TLBB bản mới 1
Hai người nhắm đường chạy về phía thành Vô Tích. Đi được vài dặm, bỗng thấy nơi cây tùng bên vệ đường có một xác người treo lủng lẳng nhìn phục sắc thì là một võ sĩ Tây Hạ. Đi thêm mấy trượng nữa, nơi sườn đồi lại thấy hai võ sĩ Tây Hạ nằm còng queo, vết thương trên người máu còn chưa khô xem ra chết cũng chưa lâu. Đoàn Dự nói:
- Bọn Tây Hạ gặp phải kẻ đối đầu rồi. Vương cô nương, cô thử nghĩ xem ai đã giết họ?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Người này võ công cực kỳ cao cường, giơ tay là giết được người không tốn hơi sức gì, quả thật ghê gớm. Ồ, đằng kia có ai tới kìa?
Chỉ thấy trên đường lớn hai người cưỡi ngựa song song chạy đến, trên lưng một người áo đỏ, một người áo xanh chính là hai nàng Châu Bích. Đoàn Dự mừng quá kêu to:
- A Châu cô nương, A Bích cô nương, các cô thoát hiểm rồi ư? Hay lắm! Hay thật là hay.
Bốn người liền cùng giục ngựa chạy đi, ai nấy vui không để đâu cho hết. A Châu nói:
- Vương cô nương, Đoàn công tử, sao hai vị lại quay trở lại làm gì? Tiểu nữ và A Bích muội tử đang định đi tìm hai người đây.
Đoàn Dự đáp:
- Chúng tôi cũng đang định đi tìm hai cô đây.
Chàng vừa nói vừa liếc Vương Ngữ Yên để dọ ý xem nàng có chịu để cho gộp chung thành “chúng tôi” thì quả thật là vinh dự. Vương Ngữ Yên hỏi:
- Các ngươi làm sao mà thoát thân được? Đã ngửi cái bình thuốc thối chưa?
A Châu cười nói:
- Quả thực thối đến chết người, cô nương cũng phải ngửi rồi phải không? Cũng do Kiều bang chủ cứu hay sao?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Không phải. Đoàn công tử cứu ta đó. Các ngươi được Kiều bang chủ cứu hay sao?
Đoàn Dự nghe nàng chính miệng nói ra “Đoàn công tử cứu ta đó” sung sướng như bay bổng tận mây xanh, đầu óc choáng váng tưởng chừng như muốn rơi khỏi lưng ngựa. A Châu nói:
- Đúng thế! Tiểu nữ và A Bích trúng độc rồi, mơ mơ màng màng không sao cử động được, cùng với cả bọn người trong Cái Bang bị bọn man tử Tây Hạ trói lại, vứt lên yên ngựa. Đi được một quãng, trời đổ mưa rào, cả bọn liền phải tản ra, chia nhau tìm chỗ trú mưa. Tiểu nữ và A Bích bị mấy tên Tây Hạ dẫn vào đụt tại một tòa lương đình, đến lúc tạnh mưa mới ra đi. Vừa ngay lúc đó, đằng sau có người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Kiều bang chủ. Ông ta thấy chúng tôi bị bọn Tây Hạ bắt giữ, rất là ngạc nhiên, chưa kịp mở mồm hỏi chúng tôi đã kêu lên: “Kiều bang chủ, cứu tôi với!”. Bọn võ sĩ Tây Hạ nghe thấy ba tiếng “Kiều bang chủ”, lập tức rút binh khí ra vây đánh ông ta. Kết quả là có đứa thì bị treo lên cây tùng, có đứa chết nơi sườn núi, có kẻ lại lọt xuống sông.
Vương Ngữ Yên cười nói:
- Đó là chuyện mới xảy ra, phải không?
A Châu đáp:
- Đúng thế! Tiểu nữ nói: “Kiều bang chủ, chị em chúng tôi bị trúng độc, phiền ông một chút, tìm trên người bọn man tử Tây Hạ xem có giải dược không?’. Kiều bang chủ lục nơi người một võ sĩ Tây Hạ tìm được chiếc bình nhỏ, thơm hay thối thì chẳng cần nói cũng biết.
Vương Ngữ Yên hỏi thêm:
- Thế Kiều bang chủ đâu?
A Châu đáp:
- Ông ta nghe nói mọi người trong Cái Bang đều trúng độc bị bắt cả rồi nói là muốn đi cứu bọn họ, lật đật đi ngay. Ông ta cũng hỏi thăm Đoàn công tử xem ra rất là lo lắng.
Đoàn Dự thở dài:
- Vị bả huynh của tôi quả là nghĩa khí thâm trọng biết chừng nào.
A Châu nói:
- Người của Cái Bang chẳng biết hay dở, một vị bang chủ tài giỏi như thế mà đem đuổi đi, bây giờ mình làm mình chịu, thật là đáng kiếp. Tôi thấy là vị bả huynh đó tình nghĩa mặn nồng, thà để người phụ mình chứ nhất định không chịu phụ người.
A Bích nói:
- Vương cô nương, bây giờ chúng mình đi đâu?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Ta và Đoàn công tử đã bàn nhau phải đi cứu hai đứa ngươi trước. Bây giờ cả bốn người mình bình an cả rồi, thật là hay không đâu cho hết. Chuyện của Cái Bang không liên can gì đến mình, cứ như ý ta, chúng ta đến chùa Thiếu Lâm tìm công tử các ngươi là hơn cả.
Chu Bích hai nàng quan tâm nhất chính là Mộ Dung công tử, nghe nàng nói thế đều vỗ tay reo lên. Đoàn Dự trong lòng chua xót nhưng cũng phải ra vẻ thản nhiên nói:
- Vị công tử của các cô, tôi vẫn có bụng kính phục lắm, mong được gặp một lần. Hiện nay không có việc gì làm, tôi đi theo các cô đến chùa Thiếu Lâm một chuyến cũng hay.
Bốn người quay đầu ngựa đi về hướng bắc. Vương Ngữ Yên và hai nàng Châu Bích nói cười vui vẻ, đem chuyện gặp nguy hiểm thế nào ở nhà máy xay lúa, Đoàn Dự nghinh địch ra sao, võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông tha mạng lại cho thuốc giải tất cả kể lại rành mạch rõ ràng, khiến cho A Châu, A Bích hai nàng cực kỳ kinh ngạc.
Ba cô gái mỗi khi đến đoạn nào vui lại cười khúc khích, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn Đoàn Dự, lấy tay áo che miệng nhưng không dám cười một cách lộ liễu. Đoàn Dự biết các cô đang bàn tán với nhau về chuyện ngốc nghếch của mình nhưng tự nghĩ mặc dầu mình lộ đủ mọi thứ vụng dại nhưng cuối cùng cũng bảo vệ được Vương cô nương chu toàn nên vừa thấy sượng sùng nhưng cũng lại đầy tự hào. Chàng lại thấy ba cô gái thân mật tíu tít bỏ mặc mình không lý gì đến, bây giờ đã vậy, đến khi gặp được Mộ Dung công tử rồi thì chàng quả không có đất dung thân. Mộ Dung Phục chắc cũng như Bao Bất Đồng, không nể nang gì đuổi cổ mình đi, càng nghĩ chàng càng thấy ê chề.
Đi được mấy dặm, qua khỏi một khu vườn dâu thật lớn, bỗng nghe ở bìa rừng có tiếng hai thiếu niên đang khóc. Bốn người giục ngựa chạy lên thấy đó là hai chú tiểu tuổi chừng mười bốn, mười lăm, trên tăng bào lấm tấm những máu, một trong hai người còn bị thương nơi trán. A Bích dịu dàng hỏi:
- Này các tiểu sư phụ, ai hiếp đáp các chú đó? Sao lại bị thương?
Chú tiểu không bị thương vừa khóc vừa trả lời:
- Có vô số ác nhân phiên bang đến chùa giết chết thầy chúng tôi rồi đuổi hai đứa chúng tôi ra ngoài.
Bốn người nghe thấy nói đến “ác nhân phiên bang” liền đưa mắt nhìn nhau cùng nghĩ: “Hay là bọn Tây Hạ chăng?”. A Châu hỏi thêm:
- Thế chùa của các chú ở nơi nào? Bọn kẻ ác phiên bang là bọn nào thế?
Chú tiểu đáp:
- Chúng tôi ở chùa Thiên Ninh, ở phía bên kia ...
Vừa nói y vừa chỉ về phía đông bắc:
- Bọn người phiên kia bắt đâu khoảng hơn một trăm ăn mày đi đến chùa trú mưa, đòi rượu đòi thịt, lại định giết gà giết bò. Sư phụ bảo là “tội lắm” không chịu cho chúng giết bò ở trong chùa, bọn chúng liền bắt cả sư phụ lẫn hơn một chục sư huynh giết sạch, hu hu, hu hu.
A Châu hỏi tiếp:
- Thế bọn chúng đã đi chưa?
Chú tiểu chỉ về phía làn khói đang lững lờ bay lên sau khu rừng dâu nói:
- Chúng nó đang nấu thịt bò kìa, thật là tội lắm, xin bồ tát phù hộ bắt bọn phiên nhân kia bỏ xuống a tì địa ngục.
A Châu nói:
- Thôi hai chú chạy cho xa chứ nếu như bọn người phiên bắt được, không chừng chúng nó mổ ra ăn thịt đó.
Hai chú tiểu nghe nói thế kinh hãi, lật đật bỏ chạy ngay. Đoàn Dự thấy vậy không vui nói:
- Hái chú đó đã vào nước cùng không còn biết đi đâu, sao A Châu tỉ tỉ lại còn dọa họ làm gì?
A Châu cười nói:
- Có phải dọa đâu, tôi nói thực đấy chứ.
A Bích nói:
- Nếu như người trong Cái Bang đang bị nhốt trong chủa Thiên Ninh, Kiều bang chủ lại chạy về thành Vô Tích thì đúng là không nên cơm cháo gì.
A Châu đột nhiên nghĩ ra một kế thật lạ liền nói:
- Vương cô nương, tôi muốn cải trang làm Kiều bang chủ trà trộn vào trong chùa, đem chiếc bình thuốc thối kia cho bọn ăn mày ngửi, sau khi bọn chúng thoát hiểm rồi thể nào củng cảm kích tấm lòng của Kiều bang chủ.
Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:
- Kiều bang chủ thân thể cao to, là một hán tử cực kỳ hùng tráng, làm sao ngươi hóa trang thành ông ta cho được.
A Châu cười nói:
- Càng khó chừng nào thì càng biết tay A Châu này.
Vương Ngữ Yên cười:
- Ngươi giả trang giống Kiều bang chủ chăng nữa nhưng làm sao bắt chước được tuyệt thế thần công của ông ta. Trong chùa Thiên Ninh đầy những cao thủ Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, đâu có để cho ngươi vào ra thong thả. Cứ như ý ta, giả làm một tên đầu bếp hay một bà già bán rau trà trộn vào chùa còn dễ hơn.
A Châu nói:
- Bảo tiểu nữ giả làm bà già bán rau thì có gì là thú. Thôi không đi nữa là hơn.
Vương Ngữ Yên nhìn Đoàn Dự, mấp máy đôi môi muốn nói rồi lại thôi. Đoàn Dự hỏi:
- Cô nương định nói gì thế?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Tôi vốn định nhờ công tử hóa trang thành một người đi cùng với A Châu đến Thiên Ninh Tự, nhưng nghĩ kỹ lại thấy không xong.
Đoàn Dự hỏi:
- Cô muốn tôi giả trang thành ai vậy?
Vương Ngữ Yên nói:
- Các anh hùng trong Cái Bang có bụng nghi ngờ rất nặng, vu oan cho Kiều bang chủ cùng biểu ca tôi ngầm cấu kết với nhau giết hại Mã phó bang chủ, nếu như ... nếu như ... biểu ca tôi cùng Kiều bang chủ đến cứu họ ra khỏi chỗ nguy nan, bọn họ chắc không còn nghi tâm nữa.
Đoàn Dự trong lòng chua xót nói:
- Cô nương muốn tôi giả làm biểu ca cô ư?
Vương Ngữ Yên bẽn lẽn nói:
- Trong chùa Thiên Ninh kẻ địch quá mạnh, hai người đến đó cực kỳ nguy hiểm, chi bằng không đi là hơn.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cô bảo tôi làm gì tôi cũng làm, dù phải tan xương nát thịt cũng quyết chẳng từ nan”. Chàng đột nhiên nghĩ thêm: “Nếu như mình hóa trang thành Mộ Dung Phục, không chừng lời ăn tiếng nói nàng sẽ đổi khác ngay, nàng sẽ dịu dàng chiều chuộng mình trong giây lát thì cũng hay”. Chàng nghĩ đến đó lập tức tinh thần phấn khởi hăng hái nói:
- Thế có gì nguy hiểm đâu? Cái gì chứ trò chạy cong đuôi là món sở trường của Đoàn Dự này.
Vương Ngữ Yên nói:
- Tôi thấy không ổn là vì biểu ca tôi sát địch dễ như trở bàn tay, xưa nay chưa bao giờ bỏ chạy cả.
Đoàn Dự nghe nói thế một làn hơi lạnh chạy dài từ đầu xuống chân, nghĩ thầm: “Biểu ca cô là một đại anh hùng, đại hào kiệt, ta đâu có xứng đáng giả làm y. Giả mạo mà để cho lộ cái xấu ra trước mặt mọi người thì có phải là làm ô nhục thanh danh của y hay không?”.
A Bích thấy chàng buồn bã không vui liền lên tiếng an ủi:
- Địch đông ta ít, tạm thời thoái nhượng thì có gì không phải đâu? Chúng ta chỉ cốt cứu được người chứ nào có phải tỉ võ để được dương danh.
Đôi mắt tinh anh của A Châu nhìn Đoàn Dự một lượt từ đầu đến chân như để đánh giá xem thế nào, một lúc sau gật đầu nói:
- Đoàn công tử, muốn cải trang thành công tử chúng tôi quả không phải dễ. Cũng may là bọn Cái Bang xưa nay chưa biết công tử chúng tôi thế nào, giọng nói vẻ mặt ra sao cũng chỉ biết đại khái thôi.
Đoàn Dự nói:
- Tài nghệ của cô ghê gớm lắm, giả làm Kiều bang chủ thật thích hợp, nếu không Kiều bang chủ đối với người của Cái Bang sớm hôm gặp gỡ, nếu có sơ hở là họ biết ngay.
A Châu mỉm cười nói:
- Kiều bang chủ là một đấng trượng phu cao lớn vậy mà tôi giả làm ông ta lại dễ dàng. Công tử chúng tôi tầm vóc không khác công tử bao nhiêu, tuổi tác cũng chẳng hơn nhiều, cả hai đều là hạng con nhà gia thế, ham học hành vậy mà Đoàn công tử phải bỏ bản lai diện mục của mình để biến thành Mộ Dung công tử thì lại thật khó khăn.
Đoàn Dự thở dài:
- Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, người khác dễ gì bắt chước cho giống được? Theo tôi thì nếu cải trang không giống cũng tốt, để đến khi cúp đuôi bỏ chạy cũng không tổn thương đến thanh danh của Mộ Dung công tử.
Vương Ngữ Yên mặt hơi đỏ lên, nói khẽ:
- Đoàn công tử, tôi lỡ lời anh có giận tôi không?
Đoàn Dự vội đáp:
- Không, không! Đâu có, tôi làm gì dám giận cô?
Vương Ngữ Yên mặt tươi cười nói:
- A Châu tỉ tỉ, hai người đi đâu cải trang đây?
A Châu đáp:
- Chắc phải đến một tiểu thị trấn mới có thể mua được những thứ cần dùng.
Bốn người quay ngựa chạy về hướng tây. Đi chừng bảy tám dặm đến một thị trấn tên là Mã Lang Kiều. Thị trấn này thật nhỏ bé, không có khách điếm, A Châu nghĩ ra một cách, thuê một chiếc thuyền neo tại giữa sông rồi sau đó đi xuống phố mua vật dụng, quần áo đem lên cải trang ngay trên thuyền. Đất Giang Nam đâu đâu cũng đầy sông rạch, thuyền bè nhiều vô kể chẳng khác gì gia súc ở miền bắc.
Nàng bảo Đoàn Dự thay đổi y phục trước, để chàng mặc một chiếc áo dài màu xanh, tay phải cầm quạt xếp, ngón tay trái đeo nhẫn. A Châu nói:
- Công tử chúng tôi đeo nhẫn ngọc đời Hán, ở đây mua ở đâu ra? Thôi đành dùng tạm đá Thanh Điền nhập nhoạng, cũng được rồi.
Đoàn Dự chỉ đành gượng cười, bụng bảo dạ: “Mộ Dung Phục là thứ ngọc quí, còn ta chỉ là hạng đá xoàng, trong lòng ba cô gái này thân phận hai người cách nhau xa”. A Châu trét bột mì lên mặt chàng, nặn mũi cho cao lên, sửa cho mặt hơi mập thêm một chút, lấy bút vẽ lông mày, khóe mắt, hóa trang xong cười hỏi Vương Ngữ Yên:
- Cô nương xem thử còn chỗ nào không giống nữa chăng?
Vương Ngữ Yên không trả lời chỉ ngây ngất nhìn chàng, trong ánh mắt chứa đầy tình ý, hiển nhiên hồn đang bay bổng, tâm thần miên man. Đoàn Dự thấy ánh mắt mê mẩn của nàng cũng thấy lòng lâng lâng nhưng chợt nghĩ ra: “Nàng nhìn đây là nhìn Mộ Dung Phục chứ nào có phải Đoàn Dự ta đâu?”. Chàng lại nghĩ thêm: “Không biết gã Mộ Dung Phục này anh tuấn cỡ nào, làm sao hơn ta gấp trăm lần, tiếc thay ta không thấy được mình bây giờ ra sao”. Lòng chàng khi thì vui, khi thì đổi ra giận dữ.
Hai người nhìn nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ không biết A Châu, A Bích đã ra ngoài sau khoang cải trang từ hồi nào. Một hồi sau, bỗng nghe giọng một người đàn ông ồm ồm nói:
- A, thì ra ngươi ở đây, làm cho người anh này đi kiếm ngươi muốn chết được.
Đoàn Dự thất kinh, quay đầu lại thấy người vừa nói chính là Kiều Phong, không khỏi vui mừng kêu lên:
- Đại ca đấy ư? Thế thì hay lắm. Bọn chúng tôi đang định cải trang thành anh để đi cứu người, bây giờ anh lại đến đây, A Châu tỉ tỉ không cần gì phải hóa trang nữa.
Kiều Phong nói:
- Người của Cái Bang đã trục xuất ta ra khỏi bang rồi, bọn họ chết sống gì, Kiều mỗ cũng mặc kệ không coi vào đâu. Hảo huynh đệ, đi mau, anh em mình lên bờ đi kiếm rượu uống thi với nhau hai chục bát xem nào.
Đoàn Dự vội đáp:
- Đại ca, người trong Cái Bang đều là bạn bè cũ của anh, anh làm ơn cứu họ một lần.
Kiều Phong giận dữ đáp:
- Thứ đồ gàn như ngươi biết gì? Thôi đi uống rượu với ta nào!
Nói xong ông ta liền nắm tay Đoàn Dự. Đoàn Dự không biết làm sao chỉ đành nói:
- Thôi được, để tiểu đệ hầu rượu đại ca, uống xong rồi sẽ đi cứu người cũng được.
Kiều Phong đột nhiên cười khanh khách, giọng trong trẻo uyển chuyển, một đại hán cao to lại nghe tiếng cười như một thiếu nữ còn xuân, quả thực quái lạ. Đoàn Dự ngạc nhiên, lập tức hiểu ra, cười nói:
- A Châu tỉ tỉ, thuật cải trang của tỉ tỉ quả là thần kỹ, đến cả cách ăn nói cũng y hệt không khác chút nào.
A Châu lại đổi qua giọng Kiều Phong nói:
- Hảo huynh đệ, thôi mình đi, ngươi nhớ mang theo cái bình thuốc thối nhé.
Nàng quay sang nói với Vương Ngữ Yên và A Bích:
- Hai vị cô nương ở đây chờ tiện hơn.
Nói xong dắt tay Đoàn Dự, hăng hái bước lên bờ. Không biết nàng đắp cái gì lên tay mà một bàn tay nhỏ nhắn mềm mại lúc giơ ra lại đen sì, tuy không to như bàn tay Kiều Phong nhưng người ngoài thoáng nhìn thật khó mà phân biệt.
Vương Ngữ Yên nhìn theo bóng Đoàn Dự, trong bụng miên man nghĩ thầm: “Nếu anh chàng là biểu ca thật thì hay biết mấy. Biểu ca, giờ phút này chàng có nhớ đến thiếp hay không?”.
A Châu và Đoàn Dự cưỡi ngựa chạy đến cách chùa Thiên Ninh chừng năm dặm, ngại rằng bọn võ sĩ Tây Hạ ở trong chùa có thể nghe được tiếng chân ngựa, đem ngựa buộc vào một chuồng bò nơi nhà một nông gia, đi bộ tới.
A Châu nói:
- Mộ Dung huynh đệ, đi đến chùa rồi, ta sẽ đại ngôn đàm luận, phét lác dọa cho chúng một mẻ, ngươi thừa cơ dùng bình thuốc thối giải độc cho bang chúng Cái Bang.
Nàng nói mấy câu đó gọng thô hào, nghe y hệt Kiều Phong. Đoàn Dự cười đáp lời. Hai người hùng dũng tiến về phía Thiên Ninh Tự, thấy trước cửa chùa có độ mươi võ sĩ Tây Hạ, tay cầm trường đao, mặt mày hung ác. A Châu và Đoàn Dự vừa trông thấy chúng tim đập thình thình không khỏi hoảng sợ. A Châu nói nhỏ:
- Nếu có chuyện gì thì công tử dắt tôi chạy cho nhanh, nếu không bọn chúng níu lại đòi tỉ võ thì thật khó mà đối phó.
Đoàn Dự đáp:
- Được!
Thế nhưng chàng nói giọng run run, trong bụng quả là khiếp sợ. Hai người còn đang thì thầm bàn tính, nhìn quanh quất thăm dò thì một tên võ sĩ đứng ngoài cửa đã trông thấy, lớn tiếng quát:
- Hai thằng chết tiệt kia, thập thò làm gì thế? Các ngươi là gian tế chăng?
Tiếng quát chưa dứt đã có thêm bốn tên võ sĩ khác ùa ra. A Châu không còn biết làm sao hơn, chỉ đành ưỡn ngực, hung hăng bước tới, cất giọng ồm ồm:
- Mau báo cho tướng quân nhà các ngươi hay là Kiều Phong của Cái Bang và Mộ Dung Phục đất Giang Nam đến xin gặp Hách Liên đại tướng quân nước Tây Hạ.
Gã võ sĩ đứng đầu nghe thế giật nảy mình, vội vàng vòng tay khom lưng nói:
- Thì ra là Kiều bang chủ của Cái Bang quang giáng, quả là thất lễ, tiểu nhân xin vào bẩm báo.
Y lập tức quay vào trong chùa, những kẻ còn lại cung kính thõng tay đứng hầu. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng tù và vang dội, cửa chùa mở toang, đường chủ Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là Hách Liên Thiết Thụ cùng bọn Nỗ Nhi Hải các cao thủ, đi ra nghinh tiếp. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc cũng có mặt trong số đó.
Đoàn Dự hồi hộp tim đập thình thình, cúi đầu không dám nhìn thẳng vào bọn họ. Hách Liên Thiết Thụ nói:
- Đã ngưỡng mộ đại danh của Cô Tô Mộ Dung từ lâu với môn “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, hôm nay được gặp cao hiền thực quả là vinh hạnh.
Nói xong y vòng tay ôm quyền hướng về phía Đoàn Dự hành lễ. Y nghĩ bụng Tây Hạ Nhất Phẩm Đường với Cái Bang nay đã thành thù nghịch nên không tỏ vẻ gì nể nang Kiều Phong cả.
Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ nói:
- Uy danh Hách Liên tướng quân vang dậy ra ngoài biên ải, tại hạ vốn đã mong có dịp gặp được các vị anh hùng hào kiệt trong Nhất Phẩm Đường một phen, hôm nay đường đột đến đây, xin rộng lòng tha thứ.
Nói mấy câu khách sáo kia đúng là chàng đã quen mồm như cháo chẩy nên không có chút sơ hở nào. Hách Liên Thiết Thụ nói:
- Vẫn thường nghe tiếng trong võ lâm đồn rằng “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung”, trong số anh kiệt của Trung Nguyên hai vị là đứng đầu, hôm nay cùng giá lâm một lượt, quả là vinh hạnh xiết bao! Xin mời!
Y tránh qua một bên nhường lối mời hai người vào trong đại điện. A Châu và Đoàn Dự gượng làm ra vẻ thản nhiên đi song song với Hách Liên Thiết Thụ. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cứ xem thần thái ngôn ngữ của gã tướng quân Tây Hạ này, xem chừng y coi trọng Mộ Dung công tử hơn cả Kiều đại ca, không lẽ gã Mộ Dung Phục kia nhân phẩm võ công còn trên đại ca ta một mức hay sao? Ta xem ra thì đâu có thể như vậy được”.
Bỗng nghe tiếng một người thật quái lạ:
- Không thể như thế được! Không thể được!
Đoàn Dự giật mình, liếc qua xem ai vừa nói, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y giương đôi mắt nhỏ như hạt đậu đánh giá Đoàn Dự, vừa nhìn vừa lắc đầu. Đoàn Dự chột dạ, bụng bảo dạ: “Chết rồi! Chết thật rồi! Y nhận ra mình!”. Lại nghe Nam Hải Ngạc Thần tiếp:
- Xem thân thể ngươi chưa được ba lạng xương, làm cái quái gì được? Này, ta hỏi ngươi. Nghe người ta nói ngươi biết thuật “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, Nhạc lão nhị này đếch tin nổi.
Đoàn Dự bấy giờ mới thở phào nghĩ thầm: “Hóa ra y chưa nhận ra mình”. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Ta không cần ngươi phải ra tay, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi có biết Nhạc lão nhị này có môn gì đặc biệt không? Ngươi dùng cái công phu con mẹ gì mà đối phó với ta để mà “gậy ông đập lưng ông” được?
Nói xong y đứng chống nạnh, vẻ mặt nhơn nhơn tự đắc. Hách Liên Thiết Thụ đang toan lên tiếng chặn y lại nhưng lại nghĩ ngay, Mộ Dung Phục tên tuổi rất lớn, danh với thực có đi đôi với nhau hay không, chi bằng để gã Nam Hải Ngạc Thần điên điên khùng khùng này thử xem cho biết nên để yên không can thiệp.
Trong khi nói chuyện thì cả bọn đã vào trong đại điện rồi, Hách Liên Thiết Thụ mời Đoàn Dự ngồi ghế trên cùng nhưng Đoàn Dự nhường thủ vị đó cho A Châu. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng nói:
- Này, Mộ Dung tiểu tử, ngươi nói thử ta nghe nào, công phu đắc ý nhất của ta là gì thế?
Đoàn Dự mỉm cười nghĩ bụng: “Người nào hỏi ta thì ta không trả lời được chứ còn như ngươi hỏi ta thì thật là gãi đúng chỗ ngứa”. Chàng bèn mở chiếc quạt ra, phe phẩy mấy cái nói:
- Nam Hải Ngạc Thần Nhạc Lão Tam, cái bản lãnh đắc ý nhất của ngươi là lách cách một tiếng, vặn gãy cổ người ta. Mấy năm nay công phu lại càng tiến bộ, bây giờ môn võ công tinh thục hơn cả là ngạc vĩ tiên và ngạc chủy tiễn. Ta muốn đối phó với ngươi lẽ dĩ nhiên phải dùng roi đuôi cá sấu và kéo hình hàm cá sấu chứ còn gì.
Chàng mở miệng nói ra hai cái tên ngạc vĩ tiên và ngạc chủy tiễn khiến cho Nam Hải Ngạc Thần kinh ngạc đến há hốc mồm, đến ngay cả Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc cũng ngạc nhiên không kém. Hai món binh khí đó Nam Hải Ngạc Thần mới luyện gần đây chưa từng thi triển với ai, chỉ cùng Vân Trung Hạc động thủ một lần nơi đỉnh Vô Lượng Sơn, khi đó ngoài Mộc Uyển Thanh ra không một ai trông thấy. Bọn họ có ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đã kể hết đầu đuôi cho anh chàng Mộ Dung công tử giả hiệu này nghe rồi.
Nam Hải Ngạc Thần nghiêng đầu quan sát Đoàn Dự thật kỹ. Y tuy rất hung ác tàn nhẫn nhưng lại có bụng bội phục những người anh hùng hảo hán, ngắm nghía một hồi giơ ngón tay cái lên nói:
- Giỏi thật!
Đoàn Dự đáp:
- Chẳng bõ cười!
Nam Hải Ngạc Thần nghĩ thầm: “Đến cả món binh khí ta mới luyện đây y cũng nói ra được, những võ công khác còn phải hỏi làm gì. Tiếc thay lão đại không có nơi đây, không thì sẽ một phen vặn hỏi y xem sao. À! Có rồi!”. Y bèn lớn tiếng:
- Mộ Dung công tử, ngươi biết võ công của ta thật chẳng có gì khó hiểu. Thế nhưng nếu như sư phụ ta đến đây, võ công của ông ấy ngươi chẳng thể nào biết được.
Đoàn Dự mỉm cười hỏi:
- Sư phụ ngươi là ai thế? Ông ta có võ công gì đặc biệt?
Nam Hải Ngạc Thần dương dương đắc ý đáp:
- Thụ nghiệp ân sư của ta thì qua đời đã lâu, chẳng nói đến làm gì. Còn người thầy ta mới bái sư đây tài nghệ thật ghê gớm lắm, chẳng phải ngoa, chỉ riêng một môn Lăng Ba Vi Bộ xem ra trên đời này không người thứ hai nào biết được.
Đoàn Dự trầm ngâm đáp:
- Lăng Ba Vi Bộ thì quả là một môn võ công cao siêu. Nếu bảo là Đoàn công tử nước Đại Lý thu các hạ làm đồ đệ, ta thật chẳng tin chút nào.
Nam Hải Ngạc Thần vội đáp:
- Ta nói láo ngươi làm chi? Ở đây có bao nhiêu người nghe thấy Đoàn công tử chính miệng gọi ta là đồ nhi mà!
Đoàn Dự trong bụng cười thầm: “Lúc đầu ngươi nhất định thà chết không chịu lạy ta làm thầy, lúc này thì lại sợ ta không nhận là học trò”. Chàng bèn nói:
- Ồ, nếu như thế các hạ chắc đã học được tuyệt kỹ của sư phụ rồi? Chúc mừng! Chúc mừng!
Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy nói:
- Chưa có! Chưa có! Nhà ngươi tự cho rằng võ công trong thiên hạ cái gì cũng biết, cái gì cũng rành, nếu đi được ba bước Lăng Ba Vi Bộ thôi thì Nhạc lão nhị này mới thực là bội phục.
Đoàn Dự mỉm cười đáp:
- Lăng Ba Vi Bộ tuy khó thật nhưng tại hạ cũng học qua vài bước. Nhạc lão gia tử, ông thử chạy lại bắt tôi xem nào.
Nói rồi trường bào phất phới chàng đã lướt ra chính giữa đại điện. Quần hào nước Tây Hạ trước nay chưa từng nghe nói đến Lăng Ba Vi Bộ, nay nghe Nam Hải Ngạc Thần xưng tụng là một thần kỹ tuyệt luân, ai nấy đều háo hức muốn xem ra thế nào, lập tức chia ra đứng chung quanh bốn góc để xem Đoàn Dự biểu diễn.
Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng thật ghê rợn, tay trái vươn ra, tay phải xuyên qua bên dưới tả chưởng, chộp luôn vào Đoàn Dự. Đoàn Dự đạp xéo qua hai bước, lui về sau nửa bước, thân hình nhẹ nhàng như gió lướt qua tàu lá sen, khéo léo sao tránh được. Chỉ nghe bộp một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần thu chưởng về không kịp, năm ngón tay phải đã cắm vào cột trong đại điện, sâu đến mấy tấc. Người đứng chung quanh thấy y công lực cao thâm như thế ai nấy đều tái mặt. Nam Hải Ngạc Thần tấn công không trúng, lại rống lên lần nữa, nhảy vọt tới, đem cả thân mình từ trên cao chộp xuống.
Đoàn Dự không thèm lý đến y, chỉ việc đạp theo phương vị bát quái, tiêu sái lướt qua. Nam Hải Ngạc Thần càng tấn công nhanh hơn, tiếng rống mỗi lúc một lớn chẳng khác gì một con mãnh thú. Đoàn Dự bỗng nhìn thấy khuôn mặt khủng khiếp của y, trong lòng không khỏi sựng lại, vội vàng quay đầu đi, lấy trong tay áo ra một chiếc khăn tay, buộc lên che mắt mình lại nói:
- Nếu như ta bịt mắt lại ngươi cũng không bắt được ta đâu.
Song chưởng của Nam Hải Ngạc Thần múa lên vù vù xông thẳng vào tấn công Đoàn Dự nhưng vẫn cách thân chàng một chút. Người đứng xem ai nấy sợ giùm, lòng bàn tay tươm mồ hôi lạnh. A Châu quan tâm đến Đoàn Dự nên cũng rợn cả người, đột nhiên cất giọng ồm ồm quát lên:
- Nam Hải Ngạc Thần, ngươi thấy Lăng Ba Vi Bộ của Mộ Dung công tử so với sư phụ ngươi thì thế nào?
Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên, bao nhiêu khí lực trong người toát ra hết, lập tức dừng lại nói:
- Hay quá! Hay quá! Ngươi bịt mắt mà vẫn đi theo bộ pháp quái dị kia được, e rằng đến sư phụ ta làm cũng không được. Gớm thật, Cô Tô Mộ Dung quả thật danh bất hư truyền, Nam Hải Ngạc Thần này thực là bội phục.
Đoàn Dự gỡ chiếc khăn che mắt ra, quay lại chỗ ngồi, trong đại tiếng tiếng hoan hô vang lên như sấm rền. Hách Liên Thiết Thụ đợi hai người ngồi xuống rồi mới cầm chén trà lên nói:
- Mời dùng trà. Hai vị anh hùng quang lâm không biết có chuyện gì muốn chỉ giáo?
A Châu đáp:
- Tệ bang có mấy anh em không biết đắc tội chỗ nào, nghe nói tướng quân sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bắt họ lại nơi đây. Tại hạ mạo muội đến xin tướng quân tha cho họ.
Nàng nhấn mạnh mấy chữ “sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bắt họ lại” để mỉa mai người Tây Hạ sử dụng chất độc hèn hạ thô bỉ bắt người. Hách Liên Thiết Thụ mỉm cười nói:
- Lời nói đó không sai. Mới rồi Mộ Dung công tử đại hiển thân thủ, quả là không phải mang cái hư danh. Kiều bang chủ tên tuổi đứng ngang với Mộ Dung công tử, vậy cũng xin lộ chút công phu cho xem thử, để cho người Tây Hạ chúng tôi vui vẻ mà bội phục lúc đó sẽ thả các vị anh hùng hảo hán của quí bang ra.
A Châu trong bụng hoang mang, nghĩ thầm: “Nếu như bảo ta giả mạo thân thủ của Kiều bang chủ thì lập tức sẽ lòi đuôi ngay”. Nàng còn đang tìm cách thoái thác, bỗng thấy chân tay mềm nhũn, tưởng như cử động một ngón tay cũng không được, giống hệt như bị trúng độc tối hôm trước thật là kinh hãi: “Chết rồi! Có ai ngờ đâu trong giờ phút này, bọn ác nhân Tây Hạ lại giở trò cũ ra ám toán, không biết phải làm sao đây?”.
Các loại tà độc không thể nào xâm nhập vào người Đoàn Dự nên chàng hoàn toàn không thấy gì khác, thấy A Châu mềm nhũn ngồi trên ghế, biết nàng lại bị trúng độc khí nữa rồi, vội vàng lấy trong túi ra chiếc bình thuốc thối, mở nắp đưa vào mũi nàng. A Châu vội hít mấy hơi vì nàng trúng độc chưa nhiều nên tay chân liền hết tê dại. Nàng liền cầm chiếc bình ngửi liên tiếp, trong bụng lấy làm lạ lùng sao địch nhân không ra tay can thiệp? Nhìn lại bọn người Tây Hạ, thấy người nào người nấy cũng xuội lơ ngồi ỳ ra, không ai cử động gì được, chỉ giương mắt nhìn quanh quất._
Đoàn Dự nói:
- Quái lạ làm sao! Bọn người này chẳng lẽ tự hại mình, tự phóng độc, tự trúng độc hay sao?
A Châu liền đi tới gần lay Hách Liên Thiết Thụ. Gã đại tướng quân kia liền xiêu đi nằm ngoẹo trên ghế, quả thực bị trúng độc rồi. Thế nhưng y vẫn còn nói năng được, quát lên:
- Đứa nào dùng Bi Tô Thanh Phong đó? Có mau lấy thuốc giải ra không nào!
Y quát tháo luôn mấy bận nhưng tất cả các thủ hạ của y ai nấy đều nằm gục đó chỉ bẩm báo:
- Bẩm tướng quân, thuộc hạ không cử động được.
Nỗ Nhi Hải nói:
- Chắc là có kẻ nội gian, nếu không làm sao biết được cách sử dụng phức tạp của loại Bi Tô Thanh Phong này?
Hách Liên Thiết Thụ giận dữ nói:
- Đúng đó! Đứa nào thế? Ngươi mau mau tra xét cho rõ ràng, đem nó ra chặt thành vạn mảnh.
Nỗ Nhi Hải đáp:
- Vâng! Có điều bây giờ cần phải có thuốc giải trước đã.
Hách Liên Thiết Thụ nói:
- Ngươi nói phải lắm! Mau mau đi lấy thuốc giả coi nào.
Nỗ Nhi Hải lông mày nhíu lại, liếc mắt nhìn chiếc bình sứ trong tay A Châu nói:
- Phiền Kiều bang chủ đem thuốc giải trong cái bình cho chúng tôi ngửi, tướng quân chúng tôi thể nào cũng trọng thưởng.
A Châu cười nói:
- Ta muốn đến đây giải cứu anh em trong bang chứ nào phải tham đồ trọng thưởng của tướng quân nhà ngươi đâu.
Nỗ Nhi Hải lại nói:
- Mộ Dung công tử, bên người tôi cũng có một cái bình nhỏ, phiền công tử lấy ra, mở nắp cho tôi ngửi một chút.
Đoàn Dự thò tay vào túi y lấy ra một chiếc bình nhỏ, quả nhiên cũng là thuốc giải bèn cười nói:
- Ta lấy giải dược ra nhưng không cho ngươi ngửi.
Chàng cùng A Châu hai người xuống hậu điện, đẩy cửa phòng ở phía đông thấy bên trong đầy người đều là người của Cái Bang bị bắt cầm giữ nơi đây. A Châu vừa bước vào, Ngô trưởng lão đã kêu lên:
- Kiều bang chủ, ông đấy ư? Thật phúc đức quá!
A Châu đưa giải dược cho ông ta ngửi nói:
- Đây là thuốc giải, ông đem cho các anh em khác cùng ngửi để trừ chất độc trong cơ thể.
Ngô trưởng lão mừng quá, đợi đến khi tay chân bắt đầu cử động được liền đưa chiếc bình cho Tống trưởng lão, còn Đoàn Dự thì đưa chiếc bình lấy được của Nỗ Nhi Hải cho Từ trưởng lão. A Châu nói:
- Cái Bang đông người nếu muốn trục độc từng người một thì biết bao giờ mới xong? Ngô trưởng lão, phiền ông đến chỗ bọn Tây Hạ tra xét xem chúng có mang thuốc giải không?
Ngô trưởng lão đáp:
- Vâng!
Ông ta liền rảo bước ra ngoài đại điện, rồi nghe từ ngoài vọng vào tiếng chửi bới, tiếng kêu trời, rồi tiếng kêu lốp bốp, hẳn là Ngô trưởng lão một mặt đi kiếm thuốc giải, đồng thời đánh cho bõ tức. Một lúc lâu sau, ông ta cầm sáu cái bình quay vào cười nói:
- Ta cứ xem đứa Hồ Lỗ nào ăn mặc sang trọng mà tìm, quả nhiên lục một hồi trong người đều có thuốc giải, ha ha, mấy tên đó đứa nào cũng khổ sở.
Đoàn Dự cười hỏi:
- Sao thế?
Ngô trưởng lão cũng cười:
- Cứ mỗi đứa ta cho hai hai cái bạt tai, đứa nào có thuốc giải thì lại càng mạnh tay.
Ông ta bỗng nhiên nhớ ra mình chưa từng gặp Đoàn Dự lần nào nên hỏi:
- Chẳng hay vị huynh đài này cao tính đại danh là chi? Xin cảm ơn đã cứu chúng tôi.
Đoàn Dự đáp:
- Tại hạ họ kép là Mộ Dung, đến cứu hơi trễ để quí vị phải chờ đợi, quả thật đắc tội.
Người trong Cái Bang nghe thấy người trước mặt là kẻ danh tiếng lẫy lừng Cô Tô Mộ Dung, ai nấy đều hết sức ngạc nhiên. Tống trưởng lão nói:
- Bọn chúng ta quả là có mắt như mù nói oan cho Mộ Dung công tử giết hại Mã phó bang chủ. Hôm nay nếu không nhờ y và Kiều bang chủ ra tay cứu, cả bọn rơi vào tay bọn chó dại Tây Hạ này, thì còn gì nữa?
Ngô trưởng lão nói:
- Kiều bang chủ, người trên không chấp lỗi của người dưới, xin ông trở lại làm bang chủ cho xong.
Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói:
- Kiều gia và Mộ Dung công tử quả nhiên là chỗ tri giao.
Y gọi Kiều Phong là Kiều gia chứ không là Kiều bang chủ đủ biết y không muốn Kiều Phong trở lại làm bang chủ nữa, lại bảo ông với Mộ Dung công tử là chỗ tri giao hảo hữu, câu nói quả là lợi hại. Người trong Cái Bang nghi Kiều Phong mượn tay Mộ Dung Phục, dùng kế mượn dao giết người để trừ khử Mã Đại Nguyên, Kiều Phong vẫn chối không hề quen biết với Mộ Dung Phục. Hôm nay hai người cùng đến chùa Thiên Ninh, nói nói cười cười, xem ra vẻ thân thiết lắm hiển nhiên không phải chỉ vừa biết nhau.
A Châu nghĩ bụng những người này ai ai cũng biết Kiều Phong từ lâu, càng để dây dưa càng khiến cho họ nhìn ra chỗ sơ hở liền nói:
- Chuyện đại sự trong bang, từ từ bàn thảo với nhau cũng không muộn. Ta đi xem những con chó Tây Hạ kia ra sao.
Nói xong liền đi ra ngoài đại điện, Đoàn Dự cũng đi theo. Hai người vừa ra đến ngoài vừa lúc nghe Hách Liên Thiết Thụ quát tháo:
- Mau mau tra xét cho rõ ràng, thằng khốn kiếp Tây Hạ nào đó tên là gì, kiếm đến nhà nó, bắt hết già trẻ trai gái, con gà con chó giết cho kỳ hết. Con bà nó chứ, nó là người Tây Hạ, sao lại đi tương trợ người ngoài lấy Bi Tô Thanh Phong đem ra rải loạn lên là sao?
Đoàn Dự ngạc nhiên nghĩ thầm: “Y đang chửi gã Tây Hạ nào thế?”. Chỉ nghe Hách Liên Thiết Thụ chửi một câu thì Nỗ Nhi Hải lại vâng dạ một câu. Hách Liên Thiết Thụ lại tiếp:
- Y viết trên tường tám chữ không phải là châm chọc bọn mình hay sao?
A Châu và Đoàn Dự ngửng đầu lên, thấy trên tường vôi có bốn câu, mỗi hàng bốn chữ như rồng bay phượng múa:
Hễ ai có tài nghệ gì,
Ta đem trả ngược lại về cho ngươi.
Độc phong chuyên để hại người,
Cứ nguyên như thế dùng nơi chúng mày.
Dĩ bỉ chi đạo,
Hoàn thi bỉ thân.
Mê nhân độc phong,
Nguyên bích qui quân.
Nét bút còn ướt sũng chưa khô, hiển nhiên người viết đi chưa lâu. Đoàn Dự “A” lên một tiếng ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ... có phải Mộ Dung công tử viết đấy chăng?
A Châu hạ giọng thì thầm:
- Đừng quên công tử đang đóng vai Mộ Dung công tử, công tử chúng tôi biết viết nhiều loại chữ khác nhau, tôi cũng không phân biệt được có phải ông ta viết hay không?
Đoàn Dự quay sang hỏi Nỗ Nhi Hải:
- Ai viết đó?
Nỗ Nhi Hải không trả lời trong bụng khiếp sợ, không biết người trong Cái Bang sẽ làm gì mình. Bọn chúng bắt được các bang chúng Cái Bang rồi, tra khảo đánh đập, không việc gì không làm, bọn họ chỉ cần “ăn miếng trả miếng” là cũng đủ khổ sở lắm rồi. A Châu thấy quần hào Cái Bang lũ lượt kéo vào đại điện nói nhỏ:
- Đại sự xong rồi, thôi mình đi!
Nàng lớn tiếng nói:
- Ta có việc gấp phải lo, cùng với Mộ Dung công tử đi làm cho xong, sau này gặp lại.
Nói xong rảo bước đi ra khỏi điện. Ngô trưởng lão cùng cả bọn kêu lên:
- Bang chủ đừng đi vội!
A Châu đâu dám nán lại thêm, lại cùng Đoàn Dự càng đi nhanh hơn. Quần hào Cái Bang xưa nay kính sợ Kiều Phong đâu có người nào dám bước ra ngăn trở. Hai người đi chừng một dặm, A Châu cười nói:
- Đoàn công tử, quả thật khéo làm sao, đứa học trò xấu như ma lem lại đòi công tử biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ, còn bảo công tử giỏi hơn cả sư phụ y nữa.
Đoàn Dự cũng ồ lên một tiếng. A Châu lại tiếp:
- Không biết kẻ nào ngầm phóng thuốc mê? Gã Tây Hạ tướng quân luôn mồm chửi rủa đứa nội gian, xem chứng chính người Tây Hạ làm chuyện này!
Đoàn Dự đột nhiên nghĩ đến một người bèn nói:
- Hay chính là Lý Diên Tông? Là gã võ sĩ Tây Hạ chúng tôi gặp nơi nhà máy xay lúa?
A Châu chưa từng gặp Lý Diên Tông nên không thể nào trả lời gì được, chỉ nói:
- Thôi mình đến nói cho Vương cô nương hay để xem cô ta nghĩ thế nào?
Hai người đang đi bỗng nghe tiếng ngựa chạy, trên đường cái một người phi ngựa chạy tới. Đoàn Dự nhìn từ xa thấy chính là Kiều Phong, mừng rỡ kêu lên:
- Kiều đại ca kìa!
Chàng đang tính lên tiếng gọi, A Châu vội vàng giật tay áo chàng nói:
- Chớ có lên tiếng, người thật tới rồi đây.
Nàng vội vàng quay người đi. Đoàn Dự chợt hiểu ra: “A Châu đang giả làm Kiều đại ca, để ông ta trông thấy quả là không hay”. Chẳng mấy chốc Kiều Phong đã cưỡi ngựa đến gần. Đoàn Dự không dám đối diện với ông ta nghĩ bụng: “Kiều đại ca khi gặp quần hào Cái Bang rồi, chân tướng sẽ rõ ngay, không biết có trách A Châu đã dựng cái màn kịch này hay không?”.
*
* *
Kiều Phong cứu được A Châu, A Bích hai nàng rồi biết tin anh em của Cái Bang bị người Tây Hạ bắt giữ, trong bụng hốt hoảng vội chạy lồng đi tìm khắp nơi. Thế nhưng đất Giang Nam chỗ nào cũng ruộng lúa vườn dâu, sông hồ đường cái, ngang dọc chằng chịt không như phương bắc chỉ toàn đường đi, Kiều Phong tìm kiếm mãi, may sao lại gặp được hai chú tiểu chùa Thiên Ninh, hỏi rõ phương hướng lúc ấy mới chạy đến Thiên Ninh Tự được. Ông ta thấy Đoàn Dự thần thái hiên ngang, diện mạo anh tuấn nghĩ thầm: “Chàng công tử này trông mặt mũi sáng sủa chẳng kém gì Đoàn Dự huynh đệ”. A Châu lúc ấy đã quay mặt đi, ông ta cũng không để ý, trong bụng chỉ lo cho người của Cái Bang nên quất ngựa chạy cho nhanh về phía trước.
Ông chạy đến trước chùa Thiên Ninh, thấy độ mươi bang chúng Cái Bang đang áp giải các võ sĩ Tây Hạ bị trói từ trong chùa đi ra. Kiều Phong mừng quá nghĩ thầm: “Thì ra các anh em Cái Bang đã phản bại vi thắng rồi”.
Những người của Cái Bang thấy Kiều Phong đi rồi quay trở lại, tíu tít ra nghinh đón nói:
- Bẩm bang chủ, bọn giặc Hồ Lỗ náy bây giờ tính sao đây, xin thỉnh thị hiệu lệnh của bang chủ.
Kiều Phong nói:
- Ta không còn là người của Cái Bang nữa, hai tiếng bang chủ xin đừng đề cập đến. Các anh em có ai tổn thương gì không?
Bọn Từ trưởng lão trong chùa nghe tin vội vàng chạy ra đón, trông thấy Kiều Phong hoặc mặt đỏ bừng, hoặc vui sướng ra mặt. Tống trưởng lão cao giọng nói:
- Bang chủ, hôm qua ở trong rừng hạnh, thám tử bản bang phái qua Tây Hạ đem về quân tình khẩn cấp, Từ trưởng lão tự mình quyết định nên không cho ông xem, bang chủ có biết chuyện gì không? Từ trưởng lão, mau đem ra cho bang chủ coi nào.
Giọng nói của ông ta xem ra có chiều khách khí. Từ trưởng lão mặt mày sượng sùng, lấy viên giấy bên trong cục sáp ong, thở dài đưa cho Kiều Phong nói:
- Tôi quả là lầm lẫn.
Kiều Phong lắc đầu không cầm. Tống trưởng lão chen lên, cầm lấy mở cục giấy vo viên kia ra lớn tiếng đọc:
- Khải bẩm bang chủ: Thuộc hạ thám thính thấy tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ dẫn các cao thủ Nhất Phẩm Đường đi đến Trung Nguyên để đối phó với bản bang. Bọn họ có một loại độc khí ghê gớm lắm, khi tung ra không mùi vị gì, khiến cho người ta không hay biết gì cử động không được. Khi gặp bọn chúng, tuyệt đối phải bịt mũi lại, hoặc đánh ngã tên đầu não của họ cướp lấy giải dược có mùi thối rất kinh người, nếu không cực kỳ nguy hiểm.
Rất khẩn cấp, rất khẩn cấp.
Thuộc hạ Đại Tín Đà Dịch Đại Bưu cấp bẩm báo.
Tống trưởng lão đọc xong, cùng bọn Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão hầm hầm nhìn Từ trưởng lão. Bạch Thế Kính nói:
- Anh em Dịch Đại Bưu báo tin khẩn cấp đúng ra cũng về đúng lúc, tiếc thay mình không kịp mở ra xem. Cũng may anh em chỉ bị một phen hoảng vía không ai bị thương tổn. Bang chủ, tất cả chúng tôi xin chịu lỗi, ông đại nhân đại nghĩa chẳng nói cũng biết.
Ngô trưởng lão nói:
- Bang chủ vừa đi khỏi anh em đã ra nông nỗi này, không nhờ ông và Mộ Dung công tử kịp thời đến cứu thì toàn thể Cái Bang đã bị diệt sạch rồi. Nếu như ông không quay về chủ trì đại cuộc, đứng đầu bản bang thì không xong.
Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Cái gì mà Mộ Dung công tử?
Ngô trưởng lão nói:
- Gã Toàn Quan Thanh kia chỉ nói năng lếu láo, ông đừng để tâm lời y làm gì. Kết giao bằng hữu có gì là không phải? Tôi tin là đến hôm nay bang chủ mới quen biết được Mộ Dung công tử.
Kiều Phong hỏi:
- Mộ Dung công tử ư? Phải chăng ông nói đến Mộ Dung Phục? Ta chưa từng gặp y bao giờ.
Từ trưởng lão cùng Tống, Hề, Trần, Ngô bốn trưởng lão mặt mày ngơ ngác, ai nấy ngớ người ra nghĩ bụng: “Chỉ mới vừa đây ông ta dắt tay Mộ Dung công tử đến đưa thuốc giải cho bọn mình, sao bây giờ lại chối không biết Mộ Dung Phục?”. Hề trưởng lão suy nghĩ một chút hiểu ngay nói:
- À, đúng rồi, gã thanh niên kia chỉ nói phức tính Mộ Dung chứ nào có bảo rằng y là Mộ Dung Phục. Trên đời này người họ Mộ Dung hàng nghìn hàng vạn, có gì là lạ đâu?
Trần trưởng lão nói:
- Y đề trên tường “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, không phải Mộ Dung Phục thì còn ai?
Bỗng nghe có tiếng người eo éo nói:
- Gã công tử nhãi nhép kia công phu gì cũng biết, môn nào so với chính chủ nhân lại còn tinh diệu hơn, chẳng là Mộ Dung Phục thì gì? Chính là hắn rồi! Nhất định là hắn.
Mọi người nhìn vào kẻ vừa nói, thấy y mắt nhỏ như chuột, râu ngắn mặt vàng, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y trúng độc rồi bị trói nằm đó, nhịn không nổi liền chõ mồm vào nói góp. Kiều Phong lạ lùng hỏi:
- Thế ra Mộ Dung Phục đã đến đây rồi ư?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ chửi:
- Con mẹ ngươi rắm thối. Chính ngươi vừa mới dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, không biết dùng cái trò quái gì khiến cho lão tử mê man. Ngươi có mau thả lão tử ra không nào, nếu không, hừ hừ ...
Y liên tiếp mấy tiếng hừ hừ, không biết định nói “nếu không” là sao, nghĩ đi nghĩ lại chỉ đành “hừ hừ ...” không dứt. Kiều Phong nói:
- Ta xem ngươi cũng là một hảo thủ võ lâm, sao lại nói năng quấy quá như thế? Ta đến đây hồi nào? Làm gì có chuyện dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, nghe ra cực kỳ hoang đường.
Nam Hải Ngạc Thần tức đến thở hồng hộc gầm lên:
- Kiều Phong, tổ mẹ gã Kiều Phong, thật uổng cho ngươi thân làm bang chủ Cái Bang mà lại nói năng tầm xàm đến thế. Này các anh em lớn bé, có phải Kiều Phong vừa mới đến hay chăng? Tướng quân chúng ta chẳng mời y ngồi trên uống trà là gì?
Cả bọn Tây Hạ đồng thanh đáp:
- Đúng thế, Mộ Dung Phục thi diễn Lăng Ba Vi Bộ, Kiều Phong đứng bên vỗ tay khen hay, không lẽ còn giả được hay sao?
Ngô trưởng lão giật tay áo Kiều Phong nói nhỏ:
- Bang chủ, người ngay không làm trò ám muội, chuyện mới rồi chẳng nên chối làm gì.
Kiều Phong cười gượng:
- Ngô tứ ca, đến tứ ca cũng không tin ta nữa hay sao?
Ngô trưởng lão lấy chiếc bình thuốc giải đưa ra nói:
- Bang chủ, chiếc bình này trả lại cho ông, mai sau có việc dùng không chừng.
Kiều Phong ngạc nhiên:
- Trả lại cho ta ư? Sao lại trả cho ta?
Ngô trưởng lão nói:
- Thuốc giải này ông vừa mới đưa cho tôi, không lẽ quên rồi sao?
Kiều Phong sững sờ:
- Cái gì? Ngô tứ ca, có thực ông vừa mới gặp ta hay không?
Ngô trưởng lão thấy ông ta nhất quyết phủ nhận, trong lòng không vui lại cảm thấy dường như không ổn. Kiều Phong tuy là người tinh minh tài giỏi nhưng làm sao đoán ra được chỉ mới trước đây giây lát đã có kẻ giả làm mình, đến chùa Thiên Ninh giải cứu người cho được? Ông nghĩ thầm việc này ắt có một âm mưu trọng đại dấu bên trong. Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão đều là người thẳng tính, quyết không thể nào có điều gì gian dối nhưng vì kẻ bày mưu tính kế là kẻ thật lợi hại nên đã an bài bố trí thật tinh vi khiến cho những gì mình làm trở thành hoang đường tà ác.
Mọi người trong Cái Bang được giải cứu vốn dĩ ai nấy đều cảm kích nhưng nay nghe thấy ông ta nhất quyết không nhận nên ai nấy đều kinh ngạc. Có người nghĩ rằng mấy hôm nay ông gặp nhiều chuyện đau lòng, khiến cho thần trí thác loạn, người khác lại cho rằng Kiều Phong có kế mưu bí mật đối phó với Tây Hạ nên không chịu công khai nhận chuyện trước mặt bọn này, có người lại cho rằng Mã Đại Nguyên quả đúng là bị ông ta giả tay Mộ Dung Phục giết đi, e ngại gian mưu bai lộ nên khăng khăng chối là mình không quen biết gì với họ Mộ Dung, kẻ khác lại đoán ông có ý định quay trở lại làm bang chủ Cái Bang nên sắp đặt kế sách như thế, người lại cho rằng việc này ông ra tay chỉ vì Khất Đan để hại Tây Hạ, Đại Tống. Mỗi người trong lòng nghĩ một nẻo nên trên mặt kẻ thì hoài nghi, người lộ vẻ sùng kính, kẻ lại băn khoăn, phẫn nộ, hoặc giả khinh bỉ, hận thù mỗi người một cách.
Kiều Phong thở dài một tiếng nói:
- Các vị đều đã thoát hiểm rồi, Kiều Phong này thôi xin từ biệt.
Nói xong ông ôm quyền, xoay người nhảy lên ngựa, giơ roi lên quất ngựa chạy ngay. Bỗng nghe Từ trưởng lão gọi vói theo:
- Kiều Phong, hãy để Đả Cẩu Bổng lại.
Kiều Phong gò cương, nói:
- Đả Cẩu Bổng ư? Ở nơi rừng hạnh, ta đã giao lại rồi mà?
Từ trưởng lão nói:
- Bọn ta sẩy tay bị bắt, Đả Cẩu Bổng rơi vào tay bọn ác cẩu Tây Hạ. Bây giờ tìm khắp nơi không thấy đâu, ắt hẳn nhà ngươi lấy được rồi.
Kiều Phong ngẩng mặt lên trời cười ha hả, thanh âm thê lương lớn tiếng nói:
- Kiều Phong này với Cái Bang không còn giây mơ rễ má gì nữa, lấy Đả Cẩu Bổng để làm gì? Từ trưởng lão, ông coi Kiều Phong này nhẹ thể quá.
Hai chân ông kẹp một cái, con ngựa liền tung bốn vó soải dài chạy vọt về hướng bắc. Kiều Phong từ thuở nhỏ đã được cha mẹ nâng niu, về sau được Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm dạy võ nghệ, lại bái Uông bang chủ của Cái Bang làm thầy, trước nay hành tẩu giang hồ tuy từng gặp nhiều gian hiểm nhưng sư phụ bằng hữu ai nấy đãi ông một dạ chân thành. Trong hai ngày qua ngờ đâu trời đất nổi cơn sóng gió, từ một vị bang chủ uy danh lừng lẫy, chí thành chí nhân bị người ta coi thành một kẻ tiểu nhân bán nước hại dân, vô sỉ vô tín.
Ông cứ để cho con ngựa tùy ý chạy đi, trong lòng cực kỳ hỗn loạn: “Nếu như ta quả là người Khất Đan thật thì trong mười năm qua tay ta giết biết bao nhiêu người Khất Đan, phá vỡ bao nhiêu đồ mưu của họ, có phải là kẻ đại bất trung ư? Nếu đúng là cha mẹ ta bị người Hán giết ngoài Nhạn Môn Quan, ta lại bái kẻ giết cha mẹ mình làm thầy, ba mươi năm qua nhận người khác làm cha làm mẹ, có phải là kẻ đại bất hiếu ư? Kiều Phong ơi Kiều Phong, ngươi là kẻ bất trung bất hiếu như thế, còn mặt mũi nào đứng giữa đất trời? Nếu như Tam Hòe Công không phải cha ta thì ta nào có phải là Kiều Phong? Ta họ gì? Cái tên cha ruột ta đặt cho ta là gì? Ha ha, ta không phải chỉ là kẻ bất trung bất hiếu mà còn là đứa không họ không tên”.
Ông lại chợt nghĩ: “Có thể lắm! Không chừng tất cả mọi việc đều do một kẻ đại gian đại ác vu hãm cho ta khiến cho một kẻ đường đường trượng phu như Kiều Phong này trở thành thân bại danh liệt, không còn ngóc đầu lên được nữa, nếu vì cái công phẫn nhất thời mà bỏ đi, chuyện Cái Bang từ nay không ngó ngàng gì đến nữa thì có phải là gian mưu của y đã thành công rồi ư? Ôi, nói gì thì nói, mình phải tra cứu cho minh bạch mới được”.
Trong bụng tính toán việc đầu tiên là phải đến núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam, hỏi Tam Hòe Công về thân thế lai lịch của mình, kế đó sẽ vào chùa Thiếu Lâm khấu kiến thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư để xin cho biết rõ chân tướng. Hai người này xưa nay đối với ta thương yêu khôn xiết, chắc sẽ không dấu diếm điều gì.
Ông đã trù tính như vậy, trong lòng không còn phiền não nữa. Từ trước tới nay ông vốn là bang chủ Cái Bang nên hành tẩu giang hồ bốn biển đâu đâu cũng là nhà, giờ này không tiện đến các phân đà tá túc nữa, nhưng để cho khỏi rắc rối thêm nên đến đâu cũng tránh đường lớn để khỏi gặp lại các bộ thuộc cũ trong Cái Bang.
Đi được hai ngày, tiền bạc trong người cạn cả rồi, đành phải đem con ngựa đoạt được của người Tây Hạ đem ra bán để làm lộ phí.
Hôm đó ông đến chân dãy Tung Sơn bèn nhắm theo ngọn Thiếu Thất mà tới. Đây là nơi ông sinh sống hồi nhỏ nên chỗ nào cũng quen thuộc. Từ khi ông xuất nhiệm làm bang chủ Cái Bang đến nay, Cái Bang là bang hội lớn nhất giang hồ, phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất võ lâm nên nếu như bang chủ Cái Bang đến ắt phải đủ loại nghi lễ sắp xếp kinh động rất nhiều nên chưa bao giờ quay trở lại, chỉ hàng năm sai người đem áo quần đồ ăn thức uống kính biếu cha mẹ, ân sư, hỏi thăm sức khỏe mà thôi. Đến lúc này quay trở về quê cũ, nghĩ đến mình thân thế mơ hồ, chỉ trong một hai giờ nữa sẽ rõ, nên tuy ông là người trấn tĩnh trầm ổn nhưng lòng cũng thấy nao nao.
Nhà cũ của ông ở bên cạnh một triền núi ở phía đông núi Thiếu Thất. Kiều Phong rảo bước đi vòng sơn pha, thấy dưới gốc cây táo bên cạnh vườn rau có úp một chiếc nón cạnh một bình trà. Chiếc bình trà quai đã gãy, Kiều Phong nhận ra ngay là vật của phụ thân Kiều Tam Hòe, trong lòng dâng lên một lòng thương cảm: “Cha ta cần mẫn tiết kiệm, chiếc bình trà vỡ này dùng đã mấy chục năm nay nhưng cũng không nỡ vứt bỏ”.
Ông nhìn thấy cây táo lớn, nhớ tới khi còn nhỏ mỗi mùa trái chín, phụ thân đều nắm bàn tay bé nhỏ của ông cùng rung cho táo rụng. Những trái táo chín đỏ đến nứt cả ra, vừa ngọt vừa nhiều nước, từ thuở rời cố hương đến nay ông chưa từng nếm lại thứ táo nào ngon đến thế. Kiều Phong nghĩ thầm: “Dẫu hai người không phải cha mẹ ruột ta chăng nữa nhưng cái ơn dưỡng dục kia suốt đời cũng không sao báo đáp được. Bất luận thân thế chân tướng của ta thế nào, ta nhất quyết không vì thế mà đổi cách xưng hô”.
Ông đi đến trước ba gian nhà đất, thấy đằng trước trải một chiếc phên tre phơi đầy rau, một con gà mẹ dẫn một bầy gà con, đang tìm mồi nơi đám cỏ. Ông không khỏi mỉm cười: “Hôm nay thể nào má chẳng giết gà làm cơm đãi đứa con lâu nay không gặp”. Ông cao giọng gọi:
- Ba, má! Con đã về đây!
Ông gọi luôn mấy tiếng không nghe đáp lại, nghĩ thầm: “À, đúng rồi! Hai ông bà tai điếc rồi, không nghe được nữa”. Ông đẩy cửa ra bước vào, trong nhà bàn ghế giường phản, cày bừa mai xẻng vẫn không khác khi ông ra đi bao nhiêu, nhưng không thấy một bóng người.
Kiều Phong lại gọi thêm mấy tiếng nữa:
- Ba má ơi!
Vẫn không thấy ai trả lời, ông hơi ngạc nhiên, lẩm bẩm một mình:
- Không biết hai người đi đâu?
Ông thò đầu vào trong phòng ngủ xem thử, không khỏi giật mình kinh hãi, thấy vợ chồng Kiều Tam Hòe nằm lăn trên mặt đất, không động đậy gì cả. Kiều Phong vội vàng nhảy vào, trước hết đỡ mẹ dậy, thấy bà ta đã tắt thở nhưng thân còn hơi ấm, xem ra chết chưa đầy một giờ. Ông lại đỡ cha lên thì cũng y như thế.
Kiều Phong vừa kinh hoàng, lại vừa đau xót, ôm xác cha chạy ra ngoài cửa, dưới ánh sáng mặt trời xem xét kỹ, thấy ngực ông gân cốt đều bị đứt đoạn, hiển nhiên bị một cao thủ võ học dùng chưởng lực cực kỳ lợi hại đánh chết. Ông lại quan sát mẫu thân thì cũng không khác chút nào. Kiều Phong trong lòng hỗn loạn: “Cha mẹ ta là vợ chồng nhà quê trung hậu thực thà, sao lại bị cao thủ võ học đến hạ độc thủ? Ắt hẳn là tại ta mà ra".
Ông xem kỹ bên trong ba gian phòng, trước nhà sau nhà, nhảy cả trên mái nhà để tra xét xem hung thủ là hạng người nào. Thế nhưng kẻ hạ độc đến dấu chân cũng không để lại. Kiều Phong mặt mày đẫm lệ, càng nghĩ càng đau buồn, nhịn không nổi khóc òa lên.
Chỉ mới khóc được một lát, bỗng nghe sau lưng có tiếng người:
- Tiếc thay! Tiếc thay, chúng ta đến chậm một bước rồi.
Kiều Phong đứng lên quay lại, thấy bốn nhà sư trung niên, phục sức theo lối chùa Thiếu Lâm. Kiều Phong tuy đã từng học nghệ phái Thiếu Lâm nhưng người truyền thụ võ công cho ông là Huyền Khổ đại sư mỗi ngày đến nửa đêm xuống thẳng nhà ông dạy võ thành ra ông không biết một nhà sư nào trong chùa. Lúc này ông trong lòng buồn khổ, tuy thấy người ngoài nhưng nhất thời không cầm được nước mắt.
Một nhà sư dáng người cao cao đầy vẻ giận dữ, lớn tiếng nói:
- Kiều Phong, ngươi quả là không bằng heo bằng chó. Vợ chồng Kiều Tam Hòe tuy không phải là cha mẹ ruột của ngươi nhưng hơn mười năm nuôi nấng, cái ơn đó quả là không nhỏ, ngươi nỡ nào ra tay sát hại?
Kiều Phong sụt sùi đáp:
- Tại hạ vừa mới trở về nhà, thấy cha mẹ bị hại, chính đang muốn tra xét hung thủ là ai để báo thù cho cha mẹ, đại sư sao lại nói như thế?
Nhà sư kia bực tức đáp:
- Người Khất Đan lòng như lang sói, quả nhiên hành động không khác gì cầm thú. Ngươi chính tay giết cha mẹ nuôi, bọn ta chỉ tiếc đến quá muộn. Họ Kiều kia, ngươi muốn đến núi Thiếu Thất làm càn, e rằng không xong đâu.
Nói xong nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng thẳng vào ngực Kiều Phong. Kiều Phong vừa toan tránh né, bỗng thấy sau lưng có hơi gió nhè nhẹ, biết ngay có người đánh lén, ông không muốn cùng những nhà sư Thiếu Lâm kia chưa rõ đầu đuôi đã động thủ, chân trái điểm một cái đã nhẹ nhàng vọt ra xa hơn một trượng, quả nhiên một nhà sư Thiếu Lâm đá hụt vào quãng không.
Bốn nhà sư thấy ông dùng khinh công tránh được ai nấy lộ vẻ kinh dị. Nhà sư cao lớn liền chửi:
- Võ công ngươi tuy giỏi thật nhưng đã làm sao? Ngươi tưởng rằng giết nghĩa phụ nghĩa mẫu diệt khẩu để che dấu xuất thân lai lịch, chỉ tiếc thay ngươi là giống nghiệt chủng Khất Đan, việc này đã truyền vang trên giang hồ, trong võ lâm có ai còn không biết, có ai còn không hay? Ngươi làm chuyện đại nghịch như thế chỉ làm tăng thêm tội nghiệt mà thôi.
Một nhà sư khác lại tiếp:
- Ngươi trước kia giết Mã Đại Nguyên, rồi nay giết vợ chồng Kiều Tam Hòe, hừ hừ, chuyện xấu xa đó tưởng thế mà che dấu được hay sao?
Kiều Phong tuy nghe hai nhà sư nhục mạ riếc móc như thế, trong lòng chỉ cảm thấy xót xa, chẳng có chút nào oán hận. Ông bình sinh gặp chuyện lớn, quyết đoán hiềm nghi, đã từng gặp không biết bao nhiêu chuyện khó khăn lúc này lại càng cố nén nhịn, vòng tay hành lễ nói:
- Xin hỏi pháp danh bốn vị đại sư xưng hô thế nào? Có phải là tăng nhân chùa Thiếu Lâm chăng?
Một nhà sư người tầm thước tính tình dễ chịu nhất liền nói:
- Bọn ta đều là đệ tử Thiếu Lâm. Ôi, nghĩa phụ nghĩa mẫu ngươi một đời trung hậu sao lại gặp cảnh thảm báo thế này. Kiều Phong, người Khất Đan các ngươi ra tay quả là độc địa.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như họ không chịu tuyên lộ pháp danh, có hỏi thêm cũng vô ích. Nhà sư cao kia đã nói rằng họ đến cứu chậm mất rồi hẳn là có người báo tin đến cứu viện, thế nhưng ai là người đến đưa tin? Ai là người dự đoán cha mẹ ta sẽ gặp hung hiểm?”. Ông liền đáp:
- Bốn vị đại sư lòng dạ từ bi, xuống núi đến cứu cha mẹ tôi, tiếc thay chậm mất một bước ...
Nhà sư cao kia tính nóng như lửa, giơ nắm tay to lớn lên, nghe vù một tiếng nhắm Kiều Phong đấm tới, quát lớn:
- Bọn ta chậm một bước nên mới để ngươi làm chuyện ngược ngạo này, ngươi còn hợm hĩnh khoe khoang, đắc ý châm chọc nữa hay sao?
Kiều Phong biết bốn người đều có lòng tốt, vừa nghe tin lập tức chạy xuống cứu cha mẹ mình nên không muốn cùng họ động thủ quá chiêu, thế nhưng nếu không chế ngự được bọn họ thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ tìm được chân tướng nên nói:
- Tại hạ hết sức cảm kích hảo ý của bốn vị, chuyện hôm nay không biết làm sao hơn, đành phải đắc tội.
Nói xong thân mình quay vụt lại nhắm ngay vai nhà sư thứ ba đánh tới. Nhà sư đó kêu lên:
- Muốn động thủ thực hay sao?
Câu nói chưa dứt, đầu vai đã bị Kiều Phong đánh trúng rồi, thân mình mềm nhũn, ngồi phịch xuống đất. Kiều Phong học nghệ của phái Thiếu Lâm nên võ công gia số của bốn nhà sư ông thuộc nằm lòng, liên tiếp xuất chưởng đánh ngã từng người một nói:
- Đắc tội! Xin hỏi bốn vị sư phụ, các ông nói là đến cứu chậm mất rồi, vậy làm sao biết được là cha mẹ tôi gặp phải nguy nan? Ai là người báo tin cho bốn vị sư phụ?
Nhà sư cao kia giận dữ đáp:
- Có phải ngươi muốn biết rõ ai là người đưa tin để tới ra tay giết hại người ta ư? Đệ tử Thiếu Lâm lẽ nào chịu để cho bọn chó Khất Đan tàn nhẫn kia bức cung? Ngươi cứ thử dùng độc hình xem bọn ta có thổ lộ nửa lời hay chăng?
Kiều Phong trong bụng than thầm: “Hiểu lầm mỗi lúc một thêm, dù ta có hỏi cách nào bọn họ cũng nghĩ là mình đang tra vấn”. Ông đưa tay xoa nắn trên lưng mỗi người mấy cái, giải những huyệt đạo bị phong cho bốn người nói:
- Nếu như muốn sát nhân diệt khẩu thì lúc này mỗ đã lấy mạng bốn vị rồi. Chân tướng thị phi, thể nào rồi đây cũng có ngày thủy lạc thạch xuất.
Bỗng nghe từ sườn núi có tiếng người cười khẩy:
- Muốn giết người bịt miệng cũng đâu phải dễ dàng như thế.
Kiều Phong quay đầu lại đã thấy bên cạnh núi đứng khoảng hơn chục nhà sư Thiếu Lâm, trong tay ai nấy cầm kim binh khí. Hai nhà sư đứng đầu đều vào khoảng trên dưới năm mươi, trong tay đều cầm một cây phương tiện sản_, đầu sản hình mặt trăng làm bằng đồng ròng phát ra hàn quang lấp lánh, mắt cả hai như bắn vào người chỉ thoạt nhìn đã biết nội công cực kỳ thâm hậu. Kiều Phong tuy không sợ gì cả nhưng cũng biết những người vừa đến võ công không phải tầm thường, nếu hai bên phải giao tranh thì không thể không giết vài người mới có thể bảo toàn tính mạng mà thoái lui. Ông hai tay ôm thành quyền nói:
- Kiều Phong vô lễ, xin tạ tội với chư vị đại sư.
Đột nhiên thân hình bay ngược về sau, lưng đụng phá vỡ cánh cửa chui tọt vào trong căn nhà đất. Biến cố đó cực kỳ nhanh, các nhà sư cùng kinh hoảng kêu la, năm sáu người cùng xông lên nhưng vừa đến cửa, một luồng kình phong từ bên trong đánh ra. Năm sáu người kia ai nấy đều vội vàng giơ tả chưởng lên vận nội lực chống đỡ, nghe bùng một tiếng, bụi đất bay mịt mù, tất cả bị chưởng lực từ bên trong ép phải lùi lại bốn năm bước.
Đợi đến khi mọi người đứng vững lại rồi, ai nấy thấy khí huyết trong ngực trào lên, người nào cũng mặt mày ngơ ngác, trong bụng đều hiểu rằng: “Chưởng lực của Kiều Phong tuy mãnh liệt thật nhưng vẫn còn dư lực, nếu đánh ra chưởng thứ hai chưa chắc đã chống đỡ nổi”. Ai nấy cho rằng Kiều Phong là kẻ cùng hung cực ác nên đang thu lực để đánh thêm, có biết đâu ông ra nhẹ đòn không muốn đả thương người khác.
Mọi người ai nấy thủ thế đề phòng, một hồi sau, hai nhà sư đứng đầu cầm phương tiện sản, cùng sử chiêu Song Long Nhập Động đánh ép hai bên, thân hình theo sản song song cùng tiến vào căn nhà đất. Keng keng keng hai thanh sản chạm nhau, kết thành một màn lưới bảo hộ toàn thân nhưng chỉ thấy trong nhà trống không, nào thấy hình bóng Kiều Phong đâu nữa? Lạ lùng nhất, đến thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng không còn.
Hai nhà sư sử dụng phương tiện sản thuộc Giới Luật Viện trong chùa Thiếu Lâm, một người giữ chức trì giới tăng, giám thủ hành vi các đệ tử bản phái, còn một người là thủ luật tăng, bình thời hành tẩu giang hồ tra xét công tội các đệ tử môn hạ, bản thân võ công cố nhiên cao cường, kiến văn cũng rộng rãi người khác không thể nào bì kịp.
Hai người thấy Kiều Phong trong khoảnh khắc biến đi đằng nào không biết cũng đã cực kỳ khó rồi, lại ôm theo hai cái xác vợ chồng Kiều Tam Hòe, quả thật không thể nào ngờ nổi. Các nhà sư tra xét ngõ trước vườn sau, đến cả nhà bếp, lục lọi mấy lần. Hai nhà sư giới luật cùng chạy xuống núi đuổi theo, đuổi đến hơn hai chục dặm nhưng nào có thấy tung tích Kiều Phong đâu?
Có ai ngờ được Kiều Phong ôm xác cha mẹ lại chạy ngược lên núi Thiếu Thất. Ông tìm đến một sườn núi thật kín đáo, rậm rạp cheo leo đem cha mẹ chôn nơi đó, quì xuống cung kính lạy tám lạy, trong bụng khấn thầm: “Cha mẹ bị người nào hạ độc thủ giết hại, hài nhi thể nào cũng tìm cho ra hung thủ, đưa đến mộ phần moi tim tế sống hai vị lão nhân gia”.
Ông nghĩ đến lần này quay trở về nhà, chỉ chậm mất một bước, nên đã không gặp được cha mẹ, nếu không ông bà thấy mình đã trở thành tráng kiện khôi ngô, thể nào cũng vui mừng lắm. Giá như ba người được tụ hội một ngày nửa buổi thì cũng còn được khoái hoạt trong giây lát. Nghĩ đến như thế, nhịn không nổi lại khóc thầm. Ông từ bé vốn tính tình cứng cỏi, ít khi khóc lóc, hôm nay vì hết sức thương tâm, hết sức bi phẫn nên nước mắt tuôn trào không sao cầm được giọt lệ.
Đột nhiên trong lòng lại nảy ra một ý niệm, kêu thầm: “Chết rồi, không xong, thụ nghiệp ân sư của ta là Huyền Khổ đại sư không chừng cũng bị nguy hiểm”. Đột nhiên ông hiểu rõ luôn mấy việc: “Hung thủ giết cha mẹ ta không phải chỉ là ngẫu nhiên xảo hợp mà hạ thủ chỉ nửa giờ trước khi ta về đến nhà mà là y đã dự mưu, hạ thủ xong rồi lập tức thông tri cho các nhà sư chùa Thiếu Lâm rằng ta đang lên núi Thiếu Thất giết hai ông bà để bịt miệng. Các nhà sư đó bụng dạ hiệp nghĩa, một lòng muốn cứu cha mẹ ta thể nào cũng chạm trán với ta. Trên đời này biết được thân thế ta nay chỉ còn một sư phụ Huyền Khổ mà thôi, phải phòng hung đồ hạ độc thủ đem tội danh đổ riệt lên đầu mình”.
Ông nghĩ đến Huyền Khổ đại sư vì mình mà phải chịu nguy nan, lập tức tâm can nóng như lửa đốt, vội vàng cất bước chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm. Ông biết rõ trong chùa cao thủ đông như kiến, trong Đạt Ma Đường cững đã có vài vị lão tăng mang tuyệt kỹ kinh người, mình chỉ vừa lộ diện, chúng tăng sẽ cùng xông lên tấn công, muốn thoát thân không phải là chuyện dễ dàng nên chỉ tìm những đường mòn mà chạy. Gai góc cỏ cây móc hai ống quần ông tơi tả, trên đùi cũng máu me đầm đìa nhưng ông cũng không coi vào đâu. Đi vòng theo đường nhỏ lên núi, lộ trình dài gần gấp rưỡi, chạy đến hơn một giờ mới lên đến sau chùa. Lúc đó trời đã tối mịt, ông trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng là vì trời tối dễ dàng trốn tránh, lo là sợ hung thủ thùa cơ đánh lén không phải dễ dàng tìm ra tung tích của y được.
Mấy năm qua ông tung hoành giang hồ, ít khi gặp địch thủ, thế nhưng lần này kẻ địch, võ công cố nhiên cao cường đã đành mà tâm kế cũng công phu, tính toán độc địa, trước nay ông chưa từng gặp bao giờ. Chùa Thiếu Lâm tuy là đầm rồng hang hổ nhưng đâu có đề phòng có người đến gia hại Huyền Khổ đại sư, nếu như có người tới đánh trộm thì e rằng khó mà thoát được ám toán. Kiều Phong đâu phải không biết mình đang ở vào cảnh bị hiềm nghi cực nặng nề, nếu như lúc này Huyền Khổ đại sư đã bị độc thủ, dẫu không ai nhìn thấy hung thủ hình dạng thế nào nhưng nếu mình bị người ta phát giác lén lén lút lút lẻn vào trong chùa thì dù có trăm cái miệng cũng không biện bạch nổi.
Nếu lúc này ông muốn độc thiện kỳ thân_ thì tránh xa chùa Thiếu Lâm càng xa càng tốt, nhưng một là quan hoài an nguy của ân sư Huyền Khổ đại sư, thứ nữa cũng muốn thừa cơ bắt lấy hung thủ đích thực để báo thù cho cha mẹ nên dẫu cực kỳ nguy hiểm ông cũng không coi vào đâu.
Ông tuy ở tại núi Thiếu Thất hơn chục năm nhưng chưa hề bước chân vào trong chùa, thành thử phương hướng phòng ốc hoàn toàn không biết gì cả. Do đó Huyền Khổ đại sư ngụ tai nơi nao ông chẳng hề hay biết, nghĩ bụng: “Nếu như ân sư bình an không sao cả, ta gặp được thầy ta rồi sẽ bẩm rõ nội tình để lão nhân gia để ý đề phòng, sau đó sẽ hỏi thân thế lai lịch, may ra ân sư có thể đoán được hung thủ là ai”.
Trong chùa Thiếu Lâm, điện, đường, viện, lạc đâu phải chỉ vài mươi căn, đông một tòa, tây một tòa rải rác khắp các sườn núi. Huyền Khổ đại sư ở trong chùa không chấp chưởng chức vụ gì, nhà sư hàng chữ “Huyền” ít ra cũng phải hai chục người, người nào ăn mặc cũng giống nhau, trong đêm tối biết tìm ông nơi đâu? Kiều Phong tính thầm trong bụng: “Chỉ còn một cách duy nhất là bắt lấy một nhà sư Thiếu Lâm, ép y phải đưa mình đến gặp Huyền Khổ sư phụ, sau khi gặp ông rồi sẽ nói rõ việc mình bất đắc dĩ phải làm như thế rồi trịnh trọng xin lỗi ông ta. Thế nhưng những nhà sư Thiếu Lâm phần lớn tôn sư trọng nghĩa, nếu như y lại tưởng ta mưu toan điều gì bất lợi cho Huyền Khổ đại sư, hẳn là thà chết chứ không chịu khuất phục, nhất định không chịu cho ta biết ông ta ở nơi đâu. Ôi, hay là ta đến nhà bếp tìm một gã hỏa công bảo y dẫn đường thế nhưng những người đó chắc gì đã biết được sư phụ ta ở chỗ nào”.
Ông nhất thời bàng hoàng không biết tính sao, mỗi khi qua một điện đường sương phòng lại nằm phục bên ngoài cửa sổ nghe ngóng, hi vọng biết được chút mối manh gì. Tuy ông thân thể cao to nhưng thân thủ nhanh nhẹn, trồi lên hụp xuống nhẹ nhàng như một con mèo nên không ai biết được.
Cứ từng bước từng bước như thế, đi đến một tòa nhà nhỏ bỗng nghe bên trong có người nói:
- Phương trượng có việc quan trọng cần bàn bạc, xin sư thúc lập tức đến ngay Chứng Đạo Viện.
Lại nghe một giọng già nua trả lời:
- Được rồi! Ta sẽ đến ngay.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Phương trượng triệu tập người để bàn việc quan trọng, sư phụ ta cũng có mặt không chừng. Chi bằng ta theo người này đến Chứng Đạo Viện”. Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở ra, hai nhà sư đi ra, người già đi về hướng tây còn người trẻ đi về hướng đông chắc là đi truyền tin cho những người khác.
Kiều Phong bụng bảo dạ, phương trượng mời lão tăng này đến thương lượng yếu sự, ông ta ắt hẳn vai vế cực cao, chùa Thiếu Lâm không phải như những chùa khác, phàm những người bối phận cao võ công ắt cũng cao thâm. Ông không dám đi sát theo sau, chỉ nhìn theo sau lưng đi xa xa thấy ông ta đi thẳng về hướng tây đi vào một tòa nhà. Kiều Phong đợi ông ta đi vào trong phòng rồi mới đi vòng ra phía sau, xem kỹ chung quanh không có ai mới dám nằm phục xuống bên cạnh cửa sổ.
Ông trong lòng bi phẫn, lại thêm tức tối tự nhủ: “Kiều Phong này từ thuở hành tẩu giang hồ đến nay, đối đãi với đồng đạo chính phái trong võ lâm, có chuyện gì mà không quang minh lỗi lạc, đàn anh kẻ cả đâu? Vậy mà hôm nay ta phải lén lén lút lút, nếu như hành tung bại lộ thì một đời anh danh của Kiều mỗ còn mặt mũi nào mà nhìn ai?”. Ông lập tức lại nghĩ ngay: “Năm xua sư phụ hằng đêm xuống núi đây võ nghệ cho ta, dẫu có mưa to gió lớn cũng chưa bao giờ bỏ một ngày nào. Cái ơn nặng như thế, ta dù tan xương nát thịt cũng chưa báo đáp được, huống hồ một chút nhục cỏn con”.
Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng bước chân người, trước sau đi vào bốn người, chẳng mấy chốc lại thêm hai người nữa, bóng chiếu trên giấy dán cửa sổ, phải đến trên mười người cả thảy. Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như họ thương lượng việc quan trọng cơ mật của phái Thiếu Lâm nếu như ta nghe lỏm được, dù ta không cố ý nhưng cũng không ổn, chi bằng ta tránh ra xa xa thì hơn. Nếu như sư phụ có ở trong nhà, trong đó cao thủ nhiều như thế, dẫu hung thủ có lợi hại thế nào chăng nữa cũng không sao đả thương ông ta được, đợi khi thương nghị xong rồi, quần tăng phân tán ta sẽ tìm cách gặp sư phụ sau”.
Ông đang toan rón rén đi ra, bỗng nghe trong nhà hơn chục tăng nhân cùng lên tiếng tụng kinh. Kiều Phong không biết họ tụng kinh văn nào, nhưng nghe thấy giọng trang nghiêm hiền từ, một số người tụng kinh lại ra vẻ có chiều thương xót. Đoạn kinh văn đó tụng thật dài, ông xem ra bất ổn nghĩ thầm: “Bọn họ dường như ở đây làm lễ cầu siêu, hay tham thiền nghiên cứu kinh điển chi đó, sư phụ ta xem ra không có ở đây”. Ông lắng tai nghe, quả nhiên trong tiếng quần tăng đang tụng niệm không nghe thấy giọng trầm ấm hậu thực của Huyền Khổ đại sư.
Kiều Phong nhất thời không quyết định được có nên chờ thêm chút nữa hay không, chỉ thấy tiếng tụng kinh chấm dứt, một giọng nói uy nghiêm cất lên:
- Huyền Khổ sư đệ, ngươi có còn gì để nói nữa chăng?
Kiều Phong mừng quá: “Sư phụ quả nhiên có ở trong đây, lão nhân gia vẫn bình an không sao cả. Thì ra ông không lên tiếng đọc kinh”. Chỉ nghe một giọng hồn hậu bắt đầu nói, Kiều Phong nghe thấy biết chắc chính là tiếng của thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư:
- Ngày tiểu đệ thụ giới, tiên sư đặt tên cho là Huyền Khổ. Phật tổ có nói đến bảy nỗi khổ trên đời, đó là sinh, lão, bệnh, tử, oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc _. Tiểu đệ cố gắng thoát khỏi bảy nỗi khổ đó để mong độ được cho mình chứ chẳng dám độ cho người, nói ra thật là hổ thẹn. Cái nỗi khổ “oán tăng hội” kia nguyên là một cảnh giới mà nhân sinh ai ai cũng có. Gieo trồng nhân nào thì ắt sẽ gặt nghiệp đó. Các vị sư huynh, sư đệ thấy ta túc nghiệp_ đáng ra phải mừng cho ta mới phải.
Kiều Phong nghe ông nói cực kỳ bình tĩnh, có điều những điều thốt ra đề là ngôn ngữ nhà Phật nên không hiểu ý ông định nói gì. Lại nghe giọng nói uy nghiêm kia tiếp:
- Huyền Bi sư đệ mấy tháng trước táng mạng trong tay gian nhân, bọn chúng ta hết sức truy nã hung thủ, xem ra đã vi phạm vào giới luật đừng sân đừng nộ rồi. Thế nhưng việc hàng ma trừ gian cốt là phổ cứu thế nhân, phận người học võ chúng ta, bản ý vốn là để hoằng pháp, theo đòi tâm đại từ đại bi của Như Lai để giải trừ khổ nạn cho chúng sinh ...
Kiều Phong nghĩ thầm: “Thanh âm uy nghiêm kia chắc hẳn là giọng của Huyền Từ đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm”. Lại nghe ông nói tiếp:
- ... trừ một ma đầu, ấy là cứu được vô số thế nhân. Sư đệ, kẻ đó có phải là Cô Tô Mộ Dung chăng?
Kiều Phong nghĩ bụng: “Việc này lại có liên quan đến họ Mộ Dung đất Cô Tô. Nghe nói Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm tại cảnh giới nước Đại Lý bị người ta ám toán, không lẽ họ nghi là Mộ Dung công tử hạ độc thủ hay sao?”. Chỉ nghe Huyền Khổ đại sư nói:
- Phương trượng sư huynh, tiểu đệ không dám để sư huynh cùng các sư huynh đệ phải lo lắng cho mình để phải tăng thêm nghiệp báo. Người kia nếu như biết bỏ con dao đồ tể xuống, quay đầu lại là thấy bến ngay, còn như chấp mê không tỉnh, ôi, thì y chỉ tự mình làm khổ mình thôi. Người đó hình dáng ra sao cũng chẳng cần phải nói đến nữa.
Huyền Từ phương trượng nói:
- Được rồi! Sư đệ đại giác cao kiến, sư huynh này còn quá chấp nê, xem ra không bằng được.
Huyền Khổ nói:
- Tiểu đệ muốn được tĩnh tọa một chút để mặc tưởng sám hối.
Huyền Từ đáp:
- Thôi được! Sư đệ cố gắng giữ gìn.
Chỉ nghe tiếng cửa mở ra, một nhà sư cao gầy chầm chậm đi trước. Ông đi được chừng một trượng, đằng sau là một đoàn người đi theo, tổng cộng mười bảy nhà sư. Cả mười tám người ai nấy đều chắp tay, cúi đầu mặc niệm, thần tình thật là trang nghiêm. Đợi các nhà sư đi xa rồi, trong nhà lặng yên không một tiếng động nhưng Kiều Phong bị tình hình làm cho khuất phục nhất thời không dán hiện thân gõ cửa. Bỗng nghe Huyền Khổ đại sư nói:
- Giai khách từ xa đến sao còn chần chừ chưa vào?
Kiều Phong giật mình kinh hãi, nhủ thầm: “Ta nín thở ngưng khí, người khác dẫu có ở cách ta một vài thước cũng chưa chắc đã phát giác ta nằm phục nơi đây. Tai của sư phụ thính như thế, nội công tu tập quả là cao cường”. Nghĩ thế ông bèn cung kính đi đến trước cửa phòng nói:
- Sư phụ an hảo, đệ tử Kiều Phong khấu đầu bái kiến sư phụ.
Huyền Khổ “A” lên một tiếng :
- Phong nhi đấy ư? Ta lúc này đang nghĩ đến con đây, chỉ mong được gặp con một lần, mau vào đi.
Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Kiều Phong mừng lắm, vội rảo bước tiến vào, lập tức quì xuống khấu đầu nói:
- Đệ tử bình thời ít khi được hầu hạ khiến cho sư phụ phải nhớ mong. Sư phụ khỏe mạnh hài nhi thật mừng không để đâu cho hết.
Nói xong ông ngẩng đầu lên, đăm đăm nhìn vào Huyền Khổ. Huyền Khổ đại sư khuôn mặt vốn dĩ mỉm cười, dưới ánh đèn đầu nhìn thấy khuôn mặt Kiều Phong đột nhiên sắc mặt đại biến, đứng phắt dậy, run run nói:
- Ngươi ... ngươi ... thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao, chính tay ta ... ta dạy được đứa học trò giỏi thật?
Vẻ mặt ông vừa kinh ngạc lại vừa thống khổ, lại dường như chen lẫn thương xót và tiếc nuối. Kiều Phong thấy sư phụ thần sắc lạ lùng, trong lòng hết sức khủng khiếp nói:
- Sư phụ, hài nhi chính là Kiều Phong đây.
Huyền Khổ đại sư nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!
Ông liên tiếp nói ba câu “Hay lắm” mà không nói gì thêm nữa. Kiều Phong không dám hỏi thêm, lặng yên đợi ông giáo huấn sai bảo thêm điều gì, ngờ đâu đợi một hồi lâu, Huyền Khổ đại sư thủy chung không nói thêm lời nào nữa. Kiều Phong nhìn lại khuôn mặt sư phụ, thấy các bắp thịt ông đã cứng đờ không chuyển động, vẻ mặt trước sau vẫn nguyên như thế không đổi chút nào, không khỏi kinh hoảng nhảy dựng lên, giơ tay sờ vào bàn tay ông cảm thấy hơi lạnh, vội vàng thăm lại hơi thở, hóa ra khí đã tuyệt từ bao giờ.
Biến cố đó khiến Kiều Phong há hốc mồm, mắt mở trừng trừng, trong đầu hết sức hỗn loạn: “Sư phụ vừa trông thấy ta liền sợ hãi đến chết là sao? Không thể như thế được, ta có điều gì đáng sợ đâu? Có lẽ ông sớm đã bị thương rồi”. Thế nhưng ông không dám tra xét thân thể nhà sư.
Ông cố gắng định thần, trong bụng đã quyết: “Nếu như lúc này ta lẳng lặng trốn đi thì đâu có phải là bản sắc của một Kiều Phong hảo hán hiên ngang này? Việc ngày hôm nay dẫu có nguy hiểm vạn phần cũng phải tra xét cho ra nguồn cội mới xong”. Ông đi ra khỏi nhà, lớn tiếng kêu lên:
- Phương trượng đại sư, Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi, Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi.
Hai câu đó truyền đi thật xa, sơn cốc vang vang tất cả chùa ai cũng nghe thấy. Tiếng kêu tuy hùng hồn nhưng cũng thật là thống khổ. Huyền Từ phương trượng cùng cả bọn chưa về đến nơi ở của mình, bỗng nghe tiếng gọi của Kiều Phong vội vàng quay lại, rảo bước chạy đến Chứng Đạo Viện. Chỉ thấy một hán tử cao to đứng sừng sững bên cạnh cửa, giơ tay chùi nước mắt, chúng tăng ai nấy đều ngạc nhiên. Huyền Từ chắp tay hỏi:
- Thí chủ là ai?
Ông quan tâm đến an nguy của Huyền Khổ, không đợi Kiều Phong trả lời, vội vàng xông thẳng vào phòng, thấy Huyền Khổ vẫn còn sừng sững không ngã, lại càng ngạc nhiên. Các nhà sư cùng chạy vào, cúi đầu nhắm mắt tụng niệm kinh văn.
Kiều Phong là người sau cùng đi vào, quì xuống trong lòng khấn thầm: “Sư phụ, đệ tử đến báo tin quá muộn khiến lão nhân gia đã bị độc thủ của người ta rồi. Đệ tử và kẻ gian kia cừu hận lại thêm một tầng nữa. Đệ tử dù phải gian nan đến đâu cũng nhất quyết đi kiếm kẻ kia băm vằm y ra trăm nghìn mảnh để báo thù cho ân sư”.
Huyền Từ phương trượng tụng kinh xong, quan sát Kiều Phong rồi hỏi:
- Thí chủ là ai? Người vừa lên tiếng gọi có phải là thí chủ đấy chăng?
Kiều Phong nói:
- Đệ tử Kiều Phong thấy sư phụ viên tịch không dằn nổi bi thương làm kinh động phương trượng.
Huyền Từ nghe đến tên của Kiều Phong, hoảng hốt run bắn lên, trên mặt lộ vẻ lạ lùng, chăm chăm nhìn ông một hồi mới nói:
- Thí chủ có phải ... có phải ... là tiền nhiệm bang chủ của Cái Bang đấy ư?
Kiều Phong nghe ông hỏi “tiền nhiệm bang chủ Cái Bang” nghĩ thầm: “Tin tức trên giang hồ truyền đi thật nhanh, đã biết ta không còn làm bang chủ Cái Bang nữa rồi, ắt hẳn biết nguyên do vì sao ta bị trục xuất khỏi Cái Bang”. Ông bèn đáp:
- Đúng thế!
Huyền Từ nói:
- Thí chủ vì sao đang đêm lại xông vào tệ tự? Làm sao thấy Huyền Khổ sư đệ viên tịch?
Kiều Phong trong lòng có trăm ngàn điều muốn nói nhưng nhất thời không biết phải nói gì, đành đáp:
- Huyền Khổ đại sư là thụ nghiệp ân sư của đệ tử, không biết ân sư bị thương ra sao, bị kẻ nào ra tay hạ thủ?
Huyền Từ phương trượng nghẹn ngào đáp:
- Huyền Khổ sư đệ bị người ta đánh trộm, trên ngực trúng trọng thủ một chưởng, gân cốt đứt hết rồi, ngũ tạng cũng nát bấy, chỉ nhờ nội công thâm hậu nên mới gượng được đến bây giờ. Chúng ta hỏi y địch nhân là ai, y bảo hoàn toàn không quen biết, lại hỏi hung thủ hình dáng tuổi tác ra sao, y nói đến thất khổ của nhà Phật, trong đó “oán tăng hội” là một trong những điều khổ nên gặp phải oan gia đối đầu thành ra có dịp giải thoát nên hình dáng hung thủ nhất định không nói ra.
Kiều Phong chợt hiểu ra: “Thì ra chúng tăng đã biết sư phụ bị trọng thương rồi, niệm Phật tụng kinh chính là để tiễn người về cõi Tây phương”. Ông nghẹn ngào nói:
- Các vị cao tăng bụng dạ từ bi không nhớ đến oán thù. Đệ tử là kẻ tục gia, thể nào cũng bắt kẻ gian kia chặt y ra muôn ngàn nhát để báo thù cho ân sư. Quí tự cửa ngỏ thâm nghiêm, không biết hung thủ lẻn vào lối nào?
Huyền Từ trầm ngâm chưa trả lời thì một lão tăng thân thể bé nhỏ đột nhiên cười khẩy nói:
- Thí chủ lẻn vào chùa Thiếu Lâm, chúng ta cũng chẳng ngăn trở phát giác được, hung thủ kia dĩ nhiên cũng muốn đến thì đến, muốn đi thì đi khác nào vào chỗ không người.
Kiều Phong khom lưng vòng tay nói:
- Đệ tử vì việc khẩn bách, không kịp ở ngoài sơn môn thông tri cầu kiến, quả là thất lễ, khẩn khoản xin chư vị sư phụ tha thứ cho. Đệ tử và phái Thiếu Lâm uyên nguyên thực sâu xa, quyết không dám khinh hốt mạo phạm chút nào.
Câu sau cùng của ông có ý muốn nói nếu như phái Thiếu Lâm bị mất mặt thì chính mình cũng xấu lây, trong bụng biết rằng việc mình lẻn vào hậu viện chùa Thiếu Lâm đến khi hô hoán người khác mới biết, nếu như việc này truyền ra ngoài thì tiếng tăm phái Thiếu Lâm bị tổn thương rất lớn.
Ngay lúc đó, một chú tiểu bưng một bát thuốc còn bốc hơi nghi ngút đi vào phòng, nói với thi thể Huyền Khổ:
- Sư phụ, xin dùng thuốc.
Y chính là sa di phục thị Huyền Khổ vừa ở Dược Vương Viện sắc một thang thuốc trị thương Cửu Chuyển Hồi Xuân Thang đem đến cho sư phụ . Y thấy Huyền Khổ đứng sừng sững không ngã nên không biết ông đã chết rồi. Kiều Phong trong lòng buồn khổ, nghẹn ngào nói:
- Sư phụ đã ...
Chú tiểu kia quay lại nhìn ông, đột nhiên rú lên:
- Chính ngươi! Ngươi ... ngươi lại đến!
Chỉ nghe choang một tiếng, bát thuốc trong tay rơi xuống đất vỡ tung tóe, thuốc lẫn mảnh bát văng ra tứ tung. Chú tiểu nhảy lùi về sau hai bước, nép vào một góc tường, la hoảng:
- Chính y, đả thương sư phụ chính là y.
Y vừa kêu lên thế mọi người ai nấy đều kinh hoàng. Kiều Phong lại càng kinh sợ, lốn tiếng nói:
- Ngươi nói gì?
Chú tiểu kia chỉ chừng mười hai mười ba tuổi, trông thấy Kiều Phong cực kỳ sợ hãi, trốn ở sau lưng phương trượng Huyền Từ, bíu lấy tay áo ông, kêu lên:
- Phương trượng, phương trượng!
Huyền Từ nói:
- Thanh Tùng, không việc gì phải sợ, cứ nói ra đi, có phải y là người đả thương sư phụ không?
Chú tiểu Thanh Tùng đáp:
- Chính y, y dùng chưởng đánh vào ngực sư phụ, con ở ngoài cửa sổ trông rõ ràng. Sư phụ, sao sư phụ không đánh trả y đi.
Cho đền giờ phút này, y vẫn chưa biết Huyền Khổ đã viên tịch rồi. Huyền Từ phương trượng nói:
- Ngươi nhìn cho kỹ, đừng nhận lầm người khác.
Thanh Tùng đáp:
- Con nhìn thấy thật rõ ràng, y mặc áo màu tro, mặt vuông, lông mày xếch lên, miệng to tai lớn, chính là y. Sư phụ đánh lại y đi.
Một luồng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống Kiều Phong, nghĩ thầm: “Đúng rồi, hung thủ đã cải trang giống hệt ta để giá họa cho mình. Sư phụ nghe nói ta trở về, vốn dĩ cực kỳ hoan hỉ, thế nhưng vừa thấy mặt ta, thấy ta giống hệt kẻ đã đả thương mình thành ra mới nói: “ ... thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao, chính tay ta ... ta dạy được đứa học trò giỏi thật”. Sư phụ cùng ta hơn mười năm qua không gặp lại, ta từ một đứa trẻ đã thành người lớn rồi, tướng mạo không còn như xưa nữa. Ông nghĩ đến Huyền Khổ đại sư trước khi chết liên tiếp ba lần nói câu “Hay lắm!”, lòng đau như dao cắt: “Sư phụ trúng phải trọng thủ của người rồi nhưng cũng không biết kẻ địch là ai, đến khi gặp ta, nhận ra hung thủ và ta tướng mạo tương đồng, cực kỳ buồn thảm nên đau lòng mà chết. Sư phụ bị trọng thương đáng ra chưa chết đâu có nghĩ được rằng nếu đúng là ta ra tay hạ thủ sao lại còn đến gặp ông làm gì”.
Bỗng nghe tiếng người lao xao rồi một đám người rảo bước chạy đến trước Chứng Đạo Viện thì ngừng lại. Hai nhà sư khom lưng cung kính tiến vào, chính là nhị tăng trì giới, thủ luật đã từng giao chiến với Kiều Phong ở chân núi Thiếu Thất. Trì giới tăng chỉ mới nói được một câu:
- Bẩm cáo phương trượng ...
Y trông thấy Kiều Phong, vẻ mặt tỏ ra phẫn nộ và kinh ngạc, không hiểu sao ông đã tới đây từ bao giờ. Tất cả những nhà sư khác cũng hầm hầm, chăm chăm nhìn Kiều Phong. Huyền Từ phương trượng thần sắc trang nghiêm, chậm rãi nói:
- Thí chủ tuy không còn ở trong Cái Bang nữa nhưng cũng là một nhân vật thành danh trong võ lâm. Hôm nay giá lâm tệ tự, không hiểu vì cớ gì ra tay đánh chết Huyền Khổ sư đệ, mong được chỉ giáo.
Kiều Phong thở dài một tiếng, phục xuống vái lạy thi thể Huyền Khổ nói:
- Sư phụ, lúc sư phụ lâm chung cũng còn bảo rằng đệ tử ra tay hại thầy để phải nuốt hận mà viên tịch. Đệ tử tuy vạn vạn lần không dám mạo phạm sư phụ nhưng gian nhân gia hại thầy cũng vì đệ tử mà ra. Hôm nay đệ tử dẫu có chết để ta ân sư cũng không có gì ân hận thế nhưng từ nay đại cừu của sư phụ không ai trả thù. Đệ tử phạm vào tôn nghiêm của chùa Thiếu Lâm, xin sư phụ tha thứ cho.
Chỉ nghe hù hù hai tiếng, ông thổi ra hai hơi thật dài. Hai chén đèn dầu trong điện lập tức tắt ngúm, căn phòng tối đen như mực. Kiều Phong khi khấn nguyện đã tính toán kế sách thoát thân. Ông vừa thổi tắt đèn, tay trái liền tung chưởng đánh vào sau lưng thủ luật tăng, chưởng đó toàn dùng lực âm nhu không làm tổn thương nội tạng của y nhưng lại đẩy thân hình cao to của y bay tung ra khỏi cửa.
Trong bóng đêm các nhà sư thấy có tiếng gió, đều nghĩ rằng Kiều Phong chạy ra khỏi cửa nên liền dùng cầm nã thủ pháp, chộp luôn vào người thủ luật tăng. Các nhà sư ai nấy đều định bụng không muốn dùng trọng thủ giết chết Kiều Phong, chỉ định bắt ông lại tra hỏi thêm ông giết chết Huyền Khổ đại sư là cớ gì. Hơn chục cao tăng đó đều là nhất lưu hảo thủ của chùa Thiếu Lâm, mà đã là hạng nhất của chùa Thiếu Lâm thì cũng là hạng nhất trong võ lâm.
Cầm nã thủ của mỗi người không giống nhau, người nào cũng có chỗ độc đáo. Chỉ trong cùng một lúc, Cầm Long Thủ, Ưng Trảo Thủ, Hổ Trảo Công, Kim Cương Chỉ, Ác Thạch Chưởng ... các loại cầm nã tối cao minh của phái Thiếu Lâm đều chộp lên người thủ luật tăng.
Các nhà sư võ công quả là cao cường, trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió mà vẫn không sai một li. Gã thủ luật tăng phen này chịu đủ mọi loại khổ sở, chỉ trong phút chốc các yếu huyệt toàn thân đều trúng cầm nã thủ pháp, thân thể lơ lửng trên không mà miệng không nói ra được lời nào, kinh lịch đó từ cổ tới nay chắc chưa ai từng phải chịu bao giờ.
Những cao tăng đó lịch duyệt rất nhiều, phương cách ứng biến cực kỳ chính xác, lập tức có mấy người nhảy lên, đứng chặn giữ trên mái nhà. Các cửa trước cửa sau của Chứng Đạo Viện luôn các ngõ ngách, các nơi hiểm yếu trong giây lát đều có cao thủ án ngữ. Không nói gì Kiều Phong thân thể cao to, dẫu ông có biến thành con chồn con cáo cũng chẳng làm sao thoát nổi.
Chú tiểu Thanh Tùng vội lấy hỏa đao, hỏa thạch châm mấy ngọn đèn dầu trong phòng, mọi người mới hay mình đã bắt nhầm thủ luật tăng. Thủ tọa Đạt Ma Viện_ là Huyền Nạn đại sư liền truyền hiệu lệnh, tất cả các tăng lữ ai nấy ở nguyên vị trí không được loạn động. Quần tăng đều nghĩ thầm, Kiều Phong dẫu có lớn mật cũng không dám một thân một mình xông vào một nơi đầm rồng hang hổ như chùa Thiếu Lâm để giết người, thể nào cũng có cường viện, ắt hẳn sẽ thừa cơ thi hành âm mưu khiến có thể trúng kế điệu hổ ly sơn.
Hơn chục cao tăng trong Chứng Đạo Viện cùng số tăng chúng do trì giới tăng dẫn đến liền chia ra tra xét những khu lân cận Chứng Đạo Viện, tưởng như mọi tảng đá cũng đều lật lên, tàn cây bụi cỏ nào cũng có người dùng côn đập vào. Tuy các nhà sư ai nấy bụng dạ từ bi, lại có đức hiếu sinh nhưng việc đó cũng khiến vô khối cóc nhái, chuột chù, châu chấu, kiến ong bị chết oan rất nhiều.
Lục soát hơn một giờ sau, chỉ còn thiếu cuốc cả đất lên tìm nhưng nào có thấy Kiều Phong đâu? Mọi người ai nấy tặc lưỡi luôn mồm, thật là kỳ quái, có người buột mồm chửi rủa mấy câu, khiến cho điều “ác ngữ” trong mười điều giới của nhà Phật không sao giữ được. Lúc đó mới khiêng di thể Huyền Khổ đại sư vào Xá Lợi Viện để thiêu, còn thủ luật tăng thì đưa xuống Dược Vương Viện điều trị. Quần tăng ủ rũ lặng thinh ai nấy đều cảm thấy kỳ này chùa Thiếu Lâm quả là mất mặt. Chùa Thiếu Lâm cao thủ đông như kiến, lại có cả mươi vị cao tăng võ công thanh vọng hơn người, người nào trong võ lâm tên tuổi cũng đều vang dội, vậy mà để cho Kiều Phong tay không vào ra như chỗ không người, chẳng nói gì việc giết hay bắt được ông ta, đến đào tẩu cách nào cũng chẳng ai đoán ra được.
Thì ra Kiều Phong đã liệu rằng một khi biến cố xảy ra, các nhà sư sẽ chạy ra truy tìm tứ phía, còn ngay ở trong nhà thì lại lơ là. Do đó khi ông vừa đánh bật thủ luật tăng đi rồi, lập tức co người lại, chui tọt xuống dưới gầm giường nơi Huyền Khổ đại sư vẫn thường nằm, mười ngón tay bấu lên các thang giường, thân hình ép sát vào dưới đáy. Mặc dầu cũng có người cúi xuống xét qua dưới gầm giường nhưng làm sao thấy ông ta được. Đến khi pháp thể của Huyền Khổ đưa đi rồi, chấp sự tăng liền đóng cửa Chứng Đạo Viện lại không cho ai vào nữa.
Kiều Phong nằm dưới gầm giường tai nghe tiếng các nhà sư xục xạo một hồi lâu rồi tiếng người lặng dần, nghĩ thầm: “Đợi đến khi trời sáng thì thoát thân không phải là dễ, lúc này không chạy đi thì còn lúc nào?”. Từ dưới gầm giường ông len lén chui ra, đẩy cửa phòng, chuyển thân nấp đằng sau gốc cây.
Ông nghĩ bụng mặc dù tiếng người đã yên nhưng tăng chúng chùa Thiếu Lâm chưa thể nào bỏ cuộc mà lơ là phòng bị. Chứng Đạo Viện ở tại phía cực tây của chùa Thiếu Lâm, nếu chạy về hướng tây sẽ vào ngay trong núi. Một khi đã ra khỏi chùa Thiếu Lâm rồi, các nhà sư sẽ phải trải rộng ra, dẫu có gặp nhau thì cũng không thể nào ngăn chặn ông được. Thế nhưng ông không muốn động thủ với các nhà sư Thiếu Lâm, chỉ mong sau này bắt được hung thủ, dẫn đến chùa nói cho rõ đầu đuôi. Hôm nay nếu như giao đấu với thêm một nhà sư, thì lại kết thêm một mối oán thù, giả sử như mình lỡ tay đánh người bị thương hoặc chết thì lại thêm một mối lo.
Ông mất tăm mất tích ở phía tây chùa, quần tăng ắt sẽ canh chừng nghiêm mật các đường nẻo thông qua núi về hướng tây. Ông suy tính một chút, nghĩ bụng cách ổn thỏa nhất là đi ngược lại về hướng đông xuyên qua chùa mà ra.
Nghĩ vậy ông bèn khom người lần theo các gốc cây che cho mình, qua bốn tòa viện xá, nấp dưới gốc một cây bồ đề, bỗng thấy đằng sau một cái cây ở trước mặt có hai nhà sư nằm phục nơi đó. Hai nhà sư đó không nhúc nhích chút nào, trong bóng đêm thật khó mà phát giác, có điều ông nhãn quang sắc bén nên nhìn thấy ánh sáng lấp lánh của thanh giới đao một nhà sư cầm trong tay, nghĩ thầm: “Nguy hiểm thực! Nếu như ta cốt chạy cho nhanh, hành tàng thể nào cũng bại lộ”. Ông ngồi chờ ở phía sau gốc cây thêm một lát, hai nhà sư kia vẫn không động đậy, cái kế “ôm cây đợi thỏ, há miệng chờ sung” kia quả là ghê gớm, nếu như mình chỉ hơi cử động là bị hai người đó nhìn thấy ngay nhưng cũng không thể nào cứ ngồi đó mãi.
Ông hơi trầm ngâm, nhặt một viên đá nhỏ, giơ ngón tay búng ra. Kình lực ông sử dụng thật khéo, lúc đầu thì chậm nhưng sau thì nhanh, lúc mới bắn ra không có chút thanh âm nào nhưng được bảy tám trượng rồi mới rít lên thật mạnh, lao thẳng vào gốc cây nghe cạch một tiếng gây ra một tiếng động lạ.
Hai nhà sư kia vội khom lưng chạy tới. Kiều Phong đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi mình rồi mới tung mình nhảy lên, lẻn luôn vào căn nhà ở bên cạnh, dưới ánh trăng nhìn rõ biển ngạch viết ba chữ Bồ Đề Viện. Ông biết rằng hai nhà sư kia không thấy gì khác lạ thể nào cũng quay trở về, thành thử không ngừng mà lại chạy thẳng ra phía sau, xuyên qua tiền đường chạy vào hậu điện.
Chỉ trong chớp mắt đã thấy một bóng người cao lớn nhanh nhẹn dị thường ở phía sau chạy vụt qua, thân pháp trên đời ít gặp. Kiều Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Hảo thân thủ, người đó là ai đây?’. Ông thu chưởng về hộ vệ thân thể, quay đầu nhìn lại, không khỏi bật cười, thấy trước mặt là một đại hán giơ một tay lên thủ thế, khom người nép mình, giữ miếng đằng trước mặt, khí thế trịnh trọng như hòn núi. Thì ra trước mặt pho tượng trong hậu điện là một chiếc bình phong, trên tấm bình phong có gắn một chiếc gương đồng cực lớn, chùi sáng bóng lộn, tấm kính chiếu rõ thân mình, trên tấm gương có khắc bốn hàng kinh, trước tượng Phật là hai ngọn đèn dầu, dưới ánh sáng lờ mờ vẫn còn đọc được:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh.
Như lộ diệc như điện,
Đương tác như thị quan._
Những gì có tướng có hình,
Khác gì bóng nước phập phồng chơi vơi.
Mong manh hạt móc giữa trời,
Thấy kia thoắt đó đã rời thế gian.
Kiều Phong mỉm cười quay đầu lại, đang toan cất bước, bỗng dưng tưởng như bị ai đánh mạnh vào đầu, lập tức ngẩn ngơ, chỉ trong một chớp mắt ông dường như nghĩ đến một việc cực kỳ trọng yếu nhưng việc đó là việc gì thì mơ mơ hồ hồ không tìm ra.
Ngẩn người ra một lát, vô ý lại nhìn vào trong chiếc gương đồng, thấy bóng sau lưng của mình mới chợt tỉnh ngộ: “Mới rồi ta vừa nhìn thấy bóng sau lưng mình vậy là ở đâu ra? Ta cũng chưa từng thấy chiếc gương nào lớn đến thế này thì cách nào mà lại nhìn thấy bóng sau lưng mình được?”. Ông còn đang xuất thần bỗng nghe bên ngoài có tiếng chân người, vài người đi vào trong điện.
Còn đang hoang mang chưa biết trốn chỗ nào, thấy trên bàn thờ có ba pho tượng Phật, vội vàng lẻn lên nép vào sau lưng pho tượng thứ ba. Nghe tiếng chân cả thảy sáu người, chia thành hai hàng, song song đi vào hậu điện mỗi người ngồi trên một chiếc bồ đoàn. Kiều Phong từ sau pho tượng nhìn ra, thấy cả sáu nhà sư đều tuổi trung niên, nghĩ thầm: “Nếu như lúc này mình lẻn ra ngoài hậu điện, sáu nhà sư võ công chỉ bình thường thì không thể nào biết được, thế nhưng nếu chỉ có một người nội công cao thâm, mắt tinh tai thính thì sẽ phát giác ngay. Chi bằng chờ đây thêm một chút nữa rồi hãy tính”.
Bỗng nghe nhà sư đầu tiên mé phải nói:
- Sư huynh, Bồ Đề Viện trống không như thế sao lại có kinh thư là thế nào? Sao sư phụ lại sai chúng ta đến trông chừng đề phòng địch nhân đến ăn trộm?
Nhà sư bên trái mỉm cười nói:
- Đây là chỗ bí mật của Bồ Đề Viện, không nên nói nhiều.
Nhà sư bên phải lại tiếp:
- Hừ, tiểu đệ xem chừng sư huynh cũng không biết nốt.
Nhà sư phía bên phải bị khích chịu không nổi bèn nói:
- Ta không biết thật chăng? “Nhất mộng như thị” ...
Y mới nói nửa chừng chợt nhớ phải cảnh giác lập tức ngưng bặt. Nhà sư bên phải lại hỏi:
- Cái gì mà lại “nhất mộng như thị”?
Nhà sư ngồi hàng thứ hai liền nói:
- Chỉ Thanh sư đệ, bình thời ngươi đâu có lắm mồm lắm miệng, sao hôm nay lại cứ nhì nhằng hỏi mãi thế? Nếu ngươi muốn biết bí mật của Bồ Đề Viện sao không đi hỏi sư phụ của ngươi đi?
Nhà sư tên Chỉ Thanh kia không dám hỏi thêm nữa, một lát sau mới nói:
- Để tôi ra sau đi giải một chút.
Y nói xong liền đứng lên. Y từ phía phải đi về phía cửa hông bên trái, vừa đến sau lưng người thứ năm, đột nhiên giơ chân phải lên, đá trúng ngay huyệt Huyền Khu ở sau lưng. Huyệt Huyền Khu ở vào vị trí bên dưới đốt xương sống thứ mười ba. Nhà sư đó đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, huyệt Huyền Khu nằm ngay sát mép chiếu, bị đầu ngón chân của Chỉ Thanh đá trúng, thân hình liền từ từ ngã xuống bên phải. Gã Chỉ Thanh kia ra tay thật nhanh, lại nhẹ nhàng không có chút động tịnh gì, tiếp theo liền đá vào huyệt Huyền Khu của nhà sư thứ tư, rồi kế đó nhà sư thứ ba, chỉ trong nháy mắt đã đánh ngã liền ba người.
Kiều Phong ngồi đằng sau tượng Phật nhìn thấy rõ ràng, trong bụng kỳ lạ, không hiểu vì lý do gì mà nhà sư kia lại giở trò tấn công đồng bọn. Lại thấy gã Chỉ Thanh giơ chân lên đá vào nhà sư thứ hai ở bên trái, đầu mũi chân vừa đụng vào huyệt đạo y thì hai trong số ba nhà sư bị điểm huyệt liền từ bồ đoàn ngã lăn ra, đầu đụng vào gạch lát trên điện nghe lịch bịch. Nhà sư bên trái giật mình, vội đứng bật dậy xem thế nào, vừa kịp thấy Chỉ Thanh giơ chân đá ngã người ngồi bên hữu, lại càng kinh hãi quát lên:
- Chỉ Thanh, ngươi làm gì thế?
Chỉ Thanh giơ tay chỉ ra ngoài nói:
- Xem kìa, ai đến thế kia?
Nhà sư kia quay đầu nhìn ra, Chỉ Thanh liền tung chân bên phải, đá mạnh vào sau lưng y. Cú đá đó cực kỳ nhanh, thể nào cũng trúng mới phải, thế nhưng chiếc gương đồng ở phía trước chiếu rõ ràng ngón đòn đánh lén kia, nhà sư liền nghiêng người tránh qua, đánh trả lại một chưởng, kêu lên:
- Ngươi có điên không?
Chỉ Thanh xuất chưởng nhanh như gió, đấu đến chiêu thứ tám thì nhà sư kia bị trúng một quyền vào bụng dưới, tiếp theo lại bị bồi thêm một cú đá. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh ra chiêu âm nhu độc địa, xem chừng không phải gia số của phái Thiếu Lâm, trong lòng càng thêm lạ lùng.
Nhà sư kia biết mình không địch lại, vội kêu lên:
- Có gian tế, có gian tế ...
Chỉ Thanh nhảy vụt tới, tả quyền đấm luôn vào ngực y, nhà sư đó lập tức lăn ra bất tỉnh. Chỉ Thanh vội chạy tới trước chiếc gương đồng, giơ ngón tay trỏ bên phải, vặn vào chữ “nhất” ở hàng kinh văn đầu tiên một cái. Kiều Phong lại thấy y mò xuống xoay chữ “mộng” ở hàng thứ hai, nghĩ thầm: “Nhà sư kia nói bí mật là “nhất mộng như thị”, nhưng trên tấm gương có đến bốn chữ như, không biết y xoay chữ như nào?”.
Chỉ thấy Chỉ Thanh giơ ngón tay vặn chữ “như ” đầu tiên ở hàng thứ ba, rồi tiếp theo vặn chữ “thị” ở hàng thứ tư. Tay y chưa rời khỏi tấm gương đã nghe tiếng kẹt kẹt, tấm gương đồng chầm chậm ngả ra.
Nếu như lúc này Kiều Phong muốn trốn đi thì quả là dịp bằng vàng nhưng ông nổi dạ hiếu kỳ, muốn biết vì lý do gì mà nhà sư Thiếu Lâm kia lại làm hại đồng môn, sau tấm gương đồng có cái gì không chừng có thể liên quan đến việc Huyền Khổ đại sư bị hại.
Nhà sư phía bên trái khi bị Chỉ Thanh đánh ngã đã kêu toáng lên, chùa Thiếu Lâm vốn dĩ có hơn một trăm nhà sư đang đi tuần ở phía tây núi, vừa nghe tiếng vội vàng lục tục chạy đến, bốn bề đông tây nam bắc của Bồ Đề Viện chỗ nào cũng có tiếng chân rầm rập.
Kiều Phong trong bụng chần chừ: “Không thể để cho bọn họ thấy được tung tích của ta”. Thế nhưng các nhà sư đã kéo đến rồi, mọi người ai ai cũng chăm chăm nhìn Chỉ Thanh, cơ hội thoát thân vẫn còn rất nhiều, chẳng việc gì phải vội vàng đào tẩu. Ông thấy Chỉ Thanh giơ tay mò mò trong một cái lỗ hổng phía sau tấm gương nhưng không lấy được gì cả. Vừa ngay lúc đó, tiếng chân người từ phương bắc chạy đến đã ngừng ngay trước cửa Bồ Đề Viện.
Chỉ Thanh dậm chân, xem ra cực kỳ thất vọng, đang định xoay mình bỏ đi, đột nhiên khom mình thò đầu vào phía sau chiếc gương, vui mừng nói:
- Ở đây rồi!
Y giơ tay cầm lấy một chiếc bao nhỏ bỏ vào túi rồi toan tìm đường chạy, thế nhưng khi đó bốn phía đã có rất đông sư sãi bao vây, không còn đường nào nữa. Chỉ Thanh nhìn quanh quất rồi chạy ra lối cửa trước của Bồ Đề Viện. Kiều Phong nghĩ thầm: “Gã này bỏ chạy ra thể nào cũng bị bắt ngay”. Ngay lúc đó, bỗng thấy có hơi gió ập tới, có người đã xông vào chỗ ông đang ẩn mình. Kiều Phong nghe gió biện hình, tay trái vươn ra đã chộp ngay được cổ tay địch nhân, tay phải liền thò ra đè luôn vào huyệt Thần Đạo trên lưng y, nội lực nhả ra gã kia liền toàn thân mềm nhũn không còn động đậy gì được nữa.
Kiều Phong bắt được kẻ địch rồi, chăm chú nhìn kỹ tướng mạo y, tưởng ai hóa ra Chỉ Thanh. Ông ngạc nhiên một chút lập tức hiểu ra: “Thì ra là thế! Gã này cũng tính toán như ta, chui vào đằng sau tượng Phật để trốn, khéo làm sao lại đúng ngay pho tượng thứ ba, chắc là vì pho tượng này to hơn cả. Vì cớ gì lúc đầu y chạy ra cửa trước, rồi lại len lén quay trở vào đây? Ồ, dưới đất có năm nhà sư nằm đó, nếu người khác chạy vào hỏi, cả năm người đều nói là y đã chạy ra cửa trước rồi, mọi người sẽ không ai tra xét gì Bồ Đề Viện nữa. Ôi, người này quả là lắm mưu mẹo”.
Kiều Phong trong bụng nghĩ thầm không thể nào thả Chỉ Thanh ra, bèn ghé vào tai y nói nhỏ: “Nếu ngươi há mồm kêu, ta sẽ một chưởng đánh chết ngươi ngay, có biết không?”. Chỉ Thanh gật đầu.
Ngay lúc đó từ cửa cái bảy tám nhà sư chạy vào, trong đó có ba người cầm đuốc, đại điên liền sáng bừng lên. Chúng tăng nhìn thấy trong đại điện có năm nhà sư ngã lăn nơi đó, lập tức xôn xao lên:
- Gã ác tặc Kiều Phong kia lại hạ độc thủ rồi!
- Ồ, Chỉ Trầm, Chỉ Uyên sư huynh đây mà!
- Ôi chao! Không xong rồi! Chiếc gương đồng này sao bị đẩy ra? Kiều Phong ăn cắp kinh thư ở Bồ Đề Viện rồi!
- Mau mau bẩm báo phương trượng.
Kiều Phong nghe mấy người đó lao xao bàn tán, chỉ đành gượng cười: “Cái món nợ này lại đổ lên đầu ta”. Chỉ trong giây lát, số nhà sư chạy vào điện mỗi lúc một đông. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh giãy giụa toan đào tẩu thoát thân liền rõ ngay ý định: “Lúc này quần tăng tụ tập ở trên điện, Chỉ Trầm, Chỉ Uyên cả bọn chưa tỉnh, chính là cơ hội tốt để Chỉ Thanh bỏ đi, y cứ việc tự nhiên chạy ra ngoài không ai nghi ngờ vì người nào cũng đổ riệt cho ta là hung thủ”. Ông lại lập tức nghĩ ngay: “Gã Chỉ Thanh này cũng chưa phải là tinh khôn cho lắm chứ lúc nãy y việc gì phải trốn vào đây? Y từ trong điện đi ra, đâu có ai hỏi han gì mà sợ?”.
Đột nhiên trong điện tất cả mọi người đều im bặt, không còn ai mở miệng nói một lời nào, kế đó chúng tăng đồng thanh nói:
- Tham kiến phương trượng, tham kiến thủ tọa Đạt Ma Viện, tham kiến thủ tọa Long Thụ Viện.
Chỉ nghe lốp bốp mấy tiếng nhẹ, ai đó đã xuất chưởng vỗ bọn năm nhà sư Chỉ Trầm, Chỉ Uyên tỉnh lại, rồi có người hỏi:
- Lại do Kiều Phong ra tay hay sao? Làm sao y biết được bí mật của tấm gương đồng?
Chỉ Trầm đáp:
- Không phải Kiều Phong mà là Chỉ Thanh ...
Đột nhiên y tung mình nhảy lên chửi:
- Giỏi nhỉ, vì cớ gì ngươi ra tay ám toán đồng môn?
Kiều Phong nấp ở sau lưng pho tượng không thể đoán được y đang chửi ai. Chỉ nghe tiếng một người kinh hãi kêu lên:
- Chỉ Trầm sư huynh, sao sư huynh lại nắm tôi?
Chỉ Trầm giận dữ đáp:
- Ngươi đá ngã năm người chúng ta, ăn trộm kinh thư, thật là lớn mật. Bẩm cáo phương trượng, phản tặc Chỉ Thanh lén mở đồng kính trong Bồ Đề Viện ăn trộm kinh thư dấu trong đó.
Người kia kêu lên:
- Cái gì? Cái gì? Tôi từ nãy vẫn ở bên cạnh phương trượng, làm sao có thể ăn trộm kinh được?
Một giọng nói già nua khàn khàn nói:
- Hãy đóng chiếc gương đồng lại đã rồi kể lại tình hình xem ra thế nào?
Chỉ Uyên đến đóng chiếc gương lại như cũ. Nhờ thế tình hình quần tăng trên điện thế nào Kiều Phong đều nhìn trong tấm đồng kính thật rõ ràng thấy một nhà sư hoa chân múa tay, cực kỳ khích động. Kiều Phong đưa mắt nhìn y không khỏi hoảng hốt giật mình, thì ra người đó chính là Chỉ Thanh. Kiều Phong ngạc nhiên quay đầu nhìn lại nhà sư bị ông bắt được ngồi bên cạnh thấy tướng mạo so với người ở dưới kia không khác một mảy, nhìn kỹ lắm cũng chỉ thấy khác đôi chút, thế nhưng chỉ thoạt nhìn qua thì không thể nào phân biệt được. Kiều Phong nghĩ thầm: “Trên đời này người có hình dáng giống nhau như thế quả là hiếm có. Đúng rồi, chắc hai người là anh em sinh đôi. Mẹo này thật hay, một người xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, một người ở ngoài chờ đợi, đợi đúng thời cơ liền ăn mặc giả làm sư vào ăn trộm kinh. Gã Chỉ Thanh kia nếu như một bước không rời phương trượng thì không ai có thể nghi y được”.
Chỉ nghe Chỉ Trầm kể lại Chỉ Thanh làm cách nào thám thính được bí mật của chiếc gương đồng, mình vô ý nói hớ bốn chữ ra sao, Chỉ Thanh giả bộ ra ngoài đi tiểu rồi lén tấn công bốn người, sau đó động thủ đánh ngã mình. Trong khi Chỉ Trầm kể chuyện, bọn bốn người Chỉ Uyên liên tiếp phụ họa, chứng thực lời của y không sai chút nào.
Huyền Từ phương trượng từ đầu chí cuối thần sắc vẫn thản nhiên, đợi cho Chỉ Trầm nói xong mới chậm rãi hỏi lại:
- Ngươi nhìn rõ chứ? Quả đúng là Chỉ Thanh chăng?
Chỉ Trầm và cả bọn Chỉ Uyên cùng đáp:
- Bẩm cáo phương trượng, chúng đệ tử và Chỉ Thanh không thù không oán lẽ nào lại vu hãm cho y?
Huyền Từ thở dài:
- Chuyện này xem ra có gì khác lạ, Chỉ Thanh vốn dĩ ở bên cạnh ta không hề rời xa, cà thủ tọa Đạt Ma Viện cũng có mặt.
Phương trượng nói ra như thế, quần tăng trên điện còn ai dám nói gì hơn. Thủ tọa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sư cũng nói:
- Chính thị, ta cũng thấy Chỉ Thanh hầu hạ phương trượng sư huynh, làm sao y có thể đến Bồ Đề Viện để trộm kinh được?
Thủ tọa Long Thụ Viện Huyền Tịch liền hỏi:
- Chỉ Trầm, gã Chỉ Thanh kia khi động thủ quá chiêu với ngươi, quyền cước có điểm gì khác lạ chăng?
Giọng ông ta đúng là người già nua khàn khàn khi nãy. Chỉ Trầm kêu lên một tiếng đáp:
- Đúng rồi! Sao đệ tử lại không nghĩ ra? Gã Chỉ Thanh kia động thủ cùng đệ tử, sử dụng không phải võ công bản môn.
Huyền Tịch nói:
- Thế thì công phu của môn nào phái nào, ngươi có nhìn ra chăng?
Ông thấy Chỉ Trầm nét mặt hoang mang, không sao trả lời được, bèn hỏi thêm:
- Có phải trường quyền chăng? Hay là đánh nhập nội? Cầm nã thủ? Hay là Địa Đường, Lục Hợp, Thông Tí?
Chỉ Trầm đáp:
- Y ... y sử dụng công phu cực kỳ âm độc, mấy lần đệ tử bị trúng đòn của y.
Huyền Tịch, Huyền Nạn cùng mấy vị lão tăng vai vế cực cao đưa mắt nhìn phương trượng, ai nấy nghĩ thầm trong chùa hôm nay gặp phải những đối thủ bản lãnh cực kỳ cao siêu, giở trò đùa cợt, khiến cho ai nấy như chìm vào trong đám sương mù, kế sách trước mắt là cố làm sao tra xét cho ra, đồng thời gặp đâu hay đó thấy chuyện quái lạ đừng hoảng hốt nếu không tăng chúng trong chùa sẽ lo sợ kinh hoàng, e rằng họa hoạn không thể nào giải quyết được.
Huyền Từ chắp hai tay nói:
- Kinh thư cất dấu trong Bồ Đề Viện, là Đại Thừa kinh luận do cao tăng tiền bối viết ra để xiển dương Phật pháp, độ hóa thế nhân, nếu là đệ tử Phật môn lấy được, niệm tụng nghiên cứu dĩ nhiên có ích rất nhiều. Còn như kẻ thế tục lấy được không tôn trọng thì tội họa không phải là nhỏ. Các vị sư đệ, sư điệt, mọi người trở về bản viện nghỉ ngơi đi, những người có chức vụ thì ai làm việc nấy.
Quần tăng nghe lời đi ra, chỉ còn bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên vẫn cùng Chỉ Thanh cãi lẫy ỏm tỏi. Huyền Tịch trừng mắt nhìn họ khiến ai nấy hoảng hồn, không còn dám hó hé gì nữa, cùng Chỉ Thanh đi ra.
Tất cả đi hết rồi, trong điện chỉ còn lại Huyền Từ, Huyền Nạn, Huyền Tịch ba người ngồi ở trên bồ đoàn ngay trước tượng Phật. Huyền Từ đột nhiên cất lên:
- A Di Đà Phật, tội nghiệp thay, tội nghiệp thay!
Mấy tiếng đó vừa xong, ba nhà sư phi thân nhảy lên, lòn ra phía sau tượng Phật, từ ba phương vị khác nhau xuất chưởng đánh vào Kiều Phong. Kiều Phong không ngờ ba nhà sư đã nhìn vào tấm gương đồng phát hiện tung tích của mình, lại càng không nghĩ đến ba lão tăng già cả lụ khụ chưa nói gì đã xông lên đánh liền, xuất chưởng uy mãnh nhanh nhẹn đến thế. Chỉ chớp mắt ông thấy khó thở, ngực như bị đè, ba vị cao tăng Thiếu Lâm hợp kích quả là ghê gớm. Ông không còn phân biệt được phương hướng của chưởng lực từ đâu tới, chỉ thấy trái phải trên dưới trước sau chỗ nào cũng bị chưởng lực của ba nhà sư bao trùm, muốn xông ra chỉ còn một cách là dùng ngạnh công, nếu không đả thương được đối phương ắt là mình sẽ bị thương. Ông không kịp suy nghĩ, đành vận sức vào song chưởng đẩy ra đằng trước, nghe lách cách một tiếng lớn, pho tượng Phật đã bị đẩy ngã. Kiều Phong thuận tay xách luôn Chỉ Thanh, tung mình nhảy tới, bỗng cẩm thấy sau lưng kình phong lợi hại, chưởng lực chưa đến thì hơi gió đã tới rồi.
Kiều Phong không muốn đối chưởng đấu sức với các nhà sư Thiếu Lâm, tay phải liền chộp lấy tấm bình phong trên có gắn tấm gương đồng, xoay tay lật ngược lại, dùng chiếc bình phong như lá chắn che sau lưng, chỉ nghe choang một tiếng lớn, một chưởng của Huyền Nạn đã đánh trúng tấm đồng kính, chấn động khiến cánh tay Kiều Phong ngâm ngẩm tê, bình phong chung quanh tấm gương vỡ thành mấy mảnh.
Kiều Phong mượn luôn sức chưởng của Huyền Nạn nhảy vọt đến hơn một trượng về phía trước, bỗng thấy sau lưng có người hít một hơi dài, thanh âm không phải tầm thường. Kiều Phong biết ngay một nhà sư Thiếu Lâm sắp sử dụng một loại võ công giống như Phách Không Thần Quyền, tuy không có gì phải sợ nhưng không muốn đấu công lực với ông ta thành thử cầm chiếc gương đồng chặn sau lưng, nội lực dẫn lên cánh tay bên phải.
Ngay lúc đó, ông cảm thấy chưởng lực của đối phương xeo xéo đánh tới, phương vị có vẻ hơi quái dị. Kiều Phong ngạc nhiên, lập tức tỉnh ngộ, nhà sư kia không đánh thẳng vào lưng ông ta, mà đánh vào hậu tâm Chỉ Thanh. Kiều Phong và Chỉ Thanh không hề quen biết, cũng chẳng có ý muốn cứu y, nhưng đã nắm y trong tay, tự nhiên nẩy ra ý muốn chiếu cố nên đẩy chiếc đồng kính ra bảo vệ cho Chỉ Thanh. Chỉ nghe bộp một tiếng, thanh âm tắt ngúm thì ra chiếc gương đồng đã bị chưởng lực của Huyền Nạn đánh nứt từ trước, bây giờ bị thêm Phách Không Chưởng của Huyền Từ thành ra vỡ nát.
Kiều Phong khi giơ chiếc gương ra sau lưng đã kịp nắm Chỉ Thanh nhảy lên mái nhà, thấy thân thể y nhẹ bỗng, so với tướng tá cao to của y không xứng chút nào nhưng tiếng vỡ vừa vang lên, ông đang đứng trên mái nhà bỗng thấy chân không vững, ngã vật trở lại. Từ khi hành tẩu giang hồ, ông chưa từng gặp phải đối thủ nào lợi hại đến thế, không khỏi hoảng hồn, lập tức quay mình nhẹ nhàng nhưng vững chãi như một hòn núi đứng xuống đất, khí độ trầm hùng tưởng chừng như không coi cường địch vây quanh vào đâu.
Huyền Từ liền nói:
- A Di Đà Phật, Kiều thí chủ, sao ông đến chùa Thiếu Lâm giết người chưa đủ lại còn làm hư hại cả tượng Phật là sao?
Huyền Tịch quát lớn:
- Nếm một chưởng của ta xem nào!
Song chưởng của ông ta từ bên ngoài đánh vòng vào, rồi từ từ đẩy vào phía Kiều Phong. Chưởng lực chưa đến, Kiều Phong đã thấy khó thở, chỉ trong khoảnh khắc chưởng lực của Huyền Tịch chẳng khác nào sóng cả ào ào đổ tới.
Kiều Phong vứt chiếc gương đồng xuống, hữu chưởng đánh trả lại một chiêu Kháng Long Hữu Hối_ trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Hai luồng chưởng lực chạm nhau, nghe ầm một tiếng, cả Huyền Tịch lẫn Kiều Phong đều phải lùi lại ba bước. Kiều Phong chấn động toàn thân thấy như không còn hơi sức, Chỉ Thanh trong tay tuột ra rơi xuống, nhưng vừa đề chân khí, lập tức tinh thần sung mãn trở lại, nên không đợi cho Huyền Tịch đánh tiếp chưởng thứ hai, kêu lên:
- Không đấu nữa!
Ông nhắc Chỉ Thanh lên, phi thân trở lên mái nhà. Huyền Nạn, Huyền Tịch cùng kêu lên một tiếng, lạ lùng vô cùng. Chưởng của Huyền Tịch vừa mới đánh ra đã tập trung hết công lực bình sinh có tên là Nhất Phách Lưỡng Tán. Sở dĩ gọi là lưỡng tán là nói về đánh vào đá, đá sẽ vỡ tan văng cả lên người, còn chính mình cũng hồn phi phách tán. Lộ chưởng pháp đó chỉ có một chiêu, chỉ vì chưởng lực quá ư hùng hồn nên khi đối địch không cần sử dụng lần thứ hai kẻ địch đã toi mạng rồi. Chưởng đó sử dụng nội lực bài sơn đảo hải làm cơ sở, dẫu có muốn biến chiêu hay thay đổi thế đánh cũng không ai làm nổi. Ngờ đâu Kiều Phong tiếp chiêu đó rồi, đã chẳng chết ngay tại đương trường mà chỉ trong một thời gian rất ngắn đã hồi sức, cầm người nhảy lên mái nhà chạy mất.
Huyền Nạn than thở:
- Võ công người này quả là giỏi thật.
Huyền Tịch nói:
- Nếu như không sớm trừ khử đi, e rằng hậu hoạn không biết đến đâu mà kể.
Huyền Nạn liên tiếp gật đầu, còn Huyền Từ nhìn theo phía Kiều Phong vừa bỏ đi, ngẩn người ra không nói năng gì.
Khi Kiều Phong bỏ đi, ông quay đầu lại nhìn tấm gương đồng bị Huyền Từ phương trượng đánh một quyền nát vụn ra thành mấy chục mảnh tứ tán dưới đất, mảnh nào cũng có bóng sau lưng ông. Kiều Phong đột nhiên thấy lòng bàng hoàng: “Vì sao mỗi lần ta nhìn thấy bóng sau lưng mình, trong bụng có điều gì bất ổn? Không biết có chuyên gì khác thường?”. Khi đó ông đang gấp gáp chuyện rời khỏi chùa Thiếu Lâm, trong đầu tuy nổi một mối nghi hoặc nhưng đang vội vã nên cũng liền quên ngay.
Đường trong núi Thiếu Thất ông rất quen thuộc, luồn xuống sau núi rồi liền kiếm những đường mòn cheo leo mà đi, chạy luôn mấy dặm không nghe tiếng các nhà sư đuổi theo, nên cũng yên dạ, bèn bỏ Chỉ Thanh xuống đất quát lớn:
- Thôi ngươi tự mình đi đi nhưng đừng nghĩ tới chuyện đào tẩu.
Ngờ đâu Chỉ Thanh chân vừa chạm đất đã nhũn ra, thân hình co quắp, tưởng chừng đã chết rồi. Kiều Phong ngạc nhiên, vội đưa tay sờ mũi y, thấy hơi thở lúc có lúc không, rất là yếu ớt liền cầm tay xem mạch thấy nhảy cũng rất chậm, xem chừng sắp chết đến nơi.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Ta trong bụng còn bao nhiêu chuyện ngờ vực đang tính hỏi ngươi, không thể để cho mi chết dễ dàng như thế được. Gã hòa thượng này lọt vào tay mình, e rằng sợ âm mưu bại lộ nên uống một loại thuốc độc cực mạnh để tự sát”.
Ông vội vàng sờ lên ngực y để xem tim còn đập hay không, bỗng thấy như sờ vào vật gì mềm mại, dường như nhà sư đó là một người đàn bà. Kiều Phong vội vàng rụt tay về, càng thấy lạ lùng hơn: “Y ... y là đàn bà giả trang ư?”. Trong đêm tối không cách nào nhìn kỹ mặt mũi y ra sao. Ông là một con người hào phóng khoát đạt, không nề tiểu tiết, không phải như Đoàn Dự mê sách giữ kẽ, có rất nhiều cố kỵ nên nắm lưng Chỉ Thanh nhắc lên, quát hỏi:
- Ngươi là đàn ông hay là đàn bà? Ngươi nếu không nói thực, ta sẽ lột hết quần áo ngươi ra xem cho rõ.
Môi Chỉ Thanh mấp máy dường như định nói gì nhưng không phát xuất được lời nào, đủ biết tính mạng đang lâm nguy chỉ còn treo trên sợi tóc. Kiều Phong nghĩ bụng: “Bất luận người này là nam hay nữ, kẻ tốt hay người xấu cũng không thể để y chết như thế này được”. Ông bèn giơ chưởng phải ra đè vào sau lưng y, dưa chân khí từ đan điền ra từ bụng lên cánh tay, từ cánh tay xuống lòng bàn tay truyền vào thân thể Chỉ Thanh, dẫu không cứu được tính mạng y thì cũng có thể hỏi y được vài điều manh mối. Một lúc sau, mạch Chỉ Thanh dần dần mạnh lên, hô hấp cũng đều trở lại. Kiều Phong thấy y nhất thời không chết nữa, trong bụng cũng đỡ lo nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm chưa xa không nên ở lâu”. Ông liền bồng Chỉ Thanh ngang trên hai tay, rảo bước đi về phía hướng tây bắc.
Khi đó ông mới thấy thân hình Chỉ Thanh cực kỳ nhẹ nhàng, không tương xứng với dáng dấp cao to của y chút nào, nghĩ bụng: “Ta lột quần áo y ra thì không ổn nhưng chẳng lẽ đến giày vớ y mình cũng không cởi được hay sao?”. Ông giơ tay kéo tăng hài bên phải của y, nắm vào thấy cứng ngắc không phải thịt da người, hơi kéo mạnh một cái, một vật gì đó theo tay tuột ra, hóa ra là một chiếc chân giả làm bằng gỗ. Ông thò tay mò chân Chỉ Thanh gặp ngay một bàn chân nhỏ nhắn mềm mại. Kiều Phong kêu lên một tiếng, nghĩ thầm: “Quả nhiên là một người đàn bà”.
Ông lập tức thi triển khinh công, chạy mỗi lúc một nhanh, đến khi trời tờ mờ sáng, tính ra phải cách chùa Thiếu Lâm đến hơn năm chục dặm, bèn ôm Chỉ Thanh đến một khu rừng nhỏ ở gần bên, gặp một khe suối chảy ngang liền đi đến bên dòng nước, vốc nước vỗ lên mặt Chỉ Thanh, lại dùng tay áo cà sa lau mấy cái, đột nhiên từng mảng từng mảng thịt da lả tả rơi xuống. Kiều Phong sợ đến nhảy dựng lên: “Sao da thịt cô ta lại rã nát ra thế này?”. Ông chăm chú nhìn, thấy bên dưới những mảng da lở loét, là làn da mịn màng nhẵn nhụi trắng ngần.
Chỉ Thanh được Kiều Phong ôm chạy đi vốn dĩ nửa tỉnh nửa mê, lúc này mặt bị vã nước lạnh liền mở mắt ra, nhìn thấy Kiều Phong, gượng nở một nụ cười, nói nhỏ:
- Kiều bang chủ!
Thế nhưng vì quá yếu đuối, chỉ gọi được một tiếng rồi lại nhắm mắt thiếp đi. Kiều Phong thấy khuôn mặt nàng loang loang lổ lổ, chỗ lồi chỗ lõm nhìn không ra tướng mạo thế nào, liền lấy tay áo cô ta đem nhúng xuống nước, lau mạnh lên mặt mấy cái, bao nhiêu phấn đóng trên mặt trôi đi, lộ ra khuôn mặt xinh tươi của một thiếu nữ. Kiều Phong thất thanh kêu lên:
- Hóa ra là A Châu cô nương!
Kẻ giả trang làm Chỉ Thanh lẻn vào Bồ Đề Viện chùa Thiếu Lâm chính là A Châu, thị tì của Mộ Dung Phục. Thuật dị dung cải trang của nàng quả là siêu tuyệt, dùng chân gỗ nâng cao người lên, lấy bông độn vai độn bụng, lại dùng bột mì trộn hồ đắp cho mặt phồng lên, đội tăng mạo, mặc tăng bào khiến cho những người thường ngày vẫn gặp Chỉ Thanh như bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên cũng không nhận ra nổi.
Nàng còn đang mơ mơ hồ hồ nghe Kiều Phong gọi “A Châu cô nương” đã toan đáp lời, lại muốn giải thích vì sao mình lẻn vào chùa Thiếu Lâm nhưng không còn chút lực khí nào nữa, ngay cả lưỡi cũng không còn sử dụng được nên một tiếng “Ừ” cũng nói không ra.
Lúc đầu Kiều Phong cho rằng Chỉ Thanh là kẻ gian trá hiểm độc, cái chết của cha mẹ và sư phụ mình chắc có liên quan mật thiết đến y nên đành hao phí khí lực cứu y cốt để tra xét cho rõ ngọn nguồn, trong lòng đã định bụng nếu y không nói thì sẽ dùng những độc hình khảo đả bức bách cho ra.
Ngờ đâu khi bộ mặt thật lộ ra rồi, hóa ra lại là cô nàng A Châu hình dáng ẻo lả, xinh đẹp dễ thương, quả thật dẫu nằm mơ cũng không tin nổi. Kiều Phong tuy đã từng gặp mặt A Châu, A Bích vài lần, lại cứu hai nàng từ tay các võ sĩ Tây Hạ nhưng nào có biết A Châu giỏi tài hóa trang, giá như Đoàn Dự thì chắc chàng đã đoán ra rồi.
Kiều Phong lúc này đã biết nàng không phải trúng độc, mà chỉ vì bị thương bởi chưởng lực, hơi suy nghĩ một chút đã biết được lý do, lúc trước Huyền Từ phương trượng dùng Phách Không Chưởng đánh tới, mình dùng tấm gương đồng che chở nên không trúng phải A Châu nhưng vì tay trái giơ nàng lên, chưởng lực kinh người kia cũng truyền tới cô gái. Ông nghĩ ra được chuyện đó rồi không khỏi hối hận: “Nếu ta không xen vào chuyện người khác cứ để nàng muốn đến thì đến, muốn đi thì đi thì nàng đã thoát thân rồi, không đến nỗi mắc đại nạn hôm nay”.
Ông trong bụng vốn đã coi trọng Mộ Dung Phục, nể thần nể cả cây đa, đối với người thị tì cũng lấy mắt xanh mà đãi nên nghĩ thầm: “Nàng ta sở dĩ bị trọng thương như thế này cũng chỉ vì mình mà ra. Nói gì thì nói, thể nào cũng phải tìm đến thị trấn, kiếm thầy lang chữa trị cho khỏi mới xong”. Ông bèn nói:
- A Châu cô nương, để ta bồng cô đến thị trấn trị thương.
A Châu đáp:
- Trong túi tôi có thuốc đó.
Nói xong nàng giơ tay lên nhưng không có hơi sức nào thò vào bọc. Kiều Phong lấy các đồ trong túi nàng ra, ngoại trừ một số bạc vụn, thấy có một sợi xích vàng đúc thật tinh xảo, trên sợi xích có khắc hai hàng chữ nhỏ:
Thiên thượng tinh,
Lượng tinh tinh,
Vĩnh xán lạn,
Trường an ninh.
Sao trên trời,
Sáng lấp lánh.
Vĩnh chiếu tỏa,
Mãi an ninh.
Ngoài ra còn có một hộp ngọc nhỏ màu trắng, chính là chiếc hộp Đàm công tặng nàng nơi rừng hạnh. Kiều Phong mừng thầm, biết rằng thương dược này cực kỳ linh nghiệm bèn nói:
- Cứu tính mạng cho cô là quan trọng, xin đừng trách cứ.
Ông bèn đưa tay cởi áo nàng ra lấy Băng Thiềm Cao xoa lên trên ngực. A Châu thẹn đến chín người nhưng không sao tránh né được, vết thương đau nhói lên lại ngất đi.
Kiều Phong mặc áo lại cho cô gái, bỏ chiếc hộp bạch ngọc và chiếc dây xích vàng vào túi nàng, còn số bạc vụn thì bỏ vào túi mình, đưa tay bồng cô ta lên, rảo bước đi về hướng bắc. Đi được độ hơn hai chục dặm, đến một thị trấn lớn nhà cửa sầm uất tên là Hứa Gia Tập. Kiều Phong tìm đến khách điếm lớn nhất, thuê hai phòng, lo liệu cho A Châu nằm yên rồi mới đi mời một thầy thuốc đến khám bệnh.
Thầy lang đó bắt mạch A Châu xong, liên tiếp lắc đầu nói:
- Bệnh của cô nương không có thuốc nào chữa nổi, thang thuốc này tôi cắt chỉ là làm hết sức đấy thôi.
Kiều Phong thấy toa thuốc có các vị cam thảo, bạc hà, cát cánh, ngưu hạ đều là những loại thuốc ôn hòa, đến trị đau bụng cũng không xong. Ông không đi cắt thuốc nghĩ thầm: “Nếu như linh dược của Đàm công ở Xung Tiêu Động trị cũng không được thì thuốc của một lang băm ở thị trấn này có ích lợi gì”. Nói rồi lại vận chân khí, dùng nội lực chuyển vào thân thể nàng. Chỉ trong khoảnh khắc, gò má A Châu lại hồng lên nói:
- Kiều bang chủ, may mà được ông cứu, nếu như rơi vào tay bọn giặc trọc kia thì tính mạng thiếp chắc chẳng còn.
Kiều Phong nghe nàng nói thấy trung khí sung túc rất lấy làm vui mừng:
- A Châu cô nương, ta cứ lo là cô không khỏi được.
A Châu đáp:
- Ông đừng gọi tôi là cô nương chi chi nữa, cứ gọi A Châu không cũng được rồi. Kiều bang chủ, ông tới chùa Thiếu Lâm làm gì vậy?
Kiều Phong đáp:
- Ta nào có còn làm bang chủ nữa đâu, từ rày đừng gọi là bang chủ nữa nhé.
A Châu đáp:
- Ồ, xin lỗi ông. Thôi thiếp gọi ông là Kiều đại gia.
Kiều Phong nói:
- Để ta hỏi cô trước, cô đến chùa Thiếu Lâm để làm gì?
A Châu cười đáp:
- Ồ, nói ra ông đừng cười là tiểu nữ phá quấy, thiếp nghe nói công tử chúng tôi đến chùa Thiếu Lâm nên định đi tìm, nói cho công tử biết chuyện Vương cô nương. Ngờ đâu khi vừa bước chân vào cửa, gã hòa thượng Chỉ Thanh kia đã hầm hầm hung tợn nói là đàn bà con gái không được vào chùa Thiếu Lâm. Thiếp tranh cãi với y một hồi, y lại còn mắng thiếp. Thành thử muốn vào chùa đành phải giả làm y, để xem y làm gì được nào?
Kiều Phong mỉm cười nói:
- Cô cải trang vào được chùa Thiếu Lâm mà các nhà sư không biết cô là đàn bà. Sao cô lúc vào được chùa rồi không lộ bộ mặt thật ra cho những hòa thượng đó coi, bọn họ tức đến vỡ bụng mà chết cũng không làm gì cô được.
Ông vốn đối với các nhà sư Thiếu Lâm cực kỳ tôn kính, nhưng vì nay Huyền Khổ đại sư đã chết rồi thứ nữa quần tăng không hỏi cho ra ngô ra khoai đã vu cho ông ba cái đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy, trong lòng không khỏi hậm hực.
A Châu ngồi thẳng lên, vỗ tay cười nói:
- Kiều đại gia, cái ý đó của ông hay lắm. Để khi nào tiểu nữ khỏi rồi sẽ giả làm đàn ông đi vào chùa, sau đó sẽ mặc lại thành đàn bà, nghênh ngang ngồi giữa Đại Hùng Bảo Điện, chọc cho những nhà sư kia giận đến lăn lộn dưới đất, thế mới thật là thích! A ...
Nàng hơi không đủ, thân hình nhũn ra nằm gục xuống giường, không cử động gì được. Kiều Phong kinh hãi, đưa ngón tay thăm hơi thở, thấy nàng dường như hô hấp hoàn toàn ngừng hẳn. Ông hốt hoảng, vội vàng đưa bàn tay đè vào huyệt Linh Đài ở sau lưng cô gái, đem chân khí truyền vào trong người nàng. Chưa đầy thời gian uống một chén trà, A Châu chầm chậm ngửng đầu lên, cười mủm mỉm nói:
- Chao ôi, sao đang nói chuyện tự nhiên thiếp lại gục xuống ngủ là thế nào? Kiều đại gia, thiếp thật là không phải.
Kiều Phong biết tình hình xem ra không xong bèn nói:
- Cô chưa được khỏe hẳn, thôi ngủ một chút dưỡng thần.
A Châu đáp:
- Thiếp cũng không thấy mệt, có điều ông cực nhọc đêm khuya, xin đi nghỉ một chút cho lại sức.
Kiều Phong đáp:
- Hay lắm, để chốc nữa ta sẽ qua thăm cô.
Ông quay trở lại phòng khách, gọi năm cân rượu và hai cân thịt bò nóng, ngồi ăn uống một mình. Lúc này trong lòng phiền não, uống rượu vào càng dễ say nên khi uống hết chỗ rượu đó đã thấy hơi ngà ngà. Ông cầm hai chiếc bánh bao đem đến phòng A Châu cho cô ta ăn, vào đến phòng gọi luôn hai tiếng không nghe đáp lại liền đến trước giường thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, gò má lõm xuống, dường như đã chết rồi.
Ông đưa tay sờ trán cô gái, cũng may vẫn còn âm ấm vội vàng dùng chân khí cứu chữa. A Châu từ từ tỉnh lại, cầm lấy chiếc bánh, vui vẻ ăn ngay. Đến lúc này, Kiều Phong biết rằng nàng sở dĩ sống được toàn là nhờ mình dùng chân khí tục mệnh, nếu không có chân khí truyền vào người thì chỉ chưa đầy một giờ đã kiệt lực mà chết, nên không biết phải tính sao?
A Châu thấy ông trầm ngâm, mặt lộ vẻ lo lắng bèn nói:
- Kiều đại gia, thiếp bị thương thật là nặng, đến như linh dược của Đàm lão tiên sinh cũng chữa không được, phải không nào?
Kiều Phong vội nói:
- Không, không đâu! Đâu có đến nỗi gì, chỉ nghỉ ngơi vài ngày là khỏe lại ngay.
A Châu đáp:
- Ông đừng nói dối tiện thiếp làm chi. Tự thiếp cũng thấy mình trong người dường như trống không chẳng có chút hơi sức nào cả.
Kiều Phong đáp:
- Cô cứ yên tâm dưỡng bệnh, ta thể nào cũng có cách chữa được cho cô.
A Châu nghe lời nói của ông biết rằng mình bị thương rất nặng, trong lòng không khỏi sợ hãi, tay run lẩy bẩy, chiếc bánh bao ăn dở trong tay rơi bịch xuống đất. Kiều Phong lại tưởng nội lực của nàng hết rồi nên để tay lên trên huyệt Linh Đài.
A Châu lúc này thần trí đã tỉnh táo, thấy một luồng khí ấm áp từ lòng bàn tay ông ta cuồn cuộn truyền vào người mình, lập tức chân tay khớp xương thấy thật dễ chịu. Nàng hơi suy nghĩ liền hiểu ngay mình đã chết đi sống lại mấy lần, đều nhờ được Kiều Phong cứu tỉnh, trong lòng vừa cảm kích lại vừa kinh hoàng. Nàng tuy lanh lợi thật nhưng dẫu sao tuổi cũng còn nhỏ, nước mắt lã chã rơi xuống, nói:
- Kiều đại gia, thiếp không muốn chết, ông đừng bỏ rơi thiếp ở đây.
Kiều Phong nghe nàng nói thật đáng thương, vội vàng an ủi:
- Không thể nào như thế được, cô cứ yên tâm. Kiều Phong này là người thế nào mà lại bỏ rơi một người bạn đang lúc nguy nan?
A Châu đáp:
- Tiểu nữ đâu có xứng đáng làm bạn của ông. Kiều đại gia, liệu thiếp có chết hay chăng? Người chết đi rồi có thành ma quỉ hay không?
Kiều Phong đáp:
- Cô đừng có lo lắng. Cô tuổi còn nhỏ như thế, bị thương nhẹ như thế này làm gì mà chết được?
A Châu đáp:
- Ông không đánh lừa thiếp đấy chứ?
Kiều Phong đáp:
- Không đâu!
A Châu nói:
- Đại gia là nhân vật anh hùng nổi danh trong võ lâm, ai ai cũng nói: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Ông và công tử chúng tôi kẻ nam người bắc ngang ngửa nhau, đã có bao giờ nói mà không làm chưa?
Kiều Phong mỉm cười nói:
- Hồi còn bé, ta cũng hay nói láo. Về sau khi hành tẩu trên giang hồ rồi thì không đánh lừa ai nữa.
A Châu hỏi:
- Ông bảo thương thế của tiểu nữ không nặng, thế chẳng là nói láo là gì?
Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như cô biết mình bị thương nặng thì trong lòng thể nào cũng bồn chồn, chữa bệnh lại càng khó khăn thêm. Vì cô nàng nên nói gì thì nói, cũng đành phải nói láo vậy”. Ông bèn nói:
- Ta không nói láo cô đâu.
A Châu thở dài một tiếng nói:
- Được rồi, thiếp cũng an tâm. Kiều đại gia, tiểu nữ cầu xin ông một việc nhé?
Kiều Phong hỏi:
- Chuyện gì?
A Châu đáp:
- Tối nay ông ở bên cạnh thiếp, đừng đi đâu.
Nàng cho rằng một khi Kiều Phong ra khỏi phòng rồi, liệu chừng mình không sống được tới khi trời sáng. Kiều Phong đáp:
- Được rồi, dẫu cô không nói ta cũng sẽ ngồi bên cạnh đây với cô. Thôi cô đừng nói nữa, ngủ một giấc cho ngon đi.
A Châu nhắm mắt lại, một lát sau lại mở mắt ra nói:
- Kiều đại gia, thiếp không ngủ được, lại xin ông một việc nữa, liệu có được chăng?
Kiều Phong hỏi:
- Chuyện gì thế?
A Châu đáp:
- Khi còn nhỏ mỗi khi thiếp không ngủ được thì mẹ thiếp lại đến bên cạnh giường hát ru cho thiếp nghe. Chỉ cần hát ba bài là thiếp ngủ say ngay.
Kiều Phong mỉm cười:
- Bây giờ đi kiếm mẹ cô chẳng phải là chuyện dễ dàng.
A Châu thở dài một tiếng, buồn bã nói:
- Cha thiếp, mẹ thiếp nào có biết ở đâu, cũng không biết có còn sống hay đã chết. Kiều đại gia, ông hát cho thiếp nghe vài khúc, liệu có được chăng?
Kiều Phong gượng cười, một người đàn ông hùng tráng như ông, nay hát ru cho một cô gái nhỏ ngủ thật chẳng còn ra thể thống gì, bèn đáp:
- Ca hát quả thực ta không biết.
A Châu hỏi lại:
- Thế khi còn nhỏ, mẹ ông không hát ru ông hay sao?
Kiều Phong gãi đầu nói:
- Cái đó thì dường như là có nhưng ta quên hết rồi. Dẫu có nhớ thì ta cũng không biết hát.
A Châu thở dài:
- Nếu ông không chịu hát thì cũng đành vậy biết sao hơn.
Kiều Phong đấu dịu:
- Không phải là ta không chịu hát mà là không biết hát đấy thôi.
A Châu đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vỗ tay reo lên:
- À, được rồi, Kiều đại gia, tiểu nữ lại xin ông một việc khác, lần này ông phải chịu đấy nhé.
Kiều Phong thấy cô gái nhỏ này tính tình thật ngây thơ hồn nhiên, làm chuyện gì cũng thật ngoài dự liệu, nàng nói lại xin một chuyện khác thật không biết là chuyện tinh nghịch quái lạ gì bèn hỏi lại:
- Cô phải nói ra trước, nếu ta làm được thì sẽ làm, còn không làm được thì thôi.
A Châu đáp:
- Chuyện này ở trên đời chỉ cần bốn năm tuổi cũng đều làm được, ông thử xem có dễ dàng không nào?
Kiều Phong không để mắc lừa nàng liền đáp:
- Thế chuyện đó là chuyện gì cô cứ nói rõ trước đi đã.
A Châu cười khúc khích nói:
- Được rồi, vậy ông kể chuyện cho thiếp nghe đi, anh em nhà thỏ cũng được mà mẹ con nhà sói cũng hay, thiếp đều ngủ được.
Kiều Phong nhíu mày, trên mặt lộ vẻ gượng gạo. Mới chẳng bao lâu, ông là một nhân vật khí khái hiên ngang, lãnh tụ quần hùng, bang chủ một đại bang lớn nhất giang hồ. Chỉ mới vài ngày qua, đã bị người ta bãi chức bang chủ trục xuất ra khỏi Cái Bang, cha mẹ, sư phụ ba người thân thiết nhất đều qua đời trong một buổi, đến ngay bản thân mình là Hồ hay là Hán, thân thế cũng chưa minh bạch, lại mang tội phản nghịch giết ba người thân bao nhiêu việc cùng đổ lên đầu, chẳng một ai chia xẻ vui buồn, âu cũng đành chịu. Ngờ đâu nơi khách điếm này, lại bầu bạn một tiểu cô nương để cô đòi ca hát, kể chuyện, những việc ỉ ôi ăn không ngồi rồi như thế, trước đây ông chỉ nghe nửa câu đã bưng tai bỏ đi. Ông bình sinh chỉ thích cùng bạn bè uống rượu, đánh đố, nhậu nhẹt rức lác, càng vui càng hăng, nếu không thì cũng đàm luận chuyện quân quốc đại sự, nói chuyện thiên hạ anh hùng. Có bao giờ kể chuyện anh em nhà thỏ mẹ con nhà sói cho người nghe, quả là nực cười.
Thế nhưng chỉ trong một chớp mắt, ông chợt nhìn thấy khuôn mặt A Châu dung nhan tiều tụy đăm đăm trông đợi, nghĩ thầm: “Nàng bị thương nặng như thế, xem chừng khó mà qua khỏi được, chỉ dứt một hơi thở là táng mạng ngay. Nàng muốn nghe kể chuyện, thôi ta cứ thuận miệng kể cho nàng nghe”. Ông liền nói:
- Được rồi, để ta kể chuyện cho cô nghe, chỉ sợ chuyện không hay thôi.
A Châu vui mừng ra mặt nói:
- Thể nào cũng hay lắm, mau mau kể đi.
Kiều Phong tuy nhận lời nhưng bảo ông kể chuyện thì cũng chưa biết nói gì, một lát sau mới nói:
- Thôi, để ta kể chuyện con sói nhé. Ngày xửa ngày xưa có một ông già đi chơi ở trong núi trông thấy một con chó sói bị người ta trói bỏ trong một chiếc bao vải. Con chó sói mới khẩn khoản xin ông lão thả nó ra, ông già liền cởi chiếc bao cho con chó sói ra. Con chó sói ...
A Châu ngắt lời:
- Con chó sói mới bảo là mình đang đói, đòi ăn thịt ông già, phải không nào?
Kiều Phong đáp:
- Ồ, thì ra truyện này cô nghe rồi.
A Châu đáp:
- Đó là chuyện con sói ở trong rừng. Tiểu nữ không thích nghe truyện trong sách, thiếp muốn nghe truyện ngoài đời kia.
Kiều Phong ngẫm nghĩ rồi nói:
- Không phải truyện trong sách mà là truyện ngoài đời. Được rồi, để ta kể một truyện cậu bé nhà quê cho cô nghe.
Ngày xưa, nơi chân núi có một gia đình rất nghèo, hai vợ chồng chỉ có một đứa con trai. Khi đứa trẻ lên bảy, thân thể thật là cao lớn, đã đi theo cha lên núi chặt củi được rồi. Một hôm, người cha bị bệnh mà nhà thì nghèo quá không dám đi mời thầy lang, cũng không có tiền mua thuốc.
Thế nhưng người cha bệnh mỗi ngày một nặng thêm, không uống thuốc thì không xong, người mẹ đành đem sáu con gà mái, một rổ trứng đem ra chợ bán.
Bán tất cả gà lẫn trứng được bốn tiền, người mẹ mới đi mời thầy lang. Thế nhưng thầy lang kia lại bảo rằng, đường vào trong núi xa quá không muốn đi xem bệnh, người mẹ hết sức cầu khẩn nhưng gã thầy lang vẫn nhất mực lắc đầu.
Người mẹ lại quì xuống van lạy, thầy lang mới nói: “Đến xem bệnh ở nơi thâm sơn cùng cốc như thế, chẳng bõ cái công bị nhiểm lam sơn chướng khí. Có bốn tiền thì chữa trị được bao nhiêu?”. Người mẹ mới níu vạt áo thầy lang, gã liền giằng ra, ngờ đâu bà ta nắm chặt quá, nghe soẹt một tiếng chiếc áo rách ngay một mảnh dài. Thầy lang đó giận quá, mới xô người mẹ ngã lăn ra, lại đá bồi thêm một cái rõ mạnh, nhất định bắt đền nói là áo này mới may, đáng giá hai lượng bạc.
A Châu nghe tới đây, nhỏ nhẹ nói:
- Gã thầy lang đó quả là quá ư độc ác.
Kiều Phong ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ đang tối dần, chậm rãi nói:
- Thằng bé ở bên cạnh mẹ, thấy mẹ nó bị người ta hiếp đáp, liền xông lên, vừa đánh vừa cắn tên thầy lang. Thế nhưng y chỉ là một đứa bé, có bao nhiêu sức lực nên bị thầy lang kia xách lên, vứt ra ngoài cửa. Người mẹ vội vàng chạy ra xem con mình thế nào, gã thầy lang sợ người đàn bà tiếp tục rầy rà liền đóng chặt cổng lại. Đứa bé trán bị đụng vào một tảng đá, chảy bao nhiêu là máu. Người mẹ sợ rắc rối nào có dám gõ cửa nhà thầy lang bắt đền, chỉ vừa khóc mếu vừa dắt con về nhà.
Đứa bé kia khi đi ngang một tiệm đồ sắt, thấy trên sạp bày đầy các loại dao dùng để giết bò giết heo. Người thợ rèn khi đó đang lo việc mời chào khách mua cày mua bừa, không để ý, đứa bé liền len lén ăn cắp một con dao nhọn, dấu dưới áo, đến mẹ nó cũng không hay biết gì cả.
Về tới nhà rồi, người mẹ mới kể lại mọi chuyện cho người cha nghe, lại sợ người cha bực mình bệnh sẽ nặng thêm, mới lấy bốn lượng bạc ra giao cho ông ta, ngờ đâu khi thò vào túi thì không còn thấy tiền bạc đâu nữa.
Người mẹ vừa hoảng hốt vừa lạ lùng mới chạy ra hỏi con, thấy đứa bé tay cầm một con dao sáng loáng, đang mài trên tảng đá liền hỏi: “Con dao đó ở đâu mà có?”. Thằng bé đâu có dám thú nhận là mình ăn trộm nên nói dối là người ta cho nó. Mẹ nó dĩ nhiên không tin, thứ dao mới như thế mua ở chợ cũng phải tiền rưỡi, hai tiền, ai lại dại gì đem cho một đứa trẻ?
Hỏi y ai cho, thằng bé ấp úng không trả lời được. Bà mẹ mới thở dài nói: “Con ơi! Ba mẹ nghèo khổ, bình thường chẳng bao giờ mua đồ chơi cho con, quả thật tủi cho con quá. Con mua con dao đó để chơi, thân con trai cũng không có gì không phải. Thế nhưng tiền còn dư con đưa lại cho mẹ, cha con bị bệnh mình mua miếng thịt nấu canh cho cha con ăn”. Thằng bé nghe thế liền trợn mắt hỏi lại: “Tiền dư nào?”. Người mẹ nói: “Thế bốn tiền của mình, con lấy đi mua dao rồi, phải không nào?”. Đứa trẻ hốt hoảng kêu lên: “Con không có lấy tiền, con không có lấy tiền”. Cha mẹ y trước nay chưa hề đánh mắng y, tuy chỉ là một đứa trẻ mấy tuổi nhưng cũng coi y như một người khách, lúc nào cũng thật nể nang ...
Kiều Phong nói đến đây, chợt chột dạ: “Vì sao lại thế nhỉ? Trên đời này cha mẹ đối với con cái đâu có ai như thế bao giờ, dẫu có thương yêu nuông chiều, cũng chẳng hề nể nang khách sáo đến thế”. Ông lẩm bẩm nói một mình:
- Vì sao lại có chuyện lạ lùng như thế?
A Châu hỏi lại:
- Có gì mà lạ lùng?
Nàng nói đến hai tiếng sau cùng hơi thở chỉ còn mong manh như tơ. Kiều Phong biết chân khí trong người nàng đã kiệt, lập tức giơ chưởng đè lên lưng cô gái, đem nội lực truyền vào. A Châu tinh thần tạm khôi phục, thở dài nói:
- Kiều đại gia, mỗi lần ông truyền khí cho thiếp, nội lực của mình lại tiêu hao một phần. Người luyện võ chân khí nội lực là quan trọng hơn cả, ông đối với tiểu nữ như thế, A Châu ... làm sao đáp đền được?
Kiều Phong cười nói:
- Ta chỉ cần tĩnh tọa thổ nạp vài giờ thì nội lực chân khí lại trở lại bình thường, có gì đâu mà nói chuyện báo đáp? Ta với chủ nhân các cô Mộ Dung công tử thiên lý thần giao, tuy chưa từng gặp nhau nhưng lòng ta đã coi y như bạn bè rồi. Cô là người nhà y, việc gì phải coi ta như người xa lạ?
A Châu u uẩn nói:
- Cứ mỗi một giờ, chân khí của tiểu nữ lại từ từ cạn sạch, đại gia chẳng thể nào ... chẳng thể nào mãi mãi ...
Kiều Phong nói:
- Cô cứ yên tâm, thể nào mình cũng kiếm được một thầy lang y đạo cao minh, trị lành thương thế cho cô.
A Châu mỉm cười:
- Chỉ sợ thầy lang đó thấy thiếp nghèo khổ, lại sợ nhiễm lam sơn chướng khí, không chịu chữa bệnh cho. Kiều đại gia, câu chuyện ông kể còn dở dang, có cái gì gọi là kỳ quái?
Kiều Phong đáp:
- Ồ, ta buột miệng lỡ lời đấy mà. Người mẹ thấy thằng bé không nhận, cũng chẳng nói thêm, quay trở vào phòng. Một hồi sau, đứa trẻ mài dao xong đi vào thấy người mẹ đang thì thầm với cha nói là y ăn cắp tiền mua dao rồi nhưng lại không nhận. Cha y nói: “Đứa trẻ đó ở với chúng ta trước nay chẳng có gì chơi, nếu nó thích gì thì cứ mặc kệ, mình chớ để nó thêm tủi”. Hai người vừa nói tới đây thấy thằng bé đi vào, lập tức im bặt. Người cha vui vẻ xoa đầu y nói: “Con ngoan, từ rày đi chơi nhớ cẩn thận, sao để va vào đâu đau đến thế?”. Việc mất bốn lượng bạc và việc y mua con dao, cha y không nhắc đến một câu, cũng không tỏ ra chút gì gọi là không vui cả.
Thằng bé tuy chỉ mới bảy tuổi đầu nhưng đã sớm biết, nghĩ thầm: “Cha mẹ ta nghi mình ăn cắp tiền đi mua dao, thà rằng hai người hầm hầm đánh ta một trận, chửi ta một chốc, ta cũng chẳng buồn. Quả thật hai người thương ta thật”. Y trong lòng không an mới nói với cha: “Cha, con không lấy tiền, con dao này không phải con mua đâu!”. Người cha nói: “Mẹ con nhiều chuyện, không kiếm thấy tiền thì cũng đã sao? Việc gì mà phải tra hỏi ầm nhà ầm cửa, đúng là đàn bà lòng dạ nhỏ nhen. Hảo hài tử, đầu con có đau lắm không?”. Thằng bé đành trả lời: “Không sao cả!”. Y toan lên tiếng biện bạch nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu thành thử trong bụng ấm ức, bỏ cả cơm chiều chui vào giường ngủ.
Y nằm trên giường trăn trở qua lại, không cách nào ngủ được, lại nghe tiếng mẹ khóc rấm rứt, chắc là lo cha bị bệnh nặng thêm, thêm bực tức chuyện ban ngày bị gã thầy lang kia chửi mắng đánh đập. Thằng bé bèn len lén trở dậy, nhảy cửa sổ ra ngoài, đi suốt đêm đến thị trấn tới trước nhà tên thầy lang. Căn nhà đó cửa trước cổng sau đều đóng chặt không cách nào vào được. Thằng bé thân hình nhỏ bèn theo lỗ chó chui vào, thấy một căn phòng ánh đèn chiếu qua giấy dán cửa sổ, hóa ra gã thầy lang chưa ngủ còn đang sắc thuốc. Thằng bé đẩy cửa ...
A Châu lo cho đứa trẻ vội nói:
- Thằng bé đó đang đêm lẻn vào nhà người ta, e rằng sẽ bị lôi thôi.
Kiều Phong lắc đầu:
- Không đâu. Gã thầy lang nghe tiếng người mở cửa, chẳng thèm ngửng lên chỉ hỏi: “Ai đó?”. Thằng bé không trả lời, đi tới gần, rút con dao nhọn đâm luôn một nhát. Người nó thấp, nhát dao trúng ngay bụng thầy lang, y chỉ hự được một tiếng rồi ngã lăn ra.
A Châu rú lên một tiếng, kinh hãi hỏi:
- Thằng bé đó đâm chết ông thầy thuốc ư?
Kiều Phong gật đầu nói:
- Đúng thế. Thằng nhỏ lại chui lỗ chó ra, quay trở về nhà. Trong đêm tối đi về mấy chục dặm quả là mệt mỏi. Sáng sớm hôm sau, người nhà thầy lang mới phát giác y đã chết, vỡ bụng lòi ruột thật là thảm khốc. Thế nhưng cửa trước cửa sau vẫn đóng chặt, then cài bên trong, hung thủ từ bên ngoài làm sao vào được? Ai cũng nghi người trong nhà làm chuyện này, quan tri huyện liền sai bắt hết anh em, vợ con gã thầy thuốc đem ra tra khảo thẩm vấn, náo loạn cả đến mấy năm, nhà tên thầy lang đó hóa ra tan tành. Vụ đó trở thành một nghi án nơi Hứa Gia Tập.
A Châu hỏi:
- Ông nói Hứa Gia Tập? Người thầy thuốc đó ... ở ngay tại thị trấn này ư?
Kiều Phong đáp:
- Đúng thế! Gã thầy lang đó họ Đặng, vốn là y sinh nổi tiếng nhất thị trấn này, mấy huyện quanh đây đều biết đến. Nhà y ở tại phía tây, trước kia tường cao trắng toát, hiện nay tàn phá cả rồi. Lúc nãy ta đi mời thầy lang lại xem bệnh cho cô, có đi ngang nhà đó coi nên biết thế.
A Châu hỏi thêm:
- Thế còn người cha bị bệnh thì sao? Bệnh rồi có khỏi không?
Kiều Phong đáp:
- Về sau một nhà sư chùa Thiếu Lâm mang thuốc đến, trị bệnh cho ông ta.
A Châu nói:
- Thế ra chùa Thiếu Lâm cũng có những nhà sư tốt.
Kiều Phong nói:
- Dĩ nhiên là có. Chùa Thiếu Lâm có mấy nhà sư tâm địa nhân hậu, cốt cách hiệp nghĩa, quả đáng cho người ta kính phục.
Ông nói đến đây trong lòng se lại, nghĩ đến thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư. A Châu “Ồ” lên một tiếng, trầm ngâm nói:
- Gã thầy lang kia coi người nghèo chẳng ra gì, không coi tính mệnh họ vào đâu, dĩ nhiên là đáng ghét thật nhưng tội cũng chẳng đáng chết. Thằng bé kia cũng thật là ngang ngược. Thiếp quả không sao tin nổi, một đứa bé mới bảy tuổi đầu đã dám ra tay giết người hay sao? A, Kiều đại gia, đó là ông kể chuyện xưa chứ không phải thật, đúng không?
Kiều Phong đáp:
- Chuyện đó có thật đấy.
A Châu thở hắt ra một hơi, nhỏ nhẹ nói:
- Thứ trẻ con hung dữ như thế, chắc là ác nhân người Khất Đan.
Kiều Phong đột nhiên run bắn người, nhảy dựng lên nói:
- Cô ... cô nói cái gì?
A Châu thấy ông mặt mày biến sắc, trong lòng kinh hãi nhưng chợt hiểu ra, bèn chữa:
- Kiều đại gia, Kiều đại gia, xin lỗi ông, thiếp ... thiếp không phải cố ý nói chạm đến ông. Quả thật không cố ý ...
Kiều Phong ngơ ngẩn một hồi rồi ngồi phịch xuống nói:
- Chắc cô đoán được rồi?
A Châu gật đầu. Kiều Phong nói:
- Những điều vô tình nói ra mới là thực lòng. Ta ra tay hạ thủ chẳng dung tình, có thực là vì thuộc giòng giống Khất Đan chăng?
A Châu dịu dàng đáp:
- Kiều đại gia, A Châu nói năng lăng nhăng, ông đừng để bụng làm chi. Gã thầy lang kia đá mẹ ông, ông còn nhỏ đã anh hùng khí khái, giết y đi là phải.
Kiều Phong hai tay ôm đầu nói:
- Cũng chẳng phải chỉ vì y đá mẹ ta, mà là vì y làm cho ta bị nghi oan. Bốn tiền của mẹ ta chắc là khi lôi lôi kéo kéo đã rơi mất. Ta ... ta trong đời ghét nhất là bị nghi oan.
Vậy mà trong mới một ngày, ông đã bị ba mối oan lớn. Chính mình có phải là người Khất Đan không, cũng không còn cách nào biết được, còn vợ chồng Kiều Tam Hòe và Huyền Khổ đại sư rõ ràng không phải ông ta giết nhưng ai cũng đổ riệt cho ông cái ba đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy. Thế hung thủ thật sự là ai? Người hãm hại ông là ai?
Ngay lúc đó ông lại nghĩ tới một chuyện: “Tại sao cả cha lẫn mẹ ta đều nói, ta ở với hai người thật đáng tủi? Cha mẹ nghèo, làm con dĩ nhiên phải chịu, có gì mà tủi hay không tủi? E rằng mình không phải là con ruột hai người, mà do người ngoài gửi làm con nuôi, ắt người ủy thác việc này thân phận cực cao, thành thử cha mẹ mới đối với ta nể nang như thế, không phải chỉ nể nang mà còn kính trọng. Người nhờ cha mẹ ta nuôi ta đó là ai? Chắc hẳn là Uông bang chủ rồi”.
Cha mẹ ông đối với ông thật khác xa người khác đối với con ruột mình, ông bản tính tinh minh đáng ra phải thấy được rồi. Có điều từ bé đã vậy nên coi là bình thường, dù có lanh lợi đến mấy cũng chẳng nghĩ đến, chỉ nghĩ rằng cha mẹ mình tính tình hiền hậu ôn hòa mà thôi. Đến bây giờ nghĩ lại, xem ra mọi việc đều chứng thực rằng mình là giòng giống Khất Đan.
A Châu cất tiếng an ủi:
- Kiều đại gia, người ta bảo ông là người Khất Đan, tiểu nữ xem ra toàn là điều vu oan giá họa. Không nói gì ông nhân nghĩa khẳng khái, bốn bể nghe danh, chỉ riêng việc ông đối với một đứa tiểu a hoàn chẳng vào đâu như thiếp mà cũng hết lòng hết dạ chăm lo, người Khất Đan tàn độc như lang như hổ, so với ông một trời một vực, làm sao sánh được?
Kiều Phong nói:
- A Châu, nếu như quả ta là người Khất Đan, cô có còn để cho ta lo liệu nữa không?
Lúc đó người Hán ở Trung Thổ đối với người Khất Đan căm hận vô cùng, coi chẳng khác gì độc xà mãnh thú. A Châu chưng hửng nói:
- Ông đừng nghĩ ngợi vẩn vơ, chuyện đó không thể nào xảy ra được. Nếu như bộ tộc Khất Đan có được một người tốt như ông thì chúng ta còn thống hận họ làm gì?
Kiều Phong lặng thinh không nói, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu như quả ta là người Khất Đan, đến một đứa tiểu a hoàn như A Châu cũng chẳng thèm nhìn nhõi nữa”. Chỉ trong một giây, ông thấy đất trời tuy rộng nhưng mình thật không có chỗ dung thân. Trong đầu những điều suy nghĩ dạt dào dâng lên như sóng biển, trong ngực khí huyết sục sôi, biết rằng vì mình tiếp khí cho A Châu mấy bận nên nội lực tiêu hao không phải là ít, lập tức xếp bằng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường, chậm rãi vận khí thổ nạp.
A Châu cũng nhắm mắt dưỡng thần.
Kiều Phong vận công một hồi lâu, bỗng nghe ở phía tây bắc có hai tiếng lạch cạnh truyền tới, biết là có người trong võ lâm chạy trên mái nhà, kế tiếp phía đông nam cũng có tiếng động. Khi nghe tiếng động phía tây bắc, Kiều Phong cũng không để tâm nhưng khi cả hai bên kẻ tung người hứng như thế, ắt hẳn có kẻ vì mình mà đến đây. Ông hạ giọng nói nhỏ với A Châu:
- Ta ra ngoài một lát, sẽ quay lại ngay, cô không việc gì phải sợ.
A Châu gật đầu. Kiều Phong không thổi tắt đèn, cửa phòng vốn dĩ mở he hé, ông nghiêng người lẻn ra, vòng ra ngoài cửa sổ hậu viện, đứng nép sát vào tường.
Chỉ nghe từ một căn phòng trong khách điếm ở phía đông có tiếng người vọng ra:
- Có phải Hướng bát gia đấy chăng? Xin mời xuống đây.
Người ở phía tây bắc cười nói:
- Quan Tây Kỳ lão lục cũng đã đến rồi.
Người trong phòng đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Xin tất cả vào đi.
Trên nóc nhà hai người lần lượt nhảy xuống, đi vào trong phòng. Kiều Phong nghĩ thầm: “Quan Tây Kỳ lão lục được người đời gọi là Khoái Đao Kỳ Lục, là một hảo hán nổi tiếng đất Quan Tây. Còn Hướng bát gia kia là Hướng Vọng Hải đất Tương Đông, nghe nói y là người trượng nghĩa sơ tài, võ công cao cường. Hai người này đâu phải là phường gian hiểm, cũng chẳng dây dưa gì đến ta, ắt không phải vì mình mà đến đây, hóa ra mình nghi lầm. Người trong phòng giọng nghe quen quen, không biết là ai?”.
Chỉ nghe Hướng Vọng Hải nói:
- Diêm Vương Địch Tiết Thần Y đột nhiên phát thiếp anh hùng, mời tất cả đồng đạo giang hồ, chắc hẳn có chuyện khẩn bách, trong đó nói là “anh hào kiến thiếp, tiện thỉnh giá lâm”. Bào đại ca, liệu ngươi có biết chuyện gì chăng?
Kiều Phong nghe đến “Diêm Vương Địch Tiết Thần Y” lập tức vừa mừng vừa lo: “Tiết Thần Y cũng ở gần đây sao? Ta vẫn tưởng y ở tận Cam Châu, nếu như ở vùng này thì cô tiểu a đầu A Châu có cơ cứu được”.
Ông đã từng nghe Tiết Thần Y là thánh thủ số một trong y giới hiện nay, chỉ vì hai tiếng “thần y” quả nổi tiếng nên cái tên thật của y là gì người ta cũng không biết nữa. Truyền thuyết trên giang hồ vốn dĩ hay thổi phồng, nói là đến người chết y cũng cứu sống được, còn người sống thì dù bị thương nặng tới đâu, bệnh khó tới mức nào, y cũng có cách chữa, thành thử Diêm Vương ở dưới âm tào địa phủ cũng khó chịu, mỗi lần sai quỉ vô thường đi bắt người đều bị Tiết Thần Y ở bên cạnh ngăn trở, chặn đường đoạt mất. Tiết Thần Y y đạo đã như thần mà võ công cũng ghê gớm. Y thích kết giao cùng bằng hữu giang hồ, mỗi khi trị bệnh cho ai đều thỉnh giáo đối phương một vài chiêu võ công. Đối phương cảm cái ân cứu mạng, khi truyền thụ dĩ nhiên chẳng dấu diếm gì nên dạy y những công phu đắc ý nhất.
Lại nghe Khoái Đao Kỳ Lục hỏi:
- Bào lão bản , lâu nay có buôn bán được món gì khá không?
Kiều Phong nghĩ thầm: “Thảo nào người trong phòng nghe tiếng quen quá, thì ra là Một Bản Tiền Bào Thiên Linh. Người này chuyên lấy của người giàu cho người nghèo, cũng có đôi chút hiệp danh, năm xưa khi ta tiếp nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, y cũng có đến tham dự ”.
Ông biết được trong phòng có ba người Hướng Vọng Hải, Kỳ Lục, Bào Thiên Linh nên không màng tới việc nghe lén chuyện của người khác nghĩ thầm: “Sáng mai mình đến xin gặp Bào Thiên Linh, hỏi y xem Tiết Thần Y hiện đang ở đâu”. Ông vừa toan quay về phòng, bỗng nghe Bào Thiên Linh thở dài một tiếng nói:
- Ôi, mấy hôm nay lòng ta thật xót xa, chẳng còn hứng thú mua bán gì nữa, hôm nay lại nghe thêm y giết cha, giết mẹ, giết thầy bao nhiêu là chuyện ác, càng thêm bực bội.
Nói tới đây y giơ tay vỗ mạnh lên bàn một cái. Kiều Phong nghe nói đến “giết cha, giết mẹ, giết thầy”, trong lòng chột dạ tự hỏi: “Y nói đến ta chăng?”. Hướng Vọng Hải nói:
- Kiều Phong trước nay tiếng tăm thật lừng lẫy, giả nhân giả nghĩa, biết bao nhiêu người bị y lừa, có ai ngờ đâu y dám làm những tội ác tầy trời như thế.
Bào Thiên Linh nói:
- Năm xưa khi y xuất nhiệm bang chủ Cái Bang, ta với y cũng đã có duyên gặp gỡ. Người đó xưa nay ta vẫn mười phần bội phục. Nghe Triệu lão tam nói y là giòng giống Khất Đan, chính ta cũng hết sức cãi lại, khiến cho Triệu lão tam đỏ mặt tía tai, giận đến hai bên đánh nhau một trận. Ôi, giống người Di Địch, quả nhiên có khác gì cầm thú, y có dấu được một thời nhưng rồi về sau tính tình hung dữ lại bộc phát ra.
Kỳ Lục nói:
- Nào ai biết rằng y xuất thân từ phái Thiếu Lâm, Huyền Khổ đại sư lại là sư phụ của y.
Bào Thiên Linh nói:
- Chuyện này vốn dĩ cực kỳ bí mật, đến người trong phái Thiếu Lâm cũng chẳng mấy ai biết đến. Thế nhưng Kiều Phong giết sư phụ y rồi, phái Thiếu Lâm đâu có còn dấu được nữa. Tên ác tặc họ Kiều kia tưởng rằng giết cha giết mẹ giết thầy là có thể dấu được lai lịch xuất thân của y, gặp ai cứ chối biệt là xong, có ngờ đâu khéo quá hóa vụng, tội nghiệt càng lúc càng to.
Kiều Phong đứng bên ngoài song cửa, nghe Bào Thiên Linh đoán già đoán non bụng dạ mình nghĩ thầm: “ Một Bản Tiền Bào Thiên Linh với ta nghĩ ra cũng có chút giao tình, người này đâu có phải bạ đâu nói đó, thế mà chính y cũng còn nhận định như vậy, huống hồ người khác thì còn tin tới đâu. Ôi, Kiều mỗ bị cái tiếng oan không sao rửa sạch, việc gì phải phí công giãi bày cùng ai? Chi bằng từ nay mai danh ẩn tích, mươi năm sau thì bằng hữu giang hồ chẳng còn ai nhớ tới mình, thế là xong”. Chỉ trong một thoáng bao nhiêu hùng tâm tan ra mây khói.
Lại nghe Hướng Vọng Hải nói:
- Cứ như huynh đệ đoán, Tiết Thần Y gửi Anh Hùng Thiếp, chắc là để thương nghị làm thế nào đối phó với Kiều Phong. Vị Diêm Vương Địch này ghét kẻ ác như kẻ thù, lại nghe y với hai vị Huyền Nạn, Huyền Tịch đại sư của chùa Thiếu Lâm giao tình rất hậu.
Bào Thiên Linh nói:
- Đúng thế! Ta cũng nghĩ là trên giang hồ gần đây ngoài hành vi tàn ác của Kiều Phong ra có còn chuyện gì lớn nữa đâu. Hướng huynh, Kỳ huynh, mau mau lại đây, tối nay bọn mình uống cạn vài cân rượu trắng, gác chân nói chuyện một phen.
Kiều Phong nghĩ thầm bọn họ nói chuyện đến sáng mai, chắc cũng chỉ thêm dầu thêm mỡ chửi rủa mình suốt đêm mà thôi, không muốn nghe thêm, quay trở về phòng A Châu. A Châu thấy ông mặt mày tái nhợt, trông thật khó coi liền hỏi:
- Kiều đại gia, ông gặp phải kẻ địch chăng?
Nàng tỏ vẻ lo lắng sợ ông bị nội thương. Kiều Phong lắc đầu, A Châu lúc ấy mới yên tâm hỏi thêm:
- Ông không bị thương đấy chứ?
Kiều Phong từ khi bước chân vào chốn giang hồ chỉ có bạn bè kính trọng, địch nhân sợ hãi, làm gì có bao giờ như mấy hôm nay bị người ta khinh bỉ coi thường, nghe A Châu hỏi han như thế, lập tức tính cao ngạo nổi lên lớn tiếng nói:
- Không sao. Cái bọn vô tri tiểu nhân vu oan giá họa cho Kiều mỗ thì dễ chứ ra tay đả thương ta thì chẳng dễ đâu.
Ông đột nhiên chợt nảy ra một mối hùng tâm khí khái bèn nói:
- A Châu, ngày mai ta sẽ đi kiếm một danh y nổi tiếng nhất thiên hạ về trị thương cho cô, cô cứ yên tâm ngủ đi.
A Châu thấy thần thái cao ngạo và tính khí của ông, trong lòng không khỏi kính ngưỡng, lại cũng sợ hãi, thấy người trước mặt mình đây hoàn toàn khác hẳn Mộ Dung công tử dẫu rằng hai người đều chẳng sợ trời, không sợ đất, đều cùng kiêu ngạo, lại cùng thần khí uy nghi. Thế nhưng Kiều Phong hùng tráng hào khí ngất trời chẳng khác gì một con hùng sư, còn Mộ Dung Phục nho nhã tiêu sái như một con phượng hoàng.
Kiều Phong tâm ý đã quyết, không còn nghĩ ngợi gì thêm, ngồi xuống ghế liền ngủ ngay. A Châu nhìn ánh đèn vàng vọt chiếu trên mặt ông, chỉ một chốc đã nghe tiếng ngáy khò khò, bỗng nhiên thấy Kiều Phong nghiến răng, bắp thịt trên mặt hơi giựt giựt, quai hàm vuông gồng cứng lên. A Châu cảm thấy người đàn ông hùng tráng trước mặt mình xem ra thật đáng thương, so với mình còn bất hạnh hơn nhiều.
Sáng sớm hôm sau, Kiều Phong dùng nội lực tiếp khí cho A Châu, trả tiền quán xong rồi sai tiểu nhị đi thuê một cỗ xe lừa. Ông đỡ A Châu ngồi lên xe, sau đó đi đến bên ngoài phòng của Bào Thiên Linh, lớn tiếng nói:
- Bào huynh, tiểu đệ Kiều Phong bái kiến.
Bào Thiên Linh, Hướng Vọng Hải và Kỳ Lục ba người ngồi chửi Kiều Phong cả đêm, mệt quá còn đang nằm ngủ, lúc đó chưa dậy, nghe tiếng Kiều Phong bên ngoài, ai nấy hoảng hồn, cùng nhảy khỏi giường, kẻ rút đao, người cầm kiếm, kẻ nhặt tiên. Ba người binh khí trong tay rồi, ai nấy ngơ ngẩn, thấy binh khí của mình người nào cũng có gắn một mảnh giấy nhỏ, trên viết bốn chữ “Kiều Phong bái thượng” . Ba người nhìn nhau, trong bụng kinh hãi, biết rằng đêm qua khi đang ngủ đã bị Kiều Phong đùa một mẻ, nếu như muốn lấy mạng ba người thật dễ như trở bàn tay.
Trong ba người thì Bào Thiên Linh quả thật hổ thẹn, y có ngoại hiệu là Một Bản Tiền ban ngày đi rình nhà này nhà khác, tối đến phi thiềm tẩu bích lẻn vào, lấy tiền trộm bạc là bản lĩnh độc đáo của y, ngờ đâu đêm hôm lại bị Kiều Phong chơi khăm, đến sáng bạch mới hay biết.
Bào Thiên Linh quấn nhuyễn tiên vào lưng, biết rằng nếu như Kiều Phong muốn lấy mạng mình thì đêm qua đã ra tay rồi, nên xông ra trước của nói:
- Cái đầu trên cổ của Bào Thiên Linh này, Kiều huynh lúc nào muốn lấy thì cứ tự tiện mà lấy. Bào mỗ làm cái nghề không vốn, sống chết trong tay Kiều huynh, cũng chẳng đáng gì. Các hạ đến phụ thân, mẫu thân, sư phụ cũng chẳng tha, cái giao tình nhạt như vôi với Bào mỗ ra tay còn phải dung tình gì nữa?
Y nhìn thấy mảnh giấy gắn trên nhuyễn tiên nên đã có chủ ý, biết ngày hôm nay sự việc cực kỳ hung hiểm, thà rằng cứ ngang tàng hết sức rồi đến đâu thì đến chứ chạy cũng không xong, chi bằng đem tính mạng giao cho y còn hơn. Kiều Phong vòng tay nói:
- Ngày nào nơi phủ Thanh Châu đất Sơn Đông từ biệt nhau, thắm thoát đã mấy năm rồi, Bào huynh phong thái vẫn còn như xưa, quả thật đáng mừng.
Bào Thiên Linh cười ha hả đáp:
- Cũng là sống lây lất đến ngày hôm nay mà chưa chết đấy thôi.
Kiều Phong nói:
- Nghe nói Diêm Vương Địch Tiết Thần Y phát thiếp anh hùng nên tại hạ cũng muốn đến xem một chút, đi cùng với ba vị liệu có được chăng?
Bào Thiên Linh ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Tiết Thần Y phát thiếp anh hùng chính là để đối phó với ngươi, bộ ngươi không muốn sống nữa hay sao mà lại một thân một mình vác xác tới chẳng biết có dụng ý gì? Ta thường nghe Kiều bang chủ của Cái Bang gan đã to mà lại tinh tế, trí dũng song toàn, nếu chẳng phải ỷ mình không sợ thì lẽ nào đưa thân vào lưới, ta đời nào để mắc hỡm của ngươi”.
Kiều Phong thấy y ngần ngừ không trả lời bèn nói:
- Kiều mỗ có việc phải cầu đến Tiết Thần Y, xin phiền Bào huynh dẫn đường.
Bào Thiên Linh nghĩ bụng: “Ta đang lo chạy không thoát độc thủ của y, đem y dẫn đến anh hùng yến, quần hào vây đánh, dù có ba đầu sáu tay thì cũng quả bất địch chúng. Có điều cùng y đi chung một đường thì vẫn là chín phần chết một phần sống”. Tuy y trong bụng phập phồng nhưng nghĩ dẫn Kiều Phong đến Anh Hùng Hội cũng vẫn hay bèn nói:
- Bữa tiệc anh hùng đại yến đó ở Tụ Hiền Trang, ở phía đông bắc cách đây bảy mươi dặm. Kiều huynh muốn đi thì thật hay lắm. Bào Thiên Linh này có lời nói trước, cái hội này cũng chẳng phải hay ho gì, mà bữa tiệc này cũng chẳng vui vẻ, Kiều huynh đi đến đây dữ nhiều lành ít, đừng trách Bào Thiên Linh này không nói từ đầu”.
Kiều Phong thản nhiên cười nói:
- Hảo ý của Bào huynh, Kiều mỗ xin tâm lãnh. Anh hùng yến thết tại Tụ Hiền Trang, vậy thì chủ nhân có phải Du thị song hùng chăng? Tụ Hiền Trang ở đâu hỏi thăm cũng dễ, vậy xin ba vị đi trước, tiểu đệ để một giờ nữa, chầm chậm đi theo cũng chưa muộn, cũng để cho mọi người có thời gian chuẩn bị.
Bào Thiên Linh quay lại nhìn Kỳ Lục và Hướng Vọng Hải, hai người chậm rãi gật đầu. Bào Thiên Linh nói:
- Nếu đã vậy, ba người chúng ta ở Tụ Hiền Trang cung kính đón chờ đại giá của Kiều huynh.
Bào, Kỳ, Hướng ba người lật đật trả tiền trọ, nhảy lên ngựa, ra roi chạy thẳng về phía Tụ Hiền Trang. Trên đường hết sức rong ruổi, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn lại chỉ sợ Kiều Phong cưỡi khoái mã, từ sau chạy đến, nhưng may sao trước sau vẫn không thấy ai đuổi theo. Bào Thiên Linh dĩ nhiên là người tâm cơ linh mẫn, còn Kỳ Lục và Hướng Vọng Hải cũng là những nhân vật hào khách giang hồ lịch duyệt nhiều, kiến văn rộng rãi. Thế nhưng trên đường ca ba bàn tán, suy luận nhưng vẫn không hiểu được tại sao Kiều Phong lại một thân một mình xông vào anh hùng yến để làm gì.
Kỳ Lục bỗng nói:
- Bào đại ca, đại ca có thấy cỗ xe lớn ở bên cạnh Kiều Phong chăng? Bên trong hẳn có chuyện gì kỳ lạ.
Hướng Vọng Hải nói:
- Không lẽ bên trong có mai phục một nhân vật nào lợi hại chăng?
Bào Thiên Linh đáp:
- Dẫu rằng trong xe có chất thật đầy, lèn không thở nổi cùng lắm cũng chỉ được bảy tám mạng, thêm Kiều Phong nữa chung qui cũng chỉ mười người, đến anh hùng yến thì cũng có khác gì thuyền con vào trong sóng cả, có làm được gì đâu?
Còn đang nói chuyện, trên đường đi ba người gặp võ lâm đồng đạo mỗi lúc một đông, ai ai cũng đi đến Tụ Hiền Trang để tham dự anh hùng yến. Lần này anh hùng yến cận ngày mời bất ngờ, người mời cũng không để tên, trên thiếp lại không để tên khách, ai nhận được miễn là người trong võ lâm thì đều được hoan nghênh.
Người nhận được thiếp cũng suốt ngày đêm dùng khoái mã chuyển giao cho bạn bè quen biết, người nọ truyền người kia, chỉ mới một ngày một đêm mà đã truyền đi thật xa. Thế nhưng vì thời giờ cấp bách, những người đến Tụ Hiền Trang được phần lớn là ở trong khoảng vài trăm dặm phía tả chùa Thiếu Lâm. Thế nhưng Hà Nam là đất trung châu, ngoài người võ lâm bản địa, phía bắc phía nam ai nghe được tin này cũng đều lên đường đi ngay thành ra số người tham gia không phải là ít.
anh hùng yến lần này do Du Thị Song Hùng của Tụ Hiền Trang liên danh với Diêm Vương Địch Tiết Thần Y cùng mời. Mặc dầu Du Thị Song Hùng Du Ký, Du Câu giàu có hào hiệp, giao du rất rộng, võ công đã cao siêu mà tiếng tăm cũng vang dội nhưng cũng không có một thế lực đáng kể trong võ lâm, không thể coi là đức cao vọng trọng để mời được bấy nhiêu anh hùng hảo hán. Thế nhưng Tiết Thần Y lại là người mà ai ai cũng muốn kết giao. Người học võ ai ai chẳng tự phụ nhưng cũng chẳng mấy người dám tự cho mình là thiên hạ vô địch thủ, mà dẫu có thực là võ công đệ nhất đời nay, cũng không thể nào nói rằng suốt đời không bệnh tật, bị thương. Nếu được kết bạn với vị Tiết Thần Y này thì có khác gì có thêm một tính mạng nữa, nếu không chết ngay tại chỗ, Tiết Thần Y đã ra tay chữa rồi thể nào cũng chết đi sống lại.
Thành thử những ai nhận được thiếp của Du Thị Song Hùng cũng thấy mình được nở mày nở mặt, huống hồ lại có cả tên Tiết Thần Y trên đó, thật có khác gì một đạo bùa cứu mệnh đâu. Ai nấy nghĩ thầm, hôm nay có dịp làm quen với ông ta, người sống trên đàu đao mũi kiếm ai dám chắc mình không có chuyện gì, đến khi sơ xẩy lẽ nào Tiết Thần Y lại bỏ mặc không lý tới?
Trên danh thiếp ngoài Tiết Mộ Hoa, Du Ký, Du Câu ba cái tên đó chỉ có thêm một hàng chữ nhỏ:
Du Ký, Du Câu phụ bạch: Tiết Mộ Hoa tiên sinh nhân xưng Tiết Thần Y.
Nếu như không có hàng chữ nhỏ đó, người nhận được thiếp chắc cũng chẳng biết Tiết Mộ Hoa là cao nhân phương nào, số người đến Tụ Hiền Trang mười phần chắc chưa được ba bốn.
Bào Thiên Linh, Kỳ Lục, Hướng Vọng Hải ba người đến được trang rồi, Du lão nhị, Du lão câu đích thân ra đón. Vào đến đại sảnh, trong phòng đã ngồi đầy những người. Bào Thiên Linh có người quen, có người không quen nhưng vừa bước chân vào bốn phía đã nhao nhao lên, ai cũng:
- Bào lão bản, phát tài chứ?
- Lão Bào, độ này làm ăn khá không?
Bào Thiên Linh luôn tay vái chào, hỏi thăm anh hùng các lộ. Y không dám sơ suất chút nào, trong số nhân vật giang hồ đông đảo thế này, kẻ tâm địa hẹp hòi cũng không phải là ít, chỉ cần quên gật đầu chào, hay thiếu một nụ cười đáp lễ, không chừng gây chuyện với người ta để sau này mang họa vào thân, có khi mất mạng, cũng không phải là chuyện lạ gì.
Du Câu đưa y đến người ngồi chủ vị phía đông, Tiết Thần Y liền đứng lên nói:
- Bào huynh, Kỳ huynh, Hướng huynh ba vị đại giá quang lâm, thực chẳng khác gì nạm vàng lên mặt lão hủ, thật là cảm kích.
Bào Thiên Linh vội vàng đáp lễ nói:
- Tiết lão gia tử đã gọi đến, Bào Thiên Linh này dù có bệnh liệt giường liệt chiếu cũng phải cho người dìu đến.
Du lão đại Du Ký cười nói:
- Nếu quả như bệnh liệt giường liệt chiếu thì lại càng cần cho người dìu đến gặp Tiết lão gia tử.
Người chung quanh nghe thế ai nấy cười ha hả. Du Câu nói:
- Ba vị đường xa khổ cực, xin mời ra hậu sảnh ăn lót dạ.
Bào Thiên Linh nói:
- Điểm tâm ăn chậm một chút cũng không sao, tại hạ có việc muốn hỏi. Tiết lão gia tử và hai vị Du gia lần này mời khách, có Kiều Phong trong đó không?
Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng nghe thấy hai chữ “Kiều Phong” ai nấy mặt mày biến sắc. Du Ký nói:
- Chúng tôi phát thiếp vô danh, ai thấy thì mời đến. Bào huynh đề cập đến Kiều Phong, là có ý gì vậy? Bào huynh và gã Kiều Phong cũng có chút giao tình, phải vậy không nào?
Bào Thiên Linh đáp:
- Gã Kiều Phong kia nói là sẽ đến Tụ Hiền Trang để tham dự anh hùng đại yến.
Y vừa nói ra, quần hùng ai nấy rúng động. Trong đại sảnh mọi người vốn dĩ đang tràng ba khoát bảy, ăn to nói lớn, đột nhiên ai nấy im phăng phắc. Một số người ngồi xa xa không nghe Bào Thiên Linh nói gì, bỗng thấy mọi người bặt tiếng đang nói dở chừng cũng ngừng lại lắng nghe. Chỉ trong giây lát, trong đại sảnh không còn một tiếng ong ve đến nỗi tiếng người đang ăn uống dưới hậu sảnh cũng truyền theo hành lang vọng lên tận nhà trên.
Tiết Thần Y hỏi:
- Bào huynh làm sao biết được là Kiều Phong sẽ đến?
Bào Thiên Linh đáp:
- Thì chính tại hạ lẫn hai vị Kỳ huynh, Hướng huynh đều chính tai nghe thấy. Nói ra quả hổ thẹn, tối qua chúng tôi bị một mẻ rõ thật ê chề.
Hướng Vọng Hải nhìn y liên tiếp nháy mắt, muốn dặn y đừng kể lại chuyện xấu đêm rồi. Thế nhưng Bào Thiên Linh biết Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng đền là những người tinh minh lanh lợi, trong anh hùng hội cũng vô khối kẻ tài trí, mình dẫu có muốn dấu thì chỉ làm người ta sinh nghi. Đây là việc vô cùng hệ trọng, mình đã bị mắc vào trong vũng nước xoáy rồi, chỉ cần sơ sẩy không khéo một chút là sẽ thân bại danh liệt ngay. Y chậm rãi cởi ở thắt lưng ra cây nhuyễn tiên, mảnh giấy có viết bốn chữ “Kiều Phong bái thượng” kia vẫn còn dính nơi đó. Y liền hai tay nâng chiếc roi đưa cho Tiết Thần Y, nói:
- Kiều Phong sai ba người tại hạ đến chuyển lời rằng hôm nay sẽ đến Tụ Hiền Trang.
Sau đó y kể lại đã gặp Kiều Phong ra sao, nói năng những gì nhất nhất thuật lại không dấu một mảy. Hướng Vọng Hải đứng bên cạnh liên tiếp dậm chân, mặt mày đỏ như gấc chín.
Bào Thiên Linh kể hết đầu đuôi rồi, sau cùng mới nói:
- Gã Kiều Phong kia là giống cẩu chủng Khất Đan, dẫu có đại nhân đại nghĩa chăng nữa thì chúng ta cũng phải trừ đi, huống chi ác tính đã lộ ra rồi, để càng ngày càng thêm nặng. Nếu như y cao chạy xa bay thì cũng chẳng dễ gì đuổi bắt. Thế nhưng trời cao có mắt, y lại tự mình bước vào chỗ lưới đang giăng.
Du Câu trầm ngâm đáp:
- Vẫn thường nghe Kiều Phong trí dũng song toàn, tài ba đủ để làm việc đại ác, đâu phải kẻ mãng phu lẽ nào lại dám đến anh hùng đại yến hay sao?
Bào Thiên Linh đáp:
- E rằng y đã có gian mưu nên không thể không đề phòng. Lắm người nhiều kế, tất cả bên mình cùng nhau bàn thảo tính toán xem ra thế nào.
Còn đang nói chuyện bên ngoài đã đến thêm rất nhiều anh hùng hào kiệt, trong đó có cả Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính cùng năm người con trai, hai vợ chồng Đàm công, Đàm bà lẫn cả Triệu Tiền Tôn. Chẳng mấy chốc, phái Thiếu Lâm có Huyền Nạn, Huyền Tịch hai vị cao tăng, ai ai cũng được Tiết Thần Y cùng Du thị huynh đệ đón tiếp một cách vui vẻ. Kể lại những điều tàn ác của Kiều Phong người nào cũng hết sức phẫn nộ.
Bỗng nhiên quản gia đón khách tiến vào bẩm báo:
- Cái Bang Từ trưởng lão tất lãnh Truyền Công, Chấp Pháp cùng bốn vị Tống Hề Trần Ngô các trưởng lão cùng đến bái trang.
Mọi người ai nấy rùng mình. Cái Bang là bang hội lớn nhất giang hồ, quả thật đáng gờm. Hướng Vọng Hải nói:
- Cái Bang tất cả kéo đến đây, chắc hẳn là để thanh viện cho Kiều Phong.
Đơn Chính nói:
- Kiều Phong đã phá môn xuất bang rồi, không còn là bang chủ Cái Bang nữa, chính mắt tại hạ thấy bọn họ đã quay mặt đá nhau rồi.
Hướng Vọng Hải nói:
- Thế nhưng tình xưa nghĩa cũ, chưa hẳn đã quên đâu.
Du Ký nói:
- Các vị trưởng lão Cái Bang ai cũng là những nam tử hiên ngang khẳng khái, lẽ nào không phân trái phải lại đi bảo hộ cho kẻ thù? Nếu như đến để tương trợ cho Kiều Phong thì chẳng hóa ra thành kẻ Hán gian bán nước hay sao?
Mọi người ai nấy gật đầu, cùng nói:
- Dẫu có là phường chẳng ra gì cũng chẳng ai lại cam tâm để thành kẻ giặc Hán gian bán nước.
Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng cùng bước ra ngoài trang đón khách, thấy Cái Bang đến chỉ độ mười hai, mười ba người nên cũng yên bụng, nghĩ thầm: “Chẳng nói gì bọn ăn mày đến không phải để bảo hộ Kiều Phong, mà dẫu chúng có bụng không tốt thì mười hai mười ba người cũng chẳng làm được trò trống gì”. Quần hùng cùng Từ trưởng lão chỉ chào hỏi qua loa rồi mời vào đại sảnh, thấy người trong Cái Bang mặt mày không vui, rõ ràng trong bụng có điều gì phải lo âu.
Hai bên chia chủ khách ra ngồi, Từ trưởng lão mở lời trước:
- Tiết huynh, Du gia hai vị lão đệ, hôm nay kêu gọi quần hùng đến đây, có phải để đối phó với cái mầm họa mới của võ lâm là Kiều Phong đó chăng?
Mọi người nghe ông ta gọi Kiều Phong là “mầm họa mới của võ lâm”, ai nấy đưa mắt nhìn nhau, không ai bảo ai cùng thở phào một tiếng. Du Ký đáp:
- Chính là thế đó. Từ trưởng lão và chư vị trưởng lão của quí bang cùng đến, quả thực đại hạnh cho võ lâm. Chúng tôi muốn giết tên Phiên cẩu đó thì phải được sự chấp thuận của chư trưởng lão, nếu không lỡ có chuyện gì sai sót, làm tổn thương hòa khí thì không khỏi cả đôi bên đều ăn năn.
Từ trưởng lão thở dài một tiếng nói:
- Gã đó táng tận lương tâm phát điên phát cuồng, hành động càn rỡ. Vốn dĩ y đã lập nhiều đại công cho bản bang, gần đây nhất chúng tôi bị gian nhân ám toán cũng nhờ y ra tay cứu cho. Thế nhưng đại trượng phu lập thân xử thế, cốt lấy đại thể làm trọng, cái tiểu ân tiểu huệ kia cũng đành phải gác qua một bên. Y là kẻ tử thù của Đại Tống chúng ta, các trưởng lão bản bang tuy ai cũng đã từng được y đối đãi tử tế, nhưng đâu có thể vì ơn riêng mà bỏ nghĩa công cho được. Người ta có câu đại nghĩa diệt thân , huống chi y nào có phải thân thích gì của người trong bản bang đâu.
Ông ta nói ra câu đó, quần hùng ai nấy vỗ tay khen ngợi. Du Ký lúc đó mới nói đến việc Kiều Phong muốn đến tham dự anh hùng đại yến, các trưởng lão nghe xong ai nấy ngạc nhiên, mọi người ai cũng đã theo Kiều Phong lâu ngày, biết ông xưa nay không bao giờ hành sự hữu dũng vô mưu, nếu quả đơn thương độc mã đến Tụ Hiền Trang thì quả là một chuyện lạ.
Hướng Vọng Hải đột nhiên nói:
- Tôi nghĩ gã Kiều Phong kia cố ý bày nghi trận, để cho tất cả chúng ta ngồi đây ngóng cổ chờ, còn y cúp đuôi chạy mất tiêu đâu rồi. Cái đó gọi là kế Kim Thiền Thoát Xác.
Ngô trưởng lão giơ tay đấm một cái thật mạnh lên bàn, chửi liền:
- Thoát cái mả mẹ ngươi chứ Kim Thiền với chả Kim Thiền. Kiều Phong là hạng người như thế nào mà lại nói ra rồi không giữ lời cơ chứ?
Hướng Vọng Hải bị y chửi mặt đỏ tía tai, giận dữ đáp:
- Ngươi định bênh Kiều Phong đấy hả? Hướng mỗ đây nhất định không chịu, có giỏi ra đây hai đứa thử một keo cho biết.
Ngô trưởng lão nghe nói Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết sư phụ rồi lại đại náo chùa Thiếu Lâm, trong lòng hết sức uất ức, bụng nóng như thiêu, chưa biết đổ lên đầu ai, gã Hướng Vọng Hải này lại ở đâu nhảy ra khiêu chiến, quả thật cầu còn chưa được. Y lạng người một cái, nhảy vọt ngay vào đình viện trước sảnh, lớn tiếng nói:
- Kiều Phong là cẩu chủng Khất Đan hay đường đường là người Hán, lúc này đã ai biết chắc đâu? Nếu quả y là Khất Đan Hồ Lỗ, Ngô mỗ sẽ là người đầu tiên sống mái với y. Muốn giết Kiều Phong đến thứ một nghìn cũng chưa đến lượt thằng khốn kiếp kia. Ngươi là cái giống gì mà đến đây rức lác ỏm tỏi, thoát cái vỏ ve sầu thối con bà ngươi ấy à? Vác xác lại đây để ông dạy cho mày một trận.
Hướng Vọng Hải vốn dĩ đã tím mặt rồi, nghe roạt một tiếng rút ngay đơn đao ra khỏi bao, nhìn đến binh khí lập tức nhớ đến tờ giấy có ghi “Kiều Phong bái thượng”, không khỏi ngẩn ngơ. Du Ký vội can:
- Hai vị đều là tân khách của Du mỗ, xin nể mặt họ Du này, đừng để mất hòa khí.
Từ trưởng lão cũng nói:
- Ngô huynh đệ, hành sự không nên ngang ngược, phải giữ thanh danh cho bản bang.
Trong đám người bỗng dưng có kẻ nào đó lẩm bẩm nói:
- Cái Bang có được một nhân vật như Kiều Phong, thanh danh quả là lừng lẫy, phải cố làm sao giữ cho chu toàn.
Quần hào Cái Bang nghe nói thế, ai nấy lao xao quát hỏi:
- Đứa nào nói gì thế?
- Có giỏi thì thò mặt ra, trốn trong đám đông có gì là hảo hán?
- Thằng chó đẻ khốn kiếp nào đó?
Kẻ kia nói xong câu đó rồi im bặt nên chẳng ai biết đó là người nào. Bọn Cái Bang bị người ta mỉa mai phúng thích ai nấy cực kỳ bực tức nhưng vì không kiếm ra thủ phạm nên cũng đành chịu chẳng làm sao hơn. Cái Bang tuy là đệ nhất đại bang trên giang hồ nhưng bang chúng đều là dân bị gậy, có biết gì là lễ nghĩa đâu nên kẻ thì chửi rủa, có người lại lôi tổ tông mười tám đời ra mà réo.
Tiết Thần Y nhíu mày nói:
- Các vị tạm nén giận, nghe lão hủ nói một lời.
Người trong Cái Bang nghe thế mới dần dần dịu lại. Trong đám người bỗng lại nghe một giọng lạnh tanh:
- Giỏi thật, Kiều Phong phái bao nhiêu là tay lợi hại như thế đến nằm vùng, thể nào mình chẳng được coi một màn tuồng thật hay.
Bọn Ngô trưởng lão nghe nói thế lại càng bực tức, loạt soạt liên tiếp, ánh sáng lập lòe, rất đông người đã rút binh khí ra cầm trên tay. Các tân khách lại tưởng Cái Bang sắp giở trò gì nên cũng vội lấy võ khí, tiếng quát tháo la ó rầm rầm như chợ vỡ. Tiết Thần Y và Anh em nhà họ Du vội vàng khuyên nhủ mọi người bình tâm nhưng tiếng của ba người chỉ càng làm đại sảnh thêm huyên náo.
Trong khi mọi người còn đang nhốn nháo, một người quản gia lại chạy vào đến bên cạnh Du Ký, ghé tai nói nhỏ mấy câu. Du Ký mặt liền biến sắc, hỏi lại gì đó. Gã quản gia chỉ về phía cửa, trên mặt đầy vẻ kinh hãi lẫn ngạc nhiên. Du Ký lại nói thầm với Tiết Thần Y một câu, mặt Tiết Thần Y cũng lập tức thay đổi. Du Câu đến bên cạnh anh, Du Ký cũng nói với y một câu, Du Câu cũng xem chừng hoảng hốt. Cứ thế một người truyền ra hai, hai người truyền ra bốn, bốn truyền ra tám càng lúc càng nhanh, chỉ trong giây lát tất cả đại sảnh đều lặng yên không một tiếng động. Tất cả người nào người nấy đều nghe cùng một câu:
- Kiều Phong bái trang!
Tiết Thần Y quay sang nhìn anh em họ Du gật đầu, lại quay sang Huyền Nạn, Huyền Tịch hai nhà sư liếc một cái nói:
- Xin mời vào!
Gã quản gia kia liền quay người hấp tấp đi ra.
Quần hào ai nấy trống ngực đánh thình thình, tuy biết rằng bên mình người đông thế mạnh, tất cả cùng xông cả lên thì chỉ chớp mắt đã băm vằm Kiều Phong ra thành trăm mảnh nhưng người đó uy danh không phải nhỏ, một mình đến đây, hiển nhiên hữu thị vô khủng không đoán được ngoài ra y còn có âm mưu gì khác.
Tất cả yên lặng đợi chờ, chỉ nghe tiếng vó lộp cộp cùng tiếng bánh xe nghiến trên đường đá lào xào, một cỗ xe lừa chậm rãi vượt qua đại môn tiến thẳng vào trong. Hai anh em họ Du nhíu tít đôi lông mày, xem chừng kẻ kia không hề úy kị, cực kỳ vô lễ.
Lại nghe lạch cạch mấy tiếng, chiếc thùng xe đã vượt qua ngạch cửa, ngồi tại vị trí đánh xe là một đại hán roi cầm trong tay. Chiếc xe lừa màn che phủ xuống, không biết bên trong có chứa những gì, nhưng quần hào không hẹn mà cùng đăm đăm nhìn vào xa phu.
Người đó mặt vuông thân hình cao to, vai rộng ngực nở, ánh mắt đầu mày không giận mà đầy vẻ uy nghiêm chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong.
Kiều Phong để chiếc roi nơi chỗ ngồi, xuống xe ôm quyền thi lễ nói:
- Đã nghe Tiết Thần Y cùng Du thị huynh đệ thiết anh hùng đại yến tại Tụ Hiền Trang, Kiều mỗ chẳng được dự phần hào kiệt Trung Nguyên nên nào dám mặt dạn mày dày đến dự. Chỉ vì hôm nay có việc gấp phải đến cầu Tiết Thần Y nên mạo muộn tới đây, mong được thứ tội.
Nòi xong vái một cái thật sâu, thần thái cực kỳ cung kính. Kiều Phong càng tỏ ra lễ mạo, mọi người càng tin là ông đã an bài âm mưu ngụy kế. Du Câu vẫy tay một cái, bốn tên môn hạ đệ tử lẳng lặng lẻn ra xem xét trước sau trang viện xem có gì khác lạ. Tiết Thần Y chắp tay đáp lễ nói:
- Kiều huynh có chuyện gì khiến tại hạ phải lập công?
Kiều Phong lùi lại hai bước, vén chiếc màn xe, đưa tay đỡ A Châu ra nói:
- Chỉ vì tại hạ hành sự lỗ mãng khiến cho tiểu cô nương này bị trúng phải chưởng lực của người khác nên bị trọng thương. Trên đời này ngoài Tiết Thần Y ra, không ai có thể chữa nổi nên đành mạo muội chạy đến đây xin thần y cứu mạng.
Quần hào khi thấy chiếc xe lừa bụng đầy nghi hoặc, đoán già đoán non, bên trong phải có điều gì quỉ quái, kẻ thì cho rằng chứa độc dược thuốc súng, người thì tưởng độc xà mãnh thú chi đây, hoặc giả cha mẹ vợ con của Tiết Thần Y bị Kiều Phong bắt được đem đến làm con tin, không ai dám ngờ đây chỉ là một cô gái mười sáu, mười bảy đưa đến nhờ trị thương thành ra ai nấy đều kinh ngạc.
Thiếu nữ mặc áo màu vàng nhạt, gò má nhô cao quả thực khó coi. Thì ra A Châu nghĩ rằng nhà Mộ Dung có rất nhiều ân oán giang hồ, nếu vị Tiết Thần Y kia biết được lai lịch có khi không chịu chữa thành thử ở Hứa Gia Tập mua quần áo, ngồi trong xe sửa đổi dung mạo, chỉ vì thầy thuốc ắt phải xem mạch coi bệnh, giả thành đàn ông hoặc đàn bà trung niên thì không xong.
Tiết Thần Y nghe ông nói mấy lời đó, quả thật ra ngoài dự liệu. Trong đời ông, việc thiên hạ đường xa vạn dặm chạy đến cầu chữa bệnh là chuyện hết sức bình thường, ngày nào gần như cũng có, thế nhưng ở đây mọi người đang toan tính việc bắt giết Kiều Phong thì kẻ hung đồ vô ác bất tác, thần nhân cộng phẫn kia lại tự nhiên đến nạp mạng, khiến cho khó có ai tin nổi.
Tiết Thần Y đưa mắt nhìn trên nhìn dưới tính toán xem A Châu xem hạng người nào, thấy nàng dung mạo xấu xí, còn ít tuổi, Kiều Phong không thể nào bị sắc đẹp của đứa trẻ con đó làm cho mê hoặc. Ông ta đột nhiên tự hỏi: “Hay cô gái này là em y chăng? Hừ, không thể được, đến cha mẹ cùng thầy dạy y còn hạ độc thủ, lẽ nào lại vì đứa em gái mà mạo hiểm cái vạ sát thân. Không lẽ đây là con gái y? Thế nhưng có nghe nói gì về việc y lấy vợ đâu?”.
Ông ta tinh thông y đạo, thể chất hình mạo dù ai cũng chỉ trông qua là biết ngay có gì đặc biệt, thấy Kiều Phong và A Châu hai người, một người tráng kiện to cao, người kia yểu điệu ốm yếu, không có chút nào tương tự, xem ra không có máu mủ ruột thịt gì. Ông hơi trầm ngâm, hỏi lại:
- Cô nương này tôn tính là gì? Có liên hệ gì với các hạ chăng?
Kiều Phong ngỡ ngàng, ông từ khi biết A Châu chỉ biết gọi nàng là A Châu, không biết có phải họ Châu hay không, bèn quay lại hỏi:
- Cô họ Châu phải không nhỉ?
A Châu mỉm cười đáp:
- Tôi họ Nguyễn.
Kiều Phong gật đầu nói:
- Tiết Thần Y, thì ra cô ta họ Nguyễn. Tới lúc này tôi mới biết.
Tiết Thần Y lại càng kỳ quái, hỏi thêm:
- Nếu như thế, các hạ và cô nương này không phải chỗ thâm giao?
Kiều Phong đáp:
- Cô ta là a hoàn của một vị bằng hữu.
Tiết Thần Y nói:
- Thế vị bằng hữu của các hạ là ai? Ắt hẳn hai người tình như cốt nhục, nếu không đâu có lẽ nào quí nhau đến thế.
Kiều Phong lắc đầu:
- Vị bằng hữu đó tại hạ chỉ mới thần giao, trước nay chưa hề gặp mặt.
Ông vừa nói câu đó ra, quần hào trong sảnh ai nấy ”Ồ” lên một tiếng. Có đến quá nửa số người không tin trên đời có chuyện như thế, chẳng qua ông chỉ lấy cớ để làm trò quỉ quái gì đây. Thế nhưng cũng lắm người biết Kiều Phong xưa nay không hề nói láo nên dẫu đã có những hành vi tàn nhẫn ác độc nhưng tự trọng thân phận lẽ nào lại công khai dối trá đánh lừa người ta.
Tiết Thần Y giơ tay ra bắt mạch cho A Châu, thấy nàng mạch nhảy rất yếu nhưng trong người lại có chân khí thúc đẩy, hai đằng không tương xứng chút nào, đưa tay bắt thêm mạch bên trái, hiểu ngay lý do, quay sang nói với Kiều Phong:
- Vị cô nương này nếu chẳng nhờ có linh dược trị thương của Đàm công Thái Hàng Sơn, lại được các hạ dùng nội lực tục mệnh thì đã chết vì Đại Kim Cương chưởng lực của Huyền Từ đại sư từ lâu rồi.
Quần hùng nghe thế lập tức rúng động. Đàm công, Đàm bà mặt mày ngơ ngác nghĩ thầm: “Cô ta sao lại có được linh dược trị thương của chúng ta?”. Huyền Nạn, Huyền Tịch nhị tăng lại càng lạ lùng, bụng bảo dạ: “Phương trượng sư huynh có khi nào lại dùng Đại Kim Cương Chưởng đánh một cô gái nhỏ bao giờ? Nếu quả thực cô ta trúng phải chưởng lực của sư huynh thì làm sao còn sống cho được?”. Huyền Nạn nói:
- Tiết cư sĩ, phương trượng sư huynh của chúng tôi mấy năm qua chưa hề ra khỏi chùa, mà chùa Thiếu Lâm xưa nay không cho đàn bà con gái vào thăm, môn Đại Kim Cương Chưởng này quyết không phải do sư huynh chúng tôi hạ thủ.
Tiết Thần Y nhíu mày nói:
- Trên đời này lẽ nào còn có ai khác biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng?
Huyền Nạn, Huyền Tịch lặng thinh không đáp. Hai người ở trong chùa Thiếu Lâm đã mấy chục năm nay, cùng với Huyền Từ học chung một thầy, dụng công không phải không cần, dụng tâm không phải không khổ, thế nhưng chỉ vì thiên tư hữu hạn môn Đại Kim Cương Chưởng này vẫn không sao luyện thành.
Hai người không vì thế mà tiếc nuối, biết rằng phái Thiếu Lâm hàng trăm năm mới có một kỳ tài luyện được chưởng pháp này. Cũng may là yếu quyết luyện công các loại đều được các cao tăng đời trước ghi chú kỹ càng trong võ kinh, thành thử có khi cả chùa không ai luyện được nhưng tuyệt kỹ đó không thất truyền.
Huyền Tịch định hỏi: “Có quả thực cô ta trúng phải Kim Cương Chưởng hay chăng?” nhưng lời vừa ra đến cửa miệng liền cố nén lại, vì câu hỏi đó đưa ra có khác gì nghi ngờ y đạo của Tiết Thần Y, như vậy quả là đại bất kính nên quay sang hỏi Kiều Phong:
- Đêm hôm qua ông lẻn vào chùa Thiếu Lâm giết hại sư huynh ta là Huyền Khổ đã thử đỡ một Đại Kim Cương Chưởng của sư huynh ta. Chưởng đó nếu đánh vào tiểu cô nương thì còn làm sao sống được?
Kiều Phong lắc đầu:
- Huyền Khổ đại sư là ân sư của tại hạ, đại ân của sư phụ chưa báo đáp được, Kiều mỗ thà phải bỏ mình cũng chẳng dám động một ngón tay vào ân sư.
Huyền Tịch giận dữ nói:
- Ngươi còn chối nữa chăng? Thế còn việc ngươi bắt cóc nhà sư Thiếu Lâm thì sao? Việc đó không lẽ cũng không phải ngươi làm?
Kiều Phong nghĩ thầm: “Nhà sư Thiếu Lâm kia ta bắt cóc đang ở ngay trước mặt chứ đâu” bèn nói:
- Đại sư bảo mỗ bắt cóc một cao tăng chùa Thiếu Lâm, thế vị đại sư đó là ai thế?
Huyền Tịch và Huyền Nạn hai người nhìn nhau, ấp a ấp úng không ai nói được. Đêm hôm qua, Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Nạn ba người hợp kích Kiều Phong, nhưng ông ta chạy thoát được, quả thực thấy ông ta bắt theo một nhà sư thế nhưng sau kiểm tra tăng chúng thì lại không thiếu một ai, việc đó quả là quái lạ, suy nghĩ mãi cũng không ra.
Tiết Thần Y xen vào:
- Kiều huynh một thân một mình, đêm qua vào chùa Thiếu Lâm mà không tổn một sợi lông, sợi tóc, lại còn bắt được một vị cao tăng đem đi, quả thật là lạ. Trong đó ắt có điều gì khác lạ, những điều ông nói ra hẳn có điều chưa nói hết, chưa nói thật.
Kiều Phong đáp:
- Huyền Khổ đại sư không phải do tại hạ làm hại, mà đêm hôm qua tại hạ cũng chẳng bắt một vị cao tăng trong chùa ra. Các vị có nhiều điều chưa rõ ràng, tại hạ cũng có nhiều điều còn thắc mắc.
Huyền Nạn nói:
- Nói gì thì nói, tiểu cô nương này không thể do phương trượng sư huynh chúng ta đả thương. Phương trượng sư huynh là một cao tăng hữu đạo, địa vị chưởng môn một phái, lẽ nào lại ra tay đánh một cô bé con? Dù tiểu cô nương đây có muôn vàn chuyện sai quấy thì sư huynh chúng ta cũng không chấp nhất.
Kiều Phong trong bụng nảy ra một ý: “Hai nhà sư này kiên quyết không chịu nhận rằng A Châu bị Huyền Từ phương trượng đả thương thì lại càng tốt. Nếu không, Tiết Thần Y nể mặt phái Thiếu Lâm sẽ không chịu chữa bệnh cho cô ta”. Ông thuận nước đẩy thuyền liền tiếp:
- Đúng đó, Huyền Từ phương trượng lòng dạ từ bi, quyết không thể nào ra tay hại một tiểu cô nương như thế. Chắc hẳn có kẻ nào mạo xưng cao tăng chùa Thiếu Lâm, khích bác xúi bẩy ra tay đánh người bừa bãi.
Huyền Tịch và Huyền Nạn nhìn nhau, chầm chậm gật đầu bụng nghĩ: “Gã Kiều Phong kia tuy gian ác thật nhưng mấy câu này quả là hữu lý”. A Châu trong lòng cười thầm:
- Kiều đại gia nói không câu nào sai cả, quả là có người mạo xưng làm sư chùa Thiếu Lâm, khích bác xúi bẩy ra tay đánh người bừa bãi. Thế nhưng nào có phải mạo xưng Huyền Từ phương trượng mà là nhà sư Chỉ Thanh”. Thế nhưng Huyền Tịch, Huyền Nạn, Tiết Thần Y và những người khác làm sao đoán ra được những ẩn ý trong câu nói đó.
Tiết Thần Y nghe thấy Huyền Tịch, Huyền Nạn hai vị cao tăng cùng quả quyết như thế ắt hẳn không sai liền nói:
- Thì ra trên đời này cũng còn có người khác biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng. Người đó khi ra tay bị vật gì chắn đỡ nên chưởng lực mười phần bị tiêu giảm đến bảy tám cho nên Nguyễn cô nương mới không chết ngay tại chỗ. Người này chưởng lực hùng hồn, xem ra cũng ngang ngửa với Huyền Từ phương trượng.
Kiều Phong trong lòng bội phục: “Quả thực chưởng của Huyền Từ phương trượng bị ta dùng tấm gương đồng chặn lại, làm tiêu giảm quá nửa chưởng lực. Vị Tiết Thần Y này quả là y đạo như thần, chỉ mới bắt mạch A Châu không thôi đã nói được tình hình hai bên ra chiêu động thủ không sai một mảy, xem ra ông ta quả có tài trị bệnh cho A Châu”. Ông nghĩ thế mặt lộ vẻ vui mừng nói:
- Nếu vị tiểu cô nương này chết vì chưởng lực Đại Kim Cương thì thanh danh của phái Thiếu Lâm thể nào cũng bị hoen ố, xin Tiết Thần Y mở dạ từ bi.
Nói xong ông vái một cái thật dài. Huyền Tịch không đỡi Tiết Thần Y trả lời, hỏi A Châu:
- Ra tay đả thương cô nương là ai thế? Thí chủ bị thương ở địa phương nào? Người đó bây giờ đang ở đâu?
Ông ta cố bảo toàn thanh danh của phái Thiếu Lâm, lại tưởng trên đời nếu quả có người biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng thì phải hỏi cho ra lẽ, tới nơi tới chốn. Thiên tính A Châu cực kỳ ngang bướng đâu có phải như Kiều Phong câu nào cũng phải mực thước chín chắn, còn nàng nói năng trên trời dưới đất, qua lại vặn vẹo như cơm bữa, trong lòng tính toán: “Những nhà sư này đều ngại công tử nhà ta, chi bằng nói ra cho bọn họ sợ một mẻ”. Nàng liền nói:
- Người đó là một thanh niên công tử, tướng mạo thật tiêu sái anh tuấn, tuổi chừng hăm tám hăm chín. Tiểu nữ đang cùng Kiều đại gia ở trong khách điếm đàm luận y thuật xuất thần nhập hóa của Tiết Thần Y, không nói gì đời nay không ai sánh kịp mà phải nói là không tiền tuyệt hậu, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả, đến cả thần tiên trên trời cũng chưa bằng ...
Ở đời có ai lại không ưa nghe người khác nịnh mình, Tiết Thần Y từ trước đến nay nghe không biết bao nhiêu người tán dương xưng tụng nhưng thanh âm líu lo réo rắt từ miệng một thiếu nữ thì đây mới là lần đầu, huống chi nàng lại hết sức khoa trương khiến cho người thầy thuốc nghe mà bất giác vuốt râu mỉm cười. Kiều Phong nghe vậy lại nhíu mày: “Làm gì có chuyện đó? Con nhãi con này chỉ giỏi ba hoa thiên địa”.
A Châu lại tiếp:
- Khi đó tiểu nữ mới nói rằng: “Nếu trên đời này có một người như vị Tiết Thần Y kia, chúng mình việc gì phải học võ làm chi?”. Kiều đại gia mới hỏi: “Sao lại thế?”. Tiểu nữ đáp: “Đánh chết ai Tiết Thần Y đều cứu sống lại được, thế thì luyện quyền học kiếm có ích gì đâu? Ông giết một người thì ông ta cứu một người, ông giết hai người thì ông ta cứu cả đôi thế có phải là công toi hay sao?”.
Nàng lanh mồm lanh miệng, thanh âm réo rắt, tuy đang bị trọng thương lại bắt chước thổ âm Tứ Xuyên của bọn phái Thanh Thành, nhưng những lời nàng nói ra nghe trong như tiếng trân châu rơi trên mâm ngọc, thật là dễ nghe. Mọi người ai nấy đều hoan hỉ, có kẻ lại bật cười thành tiếng.
Thế nhưng A Châu không cười vẫn tiếp tục:
- Ngồi gần bên có một gã công tử từ nãy đến giờ chỉ ngồi nghe chúng tôi nói chuyện, đột nhiên cười khẩy nói: “Chưởng lực trong thiên hạ đa số nhẹ như bông không có sức nên gã thầy lang họ Tiết kia mới có được cái hư danh. Để ta đánh một chưởng xem y có trị khỏi không nào?”. Y vừa nói xong liền nhắm ngay tôi lăng không đánh tới. Tiểu nữ thấy mình cách xa y đến mấy trượng, lại tưởng y thuận mồm nói chơi nên cũng không để ý. Kiều đại gia kinh hãi ...
Huyền Tịch hỏi lại:
- Thế y giơ chưởng ra đỡ hay sao?
A Châu lắc đầu:
- Không phải. Nếu như Kiều đại gia giơ chưởng ra đỡ thì gã thanh niên kia làm sao đánh trúng tôi được. Kiều đại gia cách tiểu nữ thật xa, không lại cứu kịp, vội nhặt một chiếc ghế ném ngang qua. Kình lực của ông ta sử dụng thật là chính xác, chỉ nghe lách cách mấy tiếng, chiếc ghế đã bị Phách Không Chưởng của người thanh niên kia đánh tan nát. Gã công tử khẩu âm nghe ngọt ngào giọng Tô Châu ngờ đâu công phu lại chẳng dịu ngọt chút nào. Tiểu nữ chỉ thấy người nhẹ lâng lâng, tưởng chừng như bay vào trong đám mây không còn một chút lực khí nào nữa. Lại nghe gã công tử kia nói: “Ngươi đến bảo Tiết Thần Y lục lọi thêm sách thuốc, luyện tập thêm một bậc nữa để sau này chữa cho Huyền Từ đại sư khỏi phải luống cuống”.
Huyền Nạn cau mặt hỏi:
- Y nói thế là có ý gì?
A Châu đáp:
- Y dường như muốn nói, sau này y sẽ dùng Đại Kim Cương Chưởng đả thương Huyền Từ đại sư.
Quần hùng ai nấy kêu lên kinh ngạc, có kẻ buột miệng:
- Dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân.
Có người lại nói:
- Quả nhiên là Cô Tô Mộ Dung.
Sở dĩ nói “quả nhiên” chứng tỏ y đã liệu được trước là ai rồi. Có ai biết đâu A Châu đã đổ oan cho Mộ Dung công tử gây chuyện với phái Thiếu Lâm, nhưng sớm muộn gì hai bên cũng sẽ tranh chấp nên mới thổi phồng để dọa họ một phen tăng gia uy phong cho chủ mình.
Du Câu liền nói:
- Kiều huynh vừa nói có người mạo xưng cao tăng phái Thiếu Lâm, khích bác xúi bẩy, đả thương cô nương này. Thế nhưng cô nương đây lại bảo rằng người đả thương cô ta là một thanh niên công tử, vậy thì hai người ai nói thật?
A Châu vội đáp:
- Nói về kẻ mạo xưng cao tăng chùa Thiếu Lâm thì quả là có. Chính mắt tôi thấy có hai người tự nhận là sư chùa Thiếu Lâm đi ăn trộm của nhà người ta một con chó mực, làm thịt ăn.
Nàng biết mình nói láo bị lộ tẩy nên vội nói trớ ra, đổi qua đề tài khác. Tiết Thần Y biết lời nàng không hoàn toàn là thực, nên cũng chưa biết mình có nên chữa thương cho cô ta hay không, quay sang nhìn Huyền Tịch, Huyền Nạn rồi lại đưa mắt nhìn Du Ký, Du Câu, sau đó nhìn Kiều Phong và A Châu ngẫm nghĩ. Kiều Phong nói:
- Tiết tiên sinh hôm nay cứu mạng cho cô nương này, Kiều Phong ngày sau không dám quên đại đức đó.
Tiết Thần Y cười khẩy mấy tiếng nói:
- Ngày sau không dám quên đại đức ư? Không lẽ hôm nay ngươi còn tin rằng mình sẽ sống mà ra khỏi Tụ Hiền Trang này được chăng?
Kiều Phong đáp:
- Thì sống mà ra được cũng hay, có chết mà ra được cũng hay, hai đằng cũng không khác nhau mấy tí. Thương thế của cô nương này xin thần y mở lòng chữa trị cho.
Tiết Thần Y lạnh nhạt hỏi lại:
- Vì cớ gì ta phải trị thương cho cô ta?
Kiều Phong đáp:
- Người đời có câu:
Dù xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người.
Tiết tiên sinh đã nổi tiếng về công đức trong võ lâm, không lẽ thấy một cô gái vô tội chết oan như thế này lại không nổi lòng trắc ẩn hay sao?
Tiết Thần Y đáp:
- Dù bất cứ ai đem cô gái này lại ta cũng chữa. Hừ, còn ngươi đem lại đây thì ta không chữa.
Kiều Phong biến sắc, buồn bã nói:
- Các vị hôm nay quần tập tại Tụ Hiền Trang, hẳn là để thương nghị đối phó với Kiều mỗ, họ Kiều này không lẽ không biết hay sao?
A Châu xen vào:
- Chao ôi! Kiều đại gia, nếu thế hóa ra ông đã vì thiếp mà không ngại mạo hiểm đến đây đấy ư?
Kiều Phong đáp:
- Ta tưởng các vị đều là đường đường trượng phu, thị phi phân minh, có giết thì cũng chỉ giết một mình Kiều Phong chứ tiểu cô nương này có liên quan gì đâu? Tiết tiên sinh nếu đem lòng thống hận Kiều mỗ trút lên đầu Nguyễn cô nương có phải là giận cá chém thớt hay sao?
Tiết Thần Y bị ông nói cứng họng không trả lời được, một lát sau mới nói:
- Chữa hay không chưa bệnh cho ai là do ta vui buồn giận ghét chứ có phải người ngoài cưỡng cầu mà được đâu? Kiều Phong, ngươi tội đại ác cực, bọn ta đang toan tính vây bắt ngươi để băm vằm ra đem tế cha mẹ, sư phụ. Ngươi tự mình vác xác tới đây, quả thật tốt quá. Ngươi nên tự xử đi là hơn.
Ông ta nói tới đây tay phải liền phất một cái, quần hùng cùng lên tiếng reo lên, binh khí rút ra kêu loảng xoảng. Trong đại sảnh ánh sáp lấp lánh lóa cả mắt, dường như đủ loại trường đao đoản kiếm, song phủ đơn tiên đều có cả. Kế đó lại có tiếng lao xao ở trên cao, mái nhà góc chái đâu đâu cũng có người cầm binh khí chặn giữ mọi ngả.
Kiều Phong tuy dã trải qua nhiều trận đánh lớn nhưng trước đây bao giờ cũng tất lãnh anh em Cái Bang đối địch, bên mình bao giờ cũng người đông thế mạnh chứ không phải như lúc này thân hãm trùng vi, lại dắt theo một cô gái bị trọng thương, làm cách nào xông ra quả thực chưa biết tính sao, trong bụng không khỏi hoang mang.
A Châu sợ quá, khóc òa lên, nói:
- Kiều đại gia, ông cứ một mình chạy đi, đừng lo cho tiểu nữ làm gì. Bọn họ với thiếp không thù không oán, chắc không nỡ hại thiếp đâu.
Kiều Phong trong lòng chợt động nghĩ thầm: “Đúng thế, những người ở đây đều hành hiệp trượng nghĩa, không lẽ nào lại vô cớ làm hại cô ta. Ta phải mau mau rời khỏi cái chỗ thị phi này mới được”. Thế nhưng ông lại nghĩ ngay: “Đại trượng phu cứu người phải cứu cho đến nơi đến chốn. Tiết Thần Y chưa bằng lòng trị thương, đã biết cô ta sống chết thế nào, Kiều Phong này không lẽ tham sống sợ chết, bỏ chạy hay sao?”.
Ông đưa mắt nhìn bốn bề, chỉ lướt qua đã thấy rất nhiều cao thủ võ học, trong đám này đến quá nửa là quen biết, ai cũng mang tuyệt nghệ trong người. Ông vừa nhìn qua, hùng tâm hào khí trong người nổi lên, nghĩ thầm: “Kiều Phong rồi sẽ máu nhuộm Tụ Hiền Trang, đành để cho người ta loạn đao phân thi, còn nói gì được nữa? Đại trượng phu sống có gì vui, chết có gì sợ?”. Ông cười ha hả nói:
- Các ngươi cứ đổ riệt cho ta là người Khất Đan, để trừ cái mối lo tâm phúc. Ha ha, là người Khất Đan hay là người Hán, Kiều mỗ đến lúc này cũng còn chưa rõ...
Trong đám người có tiếng người nói khe khẽ:
- Đúng đó, ngươi là đồ tạp chủng, chính mình cũng không biết mình là giống gì.
Gã đó chính là người hồi nãy lên tiếng châm chọc Cái Bang, có điều y nấp trong đám người, nói một hai câu rồi im bặt nên không ai biết y là ai, quần hùng mấy lần hướng về phía có tiếng nói để tìm hiểu nhưng vẫn không biết ai là kẻ động môi. Nếu bảo là kẻ đó thân hình quá thấp bé thì trong đám đông có ai đặc biệt nhỏ con đâu.
Kiều Phong nghe mấy câu đó rồi, chăm chú nhìn một hồi, gật đầu nhưng không lý tới nữa, quay sang Tiết Thần Y nói tiếp:
- Nếu quả như Kiều mỗ là người Hán mà hôm nay ông nhục mạ ta như vậy thì ta đâu có để yên? Còn nếu như mỗ đích thực là người Khất Đan, quyết ý đối địch cùng hào kiệt Đại Tống thì người đầu tiên ta phải giết chính là ông, để khỏi gây ra cảnh mỗi lần ta đả thương một người Đại Tống thì ông lại ra tay cứu sống. Có đúng không nào?
Tiết Thần Y đáp:
- Đúng thế, dù đằng nào thì ngươi cũng ra tay giết ta.
Kiều Phong nói:
- Hôm nay ta cầu ông cứu cô nương này, thế là một mạng đổi một mạng, từ rày Kiều mỗ không bao giờ động đến một cái lông măng của ông.
Tiết Thần Y cười khan mấy tiếng nói:
- Lão phu bình sinh cứu người trị bệnh, chỉ có người khác cầu ta chứ xưa nay làm gì có ai bức bách được.
Kiều Phong đáp:
- Một mạng đổi một mạng, thế là công bình chứ đâu có phải bức bách.
Trong đám người cái kẻ nói léo nhéo kia lại tiếp:
- Ngươi không biết ngượng hay sao? Trong chớp mắt người ta đã băm vằm ngươi ra như tương, còn nói gì mà tha mạng ai nữa? Ngươi ...
Kiều Phong đột nhiên giận dữ quát lên một tiếng:
- Ra đây!
Âm thanh chấn động cả mái ngói, khiến bụi từ trên xà nhà bay lả tả. Quần hùng ai nấy tai ù đi, tim đập thình thình. Một đại hán ở trong đám đông theo tiếng gọi đi ra, giống như kẻ say rượu người lảo đảo không vững. Người đó mặc áo bào xanh, mặt tái mét không ai nhận ra là người nào. Đàm công đột nhiên kêu lên:
- À, đúng rồi, ngươi chính là Truy Hồn Trượng Đàm Thanh, học trò của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.
Quần hào Cái Bang nghe thấy y là đệ tử của Đoàn Diên Khánh, càng giận dữ không đâu kể xiết, cùng lên tiếng rủa xả, nhưng ai nấy trong bụng không khỏi thấp thỏm. Thì ra hôm đó tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ, cùng các cao thủ Nhất Phẩm Đường trúng chính thuốc độc Bi Tô Thanh Phong của mình nên bị bọn ăn mày bắt giữ cả. Thế nhưng chẳng mấy chốc Đoàn Diên Khánh tới nơi, quần hào Cái Bang không một ai địch nổi y. Đoàn Diên Khánh lấy bình thuốc thối chữa cho tất cả các cao thủ Nhất Phẩm Đường, bọn chúng xông lên đánh một trận khiến cho người của Cái Bang phải tan tác. Bọn ăn mày vừa tức, vừa sợ Đoàn Diên Khánh, thấy rằng Cái Bang từ nay không còn Kiều Phong thì mỗi khi gặp kẻ Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này không cách nào kháng cự được.
Các bắp thịt trên mặt Truy Hồn Trượng Đàm Thanh giựt giựt đủ biết y đang đau đớn khôn tả, hai tay không ngớt cào vào ngực mình, từ nơi đó tiếng nói ú ớ phát ra:
- Ta ... ta với ngươi không thù không oán, cớ ... cớ sao lại phá pháp thuật của ta?
Tiếng nói chỉ vo ve, lúc có lúc không, hổn ha hổn hển nhưng môi không hề động đậy. Mọi người nhìn thấy thế ai nấy đều kinh hãi. Trong đại sảnh chỉ có vài người biết là y dùng thuật phúc ngữ, kết hợp với nội công thượng thừa, có thể làm cho đối phương bị mê loạn, mất hồn mà chết. Thế nhưng nếu như gặp phải người công lực cao hơn y, thuật đã không linh nghiệm lại hại ngược lại mình.
Tiết Thần Y giận dữ hỏi:
- Ngươi là đệ tử của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh đấy ư? Anh Hùng Yến của ta chỉ mời anh hùng hảo hán, còn kẻ vô sỉ bại loại như ngươi, sao lại trà trộn vào làm gì?
Bông từ trên tường cao ở đằng xa có tiếng người nói:
- Cái đếch gì mà anh hùng yến? Ta xem ra chỉ là bọn cẩu hùng đàn đúm.
Y nói câu đầu thì tiếng nói còn văng vẳng xa xa, đến lúc dứt câu thì người đã theo âm thanh từ trên đầu tường nhẹ nhàng nhảy xuống rồi. Y thân hình cao nghệu nhưng hành động cực kỳ nhanh nhẹn. Trên mái nhà rất nhiều người, kẻ vung quyền, kẻ cầm kiếm chặn y lại đều chậm mất một bước, y đã né được lướt qua. Trong đại sảnh có nhiều người nhận ra y chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc.
Vân Trung Hạc nhảy vào trong sân rồi, chỉ lạng người một cái đã xông ngay vào trong sảnh, chộp lấy Đàm Thanh, xông luôn vào Tiết Thần Y. Người trong sảnh ai cũng sợ y đả thương Tiết Thần Y, nên lập tức bảy tám người lập tức chặn y lại. Ngờ đâu Vân Trung Hạc đã đoán trước rồi, lấy tiến làm thoái, thanh đông kích tây thấy mọi người vừa xông lại thì đã nhảy ngược trở lên đầu tường.
Trong hội anh hùng số cao thủ không phải là ít, người có bản lãnh chân thực thắng được Vân Trung Hạc không năm sáu chục thì cũng ba bốn mươi người, nhưng vì y ra tay trước nên không ai phòng bị kịp. Thêm nữa khinh công của y cực kỳ cao siêu, chỉ vừa nhảy được lên đầu tường là không ai còn có thể đuổi kịp được nữa. Không ít người thò tay vào túi, muốn lấy ám khí ra, những người đang canh trên mái nhà cũng lao xao hò hét tiến lại ngăn trở nhưng không còn kịp nữa.
Kiều Phong quát lên:
- Ngừng lại.
Ông lăng không đánh ra, chưởng lực nhả tới không khác gì một binh khí vô hình, trúng ngay vào lưng Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc hự lên một tiếng, nặng nề rơi bật ngửa trở vào, máu miệng tuôn ra như suối. Gã Đàm Thanh kia thì còn đứng vững nhưng lúc thì lảo đảo ngả ra phía đông, lúc lại chập choạng nghiêng qua hướng tây, ú a ú ớ trông thật hoạt kê. Thế nhưng trong đại sảnh không một ai lên tiếng cười, chỉ thấy tình hình trước mắt cực kỳ ghê rợn, trước nay chưa từng thấy bao giờ.
Tiết Thần Y biết rằng Vân Trung Hạc bị thương tuy nặng thật nhưng có cơ chữa được, còn Đàm Thanh tâm hồn điên loạn rồi, trên đời này không linh đơn diệu dược gì cứu y được nữa. Ông ta thấy Kiều Phong chỉ nhẹ nhàng quát lên một tiếng, một chưởng đánh nhứ ra mà uy lực như vậy, nếu như muốn lấy mạng mình chưa chắc đã có ai ngăn trở được. Ông còn đang trầm ngâm thì Đàm Thanh đã đứng sững như trời trồng, không còn lên tiếng, hai mắt mở trừng trừng xem ra đã tắt thở rồi.
Vừa rồi Đàm Thanh lên tiếng làm nhục Cái Bang, quần hào Cái Bang ai nấy đều cực kỳ tức tối nhưng không kiếm ra, chỉ đành tức suông, bây giờ thấy Kiều Phong vừa đến ra tay giết được y ngay nên ai nấy đều thống khoái. Tống trưởng lão, Ngô trưởng lão và bọn thẳng tính đã toan cất tiếng hò reo, nhưng nghĩ lại Kiều Phong là người Khất Đan đại cừu, nên đành phải cố gắng nén lại. Trong lòng ai nấy đều tự nhủ thầm: “Chỉ có để ông ta làm bang chủ của mình thì Cái Bang chuyện gì cũng xong, nếu không, ôi, từ nay đường dài gai góc, Cái Bang không còn bao giờ khôi phục được uy phong ngày nào nữa”.
Chỉ thấy Vân Trung Hạc cố gượng đứng lên, lảo đảo đi ra cửa, đi vài bước lại ọc ra một ngụm máu. Quần hùng thấy y bị thương nặng nên không ai làm khó y, nghĩ thầm: “Gã này chửi mình là “cẩu hùng đàn đúm”, chẳng ai làm gì được y, lại phải để Kiều Phong ra tay khiến cho cả bọn hả cơn tức”.
Kiều Phong nói:
- Hai vị Du huynh, hôm nay tại hạ gặp lại rất nhiều cố nhân, từ nay thành địch không còn là bạn nữa rồi, trong lòng không khỏi đau xót, nên muốn hai vị cho xin ít bát rượu.
Mọi người thấy ông đòi uống rượu đều hết sức kinh ngạc. Du Câu nghĩ thầm: “Để xem y giở trò gì cho biết”. Y lập tức sai trang khách lấy rượu ra. Tụ Hiền Trang hôm nay mở anh hùng đại yến, rượu thịt chuẩn bị thật nhiều, nên chỉ giây lát đầy tớ đã mang hồ rượu, chén uống ra. Kiều Phong nói:
- Chén nhỏ làm sao đủ hứng? Xin phiền đem bát lớn ra để rót rượu.
Hai tên trang khách bèn đem ra hai cái bát lớn và một bình rượu trắng vừa mở nắp, để lên trên bàn trước mặt Kiều Phong, rồi rót đầy một bát. Kiều Phong nói:
- Rót cả hai đi.
Hai gã đầy tớ theo lời rót đầy cả hai bát. Kiều Phong bưng một bát rượu lên nói:
- Các vị anh hùng nơi đây, ngày trước rất đông người đã từng giao thiệp với Kiều mỗ, hôm nay nếu còn điều gì vướng mắc thì chi bằng đôi bên cạn chén tuyệt giao. Vậy vị bằng hữu nào muốn giết Kiều mỗ thì trước hết đến đối ẩm một bát, từ nay về sau, giao tình khi trước sổ toẹt. Mỗ có giết người cũng chẳng coi là vong ân mà người có giết mỗ cũng không phải là phụ nghĩa. Tất cả anh hùng thiên hạ ở đây làm chứng.
Mọi người nghe thấy thế không khỏi rùng mình, trong đại sảnh đột nhiên lặng như tờ. Ai nấy đều nghĩ: “Nếu như ta tiến lên uống rượu, thể nào cũng bị y ám toán. Phách không thần quyền của y đánh ra, làm sao có thể chống đỡ được?”.
Yên lặng một lúc sau, đột nhiên có một người đàn bà toàn thân mặc áo sô gai, chính là di sương của Mã Đại Nguyên Mã phu nhân. Nàng ta hai tay bưng bát rượu, buồn thảm nói:
- Tiên phu táng mạng nơi tay ngươi, ta với ngươi còn gì đâu mà cố cựu chi tình?
Nàng bưng bát rượu lên môi nhấp một ngụm, nói:
- Sức kém uống không hết, sinh tử đại cừu cũng như bát rượu này.
Nói xong cầm bát rượu hắt xuống đất. Kiều Phong đưa mắt nhìn thẳng vào bà ta, thấy nàng mi thanh mục tú, tướng mạo trông cũng khá đẹp. Đêm hôm trước ở trong rừng hạnh, dưới ánh lửa chập chờn, bây giờ ông mới nhìn rõ mặt, có ngờ đâu một người đàn bà liễu yếu đào tơ, thướt tha như vậy lại ghê gớm thế. Ông không nói một lời, cầm bát lên, uống một hơi cạn sạch, quay sang gã trang khách đứng bên vẫy tay một cái bảo y rót đầy hai bát khác.
Mã phu nhân lui về rồi, Từ trưởng lão bèn bước tới, không nói một lời uống cạn luôn một bát rượu, Kiều Phong liền cùng y đối ẩm một bát. Đến khi Truyền Công trưởng lão uống xong, Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng tới. Ông ta cầm bát lên vừa toan uống, Kiều Phong liền nói:
- Khoan đã!
Bạch Thế Kính nói:
- Kiều huynh có điều gì dặn bảo?
Ông ta xưa nay đối với Kiều Phong rất là cung kính, bây giờ lời lẽ cũng không khác xưa chút nào, chỉ có điều không gọi là “bang chủ” mà thôi. Kiều Phong thở dài:
- Chúng ta là anh em đã lâu năm, không ngờ từ nay trở thành oan gia đối đầu.
Bạch Thế Kính nước mắt trào ra nói:
- Việc thân thế Kiều huynh, tại hạ vốn đã sớm nghe rồi, khi đó dù có chặt đầu, ta cũng không tin, ngờ đâu ... ngờ đâu lại là chuyện thật. Nếu không phải vì mối đại thù đất nước, Bạch Thế Kính này thà chịu chết chứ không đời nào lại thành kẻ địch với Kiều huynh.
Kiều Phong gật đầu nói:
- Việc đó ta đã biết rồi. Đến khi hóa hữu vi địch thì không khỏi một trường ác đấu, cho nên Kiều Phong có một chuyện muốn gửi gấm.
Bạch Thế Kính nói:
- Nếu như không liên quan gì đến quốc gia đại sự, Bạch mỗ nhất định sẽ tuân theo.
Kiều Phong mỉm cười, chỉ vào A Châu nói:
- Chúng vị huynh đệ Cái Bang, nếu như còn nhớ tới Kiều mỗ ngày xưa có chút công lao nho nhỏ, xin chiếu cố cho cô nương này được bình an chu toàn.
Mọi người nghe nói thế, biết ngay mấy câu của ông có ý “thác cô” , thấy rằng ông cùng các bạn hữu uống với nhau mỗi người một bát, sau đó sẽ hai bên đại chiến một phen, các hào kiệt Trung Nguyên liên hoàn vây đánh, dù ông có giết được tám người, mười người, tối hậu cũng không thể nào thoát chết. Quần hào tuy hận ông là Hồ Lỗ Thát tử, từng làm nhiều điều bất nghĩa nhưng không khỏi xúc động vì hành vi hào hiệp khẳng khái kia.
Bạch Thế Kính trước đây có giao tình với Kiều Phong rất hậu, nghe ông nói mấy câu đó, thật chẳng khác nào di ngôn lúc lâm chung, liền đáp:
- Kiều huynh cứ yên lòng, Bạch Thế Kính thể nào cũng cầu khẩn Tiết Thần Y ra tay chữa trị. Còn như Nguyễn cô nương đây có mệnh hệ nào, Bạch mỗ sẽ tự vẫn để tạ tội với Kiều huynh.
Mấy câu đó quả là minh bạch, Tiết Thần Y có chịu chữa hay không ông ta không thể nào làm gì khác được nhưng nhất định sẽ hết sức hết lòng. Kiều Phong nói:
- Nếu thế huynh đệ xin đa tạ.
Bạch Thế Kính nói:
- Đến khi giao thủ, Kiều huynh chẳng phải nhẹ đòn, Bạch mỗ nếu có chết dưới tay Kiều huynh thì Cái Bang sẽ có người khác lo liệu cho Nguyễn cô nương.
Nói xong cầm lên, uống một hơi hết sạch bát liệt tửu. Kiều Phong cũng cầm bát của mình uống cạn. Kế đó là bọn Tống trưởng lão, Hề trưởng lão của Cái Bang cùng ông đối ẩm. Khi người của Cái Bang ẩm tửu tuyệt giao xong rồi, anh hào các bang hội môn phái khác ai nấy đều lên mỗi người uống một bát.
Mọi người càng xem càng kinh hãi, xem ra ông đã uống đến bốn, năm chục bát rồi, một bình rượu to đã hết, trang khách đã phải bưng thêm lên một vò khác nhưng thần sắc Kiều Phong vẫn thản nhiên như không, bụng chỉ phồng thêm một chút ngoài ra không thấy gì khác lạ. Ai nấy đều nghĩ: “Nếu uống như thế thì say cũng đủ chết, việc gì còn phải ra tay động thủ làm gì?’.
Có ai biết đâu Kiều Phong thêm một phần tửu ý thì lại thêm một phần tinh thần lực khí, mấy hôm nay liên tiếp bị oan khuất, bao nhiêu uất ức buồn bực chưa có chỗ nào phát tiết, bây giờ gác qua một bên, định bụng sẽ say sưa một mẻ, đại chiến một phen.
Ông uống cạn năm chục bát lớn rồi, Bào Thiên Linh và Khoái Đao Kỳ Lục cũng uống xong, đến lượt Hướng Vọng Hải tiến lên cầm bát rượu nói:
- Họ Kiều kia, ta cũng uống với ngươi một bát.
Giọng điệu y có phần vô lễ. Kiều Phong hơi rượu bốc lên, liếc mắt nhìn y nói:
- Kiều mỗ uống đây là uống chén rượu tuyệt giao với anh hùng thiên hạ, để xóa bỏ các ân cũ nghĩa xưa, cái thứ ngươi mà cũng đòi uống tuyệt giao tửu với ta ư? Ngươi có giao tình với ta bao giờ?
Ông nói đến đây, không đợi y đáp lời liền tiến lên một bước vươn tay ra chộp ngay ngực y, hất một cái ném y văng ra ngoài cửa sảnh, Hướng Vọng Hải giáng vào bức tường trước mặt nghe bình một tiếng, lập tức ngất đi. Biến cố đó khiến cho đại sảnh nhốn nháo cả lên.
Kiều Phong nhảy vào trong viện, lớn tiếng quát:
- Ai là người ra đây một trận tử chiến?
Quần hùng thấy ông thần uy lẫm lẫm, nhất thời không một ai dám xông lên. Kiều Phong lại quát:
- Các ngươi không động thủ thì ta ra tay trước.
Ông vung tay lên, bình bình hai tiếng đã có hai người trúng phách không chưởng ngã lăn ra. Ông thuận thế xông luôn vào đại sảnh, tay đấm khuỷu thúc, chưởng chặt chân đá, chỉ chớp mắt đã đánh ngã bốn năm người. Du Ký kêu lên:
- Mọi người dựa lưng vào tường, không được loạn đấu.
Trong đại sảnh tụ tập đến hơn ba trăm người, nếu như cùng xông lên, Kiều Phong võ công dù cao siêu nhưng cũng không có cách nào kháng cự được. Thế nhưng tất cả mọi người tuy chụm lại một chỗ nhưng tới gần Kiều Phong chỉ độ vài chục người, đao thương kiếm kích bốn bề múa may, phần lớn chỉ cốt để phòng bị sao cho mình khỏi bị thương. Du Ký vừa kêu lên như thế, giữa đại sảnh lập tức giãn ra một khoảng trống.
Kiều Phong quát lên:
- Để ta lãnh giáo tài ba của Du Thị Song Hùng ở Tụ Hiền Trang.
Ông vung tay trái ra, một chiếc vò rượu lớn liền bay vọt tới chỗ Du Ký. Du Ký liền giơ hai tay chặn lại, định dùng chưởng lực đẩy chiếc vò dạt sang một bên, ngờ đâu Kiều Phong đã liệu trước rồi nên tay phải liền đánh ra, nghe ầm một tiếng, chiếc vò liền vỡ tan thành trăm ngàn mảnh. Những mảnh sành đó cực kỳ sắc bén, bị chưởng phong cực kỳ lợi hại của Kiều Phong đẩy tới, thật chẳng khác gì hàng trăm hàng nghìn đồng tiêu, phi đao, mặt Du Ký trúng luôn ba miểng khiến cho mặt đầy máu, lại có hơn một chục người ở bên cạnh cũng bị thương lây. Tiếng người chửi rủa, kêu la, nhắc chừng liền rầm cả lên.
Đột nhiên nơi góc nhà có tiếng một thanh niên kinh hoảng nói:
- Cha ơi! Cha ơi!
Du Ký nhận ra chính là tiếng của đứa con trai duy nhất của mình tên là Du Thản Chi, trong cơn gấp rút liếc qua, thấy trên má y máu me đầm đìa, thì ra cũng bị miểng vỡ đâm phải, bèn quát lớn:
- Cút ngay đi, mi ở đây làm gì?
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y rút người náu sau cây cột nhà, nhưng vẫn thò đầu ra xem. Kiều Phong chân trái liền đá một cái, lại thêm một chiếc vò rượu nữa bay vụt ra. Ông vừa toan đánh ra một chưởng, bỗng thấy sau lưng có một luồng chưởng lực nhu hòa âm thầm đánh tới. Chưởng đó tuy mềm thật nhưng hiển nhiên uẩn tàng nội công cực kỳ hồn hậu. Kiều Phong biết rằng đây là một cao thủ ra tay, không dám coi thường vội vàng hồi chưởng lại đỡ. Hai người nội lực đụng nhau, đều phải chựng lại. Kiều Phong quay đầu nhìn thấy y hình mạo ti tiện, chính là kẻ vô danh Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương tên gọi Triệu Tiền Tôn, nghĩ bụng: “Gã này nội lực khá thật, ta không nên coi thường”. Ông hít một hơi, chưởng thứ hai chẳng khác gì bài sơn đảo hải đánh tới.
Triệu Tiền Tôn biết rằng một chưởng không thể nào chống đỡ nổi, song chưởng cùng tung ra định đỡ một chưởng của đối phương. Một giọng đàn bà ở bên cạnh kêu lên:
- Không muốn sống nữa à?
Vội vàng nắm lấy y nhắc qua một bên tránh được chính diện chưởng lực của Kiều Phong. Thế nhưng chưởng lực của Kiều Phong vẫn ào ào đẩy tới, đằng sau Triệu Tiền Tôn có ba người vừa toan xông lên, nghe thấy bình bình bình ba tiếng lớn, cả ba đều bay ngược lại, đập mạnh vào tường, khiến cho trên tường từng mảng, từng mảng vỡ tan, rơi lả tả.
Triệu Tiền Tôn quay đầu lại, thấy người nắm y lôi ra chính là Đàm bà, trong lòng vui sướng nói:
- Tiểu Quyên, nàng đã cứu mạng ta.
Đàm bà nói:
- Ta sẽ tấn công phía trái, còn sư huynh giáp công phía bên phải.
Triệu Tiền Tôn vừa đáp: “Được lắm” một tiếng thì đã thấy một ông già nhỏ bé gầy gò nhảy tới bên Kiều Phong, chính là Đàm công.
Đàm công thân hình loắt choắt nhưng võ công thật là ghê gớm, tay trái đánh ra tay phải liền đi theo, chưởng nọ vừa thu về thì chưởng lực bên kia đã đánh tiếp. Ông ta đánh liên hoàn ba chưởng liền, chẳng khác gì ba làn sóng, sóng sau xô sóng trước, chưởng nọ đè chưởng kia khiến cho sức mạnh gấp ba đơn chưởng. Kiều Phong khen ngợi:
- Chiêu Trường Giang Tam Điệp Lãng hay thật!
Tả chưởng đánh ra rồi, hai bên đụng nhau khiến cho cùng phải nhích qua một bên. Ngay khi đó Triệu Tiền Tôn và Đàm bà cũng giáp công, rồi lại thêm Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão, Trần trưởng lão mọi người cũng xông vào nhập cuộc.
Truyền Công trưởng lão kêu lên:
- Kiều huynh đệ, Khất Đan và Đại Tống không thể đứng chung, bọn ta vì chuyện công mà phải quên việc riêng, lão ca ca này đành đắc tội.
Kiều Phong cười đáp:
- Tuyệt giao tửu đã uống rồi, còn nói gì huynh đệ nữa? Xem chiêu đây!
Ông giơ chân trái nhắm ông ta đá ra. Tuy nói như thế nhưng đối với quần hào Cái Bang Kiều Phong vẫn có chút tình hương hỏa nên cũng không muốn hại mạng ai, thậm chí cũng không muốn họ bị xấu mặt với người ngoài nên ngọn cước đến nửa chừng đột nhiên chuyển hướng đã nghe Khoái Đao Kỳ Lục kêu rống một tiếng nhảy vọt lên.
Y không phải tự mình phi thân mà bị Kiều Phong đá trúng mông. Thanh đơn đao trong tay vốn đang vận kình chém xuống đầu Kiều Phong nên khi bị tung lên vẫn còn mãnh liệt bổ trúng ngay xà nhà ngập vào cả thước khiến cho lưỡi đao bị dính cứng. Con đao đó là võ khí nổi danh của Khoái Đao Kỳ Lục, hôm nay gặp phải cường địch làm sao dám bỏ? Tay phải y nắm chặt cán đao thành thử thân hình lơ lửng trên không, tình trạng đó thật cực kỳ quái đản nhưng trong sảnh ai nấy đang vào cảnh sinh tử quan đầu nào ai dám nhãng ra để giúp đỡ y? Cũng chẳng có ai rỗi hơi để cười một tiếng!
Kiều Phong từ lúc học nghệ xong đến nay, tuy đã từng trải qua hàng trăm trận chiến chưa bao giờ thua ai nhưng cùng một lúc phải đấu với nhiều cao thủ như thế này thì bình sinh chưa từng có. Lúc này ông đã ngà ngà say, nội lực hết sức bùng lên, tửu ý càng lúc càng dâng cao, song chưởng múa tít lên ép cho không ai tới gần được.
Tiết Thần Y y đạo cực kỳ tinh vi nhưng võ công không thể coi là hạng cao thủ hạng nhất được. Về phương diện chữa bệnh, ông ta là một thiên tài siêu việt hơn người dường như không học cũng biết. Ông ta học võ từ nhỏ, sư phụ là một nhân vật võ học cao siêu ghê gớm nhưng một năm nọ Tiết Thần Y cùng bảy anh em đồng môn tự nhiên bị đuổi khỏi môn phái. Ông không chịu bỏ thầy nên đành tự mình tìm cách tài bồi dùng y thuật để trao đổi võ công với người khác, bên đông học một chiêu, bên tây học một thức nên võ công hiểu rộng biết nhiều trên giang hồ ít ai có được. Thế nhưng cũng vì cái chữ “rộng” ấy mà lại hỏng vì phàm ăn nhiều thì nhai không kỹ thành thử chẳng một môn nào luyện cho đến đầu đến đũa cả.
Cái tiếng y thuật như thần kia càng nổi đến đâu ai ai cũng kính phục ba phần. Mỗi khi ông thỉnh giáo võ công người khác, người nào cũng thuận miệng đưa đẩy vài câu để lấy lòng nên phần nhiều ngôn quá kỳ thực, chẳng một ai nói thực cho ông ta nghe. Chính vì thế ông không khỏi dương dương tự đắc, cứ tưởng rằng võ công thiên hạ mười phần thì mình đã biết được tám chín. Lúc này Tiết Thần Y thấy Kiều Phong đấu với quần hùng, ra tay đã nhanh mà đòn nào cũng nặng, quả thật dẫu có nằm mơ cũng chẳng tưởng nổi, khiến cho mặt cắt không còn hột máu, tim đập như trống hộ đê, ấp úng không nói ra được một lời chứ chẳng nói gì đến chuyện tiến lên động thủ.
Ông ta đứng dựa vào tường, càng lúc càng mất vía đã toan lẳng lặng lẻn ra khỏi đại sảnh nhưng lại không dám, nhìn qua thấy một lão tăng đứng ngay bên cạnh mình, chính là Huyền Nạn. Ông ta đột nhiên nhớ lại một việc, hết sức ăn năn nên quay sang nói:
- Mới rồi tại hạ nói ra một câu cực kỳ vô lễ, xin đại sư miễn trách cho.
Huyền Nạn đang hết sức chăm chăm nhìn vào Kiều Phong, không nghe Tiết Thần Y nói gì cả phải đến khi ông ta nhắc lại lần thứ hai lúc ấy mới ngạc nhiên hỏi lại:
- Câu nào thất lễ thế?
Tiết Thần Y đáp:
- Hồi nãy tại hạ có nói: “Kiều huynh một thân một mình, đêm qua vào chùa Thiếu Lâm mà không tổn một sợi lông, sợi tóc, lại còn bắt được một vị cao tăng đem đi, quả thật là lạ”.
Huyền Nạn hỏi lại:
- Thế thì đã sao?
Tiết Thần Y băn khoăn đáp:
- Gã Kiều Phong kia võ công cao như thế, quả là trên đời khó kiếm. Đến lúc này tại hạ mới biết là y đến chùa Thiếu Lâm, đánh người bắt người, vào ra như chỗ không người quả là khó mà ngăn trở.
Mấy cao đó ông ta vốn dĩ muốn xin lỗi Huyền Nạn nhưng nhà sư nghe lại càng tưởng như châm chọc, bèn hừ một tiếng nói:
- Tiết Thần Y muốn khảo sát võ công của phái Thiếu Lâm, có phải không nào?
Ông không đợi câu trả lời, lập tức lững thững bước ra, tay áo rộng phất lên, chưởng lực từ bên trong đánh thẳng vào Kiều Phong. Môn võ công của ông ta là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm tên là Tụ Lý Càn Khôn , tay áo vung lên thì quyền kình từ bên dưới đánh ra.
Cao tăng chùa Thiếu Lâm xưa nay lấy chuyện tham thiền học Phật làm gốc, còn luyện võ tập quyền chỉ là ngọn, giận dữ bực bội cũng đã là phạm giới rồi huống hồ ra tay đánh nhau? Thế nhưng trong mấy trăm năm qua chùa Thiếu Lâm là nguồn gốc của võ học thiên hạ thì lẽ nào lại không ra quyền động cước? Môn Tụ Lý Càn Khôn này thì quyền dấu trong tay áo, trông thật là thanh nhã dễ coi. Tay áo che dấu được quyền kình, địch nhân không thể nào biết được đường đi của nắm tay ra sao khiến cho kẻ địch trở tay không kịp. Có ai biết đâu rằng cánh tay áo đó cũng chứa đầy kình lực và chiêu số thật là ghê gớm, nếu kẻ địch toàn tâm toàn ý để hết vào việc sách giải quyền chiêu dấu bên trong thì ông ta sẽ biến khách thành chủ dùng tụ lực đả thương người.
Kiều Phong thấy ông ta tấn công đến, hai cánh tay áo rộng căng phồng hướng tới chẳng khác nào hai chiếc buồm no gió, uy thế cực kỳ mạnh mẽ, liền quát lên một tiếng:
- Tụ Lý Càn Khôn, quả nhiên ghê gớm thật.
Nghe vù một tiếng đánh luôn vào tay áo. Tụ lực của Huyền Nạn trải ra một khoảng rộng, còn chưởng của Kiều Phong tập trung mà ngưng đọng nên chỉ nghe bụp bụp mấy tiếng, hai luồng lực đạo chạm nhau, đột nhiên trong đại sảnh bay tứ tung mấy chục cánh bướm màu xám tro.
Quần hùng còn đang hoảng hốt, nhìn kỹ lại thì ra những cánh bướm đó chính là tay áo của Huyền Nạn biến thành quay lại nhìn ông, thấy hở đến tận nách để lộ hai cánh tay dài khẳng khiu, trông thật khó coi. Thì ra nội kình hai người xung kích, hai cánh tay tăng bào làm sao chịu nổi nên lập tức nát vụn ra.
Chỉ qua một chiêu, Huyền Nạn không còn tay áo nữa, tụ lý đã mất lấy đâu ra càn khôn. Ông trong cơn phẫn nộ, mặt xanh như chàm đổ, có ngờ đâu chỉ một chưởng Kiều Phong đã phá được tuyệt kỹ thành danh của mình, hôm nay quả không còn mặt mũi nào nữa, nên hai cánh tay liền lên xuống như bổ củi xông vào tấn công.
Mọi người ai ai cũng biết rằng đây chính là môn Thái Tổ trường quyền lưu hành rộng rãi trong dân gian. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chỉ nhờ vào một bài quyền, một cây gậy mà thu được giang sơn cẩm tú lập nên nhà Đại Tống. Trong các vị hoàng đế từ xưa tới nay không một ai thần dũng như Tống Thái Tổ, cho nên hai bài Thái Tổ trường quyền và Thái Tổ bổng là võ công thông dụng nhất thời đó, dẫu người không biết nhưng nhìn cũng đã quen.
Quần hùng thấy vị cao tăng Thiếu Lâm danh tiếng thiên hạ kia sử dụng Thái Tổ trường quyền là một lộ quyền pháp ai nấy đều biết nên không khỏi ngạc nhiên, nhưng khi thấy đánh ra ba quyền rồi, trong bụng đều phải trầm trồ: “Phái Thiếu Lâm được nổi tiếng như thế, không phải ngẫu nhiên. Chỉ một chiêu Thiên Lý Hoành Hành thôi mà ông ta đánh ra thật là uy lực”. Quần hào bội phục nên cái hình ảnh tăng bào rách nát của Huyền Nạn không còn thấy gì là bất thường nữa.
Trong số mấy chục người cùng vây đánh Kiều Phong, đến khi Huyền Nạn ra tay ai nấy tự biết mình có đánh thêm thì chỉ càng vướng chân vướng tay nên đều biết phận lùi lại hết, chỉ chia nhau vây chặt đề phòng Kiều Phong bỏ chạy, ngưng thần quan sát hai người một trận quyết chiến.
Kiều Phong thấy mọi người đã lùi ra rồi, trong bụng nảy ra một ý, vù một tiếng đánh ra chiêu Xung Trận Trảm Tướng, cũng chính là chiêu số trong Thái Tổ trường quyền. Chiêu đó trông thật là tiêu sái nhưng kình lực lại cương trung hữu nhu, nhu trung hữu cương, cao thủ võ lâm đạt đến mức hoàn mỹ của quyền thuật thì chỉ một chiêu cũng đã thấy rồi. Những người đến tham dự đại hội anh hùng yến, nếu như võ công không thật cao thì kiến thức cũng quảng bác, tinh yếu trong Thái Tổ trường quyền không ai là không biết. Kiều Phong đánh ra chiêu đó rồi, người nào người nấy không ai nhịn được phải kêu ồ lên, trầm trồ khen ngợi.
Tiếng trầm trồ vừa dứt, trong đại sảnh nhiều người thấy ngay là không ổn. Tiếng hoan hô kia lại là tán dương kẻ đại địch mà họ bảo là quân Hồ Lỗ ai nấy đang lăm lăm giết chết, thế có phải là nuôi dưỡng cho nhuệ khí của địch mà làm giảm uy phong của mình hay sao? Thế nhưng tiếng hò reo đã ra khỏi miệng rồi, không còn có thể nào thu về được nữa, thấy Kiều Phong đánh ra chiêu thứ hai Hà Sóc Lập Uy cũng lại cực kỳ tinh diệu, so với chiêu thứ nhất không thể phân biệt được chiêu nào hay hơn chiêu nào nên trong đại sảnh lại có một số đông hô hoán. Thế nhưng vì đã nhiều người cảnh giác cố nén lòng nên tiếng hò reo không vang dậy như lần thứ nhất, nhưng cũng lắm kẻ xuýt xoa nho nhỏ “Chà!”, “Ồ” ... nghe giọng điệu cũng chẳng khác lớn tiếng tán dương.
Kiều Phong lúc đầu cùng mọi người ác đấu, quần hùng ai nấy cố gắng phòng ngự e sợ ông hung mãnh dữ dằn, bây giờ tạm bỏ những quan ngại sang một bên, lúc ấy mới lãnh ngộ được những chỗ tinh diệu tuyệt luân trong võ công của ông.
Đến lúc Kiều Phong và Huyền Nạn trao đổi bảy tám chiêu rồi, hai bên ai cao ai thấp đã rõ. Hai người đều sử dụng những quyền chiêu bình thường không có gì là kỳ lạ, nhưng Kiều Phong chiêu nào cũng chậm hơn một bước, đều nhường cho Huyền Nạn ra tay trước. Huyền Nạn mỗi khi xuất chiêu, Kiều Phong liền ra thế để giải nhưng không biết có phải vì ông tuổi trẻ nên sức còn tráng kiện, hay là hành động nhanh nhẹn hơn mà chiêu nào cũng ra sau tới trước. Thái Tổ trường quyền vốn dĩ chỉ có sáu mươi tư chiêu, thế nhưng chiêu nào cũng khắc chế lẫn nhau, Kiều Phong nhìn rõ quyền chiêu của đối phương rồi sau đó mới ra thế giải chống trả lại thì Huyền Nạn làm gì mà chẳng thua? Đạo lý đó ai mà chẳng biết thế nhưng bốn chữ “hậu phát tiên chí” để áp dụng vào một đại cao thủ như Huyền Nạn thì mọi người nếu không chính mắt thấy hôm nay, sau này có nghĩ đến cũng không dám.
Huyền Tịch thấy Huyền Nạn nghiêng qua ẹo lại, chống đỡ không nổi liền kêu lên:
- Ngươi là giống chó má Khất Đan, ra tay toàn trò ti tiện.
Kiều Phong thản nhiên đáp:
- Ta sử dụng đây là quyền pháp của Thái Tổ bản triều, sao đại sư lại dùng hai chữ ti tiện là sao?
Quần hùng nghe nói thế liền hiểu ngay vì sao ông lại sử dụng Thái Tổ trường quyền. Nếu như ông dùng một loại quyền pháp khác để đánh bại Thái Tổ trường quyền người ta sẽ không bảo là vì ông công lực thâm hậu hơn mà lại đổ tội cho ông hối nhục võ công khai quốc của Thái Tổ, cái tiếng Di Địch, kẻ Hoa người Hồ kia sẽ càng làm sâu thêm thù nghịch. Còn như cả hai bên đều sử dụng Thái Tổ trường quyền thì ngoài việc tranh đua võ công ra, không còn nói gì khác được nữa.
Huyền Tịch thấy chỉ nháy mắt là Huyền Nạn sẽ rơi vào vòng sinh tử quan đầu nên không còn kể gì, sùy một tiếng tung ra một chỉ nhắm ngay huyệt Tuyền Cơ, chính là tuyệt kỹ điểm huyệt của phái Thiếu Lâm có tên là Thiên Trúc Phật Chỉ. Mặc dù tiếng gió rất nhỏ nhưng Kiều Phong nghe chỉ điểm tới, liền nghiêng người tránh qua nói:
- Đã từng ngưỡng mộ danh tiếng của Thiên Trúc Phật Chỉ từ lâu, quả nhiên công phu ghê gớm thật. Đại sư dùng võ công của người Hồ Thiên Trúc, tấn công quyền pháp của Thái Tổ bản triều. Nếu như đại sư thắng được tại hạ thì chẳng hóa ra là thông Phiên mãi quốc làm nhục đến Trung Hoa hay sao?
Huyền Tịch nghe thế không khỏi bàng hoàng. Võ công phái Thiếu Lâm do Đạt Ma lão tổ truyền lại mà Đạt Ma lại là người Hồ Thiên Trúc. Hôm nay chỉ vì quần hùng cho rằng Kiều Phong là người Hồ Khất Đan nên vây đánh ông, nhưng phái Thiếu Lâm võ công truyền vào Trung Thổ lâu rồi, các gia các phái của Trung Quốc, không nhiều thì ít cũng có liên quan đến phái Thiếu Lâm nên cũng chẳng còn ai nhớ đến cái dây mơ rễ má đó. Bây giờ nghe Kiều Phong nói ra, ai nấy trong lòng chấn động.
Trong đám anh hùng không hiếm người có kiến thức, trong lòng đều nghĩ: “Chúng ta đối với Đạt Ma lão tổ thì kính trọng như thần minh, sao đối với người Khất Đan thì lại hận đến xương tủy, nhưng cả hai cũng đều có phải cùng giòng giống với mình đâu? Ồ, hai giống đó khác nhau xa. Người Thiên Trúc xưa nay đâu có giết hại đồng bào mình, còn người Khất Đan thì hung dữ như lang sói. Xem như thế thì không phải chỉ vì là người Hồ mà giết, bên trong cũng còn phân biệt thiện ác nữa. Thế thì những người Khất Đan kia liệu có ai là người tốt hay không?”. Lúc đó trong đại sảnh đang hồi kịch đấu, một số đông thô lỗ chẳng kể đến chi tiết đó làm gì nhưng cũng có nhiều người hiểu biết tuy suy nghĩ đến chi tiết đó rồi cũng bỏ qua, trong lòng thầm nghĩ: “Kiều Phong chưa hẳn đã là không thể không giết, cái lý của bên mình cũng chưa hẳn chắc như đinh đóng cột”.
Huyền Nạn, Huyền Tịch lấy hai địch một thế nhưng vẫn thủ nhiều công ít. Huyền Nạn thấy quyền pháp mình chiêu nào cũng bị địch nhân không chế, trói chân trói tay, không thể thi triển được chút nào, đến lúc Huyền Tịch xông vào tấn công quyền pháp lập tức biến đổi, chuyển ngay sang La Hán Quyền của phái Thiếu Lâm.
Kiều Phong cười nhạt nói:
- Võ công đó cũng từ người Hồ Thiên Trúc đem sang. Để xem võ công người Hồ lợi hại hay tài nghệ của Đại Tống chúng ta hay hơn?
Trong khi nói, ông liên tiếp vù vù đánh ra mấy đòn Thái Tổ trường quyền. Mọi người nghe thấy thế, trong bụng không biết phải thế nào. Ai nấy cũng vì ông ta là người Hồ mà đến vây đánh, thế nhưng bên mình thì lại dùng võ công Hồ nhân, còn chính Kiều Phong thì lại sử dụng trường quyền của Thái Tổ bản triều để lại.
Bỗng nghe Triệu Tiền Tôn lớn tiếng kêu lên:
- Đâu cần phải biết y sử dụng quyền pháp gì. Gã này giết cha, giết mẹ, giết thầy, đáng chết lắm. Tất cả mọi người cùng tiến lên đi.
Y miện thì la, chính mình cũng xông vào trước. Kế đó Đàm công, Đàm bà, Từ trưởng lão, Trần trưởng lão của Cái Bang rồi cha con nhà họ Đơn Thiết Diện Phán Quan ... tất cả đến mấy chục người cùng ùa lên. Những người đó đều là những hảo thủ, võ công cao cường, tuy đông nhưng không vì thế mà hỗn loạn, người này lên thì kẻ kia xuống chẳng khác gì xa luân chiến.
Kiều Phong múa chưởng đánh ra, vừa đánh vừa nói:
- Các ngươi bảo ta là người Khất Đan, thế thì Kiều Tam Hòe Kiều công công, Kiều bà bà có phải cha mẹ ta đâu. Không nói gì hai vị lão nhân gia là người ta kính yêu không bao giờ có ý gia hại, mà dù ta có giết chăng nữa cũng không thể đổ lên đầu ta cái tội “giết cha, giết mẹ” được. Huyền Khổ đại sư là thụ nghiệp ân sư của ta, nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận ông ta là thầy ta, thì Kiều mỗ phải là đệ tử Thiếu Lâm, các vị vây đánh một đệ tử Thiếu Lâm thì vì cớ gì?
Huyền Tịch hừ một tiếng nói:
- Cưỡng từ đoạt lý, nói lấy được cho mình.
Kiều Phong nói:
- Nếu bảo là nói lấy được thì đâu có còn là cưỡng từ đoạt lý. Nếu như các ông không cho ta là đệ tử Thiếu Lâm thì làm gì đổ cái tội "giết thầy" lên đầu ta được? Người đời có nói rằng: Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo. Các ngươi muốn giết ta thì cứ quang minh lỗi lạc ra tay, việc gì phải đổ lên đầu ta cái tội nói lấy được, cưỡng từ đoạt lý?
Ông miệng nói hùng hồn nhưng tay chân không ngừng chút nào, tay đấm Đơn Thúc Sơn, chân đá Triệu Tiền Tôn, chỏ thúc một đại hán áo xanh chưa bao giờ gặp, chưởng đánh một ông già râu bạc chưa biết tên, vừa nói vừa đánh luôn bốn người. Ông biết những người này không phải là phường gian ác nên ra tay vẫn để lại chút dư tình, mười bảy mười tám người bị trúng đòn nhưng không ai đến nỗi chí mạng. Còn như anh em Cái Bang thì lại càng nhẹ đòn hơn, Từ trưởng lão vừa xông đến ông liền tránh ra chỗ khác.
Thế nhưng tham dự anh hùng yến đông quá, đánh ngã hơn một chục người thì lại có thêm mười người đầy sinh lực xông vào thay thế. Đấu thêm một lát nữa, Kiều Phong trong bụng kinh hãi thầm: “Nếu cứ đánh mãi thế này, thể nào chẳng có lúc mình hết hơi hết sức, chân tay mỏi mệt, chi bằng tìm cách chạy trước đi là hơn”. Một mặt ông vẫn ra chiêu, mặt khác tìm đường đào tẩu.
Triệu Tiền Tôn nằm dưới đất tuy không cử động được nhưng đã nhìn ra thâm ý của Kiều Phong dang toan tìm đường chạy liền lớn tiếng nói:
- Mọi người cố gắng ngăn chặn đừng để tên chó má vạn ác bất xá này có cơ trốn thoát.
Kiều Phong đang say đấu, hơi rượu xông lên lửa giận mỗi lúc một cao, nghe thấy Triệu Tiền Tôn lên tiếng nhục mạ mình không còn khống chế được, quát lớn:
- Thằng chó má này lấy mạng mi trước hết.
Ông vận công vào cánh tay, một chiêu phách không chưởng nhắm ngay y đánh tới. Huyền Nạn và Huyền Tịch cùng kêu lên:
- Không xong!
Hai người lập tức đưa tay phải muốn cùng một lúc chống đỡ chưởng của Kiều Phong để cứu mạng Triệu Tiền Tôn. Bỗng từ trên không có vật gì thấp thoáng, rồi tiếng người kêu rống lên thảm thiết, trước ngực bị chưởng lực của Huyền Nạn, Huyền Tịch đánh trúng, sau lưng bị phách không chưởng của Kiều Phong, ba luồng lực đạo mạnh mẽ kinh người cùng ép lại, khiến y gân cốt nát nhừ, tạng phủ vỡ tan, máu miệng phun ra nằm bẹp như một đống bùn dưới đất.
Việc xảy ra khiến cho Huyền Nạn, Huyền Tịch kinh hoảng mà đến Kiều Phong cũng thật ngoài ý muốn. Thì ra đó chính là Khoái Đao Kỳ Lục. Y treo lơ lửng trên không cũng đã lâu rồi, đong đưa qua lại làm cho thanh đao bập vào xà nhà lỏng ra. Người y vừa rơi xuống, khéo làm sao chính lúc ba người toàn lực ra tay đánh tới, thật chẳng khác nào hai phiến sắt ép hai bên thì làm gì mà không bỏ mạng?
Huyền Nạn nói:
- A Di Đà Phật, thiện tại, thiện tai! Kiều Phong, ngươi quả đã làm nhiều đại nghiệt.
Kiều Phong phẫn nộ nói:
- Người này ta giết một nửa, hai sư huynh đệ các ông giết một nửa, sao lại đổ cả lên đầu ta là sao?
Huyền Nạn đáp:
- A Di Đà Phật, tội thay, tội thay! Nếu không phải vì ngươi hại người trước thì làm gì có trận đấu ngày hôm nay?
Kiều Phong càng giận dữ nói:
- Được rồi, mọi việc cứ trút hết vào ta đi, thế thì đã sao nào?
Trong cơn ác đấu, tính hung dữ của ông nổi lên, Kiều Phong tung hoành chẳng khác gì một con mãnh thú, tay phải chộp ra nắm ngay một người chính là đứa con trai thứ của Đơn Chính Đơn Trọng Sơn, tay trái đoạt lấy đơn đao trong tay y, tay phải cầm dộng xuống một cái, đầu Đơn Trọng Sơn nát ngướu, chết ngay tại chỗ.
Quần hùng lập tức nhao nhao la hét, kẻ thì kinh hoàng, người thì phẫn nộ. Kiều Phong giết người rồi, ra tay lại càng như điên như cuồng, đơn đao vung tít lên, tay phải khi quyền khi chưởng, tay trái đơn đao khi phạt ngang, khi chém xuống, lúc đâm lúc bổ uy thế không sao đương cự nổi, trên bức tường trắng trước mặt nhòe nhoẹt đầy máu tươi, trong đại sảnh cũng ngổn ngang xác chết, kẻ thì đầu một nơi mình một nẻo, kẻ thì cụt chân lòi ruột. Lúc này ông chẳng còn nghĩ gì đến tình cũ với người trong Cái Bang, cũng chẳng còn hơi đâu nhìn xem đối thủ là ai, mắt đỏ long lên sòng sọc, gặp ai giết nấy. Hề trưởng lão cũng chết dưới đao của ông ta rồi.
Trong số những người đến dự anh hùng yến, mười phần thì tám chín đã từng tự tay giết người, nổi danh trong võ lâm không phải chỉ nhờ vào giao du, nịnh nọt. Nếu họ không chính tay giết người thì việc sát nhân phóng hỏa cũng đã thấy nhiều lần. Thế nhưng cuộc ác đấu kinh tâm động phách hôm nay thì trong đời chưa ai từng thấy. Địch nhân chỉ có một người thế nhưng không khác gì một con hổ điên, lại như ma quỉ, thoắt bên đông, vụt bên tây, chém giết, xung sát. Rất đông cao thủ tiến lên tiếp chiến đều bị ông dùng những chiêu thức vừa nhanh nhẹn, vừa mạnh bạo, vừa độc địa, vừa tinh vi giết sạch. Quần hùng nào có phải là những kẻ kinh khiếp sợ chết thế nhưng thấy đối phương như điên như cuồng, võ công lại không ai địch nổi, trong đại sảnh máu huyết vung vãi, xác người ngổn ngang, tai nghe tiếng người bị giết kêu la thảm thiết nên đến quá nửa đã dợm bỏ chạy, cốt sao tránh cho xa, Kiều Phong có tội cũng tốt mà vô tội cũng hay, chẳng muốn dây dưa gì nữa.
Du Thị Song Hùng thấy tình hình bất lợi, hai người tay trái cầm khiên, tay phải người cầm thương ngắn, người cầm đơn đao, huýt một tiếng còi, giơ khiên hộ thân chia từ hai bên tả hữu xông vào Kiều Phong.
Kiều Phong tuy ra tay tàn sát không còn kiêng nể gì nữa nhưng chiêu thức nào của địch tấn công tới ông đều chăm chú quan sát, tâm ý không loạn chút nào nên vẫn giữ được chưa bị thương. Ông thấy hai anh em họ Du tấn công tư thế độc địa, lập tức vù vù chém luôn hai đao, chặt hai người hai bên ngã xuống để chiếm lấy tiên cơ, rồi xông vào tấn công Du Ký. Đao của ông vừa chém xuống, Du Ký liền đưa khiên lên đỡ, nghe choang một tiếng, đơn đao của Kiều Phong nẩy ngược lên, lưỡi đao lập tức quằn lại không còn dùng được nữa. Hai chiếc thuẫn của họ Du đều làm bằng thép rèn thành, dù có bảo kiếm cũng không chặt nổi, huống chi thanh đao trong tay Kiều Phong chỉ là một võ khí tầm thường đoạt được trong tay Đơn Trọng Sơn?
Chiếc khiên của Du Ký đã gạt được binh khí địch rồi, đoản thương trong tay liền như một con rắn độc ra khỏi động, đi theo dưới thuẫn luồn ra, đâm vào bụng dưới Kiều Phong. Cũng ngay khi đó, ánh hàn quang lấp lánh, chiếc khiên trong tay Du Câu cũng quét ngang hông đối phương.
Chỉ trong nháy mắt, Kiều Phong nhìn thấy mép chiếc khiên cực kỳ sắc bén nhưng lại khoét vào chẳng khác gì một lưỡi đại phủ, nếu để y quét trúng thân hình sẽ đứt ra làm hai, quả là lợi hại vô cùng, liền quát lên một tiếng:
- Quân này giỏi thật!
Ông vứt bỏ đơn đao trong tay, tay trái dùng quyền, nghe choang một tiếng lớn, trúng ngay chính giữa chiếc khiên Du Ký cầm, tay phải lại đấm một cái, nghe choang một tiếng nữa trúng chiếc khiên của Du Câu.
Du Thị Song Hùng thấy thân trên tê dại, bị quyền lực vô cùng hồn hậu của Kiều Phong chấn động, mắt nổ đom đóm, hai cánh tay ê ẩm, cả khiên lẫn đao thương cầm không vững, bốn món binh khí loảng xoảng rơi xuống. Hai người hổ khẩu cùng rách bét ra, tay đầy máu.
Kiều Phong cười nói:
- Hay lắm, để hai món binh khí sắc bén lại cho ta.
Ông liền cầm hai chiếc khiên, múa lên che đỡ. Hai chiếc cương thuẫn này quả là khí giới vừa công vừa thủ cực kỳ lợi hại, chỉ nghe “Ối, ối” mấy tiếng đã có năm người chết vì hai chiếc khiên. Du thị huynh đệ mặt mày tái mét, thần khí chán chường, Du Ký kêu lên:
- Em ơi, thầy có nói rằng, khiên còn người còn, khiên mất người chết.
Du Câu cũng đáp lại:
- Anh ơi, hôm nay anh em mình thật là đại nhục, còn mặt mũi nào sống ở trên đời?
Hai người nhìn nhau gật đầu một cái, cùng cầm binh khí, một đao một thương tự đâm luôn vào chính mình, lập tức chết ngay. Quần hùng cùng kêu lên:
- Ối chà!
Thế nhưng đang lúc Kiều Phong múa cương thuẫn như gió cuốn, có ai dám tới gần ông ta năm sáu thước đâu? Mà cũng có ai vào gần ông được?
Chỉ nghe tiếng một thanh niên khóc rống lên:
- Cha ơi! Cha ơi!
Chính là con trai Du Câu, Du Thản Chi. Kiều Phong sững sờ, không ngờ Du thị huynh đệ của Tụ Hiền Trang lại tự sát. Ông thấy sau lưng toát mồ hôi lạnh, cơn say giảm đi quá nửa, trong lòng không khỏi bàng hoàng, nói:
- Du gia huynh đệ sao phải khổ như thế? Hai chiếc cương thuẫn này ta trả lại các ngươi.
Ông cầm hai chiếc cương thuẫn để luôn xuống bên cạnh xác của Du Thị Song Hùng. Ông vừa cúi xuống chưa kịp đứng lên, bỗng nghe có tiếng một thiếu nữ kêu lên:
- Coi chừng!
Kiều Phong lập tức nhích qua bên trái, ánh sáng xanh lấp loáng, một thanh kiếm đã đâm ngang bên hông. Nếu không nhờ A Châu kêu lên cảnh cáo, dẫu một kiếm chưa chắc gì đã đâm trúng ông ta nhưng thể nào chân tay cũng luống cuống, ở vào thế cực kỳ bất lợi. Người đánh lén chính là Đàm công, một lần không trúng vội vàng nhảy ra thật xa.
Trong khi Kiều Phong và quần hùng giao chiến thì A Châu nép tại một góc sảnh, nguyên khí trong người dần dần tiêu giảm, trông thấy mọi người vây đánh Kiều Phong, nghĩ đến ông ta biết chắc hung hiểm sẽ đến với mình vậy mà vẫn đưa nàng đến để xin chữa bệnh, cái ân đức đó thật dẫu tan thịt nát xương cũng khó mà báo đáp được. Nàng trong lòng cảm kích, lại lo âu, thấy khi Kiều Phong trả lại cương thuẫn, Đàm công từ sau len lén tấn công nên buột miệng kêu lên cảnh giác. Đàm bà giận dữ nói:
- Giỏi dữ a! Con tiểu quỉ đầu này bọn ta không giết mi thì mi lại nối giáo cho giặc.
Bà ta nhún một cái múa chưởng đánh xuống đầu A Châu. Chưởng của Đàm bà chỉ còn cách đỉnh đầu A Châu chừng nửa thước thì Kiều Phong đã tung mình nhảy tới, chộp ngay lưng Đàm bà đẩy mạnh vứt mụ ta qua một bên, nghe lạch cạch mấy tiếng đã đụng phải một chiếc ghế bành bằng gỗ lê vỡ vụn ra từng mảnh. A Châu tuy thoát được chưởng của Đàm bà nhưng cũng sợ đến mặt xanh như tàu lá, thân hình từ từ xụm xuống. Kiều Phong kinh hoảng nghĩ thầm: “Chân khí trong người nàng đã cạn rồi, nhưng trong hoàn cảnh này ta làm gì có cách nào tiếp khí cho cô ta được?”.
Chỉ nghe Tiết Thần Y cười khẩy nói:
- Chân khí của cô nương này trong chốc lát sẽ hết sạch, ngươi có dùng nội lực tiếp khí cho thị hay không nào? Nếu để tắt hơi thì thần tiên cũng không cách gì cứu sống lại được nữa.
Kiều Phong lâm vào cảnh khó xử, biết rằng Tiết Thần Y nói thực nhưng nếu mình chỉ đưa tay giúp đỡ A Châu thì bao nhiêu món binh khí của quần hùng chung quanh sẽ nhắm ông mà phóng tới. Trong đám này kẻ thì chết con, người thì bạn bè, ra tay ai còn dung tình chút nào? Thế nhưng chẳng lẽ đứng giương mắt nhìn nàng đoạn khí mà chết hay sao?
Ông hết sức mạo hiểm đưa A Châu đến Tụ Hiền Trang, đã không được Tiết Thần Y ra tay chữa trị mà lại chết vì hết chân khí thì quả là đáng tiếc. Thế nhưng nếu lúc này ông dùng chân khí tục mệnh cho cô ta thì đúng là đem mạng mình đổi mạng cho nàng. A Châu bất quá chỉ là một a hoàn giữa đường gặp gỡ, nói đúng ra cũng chẳng có gì gọi là giao tình, ra tay cứu giúp chỉ là hành vi hiệp nghĩa tầm thường, đem mạng mình đổi lấy mạng cô ta, thì quả là hơi quá đáng. Kiều Phong nghĩ thầm: “Cô ta nào phải thân nhân của mình, cũng không phải có ơn với ta nên cần báo đáp. Ta đã hết sức được đến thế này cũng đã là nhân chí nghĩa tận, hết lòng hết dạ rồi. Ta phải bỏ chạy ngay, Tiết Thần Y có cứu cô ta hay không, thì chỉ trông vào may rủi”.
Ông liền cúi xuống nhặt hai chiếc cương thuẫn lên, liên hoàn sử chiêu Đại Bằng Triển Xí, hai vòng bạch quang lấp loáng cuồn cuộn, từ từ xông ra cửa sảnh. Quần hùng tuy đông người thật nhưng chiêu số của Kiều Phong thật độc địa, đôi khiên này lại quá ư lợi hại thành ra khi múa lên trong vòng chu vi một trượng không một ai dám tới gần.
Kiều Phong vừa tiến được mấy bước ra phía cửa, chân vừa đặt vào ngạch cửa bỗng nghe một người già nua cấtù tiếng lạnh tanh:
- Giết con a đầu kia trước, báo đại cừu sau.
Chính là tiếng Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính. Đứa con cả của ông ta Đơn Bá Sơn liền đáp:
- Vâng!
Y cầm đơn đao nhắm ngay đầu A Châu chém xuống. Kiều Phong trong cơn sững sờ, không kịp suy nghĩ, chiếc khiên tay trái lia ra, xoay vòng vòng bay tới, thế đi thật là mãnh liệt. Bảy tám người cùng lên tiếng kêu la:
- Coi chừng!
Đơn Bá Sơn vội vàng thu đao về gạt ra, thế nhưng Kiều Phong ném ra ghê gớm dường nào, cạnh chiếc khiên lại thực sắc bén, chỉ nghe lách cách, cả người lẫn đao của Đơn Bá Sơn đều bị chém đứt làm đôi. Dư lực của cương thuẫn vẫn còn, nghe soẹt một tiếng chặt luôn một cái cột, cát ngói trên mái nhà loảng xoảng rơi xuống.
Đơn Chính và ba đứa con còn lại đau lòng kêu rống lên nhưng thấy Kiều Phong lẫm lẫm thần uy không ai dám xông vào công kích nhưng sáu bảy người khác vẫn nhào vào A Châu. Kiều Phong cất tiếng mắng:
- Thật đồ mặt dầy!
Vù vù liên tiếp bốn chưởng, ông đánh dạt bọn người đó ra, xông lên trước, tay trái ôm A Châu lấy chiếc khiên che cho cô gái. A Châu thều thào:
- Kiều đại gia, tôi không sống được nữa rồi, đừng lý tới làm chi! Mau ... mau chạy một mình đi!
Kiều Phong thấy quần hùng chẳng còn nghĩ gì tới công đạo, cả bọn xông vào hiếp đáp một cô gái yếu đuối hơi thở mong manh như đèn trước gió, khiến ông nổi cơn cao ngạo ngang tàng, lớn tiếng nói:
- Đã đến nước này, bọn chúng không để cho cô sống đâu, cả hai người mình cùng chết nơi đây vậy.
Tay phải vung ra, đoạt ngay một thanh trường kiếm, khi đâm khi cắt khi chém khi bổ, xông ra phía ngoài. Tay trái ông ôm A Châu nên cử động không thuận lợi, lại mất đi một cánh tay để sử dụng nên cục diện càng thêm khó khăn. Thế nhưng ông đã không còn coi sống chết vào đâu, trường kiếm múa tít lên chém ngang dọc nhưng mới đi được hai bước bỗng thấy lưng đau nhói lên thì ra đã bị người nào đó chém một đao rồi.
Ông liền giơ chân đá ngược về sau, đá kẻ đó văng ra xa hơn một trượng đụng vào một người khác, cả hai cùng chết ngay. Thế nhưng ngay lúc đó, đầu vai của Kiều Phong lại bị đâm một mũi thương, rồi ngực lại bị đâm một kiếm. Ông gầm lên một tiếng, chẳng khác gì tiếng sét giữa trời không, quát lớn:
- Kiều Phong này biết tự xử lấy mình, không để chết vào tay bọn chuột nhắt đâu!
Thế nhưng khi đó quần hùng thấy mình đắc thắng lẽ nào lại để cho ông tự tận? Hơn chục người cùng xông lên, Kiều Phong liền khởi thần uy, tay phải vươn ra chộp ngay vào huyệt Đãn Trung của Huyền Tịch, cầm ông giơ cao lên. Mọi người kêu lên một tiếng, không hẹn mà cùng lùi lại mấy bước.
Huyền Tịch yếu huyệt đã bị nắm trúng rồi, dẫu võ công cao cường nhưng lúc ấy toàn thân tê liệt, không còn cử động gì được, thấy cổ họng chỉ còn cách cương thuẫn chừng một thước, tay trái Kiều Phong chỉ đẩy một cái hay tay phải gạt ngang thì đầu ông sẽ bị cắt đứt ngay nên chỉ còn nước thở dài nhắm mắt chờ chết.
Kiều Phong thấy sau lưng, ngực phải, vai phải cùng đau buốt như bị lửa đốt liền nói:
- Một thân võ công của ta cũng ở chùa Thiếu Lâm mà ra, uống nước phải nhớ nguồn, không lẽ lại giết một cao tăng Thiếu Lâm tự? Kiều mỗ hôm nay đành chịu chết, giết thêm một người, phỏng có ích gì đâu?
Nói xong ông ném Huyền Tịch xuống đất, giang tay ra lớn tiếng nói:
- Các ngươi ra tay đi!
Quần hùng ai nấy ngơ ngác, bị hào khí của ông làm cho sững sờ, nhất thời không ai muốn động thủ. Lại có người nghĩ thầm: “Đến như Huyền Tịch y còn không muốn giết, lẽ nào lại làm hại thụ nghiệp ân sư là Huyền Khổ đại sư?”.
Thế nhưng Đơn Chính có hai đứa con trai bị ông giết chết, thương tâm phẫn khích, liền xông lên giơ đao đâm thẳng vào ngực Kiều Phong. Kiều Phong biết mình đã bị trọng thương, không còn cách nào xung sát trùng vi, nên đứng yên không cử động. Chỉ trong chớp mắt, trong đầu xoay chuyển không biết bao nhiêu sự việc: “Ta thực sự là người Khất Đan hay là người Hán? Kẻ giết chết cha mẹ, sư phụ ta ấy là ai? Ta một đời hành động biết bao chuyện nhân nghĩa, sao hôm nay vô duyên vô cớ sát hại bao nhiêu là anh hùng hiệp sĩ? Ta chỉ vì muốn cứu A Châu, lại để cho mình phải chết uổng, có phải ngu muội khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười hay sao?”.
Chỉ thấy khuôn mặt đen sì của Đơn Chính uốn éo biến hình, hai mắt mở trừng trừng cầm đao đâm thẳng vào ngực mình. Kiều Phong vừa đau lòng vừa phẫn nộ, ngửa mặt lên trời hú lên một tiếng như tiếng rống của một mãnh thú sắp lìa trần.
1 Lão bản là ông chủ tiệm, tiếng gọi giới thương nhân
2 Một Bản Tiền có nghĩa là Nghề Không Vốn
3 Kiều Phong lại thăm, tiếng khiêm tốn văn vẻ
4 trèo tường, nhảy lên mái nhà
5 Du Ký, Du Câu trình bày thêm, Tiết Mộ Hoa tiên sinh được người đời gọi là Tiết Thần Y.
6 vì việc đại nghĩa thì đến thân nhân mình cũng phải diệt
7 ỷ tài không sợ gì cả
8 A là tiếng gọi, không kính trọng lắm để chỉ một người bình dân, địa vị thấp kém. Những cô gái trong nhà Mộ Dung có tên Châu (đỏ gạch, tức Chu), Bích (xanh biếc) rồi sau này có thêm Tử (tím đỏ) đều gọi tên theo màu áo mặc.
9 Cẩu hùng là con gấu, cố ý nói trại anh hùng yến thành cẩu hùng hội.
10 Đầy tớ tiếp khách trong trang viện
11 Gửi gấm con côi, tích vua Thục Lưu Bị trước khi chết gửi con là Lưu Thiện cho thừa tướng nước Thục là Gia Cát Lượng trông coi (Tam Quốc diễn nghĩa)
12 cả càn khôn (trời đất) đều nằm trong tay áo
13 tụ là tay áo như trong chữ lãnh tụ (lãnh, cổ áo còn tụ, tay áo) là hai bộ phận đi đầu tiên khi mặc áo nên có nghĩa là dẫn đầu. Trong truyện thỉnh thoảng chúng tôi để nguyên những từ tụ lực (sức từ trong tay áo), tụ phong (gió từ trong tay áo) để khỏi lập đi lập lại
Đ ơn Chính nghe tiếng rống dường như muốn điếc cả tai, đầu óc mê mẩn, chân lảo đảo đứng không vững. Quần hùng bất giác cùng lùi lại mấy bước, Đơn Tiểu Sơn đứng gần bên lập tức xông lên giơ đao đâm tới.
Chỉ thấy mũi đao còn cách ngực Kiều Phong chừng một thước mà ông không hề có ý tránh né, bọn Ngô trưởng lão, Bạch Thế Kính của Cái Bang ai nấy nhắm mắt không nỡ nhìn.
Đột nhiên từ trên không nghe vụt một tiếng, một người đã nhảy xuống tư thế cực kỳ nhanh nhẹn, khéo làm sao đụng ngay vào sống đao của Đơn Tiểu Sơn. Đơn Tiểu Sơn chịu không nổi luồng lực đạo mạnh mẽ đó, cánh tay chùng xuống. Trong tiếng kêu la kinh hoàng của quần hùng, trên không trung lại có một người nữa nhảy xuống nhưng đầu đi trước, chân đi sau, cũng thật là nhanh, nghe bình một tiếng vang dậy, thiên linh cái đụng vào thiên linh cái, trúng ngay Đơn Tiểu Sơn, đầu cả hai liền vỡ nát.
Mọi người nhìn thấy rõ ràng trước sau cả hai người đều là người đứng trên mái ngói canh chừng Kiều Phong đào tẩu nhưng đã bị ai bắt, dùng như ám khí ném xuống. Trong sảnh lập tức đại loạn, tiếng người xôn xao rầm rĩ. Ngay lúc ấy từ trên một góc mái nhà tung xuống một sợi dây thừng, thế mãnh liệt tạt ngang đầu mọi người, ai nấy vội vung binh khí lên đỡ. Chiếc thừng liền vòng trở lại, cuốn luôn vào hông Kiều Phong kéo vụt lên.
Khi đó ba vết thương của Kiều Phong máu chảy như suối, tay trái ôm A Châu không còn chút lực khí nào, vừa bị dây thừng cuốn lấy, A Châu lập tức tuột ra. Mọi người thấy kẻ đứng trên mái nhà đầu bên kia của dây thừng là một đại hán cao to mặc quần áo đen, mặt bịt khăn đen chỉ lộ đôi mắt.
Đại hán kia giơ tay trái kẹp Kiều Phong vào nách, sợi dây lại tung ra cuốn ngay vào cây cột cờ bên ngoài Tụ Hiền Trang. Quần hùng lớn tiếng kêu la, lập tức cương tiêu, tụ tiễn, phi đao, thiết chùy, phi hoàng thạch, súy thủ tiễn các loại ám khí đều nhắm vào đại hán kia và Kiều Phong ném tới. Người áo đen nắm lấy sợi dây thừng nhẹ nhàng bay ra, hạ xuống đỉnh cột cờ. Băng băng, chát chát, cách cách liên tiếp, mấy chục món ám khí đều bắn vào cột cờ. Lại thấy chiếc dây từng tung ra, quấn lấy một cây to cách xa bảy tám trượng, rồi đại hán đó cắp Kiều Phong đu ra, chỉ nháy mắt đã vượt qua cái cây, cách cột cờ đến hơn mười trượng mới rơi xuống. Y lại quăng chiếc dây lần nữa quấn vào một cái cây ở xa xa, cứ thế vài lần đã biến mất một cách vô hình vô ảnh.
Kiều Phong bị thương tuy nặng nhưng thần trí vẫn tỉnh táo, đại hán kia dùng dây thừng cứu được ông, nhất cử nhất động ông đều nhìn thấy rõ ràng nên hết sức cảm kích cái ơn cứu mạng, nghĩ thầm: “Quăng chiếc dây thừng chuẩn xác như thế ta cũng làm được, thế nhưng dùng dây làm binh khí, múa lên đánh dạt cả mấy chục người, chiêu nhuyễn tiên Thiên Nữ Tán Hoa đó, ta chưa thể nào sử dụng đến mức như vậy được”.
Người áo đen để Kiều Phong lên lưng ngựa, hai người cưỡi chung một con chạy thẳng về hướng bắc vừa chạy vừa lấy kim sang đồ lên ba nơi vết thương. Kiều Phong bị mất máu quá nhiều nên thật yếu đuối, mấy lần tưởng như muốn ngất đi nhưng cố hít một hơi dài, nội tức lưu chuyển tinh thần lại phấn chấn trở lại. Người áo đen giục ngựa chạy thẳng về hướng tây bắc, đường càng đi càng hiểm trở đến sau cùng không còn đường lối nào nữa, con ngựa chỉ khấp khểnh trèo qua những khu loạn thạch.
Lại đi thêm hơn nửa giờ nữa, ngựa không còn đi được, đại hán nọ bèn bồng ngang Kiều Phong lên, xuống ngựa trèo lên một ngọn núi. Kiều Phong thân thể nặng nề vậy mà người áo đen bồng ông ta không một chút phí sức, tuy ở nơi cực kỳ cheo leo mà vẫn chạy nhảy như bay. Về sau đến những bức vách đá dựng đứng không có chỗ để chân, đại hán ném giây thừng quấn vào cây bên kia vực mà nhảy qua. Người đó qua tám cái khe núi, rồi mới xuống một cái vực sâu, đứng dưới nhìn lên không thấy trời xanh lúc đó mới dừng chân để Kiều Phong xuống.
Kiều Phong cố gượng đứng lên nói:
- Đại ân không thể dùng lời mà cảm tạ được, chỉ cầu xin ân huynh cho Kiều Phong này được thấy chân diện của Lô sơn .
Đôi mắt sáng quắc của đại hán kia quét qua mặt ông mấy lượt, một lát sau mới nói:
- Trong sơn động có lương khô đủ dùng trong nửa tháng, ngươi ở đó dưỡng thương, địch nhân không thể nào tới được.
Kiều Phong vâng lời, nghĩ thầm: “Nghe giọng người này xem chừng tuổi không còn trẻ nữa”. Người áo đen lại nhìn ông đánh giá một hồi, bỗng nhiên vung tay phải lên nghe bốp một cái đánh Kiều Phong một bạt tai. Y ra tay cực nhanh, Kiều Phong lại không nghĩ rằng y sẽ đả thương mình, hơn nữa chưởng đó đánh ra thật cao minh, thành thử không sao tránh được. Chưởng thứ hai của đại hán lại đánh ra, tuy chỉ cách nhau bằng thời gian một ánh chớp nhưng Kiều Phong đã có chuẩn bị rồi nên làm sao đánh trúng ông được? Thế nhưng ông ta là ân nhân cứu mạng nên Kiều Phong không có ý đối địch, lại cũng không có hơi sức để tránh né, nên lập tức giơ tay trái lên để lên một bên má chĩa ngón tay trỏ vào lòng bàn tay y.
Ngón tay đó chỉ đúng vào huyệt Lao Cung trong lòng bàn tay đại hán, nếu chưởng đó đánh xuống, tay chưa chạm vào mặt Kiều Phong thì huyệt đạo đã bị ngón tay đâm trúng rồi. Bàn tay người nọ còn cách má Kiều Phong chừng độ một thước lập tức biến chiêu thật lẹ lật lại tát trái, Kiều Phong cũng nhanh nhẹn đưa ngón tay hướng vào huyệt Tam Gian trên lưng bàn tay y.
Đại hán cười một tràng dài, tay phải giựt lại, tay trái liền chém tới. Ngón tay bên trái Kiều Phong lập tức ngóc lên chỉ thẳng vào huyệt Hậu Khoát ở cạnh bàn tay. Người áo đen nâng nhẹ tay lên nhưng vẫn tiếp tục đánh tới không suy giảm, Kiều Phong lại di động ngón tay hướng vào huyệt Tiền Cốc. Chỉ trong khoảnh khắc, song chưởng của người kia phi vũ thay đổi đến hơn một chục chiêu thức nhưng Kiều Phong chỉ thủ mà không công, dùng ngón tay chỉ đúng vào những huyệt ở tay y đánh tới.
Đại hán lần đầu xuất kỳ bất ý tát được ông một cái nhưng sau đó không làm sao đánh thêm được nữa. Hai người kẻ đánh hờ, người hư tiếp quả thật thượng thừa võ công đời nay. Đại hán sử dụng được khoảng hai chục chiêu rồi thấy Kiều Phong tuy đã trọng thương nhưng vẫn biến chiêu cực kỳ thần tốc, nhận huyệt thật chuẩn xác, y bèn nhảy lùi về sau nói:
- Ngươi quả là ngu không ai bằng, đáng lẽ ta chẳng nên cứu ngươi làm chi.
Kiều Phong đáp:
- Xin kính cẩn nghe lời giáo huấn của ân công.
Người kia mắng:
- Đồ con lừa thối tha, luyện đến mức võ công vô địch thiên hạ, sao lại chỉ vì một con bé đầu đường xó chợ mà đành bỏ mạng? Cô ta với ngươi vô thân vô cố, chẳng ân chẳng nghĩa, cũng chẳng phải là giai nhân nghiêng nước nghiêng thành, chỉ là một đứa đầy tớ hạ lưu chứ có là gì đâu. Trên đời này sao lại có đứa ngu đến thế?
Kiều Phong thở dài một tiếng nói:
- Ân công dạy như vậy phải lắm. Kiều Phong này lấy tấm thân hữu dụng để làm chuyện vô ích, quả là sai lầm. Chỉ vì nhất thời bực tức, tính dã man hung dữ nổi lên nên không nghĩ ngợi gần xa.
Đại hán kia nói:
- Ha ha! Thì ra là tính dã man hung dữ nổi lên.
Ông ta ngẩng đầu nhìn trời cất tiếng cười một tràng dài. Kiều Phong thấy trong tiếng cười kia chứ đầy đau thương phẫn uất, không khỏi ngạc nhiên. Nào ngờ đại hán đứng phắt dậy, nhảy vụt ra xa, thân hình nhún một cái đã khuất sau một tảng đá lớn. Kiều Phong kêu lên:
- Ân công! Ân công!
Người kia nhảy nhót liên tiếp, vòng qua một eo núi đã đi thật xa. Kiều Phong chạy theo nhưng chỉ được một bước đã thấy người choáng váng muốn ngã, vội đưa tay vịn vào sơn bích.
Ông cố gắng định thần, quay lại quả nhiên sau vách đá có một sơn động. Ông men theo bức tường, chầm chậm đi vào trong hang, thấy dưới đất để đầy thịt chín, gạo rang, táo khô, đậu phộng, cá muối toàn là lương khô, nhưng hay hơn cả là lại có cả một vò rượu lớn. Ông mở nắp ra, mùi rượu xông lên mũi, vội thò tay vào vốc một vốc ra uống vào miệng thật là ngon, quả là loại mỹ tửu thượng đẳng. Kiều Phong trong lòng cảm kích: “Sao vị ân công này chu đáo đến thế, biết ta hay uống, lại dự bị sẵn cả rượu nơi đây. Sơn đạo khó đi là vậy, mang được bình rượu lớn thế này, quả là nhiều công lao!”.
Thuốc của đại hán nọ bôi lên vết thương cho ông thật là công hiệu, lúc này đã cầm máu rồi, chỉ mấy giờ sau cơn đau đã giảm. Ông thân thể tráng kiện, nội công thâm hậu, vết thương chỉ ở ngoài da thịt, tuy nặng thật đấy nhưng chỉ qua bảy tám ngày, đường cắt đã liền da đến non nửa. Trong bảy tám ngày đó, trong đầu ông chỉ nghĩ đến hai việc: “Kẻ thù hại ta là ai? Vị ân nhân cứu ta là ai?”. Cả hai người võ công đều cực kỳ ghê gớm, xem chừng chẳng kém gì mình, trong võ lâm những người thân thủ như thế đếm được trên đầu ngón tay, người nào ông cũng nghĩ tới rồi nhưng nghĩ qua nghĩ lại xem ra không ai giống cả. Kẻ thù chẳng thể nào đoán được thì cũng đành, thế nhưng vị ân nhân này trao đổi với mình đến hơn hai chục chiêu mà cũng không thể nào đoán được gia số môn phái vì chiêu nào thức nấy cũng đều thật là bình thường nhưng trong cái giản phác không hoa mỹ kia chứa đựng một võ công cực kỳ cao siêu, chẳng khác gì mình ở Tụ Hiền Trang sử dụng Thái Tổ trường quyền, trong chiêu thức không hề tiết lộ lai lịch.
Cái vò rượu đó chỉ mới hai ngày Kiều Phong đã uống sạch không còn một giọt, cố đợi đến ngày thứ hai mươi, thấy vết thương mười phần đã khỏi bảy tám, cơn thèm rượu không sao nhịn nổi nghĩ bụng đã có đủ sức nhảy qua khe núi vượt sơn cốc được rồi nên ra khỏi sơn động cất bước trở lại chốn giang hồ.
Ông nghĩ bụng: “A Châu rơi vào tay bọn chúng, nếu chết thì cũng đã chết rồi, còn như sống được thì cũng chẳng cần mình đến lo liệu cho cô ta. Việc trước mắt quan trong nhất là làm sao tra xét cho rõ ta là hạng người nào. Cha mẹ thấy ba người cùng một ngày đã chết cả, thân thế ta càng mơ hồ thêm, đành phải ra ngoài Nhạn Môn Quan xem di văn trên vách đá viết những gì”.
Tính toán xong ông đi về hướng tây bắc, đến thị trấn liền ghé vào uống hai chục bát rượu cho bõ thèm. Chỉ được ba ngày, mấy lạng bạc vụn đã biến thành rượu uống hết sạch.
Thời đó Đại Tống cai trị Trung Thổ, chia thiên hạ ra thành mười lăm lộ, đặt kinh đô ở Đại Lương phủ Khai Phong là Đông Kinh, Lạc Dương ở Hà Nam là Tây Kinh, Tống Châu là Nam Kinh, Đại Danh là Bắc Kinh tổng cộng tứ kinh. Khi đó Kiều Phong đang ở Nhữ Châu, thuộc lộ Kinh Tây, hôm đó đến Lương Huyện tiền bạc hết nhẵn, tối hôm đó bèn lẻn vào huyện đường, ẵm tại công khố vài trăm lượng bạc. Trên đường đi ăn uống phủ phê, gà vịt cá mú, cao lương mỹ tửu đều toàn là tiền của các quan nhà Đại Tống cung phụng cả. Chẳng bao lâu đã đến Đại Châu thuộc lộ Hà Đông.
Nhạn Môn Quan nằm cách ba chục dặm ở phía bắc Đại Châu, trên đường Nhạn Môn. Năm xưa hành hiệp giang hồ, Kiều Phong đã từng đến đây rồi, nhưng hồi đó đang có việc gấp chỉ lật đật đi ngang, chẳng để ý đến. Khi đến Đại Châu thì đã gần trưa, ghé vào thành ăn một bữa cơm, uống hơn chục bát rượu rồi mới ra khỏi thành đi về hướng bắc.
Ông cước trình nhanh nhẹn, ba mươi dặm đi chưa tới nửa giờ. Lên núi rồi thấy đá tảng dựng đứng hai bên, đường ở giữa quanh co gập ghềnh, quả là một nơi cực kỳ hiểm trở nghĩ thầm: “Chim nhạn di cư xuống phương nam rồi trở về phương bắc, làm sao bay qua ngọn núi nổi nên phải bay giữa hai khe núi thành thử mới gọi là Nhạn Môn. Hôm nay ta từ phương nam đi lên, nếu như thạch bích còn hàng chữ ghi rõ ta là người Khất Đan thì Kiều mỗ một khi ra khỏi ải Nhạn Môn này rồi, vĩnh viễn thành người tái bắc, không bao giờ quay lại nữa, thật kém xa giống chim kia, mỗi năm một lần nam lai bắc vãng, tự do tự tại”. Nghĩ đến đó trong lòng không khỏi xót xa.
Nhạn Môn Quan là trọng trấn của nhà Đại Tống ở phương bắc, suốt cõi Sơn Tây hơn bốn chục cửa ải không nơi nào kiên cố hùng vĩ bằng, chỉ ra khỏi cửa này vài mươi dặm là thuộc đất Liêu Quốc rồi. Dưới cửa ải có đặt binh lính thủ ngự, Kiều Phong nghĩ bụng nếu mình theo cửa quan mà đi ra, thể nào cũng bị binh lính tra hỏi nên đi theo ngọn núi cao phía tây mà đi vòng qua.
Lên đến tuyệt đính rồi, ông đưa mắt nhìn chung quanh thấy toàn núi là núi, Ngũ Đài cao vọt lên ở phía đông, phía tây là một dãy Ninh Võ, Chính Dương, Thạch Cổ ở phương nam còn phía bắc thì là Sóc Châu, Mã Ấp. Quả thật là:
Chập chùng núi tiếp chân trời
Mênh mang giá buốt, bùi ngùi ruột gan.
Trường pha tuấn phản
Mang nhiên vô tế
Hàn lâm mạc mạc
Cảnh tượng tiêu tác
Kiều Phong nhớ đến năm xưa qua Nhạn Môn Quan đã từng nghe đồng bạn nói rằng, đại tướng Lý Mục nước Triệu thời Chiến Quốc, đại tướng Chất Đô đời Hán đều từng trấn thủ Nhạn Môn Quan kháng cự với quân Hung Nô xâm nhập. Nếu như quả thực mình cũng là giống Hung Nô, hậu duệ giống Khất Đan thì hóa ra những kẻ cả nghìn năm qua tiến đánh Trung Quốc cũng đều là tổ tiên mình cả.
Ông đưa mắt nhìn về hướng bắc nghĩ thầm: “Ngày đó Uông bang chủ, cùng bọn Triệu Tiền Tôn ở bên ngoài Nhạn Môn Quan phục kích bọn võ sĩ Khất Đan hẳn là sẽ chọn một sườn núi thật thuận lợi chỉ trong khoảng mươi dặm đổ lại. Hình thế tốt thì phải ở phía tây bắc cạnh núi kia. Mười phần thì đến tám chín bọn họ mai phục ở chỗ này”.
Nghĩ thế ông liền chạy xuống dưới đi đến bên cạnh núi, trong lòng đột nhiên không hiểu sao dậy lên một nỗi bi phẫn, thấy bên núi đó có một khối đá lớn, Trí Quang đại sư bảo là quần hùng Trung Nguyên nằm ẩn sau nham thạch này ném ám khí tẩm độc ra bên ngoài, xem chừng chính là chỗ này.
Bên ngoài sơn đạo chừng vài bước là vực sâu, mây mù che phủ không nhìn thấy đáy. Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu lời của Trí Quang đại sư không sai, khi mẹ ta bị họ giết chết rồi, cha ta ở nơi đây nhảy xuống sơn cốc tự tận. Ông ta nhảy vào vực rồi, không nhẫn tâm để ta phải chết chung nên mới vứt ta trở lên, rơi trên mình Uông bang chủ. Ông ấy ... ông ấy viết gì trên thạch bích nhỉ?”.
Ông quay đầu lại nhìn về phía vách đá ở bên trái, thấy đó là một bức tường trời sinh nhẵn thín như gương, nhưng chính giữa một khoảng lớn đầy vết đục, vết búa thật đã rõ ràng có người nào đó cố ý xóa hết những hàng chữ lưu lại rồi.
Kiều Phong đứng ngẩn ngơ trước bức tường đá, đột nhiên nộ hỏa xông lên, chỉ muốn vung đao, giơ chưởng loạn sát một phen. Ông đột nhiên nghĩ lại: “Khi ta rời Cái Bang đã từng bẻ gãy thanh đao của Đơn Chính mà thề rằng: Ta là người Hán cũng vậy, mà là người Khất Đan cũng vậy, quyết không bao giờ hại mạng người Hán đâu. Thế nhưng nơi Tụ Hiền Trang, ta đã ra tay giết bao nhiêu là người? Đến lúc này ta lại muốn giết người nữa có phải là đã vi phạm vào lời thề hay sao? Ôi, sự đến nước ấy, ta không phạm người người sẽ phạm ta, không lẽ bó tay chịu chết, để cho người ta xẻ thịt lóc xương ư, thế thì còn gì là phong độ của nam tử trượng phu nữa?”
Ông nghìn dặm chạy tới cốt để tra xét cho rõ ràng thân thế mình thế nhưng nào có kết quả gì đâu. Trong lòng càng lúc càng thêm bực bội, lớn tiếng gầm lên:
- Ta không phải người Hán, ta không phải người Hán! Ta là Hồ Lỗ Khất Đan, ta là Hồ Lỗ Khất Đan!
Kiều Phong giơ tay lên, đánh liên hồi lên vách đá. Chỉ nghe bốn bề sơn cốc vang dội, từng tiếng từng tiếng vọng về:
- ... không phải người Hán! Không phải người Hán ... Hồ Lỗ Khất Đan, Hồ Lỗ Khất Đan!
Đá vụn trên vách đá bay tứ tung, Kiều Phong trong lòng bao nhiêu uất ức, thịnh nộ không có chỗ phát tiết, cứ hết chưởng này đến chưởng khác đánh tới, tưởng chừng như muốn đem bao nhiêu oan khuất của một tháng qua trút lên thạch bích mãi đến khi bàn tay tươm máu, từng vết dấu tay in vào tảng đá ông vẫn chưa ngừng.
Ngay khi đang đánh, bỗng từ đằng sau giọng một thiếu nữ nhỏ nhẹ cất lên:
- Kiều đại gia, ông còn đánh nữa, chắc ngọn núi này cũng sẽ đổ mất thôi.
Kiều Phong ngạc nhiên, quay đầu nhìn lại, thấy một thiếu nữ mặc áo dài màu hồng đứng tựa vào một cây hoa bên cạnh sườn núi, khóe miệng mỉm cười, chính là A Châu.
Hôm trước ông ra tay cứu nàng chẳng qua chỉ vì cái phẫn khích nhất thời chứ đối với cô tiểu a đầu này đâu có để bụng làm chi, đến sau ngay cả chuyện sinh tử tồn vong của nàng cũng không còn rỗi hơi mà nhớ đến. Ngờ đâu nàng lại xuất hiện ở nơi này, Kiều Phong vừa kinh dị, vừa hoan hỉ mỉm cười tiến đến nói:
- A Châu, cô xem khỏe mạnh nhiều rồi!
Có điều ông đang cơn cuồng nộ, bỗng chuyển sang vui mừng, nụ cười trên môi xem ra có chiều gượng gạo. A Châu nói:
- Kiều đại gia, ông khỏe chứ?
Nàng chăm chú nhìn Kiều Phong một hồi, đột nhiên sà tới ôm chầm lấy ông, khóc nức nở:
- Kiều đại gia, thiếp ... thiếp ở đây chờ đại gia đã năm ngày năm đêm, chỉ sợ ông không đến. Ông ... ông quả nhiên đến rồi, nhờ trời phù hộ nên ông vẫn khỏe mạnh bình thường.
Câu đó nàng nghẹn ngào nói ra tiếng được tiếng mất nhưng giọng đầy vẻ trìu mến thiết tha, Kiều Phong nghe qua biết ngay là nàng hết sức lo lắng cho mình, trong bụng bồi hồi hỏi lại:
- Sao cô lại đợi ta ở đây đến năm ngày năm đêm? Cô ... cô làm sao biết được là ta sẽ đến đây?
A Châu chậm rãi ngửng đầu lên, chợt nghĩ đến mình đang gục vào lòng một người đàn ông, mặt ửng hồng, lùi lại hai bước, nghĩ đến việc mình không dằn nổi lòng ôm chầm lấy chàng, mặt càng đỏ như gấc chín, đột nhiên quay phắt đi chạy núp vào đằng sau gốc cây. Kiều Phong gọi vói theo:
- Này, A Châu, cô làm sao thế?
A Châu không trả lời, chỉ thấy tim đập thình thịch, một lúc lâu sau mới từ sau gốc cây bước ra nhưng vẻ mặt vẫn còn bẽn lẽn, ấp úng không nói nên lời. Kiều Phong thấy nàng thần tình kỳ lạ nói:
- A Châu, nàng có chuyện gì khó ăn khó nói, cứ việc cho ta nghe nào. Chúng ta là hai kẻ hoạn nạn chi giao, đồng sinh cộng tử, có gì còn phải dè chừng nữa đâu?
Mặt A Châu lại đỏ bừng nhỏ nhẹ nói:
- Không có gì cả.
Kiều Phong nhẹ nhàng để tay lên vai cô, xoay nàng cho mặt quay về hướng mặt trời thấy nàng sắc mặt tuy vẫn tiều tụy nhưng trong cái xanh xao có ẩn sắc hồng, không còn vẻ xám xịt thuở bị trọng thương lúc trước, lại giơ tay cầm mạch nàng. Bàn tay A Châu vừa chạm vào tay ông, lập tức nàng giật nảy người, Kiều Phong vội hỏi:
- Gì thế? Cô chưa khỏe hẳn hay sao?
A Châu lại càng thẹn thùng, vội đáp:
- Không đâu, không ... không có gì hết.
Kiều Phong giơ tay bắt mạch thấy mạch nhảy bình thường, đều đặn có sức bèn khen:
- Tiết Thần Y diệu thủ hồi xuân, quả thật danh bất hư truyền.
A Châu nói:
- Cũng nhờ ông bạn tốt Bạch Thế Kính trưởng lão của đại gia bằng lòng truyền cho ông ta bảy chiêu Triền Ti Cầm Nã Thủ, Tiết Thần Y mới chịu trị bệnh cho thiếp. Vả lại quan trọng hơn, bọn họ cũng muốn tra vấn xem tung tích vị tiên sinh áo đen kia ở đâu, nếu như thiếp chết đi bọn họ không còn biết hỏi ai được nữa. Thương thế của thiếp mới hơi đỡ một chút, ngày nào cũng có bảy tám người đến hỏi: “Gã ác tặc Kiều Phong với cô liên hệ thế nào?” “Y chạy đi đâu?” “Người áo đen cứu y là ai?” Những chuyện đó thiếp nào có rành nhưng khi thiếp nói thật là không biết thì bọn họ lại bảo là nói láo, nói sẽ không cho ăn cho uống, dùng cực hình tra khảo để cho thiếp sợ. Thành thử thiếp phải bịa ra một chuyện cho họ nghe, chuyện tiên sinh áo đen hoang đường hơn cả, hôm nay thì bảo là ông ta từ núi Côn Lôn đến, ngày mai lại bảo là học nghề ở biển Đông, nói năng nhăng cuội cho họ nghe thật là thú vị.
Nàng nói tới đây, nghĩ lại những ngày qua thuận mồm phét lác, bịp bợm được rất nhiều anh hùng hào kiệt đã thành danh, trong lòng vẫn còn khoái trá khiến cho gương mặt bừng lên như hoa vừa hé nụ. Kiều Phong mỉm cười nói:
- Thế bọn chúng có tin không?
A Châu đáp:
- Có người thì tin, có kẻ lại không tin, phần lớn bán tín bán nghi. Thiếp đoán chừng chẳng một ai biết lai lịch của tiên sinh áo đen nên không người nào nói được là thiếp sai ở chỗ nào nên càng lúc câu truyện càng ly kỳ quái đản khiến cho bọn họ không biết đường nào mà mò, ai nấy sợ mất vía.
Kiều Phong thở dài:
- Vị tiên sinh áo đen đó lai lịch thế nào, quả thực ta cũng không biết. E rằng nghe cô ba điều bốn chuyện đến ta cũng nửa tin nửa ngờ.
A Châu lạ lùng hỏi:
- Đại gia cũng không biết ông ta là ai ư? Thế sao ông ta lại cam tâm mạo hiểm xông vào đầm rồng hang hổ cứu ông ra? Ồ, những đại hiệp cứu người trong lúc nguy nan, ai mà chẳng vậy.
Kiều Phong thở dài nói:
- Ta thật chẳng biết đi kiếm ai mà báo thù, cũng lại chẳng biết đi kiếm ai mà trả ơn, cũng chẳng biết mình là người Hán, hay là người Hồ, không biết những việc mình làm là đúng hay sai. Kiều Phong hỡi Kiều Phong, ngươi quả thật không đáng làm người!
A Châu thấy ông thần sắc chán chường, đau khổ liền đưa tay ra nắm lấy tay ông, an ủi:
- Kiều đại gia, sao ông phải tự mình làm khổ mình làm gì? Mọi việc rồi cũng có lúc rõ ràng đâu ra đấy. Chỉ cần đại gia nhìn lại không thẹn với lòng mình, hành sự hợp với lẽ trời đất thế là đủ rồi.
Kiều Phong nói:
- Thế nhưng ta tự thẹn với mình, thế mới thật đau lòng. Hôm đó nơi rừng hạnh, ta đã từng búng gãy thanh đao thề rằng sẽ không giết một người Hán nào, ngờ đâu ... ngờ đâu ...
A Châu đáp:
- Nơi Tụ Hiền Trang bọn họ không phân trắng đen, phải trái, vây đánh ông, nếu không trả đòn không lẽ để yên cho họ chặt mình ra thành mười bảy, mười tám miếng hay sao? Trên đời này làm gì có chuyện như thế được?
Kiều Phong đáp:
- Cô nói vậy cũng có lý lắm.
Ông vốn dĩ là một hảo hán tính tình sảng khoái, ít để tâm chuyện gì trong nhất thời đau lòng cảm thán nhưng chỉ một lúc đã gác sang một bên nói:
- Trí Quang đại sư và Triệu Tiền Tôn đều nói rằng trên vách đá này có viết chữ, nhưng không biết kẻ nào đã đục mất rồi.
A Châu đáp:
- Đúng thế! Thiếp cũng đoán là đại gia sẽ ra ngoài Nhạn Môn Quan để xem những hàng chữ còn lưu lại trên thạch bích này nên sau khi thoát hiểm rồi liền đến nơi đây chờ ông đó.
Kiều Phong hỏi:
- Làm sao cô thoát hiểm được? Cũng do Bạch trưởng lão cứu ra ư?
A Châu mỉm cười:
- Cái đó không phải vậy. Ông còn nhớ thiếp giả trang thành nhà sư chùa Thiếu Lâm chứ gì? Đến sư huynh đệ của y còn không nhận ra.
Kiều Phong nói:
- Quả là như thế! Cái trò tinh nghịch của cô quả là tài thật.
A Châu nói:
- Hôm đó khi thương thế của thiếp đã đỡ nhiều, Tiết Thần Y bảo là không cần phải chữa thêm nữa, chỉ cần ghỉ ngơi bảy tám ngày là sẽ hồi phục. Câu chuyện mà thiếp bịa ra càng lúc càng nhiều sơ hở, lại cũng chán như cơm nếp nát, nhất là lo lắng không biết đại gia giờ này ra sao nên đến chiều tối hôm đó thiếp bèn cải trang thành một người.
Kiều Phong hỏi:
- Lại cải trang? Thành ai thế?
A Châu đáp:
- Thiếp giả thành Tiết Thần Y.
Kiều Phong hơi giật mình hỏi:
- Cô hóa trang thành Tiết Thần Y thì làm thế nào cho được?
A Châu đáp:
- Ông ta ngày nào chẳng lại gặp thiếp, nói cũng nhiều, thần thái mô dạng ông ta thiếp quen lắm rồi, lại thường chỉ có một mình ông ta đến mà thôi. Đêm hôm đó thiếp giả vờ ngất đi, ông ta vội vàng bắt mạch, thiếp liền lật tay lại nắm đúng ngay mạch môn khiến lão không còn cục cựa gì được, đành để cho thiếp làm gì thì làm.
Kiều Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm: “Lão Tiết Thần Y kia chỉ lo trị bệnh có biết đâu con nhãi này đánh lừa”. A Châu tiếp:
- Thiếp điểm huyệt lão ta, lột sạch áo giày. Phép điểm huyệt của thiếp chưa được cao minh, sợ ông ta tự mình xung khai huyệt đạo, nên xé chiếc chăn ra trói luôn chân lão ta, đặt lên trên giường đắp mền lại, nếu ai ở ngoài cửa sổ nhìn vào chỉ tưởng thiếp đang chùm chăn nằm ngủ, không nghi ngờ gì. Thiếp mặc áo đi giầy, đóng khăn của ông ta rồi, trên mặt làm thêm mấy nếp nhăn, trông đã hao hao giống đến bảy phần mười chỉ còn thiếu một chòm râu.
Kiều Phong kêu lên:
- Ồ, bộ râu của Tiết Thần Y hoa râm nửa đen nửa trắng, không dễ gì mà giả được.
A Châu nói:
- Râu giả thì khó mà giống, chi bằng dùng râu thật.
Kiều Phong lạ lùng:
- Râu thật?
A Châu đáp:
- Đúng vậy, dùng râu thật. Thiếp lấy trong hộp thuốc của ông ta ra một con dao nhỏ, cạo sạch chòm râu của ông ta, từng sợi từng sợi gắn lên mặt mình, hình dáng màu sắc không có chỗ nào không giống. Tiết Thần Y chắc tức đến chết được nhưng còn làm gì được nữa đây? Ông ta trị thương cho thiếp nào phải là do bản tâm đâu, thiếp có cạo râu ông ta thì cũng không thể nói lấy oán báo ơn được. Huống chi sau khi ông ta cạo sạch râu rồi trông trẻ ra đến hơn chục tuổi, mặt mày trông anh tuấn lắm.
Nói đến đây hai người cùng phá lên cười. A Châu tiếp tục:
- Thiếp giả làm Tiết Thần Y, khệnh khạng ra khỏi Tụ Hiền Trang chẳng một ai dám hỏi han gì. Thiếp sai người chuẩn bị ngựa, lấy tiền bạc rồi ra đi. Rời trang ba chục dặm, thiếp nhổ râu đi, thành ngay một người trai trẻ. Bọn kia chắc phải sáng sớm hôm sau mới phát giác được. Thế nhưng trên đường thiếp liên tiếp cải trang, bọn họ có đuổi theo cũng không tìm ra được.
Kiều Phong vỗ tay reo lên:
- Hay thật, hay thật!
Đột nhiên ông nhớ lại khi ở Bồ Đề Viện nơi chùa Thiếu Lâm thoáng nhìn thấy trong tấm gương đồng hình ảnh sau lưng của mình, lúc đó ông bỗng sững sờ, xem chừng có điều gì khúc mắc, bây giờ lại nghe nàng nói chuyện cải trang thoát hiểm, cái tâm trạng bất an ấy lại nổi lên, còn mạnh hơn cả hôm ở trong chùa. Kiều Phong trầm ngâm rồi nói:
- Cô quay người lại để ta xem nào.
A Châu không hiểu ông muốn gì nhưng cũng nghe lời xoay lưng lại. Kiều Phong chăm chú nhìn, cởi chiếc áo ngoài khoác lên trên người cô gái. A Châu bẽn lẽn, đôi mắt đầy vẻ ôn nhu quay lại đắm đuối nhìn ông, nói:
- Thiếp không lạnh.
Kiều Phong nhìn nàng khoác chiếc ngoại y của mình, trong đầu một ánh sáng lóe lên, lật bàn tay nắm chặt lấy cổ tay cô gái, hậm hực nói:
- Thì ra là mi! Mi do ai sai khiến, mau nói cho ta nghe.
A Châu hoảng hốt, run rẩy nói:
- Kiều đại gia, có chuyện gì thế?
Kiều Phong nói:
- Ngươi đã từng giả làm ta, mạo xưng ta, có phải vậy không?
Thì ra khi đó ông chợt hiểu ra, khi ở Vô Tích đến cứu anh em Cái Bang, trên đường thoáng thấy bóng sau lưng một người, lúc đó không để ý, đến khi nhìn thấy trong tấm gương đồng nơi Bồ Đề Viện cái bóng sau lưng của mình, lúc đó mới thấy người này hình dáng sau lưng trông y hệt mình không sai một mảy, cái dạ canh cánh bất an từ đó mà nảy sinh, có điều mơ mơ hồ hồ không hiểu từ đâu mà ra.
Hôm đó ông chạy tới cứu quần hùng Cái Bang, tới nơi thì mọi người đã thoát hiểm, ai cũng bảo mới đây đã gặp ông rồi. Tuy ông nhất định chối nhưng chẳng một ai tin. Lúc ấy ông chẳng hiểu ra sao, nghĩ bụng trừ phi có người nào đó giả dạng mình ra thì không còn một lẽ nào khác. Thế nhưng muốn giả mạo mình, những người ngày ngày thường gặp như bọn Bạch Thế Kính, Ngô trưởng lão chẳng lẽ lại không nhận ra, việc đó thật không dễ gì! Lúc này nhìn thấy sau lưng A Châu khoác chiếc áo của mình, trước sau càng thêm rõ rệt, lập tức hiểu ra ngay. Mặc dù lúc này A Châu không độn bông, thân hình nhỏ bé ẻo lả của nàng khác hẳn tấm thân cao to của ông, nhưng nếu muốn giả làm mình mà có thể đánh lừa được cả bọn Cái Bang, thiên hạ ngoài cô ta ra thì còn ai vào đây nữa?
A Châu không một chút kinh hoàng cười lên khanh khách nói:
- Thôi được, để thiếp cung khai vậy.
Rồi nàng kể lại chuyện cải trang thình ông, đem thuốc giải đến cứu quần hào Cái Bang như thế nào. Kiều Phong bỏ tay nàng ra gay gắt hỏi:
- Cô giả làm ta đi cứu người là có dụng ý gì?
A Châu hết sức kinh ngạc đáp:
- Thiếp chỉ đùa cho vui. Đại gia cứu thiếp và A Bích từ tay người Tây Hạ, chúng tôi đều rất lấy làm cảm kích. Thiếp cũng tưởng bọn ăn mày đối xử tệ bạc với ông như thế, nếu giả làm ông đến đưa thuốc giải độc khiến cho họ trong lòng hổ thẹn, cũng là việc hay.
Nàng thở dài một tiếng, nói tiếp:
- Có ngờ đâu ở Tụ Hiền Trang, họ lại đối xử với ông tàn nhẫn đến vậy, không còn nhớ chút gì tới ân nghĩa ngày xưa.
Vẻ mặt Kiều Phong càng lúc càng sầm xuống, nghiến răng hỏi:
- Vậy sao cô lại mạo xưng tôi đến giết cha mẹ tôi? Tại sao lại lẻn vào chùa Thiếu Lâm giết cả sư phụ tôi?
A Châu giật nảy người, kêu lên:
- Làm gì có chuyện đó được? Ai bảo thiếp giết cha mẹ của đại gia? Giết sư phụ của đại gia?
Kiều Phong đáp:
- Sư phụ tôi bị người ta đả thương, ông ta vừa thấy mặt tôi, liền bảo là tôi hạ độc thủ, không phải cô thì là ai?
Ông nói tới đây, tay phải hơi giơ lên, mặt đầy sát khí, chỉ nghe nàng nói một câu không thuận tai thì chưởng sẽ đập xuống ngay, dẫu có mười A Châu cũng khó mà sống sót. A Châu thấy mặt ông đằng đằng, đôi mắt như muốn tóe lửa, trong bụng hết sức khiếp sợ, hốt hoảng lùi lại hai bước. Nàng chỉ cần lùi thêm hai bước nữa sẽ rơi tòm ngày xuống vực sâu vạn trượng. Kiều Phong nghiêm giọng quát:
- Đứng đó, không được động đậy.
A Châu sợ đến mức nước mắt nhỏ ròng ròng, run run nói:
- Thiếp không ... thiếp không giết cha mẹ đại gia, cũng chẳng ... chẳng giết sư phụ đại gia. Sư phụ ông tài nghệ ... ghê gớm như thế, làm sao thiếp giết ông ta được?
Hai câu cuối cùng của nàng quả là có lý, Kiều Phong nghe rồi bỗng chột dạ, lập tức hiểu ngay ra mình đã trách lầm nàng, tay trái đưa vụt ra nhanh như ánh chớp, nắm lấy đầu vai nàng, kéo cô gái qua phía vách đá, để nàng khỏi sẩy chân rơi xuống vực nói:
- Quả đúng thế, sư phụ ta không phải do cô giết.
Sư phụ ông Huyền Khổ đại sư là sư huynh đệ với Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Nạn các vị cao tăng, võ công tài nghệ đã đạt đến mức đệ nhất cao thủ đời nay. Ông qua đời đâu phải do trúng độc, cũng chẳng phải do binh khí ám khí đả thương mà là do chưởng lực cực kỳ lợi hại đánh nát tạng phủ. A Châu tuổi còn nhỏ làm sao có được nội lực thâm hậu đến như thế? Nếu quả như nội lực nàng có thể đánh chết được Huyền Khổ đại sư thì Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ nhất định không thể nào làm cho nàng thập tử nhất sinh được.
A Châu đang khóc cũng bật cười, đấm nhẹ vào ngực ông nói:
- Đại gia làm thiếp sợ muốn chết, người gì nói năng chẳng đâu vào đâu. Nếu quả thiếp có tài nghệ giết được sư phụ của ông, sao ở Tụ Hiền Trang không giúp một tay giết sạch bọn khốn kiếp kia?
Kiều Phong thấy nàng hờn dỗi, trong lòng nao nao, nói:
- Độ này ta thần thái bất định, nói năng lăng nhăng, xin cô nương đừng trách.
A Châu cười đáp:
- Ai mà lại trách đại gia? Nếu thiếp giận ông, đời nào thiếp còn nói chuyện với ông nữa.
Nàng bỗng trở lại nghiêm trang, nhỏ nhẹ nói:
- Kiều đại gia, dù ông đối với thiếp thế nào chăng nữa, một đời này, thiếp sẽ không bao giờ giận ông đâu.
Kiều Phong lắc đầu, thản nhiên nói:
- Mặc dầu ta cứu mạng cô thật nhưng cô cũng đừng để tâm làm gì.
Ông nhíu mày, ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên hỏi:
- A Châu, cái thuật hóa trang dị dung kia, ai dạy cho cô đó? Sư phụ cô có còn ai là đệ tử nữa không?
A Châu lắc đầu:
- Chẳng ai dạy cả. Thiếp từ nhỏ đã thích ăn mặc giả làm người này người khác cho vui, càng lâu càng thêm giống chứ làm gì có sư phụ nào? Không lẽ trò chơi mà cũng phải tầm sư học đạo hay sao?
Kiều Phong thở hắt ra, nói:
- Thế thì quả là lạ thật, trên đời này không lẽ lại có người giống hệt như ta để đến nỗi sư phụ ta cũng còn nhầm hay sao?
A Châu nói:
- Nếu đã có cái đầu mối đó thì cũng dễ. Mình chỉ cần đi tìm kẻ kia, tra khảo bức bách hỏi cho ra lẽ là xong.
Kiều Phong đáp:
- Phải lắm, có điều trời đất mênh mông, muốn tìm được người này quả thực gian nan lắm thay. Có lẽ y cũng có tài như cô, hóa trang thành người khác thật giống.
Ông bước lại gần vách núi, xem kỹ những vết búa đục, muốn tìm xem những chữ khắc trên thạch bích vốn là những gì thế nhưng nhìn đi nhìn lại một chữ cũng không nhận ra bèn nói:
- Ta phải đi tìm Trí Quang đại sư, hỏi ông ta cho ra lẽ những chữ viết trên vách đá này là những chữ gì? Không tra xét cho xong thì không ăn không ngủ được.
A Châu nói:
- Chỉ sợ ông ta không chịu nói.
Kiều Phong nói:
- Có lẽ ông ta không chịu nói đâu nhưng mình không bức bách thì cũng van nài cho bằng được chứ ta nhất định không bỏ cuộc.
A Châu trầm ngâm nói:
- Trí Quang đại sư xem ra tính tình cứng cỏi không sợ chết, dẫu có bức bách van xin xem ra cũng chẳng đến đâu, chi bằng ...
Kiều Phong gật đầu:
- Cô nương nói phải lắm, chi bằng mình đi hỏi Triệu Tiền Tôn thì hơn. Úy, nhưng gã Triệu Tiền Tôn này cũng thà chết thì thôi, đối phó với y ta nghĩ ra một cách.
Ông nói tới đây, quay sang nhìn xuống vực thẳm nói:
- Ta định xuống dưới này xem.
A Châu giật nảy người, nhìn vào miệng vực thấy giăng mắc đầy vân vụ, vội lùi xa thêm hai bước sợ nhỡ vô ý trượt chân ngã xuống, nói:
- Đừng! Đừng! Muôn lần, vạn lần không nên xuống dưới đó. Xuống đó có gì để coi đâu?
Kiều Phong đáp:
- Ta đích thực là người Hán hay là người Khất Đan, chuyện đó cứ vấn vương quanh quẩn mãi trong đầu, thành thử muốn xuống dưới đó tra xét cho minh bạch, xem cái xác của người Khất Đan đó ra sao.
A Châu nói:
- Người đó rơi xuống vực đã ba chục năm, cùng lắm cũng chỉ còn vài mảnh xương trắng, có gì để mà xem?
Kiều Phong đáp:
- Ta chính muốn xuống xem nắm xương tàn của y. Ta nghĩ rằng nếu quả đó là người cha thân sinh ra ta, thì cũng nên xuống đem lên tẫn liệm, an táng cho tử tế.
A Châu thảng thốt rú lên:
- Không thể như vậy! Không thể như vậy! Đại gia nhân từ hiệp nghĩa, sao lại là hậu duệ của người Khất Đan tàn bạo ác độc được?
Kiều Phong nói:
- Cô ở nơi đậy đợi ta một ngày một đêm, ngày mai giờ này nếu ta chưa lên thì khỏi phải chờ nữa.
A Châu hốt hoảng, khóc òa lên kêu:
- Kiều đại gia, ông đừng xuống.
Kiều Phong tính tình thật cứng cỏi, không động lòng chút nào, mỉm cười nói:
- Ở Tụ Hiền Trang bao nhiêu anh hùng hảo hán còn giết ta chưa được, chẳng lẽ ta lại bỏ mạng nơi cái sơn cốc này hay sao?
A Châu quýnh quáng không biết thế nào mới ngăn ông ta được, đành nói:
- Không chừng dưới đó có rắn độc, trùng độc, hay quái vật hung ác đó.
Kiều Phong cười ha hả vỗ vỗ lên vai cô ta nói:
- Nếu như có quái vật thì tốt quá. Ta sẽ bắt nó lên để cho cô chơi.
Ông xem xét chung quanh bốn bề cốc khẩu tính kiếm chỗ mỏm đá nào có thể đặt chân trèo xuống. Ngay lúc đó, bỗng nghe phía đông bắc có văng vẳng vó ngựa phi về hướng nam, nghe âm thanh phải đến hai chục con. Kiều Phong vội vàng rảo bước đi vòng qua sườn núi, nhìn vọng về phía có tiếng chân ngựa. Ông đứng ở trên cao thấy tất cả hơn hai chục kỵ sĩ đều áo vàng giáp vàng đều là quan binh nhà Đại Tống, xếp thành một dãy đi theo sơn đạo ở sườn núi bên dưới.
Kiều Phong xem rõ tình hình rồi, không coi bọn đó vào đâu, có điều nơi ông và A Châu đang đứng lại là đường độc đạo hiểm yếu từ ngoài biên tái quay về, năm xưa quần hùng Trung Nguyên chọn làm nơi phục kích võ sĩ Khất Đan chính là vì thế. Ông nghĩ bụng nơi đây là biên phòng hiểm địa, quan quân nhà Tống thấy có người ở đây thể nào cũng tra hỏi, chi bằng tránh đi là hơn để khỏi phiền toái.
Kiều Phong quay lại chỗ cũ, kéo A Châu ẩn đằng sau tảng đá nói:
- Quan binh nhà Đại Tống đó!
Chẳng bao lâu, hơn hai chục kỵ binh chạy lên núi. Kiều Phong náu sau sơn thạch thấy người đi đầu là một quân quan, không khỏi cảm thán: “Năm xưa bọn Uông bang chủ, Trí Quang đại sư, Triệu Tiền Tôn chờ người hẳn là mai phục đằng sau những tảng đá này nên mới thấy bọn võ sĩ Khất Đan cưỡi ngựa chạy ngang sơn lãnh. Hôm nay đá núi vẫn còn trơ trơ, còn các võ sĩ Tống Liêu hai bên năm nào, hầu hết đã thành xương trắng cả rồi”.
Ông còn đang xuất thần, bỗng nghe có tiếng hai đứa trẻ khóc, Kiều Phong giật mình kinh hãi tưởng như rơi vào cõi mộng: “Sao lại có tiếng trẻ con?”. Tiếp theo lại nghe thấy tiếng đàn bà kêu rú lên.
Ông thò đầu ra nhìn thấy bọn quan binh nhà Tống trên mỗi con ngựa người nào cũng bắt được một phụ nữ, đàn bà trẻ con đó ăn mặc theo lối du mục Khất Đan. Mấy gã quan binh Đại Tống lại đưa tay sờ mó nắn bóp thân thể họ trông thật thô bỉ, khả ố, người nào chống cự lại lập tức bị bọn quan binh quát mắng đánh đập. Kiều Phong thấy vậy lấy làm lạ, không hiểu nguyên do, chỉ thấy cả bọn vượt ngang qua khối nham thạch đi thẳng về phía Nhạn Môn Quan.
A Châu hỏi:
- Kiều đại gia, bọn họ làm gì thế?
Kiều Phong lắc đầu nghĩ thầm: “Quan quân thủ ngự biên ải sao lại ngang ngược đến thế?”. A Châu liền nói:
- Bọn quan binh này thật chẳng khác gì đạo tặc.
Kế đó lại có thêm một đoàn khoảng ba chục quân quan, dẫn theo một đàn bò cừu đến vài trăm con, bắt thêm hơn chục phụ nữ Khất Đan nữa. Lại nghe một tên quân quan nói:
- Lần này “gặt hái” chẳng được bao nhiêu, chẳng biết đại soái có nổi giận không nữa?
Một tên quan quân khác nói:
- Bò cừu của bọn Liêu cẩu tuy không lấy được nhiều nhưng trong đám đàn bà có mấy đứa mặt mày không đến nỗi tệ, đem về giúp vui cho đại soái thì ngài sẽ bớt giận ngay.
Gã thứ nhất lại nói:
- Ba chục đàn bà thật chẳng tới phần chúng mình, ngày mai ráng chịu khó thêm đi cướp thêm ít nữa đem về.
Một tên binh sĩ cười nói:
- Liêu cẩu nghe tin chắc chạy hết sạch rồi, muốn đi gặt phải chờ vài ba tháng.
Kiều Phong nghe tới đây lửa giận xông lên, nghĩ bụng hành vi của đám quan quân này xem ra còn kém xa bọn đạo tặc hạng bét trên giang hồ. Ngay lúc đó, một hài nhi đang nằm trong lòng một người đàn bà Khất Đan đột nhiên khóc ré lên. Người đàn bà giơ tay gạt một tên quan binh Đại Tống, quay lại nhìn đứa con đang khóc. Gã quan quân nổi giận, cầm đứa trẻ vứt xuống đất, sau đó giục ngựa chạy tới, vó ngựa liền giày lên đứa bé, lập tức lòi ruột vỡ bụng ngay. Người đàn bà Khất Đan sợ đến chết trân, không khóc nổi thành tiếng. Bọn quan binh cất tiếng cười sằng sặc, vẫn tiếp tục rầm rập chạy qua.
Trong đời Kiều Phong đã từng chứng kiến nhiều cảnh tàn bạo hung ác nhưng cái cảnh công nhiên tàn sát trẻ con làm vui, đây là lần đầu mới thấy. Ông cực kỳ phẫn nộ nhưng cố nén giận không để phát tác, muốn xem bọn chúng còn giở trò gì rồi mới tính sau.
Đoàn quan quân đó qua rồi, lại có thêm một đoàn hơn chục tên quan binh hùng hổ đi tới. Những tên lính Đại Tống ngồi trên lưng ngựa, giơ cao trường mâu, đầu ngọn giáo nào cũng có xiên một chiếc đầu người máu me bê bết, sau lưng ngựa lại dắt một sợi dây dài, buộc năm người đàn ông Khất Đan. Kiều Phong nhìn trang phục những người bị trói đều chỉ là những dân chúng chăn nuôi tầm thường, hai người tuổi đã cao, tóc bạc da mồi, còn ba người kia thì chỉ là những đứa trẻ chừng mười lăm mười sáu tuổi. Ông trong bụng bồi hồi, bọn quan binh Đại Tống này đi qua cướp bóc, những kẻ tráng niên trong dân du mục Khất Đan đều chạy thoát, chỉ bắt được toàn đàn bà con trẻ và người già yếu mà thôi.
Chỉ nghe một tên quan quân cười nói:
- Chặt được mười bốn cái thủ cấp, bắt sống được năm con chó Liêu, công lao nói nhiều chẳng nhiều nhưng ít cũng chẳng ít, quan thăng một cấp, một trăm lượng bạc thưởng thì là cái chắc rồi.
Lại một người khác nói:
- Lão Cao, phía tây cách đây năm mươi dặm có một thị trấn Khất Đan, ngươi có dám đến đó mà “gặt lúa” không?
Gã họ Cao kia liền đáp:
- Có đếch gì mà không dám? Ngươi khinh ta ‘lính mới” hay sao? Ông mới đến đang cần lập chút công lao đây.
Bọn chúng còn đang nói chuyện thì đoàn người đã đi đến gần bên tảng đá. Một ông già Khất Đan trông thấy xác đứa trẻ nằm dưới đất, đột nhiên kêu toáng lên, xông tới ôm lấy nó, hôn hít không ngừng, giọng đầy vẻ bi thương. Kiều Phong tuy không hiểu tiếng Khất Đan nhưng nhìn điệu bộ cũng biết đứa bé bị ngựa đạp chết kia hẳn là thân nhân của ông lão. Gã tiểu tốt cầm dây buộc ông già đưa tay giựt liên hồi, kéo ông ta đi. Ông già Khất Đan tức giận như điên như cuồng, nhảy xổ vào y. Tên lính kinh hãi, vung đao chém xuống người ông ta, ông già Khất Đan cố sức giựt một cái, kéo y ngã từ trên lưng ngựa xuống đất rồi há mồm ngoạm luôn vào cổ.
Ngay lúc đó một tên quan binh Đại Tống từ trên ngựa vung đao chém phập vào lưng ông lão, tiếp theo cúi xuống cầm cổ ông già lôi ra, tên lính ngã dưới đất mới vùng dậy được. Tên lính đó tức quá lại vung đao chém liên tiếp mấy nhát vào người ông già, ông già chỉ dãy dụa được mấy cái rồi ngã lăn ra. Bọn quan binh đứa cầm giáo, đứa dùng đao lập tức vây quanh.
Ông lão Khất Đan đột nhiên đứng phắt dậy quay về hướng bắc, cởi phanh áo trên người ra, ưỡn ngực, cất tiếng hú lên, thanh âm thê lương, bi thảm chẳng khác gì tiếng tru của chó sói. Cả bọn quan quân ai nấy tỏ vẻ lo sợ.
Kiều Phong trong lòng thảng thốt, chợt thấy dường như ông lão Khất Đan kia với mình có điều tâm linh tương thông, tiếng hú lên khi sắp chết nghe như tiếng sói tru kia chính mình cũng đã từng làm. Khi ở tại Tụ Hiền Trang bị liên tiếp trúng đao thương, tới lúc Đơn Chính dùng đao đâm tới, biết mình sắp chết, trong lòng bi phẫn không sao nhịn được, ông đã rống lên như mãnh thú.
Bây giờ nghe thấy mấy tiếng tru, trong lòng bỗng nổi lên một tâm tình thân cận, không còn nghĩ ngợi gì thêm, từ đằng sau tảng đá nhảy vọt ra, vươn tay chộp từng đứa quan binh Đại Tống ném xuống vực. Kiều Phong càng đánh càng hăng, ngay cả những con ngựa chúng cỡi cũng mỗi con một chưởng đẩy luôn xuống thâm cốc, tiếng ngựa hí người kêu nổi lên rầm rĩ rồi ngừng bặt.
A Châu và bốn người Khất Đan kia thấy ông thần uy như vậy, ai nấy đứng há hốc mồm. Kiều Phong giết sạch hơn chục tên quan binh rồi, cất tiếng hú lên chấn động cả sơn cốc. Ông thấy ông lão Khất Đan kia vẫn còn đứng sững như trời trồng, trong bụng kính trọng là một hảo hán, chạy đến trước mặt thấy ông ta hướng về phương bắc ngực phanh ra nhưng đã tắt thở chết rồi. Kiều Phong nhìn vào ngực ông già, bỗng hoảng hốt kêu lên một tiếng, lùi lại một bước, thân hình lảo đảo tưởng chừng muốn ngã.
A Châu kinh hãi kêu lên:
- Kiều đại gia, ông ... ông ... ông sao thế?
Chỉ nghe soẹt soẹt mấy tiếng, Kiều Phong đã xé toạc áo mình ra, để lộ bộ ngực đầy lông đen. A Châu nhìn vào thấy trên ngực ông hoa văn xâm hình đầu một con chó sói xanh lè, há miệng nhe nanh, hình dáng thật là hung dữ. Nàng nhìn lại ông già Khất Đan, thấy ngực ông ta cũng có hình đầu một con chó sói, hình dáng thần thái giống hệt như của Kiều Phong. Cả bốn người Khất Đan kia cũng kêu lên xí xố.
Kiều Phong từ thuở mới lên ba có chút hiểu biết đã thấy trên ngực mình có hình đầu con thanh lang, nhưng vì từ bé đã có nên không coi là chuyện lạ. Đến khi lớn lên mới hỏi cha mẹ, vợ chồng Kiều Tam Hòe bảo là hình xâm đẹp quá, khen ngợi một chập nhưng không nói tại sao lại có. Về thời Bắc Tống, xâm hình trên người là chuyện hết sức bình thường4 có người từ đầu chí chân. Nhà Đại Tống thừa kế giang sơn của họ Sài nhà Hậu Chu5. Khai quốc hoàng đế nhà Hậu Chu là Quách Uy, nơi cổ có xâm hình một con chim sẻ, vì thế người đời thường gọi là Quách Tước Nhi. Thời kỳ đó xâm mình cũng là một tập quán, anh em Cái Bang mười người đến chín có thích hoa văn nên chẳng một ai nghi ngờ gì Kiều Phong cả. Thế nhưng khi đó nhìn thấy ông già Khất Đan bị giết trên ngực có hình đầu chó sói xanh, giống y hệt như mình, không khỏi cực kỳ kinh ngạc.
Bốn người Khất Đan kia vây quanh ông, miệng xí xố, tay chỉ vào ngực ông. Kiều Phong không hiểu họ nói gì, còn đang ngơ ngẩn, ông già Khất Đan đột nhiên cởi áo mình ra, để lộ bộ ngực, trên đó cũng có xâm hình đầu chó sói. Ba gã thiếu niên cũng cởi áo, đứa nào cũng có xâm hình thanh lang.
Chỉ trong một thoáng, Kiều Phong biết đích xác rằng mình quả thực là người Khất Đan. Hình đầu chó sói kia chắc hẳn là ký hiệu của bộ tộc, xem ra từ bé ai ai cũng đã xâm rồi. Ông trước nay thống hận thù ghét người Khất Đan, cho rằng họ tàn ác đê tiện, không biết tín nghĩa, thích giết người Hán, không chuyện ác nào không làm bây giờ lại thấy mình chính là giống người không bằng cầm thú kia nên lòng quả thực đau khổ khôn cùng.
Ông đứng chết sững một hồi, đột nhiên kêu rú lên một tiếng, chạy như bay vào phía núi hoang. A Châu gọi vói:
- Kiều đại gia, Kiều đại gia !
Rồi lật đật đuổi theo. Nàng đuổi đến hơn mười dặm mới thấy ông ngồi ôm đầu dưới một gốc cây, mặt mày xanh xao, trên trán nổi những sợi gân xanh cuồn cuộn. A Châu bước lại gần bên ngồi xuống bên cạnh ông.
Kiều Phong rút người lại nhích qua nói:
- Ta là giống Hồ Lỗ Khất Đan không bằng con heo con chó, từ nay trở đi cô đừng gặp ta làm gì.
A Châu cũng như bao nhiêu người Hán khác vốn dĩ thống hận người Khất Đan tận xương tủy, nhưng trong lòng nàng Kiều Phong thật quả không khác gì một thiên thần. Chẳng nói ông chỉ là người Khất Đan mà dù có là ma quỉ mãnh thú, nàng cũng không muốn bỏ ông mà đi, nghĩ bụng: “Chàng lúc này trong lòng thật đau đớn, ta càng phải khuyên giải an ủi nhiều hơn”. Nàng bèn nhỏ nhẹ:
- Người Hán cũng có người xấu người tốt, người Khất Đan dĩ nhiên cũng có kẻ hay người dở. Kiều đại gia, ông đừng để chuyện này trong lòng làm chi. Tính mạng của A Châu do ông cứu, ông là người Hán cũng vậy, mà là người Khất Đan cũng thế đối với thiếp thật chẳng khác gì.
Kiều Phong lạnh lùng đáp:
- Ta không cần cô phải thương hại, trong bụng cô chẳng coi ta vào đâu, không phải giả vờ nói lấy lòng vài câu làm gì. Ta cứu mạng cô nào có phải do bản tâm đâu, chẳng qua chỉ nhất thời sính cường hiếu thắng. Chuyện đó thôi từ nay bỏ qua hết, cô mau mau đi đi.
A Châu trong lòng hoang mang nghĩ thầm: “Chàng biết mình là người Khất Đan Hồ Lỗ, không chừng quay trở lại sa mạc miền bắc, từ nay không bước vào Trung Thổ nữa”. Nàng không biết tính sao, lật đật đứng lên nói:
- Kiều đại gia, nếu chàng bỏ thiếp mà đi, thiếp sẽ nhảy xuống sơn cốc tự tận. A Châu này biết rồi, chàng là anh hùng hảo hán Khất Đan nên không coi đứa a hoàn hạ tiện người Hán vào đâu, chi bằng thiếp đi tìm cái chết cho xong.
Kiều Phong nghe nàng nói cực kỳ thành khẩn, ông vẫn nghĩ mình nếu là Hồ Lỗ thì bao nhiêu người Hán trong thiên hạ đều xa lánh như rắn rết, có ngờ đâu A Châu đối với mình không khác chút nào, trong lòng cảm động, tự nhiên đưa tay ra nắm lấy tay nàng dịu dàng nói:
- A Châu, em là a hoàn của Mộ Dung công tử chứ nào có phải là đầy tớ của ta, ta ... ta nào có dám coi thường em đâu?
A Châu đáp:
- Thiếp cũng chẳng cần chàng thương hại, trong bụng chàng chẳng coi em vào đâu, đừng phải giả vờ nói lấy lòng vài câu làm gì.
Nàng nhái lại mấy câu Kiều Phong vừa nói, ngữ âm thanh điệu giống hệt nhưng trong ánh mắt đầy vẻ nghịch ngợm tinh ranh. Kiều Phong cười ha hả, ông đang thất vọng đến cùng cực, gặp được một cô gái thông minh lanh lợi pha trò an ủi như thế này, bao nhiêu phiền não lập tức tiêu tan. A Châu đột nhiên nghiêm mặt nói:
- Kiều đại gia, thiếp phục thị Mộ Dung công tử nào có phải là bán thân cho người ta đâu. Chỉ vì thiếp từ bé không cha không mẹ, lưu lạc ở bên ngoài, một hôm nọ bị người ta hiếp đáp, gặp Mộ Dung lão gia cứu thiếp đem về. Thiếp cô khổ không nơi nương tựa nên đành làm đứa a hoàn trong nhà ông ta. Kỳ thực Mộ Dung công tử cũng không coi thiếp như một đứa đầy tớ, y còn mua mấy đứa nô tì phục thị thiếp nữa kìa. A Bích muội tử cũng thế, chỉ nhân vì cha cô ta đưa nàng đến nhà Mộ Dung lão gia ở Yến Tử Ổ để tị nạn mà thôi. Năm xưa, Mộ Dung lão gia và phu nhân có nói rằng, ngày nào thiếp và A Bích muốn rời khỏi Yến Tử Ổ, gia đình họ Mộ Dung sẽ vui vẻ để bọn thiếp đi ...
Nàng nói đến đây, khuôn mặt bẽn lẽn. Thì ra khi đó Mộ Dung phu nhân nói rằng: "Ngày nào A Châu, A Bích hai cô về nhà chồng, toàn thể gia trang nhà Mộ Dung sẽ ăn cưới, đem kiệu hoa rong cờ đánh trống đưa ra khỏi cửa, không khác gì gả con gái cho người ta". Nàng ngừng lại một chút rồi nói với Kiều Phong:
- Từ nay trở đi thiếp sẽ hầu hạ chàng, làm một người tì nữ, Mộ Dung công tử không trách cứ gì đâu.
Kiều Phong hai tay xua liên tiếp nói:
- Không! Không được! Ta là một gã người Hồ man di, làm gì mà có a hoàn? Cô từng sống ở gia đình phú quí đất Giang Nam đã quen, theo ta kham khổ đơn bạc, có gì là vui đâu? Cô thử xem ta một gã hán tử thô dã thế này, có đáng để cô phục thị hay không?
A Châu thản nhiên cười đáp:
- Thế thì thôi, cứ coi như thiếp là một đứa nô tì đại gia cướp được, khi nào vui thì ban cho một nụ cười, khi chẳng vui thì đem ra đánh đập sỉ mắng, thế có được không?
Kiều Phong mỉm cười:
- Ta mà đấm một cái e rằng cô chết mất còn gì?
A Châu nói:
- Dĩ nhiên chàng chỉ đánh nhè nhẹ thôi, đừng ra tay quá nặng là được.
Kiều Phong cười ha hả nói:
- Đánh nhè nhẹ thì thà không đánh còn hơn. Thế nhưng ta không muốn có ai làm nô bộc cả.
A Châu đáp:
- Chàng là đại anh hùng Khất Đan, đi bắt vài cô gái người Hán về làm đầy tớ có gì mà không được? Chàng xem mấy quan binh Đại Tống đó, họ đi bắt bao nhiêu là người Khất Đan thì sao?
Kiều Phong lặng thinh không nói, A Châu thấy ông ta đôi lông mày nhíu tít lại, ánh mắt cực kỳ u uẩn lại lo rằng mình nói hớ khiến ông không vui. Mợt hồi sau, Kiều Phong mới chậm rãi nói:
- Ta trước nay chỉ tưởng người Khất Đan hung ác tàn bạo, sát hại người Hán thế nhưng hôm nay chính mắt thấy quan binh Đại Tống cũng tàn nhẫn giết hại những kẻ già cả yếu đuối, đàn bà trẻ con người Khất Đan, ta ... ta ... A Châu ơi, ta là người Khất Đan nhưng từ nay về sau, chẳng còn thấy là người Khất Đan thì đáng hổ thẹn mà cũng chẳng nghĩ rằng làm người Đại Tống mới vinh quang.
A Châu nghe ông nói thế, biết ông đã cởi được cái uất ức trong lòng, thật là hoan hỉ nói:
- Thì thiếp đã nói người Hồ cũng có kẻ tốt người xấu, mà người Hán thì cũng có kẻ hay người dở. Người Hồ không giảo hoạt như người Hán có khi kẻ xấu còn ít hơn là khác.
Kiều Phong nhìn vào vực sâu bên cạnh nhớ lại chuyện năm xưa nói:
- A Châu, cha mẹ ta bị người Hán sát hại, không thể không trả mối thù này.
A Châu gật đầu, trong bụng có điều hoang mang sợ hãi. Nàng biết rằng mấy câu đơn giản “thù này không thể không trả” thực ra bao hàm biết bao trận ác đấu, bao nhiêu máu chảy, bao nhiêu mạng người. Kiều Phong chỉ xuống thâm cốc nói:
- Năm xưa mẹ ta bị bọn họ sát hại, cha ta đau khổ đến không còn muốn sống nên đã nhảy xuống vực cạnh khối đá kia. Trong khi đang ở lưng chừng, vì không muốn ta phải theo ông mà chết, nên đã ném ta trở lên nên Kiều Phong này mới có đến ngày hôm nay. A Châu nàng ơi! Như thế cha ta yêu ta biết là dường nào, có phải vậy chăng?
A Châu nước mắt rưng rưng:
- Chàng nói đúng lắm.
Kiều Phong tiếp:
- Mối huyết hải thâm cừu của cha mẹ ta, không lẽ không báo? Ta trước kia không biết nên nhận địch làm bạn, quả thực thật là bất hiếu, nếu như hôm nay không đi tìm giết hung thủ sát hại cha mẹ ta, Kiều mỗ còn mặt mũi nào sống trong trời đất nữa? Cái kẻ “đàn anh đứng đầu” mà họ nói đến là ai thế? Bức thư viết cho Uông bang chủ có thự danh của y nhưng nhà sư Trí Quang đã xé ra nuốt mất rồi. Gã “đàn anh đứng đầu” này hẳn còn sống, nếu không bọn họ đâu cần phải dấu diếm làm chi?
Ông tự hỏi rồi tự trả lời, suy nghĩ thật lâu, biết rằng A Châu không thể giúp mình trả mối đại cừu nhưng có được một người ở bên cạnh mình nghe mình nói cũng đã giảm được bao nhiêu phiền não. Ông lại tiếp:
- Gã “đàn anh đứng đầu” kia nếu đã tất lãnh được hào kiệt Trung Nguyên thì hẳn phải là một nhân vật võ công cao cường, danh vọng vang dậy. Theo lời lẽ trong thư, giao tình với Uông bang chủ hẳn không phải thường, gọi Uông bang chủ là anh, xem chừng tuổi phải ít hơn Uông bang chủ còn so với ta ắt lớn hơn nhiều. Một nhân vật như thế xem ra tìm được không khó, ôi, xem phong thư kia thì chỉ có nhà sư Trí Quang, Từ trưởng lão và Mã phu nhân của Cái Bang cùng Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính. Còn gã Triệu Tiền Tôn kia cũng biết y là ai. Triệu Tiền Tôn đã nói cho sư muội y là Đàm bà, chắc là Đàm bà cũng không dấu ông chồng đâu. Trí Quang hòa thượng và Triệu Tiền Tôn cũng là đồng lõa trong việc giết hại cha mẹ ta, đương nhiên là ta phải giết, còn cái thằng mả mẹ "đàn anh đứng đầu" kia, hừ, ta ... ta phải giết cả nhà nó, từ già chí trẻ, đến con gà con chó cũng chẳng tha.
A Châu thấy lạnh cả người, đã toan nói: “Chàng giết một mình gã "đàn anh đứng đầu" cũng đủ rồi, tha cho gia đình người ta”. Thế nhưng nàng thấy Kiều Phong thần uy lẫm lẫm không dám cãi lại câu nói vừa ra đến cửa miệng, lại nhịn không dám hở môi.
Kiều Phong lại tiếp:
- Nhà sư Trí Quang vân du bồn bể, Triệu Tiền Tôn cũng phiêu bạt giang hồ đi kiếm hai người này quả không phải dễ. Gã Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính kia tuy không tham dự trận chiến giết hại cha mẹ ta nhưng ta đã giết hai đứa con của lão rồi, đứa con út cũng vì ta mà chết, thôi không đi tìm y làm gì nữa. A Châu, vậy chúng mình đi kiếm Từ trưởng lão của Cái Bang.
A Châu nghe hai chữ “chúng mình”, không khỏi mở cờ trong bụng, có nghĩa là ông đã bằng lòng cho mình đi cùng. Nàng lặng lẽ nở một nụ cười, nghĩ thầm: “Dù phải đi đến chân trời góc biển, thiếp cũng nguyện theo chàng”.
Hai người lập tức xuôi nam, từ sơn lĩnh vòng qua Nhạn Môn Quan đến một tòa tiểu thị trấn, tìm một căn khách điếm. A Châu không đợi Kiều Phong mở lời đã bảo điếm tiểu nhị dọn hai mươi cân rượu. Gã tửu bảo thấy hai người vợ chồng không ra vợ chồng, anh em chẳng phải anh em đã kỳ lạ, lại nghe sai dọn hai mươi cân rượu, càng thêm ngạc nhiên, ngơ ngẩn đứng nhìn hai người, không đi lấy rượu, cũng chẳng đáp lời.
Kiều Phong trừng mắt nhìn y, không giận mà có uy, gã tiểu nhị hoảng hồn vội lật đật quay đi, miệng lẩm bẩm:
- Hai mươi cân rượu? Chắc để tắm hay sao?
A Châu cười nói:
- Kiều đại gia, chúng mình đi tìm Từ trưởng lão, xem chừng chỉ chừng hai ngày là người ta sẽ phát giác ngay. Trên đường gặp đâu đánh đó, gặp ai giết nấy, tuy cũng vui thật nhưng e Từ trưởng lão nghe hơi gió đã chạy cong đuôi, thì làm sao kiếm ông ta được.
Kiều Phong cười ha hả nói:
- Nàng đừng có đưa ta lên, trên đường ví như gặp ai đánh nấy, kẻ địch càng lúc càng đông, chúng mình rồi thể nào cũng bỏ mạng ...
A Châu nói:
- Nói đến hung hiểm thì cũng không đến nỗi nào, có điều bọn chúng nghe hơi gió đã cụp đuôi chạy hết thì thật là hỏng việc.
Kiều Phong nói:
- Thế theo cô thì mình phải làm cách nào? Chúng mình ban ngày ở trong khách điếm, ban đêm ra đi có được chăng?
A Châu mỉm cười nói:
- Muốn bọn họ không nhận ra mình thì thật dễ. Chỉ có điều Kiều đại hiệp danh mãn thiên hạ, không biết có chịu hóa trang hay không?
Nói đi nói lại, nàng cũng đi đến “dị dung cải trang”. Kiều Phong cười nói:
- Ta không phải người Hán, quần áo người Hán đây vốn đã không muốn mặc nữa rồi. Thế nhưng nếu mặc quần áo Khất Đan thì ở Trung Nguyên đi lại thật bất tiện. A Châu, nàng thử nghĩ ta nên mặc thế nào cho phải?
A Châu đáp:
- Đại gia thân thể cao to, đi đâu cũng khiến người ta chú ý, tốt nhất là cải trang thành một giang hồ hào sĩ hình mạo tầm thường, trên người không có điểm gì đặc biệt. Những người như thế trên đường mỗi ngày người ta gặp cả trăm, chẳng ai thèm để ý đến ông là ai đâu.
Kiều Phong vỗ đùi nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Uống rượu xong nàng giúp ta cải trang là xong.
Ông uống hết hai mươi cân rượu rồi, A Châu liền ra tay ngay. Bột mì, hồ dán, a dao đủ các loại nhồi nặn, bao nhiêu điểm khác người của Kiều Phong đều biến mất. A Châu lại thêm cho ông ta một bộ ria mép khiến Kiều Phong soi gương cũng còn không nhận ra mình là ai. Sau đó A Châu cũng tự cải trang thành một hán tử trung niên.
A Châu cười nói:
- Hình dáng bên ngoài của ông đã thay đổi rồi, thế nhưng khi nói năng, hay uống rượu người ta nhận ra ngay.
Kiều Phong gật đầu:
- Ừ, thế thì nói ít đi, uống cũng bớt.
Thành ra trên đường xuôi nam, Kiều Phong quả thật ít khi mở miệng, mỗi bữa ăn cũng chỉ uống hai ba cân, hết sức giữ ý. Hôm đó đến Tam Giáp Trấn ở Tấn Nam, hai người ghé vào một cái quán mì, bỗng nghe ngoài cửa có hai gã ăn mày nói chuyện với nhau. Một gã nói:
- Từ trưởng lão chết thật thảm thiết, trước ngực sau lưng, gân cốt đều đứt hết chắc là gã ác tặc Kiều Phong hạ độc thủ.
Kiều Phong kinh hoảng nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi sao?”. Ông liền đưa mắt cho A Châu. Lại nghe một gã ăn mày nói:
- Ngày mai tại Vệ Huy Hà Nam phát tang, trưởng lão trong bang, cùng các anh em đều đến tế viếng, để bàn tính làm cách nào bắt được Kiều Phong.
Kế đó gã ăn mày liền nói mấy câu ám ngữ, Kiều Phong nghe qua hiểu ngay, y nói là Kiều Phong thanh thế rất lợi hại nên không thể nói năng lung tung để thủ hạ của y nghe được.
Kiều Phong và A Châu ăn mì xong liền rời Tam Giáp Trấn, đi ra ngoài thành. Kiều Phong nói:
- Chúng mình nên đi Vệ Huy xem sao, không chừng kiếm được chút đầu dây mối nhợ.
A Châu đáp:
- Đúng đó, Vệ Huy thì phải nên đi. Kiều đại gia, những người đến phúng điếu Từ trưởng lão đa số là cựu bộ thuộc của đại gia cho nên cử chỉ ngôn ngữ chớ có để lộ chân tướng.
Kiều Phong gật đầu:
- Ta biết rồi.
Hai người liền quay sang hướng đông, đi về phía Vệ Huy.
Đến ngày thứ ba đã đến Vệ Huy, trong thành đầu đường xó chợ đâu đâu cũng toàn là đệ tử Cái Bang. Kẻ thì vào tửu lâu ngồi bàn ăn uống nhồm nhoàm, đứa thì nơi đường hẻm mổ heo giết chó, có người vòi vĩnh cướp giựt ngay ở ngoài đường. Kiều Phong trong lòng đau xót, thấy đại bang vẫn được coi là số một trên giang hồ nay chẳng còn qui củ gì, không thể nào bì với năm xưa khi mình còn chấp chưởng bang chủ kỷ luật nghiêm minh, khí tượng hưng vượng, mới chẳng bao lâu đã bị người đời coi rẻ. Vẫn biết Cái Bang với ông nay đã thành địch chứ không còn bạn bè gì nữa, thế nhưng bao nhiêu tâm huyết của mình bỏ ra chỉ một ngày tan ra mây khói, lòng ông không khỏi ngậm ngùi.
Bỗng nghe mấy đệ tử Cái Bang nói với nhau mấy câu mật hiệu, ông biết được linh vị của Từ trưởng lão để tại một khu vườn hoang nơi phía tây thành. Kiều Phong và A Châu mua ít nhang đèn, vàng mã và cái đầu heo đi theo người ta đến nơi đó, khấu đầu trước bài vị Từ trưởng lão.
Chỉ thấy trên linh bài của Từ trưởng lão bôi đầy máu tươi, đó là tập tục của Cái Bang ý nói người chết bị ám hại, người trong bang phải lo việc trả thù rửa hận. Trong nhà quàn ai nấy ngoạc mồm thống mạ Kiều Phong, có ai ngờ đâu ông đang ở ngay bên cạnh. Kiều Phong thấy chung quanh toàn là những nhân vật thủ não của Cái Bang, e ngại có người nhìn ra mình nên không dám lần khân, lập tức sóng vai A Châu đi ra, nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi thì trên đời này biết được "đàn anh đứng đầu" lại bớt đi một người nữa”.
Bỗng thấy nơi đầu hẻm tít đằng xa có bóng người thoáng một cái, đó là một người đàn bà thân thể cao to. Kiều Phong tinh mắt nhận ra ngay đó là Đàm bà, nghĩ bụng: “Hay quá, chắc là mụ ta đi điếu tang Từ trưởng lão đây, mình đang muốn đi tìm”. Lại thấy thêm một bóng người vụt qua nữa, khinh công cực kỳ cao siêu, chính là Triệu Tiền Tôn. Kiều Phong ngạc nhiên: “Hai người này thập thò lén lút không biết có cái trò gì đây?”.
Ông biết rằng hai người vốn dĩ là sư huynh muội, tình ái dây dưa đến nay chưa dứt, nghĩ thầm: “Hai người đều sáu bảy mươi tuổi rồi, không lẽ lại còn tư tình, giăng dện với nhau hay sao?”. Ông bản tính vốn không hay xen vào chuyện riêng của người khác, nhưng Triệu Tiền Tôn biết được "đàn anh đứng đầu" là ai, Đàm công, Đàm bà chắc cũng biết, nếu như bắt thóp được chuyện gì thì có thể thừa cơ ép buộc hai người thổ lộ, nên ghé tai A Châu nói:
- Nàng ở khách điếm chờ ta.
A Châu gật đầu, Kiều Phong lập tức đuổi theo hướng Triệu Tiền Tôn vừa chạy. Triệu Tiền Tôn chọn toàn những nơi ẩn khuất mà đi, hết náu dưới góc tường phía đông lại lẻn trên mái nhà phía tây, cử chỉ hết sức ngụy bí đi ra phía cửa đông. Kiều Phong theo xa xa, trước sau không để y phát giác, thấy y chạy đến bờ sông, khom người chui vào khoang một chiếc thuyền gỗ lớn. Kiều Phong đề khí chạy tới, nhún nhẩy mấy cái đã đến bên thuyền, nhẹ nhàng nhảy xuống mui, ghé sát tai vào thuyền lắng nghe.
Trong khoang thuyền, Đàm bà thở dài một tiếng nói:
- Sư ca, hai người mình tuổi tác cũng đã cao rồi, những chuyện ngày xưa có hối cũng đã muộn, nhắc lại có ích gì đâu?
Triệu Tiền Tôn nói:
- Cuộc đời ta coi như bỏ đi rồi, có hối cũng đâu còn kịp. Ta hẹn nàng ra đây cũng chẳng có chuyện gì, Tiểu Quyên, chỉ mong được nghe nàng hát lại mấy câu ngày xưa nàng vẫn thường hát mà thôi.
Đàm bà nói:
- Ôi, sư ca quả thực si mê nực cười. Thằng chả đó tới Vệ Huy thấy sư ca đã không lấy gì làm vui, y tính lại đa nghi, sư ca không nên chàng màng tiểu muội là hơn.
Triệu Tiền Tôn đáp:
- Sợ gì cơ chứ? Mình sư huynh muội quang minh lỗi lạc, nói chút chuyện xưa, có gì mà không được?
Đàm bà thở dài một tiếng, nhỏ nhẹ nói:
- Mấy khúc hát năm xưa, mấy khúc hát năm xưa ...
Triệu Tiền Tôn thấy bà ta đã động lòng, lại càng năn nỉ, nói:
- Tiểu Quyên, hôm nay hai đúa mình gặp nhau, không biết sau này tới chừng nào mới lại trùng phùng, e rằng mạng ta cũng chẳng được bao lâu, nàng dẫu có muốn hát lại cho ta nghe ta cũng chẳng có cái phúc mà đến nghe được nữa.
Đàm bà nói:
- Sư ca chớ có nói thế. Nếu như quả anh muốn nghe, thì tiểu muội sẽ hát nho nhỏ một khúc cho sư ca nghe.
Triệu Tiền Tôn vui mừng nói:
- Hay quá, đa tạ sư muội. Tiểu Quyên, cảm ơn nàng.
Đàm bà liền khoan thai hát:
Năm nao chàng ghé thăm nhau,
Thiếp đang giặt lụa bên cầu dưới khe ...
Mới hát được hai câu, nghe có tiếng lách cách, khoang thuyền mở tung, một đại hán xông vào. Kiều Phong cải trang rồi nên Đàm bà và Triệu Tiền Tôn không nhận ra. Hai người đang hoảng hốt, thấy không phải là Đàm công nên cũng yên tâm, quát hỏi:
- Ai đó?
Kiều Phong lạnh lùng nhìn hai người, nói:
- Một gã khinh bạc vô hạnh, dụ dỗ đàn bà có chồng, một người dâm đãng vô sỉ, trốn chồng đi gặp tình lang ...
Ông chưa nói dứt lời, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn cùng ra tay, chia hai bên đánh tới. Kiều Phong thân hình hơi nghiêng qua, lật một cái đã nắm ngay được cổ tay Đàm bà, kế tiếp cùi chỏ thúc ra, hậu phát tiên chí, tấn công vào sườn bên trái Triệu Tiền Tôn.
Triệu Tiền Tôn và Đàm bà đều là những cao thủ hạng nhất trong võ lâm, những tưởng chỉ ra một chiêu đã khống chế được kẻ địch, đâu có ngờ rằng con người hình mạo thật bình thường kia võ công lại cao siêu đến như thế, vừa ra tay đã đổi thủ thành công. Trong khoang thuyền chật hẹp, không thể thi triển tài nghệ, thế nhưng Kiều Phong đánh xa cũng hay, đánh gần cũng giỏi, sử dụng toàn cầm nã thủ và đòn nhập nội mà thôi, trong khu vực chưa đầy một trượng của khoang thuyền vẫn cực kỳ linh động. Đấu đến hiệp thứ bảy, hông Triệu Tiền Tôn bị trúng một chỉ, Đàm bà kinh hãi ra tay chậm lại, bị ngay một chưởng vào lưng, sụm ngay xuống.
Kiều Phong lạnh lùng nói:
- Xin hai vị ở đây nghỉ ngơi, trong khu vườn hoang trong thành Vệ Huy đang có rất nhiều anh hùng hảo hán đến viếng linh vị Từ trưởng lão, ta đi mời họ tới để họ bình phẩm xem đúng hay sai.
Triệu Tiền Tôn và Đàm bà hoảng hốt, cố gắng vận khí nhưng huyệt đạo đã bị phong rồi, đến đầu ngón tay cũng không cử động được. Hai người tuổi tác đã cao, vốn không có ý niệm tình dục gì, hẹn nhau ở đây, chẳng qua để kể lể tình xưa nghĩa cũ chứ có chuyện gì ra ngoài vòng lễ giáo đâu. Thế nhưng lúc đó đang thời Bắc Tống, lễ pháp ai ai cũng coi rất nặng, anh hùng hảo hán giang hồ phạm vào nữ sắc ắt bị người đời cười chê. Một nam một nữ lén lút gặp gỡ nơi thuyền này, nào có ai tin rằng hai người chỉ gặp nhau để hát cho nhau nghe vài câu? Nói với nhau vài câu chuyện tầm phào? Nếu ai ai cũng biết đến thì còn làm người sao được? Ngay cả Đàm công cũng chẳng còn mặt mũi nào.
Đàm bà vội nói:
- Vị anh hùng kia, chúng tôi có làm gì đắc tội với các hạ đâu, nếu có thể dung tình một chút, ta ... ta ắt có đền đáp.
Kiều Phong nói:
- Đền đáp thì không cần. Ta chỉ hỏi một câu, các ngươi cũng chỉ đáp lại ba chữ. Nếu như nói thực, tại hạ lập tức giải khai huyệt đạo cho hai người ngay, phủi tay đi thẳng. Chuyện ngày hôm nay nhất định không một ai nhắc đến nữa.
Đàm bà nói:
- Nếu như lão thân biết được thì nguyện sẽ phụng cáo ngay.
Kiều Phong hỏi:
- Có người từng viết thư cho Uông bang chủ của Cái Bang, nói về chuyện Kiều Phong, người viết thư đó người khác gọi là "đàn anh đứng đầu", kẻ đó là ai?
Đàm bà còn ngần ngừ chưa trả lời, Triệu Tiền Tôn lớn tiếng nói:
- Tiểu Quyên, không được nói, nghìn lần vạn lần không thể nói.
Kiều Phong trừng mắt nhìn y, hỏi lại:
- Ngươi thà chịu thân bại danh liệt nhưng không chịu nói hay sao?
Triệu Tiền Tôn đáp:
- Lão tử thà chết thì thôi. Vị "đàn anh đứng đầu" này có ơn với ta, ta nhất quyết không thể nói tên ra được.
Kiều Phong hỏi thêm:
- Thế dẫu cho Tiểu Quyên thân bại danh liệt, ngươi cũng không cần, phải không?
Triệu Tiền Tôn đáp:
- Nếu Đàm công biết chuyện hôm nay, ta lập tức tự vẫn trước mặt y, lấy cái chết tạ tội, thế là xong.
Kiều Phong quay sang Đàm bà:
- Người đó chưa chắc đã có ơn gì với bà, vậy bà nói ra đi, tất cả sẽ bình yên vô sự, bảo toàn được danh dự cho cả Đàm công Đàm bà, cũng bảo tồn cả tính mệnh cho sư ca của bà nữa.
Đàm bà nghe thấy ông ta đem tính mạng Triệu Tiền Tôn ra uy hiếp, không khỏi rùng mình nói:
- Được, thôi để ta nói cho người nghe, người đó là ...
Triệu Tiền Tôn vội kêu lên:
- Tiểu Quyên, nàng chớ có nói ra, nhất định không thể nói ra. Ta van xin nàng, van xin nàng! Gã này chắc là thủ hạ của Kiều Phong, nàng mà nói ra, tính mạng của vị "đàn anh đứng đầu" kia thể nào cũng nguy hiểm.
Kiều Phong đáp:
- Ta chính là Kiều Phong, các ngươi không nói ra hậu hoạn sẽ không biết đâu mà lường.
Triệu Tiền Tôn giật mình:
- Thảo nào công phu của ngươi ghê gớm thế. Tiểu Quyên ơi, trong đời ta chưa từng cầu xin nàng việc gì, đây là việc duy nhất ta xin nàng, dẫu thế nào chăng nữa mong nàng bằng lòng cho ta.
Đàm bà nghĩ đến ông ta mấy chục năm qua thương yêu ái mộ, tình sâu nghĩa nặng, mình phụ ông ta đã nhiều, tấm lòng mong mỏi được lấy nhau xưa nay chưa từng thổ lộ, vậy mà lần này vì muốn che dấu cho ân nhân, thà chết thì thôi, không thể nào làm hỏng cái nghĩa cử của sư ca được nên đáp:
- Kiều bang chủ, việc ngày hôm nay, làm điều thiện cũng tùy ông, mà làm điều ác cũng tùy ông. Hai sư huynh muội chúng tôi tự vấn lương tâm không điều gì đáng hổ thẹn, có đất trời chứng giám. Việc các hạ muốn biết, xin tha thứ lão thân không thể cáo tri được.
Mấy câu nói của bà ta nghe ra có vẻ khách khí, nhưng lời như chém đinh chặt sắt, nhất định cách nào cũng không thể nói ra.
Triệu Tiền Tôn vui mừng nói:
- Tiểu Quyên, đa tạ nàng, đa tạ nàng.
Kiều Phong biết rằng có bức bách thêm cũng không ích lợi gì, hừ một tiếng, rút chiếc trâm ngọc trên đầu Đàm bà, nhảy ra khỏi khoang thuyền chạy trở về hướng thành Vệ Huy để tìm nơi ở của Đàm công. Ông hóa trang nên không ai nhận ra, Đàm công, Đàm bà ngụ tại Như Quy khách điếm, hỏi là biết ngay.
Vào đến khách điếm thấy Đàm Công chắp tay sau lưng ở trong phòng đi qua đi lại xem ra cực kỳ bồn chồn. Kiều Phong đưa tay ra, lòng bàn tay là chiếc ngọc thoa của Đàm bà.
Từ lúc thấy Triệu Tiền Tôn đi theo như hình với bóng đến Vệ Huy, Đàm công trong dạ chẳng an, đến lúc này lại thấy vợ mình đi đâu lâu quá đang lo, không hiểu bà ta đang ở chỗ nào, bây giờ thấy cây trâm của Đàm bà, vừa mừng vừa lo bèn hỏi:
- Các hạ là ai? Có phải chuyết kinh nhờ các hạ đến đây chăng? Không biết có điều chi dạy bảo?
Nói rồi đưa tay cầm chiếc trâm ngọc. Kiều Phong để ông ta lấy chiếc thoa rồi mới nói:
- Tôn phu nhân bị người ta bắt giữ, nguy tại khoảnh khắc.
Đàm công cực kỳ kinh hoảng nói:
- Chuyết kinh võ công cũng khá, sao lại dễ dàng bị người ta bắt giữ được?
Kiều Phong đáp:
- Ấy là Kiều Phong.
Đàm công nghe thấy tên “Kiều Phong” không còn nghi ngờ gì nữa, lại càng băn khoăn lo lắng vội hỏi:
- Kiều Phong ư? Ôi chao, nếu quả là y thì phiền quá, nội nhân ta ... ta đang ở chỗ nào?
Kiều Phong đáp:
- Các hạ muốn tôn phu nhân sống cũng thật dễ dàng, mà muốn bà ta chết thì cũng không khó.
Đàm công tính tình trầm ổn, trong bụng tuy lo nhưng vẻ mặt vẫn bình thản như không hỏi lại:
- Xin được thỉnh giáo.
Kiều Phong nói:
- Kiều Phong có một việc muốn hỏi Đàm công, nếu như ông cứ sự thực mà nói lập tức thả tôn phu nhân ra, không để tổn hại một sợi tóc, còn như các hạ không chịu nói thì chỉ còn nước xử tử bà ta đem thi thể tôn phu nhân với thi thể Triệu Tiền Tôn chôn chung hai người một huyệt.
Đàm công nghe câu cuối cùng làm sao còn nhịn được nữa, rống lên một tiếng, vung chưởng đánh vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong nghiêng người hơi lùi lại một chút, chưởng đó liền không đánh trúng. Đàm công hoảng hốt, nghĩ thầm chưởng của mình nhanh như ánh chớp, cực kỳ ghê gớm, y chỉ nhẹ nhàng tránh được dễ dàng, lập tức chưởng bên phải đánh xéo qua đồng thời tả chưởng tạt ngang.
Kiều Phong thấy trong phòng chật hẹp không dễ gì tránh né được, liền gồng tay phải lên chịu đòn. Nghe bịch một tiếng, chưởng đó đánh trúng tay ông, Kiều Phong không nhúc nhích, tay liền vươn qua giữ chặt đầu vai ông ta đè ông ta xuống.
Đàm công lập tức cảm thấy vai mình như phải vác một tảng đá nghìn cân vội vàng vận kình phản kháng nhưng đầu vai như đụng phải một ngọn núi, xương sống kêu lách cách liên hồi tưởng chừng muốn gãy, chỉ còn nước khuỵu đầu gối chứ không làm gì khác hơn được. Ông hết sức vùng lên nhất định không chịu khuất phục, nhưng không cách nào hít thêm một hơi, hai đầu gối bải hoải, đành phải gục xuống. Việc quì xuống nào phải ý ông ta đâu có điều đầu gối, khớp xương không còn hơi sức, bị áp lực nặng nề từ trên ấn xuống không khuất tất thì không xong.
Kiều Phong có ý định làm nhụt ngạo khí của ông ta nên tuy đã bị buộc lòng quì xuống rồi nhưng sức đè xuống không thôi, tới lúc lưng cong như cánh cung, trán chạm đất. Đàm công mặt mày đỏ ké, cố vùng vẫy, đem hết sức lực bung người lên. Đột nhiên Kiều Phong buông tay ra, sức nặng nghìn cân trên vai Đàm công biến mất, ông ta xuất kỳ bất ý, thu thế không kịp, lập tức nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, nghe bình một tiếng đầu đã đụng vào xà nhà khiến cây gỗ gãy ra làm đôi.
Đàm công từ trên không rơi xuống, Kiều Phong không để ông ta chạm đất, vươn tay phải ra, chộp ngay ngực. Cánh tay Kiều Phong thật dài, Đàm công người nhỏ thó, dù cố đấm đá cũng không sao đụng được vào đối phương, huống chi ông ta hai chân bông bênh lơ lửng, dẫu võ công cao siêu bậc nào cũng không sử dụng được, trong cơn nguy cấp chợt hiểu ra kêu lên:
- Thì ra ngươi chính là Kiều Phong.
Kiều Phong đáp:
- Dĩ nhiên là ta rồi!
Đàm công giận dữ nói:
- Ngươi ... ngươi ... con mẹ ngươi chứ, mắc mớ gì lại dính dáng cả thằng khốn kiếp Triệu Tiền Tôn?
Ông ta giận nhất là câu đem Đàm bà giết rồi sẽ đem chôn chung với xác Triệu Tiền Tôn. Kiều Phong nói:
- Mụ vợ ngươi muốn dính dáng đến y thì có liên can gì đến ta đâu? Ngươi có muốn biết Đàm bà lúc này đang ở đâu không? Có muốn biết bà ta đang ỷ eo tình thoại, hát xướng tình ca với ai không?
Đàm công nghe nói thế, đoán chừng vợ mình đang cùng với Triệu Tiền Tôn tại một nơi, không thể không làm cho ra đầu ra đũa liền nói:
- Mụ ta ở đâu? Xin ông dẫn ta đến.
Kiều Phong cười khẩy:
- Thế ngươi làm gì cho ta chưa? Tại sao ta lại phải dẫn ngươi đi chứ?
Đàm công nhớ lại câu nói của ông hồi nãy bèn hỏi:
- Ông bảo có chuyện muốn hỏi ta, thế là chuyện gì?
Kiều Phong đáp:
- Hôm trước ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích Từ trưởng lão có mang lại một lá thư, viết gửi bang chủ tiền nhiệm Cái Bang Uông Kiếm Thông, lá thư đó do ai viết thế?
Đàm công chân tay run rẩy, lúc này y bị Kiều Phong xách lên, thân thể lơ lửng, đối phương chỉ cần nhả nội lực lập tức giết chết y ngay. Thế nhưng bản tính y trời sinh lì lợm, bèn nói:
- Người đó có thù giết cha ngươi, ta nhất quyết không thể tiết lộ tính danh, nếu không ngươi thể nào cũng kiếm để báo thù, thế có phải là ta hại mạng ông ấy hay sao?
Kiều Phong nói:
- Nếu ngươi không nói thì ta lấy mạng mi trước.
Đàm công cười ha hả nói:
- Ngươi coi Đàm mỗ là hạng người nào? Bộ ta tham sống sợ chết, bán rẻ bạn bè hay sao?
Kiều Phong nghe ông ta cố gắng bảo toàn nghĩa khí, trong bụng kính phục, nếu phải chuyện khác ông nhất quyết không truy bức làm gì, thế nhưng thù giết cha mẹ đâu phải tầm thường bèn nói:
- Nhà ngươi không coi mạng mình vào đâu, đến tính mạng vợ cũng chẳng đoái hoài hay sao? Đàm công Đàm bà thanh danh trôi theo dòng nước, tất cả mọi người cười chê không lẽ không sợ?
Trong võ lâm thanh danh là quan trọng nhất, tiếng tăm nặng hơn thân thể, ấy là sự thường tình của giang hồ hảo hán. Đàm công nghe mấy câu đó bèn nói:
- Đàm mỗ ngồi không nghiêng ngả, đứng chẳng vẹo xiêu, bình sinh chưa từng làm chuyện không hay không phải với bạn bè, làm gì có chuyện “thanh danh trôi theo dòng nước, tất cả mọi người cười chê ” được?
Kiều Phong thản nhiên nói:
- Thế nhưng Đàm bà chưa hẳn đã “ngồi không nghiêng ngả, đứng chẳng vẹo xiêu”, còn Triệu Tiền Tôn chắc gì “chưa từng làm chuyện không hay không phải với bạn bè”.
Đàm công mặt liền đỏ ké, tiếp theo đổi thành xanh lè, trừng mày trợn mắt hầm hầm nhìn ông. Kiều Phong buông tay, vứt ông ta xuống đất, quay mình chạy đi. Đàm công không nói một lời lẽo đẽo chạy theo, hai người một trước một sau chạy ra khỏi thành Vệ Huy. Trên đường không ít giang hồ hào khách nhận ra Đàm công, ai nấy cung kính nhường đường cúi chào. Đàm công chỉ ậm ừ một tiếng rồi chạy vụt qua. Chẳng mấy chốc hai người đã đến bên chiếc thuyền gỗ.
Kiều Phong tung mình nhảy lên đầu thuyền, chỉ vào bên trong nói:
- Tự mình ông đến xem cho rõ.
Đàm công liền lên thuyền, nhìn vào trong khoang, thấy vợ mình và Triệu Tiền Tôn tựa vào nhau, nép ở một góc, giận không sao nhịn nổi, phát chưởng nhắm ngay đầu Triệu Tiền Tôn đánh tới, nghe bùng một tiếng. Triệu Tiền Tôn không động đậy, không trả đòn, cũng không né tránh.
Bàn tay Đàm công đụng vào đầu y rồi, thấy có điều không xong, vội vàng đưa tay sờ vào mặt vợ, thấy lạnh ngắt, thì ra Đàm bà đã chết từ bao giờ. Đàm công run bắn người nhưng chưa thoái chí, liền đưa tay thăm mũi bà ta nhưng cũng có còn chút hơi thở nào đâu? Ông ta ngơ ngẩn, đưa tay sờ trán Triệu Tiền Tôn thấy cũng lạnh như băng, bi phẫn khôn tả, hầm hầm nhìn Kiều Phong, mắt như muốn tóe lửa.
Kiều Phong thấy đột nhiên cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn đều chết, cũng thật lạ lùng vô cùng. Khi ông rời thuyền để vào thành chỉ điểm huyệt hai người, sao hai cao thủ lại chết một cách thật bất ngờ như thế?
Ông nhắc Triệu Tiền Tôn lên, xem qua không thấy trên người có vết thương nào cả, cũng không có vết máu, liền nắm ngay áo trên ngực y nghe soẹt một tiếng, cởi tung ra thấy một vết bầm thật lớn, hiển nhiên đã bị chưởng lực thật mạnh. Lạ lùng nhất là vết tay kẻ dùng trọng thủ giống hệt bàn tay ông.
Đàm công ôm Đàm bà lên, xoay lưng lại, cởi áo bà ta ra xem vết thương trên ngực thấy cũng y hệt Triệu Tiền Tôn. Ông ta muốn khóc nhưng không lấy đâu ra nước mắt, nghiến răng nói với Kiều Phong:
- Ngươi mặt người dạ thú, độc ác đến thế sao.
Kiều Phong trong lòng kinh ngạc, không biết phải nói sao chỉ nghĩ: “Không biết ai đã dùng trọng thủ đánh chết Đàm bà và Triệu Tiền Tôn? Kẻ hạ thủ công lực thâm hậu, không phải tầm thường, không lẽ cũng chính là kẻ đối đầu với mình hay sao? Thế nhưng làm sao y lại biết hai người này đang ở trên thuyền?”.
Đàm công đau lòng vì người vợ yêu chết thảm, vận kình vào hai cánh tay hết sức xông vào Kiều Phong. Kiều Phong tránh qua một bên chỉ nghe một tiếng lách cách thật lớn, chưởng lực của Đàm công đã đánh sạt một bên khoang. Kiều Phong liền vươn tay chộp lấy đầu vai ông ta nói:
- Đàm công, phu nhân của ông không phải do ta giết, ông tin hay không nào?
Đàm công hỏi lại:
- Không phải ngươi thì còn ai bây giờ?
Kiều Phong nói:
- Trong lúc này mạng ông ở trong tay ta, Kiều mỗ nếu như muốn giết thật dễ như trở bàn tay, ta nói láo ông làm gì?
Đàm công nói:
- Ngươi chỉ vì muốn tra xét cho rõ kẻ giết cha ngươi là ai, Đàm mỗ tuy võ công không bằng ngươi thật nhưng đâu có để ngươi coi như thằng ngu?
Kiều Phong nói:
- Được rồi, ông nói tên kẻ thù giết cha cho ta nghe, ta sẽ đảm nhận trọng trách báo thù kẻ giết vợ cho ông.
Đàm công cười sặc sụa, cố sức vận kình ba lần muốn thoát khỏi bàn tay đối phương, thế nhưng bàn tay Kiều Phong chỉ nhẹ nhàng đè xuống tùy theo kình mà biến hóa, sức giãy giụa của Đàm công tuy mạnh thật nhưng đối phương cũng theo đó mà mạnh theo, trước sau vẫn không cách nào ra được. Đàm công đã quyết chí, bèn thè lưỡi để giữa hai hàm răng, cắn mạnh một cái cho đứt đầu lưỡi, mồm ngậm đầy máu phun thẳng vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong vội vàng tránh qua một bên, Đàm công liều xông tới, giơ chân hất cái xác của Triệu Tiền Tôn qua một bên, hai tay ôm xác Đàm bà, đầu ngoẹo xuống, tắt thở chết ngay.
Kiều Phong thấy cái thảm trạng đó, trong lòng bồi hồi không khỏi có chút xót xa. Vợ chồng họ Đàm và Triệu Tiền Tôn tuy không phải chính tay ông giết, nhưng cũng vì ông mà chết. Nếu muốn hủy diệt thi thể, vết tích ông chỉ cầm dậm chân một cái, đạp vỡ đáy thuyền, chiếc thuyền sẽ chìm xuống đáy sông nhưng nghĩ lại: “Nếu ta dấu ba cái xác này đi chẳng hóa ra có tật giật mình hay sao?”.
Ông đi ra khỏi khoang thuyền trở lên bờ định tìm xem có dấu chân hay manh mối gì chăng, nhưng không thấy gì cả.
Ông rảo bước chạy về khách điếm, A Châu vẫn đứng ngoài cửa trông chờ, thấy ông bình yên trở lại mừng rỡ ra mặt, nhưng thần tình bất định, biết ngay đuổi theo Triệu Tiền Tôn và Đàm bà chẳng được tích sự gì, hạ giọng hỏi nhỏ:
- Thế nào rồi?
Kiều Phong đáp:
- Chết hết!
A Châu hơi kinh ngạc nói:
- Cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn?
Kiều Phong đáp:
- Luôn cả Đàm công nữa, cả thảy ba người.
A Châu lại tưởng do tay ông giết, trong bụng tuy không yên nhưng không tiện buông lời trách cứ, bèn nói:
- Triệu Tiền Tôn có nhúng tay vào việc làm chết cha đại gia, có giết cũng ... cũng không đến nỗi gì.
Kiều Phong lắc đầu:
- Không phải ta giết đâu.
A Châu thở ra nói:
- Nếu không phải ông giết thì tốt lắm. Thiếp vẫn nghĩ rằng Đàm công, Đàm bà chưa từng làm gì đắc tội với đại gia có tha cũng được, thế nhưng ai giết thế?
Kiều Phong lắc đầu:
- Ta cũng không biết.
Ông bấm ngón tay tính toán rồi nói:
- Biết được tên của chính phạm cự ác kia bây giờ chỉ còn có ba người. Mình làm gì phải làm cho nhanh, đừng để kẻ kịch ra tay trước, việc gì mình cũng vào thế hạ phong.
A Châu đáp:
- Đúng thế, Mã phu nhân hận ông tận xương tủy, dù có cách nào cũng không chịu nói ra đâu. Huống chi dồn ép một quả phụ đâu phải là hành vi của một đại trượng phu. Còn chùa của Trí Quang hòa thượng ở tận Giang Nam, thôi mình đi tới Thái An đất Sơn Đông tìm nhà họ Đơn vậy.
Ánh mắt Kiều Phong tỏa ra một vẻ thương xót nói:
- A Châu, mấy hôm nay nàng quả là cực khổ.
A Châu lớn tiếng gọi:
- Chủ quán đâu, mau tính tiền.
Kiều Phong ngạc nhiên nói:
- Sáng mai tính tiền cũng chưa vội.
A Châu đáp:
- Không nên, tối nay đi luôn suốt đêm, đừng để cho kẻ địch lần nào cũng nhanh chân một bước.
Kiều Phong trong lòng cảm kích, gật đầu. Trời tối hai người ra khỏi thành Vệ Huy, trên đường đã nghe người ta đồn xôn xao về chuyện tên ác ma Kiều Phong hạ độc thủ, giết chết vợ chồng Đàm công và Triệu Tiền Tôn. Những người đó khi nói chuyện, mắt lấm lét nhìn quanh, chỉ sợ Kiều Phong bất thần xuất hiện, có biết đâu ông ta ở ngay bên cạnh, nếu như muốn ra tay thì y làm gì mà trốn tránh nổi.
Hai người trên đường thay đổi ngựa, ngày đêm liên tục chạy thẳng về hướng đông. Đi khoảng hai ngày đường, tuy A Châu chẳng hề thở ra một chữ “mệt” nào nhưng mắt nhắm mắt mở ngồi trên yên, suýt ngã mấy lần. Kiều Phong thấy nàng không còn chịu nổi nữa, nên bỏ ngựa đi xe. Hai người ngồi trên xe ngủ được ba bốn giờ, thấy đã đủ lại bỏ xe đi ngựa, hết sức chạy. Cứ thế không ngừng, A Châu vui vẻ nói:
- Lần này nhất định “tên đại ác” kia không thể nhanh hơn mình được.
Cả nàng lẫn Kiều Phong đều không biết kẻ địch là ai, mỗi khi nhắc đến người đó đành gọi là “tên đại ác”. Thế nhưng trong bụng Kiều Phong vẫn canh cánh lo, thấy "tên đại ác" này lần nào cũng nhanh hơn mình một bước, võ công y cũng không kém gì mình, cơ trí mưu lược lại còn hơn xa, huống chi tới giờ phút này mình vẫn như ở trong mây, chưa nhìn ra đường hướng gì còn mình làm gì kẻ địch đều biết rõ. Trong đời ông, chưa bao giờ gặp một đối thủ lợi hại như vậy. Có điều kẻ địch càng mạnh, ông vẫn hào khí ngất trời không chút hãi sợ gì cả.
Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính ở ngoài thành phía đông của Thái An, Sơn Đông, nơi đây ai cũng biết cả. Kiều Phong và A Châu đến Thái An thì trời đã về chiều, hỏi kỹ nhà họ Đơn rồi lập tức băng ngang thành đi tới. Ra khỏi cửa đông chừng một dặm bỗng thấy khói bốc mịt trời, xem ra có chỗ nào đang cháy rồi có tiếng thanh la đánh vang dậy, văng vẳng có tiếng người kêu:
- Xách nước mau lên! Xách nước mau lên! Mau cứu hỏa!
Kiều Phong cũng không để ý, tiếp tục giục ngựa chạy càng lúc càng gần đám cháy. Chỉ nghe tiếng người la lối:
- Cứu hỏa mau, cứu hỏa mau, Thiết Diện Đơn gia đó!
Kiều Phong và A Châu hoảng hốt, cùng ghìm cương lại, đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Không lẽ "tên đại ác" lại đi trước một bước?”. A Châu an ủi:
- Đơn Chính võ công cao cường, dẫu nhà có cháy cũng không đến nỗi chết ở trong đó.
Kiều Phong lắc đầu. Từ khi ông giết chết Đơn thị nhị hổ, kết oán với nhà họ Đơn cực kỳ sâu xa, lần này đến Thái An, tuy không có ý giết người nhưng biết chắc Đơn Chính và con cháu nhất định không bỏ qua, thể nào cũng một phen đại chiến. Ngờ đâu chưa đến được trang viện, đối phương đã bị hỏa tai, trong lòng không khỏi cảm thấy bùi ngùi.
Càng gần Đơn gia trang càng thấy nóng hắt vào mặt, ánh lửa bốc lên lem lém, quả là một đám cháy to. Khi đó dân chúng quanh vùng đã cùng chạy tới chữa lửa, kẻ thì tạt nước, người thì đổ cát. Cũng may chung quanh Đơn gia trang đều có hào sâu nên dân chúng lân cận không bị cháy lây.
Kiều Phong và A Châu chạy đến bên hỏa trường liền xuống ngựa đứng xem. Bỗng nghe một hán tử than thở:
- Đơn lão gia là người tử tế, ở đây cứu tế chẩn bần, mấy chục năm nay tích biết bao công đức, thế mà nhà cháy đã đành, toàn gia hơn ba chục người không một ai chạy được?
Một người khác đáp:
- Chắc là kẻ thù phóng hỏa, đóng chặt cửa không cho ai chạy ra. Nếu không phải thế, đến đứa trẻ lên năm trong nhà họ Đơn cũng biết võ, lẽ nào lại không chạy được?
Người lúc trước bèn nói:
- Nghe nói Đơn đại gia, Đơn nhị gia, Đơn ngũ gia ở Hà Nam bị một tên ác tặc là Kiều Phong giết hại, lần này đến đốt nhà, chẳng phải tên đại ác đó thì còn đứa nào?
A Châu và Kiều Phong khi nói chuyện nhắc tới kẻ đối đầu đã gán cho y cái tên "tên đại ác" lúc này lại nghe những người nhà quê cũng gọi mình là "tên đại ác" nên không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Người tuổi trẻ hơn nói:
- Lẽ dĩ nhiên là Kiều Phong rồi.
Y nói đến đây chuyển sang thì thầm:
- Hẳn là y đưa một đám thủ hạ xông vào trang viện, giết sạch cả nhà họ Đơn không chừa con gà con chó. Ôi, trời xanh quả là không có mắt.
Người lớn tuổi hơn nói:
- Tên Kiều Phong kia tác ác đa đoan, mai sau thể nào chết thảm gấp trăm lần các vị đại gia nhà họ Đơn.
A Châu nghe bọn họ rủa Kiều Phong, trong bụng tức lắm, giơ tay vỗ vào cổ ngựa một cái, con ngựa giật mình, chân trái phóng ra, đá ngay vào mông gã kia. Gã đó kêu lên một tiếng, ngã sấp xuống. A Châu nói:
- Ngươi mồm miệng nói láo lếu gì thế?
Gã đó bị ngựa đá trúng, nghĩ đến thủ hạ "tên đại ác" kia hẳn là đông lắm, sợ đến mất vía không dám hó hé gì vội vàng lỉnh mất. Kiều Phong mỉm cười nhưng đầu mày cuối mắt có vài phần buồn bã, cùng A Châu chạy đến bên đám cháy. Họ nghe thấy mọi người xì xào bàn tán cùng một giọng, đều nói nhà họ Đơn già trẻ lớn bé hơn ba chục người không ai thoát chết. Kiều Phong ngửi thấy mùi xác người bị thiêu khét lẹt từ trong đám lửa bốc ra biết là những lời đó không sai, cả nhà Đơn Chính chết cháy cả.
A Châu khẽ nói:
- "Tên đại ác" này quả là độc địa, giết cha con Đơn Chính thì đã đành, sao lại phải giết toàn gia? Việc gì mà đốt luôn cả trang viện?
Kiều Phong hừ một tiếng nói:
- Cái đó gọi là nhổ cỏ nhổ tận rễ. Nếu là ta thì ta cũng đốt cả nhà.
A Châu kinh hãi hỏi lại:
- Sao thế?
Kiều Phong đáp:
- Tối hôm đó ở trong rừng hạnh, Đơn Chính có nói mấy câu, chắc nàng cũng có nghe. Ông ta nói: “Trong nhà tôi còn giữ mấy phong thư của vị "đàn anh đứng đầu", đem ra so nét chữ quả đúng thật”.
A Châu thở dài:
- Đúng đó, y đã tính nếu giết Đơn Chính vẫn e ngại đại gia vào trong Đơn gia trang kiếm ra được mấy phong thư đó thì có thể biết được tính danh của người này. Một bó lửa đốt cháy rụi Đơn gia trang thì chẳng thư tín nào còn lưu lại được nữa.
Khi đó người đến chữa lửa mỗi lúc một đông nhưng hỏa thế đang lớn, từng thùng từng thùng nước dội vào, chỉ khoảnh khắc đã thành hơi nước bốc đi đâu có dập tắt được. Từng đợt lửa và hơi nóng bốc ra thổi dạt mọi người lùi lại. Đám đông một mặt thở than, một mặt chửi rủa Kiều Phong, dân nhà quê ăn nói thô tục thật là khó nghe.
A Châu sợ Kiều Phong nghe những lời nhục mạ vô lý đó, cơn thịnh nộ nổi lên lại mở một trường sát giới thì thật là thê thảm cho đám dân đen nên len lén nhìn ông, thấy mặt ông cực kỳ quái dị, dường như thương tâm mà cũng dường như ăn năn nhưng xem chừng thương xót nhiều hơn, tưởng chừng biết rằng đám dân quê ngu dốt không đáng giết. Chỉ nghe ông thở dài một tiếng, thản nhiên nói:
- Thôi mình đi Thiên Thai Sơn.
Ông đề cập đến núi Thiên Thai âu cũng là chuyện chẳng đừng. Trí Quang đại sư tuy năm xưa có tham gia chiến dịch giết hại cha mẹ ông nhưng về sau đại phát tâm nguyện đi đến những vùng đất xa lạ lấy các loại vỏ cây đem về làm thuốc chữa trị cho dân chúng hai vùng Chiết Mân Lưỡng Quảng bị chướng khí sốt rét, cứu sống vô số người, chính ông vì thế mà nhiễm trọng bệnh khi khỏi rồi võ công mất sạch. Hành động tế thế cứu nhân đó trên giang hồ ai ai cũng kính phục, nhắc đến Trí Quang đại sư đều gọi là “Vạn Gia Sinh Phật”, Kiều Phong không vì bất đắc dĩ thì không bao giờ đến gây chuyện với ông ta.
Hai người rời Thái An tìm đường đi xuống phía nam. Lần này Kiều Phong không cố gắng chạy thục mạng, nghĩ thầm nếu như mình cứ nhẩn nha mà đi, không chừng lại bảo tồn được tính mạng Trí Quang đại sư, còn như hết sức chạy cho nhanh, khi đến núi Thiên Thai lại chỉ thấy xác ông nằm đó mà thôi, cả cái miếu ông đang trụ trì có khi cũng bị đốt thành tro rồi. Huống chí Trí Quang ngao du vô định, vân du bốn biển chắc gì đang ở tại Thiên Thai Sơn.
Núi Thiên Thai ở Triết Đông, hai người từ Thái An xuôi nam, lần này đi thong thả, chẳng khác gì du sơn ngoạn thủy, vừa đi vừa đàm luận những chuyện lạ trên giang hồ, nếu trong bụng không khắc khoải thì quả là một chuyến du hành kỳ thú.
Hôm đó đi đến Trấn Giang, hai người lên chùa Kim Sơn thưởng lãm phong cảnh. Kiều Phong nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy mãi về hướng đông, bỗng chợt nghĩ ra một việc nói:
- Không chừng gã "đàn anh đứng đầu" và "tên đại ác" là một.
A Châu đập tay nói:
- Đúng rồi, vậy mà sao mình không nghĩ tới chuyện đó nhỉ?
Kiều Phong nói:
- Cũng có thể đây là hai người nhưng nhất định họ phải có liên hệ với nhau thật mật thiết, nếu không "tên đại ác" không thể nào dùng thiên phương bách kế để che đậy thân phận cho tên "đàn anh đứng đầu". Thế nhưng đến những người như Uông bang chủ cũng còn đi theo thì tên "đàn anh đứng đầu" kia phải là một nhân vật ghê gớm lắm, cả "tên đại ác" cũng phải như vậy. Trên đời này làm gì có được hai cao nhân mà ta lại không biết được một? Cứ như thế mà suy ra, hai người này phần lớn cũng là một người mà thôi. Chỉ cần giết được "tên đại ác" là coi như ta đã trả xong mối thù giết cha giết mẹ rồi.
A Châu gật đầu khen phải, nói tiếp:
- Kiều đại gia, đêm hôm đó nơi rừng hạnh người ta kể lại chuyện ngày xưa, chỉ sợ ... chỉ sợ ...
Nàng nói tới đây, giọng hơi run run. Kiều Phong tiếp lời:
- Chỉ sợ "tên đại ác" cũng có mặt trong khu rừng hạnh chứ gì?
A Châu run run đáp:
- Đúng vậy. Hôm ở khu rừng hạnh Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính nói là trong nhà ông ta có giữ mấy lá thư của "đàn anh đứng đầu" thành ra toàn gia mới bị đốt cháy rụi ... Ôi, thiếp nghĩ lại chuyện này sao ớn quá.
Nàng hơi run, nép vào một bên Kiều Phong. Kiều Phong nói:
- Người này tâm tính độc ác, trên đời khó gặp. Triệu Tiền Tôn thà chịu thân bại danh liệt, không chịu thổ lộ chân tướng của y, Đơn Chính cũng giao hảo với y, vậy mà y vẫn đang tâm hạ độc thủ cả hai người. Đêm đó nơi rừng hạnh, làm gì có nhân vật nào lợi hại đến thế?
Ông suy nghĩ một chút nói tiếp:
- Còn một chuyện nữa mà ta nghĩ cũng thấy lạ.
A Châu hỏi:
- Chuyện gì thế?
Kiều Phong nhìn chiếc thuyền buồm trên sông nói:
- "Tên đại ác" thông minh mưu trí chỗ nào cũng hơn ta một bực, nói đến võ công, xem ra cũng chẳng kém gì ta. Nếu y muốn lấy mạng ta, e rằng cũng không lấy gì là khó. Thế sao y lại còn sợ ta biết được kẻ thù là ai?
A Châu nói:
- Kiều đại gia, ông cũng đừng có quá khiêm tốn. "Tên đại ác" kia tuy võ công cao siêu thật, nhưng thực ra sợ ông đòi mạng. Thiếp đoán rằng mấy ngày nay y trong lòng nơm nớp, sợ đại gia biết được y là ai đến báo thù. Nếu không y việc gì phải giết ông bà Kiều lão, rồi đến Huyền Khổ đại sư, Triệu Tiền Tôn, Đàm bà và toàn gia Thiết Diện Phán Quan nữa.
Kiều Phong gật đầu nói:
- Có lẽ là như thế.
Ông quay sang mỉm cười nhìn nàng nói:
- Thế nhưng nếu y không dám đến hại ta, cũng chẳng dám đến gần nàng nữa, nàng đừng sợ.
Một lát sau ông thở dài:
- Gã này tính toán quả là ghê gớm. Kiều mỗ thật uổng xưng mình là anh hùng, bị người ta đùa dỡn ngay trên đầu mà chẳng làm gì được ai!
Sau khi qua khỏi Trường Giang, chẳng mấy chốc đã vượt sông Tiền Đường, đến huyện Thiên đài. Kiều Phong và A Châu nghỉ lại một đêm ở khách điếm. Sáng hôm sau vừa trở dậy, đang định hỏi thăm đường lên núi Thiên Thai thì người chưởng quĩ lật đật tiến vào nói:
- Kiều đại gia, có một vị sư phụ ở Chỉ Quán thiền tự trên núi Thiên Thai xin được bái kiến.
Kiều Phong kinh hãi vì khi ông thuê phòng đã thuận miệng nói mình họ Quan, bèn hỏi lại:
- Sao ngươi lại gọi ta Kiều đại gia là sao?
Gã chưởng quĩ đáp:
- Sư phụ chùa Chỉ Quán tả hình dáng Kiều đại gia không sai chút nào.
Kiều Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau đều cảm thấy hơi khác lạ, hai người vốn đã hóa trang, không hoàn toàn giống như khi ở Thái An Sơn Đông vậy mà khi tới Thiên Thai đã bị người ta nhận ra ngay. Kiều Phong nói:
- Thôi được, mời ông ta vào đây.
Chưởng quĩ quay mình đi ra, chẳng bao lâu đưa vào một nhà sư lùn mập tuổi chừng ba mươi. Nhà sư đó chắp tay chào Kiều Phong nói:
- Gia sư thượng Trí hạ Quang sai tiểu tăng là Phác Giả đến mời Kiều đại gia và Nguyễn cô nương đến viếng tệ tự.
Kiều Phong thấy đến A Châu họ Nguyễn y cũng biết lại càng ngạc nhiên hỏi lại:
- Không hiểu tại sao sư phụ lại biết được họ của tại hạ?
Nhà sư Phác Giả đáp:
- Gia sư có dặn rằng ở tại khách điếm Khuynh Cái huyện Thiên Thai có một vị Kiều anh hùng và một vị Nguyễn cô nương nên sai tiểu tăng đến đón lên núi. Đây là Kiều đại gia, không biết Nguyễn cô nương đang ở đâu?
A Châu cải trang thành một người đàn ông trung niên nên hòa thượng Phác Giả không nhìn ra lại tưởng Nguyễn cô nương không có ở đây. Kiều Phong lại hỏi:
- Tối hôm qua chúng tôi mới đến đây, làm sao tôn sư lại biết được? Không lẽ tôn sư có tài tiên tri hay sao?
Phác Giả chưa kịp đáp gã chưởng quĩ đã xen vào:
- Lão thần tăng ở Chỉ Quán thiền tự thần thông quảng đại, chỉ bấm ngón tay là biết được Kiều đại gia sắp đến. Chẳng nói gì việc một hai ngày sau mà đến năm trăm nữa việc gì lão nhân gia cũng mười phần biết được sáu bảy.
Kiều Phong biết là Trí Quang đại sư tiếng tăm rất vang dội, dân chúng ngu dốt coi ông như thần thánh nên không muốn nhiều lời nói:
- Thôi để Nguyễn cô nương đi sau cũng được, xin ông đưa hai người chúng tôi lên bái kiến tôn sư trước.
Nhà sư Phác Giả nói:
- Vâng!
Kiều Phong đang toan trả tiền ăn ở gã chưởng quĩ liền nói:
- Đại gia là khách của lão thần tăng ở Chỉ Quán thiền tự đến ở đây, chúng tôi thật là vinh hạnh, vài đồng tiền thuê phòng ăn cơm quả tình không dám nhận.
Kiều Phong nói:
- Như vậy thì xin cám ơn.
Ông nghĩ thầm: “Trí Quang thiền sư thi ân bố đức cho dân chúng, cái mối thù ông ta làm hại cha mẹ mình ta không tính toán tới, chỉ mong ông ta thổ lộ "đàn anh đứng đầu" và "tên đại ác" là ai cũng đủ cho ta mãn nguyện rồi”. Ông lập tức cùng Phác Giả ra khỏi huyện thành đi về hướng núi Thiên Thai.
Núi Thiên Thai phong cảnh thanh u nhưng đường lên núi cheo leo hiểm trở hơi khó đi. Tương truyền Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào núi này gặp tiên đủ biết phong cảnh phải đẹp đẽ là chừng nào, đường lên núi cong queo như rắn bò thật khó mà nhận ra được. Kiều Phong theo sau nhà sư Phác Giả thấy y cước lực thật cứng cỏi nhưng rõ ràng không phải là người biết võ công, nhưng không phải vì thế mà ông không dè chừng, nghĩ thầm: “Đối phương đã biết ta lẽ nào mình lại không phòng bị hơn nữa? Trí Quang thiền sư tuy là bậc cao tăng hữu đức thật, nhưng những người khác có chắc đâu bụng dạ cũng như ông ta”.
Ngờ đâu đường đến chùa Chỉ Quán đều bình an không có chuyện gì xảy ra. Các tự viện trong núi Thiên Thai có chùa Quốc Thanh thiên hạ đều biết tiếng, cao tăng đời Tùy Trí Khải đại sư đã từng tu tại đây phát triển Thiên Thai Tông trở thành một trọng địa của Phật môn suốt mấy trăm năm qua. Tuy nhiên trong võ lâm thì chùa Chỉ Quán lại lừng danh hơn. Kiều Phong vừa thấy hóa ra đây chỉ là một cái miếu nhỏ thật tầm thường, bên ngoài tường vách loang lở, nếu không có nhà sư Phác Giả đưa tới, Kiều Phong và A Châu chắc không thể nào tin nổi đây là ngôi chùa Chỉ Quán tiếng tăm lừng lẫy.
Phác Giả hòa thượng đẩy cửa miếu lớn tiếng nói:
- Sư phụ, Kiều đại gia đã đến rồi đây.
Có tiếng Trí Quang đại sư vọng ra:
- Quí khách từ xa đến mà lão nạp không kịp nghênh tiếp.
Nói xong bước ra ngoài cửa, chắp tay hành lễ.
Kiều Phong trước khi gặp lại Trí Quang vẫn canh cánh lo sợ "tên đại ác" sẽ giết ông ta chặn trước, đến bây giờ thấy mặt mới yên tâm, lập tức cùng A Châu xóa bỏ hóa trang để lộ bộ mặt thật ra tương kiến. Kiều Phong vái một cái thật sâu nói:
- Làm rộn việc thanh tu của đại sư, trong lòng không an chút nào.
Trí Quang nói:
- Thiện tai, thiện tai! Kiều thí chủ, ông vốn là họ Tiêu, tự mình đã biết hay chưa?
Kiều Phong thân hình run rẩy, tuy ông biết mình giòng giống Khất Đan nhưng phụ thân họ gì đến lúc này vẫn mù tịt, bây giờ mới nghe Trí Quang đại sư bảo mình họ Tiêu, tự nhiên lưng đổ mồ hôi lạnh, biết rằng thân thế chân tướng mình từ từ lộ ra, lập tức khom lưng nói:
- Tiểu khả bất hiếu, chính là đến đây để mong đại sư chỉ điểm.
Trí Quang gật đầu nói:
- Mời hai vị ngồi.
Ba người ngồi xuống ghế rồi, Phác Giả liền đem trà lên, nhìn thấy hai người tướng mạo biến cải, A Châu lại thành một người đàn bà nên hết sức ngạc nhiên nhưng vì có sư phụ ngồi đó nên không dám lên tiếng hỏi. Trí Quang nói tiếp:
- Tại thạch bích ngoài Nhạn Môn Quan lệnh tôn lưu lại tự tích, tự xưng họ Tiêu, tên là Viễn Sơn. Trong di văn gọi ông là Phong nhi nên bọn ta giữ nguyên tên đó, chỉ vì gửi Kiều Tam Hòe nuôi dưỡng nên theo họ của y.
Kiều Phong nước mắt ròng ròng, đứng bật dậy nói:
- Tại hạ cho đến tận hôm nay mới biết tên họ thực của phụ thân đều do ân đức của đại sư, vậy xin nhận một lạy này của tại hạ.
Nói xong ông liền phục xuống lạy. A Châu cũng đứng lên. Trí Quang chắp tay đáp lễ nói:
- Hai chữ ân đức nào có xứng đáng.
Quốc tính nước Liêu là Gia Luật, còn hoàng hậu từ xưa đến nay vẫn là họ Tiêu. Họ Tiêu đời đời là họ của hoàng hậu nên công khanh đầy triều, ở nước Liêu rất là quyền thế. Có khi Liêu chúa còn nhỏ tuổi, Tiêu thái hậu chấp chính, Tiêu gia uy thế càng thêm lừng lẫy. Kiều Phong đột nhiên biết mình thuộc dòng một họ lớn của Khất Đan nên trong lòng ngổn ngang trăm mối, đứng xuất thần một hồi, quay sang nói với A Châu:
- Từ nay trở đi ta là Tiêu Phong không còn là Kiều Phong nữa.
A Châu đáp:
- Đúng thế, Tiêu đại gia.
Trí Quang nói:
- Tiêu đại hiệp, tự tích còn lưu lại trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan, chắc là ông đã thấy qua rồi?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Chưa đâu. Tại hạ ra ngoài quan ngoại, vết chữ trên vách đá đã bị ai đó đục mất, không còn chút ngấn tích nào.
Trí Quang thở dài nói:
- Mọi việc đều đã qua, đến tự tích trên vách đá cũng đã đục mất, mấy chục mạng người làm sao có thể cứu sống lại được?
Ông từ tay áo lấy ra một tấm vải cũ cực lớn nói:
- Tiêu thí chủ, đây là bức tự tích tô trên vách đá.
Tiêu Phong trong lòng bồi hồi, cầm lấy mảnh vải, mở ra hóa ra mảnh vải này là do rất nhiều mảnh quần áo rách khâu lại với nhau, chữ nào chữ nấy đều là vết trống ở giữa thành hình chữ trắng, nét bút quái lạ tuy hình dáng trông cũng giống chữ Hán nhưng không đọc được nên biết là chữ Khất Đan. Tuy nhiên nét bút hùng kiện, tưởng như dao đục búa chém, nghe Trí Quang đại sư hôm đó nói rằng, đây là do phụ thân mình khi sắp chết dùng dao khắc thành, nên mắt bỗng mờ đi, nước mắt lã chã rơi xuống, từng giọt từng giọt rơi trên mảnh vải nói:
- Mong được đại sư dịch giải.
Trí Quang đại sư nói:
- Năm xưa bọn ta tô được rồi mới đem nhờ người ở trong Nhạn Môn Quan biết chữ Khất Đan giải thích cho, hỏi mấy người thì ai ai cũng bảo cùng một ý xem ra không phải là sai. Tiêu thí chủ, hàng chữ này nói là: “Phong nhi vừa tròn một năm, ta đưa vợ con đi ăn tiệc ở bên bà ngoại, trên đường đột nhiên gặp phải bọn ăn cướp Nam Triều ...”
Tiêu Phong nghe đến đây trong lòng xót xa, Trí Quang tiếp tục kể:
- ... chỉ chớp mắt, vợ ta bị cướp giết chết nên cũng không muốn sống làm gì. Thụ nghiệp ân sư của ta là người Hán, ta đã từng thề trước mặt sư phụ không giết Hán nhân, ngờ đâu hôm nay giết một lượt hơn mười người, vừa thẹn vừa đau lòng, chết đi còn mặt mũi nào nhìn thấy ân sư được nữa. Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút”.
Tiêu Phong nghe Trí Quang dịch xong, cung kính gập mảnh vải tô chữ lại nói:
- Đây là di trạch của tiên nhân Tiêu mỗ, mong đại sư ban cho.
Trí Quang nói:
- Xin nguyện phụng tặng.
Tiêu Phong đầu óc hỗn loạn, nghĩ đến cái đau lòng của phụ thân năm xưa, mới biết việc ông nhảy xuống vực tự tận chẳng phải chỉ vì đau lòng vợ bị giết mà thôi, mà còn là vì đã không vẹn lời thề, giết quá nhiều người Hán nên phải thẹn với sư môn.
Trí Quang chậm rãi thở dài một tiếng nói:
- Lúc đầu bọn ta vẫn tưởng lệnh tôn thống lãnh võ sĩ Khất Đan đến chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh văn, đến khi đọc được di văn trên thạch bích này rồi mới biết là một chuyện lầm lẫn, hết sức sai quấy. Lệnh tôn đã quyết chí tự tận không lẽ nào khi sắp chết còn viết lời giả dối đánh lừa người ta. Nếu như ông ta toan đến chùa Thiếu Lâm đoạt kinh, lẽ nào lại mang theo một người vợ không biết chút võ công nào, bế thêm một đứa trẻ vừa đầy năm? Về sau chúng ta tra cứu cái tin đoạt kinh chùa Thiếu Lâm kia, thì ra từ miệng một kẻ nói láo, kẻ đó chủ tâm đùa rỡn "đàn anh đứng đầu" để cho ông ta phải nghìn dặm bôn ba để cho người ta cười một chuyến.
Tiêu Phong nói:
- Ôi, hóa ra chỉ là để đùa cợt mà thôi, gã ăn gian nói dối kia sao lại làm thế?
Trí Quang nói:
- "Đàn anh đứng đầu" tra xét rõ ràng rồi, trong bụng giận lắm nhưng tên nói láo kia đã trốn mất biệt, từ đó đến nay không thấy bóng dáng đâu nữa. Đến nay cũng đã ba mươi năm rồi, chắc y không còn sống trên đời này nữa.
Tiêu Phong nói:
- Đa tạ đại sư đã cho biết mọi việc tiền nhân hậu quả, khiến cho Tiêu Phong được trở lại thành một con người mới. Tiêu mỗ chỉ còn muốn hỏi thêm một việc.
Trí Quang đại sư hỏi:
- Tiêu thí chủ muốn hỏi chuyện gì?
Tiêu Phong hỏi:
- Cái vị "đàn anh đứng đầu" kia là ai thế?
Trí Quang nói:
- Lão nạp nghe nói Tiêu thí chủ chỉ vì muốn tra xét chuyện này mà đã giết chết Từ trưởng lão của Cái Bang, Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn bốn người, lại giết thêm cả nhà Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính, đốt Đơn gia trang thành bình địa nên biết rằng sớm muộn gì cũng sẽ đến đây. Xin thí chủ chờ một chút, lão nạp sẽ đưa cho thí chủ coi một vật.
Nói xong ông đứng lên. Tiêu Phong đang định nói rõ Từ trưởng lão và những người kia mình không hề giết thì Trí Quang đã đi thẳng vào hậu đường không quay đầu lại. Một lát sau, nhà sư Phác Giả đi vào nhà khách nói:
- Sư phụ mời hai vị vào thiền phòng nói chuyện.
Tiêu Phong và A Châu đi theo y qua một con đường mòn hai bên trồng trúc xanh um, đến trước một căn nhà nhỏ. Phác Giả hòa thượng đẩy cửa ra nói:
- Xin mời!
Tiêu Phong và A Châu liền tiến vào. Trí Quang đại sư ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn, nhìn Tiêu Phong mỉm cười, đưa ngón tay viết lên trên đất mấy hàng chữ. Căn nhà nhỏ này lâu nay không quét dọn nên bụi đóng thật dày thấy ông viết trên đó như sau:
Vạn vật đều là một,
Chúng sinh cũng ngang nhau.
Thánh hiền hay loài vật,
Cùng một khác gì đâu?
Dẫu Hán hay Hồ Lỗ,
Như thật mà như không.
Ân oán và vinh nhục,
Với cát bụi một dòng.
Viết xong ông nở một nụ cười rồi chậm rãi nhắm mắt lại. Tiêu Phong nhìn tám hàng chữ dưới đất, ngơ ngẩn xuất thần nghĩ bụng: “Dưới mắt nhà Phật, người nhân người ác cũng vậy thôi, đến súc sinh ngạ quỉ, vua chúa quan tướng cũng đều không có gì phân biệt. Ta có là người Hán hay là người Khất Đan, chẳng cần phải bàn làm gì. Thế nhưng ta có phải người tu hành đâu, làm sao có thể tiêu sái như vậy được?". Ông bèn nói:
- Đại sư, vậy cái gã "đàn anh đứng đầu" đó là ai? Xin đại sư cho biết.
Ông hỏi luôn mấy câu, Trí Quang đại cư chỉ mỉm cười không trả lời. Tiêu Phong định thần nhìn kỹ, không khỏi giật mình, thấy mặt ông tuy nở một nụ cười nhưng cứng đơ không cử động. Tiêu Phong gọi giật lên hai lần “Trí Quang đại sư” nhưng ông vẫn không động tĩnh gì, vội đưa tay lên thăm mũi thì ra đã ngừng thở viên tịch từ bao giờ. Ông buồn bã không còn biết nói sao, quì xuống lạy mấy lạy, quay sang ngoắc A Châu:
- Thôi mình đi!
Hai người len lén đi ra khỏi chùa Chỉ Quán, lòng buồn rười rượi quay về huyện thành Thiên Thai.
Đi được độ mươi dặm, Tiêu Phong mới nói:
- A Châu, ta thật hoàn toàn không có ý làm hại Trí Quang đại sư, sao ông ta ... ông ta ... lại phải khổ đến vậy?
A Châu đáp:
- Vị cao tăng đó đã nhìn thấu mọi việc trên đời, đại triệt đại ngộ đâu có còn phân biệt đâu là sống đâu là chết.
Tiêu Phong nói:
- Nàng thử nghĩ xem làm sao ông ta lại biết chúng mình tìm đường lên chùa Chỉ Quán?
A Châu đáp:
- Thiếp cho rằng ... thiếp cho rằng đây cũng là một việc chính "tên đại ác" kia làm.
Tiêu Phong nói:
- Ta cũng đoán thế, "tên đại ác" kia đã đến cho Trí Quang đại sư hay, bảo là ta đi tìm ông báo thù. Trí Quang đại sư nghĩ là không sao thoát khỏi độc thủ của ta nên sau khi nói chuyện xong liền uống thuốc độc tự tận.
Hai người nhìn nhau một hồi không ai nói thêm câu nào. A Châu bỗng nói:
- Tiêu đại gia, thiếp không biết trước sau, có mấy câu muốn nói, xin đại gia đừng trách cứ.
Tiêu Phong đáp:
- Sao tự nhiên nàng lại khách sáo đến vậy? Ta đương nhiên không trách gì nàng đâu.
A Châu nói:
- Thiếp nghĩ Trí Quang đại sư viết mấy câu trên đất, quả thực hết sức hữu lý. Đúng vậy:
Dẫu Hán hay Hồ Lỗ,
Như thật mà như không.
Ân oán và vinh nhục,
Với cát bụi một dòng.
Đại gia là người Hán thì cũng tốt, mà là người Khất Đan thì cũng vậy, có gì khác đâu? Sống chết nơi đầu đao mũi kiếm ở chốn giang hồ, thiếp nghĩ chắc đại gia cũng chán rồi, chi bằng ra ngoài Nhạn Môn Quan săn bắn, chăn nuôi, bao nhiêu ân oán vinh nhục của Trung Nguyên từ nay không còn ngó ngàng tới nữa.
Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:
- Quả thật cái nghề sinh nhai bằng đầu đao mũi kiếm ta chán lắm rồi. Ra nơi thảo nguyên ngoài biên tái cưỡi ngựa, thả ưng, xua chó đuổi thỏ, từ nay không còn băn khoăn gì nữa thì quả là thoải mái biết bao. A Châu, ta ra ngoài biên tái rồi nàng có còn đến thăm ta nữa không?
A Châu thẹn thùng, cúi đầu nói nhỏ:
- Thì thiếp đã chẳng nói đến “chăn nuôi” đấy ư? Đại gia cưỡi ngựa đi săn, thiếp cũng thả bò chăn cừu.
Nàng nói đến đây bèn cúi gầm mặt xuống. Tiêu Phong tuy là một hán tử thô hào nhưng cái ẩn ý trong mấy câu nói của cô gái cũng đã minh bạch, nàng rõ ràng muốn cùng mình suốt đời sống với nhau ngoài biên tái, không quay về Trung Nguyên nữa.
Tiêu Phong lúc đầu cứu nàng chẳng qua chỉ vì khí khái nhất thời, đến khi nàng tìm đường theo mình ra ngoài Nhạn Môn Quan, rồi qua Vệ Huy, Thái An, Thiên Thai bao nhiêu sóng gió, đường sá xa xôi, ngày đêm kề cận thấy nàng thật là ôn nhu thân thiết, lúc này nghe nàng nói thẳng tấm lòng mình, không khỏi bồi hồi, giơ hai bàn tay thô kệch nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của nàng nói:
- A Châu, em đối với ta thật tốt, chẳng vì ta là giống giòng đê tiện Khất Đan mà bỏ rơi ư?
A Châu đáp:
- Người Hán cũng là người mà Khất Đan cũng là người, làm gì còn có chuyện quí tiện? Thiếp ... thiếp thích người Khất Đan, đó là chân tâm thành ý, không có gì ép uổng cả.
Nàng nói đến những câu sau cùng tiếng chỉ thoảng nhẹ như muỗi kêu dường như không nghe thấy. Tiêu Phong mừng quá, đột nhiên giơ tay chộp ngay lưng nàng, tung nàng lên trên không, đợi khi nàng rơi xuống mới nhẹ nhàng đỡ lấy, để xuống đất, cười tủm tỉm nhìn nàng, lớn tiếng nói:
- A Châu, nàng từ nay theo ta cưỡi ngựa săn bắn, thả cừu chăn bò, sẽ không hối hận chứ?
A Châu nghiêm mặt nói:
- Dẫu có theo đại gia giết người cướp của, đốt nhà ăn trộm thiếp cũng không bao giờ hối hận. Dù phải chịu bao nhiêu khổ sở, trăm cay nghìn đắng, thiếp vẫn vui vẻ theo cùng.
Tiêu Phong dõng dạc nói:
- Tiêu mỗ được như thế này, chẳng nói gì trở lại làm bang chủ Cái Bang, dẫu có bảo ta làm hoàng đế nhà Đại Tống ta cũng chẳng thèm. A Châu, thôi mình đi Tín Dương tìm Mã phu nhân, bà ta chịu nói cũng được, mà không chịu nói cũng đành, đây là người sau cùng mình đi kiếm. Ta chỉ hỏi một câu sau đó hai đứa mình ra ngoài ải bắc săn bắn chăn nuôi.
A Châu nói:
- Tiêu đại gia ...
Tiêu Phong ngắt ngang:
- Từ nay trở đi, nàng không được gọi ta là đại gia, nhị gia gì nữa. Nàng gọi ta là đại ca.
A Châu mặt đỏ bừng nói nhỏ:
- Thiếp đâu có xứng?
Tiêu Phong nói:
- Nàng có chịu gọi không thì bảo?
A Châu mỉm cười:
- Nghìn lần vạn lần chịu, đâu có dám cãi lời.
Tiêu Phong cười nói:
- Vậy nàng gọi thử ta xem nào!
A Châu nói thật nhỏ:
- Đại ... đại ca!
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Thế mới được! Từ nay về sau Tiêu mỗ không còn một thân một mình, bị người ta khinh bỉ là giống Hồ Lỗ hèn hạ, trên đời này ít ra cũng có một người ... cũng có một người ...
Ông không biết phải nói sao. A Châu tiếp lời:
- ... cũng có một người kính trọng chàng, bội phục chàng, thương yêu chàng, nguyện ý mãi mãi, đời đời kiếp kiếp, ở bên cạnh chàng chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no.
Nàng nói những câu đó cực kỳ thành khẩn. Tiêu Phong cất tiếng cười vang động cả bốn bề sơn cốc, nghĩ đến A Châu nói sẽ cùng mình “chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no” đủ biết nàng hiểu rằng rồi đây sẽ có rất nhiều chông gai nhưng thản nhiên cam chịu không hề hối hận. Ông trong lòng cảm kích tuy mặt ngoài cười cợt nhưng hai dòng lệ chẩy ròng ròng trên má.
Tiền nhiệm phó bang chủ Cái Bang Mã Đại Nguyên ở tại Tín Dương, tỉnh Hà Nam. Tiêu Phong cùng A Châu từ núi Thiên Thai ở Giang Nam đi đến Tín Dương, đường xa nghìn dặm không phải chỉ một ngày là đến được. Hai người từ khi ở núi Thiên Thai ướm lòng với nhau, tình ý dạt dào, nên thả lỏng dây cương để vừa đi vừa thưởng ngoạn những cảnh đẹp làm say sưa lòng người. A Châu vốn dĩ không thích uống rượu nhưng để trợ hứng cho Tiêu Phong nên cũng cố uống hầu tiếp một vài chung khiến má đỏ hồng lại càng thêm xinh đẹp.
Tiêu Phong vốn dĩ bụng đầy phẫn khích nhưng được A Châu nói cười ríu rít, chuyện trò thật duyên dáng nên bao nhiêu phiền não cũng giảm đến quá nửa. Chuyến đi từ Giang Nam ngược lên trung châu, so với lần đi từ Nhạn Môn Quan hối hả chạy qua Sơn Đông tâm tình thật khác hẳn. Tiêu Phong cũng có khi hồi tưởng, chặng đường mấy nghìn dặm này thật quả mơ mơ hồ hồ, lúc đầu là những cơn ác mộng nhưng đến sau lại là một cơn mộng đẹp đến nỗi nếu không có nàng A Châu kiều diễm ở bên mình thì ắt đã nghi rằng chỉ là một giấc mơ.
Hôm đó đi đến Quang Châu, chỉ còn chừng hai ngày đường là đến Tín Dương. A Châu nói:
- Đại ca thử nghĩ xem mình đến hỏi Mã phu nhân thế nào cho tiện?
Hôm đó ở trong khu rừng hạnh và nơi Tụ Hiền Trang, Mã phu nhân thần thái ngôn ngữ thù hằn Tiêu Phong ra mặt, Tiêu Phong tuy không lấy gì làm vui nhưng sau nghĩ lại bà ta chồng chết, lại cho rằng mình giết hại, có oán hận mình thì cũng là chuyện bình thường, nếu không thù hận ấy mới là không hợp lý.
Ông lại nghĩ bà ta là một người đàn bà góa không biết võ công, nếu như uy hiếp bức bách thì quả là mất cái thân phận hào hiệp của mình nên không nghĩ tới việc dùng bạo lực tra hỏi, nay nghe A Châu hỏi thế nên trù trừ không trả lời, ngẩn người ra một hồi rồi đáp:
- Ta nghĩ mình chỉ nên thẳng thắn cầu xin, mong bà ta hiểu rõ sự tình khỏi đổ tiếng oan cho ta giết chồng. A Châu, hay là nàng đến hỏi bà ta đi, được chăng? Nàng mồm miệng lanh lợi, vả lại chỗ đàn bà với nhau. Chỉ sợ một khi Mã phu nhân thấy mặt ta, bụng đầy oán hận là sẽ giở trò ngay.
A Châu tủm tỉm cười:
- Thiếp đã có kế đây nhưng sợ đại ca cho là không hay thôi.
Tiêu Phong vội hỏi:
- Kế gì thế?
A Châu nói:
- Đại ca là đại anh hùng, đại trượng phu không thể bức cung bà ta được, chi bằng để thiếp đến đánh lừa bà ta, được chăng?
Tiêu Phong vui mừng nói:
- Nếu như dụ được bà ta thổ lộ chân tướng thì còn gì hơn. A Châu, chắc nàng cũng biết ta ngày đêm canh cánh, mơ tưởng chuyện được chính tay đâm chết kẻ đại cừu để trả mối thù giết cha. Ta là người Khất Đan, "tên đại ác" kia giúp Kiều mỗ lộ được cái bản lai diện mục của mình, khiến cho ta biết được tổ tông mình là ai, ta phải cảm ơn mới phải. Thế nhưng tại sao y lại giết dưỡng phụ dưỡng mẫu của ta? Giết ân sư của ta? Ép ta phải giết hại bằng hữu, mang cái tiếng ác, biến thành kẻ thù của anh hùng thiên hạ? Nếu ta không băm vằm y ra, thì làm sao yên tâm để cùng nàng ở ngoài biên tái cưỡi ngựa săn thú, chăn bò thả cừu?
Ông càng nói càng lên giọng. Mấy hôm nay tuy thần thái ông không còn u uất như trước, nhưng tấm lòng thù hận "tên đại ác" không vì thế mà giảm được chút nào. A Châu nói:
- "Tên đại ác" kia hại đại ca âm độc như thế, thiếp chỉ mong được chém y mấy nhát cho đại ca hả dạ. Mình bắt được y rồi sẽ tổ chức một anh hùng đại yến, mời tất cả anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, trước tất cả mọi người nói rõ nỗi oan khuất để thanh danh của đại ca được hồi phục.
Tiêu Phong thở dài:
- Cũng chẳng cần phải thế. Ta ở Tụ Hiền Trang giết quá nhiều người, kết oán thù với anh hùng thiên hạ cực sâu xa, cũng chẳng phải cầu ai tha thứ cho mình. Tiêu Phong chỉ mong kết liễu được chuyện này để trong tâm hồn được bình an, sau đó được cùng nàng rong ruổi bên ngoài biên tái, hai đứa mình suốt đời làm bạn với hổ lang bò cừu, không bao giờ gặp lại anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.
A Châu vui mừng nói:
- Nếu được thế thì quả là tạ trời tạ đất, cầu còn chưa xong.
Nàng mỉm cười nói:
- Đại ca, thiếp định giả làm một người đến đánh lừa để cho Mã phu nhân nói tính danh của "tên đại ác" ra.
Tiêu Phong vỗ đùi kêu lên:
- Đúng đó, đúng đó! Ta không nghĩ ra cách này, thuật cải trang của nàng dùng vào việc này thì trên đời có một không hai. Thế nàng định giả làm ai?
A Châu đáp:
- Cái đó phải hỏi đại ca. Khi Mã phó bang chủ còn tại thế, trong Cái Bang giao thiệp với ai thân thiết nhất thiếp sẽ giả làm người đó, Mã phu nhân tưởng là bạn thân của trượng phu, chắc sẽ không dấu đâu.
Kiều Phong nói:
- Ồ, những người trong Cái Bang thân thiết với Mã Đại Nguyên huynh đệ thì có Vương đà chủ, Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão. Ngoài ra Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng có giao tình rất hậu.
A Châu hừm một tiếng, nghiêng đầu hồi tưởng lại hình mạo thần thái những người đó. Tiêu Phong lại tiếp:
- Mã huynh đệ là người điềm đạm nghiêm cẩn, không phải như ta thích rượu ham vui, ồn ào náo nhiệt. Thành thử bình thời y ít khi cùng ta uống rượu cười đùa. Toàn Quan Thanh, Bạch Thế Kính là những người giống tính y nên thường gặp nhau nghiên cứu võ công.
A Châu nói:
- Vương đà chủ là ai, thiếp không được biết. Trần trưởng lão thì trong cái túi gai chứa toàn rắn rết, thiếp mới thấy đã nổi da gà muốn ói, có giả trang cũng không giống được. Toàn Quan Thanh người cao quá giả làm y phải mất rất nhiều thì giờ, nếu như ở trong nhà Mã phu nhân một hồi lâu để thủng thẳng hỏi cho ra e rằng sẽ bị lộ chân tướng. Chi bằng để thiếp giả là Bạch trưởng lão. Ông ta có nói chuyện với thiếp mấy lần ở Tụ Hiền Trang, học làm ông ta dễ hơn cả.
Kiều Phong mỉm cười:
- Bạch trưởng lão đối với nàng thật tốt, hết lời cầu khẩn Tiết Thần Y trị thương. Nếu như cô lại giả làm ông ta để đi đánh lừa người khác có phải là sai quấy hay không?
A Châu cười nói:
- Thiếp giả Bạch trưởng lão để làm chuyện tốt chứ nào có làm chuyện xấu hại đến thanh danh của ông ta, như thế có sao đâu?
A Châu liền ở trong khách điếm hóa trang ngay. Kiều Phong được A Châu cải trang thành một tên đệ tử Cái Bang năm túi tùy tòng của Bạch Thế Kính, lại dặn ông ta nói càng ít càng tốt, phòng Mã phu nhân là người tinh tế nhìn ra chỗ sơ hở. Tiêu Phong thấy A Châu hóa trang thành Bạch trưởng lão rồi, mặt lạnh như băng, không giận dữ nhưng vẫn có uy, đúng là một vị Chấp Pháp trưởng lão mà mấy vạn đệ tử Cái Bang Nam Bắc ai ai cũng vừa sợ hãi vừa kính trọng, không chỉ hình dáng bên ngoài mà cả lời ăn tiếng nói, thần thái cử chỉ giống hệt Bạch Thế Kính khiến Tiêu Phong giao thiệp thân cận với ông ta cả chục năm mà cũng không nhìn ra chỗ nào không phải. Hai người đến Tín Dương rồi, trên đường mỗi khi gặp anh em trong Cái Bang đều dùng ám ngữ nói chuyện tra hỏi tình hình các nhân vật đầu não trong bang, sau đó thông tri là Bạch trưởng lão đã đến Tín Dương để Mã phu nhân biết tin để bà ta có sẵn ấn tượng trong lòng ngõ hầu A Châu cải trang có gì sai sẩy bà ta cũng không hay biết.
Nhà Mã Đại Nguyên ở ngoại ô phía tây, cách thành Tín Dương chừng ba mươi dặm. Tiêu Phong hỏi thăm đường đi từ các anh em Cái Bang tại địa phương rồi cùng A Châu đến nhà họ Mã. Hai người cố ý đi thong thả để diên trì thời khắc mãi xế chiều mới tới nơi vì e trời sáng mọi việc rõ ràng khiến cải trang dễ bị bại lộ, khi trời tối mọi thứ đều mờ mờ ảo ảo đễ dàng mập mờ đánh lận con đen.
Hai người đến trước nhà họ Mã, chỉ thấy một con rạch nhỏ lượn quanh ba gian nhà ngói, bên cạnh là hai cây thùy dương còn đằng trước là một mảnh đất trống, giống như sân phơi thóc của nhà nông nhưng bốn bên đều có hào sâu. Tiêu Phong biết rõ võ công gia số của Mã Đại Nguyên, biết rằng những hào sâu này là để y luyện công, nhưng nay hai bên âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi se lại. Ông đang toan tiến lên gọi cửa, đột nhiên nghe kẹt một tiếng cửa đã mở toang, một người đàn bà mặc áo sô trắng bước ra, chính là Mã phu nhân.
Mã phu nhân liếc Tiêu Phong một cái, khom lưng hành lễ với A Châu nói:
- Bạch trưởng lão quang lâm hàn xá, quả thực không sao ngờ nổi, xin mời vào dùng trà.
A Châu nói:
- Tại hạ có một việc quan trọng cần thương lượng với đệ muội nên chưa được mời đã đến quấy quả, xin được thứ tội.
Mã phu nhân toàn thân một màu sô gai trắng toát vẻ mặt như cười mà không phải cười, khóe miệng dường như có điều u uẩn. Khi đó mặt trời đã ngả về phía sau núi, phủ lên khuôn mặt nàng một màu vàng vọt. Tiêu Phong lần này gặp lại tâm thần không khích động như hai lần trước thấy nàng độ chừng ba mươi lăm ba mươi sáu, tuy khóe mắt đầu mày đã mờ mờ vết nhăn, mặt không nhồi phấn nhưng nước da trắng nõn không kém A Châu chút nào.
Hai người theo Mã phu nhân vào trong nhà, thấy sảnh đường xem chừng hơi nhỏ, giữa để một cái bàn, chung quanh là bốn chiếc ghế nên chẳng còn trống bao nhiêu. Một bà vú già đem trà lên, Mã phu nhân hỏi đến Tiêu Phong, A Châu thuận mồm bịa ra một cái tên. Mã phu nhân hỏi:
- Bạch trưởng lão đại giá quang lâm, không biết có điều chi dạy bảo?
A Châu đáp:
- Từ trưởng lão qua đời ở Vệ Huy, chắc đệ muội cũng đã nghe rồi.
Mã phu nhân đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt lộ vẻ khác lạ nói:
- Dĩ nhiên là tiện thiếp đã biết.
A Châu lại tiếp:
- Bọn ta ai cũng nghi là Kiều Phong hạ độc thủ, sau đó Đàm công, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn ba vị tiền bối cũng bị người ta giết bên ngoài thành Vệ Huy, rồi đến Thiết Diện Phán Quan Đơn gia ở Thái An, Sơn Đông bị cháy rụi. Mới đây không lâu, ta đi Giang Nam tra xét một tên đệ tử bảy túi trong bang vi phạm bang qui, trên đường nghe tin Trí Quang lão hòa thượng của chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai cũng đột ngột viên tịch.
Mã phu nhân run lẩy bẩy, mặt biến sắc nói:
- Chuyện ... chuyện đó cũng do Kiều Phong làm hay sao?
A Châu nói:
- Ta đích thân lên chùa Chỉ Quán tìm hiểu tuy không có kết quả gì, nhưng mười phần thì đến tám chín là do Kiều Phong làm, xem ra bước kế tiếp y sẽ đến gây chuyện với đệ muội nên vội vàng đến đây, khuyên đệ muội lánh đi nơi khác một năm sáu tháng để khỏi bị gã họ Kiều làm hại.
Mã phu nhân rưng rưng nước mắt, buồn bã nói:
- Từ khi Mã đại gia bất hạnh bị nạn tới nay, tiện thiếp sống nơi trần thế cũng là kiếp sống thừa, họ Kiều kia muốn hại thì thực cầu còn chưa được, việc gì phải đi đâu tị họa làm chi?
A Châu nói:
- Sao đệ muội lại nói thế? Đại cừu của Mã huynh đệ chưa rửa được, hung thủ còn chưa bắt được thì đệ muội còn phải gánh vác trọng trách trên vai. À, linh vị của Mã huynh đệ ở đâu để ta đến vái lạy một cái.
Mã phu nhân đáp:
- Không dám.
Thế nhưng nàng vẫn dẫn hai người đi vào hậu đường. A Châu lạy trước, Tiêu Phong cũng cung kính đứng trước linh vị khấu đầu, trong bụng khấn thầm: “Mã đại ca chết đi có linh thiêng thì hôm nay cảm ứng vào phu nhân nói ra tính danh chân hung thủ, để ta thay thế đại ca báo thù rửa oan”.
Mã phu nhân quì ờ bên cạnh linh vị hoàn lễ, nước mắt ròng ròng trên má. Tiêu Phong lạy xong rồi, đứng lên thấy trong linh đường có treo mấy bức đối trướng, trong đó có cả của Từ trưởng lão, Bạch trưởng lão nhưng đôi câu đối của mình gửi tới không thấy đâu. Những vuông vải trắng trong linh đường đã tích bụi bặm lại càng làm tăng thêm vẻ thê lương, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mã phu nhân không con không cái, suốt ngày chỉ có một mụ vú già làm bạn, ngày tháng cô khổ tịch mịch thật không biết nói sao cho hết”.
Lại nghe A Châu buông lời khuyên nhủ nào là “Đệ muội bảo trọng thân thể, mối thù của Mã huynh đệ là oán thù của chung mọi người. Nếu như nàng có điều gì khó khăn, cứ nói thẳng cho ta nghe, ta sẽ sẵn lòng lo liệu tất cả” nghe thật ra vẻ đàn anh kẻ cả. Tiêu Phong trong bụng khen thầm: “Cô ả này thật là đâu ra đấy, bang chủ Cái Bang đã bị trục xuất, phó bang chủ đã qua đời, Từ trưởng lão bị người ta sát hại, Truyền Công trưởng lão bị ta giết rồi, bây giờ Bạch trưởng lão là người địa vị tối cao. Cô nàng nói rặt giọng điệu bang chủ quả thật xứng với thân phận vai trò”.
Mã phu nhân cảm ơn nhưng giọng lưỡi cực kỳ lạnh nhạt. Tiêu Phong hơi lo, thấy nàng ta không còn tha thiết, thần tình như kẻ mất hồn, chắc là từ khi trượng phu qua đời sống không còn lạc thú chi nữa, e rằng sẽ tự tận tuẫn phu, người đàn bà này tính khí cương cường chuyện gì cũng có thể làm được.
Mã phu nhân đưa hai người trở lại phòng khách, chẳng bao lâu bà vú đã dọn cơm ra, trên bàn có bốn món đồ chay gồm cải xanh, cải củ, đậu phụ, dưa leo và ba bát cơm khói bốc nghi ngút nhưng không có rượu. A Châu liếc nhìn Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay không có rượu cho chàng uống”. Tiêu Phong thản nhiên như không, bưng bát cơm lên ăn.
Mã phu nhân nói:
- Từ khi tiên phu qua đời, kẻ vị vong này ăn toàn đồ chay, chỗ hẻo lánh không có rượu thịt, khoản đãi hai vị đạm bạc quá.
A Châu thở dài:
- Mã huynh đệ chết rồi không thể sống lại được, đệ muội cũng đừng quá làm khổ mình như thế.
Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đối với người chồng quá cố quả thật có tình có nghĩa, trong lòng nổi lên một nỗi niềm kính trọng. Ăn cơm tối xong, Mã phu nhân nói:
- Bạch trưởng lão từ xa đến, tiểu nữ đáng lý phải giữ khách lại, có điều phận đàn bà góa không tiện chút nào, không biết trưởng lão muốn dặn dò điều gì?
Trong lời ăn tiếng nói có chiều muốn đuổi khách đi. A Châu nói:
- Ta chuyến này đi Tín Dương cốt là để khuyên phu nhân rời nhà đi tránh họa chỗ khác, không biết đệ muội có điều gì phải tính toán hay không?
Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:
- Gã Kiều Phong kia giết Mã đại gia, y có đến đây làm hại tiện thiếp thì cũng là đi theo chồng xuống suối vàng. Tiểu nữ tuy chân yếu tay mềm, chẳng dấu Bạch trưởng lão làm chi, chết thiếp đã không sợ thì còn sợ cái gì nữa.
A Châu nói:
- Nếu đã nói thế, đệ muội không bằng lòng rời nhà đi tị nạn nơi khác hay sao?
Mã phu nhân đáp:
- Đa tạ hậu ý của Bạch trưởng lão. Tiểu nữ thật không đành rời nơi cố cư của Mã đại gia.
A Châu nói:
- Ta vốn dĩ muốn ở gần đây ít ngày để bảo hộ cho đệ muội. Vẫn biết là Bạch mỗ không phải là địch thủ của Kiều Phong nhưng trong lúc gấp gáp cũng đỡ được một tay. Ngờ đâu trên đường đi ta lại nghe được một tin tức cơ mật thật là trọng đại.
Mã phu nhân đáp:
- Ồ, thế thì việc phải lớn lao lắm.
Đàn bà vốn dĩ hiếu kỳ, nghe nói đến một việc cơ mật trọng đại, dù cho việc chẳng liên quan gì đến mình, miệng không hỏi nhưng vẻ mặt vẫn có ý thích nghe. Ngờ đâu Mã phu nhân vẫn thản nhiên như không, tưởng chừng có nói ra cũng thế mà không nói thì cũng chẳng hề chi, chồng đã chết rồi thì trên đời này không còn điều gì khiến nàng động tâm được nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người đời vẫn bảo rằng đàn bà góa gan ruột héo hon, lạnh như tro bếp, nếu nói về Mã phu nhân thì thật là thích đáng”.
A Châu quay sang vẫy tay cho Tiêu Phong nói:
- Ngươi ra ngoài chờ, ta có mấy lời cơ mật nói với Mã phu nhân.
Tiêu Phong gật đầu, đi ra ngoài nhà, thầm khen A Châu thông minh, biết là nếu muốn người khác thổ lộ chuyện cơ mật cho mình thì phải nói chuyện bí mật của mình trước. Thành thử A Châu giả vờ nói chuyện cơ mật chính là làm cho Mã phu nhân tin tưởng, ngay cả kẻ tâm phúc của mình cũng không được nghe hẳn là chuyện này phải thật kín đáo.
Ông đi ra ngoài cửa, bên ngoài trời tối vắng lặng không một tiếng động, chỉ văng vẳng tiếng loảng xoảng từ dưới bếp vọng lên, chính là bà vú đang rửa bát, bèn đi vòng qua góc tường, nép vào ngoài cửa sổ phòng khách, nín thở lắng tai nghe. Dù cho Mã phu nhân không nói tên tuổi của người đó chỉ cần thổ lộ một chút đầu mối thì ông cũng có thể lần ra còn hơn hiện nay mù mờ không biết đâu mà mò. Huống chi vị Bạch trưởng lão này từ nghìn dặm xa xôi đến đây cảnh cáo đã là làm ơn cho bà ta rồi, khi sắp ra đi lại cho biết một chuyện đại sự cơ mật, một thủ lãnh của bản bang không lẽ Mã phu nhân lại dám dấu diếm hay sao?
Một lúc lâu sau mới nghe thấy Mã phu nhân thở dàn một tiếng, u uẩn nói:
- Ông ... ông còn đến làm gì nữa đây?
Tiêu Phong sợ việc vỡ lở làm hỏng đại sự thành thử không dám thò đầu ra nhìn xem trong phòng khách tình hình thế nào, trong bụng hơi lạ lùng: “Câu hỏi này của bà ta có dụng ý gì?’. Chỉ nghe A Châu nói:
- Ta quả có nghe tin đó, Kiều Phong có bụng muốn hại phu nhân nên tới báo tin.
Mã phu nhân nói:
- Hừ, đa tạ hảo ý của Bạch trưởng lão.
A Châu hạ giọng nói:
- Đệ muội, từ khi Mã huynh đệ bất hạnh qua đời, có mấy trưởng lão trong bang nhớ đến công lao của y nên muốn mời phu nhân xuất sơn, đảm nhiệm vai trò trưởng lão.
Tiêu Phong nghe nàng nói cực kỳ trịnh trọng không khỏi tức cười, nhưng trong bụng cũng phải khen thầm nàng tính kế thật cao, Mã phu nhân nếu bằng lòng, Bạch trưởng lão lập tức sẽ thành cấp trên của bà ta, có điều muốn hỏi thì không thể nào cự tuyệt được. Ví thử không bằng lòng làm trưởng lão trong bang nhưng thấy Cái Bang coi trọng mình như thế, Mã phu nhân ắt thể nào cũng hả lòng hả dạ.
Chỉ nghe Mã phu nhân đáp:
- Tiện thiếp có tài cán đức độ gì mà có thể đảm nhiệm chức trưởng lão trong Cái Bang? Đến đệ tử Cái Bang thiếp còn chưa đáng, huống chi địa vị trưởng lão cực cao, thật cách xa hàng muôn ngàn dặm.
A Châu đáp:
- Ta và bọn Ngô trưởng lão hết lòng tiến cử, ai nấy đều bảo rằng nếu có Mã phu nhân cùng đứng ra lo liệu thì việc bắt giữ hạ sát Kiều Phong thật dễ hơn nhiều. Ta lại còn có một tin tức thật trọng đại liên quan đến việc Mã huynh đệ bị giết.
Mã phu nhân hỏi lại:
- Thật vậy ư?
Giọng nói bà ta xem ra có vẻ thờ ơ. A Châu nói:
- Hôm đó nơi thành Vệ Huy điếu tang Từ trưởng lão, ta gặp Triệu Tiền Tôn, y có tiết lộ cho ta hay, nói y biết ai là chân hung thủ sát hại Mã huynh đệ.
Đột nhiên nghe choang một tiếng, một chiếc chén trà rơi xuống vỡ tan. Mã phu nhân hoảng hốt kêu lên một tiếng rồi lắp bắp nói:
- Ông ... ông đùa rỡn cái gì thế?
Thanh âm nghe cực kỳ phẫn nộ, nhưng cũng có mấy phần kinh hoàng. A Châu đáp:
- Chuyện đó là chuyện đàng hoàng, ta làm sao đám nói đùa? Gã Triệu Tiền Tôn kia chính miệng nói cho ta nghe, y biết rõ hung thủ giết Mã Đại Nguyên huynh đệ. Y bảo nhất định không phải Kiều Phong, cũng chẳng phải Cô Tô Mộ Dung, y biết chắc chắn người đó là ai rồi.
Mã phu nhân run run hỏi:
- Làm sao y biết được? Làm sao y biết được? Ông chỉ nói nhăng nói cuội, có khác gì ban ngày ban mặt thấy ma?
A Châu đáp:
- Đúng vậy mà, phu nhân khỏi phải nóng ruột ta sẽ từ từ cho bà hay. Gã Triệu Tiền Tôn kia nói: “Năm ngoái vào tháng tám ...”.
Nàng ta nói chưa hết câu, Mã phu nhân đã kêu lên một tiếng ngất xỉu ngay tại chỗ. A Châu vội gọi:
- Đệ muội, đệ muội!
Nàng lấy tay day day nơi nhân trung ở môi trên, Mã phu nhân từ từ tỉnh lại, u oán nói:
- Sao ông ... sao ông lại dọa tôi?
A Châu đáp:
- Ta nào có dọa đệ muội làm gì. Gã Triệu Tiền Tôn kia quả có nói với ta, tiếc thay y chết mất rồi, nếu không ta đã gọi y tới đây đối chất. Y nói năm ngoái ngày Trung Thu giữa tháng tám, Đàm công, Đàm bà cùng hung thủ làm hại Mã huynh đệ, cùng ở nhà "đàn anh đứng đầu" ...
Mã phu nhân hừ một tiếng, hỏi lại:
- Y quả thực nói vậy ư?
A Châu đáp:
- Đúng thế. Ta lại hỏi hung thủ đó là kẻ nào, y bảo là tên người đó không tiện nói ra. Ta đi hỏi Đàm công thì y cũng hầm hầm nhìn ta không nói gì cả. Đàm bà bảo: “Quả đúng như thế, chính bà ta nói với Triệu Tiền Tôn”. Ta cũng không trách Đàm công đã nổi cáu, chắc là giận vợ mình chuyện gì cũng nói cho Triệu Tiền Tôn nghe. Thế nhưng Triệu Tiền Tôn lại không chịu nói tên kẻ hung thủ cũng chỉ vì sợ liên lụy đến người tình cũ là Đàm bà.
Mã phu nhân hỏi:
- Hừm, thế thì đã sao?
A Châu nói:
- Triệu Tiền Tôn bảo là, tất cả ai ai cũng nghi Kiều Phong và Mộ Dung Phục giết chết Mã huynh đệ, còn hung thủ đích thực thì lại nhởn nhơ ngoài vòng, tiêu dao tự tại, Mã huynh đệ ở dưới suối vàng biết được ắt sẽ muôn đời không giải được nỗi oan.
Mã phu nhân nói:
- Đúng vậy, tiếc thay gã Triệu Tiền Tôn kia lại chết rồi, thế Đàm công, Đàm bà đã nói cho trưởng lão hay chưa?
A Châu đáp:
- Chưa nói mới chết chứ! Đến nước này chỉ còn cách đi hỏi "đàn anh đứng đầu" thôi.
Mã phu nhân đáp:
- Phải lắm, thế trưởng lão đi hỏi cho ra.
A Châu nói:
- Nói ra thì cũng thật tức cười, "đàn anh đứng đầu" kia là ai, nhà ở đâu, ta nào có biết.
Mã phu nhân nói:
- Ồ, hóa ra ông nói gần nói xa, vòng vo tam quốc chẳng qua chỉ để hỏi tên người "đàn anh đứng đầu".
A Châu đáp:
- Nếu bất tiện đệ muội cũng không cần phải cho ta hay làm gì, tự mình tìm cách hỏi cho minh bạch rồi cả bọn sẽ đi tìm chân hung thủ thanh toán món nợ này.
Tiêu Phong biết A Châu cố làm ra vẻ bất cần để Mã phu nhân khỏi nghi nhưng trong bụng thật là sốt ruột. Chỉ nghe Mã phu nhân lãnh đạm nói:
- Tên của "đàn anh đứng đầu" dấu ai thì dấu để Kiều Phong khỏi đi kiếm ông ta báo thù giết cha giết mẹ, còn như Bạch trưởng lão là người phe ta, tiện thiếp dấu làm gì? Người đó chính là ...
Nói đến câu “Người đó chính là ...” bà ta hạ giọng không nói tiếp nữa. Tiêu Phong hết sức lắng tai dường như chính tiếng tim mình đập cũng còn nghe, nhưng vẫn không thấy Mã phu nhân nói tên của "đàn anh đứng đầu" là ai, một lát sau mới nghe bà ta thở dài:
- Trăng trên trời tròn là dường ấy, sáng là dường ấy.
Tiêu Phong biết rõ trên không lúc này mây đen che phủ, làm gì có trăng nhưng cũng ngửng đầu nhìn lên, nghĩ thầm: “Hôm nay mới mồng hai, dẫu có trăng thì cũng đâu có tròn, bà ta nói thế là ý nghĩa gì?”. Lại nghe A Châu nói:
- Đến ngày rằm thì trăng thể nào chẳng tròn, chẳng sáng vằng vặc, ôi, tiếc thay Mã huynh đệ chẳng bao giờ còn được thấy trăng tròn nữa.
Mã phu nhân hỏi thêm:
- Bánh trung thu ông thích ăn bánh mặn hay bánh ngọt?
Tiêu Phong lại càng kỳ lạ, nghĩ thầm: “Mã phu nhân từ khi chồng chết tâm thần dường như bất thường”. A Châu đáp:
- Bọn chúng ta là dân ăn mày lẽ đâu lại còn đòi bánh mặn bánh ngọt? Cốt sao tìm ra chân hung thủ để báo thù cho Mã huynh đệ, nói gì bánh trung thu mà dẫu có sơn trân hải vị, ăn vào cũng có còn mùi mẽ gì nữa.
Mã phu nhân lặng yên không nói, một lúc lâu sau mới lạnh lùng đáp:
- Bạch trưởng lão hết lòng hết sức cốt sao tìm cho ra hung thủ để báo thù rửa hận cho người anh em Đại Nguyên, khiến cho tiểu nữ cực kỳ cảm kích.
A Châu đáp:
- Đó là bổn phận của chúng ta. Mấy vạn bang chúng Cái Bang có người nào không nghĩ đến mối thù này?
Mã phu nhân nói:
- Vị "đàn anh đứng đầu" kia địa vị cao sang, thanh thế cực lớn, mở miệng ra là có thể điều động vài vạn người. Ông ta lại hay bênh vực bạn bè, ông đến hỏi hung thủ là ai, chắc không chịu nói ra đâu.
Tiêu Phong mừng rỡ nghĩ thầm: “Nói gì thì nói, chuyến này mình cũng không đến nỗi công toi. Mã phu nhân dù không nói tên tuổi y ra, chỉ dựa vào một câu “địa vị cao sang, thanh thế cực lớn, mở miệng ra là có thể điều động vài vạn người”, ta cũng có thể đoán ra được là ai rồi. Trong võ lâm liệu có mấy ai được như thế?”.
Ông còn đang cố nặn óc xem người đó là ai đã nghe A Châu nói tiếp:
- Trong võ lâm, chỉ một lời có thể điều động được hàng vạn người, trước đây thì chỉ có bang chủ Cái Bang. Ồ, đệ tử Thiếu Lâm cũng khắp thiên hạ, một lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng điều động được hàng vạn người ...
Mã phu nhân ngắt lời:
- Thôi ông chớ có suy đoán sằng, để tôi cho thêm một đầu mối, người đó phải đi về phía tây nam mới kiếm thấy.
A Châu trầm ngâm nói:
- Phía tây nam ư? Phía tây nam làm gì có người nào được thế? Xem ra không có ai cả.
Mã phu nhân thò ngón tay, nghe soẹt một tiếng đã đâm thủng giấy dán trên cửa sổ, ngay sát trên đầu Tiêu Phong, lại nghe bà ta nói tiếp:
- Tiểu nữ không biết võ công nhưng Bạch trưởng lão chắc đã biết rồi, trong thiên hạ ai là người công phu này giỏi hơn cả?
A Châu đáp:
- Hừm, điểm huyệt công phu ư? Phái Thiếu Lâm có Kim Cương Chỉ, họ Trịnh ở Thương Châu tỉnh Hà Bắc có Đoạt Phách Chỉ là những ngón lợi hại hơn cả.
Tiêu Phong dường như muốn kêu lên: “Sai rồi, không phải! Công phu điểm huyệt trong thiên hạ thì họ Đoàn Đại Lý là số một, huống chi bà ta đã bảo ở phía tây nam cơ mà”. Quả nhiên nghe Mã phu nhân nói:
- Bạch trưởng lão kiến thức quảng bác, sao chuyện có thế mà không nghĩ ra? Hay là vì đường xa mỏi mệt, đầu óc mụ đi mất rồi đến nỗi môn Nhất Dương Chỉ lừng lẫy như thế mà không nhớ đến?
Trong ngôn ngữ xem ra có phần mỉa mai. A Châu đáp:
- Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn thì ta phải biết chứ, có điều họ ở Đại Lý xưng hoàng xưng đế, đã lâu nay không lai vãng với võ lâm Trung Thổ. Nếu bảo vị "đàn anh đứng đầu" kia có liên hệ với họ Đoàn xem chừng tin tức có gì sai sót.
Mã phu nhân nói:
- Họ Đoàn tuy ở ngôi chúa tể nước Đại Lý nhưng Đoàn gia đâu phải chỉ có một người, kẻ không làm vua vẫn thường lai vãng Trung Nguyên. Vị "đàn anh đứng đầu" chính là em ruột của đương kim hoàng đế, họ Đoàn tên Chính Thuần, được phong tước Trấn Nam Vương đó.
Tiêu Phong nghe Mã phu nhân nói đến ba chữ “Đoàn Chính Thuần” lập tức toàn thân chấn động, mấy tháng nay muôn dặm ruổi rong, hết lòng hết dạ tìm kiếm bây giờ mới biết được cái tên này. Lại nghe A Châu nói tiếp:
- Vị Đoàn vương gia kia quyền vị cao sang, sao lại tham dự vào chuyện ân oán giang hồ làm gì?
Mã phu nhân đáp:
- Chuyện ân oán giang hồ tầm thường thì không nói gì, Đoàn vương gia dĩ nhiên không dính dáng gì đến, nhưng nếu có liên quan đến chuyện sống chết mất còn, quốc vận thịnh suy của nước Đại Lý, ông nghĩ xem họ có tham gia hay không?
A Châu đáp:
- Thì đương nhiên là họ phải nhúng tay vào.
Mã phu nhân nói:
- Thiếp nghe Từ trưởng lão nói rằng: “Đại Tống là bức tường che cho Đại Lý ở phía bắc, Khất Đan một khi diệt xong Đại Tống rồi, thể nào cũng tính tới việc thôn tính Đại Lý. Thành thử Đại Lý và Đại Tống hai bên như răng với môi, Đại Lý không thể nào để cho Đại Tống mất về tay nước Liêu”.
A Châu đáp:
- Quả đúng như thế không sai chút nào.
Mã phu nhân nói:
- Từ trưởng lão nói rằng, năm xưa vị vương gia đó đang làm khách ở tổng đà Cái Bang, uống rượu luận kiếm với Uông bang chủ, bỗng nghe tin võ sĩ Khất Đan đang dốc tới đoạt kinh của chùa Thiếu Lâm, Đoàn vương gia nghĩa bất dung từ liền thống lãnh mọi người ra ngoài Nhạn Môn Quan chặn chúng lại, việc tuy nói là vì Đại Tống nhưng thực ra cũng vì Đại Lý.
Nghe nói vị vương gia này khi đó tuổi còn trẻ lắm nhưng võ công cao cường, đối với ai cũng cực kỳ nhân nghĩa. Ông ta ở Đại Lý chỉ dưới một người, ở trên muôn người, coi tiền bạc như rơm rác, chẳng đợi bằng hữu ngỏ lời, vài nghìn vài trăm lượng liền đưa ngay. Trưởng lão thử nghĩ xem người như thế không đứng đầu quần hùng Trung Nguyên thì còn ai? Một mai khi ông ta lên ngôi hoàng đế Đại Lý, thân phận cao quí dường ấy, người khác chỉ toàn xuất thân thảo mãng làm sao ra lệnh cho ông ta được?
A Châu nói:
- Thì ra "đàn anh đứng đầu" lại là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, hóa ra bao nhiêu người chết chỉ để bảo vệ cho ông ta.
Mã phu nhân đáp:
- Bạch trưởng lão, chuyện cơ mật đó ông chớ có nói với ai, Đoàn vương gia và bản bang giao tình chẳng phải tầm thường, nếu như tiết lộ phong thanh thì họa không sao lường được. Tuy họ Đoàn Đại Lý uy chấn một cõi, cực kỳ lợi hại nhưng gã Kiều Phong kia quyết tâm báo thù, ẩn nhẫn chờ tám năm mười năm, Đoàn Chính Thuần cũng không dễ đối phó được đâu.
A Châu đáp:
- Đệ muội nói phải lắm, ta quyết giữ kín như bưng, không tiết lộ với ai.
Mã phu nhân nói:
- Bạch trưởng lão, tốt hơn hết ông lập một lời thề để tiện thiếp được yên tâm.
A Châu nói:
- Được, việc Đoàn công tử là "đàn anh đứng đầu" nếu như Bạch Thế Kính nói ra cho ai nghe thì sẽ phải chịu thảm họa muôn vạn nhát dao, thân bại danh liệt, mọi người cười chê.
Lời thề của nàng nghe ra thật nặng nhưng lại nói trớ ra, mở miệng toàn là đổ lên đầu Bạch Thế Kính, nếu có gì thì muôn vạn nhát dao cũng là Bạch Thế Kính, thân bại danh liệt cũng là Bạch Thế Kính, còn nàng có liên quan gì đâu. Mã phu nhân nghe thề độc như thất rất lấy làm hởi lòng hởi dạ nói:
- Thế thì được lắm.
A Châu nói:
- Vậy thì ta phải đi Đại Lý bái kiến Trấn Nam Vương, dò hỏi nghe ngóng xem Tết Trung Thu năm ngoái, ở phủ của ông ta có những khách nào là sẽ tra xét ra hung thủ giết hại Mã huynh đệ. Thế nhưng lúc này thì ta vẫn cho là Kiều Phong. Triệu Tiền Tôn, Đàm công, Đàm bà ba người dở dở ương ương nói ra chắc gì đã tin được.
Mã phu nhân đáp:
- Việc tra xét cho ra hung thủ hoàn toàn trông cậy vào Bạch trưởng lão.
A Châu đáp:
- Mã huynh đệ với ta có khác gì anh em ruột, ta thể nào cũng hết lòng hết dạ.
Mã phu nhân buồn bã nói:
- Bạch trưởng lão tình nghĩa thâm trọng như thế, vong phu ở dưới suối vàng nếu biết được hẳn là cũng cảm kích tấm lòng.
A Châu đáp:
- Đệ muội cố gắng giữ gìn, tại hạ xin cáo từ.
Nói xong bèn chia tay đi ra, Mã phu nhân nói:
- Tiểu nữ phận đàn bà đang cư tang, đêm khuya không tiện tiễn xa, xin Bạch trưởng lão thứ tội.
A Châu ra đến ngoài cửa đã thấy Tiêu Phong đợi ở xa xa, hai người nhìn nhau không nói một lời thẳng đường mà đi. Vầng trăng non chiếu xiên xiên lên con đường cũ trở về Tín Dương. Hai người sóng vai nhau, đi đến hơn bốn chục dặm Tiêu Phong mới thở ra một hơi nói:
- A Châu, đa tạ nàng.
A Châu nở một nụ cười, không nói. Tuy mặt nàng bây giờ đang hóa trang thành Bạch Thế Kính nên đầy vết nhăn nhưng từ trong khóe mắt, Tiêu Phong vẫn nhận ra nàng có vẻ lo âu liền hỏi:
- Hôm nay việc lớn đã thành, sao nàng vẫn còn không vui?
A Châu đáp:
- Thiếp nghĩ đến họ Đoàn người nhiều thế mạnh, đại ca một thân một mình đến tầm cừu quả thực muôn phần hung hiểm.
Tiêu Phong đáp:
- Ồ, thì ra nàng lo lắng cho ta. Nàng cứ yên tâm, ta ở trong tối, y ở ngoài sáng, ba năm năm năm báo thù chưa được thì như Mã phu nhân nói đó, tám năm mười năm cũng phải xong. Thể nào cũng có ngày ta chặt Đoàn Chính Thuần ra thành mười bảy mười tám miếng vứt cho chó gặm.
Ông nói đến đây không khỏi nghiến răng, trên mặt lộ ra đầy vẻ oán hờn. A Châu nói:
- Đại ca phải hết sức cẩn thận mới được.
Tiêu Phong đáp:
- Cái đó dĩ nhiên rồi. Ta có mất mạng thì cũng là chuyện nhỏ nhưng mối huyết thù của cha mẹ không trả được, có chết cũng không nhắm mắt.
Ông chậm rãi đưa tay ra nắm lấy tay nàng nói:
- Nếu ta chết về tay Đoàn công tử thì ai đưa nàng ra ngoài Nhạn Môn Quan chăn cừu thả bò đây?
A Châu đáp:
- Ôi, sao thiếp vẫn sợ lắm, dường như trong chuyện này có điều gì không ổn. Con mụ Mã phu nhân kia ... mụ ta ... ra vẻ băng thanh ngọc khiết nhưng sao thiếp gặp thấy tự nhiên vừa kinh sợ, vừa chán ghét.
Tiêu Phong cười nói:
- Người đàn bà đó rất là tinh minh tài giỏi, nàng sợ bà ta nhìn ra chân tướng cải trang nên trong lòng khiếp sợ đấy thôi.
Hai người về đến khách điếm trong thành Tín Dương, Tiêu Phong lập tức gọi mười cân rượu, uống một phen cho thỏa dạ, trong bụng tính toán làm cách nào để báo thù, nghĩ đến họ Đoàn Đại Lý, tự nhiên nhớ lại người em mới kết nghĩa kim lan Đoàn Dự không khỏi chột dạ, cầm chén rượu mà ngơ ngẩn xuất thần, vẻ mặt liền biến đổi.
A Châu lại tưởng ông phát giác ra chuyện gì, nhìn quanh bốn phía không thấy gì lạ, hạ giọng hỏi nhỏ:
- Đại ca, có chuyện gì thế?
Tiêu Phong giật mình nói:
- Không ... không có gì cả.
Ông nâng chén lên uống một hơi cạn sạch nhưng rượu vừa đến cổ họng bỗng dưng sặc một cái ho sù sụ, bao nhiêu rượu phun ra ướt cả bâu áo. Tửu lượng của ông hiếm ai sánh kịp, nội công lại thâm hậu nay sặc rượu phải ọc ra là điều chưa từng có. A Châu kinh hãi thầm nhưng không tiện hỏi.
Nàng có biết đâu Tiêu Phong đang uống rượu bỗng chợt nhớ đến hôm trước nơi thành Vô Tích cùng Đoàn Dự uống thi, đối phương sử dụng khí công thượng thừa Lục Mạch Thần Kiếm, đem bao nhiêu rượu chảy dồn ra đầu ngón tay hết cả. Thần công nội lực như thế, Tiêu Phong biết mình không thể bì kịp. Đoàn Dự rõ ràng không biết võ công, nội công đã ghê gớm đến thế rồi, kẻ đại đối đầu kia là nhân vật thủ não của họ Đoàn Đại Lý, nếu so với Đoàn Dự chắc hẳn phải ghê gớm gấp mười, mối thù cha mẹ kia làm sao trả được?
Ông có biết đâu Đoàn Dự gặp may mà được thần công, có cái duyên ngẫu nhiên hút nội lực người khác, chỉ riêng nội lực thì chàng ta đã hơn cha không biết bao nhiêu lần, còn công phu Lục Mạch Thần Kiếm, trên đời ngoài Đoàn Dự ra không một người thứ hai nào có thể sử dụng được tất cả. A Châu và Tiêu Phong đều quen biết Đoàn Dự rất thân nhưng họ Đoàn là quốc tính nước Đại Lý, chẳng khác gì họ Triệu bên Đại Tống, họ Lý bên Tây Hạ, họ Gia Luật bên nước Liêu, trong nước có đến hàng nghìn hàng vạn, Đoàn Dự trước nay chưa đề cập mình là vương tử nước Đại Lý, A Châu và Tiêu Phong có ngờ đâu anh chàng lại là con vua cháu chúa.
A Châu tuy không rõ trong bụng Tiêu Phong nghĩ gì nhưng cũng đoán được chắc hẳn ông ta vì việc trả thù mà lo nghĩ liền nói:
- Đại ca, việc báo thù nào phải chỉ một ngày một buổi. Chúng mình tính toán rồi hãy hành động, dẫu cho địch đông mà ta ít, không thắng được bằng sức không lẽ không biết dùng trí hay sao?
Tiêu Phong trong bụng thấy vui, nghĩ đến A Châu lanh lợi khôn ngoan, quả là một tay phù trợ rất đắc lực, lập tức rót ngay một chén khác uống một hơi cạn sạch rồi nói:
- Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Để báo mối thù này việc gì phải để ý tới qui củ đạo nghĩa giang hồ, thủ đoạn ác độc cách mấy cũng chẳng chừa. Đúng thế, không thắng được bằng sức thì chúng mình dùng trí.
A Châu lại tiếp:
- Đại ca, ngoại trừ mối thù thân sinh phụ mẫu, lại còn món nợ máu của cha nuôi mẹ nuôi đại ca là ông bà Kiều lão, món nợ máu của sư phụ đại ca là Huyền Khổ đại sư.
Tiêu Phong vỗ lên bàn một cái, lớn tiếng nói:
- Phải đó, oán thù trùng trùng, nào chỉ có một mối đâu?
A Châu nói:
- Khi đại ca học nghệ nơi Huyền Khổ đại sư, tuổi hẳn còn nhỏ nên học chưa hết những nội công tinh diệu của phái Thiếu Lâm, nếu không thì dù Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý có lợi hại thế nào chăng nữa cũng chưa chắc đã hơn được Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ. Thiếp từng nghe Mộ Dung lão gia bàn luận võ công thiên hạ, nói là võ công lợi hại nhất của họ Đoàn Đại Lý là Nhất Dương Chỉ và cái gì đó tên là Lục Mạch Thần Kiếm.
Tiêu Phong nhíu mày đáp:
- Đúng vậy, Mộ Dung tiên sinh là một kỳ nhân trong võ lâm, đã nói gì ra hẳn phải rất có cơ sở. Ta vừa rồi lo âu, không phải vì Nhất Dương Chỉ mà là vì Lục Mạch Thần Kiếm.
A Châu nói:
- Hôm đó Mộ Dung lão gia và công tử bàn luận võ công thiên hạ, thiếp ở bên cạnh pha trà, nghe được mấy câu. Mộ Dung lão gia nói: “Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, môn nào cũng có chỗ tinh diệu, muốn khắc địch chế thắng thì một tuyệt kỹ cũng đủ đâu cần phải tới bảy mươi hai môn”.
Tiêu Phong gật đầu:
- Mộ Dung tiền bối luận thật đúng.
A Châu nói tiếp:
- Khi đó Mộ Dung công tử mới nói: “Đúng thế, mợ Vương và biểu muội cứ khoe khoang mình biết nhiều võ công thiên hạ, tuy có rộng thật nhưng không tinh thì có dùng được việc gì đâu?”. Mộ Dung lão gia nói: “Nói đến chữ tinh, đâu phải dễ dàng? Thực ra tuyệt học chân chính của phái Thiếu Lâm thì chỉ có một bộ Dịch Cân Kinh, luyện xong bộ kinh này thì dù võ công tầm thường cách mấy vào tới tay mình cũng biến được cái tồi tệ thành ra thần kỳ”.
Căn cơ vốn sẵn, nội lực lại hùng cường thì dù chiêu số tầm thường cũng có uy lực cực kỳ to lớn, điểm đó Tiêu Phong đã biết từ lâu nên hôm trước ở Tụ Hiền Trang một mình đấu với quần hùng, ông chỉ dùng một pho Thái Tổ trường quyền hội chiến với hảo hán thiên hạ khiến cho dù cao nhân hạng nhất cũng đều thúc thủ bái phục. Lúc này ông nghe A Châu nhắc lại lời Mộ Dung tiên sinh, không khỏi hứng chí uống luôn hai chén nữa nói:
- Quả là hiểu được bụng ta! Quả là hiểu được bụng ta! Tiếc thay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời rồi, nếu không thể nào Tiêu Phong cũng sẽ tới trang để gặp vị kỳ nhân trong thiên hạ này.
A Châu tủm tỉm cười:
- Mộ Dung lão gia khi còn tại thế trước sau không tiếp khách bên ngoài, nhưng đại ca phải là một biệt lệ.
Tiêu Phong ngẩng lên mỉm cười, ông biết câu “đại ca phải là một biệt lệ” có hàm ý là: “Chàng là người yêu của thiếp, Mộ Dung tiên sinh phải coi chàng khác người thường”. A Châu bắt gặp ánh mắt của Tiêu Phong, thẹn thùng cúi đầu, tuy bẽn lẽn nhưng trong lòng ngầm sung sướng.
Tiêu Phong lại uống thêm một chén nữa hỏi:
- Khi Mộ Dung lão gia qua đời, tuổi cũng chưa già lắm, phải không?
A Châu đáp:
- Khoảng chừng trên dưới năm mươi, chưa thể gọi là già.
Tiêu Phong nói:
- Ồ, ông ta nội công thâm hậu, tuổi năm mươi chính là thời kỳ võ công tuyệt đỉnh, không hiểu tại sao đột nhiên qua đời?
A Châu lắc đầu nói:
- Lão gia bị bệnh gì đó mà mất, chúng tôi không ai biết cả. Ông ta chết rất nhanh, buổi sáng sinh bệnh, đến chiều đã thấy công tử khóc rống lên, đi ra thông tri cho mọi người là lão gia dã từ trần.
Tiêu Phong nói:
- Ồ, không biết bị cấp chứng gì, thật tiếc, thật tiếc! Tiếc thay Tiết Thần Y không ở gần bên, nếu không bằng giá nào cũng phải mời ông ta đến cứu mạng cho Mộ Dung tiên sinh.
Ông ta và Mộ Dung công tử tuy chưa từng biết nhau, chỉ nghe người khác nói về ngôn ngữ cử chỉ của hai cha con, không khỏi thầm khâm phục, nay lại có thêm A Châu có uyên nguyên nên càng cảm thấy thân thiết.
A Châu lại tiếp:
- Hôm đó Mộ Dung lão gia bàn về Dịch Cân Kinh với công tử. Ông ta nói: “Bộ Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ ta chưa từng thấy, thế nhưng cứ như đạo lý võ học mà suy, phái Thiếu Lâm sở dĩ được nổi tiếng cũng chính từ pho Dịch Cân Kinh ấy mà ra. Bảy mươi hai tuyệt kỹ không dám nói là không lợi hại, thế nhưng bảo nhờ vào đó mà lãnh tụ quần luân, đứng đầu võ học thiên hạ thì quả là chưa xứng”. Lão gia lại răn dạy công tử là đừng ỷ vào võ học tổ truyền mà coi thường đệ tử Thiếu Lâm, trong chùa đã có quyển kinh ấy thì ắt có tăng nhân thiên tư dĩnh ngộ hiểu thông được.
Tiêu Phong gật đầu khen phải, nghĩ thầm: “Họ Cô Tô Mộ Dung danh mãn thiên hạ, vậy mà không cuồng vọng tự đại, quả là khó thay”. A Châu nói:
- Lão gia lại bảo rằng, bình sinh ông không võ học nào trong thiên hạ không ngó qua, chỉ chưa được biết Lục Mạch Thần Kiếm Phổ của họ Đoàn Đại Lý và Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm, quả là đáng tiếc lúc cuối cuộc đời. Đại ca, nếu như Mộ Dung lão gia đã đặt hai môn võ công này ngang nhau, cứ thế mà suy, muốn đối phó với Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn thì phải có Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm trong tay. Nếu như ta ăn trộm được Dịch Cân Kinh từ Bồ Đề Viện của chùa Thiếu Lâm sau đó bỏ ra vài năm luyện tập thì dẫu có Lục Mạch Thần Kiếm hay Thất Mạch Quỉ Đao gì ta cũng chẳng coi vào đâu.
Nàng nói đến đây, trên mặt hiện ra một nụ cười kỳ bí. Tiêu Phong nhảy dựng lên, cười nói:
- Tiểu quỉ đầu, hóa ra nàng ... nàng ...
A Châu cười nói:
- Đại ca, thiếp ăn trộm được bộ kinh đó đem ra, vốn định trao cho công tử, để cho công tử xem rồi sẽ đốt trước mồ lão gia để cho thỏa tâm nguyện người quá cố. Hiện nay đương nhiên là đưa cho đại ca rồi.
Nói xong từ trong bọc lấy ra một chiếc bao vải dầu, để vào tay Tiêu Phong. Tối hôm đó chính Tiêu Phong thấy nàng hóa trang thành nhà sư Chỉ Thanh, ăn trộm cuốn kinh từ trong tấm gương đồng của Bồ Đề Viện , đâu có ngờ đó chính là Thiếu Lâm bí cập Dịch Cân Kinh. A Châu bị quần hào bắt được ở Tụ Hiền Trang, mọi người nghĩ nàng là phận nữ nhi nên không tra xét trên người cô ta, thành thử các cao tăng chùa Thiếu Lâm như Huyền Tịch, Huyền Nạn dù có nằm mơ cũng không biết được là cuốn kinh bản tự bị mất đang ở trong tay nàng.
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Nàng chịu mạo hiểm, mười phần chết chín mới lấy được cuốn kinh này từ trong chùa Thiếu Lâm ra, bản ý để cho Mộ Dung công tử, ta làm sao lại chiếm lấy làm của mình được?
A Châu đáp:
- Đại ca nói thế là không phải rồi.
Tiêu Phong lạ lùng:
- Sao nàng lại bảo là ta không đúng?
A Châu đáp:
- Bộ kinh này là do tự ý thiếp đi ăn trộm về, nào có phải phụng mệnh công tử mà làm đâu. Thiếp thích cho ai thì cho người đó. Huống chi sau khi đại ca coi rồi, mình lại đưa cho công tử cũng chưa muộn kia mà. Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Để trả được mối thù này dù phải dùng thủ đoạn ác độc, hèn hạ xấu xa cách mấy cũng chẳng chừa, huống chi chỉ là mượn một bộ kinh coi, có gì đâu mà phải dùng dằng dúng dắng?
Mấy câu nói đó khiến Tiêu Phong cảm thấy như được cảnh tỉnh, quay sang nàng vái một vái thật sâu nói:
- Hiền muội trách cứ thật đúng, việc đại sự đâu có nề gì tiểu tiết.
A Châu dẩu môi cười:
- Đại ca vốn dĩ là đệ tử Thiếu Lâm, dùng võ công phái Thiếu Lâm để rửa thù cho ân sư Huyền Khổ chính là hợp tình hợp lý, có gì là không phải đâu nào?
Tiêu Phong luôn mồm khen phải, trong lòng hết sức cảm kích, lại thêm vui sướng, liền cầm chiếc bao giấy dầu mở ra xem, chỉ thấy một cuốn sách mỏng giấy đã vàng, ngoài bìa viết những chữ loằng ngoằng kỳ lạ. Ông kêu thầm: “Không xong rồi!”. Mở trang đầu ra xem, thấy trong đó viết đầy những chữ, nhưng những chữ đó xiên xiên xẹo xẹo, chữ thì hình tròn, chữ thì hình móc, đến nửa chữ cũng không đọc được.
A Châu kêu lên “Ôi chao!” một tiếng nói:
- Thì ra viết bằng chữ Phạn, thật không may. Thiếp vốn dĩ định thiêu bản văn này trước mồ lão gia nên không định tâm xem trước, thành ra lấy được kinh văn, tới nay chưa hề mở ra xem. Ôi, thảo nào mấy ông thầy chùa thấy võ công bí cập bị trộm mà cũng chẳng lấy gì làm tiếc, hóa ra chẳng ông nào đọc được kinh thư...
Nói xong nàng thở dài một tiếng, cực kỳ thất vọng. Tiêu Phong an ủi:
- Việc đời đắc thất, cũng chẳng nên quá để tâm.
Ông bỏ quyển Dịch Cân Kinh trở vào trong bao, gói kỹ lại trả cho A Châu. A Châu nói:
- Đại ca cứ giữ lấy thì đã sao? Không lẽ mình còn phân biệt của ta của người nữa hay sao?
Tiêu Phong mỉm cười, bỏ chiếc bao vào trong túi. Ông lại rót một bát rượu toan uống, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chân người, ai đó kêu rống lên. Tiêu Phong hơi cảm thấy kỳ quái, vội bước ra cửa, thấy trên đường có một đại hán người đầy những máu, hai tay cầm hai chiếc búa, chém trên chém dưới múa lung tung.
1 Đương niên lang tòng kiều thượng quá, Muội tại kiều bạn tẩy y sam ...
2 Đúng nghĩa là gập đầu gối, nay có nhiều người hiểu sai là có điều cần dấu diếm
3 một tông phái Phật giáo Trung Quốc dựa trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa và phép tu thiền Chỉ Quán bao gồm chú tâm coi mọi pháp đều là không nhưng mọi pháp đều có một dạng tồn tại tạm thời, giả tướng và có chức năng nhất định.
4 Ơn huệ để lại (dùng trong văn chương)
5 Vạn vật nhất bàn, Chúng sinh bình đẳng. Thánh hiền súc sinh, Nhất thị đồng nhân. Hán nhân Khất Đan, Diệc huyễn diệc chân. Ân oán vinh nhục, Câu tại khôi trần.
6 Vì việc nghĩa không thể ngồi yên
7 Nếu việc xảy ra ba mươi năm trước, theo chính sử thì Bảo Định Đế lúc đó chưa lên ngôi mà thời kỳ đó là đời vua Hiếu Đức Đoàn Tư Liêm (Bảo Định Đế làm vua 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho Trung Tông
Đại hán đó râu ria xồm xoàm, thần thái uy mãnh nhưng đôi mắt ngây dại hành động như điên cuồng, rõ ràng là một người mất trí. Tiêu Phong thấy đôi đại phủ trong tay y dường như đúc bằng thép ròng, cực kỳ nặng nề, khi múa ra, đóng mở công thủ đúng phép tắc, môn hộ tinh nghiêm xem ra có vẻ phong phạm một bậc danh gia.
Các nhân vật võ lâm Trung Nguyên Tiêu Phong quen biết rất nhiều nhưng không biết người này là ai, nghĩ thầm: “Phép đánh búa của gã này khá lắm, sao ta lại không hề nghe đến một người nào như thế này?”.
Đôi búa của người kia càng lúc càng nhanh, mồm thì không ngớt kêu la:
- Mau mau, mau đi bẩm báo chúa công, kẻ địch đã kiếm tới rồi.
Y đứng chặn ngay giữa đường, đôi bản phủ sáng choang tạt ngang chém dọc, người đi đường ai nấy tránh dạt ra chứ dại gì mà đến gần? Tiêu Phong thấy y ra vẻ hoảng hốt, hết đường búa nọ tới đường búa kia xem chừng đã hết hơi sức nhưng vẫn cố ráng chịu đựng, mồm thì kêu:
- Các anh em mau mau lui ra đừng lo gì cho ta, chạy đi bẩm báo chúa công mới là cần.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này trung nghĩa cố gắng bảo vệ cho chủ, quả là một hảo hán nhưng tinh lực tổn hao như thế hẳn là đã bị nội thương thật nặng”. Ông bèn đi tới trước mặt người kia nói:
- Lão huynh nghỉ một chút uống chén rượu được chăng?
Đại hán kia hầm hầm trợn mắt nhìn ông, đột nhiên kêu lớn:
- Tên đại ác, chớ có mong hại chủ nhân ta.
Y vung búa lên xông tới chém xuống đầu Tiêu Phong. Người chung quanh thấy tình hình hung hiểm ai nấy kinh hoảng kêu toáng cả lên. Tiêu Phong nghe thấy ba chữ "tên đại ác" cũng chột dạ: “Ta và A Châu đang đi tìm "tên đại ác" để báo thù, kẻ đối đầu hán tử này hóa ra cũng là "tên đại ác". Tuy miệng y gọi thế thực nhưng chắc gì đã là kẻ mình đang tìm, thôi thì cứ cứu y đã rồi tính sau. Ông nghĩ thế bèn lòn tới sát người y giơ tay điểm vào huyệt ở mạng sườn.
Ngờ đâu hán tử nọ thần trí tuy đã hôn mê nhưng võ công không mất, chiếc búa bên phải bèn xoay đầu lại, cán búa đâm luôn vào bụng dưới Tiêu Phong. Chiêu đó cực kỳ tinh xảo linh động, giá như Tiêu Phong võ công không phải cao cường gấp bội y thì thể nào cũng bị trúng đòn, lập tức tay trái vươn ra, chộp luôn cán búa để đoạt lấy. Đại hán kia vốn dĩ đã gân cốt mỏi nhừ nên làm sao có thể chịu nổi? Y toàn thân chấn động, lập tức ngã nhào vào người Tiêu Phong. Thế nhưng y không màng sống chết, muốn cả hai đồng qui ư tận.
Tay phải Tiêu Phong lại tung ra, ôm chặt lấy gã này, hơi dụng kình khiến y không sao cục cựa được. Những người rỗi hơi đứng ngoài coi thấy Tiêu Phong đã chế phục được tên điên đều reo hò ầm ỹ. Kiều Phong vừa ôm vừa kéo gã đại hán vào trong đại đường của khách điếm, ấn y ngồi xuống nói:
- Lão huynh uống vài chén rượu rồi tính sau.
Nói xong ông gọi tửu bảo đem rượu đến. Đại hán nọ chăm chăm nhìn ông một hồi lâu mới hỏi:
- Ngươi ... ngươi là người tốt hay là người xấu?
Kiều Phong ngạc nhiên không biết phải trả lời thế nào. A Châu cười nói:
- Ông ta dĩ nhiên là người tốt, ta cũng là người tốt. Chúng mình là bạn với nhau, cùng đi đánh "tên đại ác".
Đại hán kia giương mắt nhìn nàng một hồi, lại quay sang nhìn Tiêu Phong một hồi dường như tin tưởng, dường như không tin, một lúc sau mới nói:
- Tên ... tên đại ác ư?
A Châu nhắc lại:
- Chúng mình là bạn với nhau, cùng đi đánh "tên đại ác".
Người kia bỗng đứng bật dậy kêu ầm lên:
- Không! Không! "Tên đại ác" ghê gớm lắm, mau mau đi bẩm với chúa công, nói chúa công tìm đường tránh đi. Ta ra chặn "tên đại ác" lại, còn ngươi đi báo tin.
Y vừa nói vừa cầm đôi búa xông ra. Tiêu Phong giơ tay đè lên vai giữ y lại nói:
- Này lão huynh, "tên đại ác" đã đến đâu, chúa công của ngươi là ai? Ông ta ở nơi nào?
Đại hán kêu lên:
- "Tên đại ác" mau lại đây đấu với lão tử ba trăm hiệp xem cho biết, chớ có hại đến chúa công ta.
Tiêu Phong nhìn A Châu không biết phải làm thế nào, A Châu đột nhiên la to:
- Chết rồi hỏng mất, chúng mình mau đi báo tin cho chúa công. Chúa công đang ở đâu? Chúa công đi hướng nào, chớ để cho "tên đại ác" biết.
Người điên liền hùa theo:
- Phải, phải, ngươi mau mau đi báo tin. Chúa công đến Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ, ngươi ... ngươi mau đi Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ bẩm báo chúa công, đi đi, đi đi!
Y giục luôn mồm ra chiều gấp gáp lắm. Tiêu Phong và A Châu còn chưa biết tính sao, bỗng nghe tên tửu bảo nói:
- Đi Tiểu Kính Hồ ư? Đường không phải gần đâu.
Tiêu Phong thấy Tiểu Kính Hồ quả đúng là một địa danh vội hỏi:
- Ở chỗ nào? Cách đây bao xa?
Gã tửu bảo nói:
- Ví như hỏi người khác thì chưa chắc đã biết. May mà hỏi tiểu nhân, thật đúng ngay chóc. Tiểu nhân chính ở ngay bên cạnh Tiểu Kính Hồ. Trên đời này thật khó mà có gì khéo hơn, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh.
Tiêu Phong nghe y nói lung tung chẳng vào chính đề liền giơ tay vỗ bàn một cái, quát:
- Nói mau! Nói mau!
Gã tửu bảo vốn định vòi vài đồng mới nói, bị Tiêu Phong nạt một cái, không dám lèo nhèo gì thêm vội đáp:
- Gớm sao vị gia đài này tính nóng thế, hì hì, nếu không phải hỏi đúng ngay tiểu nhân, dù có nôn nóng cách mấy cũng đâu có được, đúng không nào?
Y định nói bông phèng mấy câu nhưng liếc thấy Tiêu Phong có vẻ chẳng hiền gì liền tiếp:
- Tiểu Kính Hồ ở phía tây bắc, trước hết đi về hướng tây, đi được chừng bảy dặm rưỡi thì thấy có chừng mươi cây liễu, mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng, một hàng là bốn, hai hàng là tám, ba hàng mười hai, bốn hàng mười sáu, cả thảy mười sáu cây liễu lớn thì đi lên hướng bắc. Đi thêm chừng chín dặm rưỡi nữa, thấy một chiếc cầu bằng đá xanh thì chớ có qua, qua cầu đó là hỏng đấy. Nói không qua cầu nhưng lại phải qua, mà không qua là cái cầu bằng đá xanh bên trái, mà phải qua chiếc cầu gỗ nhỏ ở bên phải. Qua chiếc cầu nhỏ rồi thì một đường rẽ qua hướng tây, một đường đi lên hướng bắc, phải đi con đường hướng tây theo con đường mòn thì mới đúng. Đi như thế tổng cộng hai mươi mốt dặm rưỡi thì gặp một cái hồ mặt nước sáng như gương, đó chính là Tiểu Kính Hồ. Đi đến đó, ai cũng bảo là chừng bốn mươi dặm, thực ra chỉ có ba mươi tám dặm rưỡi, bốn mươi dặm là không đúng đâu.
Tiêu Phong cố nhịn ngồi nghe gã tửu bảo nói cho xong. A Châu nói:
- Gớm vị đại ca này nói năng rành mạch quá. Một dặm đường thì một đồng tiền, đáng lẽ cho anh bốn mươi đồng, nhưng cho thế thì sai bét, chi bằng đừng cho, nhưng lại đáng cho. Tám lần một là tám, hai tám mười sáu, ba tám hăm tư, bốn tám ba mươi hai, năm tám bốn mươi, bốn mươi dặm đường trừ đi một dặm rưỡi thế là ba mươi tám đồng rưỡi.
Nàng đếm ba mươi chín đồng tiền, đồng tiền sau cùng cầm khía lên lưỡi búa một vết, bẻ cắc một tiếng đồng tiền đã gãy ra làm đôi, đưa cho gã tửu bảo ba mươi tám đồng rưỡi. Tiêu Phong thật tức cười, nghĩ thầm: “Cô bé này nhân cơ hội lại quấy phá một phen”. Đại hán kia mắt vẫn nhìn trừng trừng, luôn mồm giục:
- Mau đi báo tin, chậm là không kịp đâu, "tên đại ác" ghê gớm lắm đó.
Tiêu Phong hỏi lại:
- Thế chủ nhân ngươi là ai?
Đại hán kia lẩm bẩm:
- Chúa công ta ... chúa công ta ... ở đâu không thể cho người ngoài biết được. Thôi ngươi đừng đi nữa là hơn.
Tiêu Phong quát lên:
- Ngươi họ gì?
Gã kia thuận mồm đáp:
- Ta họ Cổ, ối trời, ta không phải họ Cổ.
Tiêu Phong trong bụng nghi ngờ: “Không lẽ tên này tính giở trò gì, cố ý dẫn dụ mình đến Tiểu Kính Hồ chăng? Cái gì mà họ Cổ rồi lại không họ Cổ?” Ông chợt nghĩ lại: “Ví thử như kẻ địch sai y đến dụ ta tới đó thì cầu còn chưa được, ta đang muốn đi kiếm y đây. Tiểu Kính Hồ dù có phải đầm rồng hang hổ chăng nữa thì Tiêu mỗ há sợ gì?”. Tiêu Phong quay sang A Châu:
- Chúng mình đến Tiểu Kính Hồ xem thế nào, có động tĩnh gì không, nếu như chủ nhân của vị huynh đài này có ở đó thì mình thể nào cũng tìm ra.
Gã tửu bảo liền xen vào:
- Tiểu Kính Hồ bốn bề hoang dã, chẳng có gì để xem cả. Hai vị nếu như muốn du sơn ngoạn thủy, ngắm phong cảnh thì nên đi đến các đình đài lâu các của những nhà giàu ở đây, có thế mới mở rộng tầm con mắt ...
Tiêu Phong xua tay bảo y đừng lèm bèm nữa, nói với đại hán kia:
- Lão huynh mệt lắm rồi, ở đây nghỉ ngơi, ta thay mặt đi bẩm báo với lệnh chủ nhân nói là "tên đại ác" sẽ tới ngay đó.
Người kia mừng rỡ:
- Đa tạ! Đa tạ! Cổ mỗ cảm kích không đâu kể xiết. Để ta đi chặn "tên đại ác" lại, không cho y qua.
Nói xong liền đứng dậy, giơ tay định nhắc đôi búa lên nhưng lực khí không còn gì nữa, hai tay ê ẩm, lăm lăm cầm cán búa rồi mà không sao nhắc lên nổi. Tiêu Phong nói:
- Lão huynh cứ thư thả.
Ông trả tiền ăn tiền ở xong liền cùng A Châu rảo bước đi ra, đúng lời dặn của tên tửu bảo theo đại lộ về hướng tây chừng bảy tám dặm, quả nhiên thấy ở bên đường có bốn hàng mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng mười sáu cây dương liễu. A Châu cười nói:
- Tên tửu bảo đó tuy lắm mồm thật nhưng lắm mồm đúng cách, thế này thì không thể nào sai được, phải không nào? Ồ, cái gì đây?
Nàng đưa tay chỉ một cây liễu, dưới gốc cây có một người nhà nông ngồi tựa nơi đó, chân thò xuống cái rãnh bùn bên cạnh. Cảnh đó cũng chỉ là một chuyện thông thường ở nhà quê, nhưng người nông phu đó một bên mặt máu me, vai lại vác một cây thục đồng côn sáng loáng, xem ra không phải là nhẹ.
Tiêu Phong đi đến trước mặt người nhà quê đó, thấy y thở hổn hển, hiển nhiên đã bị nội thương khá nặng. Tiêu Phong liền mở lời:
- Này vị đại ca kia, bọn ta được người sử búa nhắn đi đến Tiểu Kính Hồ chuyển lời, xin hỏi đi Tiểu Kính Hồ là lối nào?
Người nhà nông ngẩng lên hỏi lại:
- Thế ông bạn sử búa còn sống hay chết rồi?
Tiêu Phong đáp:
- Y chỉ bị tiêu hao khí lực nhưng không đến nỗi nào.
Người nông phu thở phào:
- Tạ trời tạ đất. Xin hai vị đi về hướng bắc, cái ơn đưa tin quyết chẳng dám quên.
Tiêu Phong nghe y nói năng kiểu cách quyết không phải hạng nhà quê tầm thường bèn hỏi:
- Lão huynh tôn tính là gì? Có phải là bạn của người sử búa chăng?
Người nông phu đáp:
- Tiện tính Phó. Xin các hạ mau mau đến Tiểu Kính Hồ, "tên đại ác" đã vượt qua rồi, nói ra thật là hổ thẹn, tại hạ không ngăn nổi y.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này bị thương nặng không phải giả vờ, nếu quả y là do kẻ đối đầu mướn để dụ ta vào rọ thì tiền bỏ ra chắc không phải là ít”. Ông bèn nói:
- Phó đại ca, lão huynh bị thương không phải nhẹ, "tên đại ác" dùng binh khí gì đả thương ngươi thế?
Hán tử kia đáp:
- Y dùng gậy sắt.
Tiêu Phong thấy ngực y máu tươi chảy ra không ngớt, vội vạch áo ra xem, thấy trên ngực có một lỗ hổng, tuy chỉ nhỏ bằng ngón tay nhưng sâu hoắm. Tiêu Phong giơ tay liên tiếp điểm vào mấy đại huyệt chung quanh, giúp y ngừng chảy máu, bớt đau. A Châu xé áo y ra, băng bó vết thương lại. Hán tử họ Phó nói:
- Đại ân của hai vị, Phó mỗ không thể lấy lời mà cảm tạ được, chỉ xin hai vị mau đến Tiểu Kính Hồ, báo tin cho bề trên của chúng tôi.
Tiêu Phong hỏi:
- Thế bề trên của ông tên là gì, tướng mạo ra sao?
Người kia đáp:
- Các hạ đến bên bờ Tiểu Kính Hồ, sẽ thấy bên phía tây có một khu rừng trúc, cây trúc hình vuông, giữa rừng có mấy gian nhà tre, xin đến bên ngoài nhà gọi to mấy tiếng: “Thiên hạ đệ nhất đại ác nhân đã đến rồi, mau mau tránh đi” như thế là được, tốt hơn hết là đừng vào trong nhà. Tên của tệ thượng, sau này Phó mỗ sẽ xin phụng cáo.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cái gì mà thiên hạ đệ nhất ác nhân? Không lẽ đó là người đứng đầu trong Tứ Đại Ác Nhân Đoàn Diên Khánh hay sao? Nghe gioọng lưỡi người này y không muốn nói nhiều, mình cũng chẳng nên hỏi thêm nữa”. Thế nhưng đến giờ phút này, ông không còn cái bụng úy kỵ nữa, nghĩ bụng: “Nếu quả là kẻ địch dụ ta vào tròng thì mỗi câu mỗi chữ phải cho hợp tình hợp lý, có đâu lại để cho ta nổi lòng nghi ngờ. Người này ấp á ấp úng, không dám nói thực, không phải là có ý xấu được”. Ông bèn nói:
- Được rồi, xin nghe theo lời dặn dò của các hạ.
Đại hán kia cố gượng đứng lên quì xuống cảm ơn. Tiêu Phong nói:
- Hai chúng ta mới gặp mà như quen đã lâu, Phó huynh chẳng cần phải đa lễ.
Ông giơ tay đỡ người kia dậy, một tay đưa lên xoa mặt một cái, bỏ hết những món hóa trang lấy bộ mặt thật của mình để tương kiến, nói:
- Tại lạ là Tiêu Phong người Khất Đan, sau này sẽ gặp lại.
Ông không đợi hán tử trả lời, nắm tay A Châu rảo bước đi ngay. A Châu hỏi:
- Thế mình không cần cải trang nữa hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng hiểu vì đâu, ta bỗng dưng cảm mến hán tử thô hào kia, nên có bụng muốn làm quen với y, thành thử không muốn dùng khuôn mặt giả để đối xử với người ta.
A Châu nói:
- Được lắm, để thiếp trở lại quần áo đàn bà.
Nàng đi đến bên dòng nước, vã nước lên rửa mặt, cởi mũ ra, để lộ mái tóc mềm óng như tơ, thoát bỏ áo bào rộng thùng thình, bên trong là y phục phụ nữ. Hai người đi một mạch chín dặm rưỡi, nhìn xa xa thấy nổi lên một chiếc cầu xây bằng đá xanh. Đến gần thêm chút nữa đã thấy giữa cầu một thư sinh nằm phục nơi đó. Người này trải một tờ giấy ngay trên cầu, đang dùng ngay đá lát cầu làm nghiên mài một vũng mực lớn. Thư sinh trong tay cầm bút, đang viết chữ lên trên tờ giấy. Tiêu Phong và A Châu đều lạ lùng, có ai ngờ trên một chiếc cầu ở nơi hoang dã thế này lại có một người giở nghiên bút giấy mực ra viết chữ?
Đến gần thêm chút nữa mới hay không phải y đang viết mà là đang vẽ cảnh vật chung quanh, chiếc cầu nhỏ với làn nước khe, cây cổ thụ cùng xa xa là núi biếc đều có cả. Y nằm phục trên cầu, mặt không quay về phía Tiêu Phong và A Châu, nhưng lạ lùng hơn cả cảnh trong tranh đều quay về phía hai người, có điều mỗi nét bút đều là vẽ ngược, từ hướng bên kia vẽ lại.
Về thư họa Tiêu Phong không biết gì, còn A Châu đã ở trong nhà Mộ Dung công tử lâu năm, các loại tinh phẩm bút mực xem đã nhiều, thấy thư sinh dùng phép “đảo họa” tuy không đạt đến mức đan thanh diệu bút, nhưng vẽ ngược mà được như thế quả thực khó khăn, đang toan tiến lên hỏi y mấy câu thì Tiêu Phong đã giựt nhè nhẹ chéo áo nàng, lắc đầu, đi qua phía chiếc cầu gỗ phía bên phải.
Người nho sinh bỗng nói:
- Hai vị trông thấy tại hạ vẽ ngược, sao không ghé mắt qua một chút? Không lẽ cái công phu nhỏ mọn của tại hạ làm bẩn mắt hai vị hay sao?
A Châu đáp:
- Khổng phu tử chiếu không ngay không ngồi, thịt không sạch sẽ không ăn. Chính nhân quân tử lẽ nào đi xem vẽ ngược bao giờ?
Người kia cười ha hả, cuộn tờ giấy lại nói:
- Lời cô nương quả hữu lý, xin mời qua cầu.
Tiêu Phong đã đoán được dụng ý của y dùng giấy trải trên cầu để cho người khác chú ý, trước là kéo dài thời gian, sau là lấy hư làm thực, cố ý dụ người ta đi qua chiếc cầu đá bèn nói:
- Bọn chúng tôi muốn đến Tiểu Kính Hồ, đi lên thạch kiều chẳng hóa ra đi sai đường ư?
Thư sinh đáp:
- Nếu đi qua cầu đá chẳng qua là đi đường vòng, xa thêm năm sáu chục dặm rồi cũng đến nơi, hai vị cứ lên thạch kiều chẳng sao cả.
Tiêu Phong đáp:
- Chẳng có chuyện gì, cớ sao lại phải đi thêm năm sáu chục dặm?
Thư sinh kia cười nói:
- Dục tốc tắc bất đạt , không lẽ hai vị không biết câu đó ư?
A Châu cũng biết người này cố tình kéo dài thời gian nên không muốn lôi thôi với y nữa, lập tức bước lên chiếc cầu gỗ, Tiêu Phong cũng đi theo. Hai người đi đến giữa đường, đột nhiên dưới chân tụt hẫng, nghe lách cách mấy tiếng, ván cầu gãy đôi, thân hình rơi tõm xuống sông. Tiêu Phong vươn tay trái ôm lưng A Châu, chân phải điểm vào ván cầu một cái mượn sức nhảy vọt tới trước, qua luôn bờ bên kia, tiện tay đánh ngược lại một chưởng để phòng kẻ địch tấn công lén.
Thư sinh kia cười hà hà nói:
- Công phu giỏi lắm giỏi lắm! Hai vị vội vã đến Tiểu Kính Hồ chẳng hay có chuyện gì?
Tiêu Phong nghe trong giọng cười của y có vẻ kinh hoàng, nghĩ thầm: “Gã này mặt mày sáng sủa vậy mà lại cùng phe với "tên đại ác"”. Ông không lý gì tới y cứ tiếp tục cùng A Châu đi thẳng. Đi được mấy trượng nghe thấy có tiếng chân người phía sau, quay đầu nhìn lại chính là thư sinh đó đang đuổi theo. Tiêu Phong quay đầu, mặt đanh lại hỏi sẵng:
- Các hạ muốn dạy bảo chuyện gì?
Thư sinh đáp:
- Tại hạ cũng định đi đến Tiểu Kính Hồ, thành thử đi cùng đường với hai vị.
Tiêu Phong đáp:
- Nếu quả thế thì hay lắm.
Ông giơ tay vòng qua eo A Châu, đề khí đưa nàng đi vèo vèo, lướt đi không một tiếng động, bụi không bay lên. Thư sinh nọ cắm đầu cằm cổ chạy theo nhưng mỗi lúc cách hai người một xa. Tiêu Phong thấy y võ công bình thường không coi vào đâu cứ tiếp tục chạy tới, tuy kéo theo cả A Châu nhưng vẫn nhanh hơn người kia nhiều, chỉ khoảng một bữa cơm đã bỏ xa không còn thấy bóng dáng y đâu nữa.
Qua khỏi cây cầu gỗ đường càng lúc càng hẹp, có lúc cỏ mọc đến ngang lưng thật khó mà phân biệt, nếu như không được tên tửu bảo chỉ đường rành mạch rõ ràng thì không thể nào tìm ra. Lại chạy thêm chừng nửa giờ nữa thì thấy một hồ nước trong. Tiêu Phong chậm lại đi đến bên cạnh thấy nước hồ trong xanh như ngọc, mặt lặng như gương quả không hổ cái tên Tiểu Kính Hồ.
Ông đang định đi tìm khu rừng trúc vuông, bỗng nghe bên trong bụi hoa bên cạnh có tiếng cười khẩy, đồng thời một viên sỏi bắn ra. Tiêu Phong theo hướng viên sỏi nhìn theo thấy bên bờ hồ có một ông câu, đầu đội nón lá đang ngồi đó. Cần câu của y đã móc được một con cá xanh biếc, viên sỏi bắn ra, không lệch không xéo, trúng ngay sợi dây câu, nghe bựt một tiếng dây câu đứt đôi, con cá rơi tõm xuống hồ.
Tiêu Phong hơi kinh ngạc: “Thủ kình người này thật là cổ quái. Dây câu mềm mại không dễ gì cắt đứt. Nếu như y dùng phi đao hay tụ tiễn để cắt đứng thì không nói làm gì. Chỉ một viên sỏi tròn mà có thể cắt được dây câu, thủ pháp âm nhu sử dụng ám khí của người này ở Trung Thổ không ai có được”.
Người bắn viên sỏi đó xem chừng võ công không cao nhưng đầy vẻ tà khí, thủ pháp rõ ràng là của bàng môn tả đạo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc y là đệ tử hay thuộc hạ của "tên đại ác", nghe tiếng cười dường như là một cô gái còn nhỏ tuổi”.
Dây câu của ngư nhân bị viên sỏi cắt đứt, y kinh hoảng lớn tiếng nói:
- Ai đùa cợt với Chử mỗ đó, xin ra mặt coi nào!
Có tiếng sột soạt, bụi hoa rẽ ra, một cô gái bước ra, quần áo toàn thân màu tím, chỉ chừng mười lăm mười sáu tuổi, so với A Châu còn nhỏ hơn vài tuổi, đôi mắt đen lay láy, vẻ mặt đầy vẻ tinh nghịch. Nàng ta chợt nhìn thấy A Châu, không để ý đến người câu cá nữa, lon ton chạy đến trước mặt nàng, nắm tay cười nói:
- Sao chị đẹp thế, em thích chị ghê!
Giọng cô gái nghe hơi đơ đớ, phát âm không chính xác lắm dường như người nước ngoài học tiếng Trung Thổ. A Châu thấy cô gái hoạt bát ngây thơ, cười nói:
- Em rồi sau cũng xinh lắm, chị cũng thích em.
A Châu đã từng ở Cô Tô lâu, bây giờ dùng giọng quan thoại trung châu thật là dịu dàng, lại thật chuẩn xác. Ông câu đang tính nổi sùng, bỗng thấy chỉ là một thiếu nữ hoạt bát dễ thương, bao nhiêu tức tối đều tiêu giảm nói:
- Cô bé con này sao nghịch quá! Công phu đánh đứt dây câu quả là giỏi thật.
Thiếu nữ nói:
- Câu cá có gì là thích đâu? Chán chết đi được. Nếu ông thích ăn cá, lấy cái cần câu đâm cá có phải tiện hơn không?
Nói rồi cầm chiếc cần trong tay ông câu, thuận tay đâm xuống nước một cái rồi rút lên, đầu cần câu đã có một con cá trắng bị đâm trúng bụng, khi nhắc lên vẫn còn uốn éo dãy dục, máu từ vết thương nhỏ ròng ròng, màu đỏ loang trên nước biếc, trông vừa đẹp đẽ nhưng có lẫn chút tàn nhẫn bên trong.
Tiêu Phong thấy cô gái chỉ tiện tay đâm một cái, tay phải hơi nghiêng đi một chút vạch thành một hình cung nhỏ, rồi lại từ bên phải phất xuống dưới, thủ pháp xem ra xảo diệu, tư thế dễ coi nhưng dùng để đối địch, công thủ xem ra hơi chậm một tí, không sao đoán được cô ta ở môn phái nào.
Cô gái cứ nhắc tay lên lại đâm xuống liên tiếp, xiên trúng sáu con cá bạc làm thành một chuỗi, sau đó rung một cái hất cả sáu con xuống dưới hồ. Người thợ câu vẻ mặt không vui nói:
- Ngươi tuổi còn nhỏ sao hành sự tàn ác như vậy. Nếu ngươi muốn bắt cá thì không nói làm gì, đâm chết cá không ăn, vô cớ sát sinh thì đâu còn đạo lý gì nữa?
Cô gái vỗ tay reo lên:
- Ta thích vô cớ sát sinh thì ông làm gì được ta nào?
Hai tay dùng sức bẻ một cái định bẻ gãy chiếc cần của ông câu, ngờ đâu chiếc cần đó cực kỳ chắc chắn, cô gái không sao bẻ gãy được. Ông câu cười khẩy nói:
- Ngươi tưởng có thể bẻ gãy được cần của ta sao, đâu có dễ như thế được.
Cô gái chỉ về phía sau lưng ông câu nói:
- Ai đến thế kia?
Người thợ câu quay đầu lại nhìn, không thấy ai cả, biết là mắc hỡm vội vàng chuyển mình nhưng đã chậm mất một bước, thấy chiếc cần của ông ta đã bay vụt ra ngoài mấy trượng, nghe tõm một tiếng đã cắm xuống giữa hồ rồi biến mất không còn tăm tích gì nữa. Ông câu giận lắm, quát lên:
- Con nhãi mất dạy ở đâu tới đây?
Y giơ tay chộp vào vai cô gái, thiếu nữ vừa cười vừa kêu lên:
- Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Rồi chạy ra núp sau lưng Tiêu Phong. Ông câu lòn qua đuổi bắt, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ trong nháy mắt, Tiêu Phong đã thấy trong tay cô gái có thêm một vật gì đó, dường như là một vuông vải trong suốt, tựa như có tựa như không, không biết đó là cái gì. Ông câu xông tới, không biết tại sao bỗng trượt chân một cái, ngã lăn ra đất, thân hình cuộn lại thành một cục. Tiêu Phong bấy giờ nhìn rõ, vật mà cô gái cầm trong tay là một cái lưới đan bằng tơ cực mỏng manh. Sợi tơ chỉ nhỏ như sợi tóc, lại trong suốt nhưng chắc chắn dị thường, đụng vào vật gì liền rút lại, ông câu bị mắc trong cái lưới càng hết sức dãy dụa, chiếc lưới càng thắt lại chặt thêm, chỉ trong giây lát đã bị bó tròn như khúc giò không sao động đậy được nữa.
Ông thợ câu càng lớn tiếng chửi mắng:
- Con nhãi kia, ngươi giở trò ma trò quỉ gì, dùng yêu pháp tà thuật để bắt ta.
Tiêu Phong trong bụng kinh ngạc, biết cô gái này không dùng yêu pháp tà thuật gì, nhưng chiếc lưới cá kia quả có vẻ yêu tà thật. Ông thợ câu vẫn luôn mồm chửi bới, thiếu nữ cười nói:
- Ông mà còn chửi nữa là ta đánh vào đít ông đó.
Ông câu giật mình vội vàng nín bặt nhưng mặt tím lại. Ngay lúc đó bên phía tây hồ có tiếng người nói:
- Chử huynh đệ, có chuyện gì thế?
Từ con đường nhỏ bên cạnh hồ một người rảo bước đi ra. Tiêu Phong nhìn thấy người kia gương mặt hình chữ quốc, khoảng chừng ngoài bốn mươi nhưng chưa đến năm mươi, hình mạo uy võ nhưng áo thùng thình, xem chừng có vẻ tiêu sái.
Người kia đến gần, thấy ông câu bị trói chặt cực kỳ kinh ngạc hỏi:
- Sao thế?
Ông câu đáp:
- Tiểu cô nương đây sử dụng yêu pháp ...
Người tung niên quay sang nhìn A Châu. Cô gái kia cười nói:
- Đâu phải chị đó, tôi cơ mà!
Người đàn ông kêu lên một tiếng, cúi xuống nhắc tấm thân to lớn của người thợ câu lên, giơ tay cởi chiếc lưới cá. Ngờ đâu cái lưới làm bằng chất gì thật quái lạ, ông ta càng dùng sức gỡ ra thì lại càng thắt chặt lại, làm cách nào cũng không cởi ra được. Cô gái đó cười nói:
- Chỉ cần y nói ba lần: “Tôi phục cô nương lắm rồi!” thì ta sẽ thả y ra.
Người trung niên nói:
- Ngươi đắc tội với Chử huynh đệ của ta, coi chừng xảy ra chuyện không hay đó.
Cô gái lại cười:
- Có thật không? Tôi đang muốn có chuyện gì không hay đây, kết quả càng tệ hại thì càng thích.
Người kia vươn tay trái ra, nắm lấy đầu vai cô gái. Thiếu nữ rụt người lại, lách qua né tránh, ngờ đâu cô ta tuy nhanh, người trung niên lại còn nhanh hơn, tay đè xuống một cái đã nắm ngay được cô ta. Thiếu nữ hất ra nhưng tả chưởng của người kia vẫn dính chặt lấy vai khiến cô gái kêu oai oái:
- Bỏ tay ra!
Cô ta vung tay lên định đánh nhưng quyền chỉ ra được chừng một thước cánh tay đã không còn hơi sức xuội ngay xuống. Thiếu nữ kinh hãi kêu lên:
- Ông giở yêu pháp tà thuật gì đó? Mau buông tôi ra!
Người đàn ông mỉm cười:
- Vậy cô nói ba lần: “Tôi phục tiên sinh lắm rồi!” sau đó mở cái lưới cho người anh em của ta thì ta sẽ thả cô ra.
Cô gái giận dữ nói:
- Ông đắc tội với cô nương thì chẳng hay ho gì đâu nhé.
Người trung niên mỉm cười:
- Kết quả càng tệ hại thì càng thích.
Thiếu nữ lại hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được, chỉ thấy toàn thân ê ẩm, đến chân cũng không có hơi sức bèn cười nói:
- Thật rõ ê mặt, chỉ giỏi tài nhái giọng người ta. Thôi được rồi, để tôi nói: “Tôi phục tiên sinh rồi, tôi phục tiên sinh rồi, tôi phục tiên sinh rồi!”.
Nàng ta nói chữ “tiên” nghe lơ lớ thành “thử sinh” nghe tưởng chừng như định nói: “Tôi phục súc sinh rồi!”. Thế nhưng người trung niên kia không phát giác, buông tay ra khỏi đầu vai cô gái nói:
- Mau mở lưới ra nào!
Cô gái cười:
- Cái này dễ ợt hà!
Nàng ta đi tới bên cạnh ông câu, cúi xuống cởi lưới đang quấn chặt lấy ông ta, tay áo trái hơi nhắc lên, một ánh chớp lấp lánh màu xanh biếc bắn ngay vào người đàn ông trung niên. A Châu kinh hoảng kêu lên một tiếng, thấy thủ pháp bắn ám khí của cô ta cực kỳ độc địa, hai người lại quá gần nhau, xem ra thể nào cũng trúng. Thế nhưng Tiêu Phong chỉ mỉm cười, người đàn ông trung niên này vừa ra tay đã chế ngự ngay được cô gái khiến nàng ta không còn cục cựa nổi hiển nhiên nội lực thâm hậu, võ công cao cường, mũi ám khí nhỏ bé đó làm sao đả thương ông ta được. Quả nhiên người kia phất tay áo bào một cái, một luồng nội lực tung ra, đánh giạt chùm kim lả tả rơi xuống vũng bùn bên cạnh hồ.
Ông ta vừa nhìn thấy màu những cây kim kia biết ngay có tẩm thuốc độc thật là ghê gớm, thuộc loại kiến huyết phong hầu, chảy máu là chết ngay, mình với cô ta mới gặp lần đầu, không thù không oán lẽ nào vừa ra tay lại hạ độc thủ? Ông ta cực kỳ bực tức, định tâm cho con nhãi này một bài học, tay áo bên phải liền vung ra, trong tụ lực có kèm theo chưởng lực nghe vù một tiếng, hất cô gái tung lên, nghe tõm một cái đã rơi ngay xuống dưới hồ. Tiếp theo đó ông nhún chân nhảy vọt vào một chiếc thuyền nhỏ ở dưới gốc cây liễu, cầm giầm chèo mấy cái đã đến chỗ cô gái bị rơi xuống, đợi cô ta vừa trồi lên sẽ nắm tóc kéo lên thuyền.
Cô gái chỉ kêu được một tiếng “Ôi chao”, rơi xuống hồ rồi không còn thấy tăm hơi gì nữa. Thông thường nếu như ai bị chết đuối thường bao giờ cũng trồi lên hụp xuống mấy lần, uống nước no rồi lúc đó mới chìm hẳn không trồi lên nữa. Thế nhưng cô gái này chẳng khác gì một cục đá, rơi xuống rồi chìm mất tăm không nổi lên. Đợi một hồi sau vẫn không thấy cô ta nổi lên mặt nước.
Người đàn ông trung niên kia càng đợi càng nóng ruột, ông ta vốn không có ý định đả thương cô ta, thấy cô ta tuổi nhỏ mà hành sự độc ác nên muốn răn dạy một phen, nếu khiến cô ta chết đuối quả thực không nhẫn tâm. Người thợ câu kia bơi lội rất giỏi có thể nhảy xuống hồ cứu người nhưng lại đang bị mắc trong lưới không cách nào thoát ra được. Tiêu Phong và A Châu cả hai đều không thông thủy tính nên cũng không biết làm cách nào. Chỉ nghe người trung niên kêu to:
- A Tinh, A Tinh, mau ra đây!
Từ trong khu rừng trúc xa xa có tiếng đàn bà truyền ra:
- Chuyện gì vậy? Thiếp chẳng ra đâu.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người đàn bà này thanh âm kiều mị nhưng lại có ba phần ngang ngạnh, cùng với A Châu và cô gái mới rơi xuống hồ đúng là một bộ ba thế chân vạc”.
Người trung niên lại kêu lên:
- Có người chết đuối, mau ra cứu người ta!
Người đàn bà lại vói ra:
- Thế có phải là chàng chết đuối không?
Người đàn ông gắt lên:
- Đừng có đùa, nếu ta chết đuối sao lại còn nói được? Mau ra cứu người đi nào!
Người đàn bà lại nói:
- Nếu như chàng chết đuối thì thiếp ra cứu, còn như người khác thì mặc xác người ta, cứ để thế cho vui.
Người trung niên nói:
- Thế nàng có ra không thì bảo?
Ông ta hầm hầm dậm chân ở đầu thuyền, hết sức nóng nảy. Người đàn bà lại nói:
- Nếu là đàn ông thì thiếp mới cứu, còn như đàn bà thì có một trăm người chết đuối, thiếp cũng chỉ vỗ tay reo hò, không cứu đâu.
Giọng nói mỗi lúc một gần, chẳng mấy chốc đã ra đến bờ hồ. Tiêu Phong và A Châu nhìn bà ta, thấy tuổi chừng ba mươi lăm, ba mươi sáu, mặc một bộ đồ bơi màu xanh nhạt bó sát người, lộ rõ chiếc eo thon, dung nhan tú lệ, khóe miệng trông như mủm mỉm cười, đôi mắt to đen sáng lóng lánh như ánh sao, khóe thu ba đưa đẩy cực kỳ linh hoạt, tưởng chừng chỉ một đôi mắt đã nói được muôn ngàn lời. Tiêu Phong nghe thanh âm giọng điệu của bà ta tưởng nhiều lắm cũng chỉ hăm mốt hăm hai, hóa ra lại là một thiếu phụ không còn trẻ lắm. Bộ quần áo bơi của nàng ăn vận chỉnh tề, chắc là vừa nghe người đàn ông gọi cứu người tuy miệng trêu ông ta, nhưng lập tức nhanh nhẹn mặc quần áo ngay.
Người đàn ông trung niên thấy bà ta đi ra hết sức vui mừng, kêu lên:
- A Tinh, mau lên, ta lỡ tay để cô ta rơi xuống hồ, sao không thấy nổi lên nữa.
Người đàn bà xinh đẹp kia nói:
- Để thiếp hỏi cho rõ ràng, có đàn ông thì mới cứu, còn như đàn bà xin chàng khỏi mở lời làm chi.
Tiêu Phong và A Châu đều cảm thấy lạ lùng, nghĩ thầm: “Đàn bà con gái không nhảy xuống nước cứu đàn ông con trai, để khỏi xảy ra chuyện quơ quào lôi kéo dưới nước làm mất thân phận, ấy là chuyện thường. Sao lại có chuyện ngược đời, chỉ cứu đàn ông, không cứu đàn bà là sao?”.
Người trung niên dậm chân, bực bội nói:
- Thôi, chỉ là một con bé con mười bốn mười lăm, nàng đừng có nghĩ nhằng.
Người đàn bà xinh đẹp kia đáp:
- Hứ, tiểu cô nương thì sao? Hạng như chàng, bé con mười bốn mười lăm, bà già bảy tám chục cũng đều chẳng ...
Nàng ta định nói “cũng đều chẳng tha” nhưng chợt nhìn thấy Tiêu Phong và A Châu nên bẽn lẽn, vội vàng giơ tay lên bịt miệng mình lại, nín chữ “tha” lại không thốt ra, nhưng ánh mắt đầy vẻ tinh quái.
Người đàn ông trung niên đứng trên thuyền vái dài một cái nói:
- A Tinh, xin nàng mau cứu cô ta lên, nàng nói gì ta cũng bằng lòng cả.
Người đàn bà đáp:
- Cò thật là chuyện gì cũng bằng lòng không?
Người đàn ông vội đáp:
- Thật thế. Ôi, cô bé con này sao chưa nổi lên, không lẽ chết thật ...
Người đàn bà nói:
- Nếu thế thiếp bảo chàng mãi mãi ở lại nơi đây, chàng có bằng lòng không?
Người trung niên vẻ mặt sượng sùng nói:
- Cái đó ... cái đó ...
Người đàn bà nói:
- Chàng chỉ nói mà đâu có làm, đầu môi chót lưỡi đánh lừa người khác, để cho thiếp được vui lòng trong chốc lát, cho qua chuyện. Có thế mà chàng cũng không chịu.
Nói tới đây, đôi mắt rưng rưng, phụng phịu, pha chút nghẹn ngào. Tiêu Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau, hơi lạ lùng, hai người này tuổi tác đâu còn nhỏ nhít gì nhưng nói năng hành động thật chẳng khác gì đôi thanh niên nam nữ đang độ say mê, kiểu cách xem ra không phải vợ chồng thế mà người đàn bà kia trước mặt người ngoài nói năng cũng chẳng cần giữ gìn gì cả, trong lúc người kia chết sống nơi đầu tơ kẽ tóc vẫn tỉnh bơ không có gì gọi là gấp gáp.
Người trung niên thở dài một tiếng, chèo thuyền quay lại đáp:
- Thôi được, chẳng cần cứu nữa. Cô bé con này dùng ám khí độc địa bắn lén ta, có chết cũng đáng, thôi mình đi về.
Người đàn bà xinh đẹp kia chưng hửng:
- Sao lại không cứu nữa? Thiếp nhất định phải cứu. Cô ta dùng ám khí bắn chàng ư? Thế thì hay lắm, thế nhưng sao chàng không chết? Đáng tiếc thật! Đáng tiếc thật!
Bà ta cười khúc khích, nhún mình một cái lao luôn xuống hồ. Bà ta bơi thật giỏi, chỉ nghe tõm một tiếng nhỏ nước không thấy văng lên, đã chuồi luôn xuống dưới nước. Tiếp đó nghe thấy tiếng bì bõm, mặt hồ rẽ ra, người đàn bà xinh đẹp kia thò đầu lên hai tay nâng cô gái áo tím. Người đàn ông trung niên mừng rỡ vội vàng chéo chiếc thuyền lại đón.
Ông ta bơi đến gần người đàn bà liền giơ tay đón lấy cô gái áo tím, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền dường như đã tắt thở rồi, sắc mặt không khỏi lo âu. Người đàn bà xinh đẹp kia quát lên:
- Không được đụng vào cô ta, ông là người hiếu sắc quá đỗi, không thể nào tin nổi.
Người đàn ông tức tối đáp:
- Chỉ nói bậy bạ, trong đời ta đã bao giờ hiếu sắc đâu.
Người đàn bà cười khúc khích, nâng luôn cô gái nhảy vọt vào thuyền:
- Phải rồi, phải rồi! Chàng có bao giờ hiếu sắc đâu, chỉ thích hạng người xấu như ma lem, như Chung vô Diệm thôi, ối chao ...
Bà ta vừa sờ vào ngực cô gái thấy tim đã ngừng đập, mũi không còn thở nữa nhưng bụng vẫn xẹp lép hiển nhiên chưa uống nhiều nước. Người đàm bà vốn tinh thông thủy tính, vẫn liệu rằng bấy nhiêu lâu chưa thể chết người được, có ngờ đâu cô gái thân thể ẻo lả nên tắt thở rồi, trên mặt không khỏi lộ vẻ ăn năn, vội vàng ôm cô gái nhảy lên bờ kêu rối rít:
- Mau lên, mau lên, mình phải tìm cách cứu cô ta mới được.
Bà ta bồng cô gái chạy như bay về phía rừng trúc. Người trung niên cũng cúi xuống ôm gã thợ câu, quay sang Tiêu Phong:
- Huynh đài tôn tính đại danh là gì? Giá lâm nơi đây không hiểu có việc gì không?
Tiêu Phong thấy ông ta khí độ ung dung, thấy cô gái kia thảm tử nhưng vẫn trấn tĩnh, trong lòng ngầm bội phục nói:
- Tại hạ là người Khất Đan, tên Tiêu Phong nhận lời ủy thác của hai vị bằng hữu, đến đây báo một cái tin.
Tên của Tiêu Phong trên giang hồ vốn dĩ không ai không biết nhưng từ khi ông biết họ thật của mình rồi nên bây giờ tự xưng Tiêu Phong, lại kèm theo mấy tiếng người Khất Đan, nói trắng lai lịch của mình ra. Người trung niên kia nghe tên đó chỉ nghĩ là một nhận vật gặp gỡ giữa giữa đàng, nghe thấy ba tiếng “người Khất Đan” cũng không lạ lùng gì, bèn hỏi:
- Người nhắn gửi Tiêu huynh là vị bằng hữu nào thế? Không biết báo tin chuyện gì?
Tiêu Phong đáp:
- Một người sử dụng đôi búa, một người sử dụng đồng côn, tự xưng là họ Phó, cả hai người đều bị thương ...
Người trung niên kia hoảng hốt hỏi lại:
- Hai người đó thương thế ra sao? Hiện nay họ đang ở đâu? Tiêu huynh, hai người đó là bạn tri giao của huynh đệ, xin chỉ điểm cho, ta ... ta ... phải đi cứu ngay mới được.
Người thợ câu nói:
- Cho thuộc hạ theo với.
Tiêu Phong thấy hai người trọng nghĩa, trong bụng kính phục liền nói:
- Hai người đó thương thế tuy nặng thật nhưng chưa đến nỗi nguy đến tính mạng, đang ở thị trấn gần bên ...
Người trung niên vái một cái thật sâu nói:
- Đa tạ! Đa tạ!
Ông ta không nói nữa, tay xách ông câu lên, chạy về phía con đường Tiêu Phong mới tới lúc nãy. Ngay khi đó, có tiếng của người đàn bà từ trong rừng trúc vọng ra:
- Lại đây mau! Mau lên! Ông xem ... xem cái gì đây này.
Giọng nói ra chiều hết sức gấp gáp. Người trung niên liền dừng bước, còn đang do dự bỗng thấy một người chạy như bay từ con đường đi tới, miệng kêu:
- Chúa công, có người đến sinh sự chăng?
Chính là gã thư sinh vẽ ngược trên cầu đá. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ta lại tưởng y ngăn trở ta không cho đến báo tin, hóa ra y cùng phe với hai người sử dụng bản phủ và đồng côn. Người mà bọn họ gọi là “chúa công” chắc là người này”.
Khi đó thư sinh kia đã thấy Tiêu Phong và A Châu đứng cạnh người trung niên, không khỏi ngạc nhiên, đến lúc tới gần lại thấy người thợ câu bị trói chặt, vừa kinh hãi vừa tức tối, hỏi:
- Sao ... sao thế?
Lại nghe thấy từ trong rừng trúc tiếng người đàn bà kia càng thêm hoảng hốt:
- Sao ông còn chưa đến, ối trời, thiếp ... thiếp ...
Người trung niên liền đáp:
- Để ta đến xem nào.
Ông ta xách cả người thợ câu rảo bước đi về phía rừng trúc. Ông ta vừa mới cử động đã thấy công lực phi phàm, bước đi nhẹ nhàng mà lại hết sức nhanh nhẹn. Tiêu Phong đưa tay đỡ ngang hông A Châu cũng thản nhiên đi ngang với ông ta. Người trung niên kia liếc mắt nhìn ra vẻ khâm phục.
Chỉ trong khoảnh khắc đã đến bên rừng trúc, quả nhiên những cây trúc đó thân đều hình vuông, đi thêm chừng vài trượng đã thấy ba gian nhà nhỏ cũng làm bằng tre, cấu trúc hết sức tinh mỹ. Người đàn bà nghe thấy tiếng chân người vội kêu lên:
- Chàng ... chàng mau lại đây mà xem, cái gì thế này?
Trong tay cầm một sợi dây chuyền bằng vàng. Tiêu Phong nhìn thấy sợi dây chuyền đó chỉ là một món đồ trang sức tầm thường của phụ nữ, không có gì đặc biệt, hôm trước A Châu bị thương Tiêu Phong thò tay vào túi nàng lấy thương dược, cũng thấy nàng có một sợi dây tương tự như thế này. Ngờ đâu người trung niên kia cầm chiếc dây chuyền coi qua coi lại lập tức biến sắc, run run hỏi:
- Ở ... ở đâu ra thế này?
Người đàn bà đáp:
- Tháo ra ở cổ nó đó, thiếp đã từng vẽ ký hiệu trên vai trái chúng nó, chàng ... chàng tự mình coi xem ...
Người đàn ông vội vàng tiến vào trong phòng, A Châu cũng lướt tới chạy theo so với người đàn bà còn nhanh hơn một bước. Tiêu Phong cũng theo sát bên hai người đàn bà vào nội đường thấy đây là phòng ngủ của phụ nữ, trần thiết tinh nhã. Tiêu Phong không có thì giờ đâu mà coi kỹ đã thấy cô gái áo tím kia nằm trên giường không động đậy, xem ra đã chết rồi.
Người đàn ông trung niên vén tay áo cô gái lên, xem kỹ đầu vai cô ta. Ông ta vừa coi lập tức bỏ ngay xuống. Tiêu Phong đứng ở sau lưng ông ta nhưng không nhìn ra có ký hiệu gì nhưng thấy lưng người đàn ông run lên bần bật đủ biết tâm thần bị chấn động mãnh liệt.
Người đàn bà nắm áo người đàn ông khóc nức nở:
- Chính là con gái ông rồi, vậy mà ông chính tay giết nó, ông đã không nuôi nó thì thôi lại còn đang tâm giết nó ... ông ... ông thật là người cha lòng lang dạ sói ...
Tiêu Phong lạ lùng: “Cái gì thế này? Cô gái này là con gái ông ta sao? À, đúng rồi, chắc là cô gái này sinh ra chưa bao lâu đã đem gửi người khác nuôi, chiếc dây chuyền và ký hiệu gì đó trên đầu vai là do cha mẹ cô ta để lại cho dễ nhận”. Đột nhiên A Châu nước mắt đầm đìa, thân hình lảo đảo, ngã xuống giường. Tiêu Phong kinh hãi, vội đưa tay ra đỡ, vừa cúi xuống thấy mi mắt cô gái nằm trên giường hơi rung rung. Đôi mắt cô ta nhắm nghiền nhưng con ngươi chuyển động, tuy qua lần da mi mắt nhưng vẫn còn nhận ra được. Tiêu Phong quan tâm đến A Châu hỏi ngay:
- Sao thế?
A Châu đứng thẳng dậy, giơ tay chùi nước mắt, cố gượng cười:
- Thiếp thấy cô này ... không may chết oan, trong lòng đau xót.
Tiêu Phong đưa tay ra cầm mạch cô gái, người đàn bà lại khóc òa lên:
- Mạch đã ngừng rồi, không còn thở nữa, làm sao cứu sống lại được?
Tiêu Phong hơi vận nội lực, đẩy vào cổ tay cô gái rồi lập tức buông lỏng, thấy từ bên trong cơ thể cô ta có sức bật ra, hiển nhiên cô gái đang vận nội kình kháng ngự. Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Một cô bé cứng đầu như thế này, quả thực trên đời ít thấy.
Người đàn bà giận dữ nói:
- Ngươi là hạng người gì, có mau cút ra không? Con ta đã chết rồi lại còn ở đây nói bậy nói bạ.
Tiêu Phong cười đáp:
- Con gái bà chết rồi nếu tôi cứu sống lại được thì sao đây?
Ông đưa tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi eo cô gái. Chỉ đó điểm trúng huyệt Kinh Môn ở ngang hông, là nơi đầu mối của gân cốt con người, Tiêu Phong lại dùng nội lực truyền vào khiến cho ngứa ngáy chịu không nổi. Cô gái làm sao chống cự lại được nên từ trên giường nhảy vọt lên, cười khanh khách, giơ tay vịn vào vai Tiêu Phong.
Thiếu nữ đó chết đi sống lại, người trong phòng ai nấy vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên. Người trung niên kia cười nói:
- Hóa ra ngươi dọa ta ...
Người đàn bà đang khóc cũng bật cười, kêu lên:
- Đứa con khốn khổ của ta ơi!
Bà ta giang hai tay, bước tới ôm chầm lấy cô gái. Ngờ đâu Tiêu Phong tát trái một cái, đánh văng cô gái ra, tiếp theo liền vươn tay nắm ngay cổ tay trái thiếu nữ, cười nhạt nói:
- Mới tí tuổi đầu đã độc ác thế!
Người đàn bà kêu lên:
- Sao ông lại đánh con tôi?
Nếu không nể nang vì Tiêu Phong vừa mới “cứu sống” con gái chắc bà ta đã xông lên động thủ rồi. Tiêu Phong nắm được rồi, liền mở bàn tay cô ta ra nói:
- Xem này!
Mọi người mới thấy trong kẽ tay cô gái có kẹp một mũi kim nhỏ sáng bóng xanh biếc, thoáng nhìn đã biết ngay là tẩm chất kịch độc. Cô ta giả vờ giơ tay ra vịn vào vai Tiêu Phong nhưng chính là định dùng chiếc kim này đâm vào ông, cũng may ông nhanh tay lẹ mắt không bị trúng kế nhưng phải nói là thật hung hiểm vạn phần.
Thiếu nữ bị cái tát khiến mặt sưng vù, dĩ nhiên Tiêu Phong không dùng toàn lực chứ không thì đã vỡ đầu nát óc. Tay cô ta đã bị nắm chặt có muốn dấu chiếc kim cũng không kịp, nửa người bên trái ê ẩm không còn hơi sức, đột nhiên xệch mồm khóa òa lên:
- Ngươi hiếp đáp ta, ngươi hiếp đáp ta!
Người trung niên kia bèn dỗ:
- Thôi nín đi! Đừng khóc nữa! Chỉ bị đánh nhẹ thế có sao đâu? Ngươi hơi một tí đã dùng ám khí kịch độc giết người, dạy bảo cho là phải lắm.
Cô gái vẫn khóc:
- Cái Bích Lân Châm này có gì là ghê gớm đâu. Tôi còn nhiều loại ám khí khác chưa dùng đến.
Tiêu Phong lạnh lùng nói:
- Sao ngươi không dùng Vô Hình Phấn, Tiêu Dao Tán, Cực Lạc Thích, Xuyên Tâm Đinh?
Cô gái lập tức nín bặt, mặt lộ vẻ kinh ngạc, run run hỏi:
- Làm sao ... sao ông biết?
Tiêu Phong nói:
- Ta biết cả sư phụ ngươi là Tinh Tú Lão Quái nên biết rõ những loại ám khí độc địa của ngươi nữa.
Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu là một cao thủ tà phái trong võ lâm, ai nghe tiếng cũng phải cau mày, là kẻ vô ác bất tác, giết người như ngóe, Hóa Công Đại Pháp của y chuyên sử dụng để tiêu hủy công lực người khác, là đại kỵ trong võ học. Có điều y võ công cực kỳ cao cường, tuy không ai làm gì được, nhưng cũng may ông ta rất ít đi lại Trung Nguyên nên không đến nỗi trở thành đại họa.
Người đàn ông trung niên vẻ mặt vừa thương xót, lại vừa quan tâm, ôn tồn hỏi:
- A Tử, sao con lại bái Tinh Tú Lão Quái làm thầy?
Cô gái giương đôi mắt tròn to đen láy nhìn trừng trừng vào người trung niên như dò hỏi:
- Sao ông lại biết được tên của tôi?
Người trung niên thở dài một tiếng nói:
- Bọn ta vừa nói chuyện với nhau bộ con không nghe gì sao?
Thiếu nữ lắc đầu, nhoẻn một nụ cười đáp:
- Tôi giả chết, tim ngừng đập, nín hơi thở, tai mắt đều đóng chặt, không nhìn thấy, không nghe thấy gì cả.
Tiêu Phong bỏ tay cô gái ra nói:
- Hừ, đó là Qui Tức Công của Tinh Tú Lão Quái.
A Tử lườm Tiêu Phong nói:
- Hứ, cái gì ông cũng biết cả.
Nói rồi cô nàng le lưỡi nhăn mặt trêu ông ta. Người đàn bà chăm chú ngắm nghía A Tử, mặt mày rạng rỡ, xem ra vui sướng không đâu cho hết. Người đàn ông trung niên cũng mỉm cười:
- Sao con lại giả chết? Làm ta sợ hết hồn.
A Tử cực kỳ đắc ý nói:
- Ai bảo ông hất tôi xuống hồ? Ông chẳng tử tế gì cả.
Người trung niên nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt ngượng nghịu, gượng cười nói:
- Ngang ngạnh thật!
Tiêu Phong biết hai cha con mới gặp lại, ắt hẳn có nhiều chuyện không muốn cho người ngoài nghe, kéo áo A Châu đi ra ngoài rừng trúc, thấy nàng hai mắt đỏ hoe, thân hình run rẩy bèn hỏi:
- A Châu, nàng không khỏe ư?
Ông giơ tay bắt mạch thấy nhảy thật nhanh đủ biết tâm thần đang chấn động mãnh liệt. A Châu lắc đầu nói:
- Không sao cả.
Rồi lập tức tiếp ngay:
- Đại ca, xin chàng ra ngoài trước, thiếp ... thiếp muốn đi giải.
Tiêu Phong gật đầu đi ra xa.
Tiêu Phong ra đến bờ hồ, đợi một hồi lâu vẫn không thấy A Châu từ trong rừng trúc đi ra, bỗng nghe thấy tiếng chân rộn rịp, có ba người rảo bước đi tới, trong lòng chợt động: “Không lẽ "tên đại ác" đến hay sao?”. Nhìn thấy ba người đó đi men theo đường nhỏ bên bờ hồ, trong đó hai người trên lưng có cõng ai đó, còn một người lùn nhỏ chạy nhanh như bay, tưởng chừng như chân không chạm đất. Y chạy một hồi rồi đứng lại chờ hai đồng bọn còn ở sau. Hai người kia bước chân ổn trọng hiển nhiên võ công cũng vào loại khá. Ba người đến gần, Tiêu Phong nhìn rõ hai người được cõng trên lưng chính là gã điên sử búa và đại hán họ Phó ông gặp trên đường. Người bé nhỏ kia kêu to:
- Chúa công, chúa công, "tên đại ác" đến rồi đó, bọn mình phải chạy cho mau.
Người trung niên kia một tay dắt người đàn bà, một tay cầm A Tử từ trong rừng trúc đi ra. Cả hai người trên mặt có dấu nước mắt, còn A Tử thì cười hì hì, mặt nhởn nhơ như không có chuyện gì xảy ra. Kế đó A Châu cũng đi ra đến bên cạnh Tiêu Phong. Người đàn ông bỏ tay hai người đàn bà ra bước đến bên cạnh hai người bị thương, giơ tay thăm mạch , thấy không có gì nguy hiểm đến tính mạng trên mặt lộ vẻ vui mừng nói:
- Ba vị thật là gian khổ, hai huynh đệ Cổ Phó không có gì đáng ngại, ta cũng yên lòng.
Ba người khom mình hành lễ, thần thái cực kỳ cung kính. Tiêu Phong toát mồ hôi nghĩ thầm: “Ba người này võ công khí độ không phải tầm thường, nếu không phải ở địa vị tôn quí độc bá nhất phương thì cũng phải là thủ lãnh một môn phái nào đó, sao đối với người trung niên này lại cung kính đến như vậy, không biết y lai lịch thế nào đây?”.
Hán tử thấp bé nói:
- Khải bẩm chúa công, thần hạ đã bố trí nghi trận bên cạnh Thanh Thạch Kiều để ngăn trở "tên đại ác". Chỉ sợ y sẽ nhìn ra cơ quan ngay, xin chúa công lập tức khởi giá ngay mới kịp.
Người trung niên kia đáp:
- Nhà ta chẳng may sinh ra một đứa ác nghịch như thế, nếu như gặp y nơi đây dẫu có muốn tránh cũng không tránh được, thôi đành cùng y một phen sống mái cho xong.
Một đại hán mày rậm mắt to nói:
- Việc trừ ác ngự địch, bọn thần tử sẽ chia nhau ra đảm trách, xin chúa công lấy chuyện xã tắc làm trọng, sớm trở về Đại Lý để hoàng thượng khỏi khắc khoải.
Một người thân hình tầm thước nói:
- Bẩm chúa công, việc hôm nay không thể đem cái dũng nhất thời mà đối phó. Ví như chúa công chỉ sẩy tay một tí, bọn chúng tôi còn mặt mũi nào trở về Đại Lý khấu kiến hoàng thượng? Đành phải cùng nhau tự vẫn thôi.
Tiêu Phong nghe đến trong trong lòng bàng hoàng: “Cái gì mà thần tử với chẳng hoàng thượng, rồi lại quay về Đại Lý? Không lẽ người này là Đoàn gia nước Đại Lý chăng?”. Tim ông đập thình thình, nghĩ bụng: “Biết đâu lưới trời lồng lộng, tên tặc tử Đoàn Chính Thuần hôm nay lại rơi vào tay ta chăng?”.
Ông trong lòng nghi ngờ bỗng nghe đằng xa có người rống lên, rồi có tiếng rổn rảng như kim loại chạm nhau vọng đến:
- Con rùa họ Đoàn kia, ngươi chạy không thoát đâu, mau ngoan ngoãn giơ tay chịu trói. Lão tử nể mặt con ngươi, không chừng sẽ tha mạng cho ngươi đó.
Có tiếng một người đàn bà tiếp theo:
- Việc tha hay không tha y đâu đến lượt Nhạc lão tam quyết định, chẳng lẽ lão đại không biết đứng ra phát lạc hay sao?
Lại có một giọng lạnh lẽo nói:
- Tên tiểu tử họ Đoàn nếu như biết phải quấy thì thể nào cũng đỡ hơn là không biết điều.
Y cố gằng nói từ xa vọng tới nhưng hiển nhiên trung khí bất túc, dường như bị thương chưa khỏi. Tiêu Phong nghe bọn kia mở miệng ra là gọi “tên họ Đoàn” lại càng nghi thêm, đột nhiên ở đâu một bàn tay nhỏ nhắn đưa ra nắm lấy tay ông. Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Châu đứng bên cạnh mình, thấy nàng mặt trắng bệch, bàn tay nàng lạnh ngắt đầy mồ hôi nên hỏi nhỏ:
- Nàng sao thế?
A Châu run rẩy đáp:
- Thiếp sợ lắm.
Tiêu Phong mỉm cười nói:
- Ở bên cạnh đại ca mà còn sợ nữa sao?
Ông nhếch mép về phía người đàn ông trung niên, thì thầm vào tai A Châu:
- Gã kia hình như là họ Đoàn Đại Lý.
A Châu môi mấp máy nhưng không nói gì.
Người đàn ông trung niên kia chính là hoàng thái đệ nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần. Thời niên thiếu ông du lịch Trung Nguyên, phong lưu trăng gió đến đâu cũng để lại ái tình. Thời đó những người phú quí ai mà chẳng năm thê bảy thiếp, Đoàn Chính Thuần là một hoàng tử cao sang, có đèo bòng cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ thế gia võ lâm, tuy đã xưng đế nơi Đại Lý nhưng ăn uống thức ngủ vẫn tuân theo tổ huấn không quên nguồn gốc hào kiệt Trung Nguyên.
Nguyên phối phu nhân của Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng là con gái một đại tù trưởng người Bãi Di ở Vân Nam nên họ Đoàn mới kết thân cốt để liên kết thế lực bảo vệ ngôi vị hoàng đế. Thời đó người Hán ở Vân Nam không nhiều, nếu không được người Bãi Di ủng hộ thì ngôi vua của họ Đoàn không sao vững được.
Người Bãi Di vốn dĩ một vợ một chồng, Đao Bạch Phượng từ nhỏ vốn được tôn quí nên nhất định không cho Đoàn Chính Thuần lấy vợ lẽ, cũng chỉ vì chuyện ông đi đến đâu cũng vin cành bẻ lá mà tức mình xuất gia thành một đạo cô. Đoàn Chính Thuần với mẹ của Mộc Uyển Thanh là Tần Hồng Miên, vợ của Chung Vạn Cừu là Cam Bảo Bảo hay mẹ của A Tử là Nguyễn Tinh Trúc mỗi người đều có một thiên tình sử.
Lần này Đoàn Chính Thuần phụng mệnh hoàng huynh, tới chùa Thân Giới ở châu Lục Lương tra xét xem Huyền Bi đại sư bị người ta giết như thế nào. Ông thấy có rất nhiều điểm đáng ngờ, chưa chắc đã là Cô Tô Mộ Dung ra tay, nhưng đợi ở đó đến hơn nửa tháng vẫn không thấy cao tăng nào của chùa Thiếu Lâm đến cả nên cùng Tam Công Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch và tứ đại hộ vệ đến Trung Nguyên điều tra xem thực hư thế nào, nhân tiện đến thăm Nguyễn Tinh Trúc đang ẩn cư ở Tiểu Kính Hồ. Từ đó đến nay hai người quả là vầy duyên cá nước sung sướng khác gì thần tiên.
Đoàn Chính Thuần cùng người tình cũ ôn lại tình nồng thì Tam Công Tứ Vệ đi theo hộ giá chia ra khắp bốn bên che chở, có ai ngờ đâu kẻ đại đối đầu lại tìm được đến nơi. Đoàn Diên Khánh võ công lợi hại nên Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui trước sau bị thương. Chu Đan Thần lại tưởng lầm Tiêu Phong là địch, ở trên cầu đá xanh ngăn lại không xong. Chử Vạn Lý thì lại bi Nhu Ti Võng của A Tử trói lại, Tư Mã Phạm Hoa, Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Không Ba Thiên Thạch ba người cứu được Cổ, Phó xong liền quay về chung sức chống trả cường địch.
Chu Đan Thần vẫn cố gắng tìm cách cởi cho Chử Vạn Lý ra khỏi chiếc lưới nhưng chiếc lưới này dao cắt không đứt, tay mở không xong, mồ hôi đầm đìa mà vẫn không làm gì được. Đoàn Chính Thuần quay sang nói với A Tử:
- Ngươi mau thả Chử thúc thúc ra, đại địch sắp tới rối không được nghịch ngợm nữa.
A Tử cười đáp:
- Thế ba thưởng con cái gì đây?
Đoàn Chính Thuần nhíu mày:
- Ngươi không vâng lời, ta bảo mẹ ngươi đánh vào lòng bàn tay. Ngươi mạo phạm Chử thúc thúc, sao chưa mau mau tạ tội đi?
A Tử đáp:
- Ba vứt con xuống hồ làm con phải giả chết một hồi lâu, sao ba không tạ tội với con? Con cũng nói má đánh vào tay ba đó!
Bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch thấy Trấn Nam Vương bỗng nhiên lại có thêm một cô con gái ngang ngược cứng đầu, đối với phụ thân chẳng có phép tắc gì cả ai nấy đều dè chừng nghĩ thầm: “Cô nương này tuy không phải đích xuất nhưng dẫu sao cũng là thiên kim của Trấn Nam Vương, nếu như có xúc phạm đến mình, cũng không thể nào coi là thực mà đành nhịn vậy thôi. Chử huynh đệ bị cô ta trói như thế khó mà chịu nổi”.
Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp:
- Ngươi không nghe lời ba, để xem ta có còn thương ngươi nữa không?
A Tử cong cớn nói:
- Ba trước nay có thương gì con đâu, nếu không đâu có bỏ bê con mười mấy năm chẳng nhìn nhõi gì?
Đoàn Chính Thuần không biết phải nói sao, chỉ lặng lẽ thở dài. Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Cục cưng A Tử ơi, má có cái này hay lắm, con mau mau cởi trói cho Chử thúc thúc đi nào!
A Tử chìa tay ra nói:
- Má đưa con coi trước để con xem có thật là hay không đã.
Tiêu Phong trong bụng kính phục Chử Vạn Lý là một hảo hán, đứng ngoài thấy cô bé con này ngang ngược hỗn láo đã bực trong lòng, nghĩ thầm: “Ngươi là gia thần của y nên không nổi cáu được chứ ta có gì mà phải nể nang”. Ông cúi xuống, nhắc Chử Vạn Lý lên nói:
- Chử huynh, xem chừng dây tơ này gặp nước là sẽ bung ra, để ta nhúng Chử huynh xem thế nào.
A Tử giận quá kêu lên:
- Cái thứ đồ trời đánh kia sao cứ xía vào chuyện người ta.
Thế nhưng nàng ta đã bị Tiêu Phong cho một bạt tai nên cũng hơi sợ không dám đưa tay ra ngăn cản. Tiêu Phong xách Chử Vạn Lý lên đi xuống bên cạnh hồ, nhúng y xuống nước. Quả nhiên cái lưới bằng tơ mềm kia liền nhũn ra, ông giơ tay cởi Chử Vạn Lý nói khẽ:
- Đa tạ Tiêu huynh đã giúp đỡ.
Tiêu Phong mỉm cười:
- Con nhãi cứng đầu này thật khó dạy, ta đã cho nó một cái tát để Chử huynh hả tức rồi.
Chử Vạn Lý lắc đầu, thật là rầu rĩ. Tiêu Phong cuộn chiếc lưới lại, lạ thay thành một cục chỉ to bằng nắm tay. A Tử chạy tới giơ tay ra:
- Trả lại cho ta!
Tiêu Phong giơ tay lên làm như định đánh, A Tử sợ quá vội thụt lùi mấy bước. Tiêu Phong chỉ dọa cô ta thôi, tiện tay bỏ luôn chiếc lưới vào túi. Ông đoán chừng người trung niên kia hẳn là kẻ đại đối đầu của mình, A Tử là con gái y, chiếc Nhu Ti Võng này là một món lợi hại không nên trả lại cho cô ta.
A Tử chạy đến giựt chéo áo Đoàn Chính Thuần kêu lên:
- Ba nè, y lấy chiếc lưới của con, y lấy chiếc lưới của con!
Đoàn Chính Thuần thấy Tiêu Phong thái độ khác thường, chắc chỉ muốn trừng trị A Tử một phen, chứ võ công như vậy lẽ nào lại tham một món đồ chơi của trẻ con.
Đột nhiên Ba Thiên Thạch lớn tiếng nói:
- Vân huynh đến đó có phải không? Công phu người khác càng luyện càng giỏi, sao Vân huynh lại càng luyện càng thụt lùi? Xuống ngay đi!
Nói xong liền múa chưởng nhắm cái cây đánh tới, lách cách mấy tiếng một cành cây bị đánh gãy rơi xuống, dồng thời một người cũng rơi theo. Người đó vừa gầy vừa cao, chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Hôm ở Tụ Hiền Trang y bị Tiêu Phong đánh cho một chưởng trọng thương, tưởng đâu mất mạng, dưỡng thương đã đỡ nhưng công phu chưa bằng được lúc trước. Trước đây ở Đại Lý y cùng Ba Thiên Thạch thi tài khinh công, hai người hơn kém không bao nhiêu, nhưng hôm nay Ba Thiên Thạch chỉ nghe tiếng bước chân y lên xuống đã biết khinh công của y so với trước kém nhiều.
Vân Trung Hạc thấy Tiêu Phong, trong lòng kinh hãi, xoay lưng toan chạy thì từ con đường mòn bên cạnh hồ đã thấy ba người đi tới. Người phía bên trái đầu bù tóc rối, áo quần cũn cỡn, chính là Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần, còn bên phải là một người đàn bà tay ôm một đứa trẻ, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Người ở giữa mặc áo bào xanh, hai tay hai cây trượng sắt nhỏ, mặt trông như quỉ nhập tràng, chính là người đứng đầu trong Tứ Ác, tên gọi Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.
Đoàn Diên Khánh ít khi lộ diện ở Trung Nguyên, nên Tiêu Phong không biết được kẻ gọi là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này, nhưng bọn Đoàn Chính Thuần đã từng nếm qua thủ đoạn của y khi ở Đại Lý, biết rằng Diệp Nhị Nương, Nhạc Lão Tam tuy lợi hại thật nhưng đối phó không khó, còn Đoàn Diên Khánh mới thật không sao lường nổi.
Y kiêm cả sở trường hai phái chính tà, Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn tinh thông đã đành, lại luyện thêm công phu tà phái, chính tà ngang ngửa, đến những cao thủ như Hoàng Mi Tăng còn không địch lại y, Đoàn Chính Thuần biết mình không thể là đối thủ.
Phạm Hoa lớn tiếng nói:
- Bẩm chúa công, tên Đoàn Diên Khánh này bụng dạ không tốt lành gì, chúa công nên vì xã tắc làm trọng, mau mau đi mới các cao tăng của chùa Thiên Long đến mới được.
Chùa Thiên Long ở mãi tận Đại Lý, làm sao mời đến cho kịp? Trước mắt quân thần Đại Lý gặp hung hiểm không biết sống chết thế nào, câu nói đó chẳng qua xin Đoàn Chính Thuần mau mau bỏ chạy về Đại Lý, đồng thời hư trương thanh thế, để Đoàn Diên Khánh tưởng là các cao tăng chùa Thiên Long ở gần đâu đây, đâm lòng úy kỵ. Đoàn Diên Khánh là dòng đích của họ Đoàn Đại Lý, ắt phải biết các sư sãi chùa Thiên Long lợi hại bậc nào.
Đoàn Chính Thuần biết rằng tình thế cực kỳ hung hiểm nhưng trong tất cả mọi người ở Đại Lý thì ông võ công cao hơn cả, nếu bỏ anh em chạy lấy một mình thì còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ? Huống chi tình nhân và con gái cũng đang ở cạnh đây, ai lại để mất mặt đến thế? Ông mỉm cười nói:
- Chuyện trong nhà của họ Đoàn Đại Lý lại phải đem nhau đến đất nhà Đại Tống mà giải quyết hay sao, ha ha, thật là nực cười!
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Đoàn Chính Thuần, mỗi lần ta gặp ngươi lại thấy ngươi ở bên cạnh một vài ả xinh tươi đẹp đẽ. Ngươi thật là diễm phúc.
Đoàn Chính Thuần nhếch mép:
- Diệp Nhị Nương, nàng cũng xinh tươi đẹp đẽ đấy chứ!
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ:
- Con rùa kia sao hưởng phúc lắm thế mà đẻ được thằng con không chịu bái ta làm thầy, thật quả không biết làm cha. Để lão tử cắt mẹ ngươi cho rồi.
Y lấy chiếc ngạc chủy tiễn bên người ra, xông vào Đoàn Chính Thuần. Tiêu Phong thấy Diệp Nhị Nương gọi người kia là Đoàn Chính Thuần mà y không phủ nhận, quả nhiên mình liệu không sai, quay sang nói nhỏ với A Châu:
- Đúng là y rồi!
A Châu run run hỏi:
- Đại ca định ... định thừa cơ người ta đang nguy, hai mặt giáp công chăng?
Tiêu Phong tâm tình khích động, vừa phẫn nộ vừa vui mừng, giọng lạnh như băng:
- Mối thù cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, lại thêm ta bị hàm oan, ôi, thật là huyết hải thâm cừu, ôi, còn nói gì nhân nghĩa đạo đức, qui củ giang hồ nữa?
Mấy câu đó tuy chỉ khe khẽ nhưng đầy oán độc, tưởng như chém đinh chặt sắt không bằng. Phạm Hoa thấy Nam Hải Ngạc Thần xông tới, nói nhỏ:
- Hoa đại ca, Chu hiền đệ hiệp lực tấn công gã mãng phu này. Đánh cho mạnh cho gấp, kết thúc càng nhanh càng tốt, để bẻ nanh bẻ vuốt y trước, sau đó tất cả dùng toàn lực đối phó với kẻ thù chính.
Hoa Hách Cấn và Chu Đan Thần đáp lời bước ra. Hai người biết rằng lấy hai địch một thật mất thân phận, một mình Hoa Hách Cấn cũng không kém gì Nam Hải Ngạc Thần, cần gì phải nhờ ai giúp nhưng nghe Phạm Hoa nói thế thật có lý. Đoàn Diên Khánh quả thực quá ư lợi hại, lấy một đánh một không ai có thể là đối thủ của y, chỉ có cách tất cả ùa lên một lượt mới có cơ sống sót. Hoa Hách Cấn lập tức cầm cương sản, Chu Đan Thần múa thiết bút, chia ra hai bên tả hữu Nam Hải Ngạc Thần đánh vào.
Phạm Hoa lại tiếp:
- Ba huynh đệ đến đối phó với người bạn cũ, ta và Chử huynh đệ đối phó với con mụ kia.
Ba Thiên Thạch đáp lời tiến ra, xông vào Vân Trung Hạc, Phạm Hoa và Chử Vạn Lý cùng nhảy ra theo. Võ khí Chử Vạn Lý cầm vốn là chiếc cần câu bằng sắt nhưng đã bị A Tử ném xuống sông rồi, lúc này cầm cây đồng côn của Phó Tư Qui hầm hè xông lên.
Phạm Hoa lao thẳng vào Diệp Nhị Nương, Diệp Nhị Nương toét miệng cười, thấy thân pháp của họ Phạm biết là kình địch, không dám coi thường, liền ném huỵch đứa trẻ trong tay xuống đất, lúc quay lại trong tay đã cầm một thanh đao vừa mỏng vừa rộng, không biết vốn dấu ở chỗ nào.
Chử Vạn Lý la ó rầm rĩ, xông vào Đoàn Diên Khánh. Phạm Hoa kinh hãi kêu lên:
- Chử huynh đệ, Chử huynh đệ, qua bên này!
Chử Vạn Lý dường như không nghe thấy, giơ cây đồng côn lên, hết sức quật ngang. Đoàn Diên Khánh cười nhạt, không coi vào đâu, thiết trượng bên trái điểm vào mặt y. Thế trượng đó nhẹ nhàng như không, nhưng thời khắc bộ vị không sai một mảy, so với cây gậy đồng của Chử Vạn Lý đánh tới còn nhanh hơn, hậu phát tiên chí, ra chiêu thật là lợi hại. Thế đó lấy công làm thủ, chỉ một chiêu đã phản khách vi chủ, Chử Vạn Lý không thể không tránh né.
Ngờ đâu thế trượng đánh ra Chử Vạn Lý làm như không trông thấy, kình lực trên tay càng tăng thêm, đồng côn vẫn tiếp tục vụt ngang lưng địch thủ. Đoàn Diên Khánh kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ gã này điên sao?”. Y không thể cùng Chử Vạn Lý lưỡng bại câu thương, dù một trượng có đánh chết y ngay tại chỗ thì lưng mình trúng một côn, thể nào cũng bị thương, hữu trượng vội vàng điểm xuống đất, tung mình vọt lên tránh được.
Chử Vạn Lý liền dựng cây đồng côn lên đâm luôn vào bụng dưới Đoàn Diên Khánh. Cây gậy đồng của Phó Tư Qui nặng nề, vừa dài vừa to, sử dụng món binh khí này xem có ổn định hay không mà biết công phu đến đâu. Võ công của Chử Vạn Lý lấy nhẹ nhàng linh hoạt làm sở trường, sử dụng đồng côn không thuận tay, huống chi lại đánh liều đánh lĩnh, chiêu nào cũng nhắm thẳng vào chỗ yếu hại của Đoàn Diên Khánh, việc sống chết của chính mình chẳng để vào đâu. Người đời thường bảo: “Một người đánh chí mạng thì vạn người không đương nổi”, Đoàn Diên Khánh võ công cao cường thật nhưng gặp kẻ đánh thí mạng như người điên thế này cũng phải liên tiếp thối lui.
Chỉ thấy trên đám cỏ xanh bên cạnh Tiểu Kính Hồ, trong chốc lát đã lấm tấm đầy máu tươi. Thì ra Đoàn Diên Khánh tuy phải lùi thật nhưng vẫn liên tiếp ra chiêu, trượng nào cũng trúng vào người Chử Vạn Lý, đâm thành một lỗ thủng. Thế nhưng Chử Vạn Lý dường như không biết đau, cây gậy đồng trong tay càng lúc càng nhanh.
Đoàn Chính Thuần kêu lên:
- Chử huynh đệ lùi xuống, để ta lên đấu với tên ác đồ.
Ông đưa tay cầm một thanh kiếm trong tay Nguyễn Tinh Trúc, xông lên toan hai người đánh một mình Đoàn Diên Khánh. Chử Vạn Lý kêu lên:
- Chúa công lui ra đi!
Đoàn Chính Thuần nào có nghe, giơ kiếm lên đâm vào Đoàn Diên Khánh. Cây trượng bên phải của Đoàn Diên Khánh chống xuống đất, cây gậy bên trái gạt đồng côn của Chử Vạn Lý, tiếp đó theo khe hở đâm vào giữa hai lông mày Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần nghiêng qua lùi một bước.
Chử Vạn Lý rống lên một tiếng như con mãnh thú bị thương, đột nhiên chuyển thế đánh, hai tay cầm một đầu gậy vung lên thật nhanh, thành một vòng tròn màu vàng, chẳng khác gì một cái mâm thật lớn, từ từ nhích gần tới nơi Đoàn Diên Khánh đang đứng. Lối đánh này chẳng còn gì là võ thuật chiêu số nữa.
Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần cùng lớn tiếng kêu lên:
- Chử huynh đệ, Chử đại ca mau lùi xuống nghỉ một chút.
Chử Vạn Lý kêu rống lên hầm hè, nhảy vụt vào, giơ côn đánh loạn vào Đoàn Diên Khánh. Lúc này Phạm Hoa cả bọn lẫn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần thấy y hành động quái đản cũng đều bãi đấu, chăm chú xem ra làm sao. Chu Đan Thần kêu lên:
- Chử đại ca, mua lui xuống!
Y xông lên toan ôm lấy Chử Vạn Lý nhưng bị y thúc lại một cùi chỏ, trúng ngay mặt, lập tức tím mặt vều môi. Gặp một đối thủ như thế quả thật ngoài sở nguyện của Đoàn Diên Khánh, lúc này y và Chử Vạn Lý hai bên đã sách giải hơn ba mươi chiêu, đã đâm trùng đối phương hơn chục lỗ thủng, nhưng Chử Vạn Lý vẫn hò hét xông vào. Đoàn Diên Khánh và người đứng xem ai nấy kinh khiếp, thấy việc này quả thật khác thường. Chu Đan Thần biết rằng đấu thêm nữa thể nào Chử Vạn Lý cũng táng mạng, nước mắt nhỏ ròng ròng, lại muốn xông lên giúp đỡ, vừa mới dợm chân thì đã nghe vụt một tiếng, Chử Vạn Lý đã hết sức bình sinh phóng cây đồng côn vào kẻ địch. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh điểm ra, khéo làm sao trúng ngay giữa thân cây côn, hất nhẹ một cái, cây gậy đã bay về phía sau. Cây côn chưa rơi tới đất, mười ngón tay Chử Vạn Lý đã xòe ra nhắm thẳng vào Đoàn Diên Khánh chộp tới.
Đoàn Diên Khánh cười nhạt, nhắm giữa ngực y đâm ra một trượng. Đoàn Chính Thuần, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần bốn người cùng kinh hoảng kêu lên, xông vào giúp đỡ. Thế nhưng cây gậy của Đoàn Diên Khánh đâm ra thật nhanh, nghe soẹt một tiếng đã xuyên qua ngực Chử Vạn Lý, từ trước qua sau. Trượng bên phải đâm qua thì cây gậy bên trái đã điểm xuống đất, thân hình đã tà tà bay xa hơn một trượng ra ngoài.
Vết thương trước ngực, sau lưng của Chử Vạn Lý máu tươi vọt ra, y vẫn còn định đuổi theo Đoàn Diên Khánh nhưng chỉ được một bước thì đã không còn hơi sức, quay đầu lại, nói với Đoàn Chính Thuần:
- Chúa công, Chử Vạn Lý thà chết không chịu nhục, đem cả đời báo đáp Đoàn gia Đại Lý.
Đoàn Chính Thuần quì gối phải, nước mắt lã chã:
- Chử huynh đệ, lỗi ở ta nuôi con không biết dạy, đắc tội với huynh đệ, Chính Thuần này thật hổ thẹn xiết bao.
Chử Vạn Lý quay sang gượng nở một nụ cười với Chu Đan Thần:
- Hảo huynh đệ, người anh này đành đi trước. Ngươi ... ngươi ...
Mới nói được hai chữ “ngươi” đột nhiên ngừng lại, thì ra đã tắt thở chết rồi, thân hình vẫn còn sừng sững chưa chịu ngã xuống. Mọi người nghe y trước khi chết nói đến “thà chết không chịu nhục”, biết rằng Chử Vạn Lý bất kể sống chết tấn công Đoàn Diên Khánh, chỉ vì bị cái nhục A Tử trói vào trong lưới, vốn đã mang tử chí rồi. Người trong võ lâm ai ai cũng biết:
Ta giỏi có người còn giỏi nữa,
Núi cao ắt có núi cao hơn.
Võ công nếu như thua kém người không phải là một kỳ sỉ đại nhục, khổ luyện mười năm, ngày sau cũng có lúc báo được mối thù. Thế nhưng Chử Vạn Lý là gia thần của họ Đoàn, A Tử lại là con gái Đoàn Chính Thuần, mối nhục này mãi mãi không sao rửa được, thôi đành chết ở chiến trận còn hơn. Chu Đan Thần khóc òa lên, Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành tuy bị thương nặng chưa khỏi nhưng cũng muốn đứng lên một phen tử chiến với Đoàn Diên Khánh.
Đột nhiên có một giọng trong vắt nổi lên:
- Người này võ công tệ quá, bỏ mạng chẳng đâu vào đâu, đúng là đồ ngốc.
Người nói chính là A Tử. Bọn Đoàn Chính Thuần đang đau lòng, nghe cô ta nói một câu khinh bạc châm chọc, ai nấy giận đến điên người. Bọn Phạm Hoa hầm hầm nhìn cô gái, có điều lại là con gái chúa công nên không tiện nổi khùng. Đoàn Chính Thuần tức khí xông lên, vung tay nhắm ngay mặt cô ta tát một cái.
Nguyễn Tinh Trúc giơ tay gạt ra, giận dỗi nói:
- Mười mấy năm nay bỏ cho người ta chẳng ngó ngàng gì tới, sống chết chẳng biết ra sao, đến bây giờ mới trùng phùng, lại nhẫn tâm đánh nó hay sao?
Đoàn Chính Thuần vốn dĩ cũng ăn năn vì đã đối với Nguyễn Tinh Trúc chưa hết lòng, thêm nữa trước nay đối với nàng vẫn chiều chuộng hết mực, lại không muốn tranh chấp trước mặt người ngoài, chưởng kia vừa sắp đến tay Nguyễn Tinh Trúc đã rụt ngay lại, hầm hầm nói với A Tử:
- Chử thúc thúc vì ngươi mà chết, ngươi có biết hay không?
A Tử nhếch mép đáp:
- Người ta gọi cha là chúa công thì con cũng là tiểu chủ nhân của họ rồi. Có chết một vài đứa đầy tớ thì có đáng gì đâu?
Vẻ mặt cô ta tỏ ra cực kỳ rẻ rúng. Vào thời đó vua tôi phân chia thật nghiêm, đến nỗi “vua muốn bầy tôi phải chết thì không thể không chết”. Bọn Chử Vạn Lý ở triều đình Đại Lý là phận thần tử, đối với Đoàn gia cực kỳ kính trọng. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ võ lâm Trung Nguyên, trước sau vẫn giữ qui củ giang hồ, Hoa Hách Cấn, Chử Vạn Lý ... tuy là bầy tôi nhưng Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần vẫn coi họ như anh em.
Đoàn Chính Thuần từ thuở thanh xuân vẫn thường qua lại giang hồ Trung Nguyên, Chử Vạn Lý theo ông vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu phong ba gian hiểm, nào có phải là một kẻ đầy tớ tầm thường? Câu đó của A Tử bọn Phạm Hoa nghe thật không vui chút nào. Nếu không phải ở trong triều đình, miếu đường, Bảo Định Đế đối với bọn họ vẫn thường dùng tiếng “huynh đệ” mà gọi, huống chi Đoàn Chính Thuần lại chưa lên ngôi cửu ngũ, còn A Tử chẳng qua là một đứa con riêng, danh phận chưa đâu vào đâu?
Đoàn Chính Thuần vừa đau lòng về cái chết của Chử Vạn Lý , lại có đứa con như thế thật xấu hổ với anh em, giơ trường kiếm lên thản nhiên bước tới, chỉ vào Đoàn Diên Khánh nói:
- Nếu như ngươi muốn giết thì cứ việc ra đây lấy mạng ta. Họ Đoàn lấy “nhân nghĩa” trị nước, nếu giết người vô tội để được nước thì có được cũng chẳng bao lâu.
Tiêu Phong trong bụng cười khẩy: “Ngươi miệng nói sao thật dễ nghe, đến nước này còn giở trò ngụy quân tử”. Đoàn Diên Khánh điểm cây gậy sắt đã đến bên cạnh Đoàn Chính Thuần nói:
- Ngươi muốn một đánh một với ta, không phải nhờ đến người ngoài, có đúng vậy chăng?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Đúng vậy! Ngươi định giết ta xong sẽ đến Đại Lý giết Hoàng huynh ta, xem vận khí có được như ý nguyện hay không? Bộ thuộc gia nhân của ta không liên quan gì đến chuyện của hai người mình.
Ông biết Đoàn Diên Khánh võ công quá cao siêu, hôm nay chắc mình không khỏi chết, chỉ mong y đừng làm khó Nguyễn Tinh Trúc, A Tử cùng bọn Phạm Hoa. Đoàn Diên Khánh đáp:
- Người nhà ngươi thì giết, còn bộ thuộc ngươi thì tha. Năm xưa phụ hoàng vì lòng nhân không giết hai anh em ngươi nên mới có cái họa soán nghịch hôm nay.
Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Ta Đoàn Chính Thuần phải đường đường mà chết, đâu để cho người đàm tiếu”. Ông quay sang thi thể Chử Vạn Lý, chắp tay nói:
- Chử huynh đệ, Đoàn Chính Thuần hôm nay cùng huynh đệ sóng vai kháng địch.
Ông quay lại nói với Phạm Hoa:
- Phạm tư mã, khi ta chết rồi chôn ta ngang với Chử huynh đệ, không phân biệt kẻ chúa người tôi.
Đoàn Diên Khánh cười khẩy:
- Ha ha, giả nhân giả nghĩa, đến nước này còn cố thu phục nhân tâm, tưởng rằng người ta sẽ ra sức chịu chết cho ngươi sao?
Đoàn Chính Thuần không trả lời, tay trái thành kiếm quyết, trường kiếm tay phải đâm ra chiêu Kỳ Lợi Đoạn Kim chính là chiêu khởi thủ trong Đoàn gia kiếm. Đoàn Diên Khánh biết rõ biến hóa bên trong nên thản nhiên trả lại một trượng. Hai người vừa ra tay đều cùng sử dụng võ công tổ truyền của nhà họ Đoàn, Đoàn Diên Khánh lấy trượng thay kiếm, định bụng sẽ dùng Đoàn gia kiếm để giết Đoàn Chính Thuần.
Y cùng Đoàn Chính Thuần đối địch không phải vì có thù oán riêng tư mà vì tranh đoạt ngôi vua nước Đại Lý, trước mắt có cả Tam Công trong triều, nếu như y dùng công phu tà phái giết Đoàn Chính Thuần, quần thần nước Đại Lý ắt sẽ không phục. Còn như dùng bản môn công phu Đoàn gia kiếm để thắng, thật là danh chính ngôn thuận, không ai dị nghị được. Anh em họ Đoàn tranh ngôi vua không liên quan gì đến quần thần, sau này lên ngôi báu ắt sẽ lợi hơn nhiều.
Đoàn Chính Thuần thấy y dùng thiết trượng sử dụng công phu bản môn trong bụng yên tâm, liền ngưng thần nín thở, kiếm chiêu ổn thỏa, bước chân trầm tĩnh, đường kiếm nhẹ nhàng khinh khoái, chiêu nào tung ra đều công thủ đúng phép tắc.
Đoàn Diên Khánh dùng thiết trượng sử dụng Đoàn gia kiếm pháp khi đóng khi mở, đoan ngưng tự trọng, tuy chiêu số cực kỳ khinh linh phiêu dật nhưng vẫn không để mất khí tượng đế vương.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay mình quả là dịp may khó gặp, ta vẫn lo lắng không biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn thế nào, may sao Đoàn Chính Thuần lại có cường địch kéo đến, đối thủ lại chính cùng nhà với y, hai tuyệt kỹ của họ Đoàn đến cỡ nào chỉ chốc lát ta sẽ biết ngay”.
Xem đến sau hai mươi chiêu, cây gậy sắt trong tay Đoàn Diên Khánh dường như càng lúc càng nặng, sử dụng so với lúc đầu có vẻ chậm chạp hơn, mỗi khi kiếm của Đoàn Chính Thuần đụng phải, hai món binh khí văng ra càng lúc càng xa. Tiêu Phong ngầm gật gù, nghĩ bụng: “Công phu chân thực đã ra rồi đây, chỉ dùng một cây gậy sắt nhẹ nhàng mảnh khảnh mà chẳng khác gì thiền trượng sáu bảy chục cân, công lực quả thực phi phàm”. Người võ công cao cường đều có thể “cử trọng nhược khinh”, dùng binh khí nặng như không có gì, nhưng đến mức “cử khinh nhược trọng” thì công lực phải hơn một mức nữa. Tuy nhiên “tưởng như nặng” mà không phải nặng thật nghĩa là uy mãnh như một món binh khí nặng nề nhưng lại có cái khéo léo linh hoạt của binh khí nhẹ. Trước mắt thấy Đoàn Diên Khánh sử dụng một thiết bổng nhỏ bé mà chẳng khác gì cương trượng, càng lúc lại càng nặng thêm không biết đến thế nào mới dứt, Tiêu Phong phải khen thầm y nội lực thật kinh người.
Đoàn Chính Thuần ra sức tiếp chiêu, thấy mỗi lúc thiết trượng của kẻ địch càng nặng thêm, ép xuống khiến ông phải ngộp thở. Võ công họ Đoàn đối với nội kình hết sức quan trọng, hơi thở không thông là một dấu hiệu thua sút rồi. Thế nhưng Đoàn Chính Thuần không chút gì kinh hoàng, vốn dĩ biết mình không thể nào thắng được, nghĩ thầm cuộc đời hưởng phúc đã nhiều, hôm nay dẫu phải bỏ mạng bên hồ Tiểu Kính, cũng không uổng một kiếp người. Huống chi lại có Nguyễn Tinh Trúc đứng bên cạnh nhìn mình ánh mắt đầy vẻ tình tứ, có chết cũng là một con quỉ phong lưu.
Ông bình sinh đến đâu cũng để lại những mối tình, đối với Nguyễn Tinh Trúc càng thêm quyến luyến, tuy chẳng phải coi nặng hơn nguyên phối Đao Bạch Phượng hay những người đàn bà khác, thế nhưng tính ông dù ở bên cạnh bất cứ ai cũng đối đãi hết lòng hết dạ, dù có phải chết vì người tình cũng chẳng từ nan, còn khi chia tay vui vầy duyên mới rồi thì lại là chuyện khác.
Đoàn Diên Khánh nội lực truyền vào thiết trượng mỗi lúc một nặng, hai bên trao đổi đến hơn sáu mươi chiêu, đường kiếm họ Đoàn đã thi triển hết rồi, thấy đầu mũi Đoàn Chính Thuần đã lấm tấm mấy giọt mồ hôi nhưng hơi thở vẫn dài và đều, nghĩ thầm: “Ta nghe gã này là tên hiếu sắc, lắm vợ nhiều hầu, vậy mà nội lực được dai dẳng như thế, không thể nào mình để thua y được”. Lúc này nội lực trên thiết bổng đã phát huy đến cực độ, đánh ra tiếng gió vù vù. Mỗi lần Đoàn Chính Thuần đỡ được một kiếm lại lảo đảo, đến chiêu thứ hai lại lảo đảo lần nữa.
Hai người sử dụng kiếm chiêu đều đã thuộc lòng từ khi mười ba mười bốn tuổi, mà bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch mấy chục năm qua coi cũng đã quen, thành ra cuộc đấu kiếm này không phải tỉ thí chiêu số, mà là giao đấu nội lực. Bọn Phạm Hoa coi đến lúc này biết rằng Đoàn Chính Thuần chịu không nổi, đưa mắt cho nhau, tay cầm binh khí toan cùng xông lên tương trợ.
Đột nhiên một thiếu nữ cười khúc khích nói:
- Thật là tức cười, họ Đoàn Đại Lý tự xưng anh hùng hào kiệt, vậy mà cả bọn toan xông lên lấy đông đánh ít, chẳng hóa ra thành bọn vô sỉ tiểu nhân hay sao?
Mọi người ai nấy ngạc nhiên, thấy rõ ràng mấy lời đó từ miệng A Tử phát ra, không ai hiểu nổi. Người đang gặp nguy chính là cha cô ta, chẳng lẽ không biết hay sao mà còn buông lời biếm nhẽ?
Nguyễn Tinh Trúc giận dữ nói:
- A Tử ngươi biết cái gì? Cha ngươi là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, còn kẻ động thủ với cha ngươi là đứa phản nghịch của họ Đoàn. Những bằng hữu đây đều là thần tử nước Đại Lý, trừ bạo thảo nghịch là trách nhiệm của mọi người.
Bà ta tuy thông thạo bơi lội nhưng võ công chỉ bình thường, thấy tình lang gặp phải nguy cơ không nóng ruột sao được, nên liền kêu lên:
- Tất cả sánh vai tiến lên, đối phó với hung đồ phản nghịch còn nói gì đến qui củ giang hồ?
A Tử cười nói:
- Mẹ ơi, sao mẹ nói nghe tức cười làm vậy, chỉ toàn là gượng gạo chẳng có đạo lý gì hết. Cha con nếu là anh hùng hảo hán thì mới nhận làm cha, còn như là vô sỉ chi đồ, đánh nhau cần đến người tiếp sức, con nhận thứ cha đó làm chi?
Mấy câu đó từng tiếng rõ ràng truyền vào tai mọi người. Phạm Hoa và bọn Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn ai nấy bần thần, cảm thấy xông lên tương trợ thì cũng bất ổn, mà đứng yên chẳng ra tay cũng không xong.
Đoàn Chính Thuần tuy là kẻ gió trăng nhưng bốn chữ “anh hùng hảo hán” không phải là không thích. Ông vẫn thường tự chế nhạo mình: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan, nhưng dẫu không qua được cửa ải mỹ nhân cũng đâu phải là không anh hùng. Hạng Bá Vương có Ngu Cơ, Hán Cao Tổ có Thích phu nhân, Lý Thế Dân có Võ Tắc Thiên đó thì sao?”. Thành thử việc hèn hạ tệ hại, nhút nhát khiếp nhược ông quyết không làm. Ông tuy đang trong lúc chiến đấu kịch liệt nhưng nghe A Tử nói thế, lập tức lớn tiếng nói:
- Sinh tử thắng bại có gì là quan trọng đâu? Bất cứ ai tiến lên tương trợ, là coi Đoàn Chính Thuần này chẳng ra gì.
Ông mở miệng nói ra khiến nội lực không còn tinh thuần nữa nhưng Đoàn Diên Khánh không thừa cơ tiến lên bức bách, ngược lại lui về một bước, hai cây trượng chống dưới đất, đợi ông nói xong mới tiếp tục đánh nữa. Bọn Phạm Hoa ai nấy thầm kinh hãi, thấy Đoàn Diên Khánh ra vẻ phong độ nhàn nhã, không thèm chiếm phần hơn, chẳng qua biết mình thắng thế nên không sợ gì cả.
Đoàn Chính Thuần mỉm cười nói:
- Tiến chiêu đi!
Tay áo ông phất một cái, trường kiếm theo tụ phong cũng đâm ra. Nguyễn Tinh Trúc nói:
- A Tử, con xem cha con kiếm pháp lợi hại nhường bao, nếu như quả ông ta muốn lấy mạng con quỉ nhập tràng kia thì thừa sức. Có điều cha con thân phận vương gia, nên mới giao cho bộ thuộc đâu cần phải tự mình ra tay làm gì.
A Tử đáp:
- Cha con muốn thanh toán y cũng chưa chắc gì được. Con e rằng mẹ miệng lim dạ sứa, mồm thì ra vẻ ta đây mà bụng thì lo ngay ngáy.
Mấy câu đó quả đúng tâm sự mẫu thân, Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm lườm con nghĩ thầm: “Con nhãi này thực chẳng biết nông sâu, nói năng thật vô ý vô tứ”. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần đâm ra liên tiếp ba chiêu thật nhanh, thiết bổng của Đoàn Diên Khánh nội lực càng mạnh, ép cho kiếm bên địch phải lùi lại. Chiêu thứ tư của Đoàn Chính Thuần Kim Mã Đằng Không bay vòng ngang qua, gậy sắt trong tay Đoàn Diên Khánh liền ra chiêu Bích Kê Báo Hiểu, chọc luôn vào, bổng kiếm tương giao, lập tức dính chặt lấy nhau.
Đoàn Diên Khánh cổ họng kêu lên ục ục, cây gậy bên phải chống trên mặt đất điểm mạnh một cái, thân hình bay vụt lên không nhưng đầu gậy bên trái vẫn không rời mũi kiếm của Đoàn Chính Thuần.
Chỉ trong giây lát, một người hai chân vẫn bám trên mặt đất, vững chãi như một ngọn núi con không hề động đậy, còn người kia ở trên không đong đưa như cành liễu trước gió, dật dờ vô định. Người đứng chung quanh ai nấy “A” lên một tiếng, biết rằng hai người đã vào giai đoạn khẩn cấp tỉ đấu nội lực, Đoàn Chính Thuần đứng ở dưới đất hai chân có chỗ tựa để mượn lực, như thế có lợi hơn, thế nhưng Đoàn Diên Khánh từ trên cao đánh xuống, tất cả trọng lượng toàn thân ép xuống đầu kiếm đối phương, cũng khiến gia tăng sức mạnh.
Chỉ trong giây lát, trường kiếm từ từ cong lại dần dần biến thành hình cánh cung, thế nhưng thiết bổng mảnh khảnh kia vẫn thẳng băng như mũi tên. Tiêu Phong thấy trường kiếm trong tay Đoàn Chính Thuần càng lúc càng cong lại, cong thêm chút nữa e rằng sẽ gãy làm hai, nghĩ thầm: “Hai người trước sau sao vẫn chưa sử dụng môn tối cao thâm Lục Mạch Thần Kiếm? Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết rằng công phu của mình không bằng đối phương nên không dám phô cái vụng về của mình ra? Xem cách y vận dụng nội lực, bao nhiêu tiềm lực đã hết rồi chẳng còn bản lãnh nào chưa dùng đến”.
Đoàn Chính Thuần thấy trường kiếm trong tay lúc nào cũng có thể gãy đôi, vội hít một hơi dài, tay phải điểm ra, chính là công phu Nhất Dương Chỉ. Công phu của ông còn chưa bằng được anh là Đoàn Chính Minh, không thể nào xa quá ba thước. Bổng kiếm tương giao, hai món binh khí cộng lại phải đến tám thước, chỉ đó không thể nào đả thương được đối phương, chỉ lực không phải để đối phó với Đoàn Diên Khánh, mà là đâm vào cây gậy sắt của y.
Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Người này xem chừng không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, có lẽ chưa bằng được nghĩa đệ ta. Chỉ này chẳng qua là một môn công phu điểm huyệt cao minh, có gì lạ đâu?”. Thế nhưng chỉ lực của ông đụng vào, cây gậy của Đoàn Diên Khánh liền rung lên, kiếm của Đoàn Chính Thuần liền duỗi thẳng ra được một chút. Ông liên tiếp tung ra ba chỉ, trường kiếm duỗi ra được ba lần, tạm thời trở lại nguyên trạng. A Tử lại liến thoắng nói:
- Mẹ ơi, mẹ xem cha con đã sử chỉ lại sử kiếm, vậy mà chỉ mới ngang tay được với cây gậy tẻo teo của người ta thôi. Nếu như đối phương lấy cây gậy bên kia tấn công tới, chẳng lẽ cha con có đến ba cánh tay mà đỡ hay sao? Đến nước đó chỉ còn cách giơ chân đá ra, tuy khó coi thực còn hơn để cho người ta đâm cho chết ngoẻo.
Nguyễn Tinh Trúc đã thấy chuyện đó, trong bụng đang lo, con gái kế bên lại nói toàn những lời xúi quẩy khó nghe, bà ta chưa kịp trả lời đã thấy cây gậy tay phải của Đoàn Diên Khánh vung lên, nghe vù một tiếng, đâm luôn vào ngón tay trỏ bên tay trái của Đoàn Chính Thuần.
Thủ pháp và nội lực của Đoàn Diên Khánh so với Nhất Dương Chỉ có khác gì đâu, có điều lấy bổng thay ngón tay, đã dài lại xa. Đoàn Chính Thuần không tránh, chỉ lực và bổng lực đụng nhau, thấy cánh tay ê ẩm, ông vội rụt tay về, đang định vận nội kình điểm ra lần thứ hai, ngờ đâu cây gậy trước mặt chuyển động, Đoàn Diên Khánh đã tiếp tục đâm vào lần nữa. Đoàn Chính Thuần kinh hoảng: “Y điều vận nội lực nhanh đến thế, ý đến đâu sức tới đó, công phu Nhất Dương Chỉ ghê gớm đến thế sao? So với ta cao thâm hơn nhiều”. Vội vàng đâm ngón tay ra nhưng đã chậm mất một chút, thân hình lảo đảo.
Đoàn Diên Khánh đấu với ông một hồi, e rằng đêm dài lắm mộng, để lâu sinh chuyện, nếu như tất cả quần thần bộ thuộc cùng xông lên, thể nào cũng hao phí hơi sức, nên vận bỗng như gió cuốn, trong khoảnh khắc điểm ra chín lần. Đoàn Chính Thuần hết sức chống đỡ, đến lần thứ chín, chân khí không còn liên tục nghe soẹt một tiếng, đầu gậy đã đâm vào vai. Ông thân hình lắc lư, nghe cắc một tiếng, trường kiếm bên tay phải gãy ra làm đôi.
Từ trong cổ họng Đoàn Diên Khánh phát ra một tiếng quái dị, thiết trượng bên tay phải đâm luôn vào sọ đối phương. Thế bổng đó quyết lấy tính mạng Đoàn Chính Thuần nên y ra tay sử dụng toàn lực phát tiếng vù vù.
Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn cả cùng nhảy tới, chia ra hai bên tấn công Đoàn Diên Khánh. Tam công Đại Lý thấy tình thế hung hiểm vạn phần, muốn cứu Đoàn Chính Thuần không sao kịp nữa chỉ còn cách đánh vào những nơi yếu hại của Đoàn Diên Khánh, ép cho y phải quay về tự cứu mà thôi. Đoàn Diên Khánh cũng đã liệu được chuyện đó rồi, thiết trượng bên trái thò xuống đất đỡ thân mình, trượng bên tay phải vận đủ sức lực tạt ngang ra, chấn động một cái, đánh giạt cả ba món binh khí, sau đó quay lại đâm vào đầu Đoàn Chính Thuần.
Nguyễn Tinh Trúc kêu lên thất thanh, vội vàng nhào đến, xem ra tình lang chết ngay tại chỗ, nàng cũng chẳng muốn sống làm gì. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh chỉ còn cách huyệt Bách Hội trên đầu Đoàn Chính Thuần chừng ba tấc, đột nhiên thân hình Đoàn Chính Thuần bay tạt qua một bên, thành ra bổng đó điểm vào chỗ không. Khi đó Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch đã ép cho Đoàn Diên Khánh phải thu bổng trở về. Ba Thiên Thạch ra tay thật nhanh nhẹn, lật tay một cái nắm ngay được cổ tay Nguyễn Tinh Trúc để cho bà ta khỏi uổng mạng chết dưới tay Đoàn Diên Khánh. Mọi người quay sang nhìn Đoàn Chính Thuần.
Bổng của Đoàn Diên Khánh không điểm trúng đối phương, thấy một đại hán thò tay nắm ót Đoàn Chính Thuần, chỉ trong đường tơ kẽ tóc đã nhẹ nhàng kéo ông ta ra. Công phu đó quả thật không ai ngờ nổi, Đoàn Diên Khánh tuy võ công cao cường, nhưng cũng biết khó mà làm được. Bắp thịt trên mặt ông ta cứng đờ, tuy hết sức kinh ngạc nhưng vẫn thản nhiên như không, chỉ nghe hừ một tiếng bằng giọng mũi.
Người ra tay cứu Đoàn Chính Thuần chính là Tiêu Phong. Trong khi hai người họ Đoàn kịch đấu, ông đứng bên ngoài chăm chăm quan sát, đến khi thấy Đoàn Chính Thuần sắp bị đối phương giết chết, bổng của Đoàn Diên Khánh đánh xuống rồi thì mối huyết hải thâm cừu của mình không còn sao báo được nữa. Trong mấy ngày qua, ông đã tự nguyện không biết bao nhiêu lần, lập không biết bao nhiều lời thề, dù thế nào chăng nữa cũng nhất quyết phải trả cho bằng được mối thù này. Bây giờ kẻ thù ở ngay trước mắt, lẽ nào lại để y chết về tay kẻ khác? Thành thử ông tung mình nhảy tới, lôi Đoàn Chính Thuần ra ngoài.
Đoàn Diên Khánh tính toán linh mẫn, không đợi Tiêu Phong bỏ Đoàn Chính Thuần xuống, thiết bổng bên phải múa lên như giá táp mưa sa, hết gậy này đến gậy khác, liên tiếp điểm vào những chỗ yếu hại trên người Đoàn Chính Thuần. Y nhất quyết trừ khử kẻ chặn đường lên ngôi vua của mình, rồi sau đối phó Tiêu Phong cách nào thì để hạ hồi phân giải.
Tiêu Phong cầm Đoàn Chính Thuần né bên đông, luồn bên tây, theo những khe hở giữa hai đường gậy mà tránh được cả. Đoàn Diên Khánh liên tiếp sử dụng hai mươi bảy chiêu, vậy mà vẫn không đụng được vào chéo áo của Đoàn Chính Thuần. Y trong lòng thảng thốt, biết mình không phải là địch thủ của Tiêu Phong, hú lên một tiếng quái dị, đột nhiên bay vụt ra ngoài mấy trượng hỏi:
- Các hạ là ai? Sao lại xen vào việc này?
Tiêu Phong chưa kịp trả lời, Vân Trung Hạc kêu lên:
- Lão đại, y chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong, tên đồ đệ Truy Hồn Trượng Đàm Thanh của đại ca chết dưới tay tên ác đồ này đó.
Lời đó nói ra, không chỉ Đoàn Diên Khánh chấn động mà cả họ Đoàn Đại Lý cũng rùng mình. Tên tuổi Kiều Phong vang lừng thiên hạ, Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, trong võ lâm còn ai không biết. Có điều khi ông thông báo tên tuổi với Đoàn Chính Thuần và Phó Tư Qui đều tự xưng là “Tiêu Phong người Khất Đan”, nên không ai biết ông chính là Kiều Phong danh tiếng lừng lẫy. Đến bây giờ nghe Vân Trung Hạc nói thế, ai nấy đều nghĩ thầm: “Thì ra là y, võ công hiệp nghĩa, quả nhiên danh bất hư truyền”.
Đoàn Diên Khánh đã nghe Vân Trung Hạc kể lại đầu đuôi, tên đệ tử đắc ý của mình là Đàm Thanh ở Tụ Hiền Trang toan hại người không xong, ngược lại bị Kiều Phong giết chết, bây giờ nghe nói kẻ đứng trước mặt kia là kẻ giết học trò mình, trong bụng hết sức phẫn nộ nhưng cũng e dè, liền giơ thiết trượng ra viết lên trên nền đá xanh:
Các hạ có thù gì với ta? Đã giết học trò ta nay lại đến đây làm hỏng đại sự.
Chỉ nghe tiếng rào rào không dứt tưởng chừng như viết trên cát, hai mươi chữ chữ nào cũng hằn sâu vào đá. Môn phúc ngữ của y phải kết hợp với nội công thượng thừa có thể làm người ta hồn phách mê mẩn, thần trí hỗn loạn, là một môn tà thuật cực kỳ lợi hại. Có điều môn công phu này thuần do tâm lực khắc chế đối phương, nếu địch nhân nội lực thắng mình, thì lại bị dội ngược lại. Y biết Đàm Thanh chết cách nào, lại xem thân thủ Tiêu Phong cứu Đoàn Chính Thuần, nên không dám dùng thuật nói bằng bụng đối phó với Tiêu Phong.
Tiêu Phong đợi y viết xong, không nói một lời, tiến lên lấy gót chân di di mấy cái, lập tức xóa sạch những chữ trên nền đá. Người viết dùng thiết bổng viết trên đá xanh đã khó lắm rồi, nhưng người dùng gót chân xóa sạch tự tích thì môn công phu đó, so với nội lực tụ tại đầu gậy càng khó gấp bội. Hai người một viết một xóa, phiến đá xanh lót đường ở ven hồ thật chẳng khác gì một bãi cát nơi bờ biển.
Đoàn Diên Khánh thấy đối phương xóa hết chữ của mình, biết rằng ông ta một là trổ tài cho biết, hai là minh thị không thù oán, chuyện cũ bỏ qua, nếu không truy cứu thì hai bên ngừng tay. Đoàn Diên Khánh biết mình không phải đối thủ, chi bằng tránh voi chẳng xấu mặt nào khỏi bị cái bất lợi trước mắt, nên thiết trượng bên phải gạch một đường từ trên xuống dưới, móc lên một cái, biểu thị “một nét sổ toẹt” xóa hết mọi chuyện, sau đó điểm đầu gậy một cái, bay ngược về sau, xoay mình lặng lẽ đi mất.
Nam Hải Ngạc Thần trợn tròn đôi mắt, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, trong bụng không phục, chửi:
- Con mẹ nó, thằng chó đẻ này có cái quái gì đâu ...
Y nói chưa dứt câu, đột nhiên thân hình bay tung lên, rơi tõm ra giữa ao, nghe tùm một tiếng, nước văng tung tóe, đã chìm lỉm trong Tiểu Kính Hồ. Tiêu Phong giận nhất ai chửi ông là “đồ chó đẻ”, tay trái vẫn nhắc Đoàn Chính Thuần, tiến đến tay phải cầm Nam Hải Ngạc Thần lẳng một cái xuống dưới nước. Ông ra tay nhanh không thể tả, khiến cho Nam Hải Ngạc Thần không sao kháng cự được.
Nam Hải Ngạc Thần sống lâu nơi biển nam, đã tự xưng là “ngạc thần” nên bơi lội rất giỏi, hai chân búng vào đáy hồ một cái đã vọt lên khỏi nước kêu lên:
- Ngươi làm cách nào thế?
Y mới nói một câu, thân hình lại chìm xuống dưới đáy hồ, lại hết sức nhảy lên khỏi mặt nước, gào lớn:
- Ngươi ám toán lão tử.
Y vừa nói xong lại chìm nghỉm. Đến lần thứ ba y nhảy lên:
- Lão tử không để yên cho ngươi đâu.
Y tính tình cực kỳ nóng nảy, không đợi đến lúc lên được bờ, cứ nhảy chồm lên lại chửi Tiêu Phong một câu, rồi lại chìm xuống. A Tử cười nói:
- Mọi người xem kìa, gã này ở dưới nước trồi lên hụp xuống, có khác gì một con rùa không?
Vừa lúc đó Nam Hải Ngạc Thần nhảy lên khỏi mặt nước nghe thấy cô ta nói thế, liền chửi:
- Có ngươi mới là một con rùa ...
A Tử vung tay ra, nghe soẹt một tiếng, đã ném ra một mũi phi chùy. Khi món ám khí đó bay tới nơi, Nam Hải Ngạc Thần lại chìm mất tăm rồi.
Nam Hải Ngạc Thần bơi tới bên bờ hồ, người ướt như chuột lột bò lên nhưng không sợ hãi chút nào, hùng hục đi đến trước Tiêu Phong, nghiêng đầu nhìn ông ta nói:
- Ngươi vứt ta xuống hồ, dùng thủ pháp gì thế? Công phu đó lão tử chưa biết.
Diệp Nhị Nương đứng xa xa cách bảy tám trượng kêu lên:
- Lão tam đi thôi, đừng ở đây giở xấu ra nữa.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Ta bị người ta ném xuống hồ, đến người ta dùng thủ pháp gì cũng chưa biết, chẳng phải là kỳ sỉ đại nhục hay sao? Ta phải hỏi cho minh bạch chứ.
A Tử nghiêm nghị nói:
- Hay lắm, để cô nương nói cho ngươi nghe. Công phu đó của ông ta tên là “Trịch Qui Công”.
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Ồ, hóa ra gọi là Trịch Qui Công, ta biết được tên công phu đó rồi, sẽ đi kiếm người dạy, khổ luyện một phen, để sau này không bị bẽ mặt nữa.
Nói xong lục tục chạy đi, lúc đó Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã xa rồi.
Tiêu Phong nhẹ nhàng vứt Đoàn Chính Thuần xuống đất, lùi lại mấy bước. Nguyễn Tinh Trúc vái một cái thật sâu nói:
- Kiều bang chủ, ông trước đã cứu con gái tôi, bây giờ lại cứu... cứu anh ấy... thật không biết sao mới tạ ơn được.
Phạm Hoa, Chu Đan Thần cả bọn cũng lại cám ơn. Tiêu Phong lạnh lùng đáp:
- Tiêu Phong cứu y chỉ là vì lòng riêng, các vị không phải cám ơn làm gì. Đoàn vương gia, ta hỏi ông một câu, ông hãy trả lời cho thực. Năm xưa ông có làm một việc sai lầm thật đáng hổ thẹn, có phải thế không? Tuy việc đó không hẳn do bản tâm ông muốn thế, nhưng ông đã làm một đứa trẻ thơ cả đời khốn khổ, đến cha mẹ mình là ai cũng không biết, có đúng thế không?
Chuyện ngoài Nhạn Môn Quan khiến cho cả cha lẫn mẹ đều chết thảm, ông càng nghĩ càng đau lòng nên không muốn nói trắng ra trước mặt người ngoài.
Đoàn Chính Thuần mặt đỏ bừng, rồi lập tức tái nhợt, nói nhỏ:
- Quả đúng thế, việc này vẫn khiến Đoàn mỗ lúc nào cũng áy náy, mỗi khi nghĩ đến, trong lòng không yên. Thế nhưng sai quấy đã phạm rồi, không sao lấy lại được nữa. May mà trời thương hôm nay cho ta được gặp
lại đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ, có điều... có điều... ôi, ta thật là không phải.
Tiêu Phong gay gắt nói:
- Nếu ngươi biết là “sai quấy đã phạm, làm khổ người khác”, sao đến giờ phút này vẫn điều một điều hai tiếp tục làm chuyện ác?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu, hạ giọng nói nhỏ:
- Đoàn mỗ làm điều không ngay thẳng, đức hạnh khiếm khuyết, những việc sai quấy trong đời kể cũng đã nhiều, nghĩ lại càng thêm hổ thẹn.
Tiêu Phong từ khi nghe Mã phu nhân ở Tín Dương nói ra tên Đoàn Chính Thuần, ngày đêm suy tính, nghĩ bụng gặp được tên này thể nào cũng lột da lóc thịt, để cho y phải chịu trăm cay nghìn đắng lúc đó mới lấy mạng y. Thế nhưng đến khi thấy ông ta đãi bạn bè nhân nghĩa, với kẻ địch hiên ngang, không có vẻ gì là kẻ đê tiện gian tà chuyên làm chuyện xấu, trong bụng không khỏi ngờ vực nghĩ thầm: “Y giết cha mẹ ta ở ngoài Nhạn Môn Quan là do hiểu lầm, chuyện nhầm lẫn đó ai cũng có thể phạm phải. Thế nhưng y giết vợ chồng cha mẹ nuôi ta là Kiều Tam Hòe, lại làm hại ân sư Huyền Khổ đại sư, là những việc ác không thể nào tha thứ được, không lẽ bên trong còn có cái gì bí ẩn mà mình không biết hay chăng?".
Ông xưa nay hành sự không bao giờ cẩu thả, thành ra phải hỏi thẳng đối phương, để chính ông ta nói ra lúc đó mới quyết đoán. Đến khi thấy Đoàn Chính Thuần mặt mày ngượng nghịu, đầy vẻ hối tiếc, tự nhận mình đã làm việc sai lầm, trong lòng áy náy không yên, lại nói hôm nay gặp lại đứa trẻ mồ côi năm trước, còn “làm điều không ngay thẳng, đức hạnh
khiếm khuyết” chẳng phải nhắc đến việc giết vợ chồng Kiều Tam Hòe và
Huyền Khổ đại sư thì còn gì nữa?
Ông thấy đã hai năm rõ mười, khuôn mặt sầm xuống như phủ một làn
sương mỏng, hừ một tiếng. Nguyễn Tinh Trúc bỗng nói:
- Anh ấy... anh ấy xưa nay vẫn thế, ta... ta cũng chẳng... trách cứ gì đâu.
Tiêu Phong quay sang nhìn bà ta, thấy nàng mỉm cười, đôi mắt nhìn Đoàn Chính Thuần đầy vẻ tình tứ, trong lòng bỗng nổi cơn lôi đình, cười mũi một tiếng nói:
- Được, thì ra y xưa nay vẫn thế.
Ông quay lại nói với Đoàn Chính Thuần:
- Canh ba đêm nay, ta đợi ông ở nơi cầu đá, có chuyện muốn nói với các hạ.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Thể nào ta cũng đến. Đại ân không thể tạ bằng lời, có điều tôn giá mệt nhọc từ xa đến, sao không vào tiểu xá uống dăm chén rượu?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Thương thế các hạ ra sao? Có cần tĩnh dưỡng vài hôm không?
Việc Đoàn Chính Thuần mời vào uống rượu, Tiêu Phong nghe mà như bỏ ngoài tai. Đoàn Chính Thuần cảm thấy hơi lạ lùng nói:
- Đa tạ Tiêu huynh quan hoài, vết thương nhẹ đó chẳng có gì đáng ngại.
Tiêu Phong gật đầu nói:
- Thế thì được rồi. A Châu, thôi mình đi.
Ông đi được mấy bước, quay đầu lại nói với Đoàn Chính Thuần:
- Những hảo bằng hữu thủ hạ của ông không cần đem theo.
Ông thấy bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn đều là những hảo hán son sắt
một lòng, nếu như cùng đi với Đoàn Chính Thuần đến cầu đá xanh, ắt sẽ
đều chết dưới tay mình, quả thật đáng tiếc.
Đoàn Chính Thuần thấy người này hành sự, ăn nói có vẻ khác thường, cái thói đa tình hoa nguyệt của mình đến hoàng huynh biết được cũng chỉ mỉm cười, sao y lại nghiêm nghị trách mắng trước mặt mọi người, không phải quá đáng hay sao? Thế nhưng y có cái ơn cứu mạng, bèn nói:
- Mọi việc nhất nhất theo lời dặn dò của tôn huynh.
Tiêu Phong cầm tay A Châu, không theo con đường mòn cũ quay về. Hai người tìm đến một nhà nông, mua gạo nấu cơm ăn, lại mua thêm hai con gà luộc ăn cho no nhưng tiếc rằng không có rượu nên cũng mất hứng. Ông thấy A Châu dường như có tâm sự gì, từ đầu chí cuối không nói năng bèn hỏi:
- Ta tìm ra được kẻ đại thù, nàng phải vui với ta chứ!
A Châu mỉm cười nói:
- Đúng thế, thiếp vui lắm.
Tiêu Phong thấy nàng nở nụ cười thật là gượng gạo nói:
- Tối nay giết y xong, chúng mình lập tức đi về phương bắc, ra ngoài Nhạn Môn Quan cưỡi ngựa săn thú, thả bò chăn cừu, không quay lại quan nội một bước nào nữa. Ôi, A Châu, ta trước khi gặp Đoàn Chính Thuần, đã từng lập lời thề sẽ giết cả nhà y không chừa con gà con chó. Thế nhưng gặp người này rồi thấy đầy nghĩa khí, nghĩ rằng ai làm nấy chịu, không cần phải đi tìm người nhà y làm gì.
A Châu đáp:
- Chàng nghĩ được nhân từ như thế ắt tích thêm âm đức, thể nào sau này cũng được hưởng phúc lâu dài.
Tiêu Phong cười rộ lên đáp:
- Hai bàn tay ta giết không biết bao nhiêu người rồi, còn âm đức hậu phúc gì nữa?
Ông thấy đôi lông mày xinh đẹp của A Châu nhíu lại, bèn hỏi:
- A Châu, sao nàng lại không vui? Nàng không muốn ta giết người nữa ư?
A Châu đáp:
- Không phải thiếp không vui nhưng chẳng hiểu tại sao bụng thiếp đau quá.
Tiêu Phong giơ tay bắt mạch nàng, quả nhiên mạch nhảy không đều, có vẻ gấp gáp bèn dịu giọng nói:
- Đường đi gian khổ coi chừng nàng nhiễm phong hàn. Để ta bảo bà lão nấu cho nàng một bát cháo gừng uống.
Bát cháo gừng nấu chưa xong A Châu người đã run như cầy sấy, lập cập nói:
- Thiếp lạnh quá! Lạnh quá!
Tiêu Phong hết sức lo lắng, vội cởi áo ngoài đắp lên người nàng. A Châu nói:
- Đại ca, tối nay chàng báo được thù rồi là làm tròn đại tâm nguyện. Thiếp cũng muốn đi theo chàng, mong rằng bệnh đỡ được một chút.
Tiêu Phong gạt đi:
- Không cần, không cần! Nàng cứ ở đây nghỉ ngơi, ngủ một giấc lúc tỉnh dậy thì ta đã đem thủ cấp Đoàn Chính Thuần về rồi.
A Châu thở dài nói:
- Thiếp thật đau lòng xiết bao! Đại ca, thật chẳng biết cách nào!
Thiếp chắc không đi theo chàng được đâu! Thiếp chỉ mong được ở bên
chàng, mãi mãi ở bên chàng, chẳng bao giờ muốn cùng chàng phân ly ...
chàng ... chàng ... một thân một mình cô đơn tịch mịch, thiếp không được
cùng chàng ở bên nhau.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật thiết tha, trong lòng cảm động, nắm lấy
tay A Châu nói:
- Hai đứa mình chỉ xa nhau một chốc, có gì là quan trọng đâu? A Châu, nàng đối với ta thật tốt, ân tình nàng ta biết báo đáp thế nào đây?
A Châu đáp:
- Chẳng phải chia tay một lúc đâu, thiếp biết là mình sẽ xa nhau rất lâu, lâu thật là lâu. Đại ca, thiếp xa chàng rồi, chàng một thân một mình, thiếp cũng cô khổ lênh đênh. Tốt hơn hết chàng đưa thiếp ra ngoài Nhạn Môn Quan ngay bây giờ, hai đứa mình chăn bò thả cừu. Oán thù với Đoàn Chính Thuần, một năm nữa hãy báo có được không? Để thiếp được ở cùng chàng một năm thôi.
Tiêu Phong vỗ nhẹ lên mái tóc mềm mại của nàng nói:
- May quá mới kiếm được y, tối nay báo được thù rồi, đôi ta không quay lại Trung Nguyên nữa. Đoàn Chính Thuần võ công kém ta xa, y lại không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, qua một năm nữa thì mình lại phải tới tận Đại Lý. Ở đó họ Đoàn hảo thủ rất đông, gặp phải người tinh thông Lục Mạch Thần Kiếm, đại ca này phần lớn là thua. Chẳng phải ta không nghe lời nàng nhưng việc này quả có nhiều chỗ khó khăn.
A Châu gật đầu, nói nhỏ:
- Đúng thế, thiếp chẳng thể nào xin chàng một năm nữa đến Đại Lý tìm y báo thù. Chàng một thân một mình vào trong hang cọp, thật không thể được.
Tiêu Phong cười ha hả giơ chiếc bát cơm lên làm như uống một ngụm, tính vốn quen uống rượu từng bát rồi, lúc này tuy không có gì, nhưng cứ giả vờ thế cũng đỡ thèm, nói:
- Ví như Tiêu Phong này chỉ có một thân một mình, dù Đoàn gia Đại Lý là đầm rồng hang hổ thì cũng cứ vào, sinh tử nguy nan có coi vào đâu. Thế nhưng bây giờ bên cạnh lại có thêm tiểu A Châu, ta muốn lo liệu cho nàng thì tính mạng bây giờ quí lắm.
A Châu nằm gục vào trong lòng ông, bờ vai rung rung, Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, trong lòng thấy bình thản ấm áp nghĩ bụng:
“Được người vợ như thế này còn mong gì hơn nữa?”. Bỗng chợt ông thả hồn qua ngoài biên tái, nghĩ đến chỉ một tháng nữa thôi mình sẽ cùng A
Châu hai người cưỡi ngựa ruổi rong trên thảo nguyên ải bắc, chăn cừu săn thú, không còn nghĩ đến chuyện đề phòng kẻ địch đến tấn công, từ nay không buồn không lo, tiêu dao khoái hoạt biết bao! Có điều hôm trước nơi Tụ Hiền Trang, người áo đen kia cứu mạng mình chưa báo đáp được, không khỏi khắc khoải trong lòng, thế nhưng đại anh hùng thi ân nào cần báo, thôi cuộc đời này cũng đành thiếu ông ta một món ân tình.
Trời tối dần, A Châu nằm gục trong lòng ông đã ngủ thiếp từ lúc nào. Tiêu Phong lấy ra ba đồng bạc đưa cho nhà nông, bảo họ dọn cho một gian phòng, sau đó bồng A Châu đặt lên giường, đắp chăn cho nàng, buông màn xuống rồi ngồi ngoài nhà người nông gia nhắm mắt dưỡng thần, chẳng mấy chốc cũng ngủ nốt.
Ông ngủ một mạch hơn hai giờ, tỉnh dậy mở cửa bước ra thấy vầng trăng non đã lên quá ngọn cây, phía tây bắc mây đen đang kéo đến, xem chừng đêm nay sẽ có mưa dông.
Tiêu Phong khoác trường bào đi về phía chiếc cầu đá xanh. Đi được chừng năm dặm đến bên bờ sông, tuy bóng trăng vẫn chiếu xuống dòng nước, nhưng nửa bầu trời phía tây đã đầy mây đen, thỉnh thoảng lại có một tia chớp sáng lòe tỏ cả bốn bề nhưng vừa qua đi, trời lại tối đen như mực. Xa xa nơi gò đống mấy đám ma trơi lung linh, chập chờn trên những ngọn cỏ. Tiêu Phong đi càng lúc càng nhanh, chẳng bao lâu đã đến chiếc cầu đá, nhắm sao Bắc Đẩu thấy xem chừng mới chỉ độ canh hai nghĩ bụng: “Vì lo báo cho xong mối thù thành thử mình hơi nóng ruột nên đã đến sớm một canh”. Trong đời ông ước hẹn đem sinh tử ra đánh cuộc không biết bao lần, đối phương thanh thế võ công hơn Đoàn Chính Thuần cũng đã nhiều, thế nhưng sao đêm nay tâm thần hết sức hồi hộp, thiếu hẳn cái hào khí nhất quyết một phen tử chiến, trước nay chưa hề như thế bao giờ.
Ông đứng bên cầu, nhìn xuống dòng sông nước lững lờ trôi nghĩ thầm:
"Đúng rồi, trước kia ta một thân một mình, đến đâu thì đến, đi đâu thì đi,
không có gì phải khắc khoải, đêm nay mình có thêm một A Châu. Ôi, quả
đúng là nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản”. Nghĩ đến đây, trong lòng
dậy lên một nỗi ấm áp, mỉm cười, nghĩ tiếp: ”Giá như A Châu đứng cạnh
mình nơi đây thì thật còn thích thú hơn nhiều”.
Ông biết Đoàn Chính Thuần võ công so với mình còn kém xa, cuộc hẹn hôm nay chẳng phải lo gì đến chuyện thắng bại, thấy thời khắc ước hội cũng còn lâu nên ngồi xuống gốc cây bên cạnh cầu đá ngưng thần thổ nạp, dần dần linh đài thấy đã trống không, trừ hết mọi tạp niệm. Bỗng dưng một tia chớp sáng lòa, rồi một tiếng sấm ầm ầm nổi lên, một ánh sét từ trên không đánh xuống. Tiêu Phong mở to mắt, tự hỏi: "Trong chớp mắt là mưa kéo đến rồi, không biết đã đến canh ba chưa?".
Ngay lúc đó, từ con đường nhỏ đi qua Tiểu Kính Hồ một người chậm rãi đi tới, áo rộng, đai lỏng chính là Đoàn Chính Thuần. Ông ta đi đến trước mặt Tiêu Phong, vái một cái thật sâu nói:
- Kiều bang chủ vời đến, không biết có chuyện chi dạy bảo?
Tiêu Phong hơi nghiêng đầu liếc xéo ông ta, cơn giận từ trong lòng bùng lên nói:
- Đoàn vương gia, dụng ý ta hẹn ông đến đây không lẽ ông chưa biết hay sao?
Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:
- Có phải ông muốn nói đến chuyện ngoài Nhạn Môn Quan năm xưa, ta nghe lời kẻ gian để cho y xúi bẩy, làm mất mạng lệnh đường, khiến cho lệnh tôn phải tự tận, thật là một lỗi lầm hết sức lớn.
Tiêu Phong lạnh lùng nói:
- Thế sao ông lại còn làm hại vợ chồng nghĩa phụ ta là Kiều Tam Hòe, làm hại ân sư ta là Huyền Khổ đại sư?
Đoàn Chính Thuần chậm rãi lắc đầu, buồn bã nói:
- Ta chỉ mong che dấu được chuyện này, ngờ đâu càng lúc càng lún sâu vào tội ác, không sao rút ra được nữa.
Tiêu Phong nói:
- Hừ, ngươi quả là một hán tử thẳng thắn, ngươi tự xử lấy mình hay phải để ta động thủ?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Nếu không được Kiều bang chủ ra tay cứu trợ thì trưa hôm nay Đoàn Chính Thuần này đã táng mạng bên cạnh hồ Tiểu Kính rồi, được sống thêm nửa ngày đều là do các hạ ban cho. Kiều bang chủ muốn lấy mạng tại hạ thì cứ việc ra tay.
Khi đó tiếng sấm ầm ầm vang trời, từng giọt mưa to bằng hạt đậu lộp bộp rơi xuống. Tiêu Phong nghe y nói đầy hào khí, không khỏi động lòng. Ông vốn dĩ thích kết giao anh hùng hảo hán, từ khi gặp Đoàn Chính Thuần thấy y phong độ hiên ngang, không khỏi nẩy bụng cảm mến, nếu chỉ là một việc tầm thường, dù phải hết sức nhục nhã, cũng chỉ uống với nhau vài mươi chén rượu cười khì bỏ qua. Thế nhưng mối thù cha mẹ không đội trời chung, dễ gì bỏ qua cho được? Ông giơ chưởng lên nói:
- Là phận con cái, đại thù của cha mẹ sư trưởng không thể không báo. Ông giết cha tôi, mẹ tôi, cha nuôi tôi, mẹ nuôi tôi thêm thụ nghiệp ân sư của tôi, cả thảy năm người, vậy tôi đánh ông năm chưởng. Ông chịu đựng năm chưởng rồi, chết hay sống, bao nhiêu thù oán đều xóa sạch.
Đoàn Chính Thuần cười gượng:
- Một mạng người chỉ đổi lấy một chưởng, báo ứng với Đoàn mỗ thế là nhẹ quá rồi, hết sức cảm kích thịnh tình đó.
Tiêu Phong thầm nghĩ: “Họ Đoàn Đại Lý võ công trác tuyệt thật, nhưng e rằng chưa chắc đã chịu nổi một chưởng của Tiêu mỗ”. Ông bèn nói:
- Vậy thì xem đây!
Tay trái cuộn một vòng, tay phải nghe vù một tiếng đánh ra. Đột nhiên một ánh chớp sáng lòa, trên trời một tiếng sét ỳ ầm vang động, tiếng sấm tưởng như phụ họa với thế chưởng Tiêu Phong đánh ra, uy mãnh quả thực trời long đất lở, bình một tiếng, trúng giữa ngực Đoàn Chính Thuần. Chỉ thấy ông ta đứng không vững, đổ gục ngay xuống, nghe bịch một tiếng đã ngã sập trên lan can chiếc cầu đá xanh, nằm bẹp xuống không động đậy gì nữa. Tiêu Phong ngạc nhiên: “Sao y không giơ chưởng lên chống đỡ? Không lẽ tệ đến thế ư?”. Ông tung mình nhảy tới, cầm ngay cổ áo nhắc lên, trong bụng chột dạ, tai ù đi, mưa hắt vào mặt nhưng không biết gì chỉ kịp nghĩ: “Sao y nhẹ bỗng như thế này?”. Trưa hôm đó khi ra tay cứu Đoàn Chính Thuần đã cầm y nhắc lên khá lâu. Người võ công cao cường, trọng lượng trong tay dù chỉ sai biệt một cân, tám lượng thì cũng đã phát giác ngay. Thế nhưng lúc này Tiêu Phong thấy thân thể Đoàn Chính Thuần nhẹ hẫng đi hàng mấy chục cân, trong lòng nổi lên một mối kinh hoàng không đâu kể xiết, mồ hôi lạnh toát đầm đìa.
Vừa lúc đó một lằn chớp nữa lóe lên. Tiêu Phong giơ tay lên nắm vào mặt Đoàn Chính Thuần, thấy bốc ra một nắm nhão nhoẹt, xoa một cái lập tức rã ra, trong ánh chớp nhìn rõ ràng, thất thanh kêu lên:
- A Châu, A Châu, thì ra là em!
Tiêu Phong thấy chân tay bủn rủn không còn chút khí lực nào, nhịn không nổi khuỵu ngay xuống, ôm chặt lấy hai chân A Châu. Ông biết rằng vừa rồi chưởng thế của mình sử dụng toàn lực, dù kẻ võ công hạng nhất nếu không giơ chưởng ra chống đỡ, cũng chịu không nổi, huống chi là nàng A Châu ẻo lả mong manh? Chưởng đó đánh nàng đứt hết gân cốt, ngũ tạng nát nhừ, dẫu có Tiết Thần Y ở ngay bên cũng chưa chắc cứu nổi.
A Châu nằm dựa vào thành cầu, từ từ xụm xuống gục trong lòng Tiêu
Phong, thều thào nói:
- Đại ca, thiếp ... thiếp thật chẳng phải với chàng, chàng có giận em không?
Tiêu Phong gào lên:
- Ta không giận em đâu, ta chỉ giận ta thôi, ta chỉ hận ta thôi.
Nói xong giơ chưởng lên đánh mạnh xuống đầu mình. Bàn tay A Châu nhấp nhổm như muốn ngăn không cho ông tự đánh mình, nhưng không giơ lên nổi nữa, nói:
- Đại ca phải bằng lòng làm cho em một chuyện, vĩnh viễn không bao giờ được hủy mình.
Tiêu Phong gầm lên:
- Sao nàng lại thế? Sao lại làm thế? Sao thế?
A Châu nói nhỏ:
- Đại ca, chàng cởi áo ra xem đầu vai bên trái em đi.
Tiêu Phong cùng nàng rong ruổi muôn dặm quan san, đi cùng đi, ngủ cùng ngủ nhưng vẫn giữ lễ, bây giờ nghe A Châu bảo mình cởi áo nàng ra, không khỏi sững sờ. A Châu nói:
- Thiếp vốn đã thuộc về chàng rồi, em... em... thân này là của chàng. Chàng coi... coi đầu vai em thì sẽ rõ.
Tiêu Phong mắt nhòa lệ, nghe nàng nói không có vẻ gì mê loạn, trong
muôn một vẫn còn chút hi vọng mong manh, vội vàng tay trái đỡ lưng A
Châu vận chân khí cuồn cuộn trút vào thân thể nàng, may ra có thể chữa
khỏi điều lầm lẫn, tay phải từ từ cởi áo cô gái ra, để lộ vai trái. Trên trời
lại một lằn chớp loằng ngoằng vụt ngang, mắt Tiêu Phong hoa lên, thấy bờ vai nàng da trắng như tuyết có xâm một chữ “Đoàn” đỏ như máu. Tiêu Phong vừa kinh ngạc, vừa thương tâm, không dám nhìn lâu, vội vàng khép áo che lên đầu vai A Châu, nhè nhẹ ôm nàng vào lòng hỏi:
- Trên vai nàng có một chữ Đoàn là ý nghĩa gì thế?
A Châu đáp:
- Khi cha mẹ em đưa em cho người khác nuôi khắc lên vai để... để sau này còn nhận ra.
Tiêu Phong run rẩy nói:
- Chữ Đoàn đó, chữ Đoàn đó...
A Châu đáp:
- Ngày hôm nay, hai người phát hiện trên vai A Tử có một ký hiệu, biết ngay đó là con gái của họ. Chàng... chàng... có thấy cái ký hiệu đó không?
Tiêu Phong đáp:
- Không, ta không tiện xem.
A Châu nói:
- Trên vai... trên vai cô ta cũng có xâm một chữ Đoàn chẳng khác gì em.
Tiêu Phong chợt hiểu ra, run run hỏi:
- Em... em cũng là con họ đấy ư?
A Châu đáp:
- Em vốn dĩ không biết, sau khi nhìn thấy đầu vai A Tử rồi mới hay. Cô ta lại còn một sợi dây chuyền vàng giống y như sợi dây chuyền em có, trên đó có khắc mười hai chữ. Của cô ta là:
Hồ biên trúc,
Doanh doanh lục.
Báo bình an,
Đa hỉ lạc.
Trúc bên hồ,
Xanh xanh biếc,
Báo bình an,
Nhiều hạnh phúc.
Còn trên cái dây chuyền của em thì có mấy câu sau:
Thiên thượng tinh,
Lượng tinh tinh,
Vĩnh xán lạn,
Trường an ninh.
Sao trên trời,
Sáng lấp lánh.
Vĩnh chiếu tỏa,
Mãi an ninh.
Em... em... trước nay có hiểu ý tứ gì đâu, chỉ tưởng đọc cho thuận miệng có ngờ đâu là tên của mẹ em. Mẹ em chính là bà... Nguyễn... Tinh Trúc. Đôi dây chuyền này là của cha em tặng cho mẹ em, sau khi sinh ra hai chị em mới đeo cho mỗi đứa một cái nơi cổ.
Tiêu Phong nói:
- Bây giờ ta hiểu rồi, phải tìm cách chữa trị ngay cho nàng mới được, chuyện này để nói sau không muộn gì.
A Châu vội nói:
- Không, không đâu! Em muốn nói rõ cho chàng nghe, sợ để thêm chút nữa e không kịp. Đại ca, chàng nghe thiếp nói cho hết đã.
Tiêu Phong không muốn làm trái ý nàng, đành nói:
- Được rồi, ta nghe nàng nói xong nhưng nàng cũng đừng phí sức nhiều quá.
A Châu gượng nở một nụ cười nói:
- Đại ca, chàng thật tốt, chuyện gì cũng nghĩ đến em, thương em, chiều em biết bao.
Tiêu Phong nói:
- Từ nay trở đi, ta còn thương em gấp trăm lần, ngàn lần hơn nữa.
A Châu mỉm cười:
- Thế này đủ rồi, em cũng chẳng thích chàng đối với em quá tốt. Em rồi cứ nằm ườn ra thì ai lo việc nhà. Đại ca, em... em núp ở sau căn nhà tre, nghe lén cha em, mẹ em và A Tử muội muội nói chuyện. Hóa ra cha em đã có vợ rồi, cha em mẹ em không phải vợ chồng chính thức, năm trước sinh ra em, năm sau sinh thêm em gái em. Sau đó cha em muốn trở về Đại Lý, mẹ em không chịu cho cha em đi, hai bên cãi nhau một trận, mẹ em còn đánh cha em, cha em cũng chịu vậy không đánh lại. Về sau... về sau... không còn cách nào khác, hai người phải chia tay. Bên nhà ông ngoại em gia giáo lắm, nếu như biết được chuyện này, thể nào cũng giết mẹ em ngay. Mẹ em đâu dám đem hai đứa em về nhà, đành chia ra đem cho người ta, nhưng vẫn mong sau này còn nhận ra được nên trên đầu vai hai chị em xâm một chữ Đoàn. Người nuôi nấng em chỉ biết mẹ em họ Nguyễn, thực ra, thực ra... em họ Đoàn...
Tiêu Phong càng thêm thương xót, nói nhỏ:
- Em thật đáng thương quá!
Trên trời sấm chớp vẫn đùng đùng, hết tiếng sét này đến tiếng sét khác, đột nhiên một cây to bên cạnh bờ sông bị sét đánh trúng, nghe lách cách liền ngã xuống. Hai người chẳng để ý tới bên ngoài, tuy đang lúc đất trời biến đổi nhưng không hề hay biết.
A Châu lại tiếp:
- Người làm hại cha mẹ chàng lại chính là cha em, ôi, sao trời già cay nghiệt quá để cho đôi ta phải đau đớn dường này, vậy mà... vậy mà kẻ tra vấn để Mã phu nhân chính miệng nói ra tên cha em lại chính là em. Nếu như em không giả làm Bạch Thế Kính để đánh lừa bà ta thì bà ta nhất quyết không nói tên cha em ra. Người đời thường bảo trong cái mờ mờ u u minh minh kia cũng có sẵn ý trời, trước nay em nào có tin. Thế nhưng... thế nhưng... chàng thử xem liệu có hay không?
Tiêu Phong ngẩng đầu lên, mây đen che phủ không còn chút ánh trăng nào, một tia chớp vụt qua chiếu sáng bốn bề tưởng như ông trời vừa mở
mắt. Ông cúi đầu xuống, trong lòng hoang mang, hỏi lại:
- Em có chắc Đoàn Chính Thuần là cha em không? Không sai đấy chứ?
A Châu đáp:
- Không thể nào sai được. Thiếp thấy cha mẹ em ôm A Tử muội tử khóc nức nở, kể lại chuyện bỏ rơi hai chị em như thế nào. Cha mẹ em đều nói rằng, nhất quyết bằng giá nào cũng phải tìm cho được em mới thôi. Hai người có ngờ đâu đứa con của hai người nằm phục ngay bên cửa sổ. Đại ca ơi, hồi nãy em giả vờ bị bệnh là để cải trang thành chàng đến nói với cha em, bỏ cái hẹn ở cầu đá đêm nay đi, bao nhiêu chuyện cũ bỏ hết rồi, sau đó lại cải trang thành cha em, đến gặp chàng... để cho chàng... để cho chàng...
Nói đến đây hơi thở chỉ còn thoi thóp. Chưởng tâm Tiêu Phong càng gia tăng nội kình để mong A Châu không thoát lực, nhỏ lệ nói:
- Sao em không nói cho ta biết? Nếu ta biết ông ta là cha em...
Những lời tiếp theo ông không nói tiếp được, cũng không biết rằng, nếu quả biết được rằng Đoàn Chính Thuần là cha người mình yêu thương nhất đời thì phải làm sao.
A Châu nói:
- Em suy đi tính lại, suy nghĩ thật lâu. Đại ca, thiếp vẫn mong được ở bên chàng thêm ít nữa nhưng làm sao được? Liệu em có dám cầu chàng đừng báo thù cho năm vị thân nhân chăng? Nếu như thiếp hồ đồ nói ra mà chàng khứng chịu, có phải... thì đời chàng nào còn ra gì.
Tiếng của nàng càng nói càng nhỏ dần, tiếng sấm vẫn ỳ ầm không dứt, nhưng Tiêu Phong nghe thấy mỗi lời của A Châu còn kinh hồn động phách hơn tiếng sấm nhiều. Ông vò đầu mình nói:
- Sao em không bảo cha em bỏ đi, đừng giữ ước hội này! Hoặc giả cha em là anh hùng hảo hán, không chịu thất hứa thì em có thể giả làm ta, đính ước một lần khác, tại một nơi thật xa, vào một ngày thật xa gặp lại. Em việc gì... việc gì phải khổ như thế này?
A Châu đáp:
- Em muốn chàng biết rằng, một người lỡ tay làm chết một người khác có thể hoàn toàn chẳng do bản tâm. Chàng có bao giờ nghĩ đến chuyện hại em đâu, thế nhưng lại chính chàng đánh em một chưởng. Cha em làm chết cha mẹ chàng, cũng chỉ vì vô ý mà gây ra chuyện cực sai lầm.
Tiêu Phong một mực đăm đăm nhìn nàng, mấy lần ánh chớp lóe lên, thấy đôi mắt nàng nhu tình vô hạn. Tiêu Phong trong lòng rung động, biết A Châu đối với mình thâm tình biết là chừng nào, hơn hẳn những gì ông hằng nghĩ đến, cũng hiểu rõ một điều: “Đoàn Chính Thuần tuy là cha thân sinh ra nàng nhưng đối với nàng nào có cái ơn dưỡng dục, nhưng chỉ vì muốn mình hiểu được rằng sai lầm chỉ vì vô tâm đáng được tha, nên phải chịu hi sinh tính mạng”. Ông run run nói:
- A Châu ơi, có phải nàng còn nguyên nhân khác nữa chứ nào phải chỉ để cứu phụ thân, cũng không phải chỉ để cho ta biết rằng có những lỗi lầm chỉ vì vô ý, mà nàng chỉ vì ta đấy thôi, vì ta đấy thôi!
Ông ôm A Châu lên đứng dậy. A Châu nở một nụ cười, thấy Tiêu Phong hiểu được thâm ý mình trong lòng hoan hỉ. Nàng biết tính mạng mình đã đến lúc lâm chung, tuy không mong tình lang hiểu được nỗi niềm sâu thẳm trong tim mình nhưng rồi chàng cũng biết...
Tiêu Phong nói:
- Em hoàn toàn chỉ vì anh, A Châu, có phải không em?
A Châu nhỏ nhẹ:
- Đúng thế.
Tiêu Phong gào lên:
- Vì sao thế? Vì sao thế?
A Châu đáp:
- Họ Đoàn Đại Lý có Lục Mạch Thần Kiếm, nếu chàng giết Trấn Nam Vương của họ, họ đâu có để yên? Đại ca ơi, chữ trên bộ Dịch Cân Kinh mình có đọc được đâu...
Tiêu Phong chợt hiểu, một giòng lệ nóng trào ra, ròng ròng nhỏ xuống. A Châu nói:
- Thiếp xin chàng một điều, đại ca có bằng lòng không?
Tiêu Phong đáp:
- Nói gì một điều, dẫu có trăm điều, nghìn điều ta cũng bằng lòng.
A Châu nói:
- Thiếp chỉ có một đứa em gái, hai đứa từ nhỏ đã không được ở gần nhau, xin chàng trông nom cho nó, thiếp chỉ lo nó đi chẳng đi vào đường ngay nẻo chánh.
Tiêu Phong gượng cười:
- Đợi khi nào nàng khỏi rồi, mình sẽ đi kiếm để hai chị em được đoàn tụ với nhau.
A Châu mơ màng nói:
- Đợi em khỏi... ôi, đại ca, mình sẽ cùng nhau ra ngoài quan ngoại cưỡi ngựa đi săn, thả bò chăn cừu, chàng thử nghĩ liệu em gái thiếp có chịu đi theo không?
Tiêu Phong đáp:
- Dĩ nhiên là cô ta đi chứ, chị ruột và anh rể bảo đi không lẽ không đi?
Đột nhiên có tiếng cười khúc khích, từ dưới vòm cầu đá xanh một người bước ra, kêu lên:
- Sao không biết mắc cở? Cái gì mà chị ruột, anh rể là sao? Ta không đi đâu.
Người đó thân hình mảnh mai, mặc một chiếc áo tơi chính là A Tử. Tiêu Phong lỡ tay đánh A Châu một chưởng rồi, hết tâm hết ý lo cho nàng chứ với công phu của ông, làm gì không biết có người đang nằm phục ở dưới nước nhưng vì một mặt sấm chớp đùng đùng, mưa to gió lớn, thứ nữa tâm thần đại loạn, đến khi A Tử hiện thân lúc đó mới phát giác, không khỏi kinh ngạc kêu lên:
- A Tử, cô mau mau lại đây gặp chị cô.
A Tử dẩu môi nói:
- Ta náu dưới vòm cầu, cốt để xem ông đánh với cha ta cho vui, ai ngờ ông lại đánh trúng chị ta. Hai người tỉ tỉ tê tê chưa xong, ta đâu có muốn nghe, đàm tình thuyết ái việc gì phải lôi cả ta vào?
Nói xong đủng đỉnh đi tới. A Châu nói:
- Hảo muội muội, từ nay trở đi, Tiêu đại ca lo cho em, em... em cũng lo cho anh ấy...
A Tử cười khanh khách nói:
- Cái tên man tử thô lỗ khó coi kia, ta chẳng thèm đâu.
A Châu đang nằm trong lòng Tiêu Phong bỗng run rẩy, đầu ngoẹo xuống, mái tóc xổ tung ra phủ lên vai ông rồi không còn động đậy gì nữa.
Tiêu Phong vô cùng kinh hãi, kêu to:
- A Châu, A Châu!
Ông vội giơ tay bắt mạch thì không còn nhảy nữa rồi, trái tim ông tưởng chừng cũng đứng lại, vội giơ tay thăm mũi thấy nàng không còn thở nữa. Ông gào lên:
- A Châu, A Châu!
Thế nhưng cho dù có gọi đến nghìn lần vạn lần, A Châu không còn thể nào đáp lời được nữa. Tiêu Phong vội vàng đem chân lực trút vào người nàng nhưng A Châu vẫn không hề cử động. A Tử thấy A Châu tắt thở, hết sức kinh hãi, không còn dỡn hớt được nữa, hoảng hốt rú lên:
- Ngươi đánh chết chị ta rồi, ngươi ... ngươi đánh chết chị ta rồi!
Tiêu Phong đáp:
- Đúng đó, chính ta đánh chết chị cô, cô báo thù cho chị cô đi. Mau mau, giết ta cho xong!
Ông bỏ A Châu xuống, ưỡn ngực ra gào lên:
- Ngươi mau giết ta đi!
Ông chỉ mong A Tử rút dao ra đâm vào ngực mình, mọi việc như thế là xong, giải thoát khỏi niềm đau vô cùng vô tận. A Tử thấy Tiêu Phong
nghiến răng nghiến lợi trông thật man dã ghê rợn, không khỏi sợ hãi, lùi
lại mấy bước kêu lên:
- Ngươi... ngươi chớ có giết ta.
Tiêu Phong cũng tiến lên theo, tay đưa lên ngực, nghe soẹt một tiếng đã xé rách áo banh ngực ra, để lộ da thịt nói:
- Ngươi có độc châm, độc thích, độc chùy... mau mau đâm chết ta đi.
Dưới ánh chớp, A Tử thấy trên ngực ông ta xâm hình đầu một con chó sói xanh lè, răng nhe ra, hình mạo hung ác, lại càng khiếp vía, đột nhiên kêu rú lên quay mình chạy thục mạng. Tiêu Phong đứng chết sững trên cầu, hết sức thương tâm, lại thêm vô cùng hối hận, giơ chưởng lên bình một tiếng đã đánh vào lan can cầu, đá vỡ bay tung tóe. Ông đánh hết chưởng này đến chưởng khác, muốn khóc nhưng không sao khóc được, bỗng nghe lạch cạch, phiến đá lan can rơi tòm xuống sông. Một ánh chớp lại bùng lên, chiếu lên mặt A Châu, nỗi thâm tình quan thiết của nàng vẫn còn vương trên khóe miệng.
Tiêu Phong lại kêu rống lên:
- A Châu!
Ông ôm xác người tình lên chạy như bay vào trong đồng không mông
quạnh. Sấm chớp vẫn đùng đùng, mưa như trút nước, lúc thì chạy lên trên
triền núi, lúc lại chạy xuống vực sâu, chẳng biết mình đang ở nơi đâu, đầu óc hỗn loạn trống rỗng không còn biết gì nữa. Sấm chớp thưa dần nhưng mưa vẫn không ngớt. Phương đông trời đã hửng đỏ, bầu trời cũng sáng dần. Tiêu Phong đã chạy như điên trong hai giờ liền nhưng không hề mỏi mệt, chỉ muốn hành hạ thân xác mình, lại mong chết phứt cho rồi để mãi mãi ở bên cạnh A Châu. Ông rú lên từng chập, cuồng bôn loạn tẩu, không hiểu sao lại quay trở về chiếc cầu đá xanh.
Ông lẩm bẩm:
- Ta đi kiếm Đoàn Chính Thuần, bảo Đoàn Chính Thuần giết ta đi báo thù cho con gái.
Nghĩ thế bèn rảo bước chạy về phía Tiểu Kính Hồ. Chẳng bao lâu Tiêu Phong đã đến bên bờ hồ, kêu lớn:
- Đoàn Chính Thuần, ta giết chết con ngươi, ngươi ra giết ta đi, ta không đánh trả đâu, mau ra đây, ra giết ta đi!
Ông ôm ngang A Châu, đứng trước khu rừng trúc, đợi một hồi trong rừng vẫn lặng như tờ, không thấy một ai. Tiêu Phong tiến vào khu rừng, đi đến trước căn nhà tre, giơ chân đá bung cửa, đi vào phòng la to:
- Đoàn Chính Thuần, ngươi mau ra giết ta đi!
Trong nhà trống không chẳng thấy một ai. Ông đi lùng tìm khắp nhà ngang, nhà sau không thấy Đoàn Chính Thuần hay những người bộ thuộc,
đến cả người chủ là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử cũng không thấy đâu.
Trong nhà dụng cụ trần thiết vẫn y nguyên, tưởng như mọi người lật đật
bỏ đi không kịp mang theo gì cả. Ông nghĩ thầm: “Đúng rồi, A Tử chạy về báo tin, nói là ta muốn giết cha cô ta báo thù. Đoàn Chính Thuần chắc không chịu bỏ đi nhưng Nguyễn Tinh Trúc và những bộ thuộc của y ép y phải cao bay xa chạy. Ha ha, ta đâu có muốn đến giết ngươi, mà muốn ngươi giết ta đấy chứ”.
Ông lại gọi to mấy tiếng:
- Đoàn Chính Thuần, Đoàn Chính Thuần!
Thanh âm truyền ra xa nhưng chỉ thấy tiếng gió thổi vào cành trúc nghe xào xạc, tuyệt nhiên không có tiếng người. Chung quanh Tiểu Kính Hồ cũng như trong khu rừng không còn một ai, Tiêu Phong tưởng chừng trời đất này chỉ còn một mình ông. Từ lúc A Châu tắt thở đến giờ, ông chưa để nàng xuống, không biết bao lần dùng chân khí tống vào trong người nàng, chỉ mong biết đâu trời thương, cũng may như hôm trước nàng bị Huyền Từ phương trượng đánh trúng, chỉ bị thương nặng mà không chết. Thế nhưng lần trước Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ đánh vào chiếc gương đồng trong tay Tiêu Phong, A Châu chẳng qua chỉ bị chấn động, còn lần này chưởng của Tiêu Phong đánh thẳng vào giữa ngực, làm sao còn sống cho nổi? Dù cho ông đưa bao nhiêu nội lực truyền vào, A Châu vẫn không thể nào động đậy. Ông ôm A Châu, ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngồi trước nhà, từ sáng sớm đến tới tận trưa, rồi từ trưa ngồi cho tới tối. Lúc này sau cơn mưa trời trong vắt, ánh tà dương nhàn nhạt chiếu lên người Tiêu Phong và A Châu.
Khi ở Tụ Hiền Trang ông bị quần hùng vây đánh, mặc dù mọi người phản ông, tình thế hết sức nguy ngập, nhưng không chút nào nao núng, bây giờ chính mình lỡ tay làm nên một chuyện không thể nào sửa chữa được, càng thấy cô đơn, thật không còn muốn sống trên đời nữa. “A Châu chết thay cho cha nàng rồi, ta không thể nào đi kiếm y báo thù được nữa. Ta còn gì nữa để làm đây? Đại nghiệp của Cái Bang, hùng tâm tráng chí năm nào ta cũng chẳng còn phải nghĩ đến. Ta là người Khất Đan, có hùng tâm đại nghiệp gì đâu?”.
Ông đi ra nhà sau, thấy góc tường có để một cái cuốc, trồng hoa nghĩ thầm: “Thôi ta ở đây mãi mãi với A Châu chăng?’. Tay trái ôm A Châu,
không muốn rời nàng chút nào, tay phải cầm chiếc cuốc đi ra ngoài rừng
trúc, đào một cái hố rồi, đào thêm cái nữa, hai đống đất vun lại thành một, nghĩ bụng: “Cha mẹ nàng quay lại thể nào cũng đào lên xem thế nào. Ta phải làm mộ bia mới được”. Ông chặt một khúc tre, chẻ ra làm hai, xuống nhà bếp lấy dao đẽo cho thẳng đem qua bên sương phòng phía tây. Tiêu Phong thấy trên bàn có để bút nghiên giấy mực, bèn để A Châu nằm ngang trên gối, chấm mực cầm bút lên tại một thanh tre viết:
Khất Đan mãng phu Tiêu Phong chi mộ
Ông lại cầm thanh tre kia lên, trầm ngâm tự hỏi: “Mình phải viết gì đây? Tiêu môn Đoàn phu nhân chi mộ ư? Tuy nàng với ta có ước định phu thê nhưng chưa thành hôn, đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, gọi nàng là “phu nhân” không khỏi khinh mạn hay sao?”.
Trong bụng không sao quyết định được, ngửng đầu suy nghĩ một hồi, mắt nhìn vào mấy hàng chữ tại một bức bút thiếp trên tường, thuận mắt đọc xuống:
Hàm tu ỷ túy bất thành ca, tiêm thủ yểm hương la.
Ôi hoa ánh chúc, thâu truyền thâm ý, tửu tứ nhập hoành ba.
Khán chu thành bích tâm mê loạn, phiên mạch mạch, liễm song nga.
Tương kiến thời hi cách biệt đa.
Hựu xuân tận, nại sầu hà?
Tay thon che mặt, lụa thơm hơi.
Chếnh choáng đê mê, luống cạn lời.
Miên man tựa ngọc, đèn thêm rạng,
Dặt dìu chén cạn, sóng đùa khơi.
Say men ngơ ngẩn, xanh thành đỏ,
Đắm sắc chau mày, biếng lả lơi.
Gặp nhau một chốc, xa đằng đẵng,
Chớ để xuân tàn, hãy tận vui.
Ông không được học nhiều, chữ nghĩa chẳng bao nhiêu nhưng bài từ này không mấy khó nên cũng hiểu được đây là một bài thơ tả tình yêu trai gái, đại khái nói chuyện uống rượu xướng ca, gặp nhau chẳng bao nhiêu mà xa nhau thì thật nhiều nên trong lòng buồn bã. Ông bâng khuâng nhìn bức thiếp, cũng chẳng có lòng dạ nào nghĩ bài từ nói cái gì, chỉ thuận miệng đọc hết thấy bên dưới viết hai hàng chữ:
Thư thiếu niên du phó Trúc muội bổ bích.
Tinh mâu trúc yêu tương bạn, bất tri thiên địa tuế nguyệt dã.
Đại Lý Đoàn nhị túy hậu cuồng đồ.
Tiêu Phong lẩm bẩm:
- Y quả là khoái hoạt.
Đoàn nhị nước Đại Lý, ồ, thì ra đây là của Đoàn Chính Thuần viết tặng tình nhân Nguyễn Tinh Trúc. Chuyện gió trăng của cha mẹ A Châu, sao dám ngang nhiên treo ở đây, không biết xấu hay sao? À, đúng rồi, căn phòng này thuộc hạ Đoàn Chính Thuần không được vào. Ông không để ý đến bức thiếp đó nữa, nghĩ thầm: “Mộ bia của A Châu ta viết gì đây?”. Ông tự biết tài nghệ chữ nghĩa của mình quá ư nông cạn, càng nghĩ càng tắc tị nên đành viết bốn chữ “A Châu chi mộ”. Tiêu Phong bỏ bút xuống, đứng lên, định đem trúc bài cắm trước mộ, chôn cất cho A Châu xong xuôi rồi sẽ tự sát. Ông quay lại ôm xác A Châu, mắt lại liếc lên bức viết trên tường một lần nữa, đột nhiên nhảy dựng lên kêu “Ối chao”, lớn tiếng nói:
- Không đúng! Không đúng! Chuyện này xem ra không đúng!
Ông bước tới gần hơn, xem lại mấy hàng chữ trên bức thiếp, thấy nét bút tròn trịa đầy đặn, tuấn nhã tiêu sái. Ông tưởng như có tiếng từ đâu oang oang vọng tới:
- Phong thư kia, phong thư "đàn anh đứng đầu" viết gửi Uông bang chủ chữ viết đâu có giống thế này, hoàn toàn không giống.
Ông chỉ võ vẽ biết dăm chữ, đúng ra không thể biện nhận bút tích, thế
nhưng bức thiếp này nét chữ rắn rỏi vuông vắn, cách quãng đều đặn, còn
bức thư kia chữ xéo xéo xiên xiên, nét chữ gầy guộc, chỉ thoáng qua cũng
biết ngay là do con nhà võ trên giang hồ chấp bút.
Hai bên sai biệt quá xa, ai cũng phải nhìn ra được. Ông trợn tròn đôi mắt, chăm chăm dán vào bức thiếp tưởng như muốn tìm trong những hàng chữ kia cái đại bí mật, đại âm mưu ở đằng sau. Đầu óc ông quay cuồng, trước mắt chỉ thấy lá thư trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích đêm hôm đó, phong thư mà "đàn anh đứng đầu" đã viết cho Uông bang chủ.
Lá thư đó Trí Quang đại sư đã xé khúc đuôi, nơi có thự danh nuốt mất rồi khiến không còn làm sao biết được ai là người viết, thế nhưng nét chữ
trên tờ thư, đã in sâu vào đầu óc ông thật rõ ràng. Người viết lá thư đó, với kẻ xưng là “Đại Lý Đoàn nhị” trên bức thiếp này không thể cùng là
một người, điều đó thật chắc chắn không còn ngờ gì nữa.
Hay là phong thư đó "đàn anh đứng đầu" nhờ ai viết giùm? Ông chỉ suy nghĩ một chút thấy không hợp lý. Thư pháp Đoàn Chính Thuần đẹp như thế này thể nào chẳng tự mình viết thư, bàn luận chuyện lớn như vậy gửi cho Uông bang chủ lẽ nào lại nhờ người viết thay? Còn viết một bài từ phong lưu lãng mạn cho tình nhân cũng không thể nào bảo ai làm giùm
cho được.
Ông càng nghĩ càng nghi nan, luôn luôn tự hỏi: “Hay là "đàn anh đứng
đầu" không phải Đoàn Chính Thuần? Hoặc giả bức thiếp này không phải
Đoàn Chính Thuần viết? Không thể được! Không thể được! Nếu chẳng
phải Đoàn Chính Thuần thì còn ai là Đại Lý Đoàn nhị viết một bài từ đầy
vẻ gió trăng treo ở đây? Không lẽ Mã phu nhân nói láo? Sao lại thế được,
bà ta có quen biết gì với Đoàn Chính Thuần đâu, người nơi trời bắc, kẻ ở
cõi nam, một kẻ là sương phụ của thảo mãng thất phu, một người là vương công quí tộc, làm gì có thù oán mà cố ý nói điều giả dối đánh lừa mình”.
Từ lúc ông biết được "đàn anh đứng đầu" là Đoàn Chính Thuần rồi, bao nhiêu nỗi nghi vấn đều hết sạch, ngày đêm chỉ nghĩ đến chuyện báo thù, bây giờ nhìn thấy bức thiếp này, bao nhiêu ngờ vực lại cuồn cuộn nổi lên: “Nếu phong thư kia không phải Đoàn Chính Thuần viết thì "đàn anhđứng đầu" không phải là y. Nếu không phải là y, vậy thì là ai? Vì cớ gì Mã phu nhân lại nói láo đánh lừa mình, bên trong còn có âm mưu ngụy kế gì nữa? Ta đánh chết A Châu, vốn là ngộ sát, A Châu chịu chết vì ta cũng là cam tâm tình nguyện. Như thế, nỗi oan của nàng không được giãi bày, nay lại thêm một tầng oan nghiệt nữa. Tại sao ta không nhìn thấy bức thiếp này từ trước? Chỉ vì bức thiếp này treo trong sương phòng, làm sao ta thấy được? Nếu như ta không bao giờ thấy, chết theo A Châu thì thế là xong, vì sao không sớm, không muộn ngay trước khi chết lại trông thấy?”.
Ánh tịch dương khuất sau dãy núi, những tia nắng cuối cùng từ từ rời khỏi bàn chân ông, bỗng nghe thấy nơi có hai người từ bờ hồ Tiểu Kính đi về khu rừng trúc. Hai người đó còn rất xa, ông ngưng thần nghe ngóng, nhận ra đó là hai người đàn bà, nghĩ thầm: “Chắc hẳn là A Tử và mẹ cô ta đến đây. Ôi, ta phải hỏi Đoàn phu nhân cho rõ ràng, bức thiếp này có phải Đoàn Chính Thuần viết không? Bà ta thể nào cũng hận ta làm chết A Châu, muốn giết ta, ta... ta...”. Ông vốn có ý định sẽ không chống trả
nhưng lại nghĩ ngay: “Nếu quả A Châu chết oan, kẻ giết cha ta, mẹ ta là
người khác thì tên đại ác này lại nợ thêm một món huyết cừu, thêm một
mạng người nữa. A Châu chẳng phải là y giết chết thì còn ai? Ta không
báo thù này lẽ nào lại đành chịu chết?”.
Chỉ thấy hai người đàn bà kia đi thẳng vào khu rừng trúc càng lúc càng gần. Thêm một lúc nữa, tiếng nói chuyện cũng đã nghe thấy, một người nói:
- Phải cẩn thận, con tiện nhân này võ công tuy không cao nhưng lắm mưu nhiều kế.
Lại tiếng đàn bà còn trẻ nói:
- Mụ ta chỉ có một mình, mẹ con mình thể nào cũng thanh toán cho xong.
Người đàn bà lớn tuổi hơn nói:
- Đừng nói nữa, vừa gặp nó là hạ sát thủ ngay, không chần chờ gì cả.
Cô gái đáp:
- Thế lỡ cha con biết được...
Người đàn bà lớn tuổi hừ một tiếng:
- Ngươi còn nghĩ đến cha ngươi sao?
Tiếp đó không nghe thấy tiếng nói chuyện nữa chỉ nghe hai người rón rén đi vào, một người đi về hướng cửa chính, còn một người thì lẻn ra sau nhà hẳn là định tiền hậu giáp công.
Tiêu Phong hơi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Nghe giọng thì hai người này không phải Nguyễn Tinh Trúc và A Tử nhưng cũng là hai mẹ con đến đây giết người đàn bà ở một mình, ồ, chắc là định giết Nguyễn Tinh Trúc nhưng cha cô gái lại không tán thành việc này”. Ý tưởng đó chạy vụt qua
đầu ông nhưng chẳng để ý tới nữa lại đứng ngơ ngẩn xuất thần.
Một lát sau, nghe kẹt một tiếng, ai đó đã đẩy cửa tiến vào. Tiêu Phong
không thèm ngẩng lên, thấy một đôi bàn chân nhỏ nhắn, đi giày đen đến
trước mặt ông, còn cách độ bốn thước thì ngừng lại. Kế đó cửa sổ bên
hông mở ra, một người khác nhảy vào, đứng bên cạnh ông, nghe tiếng
cũng biết là võ công không cao cường gì.
Tiêu Phong vẫn không nhúc nhích, hai tay ôm A Châu, cúi đầu suy nghĩ: “Thế thì "đàn anh đứng đầu" có phải là Đoàn Chính Thuần không? Trong ngôn ngữ của Trí Quang đại sư có điểm gì quái lạ? Từ trưởng lão có ngụy kế gì chăng? Lời của Mã phu nhân có điểm gì sơ hở?”. Trong đầu ông những mối suy tư dâng trào như sóng biển, tâm thần loạn chuyển, rối như tơ vò.
Chỉ nghe người đàn bà trẻ hơn nói:
- Ồ, mi là ai? Con tiện nhân họ Nguyễn đâu rồi?
Giọng nói đã lạnh lẽo, giọng điệu lại vô lễ cùng cực. Tiêu Phong chẳng thèm để ý, tiếp tục suy nghĩ về những điều hồ nghi. Người đàn bà lớn tuổi hơn hỏi:
- Tôn giá và con tiện tì họ Nguyễn kia liên hệ thế nào? Người con gái này là ai? Mau nói cho ta nghe.
Tiêu Phong vẫn không ngẩng lên, người đàn bà nhỏ tuổi liền sẵng giọng:
- Ngươi điếc hay câm hả? Sao không trả lời?
Giọng nói cô ta đầy vẻ tức tối. Tiêu Phong vẫn mặc kệ, vẫn ngồi sừng
sững như tượng đá. Cô gái nhỏ tuổi dậm chân, trường kiếm trong tay rung
một cái, mũi kiếm phát tiếng u u, đâm xéo vào huyệt Thái Dương của
Tiêu Phong, chỉ còn cách vài tấc, quát lên:
- Ngươi còn giả điếc, để ta cho ngươi nếm mùi cho biết.
Tiêu Phong không quan tâm gì đến nguy hiểm xảy ra bên ngoài, vẫn tiếp tục suy nghĩ về những vấn đề chưa có câu trả lời kia. Cô gái vung tay
đâm trường kiếm ra sát vào cổ ông chỉ cách độ một tấc. Tiêu Phong nghe
được đường đi của bạch kiếm, vẫn làm như không biết không tránh né.
Hai người đàn bà cực kỳ kinh ngạc, người trẻ hơn lại nói:
- Mẹ ơi, không lẽ người này bị khùng? Cô gái y ôm trên tay dường như chết rồi.
Người đàn bà đáp:
- Chắc y giả vờ ngây ngô đó. Ở trong nhà con tiện nhân này có cái gì tốt lành đâu. Chém cho y một dao đã rồi tra khảo sau.
Bà ta chưa dứt lời, đao trong tay đã nhắm ngay đầu vai Tiêu Phong chém xuống. Tiêu Phong đợi cho lưỡi đao còn cách mình chừng nửa thước, tay phải phóng vụt tới hai ngón tay kẹp luôn vào sống đao, thanh đao liền bị giữ ngay lại không chém xuống được nữa. Ngón tay ông búng ra, cán đao liền đập ngay vào yếu huyệt trên vai người đàn bà, lập tức bà ta không còn cử động gì được nữa, lại thuận tay rung một cái, nội lực truyền vào cắc một tiếng, thanh cương đao đã gãy ra làm hai. Ông tiện tay vứt luôn xuống đất, trước sau vẫn không ngẩng lên xem bà ta là ai. Cô gái thấy mẹ bị chế ngự, kinh hoảng nhảy ngược về sau, vụt vụt liên tiếp, bảy mũi đoản tiễn liên châu bắn vào Tiêu Phong. Tiêu Phong cầm thanh đao gãy gạt cả ra, tay lại vung lên, mảnh đao gãy phóng tới nghe bịch một tiếng, cán đao đập vào hông cô ta. Cô gái kia kêu lên một tiếng, huyệt đạo đã bị trúng rồi, người cũng lại đứng sừng sững như trời trồng.
Người đàn bà kinh hoảng hỏi:
- Con có sao không?
Cô gái đáp:
- Hông con đau lắm nhưng không bị thương. Mẹ ơi, con bị điểm huyệt Kinh Môn.
Người đàn bà đáp:
- Còn ta thì bị điểm huyệt Trung Phủ. Người... người này võ công cao cường quá.
Cô gái nói:
- Mẹ, người này là ai thế? Sao y không đứng lên mà đã chế ngự được mẹ con mình, xem chừng y có tà thuật.
Người đàn bà không dám nổi nóng nữa, đổi giọng dịu dàng quay sang nói với Tiêu Phong:
- Mẹ con chúng tôi và tôn giá không thù không oán, vừa rồi ra tay ngang ngược, đắc tội với ngài, quả thật chúng tôi có lỗi. Mong ngài khoan hồng đại lượng, giơ cao đánh sẽ cho.
Cô gái lập tức rối rít:
- Không, không đâu! Mình thua thì chịu thua, việc gì phải van xin ai?
Ngươi có giỏi thì một đao giết cô nương đi, ta chẳng cần đâu.
Tiêu Phong loáng thoáng nghe hai mẹ con nói, biết được người mẹ xin tha, còn cô con gái thật là ngang tàng nhưng nói những gì thì ông không
để vào tai. Lúc này trong nhà đã tối, một hồi nữa thì bóng đêm đã hoàn
toàn bao phủ. Tiêu Phong trước sau vẫn bồng A Châu ngồi tại đó không
cử động. Bình thời đầu óc ông cực kỳ linh hoạt, mỗi khi gặp chuện nghi
nan, quyết đoán hết sức nhanh nhẹn nếu như việc không rõ ràng lập tức
gác qua một bên, tạm thời không nghĩ tới chứ không do dự trì nghi. Thế
nhưng hôm nay lỡ tay đánh chết A Châu, trong lòng đau xót, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, hoang mang rối loạn không còn hồn vía, chẳng khác gì người mất trí.
Người đàn bà nói nhỏ:
- Con thử vận khí tới huyệt Hoàn Khiêu xem sao, không chừng có thể đả thông kinh mạch giải được huyệt đạo bị đóng đó.
Cô gái đáp:
- Con đã làm rồi, chẳng thấy ăn thua...
Người đàn bà đột nhiên nói:
- Này, có người đến đó.
Chỉ nghe thấy tiếng chân loạt soạt, ai đó đã đẩy cửa vào, cũng lại là một người đàn bà nữa. Người kia dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh mấy tiếng, châm vào bùi nhùi đốt chiếc đèn dầu lên, quay lại đột nhiên thấy Tiêu Phong, A Châu và hai người đàn bà kia, không khỏi kinh ngạc “A” lên một tiếng chân tay bủn rủn, đồ đánh lửa rơi xuống nghe loảng xoảng.
Người đàn bà tới trước cũng hốt hoảng kêu lên:
- Nguyễn Tinh Trúc, thì ra là ngươi!
Người vừa mới vào chính là Nguyễn Tinh Trúc. Bà ta quay đầu lại thấy đó là một thiếu phụ trung niên, bên cạnh lại có một thiếu nữ mặc toàn đồ đen, cả hai đều khá đẹp, cô gái lại càng xinh xắn nhưng chưa từng gặp bao giờ. Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Đúng đó, ta họ Nguyễn, hai vị là ai?
Người đàn bà trung niên không trả lời, mặt hầm hầm đầy vẻ tức tối. Nguyễn Tinh Trúc quay lại nói với Tiêu Phong:
- Kiều bang chủ, ông đánh chết con gái tôi rồi, lại còn tới đây làm chi? Tội nghiệp... tội nghiệp cho con ta!
Tới đây bà ta khóc òa lên, xông đến bên cạnh xác A Châu. Tiêu Phong vẫn ngồi ngẩn ngơ nơi đó, một lúc lâu sau mới nói:
- Đoàn phu nhân, ta tội nghiệt thâm trọng, xin bà lấy dao ra giết ta đi.
Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Ta có đâm chết ông cũng đâu có cứu đứa con khốn khổ của ta sống lại được. Kiều bang chủ, ông bảo ta và cha của A Châu đã làm một chuyện sai lầm rất đáng hổ thẹn, khiến cho đứa trẻ phải một đời lênh đênh, đến cha mẹ ruột là ai cũng không biết. Ông nói thế cũng đúng, có điều... để cho hả nỗi tức, có giết thì giết Đoàn vương gia, không thì giết tôi cũng được chứ lẽ nào lại giết A Châu?
Giờ phút này đầu óc Tiêu Phong thật là chậm chạp, phải mất một lúc mới thấy bàng hoàng, hỏi lại:
- Chuyện gì mà lại sai lầm rất đáng hổ thẹn?
Nguyễn Tinh Trúc khóc đáp:
- Ông biết hai năm rõ mười rồi còn hỏi ta làm chi? A Châu... A Châu và A Tử đều là con tôi, tôi không dám về nhà, nên phải đem cho người ta.
Tiêu Phong run rẩy nói:
- Hôm qua ta hỏi Đoàn Chính Thuần, có phải đã làm một chuyện sai lầm đáng hổ thẹn, chính ông ta đã nhận như thế. Chuyện xấu hổ đó chỉ là
việc đem A Châu... và A Tử cho người khác ư?
Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm đáp:
- Chuyện đau lòng như thế ông thấy còn chưa đủ hay sao? Ông nghĩ ta là thứ đàn bà hư đốn đến mực nào mà chỉ chuyên làm chuyện xấu xa?
Tiêu Phong nói:
- Đoàn Chính Thuần hôm qua còn nói là “May trời còn thương, hôm nay cho ta gặp lại được... được đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ”. Y nói hôm nay may được gặp lại đứa trẻ không cha mẹ là nói về A Tử, không phải nói... không phải nói về ta hay sao?
Nguyễn Tinh Trúc giận dữ đáp:
- Anh ấy nói về ngươi làm gì? Ngươi đâu có phải là đứa trẻ anh ấy bỏ rơi cho người ta nuôi đâu? Ngươi ... ngươi nói năng láo lếu gì thế? Ta đâu có sinh ra cái loại súc sinh như ngươi?
Bà ta hận Tiêu Phong cực độ, nhưng lại sợ võ công ông ta ghê gớm nên không dám ra tay chỉ chửi cho sướng miệng. Tiêu Phong nói:
- Thế ta hỏi hỏi y tại sao đến giờ phút này vẫn điều một điều hai tiếp tục làm chuyện ác y lại thừa nhận đức hạnh khiếm khuyết, làm điều không ngay thẳng?
Khuôn mặt đầy nước mắt của Nguyễn Tinh Trúc bỗng dưng ửng đỏ nói:
- Anh ta sinh tính phong lưu, trước nay vẫn thế. Anh ấy yêu một người rồi yêu hai người, rồi ba, rồi bốn người, hết người này đến người khác, thì... thì việc gì đến ngươi mà ngươi phải rỗi hơi xen vào?
Tiêu Phong lẩm bẩm:
- Sai rồi! Sai rồi! Sai bét rồi!
Ông lặng người đi một hồi, đột nhiên giơ tay ra, bốp bốp bốp bốp, đánh mình thật mạnh bốn cái tát. Nguyễn Tinh Trúc hoảng hồn, nhảy bật lên, lùi lại hai bước, thấy Tiêu Phong vẫn hết sức tự đánh vào mình, chưởng nào chưởng nấy cực mạnh mẽ, chỉ giây lát mặt mày đã sưng vù. Lại nghe một tiếng “Ồ” nữa, thêm một người đã bước vào kêu lên:
- Mẹ đã lấy được bức thiếp...
Chính là A Tử. Nàng chưa nói dứt câu, bỗng thấy trong nhà có người, lại thấy Tiêu Phong tay trái ôm xác A Châu, tay phải liên tiếp đánh vào mình, không khỏi kinh ngạc đến sững sờ.
Mặt Tiêu Phong sưng lên rồi vỡ ra, lập tức mặt mày tay chân đầy những máu là máu, văng tung tóe, vãi cả lên tường, lên bàn, lên ghế... chỗ nào cũng lấm tấm đỏ tươi, cả thân thể A Châu lẫn bức thiếp trên vách, cũng đầy những điểm hồng. Nguyễn Tinh Trúc không nỡ nhìn khung cảnh ghê rợn đó, hay tay bưng mặt nhưng tai vẫn nghe những tiếng bốp bốp ròn tan, nhịn không nổi kêu lên:
- Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!
A Tử kêu ré lên:
- Chao ôi! Ngươi làm hỏng chữ cha ta viết rồi, ta bắt đền đó!
Cô ta nhảy lên bàn gỡ bức thiếp treo trên tường xuống. Thì ra hai mẹ con cô ta quay trở lại chỉ cốt để đem bức bút thiếp đi. Tiêu Phong ngạc nhiên, ngừng tay không đánh tiếp, hỏi lại:
- Thế thì “Đại Lý Đoàn nhị” quả thực là Đoàn Chính Thuần đấy sao?
Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Ngoài anh ta ra thì còn ai vào đây nữa?
Bà ta nhắc đến Đoàn Chính Thuần, khuôn mặt lộ vẻ thâm tình lại thêm vài phần hãnh diện. Mấy câu đó đã giải hết những nghi vấn trong đầu Tiêu Phong: bức thiếp này quả đúng là do tay Đoàn Chính Thuần viết, phong thư gửi Uông bang chủ kia không phải là y, "đàn anh đứng đầu" hiển nhiên không phải Đoàn Chính Thuần. Trong đầu ông liền nổi lên một ý niệm: “Mã phu nhân đổ tiếng oan cho Đoàn Chính Thuần, bên trong hẳn có ẩn tình thật ghê gớm. Nếu ta cởi được mối thắt này thì sẽ cạn ao bèo đến đất, mọi việc lộ ra ngay”. Ông nghĩ như thế lập tức không còn ý định tự tận, mới đây tự hành hạ mình, tuy máu me đầy mặt nhưng hối hận bi thương trong lòng cũng có chỗ phát tiết, bèn ôm xác A Châu đứng lên.
A Tử lại thấy hai mảnh trúc bài ông viết để trên bàn, cười nói:
- Thảo nào bên ngoài có hai cái hố, ta đang ngạc nhiên không hiểu vì sao, thì ra ngươi định đồng tử hợp táng với chị ta, chậc chậc, quả thực đa tình quá lắm!
Tiêu Phong nói:
- Ta trúng phải độc kế của gian nhân làm chết A Châu, bây giờ muốn đi tìm kẻ gian đó để báo thù cho A Châu đã, sau đó sẽ theo nàng xuống suối vàng.
A Tử hỏi:
- Kẻ gian đó là ai thế?
Tiêu Phong nói:
- Giờ phút này ta chưa có manh mối chi cả, còn phải đi tìm.
Nói xong ôm A Châu, mạnh dạn đi ra. A Tử cười nói:
- Thế ngươi ôm xác chị ta đi tìm kẻ gian ư?
Tiêu Phong ngơ ngẩn, chưa biết tính sao, nghĩ đến chuyện ôm xác A Châu đi hàng nghìn dặm, đường xa diệu vợi, quả có điều không ổn, nhưng thực không nỡ lòng nào mà rời xa nàng. Ông bần thần nhìn mặt A Châu, nước mắt pha lẫn máu mê trên mặt nhỏ xuống, thành những giọt nước hồng, rơi trên khuôn mặt trắng bệch của A Châu, quả đúng là huyết lệ đầm đìa.
Nguyễn Tinh Trúc thấy tình trạng thương tâm của ông, bao nhiêu lòng thù ghét đều tiêu giải, nói:
- Kiều bang chủ, việc đã lỡ rồi, không còn cách gì cứu chữa được, ông... ông...
Bà ta vốn dĩ định khuyên Tiêu Phong bớt bi thương, nhưng chính mình cũng nhịn không nổi khóc òa lên, nức nở:
- Cũng tại ta mà ra, cũng tại ta chẳng ra gì... con ta ngoan ngoãn thế sao lại đem cho người khác?
Thiếu nữ bị Tiêu Phong điểm huyệt đứng kia bỗng xen vào:
- Đương nhiên là tại bà không ra gì! Vợ chồng người ta đang vui vầy, sao bà lại đến phá hại gia cang, chia uyên rẽ thúy?
Nguyễn Tinh Trúc ngẩng đầu lên, hỏi thiếu nữ kia:
- Sao cô nương lại nói thế? Cô là ai?
Thiếu nữ đáp:
- Bà là hồ ly tinh, làm mẹ tôi khốn khổ, làm cả tôi... làm cả tôi...
A Tử vung tay toan xông tới tát vào mặt cô gái, cô gái kia không cử động được, trước mắt thấy không thể nào tránh né. Nguyễn Tinh Trúc giơ tay lên gạt tay con ra nói:
- A Tử, không được làm càn.
Bà ta quay sang nhìn người đàn bà trung niên dò hỏi, lại nhìn cương đao trong tay bà ta, dưới đất một thanh đao gãy, lập tức hiểu ra nói:
- Phải rồi, bà sử dụng song đao, bà... bà... là Tu La Đao Tần... Tần Hồng Miên... Tần tỉ tỉ.
Người đàn bà đó chính là một trong những tình nhân của Đoàn Chính
Thuần Tu La Đao Tần Hồng Miên, còn cô gái áo đen kia là con gái bà ta
Mộc Uyển Thanh. Tần Hồng Miên không trách Đoàn Chính Thuần bẻ lá
vin cành, đến đâu cũng ong kia bướm nọ, lại thù ghét những đàn bà khác
hồ mị yêu dâm, chiếm đoạt tình lang của bà ta, thành thử khi được sư muội Cam Bảo Bảo cho hay tin rồi, liền cùng con gái Mộc Uyển Thanh đi
hành thích vợ Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng và một người tình
nhân khác, kết quả chẳng thành công. Đến lúc nghe Đoàn Chính Thuần
còn một người yêu khác là Nguyễn Tinh Trúc, ẩn cư nơi Phương Trúc Lâm bên cạnh Tiểu Kính Hồ nên lại cùng con gái đến tìm để giết.
Tần Hồng Miên thấy Nguyễn Tinh Trúc nhận ra mình, quát lên:
- Đúng đó, ta là Tần Hồng Miên, ai cho con tiện nhân kia gọi ta là tỉ tỉ?
Nguyễn Tinh Trúc chưa đoán ra Tần Hồng Miên đến đây có chuyện gì, lại sợ kẻ tình địch này gặp lại Đoàn Chính Thuần rồi “bén duyên tình cũ” nên cười nói:
- Phải rồi, ta nói sai, ngươi so với ta còn ít tuổi hơn nhiều, mặt mày xinh đẹp như thế, thảo nào Đoàn lang mê mẩn. Ngươi là muội tử của ta, không phải tỉ tỉ. Tần gia muội tử, Đoàn lang ngày nào cũng nhớ nhung ngươi, ghi lòng tạc dạ, ta thật thèm cái phúc phận của muội tử.
Tần Hồng Miên nghe thấy Nguyễn Tinh Trúc khen mình tuổi trẻ, xinh xắn, trong bụng lửa giận cũng đã bớt được ba phần, đến khi nghe Đoàn
Chính Thuần ngày ngày thương nhớ mình, nộ khí lại giảm thêm ba thành
nữa, bèn nói:
- Ai thèm nghe ngươi nói ngọt nói nhạt cốt để cho ta mát lòng mát dạ.
Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Vị cô nương này, có phải là lệnh ái thiên kim chăng? Chậc chậc chậc, sao mà đẹp thế, không lẽ Tần gia muội tử sinh được...
Tiêu Phong thấy hai người đàn bà lải nhải chuyện phong lưu hoa nguyệt, không muốn nghe thêm, ông vốn là người cưa đứt đục suốt, chuyện đau lòng, nát ruột đã qua, lập tức nghĩ ngay đến việc làm sao giải quyết được chuyện lớn.
Ông ôm thi thể A Châu lên đi đến cái huyệt đã đào sẵn bỏ xuống, hai bàn tay to lớn liền cào đất, từ từ rắc lên mình nàng, chỉ chừa mặt không đổ xuống. Hai mắt ông chăm chăm nhìn xác A Châu, chỉ còn vài nắm đất nữa là từ nay không bao giờ còn thấy nàng được nữa. Tai ông mơ mơ hồ hồ còn nghe nàng ước định ra ngoài biên tái cưỡi ngựa săn thú, thả cừu chăn bò làm bạn với mình. Chưa đầy một ngày trước hai người còn nói với nhau, khi thì thâm tình, khi thì cười cợt, lúc chuyện đứng đắn, lúc chuyện lăng nhăng nhưng từ nay sẽ không bao giờ còn được nghe nữa. Giấc mơ cùng nhau chăn bò, thả cừu ở ngoài quan ngoại nay trở thành một trường huyễn mộng. Tiêu Phong quì bên cạnh huyệt một hồi lâu, không nỡ lòng nào đổ đất xuống mặt A Châu. Đột nhiên ông đứng bật dậy hú lên một tiếng dài, không nhìn A Châu nữa hai tay cùng đẩy, bao nhiêu đất ở bên cạnh huyệt phủ xuống lấp lên rồi quay phắt lại đi vào sương phòng. Đã thấy Nguyễn Tinh Trúc và Tần Hồng Miên hai người chị chị em em nói năng ríu rít. Nguyễn Tinh Trúc tuy vừa mới phải cảnh đau lòng nhưng miệng vẫn trơn như mỡ bốc Tần Hồng Miên khiến bà ta hết sức vui lòng, bao nhiêu thù hằn đều tiêu giải. Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Kiều bang chủ, vị muội muội này đắc tội, chẳng qua chỉ là vô tâm, xin ông giải huyệt cho hai người.
Nguyễn Tinh Trúc là mẹ A Châu, lời bà ta nói Tiêu Phong cũng đã có mấy phần chiều theo, huống chi ông vốn đã có ý tha cho họ rồi nên lập
tức đến gần, giơ tay vỗ lên vai Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh một
cái. Hai người chỉ thấy một luồng nhiệt khí từ đầu vai chạy thẳng xuống
huyệt đạo, tứ chi lập tức cử động bình thường. Hai mẹ con đưa mắt nhìn
nhau, thấy công lực Tiêu Phong thâm hậu dường ấy, trong lòng không
khỏi bội phục.
Tiêu Phong quay sang A Tử nói:
- A Tử muội tử, bức thiếp của cha cô cho ta coi một chút được không?
A Tử đáp:
- Tôi không thích ông gọi tôi là muội tử nọ, muội tử kia.
Miệng thì nói thế nhưng không dám cưỡng lại, vội vàng đưa cuộn thiếp cho ông ta. Tiêu Phong mở ra, xem kỹ những chữ Đoàn Chính Thuần viết mấy lượt. Nguyễn Tinh Trúc mặt đỏ bừng, sượng sùng nói:
- Cái bức thiếp này có gì đâu mà coi kỹ thế?
Tiêu Phong hỏi lại:
- Đoàn vương gia bây giờ đang ở đâu?
Nguyễn Tinh Trúc mặt liền biến sắc, lùi lại hai bước, ấp úng nói:
- Đừng... đừng... ngươi đừng đi kiếm anh ấy nữa.
Tiêu Phong nói:
- Tôi không kiếm ông ta để gây chuyện mà chỉ muốn hỏi vài chuyện thôi.
Nguyễn Tinh Trúc nào dám tin, nói:
- Ngươi đã lỡ tay đánh chết A Châu rồi, đừng đi kiếm anh ấy làm gì nữa.
Tiêu Phong liệu rằng bà ta chẳng thể nào nói ra đâu, cũng không hỏi thêm, cuộn bức thiếp lại trao trả A Tử nói:
- A Châu đã có di ngôn nhờ ta trông nom cho em nàng. Đoàn phu nhân, nếu sau này A Tử gặp chuyện khó khăn, nếu như Tiêu Phong có thể làm được thì cứ nói cho biết nhất quyết không chối từ.
Nguyễn Tinh Trúc mừng quá, nghĩ bụng: “A Tử có được một người đại
bản lãnh như thế làm chỗ dựa, một đời ắt phùng hung hóa cát, ngộ nạn
thành tường”. Bà ta liền đáp:
- Thế thì xin đa tạ. A Tử, mau mau tạ ơn Kiều đại ca đi.
Bà ta đổi ngay “Kiều bang chủ” thành ‘Kiều đại ca” để cho A Tử và ông ta thêm phần gần gũi. Thế nhưng A Tử chỉ bĩu môi, mặt nhơn nhơn nói:
- Con có việc gì khó khăn mà cần y giúp đỡ? Con đã có sư phụ vô địch thiên hạ rồi, lại còn bao nhiêu sư ca, sợ gì ai hiếp đáp? Y là thứ tượng đất qua sông, ốc không mang nổi mình ốc, chuyện mình còn chưa đâu vào đâu, nói gì giúp con? Hứ, càng có y càng thêm hỏng chuyện thì có?
Cô ta mồm năm miệng mười, nói đâu ra đấy, Nguyễn Tinh Trúc mấy lần đưa mắt ngăn lại nhưng A Tử làm như không trông thấy. Nguyễn Tinh
Trúc dậm chân nói:
- Hừm, thứ trẻ con, nói năng tầm xàm chẳng biết trên dưới gì cả, Kiều bang chủ, xin ông nghĩ đến A Châu, đừng để bụng làm gì!
Tiêu Phong đáp:
- Tại hạ họ Tiêu, không phải họ Kiều.
A Tử chen vào:
- Mẹ thấy chưa, người này đến họ gì cũng còn chưa tỏ tường, quả đúng là đần độn...
Nguyễn Tinh Trúc quát lớn:
- A Tử!
Tiêu Phong chắp tay chào nói:
- Thôi xin từ biệt.
Ông quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:
- Đoàn cô nương, thứ ám khí độc địa, đừng dùng vô ích, nếu gặp phải đối thủ võ công cao cường hơn cô, e rằng chỉ có hại.
Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời, A Tử lại láu táu:
- Tỉ tỉ, đừng nghe y nói bậy nói bạ, ám khí này cùng lắm không trúng đối phương, làm gì có hại được?
Tiêu Phong không thèm chấp, xoay mình đi ra, chân vừa bước vào ngạch cửa, tay áo bào bên phải phất một cái, kình phong kêu vút một tiếng, bảy mũi đoản tiễn Mộc Uyển Thanh mới rồi ném vào ông còn nằm dưới đất cùng bay vụt lên, thế nhanh như chớp bắn thẳng vào A Tử. A Tử chỉ lêu được một tiếng ”Ối trời!” nhưng nào tránh kịp? Bảy mũi tên theo đỉnh đầu, cạnh cổ, ngang mình bay sượt qua, nghe lịch bịch cùng cắm cả
vào bức tường phía sau lút đến tận chuôi. Nguyễn Tinh Trúc vội vàng chạy tới ôm lấy A Tử, kinh hoảng kêu lên:
- Tần gia muội tử, mau đem thuốc giải ra đây.
Tần Hồng Miên cũng rối rít:
- Bị thương ở đâu? Bị thương ở đâu?
Mộc Uyển Thanh vội lấy giải dược từ trong túi ra, đến xem vết thương của A Tử. Một lát sau, A Tử mới hơi hoàn hồn nói:
- Không... không trúng con.
Bốn người đàn bà lúc ấy mới cùng nhìn lên bảy mũi đoản tiễn trên tường, ai nấy kinh hãi mặt mày tái mét. Thì ra Tiêu Phong nghĩ đến di ngôn của A Châu nhờ ông chiếu cố cho A Tử nhưng nghe nàng ta nói “Con đã có sư phụ vô địch thiên hạ rồi, lại còn bao nhiêu sư ca, sợ gì ai hiếp đáp?” nên mới dùng tụ phong bắn tên dọa cho A Tử một phen, để nàng biết được trời cao đất dày, khỏi coi trời bằng vung, khinh thường anh hùng hảo hán trong thiên hạ, sau này sẽ gặp chuyện không may.
Ông ta ra khỏi khu rừng trúc, đến bên bờ hồ, tìm một cây to cành lá xum xuê bên cạnh đường, nhảy lên trên đó. Ông muốn kiếm ra Đoàn Chính Thuần để hỏi cho rõ ràng, vì cớ gì Mã phu nhân cố ý hại ông ta, nhưng vì Nguyễn Tinh Trúc không cho biết ông ta đang ở đâu, nên đành phải tự mình ngấm ngầm theo dõi. Chẳng mấy chốc đã thấy bốn người đi ra, hai mẹ con Tần Hồng Miên đi trước, hai mẹ con Nguyễn Tinh Trúc đi sau xem ra vẻ Nguyễn Tinh Trúc tiễn khách về.
Bốn người đi đến cạnh bờ hồ, Tần Hồng Miên nói:
- Nguyễn tỉ tỉ, hai người mình mới gặp mà như quen đã lâu, bao nhiêu hiềm khích cũ bỏ qua hết, khiến cho ta bớt đi được một mối hận lòng. Bây giờ tiểu muội muốn đi kiếm con tiện tì họ Khang, tỉ tỉ có biết nó ở đâu không?
Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại:
- Muội tử đi kiếm mụ ta để làm chi?
Tần Hồng Miên hậm hực đáp:
- Tiểu muội với Đoàn lang đang sống vui vầy bên nhau, chỉ tại con tiện tì hồ ly tinh đó giở trò...
Nguyễn Tinh Trúc ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Con tiện nhân... Khang... Khang Mẫn đó, ôi, thật không biết nó ở đâu. Muội tử nếu tìm thấy y thì chém luôn cho nó thêm vài đao giùm ta.
Tần Hồng Miên đáp:
- Còn phải nói! Chỉ có điều không dễ gì kiếm thấy nó. Thôi được, xin từ biệt, sẽ gặp lại sau. Ôi, nếu tỉ tỉ gặp Đoàn lang...
Nguyễn Tinh Trúc chột dạ, hỏi:
- Thì sao?
Tần Hồng Miên đáp:
- Tỉ tỉ tát cho y hai cái rõ mạnh, một cái là để cho em, một cái là cho con gái em.
Nguyễn Tinh Trúc bật cười nói:
- Ta làm sao mà kiếm cho ra cái gã chết tiệt lòng lang dạ sói ấy được? Nếu muội tử gặp được y, cũng đánh giùm ta hai cái, một cái là thay ta, còn một cái là cho A Tử. Chưa, bợp tai không đủ, phải cho y thêm hai
cái đá nữa. Sinh con ra chẳng ngó ngàng gì đến, để cho mẹ con chúng
mình cô khổ lênh đênh...
Nói đến đây lại sụt sùi. Tần Hồng Miên an ủi:
- Thôi tỉ tỉ đừng đau lòng nữa. Để hai mẹ con em giết được con tiện tì họ Khang rồi sẽ quay lại làm bạn với chị.
Tiêu Phong ngồi trên cây, bao nhiêu chuyện hai người đàn bà nói với nhau đều nghe rõ ràng, nghĩ thầm Đoàn Chính Thuần võ công không phải
dở, đối với bạn bè cũng có nhân có nghĩa, có điều đam mê nữ sắc không
phải là kẻ anh hùng. Chỉ thấy Tần Hồng Miên dắt tay Mộc Uyển Thanh
hành lễ từ biệt mẹ con Nguyễn Tinh Trúc rồi ra đi, Nguyễn Tinh Trúc
cũng cầm tay A Tử trở về khu rừng trúc.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nguyễn Tinh Trúc chắc hẳn đi kiếm Đoàn Chính Thuần, nhưng không muốn cho Tần Hồng Miên đi theo, lúc đầu bà ta bảo là trở lại lấy bức thiếp, Đoàn Chính Thuần chắc đợi ở đâu đó không xa. Ta phải ở đây rình xem sao”.
Bỗng thấy trong lùm cây có tiếng động nhỏ, hai bóng người màu đen rón rén đi ra, chính là mẹ con Tần Hồng Miên đi rồi bây giờ quay trở lại. Nghe thấy Tần Hồng Miên hạ giọng:
- Uyển nhi, sao con sơ xuất đến thế, để mắc lừa người ta một cách dễ
dàng? Dưới gầm giường trong ngọa thất Nguyễn gia tỉ tỉ có một đôi giày
đàn ông, đầu mũi giày có thêu hai chữ bằng vàng, chân trái có một chữ
Sơn, chân phải có một chữ Hà, chính là giày của cha con. Đôi giày còn
mới, gót giày dính bùn chưa khô, chỉ thế cũng biết ngay là cha con ở gần
đâu đó.
Mộc Uyển Thanh nói:
- À, hóa ra cái bà họ Nguyễn đó nói dối mẹ con mình.
Tần Hồng Miên nói:
- Đúng thế, làm sao bà ta dám để cho mình gặp cái anh chàng phụ bạc kia?
Mộc Uyển Thanh cãi lại:
- Cha con đâu có lang tâm, mẹ ơi, mẹ chẳng cần phải kiếm ông ấy làm gì.
Tần Hồng Miên lặng thinh không nói, một hồi sau mới đáp:
- Ta chỉ muốn thấy ông ấy nhưng lại chẳng mong ông ấy gặp ta làm gì. Qua bao nhiêu năm tháng, ông ấy cũng đã già, mà mẹ cũng già rồi còn gì.
Mấy câu đó nghe giọng thật bình thường nhưng bên trong chứa chất đầy vẻ ân tình. Mộc Uyển Thanh đáp:
- Vậy cũng được!
Trong thanh âm đầy vẻ thê lương. Từ khi nàng chia tay cùng Đoàn Dự đến nay, cái lòng nhung nhớ càng ngày càng nhiều nhưng biết rằng không đi đến đâu nên trước mặt mẹ không dám hở ra chút tâm sự gì. Tần Hồng Miên nói:
- Mẹ con mình rình ở đây, chẳng mấy chốc cha con thể nào cũng sẽ đến.
Nói xong vạch đám cỏ cao ẩn thân vào trong đó, Mộc Uyển Thanh cũng bắt chước nấp ở đằng sau gốc cây. Dưới ánh trăng sao, Tiêu Phong thấy khuôn mặt trắng trẻo của Tần Hồng Miên ẩn sắc hồng, hiển nhiên cực kỳ xúc động, nghĩ thầm: “Tình quả là lụy con người, mới ra nông nỗi đó”. Ông chợt nghĩ đến A Châu, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi xót xa. Chẳng bao lâu, trên đường truyền lại tiếng chân người đi nhanh, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này không phải Đoàn Chính Thuần, có lẽ là bộ thuộc của ông ta”. Quả nhiên khi người đó đến gần, nhận ra chính là người vẽ ở trên cầu Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc nghe thấy tiếng chân nhưng không phân biệt được, lại tưởng là Đoàn Chính Thuần nên gọi:
- Đoàn lang, Đoàn lang!
Bà rảo bước chạy ra đón, A Tử lẽo đẽo theo sau mẹ. Chu Đan Thần cúi rạp xuống nói:
- Chúa công sai thuộc hạ đến bẩm báo là người hiện có việc gấp, hôm nay không thể trở về được.
Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại:
- Chuyện gấp gì thế? Bao giờ mới quay về?
Chu Đan Thần đáp:
- Việc này có liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung, dường như đã tìm ra tung tích Mộ Dung công tử. Chúa công vạn lý bắc hành cũng cốt để đi tìm người này. Chúa công có dặn: khi nào đại sự xong xuôi, sẽ quay về bên Tiểu Kính Hồ đoàn tụ, xin phu nhân chẳng phải trông chờ.
Nguyễn Tinh Trúc nước mắt rưng rưng, nghẹn ngào nói:
- Anh ấy lúc nào cũng bảo tức khắc quay lại ngay nhưng lần nào cũng ba năm, năm năm vẫn chưa thấy đâu. Anh ta có dễ gì tới, lại...
Chu Đan Thần hết sức bi phẫn vì việc A Tử làm cho Chử Vạn Lý uất lên mà chết nên khi truyền lại lời của Đoàn Chính Thuần rồi không muốn ở lâu, chỉ hơi khom lưng, quay đầu đi ngay, từ đầu chí cuối không nhìn A Tử đến một lần.
Nguyễn Tinh Trúc đợi y đi xa rồi, nói nhỏ với A Tử:
- Khinh công của con hơn mẹ xa, mau mau theo dõi y, trên đường để lại ký hiệu cho mẹ, ta đi sau.
A Tử lại dẩu môi cười nói:
- Mẹ bảo con đi theo dõi cha thì có gì thưởng cho con nào?
Nguyễn Tinh Trúc đáp:
- Cái gì của mẹ cũng là của con hết, còn gì đâu mà thưởng?
A Tử nói:
- Được rồi, con sẽ viết một chữ “Đoàn” nơi góc tường, rồi vẽ một mũi tên thế là mẹ biết.
Nguyễn Tinh Trúc ôm vai con vui mừng nói:
- Con gái ngoan lắm!
A Tử cười đáp:
- Mẹ mê trai!
Cô ta nhỏm dậy, chạy đuổi theo Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc đứng bên bờ hồ một chốc, lúc đó mới theo đường mòn mà đi. Bà ta đi đã xa, mẹ con Tần Hồng Miên bấy giờ mới hiện thân, giơ tay ra hiệu cho nhau, rón rén đuổi theo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “A Tử đã để lại ký hiệu trên đường, kiếm được Đoàn Chính Thuần thật dễ quá”. Ông đi được mấy bước, thấy ánh trăng soi bóng mình dưới hồ, cô đơn thê lương, trong lòng chua xót, lại muốn quay lại rừng trúc đến nơi mồ A Châu ngồi một lát. Thế nhưng ông chợt nghĩ lại, hào khí bốc lên, tung ra một chưởng, kình phong phóng xuống mặt hồ làm nước tung tóe khắp nơi, bóng dưới nước lập tức tan thành muôn mảnh. Ông hú lên một tiếng rồi rảo bước đuổi theo. Mấy ngày liền như thế, ngày đi đêm nghỉ, uống rượu nhiều mà ăn chẳng bao nhiêu, đến thị trấn nào cũng thấy dưới góc tường có một chữ “Đoàn” A Tử để lại và một mũi tên chỉ hướng. Cũng có khi Nguyễn Tinh Trúc tìm thấy trước xóa đi nhưng vết vẫn còn nhìn ra được. Con đường đi về hướng bắc, trời lạnh dần, hôm đó ra khỏi cửa không lâu chợt trời đổ một trận tuyết lớn. Tiêu Phong đi đến trưa, ngồi lại một quán rượu uống đến mười hai, mười ba bát, chưa đã thèm thì quán đã hết rồi. Ông cụt hứng lập tức bỏ đi một lúc sau đến một thành phố lớn, tới gần hơn liền sửng sốt, thì ra đó chính là Tín Dương. Trên đường ông chỉ lo đi tìm ký hiệu A Tử để lại, lại thêm tâm sự ngổn ngang, cảnh vật chung quanh không để ý gì đến, thành thử quay lại Tín Dương cũng không hay. Ông muốn kiếm Đoàn Chính Thuần quả thực dễ như trở bàn tay, chỉ cần nhanh hơn một chút một bữa nửa ngày thì đã vượt lên trên rồi. Thế nhưng từ khi A Châu chết đi, đầu óc bỗng thấy trống không, chẳng biết làm sao cho hết ngày giờ, trong lòng chỉ nghĩ: “Đuổi kịp Đoàn Chính Thuần để làm gì? Tìm được hung thủ đích thực, trả xong mối thù, rồi sẽ ra sao? Một mình ta trở ra ngoài Nhạn Môn Quan, giữa cơn gió cát săn thú chăn bò, để làm gì?”. Thành thử ông không tính chuyện đuổi cho nhanh. Vào trong thành Tín Dương, thấy dưới chân tường có một chữ “Đoàn” viết bằng than, mũi tên bên cạnh chỉ về hướng tây. Trong đầu ông lại dâng lên một nỗi chua cay, nghĩ đến hôm nào mình cùng A Châu sánh vai đi cùng, đến phía tây thành Tín Dương tìm nhà Mã phu nhân để hỏi thăm tin tức, hôm nay nghĩ lại có ngờ đâu mỗi một bước lại là đưa A Châu tiến đến đến gần cõi âm thêm một bước. Đi được sáu bảy dặm, gió bấc thổi mạnh, tuyết rơi xuống càng nhiều. Lần theo ký hiệu A Tử để lại đi về hướng tây, dấu hiệu nào cũng mới tinh viết chưa lâu, có khi là vỏ cây bị bóc ra viết lên trên đó, trên vết dao nhựa cây còn chưa kịp đóng cứng, ký hiệu chỉ đến chính là nhà Mã Đại Nguyên. Tiêu Phong thật lạ lùng, nghĩ thầm: “Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết được Mã phu nhân hãm hại y nên đến tìm bà ta thanh toán? Đúng rồi, A Châu khi sắp chết nơi cầu đá xanh nói chuyện với ta đã từng nhắc đến Mã phu nhân, hẳn là A Tử nghe được, nên đã kể lại cho cha nghe. Thế nhưng mình chỉ nói là Mã phu nhân, làm sao biết được phu nhân họ Mã là người nào?”. Trên đường đi lòng ông uất ức nên cũng như người mất hồn, bây giờ gặp chuyện lạ lùng, lập tức tinh thần phấn chấn, hồi phục được nỗi cảnh giác khi giao phong với kình địch. Thấy bên đường có một chiếc miếu hoang, lập tức tiến vào, đóng cửa lại, nằm lăn ra ngủ ba giờ liền, đến canh hai mới ra khỏi miếu đi về phía nhà Mã phu nhân. Khi đến gần ông ẩn thân sau gốc cây, quan sát kỹ chung quanh, chỉ một chốc đã nhếch mép mỉm cười, thấy nơi mái nhà phía đông bắc có hai người nằm phục đó, nhìn hình dáng thì là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử. Kế đó lại thấy mẹ con Tần Hồng Miên nằm nơi góc nhà phía đông nam. Lúc đó đại tuyết chưa dứt, bốn người đàn bà ai nấy đều phủ một làn tuyết trắng. Sương phòng phía đông chiếu ra ánh sáng màu vàng nhạt nhưng tĩnh mịch không một tiếng động. Tiêu Phong bẻ một cành cây ném xuống, rơi chạm đất nghe cạch một tiếng nhỏ. Cả bốn người liền nhìn về phía có tiếng động, Tiêu Phong lập tức nhẹ nhàng nhảy xuống, đã tới bên cửa sổ phòng phía đông. Trời lạnh ngắt, đất đông thành đá, cửa sổ nhà họ Mã có song gỗ bên ngoài, Tiêu Phong đợi đến lúc có gió bấc vù vù thổi vào cửa sổ liền nhẹ nhàng đẩy ra một chưởng, lách cách một tiếng nhỏ, chưởng lực hòa lẫn gió lập tức đánh gãy chấn song, cả giấy dán bên trong cũng rách toạc một đường. Tần Hồng Miên nà Nguyễn Tinh Trúc tuy ở gần nhưng chưởng phong và gió bấc cùng một lượt nên không phát giác, đến như người ở trong phòng cũng không biết được. Tiêu Phong ghé mắt qua khe giấy nhìn vào bên trong vừa thoạt trông đã đờ cả người, tưởng chừng không tin nổi mắt mình nữa.
Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần áo ngắn, mũ con, ngồi xếp bằng trên giường, tay cầm chén rượu, cười hề hề nhìn một người đàn bà ngồi ở trường kỷ bên cạnh. Người đàn bà đó mặc áo toàn một màu trắng, trên mặt thoa một lớp phấn mỏng, đầu mày cuối mắt đầy vẻ xuân tình, khóe thu ba long lanh tưởng như sắp nhỏ lệ , trông như cười mà không phải cười, tựa như giận mà không phải giận, liếc xéo Đoàn Chính Thuần, chính là sương phụ Mã Đại Nguyên Mã phu nhân.
Tình cảnh trong nhà lúc đó nếu như Tiêu Phong không chính mắt chứng kiến, thì dù có ai kể lại cho ông, ông cũng sẽ cho là chuyện hoang đường, đặt điều bịa chuyện. Sau lần đầu tiên nơi rừng hạnh bên ngoài thành Vô Tích, ông gặp bà ta thêm hai lần nữa, lúc nào cũng thấy Mã phu nhân mặt lạnh như băng, tỏ ra một người không ai có thể mạo phạm được, đến nụ cười cũng chưa lộ ra lần nào, có ngờ đâu lại biến thành như thế này. Kỳ quái hơn nữa, bà ta đã từng dùng lời hãm hại Đoàn Chính Thuần, ắt hai người phải có thâm thù đại hận, thế nhưng trông tình cảnh trong căn nhà nhỏ, rượu chuốc hương nồng, tình ý triền miên, bốn mắt đưa tình đầy vẻ yêu thương, hai người có gì gọi là ghét bỏ nhau đâu? Trên bàn là một bình hoa lớn cắm đầy hồng mai, dưới giường ắt hẳn lò than đang đỏ, khuy cài cổ Mã phu nhân bung ra, để lộ làn da trắng ngần, hở cả một bên chiếc yếm bằng gấm đỏ. Bên cạnh giường đốt hai cây nến trắng, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt ửng hồng. Bên ngoài gió vẫn mạnh, tuyết vẫn đổ nhưng trong nhà thực là ấm áp tình xuân. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:
- Lại đây, lại đây nào! Uống thêm với ta một chén nữa cho đủ cặp đủ đôi.
Mã phu nhân hứ một tiếng, phụng phịu nói:
- Cái gì mà đủ đôi đủ cặp? Thiếp một thân một mình ở đây, cô đơn lạnh lẽo, sáng đợi chiều trông, đêm mong ngày nhớ, lúc nào cũng mơ tưởng đến kẻ oan gia, còn chàng... chàng... thì đã quên bẵng đi rồi, có bao giờ nghĩ đến chuyện thăm hỏi một câu nào đâu?
Nói đến đây, mắt nàng rưng rưng tưởng chừng sa lệ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Nghe giọng điệu bà ta thật chẳng khác gì Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, không lẽ... không lẽ... cũng đã dan díu với Đoàn Chính Thuần từ lâu rồi?.
Đoàn Chính Thuần dịu giọng đáp:
- Ta ở Đại Lý, có ngày nào không khắc khoải nhớ nhung Tiểu Khang của ta đâu? Chỉ hận không chắp cánh mà bay tới để được ôm nàng vào lòng, say đắm thương yêu nàng một lát. Đến khi nghe tin nàng cùng Mã phó bang chủ thành hôn, ta ba ngày ba đêm không ăn không ngủ. Nàng đã có chỗ trao thân gửi phận, nếu ta vẫn còn đến thăm chẳng hóa ra làm lụy đến nàng hay sao? Mã phó bang chủ là một anh hùng hảo hán rất có thân phận trong Cái Bang, nếu ta đến chàng màng tằng tịu với nàng thì thật coi y chẳng ra gì, ta... ta... chẳng hóa thành kẻ tiểu nhân đê tiện ư?
Mã phu nhân nói:
- Nào có ai đòi chàng phải đến để vui vầy với thiếp? Thiếp chỉ khắc khoải không biết chàng có bình yên không? Trong lòng có sảng khoái không? Chuyện lớn chuyện nhỏ có xuôi chèo mát mái không? Chỉ mong chàng yên lành là thiếp mãn nguyện rồi, trên đời cũng còn được đôi điều đáng sống. Chàng ở nơi Đại Lý xa xăm, thiếp muốn nghe ngóng tin chàng thật khó khăn biết mấy. Thiếp thân tại Tín Dương, nhưng trái tim này có giờ nào, khắc nào không ở bên chàng đâu?
Nàng ta càng nói càng nhỏ dần, giọng vẫn thật là tự nhiên không có vẻ gì muốn mê hoặc ai, Tiêu Phong nghe dường như trong nũng nịu có chiều hờn mát, tuy nhẹ nhàng nhưng lại xem như trách móc, nghe vào tai khiến phải mềm lòng làm cho người ta hồn vía đi đâu mất. Bình sinh Tiêu Phong đã từng gặp biết bao nhiêu người nhưng không ngờ trên đời này lại có người đàn bà quyến rũ đến như thế khiến ông tuy ngạc nhiên thật nhưng mặt cũng phải đỏ lên. Ông đã gặp hai người tình nhân của Đoàn Chính Thuần, Tần Hồng Miên thẳng thắn bộc trực, Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp yêu kiều còn Mã phu nhân đây mềm mỏng đến cùng cực, ngọt ngào cũng cùng cực nhưng lại có mấy phần tình tứ. Đoàn Chính Thuần mặt tươi như hoa, giơ tay cầm nàng kéo lại, để lên lòng. Mã phu nhân ứ hự một tiếng, nửa chịu nửa không, giơ tay giả vờ đẩy ra. Tiêu Phong chau mày, không muốn nhìn hai người giở trò sàm sỡ, bỗng nghe bên cạnh có tiếng chân người đạp lên tuyết, nghe bép một tiếng. Ông kêu thầm: Không xong, hai mụ này thể nào cũng nổi cơn ghen làm hỏng hết chuyện lớn của ta. Thân hình ông vụt như gió lẻn ngay ra sau bốn người bọn Tần Hồng Miên, giơ tay điểm huyệt cả bọn. Bốn người đó chưa kịp biết ai ra tay thì đã cứng đơ nhưng lần này Tiêu Phong điểm luôn cả huyệt câm để cho họ muốn nói cũng không được. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe tình lang cùng người đàn bà ở bên cạnh nói chuyện gió trăng, lửa giận bừng bừng, cơn ghen kéo đến nhưng chỉ chịu khổ giữa trời tuyết mà không thể làm gì hơn. Tiêu Phong lại ghé mắt vào khe cửa nhìn thấy Mã phu nhân đã ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu tựa vào vai ông ta, người gục xuống mềm nhũn tưởng như chẳng còn xương cốt, mớ tóc dài đen nhánh che xõa hết một nửa mặt Đoàn Chính Thuần. Đôi mắt bà ta lim dim hé mở nói:
- Chồng thiếp bị người ta giết hại, chàng thể nào chẳng nghe tin, vậy mà sao không lại hỏi thăm nhau một chút? Trượng phu thiếp không còn,
chàng có còn phải ngại ngùng gì nữa đâu?
Giọng nói nửa như trách cứ nửa như nhõng nhẽo. Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Thế ta chẳng đến thì là gì? Ta vừa được tin, lập tức đi ngay, bất kể đêm ngày, ngựa không ngừng vó từ Đại Lý tới đây, chỉ sợ chậm mất một bước.
Mã phu nhân hỏi lại:
- Sao lại sợ chậm mất một bước?
Đoàn Chính Thuần mỉm cười:
- Sợ là sợ nàng không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc, đi lấy người khác mất rồi thì Đại Lý Đoàn nhị này bôn ba rong ruổi có phải công toi, mười năm nhớ nhung của ta trôi theo dòng nước.
Mã phu nhân hứ một tiếng nói:
- ối chào, nói gì chẳng nói lại vu cho người ta không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc đi lấy người khác? Chàng nghĩ tới thiếp hồi nào mà bảo là mười năm nhung nhớ, không sợ rụt lưỡi hay sao?
Đoàn Chính Thuần hai tay kéo lại, ôm nàng ta càng chặt thêm, cười nói:
- Nếu như ta không nhớ nàng thì sao lại từ Đại Lý lặn lội tới đây?
Mã phu nhân mỉm cười:
- Thôi được, cứ cho là chàng nhớ thiếp đi. Đoàn lang, thế từ nay chàng định sắp xếp cho thiếp thế nào?
Nói đến đây bà ta vòng hai tay vít cổ Đoàn Chính Thuần, đưa má mình vào mặt ông ta, liên tiếp cọ nhè nhẹ, mớ tóc dài bập bềnh như sóng nước. Đoàn Chính Thuần nói:
- Kim triêu hữu tửu kim triêu túy1 ! Chuyện tương lai nói tới làm gì? Thôi lại đây để ta ôm nàng xem mười năm qua có nhẹ đi tí nào không? Hay lại nặng hơn?
Nói xong giơ tay ôm lấy Mã phu nhân. Mã phu nhân nói:
- Thế chàng nhất định không chịu mang thiếp về Đại Lý hay sao?
Đoàn Chính Thuần hơi nhíu mày nói:
- Đại Lý có gì vui đâu? Vừa nóng vừa ẩm, lam sơn chướng khí, nàng đến đó thủy thổ không hợp, lại sinh bệnh mất thôi.
Mã phu nhân thở dài một tiếng, nói nhỏ:
- Ôi, chẳng qua chàng đến chỉ để dỗ dành thiếp cốt vui chơi qua đường đấy thôi.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Sao lại là vui chơi qua đường? Ta lập tức sẽ làm nàng vui vầy thực sự cho mà xem.
Mã phu nhân hơi vùng ra một cái, đứng xuống đất, rót một chén rượu nói:
- Đoàn lang, uống thêm chén nữa.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Ta không uống nữa đâu, say lắm rồi.
Mã phu nhân tay trái đưa ra vuốt ve má người tình nói:
- Không, thiếp không chịu đâu, thiếp muốn chàng uống cho thật say mèm.
Đoàn Chính Thuần cười hỏi lại:
- Say mèm ư? Say mèm thì còn gì thú vị?
Vừa nói ông vừa đưa tay cầm chén rượu uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phong nghe hai người nói toàn chuyện gió trăng không còn chịu nổi nữa, thấy Đoàn Chính Thuần uống rượu, cơn thèm nổi lên, nuốt nước bọt một cái. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần há miệng ngáp dài, trông có vẻ mệt mỏi. Mã phu nhân cười tình nói:
- Đoàn lang, để thiếp kể chuyện cho chàng nghe, có chịu không?
Tiêu Phong nghe thế liền phấn chấn, nghĩ thầm: Bà ta kể chuyện xưa, không chừng có đầu mối gì đây. Đoàn Chính Thuần nói:
- Đừng nói vội, lại đây, để ta cởi xống áo cho nàng, nằm bên gối kể ta nghe.
Mã phu nhân lườm ông ta một cái nói:
- Chàng biết không, Đoàn lang, hồi còn nhỏ nhà thiếp nghèo lắm, chỉ mong được may quần áo mới nhưng cha thiếp nào có đâu mà mua. Đêm ngày thiếp chỉ nghĩ giá mình được như tỉ tỉ nhà họ Giang bên cạnh, năm nào cũng có áo hoa, giày hoa mới thì chắc là sướng lắm.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hồi nàng còn nhỏ chắc là dễ thương lắm, một cô bé con thật kháu khỉnh, dẫu có mặc áo rách chăng nữa thì cũng vẫn đẹp như thường.
Mã phu nhân đáp:
- Không đâu, thiếp chỉ thích mặc quần áo mới thôi.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Nàng mặc quần áo tang trắng toát thế này, ôi, lại càng đẹp thêm
mấy phần, quần áo hoa có gì là đẹp đâu?
Mã phu nhân nhếch mép cười, vừa dịu dàng vừa nhỏ nhẹ đáp:
- Hồi thiếp còn nhỏ, cả đêm cả ngày chỉ nghĩ đến quần áo mới đến thành bệnh.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Cho đến năm mười bảy tuổi phải không?
ánh mắt Mã phu nhân sáng lên, cười khúc khích:
- Đoàn lang, từ hồi đó thiếp trở thành bệnh tương tư chàng. Cái bệnh đó chưa dứt nọc, cho tới nay vẫn chưa hết, chẳng biết kiếp này cái bệnh thương nhớ Đoàn lang có bớt được chút nào không?
Đoàn Chính Thuần nghe thế trong lòng bồi hồi rung động, giơ tay định nắm lấy nàng, nhưng vì uống rượu nhiều quá, chân tay bải hoải, giơ cánh tay lên rồi lại phải bỏ xuống, cười nói:
- Nàng ép ta uống nhiều quá, bây giờ muốn ... muốn ... ha ha, Tiểu Khang ơi! Thế mấy năm sau nàng mới được mặc áo hoa đi giày mới?
Mã phu nhân đáp:
- Chàng từ nhỏ đại phú đại quí, đâu có biết cái khổ của con nhà nghèo. Hồi đó, giá như thiếp có được đôi giày mới thì sung sướng biết mấy. Năm thiếp lên bảy, cha thiếp bảo rằng đến tháng chạp sẽ đem ba con cừu, mười bốn con gà nhà đang nuôi đem ra chợ bán sắm tết, lúc đó sẽ mua thêm một vuông vải hoa đem về may áo mới cho thiếp. Cha thiếp nói thế từ tháng tám, ngày ngày thiếp trông ngóng, chăm chỉ chăn cừu, nuôi gà...
Tiêu Phong nghe thấy chăn cừu chợt chạnh lòng, nhịn không nổi mắt đỏ hoe. Mã phu nhân kể tiếp:
- Chờ mãi mới đến tháng chạp, ngày nào thiếp cũng giục cha thiếp đi bán cừu, bán gà. Cha thiếp chỉ bảo Đừng có nóng ruột, đến khi năm cùng tháng tận, giá cừu giá gà nó mới được cao. Được mấy ngày, trời bỗng đổ tuyết lớn, liên tiếp mấy ngày mấy đêm liền. Chập tối hôm đó, đột nhiên có mấy tiếng lạch cạch, thì ra chuồng cừu bị tuyết làm sập mất rồi. Cũng may mấy con vật không bị chết, cha thiếp mới dắt cừu vào cho ở bên cạnh nói là sẽ sớm đem mấy con cừu ra chợ bán. Ngờ đâu ngay đêm hôm đó bỗng nghe sài lang tru, cừu kêu nhốn nháo cả lên. Cha thiếp nói: Chết rồi, chó sói đến rồi cầm chiếc giáo xông ra. Thế nhưng ba con cừu bị chó sói tha đi mất rồi, bầy gà hơn chục con cũng bị ăn thịt mất hơn một nửa. Cha thiếp kêu toáng lên, chạy vội ra rượt theo chúng định giành trở lại. Cha thiếp đuổi vào trong núi rồi, bụng thiếp lo lắm, không biết cha thiếp có lấy lại được mấy con cừu không. Đợi mãi đợi mãi mới thấy cha thiếp khập khiễng đi về. Cha thiếp bảo rằng tuyết ở triền núi trơn quá nên bị trượt chân, bị thương ở đùi, cái giáo cũng rơi xuống vực mất dĩ nhiên không đoạt lại được mấy con cừu. Thiếp quả là thất vọng, ngồi bệt ngay xuống tuyết khóc òa lên. Bấy lâu nay thiếp phải đi chăn cừu, chỉ mong được mặc quần áo mới, nào ngờ đến lúc cuối lại chẳng có gì. Thiếp vừa khóc vừa gào, luôn mồm giục: Cha ơi! Mau đi đòi mấy con cừu lại, con muốn có áo mới, con muốn có áo mới!.
Tiêu Phong nghe đến đây, lòng chùng xuống: Người đàn bà này trời sinh bạc bẽo, cha mụ ta ngã bị thương, mụ chẳng lo gì đến vết thương của cha, chỉ nhớ đến áo mới của mình, huống chi trời tối đuổi theo đàn sói đói, thật là nguy hiểm xiết bao? Lúc đó tuy còn nhỏ chưa hiểu sự đời nhưng cũng không phải chút nào. Lại nghe bà ta kể tiếp: - Cha thiếp mới bảo: Thôi bé ạ, từ mai trở đi mình lại nuôi mấy con cừu khác, sang năm bán đi, thể nào cũng có áo hoa cho con. Thiếp lại càng khóc to hơn nữa, nhưng đành chịu, còn biết làm sao? Chưa đầy nửa tháng sau đã đến Tết, chị họ Giang nhà hàng xóm mặc một chiếc áo bông thêu hoa đỏ nhụy vàng, mặc một chiếc quần xanh lục thêu hoa vàng. Thiếp trông thấy mà mê mẩn, tức đến bỏ cả ăn uống. Cha thiếp luôn luôn dỗ dành, thiếp nhất định không nhìn nhõi gì đến ông ta. Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Nếu lúc đó mà ta biết được, nhất định sẽ gửi đến cho nàng một chục, hai chục cái áo mới.
Nói tới đây ông ta vươn vai một cái, ánh nến lung linh chiếu lên khuôn mặt ngà ngà say đầy sắc dục. Mã phu nhân nói:
- Có một chục, có hai chục cái thì lại chẳng còn thèm thuồng nữa. Tối hôm ba mươi Tết, thiếp nằm trên giường trằn trọc, lăn qua lộn lại không ngủ được, len lén trở dậy, mò qua bên nhà Giang bá bá. Người lớn khi đó còn canh giao thừa chưa đi ngủ, ánh nến chiếu sáng trưng, thiếp thấy chị nhà họ Giang đang nằm ngủ trên giường, quần áo mới đắp trên bụng, ánh lửa bập bùng lại càng đẹp đẽ. Thiếp đứng nhìn ngẩn ngơ một hồi lâu rồi len lén vào trong phòng, cầm bộ quần áo mới.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Ăn trộm áo mới à? Chao ôi, ta tưởng Tiểu Khang chỉ ăn trộm đàn ông, ngờ đâu lại biết cả ăn trộm quần áo nữa.
ánh mắt Mã phu nhân long lanh, thản nhiên mỉm cười nói:
- Thiếp nào có ăn trộm quần áo đâu! Thiếp lấy chiếc kéo trong giỏ may để trên bàn, cắt vụn chiếc áo mới ra, lại cắt chiếc quần thành từng mảnh, không còn cách gì vá lại được. Thiếp cắt vụn bộ quần áo rồi, trong lòng hết sức vui sướng, sợ còn sướng gấp mấy lần chính mình có quần áo mới.
Đoàn Chính Thuần trước nay vẻ mặt vẫn tươi cười, nghe tới đây, khuôn mặt dần dần biến đổi, xem chừng không vui, nói:
- Tiểu Khang, thôi đừng kể chuyện nữa, mình đi ngủ thôi.
Mã phu nhân đáp:
- Không, dễ gì mà được gặp lại chàng mấy hôm, từ nay về sau, chỉ sợ không còn bao giờ gặp lại nhau, thiếp chỉ muốn nói chuyện với chàng càng nhiều càng tốt. Đoàn lang, chàng có biết tại sao thiếp lại muốn kể chuyện cho chàng nghe hay không? Để cho chàng biết rõ tính khí thiếp, từ bé đã vậy rồi, thích cái gì là ngày đêm mơ tưởng có cho bằng được, ví như người khác may mắn mà có thì bằng giá nào thiếp cũng phải hủy nó đi. Hồi còn bé thì cách làm cũng ngờ nghệch vụng về, đến khi lớn lên rồi thì cũng phải khôn ngoan hơn, cách thức cũng phải khéo léo hơn.
Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:
- Thôi đừng nói nữa. Những chuyện ghê gớm ấy nàng để ta nghe vào tai mất cả hứng đi thì đừng trách ta đấy nhé.
Mã phu nhân mỉm cười đứng lên, từ từ cởi chiếc dải trắng buộc tóc trên đầu, mới tóc dài xõa xuống tận eo, mềm mại đen nhánh. Nàng cầm một chiếc lược bằng gỗ dương vàng, chậm rãi chải mớ tóc dài, đột nhiên quay lại mỉm cười, vẻ mặt thật là kiều mị nói:
- Đoàn lang, chàng lại đây bồng thiếp đi.
Thanh âm cực kỳ lơi lả. Tiêu Phong tuy trong lòng ghét bỏ người đàn bà này nhưng dưới ánh nến nhìn thấy khóe thu ba long lanh, nghe nàng nói chàng lại đây bồng thiếp đi cũng thấy rung động trong lòng. Đoàn Chính Thuần cười hì hì, vịn vào thành giường, toan đứng lên lại bế nàng ta, nhưng vì uống rượu quá nhiều, không nhỏm dậy nổi chỉ nói:
- Gớm chỉ mới uống có sáu bảy chén rượu mà sao say đến thế này.
Tiểu Khang, nàng quả là hoa dung nguyệt mạo nên hôm nay ta vừa gặp đã say chẳng khác gì uống đủ ba cân liệt tửu, ha ha. Tiêu Phong nghe thấy thế, kinh hoảng nghĩ thầm: Chỉ mới uống sáu bảy chén, làm sao say được? Đoàn Chính Thuần nội lực đâu phải tầm thường, dẫu không biết uống rượu chăng nữa cũng không đến nỗi thế, hẳn có chuyện gì khác lạ. Chỉ nghe Mã phu nhân cười khúc khích, nũng nịu nói:
- Đoàn lang, chàng lại đây nào, thiếp không có chút hơi sức nào cả, chàng... chàng... lại đây ôm thiếp đi.
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm ở bên ngoài song cửa nghe Mã phu nhân õng ẹo đưa tình, câu nào câu nấy lọt vào tai, lửa ghen bốc lên, tưởng chừng muốn vỡ cả lồng ngực nhưng đâu có giơ tay bịt tai được. Đoàn Chính Thuần tay trái tựa vào thành giường, cố gắng đứng dậy, nhưng người cứ cứng đờ, đầu gối mềm nhũn, lại ngồi phịch xuống cười
nói:
- Ta cũng chẳng có chút hơi sức nào, thật là lạ quá. Ta vừa mới gặp nàng đã như chuột gặp mèo, toàn thân mềm nhũn ra ngay.
Mã phu nhân cười nhỏ nhẹ:
- Thiếp không tin đâu, chỉ mới uống có một chút mà đã giả vờ say để nựng người ta. Chàng không vận khí thúc đẩy nội lực được hay sao?
Đoàn Chính Thuần điều vận nội tức, toan đưa chân khí lên nhưng đan điền sao trống rỗng, tưởng chừng không còn gì cả, làm cách nào cũng không được. Ông liên tiếp đề khí ba lần, ngờ đâu công lực tu tập mấy chục năm không còn thấy tăm hơi đâu cả, không biết đi mất từ bao giờ. Bấy giờ Đoàn Chính Thuần mới thấy hoảng biết rằng có điều không hay xảy ra nhưng từng qua lại giang hồ đã lâu, kinh lịch cũng nhiều, trên mặt vẫn thản nhiên như không cười nói:
- Chỉ vận được nội kình sử dụng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm thôi, thật say tới mức chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được nữa rồi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Gã này tuy tham hoa hiếu sắc nhưng không phải là kẻ hồ đồ. Y biết được đang lâm vào nguy cơ nên nói rằng chỉ còn giết người chứ không còn ôm người. Thực ra Nhất Dương Chỉ thì y biết nhưng Lục Mạch Thần Kiếm có biết đâu, chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế để dọa người. Nếu y không còn nội lực thì làm sao sử dụng Nhất Dương Chỉ được?. Mã phu nhân người mềm xèo nói:
- Chao ôi, sao thiếp nhức đầu thế này, Đoàn lang, hay là... hay là trong rượu, chàng có bỏ cái gì vào không đấy?
Đoàn Chính Thuần vốn đã nghi nàng ta bỏ thuốc vào trong rượu, nghe nói thế, bao nhiêu ngờ vực tan biến hết, vẫy vẫy tay, nói:
- Tiểu Khang, nàng lại đây, ta có chuyện muốn nói với nàng.
Mã phu nhân dường như muốn đi lại bên cạnh ông ta nhưng không đứng lên nổi, gục xuống bàn, mặt ửng hồng, thở hổn hển, nũng nịu nói:
- Đoàn lang, thiếp một bước cũng đi không nổi, chắc chàng sợ thiếp không chiều chuộng nên bỏ xuân dược vào rượu chứ gì? Chàng thật chẳng có đàng hoàng gì cả.
Đoàn Chính Thuần lắc đầu, giơ tay làm hiệu, lấy tay chấm vào rượu viết lên bàn: Mình trúng độc kế của địch, cố gắng trấn tĩnh rồi nói:
- Bây giờ nội lực của ta lại vận được rồi, mấy chén rượu độc kia làm sao làm ta mê man cho nổi.
Mã phu nhân cũng viết lên bàn: Thật hay không?. Đoàn Chính Thuần lại viết: Chớ có lộ vẻ kém thế. Ông ta lớn tiếng nói:
- Tiểu Khang, nàng có kẻ nào đối đầu mà dám đến đây giở độc kế với ta?
Tiêu Phong ở ngoài cửa sổ thấy ông ta viết mấy chữ Chớ có lộ vẻ kém thế biết là không ổn, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần là kẻ tinh minh ghê gớm thế mà lại chết về tay con đàn bà. Thuốc độc này rõ ràng là do Mã phu nhân bỏ vào, mụ ta nghe ngươi nói chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được sợ ngươi võ công vẫn còn nên giả vờ chính mình cũng trúng độc để xem hư thực, sao lại dễ dàng mắc mưu đến thế?. Mã phu nhân lộ vẻ lo lắng lại viết trên bàn: Nội lực mất hết là thực hay giả? nhưng mồm vẫn nói:
- Đoàn lang, nếu có đứa gian tặc chó chết nào muốn đến hại chúng mình thì thật hay lắm. Hiện giờ không có chuyện gì làm tóm cổ chúng làm vui thì đúng điệu. Chàng cứ việc ngồi đó xem chúng giở trò gì.
Đoàn Chính Thuần viết: Chỉ mong thuốc sớm rã, kẻ địch đến chậm thôi. Ông ta nói:
- Đúng thế, nếu có đứa nào đến phá quấy mình thì thật cầu còn chưa đủ. Tiểu Khang, nàng có muốn xem thuật lăng không điểm huyệt của ta không nào?
Mã phu nhân cười nói:
- Thiếp từ trước tới nay chưa từng được xem bao giờ, nếu như nội lực chàng chưa mất thì sử dụng Nhất Dương Chỉ đục thủng một cái lỗ trên giấy dán cửa sổ coi nào, có được không?
Đoàn Chính Thuần hơi chau mày, nháy nhó liên tiếp, có ý nói: Ta hoàn toàn không còn chút nội lực nào nữa, làm sao có thể lăng không điểm huyệt được? Ta chỉ để dọa địch nhân đấy thôi, sao nàng không hiểu ý ta?. Thế nhưng Mã phu nhân vẫn luôn mồm thúc giục nói:
- Mau động thủ đi nào, chàng chỉ cần đục một cái lỗ nhỏ trên cửa là dọa cho kẻ địch chạy mất nếu không thì hỡi ôi, đừng để cho chúng nhìn thấy điểm yếu của mình.
Đoàn Chính Thuần lại càng run nghĩ thầm: "Nàng ta xưa nay thông minh lanh lợi lắm, sao bây giờ lại cố giả vờ như ngờ nghệch là sao?". Ông còn đang suy nghị lại nghe Mã phu nhân dịu dàng nói:
- Đoàn lang, chàng trúng phải độc dược cực mạnh Thập Hương Mê Hồn Tán thì dẫu võ công có bằng trời cũng mất hết nội lực. Nếu quả chàng vẫn còn lăng không điểm huyệt đục được một cái lỗ nơi cửa sổ thì thật kỳ diệu quá sức.
Đoàn Chính Thuần thất kinh kêu lên:
- Ta... ta trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán đấy sao? Nàng làm sao... làm sao lại biết?
Mã phu nhân nũng nịu cười nói:
- Khi thiếp rót rượu cho chàng, hì hì, thật là vô ý để sẩy tay bỏ luôn một bao thuốc vào bình rượu. Chao ôi, thiếp vừa gặp lại chàng là thần hồn điên đảo, chân tay quýnh quáng, Đoàn lang ơi, chàng đừng giận thiếp nhé!
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:
- ồ, thì ra là vậy đó! Thế thì có hề hấn gì đâu!
Bây giờ ông đã rõ ràng, biết mình đã bị Mã phu nhân chế ngự, nếu nổi nóng chửi rủa thì sẽ không ích lợi gì nên đành giả vờ như không quan tâm, hết sức trấn tĩnh tâm thần, tìm cách ứng phó với thế cục cực kỳ nguy hiểm, nghĩ thầm: Nàng đối với ta một tấm thâm tình, chắc không nỡ nào hại tính mạng, cùng lắm là bắt mình phải đồng ý vĩnh viễn không trở về nhà nữa, chung sống tại đây, hoặc giả ép mình đem nàng về Đại Lý, danh chính ngôn thuận thành vợ thành chồng. Đó chẳng qua cũng bởi tấm lòng si mê mình, ra tay tuy hơi quá đáng nhưng cũng không phải do ý xấu mà ra. Ông nghĩ như thế mới thấy khoan tâm. Quả nhiên nghe thấy Mã phu nhân hỏi lại:
- Đoàn lang, chàng có bằng lòng thành vợ thành chồng cho lâu dài với thiếp không?
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Gớm nàng tính toán quả là lợi hại, thôi được rồi, ta chịu thua đó! Sáng mai nàng cùng ta lên đường trở về Đại Lý, ta cưới nàng làm trắc phi Trấn Nam Vương.
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe thế, cơn ghen nổi lên, cùng nghĩ: Con tiện nhân này có gì tốt lành đâu? Chàng không nghe lời ta, lại nghe lời nó là sao?. Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:
- Đoàn lang ơi, mới vừa rồi thiếp đã hỏi chàng, sau này coi thiếp ra sao, chàng lại bảo đất Đại Lý ẩm thấp nhiều chướng khí, thiếp đến đó chỉ tổ sinh bệnh, đến bây giờ bị ép nên phải bằng lòng, chứ có phải là do bản tâm đâu!
Đoàn Chính Thuần cũng thở hắt ra nói:
- Tiểu Khang, để ta nói cho nàng nghe, ta là hoàng thái đệ của nước Đại Lý. Anh ta không có con trai, sau khi vương huynh thiên thu vạn tải rồi thì ngôi vua sẽ truyền lại cho ta. Ta ở Trung Nguyên chẳng qua chỉ là một kẻ võ phu thế nhưng khi về Đại Lý thì không thể nào muốn làm gì thì làm, nàng nghĩ có phải không?
Mã phu nhân đáp:
- Đúng thế, thì đã làm sao?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Chuyện này bên trong quả có nhiều điều khó nói nhưng nàng với ta thiết tha như vậy, đến nỗi phải giở thủ đoạn hạ độc nên ta cũng phải hồi tâm chuyển ý. Ngày ngày có một người xinh đẹp như nàng bầu bạn cận kề không lẽ ta không nghĩ đến. Ta đã bằng lòng đưa nàng về Đại Lý thì quyết không thể nào hối hận đâu.
Mã phu nhân A lên một tiếng nhỏ nói:
- Chàng nói vậy cũng phải. Mai sau chàng lên làm vua rồi có phong thiếp làm hoàng hậu không?
Đoàn Chính Thuần trù trừ đáp:
- Ta vốn có nguyên phối rồi, hoàng hậu thì không thể được...
Mã phu nhân đáp:
- Thật vậy, thiếp là một người đàn bà góa xúi quẩy, sao có thể làm hoàng hậu nương nương? Như thế chẳng khiến hàng nghìn hàng vạn dân Đại Lý cười đến trẹo quai hàm ư?
Nàng ta lại cầm chiếc lược lên, chậm rãi chải đầu, cười nói:
- Đoàn lang, mới đây thiếp kể lại chuyện cũ cho chàng nghe, chàng có hiểu ý thiếp hay chăng?
Đoàn Chính Thuần toát mồ hôi trán, chảy ròng ròng cố trấn nhiếp tinh thần nhưng công lực khổ luyện mấy chục năm qua không biết biến đi đâu mất thật có khác gì người đang chết đuối, hai tay quơ loạn lên nhưng đến một cọng cỏ cũng không vớ được. Mã phu nhân hỏi lại:
- Đoàn lang, người chàng nóng lắm, có phải không? Thôi để thiếp lau mồ hôi cho.
Từ trong túi lấy ra một chiếc khăn tay trắng tinh đến trước mặt ông ta nhẹ nhàng lau những giọt mồ hôi trên trán, dịu dàng nói:
- Đoàn lang, chàng phải giữ gìn sức khỏe, uống rượu rồi dễ trúng gió máy khiến cho người khó chịu, không khỏi khiến thiếp đâm lo sao?
Tiêu Phong ở bên ngoài cửa sổ cũng như Đoàn Chính Thuần ở trong nhà, hai người nghe thấy thế không khỏi rợn tóc gáy. Đoàn Chính Thuần cố gượng nở một nụ cười nói:
- Hôm đó người nàng hương hãn đầm đìa, ta cũng từng lau mồ hôi cho, chiếc khăn đó hơn chục năm nay vẫn còn giữ đây.
Mã phu nhân vẻ mặt thẹn thùng, nói nhỏ:
- Thật không biết xấu, chuyện cũ từ đời nào vậy mà vẫn còn nhắc lại? Chàng lấy ra cho thiếp xem nào?
Đoàn Chính Thuần nói là hơn chục năm qua vẫn mang theo chiếc khăn trong người, tưởng không có gì làm thực, nhưng ngờ đâu quả có tại trong túi. Ông ta có cái tài được lòng đàn bà cũng có nguyên nhân, phụ nữ nào đã từng có với ông một phen duyên nghiệt cũng đều tưởng ông thực lòng yêu mình nhưng chỉ vì số kiếp long đong nên không thể nào ăn đời ở kiếp với nhau được. Ông toan lấy chiếc khăn trong bọc ra để cho Mã phu nhân nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, ngờ đâu ngón tay chỉ hơi động đậy, bàn tay hoàn toàn tê dại, độc tính của Thập Hương Mê Hồn Tán này thật là ghê gớm, không còn chút hơi sức nào. Mã phu nhân nói:
- Chàng lấy ra cho thiếp coi đi! ứ hự, chàng lại đánh lừa thiếp rồi.
Đoàn Chính Thuần cười đau khổ:
- Ha ha, say quá mất thôi đến nỗi tay chẳng còn cử động được, nàng lấy giùm ta đi vậy.
Mã phu nhân nói:
- Thiếp chả mắc lỡm chàng đâu. Chàng định lừa cho thiếp đến gần, dùng Nhất Dương Chỉ giết thiếp chứ gì.
Đoàn Chính Thuần mỉm cười đáp:
- Nàng là một tuyệt thế giai nhân xinh tươi nhường ấy, dẫu ta có là một hung đồ thập ác bất xá thì cũng chẳng nỡ dùng móng tay gạch lên khuôn mặt nàng một đường.
Mã phu nhân cười nói:
- Thật thế chăng? Đoàn lang, thế nhưng thiếp vẫn chưa yên bụng, thôi để thiếp lấy dây trói hai tay chàng lại, sau đó... sau đó, mới dùng sợi tơ mềm buộc luôn cả trái tim.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Thì nàng đã chẳng buộc trái tim ta rồi đấy ư, nếu không ta đâu có ngoan ngoãn mò tới tận đây?
Mã phu nhân cười rộ lên một tiếng nói:
- Chàng vốn tử tế đến thế, thảo nào khiến cho thiếp phải mắc cái bệnh tương tư không sao chữa lành cho được.
Nói xong mở cái ngăn kéo bên cạnh giường lấy ra một cuộn dây gân bò. Đoàn Chính Thuần trong lòng càng thêm kinh hãi: Thì ra mụ ta đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, ta từ đầu chí cuối cứ như ở trong đám mây mù, Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, hôm nay ngươi táng mạng nơi đây, còn oán trách gì ai được nữa?. Mã phu nhân nói:
- Thiếp trói chân tay chàng trước, Đoàn lang, lòng thiếp thật yêu thương chàng không đâu kể xiết, chàng có giận thiếp không?
Đoàn Chính Thuần biết tính Mã phu nhân rồi, tuy là đàn bà nhưng so với đàn ông bình thường còn cứng rắn hơn, dù cho rủa xả chửi mắng mụ cũng không nổi giận, van xin năn nỉ mụ cũng chẳng hồi tâm, trước mắt chỉ còn một cách kéo dài thời giờ, may ra có cơ hội chuyển nguy thành an, thoát được khốn cảnh này nên cười nói:
- Ta vừa thấy cặp mắt long lanh của nàng, bao nhiêu giận hờn tan biến cả. Tiểu Khang, nàng lại đây, cho ta ngửi xem đóa hoa nhài trên tóc nàng có thơm không nào?
Hơn mười năm trước cũng một câu nói này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân tạo nên một mối nghiệt duyên, bây giờ đề cập chuyện cũ, Mã phu nhân liền ngả đầu tựa vào lòng ông, thật là tình tứ dáng điệu đầy vẻ nhu mì bẽn lẽn. Bà ta giơ tay vuốt ve khuôn mặt Đoàn Chính Thuần, ỏn ẻn nói:
- Đoàn lang, Đoàn lang, tối hôm đó thiếp trao thân cho chàng, thiếp có hỏi rằng, sau này nếu như chàng lòng nọ dạ kia thì sẽ ra sao?
Đoàn Chính Thuần thấy mắt nổ đom đóm, trán từng giọt mồ hôi bằng hạt đậu nhỏ tong tỏng. Mã phu nhân tiếp:
- Hảo lang quân vô lương tâm kia ơi, lang quân yêu quí kia ơi, chàng đã thề nguyền sao sớm quên làm vậy?
Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:
- Ta bảo sẽ để cho nàng cắn từng miếng thịt trên người ta.
Cái câu ước hẹn kia vốn dĩ chỉ là một câu bỡn cợt, trai gái hợp hoan tán tỉnh nhau nhưng bây giờ Đoàn Chính Thuần nhắc đến mà toàn thân nổi gai ốc. Mã phu nhân cười tình nói:
- Những gì chàng nói với thiếp, qua bao nhiêu năm vẫn không quên, Đoàn lang của thiếp quả là có lòng. Đoàn lang, thiếp định trói tay chàng lại, để cùng chàng chơi một trò mới, chẳng biết chàng có chịu hay không? Chàng bằng lòng thì thiếp mới trói, nếu chằng không khứng chịu thì thôi. Thiếp xưa nay đối với chàng thiên y bách thuận, làm gì cũng chỉ mong chàng được toại ý thôi.
Đoàn Chính Thuần biết rằng nếu mình không chịu cho mụ ta trói thì thể nào cô ả cũng còn những trò cổ quái khác nên đành gượng cười:
- Nàng muốn trói thì cứ trói đi. Ta dẫu phải chết dưới khóm mẫu đơn thì thành quỉ cũng phong lưu chán2 . Được chết dưới bàn tay của nàng thật là khoái hoạt biết bao nhiêu.
Tiêu Phong ở bên ngoài của sổ nghe ông ta nói vậy phải bội phục định lực quả hơn người, trong lúc nguy cơ như thế vẫn còn nói chơi được thì quả là tài. Chỉ thấy Mã phu nhân bẻ quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau, dùng gân bò trói cho thật chặt, thắt bảy tám cái nút, không nói gì lúc này ông ta võ công mất hết rồi, mà dẫu nội lực còn nguyên thì cũng không dễ gì trong chốc lát mà vùng ra được. Mã phu nhân lại cười tình nói:
- Thiếp ghét nhất là hai cái chân chàng, mỗi lần ra đi là chẳng còn thấy bóng thấy hình đâu nữa.
Bà ta nói xong giơ tay véo lên đùi ông ta một cái. Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Thế nhưng năm xưa ta gặp được nàng cũng là nhờ đôi chân này mang ta tới. Đôi chân này tội tuy lớn thật, công cũng không nhỏ.
Mã phu nhân nói:
- Được rồi, để thiếp trói nó lại đã.
Nói xong bà ta lại lấy một sợi dây gân bò trói nốt hai chân Đoàn Chính Thuần. Bà ta lấy một chiếc kéo, chậm rãi cắt mấy lớp áo trên vai phải ông ta, để lộ làn da trắng trẻo. Đoàn Chính Thuần tuổi tuy không còn trẻ nhưng cả đời vinh hoa phú quí sống trong nhung lụa, lại thêm nội công thâm hậu, thịt trên vai vừa nhẵn nhụi vừa săn chắc. Mã phu nhân giơ tay vuốt ve đầu vai ông, hé chiếc miệng anh đào hôn nhè nhẹ lên má, từ từ lần xuống cổ, xuống vai, cổ họng rên lên ư ử thật thắm thiết không sao kể xiết. Đột nhiên Đoàn Chính Thuần kêu Oái lên một tiếng, thanh âm phá vỡ màn đêm tĩnh mịch. Mã phu nhân ngửng đầu lên, miệng đầy máu, đã cắn một miếng trên vai ông ta. Mã phu nhân nhả miếng thịt xuống đất, nũng nịu:
- Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, thiếp yêu chàng hết mình nên mới cắn chàng đó. Đoàn lang, chính miệng chàng nói ra, nếu chàng thay lòng sẽ cho thiếp cắn từng miếng, từng miếng thịt.
Đoàn Chính Thuần cười ha hả nói:
- Đúng đó, Tiểu Khang, ta đã nói ra lẽ nào lại không tính? Ta cũng đã có lúc nghĩ rằng sau này chết thế nào cho xứng đáng? ở trên giường ốm rồi chết ư? Thế thì tầm thường quá. Tại chiến trường bảo vệ đất nước mà chết ư? Cũng tốt đấy nhưng có điều anh dũng mà chẳng phong lưu, mỹ trung bất túc, không thích hợp với con người của Đoàn Chính Thuần lúc bình thời. Tiểu Khang, hôm nay nàng nghĩ ra được cách này quả là cao minh, Đoàn Chính Thuần chết vì chiếc miệng anh đào của đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ, dưới những chiếc răng xinh xắn như ngọc trai kia, quả đúng là hợp với tâm nguyện của ta. Nàng thử nghĩ xem, nếu Đoàn Chính Thuần này chẳng cùng nàng trải qua một đoạn ái tình khắc cốt tương tư, nếu là một người đàn ông khác, dẫu cho nàng đầy nhà châu báu nàng cũng đâu thèm cắn y lấy một miếng đâu? Tiểu Khang, nàng nghĩ có phải không nào?
Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc vốn đã sợ mất hết hồn vía, biết Đoàn lang mệnh trong khoảnh khắc, thấy Tiêu Phong vẫn đứng bên cạnh cửa sổ quan sát động tĩnh, tuyệt nhiên không ra tay cứu giúp, trong bụng chửi thầm ông không biết bao nhiêu mà kể. Tiêu Phong vẫn chưa biết rõ chân ý của Mã phu nhân ra sao, chẳng hiểu mụ ta quả có ý giết Đoàn Chính Thuần, hay chỉ dọa già dọa non, thêm một trò phong lưu mới rồi mới tha cho để từ rày ông ta không còn thay lòng đổi dạ. Nếu như chỉ là chốn phòng the hai người đùa cợt với nhau, mình lại lỗ mãng xông vào cứu, có phải mất đi cái cơ hội bằng vàng thám thính tin tức, nên đành nén lòng yên lặng xem biến chuyển. Mã phu nhân cười nói:
- Đúng thế, dẫu là thiên tử Đại Tống, hoàng đế Khất Đan có giết thiếp thì dễ chứ đừng hòng để cho thiếp phải cắn một cái. Đoàn lang, thiếp vốn dĩ định bụng cắn chàng từ từ cho tới chết, muốn cắn chàng muôn ngàn lần, nhưng lại ngại bộ thuộc chàng đến cứu. Thế thì thôi đành, thiếp cắm con dao nhỏ này vào nơi tim chàng, đâm vào nửa tấc để chàng không chết, nếu như có ai tới cứu, thiếp chỉ nhấn vào cán dao một cái, thế là chàng không còn phải đau đớn gì nữa.
Nói tới đây mụ ta lấy ra một thanh chủy thủ sáng choang, cắt y phục trên ngực Đoàn Chính Thuần , để mũi dao đúng ngay tâm khẩu, bàn tay thon nhè nhẹ ấn xuống, cắm con dao vào ngực, quả nhiên chỉ nhấn vào một chút rồi thôi. Lần này Đoàn Chính Thuần không hự lấy một tiếng, thấy nơi ngực máu chảy ra bèn nói:
- Tiểu Khang, mười ngón tay nàng bây giờ so với thời mười bảy tuổi còn trắng trẻo nhẵn nhụi hơn nhiều.
Khi Mã phu nhân cầm dao đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, mắt Tiêu Phong đăm đăm nhìn không chớp, nếu thấy dùng lực quá mạnh, nguy cho tính mạng Đoàn Chính Thuần thì sẽ lập tức tung ra một chưởng đánh dạt bà ta ra, đến khi thấy chỉ nhè nhẹ ấn vào nên không lo lắng nữa. Mã phu nhân nói:
- Năm thiếp mười bảy tuổi, ngày ngày giặt dũ nấu cơm, chân tay dĩ nhiên sần sùi. Mấy năm nay không phải làm việc nặng, da dẻ cũng mịn màng hơn. Đoàn lang, miếng thứ hai thiếp cắn vào đâu cho phải? Chàng bảo cắn chỗ nào thiếp sẽ cắn chỗ đó, lúc nào thiếp cũng bảo sao nghe vậy.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Tiểu Khang, nàng cắn chết ta rồi, hồn ta sẽ luôn luôn quấn quít bên nàng.
Mã phu nhân hỏi:
- Để làm gì?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hễ vợ mà mưu sát chồng thì chồng chết đi hồn vất vưởng không tan, lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn gần bên để phòng có người đàn ông nào khác đến vui vầy.
Câu đó Đoàn Chính Thuần vốn định dọa nàng ta một chuyến cho mụ khỏi quá ác độc, ngờ đâu Mã phu nhân nghe xong, mặt liền biến sắc, không hẹn mà quay lại nhìn phía sau lưng. Đoàn Chính Thuần thừa cơ nói:
- ồ, sau lưng nàng có ai thế kia?
Mã phu nhân hoảng hốt nói:
- Sau lưng thiếp nào có ai? Chỉ nói lăng nhăng!
Đoàn Chính Thuần nói:
- Ôi, đó là một người đàn ông, há miệng cười với nàng, y đang ôm cổ họng, dường như đau đớn lắm. Người đó là ai thế, quần áo rách rưới, không ngớt chảy nước mắt...
Mã phu nhân vội vàng quay lại, nào thấy ai, run run nói:
- Ngươi nói láo, ngươi... nói láo!
Đoàn Chính Thuần lúc đầu thuận miệng nói nhăng, nhưng thấy nàng ta kinh hoảng dị thường, trong bụng khởi nghi, thoáng một cái, lập tức nghĩ ra cái chết của Mã Đại Nguyên bên trong hẳn có điều gì khác lạ. Ông ta biết Mã Đại Nguyên chết vì môn Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ nên cố ý nói người đó cổ họng đau đớn lắm, chảy nước mắt, y phục tang thương, quả nhiên Mã phu nhân lập tức khiếp đảm. Đoàn Chính Thuần cũng đoán ra được vài ba phần, nói tiếp:
- A, kỳ quái nhỉ, sao người đó chớp mắt lại biến đâu mất rồi, y là ai thế?
Vẻ mặt Mã phu nhân hết sức kinh khủng nhưng chỉ giây lát đã trấn tĩnh như thường, nói:
- Đoàn lang, hôm nay đã đến nước này, chàng còn dọa thiếp để làm gì? Hay là chàng không rủa xả thiếp vài câu thì không yên? Hai đứa mình vui vầy xong rồi bây giờ thiếp sẽ tống tiễn chàng đi một cách thật là sảng khoái.
Nàng ta nói xong đi tới một bước, giơ tay định cầm cán dao chủy thủ đâm vào. Đoàn Chính Thuần thấy không còn cách nào kéo dài thêm được nữa, hai mắt trừng trừng nhìn vào sau lưng Mã phu nhân, kêu toáng lên:
- Mã Đại Nguyên, Mã Đại Nguyên, mau giết mụ vợ ngươi đi!
Mã phu nhân thấy khuôn mặt ông ta lộ vẻ sợ hãi lạ thường, lại gào lên Mã Đại Nguyên, toàn thân không khỏi run rẩy, quay đầu lại nhìn. Đoàn Chính Thuần hết sức dùng đầu húc một cái, trúng ngay cằm Mã phu nhân khiến bà ta ngã lăn ra đất, ngất đi. Cái húc đó Đoàn Chính Thuần hoàn toàn không phải là dùng nội lực, Mã phu nhân tuy hôn mê thật nhưng chỉ một chút đã tỉnh lại ngay, suýt soa đứng lên, vỗ vỗ cằm, cười nói:
- Đoàn lang, sao chàng lại nựng thiếp mạnh tay thế, đụng thiếp chỗ này đau ơi là đau. Chàng đặt điều dọa thiếp, thiếp không mắc hỡm chàng đâu!
Đoàn Chính Thuần húc đã dùng hết bao nhiêu nội lực tích tụ được từ nãy đến giờ, trong bụng thở dài, nghĩ thầm: Bỏ mạng thế này còn gì đâu để nói nữa. Ông chợt nghĩ ra hỏi lại:
- Tiểu Khang, bây giờ nàng giết ta chứ gì? Thế nhưng nếu người trong Cái Bang đến hỏi tội mưu sát thân phu thì ai là người giúp đỡ nàng đây?
Mã phu nhân cười khúc khích nói:
- Ai bảo là thiếp mưu sát thân phu? Chàng nào có phải là chồng thiếp đâu. Nếu như chàng thực sự là chồng thiếp, thiếp yêu thương chiều chuộng chàng còn chưa đủ, lẽ đâu lại ra tay hại chàng? Thiếp giết chàng rồi cao bay xa chạy, lẽ đâu lại ở đây, thần tử nước Đại Lý của chàng có đi tìm thì làm sao thiếp đối phó nổi?
Nàng ta thở dài sườn sượt nói tiếp:
- Đoàn lang, thiếp thật thương chàng, nhớ chàng không biết bao nhiêu cho kể chỉ mong được lúc nào cũng ôm chàng, hôn hít, nựng nịu chàng thôi. Thế nhưng bởi vì thiếp không có được chàng nên không ăn thì đạp đổ, đó là cái tính trời sinh của thiếp chứ biết làm sao hơn?
Đoàn Chính Thuần nói:
- ồ, thì ra là thế, thảo nào hôm trước nàng cố ý đánh lừa cô gái kia, muốn mượn tay Kiều Phong giết ta, chẳng qua là vậy.
Mã phu nhân nói:
- Đúng vậy, Kiều Phong thật là đồ vô dụng, lại không giết được chàng, để chàng chạy mất.
Tiêu Phong trong bụng không ngừng tự hỏi: A Châu giả làm Bạch Thế Kính, thuật hóa trang như thần, đến ta cũng còn nhìn không ra, Mã phu nhân và Bạch Thế Kính có thân thiết gì đâu, sao lại nhìn ra được nhỉ?.
Lại nghe Mã phu nhân nói tiếp:
- Đoàn lang, thiếp muốn cắn chàng thêm một miếng nữa.
Đoàn Chính Thuần mỉm cười:
- Nàng cứ lại cắn ta đi, ta thật sung sướng biết là dường nào.
Tiêu Phong thấy không còn có thể diên trì thêm được nữa, đưa bàn tay ra, để ngay vào chỗ vách đất sau lưng Đoàn Chính Thuần, ám vận kình lực, bức tường vốn dĩ chẳng chắc chắn gì, quả đấm liền từ từ đi vào, thủng thành lỗ không nghe một tiếng, bàn tay đặt lên lưng Đoàn Chính Thuần. Ngay lúc đó, Mã phu nhân đã cắn được một cái trên vai Đoàn Chính Thuần, ông ta kêu rú lên, vùng vẫy, đột nhiên thấy hai tay đã tự do. Thì ra dây trói nơi cổ tay đã bị Tiêu Phong dùng ngón tay cấu đứt, đồng thời một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu tràn vào mọi nơi kinh mạch. Đoàn Chính Thuần còn đang ngạc nhiên nhưng biết ngay bên ngoài có
cường viện, khí tùy ý chuyển, luống nội lực từ sau lưng liền dẫn ngay vào cánh tay, truyền tới ngón tay nghe suỵt một tiếng nhỏ, thần công Nhất Dương Chỉ đã tung ra. Mã phu nhân bị trúng chỉ ngay mạng sườn, chỉ rú
lên được một tiếng lập tức gục ngay xuống giường. Tiêu Phong thấy Đoàn Chính Thuần đã chế ngự được Mã phu nhân rồi, lập tức rút tay về. Đoàn Chính Thuần đang toan mở lời tạ ơn, bỗng thấy cửa mở tung ra, một người chạy vào. Chỉ nghe người kia nói:
- Tiểu Khang, nàng đối với y tình xưa nghĩa cũ vẫn còn, phải không nào? Sao phí mất bao nhiêu công phu đến giờ này vẫn chưa thanh toán xong xuôi?
Tiêu Phong từ bên ngoài nhìn vào thấy gã kia, đờ người ra, vừa kinh hoàng, vừa tức tối, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều giải quyết được cả. Hôm đó tại khu rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Mã phu nhân lấy ra chiếc quạt mình thường dùng, vu cho ông lẻn vào nhà họ Mã ăn trộm thư bị rơi lại, cái quạt đó ở đâu ra? ắt phải có ai đó ăn trộm của mình, người đó phải là kẻ thật là thân cận, thế nhưng kẻ đó là ai? Cái bí mật mình là người Khất Đan, đấu kín đã bao nhiêu năm qua, sao lại đột nhiên bị tiết lộ? A Châu cải trang thành Bạch Thế Kính, vốn dĩ không sai một mảy, Mã phu nhân làm sao lại nhìn ra được? Thì ra, kẻ vừa vào phòng chính là Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính của Cái Bang. Mã phu nhân kinh hãi ấp úng:
- Y... y... võ công chưa mất, điểm... điểm huyệt ta rồi.
Bạch Thế Kính nhảy vọt tới, chộp hay tay Đoàn Chính Thuần, lách cách mấy tiếng đã vặn sái cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần không còn sức nào kháng cự, nội lực Tiêu Phong truyền vào người chỉ giữ được một tí, vừa rụt tay về lại trở lại là một phế nhân. Tiêu Phong trông thấy Bạch Thế Kính, trong nhất thời bao nhiêu ý nghĩ dâng trào không còn nghĩ gì tới chuyện ra tay giúp đỡ Đoàn Chính Thuần, lại cũng không ngờ tới việc Bạch Thế Kính ra tay là hạ độc thủ ngay, đến lúc biết được thì hai cổ tay Đoàn Chính Thuần đã gãy lìa. Ông nghĩ bụng: Gã này phong lưu hiếu sắc, hôm nay để cho y nếm chút đau khổ cũng tốt, vì nghĩ đến A Châu nên ta sẽ cứu mạng y sau cũng được. Bạch Thế Kính nói:
- Họ Đoàn kia, ngươi kể cũng khá đấy, uống phải Thập Hương Mê Hồn Tán mà vẫn còn được mấy phần công phu.
Đoàn Chính Thuần không biết người ở bên ngoài giúp mình là ai, nhưng biết phải là một nhân vật có bản lãnh thật ghê gớm, tuy trước mắt có thêm một cường địch nhưng có đại viện sau lưng, trong bụng cũng không lo lắng lắm. Ông nghe giọng điệu của Bạch Thế Kính quả là không biết mình có người ám trợ bèn hỏi lại:
- Tôn giá có phải là trưởng lão trong Cái Bang chăng? Tại hạ và tôn giá không hề quen biết, sao lại hạ độc thủ là sao?
Bạch Thế Kính bước tới cạnh Mã phu nhân, đưa tay xoa bóp mấy cái dưới mạng sườn nhưng công phu điểm huyệt của họ Đoàn cực kỳ thần diệu, Bạch Thế Kính tuy võ công không phải là kém nhưng không cách nào giải huyệt được, chau mày hỏi:
- Nàng thấy sao?
Giọng điệu cực kỳ lo lắng. Mã phu nhân đáp:
- Thiếp chỉ thấy tay chân ê ẩm, không cử động được. Thế Kính, chàng ra tay thanh toán y đi, chúng mình chạy cho rồi. Trong căn nhà này... trong căn nhà này, thiếp không muốn ở đây nữa.
Đoàn Chính Thuần đột nhiên cất tiếng cười vang nói:
- Tiểu Khang, nàng... nàng... sao không tiến bộ chút nào cả? Ha ha! Ha ha!
Mã phu nhân mỉm cười nói:
- Đoàn lang, chàng cao hứng nhỉ, chết đến nơi rồi mà vẫn còn cười một cách vui sướng quá.
Bạch Thế Kính bực tức nói:
- Sao ngươi vẫn còn gọi y Đoàn lang là sao? Đồ lăng loàn!
Y vung tay tát trái Mã phu nhân một cái thật mạnh. Khuôn mặt trắng trẻo của mụ ta lập tức sưng vù, đau đến chảy nước mắt. Đoàn Chính Thuần quát lên:
- Ngừng tay, sao ngươi lại đánh nàng?
Bạch Thế Kính cười khẩy:
- Thứ ngươi làm gì được ta? Thị thuộc về ta, ta thích đánh là đánh, muốn chửi là chửi.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Một mỹ nhân như hoa tựa ngọc như thế vậy mà ngươi nỡ đánh hay sao? Dẫu có thuộc về ngươi chăng nữa ngươi cũng phải ngọt nhạt cho nàng vui lòng, để nàng sung sướng chứ!
Mã phu nhân lườm Bạch Thế Kính nói:
- Người ta đối với ta như thế, còn ngươi đãi ta như thế nào? Ai lại nóng thế.
Dáng điệu ngữ âm vẫn đầy vẻ lẳng lơ. Bạch Thế Kính lại chửi:
- Đồ đĩ thõa, để xem ta có trị được ngươi không? Họ Đoàn kia, ta đếch có thèm nghe lời ngươi. Ngươi giỏi tài nịnh gái, sao còn để đến nông nỗi này? Thôi, ngày này sang năm là ngày giỗ đầu của ngươi đấy nhé.
Nói xong hung hăng tiến tới, giơ tay định ấn cán dao chủy thủ vào ngực ông ta. Bàn tay Tiêu Phong đã lòn qua lỗ hổng trên tường thò vào, chỉ cần Bạch Thế Kính tiến thêm nửa bước là chưởng phong phát ra ngay. Ngay lúc đó, đột nhiên cánh cửa bị một cơn gió giật thổi tới, nghe vù một tiếng, hai ngọn nến lập tức bị kình phong thổi tắt ngúm, trong phòng lập tức tối đen. Mã phu nhân kinh hãi kêu lên một tiếng, Bạch Thế Kính biết là có kẻ địch tới nơi, lúc này không còn thì giờ lại giết Đoàn Chính Thuần mà phải nghinh địch trước đã, bèn quát lên:
- Kẻ nào đó?
Y giơ song chưởng lên bảo vệ trước ngực rồi quay người đi ra. Kình phong đánh tắt hai ngọn nến rõ ràng là do một người võ công cực kỳ cao cường phát ra, nhưng sau khi nến tắt rồi vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân và Tiêu Phong bốn người ngưng thần, lờ mờ trong nhà thấy đã thêm một người nữa. Mã phu nhân là người đầu tiên không giữ nổi kêu rú lên:
- Có người kìa!
Chỉ thấy người đó chắn ngay cửa, hay tay bỏ xuôi, mặt mũi ra sao không nhìn rõ, chỉ đứng sừng sững không động đậy gì cả. Bạch Thế Kính quát hỏi:
- Ai đó?
Y tiến lên một bước, người kia vẫn lặng thinh không cử động. Bạch Thế Kính lại quát:
- Nếu không trả lời, tại hạ sẽ không nể nang gì nữa.
Từ khi thấy người lạ đánh tắt hai ngọn nến, Bạch Thế Kính biết y võ công cực kỳ cao cường, không dám hấp tấp ra tay. Người kia vẫn bất động, trong đêm tối mò y trông tựa như ma quỉ. Mã phu nhân lại rít lên:
- Chàng đốt đèn lên nào! Thiếp sợ lắm!
Bạch Thế Kính quát lại:
- Con đĩ ngựa kia, đừng có lắm mồm.
Y nói thế là vì chỉ quay sang thắp đèn, lập tức đưa lưng cho địch nhân, thành thử vẫn hai tay giữ thế trên ngực chờ kẻ địch ra tay trước. Ngờ đâu người kia trước sau vẫn đứng yên, hai người cứ thế nhìn nhau một lúc, khoảng thời gian uống một chén trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không lên tiếng rồi, cả Đoàn Chính Thuần cũng lặng thinh. Bốn bề tĩnh như tờ, đến nỗi bông tuyết rơi chạm đất cũng còn nghe thấy. Bạch Thế Kính sau cùng nhịn không nổi kêu lên:
- Các hạ nếu không trả lời, ta đành phải đắc tội.
Y ngừng lại một chút, thấy đối phương vẫn không cục cựa, thò tay vào túi lấy ra một chiếc dùi thép, tung mình nhảy tới, trong bóng đêm chỉ thấy một ánh sáng lấp loáng, chiếc dùi đã đâm vào ngực người kia. Người đó nghiêng qua tránh được, Bạch Thế Kính thấy có một luồng gió ép tới, mấy ngón tay y đã chộp vào cổ họng Bạch Thế Kính. Chiêu đó ra tay thật nhanh, cương chùy của y chưa thu về kịp, mấy ngón tay của địch đã chạm vào yết hầu rồi khiến y hồn bất phụ thể, vội nhảy vọt về sau tránh được, run run hỏi:
- Ngươi... ngươi...
Y sợ hãi thực sự không phải vì võ công đối phương cao cường mà là vì chiêu số sử dụng chính là Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ. Công phu đó là tuyệt kỹ gia truyền của Mã Đại Nguyên, ngoại trừ con cháu nhà họ Mã không ai biết, chỉ vì Bạch Thế Kính giao thiệp với Mã Đại Nguyên đã lâu nên biết rõ võ công gia số của y. Lưng Bạch Thế Kính toát mồ hôi lạnh, chăm chăm nhìn kẻ kia, chỉ thấy y thân hình thật cao, chẳng khác gì Mã Đại Nguyên, nhưng vì bóng tối nên không rõ mặt. Người kia vẫn lạnh lùng như ma như quỉ không nói không rằng, Bạch Thế Kính thấy cổ mình hơi ngâm ngẩm đau, chắc hẳn bị móng tay y quệt phải. Y cố gắng định thần hỏi:
- Tôn giá có phải họ Mã không?
Người kia vẫn như bị điếc không nghe gì. Bạch Thế Kính quát:
- Con đĩ ngựa, mau thắp đèn cầy lên.
Mã phu nhân nói:
- Thiếp không cử động được, chàng lại đốt đèn đi.
Thế nhưng Bạch Thế Kính đâu có dám muốn làm gì thì làm để bị người ta thừa cơ tấn công. Y lại nghĩ Người này võ công rõ ràng cao hơn ta, nếu y muốn cứu Đoàn Chính Thuần đâu cần phải đợi ai tới giúp, sao chỉ tấn công một chiêu rồi thôi không truy kích nữa?. Lại một hồi lâu tất cả đều yên lặng, Bạch Thế Kính đột nhiên nhìn ra một điểm quái lạ của kẻ kia, trong phòng tuy ai nấy không nói năng cử động nhưng tiếng hô hấp vẫn còn, Mã phu nhân cũng thở, Đoàn Chính Thuần cũng thở, chính mình cũng thở nhưng người đối diện lại không thở chút nào. Bạch Thế Kính nín hơi, nghiêng ngó nghe ngóng, với nội lực và công phu tu tập của y, có thể nghe được tiếng hô hấp của từng người trong phòng nhưng người trước mặt quả không thở gì cả. Một lúc thật lâu sau, người kia vẫn không thở, nếu là người sống thì làm sao có thể không hô hấp? Bạch Thế Kính có thể nghe thấy cả tiếng tim mình đập, bịch, bịch, bịch... mỗi lúc một rõ, lồng ngực rung động cực mạnh, trái tim tưởng như muốn nhảy ra ngoài, càng không nhẫn nại nổi, quát lên một tiếng, xông vào, chiếc dùi liên tiếp vung lên đâm vào mặt người kia. Người kia khoát tay trái gạt Bạch Thế Kính ra ngoài, tay phải chộp thẳng vào yết hầu y. Bạch Thế Kính đã đề phòng đối phương sử dụng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, liền hụp đầu xuống, lòn dưới nách mà chui ra. Người kia không đuổi theo, vẫn đứng trơ trơ ở ngạch cửa. Bạch Thế Kính liền giơ dùi lên đâm vào đùi bên trái, y liền vọt lên tránh được. Mã phu nhân thấy người kia thân hình cứng đơ, lúc nhảy lên đầu gối không co lại gì cả, buột miệng rú lên:
- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!
Chỉ nghe bình một tiếng, gã kia nặng nề rơi bịch xuống. Bạch Thế Kính trong bụng cũng hoảng vía: Người này nếu như là cao thủ võ học, lẽ nào nhảy lên rơi xuống lại vụng về đến thế? Không lẽ trên đời có quỉ nhập tràng thực hay sao?. Bạch Thế Kính hơi chần chừ nhưng lại xông lên, vụt vụt vụt, chiếc dùi đâm luôn ba nhát vào hạ bàn. Người kia quả nhiên đầu gối không gập lại được, cứ cứng ngắc mà tưng lên tưng xuống tránh né, xem ra đến bước một bước cũng không được. Bạch Thế Kính đâm bên trái, y nhảy qua bên phải đâm bên phải, y lại tránh qua bên trái. Bạch Thế Kính phát giác được nhược điểm của đối phương rồi, trong lòng bớt sợ nhưng càng lâu càng thấy đây không phải là người còn sống. Lại đâm thêm mấy nhát nữa, đối phương thân pháp tuy vụng về thật nhưng chùy pháp của mình dù có tinh diệu bao nhiêu vẫn không trúng được y. Bất ngờ y thấy sau ót mình lạnh ngắt, một bàn tay băng giá sờ vào cổ. Bạch Thế Kính hết sức kinh hãi, vung chùy hết sức đâm ngược trở lại nghe soẹt một tiếng nhỏ đã đâm vào khoảng trống không, bàn tay to lớn của kẻ kia đã chộp được gáy y rồi. Toàn thân Bạch Thế Kính liền mềm nhũn không còn cử động được nữa, chỉ còn nước thở hồng hộc. Mã phu nhân kêu lớn:
- Thế Kính, Thế Kính, chàng sao rồi?
Bạch Thế Kính nào còn đâu hơi sức mà trả lời, chỉ thấy nội lực toàn thân theo bàn tay to lớn của người kia đang nắm nơi cổ mà tuôn ra. Lại một bàn tay to lớn lạnh ngắt sờ vào mặt y, bàn tay đó quả không phải tay người, không có một chút hơi ấm nào. Bạch Thế Kính nhịn không nổi kêu lên:
- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!
Tiếng kêu của y thật là thê thảm đáng sợ. Bàn tay từ trên trán vuốt xuôi xuống, mò đến đôi mắt, hai ngón tay sờ sờ vào mí mắt. Bạch Thế Kính sợ đến tưởng chừng có thể ngất đi, đối phương chỉ cần nhấn mạnh một cái thì đôi mắt y đã bị móc ra ngoài. Thế nhưng bàn tay lạnh ngắt đó lại sờ xuống dưới mò đúng mũi y, rồi xuống dần đến miệng y, từng chút từng chút lần xuống dưới, sau cùng ngừng lại nơi yết hầu. Hai bàn tay lạnh ngắt kia nắm vào cổ họng y, từ từ xiết lại. Bạch Thế Kính kinh hãi không biết bao nhiêu mà kể, kêu lên:
- Đại Nguyên huynh đệ, tha mạng cho ta! Tha mạng cho ta!
Mã phu nhân rít lên:
- Ngươi... ngươi nói gì thế?
Bạch Thế Kính lại kêu:
- Đại Nguyên huynh đệ, tất cả đều do chủ ý của con đĩ ngựa này, nó bắt ta phải làm, chứ ta... chứ ta có liên can gì đâu.
Mã phu nhân giận dữ nói:
- Chủ ý của ta thì đã sao nào? Mã Đại Nguyên, khi còn sống ngươi là đồ bị thịt, chết rồi còn tác yêu tác quái gì? Bà chẳng sợ gì ngươi đâu.
Bạch Thế Kính thấy khi mình buông lời đổ tội cho người đàn bà thì cổ họng có nới ra một tí nhưng vừa ngậm miệng thì bàn tay lạnh như băng lại từ từ bóp vào, trong bụng hoảng loạn, nghe thấy Mã phu nhân gọi y là Mã Đại Nguyên thì nghĩ ngay con quái vật này là quỉ nhập tràng hiện về liền kêu lớn:
- Đại Nguyên huynh đệ tha mạng cho ta! Vợ ngươi coi trộm di lệnh của Uông bang chủ, mấy bận khuyên ngươi tiết lộ bí mật thân thế của Kiều Phong, ngươi nhất định không chịu... mụ ta... mụ ta mới có ý hại ngươi...
Tiêu Phong choáng váng, ông tuy không tin thế gian này có quỉ thần, đoán rằng người kia hẳn là một võ học danh gia, cố ý trang thần lộng quỉ để cho Mã phu nhân và Bạch Thế Kính hoảng hốt, thừa cơ bức vấn hai người khai ra. Quả nhiên Bạch Thế Kính bụng dạ rối ren đành thú nhận, cứ như lời y thì Mã Đại Nguyên bị hai người giết hại mà Mã phu nhân chính là kẻ chủ mưu. Mã phu nhân sở dĩ mưu sát thân phu chính là vì muốn tiết lộ thân thế mình mà Mã Đại Nguyên không chịu. Tại sao bà ta lại hận mình đến thế? Vì cớ gì không lật đổ mình không xong? Nếu như mụ muốn trượng phu lên làm bang chủ thì sao lại giết ông chồng?. Mã phu nhân rít lên:
- Mã Đại Nguyên, ngươi cứ giết ta đi, ta chán cái thứ vô dụng như ngươi lắm rồi, đồ chết nhát, chẳng làm được chuyện gì cho ra hồn!
Chỉ nghe thấy tiếng lách cách nho nhỏ, chỗ sụn nơi cổ họng Bạch Thế Kính đã bị bóp một miếng. Bạch Thế Kính hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được khỏi tay của người kia, tiếp theo lại tiếng lách cách nữa, hầu quản đã nát ngướu. Y gào lên mấy tiếng nhưng miệng không hút khí vào phổi được, hai tay quơ múa rồi tắt thở. Người kia giết chết Bạch Thế Kính rồi, xoay người ra khỏi cửa lập tức không còn thấy hình bóng đâu. Tiêu Phong chợt động tâm nghĩ thầm: Người này là ai nhỉ? Mình phải đuổi theo tìm hiểu cho minh bạch. Ông lập tức phóng mình ra cửa trước, dưới bóng tuyết trắng chiếu sáng, thấy một bóng người mờ mờ đi về hướng đông bắc nếu không phải nhãn lực cực tốt thì thực không thể nào thấy được. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này thân pháp nhanh thật. Ông cúi xuống vỗ lên vai A Tử đang nằm dưới chân, nội lực truyền vào, giải huyệt cho cô ta, nghĩ thầm: Mã phu nhân không biết võ công, tiểu cô nương này cứu cha cô ta cũng thừa sức. Ông không kịp giải huyệt cho bọn Nguyễn Tinh Trúc, vội vàng rảo bước, đuổi theo người kia. Ông ra sức chạy thật nhanh đến khi chỉ còn cách y chừng hơn chục trượng mới nhìn rõ. Người ấy quả đúng là một võ học cao thủ, khi đó không còn cứng đơ chân mà nhảy, bước đi nhanh nhẹn nhẹ nhàng chẳng khác gì lướt trên mặt tuyết. Khinh công của Tiêu Phong vốn từ chùa Thiếu Lâm, lại được Uông bang chủ của Cái Bang dạy đỗ thuần thuộc dương cương, khi ra sức chạy rồi, mỗi lần nhảy xa cả trượng, thân hình vọt lên không trung, lại tung mình tới, tư thức tuy không tiêu sái tuấn nhã nhưng đường dài thật là hiệu quả. Đuổi theo một hồi chỉ còn cách người kia chừng một trượng. Ông đuổi theo chừng tàn một nửa nén nhang, cước bộ người đằng trước đột nhiên tăng vọt lên, chẳng khác gì cánh buồm no gió, xuôi dòng lướt đi, chốc lát đã bỏ cách Tiêu Phong một quãng xa. Tiêu Phong trong bụng kinh hãi thầm: Người này quả là tài ba thật, trong võ lâm phải cao thủ số một số hai, nếu không thế thì làm sao chỉ cất tay là giết được Bạch Thế
Kính. Ông bẩm tính trời sinh là một kỳ tài võ học, thụ nghiệp ân sư và Uông bang chủ dĩ nhiên võ học cao lắm rồi, nhưng Tiêu Phong lại thanh xuất ư lam, hơn xa cả hai sư phụ, dù chiêu nào thật bình thường vào tay ông sử dụng, cũng phát sinh uy lực thật ghê gớm. Những người biết ông thấy vậy đều bảo là do thiên phú mà có, không thể do truyền thụ hay khổ luyện mà được. Chính Tiêu Phong cũng không hiểu do đâu, chỉ thấy chiêu nào học là biết ngay, biết là tinh tường, đến khi lâm địch là biến hóa một cách xảo diệu. Thế nhưng ngoài võ học ra, các ngành khác như học hành, nghệ thuật ông đều bình bình không có gì đặc sắc hơn người. Ông bình sinh ít gặp địch thủ, nhiều cường địch nội lực so với ông thâm hậu hơn, chiêu số so với ông biến hóa hơn, nhưng khi đụng nhau, mỗi khi đến khi khẩn yếu quan đầu, chỉ một chiêu nửa thức thất bại dưới tay Tiêu Phong. Thế nhưng tuy thua mà vẫn tâm phục khẩu phục, biết mình không phải là địch thủ nên trước nay chưa có ai đi kiếm ông để rửa hờn. Đến bây giờ Tiêu Phong gặp một địch thủ khinh công cao cường như thế, hùng tâm trỗi dậy, gia tăng cước bộ, chạy vọt lên. Hai người một trước một sau chạy vùn vụt về hướng đông bắc nhưng Tiêu Phong thủy chung vẫn không sao đuổi kịp mà người kia cũng không thể nào chạy thoát. Một giờ, rồi hai giờ sau, hai người đã chạy trên một trăm dặm nhưng khoảng cách hai bên vẫn như cũ. Lại thêm hơn nửa giờ nữa, trời bắt đầu tang tảng sáng, cơn mưa tuyết cũng đã dứt, Tiêu Phong nhìn thấy xa xa nơi triền núi có một tòa thị trấn, nhà cửa san sát như bát úp, lại nghe gà gáy te te hết chỗ nọ đến chỗ kia, cơn thèm rượu nổi lên bèn kêu:
- Vị huynh đài ở trước mặt ơi, ta mời ngươi uống hai chục bát rượu, rồi lại chạy thi, được chăng?
Người kia không trả lời, lại càng chạy nhanh hơn. Tiêu Phong cười nói:
- Ngươi ra tay hạ thủ tên gian đồ Bạch Thế Kính, quả thực anh hùng làm sao, Tiêu Phong xin chịu thua khinh công không bằng được. Hai người mình đi mua rượu uống chứ không tỉ thí nữa, được không?
Ông một mặt nói, chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Người kia đột nhiên ngừng lại nói:
- Kiều Phong uy chấn giang hồ, quả nhiên danh bất hư truyền. Ngươi mồm nói mà vẫn vận dụng được chân khí như thường, thực là anh hùng, thực là hào kiệt.
Tiêu Phong nghe giọng ông ta mơ hồ không rõ, nhưng nghe có vẻ già nua, tuổi tác xem ra lớn hơn mình nhiều bèn nói:
- Tiền bối quá khen. Vãn bối vói cao, định kết giao bằng hữu với tiền bối, không biết có chê bỏ không?
Người kia thở dài:
- Già rồi, không còn được việc gì nữa. Ngươi đừng đuổi theo nữa, chỉ thêm một giờ là ta thua ngươi rồi.
Nói xong chậm rãi đi thẳng. Tiêu Phong định vọt lên nói chuyện thêm nhưng chỉ mới một bước nghĩ bụng Y bảo ta đừng đuổi theo nữa. Ông lại nghĩ đến mình bị quần hào Trung Nguyên coi chẳng vào đâu, e rằng người này cũng khinh thị thù ghét người Khất Đan, lập tức dừng bước, mắt nhìn theo bóng y dần dần mất hút vào sau khu rừng cây, trong bụng cảm thán: Người này khinh công thật cao, nội lực lại dài, tiếc thay không được thấy mặt y. Ông lại nghĩ: Tiếng nói của y mơ hồ, hiển nhiên cố ý trầm giọng xuống để cho ta khỏi nhận được khẩu âm. Đến cả tiếng nói y còn không muốn mình nhận ra, huống chi là nhìn mặt?. Ông bần thần một lúc rồi mới đi vào thị trấn, đến một tửu điếm nhỏ mua rượu ngồi uống, cứ uống một hai bát lại vỗ bàn chắc lưỡi:
- Hảo nam nhi! Hảo hán tử, ôi, tiếc thật, tiếc thật!
Ông ta nói hảo nam nhi, hảo hán tử là khen ngợi người kia võ công cao cường, giết Bạch Thế Kính mười phần ổn thỏa, còn luôn mồm tiếc thật là than thở mình không được cùng y kết giao. Ông xưa nay yêu bạn bè như tính mạng, lần này bị đuổi ra khỏi Cái Bang, kết thâm cừu với quần hào Trung Nguyên, bao nhiêu bạn bè trước đây nay mất sạch, trong bụng mười phần u uất, buồn phiền, hôm nay vô tình gặp một người võ công không kém gì mình, nhưng vô duyên không làm quen được, đành uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng bao nhiêu nghi vấn tích kết trong lòng nay đã giải quyết, trong lòng cũng có phần nhẹ nhõm. Uống đến hơn hai chục bát cũng đã ngà ngà liền đi ra, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần không biết ra sao? Bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên bị ta điểm huyệt, mình phải quay lại giải cứu mới được. Nghĩ vậy ông liền rảo bước chạy trở về. Khi trở về ông không thi triển toàn lực nên chậm hơn nhiều, đến nhà họ Mã thì đã quá ngọ. Trên bãi tuyết bên ngoài nhà không còn một ai, bọn Nguyễn Tinh Trúc đều không còn nữa, chắc là A Tử đã bồng họ vào trong nhà. Ông đẩy cửa bước vào, thấy xác Bạch Thế Kính còn nằm bên cạnh cửa, Đoàn Chính Thuần không thấy đâu, bên cạnh giường một người đàn bà nằm phục đó, người đầy những máu, chính là Mã phu nhân. Bà ta nghe thấy tiếng chân người vội quay đầu ra, thều thào nói:
- Thôi làm ơn làm phước, mau lên, ngươi mau giết ta cho rồi!
Tiêu Phong thấy bà ta mặt xám xịt, chỉ qua một đêm mà dường như già đi đến hai ba chục tuổi, trông thật xấu xí bèn hỏi:
- Đoàn Chính Thuần đâu?
Mã phu nhân đáp:
- Cứu y đi rồi, con... con ác nhân đó! A!
Đột nhiên mụ ta kêu thét lên, thanh âm sắc nhọn như đâm vào tai. Tiêu Phong không ngờ đến, giật mình nhảy nhổm lên, lùi lại một bước hỏi:
- Bà sao thế?
Mã phu nhân hổn hển:
- Ngươi... ngươi là Kiều ...bang chủ?
Tiêu Phong gượng cười:
- Ta không còn là bang chủ Cái Bang từ lâu rồi. Không lẽ bà không biết hay sao?
Mã phu nhân nói:
- Đúng rồi, ông là Kiều bang chủ. Kiều bang chủ, xin ông làm ơn làm phước, mau giết ta đi.
Tiêu Phong chau mày nói:
- Ta không định giết bà. Bà mưu sát thân phu, trong Cái Bang sẽ có người đến lo liệu chuyện này.
Mã phu nhân van nài:
- Ta... ta chịu không nổi nữa rồi, con nhãi khốn kiếp đó thủ đoạn độc ác quá, ta... ta ra ma rồi cũng không tha cho nó đâu. Ngươi... ngươi xem... người ta thì biết.
Bà ta nằm phục ở nơi khuất nẻo tối tăm, Tiêu Phong nhìn không rõ, nghe nói thế bèn đi ra mở cửa sổ để cho ánh nắng chiếu vào trong nhà, vừa liếc mắt nhìn xuống, không khỏi rùng mình. Chỉ thấy Mã phu nhân, đầu vai, cánh tay, ngực, đùi chỗ nào cũng bị ai đó dùng dao rạch, trên vết thương đầy kiến bu vào. Tiêu Phong nhìn những chỗ bị thương biết ngay tứ chi và những khớp xương trên người, các đường gân đều bị cắt đứt cả rồi, không còn cử động gì được, không phải như điểm huyệt mà bảo là giải huyệt xong lại cử động bình thường, còn cân mạch đứt hết rồi thì không có cách nào chữa từ nay thành một người tàn phế. Thế nhưng tại sao trên vết thương lại đầy những kiến thế kia? Mã phu nhân thều thào nói:
- Con nhãi khốn kiếp cắt đứt gân cốt tay chân ta rồi lại lấy dao rạch đầy người, đem... đem nước đường... nước đường bôi lên, bảo là để dụ cho kiến bu khắp người ta, cho ta đau đớn, khốn khổ vài ngày, để ta sống không được, chết... không xong.
Tiêu Phong biết rằng chỉ cần nhìn thấy vết thương của bà ta một lần nữa là sẽ buồn mửa ngay. Tuy ông không phải là người yếu lòng nhưng sát nhân phóng hỏa, làm gì phải làm cho xong, còn dùng phương cách ác độc hành hạ kẻ địch thì không làm được, thở dài một tiếng, quay xuống bếp xách lên một thùng nước to, dội lên người bà ta để cho khỏi bị cái khổ bầy kiến vây quanh cắn xé. Mã phu nhân nói:
- Cảm ơn ngươi, ngươi quả là có lòng tốt. Ta không sống được nữa rồi, ngươi làm ơn làm phúc, một đao giết ta cho xong.
Tiêu Phong hỏi:
- Thế ai... ai rạch trên người bà đó?
Mã phu nhân nghiến răng hậm hực nói:
- Là con nhãi khốn kiếp chứ còn ai, nó tuổi còn nhỏ, chỉ chừng mười lăm mười sáu, mà sao bụng dạ tàn ác đến thế...
Tiêu Phong thất kinh kêu lên:
- Là A Tử ư?
Mã phu nhân đáp:
- Chứ còn ai, ta nghe con giặc cái kia gọi nó, bảo nó giết ta đi cho xong. Thế nhưng cái con nhãi khốn kiếp A Tử lại muốn hành hạ ta chầm chậm để báo thù cho phụ thân, để cho mẫu thân hả giận, bắt ta chịu muôn vàn khổ sở...
Tiêu Phong nghĩ thầm: Ta chỉ sợ Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nổi cơn ghen, ra tay liền giết Mã phu nhân ngay, bà ta chết rồi ta không còn ai để hỏi. Ngờ đâu con tiểu a đầu A Tử lại tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông chau mày nói:
- Đoàn Chính Thuần trước kia có tình ý với bà, tuy bà muốn giết ông ta nhưng không lẽ thấy con gái tàn ác như thế lại không ngăn cản hay sao?
Mã phu nhân đáp:
- Khi đó y còn hôn mê bất tỉnh, nhân sự bất tri, cũng bởi... cũng bởi Thập Hương Mê Hồn Tán mà ra.
Tiêu Phong gật đầu đáp:
- Thì ra là thế. Ông ta là một hảo hán trái phải trắng đen minh bạch, lẽ nào dung túng cho con gái làm chuyện ngang ngược như thế bao giờ? Ôi, thế còn mấy người đàn bà kia thì sao?
Mã phu nhân rên rỉ:
- Đừng hỏi nữa, đừng hỏi nữa, mau giết ta đi.
Tiêu Phong hừ một tiếng nói:
- Nếu bà không trả lời ta cho đàng hoàng, ta sẽ lại lấy mật bôi lên vết thương, phủi tay bỏ đi, để bà sống chết sao mặc kệ.
Mã phu nhân đáp:
- Bọn đàn ông các ngươi... đứa nào cũng lang tâm ác độc...
Tiêu Phong nói:
- Thế thủ đoạn của bà mưu hại Mã đại ca không ác độc hay sao?
Mã phu nhân lạ lùng:
- Ngươi... ngươi làm sao mà biết? Ai nói cho ngươi nghe vậy?
Tiêu Phong lạnh lùng đáp:
- Ta hỏi bà chứ không phải bà hỏi ta. Bà cầu xin ta chứ không phải ta cầu xin bà. Nói mau!
Mã phu nhân nói:
- Thôi được, để ta nói hết cho ngươi nghe. Con tiểu tiện nhân A Tử trừng trị ta, mẹ nó luôn mồm quát mắng bảo thôi nhưng con nhãi khốn kiếp đó chỉ cười hì hì không nghe. Mẹ nó bị người ta điểm trúng huyệt đạo, có muốn cử động cũng không được. Chẳng bao lâu, có năm sáu thủ hạ của Đoàn Chính Thuần tới nơi, A Tử mới ôm cha nó, mẹ nó và mẹ con Tần Hồng Miên từng người một ra khỏi nhà, nhưng không cho ai vào để họ khỏi nhìn thấy ta. Thủ hạ của Đoàn Chính Thuần có mang theo ngựa cưỡi, nên đón bọn chúng đi mất.
Tiêu Phong gật đầu, nghĩ bụng: Đoàn Chính Thuần do bộ thuộc đưa đi rồi, Nguyễn Tinh Trúc ba người tuy huyệt đạo bị đóng nhưng chỉ sau vài giờ sẽ tự động giải khai, những người đó mình không cần để ý tới làm gì. Mã phu nhân nói:
- Ta nói hết cho ngươi nghe rồi, ngươi ... ngươi mau mau giết ta đi.
Tiêu Phong nói:
- Bà nói hết rồi, có thật thế không? Muốn chết ư? Cũng chẳng dễ! Muốn sống ư? Cũng khó lắm. Bà vì cớ gì mà lại giết Mã đại ca?
Mã phu nhân mắt lộ hung quang, hậm hực nói:
- Ngươi không hỏi không được hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Đúng thế, không hỏi không được. Ta là một người đàn ông lòng dạ cứng cỏi, không có chuyện thương hại bà đâu.
Mã phu nhân hứ một tiếng nói:
- Ngươi đương nhiên là lòng dạ cứng cỏi rồi, chẳng nói tưởng ta không biết hay sao? Hôm nay ta thành nông nỗi này, cũng đều ở ngươi mà ra. Ngươi ngạo mạn tự đại, là đồ chó má không coi ai vào đâu. Thứ Khất Đan Hồ Lỗ không bằng con chó con heo, ngươi chết xuống mười tám tầng địa ngục, ngày ngày ác quỉ hành hạ ngươi. Dùng mật bôi vào vết thương ta thì có gì mà không dám? Ngươi là đồ chó đẻ, là quân đê tiện... Mụ ta càng chửi càng độc địa, hiển nhiên trong lòng tích súc oán hận đã lâu, không phát tiết không xong, càng chửi càng tuôn ra những lời bẩn thỉu của quân đầu đường xó chợ, có lớp có lang không sao tưởng nổi. Tiêu Phong từ nhỏ đã lăn lộn với bọn Cái Bang, những lời thô tục nghe đã quen tai, mỗi khi uống rượu vào cũng thường cùng bọn ăn mày văng tục văng rác, nhưng bây giờ quả thực không ngờ Mã phu nhân vốn dĩ hết sức tư văn, thanh nhã, lại biết chửi một cách độc địa tàn ác đến thế, toàn những lời trước nay ông chưa từng nghe thấy bao giờ. Ông chẳng nói chẳng rằng, đợi cho bà ta chửi cho sướng miệng, mặt vốn tái mét, chửi bới một hồi càng lúc càng hăng thành đỏ gay, ánh mắt đầy vẻ hả hê. Bà ta chửi thêm một chập nữa, tiếng nói nhỏ dần, sau cùng nói:
- Thằng cẩu tặc Kiều Phong kia, ngươi hại ta đến nước này, để sau này xem quả báo thế nào.
Tiêu Phong bình tĩnh nói:
- Chửi xong chưa?
Mã phu nhân đáp:
- Tạm thời không chửi nữa, để ta nghỉ một chút rồi chửi tiếp. Ngươi là thứ chó đẻ không cha không mẹ, bà còn tí hơi nào là bà còn chửi, chửi không bao giờ thôi.
Tiêu Phong nói:
- Được rồi, bà cứ chửi đi. Lần đầu tiên ta gặp bà là ở nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, lúc đó Mã đại ca đã bị giết rồi, còn trước đó ta không hề biết bà là ai, sao lại bảo là ta hại bà cho nên mới có ngày nay?
Mã phu nhân căm tức đáp:
- Há, ngươi bảo nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích lần đầu tiên gặp ta, chính là câu đó, phải lắm, chính là thế đó. Ngươi tự cao tự đại, ngạo mạn cho rằng mình là người võ công số một trên đời, con mẹ ngươi chứ!
Tiếp theo bà ta lại luôn mồm chửi bới một thôi một hồi không ngừng. Tiêu Phong để cho bà ta tha hồ rủa xả, đến khi không còn hơi sức mới hỏi:
- Chửi đủ chưa?
Mã phu nhân hậm hực đáp:
- Ta không bao giờ đủ cả, ngươi... ngươi là đồ có mắt như mù, dù cho ngươi có là hoàng đế, cũng chẳng đâu vào với đâu nữa là.
Tiêu Phong đáp:
- Đúng thế, dẫu ta có là hoàng đế thì cũng có vào đâu? Ta trước nay có bao giờ cho rằng mình thiên hạ vô địch, mới rồi... mới rồi người kia, võ công cũng còn hơn ta nhiều.
Mã phu nhân chẳng cần biết ông đang nói tới ai, chỉ vẫn xoen xoét chửi bới thêm một chập nữa mới nói:
- Ngươi bảo là ngoài thành Vô Tích là lần đầu thấy mặt ta, hứ, còn hội trăm hoa trong thành Lạc Dương ngươi cũng chưa gặp ta hay sao?
Tiêu Phong ngạc nhiên, Bách Hoa hội trong thành Lạc Dương đã hai năm trước rồi, ông cùng các anh em Cái Bang cùng phó hội, đố quyền uống rượu, một bữa say sưa thoải mái nhưng nào có nhớ đã từng gặp bà ta
lần nào đâu, liền hỏi:
- Lần đó Mã đại ca cũng đến nhưng có đem bà đến gặp ta bao giờ đâu?
Mã phu nhân chửi liền:
- Ngươi là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là đầu đảng của bọn ăn mày ăn nhặt chứ có chó gì đâu? Hôm đó trong ngày hội trăm hoa, ta đứng bên cạnh bụi thược dược vàng, bao nhiêu anh hùng hảo hán, có ai không ngơ ngẩn nhìn ta? Có ai nhìn ta mà không hồn vía lên mây? Chỉ có mình ngươi tự cho là anh hùng hảo hán không tham nữ sắc, đến nhìn thẳng cũng chẳng thèm ngó ngàng đến ta. Nếu quả như ngươi không thấy ta thì không nói gì, ta cũng chẳng trách. Ngươi rõ ràng trông thấy, vậy mà thị nhi bất kiến, chỉ đảo mắt qua chẳng thèm ngừng lại chút nào, xem ta có khác gì với bọn con gái ngoài đường? Đồ đạo đức giả, thứ quân vô sỉ mặt dầy không biết thẹn.
Tiêu Phong mới hơi hiểu ra bèn nói:
- Thì ra thế, ta nhớ ra rồi, hôm đó ở bên cạnh khóm thược dược, hình như có vài phụ nữ, lúc đó ta chỉ lo việc uống rượu, hơi đâu mà đi xem mẫu đơn thược dược, đàn ông đàn bà làm gì? Giá thử như bậc nữ lưu anh hiệp tiền bối, ta đương nhiên chạy lại bái kiến. Còn bà là bậc chị dâu, ta không nhìn bà, cũng có gì gọi là đại thất lễ? Cớ sao bà lại hậm hực thù hận về chuyện đó?
Mã phu nhân hầm hầm nhìn ông nói:
- Thế ngươi có mắt không tròng à? Bao nhiêu anh hùng hảo hán vang danh thiên hạ ai cũng nhìn ta từ đầu đến chân ngắm nghía một hồi, bao nhiêu người đức cao vọng trọng, dù không dám nhìn thẳng vào mặt ta, cũng chờ khi người khác không để ý, liếc trộm ta vài cái. Chỉ mình ngươi... hừ, hơn một nghìn đàn ông trong hội trăm hoa, chỉ có mình ngươi từ đầu chí cuối không thèm nhìn ta. Ngươi là đại đầu não của Cái Bang, là anh hùng hảo hán thiên hạ nghe danh. Trong hội Bách Hoa thành Lạc Dương, đàn ông dĩ nhiên ngươi đứng đầu, còn trong đàn bà thì ta là số một, ngươi lại không thèm nhìn ta vài cái thì ta còn cho là mình đẹp được nữa hay không? Hơn nghìn đàn ông kia vì ta mê mẩn tâm thần thì ta cũng có còn hả lòng hả dạ được không?
Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:
- Ta từ nhỏ không thích lẵng nhẵng tán tỉnh đàn bà con gái, tuổi càng lớn càng ít nhìn nữ nhân chứ nào có phải chỉ mình bà đâu. Có người đẹp gấp trăm lần bà, ta lúc đầu cũng không để ý, mãi đến sau này, thì đã chậm mất rồi...
Mã phu nhân rít lên:
- Cái gì? Có con đàn bà đẹp gấp trăm lần ta? Ai thế? Ai thế?
Tiêu Phong đáp:
- Là con gái Đoàn Chính Thuần, chị của A Tử.
Mã phu nhân nhổ toẹt một bãi nước bọt nói:
- Tưởng gì, thứ đàn bà đê tiện nói đến cho bẩn mồm...
Bà ta chưa dứt câu, Tiêu Phong liền nắm ngay tóc nhắc lên giáng xuống sàn một cái thật mạnh nói:
- Ngươi còn nói nửa câu bất kính đối với nàng, hừ, ta sẽ cho ngươi biết tay ta.
Mã phu nhân bị ông lẳng một cái tưởng chừng muốn ngất đi, xương cốt toàn thân kêu lục cục, đột nhiên cất tiếng cười vang nói:
- Hóa ra... hóa ra Kiều đại anh hùng của chúng ta, Kiều đại bang chủ, cũng đã bị con nhỏ đó chài rồi, ha ha, ha ha, tức cười đến chết được. Ngươi mất chức bang chủ Cái Bang liền tính ngay chuyện cưới công chúa Đại Lý làm phò mã. Kiều bang chủ, vậy mà ta tưởng đàn bà nào ngươi cũng không thèm nhìn chứ.
Kiều Phong hai gối nhũn xuống ngồi phịch xuống ghế, chậm rãi nói:
- Ta chỉ mong được nhìn nàng một lần nữa, có điều... có điều... không còn làm sao gặp lại được.
Mã phu nhân cười khẩy nói:
- Sao thế? Ngươi muốn lấy nó, bằng một thân võ công như ngươi mà không lẽ không giành được nó hay sao?
Tiêu Phong lắc đầu không đáp, một hồi lâu sau mới nói:
- Dù có tài cán bằng trời, cũng không giành nàng lại được nữa.
Mã phu nhân mừng lắm, hỏi gặng:
- Sao thế ? Ha ha! Ha ha!
Tiêu Phong nói nhỏ:
- Nàng chết rồi!
Mã phu nhân im bặt, trong lòng hơi hối hận, cảm thấy gã Kiều bang chủ ngạo mạn, tự cao tự đại này có ba phần đáng thương nhưng lập tức đổi thành vui mừng, khuôn mặt càng lúc càng thích chí. Tiêu Phong thấy khuôn mặt rạng rỡ của bà ta liền hiểu ngay, mình càng đau lòng mụ càng sung sướng liền đứng dậy nói:
- Ngươi mưu sát thân phu, chết cũng đáng lắm, còn gì để nói hay không?
Mã phu nhân nghe ông ta định giết mình, đột nhiên sợ hãi, van nài:
- Ngươi... ngươi tha cho ta, đừng giết ta.
Tiêu Phong đáp:
- Được, ta cũng chẳng cần ra tay.
Ông xoay người đi ra. Mã phu nhân thấy ông ta không quay đầu nhìn lại, trong lòng phẫn nộ, lớn tiếng chửi:
- Kiều Phong, đồ chó má, năm xưa ta hận ngươi không thèm nhìn ta lấy một lần, nên mới xúi Mã Đại Nguyên khui gốc tích của ngươi ra. Mã Đại Nguyên nhất định không chịu, ta mới bảo Bạch Thế Kính giết Mã Đại Nguyên. Ngươi... ngươi hôm nay cũng không vì ta xiêu lòng chút nào cả.
Tiêu Phong quay đầu lại, lạnh lùng đáp:
- Ngươi mưu sát thân phu cũng chỉ vì ta không chịu nhìn ngươi ư? Hừ, ngươi bịa ra một chuyện lấy bàn tay che mặt trời như thế, ai mà tin cho được.
Mã phu nhân nói:
- Ta sống chết chỉ trong khoảnh khắc, dối gạt ngươi làm gì nữa? Ngươi coi thường ta, ta còn cách gì khác nữa đâu? Chỉ vì trong lòng ta hận ngươi mà thôi. Không nói gì lũ ăn mày xem ngươi như thần như thánh, khắp thiên hạ còn ai dám động đến ngươi? Thế nhưng trời cao có mắt, xui khiến cho ta hôm đó thấy được di thư của Uông bang chủ trong cái rương sắt của Mã Đại Nguyên. Muốn xem trộm lá thư bên trong mà không làm tổn thương đếu dấu si khằn bên ngoài, rồi lại bỏ trở vào như cũ thật đâu có khó gì? Ta xem lá thư biết được sự tình, ngươi xem trong lòng có sướng không? Ha ha, thật đúng là cơ hội bằng vàng để ta trút nỗi căm hờn, ta phải cho ngươi thân bại danh liệt, không còn ra vẻ ta đây, anh hùng hảo hán gì nữa. Ta mới xúi Mã Đại Nguyên trước mặt mọi người tố cáo ra, để cho ai cũng biết ngươi là giống Khất Đan Hồ Lỗ, không cho ngươi làm bang chủ Cái Bang nữa, khiến ngươi không còn đất sống ở Trung Nguyên, đến mạng cũng khó mà còn giữ được.
Tiêu Phong thấy mụ ta không còn động đậy được nữa, chẳng còn cách gì có thể hại người nhưng những lời ác độc từng câu lọt vào tai, không khỏi lạnh người, hừ một tiếng nói:
- Mã đại ca không nghe lời ngươi nên ngươi giết y chứ gì?
Mã phu nhân đáp:
- Đúng thế, y đã không những không nghe lời lão nương, ngược lại còn hung hăng chửi ta một trận, bảo là từ nay không cho ra khỏi cửa, nếu như tiết lộ một tiếng thì sẽ băm vằm bà ra. Y trước nay đối với gái này đòi gì được nấy, có bao giờ dám hăng tiết vịt như thế đâu? Ta vốn nào có coi y ra chó gì, vậy mà y dám hỗn với ta như thế thì lão nương phải cho y biết tay. Hơn một tháng sau Bạch Thế Kính đến chơi, hôm đó mười bốn tháng tám, y đến ở lại qua ngày Trung Thu. Y liếc ta một cái, lại một cái nữa, hừ hừ, thằng cha già dê. Ta thả cho thằng chả mấy bận khiến lão dê xồm mê tít. Ta mới bảo cha già dê giết tên vô tích sự Mã Đại Nguyên, y không chịu, ta dọa sẽ kêu lên là y cưỡng gian ta. Lão tặc đó ở bên ngoài lúc nào cũng ra vẻ thiết diện vô tư, thế mà với lão nương, có còn chuyện xấu xa bẩn thỉu nào mà không làm? Ta mới bảo y: Chàng giết Mã Đại Nguyên rồi, tiện thiếp từ nay thuộc về chàng. Nếu không chịu thì chàng chỉ một chưởng đánh tiện thiếp chết tươi là xong. Y đời nào lại bỏ ta được chỉ đành giết Mã Đại Nguyên.
Tiêu Phong thở hắt ra, nói:
- Bạch Thế Kính là một hán tử đanh thép như thế, vậy mà bị hại về tay ngươi. Ngươi... ngươi cũng cho Mã huynh đệ uống Thập Hương Mê Hồn Tán, sau đó mới bảo Bạch Thế Kính bóp nát yết hầu y, giả làm Cô Tô Mộ Dung dùng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ giết y chứ gì?
Mã phu nhân đáp:
- Đúng thế, ha ha, có gì mà không phải? Có điều Cô Tô Mộ Dung gì gì đó, ta làm sao mà biết, đó là thằng cha già dịch nghĩ ra.
Tiêu Phong gật đầu, Mã phu nhân nói tiếp:
- Ta bảo cha già dê đứng ra tiết lộ thân thế bí mật của ngươi. Ôi, cha già dịch đó vậy mà vẫn còn giữ nghĩa khí, bị ta ép quá, rút dao ra toan tự tận. Được rồi, ta đành tha cho y, đi kiếm thằng cha chết dở sống dở Toàn Quan Thanh. Bà chỉ cho nó ngủ với bà ba đêm là bảo gì nghe nấy, hung hăng vỗ ngực nhận lo liệu mọi việc nhất định thành công. Lão nương tính toán nếu chỉ một mình thằng cha Toàn Quan Thanh thì không lật đổ được ngươi nên mới đi mời Từ trưởng lão ra mặt. Về sau thế nào thì ngươi biết rồi, ta chẳng cần phải nói nữa!
Cái màn bí mật của nghi vấn cuối cùng trong lòng Tiêu Phong thế là đã được vén lên, vì cớ gì mà Toàn Quan Thanh chủ mưu phản mình trong khi Bạch Thế Kính lại bị loạn đảng bắt giữ, bèn hỏi:
- Cái quạt của ta là do Bạch Thế Kính ăn trộm phải không?
Mã phu nhân đáp:
- Không phải thế. Cha già dê nói là bằng giá nào y cũng không làm điều gì không phải với ngươi. Đó là Toàn Quan Thanh dụ được Trần trưởng lão xiêu lòng, đợi ngươi rời khỏi nhà bèn vào phòng ăn cắp đem ra.
Tiêu Phong nói:
- Đoàn cô nương giả làm Bạch Thế Kính, mặc dù không sai một mảy nhưng cũng vì thế mà ngươi nhìn ra sơ hở phải không?
Mã phu nhân lạ lùng hỏi lại:
- Con bé đó là con gái Đoàn Chính Thuần đấy à? Là người trong mộng của ngươi đấy ư? Nó có đẹp thật không?
Tiêu Phong không đáp, ngửng đầu nhìn về phía chân trời xa xa. Mã phu nhân nói:
- Con... con bé đó làm ta sợ đến mất vía, còn nói gì rằm tháng tám, chính là ngày giỗ Mã Đại Nguyên. Thế nhưng về sau ta nói mấy câu hoa nguyệt, nói trăng trên trời vừa tròn vừa sáng, hôm đó cha già dê đáp lại là Cái bánh dầy ở trên người nàng kia, còn tròn hơn trắng hơn trăng trên trời. Ta hỏi con bé đó bánh Trung Thu thích bánh dẻo hay bánh nướng, hôm đó cha già dịch nói là: "Cái bánh dầy trên người nàng, dĩ nhiên là vừa dẻo vừa ngọt hơn mật rồi". Đoàn cô nương trả lời chẳng đâu ra đâu nên lập tức ta nhìn thấy chỗ sơ hở ngay.
Tiêu Phong lập tức hiểu ra tại sao hôm đó Mã phu nhân đột nhiên nói qua chuyện trăng tròn và bánh Trung Thu, thì ra tối hôm mười bốn tháng tám năm ngoái, mụ ta và Bạch Thế Kính thông gian, hai người ăn nói những chuyện nhảm nhí. Mã phu nhân cười sằng sặc nói:
- Kiều Phong, ngươi giả trang thật tệ hết sức, ta vừa biết con nhãi đó là đồ giả mạo, nghĩ lại hình dáng ăn nói của nhà ngươi, hì hì, có gì mà không biết là Kiều Phong? Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần, mượn luôn tay ngươi làm việc đó.
Tiêu Phong nghiến răng nghiến lợi nói:
- Đoàn cô nương vì nhà ngươi mà chết, món nợ đó ta sẽ tính vào ngươi.
Mã phu nhân đáp:
- Thì chính nó đến đánh lừa ta trước chứ nào có phải ta đến đánh lừa nó đâu, ta bất quá chỉ tương kế tựu kế mà thôi. Nếu như nó chẳng đi tìm ta, đợi đến khi Bạch Thế Kính lên làm bang chủ Cái Bang rồi, ta sẽ có cách khiến cho Cái Bang và họ Đoàn Đại Lý gây thù chuốc oán, gã Đoàn Chính Thuần kia, hừ, sớm muộn rồi cũng không thoát khỏi tay ta.
Tiêu Phong nói:
- Ngươi quả là ác độc! Chồng mình cũng giết, đàn ông đã từng tư tình với ngươi, ngươi cũng giết; cả người không đến nhìn dung mạo ngươi, ngươi cũng muốn giết nữa.
Mã phu nhân đáp:
- Đàn bà đẹp trước mắt, không nhìn thì nhìn gì? Chẳng lẽ ta không đẹp hay sao? Trên đời này chỉ có ngươi là kẻ vờ vịt, là đồ ngụy quân tử.
Mụ ta nói đến điều mình đắc ý hai má đỏ hồng, hết sức phấn chấn, nhưng thể lực càng lúc càng suy, nói được một câu lại thở hổn hển. Tiêu Phong đáp:
- Câu cuối cùng ta hỏi ngươi đây, cái gã "đàn anh đứng đầu" viết thư cho Uông bang chủ là người nào thế? Ngươi đã đọc lá thư đó rồi, hẳn phải biết ai là người thự danh.
Mã phu nhân cười khẩy đáp:
- Ha ha, ha ha, Kiều Phong ơi là Kiều Phong, cuối cùng thì ngươi phải năn nỉ ta hay là ta phải năn nỉ ngươi? Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão chết rồi, Triệu Tiền Tôn chết rồi, Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính chết rồi, Đàm công, Đàm bà chết rồi, Trí Quang đại sư núi Thiên Thai cũng chết rồi. Trên đời này bây giờ chỉ còn mình ta và chính "đàn anh đứng đầu" là biết được y là ai thôi.
Tim Tiêu Phong càng đập nhanh hơn, nói:
- Đúng thế, sau cùng Kiều Phong phải cầu khẩn bà, xin phu nhân cho tôi biết tên người đó.
Mã phu nhân đáp:
- Mạng ta chỉ còn trong khoảnh khắc, ngươi có cái gì đền đáp ta không?
Tiêu Phong đáp:
- Nếu sức Kiều mỗ có thể làm được, phu nhân sai bảo chuyện gì cũng nhất quyết tuân hành.
Mã phu nhân mỉm cười đáp:
- Ta còn mong gì nữa? Kiều Phong, ta hận ngươi không đến chăm chú nhìn ta, để đến nỗi gây ra thành bao nhiêu tai họa, ngươi muốn ta cho ngươi biết tên của "đàn anh đứng đầu" cũng không khó khăn gì, chỉ cần ôm ta vào trong lòng, đăm đăm nhìn ta một lúc thật lâu thôi.
Tiêu Phong nhăn tít lông mày lại thực tình không muốn chút nào, thế nhưng quả đúng là trên đời chỉ một mình mụ ta là biết được cái đại bí mật này thôi, mối huyết hải thâm cừu của mình, chỉ toàn nhờ vào nơi miệng bà ta nói ra mấy tiếng, không nói chuyện bà ta bảo mình làm cực kỳ khó khăn, mà dẫu có chuyện cực kỳ xấu xa bỉ ổi, thì cũng phải miễn cưỡng mà làm. Bà ta mạng chỉ còn như mành treo chuông, lúc nào cũng có thể tắt thở, uy hiếp bức bách, lấy lợi mà dụ tất cả đều vô ích. Ông nghĩ thầm: Nếu như ta câu chấp không chịu, một khi bà ta thở hắt ra rồi thì người giết cha giết mẹ ta là ai, từ nay không bao giờ biết được nữa. Ta ôm bà ta nhìn một lát thì đã sao?.
Ông bèn nói:
- Được rồi, ta bằng lòng.
Ông khom người bồng bà ta vào lòng, đôi mắt đăm đăm nhìn vào mặt Mã phu nhân. Lúc đó mặt bà ta đầy vết máu, lại dính tèm lem đất cát bụi bậm, qua một đêm chịu bao nhiêu dày vò đọa đày, dung sắc tiều tụy thật là khó coi. Tiêu Phong ôm bà ta cực kỳ miễn cưỡng, nhìn thấy thần tình như vậy, không khỏi cau mặt lại. Mã phu nhân giận dữ nói:
- Cái gì? Ngươi chán ghét không muốn nhìn ta, phải chăng?
Tiêu Phong đành trả lời cho xuôi:
- Không đâu!
Mấy tiếng đó ông quả không thực lòng, bình thời dù gặp chuyện nguy nan thế nào chăng nữa, cũng không bao giờ ông nói một đằng nghĩ một nẻo nhưng lúc này không còn biết cách nào hơn. Mã phu nhân dịu dàng nói:
- Nếu quả thực chàng không chán ghét thiếp, sao chàng không hôn thiếp một cái đi.
Tiêu Phong nghiêm mặt đáp:
- Không thể nào được. Bà là vợ của Mã đại ca, Tiêu Phong này lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ nào lại giở trò sàm sỡ với vợ góa của anh em bằng hữu bao giờ.
Mã phu nhân nũng nịu nói:
- Chàng bảo chàng giữ nghĩa khí với anh em, thế sao lại ôm thiếp trong lòng...
Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích nói:
- Kiều Phong, ngươi quả là đồ mặt đầy! Giết chết chị ta rồi, lại đến bồng bế tình nhân của cha ta hôn hít mèo mỡ, không biết xấu hay sao?
Chính là tiếng của A Tử. Tiêu Phong tự thấy mình không có điều gì đáng thẹn, bất chấp lời nói lăng nhăng của đứa trẻ vô tri, chẳng thèm để ý nói với Mã phu nhân:
- Bà nói mau, nói cho ta biết "đàn anh đứng đầu" là ai đó?
Mã phu nhân hờn dỗi nói:
- Thiếp bảo chàng nhìn mặt thiếp, chàng lại quay đầu đi là sao?
Thanh âm đầy vẻ kiều mị. A Tử đi vào cười nói:
- Sao đến giờ này ngươi chưa chết? Hình dáng ngươi xấu như ma, có đàn ông nào dám nhìn ngươi nữa?
Mã phu nhân hốt hoảng:
- Cái gì? Ngươi... ngươi bảo ta xấu như ma ư? Gương đâu? Gương đâu? Đưa ta chiếc gương!
Giọng nói cực kỳ kinh hoàng, Tiêu Phong vội giục:
- Nói mau lên, nói mau lên, nói rồi ta sẽ đưa gương cho bà.
A Tử tiện tay cầm chiếc gương dồng sáng choang trên bàn, đưa ra trước mặt Mã phu nhân cười nói:
- Tự ngươi nhìn xem có đẹp hay không thì biết?
Mã phu nhân nhìn vào trong gương, chỉ thấy một khuôn mặt máu me bụi bặm, đầy vẻ hoảng hốt, hung tàn, ác độc, oán hờn, thống khổ, giận dữ, bao nhiêu vẻ xấu xa đều hiện lên trên mi trên mắt, trên môi trên mũi còn đâu là vẻ xinh tươi, e ấp của một tuyệt sắc giai nhân ai gặp cũng đem lòng trìu mến? Bà ta trợn ngược đôi mắt, mở trừng trừng không sao nhắm lại được nữa. Mã phu nhân một đời tự hào về vẻ đẹp của mình, ngờ đâu đến lúc sắp lìa trần lại thấy trong bóng gương một hình ảnh xấu xa đến thế. Tiêu Phong nói:
- A Tử, bỏ kính xuống, đừng chọc tức bà ta nữa.
A Tử cười khanh khách nói:
- Ta muốn cho mụ ta thấy tướng mạo mụ xấu xí đến chừng nào.
Tiêu Phong đáp:
- Ngươi chọc giận bà ấy chết mất thì thật hỡi ôi.
Ông thấy Mã phu nhân không còn cử động, tiếng thở cũng không còn nghe, vội vàng đưa tay thăm mũi hóa ra tắt thở rồi. Tiêu Phong kinh hãi kêu lên:
- Chao ôi! Không xong, mụ ta chết rồi!
Giọng ông hoảng hốt tưởng như đại họa đang đổ xuống. A Tử bĩu môi nói:
- Bộ ngươi thích y thị thật hay sao? Thứ đàn bà như thế chết đi có gì mà phải la lối om sòm.
Tiêu Phong dậm chân đáp:
- Hừ, thứ trẻ con biết gì? Ta cần phải hỏi mụ một chuyện, trên đời này chỉ có một mình mụ biết mà thôi. Nếu ngươi không đến phá bĩnh thì mụ ta đã nói ra rồi.
A Tử kêu lên:
- Trời ơi, hóa ra ta sai quấy ư? Ta làm hỏng việc của ông rồi, phải không?
Tiêu Phong thở dài, nghĩ bụng người chết không thể nào sống lại, có nổi nóng cũng chẳng đi đến đâu, cái con bé A Tử này hoang tàng thành tính, đến cha mẹ cô ta cũng còn chẳng quản chế nổi, huống chi là người ngoài? Ông nể tình A Châu, chuyện gì cũng phải bỏ qua, đành để xác Mã phu nhân xuống giường nói:
- Thôi mình đi!
Ông tra xét bốn bề, trong nhà không còn ai khác, bà lão bộc đã chạy đâu không biết, bèn lấy đồ đánh lửa ra xuống nhà chứa củi châm vào, chỉ chốc lát đã bốc lên ngùn ngụt. Hai người đứng ở bên ngoài thấy lửa từ trong cửa sổ bén ra, Tiêu Phong nói:
- Sao ngươi không về với cha với mẹ mà còn đi đâu?
A Tử đáp:
- Không, không! Ta không về với gia gia , má má đâu. Bọn thủ hạ của ông ấy mỗi khi gặp ta người nào cũng trợn mắt, nghiến răng, hầm hầm giận dữ. Ta xúi cha ta giết chúng đi, gia gia tệ quá chẳng nghe gì cả.
Tiêu Phong nghĩ thầm: Ngươi làm chết Chử Vạn Lý là huynh đệ chí giao, người ta dĩ nhiên phải hận ngươi. Đoàn Chính Thuần lẽ nào vì ngươi mà giết đám bầy tôi trung nghĩa được? Chính ngươi mới tệ, lại nói cha ngươi tệ, đúng là giọng lưỡi trẻ con nói năng tầm bậy tầm bạ. Ông bèn đáp:
- Thôi vậy thì ta đi đây!
Nói xong quay mình đi về hướng bắc. A Tử gọi:
- Này, này! Hượm đã! Chờ ta với!
Tiêu Phong ngừng bước, quay lại hỏi:
- Ngươi đi đâu? Có đi về với sư phụ không?
A Tử đáp:
- Không đâu. Bây giờ ta không về với sư phụ đâu, ta không dám.
Tiêu Phong lạ lùng:
- Vì cớ gì mà không dám? Lại gây ra chuyện gì rồi?
A Tử đáp:
- Không phải gây chuyện mà là ta lấy một cuốn sách của sư phụ, bây giờ quay về thể nào ông ấy cũng đòi lại. Để đến khi nào ta luyện xong đã, bấy giờ sư phụ có lấy cũng không sao.
Tiêu Phong nói:
- Sách luyện võ công phải không? Nếu là của sư phụ ngươi, ngươi xin ông ta cho đọc một chút, thể nào ông ta chẳng bằng lòng. Hơn nữa nếu ngươi tự luyện sẽ có nhiều chỗ không hiểu rõ, có sư phụ ở bên cạnh chỉ điểm có phải hơn không?
A Tử nhếch môi nói:
- Sư phụ ta bảo không cho là không cho, có năn nỉ cũng bằng thừa.
Tiêu Phong quả thật không ưa nổi cô gái ngược ngạo quen nết này, lại nghĩ sư phụ cô ta Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu ác danh nổi tiếng, chẳng nên dây dưa với hạng người đó bèn nói:
- Được rồi, ngươi muốn làm gì thì làm, ta không can thiệp vào việc của ngươi.
A Tử hỏi:
- Thế ông đi đâu?
Tiêu Phong nhìn căn nhà họ Mã lửa bốc đùng đùng, thở dài một tiếng nói:
- Ta vốn dĩ định đi báo thù, thế nhưng không biết kẻ thù là ai. Đời này kiếp này, mối thù đó đành không trả được.
A Tử kêu lên:
- Ta hiểu rồi, vốn dĩ chỉ Mã phu nhân biết được thôi, tiếc rằng ta chọc tức bà ta chết mất tiêu nên từ nay ông không còn biết được kẻ thù là người nào. Thích thật, thích thật! Kiều bang chủ uy danh lừng lẫy, vậy mà ta làm cho bó chân bó cẳng không làm gì được.
Kiều Phong lườm cô ta, thấy khuôn mặt đầy vẻ hạnh tai lạc họa , vui sướng thích thú, dưới ánh lửa bập bùng chiếu vào, mặt nàng rạng rỡ chẳng khác gì một trái táo vừa chín tới, trông thật dễ thương, có ai ngờ đâu dưới khuôn mặt ngây thơ kia lại ẩn tàng ác ý vô cùng vô tận. Lửa giận bốc lên, ông định tiện tay giáng cho cô ta một cái tát đích đáng nhưng chợt nghĩ lại, trước khi từ trần, A Châu đã từng cầu khẩn mình nhờ chăm sóc cho đứa em gái duy nhất trên đời, bụng bảo dạ: A Châu cả đời chỉ xin mình một chuyện lẽ nào mình lại không theo? Tiểu cô nương này dẫu có là kẻ đại gian đại ác, ta cũng hết sức đưa nàng về đường ngay nẻo chính, huống chi nàng chỉ là một đứa bé con không hiểu chuyện đời, ngang ngược láo lếu!. A Tử mặt câng câng hỏi lại:
- Thì sao? Ông định đánh chết tôi hả? Sao không đánh đi? Chị tôi bị ông đánh chết rồi, giết nốt tôi đi có gì mà không được?
Mấy câu đó chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm vào tim Tiêu Phong, trong lòng chua xót, không biết phải trả lời ra sao, đành quay mặt sấn bước theo con đường tuyết mà đi thẳng. A Tử cười nói:
- Này, chậm lại, ông đi đâu thế?
Tiêu Phong đáp:
- Trung Nguyên không còn là chỗ ta có thể sinh sống được, mối thù giết cha giết mẹ ta không thể báo. Ta định đi ra ngoài biên tái từ nay không quay lại nữa.
A Tử nghiêng nghiêng đầu nói:
- Thế ông đi đường nào?
Tiêu Phong đáp:
- Ta ra Nhạn Môn Quan trước.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Thế thì hay lắm, ta cũng định đi Tấn Dương, chính là cùng đường với ông.
Tiêu Phong nói:
- Ngươi đi Tấn Dương để làm gì? Đường sá xa xôi, bé con một thân một mình không nên đi.
A Tử cười đáp:
- Hứ, sợ cái gì đường sá xa xôi? Ta đi từ biển Tinh Tú đến đây còn được, không phải xa hơn à? Ta có ông đi cùng, sao lại bảo là một thân một mình?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Ta không đi cùng với ngươi đâu.
A Tử hỏi:
- Sao thế?
Tiêu Phong đáp:
- Ta là đàn ông, còn ngươi là một cô gái tuổi trẻ, đi lại ngủ nghê thật là bất tiện.
A Tử đáp:
- Nói gì tức cười quá vậy? Ta không thấy bất tiện thì thôi, can chi ông lại thấy bất tiện? Ông cùng tỉ tỉ ta, chẳng phải là một nam một nữ ngày đi đêm ngủ, chung đường chung sá đấy sao?
Tiêu Phong trầm giọng đáp:
- Ta cùng chị cô có ước định hôn nhân, không phải chuyện thường.
A Tử vỗ tay cười nói:
- Trời ơi là trời, thế mà ta nhìn không ra, cứ tưởng chị ta giữ gìn qui củ lắm, có ngờ đâu ông cũng chẳng khác gì gia gia, còn tỉ tỉ cũng chẳng khác gì má má, chưa làm lễ cưới, đã ăn ở với nhau rồi.
Tiêu Phong giận dữ quát lên:
- Chỉ nói láo! Chị ngươi cho đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, ta đối với nàng nghiêm thủ lễ pháp, một niềm kính trọng.
A Tử thở hắt ra:
- Ông la lối quát mắng có ích gì đâu? Chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi. Thôi mình đi chứ?
Tiêu Phong nghe nói chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi, lòng lại chùng xuống dỗ dành:
- Thôi ngươi về Tiểu Kính Hồ với mẹ đi, không chừng kiếm ra chỗ nào tĩnh mịch, luyện thành côn phu trong cuốn sách, sau đó trở về với sư phụ. Đi Tấn Dương chơi có gì thích thú đâu?
A Tử nghiêm mặt đáp:
- Tôi có phải đi chơi đâu, có chuyện quan trọng phải làm đấy chứ!
Tiêu Phong lắc đầu nói:
- Ta không dẫn ngươi đi.
Nói xong ông rảo bước đi thẳng, A Tử thi triển khinh công, lót tót chạy theo, kêu lên:
- Đợi em với! Đợi em với!
Tiêu Phong không ngó ngàng gì tới nàng, cứ lầm lũi mà đi. Một hồi lâu, gió bấc đột nhiên trở mạnh, tuyết lại rơi nữa. Tiêu Phong xông pha gió tuyết rảo bước đi tiếp, nghĩ đến từ nay oán thù chìm sâu đáy biển, đại cừu không còn báo được nữa, trong lòng u uất nhưng chẳng biết làm cách nào trút bầu tâm sự, mối hận lòng đành chịu biết sao hơn.
Tiêu Phong đi được khoảng trên mười dặm, thấy bên cạnh đường có một cái miếu nhỏ liền đi vào trong điện, ngồi dựa lưng vào tường đánh một giấc đến hơn hai giờ, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, lại tiếp tục đi về hướng bắc. Đi thêm bốn chục dặm nữa đi đến nơi cửa ải quan yếu của miền bắc là Trường Đài quan. Việc đầu tiên là đi kiếm một quán rượu gọi ngay mười cân rượu trắng, hai cân thịt bò, một con gà quay, một mình ngồi ăn uống. Hết mười cân rồi lại gọi thêm năm cân nữa, còn đang uống dở bỗng nghe tiếng bước chân
một người nào đó đi vào, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Con bé này đến làm mình uống rượu mất hết cả hứng thú. Ông quay mặt đi làm như không nhìn thấy. A Tử mỉm cười, đến ngồi ngay trước bàn đối diện với ông, gọi lớn:
- Điếm gia, điếm gia, đem rượu lên đây!
Một tên hầu bàn vội vàng chạy đến cười nói:
- Tiểu cô nương, cô cũng uống rượu sao?
A Tử mắng liền:
- Cô nương là cô nương, hà cớ gì lại phải thêm một chữ tiểu? Ta sao lại không uống rượu được? Mau đem lên cho ta mười cân rượu trắng trước, sau đó lấy thêm năm cân, còn đồ nhắm lấy hai cân thịt bò, một con gà quay, mau, mau!
Tên tửu bảo le lưỡi một hồi, kêu lên:
- ối mẹ ơi! Cô nương nói thật hay nói chơi, còn bé thế này làm gì mà ăn nhiều vậy?
Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: Cô nương này đang châm chọc ông đó, ông uống gì cô ta uống nấy, ông ăn gì cô ta gọi nấy. A Tử đáp:
- Ai bảo ta còn bé? Bộ ngươi không có mắt hay sao? Hay là ngươi sợ ta ăn uống không tiền trả?
Nói xong lấy một đĩnh bạc trong túi ra, cạch một tiếng vứt ngay lên trên bàn, nói:
- Ta uống không hết, ăn không hết, cho chó ăn không được hay sao? Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?
Tên hầu bàn cười nịnh đáp:
- Dạ! Dạ!
Y lại liếc Tiêu Phong một cái nghĩ thầm: Cô này quả là định gây chuyện, nói bóng nói gió để chửi ông đó. Chỉ một chốc đồ ăn thức uống đã dọn lên, gã tửu bảo đem một cái bát lớn đặt ngay trước mặt cô gái cười nói:
- Cô nương, để tôi rót rượu cho cô nhé!
A Tử gật đầu nói:
- Hay lắm!
Tên tửu bảo liền rót cho cô gái một bát rượu đầy, trong bụng nghĩ thầm: Cô mà uống hết bát rượu này, không lăn quay ra sàn nhà thì mới là lạ. A Tử hai tay bưng bát rượu lên, để vào môi nhắp một ngụm, nhăn mặt nói:
- Cay quá, cay quá! Liệt tửu này khó uống quá. Trên đời này nếu không có mấy đứa ngu xuẩn chịu uống thì rượu các ngươi bán được cho ai?
Người hầu bàn liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy ông trước sau mặc kệ không lý đến không khỏi cười thầm. A Tử lại xé hai chiếc đùi gà, cắn một miếng nói:
- Xì, thịt gì ươn quá!
Tên tửu bảo liền cãi lại:
- Con gà béo ngậy thơm nức mũi thế này, mới sáng nay còn kêu cục cục, thịt mới nguyên nóng sốt, sao lại ươn được?
A Tử nói:
- Hừ, thế thì chắc người mi hôi, hoặc giả khách khứa trong tửu điếm này hôi.
Khi đó ngoài trời bông tuyết đang rơi, trên đường nào có ai, trong quán rượu này chỉ có Tiêu Phong và cô nàng là hai người khách. Tên tửu bảo vội cười:
- Thân thể tôi hôi hám đó, đương nhiên là người tôi hôi rồi. Cô nương ăn nói nên cẩn thận kẻo vô ý mích lòng người khác.
A Tử đáp:
- Thế thì đã sao? Mích lòng người ta không lẽ một chưởng đánh chết ta chăng?
Nói xong cầm đũa gắp một miếng thịt bò, cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên:
- ối trời, sao thịt bò gì chua thế, cái này đâu phải thịt bò mà là thịt người. Các ngươi bán thịt người, bộ đây là hắc điếm hay sao?
Tên tửu bảo quýnh quáng vội nói:
- Chao ôi, cô nương làm ơn làm phước đừng có la ầm lên thế. Thịt này là thịt bò tươi, sao lại bảo là thịt người? Thịt người làm gì mà thớ to như thế? Làm gì mà đỏ au như thế này?
A Tử nói:
- Giỏi nhỉ, ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt người. Ta hỏi ngươi, quán của các ngươi giết bao nhiêu người rồi?
Gã hầu bàn gượng cười đáp:
- Gớm sao cô nương này thích nói bông lơn quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, chúng tôi mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt bao giờ?
A Tử nói:
- Được rồi, giả tỉ như không phải thịt người thì cũng giống gì hôi rình, chỉ có mấy đứa khùng mới chịu ăn. ối chà, giày ta đi trời tuyết sao dơ quá chừng.
Nói rồi cô ta liền cầm một miếng thịt bò xào đang còn bốc hơi thơm phức, chà lên giày bên trái. Mũi giày vốn đầy những bùn bị cô ta quệt đi, một nửa bên liền sạch bùn đất, mỡ màng xoa lên lập tức bóng lộn. Gã tửu bảo thấy cô gái dùng miếng thịt mà đại sư phụ nơi nhà bếp đã dụng công nấu nướng để chùi giày, tiếc hùi hụi, đứng một bên mà luôn mồm suýt soa. A Tử hỏi:
- Ngươi suýt soa gì thế?
Tên hầu bàn đáp:
- Thịt bò xào của tiểu điếm xưa nay vẫn được coi là một tuyệt phẩm của Trường Đài trấn, chung quanh đây một trăm dặm, ai ai nghe tiếng cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi, nuốt nước miếng ừng ực, vậy mà cô nương lại đem dùng chùi giày, cái đó ... cái đó ...
A Tử trừng mắt nhìn y hỏi:
- Cái đó làm sao?
Gã tửu bảo đáp:
- Xem chừng coi nhẹ quá.
A Tử nói:
- Ngươi bảo ta coi nhẹ đôi giày ư? Thịt cũng ở con bò mà ra, da đóng giày cũng ở con bò mà ra, có bên nào nhẹ hơn bên nào đâu. Này, quán đây còn món gì ngon đặc biệt nữa? Nói cho ta nghe thử xem nào.
Tên tửu bảo đáp:
- Món đặc biệt thì dĩ nhiên là có. Có điều giá cả không phải rẻ.
A Tử lấy trong túi ra một thỏi bạc, quăng xuống bàn kêu cạnh một tiếng hỏi lại:
- Bây nhiêu đủ không?
Tên hầu bàn thấy đĩnh bạc đó nặng phải đến năm lượng, dẫu đến hai mâm rượu thịt cũng đủ, vội vàng cười nịnh:
- Đủ chứ, đủ chứ, quá đủ là khác! Những món đặc biệt của tiểu điếm, có cá chép nấu rượu, thịt cừu non xắt lát, thịt heo hầm tương ...
A Tử cướp lời:
- Được lắm, mỗi thứ làm cho ta ba tô.
Tên tửu bảo nói:
- Cô nương nếu muốn nếm thử, chắc là mỗi thứ gọi một tô cũng đủ ...
A Tử mặt sầm xuống nói:
- Ta bảo ba tô là ba tô, việc gì đến ngươi?
Gã hầu bàn vội đáp:
- Dạ, dạ!
Lập tức dài giọng ngân nga kêu xuống:
- Cá chép nấu rượu ba tô! Cừu non xắt lát ba tô ...
Tiêu Phong ở bên cạnh thản nhiên ngồi xem, biết tiểu cô nương này gây chuyện làm phiền gã hầu bàn, cốt để cho mình ở ngoài chõ vào can thiệp nên cứ làm như không nghe không thấy, thản nhiên uống rượu thưởng tuyết. Một hồi sau, thịt cừu bốc hơi nghi ngút bưng lên, A Tử nói:
- Để một bát ở đây, một bát đem qua mời vị gia đài ngồi bên còn một bát nữa để nơi bàn kia. Bên đó cũng dọn đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.
Tên hầu bàn bèn hỏi:
- Bộ có khách sắp đến hay sao?
A Tử trừng mắt nhìn y nói:
- Ngươi sao lắm lời, coi chừng ta cắt lưỡi ngươi đó.
Gã tửu bảo le lưỡi, đùa lại:
- Muốn cắt lưỡi tiểu nhân chỉ e cô nương không đủ bản lãnh.
Tiêu Phong thót ruột, liếc y một cái nghĩ thầm: Bộ ngươi muốn tìm cái chết hay sao? Sao dám ăn nói kiểu đó với con tiểu ma đầu này? Tửu bảo mang thịt cừu lên đặt trên bàn Tiêu Phong, ông chẳng nói chẳng rằng cầm đũa gắp ăn. Lại một lát sau, cá chép nấu rượu, thịt heo kho tương cũng đem lên, mỗi thứ ba tô, một tô đưa cho Tiêu Phong, một tô cho A Tử, còn một tô để riêng một bàn bên cạnh. Tiêu Phong hễ thấy đồ ăn đem tới đều không từ chối, lập tức ăn uống tự nhiên. A Tử mỗi bát chỉ gắp một miếng rồi chê:
- Hôi quá, thịt rữa cả rồi, chỉ đáng cho chó ăn.
Vừa nói vừa cầm thịt cừu, cá chép, thịt heo đem ra chùi giày. Tên hầu bàn tuy sót ruột thật nhưng đành chịu, biết làm sao. Tiêu Phong trông ra ngoài cửa sổ, nghĩ thầm: Con tiểu ma đầu này quả là đáng ghét, để nó lẽo đẽo theo mình thì hậu hoạn không biết đâu lường được. A Châu gửi ta lo cho nó, con này thuộc loại quỉ thành tinh, thị lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến mình phải lo. Chi bằng mình tránh trước là hơn, cứ làm như không thấy. Còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy từ xa trên con đường đầy tuyết một người đi tới. Trời đang mùa đông tháng giá vậy mà y chỉ phong phanh một chiếc áo chùng đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì. Chỉ chốc lát đã đến gần, thấy y chừng bốn mươi tuổi, hai tai đeo hai cái vòng lớn bằng vàng sáng choang, mồm rộng mũi to như mũi lân, hình dáng vừa dữ dằn vừa ngụy bí, hiển nhiên không phải người Trung Thổ. Người đó đi tới trước cửa quán, vén màn bước vào chợt thấy A Tử hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng lập tức tỏ ra vui mừng, dường như định nói gì lại thôi, rồi ngồi xuống cái bàn bên cạnh. A Tử nói:
- Có rượu thịt, sao không ăn đi?
Người kia thấy một chiếc bàn bỏ không nhưng bày đầy thức ăn liền nói:
- Để dành cho ta đấy ư? Đa tạ sư muội.
Nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong túi ra một chiếc dao nhỏ, cán vàng, cắt thịt bò ra, lấy tay nhón ăn, ăn vài miếng lại uống một bát rượu, tửu lượng xem ra không dở. Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra gã này cũng là học trò của Tinh Tú Lão Quái. Ông vốn không ưa hình mạo cử chỉ của người kia, nhưng thấy y uống rượu cũng khá nên cảm thấy không đến nỗi hoàn toàn đáng ghét. A Tử thấy y uống cạn một hồ rượu rồi, quay sang nói với gã tửu bảo:
- Lấy chỗ rượu này đem qua cho vị gia đài kia.
Nói xong thò hai tay vào trong bát rượu trước mặt, xoa xoa vài cái, rửa sạch dầu mỡ dính trên tay, sau đó đẩy cái bát ra. Gã hầu bàn nghĩ thầm: Rượu này còn uống thế nào được nữa?. A Tử thấy có vẻ ngần ngại không dám bưng bát rượu đi liền giục:
- Mau bưng qua bên kia, người ta đang đợi.
Gã tửu bảo cười:
- Cô nương có nói chơi không chứ rượu này làm sao uống nữa?
A Tử vênh mặt lên nói:
- Ai bảo là không uống được? Ngươi cho là tay ta dơ phải không? Đã vậy, ngươi uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.
Nói xong thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc nhỏ chừng một lượng, quẳng xuống bàn. Tên hầu bàn mừng quá nói:
- Uống một hớp được một lượng bạc, thế thì tốt quá. Chẳng nói rượu này cô nương rửa tay qua, mà dẫu có nước rửa chân, tiểu nhân cũng uống.
Nói xong bưng bát rượu lên, nốc ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào trong mồm thật chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ chạm vào lưỡi, gã tửu bảo rát quá chịu không nổi, rống lên một tiếng há hốc mồm, rượu phun tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, kêu toáng lên:
- ối mẹ ơi! Trời ơi là trời! ối mẹ ơi!
Tiêu Phong thấy thần tình y như vậy cũng giật mình kinh hãi, thấy tiếng kêu của y càng lúc càng ú ớ khó nghe hiển nhiên đầu lưỡi đã sưng tấy lên rồi. Trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp chính, đứa quạt lò, cùng những tên hầu bàn khác nghe tiếng kêu đều chạy ra, hỏi rối rít:
- Cái gì thế? Cái gì thế?
Tên tửu bảo hai tay ôm mặt, không còn nói năng gì được nữa, lè lưỡi ra, thấy sưng to bằng ba lần bình thường, màu đen kịt. Tiêu Phong lại càng hoảng hốt: Đây là y bị trúng độc cực mạnh. Con tiểu ma đầu này chỉ nhúng ngón tay vào trong rượu một chốc mà rượu đã độc đến như thế. Mọi người thấy đầu lưỡi của gã hầu bàn quái lạ như vậy ai cũng kinh hoàng, nhốn nháo cả lên:
- Trúng phải chất độc gì vậy?
- Có phải bị rết cắn không?
- Trời ơi, không thể chần chờ, mau mau đi mời thầy thuốc.
Tên tửu bảo giơ tay chỉ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quì xuống rập đầu lạy như tế sao. A Tử cười nói:
- ấy chết! Ta không dám nhận, ngươi cầu xin ta chuyện gì?
Người hầu bàn ngẩng lên, chỉ chỉ vào miệng mình, rồi lại tiếp tục khấu đầu. A Tử cười hỏi:
- Muốn ta trị cho ngươi, có phải không?
Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào vào người liên tiếp, lại tiếp tục rập đầu, rồi chắp tay vái. A Tử thò tay vào bọc, lấy ra một chiếc dao nhỏ cán vàng, giống hệt chiếc dao của gã mũi lân, một tay nắm sau gáy tên tửu bảo, tay phải múa kim đao, soẹt một tiếng nhỏ đã cắt đứt một khúc lưỡi của y. Người chung quanh thất thanh kêu la, thấy máu tên hầu bàn phun ra như suối, y kinh hãi nhưng máu chảy ra rồi, độc tính liền giảm hẳn, bao nhiêu đau đớn trên đầu lưỡi đều hết ngay, chỉ trong giây lát vết sưng liền xẹp xuống. A Tử lại lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng, búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, máu nơi vết thương liền chảy chậm lại. Tên tửu bảo tuy tức lắm nhưng không dám nổi giận, tạ ơn thì không đành lòng, vẻ mặt cực kỳ ngượng nghịu, chỉ ú ớ:
- Ngươi ... ngươi ...
Đầu lưỡi y đã bị cắt một khúc, nói năng không còn rõ ràng. A Tử thò tay cầm lại đĩnh bạc, cười nói:
- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu sẽ cho ngươi một lượng bạc, nhưng vừa rồi ngươi đã nhổ rượu ra rồi, thành thử không tính, ngươi uống lại đi.
Gã hầu bàn xua tay liên tiếp, ú ớ nói:
- Ta ... ta không muốn, ta không uống.
A Tử bỏ đĩnh bạc vào túi, cười nói:
- Thế hồi nãy ngươi bảo sao? Hình như là Muốn cắt lưỡi tiểu nhân ư? Chỉ e cô nương không đủ bản lãnh, có phải không? Thế sao ngươi lại lạy lục ta xin ta cắt lưỡi? Ta hỏi ngươi: Cô nương có đủ bản lãnh không?
Tên tửu bảo bấy giờ mới hiểu ra, tất cả mọi việc chẳng qua chỉ vì mình lỡ lời một câu, trong lòng giận đến cực độ, toan xông lên đánh cho cô nàng một trận nhừ đòn, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người đàn ông cao to hùng tráng, xem ra cùng bọn với cô ta nên cũng khiếp. A Tử lại tiếp:
- Thế ngươi có chịu uống không?
Gã hầu bàn giận dữ đáp:
- Ông ... ông không ...
Y toan chửi mấy câu nhưng chợt nghĩ lại e rằng lại làm cho cô ta nổi nóng, vừa giận vừa sợ, quay mình chạy vào nội đường, không dám thò đầu ra nữa. Bọn chưởng quĩ ai nấy xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử rồi quay trở về chỗ làm, sai một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này thấy tình cảnh vừa rồi, run như cầy sấy, một câu cũng không dám hở môi. Tiêu Phong cực kỳ tức tối: Tên tửu bảo kia chẳng qua chỉ nói đùa một câu, vậy mà ngươi trừng trị y đến chung thân tàn phế, từ nay không còn nói năng rõ ràng được. Mới tí tuổi đầu, hành sự sao lại độc ác đến thế. Chỉ nghe A Tử nói:
- Tửu bảo, đem bát rượu này qua cho vị gia đài kia uống.
Nói xong giơ tay chỉ vào gã mũi lân. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ vào bát rượu, giật nảy mình, đến khi thấy nàng bảo đem qua cho người khác uống, lại càng khiếp vía. A Tử cười nói:
- à, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là muốn tự mình uống chứ gì? Có gì không được, ngươi cứ việc uống đi.
Tên tửu bảo sợ đến mặt xám ngoét, ấp úng:
- Không, không! Tiểu nhân ... tiểu nhân không uống!
A Tử nói:
- Vậy thì mau đem đi.
Tên tửu bảo đáp:
- Vâng! Vâng!
Hai tay trịnh trọng bưng bát rượu, lập cập đi qua bàn bên gã mũi lân ngồi, chỉ sợ sóng sánh đổ ra ngoài, tay run rẩy, lúc bát rượu đặt xuống vẫn còn lạch cạch mãi. Gã mũi lân hai tay bưng bát rượu lên, chăm chăm nhìn, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đem tới gần hơn nữa, cũng không để lại trên bàn. A Tử cười nói:
- Nhị sư ca, sao thế? Tiểu muội mời sư ca uống rượu, sao sư ca nể mặt chút nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Bát rượu này độc ghê gớm, người này đương nhiên không để bị khích mà bỏ mạng lãng nhách. Nội công dù cao cường cách mấy cũng khó mà kháng cự lại được chất độc trong rượu này. Ngờ đâu gã mũi lân vẫn chăm chăm nhìn thêm một lát rồi đưa bát lên môi, ùng ục ùng ục uống vào ruột. Tiêu Phong kinh ngạc, nghĩ thầm: Người này không lẽ có nội lực cực kỳ thâm hậu, có thể hóa giải chất kịch độc đó?. Còn đang kinh nghi đã thấy y uống cạn bát rượu, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái lên vạt áo. Tiêu Phong hơi suy nghĩ, hiểu ngay: Đúng rồi, trước khi y uống rượu đã thò hai ngón tay vào, cầm chén một hồi chưa uống, chắc là ngón tay có thuốc giải, hóa tán kịch độc trong rượu. A Tử thấy y uống hết chỗ rượu độc rồi vẻ mặt liền hoảng hốt, gượng cười nói:
- Bản lãnh hóa độc của nhị sư ca tiến bộ thật, quả đáng mừng!
Gã mũi lân không đáp, lại hùng hục ăn uống nhồm nhoàm, chỉ một chốc đồ ăn trên bàn mười phần còn một hai, giơ tay vỗ bụng, đứng lên nói:
- Thôi đi!
A Tử đáp:
- Xin sư ca tự tiện, chúng mình sẽ gặp lại sau.
Tên mũi lân trợn tròn đôi mắt quái dị nói:
- Cái gì mà gặp lại sau? Ngươi phải đi theo ta.
A Tử lắc đầu:
- Tiểu muội không đi.
Cô ta chạy sang bàn Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội và vị đại ca này có hẹn trước, phải cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.
Gã mũi lân trừng trừng nhìn Tiêu Phong, hỏi lại:
- Thằng cha này là ai?
A Tử đáp:
- Cái gì mà thằng cha với chả thằng mẹ? Sư ca phải nói năng cho lễ phép. Đây là anh rể của tiểu muội, còn tiểu muội là em vợ của anh ấy, hai người là chỗ chí thân.
Gã mũi lân nói:
- Ngươi ra đề mục ta đã làm văn rồi, ngươi phải vâng lời ta. Ngươi định vi phạm môn qui của bản môn chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra khi A Tử bảo y uống rượu độc, ấy ra ra một thai đố, có ngờ đâu y ngang nhiên tiếp nhận. A Tử đáp:
- Ai bảo là tiểu muội ra đề mục? Sư ca bảo chuyện uống rượu ấy à? Ha ha, cười đến chết được, bát rượu đó là để cho gã tửu bảo uống. Còn đường đường môn hạ Tinh Tú phái, lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo dơ dáy kia uống không chết, sư ca lại uống nữa thì có gì là ghê gớm? Tiểu muội hỏi sư ca, tên xú tửu bảo kia có chết không? Không chứ gì? Đến hạng người đó uống còn được, lẽ nào đề mục lại dễ dàng đến thế?
Câu nói đó quả là cãi chầy cãi cối nhưng muốn vặn lại cô ta cũng không phải dễ. Gã mũi lân cố nén giận nói:
- Sư phụ ra lệnh cho ta dẫn ngươi về, ngươi dám chống lại sư môn chăng?
A Tử cười đáp:
- Sư phụ cưng em lắm, xin nhị sư ca về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp ông anh rể, muốn cùng đi Giang Nam chơi một chuyến, tiện thể tìm mua biếu sư phụ ít món châu báu cổ vật, sau đó sẽ về.
Gã mũi lân lắc đầu:
- Không được, ngươi lấy của sư phụ ...
Nói đến đây y liếc Tiêu Phong dò chừng, dường như sợ tiết lộ chuyện cơ mật, ngừng lại một chút nói tiếp:
- Sư phụ nổi cơn lôi đình, bảo ngươi phải về ngay lập tức.
A Tử năn nỉ:
- Nhị sư ca đã biết sư phụ nổi giận rồi sao còn ép tiểu muội phải trở về, có phải định cho em nếm mùi khổ sở hay sao? Lần sau sư phụ trách mắng nhị sư ca, tiểu muội sẽ không xin xỏ giùm cho đâu nhé!
Câu đó dường như khiến cho gã mũi lân chạnh lòng, lập tức tỏ ra do dự ắt hẳn Tinh Tú Lão Quái có chiều sủng ái cô ta, nói gì sư phụ cũng chiều theo. Y trầm ngâm giây lát nói:
- Nếu ngươi bướng bỉnh không chịu quay về thì đưa cái vật đó cho ta. Ta đem về giao hoàn cho sư phụ để làm bằng, có thế cơn giận của lão nhân gia mới hạ xuống.
A Tử nói:
- Sư huynh nói chi? Cái vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì cả.
Gã mũi lân sầm mặt xuống nói:
- Này sư muội, ta không động thủ mạo phạm ngươi vì nghĩ đến tình nghĩa đồng môn, ngươi phải biết phải biết quấy chứ?
A Tử cười đáp:
- Tiểu muội đương nhiên biết phải biết quấy, sư ca đến ăn nhậu với tiểu muội, cái đó là phải; còn sư ca ép ta quay về gặp sư phụ, cái đó là quấy.
Gã mũi lân nói:
- Vậy ngươi muốn sao? Nếu ngươi không giao lại cái vật đó thì theo ta về.
A Tử đáp:
- Ta không về, cũng chẳng hiểu sư ca nói cái gì. Sư ca muốn có cái gì trên người tiểu muội chăng? Được rồi ...
Nói xong rút trên tóc một cái trâm cài nói:
- Nếu sư ca muốn có vật gì làm tin để giao lại cho sư phụ thì cầm cái châu thoa này vậy.
Gã mũi lân hầm hè:
- Ngươi nhất định ép ta phải ra tay hay sao?
Nói xong y liền tiến lên một bước. A Tử thấy y thản nhiên uống cạn bát rượu độc, bản lãnh sử độc so với mình cao hơn nhiều, đến cả nội lực võ công, không môn gì mình có thể địch với y được. Phái Tinh Tú võ công âm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, địch nhân trúng đòn không chết cũng trọng thương, bị thương rồi còn phải bị biết bao dày vò, lúc chết thật là thảm khốc. Sư huynh đệ trừ khi tranh đoạt vị thứ cao thấp trong môn phái phải đem tính mạng ra đánh đổi, trước nay không bao giờ cùng nhau sách chiêu luyện quyền vì đã sách chiêu là có hơn thua, đã phân hơn thua ắt có kẻ chết. Thành thử trong đám sư phụ đệ tử với nhau không ai thi diễn công phu bao giờ. Tinh Tú Lão Quái truyền thụ yếu quyết luyện công xong, ai nấy tự mình tu luyện, cao thấp sâu nông chỉ một
mình mình biết, chỉ đến khi đối địch mới biết ai mạnh ai yếu. Cứ theo đúng môn qui của phái Tinh Tú cô ta đã đem độc tửu ra để thử tài đồng môn, ấy là một chuyện hết sức quan trọng, nếu gã mũi lân chịu thua thì mọi sự đều phải để nàng sai khiến, còn đây không do dự uống bát rượu độc vào bụng, nếu A Tử không có cách gì phản bại vi thắng, thì phải nhất nhất nghe lời y, nếu không sẽ bị cái họa sát thân ngay. Cô nàng thấy sự tình gấp gáp, vội nắm tay áo Tiêu Phong, kêu lên:
- Tỉ phu ơi, y định giết em kìa! Tỉ phu cứu em với.
Tiêu Phong thấy cô ta đầu một tiếng tỉ phu, cuối một tiếng tỉ phu, không khỏi thảng thốt, nghĩ đến lời trối trăn của A Châu nên định bụng sẽ đánh đuổi gã mũi lân đi. Thế nhưng vừa ngó qua thấy trên máu me đầy mặt đất, nhớ lại A Tử đối phó với tên hầu bàn độc ác như thế, phải để cho cô nàng chịu ít nhiều đau khổ, bị trừng trị một phen cho đáng kiếp, nên vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ làm như không biết. Gã mũi lân cũng chẳng muốn hạ sát thủ với A Tử, chỉ muốn cô ta biết mình ghê gớm cỡ nào, mất vía một phen mà ngoan ngoãn theo mình về, lập tức vươn tay phải ra chộp ngay cổ tay trái Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy vai phải của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, cũng chẳng thèm để ý, để cho y chộp cổ tay. Da cổ tay ông vừa chạm vào vào tay y, liền thấy nóng như than, biết ngay lòng bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, vội vàng vận chân khí lên cổ tay, cười nói:
- Cái gì thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?
Ông đưa tay rót hai bát rượu nói:
- Xin mời!
Gã mũi lân liên tiếp vận nội lực nhưng thấy Tiêu Phong vẫn như không, làm như không hay biết gì cả, nghĩ thầm: Ngươi đừng đắc ý vội, rồi coi độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào. Y bèn nói:
- Uống thì uống, có gì không dám?
Y cầm bát rượu lên, uống ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội tức từ trong ngực dội ngược trở lên, nhịn không nổi Oa lên một tiếng, bao nhiêu rượu phun ra hết khiền cho vạt áo trước ướt đầm đìa, sau đó ho sặc sụa một hồi lâu. Việc xảy ra khiến y kinh hãi thất sắc, nội tức nghịch lưu rõ ràng là do nội lực của đối phương truyền vào thân thể mình, nếu như muốn lấy mạng mình thật dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay Tiêu Phong như có một sức hút thật mạnh, bàn tay y dính chặt vào đó, không cách nào thoát ra được. Gã mũi lân sợ quá, dùng sức dãy dụa, Tiêu Phong ngồi yên không động đậy mà y vẫn chẳng khác gì lay cột đá. Tiêu Phong lại rót bát rượu khác nói:
- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay, được chăng?
Gã mũi lân lại cố gắng giựt tay về nhưng không cách nào thoát được, tay trái liền nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chưởng lực chưa đến, Tiêu Phong đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi thối tha chẳng khác gì một con cá chết sình, tay phải liền nhẹ nhàng vung lên gạt ra. Chưởng đó gã mũi lân sử dụng toàn lực, ngờ đâu thế đánh đi được nửa chừng, bị đẩy xéo đi, không cách gì có thể thu về được, biết ngay đối phương đã mượn sức khiến cánh tay y không thể nào điều khiển được nữa, đẩy tới đánh mạnh vào vai phải của chính mình, chỉ nghe lốp cốp, khớp xương vai đã bị trật ra rồi. A Tử cười nói:
- Sao nhị sư ca tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhân nhượng gì cả? Tiểu thật muội không hiểu có dụng ý gì?
Gã mũi lân tức giận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải dính cứng vào cổ tay Tiêu Phong rồi, không sao thoát ra được, tay trái đâu đám đánh tiếp, giãy dụa lần thứ ba không thoát, bèn thúc đẩy nội lực, truyền chất độc súc tích trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay địch nhân, lập tức bị dội ngược trở về, lại không chỉ ngừng lại tại thủ chưởng, mà vẫn tiếp tục chạy lên khiến gã cực kỳ kinh hãi vội vàng vận nội lực đề kháng. Thế nhưng luồng nội lực chứa đầy chất độc đó thật chẳng khác nào sóng biển tràn vào sông, chỉ khoảnh khắc đã đến khuỷu tay, rồi chạy thẳng lên nách, từ từ đổ vào lồng ngực. Gã mũi lân làm gì chẳng biết chất độc của mình lợi hại là nhường nào, chỉ cần xâm nhập tâm tạng là chết ngay, khiến y sợ đến mồ hôi đổ ra như tắm, nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà. A Tử cười nói:
- Nội công nhị sư ca cao cường thật. Trời đông giá rét thế này, vậy mà vẫn mồ hôi mồ kê đầm đìa, tiểu muội thật bội phục hết sức.
Gã mũi lân còn thì giờ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử, biết mình đường cùng nhưng chẳng lẽ bó tay chịu chết, càng hết sức thúc đẩy nội lực, hi vọng giữ lâu thêm được chút nào hay chút ấy. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này với mình không thù không oán, tuy y ra tay hạ độc thủ với mình trước nhưng cũng chẳng cần giết y làm gì!. Đột nhiên ông thu nội lực về. Gã mũi lân thấy sức hút nơi tay mình không còn nữa, nội lực cùng chất độc đang kề bên tâm tạng lập tức chảy ngược về chưởng tâm, vừa mừng vừa sợ, vội vàng lùi lại hai bước, mặt tái mét không còn giọt máu, thở hồng hộc, nhưng không dám tiến đến gần Tiêu Phong. Y mới rồi chết đi sống lại, thực đúng là đến quỉ môn quan lại quay về. Gã tửu bảo hoàn toàn nào có biết gì, vội đến rót rượu cho y. Gã mũi lân tung ra một chưởng, đánh trúng ngay mặt y, gã hầu bàn chỉ kêu lên được một tiếng, ngã ngửa ra. Tên mũi lân liền chạy vọt ra cửa, chạy thẳng về hướng tây nam, rồi nghe một hồi còi thật mơ hồ, thật sắc nhọn từ xa truyền đến. Tiêu Phong lại coi gã tửu bảo thấy mặt y đen sì, chỉ giây lát đã chết ngay, không khỏi nổi cơn thịnh nộ, quát lên:
- Tên này quả là đáng ghét, ta đã tha mạng cho y, cớ sao lại ra tay giết người?
Ông đẩy bàn toan đuổi theo. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.
Nếu như A Tử chỉ gọi ông Này, hay Kiều bang chủ, Tiêu đại ca gì đó, Tiêu Phong cũng chẳng thèm nghe đâu, thế nhưng hai tiếng tỉ phu khiến ông nhớ đến A Châu, lòng chua xót hỏi lại:
- Cái gì?
A Tử đáp:
- Nhị sư ca không phải đáng ghét đâu, y ra tay không đả thương được anh, chất độc không thể tán phát, không giết một người không được.
Tiêu Phong biết trong võ công tà phái có một môn gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào địch nhân thì cũng phải đánh con bò con ngựa gì đó, giết chết một con vật, nếu không chất độc chạy ngược trở vào mình, bèn nói:
- Nếu muốn tán độc, sao y không kiếm một con vật mà đánh? Sao lại vô duyên vô cố giết người là sao?
A Tử liếc xác người hầu bàn nằm dưới đất, cười nói:
- Những kẻ ngu độn như thế có khác gì bò ngựa, giết y với giết một con vật cũng vậy thôi.
Cô ta thuận miệng nói ra như một chuyện đương nhiên là thế. Tiêu Phong cảm thấy lạnh người: Con bé này tính tình tàn nhẫn quá, mình lo cho nó làm gì?. Ông thấy người trong quán lại chạy ra, không muốn thêm phiền phức, vội lẻn ra khỏi cửa tiệm chạy về hướng bắc. Ông nghe thấy tiếng bước chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ nhảy mấy bước đã bỏ cô ta thật xa, bỗng nghe tiếng A Tử uyển chuyển từ xa vọng tới:
- Tỉ phu ơi, đợi em với, em ... em không theo kịp.
Lúc trước Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô ta, thấy thần tình cử chỉ cô nàng sinh bụng chán ghét, lúc này nghe từ phía sau gọi tới, nghe êm ái chẳng khác gì giọng A Châu lúc sinh thời. Hai người chị em cùng một bọc tuy mới sinh ra đã chia tay, nhưng cùng cha cùng mẹ, nên cách ăn nói, giọng điệu cũng hệt nhau. Tiêu Phong trong lòng rung động, dừng chân quay đầu lại, mắt rưng rưng thấy mờ mờ hình ảnh một thiếu nữ trên tuyết địa chạy tới, thật không khác gì A Châu sống lại. Ông giang cánh tay ra, thốt lên tiếng gọi nho nhỏ:
- A Châu! A Châu!
Chỉ trong giây lát, ông tưởng chừng mình và A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay về Trung Nguyên, đường đi hai người thân mật, má tựa vai kề, rồi một thân hình mềm mại ấm áp sà vào lòng, kêu lên:
- Tỉ phu, sao không đợi em?
Tiêu Phong giật mình choàng tỉnh, giơ tay nhè nhẹ đẩy nàng ra nói:
- Ngươi đi theo ta làm chi?
A Tử nói:
- Tỉ phu đánh đuổi nhị sư ca giúp em, em phải tạ ơn chứ?
Tiêu Phong thản nhiên nói:
- Chẳng cần phải cảm ơn. Cũng chẳng phải ta có ý giúp ngươi mà vì y ra tay đánh ta, ta chỉ tự vệ để khỏi chết dưới tay y.
Nói xong lại quay người bước đi. A Tử chạy lên nắm cánh tay ông, Tiêu Phong hơi nghiêng người, A Tử liền chộp hụt, lỡ trớn ngã xoài về phía trước. Cứ như võ công cô ta ắt có thể tự mình đứng lên được, thế nhưng cô nàng được dịp nhõng nhẽo, ngã xuống rồi, liền nằm luôn trên tuyết, kêu lên:
- ối chao! Đau muốn chết được!
Tiêu Phong biết cô ta giả vờ, nhưng nghe giọng kiều mị của A Tử, trong lòng lại nhớ đến A Châu, cảm thấy thật là êm ái, lập tức quay người, đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy, thấy cô gái đang mủm mỉm cười. A Tử nói:
- Tỉ phu ơi, chị em xin anh lo lắng cho em, sao anh không nghe lời chị ấy? Em chỉ là một cô gái nhỏ, cô khổ lênh đênh, biết bao nhiêu người định hiếp đáp em, sao anh không ngó ngàng gì tới?
Mấy lời đó nghe thật là thiết tha Tiêu Phong biết là mười phần đến chín là giả dối nhưng vẫn thấy mềm lòng hỏi lại:
- Ngươi theo ta thì được gì? Ta trong lòng u uất, không thiết gì nói chuyện với ai. Ngươi làm chuyện sái quấy thì ta lại ngăn cản.
A Tử đáp:
- Tỉ phu trong lòng u uất có tiểu muội đi theo giúp anh giải sầu, dần dần chẳng khuây khỏa hơn sao? Mỗi khi tỉ phu uống rượu, em sẽ rót rượu cho, khi nào thay quần áo ra, tiểu muội sẽ may vá giặt giũ. Nếu tiểu muội làm gì sai có tỉ phu ngăn cản thì còn gì hơn. Tiểu muội từ bé cha mẹ đã không thèm nuôi, không ai dạy dỗ, việc gì cũng không thông ...
Nói đến đây cô nàng dường như nghẹn ngào, ứa nước mắt. Tiêu Phong nghĩ thầm: Chị em cô này quả là có thiên tài đóng kịch, tài nghệ đánh lừa người khác đã đến mức lô hỏa thuần thanh, thật là cao minh. Cũng may ta đã biết cô ta hành sự độc ác, nên không để mắc mưu. Cô ta định theo mình không biết có mưu tính gì? Hay là sư phụ cô ta sai đến ám hại ta chăng? Ông cảm thấy hơi chột dạ: Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái? Có khi chính là y không chừng?. Nhưng ông lại nghĩ ngay: Tiêu Phong đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một đứa con gái nhỏ lén hạ độc thủ hay sao? Chi bằng tương kế tựu kế, cứ cho nó theo để xem nó còn giở trò gì, đâu biết chừng nhờ có nó mà mình báo được mối thù. Ông liền nói:
- Nếu đã thế, ngươi cùng đi với ta. Mình nói trước với nhau, nếu như ngươi giết người đánh người càn rỡ thì ta không tha đâu nhé.
A Tử le lưỡi nói:
- Nếu như người ta hại em trước thì sao? Nếu như người em giết là kẻ xấu thì sao?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Con nhãi con này giảo hoạt lắm, nếu như nó ra tay giết người thể nào chẳng mồm năm miệng mười bảo là người ta đánh nó trước, đối phương rõ ràng là người ngay, nó sẽ bảo là nhận lầm. Ông bèn nói:
- Dù xấu hay tốt ngươi cũng chẳng phải lo đến. Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả, nói đi nói lại, ngươi tuyệt đối không được động thủ với ai.
A Tử vui mừng nói:
- Được rồi, tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng do tỉ phu chống đỡ hết.
Nói rồi thở dài:
- Ôi, anh bất quá chỉ là anh rể mà đã quản thúc em chặt chẽ đến thế. Chị em nếu không chết mà lấy phải anh, chắc còn bị giám sát chặt chẽ đến chừng nào?
Tiêu Phong nổi giận, toan lớn tiếng la rầy một phen nhưng lại cảm thấy đau lòng, thấy ánh mắt A Tử lóe ra đầy vẻ tinh quái, tự hỏi: Mình nói thế sao con bé này lại có vẻ hả hê vậy nhỉ?. Ông nhất thời chưa nghĩ ra nên không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới chợt nghĩ ra: Chết rồi! Chắc là cô ta có đại đối đầu, đại cừu nhân đang định gây chuyện nên đánh lừa để cho mình nhận lời bảo vệ cho. Mình bảo Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả thì có nghĩa là nhận lời trông nom cô ả rồi. Thực ra không cần biết cô ta đúng hay sai, dẫu mình chẳng nói ra chăng nữa thì một khi đã ở bên cạnh mình, mình lẽ nào lại để cô ả bị lép vế". Đi thêm một dặm nữa, A Tử nói:
- Tỉ phu ơi! Để em hát cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong đã có chủ ý: Dù cô nàng có ý định gì mình cũng nhất định không nghe. Mình càng gắt gao cô ta càng có lợi. Ông bèn đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Thế em ra câu đố để tỉ phu đoán, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
A Tử nói:
- Vậy tỉ phu hát cho em nghe, được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
Cô ta liên tiếp hỏi đến mười bảy, mười tám câu liền, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi đều nhất nhất cự tuyệt. A Tử lại nói:
- Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng?
Tiêu Phong thuận mồm đáp:
- Không được.
Hai tiếng đó vừa buột mồm liền biết ngay mình nói hớ, cô ta hỏi là Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng? mà lại trả lời Không được, thì hóa ra là mình bắt nàng phải thổi sáo rồi. Ông nói rồi cũng không để ý nữa, nếu ngươi muốn thổi sáo thì cứ thổi đi. A Tử thở dài nói:
- Cái gì cũng không chịu, thật khó chiều quá, nếu nhất định bắt em phải thổi sáo thì cũng đành phải chiều.
Nói xong rút trong tút ra một chiếc địch bằng ngọc. Cái ngọc địch đó ngắn lạ lùng, chỉ dài chừng bảy tấc, toàn thân trắng tinh, bóng lộn thật đẹp đẽ. A Tử đưa lên môi, nhẹ nhàng thổi, một âm thanh sắc nhọn truyền ra thật xa. Mới rồi gã mũi lân bỏ đi, cũng có phát ra một tiếng còi lanh lảnh như thế. Tiếng sáo vốn dĩ nhẹ nhàng êm ái nhưng tiếng từ chiếc địch ngọc này nghe thật thê lương, không có vẻ gì vui thú. Tiêu Phong chỉ hơi suy nghĩ đã biết ngay lý do, trong bụng cười khẩy: Đúng rồi, thì ra ngươi ước định đồng đảng, mai phục chung quanh đâu đây, định tập kích ta, Tiêu mỗ lẽ nào lại sợ cái bọn hồ quần cẩu đảng này? Có điều không có gì thích lắm. Ông biết môn hạ Tinh Tú Lão Quái võ công cực kỳ âm độc, nếu chỉ sơ sẩy một chút là trúng ám toán ngay. Chỉ nghe tiếng địch của A Tử lúc thì cao, lúc thì thấp, như heo bị cắt tiết, như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái xinh xắn hoạt bát như thế, cầm một ống sáo ngọc bóng loáng dễ thương nhưng lại thổi ra một điệu cực kỳ rùng rợn càng làm tăng thêm vẻ tà ác của phái Tinh Tú. Tiêu Phong cứ mặc cô ta vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một đường núi dài và hẹp vắt ngang một đỉnh núi, nghĩ thầm: Địch nhân nếu như phục kích thì hẳn phải ở chỗ này. Quả nhiên lên trên núi rồi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn đằng trước. Cả bốn người đó đều mặc áo dài bằng vải gai màu vàng, phục sứ giống hệt gã mũi lân vừa
gặp trong quán rượu. Bốn người đó không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, trong tay người nào cũng cầm cương trượng dài ngoằng. A Tử không thổi sáo nữa, dừng chân lại, gọi:
- Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca, các vị khỏa cả chứ? Sao thật khéo quá, mọi người ai cũng tụ lại đây là sao?
Tiêu Phong cũng ngừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: Để xem chúng bay giở trò gì?. Trong bốn người, gã đứng đầu là một người trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân đánh giá một hồi rồi mới hỏi:
- Tiểu sư muội khỏe chứ? Ngươi sao lại đả thương nhị sư ca?
A Tử thất kinh kêu lên:
- Nhị sư ca bị thương sao? Ai đả thương thế? Vết thương có nặng hay không?
Người đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp:
- Ngươi còn giả ngây giả dại nữa sao? Nhị sư ca bảo là chính ngươi gọi người đả thương y đó.
Người nói lùn xủn, lại đứng sau cùng, toàn thân bị ba người đứng trước che khuất, Tiêu Phong không nhìn thấy y hình dáng ra sao nhưng nghe y nói năng liến thoắng cũng đủ biết tính tình nóng nảy nhưng cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ biết cánh tay rất khỏe, nhưng vì trời sinh thấp lùn nên muốn tìm cách nổi trội hơn người. A Tử nói:
- Bát sư ca nói gì đó? Nhị sư ca bảo là anh gọi người đánh y sao? Chao ôi, sao anh lại nỡ nào hạ độc thủ? Sư phụ lão nhân gia mà biết thì chẳng thể nào tha thứ cho bát sư ca đâu, không lẽ anh không sợ hay sao?
Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy nhổm lên, tay cầm cương trượng động xuống đá ầm ầm, miệng gào lên:
- Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu.
A Tử nói:
- Cái gì? Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu! Đúng quá, sư ca thú nhận rồi. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca ba người chính tai nghe thấy nhé, bát sư ca nói là y giết chết nhị sư ca, phải rồi, chắc là bát sư ca dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư ca.
Gã lùn lại gào lên:
- Ai bảo nhị sư ca chết đâu! Y chưa chết, thụ thương đâu phải do Tam Âm Ngô Công Trảo...
A Tử cướp lời:
- Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo sao? Thế hẳn là do Trừu Tủy Chưởng, ngón nghề ruột của bát sư ca, nhị sư ca sơ xẩy không để ý nên bị trúng ám toán, ngươi ... ngươi quả là ghê gớm thật.
Gã lùn càng nổi điên lên, quát lớn:
- Tam sư ca mau động thủ, bắt con tiểu tiện nhân này về, về để bắt lại, xin sư phụ phát lạc, nó ... nó ... nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng biết nói những gì, chẳng đâu ra đâu ...
Giọng y vốn đã khó nghe, lại thêm gấp gáp càng lắp bắp, không hiểu muốn nói gì. Gã mập liền nói:
- Động thủ thì chưa cần, tiểu sư muội xưa nay vốn ngoan ngoãn, chịu nghe lời. Tiểu sư muội, ngươi đi theo bọn ta thôi.
Gã mập đó nói năng chậm rãi, xem ra vẻ người dễ tính. A Tử cười đáp:
- Được rồi, tam sư ca bảo sao thì tiểu muội làm vậy, xưa nay em vẫn nghe lời sư ca.
Gã mập cười khà khà nói:
- Nếu thế thì hay lắm, chúng mình đi thôi.
A Tử đáp:
- Được rồi, xin chư vị cứ tự tiện.
Gã lùn ở phía sau lại rống lên:
- ấy, ấy, chư vị tự tiện là thế nào? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.
A Tử cười nói:
- Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau.
Gã lùn nói:
- Không được! Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta mới xong.
A Tử nói:
- Thế cũng được! Có điều ông anh rể của tiểu muội lại không chịu.
Nói rồi chỉ vào Tiêu Phong. Gã lùn nói:
- Ai là anh rể ngươi? Sao ta không thấy đâu cả?
A Tử cười nói:
- Bát sư ca cũng cao quá nên anh rể tiểu muội cũng không thấy đâu cả.
Chỉ nghe coong một tiếng, cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, thân hình bay vọt lên, cả người lẫn gậy đã vọt qua khỏi đầu ba người đứng trước rơi xuống trước mặt A Tử, quát lên:
- Mau theo bọn ta trở về.
Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào đầu vai cô gái. Gã này tuy lùn tịt nhưng hông to vai nở, nhìn ngang trông cũng khá vạm vỡ, động tác thật là nhanh nhẹn. A Tử không tránh, không né cứ để mặt y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào đầu vai cô ta bỗng y hơi chần chừ rồi ngừng lại, hỏi:
- Ngươi đã dùng nó rồi ư?
A Tử hỏi:
- Dùng cái gì?
Gã lùn đáp:
- Tự nhiên là Thần Mộc Vương Đỉnh ...
Bốn chữ Thần Mộc Vương Đỉnh vừa buột khỏi miệng, ba người kia đã cùng quát lên:
- Bát sư đệ, ngươi nói gì đó?
Thanh âm cực kỳ gay gắt, gã lùn lật đật lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt. Tiêu Phong lập tức suy tính: Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, quyết không phải chuyện đùa. Bọn chúng mai phục nơi đây sao không ra tay mà còn cãi nhau ỏm tỏi, không lẽ sợ không địch lại mình, hay còn đang chờ thêm ngoại viện?. Chỉ thấy gã lùn giơ tay ra nói:
- Đưa đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Gã lùn đáp:
- Là cái Thần ... Thần ... cái đó đó.
A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói:
- Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.
Câu đó vừa nói ra, ánh mắt cả bốn người liền quay về phía Tiêu Phong, đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn này quả là đáng ghét, mình cũng chẳng nên dây dưa với chúng làm chi. Ông chậm rãi đứng lên, bất thần hai chân búng một cái bay vọt qua đầu bốn người kia. Hành động đó vừa kỳ quái, vừa nhanh nhẹn, cả bọn không thấy ông chạy hay cong chân nhún lấy đà, chỉ thấy trước mắt thấp thoáng, gió trên đầu hơi động, Tiêu Phong đã ở phía sau bốn người rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la om sòm, xoay người lại đuổi theo nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng. Bỗng nghe vù một tiếng thật mạnh, một món binh khí nặng nề phóng vào sau lưng. Tiêu Phong không cần quay đầu lại, biết là có người dùng cương trượng ném tới, lật ngược tay trái đón ngay lấy chiếc gậy. Cả bốn người cùng hung hăng quát tháo, lại có thêm hai chiếc cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại đưa tay về sau bắt được. Mỗi chiếc gậy phải đến năm chục cân, cả ba chiếc ở trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân nhưng bước chân ông không chậm lại chút nào, chỉ nghe vụt một tiếng, lại một chiếc nữa ném tới. Chiếc gậy này bay tới tiếng kêu mạnh hơn cả, rõ ràng nặng nề hơn hết ắt hẳn là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Mấy thằng mọi này chẳng biết phải quấy, phải cho chúng biết tay mới được. Ông nghe thấy tiếng gió bay tới sau ót, chỉ còn cách chừng hai thước liền thò tay về sau bắt được. Bốn người ném gậy ra đã tính toán nếu như đối phương tránh né cũng không phải dễ, trong bốn cái thể nào cũng có một hai chiếc gậy trúng vào người chứ đời nào lại để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ đâu Tiêu Phong thản nhiên như không bắt được tất cả, ai nấy vừa kinh hãi vừa tức tối, lập tức lao xao chạy đuổi theo. Tiêu Phong dụ cho chúng chạy theo một quãng, bất thần đứng chựng lại. Bốn gã kia đang ra sức đuổi theo, không hãm kịp lao cả vào người ông, vội vàng đứng lại ai nấy thở hồng hộc. Tiêu Phong theo tiếng gậy ném tới và cách bọn chúng chạy theo biết rằng võ công chỉ bình thường, mỉm cười hỏi:
- Các vị đuổi theo tại hạ có điều gì dạy bảo chăng?
Gã lùn lắp bắp:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi là ai? Võ ... võ công ... ngươi thật là ghê gớm.
Tiêu Phong cười đáp:
- Có gì ghê gớm đâu.
Ông vừa nói vừa vận sức vào bàn tay, ấn một cây cương trượng lún xuống dưới tuyết. Sơn đạo đó đất thật cứng, chỉ thấy chiếc gậy ngắn dần, đến khi chỉ còn khoảng hai thước bấy giờ Tiêu Phong mới buông ra, giơ chân phải lên dậm xuống một cái, cả cây gậy liền lún tịt xuống. Bốn người kẻ thì mắt trợn tròn, kẻ thì mồm há hốc. Tiêu Phong cứ từng chiếc một ấn xuống, sau cùng đạp một cái cắm thẳng vào mặt đất. Đến chiếc sau cùng, gã lùn liền nhảy tới, quát lên:
- Chớ có đụng đến binh khí của ta.
Tiêu Phong cười nói:
- Được, trả lại ngươi đây.
Tay phải cầm cương trượng lên, nhắm thẳng vào vách núi phóng một cái, nghe keng một tiếng, chiếc gậy tám thước phải đến năm thước lún vào trong đá. Nơi chiếc gậy cắm vào đá là một vùng đá đen cực kỳ cứng rắn, vậy mà Tiêu Phong ném sâu đến thế, chính ông cũng phải ngạc nhiên bụng bảo dạ: Mấy tháng nay mình có biết bao chuyện ưu phiền, lo lắng mà công phu không sút chút nào, ngược lại còn tiến bộ nhiều là khác. Nửa năm trước e rằng ta ném không được mạnh đến như vậy. Bốn người kia không hẹn mà cùng kêu la rầm rĩ, vẻ mặt hết sức kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi:
- Tỉ phu, công phu đó của anh thật là hay, dạy cho em nhé!
Gã lùn giận dữ nói:
- Ngươi là môn hạ đệ tử phái Tinh Tú sao lại còn đi nhờ người ngoài dạy võ nghệ là thế nào?
A Tử nói:
- Y là anh rể ta đâu có phải người ngoài?
Gã lùn nóng lòng lấy lại binh khí, tung mình nhảy lên, thò tay chộp lấy cây cương trượng. Ngờ đâu Tiêu Phong đã tính toán tài nghệ khinh công của y nông sâu cỡ nào, nơi cương trượng cắm vào vách đá phải cách mặt đất đến một trượng bốn năm thước, bàn tay gã lùn còn cách cây trượng khoảng một thước, chưa chạm được tới nơi. A Tử vỗ tay reo lên:
- Hay lắm, bát sư ca ơi, nếu như anh nhổ được binh khí cầm tay tiểu muội sẽ theo sư ca đi gặp sư phụ liền, nếu không thì đừng hòng.
Gã lùn lần nhảy vừa rồi đã sử dụng hết sức bình sinh, nhưng khinh công y có hạn nên nhảy cao hơn một tấc đã khó khăn biết là chừng nào, nghe A Tử giở giọng khích bác, trong bụng tức lắm, lại phóng mình nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa quả nhiên chạm được vào cây trượng. A Tử cười nói:
- Chạm đến không tính, phải nhổ ra được kìa.
Gã lùn cực kỳ giận dữ, công phu so với bình thường tăng vọt lên, hai chân dùng hết sức, tấm thân lùn xủn to bè bè của y liền bung lên, hay tay chộp vội quả nhiên đã nắm được cây gậy rồi. Thế nhưng tới đây thân hình y lủng lẳng giữa trời, lúc lắc đong đưa nhưng không cách nào xuống được. Y hết sức lay chiếc cương trượng nhưng chiếc gậy dài tám thước này đã cắm sâu vào nham thạch đến năm thước, dù có lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì, cảnh tượng đó trông thoạt kê biết mấy. Tiêu Phong cười nói:
- Tiêu mỗ xin lỗi không thể chờ được.
Nói xong ông quay bước ra đi. Gã lùn kia bằng giá nào cũng không chịu buông tay, y đối với võ công mình cũng biết thừa, vừa rồi nhảy lên nắm được cây gậy cũng là may lắm, nếu như rơi xuống đất rồi, lần sau nhảy lên khó mà cách nào với tới được. Cây cương trượng đó là món võ khí y hết sức quí mến, nặng cũng vừa, cầm gọn tay, dẫu có đánh cái khác cũng chưa chắc được như thế. Y lay cây gậy mấy lần nhưng không chuyển động chút nào bèn kêu lên:
- Này này, mau bỏ Thần Mộc Vương Đỉnh lại, nếu không thì hậu hoạn không biết đâu mà kể.
Tiêu Phong hỏi:
- Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế?
Ba người đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói:
- Các hạ võ công xuất thần nhập hóa, chúng tôi hết sức bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài thì chẳng dùng được vào việc gì, mong các hạ giao lại, chúng tôi ắt sẽ hậu tạ.
Tiêu Phong xem bộ dạng bọn họ xem chừng không phải giả dối, cũng không phải mai phục nơi đây để tấn công mình liền nói:
- A Tử, mau đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đưa ra ta coi xem đó là cái gì nào?
A Tử nói:
- Trời ơi, tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà? Đưa ra hay không đưa ra là toàn do tỉ phu thôi. Tỉ phu ơi, hay là tỉ phu giữ luôn cho được việc.
Tiêu Phong nghe nói đoán chừng cô ả đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ bảo là giao lại cho mình rồi ắt hẳn muốn đứng ra chịu trận, bèn tương kế tựu kế, cất tiếng cười ha hả nói:
- Ngươi giao cho ta biết bao nhiêu món, ta nào có biết cái nào là Thần Mộc Vương Đỉnh đâu!
Gã lùn đang bông bênh giữa lưng chừng trời, lập tức chõ miệng vào:
- Đó là một cái đỉnh gỗ nho nhỏ, cao chừng sáu tấc màu vàng sậm.
Tiêu Phong kêu lên:
- ồ, cái đó ư? Ta biết rồi, chẳng qua chỉ là một món đồ chơi be bé chứ có dùng làm việc gì được đâu?
Gã lùn nói:
- Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi be bé? Cái mộc đỉnh ...
Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên:
- Sư đệ chớ có nói nhăng nói càn.
Y quay sang nói với Tiêu Phong:
- Tuy đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của ... là của ... phụ thân gia sư ban cho, thành thử không thể để mất, xin các hạ làm ơn trả lại cho, chúng tôi cực kỳ cảm kích.
Tiêu Phong đáp:
- Ta tiện tay quăng bỏ, không biết vứt đâu mất rồi, có kiếm lại được không kể cũng khó nói. Nếu các ngươi quả thực muốn lấy lại thì ta phải quay lại Tín Dương kiếm thử xem, có điều đường sá xa xôi, bây giờ quay lại thì thật phiền quá đi mất.
Gã lùng liền láu táu xen vào:
- Quả muốn lắm chứ, sao lại không muốn lấy? Chúng mình mau ... mau ... quay về Tín Dương đi thôi.
Y nói xong liền thả tay rơi xuống, đến binh khí của mình cũng không còn ngó ngàng gì nữa. Tiêu Phong giơ tay vỗ vỗ lên đầu nói:
- Hừ, mấy hôm nay chẳng uống được bao nhiêu rượu, trí nhớ sao kém quá, cái mộc đỉnh nhỏ kia, không biết vứt ở Tín Dương hay ở tại Đại Lý, hừ, không chừng ở Tấn Dương ...
Gã lùn vội kêu lên:
- ấy, ấy, ngươi nói gì đó? Xem lại xem ở Đại Lý hay tại Tấn Dương nào? Thiên nam địa bắc, không phải chuyện đùa đâu nhé!
Gã mập biết Tiêu Phong cố tình gây khó khăn bèn nói:
- Các hạ chẳng cần phải cố tình bỡn cợt làm chi, nếu như chiếc đỉnh đó hoàn hảo trở về, chúng tôi thể nào cũng hậu tạ, quyết không nuốt lời.
Tiêu Phong đột nhiên thất kinh kêu lên:
- Chết rồi, không xong, ta nghĩ ra rồi.
Cả bốn người kinh hãi hỏi dồn:
- Gì thế?
Tiêu Phong đáp:
- Cái mộc đỉnh đó ở nhà Mã phu nhân, mới rồi ta châm lửa, đốt cháy rụi rồi còn đâu, không biết cháy to thế có hỏng mất không?
Gã lùn thất thanh kêu lên:
- Sao lại không hỏng, cái đó ... cái đó ... tam sư ca, tứ sư ca, bây giờ biết làm sao. Ta không biết, sư phụ nếu trách phạt, không liên quan gì đến ta cả. Tiểu sư muội, ngươi đích thân đến bẩm với sư phụ, ta, ta không dám đâu.
A Tử cười nói:
- Tiểu muội nhớ hình như không phải ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư ca, tiểu muội xin lỗi, các vị ở đây nói chuyện với tỉ phu.
Nói xong nghiêng người lách qua chen lên trước mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn người kia nói:
- Các ngươi nếu nói cho rõ ràng lai lịch Thần Mộc Vương Đỉnh cùng dùng để làm gì không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm, nếu không, tại hạ xin lỗi không thể hầu tiếp được.
Gã lùn liên tiếp xoa tay nói:
- Tam sư ca, không còn cách nào khác, chi bằng nói cho y hay cho xong!
Gã mập nói:
- Được, để ta nói cho các hạ hay ...
Tiêu Phong đột nhiên lao mình tới bên cạnh gã lùn, vươn tay chộp luôn vào nách y nói:
- Mình đi tới đằng kia, ta chỉ nghe ngươi nói, không nghe y.
Ông biết rằng gã mập trông mặt mũi thực thà, kỳ thực cực kỳ giảo hoạt, không câu nào nói thật, chỉ có gã lùn tính thẳng lại nhanh mồm nhanh miệng, không quen nói láo. Ông xách gã lùn lên, chạy vọt lên trên vách núi. Vách núi thật là cheo leo, vốn dĩ không thể nào bám víu vào đâu mà trèo lên được, nhưng Tiêu Phong đề khí chạy thẳng lên, chỉ một hơi đã chạy được hơn chục trượng, thấy một mỏm đá thò ra, liền đặt gã lùn ngồi ngay đó, còn mình một chân đứng một chân giơ ra ngoài không nói:
- Ngươi nói ta nghe đi!
Gã lùn ở chỗ giữa lưng chừng trời, đưa mắt nhìn xuống, không khỏi hoa mắt choáng váng, vội nói:
- Mau ... mau thả tôi xuống!
Tiêu Phong cười nói:
- Ngươi tự mình nhảy xuống đi!
Gã lùn đáp:
- Chỉ nói lăng nhăng! Nhảy xuống có mà nát thây!
Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có đôi phần hảo cảm hỏi:
- Ngươi tên là chi?
Gã lùn đáp:
- Ta là Xuất Trần Tử.
Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: Cái tên đó phong nhã quá, chỉ có điều không xứng với thân hình lão huynh chút nào. Ông bèn nói:
- Xin lỗi ta không thể bồi tiếp, gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử lớn tiếng kêu lên:
- Không được, không được! Trời ôi, ta ... ta ngã xuống thì chết.
Hai tay y bám chặt lấy vách đá, ám vận nội kình định ôm lấy tảng đá nhưng chung quanh chỗ nào cũng trơn tuột, làm gì có chỗ nào mà tựa vào? Võ công y tuy không kém nhưng ở vào chỗ ba mặt chênh vênh như thế này, không khỏi cực kỳ kinh hãi. Tiêu Phong nói:
- Nói mau, Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta bỏ đi đó.
Xuất Trần Tử vội vàng đáp:
- Ta ... ta không nói không được hay sao?
Tiêu Phong đáp:
- Không nói không được, thôi để gặp lại sau vậy.
Xuất Trần Tử vội vàng níu tay áo ông lại nói:
- Để ta nói, để ta nói. Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của môn phái chúng ta, dùng để tu tập Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ có nói là, người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến mất cả hồn vía, nếu thấy tòa Thần Mộc Vương Đỉnh ắt sẽ đập cho tan nát, cái đó ... cái đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ...
Tiêu Phong đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp từ lâu, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu, bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần phải hỏi thêm, giơ tay cầm ngay nách Xuất Trần Tử, chạy bon bon xuống. Chạy từ trên vách núi dựng đứng xuống, so với chạy lên còn nguy hiểm hơn nhiều, Xuất Trần Tử sợ đến la hét rầm lên, tiếng kêu chưa dứt, hai chân đã chạm đất rồi, mặt tái mét không còn hột máu, hai đầu gối run lập cập. Gã mập hỏi:
- Bát sư đệ, ngươi đã nói chưa?
Xuất Trần Tử hàm răng vẫn còn đánh vào nhau kêu lốp cốp, không nói nên lời. Tiêu Phong quay sang nói với A Tử:
- Đưa ra đây!
A Tử hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Tiêu Phong đáp:
- Thần Mộc Vương Đỉnh!
A Tử đáp:
- Thì anh đã chẳng bảo là để ở nhà Mã phu nhân hay sao? Sao lại còn hỏi tiểu muội?
Tiêu Phong ngắm cô gái, thấy nàng eo thon, áo quần mỏng mảnh, bên người xem ra không thể dấu chiếc một đỉnh cao sáu tấc được, nghĩ thầm: Con bé con này tinh quái lắm. Việc môn phái của nó mình vốn không muốn nhúng tay vào, bọn tà ma ngoại đạo này chẳng nên dây dưa để chúng cứ như oan hồn không tan luẩn quẩn bên mình, thật là khó chịu. Ông liền nói:
- Cái vật chi đó Tiêu mỗ có cũng vô ích, không thể nào lấy mà không chịu trả. Các ngươi tin cũng được, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo lỗi vậy.
Nói xong phi thân chạy đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ cả năm người ở lại thật xa. Bọn bốn người kia thấy ông thần uy như thế, đuổi theo thì không dám, còn đang bàn cãi Tiêu Phong đã không biết chạy tận nơi nào. Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm lúc ấy mới tìm được một cái quán ghé vào ăn cơm uống rượu. Chiều tối hôm đó, ông nghỉ lại Chu Vương điếm, vận nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, trong giấc mơ nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi khác, rồi phía đông nam cũng có tiếng đáp lại, tiếng còi chói tai nghe thật ghê rợn, chính là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng đã đến rồi đây, mặc kệ, chẳng việc gì đến mình. Đột nhiên có hai tiếng sáo ti ti vọng lên nghe thật gần, ngay tại trong khách điếm này, rồi có tiếng người nói:
- Dậy đi thôi, đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.
Lại một người khác nói:
- Bắt được rồi ư? Ngươi thử nghĩ thị liệu có sống được chăng?
Người trước nói:
- Làm sao biết được? Đi mau, đi mau!
Rồi có tiếng hai người đẩy cửa sổ, nhảy ra khỏi phòng. Tiêu Phong nghĩ thầm: Lại thêm hai môn hạ đệ tử nữa của phái Tinh Tú, té ra trong cái quán này có hai tên ẩn sẵn nơi đây, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì thành ra mình không biết. Hai đứa đó hỏi nhau A Tử có sống được không, tiểu cô nương này tuy tàn nhẫn độc ác thật nhưng không thể để cho cô nàng bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu. Nghĩ thế ông cũng nhảy ra khỏi phòng đuổi theo. Bỗng nghe tiếng địch nổi lên liên tiếp, chỗ này vừa thổi thì chỗ kia đáp lại, từ từ chuyển qua tây rồi xuống phía nam. Ông theo tiếng địch mà lần theo, chỉ giây lát đã đuổi kịp hai người từ khách điếm đi ra. Ông lặng lẽ theo sát hai gã đó giữ khoảng cách chừng mươi trượng, vượt qua hai ngọn núi thì thấy dưới sơn cốc có một đống lửa. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu xanh biếc trông cực kỳ ngụy bí khác hẳn lửa bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến chỗ đốt lửa, vừa tơi nơi đã quì phục xuống vái lạy. Tiêu Phong rón rén tới gần, ẩn thân sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy chung quanh đám lửa tụ tập đến hơn chục người, ai nấy đều mặc áo gai màu vàng, ánh lửa xanh chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo dài màu tím đứng đó, chính là A Tử. Hai tay nàng đã bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông thật thần bí. Mọi người không ai nói một lời chỉ chăm chăm nhìn ngọn lửa, tay trái để trên ngực, miệng lẩm bẩm không biết đang tụng niệm gì. Tiêu Phong biết rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo nên chẳng thèm để ý. Mới đây ông nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú bàn với nhau :Đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội, nhìn lại hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, động tác thần thái không ai có gì đặc biệt tỏ ra là một kẻ đứng đầu.
Bỗng nghe u u u mấy tiếng địch nhu hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại cùng hướng về phía có tiếng sáo kia khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi, nhưng không thèm quay lại. Tiêu Phong nhìn về phía có tiếng địch thấy một người áo trắng thong dong đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ thoáng một cái đã đến trước đống lửa, đưa một đầu
chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên môi, thổi vào đống lửa một cái, đám lửa lập tức tắt ngúm, rồi đột nhiên bừng lên thật to, nghe bùng một tiếng bay vọt lên trên không phải chừng hơn một trượng, lúc ấy mới từ từ rơi xuống. Mọi người cùng cất tiếng hô to:
- Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, khiến chúng ta ai nấy được một phen mở mắt.
Tiêu Phong nhìn vào gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên, người này đứng đầu cả bọn, tưởng phải là một lão già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, gương mặt xanh mét có ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong mới thấy y phiêu hành đến đây cùng công phu thổi tắt ngọn lửa, biết y nội lực không phải là kém nhưng cung cách thổi ngọn lửa xanh, kế đó bùng lên ắt không phải do nội công mà có lẽ trong ống sáo có để dược liệu dẫn hỏa gì đặc biệt. Gã đó quay sang nói với A Tử:
- Tiểu sư muội, ngươi quả là nở mày nở mặt, vì ngươi mà biết bao nhiêu người phải lao sư động chúng, từ biển Tinh Tú nghìn dặm xa xôi tới tận Trung Nguyên.
A Tử đáp:
- Đến cả đại sư ca cũng phải ra tay, tiểu muội quả thực vinh hạnh, thế nhưng nếu biết được cái chỗ dựa của tiểu muội thì e rằng cả bây nhiêu người xem ra chưa phải là đủ.
Gã đại sư huynh kia hỏi:
- Sư muội còn chỗ dựa ư? Không biết kẻ đó là ai thế?
A Tử đáp:
- Chỗ dựa ư, thì phải là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu của tiểu muội chứ còn ai.
Gã đại sư huynh hừ một tiếng nói:
- Sư muội từ tấm bé do sư phụ nuôi dưỡng cho đến lớn khôn, không cha không mẹ, sao tự nhiên lại ở đâu ra lắm thân thích đến thế?
A Tử đáp:
- Trời ơi, có ai mà lại không cha không mẹ, chẳng lẽ nứt trong đá ra hay sao? Có điều tên tuổi của cha mẹ tiểu muội là một đại bí mật không thể để cho mọi người ai cũng biết được đấy thôi.
Gã đại sư huynh hỏi:
- Thế thì cha mẹ của sư muội là ai?
A Tử đáp:
- Nói ra chỉ sợ mọi người sợ mất vía. Sư ca muốn tiểu muội nói ra thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.
Tên đại sư huynh nói:
- Mở khóa thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng ngươi phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước.
A Tử đáp:
- Vương đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca cũng đã đòi tỉ phu tiểu muội đưa ra, tiểu muội còn cách nào hơn được?
Gã đại sư huynh liền quay sang bốn người Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, hơi mỉm cười, thần sắc ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt liền biến sắc, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Xuất Trần Tử lắp bắp:
- Đại ... đại ... đại sư ca, chuyện này không liên quan gì đến sư đệ. Tỉ phu ... của thị tài giỏi quá, chúng tôi ... chúng tôi đuổi theo không kịp.
Gã đại sư huynh nói:
- Tam sư đệ, ngươi nói đi.
Gã mập đáp:
- Dạ, dạ!
Y liền thuật lại gặp Tiêu Phong thế nào, y bắt được bốn cái gậy của họ ra sao, rồi sau đó bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép buộc phải nói ra tất cả kể rõ không dám dấu diếm chút nào. Y vốn dĩ hành sự nói năng chậm rãi ra chiều kẻ cả nhưng lúc này giọng run run, chẳng khác gì đang ở vào cảnh đại họa lâm đầu. Xuất Trần Tử ấp úng:
- Sư đệ ... sư đệ ...
Gã đại sư huynh hỏi:
- Ngươi nói những gì nào? Nói lại cho ta nghe.
Xuất Trần Tử đáp:
- Sư đệ ... sư đệ nói ... cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó là một trong tam bảo của bản môn, để ... để ... luyện đại pháp đó. Đệ lại nói là sư phụ từng nói người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp của bản môn ai ai cũng bạt hồn bạt vía, nếu như thấy được cái đỉnh thể nào cũng đập cho tan nát. Đệ nói đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ... vì thế nên xin y làm ơn trả lại. Gã đại sư huynh nói:
- Hay lắm! Thế y trả lời sao?
Xuất Trần Tử đáp:
- Y ... y chẳng nói gì cả, chỉ thả sư đệ xuống thôi.
Gã đại sư huynh kia nói:
- Ngươi giỏi lắm! Ngươi nói cho y hay cái Thần Mộc Vương Đỉnh kia dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không biết Hóa Công Đại Pháp là môn gì nên nhấn mạnh hễ võ lâm Trung Nguyên nghe đến tên nó là ai cũng bạt hồn vía. Quả là hay thực, hay thực, chẳng hay y có phải là người trong võ lâm Trung Nguyên không nhỉ? Xuất Trần Tử lắp bắp:
- Sư đệ ... sư đệ ... không biết nữa.
Gã đại sư huynh hỏi vặn lại:
- Có thực là ngươi không biết, hay là ngươi biết?
Giọng y ôn hòa nhưng gã Xuất Trần Tử tính tình bộp chộp kia lại hồn bất phụ thể, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách, nói:
- Đệ ... lách cách ... đệ ... lách cách ... không ... biết ... lách cách ... nữa.
Tiếng lách cách là do hàm răng y chạm vào nhau, vì y không thể nào giữ cho khỏi kêu được. Gã đại sư huynh hỏi:
- Vậy y có bạt hồn bạt vía không? Hay là chẳng sợ gì cả.
Xuất Trần Tử lập cập đáp:
- Dường như là ... y ...y ... lách cách ...chẳng có gì ... chẳng có vẻ gì ... sợ cả.
Gã đại sư huynh hỏi thêm:
- Ngươi đoán thử xem vì cớ gì y lại không sợ?
Xuất Trần Tử đáp:
- Sư đệ đoán không ra, xin ... xin đại ... sư ca cho biết.
Gã đại sư huynh trả lời:
- Võ nhân Trung Nguyên sợ Hóa Công Đại Pháp của chúng ta lắm, nhưng để luyện môn Hóa Công Đại Pháp này thì không thể không dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay tòa Thần Mộc Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, Hóa Công Đại Pháp của chúng ta còn luyện sao được nữa, thành ra y chẳng sợ nữa.
Xuất Trần Tử vội hùa theo:
- Dạ, dạ, đại sư ca minh kiến vạn lý, liệu địch như thần, sư đệ ... sư đệ vạn vạn không thể theo kịp.
Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp các môn nhân đệ tử phái Tinh Tú, thấy trong tất cả có gã Xuất Trần Tử này là người tính tình bộc trực hơn cả, đối với y cũng có chút hảo cảm, thấy y sợ đại sư huynh đến như thế, có ý ra tay cứu y, ngờ đâu càng nghe càng thấy y chẳng đâu vào đâu, gã lùn này câu nào câu nấy hèn hạ, nịnh bợ hết chỗ nói. Tiêu Phong liền nghĩ: Gã này không phải là hảo hán tử, y chết hay sống chẳng mắc mớ gì đến ta. Gã đại sư huynh quay sang A Tử hỏi thêm:
- Tiểu sư muội, anh rể ngươi là ai thế?
A Tử đáp:
- Y ư? Nói ra e rằng khiến đại sư huynh phải giật mình.
Gã đại sư huynh nói:
- Ngươi cứ việc nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng danh tiếng lừng lẫy, Trích Tinh Tử này sẽ để tâm lưu ý.
Tiêu Phong thấy y tự thông báo đạo hiệu, nghĩ thầm: Trích Tinh Tử! Cái tên nghe lớn lối nhỉ?1 Xem thân pháp y phiêu hành mới rồi, khinh công tuy khá thật nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Đại ác Nhân. Lại nghe A Tử nói:
- Y ấy ư? Đại sư ca, trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?
Gã đại sư huynh Trích Tinh Tử đáp:
- Mọi người đều nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, không lẽ cả hai người này đều là anh rể ngươi hay sao?
Cơn giận Tiêu Phong xông lên nghĩ thầm: Tên tiểu tử này ăn nói lếu láo, để rồi ta cho ngươi biết phải biết quấy. A Tử cười khanh khách nói:
- Đại sư ca ăn nói quả là thú vị, tiểu muội chỉ có một người chị, làm thế nào có hai ông anh rể được?
Trích Tinh Tử mỉm cười đáp:
- Ta nào có biết ngươi chỉ có một người chị. Ôi, dẫu quả chỉ có một tỉ tỉ nhưng có đến hai ông anh rể cũng có gì là lạ lùng đâu.
A Tử nói:
- Tỉ phu của tiểu muội tính nóng lắm, lần sau nếu gặp lại anh ta, nếu tiểu muội nhắc lại câu nói của đại sư ca cho y nghe thì sư ca hẳn sẽ phải khổ thân. Tiểu muội nói cho sư ca nghe, tỉ phu của tiểu muội là bang chủ Cái Bang, uy chấn Trung Nguyên Bắc Kiều Phong đó.
Lời đó vừa nói ra, những người trong phái Tinh Tú đã từng gặp Tiêu Phong ai nấy kinh hoàng, nhịn không nổi cùng A lên một tiếng. Gã mũi lân nhị sư ca nói:
- Thảo nào! Thảo nào! Thua dưới tay y ta cũng đành lòng.
Trích Tinh Tử hơi nhíu mày nói:
- Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì kể cũng khó xoay sở.
Xuất Trần Tử tuy sợ hãi lắm nhưng cái tính lanh chanh cũng không chừa liền chõ mồm vào:
- Đại sư ca, gã Kiều Phong kia không còn làm bang chủ Cái Bang nữa, sư ca mới ở phương tây qua chắc là chưa nghe chuyện đại sự mới đây của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia, gã Kiều Phong kia đã bị bọn Cái Bang trục xuất ra khỏi bang rồi.
Việc không liên quan gì đến y ăn nói lại lưu loát hơn nhiều. Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt đang căng thẳng liền dãn ra, hỏi lại:
- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Có thật thế không?
Gã mập tam đệ tử liền đáp:
- Trên giang hồ ai cũng nói thế, còn nói y không phải người Hán mà là người Khất Đan, anh hùng Trung Nguyên ai cũng muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói người này giết cha, giết mẹ, giết sư phụ, giết bạn bè, hèn hạ đáng khinh, không chuyện ác gì là không làm.
Tiêu Phong ẩn nấp sau sơn thạch, nghe y kể lại những chuyện bất hạnh mình gặp phải trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng, dẫu ông võ công cái thế, can đảm hơn người nhưng thanh danh trên giang hồ tệ mạt như vậy, bị tất cả anh hùng thiên hạ coi khinh, sống trên đời thật là vô vị hết sức. Chỉ nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử:
- Sao chị ngươi lại chịu lấy một đứa như thế? Không lẽ người trên đời này chết hết không còn ai hay sao? Hay là bị y tiên gian hậu thú, cưỡng bức bắt phải làm vợ?
A Tử mỉm cười nói:
- Tại sao lại lấy y, tiểu muội cũng không biết nữa, có điều tỉ tỉ của tiểu muội bị y đánh một chưởng chết tươi.
Mọi người nghe thế đều kinh ngạc A lên một tiếng. Bọn này lòng dạ trơ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác nhưng nghe Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết thầy, giết bằng hữu chưa đủ, lại giết cả vợ con, thủ đoạn tàn nhẫn đến như thế thiên hạ quả là hiếm thấy mình quả không thể nào bằng được đành chịu ở vào thế hạ phong. Trích Tinh Tử nói:
- Cái Bang người nhiều thế mạnh quả là không phải dễ đối phó, nay Kiều Phong đã bị trục xuất khỏi bang rồi, mình còn sợ gì y nữa? Ha ha!
Y cười khẩy mấy tiếng nói tiếp:
- Cái gì mà Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, chẳng qua bọn võ lâm Trung Nguyên tự trương bảng huênh hoang, ta chẳng tin rằng hai gã đó lại chống nổi với thần công diệu thuật của phái Tinh Tú chúng ta đâu.
Gã mập liền hùa theo:
- Đúng thế! Đúng thế! Bọn sư đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư ca võ công siêu phàm nhập thánh, lần này đến Trung Nguyên, chính là lúc đem hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia giết quách để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú lợi hại là dường nào.
Trích Tinh Tử hỏi:
- Tên Kiều Phong kia đi về hướng nào?
A Tử đáp:
- Y nói y định ra ngoài Nhạn Môn Quan, nếu mình cứ đuổi theo thể nào rồi cũng bắt gặp.
Trích Tinh Tử nói:
- Đúng vậy! Nhị, tam, tứ, thất, bát năm vị sư đệ lần này gặp địch để bị thua, các ngươi tội đó tội gì?
Năm người khom lưng đáp:
- Cung lãnh đại sư ca trách phạt.
Trích Tinh Tử nói:
- Bọn chúng ta đến Trung Nguyên, có biết bao nhiêu việc phải làm, nếu cứ tội nào trị nấy thì không khỏi làm giảm số người của mình đi. Ôi, ta xem, thế thì đành ...
Y nói chưa hết câu tay trái đã vung lên, từ trong tay áo bay vụt ra năm đốm lửa màu xanh, chẳng khác gì năm con đom đóm, chia ra bắn vào đầu vai năm người, vừa đụng phải lập tức phát tiếng xèo xèo. Tiêu Phong ngửi thấy mùi khét lẹt của thịt cháy, nghĩ thầm: Tên này gớm thật, không lẽ y thiêu sống mấy người đó hay sao?. Đốm lửa chỉ giây lát liền tắt ngúm nhưng nét đau đớn trên khuôn mặt năm người càng lúc càng khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: Vật y ném ra là loại hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng bên trong còn chứa chất độc, nên khi lửa tắt rồi, độc tính mới lan ra trong thân thể khiến cho càng thêm đau đớn khó chịu. Chỉ nghe Trích Tinh Tử nói:
- Đây là Luyện Tâm Đạn. Các ngươi trải qua một phen mài dũa, tính chịu đựng sẽ tăng thêm, lần sau có gặp kình địch thì chẳng vừa đánh đã chịu thua, làm mất mặt phái Tinh Tú chúng ta.
Gã mũi lân và gã mập cùng đáp:
- Vâng, vâng! Đa tạ đại sư ca giáo huấn.
Ba người còn lại vẫn tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, không cách gì mở miệng nói năng được. Độ chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ và tiếng thở hắt ra của năm người lắng xuống dần. Trong thời gian đó những đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn năm người nghiến răng chịu đựng, ai nấy đều kinh hoàng run rẩy. Trích Tinh Tử đưa mắt chầm chậm nhìn sang Xuất Trần Tử nói:
- Bát sư đệ, ngươi tiết lộ chuyện cơ mật trọng đại khiến cho trọng bảo của bản môn có nguy cơ bị hủy diệt, thì phải chịu xử tội thế nào?
Xuất Trần Tử mặt mày biến sắc, đột nhiên hai đầu gối khuỵu xuống, quì dưới đất van xin:
- Đại sư ... đại sư ca, khi đó ... khi đó tiểu đệ hoảng hốt buột miệng khai ra ... xin ... xin sư ca tha mạng, từ nay ... từ nay làm trâu làm ngựa, không dám nửa lời oán trách, không ... không dám để bụng ...
Nói xong y liên tiếp khấu đầu. Trích Tinh Tử thở dài một tiếng nói:
- Bát sư đệ, ngươi với ta là chỗ đồng môn, nếu như tài sức ta có thể làm được thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều ... ôi, nếu như tha cho ngươi lần này thì từ nay còn ai chịu tuân theo giới lệnh của sư phụ nữa? Ngươi ra tay đi vậy! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần ngươi đánh bại được chấp pháp tôn giả thì bao nhiêu tội nghiệt cũng xóa sạch.
Thôi ngươi đứng lên động thủ đi.
Thế nhưng Xuất Trần Tử đời nào dám đối địch với sư ca? Y vẫn tiếp tục rập đầu binh binh. Trích Tinh Tử nói:
- Nếu như ngươi không chịu ra tay trước thì hãy tiếp chiêu của ta.
Xuất Trần Tử kêu rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt luôn hai hòn đá, sử kình ném về phía Trích Tinh Tử, kêu:
- Đại sư ca, tiểu đệ đành đắc tội!
Y lại nhặt hai cục đá khác ném tiếp, đồng thời nhảy vọt về phía đông bắc, nghe vù vù hai tiếng, ném thêm hai cục đá nữa, thân hình trông như trái cầu thịt của y đã chạy ra xa. Y tự biết võ công so với Trích Tinh Tử chênh lệch quá xa, chỉ mong sáu cục đá đó cản y lại được một chút để có dịp đào tẩu rồi từ nay ẩn tính mai danh ngõ hầu môn hạ phái Tinh Tú
không tìm ra được. Cánh tay áo bên phải của Trích Tinh Tử vung lên, phất vào viên đá bay tới trước tiên, cục đá liền quay ngược lại, bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Công phu mượn sức đánh sức của gã này kể cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp. Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít ở phía sau, nhảy qua một bên tránh né, Trích Tinh Tử liền phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y kịp thở. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba đã tới rồi. Mỗi viên đá lại ép Xuất Trần Tử nhảy về bên trái thêm một bước, sáu bước nhảy xong y đã quay trở lại bên cạnh đống lửa. Chỉ nghe cạch một tiếng, viên đá thứ sáu rơi ở xa xa. Xuất Trần Tử mặt tái mét, lật tay một cái đã rút trong túi ra một con dao găm, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào cổ tay y, đốt huyệt đạo nơi đó nghe sèo sèo, bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, con dao đã rơi xuống đất. Y la lớn:
- Xin đại sư ca mở lòng từ bi! Xin đại sư ca mở lòng từ bi!
Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên, một luồng kình phong bắn vào đống lửa, ngọn lửa liền vươn ra một ngọn lửa nhỏ lao vào người Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bùng lên lem lém, quần áo đầu tóc liền bốc cháy. Chỉ thấy y lăn lộn trên mặt đất, kêu la thảm thiết nhưng chưa chết ngay, mùi khét lẹt bay ra trông thật kinh hoàng. Người trong môn phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh. Trích Tinh Tử nói:
- Không nghe ai nói gì cả, ôi, các ngươi nghĩ ta ra tay quá độc ác, Xuất Trần Tử chết thật là oan, phải không?
Mọi người vội vàng tranh nhau đáp lời:
- Xuất Trần Tử tội thật đáng chết, đại sư ca giúp y luyện thể hóa cốt, đối với đồng môn quả là nhân chí nghĩa tận.
- Đại sư ca anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, không rộng rãi mà cũng chẳng hẹp hòi, chúng sư đệ hết sức kính phục.
- Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho món chí bảo trong việc luyện công của sư tôn lâm nguy, đáng ra phải lóc da xẻo thịt, để y chịu đựng bảy ngày bảy đêm rồi mới giết chết. Đại sư ca cố giữ nghĩa khí đồng môn, gã có thành ma cũng còn cảm kích ân huệ.
- Bọn chúng ta ai ai cũng có tội, xin đại sư ca khoan dung tha thứ.
Bao nhiêu lời vô sỉ chen lẫn tiếng kêu thảm khốc của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong cảm thấy cực kỳ chán ghét, quay mình, chân phải búng một cái, không một tiếng động đã vọt ra xa hơn hai trượng, đến tài ba như Trích Tinh Tử cũng không hề hay biết. Ông đang định bỏ đi bỗng nghe Trích Tinh Tử cất tiếng dịu dàng hỏi:
- Tiểu sư muội, ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư tôn giao cho người ngoài thì phải chịu tội gì?
Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: E rằng hình phạt A Tử phải chịu so với Xuất Trần Tử còn thảm khốc gấp mười, nếu ta xuôi tay bỏ đi thì lòng dạ đâu yên được?. Nghĩ thế ông quay lại lén lén trở về chỗ ẩn thân khi nãy. Chỉ nghe A Tử đáp:
- Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó không sai, nhưng chẳng hay đại sư ca có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?
Trích Tinh Tử đáp:
- Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên không thể không thu hồi, làm sao để rơi vào tay người ngoài được?
A Tử nói:
- Tính nết của ông anh rể em không mấy dễ chịu. Cái bảo đỉnh đó do chính tiểu muội giao cho anh ta, nếu như em lên tiếng đòi lại, anh ấy sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn như người khác hỏi ư, đại sư ca liệu y có chịu giao không?
Trích Tinh Tử hừm một tiếng đáp:
- Cái đó cũng khó nói lắm. Nếu như bảo đỉnh có gì hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng.
A Tử nói:
- Nếu như các vị đòi y, nhất định y sẽ không giao trả. Đại sư ca võ công tuy cao thật, giỏi lắm cũng chỉ giết được y thôi, còn như muốn thu hồi bảo đỉnh thì thật khó bằng lên trời.
Trích Tinh Tử trầm ngâm rồi đáp:
- Theo như ngươi thì phải làm sao?
A Tử đáp:
- Các vị thả tiểu muội ra để một mình ra ngoài Nhạn Môn Quan nói với tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là đái công chuộc tội nhưng đại sư ca phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội nữa.
Trích Tinh Tử đáp:
- Lời nói của ngươi nghe cũng có lý. Thế nhưng, cô em nhỏ ơi, nếu làm như thế thì có khác gì bôi tro trát trấu vào mặt người anh này, từ rày về sau ta có còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả cô ra rồi, cô sẽ cao bay xa chạy, cùng với ông anh rể trốn mất biệt, bóng chim tăm cá ta biết nơi mô mà tìm? Còn cái bảo đỉnh kia, có chí thì nên, cố là phải được, chỉ cần không tiết lậu phong thanh, gã họ Kiều kia chưa chắc đã dám vô cớ hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi vậy, chỉ cần ngươi đánh thắng ta thì ngươi sẽ lên là đại sư tỉ của phái Tinh Tú lúc đó ta lại nghe hiệu lệnh của cô, để cô muốn làm gì thì làm.
Tiêu Phong bấy giờ mới rõ: Thì ra thứ bậc trên dưới của bọn chúng là do công phu mạnh yếu mà định chứ không phải nhập môn trước hay sau, thành thử tuy y tuổi còn trẻ mà lại là đại sư huynh, biết bao nhiêu người tuổi lớn hơn y lại là sư đệ. Nếu cứ như thế, nội bộ ắt luôn luôn tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình đồng môn, nghĩa anh em nữa?. Ông không biết rằng đó chính là phương pháp của phái Tinh Tú để người sau phải giỏi hơn người trước. Đại sư huynh quyền lực rất lớn, nếu sư đệ bất phục có thể dùng võ lực phản kháng, dùng công phu để định thấp cao. Nếu đại sư huynh đắc thắng thì muốn đánh muốn giết gã sư đệ kia cũng đành chịu, không thể kháng cự. Còn như sư đệ đắc thắng, y lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, quay lại xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ cũng chỉ chống mắt đứng nhìn, quyết không can thiệp. Vì có qui củ như thế nên ai ai cũng phải nỗ lực tu tập cốt để tự bảo tính mạng của mình, ngoài mặt thì thản nhiên làm như kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử cánh tay rất khỏe, cây cương trượng y đúc vừa to vừa dài, vừa nặng, tuy đứng hàng thứ tám nhưng cũng đã khiến cho Trích Tinh Tử đố kỵ, nay nhân cớ này trừ khử y. Người môn phái khác thường chỉ luyện tới một mức nào đó là ngừng lại không còn tiến thêm được nữa, còn môn đệ phái Tinh Tú đến nửa ngày cũng không dám bê trễ, lúc nào cũng phải chuyên cần luyện tập. Đại sư huynh phải dè chừng sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình đã đành, đến ngay cả các sư đệ cũng sợ đại sư huynh tìm chuyện đổ lên đầu mình, nếu như công phu luyện đến mức cao, đại sư huynh không chắc ăn thì sẽ không dám gây sự. A Tử nghĩ rằng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh sẽ không dám mạnh tay, nào ngờ y không mắc bẫy, lập tức đòi động thủ khiến cho mặt hoa tái mét, nghe tiếng rên rỉ của Xuất Trần Tử chưa dứt hẳn, cái số phận đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình, đành bậm môi run run nói:
- Chân tay ta đều bị khóa chặt, làm sao động thủ quá chiêu với ngươi được? Nếu như ngươi muốn hại ta sao không dùng cách quang minh chính đại mà lại giở trò đê hèn này?
Trích Tinh Tử đáp:
- Được lắm! Để ta thả ngươi ra.
Y phất tay áo một cái, một luồng kình phong phóng thẳng vào đống lửa. Từ đống lửa một ngọn lửa xanh nhỏ bay ra, chẳng khác gì một tia nước xịt thẳng vào dây xích nối hai tay A Tử. Tiêu Phong nhìn rất kỹ, thấy đốm lửa đó quả không bắn vào người A Tử. Chỉ nghe thấy tiếng xì xì, chẳng bao lâu, hai tay A Tử bung ra, sợi xích đã đứt ngay giữa nhưng hai chiếc vòng vẫn còn ở nơi cổ tay. Ngọn lửa xanh lại thu về, rồi lại phóng tới lần này bắn vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát sợi xích đó cũng bị cắt đứt. Tiêu Phong lúc đầu thấy ngọn lửa nung chảy được dây xích không khỏi kinh ngạc nội lực Trích Tinh Tử quả thực ghê gớm, đến lúc nhìn vào ngọn lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, ngọn lửa tới đâu dây xích liền biến sắc, xem ra ngọn lửa này có điều gì cổ quái chứ không phải chỉ thuần nhờ vào nội lực. Các môn đệ phái Tinh Tú không ngớt tấm tắc ca ngợi:
- Nội lực đại sư ca đã đến mức siêu phàm nhập thánh, quả thực kinh người.
- Bọn chúng ta thực thấy chưa từng thấy, nghe chưa từng nghe, đời nay ngoài sư tôn ra, đại sư ca nhất định thiên hạ vô địch.
- Bọn gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung có xách dép cho đại sư ca cũng không đáng.
- Tiểu sư muội, ngươi bây giờ đã thấy lợi hại chưa? Thế nhưng có hối hận cũng muộn rồi.
Người này một câu, người kia một câu, tranh nhau nói. Trích Tinh Tử nghe những lời nịnh hót đó, mặt tươi như hoa, khẽ gật gù, liếc mắt nhìn A Tử. A Tử tuy tâm cơ linh xảo nhưng cũng chưa tìm ra cách nào thoát được cái họa trước mắt, chỉ mong bọn chúng nức lòng ca tụng khiến cho Trích Tinh Tử ra tay chậm lúc nào hay lúc nấy nhưng nói qua nói lại một hồi, không còn thêm được ý gì mới mẻ, giọng cũng lắng dần. Trích Tinh Tử chậm rãi nói:
- Tiểu sư muội, ngươi xuất chiêu đi thôi.
A Tử run run đáp:
- Ta không xuất chiêu.
Trích Tinh Tử hỏi lại:
- Vì sao vậy? Ta xem ngươi cử động được rồi mà.
A Tử đáp:
- Ta không đấu với ngươi, biết chắc đánh không lại, việc gì phải phí hơi phí sức? Ngươi muốn giết ta thì cứ giết đi.
Trích Tinh Tử thở dài đáp:
- Ta cũng chẳng muốn giết ngươi làm chi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế, giết đi quả là đáng tiếc, có điều không còn cách nào hơn. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi, ngươi giết được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Trong phái Tinh Tú, khi đó ngoài sư phụ ra có ai chẳng phải nghe lời ngươi.
A Tử đáp:
- Ta là một cô gái nhỏ, cả đời cũng không bao giờ hơn ngươi được, có gì phải e ngại mà ngươi lại muốn giết ta.
Trích Tinh Tử thở dài:
- Nếu như ngươi không phạm phải tội tày trời như thế này, ta nhất quyết không bao giờ làm khó ngươi đâu, thế nhưng lúc này ... ôi ... ta thật tiếc không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu!
Nói xong y phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, đẩy một tia lửa xanh từ từ phóng tới cô gái, nhưng dường như chưa muốn giết A Tử ngay nên đốm lửa bay thật chậm. A Tử kinh hãi kêu lên một tiếng, nhảy qua bên trái hai bước. Tia lửa lập tức đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, lưng dựa ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang náu sau đó. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại ép tới, A Tử không còn đường lui đang tính nhảy sang bên cạnh nhưng tay áo Trích Tinh Tử đã múa lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu khiến cô gái không còn đường chạy nữa trong khi ngọn lửa trước mặt càng lúc càng gần. Tiêu Phong thấy ngọn lửa chỉ còn cách mặt A Tử chừng hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa bèn nói khẽ:
- Đừng sợ, có ta đến giúp ngươi đây!
Ông vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra để vào lưng cô gái, nói:
- Ngươi vận chưởng lực đánh thẳng vào ngọn lửa.
A Tử đang sợ đến mất cả hồn vía, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong, mừng không sao kể xiết, không kịp suy nghĩ gì liều vung chưởng đánh ra. Khi đó nội lực Tiêu Phong đã truyền vào thân thể cô ta rồi, chưởng đó đánh ra thật là hùng hậu, ngọn lửa xanh liền dội lại hai thước. Trích Tinh Tử hết sức kinh hãi, thấy A Tử đã như cá nằm trên thớt, đang định mãi lộng công phu cho ngọn lửa vờn qua vờn lại trên mặt cô gái, dọa cho kêu la một hồi để hiển thị uy phong trước đám đồng môn lúc đó mới ra tay hạ sát nhưng có ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực lại mạnh dường ấy, thực ngoài dự liệu. Võ công của phái Tinh Tú, sau khi sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự tu luyện riêng, cao siêu tới mức độ nào, chỉ đến khi gặp địch hay khi đồng môn tàn sát lẫn nhau mới hiển lộ, ngoài ra không ai biết được. Thành thử khi A Tử một chưởng đánh ra lại có thể dồn cho ngọn lửa dội ngược lại, ai nấy A lên một tiếng, tuy ngạc nhiên nhưng chẳng nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông minh tự luyện được công phu cực cao thâm. Trích Tinh Tử vận lực đẩy ra, ngọn lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới, lần này y dùng sức cực kỳ mãnh liệt, thế đi thật nhanh. A Tử hốt hoảng không biết tính sao để ngăn ngọn lửa, vội vàng né qua bên trái. Cũng may lúc này kình lực Trích Tinh Tử dùng chặn hai bên đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn thẳng vào tảng đá, soẹt soẹt mấy tiếng. Tiêu Phong hạ giọng nói nhỏ:
- Tả chưởng đánh ra cắt đôi ngọn lửa đi.
A Tử nghĩ thầm: Cách này hay quá!, tay trái liền giơ lên, một luồng chưởng lực đẩy vào giữa cắt đứt sợi dây lửa, phần trước không còn tiếp nối phía sau nên chỉ cháy tại tảng đá được một hồi rồi tàn dần. Trích Tinh Tử nghĩ thầm: Nếu để tắt sợi dây lửa này thì ta đã thua một trận trước mặt đồng môn, bao nhiêu uy phong mất sạch còn gì. Nghĩ vậy y bèn thúc đẩy chưởng lực, đưa sợi dây lửa bắn vào tảng đá, định nối lại đầu kia để thu về. A Tử chỉ thấy từ sau lưng nội lực cuồn cuộn đổ vào, nếu không phát tiết chỉ sợ thân mình sẽ nổ tung lập tức vung ta phải đánh thẳng ra. Nội lực Tiêu Phong vô cùng hùng hậu, tuy đổ vào người A Tử uy lực đã giảm nhiều nhưng nếu nàng khéo sử dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Có điều nàng chưa hết sợ hãi, chưởng đó lập cập đánh ra, nghe vù một tiếng, ngọn lửa xanh lập tức tắt phụp, tuy thắng thế nhưng không làm Trích Tinh Tử tổn hao chút nào. Việc xảy ra, đám đồng môn phái Tinh Tú ai nấy không khỏi mặt màythất sắc. Riêng gã thất đệ tử chẳng hiểu ngô khoai, ù ù cạc cạc, vẫn tiếptục lên tiếng bợ đỡ:
- Đại sư ca công lực ghê gớm thật, chưởng của tiểu sư muội giỏi lắm cũng chỉ tắt được thần hỏa chứ có làm gì được đại sư ca đâu?
Câu nói đó y bản tâm bốc thơm sư huynh nhưng Trích Tinh Tử nghe vào tai, thật chẳng khác gì châm chọc, đột nhiên phất tay áo một cái, đám lửa tạt qua, nghe suỵt một tiếng, như một mũi tên bắn thẳng vào mặt gã sư đệ. Ngọn lửa chỉ chạm vào rồi lại thu về ngay nhưng gã kia đã hai tay bưng mặt, nhào xuống đất kêu la chẳng khác gì heo bị chọc tiết. Trích Tinh Tử trừng trị gã thất sư đệ rồi tả chưởng liền đánh xéo ra, luồng lửa xanh lại tấn công về phía A Tử. Lần này ngọn lửa to hơn nhiều, tiếng kêu ù ù, chiếu lên khiến cho khuôn mặt cô gái trở thành xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa lập tức ngừng lại trên không, cứ xông tới được một hai tấc, lại lùi về một hai tấc. Trong bóng đêm ngọn lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài màu xanh lơ lửng vắt ngang, chỉ hơi uốn éo, màu sắc vừa rực rỡ, lại vừa ngụy bí, ánh sáng khi mờ khi tỏ,lấp lánh bất định. Trích Tinh Tử liên tiếp thôi động chưởng lực ba lần nhưng đều bị A Tử đẩy lui, không khỏi sốt ruột, lại thêm tức tối. Y thúc đẩy thêm hai lần nữa vẫn không đến đâu, một luồng hơi lạnh theo sống lưng chạy dài lên đến cổ: Dư lực ... dư lực ... của con bé này vẫn còn, thì ra nó định đùa rỡn mình, không lẽ sư phụ thiên vị, bí mật truyền công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta ... ta làm sao chống nổi?. Y nghĩ thế, trong lòng không khỏi hoảng sợ, chưởng lực lập tức yếu đi, con rắn xanh liền quay vụt về đống lửa. Trích Tinh Tử gầm lên một tiếng, chưởng lực mạnh thêm, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to bằng cái đấu, bay về phía A Tử. A Tử vội vàng đánh chưởng bên phải ra nhưng không chặn nổi khối cầu lửa, vội vàng đẩy thêm chưởng bên trái, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được. Chỉ thấy một cục lửa tròn lung linh trên không chuyển động vô cùng nhanh nhẹn, các đệ tử vội vàng cất tiếng reo hò:
- Đại sư ca công lực thần kỳ, con tiểu a đầu lần này chỉ có chết!
- Tiểu sư muội, ngươi còn hung hăng được nữa thôi? Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư ca cũng cho ngươi một con đường sống.
A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực, mặc dù sức của Tiêu Phong đưa vào mạnh mẽ thật, nhưng dẫu sao cũng chỉ từ bên ngoài, nàng không thể nào vận dụng được như ý muốn. Trích Tinh Tử cùng nàng cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của cô gái, đột nhiên lông mày dựng lên, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ. Từ đống lửa nghe hai tiếng soẹt soẹt phóng ra hai đốm hỏa hoa, thế đi thật nhanh chẳng khác gì sao băng chia ra hai bên tấn công A Tử. A Tử kêu lên Chao ôi! một tiếng, hai tay nàng đang ngưng tụ chặn hỏa cầu, làm sao chia ra để chống đỡ được? Nàng không còn cách gì hơn đành né sang một bên, nhưng hai đốm lửa dưới sức thôi động của Trích Tinh Tử lập tức đuổi theo. Tiêu Phong thấy A Tử không còn cách nào kháng cự được, lập tức tay trái hơi giơ lên, một luồng chưởng lực nhè nhẹ phóng ra, vừa lúc thân hình A Tử hơi chuyển động, tà thắt lưng tung bay, nhởn nhơ phần phật, hai đốm lửa hoa nhanh nhẹn dị thường bắn ngược trở về Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử sợ đến há mồm trợn mắt, còn đang ngỡ ngàng, hai đốm lửa đã bắn tới người y, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hỏa hoa bay xẹt dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò:
- Hảo công phu, đại sư huynh quả là giỏi thật.
Tiếng hoan hô chưa dứt, đốm lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới, Trích Tinh Tử còn đang ở trên không, làm sao có thể lên cao hơn được nữa? Chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, hỏa hoa đã trúng bụng, Trích Tinh Tử rống lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu liền quay ngay trở lại đống lửa. Các đệ tử nhìn A Tử, ai nấy lộ vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: Xem ra tiểu sư muội công lực không phải tệ, đại sư huynh chưa chắc đã thắng, mình chẳng nên reo hò quá đáng. Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, giơ tay gỡ búi tóc, mái tóc dài liền xõa xuống che mặt, tiếp theo cắn đứt đầu lưỡi, phun một ngụm máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói lập tức bùng lên, ánh sáng chói lòa khiến mọi người không mở mắt nổi. Đám đệ tử không nhịn nổi lại reo hò:
- Công lực đại sư ca quả là ghê gớm khiến chúng ta một phen đại khai nhãn giới.
Trích Tinh Tử chẳng khác gì một con vụ thân hình quay tít đến hơn chục vòng, tay áo phất động, bốc đống lửa dướt đất bay lên, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử. Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang ngưng tụ công lực bình sinh vào một đòn, sử dụng một tà thuật rất lợi hại. Gã này tuy gian ác thật nhưng với ông không thù không oán, việc gì phải quyết tử với y, lập tức biến chưởng thành trảo, chộp luôn sau lưng A Tử, định kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên:
- A Châu tỉ tỉ, A Châu tỉ tỉ, đứa em gái đang bị người ta ức hiếp, sao chị không rửa hờn cho em?
Tiêu Phong ngạc nhiên: Sao nàng lại kêu réo A Châu, ta ... ta ... làm sao bỏ đi được?. Tiêu Phong còn hơi chần chừ, khối lửa xanh kia đã đến thật nhanh, dường như muốn chồm lên, liền song chưởng tung ra một luồng kình phong luồn vào tay áo A Tử. Dưới ánh sáng xanh, hai cánh tay áo màu tím phần phật căng phồng, kình lực của Tiêu Phong ra theo, đẩy vào bức tường lửa. Ngọn lửa xanh chựng lại trên không, rồi từ từ tiến trở về phía Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử kinh hãi quá, nghiến răng cắn đầu lưỡi lần nữa, một ngụm máu khác phun vào, lửa lại bừng lên, quay ngược trở lại nhưng chỉ được độ hai thước thì bị nội lực của Tiêu Phong đẩy lui. Bọn đệ tử thấy cánh tay áo A Tử chẳng khác gì một cánh buồm no gió, đều tưởng nội lực vị tiểu sư muội này mạnh quá đỗi, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ. Lúc này mặt Trích Tinh Tử tái mét không còn hột máu, cứ từng ngụm từng ngụm máu phun ra. Mỗi lần như thế nội công lại giảm đi một phần nhưng ở vào thế cưỡi hổ rồi chỉ đành còn nước còn tát, cốt sao đốt chết được A Tử sau đó sẽ bỏ đi ngay từ từ tìm cách khôi phục lại nguyên khí, nếu không bọn sư đệ nhìn ra chỗ yếu, thừa cơ dậu đổ bìm leo tiến đến khiêu chiến. Y liên tiếp phun máu ra nhưng đối với nội lực hùng hồn của Tiêu Phong, ngọn lửa đâu có cách gì tiến thêm được lấy nửa thước? Tiêu Phong theo nội kình đối phương mà nhận xét thấy chân khí của y càng lúc càng yếu, dầu cạn đèn khô, liền ngưng khí nói với A Tử:
- Ngươi bảo y chịu thua đi, đừng đấu tiếp nữa.
A Tử kêu lên:
- Đại sư ca, ngươi đấu không lại ta đâu, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha không giết. Ngươi chịu thua chưa?
Trích Tinh Tử hoảng hốt dị thường, biết mạng mình chỉ còn trong giây lát, nghe A Tử nói thế, vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại:
- Sao ngươi không chịu mở miệng? Ngươi không nói nghĩa là không chịu thua, phải không?
Trích Tinh Tử lại liên tiếp gật đầu, nhưng không sao nói được. Y đang ngưng tụ toàn lực chống đỡ chưởng lực của Tiêu Phong, chỉ vừa há miệng, chân khí thoát ra ngọn lửa biếc sẽ quay ngược về nướng sống y ngay. Các đồng môn thấy thế lập tức nhao nhao lên chửi rủa:
- Trích Tinh Tử, ngươi thua rồi sao chưa quì xuống rập đầu đi?
- Cái thứ bị thịt như ngươi mà ra ngoài thì phái Tinh Tú còn mặt mũi nào nữa?
- Tiểu sư muội khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao còn bướng bỉnh? Mau mau mở miệng van xin đi thôi.
- Trích Tinh Tử, mười năm trước ta đã biết ngươi là đứa tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Tiểu sư muội hôm nay thanh lý môn hộ, lập được công lớn, quả là đại công thần làm rạng danh bản phái.
- Ngươi âm mưu ám toán sư tôn, toan gia nhập phái Thiếu Lâm, may có tiểu sư muội nhìn thấy gian mưu của ngươi. Ngươi thật đúng là đồ thú vật, vô sỉ không đâu kể xiết.
- Tiểu sư muội thần công cái thế, ngoài sư tôn ra thì sư muội là người tài giỏi nhất, ta đã biết từ lâu rồi.
- Trích Tinh Tử, chính ngươi là đứa ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám mở mồm vu vạ cho tiểu sư muội, bộ không muốn sống nữa hay sao?
Tiêu Phong thấy bọn chúng lựa gió đổi chiều, thấy Trích Tinh Tử vừa vào thế hạ phong, lập tức hùa theo nước đục thả câu, mới vừa đây ca tụng đại sư huynh như kẻ anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như trâu như ngựa, thực tư cách không bằng tuồng chó lợn, nghĩ thầm: Tinh Tú Lão Ma thu được bọn đệ tử nhân phẩm kém cỏi thế này, A Tử lăn lộn với chúng từ nhỏ, thảo nào hành vi cũng chẳng ra gì. Ông thấy Trích Tinh Tử thảm hại quá rồi, không nỡ làm quá, nội kình thu về, hai cánh tay áo A Tử lập tức xẹp xuống. Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình lảo đảo lắc lư, đột nhiên hai gối nhũn đi ngồi phịch xuống đất. A Tử hỏi:
- Đại sư ca sao thế? Phục ta chưa?
Trích Tinh Tử nói nhỏ:
- Ta chịu thua. Ngươi ... ngươi đừng ... đừng gọi ta là đại sư ca nữa, ngươi là đại sư tỉ của tất cả.
Các đệ tử cùng cất tiếng hoan hô:
- Hay thật! Hay thật! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có truyền nhân như vậy thể nào cũng dương danh.
- Đại sư tỉ mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung để phái Tinh Tú chúng ta độc tôn thiên hạ.
Một gã khác liền cãi:
- Ngươi chỉ nói năng tầm bậy! Bắc Kiều Phong là anh rể của sư tỉ, sao lại giết đi?
- Sao lại không giết được? Trừ phi y mở mồm chịu thua, đầu nhập môn phái Tinh Tú.
A Tử liền mắng:
- Các ngươi ồn ào gì thế? Không ai được mở mồm.
Cả bọn liền im bặt không xôn xao nữa. A Tử cười hì hì nhìn Trích Tinh Tử:
- Qui củ của bản môn, sau khi thay đổi truyền nhân rồi thì người truyền nhân cũ xử tội như thế nào?
Mồ hôi trán Trích Tinh Tử nhỏ xuống tong tỏng, run rẩy đáp:
- Đại ... đại ... đại sư tỉ, xin ... xin sư tỉ ...
A Tử cười khanh khách:
- Ta cũng muốn tha cho ngươi lắm, có điều qui củ bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi thôi! Có tài cán gì hãy hết sức đem ra thi triển.
Trích Tinh Tử biết số mạng mình đã quyết định rồi, không thể van xin thêm được nữa, ngưng khí vào song chưởng nhắm ngọn lửa đẩy tới. Thế nhưng nội lực của y đã hết rồi, song chưởng đánh ra ngọn lửa chỉ hơi lay động một chút rồi không thôi. A Tử cười nói:
- Vui thật! Thích quá đi thôi! Đại sư ca, pháp thuật của ngươi sao không còn linh nghiệm nữa?
Nàng tiến lên hai bước, đẩy song chưởng một luồng lửa biếc phun ra, bắn thẳng vào người Trích Tinh Tử. A Tử nội lực bình thường, làn lửa xanh đi cũng chậm, lại tung tóe khắp nơi nhưng Trích Tinh Tử lúc ấy không còn hơi sức nào chống trả, đến đứng lên bỏ chạy cũng không xong. Ngọn lửa vừa chạm vào người y, lập tức đầu tóc, áo quần bốc cháy, kêu la thảm thiết luôn mồm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống. Bọn đệ tử lại cất tiếng ca tụng, cùng tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, mừng cho phái Tinh Tú trừ được một tên bại hoại lâu nay, theo đúng ý nguyện của sư tôn, lập nên công lớn. Tiêu Phong tuy đã từng chứng kiến nhiều cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp tú lệ, trong trắng ngây thơ như A Tử lại hành sự tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông cảm thấy chán chường, khẽ thở dài, cất bước bỏ đi. A Tử kêu lên:
- Tỉ phu, tỉ phu, đừng đi vội, đợi em chút nào.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú đột nhiên thấy một người ở sau tảng đá bước ra, bọn nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra là Tiêu Phong, không khỏi ngạc nhiên thất sắc. A Tử lại gọi:
- Tỉ phu, đợi em với.
Nàng cất bước chạy đến bên Tiêu Phong. Lúc đó tiếng kêu rú của Trích Tinh Tử, thêm tiếng vang từ sơn cốc vọng lại càng lúc càng thêm ghê rợn. Tiêu Phong nhíu mày:
- Ngươi theo ta làm chi? Ngươi là truyền nhân của phái Tinh Tú, là đại sư tỉ của cả bầy, chưa thấy hả lòng hả dạ hay sao?
A Tử cười nói:
- Không!
Nàng hạ giọng thì thầm:
- Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là đồ giả, có gì thích thú đâu? Tỉ phu, cho em theo anh ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé!
Tiêu Phong nghe thấy tiếng kêu la của Trích Tinh Tử, không muốn lưu lại đây thêm nữa, rảo bước đi về hướng bắc. A Tử đi song song với ông, quay đầu lại nói:
- Nhị sư đệ, ta có việc phải đi lên mạn bắc, các ngươi quanh quẩn đâu đây đợi ta về, không được người nào tự ý bỏ đi, nghe rõ chưa?
Cả bọn cùng tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói:
- Cẩn tuân pháp chỉ của đại sư tỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.
Tiếp đó bọn chúng lại nhao nhao tán tụng:
- Cung chúc đại sư tỉ lên đường bình an.
- Cung chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.
- Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.
- Đại sư tỉ mang trong người thần công như thế, có việc gì trong thiên hạ mà chẳng xong? Những câu chúc tụng chỉ bằng thừa.
A Tử giơ tay vẫy vẫy mấy cái, khuôn mặt đầy vẻ đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong thấy cô gái xinh đẹp, vẻ mặt ngây thơ dễ thương kia mỉm cười, thật chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một cục kẹo, nếu ông không chính mắt nhìn thấy, thì ai
dám tin rằng nàng vừa ra tay giết đại sư huynh, mới được chức truyền nhân của một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong khẽ thở dài, bỗng thấy trên đời chuyện gì cũng chán chường hết sức. A Tử hỏi:
- Tỉ phu, sao anh lại thở dài? Hay là tại em cứng đầu bướng bỉnh?
Tiêu Phong đáp:
- Ngươi đâu có bướng bỉnh, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Bọn ta là đàn ông đã ra đời, nếu có hung ác thì cũng đành. Còn ngươi chỉ là một cô bé con, sao hạ thủ lại không dung tình như thế?
A Tử ngạc nhiên hỏi lại:
- Anh biết rồi mà còn vờ vịt, hay là không biết thật?
Nói xong nàng nghiêng ngó đầu, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, khuôn mặt đầy vẻ dò hỏi. Tiêu Phong hỏi:
- Sao ta lại biết rồi mà còn vờ vịt?
A Tử đáp:
- Cũng lạ nhỉ, không lẽ tỉ phu không biết hay sao? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả, là do anh tranh đoạt dùm em nhưng bọn chúng chưa nhìn ra đấy thôi. Nếu như tiểu muội không giết y, thể nào cũng có lúc y tìm ra chân tướng, lúc ấy chắc gì có tỉ phu ở bên cạnh, tính mạng em sẽ đi đời nhà ma. Em muốn sống không thể không giết y cho xong.
Tiêu Phong nói:
- Được rồi! Thế ngươi theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan làm gì thế?
A Tử đáp:
- Tỉ phu ơi, để em nói thực cho anh nghe, có được chăng? Tỉ phu có chịu nghe không nào?
Tiêu Phong nghĩ thầm: Giỏi nhỉ! Hóa ra xưa nay ngươi chỉ toàn nói láo với ta thôi, bây giờ mới nói thực. Ông bèn đáp:
- Dĩ nhiên là được, ta chỉ sợ ngươi không nói thực thôi.
A Tử cười khúc khích mấy tiếng, nắm cánh tay ông đáp:
- Tỉ phu cũng còn sợ em nữa hay sao?
Tiêu Phong thở dài:
- Ta có nhiều chuyện sợ ngươi lắm, sợ ngươi gây ra tai họa, sợ ngươi vô cớ giết người, sợ ngươi giở trò tinh ma, nghịch ngợm ...
A Tử nói:
- Thế anh có sợ người ta ăn hiếp tiểu muội, bị người ta giết hay không nào?
Tiêu Phong đáp:
- Ta nhận lời gửi gấm của chị cô, dĩ nhiên phải chiếu cố cho cô rồi.
A Tử hỏi lại:
- Vậy như nếu tỉ tỉ không gửi gấm thì sao? Nếu như thiếp không phải là em gái của chị A Châu thì sao?
Tiêu Phong hừ một tiếng đáp:
- Nếu thế thì ta việc gì phải lo cho ngươi làm gì?
A Tử hỏi:
- Chị em có gì tốt vậy? Sao anh lại chẳng coi em ra gì?
Tiêu Phong đáp:
- Chị ngươi so với ngươi tốt gấp nghìn lần vạn lần! A Tử, người như ngươi vĩnh viễn chẳng bao giờ bì kịp được nàng đâu.
Ông nói tới đây mắt lại rưng rưng, thanh âm có chiều nghẹn ngào. A Tử bĩu môi, hờn dỗi nói:
- Nếu chị A Châu hay như thế, sao tỉ phu không gọi chị ấy đi chung với anh, tiểu muội không đi nữa đâu.
Nói xong quay mình bỏ đi. Tiêu Phong chẳng ngó ngàng gì đến cô nàng, cũng cất bước, trong lòng không khỏi chua xót: Giá như có được A Châu cùng đi với ta trên tuyết địa này, nếu như nàng hờn giận ta, quay mình bỏ đi như thế thì ta se lập tức đuổi theo ngay, ngon ngọt dỗ dành nàng một hồi. Không đâu, ta chẳng bao giờ để nàng phải bực mình, chuyện gì cũng chiều theo nàng cả. Ôi, A Châu đối với ta nhu thuận dịu dàng, có bao giờ lại giận ta được?. Đột nhiên nghe tiếng chân người đuổi theo, A Tử đã chạy lại nói:
- Tỉ phu ơi, anh quả là người lòng lang dạ sói, nói không là không, không có một chút nhân từ nào.
Tiêu Phong bật cười hỏi lại:
- Người như ngươi mà nói gì chuyện bụng dạ nhân từ? Này A Tử, ngươi nghe ai nói đến hai chữ nhân từ thế?
A Tử đáp:
- Em nghe mẹ em nói, bà ấy bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có lòng nhân từ.
Tiêu Phong nói:
- Mẹ ngươi nói thế là phải lắm, chỉ tiếc rằng từ bé ngươi đã không ở với mẹ nên chỉ học được ở sư phụ những chuyện tàn ác xấu xa.
A Tử cười hỏi:
- Hay lắm! Thế từ nay em ở bên cạnh tỉ phu sẽ học ở anh những điều hay, điều tốt.
Tiêu Phong giật nảy người, liên tiếp xua tay, lật đật đáp:
- ấy chết, không được đâu! Ngươi đi theo một gã thô lỗ mãng phu như ta để làm gì? Này A Tử, ngươi đi đi! Ngươi ở gần bên ta chỉ khiến ta thêm phiền não, có muốn ngồi không một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không xong.
A Tử hỏi:
- Nếu như tỉ phu muốn suy nghĩ chuyện gì, chi bằng nói cho em hay, em sẽ giúp anh suy nghĩ. Anh tốt bụng quá dễ bị người ta cho vào tròng.
Tiêu Phong vừa bực mình, vừa tức cười nói:
- Ngươi chỉ là một đứa bé con, biết gì mà nói? Không lẽ chuyện ta suy tính không ra mà ngươi lại nghĩ được hay sao?
A Tử đáp:
- Cái đó đương nhiên rồi, có biết bao nhiêu chuyện, dẫu cách nào tỉ phu cũng chẳng nghĩ ra.
Cô ta bốc một nắm tuyết dưới đất, nặn thành một cục, vung tay ném ra xa hỏi:
- Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?
Tiêu Phong lắc đầu:
- Chẳng làm gì cả. Săn bắn thả cừu, sống cho qua ngày, có vậy thôi.
A Tử nói:
- Thế ai nấu cơm cho anh ăn? Ai may áo cho anh mặc?
Tiêu Phong ngỡ ngàng, trước nay ông chưa hề tính đến chuyện đó, tiện mồm đáp:
- Nấu ăn may áo chẳng phải dễ đâu? Người Khất Đan ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, đâu đâu cũng là nhà, tiện đâu hay đó, chẳng có gì phải lo lắng cả .
A Tử nói:
- Thế lúc anh cô đơn một thân một mình, ai nói chuyện với anh?
Tiêu Phong đáp:
- Ta trở về với người cùng bộ tộc, sẽ có bằng hữu ở nơi đó.
A Tử hỏi:
- Nếu có nói qua nói lại cũng chỉ toàn chuyện đi săn, cưỡi ngựa, giết bò, xẻ cừu nói mãi cũng nhàm, còn có gì là thú vị đâu?
Tiêu Phong thở dài, biết nàng nói đúng không biết phải trả lời ra sao. A Tử nói:
- Anh không quay về Liêu quốc không được hay sao? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư?
Tiêu Phong nghe nàng nói ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư? bỗng thấy máu nóng dâng trào, hào khí sôi sục, ngẩng đầu, hú lên một tiếng dài nói:
- Ngươi nói phải lắm!
A Tử giật giật cánh tay ông ta nói:
- Tỉ phu ơi, thôi anh đừng đi nữa, tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo anh uống rượu đánh lộn.
Tiêu Phong cười:
- Ngươi là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, ngươi đi rồi họ không có truyền nhân, không có đại sư tỉ thì đâu có được?
A Tử nói:
- Cái chức đại sư tỉ đó của em chẳng qua nhập nhoạng đánh lừa mà có, đến khi lộ ra thì tính mạng ắt khó mà còn, tuy thích thật nhưng cũng chẳng đáng gì. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn vui gấp bội.
Tiêu Phong mỉm cười đáp:
- Nói đến uống rượu, ngươi có biết uống đâu, chỉ e uống chưa đến một bát đã say mèm. Còn đánh lộn thì tài nghệ cũng không ra gì, giúp ta không xong, ta lại phải giúp ngươi thì có.
A Tử mặt mày bần thần không vui, lông mày cau lại, đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong thấy thế sợ hết hồn, vội hỏi:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi sao thế?
A Tử không trả lời, lại càng khóc to thêm nghe thực thảm thiết. Tiêu Phong thấy chuyện gì cô bé cũng lấn lướt thiên hạ, ngay cả khi bị phái Tinh Tú bắt giữ, thái độ vẫn ngang tàng bất khuất, có ngờ đâu lại khóc lóc bi ai đến vậy, không khỏi cuống quít, hỏi gặng:
- Này, này! A Tử, cô sao thế?
A Tử vẫn sụt sùi, nghẹn ngào nói:
- Anh đi đi, khỏi lo cho em làm gì, để em ở đây khóc đến chết luôn, có thế anh mới vừa lòng.
Tiêu Phong mỉm cười:
- Đang khỏe khoắn thế này, có khóc cũng không chết được.
A Tử vẫn khóc:
- Nếu em muốn khóc cho chết thì sẽ khóc cho anh coi.
Tiêu Phong cười nói:
- Thế ngươi ngồi đây khóc cho chán đi nhé, ta không ở đây với ngươi được đâu.
Nói xong ông bỏ đi, chỉ được mấy bước thấy cô ta đã nín bặt, không còn nghe gì nữa. Tiêu Phong lạ lùng, quay đầu lại nhìn, thấy cô bé đã nằm phục dưới tuyết, không cử động gì cả. Ông trong bụng cười thầm: Trẻ con hay nhõng nhẽo, mình mà đến hỏi thăm là mình thua kế nó. Nghĩ thế ông vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông đi được mấy dặm rồi, quay đầu lại nhìn, nơi vùng này địa thế bằng phẳng, không có cây cối núi đồi gì ngăn trở, thấy dường như A Tử vẫn còn nằm yên nơi đó. Tiêu Phong trong bụng băn khoăn: Con bé này tính tình cực kỳ quái dị, xem chừng nó sẽ nằm luôn nơi đây không bao giờ trở dậy nữa. Ông lại nghĩ: Ta đã làm chết chị nó rồi, nếu không theo lời dặn dò của A Châu, chẳng quay lại lo cho nó, bảo hộ nó e rằng sẽ khiến cô nàng tức đến cũng chết theo. Tiêu Phong vừa nghĩ đến A Châu, ngực không khỏi sôi lên, lập tức rảo bước quay lại. Ông chạy đến bên cạnh A Tử, thấy cô ta vẫn nằm y nguyên chỗ cũ, hình dáng vẫn hệt lúc đầu không xê xích một chút nào. Tiêu Phong đến gần hơn nữa, đột nhiên kinh hoàng thấy tuyết trên người nàng đã đóng đến mấy tấc, ở chung quanh cũng không tan, không lẽ chết thật rồi sao? Ông vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, thăm mũi quả nhiên không còn hô hấp. Tiêu Phong đã thấy nàng trá tử đánh lừa cha mẹ, biết phái Tinh Tú có môn qui tức công phu, có thể ngừng thở, nhưng cũng không khỏi hoảng hốt, lập tức giơ tay điểm luôn vào mạng sườn mấy cái, nội lực theo huyệt đạo của nàng truyền vào. A Tử ậm ự một tiếng, chậm rãi mở mắt, bất thần há miệng, một mũi kim xanh biếc phun thẳng vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Tiêu Phong với nàng cách nhau chỉ chừng một thước, không thể nào ngờ cô ta đột nhiên ám toán, mũi độc châm đó bắn thật nhanh, võ công ông tuy cao thật nhưng chỉ trong nháy mắt, lại cận kề nếu muốn tránh né cũng không thể nào kịp được. Ông không kịp suy nghĩ, tay phải vung lên, đánh ra một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu. Chưởng đó kết tụ một đời công lực, chiếc kim nhỏ kia chỉ cách một thước bắn tới muốn dùng kình phong vô hình vô ảnh đánh tạt ra thì chưởng lực phải kinh người biết chừng nào. Chưởng đánh ra thân hình Tiêu Phong đồng thời nghiêng qua bên phải, mũi ngửi thấy thoang thoảng một mùi tanh hôi, chiếc kim độc đã sượt qua bên má, chỉ cách chừng một tấc, quả thật hung hiểm. Cũng khi đó, thân hình A Tử bị chưởng lực đánh trúng, không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay tung ra, rơi xuống bịch cách đến hơn mười trượng. Thân hình nàng rơi xuống tuyết rồi còn trượt đi một quãng dài mới ngừng lại.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro