Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

TÌNH HUỐNG 2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

========

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

Đề tài: Vấn đề nghèo đói ở việt nam hiện nay

Thực trạng-giải pháp

HÀ NỘI 4-2010

LỜI GIỚI THIỆU

Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8 trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998,18,1% (năm 2006) xuống còn 14,75% (năm 2007) và 12,1% (năm 2008) và dưới 11% vào cuối năm 2009% dự báo khoang 10% năm 2010.Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn.ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa với ngưỡng nghèo của thế giới.Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam. Nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào cảnh khốn cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xã hội, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn.

I. Tổng quan của đói nghèo

1.Định nghĩa về đói nghèo

• Đói nghèo từ tiếng nói của chính người nghèo.

Tiếng nói của người nghèo cho ta những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất về các khía cạnh của nghèo đói (nghèo đói không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất mà còn là sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế. Một người nghèo ở Kênia đã nói về sự nghèo đói: "Hãy quan sát ngôi nhà và đếm xem có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và quần áo tôi đang mặc trên người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông thấy. Cái mà ông thấy chính là nghèo đói". Một nhóm thảo luận Braxin đã định nghĩa về đói nghèo là: "Tiền lương thấp và thiếu việc làm, và cũng có nghĩa là không được hưởng thụ về y tế, không có thức ăn và quần áo". Ngoài ra, khái niệm đói nghèo còn được mở rộng để tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, không có tiếng nó và quyền lực. Từ tiếng nói của người nghèo, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về đói nghèo. Tuỳ thuộc vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc gia mà ta có các quan điểm khác nhau về nghèo đói.

• Quan niệm trước đây

Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập thấp không phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó không cho chúng ta biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do đó, quan niệm này còn rất nhiều hạn chế.

• Quan điểm hiện nay

Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp cận khác nhau:

- Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.

+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương.

+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng.

+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế.

+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng.

- Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề "khắc phục sự nghèo khổ của con người" đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.

+ Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi dưỡng tạm đủ.

+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu.

+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.

+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hoặc nước khác.

2.Các chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo ở Việt Nam.

Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh xã hội mới đưa ra chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006-2010. Theo tiêu chuẩn này thì có hai phương án để lựa chọn:

Khu vực áp dụng Chuẩn nghèo

Từ (đồng/người/tháng) Đến (triệu đồng/người/năm)

Thành thị 260.000 3,12

Nông thôn 200.000 2,4

Theo chuẩn nghèo mới, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn quốc; tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là vùng Tây bắc (42%) và Tây Nguyên (38%), thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%)...

Qua đó ta thấy các chuẩn mực đánh giá nghèo đói ở Việt Nam do Bộ Lao động thương binh - xã hội và Tổng cục Thống kê đưa ra là cực kỳ thấp so với chuẩn mực nghèo khổ chung trên thế giới do ngân hàng thế giới đưa ra là dưới 370USDngười/năm. Điều này càng chứng tỏ nước ta là một nước cực nghèo, vấn đề đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất cho người nghèo là vấn đề nan giải. Đồng thời cũng cho thấy tính tương đối khi xác định chuẩn nghèo đói ở mỗi nơi là khác nhau. Vì vậy để đánh giá được chính xác nghèo đói thì phải biết được mức độ nghèo đói đến đâu? nghèo hay rất nghèo. Thực tế nước ta vẫn tồn tại một bộ phận dân cư ở tình trạng thiếu ăn, đói về lương thực như các tỉnh Hà Giang những tháng vừa qua có tình trạng đói giáp hạt đã được chính phủ đặc biệt quan tâm. Do đó khi đánh giá nghèo ở Việt Nam nên phân thành hai cấp độ nghèo và đói vì nó phản ánh đúng hiện thực khách quan.

III: Thực trạng&Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam

1. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam(2001-2009)

Nghèo đói đang là một trong những vấn đề bức xúc ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, đòi hỏi nhà nước và xã hội cần đặc biệt quan tâm. Sau 25 năm đổi mới xây dựng kinh tế theo hướng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Việt Nam đã và đang thu được những kết quả đáng khích lệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bộ mặt nông thôn có những thay đổi lớn. Một bộ phận nghèo đói không biết cách làm ăn nhờ sự giúp đỡ của cồng đồng nay đã thoát khỏi cảnh nghèo. Phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục... từng bước được cải thiện và phát triển đảm bảo nhu cầu ngày càng tốt hơn của xã hội, đặc biệt là nhóm người nghèo đã có sự thay đổi rất lớn.Dù đánh giá tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam bằng phương pháp nào thì Việt Nam vẫn có tốc độ giảm nghèo rất nhanh, đã từng được cộng đồng quốc đánh giá có một trong những nước có, tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xét trên tổng thể, Việt Nam vẫn là một nước nghèo, phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa các thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng gia tăng và gay gắt. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ: "Đến nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều, việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn".

Những thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam Từ năm 1998 đến nay, chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và chương trình 135 ra đời và đi vào hoạt động đã tạo sự chuyển biến sâu sắc trong toàn xã hội, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động và đa dạng hoá các nguồn lực cho giảm nghèo, bộ mặt các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được cải thiện rõ nét, đời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc đã được nâng lên một bước. Thành quả xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 đã ghi nhận: "Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế" tạo được sự đồng thuận xã hội cao, góp phần ổn định chính trị, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng trưởng kinh tế của đất nước, thực hiện cam kết thiên niên kỷ, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh, từ 17,2% năm 2001 xuống còn 6,3% năm 2005 xuống còn 14,75% (năm 2007) và 12,1% (năm 2008) và dưới 11% vào cuối năm 2009%, bình quân mỗi năm giảm được trên 30 vạn hộ, đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX đề ra. Cơ sở hạ tầng thiết yếu của các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn từng bước được xây dựng, năm 2000 có khoảng 4.000 công trình được đưa vào sử dụng, đến năm 2006 đã có trên 30.000 công trình được xây dựng và đưa vào sử dụng đã làm cho bộ mặt của xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được cải thiện đáng kể nhất là trường học, trạm y tế, thuỷ lợi nhỏ, đường giao thông, nước sạch và vệ sinh môi trường... Chất lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo đã được nâng lên một bước, thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng 1,45 lần vào năm 2005. Với phương châm huy động đa nguồn, qua các kênh, các hình thức huy động phong phú, từ năm 2001 đến 2005 tổng nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đạt khoảng 41 nghìn tỷ đồng. Để tiếp tục phát huy những thành quả giảm nghèo đạt được, đồng thời cũng là sự thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống đói nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006- 2010; phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010 và chương trình 135 giai đoạn II; hình thành Ban Chỉ đạo thống nhất của Chính phủ để tổ chức thực hiện 02 Chương trình từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, đồng thời ban hành nhiều chính sách mới như: tín dụng đối với học sinh, sinh viên nghèo; cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất- kinh doanh tại vùng khó khăn... Sau 2 năm thực hiện, đã có 2,866 triệu hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi; 1,330 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn; 20 ngàn lao động nghèo được hỗ trợ dạy nghề miễn phí; 62 ngàn lượt cán bộ giảm nghèo các cấp được tập huấn nâng cao năng lực; 29 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT; 2,4 triệu học sinh nghèo được miễn giảm học phí; 230 ngàn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở; nhiều mô hình giảm nghèo ở các vùng đặc thù, mô hình giảm nghèo gắn với an sinh- quốc phòng và mô hình liên kết với các doanh nghiệp được xây dựng có hiệu quả và nhân rộng. Với sự nỗ lực chung của cả nước, của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, địa phương, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh vượt mức kế hoạch đề ra, đến cuối năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 14,87% giảm 6,23% so với cuối năm 2005, trong đó: Tây Bắc 32,36%; Đông Bắc 23,44%; Đồng Bằng Sông Hồng 9,59%; Bắc Trung Bộ 23,44%; Duyên hải miền Trung 16,18%; Tây Nguyên 21,34%; Đông Nam Bộ 5,12%; Đồng bằng sông Cửu Long 12,85%. Một số địa phương đã cơ bản xoá hết hộ nghèo theo chuẩn quốc gia như Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và áp dụng chuẩn nghèo mới của địa phương cao hơn từ 1 đến 2 lần chuẩn quốc gia. Những khó khăn thách thức Trong những năm qua, công cuộc phát triển kinh tế- xã hội của nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, GDP hàng năm tăng cao từ 7,5- 8,5%, tuy nhiên Việt Nam vẫn là một nước nghèo.

Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40% người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc 28%; Đồng bằng sông Cửu Long là 21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy sự khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh, thành phố cho thấy khả năng bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau.

Ở Việt Nam, nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện nay số người nghèo sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong đó 45% sống ở dưới ngưỡng nghèo (theo WB) Việt Nam, tấn công nghèo đói).

xu hướng phân hóa giàu nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc biệt là giữa nông thôn với đô thị. Nhiều chuyên gia đưa ra con số về chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn - thành thị lên tới trên 6,9 lần so với (2004). Một vấn đề nữa là người nông dân thiếu việc làm do bị mất đất do xu thế tích tụ ruộng đất ngay tại nông thôn và quá trình đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp hiện nay (20 năm qua, 300.000 héc-ta đất nông nghiệp bị mất đi do quá trình này). Điều này đã làm cho vấn đề thiếu việc làm tại nông thôn và xu hướng di dân ra thành phố để mưu sinh là không thể tránh khỏi. Đây là xu thế của một xã hội phát triển là giảm tương đối cơ cấu của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa học hiện đại không được chuyển giao một cách có hệ thống. Người nông dân thiếu kiến thức, nên khó chuyển giao được khoa học công nghệ để họ thực sự làm chủ. Điều này tiếp tục đặt họ và thế bất lợi hơn nữa. Một thách thức to lớn nữa của khu vực nông thôn là sức ép trong chi tiêu cho giáo dục, áp lực của tình trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường đến mức báo động. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và không khí rất nặng, làm suy thoái tài nguyên môi trường do khai thác tự phát, không theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Khu vực đô thị - công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm và suy thoái môi trường nặng nề hơn và cư dân ven đô lại là những người trực tiếp chịu hậu quả.

Tóm lại, qua những phân tích ta thấy tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả nước đã giảm nhưng vẫn ở mức cao 11%. Riêng ở nông thôn còn khoảng 20,87% hộ nghèo với khoảng 10 tiệu nông dân nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng là tương đối phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng thu nhập bình quân của các nhóm dân cư tăng nhưng nhóm 2 tăng chưa đáng kể, cuộc sống của người dân nghèo đã được cải thiện nhưng chưa nhiều. Ngưỡng nghèo của Việt Nam nói chung vẫn xa so với ngưỡng nghèo của thế giới.

2.Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo

Để đánh giá được tình trạng đói nghèo ở nước ta, trước tiên cần phải tìm hiểu các nhân tố tác động đến vấn đề nghèo đói. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói, nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên tai, địch hoạ gây ra. Mà tình trạng đói nghèo ở nước ta có sự đan xen của cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội. Do đó cần phải đánh giá đúng nguyên nhân, mức độ của từng nguyên nhân dẫn đến nghèo đói đối với từng đối tượng cụ thể.

a.Nhóm nguyên tố thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội

• Vị trí địa lý không thuận lợi ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình phức tạp (miền núi, hải đảo vùng sâu), không có đường giao thông. Đây cũng chính là một nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng và địa phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của phát triển, như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường... làm cho cuộc sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc là những nhân tố khách quan tác động mạnh mẽ đến vấn đề nghèo đói.

• Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó, năng suất cây trồng vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp, việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có. Theo các kết quả điều tra, đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân thì thiếu đất canh tác hay đất đai khó làm ăn cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn đến cảnh túng thiếu, đói ăn, đứt bữa của người dân đặc biệt là đối với các hộ nghèo đói ở vùng núi. Hiện nay vấn đề thiếu đất sản xuất lương thực ở nước ta (đặc biệt là đất lúa) ngày càng mang tính trầm trọng. Nguyên nhân này là do dân số ngày càng đông nhưng đất nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp trong 5 năm (2001-2005) tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là 366,44 nghìn ha để phục vụ các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng KCN, khu dân cư... Trong đó, các vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm khoảng 50%. làm cho rất nhiều hộ nông dân không đủ tiềm lực để phát triển. Hiện nay nhiều nơi ở vùng biển không có hoặc có không đáng kể đất trồng lúa, đây là nhân tố tác động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi là một trong những nhân tố cơ bản làm cho những hộ này triền miên bị đói. Nhưng việc xoá đói không phải bằng cách cấp đất sản xuất lương thực mà phải kết hợp nhiều biện pháp khác. Đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với các cấp lãnh đạo trong việc lựa chọn các giải pháp thích họp giúp họ xoá đói, tức là phải làm gì để giúp họ có thu nhập thì họ mới có khả năng tiếp cận được lương thực, thực phẩm.

• Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra đặc biệt là bão, lut, hạn hán, cháy rừng, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn bão, lụt một năm, lại thêm hạn hán, mưa đá, cháy rừng, những cơn lốc xảy ra thường xuyên ở nhiều vùng đã là nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Tác hại của bão lụt, hạn hán là rất lớn, nó luôn là kẻ thù đồng hành với những người nghèo đói, nó có thể cướp đi cả tính mạng sống và tiền của con người. Rất nhiều vùng và tỉnh đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai gây ra như lụt bão thì hàng nghìn hộ lại rơi vào cảnh thiếu đói, các công trình công cộng, các cơ sở sản xuất và hạ tầng bị phá hỏng. Điển hình là trận lũ xảy ra vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 ở các tỉnh miền Trung đã gây ra những tổn thất to lớn về người và tài sản cho 7 triệu dân ở 7 tỉnh phá huỷ nhiều cơ sở hạ tầng ở vùng này, ước tính thiệt hại do lũ lụt gây ra trên 3000 tỷ đồng, tác độg trực tiếp đến đời sống vốn đã cơ hàn của người dân. Hậu quả của bão lụt để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát mà phải trải qua nhiều năm. Hiện nay hạn hán, thiếu nước, cháy rừng cũng được xem là vấn đề nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của người dân.Thêm vào đó tình trạng thiếu nước sinh hoạt Ô nhiễm nước sinh hoạt làm 20.000 người tử vong mỗi năm, thiếu nước tưới tiêu cũng là vấn đề rất khó khăn mà những người dân nghèo gặp phải (Hiện tại các vùng nông thôn đang phải thuê máy bơm tưới với giá 10.000 - 15.000 vnđ/1 sào (360m2). Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém nhưng không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không đầy đủ cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Mặc dù trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn nhiều nơi xa. Đây là những nơi còn tiềm ẩn nhiều dấu hiệu của đói nghèo lạc hậu. Những hộ ở đây không phải ai cũng được sử dụng điện. Hệ thống tưới tiêu còn hạn chế, rất nhiều nơi chưa có trạm bơm. Việc tiếp cận với nước sạch (nước máy) gần như không có, ngay cả nước giếng vẫn còn hạn hẹp, rất nhiều hộ còn đang dùng nước sông, suối, nước mưa...

Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho cây trồng, đặc biệt là cho lúa và hoa mầu. Hiện nay ở nhiều nơi hệ thống kênh mương, cống đập, trạm bơm chủ yếu vẫn còn tạm bợ, chưa kiên cố, có nơi xuống cấp nghiêm trọng tác động trực tiếp đến việc giảm sản lượng năng suất cây trồng.

Về vấn đề cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện, trường học, trạm y tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn, hàng hoá) vẫn còn kém phát triển. Đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số càng có ít cơ hội tiếp cận với những dịch vụ trên ngân hàng. Điều này có thể thấy rõ ở các vùng không có đường giao thông hoặc giao thông đi lại khó khăn thì hầu như chưa có thị trường hoặc thị trường hoạt động quá yếu ớt. Nó đồng nghĩa với việc họ bị đặt ra ngoài quá trình phát triển kinh tế của đất nước.

Từ những vấn đề trên, ta thấy, những người nghèo muốn vượt thoát khỏi tình trạng nghèo đói trước hết phải được tiếp cận với thị trường, trên cơ sở đó mới có thể tham gia vào sự vận động của kinh tế thị trường. Muốn thị trường phát triển, bên cạnh việc thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì việc phát triển giao thông cơ sở hạ tầng có ý nghĩa lớn góp phần nối các thị trường trong nước lại với nhau, thúc đẩy thị trường phát triển tạo điều kiện cho việc hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.

• Nhân tố liên quan đến chiến tranh

Nhân tố chiến tranh có liên quan mật thiết đến yếu tố vị trí địa lý. Những vùng trước đây là chiến tranh tàn phá nặng nề thì môi trường sống ở đây vẫn chưa được phục hồi được hoàn toàn, đặc biệt các chất độc màu da cam, điôxin do đế quốc Mỹ sử dụng trong cuộc chiến tranh đã để lại di chứng nặng nề về môi trường và con ngưoừi Việt Nam. Hơn 1,5 triệu người bị thương tật, hơn 1 triệu người già bị mất nguồn nuôi dưỡng do con cái thân nhân chết trong chiến tranh. Trên 300.000 trẻ em bị mồ côi, hàng nghìn nạn nhân bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Đây là nhóm dân cư thường bị thiệt thòi và gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói. Không một tỉnh, thành phố nào trong cả nước ta là không gánh chịu và phải giải quyết hậu quả do chiến tranh để lại. Và việc giải quyết hậu quả này cũng không thể một sớm mộtchiều mà có thể phải mất nhiều thập kỷ.

b. Nhóm nhân tố liên quan đến cộng đồng

• An ninh, trật tự:

Môi trường an ninh, trật tự có tác động đáng kể tới các hộ nghèo thực tế cho thấy, tệ nạn xã hội thường đồng hành với nghèo đói. Nếu ở nơi nào tệ nạn xã hội gia tăng, trật tự an ninh xã hội không đảm bảo thì ở đó khó có sự phát triển kinh tế nói chung và của người nghèo nói riêng. Người nghèo nói chung là nhóm người có mức sống dễ bị tổn thương cao. Họ có thu nhập thấp, tài sản không đáng giá. Nếu bị rủi ro mất cắp vât dụng lao động thì họ rất dễ rơi vào cảnh khốn cùng. Theo nghiên cứu cho thấy, các hộ nghèo khi bị mất tài sản nhất là công cụ lao động, phương tiện kiếm sống của gia đình thì rất lâu sau, vài tháng, một năm, thậm chí nhiều năm sau họ mới có thể phục hồi lại được (trở lại mức khi chưa bị mất cắp). Khi người nghèo bị mất cắp thì cuộc sống của họ vốn nghèo lại càng nghèo hơn, vốn đã khốn cùng lại càng cùng cực hơn. Ngoài nguy cơ dễ bị mất cắp, cuộc sống ở khu vực trật tư, an ninh không đảm bảo cũng là cho người nghèo luôn cảm thấy không yên tâm để sản xuất, lao động, khi mua thêm những tài sản phục vụ cho cuộc sống, họ cũng phải đắn đo rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của họ và làm cho những cố gắng không xoá đói giảm nghèo gặp nhiều khó khăn.

• Tập quán:

Về một mặt nào đó, tập quán, lối sống cũng là một trở lực tới sự phát triển của người nghèo. Tập quán du canh du cư của một số đồng bào vùng dân tộc (nhất là Tây Bắc) đã làm cho tình trạng nghèo đói (đói kinh niên, đói gay gắt) về lương thực thực phẩm xảy ra thường xuyên. Chính tập quán này đã đẩy họ rơi vào tình trạng nghèo dai dẳng, nghèo truyền kiếp. Cái vòng luẩn quẩn "nghèo đói phải du canh du cư và vì du canh du cư càng thêm nghèo đói" cộng thêm các hủ tục lạc hậu về văn hoá, lối sống bám chặt vào số phận của một số đồng bào miền núi. Ví dụ, ở Lạng Sơn lương thực miền núi cần 500kg/ người mới gọi là đủ ăn nhưng hơn nửa số ấy không phải để ăn mà dùng để nấu rượu "Người dân nghèo  uống rượu  năng suất lao động giảm  càng nghèo. Chính cái vòng luẩn quẩn này đã gây nên tình trạng 89% trong số người Dao và 100% người H'mông được coi là nghèo.

c.Nhóm nhân tố liên quan đến mỗi cá nhân và hộ gia đình

d. Nhóm nhân tố thuộc về nhân khẩu học

• Quy mô và cơ cấu hộ gia đình

Qua nghiên cứu cho thấy quy mô hộ gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng nghèo đói. Người nghèo phổ biến ở những hộ gia đình có quy mô lớn, mỗi hộ có rất nhiều con, tuổi còn nhỏ. Theo phỏng vấn đánh giá PPA (1998) thì 72% số hộ cho rằng vì đông con nên dẫn đến tình trạng nghèo đói. Mặc dù vậy, họ vẫn chưa ý thức được rõ về sự tác hại của tình trạng đông con. Tình trạng sinh nhiều con, sinh quá dầy ở các cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đang trong độ tuổi sinh đẻ là khá phổ biến. Bình quân các hộ này từ 3-5 con. Điều này làm cho cuộc sống gia đình họ gặp rất nhiều khó khăn. Cũng vì khó khăn mà hộ gia đình từ làm ăn khá hoặc trung bình đã trở thành nghèo đói. Do số người trong gia đình là tương đối nhiều nên chi tiêu cho những vấn đề thiết yếu hàng ngày là khá cao (chẳng hạn chi tiêu cho lương thực, quần áo, thuốc men...) trong khi đó, tổng thu nhập của một hộ nghèo thường không tăng nhiều hoặc có tăng nhưng cũng không thể đủ để trang trải các khoản chi tiêu hàng ngày, hoặc làm ngày nào ăn hết ngày đó, không thể có được các khoản tích luỹ và do vậy việc thoát khỏi nghèo đói trở nên bế tắc.

• Tỷ lệ người sống phụ thuộc

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, mức sinh của Việt Nam đã giảm trong 10 năm qua. Tổng tỷ suất sinh duy trì dưới mức sinh thay thế, đạt 2,03 con trên 1 phụ nữ. "Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt về mức sinh giữa các vùng, miền. Khu vực thành thị là 1,80 con trên một phụ nữ, khu vực nông thôn là 2,15 (thấp nhất là khu vực Đông Nam Bộ 1,69, cao nhất là khu vực Tây Nguyên 2,65)"

Theo số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của tổng cục thống kê cho ta thấy, tỷ lệ trẻ em trên mỗi người lao động ở nhóm hộ nghèo là rất cao, và tỷ lệ này giảm dần khi nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng dần.

Có thể nói tình trạng phụ thuộc của các gia đình là "người làm thì ít, người ăn thì nhiều" và thường xảy ra ra tình trạng thiếu lao động (do số người trong gia đình đông nhưng phần lớn vẫn chưa tự lao động để nuôi sống bản thân mình mà phải phụ thuộc vào một vài lao động chính). Tình trạng thiếu lao động còn thể hiện ở chỗ, người lao động chính, ngoài công việc kiếm tiền nuôi gia đình còn phải gánh thêm nhiều công việc nhà do số người phụ thuộc tăng. Lao động bỏ ra của họ cho công việc nhà cũng là đáng kể, vì làm việc nhà nên họ không thể làm các công việc tạo ra thu nhập khác. Có thể thấy tình trạng hộ nghèo có số người sống phụ thuộc cao là rất phổ biến, nó xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Đây là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng rát lớn, thậm chí có tính chất quyết định, tới tình trạng nghèo đói của người dân, nó cản trở việc thực hiện xoá đói giảm nghèo của người dân nói riêng và của Đảng, Nhà nước nói chung. Cùng với mức sinh cao (gia đình đông con), tỷ lệ người sống phụ thuộc cũng đã tạo nên một vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Đó là: do sinh nhiều con nên lao động thiếu, số người phụ thuộc cao, gánh nặng đè lên vai những người lao động chính, một người làm để phải nuôi mấy người do đó làm không đủ ăn, vì vậy con cái không được hưởng một cách đầy đủ những nhu cầu thiết yếu như y tế, giáo dục... dẫn đến vòng đời của chúng sẽ lại rơi vào cảnh nghèo đói.

• Giới tính của người làm chủ gia đình:

Chính nhân tố giới tính của người làm chủ gia đình cũng quyết định lớn đến mức độ nghèo đói cao của hộ gia đình. Thường những gia đình mà người phụ nữ làm chủ thì dễ rơi vào cảnh nghèo đói và mức nghèo đói còn trầm trọng hơn so với các hộ khác. Những hộ gia đình có mức sống khá và trung bình mà trước đây có người đàn ông làm chủ nhưng vì một nguyên nhân nào đó (rủi ro thiên tai, bệnh tật) mà trụ cột gia đình này mất đi, người phụ nữ lại không đủ khả năng đảm đương được trách nhiệm này thì hộ gia đình đó rất dễ bị một cú sốc lớn không thể chống lại được và dễ rơi vào tình trạng nghèo đói. Người phụ nữ có đặc điểm là không làm được những công việc nặng nhọc mà nam giới có thể làm, thêm vào đó, họ còn phải chịu nhiều định kiến, sự bất bình đẳng xã hội nên với cùng một côngivệc họ chỉ nhận được một khoản tiền công ít hơn so với người nam giới. Công việc của người phụ nữ thường là bất ổn định và họ khó kiếm việc hơn nam giới nên thu nhập làm ra thường rất thấp. Bên cạnh đó, người phụ nữ còn phải lo toan công việc gia đình nên không thể dành hết thời gian và công sức cho việc tạo thêm thu nhập. Đó là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng các hộ nghèo có người phụ nữ làm chủ thường có cuộc sống khốn cùng hơn những hộ nghèo có người đàn ông làm chủ.

Hiện nay, nguyên nhân nghèo đói do giới tính cũng đáng được quan tâm vì vẫn còn nhiều hộ do phụ nữ làm chủ, họ rất dễ bị tổn thương và lâm vào cảnh đói nghèo.

Nghề nghiệp và mức độ đa dạng hoá của nghề nghiệp

Yếu tố nghề nghiệp có những ảnh hưởng nhất định tới sự nghèo đói của người dân. Nghề nghiệp là nguồn cung cấp thu thập cho gia đình, vì vậy, tính chất của nghề đó quyết định đến mức thu nhập và tính ổn định của thu nhập thấp, bấp bênh. Thông thường, người dễ rơi vào tình trạng nghèo đói là những người chỉ làm những công việc có thu nhập thấp, tỉnh rủi ro cao dẫn đến sự bất ổn định về thu nhập. Thêm vào đó, họ chỉ có một nguồn thu duy nhất đưa vào nghề đó. Thống kê cho thấy nghèo đói ở nước ta chủ yếu rơi vào các hộ nông dân mà trong đó các hộ thuần nông chiếm tỷ lệ cao. Nông nghiệp là nghề phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nếu có rủi ro xảy ra (như hạn hán, lũ lụt) thì nguy cơ mất trắng toàn bộ hoa mầu là rất cao. Nếu gia đình chỉ trông chờ vào thu nhập do hoa mầu thì khi xảy ra những sự cố như vậy, nguy cơ rơi vào cảnh nghèo đói của họ sẽ rất cao.

Do tính bấp bênh của việc phụ thuộc vào một nghề duy nhất nên nghèo đói cũng có thể được xem xét dưới góc độ đa dạng hoá ngành nghề. Việc đa dạng hoá ngành nghề có tỷ lệ thuận với mức độ giảm nghèo. Đa dạng hoá ngành nghề đến đâu quyết định khả năng hạn chế rủi ro và tăng thu nhập của người dân, do đó có thể giảm được đói nghèo. Vì vậy, có thể nói, khi xem xét đến vấn đề đa dạng hoá thu nhập hay đa dạng hoá ngành nghề, nếu hộ chỉ phụ thuộc vào một nghề duy nhất thì khả năng nghèo đói là cao, nếu hộ đa dạng hoá ngành nghề thì khả năng này sẽ giảm.

Tình trạng không có hoặc thiếu việc làm

Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn vẫn mang tính bức xúc Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam hiện là 4,65%(2010) nông thôn còn cao hơn.

. Chính tình trạng không có việc làm, thiếu việc làm thường xuyên đã ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản làm cho các hộ gia đình rơi vào cảnh đói nghèo.

• Cơ cấu chỉ tiêu:

Cơ cấu chi tiêu của các hộ nghèo thường rất eo hẹp. Họ chỉ có khả năng trang trải với mức hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và phí lương thực thiết yếu khác, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm thu nhập vì khó tiếp cận các cơ hội tăng trưởng kinh tế. Thu nhập thấp nên mãi dù họ chỉ có khả năng trang trải tối thiểu các chi phí lương thực nhưng nó cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu của họ.Tình trạng sức khoẻ kém cũng là một nguyên nhân không kém phần quan trọng dẫn đến nghèo đói, nó cũng làm người nghèo khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Thu nhập thấp  ăn uống không đầy đủ  sức khoẻ kém  năng suất lao động thấp  làm không đủ ăn  thiếu đói  vay mượn nợ nần nhiều  thu nhập thấp... đó chính là vòng luẩn quẩn mà người nghèo rất dễ mắc phải.

• Nhóm nhân tố về tài sản

- Nghèo do thiếu vốn: thiếu hoặc không có vốn là nguyên nhân mà người nghèo cho rằng có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghèo đói của họ. Không có vốn để sản xuất kinh doanh chính là trở lực rất lớn đối với người lao động khi tham gia vào kinh tế thị trường. Vốn là rất cần thiết, là điều kiện ban đầu cần phải có để giúp cho các hộ nghèo thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào các hộ nghèo có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng để họ có nhiều cơ hội hơn trong sản xuất kinh doanh. Hiện nay sự tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ hộ vay vốn ngân hàng mới chỉ chiếm 54,14%, lãi suất vay trung bình 1,18%. Còn nhiều số hộ không có khả năng trả số nợ quá hạn. Sở dĩ hộ nghèo tiếp cận vốn còn khó khăn là do cách sản xuất của hộ nghèo còn giản đơn, không biết thâm canh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, do lãi suất vay vốn cao và thủ tục vay còn rườm rà hoặc cũng có thể do họ ngại rủi ro vay về không biết đầu tư vào đâu, có hoàn được vốn không. Họ sợ đầu tư vào những cái mới vì không biết nó thế nào vì thế họ vẫn cứ làm theo cách truyền thống, không có khoa học. Trong nông nghiệp thì do không biết cách đầu tư, cải tạo đất cho tốt, không đưa các loại giống mới vào trồng, không có các loại phân bón tăng trưởng hợp lý và cũng không sử dụng các loại thuốc phòng tránh sâu bệnh dẫn đến năng suất cây trồng thấp và nghèo lại hoàn nghèo. Hiện nay, rất nhiều hộ nghèo đã nhận thức được tầm quan trọng và tính bức xúc của vốn, nhưng không phải ai muốn vay cũng được cho vay. Có một nghịch lý là: vốn ngân hàng cho người nghèo vay còn nhiều, nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo đói lại lớn, mà các hộ nghèo vẫn phải đi vay mượn tư nhân, chịu cảnh vay nặng lãi. Thực tế nhu cầu vay vốn thường có tính chất đột xuất trong số các hộ nghèo và nhu cầu phi sản xuất thường không phù hợp với cơ chế vay vốn của ngân hàng. Hiện nay, đây là một bất cập về cơ chế vay vốn, và là một thực tế nghiệt ngã trong cuộc sống của người nghèo đói. Không ít hộ đã phải bán lúa non để lo lót các khoản chi tiêu không thể chối từ trong gia đình... đang dồn họ vào thế bí: đã nghèo lại nghèo thêm . Số liệu dưới đây phản ánh phần nào nhu cầu vay vốn của các hộ nghèo và mức độ đáp ứng trên thực tế.

- Nghèo do thiếu tài sản vật chất:

Thiếu hoặc không có tài sản luôn là nguyên nhân gây ra nghèo đói đối với các hộ gia đình. Như là các đôi vợ chồng trẻ, mới bước vào cuộc sống, có xuất phát điểm thấp (giá trị tài sản ban đầu nhỏ) họ gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trong việc tiếp cận với thị trường, nắm bắt các cơ hội, nhạy bén với các xu thế của xã hội. Các hộ có xuất phát điểm thấp thì rất dễ rơi vào cảnh nghèo đói nếu có rủi ro xảy ra. Vì tài sản có giá trị của họ, xét cho cùng, chỉ có căn nhà và một đồ đạc sinh hoạt thiết yếu (điều quan trọng ở đây không phải là tổng giá trị của tài sản là bao nhiêu mà chúng ta phải xem xét khả năng có thể hoá giá các tài sản này để bù đắp cho các thiệt hại do các rủi ro đem lại) chính vì không có tài sản để tự bảo hiểm nên nhiều hộ gia đình đã phải sống chung với nghèo đói.

Thiếu tài sản còn thể hiện ở các hộ gia đình không có hoặc không đáng kể các tư liệu sản xuất để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, họ thường phải sống ở trong những căn nhà lán, lều tạm bợ. Ngay cả ở thành phố một số gia đình nghèo vẫn phải sống trong các căn nhà ổ chuột, không đảm bảo được các điều kiện hợp vệ sinh. Đây chính là nguyên nhân gây ra các dịch bệnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của chính bản thân họ.

f.Các nhân tố xã hội.

• Nhóm nhân tố giáo dục

Tỷ lệ biết chữ của số dân từ 15 tuổi trở lên tăng liên tục qua 3 cuộc tổng điều tra (năm 1989 là 88%, năm 1999 là 90%, và 93,5% vào năm 2009). Phân bổ tỷ lệ biết chữ theo nhóm tuổi cho thấy tình hình giáo dục của nước ta đã được cải thiện một cách đáng kể qua từng giai đoạn. Tỷ lệ biết chữ của nhóm 50 tuổi trở lên là 87,2%. Tỷ lệ biết chữ của nhóm trẻ hơn được tăng dần cho đến mức cao nhất là 98% ở nhóm tuổi từ 15 - 17 tuổi đối với cả nam và nữ. Sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ của nông thôn và thành thị cũng rất thấp (97% ở thành thị và 92% ở nông thôn). Hà Nội là tỉnh, thành phố có tỷ lệ biết chữ cao nhất (97,6%), thấp nhất là Lai Châu (57,4%).qua thống kê cho thấy nông thôn và Người nghèo thường có trình độ học vấn tương đối thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin, thiếu kinh nghiệm sản xuất, không có kinh nghiệm làm ăn, cho nên không có được các giải pháp để tự thoát nghèo. Dân trí thấp, tự ti, kém năng động, lại không đợc hướng dẫn cách thức làm ăn, đây là nguyên nhân làm cho nhiều hộ rơi vào cảnh đói nghèo triền miên, đặc biệt là các hộ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, ít người.

Thực tế đã chứng minh, các hộ nghèo đói thì chủ hộ thường có học vấn thấp. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên.

• Nhóm nhân tố liên quan đến sức khoẻ

Hiện nay, cách đánh giá nghèo đói của WB không chỉ dựa vào thu nhập mà còn dựa vào khía cạnh sức khoẻ của người dân.

Ở Việt Nam, mức độ nghèo đói về sức khoẻ thể hiện rất rõ nét, nó thể hiện sự bần cùng hơn của những người nghèo khi không tiếp cận với các dịch vụ y tế. Điều này rất phổ biến ở khu vực nông thôn, ở những vùng sâu, vùng xa và nhất là ở nhóm các dân tộc thiểu số

III.Giải pháp xóa đói giảm nghèo ở việt nam hiện nay.

Hiện nay chính phủ việt nam đang trong giai đoạn mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 với bước chuyển biến về nguồn vốn đầu tư lớn Tổng vốn cho giảm nghèo gần 43,5 tỷ đồng với mục tiêu cơ bản là Đẩy nhanh tốc độ tăng thu nhập, từng bước nâng cao mức sống của các hộ đói nghèo, tạo môi trường thuận lợi cho người nghèo tiếp cận với dịch vụ sản xuất, tự lực vượt qua đói nghèo vươn lên khá và giàu; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo.với những mục tiêu cụ thể Phấn đấu mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2-3 %; hết năm 2010 giảm xuống còn 17 % Phấn đấu hết năm 2010 thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng lên 1,6 lần,hấn đấu hết năm 2007 cơ bản xóa xong nhà ở tạm, dột nát cho các hộ nghèo diện chính sách, người có công với cách mạng; hết năm 2008 cơ bản xoá xong nhà ở dột nát cho hộ nghèo,Lồng ghép thực hiện tốt các chính sách, dự án thuộc chương trình phát triển kinh tế - xã hội với chương trình xoá đói giảm nghèo, đảm bảo 100% người nghèo được hưởng thụ đầy đủ các chính sách ưu đãi của Nhà nước như chính sách tín dụng, giáo dục, y tế, khuyến nông và khuyến lâm . . .Các giải pháp chủ yếu là Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trong cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân về mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Xác định công tác xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội và toàn thể nhân dân.Tiếp tục kiện toàn Ban chỉ đạo và cơ quan giúp việc Ban chỉ đạo làm công tác xoá đói giảm nghèo từ tỉnh đến cơ sở. Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp, các ngành trong việc tổ chức thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.Huy động các nguồn lực cho chương trình xoá đói giảm nghèo Nguồn lực của chính người nghèo: Thông qua việc đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, chi tiêu hợp lý, tiết kiệm; để tập trung đầu tư cho sản xuất tăng thu nhập.Ngân sách Trung ương hỗ trợ đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo và các thôn bản đặc biệt khó khăn,Ngân sách địa phương dành một phần vốn để đối ứng với nguồn vốn TW hỗ trợ để thực hiện mục tiêu xoá nhà ở dột nát cho hộ nghèo p tục huy động sự đóng góp của cán bộ, công chức, viên chức và lao động, lực lượng vũ trang và nhân dân; vận động các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm, các doanh nhân và kiều bào ở nước ngoài đóng góp ủng hộ cho Quỹ " Hỗ trợ nông dân" để cho hộ nông dân nghèo vay với lãi suất ưu đãi.

Mỗi cán bộ, công nhân viên chức, lao động,cán bộ, công nhân viên các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn mỗi năm đóng góp ít nhất 1 ngày lương, hoặc giá trị 1 ngày công/người/năm. Đối với hộ nông dân (trừ hộ nghèo) có đóng góp với tỷ lệ nhất định cho người nghèo.

Sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài cho việc xoá đói giảm nghèo.Vận động sự đóng góp của các Bộ, Ngành, các Tổng Công ty Trung ương, các Công ty, Doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh để hỗ trợ xoá nhà ở dột nát cho hộ nghèo.Tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách về xoá đói giảm nghèo đã và đang có hiệu lực, nghiên cứu xây dựng bổ sung một số cơ chế chính sách mới về hỗ trợ người nghèo để thực hiện xoá đói giảm nghèo. Triển khai thực hiện các dự án hoặc mô hình xoá đói giảm nghèo lồng ghép với các chương trình dự án khác có hiệu quả.Thực hiện cam kết giữa hộ nghèo với cộng đồng và giữa các cấp về xoá đói giảm nghèo đồng thời thường xuyên kiểm điểm việc thực hiện cam kết.

Phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách. Một là đưa lao động ra khỏi khu vực nông thôn về các khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố. Hai là đưa công nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát triển làng nghề... Mặc dù đây là vấn đề rất lớn để giảm thiểu sự bất bình đẳng hiện nay, nhưng Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới vấn đề này, trong khi đây là xu thế tất yếu.

- Tăng đầu tư của Nhà nước về nông thôn. Hiện nay, đầu tư của Nhà nước về nông thôn còn hạn chế (chiếm 14% tổng đầu tư) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này không đáng kể (3% tổng đầu tư FDI cả nước). Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học công nghệ (hiện chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng không dễ dàng bởi nông dân rất khó tiếp cận và làm chủ KHCN.

- Thiết lập hệ thống khuyến nông tốt. Có thể thuê khuyến nông tư nhân làm mà không cần phải dựa hoàn toàn vào Nhà nước. Ngoài ra, phải có các cơ chế tài chính phù hợp thu hút các tổ chức quốc tế, phi chính phủ làm việc này và tăng cường các mô hình giáo dục, đào tạo ở địa phương để người dân có thể tiếp cận được". Song song đó là đầu tư cho các dịch vụ công khác và đẩy mạnh cải cách thể chế.

- Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với sự dịch chuyển trong nông nghiệp.

- Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, phải xóa bỏ chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (khoảng 10% GDP của nông nghiệp) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp.

- Có chính sách hỗ trợ cho an ninh lương thực. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho lĩnh vực này. Muốn đảm bảo an ninh lương thực, duy trì diện tích và sản lượng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long thì phải có chính sách để bảo đảm thu nhập cho người dân và cho phát triển vùng này. Hiện nay, những tỉnh có tỉ trọng nông nghiệp cao trong GDP là những tỉnh nghèo, kém phát triển. Nên xem vấn đề an ninh lương thực dưới góc độ cung cấp dịch vụ cơ bản.

MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU

I.Tổng quan của đói nghèo

1.Định nghĩa về đói nghèo

2.Các chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo ở Việt Nam.

III: thực trạng&Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam

1. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam(2001-2009)

2.Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo

III.Giải pháp xóa đói giảm nghèo ở việt nam hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

+Báo diện tử chính phủ http://chinhphu.vn

+Giáo trình kinh tế học phát triển (vũ minh viêng) ĐHQGHN

+ http://lienminhhtxhatinh.com/?url=detail&id=537

+ Giàu nghèo trong nông thôn hiện nay nxb nông nghiệp hà nội(1993)

+Báo điện tử tổng cục thống kê vn 2009

http://www.gso.gov.vn

+ http://www.kinhtenongthon.com.vn/

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: