Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tiền tệ - Cơ giới Uông Bí

Chào các ban! Lớp liên thông kế toán - Đại học mỏ địa chất đang học tại Trường Cơ Giới - Uông Bí - Quảng ninh đang học môn Lý Thuyết Tiền Tệ. Để tiện cho việc nghiên cứu tài liệu và có cái mà chép nên tớ làm tài liệu này. Đây mới có 3 chương thôi, đọc tạm vậy. Khi nào rảnh sẽ post tiếp. Cô giáo lớp mình xinh nhỉ, nhưng mà hơi... các ban nhớ đừng ai để chuông điện thoại trong lớp nhé, cô cho về sờm luôn đấy. He! Chúc mọi người luôn thật vui, hạnh phúc! Ai có thắc mắc gì xin liên hệ với lớp trưởng: Mr Đàm Vĩnh Hưng nhé!

Người post: T.T

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

1

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

Môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ1

Giảng viên: ThS. Phan Anh Tuấn

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

Mục đích của chương này là cung cấp cho sinh viên những hiểu biết khái quát về hai đối

tượng nghiên cứu chủ yếu của môn học này là: tiền tệ và tài chính. Cụ thể các nội dung

cần nắm được sau khi học xong chương này là:

• Bản chất và chức năng của tiền tệ

• Các hình thái phát triển của tiền tệ

• Khái niệm về tài chính và hệ thống tài chính

1. Khái niệm về tiền tệ

1.1. Định nghĩa

Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hoá, dịch

vụ hoặc để hoàn trả các khoản nợ.

Định nghĩa này chỉ đưa ra các tiêu chí để nhận biết một vật có phải là tiền tệ hay không.

Tuy nhiên nó chưa giải thích được tại sao vật đó lại được chọn làm tiền tệ. Để giải thích

được điều này phải tìm hiểu bản chất của tiền tệ.

1.2. Bản chất

Tiền tệ thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá, dịch vụ, là phương

tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn.

Bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính sau của nó:

• Giá trị sử dụng của tiền tệ là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu cầu

sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Như vậy người ta sẽ chỉ cần nắm giữ tiền khi

có nhu cầu trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội qui định: chừng nào

xã hội còn thừa nhận nó thực hiện tốt vai trò tiền tệ (tức là vai trò vật trung gian môi giới

trong trao đổi) thì chừng đó giá trị sử dụng của nó với tư cách là tiền tệ còn tồn tại2. Đây

chính là lời giải thích cho sự xuất hiện cũng như biến mất của các dạng tiền tệ trong lịch

sử.

• Giá trị của tiền được thể hiện qua khái niệm "sức mua tiền tệ", đó là khả năng đổi được

1 The fundamentals of money and finance

2 Như vậy khác với giá trị sử dụng của hàng hoá thông thường (giá trị sử dụng của hàng hoá thông thường

là do đặc tính tự nhiên của nó qui định và tồn tại vĩnh viễn cùng với những đặc tính tự nhiên đó), giá trị sử

dụng của một loại tiền tệ mang tính lịch sử, nó chỉ tồn tại trong những giai đoạn nhất định và hoàn toàn phụ

thuộc vào ý chí của xã hội.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

2

nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi. Tuy nhiên khái niệm sức mua tiền tệ không

được xem xét dưới góc độ sức mua đối với từng hàng hoá nhất định mà xét trên phương

diện toàn thể các hàng hoá trên thị trường.

2. Sự phát triển các hình thái của tiền tệ

Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ đã lần lượt tồn tại dưới nhiều

hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là của

hoạt động sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hoá.

Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem đã có những dạng tiền tệ nào trong lịch sử,

chúng đã ra đời như thế nào và tại sao lại không còn được sử dụng nữa. Bằng cách này

chúng ta sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về khái niệm tiền tệ.

2.1. Tiền tệ hàng hoá - Hoá tệ (Commodity money)

Đây là hình thái đầu tiên của tiền tệ. Đặc điểm chung của loại tiền tệ này là: Hàng hoá

dùng làm tiền tệ trong trao đổi phải có giá trị thực sự và giá trị của vật trung gian trao đổi

này phải ngang bằng với giá trị hàng hoá đem ra trao đổi, tức là trao đổi ngang giá một

hàng hoá thông thường lấy hàng hoá đặc biệt - tiền tệ3. Hoá tệ xuất hiện lần lượt dưới hai

dạng:

2.1.1. Hoá tệ phi kim loại

Hoá tệ phi kim loại là tiền tệ dưới dạng các hàng hoá (trừ kim loại). Đây là hình thái cổ

nhất của tiền tệ, rất thông dụng trong các xã hội cổ xưa. Trong lịch sử đã có rất nhiều loại

hàng hoá khác nhau từng được con người dùng làm tiền tệ. Trong cuốn "Primitive

money" của Paul Einzig viết năm 19664, ông đã đưa ra những thống kê khá thú vị sau về

những loại tiền cổ xưa mà theo ông nhiều số trong đó vẫn còn được sử dụng cho đến cả

ngày nay. Đó là:

- Răng cá voi ở đảo Fiji

- Gỗ đàn hương ở Hawaii

- Lưỡi câu (cá) ở quần đảo Gilbert

- Mai rùaở đảo Marianas

- Tuần lộc ở nhiều nơi thuộc Nga

- Lụa ở Trung quốc

- Bơ ở Na Uy

- Daở Pháp và Ý

- Rượu Rum ở Australia

3 Nói cách khác, giá trị của tiền tệ hàng hoá (hoá tệ) được đo bằng giá trị của hàng hoá được dùng làm tiền

tệ.

4 Smith., Gary, Money, banking and financial intermediation, p35.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

3

- Bộ lông vẹt đỏ ở quần đảo Santa Cruz (vẫn còn cho đến năm 1961)

- Gạo ở Philippines

- Hạt tiêu ở Sumatra

- Đường ở đảo Barbados

- Nô lệ ở Châu Phi xích đạo, Nigeria, Ailen

- Những chuỗi vỏ sò của những thổ dân da đỏ Bắc Mỹ

- Bò, cừu ở Hy lạp và La mã

- Muối ở nhiều nơi.

Tuy nhiên, hoá tệ phi kim loại có nhiều điểm bất tiện như: tính chất không đồng nhất, dễ

hư hỏng, khó phân chia hay gộp lại, khó bảo quản cũng như vận chuyển, và chỉ được

công nhận trong từng khu vực, từng địa phương. Vì vậy mà hoá tệ phi kim loại dần dần

biến mất và được thay thế bằng dạng hoá tệ thứ hai: hoá tệ kim loại.

2.1.2. Hoá tệ kim loại

Hoá tệ kim loại là tiền tệ dưới dạng các kim loại, thường là các kim loại quý như vàng,

bạc, đồng....

Nói chung các kim loại có nhiều ưu điểm hơn so với các hàng hoá khác khi được sử dụng

làm tiền tệ như: chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác, dễ dàng hơn, thêm

vào đó, nó lại bền hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi....

Trong thực tiễn lưu thông hoá tệ kim loại, chỉ có vàng trở thành loại tiền tệ được sử dụng

phổ biến và lâu dài nhất. Bạc rồi đồng chỉ được sử dụng thay thế khi thiếu vàng dùng làm

tiền tệ.

Sự thống trị của tiền vàng có được là do vàng có những ưu việt hơn hẳn các hàng hoá

khác trong việc thực hiện chức năng tiền tệ:

• Vàng là một loại hàng hoá được nhiều người ưa thích. Chúng ta biết rằng, vàng

chưa chắc đã là kim loại quý hiếm nhất nhưng nhu cầu của xã hội về vàng đã xuất

hiện rất sớm trong lịch sử và ngày càng tăng làm cho vàng trở thành một thứ hàng

hoá rất hấp dẫn, được nhiều người ưa thích. Vì vậy, việc dùng vàng trong trao đổi

dễ dàng được chấp nhận trên phạm vi rộng lớn.

• Những đặc tính lý hoá của vàng rất thuận lợi trong việc thực hiện chức năng tiền

tệ. Vàng không bị thay đổi về màu sắc và chất lượng dưới tác động của môi

trường và cơ học nên rất tiện cho việc cất trữ. Nó dễ chia nhỏ mà không ảnh

hưởng tới chất lượng.

• Giá trị của vàng ổn định trong thời gian tương đối dài, ít chịu ảnh hưởng của

năng suất lao động tăng lên như các hàng hoá khác. Sự ổn định của giá trị vàng

là do năng suất lao động sản xuất ra vàng tương đối ổn định. Ngay cả việc áp

dụng tiến bộ kỹ thuật vào khai thác cũng không làm tăng năng suất lao động lên

Phan Anh TuÊn

[email protected]

4

nhiều. Điều này làm cho tiền vàng luôn có được giá trị ổn định, một điều kiện rất

cần thiết để nó có thể chấp hành tốt các chức năng tiền tệ.

Trong giai đoạn đầu, tiền vàng thường tồn tại dưới dạng nén, thỏi. Nhưng về sau để tiện

cho việc trao đổi, tiền vàng thường được đúc thành những đồng xu với khối lượng và độ

tinh khiết nhất định. Loại tiền này vì thế mà còn được gọi là tiền đúc. Tiền đúc xuất hiện

đầu tiên tại Trung quốc, khoảng thế kỷ thứ 7 trước CN, sau thâm nhập sang Batư, Hy lạp,

La mã rồi vào châu Âu. Các đồng tiền lưu hành ở châu Âu trước kia đều dưới dạng này.

Ví dụ: đồng "pound sterling" của Anh, đồng livrơ hay lu-y của Pháp... Trước kia đồng

bảng Anh vốn là những đồng xu bằng bạc có in một ngôi sao trên bề mặt, trong tiếng Anh

cổ "sterling" nghĩa là ngôi sao cho nên những đồng xu đó được gọi là "pound sterling",

còn ký hiệu đồng bảng Anh (£) là bắt nguồn từ một từ Latinh cổ "libra" giống nghĩa với

từ "pound".

Tiền vàng đã có một thời gian thống trị rất dài trong lịch sử. Điều này đã chứng tỏ những

hiệu quả to lớn mà nó mang lại cho nền kinh tế. Một sự thực là hệ thống thanh toán dựa

trên vàng vẫn còn được duy trì cho đến mãi thế kỷ 20, chính xác là đến năm 1971. Ngay

cả ngày nay, mặc dù tiền vàng không còn tồn tại trong lưu thông nữa, nhưng các quốc gia

cũng như nhiều người vẫn coi vàng là một dạng tài sản cất trữ có giá trị.

Tuy có những đặc điểm rất thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ như vậy, tiền vàng vẫn

không thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi của xã hội khi nền sản xuất và trao đổi hàng hoá

phát triển đến mức cao. Một loạt lý do sau đây đã khiến cho việc sử dụng tiền vàng ngày

càng trở nên bất tiện, không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa:

(1) Quy mô và trình độ sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, khối lượng và chủng loại

hàng hoá đưa ra trao đổi ngày càng tăng và đa dạng; trong khi đó lượng vàng sản xuất ra

không đủ đáp ứng nhu cầu về tiền tệ (nhu cầu về phương tiện trao đổi) của nền kinh tế.

(2) Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hoá khác tăng lên do năng suất lao động

trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của các ngành

sản xuất hàng hoá khác. Điều đó dẫn đến việc giá trị của vàng trở nên quá lớn, không thể

đáp ứng nhu cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực có lượng giá trị trao đổi

mỗi lần nhỏ như mua bán dịch vụ hoặc hàng hoá tiêu dùng....

(3) Ngược lại, trong những giao dịch với giá trị lớn thì tiền vàng lại trở nên cồng kềnh.

(4) Việc sử dụng tiền tệ hàng hoá bị các nhà kinh tế xem như là một sự lãng phí những

nguồn tài nguyên vốn đã có hạn. Để dùng một loại tiền tệ hàng hoá, xã hội sẽ phải cắt bớt

các công dụng khác của hàng hoá đó hoặc dùng các nguồn lực khan hiếm để sản xuất bổ

sung. Rõ ràng là với việc dùng vàng làm tiền tệ con người đã phải giảm bớt các nhu cầu

dùng vàng làm đồ trang sức hoặc trong các ngành có sử dụng vàng làm nguyên liệu vì xã

hội phải dành một phần lớn số lượng vàng hiện có để làm tiền tệ.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

5

Với những lý do như vậy mà xã hội đã phải đi tìm cho mình một dạng tiền tệ mới phù

hợp hơn. Chúng ta chuyển sang hình thái tiền tệ thứ hai:

2.2. Tiền giấy (paper money)

􀀹 Tiền giấy xuất hiện đầu tiên dưới dạng các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra bạc

hoặc vàng do các ngân hàng thương mại phát hành (gold certificate, silver certificate).

Đây là các cam kết cho phép người nắm giữ giấy này có thể đến ngân hàng rút ra số

lượng vàng hay bạc ghi trên giấy. Do có thể đổi ngược ra vàng và bạc nên các giấy chứng

nhận này cũng được sử dụng trong thanh toán như vàng và bạc. Sự ra đời những giấy

chứng nhận như vậy đã giúp cho việc giao dịch với những khoản tiền lớn cũng như việc

vận chuyển chúng trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.

􀀹 Dần dần các giấy chứng nhận nói trên được chuẩn hoá thành các tờ tiền giấy có in

mệnh giá và có khả năng đổi ra vàng một cách tự do theo hàm lượng vàng qui định cho

đồng tiền đó. Ví dụ: ở Anh trước đây bên cạnh những đồng pound sterling tiền đúc còn

lưu hành đồng bảng Anh bằng giấy do các ngân hàng phát hành và được đổi tự do ra

vàng theo tỷ lệ 1 bảng Anh tương đương 123,274 grain, tương đương với 7,32238 gr

vàng nguyên chất. Việc đổi từ tiền giấy ra vàng được thực hiện tại các ngân hàng phát

hành ra nó. Loại tiền giấy này rất phổ biến ở châu Âu trong thời gian trước chiến tranh

thế giới thứ nhất, thường được gọi là tiền ngân hàng hay giấy bạc ngân hàng (bank note).

Việc sử dụng tiền ngân hàng hoàn toàn mang tính chất tự nguyện.

􀀹 Sau Đại chiến thế giới thứ nhất, nhằm siết chặt quản lý trong việc phát hành tiền giấy,

các nhà nước đã ngăn cấm các ngân hàng thương mại phát hành giấy bạc ngân hàng, từ

nay mọi việc phát hành chỉ do một ngân hàng duy nhất gọi là ngân hàng trung ương thực

hiện. Vì thế ngày nay nói đến giấy bạc ngân hàng phải hiểu là giấy bạc của ngân hàng

trung ương. Hàm lượng vàng của đồng tiền giấy bây giờ được qui định theo luật từng

nước. Ví dụ: hàm lượng vàng của đồng đô la Mỹ công bố tháng 1 năm 1939 là

0.888671g. Vì vậy mà người ta còn gọi tiền giấy này là tiền pháp định (Fiat money).

􀀹 Thế nhưng chẳng bao lâu sau khi xuất hiện, do ảnh hưởng của chiến tranh cũng như

khủng hoảng kinh tế5, đã nhiều lần tiền giấy bị mất khả năng được đổi ngược trở lại ra

vàng (ở Pháp, tiền giấy bị mất khả năng đổi ra vàng vào các năm 1720, 1848 - 1850,

1870 - 1875, 1914 - 1928 và sau cùng là kể từ 1/10/1936 tới nay; ở Mỹ trong thời gian

nội chiến, từ năm 1862 - 1863 nhà nước phát hành tiền giấy không có khả năng đổi ra

vàng và chỉ tới năm 1879 khi cuộc nội chiến đã kết thúc mới có lại khả năng đó), thậm

5 Có thể nói chiến tranh thế giới lần thứ I và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 là nguyên

nhân chính đưa đến việc áp dụng tiền giấy bất khả hoán (tiền giấy không có khả năng đổi ra vàng) rộng

khắp các nước.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

6

chí có những thời kỳ cả tiền giấy được đổi ra vàng và tiền giấy không đổi được ra vàng

cùng song song tồn tại6. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ còn duy nhất đồng USD là

có thể đổi ra vàng, tuy nhiên tới năm 1971, với việc Mỹ tuyên bố ngừng đổi đồng USD ra

vàng, sự tồn tại của đồng tiền giấy có thể đổi ra vàng trong lưu thông thực sự chấm dứt.

􀀹 Ngày nay, tiền giấy thực chất chỉ là các giấy nợ (IOU) của ngân hàng trung ương với

những người mang nó. Nhưng không như hầu hết các giấy nợ, chúng hứa trả cho người

mang nó chỉ bằng các tờ tiền giấy khác7, tức là ngân hàng trung ương thanh toán các giấy

nợ này bằng các giấy nợ khác. Và vì vậy, giờ đây, bạn mang tờ 100.000 đ ra ngân hàng

người ta sẽ chỉ đổi cho bạn ra các đồng tiền với mệnh giá nhỏ hơn như 20.000, 10.000,

5000 đ chứ không phải là vàng. Khi phát hành tiền giấy thì tiền giấy trở thành tài sản của

người sở hữu chúng, nhưng đối với ngân hàng trung ương lại là một khoản nợ về giá trị

(hay về sức mua) của lượng tiền đã phát hành ra. Chính vì vậy, khi phát hành ra một

lượng tiền bao giờ lượng tiền này cũng được ghi vào mục Tài sản Nợ trong bảng tổng kết

tài sản của ngân hàng Trung ương.

􀀹 Qua nghiên cứu quá trình hình thành tiền giấy, có thể thấy, tiền giấy ra đời với tư cách

là dấu hiệu của kim loại tiền tệ (tiền vàng), được phát hành ra để thay thế cho tiền kim

loại trong việc thực hiện chức năng tiền tệ nhằm khắc phục những nhược điểm của tiền tệ

kim loại. Chính vì vậy, tiền giấy vẫn được sử dụng với giá trị như giá trị tiền tệ kim loại

mà nó đại diện mặc dù giá trị thực của nó thấp hơn nhiều. Tờ giấy bạc 10 USD trước năm

1970 mặc dù được in ấn khá công phu trên chất liệu giấy đắt tiền vẫn không thể có giá trị

bằng 8,88671g vàng mà nó đại diện. Và với việc in thêm chỉ một con số 0 nữa chúng ta

cũng sẽ có một tờ 100 USD với chi phí rẻ hơn nhiều so với 88,8671g vàng mà nó đại

diện. Cũng vì thế tiền giấy còn được gọi là tiền tệ dưới dạng dấu hiệu giá trị hay là tiền

danh nghĩa (token money).

􀀹 Tiền giấy ngày nay không còn khả năng đổi ngược trở lại tiền tệ kim loại (tiền vàng)

như trước nữa. Việc xã hội chấp nhận sử dụng tiền giấy mặc dù giá trị thực của nó thấp

hơn nhiều so với giá trị mà nó đại diện là vì tiền giấy được quy định trong luật là phương

tiện trao đổi, vì mọi người tin tưởng vào uy tín của cơ quan phát hành (tức NHTW), và vì

6 Để phân biệt hai loại tiền này, các nhà kinh tế gọi tiền vàng và tiền giấy có khả năng đổi ngược ra vàng là

tiền cứng (hard money) còn tiền giấy không đổi được ra vàng là tiền mềm (soft money).

7 Trên thực tế, NHTƯ đưa tiền ra lưu thông bằng cách mua một lượng chứng khoán hoặc hàng hoá. Như

vậy lượng tiền đưa ra lưu thông được đảm bảo bằng lượng hàng hoá hay chứng khoán đó, đến lượt chứng

khoán lại được đảm bảo bởi số hàng hoá mà người phát hành chứng khoán dùng tiền bán chứng khoán để

mua. Điều này làm cho tiền giấy thực tế được đảm bảo bằng lượng hàng hoá nhất định. NHTƯ có thể thu

hồi lại tiền giấy đã in ra bằng cách bán số hàng hoá hay chứng khoán mà nó nắm giữ. Có sự khác nhau giữa

hành vi mua của các chủ thể kinh tế với hàng vi mua của NHTƯ. Với các chủ thể kinh tế mua thì sẽ tiêu

dùng mất đi, còn với NHTƯ thì mua rồi để đó để còn chuộc lại tiền giấy đã in ra. Như vậy, nếu NHTƯ đảm

bảo rằng số hàng hoá hay chứng khoán mà nó mua bằng cách in tiền giấy có thể bán đi để thu hồi lại đủ số

tiền giấy nó đã in ra thì giá trị của tiền giấy vẫn được đảm bảo.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

7

người ta thấy việc sử dụng tiền giấy là tiện lợi. Thế nhưng một khi mất lòng tin vào cơ

quan phát hành, không còn tin rằng NHTW có thể đảm bảo cho giá trị danh nghĩa của

tiền giấy được ổn định thì người ta sẽ không sử dụng tiền giấy nữa. Một thực tế là ở nhiều

nước, chẳng hạn Việt nam trước kia, do tiền Việt nam mất giá liên tục, người ta đã sử

dụng USD để mua bán trao đổi các hàng hoá có giá trị lớn như nhà cửa, xe cộ v.v....

􀀹 Về lợi ích của việc dùng tiền giấy, có thể thấy:

• Việc sử dụng tiền giấy đã giúp cho mọi người có thể dễ dàng cất trữ và vận

chuyển tiền hơn. Rõ ràng là các bạn sẽ thích mang theo mình những tờ tiền giấy

hơn là những đồng tiền đúc nặng nề sớm muộn sẽ tạo ra những lỗ thủng trong túi

của mình.

• Tiền giấy cũng có đủ các mệnh giá từ nhỏ tới lớn phù hợp với qui mô các giao

dịch của bạn.

• Về phía chính phủ, cái lợi thấy rõ nhất của tiền giấy là việc in tiền giấy tốn chi phí

nhỏ hơn nhiều so với những giá trị mà nó đại diện và có thể phát hành không phụ

thuộc vào số lượng các hàng hoá dùng làm tiền tệ như trước đây.

Ngoài ra, chính phủ luôn nhận được khoản chênh lệch giữa giá trị mà tiền giấy đại

diện với chi phí in tiền khi phát hành tiền giấy. Ở nhiều nước khoản chênh lệch

này đã tạo ra một nguồn thu rất lớn cho ngân sách. Ví dụ: Trước đây, đồng DMark

được xem là đồng tiền dự trữ quan trọng nhất của thế giới sau đồng đô la

Mỹ nên nó được rất nhiều nước dự trữ. Theo một công trình nghiên cứu của Ngân

hàng liên bang Đức lúc đó, khoảng từ 30 đến 40% số lượng đồng D-Mark bằng

tiền giấy "được lưu hành ở ngoài nước và nằm ngoài hệ thống ngân hàng". Ở

Đông Âu, nhiều công dân đã sử dụng đồng D-Mark như đồng tiền của chính nước

mình. Và vì vậy, trong nhiều thập niên, Ngân hàng Liên bang Đức đã cho phát

hành rất nhiều tiền giấy, nhiều hơn rất nhiều so với người Đức cần. Việc in đồng

Mark đã đem lại một khoản lãi lớn cho Ngân sách Liên bang. Ví dụ: năm 1996,

khoản đó là 8,8 tỷ D-Mark. Trong những năm đặc biệt phát đạt, khoản tiền đó

chiếm tới 1/5 toàn bộ thu nhập của CHLB Đức.

􀀹 Tiền giấy cũng có những nhược điểm như: không bền (dễ rách); chi phí lưu thông vẫn

còn lớn; khi trao đổi hàng hoá diễn ra trên phạm vi rộng (chẳng hạn giữa các quốc gia

hay giữa các vùng xa nhau), đòi hỏi tốc độ thanh toán nhanh, an toàn thì tiền giấy vẫn tỏ

ra cồng kềnh, không an toàn khi vận chuyển; có thể bị làm giả; dễ rơi vào tình trạng bất

ổn (do không có giá trị nội tại và không thể tự điều tiết được số lượng tiền giấy trong lưu

thông như tiền vàng).

Phan Anh TuÊn

[email protected]

8

2.3. Tiền tín dụng (Credit money)

Bên cạnh tiền giấy, ngày nay do sự phát triển của các tổ chức tài chính tín dụng, đặc biệt

là của hệ thống ngân hàng, một hình thái tiền tệ mới đã xuất hiện dựa trên những hoạt

động của các tổ chức đó. Đó là tiền tín dụng.

♣ Tiền tín dụng là tiền nằm trong các tài khoản mở ở ngân hàng và được hình thành trên

cơ sở các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Khi khách hàng gửi một khoản tiền giấy vào

ngân hàng, ngân hàng sẽ mở một tài khoản và ghi có số tiền đó8. Tiền giấy của khách

hàng như thế đã chuyển thành tiền tín dụng. Tiền tín dụng thực chất là cam kết của ngân

hàng cho phép người sở hữu tài khoản tiền gửi (hay tiền tín dụng) được rút ra một lượng

tiền giấy đúng bằng số dư có ghi trong tài khoản9. Do cam kết này được mọi người tin

tưởng nên họ có thể sử dụng luôn các cam kết ấy như tiền mà không phải đổi ra tiền giấy

trong các hoạt động thanh toán10. Tuy nhiên các hoạt động thanh toán bằng tiền tín dụng

phải thông qua hệ thống ngân hàng làm trung gian. Cũng vì vậy mà tiền tín dụng còn có

một tên gọi khác là tiền ngân hàng (bank money).

♣ Để thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng sẽ ký kết với

nhau các hợp đồng đại lý mà theo đó các ngân hàng sẽ mở cho nhau các tài khoản để ghi

chép các khoản tiền di chuyển giữa họ. Khi đó thay vì phải chuyển giao tiền một cách

thực sự giữa các ngân hàng, họ chỉ việc ghi có hoặc nợ vào các tài khoản này. Hoạt động

chuyển tiền thực sự chỉ xảy ra định kỳ theo thoả thuận giữa các ngân hàng. Cơ chế hoạt

động này làm tăng rất nhanh tốc độ thanh toán. Chính vì vậy hoạt động thanh toán qua

ngân hàng rất được ưa chuộng do tính nhanh gọn và an toàn của nó.

♣ Do tiền tín dụng thực chất chỉ là những con số ghi trên tài khoản tại ngân hàng cho nên

có thể nói tiền tín dụng là đồng tiền phi vật chất và nó cũng là loại tiền mang dấu hiệu giá

trị như tiền giấy.

♣ Để sử dụng tiền tín dụng, những người chủ sở hữu phải sử dụng các lệnh thanh toán để

ra lệnh cho ngân hàng nơi mình mở tài khoản thanh toán hộ mình. Có nhiều loại lệnh

thanh toán khác nhau, nhưng dạng phổ biến nhất là séc11.

􀂾 Séc (cheque/check12) là một tờ lệnh do người chủ tài khoản séc phát hành yêu

cầu ngân hàng thanh toán từ tài khoản của anh ta cho người hưởng lợi chỉ định trong tờ

séc.

8 Vì vậy mà tiền tín dụng còn được gọi là tiền tài khoản. Chữ "credit" trong từ "credit money" chính là từ

chỉ mục "Có" (ngược nghĩa với "Nợ") trên tài khoản chữ T.

9 Tiền tín dụng như vậy là tài sản Có của người gửi tiền nhưng là tài sản Nợ của ngân hàng nhận tiền gửi.

10 Sự hình thành tiền tín dụng như vậy gần giống với trường hợp các giấy chứng nhận có khả năng đổi ra

bạc hoặc vàng (gold certificate, silver certificate) do các ngân hàng thương mại phát hành trước kia.

11 Ở Việt nam Uỷ nhiệm chi lại phổ biến hơn Séc do Uỷ nhiệm chi là phương tiện thanh toán an toàn hơn.

12 Theo tiếng Anh-Mỹ.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

9

􀂾 Séc13 thường được phát hành theo một mẫu nhất định. Khi mở tài khoản séc,

ngân hàng sẽ cấp cho người chủ tài khoản một tập séc đóng thành cuốn và séc chỉ có hiệu

lực khi người chủ tài khoản ký. Khi thanh toán, người chủ tài khoản séc sẽ ghi số tiền cần

thanh toán vào séc, ký tên rồi đưa cho người nhận thanh toán. Người này sau đó sẽ đến

ngân hàng giữ tài khoản séc đó để rút tiền mặt hoặc chuyển tiền sang tài khoản của mình

trong cùng ngân hàng hoặc ở ngân hàng khác.

􀂾 Việc sử dụng séc trong thanh toán có lợi thế là: 1/ tiết kiệm được chi phí giao

dịch do giảm bớt việc phải chuyển tiền thực giữa các ngân hàng (vì các tờ séc đi và séc

đến sẽ khử lẫn nhau) 2/ tốc độ thanh toán cao và an toàn 3/ tiện cho việc thanh toán vì có

thể viết ra với bất kỳ lượng tiền nào cho đến hết số dư trên tài khoản, và do đó làm cho

việc thanh toán những món tiền lớn được thực hiện dễ dàng hơn. Chính vì những lý do

như vậy, séc ngày nay được sử dụng phổ biến trong thanh toán không kém gì tiền giấy.

􀂾 Ngoài séc, ở nhiều nước còn có thể gặp một phương tiện thanh toán gần tương

tự như séc, đó là séc du lịch (traveller's cheque):

􀀳 Đây cũng là một dạng séc song do ngân hàng phát hành cho những người đi

ra nước ngoài hưởng. Tại nước đến, người cầm séc có thể dùng để thanh toán trực tiếp

thay cho tiền mặt14 hoặc đến những ngân hàng được ngân hàng phát hành séc ủy thác để

đổi ra tiền mặt. Ngân hàng nhận séc du lịch sẽ thông qua hệ thống thanh toán giữa các

ngân hàng để thu tiền từ ngân hàng phát hành. Khi đổi ra tiền mặt thường thì người sử

dụng còn phải trả thêm một khoản phí tính theo phần trăm trên mệnh giá tờ séc. Đấy là

chi phí cho việc thu tiền từ ngân hàng phát hành séc.

􀀳 Về hình thức, séc du lịch cũng không hoàn toàn giống với séc thông thường.

Séc du lịch được in mệnh giá như tiền mặt, ngoài ra trên tờ séc còn in tên của ngân hàng

phát hành cũng như tên người hưởng lợi séc.

􀀳 Với việc dùng séc du lịch, những người đi ra nước ngoài có thể mang theo một

số lượng ngoại tệ lớn mà vẫn an toàn vì séc du lịch được cấp đích danh cho nên muốn đổi

ra tiền mặt hay thanh toán phải có chữ ký của người đó và phải cung cấp cho ngân hàng

số hộ chiếu của người chủ séc15.

Hiện nay 5 loại séc du lịch được chấp nhận tại Việt nam là American Express, Visa,

Mastercard, Thomacook, Citicorp, Bank of America.

13 Lưu ý séc không phải là một loại tiền mà chỉ là phương tiện để lưu thông tiền tín dụng.

14 Cửa hàng nhận thanh toán séc du lịch sẽ đem séc đến ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành séc du

lịch để chuyển ra tiền mặt.

15 Người ta vẫn có nhu cầu về séc du lịch làm phương tiện thanh toán mặc dù séc có cùng chức năng tương

tự là vì séc có phạm vi lưu thông hạn chế hơn. Khi ra nước ngoài chúng ta không thể ký phát séc từ tài

khoản séc ở trong nước của chúng ta, hơn nữa nếu ngân hàng cung cấp dịch vụ này thì chi phí cao hơn với

phí trả cho sử dụng séc du lịch nhiều. Séc du lịch thường do các ngân hàng lớn phát hành nên phạm vi lưu

thông rộng hơn nhiều.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

10

♣ Để sử dụng hình thức thanh toán bằng séc, người gửi tiền vào ngân hàng sẽ phải mở tài

khoản séc (checking account). Ngoài ra, ở các nước có hệ thống ngân hàng và thị trường

tài chính phát triển, ngoài tài khoản séc thông thường còn tồn tại các dạng tài khoản có

khả năng phát séc khác như là: NOW accounts (negotiable order of withdrawal account),

super NOW account, MMDA (Money-market deposit account), ATS account (Automatic

transfer from savings account - tài khoản loại tự động chuyển khoản từ tài khoản tiết

kiệm). Các lệnh thanh toán từ các tài khoản này cũng có chức năng tương tự séc.

♣ Việc lưu thông tiền tín dụng dựa trên cơ sở việc lưu thông séc cũng có những hạn chế

nhất định. Trước hết, việc thanh toán bằng séc vẫn đòi hỏi một khoảng thời gian nhất

định, đó là thời gian cần thiết để chuyển séc từ nơi này đến nơi khác, thời gian cần thiết

để kiểm tra tính hợp lệ của séc v.v..., do vậy thanh toán bằng séc sẽ vẫn chậm trong các

trường hợp cần thanh toán nhanh. Thứ hai, việc thanh toán bằng séc dẫn đến việc xử lý

các chứng từ thanh toán và chi phí cho việc này ngày càng tăng gây tốn kém đáng kể cho

xã hội. Chính vì vậy, để đáp ứng sự phát triển của nhu cầu trao đổi, thanh toán trong nền

kinh tế, đòi hỏi phải có một hình thái tiền tệ mới hoàn thiện hơn.

2.4. Tiền điện tử (Electronic money)

􀁚 Gần đây, những tiến bộ về công nghệ máy tính cũng như sự phát triển của mạng lưới

thông tin viễn thông đã cho phép các ngân hàng thay thế phương thức thanh toán truyền

thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điện tử (Electronic means

of payment - EMOP) - phương thức thanh toán trong đó các giao dịch chuyển tiền thanh

toán được thực hiện nhờ hệ thống viễn thông điện tử dựa trên cơ sở mạng máy tính kết

nối giữa các ngân hàng. Bằng phương pháp mới này, tốc độ chuyển tiền tăng lên rất

nhanh, giảm bớt được chi phí về giấy tờ so với lưu thông tiền mặt và séc.

􀁚 Khi chuyển sang phương thức thanh toán điện tử, tiền trong các tài khoản ở ngân

hàng được lưu trữ trong hệ thống máy tính của ngân hàng dưới hình thức điện tử (số

hoá). Đồng tiền trong hệ thống như vậy được gọi là tiền điện tử (E-money) hoặc tiền số

(Digi money). Như vậy, tiền điện tử là tiền tệ tồn tại dưới hình thức điện tử (số hoá).

􀁚 Hai hệ thống thanh toán điện tử lớn nhất hiện nay là CHIPS (Clearing House

Interbank Payment System - Hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng) và SWIFT

(Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication). Các hệ thống này cho

phép thực hiện các hoạt động thanh toán điện tử giữa các ngân hàng không chỉ trong một

quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Ngoài ngân hàng ra, các quỹ đầu tư trên thị trường

tiền tệ và chứng khoán, các công ty chứng khoán và cả các công ty kinh doanh ngày nay

cũng rất tích cực sử dụng hệ thống này trong các hoạt động thanh toán, chuyển tiền của

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

11

mình.

􀁚 Các hoạt động thanh toán điện tử thường có giá trị rất lớn (giá trị mỗi lần chuyển tiền

thanh toán có thể lên tới trên 1 triệu USD). Chính vì vậy, theo thống kê ở Mỹ, mặc dù chỉ

chiếm hơn 1% tổng số các giao dịch thanh toán, các giao dịch thanh toán điện tử lại

chiếm hơn 80% tổng giá trị các hoạt động thanh toán. Gần đây, các giao dịch thanh toán

có giá trị nhỏ cũng có thể sử dụng phương thức thanh toán điện tử thông qua một hệ

thống bù trừ tự động (Automatic clearing houses - ACHs). Các công ty có thể sử dụng hệ

thống này để trả lương, còn các cá nhân bằng việc sử dụng các tài khoản điện tử, có thể

ngồi ở nhà sử dụng máy tính nối vào hệ thống mạng của ngân hàng để thực hiện các hoạt

động chuyển khoản, thanh toán16 mà không phải sử dụng tới séc hay tiền mặt cùng các

thủ tục giấy tờ phiền phức cho những công việc đó nữa. Hơn thế, sự xuất hiện loại hình

thương mại điện tử (E-commerce) càng thúc đẩy hơn nữa việc sử dụng phương thức

thanh toán mới này.

􀁚 Ngoài dùng trong các hoạt động chuyển khoản, tiền điện tử còn được sử dụng trực

tiếp trong các giao dịch dưới các hình thức sau:

􀂙 Các thẻ thanh toán: là các tấm thẻ do ngân hàng hoặc các công ty tài chính phát

hành mà nhờ đó người ta có thể lưu thông những khoản tiền điện tử. Thẻ thanh

toán có một số dạng sau:

• Loại thứ nhất là thẻ rút tiền ATM (ATM card - bank card). Thẻ ATM được

dùng để rút tiền hoặc chuyển khoản thông qua máy rút tiền tự động ATM

(Automated teller machine). Việc sử dụng chỉ thẻ chỉ đơn giản là nhét thẻ vào

máy, nhập mã số, màn hình ATM sẽ xin lệnh. Trong nửa phút mọi hoạt động

chuyển khoản hoặc rút tiền ngay tại máy được hoàn thành.

• Tiếp theo là thẻ tín dụng (credit card): Đó là một tấm thẻ bằng nhựa cứng

(plastic), hình chữ nhật với kích thước chuẩn là 96 x 54 x 0,76mm, mặt trước

có in các thông tin về tổ chức phát hành thẻ (tên và logo), thông tin về người

sử dụng thẻ (tên công ty và tên người được uỷ quyền sử dụng thẻ - nếu là thẻ

cho công ty hoặc tên cá nhân, đôi khi cả ảnh - nếu là thẻ cho cá nhân), loại thẻ

(Standard, Gold), số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ v.v.., mặt sau có một dải băng

từ trong lưu các thông tin cần thiết về thẻ và chủ thẻ (như số thẻ, ngày hiệu

lực, tên chủ thẻ, mã số định danh PIN, mã để kiểm tra giá trị hiệu lực của thẻ),

ngoài ra còn in cả chữ ký của chủ thẻ ở mặt sau. Các tổ chức phát hành thẻ tín

dụng đảm bảo rằng họ sẽ thanh toán tiền mua hàng hoá hay dịch vụ cho

16 Dịch vụ Direct debit.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

12

người bán thay cho người sử dụng thẻ trong hạn mức tín dụng của thẻ. Số tiền

đó sẽ được người mua thanh toán lại cho các tổ chức này sau một thời gian

nhất định. Vì người sử dụng thẻ tín dụng không phải trả tiền ngay lúc mua

hàng, nói cách khác là các tổ chức phát hành thẻ đã cho họ vay để thanh toán

nên thẻ được gọi là thẻ tín dụng. Người sử dụng thẻ tín dụng cũng có thể dùng

thẻ này để rút tiền tại ngân hàng nhưng trong hạn mức của thẻ. Muốn sử dụng

thẻ tín dụng, người đăng ký phải có một tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng

với số dư đủ để đảm bảo khả năng thanh toán của họ cho các tổ chức phát

hành thẻ khi các tổ chức này trả tiền thay cho họ. Tuỳ theo hạn mức tín dụng

của thẻ mà sẽ có những yêu cầu khác nhau về số dư đó. Nhiều tổ chức phát

hành thẻ còn yêu cầu cung cấp thông tin về khả năng tài chính của người sử

dụng thẻ. Hàng năm người sử dụng thẻ tín dụng sẽ phải trả cho tổ chức phát

hành một khoản phí sử dụng, ngoài ra còn phải trả phí thanh toán hộ cho mỗi

lần thanh toán bằng thẻ. Thẻ tín dụng ngày nay được sử dụng ở các nước phát

triển cũng phổ biến không kém séc. Nó có rất nhiều loại, chỉ riêng ở Mỹ đã có

trên 3000 loại khác nhau lưu hành. Sở dĩ có nhiều như vậy vì tổ chức phát

hành thẻ không chỉ giới hạn ở các ngân hàng hoặc các công ty tài chính, thậm

chí các công ty, các câu lạc bộ cũng có thể phát hành thẻ, nhưng tất nhiên là

phạm vi sử dụng sẽ khác nhau. Phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là các thẻ

Master card, Visa card và AMEX.

• Loại thứ ba là thẻ ghi nợ (debit card). Về hình thức thẻ ghi nợ tương tự như

thẻ tín dụng. Tuy nhiên, khác với thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ không phải là công

cụ để vay tiền mà để tiêu tiền trong tài khoản. Khi thanh toán, người thu tiền

sẽ quẹt thẻ qua một máy đọc thẻ (card reader), sau đó yêu cầu chủ thẻ ký xác

nhận vào hoá đơn mua hàng. Sau đó một số ngày nhất định (thường là 2 ngày)

tiền sẽ được chuyển từ tài khoản chủ thẻ sang tài khoản người bán hàng.

• Gần đây người ta nhắc nhiều đến một loại thẻ cao cấp hơn gọi là thẻ thông

minh (smart card). Thẻ thông minh thực chất chính là dạng thẻ ghi nợ, chỉ có

khác là trên thẻ còn gắn thêm một bộ mạch xử lý (con chip máy tính) cho

phép lưu trữ ngay trên thẻ một lượng tiền số (digital cash). Tiền số này có thể

nạp từ tài khoản ở ngân hàng vào thẻ thông qua các máy ATM, máy tính cá

nhân hoặc các điện thoại có trang bị bộ phận nạp tiền. Các thẻ thông minh cao

cấp hơn gọi là Super smart card còn cho phép ghi lại các giao dịch của người

sử dụng thẻ và có màn hình hiển thị, thậm chí cả bàn phím. Các thẻ thông

minh còn tiến xa hơn, gần giống với những cái ví điện tử nhờ khả năng có thể

chuyển tiền trực tiếp từ thẻ thông minh này sang thẻ thông minh khác qua một

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

13

thiết bị không dây cầm tay. Ngoài tính năng dùng làm phương tiện thanh toán,

có thể dùng nó như thẻ gọi điện thoại, thẻ căn cước trong đó lưu trữ các thông

tin về người dùng thẻ, thậm chí cả nhóm máu của người đó.

􀂙 Tiền mặt điện tử (Electronic cash / E-cash): Đây là một dạng tiền điện tử được

sử dụng để mua sắm hàng hoá hoặc dịch vụ trên Internet. Những người sử dụng

loại tiền này có thể tải tiền từ tài khoản của mình ở ngân hàng về máy tính cá

nhân, rồi khi duyệt Web mua sắm có thể chuyển tiền từ máy mình đến máy tính

người bán để thanh toán. Hiện nay, dạng tiền này đang được một công ty Hà lan

là DigiCash cung cấp.

􀂙 Séc điện tử (Electronic check / E-check): Séc điện tử cho phép những người sử

dụng Internet có thể thanh toán các hoá đơn qua Internet mà không cần phải gửi

những tờ séc bằng giấy (paper check) như trước nữa. Những người này có thể viết

một tờ séc điện tử hợp pháp trên máy tính của mình rồi gửi cho người được thanh

toán. Người này sẽ chuyển tờ séc điện tử đó tới ngân hàng của mình. Ngân hàng

sau khi kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc sẽ thực hiện việc chuyển tiền từ tài khoản

của người viết séc sang người được thanh toán. Bởi vì toàn bộ việc thanh toán này

được thực hiện dưới hình thức điện tử nên rẻ và tiện hơn nhiều so với sử dụng các

tờ séc bằng giấy. Các chuyên gia dự tính rằng, chi phí cho lưu thông séc điện tử sẽ

chỉ bằng 1/3 chi phí lưu thông séc giấy.

􀁚 Những lợi thế về tiền điện tử nêu trên khiến chúng ta có thể nghĩ rằng nền kinh tế sẽ

mau chóng tiến tới không dùng đến tiền giấy hoặc séc. Tuy nhiên có nhiều lý do khiến

cho điều này không thể diễn ra trong ngày một ngày hai.

• Thứ nhất, việc thiết lập một hệ thống các máy tính, các máy đọc thẻ, mạng

truyền thông cần thiết cho phương thức thanh toán điện tử là rất tốn kém.

• Thứ hai, việc sử dụng các tờ séc bằng giấy có lợi thế là chúng cung cấp các

chứng từ xác nhận việc thanh toán, trong khi tiền điện tử không có được điều

này.

• Thứ ba, việc sử dụng séc bằng giấy để thanh toán luôn mất một khoảng thời

gian xử lý từ lúc ký séc đến lúc người nhận séc rút tiền. Người chủ tài khoản

séc rất thích điều này vì họ vẫn được hưởng lãi đối với số tiền mà mình đã

thanh toán nhưng chưa bị trừ khỏi tài khoản. Với tiền điện tử, họ không có

được khoảng thời gian này.

• Thứ tư, việc sử dụng tiền điện tử gặp phải nguy cơ đe doạ tính an toàn do các

hoạt động ăn trộm tiền qua mạng máy tính. Đối phó đối với điều này không

phải là một công việc dễ dàng và mất khá nhiều thời gian.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

14

3. Chức năng của tiền tệ

Đề cập đến chức năng của tiền tệ, hầu hết các nhà kinh tế học hiện nay đều thống nhất

với nhau ở 3 chức năng cơ bản là: Phương tiện trao đổi, thước đo giá trị và cất trữ giá

trị.

Trong mỗi chức năng cần lưu ý: tại sao tiền tệ lại có chức năng đó, chức năng đó có

những đặc điểm gì đáng lưu ý, chức năng đó đã đem lợi ích gì cho nền kinh tế và những

điều kiện để đảm bảo thực hiện tốt chức năng. Cuối cùng nhưng không kém phần quan

trọng là phải trả lời được câu hỏi: việc nhận thức được chức năng đó của tiền tệ có ý

nghĩa thực tiễn như thế nào?

3.1. Phương tiện trao đổi (Medium of Exchange)

• Chúng ta thấy rằng tiền tệ được xã hội sử dụng với tư cách là vật trung gian trong

quá trình trao đổi hàng hoá, các hàng hoá trước tiên sẽ được đổi ra tiền tệ rồi sau

đó người ta dùng tiền đó để đổi lấy hàng hoá khác. Do vậy, tiền tệ được xem là

phương tiện để trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế.

• Khi thực hiện chức năng này, tiền tệ chỉ đóng vai trò môi giới giúp cho việc trao

đổi thực hiện được dễ dàng do vậy tiền chỉ xuất hiện thoáng qua trong trao đổi mà

thôi (người ta bán hàng hoá của mình lấy tiền rồi dùng nó để mua những hàng hoá

mình cần). Trong trao đổi, người ta đổi lấy tiền không phải vì bản thân nó mà vì

những gì mà nó sẽ đổi được. Tiền tệ được xem là phương tiện chứ không phải là

mục đích của trao đổi. Vì vậy tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi

không nhất thiết phải là tiền tệ có đầy đủ giá trị (ví dụ dưới dạng tiền vàng). Dưới

dạng dấu hiệu giá trị đã được xã hội thừa nhận (như tiền giấy), tiền tệ vẫn có thể

phát huy được chức năng phương tiện trao đổi.

• Việc dùng tiền tệ làm phương tiện trao đổi đã giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền

kinh tế qua việc khắc phục những hạn chế của trao đổi hàng hoá trực tiếp, đó là

những hạn chế về nhu cầu trao đổi (chỉ có thể trao đổi giữa những người có nhu

cầu phù hợp), hạn chế về thời gian (việc mua và bán phải diễn ra đồng thời), hạn

chế về không gian (việc mua và bán phải diễn ra tại cùng một địa điểm). Bằng việc

đưa tiền vào lưu thông, con người đã tránh được những chi phí về thời gian và

công sức dành cho việc trao đổi hàng hoá (chúng ta chỉ cần bán hàng hoá của mình

lấy tiền rồi sau đó có thể mua những hàng hoá mà mình muốn bất cứ lúc nào và ở

đâu mà mình muốn). Nhờ đó, việc lưu thông hàng hoá có thể diễn ra nhanh hơn,

sản xuất cũng được thuận lợi, tránh được ách tắc, tạo động lực cho kinh tế phát

triển. Với chức năng này, tiền tệ được ví như chất dầu nhờn bôi trơn giúp cho

guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hoá hoạt động trơn tru, dễ dàng.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

15

• Tuy nhiên để thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi đồng tiền phải được thừa nhận

rộng rãi, số lượng tiền tệ phải được cung cấp đủ lượng để đáp ứng nhu cầu trao đổi

trong mọi hoạt động kinh tế, đồng thời hệ thống tiền tệ phải bao gồm nhiều mệnh

giá để đáp ứng mọi quy mô giao dịch.

• Rõ ràng, đối với từng chủ thể trong nền kinh tế, tiền tệ có giá trị vì nó mang giá trị

trao đổi, nhưng xét trên phương diện toàn bộ nền kinh tế thì tiền tệ không có giá trị

gì cả. Sự giàu có của một quốc gia được đo lường bằng tổng số sản phẩm mà nó

sản xuất ra chứ không phải là số tiền tệ mà nó nắm giữ. Lý do là vì, xét trên

phương diện đó, tiền tệ chỉ xuất hiện trong nền kinh tế để thực hiện chức năng môi

giới, giúp cho trao đổi dễ dàng hơn chứ không tạo thêm một giá trị vật chất nào

cho xã hội. Nó đóng vai trò bôi trơn cho guồng máy kinh tế chứ không phải là yếu

tố đầu vào của guồng máy đó.

3.2. Thước đo giá trị (Standard of Value/ Measure of Value/Unit of

Account - Đơn vị kế toán)

• Trong nền kinh tế sử dụng tiền tệ, mọi hàng hoá đều được đổi ra tiền tệ, cho nên để

thuận tiện cho việc tính toán hay so sánh giá trị các hàng hoá với nhau người ta qui

giá trị của các hàng hoá ra tiền tệ, tức là tính xem một đơn vị hàng hoá đổi được

bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Khi đó tiền tệ đã trở thành phương tiện để biểu hiện, đo

lường giá trị của các hàng hoá đem ra trao đổi. Biểu hiện bằng tiền của giá trị

hàng hoá gọi là giá cả hàng hoá.

• Để chấp hành được chức năng thước đo giá trị, tiền tệ bản thân nó phải có giá trị.

Cũng giống như khi dùng quả cân để đo trọng lượng một vật thì bản thân quả cân

đó phải có trọng lượng. Như đã giới thiệu ở phần bản chất của tiền tệ, giá trị của

tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm sức mua tiền tệ tức là khả năng đổi được

nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi. Khi tiền tệ còn tồn tại dưới dạng hàng

hoá (tiền có đầy đủ giá trị) thì sức mua của tiền tệ phụ thuộc vào giá trị trao đổi

của hàng hoá dùng làm tiền tệ với các hàng hoá khác. Đến lượt giá trị trao đổi của

hàng hoá tiền tệ lại phụ thuộc vào cung cầu hàng hoá đó trên thị trường với tư cách

là một hàng hoá. Khi xã hội chuyển sang sử dụng tiền tệ dưới dạng dấu hiệu giá trị

(tiền giấy, tiền tín dụng v.v...) thì giá trị của tiền tệ không còn được đảm bảo bằng

giá trị của nguyên liệu dùng để tạo ra nó (vì giá trị đó quá thấp so với giá trị mà nó

đại diện) mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu tiền tệ trên thị trường, mức độ lạm

phát, vào tình trạng hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế và cả niềm tin của

người sử dụng vào đồng tiền đó. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về các nhân tố này ở

những chương sau.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

16

• Để tiện cho việc đo lường giá trị của hàng hoá, cần có một đơn vị tiền tệ chuẩn

(cũng như để đo độ dài người ta sử dụng đơn vị tiêu chuẩn là mét chẳng hạn17).

Đơn vị tiền tệ lúc đầu do dân chúng lựa chọn một cách tự phát, sau đó do chính

quyền lựa chọn và qui định trong luật pháp từng nước. Ví dụ đơn vị tiền tệ chuẩn ở

Việt nam là 1 VND, ở Mỹ là 1 USD, ở các nước thuộc EMU (Liên minh tiền tệ

châu Âu) là 1EUR v.v... Người ta cũng qui định cả giá trị của đơn vị tiền tệ chuẩn

đó. Giá trị của các đơn vị tiền tệ chuẩn được gọi là tiêu chuẩn giá cả. Khi tiền

vàng đúc hoặc tiền giấy có khả năng đổi ra vàng còn được lưu thông, hàm lượng

vàng chứa trong 1 đơn vị tiền tệ chuẩn đại diện cho tiêu chuẩn giá cả. Ví dụ: Hàm

lượng vàng của Bảng Anh năm 1870 là 124,274 grain, tương đương với 7,32238

gam vàng nguyên chất, hàm lượng vàng của đôla Mỹ công bố tháng 1 năm 1939 là

0,888671. Ngày nay, khi tiền giấy không còn được đổi ra vàng nữa thì tiêu chuẩn

giá cả phụ thuộc vào sức mua của đơn vị tiền tệ chuẩn đối với hàng hoá.

• Ngày nay, một đồng tiền muốn được sử dụng rộng rãi trong cả nước làm đơn vị

tính toán để đo lường giá trị hàng hoá phải được nhà nước chính thức định nghĩa,

theo những tiêu chuẩn nhất định. Nói cách khác đồng tiền đó phải được pháp luật

qui định và bảo vệ. Nhưng đây chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ.

Điều kiện đủ là phải được dân chúng chấp nhận sử dụng. Song muốn được dân

chúng chấp nhận, đơn vị tính toán đó phải có một giá trị ổn định lâu dài. Trong

lịch sử tiền tệ của các nước, không thiếu những trường hợp dân chúng lại sử dụng

một đơn vị đo lường giá trị khác với đơn vị đo lường giá trị do nhà nước qui định.

Chẳng hạn, thời kỳ nội chiến ở Mỹ, chính phủ phát hành tờ dollar xanh là tiền tệ

chính thức thay thế cho đồng dollar vàng nhưng các nhà doanh nghiệp vẫn giữ

dollar vàng làm đơn vị tính toán. Hay ở trong nước trước đây, mặc dù giấy bạc

ngân hàng nhà nước (đồng Việt nam) là đồng tiền chính thức nhưng đại bộ phận

dân chúng vẫn dùng vàng hay đô la Mỹ làm đơn vị tính toán giá trị khi mua bán

các hàng hoá có giá trị lớn như nhà cửa, xe máy.

• Việc đưa tiền tệ vào để đo giá trị của hàng hoá làm cho việc tính toán giá hàng

hoá trong trao đổi trở nên đơn giản hơn nhiều so với khi chưa có tiền. Để thấy rõ

được điều này, hãy thử hình dung một nền kinh tế không dùng tiền tệ: Nếu nền

kinh tế này chỉ có 3 mặt hàng cần trao đổi, ví dụ gạo, vải và các buổi chiếu phim,

thì chúng ta chỉ cần biết 3 giá để trao đổi thứ này lấy thứ khác: giá của gạo tính

bằng vải, giá của gạo tính buổi chiếu phim và giá của buổi chiếu phim tính bằng

17 The meter is the length of the path travelled by light in vacuum during a time interval of 1/299 792 458

of a second.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

17

vải. Song nếu có 10 mặt hàng cần trao đổi thay vì chỉ có 3 như trên thì chúng ta sẽ

cần biết 45 giá để trao đổi một thứ hàng này với một thứ hàng khác; với 100 mặt

hàng, chúng ta cần tới 4950 giá; và với 1000 mặt hàng cần 499.500 giá (công thức

2

N(N −1) ). Sẽ thật khó khăn cho bạn gái nào khi ra chợ, để quyết định gà hay cá

rẻ hơn trong khi 1kg gà được định bằng 0,7 kg chả, 1 kg cá chép được định bằng 8

kg đỗ. Để chắc chắn rằng bạn gái này có thể so sánh giá của tất cả các mặt hàng

trong chợ (giả sử chợ có 50 mặt hàng), bảng giá của mỗi mặt hàng sẽ phải kê ra tới

49 giá khác nhau và sẽ rất khó khăn để đọc và nhớ hết chúng. Nhưng khi đưa tiền

vào, chúng ta có thể định giá các mặt hàng bằng đơn vị tiền. Giờ thì với 10 mặt

hàng chúng ta chỉ cần 10 giá, 100 mặt hàng thì 100 giá, v.v.. và tại siêu thị có 1000

mặt hàng nay chỉ cần 1000 giá để xem chứ không cần 499.500!

• Thêm nữa, nhờ có chức năng này, mọi hình thức giá trị dù tồn tại dưới dạng nào đi

nữa cũng có thể dùng tiền tệ để định lượng một cách cụ thể. Chẳng hạn để tính

tổng giá trị tài sản của một cá nhân, ta phải cộng giá trị của cái nhà anh ta đang ở,

giá trị các trong thiết bị trong nhà, các đồ vật quí v.v... Sẽ không thể có được kết

quả nếu không có sự tham gia của tiền tệ vì không có cách nào để cộng giá trị của

các tài sản đó (có bản chất tự nhiên khác nhau) với nhau được. Nhưng một khi qui

tất cả các giá trị đó ra tiền tệ thì công việc thật đơn giản. Chính vì vậy mà ngày nay

việc định lượng và đánh giá, từ GDP, thu nhập, thuế khoá, chi phí sản xuất, vay

nợ, trả nợ, giá trị hàng hoá, dịch vụ cho đến sở hữu... đều có thể thực hiện được dễ

dàng.

• Chức năng này nhấn mạnh vai trò thước đo giá trị của tiền tệ trong các hợp đồng

kinh tế. Chẳng hạn, trong các hợp đồng ngoại thương, khi sử dụng một đồng tiền

làm đơn vị tính giá, điều cần quan tâm là phải phòng ngừa nguy cơ do sự mất giá

của đồng tiền đó, khiến cho vai trò thước đo giá trị của nó bị giảm sút. Một cách cụ

thể hơn, nếu các hợp đồng ngoại thương được định giá bằng đồng ngoại tệ thì sự

biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tạo rủi ro cho các bên tham gia hợp đồng. Để

phòng ngừa chỉ có hai cách: một là định giá bằng đồng nội tệ hoặc cố định tỷ giá

(tầm vĩ mô là chính sách tỷ giá cố định, còn tầm vi mô là các hợp đồng mua bán

ngoại tệ mang tính chất bảo hiểm (option) hoặc tự bảo hiểm-hedging (forward)).

3.3. Cất trữ giá trị (Store of Value)

• Khi tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng tiền tệ làm phương tiện trao đổi và thanh

Phan Anh TuÊn

[email protected]

18

toán, nó được cất trữ lại để dành cho những nhu cầu giao dịch trong tương lai. Khi

đó, tiền có tác dụng như một nơi chứa giá trị, nơi chứa sức mua hàng qua thời

gian18.

• Đây là một chức năng rất hữu ích. Bởi sẽ là bất tiện và tốn kém nếu ta phải bán

hàng hoá của mình mỗi khi cần tiền để mua hàng hoá khác. Mà ngay cả khi đó,

chúng ta vẫn cầm tiền như là phương tiện để cất trữ giá trị trong suốt khoảng thời

gian từ lúc bán đến lúc mua cái khác.

• Khi cất trữ, điều đặc biệt quan trọng là tiền tệ phải giữ nguyên giá trị hay sức mua

hàng qua thời gian. Vì vậy, đồng tiền đem cất trữ phải đảm bảo yêu cầu: Giá trị

của nó phải ổn định. Sẽ không ai dự trữ tiền khi biết rằng đồng tiền mà mình cầm

hôm nay sẽ bị giảm giá trị hoặc mất giá trị trong tương lai, khi cần đến cho các nhu

cầu trao đổi, thanh toán. Chính vì vậy mà trước đây để làm phương tiện dự trữ giá

trị, tiền phải là vàng hay tiền giấy tự do đổi ra vàng. Còn ngày nay, đó là các đồng

tiền có sức mua ổn định.

• Tiền không phải là nơi cất trữ giá trị duy nhất. Một tài sản bất kỳ như cổ phiếu, trái

phiếu, đất đai, nhà cửa, kim loại quí cũng đều là phương tiện cất trữ giá trị. Nhiều

thứ trong số những tài sản đó lại xét thấy có lợi hơn so với tiền về mặt chứa giá trị,

chúng có thể đem lại cho người chủ sở hữu một khoản lãi suất hoặc thu nhập (cổ

phiếu, trái phiếu) hoặc một giá trị sử dụng khác (nhà cửa). Trong khi đó, tiền mặt

có thể sẽ trở thành nơi cất trữ giá trị tồi nếu giá cả hàng hoá tăng nhanh. Song một

câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao người ta vẫn giữ tiền nếu nó không phải là nơi cất

trữ giá trị tốt nhất. Điều này liên quan đến một khái niệm gọi là tính lỏng

(liquidity), tính lỏng phản ánh khả năng chuyển một cách dễ dàng và nhanh chóng

của một loại tài sản thành tiền mặt (một phương tiện trao đổi)19. Khi xét dưới góc

độ như vậy thì tiền sẽ là một tài sản lỏng nhất. Khi có nhu cầu trao đổi, các tài sản

khác (không phải là tiền tệ) sẽ đòi hỏi chi phí để chuyển thành phương tiện trao

đổi. Ví dụ: khi bạn bán nhà, nhiều khi bạn phải trả một khoản phí cho người môi

giới, và nếu cần tiền ngay bạn còn phải bán rẻ. Chính vì vậy, với mục đích cất trữ

giá trị cho những nhu cầu trong tương lai gần, người ta có xu hướng cất trữ giá trị

dưới dạng tiền. Song vì tiền, nhất là tiền giấy ngày nay, không có một sự đảm bảo

18 Bởi vì tiền có tính chất đặc biệt là có thể đổi lấy một lượng giá trị hàng hoá hay dịch vụ. Do vậy việc cất

trữ tiền cũng tương tự như cất trữ một lượng giá trị hàng hoá hay dịch vụ mà nó có thể đổi được.

19 Tính lỏng được gọi một cách chính xác hơn là tính thanh khoản, tức là khả năng chuyển một tài sản thành

phương tiện thanh toán để chi trả cho một khoản nợ hay một khoản chi tiêu. Tính thanh khoản được xét

trên hai khía cạnh: kịp thời (hay nhanh) và đủ lượng. Như vậy một tài sản được coi là có tính thanh khoản

cao khi người ta có thể bán nó bất cứ lúc nào họ muốn và bán được đúng giá trị của nó. Để có tính thanh

khoản cao thì thị trường mua bán tài sản đó phải phát triển.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

19

chắc chắn về sự nguyên vẹn giá trị từ khi nhận cho đến khi đem ra sử dụng nên

tiền sẽ không phải là cách lựa chọn tốt nhất khi muốn dự trữ giá trị trong thời gian

dài.

4. Khái niệm về tài chính

Mọi quá trình sản xuất trong nền kinh tế đều bao gồm 4 khâu: sản xuất - phân phối - trao

đổi - tiêu dùng. Trong khâu phân phối, giá trị sản phẩm sản xuất ra (hàng hoá hoặc dịch

vụ) được phân chia cho các chủ thể đóng góp vào quá trình sản xuất ra các sản phẩm đó.

Về cơ bản, giá trị các sản phẩm sản xuất ra được chia thành:

• Phần bù đắp những chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất hàng hóa hoặc tiến

hành dịch vụ như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí nguyên vật liệu đầu vào,

chi phí cho các dịch vụ mua ngoài...

• Phần trả cho hao phí sức lao động của những người lao động.

• Phần còn lại sau khi đã trang trải cho các chi phí trên là lợi nhuận của doanh

nghiệp.

Các sản phẩm sản xuất ra phải được thực hiện giá trị trên thị trường (tức là được đem bán

trên thị trường) trước khi có thể đem phân phối. Điều đó cũng có nghĩa là những sản

phẩm nào sản xuất ra mà không được thị trường chấp nhận (không bán được) thì giá trị

của chúng sẽ không được thực hiện và do đó không thể đem phân phối20. Với sự ra đời

của tiền tệ, giá trị của sản phẩm sản xuất ra sau khi được thực hiện sẽ tồn tại dưới hình

thái tiền tệ. Quá trình phân phối vì thế được thực hiện dưới dạng phân chia khoản thu

bằng tiền sau khi bán sản phẩm. Kết quả của quá trình phân phối này là sự hình thành các

quỹ tiền tệ trong xã hội, bao gồm quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp và quỹ tiền tệ của dân

cư. Quá trình phân phối này được gọi là phân phối lần đầu.

Để đáp ứng nhu cầu của mình, các chủ thể trong nền kinh tế lại tiếp tục phân chia các quỹ

tiền tệ của mình và sử dụng chúng, dẫn đến việc hình thành các quỹ tiền tệ mới. Các quá

trình phân phối này được gọi là phân phối lại (tái phân phối). Chẳng hạn, quỹ tiền tệ của

doanh nghiệp được trích một phần để tích lũy phục vụ cho tái sản xuất mở rộng tạo nên

quỹ tích lũy của doanh nghiệp, phần còn lại được chia cho những người đóng góp vốn

vào doanh nghiệp, tạo nên các quỹ tiền tệ của các chủ thể góp vốn; Quỹ tiền tệ của dân

cư được chia thành quỹ tiêu dùng và quỹ tiết kiệm. Phần quỹ tiền tệ nhàn rỗi của các chủ

thể kinh tế này (quỹ tiết kiệm của dân cư, quỹ tích lũy chưa dùng của doanh nghiệp) sẽ

được chuyển cho các chủ thể kinh tế có nhu cầu chi tiêu hoặc đầu tư vượt quá quỹ tiền tệ

của mình dưới hình thức cho vay hoặc góp vốn. Một phần quỹ tiền tệ của các chủ thể

20 Các sản phẩm được thực hiện về giá trị được gọi là sản phẩm xã hội.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

20

trong nền kinh tế cũng có thể được trích để hình thành những quỹ tập trung cho các mục

tiêu nhất định ví dụ quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí v.v...

Đặc biệt, với sự ra đời của nhà nước, một quỹ tiền tệ tập trung khổng lồ đã được hình

thành trên cơ sở đóng góp của các chủ thể kinh tế trong xã hội để tài trợ cho các hoạt

động của nhà nước. Quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ này làm hình thành nên

các quan hệ phân phối diễn ra giữa nhà nước và các chủ thể kinh tế khác trong xã hội. Ví

dụ quan hệ nộp thuế của các doanh nghiệp, dân cư cho nhà nước, hoặc quan hệ tài trợ, trợ

cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp, dân cư...

Sự vận động của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ giữa các quỹ tiền tệ do kết quả

của việc tạo lập và sử dụng các quỹ này nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu hoặc tích lũy

của các chủ thể kinh tế là biểu hiện bề ngoài của phạm trù tài chính.

Các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế có thể chia thành 5 nhóm chính:

• Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Đây là

quỹ tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh.

• Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian.

• Quỹ tiền tệ của nhà nước, trong đó quỹ ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ lớn nhất

và quan trọng nhất của nhà nước. Đây là quỹ tiền tệ mà nhà nước sử dụng một

cách tập trung để giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế xã hội.

• Quỹ tiền tệ của khu vực dân cư.

• Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội.

Các quỹ tiền tệ không chỉ hình thành từ việc thực hiện giá trị các sản phẩm được sản xuất

ra mà còn có thể được tạo ra từ các tài sản dưới dạng hiện vật có khả năng chuyển thành

tiền. Xét trên phạm vi quốc gia, các quỹ tiền tệ có thể hình thành không chỉ từ các luồng

tiền tệ trong nước mà còn từ các luồng tiền tệ huy động từ nước ngoài vào. Tổng hợp tất

cả các quỹ tiền tệ và các tài sản hiện vật có khả năng chuyển hóa thành tiền được gọi là

các nguồn tài chính (financial resources)21. Các nguồn tài chính là cơ sở và đối tượng

của hoạt động phân phối nhằm đáp ứng các nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế.

Trên cơ sở những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về tài chính như sau:

Tài chính là quá trình phân phối các nguồn tài chính (hay vốn) nhằm đáp ứng nhu cầu

của các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự vận động độc lập tương

đối của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ thông qua việc hình thành và sử dụng các

quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.

21 Hay còn gọi là vốn. Vốn là biểu hiện bằng tiền của giá trị tài sản. Tài sản tồn tại dưới hai hình thức là

hiện vật (tài sản hiện vật) và tiền tệ (tài sản tiền tệ), tương ứng có vốn hiện vật và vốn tiền tệ. Bộ phận vốn

tiền tệ được dành cho một mục đích nhất định được gọi là quỹ tiền tệ.

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

21

Để làm rõ hơn khái niệm tài chính, cần so sánh nó với các khái niệm có liên quan hoặc có

nhiều điểm tương đồng, đó là tiền tệ và thương mại. Trong thương mại, tiền tệ đóng vai

trò là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá, là phương tiện giúp cho quá trình

trao đổi được diễn ra dễ dàng và hiệu quả hơn. Sự vận động của tiền tệ ở đây luôn gắn

liền với sự vận động của hàng hoá và dịch vụ tham gia vào quá trình trao đổi. Trong tài

chính, hoạt động phân phối vốn giữa các chủ thể kinh tế được thực hiện thông qua việc

tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ. Biểu hiện bề ngoài của hoạt động tài chính là sự di chuyển

của các dòng tiền tệ, tuy nhiên bản chất của tài chính là phân phối các sản phẩm tạo ra

trong nền kinh tế dưới hình thức giá trị tức là phải thông qua tiền tệ để phân phối nên

trong tài chính tiền tệ cũng chỉ là phương tiện chứ không phải là đối tượng của phân phối,

sản phẩm mới là đối tượng của phân phối. Nói cách khác tài chính được đặc trưng bằng

sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với sự vận động của hàng hoá, dịch vụ22 nhờ

chức năng phương tiện trao đổi và phương tiện cất trữ giá trị của tiền tệ23.

Quá trình phân phối trong tài chính không chỉ diễn ra giữa các chủ thể kinh tế mà còn

diễn ra trong nội bộ chủ thể kinh tế đó, liên quan đến việc phân chia quỹ tiền tệ của chủ

thể kinh tế cho các mục đích sử dụng khác nhau của mình. Việc hình thành các quỹ tiền

tệ cho các mục đích nhất định của chủ thể kinh tế cũng không chỉ bắt nguồn từ quỹ tiền tệ

mà chủ thể kinh tế sở hữu mà còn bao gồm cả các nguồn tài chính từ bên ngoài mà chủ

thể có thể huy động được để phục vụ cho các mục đích của mình. Ví dụ: để hình thành

một quỹ tiền tệ nhằm tài trợ cho một hoạt động đầu tư của mình, doanh nghiệp không chỉ

lấy từ quỹ tiền tệ mà mình sở hữu mà còn từ các hình thức huy động bên ngoài dưới dạng

vay mượn hoặc kêu gọi góp vốn.

Có 4 phương pháp phân phối trong tài chính và tương ứng với nó là 4 loại quan hệ tài

chính sau:

- Quan hệ tài chính hoàn trả: ví dụ quan hệ tín dụng.

- Quan hệ tài chính hoàn trả có điều kiện và không tương đương: ví dụ quan hệ

bảo hiểm.

- Quan hệ tài chính không hoàn trả: ví dụ quan hệ ngân sách nhà nước, cụ thể là

quan hệ thu nộp thuế, trợ cấp, hỗ trợ, cung cấp dịch vụ công cộng miễn phí (như

dịch vụ an ninh, chiếu sáng đô thị...) hoặc người sử dụng chỉ đóng góp một phần

(như giáo dục, y tế...).

22 Trong tài chính, chỉ có sự di chuyển của tiền tệ, không kèm theo sự di chuyển của hàng hoá như trong

thương mại, vì vậy ta nói có sự vận động độc lập của tiền tệ (độc lập với hàng hoá). Tuy nhiên sự độc lập

này chỉ là tương đối vì tiền tệ chỉ là phương tiện chứ đối tượng phân phối vẫn là hàng hoá.

23 Do tiền tệ có chức năng phương tiện trao đổi nên thay vì phân phối bằng hàng hoá, ta chỉ cần phân phối

bằng tiền tệ rồi khi cần sẽ đổi ra hàng hoá. Chức năng phương tiện cất trữ giá trị của tiền tệ giúp các quỹ

tiền tệ có thể tồn tại như là một kho cất trữ giá trị.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

22

- Quan hệ tài chính nội bộ trong mỗi chủ thể kinh tế, được xem xét khi cần cân

đối giữa các mục đích chi tiêu. Với doanh nghiệp gồm các quan hệ phân phối lợi

nhuận cho mục tiêu phát triển kinh doanh, cho khen thưởng người lao động và trả

lãi cho người góp vốn; phân phối vốn cho các nhu cầu mua sắm từng loại tài sản

để đảm bảo cơ cấu vốn đầu tư hợp lý... Với Nhà nước gồm có phân phối giữa các

cấp chính quyền Trung ương và địa phương, cho các ngành kinh tế quốc dân, trích

lập các quỹ. Với gia đình quan trọng nhất là phân phối cho mục đích tích lũy và

tiêu dùng theo tỉ lệ như thế nào cho hợp lý và thứ tự ưu tiên mua sắm.

Tài chính, với tư cách là một lĩnh vực khoa học, nghiên cứu về cách thức phân bổ các

nguồn lực tài chính hạn chế (scarce resources) qua thời gian. Có hai đặc điểm phân biệt

các quyết định tài chính với các quyết định phân bổ nguồn lực khác là chi phí và lợi ích

của các quyết định tài chính 1/ diễn ra trong một khoảng thời gian và 2/ luôn không thể

biết trước một cách chắc chắn. Ví dụ: Để quyết định đầu tư vào một dự án, chúng ta phải

so sánh các chi phí mà mình phải bỏ ra cho dự án đó với các khoản thu dự tính từ dự án

đó. Toàn bộ quá trình đầu tư kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định và rất khó có

thể dám chắc được chính xác giá trị các khoản thu đó. Ngay cả khoản chi phí phải bỏ ra

cũng thường không thể dự đoán chính xác được. Hơn nữa, khi đưa ra một quyết định tài

chính, chúng ta phải đánh đổi chi phí cơ hội của việc sử dụng một nguồn lực tài chính

cho những ích lợi có thể thu được từ quyết định sử dụng vốn của mình. Chính sự giới hạn

về nguồn lực tài chính và sự không chắc chắn về lợi ích của việc sử dụng nguồn lực tài

chính đòi hỏi chúng ta luôn phải cân nhắc giữa chi phí cơ hội và lợi ích của việc sử dụng

vốn và quản trị những rủi ro có thể nảy sinh trong quá trình sử dụng vốn.

Các quyết định tài chính mà một hộ gia đình sẽ gặp phải:

1. Phân chia giữa tiêu dùng và tiết kiệm

2. Lựa chọn danh mục đầu tư cho khoản tiền tiết kiệm

3. Quyết định cách thức tài trợ cho chi tiêu

4. Quản lý rủi ro gắn liền với các hoạt động tài chính của mình

Các quyết định tài chính mà một doanh nghiệp sẽ gặp phải:

1. Xác định chiến lược đầu tư (strategic planning)

2. Lập ngân sách mua sắm (capital budgeting process)

3. Xác định cấu trúc vốn huy động (capital structure)

4. Quản lý vốn lưu động (working capital management)

5. Hệ thống tài chính

Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện đan xen nhau, liên hệ, tác động ràng

buộc lẫn nhau trong một thể thống nhất gọi là hệ thống tài chính. Căn cứ vào hoạt động

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

23

của ba chủ thể kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế là nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia

đình, có thể xếp các quan hệ tài chính thành ba bộ phận tài chính lớn là tài chính công

(mà trọng tâm là Ngân sách nhà nước), tài chính doanh nghiệp và tài chính hộ gia đình.

Mối liên hệ giữa ba bộ phận tài chính này được biểu thị bằng sơ đồ sau:

Mỗi bộ phận tài chính đều bao gồm các quan hệ tài chính nảy sinh trong nội bộ chủ thể

kinh tế và giữa các chủ thể kinh tế với nhau nhằm giúp cho các chủ thể kinh tế đạt được

mục tiêu kinh tế cuối cùng của mình.

Tài chính doanh nghiệp: Mục đích kinh tế cuối cùng của các doanh nghiệp là tạo ra lợi

nhuận. Chính vì vậy, mọi hoạt động của tài chính doanh nghiệp, từ việc huy động các

nguồn vốn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh, phân phối các nguồn lực tài chính cho

các dự án kinh doanh của doanh nghiệp, cho đến việc quản lý quá trình sử dụng vốn, tất

cả đều phải hướng vào việc tối đa hoá khả năng sinh lời của đồng vốn đầu tư. Do tính

chất hoạt động như vậy nên tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo

ra các nguồn lực tài chính mới cho nền kinh tế.

Tài chính hộ gia đình: Mục đích cuối cùng của các hộ gia đình là thoả mãn tối đa các

nhu cầu tiêu dùng trên cơ sở các nguồn thu nhập hiện tại và tương lai. Tài chính hộ gia

đình vì vậy sẽ tập trung vào việc phân bổ các nguồn lực tài chính đang có và sẽ có trong

tương lai cho các nhu cầu tiêu dùng hiện tại và tương lai sao cho hiệu quả nhất. Nó bao

gồm các hoạt động phân bổ các nguồn thu nhập cho các nhu cầu tiêu dùng và tích luỹ24,

24 Tích lũy là việc hy sinh nhu cầu tiêu dùng hiện tại cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai với hy vọng việc

lùi lại kế hoạch tiêu dùng sẽ đem lại nhiều ích lợi hơn.

Tài chính công

(NSNN)

Tài chính

doanh nghiệp

Tài chính hộ

gia đình

Thị trường

tài chính

Trung gian

tài chính

Phan Anh TuÊn

[email protected]

24

lựa chọn các tài sản nắm giữ nhằm giảm thiểu rủi ro và phù hợp với kế hoạch tiêu dùng

của các cá nhân trong gia đình.

Phần lớn nguồn lực tài chính cho hoạt động của các doanh nghiệp là có nguồn gốc từ các

hộ gia đình. Hơn nữa, kế hoạch tiêu dùng của các hộ gia đình cũng có ảnh hưởng mạnh

mẽ tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vì xét đến cùng các hộ gia đình là đối

tượng phục vụ của các doanh nghiệp. Do vậy, tài chính hộ gia đình có mối liên hệ hữu cơ

với tài chính doanh nghiệp.

Tài chính công: Hoạt động mang tính chất kinh tế của nhà nước bao gồm cung cấp các

dịch vụ công cộng và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tài chính công vì vậy sẽ không chỉ tập trung

vào việc huy động nguồn lực để tài trợ cho các hoạt động của nhà nước hay phân bổ tối

ưu các nguồn lực đó cho các mục đích chi tiêu của nhà nước mà còn phải đảm bảo giúp

nhà nước thực hiện hiệu quả vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của mình.

Hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng to lớn tới hai bộ phận tài chính còn lại. Một

mặt, các chính sách huy động vốn và chi tiêu của NSNN có ảnh hưởng rộng khắp tới mọi

chủ thể trong nền kinh tế. Mặt khác, tác động điều tiết vĩ mô của tài chính công là hướng

tới việc điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế.

Thị trường tài chính và trung gian tài chính: Trong nền kinh tế, vốn được lưu chuyển

từ nơi thừa đến nơi thiếu theo hai kênh:

• Kênh dẫn vốn trực tiếp hay còn gọi là kênh tài chính trực tiếp: là kênh dẫn vốn

trong đó vốn được dẫn thẳng từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn. Nói

Các trung gian

tài chính

Những người có

vốn/cho vay

- Các gia đình

- Các công ty

- Chính phủ

- Nước ngoài

Thị trường

tài chính

Những người

cần vốn/đi vay

- Các công ty

- Chính phủ

- Các gia đình

- Nước ngoài

Vốn Vốn

Vốn Vốn

Vốn

Tài chính gián tiếp

Tài chính trực tiếp

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

25

cách khác, những người thiếu vốn trực tiếp huy động vốn từ những người thừa vốn

trên thị trường tài chính.

• Kênh dẫn vốn gián tiếp hay còn gọi là kênh tài chính gián tiếp: là kênh dẫn vốn

trong đó vốn từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn thông qua các trung

gian tài chính25. Các trung gian tài chính thực hiện việc tập hợp các khoản vốn

nhàn rỗi lại rồi cho vay, vì thế những người sử dụng vốn và những người cung cấp

vốn không liên hệ trực tiếp với nhau trong kênh này.

Những người cung cấp vốn chủ yếu là các cá nhân hay hộ gia đình, ngoài ra các công ty,

chính phủ hoặc nước ngoài đôi khi cũng có dư thừa vốn tạm thời và vì vậy có thể đem

cho vay. Những người đi vay vốn quan trọng nhất là các công ty và chính phủ, ngoài ra

còn có các cá nhân (hay hộ gia đình) và nước ngoài. Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu

tư kinh doanh mà còn dùng để thoả mãn nhu cầu chi tiêu trước mắt.

Trong nền kinh tế hiện đại, các thị trường tài chính và trung gian tài chính không giới

hoạt động chỉ trong chức năng truyền thống là lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu

mà còn cung cấp nhiều phương tiện khác nhằm giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài

chính của nền kinh tế. Cụ thể các thị trường tài chính và trung gian tài chính:

• Cung cấp phương tiện để lưu chuyển các nguồn lực qua thời gian, giữa các quốc

gia và giữa các ngành.

• Cung cấp phương tiện để quản lý rủi ro.

• Cung cấp phương tiện để thực hiện việc thanh toán trong thương mại được thuận

lợi hơn.

• Tạo ra cơ chế để tập trung các nguồn lực hoặc chia nhỏ quyền sở hữu các doanh

nghiệp.

• Cung cấp thông tin về giá cả nhằm hỗ trợ cho việc phi tập trung quá trình ra quyết

định.

• Cung cấp cách thức giải quyết với các vấn đề về "động cơ - incentives" gây ra bởi

tình trạng thông tin bất cân xứng.

Để sử dụng nguồn lực tài chính (hay vốn) của mình một cách hiệu quả, các chủ thể kinh

tế phải dựa vào các chức năng và dịch vụ mà thị trường tài chính và trung gian tài chính

cung cấp. Như vậy, nếu như ba bộ phận tài chính ở trên hoạt động hướng tới mục tiêu của

chủ thể kinh tế thì thị trường tài chính và trung gian tài chính hoạt động nhằm hỗ trợ cho

hoạt động của ba bộ phận tài chính nói trên. Do vậy hoạt động của chúng có ảnh hưởng

to lớn tới hoạt động của ba bộ phận trên.

25 Trung gian tài chính phổ biến nhất là các ngân hàng, rồi đến các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các

quỹ hưu trí, các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư .v.v...

Phan Anh TuÊn

[email protected]

26

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Để một vật được chọn làm tiền tệ thì nó phải thỏa mãn những điều kiện gì? Hãy

sử dụng tiền vàng và tiền giấy để minh họa.

2. Các điều kiện tiền đề cho quá trình quốc tế hóa đồng tiền một quốc gia là gì?

Minh họa bằng đồng USD, JPY.

3. Điều kiện tiền đề cho sự ra đời và động lực thúc đẩy sự phát triển của các hình

thái tiền tệ là gì?

4. Tại sao nói "Tiền giấy ngày nay thực chất là các giấy nợ (IOU) đặc biệt của

NHTW nợ những người nắm giữ chúng"? Có thể hiểu tương tự với tiền tín dụng

được không?

5. Tiền tín dụng do các ngân hàng phát hành có như nhau không? Tại sao người ta

lại chọn sử dụng tiền tín dụng do ngân hàng này phát hành mà không sử dụng tiền

tín dụng do ngân hàng khác phát hành?

6. Tìm hiểu về các phương tiện được sử dụng để chi tiêu tiền tín dụng (ví dụ: ủy

nhiệm chi, ủy nhiệm thu, séc, séc du lịch, séc ngân hàng - bank draft...) ở Việt

nam và trên thế giới về các khía cạnh: quy trình thanh toán, các văn bản pháp luật

điều chỉnh, ưu nhược điểm từng phương tiện trong quá trình sử dụng, tình hình sử

dụng các phương tiện này ở Việt nam và trên thế giới. (Gợi ý nơi tìm thông tin:

các doanh nghiệp, ngân hàng, mạng internet, CD Luật Việt nam, sách tập hợp các

văn bản liên quan đến tài chính - ngân hàng).

7. Phân biệt séc thông thường với séc du lịch và séc ngân hàng (bank draft). Tại sao

khi ra nước ngoài người ta lại phải dùng séc du lịch mà không sử dụng séc thông

thường?

8. Tìm hiểu về các hình thức thẻ thanh toán tại Việt nam: thủ tục đăng ký sử dụng,

chi phí sử dụng, quy trình thanh toán, ưu - nhược điểm và tình hình sử dụng hình

thức thanh toán thẻ tại Việt nam.

9. Hãy giả thiết là ngân hàng đảm bảo cho bạn sự an toàn tuyệt đối khi dùng phương

thức thanh toán điện tử. Bạn có quyết định chuyển sang dùng tiền điện tử ngay

không?

10. Phân tích các chức năng của tiền tệ và mối quan hệ giữa chúng.

11. Trong các chức năng cơ bản của tiền tệ, chức năng nào phản ánh rõ nhất bản chất

tiền tệ? Tại sao?

12. Phân tích các điều kiện để tiền tệ thực hiện tốt các chức năng của mình.

13. Để thực hiện tốt chức năng phương tiện trao đổi, có nhất thiết là tiền tệ phải có

giá trị đầy đủ như tiền vàng hay không? Tại sao?

Chương 1. Đại cương về tài chính và tiền tệ

27

14. Tiền tệ không phải là nơi cất trữ giá trị tốt nhất nhưng tại sao người ta vẫn muốn

nắm giữ tiền?

15. Vì sao một số nhà kinh tế đã mô tả tiền trong thời kỳ siêu lạm phát như là một "củ

khoai tây nóng", nó được chuyển nhanh từ một người này sang một người khác?

16. Vào những năm 80, để chống lạm phát, NHNN Việt nam đã quyết định nâng lãi

suất tiền gửi ngân hàng lên cao hơn tốc độ lạm phát, kết quả là mọi người đổ xô đi

gửi tiền vào ngân hàng. Tại sao tiền tín dụng cũng có bản chất giống như tiền giấy

là đồng tiền có giá trị danh nghĩa nhưng người dân Việt nam khi đó vẫn thích nắm

tiền tín dụng hơn?

17. Sắp xếp những tài sản sau đây theo thứ tự giảm dần về tính lỏng: tiền gửi tài

khoản séc, nhà, tiền mặt, tiền gửi tiết kiệm, cổ phiếu, xe máy.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

28

Chương 2. Thị trường tài chính

Chương này giúp cho sinh viên hiểu được thị trường tài chính đã thực hiện việc phân bổ

các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế như thế nào. Cụ thể, sinh viên sẽ nắm được:

• Cách thức tổ chức, hoạt động của thị trường tài chính

• Các công cụ tài chính được sử dụng để lưu thông vốn trên thị trường tài chính

1. Khái niệm

Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng quyền sử

dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua các công cụ tài chính nhất định

(financial instruments).

Các công cụ tài chính (financial instruments) này được gọi là các chứng khoán

(securities). Chứng khoán là những trái quyền - claims (quyền được hưởng) đối với thu

nhập hoặc tài sản tương lai của nhà phát hành.

Chứng khoán bao gồm hai loại: chứng khoán nợ - debt securities - là chứng khoán xác

nhận quyền được nhận lại khoản vốn đã ứng trước cho nhà phát hành vay khi chứng

khoán đáo hạn cũng như quyền được đòi những khoản lãi theo thoả thuận từ việc cho

vay26 và chứng khoán vốn - equity securities - là chứng khoán xác nhận quyền được sở

hữu một phần thu nhập và tài sản của công ty phát hành.

Những người cần vốn (thường là các công ty hay chính phủ) thông qua việc phát hành

(bán) các chứng khoán để huy động vốn từ thị trường tài chính. Còn những người có tiền

(các nhà đầu tư) bằng cách mua các chứng khoán đã cung cấp các khoản vốn cho các nhà

phát hành. Như vậy các chứng khoán là tài sản có đối với người mua chúng nhưng lại là

tài sản nợ đối với người phát hành ra chúng. Nói một cách khác, đối với những người cần

vốn, chứng khoán là một phương tiện tài chính để huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn

ngắn hạn hoặc dài hạn, còn đối với những người dư tiền, chứng khoán là một phương tiện

đầu tư để hưởng những thu nhập nhất định.

Cùng với sự phát triển của hoạt động tài chính, ngoài chức năng lưu chuyển vốn từ nơi

thừa đến nơi thiếu, thị trường tài chính còn cung cấp các phương tiện để quản lý những

rủi ro liên quan đến các hoạt động lưu chuyển vốn này. Chính vì vậy, bên cạnh hai loại cơ

bản là chứng khoán nợ và chứng khoán vốn, trên thị trường tài chính còn lưu thông các

công cụ tài chính đặc biệt nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý các rủi ro liên quan đến không

chỉ các tài sản sản tài chính mà cả hàng hoá và tiền tệ. Các công cụ tài chính đặc biệt này

được gọi là các công cụ phái sinh hay chứng khoán phái sinh (derivaties). Chứng khoán

26 Chứng khoán nợ được xem là các công cụ tài chính có thu nhập cố định (fixed-income instruments) do

nó cam kết trả cho những người sở hữu những khoản tiền cố định trong tương lai.

Chương 2. Thị trường tài chính

29

phái sinh có đặc điểm là giá trị của nó phụ thuộc vào mức độ biến động giá cả của các

hàng hoá trên thị trường (bao gồm không chỉ chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, mà cả

ngoại hối và hàng hoá thông thường).

2. Cấu trúc thị trường tài chính

2.1. Căn cứ vào kỳ hạn của chứng khoán mua bán trên thị trường

Thị trường tài chính được phân thành hai loại thị trường cơ bản sau:

2.1.1. Thị trường tiền tệ (Money market)

Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn - short-term debt

securities (có thời hạn đáo hạn từ một năm trở xuống).

Những người đi vay/phát hành trên thị trường này là những người đang thiếu hụt tạm thời

về tiền tệ để đáp ứng cho các nhu cầu thanh toán. Thông qua các giao dịch mua bán

quyền sử dụng vốn vay ngắn hạn, thị trường tiền tệ đã cung ứng một lượng tiền tệ cho họ

để thoả mãn nhu cầu thanh toán. Cũng vì thế mà nó được gọi là "thị trường tiền tệ".

Những người mua/cho vay trên thị trường tiền tệ là những người có vốn tạm thời nhàn

rỗi, chưa muốn đầu tư hoặc đang tìm kiếm các cơ hội đầu tư, do vậy họ chuyển nhượng

quyền sử dụng vốn của mình trong thời hạn ngắn để tranh thủ hưởng lãi. Đối với họ, việc

đầu tư vào thị trường tiền tệ chỉ mang tính nhất thời, họ không quan tâm nhiều tới mức

sinh lợi mà chủ yếu là vấn đề an toàn và tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần.

Trên thị trường tiền tệ, do khối lượng giao dịch chứng khoán thường có qui mô lớn nên

các nhà đầu tư (cho vay) thường là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty tài chính

hoặc phi tài chính, còn những người vay vốn thường là chính phủ, các công ty và ngân

hàng.

Tuỳ theo phạm vi các chủ thể được tham gia giao dịch trên thị trường mà thị trường tiền

tệ còn được chia thành thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) - là thị trường tiền

tệ mà các giao dịch về vốn chỉ diễn ra giữa các ngân hàng (kể cả NHTW) và thị trường

mở (Open Market) - là thị trường tiền tệ mà ngoài các ngân hàng ra còn có các tổ chức

phi ngân hàng tham gia. Ngoài ra trong thị trường tiền tệ còn có một thị trường bộ phận

chuyên giao dịch các chứng khoán ngắn hạn được ghi bằng ngoại tệ, thị trường này được

gọi là thị trường hối đoái (Foreign Exchange Market). Thị trường hối đoái ngoài các

chứng khoán còn mua bán cả ngoại tệ tiền mặt và các phương tiện thanh toán ghi bằng

ngoại tệ như séc ngoại tệ. Ở Việt nam, thị trường tiền tệ được tổ chức dưới các hình thức:

thị trường nội tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993) và thị trường

ngoại tệ liên ngân hàng (đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994).

2.1.2. Thị trường vốn (Capital market)

Phan Anh TuÊn

[email protected]

30

Thị trường vốn là thị trường mua bán các chứng khoán nợ dài hạn - long-term debt

securities (có thời hạn đáo hạn trên một năm) và các chứng khoán vốn (equity

securities).

Do các chứng khoán mua bán trên thị trường vốn có thời hạn dài nên các nhà phát hành

có thể sử dụng vốn thu được để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy thị trường vốn

được coi là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

2.2. Căn cứ vào mục đích hoạt động của thị trường

Thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

2.2.1. Thị trường sơ cấp (Primary market)

Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán mới được các nhà phát hành

bán cho các khách hàng đầu tiên, và do vậy còn được gọi là thị trường phát hành.

Thị trường này cho phép các chủ thể kinh tế như các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính,

chính phủ... huy động vốn từ nền kinh tế bằng việc phát hành các chứng khoán mới.

Hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán tại thị trường này chủ yếu diễn ra giữa các

nhà phát hành và các nhà đầu tư lớn như các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư hay

công ty bảo hiểm... theo hình thức bán buôn. Các nhà đầu tư này khi đó đóng vai trò như

nhà bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán (underwriting securities), họ sẽ mua lại toàn

bộ số chứng khoán phát hành ra theo mức giá thoả thuận (thường là thấp hơn mức giá

công bố) để sau này bán lẻ ra thị trường cho các nhà đầu tư khác. Vì các thoả thuận về

bảo lãnh chứng khoán thường được tổ chức riêng giữa các nhà bảo lãnh và nhà phát hành

nên hoạt động giao dịch cụ thể tại thị trường này không được công khai cho mọi người.

2.2.2. Thị trường thứ cấp (Secondary market)

Thị trường thứ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán đã được phát hành trên thị

trường sơ cấp được mua đi bán lại, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán.

Thị trường thứ cấp được xem như thị trường bán lẻ các chứng khoán để phân biệt với thị

trường sơ cấp là thị trường bán buôn các chứng khoán.

Thị trường thứ cấp đảm bảo khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền, cho phép

những người giữ chứng khoán có thể rút ra khỏi sự đầu tư tại thời điểm nào mà họ mong

muốn hoặc có thể thực hiện việc di chuyển đầu tư từ khu vực này sang khu vực khác.

Sự khác nhau chủ yếu giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là ở chỗ hoạt động của

thị trường sơ cấp làm gia tăng thêm vốn cho nền kinh tế còn hoạt động của thị trường thứ

cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán đã phát hành, mà không làm tăng

thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thị

trường sơ cấp đóng vai trò tạo cơ sở cho những hoạt động của thị trường thứ cấp vì nó là

Chương 2. Thị trường tài chính

31

nơi tạo ra hàng hoá để mua bán trên thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp cũng có tác

dụng trở lại đối với thị trường sơ cấp, đóng vai trò tạo động lực cho sự phát triển của thị

trường này. Tác dụng của thị trường thứ cấp tới thị trường sơ cấp được thể hiện ở hai

chức năng của nó:

• Thứ nhất, thị trường thứ cấp tạo ra tính lỏng cho các chứng khoán được phát hành

ra trên thị trường sơ cấp27, nhờ vậy sẽ làm tăng tính hấp dẫn cho các chứng khoán,

giúp cho việc phát hành chúng tại thị trường sơ cấp được thuận lợi;

• Thứ hai, thị trường thứ cấp đóng vai trò xác định giá của các chứng khoán sẽ

được phát hành trên thị trường sơ cấp. Các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp sẽ

không thể mua các chứng khoán phát hành mới tại thị trường này với giá cao hơn

giá mà họ nghĩ sẽ có thể bán được tại thị trường thứ cấp. Nếu chứng khoán của

một nhà phát hành được mua bán với giá cao tại thị trường thứ cấp thì nhà phát

hành càng có cơ hội thu được nhiều vốn nhờ việc phát hành các chứng khoán mới

tại thị trường sơ cấp.

Chính vì những đặc điểm này mà các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư quan

tâm nhiều tới thị trường thứ cấp hơn là thị trường sơ cấp.

2.3. Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch của thị trường

Thị trường thứ cấp hoạt động dưới hai hình thức: thị trường tập trung và thị trường phi

tập trung.

2.3.1. Thị trường tập trung (Exchanges)

Thị trường tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực

hiện có tổ chức và tập trung tại một nơi nhất định.

Ví dụ về thị trường tập trung là các Sở giao dịch chứng khoán như Sở giao dịch chứng

khoán New York, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Sở giao dịch chứng khoán London,

Sở giao dịch chứng khoán Paris...28

Sở giao dịch được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần29. Sở giao dịch cung cấp

cho những người mua bán chứng khoán các phương tiện và dịch vụ cần thiết để tiến hành

giao dịch như: dịch vụ thanh toán, lưu ký chứng khoán, hệ thống máy tính nối mạng, hệ

thống bảng giá điện tử để yết giá chứng khoán, hệ thống ghép lệnh mua và bán chứng

khoán v.v....

Hoạt động mua bán chứng khoán tại Sở giao dịch bắt buộc phải thông qua các trung gian

27 Tức là tạo điều kiện để người nắm giữ chứng khoán có thể bán chứng khoán để thu tiền về. Chứng khoán

càng dễ bán thì tính lỏng của nó càng cao.

28 Ở Việt nam, Trung tâm giao dịch chứng khoán là mô hình bậc thấp của Sở giao dịch chứng khoán.

29 Ở Việt nam, Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng được tổ chức dưới hình thức một công ty nhưng

thuộc sở hữu nhà nước.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

32

môi giới gọi là các nhà môi giới chứng khoán (brokers). Các nhà môi giới muốn hoạt

động tại Sở giao dịch phải làm thủ tục đăng ký để có chỗ trong Sở.

Những người mua và bán chứng khoán sẽ thông qua những nhà môi giới để đưa ra các

lệnh mua và bán chứng khoán. Các nhà môi giới sau khi nhận lệnh sẽ đến gặp nhau tại

một nơi ở trung tâm của Sở giao dịch gọi là Sàn giao dịch đến tiến hành đàm phán. Ngày

nay, do sự phát triển của công nghệ máy tính, nhiều Sở giao dịch đã thay việc đàm phán

trực tiếp bằng một hệ thống ghép lệnh tự động, tuy vậy hình thức đàm phán trực tiếp vẫn

được duy trì tại nhiều Sở giao dịch nổi tiếng trên thế giới.

Không phải tất cả các loại chứng khoán đều được mua bán tại Sở giao dịch, mà chỉ những

chứng khoán đã được đăng ký yết giá. Để chứng khoán do một công ty phát hành được

đăng ký yết giá, công ty đó phải thoả mãn các điều kiện cần thiết về qui mô vốn, về số

lượng chứng khoán đã phát hành, về hiệu quả kinh doanh trong thời gian gần đây v.v....

Sau khi được Sở giao dịch chấp nhận, chứng khoán được đăng ký vào danh bạ của Sở

giao dịch chứng khoán và thường xuyên được niêm yết giá trên Sở giao dịch.

2.3.2. Thị trường phi tập trung (OTC markets or Off-exchange markets)

Thị trường phi tập trung là thị trường mà các hoạt động mua bán chứng khoán được thực

hiện phân tán ở những địa điểm khác nhau chứ không tập trung tại một nơi nhất định.

Trên thế giới, thị trường phi tập trung được tổ chức dưới hình thức một thị trường giao

dịch "qua quầy" - OTC Market (Over-the-counter Market30). Đó là hình thức giao dịch

mà những nhà buôn chứng khoán (dealer) tại các địa điểm khác nhau công bố một danh

mục chứng khoán với giá mua và bán được yết sẵn, và họ sẽ sẵn sàng mua hoặc bán

chứng khoán thẳng cho những ai chấp nhận giá của họ31. Do hoạt động mua bán chứng

khoán tại thị trường OTC đều được thực hiện qua mạng máy tính nên các nhà buôn

chứng khoán cũng như khách hàng có điều kiện biết rõ các mức giá mà các nhà buôn

chứng khoán khác chào bán, vì vậy tính chất cạnh tranh của thị trường này rất cao, chẳng

kém gì Sở giao dịch.

Như vậy thị trường O.T.C không phải là một thị trường hiện hữu, nó không có địa điểm

tập trung nhất định mà thay vào đó là một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại mà các bên

tham gia thị trường sử dụng để thương lượng việc mua bán chứng khoán.

Do hình thức tổ chức như vậy nên các chứng khoán mua bán tại thị trường OTC rất đông

đảo và đa dạng, nó bao gồm chứng khoán của cả những công ty chưa đủ điều kiện yết giá

tại Sở giao dịch lẫn những công ty chưa muốn yết giá tại Sở giao dịch. Theo các số liệu

30 Thuật ngữ "Giao dịch qua quầy" bắt nguồn từ việc các giao dịch mua bán chứng khoán trước đây hầu hết

đều được thực hiện tại các quầy giao dịch của ngân hàng.

31 Như vậy khác với trong Sở giao dịch, nơi mà giá cả chứng khoán được hình thành trên cơ sở đàm phán

hoặc ghép lệnh, thì ở thị trường OTC giá cả là yết sẵn và việc mua bán sẽ chỉ xảy ra nếu tuân theo những

mức giá này.

Chương 2. Thị trường tài chính

33

thống kê thì ở các nước phát triển giá trị các chứng khoán được mua bán qua thị trường

O.T.C lớn hơn rất nhiều so với mua bán tại Sở giao dịch32.

Ngoài hai hình thức giao dịch mua bán chứng khoán đã nêu trên: giao dịch tại Sở giao

dịch và giao dịch tại thị trường OTC, trên thị trường tài chính thực tế còn tồn tại một bộ

phận các giao dịch mua bán trực tiếp giữa những người sở hữu chứng khoán. Thị trường

các giao dịch chứng khoán này có thể gọi là thị trường tự do hay thị trường chợ đen. Các

thị trường này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát triển của thị trường tài chính, khi mà

những người nắm giữ chứng khoán có nhu cầu bán lại những chứng khoán của mình.

Ngay cả ngày nay, mặc dù đã xuất hiện những thị trường tiên tiến hơn như Sở giao dịch

hay thị trường OTC, loại thị trường tự do này vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên quy mô của

chúng không lớn lắm, độ rủi ro lại cao, và chỉ có ý nghĩa tại các nước mới hình thành thị

trường tài chính.

3. Các công cụ của thị trường tài chính

Để hiểu rõ hơn cách thức thị trường tài chính lưu chuyển vốn từ người dư thừa vốn sang

người cần vốn, trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu các phương tiện giúp thị trường tài

chính lưu chuyển các khoản vốn, đó chính là các công cụ tài chính hay các chứng khoán.

Các công cụ tài chính được chia thành hai nhóm chính sau:

3.1. Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ.

Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ có đặc điểm chung là kỳ hạn thanh toán

ngắn, tính thanh khoản cao và độ rủi ro thấp. Chúng bao gồm các loại chủ yếu sau:

3.1.1. Tín phiếu kho bạc (Treasury bill)

Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do Kho bạc phát hành để

bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước33.

Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Đó là loại chứng khoán không

được nhà phát hành trả lãi song lại được bán với giá chiết khấu tức là giá thấp hơn mệnh

giá. Khi đến hạn, nhà đầu tư được nhận lại đủ mệnh giá, vì vậy phần chênh lệch giữa

mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi của nhà đầu tư.

Tín phiếu kho bạc có các kỳ hạn 3, 6 và 12 tháng.

Tín phiếu kho bạc được xem là công cụ tài chính có độ rủi ro thấp nhất trên thị trường

tiền tệ bởi vì hầu như không có khả năng vỡ nợ từ người phát hành, tức là không thể có

chuyện chính phủ mất khả năng thanh toán khoản nợ khi đến kỳ hạn thanh toán, chính

32 Thị trường mua bán chứng khoán chính phủ, thị trường mua bán thương phiếu hay thị trường hối đoái

đều được tổ chức theo hình thức thị trường OTC.

33 Thiếu hụt tạm thời là tình trạng nhu cầu chi vượt quá thu trong thời gian ngắn, nó xảy ra khi chính phủ có

những nhu cầu chi tiêu tức thời, cấp bách trong khi các nguồn thu của ngân sách lại mang tính định kỳ, dẫn

đến lúc cần chi nhưng lại chưa thu đủ.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

34

phủ lúc nào cũng có thể tăng thuế hoặc in tiền để trả nợ. Tuy nhiên mức lãi suất của nó

thường thấp hơn các công cụ khác lưu thông trên thị trường tiền tệ.

Tín phiếu kho bạc thường được phát hành theo từng lô bằng phương pháp đấu giá. Người

mua chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các trung gian tài chính

khác.

Tín phiếu kho bạc được xem là công cụ có tính lỏng cao nhất trên thị trường tiền tệ do nó

được mua bán nhiều nhất.

Tín phiếu kho bạc thường được Ngân hàng trung ương các nước sử dụng như một công

cụ để điều hành chính sách tiền tệ thông qua thị trường mở.

3.1.2. Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được (NCDs34)

Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit) là một công cụ nợ (debt instrument) do các

ngân hàng phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc

(được gọi là mệnh giá của chứng chỉ) cho người gửi tiền khi đến ngày đáo hạn.

Lúc đầu, các chứng chỉ tiền gửi không được phép bán lại và nếu người gửi tiền rút vốn

trước hạn thì sẽ phải chịu phạt. Nhưng về sau để tăng tính hấp dẫn của các chứng chỉ tiền

gửi này, các ngân hàng bắt đầu cho phép các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn (ví dụ ở

Mỹ là trên 100.000 USD) được phép bán lại trước hạn (với một mức giá khấu trừ), thậm

chí có thể bán cho chính ngân hàng phát hành. Khi đó chúng được gọi là các chứng chỉ

tiền gửi có thể chuyển nhượng (NCDs).

NCDs thường được các ngân hàng dùng để huy động các nguồn vốn lớn từ các công ty,

các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ, các tổ chức của chính phủ.v.v.. Tại Mỹ, tổng dư nợ từ

phát hành các NCDs của các ngân hàng gần đây đã vượt quá tổng số dư nợ của tín phiếu

kho bạc Mỹ.

3.1.3. Thương phiếu (Commercial paper)

Thương phiếu là những giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành để vay vốn ngắn

hạn từ thị trường tài chính.

Thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là được bán với giá thấp

hơn mệnh giá. Chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá thương phiếu chính là thu nhập của

người sở hữu thương phiếu.

Những thương phiếu nguyên thuỷ (commercial bill) chỉ xuất hiện trong các hoạt động

mua bán chịu hàng giữa các công ty kinh doanh với nhau. Nó có thể do người bán chịu

hay người mua chịu hàng hoá phát hành nhưng bản chất vẫn là giấy xác nhận quyền đòi

tiền khi đến hạn của người sở hữu thương phiếu. Ngày nay, thương phiếu xuất hiện mang

tính đa dạng hơn. Thương phiếu được phát hành không chỉ trong quan hệ mua bán chịu

34 Negotiable Bank Ceritficate of Deposit

Chương 2. Thị trường tài chính

35

hàng hoá mà còn được phát hành để vay vốn trên thị trường tiền tệ. Các công ty danh

tiếng khi có nhu cầu vốn có thể phát hành thương phiếu bán trực tiếp cho người mua theo

mức giá chiết khấu. Những người đầu tư thương phiếu ngoài các ngân hàng còn có các

trung gian tài chính và công ty khác.

Các thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhưng mức lãi suất chiết

khấu cũng cao hơn.

Thị trường thương phiếu ngày nay rất sôi động và phát triển với tốc độ rất nhanh. Việc

chuyển nhượng thương phiếu được thực hiện bằng hình thức ký hậu.

3.1.4. Chấp phiếu ngân hàng (Banker's acceptance)

Chấp phiếu ngân hàng là các hối phiếu kỳ hạn do các công ty ký phát và được ngân hàng

đảm bảo thanh toán bằng cách đóng dấu "đã chấp nhận" lên tờ hối phiếu.

Trong các giao dịch mua bán chịu, khi người bán không tin vào khả năng thanh toán của

người mua, họ sẽ yêu cầu người mua phải có sự bảo đảm thanh toán từ một ngân hàng có

uy tín. Khi ngân hàng chấp nhận bảo lãnh cho khoản thanh toán, nó cho phép người bán

ký phát hối phiếu đòi tiền thẳng ngân hàng và ngân hàng sẽ đóng dấu chấp nhận trả tiền

lên tờ hối phiếu đó. Như vậy, người trả tiền hối phiếu bây giờ không phải là người mua

nữa mà là ngân hàng, do vậy người bán được đảm bảo khá chắc chắn về khả năng thanh

toán của tờ hối phiếu. Để được ngân hàng ký chấp nhận vào tờ hối phiếu, người mua chịu

phải ký quỹ gửi vào ngân hàng một phần hoặc toàn bộ số tiền của tờ hối phiếu hoặc được

ngân hàng đồng ý cho vay để thanh toán hối phiếu. Ngân hàng sẽ thu từ người mua chịu

một khoản phí bảo đảm thanh toán. Các chấp phiếu ngân hàng này được sử dụng khá phổ

biến trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên các chấp phiếu ngân hàng là một công cụ

nợ có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân hàng chấp nhận là các ngân hàng lớn, có uy

tín. Những người sở hữu chấp phiếu có thể đem bán chúng trên thị trường tiền tệ với giá

chiết khấu để thu tiền mặt ngay khi cần vốn gấp.

3.1.5. Hợp đồng mua lại35 (Repurchase agreement - Repo)

Hợp đồng mua lại là một hợp đồng trong đó ngân hàng bán một số lượng tín phiếu kho

bạc mà nó đang nắm giữ, kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài ngày

hay một vài tuần với mức giá cao hơn.

Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thường không quá hai tuần) của các

ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp.

Sau đây là ví dụ về cách sử dụng một "Repo" để vay vốn: Một công ty lớn của Mỹ là

General Motors (GM), có một số vốn nhàn rỗi trong tài khoản là 1 triệu USD. Công ty

35 Còn gọi là Cam kết (hay thoả thuận) mua lại.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

36

muốn tranh thủ cho vay ngắn hạn khoản tiền này. Ngân hàng Citibank khi đó đang có nhu

cầu vay 1 triệu USD trong 1 tuần. Ngân hàng quyết định sử dụng một "Repo" để vay của

GM bằng cách ký hợp đồng bán cho GM 1 triệu USD tín phiếu kho bạc mà ngân hàng

đang nắm giữ với cam kết sẽ mua lại số tín phiếu này với giá cao hơn sau đó 1 tuần. Như

vậy, thông qua hợp đồng mua lại - "Repo" nói trên, công ty GM đã cung cấp cho

Citibank một khoản vay ngắn hạn, lãi trả cho GM chính là khoản chênh lệch giữa giá bán

lại tín phiếu cho ngân hàng sau đó 1 tuần và giá mua tín phiếu lúc đầu. Trong trường hợp

xảy ra rủi ro Citibank không thanh toán được nợ cho GM khi đến hạn, 1 triệu USD tín

phiếu kho bạc vẫn thuộc sở hữu của GM và công ty có thể bán trên thị trường tiền tệ để

thu hồi vốn về. Như vậy 1 triệu USD tín phiếu kho bạc (một công cụ có tính lỏng cao

nhất và an toàn nhất trên thị trường tiền tệ) đã được sử dụng làm vật thế chấp trong

"Repo" để đảm bảo khả năng thanh toán nợ của Citibank và đã làm cho GM yên tâm khi

cho vay.

Ngoài các công cụ phổ biến trên, ở các nước có thị trường tiền tệ phát triển (ví dụ như

Mỹ) còn có thêm một số công cụ khác như:

3.1.6 Quĩ liên bang (Fed Funds)

Quỹ liên bang là những khoản vay nợ ngắn hạn (thường chỉ qua một đêm) điển hình giữa

các ngân hàng Mỹ. Đối tượng vay ở đây là những món tiền gửi của các ngân hàng tại

Cục dự trữ liên bang Mỹ36. Khi tiền gửi của một ngân hàng tại Fed không đạt đến tổng số

mà Fed qui định phải có, nó sẽ tiến hành vay từ những ngân hàng nào có khoản tiền gửi

tại Fed vượt quá qui định để bù đắp cho khoản thiếu hụt của mình.

Thị trường vay quỹ liên bang rất nhạy cảm đối với các nhu cầu tín dụng của ngân hàng

khiến cho lãi suất của các khoản vay này (gọi là lãi suất quĩ liên bang) được xem là một

phong vũ biểu để đo mức độ căng thẳng của thị trường tín dụng trong hệ thống ngân

hàng. Khi lãi suất cao là lúc các ngân hàng đang bị sức ép về vốn, khi lãi suất thấp là nhu

cầu tín dụng của các ngân hàng thấp.

3.1.7 Đô la châu Âu (Euro dollars)

Những đồng đô la Mỹ do các ngân hàng ngoại quốc ở bên ngoài nước Mỹ hoặc những

chi nhánh của ngân hàng Mỹ ở ngoại quốc nắm giữ được gọi là đô la châu Âu. Các ngân

hàng Mỹ có thể vay những món tiền này từ các ngân hàng nước ngoài hoặc từ các chi

nhánh của ngân hàng Mỹ ở nước ngoài khi họ cần vốn. Đồng đô la châu Âu ngày nay đã

trở thành một nguồn vốn ngắn hạn quan trọng đối với các ngân hàng Mỹ (năm 1998 là

trên 100 tỷ USD).

36 Cục dự trữ liên bang Mỹ có vai trò như ngân hàng trung ương Mỹ, gọi tắt là Fed.

Chương 2. Thị trường tài chính

37

3.2. Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn

Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn so với các công cụ trên thị

trường tiền tệ do giá cả biến động nhiều hơn, tiềm ẩn rủi ro mất khả năng thanh toán

nhưng mức sinh lợi cao hơn vì các chứng khoán dài hạn thường đem lại lợi tức lớn hơn.

Sau đây là một số công cụ điển hình:

3.2.1. Trái phiếu (Bond)

Trái phiếu là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định kỳ và vốn

gốc khi đến hạn của tổ chức phát hành.

Như vậy, trái phiếu có bản chất là một công cụ nợ (debt instrument). Nó có những đặc

điểm cơ bản sau:

• Mệnh giá của trái phiếu (Face value): Là số tiền ghi trên bề mặt của tờ trái phiếu.

Mệnh giá của trái phiếu thường chính là giá bán của trái phiếu khi phát hành37, và

đây cũng là số tiền mà nhà phát hành phải hoàn trả lại cho người sở hữu trái phiếu

khi trái phiếu đáo hạn. Luật các nước có thể qui định mệnh giá tối thiểu của trái

phiếu. Ví dụ: Nghị định 144/CP qui định mệnh giá tối thiểu của các trái phiếu

phát hành ra công chúng tại Việt nam là 100.000đ và bội số của 100.000đ.

• Thời hạn của trái phiếu (Maturity): Là thời hạn vay vốn của tổ chức phát hành, nó

được ghi rõ trên tờ trái phiếu. Thời hạn của trái phiếu thường từ 2 năm trở lên, có

thể tới hơn 10 năm.

• Lãi trả cho trái phiếu (Interest): Lãi trả cho trái phiếu thường được qui định theo

tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá. Lãi suất trái phiếu có thể được qui định cố định

hoặc thả nổi lên xuống theo lãi suất thị trường. Lãi thường được trả định kỳ hàng

năm hoặc một năm hai lần. Kỳ hạn trả lãi cũng như lãi suất trái phiếu đều được

qui định rất cụ thể trên tờ trái phiếu.

• Người sở hữu trái phiếu (Bondholder): Bằng việc mua trái phiếu, người sở hữu

trái phiếu đã cung cấp cho nhà phát hành một khoản vay ứng trước. Tên của

người sở hữu trái phiếu có thể được ghi trên tờ trái phiếu (nếu là trái phiếu đích

danh) hoặc không được ghi (nếu là trái phiếu vô danh). Người sở hữu trái phiếu

ngoài quyền được đòi lãi và vốn khi đến hạn còn có quyền chuyển nhượng trái

phiếu cho người khác khi trái phiếu chưa hết hạn.

Khả năng thanh toán gốc và lãi của trái phiếu phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của tổ chức

phát hành, do vậy khi phân loại trái phiếu, người ta thường căn cứ vào ai là nhà phát

hành. Với căn cứ phân chia như vậy, trái phiếu có hai loại chủ yếu sau:

􀁚Trái phiếu chính phủ (Government bond)

37 Chỉ trừ trường hợp các trái phiếu được phát hành theo giá chiết khấu thì giá trái phiếu lúc phát hành mới

thấp hơn mệnh giá, còn các trường hợp khác đều bằng mệnh giá.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

38

Trái phiếu chính phủ thường dưới dạng trái phiếu kho bạc. Đây là các trái phiếu do Kho

bạc phát hành để bù đắp thâm hụt ngân sách quốc gia hàng năm. Trái phiếu kho bạc trung

hạn (Treasury note) có thời hạn dưới 10 năm, còn trái phiếu kho bạc dài hạn (Treasury

bond) có thời hạn trên 10 năm.

Các trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu mua bán mạnh nhất trên thị trường vốn các

nước nên được xem là công cụ nợ lỏng nhất trên thị trường vốn.

Các nhà đầu tư vào trái phiếu chính phủ bao gồm các ngân hàng (kể cả NHTW), các cá

nhân và một số tổ chức tài chính khác.

Ngoài trái phiếu chính phủ, còn có các trái phiếu do các cơ quan trực thuộc chính phủ

phát hành (Government agency bonds) và trái phiếu của chính quyền địa phương (Local

government bonds hoặc Municipal bonds). Một ví dụ về trái phiếu do các cơ quan trực

thuộc chính phủ phát hành là các trái phiếu bảo đảm bằng khoản cho vay thế chấp do

GNMA - một tổ chức trực thuộc chính phủ Mỹ - phát hành (sẽ được đề cập chi tiết trong

phần tiếp theo). Các chính quyền địa phương cũng có thể phát hành trái phiếu để vay vốn

cho chi tiêu ngân sách địa phương hoặc để đầu tư cho từng công trình cụ thể theo kế

hoạch, ví dụ để xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công

cộng. Loại trái phiếu này thường có những ưu đãi đặc biệt như tiền lãi không phải chịu

thuế. Tính chất của các loại trái phiếu này cũng gần tương tự trái phiếu chính phủ. Những

nhà đầu tư chính là các ngân hàng, các công ty bảo hiểm và các cá nhân.

Tại Việt nam, ngoài trái phiếu kho bạc (thường có thời hạn 5 năm), chính phủ còn phát

hành công trái quốc gia. Các công trái này thường có mức sinh lời kém, chủ yếu mang

tính chất động viên người dân giúp đỡ nhà nước bằng cách cho vay vốn. Ngoài ra, các

ngành lớn của Việt nam cũng phát hành trái phiếu công trình để tài trợ cho hoạt động đầu

tư của mình, ví dụ: ngành năng lượng phát hành trái phiếu công trình để xây dựng đường

dây 500 KV, tổng công ty bưu chính viễn thông phát hành trái phiếu xây dựng hệ thống

bưu điện...

􀁚Trái phiếu công ty (Corporate bond)

Trái phiếu công ty thường do các công ty có uy tín lớn phát hành. Những người nắm giữ

trái phiếu trở thành chủ nợ của công ty và có quyền yêu cầu thanh toán lãi và vốn khi đến

hạn38. Khác với các cổ đông, thu nhập của những người nắm giữ trái phiếu công ty không

phụ thuộc vào tình hình lợi nhuận của công ty và họ luôn được ưu tiên thanh toán lãi

trước các cổ đông, kể cả cổ đông cổ phiếu ưu đãi.

Các trái phiếu công ty nhìn chung có qui mô giao dịch nhỏ hơn so với các trái phiếu

chính phủ, do vậy mà chúng kém lỏng hơn. Tại các nước phát triển, thị trường trái phiếu

38 Nhưng không có quyền tham gia quản lý công ty như các cổ đông.

Chương 2. Thị trường tài chính

39

công ty cũng có qui mô nhỏ hơn thị trường cổ phiếu công ty (tại Mỹ thị trường trái phiếu

công ty chỉ bằng gần 1/5 thị trường cổ phiếu công ty) tuy nhiên tốc độ phát triển của nó

lại nhanh hơn thị trường cổ phiếu công ty nhiều nên trong tương lai trái phiếu công ty có

thể sẽ là một nguồn tài chính quan trọng hơn so với các cổ phiếu công ty.

Nắm giữ trái phiếu công ty thường là các công ty bảo hiểm (đặc biệt là công ty bảo hiểm

nhân thọ), các quỹ hưu trí, các công ty chứng khoán và cả các cá nhân.

Việc phát hành trái phiếu công ty chưa phổ biến ở Việt nam. Chủ yếu mới chỉ có các

ngân hàng phát hành trái phiếu ngân hàng để vay vốn từ dân.

3.2.2. Cổ phiếu (StockUS/ShareUK Certificate)

Cổ phiếu là một chứng thư hay bút toán ghi sổ xác nhận trái quyền (quyền hưởng lợi) về

vốn - equity claim - đối với thu nhập và tài sản ròng của một công ty cổ phần.

Cổ phiếu có bản chất là một công cụ góp vốn (equity instruments) và chỉ do các công ty

cổ phần phát hành. Khi cần huy động vốn, công ty cổ phần chia số vốn cần huy động

thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là các cổ phần (share/stock). Người mua những cổ

phần này được gọi là cổ đông (share/stockholder). Với số cổ phần đã mua, các cổ đông

được cấp một giấy chứng nhận sở hữu, giấy này gọi là cổ phiếu.

Vốn mà công ty cổ phần huy động được từ việc phát hành cổ phiếu được xem là vốn

thuộc sở hữu của công ty. Những cổ đông khi mua các cổ phần của công ty đã thực hiện

việc góp vốn để công ty kinh doanh và do vậy trở thành những người đồng sở hữu công

ty. Tỷ lệ sở hữu công ty phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do cổ phiếu

được xem là giấy xác nhận quyền sở hữu của các cổ đông đối với những cổ phần này nên

có thể coi cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu về số vốn mà một

cổ đông góp vào công ty cổ phần.

Là người chủ sở hữu công ty, các cổ đông có những quyền cơ bản sau đây:

• Quyền tham gia quản lý công ty: Quyền này được thực hiện bằng cách các cổ

đông bầu ra một Hội đồng quản trị để thay mặt mình quản lý, điều hành công ty.

Các cổ đông không chỉ có quyền bầu ra Hội đồng quản trị (Board of Directors)

mà còn có thể tham gia ứng cử làm thành viên của Hội đồng quản trị. Số lượng

phiếu bầu tỷ lệ với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Do vậy những người

nắm giữ càng nhiều cổ phần của công ty thì càng có nhiều khả năng trở thành

thành viên của Hội đồng quản trị. Ngoài ra, hàng năm công ty còn tổ chức Đại hội

cổ đông (Annual shareholder meetings) để họp các cổ đông lại, bàn về các chiến

lược hoặc kế hoạch kinh doanh lớn của công ty.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

40

• Quyền sở hữu tài sản ròng39 của công ty: Các cổ đông sở hữu công ty theo tỷ lệ

cổ phần nắm giữ. Do vậy, khi tài sản ròng của công ty tăng lên do làm ăn có lãi,

giá trị các cổ phần mà cổ đông nắm giữ cũng tăng lên theo. Khi công ty cổ phần

ngừng hoạt động, cổ đông được tham gia phân chia tài sản còn lại của công ty. Ví

dụ: Tổng tài sản ban đầu của một công ty cổ phần là 10 tỷ VNĐ. Một cổ đông

nắm 20% cổ phần của công ty cho nên tổng giá trị tài sản công ty mà anh sở hữu

theo cổ phần là 2 tỷ VNĐ. Sau 5 năm làm ăn có lãi, tổng tài sản ròng của công ty

tăng lên 15 tỷ VNĐ, khi đó tổng giá trị cổ phần mà anh ta sở hữu lên tới 3 tỷ

VNĐ.

• Quyền tham gia chia lợi nhuận ròng40: Cổ đông được quyền hưởng một phần lợi

nhuận ròng của công ty tỷ lệ với số cổ phần anh ta sở hữu. Phần lãi trả cho mỗi cổ

phần được gọi là cổ tức (Dividend). Quyền này chỉ được thực hiện khi công ty

làm ăn có lãi. Tuy nhiên, không phải lúc nào tất cả lợi nhuận thu được đều được

đem chia cho các cổ đông, cũng có trường hợp nhằm tăng vốn kinh doanh cho

công ty, Hội đồng quản trị quyết định giữ lại phần lớn lợi nhuận. Điều này nói

chung là được các cổ đông chấp nhận vì tuy không nhận được cổ tức nhưng giá trị

cổ phần của họ trong công ty lại tăng lên, hơn thế việc tăng vốn có thể đảm bảo

cho khả năng tạo thêm nhiều lợi nhuận hơn trong thời gian tới.

Ngoài đặc trưng cơ bản nói trên, cổ phiếu còn có một số đặc điểm đáng chú ý sau:

• Thời hạn của cổ phiếu: Bằng cách mua cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành,

các nhà đầu tư đã cung cấp vốn cho công ty hoạt động. Tuy nhiên các cổ đông lại

không được phép rút khoản vốn này về trừ trường hợp công ty ngừng hoạt động

hoặc có qui định đặc biệt cho phép được rút vốn. Chính vì lý do như vậy nên có

thể coi cổ phiếu có thời hạn thanh toán vốn bằng thời gian hoạt động của công ty.

Trên thực tế, trừ trường hợp phá sản hoặc kết quả kinh doanh quá tồi tệ, còn nói

chung thì các công ty sẽ vẫn cứ duy trì hoạt động mãi mãi, cho nên có thể nói thời

hạn của cổ phiếu là vô hạn. Mặc dù vậy, các cổ đông được phép chuyển nhượng

cổ phần mà mình nắm giữ cho người khác và bằng cách đó có thể rút lại khoản

vốn mà mình đã đầu tư vào công ty cổ phần.

• Giá trị của cổ phiếu: Giá trị của cổ phiếu được thể hiện trên 3 phương diện sau:

o Mệnh giá (Face value): là số tiền ghi trên bề mặt cổ phiếu41. Mệnh giá

thường được ghi bằng nội tệ. Mệnh giá bằng bao nhiêu là do luật chứng

39 Tài sản ròng bằng tổng tài sản có trừ tổng số các khoản nợ của công ty.

40 Lợi nhuận ròng là lợi nhuận sau thuế.

41 Mệnh giá của cổ phiếu chỉ là giá trị danh nghĩa và chỉ có ý nghĩa lúc phát hành. Số tiền mà công ty cổ

phần thu được tính trên mỗi cổ phiếu sau khi phát hành không nhất thiết phải bằng mệnh giá.

Chương 2. Thị trường tài chính

41

khoán hoặc điều lệ của công ty cổ phần qui định. Ví dụ: ở Việt nam theo

NĐ144/CP, mệnh giá cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt nam thống nhất

là 10.000 VNĐ.

o Giá trị ghi sổ (Book value): là giá trị của mỗi cổ phần căn cứ vào giá trị tài

sản ròng của công ty trên bảng tổng kết tài sản. Ví dụ: Một công ty có

50.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu. Sau 5 năm hoạt động, giá trị

tài sản ròng của công ty theo sổ sách kế toán là 1 tỷ đ. Khi đó giá trị của

mỗi cổ phần theo sổ sách sẽ là 20.000 đ, ta nói giá trị ghi sổ của cổ phiếu

công ty bây giờ là 20.000 đ/cổ phiếu.

o Giá trị thị trường (Market value): là giá cả của cổ phiếu khi mua bán trên

thị trường.

Cổ phiếu có hai loại cơ bản sau:

􀃍Cổ phiếu thường hay cổ phiếu phổ thông (Common stock): Là loại cổ phiếu có đầy đủ

các đặc trưng đã nêu trên của cổ phiếu. Đó là:

• Không qui định trước số cổ tức cổ đông sẽ nhận được. Giá trị cổ tức nhiều hay ít

còn tuỳ vào tình hình lợi nhuận của công ty và kế hoạch chia lợi nhuận của Hội

đồng quản trị. Trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ thì chẳng những cổ tức

không được chia mà cổ đông còn bị hao hụt về vốn góp. Nguyên tắc của các cổ

đông cổ phiếu thường là "lời ăn, lỗ chịu".

• Chỉ được chia lãi sau khi công ty đã thanh toán lãi trả cho những người nắm trái

phiếu và cổ phiếu ưu đãi42.

• Thời hạn cổ phiếu là vô hạn.

• Được hưởng quyền tham gia quản lý công ty cùng các quyền khác nhằm duy trì

quyền quản lý công ty, như: quyền bầu cử, quyền ứng cử vào Hội đồng quản trị,

quyền ưu tiên mua trước với giá ưu đãi các cổ phiếu mới phát hành.

Những cổ đông có nhiều cổ phần hoặc nhiều uy tín có thể nắm quyền điều hành công ty.

Còn nói chung đa số những người đầu tư chỉ mua cổ phiếu thường để hưởng cổ tức hoặc

bán đi khi cổ phiếu lên giá nhằm hưởng chênh lệch giá.

􀃍Cổ phiếu ưu đãi (Preferred Stock): Là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ cổ phiếu

được hưởng một số ưu đãi hơn so với cổ đông cổ phiếu thường. Ví dụ như:

• Được hưởng một mức cổ tức riêng biệt có tính cố định hàng năm dù công ty làm

ăn có lãi hay không.

• Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ phiếu thường.

42 Lợi nhuận công ty thu được trước tiên dùng để trả trái tức, tiếp theo là trả cổ tức của cổ phiếu ưu đãi,

cuối cùng còn bao nhiêu mới chia cho các cổ đông cổ phiếu thường.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

42

• Được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi thanh lý, giải thể.

Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá.

Chẳng hạn một cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá 100 USD, tỷ suất cổ tức là 4,5% sẽ được

hưởng một khoản cổ tức cố định là 4,5 USD. Còn nếu cổ phiếu ưu đãi không có mệnh giá

thì cổ tức sẽ được công ty công bố đơn giản là 5 USD/cổ phiếu chẳng hạn.

Hạn chế của cổ phiếu ưu đãi so với cổ phiếu thường là:

• Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào hội

đồng quản trị, tức là không được quyền tham gia quản lý công ty.

• Khi lợi nhuận của công ty tăng lên thì cổ tức cổ phiếu ưu đãi không vì thế mà

được tăng lên theo.

Vì cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không tăng, nên giá cả của cổ phiếu ưu đãi trên thị trường

cũng ít biến động. Do vậy, cổ phiếu ưu đãi thường kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư

hơn so với cổ phiếu thường43. Những người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi thường là những

người muốn có thu nhập ổn định, đều đặn và không thích mạo hiểm.

3.2.3. Các khoản vay thế chấp (Mortgages)

Vay thế chấp là khoản tiền cho các cá nhân hoặc công ty vay đầu tư (mua hoặc xây

dựng) vào nhà, đất, hoặc những bất động sản khác, các bất động sản và đất đó sau đó lại

trở thành vật thế chấp để đảm bảo cho chính các khoản vay.

Ở các nước phát triển, thị trường các khoản vay thế chấp có qui mô rất lớn, đặc biệt là thị

trường các khoản vay thế chấp để mua nhà ở. Tại Mỹ, thị trường các khoản vay thế chấp

là thị trường nợ lớn nhất, trong đó các khoản vay thế chấp để mua nhà ở gấp bốn lần các

khoản vay thế chấp thương mại và nông trại.

Các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm nhân thọ là những tổ chức cung cấp

các khoản vay thế chấp thương mại và nông trại chủ yếu. Còn các khoản vay thế chấp

nhà ở thì thường do các hiệp hội cho vay và tiết kiệm (Savings and Loan Associations _

S&Ls) và các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Mutual savings banks) cung cấp. Ngoài ra,

chính phủ các quốc gia cũng hình thành nhiều tổ chức chuyên hỗ trợ cho thị trường các

khoản vay thế chấp này. Ví dụ ở Mỹ có 3 cơ quan chính phủ là Hiệp hội vay thế chấp

quốc gia thuộc liên bang (Federal National Mortgage Association - FNMA), Hiệp hội

vay thế chấp quốc gia thuộc chính phủ (Government National Mortgage Association -

GNMA) và Công ty cho vay thế chấp nhà ở thuộc liên bang (Federal Home Loan

Mortgage Corporation - FHLMC) đang cung cấp vốn cho thị trường này bằng cách phát

hành các trái phiếu để huy động vốn rồi dùng vốn đó để cho vay thế chấp. Ngoài ra, thị

trường vay thế chấp nhà ở ngày nay còn được hỗ trợ phát triển hơn nữa nhờ công nghệ

43 Vì các nhà đầu tư vào cổ phiếu quan tâm nhiều hơn tới khả năng ăn chênh lệch giá khi mua bán cổ phiếu.

Chương 2. Thị trường tài chính

43

chứng khoán hoá. Đó là hình thức mà một cơ quan trực thuộc chính phủ như GNMA phát

hành các chứng khoán thanh toán vốn và lãi bằng các khoản thu từ hoạt động cho vay thế

chấp nhà ở, tức là các khoản thanh toán của các cá nhân vay thế chấp nhà ở sẽ thông qua

GNMA chuyển đến cho các nhà đầu tư vào các loại chứng khoán bảo đảm bằng các

khoản cho vay thế chấp (Mortgage-Backed Securities). Nhờ sự phát triển của công nghệ

này mà đến nay 2/3 các khoản cho vay thế chấp nhà ở của Mỹ đã được chứng khoán hoá,

do đó đã tạo được thị trường thứ cấp cho các khoản vay thế chấp nhà ở, giúp cho thị

trường này thêm hấp dẫn và sôi động.

3.2.4. Các khoản vay thương mại và tiêu dùng (Consumer and bank commercial loans)

Đây là các món vay dành cho những công ty kinh doanh và người tiêu dùng, chủ yếu là

do các ngân hàng cung cấp. Riêng các khoản cho vay tiêu dùng cũng có thể do các công

ty tài chính cung cấp.

Các khoản vay này thường không chuyển nhượng được nên chúng kém lỏng nhất trong

các công cụ của thị trường vốn.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

44

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Thị trường tài chính là gì? Hãy nêu chức năng và vai trò của thị trường tài chính

đối với nền kinh tế.

2. Phân biệt thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

3. Khi nào những người đi vay tìm đến thị trường tiền tệ? Hỏi tương tự với trường

hợp thị trường vốn.

4. Khi nào những người cho vay tham gia thị trường tiền tệ? Hỏi tương tự với

trường hợp thị trường vốn.

5. Các chủ thể kinh tế nào thường tham gia vào thị trường tiền tệ? Hỏi tương tự với

thị trường vốn.

6. Kể tên các thị trường bộ phận của thị trường tiền tệ và phân biệt chúng.

7. "Do các công ty không tăng thêm được bất kỳ đồng vốn nào trong các thị trường

thứ cấp nên các thị trường này ít quan trọng hơn thị trường sơ cấp". Hãy bình luận

ý kiến này.

8. Trình bày mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Có thị trường

sơ cấp và thứ cấp trên thị trường tiền tệ không?

9. Xác định những giao dịch nào trong các giao dịch sau đây được tiến hành tại thị

trường sơ cấp, tại thị trường thứ cấp:

a. Bán 100 cổ phiếu của công ty Ree

b. Kho bạc phát hành trái phiếu kho bạc

c. Đấu thầu tín phiếu kho bạc

10. Tại sao sau khi bán cổ phiếu hoặc trái phiếu các công ty vẫn quan tâm tới biến

động giá cổ phiếu hay trái phiếu của công ty mình?

11. Trình bày những điểm khác biệt giữa thị trường tập trung và phi tập trung.

12. Có tồn tại thị trường tập trung và phi tập trung trên thị trường tiền tệ không?

13. Tìm hiểu về điều kiện đối với các công ty để được gia nhập thị trường chứng

khoán tập trung tại Việt nam.

14. Nêu tên và phân biệt các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ.

15. Sắp xếp các chứng khoán sau đây theo thứ tự giảm dần về tính lỏng: trái phiếu

công ty, tín phiếu kho bạc, thương phiếu, trái phiếu kho bạc.

16. Nêu điểm khác biệt giữa cổ phiếu và trái phiếu.

17. Nêu những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới sự biến động của giá cổ phiếu, trái

phiếu.

18. So sánh giữa cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

19. So sánh quyền hạn giữa trái chủ và cổ đông đối với một công ty.

Chương 3. Trung gian tài chính

45

Chương 3. Trung gian tài chính

Những số liệu thống kê về các nguồn tài trợ từ bên ngoài công ty tại các nước phát triển

cho thấy, bất chấp việc các phương tiện truyền thông tại các nước này tập trung đưa tin

về tình hình các thị trường chứng khoán, tạo ra một ấn tượng về tầm quan trọng của các

nguồn vốn huy động từ phát hành chứng khoán, việc phát hành chứng khoán (bao gồm cổ

phiếu và trái phiếu) trên thực tế không phải là cách chủ yếu để huy động vốn từ bên ngoài

nhằm tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các công ty. Ngay tại Mỹ, một trong những

nơi có thị trường chứng khoán phát triển nhất trên thế giới, trong giai đoạn từ 1970 đến

1996, cổ phiếu và trái phiếu cũng chỉ cung cấp được gần 44,7% tổng số vốn hoạt động

của các công ty. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở các nước Anh, Pháp, Đức, Nhật.

Những phân tích số liệu chi tiết hơn còn cho thấy vai trò của kênh tài chính trực tiếp

trong việc lưu chuyển vốn nhàn rỗi tới những nơi có khả năng đầu tư sinh lời trên thực tế

còn thấp hơn nhiều. Lấy ví dụ tại Mỹ, từ năm 1970, chỉ có gần 5% các trái phiếu công ty

và thương phiếu và khoảng 50% cổ phiếu được bán trực tiếp cho người dân Mỹ. Phần lớn

các chứng khoán này đã được các trung gian tài chính mua lại. Ở hầu hết các nước phát

triển khác, tầm quan trọng của kênh tài chính trực tiếp còn thấp hơn nhiều. Những bằng

chứng trên cho thấy vai trò của các trung gian tài chính trong nền kinh tế lớn như thế nào.

Một bằng chứng khác củng cố thêm cho nhận xét này là chỉ các chính phủ, các công ty

lớn hay các tổ chức tài chính hùng hậu mới có thể huy động vốn trực tiếp từ thị trường tài

chính qua phát hành các chứng khoán. Các thị trường tài chính không phải là sân chơi

cho các cá nhân hay các công ty nhỏ. Thậm chí ngay cả các công ty lớn không phải lúc

nào cũng huy động vốn từ kênh tài chính trực tiếp. Các trung gian tài chính do đó đóng

vai trò đáp ứng cho những nhu cầu giao dịch vốn của các chủ thể kinh tế mà thị trường tài

chính không thể thoả mãn.

Câu hỏi đặt ra là tại sao kênh tài chính trực tiếp lại không thể thực hiện việc lưu chuyển

vốn hiệu quả và các trung gian tài chính bằng cách nào đã khắc phục được những hạn chế

của kênh tài chính trực tiếp?

Để trả lời cho những câu hỏi này, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu về hai rào cản chủ yếu

của các dòng vốn trên thị trường tài chính là chi phí giao dịch và chi phí thông tin. Các

phần tiếp theo sẽ chỉ rõ vai trò của trung gian tài chính trong việc giảm thiểu các chi phí

này.

1. Những rào cản trong kênh tài chính trực tiếp

1.1. Chi phí giao dịch (Transaction costs)

Chi phí giao dịch là một trong những cản trở chính trong quá trình lưu thông vốn trên thị

Phan Anh TuÊn

[email protected]

46

trường tài chính. Phần lớn các khoản vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế tồn tại dưới dạng

phân tán và nhỏ lẻ. Nếu những người tiết kiệm trực tiếp đầu tư vào thị trường tài chính

bằng cách mua các chứng khoán thì khoản chi phí đầu tiên họ phải đối mặt là chi phí hoa

hồng cho các nhà môi giới mua bán chứng khoán. Khoản chi phí này có thể tăng lên nếu

các nhà đầu tư cá nhân muốn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư đa dạng vào các chứng

khoán khác nhau. Với những khoản vốn đầu tư nhỏ, những chi phí giao dịch đó có thể

làm biến mất nhanh chóng những lợi tức thu được từ hoạt động đầu tư. Đó là chưa kể đến

những chi phí về thời gian và công sức cho việc quản lý danh mục đầu tư.

Về phía những người đi vay, khoản chi phí cho phát hành chứng khoán không phải là nhỏ

khiến cho việc huy động những khoản vốn vay không lớn lắm trực tiếp từ thị trường tài

chính sẽ rất tốn kém và không hiệu quả. Điều này giải thích tại sao ngay cả các công ty

lớn cũng không phải lúc nào cũng sử dụng kênh tài chính trực tiếp để tài trợ cho các hoạt

động kinh doanh của mình.

1.2. Chi phí thông tin (Information costs)

Chi phí thông tin trên thị trường tài chính phát sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng

(asymmetric information) trong nền kinh tế. Tình trạng thông tin bất cân xứng xuất hiện

khi một trong hai bên trong một giao dịch có ít thông tin hơn bên kia về đối tượng của

giao dịch, khiến cho việc ra quyết định không thể chính xác. Ví dụ: trong quan hệ tín

dụng, người đi vay luôn biết rõ hơn người cho vay về khả năng sinh lời và những rủi ro

của dự án mà anh ta sử dụng vốn vay để đầu tư. Sự tồn tại của vấn đề thông tin bất cân

xứng dẫn đến các nguy cơ lựa chọn đối nghịch (adverse selection) và rủi ro đạo đức

(moral hazard) gây nên ảnh hưởng xấu tới tính hiệu quả của việc lưu chuyển vốn trên thị

trường tài chính.

Nguy cơ lựa chọn đối nghịch xảy ra trước khi giao dịch về vốn được thực hiện. Trên thị

trường tài chính, do người cho vay không có đầy đủ thông tin về các dự án đầu tư của

người đi vay, nên rất có khả năng là họ sẽ thực hiện một sự lựa chọn đối nghịch là cho

người đi vay có độ rủi ro cao vay tiền dù rằng đó là điều người cho vay luôn muốn tránh

bởi vì những người đi vay có độ rủi ro cao lại thường là những người rất tích cực tìm

cách vay được tiền. Vì biết được nguy cơ này nên trong nhiều trường hợp người cho vay

sẽ quyết định không cho vay nữa. Hoặc trên thị trường chứng khoán, do thiếu thông tin

về các công ty phát hành chứng khoán, nhà đầu tư có xu hướng trả một mức giá tương

ứng với các chứng khoán có chất lượng trung bình trên thị trường, kết quả là những công

ty hoạt động kém sẽ sẵn sàng bán với mức giá mà nhà đầu tư muốn mua trong khi những

công ty hoạt động tốt sẽ đòi hỏi giá chứng khoán của họ phải cao hơn mức giá trung bình

đó. Kết quả là nếu mua chứng khoán nhà đầu tư sẽ có thể thực hiện một lựa chọn đối

Chương 3. Trung gian tài chính

47

nghịch, tức là mua phải chứng khoán của các công ty hoạt động kém. Do ý thức được khả

năng này nên nhà đầu tư có thể quyết định không mua chứng khoán nữa. Như vậy, nguy

cơ lựa chọn đối nghịch đã hạn chế các dòng vốn lưu chuyển từ những người dư thừa vốn

sang những người cần vốn.

Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi giao dịch về vốn đã được thực hiện. Do người đi vay

nắm được nhiều thông tin hơn người cho vay về quá trình sử dụng vốn vay, họ có thể che

giấu thông tin và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho khoản vốn vay mà người cho

vay không mong muốn. Người cho vay trong nhiều trường hợp do e ngại nguy cơ này mà

quyết định tốt nhất là không nên cho vay. Rủi ro đạo đức còn nảy sinh trong các hợp

đồng vốn cổ phần (equity contracts) dưới dạng vấn đề người uỷ thác và đại lý (principal -

agent problem). Vấn đề người uỷ thác và đại lý xuất hiện khi người quản lý công ty

không phải là người sở hữu hay là người chỉ sở hữu phần nhỏ công ty. Chẳng hạn trường

hợp Ban giám đốc được thuê. Do người được uỷ thác để quản lý công ty (tức là Ban giám

đốc) có nhiều thông tin về công ty hơn những người uỷ thác nên họ có thể có những động

cơ làm lợi cho cá nhân chứ không phải là làm lợi cho người uỷ thác, tức là các cổ đông.

Vấn đề này là khó tránh khỏi trước hiện thực là ngày nay trên thế giới hầu hết các công ty

cổ phần đều có số lượng cổ đông rất đông đảo, ngay cả các thành viên trong Hội đồng

quản trị của nhiều công ty lớn cũng không sở hữu quá bán (hơn 50%) số cổ phần, các

thành viên của Ban giám đốc, đặc biệt là Tổng giám đốc thường là người được thuê hoặc

nếu có nắm giữ cổ phiếu của công ty thì cũng không nhiều. Trong điều kiện kinh tế hoạt

động tốt, những người quản lý có thể giấu diếm được các cổ đông những chi phí bất hợp

lý mà công ty phải chịu do những chi phí này chủ yếu chỉ phục vụ lợi ích của người quản

lý (ví dụ phương tiện đi lại đắt tiền, tiền thưởng cao...). Nhưng khi nền kinh tế rơi vào

suy thoái thì những hạn chế đó sẽ lộ rõ. Tình trạng đổ vỡ phá sản của hàng loạt các công

ty ở Hàn quốc vào thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 1997 cho thấy chỉ đến lúc đó các

cổ đông mới nhận ra họ đã bị những người họ uỷ thác lừa.

Dường như là rủi ro đạo đức sẽ không thể xảy ra với các hợp đồng nợ (debt contracts) do

thu nhập của người cho vay từ hợp đồng nợ được đảm bảo là xác định trước, không phụ

thuộc vào kết quả kinh doanh của người đi vay. Bất chấp Ban giám đốc có làm gì có lợi

cho mình thì khoản tiền lãi mà công ty phải trả vẫn thế. Thực tế thì không phải vậy. Các

hợp đồng nợ cũng vẫn phải đối diện với rủi ro đạo đức. Do khoản lãi phải trả cho các trái

chủ là cố định nên nếu càng làm ra lãi nhiều thì người đi vay càng lợi. Do đó, họ có thể sẽ

tham gia vào các dự án rủi ro hơn nhằm kiếm lãi lớn khiến cho rủi ro những người cho

vay không thu hồi được vốn cho vay sẽ cao hơn.

Những vấn đề về thông tin bất cân xứng này có thể giải quyết bằng cách người cho vay

tăng cường thu thập thông tin về người đi vay thông qua việc mua thông tin hoặc tổ chức

Phan Anh TuÊn

[email protected]

48

giám sát quá trình sử dụng vốn của người đi vay. Tuy nhiên do vấn đề "người đi nhờ xe"

(free-rider problem) mà những nguy cơ lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị

trường tài chính không thể giải quyết triệt để. Khi một số nhà đầu tư trên thị trường tài

chính mua thông tin về một công ty hoặc tổ chức giám sát hoạt động sử dụng vốn của

một công ty, những nhà đầu tư khác cũng cung cấp vốn vay cho công ty đó có thể tránh

việc phải bỏ chi phí cho việc mua thông tin hay giám sát bằng cách bắt chiếc các hoạt

động mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư ở trên. Kết quả là không nhà đầu tư nào

muốn mua thông tin hay giám sát khi họ không được lợi thế gì hơn so với các nhà đầu tư

không bỏ tiền ra.

2. Vai trò của trung gian tài chính trong việc khắc phục hạn chế

của kênh tài chính trực tiếp

Các trung gian tài chính (financial intermediaries) là những tổ chức kinh doanh trong lĩnh

vực tài chính - tiền tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các tổ chức này là tập

hợp các khoản vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế lại rồi tiến hành cung ứng cho những nơi có

nhu cầu về vốn vay. Với các hoạt động như vậy, các trung gian tài chính đóng vai trò là

cầu nối giữa những chủ thể cung vốn và cầu vốn trong nền kinh tế.

Với tư cách là tổ chức chuyên hoạt động trong lĩnh vực lưu chuyển vốn, các trung gian tài

chính có thể làm gì để giảm bớt những hạn chế nêu trên?

2.1. Vai trò của trung gian tài chính trong việc giảm bớt chi phí giao dịch

Các trung gian tài chính có khả năng giảm được chi phí giao dịch trong quá trình lưu

chuyển vốn là nhờ vào tính kinh tế do quy mô hoạt động lớn và tính chuyên nghiệp cao.

Với lợi thế nguồn vốn huy động lớn, các trung gian tài chính có thể giảm chi phí giao

dịch tính trên mỗi đồng vốn. Chẳng hạn trên thị trường chứng khoán, chi phí để mua

10,000 cổ phiếu cũng không đắt hơn chi phí để mua 50 cổ phiếu là bao. Do đó, các trung

gian tài chính như các quỹ đầu tư khi mua bán chứng khoán với khối lượng lớn trên thị

trường sẽ chịu chi phí môi giới tính trên mỗi đồng vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với các

nhà đầu tư riêng lẻ. Chẳng những thế, nhờ vào quy mô vốn lớn, các trung gian tài chính

có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro mà không làm tăng chi phí nhiều

như các nhà đầu tư riêng lẻ.

Chi phí quản lý tính trên từng đồng vốn cũng giảm đáng kể khi quy mô vốn đầu tư lớn.

Hoạt động với quy mô lớn tạo điều kiện để các trung gian tài chính đầu tư vào các hệ

thống máy tính đắt tiền dùng cho quản lý và tiến hành hàng triệu giao dịch mà vẫn đảm

bảo chi phí tính trên mỗi giao dịch ở mức thấp.

Tính chuyên nghiệp cũng là một yếu tố làm giảm chi phí giao dịch. Do chuyên hoạt động

trong lĩnh vực tiền tệ - tài chính, các trung gian chẳng những sẽ có nhiều kinh nghiệm để

Chương 3. Trung gian tài chính

49

quản lý vốn hiệu quả hơn mà còn có thể đề ra các giải pháp để giảm chi phí giao dịch

nhằm nâng cao mức lợi nhuận.

2.2. Vai trò của trung gian tài chính trong việc giảm bớt chi phí thông tin

Các trung gian tài chính chuyên hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ nên họ được

trang bị đầy đủ hơn những người cho vay đơn lẻ cả về kiến thức và kinh nghiệm, nhờ đó

họ có thể thu thập và xử lý thông tin hiệu quả hơn, giúp đánh giá được chính xác hơn

mức độ rủi ro của các dự án xin vay, qua đó giảm thiểu được nguy cơ chọn lựa đối

nghịch. Hơn nữa họ cũng sẽ có khả năng kiểm soát tốt hơn quá trình sử dụng vốn của

người đi vay, nhờ đó giảm bớt được những thiệt hại do rủi ro đạo đức gây ra.

Không những thế, các trung gian tài chính còn khắc phục được vấn đề "người đi nhờ xe",

do họ chủ yếu cung cấp vốn thông qua các khoản cho vay trực tiếp chứ không thông qua

việc mua chứng khoán. Các khoản vay trực tiếp này không được mua bán trên thị trường

nên những nhà đầu tư khác không thể lợi dụng. Chi phí các trung gian tài chính bỏ ra để

mua thông tin và giám sát hoạt động của người đi vay nhằm giảm tình trạng thông tin bất

cân xứng sẽ đem lại cho họ những lợi thế mà các nhà đầu tư khác nếu không bỏ tiền ra thì

không thể có được.

Với trường hợp các hợp đồng vốn, các trung gian tài chính có thể khắc phục những vấn

đề như "người uỷ thác và đại lý" và "người đi nhờ xe" thông qua các quỹ đầu tư mạo

hiểm. Các quỹ này huy động vốn từ các nhà đầu tư riêng lẻ rồi sử dụng để tài trợ cho các

doanh nghiệp có triển vọng thực hiện các dự án kinh doanh của mình dưới hình thức góp

vốn liên doanh. Để ngăn ngừa khả năng phát sinh các rủi ro đạo đức, các quỹ này sẽ cử

người tham gia vào bộ máy điều hành của doanh nghiệp nhận vốn để giám sát chặt chẽ

tình hình thu nhập hay lợi nhuận của doanh nghiệp đó. Mặt khác, cổ phần của các doanh

nghiệp đó cũng không được phép bán ra cho ai khác ngoài quỹ đầu tư. Do đó, quỹ đầu tư

không còn phải lo ngại về tình trạng "người đi nhờ xe" nữa.

Tóm lại, với những ưu thế về quy mô hoạt động, tính chuyên nghiệp và các dịch vụ tài

chính đặc thù (như khoản vay trực tiếp, đầu tư mạo hiểm...), các trung gian tài chính có

khả năng khắc phục khá hiệu quả những hạn chế của kênh tài chính trực tiếp, và do đó

ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.

3. Các loại hình trung gian tài chính

3.1. Các tổ chức nhận tiền gửi (Depository Institutions)

Các tổ chức nhận tiền gửi là các trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua

các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức

Phan Anh TuÊn

[email protected]

50

các khoản vay trực tiếp. Không chỉ có vai trò quan trọng trong kênh tài chính gián tiếp

các tổ chức này còn tham gia vào quá trình cung ứng tiền cho nền kinh tế.

Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại (commercial banks)44 và

các tổ chức tiết kiệm (thrift institutions) như các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (savings

and loan associations), các ngân hàng tiết kiệm (savings banks), các quỹ tín dụng.

3.1.1. Ngân hàng thương mại (Commercial bank)

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến nhất hiện

nay. Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: Tiền gửi thanh toán

(checkable deposits), tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time

deposits). Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại (commercial loans),

cho vay tiêu dùng (consumer loans), cho vay bất động sản (mortgage loans45) và để mua

chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương.

Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng ngắn hạn, tuy nhiên

gần đây nhờ nguồn vốn huy động dồi dào nó bắt đầu vươn sang lĩnh vực tín dụng trung

và dài hạn. Ngoài ra ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ thanh toán qua ngân

hàng và buôn bán ngoại tệ.

Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất.

Đây cũng là các trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.

3.1.2. Các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (Savings and Loan Associations - S&Ls)

Các hiệp hội này xuất hiện khá phổ biến ở Mỹ từ những năm 50. Nguồn vốn chủ yếu của

các hiệp hội này là các khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.

Phần còn lại (khoảng 20 - 30%) thì vay từ các nguồn khác và vay của chính quyền địa

phương hay trung ương. Tiền vốn thu được chủ yếu để cho vay bất động sản (chủ yếu là

nhà ở) với thời hạn dài. Thời kỳ đầu, các hiệp hội này bị giới hạn trong các khoản cho

vay bất động sản và không được cung cấp các tài khoản thanh toán. Nhưng từ những năm

80 trở đi các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã được phép cung cấp các tài khoản thanh

toán, cho vay tiêu dùng và thực hiện hàng loạt các hoạt động khác mà trước đây chỉ giới

hạn ở các ngân hàng thương mại. Ngày nay, sự khác biệt về phạm vi hoạt động giữa các

hiệp hội tiết kiệm và cho vay với các ngân hàng thương mại hầu như không đáng kể.

44 Các ngân hàng đầu tiên ra đời ở Ý vào thời kỳ Phục hưng. Các ngân hàng có nguồn gốc từ những người

đổi tiền (money changers). Từ "ngân hàng - bank" có nguồn gốc từ từ "banca" trong tiếng Ý nghĩa là cái

ghế băng là nơi những người đổi tiền thường ngồi để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Ngân hàng tại

Mỹ thường được hiểu là các ngân hàng thương mại, nhưng ở Đức đó lại là các ngân hàng đa năng

(universal banks). Hoạt động của các ngân hàng này bao trùm toàn bộ các lĩnh vực tài chính, tiền tệ chứ

không hạn hẹp như ngân hàng thương mại.

45 Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho người đi vay vay để mua bất động sản, người đi vay sẽ

hoàn trả cả vốn và lãi cho ngân hàng dưới dạng các khoản thanh toán bằng nhau theo định kỳ trong một

khoảng thời gian nhất định (thường là trên 25 năm). Bất động sản sau khi mua được sử dụng làm vật thế

chấp để đảm bảo cho khoản vay này.

Chương 3. Trung gian tài chính

51

Chúng đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm của các ngân hàng thương mại

trong nhiều lĩnh vực.

S&Ls có nguồn gốc từ các "Liên hiệp xây dựng" (Building society) ở Anh, một hình thức

hiệp hội tiết kiệm với mục đích giúp các thành viên có thể mua được nhà ở. Hàng tháng

các thành viên sẽ đóng góp một khoản tiền nhất định và hiệp hội sẽ thu xếp cho vay để

mỗi tháng có một thành viên có thể mua nhà được. Thành viên được vay sẽ trả từng phần

hàng tháng cho đến khi hết nợ. Hiệp hội sẽ tự động giải tán khi tất cả các thành viên đều

mua được nhà. Ngày nay thì các hiệp hội tiết kiệm và cho vay còn chấp nhận cả những

thành viên tham gia không với mục đích mua nhà mà chỉ là để hưởng lãi.

3.1.3. Ngân hàng tiết kiệm (Savings bank)

Ngân hàng tiết kiệm được thành lập với mục đích huy động các khoản tiền tiết kiệm của

các cá nhân trong xã hội. Chủ nhân của các ngân hàng tiết kiệm cũng chính là những

người gửi tiền tiết kiệm. Khởi đầu có một nhóm người đứng ra khởi xướng thành lập

ngân hàng. Sau khi tạm đủ số người hưởng ứng, họ họp đại hội cổ đông, soạn thảo ra

điều lệ hoạt động và xin giấy phép thành lập. Những cổ đông này hầu hết là người bỏ

những khoản tiền tiết kiệm đầu tiên vào để tạo thành vốn hoạt động của ngân hàng. Kể từ

đó về sau, mỗi khi có thêm khoản tiền tiết kiệm mới, họ lại tiếp tục gửi vào ngân hàng và

khi cần có tiền để kinh doanh hoặc tiêu dùng, họ lại đi vay từ chính ngân hàng đó. Có

một điều cần chú ý là ngân hàng không mở rộng thêm cổ đông, do đó những người tham

gia gửi tiền tiết kiệm sau này sẽ là khách hàng chứ không phải là chủ nhân. Hàng năm lợi

tức của ngân hàng nếu không nhập vào tài sản của ngân hàng thì sẽ được chia cho những

người gửi tiết kiệm và sáng lập ra ngân hàng.

Phương thức hoạt động của ngân hàng tiết kiệm mang tính tương trợ là chủ yếu, chứ

không như ngân hàng thương mại là nhằm mục đích kinh doanh là chính.

Vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng tiết kiệm là từ tiền gửi tiết kiệm của dân chúng

hoặc là vốn đóng góp của các nhà hảo tâm với tính chất hỗ trợ người nghèo là chính hơn

là đóng góp để kiếm lời. Loại ngân hàng này không phát hành các công cụ nợ để vay vốn

của công chúng và cũng hầu như không vay của các tổ chức nước ngoài hay NHTW, trừ

trường hợp đặc biệt thiếu tiền mặt.

Do tính chất đặc biệt của vốn huy động, các ngân hàng tiết kiệm cho vay rất thận trọng.

Tiêu chuẩn hàng đầu trong vấn đề cho vay là sự an toàn. Đối tượng cho vay chủ yếu là

các khoản vay cầm cố, thế chấp bằng nhà cửa, tài sản hoặc chứng khoán. Tiếp đó là đầu

tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại khác vay. Nhìn chung những

người được vay tiền tại các ngân hàng này cũng chính là những người đã gửi tiền tiết

kiệm vào ngân hàng. Lãi suất cho vay thường rất thấp vì nó mang tính chất tương trợ

nhiều hơn là kinh doanh.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

52

Ở Mỹ ngân hàng tiết kiệm tồn tại dưới hình thức các ngân hàng tiết kiệm tương trợ

(Mutual savings banks). Các ngân hàng tiết kiệm tương trợ này thu hút tiền vốn bằng

cách nhận tiền gửi và dùng chúng trước hết để cho vay thế chấp. Những người gửi tiền

đồng thời là người chủ sở hữu các ngân hàng này. Trước năm 1980, các ngân hàng này bị

hạn chế ở các khoản cho vay bất động sản, nhưng ngày nay họ đã được phép phát hành

các tài khoản tiền gửi có thể phát séc dưới dạng các tài khoản NOW hay Super NOW và

thực hiện các khoản cho vay khác ngoài cho vay bất động sản như vay tiêu dùng, vay cho

sản xuất nông nghiệp, cũng như cung cấp các dịch vụ như tín thác, phát hành thẻ tín

dụng.

Ở Việt nam không có ngân hàng tiết kiệm riêng biệt, hầu như tất cả các ngân hàng

thương mại đều có bộ phận quỹ tiết kiệm để huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư nhằm

hình thành nguồn vốn chung của ngân hàng thương mại.

3.1.4. Quỹ tín dụng

Quỹ tín dụng được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động theo nguyên

tắc tập thể, tự nguyện, hợp tác và bình đẳng. Các thành viên của quỹ góp tiền vào quỹ

dưới hình thức mua các thẻ thành viên (tương tự như cổ phiếu) có mệnh giá bằng nhau.

Sau đó, họ cùng nhau bầu ra người quản lý. Các thành viên của quỹ sẽ được hưởng quyền

vay tiền của quỹ khi cần. Khi cần thêm vốn, quỹ lại phát hành thêm thẻ thành viên và tiếp

nhận thêm những thành viên mới. Thông thường quỹ không cho người ngoài vay tiền.

Ngoài cho các thành viên vay, quỹ cũng có thể đầu tư vào chứng khoán.

Ở Việt nam, quỹ tín dụng tồn tại dưới dạng các tổ chức tín dụng hợp tác. Đây là tổ chức

kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng, do các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình tự

nguyện thành lập để hoạt động ngân hàng theo Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Hợp

tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời

sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác

xã tín dụng và các hình thức khác46. Theo Điều 64 Luật Các tổ chức tín dụng: "Tổ chức

tín dụng hợp tác được huy động vốn của các thành viên và của các tổ chức cá nhân để

cho các thành viên vay. Việc cho các đối tượng không phải là thành viên vay phải được

Đại hội thành viên hoặc Đại hội đại biểu chấp thuận và không được vượt quá tỷ lệ tối đa

do Ngân hàng Nhà nước quy định".

Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng (Credit Unions) cũng có mô hình tương tự như quỹ tín

dụng. Đây là các tổ chức cho vay có quy mô nhỏ, có tính chất hợp tác xã, được tổ chức

xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các nhân viên của một công ty). Mục đích

của các liên hiệp này là cho các thành viên vay với mức lãi suất thấp nhất có thể. Họ thu

46 Điều 20 khoản 5 Luật Các tổ chức tín dụng.

Chương 3. Trung gian tài chính

53

nhận vốn bằng cách bán cổ phần cho các thành viên và các thành viên ngoài việc được

quyền vay ưu đãi còn được hưởng cả lãi từ cổ phần mà họ mua. Các khoản vay từ quỹ

chủ yếu phục vụ nhu cầu mua hàng hoá tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau năm 1980, các

liên hiệp tín dụng này cũng được phép phát hành các tài khoản tiền gửi thanh toán và có

thể thực hiện các khoản cho vay bất động sản ngoài các khoản cho vay tiêu dùng.

3.2. Các công ty tài chính (Finance companies)

Các trung gian tài chính này huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hay

thương phiếu. Các công ty tài chính cung ứng chủ yếu các loại tín dụng trung hạn và dài

hạn, ví dụ cho người tiêu dùng vay tiền để mua sắm đồ đạc, xe hơi, tu bổ nhà hoặc cho

các doanh nghiệp nhỏ vay. Ngoài ra, các công ty tài chính còn thực hiện các dịch vụ

cầm, giữ hộ và quản lý các chứng khoán, các kim loại quí .v.v...

Nếu như hoạt động của các ngân hàng thương mại chủ yếu là tập hợp các khoản tiền gửi

nhỏ để cho vay các khoản tiền lớn, thì các công ty tài chính lại huy động những khoản

tiền lớn rồi chia ra để cho vay những khoản nhỏ. Một điểm khác biệt nữa là công ty tài

chính không được huy động các dạng tiền gửi như như ngân hàng thương mại cũng như

không được thực hiện các dịch vụ thanh toán.

Trên thế giới có ba loại hình công ty tài chính chủ yếu sau:

+ Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company): Các công ty tài chính này

gián tiếp cấp tín dụng cho người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc

từ một nhà sản xuất nào đó. Tín dụng được cấp dưới hình thức: các doanh nghiệp bán

hàng trả góp cho khách hàng theo hợp đồng mẫu do công ty tài chính loại này cung cấp,

sau đó hợp đồng được bán lại cho công ty tài chính. Như vậy khoản nợ của khách hàng

với nhà sản xuất hoặc nhà bán lẻ đã chuyển thành khoản nợ của khách hàng đối với công

ty tài chính. Các công ty tài chính loại này thường do các công ty sản xuất hay các nhà

phân phối bán lẻ (retailling or manufacturing company) thành lập nên nhằm hỗ trợ cho

hoạt động tiêu thụ hàng hoá của mình. Ví dụ tại Mỹ, General Motors Acceptance

Corporation chuyên tài trợ cho khách hàng mua ô tô của hãng GM.

+ Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company): Công ty tài chính

loại này cung ứng phần lớn nguồn vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào

mục đích mua sắm hàng hoá tiêu dùng như các đồ đạc nội thất (giường, tủ...) và các đồ

gia dụng (tủ lạnh, máy giặt...) hoặc sửa chữa nhà cửa. Hầu hết các khoản cho vay đều

được trả góp định kỳ. Một cách cho vay khác là cấp thẻ tín dụng cho khách hàng để họ

mua sắm ở hệ thống cửa hàng bán lẻ. Do các khoản vay của loại công ty tài chính này

khá rủi ro nên công ty thường chỉ cho vay những khoản tiền nhỏ và với lãi suất cao hơn

lãi suất thị trường. Khách hàng của các công ty tài chính tiêu dùng vì vậy cũng thường là

những người không thể tìm được khoản tín dụng từ những nguồn khác và do vậy họ

Phan Anh TuÊn

[email protected]

54

thường phải chịu lãi suất cao hơn thông thường. Các công ty tài chính loại này có thể do

các ngân hàng thành lập nên hoặc hoạt động độc lập dưới hình thức công ty cổ phần.

+ Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company): Công ty tài chính

loại này cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới các hình thức như: Bao thanh toán

(Nghiệp vụ Factoring và Forfating) - Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua lại (chiết

khấu) các khoản phải thu của doanh nghiệp; Cho thuê tài chính (Nghiệp vụ Leasing)47 -

Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua các máy móc thiết bị mà khách hàng yêu cầu

rồi cho khách hàng thuê; v.v...

Các khoản phải thu thường là tiền bán trả chậm hàng hoá hay dịch vụ. Do cần tiền

ngay, các doanh nghiệp ký kết trước với công ty tài chính một hợp đồng trong đó công ty

tài chính sẽ mua lại với giá chiết khấu tất cả các khoản thu chưa đến hạn thanh toán của

mình phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định.

Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho

thuê tài sản giữa bên cho thuê là công ty tài chính thuê mua với khách hàng thuê. Khi kết

thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã

thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn

phương huỷ bỏ hợp đồng48. Trong nghiệp vụ cho thuê tài chính, bên cho thuê sẽ mua tài

sản theo yêu cầu của bên thuê. Bên thuê có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê

trong thời hạn thuê và không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để bảo

đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ tài chính nào49.

Do nhu cầu chuyên môn hoá, trên thực tế còn xuất hiện các công ty tài chính

chuyên hoạt động trong lĩnh vực bao thanh toán (các công ty factor) hay cho thuê tài

chính (công ty cho thuê tài chính - leasing company - cung cấp cả dịch vụ thuê mua và

thuê vận hành).

3.3. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng (Contractual Savings

Instutions)

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là những trung gian tài chính thu nhận vốn theo định

kỳ trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết với khách hàng. Do số tiền và thời gian phải thanh

toán có thể dự đoán được khá chính xác nên các trung gian tài chính này có xu hướng đầu

tư số vốn thu nhận được vào các tài sản có tính lỏng thấp, đặc biệt là các chứng khoán dài

47 Ngoài hình thức cho thuê tài chính hay cho vay thuê mua, các công ty tài chính ngày nay còn cung cấp cả

hình thức cho thuê vận hành, có thời hạn ngắn. Trong hình thức cho thuê này, công ty tài chính có trách

nhiệm duy tu, bảo dưỡng và cung cấp mọi vật liệu cần thiết để máy móc hoạt động tốt, khách hàng thuê chỉ

phải trả tiền thuê. Phổ biến nhất là cho thuê vận hành các thiết bị văn phòng như máy tính, máy

photocopy...

48 Điều 20 khoản 11 Luật Các tổ chức tín dụng.

49 Điều 63 Luật Các tổ chức tín dụng.

Chương 3. Trung gian tài chính

55

hạn như cổ phiếu, trái phiếu hoặc các khoản vay trả góp mua bất động sản.

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng bao gồm các công ty bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ,

bảo hiểm tài sản và tai nạn) và các quỹ trợ cấp hưu trí.

3.3.1. Các công ty bảo hiểm (Insurances Companies)

Công ty bảo hiểm có chức năng chủ yếu là cung cấp phương tiện để bảo vệ các hộ gia

đình hoặc các hãng kinh doanh trước những tổn thất về tài chính do những rủi ro nhất

định gây ra thông qua việc cung cấp các hợp đồng bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho

người mua một khoản tiền nhất định trong trường hợp xảy ra rủi ro.

Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm các tai nạn, mất trộm, cháy (bảo hiểm tài sản và tai

nạn), ốm đau, mất khả năng làm việc (bảo hiểm sức khoẻ và thương tật), chết (bảo hiểm

nhân thọ).

Các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm (premiums) để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục

vụ cho mục đích bồi thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước

khi bồi thường nên công ty bảo hiểm có một khoảng thời gian từ dưới 1 năm cho tới hàng

chục năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ bảo hiểm khi chưa dùng để bồi

thường sẽ được đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản hoặc thực hiện các hoạt

động đầu tư tài chính khác như góp vốn liên doanh, thành lập công ty chứng khoán, cung

cấp các khoản tín dụng trực tiếp...

3.3.2. Các quỹ trợ cấp hưu trí (Pension and retirement funds)

Các quỹ trợ cấp hưu trí được thành lập với mục đích giúp cho người lao động khi về hưu

có được những khoản thu nhập ổn định thông qua cung cấp các chương trình lương hưu

(pension plans).

Các chương trình lương hưu này quy định những khoản đóng góp định kỳ của những

người tham gia vào chương trình trong thời gian những người này còn đang làm việc để

khi về hưu họ sẽ được nhận tiền trợ cấp hưu trí (hay lương hưu) được trả một lần khi về

hưu hoặc trả định kỳ đều đặn cho đến khi chết.

Các chương trình lương hưu không chỉ được đóng góp bởi những người lao động mà cả

các chủ thuê lao động và thậm chí cả chính phủ.

Các khoản tiền quỹ trợ cấp hưu trí thu được dùng để đầu tư nhằm đạt được mức sinh lời

nhất định trong khi vẫn đảm bảo an toàn cho khoản vốn. Do số tiền mà các quỹ phải chi

trả hàng năm có thể dự đoán với độ chính xác cao nên quỹ thường đầu tư số tiền nhàn rỗi

của mình vào các công cụ đầu tư dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay mua trả

góp bất động sản... Ngoài ra, các quỹ này còn đầu tư vào các tài sản tài chính có độ rủi ro

thấp như tiền gửi ngân hàng, các loại kỳ phiếu do ngân hàng phát hành. Như vậy hoạt

động của các quỹ hưu trí không chỉ đảm bảo khoản thu nhập thường xuyên ổn định cho

Phan Anh TuÊn

[email protected]

56

những người về hưu mà còn góp phần lưu chuyển vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu

về vốn.

Các chương trình lương hưu được chia làm hai loại:

• Loại căn cứ vào mức độ đóng góp (a defined-contribution plan): là chương trình

lương hưu trong đó số tiền nhận được của những người tham gia phụ thuộc vào số

tiền đã đóng góp và khoản tiền lời từ việc đầu tư các khoản đóng góp đó.

• Loại căn cứ vào mức độ trợ cấp (a defined-benefit plan): là chương trình lương

hưu trong đó số tiền người tham gia được hưởng khi về hưu được xác định không

căn cứ vào mức độ đóng góp mà vào thời gian làm việc và mức lương của người

đó. Loại chương trình này có hạn chế là có thể xảy ra trường hợp số tiền mà người

tham gia đóng góp không đủ để trả cho số tiền mà họ sẽ nhận được sau khi về

hưu.

Ngoài ra, các chương trình lương hưu còn quy định thời gian tối thiểu phải tham gia đóng

góp hoặc số năm tối thiểu phải làm việc tại một công ty để được nhận lương hưu từ quỹ

trợ cấp hưu trí của công ty đó.

Sự phát triển của các quỹ trợ cấp hưu trí nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ

thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Ví dụ: các khoản đóng góp vào chương trình

lương hưu của cả người lao động và chủ thuê lao động đều được miễn trừ thuế thu

nhập50. Ở nhiều nước như Đức, Nhật, Mỹ, chính phủ còn cam kết tài trợ để số tiền lương

hưu tối thiểu lên tới một mức nhất định.

Các quỹ trợ cấp hưu trí hoạt động dưới hai hình thức sau:

Các chương trình trợ cấp hưu trí tư nhân (Private Pension Plans): Các chương trình

này do các công ty thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho những người lao động trong công

ty. Các chương trình này sẽ do một ban quản lý quỹ chịu trách nhiệm điều hành bao gồm

các hoạt động thu tiền đóng góp, chi trả lương hưu và thực hiện việc đầu tư bằng nguồn

vốn quỹ. Các chương trình này cũng có thể được uỷ thác cho ngân hàng hoặc công ty bảo

hiểm nhân thọ quản lý.

Hoạt động của các chương trình này luôn gặp rủi ro không đủ tiền để trả lương hưu do

khoản đóng góp không đủ để tài trợ cho việc chi trả (với trường hợp lương hưu được xác

định không căn cứ vào mức độ đóng góp) hoặc do yếu kém trong việc đầu tư gây thất

thoát tiền quỹ... Chính vì vậy Luật các nước thường quy định việc báo cáo định kỳ theo

những tiêu chuẩn nhất định về hoạt động của các quỹ, đưa ra những quy định về số năm

tối thiểu phải tham gia chương trình, những giới hạn về phạm vi được đầu tư của quỹ,

50 Ở Mỹ, những người không đi làm công cũng vẫn có thể được hưởng những ưu đãi về thuế như vậy khi

tham gia vào các chương trình lương hưu cá nhân hoặc mở các tài khoản hưu trí cá nhân (IRAs - Individual

retirement accounts)

Chương 3. Trung gian tài chính

57

cũng như giao trách nhiệm giám sát cho một cơ quan chức năng (ví dụ Bộ Lao động51).

Thậm chí ở nhiều nước còn thành lập các tổ chức trực thuộc chính phủ (ví dụ ở Mỹ là

Pension Benefit Guarantee Corporation hay còn gọi là "Penny Benny") hoạt động như

một công ty bảo hiểm cho các quỹ trợ cấp hưu trí. Các tổ chức này thu phí bảo hiểm từ

các chương trình trợ cấp hưu trí tư nhân đổi lại cam kết thanh toán mức trợ cấp hưu trí tối

thiểu cho một người lao động (ví dụ ở Mỹ là 30.000 USD mỗi năm) trong trường hợp các

quỹ trợ cấp nói trên phá sản hoặc không thể thực hiện chi trả đủ tiền vì những lý do khác.

Các chương trình trợ cấp hưu trí công cộng (Public Pension Plans): Các chương trình

này còn có tên gọi khác là Bảo hiểm xã hội (Social Security52). Hầu hết tất cả những

người lao động và chủ thuê lao động bị bắt buộc phải tham gia chương trình này53. Phần

đóng góp được xác định trên cơ sở mức lương của người lao động. Người lao động và

chủ thuê lao động sẽ chia nhau đóng góp54. Bảo hiểm xã hội không chỉ chi trả lương hưu

mà cả chi phí khám chữa bệnh và trợ cấp mất sức lao động. Cũng như các chương trình

trợ cấp hưu trí tư, các chương trình trợ cấp hưu trí công đang phải đối mặt với nguy cơ

thiếu hụt tiền để chi trả do những khoản chi trả bảo hiểm xã hội không hoàn toàn phụ

thuộc vào mức độ đóng góp trước đây của người hưởng lợi cũng như do tỷ lệ người già

tăng nhanh trong xã hội. Thực tế này đòi hỏi nhiều nước phải cải cách các chương trình

Bảo hiểm xã hội theo hướng tư nhân hoá hoặc đa dạng hoá hình thức đầu tư vào những

lĩnh vực rủi ro hơn nhưng mức sinh lời cao hơn như cổ phiếu và trái phiếu công ty.

3.4. Các trung gian đầu tư (Investment intermediaries)

Các trung gian đầu tư là các trung gian tài chính chuyên hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.

Chức năng chủ yếu của các tổ chức là hỗ trợ cho các chủ thể kinh tế huy động vốn để tài

trợ cho các dự án đầu tư của mình cũng như giúp cho các nhà đầu tư nhỏ có thể đầu tư

trực tiếp khoản tiền nhàn rỗi vào thị trường vốn. Trên thực tế, các trung gian đầu tư

không đồng thời thực hiện tất cả các chức năng này mà thường chuyên môn hoá thực

hiện từng chức năng.

3.4.1. Ngân hàng đầu tư (Investment bank)

Chức năng chủ yếu của các ngân hàng đầu tư là giúp đỡ các doanh nghiệp, chính phủ huy

động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư còn hỗ trợ cho việc

hợp nhất giữa các công ty hoặc giúp một công ty này mua lại một công ty khác (M&A -

Merger and Acquisition).

51 ở Mỹ là Department of Labor.

52 Hoặc Old Age and Survivors' Insurance Fund ở Mỹ.

53 Vì thế ở một số nước còn gọi khoản tiền phải nộp đó là thuế bảo hiểm xã hội - Social Security Taxes.

54 Ví dụ ở Việt nam tỷ lệ đóng góp vào Bảo hiểm xã hội là 20% mức lương của người lao động trong đó

người lao động đóng 5% còn chủ thuê lao động đóng 15%.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

58

Các ngân hàng đầu tư hỗ trợ cho việc phát hành chứng khoán thông qua các hoạt động:

• Trước tiên là tư vấn cho các công ty nên phát hành cổ phiếu hay trái phiếu để huy

động vốn, nếu phát hành trái phiếu thì nên phát hành với thời hạn bao lâu, lãi suất

của trái phiếu ở mức nào?

• Một khi các công ty quyết định xong về loại chứng khoán sẽ phát hành, các ngân

hàng đầu tư sẽ đứng ra bảo lãnh đợt phát hành chứng khoán (underwrite the

securities), tức là cam kết sẽ mua các chứng khoán với một mức giá xác định, rồi

sau đó đem bán ra thị trường thứ cấp.

Các ngân hàng đầu tư ra đời ở Mỹ, khi các ngân hàng thương mại của Mỹ bị cấm55 không

được tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán. Các ngân hàng đầu tư nổi tiếng của Mỹ

hiện nay là Goldman, Sachs & Co., Morgan Stanley, Merrill Lynch, Salomon Brothers...

Các ngân hàng này không chỉ nổi tiếng ở Mỹ mà còn là những ngân hàng đầu tư hàng

đầu trên thế giới. Ở Đức, các ngân hàng đa năng (universal banks) được thực hiện tất cả

các hoạt động của ngân hàng thương mại lẫn ngân hàng đầu tư. Ở Việt nam, các ngân

hàng thương mại cũng không được phép trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo lãnh phát

hành chứng khoán nhưng được phép thành lập các công ty chứng khoán (securities

company)56 hoạt động độc lập để thực hiện các hoạt động như các ngân hàng đầu tư.

3.4.2. Các công ty đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Firms)

Nếu như các ngân hàng đầu tư hỗ trợ cho các công ty lớn huy động vốn thì các công ty

đầu tư mạo hiểm (còn được gọi là các quỹ đầu tư mạo hiểm) chuyên hỗ trợ cho các doanh

nghiệp mới thành lập (startup firms). Các doanh nghiệp này không chỉ thiếu về vốn mà cả

kinh nghiệm quản lý. Vì vậy các công ty đầu tư mạo hiểm không chỉ giúp họ huy động

vốn mà còn cung cấp các dịch vụ tư vấn. Các công ty đầu tư mạo hiểm sẽ rót vốn của

mình vào doanh nghiệp và giúp đỡ ban giám đốc điều hành công ty phát triển đến một

mức độ nhất định, có thể phát hành cổ phần trực tiếp ra thị trường. Khi đó công ty đầu tư

mạo hiểm sẽ bán số cổ phần mà mình nắm giữ ra công chúng rồi chuyển sang một dự án

đầu tư mạo hiểm khác.

3.4.3. Các quỹ đầu tư tương hỗ (Mutual funds)

Các quỹ đầu tư tương hỗ là các trung gian tài chính thực hiện việc huy động vốn từ các

nhà đầu tư cá nhân thông qua phát hành các chứng chỉ góp vốn đầu tư57 để đầu tư vào

chứng khoán nhằm tận dụng những lợi thế về vốn lớn và kinh doanh chuyên nghiệp. Nhờ

vào ưu thế vốn đầu tư lớn, các quỹ đầu tư tương hỗ có thể giảm thiểu chi phí giao dịch

bằng cách mua bán chứng khoán với số lượng lớn và hạn chế rủi ro bằng cách đa dạng

55 Theo luật "Glass Steagall Act of 1933".

56 Các công ty bảo hiểm cũng được thành lập các công ty chứng khoán như các ngân hàng thương mại.

57 Có thể coi như cổ phiếu của quỹ đầu tư.

Chương 3. Trung gian tài chính

59

hoá danh mục các chứng khoán nắm giữ. Không chỉ vậy, ưu thế vượt trội của các quỹ đầu

tư so với các nhà đầu tư riêng lẻ còn thể hiện ở chỗ chúng được đặt dưới sự quản lý của

các chuyên gia về kinh doanh chứng khoán.

Bên cạnh các quỹ đầu tư tương hỗ đầu tư vào cả cổ phiếu và trái phiếu, còn xuất hiện các

quỹ chuyên đầu tư vào từng loại chứng khoán, ví dụ các quỹ chuyên đầu tư vào các cổ

phiếu thường hoặc các quỹ chuyên đầu tư vào các chứng khoán nợ. Các quỹ đầu tư vào

cổ phiếu thường còn được chuyên môn hoá hơn nữa, chẳng hạn chỉ nắm giữ các chứng

khoán nước ngoài hoặc chứng khoán của một ngành kinh tế nào đó ví dụ ngành năng

lượng hoặc công nghệ cao. Các quỹ đầu tư vào chứng khoán nợ cũng được chuyên môn

hoá vào trái phiếu công ty hoặc trái phiếu chính phủ, vào chứng khoán ngắn hạn hoặc dài

hạn.

Các quỹ đầu tư tương hỗ được tổ chức theo hai hình thức: các quỹ đầu tư mở (open-end

fund) và các quỹ đầu tư đóng (closed-end fund).

• Các quỹ đầu tư mở (open-end fund) liên tục phát hành thêm chứng chỉ đầu tư mới

khi có người muốn đầu tư vào quỹ hoặc hoàn lại vốn cho các chứng chỉ cũ theo

giá trị tài sản ròng của chúng (NAV - Net asset value). Giá trị tài sản ròng của

mỗi chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư mở bằng tổng giá trị thị trường của các

chứng khoán mà quỹ đó nắm giữ chia cho tổng số chứng chỉ đã phát hành của

quỹ.

• Các quỹ đầu tư đóng chỉ huy động vốn một lần từ các nhà đầu tư trong lần phát

hành chứng chỉ đầu tư ra công chúng lúc thành lập. Quỹ đầu tư đóng không phát

hành thêm chứng chỉ đầu tư để huy động thêm vốn và cũng không chấp nhận

hoàn vốn cho các chứng chỉ này. Các chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư đóng được

mua bán trên thị trường như các cổ phiếu thường. Khác với chứng chỉ đầu tư của

quỹ đầu tư mở, giá của các chứng chỉ của quỹ đầu tư đóng có thể cao hơn hoặc

thấp hơn giá trị tài sản ròng của chúng, tuỳ thuộc vào các yếu tố như tính lỏng của

các chứng chỉ này và trình độ quản lý quỹ.

Trên thế giới, loại hình quỹ đầu tư mở phổ biến hơn so với quỹ đầu tư đóng do cổ phần

của quỹ đầu tư mở có tính lỏng cao hơn. Quỹ đầu tư tương hỗ thường đặt dưới sự quản lý

của các công ty đầu tư chuyên nghiệp hoặc các tổ chức tài chính khác. Các công ty này

thu phí quản lý quỹ xấp xỉ 0,5% giá trị tài sản của quỹ mỗi năm.

3.4.4. Các quỹ đầu tư tương hỗ thị trường tiền tệ (Money market mutual funds)

Các quỹ đầu tư này hoạt động tương tự như các quỹ đầu tư tương hỗ trên thị trường vốn.

Điểm khác biệt là đối tượng đầu tư của các quỹ này là các công cụ tài chính có chất

Phan Anh TuÊn

[email protected]

60

lượng cao trên thị trường tiền tệ58 như: Tín phiếu kho bạc, thương phiếu và các chứng chỉ

tiền gửi của ngân hàng. Do các chứng khoán mà quỹ đầu tư nắm giữ thường có thời hạn ít

hơn 6 tháng và những biến động về giá trị thị trường của các chứng khoán này khá nhỏ

nên các quỹ đầu tư này cho phép các chứng chỉ đầu tư được hoàn vốn với giá cố định.

Lợi nhuận từ những thay đổi về giá trị thị trường của các chứng khoán được trả cho

người đầu tư dưới dạng lãi suất. Do các chứng chỉ đầu tư được hoàn vốn với mức giá cố

định nên các quỹ này cho phép các nhà đầu tư được ký phát séc với số tiền phải cao hơn

mức tối thiểu do quỹ quy định (ở Mỹ mức tối thiểu đó thường là 500 USD) để thanh toán

từ tài khoản của quỹ đầu tư mở tại một ngân hàng thương mại. Với đặc tính này, các

chứng chỉ quỹ đầu tư tương hỗ thị trường tiền tệ có chức năng như là tiền gửi thanh toán

tại ngân hàng nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao hơn.

3.4.5. Các công ty quản lý tài sản (Asset Management Firms)

Các công ty này còn được gọi là các công ty quản lý đầu tư (investment management

firms). Hoạt động chủ yếu của các công ty này là quản lý các quỹ tiền tệ tập trung như

các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí hoặc tài sản của các cá nhân, doanh nghiệp hay chính phủ59.

4. Ngân hàng thương mại

4.1. Lịch sử phát triển của ngân hàng

Hoạt động ngân hàng với các nghiệp vụ truyền thống nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng

dịch vụ thanh toán cho khách hàng ra đời khi quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá của

xã hội đã phát triển ở mức độ cao. Quá trình hoàn thiện các nghiệp vụ ngân hàng và sự ra

đời một ngân hàng hoàn chỉnh kéo dài hàng nghìn năm, bắt đầu từ hoạt động ngân hàng

sơ khai vào khoảng 3500 năm trước công nguyên cùng với sự khởi đầu của các thiết chế

tổ chức xã hội. Có thể chia quá trình phát triển của ngân hàng thành các giai đoạn chủ

yếu sau:

Thời kỳ hoạt động của các ngân hàng sơ khai

Từ 3500 tr.CN đến 1800 tr.CN là giai đoạn phát triển của các ngân hàng sơ khai. Nghiệp

vụ ban đầu của nghề kinh doanh tiền tệ là nhận giữ tiền vàng và các tài sản có giá trị khác

được thực hiện bởi các nhà kim hoàn, các lãnh chúa, nhà thờ. Người gửi tiền được nhận

lại một tờ giấy biên lai làm căn cứ để xác định quyền sỡ hữu và phải trả lệ phí gửi tiền.

Bảng cân đối của ngân hàng sơ khai

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ tiền mặt: 1.000.000

Tổng cộng: 1.000.000

Tiền gửi khách hàng: 1.000.000

Tổng cộng: 1.000.000

58 Tức là các chứng khoán nợ ngắn hạn có lợi tức ổn định và mức độ an toàn cao.

59 Khi đó chúng còn có tên gọi là các công ty tín thác (trust company).

Chương 3. Trung gian tài chính

61

Dần dần những người gửi tiền nhận thấy rằng thay vì sử dụng tiền vàng vốn khó khăn

trong bảo quản và vận chuyển, họ có thể sử dụng các loại giấy chứng nhận quyền sở hữu

vàng để thanh toán. Người nhận các chứng thư này không gặp khó khăn gì trong việc

chuyển chúng sang tiền vàng. Đây là mầm mống đầu tiên của nghiệp vụ phát hành tiền

giấy. Mặt khác những người nhận giữ tiền cũng phát hiện ra là trong cùng một khoảng

thời gian có một số người đến đổi chứng thư lấy tiền nhưng cũng có những người khác

gửi tiền vào. Sự bổ sung qua lại giữa lưu lượng gửi vào và rút ra làm xuất hiện một lượng

tiền nhàn rỗi trong kho. Điều này chứng tỏ những người nhận giữ vàng giờ đây chỉ cần

dự trữ tiền vàng với một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi, phần còn lại có thể sử

dụng để cho vay. Đến đây các ngân hàng đã bắt đầu tham gia vào quá trình cung ứng

tiền.

Bảng cân đối của ngân hàng sau khi duy trì tỷ lệ dự trữ

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ tiền: 200.000

Cho vay: 800.000

Tổng cộng: 1.000.000

Tiền gửi khách hàng: 1.000.000

Tổng cộng: 1.000.000

Giai đoạn từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XVII

Đây là giai đoạn phát triển và hoàn thiện các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại.

Các nghiệp vụ ghi chép sổ sách, hình thành các số hiệu tài khoản, chi tiết đến đối tượng

cho vay, mục đích cho vay cũng như nguồn vốn cho vay - tiền thân của kế toán ngân

hàng ra đời từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ X. Cũng trong thời gian này hoạt động thanh

toán bù trừ ở dạng sơ khai trong cùng một ngân hàng đã bắt đầu phát triển và sau đó là

hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng. Nghiệp vụ chuyển tiền và bảo lãnh hình thành

vào khoảng cuối thế kỷ thứ X và sau đó. Vào giai đoạn từ thế kỷ thứ XI - XVII nghiệp vụ

chiết khấu thương phiếu bắt đầu phát triển. Cho đến thế kỷ thứ XVII các nghiệp vụ của

một ngân hàng kinh doanh đã hoàn thiện, bao gồm:

• Nhận tiền gửi, cho vay

• Phát hành tiền giấy có khả năng đổi ra vàng

• Chiết khấu thương phiếu

• Chuyển tiền, thanh toán bù trừ và bảo lãnh

Động lực chủ yếu của quá trình phát triển nhanh chóng này là sự phát triển không ngừng

của các hoạt động thương mại trong từng quốc gia cũng như quốc tế cùng với việc tìm ra

châu Mỹ và các vùng đất mới. Một ngân hàng hoàn chỉnh các nghiệp vụ này đã hình

thành đầu tiên ở Hà lan vào năm 1609. Sau đó là ngân hàng Thuỵ điển vào năm 1656, hệ

thống ngân hàng Anh vào năm 1694, hệ thống ngân hàng Hoa kỳ vào năm 1791, ngân

hàng Pháp vào năm 1800.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

62

Giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến cuối XIX

Các ngân hàng thực sự được công nhận như một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực

tiền tệ và phát hành tiền dưới dạng các chứng thư hay kỳ phiếu thay cho vàng. Hoạt động

này thực sự bắt đầu từ thời kỳ sơ khai trước công nguyên. Khi đó các kỳ phiếu ngân hàng

chỉ được phát hành mỗi khi có khoản tiền vàng thực sự được gửi vào ngân hàng. Khả

năng chuyển đổi kỳ phiếu ra vàng rất dễ dàng làm cho nó được chấp nhận không hạn chế

trong lưu thông như một hình thức tiền tệ. Tuy nhiên đến thế kỷ thứ XVIII, các ngân

hàng bắt đầu lợi dụng ưu thế của mình để phát hành một khối lượng lớn các kỳ phiếu tách

rời khỏi dự trữ vàng để cho vay, điều này đe doạ khả năng chuyển đổi ra tiền vàng của

các kỳ phiếu được phát hành. Vì tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền nên

nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông và càng không thể

kiểm soát được tính chất đảm bảo của lượng tiền lưu thông đó. Mặt khác mỗi ngân hàng

có qui mô hoạt động, uy tín và khả năng ảnh hưởng khác nhau nên công chúng bắt đầu có

sự lựa chọn kỳ phiếu được phát hành bởi những ngân hàng khác nhau. Kết quả là, các kỳ

phiếu do các ngân hàng lớn có uy tín phát hành dẫn dần chiếm lĩnh thị trường và đẩy kỳ

phiếu của các ngân hàng nhỏ ra khỏi lưu thông. Tình trạng này kéo dài gây sự bất ổn định

trong lưu thông tiền tệ và nhà nước buộc phải can thiệp nhằm thiết lập trật tự và thống

nhất cho việc phát hành tiền, đảm bảo an toàn cho các giấy chứng nhận nợ của ngân

hàng. Kết quả của sự can thiệp là hệ thống ngân hàng bị chia thành hai nhóm:

• Nhóm thứ nhất là các ngân hàng được phép phát hành tiền giấy, được gọi là các

Ngân hàng phát hành.

• Nhóm thứ hai bao gồm những ngân hàng còn lại, không được phép phát hành tiền

mà chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế, được

gọi là Ngân hàng trung gian.

Ở Anh, quyền phát hành tập trung vào 10 ngân hàng lớn nhất vào năm 1694, sau đó chỉ

có duy nhất Ngân hàng Anh (Bank of England) được quyền phát hành tiền vào năm 1844,

các ngân hàng khác được phép phát hành nhưng trong giới hạn của đạo luật ngân hàng

Anh 1844. Vào năm 1875, tại Đức có 33 ngân hàng tư nhân được thực hiện nghiệp vụ

phát hành, sau đó quyền lực này được tập trung vào Ngân hàng Đức vào trước chiến

tranh thế giới thứ nhất.

Cho đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nước châu Âu (trừ Italia và Thuỵ sĩ), cùng với một

vài nước thuộc châu Á và châu Phi như Nhật bản, Java, Angiêri đã hình thành ngân hàng

phát hành với quyền lực và sự ưu tiên đặc biệt từ chính phủ. Tất cả các ngân hàng này,

với những mức độ khác nhau, từng bước đã thực hiện các chức năng của một Ngân hàng

trung ương: phát hành tiền, kiểm soát lưu thông tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng

Chương 3. Trung gian tài chính

63

trung gian và là ngân hàng của chính phủ. Với ý nghĩa như vậy, khái niệm "ngân hàng

trung ương" bắt đầu được nhắc đến từ cuối thế kỷ XIX.

Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến nay

Cùng với sự hoàn thiện về chức năng của các ngân hàng trung ương, các ngân hàng trung

gian cũng phát triển đa dạng về nghiệp vụ kinh doanh. Hoạt động của các ngân hàng

không chỉ giới hạn ở các nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại truyền thống. Tuy

nhiên ngân hàng thương mại vẫn là loại hình ngân hàng phổ biến và quan trọng nhất hiện

nay.

Trong các phần tiếp theo, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động của các ngân hàng

thương mại vì đây là loại hình ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong hệ thống các ngân

hàng trung gian. Hơn nữa, các ngân hàng thương mại hiện nay hầu như có thể tiến hành

tất cả các dịch vụ ngân hàng, ngược lại, các loại hình ngân hàng khác cũng mang nhiều

tính chất như là ngân hàng thương mại. Ranh giới giữa các loại hình ngân hàng là rất

mỏng manh. Do vậy những nguyên lý của ngân hàng thương mại hoàn toàn có thể áp

dụng cho những hình thức tổ chức ngân hàng khác.

4.2. Chức năng của ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại có các chức năng chủ yếu sau:

4.2.1. Chức năng trung gian tín dụng

Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là "cầu

nối" giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.

Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân

hàng thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với

chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò

là người cho vay.

Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất

cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng thời thúc đẩy sự

phát triển của nền kinh tế.

• Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình

dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm

bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện

lợi.

Người cần

vốn

Người có vốn Ngân hàng

thương mại

Gửi

Uỷ thác

đầu tư

Cho vay

Đầu tư

Phan Anh TuÊn

[email protected]

64

• Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu,

thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm

nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.

• Đối với ngân hàng thương mại, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình

từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới.

Lợi nhuận này chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.

• Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được

thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng

thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích

quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng

thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó

quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là cơ sở để thực

hiện các chức năng khác.

4.2.2. Chức năng trung gian thanh toán

Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu

cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng

hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các

khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là người "thủ

quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của họ.

Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện

chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho

khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền đề để

khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian

thanh toán. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có

nhiều hạn chế như rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với

các khách hàng ở cách xa nhau, điều này đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh

toán qua ngân hàng.

Việc các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất

to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung

cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ

nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có

thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế

không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù

ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh

Chương 3. Trung gian tài chính

65

toán. Do vậy, các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm

bảo được thanh toán an toàn. Như vậy, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy

nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng

thời, việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt

trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận,

bảo quản tiền...

Đối với ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân

hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vay

của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng

này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.

4.2.3. Chức năng "tạo tiền"

Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát hành và

các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức năng phát

hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian

thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể

hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây

chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.

Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ

thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự

trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ

số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt

mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng. Phân tích quá trình

tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại, chúng ta sẽ thấy rõ sự tác động của các yếu

tố này.

Trước hết, hãy xem xét quá trình tạo tiền đơn giản với hai giả thiết:

• Các ngân hàng thương mại cho vay ra hoàn toàn bằng chuyển khoản, không cho

vay ra bằng tiền mặt và khách hàng không có nhu cầu rút tiền mặt, tiền sử dụng

trong giao dịch chỉ là tiền tín dụng.

• Hệ thống ngân hàng thương mại cho vay hết, chỉ giữ lại dự trữ theo qui định của

NHTW, tức là không có dự trữ vượt mức60.

Giả sử một khách hàng đem tiền mặt gửi vào tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng

A là 100.000 đ. Lúc đó bảng cân đối của ngân hàng A sẽ như sau (ở đây chỉ đề cập đến

biến động của khoản tiền gửi mới tăng):

60 Dự trữ vượt mức được hiểu là phần dự trữ tiền giấy mà các ngân hàng giữ lại ngoài phần dự trữ tiền giấy

theo qui định của NHTW. Nó bằng tổng dự trữ tiền mặt của ngân hàng trừ đi dự trữ bắt buộc.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

66

Ngân hàng A

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 100.000 đ

(Dưới hình thức tồn quỹ tiền mặt)

Tiền gửi thanh toán: 100.000 đ

(Của khách hàng)

Nếu ngân hàng A giữ số tiền đó và không cho vay, chỉ để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt

của khách hàng thì chưa hề có quá trình tạo tiền. Nhưng các ngân hàng ngày nay không

nhận tiền gửi để giữ lại trong quỹ mà họ phải đem cho vay nhằm thu lợi nhuận. Tuy

nhiên, để đảm bảo một phần khả năng thanh toán cũng như do phải chịu sự quản lý của

NHTW, ngân hàng A không thể cho vay hết số tiền nhận được mà cần phải để lại một

lượng dự trữ bắt buộc theo tỷ lệ mà NHTW qui định. Để đơn giản cho việc tính toán, giả

sử rằng tỷ lệ này là 10%. Như vậy ngân hàng thương mại A có thể cho vay tối đa 90% số

vốn tiền gửi. Nếu ngân hàng A cho vay hết số tiền đó thì bảng cân đối của ngân hàng này

sẽ là:

Ngân hàng A

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 10.000 đ

Cho vay: 90.000 đ

Cộng: 100.000 đ

Tiền gửi thanh toán: 100.000 đ

Cộng: 100.000 đ

Giả sử số tiền cho vay ra (90.000 đ) sẽ được người đi vay sử dụng để thanh toán tiền mua

hàng cho bạn hàng của họ có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng B. Khi đó, số tiền này sẽ

hình thành một khoản tiền gửi mới ở ngân hàng B là 90.000 đ.

Ngân hàng B

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 9.000 đ

Cho vay: 81.000 đ

Cộng: 90.000 đ

Tiền gửi thanh toán: 90.000 đ

Cộng: 90.000 đ

Ngân hàng này cũng phải dự trữ theo qui định là 10%, phần còn lại được sử dụng để cho

vay và số tiền đó lại hình thành nên khoản tiền gửi mới ở ngân hàng C.

Theo cùng một lập luận, nếu tất cả các ngân hàng đều đem cho vay tất cả các khoản tiền

gửi nhận được sau khi đã dự trữ theo đúng qui định thì các khoản tiền gửi sẽ tiếp tục

được tạo ra (ở các ngân hàng D, E, F...) như sau:

Chương 3. Trung gian tài chính

67

Ngân hàng Sự gia tăng tiền gửi Sự gia tăng các

khoản cho vay

Sự gia tăng số tiền

dự trữ bắt buộc

ABCDEF...

+ 100.000 đ

+ 90.000 đ

+ 81.000 đ

+ 72.900 đ

+ 65.610 đ

+ 59.050 đ

...

+ 90.000 đ

+ 81.000 đ

+ 72.900 đ

+ 65.610 đ

+ 59.050 đ

+ 53.140 đ

...

+ 10.000 đ

+ 9.000 đ

+ 8.100 đ

+ 7.290 đ

+ 6.560 đ

+ 5.910 đ

...

Tổng cộng + 1.000.000 đ + 900.000 đ + 100.000 đ

Quá trình tạo tiền gửi sẽ diễn ra cho đến khi tổng số tiền dự trữ bắt buộc của hệ thống

ngân hàng thương mại bằng đúng số tiền gửi đầu tiên (100.000 đ). Và tổng số tiền gửi

được tạo ra sẽ bằng 100.000 (=ΔR×1) + 90.000 [=ΔR×(1- rd)] + 81.000 [=ΔR×(1- rd)2]

+... (với ΔR là số dự trữ tăng thêm ban đầu, rd là tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTW qui

định), hay có thể viết dưới dạng công thức tổng quát như sau:

[ ( ) ( ) ( ) ] ( ) d d

d d d r

R

r

D R r r r R 1

1 1

1 1 1 2 1 3 ... 1 = Δ ×

− −

Δ = Δ × + − + − + − + = Δ × 61

Kết quả tổng số tiền gửi được tạo ra là 1.000.000 đ như trên bảng, gấp 10 lần số tiền gửi

ban đầu. Bảng cân đối của toàn hệ thống ngân hàng thương mại có thể viết gọn lại như

sau:

Hệ thống ngân hàng thương mại

Tài sản có Tài sản nợ

Dự trữ: 100.000 đ

Cho vay: 900.000 đ

Cộng: 1000.000 đ

Tiền gửi thanh toán: 1.000.000 đ

Cộng: 1.000.000 đ

Hệ số mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân hàng thương mại theo mô hình tạo tiền đơn

giản do đó sẽ là:

d

M r

m = 1 .

Cũng cần lưu ý là quá trình tạo tiền trên chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của

cả hệ thống ngân hàng thương mại chứ bản thân một ngân hàng thương mại không thể tạo

ra được. Một ngân hàng riêng lẻ không thể cho vay nhiều hơn số tiền dự trữ vượt mức

của nó, bởi vì ngân hàng này sẽ mất đi khoản tiền dự trữ đó khi các khoản tiền gửi được

tạo ra bởi việc cho vay khoản dự trữ đó được chuyển đến ngân hàng khác do kết quả của

61 Đây là tổng của dãy số tăng theo cấp số nhân lùi vô hạn có công bội nhỏ hơn 1.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

68

hoạt động thanh toán. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện toàn thể hệ thống ngân hàng

thì số tiền dự trữ đó không rời khỏi hệ thống mà trở thành khoản dự trữ của một ngân

hàng khác để ngân hàng này tạo ra các khoản cho vay mới và nhờ vậy quá trình tạo tiền

lại tiếp tục.

Trên đây là mô hình tạo tiền đơn giản với hai điều kiện đã nêu ban đầu. Trong thực tế,

khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại còn bị giới hạn bởi tỷ lệ dự trữ

vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công chúng. Giả sử một

khách hàng nào đó vay bằng tiền mặt để chi tiêu thì quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt hoặc

khách hàng rút một phần tiền mặt để thanh toán thì khả năng tạo tiền sẽ giảm đi vì chỉ có

phần cho vay hoặc thanh toán bằng chuyển khoản mới có khả năng tạo ra tiền gửi mới.

Cũng tương tự như vậy nếu ngân hàng không cho vay hết số vốn có thể cho vay (nghĩa là

có phần dự trữ vượt mức) thì khả năng mở rộng tiền gửi sẽ giảm. Trong ví dụ trên, ngân

hàng A nếu chỉ cho vay 80.000 đ, trong đó cho vay bằng tiền mặt là 10.000 đ, cho vay

bằng chuyển khoản là 70.000 đ thì tiền gửi mới tạo ra ở ngân hàng B tối đa chỉ là 70.000

đ. Một khi tình trạng đó cũng xảy ra ở tất cả các ngân hàng thì hệ số mở rộng tiền gửi sẽ

giảm đáng kể. Hệ số mở rộng tiền gửi đầy đủ khi đó sẽ là:

d e

M c r r

m

+ +

= 1 với rd là tỷ lệ

dự trữ bắt buộc, re là tỷ lệ dự trữ vượt mức và c là tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh

toán của công chúng. Suy ra: ΔD = ΔR × mM. Như vậy, hệ số mở rộng tiền cho biết khi

dự trữ của hệ thống ngân hàng tăng thêm một lượng thì cả hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra

một lượng tiền gửi gấp bao nhiêu lần lượng tiền tăng thêm đó.

Tóm lại, sự kết hợp giữa chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh

toán là cơ sở để ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền gửi thanh toán.

Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được

để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán

dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là

một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ...

Khi ngân hàng chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi mà chưa cho vay, ngân hàng chưa

hề tạo tiền, chỉ khi thực hiện cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền. Đó là một phát

minh lớn trong hoạt động ngân hàng. Ở đây, chính việc cho vay đã tạo ra tiền gửi. Tuy

vậy, để tạo ra tiền gửi thanh toán, ngân hàng thương mại phải làm được chức năng trung

gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng thì số tiền trên tài

khoản này mới là một bộ phận của lượng tiền giao dịch.

Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán

trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về

Chương 3. Trung gian tài chính

69

tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành ra mà còn bao gồm

một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.

Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ.

Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng tạo tiền

của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.

Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho

nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất, tạo cơ sở cho

việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung

gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng

hoạt động tín dụng.

4.3. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại

4.3.1. Nghiệp vụ tài sản Nợ - Huy động vốn

Đây là nghiệp vụ huy động, tạo nguồn vốn kinh doanh cho Ngân hàng thương mại. Hoạt

động huy động vốn được phản ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương

mại. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm:

4.3.1.1. Vốn của ngân hàng

Vốn của ngân hàng là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó bao gồm vốn tự có và

vốn coi như tự có.

a. Vốn tự có62 gồm:

+ Vốn điều lệ (Charter capital): là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi

trong bản điều lệ của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi ngân hàng thương mại

được thành lập63. Vốn điều lệ có thể được điều chỉnh tăng lên trong quá trình hoạt động

của ngân hàng.

Vốn điều lệ có thể do nhà nước cấp nếu đó là ngân hàng thương mại quốc doanh,

có thể là vốn đóng góp của cổ đông nếu là ngân hàng thương mại cổ phần. Trên thế giới,

vốn của hầu hết các ngân hàng thương mại dưới dạng vốn cổ phần do các cổ đông đóng

góp. Đứng về mặt hạch toán, ngân hàng thương mại cổ phần coi số vốn cổ phần là phần

vay nợ từ các cổ đông. Do vậy, việc huy động vốn để thành lập ngân hàng cổ phần cũng

được coi là nghiệp vụ vay nợ.

Quy mô vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại lớn hay nhỏ là tuỳ vào quy mô

của ngân hàng với số lượng chi nhánh nhiều hay ít và địa bàn hoạt động là thành thị hay

62 Điều 20 khoản 13 Luật Các tổ chức tín dụng: "Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự

trữ, một số tài sản "Nợ" khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước..."

63 Gọi là vốn điều lệ là vì số vốn này được ghi rõ trong bản điều lệ hoạt động của ngân hàng.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

70

nông thôn, và không được nhỏ hơn vốn pháp định (legal capital)64 qui định cho ngân

hàng đó65.

Vốn điều lệ được sử dụng vào mục đích mua sắm tài sản, trang thiết bị ban đầu

cần thiết cho hoạt động của ngân hàng; góp vốn liên doanh; cho các thành phần kinh tế

vay và thực hiện các dịch vụ khác của ngân hàng66.

+ Quỹ dự trữ: Quỹ dự trữ của ngân hàng được hình thành từ 2 quỹ: Quỹ dự trữ để

bổ sung vốn điều lệ67 và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro (Loan loss reserves). Các

quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng68 hàng năm của ngân hàng. Việc hình thành các quỹ

này nhằm làm tăng vốn tự có của Ngân hàng, đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh

doanh.

b. Vốn coi như tự có

Vốn coi như tự có bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây là

những khoản vốn đã được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng tạm thời

chưa được sử dụng, ví dụ: lợi nhuận chờ phân bổ, tiền lương chưa đến hạn thanh toán

hoặc các quỹ chuyên dùng chưa sử dụng đến như quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân

hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định...

Vốn của ngân hàng thường chiếm tỉ trọng nhỏ (không quá 10%) trong tổng nguồn vốn

mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa đặc biệt vì nó phản ánh thực

lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết định qui mô hoạt động của ngân hàng, là cơ

sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay. Nó

được ví như một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng,

sự giảm giá trị có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng mất khả năng chi trả và phá sản.

4.3.1.2. Vốn tiền gửi

Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các ngân hàng

thương mại, bao gồm:

a. Tiền gửi không kỳ hạn (demand deposit)

64 Đây là số vốn tối thiểu theo luật định mà ngân hàng phải có để đi vào hoạt động. Số vốn pháp định phụ

thuộc vào các nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện, địa bàn hoạt động, số chi nhánh mà nó có v.v...

65 Vốn pháp định chỉ áp dụng trong một số lĩnh vực kinh doanh nhất định (ví dụ: tài chính, ngân hàng...).

Với trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam, khái niệm vốn pháp định lại được

hiểu hơi khác một chút. Khi đầu tư vào Việt nam, bên nước ngoài phải đăng ký tổng số vốn sẽ đầu tư, luật

Đầu tư Việt nam qui định vốn ban đầu (tức là vốn điều lệ) phải tối thiểu bằng 30% tổng số vốn đầu tư (vốn

pháp định). Vì bên nước ngoài thường có xu hướng chỉ đưa vào ban đầu đúng bằng mức tối thiểu này nên

đối với trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vốn điều lệ thường bằng vốn pháp định.

66 Các ngân hàng không được phép sử dụng nguồn vốn nào khác ngoài vốn điều lệ để đầu tư vào tài sản cố

định của ngân hàng và hùn vốn liên doanh. Điều 88 Luật Các tổ chức tín dụng cho phép "Tổ chức tín dụng

được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình không quá 50% vốn tự có".

67 Điều 87 Luật Các tổ chức tín dụng quy định các tổ chức tín dụng hàng năm phải trích 5% lợi nhuận sau

thuế để lập và duy trì Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ.

68 Là lợi nhuận sau khi đã trừ thuế.

Chương 3. Trung gian tài chính

71

Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào (vì vậy còn được gọi là

"tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu").

Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai (current

account). Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi tài khoản bất cứ

lúc nào.

Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi

suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi69 nhưng đổi lại người gửi tiền được sử

dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng70.

Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm

đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng.

Chính vì vậy mà loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi thanh toán.

Hầu hết các tài khoản vãng lai đều ở dạng tài khoản có khả năng phát séc (checkable

deposit)71, tức là ngân hàng cho phép người chủ tài khoản được phép phát hành séc để

thanh toán. Chúng thường tồn tại dưới các dạng sau:

• Tài khoản séc (checking account): Đây là dạng tài khoản tiền gửi có khả năng

phát séc phổ biến nhất. Ban đầu (từ những năm 70 trở về trước) luật các nước

không cho phép trả lãi cho tiền gửi loại này72, nhưng về sau thì được trả lãi nhưng

rất thấp. Có hai loại tài khoản séc: tài khoản séc của các doanh nghiệp và tài

khoản séc cá nhân.

• Tài khoản NOW (Negotiable order of Withdrawal account - Lệnh rút tiền có thể

chuyển nhượng): Ra đời ở Mỹ năm 1972. Về bản chất đây là một dạng tài khoản

tiền gửi cho phép phát hành séc nhưng vẫn được hưởng lãi. Nó ra đời trong thời

kỳ Luật các nước không cho phép trả lãi cho tài khoản séc.

• Tài khoản NOW cao cấp (Super - NOW account).

• Tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ (MMDAs - Money market deposit account):

Dạng tài khoản này ra đời ở Mỹ năm 1982 nhằm giúp cho các ngân hàng cạnh

69 Các ngân hàng thậm chí còn yêu cầu duy trì một số dư tối thiểu trên tài khoản. Trong trường hợp trong

thời gian dài trên tài khoản không có tiền hoặc có số dư thấp hơn mức tối thiểu qui định thì người chủ tài

khoản còn phải trả phí duy trì tài khoản cho ngân hàng.

70 Phải trả phí dịch vụ thanh toán hay không phải trả phí là tuỳ vào qui định của ngân hàng đối với từng loại

hình dịch vụ thanh toán.

71 Vẫn có những tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mà người gửi không được phép phát séc, tuy nhiên chúng

không phổ biến bằng các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn có tính năng phát séc. Ví dụ ở chi nhánh ngân

hàng Tokyo-Mitsubishi Bank tại Hà nội có một dạng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn gọi là Ordinary

deposit, chỉ cho phép chuyển tiền đến hoặc đi từ tài khoản này bằng các lệnh chuyển khoản mà không cho

phép phát hành séc để thanh toán.

72 Lý do cấm việc trả lãi làm nhằm hạn chế việc ngân hàng thương mại dùng tiền gửi dạng này đầu tư hoặc

cho vay vào những thương vụ có thời hạn cố định, dễ gây rủi ro về thanh khoản cho hệ thống ngân hàng vì

đặc tính của loại tiền gửi này là không kỳ hạn. Mặt khác, điều này giúp tránh được sự cạnh tranh để thu hút

tiền gửi giữa các ngân hàng sẽ dẫn đến việc nâng cao lãi suất.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

72

tranh với các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ73. Tiền gửi loại này được dùng để

đầu tư vào thị trường tiền tệ và cho phép những người chủ tài khoản được phép ký

phát séc74.

• Tài khoản ATS (ATS account - Automatic transfer system account): Ra đời ở Mỹ

tháng 11/1978, nó cho phép chủ tài khoản phát hành séc đồng thời có khả năng tự

động chuyển tiền đến tài khoản này từ một tài khoản đang hưởng lãi như tài

khoản tiền gửi tiết kiệm.

Ở Việt nam, tài khoản séc thường được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán, bao gồm tài

khoản thanh toán dùng cho các doanh nghiệp và tài khoản thanh toán cho cá nhân75.

Tiền gửi không kỳ hạn là một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng. Nó chiếm tới 17%

tổng số tài sản Nợ của các ngân hàng (thống kê của Mỹ), trước đây tỷ lệ này ở Mỹ đã

từng lên tới 60% - năm 196076. Tuy nhiên do người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào

nên nguồn vốn này thường xuyên biến động, vì vậy ngân hàng chủ yếu dùng nó để cho

vay ngắn hạn.

b. Tiền gửi có kỳ hạn (Time deposit)

Là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng

đến vài năm.

Mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn tiền gửi không kỳ hạn nhưng những

người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng (ví dụ như

không được ký phát séc). Mục đích chủ yếu của những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy

lãi.

Về nguyên tắc, tiền gửi có kỳ hạn không được rút ra trước thời hạn, song để cạnh tranh

lôi kéo khách hàng, các ngân hàng vẫn cho phép được rút. Tuy nhiên người gửi tiền rút

trước hạn sẽ phải chịu một khoản phạt, chẳng hạn chỉ được hưởng lãi suất bằng lãi suất

của tiền gửi không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi, tuỳ theo qui định của từng ngân

73 Do có điều luật cho phép các cổ đông của các quỹ này được phép ký phát séc dựa trên thu nhập của mình

từ quỹ.

74 Tiền gửi tài khoản này không phải dự trữ bắt buộc. Nó hơn các quỹ tương hỗ tại thị trường tiền tệ ở chỗ

là được bảo hiểm bởi các chính quyền bang.

75 Các ngân hàng như ANZ bank, Vietcombank, VID Public bank, Indovina bank... có cung cấp dịch vụ mở

tài khoản cá nhân bằng ngoại tệ hoặc nội tệ. Ở Vietcombank thường tối thiểu 500.000 VND hoặc 50 USD,

còn VID Public bank thì 1.000.000 VND hoặc 100 USD. Các ngân hàng như Citi bank, Fuji bank... chỉ mở

tài khoản cho các công ty.

76 Mặc dù trong những năm này tài khoản séc không được hưởng lãi nhưng do sự tiện lợi của phương thức

thanh toán séc nên tỷ trọng của tiền gửi không kỳ hạn vẫn lớn nhất trong tài sản Nợ của các ngân hàng

thương mại. Tuy nhiên từ năm 1980 trở đi, mặc dù điều khoản cấm trả lãi cho tài khoản séc đã bị bãi bỏ, tỷ

trọng tiền gửi không kỳ hạn trong tài sản Nợ vẫn giảm mạnh. Lý do là vì lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và tiết

kiệm tăng quá cao so với tiền gửi không kỳ hạn khiến cho sự tiện lợi của tài khoản séc không còn đủ hấp

dẫn nữa. Thêm vào đó, việc xuất hiện các dạng tài khoản có thể phát séc mà vẫn hưởng lãi như ATS,

NOW... cũng khiến tài khoản séc giảm mạnh.

Chương 3. Trung gian tài chính

73

hàng trong từng thời kỳ.

Ở các nước phát triển, tiền gửi có kỳ hạn thường dưới dạng các chứng chỉ tiền gửi

(Certificate of deposit - CD), còn ở Việt nam tiền gửi có kỳ hạn thường dưới hai dạng:

• Tiền gửi có kỳ hạn theo tài khoản.

• Tiền gửi có kỳ hạn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Trong hình thức

này, ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm các

mục đích đã định, ví dụ để đầu tư cho một dự án... Kỳ phiếu được phát hành theo

hai phương thức:

o Phát hành theo mệnh giá: trong hình thức này người mua trả tiền mua kỳ

phiếu theo mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu. Khi đến hạn ngân hàng sẽ

hoàn trả vốn gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu.

o Phát hành dưới hình thức chiết khấu: trong hình thức này người mua sẽ trả

số tiền mua kỳ phiếu bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng.

Khi đến hạn, ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng theo mệnh giá của kỳ

phiếu. Như vậy, trong trường hợp này, khách hàng đã được trả lãi trước.

c. Tiền gửi tiết kiệm (Savings deposit)

Là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi

theo định kỳ.

Các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn. Các kỳ hạn

thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên 1 năm (18, 24 tháng v.v..).

Hình thức phổ biến và cổ điển nhất của tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ.

Khi gửi tiền, ngân hàng cấp cho người gửi một cuốn sổ dùng để ghi nhận các khoản tiền

gửi vào và tiền rút ra. Quyển sổ này đồng thời có giá trị như một chứng thư xác nhận về

khoản tiền đã gửi. Ngoài ra, còn có những hình thức khác như chứng chỉ tiết kiệm

(Savings certificates), trái phiếu tiết kiệm (Savings bonds).

Ở Việt nam, tiền gửi tiết kiệm bao gồm ba loại sau:

• Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn77: Đây là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền

có thể gửi vào và rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho ngân

hàng78. Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi này nhưng rất thấp79.

• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố định

77 Ở Anh các ngân hàng cung cấp dạng tiền gửi vào 'instant savings account' cũng có tính chất tương tự.

Lãi suất được hưởng cao hơn tiền gửi trong 'checking account'.

78 Loại tiền gửi này gần giống với tiền gửi không kỳ hạn, chỉ khác là nó luôn được hưởng lãi, nhưng đổi lại

không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Người gửi tiền dạng này là nhằm đảm bảo an

toàn cho khoản tiền và dự phòng cho các nhu cầu chi tiêu trong thời gian ngắn đồng thời lại muốn hưởng

một chút lãi dù thấp.

79 Lãi suất được công bố theo tháng, nhưng được tính lãi theo ngày.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

74

trước. Loại tiền gửi này cũng tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các điểm: không

được phép rút trước hạn80, được hưởng lãi cao hơn các dạng tiền gửi không kỳ

hạn và không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền

gửi này, người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi

khi đến hạn. Không cho phép bổ sung thêm vào số tiền đã gửi khi chưa hết hạn.

Mỗi lần gửi được coi là một khoản tiền gửi riêng biệt. Mức tối thiểu của mỗi lần

gửi tiền do từng ngân hàng qui định81.

• Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục

đích xây dựng nhà ở. Những người gửi tiền ngoài hưởng lãi còn được ngân hàng

cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng nhà ở. Mức cho vay tối

đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm.

Lý do phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào hai dạng tiền gửi trên (tiền

gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn) mặc dù tính chất của chúng rất giống nhau là vì

đây là tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, là tài sản tích luỹ của quốc gia, được xem là

nguồn vốn nội lực của đất nước, cho nên cần có chính sách ưu tiên bảo vệ82.

Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân

hàng, chiếm hơn 50% số tài sản nợ của ngân hàng (thống kê của Mỹ). Đây là nguồn vốn

tương đối ổn định vì ngân hàng nắm được những kỳ luân chuyển của vốn, và vì vậy ngân

hàng có thể dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn đều được.

Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn của ngân

hàng thương mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất

của ngân hàng là đi vay để cho vay. Chính vì vậy người ta gọi ngân hàng thương mại là

ngân hàng tiền gửi.

4.3.1.3. Vốn đi vay

Trong quá trình hoạt động, ngân hàng còn có thể vay vốn từ Ngân hàng Trung ương83 hay

80 Nếu rút trước sẽ phải chịu phạt như chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc thậm chí không được

hưởng lãi.

81 Ví dụ: Ngân hàng Công thương qui định mức tối thiểu của các khoản tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 3, 6, 12

tháng là 100.000 đ hoặc 10 USD. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì mỗi lần gửi tối thiểu 1000đ.

82 Ví dụ: Các NHTW thường buộc các ngân hàng thương mại khi huy động dạng tiền gửi này thì phải mua

bảo hiểm cho chúng; Hoặc các công ty tài chính không được huy động dạng tiền gửi này; Hay luật Việt

nam không cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép huy động dạng tiền gửi này.

83 Điều 48 Luật Các tổ chức tín dụng: "Tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của Ngân

hàng Nhà nước..."; điều 57 khoản 4: "Tổ chức tín dụng là ngân hàng có thể được Ngân hàng Nhà nước tái

chiết khấu và cho vay trên cơ sở cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết

khấu".

Chương 3. Trung gian tài chính

75

các tổ chức tín dụng khác84, hoặc từ thị trường tài chính trong và ngoài nước.

a. Vay từ NHTW

Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cho phép thành lập

hoạt động đều hưởng quyền vay tiền tại NHTW trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay

quá thiếu tiền mặt.

Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình

thức, đó là:

• Chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá

• Cho vay thế chấp hay ứng trước

Do vậy loại vay này được gọi là tiền chiết khấu hay tiền ứng trước.

Ở Việt nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt nam áp dụng ba hình thức cấp tín dụng,

đó là:

• Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác85.

• Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn

khác.

• Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ cung cấp tín dụng hỗ trợ

theo yêu cầu của nền kinh tế như: thu mua lương thực, nông sản; dự trữ vật tư,

nguyên liệu; sản xuất hàng hoá xuất khẩu thuộc diện ưu tiên....

b. Vay ngắn hạn các khoản dự trữ của các tổ chức tín dụng khác

Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo qui định của

NHTW.

Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá

nhiều dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ bắt buộc tại NHTW. Trong khi đó lại có một vài ngân

hàng thương mại khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo qui định của NHTW, ngân

hàng thương mại thiếu hụt dự trữ sẽ vay của ngân hàng thương mại có dự trữ dư thừa.

Thời hạn của loại cho vay này rất ngắn, thường không quá một tuần.

c. Vay từ các công ty

Ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại còn có thể vay trực tiếp từ các công ty:

• Vay ngắn hạn bằng các Hợp đồng mua lại: Hợp đồng mua lại (Repurchase

agreement) là hợp đồng trong đó ngân hàng bán các tín phiếu kho bạc mà mình

đang nắm giữ cho các tổ chức kinh tế đang tạm thời thừa tiền mặt, có kèm theo

điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài ngày hay một vài tuần với mức giá

cao hơn. Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thường không quá

84 Điều 57 khoản 3 Luật Các tổ chức tín dụng: "Các tổ chức tín dụng được tái chiết khấu, cầm cố thương

phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho nhau"; điều 47: "Các tổ chức tín dụng được vay vốn của

nhau và của tổ chức tín dụng nước ngoài".

85 Ví dụ tín phiếu kho bạc.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

76

hai tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp.

Hợp đồng mua lại là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho

ngân hàng thương mại. Lượng tiền mặt thu được từ hợp đồng mua lại được xem

như một khoản vay nợ ngắn hạn. Ở các nước phát triển hiện nay, thời gian bán tối

đa của hợp đồng này thường không quá hai tuần.

• Vay từ công ty mẹ: Ở các nước phát triển, một công ty hoặc tập đoàn kinh doanh

có thể là chủ của một hoặc nhiều ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng thương

mại phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền từ thị trường, nó sẽ chịu sự quản

lý và ràng buộc của NHTW về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Trong khi đó, nếu công

ty mẹ thực hiện điều này, nó không phải bị ràng buộc về dự trữ, lãi suất, số lượng

do NHTW qui định, vì bản thân nó không phải là một ngân hàng. Do vậy, các

công ty mẹ của ngân hàng thường thay thế nó phát hành trái phiếu, cổ phiếu công

ty hay các loại thương phiếu để huy động vốn, sau đó chuyển vốn huy động được

về cho ngân hàng hoạt động dưới hình thức cho vay lại.

d. Vay từ thị trường tài chính trong nước

Các ngân hàng thương mại có thể vay từ thị trường tài chính thông qua phát hành các

chứng từ có giá như:

• Chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng (Negotiable certificate of

deposit): Đây thực chất là các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn86, có thể mua đi

bán lại trên thị trường khi chưa đáo hạn. Thời gian đáo hạn của loại chứng chỉ này

thường không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành.

• Trái phiếu ngân hàng: Đây là một công cụ vay nợ dài hạn của ngân hàng từ thị

trường chứng khoán. Thời hạn vay thường từ 2 năm trở lên. Loại này có thể mua

đi bán lại trên thị trường chứng khoán khi chưa đáo hạn.

e. Vay nước ngoài

Các ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành

phiếu nợ để vay tiền ở nước ngoài. Do loại tiền sử dụng trong thanh toán quốc tế hiện nay

là USD cho nên vay tiền ở nước ngoài thường vay bằng USD.

Các ngân hàng thương mại ở Mỹ là những ngân hàng đi đầu trong việc vay tiền ngoài

nước để hoạt động (từ những năm 1940). Đó là những khoản vay mượn đô la châu Âu

(Euro Dollars), tức là những khoản tiền gửi bằng USD thuộc các ngân hàng nước ngoài

hoặc những chi nhánh ở nước ngoài của các ngân hàng Mỹ. Do khi đó, thị trường vay chủ

yếu của các ngân hàng Mỹ là châu Âu nên đã phát sinh thuật ngữ đô la châu Âu (Euro

Dollars) để chỉ các khoản vay USD từ châu Âu của các ngân hàng thương mại Mỹ. Đến

những năm 1960, các ngân hàng thương mại ở các nước Nhật bản, Pháp, Đức, Anh cũng

86 Mệnh giá tối thiểu của loại chứng chỉ này ở Mỹ là 100.000 USD.

Chương 3. Trung gian tài chính

77

phát hành phiếu nợ để vay USD từ nước ngoài không chỉ ở châu Âu mà còn lan sang các

thị trường giàu có USD khác như các nước xuất khẩu dầu lửa Trung Đông, Nam Mỹ,

Đông Á... Tuy nhiên thuật ngữ đô la châu Âu vẫn tiếp tục được sử dụng khá phổ biến ở

phần lớn các ngân hàng trên thế giới để chỉ khoản tài sản nợ này.

Loại trái phiếu đô la châu Âu chỉ dùng để vay USD và khi đến hạn cũng trả vốn và lãi

bằng USD. Thời gian đến hạn của loại trái phiếu này thường rất ngắn, dưới 3 tháng.

Trong những thị trường tài chính lớn như New York, London, Paris, Frankfrut, Tokyo...

loại trái phiếu này được xem không khác gì USD.

Ở nhiều nước (Hàn quốc, Việt nam, Thái lan...) việc phát hành loại trái phiếu Euro

Dollars chỉ được giới hạn vào một số ngân hàng đặc biệt như Ngân hàng ngoại thương,

Ngân hàng xuất nhập khẩu.

Vốn vay đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn của ngân hàng trong thời gian qua.

Ở Mỹ, năm 1960 chúng chỉ chiếm 2% tài sản nợ của ngân hàng, trong những năm 90

chúng đã vượt 20%.

4.3.1.4. Các nguồn vốn khác

• Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư để cho vay theo các chương

trình, dự án xây dựng v.v...

• Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, ví dụ như trong nghiệp

vụ qua lại đồng nghiệp (tiền gửi của các ngân hàng khác để nhờ thanh toán hộ),

trong nghiệp vụ trung gian của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng để đảm bảo

thanh toán trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ - L/C).

4.3.2. Nghiệp vụ tài sản Có - Sử dụng vốn

Nghiệp vụ tài sản có87 của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến

việc sử dụng các khoản vốn huy động được từ Nghiệp vụ tài sản nợ.

4.3.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ

Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng

tiền mặt dưới các dạng sau:

+ Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng (vault cash): tuỳ theo qui mô hoạt động, tính

thời vụ88, các ngân hàng phải duy trì mức tồn quỹ tiền mặt để thực hiện chi trả trong

ngày.

87 Phần lớn các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng thương mại đều là vốn vay từ bên ngoài, nghĩa là

ngân hàng phải trả lãi cho nó. Do vậy, để không bị thiệt hại, ngân hàng phải luôn tiến hành cho vay hay đầu

tư ngay số tài sản ấy vào các hoạt động sinh lãi. Tiền lãi thu được, ngân hàng dùng nó để trả lãi cho vốn đã

vay, trang trải các chi phí trong hoạt động ngân hàng. Phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Khi ngân

hàng đầu tư vào một thương vụ hoặc cho vay sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng, các khoản đầu tư hoặc cho

vay trở thành tài sản có của ngân hàng.

88 Ví dụ các dịp lễ tết khách hàng sẽ có nhu cầu rút tiền mặt nhiều.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

78

+ Tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các nghiệp vụ thanh

toán, chuyển tiền cho khách hàng.

+ Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui

định của NHTW và tiền gửi thanh toán để phục vụ các hoạt động thanh toán giữa các

ngân hàng thông qua vai trò trung gian thanh toán của NHTW.

+ Tiền mặt trong quá trình thu: là khoản phát sinh do quan hệ thanh toán vãng lai

giữa các ngân hàng, khi ngân hàng đã ghi vào bên nợ nhưng thực chất lại chưa nhận được

tiền. Ví dụ một tờ séc được phát ra từ một tài khoản ở ngân hàng A, được gửi vào ngân

hàng B và số tiền ở séc này còn chưa đến ngân hàng B. Tờ séc này được coi như là tiền

mặt trong quá trình thu, nó là một tài sản Có đối với ngân hàng B vì ngân hàng B có

quyền đòi ở ngân hàng A số tiền đó và số tiền này sẽ được thanh toán sau một ít ngày

(ngân hàng B đã ghi có cho tài khoản tiền gửi của khách hàng, ghi nợ ngân hàng nhưng

số tiền đó chưa đến ngân hàng nên phải ghi nợ vào tài khoản để đối ứng).

Ngoài tiền mặt, ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có tính lỏng cao để có thể

chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần như tín phiếu, thương phiếu v.v...

Lượng tiền mặt trong nghiệp vụ ngân quĩ này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ và tỷ trọng này

đang bị giảm dần (ở Mỹ năm 1960 nó chiếm 20% tổng tài sản có, năm 1990 tỷ lệ này chỉ

còn 7%).

4.3.2.2. Nghiệp vụ cho vay

Hoạt động cho vay89 được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng trung

gian nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Hoạt động cho vay rất đa dạng và

phong phú. Có thể nêu một số loại hình chủ yếu sau:

+ Cho vay ứng trước: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho

người đi vay một khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi

vào lúc hoàn trả vốn gốc. Cho vay ứng trước có hai loại:

• Cho vay ứng trước có bảo đảm90:

o Bảo đảm bằng các động sản như hàng hoá, tài sản hay chứng

từ - Cho vay cầm cố: là cho vay trên cơ sở cầm cố tại ngân

hàng các tài sản, có thể là hiện vật như vật tư hàng hoá, hoặc là

giấy tờ như các giấy sở hữu hàng hoá (B/L, giấy lưu kho, lưu

89 Điều 79 Luật Các tổ chức tín dụng quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng như sau:

"Khoản 1, phần a: Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ

chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của

các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác". Cũng theo điều này, các

ngân hàng được phép cho vay hợp vốn.

90 Điều 52 Khoản 2 Luật Các tổ chức tín dụng: "Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng tài

sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba; không được cho vay trên cơ sở cầm cố

bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng cho vay".

Chương 3. Trung gian tài chính

79

bãi container), các chứng từ thanh toán (bộ chứng từ đòi tiền

người nhập khẩu gồm B/E, chứng từ gửi hàng), chứng từ có giá

(thương phiếu, chứng khoán,..), thậm chí cả vàng, bạc, đá quí,

ngoại tệ... Số tiền cho vay bằng một tỷ lệ phần trăm của giá trị

tài sản cầm cố, tỷ lệ này cao hay thấp là tuỳ vào quan hệ của

ngân hàng và khách hàng, vào uy tín của khách hàng. Ngân

hàng sẽ quản lý tài sản cầm cố trong suốt thời hạn vay và chỉ

hoàn lại khi thu đủ nợ (gốc và lãi). Trong trường hợp người đi

vay không có khả năng trả nợ khi đến hạn, ngân hàng có quyền

bán tài sản cầm cố để thu nợ.

o Bảo đảm bằng bất động sản như đất đai, nhà cửa - Cho vay thế

chấp: là cho vay trên cơ sở nắm giữ các giấy tờ chứng thực

quyền sở hữu hợp pháp về bất động sản đem thế chấp. Cho vay

thế chấp khác với cho vay cầm cố ở chỗ trong thời hạn vay

người đi vay vẫn được phép sử dụng tài sản thế chấp, ngân

hàng chỉ nắm giữ hồ sơ gốc.

o Bảo đảm bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba - Cho vay có bảo

lãnh: Bên bảo lãnh sẽ lập hồ sơ bảo lãnh tại ngân hàng và cam

kết hoàn trả nợ nếu bên đi vay không có khả năng thanh toán.

Ngân hàng cũng có thể đề nghị bên bảo lãnh phải có tài sản

cầm cố hoặc thế chấp tại ngân hàng.

• Cho vay ứng trước không có bảo đảm: là cho vay chỉ dựa vào uy tín

của khách hàng đối với Ngân hàng mà không cần có tài sản cầm cố,

thế chấp hoặc sự bảo lãnh. Do vậy còn gọi là cho vay tín chấp. Trong

trường hợp này, ngân hàng quyết định cho vay thông qua việc đánh giá

các chỉ tiêu như mức vốn tự có, lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp,

triển vọng của doanh nghiệp cũng như năng lực, phẩm chất của những

người quản lý công ty... Trên thực tế đó là các khách hàng uy tín, có

quan hệ thường xuyên với ngân hàng hoặc những doanh nghiệp lớn.

+ Cho vay thấu chi: là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó Ngân

hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn

mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng.

Khác với cho vay ứng trước, mức tín dụng thoả thuận trong cho vay thấu chi chưa

phải là khoản tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (thấu chi) thì

mới được coi là tín dụng được cấp phát và bắt đầu tính tiền lãi.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

80

Hình thức cho vay này thường chỉ được áp dụng cho những khách hàng có khả

năng tài chính mạnh và có uy tín.

+ Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại

các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu.

Khi đến hạn trả tiền thì Ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở người

trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là khoản chênh lệch giữa giá mua và

số tiền ghi trên thương phiếu.

Ví dụ: Một tờ lệnh phiếu có mệnh giá là 10.000 USD

Thời hạn của lệnh phiếu là 3 tháng

Lãi suất chiết khấu là 4%/năm

Vậy Ngân hàng phải bỏ ra một số tiền để mua tờ lệnh phiếu đó là:

USD 9.900USD

100 12

10.000 10.000 4 3 =

×

× ×

Lãi suất chiết khấu được tính toán căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường (interest

rate), chi phí thu tiền thương phiếu (collection fee), mức độ trượt giá (lạm phát dự tính -

expected inflation), rủi ro không đòi được tiền thương phiếu (Commercial risk - rủi ro

thương mại).

Cần lưu ý là tiền lãi trong cho vay chiết khấu không được tính trên số vốn mà

người đi vay được sử dụng như cho vay ứng trước mà trên thực tế lại được tính trên tổng

lãi và vốn gốc. Trong ví dụ trên, số vốn người đi vay được sử dụng là 9.900 USD nhưng

tiền lãi lại được tính trên tổng lãi và vốn vay, tức là 10.000 USD.

+ Tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán (Factoring): là nghiệp vụ trong đó

công ty "factor" - công ty con của ngân hàng - cam kết mua lại các khoản thanh toán

chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá và dịch vụ với

giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày)91.

+ Cho vay thuê mua (Leasing): còn được gọi là tín dụng thuê mua, là hình thức tín

dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị,

các động sản và bất động sản khác. Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình để mua tài sản theo

yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử

dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả

thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được

chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tuỳ theo các điều kiện đã thoả

91 Bao thanh toán được không xếp chung với cho vay chiết khấu mặc dù cùng là nghiệp vụ mua lại các

khoản nợ vì: i/ đối với chiết khấu thương phiếu có sự khống chế về hạn mức còn với bao thanh toán thì

không; ii/ ngân hàng sẽ qui định danh mục các giấy tờ có giá được chiết khấu nhưng với bao thanh toán thì

không.

Chương 3. Trung gian tài chính

81

thuận trong hợp đồng. Đây chính là một nghiệp vụ cho vay, bởi vì thay cho việc cho vay

bằng tiền để khách hàng mua tài sản, ngân hàng đã đứng ra mua và cho thuê lại. Số tiền

thuê phải bù đắp được chi phí khấu hao, chi phí tài chính (ứng với lãi của số vốn ngân

hàng bỏ ra mua tài sản), chi phí quản lý, lãi của người cho thuê (ngân hàng).

Trong thực tế, các ngân hàng thường thành lập một công ty con chuyên trách

nghiệp vụ này gọi là công ty tài chính thuê mua.

+ Cho vay bằng chữ ký: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng không trực tiếp

cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín (chữ ký) của mình, ngân hàng tạo điều

kiện để khách hàng sử dụng vốn vay của người khác và đảm bảo thanh toán hộ khách

hàng. Chính vì vậy, mặc dù là một hình thức tín dụng nhưng trong hạch toán, nó không

làm thay đổi bảng quyết toán tài sản của ngân hàng mà được hạch toán ngoại bảng. Có

hai hình thức:

• Nghiệp vụ chấp nhận: Hiện nay, trong thương mại quốc tế, thương

phiếu được sử dụng rất phổ biến. Song trong một số trường hợp độ tin

cậy và khả năng thanh toán của người mua chịu chưa được đảm bảo, vì

vậy các thương phiếu cần có sự chấp nhận trả tiền hoặc bảo đảm trả

tiền của các ngân hàng lớn, có uy tín thì nó mới được lưu thông một

cách dễ dàng. Nghiệp vụ chấp nhận chia ra làm hai loại: chấp nhận trả

tiền và đảm bảo trả tiền:

o Chấp nhận trả tiền là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại cho

phép người bán có quyền ký phát hối phiếu đòi tiền ngân hàng

chấp nhận. Thông thường, muốn được hưởng loại chấp nhận

này, người mua phải đem tiền mặt nộp vào ngân hàng trước

ngày hối phiếu đến hạn thanh toán. Nghiệp vụ này được áp

dụng phổ biến trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.

o Bảo đảm trả tiền là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại chỉ

đảm bảo khả năng thanh toán của người vay nợ, còn người có

nghĩa vụ trả tiền ghi trong hối phiếu phải trực tiếp trả tiền cho

người hưởng lợi hối phiếu. Chỉ trừ khi người vay nợ không có

khả năng thanh toán thực sự thì ngân hàng chấp nhận mới đứng

ra thanh toán cho người hưởng lợi mà thôi.

Trong thời đại ngày nay, nghiệp vụ chấp nhận của Ngân hàng

thương mại đã tạo điều kiện cho thương phiếu lưu thông thuận lợi

và sức chi trả của thương phiếu cũng được đảm bảo hơn. Nghiệp

vụ chấp nhận thương phiếu trong mậu dịch quốc tế rất phát triển. Ở

những nước có nền ngoại thương phát triển mạnh như Anh, Mỹ đã

Phan Anh TuÊn

[email protected]

82

xuất hiện những loại Ngân hàng chuyên kinh doanh nghiệp vụ này

và được gọi là "Acceptance house" hay "Acceptance banker".

• Nghiệp vụ bảo lãnh92: Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng đứng ra cam

kết bằng văn bản (gọi là thư bảo lãnh) rằng sẽ thực hiện một nghĩa vụ

thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện được

nghĩa vụ đó. Có nhiều hình thức bảo lãnh như bảo lãnh để tham gia dự

thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước,

bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, bảo

lãnh hoàn trả vốn vay...

+ Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng tài trợ cho nhu cầu

tiêu dùng của cá nhân. Tín dụng tiêu dùng thường dưới hình thức cho vay để mua trả góp

(tín dụng trả góp) hoặc cho vay qua việc phát hành thẻ tín dụng.

Nghiệp vụ cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương

mại93. Nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản Có của ngân hàng

(khoảng 70%).

4.3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại dùng vốn của mình mua các chứng khoán (các

chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty lớn - luật của Mỹ không cho phép

ngân hàng được phép nắm giữ cổ phiếu) hoặc đầu tư theo dự án.

Ở Việt nam, Luật các Tổ chức tín dụng còn cho phép các ngân hàng được dùng vốn điều

lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hay của các tổ chức tín dụng

khác.

4.3.2.4. Những tài sản có khác

Đó là những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc, trang thiết bị dùng cho hoạt

động do ngân hàng sở hữu.

4.3.3. Nghiệp vụ trung gian

Nghiệp vụ trung gian là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng thực

hiện việc thanh toán hay các uỷ thác khác để thu lệ phí. Nghiệp vụ trung gian chủ yếu

gồm:

4.3.3.1. Nghiệp vụ chuyển tiền - Thanh toán hộ

92 Điều 58 Luật Các tổ chức tín dụng: "Khoản 2: Tổ chức tín dụng được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán,

bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức,

cá nhân. Khoản 3: Chỉ các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế mới được thực hiện bảo lãnh

vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác mà người nhận bảo lãnh là tổ chức, cá

nhân nước ngoài".

93 Nghiệp vụ cho vay của các ngân hàng thương mại Mỹ năm 1990 đã tạo ra 60% thu nhập của ngân hàng.

Chương 3. Trung gian tài chính

83

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng nhận sự uỷ thác của khách hàng, dùng phương tiện mà

khách hàng yêu cầu để chuyển một số tiền nhất định cho một người khác ở một địa điểm

quy định trong hay ngoài nước. Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ này được thực hiện thông qua

các phương tiện lưu thông tín dụng như séc, thư chuyển tiền (M/T - mail transfer), điện

chuyển tiền (T/T - telegraph transfer) v.v...

4.3.3.2. Nghiệp vụ thu hộ

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại nhận sự uỷ thác của khách hàng để thu hộ các

khoản tiền căn cứ vào các chứng từ của khách hàng giao như séc, thương phiếu, các

chứng khoán.

Khi tiến hành nghiệp vụ này, ngoài việc thu thủ tục phí của khách hàng, ngân hàng còn

có thể tranh thủ sử dụng số tiền của khách hàng.

4.3.3.3. Nghiệp vụ tín thác

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại nhận sự uỷ thác của khách hàng, đứng ra mua

bán hộ khách hàng các loại chứng khoán, kim loại quý, ngoại hối hoặc quản lý tài sản,

vốn đầu tư của tổ chức hay cá nhân theo hợp đồng (ví dụ tài sản đang tranh chấp, tài sản

thanh lý trong quá trình phá sản, tài sản của cô nhi, quả phụ v.v...).

4.3.3.4. Nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp

Là nghiệp vụ mà các ngân hàng thương mại thu chi hộ lẫn nhau trên cơ sở ngân hàng này

mở một tài khoản vãng lai tại ngân hàng kia và việc thanh toán giữa hai ngân hàng được

tiến hành theo định kỳ sau khi đã bù trừ những khoản tiền mà hai bên đã thu chi hộ cho

nhau trong thời gian của định kỳ đó.

Trong nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp, các ngân hàng không thu thủ tục phí. Khi tiến hành

thu chi hộ, nếu trên tài khoản vãng lai không còn tiền thì ngân hàng này sẽ cung cấp tín

dụng cho ngân hàng kia theo phương thức tín dụng cho vay vượt chi.

Phan Anh TuÊn

[email protected]

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #dap#ghim