Chương 4: Sứ mệnh và Chọn lựa (1)
Buổi sớm tinh mơ, bầu trời như đổi chỗ cho đại dương sâu thẳm, phủ một màu xanh thẫm nửa bí ẩn nửa u buồn. Giờ này, trên đường Oberkampf đã bắt đầu lác đác vài người qua lại. Họ bước lặng lẽ, thoắt ẩn thoắt hiện dưới bóng tối và ánh sáng so le của những cột đèn đường. Không gian tĩnh lặng đột ngột bị phá vỡ bởi một chiếc xe tải vừa rẽ vào, dừng lại trước mặt tiền cửa hàng thịt. Hai phút sau, tiếng động cơ rầm rì, bánh xe lăn lọc cọc, gót giày đập xuống đất, tiếng người chào hỏi vang lên... tất cả tạo thành một tổ hợp tạp âm đặc biệt sống động. May sao, cư dân của khu phố vẫn bình thản cuộn mình trong chăn ấm thở đều đặn, chẳng ai có vẻ bị quấy nhiễu, chỉ trừ một người. Nói đúng ra, cũng không hẳn là một người.
Ở cuối mái hiên, một vật thể đen thùi lùi gần như chìm hẳn vào bóng đêm bất chợt mở mắt. Đôi đồng tử như hai viên đá labradorite lóe sáng, nhìn chằm chằm cánh cửa kim loại của chiếc xe tải bên dưới. Từ trên cao, con mèo đen chăm chú quan sát từng tảng thịt được kéo ra khỏi thùng xe đông lạnh. Chiếc móc sắt nhọn hoắt xiên qua phần da bèo nhèo trắng ởn, máu đã ngừng nhỏ giọt, chỉ còn thân thể bị phanh làm hai nửa và bốn cái móng đu đưa một cách buồn thảm. Con mèo tảng lờ âm thanh tru rống ai oán xen lẫn tiếng gió cười nhạo. Nghĩ nghĩ một lúc, nó ngáp dài, duỗi người nhảy lên một ống khói vuông vức mà nó biết chắc chỉ dùng để làm cảnh rồi thoăn thoắt chạy dọc các mái nhà nối nhau san sát. Đến ngã tư đầu tiên, nó leo xuống, chui vào trong một ô cửa sổ để ngỏ.
Gần đây, thói quen của bà Đỏ có sự thay đổi lớn. Công việc đầu tiên khi bước xuống tiệm không phải là xếp bánh hay quét tước mà là cho chó mèo của ông chủ ăn sáng. Khi con Terrier vục đầu vào bát của nó táp lấy táp để, bà lắc lắc túi hạt khô, gọi vống lên:
"Mun-mun! Mun-mun!"
Túi hạt đã lắc được chừng mười giây mà vẫn chưa thấy bóng đen nào chạy xuống. Tim bà Đỏ gần như lỡ mất một nhịp, vừa chớm bước lên bậc cầu thang đầu tiên, một con mèo bỗng thảnh thơi xuất hiện, dụi dụi vào chân bà, nhảy phốc lên bàn bếp. Bấy giờ bà Đỏ mới thở phào nhẹ nhõm, trách yêu nó mấy câu rồi vội vã chạy ra ngoài cho kịp giờ mở cửa.
Hồi về cái tiệm bánh cổ xưa này, tức là khoảng chín tháng trước, con mèo đen chỉ bé bằng nắm tay. Nó vẫn nhớ như in cảnh mọi người xúm vào vuốt ve và cảm thán sự giống nhau của nó với "tiền nhiệm". Con mèo không lấy làm thích thú. Cảm thấy mình là một sinh vật cực kỳ đặc biệt thế nên nó luôn tỏ ra khó chịu khi loáng thoáng nghe thấy ai đó so sánh nó với con mèo già đã chết kia. Cuộc đời lắm chuyện bất công, con mèo cũ chưa bao giờ được đặt tên cho tử tế, ngược lại con mèo mới thì có quá nhiều đến mức không rõ đâu mới là tên thật của mình. Ông chủ gọi nó là "Chouquette" trong khi bà Đỏ nhất quyết nựng nịu nó bằng cái tên "Mun-mun". Được cả anh thợ bánh thỉnh thoảng vẫy vẫy: "Chat-chat! Đến đây!". Mà thế đã hết đâu, ba cô bán hàng trẻ tuổi cứ chốc chốc lại gào toáng lên: "Con kia!!!", mỗi lần nó lén nhảy lên chiếc bục gỗ cho khách ngồi để khều khều cái hột lóng lánh treo lủng lẳng trên trần.
Trong tòa nhà, con Mun-Mun làm quen với một đám mèo khác. Quá nửa số đó không cần nhắc tới, bị mấy bà già nuông chiều đến phát phì, làm mất cả sự oai nghiêm của giống loài. Chỉ có ba con mèo mà nó đánh giá là đáng để giao du.
Nó thân nhất với một tên mèo Anh lông xám thích kể chuyện sống ngay tầng trên. Mắt hắn màu đồng, đôi má tròn phúng phính trông hơi đần độn. Trông thì đần thật nhưng thực chất hắn lại rất thông minh. Hắn luôn biết phải làm gì trong trường hợp nào. Nghe tên mèo Anh kể thì chủ của hắn là một giáo sư đại học. Khổ nỗi tính nết hắn sao chép y nguyên ông giáo sư, lúc nào cũng ru rú ở nhà, sợ ra đường bị bắt cóc, bị xe tông, bị ngã gãy xương. May sao tên mèo Anh rất dễ lôi kéo. Con Mun-mun chỉ cần dỗ ngọt vài câu là hắn lại hùa theo những trò nghịch ngợm mà nó bày ra.
Tiếp theo là một gã mèo hoang nó vô tình bắt gặp đúng lúc gã đang hăng hái bới tung thùng rác của tiệm. Bộ dạng của gã rõ là tức cười, bao giờ cũng đeo mặt nạ màu đen và xỏ bốn chiếc tất trắng. Nghe bảo trước đây gã đã từng có chủ nhưng bị đánh đập ghê quá nên dạt nhà vô thời hạn luôn. Chắc là do ám ảnh quá khứ mà gã mèo hoang có xu hướng bạo lực, ăn nói hằn học như lũ đầu đường xó chợ. Ngoài tính xấu đó ra, phải thừa nhận, gã cực kỳ nghĩa khí. Con Mun-mun từng đi xem vài vụ choảng nhau, tất nhiên nó chẳng dại gì mà tham gia nhưng nó thấy được, dù trong hoàn cảnh nào, gã chẳng bao giờ bỏ mặc đồng đội.
Cuối cùng là một lão mèo già chột mắt thuộc giống Main Coon. Lão phải to gấp ba lần mèo bình thường, lông cổ màu vàng dày và dài như bờm sư tử, trông cực kỳ oai vệ. Con Mun-mun vừa kính sợ vừa ngưỡng mộ lão. Nghe đồn lão Main Coon lưu lạc gần nửa đời, trải qua vô số đau thương, vào trại mèo rồi cũng chẳng ai muốn nhận nuôi vì lão cần một cuộc phẫu thuật tim khá tốn kém. Đấy là còn chưa kể đến con mắt chột dữ dằn. Cho đến khi cặp vợ chồng nọ xuất hiện thì lão mới có một ngôi nhà đúng nghĩa. Ngày qua ngày, ngoài việc quanh quẩn bên cạnh chị chủ, lão Main Coon chẳng thiết tha làm gì. Nghe đồn chị ấy bị trầm cảm. Thế mà không hiểu sao, mọi chuyện xảy ra trong khu phố, dù là nhỏ nhặt nhất lão cũng đều nắm rõ như lòng bàn tay.
Nói một cách công bằng, trừ việc bị cấm tiệt không được bén mảng ra ngoài cửa hàng thì con Mun-mun tương đối hài lòng với cuộc sống hiện tại. Phần lớn thời gian, nó đi diễu hành dăm bảy vòng quanh tiệm bánh, từ trong bếp xuống tầng hầm ra tận sân sau, để cho lũ chuột biết ai mới là người cầm trịch ở đây. Sau đấy nó lùng sục từng ngóc ngách, khám phá cho bằng hết những góc bí mật của tiệm.
Tối thứ tư hàng tuần, ông chủ lại gói ghém đồ đạc đánh một cuốc xe về trang trại ở quê, đi hẳn hơn một ngày đến đêm muộn thứ năm mới về. Chỉ cần loáng thoáng nghe tiếng cửa khóa lách cách, con Mun-mun lập tức hí hửng lẻn ra ngoài qua cái lỗ ở quạt thông gió. Nó đi tìm tên mèo Anh rồi hai đứa rủ rê lũ mèo xung quanh tổ chức một cuộc săn chim bồ câu hoành tráng như những ông chúa bà hoàng thế kỷ 14. Tiệc tùng banh xác xong, trước khi ông chủ trở về, nó lười biếng nằm dài trên nóc tòa nhà có tiệm hoa, thích thú quan sát đám thanh niên nhân lúc vắng người, trèo lên ngó nghiêng phía sau bức tường phủ rêu. Đứa nào đứa nấy đều tỏ ra thất vọng. Nghe nói thị giác của loài người không đến nỗi tệ mà tại sao chẳng nhìn được gì ra hồn. Rõ ràng nó có thấy một bà già tóc xám đang cúi người thì thầm với mấy bông hoa.
Con Mun-mun đã tưởng rằng, cuộc đời nó sẽ mãi mãi trôi qua như vậy, chẳng phải lo nghĩ, chỉ làm mọi thứ nó thích, bắt chuột, săn chim, quậy phá... không gì có thể làm khó nó. Cho đến một ngày của hai tuần trước.
Nằm tít tận sân sau của tòa nhà có một cái kho nhỏ, cửa bị khóa quanh năm suốt tháng. Con Mun-mun luôn coi đó như một thách thức cuối cùng mà nó phải chinh phục mà chưa bao giờ thực hiện được. Không hiểu run rủi thế nào, nó chui xuống gầm chiếc lò nướng và thấy một cái lỗ chuột con con trên bức vách. Đến lúc len người qua thì mới biết, hóa ra bức vách nọ dùng để ngăn cách khu làm bánh với nhà kho.
Bên trong tối thui, để ngổn ngang đồ đạc phủ bụi dày cả thước. Bàn ghế cũ, tủ rượu, vài con mannequin sứt sẹo... Góc phòng kê một chiếc đại phong cầm đồ sộ, bàn phím đã nứt vỡ gần hết. Những ống dẫn nhạc và hoa văn trạm trổ tinh xảo tạo thành hình một nhà thờ trang nghiêm thu nhỏ. Con Mun-mun dè chừng bước lại gần chiếc đàn. Nó ngửi được mùi gì đó rất đặc biệt, tựa như mùi cỏ mèo thơm nồng lẫn với mùi cổ xưa. Qua kẽ hở nhỏ xíu dưới hộc đàn, nó nhìn thấy hàng loạt thanh gỗ xếp ngang dọc theo quy luật. Vì cái kẽ quá nhỏ nên mỗi ngày, con Mun-mun chỉ có thể dùng móng cạy một ít. May mắn ở chỗ, chiếc đàn đã bị mối mọt ăn đến mức mục ruỗng nên nó chỉ tốn chưa đầy một tuần để làm cái kẽ đủ to cho nó lách vào. Dù mùi hương kia cực kì cám dỗ nhưng con Mun-mun vẫn rất đề phòng. Nó cẩn thận hít ngửi, ngó nghiêng. Đôi đồng tử đen dãn nở hết cỡ. Trên tấm gỗ lớn chi chít vệt móng cào, nó nhìn thấy một thứ đã làm thay đổi cuộc đời mình mãi mãi.
"Hậu duệ của ta,
Cuộc đời của mỗi con mèo là do chúng tự lựa chọn.
Con cũng vậy.
Con hoàn toàn có thể tiếp tục làm một con mèo nhà. Thảnh thơi. Vô lo vô nghĩ.
Hoặc con có thể lựa chọn một con đường khó khăn nhưng đến giây phút cuối cùng, ngoảnh đầu nhìn lại suốt một cuộc đời không dài không ngắn, con sẽ tự hào vì những gì mình đã làm.
Đây đã từng là sứ mệnh của ta và ta hy vọng con sẽ tiếp tục.
Ta chỉ muốn cảnh báo rằng, đó là một công việc âm thầm không tên. Sẽ chẳng có ai biết và tôn vinh vì con phải giữ bí mật cho đến khi hơi thở nặng nhọc, đôi mắt mờ đi và những khớp xương trở nên đau đớn.
Con phải chấp nhận bị kết án là "điềm xấu", là "sứ giả của quỷ dữ".
Và một khi đã bước chân con không thể rút lui vì đó là bản giao ước với cõi đời.
Nếu con không muốn, hãy coi như chưa từng nhìn thấy những điều này.
Nếu chấp nhận, hãy chắc chắn là mình đã sẵn sàng."
Con Mun-mun cảm thấy hai trăm lẻ chín đốt xương của nó bỗng run lên bần bật, chiếc đuôi dựng đứng, xù ra như một cây chổi lau bụi. Nó bình tĩnh rời khỏi nhà kho, quay trở về cái ổ tạm bợ nơi góc bếp. Trong đầu lặp đi lặp lại hai câu thơ cuối cùng.
"Con bắt đầu ở nơi ta kết thúc.
Nơi đôi mắt nhìn ra được cả thế giới."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro