Tiềm thủy đỉnh tự sát P2
7. LẦN NGHỈ PHÉP CUỐI CÙNG
Ngày 3 tháng Ba, tôi được về phép. Theo thông lệ, những hoa tiêu Kaiten trước khi thi hành sứ mạng đều được cấp mấy ngày phép đặt biệt. Lẽ ra tôi được nghỉ phép vào ngày 1 tháng Ba, nhưng phải hoãn lại vì có một sĩ quan tham mưu từ Bộ Tư Lịnh Đệ Lục hạm đội đến thăm viếng. Tôi được cấp bốn ngày phép vì gia đình ở xa cách căn cứ Hikari khoảng 400 dặm.
Đêm trước khi lên đường, tôi cảm thấy kích thích đến nỗi không sao ngủ được. Bạn hữu gởi quà về cho gia đình tôi quá nhiều. Kẹo, thuốc uống, đồ hộp đầy ngập chiếc vali nhỏ bé của tôi. lúc lên giường nằm, tôi cảm thấy hân hoan nhưng dần dần biến thành lo âu. Khi gặp những người thân, tôi sẽ nói với họ những gì? Từ trước đến nay họ vẫn đinh ninh tôi còn đang huấn luyện phi hành. Khi về, họ sẽ hỏi chuyện tới tấp, tôi có thể nào nói dối họ không? Chương trình Kaiten tối mật. Ngay cả lần gặp gỡ cuối cùng, tôi cũng không thể nào hở môi về vấn đề nầy cho gia đình biết. Tôi cũng không thể nào cho biết cái chết đã gần kề bên tôi.
Nói dối với người thân thật phiền phức đối với tôi. Tôi đã từng được khen ngợi là một đứa trẻ chân thật. Tôi không biết làm cách nào để giữ bình thản trong lúc nói dối. Chị Chiyoe của tôi sẽ bắt khớp tôi lập tức. Chị sẽ nhìn thấu tận tim đen của tôi. Tôi biết, tôi sẽ sợ hãi ngay cả những cái liếc nhìn của chị, vì chị hiểu tôi còn hơn chính tôi.
Nỗi lo âu của tôi cắt đứt khi Thiếu úy Iwo Kitagawa bước vô phòng lúc tôi đã thay quần áo. Hắn ta là Trưởng xưởng bảo trì Kaiten của chúng tôi. Hắn nói:
"Yokota, nhân viên của tôi gởi cho gia đình anh một số tặng phẩm..."
Ông vừa nói vừa đưa cho tôi một số bánh kẹo, thuốc hút và hai chai huýt ki. Trong đầu, tôi nghĩ ngay đến việc quăng một số quần áo ra ngoài va ly để nhét thêm số tặng phẩm cuối cùng. Ba tôi, người mà tôi yêu mến, thỉnh thoảng thích uống rượu. Tôi chắc rằng, với số rượu nầy, ông sẽ nhấm nháp một thời gian lâu. Tôi sẽ cùng nâng ly với ông, sẽ làm mọi cách để ông hài lòng trong một đôi ngày tôi ở nhà. Ông cần phải được vui vẻ, vì bốn tháng nayy các pháo đài bay Boeing khổng lồ oanh tạc quê hương của chúng tôi. Đông Kinh bó tay trước sức mạnh của loại phi cơ nầy, và chúng cũng bay quá cao, hầu hết các chiến đấu cơ của chúng tôi không thể nào lên tới để can thiệp. Căn cứ xuất phát của B.29 ở Saipan, chỉ có các phi vụ Kamikaze mới tiến đến nổi, nhưng cũng không gây thiệt hại bao nhiêu, ra đa của đối phương khám phá các phi vụ nầy từ xa, và tung chiến đấu cơ chờ đợi sẵn.
Ngày 3 tháng Ba, thời tiết quang đảng, bầu trời xanh thẩm không một gợn mây. Đầu óc tôi thanh thản không phải nghĩ đến Kaiten, không phải nghĩ đến huấn luyện, không phải nghĩ đến nhiệm vụ. Tôi không có một sự lo lắng nào liên quan đến quân sự. Ý nghĩ được trở về thăm gia đình cho tôi cảm giác của một cậu học sinh đang chuẩn bị đi du ngoạn với bạn đồng lớp.
Trung sĩ Shikai, Thiếu úy Kato và tôi lên đường một lượt vào lúc 11 giờ 30. Giữa trưa xe lửa sẽ rời khỏi nhà gia Hikari. Xe đến trể mất 10 phút nên tôi cảm thấy lo âu. Xe lửa Nhựt chạy rất đúng giờ. Tôi nghĩ có lẽ nó không đến được, vì phải xử dụng để chở binh sĩ và đồ tiếp liệu. Lúc xe lửa lướt vô sân ga, tôi kinh ngạc vì còn quá nhiều chổ trống. Tôi nghĩ, dân chúng ít đi lại vì lý do chiến tranh.
Chúng tôi tìm chổ ngồi gần cửa sổ. Nhà của Thiếu úy Kato ở Sakuragucho, một quận lỵ thuộc Yokohama. Shinkai ở Kobuchizawa, cách núi Phú Sĩ không xa. Gia đình tôi ở Suginami, Đông Kinh. Xe lửa rời khỏi nhà ga, và không lâu sau đó, bắt đầu chạy dọc theo bờ Nội Hải đầy cảnh sắc.
Shinkai xuống xe ở Nagoya. Hắn đáp một chuyến xe lửa khác để đi đoạn đường còn lại. Thiếu úy Kato cảnh cáo hắn và đồng thời cũng cảnh cáo tôi:
"Đừng nói quá nhiều trong lúc ở nhà. Hãy cười đùa và cố gắng là cho gia đình anh vui vẻ. Nói quá nhiều, anh có thể tiết lộ tin tức bí mật."
Chúng tôi hứa với ông, và Shinkai xuống xe lửa. Thiếu úy Kato và tôi ngủ gà ngủ gật trong khoảng thời gian của ngày và đêm còn lại. Ông xuống xe ở Yokohama, và không bao lâu sau đó xe lửa chạy vô nhà ga Đông Kinh. Lúc đó là 2 giờ 30 trưa, chúng tôi đã rời khỏi Hikari trên 26 tiếng đồng hồ. Trời mưa lất phất.
Tôi bước ngang qua sân ga, hành lý trĩu nặng trên tay, nỗi vui mừng rộn rã trong tim. Tuy nhiên dân chúng có vẻ khác lạ đối với tôi. Như trong các đô thị lớn khác mọi người đều hối hả đi lại, hình như sự hối hả ở hiện tại khác với cảnh tượng trong trí nhớ của tôi. Những thiếu nữ tôi nhìn thấy đều đuộm nét buồn bã. Họ đội nón vải nhồi bông, mặc Kimono và Monpei, loại quần rộng thùng thình mà các bà vợ nông dân hoặc những người lao động nghèo khó thường mặc. Hình ảnh nầy với hình ảnh sáu tháng trước đây, khi tôi trên đường từ Tsuchiura đến Otsujima, có sự khác biệt biết bao. Hiện thời tôi đang đi giửa những người chỉ còn một chút ít sinh động. Nếu thủ đô Nhựt như vầy thì những nơi khác ra sao?
Tôi nghĩ, ở Hikari, ít ra tôi còn có mục đích để sống. Dân chúng ở đây hình như sống không có mục đích, ngoại trừ sự chờ đợi, và nhìn chiến tranh diễn tiến. Họ không có một loại vũ khí nào trong tay để chống lại kẻ thù. Có lẽ vì vậy mà trông họ ù lì và ngây ngô.
Tôi phải trở lại nhà ga Đông Kinh vào ngày mai để đáp xe lửa trở về Hikari. Không thể phí thì giờ. Tôi phải về nhà.
Lâu lắm rồi tôi mới được gặp lại gia đình. Những tiếng la hét vui mừng chào đón tôi. Hai người chị ôm choàng lấy tôi với những câu hỏi tới tấp. Tại sao tôi không báo ngày về cho họ biết? Tôi làm gì ở Đông Kinh? Và câu nói đầu tiên của tôi : " Em đi công tác ở căn cứ Yokosuka. Em có thể ở lại nhà một đêm, ngày mai phải lên đường".
Khi họ hỏi tôi trú đóng ở đâu, tôi ngần ngừ để làm cho không khí đượm vẻ bí mật, và nói: " Ở phía Nam." Họ không hỏi nữa, vì họ biết có nhiều căn cứ không quân cần phải giữ bí mật. Họ đoán chừng tôi ở Shokaku hoặc Kyushu. Căn cứ sau nầy nằm trên hòn đảo cực Nam Nhật Bản. Nhiều phi công hải quân cất cánh từ Kyushu để tấn công Pháo đài bay B.29 xuất phát từ Saipan.
Thêm nhiều câu hỏi nữa khi một số bạn bè đến gặp người chiến sĩ vừa trở về. Tôi bay loại phi cơ nào? Tôi đã hạ đối thủ nào chưa? Các loại phi cơ mới bay dễ không? Tôi trả lời qua loa cho xong việc.
Trong thời gian ngắn ở nhà, tôi cũng có một cô bạn gái mà tôi quen biết trước khi vô hải quân đến thăm. Một tấm ảnh nàng hiện còn nằm trong bóp tôi. Tôi có nhiều cảm tình với nàng, tuy nhiên chúng tôi không nói gì nhiều cảm tình ngoài việc học hành, chuyện gia đình và chiến tranh. Nàng hứa tặng tôi một chiếc khăn quàng. Tôi cảm ơn nàng, và tôi thầm hy vọng tặng vật sẽ đến trước ngày tôi ra đi.
Sau khi uống với ba tôi vài ly rượu mừng, tôi lại tiếp tục nói dối. Tôi nói tình thế không có gì tồi tệ, và chừng nào họ nghe tôi đánh chìm một đại chiến hạm, chừng ấy họ sẽ biết sự thật. Họ sẽ biết vì sao tôi trở về thăm gia đình bất ngờ.
Tôi chỉ ở nhà 24 tiếng đồng hồ, và chỉ ngủ được một đôi giờ. Hai chị tôi, Chiyoe và Toshie đưa tôi ra sân ga. Nhìn đôi mắt đẩm lệ của họ, tôi muốn hét lớn với họ rằng chúng tôi sẽ sớm gặp lại ở Yasukuni, ngôi đền vĩ đại ở Đông Kinh, nơi mà nắm tro hài cốt những người vị quốc vong thân được thờ ở đó. Chiyoe và Toshie sẽ đến đây, chấp tay, cúi đầu và cầu nguyện cho linh hồn tôi, sau khi Bộ Hải Quân báo cho họ biết cái chết anh dũng của tôi. Tôi ngồi xuống sau khi hình ảnh hai người thân yêu mờ dần. Không muốn để cho hành khách khác nhìn thấy một quân nhân đang khóc, tôi dán mặt vô cửa kiếng, mặc cho đôi giòng lệ tuôn tràn xuống má.
Một ngày sau khi trở về Hikari, tôi bắt đầu thực tập, và nhận được bức thơ của cô bạn gái ở Đông Kinh. Tôi phúc đáp liền, yêu cầu nàng nếu có gởi khăn quàng cổ cho tôi, xin hãy gởi trước ngày 20 tháng Ba. Tôi nói rằng sau ngày nầy tôi có thể được thuyên chuyển, do đó sợ không nhận được tặng vật.
Sau đó, nhiều tin tức tốt đẹp khiến tôi lưu tâm. Vào ngày 13 tháng Ba, Trung úy Miyoshi, được thăng cấp trong khi tôi đi phép, thông báo cho chúng tôi biết tiềm thủy đỉnh I.47 sẽ đưa chúng tôi ra mặt trận. Nhẹ nhõm làm sao! Chúng tôi chỉ sợ chiếc I.368 sẽ làm công việc nầy, vì lúc ấy chúng tôi chưa biết nó đã bị đánh chìm ở Iwo Jima.
I.47 là tiềm thủy đỉnh đã đưa Đại úy Nishina và những người khác thuộc toán Kikusui thi hành sứ mạng Kaiten đầu tiên ở Ulithi, và ở vịnh Humboldt, New Guinea sau đó. Nạn nhân chánh thức của I.47 là tám chiến hạm địch, do các cuộc tấn công Kaiten gây ra. Hạm trưởng I.47 là Thiếu tá Zenji Orito, một trong những hạm trưởng thủy thủ tài ba nhứt của chúng tôi. Ông đã từng hoạt động sát duyên hải Hoa Kỳ và ở quần đảo Solomon. Ông cũng có một thủy thủ đoàn ưu tú. Thành tích đánh chìm tàu địch và thoát thân của I.47 đã khiến cho thủy thủ đoàn tin tưởng chiếc tàu có bùa hộ mạng. Tinh thần của họ được coi là cao nhất trong hải quân Hoàng gia. Được đi với họ, chúng tôi hân hoan và hy vọng lập được thành tích với những chiếc Kaiten của chúng tôi.
Trung úy Miyoshi nói với chúng tôi:
"Toán của các bạn mang tên Tarata. Các bạn sẽ lên đường ngày 27 tháng Ba, để tấn công tàu địch ở hải vực phụ cận Okinawa."
Chiếc I.47 có thể mang 6 Kaiten, do đó Thiếu úy Kishie Kirizawa được thêm vô toán của chúng tôi. Ngày mai chúng tôi sẽ thực tập lần cuối cùng, phóng từ I.47. Trong buổi thực tập nầy, lần lượt mỗi người chúng tôi bao gồm Trung úy Miyoshi, hai Thiếu úy Kato và Kirizawa, và ba hạ sĩ quan khác, sẽ chạy xuyên ngang qua phía dưới "chiến hạm mục tiêu".
Công việc nầy đã diễn tiến hoàn hảo. Nếu tân công thật sự, Hoa Kỳ sẽ mất sáu chiến hạm và cả ngàn người.
Không đầy một tuần sau đêm tôi ở với gia đình tại Đông Kinh, một nhóm oanh tạc cơ B.29 bay xà thấp và dội bom lửa xuống thành phố, với sự sửng sốt hoàn toàn của dân chúng, và gây tàn phá nặng nề. Sáng ngày 11 tháng Ba, Đông Kinh là một biển lửa bao la. Giống như trận động đất vĩ đại ngày 1 tháng 9 năm 1923. Tin tức khủng khiếp nầy khiến tôi chết sửng và chỉ yên tâm sau khi biết được nhát chổi màu hồng của Thần Chết đều tập trung vô khu vực chánh của thành phố. Nơi gia đình tôi ở, khu Suginami an toàn, mặc dù có trên 125.000 người thiệt mạng và 1.000.000 người không nhà. Sau đó, thêm một thảm kịch nữa: cái chết của người bạn thân nhứt của tôi, Trung sĩ Yoshihito Yazaki.
Nó xảy ra vào ngày 16 tháng Ba, ngày huấn luyện phóng từ tiềm thủy đỉnh lần cuối cùng của chúng tôi. Theo lời bác sỹ, hắn đã bị nghẹt thở và chết bởi thiếu dưỡng khí trong buồng lái. Ý nghĩ cuối cùng của tôi, giống như Đại úy Seiko Nishina, là tôi sẽ mang nhúm tro hài cốt của Yoshihito Yazaki theo tôi trong chuyến đi cuối cùng.
Trung sĩ Kikuo Shinkai được chọn để thay thế Yazaki. Khả năng điều khiển Kaiten của Shinkai thì ai ai cũng biết. Sự khéo léo của hắn được các sĩ quan quan sát, huấn luyện viên và chúng tôi nể trọng. Sự thật, vào ngày 13 tháng Ba khi tôi được Miyoshi chọn thi hành sứ mạng, tôi đã tự hỏi tại sao Shinkai lại không được chọn. Việc này hình như không có gì khó hiểu. Miyoshi được phép chọn lựa những kẻ thích hợp với ông, nên ông đã chọn Yazaki, Kitamura và tôi.
Do đó, sự thay thế nầy khiến tôi hân hoan, vì Shinkai từng là bạn thân của tôi từ ngày còn ở trường huấn luyến Tsuchiura. Khi tôi được chọn để đi với toán Tatara, hắn không phàn nàn mà cũng không thốt lời phê phán chua cay nào. Hắn chỉ nói:
" Chúc bạn may mắn, Yokota. Tôi sẽ theo anh không lâu. Hãy chờ tôi bên ngoài đền Yasukuni. Chúng ta sẽ bước vô đó."
Bọn Kaiten chúng tôi thường đề cập đến ngôi đền Yasukuni. Thỉnh thoảng chúng tôi trêu chọc lẫn nhau:
"Tôi sẽ đến Yasukuni trước bạn, và tôi sẽ trở thành đàn anh của bạn."
Chúng tôi cũng thường bàn đến các phương cách "dọa nạt" những kẻ đến sau.
Tiềm thủy đỉnh I.47 đã đến Kure để bảo trì. Trong thời gian nầy chúng tôi tiếp tục huấn luyện. Nỗi u sầu về cái chết của người bạn thân thanh thỏa phần nào trong một đôi ngày sau đó, khi tặng vật hứa hẹn với người bạn gái ở Đông Kinh đến.
Đó là chiếc khăn quàng cổ màu đỏ tía, đan bằng tay. Các phi công Nhật Bản thường quấn khăn quàng lụa màu trắng, tôi muốn có một cái như vậy. Tuy nhiên tôi thích màu đỏ. Nó có vẻ khác lạ.
Những thanh niên Nhựt lên đường ra mặt trận đều có người yêu, thỉnh thoảng họ nhắc nhở và hàng ngày viết thơ cho người yêu của họ. Dĩ nhiên, tôi không có ai hết. Thời gian tôi bước vô Hải Quân tôi mới 19 tuổi , và hiện thời tôi đã ở gần 2 năm trong hải quân. Hình cô bạn gái nầy tặng tôi từ lâu, nàng mặc một bộ đồng phục nữ sinh, giống như quần áo thủy thủ. Ở Tsuchiura, tôi từng bị khiển trách nặng nề về bức ảnh nầy, bởi lẽ nó có thể tôi chểnh mảng với nhiệm vụ huấn luyện phi hành của tôi. Tôi vẫn giữ nó, nhưng không bao giờ cho ai coi. Khi một người đã hiến dâng mạng sống của mình cho xứ sở, những ràng buộc tình cảm chỉ thêm phiền phức. Sự thật, tôi không có người yêu đúng nghĩa, người con gái nầy chỉ là một người bạn. Nhưng trong thâm tâm tôi, nếu chọn người yêu, tôi sẽ chọn cô ta. Tôi bắt đầu nghĩ vơ vẩn, và đêm đó tôi nằm ngủ với chiếc khăn quàng cổ màu đỏ trên cổ. Tôi sẽ luôn luôn giữ nó bên mình, tôi tự hưa với nàng, ngay cả giây phút cuối cùng trong đời sống của tôi. Đó là ngày 19 tháng Ba. Ngày 20 tháng Ba, bốn ngày sau khi Yazaki thiệt mạng, thảm kịch lại xé nát tim tôi một lần nữa. Trung úy Mamoru Miyoshi chết trong Kaiten của ông. Ngày hôm đó trời mưa, nhưng thời tiết không dính dáng gì đến tai nạn. Có lẽ Miyoshi mắc phải một vài sai lầm khi duy trì ở độ sâu, hoặc có lẽ một trong những dụng cụ của Kaiten bị hư hỏng. Dẫu sao đi nữa khi lướt ngang qua phía dưới mục tiêu, ông đã giữ độ sâu không đúng mức. Tiềm vọng kính của ông đã chạm vô lườn của chiếc tàu mục tiêu. Với tốc độ 30 hải lý một giờ, vị Phân đội trưởng và cũng là toán trưởng toán Kaiten của tôi đã đập mặt vô thị kính của viễn vọng kính và ngã xuống bất tĩnh. Nước ùa vào kẻ hở trên viễn vọng kính do sự đụng chạm gây ra, và Miyoshi chết đuối. Nếu không bất tĩnh, ông có thể mở cánh cửa phía trên và lội ra ngoài. Khi nhìn thấy xác ông, tôi không thể thốt nên lời. Hai thảm kịch trong vòng năm ngày, quá nhiều. Tất cả phương pháp hồi sinh đều vô ích, và khi vị bác sĩ tuyên bố Miyoshi đã tắt thở, tôi chết sửng, khóc sướt mướt và chạy ra ngoài.
Tôi nhớ lại buổi nói chuyện giữa tôi với Miyoshi đúng một hôm trước khi Yazaki thiệt mạng. Mặc dù chúng tôi hợp tác gần gũi với các sĩ quan trong suốt thời gian huấn luyện, và chia xẽ nhiều vấn đề khó khăn với họ, nhưng thật sự chúng tôi không bao giờ gần gũi trên phương diện cá nhân, chẳng hạn như thảo luận về những câu chuyện liên quan đến gia đình. Nhưng hôm đó, trung úy Miyoshi đã làm cho tôi ngạc nhiên khi đề cập đến đời sống ở nhà của ông trước kia. Ông cho tôi biết ông sanh ở Ogikubo, Yokota, tức thị trấn nằm ở ngoại ô phía Tây Đông Kinh. Còn tôi sanh ở Koenji, không xa Ogikubo mấy. Miyoshi cho biết thêm ông theo học ở Đệ Lục Học Đường Đông Kinh. Ngẫu nhiên biết bao! Nếu vậy ông phải đón xe lửa ở Chuo để đi học, tôi cũng thường đi trên chuyến xe lửa nầy và gặp nhiều học sinh của Đệ Lục Học Đường. Có lần chúng tôi đã từng nói chuyện với nhau một lần. Đời sống kể cũng lạ lùng, hai người sanh ra ở hai nơi gần gủi, sống hai cuộc sống khác biệt hẳn, cuối cùng gặp nhau trên một mục đích.
Ở Nhật Bản, con cái đều tỏ ra cung kính cha mẹ nhưng sự cung kính của Miyoshi là một gương mẫu mà tất cả chúng tôi noi theo. Mỗi ngày ông đều viết cho người mẹ một lá thơ, và thường kể chuyện về bà cho người khác nghe. Lòng hiếu thảo của ông thật đáng khâm phục. Do đó, tôi hiểu Miyoshi đã buồn bã như thế nào khi cho tôi biết ông không gặp được má ông ở nhà trong ngày nghĩ phép của ông. Thời gian nầy thực phẩm khan hiếm trầm trọng, tất cả khẩu phần phân chia bị cắt giảm xuống gần phân nữa. Dân chúng phải kiếm thêm miếng ăn, vì vậy má của Miyoshi phải lặn lội đến Chiba, để kiếm một số rau cải do cha mẹ người tớ gái trồng trọt, trên mảnh đất nhỏ nhoi ở bán đảo nằm dọc theo phía Đông vịnh Đông Kinh. Khi về tới nhà nghe được việc nầy, Miyoshi nói với tôi, ông buông mình xuống ghế, lòng tràn ngập đau buồn.
Ông đưa cho tôi coi bức ảnh của mẹ ông, một người đàn bà tuyệt đẹp. Ông nói với tôi, ngoại trừ người mẹ, ông không có người yêu. Tôi cảm thấy "ghen ghét" với ông. Má của tôi chết khi tôi mới lên năm, hai người chị thân yêu đã thay thế địa vị của bà, nhưng khi liếc nhìn tấm hình của Miyoshi vừa trao, tôi đã biết mình thiếu thốn biết bao nhiêu trong những năm trưởng thành.
Như tôi, Miyoshi chỉ được ở nhà một ngày. Giây phút cuối cùng, may mắn thay, mẹ ông đã trở về. Họ gặp được nhau 20 phút ngắn ngủi ở nhà ga, trước khi ông lên xe trở lại Hikari.
Sau đó, chứng tỏ vận xấu thường đến dồn dập, Thiếu úy Kato bị bịnh và bị đặt ra ngoài sứ mạng. Trước đây ông đã từng nằm bịnh viện một thời gian sau khi Kaiten của ông đụng phải một tiềm thủy đỉnh đang chạy dưới mặt nước. Sau ba tuần huấn luyện, thấy sức khỏe của Kato yếu kém, tất cả chúng tôi thúc giục ông đi khám bịnh nhiều lần, nhưng ông nói:
"Tôi chỉ cần lái được Kaiten ra ngoài khơi an toàn, lúc đó tôi đau hay mạnh không thành vấn đề. Một người sắp chết đâu cần phải có đầy đủ sức khỏe.?"
Hai thảm kịch xảy ra trong thời gian ngắn khiến cho Thiếu úy Kato không thể chịu đựng nổi nữa. Kato ngã quỵ trong ngày Miyoshi chết, và ông được đưa đến bệnh viện. Sau này khi đã bình phục, ông chỉ đảm trách công việc huấn luyện hoa tiêu Kaiten trên bãi mà thôi. Tình trạng căng thẳng về thể xác và tinh thần làm cho Kato không thể nào điều khiển Kaiten đủ khéo léo để được chỉ định vào sứ mạng.
Sự ngã quị của Kato khiến cho Kitamura, Shinkai và tôi lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Toán 6 người chúng tôi bị mất phân nửa. Mỗi người trong một toán Kaiten đều tiến đồng đều trong công việc huấn luyện. Không ai ở Hikari được huấn luyện cấp tốc trong một đôi ngày mà có thể theo kịp chúng tôi. Chúng tôi lo âu về việc nầy. Thế rồi, ngày 23 tháng Ba, một thủy thủ đến cho biết Đại úy Miyata muốn gặp Shinkai và tôi.
Chúng tôi đến văn phòng của vị Chỉ huy phó căn cứ. Trung úy Mitani, một trong những sĩ quan bảo trì, cũng có mặt ở đây. Đại úy Mitani nói:
"Toán của các anh bị giải tán. Nhưng tiềm thủy đỉnh I.47 vẫn lên đường theo ngày giờ đã định."
Ông nhìn chúng tôi chăm chăm, xem chúng tôi có mất tinh thần sau các thảm kịch hay không. Chúng tôi bình thản trả lại ông, để chứng tỏ chúng tôi vẫn sẵn sàng. Ông tiếp:
"Ở Otsujima hiện có ba hoa tiêu trở về từ sứ mạng Kongo. Họ được huấn luyện ở đó, nhưng sẽ xuất phát từ căn cứ nầy. Toán trưởng là Trung úy Minoru Kakizaki... hai anh sẽ kết hợp với toán của ông ta. Hai anh hiểu chớ?"
"Thưa hiểu!"
Chúng tôi vẫn nói, và ngạc nhiên trước biến cố nầy. Một vài phút trước đây, chúng tôi còn nghĩ rằng không một ai ở Hiraki được huấn luyện thuần thục hơn chúng tôi. Bây giờ, chúng tôi đã được chỉ định chiến đấu bên cạnh những hoa tiêu Kaiten già dặn, những người đã từng đi và trở về. Ba hoa tiêu mà Miyata vừa nói là Maeda, Furukawa và Yamaguchi, đã thực hiện sứ mạng ở Manus, thuộc quần đảo Admiralty, nhưng vì gặp phải màn lưới chống tiềm thủy đỉnh của địch quân ngăn chận nên phải quay về. Trung úy Hajime Maeda là mẫu người mà ở Nhật Bản chúng tôi thường gọi là "mẫu người Kyushu". Trên hòn đảo phía Nam nầy có bộ lạc Satsuma dũng mãnh, sản xuất những tay đi biển can trường nhứt của quốc gia chúng tôi. Hầu hết sĩ quan hải quân cao cấp của Nhật Bản đều xuất thân ở Kyushu. Hòn đảo nầy đã tạo nên những thiếu niên đầy đủ tư cách để thắng lợi trong cuộc chạy đua vô Hàn Lâm Viện Hải Quân, hơn bất cứ nơi nào khác của Nhật Bản. Có thể nói, Kyushu là toàn thể binh chủng hải quân, và những thiếu niên ở đây lớn lên bằng tình yêu biển cả mạnh mẽ.
Còn Shichiro Furukawa là mẫu người đứng đầu hạ sĩ quan hải quân Hoàng gia, thông minh và cứng rắn. Hắn lớn tuổi hơn những người khác trong toán chúng tôi, và có bảy năm quân vụ. Hắn là một chuyên viên thủy lôi thật sự. Thủy lôi là đời sống của hắn. Từng tốt nghiệp hạng danh dự ở trường thủy lôi, Furukawa được tất cả các sĩ quan kính nể. Được hợp tác với hắn thật là một đặc ân.
Trung sỹ Shigeo Yamaguchi cũng xuất thân từn trường thủy lôi. Hắn đứng đắn, nhưng chỉ trên nhiệm vụ. Ngoài nhiệm vụ, hắn hoàn toàn phóng khoáng, uống rượu như hủ chìm. Tôi và Shinkai có cảm giác như hai tên mới học nghề trước những người nầy.
Riêng Kitamura không được chọn thi hành sứ mạng, thật đáng buồn. Sau đó, khi ngăm mình trong phòng tắm, tôi lại nghĩ đến Yazaki và Miyoshi. Đáng ân hận biết bao, họ đã ngã xuống khi ý định chưa thành. Nhưng dù sao đi nữa, chúng tôi sẽ sớm gặp lại họ. Khi tôi vẫn còn nghĩ vẩn vơ khi đã bước ra khỏi bồn tắm, Shinkai bước vô và dịu dàng nói:
" Yokota, sau khi mặc quần áo, chúng ta sẽ mở một tiệc mừng nhỏ. Tôi có một chai huýt ki của Thiếu úy Anzai vừa cho, và một ít thức ăn."
Tôi, Shinkai, Trung sĩ Teruyoshi Ishibashi, một hoa tiêu Kaiten khác, chè chèn vài phút sau đó. Rượu làm chúng tôi say, và khi được giới thiệu với Trung úy Kakizaki, đầu cả hai chúng tôi như búa bổ. Kakizaki nói:
"Hân hạnh được gặp hai bạn. Người ta nói với tôi, hai bạn là hoa tiêu Kaiten giỏi nhứt ở Hikari. Tốt lắm, chiều nay chúng ta sẽ có một buổi thực tập, và tôi lấy làm hân hạnh được chứng kiến tài nghệ của hai bạn."
Shinkai và tôi nhìn nhau. Đầu chúng tôi nặng chìn chịt, vậy mà viên sĩ quan nầy muốn kiểm soát khả năng của chúng tôi. Thật là tai họa. Nhưng chúng tôi không biết làm gì khác hơn là tuân lịnh. Khi rời khỏi, tôi mới trực nhớ là mình đã quên trình lên Kakizaki một yêu cầu đặt biệt mà tôi đã dự định. Tôi muốn yêu cầu ông ta mang theo hài cốt của Miyoshi, còn tôi sẽ mang hài cốt của Yazaki khi thi hành sứ mạng.
Bước ra ngoài, tôi cảm thấy chán nản. Nếu tôi vụng về trong khi thực tập, Kakizaki có thể không hài lòng về việc tôi được chỉ định vô toán của ông. Tôi và Shinkai cả hai có trách nhiệm duy trì truyền thống của Tsuchiura và danh dự của Phân Đội I, cũng như những người bạn đã chết. Lúc 5 giờ chiều, khi đi thực tập, chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Lúc bước vô Kaiten, đầu óc tôi bỗng nhiên sáng suốt lạ lùng. Tôi lấy lại niềm tin đầy đủ, và chắc sẽ thi hành nhiệm vụ huấn luyện một cách tốt đẹp.
Mục tiêu là một chiếc tàu nhỏ, thân bằng cây, di chuyển với một tốc độ khá mau. Cuộc thực tập nầy dự định chạy gấp đôi, thoạt đầu mỗi Kaiten sẽ lướt dưới mục tiêu và quay lại tấn công. Sau khi được phóng, tôi chạy trong giây lát, rồi nổi lên mặt nước để quan sát. Mục tiêu nằm ở vị trí thuận lợi, 50 độ phía trái tôi và cách xa khoảng 700 thước. Tôi lặn xuống, chạy về hướng chận đầu và gia tăng tốc độ lên 40 hải lý. Đúng ba phút, tôi nâng tiềm vọng kính lên quan sát. Mục tiêu bây giờ ở bên trái tôi. Tôi tấn công.
Sau đó, Trung úy Kakizaki đã phê phán hành động nầy của tôi:
"Anh quậy song quá nhiều khi quan sát. Phải cẩn thận hơn nữa."
Ông muốn nói tôi đã nâng tiềm vọng kính lên quá thời gian 7 giây cho phép. Thường thường tôi chỉ cần 3 giây hoặc ít hơn để làm việc nầy, nhưng hôm nay tôi bối rối, có lẽ vì sợ mình lầm, nên tôi đã nâng tiềm vọng kính lên đến hai lần.
Kakizaki tiếp:
"Vượt qua lần thứ nhứt, anh chạy cách phía sau 15 bộ (khoảng 4 thước rưởi). Lần thứ hai, anh chạy cách phía trước 45 bộ (khoảng 14 thước)."
Thành tích nầy không đến nổi tệ. Nếu mục tiêu là một chiến hạm lớn của Hoa Kỳ, tôi sẽ gây hư hại trầm trọng đủ để đánh chìm nó. Tôi sẽ chụp vô mũi hoặc lái của đối thủ. Trung úy Kakizaki ngợi khen chúng tôi và tiếp:
"Tối nay tôi muốn tất cả các bạn đến dùng bửa với nhau. Thức ăn sẽ mang đến phòng của tôi."Bỗng nhiên tôi nhớ lại không khí vui vẻ hồi còn ở Otsujima. Kakikazi, một người của Hàn Lâm Viện Hải Quân, không câu nệ lễ nghi với thuộc cấp. Một cảm giác của tình bạn dâng cao mạnh mẻ giữa chúng tôi, những người đang sẵn sàng ước hẹn với tử thần. Ở cả hai nơi, Otsujima và Hikari, những hoa tiêu Kaiten sắp thi hành sứ mạng sẽ được cung cấp tất cả những gì mà họ muốn, vào một đôi ngày cuối cùng của họ. Họ hoàn toàn tự do, như một số người thường nói. Nhưng không một ai trong toán Tatara, tôi có thể kiêu hãnh để nói về điều đó, không một ai lưu tâm đến những vấn đề vật chất nầy. Họ vẫn sống một cách bình thường, cũng như đồng đội trong toán. Không ai tỏ vẻ lo buồn, không ai kênh kiệu quá mức. Họ trửng giởn, nói đùa để chọc cười người khác. Nhưng chính tôi đã phân vân tự hỏi trước cảnh tượng nầy. Bề ngoài tôi cố hành động giống họ, chứng tỏ sự thanh thản của mình, nhưng bên trong tôi thực sự căng thẳng, đếm từng ngày một chuyến ra đi sắp tới của chúng tôi. Tôi tò mò tìm hiểu tư tưởng của năm người khác trong toán. Chỉ có Maeda tỏ ra bất cần đời thật sự không? Và Furukawa, hai lần được ngợi khen về lòng dũng cảm từ khi bắt đầu cuộc chiến, dường như hắn có một người yêu. Hắn có nghĩ đến cô ta không? Và Yamaguchi thì sao? Làm cách nào hắn và những người khác có thể "tỉnh bơ" trong những giờ phút cuối cùng còn lại nầy?Một buổi tối, tôi cố tìm một số giải đáp cho những câu hỏi nầy từ Furukawa. Lúc đó chúng tôi ở trong phòng và vừa tắm xong. Mỗi phòng có bốn hạ sĩ quan ở chung với nhau. Tôi hỏi hắn:
"Furukawa, anh có viết chúc thơ không?"
Binh sĩ và thủy thủ Nhật Bản lúc sắp bắt đâu mặt với kẻ thù hoặc có thể thiệt mạng thường hay viết chúc thơ, do đó người thân yêu sẽ đọc được những giòng chữ trong giây phút cuối cùng của họ. Có nhiều chúc thơ rất nổi tiếng thuộc loại nầy vẫn sống mãi trong văn học Nhật Bản. Nó không giống với các loại chúc thơ cảu người Tây Phương. Thật ra, đây chỉ là một lá thơ thông thường.
Furukawa nói:
"Tại sao anh hỏi vậy?"
Tôi ấp úng:
"A... không có lý do đặt biệt nào cả... anh đã từng ra đi một lần rồi, chắc anh biết những gì mà các hoa tiêu Kaiten thường làm lúc đó."
Furukawa nói:
"Những chúc thơ đều vô nghĩa. Tôi sẽ không viết một giòng nào cả. Lần đi trước tôi có viết, và khi I.56 mang chúng tôi về vì không tới gần địch quân được, tôi đã đọc lại chúc thơ đó. Nó đầy những lời lẽ phô trương khoát lát, khiến tôi phải hổ thẹn, nên tôi đã xé và quăng đi. Những người như chúng ta không cần viết chúc thơ. Nếu chúng ta là những người vĩ đại thật sự, và dân chúng muốn biết tư tưởng của chúng ta, đó là một vấn đề khác. Nhưng khi một người không phải là một nhân vật vĩ đại, nếu hắn cố viết những việc vĩ đại, quả thật hành động của hắn ngu ngốc. Chẳng hạn như đêm rồi, một trong những cơ khí viên đến phòng yêu cầu tôi viết lên một mảnh vải trắng vài chữ để kỉ niêm. Tôi nói với hắn là tôi không có gì để viết hết, nhưng hắn năn nỉ mãi. Do đó, tôi đã bệt mấy chữ to tổ bố: "Không có gì để nói." Furukawa cười lớn khi kể lại chuyện nầy. Tôi cũng cười và tôi đồng ý lối đùa của hắn ý nhị.
Nhưng, tôi hỏi với giọng nghiêm trang trở lại, anh không nghĩ, ít ra anh cũng cần phải viết một vài chữ cho người thân?
Furukawa nói:
"Không cần! Gia đình tôi hiểu rồi. Tôi là một thủy thủ. Họ biết cảm nghĩ của tôi như thế nào. Tôi chỉ cần người ta báo cho gia đình tôi biết rằng tôi đã chết như là một thủy thủ, dũng cảm, trong lúc chiến đấu. Khi bước chân vô hải quân, tôi đã nói với gia đình rằng tôi sẽ đâu mặt với tử thần một cách can đảm nếu có cơ hội. Họ thông cảm với tôi. Hiện tại cơ hội đã đến. Không cần phải mô tả dài dòng. Việc nầy phiền phức lắm. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ vơ vẫn đến một lá chúc thơ. Sau khi những người khác đã ngủ, tôi ngồi bật dậy, tìm giấy và kê va li trên giường để làm bàn viết. Tôi viết chúc thơ, dù mấy người khác có viết hay không.
" Ba, Anh và hai chị thân yêu.Tôi gởi lời chào vĩnh biệt đến những người thân yêu trong gia đình. Tôi không thể nói câu nầy ở Đông Kinh trước đây, xin tha thứ cho tôi. Sự thật, tôi không còn học lái phi cơ trong nhiều tháng nay. Thay vào đó, tôi đang được huấn luyện để sử dụng một thứ vũ khí mới, một trái thủy lôi người. Không lâu sau nữa, chúng tôi sẽ tham dự một cuộc tấn công. Đó là lí do tại sao tôi được về phép đặt biệt, để gặp mặt những người thân yêu. Được ra đi, tôi hãnh diện. Nếu chúng tôi không chịu hy sinh thân mình, cái gì sẽ xãy ra cho xứ sở thần thánh, và ba ngàn năm lịch sử của chúng ta?.Tôi sẽ chết, cùng lúc với trái thủy lôi chạm vô tàu địch. Cái chết của tôi có mục đích hoàn toàn. Ở đây, chúng tôi đã được dạy hãy quên đi tình riêng và chỉ nghĩ đến đại cuộc. Lúc nghe tin tôi đã chết, sau khi đánh chìm một chiến hạm địch, tôi hy vọng Cha, Anh và hai Chị sẽ kiêu hãnh khi nói về cái chết dũng cảm của tôi.
Tôi không hối tiếc, mà cũng không có gì để nói hơn nữa. Ơn nghĩa của gia đình tôi chưa một mãy may đền đáp. Nhưng ơn nghĩa ấy tôi luôn luôn ghi tạc trong tim.
Hai cháu trai Masakuzu và Shinji, và Setsuku cháu gái của cậu, cậu hy vọng cả ba đều nên người, và luôn luôn mang danh dự đến cho ba má của các cháu. Sau khi chết cậu sẽ phù hộ cho các cháu. Nếu cả ba muốn gặp người cậu nầy, hãy đến viếng thăm Yasukuni, cậu sẽ chờ đón các cháu với những nụ cười."Tôi kí tên và đọc lại. Đây là chúc thơ của tôi? những cầu nầy phải phát xuất từ trong tim của tôi không? Nói không có vẻ khoe khoang, tự phụ chớ? Chẳng hạn như cái câu tôi mời mấy đứa cháu đến viếng thăm người cậu đại anh hùng của chúng ở đền thờ Yasukuni. Thực sự tôi muốn nói gì? Tôi có viết một cách chân thật không?Tại sao tôi cố gắng viết chúc thơ nầy! Tôi không thể nào phơi bày tất cả sự thật. Tại sao không có được một đầu óc phóng khoáng và chân thật, như Furukawa? Tôi xé bỏ tờ giấy chứa đựng những lời lẽ ngu ngốc nầy. Tôi sẽ bắt chước Furukawa, viết mấy chữ: "Không có gì để nói" trên một tờ giấy. Khi tôi xé lá chúc thơ, tôi nghĩ đến cuốn phim "Khúc nhạc vô tận" Trong cảnh cuối cùng của cuốn phim nầy, Schubert đã xé nát những ghi chú cẩn thận về sự sáng tạo của ông, và trên bìa của một tập ký âm, ông viết: "Sự sáng tạo của ta sẽ không bao giờ két thúc, như tình yêu của ta, nó không bao giờ tàn." Tôi coi cuốn phim nầy nhiều lần, và cảnh cuối cùng luôn luôn gây cho tôi sự xúc động sâu xa.
Tôi quyết định giống như Schubert, tôi không viết, không để lại một bút tích nào. Quyết định nầy khiến cho đầu óc tôi thanh thản. Tôi quay nhìn Furukawa và Yamaguchi, cả hai đang ngủ yên lành. Tất cả sự căng thẳng trong tôi tan biến. Cuối cùng, tôi cảm thấy hội nhập với họ. Đêm sau, qua một ngày yên tĩnh, chúng tôi không phải tập luyện dưới nước, Shinkai và tôi "tự cấp một hai giờ phép". Chúng tôi ra cổng căn cứ và đốn một chiếc xe đến nhà của ông bà Harada ở thị trấn Hikari. Cả hai ông bà luôn luôn mở rộng cửa đón tiếp thủy thủ và hoa tiêu Kaiten ở căn cứ. Ông Harada là một sĩ quan hải quân. Hai người con trai của ông đều là phi công hải quân, người con lớn đã chết ở Rabaul trên mặt trận quần đảo Solomon. Ông bà Harada và người con gái luôn luôn đón tiếp chúng tôi niềm nở. Gặp chúng tôi, ông bà Harada ngạc nhiên vì hôm nay không phải ngày nghỉ. Tôi nói:
"Sumi mase, Ông bà Haradh. Xin hãy tha thứ cho chúng tôi. Chúng tôi muốn tìm sự thoải mái trong không khí của ngôi nhà tuyệt diệu nầy. Ông bà biết những gì mà chúng tôi đang được huấn luyện, chúng tôi không thể nói ra, nhưng có thể lần viếng thăm nầy là lần cuối cùng chúng tôi được gặp ông bà."Người con gái của gia đình vẫn giữ nụ cười trên môi như thường khi. Biết bao lần nàng từng chứng kiến những thủy thủ bước ra khỏi ngôi nhà nàng và không bao giờ trở lại. Chúng tôi không dự định ăn cơm với gia đình Harada, nhưng họ cứ mời mọc, cuối cùng chúng tôi phải chấp nhận. Trong bữa ăn, người con gái xin phép và đứng dậy đi vô trong. Khi trở ra, nàng khệ nệ ôm một chồng dĩa hát. Tôi cảm động. Thiếu nữ nầy thường nghe tôi phê bình nhạc cổ điển, và đề cập đến tình yêu dành cho âm nhạc của tôi. Do đó, nàng đi vòng quanh bạn bè và lối xóm để mượn các dĩa nhạc. Vì vậy, chúng tôi có cả một buổi chiều tràn ngập âm thanh. Sau đó, chúng tôi đồng ý chụp chung với gia đình Harada một bức hình theo lời yêu cầu của họ. Đêm đó có lẽ là đêm hạnh phúc nhứt trong đời của chúng tôi.
8. TOÁN TATARA LÊN ĐƯỜNG
Sau khi tu bổ, thủy thủ đỉnh I.47 trở về Hikari trong tuần lễ cuối cùng của tháng Ba. Tôi nhìn chiếc tàu tiến vô hải cảng lúc đang đứng trên boong của một ngư lôi đỉnh để quan sát Trung úy Kakizaki chạy Kaiten. I.47 được sơn một lớp sơn chống ra da mới. Tôi vẩy nón với thủy thủ đoàn khi chiếc tàu lướt ngang qua ngư lôi đỉnh của tôi. Chúng tôi chấm dứt thực tập, trở về cầu tàu vừa lúc một chiếc xuồng máy đưa Hạm Trưởng Orita vô bờ. Sáu hoa tiêu Kaiten chúng tôi đến ngay nơi cư trú của sĩ quan.
"A! Kakizaki, Chui! Shibaraku, dana?"
Hạm Trưởng Orita chào đón toán trưởng của chúng tôi một cách vồn vã. Rồi nụ cười rạng rỡ của ông biến sang buồn rầu:
"Toán Kaiten có nhiều biến đổi phải không? Tôi rất buồn khi nghe Trung úy Yazaki thiệt mạng, nhưng khi tin tức về cái chết của Đại úy Miyoshi đến tai tôi, tôi mới xúc động hoàn toàn. Khi nghe tin, tôi đã ngồi chết sững, hầu như tê liệt mấy phút."
Kakizaki nói, giọng cứng rắn và rõ ràng:
"Chúng tôi quyết tâm đền bù sự mất mát của Yazaki và Đại úy Miyoshi."
Hạm Trưởng Orita nói:
"Anh nói đúng. Tôi nghĩ các bạn sẽ làm nên việc. Hơn nữa, sáu anh là những hoa tiêu Kaiten đầy đủ kinh nghiệm nhứt hiện nay."
Kakizaki nói:
"Cảm ơn Thiếu tá! Bây giờ, tôi mạn phép giới thiệu những người khác trong toán của chúng tôi với Thiếu tá."
Lần lượt chúng tôi được giới thiệu và mỗi người đều cuối đầu chào cung kính. Trong cuộc gặp gỡ nầy, tên toán của chúng tôi, Tatara, được bàn tán. Hồi thế kỷ thứ 15, có một đại chiến tướng Nhật Bản tên là Tokimure Hojo. Ông đã đảm trách nhiệm vụ phòng thủ chống lại hạm đội đồ sộ của Mông Cổ đang mưu toan đổ bộ và chinh phục xứ sở chúng tôi. Được trợ giúp bởi một cơn bảo thổi tan hầu hết hạm đội nầy, ông đánh bại địch quân, trong trận hải chiến gần bãi Tatara, ở phía Bắc Kyushu. Cơn bão nầy là một trong hai ngọn "Thần Phong" thường được đề cập đến trong lịch sử của chúng tôi. Các phi đội Kamikaze mang ý nghĩa của ngọn gió thần nầy. Toán của chúng tôi được đặt tên Tatara, bởi lẽ chúng tôi cũng sẽ tấn công một lực lượng đổ bộ của Hoa Kỳ đang mưu toan đánh chiếm Okinawa nằm trong chuổi đảo Ryukyu của chúng tôi.
Soái hạm của toán Tarata là chiếc I.47, chở Kakizaki, Maeda, Shinkai, Yamaguchi, Furukawa và tôi. Cũng còn có ba tiềm thủy đỉnh khác. Chiếc I.44 sẽ ra khơi, dưới quyền chỉ huy của một hạm trưởng mới, Thiếu tá Kiyoshi Masuzawa, và các hoa tiêu Kaiten: Trung úy Hideo Doi, Thiếu úy Yasuhito Ikaku, Thiếu úy Takaharu Tatewaki và Trung sĩ Hikogo Sugabara. I.44 không có dịp may tấn công địch quân, vì nó bị các chiến hạm và phi cơ Hoa Kỳ khám phá, giữ riết dưới mặt nước gần hai ngày ròng rã. Bắt buộc Thiếu tá Masuzawa phải cho tàu quay về và bị cách chức lập tức, mặc dù tất cả hoa tiêu Kaiten đều tán thành hành động của ông.
Chiếc I.56, do Thiếu tá Keiji Shoda chỉ huy, cũng mang theo 6 hoa tiêu Kaiten. Đó là Trung úy Seiji Fukushima, xuất thân Hàn Lâm Viện Hải Quân, Thiếu úy Hiroshi Yagi và bốn hạ sĩ quan.
Tiềm thủy đỉnh thứ tư là chiếc I.58 của Thiếu tá Mochitsuda Hashimoto. Trung úy Nabuo Ikebuchi sẽ hướng dẫn ba hoa tiêu Kaiten khác: Thiếu úy Ichiro Sonoda, Trung sĩ Hidemasa Yanagiya và Trung sĩ Raita Irie. Những người nầy đã từng ra đi một lần, cũng trên tiềm thủy đỉnh nầy và đã trở về.
Do đó, sứ mạng hiện tại bao gồm 12 "tiềm thủy đỉnh tự sát", chống lại với các chiến ham tập trung ở hải phận Okinawa.
Tôi đã kinh ngạc khi biết được mục tiêu ưu tiên của chúng tôi sẽ nhắm vô các chiến hạm địch thả neo ngay sát các hòn đảo do lực lượng Nhựt chiếm giữ. Chúng tôi sẽ không được tấn công những loại tàu nào khác trừ phi chúng tôi gặp một số lượng đông đảo. Hoặc gặp một đoàn tàu bao gồm những hàng không mẫu hạm và thiết giáp hạm chúng tôi mới được phép đổi hướng mục tiêu chánh. Việc nầy cho thấy tình thế đã trở thành tuyệt vọng.
Bởi hiện tại lực lượng tiềm thủy đỉnh loại lớn của chúng tôi đã giảm xuống gần như đến con số không. Ngoài bốn chiếc đang thực hiện sứ mạng Tatara, chỉ còn lại một hai chiếc. Chúng tôi phải lựa chọn những mục tiêu tốt nhứt để đánh, đó là lí do tại sao đại chiến hạm địch là mục tiêu ưu tiên của chúng tôi.
Kaiten được buộc vô I.47 sau ngày chiếc tàu cập bến Hikari, và mang chúng tôi ra khơi để thử áp lực dưới độ sâu. Nếu buổi chạy thử hoàn hảo, chúng tôi sẽ phát xuất cuộc tấn công vào ngày 29 tháng Ba.
Ngay ngày mới tới, sau bửa ăn trưa, Thiếu tá Orita đưa cả sáu người chúng tôi xuống một chiếc tàu nhỏ để ra tiềm thủy đỉnh I.47. Đại úy Obori, phụ tá của ông tập hợp thủy thủ đoàn ngay khi chúng tôi bước lên tàu. Trong một vài phút, tôi hiểu tại sao I.47 có được một thành tích chiến đấu như vậy. Khi lịnh tập hợp ban ra, thủy thủ các cấp đã túa ra sắp hàng ngay ngắn. Tôi thầm nghĩ, đây mới đúng là hành động trên mặt biển, trong lúc chiến đấu. Tiềm thủy đỉnh nầy chiến đấu hữu hiệu là một điều không đáng ngạc nhiên.
Orita nói:
"Tôi muốn giới thiệu những hoa tiêu Kaiten của chúng ta với các bạn."
Sau đó, ông giới thiệu cấp bậc và tên họ từng người một, bắt đầu là Trung úy Kakizaki. Mỗi lần được giới thiệu, các thủy thủ đều nhìn chúng tôi mỉm cười và chúng tôi gật đầu đáp lễ. Đứng đây, nhìn thấy nỗi hân hoan mừng đón trong đôi mắt của họ, tôi cảm thấy ấm áp dễ chịu.
Khi cuộc tập hợp được giải tán. Hạ sĩ quan thường vụ của I.47 là Thượng sĩ Fujisaki bước đến chúng tôi và nói:
"Tôi lấy làm hân hạnh về sự hiện diện của quí vị trên tàu nầy. Thông thường, mỗi chuyến ra đi, chúng tôi có tổ chức một buổi trình diễn tài tử. Một số người tỏng thủy thủ đoàn nầy có biệt tài, kể cả sĩ quan. Nếu quí vị không bận, tôi hi vọng quí vị có thể tham dự. Một số trong quí vị đây chắc cũng có tài riêng để góp tay vô buổi trình diễn."
Trung úy Kakizaki thay mặt cả bọn nhận lời mời. Sau đó, chúng tôi xem xét qua Kaiten của chúng tôi. Gần mũi Kaiten của tôi nhân viên bảo trì có viết mấy dòng chữ "Chắc chắn", "Địch Quân", "Chớp Nhoáng". Mấy chữ nầy đã mang đến may mắn cho ngày hôm đó. Buổi chạy thử hoàn hảo. Nhưng khi trở vô vịnh, chúng tôi phải từ chối lời mời tham dự buổi trình diễn của Thượng sĩ Fujisaki. Một ám hiệu từ căn cứ ra lịnh cho sáu hoa tiêu Kaiten lên bờ.
Ngày hôm sau, 27 tháng Ba, một ngày hoàn toàn yên tĩnh. Tất cả Kaiten đều được mang lên bãi, đặt trên những mảng bằng cây và chúng tôi kiểm soát đi kiểm soát lại để các cơ khí viên điều chỉnh lần cuối cùng trước khi lâm trận. Thấy im lìm, tôi đoán chừng sẽ không có buổi tiệc tiễn hành, như thường thấy trong mỗi sứ mạng trước đây. Nhưng sau bữa ăn tối, tin tức đưa đến cho biết buổi tiệc nầy sẽ được tổ chức. Có khoảng 70 người sẽ tụ hội ở nhà ăn sĩ quan để nâng ly tiễn chúng tôi lên đường.
Khi tất cả chúng tôi ngồi xuống, Đề Đốc Mitsuru Nagai, đương kiêm Tư Lịnh Đệ Lục Hạm Đội bước vô. Tất cả chúng tôi đều đứng dậy, trong khi vị Đề Đốc và Bộ Tham Mưu của ông tiến đến chổ ngồi. Thiếu tá Koreeda, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hikari, mở lời sau khi tất cả chúng tôi đều ngồi xuống. Ông nói:
"Chúng tôi lấy làm vinh hạnh vì sự hiện diện của Đề Đốc Nagai đêm nay, trong bửa tiệc danh dự nầy được mở ra để cầu chúc cho Trung úy Kakikazi và năm đồng đội của ông thành công..."
Đề Đốc Nagai đứng dậy và nói:
"Tôi cầu chúc cho những hoa tiêu Kaiten thuộc toán Tatara thâu đạt thành công. Tôi hy vọng mỗi người trong các anh đều hạ được một kẻ thù của chúng ta. Lúc đó, linh hồn của các anh sẽ bay đến Yasukuni, để nhìn sự bất diệt của xứ sở thần thánh Nhật Bản. Tôi xin đảm bảo rằng chúng tôi, những người còn lại của Đệ Lục Hạm Đội, chúng tôi sẽ làm mọi cách để an ủi và giúp đỡ những người thân yêu của các anh. Gia đình của các anh sẽ được chu toàn."
Chỉ huy phó căn cứ của chúng tôi, Đại úy Mayata đứng dậy thật mau và nói lớn:
"Rót rượu!"
Những chai sake đặt rãi rác trên các bàn xung quanh, mọi người muốn uống bao nhiêu thì cứ việc rót. Đề Đốc Nagai đích thân rót sáu ly rượu đầu tiên cho các hoa tiêu Kaiten chúng tôi. Sau đó, Thiếu tá Koreeda giơ ly rượu của ông lên cao và nói:
"Tôi xin chúc mừng những người dũng cảm sắp ra đi. Xin tất cả hãy nâng ly với tôi"
Trước khi đến Hikari, tôi ít uống rượu, nhưng tôi coi đây là một buổi lễ đặt biệt, nên đã nốc cạn một ly đầy. Một thoáng yên lặng sau tuần rượu nầy, nhưng tan biến ngay khi Trung úy Horoshi Hashiguchi, một sĩ quan trẻ tuổi cuồng nhiệt đã tự sát sau nầy, đứng dậy và đề nghị mọi người cùng hát bản "Chiến sĩ ca"
Ra khơi, sóng bạc chôn vùi
Lên bờ, cỏ nội ngậm ngùi xác thân
Một đi, không ngại không ngần
Một đi, hồn đã hiến dân Thiên Hoàng.
Tiếng hát vang động khắp căn phòng rộng lớn. Tôi nhắm mắt lại, lắng nghe và nghĩ đến Nishina, Yazaki, Miyoshi, và những người đã ra đi về bên kia cõi khác. Mọi phân vân trong lòng tôi tan biến. Tôi đã chấp nhận. Tôi không còn cân nhắc thiệt hơn, không còn tự vẫn tại sao tôi ra đi. Hai ngày nữa, tôi lên đường! Tôi không hứa sẽ làm một cái gì vĩ đại, như những người khác đã hứa trong các buổi tiệc như thế nầy. Tôi sẽ ra đi một cách đơn giản, làm tất cả sức mình, để tiêu diệt kẻ thù.
Với ý nghĩ đó, tôi đưa ly về phía Trung úy Mitami đang ngồi gần tôi. Ông rót rượu vô ly, và tôi uống cạn. Hết ly nầy tới ly khác. Căn phòng bắt đầu quay cuồng trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy Trung úy Kakizaki, Trung úy Meada và Trung sĩ Furukawa ở phía bên kia căn phòng đang ca hát. Tôi gượng dậy, bước lảo đảo ngang qua phòng tiến đến họ. Tôi tựa vô một người và cất tiếng hát. Rượu sa kê lai láng. Tiếng la hét càng lúc càng dâng cao, trong đó có tôi. Một người la lớn:
"Đừng quên nghe! Chúng tôi hy vọng các anh làm nên việc!"
Một người khác:
"Chúng tôi sẽ sớm theo các anh!"
Và tiếng của người thứ ba:
"Sáu hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ! Hãy hạ chúng!"
Thêm nhiều bài hát được cất lên, trong đó có bài "Hải Quân Hành Khúc" và những bài khác quen thuộc với thủy thủ Nhật Bản. Hơn năm mươi người chúng tôi vẫn còn rống cổ ca hát khi buổi tiệc kết thúc vào lúc 10 giờ 30 với ba tiếng la "muôn năm" dành cho các hoa tiêu Kaiten. Tôi xiểng niểng và Shinkai cũng không hơn gì. Hai Trung úy Kakizaki và Maeda được khiêng về phòng. Tôi không thấy Furukawa và Yamaguchi, tôi chắc hai tên nầy đã chui vô một xó nào đó để tiếp tục uống nữa. Nhứt là Yamaguchi, một tay đại tửu lượng. Sau khi nốc hai ba lít, hắn thường nói:
"Tôi là dân Kyushu, không những mạnh uống mà còn mạnh về đàn bà nữa!"
Cái mạnh sau của hắn thì tôi không biết rõ, nhưng cái manh trước thì tôi hoàn toàn tin tưởng. Tôi chưa từng thấy có người nào uống rượu hơn hắn, uống rồi vẫn tỉnh bơ, vẫn làm nhiệm vụ vào sáng hôm sau. Lúc uống rượu, Yamaguchi thường hay nói rằng khi tình nguyện thi hành sứ mạng Kaiten, hắn chỉ tiếc một điều: dưới âm phủ không có rượu sa kê.
Đêm chỉ kết thúc đối với tôi và Shinkai lúc Trung úy Kozu xốc nách chúng tôi về phòng. Chúng tôi chúi xuống giường với quần áo nguyên vẹn.
Sáng hôm sau, tôi cảm thấy đầu tôi nặng còn hơn tượng Phật vĩ đại ở Kamakura. Việc đầu tiên của tôi là chạy đến cái ấm nước trà, ngước đầu về phía sau và trút nước vô miệng. Tôi uống không còn một giọt. Sau đó tôi cảm thấy dễ chịu chút ít. Tôi nhủ thầm: "Ngày hôm nay sẽ là một ngày mệt dữ đây!" Tôi phải có mặt trên tiềm thủy đỉnh khi Kaiten được xếp lên. Tôi cũng phải dọn dẹp căn phòng nầy và xếp các vật dụng cá nhân. Những gì để lại đây sẽ được gởi về gia đình sau khi tôi đã chết. Các hạ sĩ quan khác vẫn còn ngày khò khò. Tôi ngại đánh thức họ dậy, nhưng không làm sao hơn. Họ cũng có nhiều việc phải làm như tôi. sau khi tôi rửa mặt, nít thêm một số nước nữa và đi gặp Trung úy Kakizaki và Meada.
Khi bước vô phòng của họ, tôi bật cười. Hai người ngủ chung một giường, chỉ mặt áo thun lá, ôm nhau như đôi vợ chồng. Tóc tai của Trung úy Kakizaki bù xù. Cả hai ngáy vang như sấm. Nếu có một cái máy chụp hình thì hay biết mấy. Tôi gọi lớn:
"Trung úy Kakizaki!"
Tôi gọi hai ba lần. Ông mở mắt, nhìn chăm chú nhưng tôi chắc ông ta không thấy tôi. Kakizaki dụi mắt nhiều lần và cuối cùng nhận ra tôi, mỉm cười, ngồi bật dậy và lay gọi Maeda. Tôi quay về phòng và hài lòng khi thấy mọi người đã thức dậy lo dọn dẹp đồ đạc. Tôi thâu tóm vật dụng cá nhân, buộc chung thành một gói để gởi về nhà.
Mấy chiếc Kaiten được đưa lên I.47 lúc 11 giờ 30 sáng. Tất cả đều đã gắn đầu đạn, được nhân viên bảo trì và quân cụ xem xét cẩn thận. Hiện thời trước mũi của mỗi Kaiten chứa 3.000 cân Anh chất nổ cực mạnh, và được một tàu cần trục đưa ra tiềm thủy đỉnh đậu ở ngoài xa. Kaiten của tôi mang số 3, xếp gần lái. Tôi vổ vổ vô hông nó, như người ta vổ một con vật thân yêu và nói: "Hãy thi hành nhiệm vụ cho tốt đẹp nghe!" Câu nói nầy chính là câu nói của không biết bao nhiêu sĩ quan đã nói với tôi trong suốt 8 tháng qua. Sau đó, tôi leo vô bên trong Kaiten để kiểm soát các dụng cụ. Hài lòng, tôi leo trở ra và báo cáo với Hạm Trưởng Orita. Mọi sự kiểm soát chấm dứt và chúng tôi trở về doanh trại lúc 4 giờ 30 chiều. Nơi đây, một vật đang nằm chờ tôi, Shinkai, Yamaguchi và Furukawa. Trên giường của chúng tôi có bốn bộ quân phục mới toanh, bao gồm áo lót, bao tay trắng, và đôi giày. Mấy thứ nầy là lý do mà sĩ quan tiếp liệu yêu cầu chúng tôi cho kích thước một vài ngày trước đây. Tôi nghĩ đây là đồ lịm xác của tôi. Thật là phí của! Nhứt là đôi giày. Có lẽ nó sẽ được mang không đầy một tuần, trên hải trình từ đây đến Okinawa. Tôi cảm thấy tốt hơn là nên trai mấy thứ nầy cho một người có thể "tận dụng" chúng.
Những chuẩn bị cuối cùng của tôi phải được làm vội vàng. Tôi đã gởi thơ cho gia đình, ám chỉ xa gần rằng lần nầy có lẽ là lần cuối cùng những người thân nghe được tin tức về tôi.
Mọi nới lỏng hiện thời đã được thắt lại. Tôi sẵn sàng ra đi.
Sáng hôm sau, ngày 29 tháng Ba năm 1945, tôi thức dậy hối hả. Tôi nhảy xuống giường, quơ chiếc khăn lông và chạy vô phòng tắm. Khi tôi đang kỳ cọ một cách sản khoái, miệng hát nho nhỏ, một giọng cất lên từ phía sau tôi.
"Chào anh! Yokota!"
Đó là Thiếu úy Kishie Kirizawa, cũng là một hoa tiêu Kaiten, và là người lùn nhứt ở Hikari.
Tôi ngưng tắm và quay lại:
"Chào Thiếu úy!"
Tôi tự hỏi hắn gặp tôi có chuyện gì. Kirizawa, một tay chắp sau lưng, nói tiếp:
"Tôi đến phòng anh để chúc anh gặp may mắn trong sứ mạng, nhưng không gặp anh ở đó."
"Cám ơn, thiếu úy! Chúng tôi sẽ cố gắng lấp đầy khoảng trống mà Đại úy Miyoshi và Trung sĩ Yazaki để lại"
"Tốt lắm!"
Hắn nói và rút cánh tay chấp phía sau ra. Trong tay hắn cầm một con búp bê nhỏ nhắn và rất xinh xắn.
"Tôi tự hỏi anh có thích mang vật nầy đi theo anh không?"
Hắn ta vừa nói vừa trao con búp bê cho tôi
"Utsujushii sesu! Đẹp quá! Con búp bê nầy chắc làm bằng tay. Tại sao Thiếu úy muốn tôi mang nó theo?"
Hắn nói:
"Đừng nên hỏi tôi một câu gì hết! Hãy cứ mang nó đi theo anh. Nếu anh nhận lời, tôi mang ơn anh lắm!"
Tôi quyết định không hỏi thêm nữa, vì tôi nhận thấy đôi mắt của hắn lộ vẻ bối rối.
"Cảm ơn! Thiếu úy nhiều!"
Hắn quay lưng, và tôi tiếp tục tắm với đầu óc đầy nghi vấn. Lý do nào hắn cho tôi con búp bê nầy? Hay hắn không nở quăng nó nên nhờ tôi mang đi? Có lẽ đây là con búp bê do một người yêu cũ tặng hắn, và hắn muốn lãng quên kỷ niệm bằng cách nầy. Hoặc gia đình hắn đã may cho hắn con búp bê nầy, coi như lá bùa hộ mạng trong chiến đấu. Với chỉ một vài tiềm thủy đỉnh còn lại, chắc chắn có một số hoa tiêu Kaiten không bao giờ được chọn lựa để thi hành sứ mạng, do đó hắn không mong gì được ra đi. Tôi nhún vai, nghĩ rằng một người khó có thể tự tìm hiểu tư tưởng một người khác. Tôi tắm xong, mang nhét con búp bê vô túi áo. Tôi phải mau lên mới được. Tôi cần chút ít thời giờ để đi từ giả một số sĩ quan đã đối xử tốt với tôi.
Tôi gặp Đại úy Miyata ở cửa phòng thuộc khu cư trú của sĩ quan. Ông nói:
"May mắn, Yokota!"
Tôi mĩm cười, và chào ông, rồi bước dọc theo dãy hành lang, đến những căn phòng khác, gỏ cửa và nói lời cảm ơn về sự đối xử tốt của một số sĩ quan đối với tôi trong thời gian tôi ở Hikari. Khi đến một căn phòng khác, tôi vừa cúi đầu và bắt tay chủ nhân, tôi tự hỏi: "Hạnh phúc của một người là gì? Đó là giữ sự tốt đẹp mãi mãi trong tâm trí những người mà hắn quen biết." Tring một đôi ngày tới đây, tôi sẽ không còn nữa. Dĩ nhiên, tôi không biết chắc mình sẽ chết theo cách nào. Có lẽ tôi không có dịp tấn công địch quân. Tôi có thể chết, với tất cả thủy thủ đoàn, dưới đáy sâu của Thái Bình Dương, như một số hoa tiêu Kaiten khác đã chết, vì sớm bị kẻ thù khám phá và sát hại. Tôi muốn trong tâm trí của những người mà tôi từng hợp tác ở đây sẽ thoáng nhớ đến tôi. Những tiếng gõ trên mấy cánh cửa nầy có lẽ là cố gắng cuối cùng trong đời sống của tôi cho niềm hạnh phúc ấy.
Khi tôi trở về phòng riêng, Shinkai, Furukwa và Yamaguchi đã mặc quần áo mới.
Shinkai hỏi:
"Bạn đi đâu? Trể rồi!"
Tôi đáp:
"Thăm mấy sĩ quan của căn cứ..."
"Tốt, tôi nghĩ đó là vấn đề lễ độ..."
Hắn không nói nữa, có lẽ thấy tôi không muốn thảo luận xa hơn về việc nầy. Tôi bước đến bộ đồng phục mới của tôi và nói:
"Nào, các bạn hãy quay mặt chổ khác, đừng nhìn tôi. Tôi thay quần áo đây.!"
Tôi uốn éo qua lại ngắm nghĩa bộ đồ mới. Shinkai la lớn:
"Hazukashii, masume san!"
Một cô gái e lệ thẹn thùng, hắn gọi tôi như vậy rất đúng. Nhiều người khác trong doanh trại tụ quanh và nhìn chúng tôi một cách buồn bã. Lúc tôi mặc quần áo xong, một số thủy thủ làm việc ở phòng ăn sĩ quan mang đến cho chúng tôi một tặng phẩm của các sĩ quan. Đó là một con cá chiên ướp muối to lớn. Ở Nhật Bản, trong những dịp vui mừng người ta có tục lệ gởi tặng vật như thế nầy. Kẻ vắng nhà lâu ngày vừa trở về, một người thăng quan tiến chức được bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng hoặc thi đậu chẳng hạn, và kể cả ngày thôi nôi của một đứa trẻ, và vào ngày đầu năm mới. Đó là ngày nhà cửa được lau chùi sạch sẽ, giấy mới được dán trên các cánh cửa Shoji, và cửa sổ. Chiếu mới thay chiếu cũ trên nền nhà. Nợ nần đều được thanh toán. Các bà nội trợ chấm dứt công việc bếp núp, mặc những bộ kimono xinh đẹp và đi thăm viếng đó đây. Quang cảnh hiện tại cũng giống như một ngày Tết đối với tôi. Mọi thứ đều sạch bóng, ngay cả đầu óc của tôi. Tôi đổi mới đời sống, dù ngắn ngủi.
Tôi cảm ơn các thủy thủ mang cá đến và mời những người khác cùng ăn với chúng tôi.Chúng tôi nuốt vội nuốt vàng khi loa phóng thanh kêu gọi tất cả hoa tiêu Kaiten tập hợp ở thính đường. Furukawa hét lớn:
" Iko! Đi!"
Hắn ba chân bốn cẳng, với ba đứa chúng tôi theo sát phía sau. Chúng tôi vừa chạy vừa nhìn xuống bộ quân phục để coi thức ăn có dính trên đó hay không.
Các lễ nghi đặt biệt diễn tiến trong thính đường, và sau đó mỗi chúng tôi được trao một thanh đoản kiếm. Sáu chúng tôi đứng thành một hàng ngay ngắn. Hàng phía sau chúng tôi là hai Trung sĩ Yoshio Hagita và Teruaki Mizumo cùng với bốn Thượng sĩ Mitsuo Kobayashi, Takettoshi Tsukumi, Eishun Oshiro và Shoji Nao. Sáu người nầy sẽ đi chung với chúng tôi trên chiếc I.47, mỗi người đảm trách bảo trì một chiếc Kaiten. Họ sẽ kiểm soát lại lần cuối cùng và giúp đỡ hoa tiêu leo vô Kaiten ngay trước khi cuộc tấn công bắt đầu. Tất cả thủy thủ ở căn cứ đều có mặt trong buổi lễ đặt biệt nầy. Một số khó thể dấu diếm nỗi vui buồn lẫn lộn của họ. Họ mừng cho chúng tôi, nhưng buồn bã vì chưa tới phiên họ ra đi. Sự khiếm khuyết Kaiten đã bất đầu gây trì trệ cho chương trình nầy ở Otsujima. Sau đó, khi Kaiten được sản xuất đồng loạt, lại vấp phải vấn đề khiếm khuyết cơ khí viên. Hiện thời lại thiếu tiềm thủy đỉnh để chuyển vận chúng tôi ra mặt trận. Mặc dù mọi nổ lực được đưa ra, nhưng mỗi lần chỉ có một số Kaiten thi hành nhiệm vụ mà thôi.Khi được gọi tên, chúng tôi giở nó ra và khom mình. Một tấm vải trắng được trải trên một chiếc bàn rộng, và Thiếu Tá Koreeda, Chỉ huy trưởng căn cứ đứng phía sau. Các thanh đoản kiếm với sáu "hachimaki" đặt trên mâm.
Tôi là người cuối cùng được gọi. Trung úy Hamaguchi, sĩ quan chỉ huy phòng bảo trì của toán bảo trì, chính là người đã gọi tên chúng tôi, lấy "hachimaki" thứ sáu quấn quanh đầu tôi. Trên chiếc khăn có viết mấy chữ sắt sảo "Shichi sho hokoku" (Tái sanh bảy lần để phục vụ quốc gia). Đây là khẩu hiệu của Masashige Kusunoki, một chiến tướng của nhiều thế kỷ trước đây, nhằm chứng tỏ lòng trung thành của ông đối với Thiên Hoàng. Mỗi chúng tôi được trao một chiếc ly đầy nước để uống. Đây là ly nước tử biệt, và là một giây phút trang nghiêm nhứt. Theo truyền thống, một chiến sĩ Nhật Bản sắp diện với cái chết đã uống nước lạnh, thay vì sa kê, mang ý nghĩa chứng tỏ linh hồn trong sạch của hắn. Khi chúng tôi từ từ uống ly nước nầy, cả hàng mấy trăm người hiện diện đều im phăng phắc. Sau đó, chúng tôi đứng trước vị chỉ huy trưởng căn cứ và ông trao cho mỗi chúng tôi một thanh đoản kiếm. Ông nói:
"Đây là tặng vật đặt biệt của Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng Tư Lịnh Hạm Đội Hỗn Hợp."
Chúng tôi cừng giơ thanh kiếm lên, đầu chuôi ngang tầm mắt. Đây là cử chỉ thách đấu của một Samurai tront thời phong kiến ở Nhật Bản. Hiện tại chúng tôi lập lại cử chỉ nầy, thách thức của chúng tôi nhắm vào hạm đội Hoa Kỳ.
Chúng tôi bước ra ngoài để chụp hình. Sau khi việc nầy chấm dứt, những người khác đứng thành hai hàng, và chúng tôi bước giữa hai hàng người nầy để ra cầu tàu, cầm thanh đoản kiếm đưa về phía trước để chào. Mắt của mọi người ngời sáng, một số lấp loáng những hạt lệ nhưng cố ngăn lại, như để khỏi gây rũn chí cho kẻ ra đi. Tôi vui vẻ chúc tất cả những người đứng hai bên đường gặp nhiều may mắn trong tương lai. Tay trái tôi cầm hủ sành đựng hài cốt của Yazaki, tay mặt cầm thanh đoản kiếm, tôi mĩm cười vui vẻ tiến đến cầu tàu. Chiếc xuồng máy đưa chúng tôi ra tiềm thủy đỉnh I.47 cũng mang vẻ rộn rã như mọi cảnh vật xung quanh. Trên những tàu cần trục, những chiếc ngư lôi đĩnh, và tàu nhỏ khác đều tràn ngập biểu ngữ, mang những giòng chữ khích lệ. Chúng tôi vẩy nón quanh đầu đáp trả đám đông đứng trên cầu tàu. Nhiều người khác đứng dọc theo bải biển, hoan hô vang dậy, không khác nào tiếng sấm. Xuồng máy cập vô tiềm thủy đỉnh, chúng tôi bước lên boong. Đề đốc Nagai chờ sẵn chúng tôi ở đây. Ông bắt tay từng người một và nói:
"Vĩnh biệt, và chúc các anh may mắn!"
Những giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má ông. Tôi cố giữ vẽ bình thản, không để lộ một cảm giác hối tiếc hoặc xúc động nào, nhưng khó thể được, khi tay của vị Đề đốc siết chặt tay tôi.
Đề đốc Nagai nói một đôi lời vắn tắt, trong lúc thủy thủ đoàn I.47 đứng nghiêm dọc theo sàn tàu chánh và các hoa tiêu Kaiten đứng trước vũ khí của họ. Sau đó, ông bước xuống tàu riêng chạy vô bờ, và một hồi kèn trổi lên, ra lịnh cho thủy thủ đoàn trở về vị trí trong lúc tiềm thủy đỉnh chuẩn bị lên đường.
"Kiếm chào!Bắt!" Trung úy Kakizaki hét lớn khi tàu bắt đầu hướng ra khơi. Những chiếc xuồng máy và ngư lôi đĩnh chạy dọc theo hai bên tiềm thủy đỉnh, hộ tống chúng tôi rời khỏi hải cảnh. Tôi nhận ra ngư lôi đĩnh 220, chiếc tàu đảm trách buổi thực tập Kaiten đầu tiên của tôi. những người đứng trên sàn tàu vẩy gọi inh ỏi. Tôi có thể nhìn thấy Trung sĩ Yuasa. Hắn từng phục vụ trên thiết giáp hạm khổng lồ Yamato một thời gian, và giúp đỡ tôi rất nhiều trong các buổi huấn luyện Kaiten. Hắn la lớn:
"Ràng làm cho ngon lành nghe, Yokota"
Tôi cũng la lớn, vẫy kiếm quanh đầu.
"Tôi sẽ ráng. Anh sẽ sớm nhận được tin mừng lớn của tôi! Một tuần nữa thôi!"
Các ngư lôi đĩnh bắt đầu tụt lại phía sau. Chúng không thể xài phí quá nhiều nhiên liệu, ngay cả trong dịp quan trọng nầy. Những chiếc tàu khác giây lát sau cũng chạy chậm lại, các thủy thủ trên boong vừa vẩy tay vừa la hét cho đến khi chúng tôi chạy xa hẳn, không còn nhìn thấy họ nữa. Khuôn mặt của Anzai, Nagato, Ishibashi, Ozawa, Tsuda và những khác với lời vĩnh biệt cuối cùng của họ vẫn còn khắc sâu trong trí tôi.I.47 xoay hướng và tiến về eo biển Bungo. Một khi qua khỏi hải trình nhỏ hẹp nầy, chúng tôi sẽ gặp kẻ thù
9. TRỞ VỀ TỪ CÕI CHẾT
Tôi vẫn đứng trên sàn tàu khi I.47 đi ngang qua đảo Iwo Jima, cách phía Nam Hikari 12 dặm. Hiện thời hai hòn đảo Ushi Jima và Oshima cũng đã ở phía sau lái. Nội Hải lấm chấm đảo muôn thuở vẫn đẹp trong tiết xuân. Mạng sống của chúng tôi được hi sinh cũng vì quê hương đáng yêu nầy. Tôi kiêu hãnh được gọi chiến đấu và được chết cho xứ sở, và niềm kiêu hãnh giục giả hơn nữa trong lần nhìn ngắm cuối cùng nầy. Thế rồi tiếng nói của Trung úy Kakizaki phá vỡ con mộng mơ của tôi.
"Nầy, Yokota, anh đang mơ mộng gì đó?"
Tiếng nói vui vẽ, lễ độ và dịu dàng toát ra từ khuôn mặt của một chàng thanh niên gốc nông thôn ấy luôn luôn gây cho tôi sự cảm động. Tôi biết, câu hỏi của ông ta không hề mang một ẩn ý cười cợt nào. Ông lưu ý, vì cứ thấy tôi nhìn đăm đăm về hướng Bắc.
Không muốn ông nghĩ rằng tôi quá nhiều tình cảm tôi nói:
"Ồ! Có mơ mộng gì đâu, thưa Trung úy!"
"Lại đây!"
Ông nói thật dịu dàng và đồng thời gọi mấy hoa tiêu Kaiten khác lại gần rồi tiếp:
"Tốt hơn hết là tất cả nên chuẩn bị ngày từ giờ phút nầy, đó là điều tôi muốn nhắc nhở các bạn. Chúng ta có thể bắt tay thi hành sứ mạng bất cứ lúc nào, ngày hoặc đêm. Hoặc là chúng ta đến Okinawa hoặc là chúng ta lâm trận giữa đường, nếu chúng ta gặp một hạm đội to lớn của đối phương. Chắc các bạn biết?"
"Chúng tôi biết, thưa Trung úy!"
"Tốt! Bây giờ tất cả chúng ta hãy vĩnh biệt gia đình lần cuối cùng!"
Chúng tôi quay mặt qua hữu mạn, mỗi người nhìn phỏng chừng về hướng thành phố sinh quán. Tôi cúi khom mình về hướng Đông Kinh, khấn vái người mẹ quá cố của tôi, cầu nguyện cho những người thân còn lại, cho những vị thầy dạy và các bạn bè thuở ấu thời của tôi. Qua biển cả bao la, tôi nói với họ:
"Trong sự nâng niu trìu mến, tôi đã lớn lên. Tôi đã từng nhận lấy niềm lo âu, tận tụy mà tất cả đã dành cho. Tất cả hãy tha thứ cho tôi, khi nghe tin tôi chết. Đời sống của tôi ngắn ngủi nhưng đầy đủ hạnh phúc, bởi vì ai ai cũng đối xử tử tế với tôi."
Lúc 1 giờ 30 trưa, chúng tôi đã ở đầu phía Bắc của eo biển Bungo. Khi Hải Quân Hoàng gia Nhựt ngự trị một phần ba đại dương của thế giới, eo biển nầy là cánh cửa mở ra những chiến thắng của các lực lượng đặc nhiệm hùng mạnh của chúng tôi. Tuy nhiên kể từ cuộc chiến bại ở đảo Midway, các lực lượng hải quân Nhựt đã bị đẩy bật hẳn về phía Bắc. Phi cơ Thần Phong và tiềm thủy đỉnh tự sát là hai chướng ngại vật cuối cùng để ngăn chặn bước tiến của Hoa Kỳ. Chỉ một ít tiềm thủy đỉnh lướt qua eo biển Bungo trong thế công. Hầu hết số tàu nầy là loại tuần duyên nhỏ, tầm hoạt động và hỏa lực giới hạn. Đến Okinawa, phóng năm sáu trái thủy lôi, và trở về, đó là những gì tốt nhứt mà những tiềm thủy đỉnh nầy có thể làm. Nhưng sau nầy, chúng bị khu trục hạm cũng như phi cơ của Hoa Kỳ phát hiện và đánh chìm đều đều.
Bây giờ, tôi có thể nhìn thấy rặng núi Kyushu xanh rì ở bên phải, khi I.47 chạy thẳng về hướng Nam. Dân chúng sống dọc theo bờ biển nầy đã biết bao lần cảm thấy tim đập rộn ràng trong niềm kiêu hãnh, khi Hạm Đội Hỗn Hợp hùng mạnh đã ra đi và trở về thả neo chánh của nó ở Hashirajima, trên Nội Hải. Tôi chỉ nhìn thấy Hạm Đội Hỗn Hợp một lần, trong vịnh Đông Kinh, lúc tôi còn nhỏ. Nhưng một lần cũng gây một ấn tượng sâu xa đến nổi tôi vẫn luôn luôn mong ước trở thành một thủy thủ Hải Quân. Hiện thời, người dân Kyushu phải buồn rầu biết bao, khi họ nhìn thấy chiến hạm nhỏ hoặc từng chiếc què quặt, lê lết vô eo biển Bungo. Mỗi một lần trở về là mỗi một lần nghe thiệt hại nặng nề.
Tôi tự hỏi tương lại còn lại những gì? Lá cờ Mặt Trời Mọc một ngày nào đó sẽ lại tung bay khắp Thái Bình Dương? Sáu anh em chúng tôi sẽ chết, nhưng thế giới của những người sống sẽ như thế nào?
Đông Kinh bị pháo đài bay B.29 oanh tạc không ngừng nghỉ, như tất cả các thành phố khác của Nhật Bản. Đồng bào của tôi đang chịu đựng sự khốn khó, và sẽ khốn khó hơn nữa sau khi chúng tôi nằm xuống. Sáu người đầu tiên trong toán Tatara của chúng tôi ra đi, và những người khác sẽ nối bước theo sau, nhưng không cùng chung một tính thế. Lúc những dãy núi quê hương còn nằm trong tầm mắt, chúng tôi đã ở trên hải phận thù nghịch. Việc nầy trở thành một câu nói quen thuộc ở Nhật Bản vào năm 1945. "Một khi ra khỏi eo biển Bungo, các bạn đã ở giữa kẻ thù."
Lịnh ban ra cho toàn thể thủy thủ của I.47 nằm trong tư thế sẵn sàng. Đây là làn ranh cuối cùng trước khi bước vô những khu vực chiến đấu. Trong lúc tàu chạy trên Nội Hải ít ra chúng tôi còn có thể nghỉ ngơi đôi chút. Truyền tìn sẽ báo phi cơ địch tiến đến đúng lúc để tiềm thủy đỉnh lặn xuống kịp thời. Nhưng bây giờ, mặc dù vẫn còn ở hải phận của eo biển Bungo thuộc Nhật Bản, chúng tôi đã phải gia tăng tốc độ và chạy theo hình chữ chi. Tiềm thủy đỉnh Hoa Kỳ hiện thời lãng vãng cánh các eo biển của chúng tôi. Chúng tôi không thể nào để cho đoi mắt "sắc bén" của một tên Yankee đo lường hướng tiến và tốc độ chính xác của qua tiềm vọng kính rồi quạt thủy lôi vô tàu của chúng tôi. Chạy hình chữ chi là phương cách tốt nhứt.
Chúng tôi được lịnh rời khỏi sàn tàu chánh, chỉ còn lại một vài sĩ quan và quan sát viên đứng trên đài chỉ huy lộ thiên. Tôi bước đến cầu thanh, nhìn về hướng quê hương lần cuối cùng, rồi bước xuống hầm tàu. Bốn hạ sĩ quan chúng tôi được ở một phòng gần mũi tàu, chung với thủy thủ đoàn, cách phòng hai Trung úy Meada và Kakizaki.
Tôi sẽ không làm gì trong một thời gian. Một vài vật tùy thân của tôi được lôi ra. Đó chỉ là một chiếc đồng hồ ngừng được (dùng để đo tốc lực trong các môn chạy hoặc lội đua) và một số hải đồ. Ngay cả quần áo lót tôi cũng không mang theo. Tôi không thể tắm rửa và cũng không hy vọng lên sàn tàu trong vòng ba hoặc bốn ngày nữa, tức là khi chúng tôi đã nhìn thấy đối phương và chuẩn bị phóng đi. Vừa lúc tôi nghĩ đến việc lấy một quyển sách tong thư viện bỏ túi của I.47 để đọc, loa phóng thanh giới thiệu vị hạm trưởng sắp nói chuyện.
Tiếng nói của ông ta ấm áp và gây niềm tin. Tôi có thể thấy niềm tin nầy qua từng khuôn mặt của thủy thủ đoàn, khi họ nghe vị chỉ huy lên tiếng. Thiếu tá Orita nói:
"Bây giờ chúng ta sắp qua khỏi eo biển Bungo, và hy vọng chạy trên mặt nước cho đến rạng đông hôm sau. Tôi đòi hỏi những nổ lực tối đa của thủy thủ đoàn để đưa 6 hoa tiêu Kaiten thuộc nhóm Tatara nầy tiến sát vô đói phương, để họ có đủ cơ may đánh ngay trái tim kẻ thù. Trước đây các bạn đã gắng sức làm việc gấp đôi, lần nầy tôi biết các bạn cũng sẽ làm được."
Ông ta dứt lời. Tôi đứng đó, không biết làm gì. Các thủy thủ chưa tới phiên trục nằm xung quanh, nói chuyện, đọc sách hoặc ngủ. Tôi cảm thấy không được thoải mái giữa những người nầy. Họ nhìn bốn đứa tôi với ánh mắt ân cần, nhưng có lẽ họ thấy không thiết đến chuyện làm thân với những người sẽ gặp tử thần không bao lâu nữa. Chúng tôi là những hạ sĩ quan hoa tiêu Kaiten đầu tiên đi trên chiếc I.47, đó là một điều khó hòa hợp khác. Trước chúng tôi, chiếc tàu chỉ chở toàn sĩ quan hoa tiêu, và sĩ quan không sống chung với thủy thủ đoàn. Không muốn có sự chán nản nhen nhúm trong lòng, tôi đề nghị với ba đồng đội khác đi tim hai Trung úy Meada và Kakizaki. Sau đó, chuông báo động vang lên khắp nơi trong tiềm thủy đỉnh.
Chúng tôi nghe tiếng la: "Lặn xuống!" Lần đầu tiên mang cảm giác chiến tranh thật sự, chúng tôi đứng bất động, nhưng cũng đủ khôn ngoan nép sang một bên trong lúc thủy thủ chạy túa vô các vị trí của họ. Trung úy Kakizaki nói, lúc không khí tràn xuống từ đài chỉ huy ngưng lại vì cửa hầm đã đóng.
"Chúng ta khó ra khỏi eo biển Bungo!"
Sự thay đổi áp lực khi chiếc I.47 chúi xuống nước khiến tai tôi lùng bùng. Mọi tiếng động dần dần lặng trang.
Giây lát sau, tôi có thể nghe những âm thanh lạ vọng đến từ bên ngoài tiềm thủy đỉnh. Tôi hỏi:
"Tiếng gì vậy?"
Trung úy Kakizaki đáp:
"Có lẽ phi cơ địch!"
Ngay lúc ấy, hoa tiêu chiếc tiềm thủy đỉnh bước vô phòng chỉ huy và nói:
"Các quan sát viên phát hiện một nhóm phi cơ. Thoạt đầu chúng tôi tưởng các phi cơ nầy xuất phát từ Miyazaki, một căn cứ không quân lớn của Nhật Bản gần Kagoshima!"
Sở dĩ hắn tưởng như vậy là vì dãy núi Kyushu vẫn còn hiện lờ mờ trong tiềm vọng kính. Hắn tiếp:
"Tuy nhiên, không phải! Đây là những chiến đấu cơ Grumman của Hoa Kỳ. Âm thanh quí vị vừa nghe thấy vừa rồi là một số bom từ phi cơ thả xuống. Các phi công chiến đấu cơ không đủ khéo léo để tấn công tiềm thủy đỉnh, trừ trường hợp họ đến ngay trên đầu chúng ta mà không bị khám phá. Chúng tôi lặn xuống nước nhanh chóng và bọn phi công địch chỉ thả bom bên ngoài."
Hắn vung tay:
"Ngay bên cạnh nhà mà còn như vậy, chúng ta sẽ sớm gặp rắc rối lớn ở trước mặt!"
Hắn nói thật, nhưng cử chỉ của hắn bất cần. Tuy nhiên, tôi cảm thấy lo âu. Kẻ thù không chỉ đứng ngay của ngõ của nước Nhựt, mà hắn còn đập vô cửa với một nắm tay bằng sắt. Đúng là hàng không mẫu hạm địch hiện diện cách bờ biển của chúng tôi không xa mấy! Và phi cơ địch đang lướt phía trên những rặng núi mà tôi vừa mới nhìn ngắm.
Chúng tôi nổi lên mặt nước khoảng một giờ sau đó. Cuộc oanh tạc vừa rồi không hề gây xao xuyến cho thủy thủ đoàn. Chúng tôi ăn tối. Thức ăn ngon, món ra gu, trứng chiên, rau cải và cơm. Thức ăn của sĩ quan và binh sĩ giống nhau. Các thủy thủ cười lớn tiếng khi chúng tôi khen thức ăn của I.47 đầy đủ.
Họ nói:
"Đừng vội khen! Sau một tuần ở trên tiềm thủy đỉnh nầy các bạn sẽ không còn thèm ăn nữa. Lúc ấy thức ăn tươi đã sạch bách, chỉ còn lại đồ hộp mà thôi. Hầu hết mọi người đều sụt cân khi trở về."
Bọn hoa tiêu Kaiten chúng tôi nhìn nhau. Tôi biết tất cả cùng chung ý nghĩ. Thức ăn có thành vấn đề không? Chúng tôi và sự thèm ăn của chúng tôi, sẽ ra đi trước thời gian một tuần khá lâu.
Từ đây cho đến sáng I.47 chạy trên mặt biển. Tôi đánh bài với Shinkai và hai sĩ quan khác cho đến 10 giờ. Shinkai đánh bài rất hay. Hắn đã từng đi dạy học trước khi vô hải quân, trí thông minh rất bén nhạy. Khi đi, hắn mang theo một cái túi nhỏ đựng thơ do học trò cũ gởi tới, giống như tôi mang theo một cái hủ đựng cốt của Yazaki.
Lúc 10 giờ, Kakizaki nói:
"Tốt hơn là chúng ta nên đi nghỉ ngơi. Hãy ngủ, nếu có thể. Từ rạng đông, chúng ta không biết gặp địch quân lúc nào, phải luôn luôn cảnh giác."
Shinkai ngày khò khò liền tay. Tôi trăn trở mấy giờ liên. Giường trên tàu nhỏ hẹp hơn những chiếc giường tôi từng nằm. Chỉ đêm trước đây, tôi ngủ trên một chiếc giường rộng gấp hai chiếc giường nầy. Tôi nhìn những thủy thủ nằm chung quanh, họ ngủ ngon lành. Tôi ngủ gà ngủ gật khi chuông báo động vang lên. Chiếc I.47 bắt đầu lặn xuống. Tôi ngồi bật dậy, và mặc quần áo khi chiếc tàu lấy lại thăng bằng. Có người hỏi:
"Do shitanda? Có việc gì xảy ra?"
Sau đó ba thủy thủ có nhiệm vụ quan sát bước vô phòng ngủ, áo khoác bằng cao su của họ ướt đẩm nước biển. Họ nói:
"Chúng tôi nhìn thấy hai chiến hạm địch to lớn. Có lẽ là hai tuần dương hạm."
Loa phóng thanh vang lên:
"Tất cả vào vị trí chiến đấu!"
Trong một vài giây, phòng ngủ trống rỗng, chỉ còn lại tôi, Shinkai, Yamaguchi và Furukawa. Tôi nhìn đồng hồ: 2 giờ 50 sáng. Hạm trưởng Orita sẽ phóng các Kaiten? Tôi không nghĩ như vậy, nhưng vẫn chuẩn bị sẵn sàng để phòng trường hợp nầy xảy ra. Tôi lấy đèn bấm và hải đồ, tim tôi đập rồn ràng khi loa phóng thanh lại lên tiếng:
"Thủy lôi tấn công, chuẩn bị!"
Chúng tôi di chuyển về phía trước, gần phòng chỉ huy. Chúng tôi đứng bên ngoài, nhưng giử khoảng cách đủ nghe để quyết định về việc xử dụng Kaiten của hạm trưởng. Chúng tôi sẽ nghe sớm hơn một vài giây thay vì chờ đợi loa phóng thanh. Ở đây, chúng tôi cũng có thể nghe các hoạt động rộn rịp trong hai phòng lái và truyền tin.
Phòng khám phá âm thanh báo cáo:
"Tàu địch, 40 độ bên trái. Tiếng động mạnh gấp ba lần."
Hạm trưởng Orita nói:
"Chú ý! Cố xác định coi đó là một chiếc tàu địch hay nhiều hơn nữa!"
Và ông ra lịnh:
"Nâng chiếc tàu lên 55 bộ!"
Giọng nói êm dịu của ông khiển tôi không thể nào đoán nổi tình thế hiện tại có khẩn trương hay không. Chúng tôi bước lần đến tiềm vọng kính. Hạm trưởng muốn nhìn chung quanh, và ở 55 bộ, ông có thể nâng tiềm vọng kính lên để quan sát. Nhưng một giây kế đó ông thét lịnh:
"Đưa tàu xuống 200 bộ!"
Kỳ lạ làm sao! Chúng tôi đã chuẩn bị hạ đối thủ, tại sao bây giờ lại bỏ chạy. Tôi bước về phòng chỉ huy, hỏi Trung úy Kakizaki:
"Trung úy nghĩ việc nầy ra sao?"
Ông ta đáp, giọng nghiêm trọng hơn bao giờ hết:
"Quan sát viên nhìn lầm! Phía bên trên có thể là các khu trục hạm Hoa Kỳ. Tôi hy vọng chúng không tìm ra chúng ta."
Báo cáo nghe từ phòng khám phá âm thanh:
"Hiện thời tàu địch ở cả hai phía. Tiếng động của chân vịt rất mạnh. Có lẽ đây là các khu trục hạm."
Bây giờ tất cả những gì chúng tôi có thể làm là cho tàu rời khỏi nơi đây. Một giờ trôi qua, báo cáo từ phong truyền tin vẫn bay đến tới tấp, nhưng vẫn không nghe tiếng nổ của thủy lôi ngầm do tàu địch thả xuống. Bây giờ tôi hiểu những gì đã xảy ra. Khi Hạm Trưởng Orita nâng tiềm vọng kính lên, hi vọng nhìn thấy một mục tiêu béo bở đang chở ông, bởi vì lúc ấy ông đã điều động chiếc I.47 vào vị trí thích hợp để khai hỏa. Nhưng trái lại, ông thấy một khu trục hạm, hầu như ngay phía trên ông. Do đó, ông ra lịnh cho I.47 lặn sâu hơn nữa và cố gắng lẫn trốn. Mọi tiếng động không cần thiết trong chiếc tàu đều được đóng lại.
Chiếc I.47 chạy với tốc độ tối thiểu, cố để len lỏi, lẩn tránh xa những kẻ đang săn đuổi. Phòng khám phá âm thanh vẫn tiếp tục báo cáo các tàu địch chạy gần một bên, tiếng chân vịt của chúng vang vang trong ống nói.
Tôi hỏi Trung úy Kakizaki:
"Trung úy phỏng đoán những gì đang xảy ra ở trên? Tại sao địch quân không thả chất nổ ngầm xuống."
Ông đáp:
"Họ còn định vị trí của chúng ta, và khi định xong họ sẽ thả chất nổ xuống ngay."
Ồ! Tiếng kêu sợ hãi thoát ra khỏi cổ họng tôi trước khi tôi kịp ngăn lại. Nhưng Trung úy Kakizaki trấn an:
"Shimpai nai! Đừng lo! Hạm Trưởng Orita nhiều kinh nghiệm với hoàn cảnh nầy. Ông sẽ đưa chúng ta thoát khỏi an toàn, ngay cả khi tàu địch tìm thấy chúng ta. Ông sẽ lợi dụng chính tiếng nổ của thủy lôi nổ ngầm để đánh lừa địch quân. Điều tôi quan tâm thực sự là không biết thủy lôi nổ ngầm sẽ gây hư hại cho Kaiten của chúng ta như thế nào. Chắc anh biết vỏ của Kaiten mỏng hơn vỏ của tiềm thủy đỉnh to lớn nầy nhiều."
Khi nói những lời nầy, mặt ông lộ vẻ lo lắng. Và sự sợ hãi của tôi đối với chiếc tàu chuyển sang những chiếc Kaiten của chúng tôi. Hiện thời không thể xử dụng Kaiten để chống lại các chiến hạm phía trên, bởi lẻ bốn sợi dây cáp đã buộc chặt vũ khí vô thân I.47, và hai trong số bốn sợi dây cáp nầy chỉ mở được khi tàu nổi trên mặt nước. Do đó, tất cả hoa tiêu Kaiten chỉ còn biết chờ đợi và bối rối. Thủy thủ đoàn tiềm thủy đỉnh huấn luyện thuần thục và đầy đủ kinh nghiệm chiến đấu. Mỗi người đều có những nhiệm vụ đặt biệt để làm. Chúng tôi đúng là những khán giả. Chúng tôi không thể giúp đỡ gì được cho chiếc tàu.
Tất cả hệ thống lạnh đều tắt hết, ngay cả những chiếc quạt máy nhỏ trong mỗi phòng ngủ. Nhiệt độ càng lúc càng gia tăng. Tiếng một hiệu thính viên:
"Một chiến hạm ở sau lái, bên trái, 50 độ. Tiếng chân vịt càng lúc càng lớn..."
Lúc đó chúng tôi cũng có thể nghe tiếng chân vịt tàu, Trung úy Kakizaki nói, giọng vẫn lạnh lùng:
"Tàu địch lướt ngang, hầu như bên trên chúng ta."
Vị Hạm Trưởng hét lớn:
"Bẻ hết lái về phía trái!"
Ông ta muốn đằng lái của chiếc I.47 đưa về phía các thủy lôi ngầm của tàu địch, và khi thủy lôi xuống đến nơi, chúng tôi đã cao bay xa chạy. Tiếng chân vịt tàu lớn dần, rồi bắt đầu nhỏ dần. Hiển nhiên, khu trục hạm địch đang điều chỉnh vị trí chúng tôi lần cuối cùng và có thể làm việc nầy một cách an toàn. Ở độ sâu 200 bộ, chúng tôi không thể nào ngăn cản được đối thủ.
Một vài giây sau đó, phòng khám phá âm thanh báo cáo:
"Tàu địch bên phải, 10 độ ..."
Chiếc tàu thứ hai, hoặc có thể chiếc tàu vừa nói, đang lướt phía trên, gần chúng tôi. tôi có thể nghe tiếng chân vịt. Lần nầy, Hạm Trưởng Orita ra lịnh quay qua trái, hơi gia tăng tốc độ và nói lớn:
"Nó ở ngay trên đầu. Thủy lôi nổ ngầm đang thả xuống!"
Tôi nghĩ, chúng tôi lãnh đủ lần nầy. Một lối chết khủng khiếp biết bao! Bó tay! Đây là lối chết mà thủy thủ đoàn của I.37 và I.44 đã nhận lãnh khi sập bẩy đối phương và bị đánh chìm trước đây.
Một loạt tiếng nổ khủng khiếp vang lên khoảng 10 giây sau đó, nhắc tôi nhớ lại những tiếng sấm trong các trận bão mùa hạ ở Đông Kinh, nhưng có lẽ lớn hơn gấp nhiều lần. Sàn tàu rung chuyển dưới chân khiến tôi muốn ngã chúi. Cả chiều dài của I.47 kêu răng rắc, và những bóng đèn chợt tối chợt sáng. Ngày tàn của chúng tôi?
Tiếng chân vịt nhỏ dần theo tiếng nổ cuối cùng của thủy lôi ngầm. Hạm trưởng ra lịnh:
"Mọi vị trí báo cáo thiệt hại!"
Lần lượt, tiếng nói vang đến, và một lần nữa, tôi lấy làm lạ lùng lối làm việc có tánh cách đồng đội trong một chiếc tiềm thủy đỉnh. Không có thiệt hại nào nặng nề. Tôi thở dài nhẹ nhỏm. Với những khối chất nổ rất gần vừa rồi và sức chịu đựng bền bĩ của chiếc tàu khiến tôi kinh ngạc. Trung úy Taijitsu nói:
"Tài thiện xạ của chúng đến thế là cùng!"
Ông ta là sĩ quan truyền tin của I.47. Furukawa lên tiếng:
"Trung úy nghĩ các Kaiten của chúng tôi có sao không? Tôi hi vọng chúng không vô nước!"
Tajitsu làm thinh. Lúc đó là 7 giờ sáng. Chúng tôi đã ở dưới nước bốn giờ, đang chạy về phía Tây Bắc. Tôi hỏi Tajisu:
"Địch quân thả bao nhiêu thủy lôi ngầm?"
Ông đáp:
"Đâu khoảng trên dưới hai mươi trái, nhưng không chính xác. Bằng cớ là chúng ta vẫn còn sống sót. Một tiềm thủy đỉnh khi lọt vô bẩy của hai khu trục hạm ít khi sống sót được."
Tôi hỏi:
"Chúng ta có thể bị hư hại một nơi nào đó?"
Tajistu đáp:
"Khó nói được. Một vài đinh tán có thể bị long ra, nhưng chỉ biệt chắc sự hư hại đến mực độ nào phải chờ cho đến khi nổi lên mặt nước để xem xét. Tôi e rằng sự thiệt hại sẽ trầm trọng. Những tiếng nổ vừa rồi không gây tổn thương bên trong tàu nhưng đủ sức gây thuong tổn trên sàn tàu. Chẳng hạn như các Kaiten."
Câu nói nầy khiến chúng tôi lo lắng. Sau đó, chúng tôi nghe một báo cáo khác từ phòng khám phá âm thanh:
"Tàu địch bên phải, 90 độ..."
Khu trục hạm chạy ngang mũi chiếc I.47. Nhưng lạ lùng làm sao, không có một trái thủy lôi ngầm nào thả xuống. Có lẽ dụng cụ khám phá tàu lặn của địch quân hư hỏng.
Hai giờ nữa trôi qua. Phòng khám phá âm thanh vẫn bám sát tiếng động do chân vịt tàu phát ra. Địch quân không tiến lại gần chúng tôi, không có trái thủy lôi ngầm nào được thả xuống, và tôi nói với những người khác rằng tàu địch đã hết thủy lôi. Tôi không biết khu trục hạm địch mang được bao nhiêu trái.
Tajitsu nói:
"Ồ, không đâu! Họ còn cả tàu, nhưng để dành đó! Họ biết chúng ta không thể ở dưới nước mãi mãi được, và họ cũng biết chúng ta không thể nào lẫn trốn mau chóng. Đúng là họ chờ chúng ta nổi lên mặt nước lấy dưỡng khí, rồi họ sẽ phát hiện ra chúng ta bằng ra da và chạy đến hạ sát."
Mồ hôi tôi đổ xuống như tắm. Nhiệt độ bên trong I.47 gia tăng lên 37 độ. Mặc dù tôi uống nhiều nước, nhưng dường như nước thoát ra ngoài da ngay khi tôi nuốt trôi xuống cổ họng. Mọi đốt xương trong thân thể tôi hình như hao mòn chầm chậm và tôi cảm thấy nghẹt thở.
Thiếu tá Orita lên tiếng:
"Tất cả thủy thủ có thể nghỉ tại vị trí!"
Mọi người nằm rãi rác đây đó hoặc di chuyển chút ít. Tôi buông mình xuống sàn tàu, nằm bất động, ngoại trừ cử động tay để lau mồ hôi bằng một chiếc khăn. Tôi cảm thấy như đang tắm hơi.
Phòng khám phá âm thanh báo cáo một cách vui vẻ:
"Tất cả tiếng động đề xa hẳn!"
Địch quân đã bỏ đi. Cuối cùng, có thể coi như chúng tôi đã thoát nạn.
Lúc I giờ trưa, chúng tôi đã ở dưới mặt nước hơn 10 tiếng đồng hồ. Chúng tôi vừa nằm vừa ăn bửa trưa được mang đến tận nơi. Không có báo cáo nào về tàu địch nữa. Chúng tôi đã thoát hiểm.
Hoa tiêu I.47 bước vô phòng chỉ huy và nói:
"Địch quân đã cố gắng truy đuổi, nhưng hiện thời chúng ta cũng đã tiến gần đến Tanegashima!"
Tagenashima là một hòn đảo cách phía Nam Kagoshima không xa mấy. Nếu các khu trục hạm địch dám đến gần nơi nầy, phi cơ của chúng tôi cất cánh từ căn cứ Miyazaki sẽ đánh chìm chúng chắc chắn. Nhưng thiếu tá Orita cẩn thận, vẫn chạy dưới nước chầm chậm cho đến 4 giờ chiều, rồi ông mới ra lịnh nổi lên.
Chúng tôi đã chờ đợi lịnh nầy lâu làm sao. Một chút ít không khí thoát ra từ những bình chứa và vô phòng chỉ huy khi tàu nổi lên mặt nước. Tôi nhỏm chân và hít lấy hít để không khí mát lạnh ngọt ngào. Tôi có thể nghe mùi vị của không khí trên lưởi, ngon hơn bất cứ thức ăn nào mà tôi đã từng ăn. Tôi vươn vai và hít thở nữa, cảm thấy máu huyết chạy nhanh hơn và mạnh hơn trong thân thể mệt mỏi của tôi.
Đại úy Obori, Hạm phó I.47, cho chúng tôi biêt Hạm Trưởng định chạy vô Tanegashima. Ông ta nói:
"Ở đây, chúng ta có thể xem xét Kaiten cẩn thận, để coi chúng có bị hư hại nhiều không."
Một tin đáng mừng. Chúng tôi bắt đầu nhìn về phía Tanegashima. Nhưng không đầy nửa giờ sau chúng tôi phải cho tiềm thủy đỉnh lặn trở lại. Một chiếc tàu bay nhỏ được phát hiện. Hạm trưởng không chờ đợi để coi chiếc tàu bay nầy của bạn hay thù. Ông giữ chúng tôi dưới mặt nước cho đến 8 giờ tối. Trời đen thẩm khi chúng tôi nổi lên, và lúc vừa sắp sửa lướt đi, báo động lại vang lên một lần nữa:
"Thêm nhiều phi cơ bay đên!"
Các quan sát viên lần lượt chui xuống, xuyên qua cánh cửa phía trên. Cả bom lẫn thủy lôi từ phi cơ thả xuống bén gót họ. Tôi hụp đầu khi tiếng nổ vang lên. Tiếng nổ hình như ngay trên đầu tôi.
ĐM mấy thằng Mĩ nầy! Thoạt tiên là phi cơ nhận đầu chúng tôi xuống nước, kế đó là các khu trục hạm dìm chúng tôi hơn nửa ngày, và bây giờ là đến phi cơ của bọn Mỹ diễn trò thêm nữa! Và diễn trò ngay cạnh các bờ biển của Nhật Bản!
Thượng sĩ Fujisaki cố nói đùa:
"Hình như toán Tatara của các bạn biến thành toàn "Tatarareta"!"
Hắn cười lớn sau câu nầy, bởi lẽ "tatarareta" tiếng Nhựt có nghĩa là một ngày đầy vận xấu. Không ai khác cười nổi.
Hừng sáng hôm sau chúng tôi tiên vô một vịnh nhỏ của Tanegashima. Ra đa của chúng tôi luôn luôn hoạt động, hệ thống quan sát hoàn hảo để đề phòng địch quân xuất hiện lại. Cuối cùng, cả bốn hạ sĩ quan Kaiten chúng tôi đi ngủ một đôi giờ trước bình minh. Sau đó, Trung úy Meada đánh thức chúng tôi dậy. Khuôn mặt đẹp trai của ông lộ vẻ mệt mỏi và tiều tụy.
"Dậy đi! Trung úy Kakizaki muốn nói chuyện với mọi người!"
Ăn mặc xốc xếch, mắt nhắm mắt mở, chúng tôi đến phòng sĩ quan. Trung úy Kakizaki nói:
"Ngồi xuống đi! Họ vừa cho biết các phi cơ địch đêm qua đã gây một kẻ nứt lớn khiến cho chiếc tiềm thủy đỉnh chảy dầu. Hạm trưởng nói rằng ông không thể ra khơi với tình trạng như vậy. Dầu thoát ra khiến chúng ta dễ bị khám phá. Chúng ta không thể nào tiến đến gần địch quân để tấn công được."
Furukawa hoảng hốt:
"Chúng ta sẽ trở về?"
Tôi hỏi:
"Hạm Trưởng ở đâu?"
Trung úy Kakizaki đáp:
"Trên sàn tàu. Ông đang kiểm soát các Kaiten!"
Tiếng Đại úy Obori ở cửa phòng:
"Hạm Trưởng Orita muốn tất cả hoa tiêu Kaiten lên sàn tàu!"
Khi leo lên cánh cửa, tôi có thể nghe mùi dầu nồng nặc.
Trung sỹ Yamaguchi, bước lên cầu thanh phía trước tôi, lên tiếng:
"Đúng, kẻ hở quá lớn!"
Tôi kêu lên khi đặt chân lên sàn tàu. Sáu Kaiten của chúng tôi coi như những món đồ chơi bằng nhựa nhún vô nước sôi. Chúng méo mó như có một bàn tay khổng lồ cầm lấy và siết mạnh. Tôi không ngạc nhiên, vì vỏ ngoài của Kaiten mỏng manh, dầy không quá 7 ly. Vỏ của tiềm thủy đỉnh I.47 xây sát và móp, lượt sơn chống ra đa trên đài quan sát lộ thiên cũng tróc nhiều mảnh.
Shinkai nói:
"Naka naka taihen desu! Thật là kinh khủng!"
Ngay cả đại dương coi cũng đang sợ. Thay vào màu nước xanh thẩm mà tôi từng ngắm nhìn từ Hikari đến đây, hiện thời là một màu bùn nâu, do dầu chảy ra từ chiếc I.47 tạo nên.
Hạm trưởng Orita bước đến chổ chúng tôi đứng và nói với Kakizaki:
"Với sự hư hại nầy chúng tôi không thể nào tiếp tục chuyến đi nữa. Rất tiếc, Trung úy, nhưng mà các anh sẽ có dịp cố gắng một lần nữa. Tôi biết các anh không thích trở về. Nhưng chúng ta không thể sửa chữa sự hư hại nầy ở đây. Nếu tiếp tục tiến đến Okinawa, chiếc tàu nầy sẽ để lại vết dầu phía sau. Tất cả chúng ta bao gồm cả thủy thủ đoàn của tôi, sẽ chết một cách vô ích. Chúng ta sẽ không bao giờ đến được Okinawa. Tôi chắc các anh hiểu rõ tôi muốn nói gì, nhưng tôi thấy cũng nên nhắc lại. Các anh còn nhớ, các anh thường được dạy rằng việc đâm đầu vô kẻ thù mà không có được cơ may thành công nào, là một hành động thí mạng vô ích. Lần nầy đúng là chúng ta không có cơ may thành công. Tuyệt đối không!."
Không một ai trả lời. Mặc dù chúng tôi biết và công nhận tình thế, nhưng chúng tôi không thể bó tay. Ngay cả chứng cớ rành rành trước mắt chúng tôi, Furukawa cũng cải:
"Hạm Trưởng không thể tìm cách nào đó sao? Chúng tôi không thể trở về căn cứ. Đây không phải là lần trở về đầu tiên của chúng tôi. Và đây cũng chưa hẳn là lần thứ hai. Nó sẽ có thể xảy ra lần thứ ba."
Câu nói của Furukawa dành cho vị sĩ quan chiến hạm như vậy khiến chúng tôi lo ngại. Hành vi nầy chưa từng nghe nói tới.
Giọng Trung úy Kakizaki nghiêm khắc:
"Chotto matte! Vừa thôi!"
Furukawa muốn nói thêm, Hạm Trưởng Orita chận lại:
"Như vậy đủ rồi, Furukawa!"
Gương mặt của ông khó chịu, chứng tỏ rằng Furukawa đã đi quá đà. Nếu tiếp tục nữa, ông nổi nóng và rắc rối sẽ xảy ra.
Kakizaki bước đến giữa hai người và thốt lời xin lỗi thế cho thuộc cấp. Biến cố nầy đã kết thúc quyết định của Hạm Trưởng Orita. Không ai có thể làm gì khác hơn. Tuy nhiên, bốn chiến hữu kì cựu của chúng tôi tỏ ra buồn rầu. Mười bốn hoa tiêu của toán Kongo đã chết cho xứ sở, nhưng lần nầy họ phải trở về nữa. Và, họ phải tuân lịnh.
Đối với Shinkai và tôi, vấn đề lại khác hơn chút ít. Chúng tôi chưa bao giờ ra đi trước đây. Chúng tôi chỉ có thể nhún vai và coi như đây là một sự đùa cợt của định mạng. Trung úy Kakizaki cố an ủi họ sau khi bước vô tàu.
"Theo lời của Hạm Trưởng Orita, chiếc tàu chỉ mất ba bốn ngày ở Kure để sửa chửa. Rồi chúng ta lại ra đi. Chúng ta hãy hợp tác với ông bằng cách bình thản. Ông và thủy thủ đoàn I.47 đã giúp đỡ chúng ta hết lòng. Họ không cứu chúng ta thoát khỏi hai khu trục hạm địch hay sao? Và phi cơ nữa? Đáng mang ơn lắm! Nếu họ không khéo léo, giờ nầy chúng ta đã chết rồi. Chúng ta vẫn còn sống sót và vẫn còn dịp may để đánh kẻ thù."
Tất cả đều lặng thinh. Cuối cùng, chúng tôi chấp nhận. Ngày hôm sau, 2 tháng 4 năm 1945, chúng ta trở về Hikari, với một vệt dầu kéo lê thê phía sau. Tôi là người duy nhứt, tôi nghĩ, không chứng tỏ sự tuyệt vọng sâu xa của mình. Sau khi ngẩm đi xét lại, tôi vẫn cảm thấy hân hoan có được một đôi ngày sống sót để vui hưởng, trước khi ra đi vĩnh viễn.
10. MỘT THAY ĐỔI CHIẾN THUẬT KHÁC. RA ĐI VỚI TOÁN TEMBU
Trong khi chiếc I.47 ghé Tanegashima ngày 1 tháng Tư năm 1945, để xem xét các vết thương, lực lượng Hoa Kỳ tấn công lên bờ biển Okinawa. Một mũi dùi toàn lực, đâm thẳng vô trái tim của Đế Quốc Nhật Bản, với hơn 1.200 chiến hạm và gần 200.000 quân. Riêng khu trục hạm của Hoa Kỳ, tổng số lên đến 150 chiếc, vượt trội hơn con số loại tàu nầy của Nhật Bản ở bất cứ thời gian nào. Do đó, hai trong tống số khu trục hạm có tầm hoạt động bao trùm nầy đã phát hiện và tấn công I.47, ngay trong hải phận Nhật Bản, là điều không đáng ngạc nhiên.
Sự quay về của chiếc I.47 là một điềm báo trước những gì sắp xảy ra. Toán Tatara hoan toàn thất bại. Trong khi đó phần còn lại của toán bao gồm hoa tiêu Kaiten là Trung úy Seiji Fukushima, một người bạn thân nhứt của tôi, và Thiếu úy Hiroshi Yagi cùng bốn hạ sĩ quan thuộc nhóm Tsuchiura: Yoshikatsu Kawanami, Shingoro Ishinao, Kazuo Miyazaki và Kiyoshi Yashiro, đã rời Otsujima trên tiềm thủy đỉnh I.56 ngày 31 tháng Ba. Sau khi rời hải cảng I.56 biệt vô âm tín. Các hồ sơ hậu chiến cho biết chiếc tàu bị đánh chìm vào ngày 8 tháng Tư bởi phi cơ hàng không mẫu hạm và khu trục hạm gần Okinawa. Tất cả những người trên tàu đều thiệt mạng.
Sau ngày I.47 trở về Hikari, I.44 cũng thực hiện sứ mạng tấn công. Mười ngày sau, chiếc tàu bị phi cơ của hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ phát giác và đánh chìm, cũng gần Okinawa.
Tuy nhiên, I.58 lại gặp may mắn một lần nữa, mặc dù không tấn công được địch quân. Chiếc tàu nầy vừa chạy ngầm vừa chạy trên mặt nước tiến đến Okinawa từ phía Tây, nhưng bị phi cơ và chiến hạm địch phát hiện. Lúc đó thời tiết xấu, nhưng cũng vì vậy mà chiếc tàu đã chạy thoát. Thiếu tá Hashimoto, giống như việc làm của ông ở Iwo Jima trước đây, đã thành công trong việc đưa chiếc I.58 đến gần hạm đội địch, nhưng lại phải bỏ chạy khi bị phi cơ nhìn thấy. Sau đó, ông nhận được lịnh kết hợp với thiết giáp hạm khổng lồ Yamato cùng với tuần dương hạm Yahagi và tám khu trục hạm để tạo một nổ lực cuối cùng ở Okinawa.
Theo kế hoạch dốc toàn lực này, khoảng 700 Kamikaze sẽ tấn công hạm đội Hoa Kỳ ở Okinawa. Nối bước theo phi cơ Thần Phong, lực lượng Yamato sẽ nghiền nát các lực lượng thủy bộ của địch quân ở gần đầu cầu đổ bộ lên hòn đảo nầy. Cùng lúc, những đơn vị bộ binh của chúng tôi từ các pháo đài trên Okinawa sẽ đánh rốc xuống và đẩy lực lượng địch quân ra biển. Yamato và những chiến hạm tháp tùng đã bơm bớt nhiên liệu ra trước khi rời Nội Hải, do đó nhiều chiến hạm khác có thể xử dụng số nhiên liệu nầy. Chúng cũng bỏ lại một số lớn lương thực. Nếu chiến thắng, hạm đội có thể tái tiếp tế nhiên liệu và thực phẩm ở Okinawa. Bằng không, hiển nhiên, lực lượng Yamato không cần đến những thứ nầy nữa.
Nhưng trước khi Hashimoto có thể gặp lực lượng đặc nhiệm nhỏ nhoi nầy, thiết giáp hạm Yamato đã bị hơn 300 phi cơ của Hoa Kỳ tấn công và đánh chìm. Yahagi và bốn khu trục hạm cũng cùng chung số phận. Mạng lịnh đưa đến phòng truyền tin của I.58: "Lướt vô và chiến đấu cho đến chết.". Hashimoto tuân lịnh, xả hết tốc lực chạy đến Okinawa và bị oanh tạc cơ tuần tiểu của Hải Quân Hoa Kỳ phát hiện. Ông bị quấy nhiễu suốt ngày suốt đêm, nhưng vẫn cố gắng lướt xuyên qua để tạo ra một cuộc tấn công. Vào ngày 14 tháng Tư, sau một tuần cố gắng, thình lình ông được lịnh bỏ qua Okinawa và chạy vô Thái Bình Dương. Tuy nhiên, vì vấp phải màn lưới khu trục hạm và phi cơ Hoa Kỳ, I.58 phải chạy xa mãi về phía Nam, giữa Okinawa và Hoa Lục, đi ngang qua Formosa trước khi có thể chạy về phía Đông một cách an toàn. Tiềm thủy đỉnh báo động tổng quát hơn 50 lần và chạy ngầm về hướng Bắc trong một cố gắng khác, nhằm hướng đến phía Đông Okinawa. Khi Hashimoto cố gắng tìm cách để thực hiện một cuộc tấn công nữa, ông được lịnh trở về Nhật Bản. Do đó, các hoa tiêu Kaiten là Trung úy Nobuo Okebuchi, Thiếu úy Ichiro Sonoda, hai Trung sĩ Hidemasa Yanagiya và Raita Irie bắt buộc phải trở về lần thứ hai.
Tháng Tư là một tháng xấu cho lực lượng tiềm thủy đỉnh Nhật Bản. Ngoài I.44 và I.56 chúng tôi còn mất sáu tiềm thủy đỉnh khác. RO.41 chìm vào ngày 5 tháng Tư, RO.46 vào ngày 9 tháng Tư, và RO.56 vào ngày 17 tháng Tư. Ngày 15 tháng Tư, hai chiếc RO.64 và RH.67 bị chìm trong hải phận Nhật Bản vì rơi vô các bãi mìn do Hoa Kỳ gài. RO.109 chìm vào ngày 25 tháng Tư, dưới một cuộc tấn công dữ dội mà theo báo cáo vô tuyến về Đệ Lục Hạm Đội, chiếc tàu đã tồn tại sau khi chịu đựng hơn ba trăm khối thuốc nổ do địch quân thả xuống. Nhưng từ đó, không có một tin tức nào nhận được từ RO.109 nữa.
Bây giờ hai trong bốn tiềm thủy đỉnh chở toán Tatara và hai trong ba tiềm thủy đỉnh tấn công Iwo Jima trước đây đã bị đánh chìm. Việc nầy đưa đến một cuộc thảo luận sôi nổi giữa các giới chỉ huy cao cấp. Bộ Tổng Tham Mưu Hải Quân ở Đông Kinh vẫn nhấn mạnh rằng tiềm thủy đỉnh tự sát Kaiten có thể hoạt động hữu hiệu trong việc chống lại các vùng thả neo, các căn cứ và các lực lượng thủy bộ của đối phương. Tư Lịnh Đệ Lục Hạm Đội, Đề Đốc Tennosuke Torisu phản đối mạnh mẽ ý niệm nầy. Theo ông, hiện thời nên gởi các toán Kaiten xa về phía sau những lực lượng chánh của địch quân, để tấn công tàu chuyển vận đồ tiếp tế và tàu chở dầu của họ. Sự mất mát sẽ khiến cho các lực lượng tiền phương của địch phải rút lui. Ít nhứt, bước tiến của đối phương cũng chậm lại, đủ thời gian cho Nhật Bản chuẩn bị một cuộc tổng tiến công toàn lực.
Cũng có một số người ở Bộ Tham Mưu đặt câu hỏi: "Làm sao một chiếc tiềm thủy đỉnh tự sát nhỏ nhoi như vậy có thể hoạt động hữu hiệu trong biển cả bao la, sóng to, gió lớn? Khó lắm!" họ cho rằng các hoa tiêu Kaiten chỉ có thể hoạt động hữu hiệu nếu được chỉ định một nhiệm vụ đặt biệt, có ngày giờ nhứt định. Thật khó cho một người giữ vững tinh thần liên tục trong lúc chờ đợi một cơ hội để tấn công bất ngờ.
Họ cho rằng hoạt động thích hợp hơn hết là nên xử dụng tiềm thủy đỉnh lớn mang Kaiten vô các vùng buông neo hoặc sát bờ biển, tại những nơi có mặt nước yên tĩnh. Đương nhiên, câu chuyện không phải đơn giản như các kế hoạch gia Đông Kinh đã tưởng. Tiềm thủy đỉnh của chúng tôi không thể hoạt động suốt ngày dưới mặt nước, chúng còn phải nổi lên vào ban đêm để lấy dưỡng khí. Và màn đêm không phải là một sự bao che an toàn, chiến hạm và phi cơ địch đều được trang bị rada bén nhạy, không có vật gì qua mắt được chúng. Tám tiềm thủy đỉnh của chúng tôi đã bị đánh chìm là một bằng chứng. Cố gắng chọc thủng tuyến tuần thám của địch quân là cả một vấn đề, nhưng dù cho có chọc thủng được đi nữa, chúng tôi cũng gặp ngay sự phản công nhanh chóng và chính xác của đối phương. Kể từ sự thành công đáng kinh ngạc ở đảo San Hô Ulithi, tình thế đã thay đổi nhiều. Hiện thời hạm đội Hoa Kỳ đã mở rộng các cuộc tuần tiểu trên biển lẫn trên không, cách thành phần chánh của họ rất xa. Những cuộc tuần tiểu nầy sẽ hạ gục các tiềm thủy đỉnh của chúng tôi mau lẹ, hoặc kêu gọi tăng viện để làm việc nầy.
Tấn công quân vận hạm địch lại là một vấn đề khác. Loại tàu này chỉ được hộ tống sơ sài hoặc hoàn toàn không có hộ tống. Theo Đệ Lục Hạm Đội, chúng tôi có thể hạ đối thủ dễ dàng. Tiềm thủy đỉnh của chúng tôi có thể thoát thân và trở về mang thêm Kaiten, hoặc có thể xử dụng thủy lôi thông thường để tấn công. Bộ Tư Lịnh Tối Cao đồng ý để cho hai tiềm thủy đỉnh tấn công các hệ thống tiếp tế của địch quân. Nếu thành công, một quyết định cuối cùng trên chính sách sẽ được tạo ra.
Tôi vui mừng khi được biết I.47 sẽ là một trong hai tiềm thủy đỉnh tấn công nầy. Chiếc thứ hai là I.36 của Thiếu tá Tetsuaki Sugamasa, một hạm trưởng tiềm thủy đỉnh trẻ nhứt trong Hải Quân Hoàng gia. Đúng như tiên đoán của Trung úy Kakizaki, sáu hoa tiêu chúng tôi sẽ bắt lại dịp may nhanh chóng.
Sự chờ đợi I.47 đến và mang chúng tôi đi thật vất vả. Ở Tanegashima, chúng tôi được cho biết tiềm thủy đỉnh của Thiếu tá Orita chỉ phải sửa chữa một đôi ngày nhưng khi về đến Hikari, chúng tôi được biết thời gian sửa chữa phải mất hai tuần lễ. Thật đáng chán nản, vì chúng tôi không có việc gì để làm hơn là chờ đợi. Thay vì được trao dồi thêm tài nghệ, như đã từng thấy trước đây, hiện thời những người huấn luyện không được huấn luyện nữa. Kakizaki và năm đứa chúng tôi coi như đã "tốt nghiệp". Trong suốt thời gian ăn không ngồi rồi nầy, chúng tôi không có dịp may nào mó đến một chiếc Kaiten.
Dĩ nhiên, không có đủ tiềm thủy đỉnh khả dụng để chở tất cả hoa tiêu Kaiten đã hoàn tất công việc huấn luyện thi hành sứ mạng. Do đó, hầu hết số người nầy được sử dụng vào một chiến thuật mới mang danh là "chiến thuật Kaiten cố định". Theo đó, những người nầy và tiềm thủy đỉnh tự sát của họ được chuyển đến nhiều địa điểm khác nhau dọc theo các bờ biển Nhật Bản. Các địa điểm nầy gần với những nơi được dự đoán địch quân có thể mở ra một cuộc tấn công thủy bộ. Các hoa tiêu Kaiten đến và nằm một chổ, chờ cho đến khi địch quân tiến vô bờ biển, bấy giờ họ sẽ nhận được lịnh của Bộ Tư Lịnh Tối Cao, tung Kaiten ra và đánh chìm các quân vận hạm của địch càng nhiều càng tốt. Chiến lược từ lâu của Hải Quân Nhật Bản vẫn không thay đổi, đó là chiến lược dốc toàn lực, nhận quân Mĩ vô biển máu, như đã được sử dụng ở quần đảo Midway, Mariana, Phi Luật Tân và ở Okinawa với lực lượng đặc nhiệm Yamato. Cho đến bây giờ, chiến lược nầy không mang đến một lợi thế nào cho chúng tôi, nhưng khi khoảng cách giữa kẻ thù và Nhật Bản thâu hẹp lại, hy vọng lại được đặt vô chiến lược nầy một lần nữa.
Vào ngày 15 tháng Tư, lúc tôi cảm thấy mỏi mòn trong sự chờ đợi, một công điện đến từ Kure: "Công việc sửa chữa I.47 đã hoàn tất. Lên đường đến Hikari vào sáng mai."
Khi I.47 đến Hikari, Thiếu tá Koreeda triệu tập sáu hoa tiêu Kaiten chúng tôi tham dự một buổi họp. Ông nói:
"Với sứ mạng nầy, toán Kaiten mang tên Tembu. Theo kế hoạch, hai tiềm thủy đỉnh I.47 và I.36 sẽ đưa Kaiten đến các vị trí nằm giữa đảo San Hô Ulithi và Okinawa. Người Mĩ đã biến Ulithi thành một căn cứ quan trọng. Các bạn sẽ tấn công tàu chở đồ tiếp tế cho những lực lượng tiền phương của địch quân.
Chúng tôi nhìn lẫn nhau. Cuối cùng, Kaiten được tung ra để tấn công những mục tiêu mà Thiếu tá Mitsuma Itakura, chỉ huy trưởng đầu tiên của Otsujima đã nói trước đây.
Ngày 20 tháng Tư, ngày khởi hành của toán Tembu, cả sáu chúng tôi giống như những người mới mẻ, tất cả đều tràn đầy niềm tin. Mỗi người cầm một nhánh "sakura" trong tay và chụp hình kỉ niệm. Tôi nhìn nhánh đào đơm đầy bông và nhủ thầm:
"Yukuta Yokota, mầy sanh ra là trai thật là may mắn. Nếu mày là một thiếu nữ, làm sao mầy có được một cuộc phiêu lưu như thế này?"
Tất cả chúng tôi đều nôn nóng. Shinkai và tôi thề hạ một đứa một chiến hạm lớn nhứt của địch quân. Tôi nghĩ đến cái tuổi mười chín của tôi, và thầm nhủ: "Hãy chết trong lúc dân chúng còn tiếc thương cái chết đó, hãy chết trong khi mầy còn thanh khiết, cái chết nầy mới đúng với tinh thần biushido". Phải, tôi sẽ nương theo con đường của những Samurai. Đôi mắt tôi rực sáng khi bước chân lên I.47 một lần nữa. Tôi nhớ lại giọng vui vẻ của Thiếu tá Nabuo Anzai khi đọc lên câu thơ: "Hãy rụng xuống, như cánh hoa đào thanh khiết."
Chúng tôi lại đứng trên thân các Kaiten của chúng tôi, tay vung kiếm lên cho đến khi những chiếc tàu tiễn đưa quay lại. Sau đó, tôi leo vô ben trong Kaiten, đặt hủ đựng hài cốt của Yazaki và cành sakura cạnh chổ ngồi. Các nhân viên bảo trì đã dánh trên tiềm vọng kính một mảnh giấy viết mấy chữ: "Chắc trúng vào kẻ thù", và chữ ký của họ.
Lúc 11 giờ sáng, những đám mây vần vũ tan biến. Một điềm tốt. Mặt trời chói lọi, một ngày đi biển thích hợp. Tôi lại ngắm nhìn những dãy núi xanh rì lần cuối cùng, nhưng lần nầy tôi không mang một xúc cảm nào. Tôi nhìn một cách bình thản.
Trên hải trình đến eo biển Bungo, những sợi dây cáp chánh buộc vô tiềm thủy đỉnh của các Kaiten được tháo ra. Nếu địch quân chờ đợi chúng tôi bên ngoài eo biển, chúng tôi sẽ gây cho họ sự sững sốt. Chỉ cần vài phút, 18.000 cân Anh chất nổ cực mạnh sẽ được tung ra. Kẻ đi săn sẽ trở thành bị săn.
Hạm trưởng Orita đích thân xem xét cẩn thận từng Kaiten một. Quan sát viên đề cao cảnh giác ngay cả khi chúng tôi vẫn còn trong eo biển, và khi ra hẳn bên ngoài, chúng tôi vung nhẹ về phía Đông Nam, chạy 20 hải lý cho trên mặt nước.
Tôi gặp một điềm tốt khác ngay khi bước vô phòng ngủ của thủy thủ. Tôi không còn là một khách lạ nữa. Nhiều người vui cười chào đón tôi. Họ hỏi tôi làm gì trong ba tuần lễ vừa qua, trong khi họ phải quần quật với chiếc tàu hư hại nầy.
Đếm đầu tiên tôi tĩnh giấc nhiều lần, mặc dù chung quanh yên tĩnh. Tôi khó làm theo lời dặn ngủ càng nhiều càng tốt của Trung úy Kakizaki, và buổi sáng một cơn bực bội hiện đến với việc dùng nước hạn chế. Nước trên tiềm thủy đỉnh được chia theo khẩu phần, và tôi ý thức ngay rằng tôi không còn ở Hikari nữa, nơi mà tôi có thể xúc miệng hoặc tắm rửa bao nhiêu cũng được. Nhưng tôi cũng tự nhắc nhở rằng tình trạng nầy sẽ không kéo dài, và tình trạng của tôi vẫn còn tốt đẹp hơn thủy thủ đoàn. Họ phải sống trong tình trạng nầy trong vòng nhiều tuần lễ, và nhiều lần sau nầy nữa khi chúng tôi đã ra đi. Tôi đến phòng sĩ quan. Kakizaki còn ngủ. Maeda đã thức và đang đọc sách. Tôi rất khâm phục kiến thức của ông ta. Hai mươi ba tuổi, Maeda là sĩ quan trừ bị duy nhứt thuộc toán Tembu. Maeda đã bước vô hải quân với tánh cách đồng hóa trong khi theo học ở Trường Đại Học Kokura. Một người trầm lặng không bao giờ đề cập đến chuyện gia đình, tối ngày chỉ chúi mũi vô một quyển sách, ngay cả trong hoàn cảnh nầy. Tôi đoán chừng ông ta sẽ tiếp tục học hỏi cho đến giây phút cuối cùng.
Trước đây, Maeda đã gây cho tôi sự ngạc nhiên khi ông nói với tôi rằng trước sau Nhật Bản cũng bại trận. Tôi không tin vào tai mình khi nghe một sĩ quan nói như vậy. Tôi hỏi:
"Dạ thưa, Trung úy nói gì?"
Ông lập lại:
"Nhật Bản sẽ bị đánh bại, Yokota"
Tôi xúc động. Tôi không biết nói gì lúc đó, vì tôi chưa từng nghe người nào trong quân đội nói về việc nầy trước đây. Tôi hỏi vặn:
"Vậy sao Trung úy tình nguyện chết?"
Ông đáp đơn giản:
"Một người phải làm tất cả những gì mà hắn có thể làm cho xứ sở của hắn. Cái chết của hắn không có nghĩa lý gì. Nhật Bản sẽ chiến bại, tôi chắc chắn như vậy. Nhưng Nhật Bản sẽ hồi sinh, và trở thành một quốc gia vĩ đại hơn bao giờ hết."
Meada lý luận rằng cứ một vài thế hệ một nước phải đựng và luyện lọc trở lại bằng cách xóa bỏ hết những chất dơ đi, do đó mà xứ sở đó sẽ khỏe mạnh hơn. Xứ sở cyar chúng ta đang tắm trong lửa đỏ, và nó sẽ phương phi hơn khi lộ diện.
Tắm trong lửa đỏ, ít ra ông ta đã nói đúng. Đông Kinh bùng cháy và các thành phố khác của xứ sở tôi cũng quen thuộc với hình dáng của những chiếc B.29 đáng sợ, loại phi cơ không thể nào chận đứng nầy.
Khi tôi bước vô phòng, Maeda hỏi:
"Anh ngủ ngon không?"
"Trăn trở luôn, thưa Trung úy!"
Ông vừa xếp sách vừa nói:
"Rồi anh sẽ quên đi! Dù sao, anh cũng phải nghỉ ngơi."
"Thưa, khó lắm! Tôi tưởng sẽ ngủ ngon sau một ngày mệt mỏi, nhưng..."
Ông nhìn đồng hồ và nói:
"Gần sáng rồi! Hãy đi lên và hút một điếu thuốc trước khi tàu lặn xuống."
Chúng tôi không được phép hút thuốc trong khi tàu chạy dưới mặt nước. Chúng tôi đến phòng chỉ huy và đứng phía dưới cánh cửa mở rộng phía trên, thưởng thức không khi mát mẻ thổi xuống. Đây là cơ hội duy nhứt trong ngày để chúng tôi hút một điếu thuốc. Một lát sau, Trung úy Kakizaki bước đến, kế đó là Yamaguchi và Trung sĩ Tanaka, thuộc thủy thủ đoàn I.47.
Tanaka lên tiếng trước:
"Tôi tìm anh không thấy, Yokota. Anh vẫn chưa quen với chiếc giường nhỏ hẹp của chúng tôi, giống như lần trước?"
Tôi đáp:
"Anh nói đúng! Đêm rồi, càng nghĩ tôi càng nể phục sức chịu đựng của giới thủy thủ tiềm thủy đỉnh các anh."
Hắn nói:
"Thời gian đã làm thay đổi nhiều thứ. Khi chiến tranh bắt đầu, tôi đến Hawai. Tiềm thủy đỉnh quanh quẩn trong hải vực rộng lớn Oahu. Chúng tôi phóng thủy lôi vô bất cứ chiến hạm Hoa Kỳ nào mưu thoát ra khỏi Trân Châu Cảng. Thời gian nầy, chiến tranh nằm xa hẳn Nhật Bản. Hiện tại, chỉ sau ba năm, chiến tranh nằm ngay cửa ngõ chúng ta."
Tôi hỏi:
"Có khác gì đâu? Sự chịu đựng của các anh cũng vậy thôi! Thức ăn hộp, không khí ngột ngạt, và tất cả những thứ khác."
Tanaka đáp:
"Sự chịu đựng khác hơn nhiều chớ. Năm 1942, tôi hoạt động ở Ấn Độ Dương. Đó là một cuộc hải hành dài dằng dặc, nhưng vô cùng thích thú. Chúng tôi bẩn thỉu hơn bây giờ, mình mẩy luôn luôn quến dầu mở. Nhưng chúng tôi được hưởng một vài sự thú vị."
Yamaguchi hỏi vặn:
"Thú vị? Chiến tranh mà thú vị?"
"Chiến tranh lúc đó khác, thú vị là như vậy. Không có cái cảnh chạy trốn chui trốn nhủi như ở hiện tại. Năm 1942, chúng tôi bình tĩnh. Chúng ta đang chiến thắng. Chúng ta đánh thẳng tay. Chúng ta đánh dàn mặt với kẻ thù. Chúng ta không có rada nhưng kẻ thù không thể nào chận chúng ta lại được. Chúng ta tìm thấy họ, chiến đấu với họ và đánh chìm tàu họ. Hiện thời nếu phát hiện được đối phương trước, chúng ta coi đó là một điều may mắn. Nhưng thường thường họ phát hiện chúng ta trước. Ba năm qua, bị phát hiện trước có nghĩa là bị đánh chìm chắc chắn. Trước đây, khi các quan sát viên la lớn: "Tàu địch," mọi người đều hò reo. Chúng tôi vừa cười vừa hét, nhảy ùa tới vị trí chiến đấu, thỉnh thoảng còn ca hát nữa, ngay cả trước khi mạng lịnh được ban ra. Nhiều khi sợ xử dụng thủy lôi sẽ phí đi, bởi vì một trái thủy lôi giá tiền lên đến 30.000 yên, chúng tôi yêu cầu hạm trưởng cho tiềm thủy đỉnh nổi lên mặt nước để xử dụng súng bắn hạ tàu địch. Nếu được phép, xạ thủ sẽ nhảy dựng lên và chạy đến các pháo khẩu. Thành phần còn lại sẽ đứng nhìn, không khác nào theo dõi một môn thể thao. Khi xạ thủ bắn trúng, tất cả chúng tôi reo hò cổ vỏ. Chiến hạm địch trong thời gian nầy cũng chạy chậm chạp, không thể nào lảng tránh kịp. Chúng tôi có thể săn đuổi và hạ gục dễ dàng. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng cảm thầy buồn giùm thủy thủ địch bị đánh chìm, nhưng mấy gã trẻ tuổi hơn thì lại nghĩ khác. Hiện thời, kẻ hoan hô, la hét, nói cười, ca hát là thủy thủ tiềm thủy đỉnh của Hoa Kỳ. Mọi may mắn của chúng tôi đã sang tay đối phương. Chúng tôi không có một cơ hội nào để làm những việc làm của ba năm về trước."
Câu chuyện của Tanaka hấp dẫn. Chúng tôi châu đầu lắng nghe. Tanaka tiếp:
"Khi tôi kể những câu chuyện cũ cho các thủy thủ trẻ của tiềm thủy đỉnh nầy, họ cũng nuối tiếc thời gian đã qua. Hạm đội tiềm thủy đỉnh của năm 1942 hầu như không còn gì nữa."
Tôi biết hắn nói đúng. Khoảng 60 tiềm thủy đỉnh đã bị đánh chìm từ trận Trân Châu Cảng đến nay, hơn chục chiếc trong số nầy do tiềm thủy đỉnh địch gây ra.
Các hoa tiêu Kaiten đi ăn sáng sau khi Tanaka quay lưng. Sau đó chúng tôi họp trong phòng sĩ quan. Một tấm hải đồ to lớn trải trước mặt, chúng tôi cố định vị trí hiện tại. Đại úy Kawamoto, thay thế Đại úy Obori trong chức vụ hạm phó I.47 ngay trước khi rời khỏi Hikari, gọi chúng tôi đến phòng Chỉ Huy. Nơi đây có mặt hạm trưởng và hoa tiêu trưởng. Thiếu tá Orita hỏi:
"Các bạn cảm thấy sao?"
Và không chờ câu đáp, ông tiếp:
"Chúng ta không địch quân gần eo biển Bungo. Tuy nhiên khi đi xa hơn về phía Nam, chúng ta sẽ gặp tàu chiến Hoa Kỳ đầy dẫy. Nếu chạm trán với một hạm đội tơ lớn của họ tôi sẽ phóng Kaiten. Thời gian nầy, mỗi ngày chúng ta luôn luôn ở dưới mặt nước. Chúng ta sẽ tập dượt cách xử dụng Kaiten thường xuyên, để các bạn gia tăng mức độ chun vô vũ khí nhanh chóng hơn. Chúng tôi sẽ xử dụng đồng hồ để đo lường thời gian các bạn nhận lịnh và báo cáo từ trong Kaiten bằng điện thoại. Trong mỗi lần thực tập, tôi muốn các bạn đạt đến tốc độ mau hơn trước đây."
Tôi khoái trờ chơi nầy. Nó giải tỏa mối buồn bực và khó chịu trong tôi. Chúng tôi trở lại phòng sĩ quan, hiện thời đã trở thành nơi tập hợp thông thường, và đứng chờ lịnh.
Trung úy Tajitsu đặt một chiến hạm địch nhỏ bé trên một chiếc bàn cách chúng tôi năm thước. Chúng tôi sẽ nhìn và đo lương góc độ từ chúng tôi đến nó. Sự xét đoán chính xác của chúng tôi khiến Tajitsu kinh ngạc. Đến lượt tôi, tôi nghĩ rằng mũi của chiếc tàu nhỏ cách tôi một góc khoảng dưới 40 độ. Sau khi đo gốc độ cẩn thận, Tajitsu nói:
"Đúng! Ba mươi bảy độ! Chắc anh đã luyện tập thuần thục lắm! Nếu anh đạt được sự chính xác như vậy trong lúc chiến đấu, tôi nhận thấy không có cách nào anh để mất mục tiêu được".
Thời gian trôi qua nhanh chóng, và khi đầu bếp bắt đầu dọn bữa ăn trưa, lịnh thình lình ban ra:
"Hoa tiêu Kaiten!"
Chúng tôi ba chân bốn cẳng. Tôi chậm chân nhứt, vì lúc đó tôi đang cười đùa với Shinkai, đang ở trong phòng vệ sinh với tôi. Coi hắn thật buồn cười. Hắn vừa chạy vừa kéo quần.
Sáu hoa tiêu chúng tôi lần lượt chạy lên sàn tàu chánh đến các Kaiten của chúng tôi. Lúc tôi leo vô Kaiten, tôi nghe tiếng cánh cửa khổng lồ bên trên tiềm thủy đỉnh đóng lại. Tôi khép cửa Kaiten, ngồi vô ghế và nói trong điện thoại.
"Số 3 đã ở bên trong!"
Tiếng từ phòng chỉ huy:
"Anh có nghe rõ không?"
"Rất rõ!"
"Tốt! Tất cả hoa tiêu đều đã bước vô Kaiten của họ với tốc độ là hai phút năm giây!"
Tàu lặn xuống. Hạm trưởng Orita hình như hài lòng cuộc diễn tập. Không có một câu phê bình nào bất lợi.
Lúc 6 giờ chiều, tiềm thủy đỉnh nổi lên mặt nước. Thông thường chúng tôi không được ra sàn tàu trong thời gian nầy, nhưng tôi muốn ngắm nhìn đại dương đang lướt cuồn cuộn hai bên cạnh của chiếc I.47. Shinkai cũng muốn bước ra. Đây có lẽ dịp may được nhìn đại dương bao la lần cuối cùng của chúng tôi. Chúng tôi xin phép Hạm Trưởng Orita.
"Được lắm! Nhưng nếu chúng tôi bắt buộc phải lặn xuống mau, có lẽ chúng tôi phải bỏ các bạn ở lại.!"
Ông vừa nói vừa cười, tôi không hiểu ông nói thật hay đùa. Lúc ấy Đại úy Kawamoto có mặt trên đài chỉ huy với chiếc ống dòm đeo lủng lẳng trên cổ. Ông giơ ống dòm lên và nhìn một vòng. Mắt tôi ngó đăm đăm biển cả hùng vĩ. Từ trước đến nay mặt nước rộng lớn nhứt mà tôi nhìn thấy là Nội Hải, và chỉ nhìn một phía. Nhưng ở đây, xung quanh tôi đều là nước, trải dài vô tận. Có những đám mây lơ lững ở chân trời phía Tây, giống như những cánh chim khổng lồ đang bay về phương Bắc. Phía trên đám mây đỏ ối một màu, phản chiếu ánh mặt trời lặn. Ngôi một của tôi sẽ nằm ở một nơi nào đó trong đại dương nầy. So sánh với tạo vật, con người nhỏ nhoi làm sao.
Một hồi lâu, Shinkai nói:
"Chúng ta nên đi xuống tốt hơn!"
Tôi miễn cưỡng xuống cầu thang, lòng lưu luyến cảnh đẹp trước mắt. Vô phòng lái, tôi hỏi viên hoa tiêu hiện thời chúng tôi đang ở đâu. Hắn đáp:
"Nằm trên tuyến phía Đông của đảo Tanegashima"
Điều nầy khiến tôi thắc mắc. Đáng lẽ lúc nầy chúng tôi phải chạy xa hơn về phía Nam, do đó tôi hỏi hắn. Viên hoa tiêu đáp:
"Chúng ta không thể đâm đầu vô kẻ thù với hết tốc lực, Yokota. Ban ngày chúng ta không muốn đến gần đối phương trong khi chạy trên mặt nước, do đó phải chạy chậm lại hoặc đổi hướng để rồi sau đó sẽ chạy suốt đêm. Đêm nay chúng ta có thể nuốt trôi một hải trình 200 dặm hoặc hơn nữa. Và cứ như vậy, ngày chạy chậm, đêm chạy mau. Thật ra, ngày đầu tiên chúng ta muốn ở gần Nhật Bản khi chạy trên mặt biển, để nếu bị tấn công, chúng ta có thể xin giúp đỡ dễ dàng. Chúng ta cũng muốn ở ngoài tầm không thám của địch quân, nếu có thể.
Từ bây giờ trở về sau, chúng tôi chạy ngang qua Okinawa, hướng đến phía Đông trên mặt biển vào ban ngày và dưới mặt biển vào ban đêm, cho đến khi qua hòn đảo nầy."Tôi ăn tối vội vã. Có lẽ Hạm Trưởng Orita không muốn xử dụng Kaiten trong đêm tối, nhưng rạng đông, bất cứ lúc nào việc nầy cũng có thể xảy ra. Tôi muốn nghỉ ngơi đầy đủ, do đó tôi có thể ở trong tình trạng đề cao cảnh giác vào ngày hôm sau.
11. RA ĐI SAU, NHƯNG THÀNH CÔNG TRƯỚC
Một tuần trôi qua yên tĩnh, trong khi chúng tôi chạy suông sẽ về hướng Đông Nam Okinawa, và tìm kiếm mục tiêu. Okinawa hiện thời là một địa ngục, nơi mà lực lượng chúng tôi đang dồn hết nổ lực để bứng đối phương ra khỏi những vùng bị chiếm giữ. Gần 2.000 cuộc tấn công Kamikaze được tung ra, nhằm vô hạm đội khổng lồ của địch quân, bao gồm nhiều cuộc tấn công thông thương do oanh tạc cơ thực hiện. Hơn bốn mươi chiến hạm huấn luyện bị đánh trúng, nhưng sức mạnh của các cuộc tấn công đã cùn nhục. Được các khu trục hạm trang bị rada tối tân báo động sớm, hạm đội Hoa Kỳ dàn sẵn đội hình phòng vệ để chờ đợi nhiều cuộc tấn công của chúng tôi.
Ngay cả phi cơ Nhựt tập trung trên các cơ sở rada nổi nầy và gây kinh ngạc hoàn toàn cho hạm đội xâm chiếm, cũng không gây thiệt hại bao nhiêu. Tàu địch thay thế được đưa đến mau hơn tốc độ đánh chìm và gây hư hại, Hoa Kỳ có lẽ sản xuất một chiến hạm còn mau hơn Nhật Bản sản xuất một phi cơ Thần Phong.
Phi cơ Nhật Bản đánh trúng nhiều hàng không mẫu hạm, tuần dương hạm, thiết giáp hạm và khu trục hạm, mà không tạo được một sự thay đổi nào trong hiệu năng của đối phương. Mất mát của cả hai phía lên đến một mức độ không thể tưởng nổi. Sau nầy các sử gia đã cho rằng cuộc xung đột ở Okinawa là một cuộc xung đột đẩm máu nhứt trong lịch sử thế giới. Hoa Kỳ hùng hậu về lực lượng, Nhật Bản mạnh mẽ về sự liều mạng một cách tuyệt vọng. Nhật Bản tận dụng mọi thứ, cả đến những quả bom người, được buộc phía dưới các oanh tạc cơ và mang thả xuống các chiến hạm Hoa Kỳ. Nhưng sự hi sinh nầy cũng không thâu hoạch kết quả bao nhiêu. Có một cố gắng vô ích khác là sử dụng Kaiten trên đất liền. Tám hoa tiêu Kaiten và chín cơ khí viên được quân vận hạm chở đến Okinawa, để từ đó họ lướt ra tấn công địch quân. Tất cả người và vũ khí đều mất khi chiếc quân vận hạm bị đánh chìm dọc đường.
Trong khi đó, pháo đài bay B.29 phát xuất từ quần đảo Mariana tìm mọi cách để hoàn tất hai phương diện: tiêu diệt tiềm năng chiến tranh và tiêu diệt tinh thần chiến đấu của dân chúng Nhật Bản. Mục tiêu đầu tiên, địch quân đã thâu hoạch thành công, nhưng họ không thành công nhiều với mục tiêu thứ hai. Tây phương bấy giờ không nắm vững sự tôn sùng của dân chúng Nhựt dành cho Thiên Hoàng. Trong bất kì trường hợp nào, đồng bào của tôi vẫn tiếp tục phấn đấu. Mặc dù khẩu phần được phân chia một cách thiếu thốn, đưa đến nạn chợ đen trầm trọng, dân chúng vẫn nhẫn nại làm việc. Khi thức ăn trong các đô thị thiếu hụt, họ lặn lội về miền quê để xin rau cải của bạn bè hoặc họ hàng. Mùa gặt kết quả khả quan, có lẽ khả quan hơn năm rồi, mặc dù các cuộc oanh tạc làm chậm trể công việc mang bán ra thị trường. Những đoàn tàu đánh cá của chúng tôi cho dù bị tiềm thủy đỉnh Hoa Kỳ cản trở, mức độ thâu hoạch vẫn đứng hàng thứ hai trong xứ.
Công việc sản xuất phi cơ của chúng tôi sút giảm, số lượng thay thế không bắt kịp số lượng mất mát ở Okinawa. Nhiều trăm phi cơ được giữ lại, không tung lên để chống lại pháo đài bay B.29. Chúng được dành dụm để bảo vệ quê lương lần cuối cùng. Khu vực vĩ đại với một cố gắng toàn lực, nhằm nghiền nát đối phương, sẵn sàng tiến ra các bờ biển hơn bao giờ hết. Để chuẩn bị tinh thần cho kế hoạch nầy, các khẩu hiệu đã bắt đầu xuất hiện trên khắp các đường phố, trong nhà ga xe lửa, đại ý: "Một trăm triệu người thề chết trong danh dự". Dân chúng trong các làng mạc được thông báo chuẩn bị tầm vong vạt nhọn, hầu tiếp tay với Quân đội để bảo vệ xứ sở.
Do đó, có thể nói, dù tình thế tồi tệ khắp nơi, dân chúng Nhựt vẫn cố gắng chịu đựng. Tất cả tiền đồn của chúng tôi đều bị cắt đứt con đường tiếp viện. Một số tiền đồn nầy nằm trong vòng đai của các vị trí Đồng Minh, bị đánh phá và oanh tạc hàng ngày, như Rota và Saipan ở quần đảo Mariana. Những nơi nầy còn một vài đơn vị sống sót của chúng tôi, trở thành mục tiêu thực tập pháo kích cho các chiến hạm Hoa Kỳ rời đảo Guam chạy đến các lực lượng tiền phương của họ. Oanh tạc cơ B.29 sau khi tấn công lãnh thổ Nhật Bản thường trút bom dư xuống các đơn vị nầy hơn là xuống biển.
Đồng bào của tôi thường được mô tả như là những người theo thuyết định mạng của Đông Phương. Điều nầy có thể đúng hoặc sai. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng họ yêu xứ sở của họ tới mức sẵn sàng chấp nhận chịu đựng mọi gian nan cho xứ sở đó. Trong giây phút tăm tối nhứt nầy, khi binh sĩ của chúng tôi bị chết đói và chết vì bịnh tật ở New Guinea, bị tiêu diệt ở Phi Luật Tân, khi họ bám giữ Okinawa trước một đối thủ vượt trội, và đồng thời các lực lượng của chúng tôi được chuyển vận từ Trung Hoa đến Triều Tiên và Mãn Châu để đối đầu với mối đe dọa càng lúc càng gia tăng của Nga Sô, dân chúng Nhựt cố gắng làm việc hơn, thêm nhiều thời giờ hơn, và thắt lưng buộc bụng hơn, giảm bớt nhu cầu cần thiết hơn bất cứ thời gian nào trong đời sống của họ. Được sự yểm trợ tinh thần như vậy, I.47 thủy thủ đoàn và các hoa tiêu Kaiten của nó, phải tiếp tay trong sự chiến đấu chung. Chúng tôi phải sớm tìm ra một số mục tiêu.
Mỗi sáng chúng tôi đều tập tành xử sụng Kaiten. Tốc độ leo vô Kaiten của tôi càng lúc càng nhanh chóng và có thể thực hiện ngay cả trong bóng tối. Khi mấy tiếng "Hoa tiêu Kaiten" được hô lên, tôi chạy ra khỏi phòng nhanh như chớp, lướt qua phòng lái, phòng rada, phòng máy để đến ống tiếp chun vô Kaiten. Thủy thủ đoàn sẽ tặng tôi một cái đẩy thật mau, thật mạnh, do đó tôi khỏi phải dùng cầu thang. Rồi tôi bò xuyên qua ống tiếp như một con rắn và buông mình xuống ghế ngồi. Bằng những phương pháp vừa nói, tôi giảm thời gian leo vô từ 2 phút 5 giây đầu tiên xuống còn 30 giây.
Trong thời gian nầy, I.47 chạy vòng phía sau các lực lượng địch bao quanh Okinawa. Lúc chở hai toán Kikusui và Kongo trước đây, chiếc tàu đều tổ chức một buổi lễ tiển đưa trong đêm phát động cuộc tổng tấn công. Nhưng lần này hơi khác. Chúng tôi không có thời điểm tấn công nhứt định. Chúng tôi phải đánh chìm bất cứ tàu địch nào chúng tôi tìm thấy, và sự tìm thấy nầy không biết xảy ra lúc nào. Do đó, nghi thức đặt biệt nầy khó thể thực hiện được.
Trong những giờ nhàn rỗi của sự chờ đợi nầy, chúng tôi đánh bài, chời cờ "go"của người Nhựt, và luyện đôi mắt đo góc cho bén nhạy.
Thế rồi một buổi chiều, trước một bửa tiệc nhỏ, hoa tiêu trưởng của I.47 cho biết "Ngày mai chúng tôi sẽ chạy dọc theo con đường tiếp liệu nằm giữa Ulithi và Okinawa, không biết gặp bất trắc lúc nào. Đây là thời gian mà chúng ta có thể nhín chút ít thì giờ để tổ chức một buổi lễ, buổi lễ nầy là những gì tốt nhứt mà chúng tôi có thể cung hiến cho các bạn."
Tim chúng tôi cảm thấy ấm áp khi các thủy thủ I.47 đặt những phần ăn tươi cuối cùng của họ trước mặt chúng tôi, cùng với một số đồ hộp chọn lọc nhứt, và la ve nữa.
Thiếu tá Orita lên tiếng:
"Các bạn hoa tiêu Katien thân mến, sau bình minh ngày mai chúng ta có thể thực hiện một cuộc tấn công không biết lúc nào. Không giống như các cuộc tấn công của hai toán Kongo và Kikusui trước đây, lần tấn công nầy sẽ được quyết định chớp nhoáng, vì vậy có lẽ tôi không có thì giờ để bắt tay các bạn. Sự thật, có lẽ tôi cũng không nhìn được các bạn lướt đi lần cuối cùng, bởi vì sau đó tôi phải cấp tốc đưa chiếc tàu đến tham dự mặt trận riêng của chúng tôi. Do đó, các bạn hãy coi những lời nầy như những lời vĩnh biệt của tôi. Tôi chúc các bạn thành công, và tin tưởng rằng mỗi bạn sẽ đánh trúng trực tiếp mục tiêu của mình. Bây giờ, chúng ta hãy cùng uống với nhau chun rượu biệt ly nầy."
Chúng tôi nói với những người ở lại:
"Dom, arigato gozaimashita! Cảm ơn rất nhiều về những gì các bạn đã làm cho chúng tôi!"
Chúng tôi nâng ly. Giống như mọi khung cảnh khác mà chúng tôi đã trải qua trong suốt tháng Tư, tôi nghĩ khung cảnh nầy sẽ là một khung cảnh cuối cùng khác, và lần cuối cùng chúng tôi nếm mùi la ve.
Buổi tiệc nhỏ chấm dứt vào lúc 8 giờ tối. I.47 chạy trên mặt nước. Tôi vội vã đến cầu thang để hút một điếu thuốc cuối cùng. Những mảnh vụn của kỉ niệm đầy ấp trong đầu tôi. Cuối cùng, tôi rơi vô một giấc ngủ bất an.
Ngày hôm sau, 28 tháng Tư, là một ngày yên tĩnh. Suốt ngày, bốn hạ sĩ quan Kaiten chúng tôi ngồi đứng không yên. Chúng tôi đi lên đi xuống giữa phòng ngủ của thủy thủ và phòng sĩ quan, với tấm hải đồ, đèn bấm và đồng hồ đo giờ treo lủng lẳng trên cổ. Chúng tôi luôn luôn cử động và không biết gì để làm.
Chiều lại, tàu nổi lên để lấy dưỡng khí, bốn đứa chúng tôi đi đến cầu thang để hút thuốc. Shinkai nói:
"Thêm một ngày nữa trôi qua mà không có gì hết!"
Yamaguchi nói:
"Hãy vui lên! Có lẽ họ sẽ cho chúng ta một bửa tiệc nữa. Tôi chắc được thưởng thức thêm la ve!"
Tôi nghĩ, nếu được tự tiện, Yamaguchi sẽ uống hết bia trên tiềm thủy đỉnh.
Ngày hôm sau, 29 tháng Tư, ngày sinh nhựt của Thiên Hoàng. Buổi trưa, sau khi viên hoa tiêu trưởng định hướng, tất cả thủy thủ đoàn ngừng công việc một phút và khom mình hướng về Đông Kinh để tỏ lòng tôn kính vị lãnh đạo của chúng tôi. Dân chúng Nhật Bản thường khom mình để chào đón, từ biệt và chứng tỏ sự cung kính đối với người khác. Tuy nhiên, trong những dịp nầy chúng tôi chỉ khẻ khom mình. Còn khom mình thật sâu chỉ được xử dụng tỏng những dịp lễ lạc chánh thức. Đây là cái khom mình mà chúng tôi đang làm, day mặt theo một đường thẳng mà chúng tôi độ chừng chạy ngang qua Hoàng Cung. Các thủy thủ Hải Quân ở Nội Hải cũng thường làm như vậy khi tàu của họ chạy đến phía Nam Đông Kinh hoặc phía Nam Ise, nơi có đền thờ Amaterasu, Thái Dương Thần Nữ, tổ tiên của Hoàng gia.
Sau bửa cơm trưa, chúng tôi đánh bài giải trí với Đại úy Tamaru, sĩ quan kỹ thuật, trong phòng của sĩ quan. Đánh hơn hai giờ, bổng nhiên tôi muốn nghỉ. Tôi nói:
"Đủ rồi, thưa Đại úy! Đại úy thua quá dễ dàng!"
Ông cười:
"Anh đánh giỏi quá, Yokota! Có lẽ anh bị căng thẳng và luôn luôn đề cao cảnh giác. Người ta nói rằng tài năng của một người thường phát lộ trong những giây phút như thế nầy. Anh đề cao cảnh giác để chiến đấu, thành ra anh cũng để cao cảnh giác trong lúc đánh bài."
Tôi không nghĩ như vậy. Tôi độ chừng Đại úy Tamaru đã thả tôi thắng, bởi lẽ đây là ván bài cuối cùng của tôi, ông ta muốn nâng cao tinh thần của tôi. Tôi thích Tamaru trên nhiều phương diện. Mặc dù ông ta không lớn tuổi hơn tôi mấy, nhưng kiến thức của ông sâu rộng, không thể ngờ có được trong một người ở lứa tuổi của ông...
Buổi chiều ngày sinh nhựt Thiên Hoàng, sau khi I.47 nổi lên mặt nước, tôi hút một điếu thuốc như thường khi, rồi trở về phòng ngủ định đánh một giấc cho đến sáng. Nhưng một giờ sau đó tôi bị đánh thức dậy khi Hạm Trưởng Orita ló đầu vô cửa phòng. Việc nầy khiến tôi giựt mình. Ít khi nào hạm trưởng xuống viếng phòng ngủ của thủy thủ, ngoại trừ ông ta muốn thanh tra.
"Tất cả hoa tiêu Kaiten đến phòng sĩ quan lập tức!"
Ông nói, tiếng nói đủ lớn để đánh thức những người đang ngủ. Mặt mày ông ta có vẻ hớn hở. Chúng tôi nhảy xuống giường và vừa nối gót theo ông vừa đưa tay vuốt quần áo. Trong phòng sĩ quan, ông nhìn quanh và nói:
"I.36 đã tung ra một cuộc tấn công có hiệu quả! Cuộc tấn công xảy ra hai ngày rồi. Chiếc tàu đụng đầu với một đoàn 30 chiến hạm địch. Hai Kaiten gặp rắc rối, nhưng bốn chiếc còn lại phóng ra được. Chúng đánh chìm bốn chiến hạm to lớn, theo xét đoán có lẽ là dương vận hạm hoặc quân vận hạm. Chúng tôi vừa nhận được tin nầy trong phòng vô tuyến!"
Mọi người hoan hô vang dội! Chủ trương của Đệ Lục hạm đội đã được chứng minh! Một tiềm thủy đỉnh mang các Kaiten hoạt động trong biển cả bao la đánh chìm bốn chiến hạm địch và thoát thân. Chiếc tàu vẫn còn hai Kaiten và đầy đủ thủy lôi, có thể đánh chìm thêm nhiều chiến hạm địch nữa.
Khi những lời hoan hô chấm dứt, có thời giờ nghĩ ngợi, tôi bắt đầu cảm thấy bực tức. I.36 rời khỏi hải cảng sau chúng tôi hai ngày, vậy mà nó đạt được thành công cách đây hai hôm, nghĩa là nó chỉ ở biển có một tuần lễ. Sáu hoa tiêu Kaiten chúng tôi nhìn nhau, và chúng tôi ao ước có được dịp may như vậy.
Thủy thủ đoàn của I.47 cũng có phản ứng như chúng tôi. Thoạt đầu tin tức làm cho họ vui vẽ, nhưng rồi họ cảm thấy đố kỵ. Chiếc tàu của họ và chiếc I.36 thường ganh đua trong tình đồng đội. Cả hai chiếc đều thuộc loại mới, được chế tạo khi chiến tranh phát động. I.36 trú đóng ở Kure và I.47 ở Yokosuka trước khi được chỉ định vào nhiệm vụ Kaiten.
Trong cuộc hành quân Kikusui, I.47 đánh chìm được bốn chiến hạm trong khi I.36 chỉ đánh chìm được một chiếc, vì ba Kaiten không phóng được. Trong cuộc hành quân Kongo, mỗi chiếc đánh chìm thêm bốn chiến hạm. Như vậy điểm thắng là 8 - 5 trước khi bắt đầu cuộc hành quân nầy. Bây giờ I.36 nâng tỷ số lên 9 - 8, do kết quả vừa rồi. Sáu hoa tiêu Kaiten chúng tôi cũng như thủy thủ đoàn của I.47 đều nghĩ đến tỷ số mới nầy. Các hoa tiêu Kaiten của I.36 đánh chìm bốn chiến hạm địch, do đó chúng tôi sẽ đánh chìm sáu chiếc! Tại sao không? Chắc chắn chúng tôi có thể làm được việc nầy. Trong số những hoa tiêu Kaiten của I.36 chỉ có Thiếu úy Kuge đã từng thực hiện một sứ mạng trước đây. Cả sáu người chúng tôi, Shinkai và tôi đã trải qua một lần, và bốn người khác hai lần. Chúng tôi đều tự coi như có đầy đủ kinh nghiệm hơn những hoa tiêu ở I.36. Chúng tôi bảo đảm với thủy thủ đoàn I.47 rằng chúng tôi sẽ thắng và đánh bại I.36, đặt họ lên hàng đầu trở lại.
Ngày 30 tháng Tư vẫn hoàn toàn yên tĩnh. Nỗi bồn chồn của chúng tôi càng gia tăng. Chúng tôi sanh ra gắt gỏng. Hạm trưởng Orita cũng không kiên nhẫn hơn chúng tôi. có thể nói như vậy, bởi chúng tôi nhìn thây ông luôn luôn vô phòng truyền tin, và qua giọng nói của ông:
"Các bạn phải nghỉ ngơi. Nếu không, các bạn sẽ quá mệt mõi khi đụng trận. Nên nằm trên giường ngủ nhiều hơn nữa!"
Rồi sau đó ông tiếp:
"Đêm nay tôi sẽ chạy lui lại 100 dặm. Bấy giờ chúng ta sẽ nổi lên và kiểm soát toàn thể các Kaiten. Sau khi tôi chắc chắn tất cả đều ở trong tình trạng hoàn hảo, chúng ta sẽ quày lại hải vực nầy. Bằng cách nầy hay cách khác, tôi có cảm giác chúng ta sẽ trạm chán với một số địch quân."
Tôi thở phào nhẹ nhõm khi nghe câu nói nầy. Tôi tin nơi ông, những gì ông nói sẽ trở thành hiện thực. Lần đầu tiên, tôi có thể đi ngủ ngay lập tức.
Ngày hôm sau tôi cảm thấy phục hồi sinh lực đầy đủ cả. Không có kẻ thù nào được phát hiện. Chúng tôi bỏ cả ngày để kiểm soát lại các Kaiten, ở một nơi cách xa hẳn con đường tiếp tế của đối phương. Tất cả đều tốt đẹp. Đêm đó chúng tôi quay lại và chạy đến hải vực cũ. Bình minh, chúng tôi lặn xuống và duy trì dưới nước suốt ngày. Rồi đêm đến, khi I.47 chạy trên mặt biển khoảng 20 phút, một quan sát viên la lớn:
"Tàu địch! Cách khoảng 12 dặm!"
Thị độ nầy phi thường, nhưng không phải bất thường đối với quan sát viên hải quân. Các quan sát viên của chúng tôi được chọn lựa cẩn thận và được trang bị loại ống dòm có tầm xa hơn bất kì loại ống dòm nào của lực lượng hải quân khác. Trong những ngày đầu cuộc chiến, trước khi mức công hiệu của rada được phát triển đầy đủ, công việc huấn luyện quan sát viên đặt biệt nầy đã cho phép lực lượng của chúng tôi thâu tóm được nhiều thành quả đáng kinh ngạc trong việc chống lại chiến hạm địch, ngay cả những chiến hạm có trang bị ra da. Thành quả nầy đã từng chứng tỏ trong "Trận đánh đầu tiên ở Đông Solomon", người Mĩ gọi là "Trận đánh đảo Savo", và trong nhiều trận đánh khác.
Sau sự phát hiện nầy, I.47 vẫn tiếp tục lướt trên mặt biển. Thiếu tá Orita chạy vô phòng ra da. Ông muốn đích thân quan sát để coi địch quân thuộc loại nào trước khi đưa ra quyết định. Tôi theo chân ông, tò mò muốn biết tàu địch nhìn trên rada như thế nào.
Thật kì diệu! Giữa 180 độ và 190 độ trên vòng kiếng tròn có một đường màu xanh sáng không lớn hơn thân cây kim. Phía bên kia đường xanh sáng nầy, xa hơn trung tâm mặt kiếng, có nhiều đường xanh sáng khác giống như vậy. Orita nói có vẻ hài lòng:
"Tốt!"
Ông ước lượng đoàn convoy địch có hơn một chục chiếc. Không có chiếc nào chạy về hướng chúng tôi, do đó ông biết ra da đối phương chưa khám phá ra chúng tôi. Có lẽ đoàn công voa nầy không có hộ tống hoặc hộ tống sơ sài vì cho rằng không có chiếc tiềm thủy đỉnh Nhật Bản nào hoạt động trong khu vực nầy.
Hạm trưởng Orita trở về phòng chỉ huy và ra lịnh:
"Tất cả thủy thủ vô vị trí chiến đấu! Chuẩn bị phóng thủy lôi!"
Sau đó, ông ra lịnh xã hết tốc lực tiến đến đoàn công voa địch. Chúng tôi chạy về phía trước một lúc, thâu ngắn phân nửa khoảng cách giữa chúng tôi và địch quân. Sau đó, vì sợ đối phương phát hiện, Orita ra lịnh cho chiếc tàu lặn xuống, chỉ chừa tiềm vọng kính. Hoa tiêu Kaiten tạp hợp trong phòng sĩ quan với các trang bị cá nhân. Nơi đây, chúng tôi có thể nghe được mọi diễn biến, và sẵn sàng để chạy ùa đến Kaiten khi được lịnh.
Sĩ quan thủy lôi báo cáo:
"Các ống phòng đều đã nạp thủy lôi!"
Orita ra lịnh:
"Ống phóng số 1, số 2, số 3 và số 4 chờ lịnh!"
Lúc đó chiếc tàu xả hết tốc lực đâm thẳng đến địch quân. Một hiệu thính viên từ phòng khám phá âm thanh báo cáo:
"Tiếng động bên phải, năm độ. Rất nhiều, đúng là tiếng động của một đoàn công voa!"
Nếu bây giờ là ban ngày, các Kaiten chúng tôi sẽ có một cơ hội tốt. Chúng tôi chỉ cách mục tiêu khoảng 5 dặm, và mặt biển yên lặng. Với khoảng cách nầy, con mồi khó thể thoát khỏi tay chúng tôi. nếu sự phát hiện nầy trể một đôi giờ nữa, chúng tôi dễ dàng bức phá thành tích của I.36. Nhưng hiện thời là ban đêm, và bầu trời không trăng, theo lời hoa tiêu chiếc tàu cho biết. Cả sáu chúng tôi ngồi xuống, biết rằng chúng tôi không thể nào được phóng đi.
Nổi bực bội của chúng tôi duy trì không lâu khi nghe và nhìn sự hoạt động rộn rịp của thủy thủ đoàn I.47. Đây là một cuộc chiến đấu thực sự đầu tiên của chúng tôi. Trận phục thù hai khu trục hạm Hoa Kỳ đã phá rầy chúng tôi một tháng trước đây sắp xảy ra.
Bốn mươi phút trôi qua kể từ khi qsv của I.47 nhìn thấy đoàn công voa. Phòng khám phá âm thanh cho biết khoảng cách hai bên đang rút ngắn lại.
Chạy dưới độ sâu 50 bộ (khoảng 17 thước), chúng tôi lướt đến. Tiếng động do chân vịt của tàu địch gây ra càng lúc càng lớn hơn trong tai của nhân viên khám phá âm thanh. Hạm trưởng Orita và Đại úy Kawamoto thay phiên nhau quan sát trong tiềm vọng kính. Cuối cùng, Kawamoto nhìn thấy đối phương. Chúng tôi nghe ông hét lớn:
"Bên trái 90 độ! Tầm xa 2 dặm!"
I.47 giảm hẳn tốc độ, hầu như chết đứng dưới mặt nước khi hạm trưởng Orita ra lịnh vung mũi về phía tàu địch. Bây giờ ông ban lịnh cuối cùng. Cứ cách khoảng 2 giây ông nói:
"Một, khai hỏa! Hai, khai hỏa! Ba, khai hỏa! Bốn, khai hỏa!"
Tai tôi hơi lùng bùng mỗi khi một trái thủy lôi M.95 lướt đi. Lúc trái đầu tiên thoát ra, tôi ấn nút chiếc đồng hồ tính giờ của tôi. Đại úy Kawamoto cho biết thời gian chạm mục tiêu của thủy lôi là hai phút bốn mươi giây.
Nhiều giây trôi qua chậm chạp, tôi nín thở khi hai phút ba mươi giây đang nhích đến. Chỉ còn mười giây nữa. Cây kim đồng hồ nhích từ từ. Hai phút bốn mươi giây, không nghe một tiếng nổ nào cả. Trật rồi? Thêm năm giây nữa trôi qua. Tại sao như vậy?
Khi kim đồng hồ của tôi nhích đến hai phút năm mươi giây, tôi nghe một tiếng phụt từ xa xa, rồi một tiếng nổ lớn.
"Trúng rồi!"
Tôi hét lớn, cung tay đấm vô chiếc đồng hồ, mọi thứ và cả trên lưng Shinkai
Nhiều giây sau đó, một tiếng nổ thứ hai. Thượng sĩ Fujisaki la lớn:
"Trúng thẳng!"
Tất cả những người trong I.47 hoan hô vang dội. Tanaka chắc khoái chí, tôi nghĩ. Hắn đã gặp lại những ngày của của năm 1942 rồi.
Tiếng nổ thứ ba liền theo tiếng nổ thứ hai, và vị hạm trưởng nói trên loa phóng thanh:
"Ba trong bốn thủy lôi đã trúng đích. Một chiếc tàu đang chìm xuống, và chúng tôi có thể nhìn thấy một cột lửa dâng cao lên từ chiếc thứ hai!"
Tất cả chúng tôi bắt đầu ca hát. Bốn trái thủy lôi phóng ra chỉ lạc một tiêu một trái. Hai trái trúng cùng mục tiêu, và trái thứ ba, chạy xa hơn, trúng một mục tiêu khác. Orita thét:
"Đưa tàu xuống 250 bộ!"
Rồi ông gọi phòng khám phá âm thanh:
"Luôn luôn quan sát! Lắng nghe tiếng chân vịt của khu trục hạm!"
Ông chắc lực lượng hộ tống địch đã quành lại và đang hướng đến chúng tôi. Những chiếc tàu còn lại của đoàn công voa đã chạy xa. Không có chiếc nào ở lại để giúp đỡ nạn nhân hay sao? Có lẽ không. Đối phương đã nhận được tin tức về cuộc tấn công thành công của I.36 bốn ngày trước đây, nên không dám chần chờ. Sao thì sao, chúng tôi không còn cơ hội để tấn công lần thứ hai nữa. Địch quân đã đề cao cảnh giác. Họ sẽ gọi phi cơ tuần tiểu hoặc các oanh tạc cơ từ một hàng không mẫu hạm tới. Các công điện nhận được trong phòng vô tuyến của chúng tôi cho thấy có nhiều hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ phía Đông Okinawa.
Hạm trưởng Orita vẫn giữ I.47 dưới độ sâu. Đã chiến thắng rồi, bây giờ chúng tôi phải trốn tránh một giây lát. Chúng tôi bắt đầu rời xa khu vực. Lúc 4 giờ sáng chiếc tiềm thủy đỉnh nổi lên mặt nước và chạy cho đến bình minh. Trước mặt chúng tôi, một ngày không bao giờ quên đang chờ đợi.
12. TỬ THẦN KHÔNG HẸN
Chúng tôi nổi lên mặt nước lúc rạng đông ngày 2 tháng 5 năm 1945, và lấy dưỡng khí để chạy ngầm suốt ngày. Các hoa tiêu Kaiten đều được nghỉ ngơi đầy đủ. Chúng tôi sẵn sàng tuân lịnh hành động. Cần thiết hơn hết của chúng tôi là chiến đấu, mặc dù chỉ mang chút ít hi vọng trong ngày hôm nay.
Hầu hết buổi sáng trôi một cách lê thê. Không có việc gì để làm, các hoa tiêu Kaiten tụ tập trong phòng sĩ quan. Các dụng cụ đeo lủng lẳng trên cổ, chúng tôi giết thời giờ bằng cách lượng định gốc độ.
Lúc 9 giờ 30 sáng, bọn chúng tôi giựt mình khi nghe tiếng chuông báo động vang lên. Tiếng chuông chưa dứt. Hạm trưởng Orita đã nói lớn:
"Tất cả thủy thủ vô vị trí chiến đấu! nâng độ sâu lên để quan sát!"
Lịnh này cũng là lịnh hành động của các hoa tiêu Kaiten. Sáu chúng tôi bắt đầu kiểm soát dụng cụ lại lần cuối cùng. Bây giờ chúng tôi chỉ còn chờ lịnh chun vô Kaiten.
Sau đó, hạm trưởng la lớn:
"Các hoa tiêu chuẩn bị tấn công!"
Một phút sau đó ông la tiếp:
"Các hoa tiêu Kaiten, leo vô vũ khí!"
"Đi, Shinkai!"
Tôi vừa thét vừa đẩy người bạn. Hắn chạy về phía trước, trong khi tôi chạy về phía sau tàu, tránh né các chướng ngại vật mà tôi đã ghi nhận từ trước một cách nhanh nhẹn. Thủy thủ đứng tại các vị trí chiến đấu nhìn tôi và la lên:
" Yareyo, Yokota san! Chúc anh may mắn!"
Ống tiếp để chui vô Kaiten của tôi nằm gần cuối phòng máy. Tôi vừa bò lên vừa nói với mọi người:
"Sayonara! Và cảm ơn các bạn rất nhiều!"
Rồi tôi nhìn xuống. Hai khuôn mặt đang nhìn lên tôi trong ánh sáng của một bóng đèn chiếu lờ mờ phía bên trong buồng lái Kaiten. Họ nói, mắt long lanh:
"Chúng tôi sẽ đóng cánh cửa nầy cho anh!"
Tôi nói:
"Tốt lắm! Cảm ơn các bạn rất nhiều"
Lúc đó, tôi không thời gian để hô những khẩu hiệu chiến thắng cuối cùng. Tôi bận chuẩn bị để được phóng đi. Một phút sau, cánh cửa Kaiten khép lại, tôi khóa chốt an toàn.
Một tiếng nói nghe trong máy điện thoại của tôi:
"Số 3 ? Số 3 ? "
Tôi đáp, giọng rõ ràng:
"Số 3 đã ở trong Kaiten!"
Tôi phản ứng đúng ý những gì mà tôi đã được huấn luyện. Nhưng phản ứng nầy không có trong chương trình huấn luyện, tôi đưa tay vô túi, rút tấm ảnh của người mẹ quá cố và đặt lên mặt kiếng la bàn. Người đàn bà mến yêu tôi chưa thực sự hiểu điều nầy, sẽ là hình ảnh cuối cùng trước đôi mắt còn động đậy của tôi, trước khi linh hồn của tôi hội ngộ với linh hồn của bà trong cõi chết.
Tôi có thể nghe tiếng nước chảy vô ống tiếp vừa chui qua. Hai giây ông tiếp sẽ đầy nước. Tất cả đều sẵn sàng. Còn hai việc cần thiết nữa là tôi sẽ ra đi: hai sợi dây giây cáp còn lại được tháo ra và nổ máy Kaiten.
Mọi cử chỉ, mọi hành động, mọi đòi hỏi tập trung sự chú ý của tôi như máy. Chỉ trong Kaiten bảy tám giây, nhưng tôi cảm thấy nôn nóng.
"Đã kiểm soát! Số 3 sẵn sàng ra đi!"
Tôi gọi điện thoại, hy vọng phòng chỉ huy phóng tôi đi lập tức. Tiếng nói của tôi không được đáp trả. Tôi hiểu ngay rằng sự nôn nóng của mình là vô ích. Kakizaki phải ra đi đầu tiên. Tôi không thể qua mặt thượng cấp của mình. Tôi cố dằn cơn nôn nóng xuống. Tôi kiểm soát lại các dụng cụ và buộc lại hachimaki quấn trên đầu tôi.
Thế rồi, nhằm muốn biết mục tiêu của tôi, tôi hỏi phòng chỉ huy:
"Tình hình địch ra sao?"
"Hai chiến hạm. Một dương vận hạm và một khu trục hạm!"
"Chỉ có hai chiếc ?"
Tin tức nầy làm tôi thất vọng. Tôi đã từng hi vọng và van vái gặp được cả một đoàn công voa đông đảo. Do đó, cả sáu chúng tôi có thể cùng ra đi và cùng chết chung với nhau.
Tin tức khác lại đến trong điện thoại của tôi:
"Địch bên phải 60 độ! Xa 2 dặm. Tốc lực 14 hải lý. Hướng 270 độ!"
Tôi lập lại để chứng tỏ nghe không lầm, và ghi vô hải đồ.
Một tin mới lại đến trên mạch điện tổng quát, cho tất cả sáu Kaiten cùng nghe.
"Số 1 và số 2 sẽ được phóng đi. Tất cả Kaiten khác vẫn trong tư thế sẵn sàng!"
Như vậy có nghĩa là Trung úy Kakizaki và Trung sỹ Yamaguchi đi trước. Còn tôi sẽ ra sao?
Tôi buộc miệng hỏi:
"Số 3 không đi hả?"
Phòng chỉ huy chận lời tôi:
"Hãy chờ! Hiện thời chỉ có hai tàu địch!"
Tôi xấu hổ về sự hớp tớp nầy. Đương nhiên, Yamaguchi thâm niên cấp bực hơn tôi, hắn phải đi trước tôi. Tôi ngồi lặng yên, nín thở hầu như muốn chết ngợp.
"Kaiten số 1, sẵn sàng!"
Tôi không nghe tiếng nói nào khác hơn là tiếng từ phòng chỉ huy. Tôi không nghe tiếng Kakizaki. Tôi chòm về phía trước, nhìn qua tiềm vọng kính của tôi. Nước biển xanh thẩm một màu. Và tôi có thể nhìn thấy cái đuôi Kaiten của Kakizaki, nằm phía sau lái chiếc I.47, cách phía trước tôi khoảng 10 thước. Máy Kaiten của Kakizaki đã chạy. Và hình ảnh trước mắt bổng nhiên gây cho tôi sự hồi họp. sơi giây cáp thứ tư của Kakizaki vừa tháo ra.
Tôi không nghe lịnh "Đi", nhưng lịnh đó đã ban ra rồi. Trong một hai giây, Kakizaki tách rời khỏi chiếc tiềm thủy đỉnh. Tôi nói nho nhỏ tên ông khi những khối bọt trắng trôi ngược lại vây quanh Kaiten của tôi. Khi bọt tan, tôi nhìn thấy một cách rõ rệt. Kakizaki đã ra đi, cái máng để Kaiten của ông trống rỗng.
Sau đó, sự chờ đợi kéo dài, và tiếp theo một tiếng nổ làm rung rinh chiếc I.47, và những Kaiten còn lại trên sàn tàu. Tôi hét lớn:
"Trúng!"
Không biết tiếng hét của tôi có lọt vô đường dây điện thoại hay không. Không lâu, tôi lại hét nữa:
"Lại trúng!"
Hai đồng đội của tôi bây giờ đã ra đi vĩnh viễn. Bây giờ, linh hồn họ đang bay, sát cánh bên nhau, đến ngôi đền vĩ đại Yasukuni. Ở đó, họ sẽ được tôn kính như hai vị thần. Tôi nôn nóng ra đi theo họ, tiếng nói của tôi nức nở khi tôi gọi phòng chỉ huy và hỏi:
"Còn mục tiêu nào thêm nữa không?"
Tiếng đáp:
"Trung úy Kakizaki và Trung sỹ Yamaguchi đã trúng thẳng vô cả hai rồi!"
Câu đáp nầy khiến tôi tức giận. Tôi mất bình tĩnh, hét thật lớn:
"Tôi không hỏi anh việc nầy đồ ngu! Anh không nghĩ là tôi đã nghe rồi sao? Tôi hỏi anh còn chiếc tàu địch nào nữa không. Trả lời tôi!"
Phòng chỉ huy đang bấn loạn. Tôi nghe nhiều tiếng la hét trong máy. Furukawa, Shinkai và Maeda cũng hỏi như tôi. Họ để chúng tôi la hét một chập cho đã nư rồi mới trả lời:
"Các hiệu thính viên khám phá âm thanh không còn nghe tiếng động nào nữa. Tất cả Kaiten cứ chờ đợi!"
Tôi dịu xuống và ba đồng đội của tôi cũng vậy. Đường giây trở nên yên lặng và hy vọng của tôi nhóm lên. Khi đã chọn nhiệm vụ nầy, tất cả chúng tôi thề đồng sanh đồng tử, chia sẽ vui buồn khốn khó, hiểm nguy. Chắc chắn đinh mạng sẽ không rẽ phân chúng tôi. Ngay cả khu trục hạm tôi cũng đánh, mặc dù tôi biết rằng đánh chìm loại tàu nầy không gây tổn hại cho đối phương bao nhiêu. Họ còn nhiều trăm chiếc khác. Bốn chúng tôi chỉ cần bồn chiếc tàu ngay ngày hôm nay, để chúng tôi hội ngộ với Kakizaki và Yamaguchi ở đền Yasukuni.
Nhiều giây phút trôi qua, và rồi tôi nghe một tiếng nói mơ hồ:
"Kaiten số 2 sẵn sàng?"
Furukawa được báo động!
"Góc trái, 70 độ. Mục tiêu: một khu trục hạm. Tầm 3 dặm!"
Tôi muốn la lên phản đối, nhưng Furukawa đã nhận lịnh xong. Nếu tôi phản đối, có thể làm hắn bối rối. Tôi câm miệng. Furukawa là bậc đàn anh của tôi. Tôi phải chứng tỏ sự cung kính đối với hắn.
Người nói trong điện thoại với Furukawa chắc hẳn đã di chuyển đến sát bên tôi. Tiếng nói của hắn thình lình vang lên, lớn và rõ ràng:
"Gốc độ không đủ tốt, nhưng anh vẫn có thể thành công. Lướt hết tốc lực trong vòng 10 phút, rồi anh sẽ định hướng mục tiêu. Khi nâng tiềm vọng kính lên, hãy nhìn bên phía trái. Chuẩn bị? ... Đi!"
Một lần nữa, bọt nước bao phủ tiềm vọng kính của tôi. Hiện thời, chỉ còn Kaiten của tôi trên sàn phía sau của chiếc I.47. Khi bọt nước tan, ba cái máng đặt Kaiten trống rỗng trước mắt tôi. Tôi cảm thấy cô độc. Sự cô độc nầy vướng vất trong câu hỏi êm dịu của tôi sau đó:
"Còn kẻ thù nữa không?"
Câu hỏi của tôi là một câu hỏi đầu tiên, và kế đó là hai đồng đội còn lại của tôi. Tất cả những gì mà chúng tôi muốn làm tức khắc: chiến đấu. Tôi kêu gào còn to tiếng hơn hai đồng đội, và tiếp tục như vậy khoảng 20 phút cho đến lúc bị cắt đứt bởi tiếng nói từ phòng chỉ huy.
"Dụng cụ khám phá âm thanh không còn ghi nhận một kẻ thù nào thêm nữa. Các hoa tiêu Kaiten còn lại trở vô tiềm thủy đỉnh. Bây giờ chúng tôi xả nước trong ống tiếp của các bạn."
Tôi chửi thề. Sự hi vọng và dự tính đều tiêu tan. Khi tiếng bom nước ngưng lại, tôi mở cửa phía dưới và và thấy nhân viên bảo trì của tôi
"Xin bước xuống, tôi sẽ xem xét mọi thứ cho anh!"
Hắn vừa nói vừa lách mình qua cửa và bò vô chô ngồi của tôi. Nhiều thủy thủ đang chờ đợi khi tôi eo vô chiếc I.47. Họ nói:
"Mừng anh trở lại!"
Thoạt đầu tôi khó chịu, nhưng sau đó tôi cảm thấy vui vẻ. Hiển nhiên họ đã mừng giùm tôi một cách chân thật. Một vài người tỏ ra không hài lòng, nhưng những người lớn tuổi hơn, đa số thủy thủ đoàn, tỏ ra hân hoan khi thấy một người trẻ tuổi chưa chấm dứt mạng sống.
Tôi bước ngang qua họ, vô phòng sĩ quan. Maeda và Shinkai đang có mặt ở đó, đang cúi nhìn đồng hồ. Furukawa ra đi đã 38 phút rồi, nhưng bặt vô âm tín. Hắn đã lướt ra ngoài tầm dụng cụ khám phá âm thanh của chúng tôi. Với một khoảng cách xa như vậy, nếu Furukawa không diệt được kẻ thù thì chính hắn sẽ tự diệt. Chúng tôi không thể nào tìm kiếm hắn được một khi Kaiten của hắn hết nhiên liệu. Kaiten chỉ nổi chút ít trên mặt nước, và nếu biển có sóng, một chiếc tiềm thủy đỉnh không thể nào nhìn thấy được. Vả lại Orita không dám nổi lên giữa ban ngày để tìm kiếm, nhứt là có nhiều tàu địch quanh đây.
Thình lình hiệu thính viên âm thanh gọi:
"Nghe một tiếng động! Rất nhẹ! Có thể là tiếng động của máy Kaiten!".
Đồng hồ của chúng tôi lướt qua bốn mươi, rồi bốn mươi lăm phút. Gương mặt của Maeda u tối. Rồi đồng hồ chỉ 47 phút, chỉ còn 13 phút nữa Kaien của Furukawa sẽ hết nhiên liệu. Tôi cầu mong cho tiếng động vừa rồi gây ra bởi sự gia tăng tốc độ cuối cùng để đâm vô kẻ thù của Furukawa.
Thế rồi, ngay trước khi hiệu thính viên xác định tiếng động, chúng tôi nghe một tiếng nổ. Nó không lớn hơn hai tiếng nổi đầu tiên.
"Hoan hô! Furukawa!"
Tôi vừa la lớn vừa chảy nước mắt ròng ròng.
Loa phóng thanh công bố:
"Trung sỹ Furukawa đã trúng thẳng vô mục tiêu!"
Tuy nhiên, không một tiếng hoan hô nào thêm nữa, ngoài tiếng của tôi vừa rồi. Mọi người bỗng nhiên lặng yên. Tôi không thể giải thích tại sao. Ba nạn nhân của Kaiten hạ sát cộng với hai nạn nhân do thủy lôi hạ gục trước đó, I.47 đã đánh bại I.36 với tỷ số 13 - 9. Đáng lẽ mọi người phải vui mừng, nhưng có lẽ nổi vui mừng đã tiêu tan trong suốt 49 phút chờ đợi.
Sau đó, không biết bao lâu, tôi trở vô phòng ngủ của thủy thủ. Kìa, trên hai chiếc giường nhỏ, hai cái bọc gói gém cẩn thận của Yamaguchi và Furukawa để lại, đặt bên cạnh đôi gối của của họ. Tôi buông mình xuống giường khóc mùi mẫn. Chết còn dễ dàng hơn là mang lấy nỗi buồn oằn oại trước sự mất mát hai người bạn thân yêu nầy. Yamaguchi có tìm được la de để uống trong thế giới mới của hắn không? Furukawa, người bạn chân thật, có cùng ở chung với Yamaguchi, để kể chuyện vui buồn trong cuộc đời thủy thủ nữa không? Tôi vừa khóc than nức nở vừa cầu nguyện cho họ, và Trung úy Kakizaki.
"Tôi sẽ theo các anh, những người bạn mến yêu của tôi."
Tôi nói, và yêu cầu họ hãy chờ đón tôi với những nụ cười khi tôi bước vô cổng đền Yasukuni.
Hôm sau, ngày 3 tháng Năm, tôi cảm thấy khuây khỏa. Nỗi buồn của tôi thay thế bằng thuyết định mạng. Tất cả nỗi ước mong của tôi bây giờ là được ra đi. Nhưng suốt ngày không một vật gì được nhìn thấy, và tối đến. Hạm trưởng Orita gọi Maeda, Shinkai và tôi vô gặp ông. Ông nói:
"Bởi các cuộc tấn công bằng thủy lôi và Kaiten, chắc chắn địch quân đã biết sự hiện diện của chúng ta ở đây. Và chắc chắn họ đã gởi phi cơ và chiến hạm đến tìm kiếm chúng ta. Do đó, tôi sẽ cho chiếc tàu rời khỏi đây lập tức. Chúng ta chạy tránh một ngày hoặc hai ngày rồi quày trở lại và cố gắng tìm thêm mục tiêu, khi kẻ thù nghĩ rằng chúng ta đã bỏ đi. Trong thời gian nầy ba bạn có thể nghỉ ngơi. Các Kaiten không cần sử dụng trong ... khoảng hai ba ngày."
Đêm đó và ngày hôm sau trôi qua lặng lẽ. Ngày 5 tháng Năm, viên hoa tiêu thông báo chúng tôi biết hiện chiếc tàu chạy giữa Guam và Okinawa.
Sáng hôm sau, ngày 6 tháng Năm, lúc 11 giờ trưa, phòng khám phá âm thanh báo cáo ghi nhận được tiếng động. Hạm trưởng Orita ra lệnh nâng tiềm vọng kính lên để quan sát và ra lịnh cho thủy thủ đoàn vô vị trí chiến đấu tức khắc. Không lâu sau đó, ông ra lịnh cho hoa tiêu Kaiten chuẩn bị. Ông quyết định sử dụng chúng tôi. Mục tiêu phải to lớn, tôi thầm nghĩ lúc chạy ngang qua phòng máy, nếu không ông sẽ xử dụng thủy lôi thông thường.
Sau đó, tôi gọi:
"Trung sỹ Yokota báo cáo: Kaiten số 3 sẵn sàng!"
Không có tiếng đáp lại. Tôi báo cáo nữa. Vẫn không có tiếng đáp.
Tôi hiểu đường dây điện thoại đã chết hoàn toàn. Chắc chắn nước đã thấm vô chổ nối tiếp, hoặc đường dây bị đứt một nơi nào đó. Tôi tìm mọi cách để liên lạc, nhưng vô ích.
Được rồi, không cần làm gì nữa, chỉ chuẩn bị ra đi là xong. Tôi soát lại các dụng cụ bên trong Kaiten. Hồi lâu tôi cố liên lạc lại một lần nữa. Không có tiếng đáp trả lại.
Tôi chờ đợi, van vái, và cố liên lạc. Không tiếng đáp. Tôi hét lớn. Vẫn không.
Tôi nỗi khùng, tôi nguyền rủa và chửi bới trong điện thoại. Tôi đòi hỏi được phóng đi.
"Hãy thả tôi ra! Tôi sẽ tự tìm lấy mục tiêu!"
Tôi hy vọng phòng chỉ huy nghe tôi, cho dù tôi không nghe họ.
Vô ích. Tôi không thể thoát đi được, nếu hai sợi dây cáp còn lại chưa được tháo ra. Không có gì để làm, ngoại trừ ngồi và hy vọng.
Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng máy của một chiếc Kaiten rất gần, nhưng nhìn vô tiềm vọng kính không thấy. Kaiten nầy của Maeda hay Shinkai? Không đoán nổi, nhưng chắc chắn một trong hai đồng đội của tôi đã bước trên con đường dẫn tới vinh dự và cái chết.
Yên lặng hồi lâu, càng lúc tôi càng bồn chồn. Tôi sẽ cho nổ máy. Bây giờ Hạm Trưởng Orita bắt buộc phải phóng tôi đi. Ông ta phải để tôi nắm lấy dịp may. Tôi ra đi, dĩ nhiên không nhận được một chỉ thị nào hết. Tôi phải tự tìm lấy kẻ thù. Có thể tôi sẽ không gặp mục tiêu, và chết dưới đại dương. Nhưng ít ra tôi cũng phải rời khỏi nưoi đây. Nếu không, Kaiten trở thành vô dụng, vì nhiên liệu sẽ bị đốt hết khi tôi cho máy chạy.
Khi tôi sắp sửa thi hành ý định, tôi nghe tiếng không khí rít trong ống tiếp của tôi. Như vậy, hoa tiêu Kaiten được gọi trở về tàu. Tôi miễn cưỡng bỏ dở ý định, biết rằng không còn mục tiêu nào nữa, và mở cửa để chui trở vô. Tôi hỏi nhân viên bảo trì:
"Ai đi?"
"Trung úy Maeda!"
"Và Shinkai?"
"Điện thoại của hắn hư, liên lạc không được, giống như anh!"
Nhân viên bảo trì lộ vẻ buồn. Hắn cảm thấy có trách nhiệm về sự hư hỏng của máy điện thoại, khiến tôi không đi được. Shinkai đã có mặt trong phòng chỉ huy khi tôi bước vô, vị Hạm Trưởng nhìn hai đứa chúng tôi lắc đầu. Ông nói:
"Các anh gặp vận xấu. Tôi không thể phóng các anh đi mà không có tin tức đầy đủ. Sóng quá cao, thị độ từ một Kaiten trở xuống trở thành con số không. Tôi hỏi:
"Nhưng, Trung úy Maeda..."
Orita nói:
"Hắn cứ năn nỉ xin đi. Và tôi nghi hắn có thể thành công. Điện thoại của các anh sẽ được sửa chữa lại đêm nay. Các anh sẽ có cơ hội khác!"
Tôi hỏi:
"Dạ thưa có bao nhiêu chiến hạm địch?"
Orita nhìn tôi một giây trước khi trả lời:
"Một! Tuần Dương Hạm!"
Tôi không tin ông, và tôi nghĩ ông biết như vậy. Tôi nói với Shinkai:
"Nầy, Shinkai, đứng đây vô ích, chỉ làm cản trở mọi người. Đi!"
Khi bước ra khỏi phòng chỉ huy, chúng tôi nghe một tiếng nổ lớn. Tôi nói:
"Của Maeda! Ông ta cũng đánh trúng mục tiêu"
Một lần nữa, nước mắt lưng tròng, tôi chạy đến phòng thủy thủ và buông mình xuống giường. Giây phút nầy, tôi cảm thấy buồn hơn bao giờ hết trong đời tôi. Tôi nghĩ đến câu nói của hạm trưởng Orita trước đây, khi sáu chúng tôi từ Tanegashima trở về căn cứ để sửa chữa chiếc tàu: "Nhiều khi sống còn khó khăn hơn là chết. Chờ đợi cho đến khi có cơ hội thuận tiện để chết đòi hỏi một số kiên nhẫn."
Trong phòng chỉ huy, tôi chắc ông không nói thật với tôi. Ông nói chỉ có một chiến hạm địch, nhưng tôi cảm thấy có hai hoặc hơn nữa. Các tuần dương hạm thường thường không chạy lẻ loi. Chúng phải đảm trách nhiệm vụ hộ tống một loại tàu nào khác, hoặc chính chúng được hộ tống bởi các khu trục hạm. Tôi chắc rằng hạm trưởng Orita đã nói dối, nhằm duy trì tinh thần của chúng tôi để chống chọi với kẻ thù sắp tới.
Tôi thông cảm với ông trong trường hợp nầy. TÔI kính trọng ông. Ở Tanegashima, ông đã hứa hẹn với chúng tôi rằng tàu của ông sẽ đưa chúng tôi ra đi sau khi sửa chữa xong. Lời hứa đầu tiên nầy đã được giữ. Ông cũng đã giữ những lời hứa khác kể từ khi chúng tôi lên đường thi hành sứ mạng hiện tại. Bây giờ ông lại hứa nữa, và chúng tôi hy vọng.
Tuy nhiên, định mạng không để ông giữ lời hứa sau nầy. Đêm đó, trong lúc thủy thủ cắm cúi bắt một đường giây điện thoại mới cho mỗi Kaiten, phòng vô tuyến nhận được một công điện từ quê hương: "Chiến công của I.47 thật đáng ngợi khen. Chấm dứt phần còn lại của cuộc hành quân. Trở về căn cứ lập tức."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro