hơi thật sâu, liền ngửi thấy mùi nhựa cỏ thơm thơm như mùi cỏ tiết ra khi ngồi trên máy cắt cỏ vụ thu năm ngoái, lưỡi dao phạt cỏ chảy nhựa. Trần Trận hỏi: Chẳng lẽ có người cắt cỏ ở đây? Ai đến đây nhỉ?

Ông già xuống ngựa, dùng gậy vạch cỏ, tìm kỹ. Lát sau, ông tìm thấy một cục màu vàng chanh trong bụi cây. Ông bóp nhẹ một cái, lại đưa lên mũi ngửi, nói: Đây là phân dê vàng. Dê vàng vừa qua đây. Ulichi và Trần Trận đều xuống ngựa nhìn cục phân dê vàng trên tay ông già. Mùa xuân phân dê vàng ẩm ướt, không thành nhón. Hai người giật mình, tiến lên mấy bước, trảng cỏ xanh trước mặt như bị lưỡi hái phạt ngang, dõng một cọng, tây một cọng. Chẳng lẽ có người đến tận đây cắt cỏ?

Trần Trận nói: Xuân này đỡ đẻ cho cừu, con không trông thấy con dê vàng nào, thì ra chúng đến đây ăn cỏ. Chúng bứt mới khiếp chứ, hơn cả máy cắt cỏ.

Ulichi đẩy đạn lên nòng, gạt chót bảo hiểm, nói khẽ: Hàng năm vào mùa xuân, dê vàng thường về bãi chăn ăn tranh cỏ với đàn cừu đẻ, năm nay không về, chứng tỏ bãi cỏ ở đây tốt hơn nhiều so với bãi cừu đẻ. Dê vàng cũng nghĩ như chúng ta.

Ông Pilich cười tít mắt, bảo ông Ulichi: Dê vàng kén cỏ rất ghê. Chúng đã chọn trảng cỏ này mà ta không cho gia súc đến thì tiếc quá, xem ra lần này thì ông đúng rồi.

Ulichi nói: Chưa phán vội, còn xem nước uống ra sao đã!

Trần Trận đâm lo: Nhưng lúc này cừu còn non chưa thể đi xa. Đợi chúng cứng cáp có thể lên đường cũng phải một tháng, khi ấy dê vàng đã ăn sạch cỏ. Ông già nói: Đừng ngại, sói tinh hơn người, đàn dê vàng đã về đây, làm sao sói không về? Lúc này cừu chưa đẻ xong, cừu mẹ, cừu con chưa đi đâu, đây là lúc sói bắt dê vàng tốt nhất, chỉ vài hôm sói sẽ đuổi sạch dê vàng.

Ulichi nói: Thảo nào tỉ lệ sống của cừu con năm nay cao thế. Thì ra dê vàng và sói đều kéo về trảng cỏ này. Dê vàng không về tranh ăn cỏ, sói cũng không về bắt cừu non, tỉ lệ sống cao là phải.

Nhắc đến sói, Trần Trận giục hai người lên ngựa. Ba người lại vượt một con dốc. Ulichi nhắc hai người qua một dốc lớn nữa là trảng cỏ lớn. Ông đoán lúc này dê vàng và sói đều ở đó.

Sắp lên tới đỉnh dốc, cả ba xuống ngựa, khom người dắt ngựa đi lên, một tay ôm cổ chó. Hai con chó biết có chuyện, liền bò theo chủ. Tới chỗ hòn nham thạch, họ lấy thừng buộc chân trước của ngựa, rồi nấp sau tảng đá và trong bụi cây, dùng ống nhòm quan sát toàn cảnh trảng cỏ mới.

Rốt cuộc Trần Trận nhìn thấy mảnh đất còn trinh nguyên của vùng biên ải. Có lẽ đây là đồng cỏ cuối cùng ở Trung Quốc, đẹp đến nghẹt thở, khiến cậu bất giác nhích lên một bước, trong đầu không còn nhớ đến vùng Cadac sông Đông. Trần Trận mê mẩn quên cả sói.

Trước mặt là một bồn địa dọc ngang mấy chục dặm chưa hề lưu dấu chân người. Phía đông là những dãy núi trùng điệp, chồng lên nhau như sóng biển, chạy dài mãi tận dãy Đại Hưng An. Núi biếc núc xanh, núi nâu núi vàng, núi lam núi tía, xanh nâu vàng tía đuổi nhau, nối tiếp những cụm mây hồng phía chân trời. Các phía bắc tây nam địa thế như lòng dĩa, chạy thoai thoải về giữa lòng chảo, trảng cỏ như một tấm thảm qua bàn tay ông trời xén tỉa, có đủ các màu xanh, trắng, vàng, hồng, như một bức tranh, xen giữa những vệt màu là những bông hoa dại, gắn kết các mảng màu, đẹp một cách hồn nhiên.

Một con sông tiêu chuẩn của thảo nguyên Mông Cổ từ khe núi phía đông nam chảy ra, gặp đất bằng liền uốn khúc, mỗi khúc là một hình móng ngựa to hoặc nhỏ, trông như những chiếc khuyên tai, vòng cổ hoặc xuyến cổ tay. Hoặc như một cô dâu Mông Cổ trong ngày cưới, mải chơi quên mất mình là ai, hái hoa trên một đoạn đường rất dài trong một cự li ngắn. Con sông càng gấp nhiều khúc càng dài, cuối cùng chui tụt vào một cái hồ chính giữa trảng cỏ nước trong vắt, mặt nước chảy trắng bồng bềnh trôi.

Giữa trảng cỏ là hồ thiên nga như trong mơ. Nhìn qua ống nhòm từ xa, mười mấy con thiên nga trắng đẹp mắt, nhẹ nhàng bơi trên mặt hồ rộng, thụ hưởng cảnh yên bình nơi thiên quốc. Xung quanh đám thiên nga là hàng ngàn vạn con nhạn, vịt trời và những con chim không rõ tên. Năm sáu con thiên nga đột nhiên bay lên kéo theo cả đám thủy cầm lượn thấp trên mặt hồ, vừa lượn vừa kêu vang như một giàn đồng ca. Nước lặng, những chiếc lông vũ màu trắng bồng bềnh trôi. Phía tây bắc hồ thiên nga có một cửa thoát, dẫn nước hồ tới bãi sậy rộng hàng vạn mẫu xa xa.

Có lẽ đây là cái hồ thiên nga còn ở dạng nguyên thủy, con người chưa hề động tới ở Trung Quốc. Và cũng là cảnh đẹp thiên nhiên cuối cùng của Trung Quốc trên vùng biên phía bắc. Trần Trận như mê đi, trong lòng vừa thích vừa lo. Một khi người ngựa vào đây, cảnh đẹp sẽ mất biến, nhân dân Trung Quốc sẽ không còn được thấy cảnh đẹp nguyên sơ của thảo nguyên. Cậu nghĩ, giá như con đường biên phòng chạy qua đây thì hay, nơi này mới đúng là khu cấm.

Ông Pilich và ông Ulichi dùng ống nhòm rà quét kỹ mục tiêu. Ông già dùng mũi giày đụng nhẹ chân Trần Trận, bảo anh chú ý khúc sông thứ ba bên phải. Trần Trận sực tỉnh, hỏi lại vị trí cần để ý rồi mới giương ống nhòm lên. Ở một khúc rộng có hai con dê vàng bị sa lầy đang cố sức trèo lên bờ, nửa thân sau vẫn chìm trong nước, hai chân sau hình như thụt trong bùn, hai chân trước gác lên bờ, nhưng không còn sức để nhảy lên. Trên bãi cỏ bên cạnh nằm la liệt mười mấy con dê lớn, bụng rách toác... Trần Trận dịch ông nhòm lên chỗ cỏ cao. Cậu giật mình khi thấy mấy con sói lớn đã lâu không gặp, nằm ngủ gật bên cạnh mấy cái xác dê. Cỏ chỗ này hơi cao, cậu không biết sói có bao nhiêu con.

Ulichi và ông già sục sạo khắp các xó xỉnh, chĩa ống nhòm về dốc núi đông nam. Nơi có dê vàng phân tán, từng nhóm hai ba con một hối hả gặm cỏ, bên cạnh dê mẹ thường có dê con... Trần Trận trông thấy một con dê mẹ vừa đẻ xong, đang liếm nhớt cho con, vừa liếm vừa nhìn quanh, con dê mới đẻ đang cố sức đứng dậy. Chỉ cần đứng vững là dê chạy được ngay, và chạy nhanh, chó đuổi không kịp. Nhưng mấy phút để đứng lên này có tính chất sống còn. Trần Trận không biết nên như thế nào, hạ thủ sói trước hay hạ thủ dê vàng trước?

Ông già nói: Cậu thấy đấy, sói dám nằm ngủ thì biết người chẳng làm gì nổi chúng? Xa quá, bắn k hông trúng. Chúng ta ló mặt ra là cả dê lẫn sói chạy biến. Ông Ulichi nói: Nhưng những con chạy không nổi thì thuộc về chúng ta, vừa đúng bữa trưa.

Ba người nhằm phía bờ sông chạy tới. Người ngựa vừa ló dạng, đàn sói đã nhanh như tên bắn chia nhiều ngả chạy về phía núi cao phía đông, lát sau đã khuất sau bãi sậy. Dê vàng cũng nhanh như chớp vọt lên núi, chỉ còn lại mấy con sa lầy và một con mới sinh.

Ba người tới bên khúc song, từ cửa khẩu rộng năm sáu mét bước vào mảnh đất bên trong vòng cung uốn lượn của dòng sông rộng chừng một mẫu ta, ba mặt là nước, lòng sông rộng chừng ba bốn mét, sâu một mét, nước trong suốt nhìn thấy đáy. Đáy sông có chỗ là cát, chỗ đất bùn. Bờ sông cao một mét, thẳng đứng. Khúc sông có bãi cát thì bờ thoai thoải, trên bãi cỏ có hơn chục xác dê vàng, phần lớn nội tạng đã bị sói ăn mất. Một con dê vàng bị sa lầy không cựa quậy được, có mấy con chân vẫn đang giật, vết cắn trên cổ đang chảy máu. Ông già Pilich nói: Sáng sớm dê vàng đến uống nước bị sói bủa vây.

Trần Trận từng nhiều lần chứng kiến chiến thuật bủa vây của sói, nhưng lợi dụng ba mặt là nước để bao vây thì đây là lần thứ nhất. Cậu ngồi trên ngựa nghiền ngẫm chiến thuật này của sói.

Ulichi nói: Cậu xem, đàn sói tinh vinh đấy chứ! Bọn chúng nấp trong cỏ rậm từ đêm trước, khi đàn dê tới uống nước, chúng bịt chặt cửa khẩu là đàn dê bị nhốt bên trong. Mỗi vòng lượn của sông là một cái túi, sói bịt miệng túi là có một túi thịt.

Ông già cười, hỏi: Lần này thì cậu thấy rồi đấy, ông trời ủng hộ sói. Cậu thấy dòng sông lượn đi lượn lại, bao nhiêu khúc là bây nhiêu bãi vây. Tôi bảo, sói là con cưng của trời, đúng chưa nào?

Trần Trận nói: Bãi vây kiểu này có muốn cũng tìm không ra, vậy mà xuất hiện một lúc hơn chục bãi, đúng là trời rất ưu ái sói. Mà sói cũng rất thông mình, sử dụng ngay những bẫy này mà lại rất hiểu quả.

Ông Ulichi nói: về mặt lợi dụng thời tiết và địa hình thì sói hơn người nhiều.

Hai con chó thấy chỗ nào cũng có thịt vương vãi thì không vội ăn. Balua không thèm ăn thừa của sói, nhảy sổ vào một con dê chưa chết hẳn, chẹn cổ con vật rồi nhìn ông Pilich. Ông già gật đầu, bảo: Ăn đi! Balua cắn cho con dê chết hẳn rồi xé một miếng bắp to, nhai ngấu nghiến. Nhị Lang thấy con mồi máu me đầy mình thì nổi máu sát sinh, lông dựng lên như sói. Nó chạy tới chỗ hai con dê sa lầy. Trần Trận và ông Pilich quát nó quay lại. Nhị Lang không chịu thôi. Nó chồm lên xác một con dê nhìn quanh, cuối cùng thấy một con dê còn sống dưới sông, liền nhào xuống nước bơi tới. Ông già không ngăn Trần Trận, bảo: Con này thú tính còn nhiều, để nó giết con mồi thì sẽ không ăn thịt cừu nhà.

Ba người đi tới bờ sông. Ông già tháo cuộn dây da dưới yên ngựa, tết một cái thòng lọng. Trần Trận tháo ủng, xắn quần lội ra cầm thòng lọng tròng cổ con mồi, ông Pilich và Ulichi kéo nó lên bờ quật ngã rồi trói chặt bốn chân. Hai người còn lôi một con khác ra khỏi bãi cỏ đầy máu me, chọn chỗ sạch ăn trưa. Ông già bảo, ăn một con, đem về một con. Ông Ulichi cầm dao làm thịt dê. Ông Pilich nhìn quanh rồi dẫn Trần Trận đi kiếm củi.

Hai người cưỡi ngựa đến một khe sâu ở mạn tây bắc quả núi, mọc đầy những cây hạnh rừng, phần lớn còn sống, thân cao khoảng một mét, có rất nhiều cành khô. Hoa hạnh vừa tàn, cánh hoa rơi trắng đất, không khí trong khe núi có vị đắng. Hạt hạnh xếp lớp dưới đáy khe. Trần Trận và ông Pilich bẻ đầy hai ôm củi dùng dây da bó chặt rồi cho ngựa kéo về chỗ ăn trưa. Ulichi đã lột da con dê, thái miếng quá nửa chỗ thịt, còn kiếm được ít hành dại và rau phỉ ở bờ sông. Trần Trận thấy những cọng rau phỉ to bằng chiếc đũa.

Ba người tháo hàm thiết, gỡ yên cho ngựa. Ba con ngựa rùng mình rồi hối hả lao tới chỗ dốc thấp, xuống hồ uống ngon lành. Ông Pilich cả mừng, nói: Nước lành! Nưới lành! Chọn bãi chăn mùa hạ, trước hết chọn nước uống. Ba con ngựa uống căng bụng mới ngửng lên, chậm rãi đi lên bãi cỏ xanh non, vừa gặm vừa khịt mũi.

Lửa đã được nhen lên, lần đầu tiên mùi thịt dê nướng bay trong không khí tinh khiết hồ thiên nga, kèm theo mùi hành dại, mùi rau phỉ, mùi tương ớt và mùi mỡ. Gần hố quá, lớp sậy già chưa bị cháy hết và lớp sậy mới mọc cao hơn đầu người che khuất mặt hồ, khiến Trần Trận không thể vừa ăn thịt uống rượu, vừa ngắm thiên nga và mặt hồ. Cậu liên tục lật xiên thịt. Thịt dê tươi đến mức tưởng như đang cựa quậy trên bếp lửa. Ba người ra đi từ lúc trời chưa sáng, giờ đã đói ngấu. Ăn kèm muối ớt và hành dại, Trần Trận ngốn hết xâu này đến xâu khác, uống từng ngụm rượu trong chiếc bi đông của ông già. Cậu nói: Đây là lần thứ hai cháu ăn thức ăn của sói. Thức ăn của sói ngon nhất thiên hạ, ăn đúng nơi săn bắt lại càng ngon. Thảo này ngày xưa các vị hoàng đế cứ thích đi săn trên thảo nguyên Mông Cổ.

Ulichi và ông già Pilich cầm đùi dê trực tiếp nước trên than hồng, nướng chín lớp nào, cùng dao lạng ra lớp ấy để ăn, rồi lại khía từng nhát, rắc muối tiêu nướng tiếp. Ông già ngon miệng, ăn hết lớp nọ đến lớp kia. Ngửa cổ tớp một ngụm rượu, ông nói: Có thêm bãi chăn mới này, tôi yên tâm. Đợi hai mươi hôm nữa, lũ cừu non có thể đi xa, cả đội sẽ dọn đến đây. Vậy nhé.

Ulichi quấn thịt xung quanh cọng hàng cắn một miếng, hỏi: Cả đội đến cùng ông? Ông già nói: Dê vàng và sói đã đến, người không đến sao được? Cỏ không ngon thì dê vàng có đến không? Dê vàng không nhiều thì sói có đến không? Tôi đem con dê này về, mai họp hội nghị cán bộ, mời mọi người ăn bữa nem cuốn thịt dê vàng. Họ mà biết nơi đây cỏ ngon, nước lành, tranh nhau đến cho mà xem. Bãi chăn mùa hạ chỉ cỏ tốt không đủ, mà nước cũng phải ngon, mùa hè sợ nhất nước tù, thiếu nước hoặc nước bẩn, gia súc uống vào bị bệnh. Mùa hề vỗ béo gia súc, nước không tốt thì vỗ béo thế nào?

Ulichi nói: Nếu như còn bất đồng ý kiến, tôi sẽ dẫn họ lên đây.

Ông già cười khà, nói: Khỏi cần, tôi là sói đầu đàn, tôi mà đi thì sói lớn sói nhỏ đi theo. Xưa nay đi theo tôi chưa bao giờ bị thiệt. Ông già ngó Trần Trận, hỏi: Cậu đi cùng tôi nhiều đợt, đã bị thiệt bao giờ chưa?

Trần Trận cười: Đi theo sói đại vương toàn ăn no uống say. Bọn Dương Khắc rất muốn đi theo bố.

Ulichi nói: Vậy thì nhất trí. Tôi về mục trường họp bàn chuyện di dời. Những năm gần đây, cấp trên giao chỉ tiêu nặng quá, thở không ra hơi. Mở thêm bãi chăn này, ta ung dung được bốn năm năm.

Trần Trận hỏi: Nếu như sau bốn năm năm, mục trường ta có phát triển bãi chăn mới nữa không?

Ulichi thoáng buồn: Phía bắc là đường biên, tây và nam đều của công xã khác, phía đông bắc núi quá cao lại toàn là núi đá, tôi đã đi hai lần, không còn chỗ nào cho chăn nuôi.

Trần Trận hỏi: Vậy sau này sẽ ra sao?

Ulichi nói: Chỉ còn cách khống chế số lượng, nâng cao chất lượng. Thí dự, phát triển giống cừu Tân Cương chất lượng cao. Giống cừu này cho len gấp ba, giá cả gấp bốn cừu bản địa, một cân len cừu bản địa giá một tệ, len chất lượng cao giá bốn tệ. Cậu thử tính hơn kém nhau bao nhiêu? Lông cừu là nguồn thu nhập chính của ta. Trần Trận tán thành biện pháp này. Nhưng Ulichi thở dài, nói: Trung Quốc người đông, tôi cho rằng chỉ vài năm nữa sẽ lại thiếu bãi chăn. Chẳng hiểu những thằng già này về hưu, cánh trẻ các cậu xoay xở ra sao?

Ông Pilich lừ mắt: Ông phải tích cực phản ánh lên trên, không nên áp dụng chỉ tiêu cao quá. Trời vàng lên rồi, đất lộn tùng phèo lên rồi, cát vàng sắp chôn vùi người rồi.

Ulichi lắc đầu: Ai nghe ông, bây giờ cán bộ khẩn hoang nắm quyền. Cán bộ nông nghiệp văn hóa cao hơn cán bộ du mục, tiếng Hán cũng nói trôi chảy. Vả lại hiện giờ cán bộ du mục đang tranh nhau đi săn bắt sói, đang tăng số đầu gia súc. Những cán bộ không biết gì về thảo nguyên lại được đề bạt nhanh.

Ba con ngựa no căng đang nhắm mắt ngủ gật. Con Nhị Lang đã về, ướt như chuột lột, đầu đầy máu, bụng to như cái thùng tô nô, cách người mười mấy bước thì dừng lại. Balua hình như biết Nhị Lang đi làm những gì, trợn mắt giận dữ. Lát sau hai con xông vào nhau, Trần Trận và ông già phải gỡ chúng ra.

Ulichi lại dẫn hai người dạo một nửa vòng bãi chăn, vừa đi vừa bàn với ông già địa điểm dựng lều của toàn đội. Trần Trận tranh thủ tận hưởng cảnh đẹp. Cậu không hiểu cậu về thảo nguyên hay chốn bồng lai. Cậu rất muốn ở lại, không về nữa.

Trở lại chỗ cũ, ba người bắt tay lột da, xẻ thịt con dê. Trần Trận bất giác sinh lòng thương cảm. Cái không khí lãng mạn bị hai bàn tay đầy máu tanh tưởi đẩy lùi. Trần Trận buồn rầu hỏi ông già: Mùa đông đàn sói giết dê vàng là để sang xuân có thức ăn. Nhưng mùa hè chúng giết nhiều dê vàng như thế để làm gì? Mấy khúc sông hình như có rất nhiều xác dê vàng, vài hôm nữa thối rữa còn uống sao được? Sói thích giết bừa bãi.

Ông già nói: Đàn sói giết bấy nhiêu dê vàng không để chơi, cũng không để ra oai. Chúng phải dành thức ăn cho những con già yếu. Hổ báo vì sao không trụ lại được trên thảo nguyên? Sói vì sao bá chủ thảo nguyên? Bởi vì sói đồng lòng hơn hổ báo. Hổ báo bắt được mồi ăn một mình không thèm đoái hoài đến vợ con, già trẻ lớn bé. Sói thì không thế, sói săn mồi vì bản thân cũng vì bầy đàn, vì những con già yếu, thọt chân, mù dở, ốm đau và sói mẹ vừa sinh nở không theo kịp đàn. Cậu đừng nghĩ dê vàng bị hạ sát hàng loạt, đêm nay con sói đầu đàn chỉ tru lên một tiếng là toàn bộ sói vùng Ơlon và cả những họ hàng thân thích nhà sói sẽ kéo về đây chén sạch trong một đêm, một con nghĩ đến đàn, cả đàn nghỉ đến một con, sói mới thành đàn, sói đàn chiến đấu mới khiếp. Có khi sói chúa chỉ gọi một tiếng là hàng trăm con sói ùa đến đánh đòn hội đồng. Nghe người già nói, thảo nguyên vốn có hổ nhưng đã bị sói đuổi đi. Sói chăm sóc gia đình sói hơn người, đoàn kết hơn người.

Ông già thở dài, nói: Người Mông Cổ học sói đến nơi đến chốn là thời Thành Cát Tư Hãn. Các bộ lạc Mông Cổ là những bánh xe sắt, là bó tên, người tuy ít nhưng sức mạnh thì lớn, ai cũng sẵn sàng hi sinh vì bà mẹ thảo nguyên. Nếu không làm sao chiếm được nửa thế giới? Sau đó Mông Cổ vì mất đoàn kết mà thua. Các bộ lạc anh em, các gia tộc vàng tàn sát lẫn nhau. Mỗi bộ lạc như mũi tên tách khỏi bó tên, bị người ta bẻ gãy từng chiếc một. Con người không đồng lòng bằng sói. Tài trận mạc của sói có thể học, nhưng tài đoàn kết của sói thì khó học. Người Mông Cổ học đã mấy trăm năm mà vẫn chưa thành tài. Thôi chẳng nói nữa, nói ra càng đau lòng...

Trần Trận ngắm trảng cỏ đẹp đến nao lòng, suy nghĩ miên man.

Ông già dùng da dê gói thịt rồi nhét vào bao tải. Trần Trận chuẩn bị yên cương cho ông. Ông già cùng ông Ulichi mỗi người chất một bao tải lên sau yên, dùng dây da buộc chặt.

Ba con ngựa phóng như bay về khu lều trại.

Chương 17

Họ giống con sói - Tôtem của người Hung No (Tôtem - nguyên chú)

....

Chúng ta biết Đột Quyết tổ tiên người Mông Cổ cổ đại trong truyền thuyết là một con sói. Theo "Mông Cổ bí sử", tổ thần của người Mông Cổ là con sói xanh. Theo "Ucuxu sử ký", tổ thần của người Đột Quyết là con sói xám: "một sói đực to lớn xuất hiện trong ánh sáng chói lòa."

(Pháp) Pierre Renouvin "Đế quốc thảo nguyên"

Phán quyết của cơ quan cấp trên về vụ sự cố đàn ngựa chiến đã về tới mục trường Baolico vùng Ơlon. Phán quyết, tuyên bố Ulichi, người phụ trách sản xuất của mục trường đã có sai phạm lớn, cách chức ủy viên ban lãnh đạo Ba Kết Hơp của mục trường, đưa xuống cơ sở rèn luyện lao động. Hai mã quan Batu và Saxuleng đều có sai phạm lớn, cách chức đội trưởng dân quân của Batu. Văn bản bổ nhiệm cũng đã về tới mục trường: Bao Thuận Quý đã làm xong thủ tục chuyển ngành, giữ vai trò chủ chốt trong ban lãnh đạo mục trường, phụ trách toàn diện cách mạng và sản xuất.

Ulichi rời mục trường bộ, Bao Thuận Quý và Trương Kế Nguyên đi cùng ông về đại đội chăn nuôi. Hành lý của Ulichi là cái bạc đà nhỏ xíu, nhỏ hơn bạc cả đà của thợ săn. Trước cách mạng văn hóa, Ulichi thích đặt văn phòng tại đội hoặc tổ chăn nuôi. Ở đó, ông có áo dài và ủng gửi các bà giữ hộ, vá víu khi bị rách. Nhiều năm nay, lên hay xuống thì ông vẫ ở cơ sở; có chức vụ hay không thì ông vẫn làm hết sức mình, uy tín và ảnh hưởng của ông vẫn thế. Nhưng lần này thì tốc độ của ông giảm một nửa: Con ngựa bạch già ông cưỡi đã cuối xuân mà còn sợ lạnh, trên mình lông chưa rụng hết, chẳng khác một ông lão khoác áo đụp trong mùa hè.

Trương Kế Nguyên muốn đổi ngựa cho Ulichi, nhưng ông không chịu, ông giục cậu đi nhanh, khỏi cần mất thì giờ đi cùng ông. Trương Kế Nguyên lên đại đội lĩnh pin cho mã quan, vừa ra về thì bắt gặp tân và cựu lãnh đạo, liền tháp tùng hai ông đi đường. Khi biết tin ông Ulichi về ở cùng gia đình ông Pilich, cậu có phần yên tâm.

Bao Thuận Quý cưỡi con ngựa vốn là ngựa chuyên dùng trước đó của Ulichi, lông màu vàng, cao to khoẻ mạnh, lớp lông mới mượt như nhung, Bao Thuận Quý luôn phải gò cương cho chạy chậm lại mới sóng đôi với con ngựa của Ulichi. Nó không ngừng nhai hàm thiếc chưa quen cách cưỡi của chủ mới, đôi lúc cố ý đi chậm, dùng mõm cà vào đầu gối ông chủ cũ Ulichi và khe khẽ cất tiếng hí buồn bã.

Bao Thuận Quý nói: Ông Ulichi, tôi đã cố hết sức giữ ông lại mà không được. Tôi không hiểu về chăn nuôi, từ nhỏ đến lớn sống ở nông thôn. Trên giao cho tôi cái mục trường lớn như thế này, tôi không biết xoay sở thế nào.

Ulichi luôn dùng gót ủng thúc ngựa, trán ông đã lấm tấm mồ hôi. Cưỡi ngựa già mệt cả người lẫn ngựa. Trương Kế Nguyên giúp ông vụt con ngựa già một roi. Ulichi xoa đầu an ủi ngựa vàng, nói với Bao Thuận Quý: xử lý như vậy là có chiếu cố rồi, chỉ quy sự cố sản xuất, không quy động cơ chính trị. Sự cố đàn ngựa có ảnh hưởng quá lớn, không cách chức tôi thì nói với trên thế nào!

Bao Thuận Quý nét mặt thành khẩn, nói: Ông Ulichi này, tôi về đây đã sắp được một năm, thấy lãnh đạo chăn nuôi khó hơn lãnh đạo nông nghiệp. Nếu để xảy một hai sự cố, chắc cái chức chủ nhiệm của tôi cũng không còn. Một số người cứ muốn đưa ông về đội xây dựng cơ bản, nhưng tôi kiên trì đề nghị đưa ông về đội Hai. Tôi thấy ông rành nghề chăn nuôi, ở cùng ông Pilich tôi yên tâm, có chuyện gì cũng dễ gặp hỏi ý kiến ông.

Ông Ulichi tươi tỉnh ra một chút, hỏi: Chuyện đội Hai chuyển đến bãi chăn mới, ủy ban cách mạng đã quyết chưa?

Quyết rồi - Bao Thuận Quý nói - ban lãnh đạo quyết định tôi phụ trách chung, ông Pilich phụ trách cụ thể. Khi nào chuyển, lều trại bố trí như thế nào, bãi chăn phân phối ra sao, đều do ông Pilich quyết. Ý kiến phản đối cũng nhiều, đường xa, sói nhiều, muỗi nhieuef, trang thiết bị chẳng có gì, lỡ xảy ra chuyện, tôi chịu trách nhiệm chính. Vì vậy tôi quyết định đi cùng các ông về đấy xem sao, và đem theo đội xây dựng cơ bản xây bể ngâm thuốc để chữa bệnh, kho chứa lông cừu, trụ sở đội lâm thời và trạm thú ý, lại còn mấy đoạn đường cần sửa chữa...

Ulichi à lên một tiếng, thẳng người suy nghĩ chuyện gì đó.

Bao Thuận Quý nói: Chuyện này là công của ông. Ông có tầm nhìn xa. Cả nước thiếu thịt. Năm nay trên lại giao thêm chỉ tiêu, bốn đại đội đều kêu thiếu bãi chăn, nếu không mở thêm bãi chăn mới, năm nay chắc không hoàn thành nhiệm vụ.

Ulichi nói: Cừu còn non, phải ít ngày nữa mới chuyển trại được. Ông định làm gì trong những ngày này?

Bao Thuận Quý nói dứt khoát: Điều động thợ săn, tổ chức đội săn sói, tập trung huấn luyện xạ kích. Tôi đã xin được rất nhiều đạn, dứt khoát phải thanh toán nạn sói ở Ơlon. Mới đây tôi được xem bản thống kê thiệt hại của mục trường trong 10 năm, quá nửa là do sói gây ra, hơn cả bão tuyết, hạn hán và dịch bệnh. Muốn tăng số đầu gia súc, phải nắm hai việc, một là diệt sói; hai là khai thác bãi chăn mới. Bãi chăn mới có nhiều sói, nếu không diệt được sói thì mở bãi chăn cũng không ích gì.

Ulichi ngắt lời ông ta: Không xong đâu ông ơi. Sói gây thiệt hại, nhưng nếu diệt sói, mục trường không chỉ thiệt hại, mà là tai hoạ, sau đó bù đắp gì cũng không lại.

Bao Thuận Quý ngẩng nhìn trời, nói: Từ lâu tôi đã nghe nói ông và ông Pilich ra sức bảo vệ sói. Hôm nay ông nói hết ra, đừng lấn cấn nữa...

Ông Ulichi dắng một tiếng, nói: Tôi lấn cấn là vì bãi chăn. Ông cha để lại những bãi chăn tốt như thế, đừng phá đi. Chuyện sói, tôi nói đã mười mấy năm nay, vẫn cứ phải nói nữa. Tôi tiếp quản mục trường trên chục năm, số đầu gia súc chỉ tăng gấp đôi, nhưng số bò cừu nộp lên trên gấp hơn ba lần so với các mục trường khác. Kinh nghiệm quan trọng nhất là bảo vệ bãi chăn. Điều cốt yếu là khống chế được đầu gia súc, không quá tải nhất là số đầu ngựa. Bò và cừu nhai lại, đêm không ăn cỏ. Nhưng ngựa thì ruột thẳng, rất tốn cỏ, không ăn đêm, ngựa không béo. Ngựa ăn suốt ngày, cả ban ngày lẫn ban đêm. Một con cừu một năm cần hai mươi mẫu cỏ (1,3 hecta), một ngựa chí ít xài 200 mẫu, vó ngựa hủy hoại cỏ tệ hại. Một đàn ngựa trú mươi mười lăm ngày ở một chỗ, chỗ ấy thành bãi cát. Mùa hè mưa nhiều, cỏ mọc nhanh, trừ mùa hè ra, mỗi điểm chăn nuôi phải di chuyển mỗi tháng một lần, phải chịu khó chuyển chỗ, không được bám dính một nơi mà gặm. Đàn bò cũng hủy hoại bãi chăn. Chúng có cái tật là khi trở về không đi lẻ tẻ, mà xếp hàng rồng rắn đi về. Thân nặng, móng cứng, chỉ vài ngày là chúng đi thành từng vệt, nếu không thường xuyên chuyển nhà thì xung quanh lều một hai dặm đầy rãnh lớn rãnh nhỏ. Thêm vào đó ngày nào cừu cũng giẫm lên, chỉ trong một tháng, một hai dặm vuông quanh lều, không còn cỏ mọc. Du mục là để cho bãi chăn dễ thở, thật ra bãi chăn rất sợ xéo nát, rất sợ quá tải, quá tải là sói đến phá phách.

Thấy Bao Thuận Quý chú ý nghe, ông Ulichi nói tiếp: Còn nữa, kinh nghiệm xương máu là không được tận diệt sói. Có nhiều kẻ hủy hoại cỏ trên thảo nguyên: Dữ dằn nhất là chuột, thỏ đồng, rái cá cạn và dê vàng. Bốn loài hoang dã này phá hoại đồng cỏ tai hại nhất. Nếu không có sói thì riêng chuột và thỏ đồng cũng đủ khả năng đào bới toàn bộ diện tích thảo nguyên. Chỉ sói là thiên địch trị nổi chúng. Có sói nên chúng không làm nổi chuyện tày trời nói trên. Bãi chăn được bảo vệ, khả năng chống thiên tai của mục trường được tăng cường. Thí dụ như chống rét. Mục trường ta bị tuyết lớn nhiều hơn, các mục trường khác chỉ một trận, gia súc đã thiệt hại quá nửa, nhưng mục trường ta không thiệt hại nhiều. Vì sao? Vì cỏ nơi ta mọc khoẻ, sang thu là ta đã tích đủ cỏ khô. Mấy năm gần đây ta còn có máy cắt cỏ do gia súc kéo, chưa đầy một tháng đã trữ đủ cỏ khô cho mùa đông. Cỏ mọc khoẻ thường thân cao, nói chung tuyết không phủ kín; bãi chăn tốt thì nước không thất thoát, suối khe không cạn, gặp hạn lớn vẫn có nước uống. Cỏ ngon bò cừu mới béo. Những năm gần đây mục trường chúng ta không có dịch bệnh, sản xuất phát triển nên có điều kiện sắm sanh thiết bị, đào giếng đào ao, tăng cường sức chống hạn.

Bao Thuận Quý gật đầu lia lịa, nói: Có lý đấy! Tôi nhớ rồi, bảo vệ bãi chăn là căn bản của chăn nuôi. Tôi sẽ thường xuyên cùng cán bộ xuống các đội bắt họ phải định kỳ di chuyển, bắt mã quan theo đàn ngựa 24/24 liên tục di chuyển, không ở lì một chỗ. Tôi sẽ kiểm tra bãi chăn hàng tháng, đội nào để gia súc gặm quá mức, tôi sẽ trừ công điểm. Bãi chăn nào bảo vệ tốt, tôi sẽ thưởng hậu, bầu danh hiệu lao động tiên tiến. Còn như dựa vào sói để bảo vệ bãi chăn thì tôi chưa rõ lắm. Sói có vai trò lớn như vậy sao?

Ông Ulichi thấy Bao Thuận Quý có vẻ chịu nghe, liền mỉm cười, nói tiếp: Ông không biết đấy thôi, một năm một con chuột ăn nhiều cỏ hơn một con cừu. Sang thu, con chuột khuân cỏ vào hang dự trữ thức ăn cho mùa đông thường là dài hơn nửa năm. Tôi đào hang chuột thấy nhiều bó cỏ lớn, đều là cỏ ngon và hạt cỏ. Chuột đẻ khoẻ, mỗi năm đẻ bốn năm lứa, mỗi lứa mười mấy con, một năm một lứa thành mười lứa, ông thử tính coi, một lứa chuột cộng với lứa mẹ đẻ lứa con, một năm ăn hết bao nhiêu cỏ của cừu? Thỏ đồng cũng vậy, một năm đẻ mấy lứa, mỗi lứa một đống con. Hang rái cá ông cũng thấy rồi đấy. Rái cá cạn có thể đào rỗng núi. Tôi đã tính thử, bốn con này ăn trong một năm nhiều gấp mấy lần 10 vạn gia súc ăn trong cùng kỳ. Mục trường ta lớn, diện tích tương đương một huyện trong nội địa, nhưng dân số chưa đến một nghìn người, nếu không có số thanh niên trí thức thì còn ít hơn. Một nhúm người làm sao diệt nổi mấy triệu con chuột, thỏ đồng, rái cá cạn và dê vàng?

Bao Thuận Quý nói: Nhưng mấy năm nay tôi chỉ thấy lác đác vài con chuột. Ngoại trừ chuột ở gần trụ sở mục trường hơi nhiều, những nơi khác tôi ít thấy chuột. Rái cá thì thấy nhiều. Riêng dê vàng thì quá đông, đàn lớn trên vạn con tôi thấy mấy bận, còn bắn chết bốn năm con nữa kia. Dê vàng quả là đại họa, thấy chúng ăn cỏ mà xót ruột!

Ông Ulichi nói: Cỏ Ơlon mọc cao và rậm, che khuất bọn chúng, không quan sát kỹ không thấy. Sang thu ông sẽ thấy những đống cỏ bé tí khắp nơi. Đó là cỏ của chuột, phơi khô kéo vào hang. Dê vàng chưa phải nguy hiểm nhất, chúng chỉ ăn cỏ, không đào hang đùn cát lên. Nhưng chuột, thỏ đồng, thì vừa ăn cỏ vừa đào hang và lại đặc biệt mắn đẻ, nếu không có sói thì chỉ trong vài năm chúng ăn sạch cỏ, khoét rỗng núi trên thảo nguyên Ơlon, biến tất cả thành sa mạc. Nếu ông cứ nhất định diệt sói thì chỉ vài năm thôi, chức chủ nhiệm của ông sẽ đi đứt.

Bao Thuận Quý cười hề hề: Tôi chỉ thấy méo bắt chuột, chim ưng bắt chuột, rắn nuốt chuột, chưa hề nghe nói sói bắt chuột. Ngay chó bắt chuột nhắt cũng chỉ là chuyện đùa. Sói mà làm những chuyện vặt như vậy sao? Sói bắt cừu bắt ngựa để ăn, một tí thịt chuột chả bỏ dính răng! Tôi không tin là sói ăn thịt chuột!

Ông Ulichi thở dài: Dân nông nghiệp các ông không hiểu được chuyện này. Không điều tra nghiên cứu, các ông sẽ hỏng việc lớn. Tôi lớn lên trên thảo nguyên, tôi hiểu sói. Sói thích ăn thịt bò, cừu, ngựa, dê vàng, nhưng những con này đều có người trông coi, ăn được đâu có dễ, không khéo lại mất mạng ấy chứ. Dê vàng chạy nhanh cũng khó bắt lắm, xem ra bắt chuột là hay hơn cả. Xưa kia người nghèo ở Ơlon những năm mất mùa đều phải ăn thịt chuột mà sống qua ngày. Tôi hồi nhỏ là nô lệ, lúc đói quá tôi bắt chuột ăn. Chuột thảo nguyên, nhỏ thì một chẹt tay, nặng hai ba lạng, lớn dài gần thước, nặng hơn một cân, ăn ba bốn con là no. Nhiều nữa ăn không hết thì lột da làm khô thịt, cũng rất ngon, để dành được. Nếu ông không tin, đợi lúc rảnh rỗi, tôi đi bắt mấy con đem nướng để ông thưởng thức, thịt nó nhỏ thớ và mềm. Xưa kia Tô Vũ, và Thành Cát Tư Hãn đều đã từng ăn thịt chuột.

Bao Thuận Quý tỏ vẻ lúng túng. Ulichi không nhìn ông ta, cứ nói tiếp: Một bận, có vị lãnh đạo người Quảng Đông xuống thịt sát trạm biên phòng. Hôm ấy tôi cũng có mặt để bàn về công tác liên phòng. Ông ta hỏi tôi chuột thảo nguyên có ăn được không? Tôi nói ăn rất ngon. Ông bảo, trưa nay các đồng chí đừng làm món khác, chiêu đãi tôi một bữa thịt chuột. Tôi cùng một dân quân ra đồng tìm mấy hang chuột, đem theo một thùng nước đổ vào hang. Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã bắt được hơn chục con chuột to. Lột da xong, thịt trắng hếu, vị lãnh đạo khen được. Trưa hôm ấy ba người chúng tôi ăn một bữa thịt chuột nướng no căng bụng. Cán bộ chiến sĩ cứ ngẩn ra mà nhìn. Thịt thơm nhưng họ không dám ăn. Vị lãnh đạo nói: Thảo nguyên sạch, cỏ càng sạch, chuột ăn cỏ non và hạt cỏ lại càng sạch. Ông còn bảo, chưa bao giờ ông ăn một bữa thịt chuột thơm và ngon đến thế, ngon hơn thịt chuột Quảng Đông. Thịt này mà đưa về Quảng Đông cứ gọi là tranh nhau mà mua. Chỉ tiếc Quảng Đông xa quá, tàu hỏa không cho chuyên chở chuột sống. Nếu không, hàng năm Nội Mông cung cấp chuột sống cho Quảng Đông, thảo nguyên vừa diệt chuột vừa được một khoản tiền lớn, còn giúp Quảng Đông thêm một món ăn cao cấp...

Bao Thuận Quý bật cười: Hay lắm, mục trường chúng ta cung cấp thịt chuột cao cấp cho Quảng Đông, rất có thể kim ngạch lớn hơn cung cấp len, thịt bò cừu. Vậy, chuột khó bắt không?

Ông Ulichi nói: Rất dễ bắt, đổ nước, dùng thòng lọng, đào bằng xẻng, đơn giản nhất là huấn luyện mấy con chó săn chuột. Chó thảo nguyên thích bắt chuột đem về cho con chơi, chó mẹ dạy con săn mồi, trước tiên dạy bắt chuột. Chó thảo nguyên ăn thịt bò thịt cừu, không ăn thịt chuột. Nhưng sói thì không kén chọn như chó về mặt ăn uống. Chuột thảo nguyên vừa béo vừa to lại dễ bắt, nên trong ba vụ xuân hè thu, chuột là thức ăn chính của sói. Có năm chúng tôi kiểm soát rất chặt, ý thức trách nhiệm của mục dân cũng cao, nên sói không còn dịp nào bắt ngựa cừu non của chúng tôi. Sau đó chúng tôi chộp được mấy con sói thấy con nào cũng béo khoẻ thì rất băn khoăn, mổ bụng một con toàn là chuột, thịt nát hết, đầu và đuôi thì chưa. Tôi đếm được tất cả 20 con chuột, 20 cái đầu, 20 cái đuôi và một cái đầu rái cá cạn. Ông bảo, một năm một con sói ăn bao nhiêu con chuột? Mỗi lần lạnh đạo Kỳ về, tôi đều trao đổi vấn đề này, giới thiệu sói là dũng sĩ diệt chuột trên thảo nguyên, nhưng các vị ấy không tin, thay đổi nhận thức của người làm ruộng về sói quả là khó.

Trương Kế Nguyên càng nghe càng hào hứng, không nhịn được nói chen vào: Hai năm là mã quan, cháu nhiều lần thấy sói bắt chuột, đuổi chuột tung lên từng đám bụi. Sói bắt chuột giỏi hơn chó. Bắt chuột sói nhằm chỗ nào nhiều chuột nhất mà chạy xiên ngang xiên dọc, gặp chuột liền vả ngã quay lơ khiến con chuột không thể chui vào hang rồi sói quay lại đớp từng con một, nuốt tởm. Chạy vài lượt là bụng lưng lửng. Hai là đào hang. Sói là cao thủ đào hang trên thảo nguyên. Trông thấy chuột chui vào hang, sói hè nhau con đào hang, con bịt các cửa, chỉ một lát đã lôi ra ổ chuột lên ăn thịt.

Ông Ulichi nói: Sói mẹ và sói con rất thích ăn thịt chuột. Trước khi cai sữa, sói mẹ dạy sói con bắt chuột mồi sống, cũng bắt đầu từ chuột. Sói mẹ khi còn nuôi con, nói chung không theo sói lớn đi săn. Sói con lớn chừng một thước, vừa biết chạy rất sợ người. Phát hiện sói mẹ dẫn đàn con đi ăn, thợ săn chỉ cần bắn chết sói mẹ là sói con không biết đằng nào mà chạy, có thể tóm từng con như bắt cừu non. Vì vậy khi sói con còn nhỏ, sói mẹ thường dẫn đến nơi rất xa người và gia súc để sói con được an toàn, có điều không được ăn thịt, sói con sống như thế nào? Ngoại trừ sói bố đem về một ít thịt gia súc lớn, sói mẹ sói con chủ yếu sống bằng thịt chuột và rái cá cạn.

Ulichi ngoảnh nhìn Bao Thuận Quý, thấy ông ta không tỏ vẻ sốt ruột, liền nói tiếp: Thời gian này, sói mẹ dẫn con đến nơi an toàn không người, bắt chuột ăn, một là dạy con tập săn mồi, hai là cho con ăn no. Sói con lớn chừng hai thước vẫn chưa thể đi xa vài chục dặm theo sói lớn săn mồi, mà vẫn phải ăn chuột. Tôi từng trông thấy một đàn sói con săn chuột, sói con vừa đuổi theo vừa chơi, bụi bay mù trời, còn hấp dẫn hơn mèo đuổi chuột, khắp nơi nghe thấy chuột kêu khụt khịt. Vào hè là lúc thỏ con biết chạy nhưng không chạy nhanh bằng sói, nên sói lại là cao thủ bắt thỏ. Đàn sói bảy tám con, hơn chục con, cần ăn bao nhiêu chuột và thỏ mới thành sói lớn?

Còn nữa - Ông Ulichi nhấn mạn - không có sói, người và gia súc trên thảo nguyên sẽ rắc rối khi gặp đại họa. Hoạ trắng (đại hàn) trăm năm, vài trăm năm mới gặp một lần, gia súc chết hàng loạt, sau khi tuyết tan, thảo nguyên chỗ nào cũng có xác gia súc, mùi thối xông lên nồng nặc, nếu không chôn lấp kịp thời, rất dễ xảy ra dịch bệnh, một nửa số người và gia súc khó sống sót. Nếu như đàn sói đông, chúng sẽ xử lý gọn những xác chết, dịch bệnh không xảy ra. Vì vậy từ lâu Ơlon không có dịch. Thời xưa, thảo nguyên chiến tranh liên miên, sau mỗi trận đánh lớn, hàng ngàn hàng vạn xác người ngựa do ai xử lý? Phải nhờ sói. Người già bảo, thảo nguyên không sói thì người Mông Cổ chết vì dịch bệnh từ lâu. Thảo nguyên Ơlon cỏ mượt nước trong là nhờ sói. Không có sói, thảo nguyên Ơlon không thể phát triển chăn nuôi như ngày nay. Một số công xã phía nam diệt hết sói, đồng cỏ cũng đi tong, chăn nuôi không thể khởi sắc...

Bao Thuận Quý trầm ngâm. Ba con ngựa lên đỉnh dốc, trảng cỏ dưới chân dốc xanh mượt, hương cỏ hương hoa và cả mùi cỏ mục theo gió bay tới. Con bách linh như đứng im giữa trời, bỗng rơi thẳng đứng xuống trảng cỏ, rất nhiều con bách linh khác lại từ trảng cỏ bay lên tận trời xanh, xoè cánh dừng lại giữa trời đối đáp véo von.

Ulichi hít một hơi dài, nói: Xem kìa, trảng cỏ đẹp quá, y hệt nghìn năm về trước. Đây là trảng cỏ thiên nhiên đẹp nhất Trung Quốc. Cuộc chiến bảo vệ đồng cỏ giữa người và sói hàng nghìn năm, mới để lại cho chúng ta trảng cỏ nguyên sơ như thế này, nó không được biến mất trong tay chúng ta.

Trương Kế Nguyên nói: Bác nên mở lớp cho số thanh niên trí thức, dạy cho họ thảo nguyên học và sói học.

Ông Ulichi buồn rầu, nói: Tôi là cán bộ về vườn, tư cách đâu mà mở lớp! Các cậu hãy học dân du mục, họ hiểu biết hơn tôi nhiều.

Lại qua một con đèo nữa, cuối cùng Bao Thuận Quý mở miệng: Lão Ulichi này, không thể phủ nhận tình cảm của ông đối với thảo nguyên, càng không thể phủ nhận thành tích mười mấy năm nay của ông. Nhưng tư tưởng ông đã lỗi thời, ông kể toàn chuyện cũ. Thời buổi bây giờ khác rồi, thời Trung Quốc có bom nguyên tử mà còn dừng lại ở những vấn đề của thời đại nguyên thủy là rách việc rồi. Tôi cũng suy nghĩ nhiều khi về mục trường này. Mục trường chúng ta rộng hơn một huyện nội địa, nhưng dân số thì chưa đầy một nghìn, chưa đông bằng một thôn. Lãng phí quá! Muốn làm ra của cải cho đảng và nhà nước, dứt khoát phải kết thúc cuộc sống du mục nguyên thủy lạc hậu này. Cách đây ít hôm tôi có làm một cuộc điều tra, phía nam mục trường ta có một số khoảnh đất đen, khoảnh vài nghìn mẫu, khoảnh trên vạn mẫu. Tôi dùng xẻng đào thử, đất ở đó rất dày, chừng hai thước. Đất thế mà để chăn nuôi thì phí quá. Khi lên Minh (huyện) họp, tôi có tranh thủ ý kiến của một chuyên gia về nông nghiệp, ông ta bảo đất ấy hoàn toàn có thể trồng lúa mạch, chỉ cần diện tích không rộng, khai khẩn quy mô chỉ vài trăm mẫu, vài nghìn mẫu thì không bị sa mạc hóa.

Bao Thuận Quý thấy Ulichi không nói gì, lại nói tiếp: Tôi đã điều tra nguồn nước. Nước ở đó không có vấn đề, đào một con mương nhỏ là có nước tưới ruộng. Mục trường ta có bao nhiêu là phân bò phân cừu, đều là phân cao cấp. Tôi dám nói rằng, nếu ta trông tiểu mạch ở đó, ngay năm đầu tiên sản lượng sẽ trên trung bình. Không quá vài năm, giá trị sản phẩm nông nghiệp của mục trường ta sẽ vượt giá trị chăn nuôi. Khi ấy, không những có thể tự túc lương thực và thức ăn gia súc, mà còn có thể chi viện cho đất nước. Hiện nay lương thực trong nước căng thẳng, quê tôi nhà nào cũng thiếu ăn ba tháng. Về mục trường, tôi thấy đất đen bỏ hoang, một năm gia súc chỉ ăn ở đấy có hơn một tháng cỏ thì tôi xót ruột lắm. Thoạt tiên tôi định vỡ mấy mảnh để thí nghiệm, thành công thì làm tới. Nghe nói mấy công xã phía nam thiếu bãi chăn, không duy trì được chăn nuôi, họ quyết định tách ra một phần đất làm nông nghiệp. Tôi nghĩ, đó mới là lối thoát của thảo nguyên Mông Cổ.

Ông Ulichi biến sắc mặt, thở dài: Tôi đã biết từ lâu sẽ có ngày như thế. Người quê ông không quan tâm sức tải của đồng cỏ, ra sức tăng số đầu gia súc, giết sói vô tội vạ, đến nỗi bãi chăn cỏ không mọc, biến thành ruộng lúa. Tôi biết, mấy chục năm trước quê ông là vùng chăn nuôi, chuyển thành vùng nông nghiệp mới chỉ mười mấy năm nay, nhưng nhà nào cũng thiếu ăn. Đây đã là vùng biên, tôi hỏi ông, mở theo hướng nào để biến cái mục trường đẹp đẽ này thành vùng nông nghiệp như quê ông? Diện tích bị sa mạc hoá ở Tân Cương lớn hơn một tỉnh dưới xuôi, Gôbi hoàn toàn không một bóng người, ông bảo có lãng phí đất không?

Bao Thuận Quý nói: Điều này xin ông yên tâm. Tôi sẽ rút kinh nghiệm quê tôi, phân biệt rạch ròi chỗ nào nên chỗ nào không nên khai khẩn. Nông nghiệp tất không được, chăn nuôi tất cũng không được. Nửa làm ruộng nửa chăn thả là tốt nhất. Tôi sẽ gắng sức bảo vệ bãi chăn, phát triển chăn nuôi. Không có chăn nuôi, nông nghiệp sẽ thiếu phân bón. Lúa tốt vì phân, không có phân, làm sao có sản lượng?

Ulichi nổi cáu: Nông dân mà thấy đất này thì có trời ngăn. Cứ cho là đời ông ngăn được, nhưng đời sau có ngăn nổi không?

Bao Thuận Quý nói: Đời nào có việc đời ấy, đời sau tôi không quản nổi.

Ulichi hỏi: Vậy ông vẫn diệt sói chứ?

Bao Thuận Quý nói: Chính vì ông không kiên quyết nên mới sai lầm lớn. Tôi không thể đi theo vết chân ông. Nếu như lại để sói hạ sát đàn ngựa nữa, tôi cũng về vườn như ông.

Đã nhìn thấy khói bếp trên các nóc lều. Bao Thuận Quý nói: Mấy người trên mục trường bộ cũng bụng dạ hẹp hòi, cho ông con ngựa già, mất hết thì giờ. Rồi quay lại bảo Trương Kế Nguyên: Chú Nguyên, chú đổi cho ông Ulichi một con ngựa tốt, nói với Batu là tôi bảo thế.

Trương Kế Nguyên nói: Về tới đại đội không ai để ông trưởng bãi cưỡi con ngựa tồi!

Ba Thuận Quý nói: Tôi nhiều việc quá, xin đi trước. Tôi đợi ông ở nhà ông Pilich, ông cứ tà tà không vội. Nói xong, ông ta lỏng dây cương, con ngựa lao đi.

Trương Kế Nguyên gò cương đi bên con ngựa bước thủng thẳng, nói với Ulichi: Ông Quý đối xử với ông tốt đấy. Cháu nghe một ông trên mục trường bộ nói, ông ấy mấy lần điện thoại lên trên, đề nghị vẫn để ông trong ban lãnh đạo mục trường. Có điều ông ấy là con nhà lính, tác phong ít nhiều nhiễm thói quân phiệt, ông đừng giận ông ấy.

Ông Ulichi nói: Ông Quý nhiệt tình công tác, đã nói là làm, luôn đứng trên tuyến đầu, nếu như ở vùng nông nghiệp thì ông ta là cán bộ giỏi. Nhưng về vùng chăn nuôi thì ông ấy càng hăng hái, thảo nguyên càng nguy hiểm.

Trương Kế Nguyên nói: Nếu như lúc cháu mới lên thảo nguyên, nhất định cháu ủng hộ quan điểm của ông Quý. Nông thôn dưới xuôi rất nhiều người chết đói, còn thảo nguyên thì bấy nhiêu đất bỏ không. Rất nhiều người trong đám thanh niên trí thức ủng hộ ông Quý. Nay thì cháu không nhìn vấn đề như thế nữa. Cháu cũng cho rằng ông có tầm nhìn xa. Tộc nông canh không hiểu sức tải gia súc của thảo nguyên, không hiểu sức tải về người của đất đai, càng không hiểu quan hệ giữa sinh mạng lớn và sinh mạng bé. Trần Trận nói, hàng trăm năm nay thảo nguyên có một logic đơn giản, phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Cậu ta cho rằng chính sách thảo nguyên của nhà Mãn Thanh thời kỳ đầu và giữa rất sáng suốt, không cho nhiều người thâm nhập thảo nguyên, nếu không sẽ phải trả với cái giá rất đắt.

Ulichi rất khoái cái từ "lôgic thảo nguyên", nhẩm mấy lượt cho thuộc. Ông nói tiếp - Thời kỳ cuối, chính sách thảo nguyên không cản nổi áp lực dân số, việc thực hiện bị lơ là, thảo nguyên co dần lại, sau đó lại co về phía tây bắc, tiếp nối với sa mạc Gôbi. Nếu như bắc Trường Thành trở thành sa mạc thì Bắc Kinh sẽ ra sao, người Mông Cổ cũng sốt ruột. Xưa kia Bắc Kinh là thủ đô của người Mông Cổ, cũng là thủ đô của thế giới ấy...

Trương Kế Nguyên thấy đàn ngựa đang uống nước ở một cái giếng liền cho ngựa chạy tới. Cậu muốn đổi cho ông Ulichi một con ngựa tốt.

Chương 18

Giấc mộng thống trị toàn chấu Á của hai triều Hán Đương đã được Hốt Tất Liệt và Thiết Mộc Nhĩ Hoàn Dịch Đốc - Hoàng đế triều thế kỷ XIII - XIV vì lợi ích của Trung Quốc cổ xưa, thực hiện, biến Bắc Kinh thành thủ đô mẫu quốc Nga La Tư, Tueckixtan, Ba Tư, Tiểu Á, Cao Ly, Tây Tạng, Đông Dương.

....

Một chủng tộc thống trị người khác, một dân tộc dựng nên đế quốc, không nhiều. Người Đột Quyết - Mông Cổ có thể sánh vai với người La Mã.

(Pháp) Pierre Renouvin "Đế quốc thảo nguyên"

Trần Trận luôn tay khuấy nồi cháo thịt đặc quánh, mùi sữa, mùi thịt và mùi kê ngào ngạt, khiến đàn chó lớn chó nhỏ ngoài cửa rên ư ử. Trần Trận nấu nồi cháo này cho sói con. Cách nấu cậu học từ Caxumai, chuyên bồi dưỡng chó con. Trên thảo nguyên, chó con trước và sau khi cai sữa đều phải lập tức cho ăn cháo thịt nấu với sữa. Caxumai bảo đó là bí quyết khiến chó mau lớn. Con chó khoẻ mạnh to cao hay không là ở chỗ trước và sau khi cai sữa trong khoảng ba bốn tháng, phải cho ăn thịt tốt, thời gian này con chó phát triển bộ xương, sau đó ăn tốt đến mấy cũng không lớn nữa. Con nào được nuôi dưỡng đặc biệt tốt, lớn gấp đôi con được nuôi bình thường. Chó khi còn nhỏ nuôi không tốt, sau này không đánh nổi sói.

Một bận trong khi cả nhóm khuân đá xây chuồng, Caxumai trỏ một con chó vừa gầy vừa thấp, lông xơ xác, bảo Trần Trận: Nó với con Balua cùng một mẹ sinh ra, giờ khác nhau một trời một vực. Quả Trần Trận không dám tin chó cùng một mẹ mà tầm vóc lại có sự khác biệt như Võ Tòng và Võ Đại Lang. Trên thảo nguyên sói từng đàn, chó chỉ tốt giống chưa đủ, mà còn phải chăm sóc nuôi nấng tốt. Vì vậy, ngay từ đầu cậu đã rất cẩn thận tiếp thu toàn bộ kinh nghiệm nuôi chó của Caxumai để nuôi con sói con.

Cậu vẫn còn nhớ Caxumai nói thế này: Sau khi cai sữa, phụ nữ thảo nguyên và sói thảo nguyên đua nhau nuôi con. Sói mẹ ra sức bắt chuột, rái cá cho sói con ăn, lại còn ra sức dạy sói con bắt chuột lớn. Sói mẹ là những bà mẹ tuyệt vời. Không bếp, không nước, không nồi niêu để nấu cháo thịt cho con, nhưng cái miệng sói mẹ còn siêu hơn nồi gang của người. Răng, dạ dày và nước bọt sói mẹ đã biến thịt chuột, thịt rái cá thành một thứ cháo dừ, nóng hôi hổi nuôi sói con. Sói con rất thích loại cháo này, ăn vào, chúng lớn nhanh như cỏ xuân.

Phụ nữ thảo nguyên phải nhờ vào chó để lấy công điểm gác đêm, phải tận tâm cần mẫn hơn sói mẹ mới ổn. Trên thảo nguyên, phụ nữ nào lười thì chó gầy, phụ nữ nào chăm thì chó béo khoẻ. Lên thảo nguyên, chỉ nhìn chó béo gầy là biết phụ nữ nhà ấy lười hay đảm. Trần Trận luôn miệng khen con Balua khiến Caxumai phổng mũi. Cậu thích nuôi một con chó to khoẻ như con Balua. Giờ đây cậu lại muốn nuôi một con sói to lớn hơn chính mẹ nó nuôi.

Từ khi nuôi con sói con, Trần Trận đã thay đổi rất nhiều thói quen. Trương Kế Nguyên nói kháy rằng Trần Trận tự dưng chăm chỉ hơn, chi li chẳng kém các bà phụ nữ. Trần Trận cũng cảm thấy cậu cẩn thận chu đáo hơn sói mẹ và Caxumai. Với điều kiện phải làm hết việc nhà, Cao Kiện Trung đồng ý cho cậu vắt sữa bò. Ngày nào cậu cũng thái thịt cho sói con, dù đã có sữa bò nhưng như thế chưa đủ, còn phải bổ sung canxi cho nó phát triển xương. Hồi nhỏ cậu được mẹ cho ăn cốm canxi nên có đôi chút kinh nghiệm. Cậu trộn thịt với xương sụn của bò hoặc cừu. Có lần cậu lên phòng y tế mục trường kiếm được một lọ cốm canxi, mỗi ngày dùng chày gỗ tán nhỏ một viên trộn vào thịt. Chuyện này thì sói mẹ và Caxumai không thể nghĩ tới. Sợ không đủ chất, Trần Trận còn cho vào cháo một ít dầu thực vật và muối ăn. Cháo thơm đến nỗi cậu cũng muốn ăn một bát, nhưng còn ba con chó, cậu đành nuốt nước bọt.

Con sói con lớn rất nhanh, bụng lúc nào cũng tròn căng, bóng nhẫy, tươi tỉnh như ông Di Lặc, lớn phổng như nấm Trương Gia Khẩu. Nó đã dài hơn lũ chó con nửa cái mũi.

Lần đầu tiên nuôi sói bằng cháo thịt, Trần Trận sợ ăn toàn thịt, con sói sẽ không ăn lương thực. Gọi là cháo thịt nhưng thành phần chính vẫn là kê. Kết quả đáng ngạc nhiên, khi cậu đưa chậu cháo âm ấm đến trước mặt con sói, nó vục đầu ăn như rồng cuốn, vừa ăn vừa thở phì phò, vừa rên ư ử khoái trá, cho đến khi ăn hết liếm sạch mới ngửng đầu lên. Trần Trận không ngờ con sói lại ăn lương thực, nhưng cậu phát hiện những hạt kê không thấm nước thịt và sữa bò, con sói không đụng tới.

Món cháo thịt bát bửu đã chín, Trần Trận cất trên chạn kề bên mép cửa trong lều. Cậu khẽ hé cửa lách ra thật nhanh rồi sập lại. Trừ Nhị Lang, đàn chó kể cả con sói, ùa tới. Con Vàng và con Ilua chồm hai chân trước lên ngực cậu, con Vàng còn liếm mặt cậu, há rộng miệng tỏ ra thân thiện, ba con cún thì ra sức giằng xé gấu quần cậu. Còn sói con thì xông thẳng tới khe cửa mà hít lấy hít để mùi cháo thơm, còn định cạy cửa để chui vào.

Trần Trận cảm thấy cậu như một ông bố độc thân, nhưng rất nhiều con. Đứng trước những đứa con trai có gái có, cậu không biết nên như thế nào để chiếu cố đứa này mà không tủi thân đứa khác. Cậu thích con sói, nhưng cậu cũng yêu tất cả những cục cưng do chính cậu nuôi dưỡng, con nào bị thua thiệt cậu đều thương. Cậu không thể cho con sói ăn trước. Phải vỗ yên đàn chó mới được việc.

Trần Trận kẹp nách hai con Ilua và con Vàng quay tròn mấy vòng. Đây là phần thưởng thân thiết nhất về tình cảm cậu dành cho hai con chó. Chúng sướng quá liếm mặt cậu bóng loáng. Tiếp theo, hai tay luồn dưới nách, cậu giơ từng con cún lên cao rồi đặt xuống đất, vuốt đầu vuốt lưng vuốt lông một hồi. Cách vỗ về này cậu mới bổ sung từ khi nuôi con sói. Trước khi có con sói, không cần quá mức như thế. Trước đây chỉ khi nào muốn đùa với chúng thì cậu mới tới. Từ sau khi có con sói, cậu phải tỏ ra luôn yêu thích lũ chó để chúng không tị nạnh mà cắn chết con sói. Trần Trận không ngờ nuôi một con sói trên thảo nguyên mà lúc nào cũng như bên thùng thuốc nổ, ngày nào cũng nơm nớp. Những ngày này, bận bịu công việc đỡ đẻ và chăm sóc cừu non, mục dân rất ít la cà chuyện gẫu, phần lớn chưa biết cậu đang nuôi một con sói, mà dù đã biết nhưng chưa ai đến xem. Nhưng sau này thì sao? Cưỡi hổ xuống được đã khó, cưỡi sói xuống được càng khó hơn.

Thời tiết ấm dần lên. Thịt đông lạnh qua mùa đông đã được thái miếng hong khô, xương chưa ăn hết cũng được lọc thịt, phơi khô. Những xương lẫn thịt còn lại, phần thịt bên ngoài đã khô, tuy ngửi có mùi thum thủm như lạc thối, nhưng vẫn là thức ăn của chó lúc cuối xuân. Trần Trận đi về phía sọt để thịt, đàn chó theo sau, lúc này con Nhị Lang đi đầu, Trần Trận kẹp cái đầu to bự của nó vào bên sườn cậu. Con Nhị Lang đã hiểu đôi chút tính tình của người, biết là sắp được ăn, liền gãi đầu vào sườn cậu cảm ơn. Trần Trận lấy ra chỗ thịt lẫn xương, chia cho từng con theo khẩu phần, xong xuôi, cậu chạy ù tới chỗ con sói.

Con sói vẫn đang chạy quanh, còn dùng mõm cạy cửa. Sau một tháng, nó đã dài hơn một thước, bốn chân cứng cáp ra vẻ sói thực thụ. Nổi bật là màng xanh trên mắt đã rút hết, để lộ cặp mắt đen với con ngươi màu vàng, mõm dài ra, tai không còn giống tai mèo, cũng bắt đầu dài ra như hai chiếc môi hình tam giác dựng trên đầu, đầu vẫn tròn xoay như nửa quả bóng úp lên. Con sói sống chung với đàn chó đã mười mấy ngày hoàn toàn tự do, nó chơi đùa cùng đàn chó, nhưng đến đêm khi không có người trông coi, Trần Trận vẫn nhốt riêng con sói dưới hố, phòng nó bỏ đi. Con Vàng và Con Ilua cũng đành chấp nhận kẻ hoang dã, nhưng không gần gũi. Con sói lại gần bập vào vú để ti sữa, con Ilua liền dùng mõm hất nó lộn mấy vòng. Chỉ con Nhị Lang là tỏ ra hữu nghị với con sói. Mặc cho con sói trèo lên bụng, cắn tai, nhảy nhót lung tung trên lưng trên đầu, thậm chí phóng uế bừa bãi, cũng không thèm để ý. Nhị Lang còn thường xuyên liếm con sói, thi thoảng còn dùng cái mũi dài đẩy con sói ngã mà liếm bụng y như một ông bố. Con sói như sống trong gia đình nhà sói nhưng Trần Trận nhận thấy trước khi mở mắt, nó đã đánh hơi thấy đây không phải nhà của nó. Mũi sói tinh hơn mũi người.

Trần Trận bế con sói lên, nhưng khi con sói đang thèm ăn, tốt nhất không nên gần gũi nó. Cậu mở cửa bế con sói vào đặt xuống đất trước lò. Con sói nhanh chóng thích ứng ánh sáng trong lều Mông Cổ, nhìn chằm chằm vào cái chậu nhôm trên chạn bát. Trần Trận lấy ngón tay thử độ nóng của cháo. Sói là con vật sợ nóng nhất. Có lần con sói bị bỏng cháo, nó cụp đuôi, người run bắn, vội chạy ra ăn tuyết. Mấy ngày liền nó sợ cái chậu, sau đó Trần Trận thay một cái chậu khác, nó mới chịu ăn.

Để tăng cường khả năng phản xạ có điều kiện, Trần Trận gọi rành rẽ từng tiếng: Sói con ăn cơm nào! Tiếng gọi vừa dứt, sói con bật dậy khi nghe các tiếng "ăn cơm", nhạy hơn phản ứng của chó săn khi nghe khẩu lệnh. Trần Trận vội đặt chậu cơm xuống đất rồi ngồi cách khoảng hai bước, dùng xẻng giữ miệng chậu, đề phòng con sói làm lật. Con sói cắm đầu ăn ngốn ngấu.

Trên đời, sói mới thực là coi miếng ăn bằng trời. So với sói, câu "coi miếng ăn bằng trời" của người chỉ là ngoa ngôn. Con người gặp năm mất mùa mới có cái kiểu ăn dữ dằn như sói. Vậy mà con sói này bữa nào cũng ăn đủ ăn ngon mà nó vẫn hung hãn như sói đói, làm như không ăn lấy được như thế thì trời sập không bằng. Sói khi ăn, bố mẹ anh em nội ngoại nhà sói đừng có lại gần. Con sói này không hề có chút cảm tình với cậu, dù rằng ngày nào cậu cũng cần mẫn lo liệu bữa ăn cho nó. Nó coi cậu là kẻ thù chỉ rình cướp cơm hoặc cướp tính mạng nó.

Một tháng nay có tiến triển đôi chút trong việc tiếp cận con sói. Cậu đã có thể sờ mó, bế ẵm, đội nó trên đầu, cho đứng trên vai hoặc mũi cụng mũi, thọc ngón tay vào miệng nó. Nhưng khi nó ăn thì tuyệt đối không được đụng vào, chỉ ngồi một chỗ rất xa mà nhìn. Chỉ cần cậu cựa quậy là nó nổi nóng, bộ dạng cực kỳ hung dữ, lông dựng lên, tiếng gừ khằn khàn uy hiếp, rồi nhìn nhún thấp hai chân sau, bất kể ất giáp, chuẩn bị vồ. Để sửa dần cho nó những tập tính ấy, Trần Trận từng dùng chổi tết bằng thân cao lương chải lông cho nó, nhưng con sói đã ngoạm lấy cây chổi mà giằng xé. Cái chổi bật khỏi tay, Trần Trận sợ quá lùi mấy bước. Con sói làm như bắt được cừu non, ngoạm chặt sống chổi mà lắc, mà điên cuồng cắn xé lòi cả thân cây cao lương. Trần Trận chưa bỏ cuộc, cậu thử đi thử lại mấy lần, lần nào cũng vậy, con sói coi cây chổi như kẻ thù không đợi trời chung, cắn xé tan tành. Cái chổi Cao Kiện Trung mới mua chỉ còn lại trơ trọi cái cán, khiến cậu ta ức quá vụt con sói một gậy ngã lăn chiêng. Từ đó, Trần Trận đành từ bỏ ý định xoa đầu con sói khi nó ăn.

Lượng cháo lần này gấp đôi những lần trước. Trần Trận hi vọng con sói ăn không hết, cậu sẽ trộn chỗ ăn thừa với sữa và thịt vụn cho lũ cún, nhưng thấy con sói ăn như điên, cậu nghĩ chắc chẳng còn mấy tí. Từ cách ăn của con sói, cậu thấy nó kế thừa hoàn toàn tập tính của sói thảo nguyên. Sói có tác phong lính chiến, ăn uống như đánh giặc. Hoặc giả người lính thực thụ có tác phong sói, nếu không ăn ngốn ngấu, rất có thể miếng sau đã ăn ở thế giới bên kia vì tình hình xoay chuyển đột ngột. Trần Trận nhìn con sói ăn mà trong lòng xót xa. Cậu như trông thấy một kẻ lang thang đầu bù tóc rối ăn như rồng cuốn lối ăn ấy mách bảo cậu thân thế và cảnh ngộ người ấy như thế nào. Nếu không phải đổi mạng lấy cái ăn, thì trên thảo nguyên Mông Cổ khắc nghiệt hổ báo còn không sống nổi, loài sói làm sao trụ lại?

Do vậy Trần Trận nhìn thấy một khía cạnh khác của cuộc sống gian nan của sói thảo nguyên. Khả năng mắn đẻ của sói thảo nguyên chỉ chiếm chưa đầy một phần mười đảm bảo sự tồn tại của loài sói. Ông già Pilich nói, đôi khi trời trừng phạt sói, bố mẹ anh em nội ngoại không nhận nhau, một trận tuyết xuống bất thình lình sâu ngập gối là sói chết rét chết đói phần lớn; một trận cuồng phong liệt hỏa cũng đủ chết cả đàn. Đàn sói đông đúc đói khát từ nơi khác đến cũng giết chết quá nửa đàn sói bản địa. Lại còn mùa xuân đào bắt sói con, mùa thu đánh bẫy, đầu đông vây bắt, cuối đông săn bắn, may mắn thoát chết chỉ là số ít. Người già nói, sói thảo nguyên đều là hậu duệ của sói đói. Đàn sói no đủ ban đầu đã bị đàn sói đói đánh bại sau đó. Thảo nguyên Mông Cổ xưa nay là chiến trường, chỉ có những con sói khoẻ mạnh nhất, thông minh nhất, khi no biết nhớ lúc đói, mới có thể sống sót.

Con sói nhào vô chậu thức ăn, Trần Trận càng nhìn càng thấy ý nghĩa sống còn của thực phẩm đối với loài sói. Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, dù nòi giống tốt, nhưng không giành giật được cái ăn, không thấm vào xương tủy sự uy hiếp của cái đói, thì con sói chỉ như Võ Đại Lang, bị đào thải không thương tiếc.

Trần Trận dần dà phát hiện sói Mông Cổ có nhiều tín điều thiêng liêng về sinh tồn, mà đổi mạng lấy ăn, tự trọng, độc lập là căn bản nhất. Khi cho con sói ăn, Trần Trận không bao giờ có ý nghĩ ban ơn như khi cho chó ăn. Con sói không tiếp nhận tình cảm đó. Nó hoàn toàn không có ý thức được nuôi dưỡng. Nó không như lũ chó vẫy đuôi rối rít khi chủ bê chậu thức ăn tới. Con sói không hề biết ơn Trần Trận đã nuôi dưỡng nó, cũng không thừa nhận chậu thức ăn là của cho. Nó cho rằng, chậu thức ăn là do nó giành được, cướp được nên sống chết bảo vệ, thậm chí vì thế mà bỏ mạng. Trong mối quan hệ giữa Trần Trận và con sói, không hề có chuyện dạy dỗ. Con sói chỉ là nhất thời bị giam cầm mà không phải là được nuôi nấng. Trong tính cách đổi mạng lấy cái ăn, con sói như được tinh thần độc lập tự chủ nâng đỡ. Trần Trận cảm thấy gai sống lưng, cậu không biết còn khả năng giữ con sói lại để nuôi lớn hay không?

Cuối cùng, Trần Trận quyết định từ bỏ ý muốn vỗ về con sói khi nó đang ăn, cậu tôn trọng thiên tính cao quý của con sói. Từ đó mỗi khi cho sói ăn, cậu ngồi yên cách nó ba bước, để con sói khi ăn không bị quấy nhiễu. Cậu lặng nhìn con sói ăn, chân thành thụ giáo thiên tính của loài sói.

Chỉ một loáng, cái bụng con sói căng phồng chỉ chực nứt, tốc độ ăn giảm mạnh, nhưng nó vẫn cắm đầu ăn. Trần Trận phát hiện con sói lúc đã no thì bắt đầu chọn thức ăn, trước tiên là thịt vụn, sau đến những mẩu thịt li ti. Cái lưỡi của nó như một chiếc thìa, khéo léo xúc từng mẫu thịt nhỏ đưa lên miệng, lát sau, chỗ cháo thịt màu tạp đã trở lại màu vàng nhạt của cháo gạo. Trần Trận nhìn kỹ, con sói vẫn dùng đầu lưỡi xúc thức ăn. Nhìn kỹ hơn nữa, cậu rất mừng. Con sói vẫn chén nốt những ti thịt mỡ, ti sụn trong cháo gạo. Con sói vừa chọn vừa dùng mõm cày đáy chậu như lợn, cho vào miệng tất cả những mẫu thịt vụn, không sót mẫu nào, nhưng vẫn chưa ngẩng đầu lên. Trần Trận vươn cổ ra xem con sói còn có ý gì và suýt nữa cậu reo lên: Nó dùng lưỡi dằn cháo xuống cho sữa nổi lên chảy vào miệng. Sữa cũng là món sói ưa thích. Khi con sói ngẩng lên, món cháo thịt bát bửu thơm phức đã không còn thịt, không còn sữa, ép cạn nước chỉ còn bã, mùi thơm biến mất. Trần Trận cười phá lên vì tức, cậu không ngờ con sói tham lam và thông minh đến thế.

Không còn cách nào khác, Trần Trận thêm vào chậu một ít thịt vụn, ít sữa để lại hồi nãy, đổ vào một ít nước ấm, hi vọng được món cháo loãng, nhưng cậu khuấy đến mấy cũng không thành cháo mà chỉ như cơm nát chan canh. Cậu bê chậu cơm nát ra khỏi lều, đổ vào chậu thức ăn của lũ chó. Lũ chó ùa tới nhưng lập tức rên rỉ không bằng lòng. Trần Trận thấy nghề chăn nuôi cũng lắm gian nan, nuôi chó là công việc khổ sai trong cái nghề này, thêm con sói, công việc càng vất vả. Mà tất cả đều do cậu tự nguyện.

Con sói bước không nổi vì no. Nó nằm phục trên mặt đất nhìn lũ chó ăn chỗ cháo thừa. Con sói khi đã no thì rất dễ bảo. Trần Trận bước lại gần, cất tiếng gọi thân thiết: Sói, sói. Con sói lật mình nằm ngửa, bốn chân co lại, phơi cái bụng ra, tinh nghịch nhìn lên. Cậu bế nó lên, hai tay luồn dưới nách giơ nó lên thật cao bốn năm lượt. Con sói vừa sợ vừa thích, miệng gừ gừ, nhưng hai chân sau kẹp chặt đuôi, vẫn còn run nhưng nó đã quen với cử chỉ này của cậu. Hình như nó biết đó là biểu thị tình bạn. Trần Trận còn đặt nó lên đỉnh đầu, lên vai, nhưng con sói sợ, chân bám chặt cổ áo cậu.

Trở về chỗ cũ, Trần Trận ngồi duỗi hai chân, đặt con sói lên rồi matxa da bụng cho nó. Chó mẹ và sói mẹ thường làm như vậy giúp con tiêu hóa sau bữa ăn, giờ là công việc của cậu. Trần Trận cảm thấy công việc này rất vui, dùng lòng bàn tay day nhẹ da bụng con sói, nghe tiếng rên khoan khoái cùng với tiếng ợ hơi của nó. Con sói lúc ăn thì dữ dằn, giờ dễ bảo như con cún. Một chân trước của nó túm một ngón tay Trần Trận mà liếm, còn cắn nhẹ bằng những chiếc răng bé tí. Ánh mắt con sói cũng rất dịu dàng, dễ chịu, ánh mắt như cười, coi Trần Trận như người mẹ kế.

Vất vả có thừa, nhưng sói đem lại cho Trần Trận niềm vui. Lúc này, cậu bỗng nghĩ đến thời xa xưa hoặc một nơi nào đó của hiện tại, sói mẹ dịu dàng liếm bụng cho "thằng sói con", còn "thằng sói con" đang vui vẻ ngậm ngón chân của nó. Một đàn sói lớn nhỏ đứng vây quanh thản nhiên nhìn thằng sói béo tốt, lại còn đem thịt đến cho nó ăn. Xưa nay có biết bao sói mẹ nuôi trẻ em, còn con người thì đã nuôi bao nhiêu sói con? Truyền thuyết lạ lùng về sói bao năm nay, bây giờ cậu mới là người trong cuộc, tận mắt chứng kiến khía cạnh lương thiện ôn hòa của loài sói. Xúc động sâu sắc, cậu mong được thay mặt những người con của sói, bất kể đó là cổ Hung Nô, Cao Xa, Đột Quyết hoặc cổ La Mã, Ấn Độ và Liên Xô, báo cho họ biết sự kính nể của nhân loại. Cậu cúi xuống dùng mũi cụng vào cái mũi ẩm ướt của con sói. Con sói liếm má cậu như chó khiến cậu rất vui và cảm động. Đây là lần đầu tiên con sói tỏ vẻ tín nhiệm cậu. Tình cảm giữa cậu và sói đã tiến thêm một bước. Cậu từ từ hưởng thụ tình hữu nghị thuần khiết này, cảm thấy sính mạng của cậu vươn dài dài mãi tới thời xưa, vì vậy trong khoảnh khắc cậu thấy mình già đi nhiều nhưng vẫn giữ được tính trẻ con của nhân loại thuở ban sơ.

Chỉ mỗi chuyện khiến cậu chưa yên tâm, con sói này không nhặt từ ngoài đồng đem về, cũng không phải một con sói mồ côi, mẹ nó đã chết vì bệnh tật hay trong chiến đấu. Nếu là con sói mồ côi thì việc nuôi dưỡng nó là xuất phát từ tình thương. Đằng này cậu nuôi nó hoàn toàn có tính cưỡng bức, là một ý đồ của con người. Vì mục đích tìm hiểu và nghiên cứu, cậu đã làm ngược lại câu chuyện đẹp đẽ giữa người và sói lưu truyền cho tới bây giờ. Cậu lúc nào cũng lo con sói mẹ trả thù. Đây có lẽ là sự khắc nghiệt và bất khả kháng trong tiến trình khoa học và văn minh? Hãy để cho ông trời giải quyết những chuyện đó. Ý cậu là từ đó mà xâm nhập lĩnh vực bái vật của các dân tộc thảo nguyên.

Nhị Lang đã ăn hết xuất của nó. Nó chậm rãi đi về phía Trần Trận. Nhị Lang mỗi khi trông thấy Trần Trận mát xa cho con sói, liền tới thật gần nhìn cả hai bằng ánh mắt tò mò. Có khi nó còn liếm bụng con sói. Trần Trận giơ tay xoa đầu nó, hình như nó cười. Từ khi nuôi con sói, khoảng cách giữa Trần Trận và nó đột nhiên rút ngắn, chẳng lẽ trong cậu cũng có tính hoang dã và tính sói? Nó đã ngửi thấy rồi đấy thôi. Nếu mà như thế thì hay thật; Một người có tính sói hoang dã, một con chó có tính sói hoang dã, cộng với một con sói thuần chủng, cùng sống trên thảo nguyên hoang dã và đầy sói tính. Vậy độ tuổi về tình cảm của cậu đột nhiên cao chồng chất. Cậu càng có cảm giác chân thực từ viễn cổ tới hiện đại, cảm giác viễn cổ càng chân thực, cậu càng cảm thấy sinh mệnh của mình là bất tử. Chẳng lẽ con người hiện đại cứ thích xông vào hoàn cảnh nguyên thủy để khám phá những điều kỳ lạ, chẳng lẽ trong tiềm thức "kéo dài" tuổi thọ từ hướng ngược lại? Cuộc sống của cậu bỗng trở nên kỳ lạ hơn cả câu chuyện về những đứa con của sói.

Trần Trận thấy từ khi cậu mê thảo nguyên, những uỷ mị ươn hèn trong người cậu hình như đang giảm đi. Cậu cảm thấy một dòng máu lạ mang sói tính bắt đầu chảy trong huyết quản. Sinh mạng trở nên khoẻ khoắn, cuộc sống vô vị trước đây bỗng đầy ý nghĩa. Cậu thấy mình đã nhận thức lại về sinh mạng và cuộc sống, bắt đầu yêu quý sinh mạng và cuộc sống. Dần dà cậu hiểu ra rằng vì sao "yêu quý sinh mạng" lại gắn với con sói sắp chết, vì sao Lênin trước phút lâm chung, yêu cầu bà Corupxcaia đọc cho nghe truyện "tình yêu cuộc sống" của Giác London. Lênin đi vào giấc ngủ vĩnh hằng khi nghe câu chuyện về cuộc quyết đấu giữa người và sói. Linh hồn ông có thể được một sói tổ dị tộc dẫn đến chỗ ông Mac. Ngay cả những bậc vĩ nhân sức sống dồi dào trên thế giới còn phải đến thảo nguyên và sói để tìm sức sống mới, huống chi cậu là một con người bình thường.

Trần Trận dần dà tư duy xa hơn, cậu bỗng nhận ra, chân tướng của sinh mạng không phải ở vận động mà là ở chiến đấu. Khởi thủy sinh mạng của động vật có vú là hàng triệu con tinh trùng với tinh thần quyết tử vây quanh cái trứng, kẻ trước ngã kẻ sau tiên lên, thây chất đầy tử cung. Những con chỉ vận động mà không chiến đấu, di chuyển mà không đánh thì bị đào thải không thương tiếc, bị bài tiết ra ngoài cơ thể cùng với nước tiểu. Chỉ có một dũng sĩ tinh trùng chiến đấu ngoan cường bước lên xác triệu triệu anh em đồng bào, mới lọt vào trong trứng, cùng trứng kết thành phôi thai - một sinh mạng mới của con người. Thời gian này, trứng không ngừng tiết dịch, loại bỏ những tinh trùng yếu đuối mất sức chiến đấu. Sinh mạng do chiến đấu mà có, chiến đấu là bản chất của sinh mạng. Rất nhiều nền văn minh vĩ đại của các dân tộc nông canh trên thế giới bị tiêu diệt, chính là vì về cơ bản nông nghiệp là lao động trong hòa bình, còn các nghề săn bắn chăn thả, hàng hải, công thương nghiệp từng giờ từng phút chiến đấu quyết liệt trên các mặt trận. Các dân tộc phát triển nhất trên thế giới hiện nay đều là hậu duệ của các dân tộc du mục, hàng hải và công thương. Ngay dân tộc Mông Cổ bị hai nước lớn kìm cặp ở Bắc Á, ở sâu trong đại lục nghèo khổ bần hàn, cư dân thưa thớt, nhưng vẫn không bị tiêu diệt, rõ ràng là dân tộc Mông Cổ có sức chiến đấu và sức sống mạnh hơn các dân tộc cổ Ai Cập, cổ Babilon và cổ Ẩn Độ trong lịch sử thế giới.

Con sói bắt đầu cào chân Trần Trận, cậu biết nó sắp phóng uế. Nó cũng trông thấy Nhị Lang, muốn chơi đùa với Nhị Lang. Trần Trận buông tay, con sói nhảy xuống đất tè một bãi rồi chạy ra chơi với Nhị Lang. Nhị Lang vui vẻ nằm uỵch xuống, tình nguyện làm "núi giả" cho sói leo trèo. Lũ cún cũng muốn trèo lên, nhưng Nhị Lang gạt xuống hết. Con sói gầm gừ ra vẻ vị chúa tể. Hai con cún đực đột nhiên giả vờ tấn công con sói, con cắn tai con cắn đuôi. Cả ba con chó cùng xông lên, đè rập con sói xuống mà cắn xé. Con sói nổi giận chống lại quyết liệt, một trận ẩu đả diễn ra, bụi bay mù mịt. Nhưng chỉ lát sau, Trần Trận nghe thấy một con cún đực kêu thảm thiết, chân trước của nó đã toé máu. Con sói trong lúc vui đùa đã lộ bản chất sói của nó.

Trần Trận quyết định đóng vai trò quan tòa. Cậu xách gáy con sói đặt xuống trước cái chân bị thương của con cún, giúi mũi nó vào chỗ bị thương, nhưng con sói nhất định không nhận lỗi, tiếp tục nhe răng gầm gào khiến lũ chó sợ quá, nấp sau con Ilua. Con Ilua nổi giận, liếm qua loa vết thương rồi vừa sủa vừa xông tới cắn con sói. Trần Trận vội bế con sói lên, cậu sợ, tim đập thình thịch, không biết khi nào hai con chó lớn này cắn chết con sói? Không lồng không chuồng, nuôi tiểu bá vương này gay go quá. Cậu vội xoa cổ vỗ về con Ilua cho nó nguôi giận. Cậu đặt con sói xuống đất, con Ilua không thèm để ý, dẫn ba con cún đi chỗ khác. Con sói lại trèo lên lưng con Nhị Lang, kỳ lạ là con Nhị Lang lại có phần yêu con sói hơn.

Mãi cho chó ăn, đến bây giờ Trần Trận mới sửa soạn xe bò, chuẩn bị dọn nhà. Chợt cậu trông thấy ông Pilich kéo cỗ xe bò trên có ít củi đi về phía lều cậu. Trần Trận vội nhảy xuống xe, đem con sói thả xuống hang, đậy nắp, chèn hòn đá lên. Tim cậu đập mạnh đến nỗi ước gì có một hòn đá để nén xuống.

Con Vàng và con Ilua dẫn lũ chó cún ra đón ông già. Trần Trận vội giúp ông dỡ các thứ trên xe, cột bò, đỡ lấy túi đồ nghề thợ mộc trên tay ông. Mỗi khi chuyển nhà, ông già thường sửa chữa xe cộ giúp đám thanh niên trí thức. Trần Trận bảo: Bố ơi, từ nay bố không cần sửa xe giúp anh em chúng con. Công việc này chúng con làm lấy được rồi...

Ông già nói: Sửa qua loa là không xong, lần này đi rất xa, hai ba ngày, đường cho xe bò cũng không có, chỉ một hàn hỏng xe cũng chậm trễ cho cả đội.

Trần Trận nói: Bố vào trong lều uống trà để con dỡ hết các thứ trên những xe cần sửa.

Ông già nói: Trà của các cậu đen ngòm, tôi không uống đâu. Nói xong, ông già phăm phăm đi tới cái hối nhốt con sói, nói - Để tôi xem con sói cậu nuôi đã.

Trần Trận sợ mất vía, vội ngăn ông già: Bố uống trà đi. Đừng xem làm gì.

Ông già trợn mắt nạt: Gần một tháng rồi, sao không cho tôi xem?

Trần Trận một liều ba bảy cũng liều, nói: Bố, con định nuôi con này lớn, lai lấy một đàn bec giê.

Ông già lửa giận bừng bừng, nói: Bậy bạ, bậy bạ hết! Sói nước ngoài có thể cho phối giống với chó nhà, nhưng sói Mông Cổ thì không. Sói Mông Cổ không bao giờ nhìn nhận chó nhà. Giờ lại bảo phối giống? Có mà nằm mơ! Đợi đấy, sói sẽ ăn thịt chó nhà cho mà xem. Ông già càng nói càng cáu, bộ râu dê rung lên từng sợi: các cậu ngày càng chẳng ra làm sao. Tôi sống trên thảo nguyên đã hơn 60 năm chưa nghe nói người nuôi sói. Sói có nuôi được không? Sói có chịu sống chung với chó không? So với sói thì chó là cái thứ gì? Chó ăn phân người, sói ăn xác người. Chó sực phân người nên là nô lệ của người, sói ăn xác người, là thần linh dẫn linh hồn người lên trời. Sói và chó khác nhau một trời một vực. Vậy mà lại ghép đôi? Nếu như người Mông Cổ ta ghép cho Long Vương người Hán một con lợn nái thì người Hán các cậu sẽ làm gì? Mạo phạm thần linh, mạo phạm tổ tông người Mông Cổ! Mạo phạm trời! Các người rồi sẽ gặp báo ứng, ngay cả lão già ngày rồi cũng gặp báo ứng...

Trần Trận chưa khi nào thấy ông già giận dữ đến thế. Con sói - thùng thuốc súng nổ rồi. Tim cậu vỡ ra từng mảnh. Ông già đã bộc lộ tính cánh sói.. Cậu sợ ông già đá tung hòn đá thì chân bị thương, giận nữa liền đập chết con sói. Ông già miệng có gang có thép, càng nói càng dữ dằn, không cho ai ngắt lời: Lúc đầu tôi tưởng dám học sinh người Hán các cậu không hiểu luật lệ thảo nguyên, không biết những điều cấm kỵ, muốn có cái gì mới, chơi đùa vài hôm rồi thôi. Sau đó nghe nói Đanchi cũng nuôi một con, lại còn định cho phối giống với chó nhà, vậy là nuôi đứt đuôi rồi còn gì. Không được, hôm nay cậu phải xử lý nó trước mặt tôi...

Trần Trận biết mình đã đụng vào chuyện tày trời. Hàng ngàn năm nay chưa bao giờ thảo nguyên nuôi sói. Kẻ sĩ thà chịu chết chứ không chịu nhục. Sói có thể giết có thể thờ nhưng không thể nuôi. Ở nơi gan ruột của thảo nguyên, đất tổ của người Mông Cổ, nơi thờ phụng trời, thánh địa thờ phụng vật tổ, tông sư, chiến thần, hộ thần của người Mông Cổ, mà một thanh niên người Hán lại nuôi một con sói, thì quả là đại nghịch vô đạo! Nếu như chuyện này xảy ra vào thời cổ đại, Trần Trận sẽ bị coi là kẻ dị giáo, chắc chắn bị tội bốn ngựa phanh thây rồi cho chó ăn. Ngay thời bây giờ cũng bị coi là vi phạm chính sách của nhà nước đối với dân tộc thiểu số, tổn thương tình cảm dân tộc của dân thảo nguyên. Nhưng điều mà Trần Trận sợ nhất là đã làm cho ông Pilich nổi giận, làm tổn thương tình cảm của ông, một ông già Mông Cổ đã dẫn dắt cậu đi sâu vào lĩnh vực tinh thần "tôtem sói" thần bí của người Mông Cổ, và ngay cả cái ổ sói cũng là do ông già chỉ vẽ từng tí mới đào được. Cậu không còn cách nào bảo vệ quan điểm của mình. Cậu ấp úng: Bố! Ông già gạt phắt: Đừng gọi tôi là bố nữa! Trần Trận van nài: Bố, con sai rồi, đó là con không hiểu luật lệ Mông Cổ, xúc phạm đến bố... Bố, bố cho con biết phải xử lý với con sói đáng thương như thế nào. Cậu khóc, nước mắt lã chã, ướt cả con sói và đám cỏ dưới chân.

Ông già sững người, nhìn Trần Trận chăm chú, nhất thời chưa biết nên xử lý như thế nào đối với con sói. Ông biết rõ Trần Trận nuôi con sói không phải để phối giống, mà vì quá mê thảo nguyên. Trần Trận là đứa con người Hán do ông chỉ bảo từng li từng tí, cậu ta say mê thảo nguyên hơn cả lớp thanh niên Mông Cổ bây giờ. Vậy mà chính Trần Trận đã phạm một tội mà ông không thể tha thứ, một việc mà ông chưa từng gặp, chưa từng xử lý.

Ông già ngửa mặt lên trời, than thở: Tôi biết thanh niên người Hán các cậu không tin thần thánh, không quan tâm tới hồn phách của mình. Tuy hơn hai năm nay cậu ngày càng thích thảo nguyên và sói, nhưng cậu chưa hiểu tôi. Tôi già rồi, mỗi năm một yếu. Thảo nguyên gian khổ, rét buốt. Người Mông Cổ suốt đời đánh nhau như người rừng, người già Mông Cổ bệnh tật đầy mình, không sống nổi. Tôi cũng chỉ vài năm nữa là lên chầu trời. Sao cậu lại nuôi người sẽ dẫn ta lên trời trong một cái ổ chó? Cậu làm vậy là tôi có tội, trời có thể không nhận linh hồn tôi, mà quảng tôi xuống địa ngục phía dưới sa mạc Gôbi. Trên thảo nguyên mà ai cũng như cậu đối xử với sói như nô tài thì linh hồn người Mông Cổ đi đâu về đâu?

Trần Trận khẽ khàng giải thích: Bố, con đối xử với sói như nô tài ở chỗ nào? Chính con đã trở thành nô tài thì có. Con hàng ngày hầu hạ sói chẳng khác hầu hạ các vương công Mông Cổ, vắt sữa cho ăn sữa, nấu cháo cho ăn cháo, ninh thịt cho ăn thịt. Sợ sói lạnh, sợ sói ốm, sợ sói bị chó cắn, bị người đánh, sợ bị đại bàng cắp đi, sợ sói mẹ tha đi, ngủ cũng không ngon giấc. Ngay cả Cao Kiện Trung cũng bảo con là nô lệ. Bố biết đấy, con là người Hán sùng bái sói nhất. Ông trời sẽ thấy, ông trời rất công bằng sẽ không bắt tội bố.

Ông già lại hơi sững. Ông biết những lời Trần Trận đều rất thật. Nếu như cậu cung phụng sói như cung phụng thần linh hoặc vương công Mông Cổ, thì như vậy là mạo phạm thần linh hay tôn kính thần linh? Ông rất khó nói sao cho phải. Dù cách thức không phù hợp với quy củ người Mông Cổ, nhưng tấm lòng của cậu ta là chân thành. Người Mông Cổ rất coi trọng tấm lòng. Ánh mắt như sói dịu lại, Trần Trận hi vọng tranh thủ được ông già thông mình phá lệ cho cậu thanh niên người Hán mà tha mạng cho một sinh linh bé nhỏ mới được hơn hai tháng.

Thoáng chút hi vọng, Trần Trận gạt nước mắt thở ra một hơi, cố nén tâm trạng bấn loạn, nói: Bố, con nuôi sói là để tìm hiểu tính cách và phẩm hạnh của sói thảo nguyên, muốn biết vì sao sói lợi hại, thông minh, vì sao dân tộc thảo nguyên sùng bái sói đến thế. Bố không biết người Hán ghét sói ghê gớm, gọi kẻ ác nhất, thâm độc nhất là sói, kẻ tàn bạo nhất là dữ như sói, gọi kẻ chà đạp phụ nữ nhất là quân háo sắc như sói, gọi kẻ có dã tâm nhất là lòng lang dạ sói. Người lớn còn doạ trẻ con: Sói đến đấy!

Trần Trận thấy ông già không dễ sợ như lúc nãy, mạnh dạn nói tiếp: Trong con mắt người Hán, sói là con vật xấu xa nhất, hung dữ nhất, tàn ác nhất. Nhưng người Mông Cổ thì lại thờ sói như thần, sống học tập sói, chết cho sói ăn thịt. Lúc đầu cũng không hiểu vì sao. Hơn hai năm trên thảo nguyên, nếu không có bố thường xuyên dạy dỗ, kể chuyện và giới thiệu đạo lý về sói, thường xuyên dẫn con đi quan sát sói, săn bắt sói, thì con đã không mê sói đến như thế, không hiểu được nhiều điều như thế. Nhưng con cho rằng, quan sát sói từ xa thì không hiểu hết sói. Tốt nhất là nuôi một con sói nhỏ, quan sát gần, hàng ngày đánh bạn với nó. Hơn một tháng nuôi con sói, quả là con biết được rất nhiều thứ mà trước kia không biết. Con ngày càng thấy rằng sói là loài động vật đáng nể, đáng cho con người sùng bái. Nhưng hiện nay có quá nửa số thanh niên trí thức chưa chịu thay đổi cách nhìn về sói. Họ ở trên thảo nguyên mà vẫn không hiểu sói thì hàng trăm triệu người dưới xuôi chưa từng lên thảo nguyên làm sao hiểu được? Sau này người Hán lên thảo nguyên càng nhiều, diệt hết sói thì thảo nguyên sẽ như thế nào? Người Mông Cổ gặp hoạ, người Hán gặp càng lớn hơn. Con không thể để thảo nguyên đẹp đẽ này bị hủy hoại...

Ông già thôi không nhìn Trần Trận bằng ánh mắt u uất, ông nói, giọng trầm trầm: Với lại, cậu nuôi sói con, thế nào cũng dụ sói mẹ tới cùng với đàn sói. Sói thảo nguyên Ơlon nổi tiếng về bảo vệ sói con. Mũi chúng rất thính. Tôi đoán nó thể nào cũng về đây để báo thù. Sói Ơlon chuyện gì cũng dám làm. chuyện đã xảy ra với đội ta có ít đâu. Nếu như xảy sự cố lần nữa, lão Ulichi và các cán bộ làm sao ngóc đầu lên nổi? Nếu đàn sói nhắm vào đàn cừu của cậu, thừa dịp giết chết quá nửa, vậy cái tội nuôi sói gọi sói về hủy hoại tài sản tập thể, cậu ngồi tù là cái chắc.

Trần Trận vừa nhẹ nhõm được phân nửa tâm tư, giờ lại nặng trĩu. Bản thân chuyện nuôi sói trong vùng dân tộc thiểu số đã vi phạm chính sách, giờ lại nuôi sói bên cạnh đàn cừu, chẳng phải cố ý phá hoại sản xuất thì là gì? Nếu liên hệ với cậu vấn đề "đi theo con đường tư bản chủ nghĩa" của bố cậu, dứt khoát lại trở thành chuyện lập trường tư tưởng, và lại liên can đến nhiều người. Trần Trận bất giác tay run bắn, xem ra hôm nay cậu không tránh khỏi đích thân đưa con sói về trời.

Ông già giọng đã dịu: Bao Thuận Quý lên chức. Ông ta là người Mông Cổ nhưng đã mất gốc từ lâu. Ông ta ghét sói còn hơn người Hán, không diệt sói thì không giữ được chức. Cậu xem, liệu ông ta có cho cậu nuôi không?

Trần Trận cố vớt vát lần cuối, cậu nói: Bố có thể nói với ông ta một câu được không? Nói là nuôi sói để diệt sói tốt hơn, đây là thực nghiệm khoa học.

Ông già nói: Chuyện này thì cậu phải gặp ông ta mà nói. Hôm nay ông ta đến ở trong nhà tôi, mai cậu gặp. Ông già đứng lên ngoảnh lại nhìn hòn đá, nói: Cậu nuôi sói không sợ lớn lên nó cắn cừu, cắn cậu, cắn những người khác. Răng sói rất độc, bị cắn rất dễ chết. Hôm nay tôi không xem con sói nữa, thấy nó tôi không chịu được. Nào, đi sửa xe.

Lúc sửa xe, ông già không nói một câu. Trần Trận chưa chuẩn bị về mặt tâm lý nếu phải hành quyết con sói, nhưng cậu không muốn làm phiền thêm ông già và ông Ulichi vốn đã không ít khó khăn...

Ông già Pilich và Trần Trận sửa xong hai cỗ xe bò kéo, lúc sang cỗ thức ba bỗng ba con chó sủa ầm lên. Bao Thuận Quý và Ulichi một trước một sau phóng ngựa tới. Trần Trận vội nạt lũ chó. Bao Thuận Quý nói với ông Pilich: Nhà bảo tôi ông đến đây, tôi đang muốn xem con sói của cậu Trận, ủy ban quyết định lão Ulichi ở cùng ông. Đám trên ủy ban suýt nữa đưa lão Ulichi về đội xây dựng cơ bản làm lao động chân tay.

Trần Trận tim đập như trống làng, trên thảo nguyên tin đồn nhanh hơn ngựa.

Bao Thuận Quý nói: Chuyện tìm ra bãi chăn mới rúng động lãnh đạo huyện, trên ấy rất quan tâm chuyện này, chỉ thị chúng ta phải hoàn thành trong năm nay. Thêm một bãi chăn lớn bằng ngần ấy, chắc chắn tăng gấp đôi đầu gia súc, quả là chuyện tốt lành. Chuyện này do hai ông khởi xướng, nên để lão Ulichi ở cùng ông, có gì hai người tiện bàn bạc, nghiên cứu.

Ông già nói: Chuyện này do lão Ulichi khơi ra, lúc nào lão Ulichi cũng nghĩ tới mục trường.

Bao Thuận Quý nói: cái đó thì đã hẳn. Tôi đã hỏi ý với lãnh đạo, mọi người mong lão lấy công chuộc tội.

Ulichi cười nhạt: Bàn công với tội làm gì. Vào sự việc cụ thể đi. Đường xa, di chuyển khó khăn, ủy ban nên điều ô tô và hai máy kéo đến giúp đội. Điều cho một số lao động sửa đường...

Bao Thuận Quý nói: Tôi đã triệu tập cán bộ đội tối nay họp, khi ấy ta sẽ bàn. Bao Thuận Quý ngoảnh lại bảo Trần Trận: Hai bộ da cậu đưa lên tôi đã cho thợ thuộc, gửi biếu lãnh đạo cũ của tôi rồi. Ông vui lắm, không ngờ thanh niên trí thức Bắc Kinh lại diệt được hai con sói to như thế, khá lắm, ông nhờ tôi chuyển lời cám ơn cậu.

Trần Trận nói: Sao ông lại bảo là cháu bắt được, chó bắt đấy chứ. Cháu không dám cướp công của chó.

Bao Thuận Quý vỗ vai Trần Trận, nói; Chó của cậu bắt tức cậu bắt. Xưa nay công lao của cấp dưới vẫn được ghi cho cấp trên, đó là truyền thống vẻ vang của quan đội ta. Nào, cho tôi xem con sói của cậu!

Trần Trận đưa mắt nhìn ông già Pilich, ông già không nói gì. Cậu vội nói: Cháu không định nuôi nó nữa. Nuôi sói là vi phạm phong tục tập quán của dân du mục, và cũng rất nguy hiểm, nếu đàn sói kéo đến thì trách nhiệm này cháu chịu sao nổi. Cậu vừa nói vừa bê hòn đá và cái thớt ra chỗ khác. Dưới hố, con sói béo mũm mĩm đang trèo lên, thấy phía trên có nhiều người, nó nép vào một góc gầm gào nhưng bốn chân thì run bần bật. Bao Thuận Quý mắt sáng lên, lớn tiếng khen: Chà, con sói mới to chứ! mới nuôi có hơn tháng mà đã lớn gấp đôi những con cậu nộp lên, biết thế để các cậu nuôi tất, lớn lên hãy lấy da có tốt không, chỉ hơn chục con đã được một áo khoác ngoài. Các vị coi, bộ lông con này mới đẹp làm sao, mượt như nhung, dày hơn những con chưa cai sữa...

Trần Trận mặt buồn rười rượi: Có lẽ cháu không nuôi nổi. Nó ăn kinh lắm, mỗi ngày một chậu to cháo thịt, lại còn một bát sữa.

Bao Thuận Quý nói: Sao cậu tính không ra nhỉ? Sang năm các đội không được giết ngay, lớn gấp hai gấp ba hãy giết.

Ông Pilich cười nhạt: Đâu ngon ăn thế. Trước khi cai phải cho nó tí sữa chó. Sói nhiều thế kiếm đâu ra chó cái để cho bú? Bao Thuận Quý nghĩ lại, nói: ừ nhỉ, có chuyện thế thật.

Trần Trận thò tay xách cổ con sói lên. Nó quẫy đạp, cào cấu lung tung trong khoảng không. Quả thực sói sợ người từ trong máu, cùng lắm mới cắn trả.

Trần Trận đặt con sói xuống đất. Bao Thuận Quý tay nắn nắn con sói: Đây là lần đầu tiên tôi sờ vào một con sói sống, béo ra béo, tuyệt!

Ulichi nói: Cậu Trận này, xem ra hơn một tháng nay công sức của cậu bỏ ra không uổng. Sói con trên núi chưa lớn bằng sói cậu nuôi. Cậu nuôi tốt hơn sói mẹ. Từ lâu đã nghe nói cậu mê sói, gặp ai cũng gạ kể về sói. Không ngờ cậu còn nuôi sói, này, cậu có tẩu hỏa nhập ma không đấy?

Ông Pilich nhìn mê mẩn con sói con. Ông cất tẩu thuốc, dùng bàn tay quạt cho khói ở miệng hang bay đi, nói: Tôi ngần này tuổi đầu lần đầu tiên thấy sói nuôi, mà lại béo tốt. Cậu Trận này quả có chí, khi nãy cứ xin tôi mãi. Nhưng mà nuôi sói bên cạnh đàn cừu thì có trái khoáy không? Nếu hỏi mục dân trong đội, chẳng ai đồng ý cho cậu ấy nuôi. Nhân có hai ông ở đây, tôi nghĩ, cậu ấy đã có chủ ý nghiên cứu khoa học, ý kiến hai ông ra sao?

Bao Thuận Quý vốn rất khoái chuyện nuôi sói, suy nghĩ một thoáng, nói; Giết con sói này cũng tiếc, chỉ một bộ da nó thì chưa được việc. Nuôi từ khi chưa cai sữa mà lớn như thế đâu có dễ. Theo tôi thì cứ để cho cậu ấy nuôi thử, giải thích là làm thực nghiệm khoa học thì cũng xuôi. Mao chủ tịch nói: Nghiên cứu kẻ thù để đánh thắng kẻ thù. Tôi cũng đang suy ngẫm về sói, sau này còn phải đến thăm con sói này nhiều lần. Nghe nói cậu còn định cho phối giống để lai tạo giống chó bec giê phải không?

Trần Trận gật: Vâng, nhưng bố Pilich nói không được.

Bao Thuận Quý hỏi Ulichi: Chuyện này đã làm bao giờ chưa?

Ulichi nói: Dân thảo nguyên sùng bái sói, làm gì có chuyện cho sói phối giống với chó.

Bao Thuận Quý nói: Cũng để thử coi, thực nghiệm khoa học mà lại! Nếu như lai được giống bec giê Mông Cổ, chưa chừng lại tốt hơn bec giê Liên Xô. Sói Mông Cổ lợi hại nhất so với các loài sói trên thế giới, nếu lai tạo được chắc chắn là tốt. Chuyện này chắc quân đội rất khoái, nếu thành công, khỏi mất ngoại tệ mua của nước ngoài. Mục dân Mông Cổ có bec giê sói trông cừu, chắc sói không dám bén mảng tới. Thế này nhé, từ nay nếu mục dân có nói gì, các ông cứ bảo là đang thực nghiệm khoa học. Có điều cậu Trận phải nhớ bảo đảm an toàn.

Ulichi nói: Ông Quý cho nuôi thì cậu nuôi thử. Có điều, tôi cảnh báo cậu, lỡ xảy ra chuyện gì cậu phải chịu trách nhiệm. Đừng để liên lụy đến ông Quý. Tôi thấy như vầy quá nguy hiểm, phải kiếm cái xích xích nó lại, không cho nó cắn người và cừu.

Bao Thuận Quý nói: Đúng, không được để cắn người, cắn người là tôi bắn chết.

Trần Trận bối rối tới mức tim cậu suýt nhảy ra khỏi lồng ngực, luôn miệng hứa: Nhất định là như thế! Nhưng còn một chuyện mong các ông giúp: cháu biết mục dân phản đối nuôi sói, các ông nói hộ cháu một câu.

Ulichi nói: Ông bố cậu nói hơn bọn tôi, ông nói một câu bằng bọn tôi nói trăm câu!

Ông già lắc đầu, nói: Tôi dạy chệch mất rồi, đây là lỗi tại tôi, để tôi dàn xếp vậy.

Ông già bỏ lại túi đồ nghề cho Trần Trận, dong xe trở về. Bao Thuận Quý và Ulichi cũng lên ngựa kéo theo xe bò, đi luôn.

Trần Trận vui mừng như người vừa ốm khỏi, đến nỗi thần kinh chùng lại, chân tay rã rời như lúc ngồi bên hang sói. Cậu ôm chặt con sói chặt đến nỗi nó nhe răng định cắn. Cậu vội gãi tai cho nó. Gãi đúng chỗ ngứa, con sói xử nhũn ngay lập tức. Nó nhắm mắt, miệng hé mở, vươn đầu vươn vai đón Trần Trận, toàn thân run lẩy bẩy như bị chứng liệt rung.

Chương 19

Thượng hoàng (Hán Vũ Đế - người dẫn chú) xuống chiếu viết rằng: "... Người Hung Nô thường nói: Hán cực mạnh nhưng không chịu được đói khát, mất một sói, đuổi ngàn cừu. Vậy là hai lần đem quân đánh đều thua, quân sĩ tan tác, Trẫm rất đau lòng."

Tư Mã Quang "Tư trị thông giám Hán Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế hạ chi hạ"

Bao Thuận Quý dẫn Batu, Saxuleng tất cả năm thợ săn và Dương Khắc, cùng bảy tám con chó lớn đến bãi chăn mới, hai cỗ xe bánh lốp chở lều bạt, đạn dược và nồi niêu bát đũa theo sau.

Bước lên đầu phía tây bãi chăn, Bao Thuận Quý và các thợ săn dùng ống nhòm quan sát từng quả đồi con suối, từng khúc quanh của con sông trong thung lũng lòng chảo, nhưng không hề thấy một con sói hoặc một con dê nào, chỉ thấy từng đàn vịt trời, nhạn và mười mấy con thiên nga.

Mấy tay thợ săn thấy nói săn sói vào đầu hạ thì không hào hứng, nhưng họ mê mẩn trước cảnh đẹp thiên nhiên nước xanh cỏ biếc ở nơi này. Dương Khắc cảm thấy mắt cậu như biến thành màu xanh, liền nhìn mắt những người khác, cũng thấy xanh biếc như mắt con sói bắt đèn đêm đông, đẹp dễ sợ. Từ trên núi đi xuống, màu xanh bát ngát, hương thơm sực nức không khí trong lành, bụi bặm ở đây hiếm như vàng sa khoáng trong cát. Vó ngựa và bánh xe nhuốm mùa xanh của cỏ, ngay cả thanh dóng ngang đoạn tiếp đất cũng màu xanh. Ngựa ra sức lắc hàm thiết, cố bứt vài cọng cỏ non. Dương Khắc hơi tiếc là đám hoa dại mà Trần Trận giới thiệu đã tàn lụi, thuần một màu xanh kê cũng đơn điệu.

Bao Thuận Quý như phát hiện ra mỏ vàng, reo ầm lên: Đúng là phong thủy bảo địa, tập trung báu vật trong thiên hạ, trước tiên nên mời các thủ trưởng quân khu về chơi vài hôm săn ngỗng, săn vịt trời, rồi thì nướng thịt trên đồng cỏ. Dương Khắc nghe chối tai quá, trước mắt cậu hiện ra con quỉ với đôi cánh màu đen trong vẻ balê "Hồ thiên nga".

Đoàn ngựa nhẹ nhàng đi xuống, qua một con dốc thoai thoải, Bao Thuận Quý nói khẽ: Nhìn bên trái, một đàn thiên nga đang ăn cỏ chỗ con suối, ta sang bên đó bắn lấy một con. Nói xong, ông ta dẫn hai thợ săn chạy đi. Dương Khắc ngăn không kịp đành chạy theo, vừa chạy vừa dụi mắt. Quả nhiên khe suối phía trước có một mảng lớn màu trắng nhức mắt, trắng như đám cừu non đầu hạ, như đám thiên nga nhìn qua ống nhòm hồi nảy. Dương Khắc giận đến nghẹt thở, cậu không có súng trong tay, nếu có cậu sẽ cho súng cướp cò, để đàn thiên nga sợ bay đi. Chạy như điên một đoạn, cái chấm trắng vẫn không động cựa. Dương Khắc gần như muốn hét lên. Đúng khi ấy, cánh thợ săn đột nhiên gò cương hạ súng, giảm tốc độ và nói to câu gì đó. Bao Thuận Quý cũng kìm ngựa lấy ống nhòm ra. Dương Khắc cũng lấy ống nhòm ra nhìn. Khi thấy rõ cái vật trắng tinh ấy toàn là hoa thược dược dại. Đầu hạ năm trước, Dương Khắc từng trông thấy hoa thược dược dại, cứ vài cây một bụi rải rác đây đó, chưa bao giờ thấy cả mảng lớn như thế này. Cậu cảm thấy đám bạch dược là do những con thiên nga lắc mình một cái biến thành.

Bao Thuận Quý không cụt hứng, trái lại hét váng lên: Trời ạ, tôi chưa bao giờ thấy bạch thược đẹp như thế này, đẹp hơn bạch thược trong công viên thành phố. Mau đến đó xem. Mấy con ngựa lại phi nước đại.

Đến nơi, Dương Khắc choáng váng, tưởng như gặp hoa thần tiên. Dưới đáy một con suối đầy đất bùn, ba bốn mươi khóm bạch thược đang nở rộ, mỗi khóm cao một mét, to một ôm, những cành thô bằng ngón tay út, thẳng đuột từ dưới đất chui lên khỏi mặt đất chừng một thước là lá rậm, trên đó nở chục bông hoa trắng lớn như hoa mẫu đơn, che khuất hết lá phía dưới. Khóm hoa như một lẳng hoa do một bàn tay thần cắm chi chít, chỉ trông thấy hoa không trông thấy lá, chả trách trông xa tưởng thiên nga. Dương Khắc lại gần, bông nào bông ấy tâm hoa rực rỡ, cánh hoa mịn màng, thanh thoát hơn mẫu đơn, thung dung hơn nguyệt thế. Cậu chưa bao giờ trông thấy cảnh tráng lệ đến thế nơi đồng nội, tinh tươm hoàn mĩ hơn sự tô điểm của bàn tay con người, như bầy tiên trong cảnh ảo hồ thiên nga...

Bao Thuận Quý cũng ngây ra nhìn. Ông ta sững sờ kêu: Cái của này hiếm đây, đem về thành phố hỏi bán được bao nhiêu tiền? Mình phải bứng mấy khóm biếu thủ trưởng quân khu, các vị chắc khoái. Cán bộ lão thành không thích tiền, chỉ thích hoa quý. Biếu thứ hoa này là để nói rằng mình rất hiểu các vị. Cậu Khắc này, cậu thấy nhà khách chính phủ có loại thược dược mê hồn như vầy không?

Dương Khắc nói: Nói gì nhà khách chính phủ, ngay cả công viên hoàng gia nước ngoài cũng không thấy loại hoa này.

Bao Thuận Quý cả mừng, quay lại bảo cánh thợ săn: Các cậu nghe rõ chưa? Đây là loại hoa quý, phải trông nom cẩn thận. Lúc về, chặt ít cành hạnh rào đám hoa này lại.

Dương Khắc nói: Sau này ta lại dọn nhà thì sao, cháu sợ có kẻ đánh cắp.

Bao Thuận Quý nghĩ một lúc, nói: Ta sẽ có cách, cậu đừng lo.

Dương Khắc tỏ vẻ lo âu: Xin ông đừng bứng nó đi, bứng đi là nó chết đấy.

Đoàn ngựa và xe đến khúc quanh của dòng sông, cánh thợ ăn tìm ra ngay bãi săn của lũ sói, xác dê vàng đã bị chén sạch chỉ còn lại sừng, móng guốc và những mẩu da vụn. Batu nói: Bọn sói đã đến đây bủa vây mấy lần nữa, nhiều đàn. Cậu xem những đống phân sói này, mình đoán các sói chúa đều đã kéo đến. Bao Thuận Quý hỏi: Đàn sói giờ ở đâu?

Batu nói: Chắc là đuổi theo dê vàng vào trong núi, cũng có thể chúng đi bắt rái cá cạn, hoặc đuổi theo dê vàng lên vùng biên. Dê vàng con giờ đã chạy nhanh như dê mẹ, sói khó bắt, nếu không chúng chẳng phải ăn sạch những con ở đây.

Bao Thuận Quý nói: Ông Ulichi và ông Pi rõ ràng là trông thấy mấy trăm con dê vàng, mấy chục con sói, vậy mà chỉ mới hai mươi hôm, chúng biến đi đâu?

Batu nói: Sói về bấy nhiêu, dê vàng dám ở lại không?

Saxuleng cười: Chắc chắn là sói sợ ông, ông đến là chúng biến mất. Người nào quá dữ dằn với sói đều không bắt được sói. Ông xem, ông Pilich rất ưu ái sói, vì vậy mà ông đã bắt là cả đàn.

Batu nói: Ông đã thấy cái hay của sói chưa? Không có sói thì bãi chăn đẹp đẽ này bị dê vàng xơi sạch từ đời tám hoánh rồi! Đàn cừu của ta đến đây ngửi thấy mùi phân dê vàng là chúng không chịu ăn cỏ. Bãi chăn đẹp quá, ngựa cũng không muốn đi. Theo cháu, nên dựng lều ở đây cho ngựa, chó nghỉ ngơi, mai lên núi quan sát.

Bao Thuận Quý đành ra lệnh qua sông. Batu chọn nơi bờ không quá dốc và đáy sông là cát, rồi cùng với các thợ săn dùng xẻng bạt thấp bờ sông. Batu cưỡi ngựa, dắt con ngựa kéo cỗ xe qua sông, chọn nơi bằng phẳng ở sườn núi phía đông dựng lều. Batu cắt đặt hai thợ săn đào bếp đun nước pha trà, rồi nói với Bao Thuận Quý: Cháu ra chỗ khe nam xem có còn con dê bị thương nào không? Đã đến đây ai lại ăn thịt khô đem theo? Bao Thuận Quý vui vẻ nói phải. Batu đem theo hai thợ săn và tất cả chó lớn đi khe nam. Balua và Nhị Lang nhận ra nơi vây bắt dê vàng, máu săn nổi lên, chạy vọt lên hàng đầu.

Dương Khắc quan tâm nhất là cái hồ thiên nga, bấm bụng ở lại không đi theo Batu để ngắm cái hồ. Để được ngắm cái hồ này, cậu hai ngày liền năn nỉ Bao Thuận Quý và ông Pilich cho cậu đặt chân lên trước khi đại đội nhân mã tiến vào bãi chăn mới, để cậu có dịp tận hưởng phong cảnh nguyên sơ của cái hồ này. Lúc này, cậu thấy cái hồ đẹp hơn những gì Trần Trận đã tả. Trần Trận chưa sang mạn đông của con sông. Chỗ này địa thế cao, có thể đi qua cánh rừng lau rậm rạp, thu gọn hồ trong tầm mắt. Cậu ngồi xuống sườn dốc, lấy ống nhòm xem mê mải. Đang trầm tư cảnh tĩnh mịch, chợt tiếng vó ngựa từ phía sau dội tới.

Bao Thuận Quý gọi váng lên: Chà, cậu đang ngắm thiên nga đấy hả? Đi, ta sang bên bãi lầy bắn mấy con cho đỡ thèm. Mục dân ở đây không ăn thịt chim, ngay vịt trời cũng không ăn. Tôi gọi, họ không đi. Họ không ăn, ta ăn. Dương Khắc ngoảnh lại nhìn, Bao Thuận Quý tay cầm khẩu bán tự động.

Dương Khắc suýt vỡ mật vì sợ. Cậu xua tay rối rít: Thiên nga là loài động vật quý hiếm, dứt khoát không được giết. Cháu xin ông đấy, từ nhỏ cháu đã thích vở balê "Hồ thiên nga". Thời kỳ ba năm khó khăn, muốn được xem một nghệ sĩ công huân trẻ Liên Xô diễn chung với diễn viên Trung Quốc, cháu đã trốn học, đêm đông rét mướt là thế mà xếp hàng tới tận nửa đêm mới mua được vé. Vở Hồ thiên nga quá hay, các vĩ nhân và những nhà văn hóa thế giới đều mê, vậy mà ở đây lại có một hồ thiên nga thật. Ăn thịt thiên nga sao? Ông hãy giết cháu đi đã rồi hãy ăn!

Bao Thuận Quý không dè gặp ngay một anh ất ơ. Bị giội gáo nước lạnh, ông ta cụt hứng. Ông vằn mắt, nói: Thiên nga với chả thiên nghiếc, trong đầu cậu đặc sệt tư tưởng tư sản, học sinh cấp III chứ gì? Trình độ văn hóa tôi không kém cậu đâu, không gạt "Hồ thiên nga' khỏi sân khấu thì làm sao đưa được "Hồng sắc nương tử quân" lên?

Saxuleng trông thấy Bao Thuận Quý xách súng về phía bãi lầy, vội chạy đến ngăn, nói: Thiên nga là thần điểu người Mông Cổ thờ cúng, không được bắn! Ông định săn sói cơ mà! Bây giờ ông nổ súng là sói trong núi chạy hết, mình về tay không à?

Bao Thuận Quý ngớ ra. Vội ghìm ngựa quay lại bảo Saxuleng: May mà cậu nhắc, nếu không, lỡ mất việc lớn. Bao Thuận Quý đưa súng cho Saxuleng rồi bảo Dương Khắc: Vậy thì cùng tôi đi trinh sát bãi lầy.

Dương Khắc miễn cưỡng chỉnh yên cương rồi lên ngựa đi theo Bao Thuận Quý. Gần tới hồ, một đàn vịt trời, dại nhạn và các loại chim màu sắc sặc sỡ bay qua, rớt xuống những giọt nước li ti trên đầu hai người. Bao Thuận Quý đứng thẳng trên bàn đạp, tay vịn cọc yên, rướn người nhìn qua bãi lau vào trong hồ. Đúng lúc ấy, hai con thiên nga cổ vươn dài, giang đôi cánh lớn, từ trên ngọn lau lướt trên đầu Bao Thuận Quý chỉ cách khoảng ba mét, khiến ông ta sợ quá ngồi phịch xuống yên. Con ngựa giật mình suýt hất ông ta xuống đất. Thiên nga hình như không sợ người, lượn mấy vòng trên không rồi lại sà xuống hồ, mất hút trong đám lau sậy.

Bao Thuận Quý kìm ngựa, chỉnh lại yên cho khớp với sống lưng ngựa. Ông ta cười: Ở đây thiên nga quá dễ, bắn cung cũng trúng, thiên nga là vua của loài chim, ăn được một miếng thịt thiên nga, coi như không uổng một đời. Nhưng mà diệt xong sói mới thanh toán bọn này.

Dương Khắc thận trọng hỏi: Hồi nãy ông bảo thược dược là hoa quý cần phải bảo vệ. Giờ đây thiên nga là quốc bảo, là vật báu của thế giới, sao ông không bảo vệ chúng? Bao Thuận Quý nói: Tôi xuất thân nông dân, trọng thực tế. Lấy được mới cho là bảo bối, không lấy được thì bảo bối cái gì? Thược dược không có chân, không chạy đi đâu được. Thiên nga có cánh, người và gia súc đến ở đây thì chúng bay lên phương bắc, thành bảo bối của xét lại Liên Xô...

Dương Khắc nói: Người ta thật sự coi là bảo bối mới không ăn thịt!

Bao Thuận Quý nổi cáu: Nếu biết cậu chẳng hiểu gì như thế, tôi chẳng dẫn cậu đến đây làm gì! Hãy đợi đấy, tôi sẽ cải tạo hồ thiên nga của cậu thành hồ nước cho ngựa uống, bãi lầy cho bò đầm.

Dương Khắc cố nhịn. Cậu rất muốn nổ súng loạn xạ xua đàn thiên nga bay đi, bay khỏi thảo nguyên, bay khỏi Trung Quốc, tới quê hương của vở bale "hồ thiên nga". Ở đó có những người dân yêu quý thiên nga. Còn như cái đất nước mà chim sẻ sắp bị ăn sạch này, chỉ còn lại có cóc nhái này, làm gì có đất cho thiên nga dung thân?

Saxuleng khoát tay vẽ một vòng tròn, lớn tiếng gọi hai người trở về. Hai người vội trở về lều. Tang Kiệt từ mạn đông nam núi cũng đã trở lại, đang chuẩn bị xe. Cậu nói: Batu bắn được mấy con lợn con ở khe đông nam, sai tôi về lấy xe để chở, còn mời chủ nhiệm Quý đến xem. Bao Thuận Quý cười tít mắt, vỗ đùi, nói: Thảo nguyên mà có lợn cỏ? Thật không ngờ, thịt lợn cỏ ngon hơn thịt lợn nhà. Cậu Khắc, ta đi thôi. Dương Khắc có nghe nói thợ săn bắn được lợn cỏ, nhưng từ khi lên thảo nguyên chưa thấy lần nào. Cậu lên ngựa phóng theo Bao Thuận Quý và Tang Kiệt.

Chưa đến chỗ Batu, hai người đã trông thấy mảnh đất bị lợn dũi. Bên sông, sườn dốc, trong khe... mấy chục mẫu đất đen màu mỡ bị cày xơi nham nhở, rễ cỏ lá rộng bản bị vặt trụi, chỏng trơ như ruộng khoai tây bị lợn nhà tàn phá. Bao Thuận Quý cáu tiết, chửi vung lên: Lũ lợn đáng ghét! Sau này trồng cây lương thực, chắc bị lũ lợn này ăn sạch.

Ngựa của hai người không dám chạy nhanh, đành đi chậm tới chỗ Batu. Batu ngồi dưới chân núi hút thuốc, lũ chó bâu quanh xác con lợn, xé thịt ăn. Hai người xuống ngựa, thấy bên cạnh Batu hai con lợn còn nguyên vẹn, hai con nữa lũ chó tranh nhau xả thịt, ăn ngon lành. Nhị Lang và Balua mỗi con một đùi lợn, hai con này nhỏ hơn lợn khi xuất chuồng ở nhà, chỉ dài hơn mét, lông thô mọc thưa thớt cùng mình. Mõm lợn rừng dài gấp đôi lợn nhà, thịt rất chắc, nhìn bên ngoài không thấy xương bên trong, răng nanh cũng không dài lắm, không đáng sợ như ta tưởng. Hai con lợn đều bị chó cắn sau gáy.

Batu trỏ khe núi phía xa, nói: Hai con chó lớn đánh hơi thấy mùi sói liền đuổi đến con suối thì thấy đất đá ngổn ngang, lại thấy ba bốn con lợn bị sói ăn thịt, xương vung vãi. Chúng liền bỏ đàn sói, quay ra đuổi theo đàn lợn đến tận cái khe này vồ được một con nhỏ từ trong chạy ra. Lợn lớn răng nanh dài, chạy nhanh, chó không dám đuổi. Cháu không dám nổ súng, sợ đánh động lũ sói. Lũ chó cắn chết mấy con lợn choai này, hai con bị xé nát thì cho chó ăn luôn, hai con còn nguyên vẹn cháu lôi về đây.

Bao Thuận Quý dận chân lên con lợn béo núc, cười: Các cậu khá lắm. Lợn choai thịt mềm, càng ngon. Tôi mời mọi người uống rượu. Xem ra nơi này rất nhiều sói. Ngày mai các cậu hạ thủ được vài con sói thì tuyệt.

Batu nói: Những con lợn cỏ này đến từ khu rừng cách đây ba trăm dặm, ở đó lợn cỏ rất nhiều, chúng xuôi dòng về đây. Nếu Ơlon không nhiều sói thì đàn lợn này đã phá sạch bãi chăn.

Bao Thuận Quý nói: Thịt lợn cỏ rất ngon. Sau này người nhiều lên, ta tổ chức săn lợn cỏ về ăn thịt lợn, tiết kiệm vô khối thịt bò, cừu. Dân nông nghiệp quen ăn thịt lợn, không thích ăn thịt bò, thị cừu.

Tang Kiệt đẩy xe tới, mấy người khiêng lợn lên xe. Batu ra hiệu cho những con chó tiếp tục ăn, các thợ săn và cỗ xe về trước. Khu lều đã có đủ củi, xe về đến nơi, mọi người chọn con to nhất mổ bụng, moi ruột, lọc thịt. Mục dân trên thảo nguyên mổ lợn, mổ cừu đều lột bỏ da không ăn. Lát sau, mùi thịt lợn nướng thơm phức. Thịt lợn cỏ ít mỡ phần nhưng mỡ chài thì rất nhiều. Dương Khắc bắt chước Bao Thuận Quý, quấn mỡ chài xung quanh thịt nạc rồi nướng, mỡ chảy xèo xèo, lại càng thơm. Trong khi các thợ săn pha thịt, Dương Khắc kiếm được rất nhiều hành dại và rau phỉ. Lần này cậu được thưởng thức mùi vị nguyên thủy của món thịt nướng thảo nguyên ăn với hành cay, hết ý! Cậu đã được thấy thiên nga và hoa bạch thược, còn Trần Trận thì chưa. Cậu đã ăn no thịt lợn cỏ, loại thịt quý hiếm trên thảo nguyên. Khi về nhà, cậu còn kể những điều mắt thấy tai nghe kỳ lạ mà cậu có diễm phúc được hưởng.

Bên đống lửa, Bao Thuận Quý mời rượu các thợ săn, kể về thịt thiên nga trên bàn tiệc của các bậc vương giả. Cánh thợ săn lắc đầu không hưởng ứng khiến ông ta cụt hứng. Dân du mục Ơlon chỉ săn thú chạy, không săn những con biết bay. Họ kính nể những sinh linh bay trên trời.

Lũ chó đi thành đàn trở về. Bảy người ăn no uống say mới đứng lên, gom tất cả chỗ thịt thừa vào chậu tôn. Trừ tim gan, phần lớn nội tạng bỏ lại trên bãi cỏ, đây là bữa thứ hai của lũ chó.

Buổi chiều, Dương Khắc lặng lẽ rời đoàn người, một mình ra chỗ có thể nhìn thấy toàn cảnh hồ thiên nga. Cậu dùng kính viễn vọng ngắm cái hồ mà có lẽ chỉ ít lâu sau biến mất.

Hồ thiên nga gợn sóng, mặt hồ phía tây phản chiếu những tảng mây dày phía đông; mặt hồ phía đông phản chiếu ráng chiều đỏ rực phía tây. Sóng lăn tăn nhẹ nhàng lan xa, lấp lánh màu hồng của mã não, màu xanh của cánh trả, màu vàng của thợ sơn. Từng gợn sóng màu tím thủy tinh, màu trắng ngà ngọc trai, màu lạnh và máu ấm hòa vào nhau, một kiểu đẹp quý phái. Trước mắt Dương Khắc hiện ra mơ hồ cái chết của thiên nga, ánh sáng chói lòa của châu báu từ trên trời rắc trên mình thiên nga, trên hồ thiên nga trong vắt.

Từng gợn sóng đuổi nhau chậm rãi như khúc dạo đầu của vở kịch khi người ta không đang tâm nhìn vai chính của vở kịch phía sau. Dương Khắc mong sao màn này chỉ lấy trời làm phông, đừng xuất hiện nhân vật chính. Nhưng trong đám lau sậy màu xanh dương, từng con thiên nga bơi ra, một... hai... ba... mười hai con tất cả. Mặt hồ rạng rỡ và nền trời phía sau dựng lên cho chúng một sân khấu khổng lồ. Lũ thiên nga đã thay bộ lễ phục màu xanh, khiến màu vàng trên đầu chuyển sang tím. Con thiên nga cong cổ như một dấu hỏi, hỏi trời, hỏi nước, hỏi người, truy vấn vạn vật trên thế gian, những dấu hỏi lặng lẽ di chuyển trên mặt hồ, im lặng đợi câu trả lời. Nhưng đất trời lặng im, những hình ảnh lộn ngược run rẩy trên mặt sóng biến thành mấy chục câu hỏi lại. Một cơn gió thổi tới, những câu hỏi vỡ tan trong bước sóng.

Dương Khắc nghĩ đến bầy sói. Lúc này, những con sói thảo nguyên hung dữ lại đặc biệt dễ gần và rất đáng nể trọng. Chúng dùng răng, loại vũ khí nguyên thuỷ, ngoan cường chống trả lời nguyên tử, cho cậu được thấy cảnh đẹp nguyên sơ hồ thiên nga. Cậu và Trần Trận là những kẻ gặp may trong số người Hán. Nếu sói dũng mãnh và khôn ngoan hơn, chưa chừng sự bành trướng và xâm lược đối với thảo nguyên vẫn tiếp tục kéo dài, mà chính là sự bùng nổ dân số của tộc Hoa Hạ, khiến dân du mục thảo nguyên buộc phải bành trướng. Dương Khắc trong lòng xúc động, và cậu biết ơn sói. Đàn sói bị tuyệt diệt là điềm báo trước thảo nguyên sẽ tàn lụi, sự tàn lụi của cái đẹp trong con mắt nhân loại. Nước mắt nhoè ống kính, hồ thiên nga trinh trắng lùi xa...

o0o

Ngày hôm sau đội săn rà soát từng khe núi, sục sạo một ngày chẵn mà không thu hoạch được gì. Ngày thứ ba, đội săn vào sâu trong núi. Giữa trưa người mệt ngựa mỏi, Bao Thuận Quý, Batu và Dương Khắc bỗng nghe phía xa súng nổ dồn dập. Ba người nhìn về phía ấy, thấy hai con sói xuất hiện ở sườn núi phía đông loạng choạng chạy lên đầu dốc. Thấy phía bên này cũng có người và chó, thế là chúng liều mạng bò lên một mỏm đá cheo leo. Batu giương ống nhòm quan sát một thoáng nói: Đàn sói đã bỏ chạy từ lâu, đây là hai con sói già không theo kịp đàn. Bao Thuận Quý phấn khỏi, nói: Bất kể già hay trẻ, vớ được hai bộ da này là thắng lợi rồi. Batu vừa đuổi vừa lẩm bẩm: Không phải đâu. Ông thấy không, nửa thân sau của hai con này chưa rụng hết lông, đáng thương quá! Thợ săn và chó từ hai bên dồn lên đỉnh dốc, hai con sói một lớn một nhỏ, con lớn chân trước bên trái không thể duỗi thẳng, có lẽ nó bị đứt gân chân trong một cuộc chiến nào đó; con nhỏ hơn là một con sói cái, gầy nhom, màu lông rất xỉn. Balua, Nhị Lang và những con chó khác thấy hai con sói, con thì thọt, con thì già, chúng không những không tăng tốc, trái lại còn chạy chậm lại, chỉ mỗi một con choai choai tưởng bở, bất kể lành dữ, xông lên.

Hai con sói chạy đến đoạn núi đá lởm chởm do phong hoá, địa thế phức tạp, những mỏm đột ngột nhô ra, đá cuội rải khắp, mỗi bước, dưới chân con sói phát ra tiếng lạo xạo. Ngựa không thể đi tiếp, mọi người nhất loạt nhảy xuống, súng ống gậy gộc bao vây ba mặt. Già dặn trong nghề săn, Batu cùng con Nhị Lang tiến chậm nhưng hò rất to. Chỉ mỗi con chó choai ngựa non háu đá là vẫn băng băng phóng tới, gọi cũng không quay lại. Chỉ thấy con sói đực già nhảy lên phiến đá bàn cờ rồi dùng hai chân sau làm trụ, toàn thân quét ngang 180 độ, hất con choai chưa tiếp đất, bắn vào kẽ giữa hai tảng đá. Con chó bị kẹt kêu thảm thiết. Nó không bị thương nặng, nhưng phải mất nhiều thời gian mới kéo lên được. Đàn chó căng thẳng, lông dựng đứng. Con sói cái thừa cơ chui luôn vào một cái hang gần đấy.

Con sói đực già nhảy lên một phiến đá chỉ to bằng chiếc bàn ăn cơm, ba mặt đông nam bắc là vách núi dựng đứng, còn một mặt tiếp nối với quả núi bằng ghềnh đá cheo leo. Con sói già quay lưng về phía vực, ánh mắt đỏ ngầu đằng đằng sát khí. Nó khịt mũi, chuẩn bị chống trả. Lũ chó săn vây thành hình vòng cung sủa ầm ĩ nhưng không con nào dám xông lên vì sợ hụt chân rớt xuống vực. Mọi người bao vây chặt con sói. Bao Thuận Quý nhìn thế trận vui vẻ reo lên: Không ai được hành động, trông tôi đây! Nói xong, ông ta gập lưỡi lê, đẩy đạn lên nòng, chuẩn bị tư thế bắn gần.

Bao Thuận Quý vừa lùi lại phía sau lũ chó, con sói già đã úp mặt trườn xuống một cái dốc dựng đứng toàn đá sỏi, bốn chân bám trên sỏi đá trượt theo. Đất đá tới tấp phủ kín mình nó. Bụi bay mù mịt.

Mọi người vội ra sát mép vực nhìn xuống cho đến khi bụi tan cũng không thấy con sói đâu. Bao Thuận Quý hỏi: Chuyện gì thế này? Con sói ngã chết, bị đập chết hay đã chạy mất? Batu buồn rầu, nói: Chết hay sống không biết, có điều ông không có bộ da ấy rồi. Bao Thuận Quý ngẩn ra hồi lâu không nói câu nào.

Dương Khắc đứng như phỗng, cậu nhớ lại bộ phim "Năm dũng sĩ trên núi Răng Sói".

Hai con chó gác miệng hang cất tiếng sủa. Bao Thuận Quý chợt tỉnh, ông ta bảo: Còn một con nữa, mau lên! Hôm nay phải tóm bằng được một con.

Saxuleng và Tang Kiệt bước tới chỗ con chó bị kẹt giữa khe đá, mỗi người cầm hai chân nhấc ra. Con chó bị đứt lông chỗ khuỷu chân, da rớm máu. Con chó cùng trong một nhà bước tới liếm vết thương cho nó.

Đàn chó đến bên miệng hang. Đây là một cái hang thiên nhiên do đá phong hóa mà hình thành, chỗ ẩn nấp tạm thời của động vật trên thảo nguyên. Trên phiến đá có những bãi phân của chim ưng màu xám như vừa xây nhà. Bao Thuận Quý nhìn cái hang, gãi đầu: Con bà nó, đào không được, đào là sập, hun không được, hun thì khói tạt đi hết. Batu cậu xem có cách gì không? Batu lấy đốc roi chọc thử. Có tiếng đá lăn phía sau. Anh lắc đầu, nói: Đừng phí công vô ích. Đống đá mà sập thì bị thương cả người lẫn chó, không xong đâu. Bao Thuận Quý nói: Theo tôi hun khói là tốt nhất. Các cậu đi rẫy cỏ về đây. Khi hun, chỗ nào lọt khói ra là ta bịt lại. Tôi có đem theo ớt đây. Mau lên, đi làm đi! Tôi cùng Dương Khắc giữ cửa hang. Đem theo toàn là những chiến tướng, vậy mà ba ngày ròng không bắt được con sói nào. Mục trường cười cho thối mũi.

Các thợ săn chia nhau đi kiếm củi và cỏ khô. Bao Thuận Quý và Dương Khắc gác cửa hang. Dương Khắc nói: Con này vừa già vừa ốm, gầy như que củi, chắc chẳng sống được mấy bữa, với lại mùa hè lông rụng hết, trạm thu mua sẽ không mua. Hay là tha cho nó!

Bao Thuận Quý sa sầm nét mặt, nhả một hơi thuốc, nói: Người không bằng sói. Tôi từng chỉ huy bộ đội đánh giặc, tôi biết. Không ai dám đảm bảo trong quân đội không có kẻ bỏ trốn hoặc đánh trả. Vậy mà con sói này thà chết chứ không khuất phục. Nói đúng lương tâm, sói Ơlon con nào cũng là dũng sĩ, ngay cả thương binh, nữ binh cũng khiến người ta bạt vía kinh hồn... Nhưng mà cậu bảo bộ da mùa hạ không có người mua, vậy là cậu chưa biết đó thôi. Quê tôi, lông dày quá không ai dám may tất vì nóng quá, mũi chảy máu cam, lông mỏng mới quý. Cậu không được mềm lòng, đánh giặc là một chết một sống, giặc chạy cùng đường cũng phải giết hết nữa là...

Batu và mọi người dùng dây thừng kéo những bó củi lên. Bọn Saxuleng bỏ vào túi áo mấy vầng cỏ khô dính đất. Bao Thuận Quý chất đống cỏ khô cỏ tươi bên miệng hang rồi châm lửa đốt. Vài thợ săn quì trước miệng hang lấy vạt áo quạt khói. Làn khói đặc sệt luồn vào trong hang, chỉ lát sau, ba bề bốn bên cái hang chỗ nào cũng rỉ khói, các thợ săn bấn tỉnh lên, hò nhau lấy cỏ bịt lại. Khói rỉ ra ngày càng ít đi.

Bao Thuận Quý vốc một nắm ớt bỏ vào đống lửa, mùi cay nồng nặc luồn vào trong hang. Người và chó đứng đầu gió, cái hang ở phía dưới đống đá y như cái cửa bếp. Khói cay cuồn cuộn vào trong. Các thợ săn cố ý để lại mấy lỗ thoát khói. Bỗng có tiếng sói ho rũ rượi, mọi người vội cầm gậy, lũ chó gồng mình chờ đợi. Tiếng ho trong hang ngày càng dữ dội như một ông lão bị viêm phế quản, ho như móc phổi ra. Thế nhưng, con sói cái vẫn không chịu ló mặt. Dương Khắc bị khói thuốc chảy nước mắt. Cậu quả thực không hiểu vì sao sói chịu đựng giỏi đến như thế, nếu là con người thì chết cũng chui ra.

Đột nhiên đống đá sụt nửa mét, khói xì ra các kẽ đá. Chỉ lát sau, tất cả những chỗ trám bùn đều xì khói, vài hòn đá lớn lăn xuống, suýt đè phải một thợ săn đang quạt. Mọi người toát mồ hôi lạnh, Bao Thuận Quý quát: Hang sập đấy, mọi người tránh ra!

Tiếng ho chấm dứt đột ngột, sau đó không có tiếng động gì nữa. Khói cay bay lên trời, quạt mấy cũng không luồn vào trong hang. Batu bảo Bao Thuận Quý: Rủi cho ông rồi! Lại gặp một con sói tự sát. Nó đánh sập hang, tự chôn sống bên trong, ngay cả bộ da cũng không cho ông. Bao Thuận Quý nổi giận, hét: Rỡ đá ra! Tôi phải bắt bằng được con này.

Các thợ săn quá mỏi mệt, không một ai động thủ. Batu lấy ra bao thuốc lá thơm chia cho mỗi thợ săn một điếu, cài vào miệng Bao Thuận Quý một điếu, nói: Mọi người đều biết ông không vì bộ da mà diệt sói. Ông muốn trừ hoạ sói. Giờ con sói chết rồi, như vậy là đạt yêu cầu rồi phải không ông? Ta có một nhúm người, đào đến sáng mai cũng không xong. Mọi người có thể làm chứng: Ông đã đuổi được một đàn sói, diệt hai con: buộc một con nhảy xuống vực, một con chết ngạt trong hang. Với lại, da mùa hè bán không được mấy đồng... Batu quay lại hỏi: Mọi người làm chứng được không? Tất cả đồng thanh: Đồng ý! Bao Thuận Quý cũng đã thấm mệt, ông ta hút một hơi thuốc, nói: Nghỉ một lát rồi về!

Dương Khắc đứng lặng trước cửa hang, linh hồn cậu như đã bị đá đè nát, toàn thân rã rời. Cậu những muốn quì xuống vái đống đá theo nghi thức tôn vinh tráng sĩ của người Mông Cổ, nhưng cậu vẫn đứng yên. Cậu xin Batu một điếu thuốc, rít mấy hơi rồi hai tay nâng điếu thuốc lên quá đầu, cậu lạy đống đá ba lạy, sau đó cắm điếu thuốc vào kẽ đá. Đống đá đã trở thành nấm mồ, làn khói nhạt lững lờ bay lên không trung, đem theo linh hồn bất khuất của con sói mẹ lên trời xanh.

Đám thợ săn đứng lên. Họ không cắm điếu thuốc vào kẽ đá như Dương Khắc đã làm. Người Mông Cổ coi điếu thuốc hút dở là không còn tinh khiết để tế thần, nhưng họ cũng không trách cứ Dương Khắc. Họ tắt thuốc, đứng nghiêm, ngửa mặt nhìn trời, ánh mắt thành kính tiễn linh hồn sói mẹ lên thiên quốc. Bao Thuận Quý không dám hút tiếp cho đến khi điếu thuốc cháy ta.

Batu nói với Bao Thuận Quý: Như ông đã thấy, kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn ai cũng như hai con sói này, có chết cũng khiến kẻ thù kinh hồn táng đởm. Là con cháu người Mông Cổ gốc thảo nguyên, ông cũng nên tôn kính thần linh người Mông mới phải.

Dương Khắc trong lòng cảm khái, cậu nghĩ: Chết cũng là chiến đấu, sói tổ đã bồi dưỡng nên biết bao võ sĩ Mông Cổ. Thời xưa, người Hán đông gấp mấy trăm lần Mông Cổ, nhưng cung đình cũng như trong dân theo một triết lý chết vinh không bằng sống nhục, lối sống thực dụng của tộc nông canh Hoa Hạ ấy duy trì cho đến bây giờ. Chết vinh không bằng sống nhục trở thành tinh thần dân tộc, và cái loại tinh thần dân tộc đó đã đẻ ra bao nhiêu là Hán gian, ngụy quân, khiến dân du mục khinh bỉ và e ngại. Từ cuối đời Đường trở đi, người Hán không ngóc đầu lên nổi, liên tiếp trở thành vong quốc nô. Thời đại huy hoàng Tần Hoàng Vũ Đế Đường Tôn đi đâu rồi? Phải chăng là vì những đàn sói ở đại lục đã bị người Hán tiêu diệt sạch từ giữa và cuối đời Đường? Dương Khắc lại có một vấn đề mới để thảo luận suốt đêm với Trần Trận.

0O0

Khi đội săn sắp về tới khu lều, Bao Thuận Quý bảo Batu: Cậu về trước đun nước sôi, tôi đi bắn thiên nga. Tối nay ta nhậu. Dương Khắc hốt hoảng kêu: Ông chủ nhiệm, cháu van ông, không được bắn thiên nga! Bao Thuận Quý không ngoảnh lại: Tôi phải bắn một con thiên nga để giải sui mấy ngày hôm nay.

Dương Khắc đuổi theo can ngăn, nhưng ngựa Bao Thuận Quý chạy nhanh, thoáng cái đã tới bên hồ. Các loài thủy cầm không đề phòng người có súng, vẫn bay là là trên mặt hồ. Từ bãi sậy bay lên bảy tám con thiên nga lớn y như những chiếc máy bay rời đường băng, vọt lên cao, từng đôi cánh rộng bay tới trước mặt Bao Thuận Quý. Dương Khắc đuổi chưa đến nơi, Bao Thuận Quý đã nổ liền ba phát, con thiên nga trắng rơi ngay trước mặt Dương Khắc. Con ngựa Dương Khắc giật mình hất cậu ngã xuống bãi cỏ ven hồ.

Con thiên nga giãy giụa trên bãi cỏ. Dương Khắc đã nhiều lần trông thấy cái chết thảm của con thiên nga trong vở kịch, nhưng con thiên nga trước mặt không được ung dung thanh nhã như con thiên nga trong kịch, mà như con ngỗng bị cắt tiết, chân giẫy đạp, đôi cánh đập đập cố đứng lên, bản năng sống khiến nó giãy giụa cho tới khi chết hẳn. Dương Khắc mấy lần định bế nó lên nhưng đều vồ hụt. Cậu giương mắt nhìn dòng máu mảnh mai tia xuống cỏ, cho đến giọt cuối cùng.

Cuối cùng, Dương Khắc bế con thiên nga lên, cơ thể mềm mại của nó hãy còn ấm, cái cổ xinh đẹp không thể đánh một dấu hỏi đầy sức mạnh nữa, nó như con bạch xà bị rút xương sống, mềm oặt, những chiếc lông nhuốm máu bay tản mát bên hồ lần đầu tiên in dấu chân người. Dương Khắc thận trọng nâng đầu con thiên nga, đồng tử trong mắt nó phản chiếu trời xanh, như ông trời đang mở to cặp mắt phẫn nộ. Cậu ứa nước mắt, cái sinh mệnh cao quý, cánh bằng vạn dặm đem lại cho con người biết bao ước mơ cháy bỏng, giờ bị người ta giết như giết một con gà rừng.

Dương Khắc bi phẫn khó nén, cậu những muốn nhảy xuống hồ bơi vào bãi sậy báo động cho đàn thiên nga. Ráng chiều vừa tắt, ngồi bên nồi thịt thiên nga chỉ mỗi Bao Thuận Quý, không ai nói chuyện với ông ta. Đám thợ săn ăn cơm với thịt lợn rừng, Dương Khắc tay cầm dao run bắn khi xẻo thịt.

Đàn thiên nga kêu ai oán suốt đêm trên hồ.

0O0

Nửa đêm, Dương Khắc bị đàn chó học tiếng sói tru đánh thức. Chó nhà không tru nữa, cậu mơ hồ nghe có tiếng sói tru thê thảm ngắt quãng. Tiếng tru yếu ớt của con sói xuyên qua trái tim cậu. Con sói già chưa bị đá đè chết, mình đầy vết thương, nó bò suốt đêm lên núi. Lúc này, chắc chắn nó đang đứng trước một người vợ quá cố cất tiếng tru thảm thiết, đau xót, không thiết sống. Có thể nó định bới đất đá cố nhìn lần cuối người bạn đời, nhưng không còn hơi sức. Tiếng kêu của con thiên nga mất vợ hòa với tiếng tru của con sói già mất bạn đời hợp thành "khúc bi tráng trên thảo nguyên", thê thảm hơn, đau thương hơn "khúc ca bi tráng" của Traicopxki.

Dương Khắc nước mắt đầm đìa cho tới lúc rạng sáng.

Mấy hôm sau, Saxuleng từ trụ sở mục trường trở về, nói Bao Thuận Quý chất đầy nửa xe com măng ca những khóm bạch thược, chở lên thành phố.

Chương 20

Các kỵ sĩ của cha ta anh dũng như sói,

mà kẻ thù của họ thì dát như cừu.

"Khuyết đặc lặc bi văn" dẫn từ (Pháp)

Pierre Renouvin "đế quốc thảo nguyên"

Những đám mây sáng lên dưới cái nắng đầu hạ trên cao nguyên, sáng nhức mắt, không khí sặc mùi hành tỏ dại do đám cừu non ợ ra. Mọi người buộc phải chớp liên tục để mắt không bị khô. Trần Trận căng mắt nhìn bãi chăn và khu lều trại mới, chỉ sợ sói mẹ dẫn đàn sói đến cướp lại con và trả thù lũ cừu.

Hơn ba chục lều của đại đội Hai dựng ở góc tây bắc thung lũng, sát chân núi, cứ hai lều tổ chức một Haotho, khoảng cách giữa hai haotho chưa đến một dặm, các tổ sản xuất cũng rất gần nhau. Lều trại bố trí như hiện nay co lại đến mấy chục lần so với trước kia. Trước kia hai haotho cách nhau mấy chục dặm. Ông Pilich và ông Ulichi ra lệnh dựng lều kiểu này là để đề phòng đàn sói khu cũ và khu mới liên kết hoặc luân phiên công kích người và gia súc. Trần Trận cảm thấy đàn sói Ơlon dù sao cũng không chọc thủng được phòng tuyến dày đặc người và chó như thế này. Chỉ cần chúng công kích một chuồng trại, lập tức bị rất nhiều chó dữ bao vây. Cảm thấy đỡ lo, Trần Trận nheo mắt ngắm bãi chăn mới.

Mấy chục đàn bò và cừu của đại đội Hai đều đã kéo vào bãi chăn mới. Đất hoang chỉ trong ngày đã biến thành mục trường, khắp nơi vang lên tiếng ca, tiếng ngựa hí, tiếng cừu và tiếng rống của bò. Thung lũng rộng lớn đầy ắp niềm vui và hơi người, hơi ngựa, hơi cừu và hơi bò.

Đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc đều mỏi mệt sau một chặng đường dài, tản ra gặm cỏ ở một cái dốc gần đấy. Trần Trận hỉ hả bảo Dương Khắc: Bãi cỏ này so với bãi cỏ cũ khác nhau một trời một vực. Mình có thể tự hào vì đã tìm ra nó. Nhiều lúc cứ nghĩ như nằm mơ, đàn cừu như được ăn cỏ trong vườn địa đàng.

Dương Khắc nói: Mình cũng nghĩ vậy, đây là thảo nguyên mà không nơi nào có, thảo nguyên của thiên nga. Giá như không có Bao Thuận Quý, không có đám thanh niên trí thức, không có các hộ ngụ cư thì hay biết mấy! Đảm bảo mục dân Ơlon có thể chung sống hòa bình với thiên nga. Lãng mạn biết bao, chăn cừu dưới bầu trời xanh có thiên nga bay lượn. Trong vườn địa đàng chưa chắc có thiên nga. Vài năm nữa lấy một cô vợ Mông Cổ dám bẻ gãy đuôi sói, đẻ ra một thằng con dám chui vào hang bắt sói con, cuộc đời thế là viên mãn. Rít một hơi thuốc, Dương Khắc nói tiếp: Thái tử Đại Đường còn muốn trở thành dân thảo nguyên huống chi mình. Thảo nguyên là nơi yêu thích chó và cần đến con chó, không như ở Bắc Kinh, chỗ nào cũng "đập nát cái đầu chó", "thằng chó con" của "phần tử học thuật phản động quyền uy tư sản" như tôi được lên lập nghiệp ở thảo nguyên là may rồi.

Trần Trận hỏi lại: Nếu như không có thanh niên trí thức thì tốt, cậu không phải thanh niên trí thức hay sao?

Dương Khắc nói: Tự đáy lòng, kể từ khi mình thành tâm thờ sói tổ, mình đã trở thành người Mông Cổ. Người thảo nguyên Mông Cổ quả thực coi thảo nguyên là sinh mạng lớn, quan trọng hơn sinh mạng bản thân. Đến khu chăn nuôi, mình thấy người Mông Cổ - nông nghiệp đáng ghét, chả trách dân tộc du mục đánh nhau mấy nghìn năm với dân tộc nông canh. Nếu mình sinh ra vào cái thời ấy, mình cũng xin lên thảo nguyên như Vương Chiêu Quân, dù chỉ làm tùy tùng, vệ binh, mình cũng làm. Nếu xảy ra chiến tranh, mình đứng về phía sinh mạng lớn thảo nguyên, thay trời hành đạo, thay thảo nguyên hành đạo.

Trần Trận cười: Đừng đánh nữa. Trong lịch sử hai dân tộc nông canh và thảo nguyên đánh nhau hoài, rồi sau đó lại hòa thân, thông hôn. Kỳ thực, từ lâu chúng ta đã là hậu duệ của giống lai giữa dân tộc thảo nguyên và dân tộc trung nguyên. Ông Ulichi bảo rằng, bãi chăn mới có thể thư giãn người và gia súc Ơlon bốn năm năm. Ông ấy đã có công lớn như thế, phục chức cho ông ấy thì hay quá. Điều tôi quan tâm là lực lượng thảo nguyên như các ông Pilich và Ulichi, liệu có chống lại thế lực cướp bóc thảo nguyên?

Dương Khắc nói: Cậu ngây thơ quá. Có lần mình nghe bố mình nói, tương lai của Trung Quốc là giảm dân số xuống dưới năm trăm triệu. Nhưng sự bùng nổ dân số nông canh không ai có thể ngăn nổi. Tangcoli (trời) của Mông Cổ và ông trời của Trung Quốc đều chịu. Hai mươi năm nay chẳng nói biến nông dân thành công nhân, thị dân và thanh niên trí thức thành thị đó sao! Những muốn đưa hết thanh niên trí thức về nông thôn, làm nông dân loại hai. Mấy triệu thanh iên trí thức chúng mình chẳng phải bị quét khỏi thành phố đó sao. Nếu chỉ có lực lượng của ông Pilich và Ulichi thì chẳng khác châu chấu đá xe.

Trần Trận trợn mắt: Xem ra sói tổ vẫn chưa thực sự là sói tổ trong lòng cậu! Sói tổ là gì? Sói tổ là sức mạnh tinh thần vĩ đại lấy một chọi mười, chọi trăm, chọi nghìn, chọi vạn. Sói tổ là ông tổ bảo vệ sinh mạng lớn thảo nguyên. Thiên hạ xưa nay vốn sinh mạng lớn điều hành sinh mạng nhỏ, mệnh trời quản mệnh người. Trời đất không còn sinh mệnh nữa thì cái mệnh nhỏ nhoi của ta là cái gì... Nếu như thật sự sùng bái sói tổ thì phải đứng về phía sinh mệnh lớn trời đất, thiên nhiên, thảo nguyên, cho dù chỉ còn một con sói cũng đánh đến cùng. Hãy tin vào quy luật của tự nhiên: Vật cực tất phản (cái gì đã tới ngưỡng, tất đi ngược lại), trời sẽ giúp thảo nguyên trả thù. Đứng về phía sinh mạng lớn thì kết quả xấu nhất là chết cùng thế lực phá hoại sinh mệnh lớn, rồi linh hồn bay lên trời. Đời người kết cục như thế, có chết cũng không ân hận. Hầu hết sói thảo nguyên chết trong chiến đấu.

Dương Khắc nhất thời không nói gì.

Sói con thấy tầm nhìn được mở rộng thì tò mò và phấn chấn vô cùng. Có khi nó nhìn không chán đàn bò rồng rắn ra sông uống nước, lúc lại nhìn đàn cừu trắng như tuyết mà ngẫm nghĩ. Lát sau, nó nhìn chim lớn chim nhỏ bay lượn trên hồ. Sói con hoa cả mắt, nó chưa bao giờ cùng lúc nhìn thấy nhiều thứ như thế. Ở bãi cừu đẻ trước khi chuyển nhà, cái haotho của Trần Trận cách nhà ông Pilich bốn năm dặm, khi ấy sói con chỉ trông thấy một đàn cừu, một cái chuồng xây bằng đá, hai cái lều Mông Cổ và sáu bảy cỗ xe. Trên đường di chuyển, sói con bị nhốt trong chiếc thùng vốn đựng phân khô, hai ngày một đêm chẳng nhìn thấy gì. Khi nó lại nhìn thấy nắng thì cảnh vật đã như thế này. Sói con phấn khởi nhảy như choi choi, nếu không có sợi xích sắt, nó đã theo đàn chó ra bãi chăn mới đùa nghịch cho đã hoặc vui đùa với lũ chó cún.

Trần Trận buộc phải nghe lời ông Ulichi, dùng xích sắt xích sói con, một đầu sợi xích đấu với còng cổ, đầu kia đấu với một cái khuyên to có thể xoay quanh một cái cọc bằng bắp tay đóng sâu xuống đất hai thước, phần ló trên mặt đất cao gần một mét. Đầu cọc còn lồng một cái đai giữ cho cái vòng không tụt ra. Xích này có thể xích bò, kết cấu của nó tránh cho con vật đi vòng quanh cọc, sợi xích cuộn dần lại, cuối cùng bị chết vì nghẹt thở.

Một tuần trước khi dọn nhà, sói con đã mất tự do. Nó bị xích lại bằng một sợi xích sắt dài một mét rưỡi. Nó bị tù. Trần Trận xót ruột nhìn sói con chiến đấu với sợi xích suốt một tuần lễ, nửa đoạn xích ướt nhèm nhưng không đứt, không tuột khỏi cọc, nó đành sống qua ngày trong cái nhà tù lộ thiên đường kính ba mét. Trần Trận tăng cường giờ giải lao cho con sói để bù lại sự ngược đãi của cậu đối với nó. Sói con sung sướng nhất là lúc có con cún nào chơi với nó trong nhà giam, nhưng nó không kìm được cắn đau đến mức con cún phải kêu lên rồi bỏ chạy, cuối cùng nó lại chỉ có một mình. Con Nhị Lang thường đến với nó, đôi khi còn cố ý nằm nghỉ trong cái chuồng ba mét, mặc cho sói con chẳng phân biệt già trẻ, trèo lên lưng lên cổ lên đầu, cắn tai cắn chân cắn đuôi Nhị Lang.

Trong ngày, nội dung quanh trọng nhất của sói con là nhìn chăm chăm cái chậu thức ăn dành cho nó, sốt ruột chờ đợi đổ đầy thức ăn, bê đến trước mặt nó. Trần Trận không biết sói con có hiểu vì sao nó bị tù, mắt nó lúc nào cũng đỏ ngầu giận dữ: Vì sao lũ chó cún được tự do, còn nó thì không? Vậy nên, nó thường nổi cáu với lũ chó cún, cắn chảy máu. Trong điều kiện du mục nguyên thủy nuôi sói bên cạnh đàn cừu đàn chó và người, nếu không đối xử phi nhân với sói thì chỉ một sơ suất là sói cắn cừu cắn người, rốt cuộc không tránh được tội chết. Trần Trận khẽ nói điều này với sói con không biết bao nhiêu lần, nhưng nó vẫn không thèm nghe. Trần Trận và Dương Khắc bắt đầu lo cách đối xử rất không công bằng đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển tâm lý của con sói con. Xích lại, sói không có điều kiện tự do phát triển cá tính, vậy thì con sói lớn lên trong điều kiện ấy có còn là sói nữa không? Nó sẽ khác xa con sói hoang dã mà Trần Trận và Dương Khắc muốn tìm hiểu. Công việc nghiên cứu khoa học của hai cậu ngay từ đầu đã gặp phải vấn để chí mạng là điều kiện không khoa học. Nếu như nuôi con sói trong lồng sắt ở một địa điểm nhất định hoặc trong một cái chuồng xây bằng đá, con sói tương đối tự do, cũng đỡ gây nguy hại cho người và gia súc. Trần Trận và Dương Khắc mơ hồ cảm thấy các cậu bị kẹt trong cái "thế cưỡi sói", có lẽ cuộc thí nghiệm khoa học này thất bại ngay từ trong trứng. Dương Khắc đã có lần ngỏ ý thả con sói nhưng bị Trần Trận cự tuyệt thẳng thừng. Thực tình Dương Khắc cũng không muốn thả, cậu ngày càng thích con sói.

Đã vào mùa giao phối tự do của đàn bò trên thảo nguyên. Thần tự do trên thảo nguyên, những con bò mộng to khoẻ ngửi thấy mùi bò cái, rầm rộ kéo đến bãi chăn mới tìm đám thê thiếp. Sói con trông thấy con bò mộng thì rất sợ, rúc vào một bụi cỏ. Khi con bò mộng nhảy lên lưng con bò cái, sói hoảng sợ giật lùi vướng xích ngã lăn chiêng, thè lưỡi trợn mắt. Sói con thường quên sợi xích cổ. Khi con bò mộng bỏ đi với con khác, bò cái gật đầu với nó, nó mới trở lại bình tĩnh.

Con sói xem ra cũng vừa si nơi giam mới. Nó bắt đầu đùa giỡn trong nhà giam của nó. Lãnh địa mới cỏ non cao hàng thước, thoải mái hơn nhiều so với cái cũ chỉ toàn là cát. Sói con nằm phơi bụng, quay đầu bứt những cọng cỏ, chỉ có vậy mà nó có thể chơi với đám cỏ hơn nửa giờ. Sói con sức sống mãnh liệt, nó tìm ra cách vận động để cháy bùng lên ngọn lửa sinh mạng, lại bắt đầu chạy quanh chuồng, hết tốc lực, hết vòng này đến vòng khác không biết mệt.

Sói con chạy như điên một hồi, đột nhiên chững lại, quay đầu chạy ngược chiều kim đồng hồ. Chạy mệt, nó nằm sấp như chó, há miệng thở cho đỡ nóng. Trần Trận nhận ra những ngày này thời gian và số vòng chạy của con sói tăng lên mấy lần. Cậu chợt hiểu ra con sói có ý tăng cường vận động ra mồ hôi để thay lông. Ông Pilich bảo, sói con thay lông lần đầu muộn hơn sói lớn rất nhiều.

Bãi cỏ sợ nhất bị giẫm nát, cỏ non trên đường chạy của sói con chẳng còn ngon vào nguyên vẹn.

Đột nhiên phía đông nam rộ lên tiếng vó ngựa, Trương Kế Nguyên đầu quấn băng trắng phi ngựa tới. Hai người giật mình chạy ra đón. Trương Kế Nguyên hét to: Đừng, đừng! Con ngựa cậu ta cưỡi hung hăng không cho ai lại gần. Khi ấy hai người mới phát hiện con ngựa cậu ta cưỡi vừa qua kỳ huấn luyện thì vội tránh xa, để cậu ta lựa lúc mà nhảy xuống.

Ngựa Mông Cổ trên thảo nguyên Mông Cổ tính cách bạo liệt, nhất là ngựa vùng Uchumuxin. Luyện ngựa chỉ tiến hành khi con ngựa được ba tuổi và vào đầu xuân. Đầu xuân là lúc ngựa gầy nhất, mà vì ngựa ba tuổi đã có thể chở một người. Nếu như để lỡ thời điểm đó, khi con ngựa bốn tuổi là không thể đóng yên, đóng hàm thiếc, dứt khoát không dạy nổi nữa. Ngay dù nhờ người phụ giúp, đè đầu vít cổ đóng được yên cương thì con ngựa vẫn không chịu, hất ngã bằng được người cưỡi. Có dùng phương phát luyện ngựa của Võ Tắc Thiên cũng chịu. Con ngựa đó rất có thể suốt đời không người cưỡi.

Hàng năm vào mùa xuân, mã quan chọn trong đàn những con ngựa ba tuổi tính nết không quá bạo liệt giao cho các mã quan luyện cưỡi. Ai luyện được con nào, được cưỡi không con đó một năm. Nếu như sau một năm cảm thấy không hay bằng những con khác do mình luyện được, có thể trả con ngựa về đàn. Đương nhiên, những con ngựa sau khi thụ huấn đều có tên. Thảo nguyên Ơlon có truyền thống đặt tên ngựa như sau: Tên người luyện ngựa cộng với màu lông con ngựa. Thí dụ: Pilich Hồng, Batu Trắng, Lanmutrac Đen, Tang Kiệt Xám, Saxuleng Vàng, Đanchi Hạt giẻ, Dương Khắc Đốm Hoa, Trần Trận Hoa v..v.. Tên đã đặt dùng cho cả đời. Tên ngựa vùng Ơlon rất ít khi trùng. Lấy tên người dạy đặt tên cho ngựa là hình thức khen ngợi người ấy dũng cảm. Những kỵ sĩ có nhiều ngựa mang tên mình, rất được mọi người quý trọng. Nếu như người dạy ngựa thấy con ngựa mình dạy là ngựa tốt, anh ta có thể yêu cầu sử dụng con ngựa ấy, nhưng phải đổi một con trong số ngựa do anh ta luyện. Nói chung một mã quan có thể đổi một con yếu nhất trong bốn năm con, năm sáu con mang tên anh ta, đổi lấy con ngựa mới. Trên thảo nguyên, ngựa là sinh mạng của người. Không có ngựa tốt, không đủ ngựa và sức ngựa thì không ra khỏi tuyết dày, lửa dữ hoặc quân địch truy kích, không đưa kịp thầy thuốc và thuốc men, không thông báo kịp tình hình quân sự và thiên tai, không đuổi kịp không bắt được sói, không đuổi kịp đàn bò đàn cừu bị bạch mao phong... Ông già Pilich nói: Thảo nguyên mà không có ngựa thì chẳng khác sói sập bẫy đứt hai chân.

Dương quan (người chăn cừu) muốn có ngựa tốt thì phải tự luyện lấy mà cưỡi. Người thảo nguyên cho rằng phải cưỡi con ngựa do người khác luyện là đáng xấu hổ. Dương quan, ngưu quan (người chăn bò) vùng Ơlon người nào có nhiều ngựa tốt nhất là địa vị cao sang nhất, vẻ vang nhất và có nhiều người tình nhất. Thảo nguyên Mông Cổ khuyến khích con trai chui vào hang bắt sói, luyện ngựa bất kham, đánh nhau với sói dữ, đấu vật, ra trận, trở thành anh hùng. Thảo nguyên Mông Cổ là thảo nguyên chiến đấu, là thiên hạ của những người dũng cảm. Các Khan Mông Cổ là do liên minh các bộ tộc bầu ra, mà không phải cha truyền con nối. Trong lịch sử, người Mông Cổ hoàn toàn không chấp thuận những thái tử bất tài lên ngôi. Thời Nguyên - Mông, những thái tử bất tài thường bị anh em trong hoàng tộc thay thế.

Trương Kế Nguyên vừa cho ngựa chạy quanh, vừa nhẹ nhàng rút một chân ra khỏi bàn đạp, đúng lúc con ngựa phân tâm, cậu khoát chân gọn gàng nhảy xuống. Con ngựa giật mình cất mình đá hậu liền mấy cái suýt văng cả yên. Trương Kế Nguyên vội co dần dây cương kéo đầu con ngựa sát người để tránh đá hậu, mất thêm ít thời gian nữa mới cột được dây cương vào cỗ xe bò, con ngựa giằng dây cương khiến cỗ xe rung lên từng chập.

Trần Trận và Dương Khắc thở một hơi dài nhẹ nhõm. Dương Khắc nói: Thằng cha này liều thật! Con ngựa dữ như thế mà cậu dám cưỡi. Trương Kế Nguyên lau mồ hôi trán, nói: Sáng nay nó vừa hất mình xuống đất, còn đá hậu một cú vào đầu khiến mình ngất đi, may mà có Batu ở bên. Dạo chưa có cỏ non mình đã luyện hai lần, không xong, sau phải hai lần nữa mới tạm ổn. Không ngờ sau vụ cỏ xuân nó béo lên, không chịu cho cưỡi. May mà nó còn nhỏ, vó chưa tròn, nếu là con ngựa trưởng thành thì mình toi mạng rồi. Đây là một con ngựa tốt, ba năm nữa dứt khoát nổi tiếng. Ở Ơlon, ai cũng thích ngựa tốt, mình không liều sao được.

Trần Trận nói: Cậu ngày càng khiến bọn mình không yên tâm. Chừng nào cậu luyện được con ngựa tốt mà không cần đến bông băng thì mới coi là đã thành tài.

Trương Kế Nguyên cười: Phải suýt soát hai năm nữa. Mùa xuân này mình luyện bốn con, con nào cũng khỏi chê. Sau này các cậu đi xa thiếu ngựa thì tìm mình. Mình còn định đổi ngựa tốt cho hai cậu nữa kia.

Dương Khắc cười: Thằng cha này gan to lên thì khẩu khí cũng gớm. Ăn bánh của người không ngon, tự mình làm bánh ăn. Tự mình đấy nhé. Năm nay tất cả cho sói con, không còn thì giờ nữa. Để sang năm.

Trần Trận cũng vừa cười vừa nói: Hai cậu chất sói hơi nhiều đấy, đúng là gần mực thì đen, gần sói thì cứng đầu.

Đàn ngựa uống nước xong, chậm rãi trở lại trảng cỏ đối diện lều Trần Trận. Trương Kế Nguyên nói: Chỗ này như một đài quan sát lý tưởng, từ trên nhìn xuống, mọi vật trong tầm mắt, nghe kể nhiều lần hôm nay mới thấy. Trước đây đại đội không cho đàn ngựa ở gần, các cậu chưa có dịp thấy, hôm nay cho các cậu mở mắt ra, cho biết thế nào là ngựa Mông Cổ.

Bãi chăn mới rất rộng, đủ cỏ đủ nước, mới có gia súc của một đại đội nên đại đội cho phá lệ, ngựa uống nước xong được ăn cỏ ngay tại đây một thời gian. Không người dồn đuổi, đàn ngựa dừng lại ăn cỏ.

Trần Trận và Dương Khắc lập tức bị những con ngựa giống cao to béo khoẻ che khuất tầm nhìn. Chúng đã thay lông, bóng mượt, bóng hơn sắc gấm Mông Cổ. Con ngựa rùng mình một cái, những thớ thịt sau làn da bóng loáng rùng rùng chuyển động như từng đàn cá chép lớn đang bơi. Ngựa giống khác với ngựa thường ở chỗ bờm rậm như bờm sư tử che khuất mắt, cổ và hai chân trước, đoạn tiếp giáp cổ với vai lông dài nhất, quá gối, thậm chí quết đất. Khi chúng cúi đầu gặm cỏ, bờm che khuất nửa thân như con yêu quái không đầu không mặt xõa tóc. Khi chúng vươn cổ phi nước đại, lông bờm trên cái cổ dài phần phật trước gió như lá quân kỳ của quân đoàn kỵ binh tinh nhuệ trên thảo nguyên, khiến kẻ thù nhìn mà khiếp đảm. Ngựa giống hung hãn nóng nảy, bất kham, không ai dám luyện, bắt hoặc cưỡi. Vai trò của ngựa giống trên thảo nguyên gồm nhân giống và đảm bảo đàn ngựa thuần chủng. Ngựa giống rất có tinh thần trách nhiệm đối với gia tộc, dám dấn thân khi gặp nguy hiểm, nên chúng càng hung hãn ngoan cường. Nếu nói bò giống là loại giao phối xong là biến, thì ngựa giống đúng là bậc đại trượng phu.

Chỉ lát sau, kịch chiến trong bầy ngựa bắt đầu. Tất cả ngựa giống hung thần ác quỉ đều vào cuộc. Mỗi năm một lần, cuộc săn đuổi giành con cái trong đàn ngựa Mông Cổ bắt đầu nổ ra dưới chân đài quan sát.

Ba người ngồi trên bãi cỏ bên cạnh chuồng của con sói, lặng lẽ quan sát. Sói con cũng ngồi ngay trên đường biên chăm chú nhìn đàn ngựa đánh nhau, lông bờm rung rung như sói đói trong tuyết. Con sói theo bản năng rất sợ những con ngựa giống hung hãn, nhưng nó vẫn nhìn mê mải.

Đàn ngựa đông hơn năm trăm con, có mười mấy dòng họ, mỗi con ngựa giống cai quản một dòng. Dòng lớn nhất có bảy tám mươi con, nhỏ nhất chưa tới mười bốn con. Thành viên của dòng họ thê thiếp con cái của con ngựa giống hợp thành. Trong đàn ngựa cổ xưa ở Mông cổ, về mặt giao phối còn văn minh hơn một số người. Trong hoàn cảnh khốc liệt của thảo nguyên, để có thể sống còn trước sự bao vây công kích của bầy sói, đàn ngựa kiên quyết loại trừ giao phối trực hệ, nhằm nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đàn ngựa.

Hàng năm vào mùa hạ, khi con ngựa cái tơ ba tuổi động đực, ngựa giống gỡ bỏ bộ mặt hiền từ của người cha, kiên quyết đuổi nó ra khỏi đàn, không cho phép quanh quẩn bên mẹ nó. Ông bố bờm dài như nổi cơn điên đuổi cắn con gái như cắn sói. Ngựa con bị cắn xé kêu khóc vang trời, đàn ngựa rối như canh hẹ. Ngựa con vừa chạy tới bên mẹ chưa kịp thở thì ngựa bố đã lao tới vừa đá vừa cào vừa cắn không cho phép chống lại. Ngựa con bị đòn tơi tả đành phải chạy khỏi đàn, hí thảm thiết, cầu xin ngựa bố rủ lòng thương. Nhưng ngựa bố trợn mắt khịt mũi cào cấu không thương tiếc, không cho ngựa con trở lại đàn. Ngựa mẹ tỏ ý bảo vệ con, liền bị ngựa bố thượng cẳng chân hạ cẳng tay lập tức. Rút cục, đám ngựa mẹ đành giữ thái độ trung lập, có lẽ chúng hiểu hành vi của chồng.

Cuộc chiến đuổi con gái trong các đàn ngựa vừa kết thúc, cuộc ác chiến giành con cái quyết liệt hơn giữa các ngựa giống bắt đầu. Đây mới thực sự bùng phát một hỏa diệm sơn về hùng tính và tính hoang dã. Những con ngựa cái tơ vừa mới bị đuổi khỏi đàn lập tức trở thành đối tượng tranh cướp của những con đực khác dòng họ. Tất cả những con ngựa giống đều đứng lên bằng hai chân sau mà cắn xé lẫn nhau, khiến đàn ngựa cao lên gấp đôi. Chúng dùng hai vó trước nặng chịch làm vũ khí, vung lên như chùy, tung ra như nắm đấm, chém xuống như búa. Vó chạm nhau, răng chạm nhau, những con ốm yếu chạy dạt ra, những con khoẻ bất phân thắng bại: có con bị vỡ đầu, rách ngực, què chân, nhưng chúng không có ý bỏ cuộc.

Con ngựa cái tơ nhân khi lộn xộn chạy về nhà, lại bị ông bố hung dữ và kẻ cướp vợ truy đuôi. Ngựa giống và kẻ kia bỗng trở thành chiến hữu, đuổi nó đến nơi phải đến.

Một con ngựa bạch tơ trở thành mục tiêu tranh giành của bốn chàng ngựa giống hung hăng. Con ngựa toàn thân trắng như tuyết, mịn như nhung, cặp mắt lồi như sừng hươu mới nhú, dáng cao mà thanh thoát, khi chạy uyển chuyển như hươu, Dương Khắc luôn miệng khen: Mình mà là ngựa giống thì sống chết cũng phải chiếm bằng được, cướp vợ hấp dẫn hơn hỏi vợ. Mẹ kiếp, chế độ hôn nhân của đàn ngựa cũng do sói quyết định. Sói là kẻ thù tự nhiên và là khắc tinh của đàn ngựa. Không có sói, chắc ngựa giống không tàn nhẫn đến thế, ngựa cái tơ cũng không bị cưỡng hôn dã man.

Hai chú ngựa giống đánh nhau đang say, y hệt đôi sư tử trên đấu trườn La Mã, nộ khí xung thiên, sống còn chết bỏ. Trương Kế Nguyên giậm chân than: Vì một con cái tơ mà bốn chàng ngựa giống to đùng đánh nhau đã mấy ngày nay. Con ngựa này ai thấy mà chẳng yêu, mình đặt tên cho nó là nàng công chúa Tuyết. Cô công chúa đáng thương quá, hôm nay ở một hôm với đàn ngựa của chàng đực này, ngày mai lại bị chàng đực khác cướp đi, sau đó hai chàng tiếp tục nện nhau, ngày thứ ba công chúa lại bị cướp về. Đến khi hai chàng này đánh nhau hết hơi, đột nhiên có kẻ cạnh tranh thứ ba gian manh càng hung hãn hơn, cô công chúa lại vào cửa nhà khác. Còn gì là công chúa! Nữ nô lệ trăm phần trăm, mặc cho đám ngựa giống tranh đi tranh lại, suốt ngày chạy đôn chạy đáo, cỏ rất non mà không ăn được mấy miếng. Các cậu xem, nó gầy đi rồi kìa. Mấy hôm trước nó đẹp lắm. Mùa xuân năm nào cũng đánh nhau khiến nhiều con ngựa cái học được cách đối phó. Về nhà mình thì không được rồi, liền bắt bồ với một chàng đực cực kỳ hung hãn làm chỗ dựa, khỏi phải giành đi giật lại, chịu nỗi khổ về xác thịt. Ngựa cái tơ rất thông minh, từng chứng kiến cảnh sói ăn thịt ngựa choai hoặc ngựa non máu me vung vãi, hiểu rằng không có sự bảo vệ của ông bố hoặc người chồng lợi hại, có khả năng bị sói ăn thịt. Tính hoang dã, tinh thần chiến đấu dũng mãnh của ngựa giống Mông Cổ, nói cho cùng, do sói bức bách mà hình thành.

Trương Kế Nguyên nói: Trên thảo nguyên ngựa giống là bá chủ. Ngoại trừ sợ sói công kích vợ con, ngựa giống không sợ gì hết, không sợ sói, càng không sợ người. Trước đây người ta có câu "làm thân trâu ngựa", thực ra câu này không đúng với ngựa giống. Đàn ngựa Mông Cổ không khác đàn ngựa hoang, trong đàn trừ mấy con ngựa thiến, những con khác không có gì phân biệt. Mình sống với đàn ngựa đã lâu năm, vẫn không tưởng tượng nổi người nguyên thủy thuần dưỡng ngựa hoang như thế nào. Làm sao phát hiện ngựa đã bị thiến, mới có khả năng cưỡi lên lưng ngựa? Thiến ngựa không dễ chút nào, phải thiến vào đầu xuân khi chớm hai tuổi, hoàn không khó lắm, rạch bìu, sau khi dịch hoàn tòi ra, dịch hoàn có rất nhiều tia máu không được lấy dao cắt, hễ cắt là bị nhiễm trùng; cũng không được lôi ra, đề phòng lôi cả nội tạng ra theo. Cách thiến nguyên thủy của mã quan là xoắn cho đứt rồi thắt nút lại, chỗ bị thương sẽ không nhiễm trùng, nhiễm trùng là ngựa chết liền. Thiến ngựa phải thiến vào năm hai tuổi, lên ba là đã luyện rồi. Hai chuyện cùng làm trong một năm, chắc chắn con ngựa sẽ chết. Kỹ thuật này rất khó, người thảo nguyên thủy làm sao mò ra?

Trần Trận và Dương Khắc nhìn nhau, lắc đầu. Trương Kế Nguyên đắc ý nói tiếp: Tôi đã mò mẫm một thời gian dài, đoán rằng, người nguyên thuỷ tìm cách bắt con ngựa non bị sói cắn thành thương, chữa vết thương cho nó, sau đó nuôi cho nó lớn, nhưng lớn rồi mà vẫn không thể cưỡi, vậy khi còn nhỏ thì cưỡi được, nếu đã thành ngựa giống thì không dám cưỡi. Lại thử, thử không biết bao nhiêu lần, chưa chừng người nguyên thuỷ vớ được con ngựa hai tuổi bị sói cắn mất dịch hoàn may mà sống sót, nuôi lớn thành ngựa thuần dưỡng... Đó là sự gợi ý. Có điều, người Mông Cổ nguyên thủy huấn luyện thuần hóa ngựa là một quá trình lâu dài và quá phức tạp. Không biết bao nhiêu người dân thảo nguyên ngã chết và bị thương mới thuần phục được ngựa hoang. Đây là bước phát triển vĩ đại trong lịch sử nhân loại, sớm hơn nhiều và quan trọng hơn nhiều so với bốn phát mình lớn của Trung Quốc. Không có ngựa, cuộc sống của nhân loại cổ đại khó khăn không thể tưởng tượng, so với bây giờ thiếu xe hơi, xe hỏa, xe tăng thảm thương hơn nhiều. Do vậy, không thể đánh giá hết sự cống hiến của dân tộc du mục đối với nhân loại.

Trần Trận vui vẻ ngắt lời: Mình đồng ý với quan điểm của cậu. Người thảo nguyên thuần phục ngựa hoang khó hơn nhiều so với nông dân thời viễn cổ thuần hóa lúa nước. Chỉ ít lúa nước không biết chạy, không biết đá hậu, không biết đá vỡ đầu, đá chết, kéo lê đến chết người ta. Thuần hóa thực vật hoang dã về cơ bản là lao động trong hòa bình, còn thuần hóa ngựa hoang, bò hoang là cuộc chiến đổ máu, đổ mồ hôi. Đến nay, dân tộc nông canh vẫn đang hưởng dụng những thành quả vĩ đại của dân tộc du mục.

Dương Khắc nói: Dân tộc du mục quả đáng nể. Họ đã dám chiến đấu, lại biết lao động và học tập. Trình độ văn minh của dân tộc du mục tuy không cao bằng dân tộc nông canh, nhưng một khi có điều kiện, họ đuổi kịp và vượt dân tộc nông canh bằng tốc độ phi mã. Các đế vương như Hốt Tất Liệt, Khang Hy, Càn Long học tập và nắm văn hóa Hán sâu sắc hơn nhiều so với đại đa số các hoàng đế Hán tộc, công lao và hành trạng cũng lớn hơn, đáng tiếc là họ học văn hóa Hán cổ đại, nếu như họ học văn hóa cổ La Mã, cổ Hy Lạp hoặc văn hóa phương Tây cận đại, thì đáng nể hơn nhiều.

Trần Trận thở dài: Thực ra các dân tộc tiên tiến nhất thế giới hiện nay, phần lớn là hậu duệ của các dân tộc du mục. Cho đến bây giờ họ vẫn giữ những phong thục tập quán của dân tộc du mục nguyên thủy như uống sữa bò, ăn bơ, dệt áo len, trải thảm, nuôi chó, đấu bò, đua ngựa, thi đấu thể dục, yêu tự do, bầu cử dân chủ, tôn trọng phụ nữ v...v... Tính cách dũng cảm, thiện chiến, ngoan cường, tiến thủ, không những được họ kế thừa mà còn phát huy mạnh mẽ. Người ta có câu ba tuổi là lớn, bảy tuổi là đã già, với dân tộc cũng vậy. Du mục nguyên thủy là thủa ấu thơ của dân tộc phương Tây. Chúng ta giờ đây nhìn du mục nguyên thủy cũng là nhìn tuổi thơ lên ba và lên bảy của các dân tộc phương Tây, nếu như học thêm bài học này, càng hiểu sâu sắc hơn vì sao phương Tây ngồi lên đầu chúng ta. Kỹ thuật tiên tiến phương Tây không khó học, vệ tinh Trung Quốc lên trời rồi đấy thôi. Nhưng cái khó học nhất là ý chí tiến thủ, tinh thần dũng cảm không sợ nguy nan từ trong máu của dân tộc phương Tây. Từ lâu, Lỗ Tấn đã thấy tính cách quốc dân của dân tộc Hoa Hạ có vấn đề...

Trương Kế Nguyên nói: sau khi trở thành mã quan, cảm xúc sâu sa nhất của mình là sự khác biệt về tính cách giữa hai dân tộc Hán - Mông. Trước đây ở trường học, mình được coi là nổi trội nhiều mặt, nhưng lên thảo nguyên chỉ thấy mình yếu ớt như một con mèo. Mình đã nghĩ nhiều cách làm sao mạnh mẽ lên, sau đó ngộ ra rằng, hình như chúng ta tiên thiên bất túc hay sao ấy...

Trần Trận thở dài: Đúng là tiên thiên bất túc. Kinh tế tiểu nông của Hoa Hạ là lao động trong hòa bình, sợ cạnh tranh. Cương lĩnh của Nho gia là quân thần phụ tử, thượng tôn hạ ti, trật tự trên dưới, phục tùng vô điều kiện, dùng bạo lực chuyên chế thủ tiêu cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi hoàng triều và hòa bình cho nông nghiệp. Kinh tế tiểu nông Hoa Hạ và văn hoa Nho gia, từ hai phương diện tồn tại và ý thức, đã làm suy yếu tính cách dân tộc Hoa Hạ. Dân tộc Hoa Hạ từng sáng tạo nền văn minh cổ đại xán lạn, nhưng đã phải trả giá bằng hy sinh tính cách dân tộc, dũng là hy sinh sức bật của dân tộc. Khi lịch sử thế giới bước qua giai đoạn thấp của nền văn minh nông nghiệp, dứt khoát Trung Quốc lạc hậu sẽ bị đánh. Có điều chúng ta vẫn còn may, đuổi kịp giai đoạn chót cuộc sống du mục nguyên thủy thảo nguyên, chưa chừng có thể tìm ra bí mật khiến phương Tây quật khởi?

Trên trảng cỏ, cuộc chiến giữa ngựa và ngựa vẫn diễn ra quyết liệt. "Công chúa Tuyết" xinh đẹp đã bị kẻ chiến thắng đưa về nhốt trong đàn. Kẻ thất bại không chịu xông vào, đá công chúa ngã lăn ra đất, cô không biết cầu cứu ai, cất tiếng hí thảm thiết. Mẹ công chúa vội chạy đi cứu con, nhưng đã bị ông chồng dữ như hung thần ác quỉ cho mấy đá, đuổi về.

Dương Khắc quả thực thấy chướng. Cậu hích Trương Kế Nguyên: Mã quan các cậu sao bỏ mặc?

Trương Kế Nguyên nói: Bỏ mặc là thế nào? Cậu đến, chúng ngưng chiến; cậu đi, chúng tiếp tục choảng nhau. Mã quan du mục không can thiệp. Đây là cuộc chiến tranh sinh tồn của đàn ngựa, ngàn vạn năm nay vẫn thế. Suốt mùa hè, chừng nào ngựa giống chưa đuổi hết con gái ra khỏi đàn, chừng nào chưa giành giật xong các ngựa cái tơ, cuộc chiến chưa kết thúc. Năm nào cũng vậy, cuối hạ đầu thu mới ngưng chiến. Khi đó, con ngựa giống dũng mãnh nhất giành được nhiều ngựa cái nhất; con ngựa yếu nhất, nhát gan nhất chỉ khoắng được cô ngựa cái người ta loại ra. Thảm hại nhất là có chú ngựa giống không vớ được cô nào. Cuộc chiến thảm khốc trong đàn ngựa sẽ xuất hiện con ngựa giống dũng mãnh nhất, con cái của nó cũng lợi hại nhất, chạy nhanh, nhạy cảm, tính cách hung hãn. Cuộc chiến cạnh tranh tạo nên những con ngựa quý. Qua cuộc chiến giữa ngựa và ngựa mỗi năm một lần, đởm lượng và kỹ năng chiến đấu của ngựa giống ngày càng cao, càng tinh, dòng họ ngày càng thịnh vượng. Đây cũng là cuộc diễn tập của ngựa giống nhằm rèn luyện bản lĩnh đánh giết sói, giữ nhà và bảo vệ cừu. Không có cuộc diễn tập mỗi năm một lần này, đàn ngựa Mông Cổ không thể sinh tồn trên thảo nguyên.

Trần Trận nói: Xem ra khả năng thiện chiến làm kinh hoàng thế giới của ngựa Mông Cổ, cũng lại do sói bức bách mà có.

Trương Kế Nguyên nói: Đương nhiên. Sói thảo nguyên không những đào tạo ra võ sĩ, mà còn đào tạo ra ngựa chiến Mông Cổ. Chính quyền người Hán Trung Quốc cổ cũng có kỵ binh hùng hậu, nhưng ngựa của người Hán phần lớn là nuôi trong bãi trong chuồng. Chúng mình đã từng về lao động ở nông thôn, biết họ nuôi ngựa như thế nào. Ngựa nuôi trong chuồng được người cho ăn cho uống, đêm còn thêm cỏ. Ngựa dưới xuôi làm gì thấy sói, chưa từng có cuộc chiến giữa ngựa và ngựa, không cần đánh nhau chí mạng mới được phối giống, chuyện này do con người bố trí: Buộc con cái vào cột, dắt con ngựa đực đến là xong. Phối xong, rồi ngựa cái vẫn chưa biết mặt ngựa đực. Con cháu của loại ngựa này làm gì có cá tính và sức chiến đấu?

Dương Khắc cười: Hôn nhân bao biện sẽ đẻ ra lũ ngốc! May mà chúng ta không phải cái loại ấy, còn có cơ cứu vãn. Thế nhưng nông thôn hiện nay tình trạng hôn nhân bao biện vẫn rất phổ biến, khá hơn ngựa nông nghiệp một chút, cô dâu còn được biết chú rể mặt mũi ra sao?

Trần Trận nói: Có thể coi đã có tiến bộ lớn ở Trung Quốc rồi đấy.

Trương Kế Nguyên nói: Ngựa của người Hán Trung Nguyên chỉ là lao động khổ sai. Ban ngày làm lụng, tối ngủ như một nông dân. Do vậy, nông dân lao động, ngựa lao động dưới này không thể đánh lại các võ sĩ công với ngựa chiến thảo nguyên.

Dương Khắc thở dài, than: Ngựa đần ra trận, thua là cái chắc. Nhưng nguyên nhân cơ bản là do người đần. Lính đần cưỡi ngựa đần, nửa đêm sa xuống đầm.

Ba người cười buồn.

Trương Kế Nguyên tiếp tục nói: Tính chiến đấu quan trọng hơn tính cần cù trong lao động hòa bình. Trường thành, công trình lao động vĩ đại nhất thế giới, vẫn không ngăn được kỵ binh của một dân tộc nhỏ nhất thế giới. Chỉ biết lao động, không biết chiến đấu là gì? Là con ngựa thiến, bắt làm phải làm, bắt chở phải chở, gặp sói là bỏ chạy, không cắn không đá như ngựa giống. Ở với đàn ngựa lâu, mình biết, trong đàn có rất nhiều ngựa thiến. Dáng dấp, cân nặng, răng và vó không thua ngựa giống là mấy, nếu chúng dám ăn thua đủ với sói, chắc chắn sói đánh không lại. Nhưng vì sao ngựa thiến trông thấy sói là chạy? Vì nó đã bị cắt bỏ dũng khí và chất đàn ông trong người.

Dương Khắc tán thành, nói: Ừ, Vạn Lý Trường Thành là lao động chết, còn kỵ binh Mông Cổ là cuộc chiến sống, đi vòng mấy trăm dặm coi như không. Có lần kỵ binh Mông Cổ đánh Kim, tấn công Cư Dung Quan không hạ được thành, liền vòng xuống phía nam mấy trăm dặm, nhân lúc chưa phòng bị, hạ luôn Tử Kinh Quan, từ Tử Kinh Quan tiến lên đánh chiếm Bắc Kinh.

Trần Trận nói: Mình cảm thấy giáo dục trước đây của ta quá đề cao lao động, nào là lao động sáng tạo ra con người, lao động sáng tạo tất cả. Nhân dân Trung Quốc cần lao rất thích nghe câu này. Thực ra, chỉ lao động không thể sáng tạo ra người. Nếu người vượn chỉ biết lao động không biết chiến dấu thì đã bị mãnh thú ăn thịt từ lâu, làm gì có chuyện sáng tạo ra tất cả sau này? Người vượn phát minh rìu đá, cậu bảo nó là công cụ lao động hay vũ khí? Hay cả hai?

Dương Khắc nói: Trước hết nó là vũ khí, nhưng mà cũng có thể dùng nó đập vỡ hạt dẻ.

Trần Trận cười: Lao động vẻ vang, lao động thiêng liêng. Lao động là ưu thế lớn của dân tộc Hoa Hạ, là cái vốn hùng hậu phục hưng dân tộc sau này. Nhưng lao động không phải vạn năng và vô hại. Trong lao động có lao động nô lệ, lao động có tính chất nô dịch, lao động cưỡng bức, lao động cải tạo, lao động như trâu ngựa. Những lao động ấy có vẻ vang và thiêng liêng không? Có thể khen là đẹp không? Vậy mà chủ nô và chúa phong kiến rất thích tán dương những loại lao động này. Bản thân không lao động thậm chí bóc lột lao động của người khác cũng được ca ngợi như nhau.

Dương Khắc căm phẫn, nói; Mình căm nhất loại người đó, phải dùng rìu đá phang cho chúng một trận.

Trần Trận nghĩ: Lao động cũng có loại vô hiệu quả, lao động có tính chất phá hoại và lao động có tính hủy diệt. Cách đây hai ngàn năm, lao động xây dưng cung A Phòng đã chặt quang núi rừng Tứ Xuyên, "núi Thục biến, A Phòng hiện", loại lao động này thực đáng ghét. Kết quả lao động khẩn hoang của rất nhiều dân tộc nông canh trên thế giới là sa mạc, cuối cùng chôn vùi văn minh của dân tộc mình. Với lại, rất nhiều chuyện quan trọng trên thế giới không phải do lao động sáng tạo ra. Thí dụ lao động không sáng tạo ra hòa bình, an ninh, quốc phòng vững chắc, lao động không sáng tạo ra tự do, dân chủ, bình đẳng và chế độ của những thứ này; lao động không sáng tạo ra tính cách dân tộc kiên quyết đòi thực hiện tự do dân chủ bình đẳng. Người lao động không biết chiến đấu chỉ là khổ sai, là thuận dân, gia súc, trâu ngựa. Tự do dân chủ bình đẳng không thể trở thành khẩu hiệu chiến đấu của họ. Trên thế giới, nhân dân Hoa Hạ đông nhất, cần lao nhất, lịch sử lao động dài nhất, hơn nữa chưa khi nào ngừng lao động, vậy mà không sáng tạo ra nền văn minh tiên tiến rạng rỡ như dân tộc phương Tây mà lịch sử lao động ngắn hơn nhiều đã sáng tạo ra...

Đám ngựa giống tạm thời ngưng chiến, đi ăn cỏ. Đám ngựa cái tơ chạy về với mẹ. Ngựa mẹ thương con gái, dùng cặp môi dày chải lông cho con. Nhưng ngựa cái tơ thấy ông bố trợn mắt khịt mũi hí vang thì mất vía, vội chạy về nhà mới của mình, đứng xa mà ngó mẹ, bốn mắt buồn rầu.

Dương Khắc nói thật lòng: Từ nay mình phải thường xuyên đến với đàn ngựa để học hỏi. Kỵ binh Mông Cổ uy danh một thời là những sinh viên ưu tú do trường đại học của đàn ngựa đào tạo.

Cao Kiện Trung đánh một xe bò vui vẻ trở về, gọi toáng lên: Chúng mình vớ bở rồi! Mình cướp được hơn nửa thùng trứng vịt trời! Ba người chạy tới khênh cái thùng nặng trẫm tay xuống, trong thùng có đến bảy tám chục quả trứng vịt trời hình ô van, có một số bị giập vỡ, lòng đỏ trứng màu vàng gỉ ra ngoài.

Dương Khắc nói: Cậu tiêu diệt cà một đàn vịt trời!

Cao Kiện Trung nói: Cánh Vương Quân Lập đang tranh cướp ở đằng ấy. Bên bãi lầy phía tây, trong cỏ trong các ổ cát bên sông, chỉ mươi bước chân lại gặp một ổ trứng vịt trời, mỗi ổ mười mấy quả. Cướp của ai? Cướp của đàn ngựa. Lũ ngựa đi uống nước giẫm be bét từng đám lớn, bên bãi lầy toàn là vỏ trứng, nhìn mà đau lòng.

Trần Trận hỏi: Còn nữa không? Đi nhặt ít nữa về làm trứng muối.

Cao Kiện Trung nói: Phía bên này không còn. Bốn đàn ngựa tràn qua có sót cũng chẳng bao nhiêu, phía đông bãi lầy có thể vẫn còn.

Dương Khắc ngó Trương Kế Nguyên quát; Đàn ngựa chết tiệt, mã quan các cậu có mắt hay không hả/

Trương Kế Nguyên nói: Ai biết bờ sông có trứng vịt trời.

Cao Kiện Trung trông thấy đàn ngựa phía dưới cách lều không xa, liền hỏi Trương Kế Nguyên: Sao lại cho đàn ngựa ăn cỏ ngay trước cửa, cỏ hết, bò ăn gì? Cậu đuổi đàn ngựa đi nơi khác rồi về đây ăn trứng vịt.

Trần Trận nói: Hắn cưỡi con ngựa chưa thuần, lên xuống không đơn giản, để hắn ăn trứng rồi hãy đi. Vừa nãy hắn lên lớp cho chúng mình bao nhiêu chuyện, rất đáng được thưởng. Rồi bảo Trương Kế Nguyên - Trứng giập nhiều thế này, ba chúng mình ăn không hết.

Trương Kế Nguyên phản công: Các cậu lại cả đây nhặt riêng trứng lành trứng giập ra. Mình hai năm nay chưa được ăn trứng rán, hôm nay ăn cho đã. Vừa hay trong lều có nhiều hành dại, trứng vịt rán hành rất đúng vị, chắc ngon. Dương Khắc, cậu đi bóc hành, Trần Trận đánh trứng, Kế Nguyên đi nhặt sọt phân khô về đây, tôi đặt chảo.

Kết quả nhặt ra được một nửa trứng lành, một nửa trứng giập. Số trứng giập, mỗi người có thể ăn tám chín quả. Bốn người vui như tết. Chỉ lát sau, mùi trứng rán, mùi hành, mùi mỡ cừu thơm lùng theo gió bay trên bãi chăn. Lũ chó thèm rỏ dãi, vẫy đuôi tụ tập trước cửa lều. Sói con phá xích kêu loảng xoảng, nhảy vọt lên rất cao, chân tướng sói lộ rõ. Trần Trận bớt lại một ít cho con sói, cậu muốn biết nó có biết ăn trứng rán mỡ cừu.

Bốn người ăn như rồng cuốn hết bát nọ đến bát kia. Đang ăn, chợt nghe tiếng Caxumai nói to bên ngoài lều: Hay nhỉ, có món gì ngon thế mà không gọi mình một tiếng. Caxumai dắt Bayan và con Balua bước vào trong lều. Trần Trận và Dương Khắc lập tức nhường chỗ, mời hai mẹ con ngồi xuống vị trí phía bắc. Trần Trận vừa xúc trứng rán vừa bảo: Tưởng dân du mục không biết ăn thứ này. Nào, em mời chị và cháu nếm thử.

Caxumai nói: Mình ngửi thấy mùi thơm từ ở nhà, rất thơm, mình thèm rỏ dãi như chó ấy. Chó nhà mình cũng đi theo. Sao lại không dám ăn? Mình ăn đây. Nói rồi, chị cầm đũa gắp một miếng trứng to đưa lên miệng cắn từng miếng một, khen: Ngon lắm, ngon lắm. Bayan thì ăn ngốn ngấu như sói con, miệng ăn mắt nhìn chảo chỉ sợ hết. Dân du mục sáng uống trà sữa, bữa cơm chiều là bữa chính, không ăn trưa. Lúc này chắc hẳn hai mẹ con đang đói, Caxumai nói: Món này ngon thật đấy. Mình được ăn quán rồi, không phải lên thành phố mới được ăn. Hôm nay ăn cho đã.

Dân du mục gọi món ăn của người Hán là "món quán", rất thích. Mấy năm gần đây, họ cũng đã dùng gia vị. Mục dân thích ăn hành hoa, tương ớt, hành tây. Có người thích ớt tươi, nhưng không một ai thích dấm, tỏi, gừng tươi.

Trần Trận nói: Từ nay bọn em nấu món quán, thế nào cũng mời chị ăn.

Cao Kiện Trung thường được ăn bơ, váng đậu, váng sữa do Caxumai đem cho. Cậu cũng thường xuyên đến nhà Caxumai uống trà sữa, ăn thịt hun. Cậu thích nhất các món ăn Mông Cổ chế biến từ sữa và thịt. Lần này có dịp được mời đáp lễ, cậu vừa cười vừa nói: Có cả một thùng to, trứng giập không đủ thì ăn trứng lành. Đảm bảo chị ăn bằng thích. Cậu nhặt những quả giập sang một bên, lấy năm sáu quả trứng rán cho mẹ con Caxumai ăn.

Caxumai nói: Bố không cho ăn đâu, bố bảo trứng là của trời, không được đụng vào. Mình phải đến chỗ các cậu mà ăn thôi.

Trần Trận hỏi: Năm ngoái em thấy bố xin hơn chục quả trứng gà ở nhà ông cán bộ mục trường, bố xin làm gì hả chị?

Caxumai nói: Đó là con ngựa bị cảm sốt, ông nắm mũi kéo ngược lên đút cho hai quả trứng vào miệng. Chỉ vài lần là khỏi.

Dương Khắc rỉ tai Trương Kế Nguyên: Tai hại, bọn mình lên đây, mục dân bắt đầu ăn những thứ trước kia họ không ăn. Chỉ vài năm nữa, nói gì thiên nga, ngay vịt trời cũng không còn.

Bayan càng ăn càng ngon miệng. Miệng nhờn mỡ, nó bảo Cao Kiện Trung: Cháu biết một chỗ có những quả này. Cho cháu bát nữa, mai cháu dẫn chú đi. Trong hang rái cá chắn chắn có. Sáng nay đi tìm cừu mới đẻ, cháu trông thấy những quả này bên bờ sông.

Cao Kiện Trung phấn khởi, nói: Tốt lắm, bên sông có một gò đất đúng là có rất nhiều hố cát, chắc chắn đàn ngựa không đi qua đấy mà giẫm vỡ trứng. Lại một mẻ trứng rán rất dầy chín tới. Cao Kiện trung dùng xẻng nhà bếp xắn làm hai, xúc vào bát Caxumai và Bayan mỗi bát một nữa. Hai mẹ con ăn toát mồ hôi. Chảo bốc khói, một mẻ trứng nữa đã chín.

Mẻ trứng vừa rán xong, Trần Trận đón cái xẻng bếp, bảo Caxumai: Em làm món khác mời mẹ con chị. Cậu cho ít mỡ cừu vào chảo, bắt đầu rán trứng ốpla. Chỉ lát sau, hai cái trứng chiên hình gương sen bên ngoài trắng đục, bên trong hồng hồng hiện ra trong lòng chảo. Caxumai và Bayan nhìn không chớp. Trần Trận xúc cho hai mẹ con mỗi người một cái, rắc lên chút muối ớt. Caxumai vừa ăn vừa khen: Món này lại càng ngon, chiên cho mình hai cái nữa. Dương Khắc cười hì hì, nói: Để lát nữa em nấu cho chị món trứng xào rau phỉ. Ăn rồi, Trương Kế Nguyên nấu cho chị bát canh trứng - hành hoa. Tay nghề bốn chúng em không tồi đâu nhá.

Mùi thức ăn bay khắp lều, sáu người đã thấy hơi ngán, liên buông bát đũa, không ăn nữa. Bữa tiệc tiêu diệt nửa thùng trứng vịt trời.

Caxumai sốt ruột muốn về. Vừa chuyển nhà, công việc bề bộn. Cô ợ hơi, cười bảo cánh Trần Trận: Các cậu không được nói với bố đấy nhá. Vài hôm nữa, mời các cậu đến nhà ăn váng sữa trộn cơm rang.

Cao Kiện Trung bảo Bayan: Mai đi nhặt trứng nhá.

Trần Trận đuổi kịp con Balua, nhét vào miệng nó miếng trứng rán to tướng. Balua nhả miếng trứng xuống cỏ ngửi rồi nếm thử, thấy đúng là món cô chủ vừa ăn mới hỉ hả đớp luôn nuốt đánh ực, vẫy đuôi cảm ơn Trần Trận.

Mọi người giải tán, Trần Trận nhớ con sói, liền chạy ra chỗ nó.

Không thấy con sói, không hiểu nó đi đâu. Trần Trận toát mồ hôi lạnh, hốt hoảng chạy lại gần thấy nó nằm bẹp gí, cằm sát đát trong đám cỏ cao cao. Hẳn là nó sợ khi thấy người lạ và chó. Xem ra nó có tài ẩn nấp bẩm sinh. Trần Trận thở ra một hơi nhẹ nhõm. Sói con ngẩng nhìn lên, thấy người lạ, và chó không còn ở đây nữa mới nhảy lên ngửi hít mùi trứng rán trên người Trần Trận, lại còn liếm bàn tay dính mỡ của cậu.

Trần Trận quay vào trong lều xin Cao Kiện Trung sáu bảy quả trứng giập rán cho sói con và lũ chó. Không đủ no, nhưng cậu muốn cho chúng nếm thử. Chó thảo nguyên nhiều khi ăn vặt thích hơn bữa ăn chính, cho ăn vặt cũng là một cách làm quen với con chó. Trứng rán xong, Trần Trận cắt thành bốn miếng lớn ba miếng nhỏ. Bốn miếng lớn cho ba con chó lớn và con sói, ba miếng nhỏ cho ba con cún. Lũ chó tập trung ở cửa lều không chịu đi. Trần Trận cất riêng phần con sói rồi ngồi xổm trước cửa, cậu dùng xẻng nhà bếp gõ nhẹ lên đầu từng con bắt chúng xếp hàng lĩnh suất ăn. Cậu cho con Nhị Lang miếng to nhất. Nhị Lang mừng rơn, chưa bao giờ vẫy đuôi mạnh đến thế.

Đợi lũ chó ăn xong ra bãi cỏ chơi, cũng là đợi miếng trứng rán nguội, cậu bỏ miếng trứng vào chậu thức ăn bê cho sói con. Dương Khắc, Cao Kiện Trung và Trương Kế Nguyên đều ra theo để xem sói con có ăn trứng rán không. Sói thảo nguyên chưa bao giờ thấy và ăn món này. Trần Trận gọi to: Sói con... ăn cơm! Miếng trứng trong chậu vừa đặt xuống, con sói nhảy xổ vào đớp luôn và nuốt tởm không đầy một giây.

Bốn người thất vọng quá. Trương Kế Nguyên nói: Sói cũng đáng thương, nuốt tởm thì sướng cái nỗi gì? Trong từ điển nhà sói không có từ "nhâm nhi".

Cao Kiện Trung xót xa: Oan cho mấy cái trứng!

Trần Trận đành giải thích: Có thể nhũ đầu của con sói nằm trong dạ dày.

Ba người cười ồ.

Trần Trận ở lại thu dọn lều. Ba người kia đi về đàn ngựa, đàn bò và đàn cừu. Trần Trận hỏi Trương Kế Nguyên: có cần mình nắm tai ngựa để cậu lên yên không?

Trương Kế Nguyên nói: Mã quan đều có một hai con ngựa rất ngoan, chỉ gọi một tiếng hoặc dùng roi khẽ chạm vào mông là nó dừng lại liền, không cần đuổi hoặc tung thòng lọng. Không có những con ngựa như thế, lỡ có người bị ngựa dữ quật ngã, không có ngựa cưỡi mà đàn đã chạy đi rồi thì gay. Vào mùa đông, không chết cóng thì chớ kể.

Trương Kế Nguyên thay bộ đồ đã được giặt sạch, mượn Trần Trận cuốn tiểu thuyết "Sói biển" của Giắc London, ra khỏi lều.

Quả nhiên Trương Kế Nguyên nhẹ nhàng lên yên, đổi ngựa trong đàn không khó khăn gì rồi thúc ngựa phi nước đại về phía núi lớn.

Chương 21

Thác Bạt Thọ( Nguỵ Thái Vũ đế- người dân chủ) năm 429 quyết định đẩy lùi sự xâm nhập của bộ lạc Nho Nho người Mông Cổ. Một số cố vân của nhà vua dự báo: Nam triều (Nam Kinh) đế quốc người Hán có thể nhân dịp này đem quân kiềm chế. Thác Bạt Thọ trả lời đơn giản: “Người Hán dùng bộ binh, ta dung kỵ binh, trâu bò làm sao chống nổi sói.”

(Pháp) Pierre Renouvin “Đế quốc thảo nguyên”

Trần Trận thấy mấy đàn cừu lần lượt rời hồ nước, liền gom chúng lại dồn tới ven hồ. Thấy đàn cừu đã tụ tập một chỗ, cậu phóng ngựa tới ven hồ trước. Bãi sậy phía tây bắc đã bị chặt quang, lộ ra những dải cát nhân tạo rất rộng để gia súc xuống uống nước. Một đàn ngựa sau khi đã uống no, vẫn đứng yên nhắm mắt dưỡng thần, không chịu lên bờ. Vịt trời và các loại thuỷ cầm vẫn đùa giỡn trên mặt nước. Vài con chim còn dám bơi dưới bụng ngựa, ngang nhiên chui sang bên kia. Đàn ngựa nhìn lũ chim bằng ánh mắt thân thiện, không dùng đuôi xua đuổi. Riêng thiên nga không chịu kết bạn với ngựa. Chúng lánh xa vùng nước đục do ngựa gây nên, bơi chậm rãi bên bờ đối diện, trong bãi sậy.

Đột nhiên trên quả đồi bên hồ có tiếng cừu be ầm ĩ: Đàn cừu của Trần Trận ngửi thấy mùi nước. Mùa hè cừu uống nước hai ngày một lần. Khát đã hai ngày, đàn cừu chạy ào xuống hồ làm tung lên từng đám bụi phía sau. Đàn gia súc vào bãi chăn mới chưa đầy mười ngày, bãi cỏ ven hồ đã bị chúng giẫm nát, biến thành bãi cát. Đàn cừu xuống nước, cắm đầu uống ngay bên cạnh đàn ngựa.

Đàn cừu uống no vừa đi lên đồi, bên hồ lại rộ lên những tiếng be của một đàn cừu khác khát nước, bụi vàng bay lên dày đặc hơn.

Trên một con dốc thoai thoải cách hồ nước hai dặm đã dựng lên ba bốn cái lán dân công. Vài chục dân công đang đào mương. Bao Thuận Quý chỉ huy đám dân công đào bể tắm chữa bệnh, xây nhà kho chứa lông cừu và trụ sở đội bộ tạm thời. Trần Trận trông thấy vài dân công cùng người nhà của họ đào mương, xới đất làm vườn rau. Cách đó rất xa, một số dân công đã đào xong một cái hố cực lớn, đang trình tường bằng đá hộc, vài chiếc xe lớn chở đá hộc và đá lát nhà đến địa điểm thi công. Không muốn nhìn mảnh đất trinh nguyên bị cày xới nham nhở, Trần Trận vội lùa cừu lên phía Tây Bắc.

Đàn cừu qua một con đèo xuống thung lũng cỏ. Ông Pilich yêu cầu các tổ chăn thả không quanh quẩn ở tráng cỏ, mùa hè ngày dài, cố gắng đi thật xa, để cuối hạ đầu thu không phải chuyển nhà. Ông đặt kế hoạch dùng đàn cừu càn đi càn lại cả trong lẫn ngoài bãi chăn vài lượt, khống chế cỏ mọc vô tổ chức, lèn mặt đất, đề phòng đàn muỗi nguy hiểm. Đàn cừu Trần Trận dàn hình cánh cung, chậm rãi di chuyển đến dốc tây nam.

Dưới nắng, gần nghìn con cừu non như những bông cúc đại đoá trắng tinh nổi bật trên sườn dốc. Lông cừu non đã bắt đầu xoăn, chùng vừa ti sữa vừa ăn cỏ, khu đuôi mọc rất nhành, có con đã dài bằng khu đuôi cừu mẹ. Hoa cúc dại nở khắp nơi, trải màu vàng trước mặt Trần Trận. Hàng ngàn hàng vạn cây hoa chu cao hơn một mét, trên ngọn là một bông hoa màu vàng hình loa kèn, kẽ lá chi chít những nụ sắp nở. Trần Trận ngồi giữa đám hoa cúc vàng mà như ngồi trên đồng cải quê nhà. Cậu không ngờ trên cánh đồng hoang lại mọc nhiều cúc dại đến thế, bông cúc lớn hơn cúc vườn, nụ hoa to bằng cán bút bi.

Trần Trận đứng dậy nhảy lên ngựa phóng tới phía trước đàn cừu, chỗ hoa cúc dày nhất để hái. Những ngày này rau cúc là món ăn ngon miệng cho đám học sinh Bắc Kinh, cúc vàng xào thịt cừu, bánh gối cúc nhân thịt, nộm cúc hành. Mời mục dân thưởng thức, nhưng mục dân không thích mùi hoa cúc. Buổi sang trước khi đi làm, Cao Kiện Trung đã chuẩn bị sẵn cho Trần Trận hai cái túi. Mấy ngày nay, Cao Kiện Trung không cho Trần Trận đọc sách, tranh thủ hái hoa đem về trần nước sôi, hong khô để ăn trong mùa đông, có tên là rau trâm vàng. Họ đã phơi khô được nửa tải.

Đàn cừu ăn cỏ phía sau rất xa, Trần Trận bứt từng nắm nụ hoa cúc, chẳng mấy chốc đã đầy một túi xách. Mải mê hái hoa cúc, Trần Trận chợt nhìn thấy cục phân sói, vội ngồi xuống nhặt lên xem kỹ. Cục phân có màu xám nhạt to bằng quả chuỗi tiêu, tuy đã khô nhưng vẫn có thể nhận ra chỉ cách đây vài hôm. Trần Trận ngồi xếp bằng tròn cân nhắc thật kỹ, cậu muốn có thêm ít kiến thức về phân sói. Cậu chợt nhận ra chỗ cậu ngồi đây chính là nơi con sói nằm nghỉ. Nó đến đây làm gì? Trần Trận nhìn thảm cỏ xung quanh, không xương xẩu vung vãi, lông lá cũng không. Rõ rang đây không phải là nơi sói đem con mồi đến ăn. Cỏ cao và rậm, đàn cừu của tổ thường đi qua, có thể đây là nơi sói phục kích. Trần Trận giật mình, vội đứng dậy nhìn bốn phía. Không sao, mấy cao điểm gần có mã quan đang nghỉ, và đàn cừu thì chỉ cách nửa dặm phía sau. Cậu lại ngồi xuống.

Trần Trận nhận biết phân sói, nhưng cậu chưa có dịp nghiên cứu kỹ. Cậu bẻ cục phân làm đôi, thấy toàn là lông dê vàng và lông cừu, không thấy xương, chỉ có vài chiếc răng chuột bé tí và chất canxi của xương dính bết vào nhau như vôi vữa. Sói nuốt vào bụng thịt cừu thịt chuột, da cừu da chuột, xương cừu xương chuột, gân cừu gân chuột, tiêu hoá bằng hết gần như không còn chút gì, chỉ còn lại những thứ không thể tiêu hoá như lông và răng. Xem xét kỹ, ngay cả lông cũng là những sợi xenluylô ở lông thô, còn lông mịn cũng tiêu hoá hết. So với sói, tiêu hoá của chó kém xa, trong phân chó còn bã xương và vỏ ngô hạt chưa tiêu hoá hết.

Trần Trận càng xem càng sợ, sói đúng là công nhân vệ sinh trên thảo nguyên. Chúng xử lý gọn bò cừu ngựa, rái cá dê vàng, thỏ đồng chuột đồng, thậm chí thi thể người chết, qua răng miệng dạ dày và ruột, chúng hấp thụ toàn bộ chất bổ dưỡng, cuối cùng chỉ còn thừa chút lông và răng, keo kiệt đến mức chẳng để lại chút nào cho lũ vi khuẩn. Thảo nguyên hàng vạn năm nay luôn sạch sẽ, đó là công lớn của sói!

Trần Trận rơi vào trầm tư. Ngàn vạn năm nay, người thảo nguyên và sói thảo nguyên du mục và săn bắt, khi về trời không để lại mồ mả bia đá, càng không để lại cung điện lăng tẩm. Người và sói từng sinh ra, sống, chiến đấu và chết trên thảo nguyên, đến như thế nào khi đi như thế. Những dũng sỹ thảo nguyên từng đánh chiếm cách thành luỹ và thành phố của mấy chục quốc gia, vậy mà cái chết của họ nhẹ như lông hồng, khiến cho những nhà khảo cổ đời sau đau đầu vì không khai quật được gì. Cái sinh mạng thảo nguyên nhẹ như lông hồng ấy, hoá ra rất tôn trọng sinh mạng của tự nhiên và của đấng cao xanh, là tấm gương cho những chủ nhân của những lăng mộ đồ sộ Kim Tự Tháp, Tần Hoàng lăng, Thái Cơ lăng coi cái chết nặng tựa Thái sơn. Người thảo nguyên thông qua sói mà đạt tới sinh mạng nhẹ tựa lông hồng, cuối cùng về với thiên nhiên. Họ không thể thiếu một trong hai, sau khi thể xác tiêu tan, họ hoà với thiên nhiên làm một.

Bột mịn lọt qua kẽ tay Trần Trận rơi xuống, có thể trong đám bụi này có tàn dư râu tóc người thảo nguyên. Thảo nguyên tháng nào, quý nào cũng có thiên tang đưa linh hồn người thảo nguyên lên trời. Trần Trận giơ cao hai tay ngửa mặt nhìn trời, chúc cho linh hồn họ bằng an hạnh phúc bên Tăngcơli.

Đàn cừu hình răng lược chậm rãi chải những búi hoa vàng tiến dần lên dốc núi. Trần Trận tiếc, không muốn vứt bỏ mấy cục phân sói, bèn bỏ vào một cái túi khác, lên ngựa đón đầu đàn cừu.

Trên đỉnh núi gần đó có một tảng đá lớn màu đen nhọ nồi, nhìn từ xa giống như một phong hoả đài. Trên những đỉnh núi xa hơn cũng có những tảng đá như thế. Trần Trận nheo mắt ngắm, thấy chúng như một đoạn trường thành còn sót lại, chợt nhớ tới câu thành ngữ “phong hoả hí chư hầu” (đốt lầu phong hoả đánh lừa chư hầu là có giặc cho vui) và “lang yên tứ khởi” (khói phân sói bốc lên mù mịt). Cậu từng tra những từ điển nổi tiếng, “lang yên” được giải thích là “khói đốt từ phân sói”. Nhưng như cục phân sói cậu vừa bóp nát cho thấy, phân sói chủ yếu do tàn tích của lông động vật tạo thành, làm sao có thể khói đen cuồn cuộn?

Chẳng lẽ trong phân sói có thành phần đặc biệt gì đó? Tim cậu đập rộn lên: “phong hoả đài” ngay trước mắt, sao mình không đốt lên, đùa giỡn “chư hầu” một cái, tận mắt trông thấy “khói sói” khiến dân tộc Hoa Hạ kinh hồn táng đởm hàng ngàn năm nay? Xem cái khói sói ấy nó kinh khủng như thế nào. Do tính hiếu kỳ thôi thúc, Trần Trận quyết định đi nhặt thêm ít phân sói nữa, để “khói sói” bốc trên “phong hoả đài”.

Đàn cừu di chuyển chậm, Trần Trận dạo qua rất nhiều lượt mới nhặt được chừng bốn vốc tay, chưa đầy nửa cái túi xách.

Trần Trận ngày càng sinh nghi, cứ cho là phân sói bốc lên khói đen, nhưng sói không như cừu, sói là loài mãnh thú di chuyển nhanh, phân rải rác khắp nơi, không tập trung một chỗ như cừu. Vì vậy kiếm đủ phân sói đâu có dễ. Ngay cả nơi đàn sói lớn tập trung tiêu diệt đàn dê vàng, cũng khó tìm thấy phân, nói gì dưới chân trường thành ít gia súc. Hơn nữa, các binh sĩ phong toả đài trên trường, thành nhặt phân sói ở đâu? Rất nhiều phong hoả đài, bao nhiêu phân sói cho đủ? Sức tiêu hoá của sói rất mạnh, bài tiết phân rất ít, do vậy phải có những đàn sói khổng lồ mới đủ phân cho các phong hoả đài. Trần Trận lại dạo vài lượt nữa vẫn không kiếm thêm được bãi phân nào. Cậu cho đàn cừu trú tại chân dốc lớn rồi phóng ngựa lên chỗ tảng đá trên đỉnh núi.

Trần Trận đến bên tảng đá nhìn lên. Tảng đá cao bốn tầm người, bên cạnh có nhiều tảng thấp có thể dùng làm bậc thang trèo lên. Cậu kiếm trong khe một ôm củi khô, buộc chặt, kéo lên đỉnh núi. Rồi đeo chéo túi sang bên, cậu trèo lên tảng đá, kéo bó củi lên theo. Bề mặt tảng đá bằng phẳng , rộng bằng hai chiếc bàn, bên trên có phân chim đại bàng trắng.

Lúc này đã gần trưa, đàn cừu nằm nghỉ trên bãi cỏ. Trần Trận đứng trên “phong hoả đài” dung ống nhòm quan sát kỹ bốn phía, không có sói. Đàn cừu của cậu cách những đàn cừu khác năm sáu dặm, đàn gần nhất cũng ngoài ba dặm, không sợ lẫn. Yên tâm, Trần Trận chất củi thành đống, bỏ tất cả chỗ phân sói lên trên. Giờ là dầu hạ, không phải đề phòng hoả hoạn, trên thảo nguyên toàn là cây tươi, vả lại, trên mỏm đá cao cao, có đốt lửa cũng không bị ca cẩm, người ta nghĩ các mã quan nướng thịt ăn.

Trần Trận ý đã quyết, móc cái ví da cừu nhỏ như quyển ngữ lục trong túi trên, bên trong có hai miếng thuỷ diêm và hơn chục que diêm đầu đỏ. Đây là vật bất li thân của những mục dân không nghiện thuốc trên thảo nguyên, dùng để phòng thân: Sưởi ấm, nấu nướng thức ăn, báo tin… Trần Trận quẹt diêm, đám củi khô lập tức bén lửa nổ tí tách, tim cậu đập thình thịch, nếu như phân sói bốc khói đen. Có thể nói từ khi có sử đến nay, đây là lần đầu tiên người Hán đốt lên làn khói của phân sói trên thảo nguyên Mông Cổ. Có thể mọi người trong đội đều nhìn thấy làn khói này, các thanh niên trí thức sẽ chắc chắn liên tưởng tới khói soi. Quả thật “khói sói” đã gieo rắc kinh hoàng trong tâm trí người Hán, nó là lời cảnh báo đặc biệt trong lịch sử văn hoá Trung Quốc, đồng nghĩa với báo động, khủng bố, chiến tranh bột phát và kẻ thù xâm nhập. “Sói đến đấy!” Tiếng kêu khiến người lớn trẻ em sợ mất vía, và “khói sói” khiến dân tộc Hán khiếp đảm, bao nhiêu vương triều Hán trung nguyên đã bị diệt trong “khói sói”!

Trần Trận hơi sợ, khói sói bốc lên, tất cả thanh niên trí thức trong đội lập tức lên án cậu. Nuôi sói chưa đủ hay sao, lại còn ngang nhiên nổi khói sói, thằng cha này chắc hẳn là quân bất lương, phản phúc khó lường. Trần Trận giơ cao chân, sẵn sàng dùng gót ủng giập lửa bất cứ lúc nào. Nơi đây là vùng biên, tình hình khá căng, vậy mà dám đốt lửa giỡn chư hầu, chẳng phải thông báo địch tình thì là gì? Nghĩ vậy Trần Trận toát mồ hôi lạnh.

Thế nhưng, lửa đã rừng rực mà chỗ phân sói không thấy động tĩnh, cục phân màu xám biến thành đen, không bốc khói cũng không cháy thành ngọn lửa. Đống lửa cháy càng to, phân sói đã bén lửa, bốc lên mùi hôi của sói và mùi khét của lông cừu, những vẫn không thấy khói đen. Đốt phân sói giống như đốt thảm len, khói bốc lên màu nâu nhạt, không đậm bằng khói củi. Củi cháy đùng đùng, phân sói cũng cháy thành ngọn lửa, cuối cùng tất cả đỏ rực, khói cũng không còn mấy, nói gì khói đen, khói trắng cũng không. Vậy làm gì có “khói sói” khiến người ta sợ mất vía? Làm gì có cột khói đen cuộn cuộn dâng cao đầy ma thuật? Chỉ là đống củi khô thêm vào đó ít thảm len rách, khói bốc lên rất bình thường, mỏng và nhẹ.

Trần Trận hạ chân xuống từ lâu, cậu gạt mồ hôi do sợ hão, thở ra nhẹ nhõm. Đống lửa này chẳng có gì ghê gớm, chỉ bằng những đống lửa sưởi ấm mùa đông. Cậu nhìn đống củi và những mẩu phân sói đã cháy hết, tịnh không thấy xuất hiện khói sói. Cậu đứng lên trên tảng đá cao, trảng cỏ rộng lớn phía đông hoàn toàn thanh bình: những chiếc xe bò chậm rãi lăn bánh, đàn ngựa trong hồ vẫn nhắm mắt dưỡng thân, đám phụ nữ cắm cúi xén lông cừu, các dân công đang đào đa hộc. Đống lửa không gây phản ứng gì, một dương quan gần nhất đang nhìn về phía cậu. Ống khói trên nóc lều Mông Cổ phía xa toả khói trắng, cột khói vươn thẳng lên trời. Làn khói sói đốt bằng chính nguyên liệu phân sói lại chẳng có gì đáng chú ý, không hấp dẫn bằng khói cơm trên túp lều Mông Cổ.

Trần Trận rất thất vọng. Cậu nghĩ, khói sói không có thật, chẳng qua là chuyện bịa. Thực nghiệm hồi nãy đã chứng minh sự phán đoán của cậu: Cái gọi là khói sói trên phong hoả đài, dứt khoát không phải khói của phân sói. Làn khói đen đặc kia hoàn toàn do đốt củi khô củi ướt và dầu mỡ khói bốc lên trời. Đốt phân cừu phân bò còn ướt cũng có khói đen, mà củi ướt, dầu mỡ, phân bò cừu ướt dễ kiếm hơn nhiều so với phân sói. Giờ thì cậu có thể khẳng định, khói sói là cách nói dựa vào uy thể của sói, hoàn toàn bịp bợm, là lời tự dối mình của cư dân hoà bình Hoa Hạ.

Gió thổi tro củi và tro phân bay khỏi “phong hoả đài”. Trần Trận không sợ khói sói, cậu rất ghét cái lối giải thích về khói sói trong những từ điển danh tiếng của Trung Quốc. Nền văn minh nông canh Hoa Hạ hiểu rất nông cạn về văn minh thảo nguyên, không hiểu tí gì về sói thảo nguyên. Khói sói không đơn giản là khói của phân sói, chỉ cần đốt một ít phân sói là biết liền. Nhưng vì sao hàng triệu người Hán bao nhiêu năm nay không đốt thử? Từ một góc độ khác, Trần Trận thấy cái chuyện đơn giản như thế, thực tế không giản đơn chút nào. Sự mở mang nền văn minh nông canh mấy nghìn năm đã giết sách sói Hoa Hạ, người Hán có đâu phân sói mà nhặt? Những ông già đi nhặt phân đều là phân trâu bò dê cừu chó ngựa hoặc phân người, ngẫu nhiên gặp phân sói cũng không nhận ra.

Trần Trận ngồi trên “phong hoả đài” suy nghĩ rất lung. Đã bảo khói sói không phải khói của phân sói, vậy thì khói đen cuồn cuộn trên phong hoả đài sao lại gọi là khói soi? “Khói sói”, từ này quả đáng sợ hơn, có tác dụng uy hiếp hơn đàn sói, còn từ “sói” trong “Sói đến đấy” không phải đàn sói thảo nguyên, mà là lá quân kỳ thêu hình đầu sói của kỵ binh Đột Quyết; là những kỵ binh Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết, Mông Cổ hùng mạnh, mang tính sói của thảo nguyên, noi gương sói, rất thích tự ví mình là sói, ví người Hán là cừu; luôn luôn tự hào về sói mạnh một chọi trăm của mình mà khinh rẻ tính cách nhu nhược như cừu của các dân tộc nông canh. Còn dân tộc nông canh Hoa Hạ cổ đại vẫn coi kỵ binh thảo nguyên là “sói”. Nghĩa ban đầu của “khoi sói” phải là “Khói lửa trên phong hoả đài, là tín hiệu bằng khói lửa cấp báo kỵ binh dân tộc thảo nguyên sùng bái tôtem sói, đã xâm phạm quan nội”. Khói sói và phân sói không hề liên quan.

Cậu chợt nghĩ, có lẽ trên thế giới này chỉ Hán ngữ có cái từ “khói sói”. Trên đời này, chuột sợ mèo nhất, cừu sợ sói nhất. Lấy “khói sói” tượng trưng cho cuộc tiến công đáng sợ nhất của dân tộc thảo nguyên, đã bộc lộ bản chất tính cách cừu tính hoặc gia súc tính của dân tộc Hán. Từ khi Mãn Thanh lên thảo nguyên, do tộc Mãn du mục yêu thảo nguyên và nông canh, khói sói tiêu tan dần. Nhưng mâu thuẫn sâu sắc giữa văn minh thảo nguyên và văn minh nông canh vẫn không được giải quyết. Người Hán không hiểu thảo nguyên. Sau khi dựng nước, khói sói tắt hoàn, nhưng khói đen khẩn hoang lại lan rộng trên thảo nguyên. Đay là một loại khói lửa chiến tranh, đáng sợ hơn khói sói, là cuộc chiến tranh tự sát dã man hơn tự huỷ trường thành. Trần Trận nhớ lại ông Ulichi, nếu như bắc trường thành biến thành sa mạc, nối liền sa mạc Mông Cổ thành một dải, vậy Bắc Kinh sẽ như thế nào? Trần Trận thở dài, để dân tộc nông canh xưa nay coi thảo nguyên như kẻ thù, yêu mến và trân trọng thảo nguyên, có lẽ phải đợi khi trường thành bị sa mạc vùi lấp mới có thể. Dân tộc nông canh là dân tộc chưa thấy quả báo nhỡn tiền thì chưa chịu, tộc Thanh sau khi vào trung nguyên dần dà bị văn minh nông canh đồng hoá, bế quan toả cảng, tự đóng cửa lại mà huênh hoang khoác lác, cự tuyệt văn minh bốn phương, không chịu cải cách đổi mới, nếu không có chuyện các cường quốc đưa tàu to súng lớn mở toang cửa ngõ Trung Quốc, cắt đất đền tiền, đuổi hoàng thất ra khỏi kinh thành, chưa hẳn đã có cuộc cải cách gượng gạo mấy chục năm sau đó.

Trần Trận nhìn cục phân sói dưới đất đã biến thành tro, buồn da diết.

0O0

Cái nắng mùa hạ trên cao nguyên, đến trưa bỗng trở nên gay gắt, toàn bộ cỏ trên đồng bị héo lùn ba tấc, tảng đá khổng lồ nứt thêm mấy vết mới. Trần Trận vun tàn tro nhét đầy các kẽ nứt, rồi trèo xuống trở lại trảng cỏ. Đàn cừu say nắng rúc trong bụi cỏ, cằm sát đất, lưng phơi lên trời, núp dưới cái bóng của chính mình. Cả đàn đang ngủ trưa, im phắc.

Ẩn sau một phiến đá lớn, Trần Trận cũng muốn chợp mắt một lát nhưng không dám. Chỗ này vừa nhặt được phân sói, rất có thể một con sói lớn đang ẩn nấp đâu đó chỉ đợi mình ngủ say. Trần Trận uống mấy ngụm lớn sữa chua trong bi đông, thấy đỡ buồn ngủ. Mỗi lần đi chăn cừu, cậu lại đến nhà Caxưmai lấy đầy bi đông sữa chua, loại nước giải khát của dương quan trong mùa hè, cũng là đồ uống chống nóng ưa thích của người và chó ở nhà.

Có tiếng vó ngựa. Đanchi đang nhảy xuống. Anh mặc áo dài trắng Mông Cổ, thắt lưng đoạn màu xanh ra vẻ một trang anh tuấn. Khuôn mặt đỏ như táo chín đẫm mồ hôi. Anh lau mặt, bảo Trần Trận: Té ra là cậu. Hồi nãy trông thấy khói trên tảng đá tưởng cậu dương quan nào nướng rái cá. Tôi buồn ngủ quá nên đốt lửa cho đỡ ríu mắt lại. Cừu của anh đâu? Đanchi trỏ đàn cừu ở sườn núi phía bắc, nói, ngủ cả rồi. Mình buồn ngủ quá, nhưng sợ nên tìm cậu nói chuyện. Đừng lo cho đàn cừu của mình, mình đã giao cho dương quan trông rồi. Hai cậu dương quan đang đánh cờ đằng ấy. Đanchi ngồi hóng mát sau tảng đá.

Trần Trận biết mục dân thảo nguyên biết chơi cờ bắt dê; cờ tướng quốc tế thì do kỵ binh Mông Cổ đem từ phương Tây về. Nhưng không ai biết chơi cờ tướng Trung Quốc. Ông Pilich nói: Quân cờ người Hán toàn chữ Hán, người Mông Cổ không đọc được. Cờ phương Tây không có chữ nhưng ai cũng nhận ra, nhất là con mã không khác đầu ngựa Mông Cổ là mấy. Người Mông Cổ rất thích quân cờ có đầu ngựa. Trần Trận nghĩ thầm, đến nay Mông Cổ còn lưu giữ những hiện vật, chứng cứ, ảnh hưởng của kỵ binh Mông Cổ càn quét thế giới đem về. Dân tộc thảo nguyên tiếp xúc với cờ tướng quốc tế và quốc tế sớm hơn nhiều so với người Hán, là dân tộc phương Đông thu được chiến lợi phẩm sớm nhất từ phương Tây. Thời kỳ Mông Cổ chinh chiến thế giới, ngay cả giáo hoàng La Mã cũng cử sứ thần đến chào. Sự dũng mãnh của người Mông Cổ là một trong những nguyên nhân khiến phương Tây không dám khinh rẻ người phương Đông. Sau khi lên thảo nguyên, Trần Trận đã học được lối chơi cờ tướng quốc tế.

Mùa hè trên thảo nguyên, ban ngày dài dễ sợ, hơn ba giờ đã sang, bảy tám giờ tối mới tối hẳn. Tuy đàn cừu sợ giẫm sương bị thấp khớp, tám giờ mới xuất chuồng, nhưng phải đợi đến chín giờ nắng khô sương mới lùa cừu lên núi. Nhưng buổi chiều thì phải đợi tối hẳn mới cho cừu về chuồng, vì đây là khoảng thời gian cái nóng dịu đi, cừu tranh thủ ăn cỏ vỗ béo. Mùa hè chăn cừu dài gần gấp đôi mùa đông. Các dương quan đều sợ mùa hè. Sáng uống bát trà sữa, bụng đói đến tận tám chín giờ tối, nắng và buồn ngủ, khát và đói, nhàm chán và cô đơn. Giữa mùa hạ, khi đàn muỗi bay ra, thảo nguyên đúng là nhà tù. Sau khi lên thảo nguyên, đám thanh niên trí thức mới biết, so với mùa hạ, mùa đông rét buốt triền miên, nhưng lại là mùa người ta béo lên.

Trước khi đàn muỗi kéo đến, Trần Trận khó chịu nhất là đói. Mục dân rất giỏi nhịn đói, nhưng phần lớn đau dạ dày. Mùa hè đầu tiên, thanh niên trí thức đem theo lương khô, nhưng về sau dần dà nhập gia tuỳ tục. Nói đến rái cá nướng, bụng hai người réo ùng ục.

Đanchi nói: Bãi chăn mới rái cá rất nhiều, sườn núi phía tây toàn là hang rái cá. Hôm nay thăm thú tình hình, mai đặt một ít bẫy, đến trưa chắc chắn được vài con. Trần Trận luôn miệng khen hay, nếu như bẫy được rái cá thì vừa no bụng vừa tỉnh ngủ. Đanchi thấy hai đàn cừu chưa muốn dậy ăn cỏ, liền dẫn Trần Trận sang đỉnh dốc phía tây nấp sau những phiến đá thạch anh, vừa có thể theo dõi đàn cừu phía sau, vừa quan sát hang rái cá sườn núi phía trước. Hai người lấy ống nhòm ra quan sát kỹ. Sườn núi yên tĩnh, hơn chục nấm đất trước hang trống không, phản chiếu tia thạch anh lấp loáng. Hang rái cá ở Ơlôn rất sâu. Rái cá đùn cả quặng trong núi ra ngoài hang, mục dân có khi nhặt được đá saphia màu tím hoặc đá cuội chứa quặng đồng. Chuyện này làm kinh động đoàn thăm dò địa chất quốc gia, nếu Ơlôn kề sát đường biên thì đã trở thành vùng mỏ từ lâu.

Chỉ lát sau, từ bên sườn núi vọng lại tiếng “chít chít”, “chút chút” rất to. Đó là rái cá phát đi tín hiệu thăm dò trước khi ra ngoài. Chỉ cần bên ngoài không có phản ứng là hàng loạt rái cá chuẩn bị ra ngoài hang. Lại một loạt tiếng kêu nữa, vài chục con rái cá to có nhỏ có chui lên, gần như mỗi nấm đất đều có một con rái cá mẹ ngó nghiêng, liên tục phát ra những tiếng “chít chít” nhịp nhàng chậm rãi, báo hiệu bình yên. Thế là lũ rái cá con chạy hết ra ăn cỏ cách đó mấy chục mét. Đại bang lượn vòng trên cao, rái cá mẹ cảnh giác nhìn trời, nếu kẻ thù sà xuống, rái cá mẹ lập tức kêu “chíp chíp”, đàn con chui hết xuống hang, đợi hết nguy hiểm lại mò lên.

Trần Trận nhích người sang bên, động tác hơi mạnh. Đanchi vội dung tay ấn lưng Trần Trận, nói nhỏ: Trông kìa, bên dưới cái hang ở tận cùng phía bắc có một con sói. Người và sói cùng một ý tưởng rồi. Nó cũng định ăn thịt rái cá. Nghe nói đến sói, Trần Trận hết cả buồn ngủ vội giơ ống nhòm về phía mục tiêu. Một con rái cá đực rất to đứng thẳng trên một nấm đất, hai chân trước buông xuôi trước ngực ngó quanh, không dám xuống ăn cỏ. Rái cá trên thảo nguyên, con cái ở cùng đàn con, con đực ở riêng một hang. Phía dưới cửa hang của con sói đực cỏ mọc rất cao, mỗi khi có gió lại lộ ra mấy hòn đá màu vàng, đám cỏ rung rinh, rất khó phân biệt mọi vật. Trần Trận nói: Tôi chưa trông thấy con sói, chỉ thấy mấy hòn đá.

Đanchi nói: Nó ở ngay bên cạnh hòn đa. Mình đồ chừng nó phục ở đấy lâu rồi. Trần Trận lại nhìn kỹ mới thấy thấp thoáng nửa thân con sói, buột miệng nói: Mắt anh mới tinh chứ, làm sao tôi không thấy nhỉ? Đanchi nói: Nếu cậu không biết sói bắt rái cá bằng cách nào thì dù mắt tinh đến mấy cũng khó nhìn thấy nó. Sói chọn hướng ngược gió phục kích phía dưới cửa hang, trong đám cỏ rậm. Một lần bắt rái cá không dễ, nên sói chọn con đực. Cậu xem, con đực này mới to chứ, gần bằng con cừu choai, ăn một con đủ no. Muốn tìm sói, trước hết tìm rái cá đực trên miệng hang rồi lần xuống đám cỏ cao phía dưới theo hướng ngược gió…

Trần Trận vui vẻ kêu: Hôm nay lại học thêm một chiêu. Khi nào con rái cá này ăn cỏ? Tôi rất muốn biết con sói bắt con rái cá như thế nào. Sói ló đầu lên, con rái cá liền chui tọt vào một cái hang gần đấy là sói chịu phép. Đanchi nói: Sói đần không bắt nổi đâu, phải là con thông minh kia. Sói đầu đàn thường giở tuyệt chiêu, rái cá có muốn chui vào hang cũng không được. Cậu cứ ở đấy mà xem tài nghệ con sói này.

Hai người ngoảnh lại nhìn đàn cừu, thấy chúng vẫn nằm yên bèn quyết định đợi. Đanchi nói: Rất tiếc hôm nay không đem chó theo. Có chó ở đây, đợi sói bắt được rái cá, liền thả chó cho đuổi, còn ta lên ngựa phóng theo, dứt khoát cướp lại được con rái cá. Dù cho hai người ăn nhưng vẫn đảm bảo một bữa no. Trần Trận nói: Đợi lát nữa ta thử đuổi theo xem sao, chưa chắc đã đuổi kịp. Đanchi nói: Chắc chắn không đuổi kịp. Cậu thấy đấy, sói trên sườn núi, sói chạy xuống, ta chạy lên, càng không đuổi kịp. Trần Trận đành thôi.

Đanchi nói: Mai ta đặt bẫy. Hôm nay đưa cậu đi quan sát tình hình, sói cũng chỉ còn nửa tháng bắt rái cá. Nửa tháng nữa mưa xuống, muỗi bay ra, sói không bắt rái cá nữa. Vì sao? Vì muỗi cứ nhè vào mũi vào mắt vào tai sói mà đốt khiến sói nhảy như choi choi thì còn nằm phục sao được. Sói động là rái cá chạy liền. Khi đó sói mới tấn công đàn cừu đàn ngựa chúng ta, người và gia súc khốn đốn đây.

Con rái cá đực nhìn đàn rái cá ăn cỏ, không chịu nổi nữa, nó bèn nhảy xuống chạy một quãng chừng hai chục mét bứt mấy miếng rồi chạy trở lại nấm đất, kêu cầm canh như cũ. Đanchi nói: Cậu xem, con rái cá không ăn cỏ ngay miệng hang để khỏi lọ miệng hang. Động vật hoang dã trên thảo nguyên sống rất khó khăn, sểnh ra một tí là mất mạng.

Trần Trận sốt ruột nhìn con sói, đoán chừng từ chỗ nấp nó không trực tiếp nhìn thấy, chỉ bằng thính giác mà phán đoán vị trí và hành động của con rái cá, vì vậy nó ép sát gần như chui xuống đất.

Con rái cá đực chạy ra chạy vào mấy lượt không thấy có gì nguy hiểm liền buôn lỏng cảnh giác, nhằm một búi cỏ lớn chạy tới. Chừng năm sáu phút trôi qua, con sói bật dậy. Điều khiến Trần Trận giật mình là con sói không vồ ngay con rái cá, mà nó cào cho sỏi đá lăn xuống rào rào. Con rái cá đực cách đó hai chục mét nghe tiếng động giật mình chạy trở về hang. Lúc này con sói nhanh như chớp nhảy vọt lên nấm đất trước cửa hang con rái cá, và gần như cùng một lúc, nó và con rái cá chạm trán nhau ở cửa hang. Con rái cá định chạy sang hang khác nhưng không kịp, con sói ngoạm gáy con rái cá cắn một phát đứt cổ, rồi nó ngẩng cau đầu, miệng ngậm con rái cá nhanh nhẹn vượt qua một con đèo mất hút, từ lúc xuất kích cho đến lúc hạ con mồi chưa đầy nửa phút.

Trên sườn núi, lũ rái cá biến mất. Trần Trận tận mắt chứng kiến tuyệt kỹ của con sói mà sững người. Trí tuệ của loài sói thật không thể lường, Trần Trận đã đọc “Nguồn gốc loài vật” nhưng sách không giải thích rõ, chỉ trong cuộc sống cậu mới được mục kích kỳ tích này.

0O0

Nắng ngả màu vàng, hai đàn cừu đã đứng lên ăn cỏ, di chuyển theo hướng tây bắc một hai dặm nữa. Hai người chuyện trò thêm dăm câu rồi ai nấy đi về đàn cừu của mình. Đã đến lúc đổi hướng cho con cừu đầu đàn để về chuồng. Đúng lúc hai người định đứng lên dắt ngựa, Trần Trận chợt phát hiện có chuyện xao động giữa đàn cừu, vội giơ ống nhòm lên thấy một con sói lông màu vàng kim từ bụi cúc bên trái đàn cừu vọt ra quật ngã con cừu mẹ rồi cắn xé. Trần Trận tái mặt định hét lên, nhưng Đanchi vội ấn cậu xuống. Trần Trận chợt hiểu, ngừng ngay tiếng kêu. Con sói ăn thịt đùi cừu ngay khi con cừu còn sống. Cừu thảo nguyên là loại động vật hạ đẳng, thấy máu không dám kêu. Cổ toé máu, chân giãy đạp nhưng nó không dám kêu lên như sơn dương để được cứu.

Đanchi nói: Xa đàn quá, cứu không kịp. Để nó ăn no rồi sẽ tính. Đanchi bình tĩnh, con sói chết tiệt, dám bắt cừu ngay trước mũi mình. Hai người ngồi yên bên tảng đá, sợ đứng dậy sớm quá, kinh động con sói.

Rõ rang đây là con sói đói, thấy người chăn xa đàn đã lâu, bèn lợi dụng những đám cúc vàng bò tới, bất chợt nhảy ra ăn thịt cừu. Nó đã trông thấy hai người và hai con ngựa nhưng không bỏ chạy, vừa theo dõi hai người, ước lượng chính xách khoảng cách, vừa tranh thủ từng phút từng giây ngốn hết miếng nọ đến miếng kia, ăn được chừng nào có thể ăn. Trần Trận nghĩ, thảo nào sói con ở nhà ăn như ăn cướp. Trên thảo nguyên, thời gian là thịt, ăn nhỏ nhẹ thì chỉ có chết đói.

Trần Trận từng nghe kể chuyện dương quan đổi cừu lấy sói. Căn cứ vào tình hình trước mắt, có lẽ phải dung cách này. Đổi một cừu lấy một sói lớn, quá lãi. Một sói lớn một năm ăn thịt mười mấy con cừu, đấy là chưa kể ngựa lớn ngựa nhỏ. Dương quan đổi cừu lấy sói, không bị đội phạt đã đành, mà còn được biểu dương. Nhưng Trần Trận vẫn lo, không tóm được sói thì thiệt to. Cậu dán mắt vào ống nhòm, con sói ăn hết cái đùi chỉ trong một phút, cả da lẫn lông. Hai người rón rén đến bên ngựa, lặng lẽ cởi dây buộc chân, nắm chặt dây cương thấp thỏm chờ đợi.

Giống cừu thậm ngu. Khi con sói ăn thịt con cừu mẹ, mấy chục con gần đấy kinh hoàng chạy túa ra, nhưng chỉ lát sau chúng trở lại bình tĩnh, thậm chí có những con còn đứng gõ móng tỏ vẻ sốt ruột hoặc xán lại gần xem sói ăn. Tiếp theo lại hơn chục con nữa xúm quanh. Cuối cùng, hơn trăm con cừu đứng chen chúc vòng trong vòng ngoài đường kính dễ đến ba mét, nghển cổ mà nhìn sói ăn đồng loại, nét mặt tỏ ra “sói ăn cậu, chả việc gì đến tới!” hoặc “cậu chết thì tớ thoát”. Đàn cừu sọ vạ vào thân, không con nào dám chống lại sói.

Trần Trận trong lòng đau nhói. Cậu không nén nổi căm phẫn. Cảnh tượng trước mắt khiến cậu nhớ lại những gì Lỗ Tấn tả một đám dân ngu giống hệt lũ cừu trước mặt: Vươn cổ mà ngó quân Nhật giết người mình!

Sói ăn thịt cừu là dã man, nhưng nhu nhược như cừu quả thực đáng sợ, khiến lòng người tê tái.

Đanchi có vẻ lúng túng. Là thợ săn nổi tiếng của đội mà bỏ mặc đàn cừu, đưa một thanh niên trí thức đi xem sói bắt rái cá, giữa ban ngày ban mặt để sói vồ mất mẹ cừu. Mất mẹ, cừu con thiếu sữa sẽ không lớn, không qua nổi mùa đông. Có thể coi như một vụ thiều tinh thần trách nhiệm, Trần Trận bị phê bình, Đanchi tránh không khỏi liên can. Gay go là sẽ có người làm to chuyện, vì sao sự cố sói ăn thịt cừu mẹ lại xảy ra đối với người nuôi sói con? Người nào không quan tâm đến cừu thì không nuôi được cừu, người nào bắt sói về nuôi chắc chắn sẽ bị sói mẹ báo thù. Những đội viên phản đối nuôi sói nhân dịp này sẽ tha hồ thêu dệt. Trần Trận càng nghĩ càng sợ.

Đanchi dùng ống nhòm quan sát rất lâu, hình như anh ta đã có chủ ý. Anh ta bảo: Con cừu mẹ cứ tính vào tôi, nhưng tôi sẽ lấy da. Tôi chỉ việc đem bộ da lên nộp Bao Thuận Quý, ông ta sẽ biểu dương cả hai chúng ta.

Con sói vừa nhìn người bằng ánh mắt sói, vừa tăng nhanh tốc độ ngốn thịt. Đanchi chỉ: Không đến mấy lúc đói cũng ngốc. Sao nó không nghĩ lát nữa còn chạy nổi không? Tôi đồ chừng đây là con sói ngố, bắt không được rái cá mới quay về đây. Chắc nhiều ngày nay không có gì vào bụng.

Trần Trận thấy con sói đã ăn gần hết nửa con cừu, bụng căng như trống, bèn hỏi: Xông tới được chưa? Đanchi nói: Đừng vội, đợi lát nữa. Phải rất nhanh đấy. Ta từ phía nam đuổi tới buộc nó phải chạy lên phía bắc. Phía ấy có mấy dương quan, họ sẽ chặn đường giúp ta.

Đanchi còn xem một lúc nữa, cuối cùng hô: Lên ngựa! Hai người vịn cọc yên nhảy lên mình ngựa nhằm phía nam đàn cừu phi tới. Con sói chưa vội bỏ chạy, thấy người tới, còn cắn thêm mấy miếng nữa mới bỏ con cừu lại, nhằm phía bắc chạy đi. Nhưng chạy được vài chục mét, hình như nhận ra sai lầm, con sói dừng lại đột ngột, ngồi xổm, đầu cúi xuống. Đanchi hét to: Không hay rồi, nhanh lên! Nó định nôn bớt. Quả nhiên Trần Trận trông thấy nó thót bụng lại, nôn ra toàn là thịt. Hai người tranh thủ thời cơ ngàn năm có một, thúc ngựa vọt lên, loáng cái đã đuổi kịp con sói.

Trần Trận chỉ biết sói oẹ thức ăn trong bụng để nuôi con, không biết sói nôn thức ăn để nhẹ bụng chạy cho dễ. Con sói đói cũng không ngu. Nếu chỉ còn bụng không thì cừu bị sói ăn thịt đúng là sự cố. Cậu lập tức ra roi cho ngựa vọt lên, ngựa Đanchi lại càng nhanh, anh ta vừa hò hét vừa gọi các dương quan trên núi giúp đỡ. Đanchi sắp tới gần, con sói buộc phải ngừng nôn, điên cuồng bỏ chạy, tốc độ nhanh gấp đôi lúc nãy. Trần Trận đuổi theo một đoạn, trông thấy đống thịt con sói nôn ra màu đỏ tươi. Cậu càng cuống, thúc ngựa đuổi bắt bằng được.

Có lẽ trong bụng còn khá nhiều thịt, thực phẩm mới ăn vào bụng chưa phát huy tác dụng, nên con sói tuy chạy nhanh nhưng vẫn chưa đạt tộc độ thường ngày của nó. Con ngựa của Đanchi đã chạy nhanh bằng con sói. Chạy thêm đoạn nữa, con sói đột nhiên đổi hướng chạy lên con dốc cao, định dùng tuyệt chiêu lăn dốc của sói để thoát hiểm. Đúng lúc, dương quan Tang Kiệt hiện ra vung cây thòng chặn đường sói chạy. Con sói run lên, nhưng nó chỉ lưỡng lự trong giây lát rồi lập tức đổi hướng xông thẳng vào đàn cừu gần nhất. Trần Trận không ngờ con sói tính nước lợi dụng đàn cừu hỗn loạn làm chậm chân ngựa, mã quan vướng cừu không tung được thòng, để một lần nữa thoát hiểm.

Nhưng đúng lúc con sói do dự, Đanchi không bỏ lỡ thời cơ thúc ngựa vọt lên tiếp cận nó. Tang Kiệt cũng nhanh nhẹn chặn đường con sói chạy về phía đàn cừu. Con sói lần nữa định đổi hướng, chỉ thấy Đanchi vươn người ra phía trước giơ cao cây sào dài thượt, đồng thời ném thòng trúng cổ con sói. Không cho nó rụt cổ để gỡ thòng, Đanchi run nhẹ cho thòng lọng xiết chặt cổ chỗ yết hầu và lập tức quay ngựa kéo lê con sói phía sau.

Con sói đã mất khả năng chống cự. Thân hình nặng nề của nó càng làm cho thòng xiết chặt đến thè lưỡi, há miệng thở dốc cùng với bọt máu. Đanchi cho ngựa chạy lên dốc để sức kéo lớn hơn. Trần Trận chạy theo sau thấy con sói co giật toàn thân bắt đầu giãy chết. Trần Trận thở ra nhẹ nhõm, vậy là sự cố để sói ăn mất cừu đã được hoá giải. Nhưng cậu không sao vui lên được khi thấy con sói lớn đầy sức sống mà chỉ trong vài phút đã chết ngoẻo. Thảo nguyên tàn khốc vô cùng. Thảo nguyên yêu cầu nghiêm khắc đối với các loài động vật về khả năng sinh tồn. Chỉ cần lóng ngóng vụng về một chút là bị đào thải. Trần Trận tiếc ngẩn ngơ. Cậu thấy con sói rất thông minh, mạnh mẽ: Nếu có những con người như thế, liệu có bị đào thải không?

Khi ngựa chạy đến nửa dốc, con sói đã không cựa quậy nữa, nhưng vẫn còn thở ra bọt máu. Đanchi xuống ngựa, vừa xiết vừa rút ngắn dây thòng, cầm lấy cây gậy vẫn lồng ở cổ tay vụt liền mấy gậy rồi rút dao Mông Cổ đâm một nhát giữa ngực con sói. Lúc Trần Trận xuống ngựa, con sói đã tắt thở. Đanchi đá con sói hai cái thấy không có phản ứng, liền lau mồ hôi trên mặt, ngồi xuống cỏ lấy thuốc ra hút.

Tang Kiệt ngó con sói khen Đanchi mấy câu. Rồi giúp Đanchi dồn cừu về. Trần Trận chạy đến đàn cừu của mình, định hướng về nhà cho chúng, rồi quay lại xem Đanchi lột da sói. Mùa hè nóng bức sợ da bị thối nên không lộn trái mà mổ phanh như lột da cừu, tấm da có thể trải phẳng. Lúc Trần Trận quay lại, Đanchi đã phơi tấm da sói trên cỏ.

Trần Trận nói: Đây là lần đầu tiên em trông thấy giết sói bằng thòng lọng, sao anh giỏi thế? Đanchi cười hề hề: Mình nhận ran gay con này hơi vụng về. Nếu nó nhanh nhẹn một chút thì khi cái thòng rơi trúng cổ, nó rụt đầu mà lắc cho bật ra. Trần Trận nói: Mắt anh tinh thật, phục anh đấy. Em có tập dăm ba năm cũng không được như anh. Con ngựa của em cũng không ổn. Sang năm em phải luyện vài con, trên thảo nguyên mà không có ngựa tốt không xong. Đanchi nói: Cậu bảo Batu chọn cho một con. Batu như anh trai cậu, chắc chắn sẽ chọn cho cậu một con ngựa tốt.

Trần Trận chợt nhớ đến con sói của Đanchi, hỏi: Lâu nay bận quá không đến được, con sói của anh thế nào rồi? Có ai nói gì không? Đanchi lắc đầu nói: Đừng nhắc đến nó nữa, hôm kia mình đập chết nó rồi. Trần Trận bị hẫng, vội hỏi: Đập chết rồi à? Sao thế? Xảy ra chuyện gì với nó?

Đanchi thở dài, nói: Giá như mình xích nó lại như cậu đã làm thì hay. Con sói của mình nhỏ hơn con của cậu, sói tính cũng không rõ lắm, nên mình vẫn cho sống chung với lũ chó con, sau một tháng chúng đã quan nhau, kể cả với chó cái, không ai biết nó là sói. Sau đó nó lớn nhanh hơn chó, như một con bécgiê, cả nhà ai cũng thích. Con sói rất thích chơi với thằng con mình. Thằng nhỏ lên bốn, cũng rất thích con sói. Chẳng ngờ hôm kia đang chơi với nhau, con sói cắn thằng nhỏ một miếng vào bụng chảy máu, dứt đứt một mẩu da. Thằng nhỏ đau quá, khóc. Răng sói rất độc, độc hơn răng chó, mình sợ quá vác gậy vụt chết luôn rồi bế thằng nhỏ đến chỗ cô Bành tiêm hai mũi mới không sinh chuyện. Giờ bụng thằng nhỏ vẫn còn sưng.

Trần Trận có vẻ hoang mang, vội nhắc: Phải rất cẩn thận, vẫn phải tiêm tiếp. Bệnh dại có thể tiêm phòng, không sợ.

Đanchi nói: Chuyện này mục dân đều biết, bị chó cắn là phải tiêm phòng ngay, bị sói cắn lại càng phải tiêm. Sói và chó khác nhau hoàn toàn. Dân ở đây nói không thể nuôi sói, xem ra đúng thế thật, sói không đổi tính, sớm muộn sẽ sinh chuyện. Mình khuyên cậu đừng nuôi nữa, con của cậu to lớn, sói tính càng lớn, nọc độc ở răng càng lớn, bị nó cắn một miếng là mất mạng. Xích cũng không an toàn.

Trần Trận cũng hơi sợ, nghĩ một lúc, cậu nói: Em sẽ cẩn thận hơn, nuôi được nó lớn đâu có dễ! Em không nỡ. Ghét nó như Cao Kiện Trung mà bây giờ suốt ngày chơi với nó.

Các dương quan đã về hết. Đanchi cuộn tấm da lại buộc bên yên rồi lên ngựa về trại.

Trần Trận nhớ con sói. Cậu đến bên con cừu bị sói ăn thịt, dùng dao lưỡi gập của thợ điện, cắt bỏ những chỗ sói ăn dở, bỏ ruột, để lại tim gan, rồi cột đầu cừu vào cọc yên,chuẩn bị đem về cho đàn chó và sói con ở nhà. Cậu lên ngựa cho đi từng bước một, lòng nặng trĩu.

Hôm sau, chuyện Đanchi đổi cừu lấy sói lan khắp đại đội. Bao Thuận Quý được biếu tấm da, tán dương Đanchi hết lời, lại còn thưỏng cho anh 30 viên đạn. Sau đó mấy hôm, một dương quan trẻ tổ 3 cũng dùng cừu dụ sói, kết quả mắc mưu một con sói thành tinh. Nó chỉ ăn một đùi rưỡi con cừu, không nhiều hơn, nghĩa là ăn đủ chứ không ăn no, không hề ảnh hưởng đến tốc độ chạy, trái lại càng khoẻ, loáng cái đã mất dạng. Cậu dương quan bị ông Pilich phê bình một trận trước đại đội, phạt cả nhà cậu một tháng không ăn thịt cừu.

Chương 22

Tộc Mãn và Thần Sói Đen được một số saman Đacachi, Ơlônxun, Ngạc Ông Khắc sùng bái. Thần Sói Đen dũng cảm vô địch, coi cái ác như kẻ thù, là hộ thần và trợ thủ của saman trong trừ hung diệt bạo. Hễ những ai gặp ma quái hung tợn, gian giảo, đêm đêm làm điều ác, đều nhờ Thần Sói Đen dùng mưu nuốt chửng trong bóng tối. Thần Sói Đen là sói điên, nhưng cũng là sát thủ cũng những ác ma.

- Phúc Dục Quang “Saman luận”

Lại đến phiên Trần Trận gác đêm. Có Nhị Lang canh giữ đàn cừu, Trần Trận có thể vừa gác vừa đọc sách hoặc ghi nhật ký trong lều. Để khỏi ảnh hưởng đến giấc ngủ của hai bạn, cậu kê bàn bên cạnh cửa lều, lại còn che hai bên hai quyển sách dày chắn ánh đèn. Bãi chăn im ắng, không nghe tiếng sói tru, ba con chó suốt đêm không sủa nhưng lúc nào cũng dỏng tai cảnh giác. Cậu ra bên ngoài có một lần, cầm đèn pin đi một vòng quanh đàn cừu. Con Nhị Lang luôn nằm canh góc tây bắc khiến Trần Trận yên tâm. Cậu xoa đầu con Nhị Lang tỏ ý cảm ơn. Trở lại lều, cậu cũng không dám ngủ ngay mà còn xem sách đến quá nửa đêm. Sáng hôm sau thức dậy, công việc đầu tiên của cậu là cho sói con ăn.

Từ khi đến bãi chăn mới, trời rạng sang là sói con như nằm rình mồi, mắt nhìn không chớp cánh cửa gỗ của căn lều Mông Cổ, nơi để chậu thức ăn. Trong con mắt sói con, cái chậu là con mồi di động. Nó biết chờ đợi thời cơ như sói mẹ, đợi “con mồi” đến gần mới tập kích. Do vậy thức ăn đưa đến miệng, nó coi là săn được chứ không phải người ta đem đến cho.Sói con vẫn giữ tính độc lập của loài sói. Trần Trận cũng cố ý ra vẻ sợ hãi lùi lại mấy bước, nhưng thường thì vui vẻ kêu lên.

Trên thảo nguyên Mông Cổ trước khi mùa mưa bắt đầu, thường có những ngày oi bức, thời tiết năm nay nóng hơn năm ngoái. Trần Trận cảm thấy mặt trời trên thảo nguyên Mông Cổ không những mọc sớm hơn, mà hình như thấp hơn dưới xuôi. Mới mười giờ sang mà đã nóng như giữa trưa hè. Ánh nắng gay gắt đốt cháy cỏ xung quanh lều, thân cỏ rỗng giữa như kim tiêm. Muỗi chưa ra, nhưng nhặng xanh bay vù vù như ong, tấn công toàn diện người và gia súc. Nhặng xanh chuyên tấn công vào đầu, mắt, mũi, khoé miệng và vết thương trên người và gia súc, hoặc bám trên những súc thịt cừu còn máu. Con Vàng thường đớp rất nhanh một con nhặng, cắn chết rồi phun ra. Lát sau, xung quanh con Vàng đã có rất nhiều xác nhặng to như hạt dưa hấu.

Nắng ngày càng gắt, mặt đất bốc hơi, toàn bộ bãi chân như một cái chảo sao chè khổng lồ, nóng hầm hập, cỏ non đã biến thành những tôm chè đen kịt. Lũ chó nằm tập trung dưới mái lều phía bắc hình cánh cung chật hẹp, miệng há hốc, lưỡi thè dài, bụng phập phồng gấp gáp. Trần Trận không thấy con Nhị Lang trong bóng râm, gọi hai ba tiếng cũng không thấy chạy ra. Chắc nó chuồn đi chơi, có lẽ ra song hóng mát. Nhị Lang làm tròn trách nhiệm khi trực đêm, không ai trong đội còn gọi nó là chó hoang, nhưng hễ trời sang, đêm trực kết thúc, nó thích đi đâu là nó đi, không như con Vàng và con Ilưa ban ngày vẫn trông nhà.

Lúc này tình hình sói con hơi gày. Dưới nắng gắt, sợi xích nóng bỏng, nó phơi mình dưới nắng, không có gì che chắn. Cỏ trong phạm vi chuồng bị giẫm nát, chết khô, cái chuồng đã biến thành miếng đất hình tròn toàn cát, y như một cái chảo đáy bằng đặt trên lò, bên trong là cát bỏng. Còn sói con thì như một hạt giẻ bị rang khô cháy sắp nứt vỏ. Tội nghiệp sói con, nó không những bị tù, mà còn bị tra tấn bằng lửa như một trọng phạm.

Thấy cửa mở, sói con vụt đứng dậy bằng hai chân sau, xích sắt thít chặt lè lưỡi, hai chân trước như đánh trống trong không khí. Lúc này cái nó cần không phải là bóng râm, cũng không phải là nước uống, mà là cái ăn. Sói con ăn bằng trời. Mấy ngày nay Trần Trận thấy sói con không hề bị cái nóng mà bỏ cơm, trái lại càng nóng nó càng ăn khoẻ. Sói con ra sức vẫy, ra hiệu cho Trần Trận bê chậu thức ăn vào chuồng, nó “cướp” lấy “con mồi”, rồi đuổi Trần Trận đi.

Trần Trận lo quá. Thảo nguyên vào hè, theo tập quán, mục dân ăn sữa là chính, thịt giảm nhiều. Hàng ngày một bữa trà một bữa cơm, thịt vụn không thấy nữa. Món chính biến thành những món có bột: Bánh mỳ, kê, gạo rang và các phế phẩm từ sữa; sữa đậu, sữa chua, bơ, phù chúc… Mục dân mùa hè thích sữa tươi, nhưng đám thanh niên trí thức chưa học được cách làm món ăn từ sữa, một phần là vì không quen ăn sữa hay thịt; quan trọng hơn là thanh niên trí thức không chịu nổi vất vả của chế biến sữa. Không ai thích ba giờ sang đã dậy vắt sữa trong bốn năm tiếng đồng hồ, rồi luôn tay khuấy sữa chua trong thùng bằng chiếc đũa cả, càng không thích buổi chiều năm giờ khi bò về chuồng, vắt bốn năm tiếng đồng hồ sữa bò. Và hôm sau thì hàng loạt công việc lao động chân tay: đun sôi, ép, cắt, phơi. Thanh niên trí thức vui lòng gặm bánh mỳ, bánh chay, cũng không thích chế biến sản phẩm từ sữa. Mùa hè mục dân chế biến sữa, thanh niên trí thức đi hái rau dại: hành, tỏi dại, mã liên phỉ, rau cúc, rau khúc, bồ công anh… Còn có một loại rau mà hộ ngụ cư gọi là “halacai”, lá to, cay như ớt. Mùa hè ngừng ăn thịt, mục dân và đám thanh niên trí thức có dịp thay đổi khẩu vị, chỉ Trần Trận và sói con là khổ.

Mùa hè dân tộc thảo nguyên rất ít khi thịt cừu. Một là khi thịt một con cừu, phần lớn không có cách bảo quản, trời nóng, ruồi nhặng nhiều, chỉ hai hôm là thối, có giòi. Cách làm của mục dân là cắt thịt thành thẻo to bằng ngón tay, lăn bột mỳ để chống nhặng đẻ trứng, sau đó đem hong ở một chỗ thoáng mát trong lều cho đến khô. Hàng ngày thái một hai thẻo cho vào bát mỳ, gọi là có vị thịt. Nếu gặp những ngày ẩm ướt liên tục, thịt sẽ thối, sinh giòi. Hai là, mùa hè cừu tích nước mỡ để sang thu tạo mỡ. Khi chưa béo, con cừu chỉ là cái khung, thịt mỏng, mỡ ít, vị kém , mục dân không thích ăn. Hơn nữa mùa hè cừu vừa cắt lông, da cừu bán không được tiền, phải sang thu lông dày mới lấy được nhiều len. Ông Pilich nói: Giết cừu vào mùa hạ thì chẳng khác nông dân nhổ lúa vào mùa xuân để ăn đỡ đói.

Ơlôn tuy dân số ít, đàn gia súc khổng lồ, nhưng chính sách vẫn không cho ăn nhiều thịt. Vào cái thời dầu mỡ thiếu thốn, thịt cung cấp theo định lượng nhỏ giọt, mỗi con cừu đều là động vật quý hiếm.

Đám thanh niên trí thức ăn no thịt liên tục ba mùa thu đông xuân, nay thiếu thịt thì không chịu nổi, bèn xin tổ phá lệ, nhưng không được chấp thuận. Caxưmai thấy Trần Trận bước vào cửa là vừa cười vừa bê ra cho cậu ăn váng sữa, phù chúc trộn đường kính, lại còn chuẩn bị cho cậu rất nhiều sản phẩm từ sữa tươi, khiến cậu không dám mở miệng xin giết cừu. Thảng hoặc thanh niên trí thức ở tổ nào đấy được giết mổ một con, lập tức đem đi nửa số thịt chia cho các bạn học ở tổ khác, để mọi người cứ ít hôm lại được ăn một chút thịt tươi, nhưng như vậy, thịt hong khói của các nhà ngày càng ít.

Người thì tạm được, nhưng sói con thì sao?

Hôm ấy Trần Trần trước tiên bỏ vào chậu một thẻo thịt hong cho sói con ăn. Sau đó cậu vội cầm chậu trở về lều nghĩ cách. Cậu ngồi xuống ăn sáng, nhìn thấy miếng thịt cừu khô bé tí trong nồi, chần chừ một lát rồi nhặt ra bỏ vào chậu của con sói. Khác với chó, sói không ăn cháo kê hoặc cơm kê không có mùi thịt. Không có thịt hoặc xương, sói con đứng ngồi không yên, nổi cáu cắn dây xích.

Trần Trận ăn hai bát mì thịt khô với dưa muối, chỗ còn lại trong nồi, cậu trút hết vào chậu rồi dùng que củi khuấy cho mấy miếng thịt khô lộn lên trên cho con sói trông thấy. Cậu bê chậu lên ngửi, thấy mùi thịt cừu còn nhạt, nên định bụng lấy thêm ít mỡ cừu để thắp đèn cho vào chậu. Trời nóng, mỡ cừu đựng trong lon bắt đầu mềm ra, may mà sói thích thịt động vật ôi, mỡ cừu vẫn là món ngon của sói. Trong lều còn hai lọ mỡ cừu từ mùa thu còn lại dung để đọc sách, đủ đến sang thu hay không cũng khó nói. Nhưng giờ đang là thời kỳ quan trọng, sói con phát triển xương, cậu đành bấm bụng chịu đau, cắt bỏ một số thời gian đọc sách. Có điều, cậu vẫn không bỏ được thói quan, ngày nào cũng đọc, xem ra lần này đành muối mặt đến xin Caxưmai vậy. Ông Pilich và Caxưmai khi biết các cậu thiếu mỡ thắp đèn, nhất định sẽ cấp đủ cho cậu. Mùa hè quá bận quá mệt, cậu kể chuyện lịch sử cho ông già nghe và nghe ông kể chuyện ngày càng ít.

Trần Trận múc một thìa mỡ cừu trong lọ trộn vào cháo nóng, mỡ nổi váng trên mặt chậu. Cậu đưa lên mũi ngửi, toàn mùi mỡ cừu, coi như con sói có một bữa ngon. Cậu lại trút nửa nồi cháo kê vào chậu nhưng lại tiếc chưa muốn cho mỡ cừu vào. Mùa hè thịt ít, hàng năm chó thảo nguyên có một số ngày nửa đói nửa no.

Mở cửa ra,lũ chó đã vây kín bên ngoài. Trần Trận cho chó ăn trước. Đợi chó ăn xong liếm sách chậu, lui ra chỗ bong râm của căn lều, Trần Trận mới bê chậu thức ăn ra chỗ sói con, vừa đi vừa gọi như mọi ngày: Sói con… sói con… ăn cơm! Con sói mong đã đỏ mắt, giằng xích gần như nghẹt thở.Trần Trận đẩy cái chậu đến trước mặt con sói rồi lùi lại hai bước, đứng nhìn sói ăn như ăn cướp, hình như nó rất bằng lòng về bữa ăn này.

Ngày nào cho sói ăn cũng phải gọi, bữa nào cũng phải nói câu trên, Trần Trận rất mong sói con sẽ nhớ ơn cậu, coi cậu là người bạn khác loài. Cậu thường nghĩ, rồi có ngày cậu lấy vợ sinh con, chưa chắc cậu đã có tình cảm như thế đối với con trai. Cậu tin rằng loài sói có ma lực, trong rừng sâu của thảo nguyên đói khát, sói mẹ nuôi đứa trẻ bị bỏ rơi bằng sữa của nó. Đàn sói chăm nom bảo vệ thằng bé (con bé) và nuôi thằng bé (con bé) thành sói. Nếu không có tình cảm siêu nhân loại siêu sói thì không thể ra đời loại “thần thoại” đó. Từ khi nuôi con sói, Trần Trận luôn bị những giấc mơ như trong thần thoại và ảo tưởng quấy rầy. Khi học tiểu học, cậu từng đọc một truyện của Liên Xô, kể rằng một người thợ săn cứu một con sói, sau khi chữa lành vết thương cho nó, ông thả nó về rừng. Về sau, một buổi sáng mở cửa đã thấy trên tuyết có bảy con thỏ lớn và hai hang dấu chân sói… Đây là lần đầu tiên Trần Trận được đọc một truyện kể về tình hữu nghị giữa sói và người, khác hẳn với sách và phim ảnh đương thời nói về quan hệ giữa sói và người, kể toàn những chuyện bà ngoại sói, sói ăn thịt cừu, sói moi tim gan trẻ em… thậm chí con sói dưới ngòi bút Lỗ Tấn cũng tàn bạo có truyền thống. Vì vậy cậu rất mê cuốn tiểu thuyết của Liên Xô, nhiều năm vẫn không quên. Cậu thường mơ thấy mình là người thợ săn lội tuyết vào rừng chơi với các bạn sói, vật nhau với sói trên tuyết, cưỡi sói phi trên thảo nguyên.

Vậy mà giờ đây cậu có một con sói bằng xương bằng thịt, có thể sở mó được. Chỉ cần cho nó ăn no là cậu có thể vật nhau với nó. Cậu đã từng vật nhau với nó mấy bận rồi. Giấc mơ của cậu đã thực hiện được một nửa, còn nửa sau… cậu không dám nghĩ tiếp- Con sói lớn lên cho cậu một lũ bécgiê, rồi trở về với đàn sói. Trần Trận thường mơ thấy mình cưỡi ngựa bạch dẫn đàn bécgiê vào rừng sâu, gọi vào trong núi: Sói con… sói con… ăn cơm! Tôi đến đây, tôi đến rồi đây! Thế là trong ánh hoàng hôn mênh mang, một sói chúa xanh biếc màu thép, mạnh mẽ như hổ lang, dẫn một đàn sói vừa tru vừa sủa chạy ra đón… Tiếc rằng đây là khu du mục thảo nguyên, không phải rừng sâu, lều trại có thợ săn, chó săn, súng trường và thòng lọng. Mà dù sói con lớn lên trở về với thiên nhiên, cũng khó có thể tha bảy con thỏ lớn đến trước cửa lều làm quà tặng cậu.

Trần Trận thấy trong huyết quản hình như đang sục sôi dòng máu dân tộc du mục. Tuy tổ tiên cậu là nông dân chính hiệu, nhưng cậu vẫn cảm thấy hình như cậu không phải là hậu duệ của dân tộc nông canh, không thực tế, thực sự, thực dụng, thực lợi như nho sĩ Hoa Hạ coi mộng mơ ảo tưởng như kẻ thù. Trần Trận đã thực hiện được một nửa giấc mơ, còn một nửa rất khó khăn nữa cậu phải dũng cảm thực hiện nốt. Cậu hi vọng thảo nguyên sẽ khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần mạo hiểm và những giấc mơ cậu ấp ủ từ lâu.

Sói con liếm sạch chậu thức ăn. Nó đã dài hơn nửa mét, sau khi đã ăn no, nó có vẻ lớn hơn, oai vệ hơn. Trần Trận đem cái chậu về chỗ cửa lều, chuồng của sói con. Giờ thì cậu đã có thể chơi đùa với nó. Cậu bế nó một lúc rồi lật ngửa nó đặt trên hai chân cậu duỗi thẳng, xoa bóp nhẹ vùng bụng cho nó. Trên thảo nguyên, khi chó và sói cắn xé nhau, bụng là nơi quan trọng nhất để công kích, bụng bị xé rách thì chết là cái chắc. Do vậy, chó và sói không khi nào giơ bụng ra trước mặt kẻ đồng loại hoặc khác loại không đáng tin. Tuy con sói của Đanchi vì cắn con trai anh ta mà bị đập chết, nhưng Trần Trận vẫn giơ ngón tay cho sói con ôm lấy mà liếm, mà cắn nhẹ. Cậu tin con sói không cắn thật, nó gặm ngón tay cậu cũng giống như nó cắn anh chị em nhà nó, không rách da chảy máu. Con sói đã dám phơi bụng ra với cậu, sao cậu không dám giơ tay cho nó cắn? Cậu nhìn thấy tình bạn và lòng tin trong đôi mắt nó.

Gần trưa, cái nắng dữ dội trên cao nguyên đốt cháy ngọn cỏ rỗng thân, phần lớn cỏ trên đồng héo rũ, sói con lại bắt đầu chịu cực hình. Nó há miệng mà thở, đầu lưỡi nước nhỏ giọt. Trần Trận lật tất cả thảm tường lên nóc, căn lều tám phía thông gió, trông giống cái đình hóng mát hoặc như một lồng chim khổng lồ. Trong lều, cậu có thể vừa đọc sách vừa để ý con sói, cân nhắc xem có nên giúp nó không? Xưa nay sói thảo nguyên không hề sợ khí hậu khắc nghiệt, con nào sợ liền bị thảo nguyên loại bỏ không thương tiếc, tồn tại được đều là loại sừng sỏ mình đồng da sắt. Nhưng nếu quá nóng, sói thảo nguyên thường ẩn dưới ghềnh đá. Trần Trận nghe ông già Pilich nói, mùa hè gặp chỗ râm mát thì đừng vội cho cừu dừng lại, mà phải tiến lên thăm thú trước, xem có sói “phục kích” không?

Trần Trận chưa tìm ra cách giúp con sói chống nóng. Trước tiên cậu muốn biết khả năng chịu đựng của nó. Gió thổi vào lều cũng bắt đầu nóng lên. Đàn bò đã ngừng ăn, tất cả nằm xuống bãi lầy bên sông. Đàn cừu phía xa phần lớn nằm ngủ nơi đầu gió. Trên đỉnh núi xuất hiện những lều vải trắng hình tam giác. Các dương quan chịu không nổi, liền cắm nghiêng cây sào thòng lọng vào hang rái cá, cởi áo ngoài vắt lên, vậy là đã có một cái lều che nắng hình tam giác, rất được việc. Trong lều thường có hai người, một người ngủ, một người trông hai đàn cừu. Lều tam giác chỉ xuất hiện khi thảo nguyên rất nóng. Trần Trận bắt đầu ngồi không yên.

Sói con đã khốn khổ vì nắng nóng, nó đứng ngồi không yên, mặt đất bốc hơi, con sói bốn chân luân phiên đổi chỗ, nó ngó quanh tìm lũ chó cún, khi thấy chúng nằm dưới bóng râm của cỗ xe bò, nó tức điên giằng xích loảng xoảng. Trần Trần chạy ra. Cậu lo con sói sẽ bị say nắng và chắc chắn ông thú y không chữa cho nó. Làm sao bây giờ? Thảo nguyên gió to, chỉ có áo mưa, không có ô, và cũng không thể kiếm cho nó một cái dù che nắng. Vậy thì đẩy cỗ xe bò đến cho nó nằm dưới. Nhưng cỗ xe kết cấu quá phức tạp, không khéo xích cuốn vào trục, con sói sẽ chết vì ngạt thở. Tốt nhất là dựng cho nó một cái lều ba góc như của dương quan nhưng cậu không dám. Người và gia súc đều phơi nắng ngoài trời, giờ lại có người làm lều tránh nắng cho sói, đó là “tình cảm giai cấp” gì? Riêng chuyện này cũng đủ để những người phản đối đàm tiếu. Dạo này mọi người đều bận, gần như quên hẳn con sói. Đã nuôi trộm lại còn rêu rao! Trần Trận không dám làm điều gì khiến người ta nhắc đến con sói.

Trần Trận múc nửa chậu nước từ xe chở nước đem đến cho con sói. Nó vục đầu đánh lưỡi uống sạch rồi nhanh nhẹn đến trú dưới cái bóng của Trần Trận để tránh nóng. Trần Trận đứng một lúc thấy sau gáy nóng ran. Sợ bị cảm, cậu ra chỗ xe nước múc nửa thùng đổ vào chuồng, mặt đất lập tức bốc hơi, con sói vội nằm xuống vì nó đã đứng liền mấy tiếng đồng hồ. Nhưng chỉ lát sau mặt đất đã lại khô, con sói lại chạy quanh. Trần Trận không còn cách nào khác, cậu không thể lúc lúc lại đổ, mà dù có như thế thì lúc cho đàn cừu đi xa, cậu làm thế nào?

Trần Trận vào trong lều. Cậu không thể tiếp tục đọc sách. Cậu bắt đầu lo cho con sói, sợ nó say nắng gầy đi, thậm chí say nắng mà chết. Cậu không ngờ bảo đảm an toàn cho người và gia súc, lại không an toàn cho con sói. Nếu như định cư ở một chỗ, chí ít con sói có bóng râm của bức tường. Chẳng lẽ trong điều kiện du mục nguyên thuỷ không nuôi được sói? Ông già Pilich cũng không biết nuôi sói phải làm những gì, cậu không có ai để học hỏi kinh nghiệm.

Trần Trận cứ nhìn con sói mà nghĩ tới nghĩ lui. Vẫn không có lối thoát.

Con sói vẫn loanh quanh trong cái chuồng, loay hoay một lúc, nó chợt phát hiện hình như đám cỏ xanh bên ngoài chuồng mát hơn, thò hai chân sau giẫm thử thấy không nóng lắm, liền nằm bẹp xuống đám cỏ bên ngoài, chỉ còn đầu và cổ ở lại bên trong chuồng. Chiếc xích kéo căng như sợi chỉ, con sói đã có thể nằm nghỉ thoải mái tuy vẫn phơi nắng, nhưng cái nóng dưới thân giảm đi nhiều. Trần Trận vui quá suýt hôn con sói một cái, sự thông minh của con sói khiến cậu còn chút hi vọng. Cậu cũng đã nghĩ ra một cách: Cứ vài hôm cậu lại chuyển con sói sang một cái chuồng có cỏ non. Trần Trận thán phục khả năng sinh tồn của sói hơn hẳn con người, dù không còn mẹ dìu dắt, sói con vẫn tự giải quyết khó khăn, nói gì đến hành động tập thể của đàn sói.

0O0

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: