Phần II - Chương Hai
Vùng bóng đen
Lúc bấy giờ vì thời cuộc đổi thay và cuộc sống có nhiều áp lực từ mọi phía nên tôi rất buồn phiền. Trong vai trờ một cha sở, một mặt tôi lo chỉnh đốn lại đời sống của họ đạo sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá, mặt khác tôi phải thường xuyên đương đầu với những vấn đề do một chính quyền vô thần gây nên. Tôi cố sống nhẫn nhục chờ cho cơn sốt thời cuộc qua đi và tôi có thể sống yên thân để phục vụ giáo dân vùng này được bền lâu. Ngoài các việc bổn phận trong họ đạo, lúc rảnh rỗi tôi tìm cách giải sầu bằng hai việc, câu cá và học đàn Vọng Cổ.
Tôi mê câu cá ngay từ nhỏ, bởi tôi được sinh ra và lớn lên ở ruộng đồng có nhiều sông rạch và tôm cá ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi khi cầm cần câu trong tay ngồi bên bờ sông là tôi quên hết sự đời. Nếu được ngồi trên chiếc thuyền đang thả neo giữa dòng sông rộng mênh mông thì không còn gì thú vị hơn.
Vùng tôi ở lúc đó là vùng nước lợ, có rất nhiều tôm cá, nhất là cá ngát là loại cá không vảy và có ba gai, hai cái ở hai bên mang và một ở giữa lưng. Nếu ai vô ý bị cá ngát đâm phải thì chỉ còn nước ngồi đó mà kêu trời. Có lần chính tôi là một nạn nhân bị gai cá ngát đâm vào ngón tay, nọc độc trong gai cá hành tôi rất đau nhức và lên cơn sốt suốt một ngày, cánh tay bị cá đâm sưng to lên gần bằng bắp đùi!
Những lần câu được nhiều cá tôi phải mang tới cho giáo dân và bà con trong vùng. Nói chung, câu cá là thú giải trí thanh tao và vô thưởng vô phạt, dù vậy có lần tôi suýt bị rắc rối vì câu cá. Một hôm tôi đang ngồi trên chiếc tam bản, tiếng miền Bắc gọi là thuyền, thả neo dưới bến nhà thờ để câu cá, có một người cán bộ lạ mặt đội mũ tai bèo khăn rằn quấn cổ chèo ghe cập vào hỏi:
- Anh là ai và ngồi làm gì ở đây?
Tôi lấy làm lạ vì câu hỏi đó, nhưng trả lời:
- Tôi là cha sở nhà thờ La Mã, tôi đang câu cá.
Anh cán bộ hỏi tiếp:
- Anh câu cá mà cần câu anh đâu?
Tôi ngạc nhiên quá, hay anh này muốn giỡn chơi, nhưng cách anh ta nói rất nghiêm túc, vả lại anh này là người tôi mới gặp lần đầu thì làm gì có chuyện đùa giỡn. Tôi trả lời:
- Anh hỏi gì vậy! Thì tôi đang cầm cần câu đây anh không thấy à?
Người lạ mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn trừng trừng vào cần câu máy tôi đang cầm trong tay, anh chỉ cần câu và hỏi:
- Cái loại máy có cần ăn-ten và ''dây trời'' này có kêu được máy bay B52 không?
Tôi ném cần câu lên thuyền ngạc nhiên kêu lên: - Anh nói cái gì? Cái gì mà có... B52 trong này?
Anh cán bộ đứng lặng thinh tỏ vẻ nghi ngờ làm tôi biết ngay là anh ta chưa bao giờ có dịp trông thấy cái mà người ta gọi là"cần câu máy". Thực ra nó chỉ là cái trục để quấn dây cước vào và thả dây cước ra bên trong những cái khoen bằng sắt chạy dài theo cần câu khá dài bằng chất nhựa dẻo để thả xuống sông câu cá.
Biết như vậy tôi vội quay nhanh dây cước lên chỉ cho anh thấy ở cuối đầu dây có cục chì và lưỡi câu móc vào lưng con tôm đang quơ râu quơ càng dùng làm mồi câu cá ngát! Chừng đó anh mới tin là cái mà tôi đang cầm trong tay không phải là cây ăn-ten của một loại máy truyền tin hiện đại có thể gọi... B52! Cũng may là anh hỏi trực tiếp tôi, nếu anh âm thầm báo cáo loại... máy này lên cấp trên và nói tôi có dụng cụ gọi pháo dài bay B52 chắc là đời tôi đã khốn nạn sớm hơn rồi!
Thú giải trí thứ hai của tôi là học đàn Vọng Cổ. Lúc đó ở gần nhà thờ có một thanh niên ngoại giáo mù mắt tên là Tám Chánh. Tuy không có đạo nhưng anh hay tới nhà thờ chơi. Anh Tám Chánh có biệt tài đàn Vọng Cổ rất hay và anh dạy cho nhiều người, nhưng chỉ dạy văn nghệ thôi chứ không lấy tiền.
Tôi thường mời anh tới nhà xứ chơi để đàn hát và dạy tôi đánh đàn cổ nhạc, lâu ngày rồi hai người thân nhau. Tám Chánh rất vui tánh, thích tìm hiểu và hỏi tôi về nhiều chuyện, từ chính trị, tôn giáo, xã hội... Nhớ có lần anh hỏi một câu làm tôi quá cảm động. Lúc đó tôi có nuôi một con chó Bắc Kinh nhỏ, tên là chó His. Lần nào tới chơi anh Tám Chánh cũng ôm nựng chó His vì nó rất hiền và dễ thương, có lần vừa vuốt lưng chó His anh hỏi tôi:
- Chó His màu gì hả cha?
Tôi đáp:
- Màu trắng có đốm màu vàng.
Anh suy nghĩ một lúc hỏi tiếp
- Màu vàng là thế nào hả cha?
Bỗng nhiên tôi tấy tắt nghẹn ở cổ khi thương cho hoàn cảnh người bạn tật nguyền không thấy được màu sắc là vẽ đẹp của cuộc đời. Thấy tôi yên lặng anh hỏi tiếp.
- Cha, nói cho con nghe đi, màu vàng ra sao?
Tôi cố trả lời tiếng được tiếng mất.
- Tôi không giải thích được anh Tám ạ!
Vừa nói tôi vừa chớp nhanh mí mắt. Tình bạn chúng tôi càng ngày càng sâu đậm và anh Chánh tận tình chỉ dạy tôi các "ngón" đàn, tức là kỹ thuật chơi đàn vọng cổ. Có lần tôi hỏi:
- Anh Tám này, sao tiếng đàn của anh nghe não nề! Hay quá là hay, còn tôi đánh đàn như cứ nghe rầm rầm như tiếng vỗ thùng thiếc, tập hoài hổng được?
Anh Tám trả lời một câu làm tôi nín lặng:
- Muốn có tiếng đàn như con, cha phải móc hai mắt của cha liệng đi.
Thì ra người bạn mù của tôi đã gửi hết tâm tư u buồn của kiếp người bất hạnh vào tiếng đàn của mình.
Có những lần tôi tới nhà thăm anh, trong lúc mọi người đi vắng, anh Tám Chánh ngồi đánh đàn một mình các say sưa không biết có tôi đứng bên. Lúc đó tôi bất giác nói một mình:" Anh Tám nói đúng, người có đôi mắt sáng không thể nào có được tiếng đàn này!"
Tôi rất thích thể điệu âm nhạc Vọng Cổ, và sau này tôi cũng biết đa số các người miền Nam cũng đều thích như tôi. Nhất là khi anh Tám Chánh đã dạy tôi đánh đàn vọng cổ và chơi được chút ít thì càng say mê hơn.
Nhớ lại thời gian đó có đôi ba lần tôi cũng đi đào đất làm thủy lợi chung với bà con trong vùng. Vì đi đào thủy lợi khá xa trong mấy ngày liền nên chúng tôi mang gạo theo nấu cơm. Ban ngày đào đất, ban đêm tôi và một số thanh niên tập trung tại sân nhà một người dân nào đó trong vùng để nấu ăn và sau đó ngồi quây quần nhau đàn hát những bài ca vọng cổ trước lúc đi ngủ. Nếu đêm đó có trăng nữa thì càng nên thơ!
Khổ nỗi, tôi thích vọng cổ mà lại không biết hát, mặc dù vậy nghe những người hát Vọng Cổ thật mùi có chỗ làm tôi rưng rưng nước mắt. Có mấy người chọc tôi là "mít ướt", nghĩa là dễ khóc, nhưng không hiểu sao khi nghe một vài bài Vọng Cổ thương tâm tôi không cầm lòng được.
Lúc tôi mới về đó vào tháng 7 năm 1975, là lúc mà cơn sốt thời cuộc lên cao ngất từng mây. Có lần, tôi đi xe gắn máy từ Bến Tre về họ đạo, khi gần tới nhà bị mấy anh du kích chặn trên đường. Một anh mang súng AK, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, bước tới giật lấy cái mũ lưỡi trai tôi đang đội ném xuống đất, giận dữ quát:
- Tới lúc này mà anh còn đội kết thằng Kỳ à?
Tôi chẳng hiểu anh ta muốn nói gì, nên hỏi lại:
- Anh nói gì tôi không hiểu! Đây là kết của tôi mua chứ của thằng Kỳ nào?
Anh du kích bực mình, chỉ vào mặt tôi đe dọa:
- Đây là loại kết đồi trụy của thằng Nguyễn Cao Kỳ nó đội anh hiểu chưa? Bộ anh muốn bắt chước thằng Kỳ hả?
Tôi chợt hiểu ra vì ông Nguyễn Cao Kỳ có lần đội kết đen giống như vậy, nên cái loại kết đó đương nhiên trở thành đồi trụy! Tôi chẳng hỏi thêm gì, chỉ đứng yên một cách ngán ngẩm cho anh du kích mắng nhiếc một hồi và cho tôi đi. Lúc nổ máy xe chạy rồi, tôi mới mỉm cười nghĩ là mất cái kết đen vẫn còn may mắn. Nếu anh du kích nói cái quần tôi đang mặc là loại quần... "thằng Kỳ", chắc là hôm đó tôi gặp chuyện ngượng ngùng chết người!
Nhưng cơn sốt thời cuộc trong vùng La Mã sau đợt học tập "đóng nghĩa vụ", nó lại trở thành cơn giá băng. Đợt học tập đóng thuế, nhưng được gọi cái tên đẹp là "đóng nghĩa vu''này, được tổ chức ngay trong một lớp của trường học họ đạo của tôi. Sau đợt học tập, mỗi gia đình được "cách mạng" giao chỉ tiêu đóng thuế cắt cổ. Cơn sốt thời cuộc trong vùng tôi, ngày hôm đó, vụt xẹp đi như bánh xe cán đinh.
Có rất nhiều gia đình cách mạng quá phẫn uất, chửi rủa tùm lum vì cái chỉ tiêu "đóng nghĩa vụ" chóng mặt vừa mới được cách mạng ban cho, căn cứ theo số ruộng vườn đang canh tác. Có mấy bà "mẹ chiến sĩ " đã lớn tuổi, bực quá chửi thẳng, theo cái kiểu người ta thường ví: "trâu già không sợ dao phay". Có bà phùng mang, trợn má chửi giữa đám đông ai nghe thì nghe: "Đéo mẹ chúng bây! Nếu tao biết nông nỗi này thì ngày trước tao đấm đách có thèm mà chứa chấp tụi bây trong nhà tao"!
Sau đó tôi biết, bà con bực thì chửi cho hả hơi còn "nghĩa vụ" thì vẫn phải đóng đủ. Vì đóng thuế không đủ "cách mạng" sẽ có biện pháp khác, và không ai muốn rơi vào biện pháp đó. Tình trạng giữa tôi và chánh quyền địa phương càng ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, tôi biết sự có mặt của tôi lúc bấy giờ là một chướng ngại và là cái gai trong con mắt của nhiều người, ngay cả những người có mặt trong họ đạo trước tôi.
Sau gần một năm, tôi cảm thấy không thể sống và làm việc hữu hiệu tại giáo xứ. Hơn nữa, mẹ già đang đau nặng nên tôi trình bày với Giám mục và được chấp thuận. Tôi được lệnh bàn giao họ đạo lại cho cha Quang, cha sở họ đạo Cái Bông để về nhà lo lắng cho mẹ. Cha Quang là anh của cha Thạnh, người bạn Linh mục thân nhất của tôi lúc bấy giờ đang làm cha sở họ đạo Quới Sơn cũng thuộc tỉnh Bến Tre.
Thạnh và tôi cùng tuổi. Chúng tôi chơi thân ngay từ những năm còn học ở Tiểu Chủng-viện Vĩnh Long. Năm 1963 chúng tôi lên Sài Gòn và học chung lớp trong bảy năm tại Đại Chủng viện Thánh Giuse, số 6 đường Cường Để. Đại Chủng viện Thánh Giuse là chủng viện miền, đào tạo linh mục cho 7 địa phận miền Nam, vì lúc bấy giờ các địa phận, tiếng miền Bắc là giáo phận, chưa có đại chủng-viện riêng.
Sau khi mãn khóa, Thạnh và tôi cùng được thụ phong Linh mục vào năm 1970, và cả hai về làm việc tại địa phận Vĩnh Long vì chúng tôi thuộc về địa phận này.
Về địa dư, địa phận Vĩnh Long bao gồm bốn tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và Sa Đéc với khoảng trên dưới 150.000 giáo dân. Thạnh được bổ nhiệm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long, còn tôi làm phó xứ Sa Đéc, cách nhau 30 cây số. Thỉnh thoảng chúng tôi tới lui thăm nhau và tình bạn càng thêm thắm thiết. Tuy là đôi bạn thân, nhưng cuộc đời của Thạnh và tôi rất khác biệt nhau.
Thạnh có cuộc sống trầm lặng, tánh tình hòa dịu và vóc dáng ốm yếu. Tuy thế cuộc đời ưu đãi anh về nhiều phương diện. Sau hai năm làm cha phó Nhà thờ Chánh tòa, Thạnh được bổ nhiệm làm cha sở họ đạo Quới Sơn, gần cầu bắc Rạch Miễu, trong tỉnh Bến Tre vào đầu năm 1973.
Khi cộng-sản chiếm miền Nam, Thạnh vẫn đang ở đó. Tôi nghĩ là Thạnh sẽ còn ở Quới Sơn lâu dài, vì từ ngày chiếm được miền Nam, nhà nước cộng-sản đã trắng trợn can thiệp vào nội bộ các tôn giáo, không cho các Giám mục được quyền thuyên chuyển các Linh mục. Muốn đổi một Linh mục nào phải có sự đồng ý của chánh quyền, nói chung là ai đang ở đâu cứ ở đó. Phần tôi khác hẳn với Thạnh, cuộc sống tôi đầy thăng trầm và nhiều biến động. Đúng là số kiếp của mỗi con người. Dù ai không muốn tin cũng phải tin rằng ở trên đời mỗi người đều có một cái số mà văn hào Nguyễn Du đã nói lên từ lâu:
"Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao."
Điều thật trớ trêu, sau khi bàn giao họ đạo xong, chánh quyền sở tại, xã Hiệp Hưng, lại không cấp giấy đi đường. Họ không cho tôi rời khỏi xã, lấy lý do là sau khi bầu cử Quốc Hội khóa 6, có lệnh không cho ai rời khỏi địa điểm cư trú. Tôi hiểu ngay việc gì sẽ xảy ra cho tôi sau lời giải thích này và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Hôm sau, tôi trở lại Ủy ban Nhân dân xã Hiệp Hưng để xin giấy đi đường một lần nữa để về quê thăm má tôi đang đau nặng. Qua thái độ cứng rắn quyết liệt của tôi, họ đã buộc lòng phải cấp cho tôi giấp phép đi đường trong 3 ngày.
Quê tôi ở tỉnh Vĩnh Long, cách Bến Tre hơn trăm cây số và phải qua 2 lần bắc, tiếng miền Bắc gọi là phà, bắc Rạch Miễu nối liền hai tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho và bắc Mỹ Thuận trên đường từ Sài Gòn xuống các tỉnh miền Tây.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro