Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Văn hóa sông nước và chợ nổi

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chi chít sông ngòi kênh rạch, được mệnh danh là vùng đất "Chín Rồng" có con nước lớn tràn bờ, nước ròng phơi bãi; có ghe thuyền sinh hoạt ngày đêm xuôi ngược trên sông... hình ảnh đó tự ngàn xưa, hôm nay vẫn vậy. Sông nước là đặc thù của miền Tây, vùng đất của hàng ngàn dòng sông, cửa sông đan xen như mạng nhện. Có sông ngòi, kênh, rạch, có phương tiện vận tải thủy, có người sinh hoạt mua bán trao đổi hàng hóa, tựu trung lại tất cả cảnh mua bán ngộ nghĩnh trên sông, người ta gọi là chợ nổi.

Chợ Nổi Cái Răng.

Chợ nổi nhóm họp cả ngày nhưng đông nhất là vào buổi sáng, khi trời còn mát, sương giăng bảng lảng mặt sông và nắng hãy còn dìu dịu. Đi chợ nổi phải đi thật sớm. Bởi khi mặt trời lên cao, bắt đầu nắng gắt, là chợ vãn khách rồi. Còn gì thư thái và thoải mái hơn khi giữa tinh sương ngày mới được dập dềnh trên chiếc xuồng ba lá len lỏi giữa chợ họp trên sông đông vui, tấp nập, căng lồng ngực hít không khí trong lành của gió mang hương cây trái và sông nước miền Nam.

Nằm giữa kênh Xà No và sông Cần Thơ có chợ nổi Cái Răng và chợ nổi Phong Điền. Xôm tụ nhất là chợ nổi Phong Điền thuộc địa phận xã Nhơn Ái. Nét riêng biệt và nổi bật của chợ nổi là hình thức "bẹo hàng", tức là quảng bá hàng hóa tại chỗ. Trước mỗi mũi ghe, người ta thường cắm hoặc gác ngang một cây sào dài, bên trên treo lủng lẳng những hàng hóa mà chủ nhân muốn bán. Hình thức "bẹo hàng" này là một nét văn hóa giao thương độc đáo chỉ có ở chợ nổi, không ồn ào, vồn vã, không níu kéo nhưng lại có sức thu hút khách, phải nhìn cây "bẹo" mà tìm các loại hàng hóa cần mua.

Không giống như chợ trên bờ, những ghe hàng trên chợ nổi không nhất thiết phải quy tập từng khu theo loại hàng. Đặc biệt nhất là hình thức "bẹo lá bán ghe". Nếu gặp chiếc ghe "bẹo" một tấm lá lợp nhà nghĩa là người chủ muốn bán chiếc ghe ấy. Các ghe bán hàng dạo thì thay hình thức "bẹo" hàng bằng âm thanh của những chiếc kèn. Có người bấm kèn bằng tay (loại kèn nhỏ, bằng nhựa), có người vừa chèo vừa dùng chân đạp lên kèn (loại kèn lớn, còn gọi là kèn cóc). Ghe hàng len lỏi vào bến đậu của các ghe lớn với nhiều tiếng kèn khác nhau, làm cho khu chợ thêm rộn rã, xao động.

Hiện nay, ở chợ nổi đã có những hình thức quảng cáo hiện đại hơn như bảng hiệu, hộp đèn,... nhưng "cây bẹo" vẫn là hình thức đặc trưng của các ghe hàng.

Một lần đến với chợ nổi là mãi không thể quên cái không khí đông vui, tấp nập đó. Ở miền Tây có nhiều chợ nổi, nhưng nổi tiếng nhất là chợ nổi Cái Bè (huyện Cai Lậy – tỉnh Tiền Giang), chợ nổi Cái Răng, Phong Điền (Châu Thành – Cần Thơ), chợ nổi Ngã Bảy (Phụng Hiệp – Cần Thơ), chợ nổi Ngã Năm (Thạnh Trị – Sóc Trăng), chợ nổi Sông Trẹm (Thới Bình – Cà Mau)...

Người buôn bán trên chợ nổi nhóm họp bằng xuồng. Ngày xưa là xuồng ba lá, xuồng năm lá, ghe tam bản. Bây giờ có cả tắc ráng, ghe máy. Người đi mua cũng đến chợ bằng xuồng, ghe. Những chiếc xuồng con len lỏi khéo léo giữa hàng trăm ghe thuyền mà hiếm khi có va quệt xảy ra. Người miền Nam vốn chân chất, dân thương hồ trên sông nước miền Tây còn chân chất và đáng yêu đáng quí hơn. Họ sống với nhau bằng cái tình sông nước, mênh mông và rộng rãi như mặt nước sông hồ. Nhìn nhau mà đi, nhường nhịn nhau mà sống.


Mặc dù nhóm họp trên sông, nhưng chợ nổi hầu như không thiếu một mặt hàng nào, từ cây kim, sợi chỉ cho đến các loại thực phẩm, đồ gia dụng. Và quán xá cũng theo người nhóm họp trên sông. Có thể tìm tại đây các món ăn dân dã mang đậm chất Nam Bộ như bánh tét, bánh nếp lá dừa, bánh cam, đậu hũ, bánh phồng, bánh canh ngọt, bánh bột lọc, hủ tiếu vườn... với giá bình dân mà lạ miệng.

Thật thú vị khi ngồi thảnh thơi trên chiếc xuồng con tròng trành vừa thưởng thức các món ăn thơm ngon đậm đà vừa thoả sức ngắm nhìn những chiếc thuyền chở đầy cây trái đang lướt qua trước mắt... Đã đi chợ nổi đâu dễ quên tiếng ồn ào đặc trưng của chợ nổi – tiếng tành tạch của ghe xuồng đang rẽ sóng, tiếng mặc cả, tiếng mời chào, í ới gọi nhau hối hả...Qua bao đời nay, các chợ nổi Nam Bộ vẫn giữ nguyên nét sinh hoạt đặc trưng này. Từ đây, cây trái hoa quả và thủy sản sẽ theo các thương lái xuôi dòng toả đi khắp cả nước...


Nếu như chợ nổi Phụng Hiệp, Cái Răng là nơi tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm nông nghiệp cho thành phố Cần Thơ, thì chợ nổi Cà Mau lan tỏa khắp ngõ ngách thôn quê, vào vùng sâu, xuống biển. Mỗi chiếc ghe là một gia đình "lưu động" trên sông, trong đó có cả những gia đình hai thế hệ. Họ coi chiếc ghe là nhà, khách hàng là người thân lối xóm.

Những năm trước, chợ nổi Cà Mau họp ngay ngã ba sông Gành Hào rất thuận tiện cho các thương lái tại Cà Mau, vì vậy mà mỗi lần họp chợ không khí rất nhộn nhịp. Cũng chính nơi đây một thời là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Do tụ họp đông, không đảm bảo an toàn giao thông, nên chợ nổi dời cách thành phố Cà Mau gần 3km hướng về Gành Hào. Dời chợ thì phương thức mua bán nơi đây cũng thay đổi.

Nông sản: Thế mạnh, nền tảng vươn lên của đất chín rồng!

Buôn bán hai chiều, đó là phương thức mua bán phổ biến của dân thương hồ trên sông nước Cà Mau. Hàng hóa từ trên miệt vườn được vận chuyển về bằng những chiếc ghe bầu, họ không neo đậu lâu như trước mà đi nhỏ lẻ xuống tận các huyện vùng sâu, nhất là vùng nước mặn, chuyên canh tác nuôi trồng thủy sản như Đầm Dơi, Sông Đốc, Năm Căn, Ngọc Hiển... có ghe đến tận Đất Mũi mới chịu dừng. Hết hàng, dân thương hồ "ăn" lại than đước, củi đước, phân cá, tôm... mang về trao đổi với nhà vườn. Hành trình xuôi ngược như thế đã tạo cho chợ nổi Cà Mau có nét đặc thù riêng biệt mà không dễ nơi nào có được.

Từ Cà Mau dọc ven biển đi Kiên Giang có nhiều chợ nổi vùng "Miệt Thứ". Miệt Thứ được tính từ con sông Tắc Cậu (Kiên Giang) dọc theo tuyến quốc lộ 63 xuôi về đến huyện Thới Bình, Cà Mau gần 60km.

Chợ bình dị nhưng cũng rực rỡ sắc màu.

Ở đây có tất cả 11 thứ. Con kênh đào đầu tiên ở xứ này được đặt tên là "Thứ Nhứt", tiếp đến là con kênh Thứ Nhì, 3, 4... đến Thứ 11. Mỗi con kênh vùng Miệt Thứ đều có nhóm chợ mọc lên tại các ngã ba hoặc đầu kênh.

Chợ nổi Vĩnh Thuận không rao mời, và cũng không treo hàng lủng lẳng trên mũi ghe. Khách chèo xuồng tự tìm đến mua, bán, trao đổi, thuận bán, vừa mua và cách ứng xử rất chan hòa, không có cảnh giành giật hàng hóa. Điều đó đã thu hút rất nhiều du khách đến tham quan. Chợ nổi Miệt Thứ họp đông nhất lúc mờ sáng cho đến trưa, buổi chiều tan chợ. Bởi đa số người bán hàng là chủ vườn, chủ rẫy, họ trồng rau thì chở rau, trồng khóm chở khóm...

Do đặc thù của Miệt Thứ là người dân sống trong những con kênh, rạch nhỏ, vì vậy hàng hóa được vận chuyển bằng xuồng ba lá, xuồng tam bản nhỏ và họ chọn con sông Vĩnh Thuận làm nơi họp chợ để bán hàng cho các bạn hàng bông, từ đây họ đem ngược vào các kênh rạch rao bán, trao đổi sản phẩm, chẳng hạn lấy trái cây đổi cá, lấy rau đổi gà, vịt chứ không nhất thiết người dân chỉ có tiền mới mua được.


Có thể nói, với đặc thù là vùng sông nước cũng như cuộc "cách mạng đường thủy" với những con kênh đào ngang dọc, nối thông các điểm chiến lược trong vùng, đã tạo ra đột phá mới cho việc hình thành chợ nổi. Vậy lộ trình tạo bước đột phá cho "trung tâm vùng" phải chăng bắt đầu từ một "trung tâm lưu chuyển hàng hóa trên sông nước"?

Nếu như thủy lợi ĐBSCL được phục hồi và phát triển nhanh chóng trong bối cảnh khai thông đường không, đường biển, đường bộ, thì hàng hóa ĐBSCL sẽ có nhiều cơ hội vươn xa ra thị trường trong và ngoài nước.


Bởi lẽ, hiện nay cả một vùng ĐBSCL vẫn là một vùng nông nghiệp, giá trị sản xuất của kinh tế cá thể, nông hộ vẫn chiếm tỷ trọng lớn, thì việc tập trung xây dựng trung tâm nông nghiệp công nghệ cao về giống cây trồng, vật nuôi là việc rất cần thiết; trung tâm công nghiệp tinh chế thủy hải sản, hoa quả các chợ đầu mối nông hải sản... sẽ giúp chợ nổi có một thế đứng riêng, độc đáo; là động lực thu hút thêm bạn bè tụ hội về đây.

Hiện nay, các địa phương vùng ĐBSCL đang tạo ra sức mạnh trong việc khai thác chợ nổi, làm điểm tham quan du lịch hấp dẫn – một nét văn hóa đặc trưng của vùng kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ. Từ nhiều năm qua, đi thăm chợ nổi đã trở thành một tuyến du lịch hấp dẫn du khách gần xa. Chính vì thế, việc giữ gìn, phát triển chức năng văn hóa – du lịch của chợ nổi cần được quan tâm đúng mức. Quản lý, phân luồng, phân lô cũng như xây dựng nếp sống văn hóa mới, hiện đại của chợ nổi đang đặt ra nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho các địa phương miền Tây Nam Bộ.


-TÍNH CÁCH NGƯỜI MIỀN TÂY

Như mọi người đều biết, vùng đất này trước khi có sự khai phá của những người dân đến từ miền Trung và một ít cư dân người Bắc thì vùng đất này chỉ là một vùng rừng rậm hoang vu, có thú dữ tràn đầy. Chính vì điều đó họ luôn lo sợ trước cảnh tượng rừng hoang cỏ rậm, đồng ruộng hoang vu này. Từ đó họ đã nương tựa vào nhau để sống, tất cả mọi người đều hết lòng vì việc nghĩa. Điều này đã hình thành nên tính cách "trọng nghĩa khinh tài" ở trong con người họ. Bởi họ ý thức được rằng: trước điều kiện thiên nhiên như vậy, nếu họ chia rẽ thì sẽ chết. Tinh thân đoàn kết, sống với nhau vì nghĩa không chỉ giúp họ sẻ chia công việc với nhau, để giúp đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, ốm đau mà còn hỗ trợ lẫn nhau cùng chống lại những khắc nghiệt của thiên nhiên.

Chính điều kiện hoàn cảnh khó khăn đó đã tôi luyện con người Miền Nam này thành một người "Hành hiệp trượng nghĩa". Họ sẵn sàng, thậm chí hy sinh tính mạng của mình để làm tròn đạo nghĩa. Bên cạnh đó cũng đã xây dựng cho con người tính chăm chỉ, làm việc hết mình, chơi thì cũng chơi " tới bến". Con người Miền Tây này luôn quan niệm rằng: " Nếu thấy việc nghĩa mà không ra tay làm thì không phải là anh hùng"

Còn trong những hoàn cảnh đời thường họ rất quý mến bạn bè. Nguyên do chủ yếu vì họ là những người ở xa gốc gác, xa nguồn cội của họ, họ từ những nơi khác đến, không có nhiều người thân thích, vì thế mà họ hiểu và luôn thông cảm cho nhau vì " mọi người đều cùng chung một số phận", hoạn nạn họ luôn kề vai để vượt qua – " Bán bà con xa mua láng giềng gần" đây là câu nói cửa miệng của những con người ở đây để nói lên rằng họ luôn sống cho nhau, cho bạn bè, cho những người đang sống quanh họ. Nên khi có bạn bè đến chơi hay khách đến nhà, dù gia cảnh có bần hàn, khó khăn đến đâu họ cũng cố gắng đãi bạn, đãi khách cho tươm tất:

" Bắt con cá lóc nướng trui

Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa"

Dù nghèo đến đâu, khi có khách hay bạn bè đến chơi thì họ luôn tâm niệm rằng" nghèo thì nghèo, tiếp bạn chu đáo cái đã, tiền bạc có sá gì, nhân nghĩa mới là điều quan trọng". Vì vậy, những ai không có nhân nghĩa thì cũng đừng hòng họ đáp lại bằng nhân nghĩa.Ngược lại, nếu sống có tình nghĩa thì khó khăn nào họ cũng chịu, gian khổ mấy họ vẫn sẵn sàng chấp nhận. Và một đặc điểm nữa đi liền với tính cách của người Miền Tây là: Họ nói một là một, hai là hai, không thay đổi, tình cảm luôn rõ ràng, dứt khoát, nếu đã hứa thì phải làm dù cho sự thay đổi có thể mang lại cho họ nhiều điều lợi nhưng họ vẫn"khăng khắng một lời quân tử nhất ngôn"

Lợi lộc thì họ ham nhưng không vì danh lợi đó mà làm những công việc phi nghĩa, làm trái với tinh thần nghĩa khí hào hiệp của họ. Họ chỉ nhận những gì tương xứng với công sức mà họ bỏ ra.

Nói về chuyện tình yêu nam nữ, họ sống và thể hiện tình cảm cho nhau rất chân thành qua những lời lẽ mộc mạc. Thời xưa họ thường dùng những câu đối, những câu hò trên những cánh đồng xanh tốt để thể hiện tình cảm cho nhau. Một tính cách nổi bật nữa của những con người ở đây mà người ta thường nhắc đến là tính hiên ngang, dân gian thường gọi là tính " ngang tàng". " Ngang tàng" ở đây không phải là ngang ngược, lỗ mãng mà " ngang tàng" ở đây chính là tính nghĩa khí, chí khí hiên ngang. Họ đối đãi với nhau rất là điệu nghệ, sẵn sàng " hy sinh bản thân" để sống cho việc nghĩa.

" Trời sinh cây cứng lá dai,

Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều".

Chính tính cách này giúp họ sống hòa thuận với nhau, cùng chung sức khai hoang lập ấp. Với sự nỗ lực đó, mảnh đất hoang vu thuở nào nay đã trù phú, rừng hoang đã rẫy, với những cánh đồng bát ngát xanh tươi. Thiên nhiên ngày càng đem đến cho con người ở đây nhiều nguồn lợi hơn. Từ đó họ càng thêm tự hào và yêu quý mảnh đất này hơn. Và họ còn thể hiện tình cảm cũng như tấm lòng của họ với đất nước với một phong cách rất riêng mang đậm bản tính của người Nam Bộ. Đó là lý do giải thích tại sao các câu ca dao, những bài hát Nam Bộ có nội dung về quê hương đất nước thường đề cập đến một vùng đất trù phú, một địa bàn khá rộng và nổi tiếng giàu có về những thứ sản vật nào đó:
" Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,

Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm".

Hay:

" Bến Tre giàu mía Mỏ Cày,Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cài Mơn."

Hay trong bài hát có câu:

" Cần Thơ gạo trằng nước trong,

Ai đi đến đó lòng không muốn về..."

Đó là tất cả những hoạt cảnh của thời bình, đến thời chiến tranh thì mọi thứ bị thực dân Pháp đảo lộn. Con người Miền Nam này vì được xuất thân và trải qua nhiều khó khăn vất vả đã hun đúc đào tạo được tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng của người dân Nam Bộ được phát huy mạnh mẽ. Họ kêu gọi mọi người đấu tranh, khích lệ nhau lên đường đánh giặc cứu nước:
" Làm trai đứng ở trên đời,

Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta.

Ghé vai gánh đỡ sơn hà,

Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu."

Và hình ảnh người phụ nữ Nam Bộ ở nhà chăm lo sản xuất để chồng mình yên tâm đi chiến đấu. Một hình ảnh thể hiện mạnh mẽ người phụ nữ Nam Bộ kiên cường, họ thể hiện lòng yêu nước của mình bằng sự hy sinh chăm lo cho con cái, chăm lo nhà cửa và vui vẻ tiễn người chồng thân yêu nhất của họ lên đường cứu nước:
" Anh đi đánh giặc Lang Sa,

Để thiếp ở nhà, lo tần lo tảo.

Chén cơm manh áo, nhà cửa ruộng vườn.

Để anh lên ngựa đề thương

Thiếp về mặc thiếp liệu lường nuôi con"

Trên đây chỉ thể hiện một phần tính cách của con người Miền Tây nói riêng và Miền Nam nói chung. Nói đến tính cách con người của một vùng, một miền, một quốc gia nào đó là một điều tế nhị. Hơn nữa tinh cách con người lại rất phong phú và đa dạng, có thể sẽ thay đổi qua thời gian. Vì thế ta không thể phản ánh hết được tính cách của những con người ở đây mà chỉ qua cách nhìn nhận và những nhận xét khách quan của mọi người xung quanh ta, cũng như qua ca dao, tục ngữ, những bài hát mà nói lên tính cách chung của con người Miền Tây này, để xem những người Nam Bộ nói về tính cách của người Nam Bộ ra sao. Từ đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đặc tính của vùng đất này và con người Nam Bộ này và cũng là để thêm yêu mảnh đất, thêm yêu con người Miền Nam hiền lành, chất phác này, như yêu chính anh em một nhà của gia đình Việt Nam chúng ta.


- -----------------------------------------

Đặc Trưng Văn Hóa Nam Bộ

Do điều kiện địa lý đặc thù, nên cách thức hoạt động sản xuất của cư dân trên vùng đất phì nhiêu rộng lớn này mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời cũng đa dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Nhờ sông Cửu Long có tốc độ dâng nước và tốc độ dòng chảy thấp, người ta không cần phải đắp đê ngăn lũ như ở đồng bằng sông Hồng, mà ngược lại còn tận dụng nguồn nước này vào mùa lụt để đưa nước ngọt và phù sa vào ruộng, rửa phèn ở vùng trũng, đánh bắt thuỷ sản, v.v. Không chỉ thế, sông nước nơi đây còn là tiền đề phát triển các nghề buôn bán trên sông, vận tải đường sông, v.v. Cho nên, không ở đâu có nhiều từ ngữ để chỉ các loại hình và hoạt động sông nước như ở vùng này: sông, lạch, kinh, rạch, xẻo, ngọn, rọc, tắt, mương, rãnh, ao, hồ, đìa, hào, láng, lung, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng, vịnh, bàu...; nước lớn, nước ròng, nước đứng, nước nhửng, nước rông, nước rặc, nước lên, nước xuống, nước nhảy, nước chụp, nước rút, nước nổi, nước lụt, nước lềnh, nước cạn, nước xiết, nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Sông nước đã trở thành một yếu tố cấu thành đặc trưng của văn hoá nơi đây.

Trước hết, do diện tích có thể trồng lúa trên cả hai vùng châu thổ rất rộng lớn và phì nhiêu nên ở nơi đây, truyền thống nông nghiệp lúa nước của người Việt đã được phát huy ở mức tối đa: Nam Bộ sản xuất đến 50% lúa cả nước, và góp phần chính yếu vào sản lượng gạo xuất khẩu hằng năm trên 4 triệu tấn của cả nước. Nhiều thương hiệu lúa gạo của Nam Bộ rất nổi tiếng trên thị trường trong và ngoài nước, như gạo Tài Nguyên, gạo Nàng Hương Chợ Đào (Cần Đước, Long An), v.v.

Nam Bộ cũng là nơi sản xuất đến 70% trái cây cả nước. Các tỉnh miền Đông có sầu riêng, mít, bưởi, măng cụt, vú sữa, chôm chôm... Long An có đặc sản dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức. Bến Tre có cam, quít, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, khóm,vú sữa, bưởi da xanh, trồng nhiều ở Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Vĩnh Long nổi tiếng khắp Việt Nam với đặc sản bưởi Năm Roi, v.v.

Nam Bộ cũng là vùng trồng cây công nghiệp lớn nhất nước. Các tỉnh miền Đông có cao su, điều, đậu phộng... Các tỉnh miền Tây có dừa, mía, đậu phộng, thuốc lá, tiêu... Long An trồng nhiều đậu phộng ở Đức Hoà, trồng mía ở Thủ Thừa. Bến Tre có gần 40.000ha dừa, cho rất nhiều trái và lượng dầu cao. Ngoài nước uống và dầu, dừa còn cho các sản phẩm khác là than dừa, vỏ dừa làm thảm dừa, dây dừa, kẹo dừa. Mía được trồng nhiều tại các vùng đất phù sa ven sông rạch tại Mỏ Cày, Giồng Trôm. Diện tích trồng thuốc lá tập trung ở Mỏ Cày, nơi có loại thuốc thơm nổi tiếng. Ngoài ra huyện Chợ Lách (Bến Tre) còn là nơi trồng các loại hoa kiểng, bonsai nổi tiếng.

Sở hữu một vùng sông nước lắm thuỷ sinh và được biển bao quanh hai phía, Nam Bộ cũng là một ngư trường giàu có nhất nước, là cơ sở đề phát triển các nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Đánh bắt thuỷ sản phát triển cả ở vùng đầu nguồn, vùng cửa sông và vùng biển. Chế biến thuỷ sản rất phát triển ở TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Phú Quốc. Nước mắm Phú Quốc là một thương hiệu nổi tiếng cả nước và quốc tế. Nghề nuôi cá bè trên sông phát triển ở Đồng Nai, Châu Đốc... Ngoài ra, do tôm cá dồi dào nên Nam Bộ cũng là nơi có nhiều sân chim nhất trong cả nước. Hầu như tỉnh nào ở miền Tây cũng có sân chim, trong đó nổi tiếng nhất là các sân chim ở Bến Tre, Đồng Tháp, Bạc Liêu, Cà Mau. Mỗi sân chim là nơi trú ngụ của hàng trăm ngàn chim thú hoang dại như, cò, vạc, sếu... cùng với thảm thực vật phong phú của môi trường đồng bằng và ven biển nhiệt đới gió mùa.

Các nghề thủ công truyền thống cũng khá phát triển. Bình Dương là nơi có nhiều làng nghề truyền thống với các nghệ nhân điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài. Từ xa xưa các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu khắc của Bình Dương đã tham gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu vực. Bến Tre có làng nghề chế biến các sản phẩm từdừa và mật ong trên cồn Phụng thuộc huyện Châu Thành, v.v.

Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước. Từ xưa, các trung tâm giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá: Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho Đại phố, Sài Gòn, Cần Thơ... Đặc biệt ở miền Tây còn có các chợ nổi mà toàn bộ hoạt động đều diễn ra trên sông nước. Chợ nổi Long Xuyên (An Giang) là nơi hàng trăm ghe xuồng tụ tập để buôn bán hàng hoá nông sản như bánh canh ngọt, lạt, bánh tầm, bánh bò, hủ tiếu, chè đậu đỏ, cà phê... Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ) tụ họp hàng trăm ghe từ tờ mờ sáng, bán đủ loại sản phẩm miệt vườn được treo trên một cây sào cắm trước mũi ghe gọi là "cây bẹo". Người mua chỉ cần nhìn vào "cây bẹo" là biết ngay ghe bán thứ gì. Tương tự là chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang)... Là nơi "dân thương hồ" lui tới mưu sinh, chợ nổi đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá rất đặc thù của miền Tây sông nước, và được ngành du lịch khai thác như một sản phẩm du lịch độc đáo dành cho du khách.

Người Khmer Nam Bộ chủ yếu làm nghề trồng lúa nước trên đất giồng và vùng chân giồng, nơi đất đai màu mỡ thích hợp cho việc trồng lúa nước và các loại hoa màu, hoặc vùng đất giữa các giồng chính và giồng nhánh, nơi có đất tốt có thể trồng liên tục các loại lúa, khoai lang, bắp, dưa hấu, rau đậu. Từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, do dân số gia tăng và đất hoang ngày càng ít, người Khmer đã khai phá cả những mảnh đất bưng phèn ở các vùng ngập mặn chỉ có thể cấy lúa một vụ. Bên cạnh việc trồng lúa nước, người Khmer còn trồng hoa màu trên đất rẫy. Ở vùng ven sông biển, người Khmer cũng làm nghề đánh bắt cá mà chủ yếu là cá đồng, cá sông, với kỹ thuật và ngư cụ giống như người Việt. Nghề chăn nuôi nhìn chung còn gắn với nông nghiệp, mặc dù đã hình thành được những đàn bò, trâu, vịt tàu... khá lớn. Các nghề thủ công đan mây tre, đan đệm, dệt chiếu rất phổ biến. Nghề dệt và làm gốm còn duy trì ở An Giang, Kiên Giang.

Người Hoa ở nông thôn Nam Bộ chủ yếu làm các nghề nông, nghề rừng, nghề cá, nghề muối, nghề sắt. Người Hoa ở vùng đô thị thì hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, vận tải. Thời Pháp thuộc, người Hoa nắm độc quyền vận chuyển hàng hoá từ miền Tây về Sài Gòn – Chợ Lớn, từ Sài Gòn – Chợ Lớn lên cao nguyên, độc quyền thu mua xay xát lúa gạo dành cho xuất khẩu, và độc quyền mua bán hàng hoá với Miên và Lào. Dù ở thời kỳ nào, các cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ cũng nỗ lực duy trì sự bền vững về kinh tế cũng như bản sắc văn hoá riêng. Các hoạt động kinh tế rất thành công của người Hoa đã góp phần thay đổi quan niệm trọng nông khinh thương của người Việt Nam, và góp phần thúc đẩy quá trình đô thị hoá ở Sài Gòn – Chợ Lớn và các tỉnh thành khác ở phía Nam.

Người Chăm Nam Bộ chủ yếu làm các nghề đánh cá, làm ruộng, buôn bán, dệt vải. Ở An Giang, có nghề dệt sarong (xà-rông), dệt kama (khăn tắm, khăn rằn), thêu khăn, đan lưới... của phụ nữ Chăm, phục vụ nhu cầu ăn mặc theo truyền thống của người Chăm và dùng để trao đổi trong vùng. Năm 1999, Hợp tác xã Dệt thêu Châu Giang đã được thành lập tại cộng đồng Chăm tỉnh An Giang nhằm bảo tồn và phát triển nghề dệt truyền thống. Ở miền Đông Nam Bộ, hoạt động kinh tế của người Stiêng chủ yếu là làm nương rẫy trồng lúa, và làm một ít ruộng nước. Săn câu lượm hái là ngành kinh tế phụ, rất thiết thực vào mùa giáp hạt. Nghề thủ công có đan lát, làm đồ gốm, dệt vải. Hoạt động kinh tế của người Chrau chủ yếu là làm nương rẫy. Săn câu lượm hái vẫn còn giữ vị trí nhất định trong đời sống hằng ngày. Nghề thủ công kém phát triển, chỉ có một ít nghề phụ gia đình như đan, rèn, mộc.

Cách thức tổ chức xã hội cổ truyền
Đến Nam Bộ để khai hoang lập ấp, người Việt cũng theo truyền thống để tổ chức quần cư thành làng ấp. Tuy nhiên, về nội dung và hình thức, làng ấp của người Việt Nam Bộ có nhiều điểm khác biệt với làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Về nội dung, làng ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tập hợp cư dân đến từ nhiều vùng, nhiều họ tộc khác nhau, gắn bó với nhau không phải do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng giềng. Tập hợp cư dân của mỗi làng ấp cũng thường xuyên biến động hơn, kẻ đến người đi đổi chỗ cho nhau, nên không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư với dân ngụ cư. Về hình thức, để tiện việc đi lại, làng ấp ở Nam Bộ thường hình thành dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ, không có luỹ tre làng đóng kín. Do đó, tính cố kết cộng đồng của làng ấp Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.

Người Khmer Nam Bộ theo chế độ gia đình song hệ nhưng đang trong xu hướng chuyển sang phụ hệ. Hình thức gia đình chủ yếu là tiểu gia đình, mặc dù vẫn còn tồn tại các đại gia đìnhgồm 3, 4 thế hệ sống chung trong các phum nhỏ. Hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở là phum, bao gồm dăm ba gia đình có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau, phát triển từ công xã thị tộc mẫu hệ nguyên thuỷ, đứng đầu là mê phum. Nhưng cũng có phum lớn, bao gồm cả trăm gia đình thuộc nhiều dòng họ khác nhau. Các gia đình trong phum là những đơn vị kinh tế độc lập, có ruộng đất, tài sản, sinh hoạt và sản xuất riêng. Hình thức tổ chức cao hơn phum là khum thì trên thực tế đã được thay thế bằng đơn vị xã. Nhưng hình thức tổ chức srok (sóc) thì vẫn còn tồn tại. Mỗi sóc bao gồm vài chục phum lớn nhỏ. Ranh giới giữa các sóc thường được xác định qua vị trí ngôi chùa và tên gọi riêng của sóc. Đứng đầu sóc là mê sóc, giúp việc là ban quản trị sóc do dân sóc bầu ra. Bên cạnh bộ máy tự quản của sóc là bộ máy quản lý của chùa gồm một vị sư cả, các vị sư phó, giúp việc cho họ là một ban quản trị chùa và các wên là tổ chức quần chúng tín đồ. Sự vận hành của sóc dựa trên tập quán truyền thống và những định chế của Phật giáo. Cũng như làng ấp của người Việt Nam Bộ, sóc của người Khmer Nam Bộ không có sự phân biệt đáng kể giữa dân chính cư và dân ngụ cư.

Người Hoa ở Nam Bộ theo chế độ gia đình phụ hệ và cố gắng duy trì hình thức đại gia đình, mặc dù hình thức tiểu gia đình đã phổ biến. Về hình thức tổ chức cộng đồng, vào năm 1834 vua Minh Mạng đã chia di dân gốc Hoa thành hai nhóm: người Minh Hương thì tổ chức thành làng xãtheo kiểu người Việt, còn người Đường (Thanh) thì tổ chức thành các bang, căn cứ theo phương ngữ, nguồn gốc. Số lượng bang thay đổi từ 4 (1790) đến 7 (1802), 4 (1871), cuối cùng là 5 bang: Quảng Châu, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hạ Châu (1885), tồn tại đến năm 1960. Các bang này vừa là tổ chức xã hội của người Hoa, vừa là những tổ chức hành chính chính thức điều hành các quan hệ xã hội, từ chính trị đến kinh tế và văn hoá của các nhóm cộng đồng. Bên cạnh đó, người Hoa ở Việt Nam còn lập ra các hội, như Thiên Địa Hội là một hội kín phản Thanh phục Minh, đến đầu thế kỷ XX thì phân rã. Đầu thế kỷ XX, người Hoa ở Việt Nam thành lập Việt Nam – Trung Hoa Tổng thương hội. Đến năm 1925 thì thành lập Phòng Thương mại người Hoa, hoạt động mở rộng dần từ kinh tế sang chính trị, xã hội, ngoại giao, phạm vi khắp các tỉnh phía Nam và cả nước... Các tổ chức bang hội vừa đáp ứng nhu cầu liên kết tương trợ của những người Hoa cùng phương ngữ và quê quán, vừa đáp ứng nhu cầu về quan hệ thân tộc và huyết thống vốn có của người Hoa. Trong quan hệ với người Việt, người Hoa di cư không tự coi mình là "dân tộc thiểu số", và vẫn nuôi dưỡng lòng tự hào của một dân tộc văn minh. Tính biệt lập và khép kín là đặc điểm nổi bật nơi các cộng đồng người Hoa di cư, nhất là người Hoa ở vùng đô thị. Còn người Hoa ở nông thôn thì quan hệ mật thiết hơn với các cư dân sở tại.

Người Chăm Nam Bộ do hầu hết theo đạo Hồi nên chế độ gia đình thiên về phụ hệ, mặc dù chế độ mẫu hệ cổ truyền vẫn còn được bảo lưu. Hình thức tổ chức xã hội cổ truyền là các palaycũng đã chuyển hoá thành các jammaah là hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở tập hợp những gia đình cư trú quây quần bên cạnh các thánh đường Hồi giáo (masjid, surau). Người Stiêng ở Đông Nam Bộ thì theo chế độ gia đình phụ hệ, hình thức đại gia đình là chủ yếu, nhưng đã xuất hiện nhiều tiểu gia đình. Mỗi đại gia đình cư trú trong một nhà sàn dài. Một số nhà không cố định hợp thành một buôn (Stiêng: bon, poh, văng, wăng, sóc).

Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội
Về tín ngưỡng, là một vùng đất đa tộc người, Nam Bộ cũng là nơi gặp gỡ các tín ngưỡng tôn giáo sẵn có từ Bắc Bộ, Trung Bộ, đồng thời là cái nôi sinh thành những tín ngưỡng tôn giáo mới. Vì vậy, đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Tiếp nối truyền thống của người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, người Việt Nam Bộ cũng dành ưu tiên cho đạo Phật, kết hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên. Chùa chiền có mặt ở khắp đồng bằng, đặc biệt là những vùng đồi núi sót, có sơn thuỷ hữu tình. Ở Thất Sơn, có chùa Phật Lớn lâu đời, có tượng Phật Di Lặc được sách kỷ lục Việt Nam công nhận lớn nhất cả nước. Ở núi Bà Đen, có chùa Bà Đen nổi tiếng, v.v. Đạo Phật kết hợp với đạo Lão, đạo Khổng, đạo Kitô, đạo Thánh Mẫu, là cơ sở hình thành đạo Cao Đài trên vùng đất Nam Bộ. Tây Ninh là thánh địa của đạo Cao Đài. Hiện đạo Cao Đài có 2,7 triệu tín đồ. Đạo Phật cũng là cơ sở hình thành đạo Hoà Hảo ở An Giang. Hiện đạo này có khoảng 1 triệu tín đồ. Các tôn giáo trên cũng là cơ sở làm hình thành nhiều "đạo" khác ở Nam Bộ. Những "đạo" này tuy ít tín đồ nhưng cũng góp phần giải quyết nhu cầu tâm linh của cư dân trên vùng đất mới trong lúc các tôn giáo lớn chưa phát triển trong vùng: Bà Rịa – Vũng Tàu có đạo Ông Trần; Bến Tre có đạo Dừa trên cồn Phụng thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, v.v. Ngoài ra, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành cũng có đông tín đồ. Bên cạnh đó, họ cũng duy trì tín ngưỡng thờ cúng Bà Chúa Xứ ở núi Sam, thờ cúng Thành hoàng ở các đình miếu, thờ cúng Cá Ông ở các làng ven biển.

Phong tục của người Việt Nam Bộ cũng có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ, nhưng có tiếp biến thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người Khmer, người Hoa. Chẳng hạn, hầu hết người Việt Nam Bộ vẫn giữ tập quán giẫy mã vào ngày 25 tháng Chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30 tháng Chạp âm lịch, nhưng một bộ phận người Việt Nam Bộ cũng theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng Ba âm lịch giống như người Hoa. Tính cách của người Việt Nam Bộ cũng có nhiều nét khác biệt với người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung Bộ: cởi mở, không ưa sự ràng buộc, chuộng sự bình đẳng; trong mưu sinh thì có tinh thần mạo hiểm, bươn chải, đầu óc sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới; trong ứng xử thì bộc trực, hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài, thích ăn chơi xả láng, v.v.

Tương ứng với với sự phong phú về cách thức hoạt động sản xuất và về tín ngưỡng, lễ hộicủa người Việt Nam Bộ cũng rất đa dạng, bao gồm bốn loại: lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo, lễ hội nông nghiệp, lễ hội ngư nghiệp, lễ hội văn hoá – lịch sử. Tất cả đều mang sắc thái Nam Bộ mặc dù nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Bộ. Lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen... Nhưng lớn nhất vẫn là lễ hội Vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc, một lễ hội đặc trưng của cư dân Nam Bộ, hằng năm thu hút đến 2,5 triệu người hành hương và du khách. Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh, thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp. Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Ở Bà Rịa-Vũng Tàu, nơi có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam, bên cạnh lễ hội Nghinh Ông còn có lễ Lệ Cô Long Hải từ 10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu – Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Ở Bến Tre, lễ hội Nghinh Ông tiến hành vào ngày 16/6 âm lịch hằng năm tại các các làng ven biển thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri. Trong ngày hội, tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung để nghinh Ông, tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ở Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh), Vàm Láng (Tiền Giang)... đều có lễ hội Nghinh Ông trọng thể hằng năm. Lễ hội văn hoá – lịch sử bao gồm các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ..., các lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc binh Kiều, Phan Công Hớn, Ngô Tán Đước, Nguyễn Thanh Long, Trương Văn Rộng, Trần Công Thận...

Người Khmer Nam Bộ theo đạo Phật Tiểu thừa Theravada, một tôn giáo mới du nhập từ thế kỷ XIII nhưng đã thay thế đạo Bà La Môn, chi phối rất sâu sắc đời sống của người Khmer. Đối với người Khmer, Phật là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất, là đấng thiêng liêng nhất, còn sư sãi là những người thay Đức Phật để hoằng hóa độ sinh, vì vậy rất được mọi người tôn kính. Nam giới Khmer đều được trải qua một thời kỳ tu tập tại chùa để trở thành một con người hoàn thiện về nhân cách, phẩm chất, khả năng. Bên cạnh đạo Phật, người Khmer vẫn duy trì tín ngưỡng thờ Neak tà là các nam thần bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực, dưới hình tượng là những viên đá cuội bóng láng. Còn tín ngưỡng thờ Arăk là bà tổ dòng họ mẫu hệ, bảo hộ gia đình, nhà, khu đất, rừng, vốn phổ biến dưới thời Pháp thuộc, thì nay đã hiếm thấy. Các lễ hội truyền thống của người Khmer bao gồm hai loại chính là các lễ hội có màu sắc Phật giáo (bon) như lễ Phật đản (bon Pisakh Bâuchea), lễ nhập hạ (bon Châul Vâssa), lễ cầu phước (bon Đa), lễ hội linh (bon Pchum Bôn), lễ tang (bon Sôp)...; và các lễ hội văn hoá – lịch sử (pithi) như lễ Tết (pithi Chôl Chnam Thmây, 14-15-16/4 dương lịch, gồm nghi lễ đắp các núi cát và tắm Phật, tảo mộ ông bà, vui chơi), lễ cúng tổ tiên (pithi Sen Đônta, 29/8-1/9 âm lịch Khmer), lễ cúng trăng (pithi Sâm Peak Preach Khe, còn gọi là lễ đút cốm dẹp – Âk Âmbok, 15/10 âm lịch, gồm nghi lễ cảm tạ thần Mặt Trăng bảo hộ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại ấm no, tổ chức đua ghe ngo – Um tuk ngua)... Các nghi lễ vòng đời có lễ cắt tóc (đầy tháng), lễ giáp tuổi (12 tuổi), lễ đi tu cho nam giới, lễ cưới, lễ chúc thọ, và lễ tang dùng hình thức hoả táng.

Người Hoa ở Nam Bộ phần nhiều theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên. Hệ thống thần thánh của người Hoa rất phong phú và phức tạp. Các thần thánh được cộng đồng thờ cúng gồm Bà Thiên Hậu, Quan Thánh Đế Quân, Ngọc Hoàng, Ông Bổn, Khổng Tử... Trong đó, thánh nhân được thờ cúng nhiều hơn thần linh, và Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh Thần là ba vị thần được tôn sùng bậc nhất. Bên cạnh đó là hàng chục vị thần của các địa phương. Trong gia đình, người Hoa thờ các vị thần bảo hộ gia đình: Thiên Quan Tứ Phước, Môn Thần, Thổ Địa Bản Gia, Táo Quân, Ngũ Phương Ngũ Thổ Long Thần, Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần, Quan Âm Bồ Tát, Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, tổ tiên, tổ sư. Một số người Hoa cũng theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành. Vì vậy, người Hoa có rất nhiều lễ hội: tết Nguyên đán 1/1 âm lịch, vía Ngọc Hoàng 9/1, vía Quan Công 13/1, tết Thượng nguyên 15/1, ngày Hàn thực 3/3, vía Ông Bổn 15/3, tiết Thanh minh tháng 3, vía Bà Thiên Hậu 23/3, lễ tế Khổng Tử và 72 tiên nho, tết Đoan ngọ 5/5, ngày cúng cô hồn 15/7, tết Trung thu 15/8, ngày Hạ nguyên 15/10, tiết Đông chí 15/11; chưa kể các nghi lễ vòng đời.

Người Chăm Nam Bộ hầu hết đều theo đạo Hồi (Islam), tôn thờ Thượng đế Allah và lấy Kinh Qur'an làm kim chỉ nam cho hoạt động tín ngưỡng của mình. Các lễ hội truyền thống của người Chăm Nam Bộ chủ yếu là lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo: lễ Tolakbala vào ngày Thứ tư tuần cuối tháng Safar (tháng 2 Hồi lịch) để cầu xin Thượng đế ban sự bình an, lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Muhammad vào ngày 12 tháng Rabiul Awal (tháng 3), lễ Raya Iadil Fitrah vào ngày cuối cùng của tháng chay nhịn Ramadan (tháng 9). Các nghi lễ vòng đời gồm có lễ đặt tên, cắt tóc cho trẻ sơ sinh (cha kak buk), lễ thành niên thực hiện tiểu phẫu (khotan) ở bộ phận sinh dục khi con trai và con gái đến 15 tuổi, hôn lễ, và tang lễ dùng hình thức địa táng. Người Stiêng, người Chrau thì vẫn bảo tồn tín ngưỡng vạn vật hữu linh, phong tục và lễ hội gần gũi với các tộc người nói tiếng Mon-Khmer ở Tây Nguyên.

Văn học, nghệ thuật
Nam Bộ có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú. Đó là các truyện dân gianphản ánh sự nghiệp khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử. Đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý, các bài hát huê tình, hát ru em, hát đồng dao, hát sắc bùa, hát thài, hát rối, hát vọng cổ, hát tài tử, v.v. Đặc biệt, hát vọng cổ và hát tài tử rất được người Nam Bộ ưa thích. Ngoài ra, Nam Bộ còn có một số thể loại văn học dân gian đặc sắc khác lànói vè, nói tuồng, nói thơ. Đây là loại hình tự sự dân gian khá phổ biến, nó thông tin nhanh những nỗi niềm, tâm sự. Trong đó, vè chiếm vị trí quan trọng, có những vè tiêu biểu như vè Chàng Lía, vè Trịnh Hâm, vè thầy Thông Chánh... Truyện thơ và hình thức diễn xướng nói thơ cũng là một hoạt động văn nghệ dân gian phổ biến tại Nam Bộ, với các truyện thơ nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Phạm Công – Cúc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Lâm Sanh – Xuân Nương, Thạch Sanh – Lý Thông, Dương Ngọc, Hoàng Trừu, Tấm Cám, Hậu Vân Tiên... Hát bội (tuồng) từ miền Trung đưa vào đã phát triển mạnh mẽ trên đất Nam Bộ. Hầu hết các lễ hội thường có kèm theo hát bội. Ca nhạc tài tử phát sinh từ Gia Định rồi lan đến các tỉnh miền Tây, là một trong những cội nguồn của nghệ thuật cải lương là loại hình sân khấu mới ra đời tại Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở khai thác đặc điểm ngữ âm Nam Bộ và những thành tựu của ca nhạc, sân khấu dân gian và ca nhạc tài tử Nam Bộ, cùng với sự tiếp biến loại hình sân khấu kịch nói phương Tây, cải lương đã nhanh chóng trở thành một trong ba loại hình sân khấu dân tộc phổ biến ở Việt Nam.

Văn hoá bác học ở Nam Bộ cũng bước đầu phát triển với những thi đàn, thi xã như Tao đàn Chiêu Anh Các, Bình Dương Thi xã, Bạch Mai Thi xã, trường tư thục của Gia Định Xử sĩ Võ Trường Toản ở Hoà Hưng... Tao đàn Chiêu Anh Các còn để lại tác phẩm Hà Tiên thập vịnh. "Gia Định tam gia" là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh là tác giả các công trình biên khảo Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Gia Định Thành thông chí... Ông nghè đầu tiên của Nam Bộ là Phan Thanh Giản đã làm Tổng tài biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Trong thời kỳ cận đại, Nam Bộ có nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu nổi tiếng, như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Thông, Hồ Biểu Chánh, Trần Chánh Chiếu, Sương Nguyệt Anh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, v.v. Các sản phẩm văn hoá gốc phương Tây như chữ quốc ngữ, nhà in, báo chí, tiểu thuyết, thơ mới, trường học kiểu phương Tây, Âu phục... đều được phổ biến ở Nam Bộ trước tiên rồi mới phổ biến đến các vùng miền còn lại.

Là vùng đất mới, nhưng Nam Bộ cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử – văn hoá như Văn miếu Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ở Đồng Nai; di tích Rạch Gầm-Xoài Mút, di tích Ấp Bắc, luỹ Pháo Đài, lăng Hoàng Gia, lăng Trương Định, lăng Tứ Kiệt ở Tiền Giang; Văn Miếu ở Vĩnh Long, v.v. Gần đây, một số địa phương ở Nam Bộ đã tiến hành phục dựng, trùng tu các di tích này để tôn vinh những người có công đối với lịch sử và văn hoá của vùng đất phương Nam.

Người Khmer Nam Bộ có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset), bài ca (châm riêng)..., và được chia làm hai mảng lớn là văn xuôi (peak sâmrai) và văn vần (kâm nap). Người Khmer Nam Bộ cũng có nhiều loại hình nghệ thuật rất độc đáo như múa, âm nhạc, sân khấu, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, trang trí... Trong đó, nghệ thuật múa được chú ý nhiều nhất, bao gồm múa dân gian và múa chuyên nghiệp. Ram vong, lâm lêv và sarvan là ba điệu múa dân gian phổ thông nhất, hầu như bất cứ người Khmer nào cũng biết. Ngoài ra là các điệu múa con sáo (sarikakev), múa trống chhayam, múa đám cưới, múa đám tang, múa cúng Neak Ta và cầu Arăk... Âm nhạc bao gồm nhạc sân khấu và nhạc dân gian. Nhạc cụ rất đa dạng, trong đó tiêu biểu là dàn nhạc gõ (phlêng pinpeat), thường được sử dụng trong những lễ nghi của Phật giáo, đám tang, đám cưới và các lễ hội dân gian. Dàn nhạc có 5 bộ, gồm bộ hơi, bộ da, bộ đồng, bộ sắt, bộ mộc, nhưng người Khmer vẫn gọi là dàn nhạc gõ vì đa số các nhạc cụ đều phải gõ để phát âm. Người Khmer còn có dàn nhạc nhẹ (phlêng khsê) gồm các loại đàn cây, chủ yếu là đàn cò (trôrô lea), đàn cò u (trô ủ), đàn bán nguyệt (khưm), cặp phách tre (krab), trống cổ bồng (skôr phiêng)... dùng để hợp tấu, và các loại đàn trô khse bei vàpeiar Khmer dùng độc tấu trong các dịp cúng Arăk, Neak Ta. Tiêu biểu nhất trong loại hình nghệ thuật sân khấu là kịch hát Rôbam và kịch hát Yukê. Kịch hát Rôbam có nguồn gốc từ cung đình, trong đó vũ đạo chiếm một vai trò quan trọng, nên có người gọi là múa rôbam (răm rôbam) hay hát răm. Nội dung là những tuồng tích cổ, nổi tiếng nhất là vở Réakér. So với Rôbam, kịch hát Yukê có nguồn gốc gần gũi với mảnh đất Nam Bộ hơn nên được người Khmer ở Campuchia gọi là Lakhôn Bassac (kịch hát vùng đồng bằng sông Cửu Long), và có tuổi đời trẻ hơn, ra đời và trưởng thành trong thập niên 1920. Tuồng tích của Yukê là các tuồng cổ Khmer được trích từ anh hùng ca Ấn Độ Ramayana; các truyện thần thoại như Lin thông, Mak phu yong kev, Sara minh, các truyện xưa tích cũ của người Việt như Thạch Sanh chém chằn, Tấm Cám..., và cả một số tuồng Trung Quốc như Tam Tạng thỉnh kinh, Trụ Vương mê Đắc Kỷ... Chùa chiền của người Khmer Nam Bộ có kiến trúc rất độc đáo, là nơi thể hiện những thành tựu nổi bật về kiến trúc, điêu khắc, hội họa và hoa văn trang trí của người Khmer. Các ngôi chùa không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là trung tâm giáo dục, trung tâm văn nghệ, trung tâm hội họp, trung tâm lễ hội của cộng đồng. Toàn vùng có tổng cộng hơn 400 ngôi chùa Khmer, trong đó xưa nhất và nhiều nhất là các chùa Khmer trên địa bàn Trà Vinh và Sóc Trăng. Ở Trà Vinh có tới 140 chùa Khmer, vượt xa số lượng chùa của các tộc người khác hiện có trên địa bàn cộng lại. Trong đó tiêu biểu là chùa Âng (chùa Samrông Ek, có từ năm 1642, có thuyết cho là năm 1373),chùa Hang, chùa Nôdol (chùa Cò), chùa Samrônge (tương truyền được xây dựng năm 642, xây dựng lại năm 1850)... Ở Sóc Trăng, có những chùa nổi tiếng như chùa Kh'leang (xây dựng năm 1533), chùa Dơi (chùa Mã Tộc, chùa Ma-ha-tuc, ra đời khoảng đầu thế kỷ XVII), v.v. Người Khmer Nam Bộ có hệ thống chữ Khmer cổ truyền, ra đời vào thế kỷ thứ VII, bắt nguồn từ chữ Sanskrit, vẫn còn được lưu dụng và phổ biến trong cộng đồng.

Người Hoa ở Nam Bộ có nền văn học, nghệ thuật rất phát triển, gồm đủ các bộ môn: văn học, âm nhạc truyền thống, tân nhạc, ca kịch, hí kịch, múa hầu, múa lân – sư – rồng, tạp kỹ, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, thư pháp, tranh kiếng, v.v. Những nơi thờ phụng công cộng của người Hoa nhưcác hội quán, miếu, đình, đền, chùa, nhà thờ, đều có lối kiến trúc và điêu khắc cổ kính, đặc thù.Những nơi thờ phụng công cộng này không chỉ là trung tâm tín ngưỡng mà còn là trung tâm văn hoá, giáo dục của cộng đồng, nơi giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá nghệ thuật của người Hoa. Riêng Sài Gòn – Chợ Lớn đã có trên 20 nơi thờ phụng công cộng như vậy: các hội quán Minh Hương Gia Thạnh (xây dựng năm 1789), Nghĩa Nhuận, Lệ Châu (Minh Hương – Chợ Lớn), Tuệ Thành (Quảng Đông – Chợ Lớn, xây dựng năm 1796), Quảng Triệu (Quảng Đông – Sài Gòn), Hà Chương, Ôn Lăng, Tam Sơn (Phúc Kiến – Chợ Lớn), Nghĩa An (Triều Châu – Chợ Lớn), Quỳnh Phù (Hải Nam – Chợ Lớn), Quần Tân (Hẹ – Gò Vấp); các miếu Thất Phủ (7 bang – Chợ Lớn), Thiên Hậu (Quảng Đông – Sài Gòn); đình Nhị Bang (Phúc Kiến – Chợ Lớn); đền Ngọc Hoàng Đa Kao (tất cả người Hoa); các chùa Phụng Sơn (Hội chợ Sắt), Trúc Lâm (Phật tử gốc Hoa), Bảo Sơn (Phúc Kiến – Chợ Lớn), Báo Ân (tín đồ Công giáo Hoa); các nhà thờ Cha Tam (tín đồ Công giáo Hoa), Phúc Ân, Tịnh Tâm (tín đồ Tin Lành Hoa), v.v. Tiếng Hoa và chữ Hán, phương tiện truyền lưu văn hoá và nối kết các cộng đồng người Hoa, vẫn được giảng dạy ở các trường lớp nơi có người Hoa cư trú tập trung, mà nhiều nhất là ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Nhiều người Hoa cư trú lâu đời ở Việt Nam đã có những cống hiến xuất sắc, góp phần không nhỏ vào việc phát triển trên các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt Nam: Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Trần Đại Định, Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ, Võ Trường Toản, Gia Định tam gia (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh), Gia Định tam hùng (Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh, Châu Văn Tiếp), Ngô Tùng Châu, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản, Lý Liễu, Châu Thượng Văn, Hồ Dzếnh, tứ trụ thời Pháp thuộc (Hứa Bồn Hoa, Quách Đàm, Hộ Xưởng, Trần Ích), v.v. Người Việt Nam Bộ tiếp thu Nho giáo và học thuật của Trung Hoa, một phần cũng là nhờ sự vai trò cầu nối của những trí thức Minh Hương và trí thức người Hoa Nam Bộ.

Người Chăm Nam Bộ có các hoạt động văn nghệ như ca, múa, kịch... Tuy bị câu thúc bởi đạo Hồi nhưng các hoạt động này vẫn được cộng đồng ủng hộ trong những dịp lễ hội. Thành tựu nổi bật nhất về nghệ thuật của người Chăm Nam Bộ là các thánh đường lớn với lối kiến trúc và trang trí rất độc đáo, đặc thù. Người Chăm Nam Bộ có chữ víết riêng là chữ Chăm Melayu do người Chăm Nam Bộ xây dựng dựa trên chữ Ả Rập và chữ Jawi của người Melayu ở Đông Nam Á, dùng để trao đổi trong cộng đồng và tìm hiểu đạo Hồi. Các tộc người Stiêng, Chrau đều có nền văn học dân gianriêng, và có hệ thống chữ viết được xây dựng theo mẫu tự La Tinh nhưng chưa được triển khai, phổ biến.

Cách thức ăn, mặc, ở, đi lại


Ẩm thực của người Việt Nam Bộ cũng theo truyền thống bảo đảm cân bằng âm dương và theo quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc của người Việt nói chung. Tuy nhiên, do điều kiện địa lý đặc thù và giao lưu tiếp biến văn hoá, cơ cấu bữa ăn thông thường của người Việt nơi đây đã được điều chỉnh thành cơm – canh – rau – tôm cá. Để cân bằng với khí hậu nóng nực, người Việt nơi đây rất chuộng ăn canh, và do tiếp biến các món canh chua của người Khmer, nên các món canh chua Nam Bộ cực kỳ phong phú. Do nguồn thuỷ sản dồi dào, thành phần thuỷ sản như cá, tôm, cua, rùa, rắn, nghêu, sò, ốc, hến, lươn... giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu bữa ăn. Cũng do môi trường lắm tôm cá, nên các loại mắm nơi đây phong phú hơn hẳn các vùng miền khác: mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm tôm chua, mắm rươi, mắm còng, mắm ba khía, mắm ruốc, mắm nêm... Cách chế biến cũng rất đa dạng và đặc sắc: mắm sống, mắm kho, mắm chưng, lẩu mắm, bún mắm... Từ các nguồn nguyên liệu thuỷ sản này kết hợp với các loại rau trái phong phú, người Nam Bộ đã sử dụng các kỹ thuật nấu nướng khác nhau như nướng, hấp, chưng, luộc, kho, xào, khô, mắm... để chế biến ra các loại món ăn khác nhau với những hương vị độc đáo. Rất nhiều món ăn bình dân nhưng hấp dẫn: canh chua cá kèo, chuột đồng xào sả ớt, cháo cá rau đắng, cá lóc hấp bầu, bún mắm Đồng Tháp, bánh canh Trảng Bảng, v.v. đã có mặt trong thực đơn của các "làng ẩm thực", nhà hàng sang trọng trong vùng.

Bên cạnh đó, mỗi địa phương lại có những đặc sản nổi tiếng của mình. Tây Ninh có bánh canh Trảng Bàng, bánh tráng Trảng Bàng... Long An có dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức, rượu đế nếpGò Đen... Đồng Tháp có bánh phồng tôm Sa Giang, nem Lai Vung, quýt hồng Lai Vung, chuột đồng Cao Lãnh, sen... Trà Vinh có cốm dẹp trộn dừa kiểu Khmer, các món đuông như đuông chà là, đuông đất, đuông dừa, mắm rươi, rượu Xuân Thạnh, bánh tét, bánh tráng ba xe, mắm kho, bún nước lèo, lươn um lá cách, cá cháy Cầu Quan, tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ, chuột đồng khìa nước dừa, vọp chong nướng lụi, bánh xèo, bánh ống, bánh canh Bến Có... Sóc Trăng có bánh pía, lạp xưởng, bún nước lèo, bánh cống Đại Tâm (Mỹ Xuyên), bò nướng ngói Mỹ Xuyên, bún xào Thạnh Trị, bún gỏi già... Hậu Giang có khóm Cầu Đúc (Vị Thanh), bưởi Năm Roi (Châu Thành), cá thát lát mình trắng (Long Mỹ)... Kiên Giang có nước mắm Phú Quốc, rượu sim, bánh tằm bì, tôm khô,phồng mực, bún cá, tiêu, xôi Hà Tiên, bún nước lèo... Cà Mau có mắm lóc U Minh, ba khía Rạch Gốc (Ngọc Hiển), sò huyết Bãi Bồi (Ngọc Hiển), tôm khô Bãi Háp (Năm Căn), v.v.

Người Khmer Nam Bộ cũng có cơ cấu bữa ăn thông thường là cơm – canh – rau – tôm cá, với các món ăn đặc trưng như mắm prahoc, canh sòm lo ko kô, bún sòm lo mun mờ chat... Mắm prahoc(người Việt gọi là mắm bò hóc) được làm bằng nhiều loại cá, cách làm rất công phu và tốn thời gian (khoảng hơn 4 tháng). Bên cạnh đó còn có các loại mắm pro ot (bò ót), ơng pa, pơ ling làm bằng tép mồng, tép bạc, và một loại mắm chua rất ngon có tên là pha ơk (mắm chao). Dùng tôm tép trộn muối và cho vào nhiều thính (gạo rang) xong đem phơi nắng khoảng 7-10 ngày. Khi ăn người ta trộn với đu đủ xanh thái nhỏ, củ gừng, củ riềng, ớt, chuối chát xắt mỏng. Canh sòm lo ko kô (canh sim lo) thì có cách nấu rất công phu, phải dùng thịt, cá tươi nấu với rau ngổ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và nêm bằng mắm prahoc. Đây là món canh phổ thông được dùng ở nhiều nơi. Món bún sòm lo mun mờ chat (bún nước lèo) thì cả người Khmer và người Việt đều có và ưa thích. Ngoài ra, người Khmer còn có món canh vừa chua vừa cay vừa béo gọi là sòm lo mò chu được nấu với cơm mẻ rất đặc sắc, hoặc thêm trái chuối xiêm còn xanh và một ít mắm prahoc gọi là sòm lo mò chu pha le rất ngon.

Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo có những món ăn riêng phù hợp với đạo Hồi, gọi là các món halal. Họ được ăn thịt, nhưng phải là các loại thịt do chính người Chăm Hồi giáo cắt tiết, đọc kinh. Riêng thịt heo, thịt chó, thịt của những con vật tự nhiên ngã ra chết hoặc bị giết bằng cách xiết cổ, đập đầu, bị ngã, bị húc, bị mãnh thú xé xác, thì không được phép dùng. Trong tháng chay nhịn Ramadan, người Chăm Hồi giáo phải giữ mình trong sạch và phải chịu thử thách bằng cách nhịn mọi thứ vào ban ngày và chỉ được phép ăn, uống, hút thuốc vào ban đêm.

Về trang phục, do sống trong môi trường sông nước, nông dân người Việt ở Nam Bộ, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn. Chiếc áo bà ba gọn nhẹ rất tiện dụng khi chèo ghe, bơi xuồng, lội đồng, tát mương, tát đìa, cắm câu giăng lưới, và có túi để có thể đựng một vài vật dụng cần thiết. Chiếc khăn rằn được dùng để che đầu, lau mồ hôi, và có thể dùng quấn ngang người để thay quần.

Trang phục thường nhật của nam giới người Khmer Nam Bộ cũng là bộ bà ba đen, quấn khăn rằn. Trong dịp lễ tết, họ mặc áo bà ba trắng, quần đen (hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái). Riêng thanh niên hiện nay khi ở nhà thường không mặc áo và quấn chiếc xà rông kẻ sọc. Trang phục nữ giới thông thường cách đây ba, bốn mươi năm là xăm pốt, một loại váy bằng tơ tằm, hình ống (kín). Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân, nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này là cách mang váy luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên giắt cạnh hông. Họ thường mặc váy trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau. Đó là loại xăm pốt pha muông. Ngày nay các loại trên ít thấy, có khả chăng chỉ trên sân khấu cổ truyền mà thôi. Thường nhật hiện nay, trang phục của người Khmer giống với người Việt ở địa phương. Trong lễ tết, họ lại mặc loại áo dài giống người Chăm.

Người Chăm Nam Bộ cũng sử dụng những trang phục dân tộc nhưng có tiếp nhận ảnh hưởng trang phục của các tộc người cộng cư. Phụ nữ Chăm khi tiếp xúc với khách hoặc khi ra đường đều đội khăn để che kín tóc, nhưng không phải mang mạng che mặt như phụ nữ Hồi giáo ở Trung Đông.

Nhà ở của người Việt Nam Bộ có ba loại chính: nhà đất cất dọc theo ven lộ, nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước. Nhà nổi trên sông nước là nơi cư trú đồng thời là phương tiện mưu sinh của những gia đình theo nghề nuôi cá bè, vận chuyển đường sông, buôn bán ở các chợ nổi, bán sỉ và bán lẻ trên sông.

Người Khmer trước đây đều ở nhà sàn, nhưng ngày nay phần nhiều đã chuyển thành nhà đất, nhà sàn chỉ còn phổ biến ở những khu vực gần biên giới. Nhà ở của họ ngày nay về hình dáng, vật liệu kiến trúc cũng gần giống với nhà của người Việt và người Hoa. Nếu sống trên đất cao thì người Khmer thường làm nhà đất, còn ở nơi đất thấp họ phải cất nhà sàn, nhỏ nhưng nóc cao, mái rất dốc và thường được lợp bằng lá dừa nước, ở các vùng gần biên giới thì dùng lá dừa chằm để lợp.

Người Chăm Nam Bộ trước đây cũng ở nhà sàn, nhưng ngày nay phần nhiều cũng đã chuyển thành nhà đất. Ở miền Đông, người Stiêng vẫn còn sử dụng nhà sàn dài, phù hợp với chế độ đại gia đình phụ hệ, nhưng người Chrau thì phần nhiều cũng đã chuyển nhà sàn thành nhà đất như người Việt.

Để đi lại, vận chuyển, các tộc người cư trú nơi đây đều phải lựa chọn những phương tiện phù hợp với các địa hình đặc trưng của không gian Nam Bộ. Ở trên đất liền thì các cư dân Nam Bộ dùng xe bò, xe ngựa, xe đạp, xe thồ, xe tải... Ở vùng sông nước thì dùng xuồng, ghe, tắc ráng, vỏ lãi, tàu, bè, bắc (phà), cộ... Ở miền Tây sông nước, xuồng ghe có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là phương tiện vận chuyển tiện dụng cho tất cả mọi người, vừa là phương tiện mưu sinh và phương tiện cư trú của một số lớn cư dân làm nghề đò ngang, đò dọc, buôn bán và nuôi cá trên sông. Hình ảnh dòng sông, con đò vì vậy đã phổ biến đến mức trở thành một hình tượng văn học, một biểu tượng của không gian Nam Bộ. Trong thời Pháp thuộc, khi giao thông đường bộ bước đầu phát triển, người Nam Bộ đã gọi các chuyến xe khách liên tỉnh, liên vùng là xe đò. Nói chung, cho đến nay ở miền Tây giao thông đường thuỷ vẫn rất thông dụng và thuận lợi, mặc dù giao thông đường bộ đã được cải thiện nhiều.

Giao lưu, tiếp biến văn hoá
Không gian văn hoá Nam Bộ là phần mở rộng của không gian văn hoá Việt Nam trên một vùng đất mới mà ở đó, chung tay khai phá với người Việt còn có các tộc người bản địa và các tộc người di dân. Vì vậy, trên vùng đất này, ngay từ đầu văn hoá của cư dân Việt, mà trong đó đã có sẵn yếu tố Chăm, đã giao lưu mật thiết với văn hoá của các cư dân Khmer, Hoa... Trong thời cận đại và hiện đại, trong suốt một thời gian dài vùng đất này lại chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp rồi tiếp đó là văn hoá Mỹ. Và từ năm 1975, nơi đây cũng trở thành một địa bàn biến động mạnh mẽ về thành phần tộc người không kém Tây Nguyên. Vì vậy, Nam Bộ cũng là một vùng đất mà giao lưu, tiếp biến văn hoá đã và đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Hệ quả là hầu như không có hiện tượng văn hoá nào ở nơi đây còn nguyên chất thuần Việt mà luôn có bóng dáng của những nền văn hoá khác, đã hội tụ nơi đây trong hơn ba thế kỷ qua. Cho nên, có thể nói, giao thoa văn hoá chính là một trong những bản sắc của văn hoá Nam Bộ. Nó khiến cho văn hoá Nam Bộ vừa tương đồng, lại vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hoá Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là văn hoá Nam Bộ chỉ là con số cộng các luồng văn hoá đã hội tụ nơi đây. Trong quá trình giao thoa văn hoá, cư dân Việt nơi đây đã không tiếp thu trọn gói các nền văn hoá khác mà chỉ những yếu tố đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần để bổ sung vào hành trang văn hoá mang theo. Vì vậy, văn hoá Việt nơi đây không tự đánh mất mình mà chỉ tái tạo các giá trị văn hoá mà vùng đất này thu nạp được theo hướng làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của người Việt trên vùng đất mới. Có thể nói, sự tái tạo các giá trị văn hoá đó cũng là một bản sắc của văn hoá nơi đây.

Bên cạnh sự tiếp biến văn hoá, văn hoá Nam Bộ còn mang đặc trưng đồng bằng sông nước. Hai đặc trưng văn hoá chủ đạo này của vùng đất Nam Bộ đã buộc tất cả các nền văn hoá sinh tụ nơi đây đều phải tự cấu trúc lại, lược bỏ những giá trị không còn phù hợp với môi trường mới, phát triển hoặc sáng tạo những giá trị mới giúp con người có thể tồn tại và phát triển trên một vùng đồng bằng sông nước, đan xen những tộc người khác biệt nhau về văn hoá. Vì vậy, uyển chuyển, linh động, phóng khoáng, bao dung, dần dà đã trở thành bản sắc thứ ba của văn hoá Việt ở Nam Bộ và văn hoá Nam Bộ nói chung.

Tục cúng ghe ở miền Tây sông nước

Xuồng, ghe gắn chặt và rất thân thiết với đời sống cư dân Miền Tây do địa hình sông rạch đan xen. Những người buôn bán trên ghe duy trì tục lệ cúng ghe theo tập quán lưu truyền từ ngàn xưa với sự tin tưởng có một đấng thiêng liêng luôn chở che cho họ buôn may bán đắt, không gặp tai nạn trên sông biển, kênh rạch.

Đại đa số ghe buôn, ghe hàng đều thờ "Bà Cậu" trên ghe và tổ chức cúng ghe vào các ngày 16 và 29 âm lịch mỗi tháng. Về lễ vật, nếu các phương tiện vận tải trên bộ thường cúng gà (tượng trưng cho hoạt động chạy nhảy mau mắn) thì cúng ghe phải cúng vịt (tượng trưng cho sự bơi lội, di chuyển thuận lợi trên sông). Mâm cúng gồm vịt luộc với ba chén cháo, một bình trà, một bình rượu và bánh ngọt, có nơi cúng thêm đầu heo tùy theo kinh tế gia đình. Mâm cúng đặt trước mũi ghe, khi bắt đầu cúng, chủ ghe đốt nhang cầu nguyện việc mua bán, may mắn, sức khỏe...

Về hình tượng "Bà Cậu" có nhiều giả thuyết nhưng đa số chủ nghe thường truyền tụng đó là một bà già và hai người con trai chuyên cứu giúp người trên sông nước khi gặp nạn. Để tỏ lòng tri ân, các bạn hàng xưa tổ chức cúng vái cầu nguyện Bà và hai cậu con trai phò hộ, giúp đỡ. Hình tượng "Bà Cậu" còn được người đi ghe xuồng đem ra cảnh báo trừng phạt đối với những hành vi, lời nói sai trái, không trung thực.

Có những "điềm báo" chẳng biết dựa trên nền tảng tâm linh nào, chẳng hạn việc mua bán sẽ thành đạt nếu trong khi di chuyển bắt gặp chó lội ngang sông và ở trước mũi ghe hoặc ban đêm trong khoang ghe xuất hiện đom đóm; việc mua bán sẽ khó khăn khi gặp rắn hay ngỗng lội ngang...

Tục cúng ghe ở Miền Tây khá phong phú, mặt khác lại có một số nét tương đồng. Để chuẩn bị đóng ghe mới, bao giờ chủ nhà cũng cúng vái miếng ván gỗ đầu tiên, gọi là tục cúng "gim lô". Trên đó là mâm đồ cúng tương tự mâm cúng hàng tháng của chủ ghe nhưng có kèm theo một tấm vải đỏ tượng trưng cho sự may mắn. Miếng ván gỗ "gim lô" phải dày hơn các miếng gỗ tiếp theo. Sau khi hoàn thành chiếc ghe, chủ nhà phải thu hồi các cây đinh đã đóng trên miếng "gim lô", thợ đóng ghe phải "xảm" vào đó các cọc gỗ khác tương ứng. Tục truyền rằng nếu mất mấy cây đinh ấy thì sẽ bị nhiều điều xui xẻo.

Khi kéo ghe lên bờ để sửa chữa hoặc đại tu, người dân cúng "lên nề", nghi thức cũng tương tự lễ nghi cúng hàng tháng.

Cúng ghe để xuất hành buôn bán đầu năm, chủ ghe phải chọn ngày. Nếu đã chọn được ngày tốt nhưng vì một nguyên nhân nào đó chưa xuất hành được thì bày lễ vật trên bờ, sau đó cho ghe chạy qua chạy lại nơi đặt mâm cúng ba lần, rồi xuất hành ngày nào thì tùy ý.

Sau nghi thức cúng ghe, chủ nghe mời các ghe đậu lân cận sang uống rựơu, đờn ca tài tử, bàn bạc chuyện buôn bán làm ăn cho chuyến đi tới.

Tục cúng ghe ở đồng bằng sông Cửu Long được xem là một tập tục văn hóa tâm linh, gắn chặt trong đời sống dân gian truyền thống đã vài trăm năm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: