sửa lỗi
CHƯƠNG HAI
SỬA ĐỔI LỖI LẦM
Người ta không phải mới sinh ra đã là Thánh là Hiền nên làm sao tránh được gây tạo lỗi lầm? Khổng Tử nói: “ Có lỗi lầm không sợ sửa đổi, là việc lành không gì lớn hơn”. Cho nên Liễu Phàm tiên sinh sau khi giảng đạo lý lập mệnh xong lại bàn đến phương pháp sửa đổi. Ông trình bày một cách tường tận để dạy con mình là Viên Thiên Khải. Lỗi lầm nhỏ còn phải sửa đổi, huống chi là tội ác lớn, đương nhiên quyết không thể phạm.
Vào thời Xuân Thu, các quan lớn của các nước thường đoán việc kiết hung họa phúc của một người nào đó thông qua ngôn ngữ hành vi của họ và kết quả rất linh nghiệm. Điều này có thể thấy được qua sách “Tả Truyện” và “ Quốc Ngữ”. Phàm những điềm báo kiết tường hay hung hiểm đều do mầm mống trong tâm phản ứng ra ngoài. Những điềm kiết hung này còn thể hiện qua cử chỉ của người đó nữa. Nếu một người nhân hậu, cử chỉ của họ sẽ chững chạc. Còn kẻ bạc ác thì cử chỉ sẽ tùy tiện.
Người sống nhân hậu thì thường được hưởng phúc, kẻ bạc ác nhất định sẽ gặp họa. Người bình thường thiếu hiểu biết, không đủ trí tuệ để xét thấy việc này nên bảo họa phúc không nhất định, không sao biết trước được.
Một người có thể sống hết sức thành thực, không một chút giả dối thì tâm họ khế hợp đạo trời. Do đó, nếu đem tâm chân thành ra đối đãi với người thì phúc báo tự nhiên sẽ đến. Cho nên, xét một người nào đó, chỉ cần nhìn thấy họ toàn làm việc thiện thì biết trước rằng phúc của họ sắp đến. Trái lại, xét một người mà thấy hành vi của họ toàn làm điều ác thì biết rằng họ sắp gặp họa.
Người ta muốn tránh họa được phúc phải tự mình sửa lỗi trước khi làm thiện. Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm cần có:
Thứ nhất là phải có lòng sỉ ( lòng xấu hổ):
Chúng ta nên suy nghĩ: Thánh hiền với ta đều do cha mẹ sinh ra nhưng để lại tiếng thơm muôn đời, làm gương sáng cho hậu thế. Còn chúng ta lại uổng phí một đời, hàng ngày chìm đắm trong vòng danh lợi, có khi còn làm việc bất nghĩa, tưởng là mọi người không biết nên chẳng lấy làm thẹn.
Đó là vì chúng ta quá đam mê hưởng thụ, bị hoàn cảnh vật dụng bên ngoài chi phối, lén làm những việc không nên làm. Càng ngày chúng ta càng trầm luân trong bể dục, không khác gì cầm thú, mà tự mình chẳng biết chẳng hay.
Mạnh Tử nói: “ Việc lớn nhất, quan trọng nhất của một người không gì hơn chữ sỉ”. Người có lòng sỉ có thể trở thành thánh hiền, không có lòng sỉ dần dần sẽ trở lên cầm thú.
Thứ hai phải có lòng kính sợ
Ta nên biết rằng, trên có trời đất, giữa có quỷ thần. Hành động mờ ám của ta tuy kín đáo, nhưng đều có trời đất quỷ thân soi xét. Nếu ta gây tạo tội nặng sẽ rước lấy tai họa, gây tạo tội nhẹ sẽ tổn phúc giảm đức. Chúng ta có giấu được người trần làm điều sai trái, qua mặt pháp luật, nhưng không sao qua mắt được chư thiên. Việc ác của chúng ta đối với họ như soi kính, đều hiện ra rõ ràng không sót. Chúng ta khởi tâm động niệm như thế nào, các vị ấy đều biết rõ. Cho nên, mình biết rõ tâm niệm hành vi của mình như thế nào, chư thiên cũng biết rõ như vậy.
Nếu chẳng may hành vi xấu xa của chúng ta bị người khác biết được thì chẳng phải mình mất hết giá trị, bị người ta xem thường phỉ nhổ hay sao?
Nhưng đối với người biết ăn năn hối cải, cho dù phạm tội lớn đến đâu, đều có thể sám hối. Thưở xưa có người cả đời làm ác, đến khi lâm chung tỉnh ngộ ăn năn, khởi nên niệm lành rất lớn, liền được an ổn vãng sinh.
Tuy nói có lỗi chỉ cần biết ăn năn cải đổi là được, song tuyệt đối không được vì thế mà ỷ lại, cho rằng thường phạm lỗi không sao. Người như thế có tâm phạm lỗi, tội càng sâu nặng hơn.
Trong thế gian bất tịnh này, vạn vật đều chuyển hóa vô thường, tấm thân huyết nhục này nay còn mai mất không sao liệu trước được. Chằng phải một hơi thở ra mà không hít vào là đã qua đời khác sao? Đến lúc đó, có muốn sửa đổi lỗi lầm cũng không sao kịp nữa. Khi cái chết đến, mọi thứ đều bỏ lại, chỉ có nghiệp tội đi theo chúng ta mà thôi.
Do đó kẻ làm ác báo ứng ở dương gian là phải chịu tiếng xấu trăm ngàn năm, cho dù có con hiếu cháu hiền cũng không sao rửa sạch được vết nhơ này. Còn quả báo đời sau là phải trầm luân trong địa ngục, chịu vô lượng vô biên khỏ não, đọa đày trong ngàn muôn ức kiếp. Lúc đó dù gặp được Phật, Bồ tát, thánh hiền, cũng không cách nào cứu chữa ta được. Như vậy không đáng sợ sao?
Thứ ba là phải có lòng can đảm
Người có lỗi mà không sửa vì lần lữa qua ngày nên đã sai rồi lại càng sai thêm. Khi biết mình có lỗi phải có lòng can đảm để sửa, không thể trì hoãn. Không nên ngày nay lại hẹn đến ngày mai, mai lại hẹn đến ngày mốt, cứ thế kéo dài, lần lữa đến chết. Lỗi lầm nhỏ hãy xem như gai đâm vào xương thịt, để lâu một ngày là nhức nhối một ngày, nên phải gấp rút nhổ ra. Lỗi lầm lớn hãy xem như rắn độc cắn phải, để chậm một giây là nguy hiểm đến tính mạng một giây. Như kẻ Ích trong “ Kinh Dịch” nói: “ Gió thổi sấm nổ, vạn vật sinh trưởng”. Đây là dụ cho người đổi ác làm lành, được ích lợi lớn như vạn vận được mưa thuận gió hòa mà sinh trưởng tốt tươi.
Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, nếu có đầy đủ lòng xấu hổ, lòng kính sợ, lòng can đảm thì có thể lập tức sửa được lỗi lầm; như lớp băng mỏng mùa xuân gặp phải ánh dương quang, lo gì không tan rã!
Song sửa đổi lỗi lầm có ba góc độ dụng công. Một là từ trên thực tế để sửa đổi. Hai là từ trên đạo lý để sửa đổi. Ba là từ trên tâm niệm để sửa đổi. Do ba cách dụng công khác nhau, nên kết quả cũng khác nhau:
Từ trên thực tế sửa đổi lỗi lầm
Ví dụ như hôm qua sát sinh, hôm nay chấm dứt không sát sinh nữa. Hôm trước nổi giận mắng người, hôm nay bỏ qua không giận nữa. Đây là phương pháp chấm dứt lỗi lầm không tái phạm, bằng cách sửa đổi lỗi lầm khi sự việc đã phát sinh. Song sửa lỗi như vậy là miễn cưỡng mà làm, tuy qua được một lúc song mầm mống lỗi lầm vẫn còn trong tâm. Chỉ cần có cơ hội thích hợp là nó lại tái phát, đôi khi còn mãnh liệt hơn nữa. Người ta bảo tức nước vỡ bờ là vậy. Nên đây không phải là phương pháp sửa chữa lỗi lầm một cách triệt để.
Dựa trên đạo lý cải đổi lỗi lầm
Một người lập chí sửa đổi lỗi lầm, trước khi ngăn giữ không làm một điều sai quấy nào đó, phải hiểu rõ đạo lý vì sao ta không nên làm. Ví dụ như một người đối với lỗi lầm của việc sát sinh, trước hết anh ta phải nghĩ rằng: Đức hiếu sinh là đạo lý tự nhiên. Phàm là loại có sinh mệnh ai lại chẳng tham sống sợ chết. Thế mà ta lại giết loài vật để nuôi thân mình, thử hỏi trong tâm có yên ổn không? Những con vật mà ta cắt cổ, nhổ long, lột da, xào nấu…, chúng phải chịu bao đau đớn khổ sở lúc lâm chung, như vậy có phải tội lỗi lắm không? Ăn uống trên sự tước đoạt sinh mệnh, gây tạo khổ đau cho chúng sinh, song dù miếng ngon đến đâu một khi đã ăn rồi thì các thứ ấy đều thành cặn bã, chẳng còn lại thứ gì. Nếu biết rằng người ăn rau đậu, ăn chay cũng có thể no, cần chi phải nhất định làm tổn hại sinh mạng khác ( tạo tội sát sinh) mà bị giảm thiểu phúc báo của chính mình.
Lại suy nghĩ rằng: Làm người ai cũng muốn sống trong sự an vui hạnh phúc, không thích kẻ nào quấy rầy hoặc dùng bạo lực để gây thương tổn đến bản thân. Đó cũng là mong ước của mọi loài động vật. Đúng! Chỉ có thế thôi, an vui hạnh phúc và không bị ai quấy rầy sát hại. Tuy nhiên với sức mạnh và sự bất công của con người nói chung, lại tìm sự an vui hạnh phúc trên những đau khổ đọa đày của kẻ khác, thỏa lòng khoái khẩu trước những cái chết thê thảm của loài khác. Nếu đứng về phương diện bình đẳng giữa sự sống với nhau, thì hành động ấy quả thật là” cá lớn nuốt cá bé” hoặc “ mạnh được yếu thua”. Chúng ta cứ tưởng tượng một con gà đang vùng vẫy trước sức mạnh của con người. Họ đè cánh chúng, trói chân lại, nhổ lông, rồi kề dao vào cổ cứa.. cứa…ôi chao ghê quá!!! Máu chảy ra. Thử hỏi con gà ấy có đau khổ, oán thù kẻ cắt cổ nó không? Rồi ta hãy xét qua trường hợp này: Một gia đình nọ đang sống yên ấm, an vui hạnh phúc. Bỗng một hôm có toán cướp với vũ khí trong tay xông vào nhà cướp của và bắt con gái hãm hiếp. Người cha thấy vậy quá đau lòng nhào vào can ngăn và bị chúng dùng dao đâm chết. Trước thảm cảnh này vợ và con sẽ nghĩ gì? Có căm tức, oán thù bọn cướp ấy không? Nếu có thì làm gì bọn cướp được đây hay cũng đành cắn răng nhẫn chịu trước lưỡi dao, họng súng kia? Qua hai trường hợp ấy chúng ta thấy chỉ vì sức yếu nên con vật chịu cắt cổ trước sức mạnh của loài người giống như con người bất lực dưới sức mạnh của tập thể uy hiếp, họng súng dọa nạt. Thế nhưng cả hai trường hợp ấy đâu phải kẻ cô yếu không oán hờn mong ngày báo thù? Nếu xét về nhân quả, không sớm thì muộn hễ gây ác nhân sẽ gặp ác quả. “ Kinh pháp cú” Phật dạy: “ Người nào cầu hạnh phúc cho mình mà dùng dao gậy phá hoại hạnh phúc kẻ khác thì sẽ không bao giờ được hạnh phúc”.
Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều ấy:
Ở Thượng Hải có người giàu có họ Bành. Ông nghiên cứu được món ăn rất hấp dẫn, mệnh danh là món “ quán miết giáp” (rót nước vào mai ba ba). Ông chế một chiếc nồi đất, trên vung có đục một cái lỗ nhỏ vừa bằng đầu con ba ba chui lọt. Rồi cho ba ba vào nồi nước đem đặt lên bếp đun. Dĩ nhiên một lúc sau nước nóng ba ba chịu không nổi phải tìm lối thoát và nó chỉ còn một cách duy nhất là cho cổ chui ra khỏi lỗ vung nồi, nhưng thân mình thì đâu dễ gì thoát khỏi. Khi đó ba ba chỉ biết há miệng chờ chết, thế là họ Bành đoàng hoàng ngổi đổ gia vị vào miệng ba ba rồi bịt kín nồi hầm nhừ thành một món ăn mà họ Bành cho là ngon nhất thế gian…Họ Bành thường ăn như vậy và thường làm trăm con để tiếp khách. Thế nhưng “ ác giả thì ác báo”. Một hôm họ Bành xảy ra hỏa hoạn, lúc ấy họ Bành đang say sưa trong giấc mộng sau một đại tiệc toàn là món miết giáp. Khi phát hiện ra hỏa hoạn, họ Bành tỉnh giấc thì đã muộn, lửa cháy xung quanh. Luống cuống, họ Bành tìm không ra chìa khóa cửa. Vì giàu có nên ông rất sợ bị bắt cóc và trộm cướp cho nên lúc nào cũng ở trong phòng kiên cố trên lầu, cửa sắt bao bọc vững chắc. Lửa cháy tứ tung kéo đến gần kề. Cùng đường họ Bành thấy một lối thoát duy nhất là chiếc cửa sổ, ông liền chui đầu qua song sắt, nhưng khốn nỗi thân hình to béo với cái bụng bự không thể lọt qua. Lúc ấy xe cứu hỏa tới,vì đầy khói đen nên không thấy họ Bành, cứ phun nước vào mặt mũi làm ông chết ngạt, Đồng thời trong phòng lửa cháy dần dần thui sống ông trông thật thê thảm. Nhìn cảnh ấy ai cũng lien tưởng đến món miết giáp. Trước kia ông hành hạ những con ba ba vô tội hết sức tàn ác, thì bây giờ ông cũng bị chết y hệt những con ba nạn nhân của ông. Thật là luật nhân quả lúc nào cũng cân xứng.
Qua chuyện trên ta thấy, lúc thọ hưởng và thỏa mãn khẩu vị trên những đau khổ, quàn quại rên xiết của động vật khác, ta tưởng là thú lắm, sung sướng lắm, bổ béo lắm. Nhưng khi chúng ta lâm vào hoàn cảnh ấy ta mới thông cảm được thế nào là nước sôi lửa đốt. Chứng đó ta có oán hận ngọn lửa tàn ác kia sao lại dã man “thui” mình không một chút thương tiếc như thế? Nó vẫn cứ mặc nhiên thiêu đốt, giống như họ Bành “ rung đùi” lạnh lùng thản nhiên ngồi nhìn con ba ba thò đầu trong nồi nước sôi vậy. Quả là trước công lý mọi chúng sinh đều bình đẳng.
Đối với việc giant ham trộm cắp ta phải biết rằng dù là vật rất nhỏ nếu không xin cũng phải trả. Câu chuyện sau đây sẽ cho ta rõ thế nào là vay trả:
Ngày xưa có một phú gia nọ rất nhiều của. Mọi người trong xóm đều biết danh nhà cự phú này. Ông có nuôi một con ngựa rất khôn, đặc biệt là nó biết nói tiếng người và có linh tính biết trước các việc sắp xảy ra. Một hôm nó bảo với ông chủ là:
Tối nay sẽ có một toán cướp gồm mười tám tên đến đây, vậy ông hãy tránh đi nới khác.
Ông chủ không chịu đi và nói rằng:
Nếu quả thật bọn cướp có đến đây thì tôi sẽ đem vàng bạc cho chúng là xong, cần gì phải đi đâu cho cực.
Con ngựa bèn đáp:
Nếu ông không đi nới khác, e rằng chúng đến đây cướp của còn giết ông nữa thì sao? Tốt hơn ông hãy lấy vàng chia ra mười tám phần rồi chốn đi nơi khác, một mình tôi ở nhà định liệu.
Ông chủ nghe xong cho là phải, lấy vàng chia ra mười tám phần để sẵn và gia đình kéo nhau đi nơi khác. Tối hôm đó, mười tám tên cướp gõ cửa, con ngựa liền trả lời:
Ai đó? Cứ việc đẩy cửa vào!
Sau khi nghe xong bọn cướp xông vào nhà chia nhau lục soát khắp nơi mà không thấy một ai, chúng mới cất tiếng hỏi thì con ngựa trả lời:
Chính tôi là ngựa đây, tôi biết các ông tối nay đến đây nên tôi đã dặn chủ nhà chia sẵn mười tám phần vàng cho các ông rồi, còn chủ nhà đã tránh đi nơi khác.
Nghe xong, tất cả bọn cướp rất ngạc nhiên và hỏi ngựa tại sao biết nói tiếng người và biết hôm nay chúng đến cướp nhà này? Con ngựa đáp:
Tôi là người tu hành trong nhiều kiếp trước, trai giới rất nghiêm minh. Chỉ vì một hôm đi hành đạo phương xa, trong lúc băng qua một cánh đồng, vì bụng đói thấy nơi đám lúa có một nơi trổ bông duy nhất, tôi bèn xuống ngắt lấy ăn. Vì không xin chủ nên kiếp này phải bị làm thân ngựa để đền trả lại cho chủ nhân đây.
Sau khi nghe con ngựa kể xong, cả bọn cướp kinh hãi. Suy nghĩ về việc làm bất chính của mình từ trước tới nay. Nhà sư chỉ vì không xin một bông lúa mà phải bị đọa làm thân ngựa để đền trả như thế, huống chi cả đời chúng toàn cướp của hại người tránh sao cho khỏi quả báo. Từ đó, họ sám hối ăn năn quay trở về con đường lương thiện, bỏ nghề trộm cướp, tinh tấn tu hành về sau trở thành mười tám vị La Hán.
Cổ nhân nói: “ Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ,, nghĩa là: Người không có lễ nghĩa thì chẳng nên thân, đồ vật phi nghĩa chẳng nên lấy giữ. Vì vật phi nghĩa là của trộm cắp, của cờ bạc, của rơi rớt ngoài đường, của hối lộ móc ngoặc, của lừa gạt dối trá người …Những thứ này không phải mồ hôi công sức mình tạo ra nên khó có thể bền vững lâu dài với mình được.
Lại nghĩ rằng: Trên đời này không có ai dám tự cho rằng mình là hoàn hảo, không chút lỗi lầm. Một người cho rằng mình hoàn hảo mới chính là người thiếu hiểu biết nhất. Trên đời cũng không có đạo lý nào dạy chúng ta oán hận người xung quanh. Người càng có học vấn thì càng phải khiêm tốn, nghiêm khắc với mình, khoan dung với người, sao lại oán hận người khác?
Nếu như tính tình của ta trước kia hay nóng giận thù oán người này người kia nên suy nghĩ rằng: Ai cũng có điều tốt, ai cũng có chỗ xấu. Khi gặp chỗ xấu của người xét về tình lý nên thương cho họ mà tha thứ chỗ xấu đó vì chính họ cũng là nạn nhân, chịu khổ não bởi thói xấu bản thân. Nếu có người ngang ngược, vô lý mạo phạm đến ta thì lỗi đó ở họ có dính dáng gì đến ta, vậy tại sao ta lại nổi giận?
Một người làm việc không được vừa lòng đắc ý đều do tâm của mình không tu dưỡng tốt, còn thiếu công đức, không đủ sức cảm động lòng người. Vì vậy phải tự xét lại mình, xem có chỗ nào có lỗi với người không?
Người có thể suy xét được như vậy, dụng công sửa mình thì người khác phỉ báng sẽ trở thành sự rèn luyện, thành tựu nhân cách cho ta. Bằng những bài học phản diện, ta nên hoan hỉ tiếp nhận sự giáo huấn, phê bình của người khác, còn oán hận điều gì?
Lại nữa, nghe người khác nói xấu mà ta không nổi giận, dù lời nói đó ác độc đến đâu, khác nào như đem lửa đốt trời, hư không vẫn rỗng rang, không có gì để cháy, lửa cuối cùng cũng tắt. Nếu ta nghe người khác hủy báng mà tìm cách biện hộ thì khác nào như tằm nhả tơ, tự trói buộc lấy mình. Đó là tự mình chuốc lấy khổ. Cho nên, nổi giận không những vô ích mà còn có hại.
Đó là nói về hậu quả của nóng giận. Còn như những lỗi lầm và tội ác khác cũng nên y theo đạo lý này mà suy xét, thì tự nhiên sẽ không phạm phải lỗi lầm.
* Cải đổi lỗi lầm từ tâm
Người ta gây tạo lỗi lầm vốn nhiều vô số , song tất cả đều do tâm tạo. Những ý niệm lành, dữ, thiện, ác ý nghĩ này, tư tưởng nọ hoặc những ý niệm tham sân si dấy khởi lên đều xuất phát từ cái ý ( ý căn ) hay cái tâm. Cho nên cái ý ( căn ) là cái gốc và là đầu mối tạo nên những nghiệp lành, nghiệp dữ …nên chúng ta mới nói nó chính là kẻ chỉ huy và cũng là thủ phạm. Còn cái Thân và cái Miệng chỉ là kẻ bị sai khiến bới cái Ý, nên cả hai chỉ là tòng phạm. Nếu tự trong tâm trừ ngay nguyên nhân sinh ra tội lỗi thì không có tạo ra bất cứ nghiệp gì. Như vậy lỗi lầm từ đâu mà sinh? Phàm người ta thường có nhiều lỗi lầm như tham đắm nữ sắc, danh tiếng, tiền của, hoặc hay nóng giận…Chúng ta không cần tìm hiểu phương pháp để cải đổi từng lỗi lầm một mà chỉ cần nhất tâm nhất ý khởi niệm lành, làm việc vì lợi ích của mọi người, lúc nào cũng sống trong chánh niệm thì không có ý niệm tà ác nào xen khởi, làm ô nhiễm tâm ta được.
Ví như mặt trời soi sáng giữa từng không, tất cả những hắc ám đều không chỗ dung thân. Đây chính là bí quyết tu tâm, sửa lỗi chân chính duy nhất. Phải biết tất cả lầm lỗi tội ác đều do một tâm này gây tạo nên chỉ cần ngay nơi tâm này sửa đổi lỗi lầm. Đây giống như trừ cây độc, phải đốn tận gốc, trốc tận rễ mới không sợ mọc trở lại, mà đâu phải chặt từng nhánh, bẻ từng cành.
Phương pháp cải đổi lỗi lầm cao minh nhất vẫn là tu tâm. Nếu biết tu tâm thì sẽ lập tức khiến tâm thanh tịnh. Vì tất cả sai lầm đều do tâm khởi niệm bất chính mà ra. Nếu biết tu tâm, chánh niệm tỉnh giác, khi tà niệm vừa khởi liền phát giác. Tà niệm ngay đó sẽ không còn, tâm trở lại thanh tịnh. Nếu ta không làm được như vậy, khi tà niệm khởi lên phát giác muộn màng và không đủ sức giác chiếu để khiến nó tiêu diệt, thì phải dùng đạo lý để suy xét thì sẽ hóa giải được tà niệm đó. Còn như không biết dùng đạo lý để suy xét thì cố gắng dằn lòng tránh xa không phạm lỗi.
Cả ba phương pháp này tuy có cao có thấp khác nhau song đều có giá trị riêng và bổ túc cho nhau. Ta cần phải biết rõ mình để có thể tùy cơ, tùy lúc vận dụng cả ba phương pháp một cách linh hoạt để tu sửa lỗi lầm, ắt sẽ công hiệu. Song phương pháp tu tâm, chánh niệm tỉnh giác vẫn là quan trọng nhất, không nên bỏ qua.
Lập chí sửa đổi lỗi lầm cũng cần có trợ duyên để dễ thành tựu. Về phương diện thấy được, đó chính là bạn tốt khuyên bảo, nhắc nhở ta lúc hồ đồ, nông nổi. Về phương diện không thấy được, đó là phát tâm sám hối trước Phật, Bồ tát, chư thiên…cầu chứng minh gia hộ, thành tâm sám hối, từ sáng đến tối không dám buông lung. Như tôi đã từ sám hối bảy ngày, mười bốn ngày, cho đến một tháng, ba tháng. Cứ sám hối như vậy nhất định sẽ có chứng nghiệm.
Nói chứng nghiệm của sự sám hỗi lỗi lầm là gì? Ví dụ như ta bỗng cảm thấy tinh thần rất thư thái, trong lòng an vui, hay cảm thấy trước đây tối dạ, giờ bỗng mở mang trí tuệ; hay dù là trong hoàn cảnh phiền phức mà tâm mình vẫn sáng suốt, tất cả đều thông tỏ. Hay lúc gặp phải kẻ thù địch có thể an ổn hoan hỉ, hóa giải cơn giận, nỗi hận trong lòng. Hoặc khi nằm mộng, mơ thấy ói ra thứ màu đen. Đây chính là những tư niệm tà, tích chứa thành uế khí, trong mơ ói ra thì tâm địa trở nên thanh tịnh. Hay trong mơ trông thấy Phật, Bồ tát đến nâng đỡ, dìu dắt ta; hoặc thấy mình bay lên không trung, tiêu dao tự tại; hay mơ thấy các loại phan lọng được trang sức được trang sức bằng các loại châu báu nhiều màu. Những việc ít thấy ít nghe như vậy đều là những điềm tiêu trừ tội chướng trong quá khứ. Song cũng không nên vì gặp được những điềm lành này liền tự cho rằng mình tu hành hơn người mà khởi tâm ngã mạn 1, không chịu vươn lên, tiếp tục nỗ lực.
Vào thời Xuân Thu trước đây, quan đại phu nước Vệ là Cừ Bá Ngọc vào năm hai mươi tuổi đã biết xét lại những lỗi lầm trong quá khứ của mình để kiểm điểm, cải đổi. Đến năm hai mươi mốt tuổi lại cảm thấy trước đây sửa đổi lỗi lầm vẫn chưa triệt để. Đến năm hai mươi hai tuổi, nhìn lại năm hai mươi mốt tuổi vẫn giống như ở trong mộng. Cứ như vậy mỗi năm
1 Ngã mạn: Tự cho mình tài giỏi cao hơn người mà khinh thường người khác.
trôi qua, mỗi năm lại sửa đổi lỗi lầm. Cho đến năm năm mươi tuổi, vẫn cảm thấy bốn mươi chín năm qua mình vẫn lỗi lầm. Người xưa đối với việc sửa đổi lỗi lầm cẩn thận coi trọng đến mức như vậy.
Chúng ta đều là kẻ phàm phu, lỗi lầm nhiều như lông trên mình nhím. Song ta lại cảm thấy dường như mình không có lỗi lầm gì lắm. Đó là do ta hời hợt, không biết tự xét lại mình. Giống như con mắt có bệnh không nhìn thấy mình mỗi ngày đang tạo tội. Song một người làm lỗi lầm tạo ác đến một mức nào đó sẽ có triệu chứng hiện ra. Như tâm tư hỗn loạn trệ ngăn, tinh thần suy sụp hay quên; hoặc việc không đáng phiền não lại cảm thấy vô cùng phiền não; hoặc thấy người phẩm hạnh cao quý cảm thấy hổ thẹn không vui; hay nghe được nhũng lời đạo đức quang minh chính đại lại không thích; hoặc đem ân huệ cho người, đối phương không nhận còn trở lại oán hận; hoặc tối ngủ thấy những giấc mơ xấu đáng sợ; hoặc nói năng không thứ lớp, không bình thường. Những hiện tượng bất bình thường như vậy đều biểu hiện của việc làm ác.
Giả sử có những hiện tượng như trên, ta phải lập tức đề khởi tinh thần, can đảm sửa đổi những lỗi lầm cũ, mở ra con đường nhân sinh sáng tỏ cho mình. Hy vọng mọi người không nên tự làm lỡ mình! (CÒN TIẾP
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro