Tiểu Thuyết Cay đắng mùi đời Hồ Biểu Chánh chuong 6->het
Chương VI
Thầy Ðàng dắt thằng Ðược lên chợ Mỹ Tho rồi tìm đến nhà quen mà tá túc. Thầy bị trong chốn lao tù trót một tháng trường ăn uống thất thường nên thầy thấy trong mình không được mạnh; mà vừa ra khỏi khám liền phải ngồi xe hơi lên Vĩnh Long rồi đi tàu mà xuống Mỹ Tho nữa, bởi vậy thầy mệt đuối. Ðêm ấy thầy ngủ đậu tại nhà thầy Sung làm việc Trạng sư, thì thầy nóng lạnh nằm mê man không biết chi hết, còn thằng Ðược một là nhớ con Liên, hai là tiếc không được theo bà Hội đồng nên nằm trăn trở hoài không ngủ được.
Rạng ngày thầy Ðàng ráng đi ra chợ kiếm tiệm thuốc của khách trú vô mà cầu thầy xem mạch hốt thuốc đem về sắc uống. Lúc thầy ra đi thì thằng Ðược lén chạy xuống dưới đầu câu quây dòm coi ghe bà Hội đồng còn đậu đó hay không. Nó thấy không có ghe đậu đó nữa mới lần bước trở về, ngoài mặt buồn xo trong lòng như dao cắt.
Thầy Ðàng uống bốn năm thang thuốc thì hết nóng lạnh, nhưng mà trong mình còn mệt mỏi, tay chơn bải hoải, lại ăn cơm không biết ngon. Thầy muốn ở đậu ít ngày đặng dưỡng bịnh, song thấy vợ thầy Sung không được vui, chồng có ở nhà thì bình an, hễ chồng xách dù đi làm việc thì mắng chửi chó mèo, la rầy tôi tớ om sòm, thầy nằm nghỉ không được, nên thầy từ giã rồi dắt thằng Ðược ra đi, tính lên Sài Gòn kiếm thầy giáo Hai, là bạn thiết của mình ngày xưa, đặng gởi thằng Ðược cho nó đi học, còn mình thì dạy đờn kiếm tiền may áo quần mua sách vở cho nó. Ra đến nhà giấy xe lửa thầy nhớ sực thầy có quen với một thầy Hội đồng ở Bến Lức, khi trước có hứa giúp vốn cho thầy làm ăn, mà từ ấy đến nay thầy không nghe tin tức, nên tính ghé lại đó trước viếng thăm sau ở đậu ít ngày mà dưỡng bịnh, chớ trong mình chưa thiệt mạnh, nếu lên Sài Gòn thì ở đậu nhà nào cũng chật hẹp, không thong thả được. Thầy tính như vậy nên mua giấy đi Bến Lức.
Xe lửa lên tới Bến Lức đã hơn ba giờ chiều. Thầy với thằng Ðược xách đồ vô nhà thầy hội đồng. Bước vô nhà thấy có bàn thờ tang thì trong lòng thầy đã nghi rồi; chừng vợ thầy Hội đồng ra chào hỏi rồi nói chồng đã tỵ trần cách ba tháng trước thì thầy chưng hửng. Thầy hỏi thăm rồi nằm nghỉ; đến chiều vợ thầy Hội đồng dọn cơm cho thầy ăn, rồi thầy nghĩ nhà người ta góa chồng, mình quen là quen với chồng chớ không quen với vợ, nếu ở đây thì chẳng tiện, nên thầy tính đón chuyến xe lửa chót mà lên Sài Gòn. Thầy tử giã ra đi, đi gần tới nhà giấy thì nghe xe lửa xúp-lê rồi chạy rầm rầm. Thầy với thằng Ðược lật đật chạy, mà chạy không kịp, ra tới nhà giấy thì xe đã chạy mất.
Thầy Ðàng để va-li xuống đất đứng mà suy nghĩ, nếu trở lại xin ở đậu một đêm thì chẳng tiện, mà nếu đi bộ thì đường thiệt xa. Thầy nhớ đêm ấy là đêm mười bốn có trăng, mà thầy xem trời thì trời trong mát mẻ lắm nên thầy mới nhứt định xách đồ đi bộ lên Chợ Lớn. Lên tới Gò Ðen thì trời đã tối, phía trời đông trăng mọc đỏ lòm, nơi xóm bắc đèn chong leo lét. Thằng Ðược đi trước thầy đi theo sau, hai bên đường nghe uệt oạc tiếng ếch kêu, thầy sợ thằng Ðược buồn, thầy mới kiếm những chuyện khôn dại ở đời mà dạy bảo.
Ði gần hết canh hai lên mới tới An Lạc. Trên trời mây đen vần vũ che án mặt trăng hết tỏ như hồi đầu hôm. Thầy Ðàng bèn nói rằng: "Ði riết đi con, trời chuyển mưa, đi riết lên Chợ Gạo như có mưa thì mình kiếm chỗ mà đụt". Thầy trò đi còn hơn ba ngàn thước nữa mới tới Chợ Gạo thình lình trời dông mưa gấp tới, đi không kịp. Rủi khúc đường ấy lại không có nhà ai hết nên phải dầm mưa mà đi. Thầy Ðàng xăn áo quần rồi giương dù biểu thằng Ðược đi sát một bên thầy mà núp mưa. Trời đã mưa mà lại dông lớn nên tạt ướt hết, thằng Ðược nghĩ núp dù không ích gì, nên liều mình dầm mưa để cho thầy dùng trọn cây dù hoặc may thầy khỏi ướt.
Lên tới nhà giấy xe lửa Chợ Gạo, thầy trò lạnh quíu tay chân, nên dắt nhau vô nhà giấy vắt sơ áo quần rồi ngồi dựa vách tường mà nghỉ. Trời cũng còn mưa lớn ào ào như cầm tỉn mà đổ, đã vậy mà lại sấm chớp vang tai, gió dông lạnh muốn đứt ruột. Thằng Ðược ngồi run tay chân lập cập, miệng đánh bò cạp, lặng thinh một hồi rồi tâm thần bất định, nằm ngoẻo đầu mà ngủ, không biết việc chi nữa hết. Nó không biết ngủ được bao lâu, song chừng tỉnh giấc mở mắt ra thì thấy mình nằm trên một cái giường nhỏ bằng sắt, chung quanh có hơn hai chục cái giường nữa, mỗi cái đều có một ngươi nằm và ngưòi nào cũng đều mặc quần áo trắng hết thảy. Nó chống tay ngóc đầu ngồi dậy ngó quanh quất thì ai nấy đều nằm ngủ hết, một lát nghe đầu này ho sò sò, rồi một lát nghe đầu nọ rên hì hì. Nó không biết vì cớ nào mà nó lại lọt vào một chỗ dị kỳ lắm vậy, ngó tứ hướng thì thấy bốn tấm vách tường trắng toát, hai đầu lại có treo hai ngọn đèn sáng trưng. Trong bụng nó hồi hộp, mình nó nóng hổi, mà đầu nó nặng trìu trĩu. Nó khát nước hết sức, song không biết nước đâu là uống.
Thằng Ðược ngó giáo giác một hồi rồi phát sợ nên lật đật nằm xuống. Nó nhớ lại thì là nó đi với thầy nó, giữa đường gặp mưa lạnh quíu, vào nhà giấy xe lửa mà đụt, mà sao thầy nó đâu mất đi, còn sao nó lại lọt vào chỗ nào như vầy. Nó nằm suy nghĩ hoài cho đến sáng; mấy người nằm gần nó thức dậy kẻ hút thuốc, người nói chuyện.
Nó muốn ngồi dậy đi kiếm nước mà uống, song tay chân rũ riệt chổi dậy không nổi. Người ngồi trên giường dựa bên giường nó đó thấy vậy bèn nói rằng:
- Hứ! Thằng nhỏ này bữa nay coi bộ khá rồi nên muốn ngồi dậy đây. Sao em? Trong mình em khá hay không?
- Tôi khát nước quá. Chú làm ơn cho tôi xin một miếng nước uống.
- Ờ, thôi nằm đó, để qua trót nước giùm cho.
Người ấy nói rồi liền đi trót một chén nước đem cho nó uống. Thằng Ðược uống hết một chén nước mà chưa đã khát, còn muốn uống nữa, song sợ nhọc lòng người ta nên không dám mượn Nó nằm nghỉ một hồi rồi hỏi người ấy rằng:
- Chỗ nầy là chỗ gì vậy chú há?
- Ủa, thiệt em không biết hay sao?
- Thưa, không biết.
- Ờ phải, hôm qua họ bồng em đem vô đây em nóng mê man, quan thầy sợ cứu em không đặng nên làm sao mà em biết đặng. Ðây là nhà thương Chợ Rẫy đó em.
- Chú có biết thầy tôi đi đâu hay không?
- Thầy em là ai?
- Thầy tôi là thầy Ðàng.
- Qua không blết. Qua thấy hôm qua lối mười giờ có hai người bồng em vô để nằm đó rồi quan thầy với mấy thầy phạm-nhê[1] cho em uống thuốc từ hôm qua cho đến bữa nay đó thôi, không thấy ai thăm viếng chi hết. Thầy Ðàng người bao lớn, già hay trẻ, mặc quần áo ra làm sao?
- Thầy tôi già trên năm mươi tuổi, râu bạc hoa râm, mặc áo dài, đi giày hàm ếch.
- Không có. Từ hôm qua đến bữa nay qua không thấy người nào như vậy.
- Vậy chớ thầy tôi đi đâu kìa.
Thằng Ðược hỏi thăm rồi nằm suy nghĩ không biết thầy nó đi đâu. Cách một hồi lâu có một quan thầy Việt Nam đi với hai ba thầy phạm-nhê vô thấy nó thì cười, lấy tay rờ đầu nó rồi nói rằng: "Thằng nầy bữa nay tỉnh rồi. Em ráng uống thuốc vài tuần nữa em mạnh, không sao đâu mà sợ". Nói rồi bèn day lại nói với mấy thầy phạm-nhê rằng: "Một lát nữa cho nó uống sữa nghe hôn, cho nó uống sữa ít bữa, cho nó dứt nóng lạnh rồi sẽ cho ăn cơm ăn cháo". Thằng Ðược vừa muốn hỏi thăm thầy nó, thì quan thầy bỏ đi qua khám bịnh cho người khác nên hỏi không được.
Buổi chiều thằng Ðược bớt nóng, nhưng mà nó cũng chưa ngồi dậy nổi. Có một thầy phạm-nhê cầm một cây viết chì vô hỏi tên họ quê quán nó đặng ghi vào sổ. Nó nói thiệt rằng nó tên Ðược, mà không biết họ gì, nó không có cha mẹ, đi theo thầy Ðàng, mà thầy đi xứ nầy qua xứ kia đặng dạy đờn nên không biết quê quán là đâu mà nói. Thầy phạm-nhê biên rồi cười gằn mà nói rằng: "Té ra mấy là con nhà hoang mà? Ðã không có cha mẹ mà lại không biết xứ sở, như vầy ai biết đâu mà đòi tiền nhà thương. Tao chắc chừng mấy mạnh nhà nước sẽ gởi mấy lên Ông Yệm[2].
Thầy phạm- nhê xây lưng bước ra thì thằng Ðược nước mắt tuôn dầm dề vì mấy tiếng "con nhà hoang" làm cho nó bầm gan nát ruột, Nó nằm mà tủi thầm thân phận, rồi nhớ mấy lời hăm sẽ gởi lên Ông Yệm, nó lại sợ không biết ÔngYệm là chỗ nào. Nó hỏi thăm người bịnh nằm một bên, họ nói Ông Yệm là chỗ đẩy mấy đứa ngỗ nghịch, hoang đàng, không bà không con, ăn cắp ăn trộm, thì nó càng sợ hơn nữa, nên nằm mà khóc tức tưởi.
Lối sáu giờ rưỡi tối đèn khí đốt sáng trưng, người bịnh lộn xộn, kẻ sửa soạn ngủ, người ngồi nói chuyện. Thình lình có một người thầy mặc đồ tây màu vàng, đầu đội nón nỉ xám ở ngoài xâm xâm vào phòng bịnh với một thầy phạm-nhê. Thằng Ðược tưởng là quan thầy nên lau nước mắt rồi nằm im lìm. Khi hai người đi lại gần chỗ nó nằm thầy phạm-nhê chỉ nó mà nói: "Nó đó", rồi bỏ đi ra. Người mặc đồ tây vàng ấy giơ tay rờ đầu nó rồi nói rằng: "Bữa nay bớt nóng rồi. Hôm qua nóng quá tưởng đã không xong rồi chớ".
Thằng Ðược nhướng mắt ngó thầy ấy trân trân không biết là ai. Thầy thấy vậy mới nói với nó rằng: "Em ráng uống thuốc cho mau mạnh nhé. Tía em thì làng họ đã chôn hồi chiều hôm qua rồi. Ðồ đạc qua lãnh mà giữ tại nhà qua, chừng em mạnh ra nhà thương rồi thì ghé đó mà lấy, không mất đâu mà sợ".
Thằng Ðược nghe nói chưng hửng liền hỏi: "Thầy là ai? Tía tôi là ai đâu mà thầy nói làng đã chôn rồi? Thế khi thầy tôi đã chết rồi sao? Trời ôi!".
Thầy ấy thấy bộ nó rất bi thảm nên động lòng thương, bèn ngồi dựa mé giường rồi lấy lời nhỏ nhẹ mà nói rằng: "Chắc là đêm hôm qua em mắc nóng lạnh mê man nên em không hay, vậy để qua tỏ hết mọi việc cho em rõ... Em nín đừng khóc nữa. Qua đây là xếp ga Phú Lâm. Hồi sáng hôm qua lúc xe lửa ở Sài Gòn gần xuống qua mới thức dậy mở cửa mà bán giấy. Qua thấy ở ngoài có một ông già với một đứa nhỏ đương nằm khoanh dưới gạch mà ngủ, qua chạy ra kêu thức dậy, chẳng dè ông già chết đã bao giờ mà mình mẩy còn ướt mèm, còn đứa nhỏ là em đây, tuy còn thở hoi hóp mà qua rờ trán thì nóng vùi. Qua lật đật tri hô lên cho lính làng chạy đến khám nghiệm. Qua hối làng kêu xe rồi chở em đem vô nhà thương cho mau, còn ông già thì làng xét trong mình chẳng có vít tích chi, làng mới chạy tờ cho quan rồi mua hòm mà chôn hồi chiều hôm qua".
Thằng Ðược nghe nói thì khóc than nghe rất thảm thiết. Thầy xếp ga an ủi nó một hồi, chừng nó nín rồi mới nói tiếp rằng: "Ông già chết có để lại một cây đờn cò, một cây đờn kìm với một cái va-li và một cây dù. Hồi làng họ liệm qua muốn bẻ khóa va-li coi ổng còn áo quần chi hay không đặng đem theo cho ổng, mà bị làng họ cản nên qua không dám. Bây giờ đồ dạc qua giữ tại nhà qua. À, qua thấy ổng có đeo một cái đồng hồ bạc, qua có lấy lại và lấy luôn cái bóp trong ấy có một đồng rưỡi với một cái bài thuế thân đề tên là Trần Cao Ðàng, qua còn giữ đủ hết, chừng em ra thì ghé lại qua sẽ giao hết cho em. Em còn bà con là ai ở đâu, em nói cho qua biết đặng qua gởi thơ giùm cho".
Thằng Ðược nghe thầy chết một cách rất thảm thiết thì khóc muồi, chừng nghe hỏi đến bà con thì tủi phận nên lại khóc rống lên nữa. Thầy xếp ga theo an ủi hoài. Nó nín khóc nằm suy nghĩ, nhớ lời thầy dặn dầu thầy có chết cũng đừng cho vợ chồng Phan Hảo Tâm là em rể hay; nếu bây giờ nói thiệt ra thì phụ ý thầy mà nếu nói giấu thì sợ nhà nước nói nó là nhà hoang gởi nó lên Ông Yệm. Nó muốn cậy viết thơ cho Ba Thời, mà nó sợ nhà nước đòi tiền nhà thương Ba Thời không có mà đóng lại càng khổ nữa. Nó suy đi nghĩ lại một hồi rồi mới nói rằng: "Thầy có lòng thương thầy tôi và thương tôi nên thầy lo chôn cất thầy tôi rồi vô đây mà thăm tôi, thiệt tôi cảm đức của thầy vô cùng. Chẳng giấu chi thầy, tôi chẳng có cha mẹ bà con chi hết, tôi theo thầy tôi là ông Ðàng đó mà học đờn. Thầy tôi đã có bịnh sẵn mà rủi giữa đường lại mắc một đám mưa dông không có chỗ đụt nên lạnh quíu mà chết; tôi cũng vì đám mưa đó mà nóng lạnh mê man khiến cho thầy tôi chết, tôi không thấy mặt, tôi nghĩ thiệt tôi tủi trong lòng không biết chừng nào. Hồi chiều này tôi lại nghe nói, nếu tôi không có cha mẹ bà con thì nhà nước sẽ gởi tôi lên Ông Yệm. Vậy tôi xin thầy làm ơn nhận giùm tôi đặng lãnh tôi ra, chớ nếu để gởi tôi đi Ông Yệm thì tội nghiệp tôi quá".
Thầy xếp ga nghe nói tức cười mà đáp rằng: "Họ nói gạt em đa, không có đâu, đừng có lo. Nhà thương hễ người nghèo thì nằm thí chớ tiền gạo gì. Còn em có tội tình gì mà gởi lên Ông Yệm. Họ nói bậy đa, em đừng có tin. Mà thôi, để bữa em mạnh qua sẽ vô mà lãnh giùm em ra". Thầy xếp ga nói rồi bèn từ giã ra về. Thằng Ðược ngó theo cảm tình thầy chẳng xiết.
Ðêm ấy nó nằm nhớ thầy Ðàng hoài ngủ không được nhớ từ tướng đi bộ đứng, từ tiếng nói giọng cười, nhớ ngón đờn giéo giắt tiu tao, nhớ lời dạy thâm trầm chánh trực. Nó nhớ rồi nó lại nghĩ không biết vì cớ nào người tài tình dường ấy, của phi nghĩa dầu mấy muôn cũng không ham, gặp ngang tàng dầu nát thân cũng gánh vác, mà sao trời chẳng cho giàu sang sung sướng, lại đày tấm thân đến chết bụi chết bờ. Hay là phải nhuốc nhơ mới đặng giàu, phải lòn cúi mới đặng sang? Nếu sang giàu mà phải như vậy thì thà chết phứt theo thầy đặng xa lánh trước cho xong chớ sống rồi ngày sau mà phải chìm nổi chốn dương trần, phải dày bừa thân nam tử thì lại càng khổ não hơn nữa. Thằng Ðược nhớ thầy rồi nghĩ đến cuộc đời thì khóc muồi. Những người bịnh nằm gần ai thấy cũng đều cảm động.
Thằng Ðược trong mình có bịnh mà trong trí lại còn buồn rầu nữa, nên sáng bữa sau bịnh nó trở nặng lại, làm cho nó nằm mê man hai ba ngày. Quan thầy hết sức điều trị mà gần hai mươi ngày nó mới thiệt mạnh. Mỗi buổi tối chúa nhựt thầy xếp ga Phú Lâm đi Chợ Lớn chơi đều có ghé nhà thương mà thăm nó. Ðến ngày nó thiệt mạnh quan thầy kêu nó rồi vỗ đầu biểu nó về, không đòi bạc tiền chi hết. Nó mừng quýnh nên xá quan thầy rồi lật đật đi ra; ra khỏi cửa nó hỏi thăm đường đi chợ gạo rồi lầm lũi đi riết. Nó thấy đã khỏi bị giải đi Ông Yệm, mà lại cũng khỏi đóng tiền nhà thương, thì trong bụng nó mừng nên quên phứt sự từ nay bơ vơ một mình, đã không còn thầy mà nương nhờ, mà cũng không còn em mà hủ hỉ.
Chừng nó xuống Chợ Gạo, bước vô nhà giấy xe lửa, thầy xếp ga chào mừng rồi lấy cái va-li, cây dù với hai cây đờn mà đưa cho nó, thì nó nhớ tới thầy nó, chừng đó nó mới khóc dầm dề. Thầy xếp ga dọn cơm cho nó ăn rồi mới mượn con thầy dắt chỉ giùm mả của thầy Ðàng cho nó thăm. Nó ra tới mà lạy bốn lạy rồi ngồi ôm núm mà khóc nghe rất thảm thiết. Nó khóc một hồi rồi đứng dậy, lau nước mắt, chắp tay đứng trước đầu mả mà vái lớn lên rằng: "Thưa thầy, con nhờ ơn thầy dạy bảo mấy năm nay nên ngày nay con mới biết đường ngay nẻo dại, con mới hiểu thế thái nhơn tình. Nay trời khiến giữa đường thầy trò ta phải xa nhau, con chẳng biết lấy chi mà tỏ lòng kính mến thầy. Vậy con xin lạy thầy bốn lạy mà tạ ơn. Con đứng giữa chốn này, trên có trời, dưới có đất, con nguyền lập chí như thầy, gặp việc phải làm dầu nát thân con, con cũng làm, gặp chuyện chẳng nên làm dầu làm được bạc ức bạc muôn con cũng chẳng thèm".
Thằng Ðược vái van xong rồi mới trở về nhà thầy xếp ga. Thầy hỏi nó vậy chớ bây giờ tính đi đâu. Nó suy nghĩ một hồi rồi thưa với thầy rằng: "Thưa thầy em chẳng có bà con chi hết, song em có một người mẹ nuôi ở dưới Xóm Tre. Lại thầy em hồi trước nuôi em với một đứa con gái tên là con Liên, khi tới Mỹ Tho thầy em cho con Liên cho bà Hội đồng Cần Thơ nuôi. Bà Hội đồng dắt nó đi Sài Gòn, vậy em tính lên Sài Gòn đặng kiếm coi gặp nó hay không".
Thầy xếp ga cầm nó lại một đêm. Nó đờn ca cho vợ chồng thầy nghe chơi rồi sáng mới giao đồ đạc rồi giao luôn cái đồng hồ bằng bạc với cái bóp của ông Ðàng cho nó nữa. Nó bỏ cái đồng hồ vào túi rồi dở bóp ra coi thì còn một đồng rưỡi. Nó móc trong túi nó ra mà đếm thì tiền riêng của nó còn được tám cắc bạc. Nó bỏ chung vô bóp, rồi đứng ngẫm nghĩ rằng: "Mình lên Sài Gòn không quen với ai, không biết cơm đâu mà ăn, chỗ đâu mà ngủ". Nghĩ như vậy nó mới móc bóp ra tám cắc bạc của nó mà lận lưng, rồi mở va-li bỏ cái bóp của thầy vô đặng gởi va-li với cây dù lại cho thầy xếp ga, tính xách hai cây đờn mà đi thôi. Thầy xếp ga cho nó một giấy xe lửa với một đồng bạc. Nó từ chối hoài không chịu lấy bạc. Vợ thầy theo ép quá túng thế nó phải lấy, song trong bụng tính thầm hễ chừng làm có tiền trở lại lấy đồ rồi trả đồng bạc cho thầy. Xe lửa dưới Mỹ Tho lên gần tới thổi xúp-lê nghe vang rân. Nó tử giã vợ chồng thầy xếp ga rồi vác hai cây đờn ra đứng chực mà lên xe.
Ai có đến kinh thành Sài Gòn cũng đều biết sở vườn Bồ Rô[3]. Mà có biết thì là biết sở vườn ấy rộng lớn, cây cao, cỏ tốt, ở phía sau dinh quan Toàn quyền đó mà thôi, chớ không rõ vườn ấy có phép mầu nhiệm là thế nào. Vườn Bồ Rô chẳng phải ban ngày mát mẻ, ban đêm thanh tịnh như mấy sở vườn khác mà thôi đâu nó lại còn có một tánh chất riêng nữa, là cũng đường sá quanh co đó, cũng cỏ cây thạnh mậu đó, mà người bận việc đi ngang qua thì nó chẳng hề chịu tỏ dấu chi làm cho người phải trìu mến rồi dừng bước mà ngắm cảnh động tình, nó đợi cho có người thung dung nhàn lạc vô đó ngói chơi nó mới chịu làm cho cảm hứng say mê, rồi khiến cho phải nấn ná dần dà ngồi hoài không muốn đi, mà chừng đi ra cặp mắt vẫn còn ngó lộn lại. Mà nó làm cho người thung dung khoan khoái bao nhiêu thì nó lại cũng có thể làm cho người sầu não càng buồn bã bấy nhiêu; ai trong lòng có việc buồn hễ vô tới đó thì cũng phải ngẩn ngơ, nên khó dở bước mà lui ra cho khỏi.
Thằng Ðược cách biệt Ba Thời đã bốn năm năm, trong lòng nó thương nhớ, nên khi nó nghe thầy Ðàng chết rồi thì trước hết nó tính trở về Mỹ Lợi đặng viếng thăm. Song nó tính như vậy rồi nó nhớ tới tên Hữu thì trong bụng nó lại buồn thầm, nghĩ vì về đó nó cực thân đã đành rồi, mà sợ má nó càng thêm nhớ tiếc thì càng tội nghiệp cho má nó nữa. Bới nghĩ như vậy nên nó mới quyết lên Sài Gòn mà tìm con Liên, bởi vì khi gặp bà Hội đồng thì bà có nói bà chở thằng con bà lên Sài Gòn đặng cầu danh y cho nó uống thuốc, vậy, nếu lên Sài Gòn mà tìm thì chắc là gặp Ðược.
Chẳng dè thằng Ðược lên tới Sài Gòn đi rảo khắp bờ sông thì không thấy ghe của bà Hội đồng; nó hỏi thăm nhà mấy danh y rồi đến chực trước cửa đón hoài mà cũng chẳng gặp. Nó kiếm ba bốn bữa, ăn xài đã gần hết tiền rồi, ban ngày thơ thẩn ngoài đường, ban đêm thì vô vườn thú hoặc vườn Bồ Rô mà ngủ. Bóng trăng chói mấy ngọn cây sáng rỡ, tiếng dế kêu trong đám cỏ rủ rỉ; gió lao rao mát mẻ vô cùng, vườn rậm rạp im lìm vắng vẻ. Nó nằm nhớ mẹ nuôi, thương thầy dạy, rồi lại nhớ tới con Liên, thì ứa nước mắt, lạnh trong lòng. Nó nhớ đủ hết rồi lại nghĩ tới thân phận của nó bây giờ trong lưng còn có vài cắc bạc mà lưu linh ở đất kinh thành Sài Gòn là chỗ không quen với ai, thoảng như hết tiền rồi mới liệu thế nào. Nó đương suy nghĩ bỗng nghe đồng hồ nhà thờ đổ mười giờ, nó lật đật móc túi lấy cái đồng hồ của thầy di tích mà xem có đúng hay không. Nó thấy đồng hồ của nó đã mười giờ năm phút. Nó vừa muốn vặn cây kìm trở lại cho đúng mười giờ, rồi nó lại nghĩ rằng: "Ủa, mà không chừng hay đồng hồ ở nhà thờ đi trễ. Có cái chi làm chứng rằng cái đồng hỗ treo trên một tòa nhà lớn đó đi đúng còn cái đồng hồ nhỏ ở trong túi nhà nghèo nầy đi sai đâu". Nghĩ như vậy rồi bỏ đồng hồ vào túi mà nằm, không muốn chịu sửa theo đồng hồ lớn.
Thằng Ðược vừa mới nằm một lát thì lại nghe có tiếng kèn thổi nho nhỏ phía trước đầu nó. Nó lồm cồm ngồi dậy ngó coi thì thấy có một đứa con trai mặc quần đen đương ngồi trên một cái băng gần đó lấy tay bụm miệng mà sao lại nghe ra tiếng kèn thổi. Nó lấy làm kỳ bèn ngồi mà nghe một hồi thì tiếng kèn lảnh lót mà nhịp nhàng lại chắc lắm. Nó bèn xách hai cây đờn đi lại cái băng đó đứng mà nghe cho tường tận. Nó thấy thằng con trai ấy vóc giạc to lớn, tay cầm một lá cây mà thổi chớ không phải là kèn. Nó để hai cây đờn dưới đất rồi ngồi mà nghe, tính làm quen đặng hỏi thử coi vì phép nào có một lá cây mà thổi ra hơi kèn được. Thằng con trai ấy cứ ngồi thổi hoài không thèm nói tới nó. Nó tức giận mà cũng muốn khoe nghề nên lấy cây kìm mà đờn theo, rồi hai đứa hòa với nhau luôn cho hết hai bản mới chịu nghỉ. Có hai thầy thông ngồi hai cái xe kéo chạy ngang thấy hai đứa hòa với nhau thì thích ý lắm nên ngừng lại mà nghe, chừng chúng nó dứt rồi hai thầy mới khen chúng nó và cho mỗi đứa một cắc bạc.
Thằng Ðược mới làm quen với thằng nọ, hỏi cách thế làm sao mà thổi lá cây ra tiếng kèn được, lần lần rồi mới hỏi tới tên họ nhà cửa. Thằng nọ thì nói ngọng nên nói khó nghe một chút, song nó cũng ráng cắt nghĩa cách thổi kèn cho thằng Ðược nghe. Nó lại nói nó tên Bĩ, mười sáu tuổi, gốc ở Bình Ðịnh. Khi nó vừa được mười tuổi thì cha mẹ chết hết, chú nó mới đem nó về nhà mà nuôi. Ở gần nhà chú nó có một người đờn hay thấy nó nói ngọng thì thương nên ra công dạy nó học đờn. Chừng nó được mười hai tuổi nó biết cây đờn cò rồi chú nó mới chở hết vợ con đem vào Sài Gòn mà làm mướn. Mấy đứa con của chú đều khôn lớn hết mà không có chút lòng nào yêu thương nó nên cứ theo xéo xắc giọt đầu bạt tai nó hoài. Nó tưởng vào Sài Gòn làm ăn nghề gì, chẳng dè chúng nó tới Sài Gòn mướn một căn phố lá ở phía trong cầu Rạch Bần mà ở rồi dạy mấy đứa con và dạy nó cách móc túi thiên hạ mà lấy tiền. Mỗi ngày nó phải đi với mấy đứa con của chú nó ra chợ Bến Thành rồi xẩn bẩn trong chợ hoặc mấy nhà giấy xe lửa rình mà móc túi. Nó có tánh nhát, sợ móc túi họ bắt được họ đánh rồi họ đem đến bót phải ở tù, nên bữa nào nó đi tay không về cũng tay không hoài. Chú nó đánh khảo và bỏ đói nó mà nó cũng không chịu làm cái nghề hiểm nghèo và nhơ nhuốc ấy. Nhưng vậy mà nó cũng muốn làm cho vừa lòng chú nó nên bữa nọ nó ra nhà giấy xe lửa Mỹ Tho nó thấy có một cái gói với một đờn cò để dựng vách tường mà không có ai coi chừng hết; nó cà rà một hồi rồi lén núm cây đờn cò mà đi. Nó nhờ cây đờn ấy và nhờ biết thổi kèn lá, nên nó kéo đờn thổi kèn cho họ nghe mà xin tiền. Mỗi ngày nó kiếm được đôi ba cắc đem về cho chú nó thì khỏi bị đòn, còn bữa nào năm bảy xu thì phải bị ít cũng vài bạt tai. Cách ba bữa trước, lúc tám giờ tối, nó mắc đi ra cầu Rạch Bần ngồi chơi, ở nhà lính kín đến vây nhà rồi bắt chú thím nó và mấy đứa con dắt hết đi xuống bót. Chừng nó trở về thấy đương lụi hụi trước nhà nó sợ bị bắt luôn nên ẩn mặt. Hồi chiều nó đi hỏi thăm thì họ nói tòa đã giam hết hai vợ chồng và mấy đứa con đợi tra xét xong xuôi rồi sẽ xử tội. Hổm nay nó lưu linh chớ không dám léo về nhà, nó bỏ cây đờn cò trong nhà mà cũng không dám trở về mà lấy.
Chương VII
Thằng Ðược thân đã lao đao lận đận, mà gặp thằng Bĩ nầy cũng chẳng sung sướng gì hơn thân nó, bởi vậy nghe hết đầu đuôi rồi thì trong bòng cảm động vô cùng. Nó kể hết chuyện của nó cho thằng Bĩ nghe rồi hai đứa nằm chung trên cái băng nhà ngủ.
Trời hừng sáng thiên hạ kẻ lại người qua nói chuyện om sòm. Thằng Ðược giựt mình thức dậy thấy thằng Bĩ còn ngủ ngáy pho pho, bèn lấy tay lúc lắc đầu nó mà kêu nó dậy. Nó thấy thằng Bĩ ngồi sật sừ nó tức cười rồi hỏi rằng:
- Mấy ngủ tử hồi hôm qua đến bây giờ chưa đã thèm sao mậy?
- Tao ưa ngủ lắm. Mà mầy kêu tao thức dậy làm giống gì bây giờ?
- Mầy ngủ hoài cơm đâu nầy ăn?
- Vậy chớ thức lại có cơm mà ăn sao. Lo giống gì, vậy chớ thuở nay tao có lo hồi nào đâu mà tao có đói bữa nào. Tao bứt một lá cây tao để vô miệng cũng đủ no bụng cần gì phải lo.
- Mấy ỷ tài quá! Ví như mầy lành mạnh không nói gì, thoảng mầy đau ốm bứt một lá cây cũng không nổi thì mấy lấy chì mà làm cho no bụng. Mà ở đời phải lo liệu thế nào dầu không hơn được thì ít nữa cũng phải bằng người ta, chớ mầy tính ăn ngoài chợ ngủ trong vườn hoài như vầy hay sao?
- Tao không cần hơn ai, mà cũng không sợ thua ai. Tao muốn có một điều là được thong thả tấm thân thì thôi.
Thằng Ðược liếc ngó thằng Bĩ một hồi rồi nói tiếp ràng:
- Nãy giờ tao nói chuyện tao biết tánh mầy ưa tự do. Tánh ấy hiệp với tánh tao lắm, mà tao coi bộ tướng mầy cũng là một đứa trung hậu. Mầy không cha, không mẹ, không anh, không em tao đây cũng trôi nổi một thân không biết ai mà nhờ cậy. Tao muốn hai đứa mình kết làm anh em nương đỡ dìu dắt nhau mà ở đời, không biết mầy có chịu hay không?
- Ðược lắm chớ.
- Mầy mắc có chú mầy đó thì làm sao mà đi với nhau cho được?
- Hại gì! Tao trốn luôn, tao không dám theo chú nữa đâu.
- Nếu vậy thì được. Thôi, để tao tính với mầy như vầy: Không biết mầy có tiền bạc chi hay không, chớ thiệt tao có một cắc bạc mà thôi, nhờ hai thầy hồi hôm cho một cắc nữa là hai cắc. Hai đứa mình ăn cơm một ngày nay nữa thì tiêu hết. Vậy tao muốn hai đứa mình đi dài theo mấy dãy phố có mấy thầy ở mình đờn cho họ nghe đặng kiếm tiền mà nuôi nhau. Mầy thổi kèn lá hay, mà lại biết đờn cò. Tao biết đờn hai, ba thứ mà lại biết ca. Nếu hai đứa mình hiệp với nhau mà đờn ca hoặc thổi kèn kiếm tiền dễ lắm.
- Ừ được.
- Tao còn lo một điều...
- Lo giống gì?
- Ăn cơm thì mình vô quán ăn quấy quá cũng xong, còn chỗ ngủ không biết tính làm sao...
- Vậy chớ cái vườn nầy để làm chi đó. Nếu thiên hạ có áp vô giành giựt chỗ hết thì còn sở vườn thú nữa chi. Nói cùng mà nghe như vườn thú có chật nữa thì mình lên trường đua, hoặc vô trong lăng ông Thượng cũng được cần gì mầy phải lo cho mệt.
Thằng Ðược nghe nói miệng chúm chím cười rồi hai đứa đứng dậy, mỗi đứa xách một cây đờn, nắm tay nhau mà dắt đi xuống chợ. Lại tới nhà giấy xe lửa nhỏ thằng Bĩ lấy cây đờn cò lên dây rồi ngồi đờn vài bản. Thằng Ðược đứng nghe ngón thì tươi, song nhịp không được chắc, tuy vậy mà nó cũng lấy làm vừa ý lắm, tính dạy giùm cho thằng Bĩ trúng nhịp thì ngón đờn của nó đó chắc cũng ít ai bằng.
Hai đứa nó dắt nhau đi rảo khắp Sài Gòn mà đờn ca. Mấy thầy mấy cô giành nhau mà rước, người cho ăn cơm kẻ cho ngủ đậu, mà ai ai cũng cho tiền, không có đêm nào mà hai đứa nó không kiếm được một đồng bạc, mấy đêm thứ bảy lại kiếm tới hai ba đồng. Tiền kiếm được bao nhiêu thì thằng Bĩ biểu thằng Ðược cất lấy, chớ nó không thèm giữ. Thằng Ðược thấy tiền dư nhiều mới đặt may mỗi đứa một cái áo bành tô[1] vàng với một cái quần vải đen, và mua cho thằng Bĩ một cái nón trắng đặng nó đội cho giống cái nón của mình.
Bữa nọ có một thầy thông làm việc tại tòa án rước chúng nó đến nhà chơi. Thằng Bĩ thừa dịp hỏi thăm mới hay chú thím nó với mấy đứa con đã bị tòa kêu án sáu tháng tù và trong án có lịnh cấm không cho ở Nam nữa. Bước qua đầu tháng chạp thằng Ðược đếm thử trong lưng nó đã có hơn bốn chục đồng bạc. Bữa nọ hai đứa nó ngủ đậu trước hàng tư nhà một thầy thông ở đường Bạc Hà, thằng Ðược mới nói với thằng Bĩ rằng ở Sài Gòn thiệt là vui mà lại dễ kiếm tiền, song nó nhớ má nuôi nó với con Liên lung quá, nên nó muốn về chợ Mỹ Lợi thăm má nuôi nó ít ngày rồi đi Cần Thơ kiếm con Liên. Thằng Bĩ nghe nói lấy làm mừng vì nó muốn đi xuống dưới mấy tỉnh đặng biết ruộng vườn chơi, song nó khuyên thằng Ðược ở nán ít ngày đợi lối rằm tháng chạp sẽ đi đặng về Mỹ Lợi ở ăn Tết luôn thể. Thằng Ðược bằng lòng ở Sài Gòn thêm vài tuần nữa. Ðúng ngày mười tháng chạp hai đứa nó mới dắt nhau mà đi, trong lưng thằng Ðược có bốn mươi ba đồng bạc. Chúng nó đi xe lửa xuống Phú Lâm cho thằng Ðược trả đồng bạc lại cho thầy xếp ga.
Vợ chồng thầy xếp ga thấy thằng Ðược thì mừng rỡ vô cùng; nó trả đồng bạc thầy không chịu lấy mà lại cầm nó ở lại chơi với thầy ít bữa. Ăn cơm rồi nó thì đờn còn thằng Bĩ thì thổi kèn cho thầy nghe chơi. Thằng Ðược nhơn lúc ấy mới dắt thằng Bĩ ra thăm mộ thầy Ðàng. Nó ngồi khóc kể nghe rất thảm thiết, làm cho thằng Bĩ là một đứa khờ khạo ngọng liu mà nó cũng phải động lòng rưng rưng nước mắt.
Qua ngày mười tám hai đứa nó muốn từ giã mà đi, vợ thầy xếp ga không cho, nói ngày mươi tám là ngày xấu, nên hai đứa ở nán lại một bữa nữa. Khuya mười chín vợ thầy xếp ga nấu cho hai đứa nó một nồi cơm, ăn rồi trời hừng sáng chúng nó mới lấy hai cây đờn, cái va-li và cây dù mà đi trở lên Chợ Lớn đặng đi ngã Cần Giuộc mà xuống Cầu Nổi.
Mặt trời mọc lên cao vừa được vài sào thì hai đứa nhỏ đã qua khỏi xóm Củi rồi hỏi thăm đường Cần Giuộc mà đi. Thằng Bĩ mạnh mẽ nên lãnh xách cái va-li với cây đờn cò còn thằng Ðược ốm yếu nên xách cây đờn kìm với cây dù. Mặt trời càng lên cao nắng càng thêm gắt. Thằng Ðược giương cây dù rồi biểu thằng Bĩ đi khít một bên nó đặng núp bóng dù.
Thằng Bĩ lắc đầu mà nói rằng: "Tao không sợ nắng đâu. Mầy che dù một mình mầy cho dễ, để tao đi ngoài nắng cho thong thả". Nói như vậy rồi thấy thằng Ðược ôm cây đờn kìm kình càng nên che dù bất tiện, nó lại đổi cho thằng Ðược xách cây đờn cò cho nhẹ. Thằng Ðược sợ bắt nó xách hết đồ nặng thì tội nghiệp cho nên dục dặc không muốn đổi mà nó không chịu, cứ giành ôm cây đờn kìm cho thằng Ðược hoài.
Vả thằng Bĩ tuy mạnh mẽ và lớn hơn thằng Ðược hai tuổi, song trí nó tối tăm, mà tánh nó cũng thiệt thà hơn, bởi vậy cho nên mấy tháng nay hai đứa nó kết làm anh em với nhau thì thằng Bĩ thường kính nhường thằng Ðược luôn luôn, thằng Ðược muốn việc nào thì nó làm theo việc nấy, chẳng hề khi nào nó cãi lẫy bao giờ. Ðã vậy mà nó thấy thằng Ðược nhỏ nhít nó lại thương, nên mọi việc cực nhọc như giặt quần áo, mua cơm, xách đờn nó giành làm hết thảy, thậm chí ban đêm ngủ đậu nơi nhà người ta nếu có một bộ ván thì nó để cho thằng Ðược nằm phía trong; nếu có một ghế bố thì nó cũng để cho thằng Ðược nằm, còn nó nằm dưới đất. Thằng Ðược biết tánh nó trung hậu, mà lại thấy bụng nó như vậy nữa thì thương nó vô cùng, bỡi vậy, cho nên tuy trong hai đứa thằng Ðược làm đầu, nhưng mà nó chẳng hề ỷ thế mà húng hiếp.
Hai đứa hễ đi được một khúc xa xa gặp bóng cây mát thì ngồi mà nghỉ chân. Ngó chung quanh đồng thì lúa chín đỏ lòm, có chỗ gặt rồi bụi ngã ngửa bụi ngã nghiêng, có chỗ chưa gặt, bông lúa cong vòng gió thổi lung lay dường như đợi trông chủ ruộng. Có chỗ lại lao nhao lố nhố kẻ gặt người mót, dựa bờ có người che dù ngồi xem chừng, tuồng như sợ người ta an tươi nuốt sống hết đám lúa của mình. Một lát nghe tiếng kèn le te rỏi thấy có một chiếc xe hơi đầy vập người ta đàng xa chạy tới. Thằng Ðược lật đật sập dù đứng dậy nói rằng:
- Úy! May dữ? Ðể kêu xe hơi dừng lại mình đi cho mau.
Thằng Bĩ nắm áo kéo ngồi xuống mà nói rằng:
- Ði xe hơi làm gì tốn tiền vô ích.
- Mình thiếu gì tiền mà sợ mậy?
- Dẫu có tiền nhiều lại xài tiền vô ích như vậy sao?
- Ði xe hơi khỏe chơn, chớ sao mà vô ích.
- Phải, ngồi trên đó thì khỏe chơn, mà tao sợ bể đầu.
- Mấy nhát quá!
- Không phải nhát.
Hai đứa đương cãi với nhau thì xe hơi đã chạy tới rồi chạy tuốt. Thằng Ðược mắt ngó theo còn bụng thì tiếc nên lầm bầm nói rằng:
- Mầy dại quá! Xe chạy tuốt rồi còn gì.
- Nó chạy đi đâu thì chạy chớ. Mầy biết tại sao mà tao không chịu đi xe hơi hay không?
- Không!
- Tại xe hơi là đồ của nhà giàu dùng.
- Sao mà mấy ghét nhà giàu dữ vậy?
- Tại tao nghèo.
Thằng Ðược lặng thinh không hỏi nữa mà bộ suy nghĩ lung lắm, rồi hai đứa mới xách đồ mà đi. Ði dọc đường thằng Ðược nhắc tới chuyện má nuôi nó với con Liên thì nó nói nhiều tiếng yêu thương trìu mến lắm. Thằng Bĩ mới nói rằng: "Mầy tuy không có cha mẹ mà mầy còn có người thương mầy, thảm cho thân tao cha mẹ chết hết rồi, bây giờ trên thế gian này chẳng có ai thương tao nữa hết". Thằng Ðược nghe lời than như vậy thì động lòng nên ứa nước mắt, đi khít lại che dù cho thằng Bĩ rồi đáp rằng: "Còn tao đây chi". Thằng Bĩ day lại ngó thấy cặp mắt ướt rượt thì cũng động lòng nên để đồ dựa lộ, rồi hai đưa núp bóng cây dù, lặng thinh không nói một tiếng mà trong lòng dan díu với nhau không kể xiết.
Ngồi một hồi rồi thằng Bĩ mới hỏi rằng:
- Mầy nói mầy thương má nuôi mầy với con Liên mà sao về thăm mầy không tính mua vật gì đem về mà cho?
Thằng được nghe hỏi như vậy liền ngước mặt lên mà đáp rằng:
- Mầy nói phải lắm. Tao về thăm, tao phải mua đồ đem về má cho mới phải. Tiền mình thiếu gì, như hết mình kiếm cái khác, sợ gì, mà mua vật gì?
- Mua bánh trái hay là áo quần, mua vật gì thì mầy liệu lấy chớ tao có biết đâu.
- Má tao ít ưa ăn bánh lắm. Thôi để tao mua một cái quần lãnh với một cái áo xuyến bông đặng má tao mặc đi xóm, chắc là má tao mừng lắm. Ý? Mà không được. Má tao có đời nào đi chơi mà mặc quần áo tốt. Nếu tao mua thì để mục chớ không có ích mà lại sợ ăn trộm lấy nữa, không thì ông già nuôi tao ổng cũng bán đặng ổng nhậu rượu. Ðể tao nhớ coi hồi trước má tao ưa những vật gì. Ừ phải! Má tao ưa nuôi heo lắm. Tao nhớ hồi trước má tao có nuôi một con heo quắn, tía tao bắt bán cho họ làm thịt má tao tiếc nên khóc hoài. Thôi, để tao mua cho má tao một con heo khác cũng giống như con heo quắn đó cho má tao nuôi, chắc là má tao chịu lắm. Cha chả! Mà không xong đâu mầy.
- Sao mà không xong?
- Con heo quắn hồi trước tía tao bán tới hai mươi tám đồng bạc. Nếu mình mua con khác giống như vậy mà cho thì hết tiền còn gì.
- Hết thì mình kiếm cái khác.
- Có kiếm thì mình trở lên Sài Gòn, chớ ở dưới ruộng mà liếm giống gì được.
- Bây giờ mình có tới bốn mươi ba đồng bạc nếu mình mua con heo hết hai mươi tám đồng thì mình còn mười lăm đồng chớ sao mà hết đi.
- Phải để đành tiền đặng đi Cần Thơ thăm con Liên nữa chớ.
- Ví như có hết thì mình đi dọc đường đờn ca kiếm tiền mà đi. Mấy sợ kỳ quá!
Thằng Ðược không nói nữa, rồi hai đứa xách đồ đi lần lần tới chợ Cần Giuộc thì mặt trời dã đứng bóng. Thằng Ðược móc túi lấy đồng hồ ra coi thi đã mười hai giờ tám phút. Hai đứa đói bụng nên dắt nhau vào quán ăn cơm, thấy cái đồng hồ lớn treo giữa quán, kim chỉ mười hai giờ rưỡi thì thằng Ðược trề môi mà nói rằng: "Lớn đó vậy mà đi bậy, có bằng nhỏ của tao đây đâu".
Hai đứa ăn cơm rồi mới dắt nhau đi vòng theo mấy nẻo đường xem chơi cho bỉết Cần Giuộc. Gần tết mấy tiệm buôn bán chưng hàng hóa hực hỡ, nào tượng liễu nào bông giấy nào chơn đèn, quả tử, nào bình phong lục bình, nào quần đỏ áo xanh, nào pháo, nào nhang, nào cam hồng dưa chuối, chẳng thiếu vật chi hết. Thằng Ðược thấy một tiệm có treo khăn trắng, khăn đen, khăn bông hường để cho đàn bà con gái đội, thứ nào cũng đẹp. Nó đứng trầm trồ chỉ cho thằng Bĩ coi rồi vô lựa mua một cái khăn màu bông hường với một cái khăn trắng, tính để cái khăn trắng cho má nó, còn cái khăn bông hường thì cho con Liên. Chị chủ tiệm thách giá mỗi cái hai đồng bạc. Hai đứa ke re trả tới trả lui đến một đồng bảy một cái họ mới chịu bán. Thằng Ðược mở va-li bỏ hai cái khăn vô rồi dắt nhau mà đi.
Chẳng biết đường bao xa, hai đứa thẩn thơ, khỏe thì đi, mệt ngồi nghỉ, đi đến năm giờ chiều mới xuống tới chợ Trạm. Thằng Ðược hỏi thăm thì họ nói từ đó xuống Cần Ðước còn xa, đi tới tối sợ cũng chưa tới. Hai đứa nó tính với nhau rồi mới đem đồ vô nhà việc[2] làng mà gởi và xin với người coi nhà việc cho ngủ đậu một đêm chờ sáng ngày mai sẽ đi. Gởi đồ rồi dắt nhau đi chơi. Ðến tối hai đứa nó chưa đói bụng nên không ăn cơm, mỗi đứa ăn một tô mì rồi trở về nhà việc tính ngủ cho sớm đặng khuya thức dậy sớm mà đi cho mát.
Người coi nhà việc thấy có hai cây đờn bèn hỏi coi hai đứa có biết đờn hay không mà xách đi đâu vậy. Hai đứa nó nói biết, người ấy biểu đờn ít chập nghe chơi. Hai đứa nó thấy người ta cho mình ngủ đậu, không lẽ mình không tỏ lòng cám ơn ngươi ta, nên ngồi lại lên dây rồi Bĩ cầm đờn cò, Ðược ôm đờn kìm, hòa với nhau nghe thâm trầm lắm. Cả chợ ngươi lớn trẻ nhỏ đều tựu lại trước nhà việc mà nghe chật nứt. Thầy giáo dạy tại đó, ham đờn kìm mà mới học quọt quẹt nghe tiếng đờn vợ chồng cũng dắt nhau lại đó đứng mà nghe.
Hai vợ chồng thầy giáo thấy hai đứa nhỏ mà đờn tươi thì trầm trồ khen hoài: chừng chúng nó nghỉ thầy bèn bước lại hỏi thăm rồi bèn rước chúng nó về nhà đờn chơi, lại biểu đem hết đồ đạc lại nhà thầy mà ngủ luôn thể. Lại nhà thầy giáo thằng Ðược còn trổ tài ca và thằng Bĩ trổ tài thổi kèn, ai nấy đi theo mà nghe thảy đều đẹp dạ. Thím giáo hối trẻ bắt gà làm thịt nấu cháo đặng khuya cho hai đứa nó giải lao. Hai đứa nó đờn đến mười hai giờ khuya, ăn cháo rồi mới ngủ.
Thằng Ðược đã tính khuya thức dậy đi cho sớm đặng khỏi nắng, mà bị ngày trước đi xa mệt mỏi, rồi lại bị thức đờn chơi nữa, bỡi vậy cho nên hai đứa ngủ quên sáng ngày sau đến bảy giờ mới thức dậy. Thằng Ðược đương ngồi trước cửa bưng tô nước súc miệng rửa mặt, bỗng thấy trước căn phố ngang nhà thầy giáo có con heo đen ột ệt đi lại qua, cũng lang mỏ, đuôi cũng bỏ qua phía tay mặt, giống hịt con heo quắn của Ba Thời nuôi hồi trước vậy. Nó kêu thằng Bĩ lại mà chỉ con heo cho thằng Bĩ coi, rồi đứng trầm trồ hoài, bụng muốn mua dắt về Mỹ Lợi mà cho má nó lắm.
Hai đứa nó đương bàn tính với nhau, thím giáo bước ra không rõ việc gì mới hỏi: "Hai em nói giống gì đó? Khoan đi đã, để qua mua đồ dọn ăn rồi sẽ đi".
Thằng Ðược chỉ con heo mà hỏi thím giáo rằng:
- Thưa thím không biết con heo đó của ai vậy thím há?
- Heo của thím Chảnh đa.
- Không biết mình mua họ bán hay không thím?
- Thím Chảnh, thím tính Tết nầy thím làm hàng đa. Nếu mình mua đúng giá thì thím bán, chớ để làm chi. Thím nuôi con heo thím tập nó dạn quá. Sắp con thím nó cột dây rồi dắt đi chơi tối ngày, dắt đi đâu cũng được, con heo khôn dữ lắm. Mà hai em muốn mua hay sao mà hỏi?
- Dạ, em muốn mua.
- Hai em mua làm gì?
- Dạ, mua đặng dắt về chợ Cầu Nổi mà cho má em nuôi.
- Hai em có tiền nhiều lắm hay sao mà tính mua con heo lớn như vậy.
- Không biết giá con heo đó chừng bao nhiêu thím há?
- Hôm trước các chú[3] cạo heo trên Cần Giuộc họ trả hai mươi chín đồng bạc mà thím Chảnh dục dặc không chịu bán đó đa.
- Nếu mình trả ba chục đồng bạc thì họ chịu bán thím há?
- Ờ nếu ba chục đồng bạc chắc họ bán.
- Vậy xin thím làm ơn trả mua giùm cho em. Cha chả! Mà không biết mua rồi dắt nó đi được không. Chớ nếu phải khiêng, thì hai đứa tôi khiêng sao cho nổi?
- Ðược, con heo nầy dạn lắm, dắt đi thủng thẳng thì được, không cần phải khiêng.
- Vậy xin thím trả rồi mua giùm cho em.
Thím giáo qua hỏi thì thím Chảnh đòi ba mươi hai đồng bạc, phải trả dục dặc một giây lâu mới chịu dứt giá ba chục đồng bạc. Thím về nói lại cho hai đứa nó hay. Thằng Ðược lật đật đếm ba chục đồng bạc đưa cho thím giáo rồi dắt nhau qua bắt con heo.
Thằng Ðược mua được con heo thì trong lòng mừng rỡ vô cùng. Nó mua một sợi dây dừa mà cột ngang nách con heo đặng có dắt đi cho dễ. Ðem về cột trước nhà thầy giáo thì nó rờ rẫm hoài. Con heo thiệt dạn, hễ gãi thì nó nằm ngay không cục cựa chi hết. Vợ chồng thầy giáo dọn cơm cho hai đứa nó ăn xong rồi, hai đứa nó mới từ giã mà dắt con heo đi. Thằng Ðược nắm dây đằng trước, còn thằng Bĩ thì đi theo sau coi chừng, hễ con heo dục dặc thì nó la chừng đặng đi cho mau. Thằng Ðược lấy làm đắc ý vô cùng, bởi vậy hễ đi trước thì ngoái lại ngó con heo mà nói rằng: "Ði, ráng đi nghe hôn em quắn. Ði về chợ Mỹ Lợi với qua. Bĩ ơi, hồi tao ở nhà má tao, tao ra đi với thầy tao thì tao có nói rằng chừng nào tao lớn khôn tao sẽ làm mà nuôi má tao. Nay tuy tao chưa lớn mà đã có thể cho má tao được một con heo như vầy thì tao đã khoái trong lòng rồi. Ðể rồi sau mầy coi, chừng tao làm giàu lớn thì tao sẽ làm cho má tao sung sướng lắm... Chắc tao về đây má tao vui lắm".
Thằng Ðược nói dứt lời rồi lại cất giọng lên mà ca hát om sòm. Thằng Bĩ thấy vậy cũng vui nên tiếp mà ca, nhưng vì nó nói ngọng nên nó ca thì thằng Ðược cười ngã nghiêng ngã ngửa. Hai đứa vừa đi vừa giỡn, mà lại bị con heo dục dặc nên đi không mau. Giỡn đã thèm rồi thằng Ðược lại nói rằng: "Tao về thăm má tao thì tao vui thiệt, mà tao nhớ tới tía tao thì tao buồn quá. Tao vái ông địa về đừng có tía tao ở nhà thì tao sẽ cúng một nải chuối".
Năm giờ chiều hai đứa mới xuống tới chợ Cần Ðước. Thằng Ðược tính ghé lại đó trước là kiếm cơm ăn và kiếm cám cho con heo ăn, sau nữa thăm vợ chồng cô Ba Sự và cho cô hay việc thầy Ðàng chẳng may bỏ mình nơi đất khách. Nó lại nghĩ thầm rằng vì bị mua khăn, mua heo nên trong lưng bây giờ còn có chín đồng bạc, vậy đêm nay ở tại Cần Ðước cũng nên đờn ca kiếm tiền thêm chút đỉnh nữa chơi.
Tính như vậy nên vừa vô tới chợ nó mới biểu thằng Bĩ đưa cây đờn kìm cho nó ôm rồi bứt lá cây mà thổi kèn đặng cho người ta hay hoặc may tối người ta có rước đến đờn cho họ nghe. Thằng Bĩ nghe lời thổi kèn om sòm. Sắp nhỏ đứa chơi ngoài đường, đứa đứng trong cửa, nghe tiếng kèn thì dòm ngó, chừng thấy hai đứa xách đồ kình càng thì lấy làm kỳ nên áp chạy theo la om sòm rằng: "Á, họ hát heo bây à! Ngộ quá, ngộ quá?". Con heo thấy sắp nhỏ chạy rần rần mà lại la vang rân thì kinh hãi nên vụt chạy. Thằng Ðược tình cờ nắm mối dây không chắc nên con heo sút chạy tuốt, Thằng Ðược với thằng Bĩ chạy theo, sắp nhỏ thấy vậy càng vỗ tay la lớn hơn nữa. Con heo chun tuốt vô tiệm bán hàng xén đụng mấy chồng tộ chén dưới đất bể hết bộn.
Hai đứa nó chạy tới áp vô tiệm nắm dây dắt con heo ra. Chủ tiệm cản lại, biểu phải thường tộ chén bể rồi mới được dắt con heo đi.
Lúc hai đàng dan ca với nhau sắp nhỏ ở chợ càng tựu đông hơn nữa. Lính gác chợ thấy vậy không biết chuyện gì, lật đật chạy lại vẹt sắp nhỏ bước vô tiệm mà hỏi. Chủ tiệm chỉ đồ bể cho chú lính xem rồi xin chú dạy hai đứa nó phải bồi thường hư hại. Chú lính thấy hai đứa nhỏ lạ mà lại có dắt con heo thì lấy làm kỳ nên bắt đem về quận cho quan Chủ quận tra vấn. Quan Chủ quận hỏi thì thằng Ðược thưa hết sự tình, nói rằng nó mua con heo của thím Chảnh ở chợ Trạm có hai vợ chồng thầy giáo ngó thấy và nó tình dắt về Mỹ Lợi mà cho má nó nuôi; nó ghé cần Ðước là vì muốn thăm cô Ba Sự, rủi con heo làm bể đồ của người ta thì nó cũng chịu thường, chớ không dám cãi.
Quan Chủ quận cho đòi Ba Sự đến nhìn coi có quen với hai đứa hay không và sai lính cỡi ngựa lên chợ Trạm mà hỏi thím Chảnh với vợ chồng thầy giáo xem thiệt hai đứa nó mua con heo ấy hay là bắt trộm của người ta. Ba Sự đến nhận thấy thằng Ðược liền hỏi: "Ủa! Mấy năm nay anh Hai tao ở đâu? Sao mầy lại về đây? Còn anh Hai tao bây giờ ở đâu ?" Thằng Ðược nghe hỏi thì buồn nghiến nên đáp nhỏ nhỏ rằng:
- Thầy chết rồi.
- Húy! Chết hồi nào?
- Chết đã ba tháng nay.
Ba Sự nghe nói tới đó liền la khóc om sòm làm cho thằng Ðược động lòng cũng khóc theo, còn ông Quận thì ngồi ngó trân trân không hiểu chi hết. Ba Sự hỏi thằng Ðược vì làm sao mà bị bắt. Thằng Ðược thuật sơ chuyện heo làm bể tô chén, Ba Sự mới xin ông Quận cho phép chị ta lãnh hai đứa nó về mà hỏi thăm chuyện riêng của anh. Thằng Ðược lấy ra một đồng bạc mà xin thường đồ bể cho chủ tiệm. Ông Quận đòi chủ tiệm vô thì chủ tiệm nói đồ bể đáng giá một đồng hai, mà vì sự rủi ro nên bằng lòng lấy một đồng bạc không đòi thêm làm chi nữa.
Hai đứa mới xách đồ và dắt con heo đi theo Ba Sự mà về nhà, thằng Ðược thuật hết đầu đuôi mọi việc từ ngày thầy nó ở Cần Ðước ra đi cho đến ngày chết cho Phan Hảo Tâm với Ba Sự nghe. Vợ chồng Hảo Tâm nghe anh gặp hoạn nạn cho đến ngày chết mà cũng không ấm thân thì tức tưởi trong lòng nên khóc kể thảm thiết: "Trời ôi ! Người có văn học, biết xa lánh đường cong nẻo vạy, đặng giữ lấy chút thanh liêm quyết chừa cãi những bại tục đồi phong đặng ập tánh nam nhi khẳng khái, người vậy mà trời chẳng thương, bắt thân phải lặn bụi vùi tro, xô thân cho mưa sa gió táp khiến cho đến giờ nhắm mắt cũng không được thấy quê quán, gặp anh em, trời ôi, trời làm như thế còn ai dám giữ bụng thanh liêm, còn ai dám gìn lòng chánh trực. Ví dầu trong mười năm anh tôi có quyền có thế mà có bức thiếp hiếp đáp người ta đi nữa, thì mười mấy năm sau chịu nghèo, chịu cực đó há chuộc tội chẳng rồi sao?".
Ba Sự muốn sai đứa lên nhà báo tin cho vợ thầy Ðàng hay; mà chồng không cho lại nói rằng: "Chị đó mà kể gì ai! Chớ chi mà chỉ biết tam tùng tứ đức thì anh Hai đâu có ra thân thể như vậy. Nay có cho chỉ hay thì bất quá chỉ làm bộ khóc nhíu nháo đặng che miệng thế gian, chớ chỉ có tình có nghĩa gì đó mà cho hay".
Tên lính ông Quan sai đi chợ Trạm về nói rằng thiệt thím giao có mua con heo của thím Chảnh giùm cho thằng Ðược, nên sáng ngày ông Quận cho đòi hai đứa ra rồi nói rằng: "Tao đã có cho lính đi dò thì thiệt là heo của bây mua, vậy thì bây thong thả muốn đi đâu tự ý. Mà bây giờ bây tính đi đâu?".
Thằng Ðược thưa rằng: "Bẩm ông, hai đứa tôi đi về chợ Mỹ Lơi". Ông Quận nói: "Bộ tướng bây đã dị kỳ mà lại còn dắt một con heo đi, ai thấy cũng phải nghi. Nay bây tính đi qua tỉnh khác vậy để tao cho một cái giấy đặng bây cầm mà đi khỏi ai nghi ngờ nữa".
Ông Quận viết một cái giấy chứng nhận rằng con heo đó là heo của hai đứa nhỏ mua trên chợ Trạm, ký tên đóng dấu rồi mới trao cho thằng Ðược cầm. Hai đứa nó thấy ông Quận này tử tế như vậy thì có ý mến thầm nên vòng tay cúi đầu xá hai ba xá rồi lui ra.
Ra đường thằng Bĩ cười mà nói với thằng Ðược rằng:
- Mầy tính ghé Cần Ðước kiếm tiền, té ra không kiếm được thêm, mà lại tốn của mình hết một đồng bạc nữa.
- Mầy đừng có tiếc. May lắm đa mầy. Hồi bị lính bắt tao tưởng chín đồng bạc với con heo kia tiêu hết kia chớ.
Trở về nhà Ba Sự, thằng Ðược mới giao va-li với cây dù của thầy Ðàng lại cho Ba Sự, còn cái đồng hồ với mấy cây đờn thì nó xin để làm dấu tích, thấy đồ đó cũng như thấy thầy.
Ðến trưa nước lớn đầy, có người ở lối xóm chèo ghe qua chợ Mỹ Lợi mà thăm bà con, thằng Ðược hỏi xin cho quá giang. Người ấy chịu, nó mới cậy họ khiêng giùm con heo bỏ xuống ghe rồi từ giã vợ chồng Hảo Tâm ôm mấy cây đờn mà qua sông Bao Ngược.
Chương VIII
Lối năm giờ chiều, gió thổi hiu hiu, hai hàng dương trồng hai bên đường từ Mỹ Lợi vô Gò Công nhánh oặt òa, oặt oại dường như ngoắt khách qua đường tỏ niềm tâm sự, hay là hỏi người lạ mặt coi bươn bả đi đâu. Ai hữu tình háo cảnh đến lúc ấy mà đi qua khúc đường đó thì cũng đều cám cánh mà hớn hở trong lòng. Thằng Bĩ tuy là đứa ngọng liu lờ khờ mà nó đi đến đó cũng vui thầm nên miệng ngậm một lá cây mà thổi tò te, tay ôm cây đờn kìm cũng khảy tồn tên, còn hai chơn cũng nhảy lăn ba làm cho con heo thằng Ðược dắt đi trước giựt mình nên chạy lom xom không dám in dục dặc.
Thằng Ðược hồi qua tới Mỹ Lợi nó hỏi thăm thì họ nói tía nó đã bỏ vợ mà đi mất mấy năm nay, nên trong lòng nó mừng thầm, lật đật đi riết về Xóm Tre đặng mẫu tử đoàn viên mà kể hết những lúc gian truân, những hồi thương nhớ. Nó lầm lũi mà đi trong bụng tính thầm coi phải liệu thế nào mà dắt con heo vô nhà má nó đừng ngó thấy rồi thình lình con heo kêu ột ột cho má nó giựt mình chơi. Nó đương suy tới nghĩ lui rồi lại chăm mắt mà ngó vào Xóm Tre coi nhà má nó ở chỗ nảo, bỗng nghe thằng Bĩ đi sau thổi kèn khảy đờn nó day lại bắc tức cười rồi kêu mà chỉ rằng: "Bĩ cái nhà ở đầu xóm phía ngoài ló nóc mình ngó thấy đó đa". Hai đứa cúi xuống khỏi nhánh dương mà dòm rồi cười với nhau cấm cắc như đứa điên với đưa khùng trửng giỡn.
Ði tới đầu bờ nhỏ vô xóm, thằng Ðược khấp khởi trong lòng đi không vững bước, mà lại hai con mắt cứ chăm chỉ ngó chừng nhà hoài không coi dưới chơn, nên láng cháng vấp lỗ chơn trâu té lăn cù, văng nón dưới ruộng, mà may cây đờn cò khỏi gãy. Vô gần tới sân nó mới nắm con heo mà ngồi núp dưới bụi cây trâm bầu, rồi biểu thằng Bĩ đi thẳng vô nhà nói với má nó rằng: „Có một người giàu lớn nghe thím nghèo nên đem bạc tiền đến cho thím, vậy thím phải đi ra mà rước".
Thằng Bĩ nghe lời đi thẳng vô nhà kêu om sòm mà không nghe tiếng trả lời. Nó đi tuốt vô buồng thấy vắng hoe, đi thẳng xuống bếp rồi bước ra cửa sau cũng không thấy ai hết. Nó lật dật chạy ra sân mà kêu: „Ðược ơi! Ðược! Không có ai ở nhà hết mầy à!". Thằng Ðược dắt con heo đi vô trong bụng lấy làm kỳ, không hiểu má nó bỏ nhà mà đi đâu. Nó ngó quanh quất thì thấy cái chuồng vịt cũng còn đó trong chuồng lại nghe tiếng vịt kêu lạp cạp như năm trước, hồi nó còn nhà. Vô nhà nó coi đồ đạc cũng như cũ, duy có thêm một cái cối giã gạo với một cái võng mà thôi. Nó ra sau bếp thì thấy có nồi cơm còn ở trên đầu ba ông táo, lửa đã tắt mà than còn ngủn nóng hổi.
Nó trở ra thấy thằng Bĩ nằm tòn ten trên võng mà gãi con heo nó mới nói rằng: „Chắc là má tao đi chơi đâu lối xóm đây. Nồi cơm nấu mới vừa chín, chắc là một lát về ăn cơm chớ không lâu đâu. Mầy nằm đó nghe hôn. Ðể tao trốn, như má tao về có hỏi thì mầy giả đò ngủ, đừng thèm nói gì hết". Thằng Ðược dắt con heo vô buộc dưới giường rồi trở ra thấy dạng má nó đã vô gần với sân. Nó lính quýnh không biết đâu mà trốn cho kịp, bèn núp dựa cửa chờ. Ba Thời vừa bước vô nó nhảy ra hà một tiếng lớn. Ba Thời giựt mình la bài hãi. Thằng Ðược ôm Ba Thời chặt cứng mà nó rằng: „Con về đây nè, má vui hôn? Mừng hôn hử?". Rồi nó lại vỗ túi mà nói: „Bây giờ con không thiếu gì bạc, má không nghèo cực nữa đâu, đựng lo".
Ba Thời ôm con vừa khóc đưa nói:
- Con đi năm sáu năm nay má nhớ con hết sức mà má cũng lo sợ không biết con mạnh giỏi thế nào. Sao con không mượn người ta viết thơ rồi gởi thăm má vậy con?
Thằng Dược nắm tay Ba Thời mà đáp rằng:
- Con biết chữ giỏi lắm má à. Có nhiều khi con muốn viết thơ mà ngặt không biết làng mình đây là làng gì nên không gởi thơ được.
- Làng Bình Thạnh Ðông chớ làng gì.
- Trời ôi! Con có biết đâu. Má nói làng nầy là làng Bình Thạnh Ðông phải hôn má?
- Ừ.
Hai mẹ con lăn líu với nhau một hồi, rồi Ba Thời day lại thấy thằng Bĩ nằm trên võng không biết nó là ai mới hỏi:
- Thằng em đây ở đâu...?
- Anh em bạn của con đó má à. Nó đi theo con về thăm má cho biết.
- Mấy năm nay con đi đâu, má hỏi thăm thì bên Cần Ðước họ nói họ không biết. Còn con ở đâu mà về đây. Ủa! Mà bộ con đói bụng, thôi để má nấu thêm cơm đặng con ăn chớ.
Ba Thời vừa xây lưng đi vô bếp thì thằng Ðược kêu mà nói rằng:
- Má, má, ai ở trong buồng đó vậy má?
- Ai đâu?
Ba Thời dòm vô buồng không thấy ai hết, mà lại nghe tiếng heo kêu ột ột dưới giường thì lấy làm lạ mới bước vô. Con heo vùng đứng dậy. Ba Thời giựt mình la lớn rằng: "Húy! Con heo của ai đó vậy?". Thằng Ðược đứng ngoài vỗ tay cười ngất và nói rằng: "Hồi trước tía bán con heo quắn của má, con kiếm mấy năm nay mới được nên dắt về cho má đó đa. Má coi có phải hay không?".
Lúc ấy trời chạng vạng tối nên trong buồng thấy mờ mờ không rõ, Ba Thời mới đốt đèn rọi coi con heo thì lấy làm mừng rỡ vùng nói lớn rằng: "Phải rồi, heo con mua ở đâu vậy con?".
Thằng Ðược lấy làm toại chí đứng chống nạnh vinh mặt mà đáp rằng: "Con mua bên chợ Trạm đem về cho má đó đa". Ba Thời để đèn dưới đất ôm con mà hun trơ hun trất, rồi nói rằng: "Con tôi thiệt đáng quá!"
Ba Thời lấy cám sú cho heo ăn rồi đi vo gạo nấu cơm. Thằng Ðược với thằng Bĩ chạy ví bắt một con gà giò đặng làm thịt. Thằng Ðược biểu thằng Bĩ phụ nấu cơm với Ba Thời, còn nó chạy vô thăm cậu Hai mợ Hai nó. Quá nửa canh một, cơm nước xong rồi, thằng Bĩ leo lên võng nằm ngủ ngáy pho pho.
Thằng Ðược lấy khăn mua trên Cần Giuộc mà cho Ba Thời rồi mẹ con nằm tại bộ ván giữa mà kể hết những hồi hoạn nạn, những lúc nhớ thương trong mấy năm ly biệt. Ba Thời nghe thằng Ðược thuật đến lúc thảm thiết nhất là lúc thầy Ðàng bị bắt giam tại Trà Vinh, lúc nằm nhà thương Chợ Rẫy và lúc linh đinh ở Sài Gòn thì động lòng thương nên nước mắt dầm dề. Tháng Ðược thuật hết chuyện của nó rồi nó mới hỏi tới chuyện của má nó ở nhà giàu nghèo ấm lạnh thế nào, rồi lại hỏi thăm luôn tới chuyện tía nó nữa. Ba Thời nằm to nhỏ mà kể hết chuyện nhà cho con nghe, nói rằng từ khi con ra đi rồi thì chị ta ở nhà buồn rầu không xiết kể, ngày như đêm cứ nằm gác tay qua trán mà thở ra hoài. Chồng xài hết mấy chục đồng bạc bán heo, rồi hai chục đồng bạc của thầy Ðàng cũng làm tiêu luôn nữa. Chị ta lớp thì nhớ con, lớp thì túng tiền nên theo phàn nàn với chồng hoài, biểu chồng phải lo làm ăn, mà chồng lửng đửng lờ đờ như kẻ ở một nơi mà lo một nơi, ở được vài tháng rồi vác dù mà đi nữa. Mấy năm nay chồng không về thăm lần nào. Chị ta ở nhà một mình lo củi đục làm ăn, bởi vậy cho nên tuy trong nhà không dư dả song cũng không thốn thiếu. Năm ngoái chị ta nghe họ nói có gặp chồng ở làm ruộng dưới Cần Thơ. Hôm tháng trước chị ta có tiếp được một bức thơ của chồng gởi về, chị ta có mượn thầy giáo coi giùm thì thầy giáo nói rằng chồng bây giờ ở dưới kinh Xà No biểu chị ta như có nghèo thì bán nhà đi xuống dưới mà ở. Ba Thời nói tới đó thì ngồi dậy thò tay vào túi móc bức thơ ra dưa cho thằng Ðược coi. Thằng Ðược thấy bức thơ có mấy hàng chữ mà thôi nên đưa gần đèn mà đọc:
Xà No, le 15 Décembre 19...
Tao gởi lời về thăm mầy được mạnh giỏi. Tao ở dưới nầy bình an như thường. Năm nay tao làm ăn cũng khá khá. Như mầy có nghèo lắm thì bán cái nhà lấy bạc đi qua Mỹ Tho rồi ngồi tàu mà xuống đây.
Mà nếu mầy đã có nơi nào khác rồi thì phải gởi thơ cho tao biết. Nói giùm tao gởi lời thăm anh Hai chị Hai và bà con lối xóm hết thảy.
Hữu ký.
Thằng Ðược đọc thơ rồi bèn ngó Ba Thời vừa cười vừa nói rằng:
- Sao? Má tính đi xuống dưới hay không?
- Ði làm chi.
- Má không đi đây chắc tía nghi má có chồng khác đa.
- Ối! Nghi thì nghi chớ hại gì,
Thằng Ðược ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng:
- Ừ mà thôi, đừng có đi má. Má cứ ở nhà đây, con làm con nuôi má. Con đờn ca giỏi lắm, con kiếm tiền dễ như chơi.
- Nầy con, từ hồi chiều đến bây giờ má quên nói chuyện cho con nghe.
- Chuyện gì?
- Con đi mấy năm nay vậy mà có ai nhìn con không?
- Không.
- Nầy, lóng trước có một chuyện nầy má lấy làm kỳ lắm con.
- Chuyện gì vậy?
- Hôm trước ông Hương Sư đi bán lúa trên Bình Ðông, rồi ổng ra Sài Gòn mua đồ. Tối lại ổng đi xem hát gặp một thầy thông, hai người làm quen với nhau rồi thầy thông hỏi ổng đi đâu. Ổng nói ở làng Bình Thạnh Ðông thuộc tỉnh Gò Công. Thầy thông mới hỏi ổng vậy chớ bình Thạnh Ðông mà có biết người đàn bà nào tên là Ba Thời hay không. Ổng nói biết rồi hỏi thầy thông vậy chớ hỏi thăm Ba Thời làm chi vậy, Thầy thông mới nói rằng có một người giàu có lớn hồi trước lạc mất hết một đứa con trai đến cậy thầy tìm giùm. Thầy hỏi thăm thì nghe họ nói Ba Thời ở Bình Thạnh Ðông có xí được đứa nhỏ ấy. Thầy muốn tìm đến nhà mà chuộc lại, song không biết có quả như vậy hay không nên thầy chưa dám đi. Ông Hương Sư mới nói với thầy rằng ổng có nghe nói Ba Thời hồi trước có nuôi một đứa con nuôi tên là thằng Ðược mà vì nhà nghèo nuôi không được nữa nên đã bán cho người khác, họ dắt đi mất đã bốn năm nay rồi. Bữa hôn ông Hương Sư về có nói chuyện lại cho má nghe, song má không biết con đi đâu nên má không để ý đến cho lắm.
- Vậy mà ông Hương Sư có nói thầy thông đó tên gì nhà ở đâu hay không?
- Có, ổng nói thầy thông đó tên Lợi, nhà ở đường Cầu Quan.
- Nếu vậy để con lên Sài Gòn con kiếm thầy.
Thằng Ðược tính ở chơi vài bữa rồi trở lên Sài Gòn. Ba Thời không cho, nói rằng đã cận Tết rồi, nếu có muốn đi thì để ăn Tết rồi sẽ đi. Thằng được nghe lời nên không đòi đi gấp nữa.
Ðêm ấy thằng Ðược nằm thao thức hoài ngủ không được. Từ ngày nó biết Ba Thời không phải là mẹ ruột nó rồi, hễ ai hỏi đến cha mẹ nó thì trong lòng nó lấy làm bứt rứt xốn xang, thầm tủi thân không mẹ không cha, cứ hỏi riêng trong bụng hoài vậy chớ mẹ mình có chửa hoang mà đẻ mình rồi sợ tiếng xấu hay sao nên bồng mà bỏ đi, hay là cha mẹ mình nghèo lắm không thể nuôi được nên mới bỏ mình như vậy. Nó suy đi nghĩ lại, bàn tới tính lui hoài mà cũng không hiểu tại sao mà thân phận nó lao đao như thế. Có khi nó nằm đêm buồn bực ước thầm trong bụng nó rằng, nếu có ai nhìn nó làm con dầu người ấy tàn tật nghèo hèn nó cũng hết lòng mà kính thờ yêu mến. Nay thình lình nó nghe nói có cha mẹ kiếm nó, mà cha mẹ nó là người giàu có lớn nữa thì tự nhiên trong bụng nó khấp khởi vui mừng. Nó nằm tính thầm lăng xăng, tính hễ tìm được cha mẹ rồi thì rước mẹ nuôi về ở chung một nhà cho hết cực khổ, bắt thằng Bĩ phải ở với mình đặng đờn ca chơi cho vui, lại đi xuống Cần Thơ kiếm cho được con Liên đem về ở chung một nhà nữa. Nó lại tính cũng đi Trà Vinh mà đền ơn cô bán thơm cho mình ở đậu máy ngày, rồi về chợ Gạo thăm thầy xếp ga và mua cho thầy một đôi giày vàng với một cái nón nỉ thiệt tốt.
Qua ngày hai mươi tám thằng Ðược đưa cho má nó năm đồng bạc biểu đi chợ mua đồ về ăn Tết. Ba Thời không chịu lấy, nó theo nài nỉ hoài, nói rằng rồi đây cha mẹ nó có nhìn, nó có thiếu gì bạc tiền, nên cực chẳng đã phải lấy hết hai đồng bạc. Ba Thời đi chợ Gò Công mua dưa, cải, cam, hồng; còn thằng Ðược với thằng Bĩ dắt nhau đi chợ Mỹ Lợi, thằng Ðược muốn mua vài đồng bạc pháo về đốt chơi, thằng Bĩ cứ cản trở hoài nói rằng tiền làm ra không phải là dễ mà đem đi mua những đồ vô ích như vậy. Thằng Ðược nói: "Tết rồi đây tao lên Sài Gòn kiếm tía tao, tao thiếu gì tiền mà lo mậy". Thằng Bĩ cười gằn mà nói rằng: "Mầy mới gần giàu mà mầy đã quên lúc nghèo rồi há". Thằng Ðược nghe nói mấy lời thì hổ thầm nên buồn hiu, rồi hai đứa dắt nhau đi về không mua một vật chi hết.
Từ bữa thằng Ðược nghe nói cha mẹ ruột nó kiếm, thì trong lòng nó mừng đến đỗi lộ ra ngoài mặt, tối ngày nó giỡn trững nhảy nhót hoài, chớ không phải tề chỉnh như hồi trước. Thằng Bĩ nghe nói rằng tía thằng Ðược giàu có, ăn Tết rồi sẽ nhìn nó, nghe thì nghe thấp thố thấp thưởi mà thôi, không rõ người ở đâu nhưng mà nghe như vậy rồi nó lại buồn nên có đêm thằng Ðược muốn hòa đờn chơi, nói hết sức mà nó cũng không chịu đờn.
Tối mùng ba Tết thằng Ðược biểu thằng Bĩ gói quần áo với hai cây đờn cho sẵn rồi khuya thức dậy mà đi cho sóm. Ba Thời mới lấy ra một gói đồ đưa cho nó mà nói rằng: "Ðồ nầy là đồ của con mặc hồi má xí được con đó, con nghĩ có nên đem theo cho họ nhìn cho dễ hay không". Thằng Ðược ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi biểu má nó cất, bởi vì nó đi lưu linh sợ đem đồ ấy theo rủi mất thì khó lắm, chi bằng để ở nhà như nó gặp cha mẹ rồi, mà cha mẹ nó còn nghi thì nó sẽ dắt xuống mà lấy.
Khuya Ba Thời dọn cơm cho hai đứa nó ăn rồi, thằng Ðược muốn để lại ít đồng bạc, Ba Thời không chịu lấy, biểu đem theo mà làm lộ phí, bởi vì lên Sài Gòn không biết có tìm được liền hay không. Hai đứa nó ra đi thì trong mình còn được hơn sáu đồng bạc. Hai đứa ra chợ đón xe hơi mà đi, Thằng Bĩ không biểu đi bộ nữa, song nó buồn lắm, ngồi tại đầu cầu Nổi mà chờ xe không nói chuyện chi hết. Thằng Ðược thấy vậy mới kiếm thế mà ghẹo cho vui nên hỏi rằng:
- Sao mầy buồn dữ vậy mậy?
- Vui sao được mà mầy biểu vui.
- Sao vậy?
- Tao làm anh em với mầy, tao tưởng mầy mồ côi và nghèo hèn như tao, có dè ngày nay mầy được giàu có ở đâu.
- Thằng khéo nói kỳ hôn! Nếu tao được giàu thì mầy cũng sung sướng với tao, chớ phải tao giàu rồi bỏ mầy hay sao mà mầy buồn.
- Tao sợ miệng mầy nói như vậy mà bụng mầy không được như vậy chớ.
- Tại sao mầy sợ?
- Tao thấy một chút nầy thì tao biết bụng mầy rồi. Mấy tháng nay mầy với tao lưu linh đi kiếm ăn, mầy thường nhắc nhở con Liên hoài, mầy nói thương nó như em ruột mầy vậy, mầy tính hễ về thăm má mầy rồi thì đi kiếm cho được nó. Hổm nay mầy nghe nói cha mẹ mầy là người giàu có lớn đương tìm kiếm mầy thì mầy mừng, mầy quên con Liên, không nghe mầy tính đi thăm nó nữa. Rất đỗi con Liên mầy thương nó lắm mà chưa giàu mầy đã quên nó rồi, huống chi là tao mà mầy kể gì.
- Mấy nói tức quá! Tao có quên con Liên bao giờ? Ðể tao đi tìm được cha mẹ tao rồi tao sẽ đi kiếm mà rước nó về tao nuôi nó chớ. Tao có quên anh em thì trời đừng để mạng tao.
- Hai đứa vừa nói chuyện tới đó thì xe hơi đã ra tới, nên lật đật xách đồ xuống đò đặng ngồi xe lên Chợ Lớn.
Xe hơi lên tới kinh Xóm Củi hai đứa nó mới xách đồ đi qua Chợ Lớn đặng ngồi xe lửa mà ra Sài Gòn. Qua tới nhà giấy xe lửa nhỏ hai đứa ngồi chờ xe thấy có một ông thầy tướng đương ngồi coi tay cho họ. Thằng Ðược đứng coi một hồi móc ra hai cắc bạc đưa cho thầy tướng mà coi giùm cho nó thử xem mạng vận nó ngày sau thể nào. Thầy coi hết hai tay rồi mới nói nó là con nhà giàu, tuy từ hồi nhỏ đến bây giờ lận đận lao đao, không được ở chung với cha mẹ, song năm nay thời vận đã banh thông rồi chẳng bao lâu nữa thì mẫu tử tương phùng, anh em sum hiệp. Thằng Ðược nghe thầy tướng đoán như vậy thì mừng không biết chừng nào, cứ theo khen hay hoài và tốn hai cắc bạc thiệt đáng lắm. Nó biểu thằng Bĩ coi thì thằng Bĩ lắc đầu mà nói rằng: "Coi làm gì mậy. Tao không ham giàu mà cũng không buồn. Tao có cần gì mà phải coi tướng mạng".
Hai đứa ra Sài Gòn tìm đường Cầu Quan mà hỏi thăm nhà thầy thông Lệ. Nhờ có một bà già chỉ giùm nên hai đứa nó mới tìm được. Bước vô nhà thì thấy nhà dọn hực hỡ, trong có treo kiếng lớn, giữa có để bàn mặt đá, có ghế xích đu, hai bên có tủ áo, tủ rượu đủ hết. Trên cửa buồng lại thấy có treo một tấm hình bán ảnh của một người đàn ông độ chừng bốn mươi lăm tuổi, mặc áo dài bịt khăn đen, hai hàm râu thưa thớt mà lại vắn. Có một người đàn bà chừng bốn mươi tuổi ở phía sau, thấy hai đứa nó xớ rớ trước cửa thì bước ra hỏi chúng đi đâu. Thằng Ðược thưa rằng nó đi kiếm nhà thầy thông Lợi, họ chỉ lại đây mà không biết có phải hay không. Người ấy nói phải rồi hỏi nó vậy chớ có việc chi hay sao mà kiếm. Nó nói có việc cần. Người đàn bà ấy mới biểu hai đứa ngồi trước cửa mà chơi, đợi chút nữa thầy sẽ về.
Thằng Ðược với thằng Bĩ ngồi chờ tới mười một giờ rưỡi thì thấy có người ngồi xe kéo mà về, người ấy độ chừng bốn mươi tới bốn mươi hai tuổi, mặc đồ tây, đi giày vàng, đội nón xám. Người ấy bước vô thấy hai đứa liền hỏi chúng nó đi đâu. Thằng Ðược khoanh tay thưa rằng:
- Bẩm thầy, tôi tên Ðược, con nuôi của Ba Thời ở làng Bình Thạnh Ðông, thuộc hạt Gò Công. Mấy năm nay tôi mắc đi theo thầy tôi, hôm Tết nầy tôi về thăm má tôi thì má tôi có nói rằng lúc trong năm có ông hương Sư ở trong làng đi Sài Gòn ổng gặp thầy và thầy có nói với ổng rằng tôi là con nhà giàu, song tôi lạc cha mẹ từ hồi nhỏ tới bây giờ nay cha mẹ ruột tôi đòi kiếm mà nhìn tôi. Vậy tôi đến đây lạy thầy xin thầy làm ơn chỉ giùm cha mẹ tôi nhìn cho dễ.
- Té ra mầy tên Ðược hay sao?
- Daï.
- Böôùc voâ ñaây.
Thầy Lợi vô nhà và hai đứa nó cũng vô theo. Hai đứa nó đứng xứ rớ dựa cánh cửa, thầy Lợi móc nón trên đầu nai rồi ngó thằng Ðược và ngó tấm hình trên cửa buồng, dường như nhìn coi nó có giống người trong tấm hình ấy hay không. Thầy ấy ngồi vấn thuốc hút và suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: „Bây giờ tao không rảnh, mà chiều nay tao còn đi làm việc. Vậy thôi mầy đi chơi đi, để chiều chừng năm sáu giờ mầy lại đây rồi tao sẽ dắt giùm mầy đến nhà cha mẹ mầy".
Thằng Ðược với thằng Bĩ xá thầy Lợi rồi bước ra. Thằng Ðược hân hoan đắc ý.
Ðúng năm giờ chiều hai đứa nó trở lại đứng chực trước nhà. Cách nửa giờ thầy Lợi đi làm việc về chỉ thằng Bĩ mà hỏi thằng Ðược rằng:
- Mầy tên Ðược còn thằng nầy tên gì, nó đi theo mấy chi vậy?
Thằng Ðược thưa rằng:
- Bẩm thầy, thằng nầy tên Bĩ, nó là anh em bạn của tôi, mấy tháng nay hễ tôi đi đâu thì nó theo đó, chẳng hề rời nhau.
Thầy Lợi nghe nói châu mày rồi gật đầu nói ràng:
- Ừ, nó muốn theo mấy cũng được. Mà bây ăn cơm rồi chưa?
- Thưa ăn rồi.
- Ờ, thôi bây vô đây ngồi chơi, chờ tao một chút rồi sẽ đi.
Thầy Lơi ăn cơm rồi mới biểu đứa ở trong nhà chạy đi kêu một xe kiếng[1]. Thầy mở cửa xe lên ngồi phía sau, rồi biểu hai đứa nó lên ngồi phía trước. Xe chạy một hồi rồi qua một cái cầu dốc cao lắm, thằng Ðược day qua hỏi thằng bĩ rằng: "Cầu nầy tên cầu gì mậy?". Thằng Bĩ nói: "Cầu Khánh Hội". Xe chạy qua khỏi cầu xuống hết dốc quẹo qua phía tay trái, chạy một chút nữa rồi lại quanh qua phía tay mặt. Thằng Ðược ngồi ngó hai bên đường hễ thấy cái nhà nào tốt thì trong bụng nó tưởng thầm là nhà của cha mẹ nó. Khỏi mấy cái nhà tốt rồi lần lần còn thay nhà lá nhỏ nhỏ mà thôi. Xe chạy tới mé kinh, thầy thông Lợi biểu người đánh xe ngừng lại rồi mở cửa bước xuống. Hai đứa nó cũng xuống theo; thầy Lợi mới dắt chúng nó đi vô một cái đường nhỏ, cỏ rác dơ dáy, mà lại trời tối đen nên khó đi lắm.
Ði qua khỏi hai cái nhà lá nhỏ rồi tới một miếng đất trống, thấy có một chiếc ghe hư đẩy lên để đó mà sửa lại. Trước mũi ghe có một cái ụ ở ngoài mé kinh chạy vô tới đó thì cùng. Cách cái ụ ghe chừng vài chục thước thì có một cái nhà lá nhỏ trong nhà đèn đốt leo lét, có trẻ nhỏ hai ba đứa chạy ra chạy vô lăng xăng. Thằng Ðược đi tới chỗ chiếc ghe đó, nó dòm tứ phía không thấy có cái nhà nào tử tế thì trong bụng nó nghĩ thầm chắc là thầy nầy đi mướn ghe mà đưa mình về nhà cha mẹ, chớ không lẽ cha mẹ mình ở chỗ dơ dáy nghèo hèn như vậy. Bởi nó nghĩ như vậy nên khi đi tới cái nhà lá nhỏ có đốt đèn leo lét đó, thầy Lợi bước vô nhà thì nó đứng ngoài sân với thằng Bĩ chớ không chịu vô.
Thầy Lợi nói nhỏ nhỏ ít tiếng với mấy người trong nhà, hai đứa nó đứng ngoài nghe không được, rồi thầy bước ra ngoắt thằng Ðược mà biểu rằng: "Vô đây cháu". Thằng Ðược xâm xâm đi vô, thằng Bĩ cũng xách hai cây đờn với gói áo quần cũng men đi theo sau. Bước vô nhà thấy có một người đàn ông, tuổi chừng bốn mươi, bộ vạm vỡ, không có râu, mà tóc lại hớt cụt, mặc quần lãnh đen lưng xanh buộc một sợi dây nịt da ngang qua bụng, choàng một cái áo bà ba vải trắng, cái ngực với bắp tay mặt lòi ra thì thấy có xâm hình xâm chữ rậm ri. Trên cái võng giăng dựa vách thì có một người đàn bà cũng chừng bốn mươi tuổi mặc quần vải đen và áo túi trắng mà cũ, đương ngồi dở vú cho con nhỏ bú. Dựa cái võng ấy lại có bốn đứa nhỏ, đứa lớn hơn hết chừng năm tuổi, đứa trần, đứa ở truồng, đương đứng mà dòm khách lạ. Trong nhà chẳng có đồ đạc chi hết, chỉ thấy có một cái bàn cũ để đèn để tô, để khay trầu với một bộ ván dầu mà thôi.
Thằng Ðược đứng bợ ngợ, ngó người nầy rồi ngó người kia, không nói chi hết. Thầy Lợi nắm tay kéo nó bước tới một bước, rồi nói với chủ nhà rằng: „Hai ông bà mất con mười mấy năm nay cậy tôi kiếm giùm, nay tôi kiếm được rồi đó, vậy nhìn coi có phải hay không". Người ấy ngó thằng Ðược rồi nói: „Phải, nó giống mấy đứa nhỏ của tôi quá. Thầy có lòng kiếm giùm, vậy xin để bữa nào rảnh tôi sẽ qua nhà mà đề ơn thầy".
Thầy Lợi cười rồi nói với thằng Ðược rằng: „Ðó cha mẹ cháu đó đa, còn mấy đứa nhỏ nầy là em của cháu. Thôi tìm được rồi, vậy tôi giao cho hai ông bà tôi về kẻo khuya. Tôi kiếu nhé, Cháu ở đó nghe hôn".
Thầy Lợi lấy nón ra về, chủ nhà không đưa ra cửa. Thằng Ðược bấy lâu nay tưởng cha mẹ nó là người giàu có ruộng nhiều, nhà tốt, chẳng hề khi nào mà trong trí nó có tưởng tượng cha mẹ nó là người lam lụ đến thế bao giờ, nay nó thấy nhà xịch xạc, người nghèo hèn song nó cũng chẳng có chút nào buồn trong lòng. Tuy vậy mà chẳng hiểu vì cớ nào bấy lâu nay nó thường ao ước gặp cha mẹ đặng có thổ lộ những hồi cực khổ những lúc buồn rầu cho cha mẹ nghe mà nay giáp mặt rồi sao nó lại ngại ngùng trong lòng, không nói chi được hết. Nó đứng bợ ngợ, tía nó ngồi trên ván vấn thuốc hút rồi hỏi rằng:
- Còn thằng đi theo với mầy đây là con ai?
- Nó là anh em bạn của con. Mấy tháng nay con kết làm anh em với nó đặng dắt nhau đi đờn cho họ nghe mà kiếm cơm ăn.
Má nó nghe nói vậy mới hỏi:
- Chà! Bây biết đờn hay sao?
- Dạ thưa biết.
- Bây giờ mầy về ở đây nó cũng theo mà ở với mầy nữa sao?
- Dạ.
Tía nó hút thuốc phà khói ra nghi ngút rồi nói rằng: "Nhà chật quá, bây giờ có chỗ đâu cho hai đứa nó ngủ". Má nó đáp rằng: "Không hại gì đâu. Hai đứa nó lấy manh chiếu đem trải trên chiếc ghe chun vô đó mà ngủ cũng được mà". Chong đèn thủng thẳng lu mờ lần lần. Tía thằng Ðược nắm lắc rồi nói rằng: "Hồi chiều sao không biểu bầy trẻ mua dầu thêm, hết dầu rồi còn gì". Má nó nói: "Tôi quên lửng mà khuya rồi, thôi sửa soạn mà ngủ đốt đèn chi nữa. Nầy con, con lại lấy manh chiếu rồi đem trải ngoài chiếc ghe đẩy lên bờ đó mà ngủ đỡ, ít bữa nữa mua thêm ván rồi sẽ ngủ trong nhà".
Má nó vừa nói vừa chỉ chiếc chiếu để trên ván. Thằng Ðược bước lại ôm chiếc chiếu bước ra ngoài sân, thằng Bĩ cũng xách đồ đi theo. Hai đứa nó leo lên ghe trải chiếu vừa xong, ngó ngoái vô nhà thì đèn đã tắt rỗi. Thằng Ðược nằm nghiêng day mặt vô be ghe, thằng Bĩ để hai cây đờn với gói áo phía trên đầu rồi cũng nằm một bên đó.
Hai đứa nằm nín khe mà cũng không cục cựa, mỗi đứa đều suy nghĩ riêng. Trời khuya lần lần, gió thổi lao rao, tứ bề im lìm, một lát nghe xa xa có tiếng chó sủa, hoặc nghe dưới kinh có tiếng ghe chèo sạt sạt, hoặc nghe trong nhà có tiếng con nít khóc. Gần nửa đêm thằng Ðược nằm nghiêng một bên mỏi vai, nên trở mình đụng nhằm thằng Bĩ. Thằng Bĩ cười nhỏ rồi lấy tay rờ mặt thằng Ðược mà hỏi rằng:
- Mầy không ngủ sao không nói chuyện chơi mây?
Thằng Ðược ngó vô nhà rồi hỏi nhỏ rằng:
- Mầy cũng còn thức hay sao?
- Tao nghĩ tao tức cười quá nên ngủ không được
- Cười giống gì?
- Tao tức cười là vì mầy mơ ước gặp được tía má mầy. Nay gặp rồi, tao thấy vậy tao tức cười quá.
- Mầy nói đó là nói bậy đa. Thiệt thuở nay tao tưởng tía má tao giàu bởi vì nếu nghèo mà sao hồi má nuôi tao xí được, tao bận đồ tốt dữ vậy mà lại có đeo dây chuyền vàng tây nữa. Hôm trước về dưới Mỹ Lợi má nuôi tao thuật lại chuyện tía má tao đương tìm tao, thì cũng còn nói tía má tao giàu lớn nữa. Tao nghe như vậy tao mừng, mà tao mừng không phải là tao trông giàu đặng có của sẵn cho tao xài phá, tao mừng là vì nếu tía má tao giàu tao mới có thể đền ơn má nuôi tao, mới có thể mà nuôi mầy với con Liên đặng cho mấy người thương tao bấy lâu nay hết cực khổ nữa chớ. Nay gặp tía má tao rồi, tuy tía má tao nghèo phải vì đó mà tao hết vùi đâu. Tao càng mừng nhiều lắm chớ, Trong ý mầy tưởng cha mẹ giàu có mới nên nhìn, còn cha mẹ nghèo khổ thì bỏ hay sao?
- Không, tao có nói như vậy đâu.
- Chớ mầy tức cười giống gì?
- Ðể tao nói thiệt cho mầy nghe. Thiệt hổm nay tao cũng tưởng tía má mầy giàu lắm nên tao tính hễ mầy gặp tía má mầy rồi thì tao đi, chớ không thèm theo mầy nữa, bởi vì phận tao côi cút nghèo nàn chừng mầy giàu tao theo mầy nữa thì nhọc lòng mầy chớ không ích gì. Nay tao thấy tía má mầy nghèo, tao nhớ lại thì sự mầy tưởng đã bậy mà tao tính cũng bậy nên tao tức cười chớ phải tao ngạo mầy hay sao. Nè, Ðược, mà tao nghi hai người đó không phải là tía má mầy đâu.
- Ê! Ðừng có nói bậy, mấy thấy tía má tao nghèo mầy muốn xúi tao phụ tía má tao hay sao?
- Không phải, để tao nói cho mầy nghe. Tao nghi là vì tao coi mầy không giống hai người đó chút nào hết, mà mấy đứa nhỏ cũng không giống mầy nữa.
- Mầy nói bậy. Sao mầy biết không giống? Mình giống cha giống mẹ, giống anh giống em là giống máu thịt, giống gân cốt, giống tướng đi, tướng đứng chớ phải là giống nội cái mặt đó mà đủ hay sao. Mà mầy mới thấy một lần làm sao mầy biết tao không giống được.
- Hồi hôm tao đứng trong nhà đó tao cố ý coi kỹ lắm. Thiệt mầy không giống chút nào hết, mà tao coi mầy lại giống người trong khuôn hình treo nhà thầy Lợi đó lắm.
- Hình nào đâu?
- Hình treo trên cửa buồng của thầy đó.
- Hình người bịt khăn đen đó phải hôn?
- Ờ.
- Mầy nói bậy..
- Mầy cứ nói tao bậy hoài; tao chắc rằng hai người ở trong nhà đây không phải là cha mẹ mầy, nếu mầy không tin tao thì để thủng thẳng rồi mầy coi.
- Sao mầy dám nói như vậy?
- Mầy nói má nuôi mầy xí được mầy hồi mới năm sáu tháng. Hồi đó mầy mặc áo tốt mà lại có đeo dây chuyền đó nữa, thì chắc mầy là con nhà giàu. Người nầy nghèo quá đâu có áo tốt mà cho mầy bận.
- Không biết chừng hồi trước tía má tao giàu rồi sau mới nghèo.
- Tao cũng cho mầy cãi sướt cái đó đi. Tía má mầy mất mầy đã mười bốn, mười lăm năm nay, sao thuở nay không đi kiếm để đến bây giờ mới kiếm mà nhìn. Mà chớ chi tía má mầy giàu có hoặc không có con, thì kiếm mầy cũng cho là phải, chớ ngưòi đó bộ nghèo quá mà con tới năm đứa, trai gái có đủ, không có áo quần cho nó bận còn đi kiếm thêm mầy đem về nữa mà làm gì.
- Mấy nói nghe kỳ quá! Ai có con lại không thương, nói như mầy vậy hễ có con nhiều thì nó còn hay mất cũng không cần gì hay sao?
- À, mầy nói tại má mầy thương tiếc mầy nên mới tìm mầy phải hôn?
- Chớ sao.
- Ai cũng vậy, mất con đã mười bốn mười lăm năm nay, thương nhớ nó lắm nên tìm nó mà nhìn. Nếu gặp mặt con thì tự nhiên mừng rỡ, nhứt là bà mẹ ôm con mà khóc, chớ sao hồi hôm mầy bước vô nhà, tía má mầy bảng lảng bơ lơ, không mừng rỡ chút nào, không rờ tới mình mầy, mà cũng không hỏi thăm coi nhỏ lớn ai nuôi mầy, mầy ở chỗ nào, có cực khổ đau ốm gì hay không?
- Tại hồi hôm má tao mắc dỗ em ngủ, còn tía tao tánh lạt lẽo nên không mừng rỡ cho lắm chớ.
- Mầy còn cãi nữa chớ. Tức quá! Dẫu thế nào đi nữa cũng phải tỏ dấu mừng một chút chớ. Nè, mà thình lình thầy Lợi dắt mầy tới, thầy nói mầy là con, nếu tía má mầy không mừng thì phải nghi rồi hỏi mầy coi hồi người ta xí được mầy đó mầy bận áo gì, chớ sao không mừng mà cũng không nghi chút nào hết vậy. Tao sợ họ lập mưu kế hại mầy, chớ không phải là cha mẹ đâu. Mầy không tin tao để rồi mầy coi. Hai người đó coi bộ kỳ quá mà!
- Ðừng có nghi bậy không nên.
Thằng Ðược tuy ngoài miệng cãi với thằng Bĩ, song nó xét lời của thằng Bĩ có nhiều chỗ hữu lý nên trong lòng cũng nghi nghi chút đỉnh. Nó nằm suy nghĩ hoài ngủ không được, một lát nó chắc là phải tía má nó, bởi vì, nếu không phải thì nhìn nó làm gì, rồi một lát nó lại nghi, bởi vì, nếu phải tía má nó thì có đâu mà lơ lảng quá vậy.
Chương IX
Tảng sáng hai đứa nó thức dậy leo xuống đi vô nhà, thấy mấy đứa nhỏ chôn rộn, đứa đòi cơm đứa đòi bánh. Tía thằng Ðược mặc quần vắn, áo lá, la hét om sòm một hồi rồi lấy một cái nón nỉ đen rách đội mà đi. Má nó nấu cơm rồi dọn ăn, có vài khứa cá mấy đứa nhỏ ép đũa vô gắp vài bận thì hết, thằng Ðược với thằng Bĩ thấy vậy nên ăn cơm lạt chớ không dám thò đũa vô. Ăn hết chén cơm rồi muốn xúc thêm mà dòm trong nồi thì trống trơn, nên phải gác đũa mà leo xuống.
Thằng Ðược với thằng Bĩ ngày nào ăn cơm cũng không no nên phải mua bánh thêm mà ăn; mà hễ mua bánh thì phải mua cho mấy đứa em nó ăn nữa, nên mỗi bữa tốn hết vài ba cắc bạc. Ban ngày thằng Ðược lại phải phụ với má nó mà nấu cơm, rửa chén, coi em; còn thằng Bĩ thì thả đi chơi hoài không chịu làm việc chi hết. Ban đêm thì hai đứa cứ ngủ trên chiếc ghe bể, thằng Bĩ cứ theo nói rằng thằng Ðược bị người ta gạt chớ không phải cha mẹ nó là hai người đó; hễ nói thì thằng Ðược rầy mà nó cũng theo nói hoài.
Qua đêm thứ ba, hai đứa nó đương ngủ thình lình nghe có tiếng người ta đi động đất thình thịch. Thằng Bĩ ngồi dậy dòm dưới đấy thì thấy có ba người vác đồ đi vô nhà mà trong nhà tối thui, không có đèn mà cũng không nghe nói tiếng chi hết. Nó lúc lắc thằng Ðược thức dậy rồi chỉ cho thằng Ðược coi. Sáng ngày sau hai đứa vô nhà thì thấy dựa vách có một đống đồ ngoài đậy lá chằm kín mít không biết là đống gì. Tối bữa sau lối mười một giờ thiên hạ ngủ im lìm, hai đứa nó lại thấy có một chiếc ghe tam bản ở ngoài kinh chống vô ụ rồi hai người dưới ghe dở cửa vô nhà vác đồ đem xuống ghe, có tía thằng Ðược phụ vác với họ nữa, rồi ghe chống trở ra kinh mà đi, nghe nói nhỏ nhỏ nên không hiểu là chuyện gì. Khuya thằng Bĩ kêu thằng Ðược thức dậy mà nói rằng hổm nay nó đi chơi là có ý muốn dọ coi tía thằng Ðược làm nghề gì. Bữa nào nó cũng thấy khiêng vác hàng trên tàu đem xuống ghe, hoặc dưới ghe đem lên tàu. Nó chắc tía thằng Ðược ăn trộm hàng hóa đem về nhà mà giấu rồi ban đêm lén kêu người ta mà bán. Nó biểu thằng Ðược phải trốn mà đi, chớ ở đây sợ e chẳng khỏi mang họa.
Thằng Ðược nghe nói giận đỏ mặt mới rầy nhỏ nhỏ rằng:
- Mấy có tài nói bậy bạ hoài. Sao mầy biết tía tao ăn trôm. Chuyện gì mình không biết chắc thì đừng có đề quyết như vậy.
- Tao dọ rồi mầy ơi? Tía mầy ăn trộm đồ dưới tàu mà bán cho khách trú.
- Mà dẫu tía tao có làm quấy như vậy nữa, tao là đạo làm con, mầy bảo tao bỏ tía tao mà đi hay sao?
- Có phải tía mầy đó sao?
- Nữa! Mầy cãi hoài.
- Tao nói mầy ở đây có ngày ở tù.
- Tao làm việc gì quấy mà ở tù?
- Ừ! Mầy cãi tao để rồi mầy coi.
Thằng được nghe nói ở tù thì nhớ chuyện thầy nó bị ở tù dưới Trà Vinh nói cực khổ không biết chừng nào, nên nó sợ quá, nằm lo hoài không ngủ. Ðêm ấy cũng thấy vác đồ về nhà nữa, rồi đêm sau cũng thấy có ghe tam bản đến chở đồ ấy đi. Hai đứa có ý để coi hễ đêm nào có ghe đến chở đồ rồi thì sáng bữa sau có hai người mặt mày dữ tợn đến nhà, rồi tía thằng Ðược lấy bạc mà đưa cho hai người đó, lại nói chuyện với nhau nho nhỏ một hồi rồi dắt nhau đi.
Thằng Ðược ở trót mười ngày chẳng hề thấy cha mẹ tỏ ý gì thương yêu nó hết, mà bị đói bụng mãi mà thôi. Chiều bữa nọ mấy đứa em nó dắt nhau đi chơi hết, còn má nó đi ra phía đàng sau, nó mới lén giở lá chằm coi đống gì để dựa vách đó. Nó thấy có ba cái thùng lớn với hai gói giấy nhúng dầu, nó muốn coi thử coi cho biết vật gì ở trong, song sợ má vô nên lật đật đậy lại không dám coi lâu. Ðêm ấy lối mười giờ nó với thằng Bĩ đương ngủ bỗng nghe có tiếng người ta nói om sòm, lật đật ngóc đầu dòm coi thì thấy nhà trong đốt đèn sáng quắc, có hai ba người lính đứng bao chung quanh nhà còn trong nhà lại thấy có hai ông Tây và hai người lính Việt Nam nữa. Hai đứa nó sợ quýnh nên nằm xuống ôm nhau giả như ngủ. Cách một hồi nghe lính biểu: "Còng hết hai vợ chồng nó đi", lại nghe tiếng đàn bà nới: "Bắt tới tôi nữa, rồi ai coi nhà cho tôi, sắp con tôi bỏ cho ai", rồi có tiếng trả lời rằng: "Dắt hết mấy đứa con theo, còn nhà thì để đó có lính giữ".
Hai đứa nó nghe như vậy thì sợ hết hồn hết vía nên nằm nhắm riết mắt lại và nín hơi không dám thở. Cách một hồi nghe kẻ vác đồ, người đi theo động đất thình thịch, lại nghe sắp nhỏ khóc om sòm, rồi vắng tanh không nghe chi nữa hết. Hai đứa nó mới lén ngóc đầu dòm vô nhà thì thấy có một tên lính nằm tại bộ ván giữa nhà mà day mặt vô buồng. Hai đứa nó không dám nói chuyện chi hết, mà cũng không dám cựa quậy. Ðến bốn giờ khuya thằng Bĩ ngồi dậy dòm vô nhà nó thấy tên lính nằm ngủ khò khò nó mới kéo thằng Ðược thức dậy rồi xách gói đồ với hai cây đờn sẽ lén leo xuống dắt nhau bỏ mà trốn.
Hai đứa nó qua khỏi miếng đất trống rồi mới đi theo đường nhỏ mà ra lộ. Ngoài lộ đã có người gánh rau bưng gà đem qua chợ Bến Thành mà bán. Hai đứa nó đi theo họ song trong bụng còn hồi hộp hoài nên không nói chuyện chi hết. Qua tới cầu Khánh Hội thì trời đã hừng sáng, thiên hạ kẻ qua người lại dập dìu. Thằng Ðược níu áo thằng Bĩ biểu ngồi trên lề cầu mà nghỉ. Thằng Bĩ nghe lời ngồi xuống, thằng Ðược mới nói rằng:
- Bây giờ mày dắt tao đi đâu?
- Ði trốn, chớ đi đâu.
- Cha mẹ tao đương bị hoạn nạn, tao không thể cứu giúp được thì cũng ở đó mà coi nhà mới phải, chớ lẽ nào bỏ mà đi cho đành.
- Tao đã nói không phải cha mẹ mầy đâu.
- Mầy cứ nói bậy bạ hoài.
- Thiệt chớ! Nè, mà nếu mình không trốn mà đi thì chắc chẳng khỏi bị bắt nữa. Mình không biết việc chi hết mà bị ở tù cũng ức lắm chớ, phải hôn?
Thằng Ðược ngồi gục mặt xuống đất lặng thinh bộ buồn bực lắm. Cách một hồi nó ngước lên mà nói rằng: "Mầy đi đâu thì đi đi, tao trở lại, chớ tao đi không đành. Nói rồi liền đứng dậy đi trở lộn lại. Thằng Bĩ xách đồ chạy theo nắm tay thằng Ðược mà kéo xên không cho trở lại. Thằng Bĩ mạnh mẽ vạm vỡ nên nó nắm thằng Ðược vùng không nổi túng thế phải đi theo nó mà qua cho Bến Thành.
Ði dọc đường thằng Ðược muốn lại nhà thầy Lợi mà thuật hết mọi việc nó đã thấy hồi hôm cho thầy ghe. Thằng Bĩ cản kkông cho đi lại nói rằng: "Mầy lại đó mầy bị a; cậu đó không phải thương gì mầy đâu. Thôi tao với mầy dắt nhau đi đờn ca mà kiếm ăn như năm ngoái vậy cho xong". Thằng Ðược muốn trở về chợ Mỹ Lợi đặng tỏ hết mọi việc cho má nuôi nó nghe kẻo má nuôi nó trông. Thằng Bĩ cũng cản nữa, nói rằng trở về đó không ích gì, chi bằng dắt nhau đi Lục tỉnh trước cho biết xứ nầy xứ kia chơi, sau tìm con Liên luôn thể. Thằng Ðược nghe nói tới con Liên thì trong bụng nó khoan khoái nhưng mà hễ nhớ tới cha mẹ nó bị bắt thì nó buồn hết sức.
Hai đứa nó dắt nhau lại nhà giấy xe lửa nhỏ ngồi đờn chơi một chập; thầy xếp ga đứng nghe. Thằng Ðược làm quen rồi xin thẩy một miếng giấy, lại mượn viết mực mà viết thơ kể hết các việc tìm cha mẹ thế nào và tại sao cha mẹ nó bị bắt cho Ba Thời nghe. Nó lại gạch thêm rằng nó đi Cần Thơ mà tìm con Liên và chừng nào nó làm có tiền nhiều rồi sẽ trở về thăm nữa. Thơ viết rồi nó mới xin một cái bao phong lại và đề gởi cho Ba Thời ở làng Bình Thạnh Ðông. Hai đứa nó lên nhà thơ mua cò gắn mà gởi xong lồi mới dắt nhau đi ăn cơm cho no đặng có đi Lục tỉnh.
Thằng Ðược với thằng Bĩ ra khỏi Sài Gòn thì trong lưng còn có bảy cắc bạc, nhưng mà chẳng đứa nào lo sợ hết tiền nhịn đói bao giờ, bởi vì hai đứa nó tuy không nói ra song trong bụng ỷ thầm hễ có hai cây đờn thì chúng nó chẳng hề khi nào chết đói. Thằng Bĩ dòm coi ý thằng được không vui vẻ như khi trước nên kiếm chuyện mà ghẹo chọc hoài, lúc thì nhắc con Liên rồi tính hễ gặp thì dắt luôn nó đi theo cho vui, lúc thì nhắc ông thầy tướng rồi cười thằng Ðược tin chi những người dối thế.
Hai đứa nó đi bộ từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho, tới chỗ nào đông nhà thì đờn ca, kẻ cho ăn cơm người cho tiền, nhờ có như vậy nên xuống tới Mỹ Tho thì đã có được năm đồng bạc. Hai đứa nó mới đi tàu qua Cần Thơ, mà tàu vừa ra khỏi bến chúng nó đờn chơi một chập đã kiếm được vài đồng bạc gần đủ trả tiền tàu. Khi tàu chạy tới Nước Xoáy thằng Ðược mới chỉ chỗ nó ngồi đờn ca với con Liên và chỗ ghe bà Hội đồng đậu cho thằng Bĩ coi. Thằng Ðược thấy cảnh động tình mới tính đặt thêm một bài ca điệu hành vân, đặng tả cái lòng mình thương nhớ em nên đi tìm nó.
Tới Cần Thơ hai đứa nó đi rảo khắp các nẻo đường hỏi thăm bà Hội đồng có một chiếc ghe bầu tốt, có một đứa con trai chừng chín mười tuổi, năm ngoái nó đau nên bà chở lên Sài Gòn cho nó uống thuốc. Ai nghe hỏi cũng cười, bởi vì ở Cần Thơ có nhiều bà Hội đồng mà bà nào cũng có con nên có biết chắc ai đâu mà chỉ. Hai đứa nó nghe nhà Hội đồng nào cũng đều tới hết thảy, mà tới nhà nào cũng không phải là nhà bà Hội đồng nuôi con Liên. Ở tại chợ Cần Thơ tìm trót sáu bữa mà không ra mối. Thằng Ðược mới nói với thằng Bĩ rằng chắc bà nầy ở trong ruộng chớ không phải ở tại Châu Thành, nên mới dắt nhau vô trong làng mà kiếm. Chúng nó vô Cái Răng ở hai ba ngày mà kiếm không được, mới dắt nhau trở ra Cần Thơ rồi lên Bình Thủy.
Hai đứa lên tới Bình Thủy thì trời chạng vạng tối rồi. Chúng nó kiếm quán mua cơm ăn, rồi dắt nhau đi dài theo mé rạch hỏi thăm coi có bà Hội đồng nào hay không. Họ nói đi vô trong một chút có nhà bà Hội đồng Nhàn, hễ gặp cái nhà ngói nào lớn, chung quanh cọc rào sơn li sắt, trước có cửa ngõ sắt và có cầu mát thì là nhà của bà. Hai đứa nó đi chừng một trăm thước thiệt quả thấy có một tòa nhà ngói lớn ở hụp vô trong xa. Phía trước có sân lớn trồng quít, mận, sa-bô-chê và bông hoa kiểng vật dẫy đầy, phía sau vườn cau, chuối, dừa, rất thạnh mậu. Dọc theo mé sông có rào sơn lì sắt, trước có cửa ngõ sắt sơn đỏ lòm và ngoài sông lại có cất một cái nhà mát rất đẹp. Hai đứa nó chắc nhà nầy là nhà bà Hội đồng họ chỉ đó, thấy trong nhà đèn đốt sáng trưng, song cửa ngõ đóng chặt, mà lại không thấy ai ra vô nên không biết làm sao mà hỏi thăm cho được. Thằng Ðược đi mút đầu hàng rào thì thấy có một cái ụ ghe, dòm vô trong xa thấy có một chiếc ghe đậu đó song bị trời tối mà lại bị cái giại[1] cất đặng che chiếc ghe làm cho tối thui nên không thể nhìn chiếc ghe được.
Hai đứa nó đắt nhau trở lại cái nhà mát ngồi nghỉ chơn, có ý trông coi trong nhà có ai đi ra, hoặc lối xóm có ai đi ngang qua đặng hỏi thăm. Ngồi đợi một hồi lâu thằng Bĩ buồn trí mới bứt một lá cây mà thổi kèn theo điệu hành vân. Thằng Ðược hứng chí nên ca hòa theo cái bài nó mới đặt dưới tàu tả về sự nó thương nhớ nên đi tìm con Kim Liên. Bài ca ấy như vầy:
CA ÐIỆU HÀNH VÂN
Tủi phận mình,là tủi phận mình
Ðất khách linh đinh
Từ khi cách mặt.
Anh Bắc em Nam
Tuy không một bọc,
Mà thương nhau như ruột.
Vì gian truân,
Hẩm hút bấy lâu.
Chuyên một nghề
Ðờn ca với nhau.
Nay em cách biệt,
Chẳng biết phương nào.
Gan ruột như bào,
Vái cùng trời tìm nhau gặp nhau
Mấy năm kết bạn
Thảm đạm trăm bề
Quyết học tài nghề,
Chạnh nỗi thầy vội vã về âm cung.
Nhũng lần hồi, tìm kiếm em ta
Trời xin chứng, chứng sao hhiến xui gặp nhau.
Thằng Ðược ca dứt bài rồi liền nằm dài trên cái băng day mặt ra ngoài sông, miệng thì hút gió, còn tay thì nhịp trên băng. Thằng Bĩ lấy cây đờn cò sửa ngựa, vừa muốn lên dây, bỗng nghe có tiếng kêu: "Anh Ðược! Phải anh đó hay không, anh Ðược?". Thằng Ðược lồm cồm ngồi dậy, dòm vô cửa ngõ sắt thì thấy có một đứa nhỏ đứng khuất hết cái mình, duy thấy nội cái đầu mà thôi, mà lại bị trời tối nên không biết con trai hay con gái. Thằng Ðược hỏi: "Ai kêu tôi đó? Em Liên đó phải hay không em?". Nó nghe trả lời: "Phải, em đây. Sao anh biết em ở đây mà đến?".
Thằng Ðược mừng quýnh lật đật chạy lại cửa ngõ vừa cười vừa nói: "Cha chả! Hổm rày qua đi kiếm em dữ quá. Làm sao mở cửa cho qua vô với. Có bà Hội đồng nhà hay không? Thằng con bả mạnh chưa? Mở cửa đi, mở cửa qua vô rồi qua nói chuyện hết cho em nghe".
Con Liên ngó ra cầu mát thấy thằng Bĩ ngồi đó liền hỏi:
- Ai đi với anh đó vậy?
- Thằng Bĩ đa.
- Thằng Bĩ nào?
- Anh em bạn của qua.
- Còn thầy đâu?
- Thầy chết rồi.
- Trời đất ôi! Chết ở đâu? Chết hồi nào?
- Năm ngoái qua phân rẽ với em mà đi với thầy, đi được ít ngày rồi kế thầy chết. Mở cửa đi em, mở cửa cho qua vô.
- Thầy đau bịnh gì mà chết vậy?
- Ừ! Thầy bị bịnh. Mở cửa đi em.
- Tôi không có chìa khóa. Anh đứng đây để tôi vô thưa cho cô hay rồi cô biểu bầy trẻ ra mở cửa.
- Cô nào?
- Bà Hội đồng đó.
- Sao em kêu bằng cô?
- Ừ, bà biểu em kêu bằng cô.
- Thôi, em đi đi. Qua đứng đây qua đợi.
Thằng Ðược thấy con Liên đi rồi nó mới trở ra cầu mát kêu thằng Bĩ mà nói rằng:
- Bĩ, gặp rồi mầy ơi, may quá.
- Con Liên đó phải hôn?
- Ừ, nó đó đa. Mầy thấy nó hôn? Ðể rồi nó ca cho mầy nghe, ca hay lắm, mà lại nhỏ nhoi dễ thương nữa.
- Nó đi đâu rồi?
- Nó vô lấy chìa khóa đặng mở cửa cho mình vô.
Hai đứa nói mấy lời rồi đứng chong mắt ngó vô nhà mà trông con Liên. Thằng Ðược khoan khoái trong lòng đứng ngồi không yên, nên đi tới đi lui một hồi rồi lại đứng ngay cửa ngõ mà dòm. Một lát nó thấy con Liên trong nhà bước ra sân, song không đi thẳng ra cửa ngõ, lại đi xéo xéo lại góc rào rồi kêu nó. Nó tưởng là con Liên mở cái cửa nào chỗ đó nên biểu thằng Bĩ lấy đồ đạc rồi ôm chạy lại đó. Hai đứa nó vừa đi tới thì thấy con Liên ở trong rào ló đầu lên kêu nhỏ nhỏ mà nói rằng; "Anh Ðược, cô biểu tôi ra nói với anh lập tức đi ra ngoài đầu cầu đúc ngồi mà chờ. Một lát sẽ có một cái xe hai bánh ra rước anh, cô dặn anh phải nghe theo lời người ra rước anh đó, họ biểu đi đâu anh cứ nghe theo lời họ chớ đừng có cãi, bởi vì bây giờ anh vô nhà không được. Thôi, đi đi cho mau. Anh biết cầu đúc hay không? Cái cầu lớn bắc ngang qua sông nầy đặng đi xuống Cần Thơ đó là cầu đúc đa".
Con Liên nói mấy lời rồi trở vô nhà. Thằng Ðược không hiểu vì cớ nào nhà bà Hội đồng không cho vô mà lại biểu ra cầu đúc rồi sẽ có xe rước. Xe rước đi đâu? Rước chi vậy? Bả không muốn cho mình gặp con Liên hay sao? Thằng Ðược dắt thằng Bĩ trở ra cầu đúc, vừa đi và hỏi thầm mấy câu ấy hoài, mà trong lúc ngồi chờ cũng hỏi thầm như vậy nữa. Thằng Bĩ thấy thằng Ðược suy nghĩ quá như vậy thì tức cười rồi vùng nói rằng: "Coi bộ mầy lo giống gì dữ vậy mấy? Bây giờ mình biết chỗ con Liên rồi, nếu đêm nay mình không gặp nó được, thì sáng mai mình gặp, có việc gì mà phải lo, Thằng Ðược không trả lời cứ ngồi ngó lộn vô phía nhà bà Hội đồng hoài.
Cách chừng mười lăm phút đồng hồ thấy có một cái xe hai bánh ở trong ấy chạy ra. Hai đứa nó đứng dậy, có ý dòm coi có phải là con Liên hay là bà Hội đồng chăng. Xe chạy tới ngừng lại thì thấy trên xe có một người đàn bà choàng hầu khăn trắng, thằng Ðược tưởng là bà Hội đồng nên xăm xăm đi lại. Người ấy hỏi: "Em phải tên Ðược hay không? Thằng Ðược thưa phải. Người ấy liền biểu lên xe đặng đi xuống Cần Thơ. Thằng Ðược không hiểu vì cớ nào không cho nó vô nhà mà lại đưa nó trở xuống Cần Thơ, bởi vậy cho nên nó đứng dụ dự rồi hỏi rằng:
- Xuống Cần Thơ làm gì? Tôi đến đây là có ý muốn kiếm con Liên đặng thăm nó chớ...
- Ậy! Em đừng có cãi. Bà Hội đồng dạy qua đưa em xuống nhà hàng dưới Cần Thơ mà nghỉ, rỗi sáng mai bà dắt con Liên xuống thăm em, chớ bây giờ cho em vô nhà không được. Em đừng có ngại gì hết. Không có hại gì đâu. Lên đi kẻo khuya rồi xuống nhà hàng kêu cửa khó lắm.
Thằng Ðược kêu thằng Bĩ đem đồ đạc để trên xe rồi hai đứa leo lên ngồi dựa bên người đàn bà ấy. Tên đánh xe ngồi dưới thùng xe giựt cương quất ngựa chạy như dông.
Ðường tuy quanh quẹo, song ban đêm không có ai đi, nên xe chạy vùn vụt, gió thổi lạnh lạnh. Gần chín giờ xe xuống mới tới Cần Thơ, chạy vòng lại đậu trước nhà hàng lớn. Người đàn bà ấy leo xuống, rồi đi thẳng vô nhà hàng. Thằng Ðược ngó vô nhà hàng thì thấy đèn khí sáng trưng, có một người mặc đồ tây đương đứng tại cửa mà dòm ra ngoài đường. Người đàn bà ấy vô nhà hàng nói chuyện với người mặc đồ tây đó một hồi, không biết nói chuyện gì, mà người ấy chạy ra nắm tay hai đứa nó dắt vô, bộ niềm nở hết sức. Người đàn bà ấy nói với chúng rằng: "Thầy nầy là chủ nhà hàng. Bà Hội đồng dạy qua đưa hai em xuống đây mà nghỉ. Hai em muốn ăn vật chi cũng được hết thảy, song bà căn dặn hai em phải ở đây chớ đừng có đi đâu. Hễ bồi dọn phòng rồi hai em lên mà nghỉ".
Nói dứt lời rồi day lại dặn chủ nhà hàng rằng: "Bà Hội đồng biểu tôi nói với thầy phải hết lòng giùm cho bà. Hai em muốn ăn uống, muốn mua vật chi thầy cũng phải làm cho vui lòng nó, tốn hao bao nhiêu bà Hội đồng trả cho, không sao đâu mà ngại. Thầy nhớ nghe hôn, đừng có cho đi đâu đa". Người đàn bà ấy nói rồi liền biểu bồi ra xe xách đồ của hai đứa nó đem vô rồi mới từ giã lên xe mà đi.
Chủ nhà hàng dắt hai đứa nó lên lầu, đem vô một cái phòng rộng lớn, có giường sắt, nệm ruột gà, mùng lưới trải ra[2] trắng lốp, có bàn mặt đá, có bàn rửa mặt, có tủ kiếng, có ghế tô-nê[3], mà lại có một bộ ván gõ láng bóng. Thằng bồi đương quạt mùng sửa đệm thấy chủ nhà hàng với hai đứa nó bước vô thì làm riết rồi chạy xuống xách đồ đạc đem lên phòng lại thưa với ông chủ nhà hàng rằng có khách mời ông xuống nói chuyện. Ông chủ nhà hàng liền biểu hai đứa nó ở đó mà nghỉ, nếu muốn cần dùng vật chi, thì cứ kêu bồi mà dạy nó làm cho. Chủ nhà hàng đi xuống rồi thằng bồi cũng bước ra khép cửa phòng lại.
Thằng Ðược với thằng Bĩ đi lại đứng tại cửa sổ mà ngó ra thấy sông rộng minh mông, có một chiếc ghe lớn chèo ngang, mà xa xa lại có một chiếc tàu đốt một bên thì đèn đỏ, một bên thì đèn xanh, kéo theo sau một đoàn ghe, chiếc nào cũng có đốt một cây đèn nên xem đẹp lắm. Gió thổi hiu hiu mát mẻ, thằng Ðược đứng ngó một hồi rồi day lại vỗ vai thằng Bĩ mà hỏi rằng:
- Cái gì mà kỳ cục vậy mậy?
- Cái gì ở đâu?
- Tại sao bà Hội đồng đưa mình xuống đây mà lại dặn chủ nhà hàng phải ân cần săn sóc mình như vậy?
- Mầy quen với bả mà mầy không biết thì tao làm sao mà biết được.
- Tao sợ bả muốn giựt con Liên nên bày mưu kế chi đây.
- Bả làm sao mà giựt được. Tao không lo: nếu bả giựt nó thì mình đến quan mà thưa chớ.
- Có phải nó là em ruột mình đâu mà mình thưa được.
Hai đứa đang nói chuyện, thình lình thằng bồi mở cửa xách vô một bình nước trà để vô trong giỏ rồi hỏi rằng: "Sao hai cậu không lên giường nằm mà nghỉ?" Thằng Ðược ngó lại cái giường thì thấy mùng nệm trắng rồi ngó lại áo quần thì thấy dơ dáy lắm nên trong lòng lấy làm ái ngại, song cũng gượng mà đáp rằng: "Ðể đứng đây chơi một chút". Thằng bồi lại hỏì: "Hai cậu muốn ăn uống vật chi hay không? Ông chủ tôi dặn hễ hai cậu muốn dùng vật chi tôi cũng phải lấy hết thảy, vậy hai cậu muốn ăn uống vật chi thì nói không có sao đâu mà ngại".
Thằng Ðược nghe nói thì ngó thằng Bĩ và đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi biểu: "Nếu có vậy, thôi anh cho hai ly nước đá uống chơi". Thằng bồi cười chúm chím mà nói rằng: "Nước đá lạnh ngắt ngon lành gì mà uống. Hai cậu muốn uống sữa nước hay không? Nếu hai cậu chịu thì tôi làm hai ly sữa nước rồi tôi bỏ nước đá vô uống mới khỏe". Thằng Ðược gật đầu lia lịa và nói rằng: "Ðược, được, nếu có sưa uống thì tốt lắm".
Thằng bồi bước ra, thằng Ðược mới lại giường, song ngồi ghé dựa thành giường chớ không dám nằm, thằng Bĩ thì lại bàn rót nước trà mà uống. Thằng Bồi bưng hai ly sữa lên để giữa bàn, hai đứa nó ngồi hai bên mà uống coi bộ đắc ý lắm. Uống hết sữa rồi mà hai cục nước đá chưa tan, hai đứa nó mới hả miệng trút vô họng mà ngậm chơi, chừng nước đá tan hết rồi mới vô mùng nằm mà ngủ.
Sáng bữa sau thằng Bĩ thức dậy trước, lén dở mùng leo xuống rồi mở cửa phòng bước ra ngoài, tính đi kiếm nước súc miệng rửa mặt. Thằng bồi đứng quét ở ngoài dòm thấy lật đật chạy lại hỏi:
- Cậu muốn đi đâu?
- Ði kiếm nước súc miệng.
- Có nước tôi múc sẵn trong bầu đó; cậu vô đây tôi rót ra bồn cho cậu rửa.
Thằng bồi dắt thằng Bĩ trở vô rồi rót nước biểu nó rửa mặt, lại lấy khăn lông trắng tươi đưa cho nó lau. Nó lại chỉ cái thùng cho mà tiểu tiện nữa. Thằng Bĩ thấy được sung sướng quá như vậy thì trong lòng nó khoái lạc không biết chừng nào. Thằng Ðược nghe lộn xộn cũng thức dậy. Thằng Bĩ làm tài khôn chỉ chỗ cho thằng Ðược tiểu tiện và súc miệng rửa mặt, rồi hai đứa nó lại đứng dựa cửa sổ mà ngó ra ngoài sông nữa. Cách một hồi thằng bồi bưng lên một mâm cà phê sữa với bánh mì. Hai đứa nó ngồi ăn mà lại ước phải có bánh cam ăn mới khoái hơn nữa. Thằng bồi tức cười, song cũng chạy đi mua bốn cái bánh cam về cho hai đứa nó ăn.
Lối chín giờ hai đứa nó muốn dắt nhau ra chợ chơi. Ông chủ nhà hàng không muốn cho đi, song ông không cản ngay, ông kiếm nhiều lời êm ái ông nói, nên hai đứa trở lên phòng mà không phàn nàn chi hết. Gần mười một giờ, chủ nhà hàng vào phòng kêu bồi biểu dọn cơm trong phòng cho hai đứa nó ăn. Thằng bồi lật đật trải náp đặt bàn, lại có đem lên hai cái ly với một ve rượu chát đỏ nữa. Thằng Ðược dòm thấy bèn hỏi thằng bồi rằng:
- Anh dọn cơm Tây cho hai đứa tôi ăn hay sao anh?
- Dạ.
- Thuở nay tôi chưa ăn cơm Tây lần nào hết.
Thằng Bĩ xen vô mà nói:
- Ăn cơm Tây cũng như ăn cơm ta vậy, song không có đũa chén chớ có lạ gì.
Thằng Ðược cười mà đáp rằng:
- Mầy làm hơi người thạo hoài! Nếu không có chén đũa thì người ta có muỗng nĩa. Mà ăn thì ăn bánh mì chớ không có cơm, phải vậy hay không anh bồi?
Thằng bồi dạ một tiếng, rồi đi bưng đồ ăn. Hai đứa nó ngồi ăn, song để khăn một bên chớ không tháo ra mà dùng. Thằng bồi thấy vậy mới tháo khăn đưa biểu choàng ngang ngực kẻo rớt đồ ăn dơ áo quần. Thằng Bĩ không chịu lại nói rằng: "Thây kệ, áo quần của tôi sạch sẽ gì mà sợ dơ nữa.
Chương X
Hai đứa ăn vừa rồi kế nghe ngoài cửa có tiếng giày đi rầm rầm, rồi lại nghe tiếng ông chủ nhà hàng nói: "Thưa cô phòng số ba đó đa". Thằng Ðược không biết có chuyện chi, lật đật chạy lại mở cửa mà coi. Nó vừa đưa tay ra thì cái cửa phòng mở bét ra, bà Hội đồng bước vô với con Liên và thằng con bà. Bà Hội đồng thấy thằng Ðược liền ôm đầu nó hun hai ba cái rồi hỏi rằng: "Mấy tháng nay con đi đâu hứ con?". Thằng Ðược gặp bà Hội đồng với con Liên thì nó cũng mừng quýnh; nó thấy con Liên mặc áo hàng bông phấn mới, quần lụa trắng cũng mới; chơn đi giày thêu cườm cổ đeo dây chuyền, tai đeo hai đôi bông vàng, đầu lại cài lược có thắt hàng màu bông hường, vai thì choàng một cái khăn thêu trắng tinh, còn thằng con bà Hội đồng thì mặc đồ tây bộ tướng mạnh mẽ, chớ không phải nằm chúng chứng như hồi gặp dưới ghe nữa. Nó mới hỏi bà Hội đồng:
- Thưa bà, thằng em đây bây giờ thiệt hết đau rồi, bà há?
- Ừ nhờ cô đem nó lên Sài Gòn uống thuốc gần một tháng nên nó mới mạnh đó đa, xưa rày con đi đâu? Á! Hồi hôm con Liên nó nói ông thầy của con đã chết rồi, vậy chớ ổng chết hồi nào, ổng đau bịnh chi mà chết vậy con?
Thằng Ðược kéo ghế mà ngồi; bà Hội đồng cũng nhắc ghế ngồi dựa bên nó, còn con bà với con Liên thì leo lên giường sắt mà ngồi. Thằng Bĩ lại đứng dựa cửa sổ mà ngó bà Hội đồng rồi ngó con Liên, không nói chi hết, cứ chúm chím cười hoài. Thằng Ðược ngồi thuật hết đầu đuôi mọi việc lại cho bà nghe. Nó nói đến lúc thầy trò mắc mưa rồi thầy ngồi tại nhà giấy xe lửa Phú Lâm mà chết lạnh, còn nó thì nóng mê man họ chở vô nhà thương mà nó không hay, thì con Liên khóc muồi, còn bà Hội đồng cũng lấy khăn lau nước mắt. Chừng nó thuật tới lúc nó ra Sài Gòn kiếm bà Hội đồng mà kiếm không được, ban ngày thơ thẩn ngoài đường, ban đêm vô vườn Bồ Rô mà ngủ thì bà Hội đồng động lòng lắm nên đưa tay ra vuốt đầu nó mà miệng thì nói thỏ nhỏ rằng: "Tội nghiệp thân con tôi quá!". Chừng nó nói tới hồi gặp thằng Bĩ rồi hai đứa kết làm anh em dắt nhau đi đờn ca mà kiếm ăn thì bà Hội đồng với con Liên day qua ngó thằng Bĩ rồi bà nói rằng:
- Thằng em đây là thằng Bĩ đó sao?
- Dạ thưa phải.
- Lại đây ngồi chơi em, lại đây, có ghế đây nè.
Thằng Bĩ bợ ngợ không chịu ngồi song bà Hội đồng ép quá nên cực chẳng đã phải ngồi một bên thằng Ðược mà nghe nói chuyện. Thằng Ðược mới thuật tiếp lúc nó về chợ Mỹ Lợi mà thăm Ba Thời lại có mua một con heo dắt về mà cho thì bà Hội đồng ngồi cười ngất.
Thằng Ðược lại gói, lấy cái khăn bông hường của nó mua tại chợ Cần Giuộc mà cho con Liên. Con Liên cười rồi lấy đội thử. Bà Hội đồng mới hỏi:
- Con về nhà có gặp người cha nuôi con hay không?
- Thưa, không.
- Ði đầu mà không gặp?
- Thưa, má tôi nói đi làm ruộng đâu dưới nầy, lại có đưa một bức thơ của cha tôi gởi về cho tôi coi, theo trong thơ đó thì cha tôi làm ruộng miệt trong kinh Xà No.
- Cha nuôi con tên gì?
- Thưa, tên Hữu. . . . . .
- Con có biết làm ruộng của ai hay không?
- Thưa không.
Bà Hội đồng từ hồi mới vô phòng thì ngồi ngó thằng Ðược kỹ lưỡng lắm, mà chừng nghe nói chuyện tới đó thì bà lại suy nghĩ một hồi rồi mới biểu nói tiếp. Thằng Ðược mới thuật tới chuyện nó đi tìm cha mẹ. Bà Hội đồng nghe nói tên thầy Lợi thì chưng hửng, song bà không nói chi hết cứ để cho thằng Ðược nói cho bà nghe. Bà nghe nói thầy Lợi dắt qua Khánh Hội mà giao cho một người nghèo nàn mà lại bất lương thì bà buồn hết sức, mà mặt bà lại có sắc giận nữa.
Chừng thằng Ðược nói dứt rồi, bà mới kêu thằng Hai là đứa ở trong nhà đi theo xách đồ cho bà, dạy xuống xe xách quả trầu và ôm gói đồ lên cho bà. Bà mở gói ra lấy một cái áo lụa trắng, một cái quần lụa trắng với một đôi giày hàm ếch mà đưa cho thằng Ðược, rồi biểu thằng Hai dắt nó đi tắm rửa cho sạch sẽ đặng thay đồ mới mà mặc. Thằng Ðược ra khỏi phòng rồi bà nói với thằng Bĩ rằng: "Cô không dè nó đi với cháu, vậy để cô về cô biểu bầy trẻ may thêm áo quần rồi cô sẽ đem ra cho cháu".
Thằng Ðược tắm gội, thay đồ mới và mang giày trở lên phòng, mặt mày tươi rói bộ đắc ý lắm. Bà Hội đồng ngồi ngắm nó, rồi kéo tay nó lại gần mà hun hai bên gò má và chỉ thằng con bà mà nói rằng: "Thằng Phong là em con đây, nó nhắc nhở con hoài. Nay gặp con thiệt cô mừng quá". Bà Hội đồng biểu thằng Hai đi kêu thợ may lại, bà đặt cho thằng Ðược với thằng Bĩ mỗi đứa một cái áo u-hoe[1], một cái áo sơ-mi, một cái quần tây và một đôi giày đen. Con Liên theo rờ rẫm thằng Ðược hoài rồi mới rủ nhau đờn ca chơi cho vui. Thằng Ðược đờn kìm, thằng Bĩ đờn cò, con Liên thì ca, còn thằng Phong thì cà rà dựa bên đó, cả nhà hàng từ chủ đến bồi thảy đều chạy lên đứng ngoài cửa mà nghe. Bà Hội đồng nằm trên giường cứ ngó thằng Ðược mà cười hoài.
Ðến xế bà sai thằng Hai ra chợ nấu hai dĩa mì cua và mua cho ba cắc bánh bao đem lên phòng dọn cho sắp nhỏ ăn chơi. Ăn uống xong rồi bà sửa soạn đi về, bà mới nói với thằng Ðược rằng: "Nầy con, thôi con với thằng Bĩ ở đây để cho cô về, cô để thằng Hai nó ở lại đây với con, đặng con có cần dùng việc chi con sai nó cho dễ. Con muốn ăn uống hay là muốn mua vật chi thì con biểu nó nói với ông chủ nhà hàng ổng mua cho. Ban ngày nó coi tắm rửa săn sóc con, còn ban đêm nó trải chiếu dựa cửa đây nó ngủ đặng con cần dùng vật chi con kêu nó cho dễ. Cô muốn đem con về nhà cô mà ở cho dễ, nhưng mà lúc nầy chưa tiện. Vậy có lẽ chừng năm ba bữa nữa cô rước con về mới được. Tuy vậy mà vài bữa rồi cô sẽ ra thăm con. Cô xin con một điều nầy là đừng có đi chơi đâu hết, cứ ở đây mà thôi. Chừng nào cô sai người ra rước con thì con sẽ đi". Bà Hội đồng nói rồi bèn dắt con Liên với thằng Phong xuống lầu, đứng nói chuyện với ông chủ nhà hàng một lát rồi lên xe đi về. Thằng Ðược ngã lăn trên giường nằm ca hát om sòm, bộ vui vẻ lăm, thằng Bĩ thấy vậy bèn nói rằng:
- Sao mầy vui dữ vậy mậy?
- Tao gặp được con Liên tao mừng quá. Mầy thấy chưa? Tao đã nói bà Hội đồng tử tế lắm mà.
- Bả tử tế thiệt, mà bả nhốt mình ở đây tù túng khó chịu quá.
- Ối! Ði đâu làm chi nữa mây! Mình ăn ngủ sung sướng như vầy dầu ở đây tới già tao cũng chịu.
- Tánh mầy sao ưa sung sướng quá. Nếu sung sướng hoài như vầy thì có biết việc đời ra thế nào đâu.
- Phải, mầy nói lời đó tao phục lắm. Mà bà Hội đồng bả dặn như vậy, thôi mình cũng ráng chờ coi bả liệu với mình làm sao đây rồi mình sẽ đi. Nè mầy, mà coi con Liên bây giờ nó sung sướng quá, tao sợ nó không chịu đi với mình đâu.
Bà Hội đồng đã nuôi con Liên mà lại còn để lòng thương thằng Ðược nữa, đó là một ngươi giàu có ở tại Bình Thủy. Chồng bà thuở trước tên là Phan Thanh Nhàn. Vợ chồng hồi mới kết nghĩa châu trần thì cha mẹ hai bên vừa đủ ăn đủ làm mà thôi, chớ không dư dả. Vợ chồng ra riêng rồi thì hiệp sức nhau mà sáng nghiệp, chồng lo khẩn đất làm ruộng, vợ lo cần kiệm trong nhà, thức khuya dậy sớm, dãi nắng dầm mưa, lo tảo lo tần; người đã có công mà đời lại thêm giúp vận, nên trong mười năm thì Phan Thanh Nhàn đã trở nên một nhà giàu lớn, ruộng kể đến tám trăm mẫu, lúa ruộng mỗi năm góp hơn hai chục ngàn thùng.
Vợ chồng ở với nhau không con, bà thấy chồng hễ nói đến chuyện tương lai thì thường có sắc buồn, nên bà tính đi cưới cho chồng một người vợ bé, hoặc may kiếm được chút con để nối nghiệp về sau. Dịp cũng may lúc ấy trong làng có cô Tô Thị Sảnh là con nhà nghèo mà dung nhan tuấn tú chồng đi nói rồi mà chưa kịp cưới kế chồng nhuốm bịnh mà phải ly trần.
Cô ta tuy chưa có chồng mà cũng đã mang tiếng chồng chết, nên không ai thèm đi nói nữa. Bà Phan Thanh Nhàn thấy cô dung mạo mỹ miều ăn nói lại lanh lợi, nhắm nhía thiệt phải người giúp đợ việc nhà, nên bàn tính với chồng rồi cậy mai đến nói cô đặng cưới về làm bé.
Phan Thanh Nhàn cưới Tô Thị Sảnh về thì vợ lớn vợ nhỏ ở với nhau trên thuận dưới hòa, chẳng có một chút chi xích mích. Cách vài năm Tô Thị Sảnh có thai sanh một đứa con trai, vợ chồng Thanh Nhàn mừng rỡ hết sức, đặt tên nó là Phan Thanh Hà.
Vợ Thanh Nhàn tưng tiu săn sóc đứa nhỏ như con ruột mà lại cưng Thị Sảnh không cho làm việc chi hết. Thị Sảnh thấy vậy mới tự kiêu, mà lại ỷ thế có con nên đỏng đảnh làm nhiều cách, nói nhiều lời, làm cho vợ lớn dằn không được phải sanh rầy rà trong nhà. Thanh Nhàn muốn cho gia đạo bình an, mới cất thêm một cái nhà ngói nhỏ ở gần ngoài đầu cầu đúc, rồi để vợ bé ở riêng với con cho khỏi điều xích mích. Vợ nhỏ vừa ra riêng thì ông đắc cử địa hạt hồi đứng mà vợ lớn có thai nữa. Thanh Nhàn chẳng xiết nỗi mừng, mà nhứt là bà vợ lấy làm đắc ý lắm, mà bà càng đắc ý chừng nào lại càng lo lắng chừng nấy nên rước thầy hay mà uống thuốc dưỡng thai luôn luôn. Ðến kỳ khai hoa bà cũng sanh được một đứa con trai, đặt tên là Phan Thanh Nhã. Từ ngày Thanh Nhàn cho vợ bé ở riêng rồi thì đã bớt yêu, mà chừng vợ lớn sanh một đứa con thì tình Thanh Nhàn đối với vợ bé lại càng lợt lạt hơn nữa. Tuy vợ lớn cũng giữ một mực nghiêm chánh mà ở với vợ bé, chớ không phải mình có con trai rồi khinh bạc, song Thị Sảnh ý không được vui, nên trước mặt không dám nói tiếng chi vô lễ, chớ sau lưng thường có lời trách móc hoài. Vợ lớn cũng rõ tánh vợ nhỏ chẳng phục mình, nhưng mà vì sợ cực lòng chồng nên khi nào có nghe ai học điều chi thì cũng cứ khuất lấp bỏ qua không hề để ý đến.
Bà thương con lắm, nên áo quần mền cũ cũng không chịu mướn ai may hết. Bà lại đặt cho thợ bạc làm một sợi dây chuyền vàng nhỏ nhỏ để cho con đeo chơi. Thằng nhỏ được ba tháng mà không sổ sữa, bà bèn rước thầy thuốc xem mạch hốt thuốc uống đặng mát sữa cho con bú. Thầy thuốc nói bà sữa nóng không nên cho con bú và khuyên bà phải kiếm mướn một ngươi vú. Bà cũng nghe lời lật đật mướn vú cho con bú.
Khi thằng nhỏ được gần sáu tháng, Thanh Nhàn rủi lâm bịnh ho, nên vợ chồng dắt nhau lên Sài Gòn chơi cho thong thả và luôn dịp kiếm thầy thuốc tây hay đặng vợ chồng uống thuốc tiếp dưỡng thân thể. Thanh Nhàn có một người em tên Phan Ðức Lợi, hồi nhỏ có đi học chữ Tây lên tới lớp nhứt trường tỉnh Cần Thơ rồi thì qua Mỹ Tho học được hơn một năm kế bị đuổi. Người em trở về nhà ít tháng rồi đi theo chúng bạn lên Sài Gòn xin giúp việc cho trạng sư. Vợ chồng Thanh Nhàn hễ đi Sài Gòn thì ở nhà người em, mà cách mấy tháng trước Thị Sảnh lên cũng ở tại đó.
Phan Ðức Lợi thấy vợ chồng Thanh Nhàn lên thì mừng rỡ hết sức, nhứt là thấy đứa con nhỏ là Thanh Nhã thì bồng ẩm hun hít coi bộ tưng tiu lắm. Ðức Lợi dọn thêm một cái giường nữa ở trong buồng đặng cho anh với chị dâu nghỉ, còn con vú với thằng nhỏ thì giăng mùng nằm tại bộ ván ngoài. Vợ chồng Thanh Nhàn ở chơi được một đêm một ngày. Qua đêm thứ nhì trong nhà thức nói chuyện chơi tới mười một giờ rồi tắt đèn đi ngủ. Ðức Lợi bổn thân coi đóng cửa. Ðến hai giờ khuya vợ chồng Hội đồng đương ngủ thình lình nghe con vú kêu và hỏi: "Cô ơi? Cô! Cô có bồng em vô trong hay không vậy cô?". Bà Hội đồng liền trả lời rằng: "Ai bồng vô trong nầy làm gì. Mầy ngủ với em mà mầy hỏi cái gì kỳ vậy?". Con vú trả lời rằng: "Em đâu mất không có đây cô à".
Vợ chồng Thanh Nhàn nghe nói tốc mùng chạy ra quẹt hộp quẹt đốt đèn lên coi thì thấy cửa trước mở hé, còn đứa nhỏ thì không có ở trong mùng, cái mền của nó cũng đâu mất, mà cái mũ với đôi vớ hồi chiều đi chơi về cổi để trên bàn giữa cũng không còn. Bà Hội đồng chạy kiếm phát thông phát thổ, còn ông Hội đồng chạy vô buồng kêu em thức dậy bơ hơ bài hãi mà hỏi coi con mình ai bồng đi đâu. Vợ chồng Phan Ðức Lợi thức dậy giụi mắt thủng thẳng đi ra, nghe nói mất cháu thì chưng hửng. Mấy người ở gần nghe lụi hụi họ cũng chạy qua hỏi thăm, ai nghe nói ăn trộm vô nhà không lấy tài vật chi hết, chỉ bồng có một đứa nhỏ mà thôi, thì cũng đều lấy làm lạ lắm. Phan Ðức Lợi chắc lưỡi kêu trời, vội vã đi súc miệng, rửa mặt rồi bận áo đi xuống bót mà cớ. Cách chừng một giờ đồng hồ Ðức Lợi trở về thấy anh đương ngồi khoanh tay, mặt mày buồn xo, còn chị dâu với con vú khóc nức nở. Ðức Lợi nói rằng: "Anh chị đừng lo, tôi thưa với ông Cò thì ổng giận lắm nên tức tốc sai lính đi chận mấy nẻo đường hễ gặp ai bồng con nít đi thì phải bắt hết thảy. Tôi có nói rõ cho ông Cò biết hình trạng của cháu, bởi vậy tôi chắc là kiếm được, không mất đâu mà sợ".
Bà Hội đồng vừa khóc và nói rằng: "Chú nó ráng kiếm giùm con tôi, kẻo tội nghiệp tôi quá... Ai mà ăn ở bất nhơn thất đức lắm như vậy không biết... Cha chả! Ai có khuấy chơi xin đem trả con tôi lại cho tôi, muốn xin một hai ngàn gì tôi cũng cho hết". Ðức Lợi nói rằng: "Chị đừng có buồn, bề nào tôi kiếm cũng được, không sao đâu mà sợ".
Qua ngày mai vợ chồng ông Hội đồng dắt nhau đi thất thơ cùng hết mấy nẻo đường mà cũng không biết con ở đâu mà kiếm. Vợ chồng Ðức Lợi cứ theo an ủi và hứa sớm muộn gì kiếm cũng được cho, mà vợ chồng Hội đồng ở đó trọn mười bữa mà kiếm con cũng không được. Vợ chồng dắt nhau trở về Bình Thủy, bà Hội đồng nhớ con ăn ngủ không được ngày đêm cứ ngồi khoanh tay mà khóc hoài. Ông Hộ đồng an ủi hết sức, tuy bề ngoài bà gượng làm khuây song trong lòng bà chẳng giây phút nào mà quên con được. Thị Sảnh thấy bà lớn mất con rồi, bộ lại càng kiêu căng hơn xưa, thường hay nói với người lối xóm rằng ngày nào ông Hội đồng nhắm mắt rồi thì sự nghiệp của ông sẽ về tay mình hết. Trong vài tháng thì có Phan Ðức Lợi về thăm một lần, mà lần nào về cũng cà rà bên nhà Thị Sảnh cả buổi.
Có lẽ Trời Phật thương lòng thành thật của vợ chồng ông Hội đồng, không muốn để sự nghiệp của vợ chồng cực khổ gầy dựng ra đó cho người bất lương giành mà hưởng nên cách vài năm sau bà Hội đồng có thai rồi lại sanh đặng một đứa con trai nữa đặt tên là Phan Thanh Phong. Vợ chồng cưng như trứng mỏng, bà bổn thân nuôi dưỡng, không chịu mướn ai bồng ẵm nữa.
Nhưng mà vì bởi ông Hội đồng có bịnh ho nên Thanh Phong không được cứng cỏi như đứa trước, Thanh Phong òi ọp hoài, làm cho mẹ cực nhọc với con hết sức. Thanh Phong vừa được ba tuổi thì bịnh ông Hội đồng càng ngày càng thêm nặng. Ông lén xuống Cần Thơ đến Nô-te mà lập tờ chúc ngôn, nhứt định rằng sự nghiệp của ông thì bà được quyền hưởng mãn đời, chừng nào bà quá vãn rồi con mới được chia với nhau mà hưởng. Trong tờ lại có cước rằng hễ ông qua đời rồi thì mỗi năm bà cấp dưỡng mẹ con Thị Sảnh một ngàn đồng bạc với một ngàn giạ lúa mà thôi.
Ông đem tờ chúc ngôn về đưa cho bà dặn bà phải cất cho kỹ, đặng sau vợ nhỏ có tranh tụng thì đem ra mà chiếu đối. Ðến chừng ông gần tắt hơi ông biểu đuổi bạn bè ra ngoài rồi ông kêu bà mà trối rằng: "Má nó ôi, tôi liệu trong mình tôi không còn sống được nữa, vậy nên tôi bỏ hết mọi việc nhà lại cho má nó nghe. Má nó cũng biết tánh tôi không phải là tham sắc, nhưng vì tôi muốn kiếm chút con để nối nghiệp về sau, nên tôi nghe lời má nó tôi mới đi cưới vợ bé. Khi tôi cưới má thằng Hà về ở được vài tháng thì tôi đã rõ nó là một người đàn bà tánh đố ky, mà lòng tham lam nữa, bởi vậy tôi mới tính cất nhà riêng cho nó cho yên. Nào dè nó được sung sướng mà lại sanh tâm độc ác. Má nó có biết thằng con lớn của mình là thằng Nhã ngủ đêm mà chúng bồng đi mất đó là kế của ai bày đó hay không? Tuy tôi không đủ bằng cớ, song tôi dám chắc má thằng Hà với thằng em tôi là thằng Lợi chúng nó toa rập với nhau đặng hại mình đó, chớ không lẽ ăn trộm nào mà bắt con nít làm gì. Má nó mà đẻ thêm được thằng Phong nữa cũng là may, ngặt vì nó yếu quá nên đau ốm hoài tôi lấy làm sợ hết sức. Vậy tôi có nhắm mắt theo ông theo bà rồi thì má nó ráng săn sóc nuôi dưỡng thằng Phong cho lắm nghe, lại cũng phải chịu khó cậy người dò dẫm mà kiếm thằng Nhã đem về mà nuôi, tôi chắc chúng nó giấu đâu đó chớ không lẽ chúng nó giết".
Ông Hội đồng Nhàn chết rồi thì Phan Ðức Lợi về cầm cân cho Thị Sảnh kiện đặng chia hai gia tài. Bà Hội đồng nhờ có di chúc của chồng nên Thị Sảnh kiện không được, phải chịu phép mỗi năm lãnh một ngàn đồng bạc với một ngàn giạ lúa mà nuôi con. Phan Ðức Lợi đã phản với chị dâu mà không biết hổ ngươi nên mỗi năm qua lối tháng hai tháng ba liệu góp lúa vừa xong thì lót tót về cà rà xin bạc. Bà Hội đồng tuy nhớ lời trối của chồng thì giận, song bà là một người lương thiện thấy em chồng không lẽ làm lơ nên năm nào hễ Ðức Lợi về xin thì bà cũng cho năm bảy trăm. Có lúc bà Hội đồng muốn mua lòng Ðức Lợi nên bà năn nỉ xin kiếm giùm thằng Nhã cho bà, bà hứa nếu kiếm được thì bà sẽ cho năm ngàn đồng bạc.
Ðức Lợi nghe hứa số tiền nhiều thì ham nên tính kiếm thằng Nhã đặng lãnh thưởng. Mà trước khi về Sài Gòn lại qua ghé nhà Thị Sảnh nói chuyện ấy cho Thị Sảnh nghe. Thị Sảnh cản trở và biểu phải làm cho biệt tích thằng Nhã mới được, bởi vì thằng Phong bẩm khí bạc nhược không thể sống lâu được, hễ thằng Phong chết thì gia tài tự nghiệp về trọn nơi tay chị ta, chừng đó chị ta sẽ cho Ðức Lợi một muôn đồng bạc. Chị ta lại sợ Ðức Lợi ham năm ngàn đồng của bà Hội đồng mà theo bả nên nói rằng: "Chú nó nghe lời chỉ tôi sợ không xong đâu. Chỉ nói gạt chú nó dắt thằng nhỏ về đây chỉ giở trái làm mặt, chỉ đến tòa chỉ thưa nói chú nó giấu con chỉ thì chú nó đã không có một đồng xu mà lại còn bị ở tù nứa".
Ðức Lợi nghe mấy lời ngồi suy nghĩ một hồi tính làm cho thằng Nhã biệt tích, song buộc Thị Sảnh phải làm cho anh ta một cái tờ hứa rằng ngày nào ăn trọn gia tài được rồi thì phải chia cho anh ta một muôn đồng bạc.
Trời Phật không lẽ giúp đứa gian, nên khiến cho bà Hội đồng chở thằng Phong lên Sài Gòn uống thuốc không đầy một tháng mà nó đã hết bịnh rồi về nhà bà tiếp dưỡng nó thêm nữa, nên lần lần nó mập mạp mạnh khỏe, con nít trong xóm không đứa nào bì kịp.
Năm ấy ăn Tết vừa rồi, có một tên tá điền bơi xuồng ra cho bà hay rằng Hương bộ Kiên là người bào tá ruộng của bà trong kinh Xà No mới góp lúa vừa được bốn năm ngàn giạ chân bán hết phân nữa rồi lấy bạc dắt vợ con trốn mất. Bà Hội đồng nghe nói lật đật dọn ghe hầu và dắt thằng Phong với con Liên đi vô ruộng.
Vô tới Xà No bà xét lại thì thiệt quả Hương bộ Kiên đã giựt của bà hết hai ngàn rưỡi giạ lúa. Vì lúa ruộng góp được phân nửa nên bà phải ở lại đó coi góp cho xong, đợi chừng nào đổ vô vựa rồi mới về được. Lúc bà ở góp lúa bà thấy có một người tá điền tên Hữu, nhậm lẹ giỏi giắn mà lại ăn nói bặt thiệp. Bữa nọ tên Hữu chèo ghe cho bà đi góp lúa, bà ngồi buồn mới hỏi tên Hữu gốc gác ở đâu, có vợ con hay không. Nó thưa với bà rằng nó gốc ở Gò Công khi mới lớn lên nó cưới vợ về sanh được một đứa con, song nuôi không được nên nó buồn chí bỏ vợ ở nhà mà đi chèo ghe mướn. Cách ít tháng nó gặp một con tình nhơn mới dắt nhau đi xuống đây mà làm ruộng.
Nó thì lo làm ăn hết sức, ngặt con tình nhơn của nó thì cứ bài bạc hoài, bởi vậy làm tám chín năm mà cũng không dư dả đồng nào. Ðã vậy mà sau con tình nhơn đó lại còn sanh tâm lấy trai, nó thấy vậy buồn chí mới bỏ mà về xứ, tính ở lại với vợ cũ. Chẳng dè về nhà thì vợ nhà đã có một đứa con. Tuy vợ nó nói đứa nhỏ ấy là con nó xí được nó nuôi, có trình giấy của ông Cò trên Chợ Lớn và có đưa áo quần của đứa nhỏ mặc hồi xí được đó cho nó coi, song nó không tin, nên hễ thấy mặt thằng nhỏ thì lửa lòng hừng hực, bởi vì nó bị con tình nhơn sanh tâm nó đã buồn rồi mà về nhà thấy việc như vậy nữa thì nó không thể vui được. Thiệt nó thấy vợ nó tánh nết hiền hòa nó thương, nó muốn ở với vợ nó, nên nó mới bán thằng nhỏ cho một ông thầy đờn đặng ổng dắt nó đi cho khuất mắt.
Bà Hội đồng nghe nói tới đó sực nhớ tới thằng Ðược liền hỏi:
- Thằng nhỏ đó tên gì?
- Thưa, tên Ðược.
- Ai đặt tên cho nó đó vậy?
- Thưa, vợ tôi nó nói nó xí được nó không biết kêu tên gì nên nó đặt là thằng Ðược.
- Năm nay nó mấy tuổi?
- Thưa, chừng mười bốn, mười lăm tuổi.
- Vợ em có nói hồi xí được đó thằng nhỏ được bao lớn hay không?
- Thưa, nó nói chừng năm sáu tháng.
- Hứ! Xí được ở đâu vậy?
- Thưa, trên Bình Tây.
- Cha chả! Hồi xí được đó thằng nhỏ mặc áo quần ra làm sao?
- Thưa, hồi tôi về đó vợ tôi có đưa áo quần cho tôi coi thì tôi thấy có một cái mền tua trắng, một cái mũ, một cái áo đầm, một đôi vớ lại có một sợi dây chuyền vàng nữa.
- Húy! Nếu vậy thì phải rồi còn gì.
- Thưa, phải là làm sao?
Bà Hội đồng ngồi lặng thinh một hồi rồi lại hỏi :
- Bây giờ em biết thằng nhỏ đó ở đâu hay không?
- Thưa, không. Tôi bán nó rồi tôi ở với vợ tôi không đầy một năm coi cũng không được vui nên tôi bỏ đi xuống đây mà làm ruộng. Bốn năm năm nay tôi không về lần nào nên không biết nó có trở về nhà hay không.
- Năm ngoái qua chở thằng con qua lên Sài Gòn uống thuốc, đi tới Nước Xoáy qua có gặp một đứa nhỏ chừng mười ba, mười bốn tuổi đờn ca giỏi quá. Qua có hỏi nó, nó nói tên Ðược, gốc ở chợ Mỹ Lợi thuộc hạt Gò Công, chắc là nó đó chớ gì.
- Thưa, có lẽ khi phải, bởi vì tôi bán nó cho thầy đờn, chắc là họ dạy nó học đờn.
- Cha chả? Bây giờ biết nó đi đâu mà kiếm.
Bà Hội đồng tính để góp lúa xong rồi sẽ biểu tên Hữu về dắt vợ lên cho bà nhìn thử coi có phải là đồ của bà may cho con hồi trước hay không. Bà lại tính để rồi bà cũng sai người tâm phúc lên Mỹ Tho tìm thầy Ðàng với thằng Ðược mà dắt về đặng bà biểu tên Hữu nhìn coi có phải là con nuôi của vợ nó hay không?
Bà góp lúa vừa xong, mới về tới nhà thì thấy có Phan Ðức Lợi xuống mà xin tiền.
Bà mới nghe tên Hữu thuật chuyện thằng nhỏ trong bụng bà đương nghi nó là con của bà, về nhà bà thấy mặt Phan Ðức Lợi bà lại nhớ tới lời của chồng trối thì bà giận, bởi vậy nên bà lơ lảng chớ không niềm nỡ như mấy năm trước nữa.
Phan Ðức Lợi thấy bà không được vui nên không dám hở môi, song cũng chà lết ở đó chớ không chịu về. Tới bữa sau Phan Ðức Lợi thấy bà đương ngồi ăn trầu thì cà rà lại gần mà xin bạc. Bà mới hỏi thử coi có kiếm giùm con của bà hay không. Hai người đương nói chuyện với nhau, thình lình con Liên ở ngoài sân chạy vô nói nhỏ cho bà hay rằng có thằng Ðược xuống kiếm, nó còn đứng chờ ngoài cửa ngõ.
Bà Hội đồng đã tính sai người đi kiếm thằng Ðược, nay nghe nói có nó tới thì bà chẳng xiết nỗi mừng. Bà vừa muốn biểu trẻ ra mở cửa cho nó vô, bà liền nhớ có Phan Ðức Lợi ngồi đó, nếu cho nó vô e có việc bất tiện, nên bà bước trái vô buồng biểu nhỏ con Liên lén ra mà biểu thằng Ðược đi lần lại đầu cầu đúc mà ngồi, rồi bà sai Tư Thanh, là người bà con ở coi sóc giùm trong nhà cho bà, thắng xe mà đưa nó xuống nhà hàng Cần Thơ để nó đó rồi bà sẽ liệu định. Trong đêm ấy bà sai bạn vô Xà No kêu tên Hữu ra, rồi bà đưa bạc biểu phải lập tức đi về Gò Công mà rước vợ và dặn phải đem hết áo, mền, mũ, vớ của đứa nhỏ xí được hồi trước đem lên cho bà coi. Tên Hữu đã có nghe người ta nói hồi trước bà có mất hết một đứa con trai, song bà ở Cần Thơ còn vợ mình xí được đứa nhỏ trên Chợ Lớn, hai xứ cách nhau xa lắm mà cũng không biết bà mất con hồi năm nào, nên nó chẳng hề có bụng nghi thằng Ðược là con của bà. Nay bà sai nó đi mà lại dặn dò như vây thì trong lòng nó mới sanh nghi, bởi vậy nên nó mới đi riết về Gò Công trong bụng nghĩ thầm rằng, nếu thằng Ðược là con của bà thì là cái phước lớn của vợ nó, bởi vì vợ nó có công nuôi dưỡng, mà bà là người giàu lớn, không lẽ bà không đền ơn cho xứng đáng. Nó nghĩ như vậy thì nó mừng, mà rồi nó nhớ tơi việc nó khổ khắc thằng Ðược thì nó lại lo, nếu thằng Ðược mà quả là con bà Hội đồng thì nó còn mặt mũi nào mà dám ngó.
Chương XI
Tên Hữu đi rồi thì bữa nào bà Hội đồng cũng xuống Cần Thơ mà thăm thằng Ðược và chiều tối ra về thì bà theo căn dặn chủ nhà hàng phải coi sóc nó cho kỹ lưỡng nhứt là đừng cho nó đi chơi. Thằng Ðược tuy không rõ bà Hội đồng, song nó thấy thân nó được sung sướng thì nó lấy làm vui lắm, bởi vậy đêm nào nó cũng theo chọc thằng Bĩ, cứ nói rằng:
- Mầy coi tao nói trúng hay không? Tao nói một ngày kia tao sung sướng lắm, có lẽ ngày sung sướng đó đã tới rồi đa mầy à.
Hễ thằng Ðược vui thì thằng Bĩ lại buồn; thằng Ðược thấy vậy nổi giận theo rầy hoài:
- Tao với mầy kết làm anh em với nhau, hễ tao vui thì mầy phải vui với tao chớ sao mầy lại làm mặt quỉ thần hoài vậy?
- Mấy vui chừng nào tao càng buồn chừng nấy.
- Sao vậy?
- Nếu mầy giàu có thì tao có được làm anh em với mấy nữa đâu.
- Mầy nói bậy hoài, Tao giàu thì cũng như mầy giàu, chớ sao lại không làm anh em với nhau nữa.
- Hễ mầy giàu thì mầy chơi với con nhà giàu, đồ trôi sông lạc chợ, không mẹ không cha như tao vầy mầy đương thèm ngó tới đa.
- Bĩ mầy đừng nói xấu cho tao như vậy. Ví dầu ngày sau mà tao có được giàu sang đi nưa, có lẽ nào tao quên sự cực khổ của tao mười mấy năm nay cho được mậy. Tao thường có nói với mầy rằng thuở nay trong lòng tao thương có mấy người mà thôi, thứ nhứt là má nuôi tao, thứ nhì là thầy tao, thứ ba là con Liên, còn thứ tư là mầy. Thiệt tao cũng thương cha thương mẹ tao nữa, ngặt bây giờ tao chưa biết cha mẹ tao là ai. Nếu tao giàu thì tao lập thế đi tìm cha mẹ tao, mà trước hết tao rước mấy ngươi tao thương đó về nhà tao nuôi hết thảy, chớ phải tao như họ, giàu rồi quên bạn nghèo, sang rồi quên hèn đâu mà mầy nói vậy.
Thằng Ðược nói tới đó rồi day qua ôm thằng Bĩ mà ngủ. Cách bốn bữa sau, lối mười một giờ trưa bà Hội đồng cũng xuống nhà hàng mà thăm như mấy bữa trước, song ngày ấy bà đi có một mình chớ không dắt con Liên với thằng Phong theo. Bà đem cho thằng Ðược thêm một cái quần và một cái áo lụa trắng mới may nữa. Lối hai giờ chiều bà ra về bà dặn thằng Ðược đừng có đi chơi, chừng nào có Tư Thanh, là người đàn bà đưa nó xuống nhà hàng hôm trước đó, đem xe rước nó thì nó sẽ đi theo mà lên nhà bà.
Tối bữa đó tên Hữu dắt vợ là Ba Thời xuống tới. May lúc ấy Phan Ðức Lợi mắc đi qua nhà Thị Sảnh mà chơi. Ba Thời bước vô thấy mặt con Liên vùng hỏi rằng: "Ủa con em đây sao nó giống con đi với ông thầy mua thằng Ðược hồi trước quá vậy mình?". Tên Hữu đáp rằng: "Ðừng nói bậy, cô em đây là con cháu của bà, nói bậy không nên đâu". Con Liên ngó tên Hữu và Ba Thời cười chúm chím rồi bỏ chạy vô buồng. Bà HộiI đồng bước ra thấy vợ chồng tên Hữu liền hỏi rằng: "Vợ của em đây phải hôn." Hai vợ chồng tên Hữu xá bà rồi thưa phải. Bà mới hỏi rằng: "Hai em có đem đồ qua dặn đó xuống hay không?". Tên Hữu thưa có rồi dở thúng lấy một gói đồ mà đưa cho bà.
Bà Hội đồng ngồi trên ván mở gói đồ ra, tay run lập cập miệng vái thầm rằng: "Vái trời phật cho phải đồ của con tôi thì tôi...". Bà vừa nói tới đó thì cái gói đã mở ra, bà thấy áo mũ vớ mền phải là đồ bà sắm cho thằng Nhã ngày trước nên bà mừng quýnh, bà nói lớn rằng: "Phải rồi, phải rồi, đồ của con tôi đây mà, đây cái áo đầm nầy tôi may, đường kim mũi chỉ làm sao tôi quên được, đôi vớ nầy nữa đây, còn cái mền nầy của chổng mua dưới chợ Cần Thơ nữa đây; con ôi, con, mấy năm nay con xiêu lạc làm cho rnẹ phiền não đêm ngày... Vậy mà tôi gặp con tôi, tôi không biết nó nữa chớ!".
Bà nói mà nước mắt chảy chàm ngoàm. Con Liên, thằng Phong và tôi tớ trong nhà không hiểu việc chi nên chạy ra đứng chung quanh mà ngó. Bà day lại ngó thấy thì bà cười; bà lấy vạt áo lau nước mắt rồi bà ôm hết gói đồ đi vô buồng, lại biểu một mình Ba Thời đi theo bà, còn tôi tớ thì xuống nhà sau coi dọn cơm cho vợ chồng tên Hữu ăn.
Vô trong buồng, Ba Thời lại móc túi lấy sợi dây chuyền mà đưa cho bà coi nữa. Bà. Hội đồng cầm coi cứ nói: "Phải rồi, phải của con rồi". Bà mới biểu Ba Thời ngồi mà thuật hết đầu đuôi cho bà nghe coi xí được thằng Ðược hôi nào, tại đâu, nuôi dưỡng làm sao. Ba Thời nói tới đâu bà khóc tới đó, chừng Ba Thời nói dứt rồi bà mới nói rằng: "Thằng Ðược đó là con của qua. Ơn em nuôi dưỡng nó qua không dám quên đâu. Vậy thôi em ở đây, để mai qua rước nó vế, sẽ hay". Ba Thời nghe nói rước thằng Ðược thì chưng hửng, song bà nói vậy hay vậy chớ không dám hỏi.
Khuya thức dậy bà dạy bạn làm một con heo, tảng sáng bà sai đi mời làng tổng và thân tộc tề tựu đủ mặt hết, bà lại cho mời Thị Sảnh với Phan Ðức Lợi nữa. Thị Sảnh không hiểu có việc chi nên dắt con là thằng Hà lơn tợn đi qua. Bước vô nhà thấy làng tổng bà con đông dầy dầy, trong bụng lại tưởng bà Hội đồng muốn chia gia tài nên ngó Phan Ðức Lợi mà chúm chím cười. Bà Hội đồng biểu Tư Thanh thắng xe xuống Cần Thơ mà rước hai anh em thằng Ðược lên; lối chín giờ bà nghe biếng lục lạc khua bà biết xe về tới nên bước ra cửa mà ngó.
Thằng Ðược mặc quần áo mới, xuống xe đi vô trong nhà, còn thằng Bĩ với Tư Thanh còn lụi hụi xách đồ đi sau. Những người ở nhà thấy thằng Ðược đi vô không biết là con của ai, nên người bước ra mà dòm, kẻ ngồi trong mà ngó. Con Liên với thằng Phong vừa thấy thì lật đật chạy ra nắm tay thằng Ðược rồi cập một đứa một bên mà dắt vô, thằng Ðược vừa bước vô cửa thì bà Hội đồng nắm tay nó dắt nó đi thẳng lại trước bộ ván giữa, chỗ Cai tổng ngồi, rồi ôm nó mà hun trơ hun trất, vừa khóc và nói rằng: "Mẹ đây con biết hay không con?". TộI nghiệp con tôi quá, mới sanh ra vừa được năm tháng rưỡi rồi lìa cha, lìa mẹ từ đó cho tới bây giờ, thân cực khổ không biết bao nhiêu. Quân ác nghiệt nó làm cho mẹ con tôi lìa nhau, trời nào là để nó".
Thằng Ðược chưng hửng mà lại mừng quýnh nên cũng ôm bà Hội đồng mà khóc, chớ không nói chi được hết. Cả nhà ai thấy vậy cũng lấy làm kỳ, mà nhứt là Thị sảnh với Ðức Lợi ngó nhau mặt mày biến sắc. Bà Hội đồng ôm con mà ngồi trên ghế rồi day qua biểu con Liên rằng: "Con vô buồng biểu con Ba ở Gò Công đó ôm đồ của con tao ra đây và nó cũng ra đây cho tao biểu". Ba Thời trong buồng bước ra thấy thằng Ðược thì mừng rỡ hết sức nên lật đật đi riết lại rồi mẹ con nắm tay nhau hỏi han lộn xộn. Tên Hữu cũng lại đứng gần đó, thằng Ðược ngó thấy liền chỉ mà hỏi: "Tía ở đây hay sao? Má lên đây bao giờ". Nó day qua bên kia lại thấy Phan Ðức Lợi thì chưng hửng liền hỏi: "Ủa! Có thầy đây nữa mà!". Phan Ðức Lợi day mặt chỗ khác giả như không nghe.
Thằng Ðược hỏi: "Tía tôi là ai đâu má?". Bà Hội đồng nói tía con mất hơn mười năm nay rồi. Rồi đứng dậy nói lớn lên ràng: "Thưa với tổng làng và bà con trong tộc, thằng con đầu lỏng của tôi là thằng Nhã, nó bị người ta bắt đem giấu mất mười lăm năm nay, bây giờ tôi mới tìm nó được mà rước về đây. Xưa nay tôi vẫn biết con tôi mất không phải là ăn trộm bắt, thiệt ra là có một vài người muốn đoạt gia tài sự sản của vợ chồng tôi nên mới lập mưu mà cắt ruột tôi như vậy. May nhờ trời nhỏ phước cho tôi đẻ được thằng Phong nữa nên tôi bớt buồn, mà nay tôi lại tìm được thằng Nhã tôi rồi thì tôi cũng hết giận quân gian đó nữa. Ở đời tôi cứ giữ lòng lành, ai có quấy thì để cho trời định tội họ".
Nói tới đó rồi lại ôm con vừa hun vùa khóc nữa. Bà hun đã thèm rồi mới xây mặt, dở tay con mà nói rằng: "Ðây bà con coi thử coi gương mặt nầy phải gương mặt chồng tôi hay không? Còn bàn tay bàn chân nó giống tôi như khuôn đúc, vậy mà năm ngoái tôi gặp nó tôi có dè ở đâu". Bà lại dở gói đồ ra lấy từ món đưa lên mà nói: "May con Ba nó xí được nó nuôi mà nó để dành đồ nầy tôi nhìn mới được. Ðây, cái áo nầy tay tôi may cho con tôi mặc hồi nhỏ đây; còn sợi dây chuyền nầy tôi đặt cho anh thợ Cu ảnh làm, còn con dấu của ảnh in phía sau tấm mề-đay-dông (médaillon) rõ ràng quá".
Bà con làng tổng ai thấy việc như vậy cũng đều áp lại, kẻ thì mừng bà có phước lớn, người thì hỏi thăm thằng Nhã nhỏ lớn ở đâu, duy có Thị Sảnh với Ðức Lợi ngồi buồn xo, coi bộ hổ thẹn lắm. Bà Hội đồng dòm thấy mới đứng dậy nắm tay con dắt lại đứng ngay trước mặt Thị Sảnh mà nói rằng: "Người nầy là má ghẻ con đó đa, con biết hôn?". Thằng Nhã cúi đầu xá hai ba cái, rồi bà Hội đồng lại dắt lại chỗ Phan Ðức Lợi ngồi rồi nói: "Còn người nầy là chú ruột con đó đa". Thằng Nhã hỏi: "Thừa chú, phải chú ở trên Sài Gòn, chỗ đường Cầu Quan đó hay không?". Phan Ðức Lợi gật đầu; bà Hội đồng liền nói rằng: "Hồi con mới năm tháng rưỡi má với tía con lên ở chơi tại đó rồi bị họ bắt đem giấu con đó đa, biết hôn".
Thằng Nhã mới hỏi: ''Chú biết cháu, mà sao hồi tháng giêng cháu đến cậy chú chỉ giùm cha mẹ cháu đặng cháu đi tìm, chú lại dắt đến nhà quân ăn trộm mà bắt cháu ở đó". Bà Hội đồng nghe hỏi lấy làm kỳ, nên bà hỏi phăng tới, thằng Nhã mới kể hết mọi việc bên Khánh Hội lại cho bà nghe, làm cho cả nhà ai cũng biết Phan Ðức Lợi gian trá muốn hại con bà Hội đồng mà đoạt của. Phan Ðức Lợi hổ thẹn quá chịu không được mới nói lớn rằng: "Tại chị nhỏ bày mưu rồi xúi tôi nên tôi mới làm như vậy chớ".
Thị Sảnh ngồi bên ván óng tiếng cãi rân, rồi hai đàng rầy lộn với nhau, ai cũng muốn chửa mình, làm cho thiên hạ lại thêm biết rằng hai người a ý với nhau đặng hại con bà Hội đồng rồi chia gia tài với nhau mà ăn.
Bà Hội đồng thấy vậy tức cười mà nói rằng: "Thôi, hai đàng chẳng nên đổ tội cho nhau làm chi. Bây giờ bà con làng tổng mới biết, chớ vợ chồng tôi biết đã lâu rồi, nhưng vì tôi muốn làm lành đặng để đức cho con ngày sau, nên tôi không muốn làm hại ai hết. Vậy tôi khuyên chú nó với dì nó đừng có cãi lẫy với nhau nữa; miễn là từ rày sắp về sau đừng có ở quấy như vậy nữa thì thôi". Bà Hội đồng nói dứt lời liền kéo thằng Hà với thằng Phong lại đặng anh em nó gặp nhau, rồi bà lại kêu vợ chồng Ba Thời, con Liên và thằng Bĩ ra đứng trước bà nói rằng. Vợ chồng chú Ba nó có công nuôi dưỡng con tôi, vậy giữa mặt làng tổng đây tôi xin tỏ lời cám ơn và đề rồi tôi sẽ giúp cho mà làm ăn đặng đền ơn dưỡng dục con tôi hồi nhỏ. Còn con Liên với thằng Bĩ là bạn cơ hàn của con qua, vậy từ rày con qua dược sung sướng rồi thì qua cũng làm cho lai cháu được sung sướng như nó vậy''.
Cả nhà ai thấy bà Hội đồng có lòng quảng đại không chắp kẻ làm hại mình, mà lại biết thương người có công, thì cũng đều kính phục. Việc rồi bà liền dạy dọn cỗ mà đãi tổng làng và bà con thân tộc ăn uống vui chơi, mấy năm trước trong nhà quạnh quẽ bao nhiêu thì ngày nay cũng hỉ lạc bấy nhiêu. Ðến trưa thằng Nhã, thằng Bĩ với con Liên lấy đờn để trên ván rồi xúm lại đờn ca, còn thằng Hà với thằng Phong cũng leo lên ngồi chung với chúng nó mà nghe. Bà Hội đồng ngồi ngó mấy con thì cười hoài, mà giọt lụy tuôn rơi không dứt. Chừng thằng Ðược ca tới bài hành vân của nó đặt đặng đi tìm con Liên, thì con Liên mủi lòng bỏ đờn chạy vô buồng đứng mà khóc, ai nấy thấy vậy cũng đều động lòng. Ðến xế làng tổng mới kiếu mà về. Phan Ðức Lơi cũng xách va li trở về Sài Gòn, còn Thị Sảnh thì đã lén về hồi nào không hay biết được".
Bà Hội đồng Nhàn mất con đã gần mười lăm năm, tưởng đáy biển vàng chìm không trông vớt được, nào dè lòng lành trời chẳng phụ nên mẫu tử được đoàn viên. Bà chẳng xiết nỗi mừng, tự nguyện giữ một lòng làm lành mà để ân đức cho con, nên đã không oán trách Ðức Lợi với Thị Sảnh, mà lại biểu Thị Sảnh với thằng Hà qua ở chung một nhà với bà đặng cho anh em nó trìu mến nhau, rồi chừng khôn lớn biết nâng đỡ dìu dắt nhau cho trọn niềm huynh đệ.
Thằng Nhã ngày nay ăn mặc sung sướng, lên xe xuống ngựa, chớ không phải là thằng Ðược xách đờn đi ca mà kiếm ăn như khi trước nữa, song nó không đổi tánh, chẳng hề quên mấy người yêu nó trong lúc nó bần hàn, bởi vậy vợ chồng Ba Thời thì cất nhà đẹp ở trong kinh Xà No mà coi ruộng cho bà Hội đồng, con Liên thì áo lụa quần hàng chơn giày chơn dép cũng như con ruột trong nhà, duy có một mình thằng Bĩ không chịu ở yên nơi, cứ ôm đờn rảo khắp các tỉnh thành, thằng Nhã năn nỉ hết sức nó cũng không chịu ở.
Chẳng những là thằng Nhã hậu đãi những người yêu nó trong lúc nó nghèo hèn mà thôi, mà hễ nó thấy con nhà nghèo thì nó động lòng thương nên hay xin mẹ cho bạc tiền hoặc cho quần áo. Người ở trong xóm ai thấy tánh tình nó như vậy cũng đều ngợi khen, duy một mình người viết truyện nầy đã không khen mà lại buồn, là vì thầm nghĩ thằng Nhã nầy nhờ có làm thằng Ðược trót mười lăm năm trời nên ngày nay mới biết thương con nhà nghèo như vậy, còn biết bao nhiêu thằng Nhã khác không có làm thằng Ðược nên chưa nếm đủ nùi cay đắng trong đời, thì ai nghèo mặc ai, mình giàu mình hưởng. Nếu thằng Nhã là con của bà Hội đồng Nhàn mà không có làm thằng Ðược, thì ngày nay nó có biết thương con nhà nghèo haykhông?
Ai dám chắc.
Sài Gòn, 1923
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro