Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

thuyet duong 6-10

Hồi 6 Nam Dương ải, Cầm Hổ thị uy thua điệt tướng Trương Bình Cương, Thành Đô cậy sức tránh mã nô

Đây nói, Hàn Cầm Hổ cử đại binh nhằm thẳng Nam Dương kéo đến, quân đi như sương gió phủ tuyết bay, hằng hà sa số, động đất long trời. Hổ sai Mã Thúc Mưu đi trước, còn tự mình đi sau, là vì Hổ vốn có tình bạn thân với cha Vân Thiệu, có ý để Thiệu thấy Mưu đến thì trốn đi nơi khác.

Mã Thúc Mưu được tiên phong, không nghiêm quân lệnh để cho quân tự do vào các làng hãm hiếp đàn bà con gái, nhân dân ta oán lắm.

Mưu kéo quân đến ải Kỳ Lân, biết tướng trấn ải đó là Tư Mã Siêu và ngẩng lên thấy lá cờ tang rất lớn viết một dòng chữ bằng máu ngựa :

"Trung Hiếu vương dữ phụ báo cừu".

Thúc Mưu nổi giận sai hạ trại, chờ trung quân của Hàn Cầm Hổ đến. Mưu nói :

- Ngữ Vân Thiệu đã tỏ ý đánh lại triều đình rồi đó. Xin Nguyên soái quyết đánh cho để trừ đại họa.

Hàn Cầm Hổ thấy bạn phản lại triều đình tức thì nổi giận, sai tiên phong là Lôi Minh đem quân đến cửa ải khiêu chiến. Lôi Minh lên ngựa đến cửa ải sai quân phá. Trong ải thấy giặc đến, nổi pháo hiệu. Tư Mã Siêu mặc giáp vàng, cời ngựa đỏ, mở cửa thành xông ra. Hai bên xưng tên tuổi rồi trống đánh quân reo, cùng giáp chiến. Mã Siêu huy động ngọn đại đao như giao long cuốn nước hổ dữ vờn trăng, khiến ngọn thương của Lôi Minh mấy lần suýt gẫy. Lôi Minh toan ù té chạy, Mã Siêu đã phóng mạnh lưỡi đao như tia chớp tiện ngang mình Lôi Minh thành hai mảnh, gan ruột lòi ra rất thảm.

Tàn binh chạy về báo với Hàn Cầm Hổ. Hổ gầm lên :

- Tiền quân mới ra binh đã mất tướng, ai ra trả thù này.

Chánh tiên phong là Mã Thúc Mưu xin ra trận. Tư Mã Siêu lên ngựa cự địch. Hai bên đại chiến cát chạy đá bay, hơn năm mươi hiệp mà hai ngựa không nhường. Mã Thúc Mưu giận lắm, nghĩ thầm :

- Ta là chánh tiên phong mà không lập được công đầu tất Hàn nguyên soái coi thường, quân sĩ không kinh sợ. Chi bằng phải dùng kế giết tên này mới xong.

Nghĩ vậy, phóng vờ một mũi thương, quay ngựa chạy. Tư Mã Siêu phi ngựa đuổi liền, Thúc Mưu mừng rỡ quay người ném mạnh mũi phi tiêu vừa rút ra, tưởng thế nào cũng bách phát bách trúng như mọi khi, ngờ đâu Siêu chỉ né mình giơ cán đao gạt ngọn phi tiêu rơi xuống đất rồi hồi đao toan sả dọc Thúc Mưu thành hai miếng suốt từ đầu xuống yên ngựa, nhưng số Mưu chưa tận số nên con ngựa của hắn bị vấp vào tảng đá ngã chúi đi, làm Mưu ngã bắn ra xa năm thước. Các tướng Tùy cướp được Thúc Mưu đem về trại Mưu về trại xấu hổ, sụp lạy xin chịu tội, Hàn Cầm Hổ không trách phạt, nói :

- Ngày mai bản soái ra trận xem chúng sức lực ra sao.

Sớm hôm sau, Hổ ra trận, đứng rất uy nghi dưới lá cờ đại súy bay phất phới. Mã Siêu thúc ngựa tới né mình một bên xá một xá mà rằng :

- Thưa Nguyên soái, chúng tôi có tội gì mà triều đình cử đại binh đến thế này? Chúng tôi mặc giáp không xuống làm lễ được, xin Nguyên soái lượng thứ cho.

Tư Mã Siêu sở dĩ giữ lễ với Hàn Cẩm Hổ như thế là vì trước kia Mã Siêu đã ở dưới trướng Hổ, biết Hổ là tay anh hùng tiếng tăm vang động, thuở bé mới mười ba tuổi đã cầm quân đánh tan mười vạn giặc Phiên, lớn lên làm đại tướng đánh Đông dẹp Bắc, nay bảy mươi tuổi mà muôn người khó địch.

Hổ thấy Siêu giữ lễ cũng ôn tồn nói :

- Ta muốn nói một câu, tướng quân có nghe không?

Siêu nói :

- Tiểu tướng xin rửa tai nghe lời vàng tiếng ngọc.

Hổ nói :

- Nay ta đem sáu mươi vạn hùng binh, mãnh tướng nghìn tên, lương thực ba năm không hết, hậu đội lại có Vô địch anh hùng Võ Văn Thành Đô sắp tới, sức mạnh như thác đổ núi phải tan, thành phải vỡ, tướng quân chẳng qua sức có chừng mà Vân Thiệu lực cũng có hạn mà thôi, trứng chọi sao với đá. Vậy nên bảo nhau sớm liệu cho toàn tính mệnh tướng quân nghĩ thế nào?

Thực tình thì Hàn Cầm Hổ vẫn nghĩ tình bạn hũu với cha Vân Thiệu nên nói bóng gió xui Mã Siêu về bảo Thiệu tròn đi. Nhưng Siêu không hiểu, nghe xong liền trừng mắt, cho là Hổ đã già nua không còn khác như xưa nữa. Siêu nói :

- Nguyên soái có lòng tốt, xin đa tạ nhưng tiểu tướng làm tiên phong giữ ải này, thấy giặc đến thì giết, chứ thật không dám biết gì khác cả.

Nói rồi, múa đại đao chém luôn. Cầm Hổ nổi giận nói :

- Thất phu không hiểu ý ta, dám vô lễ. Đã vậy, thì số mày hết mất rồi.

Đoạn múa đao địch lại. Siêu dẫu vũ dũng phi thường nhưng địch sao được lão tướng bách chiến bách thắng kia. Hổ đã dùng miếng độc thủ chém Siêu thành hai đoạn thật dễ dàng như chém một con gà.

Quân Siêu vỡ chạy. Hổ đứng dưới cờ vẫy ba quân vào chiếm lấy thành trong chớp mắt. Kiểm soát kho tàng và chiêu dụ dân chúng xong, Hàn Cầm Hổ cho binh mã nghỉ ba ngày, rồi kéo đại quân đến Nam Dương cách ngoài mười dặm.

Thám tử của Ngữ Vân Thiệu được tin ải Kỳ Lân đã vỡ, Mã Siêu đã chết bởi tay Cẩm Hổ, vội phi ngựa về báo, Vân Thiệu thương xót Mã Siêu ứa nước mắt ra. Đoạn thân đi kiểm điểm tướng sĩ, sẵn sàng chờ nghênh chiến. Ngay lúc đó Tiểu Phương đã áp tải mười vạn hộc lương thực trở về. Vân Thiệu mừng lắm, tự rót rượu ban khen Tiểu Phương. Phương vải tạ uống rượu thưởng rồi lui ra.

Bên kia, Hàn Cầm Hổ lên quân trướng hỏi rằng :

- Tướng nào ra bắt giặc trước lập công?

Tổng binh ải Dĩ Thủy là Hà Luận bước ra xin ra trận. Cầm Hổ dặn :

- Tướng quân phải đề phòng chớ nên khinh địch mà nguy đó.

Hà Luận nói :

- Tiểu tướng không bắt được Vân Thiệu thề không về dinh nữa.

Lập tức cầm búa nhảy phắt lên mình ngựa, xông ra gọi Vân Thiệu mà sỉ mắng.

Vân Thiệu cả giận múa tít ngọn thương đánh Hà Luận. Luận cũng giơ búa đón đánh rất hăng hái nhưng càng đánh càng thấy ngọn thương của Vân Thiệu quả là thần kinh quỷ khiếp, sinh ra hoảng hốt. Chẳng ngờ Vân Thiệu giật ngựa nhảy sát vào dùng đốc thương đánh Hà Luận tan sọ ra mà chết.

Quân tướng Tùy xúm lại đánh Thiệu để cướp xác Hà Luận, bị Thiệu quay thương như tuyết rụng hoa rơi đánh cho tan rã ôm đầu chạy hết, để lại máu chảy muôn dòng xác nằm ngang ngổn như gò đống. Quân Vân Thiệu dẫm lên xác máu mà kéo cờ đắc thắng vào thành.

Hàn Cầm Hổ kinh ngạc, điểm mất ba ngàn quân, chết hơn mười đại tướng. Khí giới tổn hại rất nhiều. Hổ gầm lên :

- Mai bản soái ra trận rửa cái thù này cho quân tướng.

Hôm sau, Hổ đang nai nịt trụ giáp, Thúc Mưu bước vào xin ra đánh cam đoan đánh bắt được Vân Thiệu mới nghe.

Hổ cho ra đánh nhưng dặn cẩn thận. Thúc Mưu vâng lệnh ra điểm bố mãnh tướng đem ba ngàn binh mã đến đồi Trường Bình Cương mai phục hai bên tả hữu lại sai bốn tướng nữa đem ba nghìn quân mai phục cánh thành phía Nam ba dặm và dặn kỹ :

- Hễ ta nhử được Vân Thiệu đến rồi thì tên nỏ bắn ra. Nếu hắn không mắc mưu thì hai bên cứ ập ra mà chém giết không cho nó chạy vào thành. Ta đã trót cam đoan với quan Nguyên soái là sẽ thắng, vậy các ngươi nên tận lực giúp ta để lấy công to.

Các tướng tâm phúc vâng lời đem binh mã đi mai phục.

Thúc Mưu đem quân đến cửa thành khiêu chiến. Vân Thiệu chẳng nói năng gì rồi múa đao chém Thúc Mưu. Mưu chỉ đủ sức cầm cự được mười hợp đã mắt hoa tay nhức không sao đỡ được ngọn đại đao ghê gớm ấy. Mưu luống cuống kêu to :

- Các tướng mau ra ứng chiến.

Gọi rồi Mưu lẩn vào đám quân mà chạy. Bốn tướng theo lời Mưu dặn trước xông ra đánh. Vân Thiệu coi bốn tướng như con muỗi cỏ, chỉ một lát hai tướng về địa phủ. Hai tướng kia toan chạy, Thiệu tuốt hồng kiếm hoa lên, ánh thép vừa loè chớp hai đầu rơi xuống như lá rụng. Vân Thiệu tìm Thúc Mưu đuổi đến đồi Bình Cương, nghe một tiếng pháo nổ vang trời, bốn tướng dẫn quân mai phục xông ra tên bắn như mưa.

Vân Thiệu cả cười múa tít ngọn đao, tên rơi tua tủa xuống đất. Vừa gạt tên vừa quay dao chém ba nhát ba tướng rủ nhau xuống suối vàng.

Một tướng ôm đầu chạy. Vân Thiệu với tay nắm được dây lưng, ném bổng lên trời, đến khi rơi xuống đất thì óc phòi ra, xương tan thịt nát!

Quân Tùy càng thêm dày đặt, Hàn Cầm Hổ lại sai hai dũng tướng là Tổng binh Tào châu Ngô Liệt, và Tổng binh Tào châu là Ngô Minh đem năm ngàn binh mã vây kín Thiệu vào giữa Lại thêm hai tướng của Thúc Mưu ở phía Đông cũng đem binh tới. Bốn bề tướng binh Tùy chiêng trống vang trời dậy đất, ồ ạt kéo đến như bão táp. Thiệu thân đơn mã chiếc, vẫn điềm nhiên múa tít ngọn đao, ngựa đến đâu đầu rơi đến đấy. Ngô Liệt bị rơi đầu, Ngô Minh toan chạy bị đao sả chết cả người lẫn ngựa. Hai tướng của Mưu thấy hai tổng binh bỏ mạng, không còn hồn vía. Đang luống cuống lại bị Thiệu dùng đốc đao đánh chết một còn mũi đao lia nhẹ, đầu tướng kia cũng rơi theo nốt. Bốn tướng mai phục phía Tây toan chạy nhưng ngựa vướng muôn quân, đang lúng túng thì ánh đao sáng loáng đã vèo vèo bay tới. Chúng trông thấy Thiệu mình đẫm máu, dữ tợn tựa thiên thần thì không còn hồn vía, trong chớp mắt đã cùng rủ nhau theo tiên tổ hết. Thế là một trận giao tranh, mười hai dũng tướng đã gửi đầu nơi lưỡi đao thẩn họ Ngữ! Duy có Thúc Mưu, như con chuột nhắt đã bỏ ngựa, lẩn vào muôn quân trốn lủi. Nghe nói Vân Thiệu đã chém tướng giết quân như phạt cỏ, Mưu sợ quá cởi giáp, vất mũ, tháo giầy mà chạy. Lát sau, ngơ ngác như chim lọt lưới như cá thoát câu, lảo đảo, nhợt nhạt chạy về đại dinh, sụp xuống lạy xin chịu tội, chân tay run lập cập.

Hàn nguyên soái cả giận quát :

- Ngươi nhất định xin ra đánh, trận trước đã thua Mã Siêu trận này lại mất mười hai tướng, thiệt bốn vạn quân, cái tội làm mất nhuệ khí của đại binh Tùy, quyết không tha chết.

Liền thét đao phủ lôi Mưu ra. Mưu cuống quít van xin. Có quan tham mưu là Bảo Vật bước lên cố nói giúp xin cho Mưu được sống để đái tội lập công.

Bảo Vật nằn nỉ mãi, Thúc Mưu van lạy đã hết lời, Cầm Hổ mới bằng lòng tha, nhưng lột chức, đánh bốn mươi roi, sau ra hậu dinh làm lính thổi cơm, chăn ngựa.

Hôm sau Cầm Hổ nhất quyết thân chinh ra trận. Thám tử về báo, Vân Thiệu sai mở cửa thành đem quân ra dàn thành trận thế.

Hàn Cầm Hổ ngồi trên yên ngựa, tiến ra, Vân Thiệu cúi rạp mình vái mà rằng :

- Tiểu diệt mình mặc nhung trang không quỳ lạy được, xin lão bá thứ cho.

Cầm Hổ vuốt râu nói :

- Hiền diệt sao không nhớ cha ông đều ăn lộc triều đình, sao dám kéo cờ "Trung Hiếu vương" để tỏ lòng bội phản, nay lão phu vâng thánh chỉ đi đánh tuy có thiệt ít nhiều quân tướng, nhưng dưới trướng ta binh mã như rừng, sức ngươi địch làm sao được mãi. Chi bằng hàng đi, ta sẽ xin Thánh thượng xá tội cho, ý hiền diệt nghĩ sao?

Thiệu nói :

- Thân phụ tôi hết lòng vì chúa, không có tội lỗi gì cái đó lão bá ở trong triều tất rõ vậy mà nỡ giết đi lại sát hại toàn gia, bây giờ lại đem binh đến hỏi tội tôi, thưa lão bá đó là tội gì xin cho biết? Nếu hỏi tội thì xin lão bá đem quân về mà hỏi tội kẻ giết cha giết anh, loạn dâm, vô đạo. Kẻ có tội đầy trời ngập đất thì ngồi yên trên ngôi cao quý hưởng thú vui tửu sắc, để chỉ tay sai lão bá đem thân già nua trải bao sương tuyết đi hỏi tội người vô tội thì lạ thật. Lão bá đã đầu râu tóc bạc, há lại khom lưng uốn gối thờ một đứa trẻ con hung bạo, thật phí cái danh nghĩa của lão bá đã vang lừng bốn bể, như thế chẳng là hữu dõng vô mưu như kẻ thất phu sao! Lão bá nên quay binh về giết hôn quân, trừ gian nịnh, dựng lại nghiệp để cho hợp lòng trời, thuận lòng dân. Lão bá nên nghĩ lời tiểu điệt mà xá tội cho.

Hàn Cầm Hổ nghe tuy có lý, song ở cái thế phải đánh chứ không lui được, bèn quát lớn :

- Thằng này nói năng vô lễ, ta quyết lấy máu mày.

Nói đoạn giơ đao chém, Vân Thiệu đỡ, lui ngựa lại ba bước mà rằng :

- Xin lão bá nghĩ lại cái chết oan khuất của thân phụ cháu.

Cầm Hổ lại tiến lên giơ đao chém.

Thiệu lại cầm thương đỡ, lại lui ngựa kêu to :

- Thân phụ cháu là bạn đồng liêu với lão bá, cháu là đạo con cháu xin lùi bước nhường hai đao rồi đó. Lão bá xét lại cho.

Cầm Hổ lại tiến, giơ đao chém. Thiệu lại lùi ngựa nói :

- Cháu xin nhường lão bá ba đao. Lão bá xét lại cho.

Hổ múa đao chém nữa. Thiệu bèn dùng hết thẩn uy múa thương đánh lại. Một trẻ, một già, đao thương xoang xoảng, thật là một trận ác chiến, thần kinh quỷ khiếp.

Cầm Hổ khen thầm :

- Thật là cha hùm, con cọp. Cháu ta giỏi lắm, lão già này xin chịu thua rồi!

Liền thúc ngựa chạy. Đến chỗ vắng, thấy có một mình Vân Thiệu đuổi theo, Hổ dừng ngựa nghiêm mặt nói :

- Cháu ơi, lão già này sao lại không đau lòng vì lời cháu nói vừa rồi, sao lại không thương cha con cháu, nhưng trong triều gian nịnh như ruồi nhặng, mà xem ra khí số nhà Tùy đã suy nhược lắm rồi, nay mai chân chúa sẽ thay ngôi, khi đó cháu trả thù cha cũng còn chưa muộn. Cháu đang là một thiếu niên anh hùng lo gì chẳng có ngày rửa oán. Nay kéo cờ làm phản, e cháu làm nhơ dòng họ Ngữ vốn trung lương, hậu quân là Võ Vặn Thành Đô sức địch muôn người, cháu tuy giỏi lắm nhưng rồi cũng nguy vì hắn. Chi bằng hãy bỏ Nam Dương đi nơi khác là hơn, cháu nghĩ sao?

Thiệu đáp :

- Lão bá dạy cháu xin nghe, nhưng dù Võ Văn Thành Đô có là thần tướng cháu cũng không sợ hãi. Xin mời lão bá trở về an nghỉ.

Cầm Hổ bèn thúc ngựa phi về, khẽ nói :

- Cháu cứ đuổi theo kẻo ba quân ngờ vục đó.

Thiệu đuổi đến cửa núi, các tướng Tùy xô ra cản lại. Thiệu không đuổi nữa, rẽ vào thành, đóng cửa. Phu nhân thấy chồng thắng trận về bèn rót rượu mời.

Đây nói về Võ Văn Thành Đô đem hậu quân và lương thực gần tới, vào yết kiến Cầm Hổ nguyên soái, hỏi việc quân thắng bại ra sao. Hổ thuật lại hai trận bại của binh Tùy, Đô tức giận, mắt tròn, râu dựng ngược đập tay xuống đùi nói như hổ rống :

- Ngày mai xin cho Đô này ra xé xác thằng Thiệu để rửa thù cho chúng tướng đã thác oan.

Nguyên do Võ Văn Thành Đô là vì sao Lôi âm phổ hóa thiên tôn trên trời giáng xuống, ngươi ta xếp là anh hùng thứ hai đời ấy.

Có một hôm phò giá Văn Đế lên chùa Cam Lộ dâng hương, Văn Đế thấy cái đỉnh từ thời Tần Thủy Hoàng, đỉnh cao một trương, lớn chừng hai ôm, có chữ khắc: nặng sáu ngàn cân. Văn Đế nói :

- Ta nghe đồn Đô tướng quân có sức anh hùng vô địch, thử nhấc đỉnh này xem.

Đô vâng lời, chạy xuống sân, cởi áo, nắm lấy hai chân đỉnh, rún mình một cái nhấc bổng ngay đỉnh lên giơ ngang đầu, đi ba vòng quanh cây đại hòe rồi quay về chỗ cũ, nhẹ nhàng đặt đỉnh xuống, nét mặt cứ như thường.

Mọi người trông thấy sợ toát mồ hôi. Văn Đế bước xuống, khoác áo lên lưng Đô, hết lời khen ngợi. Rồi phong cho làm Vô địch đại tướng quân.

Hôm sau, Ngữ Vân Thiệu nghe tin Đô đến, cũng có ý lo ngại, nghĩ thầm :

- Đô khỏe lắm ta khó mà địch nổi, phải phòng giữ cho cẩn mật, kẻo hắn phá thành thì nguy lắm.

Đoạn sai Ngữ Bảo đem quân vào rừng đẵn nhiều cây để xếp trên mặt thành ngăn giữ. Lại sai Tiêu Phương đem ba ngàn binh mã canh giữ điếu kiều sẵn sàng giương cung tên mà bắn xuống.

Đô đã đến gầm thét ngoài thành. Thiệu mặc giáp lên yên phi ngựa ra, Đô không nói năng gì, vỗ đầu ngựa Ô truy múa ngọn lưu kim đang nặng ngàn cản đánh Thiệu. Thiệu giơ thương đỡ. Lửa loé ra, ngựa lùi bật lại. Đô lại đánh Thiệu lại đỡ ngọn thương hởi cong và cánh tay Thiệu đã tê đau. Tuy nhiên, Thiệu cũng cố sức bình sinh đánh chừng mười hiệp, liệu không địch nổi đành rẽ ngựa chạy. Đô đuổi gấp Thiệu lại quay thương đánh, chừng mười hiệp, ngọn thương của Thiệu quằn mấy đoạn, cổ khẩu gần như bi toạc rách ra, lại chạy. Đô đuổi sát sau lưng, rất là nguy cấp.

May sao, lúc đó Ngữ Bảo đang đốc thúc quân sĩ đẵn cây trên ải, thấy rõ ràng chủ tướng bại trận, lại đang lúc tay không, nhìn thấy cây táo bên cạnh, liền nhổ băng cả gốc rễ lên. Bảo ôm cả thân cây táo chạy xuống quát to :

- Chủ soái không ngại, đã có Ngũ Bảo đây. Nói rồi dùng hết sức bình sinh đánh cả cây táo vào mặt Thành Đô. Bất thình lình, Đô giơ vũ khí gạt ra. Hai người cùng dùng sức mạnh quá đến nỗi khỏe như Thành Đô mà cả người cả ngựa phải bật lùi trở lại. Đô gầm thét múa kim đang đánh. Bảo giơ cây đỡ, cây táo gãy làm hai. Vân Thiệu quay ngựa lại, té ra Ngư Bảo đang dùng cây giao chiến với Đô, liền giương cung nhằm giữa ngục Đô mà bắn. Đô bất ngờ bị một mũi tên vào như gió ngập vào cánh tay trái kêu to một tiếng "ối chao" rồi quay ngựa chạy. Ngữ Bảo toan vác cây đuổi theo, nhưng Vân Thiệu gọi lại. Bảo lại lên ải đẵn cây, Thiệu về thành. Tiêu Phương ra đón. Thiệu có dáng mệt nhọc, xuống ngựa nói rằng :

- Không có Ngữ Bảo nhổ cây táo cản Đô thì ta tất bị nguy.

Rồi đó, sai các tướng lo việt canh giữ đóng chặt bốn cửa, ngày đêm khuân đá, chất gỗ lên mặt thành lo Đô phá.

Cầm Hổ đang ngồi đợi Đô thắng trận về. Bỗng có tin báo :

- Vô địch tướng quân bị tên chạy về kìa.

Lại tiếp luôn tín nữa :

- Tổng binh ải Lâm Đồng là Thượng Tư Đồ và tổng binh ải Hồng Nê là Tần Văn Lễ đã đem binh đến tiếp ứng.

Cẩm Hổ sai mời tất cả vào. Mọi người đang làm lễ tương kiến.

Thượng Tư Đồ, Tần Văn Lễ, thấy khỏe đến như Thành Đô mà còn bị thương thì kinh hãi. Đô vừa vạch giáp, tự nhổ tên, vừa cười :

- Nguyên soái và các tướng cứ an tâm. Đô này xin phá thành bắt Thiệu.

Cầm Hổ sai Thượng Tư Đồ đem binh mã vây phía cửa Nam, Tần Văn Lễ phá cửa Bắc, Đô đánh cửa Tây, còn mình thì phá cửa Đông.

Vân Thiệu nghe tin đó, vội cưỡi ngựa đem quân đi tuần tiễu, đốc thúc tướng sĩ lăn gỗ, ném đá, bắn tên thuốc độc xuống như mưa.

Quân ngoài thành chết lăn như rạ. Đô phải lui quân ba dặm, tức giận lồng lên như cọp dữ.

Hồi 7 Vỡ Nam Dương, Ngữ phu nhân tự ải từ phu tướng Cứu ân công, Trại Châu Sương xuống núi đánh Tư Đồ

Thấy binh Tùy đã lui, Thiệu mới hơi an tâm, suốt đêm ngày bỏ ăn bỏ ngủ lên trên mặt thành tuần tiễu. Khi đó tuyết xuống mịt mù. Thiệu nghiến răng chịu rét, phủ dụ khuyên dỗ ba quân cố tỉnh táo giữ thành. Tối đến, dưới trại Tùy san sát như bát úp trùng trùng điệp điệp, đèn sáng lờ mờ trong mưa tuyết. Tiêu Phương lúc nào cũng cắp gươm đi sau Thiệu, thấy Thiệu lo lắng thở dài thì nói :

- Chủ soái nghĩ xem có phải đi cầu viện binh ở đâu chăng? Chúng vây mãi tất quân ta hết lương, chán nản, thành sẽ vỡ như không. Chủ soái mau định liệu.

Thiệu sực nhớ ra nói :

- Ta có người em họ tên là Ngữ Thiên Tích, sức khỏe ghê gớm, võ thuật cao cường lắm, hiện nay xưng Đại vương bên Đà La ở Hà Bắc.

Trên núi có hơn vạn lâu la. Nếu có người cam đoan đến đấy cầu cứu, may ra Tích đương được với sức dũng mãnh của Đô.

Tiêu Phương nói :

- Tiểu tướng xin đi.

Thiệu cả mừng, viết thư đưa Tiêu Phương Phương tạm biệt Vân Thiệu, lên ngựa phi về cửa bắc. Quân Tùy vây đánh, Phương nổi giận đùng đùng múa thương đâm luôn một lúc mấy trăm tên, chúng sợ hãi dãn cả ra. Chúng về báo tổng binh Tân Văn Lễ. Lễ xông ra thì Phương đã phá vỡ ba vòng vây phóng ngựa khá xa rồi, không đuổi nữa.

Phương đi suốt ngày đêm tới Hà Bắc, chưa biết La Đà sơn trại ở đâu. lúc ấy mặt trời đã lặn, mây lại che kín, tuyết xuống và gió rét căm căm, đoái trông bề rừng rậm non cao chẳng thấy nhà cửa đâu hết. Cứ thúc ngựa đi mãi, bỗng thấy một rặng núi cỏ cao, gió rít ầm ầm, chim kêu vượn hót, suối reo róc rách chợt đâu tiếng thanh la vang động rồi có tiếng nhạc reo. Tiêu Phương cả người cả ngựa rơi xuống hố. Lâu la cho móc sắc câu Tiễu Phương lên trói lại.

Chúng dắt ngựa vác thương, giải Tiêu Phương qua mấy quả núi, qua một bãi rộng làm trường luyện võ đến một dinh trại gươm giáo sáng loé.

Chúng dẫn Tiêu Phương vào Tụ nghĩa đường. Chính giữa có một cái ghế cao lót da hổ, dưới chân có chiếc án rải da báo để đặt chân.

Lâu la trói Tiêu Phương vào cái cột, bỗng nổi ba hồi trống, chúng xếp hàng hai bên. Một Đại vương bước lên ghế ngồi. Tên lâu la già ra quỳ bẩm :

- Hôm nay chúng tôi xuống núi bắt được con trâu mộng, xin lấy bộ tim gan để Đại vương xơi.

Tiêu Phương mở mắt ra thấy chúng cầm dao sáng loáng sắp kề vào bụng mình thì thở dài một tiếng kêu lên :

- Tiêu Phương nầy vì việc quân cơ mà chết ở đây thì thực uổng quá, chỉ ngại cho Ngữ nguyên soái ta bị chúng bao vây lương hết, quân nản, mà ngày đêm mỏi mắt chờ quân cứu viện, đau đơn biết bao nhiêu!

Đại vương lắng tai nghe thấy câu "Ngữ nguyên soái" thì vội hỏi :

- Nó nói gì thế bay?

Chúng đáp :

- Bẩm Đại vương, con trâu nó than thở đấy.

Đại vương bảo :

- Dẫn hắn lại đây, ta hỏi.

Chúng dẫn Phương đến trước mặt Đại vương. Hảo hán ấy nói rằng :

- Ngươi vừa than thở chi đó, nói cho ngay kẻo ta mổ bụng.

Phương đáp :

- Chủ soái chúng tôi là Ngữ Vân Thiệu trấn thủ Nam Dương. Hiện nay đại binh Tùy có Võ Văn Thành Đô uy dũng lắm đang vây khốn Nam Dương, nên Ngữ chủ soái sai tôi đến La Đà trại đưa thư cầu cứu ông hảo hán Ngữ Thiên Tích là em ruột. Người ấy có thể đối địch với Thành Đô. Nay tôi vào Đại vương, xin Đại vương tha cho tôi để đi cầu viện binh giải vây cho chủ soái tôi.

Hảo hán kia vùng đứng dậy, nhảy xuống đất hỏi to :

- Ngươi tên là gì đó?

Phương ngẩng lên nói :

- Tới là thống chế Tiêu Phương dưới trướng Ngũ nguyên soái.

Hảo hán vội mời Phong ngồi lên và nói :

- Tôi chính là Ngữ Thiên Tích, núi này chính là La Đà sơn, xin tướng quân miễn lỗi.

Đoạn sai lâu la dâng rượu. Rượu ba tuần, Tích hỏi :

- Anh tôi làm quan trấn thủ một lòng giữ cõi bờ cho chúa, cớ sao Võ Văn Thành Đô lại cử binh vây khốn, tướng quân cho tôi rõ.

Phong thuật hết việc Thái tử Dương Quảng giết Văn Đế, hại em là Dương Dũng lại chém Ngữ Kiến Trương, rồi trừ cỏ nhổ gốc, lại đề binh hòng giết Vân Thiệu cho tuyệt dòng họ Ngữ.

Tích nghe xong gầm lên ba tiếng rồi buông tiếng khóc. Phương an ủi hồi lâu. Tích đập bàn mà nói :

- Hôn quân vô đạo tru diệt cha mẹ anh em ta. Nay lại uy hiếp anh ta, ta thề không cùng nó đội một trời.

Phương sục nhớ phong thư, rút bọc lấy ra. Tích đọc xong, lại gầm như hổ dữ. Sớm hôm sau, Thiên Tích mặc đồ tang rong cờ trắng "Báo phục thù", điểm năm nghìn lâu la, còn một nửa để lại cho các đầu mục giữ sơn trại. Tích lên ngựa xích thố, cùng Phương đem quân xuống núi, ngày đêm đi một mạch tới núi Thái Hành sơn thì trời mưa tuyết, quân đói quá phải hạ trại nấu cơm.

Trên Thái Hành sơn, có Đại vương Hùng Khoát Hải. Hôm đó Hải đang ngồi trên đại sảnh, lòng mong nhớ nghĩa huynh, băn khoản nghĩ :

- Từ hôm từ biệt, Ngữ Vân Thiệu đại ca ta nói rằng trở về quan ải Nam Dương, sẽ viết biểu tâu lên triều đình chiêu dụ ta, nay chờ đợi đã mỏi mòn con mắt mà nào có thấy chi đâu. Đại ca ta là một bậc anh hùng có khi nào lại quên lời ước hẹn.

Khoát Hải càng nghĩ càng buồn bực, rượu say rồi dẫn lâu la xuống núi để săn bắn và ngóng chờ Vân Thiệu. Khoát Hải mãi theo đuổi hưu nai, cho mấy đầu mục đi tìm hành khách.

Khi ấy có một bọn lái buôn vàng bạc ở Kinh qua đường này. Chúng khôn ngoan bàn nhau trá hình làm hành khất, rách rưới lôi thôi, vừa đi vừa rên rỉ. Đi qua chân núi Thái Hành sơn, chúng ùa té chạy. Mấy đầu mục của Hùng Khoát Hải hò lâu la đuổi.

Chúng nhanh chân chạy qua mấy đợt lui, thấy trước mặt có dinh trại cắm bên dường, bèn chạy thọt vào, quỳ rạp vào dưới chân Ngữ Thiên Tích Đại vương mà van lạy xin che chở.

Thấy bọn lái buôn đúng là ăn mày, Tích cho chúng vào dinh và bảo quân si thổi cơm cho chúng ăn. Bọn đầu mục của Khoát Hải Đại vương đuổi đến nơi biết là là lái buôn đã trốn vào trại, thì lên tiếng quát tháo ầm ĩ :

- Bọn khốn kiếp nào dám hạ trại ở giang sơn chúng tao đây?

Lâu la của Thiên Tích cười mà đáp :

- Chúng mày không thấy lá cờ của Ngữ Thiên Tích Đại vương Đà La trại cắm trên cành cây kia à?

Bọn đầu mục nói :

- Chúng bay nghe ta nói thì hết vía Chúng ta là đầu mục của Đại vương Hùng Khoát Hải đây. Muốn sống thì trả bọn lái buôn, kẻo Đại vương ta đến thì thầy trò bay ra ma hết.

Ngay khi ấy, Ngữ Thiên Tích bước ra, nghe bọn đầu mục léo nhéo thì quát to một tiếng, đuổi đi. Bọn đầu mục thấy Đại vương của mình đã to lớn dữ dội mà Đại vương này có vẻ dũng mãnh hơn, liến xô nhau chạy. Chúng về hốt hoảng lên núi tìm Khoát Hải nói rằng :

- Chúng tôi đuổi một bọn lái buôn vàng chúng nấp vào trại của một Đại vương ở chân núi bên kia Đại vương ấy đánh đuổi chúng tôi và thách Đại vương đến thì hắn xé làm hai mảnh.

Khoát Hải nổi giận đùng đùng phi ngựa tới, gọi Tích ra mà rằng :

- Đại huynh nên nghĩ tình đồng đạo mà trả ta bọn lái vàng.

Tích nói :

- Chúng là một lũ ăn mày rách rưới, chạy đến xin cơm, có lẽ đại huynh say rượu trông gà hóa cáo đấy thôi.

Hải quát to :

- Nếu vậy thì ta không nể ngươi được nữa. Có giỏi hãy cùng ta tử chiến một phen nào!

Nói rồi múa đôi búa đánh. Tích cả cười giơ cây hỗn kim đang đỡ.

Hai hảo hán sức cùng ngang như đôi mãnh hổ, không ai nhường ai một bước, đánh nhau dự trăm hiệp vẫn không phân thắng bại. Cho tới lúc một trời đã lặn, mới chịu nghỉ tay, kẻ về trại người tên núi, và hẹn nhau quyết phân sống chết sớm mai.

Sớm mai, hai mãnh hổ Đãi Vương lại đánh nhau ba trăm hiệp. Lại chưa phân thắng bại.

Cứ thế không ai chịu thua ai. Ngữ Thiên Tích và Hùng Khoát Hải ngày nào cũng dàn trận thế đánh, thanh la và cồng khua vang rừng núi.

Ròng rã sáu ngày trời, Tiêu Phương can ngăn nói mãi, Ngữ Thiên Tích nhất định phải đánh bại Hùng Khoát Hải mới chịu nhổ trại cất quân.

Đây nói Ngữ Vân Thiệu ở Nam Dương ngày đêm mong ngóng Tiêu Phương đi cầu em mang quân đến cứu mà chẳng thấy vân mông. Ngày nào Vân Thiệu cũng lên thành nhìn ra khắp chân trời, chỉ thấy quân Tùy trùng điệp vây đánh thành phá cửa, bắn tên vào.

Chờ mong chán lại lui bước xuống vào dinh, buồn rầu lo lắng. Phu nhân hỏi :

- Viện quân không thấy đến, phu tướng nên tìm cách khác, kẻo thiếp e thành vỡ đến nơi rồi.

Thiện thở dài nói :

- Hiển thê ôi, ta còn ba điều ấy náy, có chết cũng không nhắm mắt.

Phu nhân gạn hỏi, Thiên ứa nước mắt đáp rằng :

- Điều thứ nhất là thù cha chưa báo. Điều thứ hai là hiền thê phận đàn bà yếu ớt sao ra khỏi vòng vây Điều thứ ba là con thơ trứng nước tránh sao được mũi tên hòn đạn của giặc đang dữ như lang sói.

Vừa dứt lời thấy pháo nổ vang trời, quân hốt hoảng vào trình :

- Võ Văn Thành Đô đã phá gần vỡ tây môn, xin chủ soái định liệu cho.

Thiệu biến sắc mặt, nắm tay vợ nói :

- Nguy biến đến nơi rồi, mau ẵm con lên ngựa, ta trốn đi phương khác sẽ tìm cách báo thù sau.

Phu nhân nắm lấy tay chồng khóc mà vào phòng riêng. Ngờ đâu, vào mãi chẳng thấy ra, Thiệu chỉ nghe tiếng ấu nhi gào khóc Thiệu vào ẵm con, còn đang ngơ ngác, nghe thấy tiếng quân sĩ kêu ở phía sau :

- Phu nhân tự ải rồi!

Thiệu hốt hoảng chạy vào, nhìn xuống giếng sâu thẳm thì thương ơi, đã châu chìm ngọc đắm! Thiệu ôm con khóc bên bờ giếng hồi lâu rồi tiện có bức tường bên giếng, Thiệu đẩy đổ xuống lấp kín giếng sâu, đoạn quỳ xuống khấn :

- Hiền thê ơi, sống lành chết thảm linh thiêng phù hộ cho ấu nhi thoát khỏi vòng vây để sau này gìn giữ họ Ngữ báo cái thù không đội trời này.

Khấn rồi chạy ra công đường. Các tướng sĩ chờ tướng lệnh. Vân Thiệu nói :

- Ngữ Bảo ra của tây đánh với Thành Đô.

Ngữ Bảo vâng lệnh cầm đôi búa ba trăm cân xông ra cửa tây đôi búa đến đâu quân sĩ chết đến đấy. Bảo chỉ có sức khỏe chứ không biết vũ nghệ cứ gặp người là bổ. Mấy vòng vây thấy Ngữ bảo khỏe vô địch, phải rẽ cả ra. Chợt có nhạc ngựa reo, Thành Đô đã đến. Bảo coi thường giơ búa đánh. Đô giơ lưu kim đang đỡ, sức hai bên cùng mạnh quá, làm bật cây búa lại đập vỡ sọ Bảo chết tươi.

Vân Thiệu cởi áo bọc ấu nhi đeo trước bụng, phi ngựa ra của nam, gặp Thông Tư Đồ. Đồ phóng thương đâm, Thiệu đối địch rất dũng mãnh Thương Tu Đồ không phải là địch thủ của Vân Thiệu, chịu thua bỏ chạy.

Thiệu không đuổi theo, chạy về phương nam, Thượng Tư Đồ quay lại đuổi để đánh nữa. Ngựa của Thiệu là giống ngựa tốt đi nghìn dặm nhưng long câu của Thượng Tư Đồ sức bay trên mặt đất như gió cuốn.

Đó là giống ngựa lạ thường. Mỗi khi Tư Đồ ra trận gặp nguy, hắn chỉ nhổ một chiếc ở cái chùm lông vàng như cước trên đầu tuấn mã tức thì nó gầm lên một tiếng long tròi, ngựa kẻ địch thủ phải chồm lên, rúm vó tướng trên yên phải ngã liền.

Ngoảnh thấy Tư Đồ đuổi theo ráo riết, Vân Thiệu phải dừng ngựa đánh, được ba hiệp, Tư Đồ luống cuống đuối sức, bèn nhổ một chiếc lông đầu ngựa, tuấn mã gầm lên, mũi thở ra khói đen tanh tưởi khiến ngựa Vân Thiệu hoảng sợ lùi trở lại, làm Vân Thiệu suýt ngã may chống được ngọn thương xuống đất.

Tư Đồ nhổ chiếc nữa, con ngựa lại gầm lên, phun hai luồng khói vào ngựa Thiệu. Con vật ngã lăn ra, co rúm vó, quật Thiệu ngã nhào xuống đất. Tư Đồ phóng thương đâm.

Thốt nhiên, một đại hán mắt to lồi, râu chổi sể bao quanh mặt, mặt vừa xanh vừa tím đội khăn xéo đỏ, mặc áo vàng sẫm, tay vác thanh long yến nguyệt đao xông đến gạt thương Tư Đồ hất bổng lên khiến ngọn thương suýt bắn đi. Thượng Tư Đồ ngẩng nhìn, giật bắn mình kêu :

- Ối chao, Châu Sương giáng thế!

Kêu rồi, quay ngựa chạy. Đại hán mặt đen vác đại đao đuổi, chân lướt trên mặt đường như gió. Vân Thiệu đã cùng ngựa đứng được lên, gọi lớn :

- Hảo hán đừng đuổi nữa.

Người ấy nghe lời, trở lại. Thiệu nghiêng mình xá :

- Nghĩa sĩ cho Vân Thiệu nầy biết đại danh.

Người ấy đáp :

- Chúng tôi họ Chu tên Sáng, ở phía nam thành này.

Cách đây năm năm, anh tôi bị tội bỏ ngục, lão gia thương mà cứu cho, ơn ấy còn ghi khắc. Ban nãy chúng tôi đẵn củi trên núi, thấy tướng công cùng Tư Đồ giao chiến muốn xuống bắt nó nhưng tay không, bèn vào đền thờ Quan Vân Trường mượn đại đao của Châu Sương xuống đánh.

Vân Thiệu nói :

- Đền thờ Quan Công ở đâu Nghĩa sĩ dẫn tôi lên...

Chu Sáng vâng lời dẫn Thiệu lên núi, Thiệu sụp lạy khấn rằng :

- Ngữ Vân Thiệu tôi bị hôn quân giết hại cả nhà, nay sang Hà Bắc mượn quân về đánh báo thù, ngài là bậc trung nghĩa đời Hán, xin phù hộ cho tôi được thành công sẽ xin tu sửa đền đài, truyền nối việc hương đăng sùng bái.

Khấn xong, Thiệu quay lại sụp lạy Chu Sáng nói :

- Nghĩa sĩ ơi, dòng họ Ngữ còn sót lại giọt máu này, nay trao gửi nghĩa sĩ nương náu rùng sâu núi thẳm cố nuôi cho, sau này ấu nhi được nên người thì ơn này dù sống chết Thiệu tôi không quên được. Ví bằng ấu nhi có mệnh hệ nào, đó là tại lòng trời định. Nghĩa sĩ thương tình cháu nhỏ mồ côi mà thương giúp.

Chu Sáng vội quỳ đáp lễ :

- Xin ân tướng cứ tin vào Sáng này.

Liền ẵm công tử, và hỏi nên đặt tên là chi để mai sau nhận biết.

Thiệu nói :

- Hôm nay ta gửi con ở đền này, nên đặt là Ngữ Đăng.

Chu Sáng trả đao Châu Sương, đoạn bế công tử ra khỏi miếu, cúi lạy Vân Thiệu, ân cần nói :

- Sau này còn gặp gỡ, xin ân công giữ lấy thân vàng ngọc để trả thù.

Vân Thiệu đứng ngẩn ra, nhìn theo người nghĩa sĩ ẵm ấu nhi đi khuất vào rừng rậm. Đoạn, lau nước mắt, lên yên phi xuống núi.

Đi chừng trăm dặm tới Thái Hành sơn, Thiệu đang đói khát có ý tìm hàng quân, bỗng nghe vang động tiếng cồng thanh la. Thúc ngựa tới chân núi thấy có binh mã đang đánh nhau, nhìn kỹ rồi la lớn :

- Sao lại thế này, anh em một nhà cả đó, không được đánh nhau như thế.

Hai Đại vương ngẩng lên, nhận ra Vân Thiệu, Thiên Tích gọi :

- Đại ca mau giúp em, đánh chết thằng tướng giặc này!

Hùng Khoát Hải cũng kêu to :

- Đại ca giúp em với không giết được thằng này thì tức lắm.

Thiệu xông vào giơ thương binh khí hai Đại vương ra, quát :

- Hai em ta lầm rồi, Mau xuống ngựa bái kiến nhau đi.

Hai Đại vương vội nhảy xuống đất vái nhau. Vân Thiệu giới thiệu Khoát Hải với Thiên Tích, kể lại chuyện Hải hai chân đá chết Hổ ngày nào vì vậy nên đã cùng nhau kết nghĩa. Hai người đều ôm nhau cả cười.

Ba người đem lâu la lên núi, vào Tụ Nghĩa sảnh ngồi. Ngữ Vân Thiệu thuật rõ chuyện phụ thân bị hại, cả nhà chết chém, thành trì tan vỡ, vợ tuẫn tiết, con thơ gửi nhờ Chu Sáng nuôi.

Tiêu Phương ứa nước mắt sụp lay mà rằng :

- Tiểu tướng vâng lệnh đi cầu cưu Ngữ nhị lang đây, chẳng may giữa đường có chuyện hai hảo hán tranh hùng nên chưa đem quân về phá vòng vây thì đã nên nông nổi ấy. Muôn tội ở như mạt tướng, thật là đáng chết.

Thiên Tích khốc rống lên rồi chỉ mặt Hùng Khoát Hải :

- Đáng lẽ ta đến cứu anh ta thì đâu đến nỗi vợ con anh ta tan tác, chỉ tại anh mặt đen này đòi lũ ăn mày kia mà bây giờ hối không còn kịp nữa.

Khoát Hải cãi :

- Sao đại huynh không nói là cần kíp đi giải vây Nam Dương, nếu tôi được biết thì cùng nhau đi cứu, nay oán tôi thì quá lắm.

Ngữ Vân Thiệu dàn hòa :

- Việc đã lỡ rồi, mọi sự do trời định hết Hai hiền đệ chớ cãi nhau vô ích.

Rượu đã bày. Ba người cùng nhau cạn chén. Thiệu ngậm đắng nuốt cay, luôn luôn cúi xuống thở dài. Khoát Hải cởi áo ngoài, dẫm chân mà nói :

- Thù này là thù chung của ba anh em ta. Ngày mai em cùng nhị lang Ngũ Thiên Tích đây giúp đại ca khởi binh chiếm Thành Đô.

Thiệu nói :

- Đa tạ nhiệt huyết của hiền đệ, nhưng phải xét lại rằng ta ở thành Nam Dương trong tay có mười vạn quân, trăm mãnh tướng mà còn thất bại. Mai ta sang Hà Bắc tìm người em con cô con cậu với ta là Lý Tử Thông mượn quân để báo thù. Lý Tử Thông chiếm giữ Hà Bắc đã từ lâu, bấy nay kéo riêng hiệu cờ không phục nhà Tùy một mình giữ ngôi vương tung hoành dọc ngang một cõi. Hắn giúp ta thì thù này lo gì không rửa được, nay hiền đệ cứ giữ sơn trại, chiêu quân luyện mã, mai kia ta kéo binh qua đây sẽ vời em xuống núi.

Khoát Hải buồn rầu hỏi :

- Đại ca đi như vậy biết bao giờ mới lại thấy mặt nhau?

Thiệu đáp :

- Sớm một năm, muộn cũng hai năm ta biết thế nào mà nói trước.

Sớm sau, Vân Thiệu, Thiên Tích và Tiêu Phương bái biệt Hùng Khoát Hải, cùng nhau xuống núi. Đến chiều tới La Đà trại, lên sơn trại ăn uống no say. Ở đấy một ngày, Vân Thiệu để Tiêu Phương và Thiên Tích ở lại đây chiêu binh tập mã, dự bị lương nhu, đoạn Vân Thiệu một mình cầm thương lên ngựa phi xuống núi, thẳng đường Hà Bắc mà rong ruổi.

Đây nói về Lý Tử Thông, trấn thủ Thọ Châu cai quản các miền Hà Bắc, có trăm vạn hùng binh, ngàn viên dũng tướng, dọc ngang ngót trăm quan ải. Tùy Văn Đế thấy Thông mạnh quá, sợ một ngày kia làm phản, phải lấy lòng phong chức Thọ Châu Vương. Tử Thông biết vậy tự xưng là Thiên tuế.

Ngữ Vân Thiệu đến nơi, xin vào triều kiến. Quân giữ ải vào quỳ bẩm :

- Có một tướng cưỡi ngựa cầm thương, nói là Nam Dương Hầu Ngữ Vân Thiệu xin vào yết kiến.

Lý Thiên Tuế cả mừng nói :

- Đó là biểu đệ của ta.

Bèn sai một quan văn ra đón Thiệu vào. Vào tới nơi, Thiệu sụp lạy nói :

- Dám bẩm Thiên tuế, mạt tướng là Nam Dương hầu vào triều kiến.

Lý Thiên tuế sai tả hữu nâng dậy mời ngồi, hỏi :

- Biểu đệ trấn thủ Nam Dương đến đây có việc chi?

Vân Thiệu ứa nước mắt thuật rõ việc thái tủ Quảng giết cha, hại anh, chém cả nhà mình, lại sai Thành Đô phá Nam Dương. Lý Thiên tuế cả giận đập án mà rằng :

- Hôn quân vô đạo, làm điều bất hiếu, lại tàn sát toàn gia em ta, ta sẽ cử binh báo cái thù ghê gớm đó.

Vân Thiệu siết bao mừng rỡ, lại sụp lạy. Quân sư Cao Đại Tài bước ra tâu :

- Chúa công đang thiếu một Nguyên soái cầm quân, nay nhân Ngữ nguyên soái đến, ta nên cử vào chức ấy.

Lý Thiên tuế hài lòng phong ngay Thiều làm đại nguyên nhung thống lĩnh binh lương suốt cả miền Hà Bắc.

Nhắc lại việc Võ Văn Thành Đô cả phá cổng tây kéo quân vào soái phủ mới biết Vân Thiệu đã trốn đi rồi. Quân sĩ Nam Dương mất chủ soái, mở hết các cửa thành xin hàng hết. Một lát, Thông Tư Đồ đem quân về. Hàn Cầm Hổ nói :

- Ngươi trấn cửa bắc có bắt được phản thần không?

Đồ kể việc Châu Sương hiển thánh múa long nguyệt đao của Quan Công chém. Cầm Hổ tin là thật, rồi vào công sảnh tra soát sổ dân đinh, treo bảng chiêu an dân chúng, Thành Đô nói :

- Bẩm nguyên súy, Mã Thúc Mưu không phải là địch thủ của Vân Thiệu, xin tha cho hồi chúc.

Hổ nể lời, tha ngay. Mưu đang giữ ngựa, được tin, mừng vào sụp lạy Cầm Hổ, lại quay ra lạy tạ Thành Đô hai ba lượt.

Đoạn, Cầm Hổ giao cho Tư Đồ giữ ải Lâm Đồng, Tấn Văn Đế giữ ải Hồng Nê. Hai tướng đi khỏi, Cầm Hổ dặn dò quân sĩ không được quấy nhiễu lương dân, rồi cùng quân tướng kéo cờ hát khải hoàn ca, trở về kinh đô phục chỉ.

Đi mười ngày ròng rã tới kinh sư, Hàn Cầm Hổ đóng quân xa năm dặm, rồi cùng Thành Đô, Mã Thúc Mưu cỡi ngựa vào thành triều kiến.

Tùy Dạng Đế sai vời vào, Cầm Hổ dâng bản sớ kể rõ việc hạ Nam Dương, Ngữ Vân Thiệu trốn thoát. Dạng Đế mừng rỡ, sai rót rượu ngự ban khen đoạn phong Cầm Hổ làm Bình Nam Vương, Thành Đô làm Bình Nam hầu, Mã Thúc Mua làm Đô tổng quản. Các tướng đều được thăng thưởng hết.

Dạng Đế sai đặt ngự yến ban cho hết bách quan văn võ. Sau đó lại giáng chỉ ân xá hết các phạm nhân đã thành hay chưa thành án. Lệnh ân xá ban ra ngoài thiên hạ, may nhất cho một anh chàng bán muối, quê ở Ban cửu điếm, phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, họ Trình tên Giảo Kim. Hảo hán ấy mình cao vai rộng, tay dài, mắt xanh, mũi đỏ, mắt biếc, tướng như hùm beo, ai trông cũng sợ. Phụ thân là Trình Hữu Đức mất sớm, mẹ là Cao thái thái, quanh năm khó nhọc để nuôi Trình Giảo Kim chỉ rong ruổi ăn chơi.

Khi xưa Giảo Kim ở Tế Nam đã cùng Thúc Bảo cùng cắp sách đi học nhưng thiên tính tối tăm, học đến đâu quên đến đấy, rút cục một chữ nhất cũng không biết viết ra sao.

Rồi sao có một bọn du đãng rủ Kim đi buôn muối lậu. Kim bướng bỉnh, khỏe như con voi, bọn phương buôn kinh hãi lắm, gọi Kim là Trình Lão Hổ. Một ngày kia, có quan tuần bộ đi ra bến sông bắt muôi lậu. Kim cáu tiết đá một tên lính của tuần bộ bắn ra giữa dòng sông chết ngóm. Kim không muốn để luỵ cho người, tự vào phủ nha nhận tội.

Quan phủ thương Giảo Kim là tay hảo hán tính thẳng lòng ngay, thì cố ý không làm án vội, cứ giữ Kim ở phủ môn sai bảo vặt.

Đến nay, được nghe chỉ ân xá, các tội nhân khác thì reo mừng kéo nhau vào lạy quan rồi rủ nhau ai về quê hương người ấy. Duy có Giảo Kim là cứ ngồi im không nhúc nhích. Ngục tốt bảo :

- Người ta đi hết rồi, anh Kim còn không nhúc nhích có lẽ định ở lại ăn cơm của phủ chăng?

Kim nổi giận quát to một tiếng nắm cổ tên ngục tốt ném ra sân, rồi hoa quyền đánh hết. Chúng sợ hãi tìm lời van lạy Giảo Kim nói :

- Lão gia sắp đi đây. Nhưng chúng bay lại không biết bảo nhau mua rượu thịt tống tiễn lão gia à? Chính chúng không nhúc nhích sao dám bảo ta?

Chúng ngục tốt vốn sợ sức khỏe của Kim, bèn góp tiền nhau đi mua thủ lợn, rượu ngon bưng vào khoản đãi. Kim đang thèm thuồng như ma đói, vớ được rượu thịt, ăn như rồng cuốn nước, cọp nuốt dê non, đoạn đứng dậy vươn vai, tự ngắm nghía thân hình rồi nói :

- Ta đường đường một tay nam tử, nay ở tù ra mặc quần áo rách coi sao được. Chúng bay mau đem quần áo tới đây cho ta mặc. Nếu chậm ta nhất định không đi đâu hết.

Chúng lo sợ nói :

- Chúng tôi làm việc lương ít, bổng không, vợ con ở nhà rách rưới, làm gì có quần áo đưa cho ông.

Kim trừng mắt, toan hoa quyền đánh. Chúng cuống quít mà rằng :

- Chỉ có chiếc áo tang bằng vải trắng dài rộng, chiếc mũ bằng vải sô, nếu lão gia không dùng thì xin chịu.

Kim nói :

- Thôi cũng được, lấy mau cho lão gia xem.

Một lát chúng mang áo tang đến. Kim đội mũ, mặc áo, ngắm nghía một tí rồi vung tay áo thụng, ra khỏi ngục, chạy một mạch về làng thăm mẹ.

Một lát tới nhà, Trình mẫu ôm lấy con mà khóc. Trình mẫu nói :

- Ba năm nay con bị tội tù, mẹ muốn vào thăm nhưng không có tiền đút lót, khi nào chúng cho mẹ vào thăm con. Mẹ bỏ ăn bỏ ngủ, nay tại sao con lại được về?

Kim nói :

- Nhà vua tha con về hầu mẹ đấy. Mẹ khá mừng đi.

Trình mẫu vui vẻ nói :

- Trong vại còn năm thưng gạo, con có đói thì đi thổi mà ăn.

Kim đi vét gạo thổi ăn hết cả nồi mới lửng dạ. Trình mẫu vừa mừng đã lo ngại nói :

- Mẹ thì già, nhà nghèo túng, sức con ăn khỏe thế, lấy gì nuôi con?

Kim nói :

- Mẹ còn đồng nào lại đua con đi buôn muối lậu thì lo gì đói.

Trình mẫu nói :

- Mẹ làm gì ra tiền mà đưa cho con.

Kim nói :

- Có vật gì đưa con đem bán vậy.

Bà mẹ nói :

- Mẹ còn độc chiếc quần kia, con đem chợ bán. Đừng đi buôn muối nữa, cứ buôn lấy cây tre về chẻ cho ta đan rồi con đem ra chợ bán mà đong gạo.

Nói rồi mở hòm đưa quần cho con bán. Giảo Kim ra đến phố, hai bên thiên hạ cùng sợ hãi vội hô nhau đóng cửa. Kim xông vào trong chợ đang đông, thét to :

- Ai có tiền có bạc hãy gần ta, không thi cút hết!

Vừa nói vừa đẩy vừa đá, mọi người ngã giúi xuống, kêu ầm ĩ cả lên.

Kim treo cái quần lên mái chợ, nhảy lên cái tường thấp, ngồi vắt vẻo quát vang :

- Đứa nào có tiền đến mua quần đẹp này đi, mau mau, kẻo lão gia phóng hỏa thiêu trụi hết hàng hóa hàng quán đó. Mua đi! Mua đi!

Mọi người run sợ xô nhau chạy. Có một người nhận biết Trình Lão Hổ, rón rén lại gần nói :

- Không biết đại gia đã về, thật là có lỗi. Chẳng hay vật này đáng giá bao nhiêu xin cho biết.

Giảo Kim nói :

- Không là bao nhiêu ta lấy một lạng thôi.

Người ấy nghĩ :

- Không mua thì hắn còn quấy nhiễu, chi bằng thí cho hắn một lạng cho xong.

Đoạn móc túi lấy một lạng, hai tay đưa lên nói :

- Chúng tôi gọi có lạng bạc để mừng lão gia đã được về. Còn cái quần lão mẫu vốn là vật quý, lão gia xuất thân ở đấy mà ra xin mang về không nên bán.

Kim thấy tiền thì cả cười, không hiểu nghĩa câu nói ấy, liền nhảy xuống đất nói :

- Bác này biết lễ nghĩa, ăn nói thông văn tự, lão gia có lời khen.

Nói rồi thu quần bỏ vào bọc, đút tiền vào túi đi ngay. Giảo Kim đến hàng tre. Gã bán tre trước là Vương tiểu nhị trước có đánh bạc với Giảo Kim đã bị Kim đánh cho một trận, nay thấy Kim ở tù ra thì vội quay vào bảo gia nhân :

- Mau xếp tre cho gọn ghẽ kẻo người ta ăn cắp đấy!

Kim sáng tai từ xa đã nghe thấy, tức thì xông đến nắm lưng áo Tiểu nhị ném vào đống tre, mặt mũi sưng vếu lên. Tiểu nhi nói :

- Ngươi là một tên tù, danh giá gì mà dám bắt nạt ta?

Kim túm ngực nhấc bổng lên ném tít lên trời, lại giơ tay hứng đỡ như kẻ đá cầu. Tiểu nhị hết hồn bạt vía rối rít van lạy. Mãi Kim quát :

- Lão gia cần mấy cây tre, mi có biếu không?

Tiểu nhị xin vâng. Tức thì Kim xuống bờ sông hai tay khuân hai bó tre to tướng, ước độ ba mươi cây, nặng đến ba trăm cân chạy đi vun vút.

Tiểu nhị và mọi người ngây mặt ra sợ hãi.

Kim vác hai bó tre về ném giữa sân, lại lấy bạc ra đưa mẹ. Trình mẫu nửa mừng nửa sợ nói :

- Con lấy đâu ra nhiều tre nhiều bạc thế?

Kim đáp :

- Thưa mẹ, con ra chợ có người nhận biết mừng con lạng bạc mà không dám lấy quần. Còn tre kia là người quen cũ tặng con làm vốn.

Bà mẹ mừng rỡ nói :

- Con lại đi sắm dao tốt về chẻ tre cho mẹ đan giỏ mai đem ra chợ bán.

Kim vâng lời đi mua con dao, mấy đấu gạo một vò rượu, một cân thịt, nấu nướng một lát rồi hai mẹ con ngồi ăn uống no nê. Ăn xong Kim chẻ tre để mẹ đan. Kim nói :

- Mẹ già nua còn làm khó nhọc. Con đâu dám ngủ.

Rồi ngồi bên mẹ chờ đến canh tư. Trình mẫu đan được đủ mười chiếc giỏ. Kim mới rũ ổ rơm mời mẹ đi nằm, còn mình xuống bếp chui vào thùng trấu ngủ một giấc, ngáy vang như sấm.

Chợp một lát, Trình mẫu dậy thổi cơm sáng, đánh thức con dậy ăn.

Cơm xong, Kim hỏi mẹ :

- Sọt giỏ bán thế nào, mẹ dạy cho con biết.

Bà mẹ nói :

- Mỗi cái độ ba phân thôi.

Kim vâng lời quảy gánh giỏ ra chợ, tới nơi người ta thấy mặt Kim nhốn nháo, thu xếp hàng hóa đi tản mát. Ai cũng tránh mặt, Kim ngồi đến trưa đến chiều chẳng ma nào dám đến gần. Kim điên tiết, lại đói như cào, thầm nghĩ :

- Ta phải tìm hàng quán ăn uống đã.

Rồi quảy gánh sọt đi vào phía đông, thấy ngôi hàng rượu. Chủ quan là một cặp vợ chồng già mới ở nơi xa đến, không biết Giảo Kim, thấy khách vội ra mời. Kim đặt gánh vào ngồi vắt vẻo. Lão bà đi làm rượu.

Lão ông thái thịt luộc rau.

Kim ăn uống một hồi rồi đứng dậy quảy gánh đi. Lão ông sợ hãi chạy theo nắm áo đòi tiền. Áo bằng vai sô mỏng như giấy, mó vào rách tơi ra ngay. Kim tức giận quay lại tát ông già một cái.

Lão ông bị đau kêu ầm ĩ. Lảo bà cũng tru tréo. Kim vào đá tung cả bàn ghế, đập vỡ hết nồi niêu. Mọi người càng thấy đôi vợ chồng kêu to càng sợ Giảo Kim nổi nóng nên chạy hết. Vợ chồng già đành níu lấy Kim mà van lạy. Đang lúc đó, một tay đại hán mặt to, mắt sáng như sao, râu mọc thưa thớt, đầu đội khăn tía, mình mặc áo xanh, bước đến can :

- Hảo hán đừng nóng nảy, tôi xin thưa chuyện đã.

Người ấy móc túi lấy hai lạng bạc đưa vợ chồng ông lão, rồi xá Giảo Kim mà rằng :

- Nhà tiểu đệ gần đây, mời đại huynh đến chơi xơi chén rượu.

Kim cười nói :

- Đến chơi uống rượu thì tốt lắm Nhưng còn mười chiếc sọt công trình của mẹ tôi đan suốt đêm qua.

Người ấy nói :

- Đại huynh cho hàng rượu, cần gì vật mọn.

Rồi đó hai người vào một trang viện lớn, cách chợ ba bốn dặm, vườn rộng, ao sâu, cỏ hoa rực rỡ. Người ấy sai đem nước, và lấy áo quần mới mời Giảo Kim tắm gội và thay bỏ áo sô rách tả kia đi. Tắm rửa xong, người ấy dắt Kim vào đại sảnh, bắt ghế cao mời Kim ngồi, rồi nói :

- Chẳng hay hảo hán đại danh chi? Song thân còn hay mất?

Kim xưng danh rồi tiếp :

- Tôi vừa ở tù ra, mẹ con túng đói phải đan giỏ bán, còn ông tên gọi là gì, tiếp đãi thằng Kim tôi như thế này nghĩa làm sao?

Người ấy đáp :

- Tiểu đệ tên gọi Vưu Thông tự là Tuấn Đạt ở đây đã mười đời, từ thuở nhỏ đã theo cha đi giang hồ buôn đồ châu báu. Mấy năm nay giặc cướp nổi như ong, một mình đi buôn bán lấy làm lo ngại. Thấy đại huynh vũ dũng hơn người có ý rủ về đi buôn châu báu cùng, cho có bạn đường xa, đại huynh nghĩ thế nào?

Kim liền đứng phắt lên, ré chân chạy. Tuấn Đạt đuổi theo xuống thềm kéo tay hỏi :

- Tiểu đệ thất thố câu nào mà đại huynh bỏ đi như vậy?

Kim trừng mắt nói :

- Ông khinh Kim này nghèo rách nên chế giễu Kim đó chăng? Cái thằng khố trụi áo ôm này làm gì có vàng bạc đầy kho mà bảo rằng đi buôn châu báu với ông.

Tuấn Đạt nói :

- Tiểu đệ bỏ vốn mà chỉ phiền đại huynh xuất lực thôi.

Kim ngơ ngác hỏi :

- Thế nào là xuất lực, tôi dốt nát, ông đừng nói chữ.

Đạt nói :

- Nghĩa là đại huynh cầm binh khí đi bên tiểu đệ, gặp cướp thì đánh, gặp trộm thì bắt, gặp cường đao dọc đường thì chém giết tha hồ, châu báu bán được bao nhiêu lãi sẽ chia đôi sòng phẳng.

Kim suy nghĩ :

- Như thế thì thú lắm. Vừa được ăn uống dọc đường, lại được chia vàng bạc! Nhưng hiềm một nỗi mẹ già tôi yếu lắm, chả chắc chịu cho đi.

Đạt nói :

- Tiểu đệ xin biếu lão mẫu năm mươi lạng bạc và vải lụa, đại huynh về kể rõ, rồi mai sớm đến đây, chúng ta khỏi hành luôn.

Giảo Kim mừng lắm. Đang nói chuyện thì gia nhân dọn rượu hai người cùng say sưa tới lúc trăng lên, Giảo Kim mới đứng lên bái biệt.

Tuấn Đạt đưa hai mươi lạng bạc, bộ áo mới, hái tấm lụa hoa. Kim nhận rồi ra về.

Tới nhà, Trình mẫu thấy con mặc áo đẹp lại sặc mùi rượu thơm, vội hỏi nguyên do. Giảo Kim thuật rõ. Bà mẹ mừng rỡ, hai mẹ con lại dọn cơm ăn, rồi đi nghỉ.

Trưa hôm sau, Tuấn Đạt nóng ruột chưa thấy Kim đến bèn cho gia đinh khiêng hai kiệu đến đón cả mẹ con Trình mẫu đến gia trang. Kim đỡ mẹ lên kiệu, mình đi đất. Phu kiệu nhất định mời Giảo Kim lên ngồi. Kim gắt :

- Người ta thế này mà ngồi kiệu như một ông quan hay một tiểu thư coi sao được. Ta đi đất lại nhanh hơn.

Lát sau tới trang viện, mẹ con Trình mẫu cùng Tuấn Đạt thi lễ. Đạt cung kính mời Trình mẫu ngồi lên chiếu trên. Gia nhân bày tiệc.

Rượu vài tuần, Đạt buông chai nói :

- Ta đi buôn đường sá có phần nguy hiểm. Chẳng hay đại huynh dùng khí giới gì?

Kim đáp :

- Tôi quanh năm vào rừng đẵn củi, chỉ quen dùng búa mà thôi ngoài ra chẳng biết dùng khí giới gì khác cả.

Tuần Đạt sai gia đinh lấy cây búa nặng sáunăm cân tên gọi là Bát quái tuyên hoa phủ. Kim cầm búa múa không ra lối võ gì. Tuấn Đạt nói :

- Tôi cũng có quen đánh búa, xin dạy đại huynh.

Hai người cởi áo ra ngoài sân luyện búa. Chẳng ngờ Đạt dạy được bài trước, Kim lại quên bài sau, học bài sau lại quên bài thứ nhất, vì Kim tối dạ quá, Tuấn Đạt không biết làm sao đành bảo thôi hãy vào uống rượu ăn cơm rồi đi ngủ.

Đêm ấy, Giảo Kim nằm một mình ở gian phòng cạnh vườn hoa, bỗng thấy một cơn gió thơm ngát tạt vào giường rồi hiện ra một cụ già mặt đỏ như táo chín, mắt sáng như sao sa. Cụ nói :

- Khải thổ tinh quan mau tỉnh dậy, ta vâng lệnh Ngọc hoàng xuống day ngươi nghề đánh búa, sau này phò chân chúa làm nên khanh tướng, ngôi cao tột bực ở trong triều.

Cụ già nói xong, cúi đầu cầm phất trần phẩy khẽ ba cái vào đầu Giảo Kim rồi lâm râm niệm chú, tức thì Giảo Kim nghe trong mình khoan khoái và đầu óc tưởng chừng như sáng suốt ra. Đoạn, cụ cầm búa múa tít như mây vần gió cuốn, một lúc dạo sáu mươi tư bài. Giảo Kim nhìn đến đâu nhập tâm đến đấy ngay. Dạy xong cụ già nói :

- Ta dạy thế đủ rồi. Khải thổ tinh quan khế nhớ để mai đây giúp chân chúa dẹp yên thiên hạ. Dứt lời vút lên mây biến mất. Giảo Kim vỗ tay reo :

- A, giỏi quá!

Tức thì mở mắt, té ra một giấc nam kha. Kim vui sướng nghĩ :

- Tiên ông xuống trần dạy ta võ nghệ. Phải luyện lại ngay kẻo rồi quên hết. Nhưng hiềm nỗi không có ngựa. Ngồi trên yên mà múa mới hay.

Bèn nhìn quanh quẩn, chợt reo to :

- A có ngựa rồi, ta dùng tấm ván kia làm ngựa, cỡi lên nó mà mua cũng được chứ sao.

Nghĩ, làm luôn: Kim lấy một sợi thừng buộc vào đầu tấm ván, lại quàng vào cổ giả làm cương, cỡi lên tấm ván, hai tay hai búa chạy quanh nhà mà múa. Sẵn gian buồng đó làm bằng ván hết, nên đang đêm tiếng ngựa gỗ phi làm vang động cả nhà. Tuấn Đạt đang ngủ chập chờn, nghe tiếng động vội vàng trở dậy tìm đến chỗ động xem sao, trông thấy Giảo Kim đang cỡi ván huy động đôi búa nặng như mưa đổ tuyết rơi, thì vui mừng quá buột miệng kêu to :

- Tuyệt lắm! Tuyệt lắm! Võ nghệ đến thế thì vô địch.

Kim đang dồn hết tinh thần để ôn lại võ của tiên, bất ngờ nghe tiếng phàm nhân, Kim giật mình quên lú mất, chỉ còn nhớ 3sáu bài thôi.

Nhờ bóng trăng Tuấn Đạt nhận rõ từ đầu cảm phục mà rằng :

- Võ nghệ như thế mà ban ngày giấu giếm nhau, tệ thế!

Giảo Kim cười ha hả :

- Trong lúc mới gặp nhau, cha lẽ ta thi thố hết tài năng mang tiếng là khoe khoang. Có lẽ đâu ta đây tướng mạo hảo hán đến thế này mà dốt đặc không biết vài mươi miếng búa hay sao, ta nghe nói, người anh hung thì bao giờ cũng phải nhún nhường.

Đạt kính phục nói :

- Còn những bài sau, xin cho tiểu đệ xem nốt.

Thực tình thì Giảo Kim quên lú mất rồi, bèn nói lảng :

- Muốn xem hết tài ta phải kiếm cho ta con ngựa tốt, võ của ta là lối võ của danh tướng mặc giáp trụ, lên yên múa búa phá thành, chém giặc chứ phải đâu võ nghệ tầm thường như mấy anh đại hán bán thuốc cao ngoài chợ.

Đạt lại càng kính phục, sai mã nô dắt một chiếc ngựa ra. Con ngựa hý vang lên, co chân đập tung mặt đất. Kim chú ý nhìn quả là loài chiến mã, dài hơn một trượng, bốn chân thon nhỏ đen như mực, lông xoáy trắng như hoa mai. Tuấn mã thấy Giảo Kim vỗ vào đầu càng hí như mừng chủ cũ. Kim mừng nói :

- Hãy cho nó vào chuồng, chờ canh năm ta sẽ thử xem ngựa có tốt thực không.

Gia nhân được lệnh dọn đồ nhắm. Tới khi trời sáng rõ, Kim chếnh choáng gọi mã nô lại dắt ngựa ra. Kim nhảy phắt lên yên. Tuấn mã hí vang ba tiếng, sải dài chân phi như gió lướt là là trên mặt đất. Kim mặc cho ngựa chạy bay theo con đường thẳng, cúi rạp xuống ôm bờm ngựa mà cười ha hả. Chạy chừng vài ba mươi dặm đến một trái núi, thấy một con thỏ ra vờn trước ngựa rồi lại lao minh chạy. Giảo Kim thúc ngựa đuổi theo. Thỏ chạy vào một khe sâu biến mất. Con ngựa tự nhiên dừng lại, hí to ba tiếng như sấm động suýt lật Giảo Kim nhào xuống. Thấy lạ, Kim nhảy xuống đất, bước tới cửa hang cho tay vào, sờ thấy một cái bọc bằng gấm vàng, giở ra thấy chiếc mũ bằng thép giát vàng lóng lánh, một cái áo giáp sắt vẩy hoa xanh. Giảo Kim biết là trời cho, bèn đội mũ mặc giáp, tự ngắm lấy làm thú vị lại nhảy lên yên.

Tuấn mã không chờ giật dây cương lại sải chân phi vun vút về trang viện.

Hồi 8 Hai búa mạnh, Giảo Kim chiếm Châu Sa Tìm bạn cũ, Thúc Bảo đi bắt cướp

Phút chốc, Giảo Kim đã tới cổng trang. Tuấn Đạt thấy Giảo Kim đi mặc áo chẽn về đã nhung phục uy nghi như mãnh tướng ra quân. Giảo Kim thuật rõ việc theo thỏ vào hang đá, thấy mũ giáp thế nào thuật lại, Tuấn Đạt càng kinh hãi, coi Giảo Kim như thiên thần hạ giới. Đạt xin cùng Kim kết nghĩa. Kim vui lòng cùng nhau thề nguyện trước bàn thờ. Tuấn Đạt hơn tuổi làm anh. Đoạn đặt tiệc lớn, cùng nhau uống rượu tới đêm mới đi nghỉ.

Sớm sau, Giảo Kim giục Tuấn Đạt khởi hành. Đạt nói :

- Còn sớm, để đến chiều sẽ khởi hành.

Kim ngạc nhiên hỏi tại sao. Đạt nói :

- Hiện nay trộm cướp rất nhiều. Ta đi buôn châu báu, đi ban ngày tất chúng nhòm ngó, nguy hiểm lắm. Vậy chờ tối sẽ đi.

Chờ tối xuống, không trăng không sao, Tuấn Đạt sai gia đinh đem sáu chiếc xe ra, che đậy trên dưới kín như bưng, vội gọi Giảo Kim bảo rằng :

- Hiền đệ phải ăn bận gọn ghẽ cầm khí giới phòng khi có sự bất trắc xảy ra trong đêm tối.

Hai anh em nai nịt xong lên ngựa, tháo nhạc, ngậm tăm mà áp tải xe hàng.

Vào quãng canh hai đến một khu rừng tên gọi là rừng Tràng Điệp, thấy đèn lồng thấp thoáng như sao rơi ở đằng xa, sau dần dần hiện ra hơn trăm người. Giảo Kim thét vang lên :

- Quân cường đạo dám cản đường để lão gia bổ chết hết cho chúng bay về âm phủ.

Nhưng bọn trăm người kia nhất loạt quỳ cả xuống rập đầu nói :

- Chúng tôi đốt đèn chờ Đại vương đã lâu.

Giảo Kim không hiểu chúng gọi ai là Đại vương. Toan hỏi thì Tuấn Đạt đã cười mà rằng :

- Chẳng dám giấu gì hiền đệ, bọn này là thủ hạ của ta đấy. Trước kia ngu huynh đã ở trên sơn trại kia cùng chúng làm nghề lạc thảo. Đã lâu ta bỏ nghề, nay nhân gặp được hiền đệ, vậy anh em ta nhập bọn với chúng để đi làm một mẻ lớn cùng nhau ăn tiêu cho Thoả chí bình sinh.

Nghe nói, Giảo Kim lè lưỡi nói :

- Thế ra Ngô huynh vốn là quân cường đạo, nay đánh lừa tôi, rủ đi ăn cướp đó à?

Tuấn Đạt nói :

- Ở cái thời bạo chúa dâm ô, gian thần ác nghiệt này, tội gì ta không đi ăn cướp. Bao nhiêu hào kiệt trong thiên hạ lúc này đều vào rừng lên núi, triệu họp hảo hán đi ăn cướp hết. Chờ một mai chân chúa ra đời, ta sẽ giúp vua lập nước, hưởng vinh hoa. Hiền đệ nên nghĩ kỹ.

Giảo Kim cho là phải, gật đầu :

- Ngô huynh nói thế thì Kim này cũng hay rằng thế. Miễn là có cơm áo phụng dưỡng mẹ già là được.

Tuấn Đạt mừng lắm, mời Giảo Kim cùng lâu la dong đèn lồng lên sơn trại, vào đại sảnh đường ngồi, lâu la thắp thêm đèn đuốc, đứng hầu hai bên.

Tuấn Đạt nói :

- Hiền đệ muốn thảo chướng hay muốn quan phong?

Giảo Kim chẳng hiểu mấy chữ ấy ra sao, bèn đáp liều :

- Tôi muốn quan phong.

Đạt cười :

- Thế thì hiền đệ mau đem lâu la xuống núi mà ăn cướp.

Kim kêu lên :

- Quan phong mà là đi ăn cướp ư?

Đạt nói :

- Để ta nói rõ cái hiệu riêng của nghề lạc thảo cho hiền đệ rõ: Khi nào bọn cường đạo xa gần nghe tiếng nhau mà muốn cùng nhau tương kiến thì gọi là tiễn phất, thấy bọn thương khách đi qua sào huyệt gọi là phong lai, ăn cướp được ít gọi là tiểu phong, cướp được nhiều gọi là đại phong, khi chịu thua phải cần quân tiếp ứng gọi là phong khổn. Thảo chướng nghĩa là ở nhà giữ sơn trại; nghề riêng ấy hiền đệ nên học cho thuộc kỹ.

Kim nói :

- Nếu vậy thì ta cứ nhất định quan phong. Ta xuống núi không cần nhiều lâu la, chỉ dăm thằng cho ta sai bảo là đủ lắm.

Nói rồi vác búa xăm xăm xuống núi. Đến ngã tư đường chờ mãi chẳng thấy một người hành khách vãng lai. Kim tức lắm, lại sai lâu la bỏ đường nam sang đường bắc, lại bỏ nẻo bắc tới nẻo đông. Đến hồi canh năm, lâu 1a nói :

- Hôm nay hẩm vận rồi, mời Đại vương lên sơn trại nghỉ.

Kim không nghe nói :

- Ta đi mở hàng một chuyến đầu mà không được khai búa thì xúi quẩy mất, thế nào cũng phải gặp khách hàng, các ngươi chớ chán nản.

Dứt lời thì trời tảng sáng. Đằng xa trông rõ tinh cờ phất phới có quân lính rất nhiều đẩy xe phủ kín lá cây, đi đầu có hai tướng mặc giáp cưỡi ngựa, cầm thương. Giữa hàng quân một cỗ xe lớn nhất trên cắm lá cờ xanh thêu chữ trắng: "Lễ vật của Cô Sơn vương trấn thủ Đăng Châu".

Nguyên do, quan Tỉnh Hải đại nguyên soái Cô Sơn vương trấn thủ Đăng Châu là một vị thân vương với Tùy Dạng Đế, anh em ruột với Văn Đế, tên gọi Dương Lâm, tên chữ Hổ Thần, người ta xếp vào hạng anh hùng thứ tám đời Tùy. Nhân dịp Dạng Đế mới lên ngôi, Dương Lâm sai hai người con mới Nhất Thái Bảo là La Phương, Nhị Thái Bảo là Tiết Lương, đem hai mươi lăm vạn lạng và ba trăm cỗ áo rồng vào kinh sư tiến cống Tùy Dạng Đế.

Hôm đó, chúng qua rừng Tràng Nhiếp, chẳng ngờ gặp phải con quỷ sống! Giảo Kim tròn xoe hai mắt, vỗ tay cười ha hả :

- Hay lắm, có đại phong kia, thật không phí công của lão gia.

Tên lâu la nói :

- Đại vương không trông thấy lá cờ đó ư? Chớ nên động đến của nhà vua.

Kim quát :

- Vua chúa gì thằng ăn mày ấy, ta đây không kiêng nể gì ai cả.

Thấy của thì lấy, thấy người thì giết cho thoả thích mà thôi.

Nói rồi quất roi vào mông ngựa. Tuấn mã phi đến bọn quan quân.

La Phương, Tiết Lương vội thét dàn quân rồi phóng ngựa ra quát :

- Quân cường đạo nào dám cướp của triều đình. Chúng bay không nghe tiếng Cô Sơn vương ở Đăng Châu sao mà dám ra đây quấy nhiễu?

Giảo Kim không nghe thấy gì hết, cứ múa búa xông lại đánh. La Phương giơ thương đỡ. Thương chạm vào sức búa mạnh tựa thái sơn, kêu choang một tiếng, gãy làm đôi. La Phương chỉ còn đủ can đảm kêu to một tiếng rồi lao ngựa chạy.

Tiết Lương thấy La Phương chưa đánh hiệp nào đã chạy, thì tức giận xốc ngựa lên, Giảo Kim thuận tay cho một búa vào đầu, Tiết Lương cúi xuống hai tay cầm ngang cây đại đao giơ lên đỡ. Búa xuống mạnh quá khiến cây đao nảy lửa, hai cánh tay Lương chĩu xuống gãy khuỷu xương và hai bàn tay rách toạc ra, máu chảy ròng ròng.

Tiết Lương không còn hồn vía, phi ngựa chạy lấy sống. Quân sĩ mất chủ tướng cũng bỏ xe châu báu tìm đường lẩn hết.

Giảo Kim đang hăng tiết thúc ngựa đuổi theo. Thấy thế nguy Tiết Lương kêu ầm ĩ :

- Chúng ta đã chịu thua để của lại rồi, còn đuổi theo làm gì nữa.

Kim quát :

- Này ta nói đại danh cho mà nhớ: lão gia đây là Trình Giảo Kim còn người nữa là Vưu Tuấn Đạt, chúng ta cho mày sống về mà mách nhau, lão gia sẽ chờ ở đây giết hết.

La Phương và Tiết Lương đang lúc hoảng sợ, lại nhớ lầm là Trình Đạt, Vưu Kim cứ việc nằm rạp trên yên mà chạy về Đăng Châu ngay hôm đó.

Giảo Kim đại thắng quay lại thấy trên xe đầy hòm xiểng, giơ búa bổ một hòm, trúng ngay hòm đựng hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng lóng lánh.

Tuấn Đạt nghe được tin vội sai đẩy sáu cỗ xe đến chất các hòm châu báu lên rồi lại phủ kín cấp tốc đẩy về trang viện. Đạt đào một hầm sâu ở vườn hoa, chôn cả hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng xuống đấy.

Một mặt sai lâu la phóng hỏa đốt sơn trại, một mặt đặt tiệc lớn ở trang viện khao đại công của Trình Giảo Kim, hai búa đoạt được cả một kho vàng của Cô Sơn vương, dễ dàng nhu bỡn.

Để che mắt thiên hạ, Tuấn Đạt sai mời hai mươi tư vị hòa thượng đem kinh kệ, chuông trống đến lập đàn tràng làm lễ cho tổ tiên, cha mẹ, anh em gì đó. Suốt mấy ngày đêm lễ bái kinh kệ vang cả một vùng, hàng xóm láng giềng rủ nhau đem hương hoa đến lễ, Tuấn Đạt sai làm cỗ chay rất sang trọng khoản đại hết mọi người. Trong khi ấy, Đạt mở cửa một cái hầm sâu có đường ăn lên núi phía sau trang giấu Trình Giảo Kim vào đó.

Nói về La Phương và Tiết Lương hoảng hốt về đến Đăng Châu xin vào yết kiến Cô Sơn vương tức Dương Lâm. Nghe tin hai tướng áp tải xe châu báu vừa đi đã trở về, Dương Lâm giật mình đoán có sự chẳng may, cho vời vào tức khắc.

Phương và Lương quỳ rạp xuống, không dám ngóc đầu lên.

Cô Sơn vương quát hỏi :

- Các ngươi đánh mất lễ vật phải không?

Hai người run sợ đáp :

- Quả có thế. Quân cường đạo dữ dội quá đã lấy sạch cả rồi.

Cô Sơn vương thét to :

- Quân bay đem hai tên này ra chém. Cô gia tin chúng mới giao bấy nhiêu của cải, nay sợ giặc bỏ của cầu lấy sống, lại dám vác đầu về đây còn để cho quân hèn nhát ấy sống làm gì nữa. Áp tải có một cỗ xe cũng không xong, nói gì đến việc phá thành, giết giặc! Bay đâu, chém!

Hai người lập cập cố kêu :

- Bẩm vương phụ, lũ chúng đã xưng tên, chúng tôi còn nhớ. Xin cho đi bắt báo thù.

Vương quát :

- Chúng xưng là gì?

Hai người nói :

- Bẩm, một đưa là Trình Đạt, một đứa là Vưu Kim. Chúng ở rừng Tràng Điệp, tại huyện Lịch thành, phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Đông.

Cô Sơn vương tha chết, truyền cởi trói, bảo rằng :

- Đã biết tung tích giặc thì bắt được. Quân bay phạt đánh bốn mươi trượng thật đau!

Đoạn, sai phát quân tướng thẳng tới rừng Tràng Điệp đất Sơn Đông bắt kỳ được hai cường đạo Trình Đạt, Vưu Kim, hẹn đúng trăm ngày phải nộp. Quá hạn thì các quan phủ huyện phải tội đầy sung quân sang Lĩnh Nam, và các quan tiết chế võ hành đều bị cắt chức hết.

Lệnh ấy ban ra, các quan văn võ phủ Tế Nam đều rụng rời sợ hãi.

Công văn chạy đến huyên Lịch Thành.

Huyện quan là Từ Hữu Dực ra công đường gọi chức Mã khoái là Phàn Hổ, chức Bộ khoái là Liên Minh vào, kể rõ việc Cô Son vương bị giặc Trình Đạt, Vưu Kim lấy hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng và báu vật khác, rồi nghiêm mặt nói :

- Quân lệnh không nghiêm sao được việc. Vậy nay ta cũng hẹn cho hai người một tháng phải bắt hai tên giặc ấy, cứ ngày ba, ngày sáu, ngày chín phải về phúc bẩm.

Hai người vâng lệnh đem một trăm tên công nhân đi tầm nã, nhưng không biết giặc ở đâu mà tìm, cả hai người bị đánh ba mươi roi.

Bị đòn, hai người hổ thẹn, ra ngoài họp công sai, nói :

- Lũ giặc này chắc nói tên tuổi giả đó thôi. Ta biết đâu mà tình kiếm. Làm việc quan đến thế này thì cơ cực lắm.

Nói rồi cùng nhìn nhau mà ứa nước mắt ra. Một lúc, Phần Hổ nói :

- Đến kỳ phúc bẩm sau, khi bị đòn xong, chúng ta cứ lắm bẹp trước công đường mà không dậy nữa. Quan huyện hỏi tại sao thì chúng ta xin đành chịu chết. Trừ phi Tần Thúc Bảo đại ca đi nã bắt mới xong.

Liên Minh nói :

- Tần huynh đang làm chức Kỳ bà bên dinh quan Tiết độ khi nào chịu xuống huyện đi bắt giặc thay ta.

Phàn Hổ nói :

- Ta thử làm như thế, xem sao đã.

Ba hôm sau, bọn Phàn Hổ vào phúc bẩm, khai rằng chẳng thấy vết tích cường đạo ở đâu. Quan huyện cả giận phạt phạt bốn mươi roi.

Đánh xong, bọn Phàn Hổ không ngóc dậy, kêu rằng :

- Xin đại nhân cho đánh nốt cả mười kỳ sau rồi rủ lòng thương cho vợ con chúng tôi nhận xác đem về mai táng, chúng tôi đội ơn đại nhân lắm lắm.

Quan huyện mủi lòng thương, nói :

- Vây ra bọn cường đạo ấy chịu không bắt được sao?

Chúng đáp :

- Hai tên ấy chắc là ở xứ khác do thám biết xe báu vật qua vùng ta nên chúng đón đợi, cướp lấy rồi đi. Nay tìm kiếm thật là mò kim đáy biển, đại nhân xét cho. Nếu muốn bắt chúng phải nhờ tay Tần Quỳnh, vì Tần Quỳnh biết rõ tung tích những kẻ trộm cướp trong thiên hạ.

Muốn được thành công, xin đại nhân đến dinh quan Tiết độ mà nói, tất quan Tiết độ phải cho Tần Quỳnh đi bắt cướp.

Quan huyện gật đầu, khen phải. Rồi lên ngựa thẳng tới dinh Đường Bích. Nghe tin báo có quan huyện Lịch Thành đến xin yết kiến, Đường Bích sai mời vào Huyện quan Từ Hữu Đức nói :

- Cái tin cường đạo cướp lễ vật của Cô Sơn vương, đại nhân đã rõ.

Chúng tôi sai đi truy nã đạo tặc nhưng không biết chúng ở đâu. Nghe nói viên kỳ bài ở quý phủ tên là Tần Quỳnh trước kia giữ chức đô đầu đi tuần tiễu khắp nơi, đã biết tông tích hết kẻ gian phi, nên ty chức đến đây xin lão gia cho Tần Quỳnh xuống huyện đi bắt cường đạo thì may lắm.

Đường Bích cả giận :

- Ông nói nhầm rồi. Chức kỳ bài của bản phủ lẽ nào cho xuống huyện làm đô đầu cho ông sai phái!

Từ Hữu Đức vội đứng lên vái lạy mà rằng :

- Đại nhân đã thừa biết rằng Cô Sơn vương ra nghiêm lệnh: quá hạn trăm ngày thì các quan văn võ ở miền Sơn Đông ta đây suốt lượt cao thấp đều bị sung đày sang Lĩnh Nam hoặc cắt chức hết. Khi đó nào có riêng gì kẻ hèn mạt nhỏ bé này bị đeo gông đi biệt xứ đâu! Đại nhân nghĩ kỹ cho kẻ mạt quan này được nhờ.

Đường Bích tỉnh ngộ, nói :

- Nếu vậy thì ta cho Tần Quỳnh xuống giúp. Xong việc phải trả lại bản phu ngay.

Hữu Đức vái tạ ơn nói :

- Quân sự phải có nghiêm lệnh, việc mới thành. Tiểu chức sẽ dùng nghiêm lệnh đó đối với chức kỳ bài của đại nhân. Vậy xin cho tiểu chức được tự do dùng quyền mới được việc, đại nhân cũng xét lại cho điều ấy nữa.

Đường Bích nói :

- Ta đã trao người tất nhiên phải thuận theo điều ấy.

Đoạn sai vời chức kỳ bài lên sai đi theo huyện quan xuống huyện để truy nã quân giặc cướp.

Về đến huyện đường, Hữu Đức nghiêm mặt nói :

- Tần Quỳnh làm chức kỳ bài ở dinh quan tiết độ, bản huyện đâu dám trách phạt gì, nay đã tạm về đây phải theo kỷ luật của bản nha.

Tần Quỳnh tạm giữ chức mã khoái, nên hết lòng bắt giặc, hẹn ba ngày một phải vào phúc bẩm, nếu sai kỳ hẹn chớ trách bản quan vô tình.

Thúc Bảo nói :

- Việc truy nã giặc là một việc khó khăn, phải có ngày giờ đi dò la nghe ngóng, nếu theo hẹn ba ngày thì chưa đi khỏi huyện này đã hết hạn rồi, còn làm được gì nữa. Tần Quỳnh tôi cũng lại xin đại nhân xét kỹ cho.

Hữu Đức lại khen Thúc Bảo là minh mẫn, nói :

- Nếu thế thì ta ra hạn là nửa tháng, phải bắt xong cường đạo, ngươi chớ nên chậm trễ.

Thúc Bảo lĩnh mệnh quay ra. Tới cửa nhà đã thấy Phàn Hổ, Liên Minh đứng đón tiếp. Bảo trách :

- Anh em nhường cho ta một món quà tốt lắm!

Hổ xá dài mà rằng :

- Chúng em biết là bất tài bất lực, nay roi trượng mãi, thịt đã nát đau, lại xấu nhục với sai nha, nên phải trông vào đại huynh cứu giúp.

Đai huynh lượng xét cho.

Thúc Bảo đông lòng thương nghĩa bạn, nói rằng :

- Ta há chẳng biết thế hay sao. Vừa rồi nói đùa mà chơi đó, nay các hiền đệ một mặt chia nhau đi dò hai ngả, còn ta đi sang châu huyện xem xét sao mới được.

Thúc Bảo dặn xong, vội vã về lạy thân mẫu, giấu việc đi bắt cướp, sợ mẹ lo buồn.

Lạy mẹ và từ biệt vợ xong, Thúc Bảo đeo đôi kim giản, cỡi ngựa ra đi. Vừa đi vừa nghĩ :

- "Rừng Tràng Điệp là địa phương Vưu Tuấn Đạt, nhưng đã lâu nay hắn bỏ nghề lạc thảo chắc không phải hắn. Thôi đích là bọn Vương Bá Dương, Tề Quốc Viễn, Ly Như Khuê đây. Ta phải đến hỏi xem sao".

Bèn thúc ngựa thẳng tới Tiếu Hoa sơn. Đến tối mịt tới chân núi, gặp lâu la đang săn mồi, Thúc Bảo sai chúng lên báo.

Bọn Bá Dương nghe tin vội xuống núi nghênh đón. Khi cả bọn lên Tụ Nghĩa sảnh, Thúc Bảo nói :

- Vì việc một bọn nào chặn đường cướp xe chứa hai mươi lăm vạn lạng bạc vàng và các đồ báu vật của Cô Sơn vương tiến nhà vua, nên quan huyện Lịch Thành nhờ ta đi bắt hai cường đạo đó. Chúng tên là Trình Đạt, Vưu Kim. Vây các hiền đệ có dúng vào việc ấy không?

Bá Dương nói :

- Nếu chúng tôi dúng vào thì cần gì phải sang tận rừng Tràng Điệp, mà cần gì phải xưng tên giả. Thực chúng tôi không được biết.

Thúc Bảo có ý không tin. Lý Như Khuê nói :

- Rừng Tràng Điệp ở địa phương Vưu Tuấn Đạt, chắc là hắn mới họp sức với một người nào nữa vớ được chuyến đại phong đó. Có lẽ lũ tướng tá ăn hại kia nghe hắn xưng tên thì vì hoảng sợ quá mà nghe lầm đó thôi.

Tề Quốc Viễn nói :

- Lý huynh nói có lý lắm. Tần đại ca thử đến tra vấn Vưu Tuấn Đạt thì sẽ biết.

Bá Dương sai mổ dê giết lợn làm tiệc. Thúc Bảo nhất định cáo lui, hẹn họp mặt trong dịp làm lễ thọ cho lão mẫu nay mai, đoạn phi ngựa như gió đến trang viện họ Vưu.

Tới nơi, thấy chuông trống om sòm, hỏi trang khách thì chúng đáp :

- Chủ nhân chúng tôi trở lập đàn làm lễ trời phật phủ độ chúng sinh, cả thảy bốn mươi chín ngày, bắt đầu từ hai mươi mốt tháng sáu tới nay chưa mãn khoá.

Thúc Bảo nghĩ thầm :

- Hắn làm lễ khai kinh ngày hai mươi mốt, việc xảy ra vụ cướp ngày hai mươi hai, như vậy hắn làm gì có thì giờ đi ăn cướp. Vậy thôi ta không cần hỏi nữa.

Nghĩ vậy lặng lẽ thúc ngựa đi, thẳng đến Đăng Châu, vào ngay trong thành.

Hồi 9 Gặp La Thành, Trình Giảo Kim bị trúng thương Dùng mẹo nhỏ, Cô Sơn Vương đi đánh tướng

Từ ngày Cô Sơn vương bị mất cướp trong lòng tức bực lắm, dẫu có phái cho các quan nha truy bắt, song cũng sai rất nhiều nha tướng đem quân đi các ngả nã tìm.

Một hôm chúng thấy Thúc Bảo tướng mạo đường đường, có vẻ từ xa đến xăm xăm phi ngựa vào thành, lưng đeo đôi giản, chúng sinh nghi bàn tán với nhau :

- Ta đang đi bắt cướp. Tên này trông có vẻ Đại vương cường đạo lắm. Hay là đích hắn.

Chúng bèn len lén chạy theo.

Thúc Bảo ghìm ngựa trước một khách điếm trong phố đông, gọi chủ hàng là Tiểu nhị bảo rằng :

- Ta cần một chỗ ngồi tĩnh mịch, và cần rượu ngon nhắm tốt.

Tiểu nhị thấy khách lịch sự, vái rạp xuống mà rằng :

- Xin mời tướng công lên lầu thượng, gió mát, phòng đẹp rượu ngon và có cả ca nhi đàn hát.

Thúc Bảo nói :

- Đem ngựa ta vào chuồng, chọn cỏ tốt, thóc nếp cho ăn, ta sẽ trả tiền xứng đáng.

Rồi bước nhanh lên thang lầu. Dưới kia bọn công nhân vẫy tiêu nhị ra ngoài đường, sẽ nói :

- Người ấy có vẻ khả nghi cường đạo cướp lễ vật của nhà vua. Ngươi nên dò xét ý tình xem.

Tiểu nhị gật đầu, vào bưng rượu và thịt nướng, quả phẩm lên. Tiểu nhị rót rượu, đứng chắp tay hầu. Thúc Bảo uống một mình có ý buồn, vừa nhìn xuống phố, vừa nhắm nhót. Ngoảnh lại, vẫn thấy tên Tiêu nhị chắp tay chờ rót rượu hầu. Thúc Bảo hài lòng nói :

- Ta nghe đồn việc mất lễ vật của Cô Son vương ngoài rừng Tràng Điệp hiện đang làm chấn động miền này lắm, có phải không?

Tiểu nhi mười phần đã ngờ đến một vài, nói :

- Vâng, bọn cường đạo nào đó thật là gan voi, mật hổ, dám trêu cả Thiên tử, mới ghê gớm chứ. Thế nào chúng cũng chết xả thịt, xả xương thôi.

Thúc Bảo mỉm cười, uống cạn ba hồ rượu, rồi nói :

- Người dọn cơm ta ăn, cần phải đi vội lắm.

Tiểu nhị chay xuống lầu, thì thầm với lũ nhân công, thuật rõ những lời Thúc Bảo nói. Chúng nhân công gật gù nói :

- Thế thì đích cường đạo đó. Nếu vậy thì phen này tiểu nhị với chúng ta sẽ được công to. Nhưng hắn có vẻ oai phong thế, chúng ta bắt làm sao được, phải mau mau đi báo lão cô gia.

Nói rồi chúng chạy ra đường, thẳng vào đại dinh Cô Sơn vương Dương Lâm khẩn báo Dương Lâm cả mừng sai mười dũng tướng dẫn một nghìn quân tức tốc kéo ra vây kín cả lử điếm. Việc này làm cho dân thành Đăng Châu hoảng sợ, nhà nào cũng đóng chặt cửa, không dám thò ra.

Quân sĩ reo hò :

- Bắt lấy giặc rừng Tràng Điệp anh em ơi!

Trên lầu, Thúc Bảo nghĩ thầm :

- Thế là chúng mắc kế mình rồi, tốt lắm.

Đoạn xách đôi giản từ trên cửa sổ lầu phi người xuống chân khẽ chạm đất nhẹ nhàng như chiếc lá. Bảo quát rằng :

- Các ngươi muốn yên lành thì chớ chạm đến ta, đôi giản này sẽ không kiêng nể tên nào vô lễ. Ta đang muốn yết kiến Đại vương có đây, dãn ra hai bên để ta đi.

Nói rồi ung dung đi trước. Chúng quân sĩ thấy Thúc Bảo ăn nói đàng hoàng, đều chịu đi sau, không dám động chạm gì đến cả.

Đến cổng dinh, Dương Lâm sai dẫn vào. Thúc Bảo đi đứng ung dung, rõ ra con nhà đại gia dũng tướng. Dương Lâm có ý khen thầm, nghĩ :

- Sao lại có tên cường đạo khôi ngô, tuấn tú thế kia.

Tới trước thềm, Thúc Bảo bất đắc dĩ quỳ xuống lạy mà rằng :

- Tôi là chức mã khoái ở huyên Lịch Thành, phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông tên gọi là Tần Quỳnh, đang phụng mệnh đi nã bắt cường đạo rừng Tràng Điệp.

Nghe nói Dương Lâm ngoảnh xuống quát mắng các tướng :

- Chúng bay láo quá, sao dám bắt một chức mã khoái bảo là cường đạo?

Chúng tướng hết hồn :

- Bẩm, nghe nói hắn tự nhân là cường đạo nên mới bắt nộp Đại vương.

Thúc Bảo nói :

- Đó là tôi có ý chân thành muốn vào hầu Đại vương, song không làm thế thì sao được vào hầu.

Dương Lâm lại ngắm nghía Thúc Bảo, thấy mặt to, mắt sáng, quả chạc là một tay thượng tướng. Bèn hỏi :

- Tần Quỳnh bao nhiêu tuổi, cha mẹ là chi?

Đáp rằng :

- Năm nay mạt tướng hai mươi lăm tuổi, mẹ già là Trọng thị, cha là Tần Lý mất đi từ ngày tôi còn bé.

Thúc Bảo sở dĩ không dám khai thực tên thân phụ là vì năm xưa Dương Lâm đánh phủ Tế Nam chính tay hắn bắn chết phụ thân Thúc Bảo, nay mà buột miệng nói ra thì tính mạng Thúc Bao tất không toàn.

Dương Lâm hỏi :

- Tần Quỳnh sở trường thứ vũ khí gì?

Đáp rằng :

- Mạt tướng quen dùng đôi kim giản.

Dung Lâm nói :

- Quân bay, đem đôi giản của Tần Quỳnh vào đây.

Chúng hai ba đứa, xúm xít khiêng đôi giản vào. Dương Lâm nói :

- Ta xem ra thì ngươi có lẽ là người có đại tài, vậy diễn giản pháp ta xem.

Thúc Bảo nói :

- Đại vương đã dạy, mạt tướng xin bái lệnh, nhưng xin cho mượn bộ giáp thì diễn võ mới được nghiêm chỉnh. Đại vương thể cho.

Dương Lâm truyền tả hữu vào lấy ra bộ giáp quý. Dương Lâm chỉ bộ giáp mà rằng :

- Nguyên do năm xưa ta đánh Tế Nam, bắn được một tên giặc tên gọi Tần Di, lột bộ giáp của hắn, lại lấy được một cây thương đầu hổ. Bộ giáp này đánh toàn vàng, ta quý mà cất đi, nay ban cho ngươi.

Chao ôi, kẻ vô tình nói nói người hữu ý nghe. Thúc Bảo lòng đau như kim châm dao cắt, muôn sầu nghìn oán thổn thức ở tâm can. Bảo cúi xuống vờ giụi mắt nhưng mà để lau hạt lệ. Bảo tạ ơn rồi đứng sang một bên để mặc giáp, rõ ràng là một thiếu tướng anh hùng. Bảo bước xuống thềm, đứng giữa sân múa đôi giản với tất cả tài tình lỗi lạc của phép võ gia truyền, trước còn như trăng lạnh sao rơi, sau như muôn ánh ngân hà chiếu toả, người ta không còn trông thấy bóng Tần Quỳnh nữa.

Múa xong nămsáu bài giản, Bảo nghiêng mình, đứng một bên.

Dương Lâm tấm tắc khen thầm, nói :

- Tài mà đến thế thì thật lão gia đây đã bạc đầu làm tướng soái chưa hề thấy bao giờ. Ngươi còn giỏi thứ binh khí gì nữa không?

Đáp rằng :

- Chúng tôi quen dùng cây thương nữa.

Dương nói :

- Đã quen nghề giản lại giỏi nghề thương, thật là hiếm có. Quân bay vào lấy cây thương đầu hổ ra đây.

Chúng lại hai ba đứa khiêng cây trường thương nặng tám mươi cân ra. Thúc Bảo đỡ lấy, ngắm nhìn thấy khắc hàng chữ nhỏ "Vê tướng quân Tần Di chí". Hỡi ơi, vật cũ còn đây, người xưa đã mất, mà kẻ thù không đội một trời thì đang ngạo nghễ ngồi trên ngôi cao trước mắt, Thúc Bảo thấy gan ruột lại quặn đau, chàng nghiến hãi hàm răng, tiết cả cái uất khí cương cường vào đường thương tuyệt diệu. Thương bay như rồng vàng uốn khúc vẫy vùng trên Nam hải, như hạc trời múa cánh chốn thiên thai, khiến Dương Lâm quên cả tuổi già rối rít ngợi khen, hoa chân múa tay luôn mãi.

Múa đủ bảy mươi tám bài thương, lại phụ thêm ba mươi nhăm bài thượng hạ, Thúc Bảo mặt không biến sắc, không một hơi thở mệt, lại nghiêng mình xá, đứng lánh một bên.

Dương Lâm nói :

- Ta thường nghe trong thiên hạ, nghề thương tất phải nhường cho dòng họ La đất Thái Nguyên cớ sao Tần Quỳnh cũng giỏi?

Đáp rằng :

- Năm xưa, mạt tướng phải tội đày ra đất Lạc Châu có vài lần cắt cỏ ở giáo trường, nấp một chỗ mà xem trộm La nguyên soái diễn thương nên nhớ lỏm vài đường đem ra làm trò bẩn mắt lão Đại vương đó mà thôi.

Dương Lâm vuốt râu cười khanh khách :

- Tần Quỳnh nói năng khiêm tốn ta lại càng có lòng yêu.

Năm nay lão cô gia đã sáu mươi tuổi thọ rồi, đường tử tức thực là muộn hiếm. Ta có nuôi mười hai vị Thái bảo làm nghĩa tử song xét ra chúng võ nghệ tài đức kém hơn ngươi nhiều. Nay cô gia muốn nhận Tần Quỳnh làm con nuôi đó.

Nghe nói, Thúc Bảo càng nghiến răng nén cái căm hờn nghĩ :

- Nó là kẻ giết cha ta, giận rằng thằng con bất hiếu này không thể băm nó ra để moi gan tế hương hồn thân phụ, nay còn mặt mũi nào quỳ lạy nhận nó làm nghĩa phụ Bèn đáp :

- Mạt tướng tự xẹt mình chỉ đáng đứng sau trướng lão Đại vương hầu ngựa thổi cơm, đâu dám len vào hàng thái bảo, e các vị anh hùng đó chê cười.

Dương Lâm trừng mắt nói :

- Ta hạ cố nhận ngươi làm thái bảo, không biết nhận cái ân huệ đó sao lại còn từ chối, chả hóa khinh lòng cô gia lắm.

Đoạn thét võ sĩ lôi ra chém. Thúc Bảo thở dài mà nói :

- Xin Đại vương đã thương thì ban cho mạt tướng một điều rồi xin chịu chết.

Dương Lâm giả giận sai chém, thấy vậy lại mừng thầm :

- Điều gì Tần Quỳnh khá nói mau. Ta sẽ cố chiều con.

Đáp rằng :

- Mạt tướng cha chết sớm, còn có mẹ già. Xưa nay vốn không bao giờ khinh xuất ăn bát cơm mà không trình, mặc manh áo mà không bẩm, huống chi cái việc lớn lao này. Vậy Đại vương rộng cho mạt tướng về quê trình lão mẫu rồi tức khắc mẹ con mạt tướng đến phụng mệnh ngay dưới lão Đại vương.

Dương Lâm gật đầu khen :

- Tần Quỳnh thật là danh gia, danh tướng và cũng là hiếu tử. Cô gia đâu nỡ lấy uy quyền mà ngăn cấm con làm điều hiếu nghĩa. Vậy con về rồi mau trở lại, kẻo ta mong nhớ.

Thúc Bảo tạ ơn, nghiến răng lạy đủ tám lễ, lại rằng :

- Tâu phụ vương, còn việc này, xin bẩm nốt. Đó là việc truy nã bọn cường đạo, xin trông ơn phụ vương rộng cho các quan địa phương được thêm hạn nữa. Bắt tìm lũ giặc cỏ ở nơi núi hiểm rừng sâu, thật là muôn vạn khó khăn. Mà hạn kia ngắn ngủi sắp hết rồi, e ràng các quan địa phương lo sợ quá mà không làm nên việc. Phụ vương lòng như trời bể, há lại tiếc một kỳ hẹn nữa hay sao.

Nghe Tần Quỳnh nói năng chí lý. Cô Sơn vương càng yêu quý bèn gật đầu ưng thuận.

Sau đó, dự yến, rồi Thúc Bảo lạy biệt Dương Lâm, đeo giản cầm thương, mặc giáp nhảy phắt lên ngựa phóng như bay qua phố xá, qua cổng thành khiến muôn vạn người chỉ trỏ ngợi khen.

Qua ngày nắng tắt, tối đèn, thời giản vun vút, ngoảnh lại đã qua một tháng, Thúc Bảo vẫn chưa đến Đăng Châu. Cô Sơn vương nóng lòng mong đợi, hạ trát cho quan huyện Lịch Thành, thúc Tần Quỳnh mau bắt giặc.

Huyện quan Từ Hữu Đức không còn hồn vía, quá kỳ hẹn vẫn chẳng thấy kết quả gì, bèn trách phạt Thúc Bảo rất nặng nề.

Nhắc lại chuyện Thiều Hoa Sơn: bọn Bá Dương nhớ lời Thúc Bảo hẹn hò họp mặt uống rượu mừng thọ lão mẫu ngày hai mươi ba tháng chín. Bá Dương tình nguyện đi trước đến trang viện Nhị hiền tỉnh Sơn Tây, rủ Đơn Hùng Tín cùng đi.

Đi ròng rã năm ngày, Bá Dương đã tới trang viện họ Đan. Nghe tin báo, Hùng Tín vui mừng ra cửa đón, cùng nắm tay nhau vào đại sảnh, gọi trang khách pha trà, làm tiệc.

Bá Dương nói :

- Ngày thọ đản của lão mẫu Tần Quỳnh là hai mươi ba tháng chín này, tiểu đệ đến đây rủ đại huynh cùng đi chúc thọ.

Hùng Tín nói :

- Nếu vậy phải sức giấy thông tin đi các nơi cho anh em biết mà cùng đến.

Đoạn lấy ngay chiếc têm, đó là hiệu lệnh riêng trong đám lục lâm, sai vài mươi tên trang khách đi các ngả thông báo cho chúng bạn "đúng hai mươi hai tháng chín thì họp mặt ở phố Đông phủ Tế Nam, nếu ai không đến sẽ bị phạt".

Sau đó, Hùng Tín sai thợ trong trang viện lấy vàng đúc tám vị tiên (bát tiên quá hải) để làm lễ vật.

Trong khi đó hảo hán các nơi được hiệu riêng của Đơn Hùng Tín đều khởi hành đi Sơn Đông.

Nhắc lại Tần phu nhân một hôm nói với chồng là La Nghệ :

- Đến ngày hai mươi tám tháng chín này là ngày ăn mừng thọ đản sáu mươi của gia tẩu thiếp, thiếp đã sắm sửa lễ vật, nay muốn cho ấu nhi đi mừng cửu mẫu thưởng thọ, chẳng hay ý tướng công thế nào?

La công nói :

- Phu nhân nghĩ phải lắm. Ngày mai ta cho a Thành đi thay đưa lễ vật mừng.

Tin ấy đưa ra ngoài bọn Trương Công Cẩn, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, Nam Diên Bình, Bắc Diên Đạo bảy người nghe tin đều muốn đi chúc thọ Tần mẫu. Chúng kéo nhau đến nói với La công tử xin La nguyên soái cho đi.

La Thành vào nói với phụ thân. La Nghệ ưng thuận cho đi. La Thành vào lạy từ thân mẫu, rồi cùng bon Uất Trì bảy người mang lễ vật, nhằm Tế Nam thẳng tiến.

Nhân tiện, cũng nhắc đến Sài Thiệu sau khi tai nạn ở hội hoa đăng, cùng Tần Thúc Bảo chia tay, nay nhớ lời hẹn, xin với Đường công Lý Uyên sang Tế Nam mừng thượng thọ. Lý Uyên nói :

- Năm xưa con gặp Tần ân nhân ở chùa Thừa Phúc, đến khi được tin, cha sai người đến đón thì ân công đã đi rồi. Ơn xưa chưa báo lòng ta còn áy náy. Nay nhân dịp lễ thọ này con nên đi là phải.

Đường công sai lấy một nghìn lạng vàng, một trăm lạng bạc, lại viết thư đưa Sài Thiệu đi Tế Nam.

Tiện đây lại nhắc cả bọn Quốc Viễn, Như Khuê ở Thiếu Hoa sơn.

Được tin của Đơn Hùng Tín hai người đang ngồi bàn biết lấy gì làm lễ vật. Như Khuê nói :

- Năm ngoái đại náo hoa đăng, chúng ta có cướp được một chiếc đèn bằng ngọc châu, lấy cái đó làm đồ mừng cũng được. Tình bạn hữu tâm thành là hơn hết.

Quốc Viễn bằng lòng Đoạn đem đến gói vào hành lý, cùng khởi hành ngay. Một hôm gần tới Sơn Đông thấy bọn La Thành tám ngựa đang phi tới. Không biết La Thành, Quốc Viễn reo to :

- Bọn lái buôn có nhiều hành lý lắm, chắc có nhiều vàng bạc, ta cướp làm lễ vật cũng hay.

Nói rồi phóng ngựa múa đao quát lớn :

- Chúng bay gặp Đại vương đây, phải để hành lý lại, kẻo ta giết hết.

La Thành đang ngứa tay chân, cười khanh khách :

- Đã lâu ta chưa được đánh nhau, nay gặp thằng giặc này thật là cơ hội tốt.

Rồi phóng ngựa lên đánh. Quốc Viễn giơ búa đỡ xoảng một tiếng, ngọn búa bị bật lại phía sau. La Thành thuận tay rút cây ngân hoa giản sau lưng đánh trúng đầu Quốc Viễn. Bị đau quá, Quốc viễn rẽ ngựa chạy vào rừng.

Như Khuê thấy thế múa hai cây lang nha bổng phóng ngựa lại đánh, lại bị La Thành phóng thương đâm trúng vai Khuê. Khuê thấy sức thương của La Thành mạnh quá, cũng rẽ ngựa vào rừng trốn nốt.

La Thành gọi Sử Đại Nại bảo nhặt chiếc Châu Đăng cười sằng sặc :

- Hai tên này ăn trộm gà không xong lại lỗ vốn đấu thóc.

Bọn Quốc Viễn, anh xẻ đầu anh gãy tay, ôm đầu ngựa chạy về con đường nhỏ phương bắc, chừng mươi dặm gặp bọn Đơn Hùng Tín, Bá Dương, Quốc viễn đang đau bỗng reo to :

- Đã có cứu tinh kìa, ta phải trả thù thằng ranh con đó.

Bèn phi ngựa đến, nhảy xuống vái lạy bọn Đang Hùng Tín rồi kể tình đầu. Hùng Tín nổi giận vẫy cả bọn thúc ngựa đuổi La Thành. Nghe tiếng ngựa hí, người reo, La Thành biết là bọn Quốc Viễn trả thù, bèn dừng ngựa, cầm ngang thương mà đợi đánh. Hùng Tín phóng ngựa đến nói :

- Thằng bé con kia sao dám cướp Châu Đăng của hai anh em ta.

Muốn sống thì xuống lạy lão gia tha chết.

La Thành cười chế nhạo :

- Ngươi chưa được nếm ngọn thương này. Hôm nay ta cho biết.

Nói đoạn toan phóng thương đâm. Phía sau, Trương Công Cẩn bỗng nói to :

- La công tử ngừng tay, còn Đơn nhị ca cũng chớ nên nóng nảy.

Hai người đều lùi ngựa lại. Công Cẩn nói với La Thành :

- La công tử không nhớ ư? Tần đai ca thường nói đến một vị ân nhân hảo hán, đó là Đơn Hùng Tín. Vậy Đơn nghĩa sĩ đang ở trước mặt La công tử đó.

Nghe nói La Thành cùng Hùng Tín xuống ngựa vái lạy nhau. Mọi người cùng làm lễ tương kiến đoạn lấy thuốc kim sang buộc vết thương đầu cho Quốc Viễn và vết thương ở cánh tay cho Lý Như Khuê. Máu cầm lại và cơn đau hết ngay lập tức. Đơn Hùng Tín nói :

- Chúng ta hợp cả lại đi Tế Nam một thể cho vui.

Nhắc lại, Vưu Tuấn Đạt tiếp được lệnh tiễn của Đơn Hùng Tín, bèn sai gia tướng sửa soạn lễ vật đi mừng thọ. Trình Giảo Kim nói :

- Đại huynh đi mừng thọ ai. Thử nói ta nghe xem có quen không?

Vưu Tuấn Đạt nói :

- Đó là một tay hảo hán đất Sơn Đông họ Tần tên Quỳnh, chữ là Thúc Bảo. Nay mai khao thượng thọ Tần lão mẫu. Hiền đệ không quen ở nhà đợi ta ít bữa.

Giảo Kim ngửa mặt cười to :

- Tưởng ai, té ra thằng bạn để chỏm của tôi là thằng Thái Bình Lang. Tôi là ân nhân của Tần Quỳnh. Ông thân sinh hắn là Tần Di, trấn thủ Tế Nam bị Dương Lâm bắn chết. Khi đó, Thúc Bảo còn bé tí, mẹ con côi góa ở với mẹ con tôi. Tôi giúp đỡ rất nhiều, sau lớn lên mỗi người đi mỗi ngả, đã lâu lắm không được gặp mặt, nhưng ta nói ra hắn sẽ nhớ ngay.

Tuấn Đạt nói :

- Nếu vậy thì hiền đệ đi với ta mừng Tần lão mẫu. Nhưng dọc đường giữ mồm giữ miệng chớ để tiết lộ ra mà nguy đấy.

Nói xong sửa soạn lễ vật cùng lên yên đi Tế Nam.

Giao Kim đã lâu không cưỡi ngựa vừa nhảy lên yên đã ra roi phỗng như bay chạy qua một trái núi trông thấy toán binh mã của La Thành, Đơn Hùng Tín, Giảo Kim reo lớn :

- Đã có đại phong kia!

Bèn múa búa xông lại quát ầm ĩ. La Thành nói :

- Để tôi cho thằng này một mũi thương.

Nói xong thúc ngựa lên. Giảo Kim giơ búa bổ liền. La Thành gạt búa ra, rụt cây giản đâm trung cánh tay trái Giảo Kim.

Kim kêu lớn :

- Phong khổn! phong khổn!

Tuấn Đạt ở phía sau chạy đến. Đơn Hùng Tín nhận biết Tuấn Đạt bèn gọi La Thành bảo đừng đánh nữa. Hùng Tín giới thiệu Vưu Tuấn Đạt với La Thành. Đạt cũng giới thiệu Giảo Kim với bọn Đơn Hùng Tín.

Mọi người lại lấy thuốc rịt cho Giảo Kim bớt đau ngay lập tức. Cả bọn kéo nhau đến Tế Nam. Tới cách Tế Nam năm dặm, thấy một khách điếm rộng rãi, chúng hảo hán bèn ngẩng nhìn thấy đề ba chữ lớn "Dã liễu điếm".

Hùng Tín bảo mọi người :

- Hôm nay chúng ta hãy tạm nghỉ ở đây. Đợi đông đủ hết mặt, chúng ta sẽ vào thành.

Bèn đưa cả bọn vào quán. Dã Nhuận Phủ, Liễu Chu Thần là chủ quán sai gia nhân dắt một đoàn ngựa vào vườn cỏ sau thả cho ăn uống.

Đoạn mới chư hào kiệt lên lầu. Hùng Tin lại cẩn thận sai trang khách thân tín của mình ra ngả tư đường đón các bạn đi mừng thọ. Trong khi ấy chủ hàng dọn mười thời rượu, cùng nhau ăn uống rất vui.

Cách một lúc, tranh khánh đưa lên lầu bọn Kim Giáp, Đổng Hoàn, Lương Sư Đồ và Đinh Thiên Khánh ở Lạc Châu đến. Mọi người làm lễ tương kiến, Chủ quán dọn thêm một bàn nữa.

Lát sau trang khách lại đưa lên một bọn nữa Sài Thiệu, Quất Đột Thông, Quất Đột Cái, Trình Ngạn Lư, Hoàng Thiên Hổ, Lý Hàn Long, Hàn Thành Báo, Chương Hiến Lương, Hà Kim Tước, Tạ Ứng Đăng, Bốc Hồi Chung, Phi Quật Hỉ, tất cả rầm rộ chào hỏi nhau, bàn kéo ngang, bàn kéo dọc, chủ hàng sai tửu bảo hầu chu đáo.

Thốt nhiên, có hai chiếc kiệu đỗ dưới lầu. Hai vị ung dung bước lên thang.

Đó là Từ Thích, tự Từ Mâu Công và Ngụy Trung. Từ Mậu Công đã bấm nhâm độn biết trước là hôm nay các vị sao trên trời đại hội ở đây để sắp sửa làm nghiêng ngửa triều Tùy, và tự biết ngôi sao thủ mệnh của mình cũng ứng với 3sáu vị Kim Tinh kia, nên rủ Ngụy Trung cùng đến họp, mưu đồ đại nghĩa.

Mọi người vốn đã biết Từ Mậu Công và Ngụy Trung, nay gặp mặt để cùng đi lễ thọ Tần lão mẫu thì vui sướng đứng cả lên chào lạy, đoạn Hùng Tín kéo hai ghế cao nhất mời họ Từ, họ Ngụy ngồi chủ vị.

Dưới lầu, có hai anh em Lỗ Minh Nguyệt, Lỗ Minh Tinh vừa tới.

Chúng từng bao năm tung hoành trên mặt bể, ít đi lại với bọn sơn vương, nên trang khách không biết mà mời lên lầu. Chúng ngồi uống rượu đang cao hứng, lắng nghe tiếng cười nói ầm ĩ ở trên lầu, cũng không hỏi han làm chi, cho là bọn lái buôn nào đó thôi.

Trong khi ấy, Trình Giảo Kim rượu đã ba tuần, say lảo đảo, ngồi ngẫm nghĩ :

- "Khi xưa ta nghèo khổ, cơm chẳng đủ ăn, áo không đủ mặc, ngờ đâu gặp Vưu Tuấn Đạt rủ đi làm nghề lạc thảo, nay được quen các mặt hảo hán trong thiên hạ, thực cũng sướng cho cái thằng Kim quê mùa dốt nát này."

Nghĩ vậy, lòng hớn hở, ngựa mặt cười, chân dẫm mạnh xuống sàn gỗ, làm bụi đổ xuống đầy bình rượu và đầu tóc, em họ Lỗ giặc bể kia.

Minh Tinh nóng nảy vùng đứng dậy thét vang :

- Thằng nào ở trên vô lễ thế?

Trình Giảo kim ngồi ở cai bàn cạnh cầu thang, lại vốn sáng tai, nghe thấy hỏi vậy, bèn hầm hầm nhảy ngay xuống xông tới đánh luôn.

Ngờ đâu Lỗ Minh Tinh vôn là hải tặc khỏe lạ lùng, lừa thế luồn lại nắm được cánh tay Giảo Kim, Kim tức giận không giằng ra được lại phóng tay trái đánh. Lỗ Minh Nguyệt đá ghế đứng lên nắm lấy. Đoạn hai tay, anh em họ Lỗ cứ nhằm mặt mũi, lưng bụng Giảo Kim mà đánh. Giảo Kim quen miệng kêu inh ỏi :

- Phong khổn! Phong khổn! Anh em ơi!

Bọn trên lầu nghe kêu, chạy hết cả xuống. Hùng Tín nhận ra anh em đồng đạo, vội can ngăn. Hai bên bèn xin lỗi, rồi lại cùng nhau kéo cả lên lầu. Hùng Tín thân bắt ghế, mời anh em họ Lỗ cùng ngồi bàn với Giảo Kim. Kim cười nói :

- Các chú miền bể giỏi lắm đó. Lão gia có lời khen.

Anh em họ Lỗ cùng cười :

- Rừng bể không mấy khi gặp nhau, cũng phải đọ sức một tí cho vui chứ.

Mọi người cùng cả cười.

Lại nói chủ quán Dã Nhuận thấy bọn Hùng Tín từ xa đến người ngựa đều lấm bụi, ai cũng có hành lý nặng, tướng mạo thấy đều hung dữ, trong lòng nghi hoặc lắm.

Nhuận Phủ thì thầm với Liễu Châu :

- Bọn này tự đâu kéo đến tụ họp tại đây, người nào trông cũng to lớn như giặc cướp. Ta ngờ là bọn cướp lễ vật của Cô Sơn vương mà hiện nay quan quân đang tróc nã. Để ta vào thành báo cho Tần Quỳnh biết.

Chớ nên lộ chuyện, ta đi đây.

Nhuận Phủ chạy một mạch vào trong huyện, gặp ngay Tần Thúc Bảo. Nhuận Phủ thuật rõ việc ở hàng mình, rồi tiếp :

- Mời ông đến ngay cho. Có lẽ có lẫn cả Trình Đạt, Vưu Kim là hai thằng giặc cướp lễ vật chăng.

Thúc Bảo gọi Phàn Hổ, cả hai cầm khí giới cùng Nhuận Phủ ra khách điếm. Thúc Bảo đi đầu rón rén bước lên thang, chợt trông thấy Đơn Hùng Tín ngồi thẳng trước mắt, vội quay xuống.

Nhưng mắt Hùng Tín nhanh như mắt cáo, trông thấy Thúc Bảo, vội đẩy ghế đứng lên gọi :

- Tần đại ca, chúng đệ ở cả đây. Sao lại nỡ lánh các em?

Thúc Bảo vạn bất đắc dĩ phải quay lên, cùng Phàn Hổ, chào cả mọi người. Đến trước mặt ai cũng vồn vã hỏi thăm, tới Giảo Kim, Thúc Bảo chỉ vái mà quay sang người khác.

Vưu Tuấn Đạt bấm Giảo Kim nói thầm :

- Kìa sao bữa nọ hiền đệ khoe là ân nhân của Thúc Bảo. Sao hắn lãnh đạm với hiền đệ thế?

Bị khích, Kim điên tiết bước lên nắm áo Thúc Bảo mà rằng :

- Mi là đứa tiểu nhân chỉ tôn trọng người phú quý có nhớ đâu ân nghĩa ngày xưa, nên rẻ rúng ta, vậy mà thiên hạ ca tụng ngươi là Tiểu Mạnh Thường thì người ta mù điếc hết.

Thúc Bảo nghiêng mình xá mà cười :

- Chết nỗi, tiểu đệ nào có tội gì, chỉ hiềm nhất kiến chưa biết nói gì với đại huynh đó thôi, chứ Tần Quỳnh này bao giờ cũng lấy lễ nghĩa làm đầu, đâu dám nghĩ sự nghèo già, kính trọng.

Giảo Kim trừng mắt nói :

- Thái Bình Lang không còn được nghe Tần bá mẫu ta nói lại cho nghe, ngày ngươi mới lên năm, mẹ con ta đã xẻ cháo nhường rau cho bá mẫu và ngươi ở Bàn cư chấn? Ngày nay ngươi làm nên, nỡ quên ngay thằng Trình Giảo Kim này!

Thúc Bảo giật nẩy mình vội sụp xuống lạy mà rằng :

- Chết nỗi, Trình đại huynh đó ư? Em ngày đó còn bé dại, lớn lên chỉ nghe thân mẫu nhắc nhủ công ơn mà không biết mặt, nay lòng trời run rủi cho anh em gặp gỡ nhau, em có tội, xin thứ cho em.

Nói rồi lại lạy, Giảo Kim khoái chí ôm lấy Thúc Bảo mà ngửa mặt lên cười sằng sặc, rồi quay lại bảo Vưu Tuấn Đạt rằng :

- Đó Vưu đại ca ơi, ta có nói khoác đâu. Thật là em ta nhé.

Thúc Bảo vui mừng quên cả hiềm nghi, thắc mắc, sai tửu bảo mời cả chủ quán Dã Nhuận Phủ, Liễu Chu Thần lên uống rượu, Thúc Bảo thân đi róc rượu mời khắp lượt anh hùng.

Đến chỗ Đơn Hùng Tín, vô ý vấp phải miếng gỗ ở chân bàn. Thúc Bảo kêu lên một tiếng "ối chao" rỗi khuỵu xuống.

Hùng Tín và mọi người kinh ngạc đứng lên. Tín cúi ôm Bảo dậy :

- Hiền đệ sao lại bị đau đến thế?

Phàn Hổ bèn kể rõ việc nhà vua mất cướp, quan nha truy nã cường đạo, quan huyện đây sai Thúc Bảo đi tầm nã, không được, đã dùng hình phạt nặng nề khiến Thúc Bảo bị thương ở khắp đùi và mình mẩy, chạm vào đau ngay, cho nên ngã.

Hùng Tín cùng mọi người nổi giận nói :

- Trong anh em ta đây ai lấy lễ vật đó, nếu đã là hảo hán thì nói cho nhau biết. Không lẽ được hưởng báu vật để Tần đại ca một mình chịu đau khổ như vậy.

Giảo Kim nói to lên :

- Để lão Trình này nói!

Vưu Tuấn Đạt giật nẩy mình bấm đùi Giảo Kim. Kim quát :

- Sao lại bấm đùi ta? Để lão gia nói cho các bạn biết rằng lấy lễ vật đó chính thằng Trình Giảo Kim này và Vưu Tuấn Đạt kia. Đích thật ta Trình Giảo Kim và Vưu Tuấn Đạt, chứ không phải Trình Đạt, Vưu Kim khỉ tiều nào hết!

Thúc Bảo nghe nói cả kinh, vội bưng lấy mồm Giảo Kim bảo rằng :

- Ân huynh đừng nói câu đó. Người ngoài nghe biết thì chết hết.

Giảo Kim đứng dậy cởi phăng áo, nói :

- Cái thằng Trình Giảo Kim này xưa kia mình trần khố trụi, bây giờ được cùng các hảo hán kết giao thế là thoả chí bình sinh, dẫu chết tù chết chém cũng không ân hận. Miễn là mẹ già nhờ các đại huynh nuôi giúp cho là được. Nay làm nên tội thì chịu tội. Trốn lẩn là hèn nhát. Các ngươi mau mau trói thằng Kim này lại mà giải quan để Thúc Bảo đỡ khổ vì ta, thế 1à hả lắm. Ta đây đội trời đạp đất, không sợ tù ngục, không sợ tra khảo, không sợ chết. Trói ta, mau!

Thúc Bảo nắm chặt tay Giảo Kim, nói :

- Cái nghĩa khí hào hùng của Trình đại huynh đã khiến ngu đệ đây cảm kích và tự thẹn rằng nếu không theo kịp chẳng hóa ra tầm thường, giá áo túi cơm sao. Nay đại huynh tự sả thân cứu tiểu đệ, lẽ nào Bảo này lại nhắm mắt làm điều bất nghĩa đó đối với ân huynh. Cái nhục vong ân bội nghĩa, tham miếng cơm manh áo của quan sẽ khiến nghĩa sĩ trong thiên hạ coi Bảo tôi bằng sâu kiến, vậy xin thề cùng anh em cùng sống chết từ phút này.

Dút lời thò tay vào bọc lấy chiếc thẻ bài đi bắt cướp bẻ làm đôi vất xuống đất, lấy cả giấy phê văn châm lửa đốt.

Bọn Hùng Tin đập bàn ném chén mà reo :

- Hay lắm, hay lắm! Thế mới gọi là hảo hán.

Từ Mậu Công cạn luôn ba chén rượu, hào hứng nói :

- Chư vi anh hùng bốn phương tình cờ gặp mặt buổi hôm nay, thực là không còn dịp khác, Thúc Bảo trưởng huynh và Trình đại ca đã tỏ cái nghĩa khí phi thường như thế, sao không cùng nhau uống máu ăn thề để đồng sinh đồng tử với nhau?

Mọi người đồng thanh đáp :

- Lời tiên sinh dạy thật vàng ngọc. Chúng tôi xin được ăn thề.

Rồi đó, bày hương án, chư hào kiệt viết tên tuổi vào mảnh giấy to, đoạn cùng nhau trích máu tay rỏ cả vào bát rượu lớn đặt trên hương án, đốt trầm nghi ngút, cả thấy ba mươi chín vị anh hùng đều xếp hàng quỳ nguyện :

- Chúng tôi ba mươi chín người, trích máu ăn thề, không nguyện sinh cùng ngày, chỉ thề cùng ngày mà chết, sự lành dữ cùng chịu cho nhau, nếu ai ăn ở hai lòng, trời sẽ hại.

Khấn xong, mỗi người cho chén vào bát rượu máu, uống một chén đầy, không để sánh ra ngoài một giọt.

Đoạn triệt bỏ hương án. Thúc Bảo nói :

- Bây giờ trời đổ tối, các đại huynh nghỉ tạm ở đây, mai sớm vào thành dự tiệc mừng cho lão mẫu.

Nói xong, lạy biệt mọi người, rồi cùng La Thành về nhà riêng. Thấy cửu mẫu, La Thành sụp lạy. Tần mẫu thấy La điệt tướng mạo khởi ngô, da trắng môi đỏ, mày thanh mắt sáng, dáng đi như hổ, tiếng nói như chuông, thực là dòng dõi họ La, họ Tần có khác thường. Tần mẫu mừng lắm, sai dọn rượu, cùng ngồi với cháu uống rượu cho đến khuya, hỏi han việc cửa nhà sau trước.

Hồi 10 Dê tìm cọp, Giảo Kim bị bắt Đánh phụ vương, Thúc Bảo ra tay

Mờ sáng hôm sau, Thúc Bảo sai gia nhân dọn dẹp, quét tước miếu thổ địa ở vườn sau thật sạch sẽ bầy bàn ghế ra để chốc nữa chư vị anh hùng ngồi dự tiệc. Vì Thúc Bảo ngại rằng ngồi ở nhà ngoài người xá dòm nom bàn tán nhiễu chuyện chăng.

Vào quãng gần ngọ, bọn Đơn Hùng Tín kéo nhau đến dâng lễ vật, bạc vàng gấm vóc, chẳng thiếu gì. Chúng hảo hán nói mời lão bá mẫu ra để lạy mừng, Thúc Bảo vào nói với mẹ. Tần mẫu nhất định không ra, chỉ đứng sau bình phong mà nhìn qua khe hở. Thúc Bảo đứng sau mẹ nói :

- Người mặt xanh kia là Đơn viên ngoại. Người mặt xám kia là Trình Giảo Kim. Ông kia là Sài Thiệu, Phò mã Đường công Lý Uyên, còn mọi người là anh em cả, Thân mẫu cứ ra không hề chi.

Ở ngoài bọn hảo hán cho đợi mãi Trình Giảo Kim nóng nảy chạy ngay vào, trông thấy Tần mẫu bèn sụp lạy :

- Thưa bá mẫu, tiểu điệt là Trình Giảo Kim lạy mừng.

Tần mẫu nâng Kim dậy ân cần hỏi :

- Cháu ơi, bấy nay xa cách, ngờ đâu ta còn được sống để trông thấy cháu. Lệnh đường có khỏe không?

Kim đáp :

- Thân mẫu cháu vẫn khỏe, chỉ tội nghèo thôi. Thân mẫu cháu thường nhắc tới bá mẫu luôn. Xin mời bá mẫu ra kẻo anh em cháu ở ngoài đang mong ngóng.

Tần mẫu ngần ngại. Giảo Kim nóng nảy ghé lưng cõng Tần mẫu ra đặt lên ghế cao, nói :

- Lão Trình đã lạy rồi, các đại huynh lễ đi thôi!

Chư anh hùng nhất loạt quỳ cả xuống. Thúc Bảo cũng quỳ lạy đáp lễ tạ ơn các bạn. Sau đó rượu một tuần, Tần mẫu vái tạ ơn Đơn Hùng Tín đã cứu giúp dạo ngày nọ.

Hùng Tín vái lại mà rằng :

- Bá mẫu nhắc chi chuyện nhỏ. Đó là nghĩa bằng hữu đối với nhau có xá kể gì đâu.

Tần mẫu vái lạy cả mọi người, nói :

- Tôi tự xét không tài đức gì, mà phiền các ông không quản xa xôi đến cho lễ vật rất nhiều, già này không biết lấy gì báo đáp.

Mọi người nói :

- Ngày thọ bá mẫu, chúng tiểu diệt phải đến mừng, đó là theo điều lễ nghĩa, bá mẫu nhận cho.

Tần mẫu vào phòng riêng, Thúc Bảo mời mọi người vào sau miếu, ở đấy tiệc đã sẵn bày, rượu hoành tửu, bê béo, thịt sơn dương, đủ các vị sơn cầm dã thú do Phàn Hổ cùng một bọn phường săn đi các ngả đường bẫy hoặc bắn được mang về.

Rượu bốn tuần, gia đinh vào mời Thúc Bảo ra, có các viên kỳ bài ở dinh quan Tiết độ sứ đến mừng lễ thọ. Thúc Bảo xin lỗi các bạn đứng lên một chốc ra nhà ngoài tiếp khách.

Rượu mỗi lúc một thêm hào hứng, tiếng cười tiếng nói vang cả miếu.

Kẻ nói chuyện hải hồ, người nói chuyện triều đình vua chúa, người nói chuyện võ thuật, tiếng cười xen tiếng nói vô cùng huyên náo. Giảo Kim no say hết sức, nghĩ bụng rằng :

- "Trong đám tiệc này chỉ có Đơn Hùng Tín và La Thành là giỏi, nhân tiệc vui, ta xí cho hai anh tỉ võ một trận làm giã tửu thang cũng thú".

Bèn cầm bình xin phép Thúc Bảo đi mời rượu. Đến chỗ Đơn Hùng Tín, Giảo Kim vừa rót rượu vừa ghé tai thầm thì :

- Tiểu đệ bảo cho Đơn huynh biết mà phòng bị, thằng bé con La Thành định đánh đại ca một trân để làm nhục đó. Kim tôi thực thà, phúc hậu nói cho mà biết, kẻo mà trở tay không kịp.

Tín giật mình :

- Sao lại thế, ta có oán thù riêng gì với họ La ở cách ta những ngàn dặm thành trì, sông núi?

Kim rằng :

- Thằng bé con bảo rằng đại ca làm trùm trộm cướp, sức yếu tài hèn, cứ ngồi chễm chệ ở nhà chia của với lũ đàn em. Như vậy là làm bẩn cái danh nghĩa anh hùng, hắn không phục, dọa sẽ đánh đại ca một quyền đủ chết.

Tín máu sôi, gan cháy, mắt nảy lửa, tay nắm chắc, trừng mắt nhìn La công tử ở tít góc đằng kia.

Giảo Kim lại quay mời rượu mọi người, đến chỗ La Thành, Kim rỉ tai nheo mắt, nói :

- Này La công tử Kim này trời sinh ra vốn thật thà nhân đức, thấy công tử sắp nguy đến tính mạng, có lẽ nào lại ngảnh mặt, bưng tai.

La Thành giật mình, nói :

- Có điều gì, Trình lão huynh cho tiểu đệ được biết.

Kim nghiêm trang nói :

- Đơn Hùng Tín hắn bảo rằng công tử khệnh khạng lối con quan, cậy thế cha đốt nhà lương dân, hiếp gái nhà nghèo, làm nhiều điều phi pháp. Hắn ngứa mắt, sắp sửa bẻ đầu công tử vứt ra vườn cho quạ rỉa, rồi mai kia sẽ một mình một ngựa tới phá thành Yên Sơn, làm cỏ cả muôn dân đó. Công tử nên cẩn thận, kẻo hắn quen giết người như ngoé, lại sức khỏe anh hùng vô địch, hắn chỉ đấm một cái hổ cũng chết nữa là công tử.

Nghe nói, La Thành giận sôi sùng sục nhưng mà chỉ cười mà rằng :

- Đa tạ Trình lão huynh. Thành này chưa hề biết sợ ai bao giờ cả.

Rồi đó, bên này trợn mắt nhìn sang, bên kìa trừng mắt nghiến răng nhìn lại, La Thành và Đơn Hùng Tín chỉ muốn đá ghế, đứng phăng lên để giết nhau. Giảo Kim về ghế ngồi liếc mắt nhìn hai bên, trong bụng thích lắm, thỉnh thoảng lại nháy người này, ra hiệu cho người kia, càng khiến hai người càng thêm giận dữ.

Tiệc rượu tạm ngừng. Mọi người đứng dậy ra ngoài vườn cây dạo cảnh. La Thành đi loanh quanh cố ý đón Hùng Tín, vừa hay Tín ở cổng đến bước tới một gốc cây. Hai người chạm mặt trên con đường nhỏ.

Không ai chịu tránh ai. La Thành cứ tiến thẳng, lấy vai hích vào Hùng Tín. Thành đang sức trai mạnh như hùm beo xuống núi, khiến Đơn Hùng Tín lạng người đi. Thành tiến lên hích thêm cái nữa. Tín chưa kịp đứng, lại bị chỗ rêu trơn, ngã ngồi xuống cỏ. Tín vùng đứng lên, quát :

- Thằng ranh con chưa sạch máu đầu, dám trêu ông nội mi à?

La Thành đáp :

- Ta đánh thằng mặt xanh nói láo, có giỏi thì thí võ với ta.

Tín thét lên mua quyền xông vào đánh ngang mặt La công tử.

Thành né mình cúi thấp xuống, rồi đưa hai ngón tay tả lên móc họng, tay hữu đấm vào rốn. Tín lùi lại tránh được tay tả và chưa kịp gạt tay hữu thì La Thành đã tiến lên sát chặt vào mình Hùng Tín mà chập cả hai tay đánh vào ngực theo thế võ sà quyền, "Đồng Tử Hiến Đào". Tín chỉ kịp vớt lại phía sau, sát ngay lưng vào một gốc cây cổ thụ thì nhanh như con trăn gió quăng mình vút cái La Thành đã phi cả người tới phóng chân đá trung bụng Tín.

- Ôi chao! Thằng này giỏi!

Hùng Tín ôm bụng lao đao suýt ngã. La Thành tiến lên toan dùng độc thủ moi cả mắt cả ruột Tín ra, nhưng may sao, Thúc Bảo vừa chạy tới gạt tay La Thành ra. Hùng Tín giận sùi bọt mép :

- Thằng bé con giỏi lắm, Đơn Hùng Tín này thề không cùng họ La đội một trời.

La Thành cười khanh khách :

- Bấy nay mày xưng làm Đại vương, đứng trùm lũ trộm gà, cướp của, không ai đánh mày, mày tự cho là anh hùng lắm. Tao ở xa nghe đã rác tai. Nay tới gần mới biết mi là một thằng kẻ cướp yếu hèn.

Mọi người nghe La công tử sỉ mắng Đơn Hùng Tín đều có tật giật mình, nhìn nhau khó chịu. Thúc Bảo biết ý, mắng em :

- Biểu đệ chớ ngông cuồng nói nhảm!

Thấy biểu huynh nỡ bênh kẻ cường đạo mắng nhiếc mình giữa chỗ đông người, La Thành nín lặng, quay mình chạy lên nhà trên lấy hành lý lạy tạ cửu mẫu, rồi ra chuồng ngựa đóng vội yên cương vào ngựa của mình, nhảy lên phi một mạch về Hà Bắc.

Bọn Trương Công Cẩn, Uất Trì tìm mãi không thấy La Thành có ý lo ngại lắm. Trong khi ấy, Tần mẫu cũng lật đật sai gọi Thúc Bảo cho biết rằng La điệt đã bỏ ra đi. Thúc Bảo giật mình giẫm chân nói :

- Em ta về nói với cô gia, cô mẫu ta, thì còn ra nghĩa lý gì, mà tự nhiên anh em bỗng gây thù oán, ghét bỏ nhau.

Trình Giao Kim cứ tưởng là say rượu đùa chơi một tý ai ngờ to chuyện thì hối hận, vội cầm búa nói :

- Để tôi xin đi kéo La công tử lại.

Đoạn chạy như bay vào chuồng ngựa, lấy một con ngựa tốt phi như gió ra ngoài phố, ra ngoài thành. Trong khi ấy, Thúc Bảo hỏi Đơn Hùng Tín :

- Tại sao mà La biểu đệ dám vô lễ với đại ca?

Hùng Tín thuật lại lời Giảo Kim trong tiệc rượu. Tuấn Đạt đập tay mà nói :

- Thế là cả hai bị lừa rồi. Trình nhất lang vốn có tính bông đùa, trêu cợt để người khác làm trò vui cho hắn được cười, sao Đơn đại ca lại không biết thế đến nỗi sinh ra chuyện lôi thôi.

Hùng Tín đứng ngẩn mặt ra. Từ Mâu Công nói :

- Nếu thế thì Giảo Kim đuổi theo cũng vô ích. La công tử sẽ không trở lại mà hắn cũng không dám nói thực là mình trót dại bông đùa.

Tuấn Đạt nói :

- Tiểu đê đuổi theo xem sao.

Nói đoạn nhảy ngựa đi ngay. Đây nói, ngựa Trình Giảo Kim từ nay đã qua ba mươi dặm, vượt rừng băng núi, chẳng thấy La Thành, mà chỉ thấy một toán quân mã áp tải ba xe lễ vật.

Đó chính là Cô Sơn vương Dương Lâm. Chuyến này tự áp tải ba xe châu báu, quý vật khác vào kinh sư. Sợ cướp mất hai mươi sáu vạn lạng bạc vàng nữa, nên Dương Lâm thân cưỡi ngựa mặc áo giáp đi áp dẫn.

Giảo Kim cứ cho là một tướng già, biết đâu Dương Lâm là một tay cái thế anh hùng nên tự đắc reo lên :

- Đại phong! Đại phong! Lũ kia mau nộp tiền mải lộ.

Ngờ dâu, La Phương đứng sau xe nhận biết mặt Giảo Kim :

- Bám bẩm Đại vương, chính nó đã cướp ba xe châu báu trước của rừng Tràng Điệp đấy.

Nghe nói, Dương Lâm nổi giận, múa tít đôi tu long bổng phóng ngựa ra quát :

- Có phải cường đạo Trình Đạt, Vưu Kim đó?

Giảo Kim nói :

- Lão gia chính là Trình Giảo Kim, anh em bạn với Vưu Tuấn Đạt.

Ngươi đã nghe đại danh ta sao không xuống ngựa mà quỳ lạy?

Dương Lâm nói :

- Thằng giặc này vô lễ! Để mày sống làm gì nữa.

Đoạn xông vào đánh. Dương Lâm chẳng coi súc búa của Giảo Kim vào đâu cả khẽ giơ long tu bổng gạt ra, rồi vươn tay vượn nắm lấy lưng Giảo Kim nhấc cao lên rồi ném xuống đất nhẹ nhàng như bỡn. Bọn La Phương xúm vào trói lại như trói lợn.

Vưu Tuấn Đạt ở nhà Thúc Bảo vừa hay phi ngựa tới, thấy Giảo Kim phải trói nằm gô trên mặt đất, bèn múa thoa xông lại đánh lại mới hai hiệp bị Dương Lâm bắt sống nốt. Bắt xong cường đạo, Dương Lâm cả mừng, hạ lệnh đóng trại giữa đường, rồi truyền trát đi vời hết các quan phủ huyện Tế Nam và mã khoái đến hầu.

Các quan được lệnh sợ xanh mặt, rủ nhau đến hầu Cô Sơn vương.

Trong số đó có quan huyện Lịch Thành Từ Hữu Đức. Đức vào sụp lạy, Dương Lâm đập án hỏi :

- Ở huyện ngươi, tên mã khoái Tần Quỳnh có đến chăng?

Hữu Đức nói :

- Bẩm có, chức mã khoái ấy đang chờ lệnh ngoài dinh.

Dương Lâm sai gọi Thúc Bảo. Một lát, Bảo vào quỳ lạy. Dương Lâm trừng mắt :

- Ngươi nói xin về đón mẹ, sao dám để cô gia chờ đợi mãi?

Thúc Bảo nói :

- Chỉ vì thân mẫu con bị ốm nên chậm trễ, Vương phụ tha cho.

Dương Lâm nói :

-Ngươi đã là con ta thì cha đi đâu, con phải đi đấy. Nay ta vào kinh, cho ngươi được theo hầu. Còn thân mẫu ngươi thì bao giờ trở về sẽ đón.

Thúc Bảo nói :

- Xin cha cho con về lấy khôi giáp đã.

Dương Lâm nói :

- Ngươi muốn lấy khôi giáp cứ viết thư ta sẽ sai người về lấy.

Không dám cưỡng, Thúc Bảo đành lui ra lấy giấy bút, đến một phiến đá bên đường viết hai phong thư đưa cho tên lính dặn rằng?

- Bức thư này ngươi đem đến Dã liễu điếm ở phố Tây môn ngoài thành đưa cho người chủ quán giúp ta. Còn bức này ngươi đem đến mẹ ta rồi lấy khôi giáp, quần áo đến đây. Chớ nên lầm lẫn.

Dương Lâm sai dẫn Giảo Kim, Tuấn Đạt vào hỏi :

- Hai tên kia, làm giặc cỏ ở đâu?

Giảo Kim hăng hái đáp :

- Chúng tôi đội giời đạp đất, không sợ chết. Ngươi giết hai anh em ta sẽ có ba mươi vạn hảo hán và quân sĩ trên núi Thái hành sơn đến giết mi để báo thù cho anh em ta đó.

Dương Lâm nổi giận sai đem chém. Giảo Kim nói cứng, nhưng thấy võ sĩ xông ra thì lại sợ, nháy mãi Thúc Bảo ra hiệu nhờ xin hộ. Bảo bước ra nói :

- Thưa phụ vương cứ giao hai công đạo này cho quan phủ Tế Nam, đợi ngày phụ vương ở Tràng An về sẽ ra tay làm cỏ hết lũ công đạo Thái Hành sơn, khi đó sẽ giết hai tên này phơi đầu giữa chợ để tỏ cái uy của phụ vương, sau để cho quân đạo tặc phải kinh hồn.

Dương Lâm khen phải truyền giao giặc cho quan phủ giữ.

Sau đó hồi lâu tên lính mang thơ đã đem khôi giáp và quần áo đến cho Thúc Bảo. Dương Lâm truyền kéo binh đến thẳng Tràng An.

Đây nói bọn Đơn Hùng Tín được thư Thúc Bảo, biết tin Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt bị Dương Lâm bắt, lại được biết Thúc Bảo phải cưỡng ép theo đi kinh sư, chúng hảo hán đều kinh ngạc, sau cho đi do thám, được biết nữa rằng họ Trình, họ Vưu hiện bị giam giữ trong phủ Tế Nam chờ Dương Lâm về sẽ giết. Mọi người bàn mưu kế để cứu Giảo Kim và Tuấn Đạt.

Từ Mậu Công nói :

- Muốn cứu hai người ra thoát ngục, tất cả chúng ta phải phá cả đất Sơn Đông này mới được.

Đơn Hùng Tín nói :

- Chúng ta vừa uống rượu thề chưa ráo chén tất phải cứu bạn ngay dù phải tan xương nát thịt cũng không từ.

Từ Mậu Công nói :

- Nếu vậy, tôi xin các anh em phải theo tướng lệnh và phải có quân pháp rõ ràng. Bằng không thì lỡ đại sự mà thành ra xuẩn động dắt nhau vào chỗ chết.

Đơn Hùng Tín và mọi người đồng thanh nói :

- Chúng tôi cùng một lòng tuân theo tướng lệnh của Từ lão huynh.

Mậu Công nghiêm mặt nói :

- Đó là điều cốt yếu. Chỉ lo không đồng lòng chung sức mà thôi. Đã có kỷ luật lại cùng sinh tử thì việc gì cũng phải thành. Duy ở đây có Sái Phò mã, không nên dính vào việc này e có liên can đến Đường công ở Thái Nguyên. Vậy nên về trước để anh em hành sự.

Sài Thiệu nghe theo, tức thì cùng gia tướng bái biệt chư hào kiệt, lên đường về Thái Nguyên ngay. Rồi đó, Mậu công chia công việc :

- Đơn Hùng Tín đại ca giả làm lái ngựa, đem tất cả ngựa của anh em vào thành thả sẵn ở vườn cỏ nhà Tần Thúc Bảo, mà ngựa phải sẵn yên cương, mỗi ngựa một tên lính dắt chờ sẵn khi dùng cấp tốc. Còn Dã Nhuận Phủ, Liễu Chu Thần thì lấy mười cái bàn xếp đoản đao, cung tên, khôi giáp của anh em cho gia nhân khiêng vào nhà Tần Thúc Bảo, lại cần sai lấy mấy chục cây tre lớn bỏ khí giới vào trong cũng khiêng đến vườn nhà Thúc Bảo. Còn các hảo hán thì nhân trời tối lẫn với dân chúng đi đốn củi, đánh trâu về mà vào cả trong thành, cũng hội cả ở nhà Thúc Bảo.

Các hảo hán nghe lệnh, thi hành răm rắp. Khi đã vào thành thì trời tối mịt. Mậu Công sai mời Tần mẫu ra, nói hết sự tình Thúc Bảo phải theo Dương Lâm, Trình Giảo Kim, Vưu Tuấn Đạt bị cầm tù, đêm nay thế nào cũng phá ngục giết quan quân nên mời Tần mẫu cùng gia quyến tạm lánh ra Tiểu cô sơn.

Tần mẫu luống cuống thu thập hành lý đi liền. Mậu Công lại bảo nha tướng quen thân với Phàn Hổ vào trong ngục bảo trước cho bọn Tuấn Đạt, Giảo Kim biết trước, hễ nghe pháo hiệu thì hạ thủ ngay, sẽ có một người tiếp ứng.

Xong rồi, Mậu Công sai Đơn Hùng Tín đem quân ra Hoàng Thổ Công mai phục, chờ quan quân đuổi theo thì ngăn đánh.

Lại sai Lỗ Minh Tinh, Lỗ Minh Nguyệt, giả làm hành khất theo kế dặn mà làm việc. Bọn đi cướp ngục là Sử Đại Nại, Trương Công Cẩn, kèm sau là bọn Quất Đột Thông, Quất Đột Cái, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, người nào cũng dắt đồ dẫn hỏa.

Đánh phá cửa dinh Tiết độ có Bá Dương, Ứng Đăng. Phá cửa phủ cứ Như Khuê Quốc Viễn, Đổng Hoàn, Kim Giáp.

Lại sai Ngạn Sư, Thiên Hổ chặt khóa mở cửa tây ra để dọn đường chạy, hết thảy đều theo pháo hiệu mà đánh phá.

Mậu Công, Ngụy Trung ngồi ở nhà Thúc Bảo chờ anh em khởi sự thì xông ra. Chờ đến canh hai, cả thành an ngủ lặng như tờ, hai anh em Lỗ Minh Nguyệt giả làm hành khất ngủ ngoài hè phố. Chúng dò dẫm đến cửa đông phủ trèo lên ngọn bảo tháp, lấy pháo ra đốt ném tung lên trời đêm sáng rực cả một phương. Các hảo hán đã sẵn sàng, nghe tiếng pháo đều giở tay một lúc.

Phía cửa nam, Đột Thông, Đột Cái phóng hỏa cùng một lúc với Uất Trì Nam, Trì Bắc ở cửa đông.

Dân chúng giật mình, biết có giặc phá thành kêu khóc vang trời dậy đất. Giữ việc phá ngục, Trương Công Cẩn, Sử Đại Nại, Phàn Hổ, Liên Minh, nhân lúc rối loạn, rút ngay khí giới giết ngục tốt và cai ngục. Trong kia, Giảo Kim, Tuấn Đạt đập gẫy gông, reo ầm ĩ.

- Các phạm nhân oan khổ hay không oan khổ, đã thành án hay chưa thành án khá theo ta phá ngục mà tự giải thoát mau!

Chúng tội nhân đều tìm dao, vớ búa, bẻ cánh cửa xông ra hò reo như con ong vỡ tổ, gặp ngay các hảo hán vừa kéo đến. Giảo kim, Tuấn Đạt tiếp được mũ giáp, bèn nai nịt gọn ghẽ nhảy lên ngựa, kẻ múa búa, người tung chùy đánh giết bọn quan quân chết lăn ra như rạ.

Trong khi ấy pháo nổ cả bốn mặt thành, tiếng người khóc giặc reo, cả một thành Sơn Đông náo động, bỗng chốc biến ra địa ngục.

Chúng anh hùng giẫm lên máu, nhảy lên xác, ngựa phi như dông bão trong khói, lửa cháy ngun ngút trên các mái nhà, thì trời sáng mờ mờ, Tiết độ sứ Đường Bích và tri phủ Mạnh Hồng công đem quân đuổi ầm ầm như sóng bể gió ngàn.

Hùng Tín giữ việc cản quan quân. Nhưng chúng đông trùng điệp, một mình Tín không đương nổi. Đang khi nguy cấp, Bá Dương phi ngựa tới, ngựa Bá Dương tới đâu, quan quân rụng đầu đến đấy, chỉ mấy trăm đường đao sáng lóe ngời, Bá Dương đã liên lạc được với Đơn Hùng Tín.

Tri phủ Mạnh Hồng cố sức đuổi theo, bị Bá Dương quay mình phát một mũi tên. Mạnh Hồng rơi cả mình xuống đất, ngựa dẫm nát đầu mà chết. Quan quân hoảng hốt xô nhau lui chạy về thành.

Ngoảnh lại chỉ còn đường rộng thênh thang, và mặt trời đã mọc, Bá Dương, Hùng Tín vào Tiểu cô sơn phục lệnh. Mậu Công kiểm điểm không thấy mất tướng thiệt quân, mừng lắm. Sau đó lại lập kế cho mọi người về đón gia quyến đến Tiểu cô sơn tụ nghĩa. Ba ngày mở tiệc mừng, lại yết bảng chiêu binh, mãi mã. Đường Bích không đánh được giặc, uất ức lui về nghe tin quân báo rằng bọn công đạo phá Sơn Đông đêm qua đã tụ tập ở nhà Tần Thúc Bảo. Và chính Thúc Bảo đã đem gia quyến đi rồi. Cả kinh, Đường Bích thân cỡi ngựa đến nhà Thúc Bảo khám xét, thấy trên tường ngôi đền cổ sau vườn còn nguyên tấm giấy ghi tên Thúc Bảo và ba mươi tám vị anh hùng nữa đã cùng nhau uống máu ăn thề.

Sở dĩ có giấy ăn thể ấy ở nhà Thúc Bảo, là do ý Từ Mậu Công làm kế ly gián không muốn Thúc Bảo trở về thành nữa. Nhưng Mậu Công đã khôn ngoan xóa tên Sài Thiệu và La Thành. Đường công viết biểu, đính tờ kết nghĩa kia vào, rồi sai người về kinh đô dâng lên Dạng Đế.

Trong khi ấy, Cô Sơn vương Dương Lâm đã tới kinh sư, tâu Dạng Đế phong Tần Thúc Bảo làm Thái bảo thứ mười ba.

Tan chầu về, nha tướng dâng thư của Đông Bích, Dương Lâm xem, thấy Thúc Bảo dính vào sự phản nghịch, phá ngục, phản tù, cướp hết của kho, giết hại hơn vạn dân lẫn ngục tốt và viên chức phủ nha. Dương Lâm giật nảy mình, bèn phát lệnh tiễn đi vời Tần Quỳnh đến. Nha tướng là Trương Nghĩa, xưa bị tội tử tù đã nhờ Thúc Bảo cứu cho khỏi chết lại thả cho đi trốn nên ngày nay còn mang ơn đó. Cho nên Nghĩa tìm Thúc Bảo ghé tai nói thầm :

- Mạt tướng trước kia nhờ ân công mới được sống sót, nay biết rằng Đường Bích đã dâng biểu kèm tờ kết nghĩa, kể tội ân công mưu với Đơn Hùng Tín đánh phá Sơn Đông. Hiện Cô Sơn vương sai mạt tướng đi vời ân công đến định tội, xin bỏ nới này mà đi ngay kẻo tính mênh khó toàn vẹn đó.

Thúc Bảo cả kinh, đứng lên xá Trương Nghĩa tạ ơn và nói :

- Bỏ kinh đô thì dễ, duy qua cửa Đồng quan mới khó. Làm sao bây giờ, ông có kế hay chăng?

Trương Nghĩa cúi đầu nghĩ, rồi quả quyết :

- Tiểu đệ không nợ thê nhi, không vướng thân quyến, xin bỏ chức theo hầu ân công. Hiện trong mình có lệnh tiễn đây, sẽ có cách lừa tướng giữ Đồng quan mà chạy được.

Thúc Bảo cả mừng. Hai người lên ngựa nhắm Đồng quan thẳng tới.

Cô Sơn vương ngồi đợi mãi, nóng ruột, sai mấy gia tướng nữa đi đòi, một lát kẻ bộ hạ về trình: hai người đã vượt Đồng quan đi trốn.

Dương Lâm thét to một tiếng mặc vội giáp, cầm long tu bổng phóng ngựa đuổi theo. Ngựa long câu của Thúc Bảo chạy như bay, nếu ngựa của Trương Nghĩa cũng là giống ngựa hay nên thì Dương Lâm đuổi sao kịp.

Vì thế, đã bốn năm lần, Thúc Bảo phải gò cương chờ Trương Nghĩa. Bất ngờ ngựa của Dương Lâm đã đuổi kịp sát gần Thúc Bảo, gọi rằng :

- Tần Quỳnh hãy đợi ta!

Biết thế nguy, Thúc Bảo ghé tai Trương Nghĩa :

- Ngươi nên khôn khéo lừa mở ải Đồng quan, đợi ta cầm cự với thằng giặc già này, rồi sẽ tới.

Trương Nghĩa vừa đi thoát thì Dương Lâm tới :

- Sao Tần Quỳnh nỡ phụ lòng ta? Ngươi định trốn đi đâu? Nên trở lại với ta mà hưởng lộc cao tước lớn.

Thúc Bảo nói :

- Ta với người không tình nghĩa, mà chỉ nặng oán cừu. Nếu muốn thì hãy nếm ngọn thương này.

Dương Lâm nổi giận :

- Súc sinh vô lễ!

Bèn múa long tu bổng đánh như vũ bão Thúc Bảo đem hết sức bình sinh đón đỡ, vì đã biết Dương Lâm là con cọp xám, sức mạnh vô cùng.

Đánh chừng ba mươi hiệp, Thúc Bảo muốn giữ sức để đi cho thoát, bèn phi ngựa chạy. Nhưng chừng mười dặm vẫn thấy Trương Nghĩa còn đằng xa chưa tới ải. Thúc Bảo lại phải quay lại cầm cự, cốt chờ cho Trương Nghĩa tới Đồng quan.

Đánh chừng hai mươi hiệp nữa dưới ánh trăng lờ mờ, Thúc Bảo dừng thương nói :

- Dương Lâm ơi, người chưa biết ta là ai đó nhỉ?

Dương Lâm nói :

- Bất quá ngươi là tên Mã khoái, chứ là chức tước gì mà dám hỏi rác tai ta.

Thúc Bảo nói :

- Ta cần nói cho lão già kia biết. Ta đây là con của quan Võ vệ tướng quân tiền triều tên gọi Tần Di đó. Phụ thân ta bị chết bởi tay ngươi, thù ấy ta thề phải báo. Sở dĩ ta nghiến răng nhận ngươi làm nghĩa phụ ấy là dụng ý tìm cơ hội giết ngươi.

Dương Lâm không thể nghe nói hết, gầm lên một tiếng, giơ long tu bổng đâm liền, Thúc Bảo lại đối địch chừng mươi hiệp ngảnh lại thấy Trương Nghĩa đã mất hút phía chân trời liền thúc ngựa chạy. Dương Lâm không chịu bỏ, vẫn đuổi theo.

Phía sau, tiếng vó ngựa vỗ rầm đường: mười hai vị Thái bảo cũng đuổi theo giúp phụ vương. Khi đó trăng sương mờ mịt, gió lạnh đêm trường, ngựa Thúc Bảo chạy đến cầu Bá Long. Cầu đó vừa cao vừa rộng, nhìn xuống dòng sâu thẳm, bóng trăng soi lờ mờ mặt nước, thuyền bè tuyệt nhiên không có mà cầu lại cụt.

Thật là muôn phần nguy kịch. Thúc Bảo ngửa mặt lên trời mà than :

- Phụ thân ơi, kẻ thù xưa giết phụ thân nay lại định giết con. Nếu không may con chết nốt về tay nó thì dòng máu họ Tần thật hết!

Dứt lời than trăng bỗng sáng lên. Nhờ vậy Thúc Bảo trông thấy rõ Dương Lâm đang phi ngựa tới, chàng bèn rút nên bắn trúng đầu Dương Lâm làm rơi chiếc khăn hồng xuống nước, một mảng tóc cũng băng theo.

Dương Lâm giật nảy mình, sợ thần tiễn của Thúc Bảo, ở trên cao bắn xuống đã lợi hại lại thêm nỗi trời mờ mịt khó mà tránh khỏi tên, nếu Thúc Bảo còn bắn nữa. Bởi thế Dương Lâm quay ngựa trở về. Ngay lúc đó, mười hai vị Thái bảo rong ngựa tới. Chúng hỏi :

- Sao phụ vương không bắt sống phản thần?

Đáp rằng :

- Cường đạo ở trên cao lợi thế. Ta lên tất bị nguy.

La Phương, Tiết Lương nói :

- Phụ vương đứng sau tiếp ứng, để hai con lên bắt nó dễ như chơi.

Bất ngờ vừa thúc ngựa tới đầu cầu đã bị Thúc Bảo bắn liền hai mũi tên xuống, La Phương, Tiết Lương rơi xuống ngựa.

Dương Lâm sai vực hai con nuôi dậy, nói :

- Để cho nó đứng đấy đến mai. Nó mọc cánh cũng không qua được ải Đồng quan.

Thế rồi dưới trông lên, trên nhìn xuống, cầm giữ nhau cho tới canh năm, trăng đã tà tà lặn. Thúc Bảo sực nghĩ ra một kế, cởi chín nhạc vàng ở cổ ngựa treo vào lan can cầu. Gió khuya trên sông lạnh thổi vào lòng nhạc reo lên như ngựa chạy. Thúc Bảo khẽ vỗ má ngựa cho đi nhè nhẹ đến đầu cầu bên kia rồi quất mạnh một roi ngụa chồm vó bay vút sang bờ sông, phi như gió vào đêm tối, thẳng tới Đồng quan ải.

Nhắc đến Trương Nghĩa tới Đồng quan, nhảy xuống ngựa cầm dùi trống khua ba hồi liền. Tướng giữ ải là Ngụy Văn Thông vội ra nghênh tiếp. Trương Nghĩa giơ lệnh tiễn ra nói rằng :

- Cô Sơn vương nghe tin một bọn cường đạo phá Sơn Đông, nên đang đêm sai vị Thập Tam Thái bảo là Tần Quỳnh cùng tôi đi trước, hậu quân đang do Cô Sơn vương cầm đầu đang đến sau kia, mở cửa ải kẻo việc quân chậm trễ, Đại vương đến sẽ nghiêm phạt đó.

Ngụy Văn Thông soi lệnh tiễn vào đèn, quả thấy chữ vàng ấn son, liền phát thìa khóa cho mấy tên lính canh mở rộng hai cánh cửa.

Vừa may mắn Thúc Bảo phi ngựa tới, cùng Trương Nghĩa vọt qua.

Ngồi trên yên, Thúc Bảo quay lại bảo :

- Xin lỗi tướng quân, ta vội lắm không xuống được, Đại vương đi sau đấy.

Hai ngựa rời khỏi Đồng quan chạy biến vào đêm trường lặng lẽ.

Mây đen che kín vầng trăng lạnh. Tiếng cú kêu não ruột trên cánh đồng mù mịt và bóng rừng cây, núi cả chập chờn.

Đi được hai mươi dặm, thì trời sáng rõ, Thúc Bảo chia tay đi Sơn Đông, còn Trương Nghĩa đi Tào Châu.

Đây nói cha con Cô Sơn vương Dương Lâm đợi đến gần sáng rõ, mới thấy cầu đá vắng tanh chỉ còn chuỗi nhạc buộc lan can, Dương Lâm tức giận, bố con một đoàn đuổi tới Đồng quan ải thấy Nguy Văn Thông đứng bên đường, xuống ngựa mà nghênh đón.

Dương Lâm hỏi :

- Cường đạo Tần Quỳnh có qua đây không?

Nguy Văn Thông đáp :

- Bẩm Thập Tam Thất Bảo vừa có lệnh tiễn ra khỏi Đồng quan.

Dương Lâm vỗ đùi mà thét :

- Thôi thế là tất cả bọn mắc kế Tần cường tặc, ta tức chết mất thôi.

Nói rồi, sai Ngụy Văn Thông là tay anh hùng thứ mười bốn đời Tùy.

Hắn mặt đỏ tai to, râu dài chấm rốn nên người ta gọi là Thái quan gia.

Văn Thông vâng lệnh đem quân đi đuổi, chừng tới sáng rõ, thấy Thúc Bảo đang phi ngựa vượt đèo, Ngụy Văn Thông tế ngựa theo nói to lên :

- Cường đạo dám lừa ta, mau xuống ngựa đưa đầu cho ta đem về nộp Đại vương.

Thúc Bảo đã đánh nhiều, lại thức suốt đêm trên cầu sương gió lạnh, nên mệt mỏi, mắt hoa đầu váng, sức đã đuối dần. Thúc Bảo bất đắc dĩ phải quay ngựa đánh, chừng mươi hiệp lại phi ngựa chạy. Văn Thông đuổi sát sau lưng, thét vang một tiếng phóng luôn ngọn kích vèo tới gáy Tần Thúc Bảo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #panelka