Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

c6 quản lý nn đối với lễ hội và sk


6.1 Khái niệm và phân loại lễ hội và sự kiện trong quy định của pháp luật Việt Nam

6.2 Công tác quản lý nhà nước về sự kiện và lễ hội

6.3 Một số vấn đề còn tồn tại trong quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội, sự kiện

---------------------------------------------------------------------------

Mục đích, yêu cầu của chương 6: Quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện

Sau khi học xong chương 6, người học cần nắm được:

- Hiểu rõ và phân biệt được khái niệm và các loại hình lễ hội, sự kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam.

- Nắm được một số văn bản pháp luật về quản lý nhà nước về sự kiện và lễ hội tại Việt Nam.

- Nhìn nhận được thực tế công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện.


6.1 Khái niệm và phân loại lễ hội và sự kiện trong quy định của pháp luật Việt Nam

Lễ hội vốn là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng tập trung và nổi bật, phổ biến ở tất cả các nền văn hóa trong quá khứ cũng như đương đại. Là một đặc trưng truyền thống trong văn hóa Việt Nam, hội hè đình đám như một dấu mốc quan trọng nhất của nhịp sống cộng đồng của con người trong một năm. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hàng loạt sự kiện hết sức đa dạng như văn hóa nghệ thuật, thể thao, thương mại hay truyền thông – tiếp xúc công chúng cũng đã được tổ chức, góp phần thúc đẩy và làm sinh động hơn đời sống văn hóa – xã hội của đất nước.

Xét về mặt kinh tế, lễ hội và sự kiện không chỉ còn là "sự vui chơi hội đám" mà đã trở thành một ngành công nghiệp hấp dẫn với các tổ chức, doanh nghiệp trên toàn cầu. Ở nước ta, tuy ngành kinh doanh sự kiện được cho là mới mẻ nhưng chỉ trong vòng chục năm qua đã có tới con số hàng ngàn công ty đầu tư vào kinh doanh tổ chức lễ hội và sự kiện. Bộ môn khoa học về quản lý lễ hội và sự kiện cũng đã được xây dựng, triển khai giảng dạy ở nhiều trường đại học.

Khái niệm "Quản lý" nói chung được hiểu là hoạt động nhằm tác động có tổ chức của chủ thể vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người, nhằm duy trì sự ổn định và sự phát triển của đối tượng theo những mục đích nhất định (Mai Hữu Khuê, Lý luận quản lý nhà nước, 2003). Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ các hoạt động quản lý của nhà nước để thực hiện chức năng của nhà nước. Còn theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là quản lý do một loại cơ quan đặc biệt thực hiện (cơ quan hành chính nhà nước) và được gọi là hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước, trong đó chấp hành là thực hiện quy định của cấp trên và điều hành là hoạt động chủđộng điều hành hoạt động cùng cấp với mình. Như vậy, quản lý Nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện là việc sử dụng các công cụ quản lý như chính sách, luật pháp, bộmáy và các nguồn lực khác, nhằm duy trì hệ thống chính sách và luật pháp hiện hành có liên quan do nhà nước ban hành. Cụ thể hơn, quản lý nhà nước trong lĩnh vực sự kiện là các hoạt động chấp hành và điều hành các sự kiện và lễ hội theo các quy định của cấp trên và đồng cấp (ngang cấp).


Về lễ hội, đây không phải là một khái niệm mới; thực tế, đã có nhiều cách trình bày khái niệm và định nghĩa lễ hội về mặt học thuật. Trong phạm vi kiến thức được đề cập trong chương này, ngoài những lễ hội dân gian, truyềnthống, còn bao gồm các loại hình lễ hội đương đại, lễ hội mới có nguồn gốc từ nước ngoài như các liên hoan nghệ thuật biểu diễn, festival ngành nghề....

Nhìn một cách tổng thể, lễ hội nói riêng và sự kiện nói chung đều có chung một cấu trúc. Việc tìm hiểu cấu trúc này là rất cần thiết, vừa để phục vụ cho việc tổ chức, tạo dựng nên những sản phẩm lễ hội và sự kiện, vừa để hiểu rõ hơn công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Có thể nhìn lễ hội, sự kiện như một nhất thể của những yếu tố tinh thần và những yếu tố vật chất thể hiện tinh thần ấy. Phần tinh thần của lễ hội, sự kiện ẩn chưa nơi huyền thoại, những giá trị văn hóa truyền thống trong tâm thức của cộng đồng làm nên chất keo dính của hội hè. Phần vật chất của lễ hội, sự kiện bao gồm: thời gian, địa điểm, cơ sở vật chất, dụng cụ - thiết bị, đồ ăn uống, con người của riêng lễ hội và sự kiện (nhân sự tổ chức, thực hiện) và các hoạt động của cộng đồng người tham dự. Phần vật chất có thể quan sát, nhận biết được một cách định lượng. Phần tinh thần có thể cảm nhận, rung động trong chiều sâu tâm hồn. Quan hệ nhân quả giữa hai thành phần cơ bản này dựa trên nền tảng các giá trị truyền thống của cộng đồng được phô diễn theo một mô thức nhất định nào đó, hoặc công nghệ và những kỹ năng, kỹ xảo tổ chức được sử dụng trong việc xây dựng, gắn kết nội dung của sự kiện; tất cả những điều này sẽ mang lại cho mỗi lễ hội, sự kiện những đặc sắc riêng, đồng thời trở thành những phương diện chính mà công tác quản lý nhà nước về lễ hội, sự kiện cần quan tâm đến.

6.2 Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện

Cơ sở pháp lý cho thực thi công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động lễ hội và sự kiện dựa trên chính sách và luật pháp hiện hành của Việt Nam.Đối với lễ hội, có thể tìm thấy ngay một văn bản chuyên biệt điều chỉnh đúng đối tượng là lễ hội, ví dụ như Quy chế tổ chức lễ hội năm 2001. Tuy nhiên, đối với sự kiện nói chung, như đã trình bày trong phần khái niệm trên đây, nội hàm của khái niệm này trong pháp luật Việt Nam rất rộng, còn chưa rõ ràng; hiện nó chỉ là sự liệt kê chưa có giới hạn cuối cùng của các chương trình văn hóa, thể thao, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm... Do vậy không có văn bản pháp luật đặc thù nào điều chỉnh riêng về sự kiện, mà tùy theo tính chất của sự kiện cũng như tính chất của từng khía cạnh vấn đề phát sinh trong


sự kiện thuộc lĩnh vực nào sẽ tuân thủ theo quy định của lĩnh vực đó. Ví dụ, việc xin phép và tổ chức một sự kiện có tính chất tôn giáo sẽ chịu sự điều chỉnh của Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo; còn nếu là sự kiện biểu diễn thời trang sẽ tuân theo Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu...

Một cách bao quát nhất, theo quy định hiện hành, cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chính về quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện là các đơn vị thuộc ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, theo phân cấp quản lý từ Trung ương đến cơ sở cấp xã – phường. Đồng thời phối hợp cùng các cơ quan chức năng như Công an, Quản lý thị trường, Môi trường, Giao thông, Y tế ... để xử lý sai phạm xảy ra trong hoạt động lễ hội và sự kiện bởi lẽ hoạt động lễ hội và sự kiện tác động tới hầu hết các mặt của đời sống xã hội khu vực địa điểm tổ chức. Do vậy, việc chịu trách nhiệm quản lý nhà nước nói chung thuộc chính quyền sở tại nhưng được phân chia trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan chức năng có liên quan. Cụ thể, có 3 cấp quản lý nhà nước về lễ hội và sự kiện như sau:

+ Cấp quản lý nhà nước về lễ hội, sự kiện ở Trung ương: Căn cứ vào nội hàm của thuật ngữ sự kiện và những lĩnh vực thuộc sự quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có thể kết luận Bộ là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về lễ hội và sự kiện ở cấp Trung ương mặc dù điều này không được chỉ rõ trong Nghị định. Cụ thể, Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lễ hội và sự kiện thuộc các lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật triển lãm; văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc, tuyên truyền cổ vũ; thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp.

Một số văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức sự kiện và lễ hội ở cấp quốc gia:

1. Nghị định số 103/2009/NĐ-CP của chính phủ về "Ban hành quy chế hoạt động văn hóa vá kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng";


2. Nghị định số 76/2013/NĐ-CP của chính phủ về "Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch".

3. Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về "Ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội".

4. Luật quảng cáo (mục 5 chương 3: Quảng cáo trong chương trình văn hóa, thể thao, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm, tổ chức sự kiện, đoàn người thực hiện quảng cáo, vật thể quảng cáo);

5. Thuế giá trị gia tăng xuất ra đối với hoạt động tổ chức sự kiện tự nguyện;

6. Quy chế tổ chức lễ hội năm 2001;

7. Nghị định số 154/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2004 quy định về "Nghi thức nhà nước trong tổ chức mít tinh, lễ kỷ niệm; trao tặng và đón nhận danh hiệu vinh dự nhà nước, huân chương, huy chương, cờ thi đua của chính phủ, bằng khen của Thủ tướng chính phủ";

+ Cấp quản lý nhà nước về sự kiện ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cụ thể là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (thường là bộ phận/phòng có chức năng quản lý văn hóa) chịu trách nhiệm chính trong việc thực thi quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

+ Cấp quản lý nhà nước về sự kiện ở địa phương, bao gồm cấp huyện và xã/phường.

Ở những cấp này, các cơ quan thực thi quản lý nhà nước chủ yếu thực hiện theo các quy định cụ thể của chính quyền địa phương nơi diễn ra lễ hội và sự kiện, ví dụ tỉnh Hải Dương ra Quyết định số 17/2014/QĐ-UBND về việc "Ban hành quy định cụ thể một số nội dung về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn tỉnh Hải Dương"; tỉnh Quảng Bình ra Quyết định về Thủ tục Báo cáo về tổ chức lễ hội do cấp huyện tổ chức ban hành kèm theo Quyết định số 3580/QĐ-UBND ngày 30/12/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình; huyện Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam ra Chỉ thị số 15/CT-UBND ngày 24/12/2014 về việc tăng cường quản lý các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và quảng cáo...

Nhìn chung, luật pháp và những văn bản mang tính pháp quy nêu trên đều nhằm thể hiện rõ các mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ


hội và sự kiện. Những mục tiêu cơ bản bao gồm: giữ gìn và phát huy những giá trị của di sản lễ hội; đảm bảo an ninh, trật tự công cộng và an toàn của người dân tham gia lễ hội và sự kiện; chống lạm dụng tín ngưỡng vào các mục đích vụ lợi; tổ chức tốt các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tham gia và du khách; đảm bảo tính minh bạch thu-chi trong hoạt động lễ hội và sự kiện; bảo vệ môi trường sống và cuối cùng là phát triển hoạt động lễ hội và sự kiện với đa mục tiêu văn hóa – xã hội – kinh tế.

6.3 Một số vấn đề còn tồn tại trong quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội, sự kiện

Sự nở rộ của nhiều loại hình lễ hội và sự kiện trong thời gian gần đây mang đến cả những mặt tích cực và tiêu cực. Không thể phủ nhận những đóng góp cả về mặt văn hóa, xã hội và kinh tế do sự phát triển của lễ hội, sự kiện mang lại. Thế hệ trẻ biết và hiểu lịch sử - văn hóa dân tộc, địa phương mình qua các trải nghiệm hội hè.Một số trò chơi, diễn xướng dân gian có giá trị văn hóa tìm lại được môi trường tồn tại. Nhiều nghề thủ công – mỹ nghệ, ẩm thực truyền thống... được củng cố và phát triển tạo ra những cơ hội việc làm và thu nhập cho không ít lao động. Một số lễ hội, sự kiện nghệ thuật đương đại đã trở thành sản phẩm chiến lược nuôi sống nhiều công ty du lịch. Sự phát triển của du lịch văn hóa – lễ hội đã kéo theo cơ hội quảng bá sản phẩm kinh tế của địa phương có sự kiện, tức trở thành yếu tố thúc đẩy sản xuất – dịch vụ ở khu vực đó. Có được những kết quả này, một phần là nhờ vào sự hoàn thiện của hệ thống chính sách và luật pháp trong lĩnh vực văn hóa nói chung cũng như lễ hội, sự kiện nói riêng.

Tuy nhiên, bên cạnh những khía cạnh tích cực, thực tế công tác quản lý nhà nước về lễ hội và sự kiện vẫn còn tồn tại không ít những mặt hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ liệt kê một số vấn đề nổi bật, trở thành đề tài của không ít cuộc tranh luận và/hoặc được dư luận phản ánh nhiều trong thời gian vừa qua.

Thứ nhất, hệ thống các văn bản có liên quan đến quản lý nhà nước về lễ hội và sự kiện có khá nhiều nhưng chưa phải đã nhất quán và đồng bộ.Có những thay đổi lớn từ văn bản trước đến văn bản sau. Ví dụ: theo tinh thần Quy chế 1989 của Bộ Văn hóa thì lễ hội nào đã lâu không tổ chức sẽ không được tổ chức lại. Nhưng đến Quy chế 1994 và 2001 thì lại được phép tổ chức.Đây là một hiện tượng tất yếu sẽ xẩy ra trong quá trình hoàn thiện chính


sách.Song nó cũng gây ra không ít khó khăn cho việc thỏa mãn nhu cầu của người dân cũng như việc quản lý lễ hội ở cơ sở.

Thứ hai, nhiều khái niệm quan trọng chưa được làm rõ hoặc thậm chí được sử dụng theo cách dễ gây nhầm lẫn trong các văn bản pháp luật về lễ hội và sự kiện, trong đó điển hình là haikhái niệm "festival" và "lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch".Festival là một hiện tượng văn hóa mới, xuất hiện ở Việt Nam đầu những năm 90, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, là tên gọi được đặt cho nhiều sự kiện, chương trình lớn như Festival Huế, Festival Biển Nha Trang, Festival Hoa Đà Lạt, Festival Cà phê Buôn Mê Thuột, Festival Pháo hoa Đà Nẵng, Festival Diều Vũng Tàu, Festival Trà Thái Nguyên... và đều được hiểu sang tiếng Việt là "lễ hội". Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật hay quản lý chuyên ngành nào của Nhà nước đưa ra khái niệm chính thức về festival. Quy chế tổ chức lễ hội năm 2001 của Bộ Thông tin, Văn hóa và Truyền thông quy định các đối tượng cần điều chỉnh gồm "Lễ hội dân gian, Lễ hội lịch sử cách mạng, Lễ hội tôn giáo và Lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam". Phân chia làm 4 loại lễ hội nhưng Quy chế không giải thích nội dung của từng cụm từ, hay nói cách khác, nội hàm của từng loại lễ hội chưa được làm rõ. Những người quan tâm có thể đặt câu hỏi liệu các festival liệt kê trên đây (vốn được hiểu là lễ hội) sẽ được xếp vào loại nào trong bốn nhóm lễ hội của Quy chế năm 2001?Tiếp theo, Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng năm 2009 (ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ) đưa thêm 01 loại hình lễ hội mới là Lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch: "Lễ hội quy định tại Quy chế này bao gồm: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử,cách mạng, lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch và lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài tổ chức tại Việt Nam" (Điều 17, chương V "Tổ chức lễ hội"). Tuy nhiên, tính chất, đặc điểm của mỗi loại lễ hội cũng vẫn chưa được làm rõ và có thêm sự phân biệt là riêng lễ hội văn hóa du lịch không cần xin cấp giấy phép tổ chức mà chỉ cần làm báo cáo bằng văn bản với cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền (Điều 19).Trước thực tế ngày càng xuất hiện nhiều sự kiện thuộc ngành nghề khác nhau được gọi tên là festival, cơ quan quản lý đưa ra Dự thảo "Quy chế tổ chức lễ hội (festival) ngành nghề" năm 2011, hiện đang được lấy ý kiến để chuẩn bị ban hành. Dự thảo phân loại festival ngành nghề làm 4 nhóm: ngành thủ công truyền thống; ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp; ngành văn hóa, thể thao và du lịch; ngành khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn. Một câu hỏi đặt ra là liệu


thuật ngữ "Festival ngành văn hóa, thể thao và du lịch" trong Dự thảo này có phải là "Lễ hội văn hóa, thể thao, du lịch" trong Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng năm 2009? Nếu căn cứ vào cách dùng của báo chí và các nhà chuyên môn thì có lẽ hai tên gọi này là một. Tuy nhiên, trong phần quy định liên quan đến hồ sơ, thủ tục xin cấp phép tổ chức sau đó, Dự thảo Quy chế lại không đưa Festival ngành văn hóa, du lịch vào nhóm ngoại lệ không cần xin cấp phép tổ chức, như Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng năm 2009.Sự thay đổi giữa các văn bản trên cho thấy cách gọi, cách phân loại lễ hội, festival chưa nhất quán, gây khó khăn cho những người làm công tác nghiên cứu, tổ chức và quản lý lễ hội, festival, bởi sự xuất hiện tràn lan và nhiều biến tướng, hệ lụy kèm theo trong thời gian gần đây. Bởi lẽ, xét về bản chất, hai khái niệm "festival" và "lễ hội văn hóa, thể thao và du lịch" rất khác nhau và vì vậy cần được hiểu đúng để có quan điểm quản lý phù hợp.

Thứ ba, có những quy định chung chung, thiếu hướng dẫn chi tiết, thiếu định lượng và hệ thống về những hiện tượng thuộc đối tượng quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội và sự kiện, khiến cho những quy định này được duy trì nửa vời và tỏ ra kém về hiệu lực thực thi. Ví dụ, liên quan đến phương diện quản lý nội dung, hoạt động của lễ hội và sự kiện, văn bản nào cũng quy định cấm lạm dụng tín ngưỡng và mê tín dị đoan trong lễ hội, nhưng vấn đề này mới chỉ được định tính. Do vậy, khi xử lý những hiện tượng thực tế đã phải dựa vào trình độ và quyết định chủ yếu của các cán bộ quản lý văn hóa ở cơ sở. Và như vậy, khó có thể tránh khỏi những lầm lẫn giữa hủ tục và truyền thống, giữa niềm tin tín ngưỡng và hành vi lạm dụng tín ngưỡng. Vụ kiệu bay đình làng Giàn và cướp hoa tre tại đền Sóc mà dư luận đang lên tiếng những ngày gần đây là những ví dụ điển hình.

Tại lễ hội Đình Giàn được tổ chức ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch năm 2014 ở phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, một trong những nghi thức quan trọng của lễ hội là lễ rước kiệurồi rong kiệu đi quanh các địa điểm khác nhau. Những người được giao nhiệm vụ rước kiệu là thanh niên trai tráng trong làng. Năm 2014, đã xảy ra sự việckhi đoàn rước kiệu đi đến khu vực cổng trường THPT Xuân Đỉnh thì gặp chiếc ô tô đang đỗ ở đó và không những không tránh ra chỗ khác, chiếc kiệu được rước đã liên tục lao vào chiếc ô tô này làm vỡ kính. Một người cao tuổi tham gia lễ hội cũng cho hay vài năm gần đây, cứ mỗi dịp lễ hội, khi đoàn rước kiệu đi qua các khu


vực đều va chạm làm vỡ cửa nhà, cùng tài sản của một số hộ dân. Mặc dù báo chí và một bộ phận dư luận lên án những hành vi vô trách nhiệm này của nhóm rước kiệu nhưng nhiều người dân tham gia lễ hội và chính cán bộ quản lý văn hóa cấp cơ sở lại cho rằng đây là tín ngưỡng, phong tục tập quán. Người dân địa phương lý giải hiện tượng này là "" do thánh thần nhập vào và hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của con người.Người có xe cộ, tài sản bị kiệu đâm hư hỏng không những không cảm thấy tiếc mà trái lại, họ thấy mừng bởi quan niệm đó là điềm may. Còn Chủ tịch UBND phường Xuân Đỉnh cho rằng "kiệu bay" là việc kiệu được nhiều người rước chạy đều và nhanh chân, tạo nên hình ảnh 'bay' đẹp mắt, vàthời điểm kiệu đâm vỡ kính ô tô thì chính quyền cũng có cử lực lượng đảm bảo trật tự lễ hội nhưng do là vấn đề tâm linh nên không dám ngăn cản.

Ở lễ hội đền Gióng diễn ra tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội, có hàng loạt nghi thức đặc thù như lễ khai quang, lễ rước, lễ dâng hương... trong đó nghi lễ quan trọng nhất là phần dâng hoa tre lên đền thờ Thánh Gióng. Sau lễ dâng hoa, một đoàn tùy tùng có nhiệm vụ rước qua các đền, kết thúc ở đền Hạ, hoa tre sau đó được tung ra trước sân đề cho người dự hội đến "cướp" lấy may. Tuy nhiên, khi kiệu hoa tre vừa rước vào đến đền Thượng đã bị hàng chục thanh niên, lao vào cướp để lấy may mắn cho cả năm. Trong khi người dân và du khách thập phương giành giật các giỏ hoa tre, các thanh niên trong đoàn tùy tùng dùng các thanh nứa trong đám rước vụt túi bụi vào đám đông để bảo vệ kiệu.Không còn là tranh cướp hoa tre truyền thống, người ta ẩu đả, dẫm đạp lên nhau tạo nên một cảnh tượng hỗn loạn.Không chỉ hoa tre bị cướp một cách bạo lực, lễ rước trầu cau diễn ra ngay sau đó cũng gặp phải tình huống tương tự. Mặc dù xác nhận có xảy ra hiện thanh niên cầm gậy đánh nhau, gây hỗn loạn tại lễ hội đền Gióng sáng ngày 24/2/2014 nhưng đại diện phòng Văn hóa - Thông tin huyện Sóc Sơn vẫn giải thích việc tranh cướp lộc là tục lệ, nghi thức lễ hội đã có từ lâu đời: "Sau khi cúng tiến và dâng lễ ở đền Thượng, hoa tre sẽ được phất lộc cho người dân và du khách thập phương. Đội tùy tùng mang theo các thanh nứa, tượng trưng cho binh đao, vũ khí ngày xưa để bảo vệ kiệu. Nghi thức tranh cướp lộc là một truyền thống từ xưa đến nay, chứ không phải hỗn chiến".

Những ví dụ này cho thấy, vấn đề "khơi trong gạn đục" là một yêu cầu trong quản lý lễ hội và sự kiện, đặc biệt đối với lễ hội cổ truyền.Rất khó định lượng cái gì là "trong", cái gì là "đục". Cái "đục" ở đây chỉ nên hiểu là sự lạm


dụng thái quá vì các mục đích không trong sáng của một người nào đó. Do vậy, gạn "đục" trong thực tế chính là công việc ngăn chặn sự lạm dụng của các đối tượng vi phạm pháp luật, nhằm đảm bảo các nội dung hoạt động của lễ hội và sự kiện diễn ra lành mạnh. Vấn đề này được hỗ trợ bởi hệ thống các công cụ pháp lý như luật pháp, quy định của địa phương có lễ hội, sự kiện; hay nói cách khác, công tác quản lý nước về phương diện nội dung hoạt động của lễ hội và sự kiện cần có hướng dẫn chi tiết, định lượng hơn nữa, chứ không chỉ trông chờ vào sự phân định của các cán bộ quản lý cấp cơ sở.

Thứ tư, chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với những sai phạm phát sinh trong lễ hội và sự kiện có vẻ như chưa đủ sức răn đe. Theo thống kê của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, trong năm 2012, sai phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng tại lễ hội diễn ra rất nhiều với hơn

1.00 cơ sở vi phạm, tịch thu 1.436 cuốn sách và 24kg ấn phẩm trái phép, 180 máy đánh bạc, 137.380 đĩa không tem nhãn, 51.455 sách bói toán, tờ rơi, quẻ thẻ... song chỉ thu về 50 triệu đồng tiền phạt. Một ví dụ khác là sự kiện thời trang "Đêm hội chân dài 7" của Công ty Venus tại Thành phố Hồ Chí Minh bị cơ quan quản lý phạt vi phạm hành chính cho các lỗi như gắn logo quảng cáo cho một nhãn hàng rượu và sử dụng hình ảnh người mẫu bán nude trên thiệp mời, trình diễn một số trang phục chưa xin phép trong sự kiện. Mặc dù Sở VHTTDL TPHCM áp dụng khung hình phạt cao nhất là 35 triệu đồng đối với công ty tổ chức sự kiện và 3,5 triệu đồng/người đối với 11 người mẫu tham gia sự kiện, nhưng các mức phạt này vẫn bị dư luận xã hội chorằng phạt theo kiểu "muỗi đốt inox". Những ví dụ này phần nào cho thấy công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực lễ hội và sự kiện còn chưa theo kịp thực tế.

Câu hỏi thảo luận:

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #hoc