Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tinh lâm

Một buổi chiều, tôi nhìn thấy một người khách lạ bước vào tịnh xá với một điệu bộ trầm tĩnh và ngồi xuống sàn gạch gần bên giường của đức Maharichi. Người ấy có một màu da đem sậm và một gương mặt rất sáng sủa tế nhị. Y vẫn im lặng không nói gì, nhưng đức Maharichi liền tiếp đón y bằng một nụ cười thân mật.

Cái phong độ cốt cách của người này ghi một ấn tượng sâu xa trong lòng tôi. Y có vẻ giống như một pho tượng Phật tạc trong tảng đá, gương mặt y biểu lộ một sự bằng an, trầm lặng khác thường. Khi bốn mắt chúng tôi gặp nhau, y nhìn thẳng vào mặt tôi một hồi lâu làm cho tôi ngượng và day mặt đi chỗ khác. Suốt buổi chiều hôm đó, y không thốt ra một lời nào cả.

Qua ngày hôm sau, tôi lại gặp y trong một trường hợp bất ngờ. Tôi vừa rời khỏi tịnh xá trở về chòi để nấu nước pha trà, vì người nô bộc của tôi đã đi vắng ngoài chợ. Khi vừa mở khóa cánh cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào thì có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im lặng của nó và một tiếng huýt nhỏ như sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì, nhắc nhở cho tôi biết rằng có một con rắn ở trong chòi. Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hãi và không biết phải là thế nào. Thần kinh tôi bị căng thẳng đến cực độ. Tôi nhìn con rắn không chớp mắt, và nó cũng vừa phùng mang vừa giương hai mắt nhìn lại tôi.

Sau cùng, tôi định tĩnh tinh thần và hối hả rút lui. Tôi định đi tìm một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy dập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm tĩnh và đôi mắt nhìn yên lặng của y làm cho tôi bớt sợ hãi và lấy lại sự bình tĩnh. Y đến gần chòi tranh, với cái nhìn thoáng qua y đã thấu rõ tình hình và thản nhiên bước vào chòi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ý đến tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi, vì mặc dầu y không có khí giới y vẫn đưa hai tay về phía con rắn.

Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài hình mũi chĩa thò ra thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia. Trong khi đó có hai người đang tắm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vã chạy tới. Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay nhẹ vuốt trên lưng nó trong khi con rắn cuối đầu sát đất và nằm im lặng!

Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến và làm cho nó giựt mình. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi, nó nhanh nhẹn bò ra khỏi chòi tranh và trong khoảng khắc đã biến mất dạng trong khu rừng rậm.

- Đó là một con rắn hổ mang!

Một trong hai người mới đến sau bình phẩm. Người này là một thương gia ở thành phố gần bên, thường đến thăm đạo viện để chiêm ngưỡng đức Tôn Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn không một chút sợ hãi. Y bèn giải thích:

- À, đó là đạo sĩ Ramiah, y là một trong những đệ tử cao cấp nhất của đức Maharichi. Y là một người có bản lĩnh khá lắm.

Tôi không thể trò chuyện với người Yogi này vì tôi nhận thấy rằng y giữ giới tịnh khẩu, ngoài ra những giới hạnh khác nữa thuộc về phần kỷ luật đặc biệt của y, và cũng bởi vì y là người thuộc về địa phương nói tiếng thổ ngữ Telugu, chứ không biết tiếng Anh. Tôi cũng nghe nói rằng y là một người rất ẩn dật và kín đáo, thường không chịu giao thiệp với ai, rằng y ở một cái nhà nhỏ xây bằng gạch dưới bóng mát của một tảng đá khổng lồ bên cạnh bờ ao, và y là đệ tử của đức Maharichi đã mười năm nay.

Tuy nhiên, sau đó không lâu, sự cách biệt giữa chúng tôi đã được lấp bằng. Tôi gặp y trên bờ ao khi y cầm một cái bình nhỏ bằng đồng xuống ao để múc nước. Dáng điệu ung dung tự tại của y làm cho tôi thích thú, lúc đó tôi sẵn có đem theo máy ảnh trong túi, tôi mới yêu cầu y, bằng cách ra dấu, để cho tôi chụp một bức ảnh. Y không phản đối, và sau khi chụp ảnh y cũng đi theo tôi về chòi. Tại đây chúng tôi thấy một người đệ tử già của đức Maharichi, nay đã bảy mươi lăm tuổi, làm công chức sở Hỏa Xa về hưu, ngồi đợi ngoài cửa chờ tôi về. Cũng do sự tình cờ, tôi được biết ông lão này biết tiếng Telugu khá giỏi cũng như tiếng Anh và ông sẵn lòng làm thông ngôn cho chúng tôi, tuy rằng chỉ nói bằng bút đàm. Người đạo sĩ không thích nói nhiều và không muốn bị ai phỏng vấn, nhưng tôi tìm cách gợi chuyện để biết thêm vài điều về cuộc đời y.

Đạo sĩ Ramiah đã trên bốn mươi lăm tuổi, có sở hữu đất ruộng tại tỉnh Nellore, và mặc dầu y không chính thức xuất gia, y vẫn để cho gia đình y cai quản đồn điền tài sản để cho y có thời giờ theo đuổi việc học Đạo. Y có một nhóm đệ tử riêng ở tỉnh Nellore, nhưng mỗi năm một lần, y rời khỏi tỉnh này để viếng đức Maharichi, và ở lại đạo viện của Ngài mỗi lần đôi ba tháng.

Trong thuở thiếu thời, y đã từng đi châu du khắp miền Nam Ấn để tìm thầy học Đạo. Y đã học với nhiều vị danh sư và phát triển được vài quyền năng đặc biệt. Phép luyện khí công và tham thiền y đều thực hàng được rất dễ dàng. Dường như y đã vượt bực các danh sư của y vì y đã trải qua những kinh nghiệm thần bí mà các vị danh sư không thể giải thích được một cách thỏa đáng. Sau đó y tìm đến đức Maharichi, Ngài liền giải thích cho y nghe một cách đúng đắn, và giúp đỡ y thêm về phần tu luyện.

Đạo sĩ Ramiah cho tôi biết rằng y định đến ở trong hai tháng tại đạo viện, y có đem theo một người tiểu đồng, và y lấy làm vui lòng mà thấy có một người Âu chú trọng đến nền Minh Triết cổ truyền của Đông phương. Tôi đưa cho y xem một tờ tạp chí Anh ngữ có in hình ảnh, và y bình phẩm một cách lạ lùng về một bức ảnh trong đó:

- Chừng nào các nhà bác học thông thái ở phương Tây không còn tìm cách làm cho các động cơ chạy mau hơn những thứ máy móc mà họ đã có, và bắt đầu nhìn vào nội tâm của họ, thì chừng đó chủng tộc các anh có thể tìm thấy hạnh phúc chân thật và vững bền hơn. Anh có dám chắc rằng người Âu Tây các anh sẽ an phận và sung sướng hơn chăng, mỗi khi họ phát minh ra được một thứ máy móc mới lạ để giúp cho họ di chuyển mau chóng hơn?

Trước khi từ giã, tôi hỏi y về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉm cười và viết câu trả lời:

- Có gì mà phải sợ? Tôi đến gần nó với tấm lòng thành, không nuôi tư tưởng ác, và với một tình bác ái đối với tất cả chúng sinh.

Tôi nghĩ rằng chắc còn có điều gì ẩn dấu đằng sau những lời giải thích giản dị đó, nhưng tôi không hỏi gì thêm mà để cho y trở về nhà.

Trong những tuần lễ sau cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với nhà đạo sĩ Ramiah, tôi đã có dịp biết y nhiều hơn nữa. Chúng tôi thường gặp nhau hoặc ở chỗ đất trống chung quanh chòi, hoặc trên bờ ao, hoặc ở trước nhà y. Mối tình bằng hữu đã nảy sinh ra giữa chúng tôi, nhưng đó là một mối tình câm, không lời, và một hôm nó được biểu lộ bằng cử chỉ, khi người đạo sĩ đặt một bàn tay trên đầu tôi để ban ân huệ và siết chặt hai bàn tay tôi trong hai bàn tay của y. Ngoài ra vài câu bút đàm mà người đệ tử già dịch lại cho tôi nghe chúng tôi không ai nói với nhau một lời nào trong thời gian kết bạn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng giữa tôi và đạo sĩ Ramiah có một sợi dây liên lạc mật thiết, không thể nào cắt đứt đi được. Thỉnh thoảng tôi đi bách bộ chơi với y trong khu rừng rậm, có đôi lần chúng tôi cùng trèo lên sườn đồi giữa những tảng đá lớn dựng lên lởm chởm và đi một cáh rất vất vả mệt nhọc trên đường núi gồ ghề, nhưng dầu cho chúng tôi đi chơi đâu, bao giờ y cũng giữ một thái độ ung dung tự tại mà tôi không khỏi lấy làm cảm phục.

Một lần nữa đó không lâu, tôi lại có dịp nhận thấy y biểu lộ rõ ràng cái quyền năng phi thường của y. Tôi vừa nhận được một bức thư từ bên nhà gởi sang với những tin chẳng lành. Tình hình tài chánh của tôi gặp cơn khủng hoảng bất ngờ, và bởi đó tôi sẽ không thể kéo dài chuyến du hành của tôi ở Ấn Độ nữa. Lẽ tự nhiên là tôi có thể ở lại đạo viện thêm ít lâu, vì các đệ tử của đức Maharichi sẵn có cảm tình với tôi và sẵn lòng dung nạp, nhưng bản tính của tôi vốn không thích như thế. Tôi chỉ còn có cách là trở về xứ sở.

Việc này xảy đến cho tôi như một sự thử thách về sự tu luyện tinh thần mà tôi đã theo đuổi bấy lâu nay, nhưng bản lĩnh của tôi thật ra cũng chưa có gì đáng kể nên tôi không vượt qua nổi cơn thử thách đó. Tôi cảm thấy trong lòng nao núng và chán nản vô cùng. Tôi không thể tạo sự giao cảm tâm linh với đức Maharichi như mọi khi, và đành rời khỏi tịnh xá một cách đột ngột sau khi đến viếng Ngài chỉ có một lát. Suốt ngày hôm đó, tôi trở về chòi nằm ngã trên giường, cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi. Tôi nằm dã dượi và thiếp đi được một lúc, nhưng tôi giựt mình ngồi chồm dậy khi tôi nghe có tiếng gõ cửa. Tôi mời khách vào và ngạc nhiên mà thấy đó không ai khác hơn là đạo sĩ Ramiah.

Tôi ngồi dậy và khi y ngồi xếp bằng dưới nền gạch, tôi cũng ngồi như thế trước mặt y. Có lẽ y đã nhận thấy cơn xáo trộn và khủng hoảng tinh thần vừa qua trên nét mặt tôi, nên y chăm chú nhìn tôi với một câu hỏi trong ánh mắt. Mặc dầu chúng tôi ngôn ngữ bất đồng, nhưng một cảm giác lạ lùng khiến tôi cứ nói chuyện với y bằng tiếng Anh, hy vọng rằng y sẽ hiểu được tư tưởng của tôi nếu y không hiểu được những lời tôi nói. Với vài câu vắn tắt, tôi thuật lại những tin chẳng lành vừa xảy ra bất ngờ từ bên nhà, và phụ họa thêm bằng những cử chỉ và sắc mặt thất vọng và chán nản.

Ramiah ngồi lẳng lặng nghe. Khi tôi đã nói xong, y gật đầu đáp lại một cách trịnh trọng, tỏ dấu cho tôi biết rằng y đã hiểu rõ được câu chuyện. Một chập sau, y đứng dậy và lấy tay ra dấu mời tôi đi theo. Chúng tôi đi xuyên qua khu rừng rậm, nhưng chỉ độ một lát là đến một khoảng đất trống, ánh nắng mặt trời xế trưa rọi thẳng vào người chúng tôi. Tôi tiếp tục đi theo y độ nửa tiếng đồng hồ đến một gốc cây đa lớn, chúng tôi ngừng lại và ngồi nghỉ dưới bóng mát. Sau khi ngồi nghỉ được một lúc, chúng tôi lại đi bộ thêm nửa giờ nữa xuyên qua rừng rậm và sau cùng, chúng tôi đi xuống một cái ao lớn do một con đường tắt mà Ramiah có vẻ rất quen thuộc.

Chúng tôi ngồi trên bờ ao, dưới ao có rất nhiều hoa sen. Người Yogi chọn bóng mát của một thứ cây lùn thấp và ngồi dưới gốc cây, tôi cũng ngồi bên cạnh y. Ngôn cây nhành lá sum sê tỏa ra trên đầu chúng tôi như một cây dù lớn. Cảnh vật nơi đây hoàn toàn vắng lặng không có một bóng người, chỉ có toàn là rừng rậm bao bọc chung quanh.

Ramiah ngồi xếp bằng, hai chân tréo, và ra dấu bảo tôi ngồi xích lại gần, Kế đó, y day mặt về phía ao sen và trong giây phút y đã đắm chìm trong một cơn thiền định. Giờ phút trôi qua một cách chậm chạp, nhưng Ramiah vẫn ngồi điềm nhiên bất động, gương mặt y cũng yên tịnh như mặt nước hồ sen, thân mình y ngay ngắn như pho tượng đồng. Nửa giờ trôi qua, y vẫn ngồi yên như thế, gương mặt y dường như biến đổi bởi sự yên tịnh càng thâm trầm hơn trước, đôi mắt đứng tròng của y nhìn thẳng vào chỗ hư không hay là nhìn vào những ngọn đồi xa xa ở tận chân trời, điều đó tôi không thể biết được.

Sau một chập không lâu, tôi dần dần chịu ảnh hưởng của bầu không khí im lặng chung quanh và sự điềm tĩnh lạ lùng của ông bạn tôi. Một sự bằng an tuyệt vời đã xâm chiếm lấy tâm hồn tôi một cách từ từ, thấm thía, dịu dàng và chắc chắn. Một sự ung dung tự tại và thản nhiên trước nghịch cảnh mà tôi chưa hề bao giờ đạt tới từ trước, nay đến với tôi một cách dễ dàng. Người đạo sĩ đã giúp đỡ tôi bằng một phương pháp bí mật và huyền diệu của y, tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Y đã dùng cái bí thuật nào để ảnh hưởng đến tôi một cách mầu nhiệm như thế, sự bằng an tuyệt vời nó toát ra từ con người y nguồn gốc do đâu mà ra?

Sức nóng mặt trời đã giảm bớt khi đến lúc xế chiều, bãi cát nóng gắt cũng nguội dần. Một vài tia nắng màu vàng sậm từ hướng Tây chiếu thẳng vào gương mặt của người đạo sĩ, làm cho thân mình y dường như tỏa hào quang sáng chói. Một niềm an lạc vô biên tràn ngập cõi lòng tôi, những sự thay đổi của cuộc đời, những nỗi thăm trầm của số kiếp nay không còn là điều quá ư quan trọng đối với tôi nữa khi tôi bắt đầu sống với nội tâm thiêng liêng của tôi. Trong lúc đó, tôi nhận thấy một cách rõ ràng rằng con người có thể thản nhiên và an vui trước nghịch cảnh nếu y tìm thấy cái Chân Ngã của mình, rằng thật là một điều khờ dại mà bám víu lấy những sự vật phù du giả tạm của cuộc đời trần gian, khi mà y sẵn có một sự che chở thiêng liêng ở hầu kề một bên, rằng nếu đức chúa Jesus ngày xưa đã bảo các môn đệ đừng lo nghĩ đến ngày mai, đó là vì Ngài biết rằng có một quyền năng thiêng liêng che chở cho họ. Tôi cũng nhận thấy rằng khi con người tin tưởng và nghe theo tiếng, y sẽ có thể trải qua những cơn phong trần tục lụy, chìm nổi ba đào của cuộc đời thế gian mà lòng không nao núng hay sợ sệt. Và tôi cảm thấy rằng ở một nơi nào đó trong nội tâm nhưng lại rất gần chúng ta, biểu hiện rõ cái giá trị căn bản của cuộc đời, khi mà người ta nhìn thấy nó rồi, thì tất cả những sự lo âu phiền não của cuộc đời sẽ tiêu tan và không còn nữa. Nhờ sự cải tạo tinh thần nó vừa diễn ra trong tâm hồn tôi, mà nay tôi đã trút được gánh nặng của sự thất vọng ưu phiền.

Tôi không còn nhớ tới thời gian trong khi tôi đã trải qua cái kinh nghiệm tốt đẹp nói trên, và tôi cũng không biết làm sao có thể giải thích một cách mỹ mãn sự huyền diệu của nội tâm, nó hoàn toàn vắng lặng và không tùy thuộc ở thời gian và không gian. Bóng hoàng hôn đã ngả xuống khu rừng rậm. Lúc ấy tôi không còn ý thức được cảnh vật chung quanh nữa, nhưng từ chỗ sâu thẳm của tiềm thức, tôi nhớ lại rằng màn đêm sụp xuống rất mau chóng ở vùng nhiệt đới, và lúc đó tôi đang ngồi ở giữa rừng sâu hoang vắng cô liêu. Tuy nhiên, tôi lại không cảm thấy sợ sệt chút nào khi tôi ngồi bên cạnh người đạo sĩ, nhất là khi người ấy lại dắt tôi đến thám hiểm vào chỗ nội tâm huyền bí để được thấm nhuần trong bầu không khí an lạc tuyệt vời...

Sau cùng khi người đạo sĩ sờ nhẹ vào tay tôi để ra hiệu cho tôi đứng dậy thì chung quanh trời đã tối đen. Chúng tôi nắm tay nhau đi trong đêm tối xuyên qua khu rừng hoang để trở về nhà, không có đèn đuốc soi đường chi cả, nhưng người đạo sĩ dường như được dìu dắt bởi một thứ giác quan lạ lùng. Ở vào lúc khác, khu rừng này lẽ đã làm cho tôi phải sợ sệt, vì ban đêm là lúc mà các loài thú dữ rời khỏi sào huyệt của chúng để đi kiếm mồi, và người ta có cảm giác rằng có bao nhiêu những độc trùng ác thú lởn vởn chung quanh. Tôi nhớ lại con chó Jackie ở đạo viện vẫn thường đi chơi với tôi trong vườn hoặc chia sớt bữa ăn với tôi ở chòi tranh, một hôm trở về nhà với cuống họng bị xé toang, máu me đầm đìa vì vết cắn của một con beo gấm, và một con chó khác cũng bị cọp tha mất, không trở về. Biết đâu đêm nay tôi cũng sẽ thoáng nhìn thấy trong bóng tối cặp mắt xanh biếc và sáng ngời của một con beo gấm, hay vô ý đạp nhầm một con rắn hổ mang nằm khoanh tròn dưới đất hoặc dẫm chân lên một con bò cạp lửa mà nọc độc có thể làm chết người? Nhưng ngay tức khắc tôi cảm thấy hổ thẹn vì những ý nghĩ đó bên cạnh người đạo sĩ không hề sợ sệt, và tôi liền nép mình vào cái hào quang che chở của y mà tôi cảm thấy hình như nó bao bọc lấy tôi.

Đêm càng khuya, khu rừng càng vang rền những âm thanh rùng rợn. Tiếng sủa của một con chó rừng văng vẳng ở đàng xa, những loài phi cầm tẩu thú khác cũng rú lên để đáp lại, và khi chúng tôi về đến gần cái ao bên cạnh nhà chúng tôi, thì tiếng ễnh ương, rắn mối, trùng dế, dơi chuột hòa thành một khúc nhạc lạ lùng, bí hiểm. Sáng ngày hôm sau, khi tôi thức giấc, tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái, sẵn sàng chào đón một vũ trụ tràn đầy ánh sáng, nhộn nhịp tưng bừng...

Còn biết bao nhiêu chuyện mà tôi có thể viết về đời sống ở đạo viện và về những cuộc đàm thoại của tôi với đức Maharichi. Tôi càng thấy rằng Ngài là người nối nghiệp của một thời quá khứ xa xăm, khi người ta coi sự khám phá ra một điều chân lý thiêng liêng cũng có giá trị không kém gì sự tìm ra một mỏ vàng. Từ nay tôi biết chắc rằng tôi đã gặp ở nơi thâm sơn cùng cốc này, một trong những bậc siêu nhân cuối cùng còn sót lại của xứ Ấn Độ. Gương mặt trầm lặng của nhà Hiền Giả này làm cho tôi cảm thấy gần gũi hơn với những bậc Thánh Nhân Hiền Triết của xứ Ấn Độ thời xưa. Tuy nhiên, người ta cảm thấy rằng cái phần thâm sâu huyền diệu nhất của Ngài vẫn chưa được biểu lộ rõ ràng trước mắt tôi. Có khi Ngài vẫn sống cách biệt một cách lạ lùng, và những khi khác Ngài lại ban rải ân huệ thiêng liêng của Ngài cho tôi với một hảo ý tuyệt vời, nó nối liền tôi với Ngài bằng những sợi dây nhân duyên bền chặt và trường cửu.

Tôi đã tập quen với cái phong độ bí hiểm của Ngàivà chấp nhận Ngài theo chỗ tôi nhìn thấy. Tuy Ngài sống cách biệt với cõi giới bên ngoài và không chịu tiếp xúc với người thế gian, nhưng người nào có đầy đủ nhân duyên sẽ được dẫn dắt đến sự giao cảm tâm linh với Ngài. Tôi càng yêu quý Ngài hơn nữa khi tôi thấy Ngài rất giản dị và khiêm tốn giữa một bầu không khí cao cả và thiêng liêng thật sự mà người ta cảm thấy rõ rệt ở chung quanh Ngài. Ngài không hề tuyên bố có những quyền năng thần bí hay có một sứ mạng thiêng liêng nào để lòe đời, nhứt là điều đó lại càng rất dễ đối với người Ấn Độ là một dân tộc sẵn có óc tin tưởng thần quyền, và sẵn sàng thần thánh hóa Ngài ngay trong khi Ngài còn sống, nếu Ngài không phải là một người hoàn toàn chân thật và cực lực phản đối những tư tưởng đó.

Sự có mặt trên thế gian của những người như đức Maharichi hình như không phải là do dự ngẫu nhiên tình cờ. Ngài cũng như một vị sứ giả thiêng liêng tiếp tục công trình của những bậc hiền giả đã từng xuất hiện trải qua giòng lịch sử của nhân loại để gìn giữ, duy trì sự sinh hoạt tâm linh trên mặt địa cầu. Người ta phải chấp nhận sự kiện này là những bậc hiền giả đó xuất hiện để tiết lộ cho chúng ta ít nhiều chân lý, chứ không phải để thảo luận đôi co gì với chúng ta. Dầu sao, những giáo lý của Ngài có một tính cách rất hấp dẫn đối với tôi vì nó rất thực tế và đúng tinh thần khoa học.

Ngài không có sử dụng đến sức mạnh thần thông siêu phàm nào và không đòi hỏi một đức tin mù quáng. Danh từ Thượng Đế cũng ít khi xuất hiện trên môi của Ngài. Ngài chỉ đưa ra một phương pháp phân tách bản ngã, nó có thể thực hành bất luận rằng người ta có những tín ngưỡng như thế nào, một phương pháp nó sẽ đưa con người đến sự thực hiện Chân Ngã, hay Chân Như Phật Tánh của mình.

Càng ngày tôi càng nhận thức được rằng có một phần sức mạnh tinh thần của đức Maharichi được chuyển qua cho tôi, mặc dầu chúng tôi không có trao đổi với nhau một lời nào. Tuy nhiên, ngày dự định lên đường sắp tới làm trở ngại những cố gắng của tôi. Tôi cố ở nán lại ít lâu, nhưng sức khỏe của tôi lại bị giảm sút và làm cho tôi phải quyết định từ giã đạo viện càng sớm càng hay. Thật vậy, trong khi tôi nghe theo tiếng nói của nội tâm nó kêu gọi tôi từ Bombay trở về đây, tôi đã có đủ ý chí gạt bỏ sự kháng cự của một thể xác đau yếu và một tinh thần mệt mỏi để lưu ngụ tại vùng nóng bức này. Nhưng sức người có hạn, làm sao có thể thắng đoạt được thiên nhiên, thành thử không bao lâu cơn bịnh cũ của tôi đã bộc phát trở lại và sức khỏe của tôi lại đi xuống dốc đến một mực độ báo nguy và tôi chưa từng cảm thấy bị suy yếu như thế bao giờ. Vài giờ trước khi bước vào giai đoạn quyết liệt trong cơn thiền định bên đức Maharichi, thì tôi bắt đầu run một cách dữ dội khắp cả thân mình và toát mồ hôi như tắm, triệu chứng của cơn sốt sắp đến.

Sau khi viếng thăm một nơi Thánh Điện thâm nghiêm ở ngôi đền lớn, tôi hối hả trở về và bước vào tịnh xá trong khi giờ công phu buổi chiều đã trôi qua hết nửa phần. Tôi lẳng lặng ngồi xuống sàn gạch và tréo chân theo thế ngồi thiền như thường lệ. Trong vài giây đồng hồ, tôi định tĩnh tinh thần và gom tất cả mọi tư tưởng vào một trung tâm điểm nhứt định. Đến lúc tôi nhắm mắt, thì thần thức của tôi đã gom vào nội tâm và tập trung ở đó.

Hình thức của đức Maharichi ngồi nhập định hiện rõ ràng trong trí của tôi. Noi theo chỉ thị thường lập đi lập lại của Ngài, tôi cố gắng vượt qua hình bóng ấy để trụ vào cái phần vô sắc tướng, tức là cái thực thể tự tại, hay linh hồn Ngài. Tôi ngạc nhiên mà thấy rằng những cố gắng của tôi có kết quả rất mau chóng, cái hình bóng của ngài đã biến mất trong trí óc tôi, và tôi không còn cảm thấy gì khác hơn sự hiện diện tâm linh của ngài.

Những sự suy gẫm thuộc về lý trí trong những cơn tham thiền ban sơ của tôi trước kia đã dứt hẳn. Tôi đã từng dọ hỏi, cân nhắc những ý thức của tôi về thể chất, về tình cảm và lý trí nhưng khi đã biết đó không phải là Chân Ngã, tôi đã loại bỏ hết tất cả những điều đó. Kế đó, tôi gom thần thức vào chính trung tâm của nó, để tìm xem nguồn gốc của nó ở đâu. Đây là lúc tôi bước vào giai đoạn quyết liệt. Trong khi tôi giữ gìn cho tâm thần yên tịnh, cái lý trí đã tự rút lui cảnh vật chung quanh bắt đầu lu mờ và đắm chìm trong chỗ vắng lặng hư không. Trong trạng thái đó người hành giả phải luôn luôn giữ gìn sự tập trung tư tưởng, không để cho thần thức bị xao lãng hay lo ra. Cuộc đời thế gian với bao nhiêu sự cám dỗ, thử thách, vẫn rình rập chung quanh y. Giữ gìn cho thân tâm vắng lặng, không bị xao động bởi ngoại cảnh, thật là một điều khó lắm thay.

Đêm nay, tôi đạt tới điểm đó một cách mau chóng, sau khi đã loại trừ một loạt những tư tưởng vẫn vơ nó vẫn thường đột nhập vào trí óc trước khi tâm thần được bình tĩnh yên lặng. Một sức mạnh mới mẽ và dồi dào bắt đầu hành động một cách mãnh liệt trong tâm giới của tôi và thúc đẩy tôi tiến sâu vào nội tâm với một tốc lực không gì cưỡng nổi. Trận giao phong đầu tiên đã kết liễu mau chóng, hầu như khỏi cần chiến đấu, và sự căng thẳng của nó được nối tiếp theo sau bằng một cảm giác sung sướng, dễ dàng thoải mái.

Trong giai đoạn kế tiếp, tôi đứng ngoài vòng hoạt động của lý trí, và nhìn nó một cách khách quan. Một tiếng nói của trực giác báo cho tôi biết rằng cái lý trí đó chỉ là một khí cụ mà thôi. Tôi nhìn xem những tư tưởng của tôi với một sự siêu thoát lạ thường. Cái trí biện luận, suy tư, từ trước đến nay vẫn được coi như một khả năng quý báu mà người ta lấy làm tự hào, nay đã trở nên một vật cần phải loại bỏ, và tôi nhận thấy muốn đứng ngoài vòng lý trí, nhưng vẫn là mình. Tôi muốn tiến vào một chỗ còn thâm sâu hơn là tư tưởng. Tôi muốn biết xem tự giải thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của bộ óc và trí não sẽ gây cho tôi cái cảm giác như thế nào, tôi bèn chờ đợi với một tinh thần tỉnh táo và lanh lẹ.

Thật là một điều lạ lùng mà có thể đứng ngoài vòng và quan sát sự hoạt động của bộ óc dường như nó là của một người khác hơn mình, nhìn xem tư tưởng phát khởi bằng cách nào và chấm dứt ra sao. Nhưng còn lạ lùng hơn nữa khi ta có cái linh cảm rằng mình sắp sửa bước vào một lãnh vực huyền bí nó che dấu cái phần thâm sâu u ẩn nhứt của linh hồn người. Tôi có cảm tưởng như một Kha Luân Bố sắp sửa đổ bộ lên một sự chờ mong với những cảm giác đầy thú vị.

Nhưng làm sao có thể tự giải thoát khỏi áp lực chuyên chế của tư tưởng?

Tôi nhớ lại rằng đức Maharichi không bao giờ bảo tôi nên chận đứng một cách quyết liệt những hoạt động của lý trí. Ngài luôn luôn dặn dò và lập lại rằng: "Hãy đi ngược dòng tư tưởng cho đến tận nguồn gốc của nó, chờ cho Chân Ngã xuất hiện ra, và chừng đó những tư tưởng sẽ dứt". Tôi bèn rời bỏ mọi sự cố gắng và tự buông trôi theo một sự thụ động hoàn toàn tuy vẫn cảnh giác chờ mong cũng như con rắn đang rình mồi.

Tôi vẫn giữ vững trạng thái đó cho đến khi tôi khám phá rằng những sự tiên đoán của nhà Hiền Giả quả thật không sai. Những luồng sóng tư tưởng bắt đầu giảm bớt lần lần, sự hoạt động của lý trí sụt xuống dần cho đến điểm số không. Tôi bắt đầu kinh nghiệm được một cảm giác lạ lùng nhứt từ trước đến giờ. Thời gian dường như muốn ngừng trôi, khi cái khiếu linh năng trực giác của tôi bắt đầu dò đường để tiến sâu vào lãnh vực huyền bí của nội tâm. Những cảm xúc của giác quan hình như đã chết hẳn, tôi không còn nghe, thấy, cảm hay nhớ điều gì nữa. Tôi biết rằng bất cứ lúc nào kể từ khi đó, tôi sẽ đứng ngoài vòng mọi sự vật của trần gian, và ở ngay ngưỡng của của cõi giới diệu huyền.

Sau cùng cái giờ phút đó đã đến. Tư tưởng đã tắt hẳn như một đóm lửa tàn. Lý trí đã rút lui về cái địa hạt của nó, và thần thức không còn bị chướng ngại. Bộ óc đã bước vào một trạng thái hoàn toàn ngơi nghỉ, cũng như trong giấc ngủ mê nhưng tâm thần vẫn tỉnh táo, tuyệt nhiên không chút mê muội. Tôi vẫn điềm tĩnh và biết rõ tôi là ai cùng những gì đang diễn ra ở chung quanh. Tuy nhiên cái ý thức của tôi đã rút lui ra khỏi những giới hạn chật hẹp của bản ngã, và thuộc về một cái gì huyền diệu vô cùng, nó bao gồm hết tất cả hơn nhiều cái bản ngã vô vị kém hèn mà từ trước đến giờ tôi vẫn tưởng là Tôi, một cái gì thâm sâu hơn, thiêng liêng huyền diệu hơn, hỗn hợp với tâm thức của tôi. Tôi cảm thấy được một điều mới lạ, đó là một sự tự do tuyệt đối hoàn toàn, và thoát ra khỏi sự hoạt động độc đoán của tư tưởng chẳng khác nào như thoát ra khỏi chốn ngục tù để thở bầu không khí tự do phóng khoáng bên ngoài.

Tôi đã vượt qua khỏi giới hạn và bước ra ngoài vòng tâm thức của quả Địa Cầu.

Bầu Hành Tinh vẫn dung dưỡng chứa chấp tôi thuở nay, đã biến mất dạng. Tôi đang phiêu diêu giữa một biển ánh sáng rạng ngời. Biển ánh sáng này, tôi cảm thấy hình như là chất Tiên Thiên. Khí làm căn bản cấu tạo nên các bầu thế giới, tức là trạng thái nguyên thủy của vật chất hồng trần. Nó bao trùm khắp nơi trong cõi không gian bao la vô tận, và sống động một cách không thể tả.

Trong khoảnh khắc, tôi đã thấu rõ ý nghĩa tấn tuồng sinh hoạt nhiệm mầu của Vũ trụ nó diễn ra trong không gian. Tôi, cái Tôi mới, được tràn ngập một niềm hạnh phúc và an lạc vô biên. Tôi đã uống cạn chén nước cam thủy của giòng sông Léthe, tức giòng nước quên lãng. Những đắng cay của dĩ vãng, những phiền muộn của tương lai, thảy đều tiêu tan và đắm chìm trong sự lãng quên. Tôi đã đạt tới một sự tự do thiêng liêng và một niềm phúc lạc không thể tả. Tôi mở rộng hai tay đón lấy toàn thể vũ trụ và chúng sinh với một tình thương bao la thâm trầm, vì tôi đã hiểu một cách thâm sâu rằng: Hiểu biết tất cả không phải chỉ là tha thứ tất cả, mà còn thương yêu hết tất cả!

Linh hồn tôi đã say sưa trong cơn đại định, thoát trần!...

Làm sao tôi có thể ghi chép lại được một sự kinh nghiệm siêu linh và huyền diệu như thế, vì nó quá tế nhị để có thể diễn tả bằng ngòi bút của tôi?

Tuy nhiên, những điều chân lý bất hủ mà tôi đã thu thập được cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của trần gian, và sự cố gắng đó sẽ không phải là vô ích. Bởi vậy, tôi đã thử ghi chép lại, dẫu rằng một cách vụng về, một vài điểm ký ức của cõi giới diệu huyền mà người đời chưa từng thám hiểm, nó ở ngoài vòng giới hạn tâm trí của con người.

Con người có thể tự hào rằng y thuộc về một giòng giống thiêng liêng: Một Đấng vô cùng cao cả hơn người mẹ của y vẫn chăm nom săn sóc y từ thuở ấu thơ. Trong những khi khôn ngoan sáng suốt hơn, y sẽ nhận biết điều này.

Có một thuở, trong cái thời kỳ dĩ vãng xa xăm, con người đã từng thề nguyền chung thủy với Đấng Hóa Công, và trong một bầu không khí lộng lẫy huy hoàng, y đã nghe theo tiếng gọi của cuộc đời trần gian tục lụy, thì cũng có những người không hề quên lời thề nguyền thuở xưa, họ sẽ nhắc nhở cho y nhớ lại đúng vào giờ phút thích nghi.

Trong con người, có một yếu tố bất diệt, đó tức là Chân Ngã. Y đã lãng quên mất Chân Ngã của mình, nhưng sự lãng quên đó không bao giờ có thể làm giảm bớt đi sự cao cả thiêng liêng của nó. Y có thể quên mất nó đi và ngủ mê trong sự truy hoan, nhưng một ngày kia nó vươn mình cho trỗi dậy và đánh thức y, y sẽ nhớ lại rằng y là ai và thu hồi lại được linh hồn của mình.

Con người không tìm thấy cái chân giá trị của mình bởi vì y đã mất cái ý thức về Thiêng Liêng. Bởi đó, y chạy quàng xiên theo những lý thuyết của người khác, trong khi y có thể tìm thấy lẽ sống chân thật ở tự nơi mình. Hình biểu tượng Sphinx không nhìn cảnh vật bên ngoài. Cái nhìn khó lường của nó luôn luôn hướng vào bên trong, và ý nghĩa thâm sâu của nụ cười bí hiểm của nó là Tự Biết Mình.

Người nhìn vào bên trong chỉ thấy có sự bất mãn, yếu đuối, vô minh và sợ sệt, chớ vội thất vọng và hoài nghi. Y hãy nhìn sâu hơn và lâu hơn, cho đến khi y nhận thấy những dấu hiệu thoáng qua nó sẽ xuất hiện khi cái tâm hoàn toàn vắng lặng. Y hãy cẩn thận dò xét những dấu hiệu đó, vì nó sẽ sống động và tăng trưởng lên thành những tư tưởng siêu việt vượt ra ngoài vòng giới hạn của lý trí, chẳng khác nào như những vị Thiên Thần tiền phong báo hiệu trước một tiếng nói huyền diệu sắp đến. Đó là tiếng nói của một vật ẩn dấu, huyền bí, thâm trầm nó ngự trong nội tâm của y, tức là tiếng nói của Chân Ngã.

Mỗi người đều sẽ có lúc được hưởng ân huệ thiêng liêng trong đời mình, nhưng nếu y thản nhiên bỏ qua cơ hội, thì ân huệ đó cũng ví như một hột giống gieo trên bãi đá sạn. Không ai bị sa thải ra ngoài cái ân huệ thiêng liêng đó, mà chỉ là con người tự sa thải lấy mình. Con người đi tìm tòi khám phá cái ý nghĩa bí ẩn của cuộc đời, hãy nên biết rằng cái Nguồn sống sinh ra y vốn cao cả và thiêng liêng hơn là y có thể tưởng tượng. Y hãy tin tưởng nơi Thiên Ý và tuân theo những mệnh lệnh thâm trầm nhắn nhủ vào cõi lòng y bằng những linh cảm tế nhị và sâu sắc. Người nào tưởng rằng y có thể sống tự do theo ý mình, chiều theo tiếng nói của dục vọng mà khỏi phải chịu trách nhiệm về những hành động của y về sau này, thật là trói buộc cuộc đời y với điều mộng ảo. Kẻ nào phạm tội với người đồng loại hay với chính họ, ấy là tự họ tuyên án lấy mình. Họ có thể giấu diếm tội lỗi khuất mắt người đời, nhưng họ không thể che dấu các đấng Thần Minh. Nền Công Lý vẫn cai quản thế gian một cách đúng phép mặc dầu người ta không nhìn thấy những hành động của nó, và không phải lúc nào cũng tìm thấy nó ở những Pháp Đình của trần gian. Kẻ nào thoát khỏi luật pháp trần gian sẽ không thoát khỏi lưới công bình thưởng phạt của Thánh Thần.

Những người đã từng chịu đựng đắng cay gian khổ, những người đã trải qua những cơn nghịch cảnh tối tăm, gan bầm ruột héo, lệ sầu tuôn rơi sẽ sẵn sàng hơn để tiếp nhận tiếng nói của Chân Lý. Nếu họ không nghe thấy gì khác hơn, ít nhất họ có thể nhận định rõ tính cách phù du giả tạm của cuộc đời, họa phước vô thường biến đổi. Nếu họ không bị phỉnh lừa bởi những ngày sáng sủa vui tươi, ho sẽ ít khổ hơn trong những giờ đen tối. Đời người gồm cả vui sướng lẫn đau khổ, không ai có thể tự hào rằng mình được trọn vẹn suốt đời. Người nào còn tự đắc, kiêu hãnh đối với kẻ đồng loại sẽ chuốc lấy điều tai họa hiểm nghèo. Trước sự hiện diện vô hình của các đấng Thần Minh, thì đức khiêm tốn là bộ áo duy nhất mà con người nên khoác lấy, vì các Ngài có thể lấy đi trong khoảnh khắc tất cả những gì mà con người đã thu thập trong nhiều năm. Số phận của mọi vật được định đoạt theo từng chu kỳ, và chỉ có những người vô trí thức mới không nhận biết điều đó. Trăng tròn rồi lại khuyết, hết nước lớn lại nước ròng, sự vật trong vũ trụ luân chuyển theo định luật tuần hoàn. Đời người cũng không ngoài cái định luật đó, hết thịnh đến suy, hết già đến trẻ; sức khỏe là một khách vô thường, tình yêu vừa mới đến thì đã ra đi. Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai, hết lúc suy vong đến hồi thịnh trị. Một bài học lớn về định luật đó là dù con người có biết hay không biết, nơi trú ẩn rốt ráo cùng tột của con người là ở tự nơi mình. Thuở xưa con người biết rõ điều ấy và đã tìm nguồn an ủi ở nơi đó. Nếu y quên đi cái nguồn gốc cũ của mình, thì sự thất vọng và đau khổ lại cùng liên kết với nhau để đem y trở về. Không ai có thể tránh khỏi được hai điều ấy tức là hai bậc Thầy của nòi giống nhân loại.

Con người chỉ được che chở và an toàn khi nào y xét thấy rằng có những cánh tay thiêng liêng đùm bọc lấy y. Ngày nào con người chưa được giác ngộ thì những phát minh mới mẻ tân kỳ nhất của y sẽ trở nên những chướng ngại khó khăn nhất, và bất cứ điều gì thúc đẩy y tiến sâu thêm vào cõi giới vật chất sẽ trở nên những sợi dây trói buộc mà về sau y lại phải cởi mở để thoát ly. Vậy y hãy quên đi những điều lo âu phiền muộn về những sự vật trần gian để lo trau dồi Chân Ngã, chừng đó y sẽ được sống trong an vui và hạnh phúc.

Người nào thấy được một lần cái Chân Ngã hay Chân Như Phật Tánh của mình sẽ không còn thù ghét được ai nữa. Không có tội ác nào lớn hơn lòng thù hận, không có đau khổ nào lớn hơn chiến tranh.

Không ai thoát khỏi sự dò xét của các đấng Thần Minh, tuy im lặng và vô hình, nhưng các Ngài vẫn nhìn thấy mọi hành động của người trần gian. Sự thù hận sẽ biến mất trên thế gian khi nào con người tập nhìn thấy kẻ đồng loại không phải bằng cặp mắt phàm, mà bằng một cái biệt nhãn, nó cho thấy những khả năng thiêng liêng của họ, và khi nào y có thể nhìn họ với một lòng kính nể, vì trong lòng họ có ngự một quyền năng thiêng liêng mà người ta gọi là Thượng Đế.

Những nhà học giả có thể bươi móc, lục lạo những chồng sách cổ kim chất hàng đống trong các thư viện, họ cũng không tìm được một Chân Lý nào cao xa và thâm trầm hơn cái Chân Lý tối trọng này là: "Chân Ngã con người vốn bất diệt và thiêng liêng. Những triển vọng thiết tha nhất của con người có thể phai mờ dần với thời gian nhưng cái hy vọng một đời sống trường cửu, một tình yêu toàn vẹn không dời đổi, một niềm hạnh phúc chân thật có ngày sẽ được thực hiện, vì nó được hứa hẹn với chúng ta bởi một cái định mệnh chắc chắn không bao giờ phỉnh lừa và không ai tránh khỏi."

Con người hướng về những bậc Giáo Chủ và Hiền Triết thời xưa để tìm những tư tưởng siêu việt và những triết lý cao thâm, nhưng khi một người nhìn thấy được cái bản tính chân thật của mình, y sẽ được sống trong ánh sáng. Tất cả những gì tốt đẹp cao cả về tư tưởng và tình cảm đều đến với y một cách dễ dàng mà y khỏi phải tìm kiếm. Trong sự bằng an của tâm hồn y, hiện ra những linh ảnh thiêng liêng không kém gì những linh ảnh của các nhà tiên tri Do Thái hay Ả Rập thời xưa. Cũng do ánh sáng thiêng liêng đó mà đức Phật thoát nhiên đại ngộ và truyền lại cho hậu thế cái ý niệm về cõi Niết Bàn. Sự giác ngộ ấy cũng làm thức tỉnh một tình thương bao la rộng lớn đến nỗi nó hoán cải được cả một đời người, và chính vì đó mà nàng Marie Madeleine ngày xưa đã rửa sạch tội lỗi bằng nước mắt của nàng dưới đức Chúa Jesus.

Không có lớp bụi mờ nào có thể bao phủ những điều chân lý cổ kính này, mặc dầu nó đã trải qua nhiều thế hệ từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu. Không có một dân tộc nào mà không nhận được từ buổi sơ khai những điều tiết lộ cao cả và thâm trầm này. Người nào sẵn sàng đón nhận những chân lý thâm sâu đó, không những hiểu nó bằng lý trí mà thôi mà còn phải mở rộng cõi lòng để thông cảm cho đến khi nhờ nó đem nguồn cảm hứng mà họ có được những hành động cao cả siêu việt.

Một sức mạnh mà tôi không cưỡng lại được đã bắt buộc tôi quay trở về cõi đời thực tế. Trải qua những giai đoạn tuần tự và rất chậm rãi, tôi đã dần dần ý thức được cảnh vật chung quanh. Tôi nhận thấy rằng tôi vẫn còn ngồi trong tịnh xá của đức Maharichi, nhưng gian phòng vắng lặng như tờ. Đôi mắt tôi chợt nhìn đồng hồ trên vách và tôi nhận ra rằng giờ này có lẽ mọi người đã qua bên phòng ăn để dùng cơm chiều. Kế đó, tôi cảm thấy hình như có người ngồi ở bên cạnh tôi. Vị đệ tử già bảy mươi lăm tuổi, làm xếp ga hồi hưu, vẫn còn ngồi lại bên cạnh tôi trên sàn gạch và chăm chú nhìn tôi một cách rất có thiện cảm.

Y cho tôi biết:

- Sư huynh đã xuất thần nhập định được gần hai tiếng đồng hồ.

Gương mặt của y có đầy những vết nhăn sâu hoắm

Tôi đã có dịp nhận định rằng các nhà tu sĩ ở Ấn Độ gồm một thành phần vô cùng phức tạp. Trong số đó, phần nhiều là những người tốt và vô hại, mặc dầu họ có vẻ rất nghèo nàn về phương diện quyền năng hay minh triết. Có một số gồm những người thất bại ở ngoài đời hoặc là những người lười biếng không muốn làm việc nhọc xác. Một trong những người này đến gần tôi để xin tiền. Đầu tóc rối nùi, thân thể bôi tro và bộ mặt bất hảo của y làm cho y có một hình dáng bề ngoài ghê tởm. Tôi bèn cưỡng lại sự đường đột của y để thử xem kết quả ra sao. Sự chống cự của tôi càng làm cho y đeo lấy tôi như đĩa đói. Sau cùng y thử dùng một chiến thuật mới bằng cách đòi bán cho tôi xâu chuỗi bồ đề của y. Đó là một vật coi rất dơ bẩn mà có lẽ y rất quý trọng, vì y đòi bán với một giá rất cao. Tự nhiên là tôi từ chối và quay đi chỗ khác.

Một số ít gồm những người khổ hạnh một cách vô lý và phô trương trước công chúng những sự hành thân hoại thể của họ. Có người đưa một cánh tay lên trời cho đến khi móng tay mọc dài ra đến năm tấc và xoắn tròn. Có người lại đứng một chân suốt nhiều năm ở một chỗ. Không biết rằng họ muốn đạt được những cái gì với những sự phô trương kém mỹ thuật đó, ngoài vài đồng xu mà người ta ném vào cái bát ăn xin của họ.

Một số người khác dường như dùng tà thuật một cách công khai. Họ là những thầy phù thủy hạ cấp của Ấn Độ và hoạt động phần nhiều trong các làng mạc ở thôn quê. Với một số tiền thù lao nhỏ, họ có thể làm hại kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một người đàn bà, hoặc giúp bạn thực hiện lòng tham vọng một cách dễ dàng bằng cách vật ngã kẻ địch thủ của bạn với một vài ám tật hoặc chứng bệnh kỳ lạ. Người ta vẫn thường nghe những chuyện ám muội và lạ lùng về những tay phù thủy Bàn Môn này. Họ cũng tự phụ rằng họ là những người Yogi, hay thuật sĩ (Fakir).

Còn lại một thiểu số những nhà tu sĩ có học thức và văn hóa, những người này đã bỏ ra nhiều năm tìm tòi và khổ công tu luyện, từ bỏ cuộc đời thế gian để bước vào con đường đi tìm Chân Lý. Họ có một cái bản năng nó nói cho họ biết rằng đạt tới Chân Lý tức là đạt được hạnh phúc vững bền. Người ta có thể hoài nghi về tánh cách hợp lý của vần đề này, nghĩa là từ bỏ cuộc đời trần thế để chạy theo một cái viễn ảnh mông lung không có gì thiết thực, nhưng còn cái chí nguyện bên trong nó xui khiến họ dốc lòng tầm Đạo thì điều này vốn là thành thật và không ai nghi ngờ hay chất vấn.

Một người Âu trung bình không có thời giờ để dành cho một cuộc tìm tòi như thế. Người ấy viện một lý lẽ rất tốt để chấp nhận cái thái độ lãnh cảm chung của mọi người: Y nghĩ rằng nếu y lầm lạc, thì tất cả vùng lục địa ở Tây Bán Cầu đều lầm lạc chung với nhau cả một xuồng, chứ không riêng gì một mình y. Trong cái thế hệ vật chất hiện tại, người ta coi sự đi tìm Chân Lý như một điều vô ích, nhưng người ta không ngờ rằng trong khi đó họ phung phí rất nhiều năng lực để theo đuổi những điều, mà xét cho cùng cũng chẳng phải là có ích lợi bao nhiêu và rốt cuộc cũng chỉ là những sự vật phù du giả tạm.

Thuở xưa, một người Tây phương đã từng đến viếng xứ Ấn Độ với một sứ mạng không giống như của tôi, nhưng những nhân vật mà y gặp ở xứ ấy đã làm cho y bị đánh lạc hướng, đến nỗi y suýt nữa đã quên hẳn mục đích đầu tiên của cuộc hành trình. Đó là vua A Lịch Sơn Đại Đế, đem binh chinh phục các xứ phương Đông để nới rộng giang sơn bờ cõi. Người đã gần trở thành một triết gia khi rời khỏi xứ này.

Tôi thường phỏng đoán những ý nghĩ của vua A Lịch Sơn khi Ngài ngồi trên chiến xa vượt qua các vùng núi non tuyết phủ và những bãi sa mạc hoang vu trên đường khải hoàn trở về xứ sở. Trong thời gian ở xứ Ấn Độ, vua A Lịch Sơn đã từng bị chinh phục bởi các nhà Hiền giả và Đạo sĩ Yogi mà Ngài gặp ở dọc đường. Ngài đã từng chất vấn và thảo luận sôi nổi với họ nhiều lần suốt nhiều ngày liên tiếp về các vấn đề triết lý. Nếu Ngài có dịp ở lại và sống chung với họ thêm vài năm nữa, có lẽ Ngài đã đưa thế giới Tây phương vào những con đường khác hẳn.

Trong số những nhà tu sĩ ở Ấn Độ ngày nay, vẫn còn có một vài người cố gắng hoạt động để giữ gìn cho lý tưởng đạo đức và ngọn lửa tâm linh của xứ sở họ vẫn luôn luôn bừng cháy. Phần nhiều trong số đó có thể là những kẻ dối trá bịp bợm: đó là cái hậu quả không thể tránh khỏi của một thời đại suy tàn, nhưng ta đừng quên vì thế mà không biết đến một thiểu số còn lại là những bậc chân tu gương mẫu.

Như trên đã nói, giai cấp tu sĩ gồm một thành phần vô cùng phức tạp và hỗn độn đến nỗi người ta không thể dùng một cái nhãn hiệu chung, dầu là khen hay chê, để gán cho cả toàn thể. Tôi đã hiểu thái độ của những người sinh viên quá khích ở các nơi đô thị khi họ nói rằng tận diệt thành phần "Tu sĩ ăn bám" sẽ là một ân huệ tốt lành cho xứ Ấn Độ. Tôi cũng thông cảm không kém đối với những người đứng tuổi và ôn hòa hơn, khi họ nói với tôi rằng ngày nào mà xã hội Ấn không còn sản xuất nên những bậc Hiền Triết và Đạo sĩ chân tu của họ nữa, thì đó là ngày Ấn Độ bắt đầu suy tàn.

Vấn đề này có một tầm quan trọng riêng đối với xứ Ấn Độ, bởi vì nền kinh tế quẩn bách khó khăn của xứ ấy bắt buộc người ta phải duyệt xét lại giá trị của một vài vấn đề. Người tu sĩ thật ra không có thực hiện một vai trò hữu ích cho xứ sở về phương diện kinh tế. Hằng trăm người mệnh danh tu sĩ chỉ là những kẻ dốt nát và thất học, họ đi ta bà khắp nơi qua các làng và các thành phố trong những dịp hội hè, tế tự ở các đền chùa.

Họ là những kẻ ăn mày xấc láo và lắm khi làm quấy rầy, phiền nhiễu. Họ là một gánh nặng cho xã hội vì họ không có ích gì cho đời để bù lại những gì họ thụ hưởng. Tuy nhiên, cũng có những tâm hồn cao quý đã từ bỏ địa vị cao sang hoặc bố thí hết tài sản của họ để dốc lòng tầm Đạo. Họ là những tấm gương lành, gây nguồn cảm hứng cho những người chung quanh, ở bất cứ nơi nào họ đi đến. Những cố gắng của họ để tự giác và giác ngộ kẻ khác, chắc hẳn là xứng đáng với mẫu bánh mì hay chén cơm lạt mà họ nhận được của bá tánh.

Tấm màn đêm vừa buông xuống thành phố khi tôi đi dạo chơi quanh quẩn trên những đường phố nhỏ hẹp ở Calcutta. Tôi vẫn còn nghĩ đến cảnh tượng rùng rợn mà tôi vừa thấy hồi sớm mai. Chuyến xe lửa của chúng tôi chạy qua một khu rừng nguy hiểm đầy những loài beo gấm. Hồi đêm khuya, xe lửa cán nhằm một con beo và khi đến ga Howrah, xác con beo bị nghiền nát và đẫm máu hãy còn dính chặt vào những bánh sắt, và người ta đã phải vất vả khó nhọc lắm mới gỡ ra được.

Chuyến xe lửa này đầy chật hành khách, cũng như hầu hết những chuyến xe lửa chạy đường xa ở Ấn Độ. Trong toa xe mà tôi đã may mắn tìm được một chỗ nằm còn trống, những người bạn đồng hành của tôi gồm một nhóm khá phức tạp. Những người hành khách thảo luận công khai những vấn đề làm ăn kinh doanh của họ, nên chẳng bao lâu mọi người đều biết rõ họ là ai và từ đâu đến. Trong nhóm người này, tôi nhận thấy có một người Hồi giáo mặc áo dài bằng lụa đen, gài nút đến tận cổ và đội một cái mũ tròn cũng màu đen có thêu chỉ vàng rất đẹp.

Có một người thổ dân Mahratti miền Tây với cặp chân mày đậm, một người Marwari bịt khăn vàng thuộc giai cấp lái buôn, làm nghề cầm đồ và cho vay bạc. Sau cùng là một anh chàng tác người vạm vỡ, thuộc dòng Bà La Môn và làm nghề luật sư. Tất cả đều là những người khá giả, có địa vị. Khi xe lửa ngừng ở mỗi nhà ga lớn, đều có những người gia nhân, tôi tớ đến săn đón và hỏi thăm những nhu cầu của chủ họ.

Người Hồi giáo, sau khi đã ban cho tôi một cái nhìn im lặng bèn nhắm mắt lại và ngủ một giấc ngủ của người hiền, người thổ dân Mahratti thì còn đang đàm luận sôi nổi với người lái buôn, người Bà La Môn thì vừa mới lên xe và còn chưa ngồi yên chỗ, về phần tôi, thì tôi đang có hứng muốn nói chuyện, nhưng không tìm được người đối thoại. Hình như có một bức rào vô hình ngăn cách tôi với những người hành khách khác, cũng như có nhiều sự cách trở giữa Đông và Tây phương.

Nhưng tôi liền cảm thấy thoải mái dễ chịu khi tôi thấy người Bà La Môn da mặt hồng hào lấy ra một quyển sách với một cái tựa lớn bằng chữ Anh nằm ngang một cách ngạo nghễ ở ngoài bìa "Đời sống của Ramakrishna." Tôi bèn nắm ngay lấy cơ hội để vào đề câu chuyện. Phải chăng có người đã nói với tôi rằng Ramakrishna là vị cuối cùng của những bậc siêu nhân ở Ấn Độ mà người ta gọi là các đấng Rishi? Tôi bèn mở đề câu chuyện về điểm này với người đồng hành của tôi, và y sẵn lòng tiếp chuyện. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề triết lý cao siêu, hoặc đề cập đến những khía cạnh thông thường của đời sống ở Ấn Độ.

Mỗi khi y nói đến danh từ Rishi (Chơn Sư), thì giọng nói của y xúc động với một lòng kính mến, tôn sùng và một tia sáng hiện rõ trong cặp mắt của y. Lòng sùng tín của y đối với vị Chơn Sư đã quá vãng này không còn phải nghi ngờ gì nữa. Sau hai giờ đàm luận, tôi được biết rằng người Bà La Môn này có một người Thầy, vị này lại là một trong những vị đệ tử còn sót lại của đức Ramakrishna. Vị Tôn Sư của y nay đã gần tám mươi tuổi, và không sống ẩn dật ở một nơi hẻo lánh nào, mà ở ngay trung tâm khu bổn xứ của thành phố Calcutta. Tôi xin địa chỉ của Thầy y thì y liền cho ngay và nói:

- Ông không cần giới thiệu, ông chỉ cần bày tỏ ý muốn gặp Người là đủ.

Chính vì lý do đó mà hôm nay tôi đến Calcutta để đi tìm nhà của danh sư Mahasaya, đệ tử của đức Ramakrishna. Tôi đi qua một cái sân rộng giáp mặt đường lộ, cuối sân có một cái thang đưa lên một ngôi nhà lớn và có vẻ cổ xưa. Một người trẻ tuổi bước vào và yêu cầu tôi hãy đợi một lát. Sau đó mười phút tôi nghe có tiếng chân người bước vào phòng, tôi không cần có ai giới thiệu nữa. Một bậc kỳ lão đáng kính đã xuất hiện trước mặt tôi, giống như những vị tộc trưởng trong Kinh Thánh hồi thời của giáo chủ Moise. Người hơi sói đầu, có một bộ râu dài đã bạc trắng, một cốt cách nghiêm chỉnh, đôi mắt có vẻ trầm tư, đôi vai hơn còng vì gánh nặng của gần tám chục mùa đông; người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.

Ngài ngồi trên giường và day mặt lại phía tôi. Trước sự hiện diện nghiêm trang và đạo mạo của Ngài, tôi nhận định ngay rằng chỗ này không phải là chỗ nói chơi hay nói đùa. Thậm chí, những lời nói có vẻ hoài nghi hay châm biếm một cách trắng trợn mà tôi thường hay thốt ra một đôi khi, thật là không phải chỗ của nó ở đây. Bất cứ ai cũng có thể đọc được trên gương mặt và phong tư cốt cách của Ngài, một tâm hồn cao quý và một đức tín thuần khiết nơi đấng Thiêng Liêng. Ngài nói với tôi bằng một giọng Anh ngữ lưu loát:

- Tôi rất hoan hỉ mà được gặp ông ở đây.

Ngài bảo tôi xích lại gần và cùng ngồi trên giường với Ngài. Ngài cầm lấy bàn tay tôi trong một lúc. Tôi bèn tự giới thiệu và nói mục đích cuộc thăm viếng của tôi. Khi tôi đã nói xong, Ngài lại siết chặt bàn tay tôi một cách thân mật và nói:

- Một sức mạnh thiêng liêng đã dìu dắt anh đến xứ Ấn Độ và giúp cho anh gặp gỡ những bậc Hiền giả của xứ này. Việc ấy có một mục đích bí ẩn và tương lai sẽ tiết lộ cho anh biết. Anh hãy kiên nhẫn chờ đợi rồi anh sẽ biết rõ.

- Xin Ngài nói cho tôi biết vài điều về Sư Phụ Ngài, là đức Ramakrishna.

- À! Đó là một vấn đề tâm sự mà tôi thích nói nhất. Sư Phụ qua đời đã gần nửa thế kỷ nay, nhưng tôi không thể nào quên được Ngài, hình ảnh của Ngài vẫn luôn luôn sống động và bất diệt trong tim tôi. Hồi đó, tôi hãy còn là một thanh niên mới hai mươi bảy tuổi khi tôi gặp Ngài, và sau tôi vẫn luôn luôn sống bên cạnh Ngài trong những năm cuối cùng trước khi Ngài viên tịch. Kết quả là tôi đã trở nên một người hoàn toàn thay đổi, thái độ của tôi đối với cuộc đời đã đổi hẳn kể từ khi đó. Đó là do ảnh hưởng lạ lùng của đức Ramakrishna. Ngài gieo một sự xúc cảm tâm linh mãnh liệt cho tất cả những ai đến viếng Ngài. Ngài làm cho họ say mê, ngây ngất. Thậm chí những kẻ nặng mùi vật chất định đến để đùa cợt chế nhạo, đều câm miệng vì ngạc nhiên trước mặt Ngài.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Nhưng làm sao những người đó có thể cảm thấy kính phục trước vấn đề tâm linh, một vấn đề mà họ không hề tin tưởng?

Đức Mahasaya mỉm cười đáp:

- Ta hãy đưa hạt tiêu cho hai người nếm thử. Một người biết rõ và đã quen mùi, còn người kia chưa biết hạt tiêu là gì. Tuy vậy, phải chăng cả hai người cùng nếm một hương vị giống như nhau? Phải chăng cả hai người cùng cảm giác được vị cay của hạt tiêu trên đầu lưỡi? Cũng y như thế, người vật chất phàm tục tuy không biết gì về sự cao cả tâm linh của đức Ramakrishna, nhưng không phải vì thế mà họ không nếm được cái ảnh hưởng tâm linh thấm nhuần nó toát ra từ toàn thân Ngài.

- Như vậy, phải chăng Ngài quả là một bậc Siêu Nhân?

- Đúng thế, và theo tôi tưởng thì Ngài còn cao hơn bực đó nữa. Ramakrishna là một người giản dị, dốt chữ và thất học. Ngài dốt chữ đến nỗi không viết được chữ ký tên, đừng nói chi viết một lá thư. Ngài rất khiêm tốn về hình dáng bề ngoài, và còn khiêm tốn hơn nữa về cách sinh hoạt. Tuy thế, Ngài thâu phục được tấm lòng tôn kính sùng mộ của những bậc thượng lưu trí thức đương thời của xứ Ấn Độ. Những người này phải cúi đầu trước cái mãnh lực tâm linh cao cả của Ngài nó tỏa ra một cách thật sự đến nỗi người ta có thể cảm giác được. Ngài dạy chúng ta biết rằng những tiền tài danh vọng, giàu sang, địa vị, quyền tước ở đời này chỉ là những thứ phù vân không đáng kể so với đạo đức tâm linh, và chỉ là những trò hư ảo nó gạt gẫm giác quan con người.

Những ngày tuyệt diệu thuở xưa kia, nay còn đâu. Hồi đó, Ngài thường hay đắm chìm trong những cơn đại định có một tính cách thiêng liêng đến nỗi chúng tôi ngồi chung quanh Ngài trong khi đó cảm thấy Ngài dường như là một vị Thần Thánh chớ không phải là Người. Một điều lạ, là Ngài có cái quyền năng đưa những đệ tử vào cái trạng thái xuất thần nhập định đó với một cái sờ nhẹ bằng bàn tay. Trong trạng thái đó, họ có thể hiểu những điều huyền diệu thâm sâu về đấng Thiêng Liêng bằng sự linh cảm trực tiếp. Để tôi nói cho anh nghe Ngài đã ảnh hưởng đến tôi như thế nào.

Tôi đã hấp thụ một sự học vấn theo giáo dục Âu Tây và lấy làm tự hào về cái kiến thức của mình. Tôi đã từng làm giáo sư Đại Học ở Calcutta, dạy các môn văn khoa, Anh ngữ, lịch sử và môn kinh tế chính trị. Hồi đó đức Ramakrishna ở tại đền Dakshineswar, cách thành phố Calcutta chừng vài dặm. Tại đó, một ngày mùa xuân mà tôi vẫn nhớ mãi, tôi đã gặp Ngài bày tỏ với những lời lẽ giản dị những ý tưởng về tâm linh do kinh nghiệm trực tiếp của Ngài. Tôi định thử bàn luận vài điều, nhưng tôi không nói được gì cả trước sự có mặt thiêng liêng của Ngài, mà ảnh hưởng đối với tôi quá thâm trầm sâu sắc để có thể thốt ra bằng lời. Từ đó trở đi, tôi lại đến viếng Ngài nhiều lần, và không thể nào ở cách xa Ngài được nữa, cho đến một ngày kia, đức Ramakrishna nói đùa một cách hài hước:

- Có người đem cho con công ăn một liều thuốc phiện. Qua ngày hôm sau, con công lại đến vào đúng giờ như hôm qua. Nó đã say mê mùi thuốc phiện và đến tìm một liều khác.

Quả thật đúng như vậy. Tôi không bao giờ từng được hưởng những giờ phút an lạc tuyệt vời như khi tôi sống gần đức Ramakrishna. Vì thế, không ai lạ gì mà thấy tôi trở lại với Ngài luôn luôn. Bởi đó, tôi đã trở nên một trong những đệ tử thân tín của Ngài, khác hẳn với những khách viếng thăm qua đường. Một ngày kia, Sư phụ bảo tôi:

- Thầy nhận trong tướng mặt, cặp mắt và chân mày của con có những dấu hiệu chỉ rằng con là một người Yogi. Con hãy làm việc hết lòng, nhưng vẫn để tâm trí của con nơi đấng Thiêng Liêng. Gia đình, cha mẹ, vợ con, con hãy sống với họ và nuôi dưỡng họ như những người thế gian. Con rùa bơi lội trên mặt hồ, nhưng tâm trí nó vẫn đặt ở một nơi trên hồ mà nó để trứng. Con hãy làm công việc thế gian, nhưng hãy đặt tâm trí nơi Thượng Đế.

Sau khi Sư Phụ chúng tôi từ trần, phần nhiều các đệ tử tình nguyện xuất gia, khoác bộ áo vàng và đem truyền bá giáo lý của đức Thầy ở khắp nơi trong xứ Ấn Độ. Riêng tôi, tôi không bỏ nghề nghiệp cũ và vẫn tiếp tục dạy học. Tuy nhiên, tôi đã quyết định dứt bỏ cuộc đời trần thế tự trong tâm, mặc dầu bề ngoài tôi vẫn sống như mọi người.

Có nhiều đêm, tôi đi lang thang như kẻ không nhà, và ngủ trên các vỉa hè của thành phố, chung lộn với những lẻ ăn mày hành khất. Điều này đem đến cho tôi cái cảm giác, ít nhất là tạm thời, của một người cùng đinh không tài sản không gia đình.

Ramakrishna không còn nữa, nhưng nếu anh đi châu du khắp xứ Ấn Độ, anh sẽ thấy những công trình cứu tế xã hội, từ thiện, y tế và giáo dục được thực hiện khắp nơi trong xứ dưới sự hướng dẫn của những vị đệ tử của Ngài thuở xưa, mà phần đông nay cũng đã qua đời. Điều mà anh không thấy một cách hiển hiện rõ ràng là những người đã hoàn toàn thay đổi tâm tính và xoay hướng cuộc đời của họ, nhờ ảnh hưởng của đức Tôn Sư. Giáo lý của Ngài đã được truyền khẩu qua các vị đệ tử, những vị này về sau lại truyền bá rộng rãi trong dân chúng.

Tôi đã được hân hạnh ghi chép những lời dạy của Ngài bằng tiếng Bengali, những sách vở in ra những giáo lý đó rất phổ thông khắp cả mọi gia đình trong tỉnh Bengale và những bản dịch cũng được phát hành đi khắp các vùng ở Ấn Độ. Như thế, anh thấy ảnh hưởng của Ramakrishna đã bành trướng rộng rãi như thế nào ngoài vòng của nhóm đệ tử thân tín.

Đức Mahasaya ngừng nói và đắm chìm trong im lặng. Tôi nhìn kỹ gương mặt của Ngài và lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng Ngài có những nét mặt và màu da không giống như của người Ấn Độ. Diện mạo và cốt cách của Ngài thật là cao quý đạo mạo tuyệt vời. Lòng hảo tâm, thiện chí, đạo đức, từ bi và thành thật của Ngài biểu lộ rõ ràng. Ngài có cái đức tự trọng của một người đã từng sống một cuộc đời hoàn toàn tuân theo tiếng gọi của lương tri.

Tôi hỏi:

- Không biết đức Ramakrishna sẽ nói như thế nào với một người không thể chỉ sống bằng đức tin mà thôi, mà còn phải thỏa mãn lý trí nữa?

- Ngài sẽ bảo người ấy hãy cầu nguyện. Cầu nguyện là một sức mạnh rất nhiệm mầu. Chính Ramakrishna đã cầu nguyện Thượng Đế hãy gởi đến cho Ngài những người có đạo tâm, và sau đó ít lâu, liền xuất hiện những người dốc lòng tìm đạo, về sau trở nên những vị đệ tử của Ngài.

- Nhưng nếu người ấy chưa từng cầu nguyện bao giờ, thì làm sao?

- Cầu nguyện là cái phương tiện, nó là cái phương sách tối hậu của con người. Khi nào lý trí của y thất bại, thì cầu nguyện sẽ giúp y đạt tới mục đích.

- Nhưng nếu có người nói rằng sự cầu nguyện không thích hợp với bản tính của họ, thì ông sẽ nói sao?

- Nếu vậy, người ấy hãy nên thường giao du, kết hợp với những bậc chân tu đại đức đã từng có nhiều kinh nghiệm về đường tâm linh. Sự tiếp xúc gần gũi với những bậc ấy sẽ giúp cho y khai mở đạo tâm hãy còn tiềm tàng của y. Những vị đã tiến hóa cao có thể giúp chúng ta hướng tâm tư ý chí của mình theo về những mục đích cao cả. Trên hết mọi sự, các vị ấy kích thích cho chúng ta có một lòng mong ước mãnh liệt muốn sống một cuộc đời tâm linh.

Bởi vậy, sự tiếp xúc giao thiệp với những bậc đó là một bước đầu tiên rất quan trọng, và nó cũng thường là bước cuối cùng, như Ramakrishna vẫn thường nói. Như thế, chúng tôi thường đàm luận về những vấn đề đạo đức tâm linh trong những ngày tôi còn lưu trú ở Calcutta. Suốt những buổi chiều, luôn luôn có khách đến viếng cho đến khi gian phòng chứa đầy những người Ấn Độ, đệ tử của đức Mahasaya. Họ đến đều đều mỗi đêm và bước lên thang lầu của ngôi nhà để nghe một cách chú ý mỗi lời nói do thầy của họ thốt ra. Tôi cũng nhập bọn với họ trong thời gian. Tôi đến đều đều mỗi đêm thật ra không phải để nghe đức Mahasaya thuyết pháp, mà là để tẩm mình trong bầu không khí tâm linh sáng lạn do sự hiện diện của Ngài tạo nên. Bầu không khí chung quanh Ngài thật là tốt lành, êm đẹp, dịu dàng và đầy thiện cảm, Ngài đã tìm thấy sự an lạc bên trong và cái an lạc đó tỏa ra chung quanh một cách thật sự, dường như người ta có thể cảm biết được.

Tôi thường không nhớ hết những lời nói của Ngài thốt ra, nhưng tôi không thể nào quên cái phong độ hiền từ, nho nhã của Ngài. Trước kia đức Ramakrishna đã từng hấp dẫn Ngài như thế nào, thì ngày nay Ngài cũng hấp dẫn tôi giống y như thế, và tôi bắt đầu hiểu rằng nếu Ngài là đệ tử mà có một sức thu hút mãnh liệt như thế đối với tôi, thì vị Tôn Sư Ramakrishna còn có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng đến đâu.

Đêm ấy là đêm cuối cùng mà tôi có mặt tại nhà đức Mahasaya. Tôi quên cả thời gian khi tôi ngồi bên cạnh Ngài trên chiếc giường gỗ. Giờ khắc trôi qua một cách mau chóng, sau khi chúng tôi đã dứt câu chuyện, Ngài cầm tay tôi và dắt tôi ra đứng trên nóc bằng để hóng mát. Dưới ánh trăng rằm trong sáng, tôi nhìn thấy những cây kiểng và những khóm hoa đựng trong chậu sắp thành hàng coi rất đẹp. Dưới chân chúng tôi, chiếu muôn ngàn ánh đèn rực rỡ của thành phố Calcutta. Đức Mahasaya đứng yên lặng cầu nguyện trong một lúc, khi đã xong, Ngài mới day lại, đưa tay lên ban ân huệ và đặt nhẹ bàn tay lên trán tôi.

Tôi cúi đầu một cách khiêm tốn trước mặt Ngài, tuy rằng tôi không có lòng tín ngưỡng tôn giáo. Sau một lúc im lặng, Ngài nói với một giọng nhẹ nhàng:

- Sứ mạng của tôi đã gần chấm dứt. Cái thể xác này đã gần làm tròn công việc của nó trong kiếp hiện tại. Anh hãy nhận lấy ân huệ của tôi trước khi tôi đi.

Ngài đã làm tôi xúc động một cách lạ lùng. Bận về, tôi đi bách bộ thơ thẩn qua nhiều đường phố và quên cả giấc ngủ. Tôi nghĩ rằng nếu ở thế gian này có một người nào có thể làm cho tôi thoát khỏi sự hoài nghi và sống với một đức tin đơn giản, thì người đó không ai khác hơn là vị danh sư Mahasaya.

Bác sĩ Bandyo, giám đốc một bệnh viện tại Calcutta, là một trong những chuyên viên giải phẫu có tài nhất ở thành phố này. Ông đã thực hiện được tất cả sáu ngàn cuộc giải phẫu, và tôi đã có dịp thảo luận với ông về một vài điều hiểu biết về khoa Hatha Yoga mà tôi đã thâu nhập được. Tầm kiến thức rộng rãi của ông về ngành Y học và khoa Cơ Thể Học đã giúp ích cho tôi hiểu thêm về vấn đề Yoga trên một bình diện khoa học.

Bác sĩ nói:

- Tôi hầu như không biết gì về khoa Yoga. Đó là một vấn đề mới lạ đối với tôi. Tôi cũng chưa từng gặp một người Yogi nào, ngoài ra Narasingha Swami, người này đến Calcutta cách đây không lâu.

Tôi hỏi thăm về người Yogi này, nhưng câu trả lời làm tôi thất vọng:

- Narasingha Swami đã đến Calcutta, gây một luồng dư luận sôi nổi, rồi sau đó đi đâu không ai biết. Hình như y đã sống ẩn dật trong vùng nội địa trước khi đến thành phố này, như vậy có lẽ y đã trở về nơi am thất của y.

- Xin bác sĩ cho biết việc gì đã xảy ra?

- Y đã làm cho cả thành phố bàn tán về y trong một thời gian ngắn. Người đã khám phá ra y là bác sĩ Neoghy, giáo sư Hóa học tại trường Đại Học Calcutta, cách độ một hai tháng về trước tại Madhupore. Bác sĩ Neoghy thấy y liếm vài giọt của một chất cường toan rất độc, và để than hồng vào miệng ngậm cho đến khi hòn than tắt hẳn.

Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên và mời người Yogi đến Calcutta. Trường Đại Học của thành phố này liền tổ chức một buổi trình diễn công cộng để cho Narasingha biểu diễn quyền năng của y trước một cử tọa gồm toàn là các nhà bác học và y sĩ. Tôi cũng có trong số những người được mời đến chứng kiến. Cuộc biểu diễn được tổ chức tại giảng đường Vật Lý Học. Chúng tôi là một thành phần gồm các nhà khoa học, có một khối óc phê bình chặt chẽ, và như ông đã biết, tôi ít có chú ý đến các vấn đề tôn giáo, Yoga, và những vấn đề tương tự, vì tôi đã để hết thời giờ và tâm trí vào ngành Y khoa.

Người Yogi đứng ngay chính giữa giảng đường, và người ta đưa cho y những thứ thuốc độc lấy trong phòng thí nghiệm hóa học của trường. Trước hết, chúng tôi đưa cho y một lọ lưu huỳnh toan (acide sulfurique). Y rót vài giọt trên lòng bàn tay của y và đưa lưỡi liếm. Kế đó người ta đưa cho y một lọ cường toan Phenol, và y cũng làm như trên. Chúng tôi liền thử với một loại thuốc độc dữ nhất, là chất Cyanure de Potassium, nhưng y nuốt luôn cả thứ này mà vẫn dửng dưng như không.

Sự kiện này thật là lạ lùng và thật không thể nào tin được, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải chấp nhận bằng chứng hiển nhiên đang diễn ra trước mắt chúng tôi. Y đã nuốt một liều Cyanure de Potassium đủ mạnh để giết chết một người trong vòng ba phút đồng hồ; tuy thế, y vẫn đứng trơ trơ nhăn răng cười và không suy chuyển tí nào cả.

Sau đó, một chai thủy tinh dầy được đập vỡ ra từng mảnh và tán ra thành bột. Narasingha Swami nuốt luôn cả thứ bột miểng chai này, là một thứ giết người một cách chậm chạp. Ba giờ sau khi y đã nuốt trôi bữa ăn khác thường này, một vị bác sĩ trong bọn liền đặt ống bơm vào bao tử của người Yogi và bơm ra những gì còn lại. Những loại thuốc độc kể trên vẫn còn y nguyên trong bao tử. Qua ngày hôm sau, người ta nhận thấy chất bột miểng chai trộn lẫn với phân của y đi đại tiện ra ngoài.

Cuộc thí nghiệm của chúng tôi đã quá rõ ràng. Người ta thử lại cái cường độ của chất lưu huỳnh toan, thì thấy nó làm tan rã một vật bằng đồng. Trong số những người có mặt trong cuộc trình diễn, có sir C.V Raman, nhà bác học trứ danh chiếm giải thưởng Nobel, ông này tuyên bố rằng cuộc trình diễn của người Yogi là một sự thách thức lớn lao đối với khoa học hiện tại.

Khi chúng tôi hỏi Narasingha Swami làm sao y có thể bắt thể xác của y chịu đựng được những sự thí nghiệm đó, thì y nói rằng ngay sau khi trở về nhà, y liền ngồi xuất thần nhập định theo phương pháp Yoga, và bằng cách tập trung tư tưởng, y sẽ phá tan ảnh hưởng khốc hại của các thứ thuốc độc.

Tôi được biết rằng Narasingha Swami đã trở lại Calcutta sau đó ít lâu và đi qua Ngưỡng Quang (Rangoon), thủ đô Miến Điện. Tại đây, y cũng trổ tài trong một cuộc trình diễn tương tự, nhưng khi về đến nhà, vì có khách đến thình lình nên y quên ngồi nhập định và xuất thần theo như thường lệ. Kết quả là y đã bị thuốc độc vật ngã một cách mau chóng và chết sau đó.

Tôi bèn hỏi bác sĩ Bandyo:

- Bác sĩ có thể giải thích sự kiện này bằng lý luận Y học được chăng?

Vị bác sĩ lắc đầu:

- Không, tôi không thể giải thích nổi. Việc này hoàn toàn làm tôi ngạc nhiên và không hiểu ra sao cả.

Khi tôi trở về nhà, tôi lục trong mớ tài liệu cất kỹ trong rương để tìm quyển sổ mà tôi đã ghi chép những cuộc nói chuyện của tôi với Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar độ nọ. Tôi lật qua vài trang và thấy những dòng tài liệu này:

"Những thuốc độc dầu mạnh đến bực nào cũng không thể làm hại được đạo sĩ đã thực hành giai đoạn Đại Công Phu. Giai đoạn này gồm có sự phối hợp một vài loại tư thế, phép khí công, luyện ý chí và tập trung tư tưởng. Theo truyền thuyết của môn phái chúng tôi, nó làm cho người Đạo sĩ có cái quyền năng nuốt vào bụng bất cứ vật gì, dầu là thuốc độc mà không tổn hại đến sức khỏe. Đó là một phép công phu rất khó và phải được luyện tập một cách đều đặn và thường xuyên, nếu muốn cho có kết quả tốt đẹp. Tôi có nghe nói về một người Yogi sống ở thành Bénarès có thể uống rất nhiều thuốc độc mà không sao cả. Vị Yogi này tên là Trailingya Swami, y rất có tiếng tăm ở thành phố này hồi thời kỳ đó, nhưng y đã qua đời từ nhiều năm nay. Trailingya là một đạo sĩ có bản lĩnh rất cao cường về môn Hatha Yoga. Y thường ngồi trên bờ sông Hằng suốt nhiều năm, gần như không mặc áo quần gì cả, nhưng không ai có thể nói chuyện được với y, vì y đã phát nguyện giữ tịnh khẩu."

Tôi tưởng rằng sự kiện này thật là không thể tin và không thể có được, thì những lời Brama đã giải thích cho tôi rõ lần đầu tiên về vấn đề này. Đôi khi tôi đã lấy làm thắc mắc về những việc làm không thể tin và không thể hiểu được của những người đạo sĩ Yogi. Nhưng biết đâu, có lẽ họ nắm giữ được những bí quyết mà đời sống của người phương Tây đang cố gắng để khám phá bằng một ngàn cuộc thí nghiệm khoa học?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: