Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

tnmed_english

ĐỂ HỌC TỐT TIẾNG ANH 

 

 

 

Tài liệu (bản 1.0) cung cấp từ trang Tự học tốt tiếng Anh: 

http://www.123chiase.com  

http://vngrammar.wordpress.com  

http://sites.google.com/site/grammar1997/  

(hoặc bạn vào Google, Yahoo… tìm với các từ khóa Grammar 2.8, vngrammar…v.v sẽ ra ngay!) 

   Phương pháp học 

Phương pháp học ngoại ngữ 

* Phân bố thời gian hợp lý (đều, đảm bảo). 

* 3 nguyên tắc: 

  R1: biến việc học ngoại ngữ => thành thói quen hàng ngày -> bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng không bỏ. 

  R2: đặt mục tiêu, mục đích học cụ thể. Đặt mục đích hợp lý (nhu cầu học, sức học của bản thân<), nên đặt mục tiêu dễ để có tính khích 

lệ bản thân, tránh đặt những mục tiêu quá cao. Mục tiêu/mục đích học nâng dần cho phù hợp, từ từ nhƣng phải quyết liệt! Thực hiện 

liên tục, đều đặn. 

  R3: biết đƣợc điểm mạnh, điểm yếu của mình trong học tập (nghe – nói – đọc – viết). *khả năng học thuộc lòng, khả năng thẩm âm<. +. 

Khi trí nhớ không đƣợc tốt: nên đọc đi đọc lại, dừng lâu ở một ý, có cách ghi chép phù hợp. 

* Cách đặt mục tiêu học ngoại ngữ:  

  - Sinh viên khoa học cần đọc nhiều hơn nghe – nói. Nghe – nói cần đạt đƣợc khả năng trình bày các chuyên đề, vấn đề liên quan tới lĩnh 

vực của mình<. 

  - không nên và cũng vô cùng khó để làm đƣợc: dịch thơ, viết tiểu thuyết< 

  - nhƣng cũng phải đạt đƣợc những chuẩn chung. 

* Đặt mục tiêu cho mình: 

  - Đặt mục tiêu: số từ, mẫu câu => cần đến đâu học đến đó -> ngôn ngữ trung gian. 

  - Chiến lƣợc giao tiếp riêng: câu đơn giản -> câu phức tạp. 

  - Phát âm: ngƣời Anh nghe đƣợc là đƣợc. 

  - Nói: nói thẳng + mẫu câu đơn giản; hiệu quả; không dùng hàm ý. 

* Mắc lỗi: mắc lỗi là một quá trình phát triển tự nhiên. Ngƣời thầy không bao giờ chê ngƣời học trò mắc lỗi mà nếu có sửa chỗ này chỗ 

kia thì cũng là do mong ngƣời trò học tốt hơn. 

* Đừng dịch:  

  - Ngăn trở quy trình học ngoại ngữ của mình. 

  - Ngăn trở việc xây dựng năng lực ngoại ngữ của chúng ta. 

  - Không dịch học tốt hơn *tất nhiên, cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định+. 

 

Luyện nghe 

Với ngƣời học ngoại ngữ, luyện phát âm để nhận diện lời nói của ngƣời Anh và khi nói thì gần với ngƣời Anh nói ( đặc biệt với những 

lứa tuổi 12 15 20 và >=) 

* Tốc độ nghe 

  - Chậm (bài giảng, hội nghị) 

  - Bình thƣờng (normal speech) 

  - Nhanh (fast speech) 

* Nghe tiếng Anh theo kiểu người Anh nghe tiếng Anh 

  - Bắt trọng âm -> hiểu nội dung (toàn câu, toàn đoạn<) 

    + Các kỹ thuật: 

      > Visualization 

      > Dication 

      > Ngữ pháp chính tả 

          Trọng âm/từ chính => Hiểu ý của toàn câu => hiểu thông điệp ngƣời nói muốn truyền tải => Dựng câu dựa trên những thông tin 

thu đƣợc. 

  - Nghe toàn bài: 

    + Nắm đƣợc chủ đề (topic) 

    + Nắm đƣợc ý chính toàn bài (main ideal) 

    + Nắm đƣợc ý chính từng đoạn  

    + Lấy thông tin chi tiết cần, thông tin chính (detail) 

  - Nghe từng đoạn 

    + Nắm đƣợc ý chính từng đoạn 

    + Nắm đƣợc thông tin chi tiết (ý phụ, ý mở rộng).     + Nắm đƣợc ngụ ý, hàm ý, thông điệp ngầm của ngƣời nói. 

  - Nghe tổng hợp 

    + Nắm đƣợc những nội dung cần thiết. 

    + Nắm đƣợc mục đích, cách thức tổ chức của thông điệp 

* Kỹ thuật bổ trợ 

  - Visualization: hình ảnh hóa những gì nghe đƣợc (miêu tả -> tƣởng tƣợng (hình ảnh, cảm giác, khung cảnh, mùi vị) -> những gì đƣợc 

miêu tả)). 

  - Ngữ pháp chính tả 

    + Nghe -> từ chính, trọng âm (adv, adj, n,..). 

    + Hiểu ý thông điệp (Suy luận + trí nhớ) 

    + Dựng lại các câu đúng với thông điệp đã nhận đƣợc. 

* Trọng âm: cao hơn, to hơn, rõ hơn -> điểm quan trọng nhất 

  - Phụ thuộc câu, nội dung câu 

  - Phụ thuộc và ý đồ của ngƣời nói 

  - Danh từ, động từ, tính từ, adv. 

* Mục tiêu nghe: 

  - Lấy ý chính 

  - Lấy thông tin chi tiết 

  - Lấy thông tin cần thiết. 

* Đoán từ: 

  -  Căn cứ vào văn cảnh 

  - Căn cứ vào các từ, câu khác về cấu tạo ngữ pháp. 

  (!!) Không thể biết hết các từ khi nghe, khi đọc . 

* Luyện tập: 

  - Nghe: 1 lƣợt & nhiều lƣợt : chủ đề -> ý chính -> ý chính đoạn -> ý chi tiết. 

  - Cách nghe: 

* Lựa chọn tài liệu luyện tập: 

  - Lựa chọn phù hợp với trình độ, định hƣớng thi. 

  - Lƣu ý: luyện nghe không phải là bài để bổ sung từ mới. Mục tiêu chính của luyện nghe là hiểu nội dung bài. Hiểu nội dung bài cần có 

các yếu tố: từ vựng, mẫu câu cần thiết và văn cảnh. 

* Lựa chọn từ thay thế: 

  - Diễn đạt đƣợc ý cần hiểu 

  - Diễn đạt mang tính phổ thông 

  - Diễn đạt mang tính học thuật. 

* Luyện nghe có 2 cấp độ: listen accurately và listen efficiently 

  - Nghe chính xác - listen accurately có 4 yếu tố: có cảm giác đƣợc rằng chúng ta định nghe cái gì (knowing what to expect to hear), lối 

nói tự nhiên (natural speech), có khả năng phân biệt đƣợc các âm, các trọng âm; 4 – nghe chuỗi âm thanh và cắt đƣợc thành các âm chính 

xác, (come on -> car on!!!), khả năng cắt tách lời nói. 

  - Nghe hiệu quả - listen efficiently => Điểm đến của chúng ta là làm sao phải nghe hiệu quả. 

     Điểm 1: phân biệt đƣợc thông tin quan trọng và không quan trọng của câu. Muốn nghe hiệu quả phải dựa vào nghe 1 cách chính xác 

để từ đó phát hiện ra các thông tin quan quan trọng *important information = main ideal và unimportant information = details 

information]. Đồng thời, ta phải Get the gist: lấy đƣợc cốt lõi của thông tin. 

    Điểm 2: phải có khả năng phán đoán. Không ai nghe đƣợc hoàn toàn từng chữ cả tiếng Anh và tiếng Việt.  Phải có khả năng đoán theo 

văn cảnh (guessing ability); phải có khả năng tiên đoán đƣợc ý sắp tới họ nói nhƣ nào, nói cái gì (predicting ability); cần có thêm khả 

năng giải thuyết đƣợc nghĩa (interpret meaning). 

    Điểm 3: luyện khả năng về mặt tốc độ. Nói nhanh -> nghe nhanh : cấu trúc lời nói của họ, họ phân tích cái này, bổ sung cái này<-> 

nghe nổi cấu trúc đó -> phải nghe đƣợc nhanh => nghe để bắt đƣợc đƣờng đi, tuyến đi của câu chuyện đó.  Nói chậm không có nghĩa là 

nói từng câu từng chữ mà nó có nghĩa là nói trọng âm câu. 

    + Nghe hiệu quả: listen efficiently, phải nghe đƣợc ý chính là gì? 

    + Nghe -> tƣởng tƣợng đƣợc ra hình ảnh; Kỹ thuật thƣởng thức tác phẩm. 

* Suy nghĩ rằng: giúp một phần nào đó về các cấp độ về nghe tiếng Anh, để chúng ta có hiểu biết về cái đó, nhƣng từ chỗ đó đi đến 

luyện cho chúng ta thì còn là quãng đƣờng dài. Dù trẻ hay già chúng ta phải luyện tập liên tục hàng ngày, không nên dồn ép học trong 

thời gian ngắn nhƣng liên tục sẽ hiểu quả hơn, đặc biệt với luyện nghe tiếng Anh. Lúc nào, chúng ta cũng có thể tăng cƣờng khả năng 

nghe  của chúng ta đƣợc!. 

 

 

Luyện nói 

* Nhiệm vụ 

  - Sản sinh ra kiểu nói của ngƣời Anh nghe tiếng Anh; nói theo kiểu của ngƣời Anh nói tiếng Anh. 

  - Muốn phát âm chuẩn thì làm nhƣ thế nào? Phƣơng hƣớng học ra sao? 

* Định hướng: 

  - Với những ngƣời lớn: không nên tham vọng nói nhƣ ngƣời bản ngữ: chúng ta học ngoài môi trƣờng bản ngữ. 

  - Nhƣng vẫn phải tiến tới một chuẩn chung: chuẩn Anh hoặc chuẩn Mỹ. 

  - Đây là bình diện khắc nghiệt và thách thức nhất với ngƣời học 

  - Để đạt đƣợc chuẩn (hiểu rõ đƣợc ngƣời Anh, Mỹ nói nhƣ nào, thế nào là chuẩn, cái gì có thể bỏ qua đƣợc.) 

  - Rất vất vả và khổ cổ. Luyện âm hơi mệt chút nhƣng khi thành công, bạn đọc tiếng Anh nghe sẽ rất dịu mƣợt. Những âm không có 

trong tiếng Việt gây nhiều khó khăn khi luyện. 

  - Phát âm tiếng Anh đòi hỏi sự khổ luyện, ngƣời luyện gặp khó khăn khi luyện nói tiếng Anh vì phải thay đổi các thói quen trong tiếng 

mẹ đẻ.  

  - Khi luyện tập, ta cần thực hiện lần lƣợt từng cấp độ phù hợp một: âm – từ (trọng âm từ) – nhóm từ - câu – ngữ cảnh + yếu tố khác. 

  - Cần sự khổ luyện: liên tục đúng phƣơng pháp! Hàng ngày dành ra ít phút để luyện phát âm; Luyện giao tiếp đầy đủ các yếu tố: trọng 

âm, nguyên âm, phụ âm< -> có nhƣ vậy mới gần đƣợc nhƣ tiếng Anh của ngƣời bản xứ. 

  - Suy nghĩ rằng: giúp một phần nào đó về các cấp độ về phát âm tiếng Anh, để chúng ta có hiểu biết về cái đó, nhƣng từ chỗ đó đi đến 

luyện cho chúng ta thì còn là quãng đƣờng dài. Dù trẻ hay già chúng ta phải luyện tập liên tục hàng ngày, không nên dồn ép học trong 

thời gian ngắn nhƣng liên tục sẽ hiểu quả hơn, đặc biệt với luyện phát âm tiếng Anh. Lúc nào chúng ta cũng có thể tăng cƣờng khả năng 

phát âm đúng của chúng ta đƣợc! 

* Các yếu tố để nói chuẩn, có 4 tiêu chí -> chuẩn nói: 

  - Phát âm tốt/chuẩn (Good pronunciation). 

  - Tốc độ nói tự nhiên (Natural speed). 

  - Nhịp điệu phù hợp (Natural rhythm). 

  - Ngữ điệu Anh tự nhiên (Natural intonation). 

1. Phát âm chuẩn: nguyên âm, phụ âm… 

  - Phát âm những từ riêng lẻ; phải chuẩn từng âm một thì mới hiểu đƣợc. 

    + Âm có trong tiếng Việt 

    + Âm gần với tiếng Việt 

   + Âm khác, không có trong tiếng Việt. 

    + Hầu hết các âm tiếng Anh không giống các âm tiếng Việt. 

Trong tiếng Việt, các âm cuối không đƣợc phát âm nhƣng trong tiếng Anh lại ngƣợc lại. 

=> Luyện: tập trung vào những âm không có trong tiếng Việt -> Tập trung vào những âm cuối cho chuẩn (giọng miền Bắc cần chú ý thêm 

về s, x<) 

  - Vô thanh và hữu thanh là gì? Vô thanh: cổ không rung; Hữu thanh: cổ họng rung. 

2. Tốc độ nói tự nhiên:  

  - Tốc độ tự nhiên; nói với tốc độ bình thƣờng của ngƣời Anh, Mỹ (khoảng 160 từ/phút). 

  - Ngƣời Anh, Mỹ nói không nhanh nếu chúng ta nghe đúng kiểu ngƣời Anh, Mỹ. 

  - Tốc độ ngƣời máy đọc. 

  - Tự nhiên = đảm bảo ( luyên âm, rút gọn, trọng âm*từ, câu,  thành ngữ<+ ). 

3. Nhịp điệu câu:  

  - Trong mỗi phát ngôn tiếng Anh, đều chứa nhịp điệu của nó. 

  - Việt Nam: Thanh điệu (Cốc, cộc<) và vần điệu (nhất là thơ<) 

  - Tiếng Anh: Nhịp điệu 

  - Nhịp điệu: độ giãn cách của các trọng âm 

  - Khó: giữa âm tiết có trọng âm này với âm tiết có trọng âm kia, không phải là khoảng đều nhau. 

  - Yêu cầu: giữa 2 âm tiết nào không có trọng âm chúng ta phải đọc chậm lại một chút để giữa hai âm tiết có trọng âm có nhiều âm tiết 

không có trọng âm chúng ta đảm bảo đƣợc tốc độ đọc phù hợp nhịp điệu. Nếu chúng ta đọc nhanh thì không theo kịp đc những âm tiết 

khác. Những chỗ đọc nhanh, chúng ta phải luyến âm. Không có trọng âm thì phải đọc với dạng yếu của từ: the, to.  

  - Quan trọng là chúng ta không đƣợc NUỐT từ.   - Luyện nhịp điệu: Lấy các đoạn nói bình thƣờng để luyện nhịp; Bài thơ mẫu giáo; bài hát ngƣợc; đọc, đọc theo nhịp (trống); xây dựng 

bài có nhịp và phổ nhịp (nhằm mục tiêu ngôn ngữ học).  - Câu nhiều trọng âm, nhịp điệu nhanh và câu ít trọng âm thì nhịp điệu chậm 

hơn. 

  - Cần có nhịp điệu phù hợp thì ngƣời Anh mới nhận ra thông điệp. 

4. Ngữ điệu tự nhiên: ngữ điệu tự nhiên khi nói 

  - Câu nói tiếng Anh đều có ngữ điệu. 

  - Nhiều ngữ điệu, nhiều quy tắc ngôn ngữ học. 

  - Ngữ điệu thể hiện nghĩa nội dung và nghĩa sắc thái: thông điệp và tình cảm ngƣời nói. 

  - 5 ngữ điệu cơ bản: Falling  low rising  high rising fall-rise và rise-fall 

    + Xuống 

    + Lên thấp 

    + Lên cao 

    + Lên xuống 

    + Xuống lên 

 

    -> 5 ngữ điệu cơ bản để phái sinh ra các ngữ điệu khác. 

  - Câu mà không có ngữ điệu thì không  thành tiếng Anh, giống nhƣ thanh điệu trong tiếng Việt. Thay đổi ngữ điệu có thể thay đổi 

nghĩa toàn câu. Ngữ điệu phải đi từ cao xuống thấp: ngữ điệu lên xuống tùy từng thông điệp. 

  - Liên quan tới Pitch scale (khuôn giọng). Pitch change: thay đổi độ cao của giọng = thay đổi thái độ, ý nghĩa của thông điệp. 

  - Luyện ngữ điệu tiếng Anh: Trong tiếng Anh có bao nhiêu ngữ điệu? Không nên có tham vọng có đƣợc ngữ điệu hệt nhƣ ngƣời Anh 

nhƣng chúng ta phải đảm bảo đƣợc các ngữ điệu cơ bản để có thể giao tiếp hiệu quả.  

  =>Nói lý thuyết thì dễ vậy còn thể hiện đúng ngữ điệu ngƣời Anh thì không phải đơn giản. 

* Tạo cho mình thói quen tự động (automatic): trông thấy là phát âm, không qua khâu dịch sang tiếng mẹ đẻ và ngƣợc lại. 

* Nói: khi mới bắt đầu, càng đơn giản (simple) càng tốt; khi cần diễn đạt các ý phức tạp -> nên cắt ra thành nhiều câu đơn giản. 

* Mẫu câu phức tạp, văn hoa/Từ vựng phức tạp, văn hoa: cần đạt đƣợc một trình độ nhất định. 

* Chủ đề luyện nói: đi từ những chủ đề đơn giản, từ vựng đơn giản, cấu trúc đơn giản. 

  - giảm thiểu nội dung mang tính thông điệp. 

  - khi trình độ hạn chế, mới bắt đầu, tránh cách nói bóng gió, có tính hàm ý. Cách nói bóng gió, đòi hỏi diễn đạt chính xác về câu, ngữ 

điệu, thái độ, sự tinh tế của ngôn từ< 

* Khi ở trình độ bắt đầu: 

  - Luyện những câu đơn giản. 

  - Tránh những chủ đề phức tạp. 

  - Luyện những chủ đề quen thuộc. 

  - Dần dần nâng lên, luyện những chủ đề phức tạp. 

  - Tránh hàm ý, phức tạp. 

  * Hệ truyện tiếng Anh đơn giản: 

  - từ vựng đơn giản 

  - Cấu trúc đơn giản 

  - Động lực, sự khích lệ (motivation<) 

* Các cấp độ phát âm: 4 cấp độ: cứ cấp độ sau bao hàm cấp độ phát âm dƣới nó. 

Cấp độ âm riêng lẻ và các phụ âm: isolated sounds vowel & consonants => chú ý đến lĩnh vực âm học (phải phát âm nhƣ nào? Phát âm 

trong tình huống nào?); Cấp độ từ (word level): quan tâm tới trọng âm là chủ yếu; Cấp độ nhóm từ (phrase level): một số từ đứng liền 

nhau: luyến âm và trọng âm của các từ đứng cạnh nhau trong một câu; Cấp độ câu (sentence level) phức tạp hơn. 

  - Cấp độ từ: 

    + Cần biết có những nguyên âm, phụ âm gì? Phát âm nhƣ nào? Với ngƣời Việt phát âm ra sao? Khác với các âm Việt nhƣ nào? 

    + Sau cấp độ âm là cấp độ từ, có trọng âm từ, cần phát âm chính xác, trọng âm từ phải phát âm chính xác. 

    (!!!) Đặc thù: trong 1 từ, trọng  âm rơi vào 1 âm tiết cố định; nhƣng trong các tình huống khác nhau, trọng âm đó có thể thay đổi (đảm 

bảo nhịp điệu chung của câu) => tuy vậy, trọng âm tƣơng đối cố định. Ngoại lệ đôi khi nhiều hơn nguyên tắc; Thuộc trọng âm trong 

từng từ một *Vd welcome, edu’cation< -> luôn tính từ bên phải sang chứ không tính từ bên trái sang+. 

    + Trọng âm: cao hơn, to hơn, dài hơn, rõ hơn. Nhiều trƣờng hợp phức tạp: chuyển từ loại, tình huống<. Tiếng Anh, không có từ nào 

không có trọng âm nhƣ tiếng Việt không từ nào không có thanh điệu (ma mà má mà mạ<). Những từ có 1 âm tiết thì âm tiết đó chính là trọng âm. Rất khổ công khi luyện trọng âm từ, nhấn mạnh trọng âm từ. Khi luyện trọng âm câu, chúng ta lại có những nguyên tắc khác. 

Gặp từ mới, ta nên tra từ điển cho chắc chắn, tất nhiên, chúng ta vẫn có những nguyên tắc để suy luận trong một số trƣờng hợp nhất 

định. Điều khiển hơi thở đúng sẽ giúp bắt đƣợc nhịp và trọng âm.  

  - Cấp độ nhóm từ:  

    + Có những yếu tố gì? Có những yếu tố từ -> trọng âm từ, bao nhiêu từ có 2 hay nhiều trọng âm? 

         Vd in the corner of :  Improve_it      -> cấp độ âm riêng lẻ và trọng âm. 

    + Trọng âm: Bất cứ từ nào cũng có trọng âm, nhƣng có nhiều từ đặc biệt là những từ 1 âm tiết, đặc biệt hơn nữa là những từ ngữ pháp 

– những từ khi vào câu nó mới thể hiện nghĩa của nó, thì nó cũng thay đổi cách phát âm. Nếu nhƣ có trọng âm thì ngƣời ta đọc dạng 

mạnh, nếu không có trọng âm thì ngƣời ta dọc dạng yếu. *Ví dụ: some, but<Them, As, That, At, Then, There, And, Was, Has, Have, 

Had, Does, Can, Must, For, Upon, Were, Do, Shall< Chú ý: trọng âm các từ rút ngọn. 

    + Luyến âm: ngƣời Việt đọc thì cắt các âm thành những phần riêng lẻ ( come_on, improve_it ). Từ tận cùng bằng một nguyên âm đứng 

cạnh 1 từ bắt đầu = 1 nguyên âm -> luyến âm. *go on+; Một từ có phụ âm cuối từ + 1 từ bắt đầu bằng 1 nguyên âm -> luyến âm *come on+; 

Hai phụ âm đứng liền nhau -> luyến âm;  => âm cuối của từ này nhập vào, luyến vào âm đầu của từ kế tiếp; Chúng ta sẽ gặp khó khăn 

do  âm của chúng ta khép lại ở cuối;  -> tìm cách xóa bỏ thói quen nói của tiếng Việt;  Vd: My name’s_Harry,  This_is,  That’s_our 

daughter< 

  - Cấp độ Phrase: phát âm các âm riêng lẻ cho đúng, phát âm các trọng âm từ cho đúng, phải có luyến âm. 

  - Cấp độ câu: Vd: the garden_is beautiful 

    + Căn cứ vào mục đích nói để xác định trọng âm! Không đƣợc nuốt từ! 

    + Cấp độ từ trong câu: ‘garden, ‘beautiful -> phát âm đúng trọng âm từ. 

    + Nếu có luyến âm phải luyến: en_is 

    + Nhịp điệu: bao giờ trong câu cũng có trọng âm. 

* Các bước luyện nói: 

  1. Ý tƣởng 

    -> Chúng ta sẽ nói về cái gì? What to say? 

  2. Dựng câu (ngữ pháp, ngữ âm) 

    -> 32 mẫu câu cơ bản + các mẫu câu phái sinh. 

  3. Phát ra 

    -> Có 1 câu mở đầu: tuyên bố chủ đề, hƣớng nội dung bài đó. 

    -> Đƣa ra và giải quyết vấn đề. 

    -> Kết luận vấn đề mà ta đã trình bày. 

* Các bước luyện âm: 

  - Trƣớc đây, ngƣời ta dùng phƣơng pháp bắt chiếc. Việc đọc theo là bƣớc không thể bỏ qua, nhƣng có bất lợi, nếu chúng ta không phải 

là ngƣời bản ngữ thì chúng ta không thể đọc chính xác đƣợc. Phƣơng pháp cuối 19 20, pp trực giác + bắt chiếc các động  tác phát âm + 

hiểu biết cấu âm nhƣ nào (mức độ sơ đẳng).  

  - Cách thở, chúng ta phải khống chế hơi thở của mình theo kiểu ngƣời Anh. Tập thở để khống chế hơi, đảm bảo nhịp điệu cho câu; Hít 

vào 1 hơi, thở ra từ từ và trong lúc thở ra đọc 1 câu tiếng Anh; tập thở và nhịp điệu theo các vần thơ, bài hát mẫu giáo/khác. 

  - Luyện với ngƣời Anh, ngƣời Mỹ về âm này: Bƣớc thứ nhất: kéo dài 3 s bƣớc thứ 2 kéo dài 1 s và bƣớc 3 là đọc tự nhiên; Cứ đọc kéo 

dài đã, chƣa đặt ra vấn đề dài hay ngắn (dùng đĩa DVD luyện nói và nghe). 

  - Phƣơng pháp luyện âm cho câu dài: cắt ra làm nhiều đoạn và nối lại với nhau. Vd: I’m in_a_rush, I’m afraid< 

  - 4 bƣớc của pp mới: 

    1. Xây dựng kiến thức (knowledge building) 

      Chúng ta học phải biết đƣợc rằng âm này đƣợc cấu tạo nhƣ nào (mức độ sơ đẳng), biết cấu tạo ở mức độ đơn giản. 

      A: mở miệng rộng và đẩy không khí ra, âm này phải là âm sau. 

      U: có U dài và U ngắn, là âm trong cổ họng 

      Miêu tả động tác chúng ta cần phải làm. 

    2. Nhìn động tác người thầy và bắt chiếc (mechanical drill) 

      Cơ học, hoàn toàn là chúng ta bắt chiếc. 

    3. Nhận diện (identification) 

      Nhận diện các âm đó trong lời nói của ngƣời khác 

      Ngƣời thầy thƣờng đƣa ra từ hoặc vài từ, ngƣời học phải lắng nghe xem có âm mà mình đã học hay không. 

      Vd: garden<  có 1 âm a     -> bài tập luyện nhận diện câu 

    4. Production: sản sinh ra âm 

      Sau khi đã có kiến thức về âm đó, bắt chiếc âm đó, nhận diện đƣợc âm đó -> phải sản sinh ra đƣợc âm đó. 

      Phát đƣợc âm đó -> phát trong các tình huống khác nhau (hội thoại 2 ngƣời<etc). 

    => Xây dựng sự hiểu biết về âm – luyện cơ học – nhận diện âm trong lời nói – sản sinh lời nói. 

  * Hình thang nguyên âm của tiếng Anh 

 

 

         Âm trƣớc: bên trái; Âm sau: bên phải; Âm giữa: giữa 

         Nguyên âm tiếng Anh: những âm trƣớc họ đọc gần giống âm tiếng Việt; chúng ta cần quan tâm sự ngắn – dài, i: dài và i ngắn có thể 

làm thay đổi nghĩa của từ (sheep – ship); e; @e. Các âm sau: rất khác âm tiếng Việt: u: hay o<.. đều khác âm tiếng Việt; Hầu hết các âm 

đằng sau phải tròn môi: A tiếng Việt bẹt hơn so với A tiếng Anh; Độ mở của nó khác nhau  => phân tích để thấy sự khác biệt. Điểm cuối 

cùng về nguyên âm, nhiều bạn mới học cho rằng nguyên âm đôi là do 2 âm ghép lại với nhau< nhƣng không phải, 2 âm đó không bình 

đẳng, âm trƣớc là 1 âm nguyên bản, âm sau định hƣớng khép lại âm trƣớc. Nguyên âm đôi: âm đầu nguyên bản, âm 2 định hƣớng khép 

âm 1. 

* Phụ âm tiếng Anh: phức tạp hơn nguyên âm tiếng Anh rất nhiều. 

 

         Một số phụ âm giống tiếng Việt; Phần lớn phụ âm không giống tiếng Việt; Dù giống tiếng Việt mấy đi nữa thì nó vẫn có điểm khác, 

âm tiếng V thƣờng chỉ đứng đằng trƣớc thì đƣợc phát âm rõ còn âm cuối mở ra, không đƣợc phát âm mở ra mà phát âm khép lại. 

         Còn tiếng Anh đặc thù: xét dƣới góc độ từ, phần lớn những âm nào đứng đầu từ thì cũng đứng cuối từ đƣợc và phát âm nhƣ nhau 

(chƣa nói đến khi ghép vào câu, thì nó có thể thay đổi). 

         Đặc thù thứ 2: phụ âm tiếng Anh thƣờng có cặp đôi, 1 đằng hữu thanh, 1 đằng vô thanh vd: /p/ Cổ họng không rung 

         Có 3 phụ âm đặc thù: nó có hiện tƣợng bật hơi /p/-> không bật hơi nhƣng/p/~ có bật hơi, Kt, Gd. * 6 nguyên tắc trọng âm tiếng Anh: 

Phƣơng pháp đặt trọng âm: Lên vừa phải, đừng đột ngột lên cao quá hoặc xuống thấp quá, điều này ảnh hƣởng đến các âm khác khi 

luyện âm, chúng ta lên xuống âm một chút và lƣu ý về trọng âm tƣơng phản. 

    1. Từ có 2 âm tiết, âm thứ nhất có trọng âm: butter, pretty<  

    2. Có từ hai âm tiết trọng âm rơi vào âm tiết thứ 2, chúng ta phải học thuộc long 1 số từ thông dụng nhƣ be’gin, pro’duce<. Tiền tố 

không có trọng âm. 

    3. Những từ tận cùng bằng ic, ion thì trọng âm rơi vào âm tiết trƣớc nó: rea’listic, solution, education – 4 âm tiết rơi vào ca. 

    4. Nếu tận cùng bằng cy, ty<. Thì trọng âm rơi vào âm tiết thứ 3 tính từ bên phải sang: democracy, reliability.. 

    5. Nói chung, những từ có từ 3 âm tiết trở lên, trọng âm rơi vào âm tiết thứ 3 tính từ bên phải sang: economy< 

    6. Những từ ghép (compound), trọng âm rơi vào bộ phận thứ nhất của từ ghép đó greenhouse, blackbird<. Nếu là tính từ thì lại rơi 

vào âm tiết thứ 2 bad-tempered (một ngƣời hay có tính cáu kỉnh), old-fashioned (thời trang cũ)< 

    Bài tập:  

     Bài 1: money, reason, permit, product, present, machine, village, window, water 

     Bài 2: ENGlish, SCIence, PHYsics, LANguage, staTIStics, comPUter, reACtion, linGUIStics, inforMAtion, regisTRAtion. 

     Bài 3: calculation, solution, relation, decsion, distribution, association, reaction, televison, operation. 

    Bài  4: biology, geography, photography, technology, biological, geographical, photographical, technological, policy, university, 

society, electricity, political, managerial, sociological, electical. 

 

 

 

 

Nâng cao vốn từ vựng – 2500 từ 

* Từ vựng: 

  - Những từ riêng lẻ, nghĩa riêng lẻ. 

  - Kết hợp từ (collocation) 

  - Cụm động từ (VP) 

* Từ riêng lẻ: 

  - Quan trọng 

  - Nghĩa tƣơng đƣơng 

  - Nghĩa văn cảnh 

* Những từ cơ bản 

  - Cần số lƣợng nhất định nào đó 

  - Những từ có tần số xuất hiện cao. 

  200 – 400 – 1000 – 2000 – 2500 – 3000 

   - Tối thiểu: 2000 đến 2500 từ 

=> Phải có phƣơng pháp học để tăng vốn từ vựng một cách tự nhiên, bền vững. 

* Sự kết hợp từ, thành ngữ: 

  - Nghĩa từ kế hợp = nghĩa của các thành tố cộng lại. 

  - Nghĩa từ kết hợp # nghĩa của các thành tố cộng lại. 

* Nhóm động từ: động từ + một thành tố khác -> rất đặc biệt. 

  - Nhóm động từ không thành ngữ 

  - Nhóm động từ thành ngữ 

-------------------------------------------------------------------------------- 

Đọc  => từ mới => hiểu từ mới => hiểu nội dung đọc => vốn từ. 

Văn cảnh  => nghĩa của từ => vốn từ + khả năng suy luận. 

-------------------------------------------------------------------------------- 

* Nâng cao vốn từ vựng (cơ bản): 

  - Bắt đầu bằng các câu chuyện với số lƣợng từ vựng cơ bản, ví dụ 200 từ. 

  - Đọc, đánh dấu từ vựng mới. 

  - Đọc xong, đọc tiếp, đọc lại. 

  - Đọc đến khi không còn phải tra từ điển nữa => lúc đó, trong đầu bạn đã có các từ vựng đó. 

  => Tƣơng tự, ở các cấp từ cao hơn ta thấy không còn từ vựng nữa.       MỨC TỐI THIỂU CỦA TỪ VỰNG CƠ BẢN LÀ 2500 

  => Phƣơng án nhẹ nhàng và vui để tăng vốn từ vựng -> nên làm theo cách này. 

  => cách tăng vốn từ vựng hết sức thoải mái. 

* Sổ từ vựng” 

  - Không cần thiết, không nên. 

  - Ghi những gì ấn tƣợng, lạ nhất và cần thiết nhất. 

* Nâng cao vốn từ vựng (bậc cao): 

  - Liên quan tới/vận dụng văn cảnh (context). 

  - Dùng context để đoán từ mới. 

  => một từ hoàn toàn mới với chúng ta nhƣng dựa vào văn cảnh nó xuất hiện thì chúng ta có thể đoán đƣợc từ => một phƣơng thức lớn, 

có hiệu quả để nâng cao vốn từ => đọc hàng ngày và sách luyện kỹ năng này. 

  Bƣớc 1: Nhận diện từ. 

  Bƣớc 2: tìm ra nghĩa của từ qua văn cảnh nhỏ -> yêu cầu: những từ vựng cơ bản phải biết. 

  Bƣớc 3: tìm ra định nghĩa của từ đó -> để sử dụng chính xác -> củng cố nghĩa của từ. 

  Bƣớc 4: Final check : kiểm tra khả năng ghi nhớ và sử dụng từ vựng của mình. 

 

 

Luyện đọc: 

Đọc để học: học từ, học nội dung, học văn hóa, học mẫu câu, kiến thức chính trị-xã hội… 

* Các bước đọc: 

  1. Đọc lƣớt từ đầu đến cuối một lƣợt để chúng ta nắm bắt đƣợc chủ đề của bài đọc đó là gì? Đọc thật nhanh, không đƣợc dừng vì bất cứ 

lý do gì? 

  2. Đọc và gạch dƣới những từ mới, để cố gắng cung cấp cho chúng ta những ngữ liệu để bƣớc vào đọc hiểu. 

  3. Xử lý từ mới đó nhƣ thế nào? Đoán những từ mà ghép lại với nhau! Tra trong từ điển! Tìm hiểu những từ liên quan tới những hiện 

tƣợng văn hóa Anh. 

  4. Đọc từ đầu cho đến cuối 1 lƣợt. Đọc với tốc độ trung bình, không cần đọc nhanh. Nắm đƣợc nội dung toàn bộ bài, tức là, những ý 

chính của bài (main ideals). 

  5. Chúng ta đọc lại từng đoạn để lấy ý chính của từng đoạn. 

  6. Đọc lại từng đoạn để lấy những ý chi tiết, những ý phụ (để minh họa, làm rõ cho ý chính). 

  7. Đọc để lấy đƣợc những thông tin mà chúng ta cần đến (mà từ lúc đọc chúng ta chƣa đề cấp tới – wanted information). 

  => Đọc đi, đọc lại nhiều lần (đọc cả bài, đọc từng đoạn) => khai thác đƣợc hết chi tiết của bài => hiểu biết một bài đọc 

  => Hoàn thành nhiệm vụ đọc hiểu. 

* Chủ đề  -> Ý chính bài -> ý chính đoạn -> ý chính hỗ trợ. 

* Tìm hiểu nghĩa từ: đoán từ/tra từ/văn hóa của từ< 

* Đọc lướt nhanh nhất mức có thể với khả năng của bạn, không dừng ở bất cứ dòng nào, từ nào? 

   250 từ = 30s là vừa = 60s là chậm. 

  700 từ = xx giây. 

* Từ mới, mẫu câu mới: gạch, tô sáng. 

* Xử lý từ: phán đoán, tra từ / văn hóa< 

* Tra từ:  

  - Không nên dùng A-V (hạn chế<) 

  - Nên dùng A – A 

    + Phát triển khả năng đoán từ thông qua định nghĩa. 

    + Giúp hiểu chính xác hơn về từ đó. 

    + Tránh hiểu nhầm từ tiếng Anh do bị nghĩa tiếng Việt chi phối. 

  - Lƣu ý đặc điểm văn hóa của một số từ, những nội dung văn hóa mà từ đó bao hàm. 

* Lưu ý: 

  - Muốn đọc – hiểu tốt một bài học phải biết hầu hết các từ, cùng lắm trong một bài đọc chỉ một vài từ chƣa biết mà thôi. 

  - Thực hiện liên tục, hằng ngày. Tốc độ ngày càng tăng. 

  - Tuyệt đối không sử dụng biện pháp dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Sử dụng từ điển tiếng Việt có nhiều điều hại đến năng lực xây 

dựng đọc hiểu của chúng ta (tất nhiên, trình độ phải đạt mức từ vựng cơ bản).  

* Dịch: 

  - Dịch là một nghề. Từ tiếng Việt tƣơng đƣơng nhiều khi gây những hiểu lầm nghiêm trọng.   - Dùng 7 kỹ thuật để tập trung lấy đƣợc các ý mà chúng ta đọc, tuyệt đối không thông qua con đƣờng dịch. 

 

 

 

Luyện viết 

* Mục đích: có một ‚hình ảnh‛ về bài viết tƣơng đối chuẩn. 

* Các yếu tố để luyện viết tốt: 

1. Vốn từ vựng: rất quan trọng. 

  - Vốn từ thụ động: vốn từ có đƣợc do tích lũy, xuất hiện khi có sự gợi nhớ rõ ràng -> càng nhiều càng tốt. 

  - Vốn từ tích cực: khi viết, nói dùng vốn từ này; khi nói, viết phải làm cho từ đó nảy ra -> vốn từ này phải lớn thì mới nói và viết đƣợc 

tốt. 

2. Bố cục, cách thức tổ chức bài viết: 

  - Mở đề: tuyên bố, nội dung trình bày. 

  - Thân bài: những vấn đề trong mở đề đƣợc làm rõ. 

  - Kết luận: không cần tóm lƣợc những vấn đề đã nói mà đề cập tới cảm xúc về vấn đề đó/tƣơng lai của vấn đề đó/khó khăn của vấn đề 

đó nhƣ thế nào< 

3. Lối tư duy chặt chẽ: sắp xếp logic, không thừa, không thiếu. 

* Làm dàn bài: 

  - Trong đầu 

  - Làm trƣớc khi viết: 

    + trƣớc khi viết cần đọc tài liệu trƣớc. 

    + đọc + ghi chép 

    + tránh đƣợc việc bỏ dở để đi tìm sách rồi chép ý khi đang viết -> hạn chế trong mạch bài viết. 

 

 Tự học có điểm gì cần lưu ý? 

Chung: 

- Không đƣợc hấp tấp, nóng vội mà phải kiên nhẫn: dành nhiều thời gian với mức độ đều đặn để học tiếng Anh; liên tục luyện tập 

những gì đã học, đã đọc, càng đƣợc nhiều lần càng tốt; tận dụng tối đa thời gian (đọc nhanh, gõ nhanh, ghi nhanh<). 

- Động lực mạnh mẽ: công việc, hiểu biết, hứng thú. Chuẩn bị kỹ càng và lâu dài. 

- Sử dụng tốt ngoại ngữ, thể hiện qua 4 kỹ năng: nghe-nói-đọc-viết. 

- Luôn tự thức tỉnh khi học, khi tham  gia 1 tiến trình nào đó. 

- Làm đúng những cái đơn giản nhất, nhỏ nhất (một khi không thể làm đúng những thứ căn bản nhất thì khó có thể làm đúng những thứ 

phức tạp hơn).  

- Từ vựng ->  Văn phạm -> Dịch câu -> Phân tích câu  -> Luyện xếp từ -> Luyện nghe -> Viết lại câu nghe đƣợc -> Làm bài khảo sát -> 

Luyện nói. 

- Cá nhân hóa: Tập trung ngữ pháp-đọc -> Tập trung nghe-nói -> Làm bài kiểm tra. 

 

Với từng kỹ năng: 

Đọc: Cần biết ngữ pháp (cách ráp thành câu hoàn chỉnh, ngƣời bản xứ thấy quen và hiểu đƣợc), từ vựng và thực hành đọc sách, báo, tài 

liệu liên tục. Kĩ năng đọc cũng nhƣ nghe, điều quan trọng là những thông tin mà bạn nắm bắt đƣợc từ bài đọc đó, chính vì vậy, cần chú 

ý vào kĩ năng đọc lƣớt và tìm đại ý của đoạn văn; Sau khi đã hiểu đƣợc nội dung của đoạn văn, bạn bắt đầu tìm những từ vựng mới, cấu 

trúc mới mà mình chƣa biết, dịch nghĩa và ghi chép lại. Một từ vựng có thể có rất nhiều nghĩa, nên bạn cần phải linh hoạt tìm ra nghĩa 

thích hợp của từ ấy trong đoạn văn; Chọn lọc những bài viết phù hợp với trình độ của bạn (khi mới học, nên chọn những đoạn văn ngắn, 

nói về các đề  tài phổ biến. Sau đó thì tăng dần độ dài cũng nhƣ sự phức tạp của đoạn văn. Các đề  tài càng phong phú càng tốt, tuy 

nhiên, bạn có thể chọn những đề tài phù hợp với sở thích cá nhân; nguồn tài liệu cho việc luyện tập kĩ năng đọc cũng rất đa dạng. bạn có 

thể tìm đọc các câu chuyện song ngữ (khi mới bắt đầu), những tạp chí, báo, thậm chí truyện tranh, lời bài hát<). 

Viết: Khi đã vững về từ vựng cũng nhƣ ngữ pháp căn bản, bạn có thể luyện tập kĩ năng viết. Kĩ năng viết bằng tiếng Anh cũng không 

khác gì tiếng Việt, chỉ khác nhau ở cách sắp xếp vị trí câu, từ<còn ý nghĩa thì vẫn nhƣ nhau. Bạn không cần phải bối rối khi viết một 

đoạn văn bằng tiếng Anh. Bạn chỉ cần suy nghĩ nội dung chính, sắp xếp ý và viết theo dàn bài ấy. Bắt đầu bằng những đoạn văn ngắn, 

bạn hãy tập ghi nhật kí bằng tiếng Anh, kể lại những việc bạn đã làm trong ngày, những suy nghĩ, cảm xúc của bạn. Ngữ pháp chỉ cần 

ngắn gọn, đơn giản để đảm bảo sự chính xác. Từ vựng tuỳ theo vốn từ vựng của bạn, nếu không biết từ gì, bạn tra từ điển và ghi chú lại 

từ ấy; Sau khi viết một đoạn văn xong, hãy đọc lại để kiểm tra các lỗi ngữ pháp, từ vựng nếu có và ghi chú lại; Tập viết các đoạn văn 

theo các hình thức khác nhau: trịnh trọng (thƣ, đơn từ, bài luận<) và thân mật (thƣ gửi bạn, mẩu đối thoại, truyện kể<); Tham gia vào 

cá diễn đàn học tiếng Anh và post bài viết của mình lên để mọi ngƣời củng góp ý, nhận xét, sửa lỗi. Bạn có thể học từ một sách đàm 

thoại song ngữ. Cố gắng học thuộc lòng các câu tiếng Anh tƣơng tự với các câu tiếng Việt. Kế đó, che câu tiếng Việt rồi cố gắng dịch ra 

tiếng Anh. Làm đi làm lại nhiều lần cho đến khi không còn lỗi nào. Nói chung khi thấy câu tiếng Anh nào hay trong sách hay trên báo 

chí, hãy học thuộc lòng rồi tự trả bài bằng cách viết lại nguyên câu ấy. 

Nghe: Nghe là một kĩ năng hết sức quan trọng trong giao tiếp với bất kì ngôn ngữ nào. Để nghe tốt, điều tất yếu là phải nghe nhiều. Cố 

gắng tạo ra môi trƣờng tiếng Anh cho chính mình. Bạn luyện tập bằng cách nghe tiếng Anh, nghe 1 bài, nghe đi nghe lại và lặp lại theo 

bài đó vài lần xem có hiểu thêm không. Khi nghe&xem, bạn chú ý lắng nghe cách sắp xếp từ, cách sử dụng ngôn ngữ tùy theo hoàn cảnh 

nhƣ thế nào, nghe các chủ đề khác nhau để trau dồi kiến thức phổ thông và vốn từ vựng< Bạn có thể nghe một chƣơng trình về khoa 

học, đời sống, thể  thao, cuộc sống hoang dã, lịch sử, địa lý, du lịch<Đề  tài càng phong phú càng tốt. Tuy nhiên, bạn cũng nên chọn 

những đề tài mà mình quan tâm, yêu thích để tránh sự nhàm chán. Thƣờng thƣờng, nếu có chữ nào mặc dầu bạn sẽ biết nếu ngƣời ta 

viết nó xuống nhƣng nhận không ra khi nghe trên radio, đó là vì bạn phát âm chữ đó không đúng. Một trong những lý do khiến bạn 

thấy khó bắt kịp một câu nói của ngƣời nói tiếng Anh là vì trong khi ngƣời ta nói chƣa dứt câu thì bạn đã tìm cách đặt câu để trả lời. 

Trong lúc phân vân ấy, bạn không thể  tập trung tƣ tƣởng để  lắng nghe ngƣời ta nói gì. Bây giờ vì bạn đã học viết rất kỹ, nên bạn sẽ 

không lo ngại gặp khó khăn gì khi đặt một câu tiếng Anh để trả lời. Do đó bạn có thể tập trung tƣ tƣởng hoàn toàn để lắng nghe ngƣời 

ta nói. Ngoài ra có khi ngƣời ta phát âm ráp hai ba chữ với nhau, bạn không cần phải tìm cách phân tách ra từng chữ một. Chỉ cần biết 

hễ ngƣời ta phát âm nhƣ thế là có nghĩa gì. Mục đích của kĩ năng nghe là để nắm bắt thông tin và nội dung của bài nghe. Chính vì vậy, 

trong lúc nghe, bạn nên giữ tinh thần thƣ giãn, thoải mái, đừng quá căng thẳng, đừng tự ép mình phải nghe rõ từng câu, từng chữ. Nếu 

không nghe kịp thì bạn cứ bình tĩnh và cố gắng bắt nhịp lại với bài nghe. 

Nói: ta nói dở là vì viết dở, phát âm không đúng và nhát nói và bạn có nói và phát âm chuẩn thì nghe mới chính xác đƣợc. Nay đã viết 

khá rồi, chỉ cần học phát âm đúng và đừng nhút nhát, xấu hổ khi thực hành việc nói. Học nói nhƣ trẻ em học nói. Bạn học các âm cơ bản, 

các từ thể hiện các âm cơ bản. Bạn cần học cách đọc hệ thống phiên âm và cách nhận biết dấu nhấn, từ đó dựa vào từ điển để phát âm 

chuẩn các từ vựng mới, việc này rất quan trọng vì một khi bạn phát âm sai sẽ rất khó sửa. Bạn hãy tập nói một mình,tƣởng tƣợng trong 

một văn cảnh nào đó, hay đang ngồi nói chuyện với ai về một đề tài nào đó. Hội thoại với bạn bè bằng ngoại ngữ, cần nói đúng và nói 

to. Bạn cũng nên thƣờng xuyên tập suy nghĩ trong đầu bằng ngoại ngữ về những sự việc mà bạn định nói đến. Trong khi lắng nghe tin 

tức trên radio hay TV bạn hãy nói theo phát ngôn viên mặc dầu nhiều khi không hiểu mình nói gì. Đó là cách làm cho lƣỡi bạn dẻo. Bạn 

sẽ ngạc nhiên và khám phá rằng cách phát âm của nhiều chữ Anh không có âm/tiếng đƣơng đƣơng trong tiếng Việt. Ta học ngoại ngữ 

khi đã trƣởng thành nên thƣờng có khuynh hƣớng dùng một tiếng mẹ đẻ phát âm tƣơng tự để dùng cho tiếng Anh. Đều đó không nên. 

Cứ học phát âm nhƣ con vẹt, tức là ta nhƣ con nít bản xứ, nghe ngƣời bản xứ phát âm làm sao mình cứ lập lại y nhƣ vậy. Hãy thu âm 

những gì bạn đã đọc, đã nói, rồi nghe lại để nhận biết cách phát âm của mình đã chuẩn hay chƣa; cố gắng vận dụng các từ vựng, thành 

ngữ, ngữ pháp mới học vào cuộc trò chuyện, việc này sẽ giúp bạn nhớ nhanh và lâu hơn; tham gia vào các câu lạc bộ tiếng Anh hay học 

nhóm, trao đổi cùng bạn bè; không ngại sai, mạnh dạn nói lên những gì bạn nghĩ. Kĩ năng nói luôn đi liền với nghe, vì vậy nếu gặp khó 

khăn trong việc diễn đạt suy nghĩ, bạn hãy giải thích theo cách nghĩ của bạn, chính ngƣời nghe có thể giúp bạn và bạn cũng có thể học 

đƣợc cách xử lý tình huống một cách khéo léo hơn.Trở lại sách đàm thoại song ngữ, bạn ghi âm lại một số câu chữ Anh để thực tập. Sau 

đó, che câu tiếng Việt và thực tập nói câu tiếng Anh một cách tự nhiên. Chẳng bao lâu bạn sẽ tự tin là mình có thể nói lƣu loát một số câu tiếng Anh thƣờng dùng hằng ngày và hầu hết các tình huống nói khác. Khi bạn phát âm đúng và nói giỏi, tự động khả năng nghe của 

bạn sẽ tăng tiến. 

 

- Phương pháp thêm cho các kỹ năng: 

+ Nghĩ gì viết nấy có một bài tập thế này: hãy viết đầy một trang giấy tất cả những gì bạn đang nghĩ trong đầu bằng tiếng Anh. Cứ để 

dòng suy nghĩ đang chảy trong đầu đƣợc hiển thị hết lên trang giấy. Thậm chí, nếu viết sai một từ và nhƣ phản ứng tự nhiên, bạn sẽ 

nghĩ ngay trong đầu rằng: "Thôi chết, mình viết sai từ này rồi!" thì đừng dừng lại để sửa mà hãy viết câu bạn vừa nghĩ lên giấy. Phƣơng 

pháp "Nghĩ gì viết nấy" này có 2 lợi ích: một là giúp bạn kỹ năng viết tiếng Anh nhanh, nghĩ đến đâu viết đến đó nhƣ quán tính có sẵn, 

không phải nặn óc suy nghĩ; hai là giúp tập thói quen suy nghĩ bằng tiếng Anh. 

+ Phương pháp rèn luyện kỹ năng suy nghĩ bằng ngoại ngữ: Suy nghĩ bằng ngoại ngữ là năng lực hình dung đƣợc ngoại ngữ đó trong 

đầu mà không phải trải qua giai đoạn dịch sang tiếng mẹ đẻ. Không có khả năng này, ngƣời học phải chuyển từ tiếng nƣớc ngoài sang 

tiếng mẹ đẻ mới hiểu, rồi mới có ý niệm trả lời bằng tiếng mẹ đẻ, sau lại dịch ra ngoại ngữ để trả lời. Việc đó chậm, và lúc giao tiếp thì 

không lƣu loát. Tƣơng tự với đọc và viết, sẽ giảm tốc độ nhiều nếu không suy nghĩ đƣợc bằng ngoại ngữ. Nếu bạn suy nghĩ bằng tiếng 

Việt rồi viết hay nói bằng tiếng Anh thì sẽ mất thời gian và công sức để dịch điều đó ra tiếng Anh. Chƣa kể bạn còn phải suy nghĩ xem 

dịch nhƣ vậy đã đúng chƣa. Chi bằng tập suy nghĩ bằng tiếng Anh để tiết kiệm khoản thời gian đáng kể cộng với việc tiếng Anh sẽ tự 

động tuôn ra khi bạn viết hay nói mà không gặp mấy trở ngại. Bởi vậy sau đây là một số phƣơng pháp chính: § Khi học các từ cố gắng 

liên tƣởng ,gắn chữ viết,âm thanh của từ với hình dáng của vật, khái niệm, liên tƣởng câu với văn cảnh; § Hãy chấp nhận cách diễn đạt 

của ngƣời bản ngữ; § Một hành động lời nói đƣợc lặp đi lặp lại nhiều lần dễ khắc sâu và hình thành phản xạ có điều kiện; § Tốc độ 

nhanh để ngƣời đọc không có thời gian dịch ra tiếng mẹ đẻ.Ví dụ : Đọc hiểu một bài khoá đầu tiên là 2 phút, sau giảm dần xuống còn 30 

giây hay ít hơn; § Nếu có điều kiện, tham gia các hội nghị, CLB nói chuyện với ngƣời nƣớc ngoài,đọc sách báo, xem phim bằng ngoại 

ngữ, lƣớt các trang web bổ ích của nƣớc ngoài. 

+ Tập đặt câu với các từ mới Sau khi đã học đƣợc một từ vựng mới, cách nhanh nhất để nhớ nghĩa từ đó là tập đặt câu với nó, thậm chí 

viết một đoạn văn trong đó có từ mới biết. Lợi ích của phƣơng pháp này là giúp bạn "khắc ghi" từ mới vào đầu bằng cách vận dụng nó 

vào thực tế chứ không học thuộc lòng. 

+ Muốn hoc ngoại ngữ có hiệu quả, phải tạo được vùng ngoại ngữ trong não: lúc học, chỉ đƣợc nghĩ và nói bằng ngoại ngữ để chủ động 

ức chế trung khu tiếng mẹ đẻ. Có nhƣ vậy,mới tạo lập đƣợc một vùng ngoại ngữ ổn định,đủ mạnh ,để không bị trung khu tiếng mẹ để 

ức chế hoặc xoá bỏ. Phải lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian nhất định.Chẳng hạn sáng nay bạn học đƣợc một câu mới, nhẩm vài 

lần,chiều lại nhắc lại, sáng hôm sau lại nhắc lại một lần nữa. Khi nói phải suy nghĩ bằng ngoại ngữ,nhất thiết không đƣợc nghĩ tiếng mẹ 

để rồi dịch ra ngoại ngữ trong óc. Cùng lúc mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, tay viết ra câu từ đang học. Khi học lúc đầu phải đọc to và rõ 

nhƣ cuốc kêu nhƣng chậm rãi, sau đó phải đọc nhỏ dần và nhanh dần rồi đến cực nhanh, rồi đến mức độ chỉ đọc trong óc mà thôi.  Khi 

bạn đã nói đƣợc nhanh (dù chƣa hoàn toàn chuẩn xác), phản ứng nhanh với tình huống gần nhƣ ngƣời bản địa, nghĩa là đã có đƣợc một 

vùng ngoại ngữ ổn định trong vỏ não, thì việc duy trì nó không tốn nhiều công sức nữa. Và nhờ vùng ngoại ngữ này mà bạn có thể học 

thêm nhiều ngoại ngữ nữa thuận lợi hơn nhiều. 

+ Học ngoại ngữ gần giống như trẻ em học nói: học ngoại ngữ phải bắt chƣớc là chính, bắt chƣớc càng giống càng tốt. 

+ Khi học đã chán nên thay đổi phương pháp và hình thức học.Thƣờng xuyên sử dụng một phƣơng pháp rất dễ khiến cho chúng ta cảm 

thấy đơn điệu nhàm chán và mệt mỏi, những ngƣời có nghị  lực cũng không ngoại lệ. Nếu thƣờng xuyên thay đổi phƣơng thức học 

chẳng hạn nhƣ chuyển đổi từ đọc qua nghe từ viết qua hội thoại, xem băng hình... nhƣ thế sẽ khiến cho ngƣời học có cảm nhận mới mẻ, 

dễ dàng tiếp thu tri thức.  

+ Không thoát ly ngữ cảnh. Đối với thanh thiếu niên, trí nhớ mang tính máy móc tƣơng đối cao, đối với ngƣời trƣởng thành, trí nhớ 

mang tính lý giải cao. Chỉ có những vấn đề đã đƣợc hiểu mới có thể cảm thụ một cách sâu sắc, mới ghi nhớ đƣợc. Liên hệ với ngữ cảnh 

chính là nhấn mạnh phƣơng pháp hiệu quả của sự ghi nhớ mang tính lý giải. 

+ Cố gắng dịch thầm những thứ bạn tiếp xúc, chẳng hạn như quảng cáo, câu chữ gặp ngẫu nhiên. Dịch thầm những thứ bạn tiếp xúc, có lợi 

cho việc mở rộng tri thức nâng cao khả năng phản ứng nhanh, khiến cho bản thân có thể nhanh chóng lấy từ câu, cú pháp từ trung khu 

đại não, phát hiện thấy không đủ thì lập tức bổ sung. 

+ Chỉ có những cái đã được thầy giáo sửa chữa mới đáng ghi nhớ kỹ, nghĩa là cần phải ghi nhớ nhưng cái đã được khẳng định là đúng. 

Học ngoại ngữ, không chỉ nắm bắt những kiến thức đúng trong giáo trình, mà còn phải thông qua giáo trình phản diện để học đƣợc cách 

tránh phạm lỗi. Cho nên ngoài việc học tập những kiến thức đã đƣợc thầy giáo hiệu chỉnh ra, còn phải xem thêm một số sách giảng giải 

về lỗi thƣờng gặp.  

+ Học ngoại ngữ, cần phải phối hợp từ nhiều phương diện: Đọc báo, tạp chí, sác tham khảo, nghe đài, xem băng, tham dự các buổi đàm 

thoạt 

+ Phải mạnh dạn tập nói, không sợ sai. Cần phải nhờ ngƣời khác sửa lỗi, không sợ xấu hổ, không nhụt chí.  Thƣờng xuyên viết và học 

thuộc những mô hình câu thƣờng dùng. 

+ Học ngoại ngữ không nên \"vơ đũa cả nắm\", nên nắm những điểm cốt lõi. Nhìn từ kết cấu của ngoại ngữ, nắm đƣợc những cấu trúc 

câu thƣờng dùng là rất quan trọng. Trong câu thƣờng có từ, ngữ pháp cú pháp và tập quán. Cần phải tự tin kiên định mục đích đã định, 

sự kiên nhẫn sẽ tạo ra nghị lực phi thƣờng và tài năng học ngoại ngữ. 

+ Một nhà tư tưởng Mỹ từng nói: "Tự tin là bí quyết quan trọng đầu tiên của sự thắng lợi" Nếu bạn không tin là bản thân sẽ học tốt ngoại 

ngữ, thì chắc chắn bạn không bao giờ học giỏi đƣợc, và tốt nhất là từ bỏ, khi bắt đầu học ngoại ngữ thì phải tin tƣởng bản thân có nghị 

lực, tin rằng sẽ ghi nhớ đƣợc và nhất định sẽ thành công... 

+  Don’t overstudy.  Trying to study too much in one session will lower your ability to remember new things. The brain can only 

remember so many items at once, and everyone’s brain is different. For example, some people can remember over 50 new words a week, 

while others remember only 3-4. When you feel you’ve had enough, stop and take a break — give your brain a rest. If you have been 

studying for many years, take a break from your studies for a week or two. When you return to your studies you will find that you can 

remember much more than before. Never study more than 3-4 times a week – For example, study one day and rest the next.  Đừng cố sức học quá nhiều: Học quá nhiều trong cùng một lúc sẽ làm giảm khả năng ghi nhớ các vấn đền mới của bạn. Khối não của 

bạn chi có thể ghi nhớ một số lƣợng kiến thức nhất định trong cùng một lúc, và mỗi ngƣời có cấu tạo khối não khác nhau. Ví dụ, một số 

ngƣời có thể ghi nhớ hơn 50 từ trong một tuần, trong khi những ngƣời khác có thể chỉ có 3, 4 từ. Khi bạn cảm thấy bạn học đã đủ, tạm 

dừng và nghỉ ngơi cho não bạn đƣợc nghỉ ngơi. Nếu bạn học liên tục vài năm, hãy dành 1, 2 tuần nghỉ ngơi. Khi bạn trở lại học tiếp, bạn 

sẽ nhận ra bạn còn nhớ những gì bạn học hơn cả lúc trƣớc. Đừng bao giờ học nhiều hơn 3, 4 lần một tuần- ví dụ: học một ngày và nghỉ 

ngơi ngày tiếp theo. 

+  Improve your memory: The brain is like a muscle. It needs exercise or it will lose its ability to process and store information. Set a 

regular study time for yourself (just like if you were going to the gym every other day) and keep to your schedule. Your body clock will 

prepare the brain for study if it becomes use to this schedule. If you are having trouble remembering, connect new words with things 

you (or others) already have or know. (For example, I have a wall clock, a calendar and a desk at home, but I don’t have a TV. My sister 

has a TV, but she doesn’t have a cellphone. – 5 new nouns of real things I already know about in my life.) 

Nâng cao bộ nhớ của bạn: Bộ não bạn nhƣ là cơ bắp vậy. Nó cần đƣợc luyện tập thƣờng xuyên, nếu không nó sẽ mất đi khả năng tiếp 

nhận và lƣu trữ thông tin. Đặt ra một thời gian học tập nhất định( giống nhƣ việc bạn đến sân tập thể hình mỗi ngày), và giữ đúng lịch 

học. Đồng hồ sinh học trong bạn sẽ chuẩn bị bộ não của bạn để học khi nó đã thích nghi với cái lịch mới. Nếu bạn gặp khó khăn trong 

việc ghi nhớ từ nào đó, cố liên kết nó với hình ảnh, vật thể mà bạn hay ai đó đều đã biết. (Ví dụ, tôi có một cái đồng hồ treo tƣờng, lịch 

và bạn làm việc ở nhà, nhƣng tôi không có TV. Chị gái tôi có TV, nhƣng chị gái tôi không có điện thoại cầm tay- 5 từ mới về những vật 

thể tôi đã biết rõ trong cuộc sống.) 

+ Repeat new words out loud, until you are sure of your pronunciation. If possible, record yourself speaking and then listen to it, while 

comparing it to your foreign teacher’s voice. (Ask your teacher for pronunciation help as often as you need.) 

Đọc to từ mới: Cho đến khi bạn rõ cách phát âm, và nếu có thể, ghi âm bạn nói chuyện, và nghe lại nói, trong khi so sánh với giọng của 

giáo viên nƣớc ngoài của bạn. (Nhờ giáo viên của bạn hƣớng dẫn cách phát âm khi nào bạn cần). 

+ Syllable stress: Break down words into syllables and remember that each word has only one syllable which is stressed Remember basic 

rules for stress. 

Âm cần nhấn mạnh: Tách từ ra thành từng âm riêng, và ghi nhớ rằng từng từ chỉ có một âm cần nhấn mạnh. Nhớ những quy định cơ 

bản trong việc nhấn mạnh. 

+ Nouns: Find new vocabulary items in your environment. Use the foreign vocabulary to talk about them, not your native language. 

(Seeing/knowing something real will help improve learning and memory. – See #2 above.) 

Danh từ: Tìm các từ mới trong môi trƣờng hàng ngày. Sử dụng vốn từ vựng nƣớc ngoài để nói về chúng, đừng dùng tiếng mẹ đẻ. (nhìn/ 

và biết những vật thể thật sẽ giúp nâng cao khả năng học tập và ghi nhớ) 

+ Verbs: If your new vocabulary word is a verb, try to imagine yourself (and others) doing that action. Try making new sentences using 

yourself, your friend(s), family, and/or groups of people using the new verb. (For example: ‚I swim‛, ‚he swims‛, ‚they swim‛, ‚we 

swim‛ etc.). When you have accomplished that, try to use three forms of the verb tense. (For example ‚I eat‛, ‚I ate‛, ‚I have eaten‛.) 

Verbs: Nếu từ vựng mới là một động từ, cố  tƣởng tƣợng chính bạn (hay ngƣời khác) đang thực hiện hành độnh đó. Cố gắng đặt câu 

trong đó bạn, bạn của bạn, gia đình hoặc một nhóm ngƣời, sử dụng động từ đó. (ví dụ: ‚I swim‛, ‚he swims‛, ‚they swim:<)Sau khi 

bạn làm thế, cố gắng sử dụng 3 dạng thời của động từ : (I eat, I ate, I have eaten) 

+  Adjectives:  If your new vocabulary word is an adjective, use your word knowledge to connect with nouns and make sentences, 

describing those items. For example: ‚a shiny black wooden table‛, ‚a beautiful gold watch‛, ‚an expensive Nokia cellphone‛. Practice 

this step with # above. (Remember that not all adjectives fit with all nouns.) 

Tính từ: Nếu từ vựng mới là tính từ, sử dụng những hiểu biết của bạn về từ vựng để liên kết chúng với danh từ để tạp thành câu hoàn 

chỉnh, nhằm miêu tả vật thể. Ví dụ: Cái bàn gỗ đen bóng; đồng hồ vàng tuyệt đẹp; một cái điện thoại Nokia đắt tiền. Luyện tập bƣớc này 

với bƣớc #. 

+ Grammar: Remember grammar structure - (subject + verb + object). Try to remember where certain words go, i.e., adjectives go before 

the noun, the verb ‚to be‛ goes after the subject, etc. 

Ngữ pháp: Ghi nhớ cấu trúc ngữ pháp (danh từ- động từ- trạng từ). Cố ghi nhớ dạng từ và vị trí của nó trong câu, ví dụ: tính từ sau 

danh từ, động từ ‚to be‛ đi sau chủ ngữ< 

+ Make notes in class: Keep a class notebook. The teacher will usually write a grammar or pronunciation point down on the board for 

you. You should keep a record of what each class is about. Copying the class whiteboard to paper is one way to remember exactly what 

you studied, and it’s easier to review later. 

Ghi lại: trong lớp, cần có vở viết. Giáo viên thƣờng sẽ viết ra ngữ pháp hay những điểm cần nhấn mạnh trong phát âm lên bảng. Bạn cần 

ghi lại những gì bạn học đƣợc ở các buổi lên lớp. Đồng thời, việc chép lại những gì trên bảng đen vào vở viết cũng là một cách nhớ lại 

chính xác những gì bạn học, đồng thời bạn cũng có thể xem lại dễ dàng hơn 

+ Keep a pocket notebook with you wherever you go. When you see something that you haven’t studied yet, write it down (in your 

language). When you get home, look-it up in the dictionary (always use more than one) and write the meaning down (in English) next to 

your native word. By using these visual and writing skills it will help you in the learning process and prevent spelling errors. 

Giữ mọt quyển sổ tay con cùng bạn. Khi bạn gặp một từ mới bạn chƣa biết, ghi lại nó (bằng tiếng mẹ đẻ), về nhà, tra từ trong từ điển (rất 

quan trọng), ghi lại nghĩa từ mới (bằng tiếng Anh bên cạnh từ tiếng Việt). Sử dụng hình ảnh và kĩ năng viết sẽ giúp bạn trong quá trình 

học và hạn chế những lỗi phát âm. 

 

   Tham khảo kinh nghiệm cho kỳ thi TOEFL iBT 

Bạn không nên nhìn TOEFL test chỉ nhƣ là một yêu cầu để đƣợc chấp nhận nhập học mà hãy coi nó nhƣ sự đánh giá về khả năng giao 

tiếp của bạn. Bạn học TOEFL vì đó là điều khẳng định bạn có thể theo học tốt trong môi trƣờng tiếng Anh. Bạn thử tƣợng tƣợng ngồi 

trong một lớp học mà bạn không thể hiểu đƣợc thầy cô nói gì và bạn bè xung quanh mình nói gì thì có nên du học không? Hãy học vì 

trình độ tiếng Anh của bạn trƣớc tiên và sau đó điểm cao trong kỳ thi sẽ đến với bạn. 

Muốn đạt điểm cao trong kì thi ở ĐH thì bạn phải học theo chƣơng trình thầy cô đã giảng dạy ở lớp. Đối với TOEFL cũng vậy, nhƣng 

giờ đây không có thầy cô nào đƣa ra chƣơng trình cho bạn mà chính bạn phải tìm hiểu và lên đề cƣơng cho mình. TOEFL dùng để test 

khả năng giao tiếp của bạn trong môi trƣờng ĐH. Chính vì lẽ đó nếu bạn để ý sẽ thấy các bài nghe sẽ thƣờng xoay quanh các vấn đề học 

tập, trƣờng lớp. 

Nhƣ vậy, về cơ bản để hoàn thành test đƣợc điểm cao thì cách làm đúng nhất là tập trung nâng cao khả năng giao tiếp của bạn. Kỹ năng 

thực hành test hay làm test chỉ nên đƣợc đề cập đến sau khi bạn đã có thể giao tiếp vững tin bằng tiếng Anh. Kỹ năng làm test chỉ có tác 

dụng tƣơng đối khá khi trình độ của bạn tƣơng đối thấp. 

Ví dụ: Nếu hai ngƣời có cùng khả năng giao tiếp thì ngƣời không có kỹ năng làm TOEFL test sẽ đạt 500 điểm, nhƣng với ngƣời có kỹ 

năng làm bài thì có thể đạt đến 550 điểm. Tuy nhiên, sự chênh lệch này sẽ không còn nhiều khi mà trình độ đƣợc nâng lên. 

Bạn sẽ nghe rất nhiều ngƣời đi học luyện TOEFL nói rằng từ 500 đến 550 thì nhanh nhƣng từ 550 đến 580 thì lại không đơn giản  chút 

nào. Điều này cũng dễ hiểu vì từ 550 đến 580 là trình-độ-tiếng-Anh của bạn phải đƣợc nâng cao lên một bậc, trong khi từ 500 đến 550 chỉ 

là trình-độ-làm-test của bạn đƣợc nâng cao lên một bậc. 

*** 

Điều đầu tiên mình làm là học viết. Ngày nào cũng viết, viết theo các chủ đề trong quyển Essay mà em mình cho. Lần đầu tiên viết hết 

hơn 5 tiếng mới xong một essay, câu cú lủng củng và rất dài. Nhƣng càng viết nhiều thì càng quen tay và quen cách suy nghĩ, nên viết 

càng ngày càng nhanh. 

KHI LUYỆN TẬP Ở NHÀ PHẢI TẬP VIẾT LUÔN TRÊN VI TÍNH. Lý do là cách tƣ duy khi bạn viết trên giấy khác với cách tƣ duy khi 

bạn viết trên máy tính. Bạn phải làm quen với cách viết này, để không bị ngợp khi thi thật 

VIẾT ĐỀU HÀNG NGÀY. Mình không viết nhiều, mỗi ngày chỉ khoảng 3 bài thôi. Nhƣng 3 bài là 3 chủ để không liên quan đến nhau để 

phạm vi suy nghĩ của mình có thể tiếp xúc với nhiều vấn đề. Nhƣ thế thì có khả năng mình gặp lại một vấn đề quen thuộc trong bài thi 

thật. Sau vài ngày thì có thể tìm một chủ đề nào khá gần với chủ đề đã viết để check lại xem mình có phản xạ đƣợc nhanh hơn không. Vì 

mình không có thời gian nhiều nên mình tận dụng thêm một cơ hội là lấy đề bài ngẫu nhiên và tập chỉ gạch ra ý chính thôi. Giống nhƣ 

tập làm văn VN, vạch ra giàn bài đƣợc là coi nhƣ thành công một nửa. 

Tìm cho mình một ngƣời thầy giỏi. Ngƣời thầy sẽ đọc bài viết của bạn, sửa lỗi sai cho bạn, đƣa ra những cụm từ hay và những gợi ý tốt. 

Có thể discuss luôn topic với thầy, chỉ cần 2 tiếng học thì bạn có thể giải quyết đƣợc cả chục topic khác nhau với sự giúp đỡ của thầy, mà 

trong cùng một lúc khả năng nói của bạn cũng đƣợc rèn luyện liên tục. 

LƢỢC GIẢN CÂU Phƣơng châm là: Simplicity is the best policỵ Đấy là những gì cần thiết cho bài Essay. Liên quan đến integrated 

essay. Theo mình tốt hơn hết là mình nên dựng sẵn một vài mẫu cho mình, để khi vào bài thi thật là mình chỉ phải ghép cái khung dựng 

sẵn đó vào nội dung bài text và bài listening thôi. Nhƣ thế tiết kiệm đƣợc nhiều thời gian và bạn sẽ không mất ý cho bài viết. VẠCH 

SẴN RA GIẤY NHÁP 3 GẠCH ĐẦU DÒNG POINT 1, POINT 2, POINT 3. Khi đọc bài text bạn điền 3 ý vào 3 points này. Lúc nghe bạn 

cũng ghi chép lại 3 points của bài lecture vào luôn. Nhƣ thế khi viết essay sẽ không mất ý, mà lại có details của bài reading để support 

hoặc là argue với bài lecture luôn. Đây là cách bám sát nhất đề bài. Các bạn tìm đọc sách của Princeton Review để xem vài mẫu mà sách 

này đƣa ra. Rất bổ ích và hữu dụng. Princeton Review còn đƣa ra các mẫu cho bài nói nữa, cũng rất tốt và phù hợp với bài thi thật. 

VỀ  SÁCH: Mình không có nhiều thời  gian nên mình chỉ  dùng sơ qua các sách thôi. Tuy nhiên mình có một vài ý kiến:NẾU BẠN 

KHÔNG CÓ NHIỀU THỜI GIAN THÌ BẠN NÊN DÙNG CÁC PHẦN MỀM EBOOK ĐỂ HỌC LUÔN. ĐỂ QUEN VỚI FORMAT CỦA 

BÀI THI THÂT. Không cần dùng sách in trên giấy nữa. - Longman: phần đọc khá hay. Khó hơn của Delta key và hợp với thực tế thi hơn. 

Nên dùng phần đọc của sách này. Các phần khác mình lƣớt qua thấy không hay . - Delta key (rất tiếc là không có ebook): phần nghe khó. 

Nếu bạn nghe đƣợc ở Delta key tốt thì chuyện nghe ở bài thi thật không còn vấn đề gì nữa. Phần nói của Delta key có mấy chủ đề ngày 

xƣa có trên bài thi thật hay sao ấy, nhƣng mà nói chung là sát với thực tế. Phần viết mình không biết vì không kịp giở đến. - Barron: Sách 

khó. Với Barron thì nên dùng phần đọc và nghe. Một cách rèn luyện rất tốt. - Sách luyện thi của ETS: tham khảo cho bài nói và bài viết . - 

The Princeton Review: các mẫu đã đƣợc vạch sẵn cho bài viết intergrated task và các bài nói. 

Về sách luyện TOEFL em thấy thế này: Chỉ nên luyện một quyển cho thật chắc rồi hãy chuyển sang quyển khác, dùng nhiều sách quá sẽ 

loạn. Nếu điểm TOEFL <550 (điểm test thử của các bác) thì nên luyện theo sách của Barron's, còn nếu >550 thì luyện Cambridge và Toefl 

Success của Peterson's. Về Writing thì dùng quyển của Barron's CBT Essays (cái này là theo hƣớng dẫn của thầy em và em thấy là đúng). 

Quyển Cliff thì bài nghe không giống thi thật lắm và thầy cũng bảo là bên Mỹ họ không dùng quyển đó để luyện thi. Theo mình thì để 

thi TOEFL không cần phải tìm quá nhiều tài liệu về TOEFL. Chỉ cần 1 vài tài liệu để ta biết đƣợc cách thức thi của TOEFL thôi. Còn phần 

kiến thức thì nó là cả quá trình. Những ai chỉ học vài ba tháng đã có điểm TOEFL cao là do ngƣời ta đã chăm chỉ tích lũy kiến thức qua 

các bài học nghe, đọc, viết. Phần Grammar thì ta nên đọc các sách về ngữ pháp (chứ không phải TOEFL). Còn phần reading, chịu khó 

đọc nhiều sách báo TA để  học thêm từ  vựng và đọc hiểu, có thể  học đƣợc luôn cách viết văn của họ  (tốt cho phần writing). Phần 

Listening thì theo mình nên luyện bằng cách nghe các bản tin nhƣ BBC, CNN hay VOA... và xem các phim tiếng anh (không có phụ đề 

hay thuyết minh TV). Vì ngôn ngữ trong đó là ngôn ngữ hoàn toàn tự nhiên (trừ phim, nhƣng phim cũng yêu cầu tự nhiên do cần mô tả 

đúng cuộc sống thƣờng ngày). Còn các bạn nghe băng của các giáo trình thì đó là những đoạn băng đƣợc thu lại, các situations trong đó 

là ngƣời ta diễn rồi ghi lại, mình thấy nó không đƣợc tự nhiên cho lắm. 

Tài liệu: Sẽ có nhiều bạn chạy cuống cuồng tìm về một đống tài liệu, tiêu tốn rất nhiều  thời gian trên mạng chỉ để tìm tài liệu. Và cuối 

cùng thì cũng chỉ đụng đến đƣợc chưa đầy 20% tổng số tài liệu mà mình có.  Bạn chỉ nên chọn 1 hay hai quyển sách về TOEFL và ngồi 

đọc và làm hết từ A-Z trong những quyển đó thì bạn học đƣợc nhiều hơn là cứ mỗi tài liệu lại ‚chấm mút‛ một chút. Bởi vì khi bạn 

‚ngốn‛ đƣợc hết đƣợc một cuốn sách thì nó bao gồm toàn bộ chƣơng trình thi TOEFL; còn bạn cứ liếc bên này, bên kia thì cuối cùng bạn 

sẽ chẳng nắm đƣợc toàn bộ chƣơng trình. Bạn nên chọn một quyển về TOEFL chung chung (Barron, Cliff...) và quyển cracking TOEFL của ETS. Tất nhiên là sau khi “cày nát” hai quyển này thì chẳng ai cấm bạn học thêm những quyến khác cả. Nhƣng nên học từng bƣớc 

một chậm mà chắc. Tài liệu thứ hai bạn nên có đó là bộ đề thi và bài luận mẫu TOEFL từ các năm trƣớc.   

Đó là phần sách vở, nhƣng học sách vở mãi thì chán mà TOEFL còn là một kỳ test về giao tiếp và quan trọng hơn đó chính là trình độ 

trao đổi tiếng Anh của bạn. Khi bạn trao đổi với ngƣời nƣớc ngoài, nếu bạn nói chƣa đƣợc tốt thì bạn có thể tìm cách diễn đạt khác: nói 

ngắn không hiểu thì đi đƣờng vòng< nhƣng bạn không thể suốt ngày bắt ngƣời ta nhắc lại câu nói đƣợc. Do vậy trƣớc tiên bạn nên tập 

trung vào kỹ năng nghe vì khi bạn nghe đƣợc hiểu đƣợc bạn sẽ tự tin trong giao tiếp. Bạn nghe nhiều sẽ có phản xạ nói, sẽ quen với từ 

và sẽ đƣợc điểm cao trong phần nghe TOEFL... 

Về BÀI NÓI:  nên chia theo các chủ đề person, thing v..v< Vạch ra trƣớc các từ mình sẽ dùng với các chủ đề ấy, để dù cho đề thi có ra 

lắt léo thế nào thì mình vẫn có thể sử dụng đƣợc ít nhất là một vài từ chung chung ấy một cách hiệu qủa. Các bạn nên tìm đọc bài viết 

đó, trong phần speaking thì phải, mình đã đọc và áp dung. Trên đây là những gì mình muốn chia sẻ. Mình cũng biết là chƣa đầy đủ, 

nhƣng hi vọng có thể giúp đƣợc các bạn điều gì đó. Phần nghe và đọc hầu nhƣ mình không luyện, vì mình đã có sẵn nền tảng rồi nên rất 

xin lỗi các bạn chẳng thể hiến kế nào cả. 

Phản xạ phải thật nhanh để trả lời phần speaking. Chuyện mình mình lo, chuyện người khác đừng quan tâm. 

Tập tập trung khi nghe, tập trung thật tập trung. Các chủ đề listening không khó, từ ngữ nó dùng cũng không khó, vấn đề phải thật tập 

trung để bao quát hết vì câu hỏi của nó là hỏi về tổng thể, không hề hỏi về những cái chính, cái quan trọng. Chẳng cần phải take note, vô 

ích. 

- Nếu bạn có ý định đi du học mới nên học và thi TOEFL vì đây là chƣơng trình đánh giá trình độ tiếng Anh hàn lâm, sử dụng trong môi 

trƣờng học thuật. Nếu để phục vụ nhu cầu làm việc, học tập ở trong nƣớc, bạn nên học và thi lấy các chứng chỉ TOEFL Institutional (còn 

gọi là TOEFL nội bộ) hoặc TOEIC sẽ phù hợp hơn 

- Tự học là chính: Đối với TOEFL, nỗ  lực tự học của bản thân mỗi ngƣời đóng vai trò quyết định. Bạn cần phải có cả kiến thức và kỹ 

năng, trong đó kỹ năng rất quan trọng. Nếu có kiến thức tốt nhƣng không tự rèn luyện kỹ năng, bạn cũng sẽ gặp khó khăn khi làm bài 

thi vì thời gian thi rất ngắn. 

Cách học 

Nên chia ra làm hai quá trình: 

- Nâng cao trình độ tiếng Anh cho kỳ thi: Bạn chuẩn bị bƣớc này bằng hai quyển sách nhƣ đã nêu trên và bộ phim Friends. Nhƣ vậy là 

quá đủ. 

- Nâng cao kỹ năng làm test: dùng bộ đề mà bạn load  

Bạn hãy chia quỹ thời gian của bạn theo tỷ lệ 2-1, ví dụ bạn có 6 tháng nữa là đến test thì bạn nên bỏ ra 4 tháng để nâng cao trình độ và 2 

tháng làm test. Và phải có gắng để tiêu thụ hết ‚chừng đó‛ công việc. 

Nâng cao trình độ 

-Nghe: Bạn hãy bắt đầu với tập phim đầu tiên của Friends (20-25 phút episode 1 saison 1). Nếu bạn thấy khó hiểu thì bật subtitle ban đầu 

rồi vừa nghe vừa đọc. Sau đó bạn tra từ điển những từ bạn chƣa hiểu rõ, cố gắng hiểu mạch câu chuyện rồi xem lại một lần nữa vẫn với 

subtitle để hiểu là tại sao tụi nó lại cƣời ồ lên thế kia. 

Lần thứ ba thì bạn bỏ subtitle đi và coi tiếp để học từ. Mỗi ngày chừng 1 tiếng rƣỡi đến 2 tiếng. Sau khi bạn khá hơn thì không phải xem 

đến ba lần đâu. Sau hai tháng bạn sẽ thấy sự tự tin của bạn về nghe tiếng Anh đƣợc nâng cao đáng kể. 

-Cấu trúc bài thi: ngữ pháp thì bạn học ở quyển sách thứ nhất ở trên. 

-Viết: tập viết các essay trong các bài essay mẫu và tham khảo bài viết mẫu để nâng cao trình độ viết. 

Nâng cao khả năng làm test 

- Mỗi lần học TOEFL bạn dành ra 30 phút đọc quyển sách thứ hai: Cracking TOEFL và 2 tiếng rƣỡi để hoàn thành một đề thi. 

- Rút kinh nghiệm từ những câu sai và cố gắng áp dụng những phƣơng pháp trong quyển cracking vào trong cách làm bài của bạn, nó sẽ 

giúp bạn nâng cao điểm số của bạn. 

Kỳ thi TOEFL (Test of English as a Foreign Language) do Viện ETS (Educational Testing Service), Hoa Kỳ, tổ chức trên khắp thế giới. 

TOEFL iBT (Internet- Based Test) là dạng thi TOEFL hiện đại nhất mà các nƣớc, trong đó có Việt Nam, đang áp dụng. Toàn bộ quá trình 

làm bài cũng nhƣ chấm bài đều qua mạng Internet. 

Kỳ thi TOEFL iBT gồm 4 môn: Reading (Đọc), Listening (Nghe), Speaking (Nói), Writing (Viết). 

* Môn Đọc Đề thi có từ 3 đến 5 bài đọc, mỗi bài khoảng 700 từ, với nhiều dạng câu hỏi khác nhau, phổ biến nhất là: xác định ý chính của 

bài văn, ý chính của các đoạn văn; tìm thông tin cụ thể trong bài đọc; điền thêm từ, câu vào bài đọc; sắp xếp lại ý chính; chọn cách diễn 

đạt khác về cùng một vấn đề... Để đáp ứng những yêu cầu đó, thí sinh phải nắm ý chính của bài. Bạn cần nhớ rằng ngƣời phƣơng Tây 

thƣờng viết văn theo lối diễn dịch, trên cả 2 cấp độ: toàn bộ văn bản và trong từng đoạn văn. Vì vậy, trong bài đọc, thông thƣờng, đoạn 

văn đầu tiên là đoạn văn cho biết ý chính của bài. Các đoạn văn tiếp theo sẽ khai triển những ý chính đó. Ở cấp độ đoạn văn,  câu chủ 

đoạn thƣờng đƣợc viết trƣớc, sau đó là các ý phụ nhằm làm rõ ý chính. Vì vậy, bạn nên rèn kỹ năng dự đoán, suy luận để tìm ra ý chính 

của đoạn văn, bài văn. Chẳng hạn, khi đọc câu: ‚Một số ngƣời mắc phải chứng lo âu quá đáng‛, bạn hãy suy luận: thế nào là lo âu quá 

đáng? những ai thƣờng mắc phải hội chứng này? hội chứng này biểu hiện ra sao? cách trị liệu?... Những dự đoán có thể đúng, có thể sai 

nhƣng sẽ giúp bạn đọc và hiểu văn bản một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Trong quá trình đọc, tìm đƣợc ý chính nào, bạn nên ghi 

ngay vào giấy nháp, không cần câu nệ ghi thành câu, thành cụm từ... Cách ghi dễ nhất là ghi đúng thứ tự thông tin xuất hiện trong bài. 

Những ghi chép này sẽ giúp bạn giải quyết nhanh hơn những yêu cầu của các câu hỏi đặt ra. 

* Môn Nghe Đề thi TOEFL iBT thƣờng có từ 6 đến 9 bài nghe. Đó có thể là những bài hội thoại hoặc những bài giảng  trong các trƣờng 

đại học Mỹ về tất cả các mảng đề tài. Các câu hỏi trong đề thi môn nghe thƣờng hỏi ý chính, hỏi những chi tiết trong bài để kiểm tra khả 

năng ghi chú và khả năng nhớ của thí sinh; cũng có thể có những câu hỏi suy luận. Dù ở dạng nào thì thƣờng ngay đoạn mở đầu, ngƣời 

nói sẽ thông báo cho chúng ta biết họ sẽ nói về vấn đề gì, mục tiêu khi bàn bạc vấn đề đó; thậm chí, cả những nội dung chính của toàn bộ 

bài nói. Ví dụ: một bài giảng của giáo sƣ đƣợc mở đầu: ‚Xin chào các bạn, hôm nay, chúng ta sẽ bàn tiếp về sự tiến hóa từ vƣợn sang 

ngƣời. Mục tiêu của bài giảng là nhằm chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới. Sự tiến hóa từ vƣợn sang ngƣời bao gồm ...‛. Bạn hãy cố gắng nghe và ghi lại những ý chính của phần này. Cách ghi hữu hiệu nhất là chừa khoảng trống giữa những ý chính để ghi các ý phụ bổ trợ bởi bài nói 

sẽ đƣợc khai triển theo dàn ý đó. Ở từng đoạn, ngƣời nói sẽ phân tích ý chính, giải thích từ mới (nếu có , cho một số ví dụ cụ thể... Khi 

nghe những cụm từ: for example, for instance (ví dụ nhƣ...); that is, that means (điều đó có nghĩa là...); in other words (nói cách khác)... 

thì bạn nên tập trung nghe và ghi lại những gì đƣợc diễn giải sau đó. 

* Môn Nói  Phần thi nói gồm 6 câu hỏi: - Câu 1 và câu 2: ở mỗi câu thí sinh có 15 giây chuẩn bị và 45 giây để nói. Ở cả 2 câu hỏi này, thí 

sinh sẽ phải trình bày ý kiến cá nhân của mình về một vấn đề nào đó. Câu 2 khác câu 1 ở chỗ nó đƣa ra 2 yếu tố để thí sinh chọn lựa. 

Chẳng hạn dạng câu hỏi 1: ‚Ai là ngƣời mà bạn ngƣỡng mộ nhất, tại sao?‛; dạng câu hỏi 2: ‚Bạn thích học cao học trong nƣớc của bạn 

hay đi ra nƣớc ngoài, vì sao?‛. Khi bắt đầu nói, bạn phải trình bày ngay ý kiến của mình và lý giải về ý kiến đó bằng những lập luận, 

những ví dụ cụ thể. Bạn nên nhớ điều quan trọng không phải là bạn chọn lựa ai, cái gì... mà điều quan trọng là lập luận thật vững để bảo 

vệ ý kiến của mình. Và để chuẩn bị tốt cho câu hỏi số 1, số 2, thí sinh phải tập thói quen động não với bất kỳ vấn đề nào mà bạn gặp phải 

bởi trong thực tế lúc nào chúng ta cũng có lý do cho một sự lựa chọn nào đó. - Câu 3 và câu 4, mỗi câu thí sinh có 30 giây để chuẩn bị và 

60 giây để nói. Ở phần thi này, thí sinh đƣợc cho 1 bài đọc và 1 bài nghe rồi đƣợc yêu cầu trình bày lại những gì mình đã nghe đƣợc, đọc 

đƣợc. Thƣờng bài đọc và bài nghe đề cập đến những vấn đề liên quan đến cuộc sống của sinh viên, những vấn đề học thuật. Ví dụ: ở câu 

3, thí sinh nhận đƣợc bài đọc là thông điệp về việc tăng học phí; sau đó nội dung bài nghe là cuộc hội thoại giữa 2 sinh viên, ngƣời thì 

ủng hộ chủ trƣơng tăng học phí, ngƣời thì phản đối, với những lý do cụ thể. Nhiệm vụ của thí sinh là nắm bắt những ý chính và diễn đạt 

lại một cách logic, mạch lạc theo kiểu: ‚Anh A đồng ý với việc tăng học phí vì những lý do... Chị B không đồng ý về việc tăng học phí vì 

những lý do...‛ chứ không phải trình bày lại cuộc đối thoại. Ở phần thi này, thí sinh phải vận dụng cả kỹ năng đọc, suy luận, nghe, ghi 

chép nhƣ ở phần thi đọc, viết để làm bài. - Câu 5 và câu 6, mỗi câu thí sinh có 20 giây để chuẩn bị và 60 giây để nói. Phần này không có 

bài đọc mà chỉ có bài nghe. Bài nghe ở câu 5 thƣờng là cuộc trao đổi giữa ngƣời nam và ngƣời nữ theo mô-tuýp: 1 ngƣời than thở về rắc 

rối nào đó; ngƣời còn lại đƣa ra 2 giải pháp khả thi. Thí sinh phải trình bày lại vấn đề, 2 giải pháp và nêu ý kiến cá nhân của mình về một 

giải pháp tốt nhất. Bài nghe ở câu 6 thƣờng là bài giảng về một chủ đề nào đó. Thí sinh phải nghe và trình bày lại những vấn đề mà bài 

nói đề cập đến. Do đó, thí sinh phải vận dụng cả kỹ năng nghe, ghi chép để làm bài. Ở bất kỳ câu hỏi nào của phần thi Speaking, khi trả 

lời, bạn nên cố gắng tạo thành đoạn văn nho nhỏ với câu đầu tiên là câu chủ đoạn. Sau đó, đi vào phân tích từng ý chính. Ở mỗi đoạn 

phân tích ý chính, cần có một vài ý phụ, dẫn chứng ví dụ. 

* Môn Viết Trƣớc hết bạn hãy luyện cho mình kỹ năng đánh máy bằng cả 10 ngón tay để khi vào thi bạn không phải gặp rắc rối đến từ 

việc gõ máy tính. Môn thi Viết gồm 2 phần: - Phần 1: thí sinh nhận đƣợc bài đọc về 1 mảng đề tài nào đó và nghe giảng về mảng đề tài 

đó. Sau đó, thí sinh đƣợc yêu cầu trình bày lại những gì đã đọc và đã nghe trong 1 bài văn với thời gian viết là 20 phút. - Phần 2: thí sinh 

làm 1 bài văn (trong vòng 30 phút) về một vấn đề nào đó, với đầy đủ 3 phần: mở đầu, thân bài, kết luận. Có một số kiểu đề thi nhất định 

nhƣ ‚Nên... hay không nên...‛ hoặc kiểu bài trình bày ý kiến cá nhân về một vấn đề nào đó. Nên nhớ ở phần mở đầu đã đề cập đến bao 

nhiêu vấn đề thì phần thân bài bạn sẽ khai triển bấy nhiêu ý tƣơng ứng. Ở phần thi Viết và Nói, bạn cần lƣu ý không phải viết nhiều, nói 

nhiều mới hay. Bạn phải nêu đƣợc những ý chính và bao giờ mỗi ý chính cũng có vài ba ý phụ để bổ trợ cho nó, tránh nói lấp lửng rồi 

bỏ. Chẳng thà bạn liệt kê ít ý nhƣng phân tích kỹ những ý mà mình liệt kê còn hơn bạn liệt kê nhiều ý nhƣng không có khả năng phân 

tích nó. Điều quan trọng là khả năng lập luận của bạn chứ không phải là những gì bạn nói có cao siêu hay không và ngôn ngữ bạn dùng 

có phức tạp hay không. Vì vậy, bạn đừng cố tình làm khó mình bằng cách dùng cấu trúc câu phức tạp, những mẫu câu mới, những từ 

ngữ khó hiểu... Hãy dùng ngôn ngữ dễ hiểu, câu cú đơn giản, những mẫu câu mà bạn biết chắc là mình sử dụng đúng. 

 

 

© Hoàng Ánh 2010 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: