Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tố Hữu

Tố Hữu , tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920-2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam.

Tiểu sử

Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920, tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ cùng quê hương Huế đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.

Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học (Huế). Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Ông gia nhập Đoàn thanh niên và được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1938.

Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:

1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;

1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;

Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;

Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;

Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;

Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;

1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới

1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.

Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật .

Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.

Sau khi Lê Duẩn mất, có sự thay đổi mạnh mẽ tiến tới đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín vì vai trò "nhà thơ đi làm kinh tế" qua những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm mọi chức vụ, chỉ còn làm một chức nghiên cứu hình thức.

Ông mất 9h15' ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.

Quan điểm chính trị

Ông là người đã phê phán quyết liệt phong trào Nhân văn-Giai phẩm (1958) với tư cách là người thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam phụ trách văn nghệ. Nhiều ý kiến coi ông là tác giả chính của vụ án văn nghệ-chính trị này.

Ông cũng được đánh giá là con người khá bảo thủ, khi bị phê bình về các tác phẩm của mình thì thường có phản ứng rất quyết liệt (Theo nhận định của Văn Cao thì chính lí do này khiến ông bị nghi hoặc là có liên quan đến việc đẩy mạnh dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm và không được nhiều cảm tình từ phía các nghệ sĩ khác).

Đóng góp văn học

Các tác phẩm

Từ ấy (1946)

Việt Bắc (1954)

Gió lộng (1961)

Ra trận (1962-1971)

Máu và Hoa (1977)

Một tiếng đờn (1992)

Ta với ta (1999)

Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)

Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)

Một số bài thơ tiêu biểu:

Bác ơi

Bài ca xuân 1961

Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau

Bài ca quê hương

Bầm ơi!

Có thể nào yên?

Đi đi em!

Đời đời nhớ Ông

Đợi anh về (tập thơ dịch, 1998)

Em ơi... Ba Lan

Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan

Đường bạch dương sương trắng nắng tràn

Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng

Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn

Gặp anh Hồ Giáo

Hai đứa trẻ

Hồ Chí Minh

Hãy nhớ lấy lời tôi

Hoa tím

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Kính gửi cụ Nguyễn Du

Khi con tu hú

Lạ chưa

Lượm

Mẹ Suốt

Mồ côi

Một tiếng đờn (thơ, 1992)

Mưa rơi

Sáng tháng Năm

Ta đi tới

Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!

Ta đi tới, không thể gì chia cắt

Từ Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau

Trời ta chỉ một trên đầu

Từ ấy (thơ, 1946)

Tâm tư trong tù

Tương tri

Theo chân Bác

Tiếng chổi tre

Tiếng hát sông Hương

Tiếng ru

Một ngôi sao, chẳng sáng đêm

Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng.

Một người đâu phải nhân gian?

Sống chăng, một đống lửa tàn mà thôi!

Vườn nhà

Việt Bắc (thơ, 1954)

Việt Nam máu và hoa

Xuân đang ở đâu...

Xuân đấy

Giải thưởng

Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)

Giải thưởng văn học ASEAN (1996)

Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật (1996)

Phong cách nghệ thuật

Tố Hữu thường sáng tác với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu thường thể hiện những vấn đề lớn về Đảng, về đất nước và thường hướng đến khơi dậy niềm vui, niềm tin, hướng tới tương lai. Tuy nhiên ông không tránh khỏi sa đà vào việc ca ngợi một chiều Đảng, Nhà nước. Nhiều lúc để phù hợp với tình hình, thơ Tố Hữu trở thành những lời kêu gọi, hiệu triệu mà nhiều khi cảm xúc không theo kịp, khiến tác phẩm mất hết cả chất thơ.

Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Ông có khả năng "thơ hoá" các vấn đề chính trị "Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình." (Xuân Diệu. Máu và Hoa, con đường của nhà thơ Tố Hữu (tiếng Pháp). Liên hiệp các nhà xuất bản, Paris, 1975)

Thơ Tố Hữu, dễ cảm, dễ tiếp thu, nặng về tính truyền thống hơn là sự tìm tòi đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Tố Hữu rất thường dùng các biện pháp tu từ quen thuộc trong ca dao dân ca, và nhiều hình ảnh ước lệ cũng rất quen. Giọng thơ thường là giọng tâm tình, ngọt ngào, ảnh hưởng nhiều bởi dân ca, nhất là dân ca Huế.

Thơ Tố Hữu ít có sự gọt giũa về nghệ thuật, chủ yếu là thể hiện tình cảm, với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình. Đây là một nét thơ đặc trung của Tố Hữu, có điều lắm khi "ít gọt giũa" cũng là nhược điểm chí mạng của ông.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: