Phần 3
PHẦN BA
Vì đâu nên nỗi ?
Bốn ngàn năm văn hiến
Trước khi vào Nam nhà tôi ở ngay dốc Cổ Ngư. Tiếp theo dốc Cổ Ngư là đường Cổ Ngư nối liền đê Yên Phụ và vườn Bách Thảo. Cổ Ngư là một con đường đặc biệt nhất Hà Nội, nó nằm giữa hai hồ : hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Khoảng gần giữa đường Cổ Ngư còn có một con đường khác nối đường Cổ Ngư với một hòn đảo nhỏ trên Hồ Tây, và trên hòn đảo này có chùa Trấn Quốc xây lại từ thời nhà Lý nhưng đã có từ thời Tiền Lý vào thế kỷ 6. Chính quyền cộng sản không có tinh thần tôn trọng các địa danh nên sau này họ đổi tên đường Cổ Ngư thành đường Thanh Niên cho có vẻ cách mạng và hiện đại. Có người bạn ở Hà Nội nói với tôi đây là sáng kiến của chính ông Hồ Chí Minh.
Dù chỉ sống ở đó có hơn một năm thôi nhưng đường Cổ Ngư đã rất quen thuộc đối với tôi, tôi hay chạy tung tăng trên con đường đó và quen từng xe bánh tôm. Nhiều bà bán bánh tôm biết tên tôi và thỉnh thoảng gọi tôi lại cho một miếng bánh tôm, một phần tư của một cái bánh tròn và dẹp, đường kính chừng 8 cm. Cử chỉ giản dị nhưng âu yếm.
Chùa Trấn Quốc yên tĩnh và thâm nghiêm đến độ tôi quen thuộc đường Cổ Ngư đến thế mà cũng sợ không dám vào, chỉ có hai lần vào chùa Trấn Quốc cùng với người lớn. Chùa không lớn lắm nhưng sạch sẽ và đẹp, hồi đó tôi chưa ý thức được giá trị lịch sử của sự kiện chùa đã có từ mười mấy thế kỷ.
Bên kia vườn Bách Thảo, đi bộ một quãng đường không xa là tới Chùa Một Cột. Chùa nhỏ xíu, ở chính giữa một hồ sen cũng nhỏ xíu. Như tên gọi của nó, chùa nằm trên một cột lớn, chung quanh cột tua tủa những xà cong vươn lên như những cánh tay đỡ chùa. Chùa Một Cột cũng có từ thời nhà Lý, vào khoảng thế kỷ thứ 11 hay thế kỷ thứ 12, một chi tiết mà tôi chưa bao giờ cố gắng để nhớ.
Trường tiểu học của tôi nằm ở chùa Kim Liên, cũng nằm trên đê Yên Phụ, chiếm hết một mỏm đất khá rộng phình ra trên Hồ Tây, kế ngay bên làng hoa Yên Phụ. Làng Yên Phụ là làng đẹp nhất mà tôi đã thấy. Cả làng sống bằng nghề trồng hoa và nuôi cá vàng. Hàng năm vào dịp Tết có hội ngay sân chùa, dân làng thi đua triển lãm hoa và cá. Thú nhất là những cuộc chọi gà trong hội này. Những con gà chọi oai vệ màu xám tro, màu đen nhánh, màu đỏ lửa với những cái cổ vừa dài vừa to, trần trụi và đỏ rực một cách ngạo nghễ. Tôi mê gà chọi từ hồi đó. Có dạo lớp tôi học ở ngay trong chính tòa của chùa, kế bên bàn thờ với một tượng Phật ngồi rất lớn. Về sau lớp tôi chuyển sang một trong những lớp nằm trong hai dẫy nhà trước chùa đối diện nhau bên này và bên kia sân chùa, nhường chỗ cho lớp mẫu giáo. Lý do có lẽ là các thầy sợ chúng tôi, lớp nhì, đã khá lớn nên hay phá phách, các em bé mẫu giáo ngoan ngoãn hơn. Chùa Kim Liên khá lớn, nhưng không còn sư sãi nên được dùng làm trường tiểu học. Lúc đó chùa là đình, nghĩa là nơi hội họp của dân làng, hơn là chùa. Chùa Kim Liên là chùa thân quen với tôi nhất nhưng cũng là chùa mà tôi chưa gặp trong một tài liệu nào. Hình như chùa không lâu đời bằng cùa Trấn Quốc nhưng cũng là một ngôi chùa rất cổ nếu căn cứ vào mái và các kèo cột.
Kiến thức về kiến trúc của tôi không phải là thấp mà là số không, nhưng đại khái tôi thấy chùa nào cũng giống nhau, cũng mái cong, ngói nâu, cột gỗ, sân gạch, nền cao hơn sân vài bậc gạch. Hai người bạn tôi đều là kiến trúc sư và đều có nghiên cứu nhiều về kỹ thuật kiến trúc của các chùa Việt Nam có hai nhận định khác hẳn nhau. Một anh thì nói đó là một kỹ thuật rất tinh vi và một trình độ nghệ thuật rất cao. Một anh, trái lại, chê các chùa Việt Nam là không đa dạng, không mấy thay đổi từ đời này qua đời khác và tố giác sự thiếu sáng kiến của người Việt ; anh này cũng nói là kiến trúc các chùa mang nhiều sai phạm về kỹ thuật. Tuy nhiên có hai điểm mà cả hai người đều nhìn nhận : một là các chùa Việt Nam là một trong những di sản phong phú và đáng tự hào của nước ta, hai là các di tích lịch sử của Việt Nam quá ít về số lượng và thua kém hẳn các di tích lịch sử tại các nước châu Á khác. So với châu êu, cả hai đều nhìn nhận chúng ta thua kém rất xa.
Dĩ nhiên chúng ta còn nhiều di tích lịch sử quí báu khác. Thành Cổ Loa, đền Hùng, đền vua Đinh, chùa Phổ Minh, chùa Hương Tích, chùa Non Nước, tháp Chàm (tôi không hiểu tại sao một số người không coi tháp Chàm là một di tích lịch sử của người Việt), cổ thành Quảng Trị, chùa Linh Mụ, cổ thành Huế, Tháp Mười, v.v... để chỉ kể một vài di tích trong nhiều di tích. Nhưng phải nói là so với dòng lịch sử trên hai ngàn năm thì như thế vẫn là quá ít, và nói chung không độc đáo. Bốn ngàn năm văn hiến của chúng ta không để lại bao nhiêu chứng liệu vật chất.
Năm 198è, tôi có dịp nói chuyện với linh mục Lương Kim Định. Tôi biết đến ông lần đầu tiên năm 1968 khi một người bạn đưa cho đọc một số tác phẩm của ông về triết lý Việt Nho và An Vi. Tôi không đọc hết một cuốn sách nào của ông cả, bởi vì đọc tới gần nửa cuốn thì có cảm tưởng đã nắm được ý cho nên phần sau chỉ đọc lướt và đọc chéo. Nhân một dịp tôi sang Mỹ, Kim Định, vì có đọc một số bài báo của tôi, tỏ ý muốn gặp tôi để thảo luận. Lúc đó ông đã nổi tiếng là một triết gia lớn của Việt Nam, nhất là tại hải ngoại. Ông rất đẹp lão, gương mặt sáng láng, thái độ ung dung, ngôn từ sáng sủa, mạch lạc và còn rất tráng kiện ở tuổi 70. Chúng tôi thảo luận khá lâu về Nho Giáo mà Kim Định khẳng định là của người Việt chứ không phải của người Trung Hoa và không được triển khai đúng đắn chứ thực ra là một triết lý rất hoàn hảo cần được dùng làm nền tảng xây dựng đất nước sau này. Chúng tôi đi đến một thỏa thuận là không đồng ý với nhau.
Cuối câu chuyện, sang đến phần triết lý An Vi của ông mà Lương Kim Định coi là một thông điệp của trống đồng, tôi nói với Kim Định là cách tiếp cận văn hóa Việt Nam của ông rất phiêu lưu bởi vì các di tích lịch sử và văn hóa của chúng ta quá ít ỏi để có thể là một thông điệp sáng sủa và chắc chắn. Chúng ta phải suy diễn rất nhiều mà suy diễn thì lúc nào cũng chủ quan và dễ sai lầm. Kim Định giảng giải cho tôi về những ý nghĩa của trống đồng mà ông cho là rõ rệt và đầy đủ. Thấy tôi có vẻ không tin tưởng lắm, Kim Định hỏi lại : "Thế thì cậu đề nghị cách tiếp cận nào ?". Tôi đáp là phải tiếp cận bằng con người Việt Nam, bởi vì nền văn minh Việt Nam là một nền văn minh không có di tích vật chất. Tất cả ở trong con người, quá khứ tồn đọng trong con người và tương lai cũng chỉ là con người. Nền văn minh Việt Nam chắc chắn là có và đáng kể dù các di tích của ta không vĩ đại và phong phú bằng các nước láng giềng Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Cam-bốt và Lào. Vì thế cách tiếp cận đúng để tìm hiểu Việt Nam là tâm lý học và xã hội học chứ không phải là khảo cổ học. Sự kiện chúng ta có những con người có thể mau chóng hấp thụ những kiến thức phức tạp và khó khăn nhất, có thể thích nghi ít nhất một cách tương đối với những thay đổi bối cảnh đột ngột nhất, có thể sống qua những thảm kịch ghê gớm nhất là bằng chứng của một nền văn minh đặc sắc. Tuy nhiên khối người tinh nhuệ đó đã chỉ đi từ tai họa này đến thảm kịch khác, như vậy rõ ràng là họ phải có một tật nguyền tập thể nào đó. Con người Việt Nam là cả một bí mật chưa được khám phá, nhưng điều chắc chắn là nó mang một tiềm năng rất lớn chưa phát huy được vì một số bế tắc tâm lý. Khai thông được bế tắc này chúng ta sẽ giải tỏa một nguồn năng lượng vô cùng lớn và sẽ vươn lên rất mãnh liệt.
Lương Kim Định cũng phân vân trước cách tiếp cận của tôi như tôi nghi hoặc trước cách tiếp cận của ông. Không phải chỉ có một mà có nhiều cách tìm hiểu nước Việt. Và tất cả đều có mặt đúng và có mặt yếu. Cái khó của chúng ta là phải làm một việc mà từ trước chúng ta đã không cố gắng để làm, nghĩa là tìm hiểu chúng ta là ai.
Từ đó tôi không còn cơ hội để gặp lại Kim Định. Tôi thường hỏi thăm về ông và vài năm sau được biết ông đau nặng, cho nên khi được tin ông qua đời, tôi không ngạc nhiên. Hình ảnh còn lại trong tôi về Kim Định là một con người rất độc đáo. Ông được đào tạo theo giáo dục phương Tây, nhưng lại dùng những kiến thức đó làm dụng cụ để tìm về nguồn gốc dân tộc, khám phá cái hay của dân tộc, đi đến niềm tự hào - theo tôi quá chủ quan - về dân tộc và đề xướng một đường lối phát triển thuần túy Việt Nam - mà tôi cho là gượng ép. Là một linh mục công giáo nhưng ông lại gần gũi với triết lý Á Đông hơn là triết lý Thiên Chúa Giáo. Đức tin công giáo của ông hình như chỉ rất tương đối. Dù không đánh giá cao lắm những công trình nghiên cứu của Kim Định, nhất là về điểm mà đa số thán phục ông, nghĩa là Nho Giáo, tôi vẫn dành cho ông một sự cảm mến đối với một người đã tận tụy với văn hóa dân tộc.
Trong lần gặp gỡ duy nhất ấy, chúng tôi khác ý với nhau nhiều nhưng chúng tôi đồng ý là lịch sử của chúng ta quá sơ sài và thiếu sót, di sản văn học của chúng ta không có bao nhiêu.
Một phép mầu, một may mắn và một bài học
Nếu có một thành tích đặc biệt xuất sắc, có thể coi như một phép mầu của dân tộc ta thì đó là văn học. Xin nhấn mạnh cụm từ "của dân tộc ta".
Độc giả đã đọc qua những trang trước của cuốn sách này chắc không nghĩ là tôi tự hào dân tộc thái quá, nhiều vị vì thế có thể hỏi "ta có gì xuất sắc về văn học" ?
Quả nhiên ta có rất ít lý do để tự hào.
Về múa chúng ta quả thật là kém. Ta thua hẳn hai dân tộc láng giềng tầm vóc nhỏ hơn là Lào và Cam-bốt, và có thể nói là thua xa mọi nước khác. Trong bộ môn này chúng ta đội sổ trong số các dân tộc có lịch sử tương đối dài. Điêu khắc và hội họa cũng chỉ mới khởi sắc gần đây, vào đầu thế kỷ thứ 20, do người Pháp đem đến. Trước đây ta có rất ít tranh và không có bức tranh nào có giá trị. Ta cũng có nhiều chạm trổ trên kèo cột, giường tủ với mục đích trang trí nhưng có thể nói những chạm trổ này hoàn toàn không có một giá trị nghệ thuật nào. Các tượng tạc và đúc của ta cũng thế, chỉ là những biểu tượng gợi ý chứ không thể coi là những tác phẩm nghệ thuật, các tác giả là những người khéo tay chứ không phải là những nghệ sĩ. Rất khó phân biệt một công trình nghệ thuật của ta thuộc thế kỷ thứ 10 hay thuộc thế kỷ 19 bởi vì không có tiến bộ. Tất cả chỉ dừng lại ở sự khéo tay tự nhiên của con người. Học giả Trần Quang Hải, kế nghiệp cha là học giả Trần Văn Khê, đã dày công biên khảo, thu thập gia tài âm nhạc của chúng ta qua các thời đại. Phạm Duy, người nhạc sĩ thiên tài với lòng yêu nước thiết tha, đã cố gắng vượt bực để vừa ký âm hóa vừa phong phú hóa cổ nhạc Việt Nam. Tất cả những cố gắng đó đưa tới một bảng tổng kết đáng buồn : âm nhạc của ta cũng rất nghèo nàn. Nhu cầu nghệ thuật và sáng tạo hầu như hoàn toàn thiếu vắng ở dân tộc ta. Văn hóa nghệ thuật của ta chỉ là văn hóa nghệ thuật nghỉ ngơi, nhàn dư chứ không phải là văn hóa nghệ thuật nhức nhối và khai phá. Không gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta không có tác phẩm đáng giá.
Nói tới văn hóa Việt Nam thực ra chỉ là nói đến thơ văn. Và thơ văn của chúng ta chỉ xuất hiện từ thời nhà Lý, nghĩa là từ thế kỷ 11 trở đi. Trước đó chúng ta có rất ít dấu tích thơ văn Việt Nam. Có thể là, do hoàn cảnh lịch sử, những thơ văn của người Việt đã có trước thế kỷ 11 nhưng đã bị thất lạc. Nhưng cứ nhìn vào thành tích thơ văn của bốn thế kỷ Lý Trần, ta có thể khẳng định là thơ văn Việt Nam trước đó nếu có cũng không đáng kể, cả về phẩm lẫn lượng. Bốn trăm năm độc lập, dưới hai triều đại mà chúng ta cho là huy hoàng nhất trong lịch sử, chắc chắn thơ văn Việt Nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại so với thời gian trước. Vậy nhìn vào thơ văn Lý Trần ta có thể hình dung được thơ văn trước đó.
Những công trình khảo cứu đã tổng kết được khoảng hơn sáu trăm bài thơ và văn đủ loại trong bốn thế kỷ. Cứ coi là một số đã bị thất lạc và cộng thêm một ngàn bài nữa để đưa con số này lên một ngàn sáu trăm thì, nói chung, chúng ta cũng chỉ sáng tác được mỗi năm bốn bài. Các bài lại thường thường rất ngắn, có khi chỉ vài câu thôi. Trung bình mỗi bài chưa tới một trăm chữ. Như vậy, ngay cả nếu ước lượng một cách rất rộng rãi thì trung bình trong bốn thế kỷ cực thịnh đó cả nước đã chỉ sáng tác được mỗi ngày một chữ !
Có một sự kiện cần lưu ý là sau khi tiêu diệt được nhà Hồ (năm 1407), hoàng đế Trung Quốc là Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho quân Minh thu thập rồi tiêu hủy hay chở về Trung Quốc các tác phẩm bằng chữ Nho của Việt Nam. Lệnh này đã không được thi hành nghiêm túc (tại sao ? phải chăng là các quan nhà Minh thấy chẳng có gì đáng kể ?) nên Minh Thành Tổ phải ra một lệnh thứ hai quở trách quan tướng nhà Minh và đòi phải thi hành triệt để. Nhà Minh đã cướp mất của chúng ta những gì không ai biết rõ. Trong Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim dựa vào các pho sử có trước nói rằng quân Minh đã lấy của chúng ta 24 bộ sách. Thực tế có thể là hơn. Nhưng dựa vào những gì còn lại ta có thể kết luận là cũng không có gì đáng tiếc lắm, ít nhất về phẩm. Chúng ta hay nói tới các tác phẩm của Chu Văn An, nhưng dựa vào những gì còn sót lại của Chu Văn An thì cũng có thể kết luận rằng các tác phẩm của ông cũng không có giá trị đặc biệt nào.
Thơ văn Việt Nam thực ra chỉ khởi sắc dưới thời Hậu Lê với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và chỉ phát triển mạnh từ thế kỷ 18 trở đi để đạt tới cao điểm vào thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, với các tác giả lớn như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Chú, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê...
Sự khởi sắc đột ngột này có một nguyên nhân quan trọng, đó là thắng lợi của chữ Nôm trên chữ Hán.
Điều cần lưu ý là trong mười lăm thế kỷ đầu của công nguyên, ngay cả trong bốn thế kỷ Lý - Trần, các chính quyền, các vua chúa Việt Nam và các sĩ phu Việt Nam chỉ lo quảng bá tiếng Trung Quốc chứ không lo phát triển ngôn ngữ Việt Nam. Không những không phát triển mà còn miệt thị (nôm na là cha mách qué). Điều khó tưởng tượng là các chính quyền và thành phần khoa bảng Việt Nam đã say mê thực hiện một chính sách Hán hóa đất nước mình. Nếu văn hóa nước ta còn, và do đó đất nước ta còn, là vì họ đã thất bại ! Công lao giữ nước như vậy không phải do các vua chúa, các anh hùng, các công hầu khanh tướng, cũng không do giới sĩ phu mà hoàn toàn do những người nông dân Việt Nam.
Điều mầu nhiệm là mặc dầu bị chà đạp và miệt thị, không những bởi ngoại nhân mà còn do chính thành phần được coi là ưu tú của mình, xã hội Việt Nam vẫn giữ được tiếng nói riêng của mình, để rồi dần dần tiếng Việt toàn thắng trên đất Việt. Người nông dân Việt Nam đã giữ được ngôn ngữ của mình và khuất phục được giới sĩ phu ! Sau đó người Việt đã dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm mà tạo ra chữ viết riêng của mình, âm thầm tu bổ nó, dần dần biến nó thành một ngôn ngữ có giá trị văn chương.
Văn thơ chữ Nôm bắt đầu xuất hiện chính thức với bài "Văn Tế Cá Sấu" của Nguyễn Thuyên cuối đời nhà Trần, vùng lên mạnh mẽ vượt qua chữ Hán dưới thời Lê Trung Hưng (Trịnh-Nguyễn) để chiếm ngữ toàn bộ sân khấu văn chương dưới triều Nguyễn, chỉ để lại cho chữ Hán vai trò ngôn ngữ biên khảo. Sự thịnh hành của chữ Nôm đã giúp cho trí tuệ Việt Nam phát triển, đã nâng cao trình độ sĩ phu Việt Nam và làm xuất hiện những tác phẩm dài, thơ văn cũng như biên khảo, bằng chữ Nôm và bằng cả chữ Hán. Cần lưu ý là trong suốt thời độc tôn của chữ Hán chúng ta đã chỉ có những tác phẩm vụn vặt.
Từ đó cho tới thế kỷ 20, tổng kết văn thơ Việt Nam, ngoại trừ bài Bình Ngô Đại Cáo, tất cả những tác phẩm lớn của chúng ta đều bằng chữ Nôm. Không có chữ Nôm thì chúng ta đã không thể có những tác phẩm để tự hào : Chinh Phụ Ngâm, truyện Kiều, Hoa Tiên, Nhị Độ Mai và những bài thơ bài phú bất hủ của Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến. Văn học của ta đã chỉ có giá trị sáng tạo từ khi chuyển sang chữ Nôm.
May mắn làm sao mà văn Nôm, tức văn Việt Nam, nở rộ lên trong thế kỷ 19. Thử tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào cuối thế kỷ 19, khi người Pháp áp đặt ách đô hộ lên nước ta và đem tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức, nếu lúc đó ta vẫn chưa có một văn học Việt Nam riêng mà vẫn hoàn toàn dựa vào chữ Nho ? Chúng ta sẽ không thể có Nam Phong Tạp Chí, Tự Lực Văn Đoàn với những tiếp nối của chúng. Chúng ta sẽ ở vào cùng một tình trạng bi đát như Lào và Cam-bốt hiện nay.
Các dân tộc châu Âu mặc dầu bị đế quốc La Mã đô hộ và áp đặt tiếng La Tinh cũng đã xây dựng được ngôn ngữ riêng của họ để dần dần thay thế tiếng La Tinh. Họ là những dân tộc tinh anh. Chúng ta cũng như họ. Nhưng dân tộc ta đã thắng một cuộc đấu tranh cam go hơn nhiều bởi vì chính những thành phần ưu tú của đất nước ta đã đóng góp phổ biến chữ Hán và ngăn chặn sự phát triển của tiếng Việt.
Các dân tộc châu êu đã chỉ đạt tới nền văn hóa huy hoàng của họ sau khi họ tự giải thoát khỏi tiếng La Tinh để dựa trên ngôn ngữ của riêng mình. Cũng tương tự, người Việt đã chỉ đạt tới một nền văn học có giá trị từ khi dựa trên tiếng Việt. Đó là một bài học cần được ghi nhớ. Ngôn ngữ là dụng cụ của tư tưởng và tiến bộ, và mỗi con người chỉ phát huy được cao độ khả năng suy nghĩ và diễn tả của mình qua tiếng mẹ đẻ. Một giáo sư ngữ học người Pháp, người Mỹ dù bỏ cả cuộc đời để học hỏi và trau dồi tiếng Việt cũng không thể viết nổi những câu thơ của Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Trịnh Công Sơn. Ngược lại, một người Việt Nam dù học tiếng Pháp từ lúc mới chào đời và đậu thạc sĩ văn phạm như Phạm Duy Khiêm cũng không thể đạt tới trình độ của những nhà văn lớn của Pháp. Vẫn còn lại một cái gì đó, một phần trăm hay một phần ngàn thôi nhưng quyết định tất cả, và phân biệt một tác phẩm kiệt xuất với một tác phẩm khá.
Xây dựng, mài dũa, hoàn thiện không ngừng tiếng Việt là nhiệm vụ trên hết mọi nhiệm vụ. Đó là dụng cụ không có không được của chúng ta để vươn lên. Cho tới nay sự quí trọng tiếng Việt của chúng ta còn ở rất xa mức độ cần có. Hàng chục thế kỷ khinh miệt tiếng mẹ đẻ vẫn còn để lại trong chúng ta những tàn dư tồi tệ. Khi viết một tài liệu bằng tiếng Việt, chúng ta ["chúng ta" ở đây xin hiểu là đa số] cảm thấy không cần lo âu gì cả, viết sao cũng được ; trái lại, khi viết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, ta tra tự điển xem có đúng chính tả không, đắn đo không biết nên dùng chữ này hay chữ khác, hỏi ý kiến bạn bè, v.v... Chúng ta rất vô lễ với tiếng Việt.
Không thiếu những nhà bình luận viết không có bố cục và không ra câu cú. Câu văn dài lòng thòng, chấm phẩy tùy tiện, mệnh đề chính và phụ hỗn độn, chữ dùng không chính xác và viết sai chính tả. Có cả những bài thơ mang những lỗi ngữ vựng rất thông thường.
Chúng ta đừng quên ngôn ngữ không phải chỉ là dụng cụ phát biểu ý kiến mà còn là cấu trúc của tư tưởng. Chúng ta suy nghĩ bằng ngôn ngữ trước khi diễn tả bằng ngôn ngữ.
Vợ chồng ông hàng xóm của tôi người Trung Hoa ; họ ở bên Pháp đã hơn hai mươi năm mà vẫn không nói được tiếng Pháp. Mỗi lần có người Pháp đến hỏi họ đều phải cầu cứu chúng tôi. Chỉ sau này khi các con đã lớn và học khá họ mới không cần vợ chồng tôi nữa. Ông bà ấy nói bằng tiếng Việt để chúng tôi thông ngôn sang tiếng Pháp. Nhưng họ không phải là những người Việt gốc Hoa, mà là những người Miên gốc Hoa. Họ sinh ra và lớn lên tại Phnom Penh. Năm 1976 họ chạy trốn Pol Pot sang Việt Nam và rời Việt Nam sang Pháp hai năm sau. Thời gian hai năm đó đủ để họ nói được tiếng Việt và nhớ mãi tới hai mươi năm sau mặc dầu không hề cố gắng học tiếng Việt. Trái lại, từ khi tới Pháp họ đã theo học nhiều lớp tiếng Pháp nhưng sau hai mươi năm sống trên đất Pháp vẫn không nói được. Đó là vì cấu trúc của tiếng Pháp quá khác với cấu trúc của tiếng Tàu, trong khi tiếng Việt và tiếng Tàu khá gần nhau.
Vẫn còn nhiều người nghĩ rằng trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, khi tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế, chúng ta cần hoàn thiện tiếng Anh trước đã, tiếng Việt tàm tạm đủ dùng thôi cũng được. Như thế là quên rằng chúng ta suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ, nếu chúng ta không nắm thật vững tiếng mẹ đẻ thì chúng ta sẽ suy nghĩ kém, trí óc sẽ không thể phát triển tới mức tối đa được. Chúng ta sẽ thiếu một cái gì đó, cái một phần trăm hay một phần ngàn quyết định tất cả và phân biệt cái hơn hẳn với cái bình thường. Và chúng ta sẽ vĩnh viễn thua kém.
Kinh nghiệm Cao Ly
Chúng ta đều biết nước Cao Ly là nước nào. Tuy nhiên ngay việc gọi tên nó cũng làm nhiều người phân vân : Triều Tiên hay Hàn Quốc ? Quốc hiệu của nước này đã thay đổi nhiều lần trong lịch sử và ngay bây giờ cũng không đồng nhất. Từ sau thế chiến II trên bán đảo Cao Ly có hai nước được thành lập và xung đột với nhau, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên tại miền Bắc và Đại Hàn Dân Quốc tại miền Nam. Như vậy miền Bắc tự gọi là Triều Tiên trong khi miền Nam là Đại Hàn. Tuy vậy khi giao thiệp với các nước Tây Phương họ lại dịch giống nhau và đều dùng chữ Cao Ly [Korea, Corée]. Miền Bắc là Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Cao Ly [Democratic People's Republic of Korea, République Démocratique et Populaire de Corée], miền Nam là Cộng Hòa Cao Ly [Republic of Korea, République de Corée]. Vậy khi cần nói đến cả hai miền của đất nước này ta có thể tạm dùng chữ Cao Ly, một danh xưng mà ngôn ngữ Việt Nam ít dùng, vì thường sử dụng thẳng quốc hiệu chính thức của hai chế độ, nghĩa là Triều Tiên hay Đại Hàn.
Triều Tiên là quốc hiệu được Trung Quốc nhìn nhận từ năm 1391 ; Cao Ly là tên gọi của nước này trong năm thế kỷ trước đó ; trong khi Hàn là tên một con sông ở chính giữa nước, và cũng là tên của một dân tộc đã sinh sống tại miền Nam bán đảo Cao Ly và là nguồn gốc của đa số dân Cao Ly. Một ngày nào đó, nếu nước này được thống nhất có rất nhiều triển vọng họ sẽ sử dụng tên Cao Ly. Vả lại những danh xưng Triều Tiên, Đại Hàn ngay từ bây giờ đã không có công dụng quốc tế.
Cao Ly có một lịch sử bình thường hơn nước ta. Đất nước này đã thành hình do sự sát nhập và thống nhất nhiều vương quốc nhỏ trên bán đảo. Kể từ thế kỷ 13 lãnh thổ của họ không thay đổi nữa, gồm toàn bộ bán đảo, ngăn cách với Trung Quốc bởi con sông Áp Lục.
Nhiều người Việt Nam không am hiểu lịch sử Cao Ly, và do tự ái dân tộc, thường cho rằng trước đây không lâu nước ta còn tiến bộ và hùng mạnh hơn Cao Ly, sự thua kém của ta chỉ là gần đây mà thôi. Sự thực rất khác. Dân tộc Cao Ly từ lâu đã tiến bộ hơn ta nhiều về mọi mặt. Họ đã được độc lập trong suốt dòng lịch sử. Đôi khi vì suy yếu hơn nước Trung Hoa họ đã phải nhận vai trò chư hầu nhưng vẫn giữ được nền tự chủ, ít ra là tự trị, trái với Việt Nam bị sát nhập làm một phần của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Di sản của một ngàn năm nô lệ này vẫn còn để lại trong hồn tính và tư tưởng của chúng ta những tật nguyền mà người Cao Ly, vì là một dân tộc độc lập, không có. Họ có tinh thần dân tộc cao hơn ta, có óc sáng tạo hơn ta và đã tiến triển rất sớm. Những tranh vẽ còn lại trong các ngôi mộ từ thế kỷ 4 chứng tỏ một trình độ nghệ thuật rất cao, không thua gì người Trung Hoa. Cũng tại các ngôi mộ này ta thấy các dấu tích về quần áo, kiến trúc, công nghiệp, giải trí và binh bị rất đáng ngạc nhiên về sự tinh vi. Nếu ngày nay nước Cao Ly, ít nhất phần phía Nam được gọi là Đại Hàn Dân Quốc, tiến bộ mau chóng cũng nhờ họ được thừa hưởng một di sản văn hóa rất phong phú và đặc sắc.
Điều đặc sắc nhất là họ đã có một ngôn ngữ Cao Ly riêng, đã để lại những bài thơ có giá trị triết lý, văn học ngay từ thế kỷ thứ 6. Ngôn ngữ này được sáng chế ra bằng cách sử dụng những bộ chữ của người Trung Hoa, gần giống như chúng ta đã dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm, nhưng sớm hơn. Ngay từ thế kỷ thứ 7, người Cao Ly đã biết kỹ thuật in sách. Cho tới nay, theo một số nhà nghiên cứu, bản in xưa nhất thế giới là bản in một cuốn sách của người Cao Ly. Ngay từ thế kỷ 7, người Cao Ly đã quan tâm học hỏi các môn toán, thiên văn, y học. Năm 717 họ đã lập ra các học vị tiến sĩ Toán, tiến sĩ Y khoa, tiến sĩ Thiên văn. Trước đó, năm 692 họ đã có những tiến sĩ Luật. Nếu nhìn lại lịch sử của ta thì phải thấy ta thua họ xa lắm và từ lâu rồi. Cho đến đầu thế kỷ 20 ta vẫn chỉ có những cử nhân tiến sĩ về văn chương mà thôi.
Kinh nghiệm Cao Ly mà tôi muốn nói tôi ở đây là kinh nghiệm về ngôn ngữ. Người Cao Ly rất hiếu học và cầu tiến. Từ thế kỷ thứ 10 họ say sưa học hỏi văn hóa Trung Hoa, treo giải thưởng cho những ai tìm được sách của Trung Hoa, rồi sao chép và phổ biến trong giới ưu tú. Lúc đó nước Trung Hoa lại may mắn gặp những thời kỳ thịnh trị qua suốt các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh. Văn học, triết lý và chính trị của Trung Hoa đều rất thịnh trong các triều đại này. Trí thức Cao Ly say mê học hỏi rồi dần dần bỏ quên cả ngôn ngữ gốc của mình. Chữ Hán với thời gian chiếm vai trò của ngôn ngữ chính thức, át hẳn tiếng Cao Ly. Hậu quả của việc tôn sùng tiếng Trung Hoa là dần dần Cao Ly thua kém Trung Hoa và suy thoái đi, bởi vì chữ Hán chỉ phổ biến trong giới thượng lưu mà thôi. Quần chúng Cao Ly vẫn chỉ sử dụng tiếng Cao Ly bản xứ. Vì ngôn ngữ này không được phát triển, trình độ văn hóa của quần chúng không vươn lên được.
Sau hơn bốn thế kỷ bỏ rơi ngôn ngữ của chính mình để chạy theo một ngôn ngữ và một văn hóa nước ngoài, người Cao Ly đã nhận ra sự sút kém của mình. Đầu thế kỷ 15 họ quay trở lại phát triển tiếng Cao Ly và lần này họ làm một phát minh độc đáo : một tiếng Cao Ly mới xuất hiện với một mẫu tự riêng, gồm 26 chữ cái, mỗi chữ cái diễn tả một âm riêng giống như các ngôn ngữ phương Tây, nhưng các mẫu tự dĩ nhiên là khác với các mẫu tự la tinh ABC vì lúc đó Cao Ly chưa biết tới châu Âu.
Cuộc cách mạng văn hóa này đã gặp nhiều chống đối của giới sĩ phu sính chữ Hán, nhưng nhờ quyết tâm của chính quyền nó đã thành công và nước Cao Ly vươn lên mạnh mẽ. Cho tới nay, đây vẫn là ngôn ngữ chính thức của nước Cao Ly và đã được phong phú hóa rất nhiều để trở thành một ngôn ngữ đầy đủ khả năng để chuyên chở mọi kiến thức văn học, khoa học và kỹ thuật.
Vào đầu năm 1998, một bài báo của một thân hữu được đăng trên tờ Cánh Én tại Đức và Thông Luận đã phê phán một bài báo khác của tôi. Tác giả phê phán tôi cực đoan trong cách nhận định văn hóa và lịch sử dân tộc và đưa ra nhận định là hình như những người hoạt động chính trị Việt Nam đều có chung nhau một điểm là hay chọn lựa thái độ cực đoan. Đề cập tới hai khuôn mặt chính trị Việt Nam hồi đầu thế kỷ, tác giả nhận định Phan Bội Châu đã cực đoan trong thái độ thân Nhật, một chọn lựa mà nếu thành công vào lúc đó sẽ là một thảm kịch cho dân tộc Việt Nam ; Phan Chu Trinh đã quá khích trong cố gắng cổ võ dùng chữ quốc ngữ thay chữ Nho với hậu quả là người Việt Nam đã mất mát rất lớn vì bị đoạn tuyệt với văn hóa Trung Hoa, văn hóa gốc của mình. Tác giả viện dẫn trường hợp Cao Ly để nói rằng người Cao Ly, cũng như người Nhật, đã tiến mạnh nhờ tiếp tục sử dụng tiếng Hán. Tôi chia sẻ với bạn đó nhận định về Phan Bội Châu nhưng không thể đồng ý về trường hợp Phan Chu Trinh và chữ quốc ngữ, nhất là về thí dụ Cao Ly. Cao Ly đã sùng ái chữ Hán trong vòng bốn thế kỷ nhưng vẫn có ngôn ngữ riêng của họ và từ năm thế kỷ gần đây ngôn ngữ riêng là ngôn ngữ chính thức chứ không phải chữ Hán. Họ tiến nhờ ngôn ngữ riêng chứ không phải nhờ chữ Hán mà họ chỉ sử dụng như một ngoại ngữ.
Theo chỗ tôi biết, trong tiếng Cao Ly hiện nay chỉ có khoảng hai ngàn chữ có gốc chữ Hán mà thôi, nghĩa là rất ít so với sự hiện diện của chữ Hán trong tiếng Việt. Các chữ Hán vay mượn này cũng đã được Cao Ly hóa, nghĩa là viết bằng mẫu tự Cao Ly, chẳng khác gì ta viết chữ gốc Hán như "ân nhân" bằng mẫu tự la tinh.
Sử dụng ngôn ngữ của riêng mình là một bắt buộc đối với mọi dân tộc muốn trường tồn. Suy nghĩ và diễn tả là hai hành động cơ bản nhất của loài người. Chúng ta suy nghĩ và diễn tả bằng một ngôn ngữ, và chúng ta chỉ thoải mái và chỉ thành công tối đa trong ngôn ngữ của chính mình. Sử dụng một ngoại ngữ chúng ta sẽ bị giới hạn trong cả suy nghĩ lẫn diễn đạt, chúng ta sẽ thua kém. Đó mới chỉ là nói về giới trí thức. Đối với cộng đồng dân tộc việc sử dụng ngoại ngữ thay vì quốc ngữ còn nguy hiểm gấp bội. Quần chúng chỉ có thể dùng ngôn ngữ của mình chứ không thể thấu hiểu một ngoại ngữ. Bỏ rơi quốc ngữ là bỏ rơi đại bộ phận dân tộc và chấp nhận vĩnh viễn số phận nhược tiểu, trừ trường hợp dám thẳng thắn xóa bỏ văn hóa của mình để chấp nhận một văn hóa mới. Nhưng "cố gắng" xóa bỏ văn hóa của chính mình này sẽ đòi hỏi nhiều thế kỷ và tới nay chưa dân tộc nào làm được. Nước Việt Nam của chúng ta đã thử nghiệm trong mười thế kỷ Bắc thuộc và hơn bốn thế kỷ độc lập sau đó nhưng đã không "thành công".
Đất nước ta đang mở ra với thế giới vào giữa lúc mà tiếng Anh đang thời thượng. Chẳng bao lâu một cuộc thảo luận lớn sẽ diễn ra : nên đầu tư tích cực vào tiếng Anh để hội nhập mau chóng vào sinh hoạt thế giới hay nên dồn một cố gắng vĩ đại vào việc phát triển và cải tiến tiếng Việt ? Nhiều người lý luận rằng với tiếng Anh chúng ta sẽ hiểu được cả thế giới và ngược lại cũng được cả thế giới hiểu. Tiếng Việt có rất nhiều trở ngại : tiếng đơn âm, khó kết hợp và biến hóa để tạo ra những từ mới, diễn tả những ý niệm mới ; dấu phức tạp, khó dùng trong truyền thông và tin học ; hơn nữa lại không được thế giới biết đến, đằng nào cũng vẫn phải dùng tiếng Anh trong các giao dịch quốc tế.
Mặc dầu tất cả những trở ngại rất lớn và có thực đó, lập trường của tôi rất rõ rệt : phải dùng tiếng Việt và phải đầu tư vào tiếng Việt.
Lập trường của tôi không xuất phát từ một tinh thần quốc gia mà từ một nhận định thực tiễn : người Việt chỉ thành công qua tiếng Việt mà thôi. Chúng ta sẽ không có hy vọng nào để cả nước thông thạo tiếng Anh, mà có "thông thạo" đi nữa thì cũng không bao giờ thông thạo được bằng người Anh hay người Mỹ. Chúng ta sẽ học tiếng Anh, nhưng đó sẽ chỉ là ngôn ngữ giao dịch với bên ngoài. Tiếng Việt sẽ vẫn là ngôn ngữ để học hỏi, để suy nghĩ, để giáo dục, huấn luyện, đào tạo và trao đổi giữa chúng ta. Đó là chọn lựa duy nhất của chúng ta.
Chúng ta đã có kinh nghiệm chữ Hán và chữ Nôm. Chúng ta đã chỉ thực sự tiến bộ khi chữ Nôm trưởng thành. Dân tộc Cao Ly cũng đã có một kinh nghiệm tương tự về ngôn ngữ của họ sau khi đã sùng ái chữ Hán. Các dân tộc châu Âu cũng đã chỉ vươn lên nhờ biết sáng tạo và cải tiến tiếng mẹ đẻ của họ để thay thế cho tiếng La Tinh.
Chúng ta cũng có một kinh nghiệm ngược lại đầy ý nghĩa. Tỉnh Québec của Canada gồm đại đa số là người gốc Pháp, và họ có đủ điều kiện để phát triển tiếng Pháp, nhưng họ không phải là một phần của nước Pháp cho nên mặc dầu có phương tiện dồi dào và có ý chí mạnh mẽ giữ gìn tiếng Pháp, họ đã không sáng tác được gì đáng kể bằng tiếng Pháp.
Nước Việt Nam ta với điều kiện địa lý và nhân văn có triển vọng để trở thành một nước lớn và giàu mạnh, nhưng triển vọng đó sẽ chỉ được thực hiện với tiếng Việt. Vậy chúng ta chỉ có một chọn lựa : xây dựng, cải tiến và phong phú hóa tiếng Việt.
Đoạn Trường Tân Thanh
Khi Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều để về quê sau một thời gian say sưa ân ái, Nguyễn Du tả cảnh chia tay bằng hai câu thơ bất hủ :
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
Kẻ ra đi, người còn bịn rịn nắm áo giữ lại, đến lúc biệt ly mới ngỡ ngàng nhận ra là mùa thu đã đến từ lúc nào không hay, lá vàng đã phủ đầy lối đi. Thì ra đôi uyên ương đã quá say sưa đến quên cả thời gian.
Những vần thơ trác tuyệt như vậy đầy rẫy trong truyện Kiều. Thiên tài của Nguyễn Du là đã vừa viết truyện vừa sáng tác ra ngôn ngữ để viết. Và những sáng tạo ngôn ngữ của ông quả là tuyệt vời. Những cụm từ của ông đã trở thành những thành tố quan trọng của tiếng Việt. Sắc đẹp "nghiêng nước nghiêng thành", "rạch đôi sơn hà", "hàng thần lơ láo", "đội trời đạp đất", "tài tử giai nhân", "sở khanh", v.v... Kiến thức về văn học của tôi không có bao nhiêu, nhưng tôi cũng đã đọc khá nhiều tác giả lớn bằng tiếng Pháp và tiếng Anh và nhiều truyện Tàu. Tôi chưa hề thấy một nhà văn nào sáng tạo ra ngôn ngữ nhiều như Nguyễn Du.
Nhưng về một khía cạnh khác, truyện Kiều lại đem đến cho tôi một tâm sự chua chát. Đoạn Trường Tân Thanh là tên của một tiểu thuyết vô danh của một tác giả vô danh bên Trung Quốc, Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đã giữ nguyên tên tác phẩm và, theo một số nhà nghiên cứu văn học, cũng giữ nguyên cả cốt truyện, kể cả những chi tiết ngớ ngẩn như hồn ma Đạm Tiên, Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều chết đi sống lại và gặp vãi Giác Duyên... Ông cũng giữ nguyên cái triết lý "tài mệnh tương đố" bi quan và rẻ tiền. Nói chung, Nguyễn Du không có cảm hứng và tư tưởng của chính mình mà chỉ hòa nhịp theo cảm hứng của một tác giả tầm thường của Trung Quốc và đi theo mạch tư tưởng rất tầm thường của người này.
Nguyễn Du là khuôn mặt văn học lớn nhất và cao nhất của nước ta cho tới ngày nay, cho nên những thiếu sót của ông càng đáng tủi hổ cho chúng ta hơn là nơi những tác giả khác. Hình như không có câu thơ nào trong Cung Oán Ngâm Khúc mà lại không có một điển tích văn hóa hay lịch sử Trung Hoa và tuyệt nhiên không có một qui chiếu Việt Nam nào cả. Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm hoàn toàn của người Việt Nam, bản chữ Nho của Đặng Trần Côn cũng như bản chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm, nhưng đó lại là một truyện Tàu, bối cảnh và các nhân vật của nó đều là Trung Hoa. Tâm hồn của người chiến sĩ lên đường được diễn tả qua hai câu thơ :
Săn lâu lan rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.
Nhưng "sự Phục Ba" là sự gì ? Đó là việc tướng nhà Hán Mã Viện, có tước Phục Ba Tướng Quân, đem quân đánh bại Hai Bà Trưng, dẹp cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên của Việt Nam, và đặt ách đô hộ một ngàn năm trên nước ta. Một sự kiện như vậy mà lại gây hứng khởi trong lòng hai danh sĩ xuất sắc bậc nhất của nước ta đủ chứng tỏ cảm hứng của sĩ phu Việt Nam vào thời đó đều chỉ hoàn toàn là vay mượn.
Trong thế kỷ 19 thơ văn Việt Nam đã làm một bước nhảy vọt vĩ đại cả về phẩm lẫn lượng. Bước nhảy vọt này đã được tiếp nối và tăng cường trong thế kỷ 20 với sự bành trướng của chữ quốc ngữ, thơ mới và tiểu thuyết theo kiểu phương Tây. Cũng trong thế kỷ 20 mà chúng ta bắt đầu làm quen với văn nghị luận và biên khảo. Nhưng chúng ta vẫn chưa có một tác phẩm nào lớn, có tầm vóc quốc tế. Cảm hứng vụn vặt, đam mê chốc lát - di sản của một nền văn hóa nhàn dư - đã chỉ đẻ ra những tác phẩm nhỏ, hoặc họa hiếm lắm là trung bình như trường hợp truyện Kiều. Chúng ta thiếu óc sáng tạo và thiếu sự dài hơi. Tại sao ?
Không phải chúng ta thiếu tài năng. Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, v.v... đều đáng được coi là những thiên tài của ngôn ngữ.
Không phải chúng ta thiếu đề tài và chất liệu. Mười lăm thế kỷ đấu tranh với thiên nhiên để khai mở đồng bằng sông Hồng, đấu tranh với ngoại bang, vua quan và sĩ phu để giữ gìn căn cước. Cả một cuộc nam tiến vĩ đại kéo dài bảy thế kỷ trong đó những tấm áo nâu đã dắt dìu nhau vào tới Cà Mau. Hơn một trăm năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, ba mươi năm tranh hùng Nguyễn Ánh - Tây Sơn ; cuộc xâm lăng của người Pháp và gần một thế kỷ Pháp thuộc mang theo một cuộc đụng độ dữ dội chưa từng có giữa hai thế giới và hai nền văn hóa khác hẳn nhau. Thế rồi cuộc chiến đấu giành độc lập, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Nam - Bắc kéo dài hai mươi năm, những cuộc di tản lịch sử đem người Bắc vào Nam và đem người Việt trải rộng ra khắp thế giới, v.v... Biết bao đổi thay bi hùng tráng lệ, biết bao đau khổ, mừng vui, tình nghĩa, phản trắc. Tất cả những đảo lộn dồn dập đó, nhất là trong hơn bốn thế kỷ gần đây, đã có thể cung cấp đề tài cho những tác phẩm tầm cỡ lớn hơn Chiến Tranh và Hòa Bình, Anh Em Karamazov, Les Hommes de Bonne Volonté, Les Thibault, Gone with the Wind, Grapes of Wrath, A Farewell to Arms...
Chúng ta không sáng tác được vì chúng ta thiếu tầm nhìn và cách nhìn để thấy được cái vĩ đại ngay chung quanh chúng ta. Chúng ta thiếu tư tưởng.
Sự thiếu tư tưởng của chúng ta là quá rõ rệt. Chúng ta không có một đóng góp nào cho tư tưởng thế giới đã đành nhưng chúng ta cũng không nhận thức được về chính mình. Việc du nhập một cách cuồng tín chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, cũng như sự kéo dài dai dẳng của nó, và của lập trường chống cộng, tố giác một cách phũ phàng sự yếu kém về tư tưởng của chúng ta.
Hiện tượng Kim Dung trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 mới thực là kỳ quái ! Truyện kiếm hiệp của Kim Dung chỉ có giá trị tương đương với một bộ truyện giải trí nhi đồng, một bộ truyện bằng tranh hay một phim hoạt họa. Nó không dựa trên một sự thực nào, không có một giá trị văn học nào mà cũng không chuyên chở một tư tưởng nào, hay một nhãn quan nào về cuộc sống và thế giới. Nó chỉ khác với các bộ sách kiếm hiệp cổ điển ở chỗ nó tương đối hóa tất cả, pha trộn thiện ác, chính tà. Hình như nó cũng có tham vọng qua các nhân vật và phe phái phản ảnh phần nào thế tranh hùng trên thế giới. Nhưng nó trình bày một cách ngây ngô hời hợt. Và nhất là nó hoàn toàn không có giá trị văn học. Vậy mà cả miền Nam say mê, ngay cả các trí thức được coi là lớn cũng bỏ công nghiên cứu và bàn luận. Tôi cũng có đọc một số truyện nổi tiếng nhất của Kim Dung với mục đích phân tích tâm lý của trí thức miền Nam lúc đó. Thú thực là tôi rất thất vọng, thất vọng về truyện Kim Dung thì ít vì dầu sao nó cũng có giá trị giải trí, nhưng thất vọng lớn về sự thấp kém bi đát của trí thức miền Nam lúc đó.
Thiếu tư tưởng và cảm hứng thì dĩ nhiên ta không thể sáng tạo mà phải đi vay mượn của nước ngoài. Nhưng có những bộ môn nghệ thuật trong đó chúng ta bắt buộc phải sáng tạo, phải có cảm hứng của chính mình, dựa trên những chất liệu quanh mình, chẳng hạn như hội họa, điêu khắc và, ở một mức độ bớt gay gắt hơn, ca múa. Chúng ta yếu trong những bộ môn này là lẽ dĩ nhiên.
Điều đáng buồn là, ngoại trừ thơ văn, những sáng tạo ít ỏi của chúng ta cho đến đầu thế kỷ 20 này, dù là hội họa, kiến trúc, âm nhạc, múa, v.v... đều không do những phần tử sĩ phu mà do dân gian.
Điều cũng đáng buồn là hầu hết những người lỗi lạc nhất của chúng ta, những Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, v.v... đều nhờ đã từng đi sứ hay xuất ngoại và học hỏi được ở nước ngoài. Như thế phải nói ngay rằng nền giáo dục của chúng ta không đào tạo ra được nhân tài.
Cái gì đã giam hãm trí tuệ Việt Nam, không cho nó vượt thoát, sáng tạo và bay bổng ?
Giải thích đầu tiên là do lịch sử nước ta, mà chúng ta đã cùng nhau lược qua trong cuốn sách này. Chúng ta không phải là một dân tộc tự do. Trong hai ngàn năm sau công nguyên, nghĩa là gần như trọn chiều dài lịch sử đích thực của chúng ta, chúng ta đã bị ngoại thuộc hơn một ngàn năm, chúng ta đã phải chịu đựng những cuộc chiến thảm khốc trong phần lớn thời gian còn lại ; ưu tư phải dành cho sự sống còn thay vì cho suy nghĩ và sáng tạo. Các chế độ tự chủ của ta chẳng qua cũng chỉ là những bạo quyền bản xứ. Chúng ta không có tự do. Và một con người không có tự do thì cũng không thể có óc sáng tạo.
Giải thích thứ hai là do địa lý. Nước ta được dựng lên từ châu thổ sông Hồng. Các công trình thủy lợi, đắp đê ngăn nước, đào kênh dẫn nước là chuyện sinh tử của xã hội. Chúng ta cần những chế độ bạo ngược áp đặt những hy sinh tàn nhẫn để chống cự với thiên nhiên cho sự sống sót của tập thể. Đó là số phận nô lệ chung trong quá trình hình thành của mọi dân tộc sống quanh những con sông lớn, với lưu lượng thay đổi đột ngột. Sau hàng ngàn năm bị chà đạp và hành hạ như thế, chúng ta hấp thụ bản chất nô lệ cộng thêm với cuộc sống nông dân cơ cực phải vật lộn với đất để lấy từ đất ra miếng ăn cho từng ngày. Kết quả là chúng không biết nhìn xa và sáng tạo. Cái địa lý đã nuôi ta cũng đồng thời để lại cho chúng ta những tì vết.
Vậy thì để vươn lên chúng ta phải thắng được di sản lịch sử và địa lý đó. Các tiến bộ kỹ thuật đã giải tỏa chúng ta khỏi ách nô lệ của đê điều. Còn lại là di sản tâm lý do quá khứ để lại. Chúng ta cần một quyết tâm sống như những con người tự do và xây dựng đất nước trên tự do, bởi vì chỉ có những con người tự do mới có khả năng sáng tạo.
Lịch sử và địa lý không giải thích tất cả. Còn những yếu tố khác mà chúng ta có lẽ đã chấp nhận do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, nhưng với thời gian chúng đã đóng một vai trò còn quan trọng hơn.
Thua kém và nguyên nhân
Cuối thế kỷ 19 chúng ta bị người Pháp đánh bại và khuất phục một cách dễ dàng. Thất bại này đầy hổ nhục vì nước Pháp lúc đó cũng đang chao đảo mạnh. Năm 1872 là năm quân Pháp đánh hạ Thăng Long, nghĩa là chỉ hai năm sau khi Pháp đại bại trước quân Đức, hoàng đế Napoléon III, cháu của Napoléon I, thua trận, bị bắt sống và đế quốc thứ hai của Pháp sụp đổ. Những đạo quân viễn chinh của Pháp cũng không có bao nhiêu. Cả hai lần hạ thành Thăng Long họ đều chỉ cần vài trăm quân.
Cuối thế kỷ 20, khi nhiều quốc gia châu Á khác cũng ở một mức độ phát triển tương đương với chúng ta trong thế kỷ trước đã tiến lên mạnh mẽ, sự thua kém của chúng ta so với phương Tây vẫn tiếp tục trầm trọng thêm. Lợi tức bình quân trên mỗi đầu người của ta vào năm 2000 được ước lượng là 300 USD, nghĩa là chỉ xấp xỉ bằng 1/100 của Hoa Kỳ, Nhật và các nước Tây Âu mà thôi. Tóm lại trong hơn một thế kỷ đổi mới tuy chúng ta đã tiến triển khá nhiều, nhưng các nước tiên tiến còn tiến bộ nhanh hơn và khoảng cách giữa họ và chúng ta không hẹp lại mà còn rộng ra, trong khi nhiều nước cũng chậm tiến như chúng ta trước đây đã vươn lên mạnh mẽ.
Tại sao có sự thua kém đó ?
Cần phải gạt đi ngay những câu trả lời quanh co : chúng ta không may mắn, chúng ta bị chiến tranh nhiều quá, các lãnh tụ của chúng ta tồi tàn quá, v.v... Đó không phải là những câu trả lời thực sự. Thế tại sao chúng ta lại gặp toàn những xui xẻo, tại sao lại chiến tranh nhiều quá, tại sao lại chỉ có những người lãnh đạo tồi ? Định mệnh nào khiến chúng ta cứ, như Nguyễn Du nói, tìm toàn những ngả đoạn trường mà đi ?
Khi một quốc gia thua kém mặc dù những điều kiện địa lý không đến nỗi quá bất lợi thì chỉ có thể có hai giải thích, một là con người tồi, hai là văn hóa tồi mà thôi. Nhưng có thực là có hai giải thích không hay chỉ có một ? Tất cả các nhà bác học về nhân chủng, y khoa, tâm lý đều đã đồng ý với nhau về một kết luận : chỉ có một giống người trên thế giới này mà thôi và mọi dân tộc đều có những khả năng như nhau hay ít ra gần như nhau. Chỉ có những phần tử cực đoan và kỳ thị, thường thường vô học, mới phủ nhận kết luận này. Với thời gian càng ngày nó càng được xác nhận.
Có thể vẫn có những người hồ nghi về sự bình đẳng khả năng trí tuệ thực sự giữa những con người, coi đó là một xác quyết có tính cách triết học và nguyên tắc hơn là một sự kiện khoa học và khách quan, nhưng cho tới nay họ chưa đưa ra được một lập luận giá trị nào.
Nhưng ngay cả nếu chúng ta chấp nhận để tạm không bàn cãi về sự hồ nghi đó thì vấn đề vẫn không đặt ra đối với người Việt Nam. Người Việt Nam qua tiếp xúc với văn hóa, khoa học và kỹ thuật phương Tây đã chứng tỏ khả năng hấp thụ nhanh chóng bất cứ một kiến thức nào. Hơn hai triệu người Việt hải ngoại, sau một thời gian thích nghi rất ngắn ngủi, đã đạt được một mức sống và một trình độ gần tương đương với dân tộc các nước tiếp cư. Con người Việt Nam không tồi.
Nguyên nhân của sự thua kém bi đát hiện nay như vậy chỉ là vì văn hóa của chúng ta quá tồi mà thôi. Vậy chúng ta phải thay đổi văn hóa nếu muốn vươn lên.
Mà văn hóa là gì ? Đó lại là cả một câu hỏi phức tạp có thể tranh cãi vô cùng tận. Nhưng trong sự suy nghĩ để đi tìm tiến bộ chung, chúng ta có thể tạm chấp nhận một định nghĩa thu hẹp : văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những nhận thức và những giá trị đã tạo ra cho dân tộc đó một cách suy nghĩ và hành động, một cách tiếp cận và ứng xử với môi trường chung quanh.
Đến đây cần nhấn mạnh, và nhấn thực mạnh, một điều. Đó là nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy tất cả mọi giá trị, tốt cũng như xấu, đều hiện diện trong mọi nền văn minh, hay cũng như dở. Điều khác biệt là tầm quan trọng tương đối của các giá trị trong mỗi nền văn hóa. Các nền văn hóa khác nhau không phải vì chúng chứa đựng những giá trị khác nhau mà vì chúng dành cho các giá trị những trọng lượng khác nhau. Và sự khác biệt này có thể đưa đến những hậu quả cực kỳ lớn. Con sên cũng chuyển động, con ngựa cũng chuyển động, nhưng hai con vật này không chuyển động với cùng một vận tốc. Như vậy, trong cuộc thảo luận về văn hóa, chúng ta đừng nên mất thì giờ để biện luận Khổng Giáo cũng có cái này, Công Giáo cũng có cái kia, Phật Giáo cũng có cái nọ, v.v... Khi chúng ta nói cần thay đổi văn hóa (hay cần làm một cuộc cách mạnh văn hóa) là chúng ta muốn nói cần thay đổi trọng lượng tương đối của các giá trị dựa trên kinh nghiệm của những dân tộc tiến bộ chứ không phải là cần nhập cảng giá trị này, loại bỏ giá trị kia.
Không phải là một tình cờ mà Việt Nam và Trung Quốc có thân phận gần giống nhau. Cả hai nước đều chịu những thảm kịch lớn, đều vướng mắc với một chủ nghĩa đã bị đào thải, đều thua kém bi đát trong khi những người dân của cả hai nước lập nghiệp tại nước ngoài đều khá thành công. Cũng không phải là một sự tình cờ mà Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn lẽo đẽo chạy theo Đảng Cộng Sản Trung Quốc như các vua chúa nhà Nguyễn lẽo đẽo chạy theo triều Thanh. Cùng một văn hóa đưa tới cùng một cách suy nghĩ và hành động, và cuối cùng đưa tới những chọn lựa giống nhau. Việt Nam cùng một văn hóa với Trung Quốc, nghĩa là cùng đề cao một số giá trị và cùng xem thường một số giá trị khác, bởi vì đã bị lệ thuộc Trung Quốc trong hơn một ngàn năm và đã cố gắng rập khuôn theo Trung Quốc trong gần một ngàn năm sau đó.
Ngày nay, trước hoàn cảnh bi đát của đất nước, nhiều người đã thao thức đặt vấn đề làm thế nào để đưa đất nước đi lên. Đại đa số những phát biểu này thuộc hai loại.
Loại thứ nhất phân tích những sai lầm hoặc tố giác những dã tâm trong quá khứ đã đưa đến tình trạng hiện nay.
Loại thứ hai quay lưng lại với quá khứ và hướng về tương lai, gồm những đề nghị về kế hoạch và kinh tế, đôi khi dựa trên những thống kê được sưu tập khá công phu.
Tôi cho cả hai cách tiếp cận này đều không đúng. Nếu vẫn giữ nguyên một văn hóa cũ thì dù không làm sai lầm này người ta cũng sẽ làm sai lầm khác. Còn các kế hoạch kinh tế tài chánh thì tôi hoàn toàn dị ứng. Không phải vì ta thực hiện kế hoạch kinh tế này thay vì kế hoạch kinh tế khác mà đất nước ta sẽ khá hơn. Những "chuyên gia" nghĩ như vậy không hiểu gì về kinh tế và tạo ra cho người khác những ảo tưởng sai lầm. Họ không đóng góp mà còn đánh lạc hướng những suy tư khỏi nguyên nhân chính của mọi đau khổ của chúng ta hiện nay.
Chúng ta đã như ngày nay bởi vì chúng ta đã có một văn hóa tồi tệ. Chúng ta chỉ vươn lên được nếu ý thức được rằng văn hóa của ta tồi, cần phải thay thế bằng một văn hóa khác. Ngay cả nếu chỉ giới hạn trong phát triển kinh tế mà thôi thì cũng cần ý thức rằng phát triển kinh tế chủ yếu vẫn chỉ là một vấn đề tâm lý và văn hóa.
Khổng Giáo và Khổng Tử
Đọc xong những dòng trước độc giả đã có thể đoán là tôi sắp đặt vấn đề Nho Giáo. Văn hóa truyền thống của ta là văn hóa Nho Giáo. Nói rằng văn hóa của ta cần được xét lại có nghĩa là chúng ta phải nhận định lại Nho Giáo.
Nhiều độc giả có Tây học, nhất là những độc giả trẻ, có thể sẽ phản ứng : tại sao lại cần đặt vấn đề Nho Giáo ? Văn hóa của chúng ta ngày nay đâu còn là văn hóa Nho Giáo nữa, người Việt Nam đã thôi học chữ nho và tư tưởng Nho Giáo từ gần một thế kỷ nay rồi. Tôi có biết Tứ Thư, Ngũ Kinh là gì đâu ? v.v... Xin các bạn bình tĩnh. Văn hóa của chúng ta vẫn là văn hóa Nho Giáo. Từ giã một nền văn hóa không dễ đâu ; nó đòi hỏi một cố gắng tàn bạo đối với chính mình, điều mà cho tới nay chúng ta vẫn từ chối không làm. Kiến thức của chúng ta có thể đã đổi mới rất nhiều nhưng văn hóa không phải chỉ là kiến thức. Và văn hóa của chúng ta chưa thay đổi bao nhiêu. Một nếp sống mà chúng ta đã theo trong mấy ngàn năm không dễ gì chúng ta có thể đoạn tuyệt trong vòng một thế kỷ, nhất là trong suốt thế kỷ đó chúng ta lại rất ít đặt vấn đề triết lý và tâm lý. Chúng ta vẫn giữ hồn tính cũ và nói chung chỉ tiếp thu những hiểu biết mới một cách thực dụng, để sử dụng chúng với tâm lý có sẵn, nghĩa là tâm lý Nho Giáo. Đó là nói về những người có học thức, còn đối với đại đa số quần chúng thì tâm lý Nho Giáo lại còn tồn tại mạnh hơn.
Văn hóa và tâm lý chủ yếu nằm trong nếp sống, và một nếp sống có cách lưu truyền riêng của nó, qua sinh hoạt gia đình, qua hành động, cử chỉ, thái độ và những cái nhìn của cha mẹ và người chung quanh, qua những gương anh hùng, liệt sĩ, vĩ nhân mà chúng ta tiếp thu tại học đường, qua những chuyện bà kể cho cháu, cô giáo kể cho học trò ở ngay đầu đời. Văn hóa là toàn bộ những ý niệm và giá trị mà chúng ta đã được giáo dục để coi là đúng và do đó quyết định cách suy nghĩ, hành động và ứng xử của chúng ta. Kiến thức chỉ là bề mặt của văn hóa, là những dụng cụ để thể hiện một văn hóa. Văn hóa không đến với chúng ta bằng lý trí để chúng ta có thể biện luận, chọn lọc và phản bác. Nó đến một cách kín đáo và vô tình ; nó nằm trong vô thức của chúng ta, nó xâm nhập tâm hồn chúng ta, trở thành bản năng của chúng ta. Nó khống chế và chỉ huy chúng ta mà chúng ta không ý thức được nên càng khó cưỡng lại. Nó là một phần của chính chúng ta nên chúng ta chỉ có thể xét lại nó nếu dám ra khỏi mình để chống lại chính mình. Do đó văn hóa và tâm lý có sức sống cực kỳ dai dẳng. Chúng ta vẫn tiếp tục được đào tạo theo Nho Giáo ngay cả nếu chúng ta không ý thức được như vậy. Nho Giáo vẫn còn hiện diện rất mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam và trong con người Việt Nam. Bởi vậy chúng ta phải tìm hiểu nó để biết chúng ta là ai.
Nho Giáo thường được gọi là Khổng Giáo. Mặc dầu cách gọi này không đúng nhưng với thời gian nó đã thành chính thức. Từ khi có trao đổi giữa phương Đông và phương Tây thì danh xưng Khổng Giáo đã thay thế hẳn danh xưng Nho Giáo, vì người phương Tây chỉ biết đến danh xưng Khổng Giáo [Confucianism] mà thôi.
Trước khi bàn về Khổng Giáo cần đặt ra ngoài vòng trách nhiệm một nhân vật : ông Khổng Khâu. Ông này thường được gọi một cách tôn kính là Khổng Phu Tử hay Khổng Tử. Người Á Đông, nhất là người Trung Quốc và người Việt Nam, gọi ông là "Đức Khổng", coi ông như một vị thánh, thánh tổ của một tôn giáo. Không thiếu những tác phẩm nói đến "Đạo Khổng".
Khổng Khâu sinh năm 551 trước Tây lịch và mất năm 479 trước Tây lịch, nghĩa là ngay chính giữa một thời đại dài 500 năm (722-221 trước Tây lịch) mà lịch sử gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc. Lúc đó Trung Quốc đã có gần bốn ngàn năm lịch sử rồi. Theo sử Trung Quốc thì vị vua đầu tiên là Phục Hi (4480-4365 trước Tây lịch) đã đặt ra tám quẻ bói toán để dò ý trời đất, quỉ thần. Niên đại có thể không được chính xác, nhưng sự kiện này chứng tỏ rằng ngay từ một thời đại rất xa xưa, khi hầu như cả nhân loại còn rất bán khai thì xã hội Trung Quốc đã tiến hóa đến mức những băn khoăn siêu hình đã xuất hiện. Từ quá trình lịch sử rất dài đó đã hình thành một sinh hoạt văn hóa và chính trị có nền nếp : Nho Giáo.
Thời đại của Khổng Tử là thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng là thời nhà Chu, một triều đại kéo dài hơn 900 năm, từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 3 trước Tây lịch. Nửa đầu nhà Chu rất ổn định, nhưng từ nửa sau thế lực của chính quyền trung ương suy yếu đi, đến độ phải dời đô về phương Đông để tránh giặc. Các nước chư hầu không còn thuần phục trung ương nữa, mặc sức tranh giành và thôn tính lẫn nhau. Khổng Tử sinh sống trong nửa sau này. Lúc đó Nho Giáo đã thành hình từ rất lâu rồi.
Nho Giáo là một hệ thống giáo dục và đào tạo những người phục vụ cho các vua chúa, vua nhà Chu cũng như các vua chư hầu. Chữ "Nho" trong tiếng Trung Quốc gồm một chữ "Nhân", có nghĩa là người, bên cạnh một chữ "Nhu", có nghĩa là cần thiết. Như vậy "nho" có nghĩa là người cần thiết để giúp các vua chúa trị nước. Cần hiểu rõ như vậy để đừng ngộ nhận coi Nho Giáo là một triết lý. Nho Giáo chỉ là sự giảng dạy những đức tính và kiến thức phải có để được chọn ra làm quan ; nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là một chương trình đào tạo công chức.
Không phải ai theo học đạo Nho cũng đều được làm quan. Vào thời nhà Chu và trước đó, những người được chọn để ra làm quan được gọi là "sĩ" và được đặt dưới quyền quản lý của một quan tư đồ ; họ được huấn luyện sáu nghề : lễ (các nghi thức), nhạc, xạ (võ và bắn cung), ngự (điều khiển xe, ngựa), thư (ghi chép tài liệu) và số (bói toán). Nếu lấy hình ảnh thời nay thì sĩ là những học viên của một trường quốc gia hành chính, với một khác biệt căn bản là các học viên tốt nghiệp không phục vụ một quốc gia mà làm đầy tớ cho một người chủ.
Xã hội Trung Quốc từ ngày lập quốc đến rất lâu sau khi Khổng Tử ra đời và mất đi, cần nhấn mạnh là rất lâu sau khi Khổng Tử mất, được chia làm ba giai cấp vương hầu, quân tử và tiểu nhân. Sự phân chia này thuần túy dựa vào chỗ đứng trong xã hội chứ không mang một nội dung đạo đức nào. Vương hầu là những quí tộc giàu có, có đất đai và nông nô. Tiểu nhân, còn gọi là dân, là những nông nô bần cùng sống dưới sự thống trị của giai cấp quí tộc, dĩ nhiên giai cấp tiểu nhân chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Quân tử là giai cấp trung gian giúp giai cấp quí tộc thống trị giai cấp tiểu nhân.
Phần lớn nhân sinh quan của Khổng Khâu được ghi chép lại trong sách Luận Ngữ. Khổng Khâu làm công việc đào tạo ra các quân tử, ông vạch ra một người quân tử kiểu mẫu. Thường thường những lời giáo huấn của Khổng Khâu có hai vế : "Người quân tử thì..., còn kẻ tiểu nhân thì...". Khổng Tử không tiết kiệm lời đề cao người quân tử và cũng không tiếc lời mạt sát đám tiểu nhân. Ông đứng hẳn về phía các vua chúa. Trong lịch sử Trung Hoa và thế giới chưa có ai có thái độ khinh bỉ đối với quần chúng bằng ông.
Điều rất đáng ngạc nhiên là tuyệt đại đa số những người bàn luận về Khổng Giáo không hiểu ý nghĩa của những từ ngữ "quân tử" và "tiểu nhân" ở vào thời đại của Khổng Khâu (và rất lâu sau khi ông đã qua đời) nên họ thường hay coi sĩ và quân tử là những giá trị tinh thần, biểu tượng của một nhân cách, một đạo đức và họ hay đồng hóa sĩ và quân tử với sự cao thượng. Thực ra "nho" chỉ là những người học để ra làm quan, "sĩ" là những nho được tuyển chọn để được huấn luyện thành quan, "quân tử" là một giai cấp, giai cấp của kẻ sĩ, những kẻ làm tay sai cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Còn "tiểu nhân" chỉ có nghĩa là quần chúng mà thôi. Có thể với thời gian ý nghĩa của những danh từ tiểu nhân, quân tử đã biến đổi, nhưng ở vào thời đại của Khổng Khâu và rất lâu sau khi ông đã qua đời, đó chỉ là những thành phần xã hội.
Giai cấp quân tử, hay sĩ, do đâu mà có ? Đó có thể là những người trong giai cấp tiểu nhân may mắn được các vua chúa tin dùng, nâng đỡ rồi nhờ chức vụ mà đạt tới sự hiểu biết hơn quần chúng. Đó cũng có thể là những quí tộc sa sút, hay những người thua trận được kẻ chiến thắng dùng làm tay chân.
Khổng Tử là một sĩ. Ông là con của một vị quan nhỏ nước Lỗ tên là Thúc Lương Ngột. Năm 19 tuổi ông được bổ nhiệm vào chức vụ một quan thu thuế, rồi sau đó được cử trông coi đàn súc vật dùng vào việc cúng tế. Vào thời đại đó, cúng tế trời đất quỉ thần là một việc quan trọng hàng đầu. Theo sử sách thì Khổng Tử say mê việc cúng tế ngay từ hồi còn thơ ấu cho nên thạo việc cúng tế rất sớm ; ngay khi ông còn trẻ đã có những gia đình gởi con theo ông học nghề cúng. Như vậy nghề chính của Khổng Tử là nghề thầy cúng. Hai nghề thu thuế và thầy cúng đã có ảnh hưởng quyết định lên cá tính của ông. Trong suốt cuộc đời, Khổng Khâu rất trọng sự chính xác và các nghi thức, ông tin vào những sự huyền bí mà không bao giờ thắc mắc. Vì xuất sắc trong cúng tế, Khổng Khâu được vua nước Lỗ gởi về kinh đô nhà Chu để học hỏi thêm về lễ nghi. Nhờ cuộc du học đó mà ông rất được kính trọng khi trở về nước Lỗ. Cần nhấn mạnh là vào thời đó cúng là việc quan trọng nhất. Các triều đình có hai loại quan, loại quan Chúc lo việc cúng tế và loại quan Sử lo việc thường ngày ; nhưng quan Chúc cao hơn quan Sử vì cúng tế được coi là cao nhất. Tuy vậy, vua nước Lỗ vẫn không tin dùng ông. Mãi tới năm 51 tuổi, một tuổi rất cao vào thời đó, Khổng Tử mới được bổ nhiệm vào chức Trung Đô Tể và sau đó thăng dần tới chức tướng quốc, chức vụ đứng đầu các quan. Theo sách sử thì ông trị nước rất nghiêm minh và đã đem lại ổn định và phồn thịnh cho nước Lỗ. Nhưng chỉ một năm sau khi nhận chức tướng quốc, ông từ chức vì một lý do rất nhỏ mọn : vua nước Lỗ đã không chia phần thịt cho ông trong buổi tế Giao. Từ đó ông bắt đầu một cuộc hành trình vất vả dài 11 năm qua nhiều nước để xin làm quan, nhưng ông không được vua nào dùng cả. Khi ông chán nản trở về nước Lỗ thì đã 68 tuổi, ông bỏ mộng làm quan và tập trung cố gắng để viết sách.
Trong việc biên soạn sách, Khổng Khâu hoàn toàn không sáng tác gì cả mà chỉ ghi chép những gì đã có sẵn. Ông nói : "Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác, ta tin và thích những gì của đời xưa" [thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ]. Đó không phải là một câu nói khiêm tốn như ta có thể nghĩ mà là cả một tôn chỉ của Khổng Khâu. Ông coi những triết lý và hiểu biết của người xưa là đầy đủ và hoàn chỉnh, đời sau cứ thế mà theo không được sửa đổi, thêm bớt gì cả.
Khổng Khâu chép lại năm cuốn sách được gọi là "Ngũ Kinh" : Kinh Dịch (bói toán), Kinh Thư (văn từ của các vua quan), Kinh Thi (các bài thơ và các bài hát), Kinh Lễ (các nghi thức về cúng tế và hội họp trong triều đình) và Kinh Nhạc. Ngoài ra Khổng Khâu còn soạn ra bộ sách Xuân Thu, cũng được gọi là kinh, chủ yếu kể chuyện về các vua chúa nước Lỗ. Các cuốn kinh này đều đã bị thất lạc. Đến khi nhà Hán trọng nho học mới cho tìm lại nhưng không được bao nhiêu. Các đệ tử hậu bối của Khổng Tử thêm bớt vào rất nhiều, tạo thành năm cuốn sách gọi là Ngũ Kinh : Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Thi và Kinh Xuân Thu. Riêng Kinh Nhạc chỉ còn lại một chương được cho vào Kinh Lễ.
Các nho sĩ đời sau còn viết ra bốn cuốn sách khác là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Bốn cuốn sách này, được gọi chung là Tứ Thư. Đại Học (do người học trò của Khổng Tử là Tăng Tử viết) và Trung Dung (do người học trò của Tăng Tử là Khổng Cấp viết) thật ra chỉ là một số chương đã có trong Kinh Lễ. Luận Ngữ (do Tăng Tử và các môn đệ soạn) ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử ; Mạnh Tử là cuốn sách do Mạnh Tử, tên thật là Mạnh Kha, sinh ra hơn một trăm năm sau ngày Khổng Tử mất, và các môn đệ của ông, chép lại những lời nói của Mạnh Tử.
Tứ Thư và Ngũ Kinh được coi như những cuốn sách căn bản của Nho Giáo, trong đó Luận Ngữ quan trọng hơn cả.
Khổng Giáo, hay đúng hơn là Nho Giáo, đã được nhiều đóng góp của nhiều nho sĩ qua nhiều thời đại. Trong những nho sĩ này, người nổi tiếng nhất là Mạnh Tử ; tên Mạnh Tử được ghép liền với Khổng Tử, Khổng Giáo vì thế còn được gọi là đạo Khổng Mạnh. Sau Mạnh Tử khoảng nửa thế kỷ còn một nho sĩ rất xuất sắc khác là Tuân Tử. Tuân Tử vừa có khả năng lý luận xuất chúng lại vừa có óc phê phán, ông bài bác tinh thần thủ cựu của những người đi trước, đả phá sự mê tín vào thần linh, đề cao vai trò của giáo dục. Tuân Tử rất phóng khoáng, đi rất sâu vào tâm lý con người và phân tích khá cặn kẽ về sự hiểu biết. Ông là một triết gia thực sự và lẽ ra đã phải mở đường cho Nho Giáo đổi mới và tiến lên. Tiếc rằng ông bị cả một khối nho sĩ đông đảo chê bai, các vua chúa dĩ nhiên cũng không chấp nhận sự phóng khoáng của ông nên Tuân Tử không được coi là thánh hiền và tư tưởng của ông không được đề cao.
Sau thời Đông Chu Liệt Quốc, những đóng góp quan trọng nhất cho Nho Giáo là của Đổng Trọng Thư và Dương Hùng dưới thời nhà Hán (202-220 trước Tây lịch) ; Vương Thông vào thời nhà Tùy (581-618), Hàn Dũ vào thời nhà Đường (618-906) ; Vương An Thạch, Chu Đôn Di, Trương Tái, Trình Hạo, Chu Di vào thời nhà Tống (960-1280) ; Vương Dương Minh đời nhà Minh (1368-1648). Những đóng góp đó đã khiến các học giả bối rối khi bàn về Nho Giáo và thường đặt câu hỏi "Nho Giáo nào ? Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho hay Minh Nho ?". Tuy nhiên, các thay đổi này chỉ là những thay đổi về cách diễn đạt và áp dụng mà không thay đổi bản chất và tinh thần của Nho Giáo. Nho Giáo vẫn là một hệ thống ý thức tôn trọng chế độ quân chủ cực quyền, bảo thủ và bất dung.
Đối với Nho Giáo, Khổng Tử không sáng tác gì cả. Đóng góp của ông không đáng kể so với Mạnh Tử và cũng kém hẳn các danh nho sau này. Ông đã chỉ chép lại các sách cũ và hơn nữa các sách của ông đều đã thất lạc. Như vậy khi phê phán tư tưởng Khổng Giáo, dù để bênh vực hay lên án, dù để khen hay chê, cần phải tách rời nó khỏi nhân vật Khổng Khâu. Về mặt tư tưởng, nên nhấn mạnh là về mặt tư tưởng, ông là một người vô can.
Sự nghiệp và nhân cách của Khổng Tử
Khổng Tử tuy không có đóng góp quan trọng nào về mặt tư tưởng nhưng lại có ảnh hưởng lớn trên sự phát triển của Nho Giáo, vì thế mà người ta đã gọi Nho Giáo là Khổng Giáo. Một cách gián tiếp Khổng Tử đã góp phần quyết định làm cho tư tưởng Nho Giáo bế tắc và không đổi mới được với thời gian. Đến lượt nó, Nho Giáo đã khiến các xã hội Á Đông thuộc văn hóa Trung Hoa dẫm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm.
Tôi có viết một bài báo phê phán Khổng Giáo và đã nhận được một số phản ứng, tán thành có mà phản đối cũng có. Các vị phản đối thường trách tôi một điều là đem ý thức thời nay để phê phán người xưa, nghĩa là đặt lầm bối cảnh. Thực ra chính các vị này lầm lẫn lớn về thời gian, họ đem bối cảnh tâm lý và xã hội của thế kỷ 19 để bàn luận về Khổng Tử.
Dù vai trò thực sự của ông thế nào, Khổng Tử đã được coi là vị thánh, một vị thầy của muôn đời [vạn thế sư biểu] ; cung cách của ông và những lời ông nói được lấy làm mẫu mực lập thân cho nhiều dân tộc Á Đông, trong đó có Việt Nam, nên chúng ta cần hiểu ông.
Trước hết là đóng góp của ông đối với Nho Giáo. Đóng góp này rất lớn, Khổng Tử là người đầu tiên ghi chép lại một cách công phu và toàn bộ những kiến thức của Nho Giáo. Nhờ ông mà người đương thời có được một cái nhìn tổng quát về Nho Giáo và có thể học hỏi Nho Giáo một cách dễ dàng hơn hẳn lúc trước. Tuy vậy ông không đóng góp gì cho tư tưởng Nho Giáo, đồng hóa ông với Nho Giáo cũng sai lầm như coi một giáo sư toán có công biên soạn một số sách giáo khoa toán là một nhà toán học.
Tại sao Khổng Tử lại được tôn vinh như một vị thánh ? Không phải đợi đến khi Hán Cao Tổ (tức Lưu Bang) sang nước Lỗ lễ mộ Khổng Tử, hay Hán Vũ Đế đưa Nho Giáo lên làm quốc giáo Khổng Tử mới được tôn vinh. Trước đó đã có vô số sĩ tử sùng bái Khổng Tử. Phải hình dung bối cảnh thời đó mới hiểu được sự sùng bái Khổng Tử và đóng góp to lớn cho xã hội của ông.
Khổng Tử lưu lạc khắp nơi, không được vua chúa nào dùng phải quay về cố hương là nước Lỗ để mở trường dạy học. Nhờ uy tín, Khổng Tử đã mở được trường tư đầu tiên tại Trung Quốc và đó là biến cố vô cùng quan trọng. Trước đó việc đào tạo kẻ sĩ là của triều đình và chỉ có những người được chọn làm sĩ mới được huấn luyện để ra làm quan mà thôi, nhưng làm thế nào để có thể trở thành sĩ nếu không phải đã sẵn là con quan như chính Khổng Tử ? Đám tiểu nhân, hay quần chúng, không có phương tiện nào để tiến thân cả, trừ ra những cơ hội cực kỳ may mắn được các vua chúa đoái hoài tới. Chính nhờ Khổng Tử mà quần chúng có được một phương tiện để thăng tiến qua giáo dục. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa lớn, thay đổi hẳn tương quan xã hội, tạo ra một quan hệ lưu thông giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Ở vào thời đại của Khổng Tử, số phận đám tiểu nhân chỉ là sự đày đọa mà thôi. Khổng Tử đã tạo ra gần ba ngàn môn đồ, giúp họ ra khỏi sự đày đọa đó, họ mang ơn ông và thờ ông là lẽ tự nhiên. Đến lượt họ cũng mở trường dạy học và cũng truyền bá sự tôn thờ sư tổ của mình, vì thế mà Khổng Tử trở thành sư tổ của mọi nho sĩ. Cũng cần nhận định rằng chỉ sau khi Khổng Tử mở trường nho và sĩ mới đồng nhất. Trước ông nho là những người học, sĩ là những nho được chọn để được huấn luyện. Từ Khổng Tử trở đi ai muốn học cũng được và cũng có thể được bổ nhiệm ra làm quan. Khổng Tử đã sát nhập được hai thành phần nho và sĩ và, cần nhắc lại một lần nữa công lao to lớn này của Khổng Tử, ông cũng đã giảm bớt sự ngăn cách khe khắt giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Sự nghiệp lớn nhất của Khổng Tử như vậy là về mặt xã hội. Ông đã góp phần quan trọng làm thay đổi sinh hoạt chính trị Trung Quốc.
Nhưng phải nói, đây là một đóng góp rất vô tình, Khổng Tử không hề muốn xóa bỏ sự ngăn cách giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Trong những lời giáo huấn học trò, ông phân biệt rõ quân tử và tiểu nhân, như cái đúng và cái sai, như ánh sáng và bóng tối, sự cao thượng và sự hèn hạ, cái đẹp và cái xấu. Tiểu nhân dưới mắt Khổng Tử là hạng người không đáng được bất cứ một quan tâm nào, hay bất cứ một sự nể nang nào. Ông từng nói : "Hình phạt không được dùng cho quan lớn, lễ nghi không được dùng đối với đám thứ dân" [hình bất thướng đại phu, lễ bất há thứ dân]. Khổng Tử đã đóng góp khai phóng quần chúng khi tạo ra trường tư, nhưng đó là điều hoàn toàn ngoài ý muốn của ông.
Một cách tương tự ta cũng có thể so sánh công trạng vô tình của Khổng Tử với một số sự kiện tích cực mà đảng cộng sản vô tình tạo ra. Họ khắc nghiệt quá khiến hàng triệu người bỏ trốn ra nước ngoài, nhờ đó mà Việt Nam có một cộng đồng hải ngoại đáng kể từ sau ngày 30-4-1975. Đây là một sự kiện rất quan trọng và rất có lợi cho Việt Nam, nhưng không phải do đảng cộng sản chủ ý tạo ra, trái lại họ đã hết sức cấm cản mà không được.
Đảng cộng sản cực lực bài xích và cấm đoán thương mại, nhưng những khó khăn mà chính sách của họ tạo ra sau ngày 30-4-1975 đã buộc mọi người phải xoay sở để sống, kết quả là hầu hết mọi gia đình Việt Nam đều phải buôn bán một cái gì đó. Người Việt Nam vì thế đã bỏ được phần nào tâm lý làm công ăn lương và chuyển sang tâm lý buôn bán kinh doanh. Đây cũng là một chuyển biến tâm lý rất đáng mừng nhưng không do chủ ý.
Khổng Tử xuất thân là một quan lại thu thuế và một thầy cúng. Cả hai nghề này đều tập cho ông thói quen câu nệ thủ tục và hình thức. Nhất là nghề cúng tế mà không những chỉ hành nghề Khổng Tử còn say mê từ hồi thơ ấu. Suốt đời Khổng Tử không thay đổi, từ cách ăn, cách mặc, cách đi đứng, cách cư xử, lúc nào ông cũng câu nệ và qui ước. Sách Luận Ngữ mô tả khá rõ rệt về ông : đồ ăn phải nấu thật chín, món ăn phải đúng mùa, phân lượng rau và thịt không thay đổi, chỉ có rượu là ông uống không đo lường, dù không khi nào say, đi dự tiệc thì kính cẩn đứng lên khi đồ ăn được đem ra, nhưng khi nhận quà tặng của bằng hữu thì chỉ nghiêng mình chào nếu là quà để dùng cho cúng tế ; về y phục thì từ chối một số màu sắc, quần áo mùa đông và mùa hè có kiểu riêng, lễ phục thì cánh tay mặt phải dài hơn cánh tay trái, quần áo ngủ phải dài hơn quần áo ban ngày nửa thước ; nằm nghiêng, không nói lúc nằm, không ngồi trên một chiếc chiếu trải không ngay ngắn, ngồi trên xe thì ngồi thẳng không nhìn về đàng sau ; không nói nhanh và không dùng ngón tay để chỉ một vật gì. Trong triều đình cung cách của Khổng Tử thay đổi tùy người. Đối với các quan cấp dưới thì cứng cỏi, đối với các quan cấp cao thì uyển chuyển. Khi đưa khách vào yết kiến thì tỏ thái độ bối rối, rồi chắp tay và quay sang khách sau đó dang tay mà giới thiệu với vua. Sau buổi yết kiến khi khách ra về thì hô lên : "Khách không quay lại nữa". Khi đi sứ gặp vua nước khác thì tỏ vẻ ân cần, kinh sợ. Tóm lại, tất cả đều theo một nghi thức được qui định một cách rất chi tiết từ trước. Đó là chân dung của một con người cực kỳ qui ước, hoàn toàn không tùy cơ ứng biến và không sáng tạo.
Khổng Tử được coi là một người có đức lớn. Chữ "đức" vào thời đại đó phải được hiểu là làm đúng nghi lễ chứ không phải là có lòng tốt. Không thấy có sách nào ghi chép Khổng Tử giúp đỡ người nghèo khổ hay gặp khó khăn, hoạn nạn. Tuy vậy ông dạy học trò nên cư xử trung thực, giữ tín nghĩa với bằng hữu, phải phụng dưỡng cha mẹ, giúp người già sống yên ổn, yêu trẻ thơ. Tất cả những đức tính đó đều đáng quí cả nhưng cũng chỉ là những đức tính thông thường đã được nhìn nhận từ lâu. Khổng Tử đã sống và truyền bá một cuộc sống lương thiện theo tiêu chuẩn lúc đó, ông là một người đứng đắn, nhưng bảo rằng ông có đức lớn thì không đúng. Ông không có lòng thương bao la với cả nhân loại, hay ước vọng cứu đời, cứu người như Phật Thích Ca, Giê-su Ki-tô, Gandhi hay Mẹ Teresa. Hay như hàng ngàn hàng triệu người khác qua các thời đại lặn lội vào chốn sỏi đá, rừng sâu đem sự giúp đỡ và niềm an ủi tới cho những người xấu số. Hay như bao người trên khắp thế giới trong thời nay chịu giam cầm tù tội để tranh đấu cho quyền làm người. Khổng Tử là một nhà giáo đứng đắn và có tài, thế thôi. Vì ông đã có công giáo dục nhiều đệ tử, giúp họ ra khỏi số phận hẩm hiu nên họ biết ơn và tôn kính ông. Vì chủ nghĩa thủ cựu và tôn quân của ông có lợi cho các chế độ quân chủ mà các vua chúa về sau đã tôn ông lên làm thánh để làm mẫu mực cho mọi người, nhưng đó chỉ là vì một mục đích chính trị.
Khổng Tử có thực sự là một người có lòng nhân đạo không ? Chắc chắn là không. Ông mạt sát những người thứ dân khốn khổ một cách thô bạo. Kẻ tiểu nhân đối với ông chỉ là đối tượng để khinh bỉ và chà đạp mặc dầu họ không có tội gì ngoài tội đã không may sinh ra vào giai cấp cùng khổ. Nhiều người biện hộ cho Khổng Tử, nói rằng "quân tử" và "tiểu nhân" là những giá trị đạo đức. Nói như vậy là đem bối cảnh thế kỷ 19 để áp đặt vào thời đại Xuân Thu Chiến Quốc của Khổng Tử và hoàn toàn sai. Như đã nói, vào giai đoạn đó "quân tử" và "tiểu nhân" chỉ là hai thành phần xã hội phân chia theo tương quan quyền lực và kinh tế mà thôi. Chính bản thân Khổng Tử không coi quân tử và tiểu nhân là những tiêu chuẩn đạo đức. Ông từng nói trong Luận Ngữ : "Người quân tử mà có đạo thì yêu người, đứa tiểu nhân mà có đạo thì dễ sai" [quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sử giả] hoặc "quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì đi ăn trộm" [quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo]. Sau này chính nhờ những "giáo huấn" của Khổng Tử mà quân tử được coi là đồng nghĩa với sự cao thượng và tiểu nhân được coi là đồng nghĩa với sự hèn hạ. Đó chẳng qua chỉ là sự xấc xược miệt thị những người yếu kém, cũng như sau này người cộng sản thóa mạ những người không đồng chính kiến với họ là phản động, phản quốc, v.v... Điều khác giữa cộng sản và Khổng Giáo là đảng cộng sản đã miệt thị những đối thủ tranh giành quyền lực với họ, trong khi Khổng Tử và các nho sĩ đã miệt thị những người cùng khổ không hề và cũng không dám chống lại họ. Đó chỉ là một sự tàn nhẫn thuần túy.
Còn một điểm khác chưa thấy học giả nào đặt ra khi bàn về lòng nhân của Khổng Tử. Ông là một chuyên viên cao cấp về cúng tế và rất say mê cúng tế, sử chép rằng hễ chỗ nào có tế lễ là đi xem rất chăm chú. Chắc chắn là chính ông cũng cử hành nhiều buổi tang lễ cho các vua chúa và các nhà quyền quí. Vào thời đó có tục chôn sống người trong các đám tang quí tộc để đưa đi hầu hạ người chết trong thế giới bên kia. Mãi đến đời Tần Thủy Hoàng (thống nhất và làm hoàng đế Trung Hoa năm 221 đến năm 210 trước Tây lịch) tục lệ dã man ấy mới bị cấm. Chắc chắn là Khổng Tử đã chứng kiến nhiều vụ chôn sống người và chính ông đã cử hành nhiều buổi lễ như vậy, nhưng Khổng Tử không những không xúc động mà còn cho rằng nghi lễ của người xưa để lại là hoàn toàn đúng không có gì cần sửa đổi. Về điểm này Tần Thủy Hoàng còn nhân đạo hơn ông.
Tài trí của Khổng Tử ra sao ? Ông có vẻ khá tự tin về học vấn của mình, ông từng nói : "Bảo ta là thánh thì ta không dám, nhưng ta làm việc thánh không biết chán, dạy người không biết mỏi" [nhược thánh dũ nhân tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất yếm, hối nhân bất quyện], hoặc "ta không phải sinh ra đã biết, nhờ thích việc ngày xưa, cố học mà được". Khổng Tử còn tin tưởng hơn về tài trị nước của mình, ông nói : "Vua nào mà dùng ta thì chỉ một năm đã khá, ba năm là thành công". Sự tự tin này đã không được thực tế xác nhận. Khổng Tử làm quan lớn tại nước Lỗ trong sáu năm, từ chức Trung Đô Tể lên đến Đại Tư Khấu rồi sau này Nhiếp Tướng Sự nhưng không thấy nước Lỗ giàu mạnh được bao nhiêu.
Ông làm Nhiếp Tướng Sự (tướng quốc) được một năm thì từ quan và đi lưu lạc. Lý do khiến ông từ quan là vì vua nước Lỗ không chia phần thịt cho ông trong lễ Giao. Lý do này thực là nhỏ mọn và làm cho các nho sĩ đời sau rất phiền lòng. Chỉ vì miếng thịt mà bỏ chức tướng quốc thì còn thể thống gì, còn gì là chí lớn "trị quốc, bình thiên hạ" nữa. Vì vậy họ cố tình biện luận rằng đó chỉ là cái cớ, lý do thực sự khiến Khổng Tử bỏ đi là vì Khổng Tử thấy vua không còn biết giữ lễ nghĩa nữa. Nhưng đó chỉ là những giả thuyết được đưa ra để biện hộ cho cái đức của Khổng Tử chứ không dựa vào căn cứ nào. Người ta chỉ kể được những chuyện vua nước Lỗ say mê xem đám vũ nữ nước Tề sang múa hát, bỏ việc ba ngày không nghị triều, nhưng Khổng Tử đã từng làm quan cho nước Lỗ sáu năm rồi, sao đến lúc đó mới bỏ đi ? Vả lại, theo Luận Ngữ thì chính Khổng Tử cũng rất say mê đàn hát. Sang nước Tề học đàn ba tháng, không biết đến miếng thịt [văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị]. Lập luận cho rằng Khổng Tử từ quan bỏ đi vì vua nước Lỗ say mê vũ nữ càng không đúng vì sau khi bỏ Lỗ sang Vệ, Khổng Tử lại bị tai tiếng về một vụ nữ sắc. Theo sách chép thì vua nước Vệ có người vợ là Nam Tử, rất đẹp và cũng rất dâm đãng. Khổng Tử muốn được làm quan nước Vệ nên phải vào yết kiến nàng này và còn đi theo xe du ngoạn, vì thế đã bị dư luận lúc đó chê cười. Khổng Tử cũng không trọng nguyên tắc như người ta vẫn đề cao ông, bởi vì trên bước đường bôn ba tìm chủ, có lúc ông định đi theo phò một phản thần là Phất Bật. Bị học trò là Tử Lộ chất vấn, ông biện bạch rằng người trong sạch thì dẫu có vào chỗ đen tối cũng vẫn trong sạch. Thật là ngụy biện.
Tại sao Khổng Tử lưu lạc khắp nơi trên mười năm trời xin làm quan mà không vua chúa nào dùng ? Đó là vì ông hoàn toàn lỗi thời. Lúc đó nhà Chu đã mạt vận lắm rồi, chẳng còn uy tín nào nữa. Các chư hầu dù muốn hay không cũng phải tự quyết và trong thực tế mọi vua chư hầu đều mơ ước làm minh chủ, nhưng Khổng Tử đi đâu cũng đề cao nhà Chu. Ông nói : "Việc lễ nhạc và chinh phạt phải do Thiên Tử [tức nhà Chu] khởi xướng, các vua chư hầu mà đặt lễ nhạc và chinh phạt là vô đạo" [Thiên hạ hữu đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất ; thiên hạ vô đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự chư hầu xuất]. Muốn đi phò người ta mà lại bài bác người ta như vậy thì ai dùng ? Khổng Tử cũng chủ trương tập trung mọi quyền lực vào tay vua, truất bỏ quyền tham gia chính trị của các đại thần [Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại thần]. Một nhãn quan chính trị như vậy không những đã rất hủ lậu và thiển cận mà còn làm các quan đại thần bất bình. Không có gì đáng ngạc nhiên khi họ khuyên các vua đừng nên dùng Khổng Tử. Vả lại nếu kiến thức và tài dạy học của ông được mọi người đương thời nhìn nhận thì ngược lại thành tích trị nước của ông chưa được bảo đảm. Với một lập trường tôn Chu tuyệt đối như vậy tại sao Khổng Tử không đến thẳng kinh đô nhà Chu không xa nước Lỗ bao nhiêu xin việc mà lại cứ dai dẳng xin phò các chư hầu không còn phục nhà Chu nữa ? Lý do là vì triều đình nhà Chu lúc đó rất nghèo. Nhưng Khổng Tử vừa bỏ rơi nhà Chu và chạy theo các chư hầu lại vừa đòi họ phục tùng nhà Chu ! Khổng Tử cũng vô lý như người giữa mùa hè chính mình cũng cởi trần nhưng lại hô hào mọi người nên mặc đồ thật ấm.
Khổng Tử có tâm hồn nghĩa hiệp không ? Câu hỏi này hình như chưa ai đặt ra, và đó cũng là một sự kiện đáng lưu ý. Ông thấy nước nào thịnh thì tìm đến xin làm quan, thấy nước nào khó khăn thì bỏ đi, ông không phải là người để đương đầu với thử thách và vượt qua trở ngại. Quan niệm lập thân của ông chỉ giản dị là cầu an và cầu vinh. Ông nói : "Nước lâm nguy thì không nên vào, nước bị loạn thì không nên ở, lúc thiên hạ có đạo lý thì ta xuất hiện, lúc không có thì ta nên ở ẩn" [nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc kiến, thiên hạ vô đạo tắc ẩn]. Khổng Tử xứng đáng được tôn làm ông tổ của tị nạn kinh tế. Cái triết lý ở ẩn, tránh khó khăn và gian nguy của ông, về bản chất là một thái độ thấp hèn, đã trở thành một thứ đạo lý cho nho sĩ về sau. Tại nước ta vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có ông Nguyễn Khuyến đáng được coi là tiêu biểu cho cái đạo lý tồi tàn này. Nguyễn Khuyến là nho sĩ danh giá nhất thời đó, ông đậu đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội và thi đình nên được gọi là Tam Nguyên. Lúc đó ta mất nước về tay người Pháp, Nguyễn Khuyến làm gì ? Ông rút về ở ẩn để ngâm vịnh, thỉnh thoảng cũng làm vài bài thơ châm biếm vua quan và xã hội thời Pháp thuộc. Với một thái độ trốn tránh trách nhiệm như vậy, Nguyễn Khuyến vẫn được ca tụng như một nhà nho đầy tiết tháo.
Chỗ đứng của Khổng Tử trong tư tưởng cần được nhận định như thế nào ?
Xã hội Trung Quốc cho đến đời Khổng Tử đã tiến hóa rất nhiều cả về mặt kỹ thuật lẫn tư tưởng. Đến đời Xuân Thu thì các vấn đề xã hội đã trở nên rất phức tạp, chế độ tập quyền sơ sài vẫn có từ trước đến đời nhà Chu không còn hợp thời nữa. Tổ chức chính trị Trung Quốc lúc đó đã đến lúc cần phải xét lại. Một khuynh hướng tản quyền tự nhiên dần dần xuất hiện, và bởi vì nhà Chu không cải tiến gì cả để phù hợp với tình thế mới nên dần dần mất quyền lực và ảnh hưởng. Chỉ có hai con đường, một là chấp nhận sự tản quyền đó và tìm ra một giải pháp mới để phối hợp các chư hầu ; hai là tổ chức lại bộ máy cai trị trung ương để nó có đủ sức mạnh đè bẹp các chư hầu và cai trị một đất nước đã trở thành rộng lớn, đông dân hơn và phức tạp hơn. Khổng Tử đã hoàn toàn không nhìn thấy điều đó, ông chủ trương phục hồi lại quyền hành nhà Chu với y nguyên lề thói cũ. Cho nên ông hoàn toàn lạc điệu và lỗi thời. Nhận thức chính trị của ông thực là kém cỏi.
Về mặt tư tưởng, các tiến bộ tích lũy từ hơn bốn ngàn năm đã lên tới cao điểm. Thời Xuân Thu Chiến Quốc là thời cực thịnh tư tưởng Trung Quốc. Ngay sau khi Khổng Tử qua đời, đoạn cuối của thời Xuân Thu Chiến Quốc đã xuất hiện cả một phong trào khai phá tư tưởng rộng khắp, với tầm vóc lớn hơn nhiều lần giai đoạn hoàng kim của tư tưởng Hy Lạp. Các nhà tư tưởng xuất hiện sau Khổng Tử như Tuân Tử, Mặc Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v,v... đã vượt rất xa Khổng Tử.
Tư tưởng Trung Hoa cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc vẫn chỉ là Nho Giáo. Chính sự trưởng thành của Nho Giáo đã làm nở rộ tư tưởng của thời Đông Chu Liệt Quốc. Tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị Trung Quốc trải qua một thời kỳ xét lại lộng lẫy và đầy hứa hẹn. Tiếc rằng nó đã khựng lại sau đó vì trong hai chiều hướng chuyển biến chính trị, đẩy mạnh tản quyền hoặc tăng cường sức mạnh tập trung, khuynh hướng thứ hai đã thắng. Nho Giáo được phục hồi và Trung Quốc đã dẫm chân tại chỗ từ đó.
Khổng Tử kém xa, rất xa, các nhà tư tưởng sau ông, nhưng phải nhìn nhận rằng ông đã có đóng góp quan trọng cho giai đoạn cực thịnh của tư tưởng Trung Hoa vào cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nhờ trường tư của ông, ông đã đào tạo ra hàng ngàn sĩ tử và đến lượt họ đã đào tạo ra vô số sĩ tử khác. Các nhà trí thức lỗi lạc sau này dù vượt xa Khổng Tử và bài bác Khổng Tử cũng đều là những hậu bối tinh thần của Khổng Tử. Một lần nữa ta nhìn thấy vai trò khai phóng của giùáo dục. Còn về sau, việc phục hồi Nho Giáo cũng như việc tôn thờ Khổng Tử làm thánh nhân mẫu mực muôn đời hoàn toàn không do trách nhiệm của Khổng Tử. Đó chỉ là do ý đồ của các chế độ quân quyền dùng Nho Giáo và Khổng Tử để củng cố nền tảng của họ. Ông chỉ là nạn nhân của một khai thác chính trị.
Khổng Tử là một nhà giáo có tài và một nhà biên soạn sách có tài. Ông nghèo về tình cảm, kém về tư tưởng và nhận thức xã hội. Toàn bộ quan điểm chính trị và triết học của ông đều lỗi thời ngay cả vào lúc đó. Nhưng ông nghĩ như thế và phát biểu như thế, đó là quyền của ông, ông không thể tiên đoán được những lạm dụng về sau.
Di sản Xuân Thu Chiến Quốc
Có thể nói lịch sử của nước ta thực sự bắt đầu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Giai đoạn này tương ứng với thời các vua Hùng mở nước. Theo huyền sử thì nguồn gốc của chúng ta cũng bắt đầu từ vua Thần Nông bên Trung Quốc. Huyền sử chỉ có một mức độ chính xác rất tương đối nhưng ít nhất nó nói lên một sự kiện, đó là người Việt Nam và người Trung Hoa có cùng một cội nguồn. Chắc chắn là cũng đã có những người tiền sử sinh sống trên đất nước ta từ trước và đã hòa nhập với người di dân từ phương Bắc xuống vào giai đoạn này, họ đông đảo hơn nhưng thành tố phương Bắc là chế ngự. Ngày nay hầu hết các họ của chúng ta cũng là những họ Trung Quốc. Như vậy giai đoạn từ Xuân Thu Chiến Quốc trở về trước có thể coi là lịch sử chung của cả hai dân tộc trước khi hai quốc gia riêng biệt được hình thành. Nhưng chúng ta cũng chỉ mới được độc lập không được bao lâu thì lại bị sát nhập vào Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Hơn nữa, một quốc gia không phải chỉ là lãnh thổ và con người mà còn là một nền văn hóa, mà văn hóa của ta thì chủ yếu là văn hóa Khổng Mạnh đã được tổng hợp trong giai đoạn này.
Nếu thời Xuân Thu Chiến Quốc kết thúc một cách khác đi, nghĩa là nó không kết thúc với một chế độ quân chủ chuyên chính tập trung, và với Khổng Giáo được lấy làm quốc giáo độc tôn, thì số phận và lịch sử của nước ta đã khác hẳn.
Tư tưởng Trung Quốc hình thành một cách thực nghiệm với thời gian, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc nó đạt tới một mức độ trưởng thành vừa đòi hỏi một cố gắng hệ thống hóa vừa cho phép những khai phá lớn khác. Nền văn minh Trung Quốc lúc đó như một cây đã đủ lớn và đến lúc trổ hoa. Cả một phong trào tư tưởng rộ lên như hoa nở mùa xuân. Các sách còn lưu giữ được, nhất là bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc, mô tả một không khí tưng bừng khai phá tư tưởng. Có những nhà hào phú nuôi cả trăm, ngàn thực khách chỉ để biện luận tìm ra chân lý về vũ trụ, xã hội và con người. Cũng có hàng trăm, hàng ngàn biện sĩ đi khắp các nước chư hầu đề nghị với các vua chúa các lý thuyết trị nước.
Khí thế của phong trào tư tưởng này thật là mạnh mẽ và những thành tựu của nó lại càng lớn hơn. Có thể nói tất cả những triết lý và học thuyết của Trung Quốc đều xuất hiện trong giai đoạn này. Và cũng có thể nói là mọi khái niệm triết lý và chính trị đều đã được đề cập tới và đẩy khá xa. Ngày nay nói tới tư tưởng thời Xuân Thu Chiến Quốc người ta thường hay nhắc tới Lão Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v.v... nhưng thực ra các triết gia và lý thuyết gia này không phải là đơn độc, họ chỉ là những phát ngôn viên còn được nhớ lại của các trường phái tư tưởng. Thời đó chưa có sự tranh giành tác quyền về tư tưởng.
Trường phái Lão Tử chẳng hạn đã đưa ra cả một triết thuyết về vũ trụ mà ngay cả trong thời đại khoa học ngày nay người ta cũng không thể đánh giá là ngây ngô. Có thể coi những khai phá của Mặc Tử trong thuyết kiêm ái như là những viên đá đầu tiên cho một chủ nghĩa dân chủ xã hội nhân bản. Mặc Tử, Tuân Tử và Hàn Phi khởi xướng ra chủ trương nhà nước pháp trị. Kiêm ái và pháp trị nếu được phối hợp và phát triển chắc chắn dẫn tới dân chủ. Công Tôn Long đi rất xa về lô-gích trừu tượng, phân tích rất sâu về nguyên ủy và hậu quả (trứng có lông), về sự vật và cách nhìn sự vật (ngựa trắng không phải là ngựa).
Nhưng cả một rừng hoa đó cuối cùng đã không kết trái, hay đã kết trái nhưng trái đã không chín được để sinh ra những hạt giống cho sự sống tiếp tục. Tại sao ?
Câu trả lời đầu tiên là, trái với văn minh phương Tây, thời Xuân Thu Chiến Quốc đã có những tiến bộ về tư tưởng mà không có tiến bộ về khoa học thuần túy. Họ đã có những Socrate nhưng không có được những Archimède. Triết lý không có sự chuyên chở của khoa học kỹ thuật thì không bay bổng lên được và không ăn rễ được vào xã hội.
Giải thích như vậy cũng tạm ổn, nhưng chính sự thiếu vắng khoa học thuần túy cũng cần được giải thích.
Trung Quốc được thành lập trên lưu vực của hai con sông lớn, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Cả hai con sông này đều là những dòng sông dũng mãnh đem phù sa và sự sung túc lại cho cái nôi đầu tiên của Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng là một đe dọa kinh niên cho sự tồn vong của con người. Tới mùa lũ dòng sông có thể tràn bờ biến ruộng đồng thành biển cả, cuốn đi của cải và sinh mạng. Trong điều kiện như thế, ưu tiên thường trực, nếu không muốn nói duy nhất, của tập thể là chống lại nước. Các vị vua đầu tiên của Trung Hoa đều là những người có công trị thủy. Vua Thuấn nhường ngôi cho vua Vũ vì ông Vũ có công đắp đê ngăn nước lụt.
Mọi xã hội hình thành bên cạnh những dòng sông lớn với lưu lượng thay đổi đột ngột đều cần những vị vua có uy quyền tuyệt đối để áp đặt những cố gắng tập thể ghê gớm. Không phải là một sự tình cờ mà tất cả các chế độ được xây dựng bên cạnh những con sông lớn đều là những xã hội cực kỳ chuyên chế, dù là ở Trung Hoa, Việt Nam, Cam-bốt, ‰ên Độ, Ethiopia, hay Ai Cập... Nền tảng của các xã hội cổ xưa này là một khế ước bạo quyền bất thành văn nhưng rất rõ rệt giữa người chủ tể và dân chúng. Người chủ tể phải áp đặt những đòi hỏi thật dã man, đôi khi hy sinh cả một phần dân chúng, để đắp và bảo vệ đê điều, nhưng ngược lại chính nhờ những hy sinh kinh khủng đó mà cộng đồng tồn tại được thay vì bị nước cuốn đi. Các nạn nhân có thể nguyền rủa bạo chúa, nhưng con cháu họ lại mang ơn bạo chúa vì đã bảo đảm cho họ mùa màng và cuộc sống. Dần dần sự tàn bạo được chấp nhận như một định luật. Khổng Tử thừa hưởng di sản tinh thần của hệ thống xã hội đặt trên khế ước bạo quyền đó. Điều đặc biệt nơi ông là thay vì nhìn khế ước bạo quyền đó như một cái tệ cần thiết ông lại thấy nó toàn thiện, toàn mỹ. Khổng Giáo chủ yếu là cố gắng để chính đáng hóa bạo quyền và nâng sự chấp nhận kiếp sống nô lệ lên hàng một đạo đức tuyệt đối.
Khổng Tử sống trong một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng. Với thời gian uy quyền của bạo chúa bị suy giảm vì hai lý do, một là đê điều tương đối đã ổn vững, công tác chủ yếu chỉ còn là giữ gìn và tu bổ, vai trò của bạo chúa không còn cần thiết như trước nữa ; hai là xã hội ngày càng phát triển, mức sống cao hơn, dân số đông hơn, các nhu cầu mới xuất hiện, nhiều tiểu chủ địa phương xuất hiện và trở thành mạnh. Tới một mức độ chín muồi nào đó nhận thức về xã hội và cách tổ chức xã hội cần được xét lại. Đó là hiện tượng đã xảy ra dưới triều đại nhà Chu. Các sử gia vẫn thường nhận định là nhà Chu suy vì để mất uy quyền thiên tử, thực ra là vì xã hội đã tiến hóa và đòi hỏi một hệ thống chính trị khác.
Nhà Chu không còn uy quyền trấn áp các chư hầu nữa thì tất nhiên các chư hầu cạnh tranh và cấu xé lẫn nhau. Ý hệ độc tôn quân quyền không còn hợp thời nữa thì tất nhiên xuất hiện những suy tư mới.
Thời Đông Chu Liệt Quốc chính là khúc quanh lịch sử vĩ đại đó. Nhưng tập quán chính trị chuyên chính đã kéo dài nhiều ngàn năm và đã ăn rễ vào tâm lý con người nên các tham vọng chuyên chế dĩ nhiên còn rất mạnh và còn có chỗ dựa tâm lý mạnh. Phải có một phép mầu ghê gớm các xã hội thiết lập bên các dòng sông lớn mới lột xác và biến đổi được. Nhưng phép mầu đó đã không xảy ra tại Trung Quốc cũng như nó đã không xảy ra tại mọi nước khác. Người dân đã được điều kiện hóa để chấp nhận sự tàn bạo nên khi một chế độ tàn bạo cáo chung nó chỉ nhường chỗ cho một chế độ tàn bạo khác thích nghi hơn với thời đại mới. Giữa hai chuyển hướng bắt buộc phải có cho chế độ nhà Chu, một là chấm dứt khế ước bạo quyền, chính thức hóa sự tản quyền và nới rộng tự do cho dân chúng, hai là, ngược lại, tăng cường tới cực điểm bạo lực của trung ương để khuất phục các chư hầu và đập tan mọi ý đồ chống đối, cuối cùng Trung Quốc đã theo con đường thứ hai. Nhà Chu đã chấm dứt nhường chỗ cho nhà Tần với một bộ máy cai trị lớn hơn và mạnh hơn. Từ nhà Tần trở đi, một hệ thống chính trị khác, hệ thống quân chủ tập quyền và tuyệt đối dựa trên bạo lực không cần thiết đã ra đời thay thế cho hệ thống chính trị quân chủ dựa trên bạo lực cần thiết trước đó.
Ở đây cũng cần mở một dấu ngoặc để nói về một sự kiện rất đáng chú ý. Sở dĩ, trong các chư hầu, nhà Tần đã mạnh lên để tiêu diệt các chư hầu khác và gồm thâu thiên hạ là vì đã áp dụng lý thuyết của Hàn Phi, chủ trương xiết chặt về chính trị nhưng cởi mở về kinh tế. Cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay cũng không khác gì về nội dung, nó chỉ là một sự áp dụng lại một lý thuyết đã được đưa ra cách đây 22 thế kỷ. Nhà Tần đã chỉ tồn tại được vài chục năm bởi vì chính sách độc tài chính trị cởi mở kinh tế đã mau chóng tích lũy mâu thuẫn và đã sụp đổ. Đây là một bài học, lịch sử hình như đang diễn lại.
Nhà Hán sau khi đã tiêu diệt nhà Tần đã xiết lại luôn về kinh tế, đem Khổng Giáo làm quốc giáo độc tôn, cấm đoán mọi ý đồ xét lại. Từ đó chế độ chính trị Trung Quốc không còn thay đổi nữa và Trung Quốc dậm chân tại chỗ hơn hai mươi thế kỷ.
Các xã hội nông nghiệp hình thành bên các dòng sông lớn đều mang một tật nguyền chung của các nền văn minh phù sa là tư tưởng và sáng kiến bị thui chột. Phải hàng ngàn năm mới đắp xong những con đê lớn với những chịu đựng ghê gớm. Cuộc sống đày đọa và gắn chặt với đất đó đã nhồi nặn ra những con người chỉ quanh năm vật vã với đất để kiếm miếng ăn, dần dần sự thủ cựu và thiển cận biến thành một bản chất, con người không biết nghĩ và không dám nghĩ.
Chúng ta là một dân tộc như thế. Cả lịch sử lập quốc của ta đã chỉ là lịch sử con đê sông Hồng Hà. Ta hệ lụy với dòng sông hơn mọi dân tộc khác, đến nỗi gọi quốc gia là ênướcê. Quốc gia của ta chỉ quanh quẩn là đất nước, núi sông, sơn hà. Chúng ta còn tật nguyền hơn mọi dân tộc phù sa khác. Trí tuệ của ta thui chột một cách thê thảm. Người Trung Quốc còn biết xét lại và đổi mới, dù chỉ là một cách vụn vặt, Khổng Giáo của họ qua các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh ; người Việt Nam chúng ta thì hoàn toàn không. Người Trung Quốc còn biết dùng lịch phương Tây ngay từ đời nhà Minh ; ta thì tới cuối thế kỷ 19 vẫn bám chặt lịch cũ, thay đổi đã chỉ đến do sự áp đặt của người Pháp khi ta đã mất chủ quyền. Ta có một bờ biển dài và đẹp, mở thênh thang ra một đại dương hiền hòa nhưng ta vẫn chỉ sống đời này qua đời khác với đất như một dân tộc lục địa.
Đối với các dân tộc khác, tự do, dân chủ (hay nhân quyền cũng thế vì đó chỉ là những góc nhìn khác nhau của cùng một sự kiện là con người được quí trọng, được phát huy hết khả năng của mình, được có ý kiến và sáng kiến) là một phương thức tổ chức xã hội ; đối với chúng ta nó còn là một liều thuốc trị bệnh tê liệt trí não. Chúng ta là một bệnh nhân mà tự do là liều thuốc chữa. Chúng ta phải uống thuốc tự do nếu muốn lành bệnh để tranh đua với thế giới.
Đạo lý thánh hiền
Những người bênh vực Khổng Giáo thường gắn liền Khổng Giáo với đạo đức. Bài bác Khổng Giáo bị coi là bài bác đạo đức, nghĩa là vô đạo. Trong một cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh, ông Phan Kế Bính, một trí thức xuất chúng và cũng có Tây học, đã có công đóng góp nhiều cho văn hóa Việt Nam và có tên đường ở Sài Gòn và Hà Nội, đã viết một câu chắc nịch : "Đạo lý là đạo lý Khổng Mạnh". Như vậy phải chăng các dân tộc không biết tới Khổng Mạnh là những dân tộc không có đạo đức ?
Khổng Giáo đề cao một số giá trị mà con người phải cố gắng để đạt được. Nhưng nếu ta hỏi các nhà nghiên cứu Khổng Giáo những giá trị đó là gì thì các vị này sẽ rất bối rối. Có vị bảo là "trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", cũng có vị bảo đó là "nhân, trí, dũng, văn", có vị lại thêm "trực (ngay thẳng), tri (hiểu biết), đạo, cung, kính, dung (dễ chấp nhận người khác)". Đọc Luận Ngữ và sách của các danh nho khác còn phải thêm : "đạt, mẫn, tôn, trọng, thuận". Như vậy đủ thấy "đạo lý Khổng Giáo" dù đã xuất hiện và ngự trị từ cả hàng nghìn năm vẫn còn rất mập mờ.
Các giá trị thường được nhắc tới là "trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Các giá trị này đã được cải thiện dần dần với thời gian và đi vào quần chúng. Lúc ban đầu chúng chỉ là những giá trị dành cho người quân tử, tức người làm quan hay học để làm quan, và có ý nghĩa đặc biệt của chúng.
Luân lý Khổng Giáo thường được tóm gọn trong "tam cương, ngũ thường". "Tam cương" là ba bổn phận của kẻ sĩ : trung với vua, hiếu với cha mẹ, thủy chung với vợ. Tam cương không được rõ ràng lắm. Cũng có những học giả coi "tam cương" là "quân, sư, phụ", nghĩa là bổn phận đối với vua, với thầy và với cha. "Ngũ thường" thì vẫn được coi là "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín".
Khổng Giáo về sau được bổ túc bởi một loạt "giá trị" dành cho phụ nữ, đó là "tam tòng, tứ đức". "Tam tòng" là ba sự phục tùng mà người đàn bà phải tuân thủ : lúc còn con gái thì phải phục tùng cha, lấy chồng thì phải phục tùng chồng, chồng chết thì phải phục tùng con [tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử]. "Tứ đức" là bốn đức tính người đàn bà phải rèn luyện, đó là "công (khéo tay), dung (nhan sắc), ngôn (ăn nói) và hạnh (hạnh kiểm)". Thêm vào đó lại có một giá trị đặc biệt cho người đàn bà : chữ "trinh".
Nếu hiểu "hiếu" là kính trọng và tận tụy với cha mẹ, "nhân" là yêu thương người, "lễ" là kính trọng người khác trong mọi giao dịch, "tín" là giữ lời hứa và tôn trọng mọi cam kết, "trí" là cố gắng để đạt tới sự hiểu biết rộng thì dĩ nhiên đó là những giá trị của mọi xã hội và mọi nền văn minh chứ không phải của riêng Khổng Giáo. Nếu muốn nói tới các giá trị của Khổng Giáo thì phải nói tới các giá trị chỉ có trong Khổng Giáo hay được đặc biệt nhấn mạnh và đề cao trong Khổng Giáo mà thôi.
Nhưng trước khi bàn về nội dung của Khổng Giáo ta phải nhận định một điểm rất quan trọng, đó là Khổng Giáo dứt khoát không phải là một đạo lý.
Ngôn ngữ Việt Nam và Trung Quốc thường hay lẫn lộn về khái niệm nên có thể những điều sau đây không được sự nhất trí của nhiều độc giả, nhưng vấn đề là có thực. Triết học phân biệt đạo lý hay đạo đức [éthique, ethic] và luân lý [morale, moral]. Đạo lý là những giá trị có căn bản triết học, được phân tích rõ ràng, được biện luận đến nơi đến chốn và sau cùng được chấp nhận như là kết quả của một cố gắng suy tư. Luân lý, trái lại, chỉ là những điều được áp đặt và trở thành thói quen và qui luật trong một xã hội. Không thể coi việc người Do Thái cấm ăn thịt heo hay thịt những con vật mà móng chân sẻ ra, cấm ăn cá không có vẩy là một đạo lý được. Đó chỉ là một luân lý, nghĩa là một qui luật được luân chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác mà thôi.
Khổng Tử và các môn đệ không hề phân tích, biện luận mà chỉ phán ra các mệnh lệnh mà thôi, nên Khổng Giáo không phải là một đạo lý mà chỉ là một luân lý mà thôi.
Về nội dung các giá trị Khổng Giáo thì sao ?
Trước hết, hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ giá người phụ nữ xuống hàng một nô lệ và một vật dụng. Trí tuệ và nhân cách của người đàn bà không được kể đến. "Công, dung, ngôn, hạnh" là gì ? "Công" chỉ là tài thêu thùa, may mặc, nấu bếp, nghĩa là tài hầu hạ, phục dịch. "Dung" không phải là sắc đẹp mà là cấm không được làm đẹp vì như thế là lòe loẹt, lẳng lơ. "Ngôn" là ăn nói phải e dè, càng nói ít càng tốt. Còn "Hạnh" chỉ là sự chăm chỉ phục tùng, phục tùng cha mẹ, rồi phục tùng chồng, rồi phục tùng cả con trai mình. Ấy là chưa kể trong gia đình còn phải phục tùng cả chú bác, anh chị. Nếu là một người con gái út trong gia đình nghèo thì địa vị của một phụ nữ chẳng còn gì.
Rồi lại có cái chữ "trinh" cực kỳ đểu cáng. Một người phụ nữ đã có quan hệ tình dục với ai bị coi là "mất thân", có tì vết, mất hết giá trị. Không phải chỉ có phụ nữ bình thường mà ngay cả các công chúa cũng không thoát khỏi sự khống chế tàn tệ của chữ trinh. Ở Việt Nam có chuyện Chử Đồng Tử. Anh chàng này nghèo khổ, không có nổi cái khố, một hôm một cô công chúa vô tình quay màn tắm ngay chỗ anh ta trần truồng nằm chui dưới cát. Đến khi dội nước thì lộ ra anh ta. Cô công chúa chỉ lỡ nhìn thấy anh ta trần truồng mà coi như bị mất trinh, đành phải cưới anh ta làm chồng cho phải đạo ! Văn học Trung Quốc cũng không thiếu những câu chuyện các cô gái vì vô tình đụng chạm phải một người đàn ông mà phải coi như đã mất trinh, đành phải lấy người đó làm chồng. Chữ êtrinhê là một sáng tạo dã man của đàn ông để nô lệ hóa phụ nữ và coi phụ nữ như một đồ chơi độc quyền của họ. Ngày nay chúng ta đều đồng ý rằng quan niệm của Khổng Giáo về người phụ nữ là rất lạc hậu. Nhưng chúng ta đã thực sự vất bỏ nó chưa ? Tôi chưa chắc, quán tính của chúng ta vẫn còn nặng lắm. Cái tâm lý chồng chúa vợ tôi vẫn còn hiện diện rất mạnh, ngay trong cả các gia đình trí thức sinh sống tại các nước tân tiến phương Tây. Người vợ dù là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học vẫn là nạn nhân của một sự phân công quái gở là lo chuyện bếp núc, phục dịch trong gia đình trong khi đức ông chồng ung dung hưởng thụ. Người chồng Việt Nam là một trong những người chồng thô bỉ nhất thế giới.
Tôi có lần nói chuyện với một học giả, giáo sư đại học. Ông ta lo lắng vì con gái đã lớn và học chung với nhiều bạn trai. Mối lo của ông ta là con gái sẽ giao du với bạn trai. Tôi nói giao du là chuyện dĩ nhiên chẳng có gì đáng sợ, ông ấy trả lời rằng trai gái bây giờ nó tự do lắm, nó cứ bắt tay nhau một cách tự nhiên, có khi còn hôn nhau khi gặp gỡ hoặc chia tay. Tôi hỏi "thì đã sao ?". Và ông ta nổi đóa : "Nó hôn má, rồi có ngày nó sẽ hôn môi, rồi nó sẽ làm tình !". Đối với ông ta hình như nếu con gái ông ta có bồ và hôn môi một chàng trai nào, nhất là lại làm tình thì không khác gì trời sập. Nhưng ngược lại, nếu đứa con trai ông ta cũng làm những điều ấy thì lại rất bình thường. Đó là một trí thức uyên bác đã sống tại Pháp gần 40 năm.
Chữ "trung" và chữ "hiếu" được định nghĩa từ đời nhà Tống một cách rõ rệt như thế này : "vua bảo phải chết mà không chịu chết là bất trung, cha bắt phải chết mà không chết là bất hiếu" [quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu]. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử định nghĩa chữ "hiếu" như sau : "cha còn sống thì phải theo ý cha, cha mất thì theo việc cha làm, ba năm không được sửa đổi những gì cha đặt ra" [phụ tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hành, tam niên vô cải ư phụ chi đạo], "cha mẹ có lầm lỗi can gián không được cũng không được làm trái ý, đau lòng cũng không được giận" [sự phụ mẫu cố gián, kiến chí bất tòng, hữu kính bất vi, lao nhi bất oán] ; "cha mẹ còn sống thì không được đi xa" [phụ mẫu tại, bất viễn du]. Cũng cần lưu ý là chữ "hiếu" của Khổng Giáo chủ yếu là hiếu với cha mà thôi, người mẹ rất ít được đề cập tới. Sự kính mến người mẹ ở trong các xã hội thuộc văn hóa Trung Hoa có thể được nhìn như là một phản ứng dân gian trước sự tàn nhẫn của Khổng Giáo đối với phụ nữ. Chữ "hiếu" của Khổng Tử không những bệnh hoạn mà còn bất lương. Khổng Tử bàn luận với Diệp Công về sự ngay thẳng ("trực" cũng là một giá trị của Khổng Giáo). Diệp Công nói rằng người ngay thẳng nếu cha mình đi ăn trộm cũng phải tố giác, Khổng Tử phản đối nói rằng đạo làm con thì dù cha có đi ăn trộm cũng phải bênh, như thế mới là trực. Đó là những lời vàng ngọc của đức thánh Khổng !
Về sau các nho sĩ cũng không làm cho "trung" và "hiếu" lành mạnh hơn, trái lại chỉ thêm vào những điều xằng bậy, thí dụ như "hiếu" được định nghĩa phải có con trai. Có ba tội bất hiếu, tội nặng nhất là không có con trai [bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại], "trung" được định nghĩa chỉ được thờ một chủ mà thôi.
Về chữ "nhân", Khổng Tử định nghĩa một cách rất lăng nhăng. Nhan Hồi hỏi ông về "nhân", Khổng Tử đáp đó là các đức tính "cung (kính cẩn), khoan (khoan dung), mẫn (thông minh), huệ (may mắn)". Như vậy thì "nhân" không phải là một giá trị riêng mà chỉ là tổng hợp năm giá trị khác của Khổng Giáo. Việc coi "mẫn" và "huệ" là những thành tố của "nhân" cũng đáng ngạc nhiên. Khi Phàn Trì hỏi thì ông đáp "nhân" có nghĩa là yêu người ; đây là lần duy nhất mà Khổng Tử định nghĩa khái niệm "nhân" một cách gần đúng. Khi Trọng Cung hỏi thì ông đáp "nhân" là "ra khỏi cửa phải như gặp thượng khách, sai dân thì phải uy nghi như tế lễ lớn, mình không muốn điều gì thì đừng làm cho người khác" [xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục vật thi ư nhân] ; ở đây "nhân" chỉ giản dị là sự đúng đắn. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử còn đưa ra một định nghĩa khác về "nhân" : "người trí thì thích nước, người nhân thì thích núi, người trí thì động còn người nhân thì tĩnh" [trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn, trí giả động, nhân giả tĩnh]. Định nghĩa quái đản này tuy vậy cũng nói lên nhân sinh quan của Khổng Tử, ông không có lý tưởng giúp đời, "nhân" của ông là tĩnh, nghĩa là bất động, chứ không phải xông pha vào khó khăn để giúp người. Điều này phù hợp với đạo lập thân mà ông đã dạy người quân tử : nước nguy thì không nên đến, nước loạn thì không nên ở, xã hội lành mạnh thì ra làm quan, xã hội không lành mạnh thì rút về ở ẩn. Như vậy chữ "nhân" của Khổng Tử dứt khoát không phải là chữ "nhân" mà chúng ta thường hiểu. Khổng Tử được tôn thờ nên đời sau đã cố tình đem cái lòng tốt của mình mà hiểu những điều ông nói. Khổng Tử đặc biệt bối rối khi nói về nhân vì cá nhân ông không có lòng nhân đạo, ông mạt sát thậm tệ những người dân cùng khổ và chắc chắn là ông đã từng chủ trì nhiều buổi lễ chôn sống những người vô tội trong những đám tang của những gia đình quí tộc.
Nhân nói về chữ "nhân" cũng nên dừng lại giây lát để bàn về một chủ nghĩa chính trị có tên là "nhân trị" của Khổng Giáo. Đại đa số những người bàn về nhân trị thường cho đó là một chủ nghĩa nhân bản, lấy sự quí trọng con người làm căn bản. Điều này hoàn toàn sai. Ý niệm nhân được định nghĩa một cách mơ hồ như đoạn trên không thể là nền tảng cho một thể chế chính trị nào. Chữ nhân trong "nhân trị" chỉ có nghĩa là cá nhân mà thôi, "nhân trị" vì vậy có nghĩa là để cho một người cai trị một cách tùy tiện, đối ngược lại với "pháp trị", có nghĩa là cai trị theo luật pháp. Nhân trị chỉ giản dị là độc tài cá nhân tuyệt đối ; mà về bản chất thì mọi chế độ độc tài tuyệt đối đều dã man vô nhân đạo cả nên thuyết nhân trị cũng phải được xếp vào loại chủ thuyết dã man. Phan Chu Trinh đã phân tích khá rõ ràng về điểm này. Chữ Hán, nhất là khi đọc theo lối Việt, có nhiều chữ cùng âm mà khác nghĩa cho nên có những trường hợp ngộ nghĩnh là người Việt hiểu sai hẳn. Sự hiểu lầm cho rằng chủ nghĩa nhân trị là một chủ nghĩa quí trọng con người là một thí dụ. Một thí dụ khác : tôi từng được nghe rất nhiều người viện dẫn câu "quân tử hợp quần, tiểu nhân hợp đảng" để từ chối tham gia vào các tổ chức chính trị. Đối với họ tổ chức chính trị là đảng và như vậy những người quân tử cao thượng như họ không thèm gia nhập, đạo lý Khổng Mạnh đã dạy như vậy. Thực là oan cho Khổng Mạnh quá. Chữ "đảng" ở câu này không có nghĩa là đảng chính trị mà có nghĩa là xóm làng. "Quân tử hợp quần, tiểu nhân hợp đảng" có nghĩa là người có danh phận (quân tử) thì có thể kết hợp với nhau (hợp quần) còn dân chúng (tiểu nhân) thì chỉ sống chung với nhau trong xóm, nghĩa là không giao du và kết hợp rộng rãi.
Chữ "lễ" của Khổng Giáo cũng là một sự hiểu lầm. Đọc Kinh Lễ và Luận Ngữ thì rất rõ ràng là lễ chỉ là nghi thức và hình thức mà thôi, thí dụ như tế trời thì phải mặc áo nào, gặp vua thì quì như thế nào, lạy bao nhiêu lạy, lúc tiếp chỉ của vua thì phải có cung cách nào, gặp quan lớn phải có thái độ nào, gặp quan nhỏ thì ra sao, v.v... Khổng Tử khi đưa khách vào gặp vua thì giang tay cúi đầu giới thiệu, rồi cung kính đứng đợi, đến lúc khách quay ra thì hô lên "khách không quay lại nữa". Đó là "lễ" của Khổng Giáo, nó không có nghĩa là sự đối xử lịch sự, bặt thiệp trong xã hội đối với mọi người. Về lễ, chính Khổng Tử đã nói một câu kinh khủng : "lễ không kể đến bọn thứ dân" [lễ bất há thứ dân].
Về lễ phép, phải nói rằng người Á Đông rất vô lễ, nhất là những dân tộc chịu ảnh hưởng Khổng Giáo. Người phương Tây đi qua mặt một ai đều xin lỗi, nhận của ai món đồ nào đều cám ơn, gặp nhau chúc tụng nhau ngày vui, đi thì nhường bước cho phụ nữ... Ngay cả giữa các đối thủ với nhau, họ cũng tỏ ra trang nhã. Wellington đánh bại Napoléon I, nhưng khi Napoléon bị cầm tù và chết trên đảo Sainte Hélène ông cũng tới đó nghiêng mình kính cẩn. Ngược lại, các tướng Trung Hoa ra trận thì chửi nhau, bắt được địch thì đối xử tàn tệ. Quan Vân Trường được coi là bậc thánh, nhưng khi Lưu Bị giới thiệu đứa con nuôi là Lưu Phong thì hỏi Lưu Bị ngay trước mặt Lưu Phong : "Anh đã có con rồi, nuôi giống con tò vò này làm gì ?" ; bắt được tướng địch là Vu Cấm thì nói : "Tao giết mày cũng như giết giống chó ngựa thôi". Tập quán Á Đông đối với kẻ trên, kẻ thắng thì khúm núm, đối với kẻ dưới, kẻ bại thì thô lỗ. Đó không phải là lễ hiểu theo nghĩa đúng và đẹp của nó.
Gần đây có phong trào kêu gọi tái lập phương châm "tiên học lễ hậu học văn". Những người chủ trương như vậy hoặc có dụng ý thống trị hoặc không hiểu ý nghĩa thực sự của tôn chỉ này. "Tiên học lễ hậu học văn" chỉ có nghĩa là trước hết học nghi thức và hình thức, học lạy, học quì và cúi đầu, nói chung là cúng tế, rồi sau đó mới học tới kiến thức. "Tiên học lễ hậu học văn" chỉ có nghĩa là trước học cúng rồi sau mới học chữ.
Cũng phải hiểu rằng, lễ và nhạc trong Khổng Giáo là những dụng cụ thống trị, mục đích của chúng là lấy nghi thức và âm thanh để trấn áp tinh thần và khuất phục.
Nhiều độc giả tới đây sẽ phê phán tôi là dựa vào kinh sách để lên án Khổng Giáo, trong khi Khổng Giáo được thể hiện một cách khác trong cuộc sống. Các vị có lý, luân lý Khổng Giáo trong đời sống hằng ngày không đến nỗi như vậy.
Tại sao ? Đó là vì Khổng Giáo là một hệ thống giá trị khe khắt, máy móc và vô nhân đạo được các vua chúa đem áp đặt vào cuộc sống. Người dân đành phải chấp nhận và vì không thể chấp nhận nguyên vẹn nó, người dân đã phản ứng lại bằng cách thay đổi nội dung của nó để bớt đi phần nào sự khe khắt. Do đó mà Khổng Giáo đã phần nào được nhân bản hóa. Chữ "trung" thì họ không đổi được, nhưng chữ hiếu đã được hiểu là sự quí trọng và săn sóc cha mẹ. "Lễ" được hiểu là cách đối xử đẹp đẽ giữa người và người, nhân cũng mang màu sắc của tình thương.
Nhà văn Bá Dương của Trung Quốc, trong một loạt bài tạp văn được tập trung trong một cuốn sách nhan đề "Người Trung Quốc Xấu Xí" [Sửu lậu đích Trung Quốc nhân], gọi văn hóa Khổng Giáo là một hũ tương đặc sệt. Tôi thấy cách gọi này không đúng hẳn. Tương chỉ làm bởi một chất chính là đậu, ngâm vào muối để cho rã ra và phân hóa lâu ngày mà thành. Khổng Giáo có đủ thứ, nào là kinh sợ quỉ thần, tuyệt đối phục tùng nhà vua, rồi lại đến cách ăn ở giữa vợ chồng, cha con, thầy trò, cách học hỏi, tu thân, v.v... vật chất cũng có, tinh thần cũng có, siêu hình cũng có, luân lý cũng có mà chính trị cũng có. Nói chung là đủ thứ được pha trộn lộn xộn lâu ngày với nhau, thâm nhập vào nhau và biến chất lẫn nhau. Phải coi đó là một hũ mắm thập cẩm, thịt có, cá có, tôm có, mà rau cũng có. Mỗi người nếm nói một cách riêng, người thì bảo là thịt, người thì nói là cá, người lại nói là tôm. Ai cũng đúng cả mà cũng chẳng ai đúng cả. Cho nên có người nói Nho Giáo là hệ thống chính trị, có người nói đó là một triết lý và cũng có người coi nó là đạo lý.
Điều quan trọng đối với chúng ta là những tập tính mà Khổng Giáo đã tạo ra trong nếp sống dân gian.
Trước hết là óc thủ cựu. Tôn chỉ "thuật nhi bất tác", chỉ lập lại mà không sáng tạo, đã được các vua chúa áp đặt như một mệnh lệnh tuyệt đối. Với thời gian nó thành một đạo lý và làm tê liệt cả trí não các dân tộc theo văn hóa Trung Hoa, nhất là Trung Quốc và Việt Nam. Chúng ta không những không tìm cái mới mà còn thù ghét cái mới.
Thứ hai là óc bất dung, độc quyền lẽ phải. Các vua chúa áp đặt địa vị độc tôn của Khổng Giáo, rồi dùng bọn nô nho mạt sát mọi tư tưởng khác biệt nhân danh chính nghĩa vệ đạo. Dần dần chúng ta bỏ mất cả khả năng đối thoại. Chúng ta không thể thảo luận với nhau một cách bình tĩnh và tương kính, hễ khác ý kiến là phải dùng những lời lẽ hận thù, hằn học, là thấy cần phải tiêu diệt nhau. Chúng ta coi tranh luận có nghĩa là hạ bệ người trước mặt, làm cho hắn mất uy tín và bị lên án nếu được. Tôi có thể làm chứng về tinh thần "vệ đạo" này bằng kinh nghiệm cá nhân. Tôi có viết một số bài báo trình bày một số ý kiến cá nhân và đã nhận được một loạt bài phản bác. Có những bài rất cay nghiệt, nhưng các tác giả không phản bác được gì cả vì họ chỉ tập trung cố gắng để khiến độc giả ghét tôi thay vì tranh luận ý kiến !
Thứ ba là sự sùng bái người xưa một cách bệnh hoạn, hậu quả tổng hợp của sự sùng bái quỉ thần và chữ hiếu được đẩy quá xa. Yêu quí người xưa là một tình cảm tốt vì đó là cội nguồn của ta. Tổ tiên đã khổ sở và vất vả để lại cho chúng ta một di sản, di sản đó dù nhiều hay ít chúng ta cũng là người thừa kế và thụ hưởng. Nếu không có di sản đó thì ngày nay chúng ta vẫn còn ăn lông ở lỗ. Nhưng cái bệnh hoạn là ở chỗ ta tin người xưa là đúng và lấy họ làm mẫu mực. Chúng ta không dám tin rằng thế giới càng ngày càng tiến, chúng ta hiểu biết nhiều và thông minh hơn cha ông, cũng như con cháu chúng ta sẽ thông minh và hiểu biết hơn chúng ta.
Thứ tư là lô-gích bạo lực. Nhiều người sẽ phản đối và viện dẫn vô số câu nói rất hòa bình và khoan dung. Nhưng quả thực phải nói nền tảng của xã hội Khổng Giáo là bạo lực. Vua không bao giờ có lỗi thì làm sao mà thay thế những hôn quân, bạo chúa ? Đạo lý Khổng Mạnh không cho phép chống lại vua, cho nên chỉ có những kẻ bất chấp đạo lý nổi loạn giết vua mới thay đổi được tình thế. Kẻ ấy nếu thua thì bị coi là giặc, là phản, là vô đạo, nhưng nếu may mắn thắng được thì các nho sĩ sẽ quì xuống thuần phục và giải thích là mệnh trời đã đổi. Mọi thay đổi chính quyền đều phải diễn ra qua bạo lực và đổ vỡ chứ không thể diễn ra một cách hòa bình. Đảng Cộng Sản Việt Nam khi chủ trương chống diễn biến hòa bình đã chỉ lập lại một tâm lý bạo lực đã sẵn có trong văn hóa Khổng Giáo.
Dĩ nhiên thương tật nặng nề nhất trong tâm lý Trung Quốc và Việt Nam vẫn là tâm lý tôi đòi, nhẫn nhục trước độc tài chuyên chế. Như đã nói, chúng ta thừa hưởng tâm lý đó từ nền văn hóa phù sa. Khổng Tử chịu ảnh hưởng nặng nề của tâm lý đó, đưa nó lên hàng một đạo lý. Khổng Giáo không gì khác hơn là một chương trình huấn luyện đầy tớ, mục đích của nó là tạo ra những tay sai đắc lực, phục tùng chủ không điều kiện và bắt mọi người phải phục tùng chủ không điều kiện. Đến lượt Khổng Tử cũng được tôn lên hàng một thánh nhân và một mẫu mực. Mấy chục thế kỷ chuyên chế của quân quyền về mặt chính trị và của Khổng Giáo về mặt tư tưởng đã biến tâm lý chấp nhận bạo quyền thành một bản năng ; ta có thể là nạn nhân của một chế độ chuyên chính và chống lại chuyên chính ấy, nhưng nếu thành công ta sẽ áp đặt một thứ chuyên chính khác. Ta chưa dứt khoát được tư tưởng bởi vì, do di sản Khổng Giáo, ta vẫn còn mang mầm độc tài chuyên chính ngay trong lòng mình.
Việt Nho
Tôi không dùng hai chữ Việt Nho theo cùng một nghĩa với linh mục Kim Định. Theo linh mục Kim Định thì đạo Nho nguyên là đạo của người Việt, người Trung Quốc chỉ đã học được của người Việt, do đó coi đạo Nho là đạo của người Trung Quốc là một sai lầm.
Có nhiều lý do khiến tôi không chia sẻ quan điểm đó. Ở đây tôi dùng chữ Việt Nho để chỉ Khổng Giáo tại Việt Nam, nghĩa là Khổng Giáo du nhập từ bên Trung Quốc sang, được tiếp thu và thể hiện tại Việt Nam. Những ai đã bối rối khi đặt vấn đề Nho nào, Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho, Minh Nho hay Thanh Nho sẽ còn phải bối rối nữa vì còn có thêm Việt Nho, cũng khác các thứ Nho kia.
Khác với Khổng Giáo Trung Quốc, Khổng Giáo Việt Nam không xuất hiện một cách tự nhiên và dần dần chín muồi với thời gian. Nó đã được hệ thống cai trị đem đến và áp đặt như một dụng cụ cai trị. Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương, sáp nhập vào với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây mà lập ra nước Nam Việt vào cuối đời nhà Tần, đầu đời nhà Hán và đem Khổng Giáo, tức là hệ thống cai trị của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, vào Việt Nam. Sau khi nhà Triệu bị diệt thì Việt Nam trở thành một phần đất chiếm đóng của Trung Quốc. Không hề thấy sử sách ghi lại một cố gắng khai mở nào về mặt văn hóa. Như thế phải hiểu rằng Khổng Giáo trong những thế kỷ đầu sau khi được du nhập vào Việt Nam chỉ thuần túy là văn hóa của kẻ chiếm đóng và cùng lắm là của một số những người có danh phận hợp tác với chính quyền mà thôi. Phải mãi tới thời Tam Quốc, thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch mới có Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp mở mang việc học. Trước đó, thời Đông Hán, sách sử có ghi ba người là Lý Tiến, Lý Cầm và Trương Trọng đậu khoa hiếu liêm, nhưng rất có thể là họ đậu từ bên Tàu rồi được cử sang làm quan hoặc chính họ là con quan cai trị người Tàu. Nói chung, dân bản xứ không được huấn luyện Khổng Giáo.
Như vậy phải nhận diện hai yếu tố : Một là trong bốn thế kỷ đầu của Bắc thuộc người Trung Hoa không có ý định giáo dục để đồng hóa người Việt thành người Trung Hoa, họ sang Việt Nam để thống trị và khai thác mà thôi, và Khổng Giáo chỉ thể hiện qua bộ máy thống trị. Hai là khi Khổng Giáo bắt đầu được phổ biến tại Việt Nam thì cái hào quang của mùa xuân tư tưởng Xuân Thu Chiến Quốc đã qua rồi. Khổng Giáo đã thành Hán Nho, tức là thứ Nho Giáo đã xuống cấp, đã bị tước bỏ hết mọi tinh hoa của các Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi... để chỉ còn là một thứ Nho Giáo thui chột. Cả hai yếu tố đều quan trọng khi nhận định về Nho Giáo ở Việt Nam.
Chính sách ngu dân của người Trung Quốc rất rõ rệt. Trong hơn một ngàn năm đô hộ không có dấu tích lăng miếu nào của Khổng Giáo cả. Mãi tới đời nhà Lý, khi nước ta đã độc lập, các vua Việt Nam mới bắt đầu xây Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và 72 môn đệ của Khổng Tử. Nho học mới bắt đầu thực sự phát triển từ đó. Đến khi nhà Minh diệt được nhà Hồ, vua Minh Thành Tổ ra lệnh cho các quan cai trị phải tịch thu và tiêu hủy tất cả những cuốn sách bằng chữ Nho của người Việt Nam. Ít lâu sau hình như thấy lệnh này không được thi hành triệt để, Minh Thành Tổ lại xuống chỉ nhắc lại một lần nữa. Nhà Minh tịch thu sách chữ Nho mà không tịch thu sách chữ Nôm vì họ nghĩ rằng Nho Giáo là tinh hoa của họ, họ sợ người Việt học chữ Nho sẽ trở nên hùng mạnh và thành mối nguy cho họ. Sử nước ta hay có thói quen cho rằng người Trung Quốc cố gắng đồng hóa để sáp nhập Việt Nam, nhưng xét theo những việc họ làm thì chỉ thấy họ muốn thống trị Việt Nam để vơ vét mà thôi chứ không muốn người Việt Nam trở thành giống như người Tàu. Sự bành trướng của Trung Quốc có chỗ nghịch lý là chính người Trung Quốc hình như không muốn bành trướng, họ xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn chặn các sắc dân phía Bắc. Những mở mang đất đai quan trọng của Trung Quốc như sapt nhập nước Kim, Mông Cổ và Mãn Châu đều do chính những sắc dân này chinh phục được và thống trị Trung Quốc rồi vì dân số ít mà bị đồng hóa. Có lẽ nước ta còn đến ngày nay là vì chúng ta chưa hề thắng và thống trị Trung Quốc.
Tóm lại, Nho Giáo Việt Nam là thứ Nho Giáo cấp thấp được người Việt Nam tiếp thu một cách muộn màng và sùng bái mà không có đóng góp nào. Cố gắng Hán hóa Việt Nam quan trọng nhất đã diễn ra dưới hai triều đại Lý, Trần rồi tiếp tục dưới mọi triều đại kế tiếp. Trí thức Việt Nam thường hay lên án âm mưu đồng hóa của Trung Quốc, nhưng nếu họ bình tĩnh mà nhìn vào lịch sử nước ta họ sẽ thấy cố gắng đồng hóa trước hết đến từ các vua chúa Việt Nam. Cũng may là cố gắng này không thành công, nhưng người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng Giáo dưới dạng sơ đẳng và cằn cỗi nhất. Chính vì vậy mà văn hóa của Việt Nam thấp kém và bất dung hơn văn hóa Trung Quốc.
Nho Giáo đã chỉ phát triển sau một thời gian rất dài trong đó Phật Giáo được tự do bành trướng. Nhờ ảnh hưởng của Phật Giáo mà mới đầu Nho Giáo dưới thời Lý có phần nhân bản hơn Trung Quốc. Chỉ từ thời Hậu Lê trở đi, khi Phật Giáo đã suy vi, Việt Nam mới theo hẳn một hệ thống chính trị Nho Giáo khắc nghiệt.
Một số tác giả hay nói tới một đặc tính của văn hóa Việt Nam là tam giáo đồng nguyên, ý nói sự sống chung hài hòa giữa Phật Giáo, Nho Giáo và Lão Giáo. Nhưng "tam giáo đồng nguyên" là một cụm từ của Trung Quốc rất vô nghĩa và cũng rất sai trong bối cảnh Việt Nam. Phật Giáo đã phát triển trước Nho Giáo rất lâu, Nho Giáo phát triển được không bao lâu thì quay ra hạ bệ Phật Giáo ngay, không làm gì có sự chung sống hài hòa. Còn ảnh hưởng của đạo Lão tại Việt Nam thì không đáng kể, người Việt hình như không hiểu gì về triết lý Lão Tử, chỉ tiếp thu một vài yếu tố hời hợt và mau chóng hội nhập chúng vào những mê tín đồng bóng.
Một yếu tố quan trọng khác của văn hóa Việt Nam là đặc tính văn hóa phù sa rất mãnh liệt. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm con, một nửa theo mẹ lên núi, một nửa theo cha xuống biển là ở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Tại sao lại "xuống biển" ? Có lẽ phải hiểu là xuống vùng đồng bằng sông Hồng, lúc đó còn ngập nước sông vào mùa lũ, như vậy là lúc đó con đê sông Hồng chưa có và mới chỉ được đắp lên sau đó. Đê sông Hồng chỉ bắt đầu đắp lên sớm nhất là dưới thời nhà Triệu và được các quan cai trị người Tàu đốc thúc xây dựng tiếp. Hiện tượng này có tầm quan trọng đặc biệt. Người Trung Quốc đã phải mất ba bốn ngàn năm để ổn định việc đê điều trên hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử. Chúng ta có lẽ là nền văn minh phù sa muộn nhất. Tổ tiên ta vốn đã ít người mà lại phải thực hiện trong khoảng thời gian một ngàn năm công việc mà các dân tộc khác đã thực hiện trong ba, bốn ngàn năm, sự tàn bạo mà họ phải chịu đựng đã gấp ba bốn lần. Mọi xã hội phù sa đều chật vật và hệ lụy nặng nề với nước và đất, nhưng tổ tiên ta chắc chắn đã khổ cực với nước và đất hơn nhiều, họ đã phải trả những giá vô cùng đắt cho việc hình thành đồng bằng sông Hồng, đến nỗi nước và đất là tất cả đối với họ.
Quốc gia nào thành lập trên lưu vực của những con sông lớn cũng đều mang nặng dấu ấn của nền văn minh phù sa : cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. Chúng ta còn mang nặng đặc tính văn minh phù sa hơn những xã hội khác, những ưu và khuyết điểm đó còn hiện diện mạnh mẽ hơn trong tâm lý và văn hóa của chúng ta.
Một nét đậm khác là chúng ta là một dân tộc bị nô lệ quá lâu. Chúng ta nô lệ người Trung Quốc hơn mười thế kỷ. Các chế độ độc lập sau đó cũng đã rập khuôn theo guồng máy thống trị của người Trung Quốc. Việt Nam tuy có độc lập nhưng thân phận của người trong nước không thay đổi là bao. Niềm an ủi duy nhất, và không phải không có tầm quan trọng, là được thấy các vua quan cũng giống mình và nói cùng ngôn ngữ với mình. Một cách trớ trêu có lẽ thời Pháp thuộc lại là thời dân ta được tự do suy nghĩ và phát biểu nhất, ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn ngủi tại miền Nam Việt Nam. Lịch sử chật vật đó đã để lại những dấu ấn rất đậm trong văn hóa, trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Bản chất nô lệ vẫn chưa rời hẳn chúng ta. Nói ra như vậy có thể làm phiền lòng một số độc giả, chính tôi cũng rất phiền lòng, nhưng di sản của ta thế nào thì ta phải nhận thế ấy. Ta cần biết mình là ai để biết mình có thể làm gì và phải làm gì. Vả lại ta không nên quan niệm đất nước chỉ là lịch sử và địa lý. Đất nước trước hết là một dự án tương lai chung. Nếu từ những di sản không mấy thuận lợi này mà ta xây dựng được một đất nước đáng tự hào thì cuộc sống của chúng ta lại càng có ý nghĩa.
Mặt thật của ai ?
Ông Bùi Tín sinh ra trong một gia đình Nho Giáo truyền thống. Thân sinh ông là Bùi Bằng Đoàn, làm thượng thư (bộ trưởng) trong triều đình Huế. Cách mạng tháng 8 bùng ra lúc cậu Bùi Đường Ấm, sau này đổi tên là Bùi Tín, mới vừa 19 tuổi. Ông Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng thanh liêm và học giỏi, trở thành chủ tịch quốc hội đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một chức vụ hữu danh vô thực. Ông Bùi Bằng Đoàn chỉ ở đó để đem lại cho chính phủ Hồ Chí Minh một bộ mặt trí thức và đoàn kết dân tộc. Ông Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền Việt Minh vì sợ hơn là vì nhiệt tình. Ông Phạm Quỳnh, thủ tướng Nam Triều, đã bị giết, như nhiều quan chức triều đình Huế khác.
Nhưng nếu ông Bùi Bằng Đoàn chỉ theo Việt Minh vì sợ thì cậu ấm Bùi Tín lại theo vì lý tưởng. Cậu hăng say theo cách mạng mùa thu, đi bộ đội, tham dự nhiều trận đánh, từng bị thương và sau cùng được sử dụng ngay trong sở trưởng của cậu : nghề viết báo. Bùi Tín trở thành đại tá phó tổng biên tập tờ Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt Nam. Chức vụ này rất lớn, bởi vì tuyên truyền là công tác trọng yếu hàng đầu của chính quyền cộng sản. Tờ Nhân Dân quan trọng hơn nhiều so với một bộ, nó được tổ chức như một chính phủ trong một chính phủ, với tất cả các ban tương ứng với các bộ : ban quốc phòng, ban quốc tế, ban nông nghiệp, ban công nghiệp, ban văn hóa, xã hội, v.v... Vị thế của Bùi Tín cao hơn một thứ trưởng, vai trò của ông đặc biệt quan trọng. Bùi Tín là thành viên của phái đoàn cộng sản trong hội nghị bốn bên tại Tân Sơn Nhất. Do một sự tình cờ Bùi Tín cũng là người đại diện cho phe cộng sản nhận sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh sáng ngày 30-4-1975.
Nhưng năm 1990, trong một chuyến công du sang Pháp Bùi Tín lấy quyết định xin tị nạn chính trị. Từ đó Bùi Tín đã viết rất nhiều bài báo, trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, tố giác chế độ c_ộng sản và vận động cho dân chủ đa nguyên. Bùi Tín cũng viết một số sách thuật lại những gì mà ông đã thấy trong một cương vị đặc biệt thuận lợi để quan sát chế độ cộng sản từ bên trong.
Trong cuốn Mặt Thật, cuốn sách gây sôi nổi nhất của ông, Bùi Tín mô tả chiến dịch cải cách ruộng đất được chính phủ Hồ Chí Minh phát động năm 1955, trong đó hàng ngàn, hàng vạn người bị giết oan.
Bùi Tín kể :
Các cố vấn Trung Quốc ngồi ưỡn bụng ra, để chân lên bàn uống rượu Mao Đài, vừa "nhổ nước bọt ồn ào", vừa dạy dỗ các học trò dễ bảo Trường Chinh (tổng bí thư đảng cộng sản), Hoàng Quốc Việt (ủy viên bộ chính trị, sau đó là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc), v.v... về cải cách điền địa. Họ ra lệnh giết bà Nguyễn Thị Năm, người đã từng ủng hộ Việt Minh từ năm 1937, đã từng che chở và nuôi dưỡng chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và có con đang làm chính ủy trung đoàn. Ông Hồ Chí Minh được tin la lên là không thể giết một phụ nữ, một ân nhân cách mạng, một người mẹ của một anh hùng quân đội. Nhưng các cố vấn Trung Quốc bảo là đã quá trễ, mọi việc đã chuẩn bị xong. Ông Hồ Chí Minh im mồm, và bà Năm bị bắn.
Phong cách của ông Hồ Chí Minh là thế. Còn các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt thì không biết phải gọi là hạng người gì.
Ông Phạm Văn Đồng thấy các bộ trưởng, thứ trưởng của mình bị vu oan, bị thanh trừng, bị bỏ tù, không dám lên tiếng bênh vực. Sau khi nghỉ hưu dù đã ngoài tám mươi tuổi, ông còn cố bám lấy hư vị "cố vấn" đễ giữ lợi lộc.
Ông Lê Đức Thọ là một con người nham hiểm, dùng đủ mọi thủ đoạn nhơ bẩn và độc ác để triệt hạ các đồng chí cũ của ông.
Ông Lê Duẩn là một thứ ếch ngồi đáy giếng, vừa thiển cận, vừa lỗ mãng, vừa tự cao tự đại.
Các ông tướng Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, v.v... đều thiếu văn hóa, nông cạn và cực đoan. Riêng ông Nguyễn Chí Thanh thì còn hèn nhát, lúc bị mật thám Pháp bắt đã khai nhiều bí mật gây thiệt hại nặng cho đảng rồi đổ tội cho người đồng chí cùng bị bắt với mình là Đặng Xuân Thiều làm ông này bị trù dập hơn ba mươi năm cho đến lúc về hưu.
Còn ông Đỗ Mười ? Ông là thợ sửa khóa, nhận thức chính trị sơ sài và lại mắc bệnh tâm thần, ban đêm leo lên cây bàng ngồi ngất ngư.
Ngòi bút Bùi Tín mô tả các lãnh tụ cộng sản một cách tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì Bùi Tín chỉ kể lại mà không phê phán. Tay nghề bốn mươi năm cầm bút của Bùi Tín là ở chỗ đó. Mặt Thật là một cuốn sách hay, một tài liệu lịch sử thành công về diễn đạt và có giá trị văn học. Một cuốn sách cần đọc. Tôn Thất Thiện trong một lá thư cho tôi nói rằng đọc xong ông phải kinh phục (kinh không có dấu sắc) tác giaœ.
Nhưng nếu như vậy thì phải đặt ra một số câu hỏi.
Tại sao những con người như vậy lại có thể khuất phục được cả một dân tộc ? Tại sao hàng ngàn, hàng vạn trí thức lỗi lạc đã phục tùng họ một cách ngoan ngoãn, và còn hết lời tâng bốc họ, làm biết bao nhiêu người khác tưởng họ là những thần tượng và chạy theo họ ? Chính Bùi Tín, tác giả cuốn Mặt Thật, trong bao nhiêu năm làm "đại tá - nhà văn - nhà báo" cũng đã tô son điểm phấn một cách đắc lực cho cái chế độ mà ngày nay ông muốn lột trần bộ mặt thật. Không lẽ trong cả mấy chục năm trường những trí thức xuất sắc như thế lại không nhận ra thực chất tồi tệ của những người lãnh đạo cộng sản ? Tại sao họ đã tự lừa dối lương tâm mình và đóng góp lường gạt cả một dân tộc ?
Người trí thức cộng sản không thể trả lời được những câu hỏi gay gắt đó, nhưng họ có thể hỏi ngược lại những người chất vấn họ những câu hỏi không kém nhức nhối. Bởi vì đa số - dù không phải là tất cả - những trí thức không cộng sản cũng đã phục tùng những công cụ chẳng ra gì của ngoại bang. Những trí thức quốc gia cũng đã đem hết tâm huyết hô hào biết bao nhiêu thanh niên bỏ mình cho một lý tưởng dân chủ không hề làm bận tâm ông Diệm, ông Nhu, hay cho một "chính nghĩa quốc gia" không hề có trong đầu óc các ông Big Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều trí thức khác đã tự đặt mình ra ngoài lề lịch sử, tự cắt bỏ khỏi số phận đất nước, đào nhiệm và cầu an.
Cuối cùng đất nước như ngày hôm nay, sau tất cả những gì đã xảy ra. Vai trò của người trí thức Việt Nam - cộng sản và không cộng sản - thật là bẽ bàng. Công bình mà nói cũng có những trí thức Việt Nam không làm tay sai cho một bè lũ hay một chế độ gian trá nào mà vẫn phấn đấu, vẫn cố hiện diện trong cuộc vận hành của lịch sử. Nhưng họ đã thất bại. Trí thức Việt Nam đã thất bại hoàn toàn.
Đổ lỗi cho nhau, luận tội nhau chỉ là để xem ai tồi hơn ai, có ích lợi gì ? Hơn nữa, lên án và kết tội nhau còn sai vì nói chung trí thức Việt Nam lương thiện, yêu nước và cũng đã hy sinh nhiều. Có một cái gì đó vượt khỏi lô-gích bình thường mà ta cần nhận diện để đừng buộc tội lẫn nhau một cách bất công và vô ích. Có lẽ chúng ta phải tìm giải thích cho sự phá sản này trong lý lịch và trong gia phả của người trí thức Việt Nam chúng ta.
Trí thức Việt Nam ngày nay là hậu thân của giai cấp sĩ phu ngày trước. Mối liên hệ phụ-tử vẫn còn rất thắm thiết. Kẻ sĩ vẫn còn là mẫu mực của rất nhiều trí thức Việt Nam. Ngày nay người ta vẫn còn tự hào là có tư cách của kẻ sĩ, người ta vẫn còn khen nhau là có thái độ của kẻ sĩ.
Nhưng kẻ sĩ là gì nếu không phải là một mẫu người tồi hèn, vong thân ?
Chúng ta vẫn còn là kẻ sĩ, và vì thế vẫn còn mang cái tật nguyền này của kẻ sĩ. Vấn đề là như thế. Người ta có thể hấp thụ mau chóng những kiến thức và những kỹ thuật mới, nhưng từ bỏ một tập quán và một tâm tính đã được nhào nặn qua nhiều thế hệ, đã ăn rễ vào con người và đã biến thành một bản năng, là một điều khó gấp nhiều lần. Hãy thử lấy một thí dụ về trọng lượng của tập quán. Tại sao người Nhật lại lái xe bên tay trái ? Họ có bị người Anh đô hộ bao giờ đâu ? Lý do chỉ giản dị là các hiệp sĩ Nhật quen đi bên trái các hành lang để có thể nhanh chóng rút gươm bằng tay mặt !
Nho Giáo không tạo ra kẻ sĩ để làm một con người tự do, để chịu trách nhiệm trước xã hội và để lãnh đạo xã hội mà chỉ tạo ra kẻ sĩ để làm dụng cụ cho một guồng máy và làm thủ hạ cho các vua chúa. Trong suốt dòng lịch sử, kẻ sĩ Trung Hoa và Việt Nam đều chỉ biết sống với số phận tôi tớ. Sĩ là một nghề, nghề đi học và nghề làm quan. Trước sau là nghề quì. Quì trước mặt thầy để học với ước vọng "thành đạt" để được quì trước các vua chúa. Nếu quì là thái độ của kẻ sĩ thì chờ đợi là triết lý của kẻ sĩ. Thời gian trưởng thành của kẻ sĩ được gọi là thời "chưa gặp" [lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất], gặp một chủ để thờ. Kẻ sĩ không khởi xướng ra một sự nghiệp nào mà chỉ chờ đợi để được làm bầy tôi cho một minh chủ nên hậu quả tất nhiên là kẻ sĩ phải chấp nhận luật chơi sẵn có của kẻ đã làm nên sự nghiệp, đem trí tuệ của mình minh họa cho ý của chủ. Và luật chơi của chủ rất khắc nghiệt. Các vua chúa muốn dùng họ thì dùng, muốn cách chức đuổi đi, muốn căng nọc ra đánh, muốn thiến họ như thiến heo thiến gà, muốn giết họ thì giết, muốn giết cả nhà họ cũng được, kẻ sĩ cam chịu hết. Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tùy tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được. Điều kinh ngạc là trong hàng chục thế kỷ kẻ sĩ đã có thể chấp nhận một khuôn mẫu đầy đọa và hạ nhục mình như thế, để rồi cuối cùng sự phục tùng vô điều kiện trở thành một bản năng và một giá trị.
Khổng Minh tài ba như thế mà gặp thời nhiễu nhương cũng chỉ biết ngồi trong lều cỏ để chờ một minh chúa.
Nguyễn Trãi là một kẻ sĩ siêu việt cả về văn lẫn võ, lại có cả chí khí hơn người, Lê Lợi là một phú nông cục mịch. Tại sao lại "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần" ? Tấn thảm kịch còn lớn hơn ở chỗ Lê Lợi không có đủ trí tuệ để viết ra câu đó, chính Nguyễn Trãi đã sáng tác ra câu đó.
Cao Bá Quát là một kẻ sĩ ưu việt và ngang ngược, dám nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Nhưng Cao Bá Quát không lãnh đạo cuộc nổi dậy mà chỉ phò Lê Duy Cự. Giả thử cuộc nổi dậy thành công thì cũng chỉ để đưa đến kết quả "Lê Duy Cự vi quân, Cao Bá Quát vi thần". Ngay cả khi kẻ sĩ chống lại một ông chủ thì cũng chỉ để hy vọng được phò một ông chủ khác, họ không sinh ra để làm chuœ.
Cao Bá Quát thất bại, bị chặt đầu và tru di tam tộc. Nguyễn Trãi thành công, để cũng chỉ được cái vinh dự quì gối trước Lê Lợi, rồi cũng bị chặt đầu và tru di tam tộc.
Trong lịch sử Trung Hoa, những kẻ làm nên nghiệp đế vương, dù là Lưu Bang, Hạng Võ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dận, Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương đều không phải là kẻ sĩ. Họ là hào phú, là các tay anh chị, hay vốn thuộc dòng dõi bá vương. (Tào Tháo là một ngoại lệ, nhưng Tào Tháo bị kẻ sĩ chối bỏ và lên án là gian thần).
Trong lịch sử Việt Nam, những kẻ giành được ngôi vua, dù là Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh đều là quí tộc, võ tướng hay các tay anh chị chứ không phải là kẻ sĩ. (Hồ Quí Ly là một ngoại lệ, nhưng Hồ Quí Ly hành động như vậy vì tự coi mình là người Hoa hơn là người Việt nên coi thường nề nếp Việt Nam ; chiếm được ngôi vua, Hồ Quí Ly đã lập tức đổi tên nước là Đại Ngu theo tên cố quốc của mình).
Một thực tế thê thảm như vậy chứng tỏ khuôn mẫu Khổng Nho đã tha hóa kẻ sĩ tới mức nào. Một thực tế bi thảm khác là tất cả những tiến bộ về tư tưởng của Trung Hoa đã chỉ có trước khi Khổng Giáo được đưa lên hàng một quốc giáo. Hơn hai ngàn năm ngự trị của khuôn mẫu Khổng Giáo đã làm tê liệt hẳn óc sáng tạo. Các hậu quả vẫn còn thấy được : nhiều nước châu Á, nhờ không chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách quá nặng nề, ngày nay đã rất phát triển, nhưng người châu Á vẫn hầu như vắng mặt trong các giải Nobel, họ vẫn thua xa người phương Tây về óc sáng tạo trong mọi địa hạt.
Trong xã hội Khổng Nho, kẻ sĩ không hội nhập vào xã hội. Lúc hàn vi kẻ sĩ sống qua ngày, đợi cơ hội làm quan. Lúc được làm quan kẻ sĩ trở thành những tay sai không điều kiện cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Kẻ sĩ được vua chúa xếp hàng đầu trên nông, công, thương, nhưng thực ra kẻ sĩ bị loại khỏi xã hội. Một điều rất đáng chú ý là trong xã hội ta ngày xưa kẻ sĩ hoàn toàn vắng mặt trong các chức quyền địa phương xuất phát từ dân gian như chánh tổng và lý trưởng, những chức vụ đã có thể là những bàn đạp để tiến lên quyền lực quốc gia. Kẻ sĩ không có hậu thuẫn quần chúng vì sống ngoài lề xã hội. Kẻ sĩ cũng không có tài sản vì không biết và cũng không muốn kinh doanh buôn bán, không những thế kẻ sĩ còn được giáo dục và nhồi nặn để khinh thường và thù ghét hoạt động kinh doanh, buôn bán. Phi thương bất phú, kẻ sĩ không có độc lập về kinh tế cho nên cũng không có thể có tự chủ về chính trị. Tại sao lại "Nguyễn Trãi vi thần" ? Bởi vì không muốn "vi thần" cũng không được. Nguyễn Trãi không có thủ túc và cũng không có tài sản để phất cờ khởi nghĩa. Kẻ sĩ trong khuôn mẫu Khổng Nho là mẫu người lệ thuộc vào vua chúa và cuối cùng chịu ơn vua chúa. Quyền lực quốc gia chỉ truyền tay giữa một bên là các vua chúa và một bên là đám anh hùng áo vải, những người không chịu ơn vua chúa và do đó dám thách thức vua chúa.
Tình trạng vong thân kéo dài từ đời này sang đời khác đã khiến kẻ sĩ mất hẳn lòng tự tin. Tuy bề ngoài có khi kẻ sĩ huênh hoang "có giang sơn thì sĩ đã có tên, từ Chu Hán vốn sĩ này là quí" [Nguyễn Công Trứ], nhưng trong thâm tâm kẻ sĩ không tin ở mình và cũng không tin ở cả giai cấp sĩ của mình ; do đó kẻ sĩ không những không dám có ý định dựng nghiệp mà còn không sẵn sàng giúp một kẻ sĩ khác dựng nghiệp. Kẻ sĩ phải làm bầy tôi, nếu từ chối số phận tôi tớ và dám mơ ước làm vua, kẻ sĩ đã vi phạm đạo lý của giai cấp mình và bị lên án là gian thần, thoán nghịch, phản tặc. Nguyễn Hữu Chỉnh coi thường vua Lê chúa Trịnh bất lực và muốn nắm quyền thì đã sao, mà người ta lên án ông là gian hùng và hả hê khi ông bị bốn ngựa xé xác ? Có sử gia nào đủ khách quan để nhận định rằng chính hành động vào Nam liên kết với Tây Sơn của Chỉnh đã mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước ?
Luân lý Nho Giáo bắt người có học không được làm chủ mà chỉ được làm tôi cho một ông chủ nào đó, và tệ hơn nữa phải làm tôi suốt đời cho một chủ bởi vì êtôi trung không thờ hai chúaê. Kẻ sĩ trong quan niệm Nho Giáo là một kẻ nô lệ chứ không phải là một con người tự do. Do bản năng và địa vị xã hội, kẻ sĩ không dám và không thể, và do đó khiếp phục những kẻ dám và có thể. Bài Bình Ngô Đại Cáo hùng tráng vì Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi chứ không viết cho mình, vì lúc viết Nguyễn Trãi đã tự đặt mình vào địa vị của Lê Lợi, tưởng tượng mình là vua ["Trẫm đây, núi Lam Sơn dấy nghĩa..., một mảnh nhung y dựng nên nghiệp lớn..."].
Tôi nói nhiều về kẻ sĩ như vậy bởi vì cái tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện rất mạnh trong tiềm thức của chúng ta.
Di sản nặng nề nhất là triết lý ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời. Tâm lý này ngự trị trong đầu óc hầu hết mọi trí thức Việt Nam. Nó cũng ngự trị ngay cả trong đầu óc những người có ý chí nhất, nghĩa là dám hoạt động chính trị. Ở các vị này nó thể hiện qua lối làm chính trị nhân sĩ. Những người trí thức tự cho là mình có một giá trị nào đó - có khi chỉ là do một sự tự đánh giá mình rất chủ quan - thường không chịu tham gia tạo dựng ra một lực lượng chính trị nào và cũng không lên tiếng bênh vực một lập trường nào, ngay cả khi họ thấy là đúng. Họ chỉ muốn là những nhân sĩ đứng ngoài các tổ chức và các cuộc tranh cãi gay go để vừa khỏi tốn công sức vừa khỏi bị cháy. Họ tin rằng một khi họ đã là nhân sĩ thì dù ai nắm được chính quyền cũng vẫn cần họ. Đó là một tính toán mà họ cho là sáng suốt, và quả thực là một chọn lựa sáng suốt khi người ta chỉ có tham vọng làm công cụ. Chính cái thái độ nhân sĩ này, hậu thân của tâm lý kẻ sĩ ngày xưa đã khiến các tổ chức đối lập dân chủ hiện nay không được hưởng ứng và không mạnh lên được trong một giai đoạn đầy thử thách như giai đoạn chúng ta đang sống.
Một di sản khác là sự thiếu quyết tâm. Trí thức Việt Nam có nhiều người không thiếu ý kiến nhưng cái quán tính "không dám và không thể" thừa hưởng từ tâm lý kẻ sĩ do hàng ngàn năm uốn nắn này vẫn còn quá mạnh khiến họ do dự bất quyết, sẵn sàng thỏa hiệp và nhượng bộ trước những giải pháp thô bạo trái ngược với nguyện ước của mình, rồi sau cùng đánh mất chính mình. Nhiều trí thức còn thực sự ngưỡng mộ những tay anh chị bởi vì họ ngưỡng mộ cái liều, cái bạo mà họ không có được. Họ bị hớp hồn trước những người có bản năng mạnh và dám làm, bởi vì đó là một phần của chính họ mà họ đã mất đi và vẫn tiếc.
Mẫu người kẻ sĩ không phải chỉ còn tồn tại mà còn đang có cơ được hồi sinh. Các chế độ độc tài tại châu Á, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa. Một âm mưu tha hóa trí thức mới đang xuất hiện. Và lần này kẻ sĩ có một cái tên gọi mới : chuyên viên. Ngay trong lúc này đang có nhiều trí thức Việt Nam chủ trương hãy thôi làm chính trị, tạm chấp nhận chế độ này, hợp tác với nó trên các mặt chuyên môn. Họ hy vọng sẽ dần dần dân chủ hóa được chế độ. Nhưng nếu kẻ sĩ ngày trước trong hơn hai ngàn năm không thay đổi được chế độ quân chủ thì trí thức chuyên viên ngày nay dù có bản lĩnh hơn và có bối cảnh thuận lợi hơn cũng không thể thay đổi được chế độ độc tài này trong một hai thế hệ, nếu họ chỉ là những chuyên viên.
Hãy coi chừng lịch sử lập lại. Tại sao chủ nghĩa cộng sản bị phủ nhận tại Tây Âu, nơi đã khai sinh ra nó, mà lại thành công tại Trung Hoa, Việt Nam và Triều Tiên ? Tại sao, ngoại trừ hòn đảo Cuba nhỏ bé, chế độ cộng sản chỉ tồn tại được trên ba nước này ? Lý do chính là vì chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ này như là một thứ Khổng Giáo Mới. Có gì khác giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Mác Lênin ? Cũng đặt nền tảng trên bạo lực, cũng độc tài toàn trị, cũng giáo điều, cũng độc tôn, cũng giai cấp, cũng "nhân trị" nghĩa là cai trị một cách tùy tiện bất chấp luật pháp, cũng bưng bít, cũng cấm đoán tư tưởng, cũng bài xích các tôn giáo, cũng triệt hạ kinh doanh, cũng đề cao sự nghèo khổ để cai trị bằng sự nghèo khổ. Cả hai đều là những hệ thống nửa tôn giáo, nửa chính trị. Cả hai đều đưa đến bế tắc và cả hai đều có cùng một biện hộ sau khi đã thất bại : không phải lý thuyết sai mà là áp dụng sai. Chỉ cần lấy Marx và Anghen đặt vào địa vị của Khổng Tử và Mạnh Tử, lấy các cuốn Tư Bản Luận, Lênin Toàn Tập thay cho Tứ Thư và Ngũ Kinh, lấy Trung Ương Đảng thay cho Triều Đình, đem các đảng viên thay cho đám quân tử là đâu lại vào đó. Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản. Chỉ có điểm mới là chủ nghĩa cộng sản tâng bốc quần chúng vô sản mà Khổng Giáo mạt sát, dù chỉ là một sự tâng bốc giả dối. Nếu trước đây Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản thì ngày nay những tồn đọng của tư tưởng Khổng Giáo đang giúp các chế độ này kéo dài.
Giết hại công thần
Có một sự kiện gần như một định luật trong lịch sử Việt Nam là những người dựng nên đế nghiệp thường hay giết hại công thần sau khi đã thành công. Tại sao ? Câu trả lời gần như tự động là những người đó gian xảo, bội bạc. Xét cho cùng thì câu trả lời này không đúng.
Những người đã có khả năng qui tụ nhân tài, khiến họ tận tụy và nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử với mình tất nhiên phải có những đức tính đặc biệt. Họ phải là những người có khả năng thu hút, chinh phục lòng tin và sự trung thành bằng cách chứng tỏ tài năng và đức độ. Trừ một vài ngoại lệ rất họa hiếm, họ phải là những người khá tốt và thủy chung. Ngày nay một người tham gia một tổ chức chính trị chỉ kết bạn với lãnh tụ mà thôi, nếu thất vọng có thể bỏ ra đi, nhưng ngày xưa thì khác hẳn. Lãnh tụ không những phải là người lãnh đạo mà còn là minh chủ, một chúa công có quyền trên tính mạng của thuộc hạ. Các nhân tài ngày xưa vì vậy chọn chúa rất thận trọng, họ hỏi han về minh chủ, tới yết kiến minh chủ, quan sát từng thái độ, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, có khi xem tướng rồi mới quyết định vì đó là quyết định vô cùng quan trọng đối với họ. Họ khó có thể lầm được. Muốn được họ thờ thường phải là người có đức lớn. Trong vô số những người phất cờ khởi nghĩa chỉ có một người thành công thì người đó phải là người có bản lãnh phi thường, mà bản lãnh lớn nhất là qui tụ, điều động, chinh phục lòng tin. Khó mà có thể giả dối được bởi vì không thể đánh lừa một số người đông đảo trong suốt một thời gian dài tranh đấu cam go.
Vậy mà ông vua nào thành công dựng được nghiệp đế cũng giết hại công thần cả. Như thế việc giết hại công thần phải có một giải thích khác hơn là sự bội bạc. Giải thích đó là sự giết hại công thần là cần thiết trong lô-gích Khổng Giáo.
Khổng Giáo coi quyền của vua là quyền thiêng liêng của trời cho. Quần thần phải phục tùng vô điều kiện, có chết cũng không được thắc mắc. Đã là quyền thiêng liêng thì trời ban cho ai, người đó được. Đã là kẻ sĩ, nghĩa là đã từ bỏ mọi ý định làm chủ để chỉ nuôi giấc mộng làm tôi cho một minh chủ, thì dĩ nhiên phải tự coi là mình không có "mệnh trời" đó rồi. Hạnh phúc của kẻ sĩ chỉ là được vào chốn cung đình, thấy mặt long nhan, được chút chức vị và hầu hạ một người được trời trao thiên mệnh. Nhưng những kẻ sĩ giúp một anh hùng lập nghiệp đế thì lại khác. Họ đã được gặp một người dựng nghiệp, nghĩa là còn có mệnh trời hơn hẳn những ông vua khác. Họ đã chia cơm sẻ áo, chen vai sát cánh với kẻ anh hùng đó. Họ đã chứng kiến những sự lo âu, hốt hoảng, những sai lầm và nhát sợ của người anh hùng đó. Họ đã chứng kiến tận mắt và đầy đủ một cuộc lập nghiệp đế vương và đã khám phá ra rằng cuộc dựng nghiệp này chẳng có gì là thần thánh cả. Chính vì sự khám phá này mà họ không còn là những kẻ sĩ chân chính nữa. Những công thần đã giúp vua dựng nghiệp cũng phải là những người rất đởm lược, họ dễ nhận ra là ông vua anh hùng nhất cũng không khác họ bao nhiêu. Họ đã nhìn thấy bí quyết dựng nghiệp, họ đã nhận ra sự tương đối của thuyết "thiên mệnh" và biết đâu họ đã thấy chính họ cũng có thể làm vua. Vì thế họ phải chết.
Kẻ đế vương thực ra cũng không có chọn lựa. Tất cả căn bản quyền lực của ông ta dựa trên sự chính đáng của thiên mệnh, ông ta không thể dung túng những kẻ không còn tin tưởng tuyệt đối ở sự huyền bí đó nữa và lại có khả năng ngang tầm với ông ta. Đó không phải chỉ là mối nguy mất ngôi vua mà còn là mối nguy mất mạng và tuyệt giống bởi vì trong hệ thống quân chủ chuyên chế, thiên mệnh đã được trao cho ông ta rồi thì chỉ có cái chết mới có thể tước đoạt, và nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc. Những công thần có khả năng đe dọa ngôi báu hay làm mất đi tính thiêng liêng của nó vì vậy phải bị tiêu diệt.
Nhưng những công thần trung thành tuyệt đối cũng không thể dung túng được, bởi vì họ đe dọa trật tự của chế độ quân chủ tuyệt đối trong đó quần thần không hơn những con vật trước mặt nhà vua, vua muốn nọc ra đánh, muốn thiến tùy ý. Những khai quốc công thần không còn là những kẻ sĩ chân chính nữa vì họ đã quá quen với vua, đối xử với họ như vậy không khỏi mang tiếng tệ bạc, mà không đối xử như vậy thì không còn kỷ cương triều đình. Họ là những cái gai phải nhổ để trật tự vua tôi được trở lại bình thường.
Mối liên hệ vua tôi, cốt cán của tư tưởng chính trị Khổng Giáo, đưa tới hai hậu quả.
Một là, kẻ sĩ, tinh hoa của xã hội, mất hết nhân cách, xã hội vì thế lẩn quẩn trong sự thui chột và hèn kém.
Hai là, các cuộc khủng hoảng xã hội rất khó có lối thoát. Kẻ sĩ chân chính không phải là người khởi nghiệp. Triết lý của họ là lúc khó khăn thì lánh mặt. Chỉ có một số rất ít có chí khí để tham gia tranh đấu trong thời ly loạn mà thôi. Những kẻ này phải chọn minh chủ thật kỹ. Trước hết minh chủ phải là người có chân mạng đế vương, nếu không thì theo ông ta chỉ uổng mạng mà thôi, sau đó minh chủ lại phải là người thật trung hậu, nếu không thì khi thành công mạng mình cũng toi mạng về tay ông ta. Lịch sử Trung Quốc không thiếu những chuyện những người giúp chủ dựng nghiệp, lúc thành công thì vội vã cao bay xa chạy. Kết quả là ít ai nhập cuộc, những loạn lạc thường kéo dài rất lâu, những kẻ có gan dạ dấn thân đã rất ít mà trong số này, những người tìm được minh chủ l_ại càng khó. Và những người dám đứng lên khởi xướng thì lại không thể kết hợp được với nhau, bởi vì không ai dám nhường ngôi minh chủ cho người khác, nhường ngôi minh chủ là nhường tất cả chứ không có thỏa hiệp nào. Với thời gian "chọn đúng chúa mà thờ" trở thành một lo âu làm tê liệt những kẻ sĩ hiếm hoi có ý định cứu đời. Trong đa số trường hợp nó đưa họ trở lại sự thụ động cố hữu.
Ngày nay triết lý thiên mệnh của Khổng Giáo đã đi vào quá khứ, ít ai còn tin có những kẻ có thiên mạng đế vương nữa. Nhưng cái tâm lý chọn minh chủ vẫn còn tồn tại, và bởi vì nó là một tâm lý, nó nấp kín trong thâm sâu của chúng ta, nó chi phối hành động của chúng ta một cách bí mật đến nỗi chính chúng ta không thấy. Hai câu chuyện sau đây chứng tỏ cái tâm lý mà ta tưởng như đã hoàn toàn biến mất thực ra vẫn còn lãng vãng đâu đây. Tôi kể ra chỉ để độc giả thấy rằng đoạn tuyệt với một văn hóa là một điều rất khó.
Cách đây không lâu, một lãnh tụ của một tổ chức chính trị có lúc gây được tiếng vang đã có nhã ý đến thăm tôi. Tôi hỏi anh lý do nào có thể khiến một người tham gia tổ chức của anh. Anh đắn đo rồi trả lời bởi vì người ta ngưỡng mộ một lãnh tụ như anh. Đó là một thanh niên hoàn toàn được đào tạo tại một nước tân tiến.
Tôi cũng biết hai người khoa bảng khác được đào tạo tại phương Tây. Không những chỉ có bằng cấp lớn mà họ còn thực sự có khả năng và bản lãnh lớn, tôi rất ngưỡng mộ họ. Câu chuyện của họ lại có liên quan tới chính tôi. Chúng tôi đã sát cánh cùng nhau tranh đấu cho dân chủ trong một thời gian. Có cố gắng dài hơi nào mà không có lúc đem tới sự mệt mỏi và nghi hoặc ? Một hôm tôi được họ mời đi ăn tối cùng với một người lạ mặt mà sau này tôi được biết là một nhà tướng số nổi tiếng. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ, nhà tướng số kia đặt nhiều câu hỏi về tôi. Ít lâu sau cả hai bạn tôi tuyên bố ngưng hoạt động. Mãi về sau tôi mới hiểu là tất cả do bữa cơm tối đó. Họ đã nhờ nhà tướng số kia cho biết về tôi và kết luận của vị này là tôi không có tướng của một minh chuœ.
Tôi rất buồn vì mất hai bạn đồng hành hiếm có, nhưng tôi rất kính trọng họ, họ là những trí thức hiếm hoi còn có ý định dấn thân, và thực sự đã vất vả với tôi trong một thời gian. Tôi chỉ giận cái tâm lý kẻ sĩ của Khổng Giáo không chịu cút hẳn khỏi tâm hồn người Việt. Tôi cũng không giận ông thầy tướng kia vì thực ra ông ta nói đúng : thời này làm gì còn minh chủ, chỉ có những kẻ khùng mới nuôi mộng làm minh chủ mà thôi. Tôi chỉ muốn góp phần nhỏ bé của mình cho thắng lợi của dân chủ mà thôi. Vậy mà cũng gian truân.
Anh không biết gì về cộng sản
Chương "Mặt Thật Của Ai ?" mà quí vị vừa đọc phần lớn lấy từ một bài báo cùng đề tựa mà tôi đã gởi đăng báo Ngày Nay (Houston, Hoa Kỳ). Bài báo này đã gây cho tôi khá nhiều vấn đề. Trước hết là ngay trong nội bộ nhóm Thông Luận. Mới đầu tôi định đăng báo Thông Luận, tôi không ngờ gặp phải những phản ứng rất mạnh của những người bạn mà tôi đưa đọc trước. Họ sợ một bài báo như thế sẽ đem lại cho nhóm Thông Luận những thù ghét mới. Thấy rằng nếu đăng báo Thông Luận có thể sẽ gây sứt mẻ đáng tiếc, tôi gởi đăng báo Ngày Nay, rồi lại gặp một vấn đề khác. Một anh bạn đọc xong, nổi giận nói rằng một bài đặc sắc như vậy sao không đăng báo mình mà lại đem đăng báo khác. Bài đăng trên báo Ngày Nay cũng làm tôi vất vả.
Một loạt bài phản bác dữ dội được tung ra ngay sau đó. Một vị ở Houston, mà sau này tôi được biết là có kiến thức khoa học, cho rằng bài đó là một xúc phạm lớn đối với tổ tiên ; Nguyễn Gia Kiểng là tác giả bài đó thì là chính phạm, nhưng báo Ngày Nay đã đăng bài đó thì cũng là tòng phạm. ["Chính phạm" và "tòng phạm"â là những tiếng được dùng trong bài]. Nếu có quyền, chắc chắn các vị này đã lôi cổ tôi ra tòa và tặng cho vài cuốn lịch rồi. Cả tác giả bài đả kích này lẫn tờ báo đăng nó đều đang nỗ lực tranh đấu lên án cộng sản chuyên chính giáo điều, chà đạp tự do ngôn luận và báo chí.
Một nhân sĩ nhân đọc bài báo của tôi trên Ngày Nay, cảm hứng viết một bài góp ý, với tựa đề là "Nghề Quì", đóng góp thêm một số ý kiến cá nhân đồng thời phê phán một số nhân vật. Thế là tôi lại lãnh một bài đánh khác, mà lần này đánh oan vì những ý kiến làm tác giả bài đánh này nổi giận không phải là của tôi mà là của vị nhân sĩ kia. Quá giận, tác giả lôi cả thân thế tôi ra phê phán và kết luận tôi là hạng người vô liêm sỉ. Cũng may lúc đó tôi có chút thời giờ rảnh rỗi nên đã gởi nguyên văn bài của mình cho tác giả. Ông này tỏ ra rất đứng đắn vì sau đó, khi đã biết có sự hiểu lầm, ông viết cho tôi một lá thư ngắn với lời lẽ thân thiện và cho đăng một bài cải chính trên ngay tờ báo đã đăng bài đánh tôi. Đó là lần duy nhất tôi thấy một người đánh oan một người khác đã giải oan cho người đó. Bình thường thôi đánh cũng là phúc lắm rồi.
Một lần chúng tôi gặp một sự cố trong một buổi họp Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận. Bình thường thì những buổi họp của câu lạc bộ là sự gặp gỡ thân thiện của những người có cảm tình với nhau dù cùng hay không cùng chính kiến. Khi thành lập, chính tôi đề nghị đặt tên là Câu Lạc Bộ Độc Giả Thông Luận nhưng đề nghị của tôi bị phản bác, một vị đã đề nghị thay "Độc Giả" bằng "Thân Hữu" với lập luận rằng ai muốn là độc giả chẳng được, nhưng muốn gặp nhau thảo luận thì phải có tinh thần thân hữu, thân hữu không có nghĩa là đồng ý mà chỉ là thái độ thân thiện, tương kính. Tôi vẫn thấy hai chữ "Thân Hữu" có vẻ giới hạn quá. Biểu quyết, và tôi thua. Kết quả là Câu Lạc Bộ Thân Hữu Thông Luận ra đời với mục đích là lâu lâu gặp nhau một lần để thảo luận trong tinh thần "không có ý kiến nào cấm nêu ra, không có đề tài nào cấm bàn đến".
Trớ trêu thay hôm xảy ra vụ lộn xộn đó, thuyết trình viên lại chính là người đề nghị thay "độc giả" bằng "thân hữu". Việc ông được chọn để dẫn nhập buổi gặp gỡ đó đã được quyết định từ mấy tháng trước, nhưng trong khoảng thời gian đó ông trở thành tổng thư ký của một tổ chức mới, tuy vừa thành lập nhưng có sức mạnh vì chỉ là mặt ngoài của một tổ chức đã có từ lâu và có rất nhiều phương tiện. Chức vụ mới đó đã khiến ông không còn thân hữu với chúng tôi nữa và ông đem đến cả một lực lượng hùng hậu. Buổi họp biến thành một tòa án nhân dân xử nhóm Thông Luận. Lực lượng này nhao nhao lên, bất chấp chủ tọa, muốn nói là nói, nói gì cũng được vì họ sẵn sàng ẩu đả và hình như chỉ đợi cơ hội để ẩu đả. Chúng tôi cố nhịn nhục cho qua. Rồi buổi họp cũng xong, nhưng một thanh niên xấn lại phía tôi, chỉ tay vào mặt tôi mà nói : "Anh là đồ ngay thơ ấu trĩ, anh không hiểu gì về cộng sản cả".
Tôi biết lúc đó không phải là lúc để thảo luận với anh ta. Tôi cũng không giận anh ta, từ đầu buổi họp tôi nhận xét anh ta là một trong những người ôn hòa nhất của "lực lượng" này. Dáng dấp anh ta cũng khá trí thức, đôi mắt thông minh và hiền lành. Vả lại anh ta cũng khá khoan dung đối với chúng tôi : chúng tôi chỉ "ngây thơ ấu trĩ" và "không biết gì về cộng sản" chứ không phải là những tên phản bội, những tay sai cộng sản như các bạn anh ta nói sang sảng trong suốt buổi họp. Anh ta trạc độ ba mươi tuổi.
À, nếu tôi có thể "ngây thơ ấu trĩ" được thì diễm phúc biết bao nhiêu ? Tiếc quá, lúc đó tôi đã gần năm mươi tuổi rồi mà chưa làm được gì ra hồn, cuộc đời cũng chẳng có gì vui, đã nhiều thất vọng và mất mát. Muốn ngây thơ cũng không được nữa.
Không biết gì về cộng sản ? Tôi biết không nhiều nhưng cũng biết chút đỉnh. Lớn lên ở vùng quê do cộng sản kiểm soát, cha bỏ trốn, chú bác bị giết, mẹ dắt ra hầu tòa án nhân dân từ thời năm tuổi. Lớn lên chống cộng từ thời sinh viên, chống cộng trong hàng ngũ Việt Nam Cộng Hòa, đi tù cộng sản, làm viên chức cộng sản, làm dân cộng sản, sống ngoài vòng pháp luật dưới chế độ cộng sản, rồi ra hải ngoại chống cộng sản. Có thể nói tôi là một trong những người có cơ hội quan sát cộng sản dưới mọi góc nhìn và cọ sát với cộng sản trên nhiều cương vị. Anh thanh niên kia chắc có thân nhân bị đi tù cải tạo, gia đình có thể đã bị tịch thu tài sản và đã gian lao tìm cách vượt biên, như thế là đủ để anh ấy nghĩ mình biết rõ cộng sản, đủ tư cách để coi những người không coi cộng sản như quỉ ma, thú dữ là không biết gì về cộng sản.
Thái độ của anh ta không làm tôi ngạc nhiên chút nào, bởi đó là thái độ tự nhiên của con người trong văn hóa Khổng Mạnh, một văn hóa được lưu truyền qua cuộc sống, từ đời này qua đời khác trải mấy nghìn năm, mà người ta tiếp thu một cách tự nhiên và vô tình.
Văn hóa Khổng Mạnh là thứ văn hóa xác quyết, bất cần chứng minh. Ông Khổng Khâu, ông Mạnh Kha và tất cả các danh nho qua các thời đại chỉ khẳng định một cách chắc nịch thôi chứ có bao giờ cần chứng minh cái gì đâu. Ông Khổng Khâu nói người có hiếu thì cha chết ba năm không được thay đổi nếp sống gia đình do cha để lại, người ngay thẳng thì cha có đi ăn trộm cũng phải bao che, nhưng ông không hề bận tâm giải thích tại sao. Các ông thánh hiền kế tiếp nói rằng đã là đàn bà đức hạnh thì phải phục tòng cả cha, lẫn chồng, lẫn con cũng có cần biện luận gì đâu. Văn hóa của chúng ta là cái văn hóa trong đó mình cứ ném bừa chân lý của mình vào mặt người khác mà không cần suy nghĩ xem đó có phải là những chân lý thực không.
Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa phủ nhận kiến thức. Người ta không cần nghiên cứu, tìm hiểu, miễn là cứ thấy phải đạo là có thể tự tin và tự hào được rồi. Tất cả các cuốn Tứ Thư, Ngũ Kinh nếu gộp chung lại tất cả và in thành một cuốn sách thì cũng chỉ vài trăm trang thôi, nghĩa là chỉ bằng một nửa cuốn sách mà các vị đang cầm trong tay. Một người bình thường có thể học một tuần lễ là xong, thế mà các sĩ tử cứ nhai đi nhai lại trong mấy ngàn năm thì hỏi kiến thức có cái gì đáng kể ? Ông Phan Khôi là một nhà nho xuất chúng, ông đi học chữ quốc ngữ tới trình độ tiểu học và quả quyết là đã học hỏi được nhiều hơn hẳn so với thời kỳ học chữ nho. Với thời gian, cả một xã hội học thói quen nói và làm mà không cần một kiến thức nào cả. Thái độ này tạo ra một niềm tin thầm kín rằng mọi người như nhau, chẳng ai biết gì hơn ai. Người ta có thể nói với bất cứ ai "anh chẳng biết gì cả", bởi vì thực ra trong tiềm thức người ta đang nói về chính mình.
Không những không trọng kiến thức, mà người ta còn bài bác việc mở mang kiến thức, bởi vì văn hóa Khổng Mạnh chống lại điều mới, nghĩa là chống lại sự tìm hiểu. Khổng Tử nói : "Bỏ công ra học điều lạ chỉ có hại" [Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ]. Những lời vàng ngọc đó trải đời này qua đời khác tạo ra tâm lý coi điều khác lạ là xấu, là dở, là sai. Trong ngôn ngữ Trung Quốc mà ta du nhập, chữ "dị", nghĩa là "khác", đồng nghĩa với xằng bậy. "Dị đoan" theo nghĩa chiết tự của nó chỉ có nghĩa là điều lạ thôi, nhưng tập quán và thời gian đã biến nó thành "nhảm nhí". Lập dị, quái dị, dị nghị, dị hợm đều mang nghĩa xấu cả. Về điểm này đôi khi tôi thấy vui lòng là người Việt Nam còn giữ được chữ "khác" với nghĩa khách quan.
Không những bài bác điều mới, văn hóa Khổng Mạnh còn hung bạo với điều mới. Khổng Tử lên làm tướng quốc nước Lỗ thì lập tức giết thiếu chính Mão. Chẳng thấy ông Mão có tội cụ thể nào ngoài tội có tài biện luận và lung lạc người khác. Những ai lên án đảng cộng sản đàn áp những người phát biểu ý kiến ngược lại với đảng nên suy nghĩ lại chuyện này. Nho sĩ theo gương bậc "vạn thế sư biểu" này đã đề xướng lên cả một bổn phận đạo đức : vệ đạo. Vệ đạo là chủ trương bảo vệ toàn bộ các giá trị Khổng Giáo bằng cách đánh phá gay gắt và tiêu diệt bằng bạo lực những kẻ dám đi ra ngoài khuôn mẫu có sẵn. Khổng Khâu và các môn đệ, hậu bối của ông, cũng khuyến khích sự tìm tòi, khảo cứu nhưng với điều kiện là đó chỉ là những tìm tòi phải đạo, với mục đích minh họa những ý đã có sẵn, tương tự như đảng cộng sản kêu gọi sáng tạo với điều kiện là sáng tạo trong đường lối do đảng vạch ra, trong khuôn khổ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái chủ trương "vệ đạo" đó đã làm thui chột cả trí tuệ Á Đông và đã dẫn ra pháp trường vô số những người có trí tuệ, đáng lẽ đã có thể cống hiến những đóng góp quí báu. Tôi không thù ghét những người đã đả kích tôi một cách gay gắt, đòi lên án, đòi phải "có thái độ", đòi hành hung (kể cả đả thương thực sự) bởi vì đó chỉ là di sản văn hóa của cái tâm lý "vệ đạo" đã mọc rễ vào tâm hồn chúng ta ngay cả khi chúng ta không ý thức được. Viết một cuốn sách hay về dân chủ không khó bằng không nổi giận khi có người phát biểu ngược ý mình vì một đàng là kiến thức, một đàng là tâm lý. Kiến thức dễ tiếp thu và cũng dễ thay đổi ; tâm lý, trái lại, là cái mà chúng ta không ý thức được và do đó không cảnh giác.
Những phản ứng giận dữ đối với một số bài viết về văn hóa và lịch sử của tôi còn xuất phát từ một di sản khác của Khổng Giáo, đó là tâm lý tôn sùng người xưa. Quí trọng tổ tiên là một tình cảm tự nhiên và cũng là một phần của trí thông minh của loài người. Nó cho phép loài người nối dài cuộc sống trí tuệ của mình tới một thời xa xưa, hiểu được cuộc hành trình đã dẫn tới ngày hôm nay, và cũng ý thức được những điều nên làm cho tương lai. Lòng quí trọng người xưa biến cuộc sống thành liên tục và vĩnh cửu, sinh và tử chỉ là những chốc lát trong cuộc sống liên tục và không ngừng biến đổi của loài người. Quan sát việc làm của người xưa ta rút ra được những kinh nghiệm để xây dựng ngày mai, ta học được những cái đúng của họ, và ta rút nhiều kinh nghiệm quí báu hơn ở những sai lầm của họ.
Nhưng sự tôn sùng người xưa của Khổng Giáo không phải như vậy. Nó là một sự tôn sùng bệnh hoạn, coi người xưa là hơn ngày nay, coi người xưa là hoàn toàn đúng, chúng ta chỉ cần lập lại là đủ. Khổng Tử chủ trương cứ học người xưa là biết việc ngày nay [ôn cố tri tân]. Nhan Uyên hỏi ông về việc trị nước, Khổng Tử trả lời : "Cứ theo lịch nhà Hạ, đội mũ nhà Chu, dùng nhạc của vua Thuấn". Các nho sĩ sau này còn đề cao hơn nữa cái tinh thần sùng bái và bắt chước tổ tiên đó, và người được đề cao làm mẫu mực hơn cả lại chính là Khổng Tử. Ngay cả những câu nói rất tầm thường, và tầm bậy, của ông như cha con phải giấu tội cho nhau, nước loạn thì chớ ở lại cũng được đưa lên hàng đạo lý. Chính Khổng Tử khi nói những câu này cũng không thể ngờ rằng có ngày chúng sẽ được coi là những khuôn vàng thước ngọc. Ông thủ cựu và kêu gọi thủ cựu, nhưng đó chỉ là những ý kiến thôi, chính các triều đại về sau mới biến những ý kiến của ông thành chân lý bất di bất dịch. Cá nhân Khổng Tử nhiều lần dạy đệ tử không nên phò những vua chúa bất nghĩa, nhưng chính ông cũng hai lần định làm gia nhân cho những kẻ phản bội. Như vậy Khổng Tử tuy thủ cựu nhưng không cứng chắc như người ta tưởng. Như đã nói, khi phê phán Khổng Giáo, ta không nên qui trách hết cho Khổng Tử.
Mặc Tử, nhà tư tưởng vĩ đại nhất của Trung Quốc, đã nhiều lần lên án tâm lý rập khuôn theo người trước. Nếu Mặc Tử, thay vì Khổng Tử, được lấy làm mẫu mực thì Trung Quốc đã không thua kém như ngày nay. Mặc Tử có lý : nếu tất cả mọi thế hệ đều lấy những thế hệ trước làm mẫu mực thì xã hội vẫn còn như thời Phục Hy, Thần Nông, nghĩa là vẫn còn ăn lông ở lỗ.
Tinh thần tôn sùng và rập khuôn theo người xưa hình như vẫn còn nặng lắm trong tâm lý trí thức Việt Nam. Một người bạn của tôi có hai bằng cấp khoa học rất cao tại Mỹ và Pháp, có lần giảng cho tôi về sự cao siêu huyền bí và tính khoa học của khoa tử vi. Tôi hỏi anh ta tại sao anh không thấy cái nhảm nhí của tử vi, chỉ có năm yếu tố thôi : giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, nam, nữ mà suy ra tới 108 sao, nghĩa là chỉ có năm phương trình bậc nhất mà có tới 108 ẩn số thì hoặc là hệ thống phương trình đó không có giải đáp chính xác, hoặc là thực ra chỉ có năm ẩn số mà thôi, 103 ẩn số còn lại tự động suy ra từ năm ẩn số chính, nghĩa là vất đi cũng được. Vậy thì khoa tử vi sai ngay từ đầu, nó chỉ là một bài toán ngây ngô do sự kiện trí tuệ chưa được mở mang mà có. Anh ta cự lại : "Tử vi không phải là toán !". Tôi còn biết nói gì đây ? Toán có là gì đâu, ngoại trừ là một cách lý luận đúng ? Nếu bảo có những cái không cần đúng thì còn gì để bàn ? Tức quá, tôi bảo anh ta thử lấy số tử vi của tôi xem sao. Anh ta bèn bấm đốt ngón tay và quả nhiên tôi thấy chỉ có năm sao, tôi không nhớ sao nào, là phải căn cứ vào năm dữ kiện ban đầu mà thôi, những sao khác cứ tự nhiên theo năm sao này mà định vị trí, nhưng anh ta vẫn không chịu thua, anh ta kết luận là tôi không hiểu được cái kiến thức cao siêu của người xưa. Trình độ toán học của anh ta cao hơn tôi nhiều, nhưng anh ta không thấy được cái sai lầm rành rành ra đó vì anh ta đã sẵn có định kiến là người xưa có lý rồi.
Một anh bạn khác cũng tốt nghiệp kỹ sư tại Mỹ và trước đó nổi tiếng là học sinh tú tài xuất sắc nhất của trường Chu Văn An, lận đận tìm cách vượt biên sau năm 1975. Chúng tôi gặp nhau sau khi đi tù cải tạo về và cùng có ý định trốn khỏi Việt Nam. Mỗi lần tính chuyện vượt biên anh ta đều xem bói dịch. Anh ta giải thích với tôi là bói dịch rất đúng bởi vì nó do Chu Văn Vương chế ra. Tôi nói Chu Văn Vương là tổ nhà Chu, sống vào thế kỷ 12 trước Tây lịch, lúc loài người còn rất man rợ, có gì là thông thái, chẳng qua đó là niềm tin ngây thơ vào quỉ thần của mọi dân tộc bán khai. Anh ta tiếc cho tôi không hiểu được cái huyền bí của Kinh Dịch, bởi vì thời đó con người còn trong sáng và còn giao cảm được với thần linh. Điều nghịch lý là đã mấy lần anh ấy ra đi sau khi trúng một quẻ tốt và lần nào cũng bỏ của chạy lấy người hoặc bị công an bắt trói phải chuộc mạng nhưng anh ấy vẫn tiếp tục tin Kinh Dịch.
Cả hai anh bạn tôi trên đây lúc bình thường đều là những người rất sáng suốt và chính xác, nhưng mỗi khi gặp quyết định khó khăn với một xác suất rủi ro lớn họ lại quay về với những tín ngưỡng cổ lậu bởi vì sự tôn sùng cổ nhân được truyền từ đời này qua đời khác vẫn còn mai phục trong trí óc họ.
Đó là chuyện xa, nhưng còn chuyện gần hơn ?
Tôi được đọc không biết bao nhiêu tuyên cáo buộc tội lẫn nhau giữa các phe phái trong các đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Phe nọ lên án phe kia là phản bội đường lối của các cố đảng trưởng, phe nào cũng tự hào là tuyệt đối trung thành với đường lối của các ngài. Sự theo đúng đường lối do người đi trước vạch ra hình như được coi là một tiêu chuẩn để quyết định ai đúng ai sai, ai chính ai tà. Cái tiêu chuẩn kỳ cục này có lẽ chỉ có ở Trung Quốc và Việt Nam. Hai dân tộc này coi sự kiện không làm đúng như người xưa là xúc phạm đến người xưa. Trong các nước cộng sản, Trung Quốc và Việt Nam cũng là hai nước chống xét lại một cách gay gắt nhất. Đó là di sản của tinh thần "bất tác, vô cải" mà Khổng Giáo đề cao. Nên nhớ rằng Khổng Tử coi như bổn phận của người con có hiếu là không sửa đổi gì hết nền nếp của cha trong vòng ít nhất ba năm sau khi cha đã mất, nghĩa là nếu mãi mãi không sửa đổi gì thì còn hiếu hơn.
Trong thế giới thay đổi dồn dập này, mà sức mạnh, chỗ đứng và sự vinh nhục của các dân tộc được quyết định bởi ý kiến và sáng kiến, bởi vận tốc của đổi mới, nếu có một tâm lý mà chúng ta phải khẩn cấp từ bỏ thì đó chính là tâm lý thủ cựu.
Ưu đạo bất ưu bần ?
Như tôi đã trình bày, khi phê phán Khổng Giáo không nên đồng hóa nó với ông Khổng Khâu, càng không nên đổ hết trách nhiệm cho ông. Ông không "chí thánh chí nhân" như ông Trần Trọng Kim viết trong cuốn Nho Giáo, nhưng cũng là người tốt, ông mở trường tư đầu tiên và tạo ra một cơ hội tiến thân quan trọng cho tầng lớp thứ dân. Thế cũng là một người có công lớn với đời rồi. Ông dạy học trò nhiều điều về luân lý thực tiễn. Xét theo bối cảnh thời đại của ông, trong những điều ông nói có những điều khá đúng, những điều hơi sai và những điều rất sai. Đó là lẽ tự nhiên, không có học giả, triết gia nào chỉ phát biểu những điều hoàn toàn đúng. Socrate, Platon, Aristote cũng vậy thôi, họ có những ý kiến thật sáng nhưng cũng có những nhận định sai lầm, thiếu sót. Bổn phận của những người đi sau là giữ lại, bổ túc và khai triển những đóng góp đúng, bỏ đi những sai lầm và, dĩ nhiên, không ngừng thêm vào những khám phá mới.
Văn hóa Khổng Giáo trở thành độc hại không phải vì nó sai ngay từ đầu mà vì nó đã không biết đổi mới. Nó đã khai thác triệt để hai tính xấu của Khổng Tử là tinh thần thủ cựu, bài bác điều mới lạ, và tinh thần bất dung (thí dụ như việc giết thiếu chính Mão chỉ vì ông Mão có tài biện luận và không đồng ý với Khổng Tử).
Không những thế nó còn bóp méo tư tưởng của chính Khổng Tử.
Một thí dụ của sự xuyên tạc đó là tinh thần an bần lạc đạo, nghĩa là cam phận nghèo mà vui với đạo đức. Tinh thần này theo các nho sĩ lấy từ một câu trong Luận Ngữ : "người quân tử chỉ lo giữ đạo lý chứ không lo nghèo" [quân tử ưu đạo bất ưu bần]. Nhưng Khổng Tử nào đâu có ý định nói như thế.
Ông nói nguyên văn như thế này : "Người quân tử mưu tìm học đạo chứ không mưu tìm miếng ăn. Làm ruộng có khi mất mùa cũng đói, còn học đạo thì có lộc. Người quân tử chỉ cần lo học cho giỏi chứ đừng sợ nghèo" [Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dã, nỗi tại kỳ trung hĩ. Học dã, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân Tử ưu đạo bất ưu bần]. Đó chỉ là một lời khuyên thực dụng mà thôi, có nghĩa là cứ lo học đi rồi sẽ được làm quan và sẽ có ăn. Nên nhớ rằng mục đích của việc "học đạo" chỉ là để được làm quan. Ý Khổng Tử qua câu nói này hoàn toàn không phải là sự chấp nhận nghèo khổ miễn là sống hợp đạo đức. (Cần hiểu chữ "đạo" của Khổng Tử đồng nghĩa với "nghề", nghĩa là học thi, thư, lễ, nhạc cho thạo để ra làm quan chứ không phải là "đạo đức" như ta hiểu). Chính Khổng Tử cũng rất ham phú quí, ông từng nói "phú quí mà cầu được thì dù phải làm kẻ cầm roi đánh xe ngựa ta cũng nhận" [phú quí nhi khả cầu dã, tuy chấp tiên chi sĩ, ngô diệc vi chi]. Khổng Tử lương thiện nhưng không phải vì thế mà ông đề cao sự nghèo khổ. Ông đã đi khắp nơi cầu được làm quan, có lúc sẵn sàng làm gia nhân cho những kẻ giàu có phản trắc. Nhân sinh quan của ông rất thực dụng : cầu ích lợi cho mình và sống lương thiện. Đó là một nhân sinh quan rất khiêm tốn về mặt đạo đức.
Từ đời nhà Hán, luân lý của Khổng Giáo bị bóp méo đi để biến thành một thứ luân lý nông nghiệp lạc hậu. Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ, sau khi diệt được Tần và Sở, thống nhất thiên hạ, nhận định rằng mối nguy cho dòng họ mình là những kẻ giàu có và gan dạ. Ông bèn xóa bỏ thương nghiệp và chỉ giữ lại nông nghiệp. Việc phân chia xã hội ra bốn giai cấp sĩ, nông, công, thương bắt đầu từ đó. Nếu chỉ xét về mục đích duy trì quyền hành thì nhà Hán hoàn toàn có lý. Nghề nông chân lấm tay bùn, được mùa thì no, mất mùa thi đói, không thể nào giàu lớn được, gia tài chỉ là ruộng đất, có bao nhiêu triều đình thấy rõ hết. Vả lại, người nông dân ở yên một chỗ, kiến thức hạn hẹp mà đởm lược cũng không có bao nhiêu. Trái lại, người buôn bán giao du nhiều, hiểu biết rộng rãi, lại quen đương đầu với rủi ro thành ra gan dạ (có gan làm giàu). Nghề buôn bán lại dễ phát đạt, có thể đưa tới những tài sản rất lớn, kín đáo và dễ di chuyển. Những thương nhân giàu có này lại không làm quan ăn lộc vua và do đó không mang ơn vua như lớp nho sĩ, họ có thể là những đe dọa lớn cho các vua chúa. Chính vì thế mà nhà Hán dẹp bỏ thương nghiệp, và khi thương nghiệp đã bị xóa bỏ, sự trao đổi hàng hóa không còn nữa thì công nghiệp chỉ còn là một nghề phụ của nghề nông, làm ra những nhu yếu phẩm cho xóm làng mà thôi. Dưới đời nhà Hán, thương nhân không những bị trù dập thô bạo mà còn bị miệt thị như những kẻ xấu xa, đáng khinh bỉ.
Các triều đại về sau có lúc nới lỏng cho thương nghiệp đôi chút nhưng rồi lại xiết lại ngay. Triều đại nào cũng coi thương nghiệp là mối nguy và đều ra sức trù dập và miệt thị. Cuối cùng với thời gian một "giá trị" mới đã được thêm vào Khổng Giáo, đó là tâm lý khinh bỉ nghề buôn bán. Phải công bình mà nói, tâm lý này hoàn toàn không có trong đầu óc Khổng Tử. Cả Khổng Tử lẫn các môn đệ của ông đều không bao giờ bài xích thương nghiệp, cũng như Marx không bao giờ tưởng tượng có việc kiểm duyệt báo chí hay những chiến dịch tẩy não, những trại tù cải tạo tư tưởng của các chế độ cộng sản sau này.
Thương nghiệp là động cơ tiến hóa của mọi xã hội. Nó vừa là sự chấp nhận rủi ro cho đổi mới vừa là sự giao lưu của người, của kiến thức, ý kiến và sáng kiến. Nó cũng là sự giàu có. Thương nghiệp đối với xã hội cũng như máu đối với cơ thể, nó là yếu tố tối cần thiết cho mọi sinh hoạt khác, dù là nông nghiệp, cộng nghiệp hay văn hóa xã hội. Có thương nghiệp mới có tiến bộ. Không có thương nghiệp thì xã hội tê liệt và dẫm chân tại chỗ, kể cả về vật chất lẫn tinh thần, là lẽ tự nhiên. Trong những yếu tố độc hại của Khổng Giáo, yếu tố độc hại nhất trên hẳn mọi yếu tố khác chính là sự thù ghét thương nghiệp, mà về việc này thì Khổng Tử hoàn toàn vô can. Nó là một phát minh của Hán Nho và được duy trì vì cần thiết cho sự ổn vững của các chế độ quân chủ chuyên chế. Không phải là một sự tình cờ mà các tiến bộ lớn của nhân loại đã phát sinh từ các thị trấn buôn bán và tư tưởng dân chủ cũng như các chế độ dân chủ đầu tiên đã nảy sinh từ đó. Cũng không phải là một sự tình cờ mà Hoa Kỳ, một quốc gia tạp chủng, khởi hành từ số không nhưng có mẫu số chung là business, đã mau chóng trở thành siêu cường số một của thế giới.
Như đã nói, Việt Nam vừa hình thành thì đã tiếp thu Khổng Giáo từ đời nhà Hán, nghĩa là khi Khổng học đã bị tồi tệ hóa do sự thêm vào nhiều yếu tố độc hại, trong đó độc hại nhất là tâm lý thù ghét thương nghiệp. Suốt dòng lịch sử, chúng ta đã chỉ biết có tâm lý này, không như người Trung Hoa ít ra đã có một thời Xuân Thu Chiến Quốc trong đó cả một rừng hoa tư tưởng nở rộ và thương nghiệp phát triển mạnh. Chính vì thế mà văn hóa của ta thấp kém hơn văn hóa Trung Quốc. Chính vì thế mà chúng ta dở về buôn bán hơn tất cả mọi quốc gia có cùng một chiều dài lịch sử.
Như một người mù lòa quen với bóng tối, Việt Nam cũng như Trung Quốc, nhưng hơn cả trung Quốc, đã thích nghi với sự nghèo khổ và tìm an ủi ngay trong sự nghèo khổ. "An bần lạc đạo" là một triết lý và một thứ thuốc an thần ru ngủ trí tuệ ta. Đáng lẽ chỉ nên coi sự nghèo khổ là một tình trạng đáng buồn cần chấm dứt, chúng ta coi nó như một sự vinh quang. Đáng lẽ chỉ nên coi người nghèo là những người không may cần được giúp đỡ, ta lại coi họ là những người trong sạch đáng tôn vinh. Tâm lý này lại là tâm lý của kẻ sĩ, nghĩa là thành phần tinh nhuệ nhất, hiểu biết nhất.
Nếu thù ghét thương mại là di sản độc hại nhất của Khổng Giáo thì nó cũng là di sản nặng nề nhất của người Việt, ngay trong lúc này.
Thế hệ của tôi, những người vào đại học trong thập niên 1960, hoàn toàn bị tâm lý trọng sĩ khinh thương chế ngự. Ước mơ của chúng tôi chỉ là đậu cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư để được làm giáo sư, giám đốc. Cha mẹ chúng tôi cũng chúc tụng và mơ ước cho chúng tôi tương lai đó. Tâm lý của chúng tôi hoàn toàn là tâm lý kẻ sĩ, nghĩa là tâm lý làm quan hoặc làm công ăn lương, dù chúng tôi chẳng hề học Tứ Thư, Ngũ Kinh bao giờ. Cái tâm lý đó, chúng tôi đã tiếp thu từ sinh hoạt gia đình và xã hội. Và chúng tôi cũng đã được giáo dục ngay tại trường học theo tâm lý đó. Những mẫu người mà chúng tôi được khuyến khích để noi gương chỉ là những danh tướng, danh thần, những nhà nho liêm chính, những nhà thơ, nhà văn, hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Ngay cả những danh nhân ngoại quốc chúng tôi biết đến cũng chỉ là những ông vua, ông tướng, hay các nhà bác học, các nhà chính trị và các nhà văn lớn chứ hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Doanh nhân là một giống người không ra gì. Chúng tôi đã lớn lên với một hệ thống giá trị như thế. Chúng tôi được đào tạo để làm những con người sống ngoài lề xã hội hay, nếu may mắn hơn, sống trên xã hội chứ không hội nhập và sống trong xã hội.
Ở vào thế hệ của tôi, và một phần nào đó ngay bây giờ tại Việt Nam, học hết tú tài là đã thuộc thành phần tinh nhuệ của xã hội. Tôi may mắn thuộc vào thành phần tinh nhuệ nhất của thành phần tinh nhuệ đó. Bạn bè quen biết của tôi có vài trăm người được đi du học tại châu Âu, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand và Nhật. Tất cả đều thông minh tuấn tú, tất cả đều đã thành công theo tiêu chuẩn Việt Nam, nghĩa là ngày nay chúng tôi đều có văn phòng luật sư, phòng mạch bác sĩ, nha sĩ, làm giáo sư hay kỹ sư, với một cuộc sống tương đối thoải mái, nhưng doanh nhân thì chỉ có một vài người. Một số kỹ sư, chuyên viên nay đã ngoài năm mươi tuổi, lương quá cao so với yêu cầu của xí nghiệp đang hồi hộp lo âu bị cho nghỉ việc, có những người đã mất việc. Nếu khối sinh lực và trí tuệ đó được dồn vào kinh doanh thì đất nước đã khá hơn biết bao nhiêu, và ngay cả cuộc sống của mỗi chúng tôi cũng khá hơn nhiều. Hơn nữa nghề làm công, hay nghề cá nhân, đã không cho chúng tôi những cơ hội để tiếp xúc và học hỏi, cũng không đặt chúng tôi trước những trách nhiệm quan trọng ; kết quả là giờ đây, vào giai đoạn gần chót của sự nghiệp, chúng tôi không những chỉ bình thường về vật chất mà còn kém cỏi cả trong tầm vóc và sự hiểu biết.
Thế hệ chúng tôi đã thừa hưởng một hệ thống giá trị độc hại và đã truyền lại nọc độc cho thế hệ sau. Tôi chưa nhận thấy một chuyển biến tâm lý đáng kể nào trong giới trẻ Việt Nam. Phần lớn các con cháu của các bạn tôi đều hướng về những ngành học thuần túy kỹ thuật, và khi họ có học về doanh thương thì cũng chỉ với tâm lý công nhân mà thôi. Tôi tiếp xúc với nhiều thanh niên và lúc nào cũng hỏi họ dự định thế nào cho tương lai, họ sẽ làm gì ở tuổi bốn mươi ? Cho tới nay những câu trả lời của họ cũng không khác bao nhiêu so với thế hệ chúng tôi. Việt Nam vẫn còn chờ đợi một chuyển biến tâm lý lớn, dù đã trải qua nhiều xáo trộn khốc liệt. Đó là tôi chỉ gặp một thành phần thanh niên may mắn có cơ hội để tiếp xúc với thế giới tiến bộ bên ngoài, những người lớn lên tại hải ngoại, hoặc những thành phần ưu tú được gởi ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh hay thực tập sinh. Những thanh niên ở Việt Nam sang còn cho tôi hay tâm lý của thanh niên trong nước còn trì trệ hơn họ về mặt kinh doanh. Tình trạng này cho thấy ảnh hưởng của một nền văn hóa dai dẳng tới mức nào.
Chúng ta vẫn còn là những đứa con tinh thần của "Khổng Giáo Việt Nam", một thứ Khổng Giáo đặc biệt tăm tối. Cái văn hóa Khổng Giáo đó đã làm thui chột cả một dân tộc. Nó khiến chúng ta dị ứng thương nghiệp đã đành, nhưng nó cũng gây ra một mặc cảm thấp kém ngay cả trong một số hiếm hoi dám kinh doanh buôn bán. Một người Việt Nam hãnh diện với một đứa con tốt nghiệp đại học và lãnh lương vừa đủ sống hơn là một đứa con bán phở với lợi tức gấp bốn, năm lần. Một thương gia giàu có cũng thích gả con gái cho một tiến sĩ hơn là một thương gia trẻ, và cũng rất hài lòng nếu tất cả các con mình trở thành bác sĩ, kỹ sư và bỏ nghề buôn. Họ không thể trở thành những thương gia lớn được bởi vì họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ, và họ không hãnh diện về nghề nghiệp của họ vì thành phần xã hội của họ bị khinh khi. Ngôn ngữ Việt Nam không thiếu những danh từ thóa mạ đối với người buôn bán : tên lái buôn, bọn con buôn, bọn hàng tôm hàng cá, v.v... Sự khinh bỉ này đưa tới một hậu quả thực sự là những người buôn bán nhỏ bị co cụm lại thành những nhóm cô lập, hờn giận với phần còn lại của xã hội, rồi cũng mất đi sự tự trọng và cư xử một cách rất thô lỗ, trái ngược với tinh thần phải có của thương nghiệp. Kết quả là cả nghề buôn bán lẫn việc buôn bán đều không vươn lên được.
Văn hóa Khổng Giáo Việt Nam tạo ra những thành kiến rất sai lầm và bất công đối với các thương gia. Sau khi đậu xong tú tài I, tôi được một thương gia giàu có muớn dạy kèm cô con gái vừa lên đệ tứ, tức lớp 9 bây giờ. Những thành kiến sai lầm đã khiến tôi hình dung ông ta là một con người vô học chỉ sống vì đồng tiền, và chắc là giả dối và gian lận. Tôi khám phá ra mình ngu dốt. Hai ông bà vất vả suốt ngày, họ chỉ về nhà vào khoảng 9, 10 giờ tối. Họ bặt thiệp, hiền lành và rất hiểu biết. Tôi nhận ra bà ấy thông minh hơn hẳn các bà mẹ Việt Nam khác và ông ấy có kiến thức cao hơn và rộng hơn hẳn những giáo sư của tôi. Ông bà ấy hình như chưa học hết bậc trung học, nhưng họ đã đạt tới trình độ hiểu biết cao nhờ học hỏi trong cuộc sống, bằng sự giao tiếp trong xã hội và bằng suy tư cá nhân. Cuộc gặp gỡ kéo dài hơn một năm này đã là một may mắn lớn cho tôi. Tôi được một số tiền thù lao khá lớn, đủ sống cho mình mà còn giúp đỡ được cả gia đình ; nhưng tôi còn được cả một sự tỉnh ngộ.
Sau khi đi du học về, tôi làm tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín rồi sang Bộ Kinh Tế và lại có dịp gặp gỡ nhiều doanh nhân khác. Ngay khi về Việt Nam tôi đã được nghe nhiều huyền thoại về các doanh nhân người Hoa, những Lý Long Thân, Huỳnh Trù, Trần Thành, Trương Đồng Lương, v.v... Họ được mô tả là những người giàu sụ, có biệt tài làm ra tiền mặc dầu dốt nát tới độ ký tên mình còn run tay. Sự hiểu ngầm ở đàng sau là họ giàu có nhờ khôn vặt, láu cá, mánh mung.
Điều đáng để ý là thành kiến không tốt đối với các doanh nhân gốc Hoa này không phải chỉ có trong dân chúng và báo chí, mà còn hiện diện ngay cả trong giới chuyên viên tài chánh, đùáng lẽ ra phải được giác ngộ về kinh doanh. Hoàn cảnh đã cho tôi cơ hội gặp gỡ với những người này, và tôi nhận ra họ là những con người rất thông minh và ngay thẳng. Không những thế, họ còn có kiến thức rộng rãi về những vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Trong buổi lễ khánh thành một nhà máy cán sắt mới của công ty Vicasa, Lý Long Thân, chủ tịch công ty, sắp xếp để tôi ngồi ngay bên cạnh ông, buổi tiệc đã kéo dài hơn thường lệ vì sau cà phê Lý Long Thân còn trò chuyện với tôi hơn hai giờ nữa. Lý Long Thân không cần gì tôi cả, ông ấy chỉ nói chuyện vì gặp người hợp ý mà thôi. Ông ấy kể cho tôi những cuộc gặp gỡ và những câu chuyện giữa ông ấy với các cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa và đặc biệt là buổi gặp gỡ một tuần trước đó với đại sứ Mỹ Graham Martin. Lý Long Thân hiểu biết nguy cơ đối với Việt Nam Cộng Hòa hơn là các cấp lãnh đạo Việt Nam mà tôi thường gặp. Nếu Nguyễn Văn Thiệu thực sự dùng Lý Long Thân làm cố vấn như nhiều lời đồn đãi thì có thể Việt Nam Cộng Hòa đã may mắn hơn.
Tâm lý bài bác thương nghiệp và tôn vinh sự thanh bạch tạo ra cho người Việt Nam một quan hệ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc. Chúng ta đều biết quyền lực của đồng tiền, câu tục ngữ "có tiền mua tiên cũng được" không phải mới có. Hai chữ nói lái "đầu tiên" là "tiền đâu" cũng không mới. Chúng ta đều cần tiền và muốn có tiền, nhưng chúng ta không dám công khai kiếm tiền, chúng ta được giáo dục để coi kiếm tiền như là một sự vẩn đục và chúng ta cố làm ra vẻ khinh thường sự giàu có và hãnh diện với cảnh thanh bần. Chúng ta muốn mà không dám, chúng ta ao ước và giấu giếm như một tiểu thư con nhà gia giáo bề ngoài đề cao tiết hạnh dù trong phòng vắng nhiều đêm cũng trằn trọc mơ ước những giây phút hoan lạc của một cô gái phá lệ. Cả một xã hội sống trong sự giả dối.
Tâm lý này tạo ra cả một truyền thống tham nhũng. Thành phần tinh nhuệ đua nhau đi làm quan thay vì làm giàu. Mặt khác, các ông quan thời xưa và các quan chức nhà nước ngày nay không thể sống với đồng lương chật hẹp cho nên phải dựa vào quà cáp, hay phải nhắm mắt để các bà vợ ăn tiền thay mình để giữ được một mức sống đàng hoàng. (Hình như ngày nay đã tiến bộ hơn, các quan chức thẳng thắn đòi tiền hối lộ chứ không cần qua một trung gian nào cả). Chống tham nhũng ở Việt Nam rất khó vì chúng ta có cả một văn hóa tham nhũng do truyền thống để lại.
Văn hóa thanh bần của Khổng Giáo cũng đã đem lại cho chúng ta những tai họa về chính trị. Ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm đều được kính trọng vì họ tỏ ra là những người thanh liêm. Họ không có vợ, và điều đó hình như kéo theo hệ luận là họ trong sạch, thanh liêm. Họ được tín nhiệm về đức chứ không phải vì tài. Và thực sự cả hai đều không có khả năng, cả hai đều thiếu bản lãnh, đều không nhìn thấy những vấn đề và những giải pháp cho đất nước, nhưng họ đã được văn hóa và tâm lý Việt Nam đặt vào vị trí quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn trọng đại. Ông Hồ Chí Minh được tôn sùng hơn ông Ngô Đình Diệm vì đóng kịch khéo hơn, ông xuất hiện như một nhà nho khổ hạnh, sống suốt đời và tất cả cho dân tộc, trong khi thực ra ông là một người ham thụ hưởng hơn hẳn mức trung bình. Cả hai ông, dù đã được ngoại bang nâng đỡ hay đặt để, cũng đã là sản phẩm của văn hóa Khổng Giáo. Hai ông không chiếm độc quyền sân khấu chính trị Việt Nam nhưng là những nhân vật tiêu biểu nhất. Những người lãnh đạo chính trị khác, khi không hoàn toàn do ngoại bang chọn lựa, cũng giành được địa vị vì những lý do thuần túy thuộc "đức". Họ được tiếng là những người, hoặc thanh liêm, hoặc can trường, hoặc có công vì đã vào tù ra khám, chứ hoàn toàn không phải vì họ được nhìn nhận là có khả năng làm cho đất nước giàu có hơn. Kết quả : bốn triệu người chết và một GDP 300 đô la mỗi năm cho mỗi đầu người.
Văn hóa Khổng Giáo còn để lại cho chúng ta một di sản khác là sự vô lễ quá đáng. Mới đây tôi được đọc trên một tờ báo trong nước một bài của nhà văn Trần Mạnh Hảo đả kích một nhà văn khác vừa được giải thưởng văn học. Trước đây tôi đã được biết đến Trần Mạnh Hảo qua tác phẩm Ly Thân và có cảm tình với ông. Sau này tôi lại được nghe những dư luận không tốt về tư cách của ông từ những người mà tôi kính trọng về kiến thức và nhân cách. Tôi vẫn còn phân vân và bài báo của Trần Mạnh Hảo một phần nào đã giải tỏa cho tôi sự phân vân đó. Trần Mạnh Hảo đả kích đoạn của tác phẩm thuật lại chuyện vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Trần Mạnh Hảo hoàn toàn không dựa vào một tài liệu nào cả, nhưng cảm thấy có thể thẳng thắn bác bỏ chuyện của tác giả kia. Tại sao ? Chỉ giản dị là tại cách xưng hô. Tác phẩm kia thuật lại những lời đối đáp của viên công sứ Pháp gọi vua Hàm Nghi là "ngài", là "nhà vua", v.v... Như thế là đủ để Trần Mạnh Hảo quả quyết là tác giả đó đã bịa đặt trắng trợn bởi vì có khi nào một người chiến thắng lại nói với một tù nhân với lời lẽ cung kính như vậy. Trần Mạnh Hảo không hiểu rằng đó là cách đối xử rất tự nhiên và rất bình thường của người phương Tây, bởi vì Trần Mạnh Hảo thuộc văn hóa Việt-Trung, trong đó sự lỗ mãng là một thông lệ. Những ai đọc truyện Tàu và truyện dã sử Việt Nam đều đã quá quen với ngôn ngữ xỉ vả và thóa mạ kẻ thù, nhất là kẻ thù sa cơ thất thế (trong các truyện Tàu tôi chỉ thấy thời Tam Quốc có Tào Tháo và Tôn Quyền là đôi khi đối đáp nhã nhặn với người chiến bại). Một chi tiết khác trong bài của Trần Mạnh Hảo là lời lẽ của nó rất gay gắt. Đó cũng là đặc tính chung của phần lớn những bài tranh luận giữa người Việt Nam thuộc mọi thế hệ. Hình như chúng ta cảm thấy có bổn phận phải nổi giận khi không đồng ý.
Nhưng sự lỗ mãng không phải là một nét đặc trưng của riêng văn hóa Khổng Mạnh, mà là của mọi nền văn hóa trong đó thương mại thiếu vắng. Thương mại khiến người ta gặp gỡ nhiều, tiếp xúc rộng và trở thành lịch sự. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm lời lẽ trang nhã để thuyết phục khách hàng. Thương mại cũng bắt buộc người ta tìm hiểu khách hàng, đặt mình vào địa vị khách hàng để cố khám phá khách hàng muốn gì và sau đó để chinh phục cảm tình của khách, để khách mua hàng hóa hay dịch vụ cần dùng nơi mình thay vì nơi một nhà cung cấp khác. Những người có chút kinh nghiệm về thương mại đều hiểu rằng muốn như thế thì chỉ có một cách là phải rất lương thiện, rất lễ độ và quí mến khách hàng một cách thực sự. Cảm tình và khả tín là hai vốn quí nhất của một doanh nhân. Thiếu hai đức tính đó thì tốt hơn hết là đừng đi vào thương nghiệp, cùng lắm chỉ thành công nhỏ và tạm bợ mà thôi. Chính vì thế mà các dân tộc buôn bán cũng là những dân tộc khả ái nhất. Đọc một số bài phê phán văn hóa Khổng Giáo của tôi một số thân hữu thường bày tỏ sự lo ngại là nếu không còn Khổng Giáo liệu chúng ta có mất luôn các lễ giáo cổ truyền của mình không ? Xin các bạn yên tâm. Trước hết, chỉ lo các bạn không bỏ được sớm thôi, từ giã một nền văn hóa khó lắm. Sau đó, chúng ta sẽ lễ độ hơn chứ không mất lễ độ đâu. Một cách không chủ ý nhưng có thực, văn hóa Khổng Giáo, vì loại bỏ thương mại, đã khiến con người trở nên vô lễ.
Có những thân hữu khác lại biện luận rằng không nên bài xích Khổng Giáo vì chính nhờ Khổng Giáo mà Việt Nam và Trung Quốc đã được ổn định trong hơn hai ngàn năm. Nhưng ổn định nào ? Ổn định trong sự dậm chân tại chỗ, trong sự nghèo khổ, kềm kẹp và thua kém, có phải là một ổn định đáng mong muốn không ? Chúng ta đã là chúng ta ngày hôm nay chính vì chúng ta đã là nạn nhân của sự ổn định đó. Mà thực ra có ổn định gì đâu. Lịch sử Trung Hoa và Việt Nam, nhất là Việt Nam trong hai mươi thế kỷ Khổng Giáo cho đến thế kỷ 19 đã đẫm máu hơn lịch sử của mọi dân tộc khác, với đàn áp thường trực và nổi loạn triền miên, khi không có chiến tranh với ngoại bang. Các bạn thử đọc lại thật kỹ lịch sử nước ta xem trước khi người Pháp đến, chúng ta có bao nhiêu năm chiến tranh ? Các bạn sẽ khám phá ra con số thật kinh khủng và các bạn cũng sẽ thấy rằng con số những năm chiến đấu chống ngoại xâm chỉ chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Văn hóa Khổng Giáo do tính bất dung và vô nhân đạo của nó đặt xã hội trong tình thế thù địch thường trực. Cái mà chúng ta gọi là sự ổn định thực ra chỉ là sự trì trệ.
Truyền thống nào cũng có sức mạnh quán tính của nó. Truyền thống càng dài quán lực càng cao. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu khi phải từ giã một tập quán chúng ta cảm thấy một mất mát lớn, bởi vì các tập quán nằm trong vô thức của chúng ta và gắn bó với cơ thể của chúng ta. Sự nghèo khổ không phải chỉ là một tình trạng mà là cả một hệ thống có cả đạo đức, triết lý, sự thỏa mãn và niềm hãnh diện của nó. Thoát ra khỏi sự nghèo khổ không phải là dễ bởi vì chính những người nghèo cảm thấy nếp sống của họ là đúng đắn, không có gì phải thay đổi. Cũng thế, những tập quán tệ hại đến đâu vẫn có cái tiện nghi gớm ghiếc, nhưng có thực, của chúng. Những người chống đối hủ tục bó chân phụ nữ của Trung Hoa không ai khác hơn là chính các phụ nữ Trung Hoa. Những người lúc ban đầu phản đối mạnh nhất chiếc áo dài duyên dáng hiện nay của phụ nữ Việt Nam không ai khác hơn là chính các phụ nữ Việt Nam. Cũng những phụ nữ Việt Nam và Trung Hoa khả kính đã bảo vệ một cách nồng nhiệt nhất "tam tòng, tứ đức" - và chữ "trinh" gớm ghiếc - đã đày đọa họ trong hàng chục thế kỷ.
Đọc lịch sử Việt Nam, có một trang mà chúng ta không thể đọc mà không nhỏ lệ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã có hàng chục ngàn người dân rất bình thường, chọn lựa đi tới trước đao phủ thay vì từ bỏ lòng tin của mình. Đó là những người Công Giáo đầu tiên của Việt Nam, nạn nhân của chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn. Dù chia sẻ hay không tin tín ngưỡng của họ, mọi người Việt Nam đều có thể hãnh diện về sự dũng cảm đó. Đối đầu với họ, những người hưởng ứng chính sách cấm đạo và xả thân đi đánh các họ đạo là ai ? Đó là những người Văn Thân, Cần Vương, những người cũng đáng quí nhất của dân tộc, nghĩ rằng mình đang hy sinh bảo vệ đất nước của cha ông chống lại một cuộc xâm lăng mới và một tà thuyết mới. Nếu chúng ta, thay vì là một xã hội nông nghiệp khép kín, là một dân tộc có truyền thống thương mại và trao đổi thì phản ứng của chúng ta chắc chắn sẽ không như thế.
Điều mà chúng ta đang cần là một sự mạnh bạo đoạn tuyệt với một tâm lý lỗi thời và dám đổi mới, dám từ bỏ đường xưa lối cũ, dám muốn đi tới những chân trời mới, tìm những thành công thật lớn.
Các bạn có thể hỏi tôi, nói lung bung như vậy có ích lợi gì không, có đề nghị cụ thể gì không ? Có một đề nghị nhỏ rất dễ làm, mà nếu các bạn cùng làm tôi bảo đảm là chỉ trong vòng một thế hệ đất nước sẽ rất khá. Đề nghị đó như thế này : khi một đứa trẻ ra chào đời các bạn hãy hôn và chúc nó : "Con sẽ là doanh nhân, con nhé !".
Tổ quốc của kẻ sĩ
Có một điều đáng để ta ngạc nhiên và suy nghĩ là tại sao một nước lớn như Trung Quốc lại thường bị đánh bại rất dễ dàng ?
Các nước thời Xuân Thu Chiến Quốc phải xây tường ngăn chặn các sắc tộc phương Bắc thay vì chinh phục họ. Tần Thủy Hoàng binh hùng tướng mạnh như thế, gồm thâu cả lục quốc mà sau khi thống nhất Trung Quốc cũng không làm gì hơn là tiếp tục xây Vạn Lý Trường Thành ngăn chặn thay vì tiến công. Như thế thì cái sức mạnh đó cũng đáng đặt một dấu hỏi lớn. Người Mông Cổ ở thế kỷ 12 chắc không tới một triệu dân mà đánh chiếm được Trung Quốc. Trước đó nhà Tống cũng đã bị nước Kim nhỏ bé ở phía Đông Bắc khuất phục. Người Mông Cổ chiếm Trung Quốc lập ra nhà Nguyên mà không gặp chống đối. Nhà Nguyên sụp đổ sau hơn một thế kỷ thống trị Trung Quốc không phải do một cuộc kháng chiến quốc gia nào mà chỉ vì quan lại Mông Cổ về sau tham tàn dồn dân chúng tới tình trạng không chống lại cũng chết đói. Giặc giã nổi lên khắp nơi, Chu Nguyên Chương, sáng tổ nhà Minh, là thủ lãnh một trong những nhóm nổi dậy đó. Chu Nguyên Chương giành được ngôi bá chủ phần lớn là vì ông ta không chống quân Nguyên, trái lại ông ta để cho các nhóm khác đánh nhau với quân Nguyên cho đến khi kiệt quệ rồi đột kích tiêu diệt họ. Chu Nguyên Chương không có mục đích đánh đuổi quân Nguyên giành lại độc lập cho Trung Quốc mà chỉ lo lập nghiệp đế cho mình, ông không đặt vấn đề dân tộc. Dưới mắt ông ta, quân Nguyên hay các nhóm khác đều là những đối thủ như nhau. Thắng lợi của Chu Nguyên Chương không phải là thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng, mà chỉ là thắng lợi của một thủ lãnh tham vọng nhất và khôn lỏi nhất trong một thời mà Trung Quốc phân tán. Người Trung Quốc chống lại triều Nguyên một cách bất đắc dĩ vì bị ức hiếp quá chứ không phải vì tinh thần dân tộc.
Ba thế kỷ sau, Trung Quốc, dưới triều Minh lại bị nước Mãn Châu nhỏ bé thôn tính, và lần này mọi nhóm chống đối đều bị tiêu diệt. Cuộc nổi loạn lớn nhất do Hồng Tú Toàn lãnh đạo đã bị chính những nho sĩ Trung Quốc phục vụ nhà Thanh đánh bại. Nhà Thanh đã chỉ sụp đổ trước sức công phá của phương Tây và trước trào lưu dân chủ.
Xét trong dòng lịch sử thì tinh thần dân tộc của người Trung Quốc rất yếu, nếu không muốn nói là không có. Kẻ nào mạnh nhất trong số những cường hào lãnh chúa kẻ đó làm chủ Trung Quốc, bất luận ông ta là người Hoa hay không.
Năm 1778, khi nước Anh đã chinh phục được Ấn Độ, toàn quyền Anh tại Ấn cử một cộng sự viên là Chapman sang điều nghiên về tình hình Việt Nam. Lúc đó anh em Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn, thanh thế kinh động cả nước. Tám năm sau Tây Sơn diệt Trịnh dễ như trở bàn tay. Chapman đi tham quan khắp nơi và được anh em Tây Sơn tiếp đón ân cần nên có dịp nhìn thấy rõ lực lượng của các phe, đặc biệt là phe Tây Sơn mạnh nhất lúc đó. Chapman phúc trình cho toàn quyền Anh tại Ấân như sau : "Quân đội của Nguyễn Nhạc không đáng kể, giá trị quân sự rất kém. Tôi có thể nói chắc chắn là độ một trăm người có kỷ luật sẽ đánh bại toàn bộ quân lực của ông ta".
Cái gì đã khiến Chapman đánh giá lực lượng Tây Sơn thấp quá như vậy ? Không phải chỉ là sự tin tưởng vào vũ khí công hiệu hơn, vả lại Chapman chỉ nói tới kỷ luật. Những người nô lệ da đen nổi lên tại Haiti đã đánh tan cả một quân lực hùng hậu của Napoléon I, quân đội Anh tinh nhuệ như vậy mà cũng đã bị tiêu diệt toàn bộ một lữ đoàn trước một số bộ lạc Nam Phi chỉ trong một trận đánh. Vũ khí không quyết định tất cả như ta có thể nghĩ. Sự yếu kém của một quân đội chủ yếu là vì nó thiếu lý do để chiến đấu, và vì thế thiếu tổ chức và gắn bó.
Một thế kỷ sau, người Pháp đổ bộ vào Việt Nam và cũng đánh bại quân Việt Nam dễ dàng. Tại miền Nam, Phan Thanh Giản tự vẫn thay vì chống lại, để quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Phan Thanh Giản đã tuẫn tiết thì chắc chắn không phải là người thiếu dũng cảm, ông đã chỉ thấy tình hình tuyệt vọng mà thôi. Tại miền Bắc, vài trăm quân Pháp đã có thể hai lần đánh bại quân Việt Nam trong chớp mắt. Cả Nguyễn Tri Phương lẫn Hoàng Diệu đều là những tướng có thừa dũng cảm nhưng họ không làm gì được bởi vì quân đội nhà Nguyễn tuy đông nhưng không có sức mạnh. Để chiếm các tỉnh miền Bắc có khi Pháp chỉ cần mười người lính bắn vài phát súng thị uy là tổng đốc bỏ chạy hoặc tự trói ra hàng. Nếu bảo rằng đó là do vũ khí tối tân thì tại sao vài ngàn quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc lại đánh bại được quân Pháp ?
Lý do thực sự là vì chúng ta thiếu tinh thần quốc gia dân tộc. Và một khi đã thiếu tinh thần quốc gia dân tộc thì sức mạnh của quân đội chỉ dựa trên quyết tâm và bản lãnh của người thủ lãnh. Khi chúng ta có những thủ lãnh giỏi như dưới thời Lý, Trần hay trong cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi thì ta có sức mạnh, khi ta không có tướng giỏi thì quân đội ta không có giá trị. Các triều đại Trung Hoa và Việt Nam có thể suy sụp rất nhanh chóng vì một ông vua dở bởi vì vua là tất cả. Ý niệm quốc gia dân tộc không có, do đó không có một sức mạnh quốc gia độc lập với nhà vua. Cái lô-gích về sức mạnh tại Trung Quốc và Việt Nam rất giản dị : một người, nhờ bản lãnh hay địa vị, qui tụ quanh mình một đội ngũ nhỏ, rồi dùng đội ngũ đó để khống chế dân chúng, bắt dân chúng phải phục tùng mình và chiến đấu cho mình chứ không dựa trên một ý chí chung. Chính vì thế mọi lực lượng có thể thay đổi rất mau chóng tùy theo người thủ lãnh.
Trong một bài báo tôi có phát biểu rằng ý niệm quốc gia dân tộc rất mới đối với chúng ta, các cụm từ "yêu nước" hay "ái quốc" hoàn toàn không có trong ngôn ngữ Việt Nam trước thế kỷ 20. Nhận định này đã bị một số người phản đối, họ quả quyết sẽ tìm được bằng cớ ngược lại. Gần bốn năm đã trôi qua vẫn chưa ai tìm được. Có thể sau này có vị sẽ tìm thấy trong một tài liệu nào đó, nhưng một thí dụ hiếm hoi cũng sẽ không phản bác được nhận xét của tôi là tinh thần quốc gia của chúng ta chỉ mới xuất hiện trong thế kỷ này. Các quan tướng và sĩ tử của ta trước đây chỉ biết có vua chứ không biết tới nước.
Tại sao tôi dám quả quyết như vậy mặc dù chưa đọc hết các tài liệu và tác phẩm Việt Nam ? Đó là vì khái niệm nước như là một thực thể khác với vua, của chung mọi người và mọi người có bổn phận phục vụ và bảo vệ, chưa có. Mà nước đã không có thì làm gì có chuyện yêu nước.
Văn hóa Khổng Giáo, độc tôn trên đất nước ta cho tới thế kỷ 20, không nhìn nhận sự hiện hữu của quốc gia. Đó là một điều chắc chắn.
Khi Khổng Tử dạy các sĩ tử "nước nguy thì đừng tới, nước loạn thì đừng ở, nước có đạo thì ta ra làm quan, nước vô đạo thì ta ở ẩn", rõ ràng ông không nhìn nhận bất cứ một bổn phận nào đối với nước cả, ông chỉ coi nước là của một chủ, kẻ sĩ thấy phục vụ ông chủ đó có lợi thì làm không có lợi thì thôi. Cái triết lý ở ẩn mà Khổng Tử nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Luận Ngữ và sau này đã trở thành cả một đạo sống của nho sĩ, là gì nếu không phải là sự phủ nhận quốc gia và sự khước từ mọi nhiệm vụ đối với cộng đồng ? Thái độ của kẻ sĩ rất rõ rệt : chỉ mưu lợi cho mình và sống trung thành với nghề sĩ, nghĩa là nghề đi học và làm quan, của mình. Phải nói rằng các nho sĩ rất có đạo lý nghề nghiệp. Họ trung thành tuyệt đối với người chủ đã dùng họ và dù được làm quan hay thất nghiệp họ vẫn hãnh diện với nghề của mình và tôn trọng những giá trị của nó. Những nhà nho không có tổ quốc, họ chỉ biết tới các tổ nghề, nghĩa là các thánh hiền của họ, và người chủ tuyển dụng họ, nghĩa là nhà vua.
Quốc gia là một ý niệm trừu tượng cần được nuôi dưỡng bởi những người có văn hóa, nhưng trong xã hội Khổng Giáo những người có văn hóa duy nhất là các nho sĩ lại không nhìn nhận quốc gia, như thế thì không thể có quốc gia theo ý nghĩa một thực thể riêng biệt được. Trong xã hội Khổng Giáo, nước chỉ là vùng đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua mà thôi, những con người sống trên vùng đất đó chỉ là những nô lệ của vua, vua muốn cắt đất nhường dân cho ai tùy ý. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt mà chúng ta coi là một bài thơ yêu nước cũng chỉ nhắc lại quan niệm đó : "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" [núi sông nước Nam là của vua nước Nam].
Cái gương Khổng Tử đi hết nước này sang nước khác để xin làm quan (có lúc ông định vượt biển sang phò vua Cao Ly) đã chứng minh rõ ràng kẻ sĩ không có tổ quốc. Vả lại cho đến khi người phương Tây sang chinh phục vấn đề quốc tịch không hề đặt ra ; ai sống ở đâu thì là dân của ông vua nơi đó, có thể làm quan cho ông vua đó, nhưng nếu đi nước khác cũng có thể làm quan và tuyệt đối trung thành với một ông vua khác, ngay cả nếu phải cầm quân đi đánh nước cũ. Ngũ Tử Tư đời chiến quốc bị trách là rước voi về dày mả tổ bởi vì tổ tiên ông và chính ông đã làm quan nước Sở mà sau này ông lại dẫn quân Ngô về dày xéo lăng miếu nước Sở. Sẽ không ai trách ông nếu trước đó tổ tiên ông và chính ông chỉ là thường dân nước Sở. Trong lịch sử Trung Hoa, không thiếu những người nước này sang làm tướng quốc nước khác. Trong lịch sử Việt Nam, Đàng Trong (miền Nam) và Đàng Ngoài (miền Bắc) được coi là hai nước riêng biệt, Nguyễn Nhạc và vua Lê Hiển Tông khi đối đáp với nhau gọi lãnh thổ của nhau là "quí quốc" một cách rất tự nhiên.
Khi quân Thanh sang Việt Nam năm 1789, để rồi bị Nguyễn Huệ đánh bại, dân Bắc Hà thấy gần gũi với quân Thanh hơn là quân Tây Sơn và cầu mong cho quân Thanh thắng.
Dĩ nhiên cuộc chung đụng trong hàng ngàn năm phải làm nảy sinh ra một tình cảm cộng đồng, nhưng nó chỉ là tình cảm của những người cùng chung và cùng chịu một số phận (bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn), nó còn ở rất dưới điều mà ta có thể gọi là tinh thần quốc gia dân tộc hay lòng yêu nước. Điều đó dễ hiểu, kẻ sĩ, những kẻ còn được hưởng một vinh quang nào đó của chế độ chính trị, đã không có tổ quốc thì người dân, những người nô lệ, lại càng không có lý do gì để có tổ quốc. Nước là vua, mà vua là cái gông cùm. Không có tội nhân nào yêu gông cùm cả. Những kẻ không có gì thì cũng không có bổn phận nào.
Khi người Mông Cổ, Mãn Thanh và những nước phương Tây xâm chiếm Trung Quốc, họ đã không đụng độ với nhân dân Trung Quốc, mà chỉ đụng độ với các vua nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh.
Khi người Pháp sang chinh phục Việt Nam, họ đã không đụng độ với dân tộc Việt Nam mà chỉ đụng độ với các vua nhà Nguyễn. Chính vì thế mà họ đã thắng lợi dễ dàng.
Ý niệm quốc gia dân tộc đã ra đời một cách chậm chạp tại phương Tây cùng với sự tăng trưởng của tự do và sự hình thành của xã hội dân sự. Người dân có tự do hơn và làm chủ cuộc sống của mình hơn nên đã bắt đầu cảm thấy mình có một chỗ đứng nào đó trong xã hội, rồi dần dần cảm thấy gắn bó và có bổn phận với cộng đồng trong đó mình đang sống. Càng có chỗ đứng họ càng đòi hỏi một chỗ đứng lớn hơn. Ý niệm quốc gia dân tộc nảy sinh như thế và ngày một mạnh, càng mạnh nó càng đẩy lùi quyền lực của các vua chúa. Sau vài thế kỷ thai nghén, sự thành lập một nước cộng hòa tại Hòa Lan, sự hình thành của Hoa Kỳ và cuộc cách mạng Pháp đã chính thức khai sinh ý niệm quốc gia. Đó là ý niệm đất nước của mọi người thay vì là của một dòng họ. Người dân làm chủ đất nước và vì thế yêu nước và có bổn phận với đất nước. Ý niệm quốc gia dân tộc ra đời với cao vọng tận dụng tinh thần trách nhiệm, sinh lực, ý kiến và sáng kiến của mọi người. Niềm tin nền tảng của nó là những con người tự do mạnh hơn và cống hiến nhiều hơn là những con người nô lệ, xã hội của những con người tự do mạnh hơn là một tập thể nô lệ. Một guồng máy nhà nước mới ra đời và có sức mạnh hơn hẳn bởi vì được sự hỗ trợ của mọi người. Khi đi chinh phục thế giới, sức mạnh chính của các nước phương Tây là bộ máy nhà nước hiện đại chứ không phải là vũ khí hiện đại.
Như thế phải hiểu rằng ý niệm quốc gia dân tộc liên hệ mật thiết với dân chủ và tự do. Không có dân chủ và tự do thì không thể có quốc gia, hay cùng lắm chỉ có quốc gia ở dạng bò sát thấp kém.
Tại Việt Nam, một cách nghịch lý, tinh thần quốc gia đã xuất hiện dưới thời Pháp thuộc do ba yếu tố :
1. Người Pháp giáo dục trí thức Việt Nam theo văn hóa của họ, trong đó tinh thần quốc gia là một thành tố quan trọng ;
2. Vai trò của vua nhà Nguyễn trở thành mờ nhạt, họ không còn là chủ đất nước nữa, đất nước trở thành một tài sản chung của mọi người Việt đang bị người nước ngoài chiếm đoạt ; và
3. Chính sách phân biệt đối xử xấc xược của người Pháp khiến người Việt Nam ý thức được rằng mình là một khối dân tộc cùng một tổ tiên và cùng chia sẻ một sự tủi nhục.
Cùng với thế kỷ 20 bắt đầu xuất hiện một số trí thức được gọi là các "nhà ái quốc". Trong tuyệt đại đa số, nếu không muốn nói là tất cả, các nhà ái quốc này đều kêu gọi canh tân, bỏ cũ theo mới.
Trong một bài báo ["Một cách nhìn cuộc chiến", Thông Luận số 82, tháng 05/95], tôi có viết rằng lòng yêu nước của người Việt Nam có thể chỉ là một ngộ nhận. Nhiều vị đã xúc động và lên tiếng phản đối. Tôi hiểu tình cảm của các vị đó và tôi rất kính trọng tình cảm đó, tôi không mong gì hơn là mình đã nhận định sai. Nhưng quả là chúng ta đã ngộ nhận.
Chúng ta ngộ nhận khi nói rằng ý thức quốc gia dân tộc đã có từ lâu trong khi thực ra nó chỉ là một khái niệm mới xuất hiện từ thế kỷ 20, nghĩa là còn rất non trẻ so với chiều dài lịch sử của ta.
Chúng ta ngộ nhận khi nghĩ rằng lòng yêu nước của người Việt rất cao trong khi thực ra nó rất thấp. Chính vì nó thấp mà khi người Pháp xâm chiếm nước ta đã chỉ có một thiểu số trí thức thực sự dấn thân đấu tranh vì nước còn đại đa số vẫn đứng ngoài cuộc, và thái độ đứng ngoài cuộc đó của những Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Tản Đà, Trần Tế Xương, v.v... hoàn toàn không khiến họ bị chê trách. Chính vì nó thấp mà một số nhỏ người Pháp đã có thể cai trị được cả khối người Việt, dùng chính người Việt để thống trị người Việt. Đặc biệt là trong giai đoạn thế chiến II, một nắm nhỏ người Pháp đã thua trận và đã mất nước vẫn thống trị được Việt Nam một cách tàn bạo.
Tôi tình cờ sinh ra trong một gia đình Việt Nam Quốc Dân Đảng. Giáo dục gia đình đã khiến tôi thù ghét và khinh bỉ một cách thâm tệ những người hợp tác với Pháp ; tôi coi họ là đồ hèn hạ, lưu manh. Lớn lên, tôi được tiếp xúc với nhiều người như thế, tôi nhận ra họ là những người cũng lương thiện và tử tế như những người đấu tranh cách mạng, chỉ có một điều là họ không có ý thức dân tộc đủ mạnh để chấp nhận chịu gian khổ hay hy sinh quyền lợi. Càng trưởng thành tôi càng thấy không nên trách họ bởi vì dù đã hấp thụ nhiều kiến thức mới của phương Tây, về mặt tâm tính họ vẫn thuộc hệ văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vô tổ quốc.
Cũng chính vì lòng yêu nước của người Việt Nam không mạnh mà đảng cộng sản đã thắng lợi. Về bản chất, phong trào cộng sản không những vô tổ quốc mà còn chống tổ quốc, nó là một phong trào thế giới, nhắm thăng tiến giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Nếu không quá lạm dụng bạo lực chủ nghĩa cộng sản có thể là một chủ nghĩa cao quí, dù chỉ là một ảo tưởng, nhưng phong trào cộng sản không phải là một phong trào yêu nước. Khẩu hiệu của nó là người vô sản không có tổ quốc. Tiếng gọi đấu tranh giai cấp, trong khuôn khổ của một nước, là một lời kêu gọi nội chiến. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cái nôi của đảng cộng sản Việt Nam, nổi lên với lời tung hô : "vạn tuế Sô Nga" và tiếng thét : "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" hoàn toàn không phải là một phong trào dân tộc. Những người cầm đầu đảng cộng sản và những đảng viên trung kiên nhất không phải là những người yêu nước mà chỉ là những người cộng sản. Có thể đa số những người theo đảng cộng sản đã theo vì lòng yêu nước, nhưng khi nhận định bản chất của một tổ chức ta nên xét theo chủ trương, đường lối của nó và lý tưởng của những người cầm đầu nó chứ không nên dựa trên những người đi theo.
Hoàn cảnh đất nước sau ngày 30-4-1975 đã khiến tôi có dịp tiếp xúc với vô số người cộng sản thuộc đủ mọi cấp bậc và tôi đã có thể kiểm chứng một điều : trong hàng ngũ cộng sản, một người có thể nói một cách quả quyết rằng quốc gia chỉ là một ý niệm vớ vẩn lạc hậu cần vất bỏ mà vẫn không hề bị trở ngại trong việc thăng tiến, trái lại nếu anh ta dám nói chủ nghĩa cộng sản chỉ là một chủ nghĩa tồi tệ chắc chắn anh ta sẽ lâm nguy, có thể mất mạng luôn. Bằng cớ rằng đảng cộng sản không phải là một tổ chức yêu nước cũng có thể tìm thấy trong các chính sách liên tục của họ. Suốt 30 năm chiến tranh, tôi chưa bao giờ ghi nhận một quan tâm thực sự nào của họ trước những đổ vỡ kinh khủng về tinh thần, vật chất và nhân mạng cho đất nước. Họ có thể tiêu diệt thẳng tay những người Việt Nam, yêu nước hay không, không đồng quan điểm với họ, có khi họ sẵn sàng tiêu diệt cả một số thành phần dân tộc. Trong cuộc cải cách ruộng đất 1955-1956, họ chủ trương tiêu diệt toàn bộ giai cấp địa chủ. (Chính sách này, vì những hậu quả tai hại của nó, sau đó được coi là một sai lầm nhưng không bị coi là một tội, những người cầm đầu và phát động nó chỉ bị kiểm điểm).
Sự thù ghét lẫn nhau và ác độc đối với nhau của người Việt Nam là điều không ai có thể chối cãi, nhưng để cố bào chữa cho lòng yêu nước nói chung của người Việt, lại có một nhận định giảm khinh : "chúng ta yêu nước, nhưng không yêu nhau". Như vậy "yêu nước" là gì ? Đất nước là lãnh thổ, là lịch sử, là con người và là một dự án tương lai chung. Trong các yếu tố đó, con người có tầm quan trọng vượt hẳn. Đất nước, lịch sử đều là của người, dự án tương lai cũng là của người. Nếu đồng hóa nước Việt với người Việt thì cũng không sai (và trên thực tế đã có những học giả đồng hóa quốc gia và dân tộc). Mà người Việt không phải là một ý niệm trừu tượng mà là từng người và mọi người. Không yêu nhau là không yêu nước. Chấm.
Nếu mức độ quốc gia quá cao để ta có thể nhận định một cách rõ rệt thì hãy lấy thí dụ khuôn khổ gia đình. Ta có thể coi một người là yêu gia đình được không, khi người đó lúc nào cũng sẵn sàng đốt nhà, đập phá, ẩu đả và sát hại mọi anh chị em không vừa ý mình ? Nếu anh ta tự nghĩ anh ta là người yêu gia đình thì anh ta chỉ là người điên. Và nếu có ai coi anh ta là người yêu gia đình thì người đó cũng nên ghé thăm một bác sĩ tâm thần.
Nếu phải nhận định một cách thực vắn tắt đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tháng 6-1996, thì ta có thể nói đó là một đại hội chống tổ quốc. Đảng cộng sản, sau nhiều thất bại thê thảm, nhất là khi khối cộng sản tan vỡ, đã "đổi mới" về kinh tế thị trường và đời sống một phần dân chúng đã được cải thiện ; sinh hoạt đất nước bắt đầu khởi sắc, nhưng vị trí độc tôn và độc quyền của họ bị lung lay. Họ bèn lấy quyết định chặn đứng đà phát triển để củng cố lại quyền lực của họ mặc dầu biết rõ làm như vậy đất nước sẽ bị thiệt hại nặng. Đại hội VIII là biến cố trong đó một đảng cầm quyền cố tình lấy quyết định có hại cho đất nước vì quyền lợi của riêng mình. Tuy vậy cũng không nên quá khe khắt đối với những người lãnh đạo cộng sản. Thực ra họ cũng không khác với đa số người Việt.
Yêu nước tại Việt Nam là một ngoại lệ chứ không phải là một thông lệ. Chúng ta là một dân tộc được nhào nặn trong suốt dòng lịch sử bằng văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vô tổ quốc, lòng yêu nước của ta yếu kém là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta chớ nên nghĩ rằng mình đã ra khỏi văn hóa Khổng Giáo. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách nặng nề lắm, ngay cả khi chúng ta không ý thức được và không nhìn nhận như vậy. Cứ lấy thí dụ triết lý ở ẩn, xem ra rất xa lạ đối với trí thức ngày nay. Có thể một người khoa bảng thời nay sẽ phản đối : "tôi có biết triết lý ở ẩn là cái quái gì đâu, anh chỉ nói lẩm cẩm", nhưng chính anh ta đang theo triết lý ở ẩn và, tuy không nói ra, rất tán thành triết lý đó.
Ông Hoàng Xuân Hãn là một thí dụ rất điển hình. Ông có kiến thức uyên bác trên rất nhiều lãnh vực và có đạo đức cá nhân rất cao. Ông theo đúng triết lý Khổng Giáo "nước loạn không ở, nước nhiễu nhương thì ở ẩn". Mặc dầu là một nhân vật rất có uy tín và đã có thể đóng góp thay đổi số phận đất nước, ông đã chọn bỏ nước ra đi vào giữa lúc đất nước đang chuyển động lớn. Ông sang Pháp ở ẩn cho tới lúc qua đời. Ông Hãn là một người sáng suốt và lương thiện, ông hiểu rõ hậu quả của chọn lựa này. Trong một bài phỏng vấn mà tôi được đọc trên tờ báo Bulledingue (một tờ báo tiếng Pháp, nay đã đình bản, rất có giá trị của một nhóm trí thức Việt Nam tại Pháp từng ủng hộ đảng cộng sản), ông trả lời về tương lai của cộng đồng người Việt hải ngoại như sau : "Tôi sợ rằng rồi cũng như người Việt tại Trung Quốc, thế hệ đầu tha thiết với đất nước, thế hệ sau không còn nói thạo tiếng Việt nữa và thế hệ thứ ba quên là mình có gốc Việt". Ông Hoàng Xuân Hãn dư biết về lâu về dài ra đi là từ bỏ đất nước, nhưng vẫn ra đi bởi vì ở ẩn là cả một đạo lý cao thượng đối với người Việt Nam và ông Hãn dù đã du học phương Tây và đậu những bằng cấp cao nhất vẫn là người Việt Nam. Khi ông Hãn qua đời, trí thức Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước đồng loạt lên tiếng ca ngợi ông như một người mẫu mực, không thấy ai bày tỏ sự phiền lòng rằng một người lỗi lạc như ông đáng lẽ phải có một chọn lựa tích cực hơn đối với đất nước. Thế hệ trước đã ca tụng Nguyễn Khuyến, thế hệ sau ca tụng Hoàng Xuân Hãn. Những Nguyễn Khuyến của thế hệ trước đã rất đông đảo, những Hoàng Xuân Hãn của thế hệ sau còn đông đảo hơn, ngay cả về tỷ lệ. Xem ra, dù đã kinh qua nhiều biến cố trọng đại, tâm lý người Việt vẫn chưa thay đổi bao nhiêu, tránh gian nguy và ở ẩn vẫn còn là một nhân sinh quan rất phải đạo. Người Việt Nam vẫn còn chưa mất gốc, họ vẫn còn là những người Việt Nam chân chính, nghĩa là không yêu nước, hoặc chỉ yêu nước một cách không tốn kém. Đọc tới đây xin độc giả đừng nghĩ rằng tôi có một dụng ý mỉa mai nào. Tôi thực sự quí trọng những người như Nguyễn Khuyến và Hoàng Xuân Hãn. Họ cao thượng thực sự, nhưng họ là sản phẩm của một nền văn hóa cam chịu và ẩn dật, họ đã sống phù hợp với nền văn hóa đó và họ là những mẫu người cao quí của nền văn hóa đó.
Tôi quen biết, hoặc được biết, khá nhiều trí thức Việt Nam trong nước. Tất cả đều đồng ý chế độ hiện nay là tồi dở và độc hại, tất cả đều mong nó chấm dứt càng sớm càng hay, nhưng chỉ một số rất nhỏ chấp nhận rủi ro đứng lên đòi dân chủ, tuyệt đại đa số còn lại chỉ lo sống và tồn tại. Và để tồn tại họ phải chấp nhận thỏa hiệp với chế độ, hợp tác với nó, và như thế giúp nó tiếp tục tồn tại, điều mà họ hoàn toàn không muốn. Mà những "đặc ân" mà họ được hưởng có to lớn gì cho cam, chúng chỉ là những chức phó vụ trưởng, ủy viên hội đồng nhân dân tỉnh, v.v..., với lương và phụ cấp không quá 200 đô-la mỗi tháng. Hay một cửa hàng nhỏ của vợ con, hay khả năng được xuất bản vài tập truyện ngắn vô hại, hay được vẽ và bán vài bức tranh kiếm sống, được xuất ngoại vài năm một lần. Hoặc chỉ giản dị là cuốn sổ lương hưu hai chục đô-la mỗi tháng. Hoặc giản dị hơn nữa là khỏi bị phiền hà. Tất cả đều hiểu những ân huệ đó chẳng có gì đáng kể, tất cả đều tin rằng nếu chế độ này chấm dứt thì không những đất nước sẽ khá hơn nhiều mà chính bản thân họ cũng khá hơn hẳn. Nhưng họ không chấp nhận một hy sinh, dù là tạm thời và nhỏ bé, nào cả bởi vì lòng yêu nước, nghĩa là sự gắn bó và tinh thần trách nhiệm với cộng đồng dân tộc, của họ không đủ mạnh. Mỗi người có cách riêng để luồn lách và tồn tại. Tất cả đều khôn, không ai chịu dại cả. Kết quả tổng hợp là đất nước vẫn tiếp tục quằn quại trong độc tài và lạc hậu. Một dân tộc gồm toàn những người khôn là một dân tộc rất đần độn. Chỉ có thể coi là yêu nước những người sẵn sàng chấp nhận một sự dại dột nào đó cho đất nước.
Trong cuộc xung đột dài và đẫm máu vừa qua, yêu nước đã là một khẩu hiệu được mọi phe phái sử dụng để giành giật hậu thuẫn. Hô mãi hoặc nghe mãi, khẩu hiệu đó trở thành một sự khủng bố tinh thần, rồi chúng ta đã ghi nhận nó trong tiềm thức như một ngôn ngữ bắt buộc. Nhưng chúng ta cường điệu và dối trá, chúng ta đeo mặt nạ và sử dụng ngôn ngữ cùủa lưỡi gỗ với nhau, khi xưng mình là người yêu nước. Và chúng ta sai lầm lớn khi nghĩ rằng đa số người Việt Nam yêu nước. Chỉ cần bình tĩnh quan sát sự thờ ơ bao trùm chung quanh chúng ta để nhận được một cải chính dứt khoát.
Người Việt Nam rất khó yêu nước. Trong vòng hơn hai ngàn năm chúng ta được nhào nặn bởi văn hóa Khổng Giáo, một văn hóa vong thân, vị kỷ và phủ nhận đất nước. Từ gần một nửa thế kỷ nay chúng ta bị áp đặt văn hóa cộng sản không khác với Khổng Giáo bao nhiêu về bản chất. Cả hai đều là những văn hóa kỳ thị, đặt nền tảng trên một giai cấp chứ không phải trên tinh thần dân tộc. Một kẻ sĩ Việt Nam ngày xưa gắn bó với một kẻ sĩ Trung Hoa hơn là một thứ dân Việt Nam. Một bần cố nông Việt Nam gần đây được nhồi sọ để coi mọi người vô sản thế giới là anh em và coi người tư sản Việt Nam là kẻ thù.
Đã thế, người ta còn nhân danh tổ quốc để phạm tội ác, để hạ sát hàng ngàn hàng vạn nạn nhân vô tội. Những nạn nhân bị ghép tội "phản quốc" trong đại đa số lại chính là những người yêu nước hiếm hoi. Người ta còn cưỡng đoạt tổ quốc và cố gắng hòa tan nó trong một chủ nghĩa ["yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội"]. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu đa số người Việt chọn lựa đứng ngoài mọi hệ lụy với đất nước.
Quốc gia chỉ mạnh nếu là đất nước của những con người tự do, tận dụng được hết sinh lực, thi thố được mọi tài năng, phát huy được mọi ý kiến và sáng kiến của mình. Nhưng quốc gia cũng không thể mạnh nếu không có lòng yêu nước, cũng như một gia đình không thể có hạnh phúc nếu không có tình yêu.
"Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn", không ai ngờ vực mãnh lực ghê gớm của tình yêu, chúng ta cần ý thức rằng lòng yêu nước cũng có mãnh lực tương tự trong việc xây dựng một tương lai chung cho dân tộc. Chúng ta rất cần một sức bật của lòng yêu nước. Nhưng chúng ta cũng cần ý thức rằng lòng yêu nước của chúng ta rất non yếu và tật nguyền cần được điều trị và gây dựng, chứ không phải một vốn đã sẵn dồi dào để sử dụng và lạm dụng.
Lòng yêu nước ấy, những người dân chủ phải xây dựng ra chứ không thể mong chờ gì ở chế độ độc tài này. Mọi chế độ chuyên chế, dù là chế độ quân chủ ngày xưa hay chế độ độc tài cộng sản ngày nay, đều có chung một chủ trương là tiêu diệt mọi ý thức cộng đồng và mọi liên hệ gắn bó trong xã hội để có thể thống trị một đám đông cô đơn. Họ không cần người dân yêu nước, họ chỉ cần người dân khuất phục. Họ không cần người dân yêu họ, họ chỉ cần người dân đừng yêu nhau. Ý niệm quốc gia dân tộc do dân chủ mà có, chỉ có dân chủ mới có thể giúp ta gây dựng và phát huy nó. Cuộc đấu tranh cho dân chủ cũng là cuộc đấu tranh nhằm đem lại cho người Việt lý do để yêu nước.
Những người dân chủ phải khẳng định dự án xây dựng một nhà nước khiêm tốn phục vụ thay vì khống chế xã hội dân sự, đặt mình dưới người dân thay vì trên người dân, một nhà nước tối thiểu để nhường không gian tối đa cho sinh lực, ý kiến và sáng kiến của công dân. Và họ cũng cần khẳng định : người dân không có bổn phận phải yêu nước ; chính nhà nước và thành phần ưu tú của đất nước, nghĩa là thành phần trí thức, phải làm cho đất nước trở thành đáng yêu. Đất nước không được hạch hỏi người dân đã làm gì cho mình, trái lại phải tự hỏi mình đã có ích lợi gì cho người dân.
Có lẽ chính vào lúc lòng yêu nước không còn là một cưỡng bách nữa mà chúng ta sẽ có được lòng yêu nước thực sự, hay ít ra nhận diện được những người thực sự yêu nước, và nhờ đó có thể kết nghĩa với nhau để cùng nhau đưa đất nước ra khỏi bế tắc.
Một chân dung tráng lệ của kẻ sĩ
Nói tới Khổng Giáo thì phải nói ngay tới kẻ sĩ. Mục đích duy nhất của Khổng Giáo là đào tạo ra kẻ sĩ. Kẻ sĩ được coi là một lý tưởng mà mọi người phải hướng tới.
Bức chân dung kẻ sĩ, như một mẫu người vong thân và vị kỷ, được mô tả trong những trang trước phải chăng là quá đáng ? Nhiều người, trong đó có cả những thân hữu quí mến của tôi, đã hơn một lần phát biểu rằng nhận định của tôi về kẻ sĩ qua các bài báo đã được đăng là sai lệch. Vậy thì tôi xin nhường lời cho một kẻ sĩ chân chính viết về chính kẻ sĩ. Đó là Nguyễn Công Trứ qua bài Kẻ Sĩ của ông.
Kẻ sĩ không thể có một đại diện nào hoàn hảo hơn Nguyễn Công Trứ. Ông trải qua tất cả tiến trình học tập, sống và hành động của một kẻ sĩ lý tưởng. Ông cũng là một mẫu mực thành công của kẻ sĩ. Cả văn nghiệp lẫn võ nghiệp của ông ít ai bì kịp, ông cũng rất dũng cảm và thanh liêm. Điều làm người ta quí mến ông hơn nữa là ông lại phóng khoáng và đầy nghệ sĩ tính. Ông là một trong những kẻ sĩ lỗi lạc nhất và đáng kính phục nhất trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Công Trứ trải qua một thời thanh niên lận đận, ông đậu Giải Nguyên (thủ khoa kỳ thi hương) năm đã 43 tuổi. Sự muộn màng này không phải do ông không thành công trong các bài thi mà vì quan trường thấy giỏi quá sợ ông thành kiêu căng nên đánh rớt ông để tập cho ông tính khiêm nhường. Nguyễn Công Trứ mất hơn hai mươi năm cường tráng nhất của đời mình vì chữ êkhiêmê của kẻ sĩ. Ông theo đúng phương châm vững lòng tin, chăm học, kiên trì, cải thiện trình độ nho học [độc tín, háo học, thủ tử, thiện đạo] trong lúc chưa gặp thời. Sau đó ông thi đậu rồi làm quan và làm tướng một cách thật xuất sắc, thăng lên những chức vụ rất cao, đánh Nam dẹp Bắc lập những chiến công thật lẫy lừng. Ông cũng đã đem dân đi dinh điền lập ra nhiều huyện trù phú tại tỉnh Thái Bình. Nguyễn Công Trứ rất hài lòng về sự nghiệp của mình, ông tự thuật như sau :
Khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây cờ đại tướng...
Hoạn lộ của ông khá nhiều gian truân. Có lúc ông bị gièm là có ý làm phản, có lúc ông bị cách chức tuột xuống làm lính, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn kiên trì bày tỏ tài năng và lòng trung nghĩa và rồi lại vươn lên. Ông về hưu sau ba mươi năm hoạt động mãnh liệt. Nhưng mặc dầu công việc dồn dập ông vẫn để lại một văn nghiệp to lớn về cả phẩm lẫn lượng.
Tác giả đã đặc sắc như vậy, bài Kẻ Sĩ cũng đặc sắc không kém. Nó tóm gọn một cách đẹp đẽ tất cả nhân sinh quan của kẻ sĩ. Nó lại được viết bằng một thể văn đặc biệt, thể hát nói. Đó là loại thơ được sáng tác trong lúc hát cô đầu, lúc kẻ sĩ phóng khoáng nhất. Cái gì quá đẹp thì khó đúng, có thể bức chân dung kẻ sĩ của Nguyễn Công Trứ không trung thực vì đã được lộng lẫy hóa quá đáng. Kẻ sĩ mà Nguyễn Công Trứ mô tả là kẻ sĩ tráng lệ nhất. Tôi có hỏi một số học giả và được biết là Trung Quốc không có bài thơ hay bài văn nào mô tả kẻ sĩ đẹp đẽ và hùng tráng hơn bài Kẻ Sĩ sau đây của Nguyễn Công Trứ, mà tôi chép lại nguyên văn và đánh số từng câu để chú giải.
1. Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
2. Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
3. Có giang sơn thì sĩ đã có tên
4. Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí
5. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị
6. Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
7. Khí hạo nhiên chí đại, chí cương
8. So chính khí đã đầy trong trời đất
9. Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
10. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn
11. Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang Văn
12. Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
13. Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí
14. Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
15. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
16. Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
17. Trong lăng miếu ra tài lương đống
18. Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương
19. Làm sao cho bách thế lưu phương
20. Trước là sĩ sau là khanh tướng
21. Kinh luân khởi tâm thượng binh giáp tàng hung trung
22. Vũ trụ chi gian giai phận sự
23. Nam nhi đáo thử thị hào hùng
24. Nhà nước yên mà sĩ được thung dung
25. Bấy giờ sĩ sẽ tìm ông Hoàng Thạch
26. Dăm ba chú tiểu đồng lếch thếch
27. Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn
28. Nào xe, nào ngựa, nào địch, nào đờn
29. Đồ thích chí chất đầy trong một túi
30. Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới
31. Nhắm cuộc đời mà ngẫm kẻ trọc thanh
32. Này này, sĩ mới hoàn danh.
Bài thơ này dùng khá nhiều chữ Hán nên có lẽ một số độc giả cần vài giải thích.
Hai câu (1) và (2) nói rằng trong năm tước quan [công, hầu, bá, tử, nam}, kẻ sĩ đều có mặt và trong bốn giai cấp xã hội [sĩ, nông, công, thương], kẻ sĩ đứng đầu. Thật là hãnh diện được làm kẻ sĩ.
Trong câu (4), Chu và Hán là hai triều đại lớn của Trung Quốc gần sát nhau, từ thế kỷ 12 trước Tây lịch tới thế kỷ 3 sau Tây lịch.
Hai câu (5) và (6) : Ở xóm làng [hương đảng], kẻ sĩ đã được tôn kính là người có lý luận [hiếu nghị] nên phải sống đúng tam cương [quân, sư, phụ hay bổn phận đối với vua, với cha mẹ và với thầy dạy học] và ngũ thường [nhân, nghĩa, lễ, trí, tín].
Hai câu (7) và (8) : Bản chất của kẻ sĩ [khí hạo nhiên] rất lớn và rất vững [chí đại, chí cương], tinh thần [chính khí] của kẻ sĩ đầy trời đất.
Hai câu (9) và (10) : Khi chưa gặp [lúc vị ngộ] được minh chúa thì ở yên [hối tàng] trong lều cỏ [bồng tất] nghèo nàn, cứ thanh thản mà vui chơi bằng cách câu cá trên sông Vị [điếu Vị] hay trồng trọt trên đất Sằn [canh Sằn]. Đầu đời nhà Chu, Khương Tử Nha ngồi câu cá trên sông Vị đợi minh chúa tới năm đã ngoài 80 tuổi mới được Chu Văn Vương đem xe đến đón về làm quan. Trước đó một nhân vật huyền bí khác của Trung Quốc, làm ruộng ở đất Sằn cho đến khi được minh chúa tới đón. Tất cả những hoạt động câu cá, trồng trọt này không có mục đích sản xuất (Khương Tử Nha câu cá bằng lưỡi câu thẳng) mà chỉ có mục đích chờ thời mà thôi.
Hai câu (11) và (12) : Dù chưa gặp được các minh chúa như vua Thang, vua Văn đem xe có quấn cỏ vào bánh [bồ luân] cho êm tới đón về, vẫn giữ đạo nho bằng cách nói lên những lời đúng [thanh nghị].
Ba câu (13), (14) và (15) : Giữ vững chính đạo, tức Khổng Giáo, để tiêu diệt những tà thuyết [tịch tà], chống lại những khó khăn của cuộc sống [cự bí]. Quyết tâm quay ngược lại sóng dữ [hồi cuồng lan] ngăn nước của cả trăm con sông.
Năm câu từ (16) đến (20) : Khi đã được ra làm quan (kẻ sĩ được làm quan cũng sung sướng như rồng gặp mây) thì đem tất cả tài mình có [sở tồn] ra sử dụng. Trong triều đình (lăng miếu là mộ các vua, thường chôn ở ngay triều đình, kẻ sĩ coi là một diễm phúc được nhìn mộ các vua trước) thì trổ tài làm quan [tài lương đống], ngoài trận mạc biên thùy thì vung gươm báu (Can và Tương là một cặp vợ chồng thời xưa ở Trung Quốc làm nghề luyện kiếm và đã hy sinh vì kiếm báu). Làm thế nào để cả trăm thế hệ về sau biết đến tiếng thơm [bách thế lưu phương] mới hay. Trước là làm đẹp hình ảnh kẻ sĩ, sau là làm quan lớn [khanh tướng].
Ba câu (21), (22) và (23) tóm lược thế nào là một người trai anh hùng : phải có kiến thức trị nước [kinh luân] ở sẵn trong đầu [tâm thượng] và phải chứa sẵn tài cầm binh ở trong bụng [binh giáp tàng hung trung]. Khắp nơi đều là phạm vi hoạt động [vũ trụ chi gian giai phận sự]. Làm trai như thế mới đúng là anh hùng hào kiệt.
Những câu cuối nói rằng khi đã làm tròn phận sự thì kẻ sĩ lại rút về ở ẩn, ngao du danh lam thắng cảnh, hưởng thú đàn hát và không màng đến xã hội nữa. Như thế là kẻ sĩ hoàn tất một cuộc đời đẹp [hoàn danh].
Chúng ta thấy gì qua cái chân dung lẫm liệt của kẻ sĩ này ?
Trước hết nó bộc lộ một thái độ thuần phục văn hóa tuyệt đối với Trung Quốc. Mọi điển tích, mọi địa danh, triều đại đều là của Trung Quốc cả. Ý niệm quốc gia dân tộc hoàn toàn vắng mặt, tổ quốc của kẻ sĩ là Trung Quốc, đúng ra là Khổng Giáo Trung Quốc.
Sau đó là tâm lý tôi tớ. Kẻ sĩ chỉ chờ để được làm tôi tớ cho một ông chủ, chứ hoàn toàn không có ý chí xây dựng một sự nghiệp của riêng mình trong mọi hoàn cảnh. Không được một minh chúa dùng làm tôi tớ kẻ sĩ sẵn sàng để phí uổng đời mình. Cả đời kẻ sĩ chỉ sống với giấc mộng được làm tôi tớ. Đúng là một thái độ vong thân tuyệt đối.
Suốt cuộc đời, hoặc không may thì ở ẩn cam chịu cuộc sống nghèo nàn trong lều cỏ, hoặc may thì làm bầy tôi cho một ông vua, sau đó vui chơi. Hoàn toàn không thấy có một trách nhiệm nào đối với cộng đồng cả. Cuộc sống hoàn toàn vị kỷ.
Và dĩ nhiên chỉ có người con trai mới đáng kể, phụ nữ không thể là kẻ sĩ vì thế không đáng đếm xỉa tới.
Tôi đã đề cập đến Nguyễn Trãi và lần này lại đề cập tới Nguyễn Công Trứ. Tôi hoàn toàn không dám mai mỉa hai vị tiền bối này. Tôi rất kính trọng họ, bởi vì họ là tinh hoa của lịch sử Việt Nam, là những người đã có công lớn với đất nước và cũng là những người mà chúng ta có thể tự hào. Điều cần lên án là cái văn hóa Khổng Giáo tồi tệ đã tha hóa cả những con người lỗi lạc như thế. Riêng đối với Nguyễn Trãi, ông đã có công lớn giành lại độc lập cho Việt Nam từ tay quân Minh, ông cũng là tác giả Bình Ngô Đại Cáo, áng văn nghị luận chính trị đầu tiên của Việt Nam đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, nhưng ông đã chết tức tưởi và cả họ bị giết hại. Thủ phạm là ai nếu không phải là chế độ quân quyền dựa trên Khổng Giáo, là cái "giá trị" tam cương độc hại của Khổng Giáo ?
Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ và vô số kẻ sĩ lỗi lạc khác nếu thi thố được hết tài năng và sáng kiến của mình thì còn vĩ đại gấp trăm lần và còn cống hiến cho đất nước những thành quả to lớn gấp trăm lần. Nhưng họ là kẻ sĩ và đã phải chấp nhận cuộc sống vong thân của kẻ sĩ.
Tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện mạnh lắm trong chúng ta. Không thiếu những người rất đáng quí trọng hiện nay ao ước được sống như kẻ sĩ hay hãnh diện đã sống như kẻ sĩ. Nguyễn Xuân Tụ, người bạn quí mến của tôi, lấy tên là Hà Sĩ Phu, có thể có nghĩa là sĩ phu Bắc Hà, cũng có nghĩa của một câu hỏi "còn ai là kẻ sĩ ngày nay" hay "thế nào là sĩ phu" do sự thiếu chính xác của tiếng Trung Quốc và tiếng Việt. Ông Tụ trân trọng kẻ sĩ lắm, cũng như nhà văn Hoàng Tiến, người đã viết kháng thư trách chính quyền cộng sản đối xử tệ bạc với trí thức mà ông coi là những kẻ sĩ của thời nay. Tôi thì chỉ thấy kẻ sĩ là một bóng ma tiều tụy và vong thân cần phải tống cổ một cách tức khắc và không nể nang ra khỏi trí tuệ và tâm hồn của chúng ta, nếu chúng ta muốn một tầm vóc khác cho đời mình và một tương lai khác cho đất nước.
Chuyện cổ tích
Tới đây có lẽ một số độc giả đã cảm thấy mệt mỏi và chán nản với những biện luận về lịch sử và tư tưởng, nhiều vị chắc đã muốn gấp cuốn sách này lại và cất đi. Vậy để quí vị giải khuây chốc lát và lấy lại can đảm để đọc tiếp, tôi xin kể một vài câu chuyện cổ tích. Những câu chuyện này đều ngắn vì tôi chỉ biết một cách sơ sài.
Chuyện thứ nhất là Phù Đổng Thiên Vương, còn gọi là Thánh Gióng, có lẽ vì Gióng là tên nôm của làng Phù Đổng chăng ? Điều này có thể kiểm chứng khá dễ dàng nhưng tôi vẫn không có thì giờ để làm. Hiện nay hàng năm, tại làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Vĩnh Phú vẫn có ngày hội lớn về sự tích Thánh Gióng.
Tục truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, nước ta, thời bấy giờ gọi là Văn Lang, bị giặc ên đánh phá (không tài liệu sử nào cho biết giặc ên là giặc nào), vua cho đi rao truyền trong nước tìm người tài ra đánh giặc. Lúc đó tại làng Phù Đổng, có một đứa bé đã ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, chỉ nằm một chỗ, nghe tiếng loa truyền bỗng nhiên ngồi dậy, vươn mình thành một thanh niên cao một trượng, rồi theo sứ giả về chầu vua, xin đúc một cây roi sắt và một con ngựa sắt. Được cấp roi, ngựa, chàng thanh niên liền nhảy lên yên. Ngựa sắt bỗng nhiên cử động được. Chàng thanh niên phi ngựa ra trận đánh tan quân giặc. Đến núi Sóc Sơn thì giặc tan hết và chàng thanh niên cũng về trời mất tích. Dân chúng tưởng nhớ tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, hoặc Thánh Gióng. Đây là chuyện cổ tích mà lúc còn nhỏ tôi thích nhất bởi vì nó vừa là chuyện của một đứa bé, vừa là chuyện kiếm hiệp và cũng vừa là chuyện thần thoại.
Chuyện thứ hai là chuyện Chử Đồng Tử. Vào đời vua Hùng Vương 16, Chử Đồng Tử là một thiếu niên mồ côi mẹ sống với cha bằng nghề bắt cá trên sông. Hai cha con nghèo đến độ chỉ có một cái khố phải chia nhau mà mặc. Các bạn trẻ có lẽ không biết cái khố là gì. Tôi tuy không già lắm nhưng hồi còn trẻ ở nhà quê cũng đã được nhìn thấy những người mặc khố (ngôn ngữ nông thôn gọi là "đóng khố" thay vì mặc khố). Nó gần giống như một quần xi-líp, nghĩa là rất ít vải, tác dụng duy nhất của nó chỉ là để che hậu môn và bộ phận sinh dục.
Một hôm, giữa lúc cha đang đóng khố, Chử Đồng Tử đang trần truồng bên bờ sông thì một công chúa được lính hầu kiệu tới. Chử Đồng Tử hốt hoảng không biết trốn đâu bèn chui đại xuống bãi cát, lấy cát phủ lên mình. Không biết anh ta thở cách nào nhưng anh ta tự chôn khá kín, công chúa cũng như lính đều không thấy. Sự tình cờ đã khiến công chúa chọn ngay chỗ anh ta vùi mình để quây phòng tắm. Công chúa cứ thoải mái múc nước gội lên mình, cho đến lúc giật mình nhận ra một chàng trai cường tráng lõa thể ngay dưới chân mình bởi vì trong lúc xối nước cô đã làm trôi đi lớp cát phủ trên thân Chử Đồng Tử. Thế là một đôi trai gái trần truồng gặp nhau trong một phòng kín. Công chúa như thế đã bị coi như mất trinh tiết với Chử Đồng Tử, nhà vua chỉ còn cách cho hai người kết hôn, và Chử Đồng Tử trở thành phò mã. Câu chuyện này rất vui, bởi vì nó vừa là một chuyện tình vừa là một câu chuyện của sự may mắn, một chàng trai đánh cá nghèo khổ tình cờ lấy được công chúa.
Chuyện thứ ba là chuyện Lưu Bình - Dương Lễ. Đây vừa là một câu chuyện về tình bạn, vừa là câu chuyện lập thân. Không biết câu chuyện xảy ra ở bên Tàu hay tại nước ta nhưng hình như người Việt Nam nào cũng biết.
Lưu Bình và Dương Lễ là đôi bạn thân thiết. Sau một kỳ thi Dương Lễ đỗ, được ra làm quan và sống phú quí, trong khi Lưu Bình thi rớt. Lưu Bình đến thăm bạn và bị Dương Lễ sai lính cầm roi đánh đuổi một cách khinh bỉ. Tức quá, Lưu Bình về nhà quyết chí học cho đậu để rửa nhục. Đang lúc túng thiếu thì bỗng nhiên Lưu Bình gặp được một cô gái xinh đẹp và có tài sản, bằng lòng lấy Lưu Bình và nuôi Lưu Bình ăn học. Hạnh phúc làm con người trở thành thông minh và chuyên cần, khóa sau Lưu Bình đỗ cao và trở thành quyền quí. Lúc đó Lưu Bình mới mời Dương Lễ tới nhà mình để chứng kiến sự giàu sang của mình, với dụng ý làm cho Dương Lễ phải xấu hổ vì sự bội bạc ngày xưa. Nhưng cuộc gặp gỡ này chỉ là dịp để Lưu Bình khám phá ra rằng vợ mình thực ra là một tì thiếp của Dương Lễ, được gởi tới để giúp Lưu Bình ăn học. Dương Lễ đã giúp bạn một cách khôn ngoan, vừa làm nhục bạn để kích thích ý chí, vừa giúp phương tiện để bạn học thành công. Câu chuyện này đẹp và có giá trị giáo dục nên tôi được nghe kể khá nhiều lần và lần nào cũng thích thú lắng nghe dù đã thuộc lòng.
Chuyện thứ tư là một chuyện dã sử. Đó là câu chuyện Thị Lộ, còn gọi là chuyện rắn báo thù và liên hệ đến cái chết bi thảm của Nguyễn Trãi, một khai quốc công thần có công phò Lê Lợi đánh đuổi quân Minh giành độc lập cho nước ta và cũng là nhà tư tưởng chính trị lớn của nước ta. Sau khi giúp vua lấy lại được đất nước, Nguyễn Trãi được phong đứng đầu trăm quan, rồi sau đó cáo quan về quê.
Khi về hưu, Nguyễn Trãi ra lệnh cho gia nhân dọn sạch khu vườn bấy lâu bị bỏ hoang nên đầy bụi rậm và cỏ dại. Đêm trước ngày khởi sự, Nguyễn Trãi nằm mơ thấy một con rắn biết nói tới xin ông hoãn lại việc dọn vườn vì nó mới sinh con nhỏ nên chưa thể đi ngay chỗ khác được. Cho là chuyện mộng mị vớ vẩn, Nguyễn Trãi không để ý tới và cũng chẳng nói với ai. Ngày hôm sau gia nhân dọn vườn và trình vùới ông đã thấy một ổ rắn, họ đã giết được bầy rắn con nhưng rắn mẹ chạy thoát, họ chỉ chặt được một khúc đuôi. Tối hôm đó Nguyễn Trãi đang nằm đọc sách thì một giọt máu từ nóc nhà nhỏ xuống ngay cuốn sách thấm ba trang. Đó là máu của con rắn mẹ đã leo lên nóc nhà.
Ít lâu sau Nguyễn Trãi gặp Thị Lộ, một cô gái trẻ vừa xinh đẹp vừa giỏi thơ văn, ông bèn lấy làm thiếp và rất chiều chuộng. Một hôm, vua Lê (đây là Lê Thái Tông, con của Lê Lợi tức Lê Thái Tổ) du hành qua đấy bèn ghé thăm Nguyễn Trãi và ngủ đêm tại nhà ông. Thấy Thị Lộ xinh đẹp, vua bèn bảo Nguyễn Trãi để Thị Lộ ngủ với mình. Đêm hôm đó, không biết vua say sưa hoan lạc với Thị Lộ thế nào mà chết, Nguyễn Trãi bị buộc tội giết vua và bị giết cùng với cả họ hàng ba đời. Lúc đó người ta mới hiểu Thị Lộ chính là hồn ma của rắn mẹ hiện hình làm gái để báo thù Nguyễn Trãi, và giọt máu thấm ba trang giấy là điềm báo trước Nguyễn Trãi sẽ bị tru di tam tộc.
Câu chuyện này tuy thương tâm, nhưng có sức hấp dẫn đặc biệt. Nó ly kỳ và ma quái, hơn nữa nó lại là chuyện về rắn, con vật vừa kinh dị vừa quyến rũ.
Bây giờ, các bạn đã được giải khuây rồi tôi xin thưa một điều. Đó là những câu chuyện bề ngoài rất vô hại, và đôi khi còn có tính giáo dục, cũng có thể chuyên chở những giá trị rất độc hại. Càng độc hại hơn nữa khi chúng là những câu chuyện bà kể cho cháu, vì chúng ta tiếp thu một cách ngây thơ, vô tình và không cảnh giác. Những câu chuyện như thế tiếp thu ở tuổi thơ ngây đã là những dấu ấn đầu tiên trong trí tuệ và khiến chúng ta chấp nhận một cách thụ động, không bàn cãi những giá trị thực ra có tác dụng quan trọng đối với xã hội và con người.
Cả bốn câu chuyện này không vô tư như chúng ta tưởng, chúng đều có tác dụng truyền bá những giá trị củng cố cho một trật tự có sẵn : quyền lực tuyệt đối của vua, lý tưởng nô dịch của kẻ sĩ, và thân phận thấp kém của phụ nữ.
Phù Đổng là một vị thần chứ không phải là một con người. Sinh ra được ba năm mà vẫn nằm im, rồi vươn vai một cái mà cao đến một trượng, rồi cưỡi ngựa sắt, một mình đánh tan giặc, rồi lên núi về trời. Một vị thần như vậy mà cũng phò vua thì chắc chắn vua phải là trời, và đã là trời thì dĩ nhiên quyền lực của vua phải tuyệt đối. Chuyện Thánh Gióng là một câu chuyện bịa đặt, có thể dựa trên một sự kiện có thực nhưng rất khác, trong mục đích đặt nền tảng cho chế độ quân chủ chuyên chế. Ngày nay trong nước đang có một khuynh hướng khai thác chuyện Thánh Gióng cho một mục đích chính trị đúng đắn, lấy gương Thánh Gióng cao thượng sau khi dẹp xong giặc đã bỏ đi để nhắc nhở đảng cộng sản và phê phán thái độ lì lợm khư khư giữa lấy quyền lực của họ. Tôi rất ngờ vực tác dụng của cuộc vận động này. Ví những chiến công của đảng cộng sản với Thánh Gióng là nhìn nhận rằng những cuộc chiến mà đảng cộng sản khởi xướng và điều động có chính nghĩa và có ích cho dân tộc. Điều này không hiển nhiên, nhưng không phải là điều tôi muốn bàn. Điều tôi muốn bàn là sự thiếu sức thuyết phục của lập luận. Tại sao lại phải bỏ ra đi sau khi đã lập công ? Tại sao không ở lại tiếp tục giúp nước ? Thực ra chúng ta không có quyền đòi đảng cộng sản phải ra đi, chúng ta chỉ đòi họ ra đi khi không còn được nhân dân chấp nhận nữa. Chỉ có một cuộc bầu cử tự do mới có thể cho thấy nhân dân còn muốn họ ở lại hay không.
Tại sao một công chúa, chỉ vì vô tình nhìn thấy một thanh niên khỏa thân mà lại có thể bị coi là mất tiết hạnh ? Một công chúa mà còn như vậy thì một cô gái con nhà thứ dân ra sao ? Số phận người phụ nữ sao mà rẻ rúng thế ! Câu chuyện Chử Đồng Tử không vô tư, nó có mục đích củng cố sự thống trị của nam giới trên nữ giới, đồng thời nó cũng có mục đích tôn vinh quân quyền. Lấy công chúa được coi là diễm phúc lớn nhất của đời người. Bất luận công chúa tuổi tác, nhan sắc, đức hạnh ra sao. Trẻ em Việt Nam bị đầu độc nặng đến nỗi không có đứa nào đặt câu hỏi "thế Chử Đồng Tử có bằng lòng lấy công chúa không ?". Câu chuyện không phải chỉ có mục đích giải trí, nó còn có dụng ý "giáo dục".
Người "vợ" của Lưu Bình sau này sẽ tiếp tục là vợ Lưu Bình hay sẽ về với "chồng" cũ là Dương Lễ ? Ở với Lưu Bình thì sẽ không còn được quí trọng vì đã qua tay Dương Lễ, nghĩa là đã "ô uế" rồi, mà về với Dương Lễ cũng không xong bởi vì cũng đã chung sống với Lưu Bình. Thân phận tì thiếp lầm lũi là lối thoát hợp đạo lý duy nhất cho cô. Ở cương vị tì thiếp, cô có thể bị trao đổi một cách rất phải đạo như một vật dùng. Cái chữ "trinh" mà đàn ông bắt đàn bà phải tôn trọng như tính mạng chính họ lại chà đạp lên một cách thản nhiên. Nhưng chuyện Lưu Bình - Dương Lễ không phải là chuyện trai gái mà là chuyện quan trường. Nó cho thấy mộng đời duy nhất của thanh niên là thi đỗ để làm quan. Không làm quan thì không là gì cả, còn hễ làm quan thì có tất cả, nhà cao cửa rộng, thê thiếp đầy đàn. Cái lý tưởng mà đứa trẻ được nhồi sọ ngay lúc ra chào đời là cố học để làm quan, là "trong sách có gái đẹp". Sách thánh hiền thật là cao quí !
Câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ còn chứa đựng cả một quan niệm về công quyền, đó là quan niệm "chức quyền" thay vì "chức trách". Chức vụ là một địa vị cho phép thụ hưởng chứ không phải là một trách nhiệm. Lưu Bình cũng như Dương Lễ chỉ mới đậu xong và ra làm quan đã lập tức trở thành giàu sang, phú quí. Đằng sau câu chuyện có mục đích giáo dục đó là cả một văn hóa tham nhũng.
Còn chuyện Thị Lộ ? Câu chuyện này chắc chắn là một sự bịa đặt của triều đình nhà Lê để dùng sự huyền bí chạy tội ác man rợ tàn sát cả ba họ một khai quốc công thần. Nhưng nó cũng có tác dụng bình thường hóa bản chất thô bạo của văn hóa Khổng Giáo. Thị Lộ là phụ nữ và đã là phụ nữ thì nhân phẩm của bà không đáng kể. Bà là thiếp của Nguyễn Trãi, nhưng vua muốn thỏa mãn nhục dục bà cũng phải tuân theo. Cái chữ "tiết trinh" được đề cao như đạo lý tuyệt đối của phụ nữ cũng phải dừng lại trước đòi hỏi của nhà vua. Ở đây người đàn bà còn bị ví với rắn độc. Thật là tàn nhẫn, người phụ nữ Việt Nam không những chỉ bị chà đạp, khinh bỉ mà còn bị thù ghét.
Còn Nguyễn Trãi ? Vị đệ nhất công thần này từng nằm gai nếm mật cạnh Lê Lợi, bố của Lê Thái Tông, cũng phải nộp người yêu của mình cho một thằng bé bằng tuổi con mình hành lạc ngay tại nhà mình, không chừng còn phải lạy tạ ơn mưa móc và dọn giường chiếu cho nó. Và khi không may vua vì quá đê mê mà chết thì bị kết tội và bị giết cả ba họ. Vua là trời, quần thần không là gì cả. Một ông quan, nghĩa là một kẻ sĩ may mắn thành đạt, dù tài giỏi tới đâu đi nữa, dù chức phẩm cao tới đâu đi nữa cũng không hơn gì một con vật trước mặt vua, vua muốn nọc ra đánh vài chục trượng, muốn thiến, muốn giết bỏ tùy ý. Và muốn giết sạch cả cha mẹ, anh em, con cháu cũng được luôn. Vậy mà làm quan vẫn là giấc mơ của kẻ sĩ ! Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện như thế làm sao lớn lên giữ được phẩm cách, làm sao tránh khỏi tâm lý vong thân ?
Văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những giá trị đã được chấp nhận và tạo ra cách suy nghĩ, hành động và ứng xử của dân tộc đó. Khi nhận định về văn hóa cá nhân của mình, chúng ta thường mắc phải một sai lầm rất lớn là đồng hóa văn hóa với kiến thức, trong khi kiến thức chỉ là một phần không quan trọng của văn hóa. Chúng ta có thể có những kiến thức rất sâu sắc về y học, điện tử, động nhiệt học, kế toán và cả triết lý nữa, nhưng văn hóa của chúng ta, nghĩa là cách sống, suy nghĩ, hành động và ứng xử của chúng ta vẫn theo một hệ thống giá trị có sẵn nào đó.
Và văn hóa có cách lưu truyền của nó. Một số giá trị ban đầu, nảy sinh do một bối cảnh xã hội đặc thù hay được kẻ cầm quyền áp đặt, tạo ra một nếp sinh hoạt xã hội. Đến lượt nó, nếp sinh hoạt đó, với những thể hiện vật chất và tâm linh, điều kiện hóa con người, để rồi con người truyền lại cho nhau qua các thế hệ. Chúng ta tiếp thu một văn hóa lúc mới chào đời khi trí tuệ còn non nớt chưa có khả năng tự vệ, chúng ta chấp nhận những giá trị của văn hóa đó như những sự hiển nhiên không cần bàn cãi, bởi vì những giá trị đó không đến với chúng ta bằng lý luận. Chúng đến với chúng ta qua kiến trúc của làng xã, phố phường, bề rộng của những con đường, hình dạng của căn nhà, kích thước của cái cửa sổ. Chúng đến với chúng ta qua sinh hoạt gia đình và bằng hữu. Chúng cũng đến với chúng ta qua những câu chuyện bà kể cho cháu, cô giáo kể cho học trò. Nói chung, chúng thường đến một cách gián tiếp và giấu mặt khiến chúng ta chấp nhận một cách vô tình, chứ không đến một cách trực tiếp và lộ diện để chúng ta có thể nhận định và chọn lựa. Chính vì thế mà một số người Việt Nam có thể không hề nhìn thấy một lần trong đời cuốn Luận Ngữ và không biết gì về sử Trung Hoa mà vẫn thuộc văn hóa Khổng Giáo và vẫn là sản phẩm tinh thần của Đông Chu Liệt Quốc. Một cách tương tự một người châu Âu dù chưa từng nghe nói tới Socrate, Platon và chưa đọc một chuyện thần thoại Hy Lạp nào, vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Hy Lạp và vẫn là đứa con tinh thần của Ulysse.
Rất có thể là có những bạn đọc trẻ không hề biết tới một chuyện nào trong cả bốn câu chuyện cổ tích mà tôi vừa kể, nhưng không nhiều thì ít, và nhiều chứ không ít, các bạn vẫn chịu ảnh hưởng của những giá trị mà chúng chuyên chở, bởi vì các giá trị ấy đã được môi trường sinh sống và những người đã tiếp thu chúng trước truyền lại cho các bạn. Tôi thường được nghe nhiều vị phân vân nếu bỏ văn hóa truyền thống thì chúng ta còn lại gì, chúng ta có mất mát lớn hay không. Xin quí vị yên lòng, quí vị dù muốn cũng không bỏ được đâu. Chính tôi, một người phê phán gay gắt Khổng Giáo, tôi vẫn là một sản phẩm của Khổng Giáo. Một văn hóa có sức sống dai dẳng khó tưởng tượng nổi của nó. Nếu thay đổi một nền văn hóa là việc dễ dàng thì bộ mặt thế giới đã khác hẳn, đã không có những quốc gia có lợi tức bình quân trên mỗi đầu người lớn gấp một trăm lần nhiều quốc gia khác.
Văn hóa quyết định tổ chức xã hội, và tổ chức xã hội quyết định chỗ đứng và sự hơn kém của các dân tộc. Chế độ cộng sản không phải là một sự ngẫu nhiên của lịch sử. Nó thành công và tồn tại được mà không gặp sự chống trả đáng lẽ phải có bởi vì nó chỉ là sự kết tinh của những giá trị nền tảng của xã hội ta.
Tôi sinh sống bằng nghề kỹ sư cố vấn. Nghề nghiệp của tôi thường cho tôi cơ hội để thẩm định giá trị của các hệ thống quản trị bằng tin học. Kinh nghiệm cho thấy chỉ có hai nguyên nhân đưa tới một hệ thống tin học dở : một là máy [hardware] dở, hai là các chương trình [software] được đặt vào máy dở. Cũng thế, khi một quốc gia lạc hậu và thua kém thì chỉ có hai giả thuyết : một là con người tồi, hai là văn hóa tồi.
Nhưng con người của ta không tồi, chúng ta khá thông minh và chúng ta cũng rất chăm làm. Vậy thì cái gì khiến chúng ta không vươn lên được nếu không phải là vì văn hóa của ta độc hại ?
Muốn vươn lên chúng ta phải thay đổi văn hóa, nghĩa là các giá trị nền tảng. Nhưng đây lại là một việc rất gian lao vì, xin nhắc lại một lần nữa, văn hóa có sức sống rất dai dẳng. Nếu quả quyết và dứt khoát thì cũng chưa chắc gì sau 50 năm nữa chúng ta đã thay đổi được. Nếu lại còn lưỡng lự tiếc nuối thì không biết đến bao giờ.
Thế kỷ 20 đối với chúng ta đã là một thế kỷ của canh tân, nhưng chúng ta chưa đi đến đâu trên lộ trình canh tân, bởi vì chúng ta tuy đã thấy được sự lạc hậu của các giá trị cũ nhưng lại không muốn chấp nhận những giá trị mới. Cái gốc của chúng ta dở nhưng chúng ta lại sợ mất gốc. Chúng ta như người ra đi nhưng không biết đi đâu, cho nên chúng ta không thể đi xa.
Thế giới đang nhỏ lại và các dân tộc đang đến gần nhau. Không có những giá trị phương Đông và những giá trị phương Tây, chỉ có những giá trị tốt và những giá trị có hại. Những giá trị tốt là hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác, lợi nhuận, liên đới và môi trường. Những giá trị đó đã tạo ra sức mạnh của các nước phương Tây. Chúng không phải là những giá trị của phương Tây mà là những giá trị phổ cập của loài người, có sẵn trong mọi dân tộc và mọi nền văn minh, nhưng chỉ gần đây mới có một số ít dân tộc triệt để phát huy chúng và trở thành giàu mạnh hơn hẳn phần còn lại của thế giới.
Đến đây tôi xin khẩn khoản thưa với độc giả đôi lời tha thiết. Tất cả người Việt chúng ta, dù ở trong hay ngoài nước, dù ở lứa tuổi nào vẫn còn bị nhiễm độc rất nặng nề vì nền văn hóa Khổng Mạnh được du nhập vào nước ta với cái nội dung còn tồi tệ hơn nguyên bản của nó tại Trung Quốc. Xin chớ vội nghĩ rằng tư tưởng của chúng ta đã hoàn toàn đổi mới. Cái di sản văn hóa hai ngàn năm đó vẫn khống chế chúng ta. Chúng ta phải ý thức điều đó thì mới có hy vọng rũ bỏ được nó để bay bổng và tiến xa. Một bệnh nhân không biết mình mắc bệnh thì không thể chữa bệnh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro