Thuỷ Hử Truyện (hồi 51 đến 70)
Thuỷ Hử Truyện
Dịch giả : Á Nam Trần Tuấn Khải
Hồi 51
Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích
Sài Tiến bị hãm Cao Đường Châu.
Khi đó Chu Đồng nói với mọi người rằng:
- Nếu các ngài có lòng cho tôi cùng lên sơn trại, thì xin giết tên Hắc Toàn Phong đi mới được ...
Lý Quỳ nghe nói, cáu lên mà rằng:
- À, Anh định giết tôi sao? Việc này là Tướng lệnh của Tiều Cái, Tống Giang chứ việc gì đến tôi mà...
Chu Đồng cũng hăm hăm giận dữ toan xông đến đánh nhau ngay. Hai người kia lại phải túm vào mà khuyên ngăn mãi.
Chu Đồng bảo với ba người kia rằng:
- Nếu có Hắc Toàn Phong ở đó, dẫu chết, tôi cũng không lên sơn trại.
Sài Tiến nói:
- Cái đó thì dễ lắm, để Lý Đại Ca ở đây với tôi, còn ba các ông cứ về sơn trại, cho Tiều Cái, Tống Giang bằng lòng là được rồi.
Chu Đồng nói:
- Hiện nay đã xảy ra sự thể như vậy, chắc là Quan Phủ tư giấy về huyện Vận Thành, mà tróc nã cả nhà tôi, thì làm sao cho đặng?
Ngô Dụng bảo:
- Xin ngài cứ an tâm, có lẽ bây giờ Tống Công Minh đã cho đón quý quyến lên sơn trại rồi đó.
Chu Đồng nghe nói đến đó, mới hơi thư tâm một chút, Sài Tiến bèn sai đặt tiệc thiết đãi Chu Đồng cùng Ngô Dụng, Lôi Hoành rồi chiều hôm đó ba người cùng từ tạ mà đi lên sơn trại, Sài Tiến đóng ba cỗ ngựa, để đưa ba người ra đến cửa quan.
Khi sắp sửa ra đi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ dặn mà bảo rằng:
- Ngươi ở nhà Đại Quan Nhân đây, tất phải giữ gìn cẩn thận, không nên ngông ngáo làm càn, rồi trong một vài tháng nữa, đợi khi Chu Đồng bớt giận, bấy giờ sẽ đón ngươi về sơn trại, mà mời Đại Quan Nhân đây, sẽ lên nhập đảng một thể.
Lý Quỳ nghe nói vâng lời bái biệt quân sư. Đoạn rồi Ngô Dụng, Lôi Hoành cùng Chu Đồng bái biệt Sài Tiến mà cùng nhau đi lên Sơn Bạc. Khi ra khỏi địa phận Thương Châu, ba người giao ngựa cho trang khách đem về, rồi cùng nhau xuống bộ mà đi. Được ít lâu về tới hàng rượu Chu Quý, liền sai người lên báo cho sơn trại biết.
Tiều Cái, Tống Giang nghe báo cả mừng. Dẫn các Đầu Lĩnh dóng trống mở cờ, cùng nhau ra bến Kim Sa để đón. Ngô Dụng và Lôi Hoành đưa Chu Đồng vào đến bến Kim Sa, cùng các vị Đầu Lĩnh thi lễ, rồi cùng nhau lên ngựa, đi vào Tụ Nghĩa Sảnh, mà chuyện trò mọi nỗi hàn huyên.
Chu Đồng nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi nay được các ngài có lòng hạ cố cho đón lên đây, thực là cảm ơn vô hạn, song hiện còn gia quyến ở nhà, nếu nhất lỡ Quan Phủ tư giấy lôi thôi bắt bớ, thì biết lấy ai mà cứu cho ra mới được?
Tống Giang cười mà đáp rằng:
- Bà chị cùng cháu tôi đã đưa lên đây lâu rồi, huynh trưởng còn điều chi mà ngại?
Chu Đồng hỏi:
- Hiện nay ở đâu, xin Đầu Lĩnh cho tôi được biết?
Tống Giang đáp:
- Hiện ở với thân phụ tôi đó, xin huynh trưởng qua thăm một chút cho được yên tâm.
Nói đoạn đưa Chu Đồng đến chỗ Tống Thái Công ở, rồi gọi vợ con Chu Đồng ra để cùng nhau trò chuyện.
Vợ Chu Đồng nói với chồng rằng:
- Mấy bữa nay có mấy người đem giấy đến nói rằng: Tiêt Cấp đã nhập đảng ở Lương Sơn, và giục tôi phải xếp dọn hành lý mà lên đây ngay lập tức. Nhân vậy tôi phải đến đây, song đợi mãi không thấy Tiết Cấp về đây, nên không biết đầu đuôi ra sao mà nói.
Bấy giờ Tống Giang mới đem lời trung trực mà xin lỗi với vợ chồng Chu Đồng, rồi mời Chu Đồng cùng Lôi Hoành xuống đóng trại ở dưới núi, và nhất diện sai mở tiệc để ăn mừng.
Bắc Nam buộc mối thâm tình,
Rồi đây nước biếc non xanh còn dài,
Cùng nhau ngang dọc ở đời,
Trăm năm chỉ thẹn với lời bình sinh.
Nói về Quan Phủ Thương Châu đêm hôm ấy không thấy cậu ấm về, thì trong lòng lấy làm nóng nảy lo sợ, liền cho người đi tìm kiếm khắp cả mọi nơi. Đến sáng hôm sau thấy người về báo, là cậu ấm đã bị giết, và hiện còn bỏ xác ở trong khu rừng đó.
Quan Phủ nghe báo như sét đánh ngang tai, lập tức theo đến khu rừng để khám nghiệm. Khi tới nơi thấy con trai nằm chết ở đó, thì vật mình lăn khóc hồi lâu, rồi sai người sửa quan để đem chôn. Đoạn rồi tư giấy sang huyện Vận Thành, tư đi các nơi để dò bắt Chu Đồng. Cách mấy hôm sau thấy công văn huyện Vận Thành tư sang nói rằng:
- Chu Đồng đã đem cả gia quyến mà trốn đi đâu mất.
Còn về phần Lý Quỳ ở bên Sài Tiến, thấm thoát đã hơn một tháng rưỡi, chợt một hôm có một người ra dáng hối hả, đem một phong thư đến cho Sài Đại Quan Nhân.
Sài Tiến xem thư cả kinh mà rằng:
- Nếu vậy thì ta phải thân hành ra đi một phen mới được.
Lý Quỳ hỏi:
- Đại Quan Nhân có việc gì cần cấp như vậy?
- Tôi có một ông chú là Sài Hoàng Thành, hiện ở Cao Đường Châu, nay bị tên Ân Thiên Tích là anh em vợ của Tri Phủ Cao Liêm đến chiếm cứ vườn hoa, làm cho chú tôi phải tức tối, mà đâm ra sinh bệnh, nguy hiểm đến nơi, nay tính mệnh cơ hồ khó sống, nên mới gọi tôi sang đó để dặn dò công việc về sau. Vả chưng chú tôi lại không có con cái gì, thế tất tôi phải sang ngay mới được.
- Đại Quan Nhân định đi, tôi xin theo ngài cùng đi một thể có được không?
Sài Tiến nói:
- Nếu Đại Ca cũng đi một thể cho vui, thì còn gì hơn nữa?
Nói đoạn liền sai người sửa soạn hành lý, chọn mười lăm con ngựa tốt, và chọn mấy người trang khách thạo việc, rồi sáng hôm sau cùng nhau lên ngựa ra đi.
Khi tới Cao Đường thẳng vào trong phủ Sài Hoàng Thành. Sài Tiến để Lý Quỳ cùng đám người nhà, ở ngoài nhà ngoài rồi một mình vào nhà trong thăm chú.
Sài Tiến vào đến trong phòng hỏi thăm bệnh tình, rồi ngồi vào ghế ở bên cạnh nằm, mà nức nở khóc không thôi.
Người vợ kế Sài Hoàng Thành chạy ra khuyên giải mà rằng:
- Đại Quan Nhân đi đường khó nhọc tới đây, hãy xin thư tâm an nghỉ, chớ vội lo nghĩ phiền não làm chi?
Sài Tiến gạt nước mắt mà thăm hỏi đầu đuôi mọi lẽ. Người vợ kế Sài Hoàng Thành đáp rằng:
- Ở đây có Tri Phủ mới đến, tên là Cao Liêm, anh em thúc bá với Cao Thái Úy ở Đông Kinh, kiêm giữ binh quyền bản phủ, nương cậy thế anh, uy quyền rất là lộng lấy. Hắn nuôi một người anh em vợ là Ân Thiên Tích, vẫn thường gọi là Ân Trực Các, tên này tuổi tuy còn nhỏ, song ỷ thế Tri Phủ mà làm càn làm dở, vô sở chí. Sau nhân có mấy đứa hùa đảng, tâu nộp với hắn là nhà ta có vườn hoa rất đẹp, lại có Thủy Đình ỏ trong, hắn bèn dẫn đến hai ba mươi đứa gian đồ vào đây để xem, rồi bắt nhà ta phải dời đi chỗ khác, cho hắn đến ở đây. Hoàng Thành thấy vậy, có bảo hắn là nhà ta vốn dòng dõi kim chi ngọc diệp, hiện có đơn thư thiết khoán của hoàng triều, không có phép nào đến đây mà ăn hiếp thế được? Ngờ đâu thằng cha ấy nhất định không nghe, bắt nhà ta phải dọn đi ngay lập tức. Hoàng Thành phẫn uất mà sinh ra bệnh, cơm cháo không ăn, thuốc men vô ích. Đến bây giờ chỉ còn thiếu một phần chết nữa thôi, nếu không có Đại Quan Nhân sang đây, thì công việc thực là rắc rối, không còn biết trông cậy vào đâu cho được?
Sài Tiến nghe nói thở dài mà rằng:
- Thôi thím cứ yên tâm, cố tìm thầy mà thuốc men cho chú, sau nó có nhũng nhiễu điều chi, cháu khắc cho người về Thương Châu đem đan thư thiết khoán đến đây rồi ta sẽ liệu. Cho dẫu đến ngay trước mặt Thiên Tử cũng không sợ gì cả.
Người thím cảm ơn mà rằng:
- Nếu vậy các công việc, xin Quan Nhân cáng đáng giúp cho, chứ như bây giờ còn làm gì được nữa?
Sài Tiến vâng lời, ngồi trông nom hầu chú hồi lâu, rồi trở ra nhà ngoài nói chuyện cho Lý Quỳ cùng mọi người được biết...
Lý Quỳ nghe vậy, nhảy lên mà rằng:
- Quân ấy thế thì vô lý quá, tôi có đôi đại phủ, để tôi sửa cho nó một bữa đã, rồi sẽ liệu...
Sài Tiến gạt đi mà rằng:
- Lý Đại Ca không nên vội nóng, mình cần chi mà phải đối đầu với nó, dẫu nó ỷ thế là càn, song nhà tôi hiện có sắc chỉ của vua, can chi phải nói với nó?
Còn chỗ kinh sư to bằng mấy nó, khắc là công việc phải phân minh có lẽ nào ta sợ.
- Ối chà! Luật với pháp thì làm gì...Nếu nó dùng được pháp luật thì thiên hạ đã không đến nỗi rối loạn? Tôi đây thì cứ đánh trước rồi mới nói, nếu nó còn thưa kiện ở đâu, thì chém luôn một lũ quan ranh ấy đi một thể chứ cần gì?
Sài Tiến nói rằng:
- Không trách Chu Đồng với Đại Ca không yên với nhau được. Ở đây là chốn cấm thành, có phải đâu như sơn trại nhà bác mà làm liều được hay sao?
Lý Quỳ nói:
- Cấm thành mà làm gì? Ở Giang Châu, ở Vô Vi Quân, dễ thường tôi không giết người đấy hẳn .
Sài Tiến lại mà rằng:
- Được, hãy để tôi xem sao đã...Nếu vô sự thì xin bác hãy cứ ngồi yên đây cho, thế là tốt rồi...
Đương khi nói chuyện, bỗng thấy mấy người tỳ thiếp hất hải chạy ra mời Sài Tiến vào phòng Hoàng Thành.
Sài Tiến chạy vào tới nơi, thấy Hoàng Thành dàn dụa đôi hàng nước mắt, nói với cháu rằng:
- Cháu là một người chí khí hiên ngang, không thể để nhục đến tổ tiên ngày trước, ta nay bị Ân Thiên Tích hiếp bách quá chừng, khó lòng sống được, vậy cháu xin nghĩ đến tình xưa, đem thư vào kêu với Thánh Hoàng để báo thù cho ta, ta đây dẫu thác xuống suối vàng cũng được cảm ơn đôi chút.
Nói xong nấc lên một tiếng, rồi nhắm mắt buông tay mà về nơi tiên giới. Sài Tiết thấy vâïy mà ôm chú khóc lóc kêu gào rất thảm thiết . Người thím sợ khi Sài Tiến quá thương nên bệnh, vội lấy lời uyển chuyển mà than rằng:
- Đại Quan Nhân chớ nên phiền muộn làm chi, phải yên tâm mà lo liệu việc nhà mới được.
- Hiện nay giấy má còn để ở nhà tôi cả,tất phải sai người lập tức lấy về đây, mà làm sớ tâu về triều đình mới được, bây giờ hãy cho khâm niệm quan quách, làm lễ thành phục rồi sau sẽ liệu việc nhà.
Nói đoạn liền theo quan chế, mua sắm quan quách, bày đặt linh sàng rồi cùng nhau làm lễ thành phục. Lý Quỳ nghe tiếng ở trong nhà than khóc, thì giơ tay mắm miệng buồn bực vô cùng, song dò hỏi người nhà không ai nói chụyện cho biết cả.
Bấy giờ trong nhà mời các vị sư đến làm lễ rất là huyên náo. Đến ngày thứ ba Ân Thiên Tích ngà ngà hơi rượu, cưỡi ngựa dẫn hai ba mươi tay nhàn đãng, tay cầm cung tên, miệng thổi sáo địch, lững thững song chơi quanh phố hồi lâu, rồi mượn chén giả say mà nghênh ngang vào phủ Hoành Thành. Khi tới nơi liền kìm ngựa đứng ngoài cửa, thét gọi người nhà Hoàng Thành ra hỏi:
Sài Tiến nghe nói, vội vàng mặc đồ nguyên tang chạy trở ra để chào, Ân Thiên Tích ngồi trên mình ngựa hỏi:
- Ngươi là người nào trong nhà này?
Sài Tiến nói:
- Tôi là Sài Tiến, là cháu Hoàng Thành ở đây.
- Hôm nọ ta bảo phải dọn tất cả đi, làm sao lại còn lẩn quẩn ở đó?
- Vì chú tôi bị đau nặng, nên chưa dọn đi được. Hôm qua chẳng may chú tôi đã tạ thế rồi, vậy xin để đến hết tuần thất chúng tôi sẽ dọn đi ngay.
- Cái quái này, ta chỉ hạn cho ba ngày phải dọn đi ngay, bằng không ta gông cổ lại, đánh đủ một trăm trượng cho biết phép.
Sài Tiến nói:
- Trực Các không nên thế, nhà tôi đây cũng là dòng kim chi ngọc diệp, hiện có đan thư thiết khỏan của tiên triều, ai không là phải kính.
- Ngươi đem đây ta xem?
- Hiện tôi còn để ở Thương Châu, đã cho người về lấy rồi.
Ân Thiên Tích nghe nói cả giận mà rằng:
- Quân này nói càn, có thệ thư thiết khoán, thì ta sợ gì? Chúng bay đâu đánh thằng này cho ta?
Khi đó Hắc Toàn Phong Lý Quỳ nấp trong khe cửa, nghe thấy Ân Thiên Tích thét đánh Sài Tiến, liền mở tung cửa thét lên một tiếng, rồi nhảy ra trước chận Thiên Tích xuống để mà đánh.
Bọn hai mươi người kia toan sấn vào để đánh tháo, bị Lý Quỳ giơ tay gạt cho mấy anh ngã cả ra, rồi ù té chạy mất cả, Lý Quỳ lại quay lại vớ Ân Thiên Tích, thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh luôn một chập. Sài Tiến hết lời cản ngăn không được, Lý Quỳ đánh luôn một lúc, thì Ân Thiên Tích đã trợn mắt ngay người mà chết ra đó.
Sài Tiến lấy làm lo sợ, kéo Lý Quỳ vào nhà trong mà bảo rằng:
- Chết nỗi! Bác làm thế, thì nguy hiểm quá, bác không ở được đâu. Phải lập tức mà trốn về Lương Sơn, còn đây mặc tôi mới được.
Lý Quỳ nói:
- Tôi về thì khó gì, nhưng Đại Quan Nhân ở đây tất là nguy hiểm, như thế tôi đi sao đành?
Sài Tiến nói:
- Tôi đây đã có đan thư thiết khoán không ngại gì cả, bác cứ về đi, chậm trễ là nguy mất cả.
Lý Quỳ vâng lời, cầm đôi song đao phủ, lấy ít tiền bạc,rồi theo lốicửa sau mà trốn về Lương Sơn.
Được một lát có hơn hai trăm người vác gươm giáo đến vây nhà Hoàng Thành, tìm bắt Lý Quỳ không thấy, liền trói Sài Tiến mà giải vào phủ.
Tri Phủ Cao Liêm thấy Ân Thiên Tích bị người ta đánh chết, thì trong lòng tức bực như xé ruột gan, đương nghiến lợi nghiến răng để đợi bắt người về tra hỏi. Khi thấy chúng giải Sài Tiến đến. Tri Phủ liền thét lên hỏi rằng:
- Đồ súc sinh sao dám đánh chết người nhà quan, như thế phỏng đáng tội gì?
Sài Tiến nói:
- Chúng tôi là con cháu Sài Thế Tôn khi xưa, hiện trong nhà có đan thư thiết khoán của Thái Tổ tiền triều để lại ở Thương Châu. Nay nhân qua đây thăm chú là Sài Hoàng Thành, chẳng may chú mất, vẫn còn định tang ở trong nhà. Dè đâu tên Ân Thiên Tích đem hai ba mươi tên người nhà đến, toan đuổi chúng tôi mà chiếm lấy gia tài, tôi có toan phân giải đầu đuôi, thì Trực Các nhất định không nghe mà sai người đánh ngay lập tức. Sau có tên người nhà tôi là Lý Đại đến che đỡ cho tôi, chẳng may đánh phải Trực Các, chứ tôi đây không có can thiệp.
Cao Liêm quát hỏi:
- Tên Lý Đại ở đâu?
- Bẩm nó sợ bỏ chạy mất rồi.
- Nó là một thằng người nhà, nếu không có lệnh của chủ, khi nào nó dám đánh? Việc này chắc là ngươi thủ xướng ra, rồi lại buông tha cho nó chạy, không tra tấn, thì khi nào người chịu thú.
Nói đoạn quát lính đem Sài Tiến ra để đánh tấn.
Sài Tiến kêu:
- Việc đó là tên Lý Đại, nó cứu chủ lỡ đánh, chứ việc gì đến tôi? Vả chăng tôi có thệ thư thiết khoán của nhà vua, có lẽ đâu dám thiện tiện mà gia hình ngay được?
- Vậy thệ thư ở đâu?
- Tôi đã cho người về Thương Châu để lấy rồi.
Tri Phủ làm bộ giận dữ quát lên rằng:
- Tên này dám kháng cự với quan trên, chúng đâu, cứ đem đánh đi cho ta.
Chúng vâng lời, kéo Sài Tiến ra đánh mấy chục trượng, nát thịt, vọt máu tươi ra, không sao mà chịu nổi. Sau Sài Tiến biết thế không chống nổi, bèn chịu nước thú nhận là sai tên Lý Đại đánh chết Ân Thiên Tích.
Tri Phủ liền sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, giam xuống nhà ngục, và nhất diện sai đem xác Ân Thiên Tích về để mai táng.
Vợ Cao Liêm thấy anh em bị chết, liền lập chí báo thù, sui Cao Liêm tịch ký nhà cửa Sài Hoàng Thành, bắt hết người nhà giam vào trong ngục.
Trời xanh khéo cũng trêu ngươi,
Đem mồi phú quý nhử người tham ngu.
Xưa nay tục tử phàm phu,
Biết đâu thiên lý mà lo tránh mình.
Nói về Lý Quỳ hôm đó từ giã Sài Tiến, gấp đường về thẳng Lương Sơn rồi vào Đại trại để chào các vị Đầu Lĩnh. Chu Đồng trông thấy Lý Quỳ lại đùng đùng nổi giận, vác ngay đao xông đến để đánh.
Lý Quỳ cũng múa song phủ ra đấu với Chu Đồng.
Các vị Đầu Lĩnh thấy vậy vội vàng chạy lại can ngăn, rồi Tống Giang nói với Chu Đồng rằng:
- Những việc dạo trước là vì Ngô Quân Sư thấy huynh trưởng không chịu đến đây, mới làm kế như vậy, thực không có can thiệp gì đến Lý Quỳ cả. Vậy xin huynh trưởng đã lên đến đây thì bỏ hết chuyện đó, đừng chấp nhất làm gì phải cùng nhau hiệp lực đồng tâm để cùng toan làm đại nghĩa mới được.
Nói đoạn liền quay ra bảo Lý Quỳ vào nói lại với Chu Đồng.
Lý Quỳ trợn hai mắt tròn xoe mà nói lên rằng:
- Có lẽ nào tôi phải thế? Tôi ở sơn trại đã bao lâu, kể cũng có công lao đôi chút, còn hắn ta mới đến đây có được điều gì, mà bắt tôi phải nói lại?
- Việc trước dẫu có tướng lệnh của Quân Sư, nhưng kể tuổi ra thì ông ta đáng là anh ngươi, ngươi nên nói lại với ông ta, ta sẽ lạy ngươi là hết.
Lý Quỳ bị Tống Giang bức bách, không thể đừng được, đành phải bảo với Chu Đồng rằng:
- Cứ lý ra, tôi đây cũng chẳng sợ gì, nhưng Ca Ca ta đã nói vậy, thì ta cũng phải nể mặt nể lòng mà nói lại đây thôi.
Tống Giang lại bắt Lý Quỳ phải lạy Chu Đồng hai lạy, và sai làm tiệc ở trong sơn trại để dàn xếp cho đôi bên thỏa thuận với nhau.
Trong khi ăn tiệc, Lý Quỳ kể đến chuyện Sài Tiến ở Cao Đường Châu. Tống Giang nghe rõ đầu đuôi liền cả kinh mà rằng:
- Nếu ngươi đánh chết Ân Thiên Tích mà bỏ đấy để trốn, thì tất là nguy hiểm đến Đại Quan Nhân, không thể nào tránh được?
Ngô Dụng bảo với Tống Giang rằng:
- Việc đó không hề chi! Cứ đợi Đới Tung về đây sẽ hiểu... Lý Quỳ hỏi:
- Đới viện trưởng đi từ bao giờ?
Ngô Dụng đáp:
- Bữa trước ta sợ ngươi ở trong nhà Sài Quan Nhân, hoặc lỡ có sinh ra sự gì, nên phải bảo đến đó dò xem. Nay đến đó không gặp ngươi, thì tất nhiên ông ta phải sang Đường Châu để thăm hỏi, có lẽ cũng sắp về tới đầy thì phải.
Nói vừa dứt lời, thì thấy tiểu lâu la báo:
- Đới viện trưởng đã về.
Tống Giang nghe báo vội ra đón tiếp, cùng vào đại sảnh rồi hỏi đến chuyện Sài Đại Quan Nhân.
Đới Tung nói:
- Khi tôi đến Thương Châu, nghe tin Lý Quỳ đã theo Sài Đại Quan Nhân đi sang Cao Đường, tôi lại vội vàng lần ngay sang đó. Sau đến Châu Cao Đường thấy họ đồn ầm lên rằng: Ân Thiên Tích tranh chiếm nhà cửa Sài Hoàng Thành là chú Sài Đại Quan Nhân. Sài Đại Quan Nhân đã bị bắt giam vào trong ngục, còn nhà của Sài Hoàng Thành đều bị Tri Phủ là Cao Liêm chiếm nhận lại còn đánh khảo Sài Đại Quan Nhân rất là tàn nhẫn.
Tiều Cái nghe nói, liền bảo với mọi người rằng:
- Sài Đại Quan Nhân vốn có ân to cùng bọn sơn trại ta đây, nay mắc phải nguy hiểm như thế lẽ nào mà không cứu cho đành. Vậy tôi phải đi qua xuống đó, xem sự thể ra sao mới được.
Tống Giang nói:
- Ca Ca là một ông chủ sơn trại, không thể đi liều thế được. Vả tôi với Sài Đại Quan Nhân, lại có ơn nặng từ xưa, vậy tôi xin thay Ca Ca để đi chuyến này...
Ngô Dụng nói:
- Cao Đường Châu thành trì tuy nhỏ, song lương sẵn người đông không thể khinh địch được, việc này phải phiền Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Tuấn, Lã Phương, Quách Thịnh, Tôn Lập, Âu Bằng, Dương Lâm, Đặng Phi, Mã Lân, Bạch Thắng dẫn ba nghìn quân mã bộ đi làm tiên phong. Trung quân chủ súy thì có Tống Công Minh, và Ngô Dụng, Chu Đồng, Lôi Hoành, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận, Dương Hùng, Thạch Tú dẫn ba nghìn quân mã bộ đi tiếp ứng.
Bàn định xong rồi, hai mươi hai vị Điểm quân mã, và từ biệt Tiều Cái mà xuống núi kéo thẳng sang Cao Đường Châu.
Khi tiền quân Lương Sơn Bạc kéo đến địa hạt Cao Đường, đám thám tử liền báo cho tri phủ Cao Liêm biết. Cao Liêm nghe báo cười nhạt mà rằng:
- Quân giặc cỏ xưa nay vẫn lẩn núp ở vũng nước Lương Sơn, ta thường định đem quân đến bắt. Vậy nay chúng kéo nhau đến đây mà chịu tội, thì còn gì hay hơn nữa? Thực là Trời giúp cho ta thành công đó.
Nói đoạn truyền lệnh sắp sửa quân mã, để ra nghênh địch, và sức cho dân phu coi giữ trên thành? Bấy giờ các quan trên từ Đô Thồng Giám Quân, dưới đến Thống Lĩnh, Thồng Chế cùng Đề Hạt, được lệnh của Tri Phủ, lập tức đem các bộ quân mã ra điểm duyệt ở Giáo Trường, rồi sắp thành đội ngũ mà ra cửa thành dàn trận.
Cao Liêm lại có ba quân riêng, gọi là "Phi thiên thần binh". Toàn là bọn hảo hán khỏe mạnh ở Sơn Đông, Hà Bắc, Giang Tây, Hồ Nam và Lưỡng Hoài. Lưỡng Tiết mộ đến cả. Tri Phủ mặc áo giáp đeo kiếm, cưỡi ngựa dẫn quân ra thành, truyền lệnh các tướng bày trận chỉnh tề, rồi đem ba trăm thân binh bày hàng ở giữa, sai đánh trống khua chiêng, để đợi quân Lương Sơn kéo đến.
Bên kia Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh dẫn năm nghìn quân mã tới nơi, cũng dàn thành trận thế, đôi bên cờ trống nổi lên, rồi cùng đem cung tên ra để bắn áp vòng trận.
Khi đó mười hai vị Đầu Lĩnh đều kìm ngựa, đứng trước cửa trận, rồi Lâm Xung hoành cây bát xà mâu, vỗ ngựa xông ra quát lên rằng:
- Bớ tên giặc họ Cao, mau mau ra đây chịu tội.
Cao Liêm nghe nói, liền dẫn hơn ba mươi tên hạ tướng ra trước cửa trận; rồi kìm ngựa bảo Lâm Xung rằng:
- Chúng bay không biết tội là chết đến nơi, lại còn dám đến xâm phạm thành trì của ta nữa hay sao?
Lâm Xung lại thét lên rằng:
- Mày là đồ mọt già hại dân, nay mai ta đánh đến kinh sư, ta sẽ đem cả thằng Cao Cầu là đồ dối vua hại dân, mà chặt xác ra làm muôn đoạn để trừ hại cho dân mới được.
Cao Liêm thấy vậy, quay hỏi chư tướng:
- Ai ra bắt thằng giặc ấy cho ta?
Nói đoạn trong đám quân quan có một viên Thống Chế, tên là Can Trực, múa dao vỗ ngựa ra để đánh. Đôi bên đánh nhau chưa được năm hợp, Can Trực bị Lâm Xung phóng sà mâu đâm vào giữa bụng, ngã lăn xuống ngựa.
Cao Liêm thấy vậy cả kinh hỏi lên rằng:
- Anh em ai ra báo thù được?
Vừa dứt lời, thì quan Thống Chế là Ôn Vân Bảo, tay cầm đao trường, mình cưỡi ngựa lang, đeo nhạc xoang xoảng xông ra để đánh Lâm Xung.
Tần Minh thấy vậy, liền thét lên rằng:
- Ca Ca hãy nghỉ tay, để tiểu đệ chém thằng này cho.
Lâm Xung nghe nói, bèn kìm ngựa, nhường cho Tần Minh ra đánh Ôn Văn Bảo. Đôi bên đánh nhau được hơn mươi hiệp. Tần Minh bèn lừa miếng phá đĩnh, để cho Vân Bảo xông vào, rồi đánh luôn một côn vỡ bể óc ra mà chết lộn xuống đất, còn con ngựa chạy về bản trận.
Cao Liêm thấy mất hai viên tướng, liền rút thanh Thái A bảo kiếm ở lưng ra, miệng đọc mấy câu lẩm nhẩm mà quát lên rằng:
- Mau...
Đoạn rồi thấy trong đám quân Cao Liêm một trận hắc khí trông lên, tung cao đến lưng chừng trời, đùng đùng nổi gió cuốn cờ, chẳng khác gì lay trời đất chuyển, mà xông sang mặt trận Lâm Xung.
Bọn Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh cùng các tướng, đều tối mờ mịt không nhìn rõ được nhau, các ngựa ra trận cũng kinh sợ thét gào sôi lên sùng sục. Chúng thấy vậy đều phải quay ra để tháo chạy. Cao Liêm liền giơ kiếm vẫy ba trăm thần binh, xông sang đánh giết, rồi quan quân thúc đến để giúp sức thêm vào. Quân mã của Lâm Xung đều sợ kinh tán loạn, chạy ngược chạy xuôi, năm nghìn quân mã chết hết hơm nghìn, còn thì kéo chạy ra ngoài năm mươi dặm mới dám hạ trại.Cao Liêm thấy quân mã bỏ chạy đã xa, bấy giờ mới thu quân vào thành Cao Đường để nghỉ.
Bên kia nhân mã của Tống Giang kéo đến, xuất tiếp đón vào trong trại rồi kể chuyện cho mọi người nghe.
Tống Giang cả kinh hỏi Quân Sư Ngô Dụng rằng:
- Chẳng hay đó là phép gì mà nguy hiểm đến thế?
Ngô Dụng nói:
- Cái đó chắc là một phép yêu ma, nếu ta có cách gì làm cho quay chuyển lửa thì tất là phá được.
Tống Giang nghe nói, vội mở Thiên Thư ra xem, thấy trong quyển thứ ba có phép quay gió chuyển lửa để phá trận, bèn lấy làm cả mừng, đọc thuộc các câu thần chú, cùng các bí quyết, rồi chỉnh đốn quân mã, sáng hôm sau ăn cơm rất sớm, để tiến vào đánh thành.
Bấy giờ Cao Liêm nghe báo, vội điểm bọn quân mã đắc thắng, cùng ba trăm thần binh kéo ra để đánh. Tống Giang đao kiếm xông ra trước trận,trông thấy đám quân Cao Liêm có một dãy cờ đen, Ngô Dụng liền bảo Tống Giang rằng:
- Toán cờ đen đó là đám thần sư cả, hôm nay chắc họ lại dùng phép, vậy ta có cách gì mà địch được chăng?
Tống Giang nói:
- Tôi đã có cách phá trận rồi, không ngại gì? Các tướng sĩ cứ vững tâm tiến đánh mới được.
Bên kia Cao Liêm dặn các tướng sĩ không được hăng hái khêu đánh, cứ nghe thấy hiệu bài đồng là hết sức ra tróc nã Tống Giang, sẽ có trọng thưởng. Cao Liêm ngồi trên mình ngựa, đeo hai lá bài đồng trên có vẽ rồng truyền phượng, tay cầm thanh bảo kiếm xông ra trước trận.
Tống Giang bèn trỏ Cao Liêm mà nói rằng:
- Hôm qua ta chưa tới đây, đám anh em ta lỡ thua một trận, vậy hôm nay ta quyết đem các ngươi chém hết mới nghe.
Cao Liêm quát rằng:
- Đồ phản tặc mau mau xuống ngựa chịu trói cho khỏi bẩn tay ta.
Nói đoạn cầm thần kiếm khua lên rồi trong miệng đọc lẩm nhẩm mấy câu, mà quát lên rằng "mau... "
Bấy giờ lại thấy một vùng hắc khí bốc lên, mà sắp sửa tan ra thành gió. Bên này Tống Giang thấy vậy, vội đọc mấy câu thần chú, tay tả bắt quyết, tay hữu cầm kiếm, trỏ một cái, rồi cũng quát lên rằng:
- Mau...
Đoạn rồi thấy đám hắc khí kia bỗng quay lại mà xông vào bản trận Cao Liêm, Cao Liêm thấy trận gió quay về, bèn vội lấy bài đồng gõ vào thanh kiếm, thì trong đám thần binh, bỗng có trận gió cuốn cát tung lên, rồi hiện ra một đàn ác thú thẳng xông sang trận Tống Giang.
Tống Giang đương khi đắc sách, đương thúc giục quân mã sấn vào, bỗng thấy một đàn ác thú, thì ai nấy kinh hoàng hãi hùng rồi Tống Giang cắp kiếm mà quay ngựa chạy trước, còn các vị Đầu Lĩnh cũng kéo chạy theo.
Bấy giờ Cao Liêm cầm kiếm vẫy lên, ba trăm thần binh tiến trước, các quan quân tiến sau, xông vào đánh giết. Quân mã Tống Giang thua chạy, thiệt hại không biết tới đâu mà kể. Cao Liêm theo đuổi ngoài hai mươi dặm, mới rút quân về thành.
Tống Giang dẫn quân mã ra đóng ở ngoài thổ phi, kiểm điểm các Đầu Lĩnh không thiếu một ai, bèn cùng nhau tụ họp để nghĩ kế, và hỏi Quân sư Ngô Dụng rằng:
- Nay đem quân hai lần đến đánh Cao Đường đều bị thất bại, không còn kế gì mà phá được thần binh, vậy biết làm sao cho được?
Ngô Dụng nói:
- Họ đã giỏi dụng thần binh, thì đêm nay họ tất đến cướp trại. Vậy ta nên phòng bị trước kẻo nguy. Chốn này chỉ nên lưu một ít quân mã để lại còn thì phải dẫn quân vào đóng cả ở trại cũ mới xong.
Tống Giang nghe nói, truyền cho Dương Lâm, Bạch Thắng ở lại coi trại, còn các vị Đầu Lĩnh đều dẫn quân đến trại cũ để đóng.
Dương Lâm, Bạch Thắng vâng lệnh, dẫn quân ra đóng ở vùng cỏ, cách trại quân chừng nửa dặm đường để đợi. Vào khoảng cuối canh một, chợt thấy sấm đùng đùng nổi lên, rồi Dương Lâm, Bạch Thắng cùng hơn ba trăm quân nom ra thấy Cao Liêm đi dẫn bộ ba trăm thần binh mà đi sát vào trong trại. Khi vào tới nơi thấy trại không bỏ vắng. Cao Liêm bèn kéo quân mau mau trở ra. Dương Lâm, Bạch Thắng thấy vậy, liền sai quân reo hò ầm lên, rồi sai quân chĩa nỏ dương cung bắn.
Cao Liêm sợ trúng kế, đành phải kéo thần binh mà chạy mau cho thoát, ba trăm thần binh cũng hất hả sợ kinh chạy tán loạn đi mỗi nơi một ngả. Quân Dương Lâm, Bạch Thắng phóng nỏ bắn liều, bất ý có một mũi tên bắn ngay vào vai tả Cao Liêm, rồi kéo ùa nhau ra đuổi đánh. Đuổi được một quãng, Dương Lâm thấy Cao Liêm chạy đã xa xa, bèn rút quân về mà không theo nữa. Bấy giờ gió im mây lặng, bóng trăng sao lại sáng giữa trời, Dương Lâm, Bạch Thắng lần được chổ thao phi, bắt được hai mươi tên thần binh bị đạn, liền đem nộp Tống Giang và nói cho rõ tình hình gió mưa khi cướp trại cho Tống Giang nghe.
Tống Giang, Ngô Dụng nghe nói cả kinh mà rằng:
- Ở đây chỉ cách có năm dặm đường, sao không thấy gió mưa chi cả.
Chúng nói:
- Đó là phép thuật yêu ma, lấy nước ở quanh đâu đây, mà làm mưa từng đám nhỏ thôi...
Dương Lâm nói:
- Bấy giờ Cao Liêm đã rũ tóc chống gươm sát vào trong trại, sau bị một múi tên mới chịu rút quân về thành, chúng tôi đã toan đuổi đánh, song ít người nên không dám đuổi nữa.
Tống Giang liền thưởng công cho Đầu Lĩnh, Bạch Thắng, sai đem chém những tên thần binh bị đạn, và rồi cắt các vị Đầu Lĩnh chia đóng ra làm bảy tàm trại nhỏ, để vậy giữ lấy trại lớn ở giữa, và nhất diện cho người về sơn trại lấy thêm viện binh.
Hôm đó Cao Liêm bị mũi tên, trở về trong thành dưỡng bệnh, truyền cho quân sĩ hết sức giữ thành, đợi khi khỏi hẳn vết thương, mới ra đối trận đánh bắt Tống Giang.
Tống Giang thấy hai phen thất bại, thiệt hại quân mã rất nhiều, trong lòng lấy làm lo phiền áy náy, bàn với quân sư rằng:
- Hiện nay chỉ có một mình Cao Liêm còn không phá nổi, nếu nay mai lỡ lại có thêm một vài toán quân nào đó, thì làm sao mà đối địch được?
Ngô Dụng nói:
- Tôi thiết tưởng phá được Cao Liêm thì chỉ cho một kế nầy là diệu hơn cả...mà nếu người này không chịu đến cho, thì thành Cao Đường không ngày nào phá được, mà tính mệnh Sài Đại Quan Nhân tất là nguy mất.
Mới hay:
Giang hồ nghĩa nặng nghìn cân
Vào sinh ra tử tấm thân xem thường
Nam nhi đã vững cương thường
Tiếng thơm nghĩa hiệp để nhường cho ai?
Gió mưa chi ngại chuyện đời
Gan vàng dạ sắt giữa trời một ta
Ví không từng trải phong ba
Nước non ai biết ta là thủy chung.
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này chép vào bản chuyện Sài Tiến bị hãm, song có một đoạn ở đầu hồi Chu Đồng muốn giết Lý Quỳ, độc giả nhận lầm rằng, còn chút cuối ở hồi trên, mà chẳng hay rằng hồi này với chút cuối hồi trên có liên hệ đến nhau, như là sẵn chảo rán bánh, mượn gió bẻ măng, tức lưu Lý Quỳ ở lại, để xẩy ra chuyện rắc rối sau này, dùng bút lực đến như thế vậy...Ta thường nói những ai đọc sách, đừng vội cho tác giả đã lầm như một đoạn văn tự này, chẳng dối ai được mãi, mà đây đã nói ra về sự chia hồi, thì nên nghĩ cho ra từng chỗ một, không thể coi thường sự viết văn.
Vợ Sài Hoàng Thành chép là Kế thất, để càng làm rõ Sài Đại Quan Nhân thế tất phải đến thăm nom cho chú, vả lại Hoàng Thành không con trai gái, mà vợ chỉ là Kế, do đó gặp phải ngày người mất nhà ta, thì nguy lắm vậy, sao xiết nói thay? Kế thất tuổi thì còn nhỏ, tuổi nhỏ đâu áp được chúng khinh lờn; Kế thất mới về chưa được bao lâu, mới về thì ân uy không phục nổi lũ người nhà. Kế thất chưa định nổi chí, con cái chưa có, lại một mối lộ, ngần ấy thứ nguy nan của chú, tất nhiên Sài Đại Quan Nhân phải đến thăm chú, do cái thế bất đắc dĩ vậy.
Than ôi! Ta xem hồi này, thấy Cao Liêm dựa thế Cao Cầu, ngang tàng ở một địa phương chẳng nể nang gì. Ân Thiên Tích lại dựa vào thế của chồng chị, cũng ngang tàng ở một địa phương, chẳng nể nang gì khiến ta thêm buồn mà nghĩ rằng: Sao chúng tệ thay? Hỡi ôi! Dựa thế Cao Cầu có phải một Cao Liêm mà thôi đâu? Nói đến Cao Liêm mới chỉ một người, nếu thế Cao Cầu mà dựa được để muốn làm gì cũng được, tất phải có hàng trăm tên Cao Liêm, đã có hàng trăm Cao Liêm, thì lại có hàng bao nhiêu tên Ân Trực Các nữa, vì thế Cao Liêm cũng muốn làm gì thì làm, những kẻ dựa thế tất nhiên xu phụ, như thế một Cao Cầu có hàng trăm Cao Liêm, một Cao Liêm có hàng trăm Ân Trực Các...Tính ra con số hàng ngàn Ân Trực Các ấy, mỗi anh lại hàng hai ba răm đứa dựa quyền, nhâu nhâu như đàn hồ lũ chó, thì thiên hạ sao yên? Hỡi ơi! Như thế mới đầu Cao Cầu chưa biết, biết mà ngăn cầm, thì không còn phải Cao Cầu, nay biết còn dung túng, đó Cao Cầu lộ tướng của Cao Cầu.
Hồi này tả Tống Giang rất con người quyền trá, từng chỗ giở ngón gian hùng, lại rất rõ gian ngoan, ở chỗ Lý Quỳ không chịu nói lại với Mỹ Nhiêm Công, mà Tống Giang khuyên lơn rào chắn cả hai người, đến nỗi đổ vạ cho Quân sư ra lệnh, rồi kết lại xin lạy Lý Quỳ, thì đủ biết rằng, ngoài miệng biến như mây gió, trong lòng ghê gớm như yêu ma, cũng chả lại gì nữa? Hỡi ôi! Đem cái tài của Thị Nại Am, có khó gì mà không tả nổi ra một vai trò Tống Giang nói ra như thế...như thế...Đại phàm chỗ nào tả Tống Giang con người hiểm ác, lại phải đưa vai trò lừa dối Lý Quỳ như đứa trẻ con, đúng như lối chép bút Sử Ký vậy.
Tả Tống Giang sau khi nhập bọn, khi có việc gì phải hạ sơn, Tống Giang lại khuyên Tiều Cái: Ca Ca là ông chủ sơn trại, không nên khinh xuất; như đánh Chúc Gia Trang, Châu Cao Đường đều ngăn như thế. Đó là tác giả muốn nêu rõ tội Tống Giang, đem quyền thuật để bịp cả Tiều Cái để rồi tha hồ tự một tay mình, làm gì thì làm chả được. Vì sao? Vì Tiều Cái đi thì công về Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì công ở Tống Giang, đó là một; Tiều Cái đi thì Tống Giang làm phó tướng, mọi người vâng lệnh Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì Tống Giang làm chủ soái, mọi người vâng lệnh Tống Giang, đó là hai vậy. Hỡi ôi trở ra đánh giặc thì được ngôi tôn, khi trở về sơn trại thì công cao. Muốn chiếm ngôi thứ nhất có thừa uy thế vậy. Đó là Tống Giang muốn chèn lấn Tiều Cái, mà tác giả muốn làm cho rõ tội hiểm ác, theo đúng lối bút viết Sử Ký vậy. Cướp trại chỉ là một việc thử sức của binh gia, dụng binh mà phải đến nỗi cướp trại, một lần chẳng trúng lại hai lần, đều là lối chơi đùa của lũ con gái nhỏ tung ném mà thôi, nay Thi Nai Am chẳng dừng được mà phải tả ra, ý muốn ngăn giữ Cao Liêm, để cho người tìm xa lấy Công Tôn Thắng, đem Công Tôn Thắng ở xa về, tất phải ngăn bước tiến của Cao Liêm, dụng ý vào một mũi tên bắn trúng của Dương Lâm, mới tả ra sự cướp trại vô tình mà bị, cho rõ cái mưu Ngô Dụng tính ra.
Hồi này, vốn tả ra Sài Tiến bị hãm hại, lại đến khoe tài thần binh của Cao Liêm, cũng chẳng phải vì đó mà khó cứu Sài Tiến, chính vì đó để lôi kéo lấy Công Tôn Thắng, làm cho mực nồng bút sắc, tả ra văn như thể liên châu mà xuống, nối bậc mà lên, chính ra chẳng biết rằng, vì Sài Tiến để mời Công Tôn, hay đón Công Tôn do cứu Sài Tiến, độc giả đừng vội hiểu lầm người chép truyện, phải nhận nổi ý tứ xem sao?
Tống Giang nếu thực có Thiên Thư của Huyền Nữ trao cho, làm sao mà lại không phá nổi binh thần? Nếu Thiên Thư của Huyền Nữ không phá nổi binh thần, Thi Nại Am cũng chẳng coi trọng Thiên Thư ấy nữa? Nay cần bày ra ở chỗ này cho rõ Thiên Thư, Thiên Thư bảo rằng của Huyền Nữ, cũng đủ biết thực giả thế nào rồi? Ngày trước nói rằng: Suốt ngày xem đọc Thiên Thư, đến đây mới chủ tâm nhờ lời thần chú, há có đâu suốt ngày đọc Thiên Thư, mà bây giờ mới nghĩ đến thần chú rõ ràng trước kia nói được Thiên Thư là dối, mà nay nhờ thần chú cũng giả dối nốt. Ngài nói rằng: Thiên Thư chỉ cùng với sao Thiên Cơ cùng xem, nay chợt nói rằng: Quân sư yên tâm, tôi đã có phép...Há có đâu hai người cùng nhau xem sách suốt ngày, mà nay Nguyên Soái đã quên ngay được? Rõ ràng trước kia hai người chưa từng cùng xem với nhau, vì nay sao một Tống Giang nhớ được? ? ? Tội ác Tống Giang đến thế, gấp hàng trăm lần tung lửa hồ kêu vậy.
Hồi 52
Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn Thắng
Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân.
Khi đó Tống Giang nghe lời quân sư liền hỏi lại rằng:
- Quân sư định cho tìm ai, để phá được trận của Cao Liêm bây giờ?
Ngô Dụng nói:
- Muốn phá được Cao Liêm, thì tất phải cho người sang Kế Châu tìm Công Tôn Thắng Tiên Sinh mới được.
- Chuyến trước Đới Tung đi đã bao nhiêu ngày, cũng không tìm thấy, phen này lại định đi tìm nữa, thì biết đâu mà thăm dò cho ra?
- Ở Kế Châu có bao nhiêu huyện, tổng, xã, thôn, không tìm cho khắp, thì thấy làm sao được? Vả Công Tôn Thắng là người tu hành học đạo, chắc là ở vào những nơi non cao nước rộng, hoặc các nơi động lớn chùa to, phen này phải dặn Đới Tung đi tìm khắp những chỗ ấy, thì làm gì mà không tìm thấy?
Tống Giang nghe nói, liền gọi Đới Tung đến để dặn đi sang Kế Châu.
Đới Tung nói:
- Chúng tôi vâng lệnh xin đi, song xin Đầu Lĩnh cắt cho một người nữa để cùng đi mới tiện.
Ngô Dụng nói:
- Viện Trưởng dụng phép thần hành, thi ài theo kịp được, mà cho người theo?
Đới Tung nói:
- Nếu có ai cùng đi, thì tôi buộc giáp mã vào trái đùi rồi cũng đi nhanh được ngay.
Lý Quỳ đứng bên cạnh ứng lên rằng:
- Tôi xin đi với Viện Trưởng.
Đới Tung nói:
- Nếu bác muốn đi, thì phải ăn chay như tôi, mà tôi bảo cái gì phải nghe như thế mới được.
Lý Quỳ cả quyết mà rằng:
- Cái đó có khó gì, các công việc tôi xin theo cả.
Tống Giang, Ngô Dụng, dặn Lý Quỳ rằng:
- Đi đường phải nên cẩn thận, mau mau được việc rồi về, chớ có lôi thôi sinh sự mà khốn đó.
Lý Quỳ nói:
- Tôi đánh chết Ân Thiên Tích, làm cho Sài Đại Quan Nhân phải bị nạn lây, có khi nào tôi không muốn cứu, phen này quyết nhiên là không sinh sự chi cả.
Nói đoạn hai người cùng giắt dao lưng, đeo khăn gói rồi từ biệt Tống Giang, cùng các Đầu Lĩnh, mà lên đường thẳng lối Kế Châu. Đi được ba bốn mươi dặm đường, Lý Quỳ bỗng đứng dừng lại bảo Đới Tung rằng:
- Ca Ca mua vài chén rượu, uống rồi đi có thú không?
Đới Tung nói:
- Nếu anh muốn theo ta, để cùng làm phép thần hành, thì phải ăn chay mới được.
Lý Quỳ nói:
- Thế ăn dăm ba miếng thịt cũng được chứ sao?
Đới Tung gạt đi mà rằng:
- Không được, anh lại thế thì không được, bây giờ đã sắp chiều rồi, đi mau vào tìm chỗ nghỉ trọ, để sáng mai đi sớm thôi.
Nói đoạn hai người đi được vài mươi dặm đường nữa, thì trời sắp tối, liền kéo nhau vào một hàng cơm để trọ.
Khi vào tới nơi, Lý Quỳ nấu cơm nước xong, mua một hai rượu, xới một thùng cơm, và bưng một bát canh rau lên cho Đới Tung ăn.
Đới Tung hỏi:
- Sao anh không ăn một thể?
Lý Quỳ đáp:
- Tôi chưa đói, chưa muốn ăn.
Đới Tung nghe nói, đoán chắc là Lý Quỳ lại nói dối thế, để ăn cá thịt vụng một mình, bèn ăn cơm vội cho xong, rồi sẽ rón rén xuống lối sau để xem. Quả nhiên lúc ấy Lý Quỳ mua hai nai rượu, một đĩa thịt trâu mà đương ăn vội ăn vàng ở đó. Đới Tung thấy vậy trong bụng nghĩ thầm: "Biết ngay, thằng cha này còn nói dỗi mình thực. Được để ta im, rồi sáng mai cho nó một mẻ, rõ cuống cuồng cho mà thích". Nghĩ đoạn thủng thẳng đi vào phòng ngủ trước. Lý Quỳ chén một lúc hết, trong bụng sợ Đới Tung biết, bèn rón rén cùng đi lên phòng để ngủ.
Đầu trống canh năm sáng hôm sau, Đới Tung dậy sớm gọi Lý Quỳ dậy sớm nấu cơm, ăn uống xong rồi, tính trả tiền hàng, mà cùng nhau ra đi.
Đi được vài dặm đường, Đới Tung bảo với Lý Quỳ:
- Hôm qua ta chưa dùng đến phép thần hành, ngày nay phải dùng đến phép mà đi cho mau mới được. Anh buộc khăn gói cho chặt chẽ cẩn thận, để tôi làm phép cho anh trước cứ đi tám trăm dặm rồi hãy nghỉ.
Nói đoạn lấy bốn miếng giáp mã, buộc vào hai bên trái đùi Lý Quỳ,mà dặn rằng:
- Anh đến hàng rượu đâu đó, mà đợi tôi nhé?
Nói xong lại đọc mấy câu thần chú, thổi lên trên chân Lý Quỳ, rồi Lý Quỳ rảo cẳng bước đi, vù vù như gió vậy.
Đới Tung trông theo cười nói một mình rằng:
- Hãy để cho hắn nhịn đói hôm nay đã.
Đoạn rồi lấy giáp mã buộc chân mình mà theo sau Lý Quỳ, Lý Quỳ xưa nay chưa biết thần hành là thế nào, cứ yên trí làm thế thì được nhanh chóng, khoái hoạt như Đới Tung. Dè đâu chàng vừa bước chân đi, đã thấy hai bên tai vù vù, như mưa sa gió thổi, không sao chịu. Lại thấy cửa nhà cây cối ở bên đường đều loang loáng như là biến chạy, bước chân lại bầng bầng như mây khói vùng lên, thì trong bụng rất lấy làm kinh sợ. Mấy phen chàng toan dừng lại nhưng hai cẳng vẫn cứ lôi kéo bắt đi, cứ chạy hoài không sao đứng lại được. Khi trông các hàng thịt rượu cứ loang loáng biến mất, không làm thế nào vào được để ăn. Lý Quỳ thấy vạy kêu cha kêu mẹ xin dừng lại một lát, nhưng đôi chân vẫn quần quật đi luôn, không sao đứng lại cho.
Chàng chạy hoài chạy mãi, đến lúc mặt trời đã vàng úa non Tây, trong bụng vừa đói vừa khát, toát cả mồ hôi, thở lên hồng hộc, mà cũng không sao đứng lại được. Bấy giờ Đới Tung ở đằng sau chạy theo gọi lên rằng:
- Lý Đại Ca! Sao không mua cái gì ăn đã?
Lý Quỳ kêu lên rằng:
- Ca Ca cứu tôi với...Thiết Ngưu đói chết rồi đây...
Đới Tung liền lấy bánh ở trong bọc ra, vừa ăn vừa để cho Lý Quỳ nom thấy.
Lý Quỳ lại kêu lên rằng:
- Tôi không làm sao đứng lại được mà mua được bánh, bác cho tôi một miếng ăn cho đỡ đói vậy.
Đới Tung chia chiếc bánh ra bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đứng lại đây, tôi đưa cho mà ăn.
Lý Quỳ với tay lại để lấy, chỉ cách nhau một trượng mà cũng không sao với được.
Đới Tung lại kêu dội lên rằng:
- Ca Ca ơi! Hãy đứng lại một tí đã.
Lý Quỳ phát bẳn gắt lên rằng:
- Quái gở! Hai cái chân khốn nạn này không theo mình một tý nào cả, chỉ cứ cắm cổ mà chạy hoài mãi...Đừng làm ông sốt tiết lên bây giờ...
Nói đoạn cầm đôi đại phủ vỗ vào nhau chan chát để mà đe dọa. Đới Tung thấy vậy lại nói đế luôn rằng:
- Phải chặt hai cái cẳng đi, thế là tiện...Không có thì chạy đến tháng giêng sang năm, cũng chưa đứng lại được đâu?
- Khổ! Ca Ca làm gì đùa thế? Chặt mất hai chân đi, thì lấy gì mà chạy được nữa?
- Chắc là hôm qua anh không nghe lời tôi, làm khổ cả đến tôi, không sao mà đứng lại được? Thôi, anh cứ chạy thế vậy...
Lý Quỳ quay lại bảo Đới Tung rằng:
- Bố ơi! Bố tha cho tôi đứng lại một tý...
- Phép này của tôi phải kiêng ăn mặn, mà nhất là thịt trâu thì lại càng kỵ lắm. Nếu ăn một miếng thịt trâu vào, thì có lẽ chạy đến suốt đời mới ngừng lại được.
- Thế thì khổ quá! Chẳng giấu gì Ca Ca, đêm hôm qua tôi trót ăn vụng mất sáu bảy miếng thịt trâu, bấy giờ làm thế nào được?
- Thảo nào chân tôi hôm nay cũng không đứng lại được, anh Thiết Ngưu này thực làm khổ cả đến người ta...
Lý Quỳ nghe nói, kêu trời kêu đất ầm ĩ cả lên.
Bấy giờ Đới Tung cười bảo Lý Quỳ rằng:
- Từ nay nếu anh nghe tôi được một việc này, thì tôi có thể trừ được phép ấy ngay lập tức.
- Vâng, bố bảo điều gì, Lý Quỳ xin vâng theo cả.
- Từ đây trở đi không được ăn vụng thế nữa nghe chưa?
- Vâng, từ nay nếu có ăn vụng, thì lưỡi mọc đầu đanh ra mà chết...Hôm qua vì thấy Ca Ca ăn chay đã quen tôi ăn vào khó nuốt quá, nên mới đánh liều, mà ăn vụng đó thôi! Nay trở đi xin thề, không khi nào dám thế nữa.
Đới Tung nói:
- Nếu vậy thì hãy tha cho anh một chuyến đã.
Nói đoạn đi dấn đến gần lên, lấy vạt áo đập vào chân Lý Quỳ mà quát lên rằng:
- Đứng lại.
Đoạn rồi Lý Quỳ đứng ngay lập tức.
Đới Tung thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:
- Bây giờ tôi đi trước, để anh lững thững theo gót mới được.
Lý Quỳ rằng vâng lời: Toan cất cẳng lên đi, bỗng thấy hai chân nặng chĩu như hai cây sắt, không sao mà nhúc nhích đi được.
Chàng liền kêu lên rằng:
- Khổ lắm! Ca Ca lại cứu tôi một tý...
Đới Tung nghe nói, quay lại cười mà hỏi rằng:
- Vừa rồi anh thề có thực không?
- Khốn nạn! Ông là bố tôi, khi nào tôi dám nói dối nữa.
Đới Tung nói:
- Nếu quả vậy thì được rồi...
Nói đoạn dắt tay Lý Quỳ lên mà quát một tiếng "Đi" rồi Lý Quỳ mới nhắc cẳng lên mà theo với Đới Tung.
Bấy giờ Lý Quỳ bảo với Đới Tung rằng:
- Ca Ca thương Thiết Ngưu này, cho nghỉ một lát thì mới chịu được.
Đới Tung nghe nói. Liền dẫn Lý Quỳ vào một làng nào đó, để cùng nghỉ với nhau. Đới Tung cởi giáp mã ra, hóa vàng lễ tạ, rồi hỏi Lý Quỳ rằng:
- Bây giờ thế nào?
Lý Quỳ sờ đến chân, rồi thở dài mà rằng:
- Hai cái chân này giờ mới là của tôi đây...
Nói đoạn Đới Tung bảo Lý Quỳ làm cơm chay ăn, rồi cùng nhau đi nghỉ.
Sáng hôm sau vào khoảng đầu trống canh năm, hai người dậy sớm, cơm nước xong hai người cùng đi. Đi được ba dặm Đới Tung lấy giáp mã bảo với Lý Quỳ rằng:
- Hôm nay tôi buộc hai miếng cho anh thong thả vậy.
Lý Quỳ nói:
- Thôi bố đừng buộc cho con nữa.
- Được, anh cứ thuận lời tôi nói, thì cứ buộc vào để đi cho chóng. Nếu anh không nghe, thì lại cho anh đứng nguyên như hôm qua, rồi bao giờ tôi tìm được Công Tôn Thắng về đây, sẽ tha cho anh mà đi.
Lý Quỳ nghe nói, vội kêu lên rằng:
- Bố buộc vào đây...buộc vào đây...tôi không dám nói gì nữa.
Đới Tung liền buộc cho mỗi người hai miếng giáp mã làm phép thần hành, rồi hai người cùng đi với nhau. Từ đó trong khi đi đường Lý Quỳ nhất nhất theo lời Đới Tung mà không dám trái. Một hôm đi đến địa phận Kế Châu, hai người cùng đến hàng cơm ở ngoài thành để trọ, rồi sáng hôm sau vào thành sớm để tìm hỏi Công Tôn Thắng. Hôm đó Đới Tung giả làm ông chủ, Lý Quỳ giả làm người đầy tớ theo hầu vào thành suốt một ngày trời, không có tin tức gì, hai người lại phải trở về nhà trọ.
Ngày hôm sau lại vào thành, tìm khắp cả các hang cùng ngõ hẻm, cũng không thấy tăm hơi đâu cả, Lý Quỳ lấy làm sốt ruột nói với Đới Tung rằng:
- Lão ăn mày này, không biết rằng trốn ở chỗ nào... ? Bây giờ đi tìm thấy thì nắm cổ lôi ngay về cho Ca Ca mới được.
Đới Tung nghe nói, nguýt Lý Quỳ mà rằng:
- Anh lại giở quẻ rồi, muốn như hôm nọ hay sao?
Lý Quỳ cười toét mồm đáp rằng:
- Không, không tôi nói đùa ấy chứ...
Đới Tung lại hầm hầm ra dáng giận dữ, Lý Quỳ phải im thít, không dám nói câu gì nữa. Hôm đó hai người về nghỉ hàng trọ, rồi đến ngày thứ ba lại đi hỏi thăm ở các thị trấn xung quanh không một ai biết đến. Đến trưa hôm ấy, hai người đã đói, liền tìm vào một hàng cơm, thấy hàng quán đông, không có chỗ ngồi, hai người còn ở ngoài đường, sẽ lại hỏi dò mọi người xem có biết, khách hàng còn giở ăn uống và cũng không ai biết đến Công Tôn, sau lại ngồi gần bàn của một ông già Đới Tung vội thi lễ mà gọi cơm và thức ăn chay.
Đới Tung nói:
- Ta chỉ dùng ít cơm thôi, còn người cứ dùng cho đủ.
Lý Quỳ nói:
- Phải ăn cho đủ no mời được, tôi xin ứng tiền ra.
Tên tửu bảo đi qua thấy liền cười. Ai ngờ đợi mãi không thấy cơm nước gì. Lý Quỳ đã thấy mọi người ăn xong ra đi, trong lòng đã bực bội, lại thấy họ đem cơm lên cho ông già cùng ngồi một bàn với mình, ông già ấy chẳng nhường cho hai người, cứ việc cúi xuống mà ăn, Lý Quỳ tính nõng, bèn chửi mắng nhà hàng rằng:
- Đồ khốn nạn! Làm cho lão đây đợi đến bao giờ, mà không đem hàng ra bán.
Liền vỗ bàn mạnh lên, làm cho cơm nước đổ ra bàn, khiến lão kia đương ăn bực mình, nắm lấy Lý Quỳ mà mắng:
- Sao ngươi làm đổ cơm nước của ta, là nghĩa lý gì?
Lý Quỳ cũng toan giơ tay cự lại. Đới Tung ngăn vội mà rằng:
- Ngươi không được thế? Xin ông già hãy nể mặt tôi xin đền tiền cơm nước cho ông, đừng lôi thôi gì nữa, thằng đầy tớ của tôi không biết lễ phép thế nào, vậy xin lỗi cụ.
Người già kia nói:
- Khách quan không rõ cho tôi, tôi tới đây đường xa, cần ăn cơm sớm, để tôi đi nghe giảng đạo, thế này lại chậm lỡ thôi.
Đới Tung nghe vậy liền hỏi:
- Thưa cụ là người ở đâu, đến đây nghe ai giảng đạo?
Ông già nói:
- Tôi người ở huyện Cửu Cung, thuộc Tô Châu, vốn ở núi Nhị Tiền, nay vào trong thành để mua dầu hương, mang về trên núi, nghe La Chân Nhân giảng phép trường sinh bất tử.
Đới Tung liền nghĩ ngay: "Có lẽ Công Tôn Thắng cũng ở trong đám này chăng? " Liền thừa dịp hỏi ngay ông lão:
- Thưa cụ ở trong quý trang có vị nào là Công Tôn Thắng đạo nhân chăng?
Ông già nói:
- Nếu khách quan mà hỏi mọi người, thì không ai biết đến ông ta, chỉ tôi đây với ông ta vốn là hàng xóm, ông ta đi vân du luôn, có bà mẹ ở nhà, nếu hỏi là Công Tôn Thắng, là tên tục, không ai nhận được ra, phải gọi là Nhất Thanh Đạo Nhân mới tìm tới được.
Đới Tung nói:
- Chính chúng tôi đây đương muốn gặp ông ta, tìm đến chết người mà chả gặp, may thay gặp cụ xin cụ chỉ giúp cho chúng tôi được tới nhà.
Liền đứng vái ông cụ mà hỏi:
- Thưa cụ từ đây tới núi Nhị Tiên bao nhiêu đường đất, và Thanh Đạo Nhân có ở nhà không?
Ông già nói:
- Núi Nhị Tiên cách huyện Cửu Cung chừng ngoài bốn mươi dặm đường, còn Thanh Đạo Nhân là bậc cao đồ của La Chân Nhân, không lúc rời ở bên cạnh.
Đới Tung nghe nói cả mừng, liền gọi hàng dọn cơm nước mau lên, rồi cùng ông già và Lý Quỳ cùng ăn uống, xong rồi tính trả tiền hàng, cùng ra khỏi điếm, ông già mời Đới Tung cùng đi một thể.
Đới Tung nói:
- Xin mời cụ đi trước, chúng tôi còn mua vàng hương cho đủ lễ đã.
Rồi cùng nhau bái biệt, Đới Tung trở vào nhà hàng lấy hành lý, rồi buộc giáp mã vào chân mình và chân Lý Quỳ, hai người dùng phép thần hành, chốc lát đã tới huyện Cửu Cung mới làm phép dừng lại.
Khi đó Đới Tung hỏi thăm đường về núi Nhị Tiên, có người mách cho từ huyện này đi tới năm dặm về phía Đông, thì tới núi đó. Đới Tung lại cùng Lý Quỳ đi tới đó, chỉ chừng năm dặm tới núi Nhị Tiên. Đới Tung gặp một tiêu phu bèn thi lễ mà hỏi thăm nhà Thanh Đạo Nhân? Tiều phu chỉ cho biết:
- Đi tới mỏm núi kia, qua cái cầu đá, là đến nhà ông ta.
Đới Tung liền cảm ơn xong, hai người lại lần đến đó, thấy có mươi túp nhà tranh, ngoài xung quanh tường thấp lè tè, trước có cầu đá con con, rồi thấy một người đàn bà cầm thúng quả ở trong đi ra.
Đới Tung chấy tay vái chào, hỏi người đàn bà ấy rằng:
- Nàng ở trong nhà Thanh Đạo Nhân đi ra, chẳng hay có Đạo Nhân ở nhà hay không?
- Có, Đạo Nhân đương luyện phép ở trong đó.
Đới Tung mừng rỡ bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đứng nấp ở đây, đợi tôi vào xem đã, rồi anh sẽ vào sau.
Nói đoạn quay đi vào trước. Khi vào thấy có một dẫy ba gian nhà lá, trước cửa treo cái rèm bằng cỏ lau. Đới Tung bèn đằng hắng một cái rất to, rồi có một bà da mồi tóc bạc ở trong nhà chạy ra, chàng liền vái chào hỏi rằng:
- Bẩm cụ chúng tôi muốn vào hầu Thanh Đạo Nhân một lát.
Bà cụ hỏi:
- Ngài là ai? Ở đâu đến đây?
- Bẩm, chúng tôi là Đới Tung ở Sơn Đông mới đến.
- Cháu nó đi chơi vắng chưa về.
- Dạ! Thưa cụ: Chúng con là anh em bạn cũ, muốn cần hỏi việc gấp, xin cụ làm ơn bảo cho...
- Hiện có không có ở nhà. Ngài cần chuyện gì, cứ dặn tôi cũng được. Khi nào nó về, ngài sẽ đến chơi.
Đới Tung nghe nói, vội đáp rằng:
- Nếu vậy xin để khi khác tôi sẽ đến.
Nói xong vái chào đi ra, bảo với Lý Quỳ rằng:
- Bây giờ phải cần đến anh mới được. Vừa rồi bà mẹ ông ta chối là đi vắng, vậy để anh vào hỏi lần nữa, nếu bà ta còn chối thì đánh luôn, nhưng chớ đánh đau, lúc nào tôi vào, thì thôi ngay mới được.
Lý Quỳ vâng lời, mở khăn gói lấy song phủ dắt ở sau lưng, rồi đi thẳng vào cửa mà quát to lên rằng:
- Ai đó...ra đây?
Bà cụ nghe tiếng hỏi "Ai" rồi vội chạy ra, trông thấy Lý Quỳ trợn mắt tròn xoe lên, thì trong bụng lấy làm sợ hãi, liền hỏi rằng:
- Ca Ca có việc gì đó?
Lý Quỳ nói:
- Ta là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc, vâng tướng lệnh của Tiều, Cống Ca Ca đến đón Công Tôn Thắng...Nếu đem hắn ra đây thì tử tế, bằng không thì ta cho mồi lửa đốt phăng nhà đi bây giờ?
Nói xong lại thét lên rằng:
- Mau mau ra đây.
Bà cụ nói:
- Hảo hán ôi! Nhà tôi đây là Thanh Đạo Nhân, chứ không phải nhà Công Tôn Thắng đâu?
- Cứ gọi hắn ra đây, ta nhận mặt khắc biết.
- Hắn đi chơi vắng nhà chưa về.
Lý Quỳ nghe đến đó, rút phăng đôi phủ ra, chém một nhát đổ hẳn một bên tường, rồi hằm hằm ra mặt giận dữ. Bà cụ vội chạy đến ôm giữ Lý Quỳ lại.
Lý Quỳ quát lên rằng:
- Nếu không bảo con trai ra đây, thì ta chém chết bây giờ.
Nói đoạn giơ búa chém luôn, làm cho bà cụ kinh sợ ngã lăn ra đó. Bấy giờ Công Tôn Thắng ở trong nhà chạy ra kêu lên rằng:
- Không được vô lễ như thế.
Đoạn rồi thấy Đới Tung ở ngoài thét mắng rằng:
- Thiết Ngưa sao được xấc láo, làm cho bà cụ kinh sợ như vậy?
Nói đoạn Đới Tung vội vàng nâng bà cụ dậy, rồi Lý Quỳ vất đôi song phủ xuống, vái chào Công Tôn Thắng mà rằng:
- Xin Ca Ca tha lỗi, không làm thế, thì bao giờ Ca Ca chịu ra? Công Tôn Thắng vội vàng nâng mẹ dậy, vái chào hai người, rồi mời vào trong nhà, Công
Tôn Thắng hỏi:
- Sao ngài lại tìm được đến đây?
Đới Tung nói:
- Chuyến trước tôi đã đi đến Kế Châu tìm khắp mọi nơi không thấy Ca Ca ở đâu, sau rủ được mấy người nhập bọn cùng về trên núi. Chuyến này Tống Công Minh tới Đường Châu cứu Sài Đại Quan Nhân, chẳng may bị Tri Phủ Cao Liêm dùng phép yêu ma đánh luôn mấy trận, không sao mà chống lại được. Nhân vậy phải cho tiểu đề cùng Lý Quỳ đi mời Ca Ca, về để bàn kế giúp cho. Tiểu đệ tới Kế Châu thăm hỏi mấy ngày không được, sau may vào hàng bánh, gặp một ông già chỉ bảo giùm cho, bấy giờ mới biết đường mà lần hỏi đến đây. Khi tới cổng đã gặp một người đàn bà đi ra, chúng tôi hỏi thăm đã biết chắc là Ca Ca ở nhà. Ai ngờ vào tới nơi cụ lại nói dối là đi vắng, nhân thế phải lập kế cho Lý Quỳ vào hỏi, như vậy thực vô lễ, xin Ca Ca tha lỗi cho Tống Công Minh, hiện nay ở đất Cao Đường, một ngày dài tựa ba thu, vậy Ca Ca sắp sửa đi ngay cho chóng xong công việc.
Công Tôn Thắng nói:
- Tôi từ thủa trôi nổi giang hồ, trong lòng thực vẫn mộ các tay hảo hán. Duy từ khi ở Lương Sơn Bạc về đây, một là mẹ già đầu bạc, không ai nuôi nấng trông coi; Hai là La Chân Nhân cũng có lòng yêu mến, không cho đi đâu, lại e các vị hảo hán ở Lương Sơn Bạc đến đây tìm hỏi, nhân thế bắt tôi phải đổi tên là Thanh Đạo Nhân, mà giữ riết ở nhà, không còn ai biết đến được nữa.
- Ngày nay Tống Công Minh, đương khi nguy cấp, vậy xin Ca Ca lấy lượng từ bi mà đến đó một phen rồi sẽ liệu.
- Bây giờ tôi không thể nào mà đi được, vì có mẹ già phải trông coi khuya sớm, và La Chân Nhân cũng không chịu cho đi.
Đới Tung đứng dậy cúi lạy Công Tôn Thắng; mà nhất tâm cầu khẩn xin đi, Công Tôn Thắng đỡ dậy mà rằng:
- Nếu vậy để tôi định liệu xem sao?
Nói đoạn giữ Đới Tung và Lý Quỳ ở đó, rồi làm cơm chay thiết đãi hai người. Khi ăn uống xong, Đới Tung lại vật nài nói với Công Tôn Thắng rằng:
- Nếu Ca Ca không chịu đi, thì Tống Công Minh tất bị Cao Liêm bắt được, mà đại nghĩa ở Lương Sơn Bạc từ nay tất là đổ vỡ cả.
- Để tôi bẩm với Sư phụ Chân Nhân, nếu người có bằng lòng, thì sẽ đi một thể...
- Xin Ca Ca đi hỏi ngay bây giờ cho...
- Hãy thư thả, nghỉ đây một đêm, để sáng mai đi hỏi cũng được.
- Bây giờ Tống Công Minh ở Đường Châu mong mỏi từng giờ từng phút, vậy xin Ca Ca đi hỏi giúp ngay cho?
Công Tôn Thắng thấy lời lẽ ân cần, không sao cầm lòng được, bèn dẫn cả Đới Tung, Lý Quỳ, cùng lên trên núi Nhị Tiên. Bấy giờ đương dạo cuối thu sang đông, ngày ngắn đêm dài, ba người đi được một quãng, thì mặt trời đã tà tà xế tối.
Công Tôn Thắng dẫn hai người đếm một ngỏ nhỏ, đén quan La Chân Nhân, thấy có cái biển son đê ba chữ "Chân Nhân quán" rất to. Ba người vào đến đình sửa áo, liền cùng nhau chỉnh đốn áo khăn, rồi đi qua một lũy hành lang đến hiên Tùng Hạc.
Khi đó có hai tên tiểu đồng, thấy Công Tôn Thắng đến, vội vào báo cho Chân Nhân biết. Chân Nhân nghe báo, truyền chỉ cho Công Tôn Thắng vào, Công Tôn Thắng dẫn Đới Tung, Lý Quỳ vào đến trong hiên Tùng Hạc, thấy La Chân Nhân đương ngồi ngay ngắn ở trên sập Vàng, Công Tôn Thắng vội vái chào, rồi đứng ra một bên. Đới Tung thấy vậy cũng vội vàng cúi xuống lạy chào, còn Lý Quỳ vẫn đứng im, mà đưa mắt nhìn trân trân không chớp.
Chân Nhân hỏi Công Tôn Thắng rằng:
- Hai vị này là ai?
Công Tôn Thắng nói:
- Chính là bọn nghĩa hữu ở Sơn Đông ngày trước, đề tử đã nói đến, hiện nay vì Tri Phủ Cao Đường khoe khoang phép lạ nên Tống Giang huynh mới sai hai anh em đến triệu đệ tử đi...Vậy đệ tử đến đây xin phép sư phụ người có cho đi được chăng?
Chân Nhân nói:
- Nhất Thanh đã thoát nơi Lò Lửa, yên tâm theo luyện phép trường sinh, sao còn mơ hồ đến cảnh đó?
Đới Tung cúi lạy thưa rằng:
- Người rộng phép cho Công Tôn Tiên Sinh xuống núi một phen, sau khi đã phá được Cao Liêm sẽ đưa về núi hầu người.
La Chân Nhân nói:
- Hai người chưa rõ, những việc ấy không phải là đám xuất gia tôi bận đến, vậy xin các ngài hãy về thương nghị xem sao?
Công Tôn Thắng bất đắc dĩ phải vâng lời dẫn hai người ra về.
Bấy giờ Lý Quỳ mới hỏi riêng rằng:
- Vừa rồi lão gia nói gì thế?
Đới Tung đáp:
- Anh lại không nghe rõ hay sao?
- Tiếng nói thế, ai còn nghe ra cái gì?
- Đấy là sư phụ ông ta không cho đi đấy.
Lý Quỳ nghe nói, tức giận mà kêu lên rằng:
- Mình đi bao nhiêu đường đất khổ sở biết bao?
Bây giờ tìm thấy rồi, lại hoạch họe mãi...Đừng làm ông sốt ruột lên, thì gọi là xé tan cái mũ ấy ra, rồi nắm thắt lưng kéo cổ thằng già ấy xuống núi cho mà xem.
Đới Tung thấy vậy, nguýt Lý Quỳ mà rằng:
- Anh lại muốn đóng đinh chân xuống đây rồi.
Lý Quỳ vội làm mặt tươi cười mà rằng:
- Không, không, tôi nói đùa đấy chứ.
Đêm hôm ấy hai người về tới nhà, Công Tôn Thắng sai dọn cơm ăn. Công Tôn Thắng cùng Đới Tung ăn uống như thường, duy Lý Quỳ cứ ngồi nghĩ ngây người mà không ăn uống chi cả.
Công Tôn Thắng bảo với hai người rằng:
- Hãy dầu lòng nghỉ đây một tối, sáng mai tôi đến nói lại xem, nếu có cho đi thì hay lắm.
Đới Tung đành phải cất dọn hành lý, rồi cùng với Lý Quỳ, cùng ngủ một nơi. Lý Quỳ nằm trằn trọc không sao ngủ được. Đến sáng canh tư, thì chàng ngồi nhổm dậy, nghe thấy Đới Tung ngủ ngáy khò khò như chết, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: "Thằng cha nó...vô lý quá! Nó là người ở Lương Sơn về đây, lại còn phải hỏi sư phụ nào! Mình định cho phắt nó một búa là xong, nhưng giết nó, thì lấy ai cứu Ca Ca cho được? "
Đoạn rồi lại nghĩ: "Nếu sáng mai mà lão già lại không chịu cho đi, thì có phải là lỡ cả việc của Ca Ca không? Thế này thì không thể nào mà nhịn được! Bất nhược giết phăng thằng già kia, cho nó hết hỏi là tất nhiên phải đi với mình hẳn... "
Chàng nghĩ đến đó, liền sờ đến đôi phủ, khẽ mở cửa phòng, lần bóng trăng trong mà đi lên Tử Hư. Khi tới nơi, thấy cửa đóng kín mít, lại hai bên tường thấy lè tè, chàng liền nhảy tót vào trong, sẽ mở cửa ra, rồi lần mò vào trong hiên Tùng Hạc. Chàng đi đến trước hiên, nghe trong cửa có tiếng người tụng kinh, bèn nhảy lên chỗ khe cửa để xem thì thấy La Chân Nhân ngồi ở chỗ lúc chiều, trên án trước mặt có lò lửa hương khói bốc lên nghi ngút, và hai cây nến thắp sáng choang.
Lý Quỳ nói một mình: "Thằng cha này số chết đây" rồi lần đến bên cửa sẽ lấy tay đẩy tung cánh cửa ra, đoạn rồi lấy búa sấn vào, nhè giữa óc La Chân Nhân choang cho một búa; ngã gục xuống giường.
Lý Quỳ nom kỹ thấy máu trắng chảy ra, bèn cười mà nói rằng:
- Thằng cha này luyện tài thực, làm thế nào mà nguyên khí hãy còn nguyên.
Chàng cũng nom đến cái mũ cũng vỡ ra làm đôi, mà trên đầu thì toác một nhát thẳng xuống dưới cổ.
Chàng lại nói:
- Giết được thằng cha này, tất là Công Tôn Thắng phải theo chúng mình hẳn.
Nói đoạn toan quay về. Chợt đâu một tên Thanh Y Đạo Đồng chạy đến ôm lấy Lý Quỳ mà rằng:
- Anh giết thầy tôi, bây giờ chực chạy đi đâu?
Lý Quỳ giơ búa lên mà quát rằng:
- Thằng ranh con này, ông cho một búa nhân thể.
Nói đoạn chém một nhát chết quay ra đó, rồi cười nói một mình rằng:
- Bây giờ còn đứa nào ra đây nữa không? Thôi ta đi về.
Miệng nói chân đi chạy thẳng một mạch về nhà Công Tôn Thắng, tới nơi lẻn vào thấy Đới Tung vẫn còn ngủ im thim thít, chàng lại đóng cửa rồi vào nằm tử tế. Sáng hôm sau dậy sớm, Công Tôn Thắng sai dọn cơm cùng ăn, cơm nước xong Đới Tung lại thúc giục Công Tôn Thắng lên núi để xin phép, Lý Quỳ thấy vậy chỉ bầm bụng cười thầm mà không dám nói. Đoạn rồi Công Tôn Thắng đưa hai người cùng đến quán Tử Hư.
Khi vào tới Tùng Hạc, có hai tên đạo đồng đứng ở đó. Công Tôn Thắng liền hỏi:
- Chân Nhân ngồi ở đâu?
Đạo đồng đáp:
- Chân Nhân đương ngồi ở trên Vân Sàng đó.
Lý Quỳ gnhe nói cả kinh, lè lưỡi ra đến nửa ngày không co vào được. Bấy giờ ba người cùng mở rèm đi vào, quả nhiên thấy La Chân Nhân đương ngồi trên Vân Sàng ở giữa nhà.
Lý Quỳ thấy vậy nghĩ thầm rằng: "Có lẽ đêm qua mình giết nhầm chắc"
Vừa nghĩ xong thấy Chân Nhân hỏi:
- Ba các ngươi đến đây làm gì?
Đới Tung nói:
- Chúng tôi đến kêu với sư phụ mở lòng từ bi cứu cho khỏi nạn, chúng tôi được đội ơn đức muôn vàn.
La Chân Nhân hỏi:
- Người đen lớn kia là ai thế?
Đới Tung bẩm:
- Hắn là nghĩa đệ của tôi tên là Lý Quỳ ...
Chân Nhân cười nói:
- Đáng lẽ không cho Công Tôn Thắng đi, nhưng nể mặt Lý Quỳ, nên cho anh ta đi một phen...
Đới Tung lạy tạ, rồi lại nói chuyện với Lý Quỳ.
Lý Quỳ nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: "Anh này biết mình định giết nên mới thế đây...”
Chân Nhân lại nói:
- Ta làm phép cho ba người đến ngay Đường Châu bây giờ...
Đới Tung vâng lời tạ ơn, rồi tự nghĩ rằng: "La Chân Nhân lại có phép đi nhanh hơn phép thần hành của ta hẳn?"
Chân Nhân gọi đạo đồng, lấy ba cái khăn tay đến. Đới Tung nói với Chân Nhân rằng:
- Bẩm sư phụ làm thế nào cho chúng tôi tới ngay được Đường Châu?
Chân Nhân đứng dậy bảo ba người rằng:
- Các ngươi đi ra đây với ta.
Ba người vâng lời theo Chân Nhân ra chỗ mỏm đá bảo Công Tôn Thắng đứng chụm hai chân lên trên, rồi Chân Nhân lấy tay áo phẩy một cái mà quát lên rằng:
- Lên...
Bỗng dưng cái khăn hóa ra một vầng mây đỏ, đem Công Tôn Thắng lên cao ước chừng hai mươi trượng, Chân Nhân lại quát lên "Im" thì thấy dám mây đứng im lại mà không đi nữa.
Chân Nhân lại lấy khăn tay xanh, bảo Đới Tung trèo lên, rồi quát một tiếng "Lên" thì khăn tay xanh hóa ra đám mây xanh, mà đưa Đới Tung lên cao bằng chỗ Công Tôn Thắng, mà đang lơ lửng ở đó.
Lý Quỳ nom thấy vậy, ngây hẳn người ra, như thằng dại vậy. Bấy giờ Chân Nhân lại bảo lấy khăn tay trắng, bảo Lý Quỳ đứng lên.
Lý Quỳ nói:
- Đừng làm đùa thế, lỡ ngã một cái thì quăn da.
Chân Nhân nói:
- Anh nom hai người kia có ngã không?
Lý Quỳ liền đứng vào cái khăn tay. Chân Nhân quát lên một tiếng "Lên" rồi khăn tay trắng hóa thành đám mây trắng đem quân bay lên, Lý Quỳ kêu lên:
- Ái...Ái...Không chịu được, cho xuống mau.
Chân Nhân vẫy tay một cái, hai đám mây xanh, đỏ đều là là bay xuống. Đới Tung lạy tạ Chân Nhân, đứng hầu vàobên hữu, còn Công Tôn Thắng đứng hầu về bên tả. Bấy giờ còn một mình Lý Quỳ ở trên mây trắng kêu lên rằng:
- Trời ôi! Tôi muốn đái bây giờ...Mau mau cho xuống, không có thì đái cả vào đầu bây giờ.
La Chân Nhân đứng dưới hỏi lên rằng:
- Chúng ta là bọn tu hành có can phạm gì đến ngươi? Sao đêm hôm qua ngươi dám cào tường vào, giơ búa chém ta? Nếu ta không phải là người có đạo đức, thì còn sống làm sao được nữa? Ngươi lại giết cả đạo đồng của ta nữa là nghĩa lý gì?
Lý Quỳ nói:
- Không phải tôi! Có lẽ ông lầm rồi... .
La Chân Nhân cười rằng:
- Thôi, cũng chỉ chém hai cái túm cỏ của ta đó thôi. Nhưng bụng ngươi đã bất thiện, thì ta phải cho một mẻ mà sửa đổi đi mới được.
Nói đoạn giơ tay vẫy, quát lên một tiếng "Đi" rồi thấy một trận ác phong đưa đến thổi bạt Lý Quỳ đi lên tít trên mây. Đoạn rồi có hai người lực sĩ khăn vàng dong áp hai bên.
Bấy giờ Lý Quỳ chỉ nghe thấy hai bên tai vù vù như gió táp mưa sa, trông xuống bên dưới cỏ cây cửa nhà đều ầm ầm bay chuyển. Dưới chân mình cũng chẳng khác nào gió giục mây vần, càng ngày càng đổi giạt mãi đi, không biết trời đất là đâu nữa.
Lý Quỳ trông thấy sợ hãi rụng rời, chân tay dẫy lên đây đẩy. Chợt đâu nghe một tiếng huỵch thật mạnh, chàng nhắm mắt nhìn kỹ thì rơi ngay xuống nóc nhà công đường phủ Kế Châu, rồi lăn thồ lồ xuống đất.
Khi đó quan Phủ Mã Sĩ đương ngồi trong công đường, nha lại đứng hầu cả hai bên, thấy bỗng có người ở trên nóc nhà lăn xuống, thì ai nấy đều kinh sợ không hiểu ra sao cả.
Quan Phủ bèn thét lính trói lại, rồi bắt dong đến trước cửa công đường ma quát lên rằng:
- Thằng này mày là yêu quái ở đâu mà lại rơi xuống đó?
Lý Quỳ đương đau đớn, vỡ cả đầu sứt cả mặt, thở hồng hộc, không sao mà trả lời được.
Tri Phủ lại quát:
- Thằng này tất là yêu quái ở đâu, bây lấy nước phép ra đây...
Mấy tên lính ngục vâng lời, đem Lý Quỳ mà trói lại, đưa ra chỗ bãi co û trước cửa công đường, rồi một tên ngu hầu bưng chậu huyết cho, và một người bưng thùng nước giải dội từ đầu Lý Quỳ xuống.
Lý Quỳ thấy mình mẩy mặt mũi, toàn nhơ bẩn cả lên, bèn kêu rằng:
- Tôi không phải là yêu ma nào đâu...Tôi là người nhà La Chân Nhân đây.
Nguyên La Chân Nhân vốn có tiếng đạo đức ở đất Kế Châu, quanh vùng đó, ai cũng gọi là ông thần tiên sống, nhân thế nên không ai động đến Lý Quỳ nữa. Đoạn rồi chúng lại dẫn Lý Quỳ vào công đường mà kêu lên rằng:
- La Chân Nhân là một người có tiếng là thần tiên sống ở đất Kế Châu. Vậy quả người này là người nhà La Chân Nhân, thì không nên trị tội làm chi.
Tri Phủ cười rằng:
- Ta đọc hàng nghìn vạn cuốn sách, nghe hết chuyện xưa nay, chưa từng nghe thấy ông thần tiên nào lại có người đồ đệ như thế này bao giờ. Thằng này chắc là yêu quái, chúng đem đánh đi ta xem.
Chúng vâng lệnh phải đem Lý Quỳ ra đánh lấy đánh để, chỉ còn thiếu một nước chết là xong.
Tri Phủ quát lên rằng:
- Nếu thú nhận là yêu quái, thì ta tha cho.
Lý Quỳ phải bất đắc dĩ mà xưng tên Lý Nhị. Tri Phủ liền sai đóng gông nặng, mà giam xuống nhà lao tử tù.
Khi xuống ngục, Lý Quỳ nói rằng:
- Ta nay bị nhật thần xung khắc, sao lại gông ta thế này? Ta truyền cho cả phủ Kế Châu là chết hết đó?
Mấy anh Áp lao Tiếp Cấp, và bọn lính ngục vẫn sợ tiếng La Chân Nhân xưa nay, vội vàng đến hỏi Lý Quỳ rằng:
- Bác là người ở đâu? Cứ nói thực cho chúng tôi biết...
Lý Quỳ nói:
- Ta là người thân của La Chân Nhân, nên đem ta đến bỏ chốn này, đây ải vài hôm, rồi thế nào cũng đón ta về...Nếu các anh không đem rượu thịt cho ta ăn uống tử tế, thì ta cho toàn gia các anh chết cả đó...
Bọn kia nghe nói, anh nào cũng sợ hãi, phải mua rượu thịt đến cho ăn uống. Lý Quỳ thấy chúng sợ hãi lại càng làm già lên, cho chúng sợ hãi, cho chúng sợ thêm, phải đem nước nóng đến cho chàng tắm rửa.
Lý Quỳ bảo chúng rằng:
- Nếu không cho ăn uống hẳn hoi, thì ta cứ bay đi ngay, để các anh khổ cho mà coi...
Bọn lính ngục thấy vậy, lại càng kính sợ, đem nước nóng cho Lý Quỳ tắm gội, rồi lấy quần áo sạch sẽ cho thay, rồi anh nào anh nấy, phục dịch bằng ông thần sống vậy.
Nói về La Chân Nhân từ khi sai ngọn gió đưa Lý Quỳ đi rồi, liền đem chuyện trước nói cho Đới Tung biết, Đới Tung kinh sợ, vội vàng kêu xin tha thứ cho Lý Quỳ. Đoạn rồi La Chân Nhân giữ Đới Tung ở đó, mà hỏi thăm mọi công việc của sơn trại.
Đới Tung đem tấm lòng trọng nghĩa khinh tài, cùng các đức hay tính tốt của Tiều Thiên Vương và Tống Công Minh thuật cho Chân Nhân nghe. Chân Nhân nghe nói, vẫn điềm nhiên như không, rồi lưu Đới Tung ở đó luôn năm hôm nữa. Trong mấy hôm đó, ngày nào Đới Tung cũng lạy van kêu nài với La Chân Nhân để xin cứu cho Lý Quỳ trở về, La Chân Nhân cười mà đáp rằng:
- Hạng người ấy thì trừ phắt nó đi, còn mang về làm gì nữa.
Đới Tung nói:
- Lý Quỳ tuy tính thô mãng không biết lễ phép, xong bụng dạ trực tiết, bình sinh không hề tham nhũng của ai, không hề siểm nịnh ai, dẫu chết tấm lòng không đổi...Nhất sinh chưa từng có một chút manh tâm đến sự tài lợi dâm đãng, nên việc gì cũng hăng hái dám làm, bởi thế nên Tống Công Minh lấy làm yêu quý vô cùng. Nay nếu mất người ấy, thì chúng tôi không thể nào về với Tống Công Minh được nữa?
La Chân Nhân cười rằng:
- Tôi nói thế mà thôi...tôi vẫn biết là một vị Sát Tinh ở trên trời, vì hạ giới hiện nay tội ác đã nhiều, nên trời đày anh ta xuống để giết bớt những giống loài vô ích, tôi đây có khi nào lại trái lòng trời, mà giết hắn đi cho được, đó chẳng qua là rèn bớt tính khí cho hắn, rồi tôi lại cho về đây ngay, có ngại gì?
Nói đoạn gọi lên rằng:
- Nào lực sĩ đâu?
Nói vừa dứt lời, thì trước hiên Tùng Hạc có một ngọn gió bay qua rồi có một lực sĩ khăn Vàng chạy vào, cúi lạy La Chân Nhân mà vâng pháp chỉ. Chân Nhân truyền rằng:
- Hôm nọ ta sai ngươi đem đày tên ấy sang Kế Châu, nay đã hết tội lỗi rồi, vậy ngươi đến đó bắt về đây cho ta.
Lực sĩ vâng lời quay ra. Được một lát bỗng thấy Lý Quỳ ở trên trời rơi xuống ở giữa sân. Đới Tung vội vàng ra đỡ Lý Quỳ mà hỏi rằng:
- Mấy hôm nay anh em ở đâu thế?
Lý Quỳ trông thấy La Chân Nhân, thì chỉ cúi đầu lạy lấy lạy để, mà kêu lên rằng:
- Trăm lay gia gia, ngàn lại gia gia, từ nay Thiết Ngưa không dám thế nữa...
La Chân Nhân ung dung nói rằng:
- Ngươi từ nay trở đi phải bỏ hết tính xằng, mà hết lòng phò tá Tống Công Minh thì ta tha cho.
Lý Quỳ nói:
- Người là cha mẹ bên trên, khi nào con cái dám sai lời nữa.
Đới Tung lại hỏi thăm chuyện trong mấy hôm đó. Lý Quỳ liền thuật lại chuyện vào ngục Kế Châu, đến khi có Hoàng Cân Lực Sĩ cứu về, cho Đới Tung nghe...
Bấy giờ Công Tôn Thắng nói với hai người rằng:
- Ở đây có hơn một ngàn Hoàng Cân Lực Sĩ đó đều là đầy tớ La Chân Nhân cả...
Lý Quỳ nghe nói kêu lên rằng:
- Ối Phật Tổ ôi! Thế mà không bảo cho tôi biết trước, để tôi khỏi xằng như thế?
Nói đoạn lạy lấy lạy để không thôi...
Đới Tung cũng năn nỉ kêu với La Chân Nhân rằng:
- Chúng tôi đến đây đã lâu, mà quân mã Đăng Châu hiện đương nguy cấp, dám xin sư phụ mở lượng từ bi, mà cho Công Tôn Thắng cùng đi cứu Tống Công Minh, để phá Cao Liêm một phen, rồi lại xin đưa lên hầu ngài lập tức.
La Chân Nhân nói:
- Lẽ ra không cho đi, nhưng nghĩ đến đại nghĩa của các ngươi thì xin cho đi mấy hôm để giúp...Duy ta dặn câu này phải nhớ chớ quên mới được ...
Công Tôn Thắng vội vàng quỳ xuống để nghe pháp chỉ xem sao?
Mới hay:
Cuộc đời bể lại dám qua,
Xưa nay nghĩa lớn vẫn là nghĩa chung,
Người Thánh triết kẻ hào hùng.
Đặt thân tuy khác, giữ lòng dễ sai.
Cùng nhau tế độ lấy đời,
Gây nên hạnh phúc cho nòi giống xưa,
Can qua dù sự chằng ngờ,
Gan vàng dạ sắt trơ trơ mới là...
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này toàn đem chuyện quái lạ viết ra văn, trong truyện có một dạng bút mực khác, song ở độc giả, phải nên lược qua chuyện quái lạ, mà đoán ra ý tứ. Tại sao? Vì quái lạ vốn ác đạo của văn chương, truyện này cũng có nói ra, chẳng phải là không thoát tục, mà có tác dụng vậy, cũng có ý tứ khác người đó vậy.
Vì trong truyện đã có một Công Tôn Thắng, chẳng thề không có một Cao Liêm, sinh nẩy ra lấy một Cao Liêm, để phản thấn lại Công Tôn Thắng. Nay chẳng vì lúc này phép thuật gớm ghê, mà tả ra một phen đấu phép hay sao? Song le phép thuật gớm ghê vốn là khó vậy, nếu chẳng phô trương Cao Liêm, thì không thể phô trương Công Tôn Thắng, khoe khoang hai người đấu phép tranh kỳ, đủ mọi phép mầu sinh ra quỷthần cầm thú...chẳng còn thiếu cái gì, thì như truyện Tây du và mọi sách không khác, đó là Thi Nại Am đối với nghĩa chẳng làm sao được.
Ta nghe nhà văn, từng có những phép bỏ thực cầu hư, ở đây lược tả Cao Liêm, tường thụật Công Tôn, ý giả dụng phép này chẳng? Song nghiệp dĩ đã lược tả Cao Liêm, tường thuật Công Tôn, thì sao chẳng lược tả cả Công Tôn, mà tường thuật đến thầy của Công Tôn, tức bảo là bỏ thực cầu hư đó vậy. Lại thêm chuyện Lý Quỳ diệt quái đã lạ, để nảy ra một bậc chân nhân, nảy ra Chân Nhân, chính là để nảy ra Công Tôn Thắng vậy, nếu chẳng biết ý tứ tác giả như thế, mà vội chê Lý Quỳ đối sĩ bệnh không thể chữa, ta cũng không biết nói thế nào?
Hồi này một đoạn tả ra chỗ vô bàn đổ bánh, để đi đến những đoạn văn sau, đều do tác giả thổ hết tâm can mới được như thế, không nên coi thường mà đọc qua loa.
Hồi 53
Nhập Vân Long đấu phép phá Cao Liêm;
Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến.
Bấy giờ La Chân Nhân bảo với Công Tôn Thắng rằng:
- Phép thuật của ngươi đối với Cao Liêm cũng không hơn kém gì nhau, song ngày nay ta trao cho ngươi một phép Ngũ Lôi Thiên Tâm, ngươi cứ theo thế mà làm Đạo được. Còn lão mẫu ngươi ở nhà, ta sai người trông nom tử tế, không cần lo nghĩ làm chi. Ngươi cũng là ứng vào Tính số trên trời, nên ta tạm cho ra đó một phen, song trong lòng phải thủy chung giữ lấy lời xưa, chớ bị người ta xui giục mà quên bỏ nghĩa lớn của mình mới được.
Công Tôn Thắng vâng nhận các phép rồi cùng với Đới Tung, Lý Quỳ lạy tạ Chân Nhân, và giã từ bạn học mà cùng về nhà tư. Khi về tới nhà, Công Tôn Thắng lấy hai khẩu bảo kiếm, sắp sẵn cái mũ sắt áo đạo, cùng các đồ hành lý, rồi biệt thân mẫu mà lên đường.
Đi được bốn mươi dặm đường, Đới Tung bảo với Công Tôn Thắng rằng:
- Bây giờ Tiên Sinh cùng Lý Quỳ đi sau, để tôi về trước báo với Tống Ca Ca, rồi cho người đi đón.
Công Tôn Thắng đáp:
- Được lắm, xin hiền đệ cứ báo trước, để tôi đi sau càng tiện.
Đới Tung dặn Lý Quỳ rằng:
- Anh đi đường phải theo mệnh lệnh tiên sinh, nếu có câu gì không phải, thì tôi sẽ liệu cho anh.
Lý Quỳ vâng dạ mà rằng:
- Phép thuật tiên sinh cũng như La Chân Nhân vậy, có khi nào tôi dám khinh nhờn, xin Ca Ca cứ đi trước cho.
Đới Tung liền buộc giáp mã, làm phép thần hành đi trước, còn Công Tôn Thắng với Lý Quỳ lục đục đi sau. Trong khi đi đường, Lý Quỳ sợ phép thuật của La Chân Nhân; nên hết lòng hầu hạ Công Tôn không hề có việc càn bậy.
Cách vài hôm, đi đến trấn Vũ Cương, thấy cửa nhà đông đúc, Công Tôn Thắng bảo với Lý Quỳ rằng:
- Mấy hôm nay đi đường khó nhọc, nay ta hãy vào uống chén rượu xuông, ăn vài cái bánh chay, rồi sẽ đi cũng được.
Lý Quỳ nghe nói láy làm mừng, bèn tìm vào một hàng rượu ở bên đường để đánh chén. Khi vào tới nơi, Công Tôn Thắng ngồi trên, Lý Quỳ cởi khăn gói ngồi phía dưới, rồi gọi nhà hàng dọn rượu lên.
Công Tôn Thắng hỏi nhà hàng rằng:
- Ở đây có bánh điểm tâm chay không?
- Thưa ngài, trong hàng tôi bán rượu thịt, không có bánh chay, duy ngoài chợ có thứ bánh táo là thức ăn chay mà thôi.
Lý Quỳ nói:
- Để tôi đi mua về đây.
Nói đoạn mở gói lấy ít tiền, chạy ra chợ mua bánh. Khi mua xong, đương sắp ra về, chợt thấy bên đường có tiếng người kêu quát lên rằng:
- "Khỏe thực... "
Lý Quỳ nghe thấy vậy, vội chạy đến xem, thì thấy có đám đông người vây một anh chàng to lớn, đương múa đôi chùy sắt ở đó. Anh chàng ấy mình cao hơn bảy thước, da mặt sần gai, mũi thẳng xuống như dọc dừa, tay cầm chùy sắt, nặng ước ba mươi cân, múa mang một lúc, rồi đánh vào hòn đá ở bên đường vỡ hẳn ra. Chúng trông thấy, đều vỗ tay khen ngợi ầm lên, Lý Quỳ thấy vậy, không sao nhịn được, liền dắt bánh vào trong bọc chạy sấn vào giơ tay toan giật lấy chùy sắt của chàng kia.
Chàng kia quát lên rằng:
- Anh là thằng nhắng nào, dám vào dằng lấy chùy của ta.
Lý Quỳ nói:
- Anh múa có ra cái gì...Mà họ khen ầm cả lên... ?
Để lão gia múa cho xem.
Chàng kia nói:
- Được, ta cho anh mượn hai cây chùy...Nếu không múa nổi, thì ta tặng cho mấy qủa đấm mà xem.
Lý Quỳ lẳng lặng với lấy cây chùy, múa lên múa xuống, tựa hồ như tung quả đạn tròn, hồi lâu mới đặt xuống, mà tinh thần không hề chút gì ra dáng khó nhọc.
Anh chàng kia trông thấy, vội cúi rạp xuống mà lạy rồi hỏi rằng:
- Xin hỏi đại danh Ca Ca là gì?
Lý Quỳ hỏi lại:
- Nhà anh ở đâu?
Anh chàng đáp:
- Nhà tôi ở phía trước gần đây ...
Nói đoạn liền dẫn Lý Quỳ đến một nơi cửa khóa then cài cẩn thận, rồi lấy chìa khóa mở cửa mời Lý Quỳ vào.
Lý Quỳ vào tới trong nhà toàn thị bễ lò kim khí vất bỏ ngổn ngang trong bụng liền nghĩ thầm: "Anh nay athan laanh lorehie trong s tra i ta cung ca eba nhc ru pha cho tie... " Nghĩ vậy liền hỏi:
- Bác tên họ là gì, xin cho tôi biết?
- Thưa ngài: Tôi họ Thang tên Long, thân phụ tôi ngày trước làm nghề thợ rèn, sau gặp Lão Trung Kinh Lược, cho làm quan ở phủ Diên An, mới đây phụ thân tôi bị mất ở chỗ làm quan, tính tôi lại hay dong chơi cờ bạc, nên mới lưu lạc giang hồ, phải tạm trú ở đây để làm nghề thợ rèn kiếm ăn. Tôi có luyện tập được nhiều võ nghệ, song người ta thấy tôi có mụn đen khắp cả quanh mình, nên thường gọi là Kim Tiền Báo Tử (con báo tốt tiền). Vậy dám hỏi quý danh là gì?
- Tôi tức là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc đây?
Thang Long nghe nói, vội vàng cúi lạy mà rằng:
- Chết nỗi! Tôi nghe tiếng đã lâu mà không được biết?
- Anh ở đây làm nghề thợ rèn, thì bao giờ cho khá được, bất nhược theo tôi cùng lên Lương Sơn Bạc, làm chức Đầu Lĩnh có thú hơn không?
Thang Long hớn hở đáp rằng:
- Nếu quan anh có lòng tốt, cho tiểu đệ theo đi, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn liền bái Lý Quỳ làm anh, rồi Lý Quỳ nhận Thang Long làm em.
Thang Long lại nói với Lý Quỳ rằng:
- Nhà tôi không có đầy tớ, xin mời quan anh ra chợ uống vài chén rượu xuông cho tỏ tình thân ái, rồi nghỉ đây một đêm, sáng mai sẽ đi...
Lý Quỳ nói:
- Tôi còn có sư phụ ngồi ở đằng kia, để tôi đem bánh về ăn, rồi chạy ra ngay bây giờ, không thể nào trì trệ được nữa.
- Vội chi mà phải đi ngay như thế?
- Chết nỗi! Tống Công Minh Ca Ca hiện đương đánh nhau ở đất Đường Châu, còn tôi mời sư phụ về cứu ứng đó.
- Sư phụ là ai?
- Thôi bất tất phải nói anh xếp dẹp đi ngay mới được.
Thang Long vâng lời, vội vàng thu xếp khăn gói, tiền nong khoác nón, giắt dao, cầm thanh đao lớn, vất bỏ cả cửa nhà đồ đạc, mà theo Lý Quỳ cùng đi.
Khi đi đến tửu điếm, Công Tôn Thắng trông thấy Lý Quỳ về, bèn có ý gay gắt bảo Lý Quỳ rằng:
- Anh đi đâu đến bây giờ mới về? Giá chậm lúc nữa, thì tôi lên núi cho rảnh chuyện...
Lý Quỳ nghe nói lặng ngắt không dám trả lời, liền dẫn Thang Long vào lạy chào, mà kể rõ cho Công Tôn Thắng nghe, Công Tôn Thắng thấy vậy cũng có ý vui mừng một chút. Đoạn rồi Lý Quỳ đem bánh ra ba người ăn uống với nhau.
Khi ăn uống xong tính trả tiền hàng, rồi Lý Quỳ cùng Thang Long đều khoác khăn gói, theo Công Tôn Thắng về lối Đường Châu. Đi được chừng hai phần đường, đã thấy Đới Tung đến tiếp đón.
Công Tôn Thắng cả mừng, vội hỏi công việc đánh nhau mấy bữa nay ra sao?
Đới Tung nói:
- Mấy hôm nay Cao Liêm đã khỏi vết thương, ngày nào cũng cho quân ra khơi đánh, nhưng Ca Ca phải chịu nhịn, không ra đánh, đành phải đợi tiên sinh đến đã.
Công Tôn Thắng cười rằng:
- Được lắm, để tôi đến sẽ hay.
Lý Quỳ lại dẫn Đới Tung vào chào hỏi, rồi kể chuyện cho nghe, rồi bốn người kéo Đới Tung cùng đi. Khi gần tới trại, cách năm dặm đường, thấy Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn hơn năm trăm bộ, cùng ra đón tiếp.Bấy giờ bốn người cùng lên ngựa, rồi trở về Đại Trại.
Tống Giang, Ngô Dụng thấy Công Tôn Thắng về tới nơi, vội vàng hớn hở vui mừng đón vào thăm hỏi, rồi cho đòi các Đầu Lĩnh vào đến trướng Trung Quân, để chào mừng Công Tôn Thắng.
Lý Quỳ dẫn Thang Long vào chào Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi đặt tiệc ăn mừng, rất là vui vẻ.
Ngày hôm sau, Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng, bàn việc đánh Cao Liêm.
Công Tôn Thắng nói:
- Xin Chủ tướng truyền cho nhổ trại, kéo cả quân đến, xem thế giặc ra sao, rồi tôi sẽ liệu.
Tống Giang nghe lời, bèn truyền cho các trại, hết thẩy đều kéo quân đến gần phủ Cao Đường để dàn quân trận. Khi tới nơi, hạ trại yên ổn, đến sáng hôm sau quân sĩ ăn cơm từ trống canh năm, rồi sắp sửa chỉnh tề hết cả. Đoạn rồi Tống Giang, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng cưỡi ba con ngựa đóng ra trước cửa trận, thúc cho khua trống phất cờ xông thẳng vào thành để đánh.
Nói về Tri Phủ Cao Liêm mới khỏi được vết thương, nay bỗng thấy có quân mã Tống Giang kéo đến, chàng liền mặc giáp khoác bào, sai mở cửa thành, bỏ đích kiều xuống, dẫn ba trăm thần binh ra thành nghinh địch. Khi tới nơi, đôi bên mở cờ dóng trống, dàn thành trận thế, rồi bên kia Tống Giang đứng trước mặt trận, có mười viên tướng cưỡi ngựa đứng hàng ngạng hai bên. Bên tả có năm tướng là Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, Âu Bằng, và Lã Phương; Bên hữu năm tướng là Lâm Xung, Tôn Lập, Đặng Phi, Mã Lân, và Quách Thịnh. Khoảng giữa ba viên chủ tướng là Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng đều thắng ngựa đứng nom sang trận Cao Liêm.
Bấy giờ Cao Liêm thét bảo Tống Giang rằng:
- Bây là quân giặc cỏ, ở trong xó rừng vũng nước, nay đã định đánh nhau phải quyết được thua mới được, nếu kinh sợ bỏ chạy, thì không phải là hảo hán.
Tống Giang nghe nói, liền hỏi:
- Ai chém thằng giặc kia cho ta?
Nói vừa dứt lời, thì Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh múa thương phóng ngựa xông thẳng ra ngoài giữa trận.
Cao Liêm thấy vậy, quát lên rằng:
- Ai bắt thằng giặc kia cho ta?
Vừa nói xong, thì trong đám quan Thống Chế có một viên Thượng tướng, là Tiết Nguyên Huy múa song đao, vỗ ngựa ra đánh với Hoa Vinh, hai bên đánh nhau vừa được vài hiệp, Hoa Vinh liền quay ngựa chạy về bản trận, Tiết Nguyên Huy cũng múa đao phóng ngựa hết sức đuổi theo. Khi đuổi gần tới nơi, Hoa Vinh kìm cương ngựa lại, rồi dương cung đặt tên quay nhằm Nguyên Huy bắn một phát ngã xuống ngựa. Hai bên quân lính đều hò reo ầm ĩ cả lên.
Cao Liêm thấy vậy cả giận, liền cầm miếng bài đồng ra tay, lấy kiếm gõ luôn ba tiếng, rồi thấy giữa trận thần binh có trận ác phong tung động cát vàng làm cho trời thảm đất sâu, ai ai cũng kinh sợ. Đoạn rồi thấy tiếng reo hò nôn náo, có một toán sài lang hổ báo, cùng các thù trùng độc thú dữ, ở trong đám cát vàng hiện ra.
Bên kia Công Tôn Thắng thấy vậy, liền cầm thanh kiếm Tùng Văn Cổ Định trỏ sang quân Cao Liêm, trong miệng lẩm nhẩm sẽ đọc mấy lời, rồi quát một tiếng "Mau". Bấy giờ thấy một đạo kim quang bắn xói sang bên Cao Liêm, làm các thú dữ đều phơi phới xuống mặt đất cả. Quân lính cúi xuống nom, thì đám trùng độc thú dữ toàn thị bằng giấy trắng cắt ra, bay là xuống đất, thì cát vàng cũng nằm im không tung lên được nữa.
Tống Giang thấy vậy, cầm roi vẫy gọi tam quân, rồi nhân mã cùng ùa sang đánh giết trong trận Cao Liêm, quân mã Cao Liêm kinh sợ tán loạn, thiệt hại rất nhiều, Cao Liêm bèn kéo thần binh chạy thẳng vào thành để giữ. Quân Tống Giang đuổi đến gần thành, thấy đích kiều đã cất lên, cửa thành đã đóng, trên mặt thành đá gỗ ném xuống như mưa, liền gõ chiêng thu quân trở về đóng trại.
Khi điểm quân mã đều được đại thắng. Tống Giang bèn vào trương, ta ân đức Công Tôn Thắng, và khao thưởng khắp mặt tam quân.
Ngày hôm sau lại chia quân làm bốn mặt quanh thành, Công Tôn Thắng nói với Tống Giang, Ngô Dụng rằng:
- Hôm trước tuy đánh được quân Cao Liêm, song còn ba trăm thần binh chạy cả vào thành, vả chăng ngày nay phải thừa thế mà ra đây cướp trại. Vậy chiều nay ta nên thu quân làm một, đợi đến chiều tối sẽ cho nấp cả các nơi bỏ mặc trại không, cho chúng vào cướp, và truyền lệnh cho các quân sĩ cứ nghe tiếng sấm hiệu, và trông ngọn lửa ở trong trại bốc lên, là phải hết sức đổ ra đánh giết mới được.
Tống Giang nghe lời truyền lệnh cho ba quân, tiến lên đánh thành rồi chiều đến kéo cả vềtrại. Chiều hôm đó trong trại mở cờ nổi trống, chè chén với nhau, mãi đến chiều tối mới đặt ngũ để ra nấp các nơi. Khi mai phục đã yên tịnh đâu vào đó rồi. Tống Giang, Ngô Dụng, Quách Thịnh, đều kéo nhau lên chỗ gò cao để đợi.
Đêm hôm đó Cao Liêm điểm ba trăm thần binh, mỗi người lưng đeo ống sắt, trong đựng các thức lưu hoàng cùng diêm sinh, và một người đều cầm dao trượng gậy móc, miệng ngậm còi, đợi đến canh hai mở cửa thành, kéo quân ra cướp trại. Bấy giờ Cao Liêm dẫn thần binh đi trước, sau lưng có ba mươi tên quân kị đuổi theo, cùng nhau thẳng kéo tới trại Tống Giang.
Khi gần tới trại, Cao Liêm ngồi trên mình ngựa làm phép yêu quái, phút chốc đã thấy trời đất đen sì, một trận cuồng phong đổ lá rung cây đưa đến, đoạn rồi ba trăm thần binh thắp lửa vào ống sắt thổi còi làm hiệu, xông xáo kéo vào trong trại.
Bên kia Công Tôn Thắng ngồi trên gò cao trông thấy, liền lễ kiếm làm phép, rồi thấy trông giữa trại không bỗng dưng nổi một tiếng sấm rất to, ba trăm thần binh nghe vậy, vừa toan quay gót lui ra, bỗng thấy trong trại lửa đỏ rực trời, rồi bốn mặt quân phục đổ ra vây chặt trong trại không còn lối nào mà chạy thoát.
Bấy giờ ba trăm thần binh, đều bị quân mã Tống Giang giết hết, không sót một người, Cao Liêm liền dẫn ba mươi quân kị chạy trốn về thành.
Vừa chạy được mấy bước, đã thấy Báo Tử Đầu Lâm Xung, dẫn một toán quân mã đuổi sát rạt đằng sau, Cao Liêm vội vàng gọi mở cửa thành, bỏ đích kiều xuống, dẫn được tám chín quân kị, chạy thoát vào thành. Còn mấy mươi tên nữa, đều bị Lâm Xung bắt sống được cả.
Cao Liêm vào trong thành, liền đốc thúc dân chúng để coi giữ trong thành, rất là cẩn thận.
Ngày hôm sau Tống Giang lại đến vây đánh thành rất dữ. Cao Liêm nghĩ thầm rằng: "Bấy lâu học được pháp thuật, vẫn tưởng hơn đứt người, ai ngờ ngày nay, lại còn có kẻ cao hơn nữa, như thế thì còn biết tính làm sao? Nay bất nhược phải mau mau viết thư sang hạt Đông Xương và hạt Khấu Châu để cầu cứu mới được. Hai hạt đó gần đây, vả chăng hai ông Tri Phủ đó, đều là môn đệ của Ca Ca ta, thì tất nhiên họ phải đến cứu không sai... " Nghĩ đoạn viết hai phong thư, sai hai quan Thống Chế mở cửa thành bên Tây, để cướp đường đi cầu cứu.
Bên kia các tướng của Tống Giang thấy người trong thành đi ra, đã toan đuổi theo để bắt.
Ngô Dụng gạt đi mà rằng:
- Mặc cho họ đi, ta sẽ dùng mẹo mà bắt mới thú.
Tống Giang hỏi:
- Quân sư định làm thế nào?
Ngô Dụng nói:
- Hiện nay trong thành tất là binh nguy tướng ít, nên mới sai người ra đi cầu cứu. Vậy ta giả làm hai đội quân mã đến ứng cứu, rồi đánh nhau lộn bậy ở ngoài, để cho hắn mở cửa thành ra tiếp ứng, Bấy giờø thừa thế đánh tràn vào đí, thì thế nào cũng bắt được Cao Liêm.
Tống Giang nghe cả mừng, liền sai Đới Tung về Lương Sơn Bạc lấy hai toán quân mã, chia làm hai đường để đến đánh Cao Đường.
Về phần Cao Liêm sau khi sai người đi cầu cứu viện, đêm đêm thường đốt lửa sáng rực trong thành để làm hiệu, đợi viện binh kéo đến. Cách mấy hôm trời, đám quân lính canh thành, bỗng thấy quân mã Tống Giang tự nhiêu rối loạn xôn xao, bèn vội vàng báo cho Cao Liêm biết.
Cao Liêm nghe báo, lập tức đóng áo mũ lên mặt thành để xem. Bấy giờ có hai toán quân mã xung đột tung hoành, bụi mù rợp đất, đánh giết luôn tay. Làm cho bọn giặc vây thành, đều bỏ tan mà chạy cả.
Cao Liêm thấy vậy, biết là viện quân đã đến, bèn điểm hết nhân mã trong thành, mở tung hết cả cửa thành, chia làm bốn mặt mà ùa ạt đánh ra.
Khi ra tới ngoài thành, Cao Liêm xông xáo đánh trận Tống Giang. Tống Giang, Hoa Vinh, Tần Minh cưỡi ba con ngựa, theo lối đường nhỏ mà chạy; Cao Liêm thúc quân mã đuổi riết để bắt. Đương khi đó có pháo nổ liên thanh, Cao Liêm lấy làm nghi sợ, bèn thu quân toan chạy trở về.
Bỗng đâu hai bên đường nổi tiếng thanh la ầm ĩ , rồi bên tả có Tiểu Oân Hầu, bên hữu có Kiễn Nhân Quý, đều dẫn năm trăm nhân mã xông ra, Cao Liêm cướp đường cố chạy, quân mã bị thiệt hại tới quá nửa. Khi chạy thoát được vòng trận về cổng thành, ngẩng lên trông thành đã thấy toàn thị hiệu cờ của Lương Sơn Bạc cả.
Cao Liêm kinh hoàng liếc mắt trông quanh không thấy có toán viện quân đâu nữa, chàng bất đắc dĩ phải dẫn đám quân, tìm đường lối hẻm trong núi mà chạy.
Chạy được mươi dặm đường, chợt thấy có một toán quân sĩ ở trong núi kéo ra; rồi thấy Bệnh Uùy Trì ngăn cản giữa đường mà quát lên rằng:
- Chúng ta đợi đây đã lâu, muốn sống xuống ngựa đi thôi.
Cao Liêm thấy vậy, lại dẫn quân quay lại, bỗng lại thấy Mỹ Nhiêm Công dẫn một toán quân sĩ chắn ngang lấp đường, rồi hai bên cùng xông vào để đánh. Cao Liêm thấy đường đi lối lại, đều mắc nghẽn cả, bèn bỏ ngựa xuống bộ, rồi lần lên núi để trốn. Bọn kia lại xông lên núi đuổi theo. Cao Liêm vội niệm mấy câu thần chú trong miệng, rồi quát lên một tiếng "Lên", rồi cưỡi lên một đám mây đen phất phơ trên đỉnh núi.
Khi đó Công Tôn Thắng đứng bên sườn núi thấy vậy, bèn ngồi trên mình ngựa, cầm thanh kiếm làm phép, quát lên một tiếng "Mau" rồi trỏ thanh kiếm lên, thì thấy Cao Liêm ở giữa đám mây, rơi tung ngay xuống trước mặt Lôi Hoành, Lôi Hoành tiện tay chém một đao đứt làm đôi đoạn, rồi xách thủ cấp xuống núi.
Tống Giang nghe nói giết được Cao Liêm, bèn thu quân kéo vào trong thành Cao Đường, trước hết hạ lệnh, không cho xâm phạm dân gian, và yết bảng cho dân được yên việc làm ăn, đoạn rồi đến nhà lao để cứu Sài Đại Quan Nhân.
Bấy giờ Tiết Cấp cùng các lính ngục đều chạy trốn mọi nơi, duy còn bốn năm mươi tên tù còn sót lại. Tống Giang lại sai tháo gông mà tha cho tất cả mọi người, mà không thấy Sài Tiến ở đấy. Tống Giang cho tìm khắp mọi nơi. Sau thấy có vợ con Sài Hoàng Thành, cùng vợ con Sài Tiến đều bị giam vào hai phòng riêng, mà Sài Tiến lại không thấy, nên trong lòng buồn bã vô cùng.
Quân sư Ngô Dụng cho đòi tất cả các người làm việc ở châu Cao Đường đến để hỏi. Sau có một người Tiết Cấp tên là Lạn Nhân nói rằng:
- Bữa trước Tri Phủ Cao Liêm, bắt chúng tôi phải giam giữ rất là cẩn thận, và có dặn chúng tôi, nếu lỡ có xảy ra sự gì, thì cứ đem giết ngay Sài Tiến đi trước. Cách đây ba hôm Phủ lại thúc đem Sài Tiến ra để hành hình, chúng tôi thấy người đó ra vẻ tuấn tú khôi ngô, nên người chí khí, mới không nỡ ra tay, mà nói dối là Sài Tiến đã ốm gần chết đến nơi không cần phải giết. Sau Tri Phủ thúc giục luôn, tôi đã phải nói dối là Sài Tiến chết rồi...Đoạn rồi trong mấy hôm đánh nhau bận rộn, nên Tri Phủ cũng không hỏi gì đến nữa. Sau lại sợ người bới vẽ đến tai Tri Phủ, nên hôm qua tôi đem Sài Tiến ra chỗ giếng khô ở phía sau, tháo gông cho nấp xuống đó. Nay không biết có còn hay không.
Tống Giang nghe nói, vội bảo Lạn Nhan dẫn ra đi xem. Khi tới nơi, nom xuống dưới giếng, thấy tối đen mịt mù, không biết sâu nông thế nào, cho người đứng trên kêu gọi, thì thấy dưới giếng im phắc như tờ, không có ai trả lời cả. Sau thòng dây xuống để đo, mới biết giếng sâu có tới chín trựợng.
Tống Giang thấy vậy, rân rấn hai hàng nước mắt mà nói rằng:
- Nếu vậy thì Sài Đại Quan Nhân nguy mất rồi.
Ngô Dụng nói:
- Xin Chủ Tướng thư tâm, để cho người xuống đó dò xét xem sao?
Ngô Dụng vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ chạy đến mà kêu lên rằng:
- Để tôi xuống cho.
Tống Giang nói:
- Được lắm! Chính ngươi làm hại Sài Đại Quan Nhân khi trước, nay ngươi nên xuống cứu mới phải.
Lý Quỳ cười nói rằng:
- Tôi xuống đó cũng không sợ gì, nhưng ở trên này đừng cắt dây mới được.
Ngô Dụng nói:
- Sao anh láu thế? Ai đã phản anh mà sợ?
Nói đoạn sai người lấy thừng lớn, buộc hai bên cạnh nối đầu thừng rất dài, đặt một cây tre trên miệng giếng, rồi quăng dây thừng lên đó. Đoạn rồi Lý Quỳ cởi trần trùng trục, tay cầm song phủ ngồi vào trong thúng, buộc hai cái chuông bên cạnh thúng, rồi người đứng trên dong dây cho Lý Quỳ xuống giếng.
Khi xuống tới đáy giếng, Lý Quỳ ra lần mò sờ soạng, bất đồ vớ phải đống xương, Lý Quỳ kêu một mình lên rằng:
- Ối cha mẹ! Cái quái gì mà gớm ghê như vậy?
Chàng lại sờ quanh sờ quẩn, thấy giữa lòng giếng, đầy những bùn lầy không sao bước chân xuống được, Lý Quỳ để đôisong phủ vào thúng, rồi với đôi tay ra giếng để lần xem.
Chàng lần mãi, sau thấy một người nằm cuộn tròn to cũng nước, Lý Quỳ lại kêu lên rằng:
- Sài Đại Quan Nhân...
Kêu dứt lời, thì thấy người kia trả lời, chàng liền giơ tay vào mũi để xem, thì thấy vẫn còn thoi thóp thở.
Chàng thấy vậy, nói lẩm bẩm một mình:
- Lạy trời đất cứ thế này thì còn có cơ cứu sống lại đây.
Nói đoạn lại nhảy vào trong thúng lắc chuông ra hiệu cho ở trên biết. Trên kia nghe thấy chuông hiệu, vội vàng cố kéo thúng lên. Khi lên tới nơi, chỉ thấy một mình Lý Quỳ, Tống Giang lấy làm kinh ngạc mà hỏi. Lý Quỳ rõ mọi sự ở dưới giếng, cho Tống Giang nghe.
Tống Giang nói:
- Nếu vậy, thì người lại phải xuống đó, đặt Sài Đại Quan Nhân vào thúng, để kéo lên trước, rồi sẽ thông thúng xuống kéo người lên sau.
Lý Quỳ nói:
- Thôi, Ca Ca không biết...Tôi đi Kế Châu đã gặp hai lần rất nguy hiểm, nay chả lẽ lại chịu lần nguy hiểm thứ ba nữa!
Tống Giang cười rằng:
- Có lẽ ta lại đùa ngươi hay sao? Ngươi cứ xuống đi mới được.
Lý Quỳ vâng lời, lại ngồi vào thúng, rồi trên này dòng dây cho xuống giếng. Lý Quỳ ẵm Sài Tiến bỏ vào trong thúng, lắc chuông ra hiệu cho kéo lên. Chúng kéo được Sài Tiến lên tới nơi, ai nấy đều mừng rỡ vô cùng, khi trông thấy Sài Tiến bị đầu trán sứt sẹo, hai bên đùi nát nhừ da thịt, hai con mắt chỉ lim dim không mở ra được, thì mọi người lại thảm thiết xót thương, sai người đi mời thầy về chữa ngay lập tức.
Bấy giờ Lý Quỳ ở dưới giếng, đợi lâu không thấy thòng thúng xuống, chàng lấy làm sốt ruột, kêu la ầm ĩ cả lên, Tống Giang nghe tiếng, bảo dòng mau dây xuống để đón Lý Quỳ.
Lý Quỳ lên tới nơi phát bẳn mà rằng:
- Các ông như thế không tốt, sao không thòng dây xuống ngay là nghĩa lý gì?
Tống Giang nói:
- Vì mải trông Sài Đại Quan Nhân, nên quên khuấy đi mất...Thôi, nhà ngươi bằng lòng vậy.
Nói đoạn sai người vực Sài Tiến lên nằm trên xe, rồi đoạn vợ con Sài Tiến cùng vợ Sài Hoàng Thành, cùng các đồ gia tài xếp hơn hai mươi cỗ xe, sai Lý Quỳ, Lôi Hoành hộ tống đem về sơn trại.
Đoạn rồi bắt cả nhà Cao Liêm hơn ba mươi người, đều chém đầu ra lệnh, mà thưởng cho tên Lạn Nhân, Lại truyền lấy của trong kho, cùng tài sản của nhà Cao Liêm, xếp cả lên xe, rồi đông mặt trảm quan, kéo cờ đắc thắng trở về Lương Sơn Bạc.Khi đi qua các châu quận, không hề động lấy tơ hào của dân, ai ai cũng lấy làm kính phục.
Tiều Cái cho mời Sài Tiến lên nghỉ ở chỗ Tống Công Minh trên núi, và sai làm một dinh cơ khác, cho gia quyến Sài Tiến ở. Bấy giờ sơn trại lại thêm có Sài Tiến cùng Thang Long, thì ai nấy đều vui vẻ, liền đặt tiệc ăn mừng, rất là thỏa thích.
Nói về phủ Đông Xương cùng phủ Khấu Châu, biết tin Cao Đường đã mất, cả nhà Cao Liêm bị chết hết, bèn cùng nhau thảo sớ, lập tức về triều đình. Sau các quan chức ở Cao Đường cùng chạy thốc về kinh, để tâu báo cho triều đình biết.
Cao Thái Úy biết tin anh em là Cao Liêm bị giết, lấy làm căm tức trong lòng, liền hăm hở vào triều để tâu cùng Thiên Tử.
Sáng hôm sau đó, khi lầu Cảnh Dương chuông động,các quan văn võ đều chỉnh tề triều phục, bước vào đan trì để chầu Thiên Tử.
Được một lát, Thiên Tử ngự ngôi chính diện, có quan Điện Đầu tuyên bố rằng:
- Các quan có việc gì cần vào tâu, bằng không xin để tan chầu.
Vừa dứt tiếng, thì thấy Cao Cầu ra quỳ trước ban tâu rằng:
- Nay có bọn giặc ở Lương Sơn Bạc, thuộc phủ Tế Châu, mấy tên đầu đảng là Tiều Cái, Tống Giang, xưa nay tụ họp đại gian đại ác, chỉ chuyên nghề cướp hại lương dân, đánh phá phủ, huyện, càn dở buông dông, không biết tới đâu mà kể. Năm trước đã đánh giết quan quân ở phủ Tế Châu, đánh phá thành Giang Châu, cùng thành Vô Vị rất là tàn ác. Nay lại đánh châu Cao Đường giết hại quan dân, cướp lấy kho tàng, làm cho trăm họ phải chịu lầm than, đó à một cái vạ lớn của nhà nước hiện nay, nếu không sớm liệu trừ ngay, mai sau tất là khó trị. Vậy xin thánh thượng xét cho.
Vua nghe tâu cả kinh, bèn truyền chỉ cho Cao Thái Úy lập tức điều binh khiển tướng trừ bọn giặc Lương Sơn.
Cao Cầu lại tâu rằng:
- Đám đó tuy vậy, cũng là một bọn giặc cỏ, bất tất phải lấy đại quân cho phí tổn quốc gia. Nay tôi xin cắt một người này, có thể khu trừ ngay được.
Vua nói:
- Khanh định cắt người nào ra đó, xin cứ truyền lệnh cho đi, sau đây đánh giặc có công, ta sẽ gia phong tước thưởng.
Cao Thái Úy tâu rằng:
- Người này là con cháu một vị danh thần khai quốc. Hô Duyên Tán ở Hà Đông, tên là Hô Duyên Chước, khiến hai cậy roi đồng, sức khỏe muôn người không kịp, hiện làm Đô Thống Chế ở quận Nhữ Vinh, trong tay sẵn có quân tinh tướng giỏi, có thể đánh nổi được giặc Lương Sơn. Nay xin phong người đó làm Binh Mã Chỉ Huy Sứ, lãnh các quân mã bộ, lập tức ra đó chinh tiễu, thì thế nào cũng được thành công.
Vua nghe nói lấy làm vui mừng, bèn giao cho Viện Cơ Mật, sai Sứ thần vâng mang sắc chỉ lập tức ra đất Nhữ Nam mời Hô Duyên Chước về kinh phụng mạng.
Khi Sứ thần đi đến Nhữ Nam, Hô Duyên Chước cùng các quan trong thành ra nghinh đón thánh chỉ, đem về tuyên đọc, rồi tiếp đãi Sứ thần rất là trân trọng. Đoạn rồi lập tức thu thập các đồ mũ mãng đai giáp cung tên gươm ngựa, và dẫn ba bốn mươi tên thủ hạ, gấp đường về chốn kinh sư.
Cách mấy hôm về đến kinh sư, Hô Duyên Chước đến điện Tư Phủ để chào Cao Thái Úy. Hôm đó Cao Cầu đương ngồi trên súy phủ, nghe báo Hô Duyên Chước đã về, thì trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, lập tức cho mời vào nói chuyện. Khi Hô Duyên Chước vào tới nơi Cao Thái Úy đem lời uyển ủy hỏi thăm, rồi đem các đồ thưởng tứ ra cho, rồi sáng sớm hôm sau mới dẫn vào chầu Thiên Tử.
Thiên Tử trông thấy Hô Duyên Chước tướng mạo đường đường, ra dáng một tay dũng lược, thì trong bụng rất vui mừng hớn hở, liền ban cho một con ngựa Tích Tuyết Ô Truy, ngày đi ngàn dặm, là một giống ngựa hiếm có xưa nay.
Hôm đó Hô Duyên Chước vâng lời tạ ơn vua, rồi theo Cao Thái Úy trở về súy phủ, để bàn việc khởi binh, Hô Duyên Chước nói với Cao rằng:
- Dám bẩm ân tướng, tôi xem bọn Lương Sơn Bạc, binh nhiều tướng giỏi, ngựa mạnh lương nhiều, không thể vội khinh ngay được. Vậy tôi xin tiến cử hai tướng làm Tiên Phong, để cùng đi ra đó, thì mới có thể khu trừ được giặc, chẳng hay ân tướng nghĩ sao?
Cao Thái Úy gật đầu khen phải, liền ân cần hỏi Hô Duyên Chước xem định tiến cử những ai?
Mới hay:
Một phen huyết chiến dậy trời,
Giết quân tàn bạo, cứu người oan khiên,
Xưa nay tài trí lương liên,
Mà cân họa phúc hoàng thiên cũng già.
Ấy ai gậy cuộc phong ba,
Hao binh tốn tướng dễ mà ích chi?
Con thuyền ngang dọc Liêu Nhi?
Giang san này biết nặng vì ai đây?
Lời bàn của Thánh Thán:
Sau khi mời được Công Tôn Thắng, ba người cùng về, phải rồi. Đới Tung lại bỗng đâu về trước, để làm cho Lý Quỳ có chuyện mua bánh táo chay, Lý Quỳ mua bánh táo chay, để mà nảy ra biết được Thang Long, Lý Quỳ kết thức được Thang Long, để mà sau này có chuyện chế tạo ra câu liêm đánh giặc. Ôi! Chế ra câu liêm để phá trận Liềm Hoàn Mã, trận Liêm Hoàn Mã tới đây, chính để báo thù cho Cao Liêm vậy. Vì Cao Liêm chết do tay Công Tôn Thắng, nay Công Tôn Thắng chưa tới, thì Cao Liêm chưa chết. Cao Liêm chưa chết, thì Cao Cầu cũng chưa gọi Hô Duyên Chước, Cao Cầu chẳng gọi Hô Duyên Chước, thì không có trận Liên Hoàn Mã, nếu không xẩy ra trận Liền Hoàn Mã, tất không cần đến Thang Long vậy. Nay Lý Quỳ mới dự kết thức, vì kết thức, ở chỗ mua bánh táo, vì mua bánh táo, cho nên Đới Tung dự đi lòng văn luẩn quẩn đến như thế, khiến qủy thần không thể lường ra.
Tả Công Tôn Thắng thần công đạo pháp, chỉ ít nhiều bút mực tả ra, chẳng phải dùng sức phô trương chỉ có cách hơn người một bực.
Tả Công Tôn phá Cao Liêm, Cao Liêm nếu một trận mà thua, thì đâu có nổi bậc tài của Công Tôn Thắng? Mới phải dùng đến hai phen mấy ngày, lại giở nốt tài của Cao Liêm, theo đuổi lần trước cướp trại với một thế ấy để lần sau lạicp trị bất ngờ, nhân đó mà quét sạch đi, chẳng coi là thường, chẳng lấy làm trọng, càng thấy rất phải.
Lần trước cướp trại do thừa thắng, lần sau cướp trại lại nhân bại trước sau cướp trại hai lần, lấy đó phân biệt, thế thì thực ra tác giả tả lần cướp trại sau, để che lấp dấu bút vết mực trước, như trên bàn đã rõ ra. Hồi này chỉ chép lớn ra chiến công của Lâm Xung, chính vì nghĩa xóa sạch công án với thù họ Cao, chẳng phải bút mực phải tả vậy. Thái Sử Công nói rằng: Gây oán độc với người tệ hại thay! Chẳng là phải ư?
Lý Quỳ là người thô mãng, tuy hết sức tả ra, nhưng không tả nổi, hồi này cốt chép Lý Quỳ thô mãng, lật lại con người gian hoạt, khiến cho đời thấy chất phát càng thấy không ngoan, mới thực chuyện kỳ.
Cổ thi nói rằng: Nước giếng đâu biết gió trời, ý non nước dưới giếng sâu, gió không động tới, thế mà hảo hán ngọn Toàn Phong (Gió Lốc) đề sa vào dưới đáy giếng khô ở đất Cao Đường, câu ngụ ngôn với ý bấy giờ có ác Cao Giang nhiễu loạn, không còn để sót chút nào?
Cuối hồi miêu tả vua cho ngựa Tích Tuyết Ô Truy chỉ ba bốn câu, mà chú trọng đến đọc thành một thiên tuyệt diệu về bài phú ngựa.
Hồi 54
Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ
Hô Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn
Bấy giờ Cao Thái Úy hỏi Hô Duyên Chước, định cử ai làm tướng Tiên Phong?
Hô Duyên Chước bẩm rằng:
- Chúng tôi xin cử một người làm chánh Tiên Phong là họ Hàn tên Thao, nguyên người quán Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ởû Trần Châu, vốn là tay võ cử xuất thân, khiến một thanh gươm trường rất giỏi, người ta thường gọi là Bách Thắng Tướng Quân; Cò một người Phó Tiên Phong, tên là Bành Dĩ, con cháu của tướng ở đất Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ở Dĩnh Châu, khiến khẩu đao hai lưỡi hai mũi, võ nghệ hơn người, ai ai cũng gọi là Thiên Mục Tướng Quân.
Cao Thái Úy nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu được hai tướng đo, ù ra đứng Tiên Phong, thì làm gì mà không dẹp yên được giặc?
Nói đoạn liền cho thảo hai bức công văn, Ủy Viện Khu Mật, sai người đến Trần Châu, và Dĩnh Châu lập tức, triệu Hàn Thao và Bành Dĩ về kinh thính dụng.
Cách dặm bảy hôm, hai tướng về đến Soái Phủ; liền vào bái yết Cao Thái Úy, ngày hôm sau Cao Thái Úy đen các hàng quân ra đến giáo trường để diễn võ.
Khi diễn võ xong Cao Thái Úy hỏi các chư tướng rằng:
- Hiện nay ba đạo quân có được bao nhiêu?
Hô Duyên Chước đáp rằng:
- Trong ba đạo có năm nghìn quân mã, và một vạn quân bộ.
Cao Thái Úy nói:
- Nếu vậy các tướng phải lập tức trở về bản Châu, chọn lấy ba nghìn mã quân, và năm nghìn bộ quân, mà cùng nhau tiến đánh Lương Sơn mới được.
Hô Duyên Chước nói:
- Binh mã ba đạo hiện đã luyện tập tinh thông, chủ Súy không cần lo đến, duy các đồ giáp trượng thì còn thiếu thốn nhiều, e khi khó lòng mà khởi binh ngay được.
- Nếu thế ta cho phép vào kho giáp trượng ở đây, chọn đủ các thứ để dùng cho quân sĩ, cốt sao nghiên bị chỉnh tề, rồi khi khởi binh, ta sẽ cho người ra điểm lại.
Hô Duyên Chước vâng lệnh, dem người vào kho giáp trượng, chọn được ba nghìn thiết giáp, năm nghìn áo giáp ngựa bằng da, hai nghìn gươm trường, một nghìn đao lớn, các thứ cung tên cùng năm trăm khẩu hỏa bác thiết bác, xếp đặt trên xe, để mang về ứng dụng. Cao Thái Úy giao cho ba nghìn ngựa trận, thưởng kim ngân cho ba tướng, và khao thưởng tam quân. Rồi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao, Bành Dĩ làm giấy cam đoan với Cao Thái Úy, mà từ biệt ra đi.
Khi về tới châu Nhữ Ninh, Hô Duyên Chước sai Hàn Thao, Bành Dĩ, đem hết binh mã ở Trần Châu, Dĩnh Châu đến cùng hội họp. Trong nửa tháng trời, ba đạo quân tề tựu nghiêm chỉnh. Hô Duyên Chước liền đem các đồ gươm giáo cung ngựa trao cho ba quân mà dự bị đợi ngày ra trận.
Bấy giờ Cao Thái Úy sai hai viên tướng trong điện Súy Phủ, ra điểm lại hẳn hoi, rồi khao thưởng ba quân mà chia làm ba đạo tiến đánh. Hô Duyên Chước đi đạo trung quân, ở giữa, rồi Bành Dĩ thôi thúc đạo quân đi sau. Khi ra khỏi cửa thành, ba quân cờ mở trống gióng, uy thế ầm ầm như vỡ trời long đất, mà cùng nhau keo đến Lương Sơn.
Bên kia Tiều Cái, Tống Giang nghe báo quan quân kéo đến, bèn tụ họp quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Sài Tiến, cùng các vị Đầu Lĩnh, để bàn định cơ cự địch.
Ngô Dụng nói:
- Hô Duyên Chước là con cháu quan Khai Quốc Công Thần Hô Duyên Tán, võ nghệ cao cường, khiến hai cây roi đồng rất giỏi, khó ai bén mảng đến gần. Vậy tất phải tay nào can trường giỏi giang mới được, trước hết lấy sức đối địch, rồi sau dùng mẹo thi hành mới có thể bắt được.
Vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ứng lên rằng:
- Tôi xin đi bắt thằng ấy mới được...
Tống Giang gạt đi mà rằng:
- Ngươi đi không được...việc này phải nhờ Tích Lịch Hỏa Tần Minh đi đánh trận đầu; Báo Tử Đầu Lâm Xung, đi đánh trận thứ nhì; Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đánh trận thứ ba; Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương, đánh trận thứ tư; Bệnh Úy Trì Tôn Lập, đánh trận thứ năm. Năm đội lần lượt đánh, rồi ta sẽ dẫn mười anh em và đại đôi nhân mã mà áp sau...Đám hậu quân thì bên tả năm tướng là Chu Đồng, Lôi Hoành, Mục Hoằng, Hoàng Tín, Lã Phương; bên hữu năm tướng là Dương Hùng, Thạch Tú, Âu Bằng, Mã Lân, Quách Thịnh; đường thủy thì Lý Ứng, Trương Hoành, Trương Thuận, và ba anh em họ Nguyễn đem thuyền ra tiếp ứng. Còn Lý Quỳ với Dương Lâm đem quân ra mai phục hai bên đường để đợi khi ứng viện.
Tống Giang cắt đặt chỉnh tề rồi tiền quân là Tần Minh dẫn quân mã xuống núi rồi tìm nơi nội rộng mà dàn thành thế trận. Bấy giờ đương dạo mùa đông, song khí trời ấm áp dễ chịu, Tần Minh đợi đến ngày hôm sau đã thấy Tiên Phong bên kia là Bách Thắng Tướng Quân Hàn Thao kéo đến.
Sáng hôm sau, hai bên ra đối trận. Ba hồi trống gióng vừa xong, thì hai tướng cùng cởi ngựa xông ra cửa trận, cùng đứng dưới mặt cờ.
Hàn Thao hoành gươm trên ngựa mà quát mắng Tần Minh rằng:
- Binh trời đến đây, ngươi không xuống ngựa sớm liệu hàng trước đi, còn toan chống cự được sao ta nay quyết lấp phăng vũng nước, đập tan ngọn núi Lương Sơn, giết chết đồ phản tặc chúng bay, mà đem nộp về triều đình, băm thây làm vạn mảnh mới nghe...
Tần Minh vốn là người nóng tính, không nói năng chi, liền vỗ ngựa múa Lang Nha Côn thẳng xông ra đánh. Hàn Thao cũng múa gươm cự địch với Tần Minh.Đôi bên dánh nhau được hơn hai mươi hiệp, Hàn Thao không sao địch nổi Tần Minh, chỉ toàn thừa cơ để chạy.
Vừa khi đó chủ tướng là Hô Duyên Chước kéo đến, thấy Hàn Thao không đánh nổi Tần Minh, lièn múa song chiên, phóng ngựa Tích Tuyết Ô Truy, xông ra để đánh giúp.
Tần Minh thấy vậy toan xong lại đánh, thì đội quân thứ hai là Báo Tử Đầu Lâm Xung dã ra cứu ứng.
Lâm Xung bảo với Tần Minh rằng:
- Thống Chế hãy nghĩ một lát xem tôi đáng đủ ba trăm hiệp rồi sẽ hay.
Nói đoạn múa Bát Xà Mâu ra đánh Hô Duyên Chước, rồi Tần Minh lại dẫn quân quanh sườn núi lui vào. Đằng này Lâm Xung với Hô Duyên Chước, đôi bên địch thủ với nhau, kẻ chiên người thương rối rít như hoa trước gió, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, chưa phân thắng phụ ra sao?
Chợt đâu đội quân thứ ba là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đã đến. Hoa Vinh đứng trước cửa trại kêu lên rằng:
- Lâm Tướng Quân hãy khoan tay, để tôi bắt sống hắn cho mà coi.
Lâm Xung nghe nói, liền quay ngựa chạy vào trốn mất, Hô Duyên Chước thấy Lâm Xung võ nghệ cao cường, thì cũng chạy về bản trận, mà không dám đuổi. Lâm Xung bèn dẫn quân bản bộ, mà đi quanh vào nẻo đường núi.
Bấy giờ Hoa Vinh vác thương ra trận, thì thấy bên kia tướng hậu quân là Thiên Mục Tướng Bành Dĩ cũng vừa kéo đến.
Bành Dĩ hoành đao ngồi trên mình ngựa Ngũ Minh Thiên Hoàng Hoa, xông ra cửa trận quát mắng Hoa Vinh rằng:
- Đồ phản tặc kia có thấm vào đâu? Ngươi quyết đấu được thua với ta chăng?
Hoa Vinh cả giận không thèm trả lời, liền xông ngựa ra đánh luôn Bành Dĩ. Đôi bên đánh nhau được hai mươi hiệp, thì Hô Duyên Chước thấy Bành Dĩ hơi túng thế, bèn vỗ ngựa xông ra địch với Hoa Vinh.
Chợt đâu toán quân thứ tư kéo đến, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương gọi lên rằng:
- Hoa Tướng Quân hãy nghỉ tay, để tôi bắt tên ấy cho...
Hoa Vinh nghe nói, liền vỗ ngựa dẫn quân lui về sườn núi. Bên kia Bành Dĩ lại xông ra đánh nhau với Nhất Trượng Thanh.
Vừa được một lát thì toán quân thứ năm là Bệnh Úy Trì Tôn Lập kéo ra, Tôn Lập kìm ngựa trước trận, xem Nhất Trượng Thanh đối địch Bành Dĩ, đôi bên gươm đao loáng nhoáng, ngựa cuốn bụi trần, đầu xông sát khí đanh nhau hơn hai mươi hiệp thì Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào.
Bành Dĩ thấy vậy, gắn sức bình sinh xông vào đuổi đánh. Nhất Trượng Thanh đeo đao lên yên ngựa, sờ trong áo lấy ra tấm hồng gấm, trên mặt có hai mươi bốn lưỡi câu vàng, chờ khi Bành Dĩ đuổi sát đến nơi, liền quay mình nhắm trúng Bành Dĩ quăng ra một cái, rồi giật Bành Dĩ quay xuống ngựa.
Tôn Lập thấy thế, quát quân sĩ bắt trói Bành Dĩ đem về. Hô Duyên Chước cả giận, liền vỗ ngựa xông ra đánh cứu. Nhất Trượng Thanh cũng vỗ ngựa xông ra để địch Hô Duyên Chước. Hô Duyên Chước tức giận Nhất Trượng Thanh mong sao nuốt sống được thì mới cam tâm.
Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước sốt ruột lừa miếng phá đĩnh, lừa cho Nhất Trượng Thanh chém sấn đôi đao vào gần trước bụng rồi tay hữu chàng giơ roi nhằm vào Nhất Trương Thanh đánh xuống, dè đâu Nhất Trượng Thanh nhanh mắt trông thấy, liền giơ đao bên phải lên đỡ, làm cho đầu roi vừa đánh vào lưỡi đao đánh keng một tiếng, bắn loè lửa ra, rồi Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào bản trận.
Hô Duyên Chước thấy vậy vội vàng sấn ngựa đuổi theo. Bên này Bệnh Úy Trì Tôn Lập xông ra đón đánh, rồi thấy toán hậu quân của Tống Giang cũng vừa kéo đến ở đàng sau.
Tống Giang dẫn mười vị tướng quân, dàn thành trận thế, để tiếp ứng đằng sau, còn Nhất Trượng Thanh lại dẫn quân mã quay vào sườn núi. Tống Giang thấy Nhất Trượng Thanh bắt sống được Bành Dĩ, thì trong lòng lấy làm mừng vô hạn.
Đằng này Tôn lập đeo gươm lên vai rút đôi cương chuỳ dóng trúc, ra đánh nhau với Hô Duyên Chước, đôi bên cùng múa song chùy, thế lực tất là hùng dũng. Một bên Tôn Lập đội mũ sắt đôi sưng giao nhau quấn khăn lụa hồng ở trán, mình mặc áo bà ba đen, trăm hoa điển vẽ, vai khoác giáp vàng cưỡi ngựa Ô Truy, khiến đôi cương chiên dóng trúc mắt hổ, trông vẽ ăn đứt Uất Trì Cung. Một bên Hô Duyên Chước, đầu đội mũ sắt sừng thẳng lên trời, quấn khăn vàng ở trán, mình mặc áo đen, đốm vẽ thất tinh khoác áo khai giáp, cưỡi con ngựa Tích Tuyết Ô Truy khiến đôi cương chiên Thủy Bát Mã Lăng, tay tả nặng mười cân, tay hữu nặng mười ba cân, rõ ra dòng dõi quan Hô Duyên Tán. Hai bên đánh nhau trước trận, kẻ tiến người lui, kẻ quanh người lại, trước sau tới ba mươi hiệp, chưa phân thắng thua được ra sao.
Bấy giờ Hàn Thao ở trong đám quân quan, nghe nói bị bắt mất Bành Dĩ liền thôi thúc hết cả binh mã đội hậu, xông vào đánh trận Tống Giang, Tống Giang thấy vậy, vội thúc mười vị Đầu Lĩnh dẫn quân xông sang đánh trước. Đoạn rồi bốn đạo ở đằng sau, cũng chia làm hai đường mà cùng nhau tiến đánh.
Khi đó trong trận Hô Duyên Chước, ngựa đứng liên hoàn, đều mặc bố giáp, chỉ hở bốn cẳng ra ngoài, người mặc áo ngai giáp, chỉ để hai mắt nom ra cung tên gươm giáo không thể sao đánh cho trúng được. Còn bên trận Tống Giang cũng có giáp trụ chỉnh tề, song đò dùng thường mỏng không sao chịu nổi cung tên của trận bên kia bắn lại, Tống Giang biết thế không đánh phá nổi, đành phải gõ chiên thu quân lui về. Bên kia Hô Duyên Chước cũng lui quân hơn hai mươi dặm hạ trại.
Tống Giang kéo quân về hạ trại bên Tây núi, rồi gọi tả hữu đem Bành Dĩ ra trước trướng Trung Quân. Khi binh sĩ giải Bành Dĩ tới nơi, Tống Giang vội quát lui tả hữu, rồi thân hành cởi trói cho Bành Dĩ, dắt lên mời ngồi trong trướng, đoạn rồi Tống Giang cúi lạy Bành Dĩ một cách rất trang trọng.
Bành Dĩ vội đáp lễ mà rằng:
- Chúng tôi bị bắt đến đây, lẽ ra phải chết, cớ sao Tướng Quân lại còn đãi cho như thế?
Tống Giang nói:
- Lũ chúng tôi hết chốn nương thân, phải nhờ nơi Thủy Bạc tạm lánh ít lâu...Ngày nay triều đình sai Tướng quân đến đánh, lẽ ra đến trước Quan Nhân mà cúi đầu chịu tội mới phải, song e khi tính mạng không toàn, mới phản cùng các ngài mà cả gan chống cự. Nay như thế thực là mạo phạm uy trời, xin ngài ta tội ấy cho.
Bành Dĩ nói:
- Tôi vẫn nghe tiếng Tướng Quân có lòng trọng nghĩa khinh tài, phù nguy cứu khổ, ai ngờ đâu ngày nay quả nhiên biết được, như vậy thực hân hạnh vô cùng. Nếu ngài có lòng dung nạp tôi, thì sẽ hết lòng ra sức để báo đáp ơn to nghĩa lớn, chẳng hay ngài nghĩ sao?
Tống Giang nghe nói cả mừng, sai người đưa Bành Dĩ lên chào Tiều Cái Thiên Vương, lưu ở sơn trại, rồi nhất diện khao đãi tam quân, cùng các vị Đầu Lĩnh bàn định việc quân.
Bên kia Hô Duyên Chước thu quân đóng trại, rồi cùng với Hàn Thao bàn việc đánh phá Lương Sơn.
Hàn Thao nói:
- Ngày nay ra trận, bên giặc đã tiến quân ra đánh, sao lại vội vàng lui quân về ngay, vậy ngày mai đem tận số quân mã lên trước, tất là toàn thắng không sai.
Hô Duyên Chước nói:
- Việc đó ta cũng dự định như thế, vậy ngày mai nên làm ngay mới được.
Nói đoạn liền hạ lệnh cho ba nghìn quân mã dự làm trăm đội, cứ ba mươi con kết làm một liên, lấy hoàn (vòng) sắt khoá với nhau, hễ gặp quân giặc xa dùng cung tên, gần dùng gươm giáo, đều phải hết sức xông vào để đánh. Còn năm nghìn quân bộ đi sau để tiếp ứng.
Hô Duyên Chước lại dặn Hàn Thao rằng:
- Sáng mai bất tất khiêu chiến làm chi ta cùng Tướng Quân cứ áp trận đằng sau, hễ thấy quân giặc ra đánh thì cứ chia làm ba mặt xông vào mới được.
Bàn định đã xong, sáng hôm sau đều sắp sửa chỉnh tề ra trận.
Đằng này Tống Giang chia binh mã làm năm đội tiến trước, còn hậu quân chỉ có mười tướng đi kềm và hai toán phục binh, nấp ở hai đường tả hữu. Bấy giờ năm đội quân đi trước, thì có Tần Minh đứng giữa, Lâm Xung, Nhất Trượng Thanh bên tả, Hoa Vinh, Tôn Lập ở bên hữu, rồi Tống Giang dẫn mười tướng kéo quân ra đằng sau, người ngựa chập chùng, không khác chi rừng quân núi giáo vậy.
Khi dàn trận chỉnh tề Tần Minh liền ra trận thách đánh với Hô Duyên Chước, bên trận Hô Duyên Chước có một nghìn bộ binh dàn ở trước mặt, chỉ khua trống reo hò mà không ai ra đánh với Tần Minh.
Tống Giang đứng sau thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, bèn truyền lệnh cho hậu quân tạm lui, rồi phóng ngựa lên chỗ Hoa Vinh, để nom sang trận bên kia.Chợt đâu bên trận bên kia có tiếng súng Liên Châu, một nghìn quân bộ ở trước trận, chia ra hai bên, rồi có ba đạo quân mã liên hoàn xông ra hăng hái. Hai bên mã quân toàn thị tên bắn ra như mưa, còn khoảng giữa thì gươm giáo sáng choang một lượt.
Tống Giang thấy vậy cả kinh, vội thúc quân sĩ lấy cung tên bắn ra để cự địch. Bên kia ba nghìn quân mã cứ phăm phăm nhất tề để cự đến. Năm đạo quân trước trận. Tống Giang thấy cả sợ, rối loạn cả lên. Đội quân ở phía sau cũng hoảng kinh chạy trốn, không sao thu giữ lại được. Tống Giang vội vàng quay ngựa lui lại, rồi mười tên tướng kèm giữ hai bên mà chạy.
Bấy giờ sau lưng đã có một đội quân Mã Liên Hoàn đuổi đến. May có hai đạo phục binh của Lý Quỳ, Dương Lâm đổ ra cự địch, đánh cứu Tống Giang chạy thẳng về Bến Nước. Đoạn rồi Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, cùng ba anh em họ Nguyễn chở thuyền ra tiếp ứng, Tống Giang vội vàng xuống thuyền sai chia các ngã cứu các tướng xuống thuyền tất cả.
Trên kia đội quân mã Liên Hoàn đuổi đến Bến Nước, bắn tên rào rào xuống các thuyền, may các thuyền đều có các lá chắn che thân, nên không thiệt hại chút nào. Tống Giang thôi thúc đuổi thuyền đến Áp Chủy, rồi kéo lên bộ đóng quân ở đó. Khi điểm lại binh mã thiệt mất quá nữa, duy các Đầu Lĩnh vẫn còn chu toàn được cả.
Được một lát thấy Thạch Dũng, Thời Thiên, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu chạy trốn về sơn trại mà nói rằng:
- Chúng tôi bị đám bộ quân sát đến, phá hết cửa nhà, nếu không có thuyền ứng cứu, thì khó lòng mà sống sót lên đây được.
Tống Giang nghe nói, lấy lời an ủi mọi người rồi thân hành xem xét tất cả các tướng sĩ ra trận. Trong đó có sáu người bị tên là Lâm Xung, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Tôn Tân Hoàn Tín, còn đám tiểu lâu la bị thương không biết tới đâu mà kể. Tiều Cái thấy vậy, liền cùng với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng tới nơi thăm hỏi. Tống Giang ra âu sầu lo nghĩ, không biết lập kế ra sao?
Ngô Dụng khuyên Tống Giang rằng:
- Thắng bại là việc của nhà binh, Ca Ca bất tất phải lo phiền quá đổi... rồi đây ta sẽ nghĩ cách phá ngựa Liên Hoàn.
Tiều Cái bèn truyền lệnh thủy quân, đóng yên Thủy Trại, đêm ngày canh phòng cho cẩn thận, đề phòng địch tràn qua, và mời Tống Giang lên núi để yên nghĩ.
Tống Giang không chịu lên núi, liền hạ trại ở bến Áp Thủy, rồi cho các tướng bị thương lên núi để dưỡng bệnh.
Sa trường muôn dặm cát bay,
Anh hùng thua được xưa nay chuyện thường,
Ba quân bền giữ gan vàng,
Nước non có hội phong quan ngại gì?
Nói về Hô Duyên Chước thu quân đắc thắng trở về trong trại, tháo ngựa Liên Hoàn, thưởng công các tướng, tính tất cả giết chết quân rất nhiều, bắt sống được năm trăm người và hơn ba trăm ngựa chiến. Hô Duyên Chước liền cho người về báo tiệp ở kinh sư, rồi nhất diện khao thưởng quân ở trại.
Bấy giờ Cao Thái Úy ở kinh sư nghe tin Hô Duyên Chước đánh được giặc Lương Sơn Bạc, sai người về báo tiệp, thì hớn hở vui mừng đến ngày hôm sau vào tâu cho Thiên Tử biết.
Thiên Tử nghe tin cả mừng liền lấy mười bình rượu ngự, một áo cẩm bào, và mười vạn quan tiền, phái một viên Sứ Quan đem ra cho Hô Duyên Chước, và khao thưởng ba quân. Khi Sứ Giả tới nơi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao ra ngoài hai mươi dặm đón tiếp vao trong trại, lạy chịu ơn vua, đặt tiệc đãi Sứ Giả, rồi sai Hàn Thao chia tiền thưởng quân và đem năm trăm người mới bắt đem giam trong trại, để đợi khi được đầu đảng sẽ giải kinh sư.
Quan Sứ thân hỏi Bành Đoàn Luyện, Hô Duyên Chước liền đáp rằng:
- Bữa trước mới kéo quân đến đây, vì ham bắt Tống Giang, vào gần đất giặc, nên bị gian đồ bắt mất, nhưng ngày nay chắc là quân giặc không dám thò ra nữa. Vậy tôi định phân binh để đánh kỳ cho phá hết sơn trại, lấp phẳng thủy nhai, bắt cả gian tặc, mà phá tan sào huyệt mới nghe. Song còn hiềm một nổi bốn mặt toàn thị hồ nước, không có đường lên, vậy duy còn có cách dùng súng hỏa bác mà bắn đánh, thì thể nào cũng có thể phá được. Trước đây tôi nghe ở kinh sư có một người tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, chế súng Hỏa Bạc có thể bắn xa tới mười bốn mười lăm dặm, đạn đá đến đâu, đất lỡ trời long, núi tan đá vỡ đến đó.Vả chăng người đó võ nghệ tinh thông, cung tên thạo giỏi, nếu được Thiên Sứ về kinh, nói Quan Thái Úy cho người đó ra đây, thì thế nào cũng có thể phá tan quân giặc ngay.
Thiên Sứ nghe nói vâng lời, rồi sáng hôm sau bái biệt trở về kinh sư, Thiên Sứ vào chào Cao Thái Úy, đem lời của Hô Duyên Chước thuật lại cho Cao Thái Úy nghe. Cao Thái Úy cả mừng, lập tức cho đòi quan phó sứ kho Giáp Trượng là Lăng Chấn đến.
Nguyên Lăng Chấn, người ở Lăng Yên, là một tay võ nghệ cao cường, làm nghề chế súng rất giỏi ở triều nhà Tống, nên vẫn gọi là Oanh Thiên Lôi xưa nay. Bấy giờ Oanh Thiên Lôi đến bái kiến Cao Thái Úy, Thái Úy cấp văn bằng trao cho làm chức Thống Lĩnh Hành Quân, truyền lệnh sắp sửa yên mã khí giới để ra đi lập tức.
Lăng Chấn vâng lệnh ra về sửa soạn các đồ dùng, chế thuốc làm súng cùng các thứ giá súng đạn, xếp cả lên xe, và sắp đủ cung đao mã giáp, dẫn ba bốn mươi tên quân hoá đi ra địa phận Lương Sơn.
Khi ra tới trại, Lăng Chấn chào chủ Tướng là Hô Duyên Chước, và Tiên Phong là Hàn Thao, rồi thăm dò các nơi xung yếu ở sơn trại, và đặt ba thứ súng để đánh. Ba thứ súng đó một là Phong Hỏa Bác, hai là Kim Luân Bác, ba là Tử Mẩu Bác, đều sai đặt giá súng ở bên Bến Nước, để phòng bị sẵn sàng ở đó.
Khi đó Tống Giang ở trong tiểu trại trên bến Áp Chủy, đương cùng với quân sư Ngô Học Cứu, để bàn cách phá quan quân. Bỗng thấy người vào báo, nay có một tay giỏi nghề súng đạn, tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, ở đông kinh mới đến trại quân, hiện dã dựng các giá súng ở Bến Nước, để sắp sửa đánh vào sơn trại nay mai.
Ngô Dụng nghe báo, bảo với Tống Giang rằng:
- Sơn trại đây, bốn mặt toàn thị là hồ nước, thành Uyển Tử cách nước lại càng xa, dẫu có Phi Thiên Hỏa Bác cũng khó lòng mà đánh vào ngay được. Nay hãy tạm bỏ tiểu trại này, mà đóng cả ở trên núi, xem họ đánh chác ra sao rồi ta sẽ liệu.
Tống Giang nghe nói, liền bỏ tiểu trại ở bên Áp Chủy, mà kéo về tất cả ở trên sơn trại. Tiều Cái, Công Tôn Thắng đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh mà hỏi rằng:
- Nay quân giặc đã dùng thứ súng như vậy, thì ta dùng cách nào để đối địch cho lại?
Vừa hỏi được một câu, thì bỗng thấy có ba tiếng súng nổ luôn, đánh vào Thủy Trại ngoài bến Áp Chủy. Tống Giang thấy vậy, trong lòng bối rối lo âu, cùng các vị Đầu Lĩnh đều thất sắc ngây người không biết làm sao cho được.
Ngô Học Cứu nói bàn rằng:
- Bây giờ nếu có một người dụ được Lăng Chấn vào gần Bến Nước mà bắt được hắn, thì mới có thể bàn đánh phá quân giặc được.
Tiều Cái nói:
- Nếu vậy thì ta cho Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, đem thuyền ra Bến Nước cứ thế này...mà làm. Trên bờ thì Chu Đồng, Lôi Hoành thì cứ theo cách thế này...mà tiếp ứng, thì may ra có thể thành công được.
Sáu vị Đầu Lĩnh coi thủy trại đều vâng lời, rồi Lý Tuấn cùng Trương Hoành dẫn bốn năm mươi tên thủy thủ rất thạo, chèo hai cái thuyền, theo đám lau lách đi trước, Trương Thuận cùng ba anh em họ Nguyễn dong hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, tiếp ứng theo sau.
Khi Lý Tuấn, Trương Hoành ra đến ngoài bến, liền nhảy lên bờ đến chỗ giá súng của Lăng Chấn mà reo hò toan kéo đổ. Quân sĩ thấy vậy liền vào báo với Lăng Chấn. Lăng Chấn nghe báo, vội lấy hai khẩu súng phong hỏa, rồi cắp dao lên ngựa, dẫn hơn nghìn quân hăm hở đuổi theo.
Lý Tuấn, Trương Thuận thấy vậy liền dẫn người chạy thẳng. Lăng Chấn hất hả chạy đuổi theo đến bên gần Bến Nước, thấy có một dãy hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, và có hơn trăm quân thủy ở đó.
Bấy giờ Lý Tuấn, Trương Thuận nhảy xuống cả thuyền, cố ý trùng trình không đẩy thuyền ra vội. Khi trông thấy nhân mã của Lăng Chấn tới nơi, thì kêu gọi ầm ĩ , rồi nhảy xuống cả nước một lượt.
Lăng Chấn thấy vậy, liền đến cướp cả thuyền, Chu Đồng, Lôi Hoành đứng đối ngạn bên kia liền đánh trống reo hò ầm cả lên.
Lăng Chấn cướp được dãy thuyền, bèn sai quân kéo cả xuống thuyền chèo chở quay vào để đánh. Khi đến giữa dòng nước, chợt thấy Chu Đồng, Lôi Hoành ở trên bờ đánh một hồi chuông, liền ở dưới nước có bốn năm mươi tên thủy quân, nhoi lên nhổ hất tất cả lái thuyền, làm cho nước chảy vào thuyền như suối vậy. Đoạn rồi đám thủy quân thừa thế, mà đánh lật đổ cả thuyền, các quân sĩ trong thuyền đều bị lăn xuống nước cả.
Lăng Chấn thấy vậy toan quay thuyền trở lại, thì bỗng thấy thuyền mình cũng mất cả bánh lái, nước rĩ vào thuyền như suối chảy, rồi hai bên có hai tên Đầu Lĩnh nhoi lên đánh đổ lật thuyền cho Lăng Chấn ngã lăn xuống nước. Bấy giờ Nguyễn Tiểu Nhị chực sẵn dưới thuyền, vớ được Lăng Chấn, liền ôm choàng lấy mà kéo lên trên bờ. Lên đến bờ, có người tiếp tay, mà trói Lăng Chấn lại, giải lên trên núi. Đám quân lính ở dưới này bắt được hai trăm người còn sống. Còn thì chết đuối quá nửa, và có mấy người chết hụt, chạy về báo cho Hô Duyên Chước biết.
Hô Duyên Chước nghe báo, lập tức dẫn quân ra đuổi. Khi tới nơi, đã thấy các thuyền trở về bến Áp Chủy, người không thấy một ai, mà cung tên bắn cũng không sao tới. Hô Duyên Chước lấy làm căm tức vô cùng, song không làm thế nào được, đành phải nín hơi nuốt giận, mà dẫn quân mà lui về. Bên kia bọn Đầu Lĩnh bắt được Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, giải về trên núi liền cho người báo với Tống Giang. Tống Giang dẫn hết thảy các Đầu Lĩnh trong Trại, đi xuống cửa quan thứ nhì để đón tiếp.
Khi trông thấy Lăng Chấn, Tống Giang thân hành cởi trói ra, rồi giận mắng chúng rằng:
- Tao bảo các ngươi đón mời Thống Lĩnh lên núi tử tế, sao các ngươi xử vô lễ như thế?
Lăng Chấn nghe nói lấy làm cảm tạ vô cùng, Tống Giang liền nâng chén rượu tiếp phong rồi bắt tay mời lên trên núi. Được một lát, lên tới Đại Trại, Lăng Chấn trông thấy Bành Dĩ cũng dự ở đó, trong lòng rất lấy làm phân vân, không biết nói sao cho được?
Bành Dĩ khuyên Lăng Chấn rằng:
- Hai vị Đầu Lĩnh Tiều, Tống thay Trời làm Đạo, chiêu nạp hào kiệt, mong trừ những sự bất bình, để giúp cho nhà cho nước... vậy chúng ta đến đây, chỉ nên theo mệnh là hơn.
Tống Giang cũng lấy lời uyển chuyển mà dỗ dành Lăng Chấn vào đảng. Lăng Chấn đáp rằng:
- Tiểu đệ ở đây hầu các ngài cũng được, không lấy gì làm ngại. Duy còn mẹ già cùng vợ con ở cả kinh sư, nếu lỡ ra ai biết tất là nguy hiểm đến tính mạng, vậy biết làm sao cho tiện được?
Tống Giang nói:
- Cái đó Thống Lĩnh bất tất phải quan tâm, mấy hôm nữa, tôi xin cho người đón về đây lập tức.
Lăng Chấn tạ rằng:
- Nếu được Đầu Lĩnh chu toàn như thế, thì chúng tôi dẫu chết cũng cam tâm.
Tiều Cái liền đặt tiệc ăn mừng, và thưởng cho quân sĩ. Ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh cùng bàn kế để phá ngựa Liên Hoàn.
Chợt thấy Kim Báo Tử Thang Long đứng lên nói:
- Tiểu Đệ nghĩ được một kế này, tất phải nhờ đến một thứ khí giới kia, và một người Ca Ca tôi mới có thể phá trận Liên Hoàn được.
Ngô Dụng đón lấy nói:
- Nếu được như vậy, thì còn gì hơn nữa? Người ấy là ai? Dùng thứ quân khí gì? Xin hiền đệ cho được biết.
Thang Long vâng lời, liền chắp tay đến trước để kể tên người đó cho các vị Đầu Lĩnh nghe.
Mới hay:
Đã nên khẳng khái ra đời,
Làm cho động đất kinh trời mới nghe
Tuồng gì bọ nước xăm xoe,
Mũ cao áo rộng toan đè nén nhau.
Giống người ai kém ai đâu,
Quyết đem máu đỏ mà lau gươm thù.
Có công tất cũng nên trò,
Cái gương công lý ngàn thu vẫn còn.
Lời bàn của Thánh Thán:
Hồi này ba đoạn văn tự một đoạn tả Tống Giang phóng quân xa; Một đoạn Hô Duyên Chước liên hoàn quân; đều là những văn rất tinh thần biến động. Một đoạn tả bắt Lăng Chấn, coi như bắt trẻ con, sở dĩ như thế, là trước khi tác giả chưa hạ bút, trong vốn có một tứ lạ tả Liên Hoàn Mã, chẳng tiện đột nhiên mà tả ra, cho nên trên chữ Liên Hoàn, điên đảo sinh ra hai chữ Phóng xa quân, trước đoạn văn (Liên Hoàn) lại có một đoạn văn Phóng xa, khiến độc giả choáng mắt vì lạ, song bỗng đâu một biến, biến ra thứ trận như bài sơn đảo hải.
Nay thử xem phóng xa coi khinh, liên hoàn thấy trọng, đem khinh dẫn trọng là một lạ vậy. Phóng xa liên hoàn một bầy, lấy từng đội dẫn cả bầy, là hai lạ vậy; Phóng xa các người tự chiến, liên hoàn nhất tề tiến ra, là ba lạ vậy; Phóng xa chợt tan chợt hợp, liên hoàn liền khóa với nhau, đem ly dẫn hợp là bốn lạ vậy; Phóng xa tiền quân thua, chuyển làm hậu quân, liên hoàn không trước không sau, thẳng xông ra vậy, đem tiền chuyển hậu dẫn ra không hậu không tiền, là năm lạ vậy; Phóng xa có tiến, có thoái liên hoàn chỉ tiến không thoái, đem tiến thoái dẫn ra tiến thôi, là sáu lạ vậy; Phóng xa tả nhân, liên hoàn tả mã, lấy nhân dẫn mã là bảy lạ vậy. Xem thế một đám hoa đống gấm văn chương, chỉ do một trận Liên Hoàn tả ra, rồi sau đến đoạn thứ hai tả đến bản đề, song lại chăng vội thu kết ngay nữa; lại từ chỗ ngựa nảy ra súng, làm một chót đuôi, song lại sợ hai phen chiến trận nguy nan, mà tả đến dụng súng, khiến văn tự thụt đi không nổi lên, mớt đem bút rồi, mực đương, tả bắt Lăng Chấn như đồ trẻ con vậy. Hỡi ôi! Chỉ vì một đoạn hoá ra ba đoạn, đáng bảo là trong khoảng một đoạn rất khéo biến ra, mà hai đoạn trước sau cũng chỉ là một đoạn giữa nối liền làm một, mà mỗi một đoạn một biến rất khéo, nào ai muốn nổi lên tranh cái tiếng tài tử với tác giả kia, ta thấy rõ ràng là không thể sánh kịp.
Trước sau hai đoạn đều rất khéo biến ra kia, như đoạn trước tả phóng xa quân, khi mỗi một đội muốn đi, phải có trước một đội tiếp hậu, một tiếp một chờ, ví như lông cánh vịt vậy. Thi Nại Am lại bỗng đâu tính đến khi đội thứ năm muốn đánh, phải tiến xa mười viên tướng áp hầu, như lộ ngấn tích, bèn khiến hai chữ " Phóng xa " cả thua, mới đem đội thứ năm tiếp chiến bèn tả Tống Giang đem mười viên tướng, cho khỏi cái lỗi đứt nối vậy. Song lại tính đến một thiên chương pháp, trong đội thứ năm lại biến khác ra, chỗ đó vẫn lộ ngấn tích, đánh đến chuột chạy cùng đường, ở chỗ đội thứ tư khi tiếp chiến, tả đến đội thứ năm đã đến sớm làm phảng thấn, thực khổ tâm thay cho một thợ lành nghề văn tự.
Lại như trước một đoạn tả đội thứ năm Phóng xa quân, một đội thắng một đội, vốn thế vậy, khi đến đội thứ tư, bỗng đâu trên trận bay ra ba khẩu đao, đã mà một biến, biến ra hai khẩu đao hai chiếc roi biến ra hai chiếc roi, càng biến càng lạ, càng lạ càng kinh, càng kinh càng vui, thực văn chương xem thấy thú!
Một đoạn sau Tiều Cái truyền lệnh, hãy mời Tống Giang về núi, Tống Giang cố ý chẳng chịu, đọc đến cho rằng, ý bảo diệt kẻ kia chỉ trong một sớm một chiều, biết đâu chính vì mưu để thu súng Lăng Chấn, đó là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút mực tả ra mà được?
Lại như cần tả đến dùng súng, lại tả ra phép bắn súng ở chỗ chẳng gần cũng chẳng xa, nay xem chỗ Lăng Chấn tới, chỉ là ca ngợi, đặt giá súng để bắn, thấy uy thế của chúng, làm cho Tống Giang phải bỏ trại thu quân lẩn về núi, thực là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút tục tả ra mà được?
Tả tiếp luôn sự dùng súng, bắn ba chỗ, lại nói ra rằng, hai chỗ bắn khắp mặt nước, một chỗ bắn vào trong tiểu trại, tả hai chỗ bằng khắp mặt nước cho rõ thủy bạc rộng rãi, một chỗ bắn vào tiểu trại cho rõ sức súng rất xa mạnh!
Đến như sau là trước hồi này, lại có riêng bút khéo tài tình, như sắp tả Liên Hoàn Mã đã tả trước một ngự mã ban cho để dẫn ra; sắp tả áo giáp Từ Ninh, lại tả trước bao nhiêu giáp binh mã để dẫn ra, bao nhiêu ngựa liên hoàn, chỉ một ngựa vua ban làm điều động, đều chẳng phải bút pháp tầm thường mà tả nổi như thế!
Hồi 55
Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo giáp;
Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn
Bấy giờ Thang Long nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Nguyên tổ phụ chúng tôi, ngày xưa sinh nhai về nghề rèn đúc quân khí, sau gặp Lão Trung Kinh Lược, mới được ra làm Tri Trại ở phủ Duyên An. Trước đây trong triều đã dùng trâu ngựa Liên Hoàn để đánh được giặc, song muốn phá trận đó, thì phải dùng tới gươm câu liêm mới được. Kiểu câu liêm ấy, tổ phụ nhà tôi có truyền để lại, tôi có thể đánh được nhưng không biết dùng khiến ra sao. Nay muốn tìm một người biết dùng, tất phải tìm đến người anh cô cậu của tôi, hiện nay làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, gia truyền đánh phép câu liêm không ai học được, hoặc đánh trên ngựa, hay đánh dưới bộ, thực là xuất qủy nhập thần...
Vừa nói đến đó; thì Lâm Xung hỏi ngay:
- Chẳng hay là Giáo Sư Kim Sang Ban tên là Từ Ninh đó?
Thang Long nói:
- Chính phải ông ta đó.
Lâm Xung nói:
- Nếu bác không nói, có lẽ tôi quên mất... Phải, sang pháp của ông ta thực là tuyệt xảo. Khi tôi ở Đông Kinh vẫn tập thử với nhau, anh em rất là tương đắc, nhưng bây giờ làm thế nào mời ông ta lên được?
- Ông ấy có một vật báu, là một cái áo giáp khuyên kim bằng lông chim nhạn linh khâu lại, thiên hạ không ai có bao giờ. Khi trước tôi theo phụ thân có qua tới Đông Kinh, đã một lần đến chơi nhà cô tôi, mới được nom thấy. Cái áo ấy khoác lên mình vừa nhẹ vừa ấm, đao gươm không thấu, người ta lại gọi là Kiểm Đường Nghê. Xưa nay nhiều những công tử yêu cầu muốn xem, song ông ta không hay cho ai xem bao giờ. Cái áo giáp ấy cũng như là tính mạng của ông ta, ông ta vẫn bỏ vào cái hòm da treo trên phòng nằm rất cẩn thận. Nay nếu lấy được cái áo ấy, thì tất ông ta phải đến đây ngay.
Ngô Dụng nói:
- Cái đó thì không khó gì? Phen này chỉ nhờ ông anh em rất giỏi, là ông Thời Thiên đi cho mới được.
Thời Thiên nghe nói liền ứng lên rằng:
- Chỉ sợ ông ta không để ở nhà, chứ còn ở nhà thì thế nào tôi cũng lấy được.
Thang Long nói:
- Nếu bác lấy được cái ấy, thì thế nào tôi cũng lừa ông ta đến đây được.
Tống Giang hỏi:
- Ngươi định lừa thế nào?
Thang Long ghé vào tai Tống Giang mà nói thầm mấy câu. Tống Giang cả cười mà rằng:
- Diệu kế, như thế thì làm gì không được?
Ngô Dụng nói:
- Bây giờ phải cần có ba người đi Đông Kinh một phen. Một người vào mua các thứ thuốc súng đạn lửa để dùng việc chế súng, còn hai người đưa vợ con Lăng Thống Lĩnh về đây.
Bành Dĩ nghe nói, liền đứng lên bẩm rằng:
- Nếu các Ngài rộng ơn cho một người đến Dĩnh Châu đem gia quyến nhà tôi đến đây, thì tôi cũng rất lấy làm cảm tạ muôn phần.
Tống Giang đáp rằng:
- Đoàn Luyện Sứ cứ viết thư về, để tôi sai người đến đó đón.
Nói đoạn liền gọi Dương Lâm sai đem thư tín kim ngân, cùng mấy người theo hầu, đi sang Dĩnh Châu đón vợ con Bành Dĩ. Tiết Vĩnh ăn mặc giả làm một người đánh gậy bán thuốc cao, đi sang Đông Kinh đón vợ con Lăng Chấn, Lý Vân giả làm khách buôn súng đi sang Đông Kinh mua các đồ dùng làm súng. Nhạc Hòa đi với Thanh Long và thỉnh thoảng phải đi kèm Tiết Vĩnh cho tiện công việc. Nhất diện cho Thời Thiên xuống núi đi trước, còn Thang Long phải lưu lại đánh cái câu liêm sang làm mẫu rồi sẽ đi sau.
Khi Thang Long đúc xong câu liêm, Lôi Hoành bèn đốc thúc thợ rèn cứ theo mẫu đó mà làm, đoạn rồi trong sơn trại đặt tiệc tiễn hành, đưa chân mấy người xuống núi.
Bấy giờ Dương Lâm, Tiết Vĩnh, Lý Vân cùng Thang Long từ biệt các vị Đầu Lĩnh cùng nhau cử bộ đăng trình. Đến sáng hôm sau Tống Giang lại cho Đới Tung đi theo bọn đó, để dò xem tin tức ra sao?
Nói về Thời Thiên, từ khi từ giã các vị Đầu Lĩnh, liền giắt đỏan đao cùng các thứ cần dùng trong mình, rồi trông chừng thẳng trỏ Đông Kinh. Cách ít lâu đi tới Thành, chàng tìm vào ngủ trọ, rồi sáng hôm sau vào Thành để hỏi dò đường lối.Khi vaò đến trong thành, chàng hỏi đến nhà Kim Sang Ban Từ Ninh Giáo Sư, sau có người trỏ vào gian nhà thứ năm ở trong ban, bên cạnh có cánh cửa đen đen, mà gọi là nhà Tư Ninh ở đó.
Thời Thiên nghe nói, vội vàng tới nơi, nom cửa trước cẩn thận một lượt, rồi lại nom đến cửa sau, thì có một dãy tường cao,trong có hai gian lầu nho nhỏ, bên cạnh có một cột liền ngay với chỗ bức màn.
Chàng xem kỹ một hồi, rồi lại quay ra phố hỏi thăm xem Từ Ninh có nhà hay không. Có người nói rằng:
- Từ Ninh thường đi vào ban làm việc quan, từ đầu trống canh năm tới chiều tối mới về.
Thời Thiên nghe nói lại trở về nhà trọ, lấy đủ các thứ cần dùng, rồi gọi tiểu nhị dặn rằng:
- Đêm nay có lẽ tôi không về, nhờ trông nom trong phòng giúp cho.
Tiểu nhị vâng lời mà rằng:
- Xin ngài cứ đi ở trong cấm thành này, không làm gì có quân gian đạo mà sợ.
Nói đoạn Thời Thiên đi vào trong thành, đợi đến chiều tìm nơi ăn uống, rồi lại đến nhà Từ Ninh để chực.Khi tới nhà Từ Ninh, chàng trông trước trông sau, không có chỗ nào nấp được. Sau trông quanh thấy sau miếu Thổ Địa gần đó, có một cây bách rất lớn, chàng liền rón rén trèo lên để ngồi trên càng cây để chực.
Bấy giờ đương dạo mùa đông, trăng mờ đêm lạnh, gió thổi hiu hiu, Thời Thiên đợi mãi mới thấy Từ Ninh trở về nhà, đoạn rồi có hai người trong ban, cầm đen lồng ra khoá kỹ cửa mà ai về nhà nấy.
Thời Thiên ngồi trên cây nghe thấy tiếng trống canh vẫn còn điểm một, trông lên trời, thì mây che kín, ánh sao mờ mịt, mà trong ban thì im phắc như tờ, không còn có một tiếng chó cắn gà kêu chi chi cả. Khi đó Thời Thiên ở trên cây bò xuống, đi đến lối sau nhà Từ Ninh, rồi trèo tường vào gần bếp. Chàng trông vào trong bếp thấy còn ánh đèn sáng, có hai đứa nữ tỳ vẫn còn xếp dọn chưa xong. Chàng lại quay ra trèo lên cột cái, nấp ở đằng sau chỗ bức màn, dòm vào trong lầu, thấy Từ Ninh cùng vợ ngồi ở cạnh lò lửa, tay ẵm đứa trẻ lên sáu tuổi, lại nom vào phòng ngủ, quả thấy một hòm da treo ở bên trên, cửa phòng treo một cây cung, một túi tên và một con dao lưng sáng nhoáng, trên mắc áo có ba thứ áo mầu, rất là lịch sự.
Bấy giờ Từ Ninh gọi lên rằng:
- Mai Hương đâu đem áo gấp lại cho ta.
Đoạn rồi thấy một đứa nữ tỳ ở dưới bếp đi lên, gập một cái áo màu tía cổ tròn, một cái áo ngắn màu quan lục, một cái áo xiêm hoa rực rỡ, một cái khăn gấm, và mấy cái khăn tay bằng lụa, bọc vào một gói, lại gấp một cái thắt lưng đuôi giải bọc vào khăn vàng nhỏ rồi bỏ vào hòm mà để lại một chỗ.
Được một lát vào khoảng canh hai, Từ Ninh xếp dọn giường nghỉ, người vợ hỏi Từ Ninh rằng:
- Ngày mai có đi việc quan nữa không?
Từ Ninh đáp:
- Sáng mai vua ra cung Long Phù, phải dậy sớm từ đầu canh năm để chầu chực mới được.
Người vợ nghe nói dặn bảo thị nữ rằng:
- Sáng mai dậy sớm đun nước và dọn cơm sớm.
Thời Thiên thấy vậy, trong bụng nghĩ thầm:"Cái hòm da kia, chắc là áo giáp để đó. Nhưng nếu nửa đêm ta hạ thủ mà lỡ ra họ biết, thì sáng mai khó lòng mà đi thoát. Vậy bất nhược ta đợi đến canh năm sẽ hạ thủ cũng được...
Chàng nghĩ đoạn lại đợi một lúc, thấy hai vợ chồng Từ Ninh cùng hai đứa thị nữ đã ngủ yên, mà trên bàn ở trong phòng vẫn để ngọn đèn ở đó. Thời Thiên bèn lần cột cái đi xuống, lấy ống sậy dắt ở mình, đem gần đến cửa sổ, ghé vào mà thổi tắt ngọn đèn đi.
Vào khoảng canh tư, Từ Ninh trở dậy, gọi thị nữ đun nước rửa mặt, thị nữ nghe gọi mơ màng trở dậy, thấy trong phòng không có ánh sáng, bèn kêu lên rằng:
- Quái lạ! Hôm nay lại không thắp đèn hay sao?
Từ Ninh bảo thị nữ:
- Bay không dậy thắp đèn, còn để đến bao giờ nữa?
Mai Hương vâng lời mở cửa gác đi xuống, Thời Thiên nghe tiếng két cửa, liền lẻn vào lối sau để trốn nấp. Mai Hương đi ra cửa sau, đi thẳng xuống bếp. Thời Thiên lỏn xuống bếp nấp ở sau cái bàn con trong bếp. Mai Hương châm lửa đem lên, rồi lại đóng cửa trên, quay xuống bếp đun nước. Bấy giờ tên thị nữ cũng trở dậy, gắp than vào lò mang lên trên lầu để sưởi. Được một lát, thị nữ đem nước nóng lên. Từ Ninh rửa mặt súc miệng, rồi gọi hâm rượu để uống. Thị nữ lại đem bánh lên. Từ Ninh ăn uống xong rồi, lại gọi mang ra cho người nhà ăn.
Khi ăn uống xong, Thời Thiên thấy Từ Ninh gọi mấy tên người nhà đeo khăn gói, vác Kim Sang, rồi hai tên thị nữ cầm đèn đưa Từ Ninh ra đi. Bấy giờ Thời Thiên ở trong gầm bàn đi ra, lần lên trên lầu, đến cạnh vách trèo lên sàn nhà nằm nấp ở đó.
Được một lát, hai đứa thị nữ quay vào cài cửa cẩn thận, rồi chui đầu ngủ ngay lập tức. Thời Thiên nằm ở xà nhà, đợi khi người nhà ngủ im thin thít, liền giơ ống sậy ra thổi tắt ngọn đèn, rồi sẽ cởi cái hòm da treo ở trên xà nhà ra. Khi cởi xong bất đồ vợ Từ Ninh nghe tiếng hơi thấy động, liền kêu lên rằng:
- Trên xà nhà có cái gì động thế? Thời Thiên nghe tiếng, liền giả tiếng chuột kêu trên xà nhà. Mai Hương nghe thấy vậy, bảo vợ Từ Ninh rằng:
- Chắc là chuột nó đùa nhau trên ấy hẳn.
Thời Thiên lại vờ tiếng chuột đuổi nhau, rồi sẽ nhảy xuống lầu lần ra cửa lầu mà vác hòm da mở cửa ra đi. Khi ra tới cửa ban, bấy giờ đã có người đi lại, cửa đã mở tung, chàng đã liền đánh tráo vào người trong ban mà đi lẻn ra ngoài thành.
Vào hồi giữa canh năm, Thời Thiên về đến hàng trọ, gọi mở cửa hàng. Vào phòng xếp hành lý thành một gánh tính tiền hàng, rồi trở ra đi về phía Đông. Chàng đi ngược bốn mươi dặm đường, tới một nơi hàng cơm vào đó để nghỉ ăn cơm. Đương khi ăn cơm bỗng thấy Đới Tung đi đến, chàng sẽ đem câu chuyện nói cho Đới Tung biết.
Đới Tung thấy đã lấy được áo giáp của Từ Ninh,thì trong bụng lấy làm vui mừng, hai người thì thầm mấy câu, rồi Đới Tung bảo với Thời Thiên rằng:
- Áo giáp này để tôi mang về trại trước, rồi báo với Thang Long sẽ thong thả đi sau.
Thời Thiên mở hòm da, lấy áo ra gói vào một gói đưa cho Đới Tung. Đới Tung khoác khăn gói lên vai ra khỏi cửa điếm; làm phép thần hành trở về sơn trại trước.
Bấy giờ Thời Thiên cơm nước xong, tính trả tiền hàng, rồi xếp hai cái hòm không nghêng ngang cho mọi người biết cùng, mà quảy gánh ra đi. Đi được hai mươi dặm đường, thì gặp Thang Long đi đến đó, hai người lại đưa nhau vào hàng để nói chuyện.
Thang Long khẽ bảo Thời Thiên rằng:
- Nay bác phải nghe tôi kế này mới được,bác đi đường, hễ thấy hàng cơm chỗ nào có vòng vôi trắng khuyên, thì cứ vào đó mua rượu chè ăn uống, mà nghỉ ngơi ở đó. Song trước hết phải để rõ cái hòm da cho mọi người trông thấy, rồi khi đi được một quãng đường, thì phải đứng đó mà đợi tôi.
Thời Thiên nghe nói khen phải, bèn đứng dậy đi trước, còn Thang Long lưu lại ở hàng một lúc, rồi mới đi vào Đông Kinh.
Nói về hai tên thị nữ ở nhà Từ Ninh, buổi sáng hôm ấy trở dậy, bỗng thấy cửa gác, cùng các cửa trong ngoài đều bỏ ngõ hết cả, hai người lấy làm kinh ngạc, đi nom hết cả các nơi, thấy bao nhiêu đồ vật còn nguyên, không hề có chút gì sai chuyển, Hai tên thị nữ nói với vợ Từ Ninh rằng:
- Thưa bà không biết làm sao cửa ngõ nhà ta mở tung cả ra, mà đồ vật thì không mất chi hết cả!
Vợ Từ Ninh nói:
- Vào khoảng đầu trống canh năm, có tiếng động trên xà nhà, ngươi bảo là đàn chuột đánh nhau. Vậy thử nom xem cái hòm da đựng áo giáp có còn treo đó không?
Hai đứa thị tỳ vâng lời, chạy vào xem, bỗng kêu lên rằng:
- Chết rồi! Cái hòm da, không thấy đâu nữa rồi.
Vợ Từ Ninh nghe nói lấy làm kinh hoảng, bảo với thị nữ rằng:
- Nếu vậy bây phải vào cung Long Phú, báo cho ông về ngay mới được.
Thị nữ vội vàng đi nhờ người vào báo cho Từ Ninh, song bấy giờ Ban Kim Sang đã theo hầu Thiên Tử ra ngoài nội uyển; phía ngoài đều có cấm binh coi giữ không ai làm thế nào mà vào báo được.
Vợ Từ Ninh cùng hai đứa nữ tỳ trong lòng nóng như lửa đốt, lo són với nhau, không còn tưởng nhớ đến cơm nước chi nữa.
Chiều hôm đó Từ Ninh đi hầu xe ngựa về, vào cung thay đổi áo xiêm; dẫn mấy người theo hầu, cùng mang Kim Sang mà lững thững ra về. Khi về tới cửa ban, thấy xóm làng xôn xao nói rằng:
- Nương Tử ở nhà mất trộm, đợi mãi không thấy Giáo Sư về, đương lo nháo lên ở nhà đó.
Từ Ninh nghe nói cả kinh, vội vàng chay về nhà để xem.
Khi về tới nhà, hai tên thị nữ thuật chuyện cho Từ Ninh biết.
Từ Ninh gắt mù tang tít cả lên, rồi nói với vợ rằng:
- Cái áo ấy là của báu từ bốn đời ngày xưa lưu lại đến nay. Trước Hoa Nhi Vương Thái Uùy đã trả ta vạn quan, ta không chịu bán cốt để những khi ra trận mà dùng, cho nên mới cẩn thận mà buộc treo trên đó. Có ai hỏi đến phải dối là mất mất rồi... Nay lại quả nhiên bị mất như thế, tất là thiên hạ biết chuyện, họ chê cười không còn ra trò gì nữa!
Chàng thẫn thờ hồi lâu, rồi suốt đêm đó nằm nghĩ, không biết làm cách gì mà tra xét được. Sau người vợ bảo với chồng rằng:
- Đêm hôm qua lúc tắt đèn, chắc là kẻ trộm đã lẻn vào nhà, nhưng không ai ngờ nó lại ăn trộm của oái oăm như thế? Cái này chắc có người bạn thân đến hỏi mua không được, nên mới sai kẻ trộm đến lấy đi hẳn? Ta hãy để đó; sai người đi dò hỏi xem sao, chớ nên hô hoán lên nữa người ta biết mất...
Từ Ninh nghe nói, cũng phải nén lòng, để đợi xem dò xét ra sao? Sáng hôm sau, chàng đương ngồi buốn nghĩ ngợi một mình, chợt có người gõ cửa, rồi có tên người nhà vào báo rằng:
- Có con quan Thang Tri Trại ở bên phủ Duyên An là Thang Long vào hầu.
Từ Ninh nghe nói, bảo người nhà mời Thang Long vào, Thang Long tới nơi, cúi đầu lạy chào, rồi hỏi thăm Từ Ninh rằng:
- Lâu nay Ca Ca vẫn được bình yên đó chăng?
- Từ Ninh hớn hở đáp lễ mà rằng:
- Dạo trước ông cậu quy tiên, tôi vì bận việc quan, vả đường xa xôi, không sao đến viếng được sau cũng không biết tung tích hiền đệ ra sao, trong lòng thực lấy làm ăn năn quá đỗi. Chẳng hay hiền đệ ở đâu? Từ đâu mà đến đây thế?
Thang Long nói:
- Từ khi phụ thân bị mất, trong nhà gặp lúc gian truân phải lưu lạc gian hồ, rất là vất vả. Nay tôi nhân ở Đông Sơn tới đây để hỏi thăm Ca Ca, và anh em đàm đạo một hôm, cho đỡ lòng khát vọng bấy lâu...
Từ Ninh mời Thang Long ngồi, gọi người nhà mang rượu lên để thiết đãi. Thang Long mở khăn gói ra lấy hai đĩnh bạc, nặng hai mươi lạng, đưa cho Từ Ninh mà nói rằng:
- Khi phụ thân tôi mất, có để lại hai mươi lạng vàng này, có dặn đưa cho Ca Ca để làm kỷ niệm về sau, song từ ấy đến nay không ai qua lại, cho nên vẫn không gửi sang đây được. Nay tiểu đệ qua đây, đưa nộp Ca Ca một thể.
Từ Ninh nói:
- Cậu có lòng quá yêu tôi như thế, tôi biết lấy gì báo đáp vong hồn cậu được ...
- Ca Ca bất tất nghĩ vậy. Khi phụ thân tôi còn sống, vẫn thường nhớ đến Ca Ca võ nghệ cao cường, song vì non nước xa khơi, không sao được gặp, gọi là để chúc này làm kỷ niệm với Ca Ca đó thôi.
Từ Ninh cảm ơn Thang Long,nhận lấy hai đỉnh bạc, rồi hai người cùng uống rượu với nhau. Trong khi uống rượu, Từ Ninh vẫn ra dáng bang khuân nghĩ ngợi, kém vẽ tươi cười. Thang long thấy vậy liền hỏi:
- Tôi trong Ca Ca có dáng không vui, hay là trong bụng có điều gì lo nghĩ chăng?
- Từ Ninh thở dài mà than rằng:
- Hôm qua nhà tôi mất trộm đấy...
- Chẳng hay mất bao nhiêu đồ đạc?
- Chỉ mất có cái áo giáp của ông cha tôi để lại khi xưa, là một cái áo làm bằng lông nhạn rất quý, không ai có bao giờ. Bởi vậy tôi lấy làm bâng khuân lo nghĩ, không biết kế chi mà tìm thấy được nữa... ?
- Vâng! Cái áo ấy tiểu đệ cũng có được biết, ngày trước còn thân phụ vẫn thường khen ngợi đến luôn luôn... .Vậy Ca Ca để đâu mà mất được?
- Tôi bỏ trong cái hòm da, treo trên xà nhà giữa phòng nằm, mà không biết làm sao nó lại lấy được?
- Cái hòm da hình dạng thế nào?
- Cái hòm ấy bằng da dê đỏ, phía trong có bọc lông cẩn thận.
Thang Long nghe nói, ngạc nhiên mà rằng:
- Da dê đỏ... Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa có thêu sư tử hý cầu bằng chỉ trắng không?
Từ Ninh đáp:
- Phải, hiền đệ trông thấy thế?
- Đêm qua tôi trọ nhà hàng, cách đây chừng bốn mươi dặm, thấy một anh chàng người đen mắt đỏ, gánh một cái gánh, một bên có cái hòm da như thế. Tôi trông thấy vậy, trong bụng nghĩ rằng; không biết trong hòm có đựng những cái gì. Sau lúc tôi ra đi có hỏi hòm đựng cái gì? Thì chàng ta đáp, nguyên trước là hòm đựng áo giáp, nhưng nay đem đựng quần áo vặt ở đó, anh chàng ấy, có lẽ tôi còn nhớ, hai chân đi tập tễnh, chắc là anh ta lấy hẳn. Nếu vậy bây giờ ta đi đuổi ngay, thì may ra còn kịp được ...
Từ Ninh nghe nói, vội thay đôi giầy gai dắt con dao lưng, tay cầm dao lớn, cùng với Thang Long lập tức ra thành để đuổi theo.
Khi đến một hàng cơm kia, thấy trên vách có vết vôi trắng, Thang Long bảo với Từ Ninh rằng:
- Ta hãy vào đây nghỉ, hỏi thăm một câu rồi sẽ đi.
Nói đoạn dắt Từ Ninh vào mua rượu cùng uống. Thang Long hỏi nhà hàng rằng:
- Ông có thấy anh chàng gầy đen gánh hòm da, đi qua đây không?
Chủ hàng đáp:
- Có, đêm qua có một anh gầy đen, gánh hai cái hòm da dê qua đây, chân anh đi tập tễnh, bước thấp bước cao thì phải...
- Đấy Ca Ca, nghe có đích không?
Từ Ninh nghe nói, không biết làm sao mà trả lời được nữa. Hai người ăn uống xong, liền trả tiền hàng, rồi tính tiền ra đi.
Được ít lâu, đi đến hàng có vết vôi trắng, Thang Long lại đứng dừng lại bảo Từ Ninh rằng:
- Tôi mệt lắm rồi. Ca Ca hãy vào đây nghỉ ăn uống rồi sáng mai sẽ đi...
Từ Ninh nói:
- Tôi đang giữ chức quan, nếu đêm nay điểm danh thấy vắng mặt, thì tất nhiên Quan Tư quở trách hẳn.
Thang Long nói:
- Cái đó cần gì Ca Ca khỏi nghĩ, chắc là Tẩu Tẩu ở nhà phải nói với quan trên chớ?
Nói đoạn dắt Từ Ninh vào hàng để nghỉ.Đêm hôm đó, Thang Long hỏi tên tiểu nhị ở hang, để hỏi thăm người gánh hòm.
Tiểu nhị nói:
- Đêm hôm qua có một người đen đen gầy gầy gánh hòm vào trọ hàng tôi, hỏi thăm dường về Sơn Đông, rồi đến gần trưa mới đi.
Thang Long nghe nói quay bảo Từ Ninh rằng:
- Nếu vậy ta cũng còn có thể đuổi kịp được.
Từ Ninh nghe nói, cũng yên tâm nghỉ một đêm hôm ấy, sáng hôm sau hai người trở dậy đi sớm, hễ đến chỗ nào có vạch vôi trắng, Thang Long lại dắt Từ Ninh vào ăn uống, và hỏi thăm người gánh hòm. Sau thấy hàng nào cũng nói là có anh chàng gánh hòm đúng như thế.
Từ Ninh càng lấy làm nóng ruột, muốn theo kịp cho mau để mà lấy lại.
Hai người đi đến chiều hôm, tới một nơi cổ miếu, thấy Thời Thiên để cái gánh ở dưới gốc cây, ngồi đợi ở đó. Thang Long bèn trỏ bảo Từ Ninh rằng:
- Kìa, dưới gốc cây kia, có phải cái hòm của Ca Ca không? Từ Ninh thấy vậy vội nhảy sấn tới, nắm lấy Thời Thiên quát lên rằng:
- Quân này to gan thực, sao dám ăn trộm áo giáp của ta?
Thời Thiên đáp rằng:
- Khoan khoan không cần phải làm ầm lên...Tôi ăn cắp áo giáp thực, nhưng bây giờ các bác định làm gì?
Từ Ninh lại quát rằng:
- Quân súc sinh vô lễ thực! Bây còn hỏi ta làm gì à... ?
Thời Thiên nói:
- Bác thử xem trong hòm tôi có áo giáp không?
Thang Long mở hòm ra cho Từ Ninh xem, thì không thấy áo giáp ở đó. Từ Ninh thấy vậy hỏi dồn rằng:
- Thằng này, mày để áo giáp của ta đâu?
- Khoan tôi nói cho mà nghe, tôi đây là họ Trương, bầy vai thứ nhất, quê ở Thái An Châu, trong châu tôi có một nhà phú hộ, hay đi qua lại nhà quan Kinh Lược Lão Trung. Sau nghe nói nhà bác có cái áo bằng lông nhạn, mà không chịu bán, nên mới thuê tôi đến đây, cùng một người nữa là Lý Tam đến ddaat ăn cắp, và có hứa khi nào lấy được,sẽ cho một vạn quan tiền, dè đâu khi lấy xong, tôi nhảy ở trên cột nhà bác suýt ngã một cái, rẹo hẳn một chân, không sao đi nhanh được,đành phải để cho Lý Tam mang áo giáp về trước, mà để hòm không lại cho mang, nay nếu bác mang tôi đến quan thì dẩu chết tôi cũng không chịu thú, băng cư lặng yên, tha cho tôi rồi đi với tôi, tôi sẽ lấy lại trả cho...
Từ Ninh nghe nói, suy nghĩ hồi lâu, không biết quyết đoán ra sau.
Thang Long liền nói:
- Ca Ca sợ nó bay lên trời được chăng? Ta hãy cứ đi với hắn, nếu không lấy được áo giáp thì sẽ trình quan ở đó cũng được.
Từ Ninh khen phải, rồi cùng Thời Thiên, Thang Long quay ra tìm vào nhà trọ. Nguyên Thời Thiên làm ra mẹo buộc dây chân, cố làm ra bộ khập khễnh không đi nhanh được,như vậy Từ Ninh lại càng vững tâm mà không e ngại chi nữa. Sáng hôm sau ba người cùng dậy sớm, cùng mua rượu cơm ăn uống, rồi ba người lại đi với nhau.
Cách ngày hôm sau nữa, Từ Ninh vừa đi vừa nóng lòng sót ruột, không chắc đến nơi có lấy được áo giáp hay không?
Chợt đâu thấy bên đường, có ba bốn người đẩy một cái xe; trong xe có người ăn mặc ra dáng khách buôn tử tế.
Người ấy trông thấy Thang Long bèn vái chào một cái rất là cung kính, Thang Long chào hỏi lại rồi ra dáng hớn hở, hỏi luôn rằng:
- Bác đi đâu mà qua đây như thế? Người kia đáp:
- Tôi buôn bán ở Trịnh Châu, nay về Thái An Châu đây.
Thang Long nói:
- Nếu vậy thì tốt lắm, ba chúng tôi cũng muốn đáp xe về Thái An Châu một thể.
Người kia nói:
- Được lắm,ba người chứ mấy người cũng được.
Thang Long nghe nói cả mừng, gọi Từ Ninh đến để chào người đó.Từ Ninh hỏi:
- Người ấy là ai?
Thang Long đáp:
- Người đó họ Lý tên Vịnh, bạn cung đi lại ở Thái An Châu với tôi khi trước, là người có nghĩ khí lắm...
Từ Ninh nói:
- Thế thì hay lắm! Anh Trương Nhất không đi nhanh được,nhân thể ta cho lên xe là tiện.
Nói đoạn bốn người cùng lên xe để đi.Từ Ninh lại hỏi:
- Trương Nhất ơi! Anh nói cho tôi biết tên người phú hộ đó là ai?
Thời Thiên đã đôi ba phen không chịu nói, sau Từ Ninh hỏi mãi mới đáp rằng:
- Ông ta là ông phú hộ họ Quách, có tiếng ở Thái An Châu xưa nay.
Từ Ninh quay lại hỏi Lý Vịnh rằng:
- Ở Châu Thái An nhà ông, có ông phú hộ nào họ Quách không?
Lý Vịnh đấp rằng:
- Có ông ta là một nhà đại phú có tiếng ở châu tôi, xưa nay chỉ thích đi lại với đám quan trường, trong nhà dung túng không biết bao nhiêu nhàn đãng mà kể!
Từ Ninh nghe nói, càng lấy làm vững tâm hơn trước, rồi thỉnh thoảng Lý Vịnh lại nói chuyện võ nghệ và hát xướng tiêu khiển với nhau, làm cho Từ Ninh càng hả dạ vui lòng, mà không quan tâm chi lắm.
Xe đi dòng dã một ngày, đến hôm sau gần tới địa phận Lương Sơn Bạc, Lý Vịnh sai phu xe, đi mua rượu và thịt, đem về trên xe cùng uống.
Khi mua thịt rượu về, Lý Vịnh sai rót một bầu con mời Từ Ninh uống, Từ Ninh cất uống một hơi, uống hết rồi Lý Vịnh lại sai rót nữa. Tên phu xe cầm bầu rượu toan rót, bất đồ lóng cóng buột tay đổ lăn ra đất. Lý Vịnh tức giận quát tên phu xe phải mua rượu nữa.
Vừa nói dứt lời thì Từ Ninh sè bọt mép, nhắm hai mắt rồi nằm vật trên xe. Chúng liền túm lại rồi đem Từ Ninh đến hàng rượu Chu Quý, để đưa lên Lương Sơn Bạc.
Nguyên Lý Vịnh tức là Nhạc Hoà, vâng lệnh Tống Giang giả làm thương khách, để đón Từ Ninh, Thang Long, Thời Thiên về đó. Khi chúng vực Từ Ninh xuống thuyền và tới Kim Sa, Tống Giang nghe báo, liền đem các vị Đầu Lĩnh ra bến để đón. Đoạn rồi đem thuốc giải độc để giải cho Từ Ninh.
Được một lát Từ Ninh tỉnh dậy, mở bầng con mắt, trông thấy mọi người, thì ngạc nhiên kinh sợ không hiểu ra sao. Sau khi biết Thang Long đánh lừa đưa đến Lương Sơn Bạc, chàng liền gọi Thang Long đến trách rằng:
- Sao ngươi nỡ tâm đánh lừa ta đến đây như vậy?
Thang Long đem lời an ủi, khuyên giải Từ Ninh, và đem lòng nghĩa khí của Tống Giang và chuyện mình nhập đảng kể cho Từ Ninh nghe.
Từ Ninh nghe nói thở dài mà rằng:
- Thế này thực là anh em giết tôi đó!
Tống Giang đưa chén rượu khuyên mời Từ Ninh mà rằng:
- Tống Giang tôi tạm trú Thủy Bạc, chỉ đợi triều đình có lòng thương hại, là phải hết sức cùng lòng để báo đền non nước, chứ thực không dám chút nào mang dạ tham ô, mà dám làm điều bất nghĩa. Vậy xin ngài nghĩ đến chân tình, mà ở đây cùng nhau tụ nghĩa, thì thực là hân hạnh vô cùng.
Bấy giờ Lâm Xung cũng nâng chén rượu cười mà rằng:
- Tiểu đệ đã đến đây lâu rồi, xin nhân huynh đừng từ chối.
Từ Ninh nói:
- Tuy vậy, song còn vợ con ở nhà, lỡ Quan tư tróc nã thì biết làm sao?
Tống Giang nói:
- Cái đó không hề chi, xin ngài cứ yên tâm, chúng tôi sẽ có cách đưa quý quyến về đây ngay lập tức.
Đoạn rồi Tiều Cái, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng; đều đến nói lại với Từ Ninh và đem sự định tập đánh câu liêm sang, để phá trận Liên Hoàn để thuật cho Từ Ninh nghe.
Khi chuyện trò thỏa thuận, trong sơn trại lại đặt tiệc ăn mừng, rồi nhất diện sai chọn đám lâu la khỏe mạnh, để tập đánh câu liêm, và nhất diện cho Đới Tung cùng Thang Long lập tức tới Đông Kinh đón vợ con Từ Ninh lên núi. Cách trong mươi ngày Dương Lâm ở Dĩnh Châu đón vợ con Lăng Chấn, cùng Lý Vân mua sắm các xe đồ chế thuốc súng, cũng cùng về một lượt. Lại cách vài hôm sau thì thấy Đới Tung, Thang Long đưa vợ con Từ Ninh đến, Từ Ninh thấy vợ con đến, lấy làm kinh ngạc,mà hỏi thăm duyên cớ ra sao?
Vợ con Từ Ninh đáp rằng:
- Sau khi phu quân đi rồi, quan điểm danh không thấy,tôi phải đưa kim ngân cùng các đồ trang sức để đút lót, mà nói dối là ốm nằm ở nhà. Sau một hôm thấy thúc thúc Thang Long cầm áo giáp lông nhạn đưa đến, nói là áo đã tìm thấy, song phu quân bị bệnh nguy ở giữa đường, phải đón cả nhà lên đó để trông nom mới được. Tôi nghe nói tưởng thực phải vội vàng đi đến đây...
Từ Ninh nghe nói tới đó, lắc đầu bảo Thang Long rằng:
- Chú làm thế vẫn là xong việc, song cái áo tôi lại bỏ ở nhà, thì thực là uổng quá.
Thang Long nói:
- Tôi nói cho Ca Ca mừng, sau khi chị cùng cháu lên xe đi nhờ ông bạn tôi dẫn đi rồi, tôi về lấy cả áo giáp, thu cả đồ đạc và dỗ hai tên thị nữ cùng đến đây kia...
Từ Ninh nói:
- Thôi vậy ta còn về Đông Kinh thế nào được nữa?
Thang Long lại bảo với Từ Ninh rằng:
- Còn có điều này nữa, tôi nói cho Ca Ca biết một thể. Khi đi đường thấy có bọn khách buôn, tôi liền mặc cái áo giáp ấy, rồi bôi nhọ mặt đi, xưng tên họ của Ca Ca mà đánh cướp tất cả tài vật... Chỉ nay mai là Quan Tư sức giấy đi các nơi, để bắt Ca Ca đó.
Từ Ninh dẫm chân lên mà than rằng:
- Chú làm thế thì hại cho tôi to lắm.
- Tiều Cái,Tống Giang tìm lời uyển chuyển khuyên rằng :
- Nếu không làm thế, làm sao ngài chịu ở lại đây? Thôi xin ngài đồng tâm hiệp lực mà cùng tụ nghĩa với nhau ở đây cho vui.
Nói đoạn sai dọn nhà cho vợ con Từ Ninh ở, rồi cùng nhau bàn kế để phá trận ngựa Liên Hoàn.Bấy giờ Lôi Hoành đã thúc dốc đánh đủ câu liêm, Tống Giang, Ngô Dụng bèn mời Từ Ninh ra dạy quân sĩ. Từ Ninh nói với mọi người rằng:
- Ngày nay sự thế đã xảy ra như vậy, thì tôi xin nhất tâm đào luyện cho quân sĩ để chóng được nên công các ngài bất tất phải quan tâm cho lắm.
Các vị Đầu Lĩnh nghe nói, đều lấy làm vui mừng, bèn cùng nhau ra tụ nghĩa Sảnh, để xem Từ Ninh tuyển người dạy võ.
Cho hay:
Nước sâu kinh ngạc vẫy vùng,
Giang hồ len lõi anh hùng tìm nhau,
Giữa dòng thay đỗi bể dâu,
Ngoài khuôn nghĩa hiệp ai cầu ai chi?
Nợ đời nặng với tu mi,
Bắc Nam muôn dặm có khi cũng gần.
Đã lòng báo đáp thâm ân,
Vào sinh ra tử tấm thân sá gì?
Lời bàn của Thánh Thán:
Cái tài của tác giả Thi Nại Am, ta không biết đâu là bờ mà nói hết. Đương bỗng dưng tả ra một bậc hào kiệt; thì đúng là bậc hào kiệt; Chợt đâu tả ra một kẻ gian hùng, thì lại đúng là kẻ gian hùng; Chợt đâu tả ra một gái dâm, thì lại đúng là một gái dâm; Chợt đâu tả ra thằng trộm cắp, thì lại đúng là thằng trộm cắp...
Người ta có nói; Chẳng phải thánh nhân, không biết nổi thánh nhân. Thế thì chẳng phải hào kiệt biết sao nổi hào kiệt? Chẳng phải gian hùng sao biết nổi gian hùng? Thi Nại Am tả ra hào kiệt đúng như hào kiệt, Thi Nại Am đã là hào kiệt hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Cũng như tả ra gian hùng đúng là gian hùng, Thi Nại Am lại là gian hùng hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Tuy nhiên ta vẫn còn nghi, vì bậc hào kiệt có tài của gian hùng, kẻ gian hùng có khí phách của hào kiệt, lấy hào kiệt gồm gian hùng, hay là gian hùng gồm hào kiệt, để xét Nại Am, thì cũng không lạ gì nữa.
Còn như Thi Nại Am quyết nhiên không phải như gái dâm trai trộm, thế mà xem khi tả đến gái dâm thấy đúng gái dâm, tả đến thằng trộm thấy đúng thằng trộm, thì nghĩa thế nào? Hỡi ôi! Ta biết ra rồi, chẳng phải gái dâm sao biết gái dâm. Chẳng phải thằng trộm biết đâu thằng trộm, thế mà Thi Nại Am lại không phải gái dâm; thằng trộm, đó là nghệ thuật văn chương phải biết hết ra; Há phải nhà văn cứ là gái dâm mới tả nổi gái dâm hay là trôm cắp mới tả nổi trộm cắp...
Trong kinh dạy rằng: " Há lại chẳng nên biết hết, lòng không rối loạn thì thôi, khắp mọi người thiên hạ, ai chẳng phải là dân của nhà vua... Nếu mà đã động tâm làm ra gái dâm, làm ra trộm cắp... Có phải động tâm mà chỉ làm được thế thôi đâu? Cho nên chỉ ba tấc bút, một tờ giấy của Thi Nại Am khi động tâm đến gái dâm, động tâm đến trộm cắp... Tả ra như đúng do tâm động đến mà nên, há phải con người cầm bút quệt mực, phải trèo tường khoét ngạch, mới tả được nổi trộm cắp gái dâm?
Trong kinh dạy rằng: " Hoà hợp nhân duyên, không phép nào chẳng có... "Từ xưa dâm phụ không có bản in nào sẵn phép dạy ra; Tài tử cũng không bản in sẵn văn tự dạy ra...Do nhân duyên sinh phép, cái gì chẳng có? Cho nên Long Thụ viết sách, muốn phá hết nhân duyên phẩm, mà không nhắc tới vì ghét nhân duyên; Nay Thi Nại Am viết ra Thủy Hử, đã đem nhân duyên sinh pháp, làm tổng trì của văn tự, rất đạt mọi nhân duyên; Một khi con người đã đạt mọi nhân duyên, thì chả cứ phải gái dâm, trộm cắp, hào kiệt, với gian hùng, mà tả ra đúng các loại người đó, trong khi tả đến loại nào, đều theo nhân duyên pháp hoá ra. Vậy Thi Nại Am là hạng người nào? Chính là tài tử vậy? Trở nên tài tử kia, đã học theo giảng đạo của Long Thụ, giảng theo cái học của Long Thụ đã nên bồ tát cho nên cách vật trí tri...
Đọc bài phê này, có thể tự trị, vì sợ nhân duyên theo phép thánh nhân rồi. Truyện nói: Răn giữ điều chẳng thấy, sợ hãi điều chẳng nghe ra, đó vậy; Còn như trị người, thì không nghĩ ác, không nghĩ ác đã theo đạo Trung Thứ của Thánh hiền; Truyện nói: Vương đạo bằng phẳng, lồng lộng...ó vậy. Thiên hạ chả thiếu gì người học Thánh nhân phải có người dạy cho mới được.
Hồi này biến động văn tự, lại một dạng bút pháp khác ra, như muốn phá trận ngựa, phải đồ câu liêm, muốn làm nổi phép câu liêm, phải lấy cắp được áo giáp, do ngựa mà đến sang, do sang mà đến giáp. Hô Duyên Chước có ngựa lại có súng; Từ Ninh có phép sang lại có giáp; Hô Duyên Chước phép ngựa chưa tan, trận súng đã bị mất về Sơn Bạc; Từ Ninh phép sang chưa dạy, áo giáp đã bị mất về Sơn Bạc. Nào khi khen ngợi ngựa Tích Tuyết Ô Truy; Nào khi khen ngợi áo giáp Kiễn Đường Nghê, lại thấy đối nhau Gia tổ Từ Ninh truyền phép sang; Gia tổ Thang Long truyền kiểu sang, hai tổ cùng truyền lại đối; Mà chợt đâu lại tả riêng ra ngoài ý tưởng một tổ truyền giáp, đối với mấy hồi trước xa xa tả một thợ rèn truyền từ nghiệp tổ, thấy trong hồi lắm đoạn kỳ văn.
Tả Thời Thiên vào nhà Từ Ninh, đã ngoài canh một, mà vợ chồng Từ Ninh chưa ngủ, tả sau khi vợ chồng Từ Ninh ngủ, đã đến canh hai, mà Thời Thiên chưa ăn cắp, lại sao? Vì nêu đề thì phải giảng văn cho hết, tức là phải tả ra văn cho rõ một đề tài, nếu tả lược qua không hết đề, không có gì hay vậy.
Mấy hồi trên tả Chu Đồng gia quyến, bỗng đâu nảy thêm cậu ấm, nảy ra tình thương con Tri Phủ; Hồi này tả vợ chồng Từ Ninh, thêm đứa con sáu bảy tuổi, cho rõ họ Từ có con, thấy đời trước để lại áo giáp còn truyền mãi được, làm văn phải hướng vào khi rỗi bút tả ra, theo phép Mao Thi, Sử Mã, tài tử Nại Am học lỏm được nổi phép này.
Tả Thời Thiên một đêm nghe chuyện, nào lời người nhà, nào lời vợ chồng ân ái, nào lời người chủ, nào lời nữ tỳ, nào lời trên lầu, nào lời đêm khuya, nào lời ngái ngủ, câu nào ý ấy, nghe được rõ ra.
Thang Long, Từ Ninh thường nói hòm da dê đỏ, Từ Ninh còn thêm câu; phía trong có bọc bông cẩn thận; Thang Long lại thêm câu; Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa thêu sư tử hí cầu... chỉ vì thế mà Từ Ninh có công theo đuổi Từ Ninh rất khéo!
Do theo đuổi tới Sơn Đông, rồi đưa về Sơn Bạc, với đường đất chẳng gần, chia ra bao nhiêu đoạn đánh lừa, có phép tắc, thấy khéo nói ra không hết.
Hồi 56
Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang;
Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Bấy giờ Tiều Cái, Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh trông thấy Từ Ninh mình sáu thước năm tấc, mặt trắng phau phau, ba chòm râu đen rưng rức, lưng rộng vai to, rõ ra đường đường tu my nam tử, thì ai nấy đều vui mừng hớn hở trong lòng.
Khi tuyển quân xong, Từ Ninh liền xuống dưới sân Tụ Nghĩa sảnh, cầm cây Câu liêm sang múa mang một lúc, chúng trông thấy đều vỗ tay khen ngợi luôn mồm.
Từ Ninh bảo với quân chúng rằng:
- Phàm ngồi trên mình ngựa đánh Câu Liêm sang, thì lấy cỡ từ thắt lưng mà đánh,trên giữa bảy đường, ba lần giật, bốn lần lượn, một lần đâm, ba lần gạt, cộng có chín phép biến. Bằng đánh Câu Liêm dưới bộ, thì trước hết đi tám thước vung ra bốn mặt để lấy thế, rồi cứ mười hai bước một lần biến, mười sáu bước một lần giở mình chĩa Câu Liêm vừa đâm vừa giật, hai mươi bốn thước hất lên đè xuống, móc bên Đông, đánh bên Tây, ba mươi sáu bước quay mình như lọng che, cướp đánh lung tung không đâu không vỡ. Đó là phép chính đánh Câu Liêm Sang, có bốn câu thơ phải thuộc làm lòng để luyện.
Bốn rung, ba móc, thông bảy đường,
Chín lần biến đổi khác tay sang
Hai mươi bốn bước vung sau trước
Mười sáu bước nay, chuyển khác thường.
Từ Ninh đọc xong, lại cầm cây Câu Liêm, diễn theo phép chính một hồi ai trông thấy cũng đều vỗ tay khen ngợi. Từ đó trở đi, các quân sĩ ngày đêm luyện tập, không lúc nào trễ nải. Sau Từ Ninh dạy cho đám bộ quân, lấy cách nấp núp trong cỏ, móc chân giật cẳng, cùng ám pháp ba đường đánh dưới, đều bảo cho thông thạo hết cả.
Thấm thoát trong nửa tháng trời, trong sơn trại đã được sáu bảy trăm người đánh Câu liêm sang rất giỏi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh cả mừng, liền cùng nhau để sắp sửa phá trận ngựa Liên Hoàn.
Nói về Hô Duyên Chước, từ khi mất Bành Dĩ cùng Lăng Chấn, hàng ngày lại đem quân ra bến nước để khơi đánh. Trong sơn trại thấy vậy, chỉ cho các Đầu Lĩnh thủy quân ở dưới trại để coi sóc phòng bị, còn các bến nước thì để ngầm các cọc nhọn, để phòng khi thuyền bè các quan quân đến đánh, bởi vậy nên Hô Duyên Chước có đem quân hai đường bên Tây bên Bắc núi, song không thể nào lấn sang sơn trại được.
Bấy giờ trong sơn trại đã luyện được quân đánh Câu Liêm sang, và Lăng Chấn đã chế được nhiều thứ hỏa bác. Tống Giang liền bàn với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Binh pháp của Tôn, Ngô, lợi nhất là những nơi núi rừng chằm vũng. Vậy ngày nay ra trận không dùng đến ngựa, các Đầu Lĩnh đều đi bộ và đem quân bộ, chia làm mười đội để ra dụ giặc. Khi thấy mã quân bên kia kéo đến, thì ta kéo quân chạy tràn vào các nơi vũng lau rừng cỏ và cho các quân Câu Liêm nấp sẵn ở đó, cứ mười tên biết đánh Câu liêm sang, lại cho xen mười tên quân biết đánh gậy móc vào. Hễ khi quân mã chạy tới nơi, các quân Câu Liêm đánh trước, rồi đám kia thả gậy móc kéo ngựa lại để bắt...Như thế phỏng có được chăng?
Ngô Dụng khen rằng:
- Chính là phép dàn binh bắt tướng đó.
Từ Ninh cũng khen rằng:
- Phép đánh gậy móc trong trận Câu liêm cũng phải như thế mới được.
Tống Giang nghe nói liền cắt mười bộ đội quân ra đánh: Lưu Đường, Đỗ Thiên dẫn đội thứ nhất; Mục Hoằng, Mục Xuân dẫn đội thứ hai; Dương Hùng, Đào Tôn Vượng dẫn đội thứ ba; Chu Đồng, Đặng Phi dẫn đội thứ tư; Giải Trân, Giải Bảo dẫn đội thứ năm; Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn đội thứ sáu; Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn đội thứ bảy, Tiết Vĩnh, Mã Lân dẫn đội thứ tám; Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ dẫn đội thứ chín; Dương Lâm, Lý Vân dẫn đội thứ mười. Mười đội quân xuống núi để du địch đuổi theo.
Lại sai Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, cùng Mạnh Khang cưỡi chiếc thuyền ra bến nước tiếp ứng. Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ưng, Sài Tiến, Tôn Lập, Âu Bằng, sáu người cưỡi sáu con ngựa dẫn quân ra bên núi khơi chiến. Lăng Chấn, Đỗ Hưng chuyên giữ việc bắn súng, Từ Ninh, Thang Long coi sóc đám quân Câu liêm. Trung quân thì có Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Đới Tung, Lã Phương, Quách Thịnh, coi sóc quân mã và sai bảo hiệu lệnh. Còn bao nhiêu Đầu Lĩnh đều ở nhà coi trại.
Khi cắt đặt xong vào khoảng canh ba đêm ấy, cho đội quân Câu liêm sang bên kia bến nước, ẩn nấp cẩn thận, rồi mười đội bộ quân sang sau. Lăng Chấn Đỗ Hưng đem súng phóng hỏa lên chỗ gò cao đặt giá súng cẩn thận tử tế để đợi, rồi Từ Ninh, Thang Long, cầm đồ hiệu lệnh Câu liêm sang sau. Đến tờ mờ sáng hôm sau, Tống Giang đóng nhân mã Trung quân ở bên Tây bến nước, đánh trống khua cờ để hư trương thanh thế, bấy giờ Hô Duyên Chước nghe báo Lương Sơn Bạc kéo ra, liền sai tướng Tiên Phong là Hàn Thao, đem ngựa Liên Hoàn ra bày trận trước. Đoạn rồi Hô Duyên Chước đai nịt cẩn thận, thân cưỡi ngựa Ô Truy, dắt đôi chùy theo sau ra trận.
Khi ra tới nơi, thấy quân mã Tống Giang, bày bên kia đông như kiến cỏ. Hô Duyên Chước liền sai bài trận mã quân lên trước, rồi Hàn Thao chạy đến bàn rằng:
- Đội quân của Tống Giang ở bên chính Nam kia không biết rằng nhiều hay ít?
Hô Duyên Chước nói:
- Bất kể nhiều hay ít, cứ thúc mã quân mà đánh trận đi.
Hàn Thao vâng lệnh, nổi hiệu toan kéo ngựa quân Liên Hoàn thẳng chạy sang phía chính Nam. Chợt thấy phía Đông Nam có một toán bộ quân kéo ra, Hàn Thao lại toan chia quân ra làm hai ngã để đón đánh. Chợt thấy phía Tây Nam cũng có một toán bộ quân kéo ra, cờ hiệu phất phới, trông rất oai nghiêm.
Hàn Thao trông thấy đành phải lui quân về, nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Ba mặt phía Nam đều có ba toán quân nổi hiệu cờ Lương Sơn không biết chia đánh bên nào cho tiện?
Hô Duyên Chước nói:
- Lâu nay nó không ra đánh, nay tất có mưu mẹo chi đây?
Vừa nói dứt lời, thì phía bên Bắc nổi một tiếng súng rất to.
Hô Duyên Chước giận dữ mắng rằng:
- Tiếng súng đó chắc lại Lăng Chấn nối giáo cho giặc rồi.
Nói đoạn quay nom sang phía Bắc, lại thấy ba đội quân kéo cờ phất phới nhô lên. Hô Duyên Chước bàn với Hàn Thao rằng:
- Cái này chắc là mưu mẹo của quân giặc, vậy tôi dẫn một nửa quân sang đánh mặt Bắc, còn Tướng quân dẫn một nửa quân sang đánh mặt Nam mới được.
Nói xong vừa toan chia binh ra đánh, thì thấy phía Tây lại có bốn toán quân mã kéo ra. Hô Duyên Chước lấy làm nghi ngại không biết nghĩ kế ra sao? Chợt lại thấy về phía chính Bắc, có một dịp súng nổi lên, một tiếng súng cái, bốn mươi tiếng súng con, ầm ầm dậy đất long trời làm cho quân mã của Hô Duyên Chước không đánh cũng phải rối loạn.
Hô Duyên Chước thấy vậy, vội cùng Hàn Thao chia quân ra bốn mặt để đánh. Bên kia mười bộ đội quân, thấy đánh bên Đông, thì toán bên Đông chạy, thấy đánh bên Tây, thì toán bên Tây chạy, Hô Duyên Chước cả giận, liền dẫn quân thẳng sang mặt Bắc để đánh. Quân sĩ Tống Giang thấy Hô Duyên Chước kéo đến, bèn xô nhau vào khóm lách ngàn lau để trốn. Hô Duyên Chước đuổi ngựa Liên Hoàn để đánh. Đám ngựa thừa thế chạy tràn vào các nơi cỏ lau lách không sao cản nổi.
Chợt nghe thấy đám lau cỏ, có tiếng hiệu còi nổi lên, rồi bọn quân Câu liêm đều ra sức đánh ngã hai đoàn ngựa kèm hai bên, còn đám ngựa đi giữa thấy vậy, gào thét nhảy lên như châu chấu vậy. Bấy giờ những gậy móc đều đổ xô ra để trói lấy người.
Hô Duyên Chước thấy vậy, biết là trúng kế Câu liêm, bèn quay ngựa sang Nam để tìm Tiên Phong Hàn Thao. Bỗng đâu thấy súng nổ liên thanh ở ngay phía sau, rồi thấy đám bộ quân Lương Sơn đuổi theo rầm rập như nước vỡ bờ đê không ngăn cản nổi.
Hô Duyên Chước cả sợ, chạy tìm cho được Hàn Thao, rồi dẫn một ít quân mã tháo đường để chạy. Khi đó thấy về phía bên Nam man mác những cờ hiệu của Lương Sơn Bạc, hai người phải bỏ chạy phía Nam, mà tháo chạy sang đường Tây Bắc.
Hai chạy được dăm sáu dặm đường, chợt hiện ra một đội nhân mã có hai vị hảo hán là Mục Hoằng, Mục Xuân đều cầm đạo đao, ngăn trước đường đi mà quát lên rằng:
- Bớ bại tướng chạy đi đâu?
Hô Duyên Chước nghe nói, nổi giận đùng đùng, múa song chiên xông ngựa lại đánh nhau với hai hảo hán. Mục Hoằng, Mục Xuân giơ đao lên đỡ, đánh nhau đến bốn hiệp rồi hai người kéo nhau bỏ chạy.Hô Duyên Chước sợ trúng kế, không dám đuổi theo, liền tìm đường lớn về mặt chính Bắc mà chạy. Đương khi lật đật, chợt thấy cạnh sườn núi lại có một toán quân mã nhô ra, có hai vị hảo hán là Giải Trân, Giải Bảo đều cầm cương xoa chạy đến đón đánh. Hô Duyên Chước múa song chiến đấu với hai người, được dăm sáu hợp, thì Giải Trân, Giải Bảo bỏ chạy mất cả. Hô Duyên Chước đuổi theo chừng nửa dặm đường, lại gặp Nhất Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn quân mã ra ngăn giữa đường. Bấy giờ Hô Duyên Chước trông quanh trông quẩn thấy lối khuất khúc toàn thị chông gai, chàng liền hết sức múa chùy đánh gạt người ra mà tháo chạy.
Vợ chồng Vương Nụy Hổ theo đuổi hồi lâu không kịp đành mặc cho Hô Duyên Chước chạy về lối Đông Bắc. Đoạn rồi Tống Giang khua chiên thu quân kéo về sơn trại, để ban định thưởng công.
Khi ra tra điểm, bắt được ba nghìn ngựa Liên Hoàn mặc giáp, chiatư mất già một phần bị Câu Liêm đánh què, liền lột lấy áo giáp cho vào hạng ăn thịt, còn già hai phần toàn thị ngựa tốt, giao cho nuôi giữ để phòng khi ra trận. Quân sĩ mặc áo giáp bắt được rất nhiều năm nghìn quân bộ, có kẻ trốn trong Trung quân bị Câu liêm kéo ra để bắt, mà kẻ nào nhảy xuống nước cũng bị thủy quân bắt được. Còn quân sĩ bị bắt khi xưa, nay lại cướp được mang về, quân sĩ hết thảy vui mừng hớn hở.
Đoạn rồi phá trại của Hô Duyên Chước, đem vào gần bến để làm tiểu trại, và cho người sửa lại hai tửu điếm ở ngoài, để cho Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Thời Thiên, chia làm hai toán quân mà cùng nhau coi giữ. Được một lát thấy Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt được Hàn Thao đem giải về, Tống Giang cả mừng, thân hành cởi trói cho Hàn Thao, mời vào trong sảnh tiếp đãi rất là long trọng, rồi bảo Bành Dĩ, Lăng Chấn dỗ dành Hàn Thao cùng vào đảng ở Lương Sơn. Hàn Thao nguyên cũng là một vị sao Địa Sát, nên vui lòng thuận phục mà ở với Tống Giang, Tống Giang liền bảo Hàn Thao viết thơ, rồi sai người đưa đến Trần Châu để đón vợ con Hàn Thao về đó. Bấy giờ trong sơn trại mở tiệc ăn mừng mấy hôm trời rất là vui vẻ, rồi các vị Đầu Lĩnh ai vào việc ấy, mà cùng nhau ra sức chấn chỉnh Lương Sơn:
Ngọn cờ nghĩa hiệp xa bay
Nước non nở mặt cỏ cây kinh hồn.
Cùng nhau ra sức hợp đoàn
Dưới trời này dễ ai còn sợ ai?
Nói về Hô Duyên Chước bị thua một trận, mất hết quân mã, chỉ còn trơ trọi một mình, không còn mặt mũi nào trở về kinh sư, liền nghĩ vơ vẫn, cởi cả mũ giáp buộc vào yên ngựa, rồi đem bán đai vàng, để làm lộ phí mà đi. Chàng vừa đi vừa nghĩ, không biết đâu cho ổn tiện. Chợt nghĩ đến quan Phủ Mộ Dung ở Thanh Châu là người quen biết từ xưa, liền định kế sang đó để nhờ Mộ Dung Tri Phủ, nói với Mộ Dung Tri Phủ đem công chuộc tội, rồi sẽ lấy quân đánh báo thù Lương Sơn Bạc.
Chàng đi đường trong hai ngày trời, chiều hôm đó đi đến một nơi, trong bụng vừa đói vừa khát, chợt thấy bên cạnh đường có một hàng cơm nho nhỏ, chàng bèn xuống ngựa buộc vào gốc cây trước cửa, rồi đi vào trong hàng. Khi vào tới hàng, chàng vất đôi chiên trên bàn, ngồi xuống ghế, gọi tửu bảo đem rượu thịt lên, tửu bảo chạy đến nói rằng:
- Hàng tôi chỉ có rượu thôi, ngài muốn xơi thịt, thì trong làng mới có người giết thịt dê, xin đưa tiền cho tôi đi mua vậy.
Hô Duyên Chước móc túi, lấy tiền vụng bán đai vàng còn lại, đưa cho tửu bảo mà dặn rằng:
- Người trả lại một đùi dê nấu chín cho ta ăn, và kiếm ít cỏ ngựa ăn một thể...Đêm nay ta ngủ đây, rồi sáng mai sang Phủ Thanh Châu...
Tửu Bảo nói:
- Thưa ngài ngủ ở đây cũng được, song không có giường chiếu tử tế.
- Được ta là quan võ nằm đâu cũng được...
Tửu bảo vâng lời, cầm tiền quay ra mua thịt.Hô Duyên Chước cởi áo mũ trên mình ngựa mang vào, rồi ngồi ở trước cửa để đợi tên tửu bảo.
Được một lát tửu bảo mang thịt dê về, Hô Duyên Chước bảo đem nấu chín thịt, làm ba đấu gạo; và hai nai rượu uống, tửu bảo vâng lời quay vào, vừa nấu thịt làm bánh, vừa hâm nước nóng để rửa mặt rửa chân. Đoạn rồi tửu bảo dắt ngựa vào buộc ở nhà nhỏ đằng sau cho ăn cỏ.
Hô Duyên Chước gọi lấy rượu lên uống trước.được một lát thịt chín Hô Duyên Chước gọi tửu bảo lên cho cùng ngồi ăn uống mà nói chuyện rằng:
- Ta là quan của triều đình, ra đánh giặc Lương Sơn bị thua, nay định về dưới quan Mộ Dung Tri Phủ ở Thanh Châu, người nên coi sóc con ngựa cẩn thận, ngựa ấy là con Tích Tuyết Ô Truy của vua ban cho ta đó. Ngươi coi cẩn thận, sáng mai ta sẽ thưởng cho...
- Ngài có lòng thương, chúng tôi xin cảm ơn...song có điều này chúng tôi xin kêu để ngài rõ: Gần đây có ngọn núi Đào Hoa Sơn, trên có một bọn cường đạo, tên đầu đảng là Đả Hổ Tướng Lý Trung, thứ nhì là Tiểu Bá Vương Chu Thông, tụ họp tới năm bảy trăm lâu la để cướp bóc kiếm ăn thần thường lại quấy nhiễu dân gian rất là hung ác. Quan Tư đã mấy lần truy nã, mà không sao trị được. Vậy đêm nay ngài phải tỉnh chút mới được.
- Được sức ta đây, mười vạn quân cũng không địch nổi, cho nó kéo cả tụi đến đây ta cũng không cần, ngươi cứ cho ngựa ăn uống tử tế cho ta...
Nói đoạn uống rượu ăn bánh, hồi lâu rồi mới đi nghỉ. Tửu bảo trãi một cái ổ ở giữa nhà cho Hô Duyên Chước nằm. Hô Duyên Chước vừa phần mấy hôm bị mệt nhọc lo nghĩ, vừa phần quá nhắp hơi men, có điều say chếnh choáng, liền để nguyên áo nằm vật xuống ổ ngủ luôn một mạch, mãi đến canh ba mới dậy, chợt thấy tửu bảo kêu la ầm ỷ ở sau nhà. Hô Duyên Chước vội vàng trở dậy, với lấy đôi chiên chạy ra nhà sau hỏi tửu bảo:
- Làm chi mà kêu ầm lên thế?
- Tửu bảo nói:
- Ngài ôi!Tôi đây bỏ cỏ cho ngựa, chợt thấy hàng dậu bỏ tung ra, mà ngựa đi đâu mất... Trông ra xa xa thấy có đóm đóm soi sáng ở quãng bốn năm dặm kia, chắc là tụi nó lấy mất ngựa rồi.
- Chỗ ấy là chỗ nào?
- Thưa ngài cứ theo con đường ấy, thì chính là tụi lâu la, ở Đào Hao Sơn ăn cắp ngựa về lối đó...
Hô Duyên Chước cả kinh, bắt tửu bảo phải dẫn đường để đuổi theo. Tửu bảo dẫn chàng đi tắt bên bờ ruộng gập gà gập gềnh, đuổi chừng ba bốn dặm đường, lại không thấy ánh lửa đâu nữa. Hô Duyên Chước thở dài kêu lên rằng:
- Chết nỗi! Mất con ngựa của vua ban cho thì làm thế nào được bây giờ?
Tửu bảo nói:
- Xin ngài đành để mai đi trình Quan Tư gần đây, rồi đem quân đánh phá, mới có thể cướp ngựa về được. Hô Duyên Chước nghe nói, trong bụng rất băn khoăn buồn bã, trở về tửu điếm, khoanh tay ngồi đợi đến sáng, rồi mượn Tửu bảo quảy giáp mã lên đường sang phủ Thanh Châu.
Khi xưa cờ mở trống dong.
Giờ sao thui thủi non sông một mình?
Anh hùng gặp bước lênh đênh,
Liếc trông đất đỏ trời xanh thêm sầu!
Chiều tối hôm đo, ù Hô Duyên Chước đi đến thành Thanh Châu ngủ trọ ở ngoài hàng một tối, đến sáng hôm sau mới đi vào trong phủ. Khi vào tới nơi, quan Phủ Mộ Dung thấy Hô Duyên Chước, liền giật mình cả kinh mà hỏi:
- Nghe nói Tướng quân đánh bắt giặc Lương Sơn, sao lại đến đây như thế?
Hô Duyên Chước thở dài, đem các chuyện trước thuật cho Tri Phủ nghe.
Tri Phủ nghe đoạn nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Tướng quân dẫu bị thua thiệt mất cả nhân mã, song chẳng qua mắc phải gian kế của giặc, chứ không phải tội của Tướng quân. Vả lại trong hạt tôi, hiện nay cũng nhiều giặc cỏ, thường hay quấy nhiễu dân gian, vậy Tướng quân hãy tạm ở đây, đánh phá bọn Đào Hoa Sơn, cướp lại con ngựa Ô Truy, rồi sau sẽ đánh núi Nhị Long, núi Bạch Hổ mà trừ hết đảng cướp ấy đi. Bấy giờ tôi xin hết sức với triều đình, cho Tướng quân đi đánh báo thù. Tướng quân nghĩ sao?
Hô Duyên Chước tạ ơn mà rằng:
- Nếu được ân tướng có lòng hạ cố như vậy, thì thực là hạnh phúc cho tôi lắm...
Tri Phủ nghe nói, liền sai người mời Hô Duyên Chước,vào nghỉ trong phòng, lấy quần áo cho thay, rồi cho tiền tên tửu bảo trở về. Hô Duyên Chước ở đấy luôn trong ba ngày, trong lòng lấy làm nóng sốt, mong lấy lại con ngựa Ô Truy, liền thúc giục Tri Phủ Mộ Dung để cho khởi quân đi đánh.
Tri Phủ điểm hai nghìn bộ quân cho Hô Duyên Chước mượn, và cho mượn một con ngựa Thanh Thông để đi ra trận.Hô Duyên Chước vâng lạy tạ ơn, mà mặc áo giáp lên ngựa, dẫn quân tới núi Đào Hoa.
Bọn Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, từ khi cướp được con ngựa Ô Truy, trong bụng lấy làm mừng hớn hở, mà hằng ngày chè chén hỉ hả với nhau, chợt hôm đó thấy tiểu lâu la vào báo, có quân mã Thanh Châu kéo đến, Chu Thông đứng dậy bảo Lý Trung rằng:
- Xin Ca Ca coi trại, để tôi dẫn binh ra đuổi họ đi.
Nói đoạn điểm một trăm lâu la, cầm thương lên ngựa xuống núi để nghinh địch quan quân.
Bên kia Hô Duyên Chước kéo quân tới, liền bày thành trận thế, đứng chực ở trước núi. Khi thấy Chu Thông ở trên núi xuống liền xông ngựa ra trước trận quát lên rằng:
Quân giặc cỏ kia, mau mau đến chịu trói đi.
Chu Thông nghe tiếng, liền dàn quân đứng thành chữ nhân, rồi cũng múa gươm vỗ ngựa xông ra.Hô Duyên Chước liền giơ chiên ra đánh Chu Thông, Chu Thông giơ gươm ra đỡ. Đôi bên đánh nhau chừng sáu bảy hiệp. Chu Thông biết thế không địch nổi, liền quay ngựa chạy về trên núi. Hô Duyên Chước theo đuổi mấy bước, sợ mắc mẹo lừa đành phải quay ngựa chạy về, đem quân hạ trại dưới núi.
Chu Thông chạy về sơn trại nói với Lý Trung rằng:
- Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, không sao địch nổi, nếu nay mai họ kéo cả lên sơn trại đây, thì anh em ta biết làm thế nào cho được?
Lý Trung nghĩ một lát rồi nói:
- Ta nghe Lỗ Trí Thâm, ở bên núi Nhị Long có nhiều bè bạn, lại có anh chàng nào, tên gọi Thanh Diện Thú Dương Chi, và anh Hành Giả Võ Tòng, đều sức khoẻ muôn người không địch, vậy bất nhược ta viết một phong thư sai lâu la đem sang cầu cứu một phen. Nếu sau này đuổi được quan quân, thì ta sẽ nương nhờ vào họ, mà hàng tháng chịu đưa cống biếu cho yên, như thế có lẽ tiện hơn.
Chu Thông nói:
- Tôi cũng vốn biết các vị hào kiệt bên ấy, song chỉ e Hoa Hoà Thượng nhớ đến câu chuyện ngày xưa, mà không đến cứu thì làm sao được?
Lý Trung cười rằng:
- Không, ông ta tính thẳng, bụng tốt, nay sai người đến tất là ông ta đến cứu.
- Nếu vậy xin Ca Ca viết giấy mau đi.
Lý Trung liền lấy giấy viết thư kể hết đầu đuôi. Rồi sai một tên lâu la theo lối sau núi, mang thư lên sang núi Nhị Long.
Nói về chùa Bảo Châu bên núi Nhị Long, từ khi Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng đến ở được ít lâu, lại thêm có bốn người Tiểu Đầu Mục đấn nhập bọn ở đó; Một người là Kim Nhỡn Bưu Thi Aân nguyên là con Lão Quản Doanh ở lao thành Mạnh Châu, nhân vì Võ Tòng giết chết nhà Trương Đô Giám, bị Quan Tư đến truy nã vây bọc quanh nhà, để bắt Võ Tòng, nên toàn gia phải dắt nhau đi trốn tránh giang hồ. Sau bố mẹ Thi Aân đều chết, lại nghe nói Võ Tòng đến lạc thảo ở núi Nhị Long, bèn tìm đến đó để cùng Võ Tòng nương tựa. Một người là Tháo Đao Quỹ Tào Chính, trước đã cùng Lỗ Trí Lâm mưu giết Đặng Long cướp núi Nhị Long, rồi sau nhập đảng ở đó. Một anh là Thái Viên Tử Trương Thanh, và vợ là Mẫu Nhược Xoa Tôn Nhị Nương, hai vợ chồng chuyên bán thịt người ở Thập Tự đất Mạnh Châu, sau nhân Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng viết giấy dỗ dành nên mới đến đó nhập đảng.
Hôm ấy Tào Chính nghe nói có thư bên núi Đào Hoa đưa sang, chàng liền hỏi han cặn kẽ đầu đuôi rồi vào trong điện bẩm với ba vị Đầu Lĩnh.
Lỗ Trí Thâm nghe Tào Chính nói liền cười mà rằng:
- Ngày trước ta ở Ngũ Đài Sơn đi tới thôn Đào Hoa ngủ trọ ở đó, rồi gặp thằng cha Chu Thông, đánh cho một mẻ thật là xiểng liểng. Sau Lý Trung nhận biết ta, lại mời sang chè chén một ngày, kết làm anh em và mời làm chủ trại. Ta nhận thấy chúng bụng dạ hẹp hòi, nên không muốn ở, bèn thầu của chúng mấy cái chén uống rượu bằng bạc mà trốn đi mất... Từ bấy cho đến nay... Nay lại cho người sang cầu cứu đến ta... Hãy gọi tên tiểu lâu la lên đây, xem nó nói ra sao đã? ...
Tào Chính vâng lời ra dẫn tên tiểu lâu la vào. Tiểu lâu la vào dưới điện, lạy chào mà nói rằng:
- Quan Mộ Dung Tri Phủ mới thâu được một viên tướng đánh Lương Sơn Bạc bị thua, tên là Hô Duyên Chước, hiện sai sang đánh Đào Hoa Sơn, để cùng phá Nhị Long Sơn, Bạch Hổ Sơn nhân thể, rồi sẽ cho mượn quân đến đánh báo thù Lương Sơn Bạc. Bởi vậy Đầu Lĩnh chúng tôi muốn sang nhờ Nhị Long ra tay cứu giúp cho, rồi sau khi xong việc sẽ nộp khỏan cung cống trước cửa Đại Vương đây.
Dương Chí nghe nói bảo với tên lâu la rằng:
- Chúng ta ở đây cũng phải coi giữ sơn trại, lẽ ra không thì giờ đâu mà cứu ứng các ngươi. Song một là ta nghĩ đến danh nghĩa của bọn hào kiệt giang hồ, hai là e khi Đào Hoa bị mất thì chúng lại ròm rõ đến đây, vậy nay ta cho Trương Thanh cùng Tôn Nhị Nương coi trại ở nhà, còn ba anh em ta hãy xuống qua đó đánh giúp một phen cho phải đạo...
Nói đoạn lập tức điểm năm trăm lâu la, hơn sáu mưới quân kỵ đều chỉnh tề giáo gươm mũ giáp, mà kéo nhau sang núi Đào Hoa.
Lý Trung nghe biết tin đó, liền đem ba trăm quân xuống núi để ráp đánh. Bên kia Hô Duyên Chước nghe báo Lý Trung kéo quân xuống, bèn dẫn quân bày trận chận ngang đường, rồi xông ngựa ra đánh Lý Trung.
Nguyên Lý Trung tổ quán ở Định Nghĩa, thuộc phủ Hào Châu, xưa nay chỉ nhờ nghề đánh gậy để kiếm ăn, tướng người nhỏ bé mà võ nghệ tầm thường nên vẫn gọi là Đả Hổ Tướng.
Bấy giờ Lý Trung đánh nhau với Hô Duyên Chước chừng mươi mười lăm hiệp, thấy sức yếu đuối không sao địch nổi, đành phải quay ngựa chạy lui. Hồ Duyên Chước bèn phóng ngựa đuổi theo lên núi.
Tiểu Bá Vương Chu Thông thấy Hô Duyên Chước leo lên, bèn đứng ở lưng chừng núi mà ném đá xuống. Hô Duyên Chước vội vàng quay ngựa trở xuống mà không dám đuổi nữa.
Đương khi đó bỗng thấy đám quân mã đằng sau ồn ào cả lên, Hô Duyên Chước liền hỏi:
- Có việc chi mà kêu ầm lên thế?
Quân sĩ đáp rằng:
- Phía sau có một đám nhân mã nào kéo đến, xin ngài kịp tới nom xem. Hô Duyên Chước nghe nói vội vàng xông lại đằng sau để xem, thì thấy đội nhân mã đã kéo gần đến nơi, có một ông sư phệ bụng cưỡi con ngựa trắng đi đến trước tiên mà quát lên hỏi rằng:
- Đứa nào là thằng thua trận ở Lương Sơn Bạc, mà dám đến đây bắt nạt chúng ta đó?
Hồ Duyên Chước nghe nói cũng quát lên rằng:
- Ta hãy giết thằng trọc này cho hả lòng một chút đã.
Nói đoạn múa song chiên đến đánh, bên Lỗ Trí Thâm cũng múa thuyền trượng xông vào, rồi hai bên đánh nhau đến bốn năm mươi hiệp, mà không phân được thua.
Hồ Duyên Chước thấy vậy khen thầm trong bụng rằng:"không ngờ lão sư này khá lắm!"Nghĩ đoạn rồi đôi bên khua chiêng thu quân.
Được một lát Hô Duyên Chước lại hăng hái xông ra trận, mà quát lên rằng:
- Lão sư hổ mang ra đây, ta quyết được thua với ngươi phen này.
Lỗ Trí Thâm nghe nói, vừa toan quất ngựa xông ra, thì Dương Chí vội kêu lên rằng.
- Đại Ca hãy nghĩ để tôi bắt thằng này cho.
Nói đoạn múa đao vỗ ngựa xông ra đánh Hô Duyên Chước.
Đôi bên đánh nhau bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Hô Duyên Chước lại khen thầm rằng:"Quái lạ! Ở đất này mà lại có hai tay võ nghệ giỏi như thế? Quyết nhiên không phải là giặc cỏ hẳn? "
Bên kia Dương Chí thấy Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, cũng lừa miếng phá đỉnh rồi quay ngựa về bản trận. Hồ Duyên Chước thấy vậy,dừng ngựa lại mà không dám đuổi nữa. Đoan rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân.
Lỗ Trí Thâm nói với Dương Chí rằng:
- Chúng ta mới đến đây không nên đóng trại ở gần, phải lui ra ngoài hai dặm mà hạ trại, rồi sáng mai sẽ đánh một mẻ cho quyết được thua...
Bàn xong liền kéo quân ra gò núi gần đó để đóng trại.Hôm đó, Hô Duyên Chước trở về trong trướng một mìng lo nghĩ băn khoăn, những tưởng rằng ngựa đến nên công, dể như phá trúc, dè đâu lại gặp tay đối thủ với mình, thực là vận đen quá đổi!
Đương nghĩ ngợi vẫn vơ, bỗng thấy Mộ Dung Tri Phủ cho người đến báo rằng:
- Ở phủ Thanh Châu, hiện có Khổng Minh, Khổng Lượng ở Bạch Hổ Sơn, dẫn người đến cướp ngục, vậy phải mang quân về coi thành lập tức...
Hô Duyên Chước nghe báo, bèn thừa thế kéo quân về Thanh Châu lập tức. Ngày hôm Lỗ Trí Thâm, Dương Chí và Võ Tòng dẫn tiểu lâu la kéo cờ khua trống ra xem, thì chỉ thấy trơ trơ có trại không, mà nhân mã kéo đi đâu mất. Ba người thấy vậy cả kinh mà không hiểu ra sao? Đoạn rồi thấy Lý Trung cùng Chu Thông dẫn người xuống núi đón tiếp, ba vị Đầu Lĩnh cùng nhau kéo lên sơn trại, trong sơn trại mở tiệc khao mừng rất vui vẻ, huyên náo.
Bên kia Hô Duyên Chước vừa dẫn binh mã đến Thanh Châu, chợt thấy một toán nhân mã của Khổng Minh,Khổng Lượng kéo đến bên thành, chàng liền phóng ngựa múa chiêng xông ra để đánh. Nguyên Khổng Minh, Khổng Lượng vì cạnh tranh với một người tài chủ trong làng, gặp lúc nóng máu giết chết cả nhà tài chủ, rồi tụ tập dăm bảy trăm lâu la mà chiếm giữ Bạch Hổ Sơn, để cùng nhau cướp bóc tung hoành. Sau có một người chú là Khổng Tân, bị Tri Phủ bắt giam trong ngục Thanh Châu, nên Khổng Minh,Khổng Lượng đen quân mã sơn trại định đến phá ngục Thanh Châu, để cứu người chú.
Hôm đó kéo lâu la gần đến bên thành, thì gặp Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh. Khổng Minh,Khổng Lượng bèn đem quân ra đối địch với Hô Duyên Chước. Bấy giờ Tri Phủ Mộ Dung đứng ở trong thành nom ra, để xem hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước thấy hai anh em Khổng Minh Khổng, Lượng tầm thường, liền ra sức bình sinh sấn đánh hai người mà khoe tài trước mặt Tri Phủ.
Khổng Minh, Khổng Lượng đấu được một lúc, thế lực cũng hơi kem kém, bất đồ chậm tay lỡ bước, bị Hô Duyên Chước bắt sống được Khổng Minh mà cắp qua mình ngựa.
Khổng Lượng lấy làm ngã lòng, vội dẫn lâu la kéo nhau để chạy. Tri Phủ đứng trên mặt thành, trỏ bảo Hô Duyên Chước đuổi theo.
Hô Duyên Chước kéo quân đuổi bắt sống được hơn trăm người,rồi đem cả Khổng Minh,đem giải vào Thanh Châu. Quan Phủ Mộ Dung lấy làm mừng rỡ sai đem Khổng Minh đóng gông tử tội, giam vào trong lao với Khổng Tân, rồi nhất diện khao thưởng tam quân, mà thiết đãi Hô Duyên Chước.
Tri Phủ hỏi đến chuyện Đào Hoa Sơn?
Hô Duyên Chước đáp rằng:
- Chúng tôi định đến phá núi Đào Hoa Sơn, thì dễ như phá trúc, dè đâu bị một tụi quân đến cứu ứng, trong đó có một lão sư to lớn, và một anh hùng mặt xanh, đánh nhau đến hai lần, không sao mà thắng được. Hai anh ấy võ nghệ khá giỏi, quyết không phải là võ nghệ tầm thường như đám cướp bóc, bởi vậy nên quyết chưa được thành công.
Tri Phủ cười rằng:
- Lão sư ấy nguyên là tên Lỗ Đạt, làm chức Đề Hạt trong phủ Lão Trung Kinh Lược ở Diên An Phủ, sau mới cắt tóc đi tu, người ta gọi là Hoa Hoà Thượng đó; Còn anh chàng mặt xanh tên là Thanh Diện Thú Dương Chí, làm quan đến Chế Sứ Điện Suý Phủ ở Đông Kinh khi trước; lại còn một anh hành giả nữa, tên là Võ Tòng, tức là Võ Đô Đầu đánh hổ ở núi Cảnh Dương năm nọ. Ba người đó chiếm núi Nhị Long, tung hoành cướp bóc, mấy người Bộ Đạo tới nay vẫn không sao trừ được.
Hô Duyên Chước lắc đầu mà rằng:
- Quả nhiên võ nghệ của họ, không mấy người theo kịp, xưa nay có tiéng Dương Chế Sứ, Lỗ Đề Hạt thực là xứng lắm. Nhưng mặc lòng, tướng cồn không ngại, tôi đã đến đây, tất xin bắt sống từng người,để đem về nộp Tướng Công mới hả lòng.
Tri Phủ nghe nói cả mừng, liền rót rượu chúc cho Hô Duyên Chước,rồi lưu nghỉ ở phòng khách trong phủ.
Về phần Khổng Lượng hôm đó bị thua một trận xiểng liểng liền cho lũ quân tàn kiếm đường chạy mau cho thoát. Đương khi kéo quân tháo chạy, bỗng thấy ở khu rừng phía trước, có một toán quân sĩ kéo ra, rồi thấy một vị hảo hán là Võ Hành Giã cưỡi ngựa cầm đao đi trước.
Khổng Lượng trông thấy, vội vàng xuống ngựa lạy rạp xuống đất mà rằng:
- Kính chúc ngài lâu nay được mạnh khoẻ...
Võ Tòng đỡ dậy đáp rằng:
- Nghe nói anh em túc hạ chiếm núi Bạch Hổ, đã mấy phen toan sang bái kiến, mà chưa có thì giờ để sang hầu được. Vậy nay chẳng hay túc hạ có việc gì qua tới nơi đây?
Khổng Lượng liền đem chuyện cứu Khổng Tân và Khổng Minh bị bắt mà thuật lại cho Võ Tòng nghe.
Võ Tòng bảo Khổng Lượng rằng:
- Nếu vậy túc hạ không ngại... Tôi có sáu bảy anh em cùng nhau tụ nghĩa ở núi Nhị Long, nay vì Lý Trung, Chu Thông bên núi Đào Hoa bị Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh, phải cầu chúng tôi sang cứu. Tôi cùng Lỗ Đề Hạt, Dương Chế Sứ có đem lâu la sang đánh nhau một trận, không biết vì sao, bỗng dưng Hô Duyên Chước bỏ trại chạy trốn ngay đi đâu mất. Nhân vậy họ lưu ba anh em chúng tôi ở lại uống rượu, mà tặng cho con ngựa Tích Tuyết Ô Truy rồi giữ mãi đến bây giờ mới tháo ra về được. Hai người anh em chúng tôi đi sau kia... Để các ông ấy đến đây, tôi bàn cách cứu túc hạ có được không?
Khổng Lượng cúi đầu lạy tạ mà rằng:
- Nếu được các ngài hạ cố như vậy, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn hai người cùng đứng một lát,thì thấy Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí cỡi ngựa đi đến, Võ Tòng liền dẫn Khổng Lượng đến chào hai người,rồi thuật chuyện cho nghe và lại nói rằng:
- Khi trước tôi cùng Tống Công Minh ở nhà ông ta quấy quả cũng nhiều, vậy ngày nay nên lấy nghĩa khí làm trọng, phải lấy nhân mã ba núi, đến dánh Thanh Châu, giết Tri Phủ Mộ Dung cứu hai người ấy ra, rồi bắt Hô Duyên Chước,cướp lấy Phủ Khố tiền nong, để đem về sơn trại các ngài nghĩ sao?
Lỗ Trí Thâm nghe nói, gật đầu đáp rằng:
- Tôi cũng theo ý như vậy.
Nói đoạn liền cho người bảo với Lý Trung, Chu Thông đem lâu la đến, để cùng tụ họp ba núi mà tiến đánh Thanh Châu.
Dương Chí lại nói với ba người rằng:
- Phủ Thanh Châu Hào sâu thành vững, ngựa khoẻ, quân nhiều, lại thêm co Hô Duyên Chước là tay anh hùng trí dũng... Việc này không phải là tôi rút rát làm giảm uy phong của mình... Song muốn đánh Thanh Châu, thì tất phải nghe tôi lời này mới được.
Ba người nghe nói, đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu, liền xúm lại để xem Dương Chí bàn định ra sao?
Cho hay:
Bốn phương sôi nổi tăm kinh
Trò đời hai chữ " bất bình"gây nên
Anh hùng lắm bước truân chuyên
Nước non vương mãi chút duyên tang bồng
Đôi phen gió cuốn bụi hồng
Lò than nghĩa hiệp càng nồng hơn xưa.
Bắc nam ai hẹn bao giờ,
Chẳng qua cùng một thế cờ phải xoay.
Lời bàn của Thánh Thán:
Tác giả tả Tống Giang chia ra mười đội quân dụ địch, không chia ra từng phương diện (nơi nào), chỉ nhất tề ra đi, đến sáng ra mới tả ba mặt dụ quân cùng chẳng chia ra đội hiệu, cũng lại nhất tề kéo đến, tuy rằng một chốc thế văn trên giấy, xem như núi lỡ mưa sa, lửa bầng đồng nội, song khiến cho trong lòng độc giả không biết đầu đuôi đánh tự chốn nào, kể cũng buồn buồn, buồn buồn chưa xong, lại bỗng đâu đánh nhoàng ở phía Tây Bắc Mục Hoằng, Mục Xuân, phía chính Bắc Giải Trân, Giải Bảo: Đông Bắc đánh nhoàng ra Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, vậy bảy đội kia khổ chiến tựa mây mờ khiến ba đội này như rồng thò nanh vuốt, thì bảy đội khôn lường, cho tỏ ba đội xuất kỳ, có ba đội rõ ràng, càng thấy bảy đội kia thần biến, chẳng duy thế mà thôi. Sau khi thu quân để định công chợt đâu lại đánh nhoàng hiện ra một đội Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt sống Hàn Thao... Hỡi ôi! Trước đoạn này có chiến, sau đoạn này có chiến, theo phép chuyện, hoặc trước chỉnh sau biến, hoặc trước mất đi sau rõ ra, cái lạ vốn không lạ bằng suốt hồi khi đó không rõ ràng ra, đến cuối mới đánh nhoàng một cái, hai cái, ba cái hiện ra, tưởng là hết, cuối cùng còn đánh nhoàng một cái nữa hai người, lại tả nốt ra.
Đương khi tả ra mỗ này, mỗ này... là mười đội, mỗ này, mỗ này... phong pháo; mỗ này, mỗ này... là cầm lệnh, đều bất đã định đâu vào đấy cả rồi. Đến sáng ngày chợt đâu tả ra mười đội, bỗng dưng tả phóng pháo; bỗng dưng tả nổi hiệu, bấy giờ độc giả, chính đọc mười đội, chợt đâu chỉ tah61y pháo nổ; đương đọc chỗ phóng pháo, chợt đâu lại là mười đội, đương đọc chỗ mười đội, chợt đâu nghe nổi hiệu, đương xem nổi hiệu chợt đâu lại nghe pháo nổ, khiến cho trên giấy bấy giờ cũng mấp máy động lên, chẳng thể nào không khiến độc giả khỏi ù tai choáng mắt, mà cũng không khai rằng chính tác giả đã nhàn tâm, vội bút thế nào, lạ thay! Kỹ thuật tả văn đến thế!
Ta đọc đoạn văn Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà chẳng hay giọt lệ nhỏ sa, sao vậy? Vì Hô Duyên Chước yêu ngựa, chẳng phải cứ riêng rằng thú của vua ban, cũng chẳng cứ nó là thần mã mới tiếc! Cũng lại không phải trông cậy vào nó để khôi phục hùng oai? ? ? Chỉ vì thiên hạ cản ngăn, có gì sâu xa bằng cùng cơn hoạn nạn, mà tình con người chẳng gì nặng bằng nghĩa giúp nhau lâu. Xét ra cùng cơn hoạn nạn, thì từng có một chỗ sống chết với nhau; mà giúp nhau lâu, thì thực có tính tình như một, thế thì còn phải bàn gì thân với sơ, hay người với vật, hay có tình với không tình? ? ?
Ta có người bạn trẻ, khi nhỏ ở trường làng, mà chơi thân chẳng lúc nào rời nhau, dẫu của quý vì thiên hạ, cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ yêu ta cũng không ai bằng người bạn trẻ, thường với bạn ta đi lại, dù gió sớm mưa hôm cũng mò đến với nhau, dẫu của quý vì thiên hạ cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ biết ta cũng không ai hơn người bạn trẻ ấy, ai ngờ người bạn trẻ mất đi; ta có một cái vòng chất nó xanh xám, làm kiểu thô sơ, của chơi thiên hạ chả gì xấu hơn nó nữa, từ nhỏ bà ta đeo vào người, không ngày nào chẳng đeo vòng, cũng như một quan thứ sáu trong năm quan: Một ngón tay nữa ở trong mười ngón, không may qua sông rơi xuống giữa dòng, đến nay như thiếu một quan, như cụt một ngón, với ba thứ đó, thiên hạ thiếu gì? Song ta nghĩ thủa nhỏ ngồi trong cửa sổ trường học tư làng, mỗi khi chiều học xong, mặt trời xế bóng, như thế bao năm coi tựa một ngày, ta đến nay vẫn tiếc ngồi trong cửa sổ, còn ngờ thân vẫn ở trường xưa... Hỡi ôi! Con người đạo học, thì tại sao không cảm thông tình? Thế mà thiên hạ nói cảm nói tình, ta vốn biết rồi, ta chỉ rất ghét thiên hạ cứ nói cảm nói tình, mà không làm được đến nơi đến chốn! Cho nên duy việc Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà đặc biệt nêu ra.
Hồi 57
Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu
Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc
Khi đó Dương Chí nói với mọi người rằng:
- Xưa nay tôi vẫn nghe tiếng Tống Công Minh ở nơi Sơn Bạc, là một người anh hùng đại lượng, đã thường nổi tiếng trong đám giang hồ, vả chăng Hô Duyên Chước lại là cừu nhân của Lương Sơn Bạc, vậy anh ta muốn đánh phủ Thanh Châu, thì trước hết phải mời Tống Công Minh cùng đến họp quân với anh em ta đây, và hợp cả hảo hán ở Đào Hoa Sơn, để cất binh ra đánh, thì mới có cơ tất thắng mà cứu người ra được. Việc đó chẳng hay các ngài nghĩ sao?
Lỗ Trí Thâm nói:
- Phải, tôi cũng thường nghe Tống Tam Lang là người tốt mà chưa được gặp bao giờ? Ngày trước ông ta ở núi Thanh Long với Hoa Tri Trại, tôi đã toan đến đó cho gặp một lần. Dè đâu khi cất chân ra đi, thì ông ta đã cất chân đi rồi, thế mà không được gặp, thực là vô duyên quá; phải, nay nếu Khổng Lượng muốn cứu anh em ra, tất phải thân hành lên mời ông ta để mặc chúng tôi ở đây, chống cự với đám Thanh Châu cũng được.
Khổng Lượng nghe nói lấy làm phải, liền giao đám tiểu lâu la cho Lỗ Trí Thâm, rồi dẫn một người bạn, dáng ăn mặc giả làm khách buôn, mà lập tức lên Lương Sơn Bạc. Khi Khổng Lượng đi rồi, Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí, Võ Tòng trở về sơn trại, gọi Tào Chính, Thi Ân, dẫn mấy trăm tiểu lâu la đi đánh Thanh Châu, và báo cho Lý Trung, Chu Thông cùng đem quân đến Thanh Châu để đánh.
Bên kia Khổng Lượng đi gần tới Lương Sơn Bạc, lần vào hàng cơm của Thôi Mạnh Phán Quan, để lần hỏi thăm đường lên núi, Lý Lập thấy hai người lạ mặt đến hỏi, liền mời ngồi trong hàng rồi hỏi rằng:
- Các ngài ở đâu đến đây?
Khổng Lượng đáp:
- Chúng tôi ở Thanh Châu đến.
- Các ngài định lên Lương Sơn Bạc tìm ai?
- Tôi có một người quen ở đó, muốn tìm đến chơi.
- Trong trại toàn thị các Đại Vương ở đó, ông lên thế nào được mà hỏi thăm?
- Vâng! Tôi định đến tìm Tống Đại Vương đây...
- Có phải vậy, thì xin cứ ngồi đây, rồi tôi sẽ bảo...
Nói đoạn liền sai đem rượu tiếp phong mời Khổng Lượng uống.
Khổng Lượng thấy vậy liền hỏi:
- Chúng tôi không được quen biết bao giờ, sao ngài lại cho uống rượu làm vậy?
Lý Lập nói:
- Nguyên ngài không biết, sơn trại tôi mở mấy ngôi hàng đây, là cốt để dò thăm tin tức bên ngoài và đón những người cố cựu, và những người hảo hán, đến nhập bọn ở trong sơn trại. Vậy xin ngài ngồi đợi chơi đây, tôi xin báo cho Tống Công Minh lập tức.
Khổng Lượng nói:
- Thưa ngài chúng tôi tên là Khổng Lượng ở núi Bạch Hổ đến đây, xin ngài báo giúp cho.
Lý Lập nghe nói đáp rằng:
- Trước đây tôi thường nghe thấy Tống Công Minh nói đến tên ngài, nay được ngài đến đây thật là hân hạnh.
Nói đoạn liền đến Thủy Đình, bắn một mũi tên ra hiệu, rồi thấy trong đám lau lách bên kia có tên tiểu lâu la chở thuyền sang đón. Lý Lập mời Khổng Lượng xuống thuyền cùng nhau vào bến Kim Sa, rồi đưa lên sơn trại.
Khổng Lượng đi đến Tam Quan, thấy cửa quan hùng tráng, gươm giáo thành rừng, trong bụng nghĩ thầm:"Xưa nay chỉ nghe tiếng Lương Sơn Bạc thịnh vượng, nay ta không ngờ quả nhiên lập nên cơ đồ lớn lao như vậy!".
Bấy giờ Tống Giang nghe báo, liền chạy ra đón Khổng Lượng. Khổng Lượng trông thấy Tống Giang vội vàng cúi lạy, thăm hỏi ân cần.
Tống Giang hỏi Khổng Lượng rằng:
- Chẳng hay hiền đệ có chuyện chi mà đến đây? Khổng Lượng nghe nói, liền cất tiếng khóc oà lên. Tống Giang thấy vậy vội hỏi:
- Hiền đệ đến đây có việc chi? Cứ nói chuyện cho ta biết ta xin hết sức giúp cho ngay...
Khổng Lượng sụt sùi khóc rằng:
- Từ khi bái biệt sư phụ, được ít lâu thì phụ thân tôi mất, sau anh chúng tôi là Khổng Minh,nhân tức nhau với một người phú hộ ở trong làng, liền đem giết chết hết một nhà hắn ta, rồi bị Quan Tư tróc nã, đành phải chiếm núi Bạch Hổ tụ năm bảy trăm lâu la để làm nghề lạc thảo với nhau. Sau đó nhân có một người chú là Khổng Tân, bị quan phủ Thanh Châu bắt giam trong ngục, anh em chúng tôi bèn đem binh tiến đánh Thanh Châu, định để cứu cho chú ra. Dè đâu vừa khi đến thành, gặp ngay một tên tặc tướng là Hô Duyên Chước,anh tôi đánh nhau với hắn được có mấy hiệp, thì bị bắt ngay, hiện giải vào phủ Thanh Châu, không biết có còn sống được hay không: Còn tôi hôm đó cũng bị Hô Duyên Chước đánh duổi một phen, rồi ngày hôm sau mới gặp được Võ Tòng dẫn đến chào mấy người anh em bạn: Một người là Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm,và một người là Thanh Diện Thú Dương Chí, mấy người đó mới gặp chúng tôi,cũng đã tỏ lòng thân ái, bèn hẹn đem cả lâu la ở núi Nhị Long, và rủ Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, cùng sang đánh giúp, rồi bảo chúng tôi phải sang đây lập tức cầu cứu với sư phụ thì mới có thể thoát nạn cho chú và anh tôi được.
Tống Giang nghe nói cười mà đáp rằng:
- Việc đó khó chi? Hiền đệ cứ vững tâm vào chơi sơn trại đã.
Nói đoạn dẫn Khổng Lượng vào chào Tiều Cái. Ngô Dụng, Tôn Công Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi đem chuyện Hô Duyên Chước,cùng tình thế Khổng Lượng thuật cho mọi người nghe.
Tiều Cái bảo với Tống Giang rằng:
- Hiền đệ với Khổng Huynh là chỗ chi thân khi trước, vả chăng cacù vị hào kiệt kia đã có lòng vị nghĩa giang hồ như vậy thì lẽ nào ta không đi cứu cho đành? Song lâu nay hiền đệ khó nhọc đã nhiều, vậy nay hiền đệ hãy coi giữ chủ quyền sơn trại, để ngu huynh đi một phen mới được.
Tống Giang lại nói:
- Ca Ca là ông chủ sơn trại, không thể một ngày rời bỏ ngay được.Vả chăng việc này là của tôi, người ta xa muôn dặm tới đây nếu tôi không đi, thì sao cho người ta an tâm, Vậy xin Ca Ca để mặc cho tiểu đệ cùng mấy anh em đi cho được việc...
Vừa nói dứt lời, thì thấy các Đầu Lĩnh đồng thanh lên nói rằng:
- Chúng tôi xin theo Tống Ca Ca để ra sức phen này.
Tống Giang nghe nói cả mừng,liền đặt tiệc để thiết đãi Khổng Lượng. Khi chè chén xong, Tống Giang gọi Thiết Diện Tổng Mục Bùi Tuyên, cắt đặt nhân mã đi đánh, chia làm năm đội:Tiền Quân có Hoa Vinh, Tần Minh,Yến Thuận, Vương Nụy Hổ mở đường làm tiên phong; đội thứ nhì, Mục Hoằng,Dương Hùng, Giải Trân, Giải Bảo làm đầu. Trung quân thì có chủ soái Tống Giang,Ngô Dụng,Lã Phương, Quách Thịnh; Đội thứ tư, thì có Chu Đồng, Sài Tiến, Lý Tuấn, Trương Hoàng; còn hậu quân, thì Tôn Lập Dương Lâm, Âu Bằng, và Lăng Chấn dẫn quân đi sau.
Năm quân chỉnh điểm xong rồi, tất cả cộng hai mươi Đầu Lĩnh,ba nghìn quân mã, cùng nhau từ giã Tiều Cái, cùng các Đầu Lĩnh coi trại, rồi đi theo Khổng Lượng, kéo quân thẳng tới Thanh Châu. Khi qua các phủ huyện, không tơ hào phạm của dân, ai ai cũng một lòng kính phục. Cách mấy hôm đến đất Thanh Châu, Khổng Lượng vào trại quân,báo cho Lỗ Trí Thâm biết,Lỗ Trí Thâm nghe báo,liền cùng các vị hảo hán sửa soạn để nghinh đón Tống Giang.
Tống Giang tới nơi, Võ Tòng dẫn Lỗ Trí Thâm,Dương Chí, Lý Trung, Chu Thông cùng Tào Chính, Thi Aân ra đón chào. Tống Giang vào đến sơn trại, nhường chỗ mời Lỗ Trí Thâm ngồi.
Lỗ Trí Thâm nói:
- Tôi được nghe đại danh Ca Ca đã lâu, mà chưa được tiếp, nay lại được gặp ở đây, thực là may quá.
Tống Giang khiêm tốn mà rằng:
- Chúng tôi đã thấm vào đâu! Xưa nay vẫn thấy trong đám giang hồ ngợi khen thánh đức của ngài, ngày nay được trông thấy được mặt từ bi, thực lấy làm hân hạnh vô cùng.
Dương Chí đứng lên vái chào Tống Giang mà nói rằng:
- Ngày trước chúng tôi đi Lương Sơn, các vị hảo hán đã có lòng tốt lưu lại ở đó, song vì chúng tôi tôi khờ dại không chịu ở lại...
Nay được có nghĩa sĩ ở đó,làm vẻ vang cho sơn trại, chúng tôi nghe nói, trong lòng lấy làm vui vẻ bội phần.
Tống Giang cười đáp rằng:
- Uy danh của Chế Sứ, thiên hạ ai không biết, tiếc cho Tống Giang được gặp quá muộn mà thôi!
Đoạn rồi Lỗ Trí Thâm sai người làm rượu khoãn đãi Tống Giang,cùng các vị Đầu Lĩnh,rất là vui thỏa. Hôm sau đó, Tống Giang hỏi đến tình thế Thanh Châu.
Dương Chí đáp rằng:
- Từ khi Khổng Lượng đi rồi, anh em chúng tôi đã ba dạo đánh nhau chưa quyết được thua...Hiện nay cả thành Thanh Châu, chỉ trông cậy vào một mình Hô Duyên Chước,nếu bắt được người ấy, thì Thanh Châu phá dễ như chơi, không có điều gì là trở ngại.
Ngô Dụng cười rằng:
- Người ấy chỉ có thể lấy mẹo bắt, chứ không lấy sức địch.
Tống Giang hỏi:
- Quân sư có kế gì khả dĩ bắt được?
Ngô Dụng đáp rằng:
- Chỉ thế này...thế này...là có thể bắt được ngay.
Tống Giang nghe nói cả mừng khen là diệu kế rồi cung nhau phân phát nhân mã để hôm sau ra trận. Sáng hôm sau các vị hảo hán kéo quân vây bốn mặt thành Thanh Châu,rồi đánh trống khua cờ, hò reo khơi đánh. Quan Phủ Mộ Dung trong thành thấy vậy, liền mời Hô Duyên Chước ra bàn rằng:
- Ngày nay lại thêm giặc đằng Lương Sơn kéo đến đánh thành, như vậy ta có cách gì mà đối phó lại được?
Hô Duyên Chước nói:
- Xin Ân Tướng cứ vững tâm phen này quân giặc đến đây, đã là thất sách, vì xưa nay chỉ quen vẫy vùng trong bến nước, nay bỗng lại rời xa sào huyệt mà ra tới đây, thì có tên nào là ta tróc tên ấy, không còn ngại điều chi nữa? Xin ân tướng lên thành, xem tôi bắt giặc phen này mới được.
Nói đoạn liền tề chỉnh mũ giáp, nhảy lên mình ngựa, mở cửa thành, hạ đích kiều, dẫn một nghìn mã kéo ra. Bấy giờ bên trận Tống Giang có một tướng cưỡi ngựa, tay cầm lang Nha Côn, quát mắng Tri Phủ rằng:
- Quân cướp này, giống mọt dân kia, bay nỡ lòng giết cả vợ con ta, nay ta quyết báo thù, không thể nào tha cho ngươi được...
Mộ Dung Tri Phủ trông ra nhận biết là Tần Minh, liền mắng lại rằng:
- Bây là một ông quan của triều đình, nhà nước đã phụ bạc điều chi, mà bay dám nỡ lòng đành phản? Nếu bắt được ngươi, thì xé thây ra làm một vạn mảnh mới cam. Thôi tướng quân đâu? Hãy bắt thằng giặc ấy trước đã.
Hô Duyên Chước nghe nói, lập tức múa song chiên xông ngựa ra đánh Tần Minh, Tần Minh giơ Lang Nha Côn ra đánh với Hô Duyên Chước. Đôi bên cùng gặp tay đối thủ, đánh nhau hơn bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua. Mộ Dung Tri Phủ thấy đánh nhau lâu, sợ khi Hô Duyên Chước bị thua, liền khua chiên thu quân vào thành, Tần Minh cũng lui về bản trận không theo đuổi. Tống Giang liền hạ lệnh, lui xa ra ngoài mười lăm dặm hạ trại.
Bấy giờ Hô Duyên Chước vào trong thành, xuống ngựa nói với Tri Phủ Mộ Dung rằng:
- Hồi đó tôi đương định bắt Tần Minh, sao Ân tướng lại vội thu quân như vậy?
Tri Phủ nói:
- Tôi thấy Tướng quân đánh nhau, sợ khi đuối sức nên phải thu quân để nghỉ, tên Tần Minh trước làm Thống Chế ở đây, sau mới cùng Hoa Vinh làm phản, mà theo bọn Lương Sơn...Hắn ta võ nghệ cũng khá, chớ nên coi thường mới được.
- Ân Tướng không ngại, tôi xin bắt được loại phản tặc hầu ngài. Vừa rồi mới đấu nhau một lúc, mà tay công anh ta đã rối loạn rồi, ngày mai thế nào tôi cũng chém được hắn.
- Nếu Tướng quân có thủ đoạn anh hùng như vậy, ngày mai xin đánh tháo vòng vây, dọn cho ba người ra, một người cho vào Đông Kinh cầu cứu, và hai người đến các Châu Phủ gần đây, để nhờ binh ứng viện một thể.
Hô Duyên Chước vâng lời mà rằng:
- Tướng công nghĩ như vậy thực là chu đáo lắm...
Tri Phủ nghe nói, liền viết mấy văn thư cầu cứu, giao cho ba tên lính cẩn thận để sáng hôm sau mang đi.
Hôm đó Hô Duyên Chước trở về phòng nghỉ, mãi đến đầu trống canh năm tỉnh dậy. Chợt thấy quân sĩ vào báo rằng:
- Trên núi đất về góc thành bên Bắc có ba người cưỡi ba con ngựa, đến nom dòm vào thành, một người mặc áo bào đỏ cưỡi ngựa trắng đi giữa, và hai người đi kèm hai bên, hình như là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, cùng một người ăn mặc lối thầy tu thì phải...
Hô Duyên Chước nói:
- Nếu vậy thì anh mặc áo bào đỏ đích xác là Tống Giang, còn anh an mặc thầy tu, chắc là Ngô Dụng hẳn? Chúng bay cứ im lặng, chớ nên làm động... mau điểm một trăm nhân mã, để ta bắt ba thằng ấy mới được...
Nói đoạn vội vàng đội mũ mặc giáp, cầm chiên lên ngựa, dẫn hơn ba trăm quân kỵ, lẻn ra mở cửa Bắc môn, bỏ đích kiều xuống, dẫn quân ra ngọn núi đất. Khi ra tới nơi, thấy ba người vẫn điềm nhiên kìm cương ngựa đứng nom vào thành. Hô Duyên Chước liền xốc ngựa lên đến núi, bấy giờ ba người kia mới quay ngựa lững thững chạy đi. Hô Duyên Chước thấy vậy bèn ra roi té ngựa để đuổi theo.
Ba người kia chạy đến một chỗ trước mặt có mấy cây khô, rồi đứng dừng lại cả, Hô Duyên Chước lại sấn ngựa mà đuổi theo lên.
Khi gần đền chỗ cây khô, thấy có tiếng hò reo ầm ĩ , rồi Hô Duyên Chước bị cả người lẫn ngựa đều tuột xuống hố đất. Đoạn rồi hai bên có năm sáu mưới tên quân nấp, đem dây móc ra trói Hô Duyên Chước về trước, và dắt con ngựa về sau.
Bọn quân sĩ Hô Duyên Chước thấy vậy, toan xông đến đánh, bất ngờ bị Hoa Vinh bắn ngã dăm bảy quân kỵ đi đầu, còn thì tháo chạy hết cả.
Bấy giờ Tống Giang trở về trại quân, truyền bọn đao phủ dong Hô Duyên Chước lên trước trướng.Hô Duyên Chước lên tới nơi, Tống Giang vội quát quân sĩ cởi trói ra, rồi thân hành xuống ngựa dắt Hô Duyên Chước lên ngồi, và lạy chào rất là cung kính.
Hô Duyên Chước lấy làm ngạc nhiên hỏi:
- Vì duyên cớ làm sao?
Tống Giang đáp rằng:
- Tống Giang tôi có khi nào phản bội triều đình, ngày nay chẳng qua vì quan tham lại nhũng ức hiếp quá tình, nên phải tạm lánh vào nơi Thủy Bạc, để chờ khi nào triều đình tha tội, rồi lại cùng nhau quy phục đó thôi. Nay Tướng quân tới đây, chúng tôi lấy làm hâm mộ vô cùng, nên mới cả gan trộm phép Tướng quân mà mời đón đến đây, như thế thật là đại tội, dám xin Tướng quân đại xá đi cho...
- Tôi là một người bị bắt, có chi mà nghĩa sĩ nói những lời khiêm tốn như vậy?
- Chúng tôi đây có khi nào khi dễ Tướng Quân, lòng này thực đó Hoàng Thiên soi xét nay chỉ xin Tướng Quân rộng cho một điều mà thôi..
- Chẳng hay huynh trưởng muốn Hô Duyên Chước về triều đình xin giấy chiêu an, để đem đến sơn trại mà tha cho tất cả mọi người đó chăng?
- Chết nổi! Việc ấy Tướng Quân làm sao nổi? Cao Thái Úy là một kẻ tâm địa hẹp hòi, hay quên ơn lớn và hay nhớ lỗi nhỏ của người...Nay Tướng Quân đã làm hao tổn biết bao binh mã lương thực, vậy có khi nào Cao Thái Úy lại không gia tội cho ngài. Vả chăng Hàn Thao, Bành Dĩ, Lăng Chấn, đều đã nhất tâm đến ở trại tôi, nay nếu Tướng Quân có lòng hạ cố, mà cho chúng tôi được cùng sum họp, thì Tống Giang này xin nhường ngôi để kính Tướng Quân, rồi đợi khi triều đình có lệnh chiêu an, thí ta sẽ cùng nhau giúp nước...Chẳng Tướng Quân nghĩ sao?
Hô Duyên Chước ngẫm nghĩ hồi lâu, nghe cũng hơi có lý, bèn thở dài một tiếng, rồi quỳ xuống đất nói rằng:
- Việc này không phải là Hô Duyên Chước bất trung với nước, son tất lòng rất cảm nghĩa khí của huynh trưởng, không lẽ nào từ chối cho đành...Vậy từ nay xin theo hầu dưới trướng, không thay đỗi tấc lòng.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền mời các vị Đầu Lĩnh ra chào Hô Duyên Chước suốt lượt, rồi gọi Lý Trung, Chu Thông đem ngựa Tích Tuyết Ô Truy trả lại cho Hô Duyên Chước. Đoạn rồi cùng nhau bàn kế để cứu Khổng Minh.
Ngô Dụng nói:
- Bây giờ chỉ nhờ Hô Tướng Quân lừa mở cổng thành thì mới dễ được thành công, mới có thể ngăn hết đường về của Hô Tướng Quân sau này được.
Tống Giang hiểu ý, liền ủy uyển nói với Hô Duyên Chước rằng:
- Dám thưa Tướng Quân: Việc này không phải Tống Giang tôi có tham muốn thành trì, dấy binh sinh sự, đó chẳng qua vì chú cháu Khổng Minh bị giam trong ngục, nên tôi lôi thôi động dạng đến đây. Vậy nay Tướng Quân không rộng lòng vì nghĩa, mà lừa mở cửa thành thì không khi nào xong được.
Hô Duyên Chước vâng lời mà rằng:
- Huynh trưởng đã có lòng sai khiến, thì dẫu thế nào, tôi cũng không dám từ nan, chỉ chiều hôm nay làm ngay lập tức là xong...
Tống Giang cả mừng, liền sai Tần Minh, Hoa Vinh, Tôn Lập, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Âu Bằng, Vương Anh, tất cả mười vị Đầu Lĩnh ăn mặc ra lối quân, cưỡi mười con ngựa theo Hô Duyên Chước ra đi.
Khi về tới cửa Thành, Hô Duyên Chước vội vội vàng vàng nói là trốn thoát được về, liền gọi người ra mở cổng. Người trong thành nghe rõ tiếng Hô Duyên Chước liền quay vào báo cho Tri Phủ Mộ Dung biết.
Bấy giờ Tri Phủ đương lo phiền vì nổi Hô Duyên Chước bị bắt, bỗng thấy nói Hô Duyên Chước lại trốn thoát về, trong bụng lấy làm mừng bội phần, vội cưỡi ngựa chạy lên mặt thành để hỏi. Khi lên mặt thành tuy không nom rõ mặt Hô Duyên Chước, song nghe tiếng quả thị là Hô Duyên Chước, và chỉ có mười tên quân kỵ đi theo, liền hỏi lên rằng:
- Tướng Quân làm cách gì mà về được đó?
Hô Duyên Chước nói:
- Tôi vì sa xuống hố, bị chúng bắt trói mang về ở trại, sau may có mấy tên Đầu Mục nguyên theo tôi trước, ăn trộm con ngựa này cho tôi cưỡi mà đưa về đây.
Tri Phủ nghe nói liền sai quân sĩ mở cổng Thành, hạ đích kiều cho mọi người vào. Khi vào tới cửa thành, Tần Minh bắt luôn Tri Phủ Mộ Dung, liền đánh cho một gậy ngã lăn xuống ngựa, Giải Trân liền phóng lửa đốt thành, rồi Âu Bằng, Vương Nụy Hổ trèo lên mặt thành mà giết tan bọn quân sĩ coi thành.
Tống Giang ở ngoài thấy trong Thành nổi lửa, liền kéo đại đội quân mã vào thành, truyền lệnh quân chúng không được quấy nhiễu lương dân, thu hết tiền nong kho đụn, và phá ngục cứu Khổng Minh cùng cả nhà Khổng Tân ra. Đoạn rồi cứu tắt ngọn lửa trong thành, bắt giết hết người nhà Tri Phủ Mộ Dung và thu hết của cải gia tư để thưởng cho quân sĩ.
Sáng hôm sau tìm những nhà lương dân nào bị cháy, cấp cho thóc gạo tiền nong, rồi đem kim ngân lương thực của các kho, xếp vào năm sáu trăm xe, và bắt lấy hơn hai trăm ngựa tốt. Đoạn rồi làm tiệc ăn mừng ở trong phủ Thanh Châu, và mời các vị Đầu Lĩnh mới cùng về sơn trại. Lý Trung, chu Thông sai người về núi Đào Hoa lấy hết nhân mã, tiền lương đốt bỏ sơn trại để đi. Lỗ Trí Thâm cũng sai Tào Chính, Thi Ân về núi Nhị Long cùng với Tôn Nhị Nương thu hết nhân mã tiền lương, mà đốt bỏ chùa Bảo Châu cùng sơn trại để theo Tống Giang về Sơn Bạc.
Cách vài hôm sau, nhân mã các nơi đều đến đủ. Tống Giang liền kéo thẳng nhân mã đại hội trở về Lương Sơn Bạc. Khi ra đi Tống Giang sai Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng và Hô Duyên Chước, dẫn đường đi trước, qua các phủ, huyện, không hề xâm phạm của ai. Dân gian thấy vậy đều dắt già cõng trẻ cùng nhau đón rước vui mừng, rất chiều trân trọng.
Đường đi mấy hôm về tới Lương Sơn Bạc, các vị Thủy Quân Đầu Lĩnh, đều sắp đủ thuyền bè để đón, Tiều Cái dẫn các vị Đầu Lĩnh trên núi xuống bến Kim Sa, đón tiếp nhân mã vào trong đại trại.
Khi về tới Tụ Nghĩa Sảnh, các vị Đầu Lĩnh chia thứ tự cùng ngồi, rồi mở tiệc khao mừng mấy vị Đầu Lĩnh mới đến, là: Hô Duyên Chước, Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng, Thi Ân, Tào Chính, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Lý Trung, Chu Thông, Khổng Minh, Khổng Lượng, cộng tất cả mười hai người.
Trong khi đó Lâm Xung có ý khẩn khỏan mời Lỗ Trí Thâm, và tạ ơn Lỗ Trí Thâm đã cứu giúp mình từ trước.
Lỗ Trí Thâm hỏi thăm Lâm Xung rằng:
- Từ khi tôi xa cách giáo đầu đến nay, không được tin tức gì cả, chẳng hay quý phu nhân dạo này ra sao?
- Lâm Xung nói:
- Sau khi tôi giết Vương Luân, rồi có cho người về đón vợ con, song chẳng may nhà tôi bị thằng ăn mày nhà Cao Cầu nó bức bách, đến nổi tự tử mà chết, rồi sau ông nhạc nhà tôi cũng bị bệnh chết nốt...
Dương Chí cũng thuật chuyện gặp Vương Luân trước cho mọi người nghe, chúng đều cười mà nói rằng:
- Mới hay muôn việc tại trời định trước, không có việc gì ngẫu nhiên hết thảy.
Tiều Cái lại thuật chuyện cướp của Sinh Thần ở Hoàng Nê Cương khi trước, chúng đều vui mừng mà tán tụng không thôi. Đến ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh lần lượt chè chén vui mừng, trong sơn trại rất sầm uất.
Bấy giờ Tống Giang thấy sơn trại thu được nhiều nhân mã trong lòng rất là vui mừng, liền cho Thang Long tổng quản thợ rèn, rèn đánh các thứ gươm khí, cùng các áo giáp, và các thứ Liên Hoàn; Hầu Kiện tổng quản các kho cờ, quạt, áo xiêm, chế thêm cờ Tam Tài, Cửu Riệu, Tứ Đẩu, Ngũ Phương, Nhị Thập Bát Tú, Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, cùng các thứ búa vàng,cờ mao trắng, vải mũ đỏ, lộng đen để dùng.Bốn chung quang đặt thêm pháo đài, và mở thêm hai ngôi tửu điếm ở hai bên đường Tây Nam để đón hảo hán bốn phương,và dò xét quân tình ở ngoài.Tửu điếm con đường bên Tây, thì hai vợ chồng Trương Thanh, Tôn Nhị Nương coi giữ; Tửu điếm bêm Nam, thì để vợ chồng Tân Tân, Cố Đại Tẩu trông coi; Tửu điếm bên Đông có Chu Quý, Nhạc Hoà, và tửu điếm bên Bắc có Lý Lập, Thời Thiên, trên ba cữa quan đặt thêm mấy trạm, cắt các Đầu Lĩnh ra coi giử luân lưu. Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh đều vâng theo Tướng Lệnh, mà ai vào việc ấy.
Một hôm Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm nói với Tống Giang rằng:
- Trí Thâm tôi có một người quen cũ, tên gọi là Cửu Văn Long Sử Tiến là đồ đệ Lý Trung khi trước, hiện nay ở núi Thiếu Hoa, huyện Hoa Aâm về Hoa Châu, và có ba người nữa là là Thần Cơ Quân Sư Chu Võ, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Xà Dương Xuân, cùng tụ nghĩa ở đó với nhau. Tôi từ khi ở chùa Ngỏa Quan tương biệt tới nay, trong lòng vẫn thường bâng khuâng nhung nhớ mà không được gặp bao giờ. Vậy ngày nay tôi xin qua đó thăm chơi và rủ cả bốn người về đây nhập đảng một thể, chẳng hay tôn ý nghĩ sao:
- Tôi cũng thường nghe Sử Tiến xưa nay, nay nếu Ngô Sư có lòng tốt mà mời cả về đây, thì còn gì hơn nữa. Xong việc đó không thể một mình đi được,vậy tôi muốn phiền Võ Hành Giã cùng đi, hai người cung tướng dạng xuất gia, như thế thì mới ổn tiện.
Võ Tòng vâng lời mà rằng:
- Tôi xin đi cùng với sư huynh.
Nói đoạn liền cung nhau thu thập hành lý để đi. Lỗ Trí Thâm mặc ra lối nhà sư, Võ Tòng mặc ra lối hành giã, rồi hai người từ giã các Đầu Lĩnh mà đi sang núi Thiếu Hoa,
Tống Giang thấy Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi rồi, trong lòng lấy làm áy náy không yên, liền sai Đới Tung lập tức theo sau, để nghe xem tin tức.
Một hôm Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi đến núi Thiếu Hoa, chợt thấy đám tiểu lâu la nấp ở bên đường, đổ xô nhau lại mà hỏi rằng.
- Hai bác thầy tu đi đâu thế này?
Võ Tòng nói:
- Chúng tôi đi lên hầu Sử Đại Quan Nhân ở trên núi đây.
Đám lâu la nghe nói, vội cung kính mà rằng:
- Ngươi lên nói nhà sư Lỗ Trí Thâm đến Thăm.
Tiểu lâu la vâng lời quay lên báo cho sơn trại biết. Được một lát, thấy Thẩn Cơ Quân Sư Chu Vũ cùng Khiêu Giản Hổ Trần Đại, Bạch Hoa Sà Dương Xuân xuống núi đón tiếp.
Lỗ Trí Thâm hỏi ba người rằng:
- Sử Đại Quan Nhân sao không thấy ở đây.
Chu Vũ đến gần rằng:
- Sư Phụ có phải là Lỗ Đề Hạt ở Phủ Duyên An trước đó không?
Lỗ Trí Thâm đáp:
- Phải, chính tôi đây, còn ông này là Võ Đô Đầu đánh hổ ở trên núi Cảnh Dương đó.
Ba người kia nghe nói vội vàng chào mà rằng:
- Chúng tôi được nghe đại danh đã lâu, sao thấy nói hai ngài ở núi Nhị Long, nay các ngài qua đây, chẳng hay có việc gì chăng?
Lỗ Trí Thâm nói;
- Chúng tôi ngày nay lên Lương Sơn Bạc,nhập đảng với Tống Công Minh, chứ không ở núi Nhị Long nữa. Nay muốn tìm Sử Đại Quan Nhân có chút việc,chẳng hay Sử Đại Quan Nhân ở đâu?
Chu Vũ nói:
- Hai ngài đã đến đây, xin qua bộ lên chơi núi, chúng tôi sẽ thưa chuyện. Có chuyện gì cứ nói cho tôi nghe, Sử Đại Quan Nhân không có đây, còn lên núi chi cho thêm phiền?
Võ Tòng nói:
- Ba anh em tôi ở núi Thiếu Hoa đây, từ khi được có Sử Đại Quan Nhân đến ở,trong sơn trại ngày càng thêm hưng vượng mãi lên. Sau nhân một chuyện anh chàng thợ vẽ, tên là Vương Nghĩa, người Phủ Đại Doanh Bắc Kinh dắt con gái là Ngọc Kiều phi sang miếu Kim Thiên Thánh Đế ở núi Tây Nhạc Hoa, để vẽ Thánh Tượng. Bất đồ một hôm có Hạ Thái Thú ở bản Châu (nguyên là tay tham tàn vô lý, vẫn luồn lọt Nái Thái Sư xưa nay), khi ra lễ ngoài miếu, chợt trong thấy Ngọc Kiều Chi có vẽ nhan sắc dịu dàng, liền sai người đến nơi để mua làm thiếp, Vương Nghĩa quyết đinh không nghe,Hạ Thái Thú liền hạ thủ đoạn ức hiếp, cướp lấy con gái mà mắc tội Vương Nghĩa đem đày ra đất Viễn Châu. Khi đi qua đây gặp Sử Đại Quan Nhân,Vương Nghĩa đem tình cảnh thuật cho Quan Nhân nghe, Sử Đại Quan Nhân liền giết hai tên Công Sai, áp giải cứu Vương Nghĩa lên núi và đi thẳng vào phủ, định giết hạ Thái Thú, dè đâu khi vào tới nơi, bị người trong phủ dò biết, liền bắt giam ngay vào trong ngục, và định đem binh mã ra đánh sơn trại chúng tôi một thể. Bởi vậy anh em chúng tôi hiện đương lo nghĩ với nhau, chưa có kế gì mà thi hành ngay được.
Lỗ Trí Thâm nghe đến đó,đùng đùng nỗi giận, đập đập tay mà rằng:
- Quân chó má! Nó dám vô lễ đến thế! Ta phải kết quả ngay nó đi mới được.
Chu Vũ nói:
- Hãy xin đón hai ngài lên sơn trại, rồi ta sẽ bàn định sau.
Lỗ Trí Thâm nhất định không chịu lên, Võ Tòng liền một tay nắm Thiền Trượng, một tay trỏ bảo Trí Thâm rằng:
- Ca Ca không nom mặt trời đã xế ngọn cây kia sao?
Lỗ Trí Thâm nghe nói ngẩn trông lên một cái, rôi thét lên một tiếng, mặt hầm hầm tức giận, mà đi thẳng lên trên sơn trại. Chu Vũ gọi Vương Nghĩa ra lạy chào, và thuật lại cái thủ đoạn tham tàn của Hạ Thái Thú một lượt cho mọi người nghe.Đoạn rôi sai giết trâu mổ ngựa làm rượu, thết Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng.
Lỗ Trí Thâm nói với mọi người rằng:
- Ngày nay không có Sử Huynh ở đây, một giọt rượu tôi cũng không uống, xin cho nghỉ tạm ở đây một tối, rồi sáng mai vào phủ đánh chết những quân ấy mới xong.
Võ Tòng nói:
- Ca Ca không nên nóng nảy thế, tôi với Ca Ca về ngay Sơn Bạc nói với Tống Công Minh lấy đại đội nhân mã lên đánh Hoa Châu thì mới cứu Sử Đại Quan Nhân được.
Lỗ Trí Thâm kêu lên rằng:
- Đợi khi về được tới Sơn Trại đem được nhân mã đến đây, thì tính mạng của Sử Đại Quan Nhân phỏng còn gì nữa?
Võ Tòng nói:
- Cho dẫu giết được Hạ Thái Thú bây giờ, cũng chưa thể cứu Sử Đại Quan Nhân ra được ... Võ Tòng tôi quyết không để cho Ca Ca đi...
- Chu Vũ cũng khuyên can rằng:
- Xin Sư huynh hãy bớt giận... Nhge lời Võ Đô Đầâu mới phải.
Lỗ Trí Thâm nóng máu gắt lên rằng;
- Chỉ tại các anh trì trệ hững hờ, làm khổ đến tính mệnh Sử Huynh đó. Nay sự thế đã nguy cấp đến nơi, lại còn uống rượu để bàn, thì phỏng có chết hay không? Ta đây quyết không thể nào mà nhịn được.
Chúng thấy vậy, không dám mời Trí Thâm uống chén rượu nào nữa.
Đêm hôm đó Trí Thâm mặc nguyên áo xống nằm ngủ, đến đầu trống canh năm trở dậy, vác thuyền trượng, cầm giới đao mà ra đi mất.
Khi Võ Tòng trở dậy không thấy Lỗ Trí Thâm,liền bảo lũ Chu Vũ rằng:
- Sư huynh không nghe lời tôi nói, phen này tất lỡ việc không sai.
Chu Vũ cùng lấy làm lo sợ, liền sai lũ lâu la tinh thạo đi dò xem tin tức ra sao.
Hôm đó Lỗ Trí Thâm đi vào trong thành Hoa Châu, rôi hỏi thăm lối để lần vào trong phủ, bổng thấy người bảo rằng:
- Hoà thượng tránh ra một bên, có quan Phủ đi qua đó.
Lỗ Trí Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng:"Được lắm! Lão đương tìm hắn, hắn lại đến đây,còn trốn đi đâu mà không chết? "Nói đoạn liền ngần ngừ mà đứng lại để nom.
Bấy giờ Hạ Tri Phủ ngồi trong cỗ kiệu, hai bên kiệu có mười tên Ngu Hầu đi kèm, và lính tráng cầm roi gậy gươm giáo đi sát hai bên.
Lỗ Trí Thâm thấy vậy nghĩ thầm rằng:"Bây giờ không tiện đánh hắn, vì đánh không được,thì tất bị chúng cười... Ta hãy thữ xem sao? "Nghĩ vậy liền đứng lững thững, mà không dám tiến lên.
Tri Phủ ngồi trong kiệu, nom thấy Lỗ Trí Thâm có ý rụt rè dùng dằn muốn tiến lại thôi thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ mà hiểu ý đôi lần. Khi về tới phủ liền cho hai tên Ngu Hầu ra mời nhà sư vào chơi.
Hai tên ngu hầu vâng lời, chạy ra ngoài phủ, nói với Lỗ Trí Thâm rằng:
- Quan phủ chúng tôi cho mời sư phụ vào chơi trong phủ.
Lỗ Trí Thâm nghe nói trong bụng lấy làm vui mừng, chắc là cơ hội đến tay, liền đi theo hai tên Ngu Hầu đi vào trong phủ.
Khi vào tới trước cổng đường, Hạ Thái Thú bảo Lỗ Trí Thâm cất giới đao thuyền trượng ra, và mời vào chơi nhà trong.
Trí Thâm trước còn khẳng khái, không chịu bỏ thuyền trượng giới đao ra,sau chúng đều khuyên rằng:
- Nhà sư không biết gì cả, vào trong nhà quan sao lại được phép cầm đao trượng lăm lăm như thế?
Trí Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: "Ta đây chỉ hai tay cũng đủ đánh bể sọ chúng ra, cần chi phải dùng đao trượng?" Nghĩ đoạn liền vất đao trượng ở trước cửa mà theo Ngu Hầu vào trong.
Vào tới nhà trong, Hạ Thái Thú liền vẫy tay một cái, quát lên rằng:
- Trói thằng trọc này cho ta...
Nói vừa dứt miệng, thì hai bên vách có tới ba bốn mươi tên lính, đổ xô ra mà trói ghì Lỗ Trí Thâm lại, rôi dong xuống dưới thềm để tra hỏi.
Cho hay:
Kiếp tu chưa trọn với đời,
Nợ giang hồ dễ ai người giữ xong?
Ba sinh trót đã nặng lòng,
Tử sinh xem bẳng như không sá gì!
Hùm thiên lỡ mất cơ may,
Tấm gan son sắc tri âm vẫn còn
Dù khi nát ruột tan hồn,
Dạ này xin có nước non soi cùng.
Lời bàn của Thánh Thán:
Đánh phủ Thanh Châu, dùng Hoa Vinh, Tần Minh làm tiền đội, thực là từng chỗ không làm phí bút chút nào?
Thôn Học Tiên Sinh, đọc truyện Thủy Hử, thấy chéo Tống Giang trong miệng nói ra lời hay, thì đã vội đem hai chữ " Hiếu Trung" nêu tên giặc già ấy, mà cho đầu đề của Truyện này, như thế không thể nào mà chả biện bạch ra cho đúng! Phải vạch ra rằng: Tống Giang có tài hơn người, thì tất đúng rồi, nếu rằng có lòng Trung Hiếu, lòng muốn báo triều đình, thì thực là một sự vạn lần, quyết không đúng vậy.
Tại sao? Vì Tống Giang là một tên cường đạo đất Hoài Nam, cũng con người muốn báo triều đình, mà không kế gì để tiến thân cho được, đến điều bất đắc dĩ phải tạm lánh Sơn Bạc để làm cường đạo, đó một điều không nên nói rằng vì bức bách mà như vậy, dù có bức bách cũng chưa đến nổi, sao lại thả Tiều Cái trốn đi, thì ai bức bách việc đó? Cái thân đã làm áp Tống Giang lại bỏ pháp luật tha cho giặc, có hai điều không nên. Thân làm ruộng thì yên phận làm ruộng, thân làm lại thì yên phận làm lại, đó là bổn phận. Tại sao thân ở Vận Thành, lại tung tiếng hảo hán với khắp cả thiên hạ, dung nạp bọn du đảng, đó ba điều không nên. Kết liên riêng với giặc để nhận vàng, giết cả bình dân (Diêm Bà Tích) để bịt họng may mà được nên lỗi nhỏ để theo điều răn lớn) (không làm giặc), sao lại đề thơ bến nước Tầm Dương nghĩ để báo thù thì báo thù ai? Đến điều máu đầy giang thủy, có bốn điều không nên; lời ngạn nói rằng: Cầu bày tôi trung ở trong cửa con hiếu, thế mà ngươi Giang, vì một sớm với điều giận nhỏ, để lỗi cho cha già, một khi chẳng tốt với cha, còn tốt với ai? Thực bảo rằng: " Điều đó còn nhẫn tâm, thì cái gì chẳng nhẫn tâm? "ó năm điều không nên vậy; Lũ Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ mà vơ vét đem về Lương Sơn, với bọn đó còn tha thứ được; Tại sao Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín cũng vơ vét cả về Lương Sơn? Sao tha thứ được, tuy bấy giờ còn chưa ra mặt lạc thảo, nhưng trong lòng đã định chủ trương, đó sáu điều không nên. Khi cướp trận Bạch Long, gây nên bởi mọi người, còn thiêu đốt Vô Vi Quân thì ai quyết đoán? Cướp ở Bạch Long, còn nói được rằng cứu chết, còn đốt Vô Vi, chẳng phải là buông nọc độc ư! Đó bảy điều không nên vậy; Đánh châu cướp huyện chỉ như trò đùa, phá ngục, cướp kho, cũng thấy như vậy, giết quan trưởng thì vu vạ tham nhũng, mua chuộc trăm họ thì không tiếc của kho, đó tám điều không nên vậy; Quan quân đến thì giết quan quân; Vương sư tới thì bức Vương sư, làm ngang sông nước, sức mạnh không ai địch, khiến cho đối với vua không yên mà hưởng lộc như các quan, các tướng đến đánh không mong trở lại, sau lại nêu ra Trung Nghĩa Đường, đặt ra ấn tín thưởng phạt, chế ra hiệu cờ long, hổ, hùng, bi, mao, trắng, việt vàng, với nghi vệ như một soái phủ, đó mười điều không nên! Hỡi ôi! Tội của Tống Giang bới ra không hết, luận những tội to đã mười điều ấy, thế mà Thôn Học Tiên Sinh còn bo bo cho là Trung Nghĩa, rất sợ rằng không đáng như thế, vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?
Nguyên ý nhĩ của Thôn Học Tiên Sinh, chỉ thấy Tống Giang mỗi khi thu phục một viên tướng nào, cũng thân hành cởi trói, dâng chén khuyên mời, giọt lệ động tình, đau nổi muôn trung quân ái quốc, mà lòng thành lo nghĩ đến chiêu an, mà mất ăn mất ngủ, lời vạch ra gan, giọng tuôn ra máu... Song ta cho Tống Giang là cường đạo, một vạn lần không thể tin rằng trung nghĩa được, vì sao? Xét nói rằng đợi chiêu an, chỉ là biến kế của cường đạo, trước khi cha anh đã mất dạy, ham học võ quyền đã cậy võ quyền, chẳng chuyên sinh sản, đã thiếu sinh sản, chẳng khỏi khốn nguy, khốn nguy chẳng chịu, sinh ra trộm cướp, khi đã trộm cướp, kéo bè mà nên to chuyện, kéo bè đảng tất bị truy nã, đã bị truy nã, thì cường đạo nhân đó nổi lên, nếu tiến có thể chuộc tội, thoái có thể thoát chết, thì hai chữ chiêu an chỉ khéo nói ra, thu lấy mọi người.
Xét đến những viên tướng làm can thành cho nước, bảo trướng một phương, như Tần Minh, Hô Duyên Chước, đời đời chịu quốc ân, còn đương hưởng chưa thôi, lại như lũ Hoa Vinh, Từ Ninh, có những biệt tài, há chẳng ra sức phò vua, và lũ Lăng Chấn, Sách Siêu, Đổng Bình, Trương Thanh dẫu là tỳ tướng, cũng có ngày đại dụng; Lại như lũ Bành Dĩ, Hàn Thao, Tuyên Tán...ều ăn lộc nhà Tống, làm quan nhà Tống, cảm đức nhà Tống, chia lo với nhà Tống, đã không chẳng trổ hết tài, đã lại không chẳng nhả hết khí, đã lại không chẳng hết lòng trung, đã lại không chẳng báo hết ơn đó vậy sao? Mà ta không biết Tống Giang nghĩ sao, lại muốn vớ vét cả về Sơn Bạc? Bắt được thuyết theo, hoặc chưa chịu theo, thì lại khuyên rằng hãy tạm lánh đây để đợi chiêu an. Hỡi ôi! Cường đạo mới cần chiêu an, còn tướng quân việc gì mà cần phải đợi chiêu an? Thân ở Thủy Bạc, thì nên đợi chiêu an quy thuận triều đình; Còn thân đã tự triều đình, cần gì phải đợi chiêu an, mà phải tạm lánh ở Thủy Bạc? ? ? Nay đem lời này hỏi lại Tống Giang, thì Tống Giang trả lời làm sao? Mới biết những lời nói ra báo quốc, ngáy ngóng chiêu an, Tống Giang chỉ muốn dỗ dành người ta theo vào Sơn Bạc; Lời ngạn nói rằng: Mật ngọt chết ruồi... Tống Giang đã dùng lời khéo dỗ người vào Thủy Bạc, mà không ai chẳng tin, để theo vào Thủy Bạc. Lời rằng: Mượn mãi không trả, lâu hoá của mình, sao lại không biết Tống Giang như vậy? Thôn Học Tiên Sinh khen ngợi thì ra không biết con quạ kia đen trắng thế nào? Còn bo bo cho rằng trung nghĩa, chỉ sợ rằng không đáng như vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?
Sau hồi thứ bảy tả Lỗ Đạt, xa cách thẳng bốn mươi chín hồi, mới lại tả Lỗ Đạt, khiến ta đọc đến văn, há chẳng nhớ đến con người lỗi lạc chân chính Lỗ Đạt, trước bốn mươi hồi, tả Lỗ Đạt một giọt rượu không thèm, khiến ta thấy xử sự ở con người hảo hán kia, đối với việc nghĩa làm trọng bỏ hết thú vui, dầu thú vui ấy bấy lâu đã nghiện như rượu đối với nhiều người.
Hồi 58
Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy;
Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng
Bấy giờ chúng đem Lỗ Trí Thâm xuống thềm, Hạ Thái Thú chưa kịp trả lời, thì Lỗ Trí Thâm đã trợn mắt cả giận, mắng quát lên rằng:
- Quân hiếu sắc hại dân này, bay dám bắt ta là nghĩa lý gì? Ta đây có chết, cũng không cùng với anh em ta là Sử Tiến, không lấy gì làm hối hận song ta chỉ sợ Ca Ca ta là Tống Công Minh, tất không tha cho ngươi đó thôi. Ta bảo cho ngươi biết, thiên hạ không có việc oan uổn nào, mà không giải tỏ được bao giờ? Ngươi muốn tốt đem Sử Tiến trả lại cho ta, đem cả Kiều Ngọc Chi ra đây để trả lại cho Vương Nghĩa, còn ngươi thì phải đem chức Thái Thú ở Hoa Châu mà đem trả lại cho triều đình ngay lập tức ... Bay là đồ mặt giặc, mắt mèo, chỉ chăm chăm tửu sắc hoang dâm, còn toan làm cha mẹ dân sao được? Nếu biết điều mà nghe ta ba điều đó, thì còn được tử tế bằng không thì sau này hối sao cho kịp? Hiện bây giờ hãy đưa ta tìm đến người anh em là Sử Tiến, rồi thế nào trả lời cho ta biết ...
Tri phủ nghe nói ức giận sôi nổi không biết nói làm sao được liền nghĩ thầm trong bụng rằng: "À? Gớm thằng này ta ngờ thích khách, hay đâu nó cũng một món với Sử Tiến thực? Quái ác! Hãy cứ giam nó xuống, rồi sẽ xử sau... "Nghĩ đoạn liền truyền lấy gông lớn gông Lỗ Trí Thâm lại, bỏ giam xuống ngục, rồi nhất diện tư công văn, bẩm lên trên Tỉnh, và đem giới đao thuyền trượng niêm phong để ở Phủ Đường.
Bấy giờ tin tức náo đôïng phủ Hoa Châu, bọn tiểu lâu la nghe biết, liền trở về sơn trại báo cho các vị Đầu Lĩnh biết. Võ Tòng được tin báo cả kinh mà rằng:
- Chết nổi mình đi hai người đến đây, bị bắt mất một người vậy còn mặt mũi nào trở về Lương Sơn nữa?
Đương khi lo nghĩ kinh hoàng, bỗng thấy tiểu lâu la báo rằng:
- Có một vị đầu lĩnh ở Lương Sơn Bạc là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, đến thăm sơn trại, hiện còn ở dưới núi. Võ tòng nghe báo vội vàng xuống núi đón Đới Tung lên trên sơn trại. Khi lên tới nơi, Võ Tòng dẫn Đới Tung chào hỏi lũ Chu Vũ, và đem chuyện Lỗ Trí Thâm thuật cho Đới Tung nghe.
Đới Tung nghe nói cả kinh mà rằng:
- Nếu vậy tôi phải về ngay Lương Sơn, nói với Ca Ca, đem binh xuống cứu, không thể ở đây lâu được.
Nói đoạn sai dọn cơm chay cho Đới Tung ăn. Đoạn rồi Đới Tung làm phép Thần Hành mà trở về Sơn Bạc.
Cách ba hôm sau về đến sơn trại, Đới Tung liền thuật chuyện Lỗ Trí Thâm và Sử Tiến cho Tiều Cái, Tống Giang nghe.
Tiều Cái cả kinh bảo với Tống Giang rằng:
- Hai người đó mắc nạn tất nhiên phải cứu mới xong. Vậy phen này tôi đi một chuyến không thể trì trệ được nữa.
Tống Giang lại nói:
- Ca Ca là chủ sơn trại, đi sao cho tiện? Việc này xin để mặc đệ đảm nhiệm. Nói đoạn liền chỉnh điểm quân mã chia làm ba đội đi ngay lập tức. Tiền quân có năm tướng làm Tiên Phong là Lâm Xung, Dương Chí, Hoa Vinh, tần Minh, Hô Duyên Chước; dẫn một nghìn quân giáp mã, một nghìn quân bộ mở đầu đi trước; Trung quân có chủ soái Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Từ Ninh và Giải Trân, Giải Bảo, dẫn hai nghìn quân mã bộ đi giữa; Hậu quân có Lý Ứng, Dương Hùng, Thạch Tú, Lý Tuấn, Trương Thuận, năm vị Đầu Lĩnh dẫn năm nghìn quân mã bộ, coi đốc lương thảo đi sau. Bấy giờ cộng tất cả có bảy nghìn quân mã, cùng nhau xuống núi Lương Sơn, mà trông chừng thẳng lối Hoa Châu.
Khi đến nửa đường, Tống Giang truyền cho Đới Tung đi trước để báo cho các Đầu Lĩnh ở Thiếu Hoa Sơn được biết. Bọn Chu Vũ nghe tin báo, bèn đến sắp sẵn các thứ dê, lợn, trâu ngựa, cùng các thức rượu ngon để đợi...
Mấy hôm sau, ba đạo binh Lương Sơn tới nơi, Võ Tòng liền dẫn Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân xuống núi nghinh tiếp...
Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh kéo lên sơn trại, rồi Tống Giang hỏi đến đầu đuôi các chuyện...
Chu Vũ đáp rằng:
- Hiện nay Lỗ Trí Thâm cùng Sử Tiến, đã bị Hạ Thái Thú giam ở trong lao, chỉ đợi sắc chỉ triều đình, rồi sau sẽ liệu.
Tống Giang cùng Ngô Dụng đều hỏi rằng:
- Hiện nay trong thành giam hai con hùm lớn ở đó, tất nhiên họ phải phòng bị nghiêm trang, vậy chiều hôm nay ta xuống núi, rồi khoảng trống canh một, ta sẽ nhờ bóng trăng suông, mà xem xét trong thành mới có thể tiện được.
Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh đều cho là phải, mà cùng nhau lưu lại đến chiều.
Khi mặt trời đã xế hôm, Tống Giang cùng Ngô Dụng, Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, cưỡi ngựa đi xuống núi. Vào khoảng đầu canh một, đi đến bên thành Hoa Châu, năm người bèn tìm một đống gò cao, ở gần thành mà nom vào. Bấy giờ đương dạo trung tuần tháng hai, trời quang mây tạnh, bóng trăng soi sáng giữa trời. Tống Giang cùng bốn người nom vào thành Hoa Châu, thấy thành cao đất rộng, hào lũy bọc chung quanh, có mấy toà cửa thành coi rất cao to hùng tráng, cách nơi Tây Nhạc Hoa Sơn không mấy. Năm người vừa nom vừa bàn luận với nhau, không có cách gì mà đánh ngay được.
Mọi người bảo với Tống Giang rằng:
- Ta hãy trở về sơn trại rồi hãy bàn định sau.
Nói đoạn năm người lại dong ngựa về lại phía Hoa Sơn. Khi về tới trại, Tống Giang ra dáng phiền nghĩ lo âu, không biết kế sao cho được. Ngô Dụng bèn truyền lệnh mười tên tiểu lâu la xuống núi để nghe dò tin tức gần xa.
Cách hai hôm sau, chợt thấy một người trở về báo rằng:
- Nay triều đình sai Quan Điện Tư Thái Úy, vâng lĩnh kim ngân điếu quải của Hoàng Thượng, rời hoàng hà vào sông Vị Hà, để dâng lễ ở miếu Tây Nhạc.
Ngô Dụng nghe báo liền bảo với Tống Giang rằng:
- Ca Ca không cần lo nữa, ta có thể thi được kế rồi.
Nói đoạn liền gọi Lý Tuấn, Trương Thuận ra dặn kế cứ thế này... Thế này ...mà làm.
Lý Tuấn nói:
- Chúng tôi mới đến đây, chưa thuộc địa thế, vậy nếu có một vị nào ở đây cùng đi thì có lẽ tiện hơn.
Bạch Hoa Xà Dương Xuân nói:
- Để tôi đi cho...
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền cho Dương Xuân dẫn đường để cho Lý Tuấn, Trương Thuận cùng đi. Ngày hôm sau Ngô Dụng mời Tống Giang, cùng Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ứng dẫn hơn năm trăm người đến cửa sông Vị Hà. Khi tới nơi, thấy Lý Tuấn, Trương Thuận cùng Dương Xuân đã cướp được mười mấy chiếc thuyền lớn về đó. Ngô Dụng bảo Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, bốn người phục ở trên bờ, còn Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Lý Ứng thì xuống cả dưới thuyền, và lại sai Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân chia thuyền đậu nấp ở đầu bến. Khi đặt đâu yên vào đó, đến sáng hôm sau, chợt nghe xa xa có tiếng trống chiên dậy đất, rồi thấy ba chiếc thuyền quan kéo đến. Trên thuyền quan cắm lá cờ vàng viết mấy chữ"Tú Thái Úy vâng lệnh vua, ra dâng lễ miếu Tây Nhạc ". Bấy giờ Chu Đồng, Lý Ứng đều cầm gươm trường đứng ở sau lưng Tống Giang, còn Ngô Dụng thì đứng ở đầu thuyền mà đợi.
Được một lát, thuyền quan nghênh ngang kéo vào bến nước, rồi có hai mươi tên Ngu Hầu áo tía đai bạc, chạy ra quát lên rằng:
- Thuyền nào dám đậu bến làm ngăn trở thuyền quan thế kia?
Tống Giang nghe nói cúi rạp xuống chào, rồi Ngô Dụng nói rằng:
- Nghĩa sĩ ở Lương Sơn bạc là Tống Giang xin hầu Thái Uý.
Bên kia có viên quan coi việc tiếp khách đáp lên rằng:
- Đây là quan Thái Úy đương triều, vâng lệnh vua ra lễ miếu Tây Nhạc ... Vậy các ngươi là bọn giặc Lương Sơn, sao dám nghênh ngang đứng đó?
Tống Giang cúi mình lặng yên không đáp, Ngô Dụng lại nói lên rằng:
- Chúng tôi là nghĩa sĩ ở Lương Sơn, muốn được bái kiến tôn nhan Thái Úy, để kêu ngài có chút việc.
Viên quan coi việc tiếp khách hỏi:
- Các ngươi là hạng người nào mà dám đường đột xin đến hầu Thái Úy? Đoạn rồi mấy tên Ngu Hầu quát lên rằng:
- Các ngươi nói rõ mới được.
Tống Giang cứ lẳng lặng cúi mình mà không dậy.Ngô Dụng liền nói lên rằng:
- Xin tạm mời Thái Úy lên bờ, chúng tôi bàn có chút việc.
Viên quan coi việc tiếp khách quát lên rằng:
- Các ngươi không được nói càng, Thái Úy là quan đại thần trong triều, lẽ nào bàn việc với các ngươi?
Khi đó Tống Giang đứng dậy nói rằng:
- Thái Úy không chịu cho lũ chúng tôi tiếp kiến, chỉ sợ bọn thuộc hạ chúng tôi lại làm kinh động đến Thái Úy chăng?
Nói đoạn Chu đồng liền vẫy ngọn cờ trên mũi gươm, rôi Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, cùng dẫn quân mã vương cung tên mà kéo ra đánh ở trên bến. Bọn lái đò thuyền quan thấy vậy đều kinh sợ nhảy nấp vào trong khoang. Viên quan tiếp khách cũng sợ hãi kinh hoàng, vội vào báo cho Thái Úy biết.Tú Thái Úy thấy vậy, đành phải ra đầu thuyền, bắt ghế ngồi để tiếp khách.
Tống Giang cúi mình chào mà nói rằng:
- Chúng tôi có điều đường đột, xin ngài tha lỗi cho. Tú Thái Úy nói:
- Vì cớ sao nghĩa sĩ ngăn đón thuyền tôi như vậy? Tống Giang nói rằng:
- Chúng tôi đâu dám ngăn đón thuyền ngài... Chỉ xin phép ngài lên trên bờ, cho chúng tôi được bẩm chút việc thôi...
Tú Thái Úy nói rằng:
- Tôi vâng mệnh vua ra lễ ở Nhạc Tây đối với nghĩa sĩ thì tịnh không có việc gì mà phải nói... ? Vả chăng một ông quan của triều đình, lẽ nào lại kinh dị lên bờ ngay được? Bên kia Ngô Dụng nói lên rằng:
- Nếu Thái Úy không chịu lên bờ, e khi bọn thủ hạ không chịu để yên, thì thực không tiện...
Nói đoạn Lý Ứng vẫy gươm ra hiệu, rồi Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đều đuổi thuyền xô cả đến.Tú Thái Úy thấy vậy lấy làm cả kinh!
Lý Tuấn, Trương Thuận, cầm đao sáng loáng ở tay, chạy sang ngay thuyền Thái Úy, gạt ngã mấy tên Ngu Hầu xuống nước.
Tống Giang vội thét lên rằng:
- Khoan! Không được làm liều như thế?
Lý Tuấn, Trương Thuận bèn nhảy tùm xuống nước vớt hai tên Ngu Hầu, vất trả lên thuyền, rồi hai người cùng nhảy lên thuyền để đứng. Tú Thái Úy cùng mọi người thấy vậy đều cả sợ xanh mặt cả lên.
Tống Giang và Ngô Dụng quát lên rằng:
- Bay hãy lui ra, không được kinh động Đại Quan Nhân như thế, để ta sẽ mời Thái Úy lên bờ cũng được.
Tú Thái Úy nói với Tống Giang rằng:
- Ở đây không thể nói chuyện được, vậy xin mời Thái Úy lên qua trên trại cho chúng tôi thưa chuyện, thì mới ổn tiện, nếu chúng tôi có lòng nào hại đến ngài, thì xin thần linh ở Tây Nhạc sẽ gia tội đến chúng tôi ...
Bấy giờ Thái Úy không nghe không được, đành phải nghe lời mà đi lên trên bờ. Đoạn rồi có mấy người đứng nấp trong bụi cây, dắt ngựa ra mời Thái Úy lên ngựa để cùng đi lên núi.Tống Giang liền sai Tần Minh, Hoa Vinh đưa Thái Úy về sơn trại trước, rồi cùng Ngô Dụng lên ngựa, bắt tất cả những người trong thuyền quan và các đồ hương hoa lễ vật mà khiêng về trên núi, và để Lý Tuấn, Trương Thuận lãnh hơn trăm người coi giữ chiếc thuyền ở đó.
Khi về tới Thiếu Hoa Sơn, Tống Giang cùng Ngô Dụng mời Thái Úy lên Tụ Nghĩa Sảnh, đặt ngôi giữa, còn các vi Đầu Lĩnh cầm binh khí đứng hầu cả hai bên. Đoạn rồi Tống Giang ra trước mặt Thái Úy lạy xuống bốn lạy mà rằng:
- Tống Giang tôi nguyên là kẻ tiểu lại ở huyện Vận Thành nhân Bị Quan Tư bức bách, bất đắt dĩ phải họp mấy anh em tạm lánh ở Lương Sơn Bạc, để đợi triều đình thương lại, sẽ ra sức găng công mà đền ơn non nước, gánh vác mọi trách nhiệm. Nay chẳng hay có hai người anh em bị Hạ Thái Thú sinh chuyện lôi thôi giam vào trong ngục, vậy chúng tôi xin mượn các đồ nghi vệ của Thái Úy ra lễ Nhạc Tây, để đánh lừa quan lại Hoa Châu, mà cứu cho anh em thoát nạn. Sau khi công việc đã xong, chúng tôi lại xin trả lại Thái Úy hẳn hoi, không dám chút gì xâm phạm, xin Thái Úy rộng phép mà ưng thuận lời cho.
Thái Úy nói rằng:
- Cái đó không ngại chi, song nếu triều đình sau này biết đến, thì Hạ Quan đây nguy hiểm không chơi.
- Xin Thái Úy về triều, cứ đổ tội cho Tống Giang tôi là được ...
Thái Úy nghĩ quanh nghĩ quẩn, thấy sự thế không thể nào từ chối được liền bất đắc dĩ mà nhận lời cho mượn.
Tống Giang nghe nói cả mừng, sai đặt tiệc thiết đãi Thái Úy rồi lấy áo xiêm của Thái Úy cùng mọi người theo hầu Thái Úy để mặc. Tống Giang sai một tên lâu la mặt mũi khôi ngô, cạo sạch râu ria, ăn mặc giả làm Thái Úy Tú Nguyên Cảnh, Tống Giang, Ngô Dụng giả làm quan tiếp khách, Giải Trân Giải Bảo, Dương Hùng Thạch Tú giả làm Ngu Hầu, còn bọn tiểu lâu la đều áo tía đai bạc, tay cầm các cờ hiệu, mà khiêng hương hoa lễ vật ra đi. Hoa Vinh, Chu Đồng, Từ Ninh, Lý Ưùng giả làm bốn tên vệ binh. Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân khoãn đãi bọn Thái Úy ở nhà, lại sai Tần Minh, Hô Duyên Chước dẫn một đội nhân mã; Lâm Xung, Dương Chí dẫn một đội nhân mã chia làm hai mặt để đánh thành. Lại sai Võ Tòng ra đợi ở miếu Tây Nhạc để chờ hiệu thi hành. Khi sắp đặt xong các vị Đầu Lĩnh đều kéo ra thuyền, và cho Đới Tung vào báo trước ở miếu Nhạc Tây.
Bấy giờ Chủ Quan cùng các người chức việc phía trong miếu nghe báo, liền vội vàng kéo nhau ra đến bến thuyền để đón quan Thái Úy. Các đồ hoa hương đèn nến, cùng là bảo cái đồng nhan, đều dàng lên trước rồi đem ngự hương đặt lên long đình, cho người trong miếu khiêng vào, và dẫn Kim Linh Điếu Quảy về miếu. Khi chủ quan xin bái yết Thái Úy, Ngô Dụng liền gạt đi rằng:
- Thái Úy đi đường bị cảm, không tiếp kiến được, đem kiệu đây để đón người lên.
Tả hữu vâng lời, rồi đón Thái Úy lên kiệu, mà đưa đến nhà Quan Sư trong miếu Tây Nhạc. Viên tiếp khách là Ngô Học Cứu bảo với viên chủ quan rằng:
- Nay quan Thái Úy vâng lệnh triều đình đem ngự hương cùng Kim Linh Điếu Quải ra dâng thánh lễ ở đây, vậy mà các quan ở bản quân không ai ra tiếp kiến là nghĩa làm sao? Chủi Quan nói rằng:
- Chúng tôi đã cho người đi báo có lẽ đếùn cả ngay bây giờ...
Vừa nói dứt lời thì có viên quan ở bản châu, dẩn dăm bảy mươi tên lính, mang các thức rượu chè hoa quả đến hầu Thái Úy. Khi viên quan đó tới nơi, các quan hầu dẫn vào chỗ xa xa trước mặt để lại chào. Viên quan đó thấy Thái Úy tựa chăn nằm trên giường chỉ lấy tay chỉ chỏ ra ngoài mà không nói gì cả.
Đoạn rồi viên quan tiếp khách ra trách quan ở bản châu rằng:
- Thái Úy là một vị đại thần trong triều, vâng lệnh vua, nghìn dặm tới đây, chẳng may đi đường mắc cảm, thế mà các quan bản châu không ai ra tiếp là nghĩa làm sao?
Viên quan bản châu đáp rằng:
- Bẩm ngài, tuy mấy hôm trước có giấy của quan trên sức xuống, song ngày nay không thấy giấy báo, nên chúng tôi không được biết để mà nghinh tiếp. Vả chăng mấy hôm nay, có bọn giặc ở núi Thiếu Hoa, kết liên với bọn giặc ở Lương Sơn, đến đánh phá thành trì, bởi vậy Quan Phủ chúng tôi phải lưu lại coi thành, mà cho chúng tôi ra đây dâng chén tiếp phong, rồi Quan Phủ chúng tôi sẽ đến bái yết sau.
Viên quan tiếp khách đáp rằng:
- Bây giờ Thái Úy không uống rượu chè gì đâu, về nói với quan phủ mau ra đây để dâng lễ mới được.
Viên quan ở Hoa Châu, vâng lời rồi đem rượu ra để mời các viên quan tiếp khách, cung các người theo hầu Thái Úy.Đoạn rồi quan tiếp khách vào bẩm với quan Thái Úy, lấy chìa khoá ra mở túi lấy đôi Kim Linh Điếu Quải, treo lên hai cành trúc cho viên quan ở Hoa Châu xem.Quan ở Hoa Châu nom thấy, quả là một đôi Kim Linh Điếu Quả, của những tay thợ giỏi ở trong nội phủ chế ra, chung quanh toàn khảm bằng thất bảo, giữa đặt một ngọn đèn bằng xa đỏ, trông rất huy hoàng rực rỡ, dân gian chưa hề trông thấy bao giờ, khi xem xong, quan tiếp khách lại cất vào hương nang khoá lại cẩn thận, rồi lấy các giấy má của phủ Trung Thư, đưa cho viên qua Hoa Châu, và giục phải về ngay bảo quan Thái Thú tới để chọn ngày làm lễ, quan Hoa Châu vâng lời, rồi trở lại trong thành để báo cho Hạ Thái Thú biết.
Tống Giang thấy tên quan viên trở ra rồi, thì trong lòng hớn hở mừng thầm, chắc rằng Hạ Thái Thú dù khôn khéo đến đâu cũng không thể nào không hoa mắt rối lòng, mà tránh thoát thần mưu đó được. Bấy giờ Võ Tòng chực ở ngoài cửa miếu, Ngô Dụng lại sai Thạch Tú dắt dao nhọn tại đó, để giúp Võ Tòng làm việc, và cho Đới Tung giả làm Ngu Hầu để đợi. Trong kia bọn chủ quán cùng các người làm việc trong quân, thì vẫn điềm nhiên, kẻ hiếu cơm người dâng lễ vật, dưới trên sắp đặt rất chỉnh đốn lễ nghi.
Tống Giang xem quanh trong miếu Tây Nhạc, thấy cung điện nguy nga, trên dưới lịch sự, quả nhiên là một nơi miếu mạo hiếm có xưa nay, Tống Giang xem khắp một lượt, rồi khi về trước cửa nhà quan cư, thì ngoài cửa báo là Hạ Thái Thú đã đến.
Tống Giang liền gọi bốn tên lính vệ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Chu Đồng, Lý Ứng, đều cầm binh khí đứng ra hai bên, Giải Trân, Giải Bảo, Dương Hùng, Đới Tung, đều giắt khí giới trong mình mà đứng hầu hai bên tả hữu.
Khi đó Hạ Thái Thú dẩn hơn ba trăm người, đi đến trước cửa miếu lũ lượt kéo vào. Hai viên quan tiếp khách là Ngô Dụng, Tống Giang thấy vậy, liền quát lên rằng:
- Cho Quan Đại Thần ở đây, những người vô sự không được vào gần.
Chúng nghe nói, liền đứng cả lại, để một mình Hạ Thái Thú đi vào.Quan tiếp khách truyền chỉ ra rằng:
- Thái Úy cho mời thái thú vào đây...
Hạ Thái Thú vâng lời, vào trước cửa quan cư, rồi cúi đầu lạy chào Thái Úy giả.
Quan tiếp khách hỏi lên rằng:
- Quan Thái Thú có biết tội không?
Hạ Thái Thú nói rằng:
- Chúng tôi không được biết quan Thái Úy đến đây, nên không kịp ra thành nghinh tiếp, dám xin ngài tha tội cho...
Quan Thái Úy vâng lệnh triều đình ra đây, mà không tiếp đón là nghĩa lý sao?
- Bẩm, vì chúng tôi không tiếp được giấy báo, là đã đến nơi, nên không kịp ra đón tiếp...
Bỗng có người quát lên rằng:
- Bắt lấy cho ta...
Nói dứt lời, thì anh em Giải Trân, Giải Bảo rút phăng gươm ra cầm cẳng Hạ Thái Thú xuống rồi cắt lấy đầu.
Tống Giang lại quát lên rằng:
- Anh em đâu! Hạ thủ đi.
Bọn ba trăm người thấy vậy đều kinh sợ rụng rời, mà không sao chạy được. Tụi Hoa Vinh liền xông vào mà đánh giết, bọn kia luống cuốn non nửa chạy ra ngoài cửa miếu, bị Võ Tòng, Thạch Tú cùng đám tiểu lâu la đỗ xô ra chém giết, không còn sống sót một ai. Còn những người lục tục đến miếu sau, đều bị Trương Thuận, Lý Tuấn giết cả một lượt.
Bấy giờ Tống Giang kịp thu cả ngự hương điếu quải, đem cả xuống thuyền rồi cùng nhau kéo đến thành Hoa Châu. Khi tới nơi trong thành đã có hai chỗ bốc lửa lên đùng đùng, chúng liền nhất tề kéo vào, xông đến nhà đại lao, cứu Sử Tiến cùng Lỗ Trí Thâm ra rồi mở các kho đụn, lấy tất cả của cải mà xếp lên xe tất cả.
Lỗ Trí Thâm được thoát ra, vội vàng chạy vào phủ đường, tìm thấy giới đao huyền trượng, rồi tìm đến Ngọc Kiều Chi, thì đã đâm đầu xuống giếng mà tự tử mất rồi. Chúng thấy vậy, liền kéo nhau ra thuyền trở về Thiếu Hoa Sơn. Về đến sơn trại, Tống Giang sai đem các đồ lễ vật, cùng áo xiêm nộp trả Thái Úy, rồi lấy ra một mâm kim ngân tạ ơn Thái Úy, và đưa khắp lượt mọi người theo hầu. Đoạn rồi đặc tiệc tiễn hành, mà đưa Thái Úy về thuyền tử tế.
Khi tiễn chân Thái Úy trở về, Tống Giang liền bàn với Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, thu thập tiền lương nhân mã mà đốt bỏ sơn trại để kéo quân về cả Lương Sơn, còn Vương Nghĩa thì cho ít tiền để đi nơi khác.
Bên kia Tú Thái Úy khi trở về thuyền rồi cùng nhau kéo đến Hoa Châu, biết rằng bọn Lương Sơn Bạc đã đánh giết quân quan, cướp hết Phủ Khố, quân lính trong thành chết hết hơn một trăm người, lừa ngựa đều bị cướp mất, lại giết mấy trăm người ở miếu Tây Nhạc, thiệt hại không biết đến đâu mà kể, Thái Úy liền sai quan bản châu thảo công văn, thuật lại tội Tống Giang cướp lấy các đồ lễ vật, giả làm quan Thái Úy đánh lừa quan Thái Thú họ Hạ, cùng là đánh giết cướp bóc các lễ, để tư vào phủ Trung Thư. Đoạn rồi Thái Úy đem lễ vật ra dâng lễ miếu Tây Nhạc, mà lập tức trở về triều cùng Thiên Tử.
Nói về Tống Giang, hôm đó cùng bốn hảo hán ở Thiếu Hoa Sơn, chia quân ra làm ba đội kéo về Lương Sơn Bạc đi qua các dân xã, không hề xâm phạm của ai, khi về gần tới nơi, sai Đới Tung về sơn trại báo cho các Đầu Lĩnh biết. Tiều Cái nghe báo, bèn cùng các vị Đầu Lĩnh xuống núi đón lên Tụ Nghĩa Sảnh, rồi cùng nhau mở tiệc ăn mừng.
Ngày hôm sau Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, đều xuất tiền của riêng để làm việc tạ ơn Tiều Cái, Tống Giang rất là long trọng.
Trong khi yến tiệc, Tiều Cái nói với Tống Giang rằng:
- Tôi có một việc này, vì bấy lâu hiền đệ đi vắng, chưa đám thi hành, vả lại mấy hôm nay lại có bốn anh em mới đến ở đây, nên chưa tiện nói ra. Nguyên hôn trước Chu Quý lên bảo với tôi rằng: "Trong núi Mang Đãng, ở huyện Bái thuộc phủ Từ Châu, có một bọn cường nhân, tụ đến ba nghìn nhân mã ở đó, đầu đảng là một tiên sinh họ Phàn tên Thụy, biệt hiệu là Hỗn Thế Ma Vương, có tài gọi gió kêu mưa, dùng binh như thần vậy. Thủ hạ có hai người phó tướng, một người là Hạng Sung, biệt hiệu là Bát Tý Na Tra, tay cầm thanh gươm Thiết Liêu, lại có một cây đỏan bài, và khiến hai mươi bốn khẩu phi đao, trăm thước giết người, không sai một chút. Một người nữa, tên là Lý Cổn, biệt hiệu là Phi Thiên Đại Thánh, tay cầm một khẩu bảo kiêm, cũng dùng một lá đỏan bài khiến hai mươi bốn thanh gươm nhọn, giết người ngoài trăm thước mà cũng không hề sống sót một ai. Ba người đó kết làm anh em, chiếm khu núi đó cướp bóc kiếm ăn, và định đến đánh cả Lương Sơn Bạc ta đây.Tôi rất lấy làm bực tức, mà chưa có thể trừ ngay đi được."
Tống Giang nghe nói, hầm hầm nổi giận mà rằng:
- Tên đó lại dám vô lễ như vậy, để tiểu đêï đến đó một phen mới được.
Sử Tiến bèn đứng dậy nói với Tiều Cái, Tống Giang rằng:
- Bốn anh em tôi mới đến đây, chưa hề có một chút công lao, vây chúng tôi xin đem quân bản bộ, cùng với Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, từ giã Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh mà xuống núi kéo quân đi đánh.
Cách mấy hôm, đi đến một chỗ gần toà núi, Sử Tiến thở dài mà hỏi rằng:
- Quanh đây không biết chỗ nào là chỗ ông Cao Tổ nhà Hán, chém rắn khởi nghĩa khi xưa...
Nói đoạn ba người cùng thở dài mà ngơ ngẩn kéo đi. Khi tới địa phận núi Mang Sơn, Sử Tiến liền dàn quân thành trận thế, có ba Đầu Lĩnh là Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân đứng đằng sau.
Được một lát trên núi Mang Đãng có một đoàn nhân mã kéo xuống, có ba vị hảo hán đi đầu, một người là Hạng Sung, khiến lá đỏan bài, lưng dắt hai mươi bốn khẩu phi đao, tay hữu chống tiêu sang, mặt sau có lá cờ hiệu đề bốn chữ "Bát Tý Na Tra"; Một người là Lý Cổn, cũng khiến lá đỏan dài, lưng dắt hai mươi bốn thanh gươm nhọn, tay hưu chống kiếm, phía sau cũng có một lá cờ hiệu, trên viết bốn chữ "Phi Thiên Đại Thánh".
Nguyên hai người đó ở trên núi, nghe báo có quân mã đến đánh liền kéo tiểu lâu la xuống để chống cự. Khi xuống dưới núi, thấy Sử Tiến cùng ba hảo hán đương kìm ngựa đứng đợi ở đó, hai người bèn sai tiểu lâu la khua chiêng gõ trống, kéo xông ra đánh mà không hỏi han chi cả. Bên kia hậu quân của Sử Tiến, bị thua bỏ chạy, Sử Tiến liền thúc quân chống lại, và bọn Chu Vũ coi giữ trung quân để giúp đánh, rồi sau cũng chạy lui ra ngoài bốn mươi dặm. Trong khi lui chạy, Sử Tiến suýt nữa trúng phải phi đao, còn Dương Xuân luống cuống bị một phát phi đao đâm vào chân ngựa, chàng liền bỏ ngựa mà chạy lấy thân cho thoát. Sau Sử Tiến điểm lại nhân mã mất đến quá nữa, chàng lấy làm lo sợ toan sai người về cầu cứu ở Lương Sơn.
Đương khi lo nghĩ vẫn vơ, thì chợt thấy quân sĩ báo rằng:
- Về con đường phía Bắc có một toán nhân mã, ước chừng hai nghìn người kéo đến. Bọn Sử Tiến nghe báo bèn đem ngựa ra nom, thì thấy bóng cờ Lương Sơn phất phới rồi có hai viên Thượng Tướng là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, và Kim Ban Sang Từ Ninh dẫn quân đi đến.
Sử Tiến tiếp đón Hoa Vinh, Từ Ninh, thuật chuyện võ nghệ của Hạng Sung, Lý Cổn cho hai người nghe.
Hoa Vinh nói rằng:
- Tống Công Minh Ca Ca thấy Huynh trưởng đi rồi trong lòng lấy làm áy náy không yên, bèn cho chúng tôi đến đây để giúp.
Bọn Sử Tiến nghe nói cả mừng, liền họp quân vào một chỗ để đóng trại. Sáng hôm sau, đương kéo quân ra đánh, bổng thấy quân sĩ vào báo rằng:
- Con đường bên Bắc lại có một toán nhân mã nữa kéo đến.
Hoa Vinh, Từ Ninh, cúng lên ngựa ra xem, thấy Tống Công Minh cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Sài Tiến, Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Mục Hoằng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn ba nghìn nhân mã kéo đến.
Sử Tiến đem chuyện thua thuật lại cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói, lấy làm cả kinh. Ngô Dụng liền khuyên đem quân hạ trại, rồi sẽ bàn định. Tống Giang nóng tính, toan tiến binh bắt đánh ngay, liền kéo binh đến gần núi để xem.
Bấy giờ trời đã gần tối chợt thấy trên núi Mang Đãng có bóng đèn lồng sắc xanh, Công Tôn Thắng bèn nói với mọi người rằng:
- Trong trại giặc thắp đèn xanh thế kia, tất nhiên là có người biết dùng phép thuật yêu tà, vậy chúng ta hãy lui quân ra xa, để sáng mai tôi hiến một phép có thể bắt được mấy người ấy.
Tống Giang cả mừng, truyền lui quân hai mươi dặm để hạ trại, đợi sáng hôm sau phá trận Ma Vương.
Mới hay:
Trông tan thương những chạnh lòng
Trách ai tham cái má hồng mà chi
Vẻ gì một chút tình si,
Thành tan nước mất tội thì tại ai?
Thương thôi lại giận cho đời,
Trăm năm bao hết giống người vô lương?
Có chăng nhờ bút văn chương
Đem tranh chính nghĩa làm gương cho đời.
Lời bàn của Thánh Thán:
Theo tục bản chép một đoạn văn, Lỗ Trí Thâm cứu Sử Tiến thô bỉ đến nổi không muốn đọc, lại lạ cho tác giả sao ngọn bút tồi thay? Khi gặp cổ bản, mới phục nguyên văn tả được thế này? Ta mới than: Văn chương nảy tự trong lòng một ngày của ta, mà truyền đến tay người đời xem mãi, thế nhân chưa thể biết, mà truyền tay nhân thế mãi, ta lại không nhận được, khi đó văn chương không thể nói ra, chỉ tiếp tục bản chép như thế, khiến cho độc giả không thể rơi lệ buồn rầu về nổi văn chương?
Một đoạn tả ngăn thuyền ở Vị Hà, trước tả Chu Đồng, Ngô Dụng đứng đầu thuyền, làm một tổng đề, rồi sau chia làm hai bức, một bức tả Ngô Dụng nói chuyện với quan tiếp khách, rồi chuyển ra Tống Giang, Tống Giang ra Chu Đồng, Chu Đồng chuyển ra trên bờ, có Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, đó một dạng thanh thế; một bức tả Tống Giang cùng Thái Úy vấn đáp, rồi chuyển ra Ngô Dụng, Ngô Dụng lại chuyển đến Lý Ứng, Lý Ứng lại chuyển ra trên sông có Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đó một dạng thanh thế, rồi sau đến bức thứ ba, tả Tống Giang, Ngô Dụng nhất tề làm ra để tổng kết lại, chương pháp đã tề chỉnh lại biến hoá, thực chẳng phải chỉ viết qua loa.
Cực tả Quan Thái Thú Hoa Châu là người gian hoạt, để mà rõ cớ bắt được Sử Tiến, Lỗ Đạt hai phen thích khách không thành, thế mà đọc đấy lại không thấy dấu vết chỗ nào là bổ tả, đã tự khiến người ta tưởng thấy lúc ấy với việc ấy, xét chẳng phải có bổ tả rõ mới là bổ tả, lại là một phép bổ tả của văn chương.
Sử Tiến một lời than ở núi Mang Đãng, cũng ám dụng việc xưa, thời Nguyễn Tạ không ai anh hùng...áng gọi rằng nên sâu chí của Đại Lang, đối với việc thua ở Mang Sơn, chỉ làm một phép giao chuyển của văn chương cho nảy Công Tôn Thắng chứ đừng vị thế mà tiếc cho chí Đại Lang.
Hồi 59
Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép;
Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên.
Tống Giang lui quân đóng trại, rồi sáng hôm sau Công Tôn Thắng bàn với Tống Giang rằng:
- Nay ta nên bày trận Bát Quái, theo như thế trận bằng đá, của Gia Cát Khổng Minh đời trước...Trận ấy có bốn mặt tám phương, chia làm tám tám sáu mươi tư đội, khoảng giữa có viên Đại Tướng coi, thế trận bày ra bốn đầu tám đuôi, quanh bên tả, vòng bên hữu, then Trời Đất gió mây, dựa đúng hổ, chim, rồng, rắn, đợi khi bọn kia xuống núi, thì hai bên mở ra cho họ thẳng xông vào trận, rồi cứ nom hiệu cờ Thất Tinh mà biến ra thế Trường Sà. Bấy giờ tôi sẽ dùng phép để đánh khiến cho bọn họ quanh trước quanh sau, hết đường tiến thoái, không khác chi hãm vào trong hố rồi ta sẽ cho quân cầm dây móc mắc sẵn ở đó mà bắt lấy ba tướng, như thế thì có cơ tất thắng không sai.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền truyền cho các Tướng theo lệnh mà làm. Lại sai tám viên Tướng tài, là Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Hoa Vinh, Từ Ninh, Mục Hoằng, Tôn Lập, Sử Tiến, Hoàng Tín, coi giữ mặt trận; Sài Tến, Lã Phương, Quách Thịnh, tạm giữ Trung quân; Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng dẫn Trần Đạt để vẫy cờ ra hiệu, còn Chu Vũ dẫn năm tên quân sĩ đến chỗ gò cao gần núi, để nom thấy trận bên kia mà báo trước.
Ngày hôm đó, vào khoảng giờ Tỵ, các quân mã kéo đến gần núi bày nên thế trận, rồi rung trống khua cờ để khởi đánh. Được một lát thấy trên núi Mang Đãng có tiếng thanh la dậy đất, rồi thấy ba đầu binh dẫn hơn ba nghìn nhân mã kéo nhau xuống núi.
Khi xuống tới nơi, đều dàn thành thế trận, Hạng Sung, Lý Cổn đứng bên tả hữu, còn Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cỡi con ngựa đen đứng giữa trước cửa trận. Phàn Thụy tuy biết dùng phép yêu quái song không thuộc trận thế ra sao, khi trông thấy trận của Tống Giang thì trong bụng mừng thầm rằng:"Chúng bày trận như thế, là mắc kế ta rồi... "
Nghĩ đoạn liền truyền lệnh cho Hạng Sung, Lý Cổn nếu thấy ngọn gió nổi lên, thì dẫn năm trăm tay đao thủ mà sát vào trong trận. Hai người được lệnh, thì sắp sẵn đỏan bài, cùng các quân khí, để đợi khi Phàn Thụy làm phép mà cùng xông vào.
Bấy giờ Phàn Thụy ngồi trên mình ngựa, tay tả cầm Lưu Tinh Đồng Chùy, tay hữu chống Hỗn Thế Ma Vương Bảo Kiếm, trong miệng lẫm nhẫm đọc mấy câu thần chú rồi quát lên một tiếng "Mau". Chợt thấy một trận cuồng phong rung động; đá chuyển cát bay, trời mờ đất ám, trên bóng Thái Dương bỗng dưng mờ tối, rồi Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm trăm đao phủ, reo hò ầm ĩ mà sấn vào trong trận Tống Giang.
Quân mã Tống Giang thấy vậy, liền rẽ ra hai bên, cho Hạng Sung, Lý Cổn xông vào. Khi đó tên đạn bên trận Tống Giang bắn ra như mưa, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ dẫn được bốn năm mươi tên đao phủ đi vào, còn thì phải chạy về bản trận.
Tống Giang thấy hai người đã vào gần đến giữa trận, liền sai Trần Đạt phất cờ Thất Tinh ra hiệu, cho quân sĩ biến thành thế trận Trường Sà, Hạng Sung, Lý Cổn ở giữa trận, xông bên đông đột bên tây, quanh bên tả vòng bên hữu, không sao tìm được lối mà đi, Chu Vũ đứng trên gò cao cầm cờ ra hiệu, hễ hai người chạy về bên nào thì quay ngọn cờ mà trỏ về bên ấy.
Đương khi đó, Công Tôn Thắng cũng đứng trên gò cao trông thấy như vậy, liền rút thanh kiếm Tùng Văn Cổ Địch ra tay, rồi miệng đọc thần chú mà quát lên một tiếng "Mau". Đoạn rồi thế trận cuồng phong kia, cứ theo chân Hạng Sung, Lý Cổn mà cuốn hoài không dứt.
Hạng Sung, Lý Cổn ở trong vòng trận, chỉ thấy trời mờ đất tối, gió thổi ào ào, bốn mặt mênh mông toàn thị hắc khí, quân mã không thấy chút gì nữa, mà những tay đao phủ cũng không thấy đâu hết thảy, hai người thấy vậy, trong lòng sợ hãi kinh hoàng, hết sức tìm đường tháo chạy mà không sao tìm được.
Đương khi xung đột kinh hoàng, bỗng thấy nổ một tiếng sấm rất to, rồi hai người đều bắn vào trong hố, không sao dậy được. Đoạn rồi có người đưa thừng móc ra trói Hạng Sung, Lý Cổn lại để đem nộp Tống Giang.
Tống Giang đứng trên gò cao, cầm roi ra lệnh cho tam quân kéo tràn sang để đánh. Phàn Thụy thấy vậy, bèn kéo quân thua chạy về núi, ba phần quân mã, thiệt mất đến quá nửa phần. Tống Giang thu quân cùng các Đầu Lĩnh trở về trướng.
Bấy giờ quân lính giải Hạng Sung, Lý Cổn về đến dưới trướng. Tống Giang trông thấy vội cởi trói cho hai người, rồi nâng chén rượu mà nói rằng:
- Hai vị tráng sĩ tha lỗi cho tôi, trong khi chiến trận tất phải như thế mới được...Tôi là Tống Giang được nghe tiếng ba các ngài đã lâu, cũng toan mời về sơn trại để cùng nhau tụ nghĩa, song chưa có dịp nào mà nói ra cho tiện. Nay nhân được gặp nhau đây, nếu các ngài có lòng hạ cố, mà cùng nhau về chốn Lương Sơn, thì thực là vô cùng hân hạnh cho chúng tôi.
Hai người kia nghe nói liền lạy rạp xuống đất mà rằng:
- Chúng tôi nghe tiếng Cập Thời Vũ đã lâu, ngờ đâu ngài quả có lòng đại nghĩa như vậy. Anh em chúng tôi thực cưỡng với trời, nay bị bắt đến đây là dẫu chết cũng chưa đáng tội. Nay ngài lại rộng lòng tha thứ đi cho chúng tôi sẽ xin hết sức hết lòng để mà báo đáp. Bây giờ một mình Phàn Thụy không có chúng tôi cũng không làm gì được, song nếu các ngài rộng phép cho chúng tôi cho một người trở về, thì tôi xin rủ Phàn Thụy đến đây lập tức, để đầu hàng dưới trướng chẳng hay các ngài nghĩ sao?
Tống Giang nói rằng:
- Các ngài bất tất phải lưu lại nơi đây, xin cứ về cả cho chúng tôi xin sẵn lòng đợi đây để đón tiếp.
Hai người đều lạy tạ mà rằng:
- Ngài thực là bậc Đại Trượng Phu hiếm có, nếu Phàn Thụy không đầu hàng thì chúng tôi xin bắt về dâng dưới trướng.
Tống Giang nghe nói cả mừng, mời vào Trung quân thiết đãi cơm rượu; rồi sai lấy quần áo mới cho hai người mặc, chọn hai cỗ ngựa tốt cho hai người cưỡi, và sai tiểu lâu la lấy gươm bài ra, trả lại cho hai người về núi, hai người ra đi đều lấy làm khâm phục Tống Giang mà ngợi khen không dứt miệng.
Khi về tới núi Mang Đãng, Phàn Thụy trông thấy lấy làm cả kinh liền hỏi đầu đuôi ra sao? Hạng Sung, Lý Cổn bảo với Phàn Thụy rằng:
- Anh em chúng ta là trái với trời, thực chưa hết tội...
Phàn Thụy ngạc nhiên hỏi rằng:
- Sao anh em lại nói như vậy?
Hai người liền đem nghĩa khí của Tống Giang mà nói cho Phàn Thụy nghe, Phàn Thụy nói rằng:
- Tống Công Minh đã có lòng đại nghĩa như vậy, chúng ta không nên trái cưỡng với Trời, Sáng mai ta nên lập tức đầu hàng mới phải.
Hai người nói:
- Chúng tôi trở về đây, cũng vì việc đó mà thôi. Nay đã đồng tâm như vậy, thì xin thu xếp mau đi.
Nói đoạn cùng nhau thu thập hết cả sơn trại, rồi sáng hôm sau cùng nhau kéo đến bái yết Tống Giang. Khi tới nơi ba người lạy rạp xuống đất.Tống Giang liền đỡ dậy, mời vào cùng nói chuyện.
Ba người thấy Tống Giang ra lòng thân mật, không chút gì ra vẻ hiềm nghi, thì cùng nhau vui ve bội phần, và đem hết chuyện bình sinh mà thuật lại cho mọi người cùng biết, và mới các vị Đầu Lĩnh lên chơi núi Mang Đãng để giết ngựa mổ trâu thiết đãi, cùng là khao thưởng tam quân. Khi yến ẩm xong Phàn Thụy bái Công Tôn Thắng làm thầy, Tống Giang liền lập Công Tôn Thắng làm giáo chủ, để truyền Ngũ Lôi Thiên Tâm Chính Pháp cho Phàn Thụy. Phàn Thụy lấy làm cảm tạ vui mừng vô hạn.
Cách mấy hôm sau bọn Phàn Thụy thu nhặt lừa ngựa tiền nong, đốt bỏ sơn trại, rồi theo Tống Giang về cả Lương Sơn. Khi về gần tới Lương Sơn đang sắp sẳn quân mã qua đò về núi, thì bổng thấy một hảo hán đến trước mặt Tống Giang cúi rạp xuống đất lạy rằng.
Tống Giang thấy vậy liền xuống ngựa đỡ dậy, mà hỏi rằng:
- Túc hạ là ai? ở đâu tới đây? Chúng tôi không được biết ...Người kia nói rằng:
- Chúng tôi họ Đoàn tên Cảnh Trụ, người ta thấy tóc đỏ râu vàng, nên người ta thường gọi là Kim Mao Khuyển. Nguyên tôi quán ở Trác Châu, bình sinh kiếm ăn bằng nghề trộm ngựa ở mạng Bắc, tới mùa xuân năm nay qua núi Sơn Can lấy được con ngựa rất quý toàn trắng như tuyết, suốt mịn không có một cái lông nào khác sắc; Từ đầu chí cuối vừa dài được một trượng, từ lưng tới móng cao tám thước hơn, một ngày có thể đi được nghìn dặm, vẫn có tiếng là Chiến Dạ Ngọc Sư Tử xưa nay. Con ngựa đó nguyên chúng tôi lấy của con vua Đại Kim, thả ở trên núi Sương Can, định đem làm lễ mừng để yết kiến ngài đây...Bất đồ đi qua chợ Tăng Đầu phía tây nam Lăng Châu, bị đám Tăng Gia Ngũ Hổ sấn ra cướp lấy. Bấy giờ chúng tôi có nói dối rằng:
- Con ngựa này của Tống Công Minh ở Lương Sơn Bạc, để hòng chúng trả lại cho. Ai ngờ chúng nghe nói, lại giở những lời thô bỉ hỗn hào, không thể nào chịu được, bởi vậy tôi phải vội vàng trốn về đây, để báo cho mọi người biết.
Tống Giang thấy người đó, tóc đỏ râu xoắn, không phải là tay thường tục, liền có ý vui thầm trong bụng mà bảo rằng:
- Nếu vậy hãy xin mời về sơn trại, rồi ta sẽ thương nghị sau.
Nói đoạn mời Đoàn Cảnh Trụ xuống thuyền, để cùng về sơn trại.Khi thuyền về gần tới bến Kim sa, Tiều Cái dẫn các Đầu Lĩnh ra đón vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi Tống Giang bảo Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, và Đoàn Cảnh Trụ, đến chào hỏi các vị Đầu Lĩnh trong sơn trại, mà cùng vào dự tiệc với nhau. Bấy giờ Tống Giang sai Lý Vân, Đào Tôn Vượng đốc thúc thợ thuyền, làm thêm phòng ốc, cùng các trại, để cho các Đầu Lĩnh mới đến ở.
Đoạn rồi Đoàn Cảnh Trụ nhắc đến con ngựa Ngọc Sư Tử, Tống Giang bèn phái Đới Tung ra chợ Tăng Đầu, để tham thính tin tức.
Cách bốn hôm sau, Đới Tung trở về báo với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Trên chợ Tăng Đầu có tới ba nghìn nhà ở, trong đó có một nhà gọi là Tăng Gia Chủ, chủ nhà nguyên là người nước Đại Kim, tên Tăng Trưởng, sinh được năm người con, gọi là Tăng Gia Ngũ Hổ(năm con hổ nhà họ Tăng). Người con lớn tên là Tăng Đồ, thứ hai là Tăng Mật, thứ ba là Tăng Sách, thứ tư Tăng Khôi, thứ năm Tăng Thăng, lại có một ông giáo sư là Sử Văn Cung, và một ông phó giáo sư là Tô Định, cung nhau tụ năm bảy nghìn lâu la họp ở chợ Tăng Đầu, làm nhà đóng trại, chế sẳn hơn năm mươi cổ xe tù, thề cùng sống chết với bọn Lương Sơn Bạc, và thế nào cũng bắt hết bọn Lương Sơn mới nghe. Con ngựa Ngọc Sư Tử đó, thì hiện nay để cho giáo sư Sử Văn Cung cởi...Có một điều nữa rất đáng giận là chúng nó tung ra mấy câu hát, dạy cho trẻ con hát trong chợ suốt cả ngày, nghe ra thực thống thiết. Chúng hát rằng:
Lay động thiết hoàn linh,
Quỹ thần đều kinh sơ.ï
Xe sắt cùng khoá sắt:
Dưới trên có chốt đanh.
Quét sạch Lương Sơn lấp Thủy Bạc;
Dong cổ Tiều Cái về Đông Kinh.
Bắt sống Cập Thời Vũ,
Trói chặt Trí Đa Tinh.
Họ Tăng có năm hổ
Thiên hạ nức uy danh.
Tiều Cái nghe đến đó, đùng đùng nổi giận mắng rằng:
- Quân súc sanh vô lễ đến thế ...tôi phải đi phen này, nếu không bắt được chúng, xin thề không về núi nữa. Phen này chỉ xin cắt hai nghìn nhân mã, và hai mươi Đầu Lĩnh xuống núi giúp tôi, còn các vị Đầu Lĩnh xin ở nhà coi trại với Tống Công Minh.
Nói đoạn liền cắt Lâm Xung, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, Mục Hoằng, Trương Thuận, Dương Hùng, , Thạch Tú, Tôn Lập, Hoàng Tín, Yến Thuận, Đặng Phi, Âu Bằng, Dương Lâm, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Bạch Thắng, Đỗ Thiên, Tống Vạn, công tất cả hai mươi Đầu Lĩnh dẩn ba quâ xuống núi đi đánh. Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh, đều đưa chân đến bến Kim Sa, để nâng chén rượu tiễn hành.
Đương khi nâng chén qua hà, bổng có một trận cuồng phong đưa đến, thổi gãy ngay ngọn cờ quân lệnh của Tiều Cái mới chế ra. Mọi người trông thấy đều kinh ngạc, biến hẳn ngay sắc mặt đi.
Ngô Học Cứu Can Tiều Cái rằng:
- Ca Ca vừa mới ra quân, bỗng ngọn gió thổi gãy cờ, như thế là điều bất lợi, vậy xin Ca Ca hãy lui quân vào trong trại vài bữa, rồi sẽ ra đi...
Tiều Cái nói rằng:
- Trời đất có khi mưa khi gió, lấy gì làm lạ!Bây giờ đương dạo mùa xuân ấm áp, nếu không thừa thế, khử trừ nó đi, thì còn đợi đến bao giờ nữa? Việc này xin chớ ngăn trở, thế nào tôi cũng xin đi một phen mới được.
Ngô Dụng nghe nói đành phải lặng yên cho Tiều Cái ra đi. Khi Tiều Cái đi rồi, Tống Giang liền quay về sơn trại, sai Đới tung xuống núi đi theo, để thăm dò tình thế.
Hôm đó Tiều Cái dẩn năm nghìn quân mã, cùng hai mươi vị Đầu Lĩnh đến chợ Tăng Đầu, liền đóng trại đối với trại giặc bên kia. Ngày hôm sau Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh cưỡi ngựa đi ra chợ Tăng Đầu, để thăm nom địa thế,
Đương khi đó, bỗng thấy trong rừng liền có một toán nhân mã ước chừng bảy tám trăm người kéo ra, có một anh hảo hán là Tăng Khôi con thứ tư Tăng Gia đi đầu, quát lên rằng:
- Lũ bay là quân giặc cỏ, làm loạn vùng Lương Sơn, ta đương toan đến để tróc nã ...Nay trời lại rung rủi cho bay đến đây, thì thực là tiện lắm...Bay không xuống ngựa chịu trói ngay đi, còn đợi đến bao giờ nữa?
Tiều Cái nghe nói cả giận, quay đầu lại toan gọi người ra đánh, thì đã thấy một người xông ngựa ra để đánh nhau với Tăng Khôi. Người này nguyên là một người bắt đầu kết nghĩa từ khi mới đến Lương Sơn, tức Báo Tử Đầu Lâm Xung đó. Lâm Xung đánh nhau hơn mười hiệp, Tăng Khôi liệu thế không địch nổi, liền cắp giáo quay ngựa chạy về rừng, Lâm Xung thấy vậy cũng kềm ngựa lại, mà không đuổi theo.
Tiều Cái liền dẩn quân mã về trại để bàn cách đánh phá.
Lâm Xung bàn rằng:
- Ngày mai dẩn binh ra chợ mà khơi đánh, để xem tình hình thực hư thế nào, rồi ta sẽ liệu.
Tiều Cái khen phải mà nghe lời. Sáng hôm sau dẩn cả năm nghìn quân mã, ra khu đất rộng trước cửa chợ Tăng Đầu, bày thành trận thế gỏ mõ khua chiên mà gọi đánh.
Bấy giờ trong chợ Tăng Đầu nghe có tiếng trống hiệu nổi lên, rồi thấy đại đội nhân mã kéo ra dàn trận, có bảy vị hảo hán đứng đầu: Khoảng giữa là giáo sư Sử Văn Cung, phía trên là phó giáo sư Tô Định, phía dưới là con trưởng Tăng Gia tên là Tăng Đồ, bên tả thì Tăng Mật, Tăng Khôi, bên hữu thì Tăng Thăng, Tăng Sách. Bảy người này đều nai nịch nghiêm chỉnh, coi rất oai vệ. Giáo sư Sử Văn Cung, lưng đeo cung tên, mình cưỡi ngựa Thiên Lý Ngọc Sư Tử, tay cầm một cây Thiên Phương Hoạt Kích, rõ ra một tướng anh hùng.
Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì bên Tăng Gia đẩy ra một xe tù ra trước mặt, rồi Tăng Đồ chỏ mắng bọn Tiều Cái rằng:
- Quân giặc cỏ phản bội nhà nước kia, có thấy cỗ xe của ta đó không?Chúng Ta đây nếu không giết chết chúng bây, thì không phải là tay hảo hán, nay ta vớ được đứa nào là bắt sống đứa ấy để đem nhốt vào xe tù, mà mang nộp Kinh Sư, thế mới rõ là tay Ngũ Hổ ở Tăng Gia. Nếu bay có biết điều thì xuống ngựa mà chịu trói trước đi, thì ta sẽ liệu giảm tội đi cho...
Tiều Cái nghe nói tức giận, múa gươm thúc ngựa thẳng xông ra đánh Tăng Đồ, rôi các tướng nhất tề cũng xông ra để đánh, đôi bên đánh nhau lộn bậy một hồi, quân mã Tăng Gia vừa đánh vừa lui vào trong thôn.
Lâm Xung, Hô Duyên Chước xung đột đánh theo, sau thấy đường sá hiểm trở không lối, liền thu binh kéo về trại.
Hôm đó hai bên đánh nhau, đều thua mất nữa nhân mã, mà không định được thua ra sao. Khi trở về trong trại, Tiều Cái lấy làm lo nghĩ băn khoăn.
Các tướng can rằng:
- Ca Ca phải nên tỉnh tâm, chớ lo nghĩ chi cho mệt nhọc. Trước đây Tống Công Minh ra trận, vẫn bị thua luôn, sau cũng được toàn thắng trở về...Và ngày nay hai bên đánh nhau đều có thiệt hại cả, mình cũng không đến nổi thua kém gì, Ca Ca phải nghĩ... .
Tiều Cái nghe vậy, trong lòng vẫn lấy làm ngay ngáy không vui. Sau đó luôn ba ngày đêm quân ra chợ khơi đánh, mà không thấy một ai.
Ngày hôm thứ tư bổng có hai nhà sư, đi thẳng vào sơn trại để xin chào Tiều Cái, Chúng dẩn vào tới nơi, hai người quỳ trước mặt Tiều Cái mà nói rằng:
- Chúng tôi là Giám Tự ở chùa Pháp Hoa mé bên hông chợ Tăng Đầu, nhân bị Tăng Gia Ngũ Hổ, thần thường đến quấy nhiễu trong chùa và sách nhiểu lấy tiền nong của cải rất là khó chịu. Vả chúng tôi ở đây đã lâu, biết rỏ được tình thế của họ, vậy xin đến đây để hiến Đầu Lĩnh một kế, mà cướp trại đêm nay, để khử trừ họ đi, thì thực là may cho dân chúng.
Tiều Cái nghe nói cả mừng, liền mời hai nhà sư ngồi, và rót rượu để thiết. Khi đó Lâm Xung can rằng:
- Ca Ca chớ nên nghe vội, vì trong đó không khéo có kế lừa cũng nên...
Tiều Cái nói nói rằng:
- Người ta là kẻ Thái Úy hành, có khi nào lại nỡ nói càng nói bậy...Bọn Lương Sơn ta xưa nay vốn theo đường nhân nghĩa, đi đến đâu không hề quấy nhiễu lương dân, vậy thì hai người này có thù hằn gì với ta mà nở nói dối? Vả chăng bọn Tăng Gia vị tất đã đánh được nổi quân của ta, còn can chi mà phải nghi ngại? Việc nay xin anh em chớ nên rùi rắn mà lỡ mất chuyện to, đêm nay ta phải đi mới được ...
Lâm Xung có ý can mà rằng:
- Nếu Ca Ca quyết định đi, thì tôi xin chia nữa quân mã đến cướp trại, còn Ca Ca tiếp ứng ở ngoài.
- Nếu tôi không đi thì ai chịu ra sức, hiền đệ giữ một nữa quân ở bên ngoài tiếp ứng, để tôi vào cướp trại cho.
- Ca Ca định mang ai đi cùng?
- Tôi định lấy hai nghìn nhân mã và mười vị nhân Đầu Lĩnh để vào cướp trại.
Nói đoạn liền gọi Lưu Đường, Hô Duyên Chước, Nguyễn Tiểu Ngũ, Yến Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Tiểu Thiên, Bạch Thắng, Tống Vạn, chỉnh điểm nhân mã, đợi chiều hôm đó đến cướp trại. Đêm hôm đó trời vừa sẩm tối, cơm nước xong rồi, ba quân đều ngậm tăm im phắc, ngựa tháo nhạc ra, rồi cùng hai người thầy chùa, mà kéo vào chùa Pháp Hoa.
Khi tới nơi, Tiều Cái xuống ngựa đi vào, thấy quả nhiên là một khu chùa cổ, mà không có sư mô ở đó, liền hỏi hai người sư kia rằng:
- Đây là một nơi chùa lớn, mà sao không có pháp sư ở đây?
Nhà sư đáp rằng:
- Nhân vì mấy đứa súc sinh nhà họ Tăng quấy nhiểu, nên các sư đều sợ hãi mà bỏ đi cả, duy còn có sư phụ và mấy người đồ đệ thì ở tháp viện trong kia...Xin Đầu Lĩnh tạm nghỉ nhân mã đây, rồi canh khuya tôi sẽ đưa tới trại chúng.
- Trại chúng ở chỗ nào?
- Chúng nó có bốn trại, song bên bắc là chỗ anh em họ Tăng đóng binh, nếu đánh được chỗ đó, thì trại bên kia phá dễ như chơi.
- Đợi lúc nào thì đi?
- Bây giờ mới canh hai, xin đợi đến canh ba sẽ đi.
Bấy lâu nổi tiếng giang hồ,
Một phen phó mặc cơ đồ cho ai?
Hết thân chưa dứt chuyện đời,
Gươm thù còn gửi lại người nước non...
Bấy giờ Tống Giang thấy Tiều Cái mất, thì trong lòng lấy làm thảm thiết, cất tiếng khóc nức nở, không khác gì cha mẹ mất vậy.
Các Đầu Lĩnh thấy vậy đều dìu Tống Giang ra để chủ trương các việc.
Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng khuyên Tống Giang rằng:
- Ca Ca chớ nên phiền não cho lắm người ta sống chết bởi tại mệnh trời, dẩu than khóc cũng không làm chi được nữa. Vậy xin Ca Ca hãy lý hội việc lớn là hơn.
Tống Giang nghe nói liền gạt nước mắt, rồi sai lấy nước hương hoa tắm cho Tiều Cái, khâm liệm áo xiêm tử tế, mà đưa ra Tụ Nghĩa Sảnh.
Các Đầu Lĩnh đều đến đó mà khóc lóc làm lễ, rồi sai đóng quách, chọn ngày lành tháng tốt mà đưa ra chính sảnh, đặt linh sàng viết bài vị mấy chữ "Lương Sơn Bạc Chủ, Thiên Vương Tiều Công Thần Chủ" để thờ.
Các vị Đầu Lĩnh trong sơn trại cùng Tống Giang trở xuống; đều ăn mặc đại tang, còn các tiểu đầu mục cùng các tiểu lâu la cũng chít khăn để tang.
Lâm Xung đem mũi tên thề ở trước linh sàng Tiều Cái, rồi sơn trại dựng cành phan, thỉnh các sư ở chùa gần đó, về làm chay siêu thoát cho Tiều Thiên Vương.
Từ đó hàng ngày Tống Giang lại dẩn các vị Đầu Lĩnh đến trước linh sàng khóc lóc, không có bụng nào nghĩ đến việc sơn trại. Lâm Xung cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và các vị Đầu Lĩnh bàn nhau tôn Tống Giang lên làm chủ, để coi giữ hiệu lệnh trong sơn trại.
Sáng hôm sau thiết bày vị hương hoa đền nến, rồi Lâm Xung dẩn các Đầu Lĩnh mời Tống Giang ra ngồi ở Tụ Nghĩa Sảnh mà nói rằng:
- Dám bẩm Ca Ca, trong nước không thể một ngày không có vua, trong nhà không thể một ngày không có chủ. Nay Tiều Đầu Lĩnh đã hết mệnh chầu trời, công việc ở trong sơn trại, không thể không có người chủ trương được. Vậy Ca Ca là một người đại nghĩa anh tài trong thiên hạ không ai là không biết tiếng, vậy chúng tôi xin chọn ngày lành tháng tốt, để mời Ca Ca lên làm chủ sơn trại, cho anh em được cùng theo hiệu lệnh của Ca Ca mới được.
Tống Giang từ chối mà rằng:
- Khi Tiều Thiên Vương sắp nhắm mắt có dặn lại rằng: "Ai bắt được Sử Văn Cung thì cho làm chủ Lương Sơn Bạc"Điều đó các Đầu Lĩnh ai ai cũng biết. Vậy nay tên thề vẫn còn để kia, có lẽ nào đã quên được hay sao? , vả chăng chưa ai báo cừu rửa hận cho xong, có khi nào đã ở ngôi ấy được?
Ngô Học Cứu nói rằng:
- Đã đành Tiều Thiên Vương nói vậy, song việc sơn trại không thể một ngày không có chủ được, nếu Ca Ca không nhận ngôi ấy, thì các Đầu Lĩnh toàn là những kẻ dưới, cọn ai dám nhận mà làm? Vả chăng anh em đây phần nhiều toàn thị tâm phúc của Ca Ca, chắc cũng không ai dám dị nghị vào đó, vậy xin Ca Ca hãy tạm quyền ít lâu, rồi sau này sẽ liệu.
Tống Giang nói rằng:
- Quân sư dạy thế cực phải, nay tôi xin quyền tạm ở đây, ngày sau ai bắt được Sử Văn Cung, thì xin nhường vào vị đó.
Bấy giờ Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đứng bên cạnh kêu lên rằng:
- Ca Ca làm Đại Tống Hoàng Đế cũng được, cử gì chủ một Lương Sơn Bạc này.
Tống Giang cả giận quát lên rằng:
- Thằng đen lại đến đó mà nói nhắng ...còn nói câu nữa thì ta cắt lưỡi đó.
Lý Quỳ nói:
- Tôi có bảo Ca Ca đừng làm đâu? Tôi mời Ca Ca làm Hoàng Đếù mà cũng cắt lưỡi..? Ngô Học Cứu nói rằng:
- Ca ca là một người không biết thời thế, nói làm chi ta hãy xong việc lớn đã.
Nói đoạn Tống Giang đốt hương xong, rồi Lâm Xung, Ngô Dụng mời Tống Giang lên ngồi ghế chính giữa, phía trên có Ngô Dụng, phía dưới có Công Tôn Thắng; dãy bên tả có Lâm Xung làm đầu, dãy bên hữu có Hô Duyên Chước làm đầu, còn các thue lĩnh theo thứ tự mà ngồi.
Khi các thủ lỉnh vái chào cùng ngồi yên vị rồi Tống Giang nói rằng:
- Ngày nay tôi tạm quyền chủ vị ở đây, dám xin anh em hết lòng hết sức ràng buộc lấy nhau, để cùng thay trời làm Đạo, Trong sơn trại hiện nay, nhân mã đông đúc, công việc bộn bề, không phải tầm thường như ngày trước. Vậy xin anh em chia ra làm sáu trại để đóng. Tụ Nghĩa Sảnh lại đổi là Trung Nghĩa Đường, trước sau tả hữu xin đặt bốn trại trên bộ, sau núi làm hai trại con, trước cửa núi ba toà quan ải, dưới núi một trại thủy quân, hai bên có hai trại nhỏ, cùng chia nhau canh giữ các nơi, Trung Nghĩa Đường thì tôi tạm giữ ngôi chủ, rồi thứ nhì đến quân sư Ngô Ngọc Cứu, thứ ba đến pháp sư Công Tôn Thắng, thứ tư đến Hoa Vinh, thứ năm đến Tần Minh, Thứ sáu đến Lã Phương, thứ bảy đến Quách Thịnh; trong tả trại thứ nhất thì Lâm Xung, thứ nhì Lưu Đường, thứ ba Sử Tiến, Thứ tư Dương Hùng, thứ năm Thạch Tú, thứ sáu Đỗ Thiên, thứ bảy Tống Vạn; Trong trại hữu quân thứ nhất Hô Duyên Chước, thứ nhì Chu Đồng, thứ ba Đới Tung, thứ tư Mục Hoằng, thứ năm Lý Quỳ, thứ sáu Âu Bằng, thứ bảy Mục Xuân; Tiểu trại thứ nhất Lý Ứng, thứ nhì Từ Ninh, thứ ba Lỗ Trí Thâm, thứ tư Võ Tòng, thứ năm Dương Chi, thứ sáu Mã Lân, thứ bảy Tri An; Hậu trại thứ nhất SÀi Tiến, thứ nhì Tôn Lập, thứ ba Hoàng Tín, thứ Tư Hàn Thao, thứ năm Bàng Dĩ, thứ sáu Đặng Phi, thứ bảy Tiếc Vĩnh. Trong trại thủy quân thứ nhất Lý Tuấn, Thứ nhì Nguyễn Tiểu Nhị, thứ ba Nguyễn Tiểu Ngũ, Thứ Tư Nguyễn Tiểu Thất, thứ năm Trương Hoành, thứ sáu Trương Thuận, thứ bảy Đồng Uy, Đồng Mảnh. Sáu trại cộng bốn mươi ba viên Đầu Lĩnh.
Tước cửa quan lần thứ nhất do Lôi Hoành Phàn Thụy Giữ. Cữa quan thứ hai do Giả Trân, Giải Bảo giữ, cữa quan thứ ba do Hạng Sung, Lý Cổn giữ. Tiểu trài ở bến Kim Sa sai Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ, cùng Khổng Minh, Khổng Lượng coi, tiểu trại ở bến Aùp Chủy giao cho Lý Trung, Chu Thông, Trâu Uyên, Trâu Thuận giữ. Hai tiểu trại đằng sau núi có Dương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh và Tào Chính, bên hữu có Chu Vũ, Trần Đạt Dương Xuân coi giữ. Trong Trung Nghĩa Đường về dãy phòng bên tả có Tiêu Nhượng coi việc văn thư, Bùi Tuyên coi việc thưởng phạt, Kim Đại Kiện coi việc ấn tín, Tưởng Kinh coi việc tính toán tiền nong; Dãy bên hữu có Lăng Chấn coi việc tiền nong, Mạnh Khang coi việc đóng thuyền, Hầu Kiện coi việc chế mũ giáp. Đào Tôn Vương coi việc xây dựng thành quách. Còn các người ở Trung Nghĩa Đường, thì có Lý Vân coi việc dựng nhà cửa, Thăng Long đốc thúc thợ rèn, Chu Quý coi việc chế rượu chè, Tống Thanh coiviệc cỗ bàn yến tiệc. Đỗ Hưng Bạch Thắng coi sóc các đò vặt vãnh. Ngoài núi làm bốn ngôi tữu điếm nguyên giao cho bọn Chu Quý, Nhạc Hoà, Thời Thiên, Lý Lập, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương chia giữ, còn Dương Lâm Thạch Dũng, Đoàn Cảnh Trụ thì chuyên việc mua lừa ngựa về phía bắc.
Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh lớn nhỏ ở Lương Sơn Bạc, đều nhất làm theo lệnh Tống Giang, mà không hề có điều chi ngang trái.
Sáng hôm sau Tống Giang lại họp các vị Đầu Lĩnh mà bàn rằng:
- Lẽ ra ta nên vì Tiều Thiên Vương mà đem quân đi đánh Tăng Đầu Thị để báo thù ngay lập tức. Song hiện nay trong lúc cư tang, ta kinh động như thế, thì là bất tiện. Vậy xin để ra ngoài trăm ngày, rôi sẽ cử binh đi đánh, cũng không lấy gì làm chậm trễ... .
Các Đầu Lĩnh nghe lời đều lui ra coi giữ sơn trại, và ngày ngày lại đón thầy làm chay niệm phật để tịnh độ siêu sinh cho Tiều Cái.
Một hôm có một vị có pháp danh là Đại Viên, Nguyên là pháp chủ trong chùa Long Hoa, tại phủ Đại Danh Thành Bắc Kinh, nhân đi vân du qua mạn Lương Sơn, bọn Lương Sơn liền đón và để làm chay, cúng Phật; Trong khi trò chuyện Tống Giang hỏi đến nhân vật cùng phong thổ ở Bắc Kinh.
Nhà sư hỏi Tống Giang rằng:
- Đầu Lĩnh không biết ông Ngọc Kỳ Lân ở đất Hà Bắc hay sao?
Tống Giang nghe nói, chợt nghĩ ra, liền nói với nhà sư rằng:
- Ngài nom chúng tôi chưa già, có bao giờ quên được việc ấy. Trong thành Bắc Kinh Viên Ngoại họ Lư tên Tuấn Nghiã, biệt hiệu là Ngọc Kỳ Lân, đứng vào hạng Tam Kiệt ở Bắc Hà đấy... Ông ta võ nghệ cao cường, côn quyền không ai địch nổi, nếu ở Lương Sơn Bạc có được ông ấy, thì trong bụng tôi không lo nghĩ một điều chi nữa.
Ngô Dụng nghe nói cười mà rằng:
- Ca Ca can chi nói những câu bất đắc chi như vậy? Nếu muốn được người ấy lên núi, thì có khó gì?
Tống Giang nói rằng:
- Ông ta là một trưởng giả bậc nhất ở Bắc kinh.
Xưa nay tôi vẫn nghĩ đến luôn, vì dạo này bận rộn nên lãng quên đi mất... tôi chỉ thi hành một kế cỏn con thì khả dĩ đưa được người ấy lên đây ngay có ngại gì?
Tống Giang nghe vậy, khen ngợi Trí Đa Minh, và hỏi xem kế sách ra sao?
Mới hay:
Anh hùng đứng giữa trần ai,
Tri âm đâu dể lọt ngoài mắt xanh?
Nặng lòng kẻ tử người sinh,
Nước bèo tan hợp chút tinh dể quên.
Mong cho chung thủy vẹn tuyền,
Thắt dày liên lạc làm duyên giang hồ.
Máu riêng chung đúc một lò,
Ra tay gánh lấy cơ đồ xem sao?
Lời bàn của Thánh Thán.
Đọc Thủy Hử theo tục bản, đến chỗ này, thấy bỗng đâu hết ý, không hiểu rõ ra, tới khi đọc đến cổ bản, mới ngậm ngùi than: Hỡi ôi khéo thay; văn chương hay đến bậc này!
Xét từ trước Tiều Cái muốn đi đánh Chúc Gia Trang thì Tống Giang đón lấy, can rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không động; Tiều Cái muốn đánh Cao Đường, Tống Giang cũng lại khuyên rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không nên khinh động; cho tới đánh Thanh Châu, đánh Hoa Châu, Tống Giang đều một điệu nói ấy, đón lấy mà đi.
Sao đến đánh Tăng Đầu Thị, thì Tiều Cái quyết đi, Tống Giang lặng im không nói câu nào, Tống Giang chẳng ngăn, mà Tiều Cái đã chết vì việc đó, ta đây cũng chẳng biết sự thực ra sao? Song theo quân tử mà xem thư pháp, suy đến tình trạng, dẫn chuyện Hứa Thế Tử chẳng nếm thuốc qua để đoán việc ngục, thì Tống Giang đã giết Tiều Cái, quyết không dung thứ, đó chẳng phải mũi tên của Sử Văn Cung, mà thực ra chết ở trên tay Tống Giang vậy, cũng chẳng phải là Tống Giang biết rõ năm hổ ở chợ Tăng Đầu, có thể giết chết Tiều Cái mà chẳng đem binh cứu viện, vì Tiều Cái chết chẳng phải Tống Giang nghĩ biết tới, song lẽ Tiều Cái chết thì hay cho Tống Giang, chẳng phải chỉ ngày ấy mà nghĩ tới. Ta biết đó vì sao? Vì Tiều Cái mỗi khi muốn hạ sơn, Tống Giang lại đón ngăn đi, Tống Giang không muốn Tiều Cái hạ sơn kia, là chẳng muốn Tiều Cái có sơn trại nữa, lại chẳng muốn mọi người coi có Tiều Cái nữa, đã chẳng muốn Tiều Cái còn sơn trại nữa, thì sơn trại phải một sớm sẽ không còn của Tiều Cái, Tống Giang cả mừng; lại chẳng muốn mọi người coi có Tiều Cái, thì Tiều Cái tuy chưa chết ở trong tay Sử Văn Cung, song đã chết ngay ở trên tay mọi người trên sảnh dưới sảnh không hưởng ứng lời, đâu phải chỉ một ngày mà thôi vậy, như thế, ngày nay Tiều Cái chết ở tay Sử Văn Cung đã dư cái chết từ trước, cái chết của Tiều Cái vốn lâu rồi, thế mà Tiều Cái đến chết mới kinh hoảng, là thấy ở trên tay Sử Văn Cung của Tăng Gia Ngũ Hổ, vì Tống Giang thấy Tiều Cái ra đi, rồi đến chết, mà đành vậy. Cho nên từng khuyên đừng đánh Chúc Gia Trang, đừng đi đánh Cao Đường, đừng đi đánh Thanh Châu, Hoa Châu... thì đủ biết rằng đi đánh Tăng Gia thì cũng phải khuyên rồi, thế mà tác giả đối với những trận trước thì chép ra Tống Giang khuyên, đến lần này, chép bỏ sự khuyên đi, cho rõ cái ác tâm của Tống Giang để định tội vậy. Đó là thâm ý của tác giả, dùng ngòi bút kỳ quan chép sử, cho rõ cong ngay, nếu không đọc cổ bản, thì không thấy rõ.
Suốt thiên này đều dùng ngòi bút tả ra, cho rõ tội Tống Giang, muốn giết Tiều Cái, như gió thổi gãy cờ, chỉ một Ngô Dụng can thôi, đó là một tội; Đới Tung đi thám thính, giấu chuyện về báo, hai tội vậy; Năm tướng cứu chết, còn mọi người chỉ biết mình, ba tội vậy; Sao chủ soái sa, mọi người chẳng đổi về, bốn tội vậy; chỉ biết khóc lóc, không lo thuốc thang, năm tội vậy; Tiều Cái để lại lời thề, mà rằng chẳng quái, sáu tội vậy; Vội lên ngôi lớn, sắp đặt khác đi, bảy tội vậy; Bỏ mặc tang chế chẳng báo thù ngay, tám tội vậy; Thù lớn chưa xong, gặp thầy tăng rỗi bàn, chín tội vậy; Bỏ chết Thiên Vương, bắt sống Kỳ Lân, mười tội vậy.
Hồi thứ hai tả Thiếu Hoa Sơn, hồi thứ tư tả Đào Hoa Sơn, hồi mười sáu tả Nhị Long Sơn, hồi ba mươi mốt tả Bạch Hổ Sơn, đến hồi này tóm thâu hết lại, thực là kỳ bút, thế mà còn hiềm rằng cùng giống nhau, cùng giống nhau như sao? Như bày tất cả con cờ, đến kết cục cùng thu lại cả. Sau đọc đến thiên này, lại có thêm một Hỗn Thế Ma Vương, trước chưa từng có, bỗng đâu nảy ra, gặp một sự hư này, cùng với bốn sự thực kia, vậy sau biết đến văn chương có phép tương cứu vậy.
: Á Nam Trần Tuấn Khải
Hồi 60
Lừa Ngọc Kỳ Lân Ngô Dụng lập mẹo:
Quấy Kim Sa Đọ Trương Thuận trổ tài
Khi đó Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Tôi xin dùng ba tấc lưỡi vào tới Bắc Kinh, thuyết cho Lư Tuấn Nghĩa, đi đến Lương Sơn thực dể như thò bàn tay vào trong túi lấy đồ vật vậy. Song phải có một số người nào mặt mũi kỳ quái đi với tôi thì mới được.
Ngô Dụng vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ kêu to lên rằng:
- Quân sư Ca Ca cho tôi đi với...
Tống Giang quát mắng rằng:
- Anh đi không được, có phải là việc đốt nhà giết người, cướp kho phá phủ, thì mới dùng đến anh, còn việc này phải cẩn thận vững vàng, mà tính khí anh như thế, thì đi làm sao được?
Lý Quỳ nói rằng:
- Lần nào cũng thế, ông bảo tôi xấu... chê tôi...không cho tôi đi...
Không Phải là chê, nhưng ở trong phủ Đại Danh bọn do thám rất nhiều, nếu lỡ ra họ biết, thì uổng mạng không?
- Không cần, Nếu tôi không đi, thì chắc cũng chả người nào trúng ý quân sư được.
Ngô Dụng bảo Lý Quỳ rằng:
- Nếu ngươi y được ba điều này, thì ta cho đi, bằng không thì cứ ngồi yên ở nhà đó...
Lý Quỳ đáp rằng:
- Đến ba mươi điều tôi cũng y được cả, cứ gì ba điều.
Ngô Dụng nói rằng:
- Điều thứ nhất là tánh ngươi nóng nảy như lửa, từ nay phải bỏ rượu đi, rồi trở về mới được uống; điều thứ hai, khi đi đường phảiû ăn mặc giả làm đạo đồng theo ta; hễ ta bảo câu gì không được ngang trái. Còn điều thứ ba thì khó lắm đây. Bắt đầu từ ngày mai trở đi ngươi không được nói phải giả làm thằng câm vậy...Có y được ba điều đó; thì ta sẽ cho đi.
Lý Quỳ lắc đầu đáp rằng:
- Không uống rượu cũng được, tôi xin vâng cả. Duy bắc tôi không được nói, thì khổ chết tôi mất.
Người há miệng ra lại sinh sự lôi thôi, không được.
Lý Quỳ vỗ tay mà rằng:
- Được rồi, tôi ngậm tay vào miệng là được rồi ...
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều cười ầm cả lên.
Đoạn rồi trong sơn trại đặc ngay tiệc tiễn hành ngay chiều hôm ấy. Đến sáng hôm sau Ngô Dụng sắp sửa hành lý, cho Lý Quỳ ăn mặc giả làm đạo đồng, quảy gánh xuống núi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh đưa chân Ngô Dụng ra bến Kim Sa dặn dò cẩn thận về việc trông coi Lý Quỳ rồi mới cùng nhau về trại.
Người cùng Lý Quỳ đi trong mấy hôm, Ngô Dụng bị Lý Quỳ cằn nhằn rất là khổ sở. Cách mấy hôm đi đến thành Bắc Kinh, hai người tìm vào hàng trọ. Chiều hôm đó Lý Quỳ xuống làm cơm, không biết làm sao đến tên tiểu nhị ở hàng cơm, đỗ cả máu mồm máu mũi ra.
Tên tiểu nhị liền mách với Ngô Dụng rằng:
- Tên đạo đồng cửa ngài dữ tợn quá chừng. Tôi đốt lữa khí chậm một chút, mà hắn đến tôi hộc cả máu mồm ra đây.
Ngô Dụng dỗ dành tên tiểu nhị, đưa đền cho mươi quan tiền để yên chuyện đi, rồi mắng trách Lý Quỳ suốt đêm hôm ấy.
Sáng hôm sau dậy sớm cơm nước xong rồi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ vào phòng mà dặn rằng:
- Ngươi là quá cố sống chết đòi đi, rồi đi đường cẳn rẳn suốt ngày, thực là khổ cho người ta ...Ngày nay vào thành, không phải chuyện chơi, ngươi đừnh làm uổng chết mạng người ta mới được.
Lý Quỳ nói rằng:
- Làm gì tôi không biết mà phải dặn... .
Ngô Dụng lại nói rằng:
- Bây giờ ta có một ám hiệu này, nươi phải nhớ mới được. Hễ khi nào ta lắc đầu, thì ngươi không được cựa động gì đấy...
Lý Quỳ gật đầu dâng lời, rôi hai người cùng thay hình đổi dạng mà vào thành, Ngô Dụng đội cái khăn sa gần đến mi mắt, mình mặc áo đạo phục lụa trắng viền đen, thắc lưng màu rực rỡ, đi đôi giày vải mũi vuông tay cầm cái chuông đồng con con. Lý Quỳ kết tóc làm hai trái đào ở trên đầu, mặc áo rộng ngắn bằng vải thường, thắc lưng tua ngắn, đi đôi giày tồi tàn, quảy một mẩu gỗ, treo giấy cáo bachf lên trên, viết mấy chũ "Xem số đoán vận, mỗi quẻ lạng bạc".
Hai thầy trò ăn mặc xong, rồi cùng nhau vào cửa thành Bắc Kinh. Bấy giờ đương hồi trộm cướp rất nhiều châu huyện cũng đều phòng bị rất nghiêm ngặt cả. Gia dĩ ở đây là một nơi phồn hoa đệ nhất ở Bắc Hà, lại có quan Lương Trung Thư thống lãnh đại binh ở đó, nên sự canh phòng lại càng cẩn thận hơn các nơi.
Ngô Dụng và Lý Quỳ đi vào cửa thành, thấy có bốn năm mươi tên lính đứng hầu một ông quan coi thành ở đó. Ngô Dụng bèn chạy đến chắp tay vái chào.
Quân sĩ liền hỏi rằng:
- Nhà thầy ở đâu tới đây? Ngô Dụng đáp:
- Tôi họ Vương tên Dụng, tên đạo đòng này họ Lý, hai thầy trò đi đoán số kiếm ăn, nay định đến quý quạân đây, xem ai có lòng muốn xem số mệnh, thì tôi xin đoán giúp.
Nói đoạn giở quyển văn số ra để dẩn cho chúng xem.
Bọn lính bảo Ngô Dụng rằng:
- Thằng đạo đồng nhà thầy, trông hai con mắt nó như thằng ăn cướp thế kia...
Lý Quỳ nghe nói toan sừng sộ lên. Ngô Dụng vội lắc đầu cho Lý Quỳ im đi, rồi nói với bọn lính rằng:
- Các ngài không biết, chúng tôi thật là khổ quá, thằng bé này vừa câm vừa điếc, chỉ được cái sức khoẻ hơn người, vả chăng là con cháu trong nhà, nên bất đắc dĩ phải mang nó đi, mà thực nó chẳng biết một chút gì cả, xin các ngài tha lỗi cho.
Nói đoạn vái chào mà đi. Lý Quỳ tập tễnh theo sau, bước thấp bước cao cùng đi vào lối chợ.
Ngô Dụng lắc chuông loong coong miệng đọc rằng:
Nhan Hồi chết sớm vì đâu?
Để ông Bành Tổ sống lâu ngót nghìn.
Cam La sớm đã uy quyền,
Tử Nha đầu bạc mới nên tướng tài.
Phạm Đang nghèo khổ nhất đời,
Thạch Sùng giàu có bới trời xui nên.
- Đó là thời vận mà mệnh trời đó. Ai muốn biết vận mạng một đời, sang hèn sống chết, thì xin cho một lạng bạc.
Nói đoạn lại lắc chuông loong coong mà đi. Tụi trẻ con ở thành Bắc Kinh có năm mươi đứa chạy theo, vừa cười vừa nói ầm ĩ cả lên.
Ngô Dụng đi qua cửa nhà Lưu Viên Ngoại lúc ấy đương cùng chủ quản ngồi giải ở trong nhà, nghe ngoài phố có tiếng huyên náo ầm ầm. Liềm gọi người nhà lên hỏi rằng:
- Trên phố xá có việc gì mà ầm ầm lên thế?
- Bẩm ngài, có chuyện buồn cươi quá: Ngoài phố có một thầy số ở đâu mới đến, đòi mỗi quẻ lấy một lạng bạc, thì ai có tiền mà xem? Ông ta lại có một thằng đạo đồng đi sau, trông rất nghe tởm, hết đi rồi lại lại, chúng tôi không sao mà nhịn cười được.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Họ nói đắc như vậy, chắc là họ biết rộng, bay ra đón vào đây ta xem.
Tên người nhà quay ra bảo Ngô Dụng rằng:
- Tiên Sinh ôi! Viên Ngoại cho mời tiên sinh vào.
Ngô Dụng hỏi:
- Viên ngoại nào mời tôi?
Ông Lư Viên Ngoại mời thầy đấy.
Ngô Dụng liền cùng với đồng đạo, theo tên người nhà vào. Khi vào đến đầu nhà Ngô Dụng chõ chỗ ghế ở đó, cho Lý Quỳ ngồi đợi, rồi vào chào Lư Tuấn Nghĩa.
Lư Tuấn Nghĩa đứng chào Ngô Dụng rồi hỏi rằng:
- Tiên sinh quý tính cao danh là gì?
Ngô Dụng đáp:
- Tôi họ Vương tên Dụng, biệt hiệu là Thiên Khẩu, nguyên quán ở đất Sơn Đông, biết số Hoàng Cực Tiên Thiên, rõ được sự sống chết, hèn sang trong một đời người. Mỗi quẻ cứ đủ một lạng bạc, thì tôi mới đoán.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, mời Ngô Dụng vào ngồi cái gác nhỏ ở nhà trong, rồi sai người pha nước uống. Đoạn rồi gọi người nhà lấy lên một lạng bạc đặt quẻ, và nhờ Ngô Dụng đoán số giúp cho.
Ngô Dụng hỏi:
- Năm nay ngài bao nhiêu tuổi? Sinh ngày tháng nào?
Lư Tuấn Nghĩa đáp:
- Thưa thầy tôi chỉ hỏi việc dữ, không cần phải hỏi việc phú quý vinh hoa...Tôi năm nay ba mươi hai tuổi, sinh giờ Đinh mão, ngày Bính Dần, tháng Aát Sửu, năm Giáp Tý, xin ngài xem sự hành tàng sau này thế nào?
Ngô Dụng nghe đoạn lấy ra một con toán bằng sắt tính toán một lúc, rồi đập con toán kêu lên rằng:
- Quái lạ!
Lư Tuấn Nghĩa kinh ngạc hỏi rằng:
- Có việc gì, lành dữ thế nào, xin thấy cứ nói...
- Tôi nói cho đúng, chắc ngài lại cạnh lòng.
- Có can chi, chúng tôi chỉ nhờ tiên sinh, chỉ bảo đường mê, xin tiên sinh cứ nói cho.
- Cứ như cung mệnh của Viên ngoại, thì chỉ trong một trăm ngày nữa, tất có cái nạn đao huyết, gia tư cũng khó lòng giữ được, mà phải bị chết vì đao kiếm chứ không chơi!
Lư Tuấn Nghĩa cười mà rằng:
- Tiên sinh nói sai rồi, tôi ở đất Bắc Kinh, sinh trưởng vốn nhà hào phú, trong họ không có con trai nào phạm phép, trong nhà không có con gái nào hai chồng. Vả chăng tôi đây xưa nay tính nết cẩn thận, việc gì vô lý không làm, của nào phi nghĩa không lấy, lẽ nào ngày nay lại bị nạn đao huyết thế được?
Ngô Dụng nghe vậy biến sắc mặt, cầm trả tiền Lư Tuấn Nghĩa, rồi đứng phắt vậy thở dài mà rằng:
- Thiên hạ nguyên chỉ thích những người a dua xiểm nịnh cả... thôi, rõ ràng là "Chỉ đường trỏ lối cho hẳn hoi, lại cho nói thẳng là lời bất lương". Thối xin chào ngài tôi xin đi...
Lư Tuấn Nghĩa vội ôn tồn mà rằng:
- Sao Tiên sinh vội giận thế? Tôi nói đùa đó thôi... có can chi...? Xin Tiên sinh hãy thử lai để chỉ giáo cho tôi.
- Thưa ngài, xưa nay những lời nói thực vẫn khó tin...
- Thôi, Tiên sinh chớ vội giận, cứ nói cho tôi biết, thế nào tôi vẫn vâng lời dạy...
- Ngài phải biết trong cung số của ngài, nhất thiết điều gì cũng tốt. Duy năm nay phạm sao Tuế Quân, cho nên mới gặp hoạn nạn, như chỉ trong trăm ngày nữa; thì tất là đầu xác lìa nhau, không thể nào tránh được.
- Tiên sinh có cách gì khả dĩ thoát được chăng?
Ngô Dụng lại cầm con toán tính một lúc nữa, rồi nghĩ ngợi hồi lâu mà lẩm bẩm rằng:
- Phen này duy có đi về mạn Tốn Phương, ở về phía Đông Nam, chừng hơn ngàn dặm, thì may ra mới có thể thoát nạn được. Nhưng cũng có điều đáng sợ, duy không việc gì đến tính mạng mà thôi.
Lư Tuấn Nghĩa cảm tạ mà rằng:
- Nếu tôi được thoát nạn này sẽ xin hậu tạ Tiên Sinh.
Ngô Dụng nói:
- Tôi có bốn câu thơ đoán về cung số của ngài, xin đọc để ngài nghe. Ngài nên viết trên vách, rồi sau này nghiệm ra, mới biết tôi nói không sai.
Lư Tuấn Nghĩa gọi người nhà lấy nghiêng bút, rồi bảo Ngô Dụng đọc bốn câu thơ, mà tự viết trên vách vôi.
Ngô Dụng đọc bốn câu thơ rằng:
Lư hoa phơ phất chiếc thuyền bơi,
Tuấn kiệt dong chơi buổi tối trời,
Nghĩa đến khi cùng là số mệnh.
Phân minh lánh nạn dễ như chơi
Lư Tuấn Nghĩa viết xong, Ngô Dụng thu nhặt con toán, rồi vái chào đi ra.
Lư Tuấn Nghĩa nói rằng:
- Tiên sinh ở chơi ăn cơm rồi sẽ đi.
Ngô Dụng từ tạ rằng:
- Cám ơn Viên Ngoại, chúng tôi xin đi để đoán số, không thì trễ mất, để lần sau xin đến hầu ngài.
Nói đoạn quay gót đi ra. Lư Tuấn Nghĩa đưa chân ra đến cửa, rồi Ngô Dụng vái chào Lư Tuấn Nghĩa mà cùng Lý Quỳ trở về hàng cơm. Khi về tới hàng cơm, Ngô Dụng tính trả tiền hàng, thu dọn hành lý, rồi bảo với Lý Quỳ rằng:
- Công việc xong rồi, ta phải về ngay sơn trại, để sắp sửa đón Lư Viên Ngoại, chỉ nay mai là ông ta đến đó.
Nói đoạn hai thầy trò quảy hành lý mà trở về trên trại Lương Sơn.
Về phần Lư Tuấn Nghĩa, sau khi nghe lời Ngô Dụng đoán số, thì trong bụng lấy làm băn khoăn khó chịu, ngồi đứng không yên, chiều chiều thường vơ vẫn một mình ở trước cửa nhà, mà trông trời than thở. Một hôm chàng bối rối tâm trí không sao chịu được, liền cho gọi người Chủ Quản trong nhà đến dẻ bàn việc. Trong bọn chủ quản, có một người họ Lý tên Cố, nguyên quê ở đất Đông Kinh, sau vì đi đến Bắc Kinh tìm người quen không gặp, bị rét mướt nằm co ở trước nhà Lư Tuấn Nghĩa. Tuấn Nghĩa thấy vậy liền cứu vào nuôi ở trong nhà, rồi dần dần thấy tính nết cẩn thận chăm chỉ bèn giao cho trông coi các việc trong ngoài. Được dăm năm sau, Tuấn Nghĩa lại càng yêu mến cho làm một người chủ quản đứng đầu, mà giao quyền cho coi sóc cả nhà. Trong tay Lý Cố cai quản có tới bốn năm mươi người hành tài cùng quản cán, cho nên đám người nhà thường nịnh mà tôn gọi là Lý Đô Quản.
Hôm đó Lý Cố nghe Viên ngoại gọi, liền dẩn cả bọn thủ hạ đến hầu, Lư viên ngoại nom suốt một lượt, rồi hỏi rằng:
- Sao không thấy một người kia của ta ở đây?
Nói vừa dứt lời thì chợt thấy một người mình cao sáu thước, tuổi ngoại đôi mươi, lưng nhỏ vai rộng, ria mọc kín mồm, mình mặc áo sa trắng, lưng thắt lụa màng nhện đỏ, chân đi đôi giầy vàng, đầu đội khăn lòng rua, sau gáy có một đôi kim hoàn, bên tai cài bông hoa tứ quý, cùng chạy ra trước thềm để đứng hầu Viên Ngoại. Người này nguyên quán ở đất Bắc Kinh, từ thuở nhỏ cha mẹ đầu mất, Lư Viên Ngoại đem về nuôi, sau Viên Ngoại thấy chàng ta trắng trẻo đẹp đẽ, da như miếng tuyết, bèn gọi thợ trổ hoa vào khắp cả mình, chả kh1c nào trên cột ngọc đình, mà treo thêm những vẻ gấm hoa, không ai là không thấy làm thích mắt. Anh chàng này đàn địch múa hát cũng giỏi, nói năng chữ nghĩa cũng thông, thuộc đủ các thứ tiếng của bọn bán buôn chợ búa, lại tài giỏ về nghề quyền vũ, anh ta thường dùng cây nỏ Tứ Xuyên, và ba mũi tên ngắn để dong chơi ngoài nội, mỗi khi bắn ra tất phải trúng được một vật, tính người lại linh lợi nhanh nhẹn, hễ chuyện gì hơi hé miệng là anh ta biết được cả. Anh ta họ Yến tên Thanh, bài vai thứ nhất, người quen đó thường gọi anh ta là Lãng Tử Yến Thanh, vốn là một người tâm phúc của Lư Viên Ngoại xưa nay.
Bấy giờ Lý Cố đứng ở bên tả, anh ta chạy lên đứng vào phía bên hữu, rồi Lư Tuấn Nghĩa bảo với mọi người rằng:
- Mới đây ta xem một quẻ số, nói rằng trong trăm ngày nữa, tất phải gặp nạn đao huyết? Chỉ trừ ra xa lánh về phía Đông Nam, một nghìn dặm thì mới có thể thoát được. Ta tưởng về phía đó, chỉ có miếu thờ Thiên Tề Nhân Thánh Đế, ở núi Đông Nhạc Thái Sơn là nơi rất thiêng liêng chính trực, đã từng cứu nạn cho khắp nhân gian. Vậy ta muốn đi sang đó, một là để lễ cầu thoát tội, hai là tránh qua tai nạn nay mai, và ba là buôn bán loanh quanh để dạo xem phong cảnh các nơi, cho khuây lòng đôi chút? Nay Lý Cố sắp cho ta mười xe thái bình, xếp đủ các thứ hoa vật ở Sơn Đông, và thu xếp hành lý để cùng đi với ta, còn Yến Thanh tiểu ất ở nhà trông nom then khoá kho tàng cho cẩn thận, Lý Cố phải nên xếp đặt mau đi, chỉ trong ba ngày nữa là ta khởi trình đó.
Lý Cố đáp rằng:
- Sao chủ nhân lại nghĩ như vậy? Người ta thường nói là bói toán quàng xiên, chắc đâu tin được? Xin chủ nhân cứ yên nhà, có việc chi mà ái ngại?
Viên Ngoại nói:
- Đó là trong cung số ta, Trời định như vậy, ngươi chớ nên gàn trở, rồi bấy giờ lỡ ra, thì không còn hối kịp.
Yến Thanh bẩm rằng:
- Tôi nghe con đường đi sang Thái An Châu ở bên Sơn Đông, tất phải qua Lương Sơn Bạc, ở đó mới có một người tên là Tống Giang tụ họp bọn cường đạo để cướp bóc thôn dân, Quan Tư đã mấy phen tróc nã, mà không sao trị được. Vậy chủ nhân có muốn đi sang đó thì nên đợi lúc thái bình vô sự sẽ đi, chủ nhân chớ nên tin anh thầy số đó, không khéo nó lại là đồng đảng với bọn Lương Sơn; đến đây để lừa dối chủ nhân cũng nên. Tôi tiếc rằng lúc đó không có tôi ở nhà, để hỏi tiên sinh ấy mấy câu cho vỡ chuyện ra thì mới thú.
Lư Tuấn Nghĩa gạt đi rằng:
- Các ngươi đừng nói càn, ai dám đến đánh lừa ta? Mấy thằng giặc cỏ ở Lương Sơn thì thấm vào đâu, ta chỉ coi nó như cỏ rác mà thôi. Ta đương định đến bắt nó, để đem cái tài học võ nghệ bình sinh mà phô trương ra với thiên hạ, thế mới đáng là mặt đại trượng phu.
Chàng vừa mới nói dứt lời, thì người vợ là nàng Cổ Thị ở đằng sau bình phong chạy ra can rằng
- Xin phu quân nghe lời chúng là phải. Người ta thường nói sẩy nhà ra thất nghiệp, vậy can chi mà nghe anh thầy số, bỏ cả cửa nhà cơ đồ mà đem thân đến chốn hang hùm để buôn bán mà chơi? Chi bằng ở lại nhà đây, sửa lấy một thư phòng tĩnh mịch mà nằm khểnh cầu vui, tự khắc tai qua nạn khỏi, thế chẳng thú hơn sao?
Lư Tuấn Nghĩa cả quyết mà rằng:
- Ngươi là đàn bà con trẻ biết đâu đến đó, chủ ý ta đã định, bất tất phải nói lắm làm chi.
Yến Thanh lại nói rằng:
- Nếu vậy thì tôi nhờ phúc ấm chủ nhân cũng học được đôi món côn quyền, nay tôi xin đi hầu chủ nhân, ngộ lỡ ra gặp đám giặc cỏ quấy nhiễu, thì tôi cũng có thể đánh đuổi được dăm ba đứa, không ngại điều chi... Xin chủ nhân cho Lý Đô Quản ở nhà thì phải.
Lư Tuấn Nghĩa đáp rằng:
- Ta đây các việc buôn bán không được tinh thạo, phải để Lý cố đi để giúp ta, còn ngươi ở nhà, thì việc tính toán đã có người khác, ngươi cứ trông coi đó thôi...
Lý Cố bẩm rằng:
- Chúng tôi mấy bữa nay chân hơi đau đau, không chắc có đi xa được.
Lư Tuấn Nghĩa gắt lên rằng:
- "Nuôi binh nghìn ngày, cần dùng một lúc". Nay ta muốn đem ngươi cùng đi, ngươi chỉ xoen xoét kiếm đường từ chối là sao? Nếu đứa nào còn ngăn trở nữa, ta sẽ cho quả đấm cho biết mùi...
Lý Cố nghe vậy, ngây hẳn người ra, đứng nhìn Cổ Thị mà không dám nói chi nữa. Cổ Thị liền thủng thỉnh đi vào, rồi bọn người nhà cũng tan đi hết cả. Bấy giờ lui ra xếp dọn các đồ hành lý, cùng đồ hàng hoá, chọn mười cổ xe thái bình xếp hàng hoá lên xe, gọi mười tên phu gánh, và bốn năm mươi tên phu xe, để sắp sửa ra đi.
Hôm đó Lư Tuấn Nghĩa cũng sắp đặt chỉnh đốn, rồi đến ngày thứ ba, làm lễ thần, và gọi tất cả người nhà, mà dặn dò một lượt rất là cẩn thận.
Chiều hôm ấy, Lư Tuấn Nghĩa cho Lý Cố cùng hai người bạn đáng dẫn xe cộ đi trước, để đón ở ngoài thành. Cổ Thị thấy xe cộ đem ra, chỉ gạt nước mắt khóc thầm, mà không sao nói được.
Sáng hôm sau, Lư Tuấn Nghĩa dậy từ đầu trống canh năm, tắm gội xong thay hết quần áo mới, ăn cơm uống nước, lấy các khí giới, vào bái biệt từ đường, rồi quay ra ngoài cửa.,
Khi ra ngoài cửa chàng dặn dò Cổ Thị rằng:
- Tôi đi đây chầy ba tháng, mà chóng ra thì chỉ độ năm mươi ngày, là về ngay lập tức.
Cổ Thị vâng lời mà rằng:
- Trượng phu đi đó xin cẩn thận giữ gìn, thỉnh thoảng lại viết thơ về cho tôi biết.
Yến Thanh cũng sụt sùi rơi lệ mà bái biệt.
Lư Tuấn Nghĩa dặn rằng:
- Tiểu Ất ở nhà, việc gì ngươi cũng phải xem sóc đến nơi đến chốn, không nên hồ đồ mới được.
Yến Thanh vâng lời đáp lại rằng:
- Chủ nhân đi như vậy, chúng tôi ở nhà đâu dám trễ nải, xin chủ nhân cứ yên tâm...
Nói đoạn Lư Tuấn Nghĩa vác côn lên vai, mà từ biệt ra thành. Khi ra tới thành vừa gặp Lý Cố đón tiếp. Lư Tuấn Nghĩa liền bảo Lý Cố rằng:
- Ngươi nên dẩn hai người bạn đáng đi trước, thấy chỗ hàng nào sạch sẽ, thì bảo làm cơm nước sẵn sàng, để cho bọn phu xe đến đó cùng ăn một thể, cho khỏi mất thì giờ.
Lý Cố vâng lời, vác côn cùng hai người bạn đáng đi trước, rồi Lư Tuấn Nghĩa cùng mấy tên theo hầu dẩn xe cộ đi sau.
Lư Tuấn Nghĩa đi đường thấy nước non sáng sủa, đường lối thênh thang trong bụng lấy làm vui thích mà rằng: "Nếu ta núp ở mĩa trong nhà, thì bao giờ cho được nom thấy những quang cảnh vui thú như vậy?"
Đi được vài bốn mươi dặm đường, đã thấy Lý Cố đón vào hàng để ăn uống, rồi Lý Cố lại xin phép mà ra đi trước, khi Lư Tuấn Nghĩa ăn xong lại dẫn xe cộ đi, độ bốn mươi dặm đường, thì lại gặp Lý Cố đón tiếp vào hàng ăn uống và nghỉ luôn ở đó, để đến sáng mai ra đi.
Cách mấy hôm sau, một hôm đến trọ ở hàng kia, buổi sáng hôm sau cơm nước xong vừa toan sắp sữa ra đi thì thấy tên điếm Tiểu Nhị nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Thưa ngài, tôi xin nói để ngài biết rằng:
- Cách hai mươi dặm là phía trước núi Lương Sơn Bạc, trên núi có Tống Công Minh Đại Vương ở đó, Đại Vương tuy không làm hại đến ai, song ngài cũng phải yên lặng mà đi, chớ nên làm ầm ĩ lên mới được.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói liền cười mà nói rằng:
- Thế mà ta không biết.
Nói đoạn sai đầy tớ đem hòm áo đến, mở ra lấy lá cờ lụa trắng, hỏi tên điếm Tiểu Nhị, lấy bốn cái cán trục, buộc bốn lá cờ vào, và trên bốn lá đề bốn câu rằng:
Bắc kinh Lư Tuấn Nghĩa là đây,
Hòm vàng cháp ngọc qua chốn này.
Lấy hết vật lạ trên núi nọ,
Chất vào mười xe thái bình đây.
Lý Cố cùng bọn phu xe gánh thấy vậy, lấy làm kinh sợ, không hiểu tình ý ra sao?
Tên điếm Tiểu Nhị liền hỏi Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chẳng hay ngài có quen thân với Tống Đại Vương trên núi không?
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Ta là một nhà tài chủ ở đất Bắc Kinh, làm chi quen với lũ giặc ấy.Nay ta đến đây, ta định bắt thằng Tống Giang đó.
- Chết nổi! Ngài nói sẽ chứ, không có lại khổ đến chúng tôi... không phải là chuyện chơi, dẫu ngài có đến hàng vạn nhân mã, cx không gần họ được đâu!
- Thằng quái này, mày cx cùng một đảng đó phải không.
Tên Tiểu Nhị thấy vậy, bịt tai lại mà không dám nghe nữa, bọn phu xe cũng kinh người mà len lét cả một lượt.
Đoạn rồi Lý Cố cùng mấy người theo hầu cùng quỳ xuống mà nói rằng:
- Xin chủ nhân thương đến chúng tôi, để Chúng tôi được toàn tính mạng mà trở lại quê nhà, còn hơn là ngài làm trời làm đất ở đâu đâu...
Lư Tuấn Nghĩa quát lên rằng:
- Các ngưới biết gì, bọn chim chích ấy, địch sao được với Diều hâu mà sợ? Ta đây bình sinh học biết bao nhiêu võ nghệ, chưa có chỗ nào mà bán được, nay gặp có cơ hội ở đây, lại không đem ra mà bán, thì đợi đến bao giờ? Trong xe của ta có hàng hoá gì đâu, đó toàn thị là những thùng chảo đay gai, sắp sẵn để đó hễ lũ giặc kia, đứa nào vô phúc mà gặp phải tay ta, thì cứ mỗi đứa ta cho một nhát, rồi trói tất cả vất lên xe cho ta, hàng hoá không can chi cả. Cứ trói chúng nó đem về kinh để lấy thưởng, thì mới bỏ cái chí bình sinh của ta. Các ngươi nếu đứa nào không đi, thì trước hết ta hãy đem chém các ngươi ở đây cả.
Nói đoạn sai dàn bốn cỗ xe đi trước, mỗi xe cắm một lá cờ lụa trắng, còn sáu xe nữa lục tục đi sau, bọn Lý Cố sụt sụt sùi không ai dám trái, đành phải vâng lời đi cho xong việc.
Lư Tuấn Nghĩa lấy thanh đao ra cầm trên đầu gậy, chêm chặt cẩn thận rồi dẫn xe đi thẳng qua lối Lương Sơn.
Bọn Lý Cố thấy đường đi ghập ghềnh cao thấp, thì đi được một bước lại kinh sợ một bước, duy Tuấn Nghĩa thì cứ hăm hở tiến lên, không hề quảng ngại chi cả.
Mấy người đi từ sáng sơm cho đến lúc giờ Tý, trông thấy xa xa có một khu rừng lớn, những cây lớn hơn ôm, không biết đến mấy nghìn mà kể. Đi một lúc nữa đến cạnh khu rừng, chợt nghe tiếng còi thổi véo von, Lý Cố cùng mọi người kinh sợ hải hùng, run lên nhung nhúc.
Lư Tuấn Nghĩa bắt dàn xe ra một bên, bọn phu xe cùng mọi người đều nấp cả vào dưới xe, mà len lét kêu khổ với nhau.
Lư Tuấn Nghĩa quát lên rằng:
- Hễ ta chém chết thằng nào, thì chúng bây trói lại cho ta...
Nói chưa dứt lời, thì chợt thấy trong rừng có tới năm sáu mươi tên lâu la đổ ra. Đoạn rồi nghe tiếng thanh la khua ầm cả lên, và lại có tới bốn năm trăm tiểu lâu la chặn lấy lối sau.
Lại nghe thấy trong rừng có một tiếng nổ đánh đoàng, rồi thấy có một hảo hán tay cầm song phủ quát lên rằng:
- Lư Viên Ngoại còn nhớ đứa đạo đồng câm hay không?
Bấy giờ Lư Tuấn Nghĩa sịch nhớ ra, liền quát lên rằng:
- Ta định đến bắt bọn cường đạo chúng bây đã lâu...Nay ta đã đến đây, hãy bảo Tống Giang xuống lạy hàng ngay lập tức, bằng không thì một giờ nữa sẽ chết hết, không còn sống sót móng nào...
Tên đạo đồng câm là Lý Quỳ cả cười mà rằng:
- Viên Ngoại ôi! Nay ông bị Quân sư tôi an bài như thế rồi, ông lên núi mà ngồi vào ghế chéo kia thôi.
Lư Tuấn Nghĩa cả giận múa đao xông vào đến Lý Quỳ, Lý Quỳ cũng múa song phủ lên đến lại. Hai người đến nhau chưa được ba hiệp, Lý Quỳ liền nhảy ra ngoài vòng, quay ngoắt vào rừng mà chạy thẳng. Lư Tuấn Nghĩa liền vác đao sấn vào để đánh.
Lý Quỳ ẩn bên Đông núp bên Tây chạy vài bước, đứng vài bước, làm cho Lư Tuấn Nghĩa phát cáu lên, cố tìng đuổi cho kỳ được. Lý Quỳ lại chạy quá vào trong rừng, rồi lẩn đi đâu mất.
Lư Tuấn Nghĩa đuổi mãi vào trong không thấy một ai, bèn hầm hầm tức giận mà quay trở ra. Đương khi đó lại thấy trong rừng có một toán người kéo đến, trong đó một người kêu to lên rằng:
- Viên Ngoại không nên chạy nữa, mấy khi đã đến chốn này, hãy đứng lại mà xem ta đây.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, liền quay lại nom, thì thấy một ông sư phệ bụng, mình mặc áo xống tràng, tay cầm thuyền trượng lững thững đi ra.
Lư Tuấn Nghĩa quát lên rằng:
- Anh này là sư ở đâu thế?
Nhà sư cả cười mà đấp rằng:
- Tôi là Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm, vâng lệnh Quân Sư đến đón Viên Ngoại đi lánh nạn đây?
Lư Tuấn Nghĩa nổi giận thét mắng rằng:
- À, ra thằng trọc này vô lễ quá, nói đoạn múa đao vào đánh Lỗ Trí Thâm, Lỗ Trí Thâm cũng múa thuyền trượng để chống cự, ...
Đôi bên đánh nhau chưa được ba hiệp, Lỗ Trí Thâm liền gạt đao ra rồi rảo bước kéo chạy.Lư Tuấn Nghĩa vác đao đuổi theo.
Đuổi được mươi bước thì thấy Võ Tòng ở trong đám lâu la múa hai khẩu giới đao, chạy ra kêu lên rằng:
- Viên Ngoại cứ theo tôi đi, là sẽ tránh khỏi sự đao huyết.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, lại bỏ Lỗ Trí Thâm mà xông vào đánh với Võ Tòng. Võ Tòng đánh nhau vài hiệp, rồi cũng bỏ chạy nốt.
Lư Tuấn Nghĩa cả cười mà rằng:
- Lũ bây làm gì được ta không bõ đuổi hoài hơi...
Nói vừa dứt lời thì thấy ở bên sườn núi có người nói lên rằng:
- Lư Viên Ngoại ôi! Đừng nói khoác nữa, Quân Sư đẫ bày mẹo, để khuôn xếp đây, chẳng tránh thoát được đâu. Mà tưởng...Bây giờ sắt đã vào lò, bó tay chịu đi là phải Lư Viên Ngoại nghe nói, liền quay lại hỏi:
- Anh là anh nào?
Người kia lại cười mà đáp rằng:
- Tên tôi là Xích Phát Quỹ Lưu Đường đây ...
Lư Tuấn Nghĩa nổi giận mà mắng rằng:
- Quân giặc cỏ đừng xấc, bay chạy được chăng?
Nói đoạn xông đánh Lưu Đường. Vừa đánh được vài hiệp, thì có một người ở bên cạnh xông ra kêu lên rằng:
- Viên ngoại ôi! Có Mộc Già Lạn Mục Hoằng ở đây thường...
Nói đoạn cùng xông lại để đánh Lư Tuấn Nghĩa.
Bấy giờ, Mục Hoằng cùng Lưu Đường, đương múa đao đánh với Lư Tuấn Nghĩa, thì bỗng lại có một người nữa đến, Lư Tuấn Nghĩa cùng quát lên một tiếng. Lưu Đường cùng Mục Hoằng đều lui lại mấy bước, rồi lại cùng với người kia đều xông vào để đánh.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, vẫn ung dung điềm nhiên để đấu lại với ba người, không hề chút khó nhọc.Đương khi ấy chợt thấy trên đỉnh núi có tiếng thanh la nổi lên rồi ba người kia đều lừa cơ nhảy ra ngoài vòng mà chạy cả. Lư Tuấn Nghĩa thấy chúng chạy cũng không đuổi làm chi liền quay lại chỗ bên đường, để tìm xe cộ cùng người nhà.
Khi quay lại tới nơi thấy mất cả xe lẩn người không còn sót chút gì, chàng lấy làm ngạc nhiên kinh lạ, liền trèo lên chõ gò cao mà trông khắp cả các mạn để tìm, chàng nom quanh nom quẩn, thấy về góc núi bên kia có một bọn lâu la, đương dong cái xe, và trói lũ Lý Cố dài dằng dặc một xâu mà đến trống khua la đưa về bên mạn rừng thông.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, liền sốt ruột như lữa nóng. Bèn vác đao chạy thốc sang để đuổi.
Vừa chạy khỏi góc núi, chừng mấy bước, thì bổng thấy Chu Đồng, Lôi Hoành xông ra quát lên rằng:
- Đi đâu thế này?
Lư Tuấn Nghĩa tức mình quát ầm ầm:
- Quân giặc cỏ này, muốn sống đem xe cộ cung người nhà trả lại ta đây, Chu Đồng vuốt râu cười ha hả mà rằng:
- Lư Viên Ngoại sao không hiểu thời thế như vậy, Quân Sư tôi đẫ định kế sẳn sàng còn đi đâu được? Chi bằng Viên Ngoại lên ngồi vào ghế chéo cho xong.
Lư Tuấn Nghĩa tức giận không nói năng chi, liền múa đao xông vào đánh hai người. Chu Đồng, Lôi Hoành cùng đánh chừng vài ba hiệp rồi bỏ chạy cả.
Bấy giờ Lư Tuấn Nghĩa nghĩ thầm rằng: "Tất ta phải chém lấy một thằng, thì mới có thể lấy lại xe cộ được? "Nghĩ đoạn lại xông ra để đuổi.
Khi đuổi đến góc núi, lại không thấy hai người đâu, chàng lấy làm tức giận, không biết nghĩ sao cho được.
Chợt đâu nghe trên đỉnh núi có tiếng trống dóng sáo kêu, chàng ngẩn cổ lên nom, thấy một lá cờ vàng phất phới, trên đề bến chữ"Thế Thiên Hành Đạo"rất to. Chàng lại đi quanh xem, thì thấy có một bọn đến sáu bảy mươi người, đứng ở trên núi và có Tống Giang che tàn vàng đứng giữa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đứng ở hai bên, đều đồng thanh chào Viên Ngoại, rồi nói rằng:
- Chúc mừng Viên Ngoại được bình yên...
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, lại càng tức giận, chỏ lên núi mắng nhiết ầm lên.
Ngô Dụng đứng trên núi khuyên rằng:
- Viên Ngoại không nên quá giận, Tống công Minh tôi mộ danh ngài đẫ lâu, nên mới sai tôi đến tận nhà mời đón lên núi, để cùng nhau mà thay Trời làm Đạo, xin Viên Ngoại đừng bỉ thử làm chi...
Lư Tuấn Nghĩa càng giận, mắng luôn rằng:
- Quân giặc cỏ, tự nhiên vô cớ dám lừa ta đến đây...
Mắng chưa dứt lời thì thấy đằng sau Tống Giang có Tiêu Lý Quảng Hoa Vinh nhô ra, dương cung đặt tên, quát bảo Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Lư Viên Ngoại không nên cậy tài, hãy xem mủi tên thần của Hoa Vinh đây.
Nói xong, bổng nghe đánh tách một cái, rồi có mủi tên bắn đứt ngay cái tua đỏ ở trên mũ Lư Tuấn Nghĩa. Lư Tuấn Nghĩa giật mình cả kinh, bèn cắm đầu quay chạy. Chợt lại thấy trên núi trống dóng vang lừng, rồi có Tích Lịch Hỏa Tần Minh, Báo Tử Đầu Lâm Xung, dẩn một toán nhân mã phất cờ reo hò từ mạn bên Đông núi kéo đến; lại thấy Song Chiên
Tướng Hô Duyên Chước cùng Kim Sang Thủ Từ Ninh cũng kéo một toán nhân mã phất cờ reo hò từ phía Tây núi kéo sang. Lư Tuấn Nghĩa cuống lên, không có lối nào để chạy...
Bấy giờ mặt trời đã xế chiều, Lư Tuấn Nghĩa vừa mệt vừa đói hoang mang không kịp tìm đường, liền theo những lối nhỏ đường hẻm mà ra sức mãi miết để chạy...
Chàng chạy được một lúc thì trời đã nhá tối, ngẩn trông lên thì trăng khuất sao nhiều, khói sương mù mịt mà cúi nom xuống, bốn bề man mác, như bể tuyệt vời, thì không còn biết đâu là đường đi lối lại.
Chàng lại chạy một lúc nửa, thấy đường cùng lầy lụa khó đi, liền dừng lại để nom. Nom quẩn nom quanh, thấy trước mặt toàn thị nước trắng mênh mông, đầy bờ lau lách, đường đi cũng hết, lối lại cũng cùng, thì trong bụng lấy làm băng khoăn hối hận, ngửa trông lên trời, thở dài mà than rằng:
- "Chỉ vì ta nghe lời họ nói, mới xãy ra tai hoạ ngày nay!"
Đường lau bể nước mênh mông,
Anh hùng này nước cùng đường hỏi ai?
Ví chăng non nước ghen tài,
Thì tay kinh tế chẳng hoài lắm ru?
Đương khi phiền nảo vẫn vơ, bỗng trên bờ lại thấy một anh chài chèo chiếc thuyền con đếm gần đo, nhìn kỹ lên Lư Tuấn Nghĩa mà nói rằng:
- Ông nào mà to gan thế, đây là một chỗ của bọn Lương Sơn Bạc thường ra vào luôn luôn, thế mà đêm hôm khuya khoắt ông dám đến đó làm chi?
Lư Tuấn Nghĩa nghe hỏi, liền đáp rằng:
- Tôi đi lạc đường lỡ đến đây, không tìm được chỗ nghỉ, xin nhờ cứu tôi một chút.
Anh chài nói:
- Gần đây có một dãy phố, nhưng đi đường bộ, thì xa tới hơn mươi dặm, mà đường lối tào tạp, khó lòng tìm được, duy đi đường thủy, thì chỉ độ dăm ba dặm nước là đến được ngay... Vậy ông có cho tôi mười quan tiền, thì tôi xin đem thuyền chở ông đi.
Lư Tuấn Nghĩa vui mừng mà rằng:
- Nếu bác chở tôi đến phố nào mà tìm được hàng trọ, thì tôi xin đưa cho mấy lạng bạc.
Anh chài liền ghe thuyền vào bờ cho Lư Tuấn Nghĩa xuống, rồi cầm gậy đẩy thuyền ra mà kẻo kẹt đi.
Thuyền đi ước chừng hai ba dặm nước, chợt thấy ở khóm lau trước mặt, có tiếng chèo kẽo kẹt , rồi có chiếc thuyền nhỏ vùn vụt chèo ra. Trên thuyền có hai người, một người cởi trần trùng trục, tay cầm cái sào thuyền bằng gỗ, ngồi ở phía trước, và có một người chèo thuyền ở phía sau.
Bấy giờ người ngồi trên thuyền kia, hoành sáo thuyền mà hát rằng:
Anh hùng chẳng thích đọc thi thư,
Cùng bạn Lương Sơn thú sớm trưa,
Sắp sẵn cạm hầm thu hổ mạnh,
Mồi thơm sẽ bắt cá ngao to.
Lư Tuấn Nghĩa nghe hát cả kinh, ngồi yên không dám lên tiếng, chợt thấy trong đám lau ở phía bên tả, cũng có hai người chèo thuyền lững thững đi ra, một anh ngồi sau mái chèo kẽo kịt...Còn một anh cx ngồi đằng trước cx hoành sáo hát rằng:
Ta đây tuy thị tợn hơn đời,
Giết giặc xưa nay chẳng giết người.
Tay vỗ beo xanh in trước bụng.
Xem kỳ lân ngọc ở thuyền ai?
Lư Tuấn Nghĩa nghe đến đó lại càng kinh ngạc, mà trong bụng kêu khổ một mình.
Bỗng lại thấy phía giữa cũng có một chiếc thuyền vun vút như bay chèo đến, trên mũi thuyền cũng có một người cầm cây sáo hát lên rằng:
Lư hoa phơ phất chiếc thuyền bơi,
Tuấn kiệt rong chơi buổi tối trời,
Nghĩa đến khi cùng là số mệnh,
Phản mình lánh nạn dễ như chơi.
Hát đoạn rồi ba chiếc thuyền cùng xô đến mà cất tiếng chào. Nguyên ba thuyền đó, khoảng giữa là Nguyễn Tiểu Nhị, bên tả là Nguyễn Tiểu Ngũ, bên hữu là Nguyễn Tiểu Thất.
Khi ba chiếc thuyền cùng xông đến thuyền Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa tự nghĩ mình không biết bơi lội thì làm chi cho thoát, liền kêu anh chèo mà bảo rằng:
- Anh chở tôi lên bờ mau mau...
Anh chài cười ha hả mà nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Viên Ngoại ôi! Trên thì trời xanh, dưới thì nước biếc, tôi xưa ở sông Tầm Dương, mới nhập đảng vào Lương Sơn Bạc, chẳng dấu gì ngài. Hỗn Giang Long Lý Tuấn là tôi đó. Nay nếu Viên ngoại không chịu đầu hàng, thì uổng mất tính mạng mà thôi...
Lư Tuấn Nghĩa ngạc nhiên kinh sợ quát lên rằng:
- Mày không chết thì ta chết này...
Nói đoạn giơ đao đâm vào bụng Lý Tuấn. Lý Tuấn bèn chống bơi chèo nhảy ùm xuống nước ngay, rồi thấy chiếc thuyền của Lư Tuấn Nghĩa cứ quay long lóc giữa dòng nước. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, liền cầm dao chém luôn xuống nước mấy cái.
Đoạn rồi thấy đằng sau thuyền có một người ở dưới nước nhô lên quát rằng:
- Ta là Lãng Lý Bạch Điều trương Thuận đây.
Nói xong liền cầm lấy cạp thuyền ra sức ấn một cái rất mạnh, rồi thấy con thuyền lật nghiêng, mà Lư Tuấn Nghĩa lăn tòm xuống nước.
Mới hay:
Nước non bỡ ngỡ một mình,
Anh hùng trong lúc vô tình hơn ai? ,
Bây giờ hồ thẳm vực khơi,
Tiếng oan họa có kêu trời cũng xa,
Đem thân liều với phong ba,
Thân tàn dù thác gan già chửa thay,
Sóng lần sóng vỗ từ đây,
Cho thiên hạ biết mặt này mới ngoan,
Lời bàn của Thánh Thán.
Ngô Dụng đi đoán thẻ, dùng Lý Quỳ đi theo, đó chỉ tạm mượn cái hình xấu của Lý Quỳ, chứ chưa dùng hết cái tài của Lý Quỳ vậy, chợt mượn cái xấu, thì không thể chả tả ra lấy một hai chuyện, mà chưa đụng đến tài, thì đâu có tả ra. Đó chẳng qua lấy phụ bút chép tới, chứ chưa từng đem chính bút tả ra, cho nên sau khi vào thành, là đoạn chính bút, chính bút thì tả chuyện Lư Viên Ngoại chưa rồi, còn rảnh đâu lại tả thêm Lý Quỳ được nữa. Nếu như trước khi chưa vào thành, tả ra làm phụ bút, phụ bút cũng không thể, tiếc đến một vài lời mà tả lấy một hai chuyện, cho ra bản sắc Thiết Ngưu để làm cho náo động, nảy ra Viên Ngoại đón mời.
Trung gian tả Tiểu Nhi tự nhạo Lý quỳ, Viên Ngoại tự kinh với Thiên Khẩu (Ngô Dụng) người đời lớn nhỏ thấy cách quãng nhau, khiến ta luống ngậm ngùi than thở? Hỡi ôi? Cùng đọc sách thánh hiền, mà có kẻ để cầu phú quý; Có kẻ lại sùng đức nghiệp; Cùng theo trong cửa Thánh hiền, mà hoặc để khoe danh lợi, hoặc để học hỏi thấu đáo, thì với chuyện trẻ con kia, có lạ gì đâu?
Trong bản truyện tả Lư Viên Ngoại, bỗng đâu lại tả ra hai đoạn văn ngắn, nói về Lý Cố, Yến Thanh, truyện của Lý thì rất ân số, truyện của Yến thì rất phong lưu, ngờ đâu với kẻ chịu ơn, chả những không báo, còn phản lại cắn chủ; Mà kẻ phong lưu lại giốc trung trinh, liều chết không lầm vậy sau mới biết người xưa than thở; Loài lang thói dữ, nuôi chỉ hại thôi, mới hay ơn cũng không dễ bàn ra, mà lấy mặt chọn người, đến nỗi như ngươi Tử Vũ, mà xét người cũng không thể coi thường, nên Tỳ Quan chéo sử có răn có khuyên, ở hồi này làm cực vậy.
Lý Cố làm ra con người Lý Cố; Yến Thanh làm ra con người Yến Thanh, Cổ Thị làm ra con người Cổ Thị...ều ở hồi sau, chưa tả ra đây, nhưng độc giả đầu lòng đáy mắt, đã sớm đo lường tính tình hành động của ba người ấy được. Vì mới chép ra một chút, song dụng ý hở ra rồi chép ra một chút vì chưa hết đầu đuôi, đã hở ra rồi, vì tính đã bày ra xấu tốt, cũng ý kinh Xuân Thu, dự luận thế nào, đều dùng phép hở ra một chút.
Tả Viên Ngoại sau khi gặp Ngô Dụng, cũng viết chữ ra với cái giọng ngông nghênh, cờ lụa trắng, với chão dây thừng, chính là một mãnh hùng tâm, toàn thân nghề võ giỏi, không ai đụng tới, mà chợt đâu xúc động lời thầy bói mà nghe số mệnh, nhân đó thử chơi với đám Lương Sơn, lại còn tự cho cái chí chim hồng, không thèm mưu cùng lũ chim sẽ, chẳng đừng được ngóng không mà ngông nghênh cho sướng với lòng... Tả anh hùng Viên Ngoại, phải dùng ngòi bút ấy, mới có khí thế, thế mà tục bản lại chép là nghe lầm Ngô Dụng như vạch tấm lòng, sao mà có thói xấu ác như thế? Trước đã tả Ngô Dụng có bốn câu thơ bói quẻ, sau lại tả Viên Ngoại có bốn câu thơ khoe cờ, đã là một việc kỳ thuật đối nhau, khi đọc đến cuối hồi, chẳng những chỉ hiện ra bốn câu bói quẻ, còn một hai câu nữa, cho rõ hành động theo tính tình Viên Ngoại, vậy luận chương pháp phải biết như diễn liên châu, mỗi lần bốn câu, đưa vào nhập diệu, thì thực chẳng giảm với những câu kỳ tuyệt ở cờ đình vẽ vách kia vậy; Thế mà tục bản đổi lại những lời đường đột, sao mà xấu ác đến thế?
Tả rất nhiều đám dụ binh, chợt ở đâu ra, chợt vì đâu biến mất, bao phen thấy khác, người người kéo đùa, lạ thay; Lại càng lạ hơn nữa, nhủ Lý Quỳ, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Mục Hoằng, Lý Ứng...ã qua rồi, lại tiếp đến cướp xe cỗ, người phu, độc giả đến đấy, ai chả cho là thu lại mà có biết đâu mới tả nửa bước, rồi từ từ lại tả Chu Đồng, Lôi Hoành dẫn ra Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng một lũ sáu bảy chục người, thực là dũ xuất, dũ kỳ, việt chuyển việt diệu, bấy giờ bỗng đâu lại tả nảy ra thần tiễn của Hoa Vinh, tưởng là đã rứt độc giả đến đây cho rằng đã thu lại rồi, ai ngờ vẫn còn ở nửa bức, lại từ từ tả xa Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, bốn tướng giáp công, rồi sau mới dẫn vào trong bóng câu ca đoán quẻ... Hỡi ôi! Chương pháp thấy kỳ, khiến độc giả đến mê, lại thấy trận pháp kỳ kia, sao khỏi Viên Ngoại lại không trúng kế?
Hồi 61
Bắn lãnh tiễn Yến Thanh cứu chúa;
Cướp pháp trường Thạch Tú thi gan.
Nói về Lư Tuấn Nghĩa là một người khoẻ mạnh giỏi giang, anh hùng vô địch, song xưa nay chưa từng quen tay dưới nước bao giờ. Nay bỗng chốc bị thuyền lật xuống dưới nước, làm cho chàng ta luống cuống rụng rời chân tay, không biết lối nào mà giở. Trương Thuận liền ôm lấy ngang lưng mà ôm thẳng vào bờ. Khi vào tới bờ, đã thấy đóm đuốc sáng trưng, và có năm sáu mươi người đứng đón sẵn ở đấy, chúng đem Lư Tuấn Nghĩa lên bờ, đứng xúm vào tháo dao lưng ra, cởi bỏ hết quần áo, rồi toan đem thừng trói lại. Chợt đâu thấy Đới Tung chạy đến quát ngay rằng:
- Không được động đến Viên Ngoại, cứ mời Viên Ngoại vào chơi.
Đoạn rồi thấy một người mang ra một cái áo gấm, một bức quần thêu đưa đến cho Lư Tuấn Nghĩa, và có tám đứa tiểu lâu la đưa cổ kiệu đến dìu Viên Ngoại lên kiệu mà khiêng đi.
Đi được vài bước, xa trông đã thấy có hai ba mươi đèn lồng sa đỏ, dẫn một toán người ngựa, là Tống Giang, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng cùng các vị Đầu Lĩnh kéo đến. Khi kiệu Lư Tuấn Nghĩa gần đến nơi, Tống Giang vội vàng quỳ xuống trước kiệu, rồi các Đầu Lĩnh cũng quỳ theo cả một lượt ở sau. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy cũng vội vàng xuống kiệu quỳ ra ngoài đất mà nói rằng:
- Tôi đã bị bắt đến đây, xin cho sớm chết là hơn... Tống Giang cười rằng:
- Xin Viên Ngoại hãy cứ lên kiệu, rồi sẽ hay.
Nói đoạn lại dìu Lư Tuấn Nghĩa lên kiệu, rồi các Đầu Lĩnh đều lên ngựa, mà nổi trống khua nhạc đưa thẳng về Trung nghĩa Đường.
Khi tới Trung Nghĩa Đường, các Đầu Lĩnh mời Lư Tuấn Nghĩa vào ghế giữa, đôi bên đèn nến thắp sáng choang, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chúng tôi lâu nay nghe tiếng Viên Ngoại, khác nào sét đánh ngang tai, nay được gặp ngài đây, thực là thỏa lòng khát vọng vô cùng. Vừa rồi bọn anh em có người không phải lỡ phạm đến ngài, xin ngài tha lỗi ấy cho.
Ngô Dụng cũng chạy đến mà rằng:
- Bữa trước tôi có vâng lệnh Huynh trưởng tôi đến cửa ngài, giả làm thầy đoán số, để mời ngài đến núi Lương Sơn cùng tụ đại nghĩa với nhau, mà thay Trời làm Đạo, vậy ngày nay ngài đã tới đây, thực là hạnh phúc cho sơn trại không biết tới đâu mà kể.
Đoạn rồi Tống Giang mới Lư Tuấn Nghĩa ngồi vào ghế thứ nhất. Lư Tuấn Nghĩa cười mà đáp rằng:
- Lư Tuấn Nghĩa tôi khi trước ở nhà thực không có phép gì chết được, nhưng ngày nay đến thực không muốn sống làm chi. Định giết xin cứ giết cần gì phải đùa như vậy?
Tống Giang vui vẻ đáp rằng:
- Lẽ nào chúng tôi dám đùa với Viên Ngoại, thực là chúng tôi khâm phục uy tín của Viên Ngoại, tựa hồ trong lòng đói khát đã lâu, bởi thế chúng tôi mới lập kế mời ngài đến đây, tôn làm chủ sơn trại, cho anh em chúng tôi được sớm khuya theo lệnh của ngài.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Thôi xin đừng nói nữa, tôi đây muốn chết thì dễ bằng muốn cho tôi theo thì rất khó.
Ngô Dụng vội gạt đi rằng:
- Nếu vậy để hôm khác thì ta sẽ bàn. Nói đoạn liền sai đem rượu lên để thết đãi, Lư Tuấn Nghĩa không sao từ chối được, đành gượng uống năm ba chén rồi nghỉ lại ở đó.
Ngày hôm sau Tống Giang sai giết trâu mổ ngựa, bày tiệc linh đình, mời Lư Tuấn Nghĩa ra dự tiệc, Tống Giang mời năm lần bảy lượt mãi sau Lư Tuấn Nghĩa mới chịu ngồi vào ghế giữa để uống rượu.
Được một vài tuần, Tống Giang đứng dậy nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Đêm qua thực là có điều không phải, xin ngài tha lỗi cho. Sơn trại chúng tôi đây tuy hẹp nhỏ, song Viên Ngoại cũng nên xét đến hai chữ trung nghĩa mà lưu lại nơi đây, tôi xin thuận tình nhường vị lại ngài, xin chớ chối từ làm chi?
Lư Tuấn Nghĩa đáp:
- Đầu Lĩnh nói lạ thực? Tôi đây bình sinh không có tội gì, nhà cũng đủ ăn, không đến nổi đói. Sống làm dân nhà Tống chết phải làm ma nhà Tống... Không nói đến hai chữ trung nghĩa, thì tôi còn uống liều dăm ba chén ở đây, bằng nói đến hai chữ trung nghĩa thì cái bầu nhiệt huyết của tôi cũng khả dĩ tưới khắp ra đây ngay lập tức.
Người liền tiếp luôn rằng:
- Viên Ngoại đã không chịu ở đây, thì cũng không nên cưỡng bách làm chi, giữ được người Viên Ngoại, chứ giữ thế nào được bụng. Có điều rằng: Anh em tôi cũng không được mấy khi ngài đã hạ cố đến chơi, vậy ngài không bằng lòng nhập đảng, chúng tôi cũng không dám ép, song xin ngài hãy lưu lại ở chơi mấy bữa, rồi xin đưa trả về nhà thế là ổn tiện.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Đầu Lĩnh đã biết rằng, lưu tôi cũng chẳng được nào, thì xin cho tôi về ngay cho tiện không? Tôi ở đây chỉ e sợ vợ con cửa nhà không biết tin tức ra sao cả...
Ngô Dụng nói:
- Cái đó có khó gì, xin cho Lý Cố đem xe cộ về trước, còn ngài ở lại đây mấy hôm rồi sẽ về sau cũng được...
Nói đoạn liền gọi Lý Cố lên cho ít tiền nong mà giao cho về trước. Khi Lý Cố sắp ra đi, Lư Tuấn Nghĩa dặn với rằng:
- Sự khổ của ta các ngươi đã biết, ngươi về nhà nói với Nương tử bất tất phải lo, nếu ta chưa chết thì ta thế nào cũng về được.
Lý Cố vâng lời mà rằng:
- Các Đầu Lĩnh có bụng quá yêu như vậy, xin chủ nhân hãy ở chơi vài tháng sẽ về, có điều chi mà ngại?
Nói đoạn từ tạ ra đi, Ngô Dụng liền đứng dậy để đưa chân Lý Cố xuống núi. Ngô Dụng cưỡi ngựa đi đến đợi ở bến Kim Sa trước. Được một lát, Lý Cố cùng các người nhà và xe cộ đi đến nơi, Ngô Dụng liền sai năm trăm tiểu lâu la, ngồi vây lại chung quanh, rồi gọi Lý Cố đến trước mặt mà bảo rằng:
- Chủ nhân nhà anh đẫ bằng lòng bàn với chúng ta, nhập đảng, ngồi vào hàng ghế thứ nhì rồi. Trước khi chưa đến đây, đẫ viết bốn câu thơ ở vách, tỏ ý rõ ràng ra đó, anh đẫ biết chưa.
Lư hoa phơ phất chiếc thuyền bơi,
tuấn kiệt vui chơi buổi tối trời,
Nghĩa sĩ tay cầm ba thước kiếm,
Phản rồi chém lũ nghich thần chơi.
Trong bốn câu đó, mỗi câu lấy một chữ đầu hợp thành bốn chữ"Lư Tuấn Nghĩa phản"anh đã biết chưa? Ngày nay chủ nhân anh đi đến đây, đáng lẽ thì đem các anh giết đi ngay, nhưng thế thì ác quá, vậy ta tha cho các anh về, anh phải nói rõ cho mọi người biết chủ nhân không về nữa nhé.
Lý Cố vâng lời, rồi lạy lấy lạy để không thôi, Ngô Dụng liền cho chở thuyền đưa Lý Cố đi, rồi lại trở về sơn trại uống rượu đến chiều mới tan. Sáng hôm sau trong sơn trại lại làm tiệc vui mừng, rất là chững chạc.
Lư Tuấn Nghĩa nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Các ngài có lòng thương không nỡ giết, tôi cũng cảm ơn, song thà các ngài giết ngay, còn hơn bắt giữ ở đây, thực là một ngày đăng đẳng, coi bằng ba thu... . Vậy xin các ngài cho tôi cáo từ hôm nay, không thể lưu lại được nữa.
Tống Giang nói:
- Không mấy khi Viên Ngoại đến chơi, vậy ngày mai tôi xin mời riêng ngài một tiệc, để trò chuyện cùng nhau cho thỏa lòng khát vọng, xin ngài chớ từ chối.
Lư Tuấn Nghĩa không thể từ chối được, lại phải lưu lại cho đến ngày mai. Hết ngày mai lại đến Ngô Dụng thiết tiệc một ngày, rồi đến Công Tôn Thắng một ngày, rồi các Đầu Lĩnh cố nài thiết tiệc một ngày, tất cả hơn một tháng trời mà không hết lượt.
Một hôm Lư Tuấn Nghĩa lấy làm sốt ruột quá chừng, liền nói với Tống Giang để xin về, Tống Giang đáp rằng:
- Chúng tôi còn muốn lưu Viên Ngoại ở chơi ít lâu, song ngài đẫ nhất định đòi về như thế, vậy ngày mai tôi xin mấy chén tiễn hành, riêng về phần tôi, xin ngài chiếu cố đến cho.
Lư Tuấn Nghĩa ở đến ngày mai, nhận bữa tiễn hạnh của Tống Giang, rồi các Đầu Lĩnh lại vật nài với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Ca Ca chúng tôi kính trọng Viên Ngoại mười phần, thì tôi đây cũng phải kính trọng Viên Ngoại đến mười hai phần. Nay Ca Ca tôi đã được nâng chén rượu tiễn hành vậy còn chúng tôi không lẽ ngài lại còn bỉ thử mà không nhận cho, như thế thực là phiền lòng cho anh em chúng tôi quá đổi!
Bấy giờ Lý Quỳ kêu to lên rằng:
- Tôi bị khổ sở biết bao nhiêu, vào đến Bắc Kinh, mời được ông ta ra đây, nay ông không cho chúng tôi, mời bữa tiệc tiễn hành là nghĩa lý gì? Nếu vậy tôi với ông quyết đấu một phen xem sao?
Ngô Dụng nghe nói cả cười mà rằng:
- Từ cổ đến giờ chưa thấy ai mời khách như thế bao giờ? Tôi xin Viên Ngoại xét đến lòng thành của họ, mà ở lại ít bữa nữa, rồi mới có thể thỏa thiếp cả được.
Lư Tuấn Nghĩa bất đắc dĩ phải lưu lại bốn năm hôm nữa rồi mới từ tạ ra đi. Bỗng đâu lại thấy Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ dẩn một tốp Đầu Lĩnh đến mà nói rằng:
- Chúng tôi đây, tuy thị là hàng đàn em, song đối với Ca Ca cũng có đôi phần đóng góp, vậy không lẽ rằng chúng tôi lại không được tiễn chân Viên Ngoại hay sao? Viên Ngoại không có lòng chiếu cố, tôi đây cũng không dám phàn nàn gì, song chỉ sợ lũ anh em họ lôi thôi xin sự, thực là khó chịu.
Ngô Dụng đứng lên đáp rằng:
- Anh em bất tất phải nóng nảy như vậy, để tôi mời Viên Ngoại hãy chiếu cố ở lại mấy hôm nữa là được rồi...
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, không thể từ chối được, lại đành phải ngồi lưu lại ít bữa nữa...Đoạn rồi các Đầu Lĩnh chia nhau tiễn tặng loanh quanh làm cho Lư Viên Ngoại phải trì trệ lần nữa chưa sao mà dứt đi được.
Khi Lư Tuấn Nghĩa bước chân ra đi, chính đương vào dạo tháng năm, tới nay đã thấm thoát đã hai tháng trời, cảnh sắc giang sơn bỗng chốc đã nhuộm màu thu sắc, Lư Tuấn Nghĩa lấy làm sốt ruột không sao chịu được, liền nói với Tống Giang để khẩn khỏan xin về. Tyu cũng làm ra dáng chiều lòng Viên Ngoại mà nhận lời ngay.
Sáng hôm sau Tống Giang sai lấy quần áo cũ, cùng dao gậy của Lư Tuấn Nghĩa đưa ra trả lại, rồi Tống Giang đem một mâm kim ngân, để tặng Lư Tuấn Nghĩa.
Lư Tuấn Nghĩa cười mà nói rằng:
- Tiền của này trong sơn trại làm gì mà có, lẽ đâu tôi lại nhận như thế? Song ngày nay không nhận, thì cũng không lấy đâu làm lệ phí, vậy chỉ xin nhận đủ tiền về tới Bắc Kinh. Hôm đó về gần đến thành, thì đã vừa tối, chàng liền nghỉ trọ ở ngoài hàng, để sáng hôm sau sẽ vào trong thành. Sáng hôm sau chàng trở dậy đi thẳng vào thành, khi đến một nơi ước chừng còn cách hơn một dặm đường nữa, thì vào tới trong thành, bỗng đâu thấy một người đầu tóc bơ phờ, áo khăn rách rưới, chạy đến trước mặt rồi lạy phục xuống đất rồi khóc lên rưng rức.
Lư Tuấn Nghĩa ngạc nhiên nom đến, thì chính là Lãng Tử Yến Thanh, liền hỏi luôn rằng:
- Tiểu Ất! Cớ sao ngươi đến nổi thế?
Yến Thanh gạt nước mắt mà rằng:
- Đây không phải là chỗ nói chuyện, xin Chủ Nhân đến chỗ khác.
Lư Tuấn Nghĩa liền theo Yến Thanh đến một chỗ vắng người để hỏi thăm duyên cớ.
Yến Thanh nói rằng:
- Sau khi Chủ Nhân đi độ nữa tháng, bỗng một hôm thấy Lý Cố trở về nói với Nương Tử rằng: Chu Nhân đẫ quy thuận với Tống Giang ở Lương Sơn Bạc, mà đứng vào hàng Đầu Lĩnh thứ hai và lưu lại ở đó. Đoạn rồi hắn báo với Quan Tư, mà thông lưng với Nương Tử, chiếm hết cả nhà cữa tư cơ mà đuổi tôi ra ngoài thành mà kiếm ăn quanh quẩn, để đói, chủ nhân về xem sao? Tôi chắc chắn Chủ Nhân không bao giờ chịu làm nghề lạc thảo, song nếu có quả thế thực, thì xin nghe lời tôi mà trở về ngay đất Lương Sơn, kẻo vào thành bây giờ, thì không bao giờ mà tránh cho khỏi nạn.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói quát lên rằng:
- Vợ ta không phải người như thế, ngươi đừng có nói liều với ta...
Yến Thanh nói rằng:
- Chủ Nhân không có mắt ở đằng gáy, làm chi biết được chuyện sau lưng, bình nhật Chủ Nhân chỉ chuyện chú vào mặt võ nghệ, không đoái đến những việc nhỏ nhen, nhân thế mà Lý Cố tư thông với Nương Tử cũng không hay biết đến. Ngày nay hai người đó đã mưu mô với nhau, nhận làm vợ chồng. Vậy nếu Chủ Nhân về đó thì quyết bị họ hại chứ không sai.
Lư Tuấn Nghĩa quát lên mắng Yến Thanh rằng:
- Nhà ta ở đất Bắc Kinh năm sáu đời nay ai mà không biết tiếng thằng Lý Cố nó có mấy đầu mà nó dám làm như thế? Chẳng hay chính ngươi làm càn rồi ngươi lại nói liều nói lĩnh với ta? Để ta về xem sao, rồi sẽ liệu cho ngươi một thể.
Yến Thanh nhất định không nghe, ôm lấy áo Viên Ngoại mà khóc lên như mưa như gió, Lư Tuấn Nghĩa giuơ chân đạp Yến Thanh ngã lăn xuống đất rồi một mình xồng xộc mà đi thảng về nhà...
Khi về tới nhà, thấy đám chủ quản cùng người nhà, anh nào anh nấy đều có vẽ kinh sợ bàng hoàng. Đoạn rồi Lý Cố đón Viên Ngoại vào trong nhà, cúi đầu lạy ngay lập tức.
Lư Tuấn Nghĩa hỏi rằng:
- Yến Thanh ở đâu? Lý Cố nói rằng:
- Xin Chủ Nhân thông thả rồi hãy nói chuyện. Công việc còn nhiều lắm. Chủ nhân đi xa về khó nhọc, hãy xin đi nghĩ một lát đã.
Vừa nói xong thì thấy Cổ Thị ở đằng sau bình phong, vừa khóc lóc vừa đi ra. Lư Tuấn Nghĩa lại hỏi luôn rằng:
- Nương Tử đây rồi. Yến Thanh đâu? Nói cho tôi biết...
Cổ Thị Gạt nước mắt mà nói rằng:
- Xin trượng phu đừng hỏi vội, nói ra dài dòng lắm, hãy xin nghĩ ngơi đã.
Bấy giờ Tuấn Nghĩa trong bụng lấy là nghi hoặc khó chịu, bèn cố hỏi chuyện Yến Thanh cho kỳ được.
Lý Cố nói rằng:
- Chủ Nhân hãy thay quần áo, vào lễ Từ Đường xơi nước hẳn hoi rồi sẽ nói, đi đâu mà vội.
Nói đoạn liền sai dọn cơn cho Lư Tuấn Nghĩa ăn. Lư Tuấn Nghĩa ngồi vào mâm cơm vừa toan cất bát đũa lên ăn, thì bỗng thấy cữa trước cữa sau ầm ầm cả lên, rồi thấy hai ba trăm người lính phủ xông đến nơi. Lư Tuấn Nghĩa cả kinh, ngồi ngây hẳn người ra, rồi đám lính bắt trói mà vừa đến vừa dong về trong phủ Trung Thư.
Bấy giờ Lưu Trung Thư đương ngồi ngay giữa Công Đường, hai bên tả hữu có đến bảy tám mươi tên lính đứng dàn hàng, đoạn rồi chúng giải Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở một bên, Lý Cố cùng Cổ Thị quỳ ở một bên.
Quan Lưu Trung Thư ngồi trên quát hỏi rằng:
- Tên kia ngươi vốn là lương dân ở đấùt Bắc Kinh, cớ sao lại dám nhập bọn với đám Lương Sơn Bạc, đứng vào hàng Đầu Lĩnh thứ hai, nay ngươi còn toan về đây định kết liên trong ngoài, định đến phá Bắc Kinh là nghĩa làm sao? Phải mau mau mà thành thực ra đây...
Lư Tuấn Nghĩa nói rằng:
- Việc đó nguyên vì chúng tôi khờ dại, bị tên Ngô Dụng ở Lương Sơn đem thuật tướng số lừa dối, sau lại bắt giam ở trên núi hơn hai tháng trời, nay mới thoát thân về đây, chứ thục không có lòng gì phản bội, xin ngài xét cho.
Lưu Trung Thư quát lên rằng:
- Ngươi nói lạ! Ngươi ở Lương Sơn mà lại không thông đồng với chúng, thì sao chúng giữ lâu đến như thế, vã chăng đẫ có vợ cùng tên Lý Cố về cáo thú đây kia, lại còn chối về lẽ gì nữa?
Lý Cố quỳ bên kia bảo với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Chủ nhân đẫ đến đó thì thú thực đi thôi. Trên vách ở nhà đẫ viết bốn câu thơ phản nghịch, đó là chứng cớ rõ ràng còn chối làm chi cho phiền?
Cổ Thị cũng nói rằng:
- Việc đó không phải chúng tôi muốn làm hại gì, song nếu không thú ra, thì liên luỵ đến cả chúng tôi thêm khổ? Người ta thường nói: "Một người loạn chín họ bị oan!"
Lư Tuấn Nghĩa nghe đến đó kêu lên rằng:
- Thực là oan uổng cho ta quá.
Lý Cố lại đế luôn rằng:
- Chủ Nhân phải bất tất phải kêu ca làm gì, việc đã rõ ràng như thế, chi bằng thú phắc đi cho khỏi khổ.
Cổ Thị lại nói rằng:
- Việc dối không ai đến chỗ cửa quan, mà việc thực mà chối làm sao được ...Đã đành rằng một người làm việc, thì chết cũng cam tâm, nhưng còn liên luỵ đến chúng tôi thì sao? Vậy bất nhược thú ngay cho khỏi đòn vọt đến thân.
Bấy giờ Trương Khổng Mục bẩm với Lưu Trung Thư rằng:
- Tên này nó răn đầu rắn mặt xưa nay, nếu không khảo tấn thì sao nó chịu nói?
Lưu Trung Thư truyền lệnh cho tra tấn, tả hữu vâng lời, trói Lư Tuấn Nghĩa ra nằm vật ở đất, rồi đến luôn một trận, bắn vọt máu tươi, chết ngất đi mấy lần mới tỉnh.
Lư Tuấn Nghĩa không sao chịu nổi đòn tấn, liền thở dài than rằng:
- Quả nhiên cung mệnh ta phải chết oan như thế này... thà bất nược nhận liều cho xong chuyện.
Trương Khổng mục nghe nói, liền biên hết khẩu cung, rồi sai đóng gông từ tù nặng trăm cân, cho giam xuống ngục. Những người ngoài phủ nom thấy vậy, ai cũng thương tâm không nỡ xem.
Điều đâu bay buộc ai làm?
Anh hào hết đất phỏng cam chăng trời?
Biết thân đã mắc cạm đời,
Thà rằng vũng nước theo người cho xong?
Bấy giờ trong ngục có một người Tiết Cấp coi ngục, tên là Xái Phúc, quê ở Bắc Kinh biệt hiệu là Thiết Tý Phụ ngồi ở giữa sập, và một người em ruột tên là Nhất Chi Hoa Xái Khánh cầm gậy đứng hầu một bên.
Khi chúng dong Lư Tuấn Nghĩa đến nơi, Xái Phúc bảo Xái Khánh rằng:
- Ngươi đem thằng tử tù ấy giam kỹ vào trong kia, ta đi về nhà một lát, rồi lại đến ngay đây.
Xái Khánh vâng lời, đến Lư Tuấn Nghĩa giam vào ngục, rồi Xái Phúc cầm gậy ra đi lối cữa ngục. Chợt đâu thấy một người quần áo rách rưới, tay bưng một thúng cơm, hai hàng nước mắt sướt mướt đầm đìa mà đi vào. Xái phúc trông biết người đó là Lãng Tử Yến Thanh, liền hỏi rằng:
- Yến Thanh lạm gì thế, đi đâu như vậy?
Yến Thanh quỳ xuống nước mắt dòng dòng, nói với Xái Phúc rằng:
- Xin Thiết Cấp Ca Ca thương hại Chủ Nhân tôi là Lư Viên Ngoại, nay chẳng mai bị giam vào trong lao, không có ai đưa tiền cơm nước, vậy tôi kêu xin được thúng cơm đây, để đem vào cho chủ tôi ăn tạm, xin ông rộng phép cứu cho...
Nói đến đó thì khóc nấc lên, rồi nằm phục xuống đất. Xái Phúc đáp rằng:
- Được, việc đó tôi biết cả rồi, anh cứ đem cơm vào cho ông ta, không hề chi.
Yến Thanh lạy tạ, rồi đem cơm vào lao cho Viên Ngoại.
Đằng kia Xái Phúc đi khỏi chổ cầu, thì bỗng thấy một người đến vái chào mà nói rằng:
- Thưa Tiết Cấp có một người khách, ngồi đợi ở gác hàng tôi, định mời Tiết Cấp đến để nói chuyện, xin ngài đến ngay cho.
Nói đoạn liền mời Xái Phúc đi ngay, Xái Phúc đến nơi thấy Lý Cố ngồi đợi ở đó, đôi bên chào hỏi mời ngồi, rồi Xái Phúc hỏi Lý Cố rằng:
- Chẳng hay chủ quản có việc gì bảo tôi?
Lý Cố thì thầm mà nói rằng:
- Chẳng dám dấu gì Tiết Cấp, việc đó không thể để lâu được nữa, lỡ ra thì khốn, đêm nay thế nào Tiết Cấp cũng kết quả đi cho...tôi có năm mươi lạng vàng đây, xin đưa để ngài chi dùng...còn các quan lại bên trên, tôi khắc xin chu biện tất cả.
Xái Phúc cười rằng:
- Chủ quản không coi miếng đá trên chính sảnh khắc tám chữ "Dân đỏ dễ lừa, trời xanh khó dối"ó sao? Việc này thực là nhẫn tâm quá đỗi, ông tưởng tôi không biết chăng? Ông chiếm hết gia tư của người ta, lấy cả vợ con người ta, nay lại đưa tôi năm mươi lạng vàng, mà xui giết chết người ta, vậy nếu ngày sau Quan Tư xét ra, thì tôi chịu sao nổi tội?
- Nếu ngài chê ít, thì tôi xin đưa thêm năm mươi lạng nữa.
- Lý Chủ Quản ôi! Ông đừng rút vặt nữa. Một ông Lư Viên Ngoại có tiếng ở Bắc Kinh như thế, mà chỉ đáng giá một trăm lạng bạc chăng? Tôi xin nói thực, nếu ông muốn cho chóng được việc, thì cứ năm trăm lạng bỏ ra đây.
- Vâng vâng tôi xin sẵn đủ cả đây, nhưng đêm hôm thế nào ngài cũng giúp cho là được rồi.
Nói đoạn vội vàng đưa tiền cho Xái Phúc, Xái Phúc đứng dậy nhận lấy tiền mà nói rằng:
- Sáng sớm mai cứ đến mà khiêng xác hắn về...
Lý Cố hớn hở vui mừng, tạ ơn Xái Phúc, rồi hai người cùng chia ngả ra về.
Bấy lâu áo chủ cơm thầy,
Đền ơn dễ có phen này đấy chăng?
Sông tham ghê cũng lạ chừng,
Nỗi đời này biết than rằng với ai?
Khi Xái phúc vừa về đến nhà, lại bỗng thấy một người vén rèm bước vào, cất tiếng chào rằng:
- Xái Tiết Cấp, xin chào ngài. Xái Phúc vội quay lại nom, thấy người ấy ra dáng khôi ngô hùng tráng, ăn mặc chỉnh tề, mình mặc áo thanh viên cánh nhạn, lưng thắp giải ngọc não mỡ dê, đầu đội mũ ngài, chân đi giày đỏ, vừa đi vừa vái chào Xái Phúc.
Xái Phúc ngạc nhiên đáp lễ lại rồi hỏi rằng:
- Quan nhân ở đâu đến đây, có việc gì cho chúng tôi được biết?
Người kia nói:
- Xin ngài cho vào nhà trong sẽ nói chuyện.
Xái Phúc liền dẫn vào một gian gác kín, rồi mời ngồi ở đó đ hỏi chuyện.
Người kia nói với Xái Phúc rằng:
- Tôi đây họ Sài tên Tiến, tiểu tự là Tiểu Toàn Phong, người ở quận Hoành Hải, phủ Thương Châu, dòng dõi vua Đại Chu khi trước, nhân xưa nay tôi vẫn có lòng sơ tài trọng nghĩa, kết giao hảo hán bốn phương, bất đồ bị lỡ phạm tội, phải lưu lạc lên Lương Sơn Bạc, mà nhập bọn ở đó. Nay vâng tướng lệnh Tống Công Minh xuống đây để dò tin tức Lư Viên Ngoại, ngờ đâu Viên Ngoại bị đám tham quan nhũng lại, tớ phản vợ dâm, đồng ý với nhau để giam vào tử tội, hiện nay tính mạng chỉ còn trông ở tay ngài, bởi vậy, tôi không dám quản công khó nhọc liều mình đi đến tận đây nói rõ đầu đuôi cho ngài biết ...Nếu ngài chịu lưu tâm cẩn thận, giữ gìn tính mạng cho Lư Viên Ngoại, thì chúng tôi sẽ hết lòng tử tế, không bao giờ dám quên ơn, bằng sinh sự thế nào, thì nay mai binh mã tới nơi, phá hết thành trì, giết sạch quan dân, dẫu Thiên Tử đến đây cũng khó lòng cứu được. Tôi vẫn nghe tiếng ngài là trung nghĩa hảo hán xưa nay, nên mới nói rõ cho ngài biết, và gọi là có nghìn lạng vàng đưa để ngài tiêu, xin ngài chấp nhận lấy cho. Hay là ngài có muốn bắt Sài Tiến thì cứ bắt ngay bây giờ, tôi không phàn nàn chi cả.
Xái Phúc nghe nói toát mồ hôi, ngây người một lúc, không sao trả lời được. Sài Tiến nói rằng:
- Anh hùng xử sự không nên rùi rắng trù trừ, thế nào xin quyết ngay cho.
Xái Phúc nói:
- Xin hảo hán cứ về tôi khắc xin chu tất.
Sài Tiến tạ ơn mà rằng:
- Ngài đã nghe lời, sau này xin đền ơn lớn.
Nói đoạn quay ra gọi người theo hầu là Đới Tung đưa vàng cho Xái Phúc rồi vái chào rồi ra đi.
Xái Phúc thấy hai người đi rồi, trong bụng trù trừ khó nghĩ, vẫn vơ hồi lâu rồi mới đi vào trong ngục, đem các chuyện đó thuật cho Xái Khánh nghe.
Xái Khánh nói với anh rằng:
- Anh vẫn là người quyết đoán xưa nay, một việc con con này có làm chi mà khó? Người ta thường nói:"giết người phải thấy máu, cứu người phải đến nơi". Vậy ngày nay đã có một nghìn lạng vàng ở đây ta cứ nên kê lót hết tất cả mọi nơi, từ Lưu Trung Thư đến Trương Khổng Mục toàn thị những giống tham lam, làm cho họ chẳng nhận? Khi nhận được tiền rồi tất nhiên họ phải kết án liều lĩnh đem bắt đi đày, rồi đó cứu được hay không, thì đã có bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc, ta biết đâu được đến đấy nữa.
Xái phúc nói:
- Em nói chính hợp ý ta... Vậy em đem Lư Viên Ngoại để vào một chỗ tử tế, cơm nước cho ông ta cẩn thận, và bảo qua cho ông ta biết trước.
Hai anh em bàn định xong, liền đem tiền đi để nói lót các nơi cho cẩn thận. Ngày hôm sau Lý Cố đợi mãi không thấy Xái Phúc kết quả Lư Viên Ngoại, liền vội vàng chạy đến để hỏi.
Xái Phúc đáp rằng:
- Chúng tôi đương định hạ thủ, thì thấy Lương Trung Thư cho người xuống bắt phải gìn giữ cẩn thận lấy tính mệnh họ Lưu Trung Thư, mà không cho làm bậy...Vậy việc đó ông cứ lo ở quan trên cho xong, rồi tôi chắc hạ thủ ngay có khó gì?
Lý Cố lại quay về cậy người đem tiền đền nói với Lương Trung Thư.
Lương trung thư đáp rằng:
- Đó là công việc của lao Tiết Cấp, không lẽ ta thân hành đến đấy mà hạ thủ? Hãy để dăm ba hôm nữa thì nó cũng chết, chứ sống thế nào được mà vội? Bấy giờ Trương Khổng Mục đã nhận được tiền của Xái Phúc, rồi đem văn án rút bớt tội xuống, rồi Xái Phúc lại thúc giục để kết đoán mà mau cho xong công việc. Trương khổng Mục đem văn án lên trình Lương Trung Thư.
Hồi 62
Tống Giang đến đánh Đại Danh thành
Quan Thắng bàn pháLương Sơn Bạc
Bấy giờ Thạch Tú cùng Lư Tuấn Nghĩa còn đương quanh quẩn trong thành, tìm lối để tháo, bất đồ bị quân mã bốn mặt đổ lại, thả giây móc mà bắt cả đôi người, rồi trói chặt giải vào trong phủ.
Khi vào tới nơi, Lương Trung Thư sai đem tên cướp pháp trường, lên trước công trường để hỏi. Thạch Tú lên đến nơi, trợn trừng mắt ầm lên rằng:
- Bớ quân đi làm đầy tớ, những tên đầy tớ kia, Ca Ca ta nay mai đem binh đến đánh phá thành Đại Danh, chém thây ngươi ra làm mấy đoạn, ngày nay sai lão gia đến đây, để báo trước cho mày đó...
Chàng vừa nhiếc vừa mắng luôn mồm không thôi, bao nhiêu người đứng đó, đều ngây hẳn người ra.
Lương Trung Thư thấy vậy, trong bụng băn khoăn nghĩ ngợi hồi lâu, rồi sai lấy gông ra gông hai người lại, đem giam vào ngục tử tù, mà dặn Xái Phúc phải trông coi cho cẩn thận.
Xái Phúc nguyên có ý muốn làm quen với bọn hảo hán Lương Sơn Bạc, liền cho Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú vào một nhà lao sạch sẽ, và thiết cơm rượu rất là chu đáo, không hề có một điều chi khinh bỉ.
Bấy giờ Lương Trung Thư sai quan Vương Thái Thú ở bản châu đi kiểm điểm số người bị thương, thấy có bảy tám mươi người bị chết, còn thì gãy chân gãy tay vỡ đầu vỡ mặt, không biết tới đâu mà kể, ương Trung Thư liền cho lấy tiền kho ra để cứu chữa người đau và chôn hoá những người bị chết.
Ngày hôm sau bỗng thấy có người nhặt được mấy mươi tờ yết thị của bọn Lương Sơn Bạc, đem trình với Lương Trung Thư. Trung Thư cất lấy xem, thấy trong tờ yết thị rằng:
- "Nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc là Tống Giang có lời nói cho các quan ở trong thành Đại Danh biết Lư tuấn Nghĩa là một bậc hào kiệt nhất đời, ta muốn đón lên trên núi để cùng thay Trời làm Đạo, sinh phúc cho dân, thế mà các ngươi dám nghe kẻ gian tà lại hại người lương thiện, rồi sao bắt cả người đưa tin của ta là Thạch Tú vào ngục,là nghĩa làm sao? Nếu các ngươi biết điều mà giữ toàn tính mệnh cho hai người, mà bắt đứa gian phu dâm phụ đem ra nộp, thì ta đây cũng không sinh sự làm chi; Bằng cố tình làm hại hai người, thì nay mai nhổ trại đem quân đại binh đến đâu, đá vàng tan nát, trừ hết gian tham, giết tàn ngu bỉ, trời đất chứng minh, qủy thần phò hộ, vui mừng mà đến, khua múa mà đi; Bao nhiêu con hiếu cháu lành, quan liêm lại tốt, cùng hết thẩy con dân, cứ yên phận làm ăn, không có việc chi kinh khủng. Các ngươi nên biết ý ta..."
Lương Trung Thư xem đến đó, liền gọi Thái Thú họ Vương đến để bàn định xem sao.
Vương Thái Thú vốn người rút rát, lại nghe những lời nói trong tờ yết thị, thì trong lòng lấy làm lo sợ, bèn đến nói với Lương Trung Thư rằng:
- Bọn Lương Sơn Bạc xưa nay triều đình muốn khu trừ không được, huống chi là một quận ta đây thì thấm vào đâu. Ngộ lỡ ra nay mai bọn ấy đem quân đến đánh, mà ta đây không có binh viện, thì hối sao cho kịp? Vậy cứ như ý tôi, thiết tưởng ta nên lưu tính mạng hai người đó, nhất diện biểu tấu triều đình, nhất diện viết giấy báo cho Xái Thái Sư biết, và đem quân mã của bản châu ra ngoài thành hạ trại để phòng bị, thì may ra mới có thể chu toàn cho phủ Đại Danh, mà dân gian mới yên phận mà làm ăn được. Bằng nay giết hai tên đó đi, thì khi quân giặc đến nơi, một là không có binh cứu viện, hai là triều đình đem bụng nghi ngờ, mà ba là dân sự rối loạn thì thành Đại Danh tất là nguy hiểm đến nơi.
Lương Trung Thư nghe nói khen rằng:
- Quan phủ nói thế rất phải, ta cũng phải làm thế mới xong.
Nói rồi liền gọi Tiết Cấp và Xái Phúc lên mà dặn rằng:
- Hai tên giặc đó không phải là tội tầm thường, ngươi phải trông nom cho cẩn thận, không được hại đến người ta, mà cũng chớ cho nó trốn được. Việc đó tất phải vừa khoan vừa nhặt, mà coi giữ luôn luôn, để sau nầy sẽ liệu.
Xái Phúc nghe nói đúng với tâm lý của mình đang thích liền vâng lời trở xuống nhà lao, mà theo lệnh để thi hành.
Lương Trung Thư gọi hai người binh mã Đô Giám, là Đại Đao, Văn Đạt, và Thiên Vương Lý Thành lên công đường, thuật chuyện tờ yết thị, cùng lời nói của Vương Thái Thú cho hai người nghe.
Lý Thành nói với Lương Trung Thư rằng:
- Đám giặc cỏ ấy bao giờ dám rời sào huyệt ra, mà tướng công phải sợ? Chúng tôi dẫu tài hèn sức kém, song xưa nay chịu lộc đã nhiều, chưa có chút công đền báo, vậy tôi xin hết lòng thần tử mà đem quân ra đóng ngoài thành; nay mai quân giặc không đến thì thôi, bằng quân giặc có vô phúc mà rời sào huyệt dắt díu đến đây, thì chúng tôi không phải nói khoác, song cũng trừ cho kỳ tiệt, không còn mống nào trở về được nữa...
Lương Trung Thư nghe nói cả mừng, sai lấy mấy tấm đoạn hoa vàng ra thưởng cho hai tướng. Hai tướng tạ ơn lui ra đến sáng hôm sau Lý Thành cho gọi các quân sĩ đến bàn việc chống cự giặc Lương Sơn.
Bấy giờ có một người uy phong lẫm lẫm, tướng mạo đường đường, tên là Cấp Tiên Phong Sách Siêu, chạy ra trước trướng. Lý Thành truyền lệnh rằng:
- Đám giặc cỏ Tống Giang nay mai sắp tới thành ta đây, vậy ngươi phải đem quân bản bộ ra khỏi ba mươi dặm ngoài thành mà đóng trại, rồi ta sẽ đem đại quân đến sau.
Sách Siêu vâng lệnh lui ra. Ngày sau đem quân bản bộ tới núi Phi Hổ Dực, cách thành ba mươi lăm dặm mà hạ trại ngay cạnh núi. Hôm sau nữa Lý Thành dẫn các tướng ra đất Hoè Thụ, cách thành chừng hai mươi nhăm dặm để hạ trạïi, bốn bên giấu sẵn đao thương, và chứa ngầm lộc giốc, ba mặt đào hầm khoét hố, quân sĩ cùng các tướng, đều là hiệp lực đồng tâm, nghiến răng nghiến lợi, chỉ đợi Lương Sơn đến, là ra sức tranh công.
Nói về bọn Lương Sơn Bạc, khi tiếp được Yến Thanh cùng Dương Hùng về báo, Ngô Dụng liền sai Đới Tung lập tức đi theo để dò xem tin tức Thạch Tú cùng Lư Viên Ngoại. Sau khi Đới Tung biết tin hai người bị bắt liền lập kế viết ra các giấy yết thị dán khắp mọi nơi, để Quan Tư khỏi hại tính mạng hai người, rồi lập tức về báo cho sơn trại biết.
Tống Giang nghe nói cả kinh, liền mời các Đầu Lĩnh ra bàn việc, và nói với Ngô Dụng rằng:
- Nguyên trước Quân Sư lập kế chỉ định cho Lư Tuấn Nghĩa lên đây, ai ngờ Lư Tuấn Nghĩa phải chịu khổ nhục, mà Thạch Tú cũng bị bắt vì đó, vậy ngày nay có kế gì mà cứu ra cho thoát được?
- Ngô Dụng nói:
- Việc ấy xin Huynh trưởng cứ vững tâm, tôi đây tuy không bằng ai thực, song cũng khả dĩ nhân cơ hội nầy mà cướp lương thực ở thành Đại Danh, để cướp cho sơn trại. Ngày mai là ngày tốt, vậy xin huynh trưởng chia lấy một nửa Đầu Lĩnh coi trại ở nhà, còn một nửa thì lập tức đem binh đi đánh Đại Danh.
Tống Giang nghe nói, liền gọi Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên cắt quân để ngày mai ra đi.
Hắc Toàn Phong Lý Quỳ nói lên rằng:
- Hai cái búa của tôi bấy lâu để ế ẩm, phen nầy lại đi đánh thành thì chắc nó mừng lắm. Vậy xin Ca Ca cho tôi năm trăm tiểu lâu la, đến đó phá hết thành trì, giết sạch quan dân, cứu Lư Viên Ngoại, và Thạch Tú cho thằng đạo đồng câm nầy được hả lòng một chút.
Tống Giang gạt đi rằng:
- Anh tuy khỏe thực, song ở đấy không phải như mọi chỗ khác. Lương Trung Thư là con rễ Xái Thái Sư, lại có chủ tướng là Lý Thành, Văn Đạt, đều những tay vạn người không địch nổi cả.
Lý Quỳ kêu lên rằng:
- Ca Ca bữa trước rằng tính tôi hay nói, bắt tôi phải giả làm đứa câm, ngày nay biết tính tôi hay giết, lại bắt không cho tôi làm Tiên Phong, cứ cái cách dùng người như thế, thì khổ chết Thiết Ngưu nầy mất.
Ngô Dụng nói:
- Ừ anh đã thích đi, thì cho anh làm Tiên Phong... điểm cho năm trăm lâu la, ngày mai cho đi đầu trận.
Nói rồi Ngô Dụng cùng Tống GIang cắt đặt các quân mà cho Bùi Tuyên yết thị ra các Trại để theo hiệu lệnh mà làm.
Bấy giờ vào khoảng cuối thu sang đông, khi trời lạnh lẽo, bọn chinh phu ăn mặc dễ chịu, ngựa hãm đã lâu, quân nghĩ đã chán, ai nấy đều hăng hái lấy sự đánh nhau làm thích. Khi được hiệu lệnh, chúng đều hớn hở vui mừng, sắp sửa gươm giáo cung tên, chỉnh tề đai nịt xe ngựa, rồi ngày hôm sau cùng kéo xuống núi, Đội thứ nhất Lý Quỳ kéo năm trăm tiểu lâu la đi trước; Đội thứ nhì Giải Trân, Giải Bảo, Khổng Minh, Khổng Lượng, dẫn một nghìn lâu la đi sau: Hổ Tam Nương, Mẫu Dạ Xoa, tôn Nhị Nương, Cố Đại Tẩu mấy nữ tướng dẫn một nghìn lâu la đi đội thứ ba; Lý Ứng cùng phó tướng Sử Tiến, Tôn Lập, dẫn nghìn lâu la đi đội thứ tư; Trung quân chủ tướng Tống Giang cùng quân sư Ngô Dụng, và bốn viên Đầu Lĩnh theo hầu, Lã phương, Quách Thịnh, Tôn Tân, Hoàng Tín. Tiền quân thì có Tần Minh, và phó tướng là Hàn thao và Bành Dĩ. Hậu quân thì có Lâm Xung cùng phó tướng là Mã Lân, Đặng Phi; tả quân thì có Hô Duyên Chước, cùng phó tướng là Âu Bằng; Yến Thuận, Hữu quân thì có Hoa Vinh cùng phó tướng là Trần Đạt, Dương Xuân,và đem Lăng Chấn đi kèm vào đó. Lại đem Đới Tung cùng đi để đem lương thảo, và dò các tin tức trong quân.
Sáng hôm đó các tướng đều theo thứ tự tiến binh đi đánh. Duy còn có phó tướng Quân Sư Công Tôn Thắng, cùng Lưu Đường, Chu Đồng, Mục Hoằng thống lĩnh quân mã coi giữ sơn trại ở nhà, và Thủy trại có bọn Lý Tuấn coi giữ.
Khi quân mã Lương Sơn kéo đến, quân sĩ bèn vào báo với Sách Siêu, Sách Siêu nghe báo, liền vào Hoè Thụ Phi báo cho lý Thành biết. Lý Thành nhất diện cho người vào báo trong thành, nhất diện chỉnh đốn quân mã đến trại Sách Siêu để tiếp ứng.
Sách Siêu đón Lý Thành vào trong trướng bàn việc quân. Đầu trống canh năm ngày hôm sau, quân sĩ ăn cơm thực sớm, rồi nhổ trại kéo quân đến bãi Rữa Gia dàn thành trận thế.
Bấy giờ tất cả vạn rưỡi nhân mã dàn trận chỉnh tề, rồi Lý Thành cùng Sách Siêu nai tịt cẩn thận, cưỡi ngựa chiến đứng dưới cửa c, để đợi binh mã bên kia. Được một lát về phía bên đông, bụi bay rợp đất, có một hảo hán đen lớn; vác song phủ đi đầu, dẫn năm trăm quân kéo đến.
Khi tới nơi hảo hán múa song phủ quát lên rằng:
- Có biết tay hảo hán Hắc Toàn Phong gia gia ở Lương Sơn Bạc đây không?
Lý Thành ngồi trên mình ngựa nom thấy vậy, cười mà bảo với Sách Siêu rằng :
- Xưa nay cứ nói đến hảo hán ở Lương Sơn Bạc, té ra toàn bộ giặc cỏ như thế cả, làm gì mà sợ. Tiên Phong thử coi xem, sao không bắt lấy thằng ấy trước đi đã.
Sách Siêu cười rằng:
- Việc đó bất tất phải đến tay Tiểu Tướng, chắc hẳn đã có người khác lập công...
Nói chưa dứt lời thì thấy viên thủ tướng Vương Định múa gươm trường dẫn một trăm quân mã bộ hạ xông ra để đánh, Vương Định vừa mới kéo ra,đã bị Lý Quỳ sát cho một trận bỏ chạy hết cả. Sách Siêu thấy vậy vội kéo quân ra để tiếp đánh. Bất đồ vừa được mấy bước, thì thấy chiên trống vang lừng rồi có hai toán quân mã ở trong sườn núi kéo ra. Toán bên tả có Giải Trân, Khổng Lượng: Toán bên hữu có Khổng Minh, Giải Bảo, đều kéo năm trăm lâu la sát đến. Sách Siêu thấy bên kia có quân tiếp ứng, liền kinh sợ kéo quân về bản trận.
Lý Thành hỏi:
- Sao không bắt thằng giặc ấy đi?
Sách Siêu đáp rằng:
- Tiểu tướng đuổi qua núi, đương sắp đáng bắt, bất đồ có quân phục kéo ra, không sao hạ thủ ngay được.
Lý Thành nói:
- Chà! Quân giặc cỏ ấy thì sợ gì?
Nói đoạn toan kéo quân lính tiền bộ tiến lên để đánh.
Chợt đâu lại trông thấy phía trước có một toán nhân mã vừa kéo đến một Nữ Tướng kéo lá cờ đỏ chữ vàng, thêu năm chữ " Mỹ Nhân Nhất Trượng Thanh" đi đầu, bên tả có Cố Đại Tẩu, bên hữ có Tôn Nhị Nương, dẫn một nghìn nhân mã, toàn thị là bọn năm dài bảy ngắn, ngũ nhạc tam sơn, kéo cả đến đó.
Lý Thành nom thấy lại cười rằng:
- Quân mã kia thì làm gì được! Tiên Phong ra đánh mặt trước, để tôi chia binh ra bốn mặt, bắt quân giặc cỏ cho tuyệt nọc đi.
Sách Siêu lãnh tướng lệnh, múa kim tiêu, vỗ ngựa xông ra để đánh Nhất trượng Thanh, Nhất Trượng Thanh bèn quay ngựa vào trong khe núi mà chạy, Lý Thành chia quân để đánh, Bỗng gặp Lý Ứng cùng Sử Tiến, Tôn Tân dẫn quân mã ầm ầm kéo đến, chàng bèn kinh sợ, lui quân vào bãi Rữ Gia, Bấy giờ Giải Trân, Khổng Lượng xông vào bên tả, Khổng Minh Giải Bảo xông vào bên hữu, rồi ba viên nữ tướngcũng quay ngựa lại để đánh, quân mã Lý Thành đều kinh sợ kéo nhau mà chạy tháo về trại. Khi về gần tới trại lại gặp Lý Quỳ chạy ngang đường để đánh. Lý Thành, Sách Siêu, hết sức đánh tháo lấy đường mới được thoát về trong Trại, trở về đến trại, kiểm điểm nhân mã thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể.
Quân mã Tống Giang thấy vậy cũng không đuổi theo, liền tạm dừng quân mã hạ trại để nghỉ. Lý Thành, Sách Siêu bị thua trận đầu, liền cho người báo với Lương Trung Thư, Trung Thư sai Văn Đạt, lập tức phải đem quân bản hộ, để đánh giúp. Khi Văn Đạt ra tớn nơi, Lý Thành đón vào trong trại để cùng bàn việc quân.
Văn Đạt cười bảo Lý Thành rằng:
- Việc đó cỏn con thế, bỏ gì mà phải nghĩ, để sáng mai đánh cho chúng một trận là xong.
Hai người bàn định xong, đầu canh tư hôm sau, truyền quân sĩ trở dậy ăn cơm, rồi sang canh năm kéo quân ra đánh. Bên kia quân mã Tống Giang cũng ầm ầm kéo đến như gió thổi nước reo, thế mạnh không biết tới đâu mà kể, Văn Đạt thấy vậy liền truyền quân mã dàn thành thế trận, và lại truyền cung nỏ ra bắn giữ ven trận.
Bên trận Tống Giang có một viên Đại Tướng, dẫn l1 cờ đỏ thêu năm chữ " Tích Lịch Hỏa T6àn Minh ", đi ra trước trận quát to lên rằng:
- Đám quan tham lại nhũng ở phủ Đại Danh, nghe ta nói: đã lâu nay ta định đem quân đến đánh thành trì, song còn thương đám lương dân trong thành, nên chưa nỡ quyết. Nay ngươi đem Lưu Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú và đứa gian phu dâm phụ ra nộp trả đây thì ta sẽ lui quân lập tức, không hề sâm nhiễu làm chi. Bằng ngu xuẩn không nghe thì ta cho biết...
Văn Đạt nghe nói cả giận, hỏi lên rằng:
- Ai bắt thằng giặc ấy cho ta?
Nói dứt lời thì Sách Siêu phóng ngựa ra trước cửa trận quát lên rằng
- Thằng kia nguyên là mệnh quan của nhà nước, triều đình đã phụ chi ngươi, mà ngươi nỡ bỏ kiếp làm người để đi lạc thảo? Nay ta bắt ngươi, quyết xé ra muôn đoạn mới thôi.
Tần Minh nghe câu đó, lại như lửa cháy đổ thêm dầu, đùng đùng nổi giận, múa Lang Nha Côn xông ra để đánh. Sách Siêu cũng phóng ngựara đánh với Tần Minh. Đôi bên cùng ngựa hăng người khoẻ, đánh nhau tới hai mươi hiệp không phân được thua. Bên kia Hàn Thao đứng trong đội tiền quân, dương cung đặt tên bắn một phát trúng phải cánh tay tả. Sách Siêu bỏ rời đại phủ ra, rồi quay ngựa về bản trận. Tống Giang cầm roi trỏ vẫy tam quânnhất tề xông ra đánh giết máu chảy thành sông, xương phơi đầy nội, đuổi đánh khỏi bãi Rữa Gia, cướp cả tiểu trại ở Hoè Thụ Phi, rồi Văn Đạt chạy về Phi Hổ Dực, kiểm điểm quân mã chia ba thiệt mất một phần.
Chiều hôm đó Tống Giang đóng quân ở Hoè Thụ Phi, Ngô Dụng bàn mưu rằng:
- Quân binh thua chạy, trong lòng tất khiếp, nay nếu không thừa thế đánh trận, thì sau nầy khó phá ngay được.
Tống Giang khen phải, liền truyền lệnh những quân lính giỏi đắc thắng lập tức đêm hôm đó phải tiến lên để đánh.
Đêm hôm đó Văn Đạt đương ngồi lo nghĩ ở trong trướng, chợt thấy lính báo
- Về phía bên đống có một dẫy lửa kéo đến.
Chàng thúc quân sĩ lên ngựa,đi ra phía đông để xem, thì thấy lửa sáng rực trời, không biết bao nhiêu mà kể. Chợt lại thấy về phía bên Tây cũng có một dẫy lửa kéo đến, chàng quay ngựa về phía Tây để xem. đương khi đó, chợt thấy tiếng kêu dậy đất, rồi có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, cùng phó tướng Dương Xuân, Trần Đạt, ở dẫy lửa về phía bên Đông kéo xông vào.
Văn Đạt kinh sợ vội kéo quân về Phi Hổ Dực. Chợt lại thấy phía bên Tây có Hô Duyên Chước dẫn phó tướng là Âu Bằng, Yến Thuận kéo quân xông đến. Hia phía đều hăng hái ra sức, hò reo vang lừng mà kéo ập vào. Đoạn rồi thấy Tần Minh dẫn phó tướng là Hàn Thao, Bành Dĩ ở đằng sau ầm ầm kéo đến, người reo ngựa hét, đông đúc không biềt tới đâu mà lượng được.
Quân mã Văn Đạt đều rối loạn cả lên, liền nhổ toàn trại mà chạy. Chợt lại thấy phía trước reo hò ầm ĩ , rồi có một tiếng súng kêu nổ dậy trời, quân sĩ đều hết hồn mà chạy đi không được. Nguyên đó là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn kéo quân theo lối đường hẻm,đến bên núi Phi Hổ Dực nổ súng ra hiệu, để cho các mạn quân mã biết đường mà đánh.
Khi đó Lâm Xung dẫn phó tướng là Mã lân, Đặng Phi, đón chặng đường đi của Văn Đạt, rồi bốn bên trống trận nổi lên ầm ầm, đóm đuốc sáng rực cả trời, làm cho quân mã của Văn Đạt đều tháo chạy rối lên không sao giữ được.
Văn Đạt múa đại đao hết sức cướp đường để chạy. May gặp có Lý Thành kéo binh đến tiếp, hai người đều hợp quân làm một, vừa đánh vừa chạy giật lùi, mãi đến khi trời sáng mới về đến thành. Lương Trung Thư nghe tin quân thua, sợ kinh hết cả hồn vía, vội điểm binh ra thành tiếp đón đám tàn quân của hai tướng, rồi đóng chặt cửa thành giữ riết ở trong nhà mà không dám thò ra đánh nữa.
Sáng hôm sau quân mã Tống Giangkéo đến đóng trại ở chân thành phía bên Đông, rồi sắp sửa để đánh phá châu thành.
Bấy giờ Lương Trung Thư họp các quan lại, để bàn kế giải cứu.
Lý Thành nói rằng:
- Quân giặc đến thành rất là cần cấp, nay nếu lững thững tất bị hãm mất thành, vậy tướng công nên sai người về báo cho Kinh Sư với Xái Thái Sư, để ngài tâu với triều đình, mang binh ra cứu. Còn ở đây thì nhất diện nhờ Quan Phủ Đại Danh sức cho dân phu, đem đủ các đồ gỗ đá cung tên, để ra sức cùng nhau giữ thành, thì may ra mới khỏi nguy được.
Lương Trung Thư nghe nói, liền viết thư sai gia tướng là Vương Định, dẫn mấy tên quân mã lẻn ra ngoài thành để phi báo vào nơi kinh sư, và cầu cứu các nơi phủ huyện, còn trong thành thì nói với Vương Thái Thúlập tức bắt dân phu coi giữ rất là cẩn thận.
Bên kia Tống giang truyền lệnh các tướng vây thành, hạ trại ba mặt Đông,Tây, Bắc, còn bỏ trống cửa Nam để ngày ngày cho quân đến đánh phá. Nhất diện lại sai người đến sơn trại thôi thúc lương thảo. Làm cách lâu dài để vây lấy thành Đại Danh, cứu lấy hai người cho kỳ được.
Lý Thành,Văn Đạt ngày nào cũng đem quân ra đánh, không nên công trạng chút gì, còn Sách Siêu thì bị trúng mũi tên, vẫn không sao khỏi được, tính mạng thành Đại Danh cơ hồ gần nguy cấp đến nơi.
Nói về Vương Định dẫn hai tên lính kỵ thẳng vào Đông Kinh tới phủ Thái Sư nói với lính gác vào báo cho Thái Sư biết. Xái Thái Sư nghe nói truyền cho Vương Định vào hầu. Vương Định vào tới nhà trong đưa mật thư lên trình Thái Sư. Thái Sư xem xong cả kinh, hỏi rõ mọi việc, Vương Định liền đem mọi việc Lư Tuấn Nghĩa, và binh thế của Tống Giang bẩm rõ cho Thái Sư biết.
Thái Sư bảo với Vương Định rằng:
- Ngươi đi xa tới đây hãy còn mệt nhọc, hãy ra nghỉ ngoài trạm, để ta họp các quan bàn định xem sao, rồi sẽ liệu.
Vương Định bẩm rằng:
- Thành Đại Danh hiện nay như trứng để đầuđẳng. Nếu lỡ ra bị hãm, thì các phủ huyện ở Bắc Hà tất nguy, vậy xin ân tướng mau mau cho quân ra tiểu trừ mới được.
Xái Kính nói:
- Ta hiểu rồi, ngươi cứ ra đó, khắc ta liệu.
Vương Định lạy chào lui ra, Thái Sư liền mời các quan văn võ ở Viện Khu Mật lập tức đến bàn việc quân, khi các quan trong Khu Mật Viện, cùng ba nha Thái Úy, đã tề tựu cả. Thái Sư bèn thuật chuyện cho nghe, và bàn hỏi xem sách dùng binh sai tướng như thế nào, để bảo toàn phủ Đại Danh cho được? Các quan nghe nói đều len lét nhìn nhau, không ai nói được câu gì cả. Chợt đâu thấy một người đứng sau bộ quan Thái Úy, chạy ra vái chào mà nói rằng:
- Chúng tôi xin tiến cử một người, ân tướng tha phép chúng tôi xin nói.
Nguyên người nầy họ Tuyên tên Tán, mặt đen chìu chĩu, mũi ngửa lên trời, tóc quăn râu đỏ, mình cao tám thước hay khiến cây cương đao, võ nghệ rất giỏi, trước đã làm chức Quận Mã ở Vương Phủ, người ta thường gọi là Xú Quận Mã (Quận Mã Xấu). Nhân khi chàng đánmh được Phiên tướng, Quận vương có lòng yêu quý võ nghệ, liền gả con gái cho làm vợ. Sau quận chúa thấy chàng xấu quá, đến nổi buồn bực mà chết. Nhân vậy chàng cũng không được trọng dụng, mà hiện nay vẫn giữ chức binh mã Bảo Nghĩa Sứ ở trong Vương phủ. Hôm đó chàng thấy các quan đều im ỉm, không không ai nói được câu nào, liền có ý tức giận, mà chạy ra kêu với Thái Sư.
Bấy giờ Thái Sư nghe nói, liền hỏi Tuyên Tán rằng;
- Tướng quân định tiến cử ai cứ nói cho ta biết?
- Bẩm Thái Sư khi chúng tôi còn nhỏ, có một người anh em quen biết ở trong làng, họ Quan tên Thắng, vốn con cháu Võ An Hầu ở cuối đời nhà Hán khi trước. Anh ta tướng người vạm vỡ cũng giống với ông tổ là Quan Vân Trường, khiến cây đao Thanh Long Yển Nguyệt, hiện nay làm Tuần Kiểm ở Bồ Đông, là một chức tầm thường ở dưới. Người đó lúc nhỏ có đọc Kinh Sử, rất giỏi về võ nghệ, sức khoẻ muôn người không địch, nay nếu lấy lễ mời lên, bái làm Thượng Tướng, thì đám giặc cỏ tất là trừ hết, mà nhà nước được yên tĩnh từ đây.
Xái Kính nghe nói cả mừng, liền sai Tuyên tán làm sứ, đem văn thư yên mã lập tức ra Bồ Đông để đón Quan Thắng, Tuyên tán vâng lệnh lĩnh văn thư trở ra, rồi đem dăm người theo hầu cùng đi.
Khi Tuyên Tán đến nơi, hai bên chào hỏi rồi Quan thắng mời vào trong sảnh mà hỏi rằng:
- Cố nhân đã lâu không được gặp, chẳng hay có việc chi mà khó nhọc đến đây?
Tuyên Tán nói rằng:
- Nay nhân bọn giặc cỏ vây đánh thành Đại Danh, tôi có đem tài an bang định quốc của huynh trưởng, để nói với Thái Sư, Thái Sư liền sai tôi vâng sắc chỉ của triều đình, đem tiền lụa yên nhung đến đây để đón huynh trưởng, vậy xin huynh trưởng chớ nên từ chối mà đi ngay cho...
Quan Thắng nghe nói cả mừng, nói với Tuyên Tán rằng:
- Người anh em tôi đây họ Hắc tên Tư Văn, là anh em kết nghĩa với tôi, khi trước mẫu than ông ta nằm mơ thấy ông Tỉnh Mộc Can. Ông nầy giỏi đủ mười tám môn võ nghệ, mà tới nay vẫn còn chìm đắm ở đây, thực là đáng tiếc! Nay nếu cùng đi mà ra sức cứu giúp nước nhà,thì làm chi mà không được?
Tuyên Tán lấy làm vui mừng, liền giục hai người mau mau ra đi. Quan Thắng bèn dặn dò nhà cửa, rồi cùng với Hắc Tư Văn, dẫn mười mấy người ở Quan Tây theo Tuyên Tán lập tức đi vào Đông Kinh.
Khi vào tới Đông Kinh tới phủ Thái Sư, có lính canh cửa đưa vào hầu Thái Sư, Xái Thái Sư trông thấy Quan Thắng, mình cao hơn tám thước, râu nhỏ ba hàng, mày ngài mắt phượng, mặt dài môi đỏ, rõ ra một vẽ đường đường, thì trong bụng cả mừng liền hỏi ngay rằng:
- Tướng quân năm nay bao nhiêu tuổi?
Quan Thắng bẩm
- Chúng tôi năm nay ba mươi hai.
- Hiện nay giặc Lương Sơn vây đánh thành Đại Danh, tướng quân có cách gì khả dĩ giải vây đi được?
- Xưa nay chúng tôi vẫn nghe đám giặc cỏ ấy, lẫn lút ở chỗ bến nước, để quấy nhiễu lương dân, nay nhất đán rời xa sào huyệt, đó là tự gây tai hoạ mà thôi. Song nay nếu cứu được thành Đại Danh thì cũng khó nhọc vô cùng. Vậy tôi xin lĩnh mấy vạn tinh binh thẳng tới Lương Sơn để đánh rồi sau đánh bắt quân giặc, khiến cho chúng đầu đuôi không kịp cứu nhau, thì mới có thể tất thắng được.
Thái Sư nghe nói cả mừng, bảo Tuyên Tán rằng:
- Đó là kế vây Ngụy cứu Triệu đó. Kế ấy chính hợp ý ta.
Nói đoạn liền truyền Viện Khu Mật cắt lấy nghìn rưỡi quân tinh nhuệ ở Sơn Đông, Hà Bắc, cho Hắc Tư Văn làm Tiên Phong, Tuyên Tán làm hậu hợp, Quan Thắng thì Lãnh Binh Chỉ Huy Sứ, bộ quân Thái Úy là Đoàn Thường tiếp ứng lương thảo đi sau, đoạn rồi khao thưởng tam quân, mà lập tức khởi trình đi đánh Lương Sơn Bạc.
Mới hay:
Ba quân hổ báo uy danh đất:
Một trận binh đao khí dậy trời
Thế gian chi hiếm anh tài,
Chỉ e thiên hạ hiếm người mắt xanh!
Bây giờ tướng giỏi binh tinh,
Thử xem Sơn Bạc tan tành hay chăng?
Lời bàn của Thánh Thán.
Tôi tớ đồng tiền, xưa gọi nô tài đồng âm với nô tài là tôi tớ người khôn, mới đầu nói ra ở miệng Quách Lệnh Công mắng con, ý nói làm đầy tớ cho người ta sai khiến. Thế mà ngày nay xem ra, thì hầu hết thiên hạ, sao mà loại tôi tớ ấy nhiều thay;
Tôi tớ đồng tiền, nào phải riêng ở đám buôn thúng bán mẹt, đầu đường só chợ mà thôi, có thể nói từ kẻ áo xiêm tề chỉnh, ra luồn vào cúi hầu môn; mặc giáp bào cưỡi ngựa múa gươm, liều sống chết với sa trường; cho đến một bầu kinh sử, thiết trướng các nơi; Hoặc là ngàn dặm non sông hiểm trở, với mọi ngành sinh hoạt...ều làm tôi tớ đồng tiền, một khi theo đuổi bất cứ nghề nghiệp gì sang hèn, mà thiếu tính cách nhân đạo, đều làm tôi tớ đồng tiền; Hỡi ôi! Đám người thiên hạ, mà không cái gì chẳng vị đồng tiền, thì vua do đâu mà trị, dân nhờ đâu mà yên, cha mẹ lấy gì mà nuôi con, con nhờ vào đâu mà dạy dỗ, đức của ta làm sao mà lập, bọn hậu học nhờ vào đâu mà bắt chước theo? Thạch Tú mắng Lương Trung Thư rằng: Ngươi chỉ làm tôi tớ cho những thằng tôi tớ... Thực Thi Nại Am khéo mượn bút chửi đời bằng một giọng văn đáng khóc đáng cười rất khoái!
Sách Siêu trước đã cùng xuất hiện với Dương Chí ở một đoạn văn đến đây cách hơn năm mươi hồi, mới lại hiện ra, vì trước không nhân có một sự gì mà xuất hiện, đến đây mới vừa hé ra, lại vì một mũi tên của Hàn Thao mà ngừng trở lại, rồi sau chuyển đến bị bắt ở trong đám tuyết, ngọn bút tả ra, không thể vội vàng mà nói tới.
Tả bắn Sách Siêu lại dùng mũi tên của Hàn Thao đó là sao? Chủ ý làm cho Sách Siêu ngừng lại, chẳng phải là chí tả chết Sách Siêu, cho nên có lúc tả bắn dùng mũi tên của Hoa Vinh; mới đúng với sự bắn; Lại có lúc tả bắn dùng mũi tên của Hàn Thao, cho rõ chẳng đúng với sự bắn, bắn mà không thể chết lại dùng mũi tên của Hàn Thao, vì sao? Vì Hàn Thao phó tướng của Tần Minh, mới mượn ra như vậy.
Một vị đường đường Tể Tướng ngôi tôn, và Tam Nha ở trong Khu Mật Viện long trọng, thế mà nghe tin giặc, đã len lét nét mặt trông nhau, thì hỏi rằng còn có mưu gì để trên báo quốc gia, dưới trừ cường lỗ vậy vay? Thế mà bỗng đâu ở đằng sau lưng các vị đó, lại chuyển ra một người, đưa ra kế sách, do sau lưng kẻ ở sau lưng ấy, lại chuyển ra một người nữa, có thể phá giặc giúp nước, ngờ đâu kẻ ở sau lưng lần thứ hai kia, lại dẫn ra một kẻ ở sau lưng nữa, đề cùng giúp sức kẻ ở sau lưng; Hỡi ôi; Nhân tài khó biết thay; Chẳng phải đó ư; Sao mà sau lưng có nhiều người thế? Thì ra ba người sau lưng cũng may mà gặp lúc triều đình đa sự, để có ngày thiên hạ biết tài, chẳng thế thì sao giờ lại được ở dưới gót các vị quan cao Đại Thần, như Tể Tướng với Tam Nha trong khu Mật Viện? Mà thấy bóng mặt trời? Song ba người cũng lại chẳng may gặp lúc nước nhà lắm việc, rồi cũng chẳng khỏi phải ra đời, ta biết đâu được cứ đóng cửa nằm cao, vui trọn tuổi già, mà cũng chẳng nguyện theo đòi quan Tể Tướng Đại Thần, Tam Quan trong khu Mật Viện, để mất cả nhuệ khí, khi đối với mọi nguy cơ? Đọc tới đây chẳng khỏi ngậm ngùi than thở.
Hồi 63
Đêm trăng Duyên Chước lừa Quan Thắng
Trời tuyết Công Minh bắt Sách Siêu.
Nói về Tống Giang cùng các Tướng hết sức đánh phá thành trì, song Lý Thành, Văn Đạt đóng vững cử thành, không chịu ra đánh, trên thành phòng bị rất nghiêm, không sao mà phá ngay được. Tống Giang thấy quân sĩ đi đánh đã lâu mà không được nên công, thì trong lòng lấy làm băn khoăn buồn bã, không biết lập kế ra sao?
Một buổi tối hôm đó, chàng đương ngồi buồn trong trướng, mở bộ Thiên Thư của Cửu Thiên Huyền Nữ ra xem, thì bỗng thấy có người vào báo:
- Có Quân Sư Ngô Dụng đến hầu.
Tống Giang nghe báo liền đứng dậy đón Ngô Dụng vào để nói chuyện.
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Quân ta đến đây vây đánh đã lâu, mà không thấy quân mã đến cứu, trong thành cũng không chịu ra, chắc là Lương Trung Thư, lại cho người cáo cấp với bố vợ là Xái Thái Sư, để đem binh ra tiếp ứng ở đây, mà trong đám đó hẳn có tay Tướng giỏi. Nếu họ lại dùng kế vây nước Ngụy cứu nước Triệu, nghĩa là họ không đến đánh ở đây, mà đánh thẳng vào Lương Sơn Bạc, thì có lẽ nguy mất. Việc đó huynh trưởng phải nên lưu tâm, thu thập quân sĩ đi trước, dẫu không lui về cả, song...
Vừa nói đến đó, thì Thần Hành Thái Bảo Đới Tung đến báo rằng:
- Nay Xái Thái Sư đón người cháu Quan Bồ Tát là Đại Đao Quan Thắng ở Bồ Đông làm Đại Tướng dẫn quân đến đánh Lương Sơn Bạc, các Đầu Lĩnh ở nhà đều lấy làm kinh hoảng lo sợ, vậy xin huynh trưởng cùng Quân Sư hãy tạm lui binh, về cứu Lương Sơn, rồi sau sẽ liệu...
Ngô Dụng nghe nói, bàn với Tống Giang rằng:
- Đã đành như vậy, song ta đây không thể về vội ngay được. Đêm nay hãy cho quân bộ đi trước, còn để cho hai toán quân mã nấp ở hai bên Phi Hổ Dực, phòng bị quân mã trong thành theo đuổi, thì mới có thể chống cự lại được.
Tống Giang khen phải liền cắt Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh dẫn năm trăm quân mã mai phục ở bên tả Phi Hổ Dực, và Báo Tử Đầu Lâm Xung dẫn năm trăm quân mã phục ở bên hữu, Lại truyền cho Hô Duyên Chước dẫn hai mươi quân kỵ, cùng Lăng Chấn đem súng đặt ở gần thành, cách chừng hai mươi dặm để đợi khi quân mã trong thành ra đuổi, thì ra hiệu cho quân phục biết. Đoạn rồi truyền lệnh cho quân Tiền đội, dần dần kéo lui như mây tan như mưa tạnh, dù gặp quân mã nào cũng không được đánh nhau. Đám bộ quân vâng lệnh, nửa đêm hôm ấy kéo đi, mãi đến giờ tý hôm sau mới hết.
Bấy giờ trên thành trông thấy quân sĩ Tống Giang đều cuốn cờ vác đoá, cùng nhau nhổ trại kéo lui, liền đem tin tức vào báo cho Lương Trung Thư biết. Trung Thư nghe báo, lập tức gọi lý Thành, Văn Đạt lên để bàn.
Văn Đạt nói:
- Sự nầy chắc là quân mã Đông Kinh đến đánh Lương Sơn Bạc, nên họ sợ mất sào huyệt mà phải kéo quân về giữ. Vậy bất nhược ta thừa thế đuổi đánh một trận, thì thế nào cũng bắt được Tống Giang.
Đương khi bàn bạc thì bỗng thấy có người báo, có công văn ở Đông Kinh đưa ra, ước định đem quân đánh thẳng Lương Sơn Bạc, và khi Tống Giang kéo về, thì phải đuổi theo mà đánh. Lương Trung Thư nghe báo, bèn sai Lý Thành, Văn Đạt dẫn hai toán quân đi theo hai đường Đông Tây để đuổi.
Bấy giờ quân mã Tống Giang đương lục tục lui về, chợt thấy quân mã trong thành ra đuổi, chúng liền ùa nhau mà nhất tề kéo chạy, Lý Thành, Văn Đạt thấy vậy, liền thúc quân đuổi riết để đánh.
Khi đuổi đến Phi Hổ Dực, chợt nghe tiếng đằng sau lưng có tiếng nổ đánh đùng đùng, rồi trống trận nổi lên như sấm động, quân mã ở đâu bỗng kéo cờ vác đáo xông ra, uy thế rất là hùng dũng, Lý Thành, Văn Đạt luống cuống, ngựa chưa kịp xoay giở, đã thấy bên tả có Hoa Vinh, bên hữu có Lâm Xung đều đổ ập đến để đánh.
Hai người biết là mắc kế vội vàng lui quân trở lại. Bất đồ lại gặp toán quân mã của Hô Duyên Chước, đều ra sức xông đánh rất là hăng hái. Lý Thành, Văn Đạt bị thua một trận xác sơ, rách cả áo mất cả mũ, rồi cùng nhau kéo về trong thành, đóng cửa lại không dám thò ra nữa.
Bên kia quân mã Tống Giang lại thứ tự ung dung mà kéo về Sơn Bạc.
Khi về gần tới Lương Sơn, gặp toán quân của Tuyên Tán ngăn chặn đường đi, Tống Giang liền truyền lệnh tạm hạ dinh trại, rồi sai người theo đường tắt trở về báo cho sơn trại, và ước hẹn quân mã thủy trại để cùng cứu ứng.
Khi đó hai Đầu Lĩnh là Trương Hoành, Trương Thuận bàn với nhau rằng::
- Anh em ta từ khi đến đây, chưa lập được chút công lao gì... Hiện nay Đạo Đao Quan Thắng chia quân ba đạo tiến đánh ta đây, vậy bất nhược anh em ta kéo ra cướp trại, bắt lấy Quan Thắng mà lập lấy đại công thì đối với anh em cũng được kiêu hãnh đôi chút, chú nghĩ sao?
Trương Thuận nói:
- Tôi cùng Ca Ca chỉ coi về mặt thủy quân, nếu lỡ ra thế nào, thì không có người cứu ứng, thì tất là mang tiếng với anh em, không tiện...
- Nếu cứ như vậy thì đến năm nào mới lập được công? Ngươi không đi thì thôi, đêm nay ta đi một mình vậy,
Trương Thuận hết sức can gián, Trương Hoành nhất định không nghe. Đêm hôm đó Trương Hoành điểm năm mươi chiếc thuyền, mỗi thuyền có năm ba tên lính, tay cầm trường sang đao lá chuối, rồi thừa lúc đêm trăng tịch mịch, mà kéo thuyền đi ra đường bộ, để cùng nhau đến cướp trại.
Đêm hôm ấy Quan Thắng đang ngồi xem sách trong trướng, bỗng thấy người báo, có bốn năm mươi chiếc thuyền ở trong đám lau lách đi ra, người nào người nấy đều cầm trường sang trong tay, không biết có việc chi?
Quan Thắng nghe báo cười nhạt một tiếng, rồi quay lại người tỳ Tướng bên cạnh, mà nói mấy câu rất nhỏ, người ngoài không hiểu ra sao?
Bên kia Trương Hoành dẫn mấy trăm lâu la theo đám lau lách lần vào nhổ hết chông gai, đi thẳng đến trại Quan Thắng. Bấy giờ khoảng quá canh hai, chàng đi vào đến trại Trung Quân, thấy trong trướng đèn nến sáng choang. Quan Thắng đương ngồi vuốt râu xem sách. Trương Hoành mừng thầm trong bụng, tay cầm cây gươm trường, sấn vào trong trướng để bắt. Chợt đâu nghe tiếng thanh la nổi lên, rồi thấy quân sĩ reo hò quát tháo chẳng khác gì trời long đất lở, núi lở sông xoay, làm cho Trương Hoành phải kinh sợ rụng rời, mà quay đầu toan chạy.
Chàng vừa quay đều toan chạy, thì quân phục ở bốn mặt đổ ra ầm ầm, rồi bắt hết cả mấy trăm người, cùng Trương Hoành mà giải vào, cùng Trương Hoành mà giải vào cho Quan Thắng.
Quan Thắng trông thấy Trương Hoành cười mà mắng rằng:
- Quân giặc cỏ thấm vào đâu, mà dám trêu ghẹo đến ta?
Nói đoạn liền sai giam Trương Hoành vào xe tù, mà giam hết bọn quân sĩ ở đó, để đợi bắt được Tống Giang sẽ giải về Kinh Sư.
Nói về ba anh em họ Nguyễn, cũng coi thủy trại ở Lương Sơn Bạc, hôm đó đương ngồi bàn chuyện với nhau, chợt thấy Trương Thuận chạy đến nói rằng:
- Ca Ca tôi không nghe lời tôi can, đem quân đến cướp trại Quan Thắng bất đồ bị bắt giam vào xe tù, không biết làm sao cho được?
Nguyễn Tiểu Thất nghe nói kêu lên rằng:
- Anh em chúng ta cùng sống cùng chết, hoạn nạn có nhau, vậy anh là anh em ruột với Trương Hoành, sao anh lại để cho đi một mình, đến nỗi bị người ta bắt được? Nay anh không đi cứu, thì để ba anh em tôi đi cứu cho...
Trương Thuận nói:
- Vì tôi chưa được tướng lệnh của Tống Ca Ca, nên không dám đi liều.
- Nếu đợi Tướng lệnh, thì anh bác có lẽ bị nó đem làm mắm mất rồi.
Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ cũng đều lấy làm phải, mà thúc nhau đi cứu Trương Hoành. Trương Thuận lại cố can không được, sau đành phải chịu theo với họ, Trống đầu canh tư hôm đó, các Thủy trại Đầu Lĩnh đều dẫn hơn hai trăm chiếc thuyền kéo ra để cướp trại Quan Thắng thấy vậy, lại vào báo cho chủ tướng biết.
Quan Thắng nghe báo cười rằng:
- Quân ngu dốt thực!
Nói đoạn dặn thầm tuỳ tướng mấy câu như trước.
Đằng kia ba anh em họ nguyễn đi trước, Trương Thuận đi sau, ầm ầm kéo nhau đến trại Quan Thắng. Khi tới nơi thấy trong trại đèn nến sáng choang mà vắng tanh vắng ngắt không có ai đi lại. Ba anh em họ Nguyễn lấy làm nghi ngờ, toan quay ra để chạy, bỗng đâu thấy trước trướng nổi lên mấy tiếng thanh la, rồi thấy bốn bên tả hữu các quan mã bộ, có tới tám đường đổ ra mà vây chặt lấy.
Trương Thuận thấy sự thế nguy cấp liền lui lại nhảy tót xuống nước, rồi ba anh em họ Nguyễn cũng cướp đường để chạy ra bến nước, Bất đồ bị quân lính quan Thắng thả giây móc bắt được Nguyễn Tiểu Thất đem đi. Còn Nguyễn Tiểu Nhị, Tiểu Ngũ, thì có Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, cứu về trong trại.
Khi về tới sơn trại. Liền báo tình hình cho sơn trại biết. Lưu Đường liền sai Trương Thuận đi đường thủy đến trại Tống Giang, để báo cho Tống Giang biết. Tống Giang liền gọi Ngô Dụng đến để bàn kế. Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Ngày mai ra đánh một trận xem thua được thế nào rồi ta sẽ liệu.
Đương khi bàn luận với nhau, bỗng thấy trống trận nổi lên ầm ầm, rồi có người vào báo rằng:
- Tuyên Tán bộ lãnh tam quân thẳng đến đại trại để khơi đánh.
Tống Giang nghe báo, vội dẫn quân ra tiếp đón, khi ra tới nơi, thấy Tuyên Tán đứng bên kia thách đánh.
Tống Giang liền hỏi:
- Anh em, ai ra ngựa trước xem sao?
Nói chưa dứt lời, thì thấy Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh vỗ ngực cầm thương ra đánh Tuyên án. Tuyên Tán cũng múa đao ra đỡ. Đôi bên đánh nhau chừng hơn mười hiệp, thì Hoa Vinh lừa miếng phá đĩnh mà quay ngựa chạy thẳng. Tuyên Tán liền vỗ ngựa hăng hái đuổi theo.
Hoa Vinh thấy Tuyên Tán đuổi theo, bèn đeo gươm vào rồi lấy cung đặt tên, quay mình lại nhắm Tuyên Tán một phát, Tuyên án nghe tiếng cung bật, vội giơ đao lên gạt, thì mũi tên bắn vào lưỡi đao ken một cái. Hoa Vinh lấy mũi tên nữa, nhè lúc Tuyên Tán đến gần, bắn luôn một phát thứ hai vào trước bụng. Tuyên Tán né mình tránh khỏi, mũi tên bắn ra chỗ không. Tuyên Tán thấy nghề bắn cung của Hoa Vinh tài giỏi, liền quay ngựa lại mà không dám đuổi nữa. Hoa Vinh thấy Tuyên Tán không đuổi, bèn quay ngựa lại lấy mũi tên thứ ba, nhằm vào sau lưng Tuyên Tán bắn thêm phát nữa. Vừa bắn xong, nghe tiếng kêu đến binh môt cái, té ra mũi tên lại vừa bắn vào miếng kính yểm tâm.
Tuyên Tán vội vàng về trận, báo cho Quan Thắng biết. Quan Thắng gọi lính dắt ngựa ra, lập tức vác đao Thanh Long, lên ngựa Xích Thố, mà thẳng xông ra trận.
Tống Giang trông thấy Quan Thắng rõ ra vẻ anh tài lẫm liệt, bèn chỉ bảo Ngô Dụng mà khen ngợi luôn mồm. Đoạn rồi quay lại nói to lên với các Tướng rằng:
- Quan Tướng quân một bậc anh hùng, thực là đáng lắm...
Lâm Xung thấy vậy, khí tức nổi lên đùng đùng, liền kêu lên rằng:
- Anh em chúng ta, từ khi lên ở Sơn Bạc đến nay, đánh nhau cũng đã có năm bảy mươi trận, có khi nào chịu nhục với ai? Sao ngày nay lại giảm uy phong như vậy?
Nói đoạn múa thương ra ngựa, thẳng xông sang đánh Quan Thắng.
Quan Thắng quát to lên rằng:
- Bớ quân giặc cỏ ở bến vũng nước, ta không có thì giờ đánh bắt các ngươi, cứ bảo Tống Giang ra đây, ta hỏi vì cớ sao dám bội bạc triều đình?
Tống Giang nghe nói vội thét Lâm Xung dừng lại, rồi phóng ngựa ra trận nghiêng mình chào Quan Thắng mà nói rằng:
- Chúng tôi là Tống Giang tiểu lại ở Vận Thành, xin chào Tướng quân. Có tội gì xin cứ hỏi?
Quan Thắng nói:
- Ngươi là kẻ tiểu lại, sao dám phản bội triều đình?
- Vì triều đình vô đạo, dong túng kẻ gian thần, không có trung lương tiến đạt, đám quan tham lại nhũng đầy dẫy nhân gian làm hại biết bao nhiêu người lương thiện, nhân vậy Tống Giang nầy phải thay trời làm đạo, chứ không có bụng gì khác cả...
- Rõ ràng bay là giặc cỏ. Thay trời làm đạo, làm đạo nào...Nay binh trời đến đây lại còn khéo nói hay sao? Nếu không xuống ngựa chịu trói, thì ta truyền cho nát xác bây giờ.
Tìch Lịch Hỏa Tần Minh nghe nói, kêu lên một tiếng rất to, rồi múa Lang Nha Côn vỗ ngựa xông ra, Lâm Xung cũng múa Phi Thương ra để đánh,
Hai Tướng hăng hái xông vào. Quan Thắng múa đao đón đánh, cát bụi tung lên như đèn kéo quân vậy. Chợt đâu thấy Tống Giang chỉ chỉ gật gật, rồi sai khua chiên rút quân về. Lâm Xung, Tần Minh quay vào nói với Tống giang rằng:
- Chúng tôi đương vây bắt hắn, sao huynh trưởng lại vội thu quân?
Tống Giang nói to lên rằng:
- Anh em phải biết, chúng ta đây vốn giữ lòng trung nghĩa, nay đem hai người mà đánh một người sao nỡ! Như thế có bắt được hắn, chắc là hắn cũng không phục... Và ta xem Đại Đao là một tướng nghĩa dũng, dòng dõi trung thần, ông cha xưa nay làm thần làm thánh, ai ai cũng đến phụng thờ, nếu nay bắt được người ấy lên núi, thì Tống Giang xin tình nguyện nhường ngôi đó...
Lâm Xung, Tần Minh nghe nói, đều biến sắc mặt mà lui vào. Đoạn rồi hai bên đều thu quân về trại.
Quan Thắng về đến trong trại, xuống ngựa cởi giáp, trong lòng nghĩ thầm rằng:"Ta hết sức đánh với hai Tướng có lẽ sắp thua với họ, thế mà Tống Giang vội khua chiên thu quân, không biết là ý tứ làm sao? ".
Nghĩ đoạn liền sai đẩy xe tù Trương Hoành, Nguyễn Tiểu Thất ra mà hỏi rằng:
- Tống Giang chỉ là một anh tiểu lại ở Vận Thành, sao mà các ngươi lại phục hắn như vậy?
Nguyễn Tiểu Thất vội nói lên rằng:
- Ca Ca tôi vẫn vốn là một người có tiếng ở Sơn Đông, ai ai cũng gọi là C6ạp Thời Vũ Tống Công Minh, các ngươi là người không biết trung nghĩa, thì hiểu sao nổi mà hỏi...
Quan Thắng nghe nói, chỉ cúi đầu, rồi lại sai đem xe tù để vào một chỗ. Tối hôm đó quan Thắng đứng ngồi vơ vẫn không yên, bèn chạy ra sau trại nom quanh nom quẩn một mình, ngẩng trông l ên thấy mịt mù sương tỏa, khí lạnh đầy trời, một bóng trăng suông lờ mờ hơi rõ, giang sang cảnh sắc trông ra đều có vẻ thương cảm bồi hồi, chàng thấy vậy lại càng ngao ngán, thở dài mà đứng mãi không đi.
Đương khi dùng dằng vẫn vơ, chợt thấy lính vào báo:
- Có một tướng rậm râu, một mình một ngựa, xin vào yết kiến Nguyên Súy.
Quan Thắng hỏi:
- Sao ngươi không biết hỏi xem ai?
- Bẩm, Ông ta không có mũ giáp quân khí chi cả, mà cũng không chịu nói tên, chỉ nói là muốn yết kiến Nguyên Soái thôi.
Quan Thắng ngần ngại rồi gật đầu mà bảo rằng:
- Ngươi ra mời vào đây.
Tên lính vâng lời quay đi, thì một lát dẫn người ấy vào. Khi vào trong trướng. Quan Thắng quay bảo người tỳ tướng bật đèn lên, rồi trông người kia, thấy nét mặt có vẻ quen quen. Quan Thắng hỏi:
- Ông là ai?
Người kia nói:
- Xin đuổi người hầu đi, rồi tôi sẽ nói.
Quan Thắng cười rằng:
- Làm người đại tướng ở trong đám muôn quân vạn lính, nếu không nhất đức nhất tâm, làm sao sai khiến cho được? Trong trại tôi đây, bất cứ trong trướng, ngoài trướng, kẻ trên người dưới, đếu là tâm phúc của tôi cả, có việc gì xin cứ nói cho...
Người kia nói:
- Tiểu Tướng tức Hô Duyên Chước, ngày trước đã từng vâng mạng triều đình, thống lĩnh trận ngựa Liên Hoàn ra đánh Lương Sơn Bạc, sau chẳng may lỡ mắc phải kế gian, sẩy hỏng việc quân, nên không dám trở về triều đình nữa. Mới rồi nghe tin Tướng quân đến đây, trong lòng lấy làm vui mừng quá đổi. Trận đánh hôm nay Lâm Xung vốn định bắt Tướng quân, sau Tống Giang sợ phạm hại đến ngài, nên phải khua chiên thu quân lập tức. Người ấy vốn có chí quy phục triều đình, nhưng bọn kia không chịu theo nên không dứt đi được. Nhân thế có bàn riêng với tôi, định để khu xử lòng người, sao cho quy thuận cả mới nghe. Vậy nếu Tướng quân có lòng tin tôi, thì đêm mai chỉ xin đem ít cung tên, dẫn ít quân kỵ, theo đường tắt dẫn đến sơn trại mà tróc nã bọn Lâm Xung, thì không những Tướng quân lập được công to mà tôi với Tống Giang cũng khả dĩ chuộc được tội xưa đôi chút, Tướng quân nghĩ sao?
Quan Thắng nghe nói cả mừng, mời Hô Duyên Chước vào trong trướng để thiết rượu. Hô Duyên Chước lại đem chuyện Tống Giang là người hết lòng trung nghĩa, chẳng may bị hãm vào chốn bất nhân, để thuật cho Quan Thắng nghe, Quan Thắng nghe chuyện, lại vuốt râu uống rượu, rồi vỗ đùi mà ta thán vô cùng.
Sáng hôm sau đem quân ra khơi đánh. Quan Thắng bàn cùng Hô Duyên Chước rằng:
- Đêm nay tuy có mưu kế đó, song hiện bây giờ cũng phải ra trận bắt đánh mấy Tướng mới được.
Hô Duyên Chước liền mượn mũ giáp, cưỡi ngựa xông ra trước trận. Tống Giang gọi Hô Duyên Chước mắng rằng:
- Sơn trại có một chút gì phụ bạc với ngươi, sao ngươi nỡ nửa đêm bỏ đi mà cõng rắn cắn gà nhà như thế.
Hô Duyên Chước đáp rằng:
- Một anh tiểu lại vô tri, thì nên công trạng gì mà nói.
Tống Giang liền sai Trấn Tam Sơn Hoàng Tín xông ngựa ra đánh Hô Duyên Chước. Hai bên đánh nhau chưa được mươi hiệp, thì Hô Duyên Chước đánh cho một chiêu, Hoàng Tín chết ngay trên mình ngựa. Quan Thắng trông thấy cả mừng, truyền lệnh cho tam quân nhất tề xông ra để đánh.
Hô Duyên Chước can rằng:
- Không nên đuổi họ, bên ấy có Ngô Dụng, cũng là một tay thần cơ mưu mẹo rất nhiều, không khéo thì mất kế mất...
Quan Thắng nghe nói, vội thu quân về trại, cất chén mừng Hô Duyên Chước mà hỏi rằng:
- Trấn Tam Sơn Hoàng Tín là thế nào?
Hô Duyên Chước nói:
- Người đó cũng là mệnh quan của triều đình, trước làm Đô Giám ở Thanh Châu, sau cùng với Hoa Vinh, Tần Minh cùng đi lạc thảo. Hắn ta bình nhật đối với Tống Công Minh vẫn là bất hợp; ngày nay Tống Giang sai hắn ra đánh, chính là muốn giết đi cho rảnh.
Quan Thắng nghe nói lại cả mừng, liền truyền lệnh cho Hắc Tư Văn cùng Tuyên Tán chia quân làm hai đường để tiếp ứng, và tự dẫn năm trăm quân kỵ, đều cung tên chỉnh đốn, để theo Hô Duyên Chước đến trại Tống Giang, ước định canh hai hôm ấy ra đi, vào khoảng canh ba thì tới trại, rồi cứ nghe hiệu súng, thì trong ngoài giáp đánh làm một.
Đêm hôm đó vẻ trời lạnh lẽo, trăng sáng trên không. Quan Thắng chuẩn bị đâu đó, rồi ngựa tháo nhạc, người ngậm tăm, Hô Duyên Chước dẫn đường đi trước, còn quân sĩ đều lục tục theo sau.
Đi chừng nửa trống canh, chợt thấy một toán bốn năm mươi tên lính sẽ cất tiếng hỏi rằng:
- Có phải Hô Tướng quân đấy không?
Hô Duyên Chước quát lên rằng:
- Không được nói, cứ theo thẳng vào sau ngựa kia.
Đoạn rồi Hồ Duyên Chước cứ xốc ngựa lên trước, Quan Thắng thì kèm ngựa đi sau. Lại đi một lúc, qua chốn mỏm núi.Hô Duyên Chước cầm cây gươm trỏ vào một chỗ xa xa có ngọn đèn đỏ. Quan Thắng đứng dừng ngựa lại mà hỏi:
- Cái đèn đỏ ấy là chỗ nào?
Hồ Duyên Chước đáp:
- Đó chính là trại Trung Quân của Tống Công Minh...Nói đoạn thúc quân mã phải đi cho riết. Khi đi gần đến chỗ đèn đỏ, bỗng nghe một tiếng súng hiệu rất to, trông quanh trông quẩn không thấy một ai, quay lại nom Hô Duyên Chước, cũng không thấy đâu nữa, Quan Thắng thấy vậy cả kinh, biết rằng trúng kế, vội vàng quay ngựa lui về.
Chợt đâu thấy bốn chung quanh núi, đều khua chiêng gõ trống vang lừng, rồi đám quân mã kinh hoàng sợ hãi mà tranh nhau chạy mau để trốn, Khi Quan Thắng trông lại, thì chỉ thấy có mấy tên kỵ theo mình, còn thì trốn đâu mất cả.
Quan Thắng dẫn mấy tên kỵ vừa mới đi khỏi chỗ mỏm núi, bỗng thấy rừng cây ở phía sau có tiếng nổ đánh đoàng, rồi bốn bên những quân câu móc đổ ra, giật Quan Thắng ngã xuống ngựa, cướp lấy đại đao, cởi lấy mũ giáp mà túm nhau đem về trại.
Đằng kia Hoa Vinh cùng Lâm Xung, dẫn một toán quân ra đón Tuyên Tán. Khi gặp nhau hai bên cùng ra sức hăng hái để đánh. Đánh được hai ba mươi hiệp, Tuyên Tán thấy đuối sức không địch nổi, liền quay ngựa để chạy. Khi chàng vừa quay ngựa lại, thì gặp một viên nữ Tướng là Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương tung tấm lưới móc hồng cẩm ra, kéo Tuyên Tán xuống ngựa, rồi sai quân bắt trói mang về.
Về phần Hắc Tư Văn gặp Tần Minh, Tôn Lập đón đánh, Hắc Tư Văn trông thấy hai người, liền quát lên rằng:
- Bớ quân giặc cỏ, đứa nào ngăn trở ta là chết, tránh ta là sống...
Tần Minh cả giận, múa Lang Nha Côn xông đến đánh Hắc Tư Văn, hai bên đấu tranh chừng vài hiệp, thì Tôn Lập toan xông vào để đánh, Hắc Tư Văn thấy vậy, tay sang hơi luống cuống, tần Minh bèn thừa thế đánh một côn ngã lăn xuống ngựa. Đoạn rồi quân sĩ reo hò đổ đến để bắt.
Còn ở trại Quan Thắng, thì có Lý Ứng dẫn quân đến cứơp, cứu đám Trương Hoành, Nguyễn Tiểu Thất cùng đám thủy quân bị bắt, rồi lấy hết lương thảo lừa ngựa, vỗ yên quân chúng mà về. Vào khoảng rạng sáng, Tống Giang họp các Tướng đến Trung Nghĩa Đường ở trên sơn trại, rồi sai giải Quan Thắng, Tuyên Tán, cùng Hắc Tư Văn lên.
Khi chúng giải ba người lên, Tống Giang vội vàng xuống thềm, quát đuổi quân sĩ, thân hành cởi tr1oi ba người, rồi mời Quan Thắng lên ngồi ghế giữa, mà cúi đầu lạy tạ mà nói rằng:
- Quân chúng ngu cuồng vong mênh, dám mạo phạm oai ngài, xin ngài tha tội cho.
Hô Duyên Chước cũng cúi lạy mà rằng:
- Tôi vì Tướng lệnh, không tếh không được, xin ngài tha tội cuồng dại dối trá ấy cho...
Quan Thắng nom thấy các Đầu Lĩnh đều nghĩa khí trân trọng, có vẻ đáng phục, liền quay lại hỏi Tuyên Tán, Hắc Tư Văn rằng:
- Chúng ta bị bắt tới đây, nên như thế nào thì phải?
Hai người nói rằng:
- Xin tùy tướng lệnh của ngài...
Quan Thắng nói:
- Bây giờ cũng không còn mặt mũi nào trở về kinh nữa, xin cho chết sớm là hơn.
- Nếu ngài không khinh là bỉ lậu, thì xin cùng ở lại đây để thay Trời làm Đạo, bằng không thì chúng tôi cũng không dám lưu lại làm chi, xin đưa ngài về kinh ngay lập tức...
Quan Thắng thở dài mà rằng:
- Người ta thường nói: Tống Công Minh nhân huynh trung nghĩa, thực là có thế. Người ta sống ở trên đời, vua biết thì đền ơn vua, bạn biết thì đền ơn bạn, ngày nay đã chuyển đến lòng, thì xin ở đây làm đứa tiểu tốt để đền ơn tri ngộ cho xong...
Tống Giang nghe nói cả mừng, nhất diện đặt tiệc thiết đãi, và nhất diện chong đi dỗ dành đám quân thua chạy, ước được năm bảy nghìn quân mã, kẻ nào có bố có mẹ ở nhà đều cấp tiền cho về nhà cả. Đoạn rồi sai Tiết Vĩnh đến Bồ Đông, đón vợ con Quan Thắng lên sơn trại.
Hôm đó Tống Giang đương ngồi yến ẩm, chợt nghĩ đến nông nỗi Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú ở Bắc Kinh, thì lại ngẫm nghĩ mà lã chã tuôn đôi dòng lụy.
Ngô Dụng liền nói lên rằng:
- Việc đó bất tất huynh trưởng phải lo, tôi đã có cách đây rồi... Chỉ ngày mai đem quân đi đánh Đại Danh thì tất là thành sự.
Quan Thắng nghe nói bèn đứng dậy nói rằng:
- Quan mỗ chưa có chút gì để đền ơn yêu quý, vậy đi làm tiền bộ phen nầy.
Tống Giang cả mừng, liền tạ ơn Quan Thắng, rồi cùng nhau yến ẩm rất vui. Ngày hôm sau truyền cho Tuyên Tán, H8ác Tư Văn làm phó Tướng cùng với Quan Thắng dẫn quân bản bộ, đi trước làm tiền bộ tiên phong, còn các Đầu Lĩnh cùng các quân đánh thành Đại Danh trước, nay đều nghe lệnh kéo đi, và thêm có Trương thuận đem các đồ mũ giáp đi vào đó.
Nói về Lương Trung Thư thấy Sách Siêu đã khỏi bệnh dậy được, trong lòng lấy làm vui mừng, trông ra thấy trời mờ sắc ám, gió Bắc gào thét bên tai, rất chiều ghê sợ, chợt đâu thám mã báo rằng:
- Quan Thắng, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, cùng các quân sĩ đều bị Tống Giang tróc nã, hiện đã nhập đảng với Tống Giang, và kéo quân đến đây để đánh.
Lương Trung Thư nghe nói kinh ngạc rụng rời, bỗng rơi ngay xuống đất mà không biết, Sách Siêu thấy vậy liền bẩm rằng:
- Trước đây tôi bị mũi tên ngầm, nay quyết báo thù mới hả, ân Tướng không ngại chi.
Lương Trung Thư liền rót chén rượu nóng thưởng luôn cho Sách Siêu, và dặn đem quân mã ra đón đánh, rồi Lý Thành, Văn Đạt tiếp ứng ra sau.
Bấy giờ đương tháng trọng đông (tháng một), khí trời lạnh lẽo trong mấy ngày trời, gió bấc đìu hiu, trời đất biến sắc, ngựa rét xoăn da, thiết giáp lạnh như băng tuyết, Sách Siêu vác cây đại phủ kéo quân ra đến Phi Hổ Dực để hạ trại.
Ngày hôm sau Tống Giang dẫn Lã Phương, Quách Thịnh lên gò cao, để xem Quan Thắng đánh nhau. Khi trống trận đủ ba hồi, Quan Thắng xông ra trước trận, rồi bên kia Sách Siêu cũng vỗ ngựa xông ra.
Sách Siêu mới ra, không nhận biết Quan Thắng, sau thấy quân sĩ nói lên rằng, người kia chính Đại Đao Quan Thắng mới bội bạc triều đình đó.
Sách Siêu lặng ngắt vác phủ vỗ ngựa ra đánh Quan hắng. Quan Thắng múa đao lên đỡ. Đôi bên múa đao chừng mươi hiệp, Lý Thành thấy sức lực Sách Siêu khó lòng địch nổi Quan Thắng, liền múa đao ra trận, để hiệp lực cùng đánh. Bên nầy Tuyên Tán, Hắc Tư Văn thấy vậy cũng vác quân khí xông ra đánh giúp Quan Thắng. Năm con ngựa đều quần nhau một chỗ, cát bụi tung lên không biết đâu mà trông được.
Tống ginag đứng trên gò cao trông thấy, liền vẫy đại quân kéo tràn sang đánh. Quân mã Lý Thành cả thua, bỏ chạy vào thành, rồi Tống giang cũng thu binh về trại...
Ngày hôm sau mây mờ che kín, đất thảm trời sầu, một mình Sách Siêu dẫn toán quân mã ra ngoài thành, xông đột thách đánh, Ngô Dụng liền sai một tóan quân nhỏ ra đánh đùa, đợi cho Sách Siêu đuổi đến thì bỏ cả mà chạy, Sách Siêu được một trận, trong lòng lấy làm vui mừng hớn hở, vào thành báo cho Trung Thư biết.
Chiều hôm ấy, mây càng đen kín, gió càng thổi mạnh hơn lên. Ngô Dụng đưng trước trướng nom ra, thấy tuyết rơi phơi phới, đầy trời một vẻ tiêu sơ, chàng bèn sai quân sĩ đến các đường hẻm ven sông cạnh núi bên thành đào hầm xẻ hố, rồi lấy đất phủ lên cho kín.
Đêm hôm đó mưa tuyết càng nặng, đến sáng hôm sau trên các đường đi, tuyết đọng chừng ngập cổ chân ngựa. Sách Siêu trèo lên thành nom ra, thì thấy quân sĩ Tống giang đều có vẻ sợ hãi kinh hoàng, ngồi đứng không yên, chàng liền điểm ba trăm nhân mã, xông ra thành để đánh. Quân mã Tống Giang thấy vậy đều chạy tán loạn mà thục lấy thân. Sách Siêu đuổi đánh mấy bước, bỗng gặp thủy quân Đầu Lĩnh là Lý Tuấn, Trương hoành cưỡi ngựa cầm thương đón đánh. Đôi bên đánh nhau chưa được mấy hiệp, thì Lý Tuấn, Trương Hoành đã bị thua, bỏ cả thương mà chạy, Sách Siêu nóng máu liền thốc ngựa đuổi theo hai người.
Khi tới quãng đường kia, Một bên có khe nước, Lý tuấn liền bỏ ngựa nhảy thẳng xuống khe kêu ầm lên rằng:
- Tống Công Minh Ca Ca chạy mau đi.
Sách Siêu nghe vậy, càng hết sức đuổi, tế ngựa lên để xông vào trận. Bỗng đâu thấy phía sau núi có một tiếng súng nổ rất to, cả người lẫn ngựa Sách Siêu đều bị sa xuống hố, rồi có đám quân phục ở bên đường, đổ ùa ra mà bắt trói...
Mới hay:
Nam nhi đạp đất đội trời,
Thù xưa mong trả, nợ đời mong trang.
Biết đâu thời vận phi thường,
Máy then xoay chuyển ai lường cho ra?
Bây giờ thế lỡ cơ sa,
Chim lồng cá chậu dễ mà trách ai?
Cho hay tiến thoái ở đời,
Có thân trước phải liệu thời cho tinh...
Lời bàn của Thánh Thán.
Hồi nầy tả thủy quân cướp trại sao đến nổi nói qua loa như thế? Vì chủ ý làm nảy ra một Đại Đao Quan Thắng, còn mọi người không đáng kể chi!
Tả Đại Đao từng chỗ thấy nảy ra biến tướng của Quan Vân Trường, khá nói rằng rất là nho nhã, rất là hoạt đạt, rất là rung thành, và rất anh linh, trong đám một trăm lẻ tám người, lại có một bậc tuyệt luân siêu quần, lại không thể đem con mắt đọc mọi truyện khác, mà đọc truyện nầy!
Tả trời tuyết bắt Sách Siêu, chỉ tả qua Sách Siêu, lại cần tả ra tuyết trời kia. Tả lấy rõ thời tuyết tinh thần, khiến cho bắt được Sách Siêu, đó là phép thần nhiễm của hoạ gia, chẳng thể bỏ qua một chút.
Hồi 64
Thác Tháp Thiên Vương, trong mơ hiển thánh;
Lãng Lý Bạch Điều, dưới nước báo oán.
Bấy Sách Siêu bị bắt, đám quân chạy tán loạn về thành báo với Lương Trung Thư, Trung Thư nghe tin cả kinh, truyền cho quân đóng chặt cửa thành, không dám đem quân ra đánh, rồi toan đem giết Lư Tuấn Nghĩa, và Thạch Tú, song sợ Tống Giang tức giận phá thành, mà quân viện của triều đình không kịp tới, thì nguy hiểm đến nơi, nên phải giam hai người ở đó, và dâng biểu về tâu triều đình các lẽ.
Bên kia bắt trói Sách Siêu, đem giải vào trướng Trung Quân, Tống Giang trông thấy cả mừng, thân hành cởi trói cho Sách Siêu, mời vào trong trướng thiết rượu, rồi lấy lời ngon ngọt nói với Sách Siêu rằng:
- Tướng Quân coi xem, anh em chúng tôi cũng là quá nửa trong đám quan quân ra cả, vậy nếu Tướng quân có lòng hạ cố thì xin ở đây giúp Tống Giang tôi để thay Trời làm Đạo mà cứu lấy sinh linh.
Dương Chí cũng đến chào hỏi Sách Siêu, cùng nhau kể nỗi ly biệt, đôi bên gạt thầm lụy thảm, rồi Sách Siêu xin vâng lời mà ở đó. Tống Giang thấy vậy cả mừng liền sai đặt tiệc thiết đãi trong trướng.
Ngày hôm sau các tướng lại hết sức đánh thành mấy ngày trời, không sao phá nổi. Tống Giang lấy làm lo nghĩ băn khoăn mà đứng ngồi vơ vẫn không yên. Một hôm Tống Giang đương ngồi buồn trong trướng, bỗng thấy ngọn gió đìu hiu đưa đến, làm cho ngọn đèn trước trướng đã tắt hẳn rồi lại loé lên như đom đóm. Khi trận gió thổi qua chợt thấy dưới bóng đen có một người đi đến, ra ý dùng dằng băn khoăn, gọi Tống Giang mà hỏi rằng:
- Anh em ở đây làm gì như vậy?
Tống Giang ngẩng nom, té ra là Tiều Cái ở đó, chàng liền kinh ngạc đứng dậy đáp rằng:
- Ca Ca ở đâu đến đây? ... Đại thù tôi chưa báo được, trong lòng thực là áy náy không yên. Nay nhân việc binh bận rộn, không được chu tất việc tế lễ, vậy vong linh Ca Ca về đây, chắc là có việc gì mắng trách đó chăng?
- Hiền đệ không biết, tôi với hiền đệ là anh em tâm phúc, nên tôi phải đến đây để cứu đó. Hiện nay cái nạn sau lưng sắp phát, chỉ có một vị sao thiêng ở đất Giang Nam thì mới khu trừ đi được, vậy ba mươi sáu chước chước nào là hơn, hiền đệ phải liệu mau đi, kẻo sau lại hối hận là anh em không cứu.
Tống Giang nghe nói vội sấn đến gần mà hỏi rằng:
- Âm hồn Ca Ca đến đây, có việc gì xin nói thực cho...
Tiều Cái đáp rằng:
- Thôi không cần nói lắm phải lập tức thu xếp về đi chớ lưu luyến đây nữa... Tôi đi đây.
Nói đoạn Tống Giang sịch mở mắt ra, mới biết là một giấc mộng Nam Kha canh vắng, chàng liền mời Ngô Dụng đến thuật giấc mộng cho nghe.
Ngô Dụng nói rằng:
- Tiều Thiên Vương đã hiển thánh như vậy chắc là đích thực chứ không sai. Vả hiện nay khí trời đương lạnh, gió bấc tuết sương, quân mã ở lâu không tiện, vậy cũng nên tạm lui về núi chờ khi Đông hết sang Xuân, rồi sẽ đem quân đi đánh cũng chưa muộn gì. Việc đó xin nhân huynh liệu trước thì hơn.
- Quân Sư nói đã đành là phải, song Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú còn đương bị giam ở trong lao, một ngày đăng đẳng mong mỏi anh em đến cứu, nay nếu bây giờ rút quân trở về thì tất là tính mạng của họ khó lòng mà toàn được. Nói thế thực là tiến thoái lưỡng nan, ta nên bàn kỹ xem sao rồi sẽ liệu.
Nói đoạn hai người bàn bạc một đêm hôm ấy, không quyết định ra sao.
Sáng hôm sau Tống Giang bỗng thấy tinh thần mỏi mệt, mình nóng như sôi, đầu nhức như búa bổ, nằm liên miên ở giường mà không muốn dậy.
Các Đầu Lĩnh thấy vậy đều tụ họp trước trướng để thăm hỏi trông nom.
Khi các tướng nom đến Tống Giang thấy đằng sau lưng có một mụn như hạt đậu nổi lên, đỏ vầng như viên than nóng. Ngô Dụng thấy vậy nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Cái bệnh nầy không phải là ung cũng không phải là nhọt, duy có thứ bột đậu xanh, khả dĩ giữ được khí độc không cho thấm vào trong ruột, vậy ta nên tìm thứ bột ấy cho Ca Ca uống mới được. Còn về việc thuốc men thì ở đây xa lạ, không biết rằng tìm đâu cho được thầy hay?
Ngô Dụng chưa nói dứt lời, thì thấy Lãng Lý Bạch Điều nói lên rằng:
- Khi trước mẹ tôi ở Tầm Dương, bị cái hậu bối, thuốc men mãi không khỏi bệnh, sau mới được ông An Đạo Toàn ở phủ Kiến Khang đến chữa, thì bệnh lập tức khỏi ngay, từ đó tôi lấy làm cảm phục ông ta, mà kiếm được tiền nong là đem đến biếu. Nay bệnh huynh trưởng như vậy, tưởng có người ấy đến, thì thế nào cũng khỏi, duy đây sang Kiến Khang Châu thì đường sá diệu vợi, nếu muốn kịp thì phải đi ngay cho chóng mới được.
Ngô Dụng nói:
- Huynh trưởng nằm mê thấy Tiều Thiên Vương nói có vạ sau lưng, tất phải có linh tinh ở Giang Nam mới được, có lẽ là người đó chăng?
Tống Giang nói:
- Nếu có phải vậy, thì Trương huynh nên lập tức đi mời về đây cứu mệnh cho ta, chớ khá từ nan mới được. Ngô Dụng liền lấy ra trăm lạng vàng để đưa thầy thuốc, và đưa ba mươi lạng bạc cho Trương Thuận làm lộ phí mà dặn rằng:
- Ngươi phải lập tức đi ngay chớ nên để lỡ. Ta nay nhổ trại kéo quân về núi, ngươi đi mau mau, đón người ta về đó, phải cho đến nơi đến chốn mới được.
Trương Thuận vâng lời, lập tức gói khăn gói từ biệt mọi người ra đi. Ngô Dụng lại sai lấy xe đặt Tống Giang lên rồi nhổ trại thu quân đêm hôm đó kéo về Sơn Bạc.
Lương Trung Thư nghe tin Tống Giang đã rút quân về, trong bụng hoài nghi không hiểu ra sao? Lý Thành Văn Đạt đều nói ra.
Lão Ngô Dụng khôn ngoan qủy quyệt, lắm kế nhiều mưu, ta chỉ nên giữ vững, chớ ra đuổi mà khốn.
Lương Trung Thư nghe nói khen phải, liền sai đóng thành giữ vững, mà không dám đuổi theo.
Về phần Trương Thuận một mình khoác khăn gói ra đi, trời đông sương tuyết lạnh lẽo đìu hiu, trên đường vắng ngắt vắng tanh, riêng có một thân vò võ. Khi đến sông Tầm Dương, trông quanh trông quẩn không có một chiếc đò nào để sang ngang được, trong lòng lấy làm sốt ruột vô cùng.
Chàng lại theo nẻo bờ sông đi một lát, chợt trông thấy trong đám lau lách, có tiếng sột soạt, rồi có một người đầu đội nón lá, mình mặc áo tơi, chạy ra hỏi Trương Thuận rằng:
- Ông muốn đi đâu?
- Ta muốn sang phủ Kiến Khang, có một việc rất cần, chở giúp cho sang, rồi ta sẽ trả nhiều tiền. Chở cũng được, không ngại gì, nhưng bây giờ sắp tối rồi, ông sang bên kia cũng không có chỗ trọ, vậy bất nhược ông hãy ngủ tạm ở thuyền tôi, rồi gần sáng gió im tuyết lạnh, tôi sẽ chở sang, phải cho nhiều tiền mới được.
Trương Thuận nghe nói, lấy làm phải, liền theo người lái đò cùng đi xuống lối bờ lau. Khi ra tới mé sông thấy có một chiếc thuyền nhỏ buộc ở đó. Trong mũi thuyền có một hậu sinh gầy gò đương ngồi quay vào lò lửa để sưởi. Lái đò đưa Trương Thuận xuống thuyền mời vào trong khoang, cởi áo ư ớt ra, gọi tên hậu sinh đem ra lò lửa để hơ, rồi Trương Thuận mở khăn gói ra, lấy chăn bông nằm cuộn tròn ở trong khoang.
Nằm một lát, Trương Thuận gọi lái đò đến bảo rằng:
- Ở đây có rượu không? Để lại cho ta một ít thì tốt lắm.
- Rượu thì đây không có, chỉ có ít cơm, ông có xơi để tôi dọn. Trương Thuận ngồi nhổm dậy, bảo xới cơm lên ăn mấy bát, rồi lại nằm lăn xuống ngủ. Chàng đi mấy hôm trời khó nhọc, nay được chăn ấm chiếu êm, liền nằm thiếp đi lúc nào không biết.
Bấy giờ tên hậu sinh kia vừa ngồi hơ áo trên đống lửa, vừa quay lại nhìn Trương Thuận, rồi khẽ gọi lái đò mà bảo rằng:
- Ca Ca có trông thấy không? Anh lái đò gật đầu hiểu ý, quay vào sờ gói của Trương thuận, rồi khẽ bảo tên hậu sinh rằng:
- Ngươi đẩy thuyền ra giữa sông sẽ hạ thủ thì tiện hơn.
Tên hậu sinh nghe nói, liền khẽ đẩy mui bồn nhảy lên trên bờ, cởi giây thuyền ra, rồi lấy sào sẽ đẩy thuyền lìa bến, mà chèo ra ngoài giữa sông. Khi tới giữa dòng sông, tên lái đò cắm thuyền ở đó, lấy giây thừng lừa trói Trương Thuận lại, rồi mở sạp thuyền lấy con dao lên... Bấy giờ Trương Thuận tỉnh dậy thấy hai tay bị trói, không sao cựa được, rồi thấy tên lái đò cầm dao lăm lăm đứng bên cạnh mình.
Chàng lấy làm kinh ngạc liền nói lên rằng:
- Hảo hán tha cho tôi, tôi xin đưa hết tiền nong ra nộp... Tên lái đò ung dung đáp rằng:
- Tiền cũng cần mà tính mạng anh cũng cần...
- Vâng, vậy ông làm phúc cho tôi được toàn thân mà chết, thì linh hồn tôi không khi nào oán đến ông.
Tên lái đò cười nhạt mà nói rằng:
- Cái đó thì được lắm.
Nói đoạn vất con dao xuống, xách Trương Thuận mà ném xuống nước, rồi quay vào mở khăn gói ra xem. Khi lái đò trông thấy khăn gói có nhiều vàng bạc thì ngẩn người ra, cau lông mày một cái, rồi gọi tên hậu sinh ra mà bảo rằng:
- Ngũ đệ đến đây ta bảo.
Tên hậu sinh nghe nói, vừa quay cổ đi vào, thì bị tên lái đò đâm cho một nhát, mà gạt phăng xuống giữa dòng sông. Đoạn rồi tên lái đò rửa sạch máu me trên thuyền, mà nhổ sào kẽo kẹt chèo đi.
Thực là:
Máu tham thấy lợi thì mê,
Trời cao đất rộng thiếu chi chuyện đời.
Ghê thay những kẻ vô loài,
Gươm vàng giáo bạc giết người đã bao?
Nói về Trương Thuận vốn là tay lặn nước đã quen, xưa nay thường ở dưới nước bốn năm đêm mới lên cũng được. Hôm đó chàng bị tên lái đò trói quăng xuống sông, liền cắn đứt dây trói ra, rồi mới bơi lên mặt nước, mà đi sang mạn bờ bên kia. Khi đó đi xa trông thấy đám rừng cây về phía bên Nam, có ánh đèn ngấp ngó, chàng liền thoi thóp lên bờ, để nguyên quần áo lướt thướt mà đi thẳng vào.
Chàng đi đến chỗ ánh lửa thấy có một hàng cơm, ánh lửa xuyên thầu vách thủng mà soi ra ngoài, chàng gõ cửa một tiếng, thấy có ông lão chạy ra mở, chàng liền cúi đầu chào ông lão mà xin hỏi trọ.
Ông lão hỏi rằng:
- Anh có phải là bị cướp ở sông, rồi nhảy ngay xuống nước trốn đến đây không?
Trương Thuận nói:
- Chẳng giấu gì cụ, tôi ở Sơn Đông, muốn đi sang phủ Kiến Khang có việc, chẳng may đêm qua xuống đò sang ngang, bị tên hung đồ trói bỏ xuống sông, mà cướp lấy cả tiền nong quần áo, nhân vì tôi biết lội nước, nên mới thoát nạn mà lên được đến đây xin cụ cứu cho tôi với.
Ông già nghe nói mời Trương Thuận vào nhà bảo đem quần áo ra hơ, và đem rượu nóng ra thiết đãi, ông già lại hỏi Trương Thuận rằng:
- Bác tên họ là gì, ở Sơn Đông sang đây có việc chi?
- Tôi họ Trương, là anh em với thầy lang An ở phủ Kiến Khang, nay nhân rảnh việc đến thăm anh em cũng không có việc chi cần gấp.
- Bác ở Sơn Đông đến đây, có đi qua Lương Sơn Bạc không?
- Có, chính tôi đi qua lối đó.
- Tôi thấy nói chủ Sơn Bạc là Tống Giang, không hay cướp bóc hành khách, cũng không hay giết hại người ta, chỉ chăm chăm thay Trời làm Đạo có phải không?
- Vâng, Tống Đầu Lĩnh chỉ ghét đám tham quan lại nhũng, mà không hại đến lương dân bao giờ.
- Tôi thấy nói tụi Tống Giang thực là nhân nghĩa, chỉ thương nghèo cứu khổ, chứ không như bọn giặc cỏ ở đây... Nay nếu được tụi ấy đến đây thì may ra đám lương dân cũng được khoái hoạt, mà khỏi bị đám tham quan nhũng lại như trước.
Trương Thuận nghe nói đến đó, liền bảo với ông già rằng:
- Tôi nói câu nầy thì ông bỏ qua đi cho, chính tôi là Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận ở Lương Sơn Bạc đây. Nhân vì Tống Công minh Ca Ca tôi bị lên hậu bối, sai tôi đem một trăm lạng vàng sang đón An Đạo Toàn về chữa, ai ngờ ngủ dưới thuyền bị nó cướp mất tiền trói bỏ dưới sông, rồi tôi cắn đứt cả thừng mà lội lên đây.
Ông già có vẻ vui mừng mà rằng:
- Bác là hảo hán ở Lương Sơn, thì lão tôi cho thằng cháu trai ra chào bác.
Nói đoạn liền đứng dậy đi vào nhà trong. Được một lát có một người hậu sinh gầy gò ở trong đi ra, vái chào Trương Thuận mà rằng:
- Tôi được nghe đại danh Ca Ca đã lâu, nay mới được gặp đây, thực là hạnh phúc. Tôi đây họ Vương bày vai thứ sáu, vì sức chạy nhảy rất nhanh nên người ta thường gọi là Hoạt Diêm La Đình Lục, bìng sinh chỉ thích lội nước đánh gậy, cũng đã học tập được nhiều thầy, mà không tìm được người giỏi, nay tạm bán ngôi hàng đây cho qua loa ngày tháng đó thôi. Mới rồi mấy người cướp tiền của Ca Ca tôi đều biết cả. Một người là Tiết Giang Quỹ Trương Vượng và một người hậu sinh gầy gò tên là Du Lý Thu Tôn Ngũ, người ở huyện Hoa Đình đến đó. Hai tên ấy vốn quen nghề cướp bóc ở sông xưa nay, xin Ca Ca cứ vững tâm, ở đây vài hôm, để đợi chúng đến đây uống rượu rồi tôi sẽ báo thù cho Ca Ca.
Trương Thuận cảm tạ mà rằng:
- Tống Ca Ca tôi đương mắc bệnh, việc đón thầy rất cần, vậy sáng mai thế nào chúng tôi cũng phải đón an Đạo Toàn rồi về đây cũng được.
Vương Đình Lục liền lấy áo xiêm mới cho Trương Thuận thay, rồi giết gà làm cơm để đãi.
Sáng hôm sau trời quang tuyết tạnh, Vương Đính Lục lấy mười lạng bạc, đưa cho Trương Thuận đi vào thành. Trương Thau65n đi vào thành đến nhà An Đạo Toàn, thấy Đạo Toàn đương ngồi bán thuốc, chàng liền lật đật chạy vào để chào.
Đạo Toàn trông thấy Trương Thuận, thì có vẻ ngạc nhiên mà rằng:
- Anh em đi đâu đã lâu mà không được gặp, nay có việc chi lại đến đây?
Nói đoạn mời Trương Thuận vào nhà trong, Trương Thuận đem chuyện mình thuật rõ cho An Đạo Toàn nghe, và thú thực bị cướp mất tiền nong, nay chỉ có tay không đến đó.
An Đạo Toàn nói:
- Tống Công Minh là một bậc nghĩa sĩ xưa nay, đáng lẽ cần phải chữa ngay mới phải, song hiềm vì nhà tôi mới mất dạo trước, trong nhà không có ai là người thân thuộc trông nom, như vậy cũng khó lòng mà đi ngay được.
Trương thuận cố vật nài mà rằng:
- Nếu huynh trưởng không có lòng cứu giúp, thì tôi quyết nhiên không dám về núi nữa.
An Đạo Toàn ngần ngừ hồi lâu rồi nói rằng:
- Hãy để tôi liệu xem sao.
Trương Thuận lại cố tình nói mãi, về sau An Đạo Toàn mới chịu y lời để đi. Nguyên An Đạo Toàn mới đi lại với một con đào hát ở Phủ Kiến Khang, tên là Lý Xảo Nô, đôi bên tình ý rất là thân mật với nhau. Chiều hôm đó an Đạo Toàn dẫn cả Trương Thuận đến nhà Lý Xảo Nô thiết đãi rượu chè, rồi Lý Xảo Nô bái Trương Thuận làm thúc thúc.
Khi uống rượu được một vài tuần, an Đạo Toàn bảo với Lý Xảo Nô rằng:
- Đêm nay ta nghỉ đây một tối, rồi sáng mai phải đi Sơn Đông với anh em có lẽ một tháng, hay vài mươi ngày, thì mới về được. Lý xảo Nô đáp rằng:
- Tôi không thích cho chàng đi, nếu chàng không nghe lời tôi thì từ rày đừng đến cửa tôi nữa.
- Ta đã sắp sửa thuốc men rồi, chỉ sáng mai là phải đi, nàng hãy bằng lòng vậy, tôi đi nhanh chóng về ngay, không dám trì trện đâu mà ngại.
Lý Xảo Nô lại làm bộ uốn éo, nằm ngả vào lòng An Đạo Toàn mà nói rằng:
- Nếu chàng không nghĩ đến tôi, thì cứ đi ngay, tôi chỉ nguyền rủa cho nát từng mảnh thịt ra thôi...
Trương Thuận nghe nói tức giận vô cùng, không thể làm sao cho tiện, tối hôm ấy An Đạo Toàn say rượu nằm lăn ở trong phòng Lý Xảo Nô mà ngủ.
Xảo Nô bảo với Trương Thuận rằng:
- Anh đi đâu mà ngủ chứ nhà tôi đây chật lắm không có chỗ ngủ.
Trương Thuận nói:
- Để đợi Ca Ca tôi tỉnh rượu rồi cùng đi.
Xảo Nô đuổi Trương Thuận không được đành cho chàng ngủ ở một cái phòng con ngay gần ngoài cửa, Trương Thuận nằm đó trong lòng lấy làm băn khoăn vơ vẫn không yên, không sao chợp mắt đi được.
Vào khoảng cuối canh một có người gõ cửa ở ngoài. Trương Thuận liền ghé vào chỗ vách để nom ra, thì thấy có một người đi vào, nói với bà già ở nhà Xảo Nô. Bà lão bảo với người kia rằng:
- Bác đi đâu mà lâu mới đến đây. Hôm nay thầy lang nằm say trong phòng kia, còn làm thế nào được?
Người kia nói:
- Tôi có mười lạng vàng muốn đưa cô ấy để kéo vòng hột, vậy xin cụ làm ơn cho tôi được gặp cô ấy một lát.
Mụ già nói:
- Nếu vậy bác ngồi tạm ở buồng tôi, rồi tôi gọi nó sang.
Nói đoạn mụ già dẫn người kia đi vào phòng.
Trương Thuận nhờ ánh sáng nom mặt anh chàng kia, té ra chính là anh Tiết Giang Quỹ Trương Vượng, ăn cắp khăn gói ở bến sông Tầm Dương trước. Sau lại thấy mụ già đem chè rượu ra thiết đãi Trương Vượng, và gọi Xảo Nô sang để tiếp chuyện. Trương Thuận thấy vậy sốt ruột bừng bừng, toan xông chạy vào để đánh, sau nghĩ đi nghĩ lại sợ lỡ mất việc, lại đành phải im để nghe ngóng xem sao.
Hồi lâu ước chừng vào khoảng canh ba, hai người nhà đều say rượu chúi ở dưới bếp, còn mụ già cũng say nhứ say nhừ, mà ngồi ngất ngưỡng ở trên ghế. Trương Thuận đi thẳng xuống bếp vớ được con dao phay chém cho mụ già một phát ngã lăn xuống ghế, rồi toan quay ra chém hai đứa người nhà. Bất đồ con dao nhụt quá, chém được một người, thì lưỡi đã cong cờn cả lên, không sao dùng được nữa.
Hai đứa người nhà thấy vậy kinh sợ đã toan kêu, thì Trương Thuận đã vớ ngay được cái búa bổ củi ở bếp, chặt luôn cho mỗi đứa một nhát, chết quay ra đó. Bấy giờ Xảo Nô đương ngồi trong phòng với Trương Vượng, nghe thấy tiếng động, vội vàng chạy ra để xem. Dè đâu vừa đẩy cửa ra bị Trương Thuận chém cho một nhát búa cũng chết lăn ra nốt. Trương Vượng nhanh mắt trông thấy Xảo Nô bị chém, liền đẩy cửa ra lối sau, rồi nhảy qua tường mà trốn.
Trương Thuận giết xong bốn người, trong bụng lấy làm băn khoăn khó chịu. Chợt nhớ ra chuyện Võ Tòng giết nhà Trương Đô Giám khi trước, chàng kiền xé một miếng vải thấm máu đỏ, mà viết lên tường vôi trắng rằng: " Kẻ giết người là An Đạo Toàn".
Chàng viết luôn mười mấy chỗ như thế, rồi rửa sạch chân tay, lại vào phòng ngồi đợi. Đến lúc canh năm trời gần sắp sáng, An Đạo Toàn tỉnh dậy hỏi lên rằng:
- Người yêu của ta đâu?
Trương Thuận nghe nói, liền chạy đến bảo Đạo Toàn rằng:
- Ca Ca phải im tiếng, để tôi dưa đến cho mà xem người yêu.
Nói đoạn dắt An Đạo Toàn ra cửa phòng cho xem. An Đạo Toàn ra xem thấy tên nhà dưới bếp có bốn cái xác chết nằm đó thì lấy làm kinh ngạc rụng rời cả chân tay như người ngộ gió.
Trương Thuận lại trỏ lên những chỗ viết chữ ở trên tường mà nói rằng:
- Ca Ca đã trông thấy chữ của Ca Ca viết chưa?
An Đạo Toàn trông thấy lại còn ngẫn người ra, rồi kêu lên rằng:
- Anh làm thế nầy thì khổ tôi quá!
Trương Thuận nói:
- Bấy giờ chỉ có hai cách tuỳ bác muốn làm thế nào thì làm? Nếu bác kêu lên thì tôi chạy ngay, để mặc cho bác đền mạng người chết. Bằng bác muốn cho êm ả mọi việc rồi xin về nhà gói ghém thuốc men rồi đi ngay lên Lương Sơn Bạc với tôi mới được. Có hai đường ấy muốn sao mặc lòng.
An Đạo Toàn thở dài mà than rằng:
- Sao anh làm tàn nhẫn quá thế? Thôi bây giờ còn biết thế nào được nữa?
Nói đoạn liền dẩn Trương Thuần về nhà gói ghém thuốc men rồi đi theo với Trương Thuận. Trương Thuận đưa An Đạo Toàn cùng ra hàng rượu Vương Đình Lục.
Vương Đình Lục bảo với Trương Thuận rằng:
- Hôm qua Trương Vượng qua đây, tiếc vì không gặp Ca Ca ở nhà.
Trương Thuận nói rằng:
- Chính tôi cũng có gặp, nhưng bấy giờ không kịp đến được hắn ta. Ý tôi muốn làm được việc lớn chứ có cần gì sự báo thù vặt ấy? ...
Vừa nói dứt lời thì thấy Vương Đình Lục nói lên rằng:
- Kìa Trương Vượng đương đi ở đây kìa.
Trương Thuận dặn rằng:
- Để yên dừng nói xem hắn ta đi đâu.
Nói đoạn quay ra nom, thì thấy Trương Vượng đang lững thững đi ra bến thuyền. Vương Đình Lục chạy theo gọi với Trương Vượng mà nói rằng:
- Bác để thuyền chở mấy người bà con của tôi sang sông với.
Trương Vượng quay lại đáp rằng:
- Có đi thuyền thì ra đi mau.
Vương Đình Lục quay vào bảo với Trương Thuận.
Trương Thuận bảo An Đạo Toàn rằng:
- An huynh cho tôi mượn quần áo của bác, bác mặc quần áo của tôi, rồi ta cùng đi ra thuyền.
An Đạo Toàn hỏi rằng:
- Làm thế là ý gì?
- Tôi khắc có cách bác bất tất phải hỏi.
An Đạo Toàn liền đổi quần áo cho Trương Thuận, rồi hai người cùng ăn mặc chỉnh tề ra đi. Vương Đình Lục vác khăn gói thuốc của An Đạo Toàn đưa hai người ra bến thuyền. Trương Vượng đẩy thuyền vào bờ, ba người cùng bước xuống thuyền, rồi Trương Vượng chèo kẽo kẹt ra giữa dòng sông.
Khi ra giữa dòng sông Trương Thuận bước vào trong khoang lật ván thuyền tìm thấy con dao của Trương Vượng, rồi gọi lên rằng:
- Bác lái vào mau đây, sao trong thuyền có vết máu thế nầy?
Trương Vượng đáp lên rằng:
- Xin ông chớ cười tôi... .
Chàng vừa nói vừa chui vào trong khoan để xem.
Bất đồ vào tới nơi bị Trương Thuận đẩy ngã xuống sạp thuyền rồi đề chặt xuống mà quát lên rằng:
- Quân cường đạo, có biết người khách đi thuyền lúc mưa tuyết hôm nọ không?
Trương Vượng ngóc cổ lên nom rõ Trương Thuận, liền nín lặng mà không nói chi cả.
Trương Thuận quát hỏi rằng:
- Quân chó má nầy, mầy đã mưu lấy một trăm lạng vàng của ta, lại toan hại ta nữa là nghĩa làm sao? Còn người hậu sinh gầy gò hôm ấy đâu?
Trương Vượng nói rằng:
- Dám thưa hảo hán, vì tôi thấy nhiều vàng, sợ nó chia mất nên tôi giết nó mà bỏ xuống sông ngay hôm ấy rồi.
Trương Thuận lại quát lên rằng:
- Quân chó má nầy, ông đây đẻ ở bến Tầm Dương, lớn ở dưới núi Tiểu Cô đã từng buôn bán chài lưới, thiên hạ ai không biết tiếng. Sau nhân đến cướp Giang Châu, chiếm Lương Sơn Bạc, theo cùng ông Tống Công Minh ngang dọc bốn phương, ai không sợ hải! Thế mà bây dám lừa ta xuống thuyền, trói ném xuống sông để cướp tiền bạc. Nếu ta không biết lội nước, thì phỏng còn gì tính mạng với ngươi? Ngày nay oan thù gặp gỡ ta không thể tha ngươi được.
Nói đoạn liền vớ lấy cái thừng trói gò bốn chân tay, rồi xach ra mạn thuyền quăng tõm xuống sông mà nói rằng:
- Ta tha cho mày một mũi dao đó.
Vương Đình Lục nom thấy lấy làm than thở bồi hồi vô hạn. Trương Thuận lại quay vào lục ở trong thuyền tìm lấy món tiền hôm trước gói vào trong bọc, rồi ba người chèo thuyền vào bờ.
Khi đến bờ sông Trương Thuận bảo với Vương Đình Lục rằng:
- Ân nghĩa của hiền đệ, không bao giờ tôi dám quên được, nay nếu hiền đệ có lòng hạ cố, thì xin trở về thu xếp tửu điếm, rồi đưa phụ thân lên núi Lương Sơn để cùng tụ nghĩa chẳng hay hiền đệ nghĩ sao?
Vương Đình Lục đáp rằng:
- Ca Ca dạy thế thích hợp ý tôi, tôi xin lục tục theo sau lập tức...
Nói đoạn bái biệt hai người, lên thuyền trở về thu xếp nhà cữa để dẩn phụ thân đi lên Lương Sơn Bạc.
Bên kia Trương Thuận khoác khăn gói thuốc, dẩn An Đạo Toàn theo đường về phía Bắc để đi. An Đạo Toàn vốn người yếu đuối, đi bộ không quen, khi đi được ba mươi dặm đường thì mõi mệt tay chân không sao đi được nữa. Trương Thuận mời vào trong hàng nghỉ, và sai dọn rượu ra để thiết đãi.
Đương khi ăn uống chợt thấy một người chạy vào gọi Trương Thuận mà bảo rằng:
- Sao anh em đi chậm thế?
Trương Thuận nghe nói ngẩng lên nom thấy Thần Hành Thái Bảo Đới Tung ăn mặc giả dạng khách buôn đến đó, liền vội vàng bảo An Đạo Toàn đứng dậy vái chào, rồi cùng ngồi nói chuyện với nhau.
Trương Thuận hỏi bệnh tình Tống Công Minh, Đới Tung đáp rằng:
- Hiện nay Tống Ca Ca tinh thần hôn mê, cơm cháo không ăn, có lẽ sắp nguy mất!
Trương Thuận nghe nói bổng ra vẽ xót thương, mà chan chứa tuôn đôi hàng lụy.
An Đạo Toàn hỏi Đới Tung rằng:
- Trông sắc da và sắc huyết ra thế nào?
Đới Tung đáp:
- Trông sắc da nhờn nhợt, trọn ngày chỉ kêu đau rền rĩ, tính mạng khó lòng mà toàn được ... !
- Nếu thịt da còn biết đau đớn, thì còn chữa được, nhưng chỉ sợ quá ngày thì nguy mất...
Đới Tung nói rằng:
- Nếu vậy tôi có cách đi nhanh được, xin ngài đi ngay bây giờ cho.
Nói đoạn liền lấy hai miếng giáp mã buộc vào chân An Đạo Toàn khoác lấy khăn gói thuốc, dặn Trương Thuận ở lại sau, rồi làm phép Thần Hành đưa An Đạo Toàn về trước. Trương Thuận nghỉ ở hàng đó mấy hôm, thì thấy bố con Vương Lục cũng đưa nhau đến.
Vương Đình Lục thấy Trương Thuận còn ở gần đó thì lấy làm lạ liền hỏi rằng:
- Sao Ca Ca còn trì trệ ở đây. An Đạo Toàn Tiên Sinh đâu rồi?
Trương Thuận đáp:
- An Tiên Sinh có Thần Hành Thái Bảo đón về trước, còn tôi ở lại đây là có ý đợi hiền đệ, Thái Công cùng đi một thể cho vui.
Nói về Đới Tung dẫn An Đạo Toàn về tới sơn trại, các Đầu Lĩnh ra đón tiếp vào Trung Nghĩa Đường, rồi đưa vào thăm bệnh Tống Giang. Khi vào tới phòng thấy Tống Giang thoi thóp thở như người sắp chết.
An Đạo Toàn xem mạch cẩn thận rồi nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:
- Các ngài không phải ngại mạch nầy không có việc gì cả. Bề ngoài tuy bệnh thế trầm trọng, song mạch vững vàng... .Tôi không dám nói khoác, chỉ trong vòng mười hôm nữa thì có thể khỏi bệnh.
Chúng nghe nói đều lạy tạ An Đạo Toàn mà mau mau cứu chữa giúp cho, An Đạo Toàn trước hết lấy ngãi chích hết độc khí, rồi dùng thuốc đồ dịch ở ngoài rồi cho thuốc đồ tể ở trong. Được năm hoomthif nước da đã hơi đo đỏ, mà thịt đã nhuận hơn, rồi mươi hôm thì lại ăn uống được như cũ. Duy còn cái nhọt vẫn chưa kín được thì thôi.
Hôm đó Trương Thuận đưa bố con Vương Đình Lục về tới sơn trại vào chào lạy Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh và thuật chuyện việc bị cướp ở sông Tầm Dương cho mọi người nghe. Các Đầu Lĩnh đều lấy làm khen ngợi vô cùng. Bấy giờ nghe thấy bệnh thế đã hơi thư thái, liền gọi các Đầu Lĩnh đến, dân đấn hai hàng nước mắt, rồi bàn định việc đến thành Đại Danh để cứu Thạch Tú và Lư Viên Ngoại.
An Đạo Toàn can Tống Giang rằng:
- Cái nhọt của Tướng quân chưa khỏi hẳn, xin Tướng quân chưa nên vội động, nếu vội động thì khó lòng khỏi được.
Ngô Dụng bảo với Tống Giang rằng:
- Việc đó huynh trưởng không cần nghĩ đến, cứ tịnh dưỡng cho mạnh khoẻ là hơn, tôi tuy bất tài, song hiện dạo đầu xuân, khí trời êm ấm, thế nào tôi cũng đem quân, đến phá thành Đại Danh cứu lại Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú, và bắt hai đứa gian phu dâm phụ để hả lòng huynh trưởng.
Tống Giang nói rằng:
- Nếu được Quân Sư hết lọng báo cứu giúp cho, thì Tống Giang nầy dẩu chết cũng không còn gì hối hận chi nữa.
Ngô Dụng bèn dâng lời rồi cùng nhau bàn định, để đến phá thành phủ Đại Danh.
Mới hay:
Trí mưu khen đã đủ điều
Biết cơ suy thịnh rõ chiều tiến lui.
Rắp toan thu vét nhân tài,
Ra tay quét sạch bụi đời gian tham!
Lời bàn của Thánh Thán.
Tiều Cái đến báo mà Tống Giang đã trở nên phản tặc, viết ra nhọt sau lưng cho rõ tội phản bộ. Chỉ lạ cho Thi Nại Am sao ghét Tống Giang đến thế? Mà người đời sau còn đem trung nghĩa nghĩ lầm, thì há phải Nại Am viết truyện, làm chi quân tử ở kinh Xuân Thu, để cho đời sau điên đảo nói càn làm ra bụng tiểu nhân không biết sợ gì vậy thay; Với kẻ có trách nhiệm đến nhân tâm thế đạo, mọi chuyện thị phi, há chẳng xét đến hay sao?
Tống Giang đã phản, từ khi tha cho Tiều Cái, Tiều Cái trốn mà cái độc của Tống Giang nảy ra; Khi Tiều Cái chết, cái độc của Tống Giang đã thành, đến đây mới tả Tống Giang sinh nhọt độc ở hậu bối, ý rõ ra phản trạng của Tống Giang đây, lúc nầy mới phát, nhưng thực chí Tống Giang muốn phản đâu mới ngày nay, xem lời trong mơ Tiều cái, với lời Tống Giang bảo trốn thấy một chữ không sai, tác giả chẳng phí một lời, mà bút pháp đã nghiêm đến thế?
Đánh thành Đại Danh, mấy lần bỏ đi đánh lại, khéo thay biến pháp của nhà văn.
Trước kia đánh Chúc Gia Trang, hai ba lần, sau khi khổ chiến, chợt đâu một biến, biến ra một đoạn văn tả Giải Trân, Giải Bảo rất là kỳ ảo; Đến đây đánh thành Đại Danh, một hai lần sau khi khổ chiến, chợt đâu đột biến ra một đoạn văn tự Trương Vượng, Tôn Ngũ, lại rất là kỳ ảo...
Tả Trương Thuận đi mời An Đạo Toàn, chợt đâu một đoạn văn tả tình sự Tiết Giang Quỹ Trương Vượng ngang qua, lạ thay trung gian lại còn thêm vào một đoạn văn tả sự tình hậu sinh gầy gò Tôn Ngũ, thấy lòng văn như dòng sông xoay lộn, khiến thông thân khẳng định nổi ra.
Số vàng của Lương Sơn Bạc, đem đón An Đạo Toàn, chợt lọt vào tay Tiết Giang Qủy, một lần đáng hãi; Nửa đêm cướp vàng, nửa đêm chơi gái, mà kẻ mất vàng với kẻ cướp vàng, lại gặp một nhà, hai lần đáng hãi; Từ mời Thái Y đã hết vàng, Thái Y tới mà vàng lại thấy, thuyền của Tiết Giang là chốn gủi vàng, ba lần đáng hãi; Trên lòng sông gây oan, lại trên lòng sông trả oán, dù một lần gặp ở phòng Lý Xảo Nô, hai lần gặp ở nhà Vương Đình Lục mà chưa kịp trả thù, bốn lần đáng hãi;Bản đao còn đó, vết máu chưa khô, mà đầu oan gót nợ, nhanh như giở bàn tay, một ngày trước bị giây thừng trói, lại một ngày nay bị trói giây thừng, chẳng khác chút nào, năm điều đáng hãi; Tôn Ngũ cầm chèo, Tôn Ngũ mở dây thuyền, Tôn Ngũ chở đi, đến khi xong việc, Tôn Ngũ bị ăn dao, Tôn Ngũ xuống nước, chẳng hay Tôn Ngũ vì ai nhọc mệt nửa ngày; sáu lần đáng hãi; Tôn Ngũ trước giờ ác tâm, Tôn Ngũ chết trước, Trương Vượng dẫu làm sao cũng không thể thoát, chẳng hay dưới đáy nước gặp nhau, sẽ khóc hay cười? Bảy lần đáng hãi; Chỉ trong một chiếc thuyền, chợt đâu có hai người Trương Vượng, Tôn Ngũ, chợt đâu lại ba người Trương Thuận, Tôn Ngũ, Trương Vượng, lại chợt đâu còn có một người Trương Vượng. Rồi lại chợt đâu ra bốn người Trương Thuận, An Đạo Toàn, Vương Đình Lục, Trương Vượng, chợt đâu còn có ba người, mất Trương Vượng, rồi sau chợt đâu chỉ một người Vương Đình Lục mà thôi, thế rồi không còn ai nữa. Vi Ứng Vật có câu rằng: Bến đò không khách chiếc thuyền bơ vơ... riêng chiếc đò kia cũng bỗng đâu hay giở, đó tám lần đáng hãi vậy.
Hồi 65
Đốt Thuý Vân Lâu, Thời Thiên vâng lệnh;
Phá Đại Danh Phủ, Ngô Dụng lập công
Bấy giờ Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Huynh trưởng ngày nay may đã bình yên vô sự, lại có An Thái Y trông nom giúp đỡ ở đây, thực là vạn phúc cho sơn trại vạn phần. Vả trong bấy lâu nay tiểu đệ đã cho thám thính tin tức ở thành Đại Danh, nghe nói Lương Trung Thư đêm ngày lo nghĩ chỉ sợ quân mã của ta kéo đến thì rất là nguy biến. Tiểu đệ lại cho dán tất cả yết thị trong thành ngoài thành để hiểu dụ cho nhân dân cùng biết về việc đó là ta cốt bắt mấy người can phạm mà không hề gì đến dân, vì thế nên Lương Trung Thư lại càng lo riết. Còn về phần Xái Thái Sư từ khi nghe Quan Thắng đầu hàng thì cũng sợ hãi kinh hoàng không dám tâu rõ trước mặt Thiên Tử, và thường gửi thư đến bảo với Lương Trung Thư phải lưu tính mạng của Lưu Trung Thư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú để khỏi sự nguy hiểm về sau.
Tống Giang nghe nói lại thúc giục Ngô Dụng mau mau hãy lập kế đánh thành.
Ngô Dụng định kế rằng:
- Hiện nay mới đầu mùa xuân, sắp đến ngày tết Nguyên Tiêu trong thành Đại Danh tất có hội chơi đèn rất náo vậy ta nên thừa cơ hội nầy mà phục binh trong thành, rồi sau sẽ kéo đại binh ập vào thì thế nào cũng phá được.
Tống Giang cả mừng khen rằng:
- Kế đó rất diệu xin quân sư thi hành ngay cho mới được.
Ngô Dụng liền quay ra hỏi các Đầu Lĩnh rằng:
- Nay cần nhất là việc phóng lửa ở trong thành, vậy trong đám anh em ai đảm đang cho việc đó.
Thời Thiên tiếp luôn rằng:
- Khi Tiểu đệ còn nhỏ có qua thành Đại Danh ít bữa, trong thành có một nơi gọi là Thuý Vân Lâu, trong lầu trên dưới có tất cả trên một trăm phòng... Đến đêm hôm Nguyên Tiêu chắc là huyên náo. Vậy để xin vào trước trong thành lẩn ở Thuý Vân Lâu rồi tối hôm đó sẽ phóng lửa ngay đó để lên hiệu, rồi Quân Sư kéo quân mã vào sau.
Ngô Dụng cả mừng mà rằng:
- Được vậy thì hay lắm! Sáng mai ngươi bắt đầu đi sớm, cứ đến đêm Nguyên tiêu thì phóng hỏa ở trên lầu Thuý Vân thế là công lớn.
Thời Thiên vâng lời đi trước. Sáng hôm sau Ngô Dụng cắt cho Giải Trân, Giải Bảo giả làm phường săn, tìm đến bán chim muông ở các quan nha trong thành để đợi đến hôm đó hễ thấy lửa hiệu thì lập tức phải ngăn giữ quân lính đi báo.
Hai người vâng lệnh đi ra, lại sai Đỗ Thiên, Tống Vạn giả làm người bán gạo, kéo xe vào ngủ trọ trong thành, đến đêm hôm đó trông cửa hiệu mà lấy cửa Đông, Khổng Minh, Khổng Lượng giả làm hai tên đầy tớ, lẻn vào thềm nhà các chốn náo nhiệt ở trong thành để bấy giờ đi tiếp ứng mọi nơi... Lý Ứng, Sử Tiến giả làm khách đi chơi, trọ ở ngoài cửa Đông thành đợi khi lửa lên thì đi giết đám lính coi thành để mở cửa cho quân ra. Lư Trung Thư cùng Võ Tòng giả làm thầy chùa đi khuyên giáo, đến chùa nào ở gần thành Đại Danh, nom lửa hiệu mà đến phía ngoài cửa nam để ngăn đón đại quân và đánh chặn đường đi. Trâu Uyên, Trâu Nhuận giả làm người bán đèn, nghỉ ở trong thành Đại Danh, để nom hiệu lửa mà đến nhà ngục cứu ứng, Lưu Đường giả làm lính công đợi ở trước nha phủ để ngăn giữ các người đến báo. Lại mời Công Tôn Thắng giả làm vân du Đạo Nhân, và Lăng Chấn giả làm đạo đồng; đem mấy trăm súng phóng hỏa đến chỗ vắng phía trong thành để đợi hiệu lửa là nổ súng lên. Lại sai Trương Thuận đi với Yến Thanh theo đường thủy vào thành, chực ở ngoài nhà Viên Ngoại để bắt gian phu dâm phụ. Vương Nụy Hổ, Tôn Tân, Trương Thanh, Hổ Tam Nương, Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương giả làm ba cặp vợ chồng nhà quê vào thành xem đèn, rồi lần đến nhà Lư Viên Ngoại để phóng lửa. Sài Tiến cùng Nhạc Hoà giả làm quan nhân đến nhà Xái Tiết Cấp cứu lấy tính mạng hai anh em Xái Phúc. Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh đều theo hiệu lệnh mà lập tức ra đi...
Nói về thành phủ Đại Danh, một hôm gần đến ngày tết Nguyên Tiêu, Lương Trung Thư gọi Lý Thành, Văn Đạt, Vương Thái Thú cùng các quan lại trong thành đến để bàn về việc hội đèn hôm rằm.
Lương Trung Thư nói với mọi người rằng:
- Cứ theo lệ thường mọi năm, thì thành Đại Danh ta đây, tất phải mở hội chơi đèn giữa tối Nguyên Tiêu, cũng chẳng khác gì Đông Kinh vậy, song năm nay chẳng may bị giặc Lương Sơn mấy phen quấy nhiễu, chỉ e hôm ấy chơi đèn, mà lỡ xẩy ra có việc gì, thì làm sao cho được? Vậy các quan thử thương nghị xem sao?
Văn Đạt nghe nói ứng ngay lên rằng:
- Thiết tưởng đám giặc đã bỗng nhiên bỏ trốn, và dán yết thị khắp cả các nơi, như thế là cùng đường hết kế còn lo ngại điều chi? Nếu năm nay ta không mở hội chơi đèn, mà chúng dò biết, tất bị chúng chê cười. Vậy xin tướng công cứ hạ lệnh cho dân gian phải đặt thêm các đèn, cho vui hơn mọi năm trước. Giữa chợ phải kết thêm hai toà núi giả sơn, cũng theo như ở Đông Kinh, suốt đêm không cấm, từ mười ba đến mười bảy, phải thả đèn luôn năm đêm và sức cho các Phủ Quan phải sức bảo dân gian không được thiếu thốn. Hôm đó xin Tướng Công cứ thân hành đi chơi vui với dân chúng, rồi tôi dẫn một toán quân mã ra đóng ở hang Phi Hổ để phòng bị quân giặc, và cho Phó Đô Giám dẫn một toán quân kỵ đi tuần kiểm ngoài Thành cho cẩn thận, như thế thì còn có ngại chi?
Lương Trung Thư nghe nói cả mừng, liền treo bảng hiểu dụ dân xã cứ theo lệnh thi hành.
Nguyên Bắc Kinh là một nơi quận lớn xung yến ở đất Hà Bắc, đường đi lối lại giao thông rất nhiều, buôn bán sầm uất hơn tất cả mọi nơi, nhân dân tụ tập rất là đông đúc. Nay nhất đáng gặp hội phóng đăng thì ai nấy lấy làm nô nức thú vui, mà đua nhau để nộp đèn chơi hội.
Trong mấy hôm đó từ các nhà phú hào, cho đến các nhà loàng xoàng, đều tranh nhau đi mua đèn để nộp. Các lái bán đèn trong mọi năm lại khuân đèn đến bán rất là náo nhiệt. Khắp cả trong thành Đại Danh nhà nào nhà nấy, đều chăng đèn ngũ sắc ở trước cửa, cùng là bày biện trang hoàng trông nghiễm nhiên là ngày đại hội.
Bên cầu ở trước phủ Đại Danh có dựng lên một toà giả sơn, kết hai con rồng đỏ vàng rất lớn mỗi một cái vẩy rồng có một ngọn đèn, và trong miệng phun nước rất trong. Còn chung quanh cầu, cùng khắp cả quãng sông đều thắp đèn rất là rực rỡ. Trước chùa Đồng Phật, cũng có một toà giả sơn, trên kết một con rồng xanh, xung quanh có tới mấy nghìn ngọn đèn rất sáng.
Trước lầu Thuý Vân kết một toà giả sơn, trên có con rồng trắng, bốn mặt đèn sáng rất nhiều, Thuý Vân Lâu là một tửu lâu to nhất ở đất Bắc Hà, trong có ba tầng gác, xà chạm cột sơn rất là lộng lẫy. Tầng trên tầng dưới có tới hơn một trăm phòng ăn, ngày nào cũng đàn hát vang lừng không dứt tiếng, bởi vậy mà cái quang cảnh ngày hội, lại càng huyên náo phần hơn. Hôm đó có người do thám, về báo cho Ngô Dụng biết tin tức trong thành, Ngô Dụng lấy làm cả mừng nói rõ cho Tống Giang biết.
Tống Giang nghe nói liền đòi thân chinh đến đánh thành Đại Danh. An Đạo Toàn can rằng:
- Tướng Quân chưa được khỏi thực, chớ nên vội vàng làm chi, nếu lỡ ra một chút sau nầy, thì khó lòng mà cứu chữa được.
Ngô Dụng cũng can khuyên Tống Giang mà rằng:
- Tiểu đệ xin đi thay một chuyến, xin Huynh trưởng cứ vững tâm ở nhà không ngại chi cả.
Nói đoạn bèn cùng với Bùi Tuyên cấp tám đội quân mã để đi đánh; Đội thứ nhất Đại Đao Quan Thắng dẫn Tuyên Tán, Hắc Trương Văn đi trước; Trấn Tam Sơn Hoàng Tín đi sau, đều đem quân kỵ cả; đội thứ hai Báo Tử Đầu Lâm Xung dẫn Mã Lân, Đặng Phi đi trước. Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh ứng cứu đi sau; cùng đem kỵ binh cả; Đội thứ ba Song Chiên Hô Duyên Chước, dẫn Hàn Thao, Bành Dĩ đi trước, Bệnh Uùy Tri Tôn Lập đi sau, đều dẫn quân kỵ cả; Đôi thứ tư tích Lịch Hỏa Tần Minh dẫn Âu Bằng, Yến Thuận đi trước, Khiêu Giản Hổ, Trần Đạt đi sau, đem quân kỵ cả; Mục hoằng dẫn Đỗ Hưng, Trịnh Thiên Thọ kéo quân bộ đi đội thứ năm; Hắc Toàn Phong Lý Quỳ dẫn Lý Lập, Tào Chính đem quân bộ đi đội thứ sáu, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành dẫn Thi Ân, Mục Xuân đem quân bộ đi đội thứ bảy; Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy dẫn Hạng Sung, Lý Cổn đem quân bộ đi đội thứ tám. Tám đội quân mã đều chia đường lập tức kéo đi, hẹn đến canh hai hôm rằm tháng giêng là phải nhất tề kéo đến thành Đại Danh để đánh, còn các Đầu Lĩnh thì ở nhà theo Tống Giang coi trại. Nói về Thời Thiên vâng lệnh Quân Sư tới Bắc Kinh, khi trèo tường vào được trong thành Đại Danh, ban ngày thì dong chơi quanh ở phố, ban đêm thì lẻn vào các bàn thờ ở miếu Đông Nhạc để nằm nghỉ.
Đến hôm mười ba tháng giêng, Thời Thiên đương vẫn vơ xem treo đèn kết hoa ở trong thành, bỗng đâu thấy Giải Trân, Giải Bảo gánh các đồ chim muông đi vào, rồi thấy Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng đã thủng thỉnh vào trong đấy cả rồi.
Hôm đó Thời Thiên đi thủng thỉnh đến Thuý Vân Lâu, thấy Khổng Minh bỏ xõa đầu tóc, mình mặc áo da dê rách, tay hữu cầm một cái gậy, tay tả cầm một cái bát, thất tha thất thểu đi xin quanh đó.
Khi Khổng Minh trông thấy Thời Thiên bèn chạy đến đằng sau để nói chuyện.
Thời Thiên khẽ bảo Khổng Minh rằng:
- Ca Ca phải khéo đấy trông bộ dạng như thế, không giống người ăn mày đâu, ở đây nhiều đám lính tráng khôn ngoan, lỡ ra nó biết thì khốn, Ca Ca nên vào một nơi còn hơn.
Đương khi nói chuyện, cũng thấy Khổng Lượng giả làm ăn mày đi đến, Thời Thiên lại bảo Khổng Lượng rằng:
- Anh thò cái mặt trắng phau phau thế kia, thì giống kẻ ăn mày thế nào được?
Vừa nói dứt lời, thì thấy hai người đi đến đằng sau, nắm lấy Thời Thiên mà mắng ngay rằng:
- Các anh giỏi thực.
Thời Thiên nghe nói, giựt mình quay lại thì thấy Dương Hùng và Lưu Đường liền bảo với hai người rằng:
- Anh làm tôi sợ bằng chết.
Dương Hùng liền dắt mấy người ra chỗ vắng vẻ mà trách rằng:
- Các anh không biết gì cả, đứng đấy mà nói chuyện với nhau, lỡ ra gặp đám nào trông thấy, thì phỏng còn ra công việc gì nữa? Các anh phải lẫn lút thế nào, chứ đừng giơ mặt ra đấy mà khốn.
Khổng Minh nói:
- Trâu Uyên, Trâu Nhuận đã thấy đi bán đèn trong phố hôm qua, còn Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng cũng thấy ở ngoài thành rồi, anh em ta bất tất phải bàn nữa, cứ đợi đến hôm ấy là hành sự thôi.
Nói xong rồi năm người kéo nhau đi qua một cái chùa kia, gặp Công Tôn Thắng cùng Lăng Chấn ở đó. Bảy người đưa mật báo cho nhau, rồi lại chia đi mỗi người một ngã.
Ngày hôm sau mười bốn, Lương Trung Thư sai Văn Đạt dẫn quân mã ra đóng ở Phi Hổ Dực, đề phòng bị giặc cướp, và sai Lý Thành dẫn năm trăm kỵ binh ra đi tuần tiễu quanh thành.
Đến hôm rằm tháng giêng, chiều trời tạnh ráo dễ chịu, Lương Trung Thư lấy làm vui mừng vô hạn. Tối hôm đó mặt trăng vằng vặc trên không, soi xuống các nơi phố sá, bọn nam nữ rủ nhau đi xem, cùng thích cánh chen vai, đông đúc không biết tới đâu mà kể.
Vào khoảng chập tối hôm ấy, Tiết Cấp là Xái Phúc bảo với em là Xái Khánh rằng:
- Hiền đệ coi ngục ở đây, để tôi về nhà một lúc, rồi sẽ hay.
Chàng nói đoạn vội vàng chạy vội về nhà. Khi về tới nhà chợt thấy có hai người đi tót theo vào, một người trước ăn mặc ra dáng quan binh, còn một người sau ra dáng anh đầy tớ. Xái Phúc giơ đèn nom ra, thì nhận biết Sài Tiến đi trước, còn người đi sau không hiểu là ai.
Xái Phúc thấy vậy, bèn mời vào trong nhà và sẵn có chè rượu đó để thết.
Sài Tiến nói rằng:
- Xin ngài đừng cho ăn uống nữa, chúng tôi đến đây có chút việc cần, muốn nói cho ngài biết. Nguyên Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú nhờ ngài ở đây trông nom cho được chu toàn, chúng tôi thực lấy làm cảm ơn vô hạn. Vậy ngày nay gặp tiết Nguyên Tiêu, chúng tôi muốn thừa cơ cướp ngục cho hai người ấy ra, xin ngài làm ơn đưa cho chúng tôi đến đó... Chớ nên từ chối mới được.
Xái phúc nghe nói biết là không vâng lời, tất là nguy hiểm tới thân gia, liền vội vội vàng vàng vâng lời xin đi, và đưa quần áo lính hầu cho hai người cùng mặc, rồi dẫn vào trong ngục.
Hôm đó vào khoảng canh một, Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương ăn mặc giả làm vợ chồng nhà quê đi chen vào đám xem hội mà lẻn vào cửa Đông. Công Tôn Thắng cùng Lăng Chấn ngồi ở miếu Thành Hoàng gần trước cửa châu nha để đợi Trâu Uyên, Trâu Nhuận gánh đèn đi chơi dong trên mặt phố, Đỗ Thiên, Tống Vạn đều đẩy một cỗ xe đến trước nhà Lương Trung Thư, mà đánh lộn sòng vào đám người đông.
Nguyên dinh Lương Trung Thư ở một phố lớn, gần ngang với cửa thành bên Đông, Dương Hùng, Lưu Đường đều vác gậy ngồi chực sẵn ở hai bên cầu trước cửa châu nha, còn Yến Thanh dẫn Trương Thuận đi theo đường thủy vào trong thành để nấp ở đó. Được một lát nghe trống lầu đã đánh canh hai, Thời Thiên cắp một cái thúng, trong đựng những thứ thuốc dẫn lửa trên rãi mấy con bươm bướm bằng trang kim, rồi đi lẻn lên trên lầu Thúy Vân. Bấy giờ trên lầu đương ra vào đông đúc, đàn sáo vang lừng, khắp mọi người gần xa đều đến đó xem đèn, rất là náo nhiệt.
Thời Thiên lên đến gác, giả cách làm anh bán bươm bướm để chạy quanh xem xét các nơi. Đương khi ấy chợt thấy Giải Trân, Giải Bảo đều vác cương xoa treo lủng lẳng mấy con thỏ đi vẫn vơ ở trước lầu.
Thời Thiên thấy vậy vội chạy đến hỏi hai người kia rằng:
- Bây giờ có lẽ sắp đến giờ, sao mà không thấy ngoài kia động đậy chi cả?
Giải Trân nói:
- Chúng tôi vừa trông thấy thám mã qua đây xong, có lẽ quân ta đã kéo vào đến rồi thì phải. Anh nên hành sự ngay đi thôi.
Nói vừa dứt lời, thì đã thấy thước cửa lầu ồn ồn kêu lên rằng:
- Quân mã Lương Sơn Bạc đã kéo đến cửa Tây rồi...
Giải Trân liền giục Thời Thiên, mau mau vác phóng lửa trong lều, còn mình thì cùng với Giải Bảo chạy đến trước trại lính để đợi.
Bấy giờ thấy đám quân mã tàn bại ở ngoài thành chạy vào, nói nhao nhao lên rằng:
- Quân giặc Lương Sơn đã chiếm mất trại của Văn Đạt, và kéo nhau vào thành bây giờ.
Lý Thành đương đi tuần ở trên biên thành nghe tin ấy bèn phóng ngựa đến trại lính, truyền điểm lấy quân lính ra coi giữ ở Châu Thành, và đóng chặt các cửa thành lại.
Khi đó Vương Thái Thú đương đi đàn áp ở trên các phố, bỗng nghe thấy tin báo như vậy, liền hất ha hất hải mà chạy mau trở về trong trại.
Về phần Lương Trung Thư hôm đó say rượu ngất nga ngất ngưỡng ở trong dinh, thoạt nghe thấy tin báo cũng còn dềnh dàng chưa sợ, sau thấy thám mã cùng lưu tinh đều chạy đốc thôi vào báo, sự thế nguy cấp đến nơi bấy giờ mới kinh hồn choáng óc, liền gọi người đóng ngựa để đi.
Khi ngựa chưa đóng xong yên, thì chợt thấy trên lầu Thúy Vân có ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt đỏ sáng rực trời, Lương Trung Thư lấy làm kinh hãi vội vàng nhảy lên mình ngựa, để toan ra đi xem.
Chợt đâu lại thấy hai người đem hai cỗ xe để chắn ngang giữa lối đi, rồi vớ lấy một ngọn đèn treo gần đó, mà lấy lửa châm vào trong xe đốt cháy bùng cả lên.
Lương Trung Thư thấy vậy, lại hất hải chạy ra cửa Đông. Bỗng đâu lại thấy hai người to lớn quát lên rằng:
- Lý Ứng, Sử Tiến ở đây.
Nói đoạn liền múa đao xông vào chém chết mấy người, đám quan quân đều kinh sợ mà chạy tán loạn cả. Đoạn rồi Đỗ Thiên, Tống Vạn cũng tiếp đến mà giữ chặt lấy cửa Đông. Lương Trung Thư thấy sự thế nguy bách, liền dẫn mấy đứa người nhà chạy vội vàng sang bên cửa Nam, lại thấy có một ông sư phệ bụng, cùng một người hành giả mặt hổ, tay múa giới đao hò reo dắt vào trong thành. Trung Thư nghe nói lại quay ngựa trở về trại lính, khi gần tới nơi thấy Giải Trân, Giải Bảo đương múa cương xoa, đánh giết ầm ầm ở đó, chàng lại kinh sợ chạy về cửa Tây.
Bấy giờ Vương Thái Thú vừa đến trại, bị Lưu Đường, Dương Hùng đánh cho mấy côn, vỡ óc chết lăn ra phố, còn bọn ngu hầu áp phiên đều bỏ chạy hết cả.
Khi Lương Trung Thư gần tới cửa Tây, thấy trong miếu Thành Hoàng bỗng tiếng súng nổ lên, rồi thấy ngọn lửa bốc lên dần dật, Trâu Uyên, Trâu Nhuận thì cầm lấy gậy tre đi châm lửa đốt ở các nơi trong có Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, cùng Tôn Tân, Cố Đại Tẩu đều múa đao xông vào để giúp. Còn Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, thì nhảy lên đốt lửa vào giả sơn ở trước cửa chùa Đồng Phật.
Bấy giờ nhân dân trong thành Đại Danh, đều cắm đầu chạy trốn, nhà nào nhà nấy đều kêu khóc như di, khắp trong thành chỗ nào cũng có tiếng người kêu lửa cháy, rối loạn kinh hoàng, không biết tới đâu mà kể.
Lương Trung Thư chạy về đến cửa Tây, tiếp được quân mã của Lý Thành, liền kéo nhau chạy sang phía Nam, trèo lên gác trống để xem. Khi đó thấy binh mã kéo xuống dưới thành, ngọn lửa bốc cháy như ban ngày, có mộ toán quân kéo cờ Đại Đao Quan thắng đi giữa bên tả có Tuyên Tán bên hữu có Hắc Tư Văn, đằng sau có Hoàng Tín thôi thúc nhân mã sát vào dưới cửa thành. Lương Trung Thư không thể nào ra khỏi ngoài thành, liền cùng với Lý Thành chạy sang cửa Bắc để trốn.
Chợt đâu lại thấy một toán quân mã rất đông, có Lâm Xung đi đầu, Mã Lân đi bên tả, Đặng Phi đi bên hữu, Hoa Vinh đi sau, mà hết sức cùng nhau kéo đến, Lương Trung Thư lại phải quay ngựa chạy về cửa Đông.
Gần tới cửa Đông lại thấy Mục Hoằng, Đỗ Hưng, Trịnh Thiên Thọ dẫn một nghìn nhân mã múa đao sát vào. Lương Trung Thư lại phải quay về cửa Nam, rồi cướp đường để chạy.
Khi ra đến đích kiều lại gặp Lý Quỳ cởi trần múa phủ cùng với Lý Lập, Tào Chính đều hăng hái xông vào, Lý Thành liền hết sức xông đánh, cướp đường cho Lương Trung Thư chạy ra ngoài thành.
Bỗng lại gặp Hô Duyên Chước dẫn một toán quân mã, múa chiên vỗ ngựa để đánh Lương Trung Thư, Lý Thành cũng múa đao đón đánh được vài hiệp, rồi lại phải quay ngựa để chạy. Sau lại thấy Hàn Thao, bành Dĩ, cùng Tôn Lập đều hết sức xông đến. Đoạn rồi có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh dương cung đặt tên, bắn viên phó tướng của Lý Thành ngã lăn xuống ngựa. Lý Thành thấy vậy vội vàng phi ngựa chạy thẳng.
Chạy chưa được mấy bước lại thấy phía bên giữa có Tích Lịch Hỏa Tần Minh múa côn vỗ ngựa dẫn Yến Thuận, Âu Bằng cùng Trần Đạt sát đến. Lý Thành liền cố sức đánh thục thân để cướp đường đưa Lương Trung Thư chạy.
Bên kia Đỗ Thiên, Tống Vạn vào phủ Trung Thư giết hết vợ con, người nhà của Lương Trung Thư, Khổng Minh, Khổng lượng, trèo tường lần lần vào ngục. Trâu Uyên, Trâu Nhuận tiếp đón những người qua lại ở trước sở coi ngục. Sài Tiến, Nhạc Hoà trông thấy hiệu lửa ở ngoài, liền bảo với Xái Phúc, Xái Khánh rằng:
- Hai anh em nhà bác không trông đó còn đợi đến bao giờ nữa? Xái Khánh nghe nói mới quay ra nom, thì Trâu Uyên, Trâu Nhuận đã đẩy tung cửa bước vào mà nói rằng:
- Cả bọn hảo hán Lương Sơn Bạc ở đây, muốn sống thì trả Lư Viên Ngoại cùng Thạch Tú ra cho ta...
Xái Khánh thấy vậy, vội vàng quay vào báo cho Xái Phúc biết. Bấy giờ chợt thấy Khổng Minh, Khổng Lượng ở trên nóc nhà lao nhảy xuống, rồi Sài Tiến rút dao phăng khí giới ở bên mình ra, tháo gông ra cho Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú và bảo Xái Phúc rằng:
- Bác mau mau theo tôi về nhà để coi giữ vợ con mới được.
Đoạn rồi Lư Tuấn Nghĩa dẫn Thạch Tú cùng Khổng Minh, Khổng Lượng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, về thẳng nhà để bắt Lý Cố cùng Cổ Thị. Nguyên Lý Cố từ khi nghe tin bọn hảo hán Lương Sơn, đã dẫn quân mã vào thành, rồi lại thấy các nơi phát hỏa tứ tung, thì trong bụng đã kinh hoàng sợ hãi, bèn vội vàng cùng với Cổ Thị thu xếp lấy một gói kim ngân tài vật, rồi lẻn ra cửa để trốn. Khi ra tới cửa, thấy những người đứng ở ngoài cửa, đều bị đánh ngã lộn bậy cả, rồi có người cướp sấn vào nhà, Lý Cố liền cùng Cổ Thị, quay trở vào mở lối sau để đi. Hai người đi qua lối tường sau, lẩn đến bên sông, toan tìm đường ẩn núp. Bất đồ có Trương Thuận đứng ở bên sông kêu lên rằng:
- Hai người nầy chạy đi đâu đó? Lý Cố kinh sợ toan vội nhảy xuống dứơi thuyền, thì đã có một người nắm lấy cánh tay mà quát hỏi rằng:
- Ngươi có biết ta không? Lý Cố nghe rõ Yến Thanh liền kêu lên rằng:
- Tiểu Ất Ca tôi với bác có thù hằn gì mà bác bắt tôi... ? Yến Thanh lặng ngắt nắm cổ kéo đi, rồi Trương Thuận cũng bắt cả mụ đàn bà mà kéo về cửa Đông.
Bấy giờ Lư Tuấn Nghĩa về tới nhà không thấy Lý Cố cùng Cổ Thị đâu, liền gọi chúng thu xếp hết các đồ kim ngân tài vật xếp tất cả lên xe, để mang về Lương Sơn Bạc.
Về phần Sài Tiến, theo Xái Phúc cùng về tới nhà, cho xếp dọn đồ đạc, và dặn dò các người trong nhà để cùng đi theo.
Xái Phúc nói với Sài Tiến rằng:
- Đại Quan Nhân nên cứu cho nhân dân trong thành, chớ để cho họ đánh giết quá đỗi mới được. Sài Tiến nghe nói vội vàng chạy tìm quân sư để nói chuyện. Khi Ngô Dụng tiếp được Sài Tiến thì dân sự trong thành đã thei65t hại đến quá nửa. Ngô Dụng liền hạ lệnh cấm quân sĩ không được giết hại chi nữa.
Được một lát trời vừa rạng sáng, Ngô Dụng cùng Sài Tiến đều ở trong thành khua chiên thu quân, rồi các Đầu Lĩnh dẫn Lư Tuấn Nghĩa cùng Thạch Tú vào hầu, và nói rõ công trạng anh em Xái Phúc, đối với Lư Tuấn Nghĩa cho mọi người nghe. Yến Thanh cũng giải Lý Cố cùng Cổ Thị đến. Lư Tuấn Nghĩa trông thấy liền bảo Yến Thanh giam giữ cẩn thận, rồi sau sẽ trị.
Còn về phần Lương Trung Thư nhờ có Lý Thành ra sức chống đỡ, cùng nhau kéo tới ngoài thành, thì gặp được Văn Đạt cùng dẫn tàn quân qua đến đó, đôi bên cùng hợp nhau thành một đạo, mà cùng chạy về phía bên nam. Bất đồ chạy được mấy bước, bỗng thấy tiền quân kêu thét ầm lên, rồi có một toán quân phục của Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn xông ra đánh giết. Phía sau lại có Lôi Hoành cùng Thi Ân, Mục Xuân dẫn một nghìn quân bộ chặn lấy đường lui, mà hai bên giáp đánh một trận.
Lý Thành, Văn Đạt thấy vậy, đều kinh sợ rụng rời, đem hết bình sinh cố thoát ra khỏi vòng vây, mãi sau mới cứu thoát được Lương Trung Thư, mà cùng nhau chạy về phía Tây.
Bọn Phàn Thụy thấy Lương Trung Thư đã chạy thoát, cũng không ai đuổi theo, bèn cùng với Lôi Hoành dẫn quân vào trong thành để nghe lệnh.
Mới hay:
Trên đời mấy mặt tri âm,
Nghìn vàng mua chữ đồng tâm dễ nào?
Xưa nay những bạn anh hào,
Tan nhà chuốc nghĩa tri giao cũng nhiều.
Cùng nhau sinh tử cũng liều,
Rồi đây hưu, thích trăm chiều có nhau.
Lời bàn của Thánh Thán.
Thánh Thán nói đến ông bạn Trác Sơn tiên sinh, từng khoe có một người khéo miệng thành nghề đóng kịch rất hay. Rồi thuật chuyện rằng: Một hôm tân khách ngồi đông ở bên góc bên Đông Bắc nhà sảnh sự, người khéo miệng ngồi ở trước bình phong, chỉ một bàn, một ghế, một cái quạt, và cái thước, rồi làm trò. Một lát sau hai tiếng thước gõ, khách đều lặng im, không ai làm náo, xa xa nghe tiếng chó sủa, tiếng chuông kêu, làm người vợ kinh dậy, càu nhàu với chồng, chồng nói vợ cãi, tiếng trả khóc oa oa, chồng bảo vợ cho con bú bao nhiêu tiếng nhộn nhàng, nào chồng nào vợ, nào đứa bé khóc, nào đứa lớn sực tỉnh nói lên, đúng như vậy ấy, làm tân khách ngạc nhiên!
Khách ngồi xem hết một trò, lại tiếp đến tiếng kêu lửa cháy, nào tiếng cha gọi con, chồng gắt vợ, người nọ gào kẻ kia, hàng nàng tiếng chó sủa, lại hàng ngàn tiếng người kêu chạy, thêm tiếng trống khua, tiếng đồ dùng cứu hỏa, tóm lại đúng không sai sót chút nào về một sự cứu cháy, đương diễn ra trước mọi người, làm cho tân khách biến hẳn sắc mặt kinh hãi ngạc nhiên một lúc cháy xong rồi, khách mới hoàn hồn, thì quay lại nhìn bình phong vẫn chỉ một chàng một ghế một bàn một quạt một thước làm trò ra cả. Thực là chỉ có một người; Mà làm trò như ngàn miệng ngàn tai, hễ ai để ý nghe đến tiếng nào thấy có tiếng ấy, trăm ngàn tiếng đều phát ra một miệng, đó mới thực lành nghề miệng lưỡi, khiến một trò tân khách phán thưởng không.
Ta bấy giờ nghe thuật chuyện ấy còn không tin, cười bảo tiên sinh rằng: Đó là ông bàn lối sán hoa, chứ ở đời làm sao có được lành nghề đến thế? Tiên sinh cũng cười lại bảo ta rằng: Há phải ông không tin, bây giờ tôi cũng không còn tin thế nữa, bởi không còn ai khéo miệng lành nghề đó mà lại diễn ra đây! Nay ta đọc một thiên lửa đốt lầu Thúy Vân, mà than rằng: Tiên Sinh chẳng từng nói dối ta, thế gian vốn có những lành nghề tuyệt diệu phi thường như vậy.
Trong khi điều khiển, mỗi người theo một lệnh, tới lúc động tay, đều thay đổi hết, chẳng giống lệnh chút nào, tại sao? Vì việc đời đánh nhau, không sẵn bản in, để quân sĩ lắp vào, Làm văn cũng không sẵn bản in, để tài tử lắp vào, tả điều điệu làm hai nửa, tả điểm đậu cũng chia hai nửa, tả mọi người làm việc trong thành cũng chia hai nửa, tả quân nhân sách ứng trong thành cũng chia hai nửa, lại là một dạng kỳ tuyệt chi cách.
Sau khi tả Lương Sơn điều động cướp thành, bèn tả đến Lương Trung Thư điều động chơi đèn, tả Lương Trung Thư chạy trốn xong, tả đến Lý Cố, Cổ Thị một phen chạy trốn, khiến người đọc đến, thực muốn tuyệt đảo.
Hồi 66
Về Sơn Bạc Tống Giang khao thưởng ba quân;
Đến Lăng Châu Quan Thắng chiêu hàng hai tướng
Hôm đó Ngô Dụng thu điểm nhân mã, nhất diện treo bảng an dân, nhất diện cho cứu giải ngọn lửa trong thành. Còn những người nhà Lương Trung Thư, Lý Thành, Văn Đạt cùng Vương Thái Thú, hoặc chết hay là trốn tránh cũng không truy hỏi đến nữa.
Ngô Dụng lại sai mở kho tàng trong phủ Đại Danh, đem kim ngân châu bảo xếp cả lên xe, rồi lấy gạo thóc phát cả cho dân trong thành, còn thì cũng xếp cả lên xe đem về. Đoạn rồi cho Lý Cố cùng Cổ Thị nhốt vào xe tù, và chia quân làm ba đội mà kéo về Lương Sơn, và cho Đới Tung về báo trước với Tống Công Minh.
Tống Giang nghe nói, vội họp các Đầu Lĩnh để xuống núi đón về Trung Nghĩa Đường.
Tống Giang trông thấy Lư Tuấn Nghĩa, liền cúi đầu lạy tạ, Lư Tuấn Nghĩa cũng cúi đầu mà đáp nghĩa lại.
Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống Giang tôi cả gan muốn đón ngài lên đây Tụ Nghĩa, chẳng dè gặp bước không may, cơ hồ nguy hiểm, trong lòng tôi rất áy náy không yên. Ngày nay may mà trời xanh thương xót, lại được gặp đây, thực là hạnh phúc cho sơn trại không biết tới đâu mà kể.
Lư Tuấn Nghĩa bái tạ mà rằng:
- Tôi trên nhờ uy đức của huynh trưởng, dưới nhờ nghĩa khí của các Đầu Lĩnh, hết lòng cứu vớt cho được tới đây, sau nầy biết lấy gì báo đáp cho phu công ấy.
Nói đoạn liền dẫn Xái Phúc, Xái Khánh vào chào Tống Giang mà nói rằng:
- Nếu bữa trước không có hai người nầy, thì còn sao mà bước chân đến đây được? ...
Đoạn rồi Tống Giang nhường ghế thứ nhất cho Lư Tuấn Nghĩa ngồi.
Lư Tuấn Nghĩa cả kinh mà rằng:
- Tôi là hạng người thế nào mà dám nhận chức vụ ấy? Huynh trưởng có lòng thương yêu cho tôi được làm đứa tiểu tốt theo hầu, cũng là hạnh phúc, xin Huynh trưởng chớ nên quá nhúng làm chi.
Tống Giang cố mời hai ba lần nữa, Lư Tuấn Nghĩa nhất định không chịu nhận. Lý Quỳ thấy vậy kêu lên rằng:
- Ca Ca không thẳng tính chút nào cả... Ngày trước đã nhận rồi, ngày nay lại nhường cho người khác. Cái ghế ấy có lẽ làm bằng vàng hay sao mà nhường đi nhường lại mãi. Làm thế tôi sốt ruột không sao chịu được.
Tống Giang quát to lên rằng:
- Thằng quái nầy...
Lư Tuấn Nghĩa vội vàng cúi lạy Tống Giang mà nói rằng:
- Nếu huynh trưởng cứ nhường mãi vậy, thì có lẽ tôi ở đây không yên tâm mất.
Lý Quỳ lại quát lên rằng:
- Nếu Ca Ca làm ông vua, Lư Viên Ngoại làm thừa tướng, đám chúng ta cùng ở trên kim điện, thì làm chi có rối lên như thế nầy được. Nhưng nay bất quá chỉ là một tụi ăn cướp ở trong vũng nước nầy, thì bất nhược cứ lặng yên như cũ là xong.
Tống Giang nghe nói tức mình không biết nói làm sao được.
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Ngày mai hãy để Lư Viên Ngoại ở phòng bên Đông, đãi lễ tân khách, rồi sau nầy có công sẽ xin nhường vị cũng được.
Tống Giang nghe vậy mới hơi yên tâm, liền mời Lư Tuấn Nghĩa ra ở phòng bên Đông, cho Yến Thanh cùng ở vào đó. Lại dọn phòng cho anh em Xái Phúc ở. Bấy giờ Tiết Vĩnh đi đón người nhà Quan Thắng đã về, cũng cho dọn phòng để ở cẩn thận. Đoạn rồi trong sơn trại làm đại tiệc khao thưởng tam quân, các Đầu Lĩnh lớn nhỏ cùng đám lâu la hợp từng đoàn từng đội mà chè chén với nhau.
Hôm đó các Đầu Lĩnh cùng uống rượu ở Trung Nghĩa Đường. Lư Tuấn Nghĩa đứng dậy nói rằng:
- Còn có hai đứa gian phu dâm phụ đã bắt đến đây, xin trị tội cho công bằng.
Tống Giang cười nói rằng:
- Suýt nữa tôi quên mất đấy, quân sĩ đâu, dong nó lên đây.
Quân sĩ vâng lời, đem Lý Cố trói sang cột bên tả, Cổ Thị trói sang cột bên hữu để trị tội.
Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Bây giờ không cần phải hỏi tội làm chi, xin Viên Ngoại cứ xử đoán đi là xong.
Lư Tuấn Nghĩa vâng lời, tay cầm đỏan đao bước ra quát mắng hai người, khoét lấy ruột giữa, bắt tội tùng xẻo cho chết, sai đem vứt bỏ xác đi rồi quay vào tạ ơn các Đầu Lĩnh. Các Đầu Lĩnh đều nâng chén rượu mừng, rồi lại cùng nhau yến ẩm vui chơi, rất là thỏa thích.
Bây giờ ân trả nghĩa đền,
Trăm năm cố kết chút duyên guang hồ.
Máu nồng pha chén hoan hô,
Giang sơn riêng một cơ đồ kém ai?
Nói về tụi Lương Trung Thư khi dò biết quân mã Ngô Dụng đã trở về Lương Sơn Bạc, liền cùng với Lý Thành, Văn Đạt thu nhặt bọn quân tàn, mà trở lại đất Đại Danh. Khi về tới phủ vợ con trẻ già, mười phần còn sót một hai, người nào người ấy kêu khóc như mưa vậy.
Bây giờ các phủ huyện ở gần đấy kéo quân đến để cứu, thì giặc đã về rồi. Lương Trung Thư lại truyền lệnh cho các phủ huyện đâu về yên đấy.
Lương Trung Thư phu nhân trốn vào vườn hoa đằng sau, may được thoát nạn. Trung Thư thấy vậy lấy làm cảm thương vô cùng, liền khảo giấy bẩm vào Xái Thái Sư xin khiển tướng điều binh đi đánh Lương Sơn. Trong đó kể hết tình thế giặc Lương Sơn và sự thiệt hại trong thành Đại Danh, dân số chết hơn năm ngàn người, trúng thương rất nhiều, và các bộ quân mã thì thiệt tới hơn ba vạn. Khi viết thư xong, sai Thủ Tướng lập tức đem thư vào kinh để trình với Xái Thái Sư.
Nguyên trước Xái Thái Sư những tưởng rằng ít lâu, rồi bọn Lương Sơn đầu hàng, thì tâng công cho Lương Trung Thư, mà tự mình cũng có phần vinh hạnh. Nay bất đồ nghe tin như vậy, thì trong lòng lấy làm tức giận vô cùng, liền cho tỳ tướng lui ra, rồi sẽ vào tấu với Thiên Tử.
Thiên Tử xem biểu tấu cả kinh, chưa biết nghĩ kế ra sao.
Bỗng có quan Gián Nghị Đại Phu là Triệu Đĩnh, bước ra bệ ngọc tâu rằng:
- Trước đây triều đình đã điều binh khiển tướng cũng đều bị thua thiệt rất nhiều, là vì không được địa lợi cho nên mới thế. Vậy ngày nay cứ theo như ý ngu thần, xin bệ hạ giáng chỉ chiêu an mời về Kim Khuyết mà trao cho quan chức để coi chốn biên cương tất là yên ổn được.
Xái Thái Sư nghe tâu, cả giận quát mắng rằng:
- Ông làm Gián Nghị Đại Phu sao dám bỏ kỷ cương triều đình, mà để tiểu nhân càn dỡ như thế được? Tội ấy đáng chết đó...
Thiên Tử nghe lời Thái Sư tâu, liền đuổi bỏ Triệu Đĩnh ra triều mà cách hết quan chức. Các quan thấy vậy ai cũng không dám hé răng ra tâu một câu gì nữa.
Thiên Tử hỏi Xái Kính rằng:
- Nay quân giặc lộng hành như vậy, phỏng lấy ai ra mà đánh giúp cho được?
Xái Thái Sư tâu rằng:
- Cứ như ý ngu thần thiết tưởng quân giặc cỏ ấy không cần gì phải đem đại quân mới tiểu trừ được. Hiện nay ở Lăng Châu có hai tướng giỏi, một người họ Đang tên Đình Khuê, và một người họ Ngụy tên Định Quốc làm Đoàn Luyện Sứ ở châu ấy, đều có thể tiểu trừ được quân giặc cỏ. V6ạy xin Thánh Thượng lập tức giáng chỉ cho hai người đó, đem quân đi đánh thì làm chi mà chẳng trừ xong.
Thiên Tử nghe tâu cả mừng, bèn lập tức giáng chỉ cho hai người đó. Đoạn rồi tan chầu, các quan đều bưng miệng cười thầm, mà cùng nhau lui về.
Nói về bọn Lương Sơn Bạc, sau khi đã khao thưởng quân sĩ xong rồi, Ngô Dụng liền nói với Tống Giang rằng:
- Nay ta vì việc Lư Viên Ngoại đánh phá thành Đại Danh, nhân dân thiệt hại rất nhiều, làm Lương Trung Thư phải trốn tránh. Việc nầy chắc là hắn phải tâu với triều đình và ỷ thế bố vợ là Xái Thái Sư, thế nào cũng chả yên được. Vậy ta nên nghĩ kế làm sao mới xong.
Tống Giang nói:
- Quân Sư dạy rất phải lắm. Ta nên sai người đi thám thính xem thế nào rồi sẽ liệu.
Ngô Dụng cười rằng:
- Tiểu đệ đã sai người đi thám rồi, có lẽ về ngay bây giờ đó.
Đương khi trò chuyện, thì quả nhiên có người về báo rằng:
- Lương Trung Thư tâu với triều đình, Gián Nghị Đại Phu cố tâu với Thiên Tử xin giáng chỉ chiêu an, song bị Thái Sư hành tội, cách cả chức quan của triều đình và sai người truyền chỉ cho Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc ở Lăng Châu phải đem quân đi đánh.
Tống Giang hỏi Ngô Dụng rằng:
- Như vậy ta làm cách nào để nghênh địch?
Ngô Dụng nói rằng:
- Đợi họ đến đây rồi ta bắt cả một thể khó chi?
Quan Thắng đứng dậy nói rằng:
- Quan Mỗ từ khi đến đây, chưa có chút công lao gì, nay Đan Đình Khuê cùng Ngụy Định Quốc cũng là anh em khi trước. Đan Đình Khuê tài về nghề tháo nước để đánh giặc, thường gọi là Thánh Thủy Tướng Quân, còn Ngụy Định Quốc thì thông thạo về trận hỏa công, khi ra trận thường lấy đồ lửa mà đánh nhau, vẫn gọi là Thần Hỏa Tướng Quân. Vậy tôi xin lĩnh năm nghìn quân mã thẳng đến Lăng Châu để đón. Nếu dỗ được quy hàng thì mang cả về đây, bằng không thì tôi xin bắt về nộp, không cần gì phải khó nhọc đến anh em, chẳng hay tôn ý có cho chăng?
Tống Giang cả mừng, liền cho Tuyên Tán và Hắc Tư Văn theo Quan Thắng cùng đi.
Sáng hôm sau Quan Thắng dẫn năm nghìn nhân mã và đem hai tướng cùng đi xuống núi, các Đầu Lĩnh đưa chân đến bến Kim Sa, rồi lại trở về Trung Nghĩa Đường để bàn việc.
Ngô Dụng nói với Tống Giang rằng:
- Tôi xem Quan Thắng đi chuyến nầy, vị tất đã được vững lòng, vậy xin sai tướng khác đi theo tiếp ứng và coi giữ một thể.
Tôi xem Quan Thắng là người nghiêm nghị nghĩa khí, trước sau như một, quân sư bất tất phải đa nghi như vậy.
- Tôi chỉ sợ bụng người ta không được như bụng huynh trưởng mà thôi. Ta cứ cho Lâm Xung, Dương Chí làm lĩnh binh, Tôn Lập, Hoàng Tín làm phó tướng dẫn năm ngàn nhân mã thì vững hơn.
Lý Quỳ nghe nói liền ứng lên rằng:
- Để cho tôi đi một chuyến.
Tống Giang nói:
- Việc nầy không cho ngươi đi được, đã có tướng giỏi người ta lập công...
Lý Quỳ nói: Nếu tôi rỗi lâu thì sinh bệnh mất, Huynh trưởng không cho tôi đi, tôi cũng đi một mình vậy.
Tống Giang quát lên rằng:
- Ngươi không nghe quân lịnh, ta chém đầu đi đó.
Lý Quỳ nghe nói trong bụng bứt rứt khó chịu, liền thủng thỉnh mà quay ra. Đoạn rồi Lâm Xung, Dương Chí lĩnh quân đi đến Lăng Châu để theo Quan Thắng.
Ngày hôm sau chợt thấy tiểu quân vào báo:
- Hồi canh hai hôm qua Hắc Toàn Phong Lý Quỳ vác song phủ đi đâu mất rồi.
Tống Giang nghe báo lấy làm hối hận mà rằng:
- Chắc vì mình gắt mấy câu hôm qua, nên hắn đi với người khác hẳn?
Ngô Dụng nói rằng:
- Huynh trưởng bất tất phải nghĩ vậy. Hắn là người thô mãng, nhưng nghĩa khí, chắc là hắn không đi đâu, chỉ nay mai lại về đây thôi...
Tống Giang vẫn lấy làm sốt ruột, liền sai Đới Tung đi theo trước, rồi sai Thời Thiên, Lý Vân, Nhạc Hoà, Vương Đình Lục chia làm bốn đường đi theo sau. Nguyên Lý Quỳ hôm đó bị Tống Giang ngăn đón không cho đi, trong bụng lấy làm bứt rứt, liền về phòng nghỉ, rồi nửa đêm vác búa trốn sang Lăng Châu.
Khi đi đường chàng nghĩ thầm rằng: "hai anh tướng ranh ấy, cần gì phải mang bao nhiêu quân đi đánh? Ta cứ vào thành cho mỗi đứa một búa, cho Đại ca kinh một mẻ mới hả lòng"
Chàng vừa nghĩ vừa hăm hở đến nửa ngày trời, trong bụng đã đói, sờ túi không có đồng tiền nào cả. Nguyên khi đi chàng đương bực tức vội vàng nên không kịp đem tiền hành lý để tiêu dùng. Bấy giờ chàng lại nghĩ: "Đã lâu nay ta không làm món nào, nay ta thử chơi một món xem sao?"
Nghĩ đoạn liền lững thững vừa đi vừa nhìn quanh nhìn quẩn một mình. Chợt đâu thấy bên đường có một ngôi hàng rượu, chàng liền chạy vào ngôi hàng rượu lấy ba nai rượu và hai cân thịt lên để đánh chén.
Khi ăn uống xong, bèn đứng phắt dậy mà đi thẳng, tên tửu bảo giữ lại để hỏi tiền.
Chàng liền đáp rằng:
- Để ta ra chỗ nầy kiếm được món gì, rồi sẽ đem lại trả.
Nói đoạn quay ra để đi. Chợt đâu có một chàng to lớn ở ngoài chạy vào quát lên rằng:
- Thằng qủy đen kia to gan thật! Ai mở hàng rượu cho ngươi ăn không, không chịu trả tiền?
Lý Quỳ trợn mắt tròn xoe đáp rằng:
- Lão gia bất cứ chỗ nào chỉ ăn mà thôi.
Anh kia lại quát lên rằng:
- Ta nói câu nầy cho ngươi mất vía nhé! Phải biết rằng: Lão gia đây chính là Hàn Bá Long ở Lương Sơn Bạc, mở ngôi hàng nầy, là tiền của Tống Giang Ca Ca đó.
Lý Quỳ nghe nói liền cười thầm rằng:
- Trong sơn trại ta làm gì có của ranh nầy mà nói... ?
Nguyên Hàn Bá Long vẫn thường cướp bóc giang hồ xưa nay. Dạo trước có đến nói với Chu Quý, xin đưa lên núi, để nhờ nói với Tống Giang xin vào nhập bọn, song chẳng may Tống Giang bị bệnh chưa khỏi, nên Chu Quý bảo tạm ra đó mở cửa hàng để đợi Tống Giang khỏi, rồi sẽ đưa lên núi.
Hôm đó Lý Quỳ nghe nói liền rút thanh phủ ở lưng ra chìa đưa cho Hàn Bá Long mà bảo rằng:
- Nếu vậy anh cầm lấy cái búa nầy.
Hàn Bá Long thấy vậy, tưởng là thực tình liền giơ ra tiếp lấy. Lý Quỳ liền thừa thế, nhè giữa mặt chém cho một phủ chết quay ra đất. Mấy tên người nhà thấy vậy vội vàng kéo nhau chạy vào trong làng để trốn. Lý Quỳ vào nẫng lấy tiền nong rồi châm lửa đốt bỏ tửu quán, mà lên đường chạy về Lăng Châu. Đi chừng được một ngày đường, chợt trông thấy một anh chàng to lớn đi đến đó, đứng dừng lại mà ngẩng lên cúi xuống để nom Lý Quỳ.
Lý Quỳ thấy vậy hỏi rằng:
- Ngươi nom lão gia để làm chi thế?
Anh chàng kia lại hỏi rằng:
- Ngươi là lão gia ai... ?
Lý Quỳ không nói năng gì, vội vàng toan sấn vào để đánh. Anh chàng kia giơ tay quyền lên để đón đánh Lý Quỳ.
Lý Quỳ thấy tay quyền của anh kia ra vẻ thạo gỏi, liền ngồi xuống dưới đất, rồi ngửa mặt lên hỏi rằng:
- Anh họ chi, tên chi... ?
Anh chàng kia đáp rằng:
- Lão gia đây không có tên họ, muốn đánh nhau thì đánh nhau, ngươi có giỏi thì đứng dậy đây.
Lý Quỳ cả giận toan nhảy lên đánh, bất đồ bị anh chàng kia đá cho một đá ngã lăn ngay xuống.
Lý Quỳ vội kêu lên rằng:
- Ta không đánh nổi anh nầy rồi.
Nói đoạn ù té chạy.
Anh chàng kia đứng lại mà hỏi rằng:
- Anh tên họ là gì? Người ở đâu nói cho ta biết?
Lý Quỳ đáp:
- Ngày nay bị thua anh đáng lẽ không nói ra thì phải, nhưng lại tiếc vì anh cũng là một tay hảo hán, nên không muốn giấu làm chi. Chẳng giấu gì, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc chính là tôi đây.
- Anh có thực là Lý Quỳ hay không? Đừng nói khoác mới được.
- Anh không tin cứ nom song phủ của tôi đây...
- Anh đã là hảo hán ở Lương Sơn Bạc, cớ sao lại đi đâu một mình như vậy?
- Vì tôi tức với Tống Ca Ca tôi, nay muốn sang Giang Châu giết hai anh tướng họ Đan, họ Ngụy cho Ca Ca tôi biết tay đây.
Tôi nghe nói Lương Sơn Bạc đã có quân mã kéo đi rồi, vậy ai đi đấy anh có biết không?
- Toán quân có Đại Đao Quan Thắng đi trước, Lâm Xung, Dương Chí đi sau chứ ai.
Anh chàng kia nghe nói đến đó, vội cúi đầu mà lạy ngay.
Lý Quỳ lại hỏi:
- Bây giờ anh nói tên họ cho tôi nghe mới được.
- Tôi nguyên ở phủ Trung Sơn, ba đời nay vẫn truyền nghề đánh vật, ngón đánh lúc nãy là cha con truyền dạy cho nhau, mà không dạy người ngoài bao giờ. Bình sinh không hề giao thiệp với ai, nên đến đâu cũng không ai chứa, nhân thế các mạn Sơn Đông, Hà Bắc vẫn gọi tên là Một Diện Mục Tiêu Đĩnh. Mới đây nghe nói ở Khấu Châu có một toà núi tên là Khô Thụ Sơn trên núi có một tay du đảng họ Bào tên Húc, chỉ hay giết hại người ta, ai ai cũng gọi hắn là Táng Môn Thần, nay tôi muốn sang đó nhập đảng để kiếm cách sinh nhai cho thú.
- Anh có tài võ nghệ như vậy, sao mà không nhập đảng ở Lương Sơn, Tống Công Minh Ca Ca tôi tất là trọng đãi.
- Tôi cũng có ý muốn đến đó, song không ai tiến cử đến cho, nay được gặp huynh trưởng đây, tôi xin đi theo một thể.
- Tôi vì giận dỗi với Tống Công Minh Ca Ca mà một mình quyết đi xuống núi, nay nếu không giết người nào, mà lại trở về tay không, thì về thế nào được? Vậy bất nhược tôi với Bác đi sang Khô Thụ Sơn, nói với Bào Húc cùng đi đến Lăng Châu giết hai thằng Đan, Ngụy, rồi về núi thì có lẽ thú hơn.
- Ở Phủ Lăng Châu thành trì cũng vững, quân mã cũng nhiều, tôi với anh dẫu giỏi đến mười mươi cũng không làm chi được, bất quá chỉ uổng mạng thôi, vậy bất nhược ta đến Khô Thụ Sơn nói với Bào Húc đến đầu hàng ở sơn trại, rồi sẽ liệu sau, thế là thượng sách.
Hai người đương bàn chuyện với nhau, bỗng thấy Thời Thiên đi đến, gọi Lý Quỳ mà kêu rằng:
- Ca Ca đương ở nhà lo khổ đây kia, xin bác về sơn trại ngay lập tức. Ca Ca đã cho người đi khắp các ngả để tìm đấy.
Lý Quỳ nghe nóo liền dẫn Tiêu Đĩnh đến nói chuyện với Thời Thiên. Thời Thiên khuyên Lý Quỳ phải lập tức về núi, kẻo Tống Công Minh mong đợi:
- Lý Quỳ nói với Thời Thiên rằng:
- Bác hãy thư thả tôi đương bàn với Tiêu Đĩnh đi qua Khô Thụ Sơn, nói với Bào Húc cùng nhập vào đảng, rồi tôi sẽ về.
- Làm thế không được, Ca Ca đương mong đợi lắm hãy về ngay đi...
- Bác không thích đi thì bác cứ về trước, báo với Ca Ca rồi tôi sẽ về sau.
Thời Thiên có ý sợ Lý Quỳ, bèn quay trở về, không dám nói gì nữa, Lý Quỳ liền cùng với Tiêu Đĩnh, đi sang Khấu Châu để tìm vào Khô Thụ Sơn. Nói về Quan Thái Thú ở Lăng Châu, tiếp được chiếu chỉ của triều đình sai điều binh đi đánh Lương Sơn, và tiếp được tư thư của Xái Thái Sư sai bảo bèn lập tức gọi hai Đoàn Luyện Sứ là Đan Đình Khuê, và Ngụy Định Quốc vào để truyền lệnh ra binh. Hia tướng vâng lời liến chỉnh quân mã, sửa sang khí giới chỉnh đốn các lương thảo, để sắp sửa khởi hành. Chợt đâu có tin báo Đại Đao Quan Thắng dẫn quân đến xâm phạm Lăng Châu, Đan Đình Khuê và Nguỵ Định Quốc cả giận liền kéo quân ra thành để đón đánh.
Bấy giờ Đan Đình Khuê đầu đội mũ sắc vuông, có hai tua đen rũ xuống, ngoài khoác áo da hùm, trong mặc chiến bào thêu, chân đi đôi giầy da chạm, lưng thắt giây loan biếc, vai đeo một cây cung, một mũi tên, cưỡi con ngựa đen, khiến cây gươm đen, trước mặt dàn một lá cờ đen thuộc Bắc Phương, trên viết mấy chữ "Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê " bằng bạ; Ngụy Định Quốc đầu đội mũ khảm đỏ, bỏ rũ tua đỏ, ngoài khoác áo con nghê, trong mặc áo hồng bào thêu quái thú, chân đi đôi giầy thêu Kỳ Lân, lưng đeo cây cung kim thước, khoác một túi tên. Lang Nha cưỡi con ngựa sắc mỡ, tay cầm cương đao, trước mặt có lá cờ đỏ thuộc Nam Phương, viết bảy chữ "Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc" bằng bạc. Khi đôi bên đấu trận với nhau, Quan Thắng trông thấy hai viên hổ tướng, liền ngồi trên mình ngựa mà nói lên rằng:
- Kính chào hai vị Tướng Quân được mạnh khoẻ.
Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc nghe nói đều cười, trỏ vào mặt Quan Thắng mà mắng rằng:
- Lũ trẻ con vô tài, trên phụ ơn nghĩa của triều đình, dưới nhục danh giá tiên tổ, không biết chút gì là liêm sỉ, nay còn dẫn thân đến đây để làm chi?
Quan Thắng đáp rằng:
- Hai tướng quân lầm rồi, hiện nay Chúa Thượng hôn mê, gian thần lộng hành, không phải người thân không dùng, không phải kẻ thù không tránh, vậy Tống Công Minh Ca Ca tôi là người trung tín nhân nghĩa, thay Trời làm Đạo, sai Quan mỗ đến đây để mời hai vị Tướng Quân quy thuận cho vui. Nếu hai ngài có lòng hạ cố, thì xin cùng về sơn trại một thể.
Hai người nghe nói cả giận, cùng phi ngựa ra để đánh Quan Thắng, Quan Thắng đương sắp ra đón, thì bên tả có Tuyên tán, bên hữu có Hắc Tư Văn cùng xông ngựa đuổi theo. Khi vào trong trận thấy Ngụy Định Quốc rẽ về bên tay tả, còn Đan Đình Khuê rẽ về bên tay hữu, Tuyên Tán thấy vậy liền đuổi theo Ngụy Định Quốc, mà để cho Hắc Tư Văn đuổi theo Đan Đình Khuê.
Tuyên Tán vừa đuổi được mấy bước, thì bỗng thấy năm trăm quân bộ đều cờ đỏ giáp đỏ, kéo đến vây chặt chung quanh, rồi cùng nhau quăng giây móc ra bắt sống cả người lẫn ngựa. Bên kia Hắc Tư Văn cũng đuổi được mấy bước, thì bỗng có một đám năm trăm quân bộ đều cờ đen giáp đen, kéo ồ đến vây chặt cả ngựa lẫn người.
Đoạn rồi Ngụy Định Quốc cùng Đan Đình Khuê nhất diện cho giải Tuyên Tán và Hắùc Tư Văn vào thành, và nhất đuổi quân đánh tràn sang trận Quan Thắng, Quan Thắng thấy vậy cả kinh, luống cuống lui chạy. Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc, đều sốc ngựa mà đuổi riết ở đằng sau.
Đương khi đó chợt có hai tướng xông đến để cứu, Quan Thắng nom ra bên tả có Lâm Xung, bên hữu có Dương Chí, đều hăng hái ra sức cự định với Đan, Ngụy và đánh lui quân mã Lăng Châu.
Quan Thắng liền thu đám tàn quân, cùng với Lâm Xung, Dương Chí hợp quần vào một chỗ, rồi Hoàng Tín cũng kéo quân đến đó để hạ trại.
Bên kia Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc đắc thắng trở về trong thành, Trương Thái Thú ra đón tiếp vui mừng, rồi cho đóng xe tù Tuyên Tán, Hắùc Tư Văn vào xe, và sai một viên hạ tướng, dẫn ba trăm quân lập tức dẫn hai người về Đông Kinh để nộp triều đình.
Viên hạ tướng vâng lệnh, giải hai người theo đường đi vào Đông Kinh. Một hôm đi đến một toà núi khô trơ trọi, chợt gặp Hắc Toàn Phong Lý Quỳ cùng Tiêu Đĩnh, dẫn tụi lâu la ra đón chận ngang đường, mà đánh cướp xe tù.
Viên hạ tướng thấy vậy, toan quay lại để chạy. Bỗng đâu có một người nữa là Táng Môn Thần Bào Húc xông ra ở đằng sau, chém cho viên hạ tướng một nhát, chết lăn xuống ngựa, rồi bọn quân mã đều bỏ xe tù mà chạy tán loạn cả. Lý quỳ mở xe tù ra xem, thì chính là Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, bèn lấy làm kinh ngạc, mà hỏi hết các chuyện đối trận ở Lăng Châu.
Tuyên Tán kể chuyện cho Lý Quỳ nghe rồi lại hỏi rằng:
- Bác làm chi mà lại vơ vẫn ở đây thế?
Lý Quỳ đáp:
- Vì Ca Ca không cho đi đánh giặc tôi liền trốn xuống núi, gặp được Tiêu Đĩnh dẫn đến đây, để liên kết Bào Huynh nhập đảng. Ngày nay anh em tôi đương bàn định đi đánh Lăng Châu, thì thấy Tiểu lâu la báo rằng: Có xe tù giải đi qua núi. Nhân vậy chúng tôi đem người xuống cướp...ai ngờ chính lại là hai tướng quân...
Nói đoạn Bào Húc mời cả về sơn trại, sai giết trâu làm rượu thiết đãi.
Hắc Tư Văn nói với Bào Húc rằng:
- Anh em đã có lòng nhập đảng ở núi Lương Sơn, thì xin hãy đem quân mã bản trại đi, để cùng đánh Lăng Châu rồi sẽ cùng về một thể, có lẽ tiện hơn.
Bào Húc nói:
- CHính ý tôi đương muốn như vậy, sơn trại tôi đây, tất cả được vài ba trăm ngựa, và dăm bảy trăm tiểu lâu la, ta nên liên kết làm một đội mà đi ngay mới được.
Nói đoạn liền lập tức kéo hết quân mã sơn trại để đi đánh Lăng Châu.
Nói về đám quân sĩ bị đánh mất xe tù, liền vội vội vàng vàng chạy về phủ Lăng Châu, đem tin tức báo cho Trương Thái Thú, cùng Đoàn Luyện Sứ biết. Đan Đình Khuê và Ngụy Định Quốc nghe nói mà cả giận rằng:
- Phen nầy có bắt được tên nào cứ chém ngay đây mới được.
Vừa nói dứt lời thì thấy Quan Thắng dẫn binh đến khơi đánh ở ngoài thành.Đan Đình Khuê vội vàng lên ngựa, dẫn năm trăm quân mở cửa thành ra để đón đánh. Khi ra tới cửa thành, Đan Đình Khuê quát mắng Quan Thắng rất là sỉ nhục. Quan Thắng nghe thấy vỗ ngựa múa đao xông ra để đánh.
Đôi bên đánh nhau được hơn hai mươi hiệp, rồi Quan Thắng vội vàng quay ngựa chạy lui. Đan Đình Khuê liền xốc ngựa để đuổi. Đuổi chừng hơn mười dặm đường, chợt thấy Quan Thắng quay ngựa lại bảo Đan Đình Khuê rằng:
- Ngươi không xuống ngựa đầu hàng cò đợi đến bao giờ nữa?
Đan Đình Khuê liền múa thương xông vào đánh Quan Thắng, Quan Thắng lấy hết uy thế, giơ dọng đao vỗ vào Đan Đình Khuê quát lên một tiếng:
- "Xuống", rồi thấy Đan Đình Khuê ngã lộn xuống đất.
Quan Thắng vội vàng xuống ngựa đỡ Đan Đình Khuê dậy, mà nói rằng:
- Xin Tướng Quân tha tội cho.
Đan Đình Khuê ra dáng sợ hãi cúi phục xuống đất mà kêu xin đầu hàng
Quan Thắng nói:
- Tôi thường nhắc đến tên các ngài trước mặt Tống Công Minh luôn, vậy nay Công Minh sai tôi đến đây đón các ngài cùng về tụ nghĩa một thể!
Đan Đình Khuê nói rằng:
- Tôi xin vâng lời ra sức cùng nhau Thay Trời làm Đạo.
Nói đoạn hai người lên ngựa dong cương mà đi với nhau.
Khi Lâm Xung thấy hai người lên ngựa cùng đi với nhau, liền hỏi duyên cớ vì sao? Quan Thắng giấu trận Đan Đình Khuê thua, rồi bảo với Lâm Xung rằng:
- Khi đuổi đến chỗ vắng, tôi lấy tình trước nghĩa sau khuyên giải, nên Đan tướng quân mới quy hàng đó.
Bọn Lâm Xung nghe nói, đều lấy làm mừng rỡ vô cùng. Đan Đình Khuê về đến trước trận, kêu lên một tiếng năm trăm quân áo đen cùng theo cả đi, còn các nhân mã khác đều trốn vào thành, báo cùng Trương Thái Thú cùng Ngụy Định Quốc.
Ngụy Định Quốc nghe nói cả giận, ngày hôm sau liền sắm quân mã ra thành để đánh. Khi ra tới trận, Ngụy Định Quốc trỏ mặt Đan Đình Khuê quát mắng rằng:
- Đồ vong ân bội nghĩa, như thế thì phỏng còn trời đất nào chứng cho ngươi nữa?
Quan Thắng nghe nói cười nhạt một tiếng, rồi xông ngựa múa đao ra đánh, hai bên đánh nhau được mươi hiệp. Ngụy Định Quốc liền quay ngựa chạy về bản trận
Quan Thắng vỗ ngựa đuổi theo, Đan Đình Khuê kêu to lên rằng:
- Tướng quân không nên đuổi theo...
Quan Thắng nghe thấy liền quay ngựa vội trở lại, thì thấy bên trận Lăng Châu, có năm trăm tên bộ quân, mình mặc áo đỏ, lưng đeo túi huỳnh lưu cùng các đồ dẫn lửa, đẩy năm chục cổ xe chất toàn cỏ khô, đốt đỏ rừng rực và kéo sang bên trận Quan Thắng.
Quân mã Quan Thắng bị lửa xông vào, ai nấy đều kinh hoàng sợ hãi mà chạy tán loạn cả. Quan Thắng liền dẫn quân lui về bốn mươi dặm để hạ trại.
Ngụy Định Quốc lại dẫn quân lui về. Khi đến cửa Thành, thấy lửa đỏ rực trời, than khói tứ tung. Ngụy Định Quốc biết là trong thành bị cướp, bèn vội vàng dẫn quân kéo chạy, mà không dám kéo quân vào thành nữa.
Nguyên khi Ngụy Định Quốc kéo quân ra đánh, thì Lý Quỳ dẫn nhân mã ở Khô Thụ Sơn, đến phía bắc thành Lăng Châu, sát vào thành mà cướp lấy kho đạn, rồi phóng hỏa đốt nhà cửa, khiến cho thành Lăng Châu phút chốc đã tan ra như tro vậy.
Bấy giờ Ngụy Định Quốc dẫn quân quay ra, bất đồ lại gặp Quan Thắng đến đón đánh. Ngụy Định Quốc lại phải kéo quân sang huyện Trung Lăng để lánh nạn. Quan Thắng lại đem quân vây huyện Trung Lăng, truyền lệnh các tướng đánh thành rất riết. Ngụy Định Quốc chỉ đóng chặt cửa thành mà không dám ra đánh.
Đan Đình Khuê bàn với Quan Thắng, Lâm Xung cùng mọi người rằng:
- Ngụy Định Quốc là người hăm hở nóng nảy, nếu ta bách quá thì hắn liều chết mà không chịu nhục. Việc đó thong thả thì xong, chứ vội quá không thành hiệu. Vậy tiểu đệ xin đi vào trong huyện đó lấy lời tử tế mà khuyên nhủ anh ta, thì may ra khỏi phải dùng sức can qua, mà có thể âm thầm được.
Quan Thắng nghe nói cả mừng, liền ưng lời cho Đan Đình Khuê một mình một ngựa mà đi vào thành Trung Lăng.
Đan Đình Khuê vào tới huyện ấy, lấy lời ngon ngọt dỗ Ngụy Định Quốc mà rằng:
- Hiện nay triều đình vô đạo, thiên hạ rối loạn bời bời, trên Thiên Tử hôn mê, để cho gian thần đắc chí, vậy chúng ta nên quy thuận với Tống Công Minh, tạm lánh ở nơi Thủy Bạc, rồi sau đây gian thần thoái hết, bấy giờ ta sẽ trở lại triều đình, có đi đâu mà thiệt, quan bác thử nghĩ kỹ xem sao?
Ngụy Định Quốc nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nói với Đan Đình Khuê rằng:
- Nếu Quan Thắng đến đây mời tôi thì tôi sẽ quy thuận, bằng ông ta không đến thì tôi xin liều chết, chứ không chịu nhục.
Đan Đình Khuê nghe nói liền lên ngựa trở về báo cho Quan Thắng biết, Quan Thắng nói rằng:
- Quan mỗ đã thấm vào đâu, nếu Ngụy tướng quân có lòng hạ cố, thì còn gì hơn nữa.
Nói đoạn liền từ biệt mọi người, rồi một mình một ngựa một đao đi vào trong huyện.
Lâm Xung can rằng:
- Huynh trưởng hãy thư thả, tâm địa người ta biết đâu mà chắc, phải nghĩ kỹ mới được.
Quan Thắng đáp:
- Chỗ anh em cũ cả, có can chi mà sợ.
Nói đoạn đi thẳng vào huyện Định Quốc bái tạ đầu hàng, đặt tiệc thiết đãi, anh em kể chuyện hàn huyên, rồi dẫn năm trăm quân theo sang Đại trại. Quan Thắng dẫn Ngụy Định Quốc đến chào hỏi Lâm Xung, cùng các Đầu Lĩnh mà thu quân trở về Lương Sơn Bạc.
Khi về đến Kim Sa, quân mã đương xuống thuyền lên núi, thì bỗng thấy có Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ, ra dáng âu sầu tức giận, mà cùng đến đó.
Lâm Xung thấy vậy hỏi Đoàn Cảnh Trụ rằng:
- Ngươi đi sang Bắc mua ngựa với Thạch Dũng, Dương Lâm, sao lại về đó làm chi vậy?
Cảnh Trụ thở dài một tiếng, rồi đem chuyện nói cho Lâm Xung nghe.
Mới hay:
Xưa nay thanh khí tương cầu.
Giang hồ gặp gỡ lọ cầu mới thân,
Aùo xiêm hổ mặt phong trần.
Tấm thân vì nước vì dân thế nào?
Trăm năm một dạ thanh cao,
Lòng nầy đất thấp trời cao biết cùng.
Lời bàn của Thánh Thán.
Ngôi thứ nhất của Trung Nghĩa Đường, vốn không phải của Tống Giang chiếm cứ, thì cũng không phải Tống Giang có thể nhường ai. Đã không chiếm được mà cứ chiếm, đó là vô sỉ; Mà không thể đem nhường, lại cứ nhường, cũng lại là vô sỉ. Con người đã vô sỉ, chẳng những tự mình tiếc của, mà cũng lại chẳng vì người mà tiếc của người. Như ngày trước Tống Giang muốn chiếm ngôi ấy, vì có Lý Quỳ chẳng muốn hứa cho mà nói ra giọng ấy; còn chẳng tiếc của người, như ngày nay Tống Giang muốn nhường ngôi ấy, vì có Lư Viên Ngoại chẳng muốn hứa cho, mới có sự nầy.
Tại sao vậy? Vì con người vô sĩ, thì cơ giang biến trá, cốt sao cho được đến ngôi ấy mà thôi, nào cứ phải ngày trước đã chiếm, mà cho là được, cho dến nay nhường đi, cũng chỉ khéo chiếm cho được mà thôi. Với cái ý muốn chiếm cho được, khiến cho đường đường một Lư Viên Ngoại, chỉ là tựa bóng, mà không còn bay khỏi nữa thước ra ngoài vũng nước, bấy giờ làm một người như Lư Viên Ngoại, há cam chịu nước đó chăng?
Hoặc có người hỏi:Tống Giang muốn chiếm cho được, thấy đã được rồi, còn có ý biết rằng có nhường cũng vẫn được ngôi ấy? Xin trả lời rằng: Ngôi thứ nhất của Trung Nghĩa Đường, chẳng phải Tống Giang chiếm được, mà cũng không phải Tống Giang nhường cho ai được, nếu khiến Tống Giang chiếm được một cách vô lý thì mũi tên của Tiều Thiên Vương còn kia, nó cũng theo ai lập được công báo được thù, mà ở ngôi ấy nay Tống Giang đã nhường, lại không ai dám nhận, tức Tống Giang đã chiếm xong rồi, dù có ai báo nổi thù, mà lập nên công, cũng không dám ngồi tranh ngôi đó rõ ràng như thế, mới hay con người vô sĩ, dùng hết mánh khoé để chiếm về mình cho nên từng phen Lý Quỳ nói ra, như mắng vào mặt vô sĩ.
Người hay đa nghi như Ngô Dụng còn nghi Quan Thắng, thì không chừa ai là chẳng khỏi nghi; người hay đa nghi như Tống Giang còn nghi Lý Quỳ, lại không còn ai là chẳng khỏi nghi, hồi nầy chép luôn hai người nghi ngờ cho rõ tội ác của Tống Giang, Ngô Dụng cùng che đậy cho nhau.
Tả Lý Quỳ gặp Tiêu Đĩnh, khiến người đọc đến, phải bậc lên tấm lòng yêu hiếu thiện, bậc lên tấm lòng khiêm ức, mà chẳng bụng lừa người, chẳng bụng bạc bẽo, mới hay Thiết Ngưu có hành động ấy khiến Nại Am có ngọn bút nầy.
Sau khi đánh thành Đại Danh, lại chẳng thấy nhắc đến mối thù của Tiều Cái Thiên Vương, lại còn tiếp luôn một hồi đánh thâu hai tướng Thủy Hỏa, cũng chẳng tả qua loa, tả ra rất là thay đổi khác, chẳng khỏi khiến người có cá ý.
Tả đến hành động Quan Thắng, thấy như khí tượng đường hoàn của Hán Quan Công, chả chút đáng chê, không ngờ trăm hoa đua sắc, nổi bậc Mẩu Đơn; đọc giả xét ra sẽ thấy.
Hồi 67
Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu Thị;
Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung.
Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ nói với bọn Lâm Xung rằng:
- Tôi cùng Dương Lâm, Thạch Tú đi sang mạn Bắc, chọn mua được hai trăm con ngựa rất khoẻ và đẹp, bất đồ về đến địa hạt Thanh Châu, gặp một người tên là Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ, tụ hơn hai trăm người cướp lấy cả ngựa, đem giải về Tăng Đầu Thị, còn Dương Lâm, Thạch Tú thì không biết bạt đi đâu mất. Bởi vậy tôi phải trốn về đây báo cho sơn trại biết.
Lâm Xung nghe nói liền đưa về sơn trại, để nói cùng Tống Công Minh, khi về tới Trung Nghĩa Đường, Quan Thắng dẫn Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, vào chào Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh rồi Lý Quỳ đem các chuyện giết Hàn Bá Long gặp Tiêu Đĩnh, Bào Húc đi đánh Lăng Châu thuật cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói lấy làm mừng vô hạn.
Hồi lâu các Đầu Lĩnh đương ngồi yến ẩm với nhau, Đoàn Cảnh Trụ lại kể chuyện mất ngựa cho Tống Giang, Tống Giang nghe nói cả giận mà rằng:
- Ngày trước chúng đã cướp ngựa của ta, sau Tiều Thiên Vương cũng bị bắn chết vì tay chúng, thù ấy vẫn chưa báo được. Nay chúng lại dám vô lễ đến thế, nếu ta không đem binh đi đánh, tất thiên hạ chê cười ta đó.
Ngô Dụng tiếp luôn rằng:
- Hiện nay ngày xuân ấm áp, chính hợp cho sự hành binh, vậy ta nên đi đánh ngay cho vui, ngày trước Tiều Thiên Vương bị thua là vì mất địa lợi, vậy ngày nay ta nên dùng trí mà đánh mới được. Nay hãy cho Thời Thiên đến đó treo tường khoét dậu, thám thính xem sao, rồi về đây ta sẽ liệu.
Thời Thiên vâng mệnh ra đi. Cách ba bốn hôm sau bỗng thấy Dương Lâm, Thạch Tú trốn về sơn trại, kể lại Sử Văn Cung rất là vô lễ, thường nói khoác thế nào cũng không chịu sống với bọn Lương Sơn. Tống Giang nghe nói toan khởi binh đi ngay lập tức.
Ngô Dụng can rằng:
- Hãy đợi Thời Thiên về rồi sẽ khởi binh, có đi đâu mà vội?
Tống Giang vẫn hầm hầm tức giận, chỉ nóng báo cừu, không sao chịu được liền sai Đới Tung đi thám thính mau mau để cho chóng việc.
Đới Tung vâng lệnh đi mấy hôm, rồi trở về trước Thời Thiên, mà nói với Tống Giang rằng:
- Bọn Tăng Đầu Thị muốn báo thù cho phủ Lăng Châu, hiện nay đã đóng đại trại ở chợ Tăng Đầu và đặt trướng Trung quân ở chùa Pháp Hoa, cắm cờ mấy trăm dặm, không biết lối nào mà tiến được.
Ngô Dụng nghe nói, còn do dự chưa biết lập kế ra sao. Sáng hôm sau chợt thấy Thời Thiên về báo rằng:
- Chúng tôi đi đến chợ Tăng Đầu, đã dò thám hết, rất kỹ tình thế của chúng. Hiện nay chúng chia năm trại, trước mặt chợ Tăng Đầu có hơn ba nghìn người coi giữ cửa thôn, trong trại có Sử Văn Cung coi giữ trại. Trại bên Bắc có Tăng Đồ cùng Phó giáo sư Tô Định, trại bên Nam có Tăng Mật, trại bên Tây có Tăng Sách, trại bên Đông có Tăng Khôi, cùng người cha là Tăng Lộng coi giữ. Còn Úc Bảo Tử người ở Thanh Châu, thì cao một trượng, lưng lớn ba ôm, biệt hiệu là Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tử, đã cướp lấy ngựa của ta hiện còn nuôi ở chùa Pháp Hoa đó.
Ngô Dụng nghe nói liền tụ hội các tướng đến mà bàn rằng:
- Đằng ấy chúng có năm trại thì ta đây chia binh ra làm năm đạo để đánh.
Lư Tuấn Nghĩa đứng dậy nói rằng:
- Lư mỗ nhờ ơn các ngài cứu cho lên núi, chưa có chút gì để đền ơn, vậy ngày nay xin ra trước trận để đánh chẳng hay các ngài có thuận cho không?
Tống Giang nghe nói liền hỏi Ngô Dụng rằng:
- Viên Ngoại có lòng đi giùm, vậy có thể mời Viên Ngoại đi tiền bộ được chăng?
Ngô Dụng đáp:
- Viên Ngoại mới đến đây chưa ra chiến trận, đường lối hiểm trở khó lòng dò biết, không thể nào đi tiền bộ tiên phong được. Vậy xin Viên Ngoại dẫn một chi quân nấp ở giữa khoảng Bình Xuyên rồi nghe hiệu súng Trung quân mà kéo đến tiếp ứng. Thế là tiện hơn.
Tống Giang nghe nói cả mừng bèn cho Lư Viên Ngoại cùng Yến Thanh dẫn năm trăm quân bộ đến nấp ở con đường nhỏ Bình Xuyên mà nghe hiệu. Đoạn rồi cùng nhau cắt đặt năm đạo quân để đi đánh: Toán thứ nhất mã quân Đầu Lĩnh là Tích Lịch Hỏa Tần Minh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh cùng Phó tướng Đặng Phi, Mã Lân dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Nam. Toán thứ nhì bộ quân Đầu Lĩnh Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm. Hành giả Võ Tòng cùng phó tướng Khổng Minh, Khổng Lượng dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Đông. Toán thứ ba mã quân Đầu Lĩnh Thanh Diện Thú Dương Chí, Cửu Văn Long, Sử Tiến, cùng phó tướng Trần Đạt, Dương Xuân dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Bắc. Toán thứ tư bộ quân Đầu Lĩnh Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành cùng phó tướng Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn ba nghìn quân đánh trại chính Tây. Còn toán thứ năm thì Đô Đầu Lĩnh Tống Giang, quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các phó tướng là: Lã Phương, Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Đới Tung, Thời Thiên dẫn năm nghìn quân đánh trại chính giữa. Hắc Toàn Phong Lý Quỳ, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cùng phó tướng là Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm nghìn quân làm hợp hậu. Còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.
Khi cắt đặt xong, năm đạo quân đều xuống núi chia đường mà thẳng đến đánh chợ Tăng Đầu.
Bên kia Tăng Trưởng Quan nghe báo quân mã Tống Giang sắp kéo đến, bèn mời giáo sư Sử Văn Cung và Tô Định đến để bàn việc binh.
Sử Văn Cung bàn rằng:
- Đám Lương Sơn Bạc phần nhiều là binh cường tướng mạnh, ta nên dùng kế đào hầm thì thế nào cũng tróc nã được chúng. Tăng Trưởng Quan khen phải, liền sai trang khách đem mai cuốc ra đào mấy mươi hàng hầm hố ở trong thôn, bên trên phủ qua lượt đất, rồi cho quân binh nấp bốn bên đường để đón bắt. Lại sai đào mấy mươi hàng hầm hố nữa về phía Bắc Tăng Đầu Thị để đợi.
Bên kia khi quân mã Tống Giang đã bắt đầu khởi hành, Ngô Dụng lại sai Thời Thiên dấn mau đi trước để dò đường. Cách mấy bữa Thời Thiên trở lại bảo rằng:
- Đường vào các trại Nam Bắc ở Tăng Đầu thì đều đào hầm hố rất nhiều, nếu quân mã ta lỡ mắc vào đó thì tất là nguy mất.
Ngô Dụng nghe nói cả cười mà rằng:
- Kế ấy thì lấy chi làm lạ! Nói đoạn liền truyền cho quân mã cứ tiến lên để đánh.
Một hôm vào khoảng giờ ngọ, quân mã kéo gần đến Tăng Đầu Thị, chợt thấy có một người khăn xanh bào trắng cưỡi ngựa đeo nhạc xủng xoảng tay cầm đỏan thương đi đến. Tiền đội trông thấy toan kéo quân đuổi đánh. Ngô Dụng liền ngăn lại rồi truyền lệnh năm đạo quân mã đều chia mạn hạ trại, đào hào đắp lũy rắc chông rào dậu phòng bị rất là nghiêm mật.
Người lại truyền cho Thời Thiên ăn mặc giả làm quân lính để dò xét xem các nơi hầm hố tất cả có mấy chỗ, cách xa trại quân chừng độ bao nhiêu và ghi nhớ lấy dấu hiệu để về báo. Thời Thiên vâng lệnh đi xét một ngày rồi về báo rõ ràng dấu tích các nơi hầm hố cho Ngô Dụng biết.
Ngày hôm sau Ngô Dụng truyền lệnh cho tiền quân chia làm hai đội đem đủ các đồ mai cuốc và xe hơn một trăm xe cỏ khô củi nỏ đi giấu ở trong quân. Đoạn rồi truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh cứ đến giờ Tỵ hôm sau thì đám quân bộ hai đường Đông Tây tiến đánh, còn Dương Chí, Sử Tiến ở bên Bắc thì phải dẫn quân mã ra đó, rồi đánh trống khua cờ, hư trương thanh thế mà không cho tiến lên. Khi phân phát xong rồi các tướng đều y lệnh để đợi thi hành.
Về phần Sử Văn Cung khi đã đào xong các hầm hố chỉ đợi cho Tống Giang kéo quân mã sấn vào là thế nào cũng sa xuống hố mà tóm bắt được cả. Chợt đâu đến giờ tỵ nom thấy ở trước trại có hiệu súng nổi lên, rồi có đại đội binh mã kéo đến mạn nam, đông như kiến cỏ. Rồi sau thấy trại bên Đông vào báo rằng:
- Có một lão hoà thượng múa cây thuyền trượng và một người hành giả múa hai khẩu giới đao, đánh cả đằng trước đằng sau trại.
Sử Văn Cung nghe báo liền nói rằng:
- Hai tên ấy chừng là Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng ở Lương Sơn Bạc hẳn.
Nói đoạn lại sợ sức Tăng Khôi không chống nổi, bèn sai người ra Đông trại để giúp sức.
Chợt lại thấy Tây trại vào báo: Có một người râu dài và một người mặt tía, trên cờ có đề chữ "Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng", và "Sáp Sí Hổ Lôi Hoành", kéo quân đến đánh rất gấp, Sử Văn Cung nghe báo lại sai người sang giúp sức với Tăng Sách ở Tây trại, bỗng lại nghe thấy trước Trại có hiệu súng nổi lên. Sử Văn Cung vẫn lặng yên không ra tiếp ứng, chỉ đợi cho quân mã bọn kia sa xuống hố, rồi sẽ ra bắt, đằng kia Ngô Dụng đem quân lần theo dõi sau núi chia làm hai đường kéo vào đến trại. Bấy giờ đám tiền quân của Sử Văn Cung còn cấp về việc coi trại, không dám rời đi, còn đám phục binh thì vẫn dàn hàng, mà nấp ở hai bên hầm hố phía trước, Ngô Dụng kéo quân tới nơi liền đánh đám phục binh ngã sấp cả xuống hầm hố.
Sử Văn Cung thấy vậy, kéo binh ra để đuổi. Ngô Dụng liền cầm roi trỏ Trung quân đẩy trăm xe cỏ, kéo ra nhất tề phóng lửa để đốt. Quân mã Sử Văn Cung kéo tới nơi, bị lửa đốt ngăn đường lại, đành phải kéo nhau trở lại. Khi đó Công Tôn Thắng đứng ở trong trận, cầm kiếm làm phép, rồi bỗng nổi một trận gió to, cuốn khói lửa đưa vào lối cửa bên Nam, làm cho gác canh cùng dậu vách cùng bị thiêu đốt cháy cả. Đoạn rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân, rồi Sử Văn Cung lập tức cho sửa sang cử a trại lại nguyên như cũ.
Ngày hôm sau Tăng Đồ bàn với Sử Văn Cung rằng:
- Nếu không chém được đầu giặc, thì không thể nào mà triệt đi được. Vậy hôm nay xin giáo sư coi trại, để tôi ra đánh một trận xem sao.
Nói đoạn liền cưỡi ngựa dẫn quân ra trận khơi đánh. Tống Giang ở Trung quân, liền dẫn Lã Phương ra trước trận để đón.
Khi ra tới cửa trận, thấy Tăng Đồ hầm hầm giận dữ. Tống Giang liền cầm roi mà nói rằng:
- Ai ra bắt thằng kia cho ta, để báo thù khi trước.
Nói dứt lời thì Tiều Oân hầu Lã Phương vác Thiên Phương Họa Kích, vỗ ngựa ra đánh Tăng Đồ. Đôi bên đánh nhau chừng hơn ba mươi hiệp, thì Lã Phương có phần hơi núng, không địch nổi với Tăng Đồ, đao pháp đã hơi rối loạn. Quách Thịnh thấy vậy liền vỗ ngựa cùng múa Thiên Phương Họa Kích ra để cùng đánh Tăng Đồ.
Ba người ba ngựa quần nhau ở trước trận một lúc, rồi bỗng dưng ba thứ quân khí, bị vướng ngù vào với nhau, không sao mà dằng ra được.
Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đứng trong trận thấy vậy, bèn sấn ngựa ra tay tả co giây cung, tay giữa đặt tên nhằm giữa Tăng Đồ để bắn. Khi đó Tăng Đồ đã rút được cây thương ra, mà hai cây kích của Lã Phương, Quách Thịnh còn soắn sít lấy nhau chưa sao gỡ được. Tăng Đồ thấy thế, giơ thương toan đánh, thì vừa hay mũi tên của Hoa Vinh đã tới, bắn trúng ngay vào vai Tăng Đồ ngã lăn xuống ngựa, Lã Phương, Quách Thịnh thấy Tăng Đồ ngã, chém cho một nhát chết ở giữa trận. Quân sĩ Tăng gia vội vàng phi ngựa báo cho Sử Văn Cung và đến Trung trại báo cho Tăng Trưởng Quan biết.
Tăng Trưởng Quan nghe báo lấy làm thương xót mà khóc nức nở lên một lúc, bấy giờ Tăng Thăng đứng ở bên cạnh nghe nói anh chết, liền gọi người lấy ngựa ra để đi đánh báo thù cho anh. Tăng Trưởng Quan ngăn giữ không được, đành phải để cho Tăng Thăng đi.
Nguyên Tăng Thăng là một tay võ nghệ cao cường, khiến hai khẩu phi đao không ai hề dám gần đến. Khi đó chàng vác đao lên ngựa, đi ra đến tiền trại, Sử Văn Cung cũng ngăn lại mà rằng:
- Tiểu tướng quân không nên vội ra. Bên trận Tống Giang trí dũng rất nhiều, khó lòng địch nổi, vậy cứ ý tôi, thiết tưởng ta nên giữ vững năm trại, cho người báo với Lăng Châu để tâu với triều đình, đem nhiều binh mã chia làm hai đường ra đánh Lương Sơn, và cứu ứng ở đây, thì bấy giờ mới có thể lập công được.
Đương khi nói chuyện thì thấy phó giáo sư là Tô Định ở Bắc trại cũng đến đó. Tô Định nghe lời Sử Văn Cung cũng lấy làm phải, mà nói rằng:
- Ngô Dụng ở Lương Sơn Bạc là một người lắm mưu nhiều kế, không thể coi khinh được, ta chỉ nên giữ vững lấy trại đợi cứu binh đến, rồi ta sẽ liệu.
Tăng Thăng kêu lên rằng:
- Nó giết Ca Ca ta, oán thù ấy tất là phải báo, nay nếu để cho nó tự do hành động mà không trị đi, thì sau nầy còn làm gì được nữa?
Sử Văn Cung cố can không được. Tăng Thăng liền hăm hở lên ngựa dẫn mấy mươi quân kỵ ra trận khơi đánh.
Tống Giang liền truyền cho Tần Minh ra đón đánh Tăng Thăng, Tần Minh vâng lệnh lên đường sắp đi ra thì thấy có người mình đen chùi chũi, cởi trần trùng trục, múa song phủ xồng xộc chạy thẳng đến trại Tăng Thăng để đánh.
Đám quân sĩ của tăng Thăng trông thấy liền bảo với Tăng Thăng rằng:
- Người ấy là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc đó.
Tăng Thăng nghe nói liền truyền cho quân sĩ lấy cung tên ra bắn. Lý Quỳ đang hăng hái vô ý bị một mũi tên bắn vào chân ngã lăn ra trước trận. Quân mã của Tăng Thăng đều xông ra để bắt.
Bên kia Tần Minh, Hoa Vinh phóng ngựa ra để cứu, rồi Mã Lân Đặng Phi, Lã Phương, Quách Thịnh đều nhất tề xông ra cứu Lý Quỳ đem về bản trận. Tăng Thăng thấy bên trận Tống Giang đông người, liền đem quân trở về mà không dám đánh nữa.
Ngày hôm sau, Sử Văn Cung cùng Tô Định đều định đóng binh yên giữ, song Tăng Thăng nóng ruột về việc báo cừu choa nhiều bèn cố giục Sử Văn Cung phải ra đối trận. Sử Văn Cung bất đắc dĩ phải đóng đai giáp, cưỡi con ngựa Thiên Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử cướp được của Đoàn cảnh trụ khi trước mà xông ra để đánh.
Bên kia Tống Giang dẫn các tướng ra dàn trận để đón. Khi Tống Giang trông thấy con ngựa Ngọc Sư Tử thì trong lòng lấy làm căm tức, liền truyền lệnh cho tiền quân xông ra để đánh Sử Văn Cung.
Tần Minh nghe lệnh bèn vỗ ngựa xông ra đối trận. Hai bên đánh nhau chừng hơn hai mươi hiệp, Tần Minh nghe hơi núng thế vội quay ngựa chạy về bản trận.
Sử Văn Cung ra sức sấn lên cầm thương đâm vào chân Tần Minh một nhát ngã lăn xuống đất. Lã Phương, Quách Thịnh, Mã Lân, Đặng Phi thấy vậy đều xông ra liều chết cứu được Tần Minh về. Quân sĩ cả thua một trận. Tống Giang lui quân ra ngoài mươi dặm hạ trại, rồi sai người xe Tần Minh về sơn trại phục thuốc, và mật gọi Quan Thắng, Từ Ninh và Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc xuống núi để giúp.
Tống Giang đốt hương khấn trời đất qủy thần xin một quẻ bói đưa cho Ngô Dụng xem.
Ngô Dụng xem xong bảo với Tống Giang rằng:
- Phen nầy tất được thanh thỏa không can chi cả. Duy đêm nay chúng sẽ vào cướp trại ta đây. Nếu vậy thì phòng bị trước đi mới được.
- Vâng xin Huynh trưởng cứ vững tâm truyền cho năm quân ngay bây giờ là được rồi.
Nói đoạn liền hạ lệnh cho quân mã các trại đều mai phục tất cả các nơi và để Giải Trân ở bên tả, Giải Bảo ở bên hữu, để đợi hiệu thi hành.
Đêm hôm đó trời trong trăng sáng, Sử Văn Cung ngồi ở trong trại bàn với Tăng Thăng rằng:
- Quân giặc hôm nay bị thương mất hai tướng, chắc là trong lòng kinh khiếp, vậy ta nên thừa thế mà cướp trại thì tất là được nên công.
Tăng Thăng nghe nói liền gọi Tô Định ở Bắc trại, Tăng Mật ở Nam trại, và Tăng Sách ở Tây trại đều dẫn quân đi cướp trại Tống Giang. Vào khoảng canh hai đêm hôm ấy quân mã đều im phắc, người mặc giáp mềm, ngựa bỏ vòng nhạc mà thẳng kéo ra đi.
Khi tới trại Trung quân của Tống Giang thấy bốn bên vắng vẻ không có một ai, bọn Tăng Thăng biết là có kế, liền quay ngựa kéo nhau lui ra. Chợt đâu thấy bên tả có Giải Trân, bên hữu có Giải Bảo, rồi mặt sau có Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đều nhất tề xông ra để đánh.
Tăng Sách lúng túng trong đêm tối mò, bị Giải Trân đâm cho một nhát phương xoa chết lăn xuống ngựa rồi phóng lửa nổi hiệu các quân đều ập vào để đánh. Bọn Sử Văn Cung hết sức cướp đường để chạy, mãi sau mới được thoát về trong trại.
Tăng Trưởng Quan thấy Tăng Sách lại bị chết trong lòng lại càng thương cảm bội phần, ngày hôm sau liền bàn với Sử Văn Cung để viết giấy xin đầu hàng Tống Giang. Bấy giờ Sử Văn Cung cũng có điều chột dạ, không dám hung hăng, bèn tán thành việc đó rồi viết giấy sai người thẳng đem sang trại Tống Giang.
Tống Giang bắt được giấy, bóc ra xem thấy trong đó nói rằng:
- "Tôi chủ chợ Tăng Đầu, tên là Tăng Lộng, cúi lạy trình Tống Công Minh thống quân Đầu Lĩnh. Trước đây vì con tôi ngu dại, cậy khoẻ khoe tài, làm càn làm dở cướp ngựa của ngài, rồi sau Thiên Vương xuống núi, lại bị đứa tiểu tốt vi tri bắn tên ngầm mà hại tính mạng, điều đó thực là tội nặng muôn trùng, không dám có điều chi từ chối.
Song thiết nghĩ việc đó không phải là thiện ý của chúng tôi, và đứa con ngu dại ngày nay cũng đã chết rồi, vậy tôi xin cả gan cho sứ mang thơ để cầu hoà cùng Thống Quân Đầu Lĩnh.
Nếu ngài có rộng lòng thương tới, im việc can qua, thì tôi đem cái số ngựa đã cướp khi xưa nộp trả lại ngài, và xin dâng vàng bạc khao thưởng tam quân, để đôi bên khỏi phần thiệt hại. Lòng thành ý thực xin lượng xét cho.
Tống Giang xem thơ xong liếc mắt nhìn Ngô Dụng rồi nét mặt giận dữ hầm hầm, xé thơ mà mắng rằng:
- Bay giết Huynh trưởng ta, khi nào ta im đi được! Phen nầy tất phải quét sạch toàn hạt bay đi thì ta mới thỏa.
Người đưa thơ nghe nói vậy sợ hãi run lên mà cúi rạp xuống đất.
Ngô Dụng liền can Tống Giang rằng:
- Huynh trưởng không nên nghĩ thế, chúng ta tranh nhau đây chẳng qua chỉ vì nghĩa khí mà thôi... Vậy nay Tăng Gia đã cho người đưa thơ sang cầu hoà, nếu ta còn chấp lòng căm giận mà bỏ mất đạo nghĩa thì sao cho tiện.
Nói đoạn liền sai viết thơ trả lời và thưởng cho người đưa thơ mười lạng bạc mà cho đem về. Người kia vâng lệnh đem thơ về trình.
Tăng Trưởng Quan cùng Sử Văn Cung bóc thư ra xem trong thư nói:
"Lương Sơn Bạc Chủ Tướng là Tống Giang xin trả lời cho chủ chợ Tăng Đầu là Tăng Lộng biết: Từ xưa tới nay nước không tín tất mất, người không lẽ tất chết, của không nghĩa tất mất, tướng không mạnh tất thua, đó là lẽ trời đất thế.
Lương Sơn Bạc đối với Tăng Đầu, thì trước sau không có thù hằn, chỉ vì làm càn làm dở, mà gây nên tai vạ ngày nay.
Vậy nếu muốn giảng hoà, thì phải trả lại các số ngựa đã cướp, và đem nộp tên hung đồ cướp ngựa là Úc Bảo Tứ, cùng là tiền bạc khao quân sĩ, rồi từ đây dốc lòng hoà thuận, không được sai lời... Nếu có một điều gì trái phép, bấy giờ ta sẽ liệu cho không còn phàn nàn được nữa".
Hai người xem xong lấy làm kinh sợ vô cùng. Sáng hôm sau Tăng Đầu lại cho người sang nói với Tống Giang rằng:
- Xin nộp Úc Bảo Tứ và xin cho mấy người đến để làm tin.
Tống Giang nghe nói liền truyền cho Thời Thiên, Lý Quỳ, Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn theo sang trại Tăng Gia làm tin.
Khi năm người ra đi Ngô Dụng gọi Thời Thiên ghé vào tai dặn thầm rằng:
- Nếu lỡ khi có biến, thì cứ thế nầy mà làm.
Đoạn rồi năm người vâng lệnh ra đi. Khi sang đến trại Tăng Đầu, Thời Thiên dắt bốn người vào chào Tăng Lộng mà nói rằng:
- Chúng tôi vâng tướng lệnh Ca Ca, xin sang đây để làm tin.
Sử Văn Cung nói lên rằng:
- Ngô Dụng sai năm người đến đây, vị tất đã không có mưu kế gì?
Lý Quỳ nghe nói cả giận mà nắm lấy Sử Văn Cungntoan đánh. Tăng Lộng vội vàng đứng dậy mà khuyên giải ra.
Thời Thiên nói với hai người rằng:
- Lý Quỳ tuy là người thô mãng, song hiện là một người tâm phúc của Tống Công Minh, nay sai sang đây thì không còn điều gì đáng ngờ nữa.
Tăng Lộng cũng dốc lòng giảng hoà, nên chẳng nhắc gì đến lời của Sử Văn Cung nữa, liền sai đặt rượu đãi năm người, rồi mới sang chùa Pháp Hoa, cho năm trăm quân vây giữ trước sau. Đoạn rồi cho Tăng Thăng đem Úc Bảo Tứ, cùng các lễ vật sang trại Tống Giang để giải hoà.
Tống Giang nom thấy một xe tiền lụa, và một đoàn ngựa đem đến, liền bảo với Tăng Thăng rằng:
- Ngựa nầy toàn là ngựa cướp chuyến sau, còn con ngựa Thiên Lý Long Câu Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử cướp của Đoàn Cảnh Trụ chuyến trước, sao không thấy ở đây?
Tăng Thăng nói:
- Con ngựa hiện sư phụ Sử Văn Cung để cưỡi, nên chưa đem được đến đây.
Nếu vậy phải viết giấy bảo mang sang đây mau.
Tăng Thăng bèn viết giấy cho người mang về trại, để đòi con ngựa Ngọc Sư Tử mang sang.
Sử Văn Cung tiếp được giấy trả lời rằng:
- Con ngựa khác thì không dám tiếc, duy con ngựa ấy thì không thể nào mà đưa đi được...
Tống Giang nghe nói, lại sai người sang hỏi. Sau Sử Văn Cung đáp rằng:
- Muốn lấy con ngựa ấy thì phải lui quân ngay lập tức mới được.
Tống Giang thấy vậy, bàn định với Ngô Dụng, chưa biết kế sách ra sao. Chợt đâu có tin báo Lăng Châu với Thanh Châu dẫn hai đạo quân mã sắp tới nơi.
Tống Giang nghe nói liền cười nhạt mà rằng:
- Quân kia biết tất nó giở quẻ với mình.
Nói đoạn liền truyền lệnh cho Quan Thắng, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc dẫn quân mã đón bọn Thanh Châu, Hoa Vinh, Mã Lân, Đặng Phi ra đón quân mã Lăng Châu, Tống Giang lại mật gọi Úc bảo Tứ đến, lấy lời lẽ tử tế dỗ dành, tiếp đãi một cách rất ân nghĩa, và nói rằng:
- Nếu ngươi hết sức vì ta phen nầy, ta cho làm Đầu Lĩnh ở sơn trại, và xoá hết thù xưa. Bằng không thì nay mai Tăng Đầu bị phá, bấy giờ ngươi xử trí ra sao.
Úc Bảo Tứ nghe nói cúi lạy tạ ơn, rồi tình nguyện xin theo dưới trướng.
Ngô Dụng liền dặn kế cho Úc Bảo Tứ rằng:
- Ngươi giả cách trốn về nói với Sử Văn Cung rằng: Ngươi với Tăng Thăng đến trại giảng hoà đã dò được tin đích xác, hiện nay Tống Giang chỉ định lừa lấy con ngựa Thiên Lý, rồi sau giở quẻ chứ không thực bụng giảng hoà. Và ngày nay nghe nói, hai đạo quân Thanh Châu và Lăng Châu kéo đến, thì trong lòng đương lo sợ, vậy ta nên thừa thế thi hành, chớ nên bỏ lỡ, như vậy nếu hắn nghe lời, thì ta sẽ có cách, ngươi phải đi ngay mới được.
Úc Bảo Tứ vâng lời, trốn về trong trại Sử Văn Cung, đem mấy lời đó nói với Sử Văn Cung, Sử Văn Cung liền dẫn Úc Bảo Tứ đến trình Tăng Trưởng Quan, nói rõ ý Tống Giang không định giảng hoà, mà bàn định với Tăng Trưởng Quan thừa thế sang cướp trại Tống Giang.
Tăng Trưởng Quan nói rằng:
- Tăng Thăng hiện còn ở đó, nếu mình sai lời thì tất bị hắn giết mất.
Nói đoạn đâm cho Sử Văn Cung một đao vào đùi ngã lăn xuống ngựa, rồi trói lại mà giải về Tăng Đầu Thị. Yến Thanh liền dắt con ngựa Long Câu về để nộp.
Tống Giang trông thấy trong lòng nữa não nửa mừng, sai đem Tăng Thăng ra chém, rồi bắt chém hết già trẻ nhà họ Tăng, mà không để sót một ai. Đoạn rồi lấy hết kim ngân châu bảo, cùng thóc gạo lương thực xếp tất cả lên xe để đem về.
Bên kia tụi Quan Thắng đánh đuổi được quân mã Thanh Châu, Hoa Vinh đánh đuổi được binh mã Lăng Châu, rồi hai toán quân cùng kéo về đại trại, không thiếu một ai.
Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn cho Sử Văn Cung vào xe tù, rồi thu thập quân mã, lương thảo mà trở về Sơn Bạc.
Khi về tới Trung Nghĩa Đường, các Đầu Lĩnh đều đến làm lễ cáo với Tiều Thiên Vương, Sai Tiêu Nhượng làm văn tế để tế, rồi các Đầu Lĩnh đều ăn mặc tang phục, khóc thương nức nở, và moi ruột Sử Văn Cung lên để tế.
Khi tế lễ xong rồi, Tống Giang liền bàn với các Đầu Lĩnh để lập chủ Lương Sơn Bạc, Ngô Dụng nói lên rằng:
- Huynh trưởng ở ngôi trên rồi đến Lư Viên Ngoại thứ nhì, còn các anh em xin cứ theo như cũ.
Tống Giang nói:
- Khi trước Tiều Thiên Vương đã dặn lại rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn Cung, tất phải làm chủ Lương Sơn Bạc. Vậy ngày nay, Lư Viên Ngoại bắt sống được tên giặc đó đem về để tế, thì tất nhiên tôn vị đến tay, không phải nói năng lôi thôi chi nữa.
Lư Tuấn Nghĩa nói:
- Tiểu đệ tài hèn sức kém, đâu dám đứng vào vị ấy. Huynh trưởng có lòng cho được theo hầu cũng là quá đáng lắm rồi.
Tống Giang đáp rằng:
- Không phải là Tống mỗ quá khiêm, song Tống mỗ có ba điều không bằng viên ngoại. Điều thứ nhất tôi đây dáng người đen ngắn, mà Viên Ngoại thì tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm, không mấy người bằng. Điều thứ hai tôi đây xuất thân làm đứa tiểu lại, phạm tội trốn tránh tới đây, may được anh em có lòng yêu mến, mà cho tạm ở tôn vị, còn Viên Ngoại thì sinh ra ở nhà hào phú, lớn lên có tiếng anh hùng, thực không ai bằng được. Ba là Tống Giang tôi văn không yên nổi nước, võ không phục nổi người, tay không sức trói nổi con gà, thân không có một mảy công lao, mà Viên Ngoại thì sức địch muôn người, rộng xem kim cổ, điều đó lại không theo kịp. Vậy Viên Ngoại có tài năng như thế, chính nên nhận lấy chức chủ sơn trại, làm nên quan tước giàu sang, khiến cho anh em cũng được vẻ vang đôi chút. Tống Giang tôi định như vậy, xin đừng từ chối nữa?
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, lạy rạp xuống mà rằng:
- Huynh trưởng đừng nên bàn phiếm nữa, Lưu Trung Thư mỗ dù chết cũng không dám theo lời.
Ngô Dụng lại nói rằng:
- Huynh trưởng ở ngôi trên, rồi đến Viên Ngoại thì ai ai cũng phục, nếu Huynh trưởng nhường nhịn mãi, thì e lòng chúng lại nhạt nhẽo không ra gì.
Nói đoạn liếc mắt đưa khắp cả mọi người quanh đó.
Bấy giờ Lý Quỳ kêu lên rằng:
- Tôi ở Giang Châu, liều thân liều mạng, theo anh đến đây, ai ai cũng phải nhường anh mới được, tôi đây dẫu Trời cũng không sợ, cần gì mà phải nhường đứa nào. Tôi bực lên thì tan nát cả bây giờ.
Võ Tòng thấy vậy cũng chạy đến kêu lên rằng:
- Hiện nay bao nhiêu quân quan thuộc tay Ca Ca, đều là những người sắc mệnh triều đình, người ta chỉ nhường Ca Ca chứ không nhường ai nữa.
Lưu Đường cũng nói lên rằng:
- Khi trước bảy anh em chúng tôi ở đây, đã có bụng nhường Ca Ca rồi, nay cần gì mà Ca Ca còn phải nhường ai?
Lỗ Trí Thâm cũng kêu lên rằng:
- Nếu Ca Ca còn lễ nghĩa nhúng nhường mãi, thì tụi ta giải tán là xong.
Tống Giang thấy chúng nói liền đáp lên rằng:
- Anh em hãy im tất cả, tôi có cách hỏi xem ý Trời ra sao, rồi mới có thể định được.
Ngô Dụng hỏi:
- Huynh trưởng có cách gì cao kiến?
Tống Giang đáp:
- Tôi có hai cách nầy, để xin nói với anh em cùng hỏi ý Trời xem sao.
Mới hay:
Người nghĩa khí bậc anh tài,
Dẫu mà sinh tử dám sai tấc lòng,
Nước non là nước non chung,
Mong sao gặp khách anh hùng chủ trương.
Sá chi tham muốn giàu sang,
Mà quên nghĩa lớn thói thường như ai?
Có ta âu cũng có người,
Thử xem chuyển vận cơ trời sao đây?
Lời bàn của Thánh Thán.
Ta trước nói Tống Giang muốn giết Tiều Cái, còn có người ngờ, nay đọc hồi nầy, mới thấy ý kiến tác giả kia vậy, tả ra giáo giở khúc chiết cho rõ tội Tống Giang chẳng muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, sao mà rõ ý tứ như thế vậy thay.
Một đoạn tả Đoàn Cảnh Trụ nói rằng: Uùc Bảo Tứ cướp ngựa đem về Tăng Đầu Thị mất ... ôi! Ba chữ Tăng đầu Thị thì há chẳng phải Tống Giang không ghi lòng tạc dạ nhớ đến hay sao, viết vào đá, khắc vào gỗ ngày đêm kêu khóc lệ ra nước máu vậy thay? Thế mà từ khi đình việc tang ở ngôi đến nay, bỏ lãng đi không nhắc đến, thấy rằng Tống Giang chẳng từng nhắc đến nên Ngô Dụng cũng không nhắc đến, Lâm Xung cũng không nhắc đến, cho đến mọi người trên dưới trong sảnh cũng không ai nhắc đến, và cũng chẳng biết thế nào mà nhắc đến. Nay bỗng đâu từ Đoàn Cảnh Trụ về, lại giở ra nhắc đến, như thế Tống Giang không còn bịt miệng chúng vậy.
Hai nữa Đoàn Cảnh Trụ nói rõ việc cướp ngựa, Tống Giang nghe mà cả giận, ôi! Tăng Đầu Thị không thể nào tha, đã một lần cướp ngựa, lại hai lần cướp ngựa, đã một lần bực tức, lại còn đến hai lần, ai mà chả tức? Thế mà xét đến báo thù cho Tiều Thiên Vương bị bắn chết, thì sự đau lòng nhớ đến tất phải có phận sự rồi! Đến nay tên thề còn đó, hàng tháng chẳng nhắc, lại cái nhục bị cướp ngựa, thì giờ khắc chẳng nêu ra, làm sao nhẫn tâm như thế được?
Ba nữa, Tiều Cái để lại lệnh rằng: Nếu ai bắt được Sử Văn Cung thì làm chủ Sơn Bạc, tời khi Tống Giang sai khiến Chư tướng như Từ Ninh, Hô Duyên Chước, Quan Thắng, Sách Siêu, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn... Lại không dám sai lũ ấy. Xem ra đối với cái thù bất cộng, thì chẳng kịp ăn, phải báo cho xong có chết cũng cam, mà Tống Giang có chí báo thù, thì phải hãy để không ngôi chủ ấy làm trọng thưởng, cho hết thảy dũng sĩ; Tống Giang mà chí tôn giữ ngôi chủ trại kia, tất không muốn báo thù cho Tiều Cái vậy, cũng không ai có thể trách đến, nên khi đánh báo thù, chỉ cử những viên tướng loàng xoàng, thì bắt sao nổi Sử Văn Cung, làm sao hòng làm chủ sơn trại với Tống Giang nổi?
Bốn nữa, trong đám người mới tới, chỉ Lư Tuấn Nghĩa đứng lên xin đi, Tống Giang còn hỏi lại Ngô Dụng có nên không? Ngô Dụng cắt cho chỗ nhàn rỗi, vì rằng theo phép khiển tướng, thứ nhất là tiên phong, thứ hai tả quân, thứ ba hữu quân, thứ tư trung quân, thứ năm hợp hậu, thứ sáu mới đến phục quân, phục quân thì đã định kế tóan, biết là phải thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn?Nếu chưa biết rằng địch đã thua, mà thua phải đi đường ấy mà trốn, mà lại khiến Viên Ngoại đi đường ấy trước để mai phục quân, thì rõ ràng không khiến Viên Ngoại bắt được Sử Văn Cung, thì là An trí Lư Tuấn Nghĩa một nơi đó vậy.
Năm nữa Sử Văn Cung cưỡi ngựa, lại là con Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, Tống Giang nom thấy ngựa tốt, đã sốt ruột nóng đầu, vì con ngựa Sử Văn Cung cưỡi, vốn con ngựa đã cướp của Đoàn Cảnh Trụ đem đến cho mình, hơn nữa lại Sử Văn Cung bắn chết Tiều Cái. Lời ngạn có nói: Khi gặp bạn tốt, con mắt rõ ra, khi gặp kẻ thù, con mắt giận dữ, ý nói trong lòng làm sao hiện ra con mắt. Nay Tống Giang vì con ngựa quý, thì phải trước vì ngựa, mà Tống Giang vì Tiều Cái, thì trước phải nghĩ đến Sử Văn Cung, nay Sử Văn Cung vỗ ngựa tới nơi, mà chỉ chép đến ngựa quý, làm Tống Giang sốt ruột nóng đầu, chép rõ con ngựa ở mắt Tống Giang, thì thấy Tống Giang đi đánh báo thù, cũng chỉ vì con ngựa quý.
Sáu nữa, bức thư vấn tội, khinh trách việc giết Tiều Cái, trọng trách việc cướp ngựa, đòi trả hai lần ngựa bị cướp, phải đòi trả Ngọc Sư Tử, thì ra đòi hai lần mất ngựa, Tống Giang chỉ cần đến Ngọc Sư Tử mà thôi ư? Nếu đòi ngựa mất hai lần, mà Tống Giang lại được con ngựa Chiếu Dạ Ngọc Sư Tử, thì Tống Giang hẳn ban sư về núi, không thèm đánh nữa! May mà Bảo Tứ nội phản, kế Phục Oa thành, động chuông chùa Pháp Hoa, năm anh họ Tăng chết cả đấy! Nếu chẳng may hai đội quân Thanh Châu, Lăng Châu đến kịp, biến thành cái ước hoà giải, thì ra Tống Giang kêu khóc ngày đêm, nhớ đến Thiên Vương, cũng chẳng qua vì con ngựa quý?
Bảy nữa, Lư Tuấn Nghĩa đã lập nổi công rồi, Tống Giang còn đánh trống hợp chúng lại như kéo bè, để mà nói đến lập chủ. Chao ôi! Thương nghị, thì có bao giờ xong, với số đông tâm phúc của Tống Giang, tại làm sao lại quanh co mãi thế, thiết tưởng đã có lệnh của Thiên Vương để lại tên đó làm bằng, đến nay Lư Tuấn Nghĩa bắt được Sử Văn Cung, thì ngôi chủ sơn trại chỉ một lời là đủ, lại còn hợp chúng, rồi lại bày ra hỏi ý trời, về việc đua nhau đi cướp cái lương, để lại định ngôi chủ trại... Sao mà khéo biến hoá ra nhiều thế, đến như thế là ghê lắm vậy? Chao ôi! Tác giả chép ra, dụng ý làm cho rõ ràng tội của Tống Giang, thế mà những kẻ ngu phu, chẳng cho rằng muốn giết Tiều Cái, lại khư khư đem Trung với Nghĩa gán cho người đó để nêu cao, há chẳng quái lạ mà đáng than thở cho đời kia hay sao?
Hồi 68
Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc nạn;
Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công.
Bấy giờ Tống Giang nói với mọi người rằng:
- Hiện nay sơn trại ta thì thiếu lương, và gần đây có phủ Đông Bình và phủ Đông Xương đều là những nơi trù phú, mà chúng ta xưa nay cũng chưa từng quấy nhiễu ai. Vậy ngày nay tôi cùng Viên Ngoại rút thẻ xem ai rút phải thẻ nào, thì đem binh đến đó mà vây lấy lương thảo, rồi ai đánh được trước thì làm chủ Lương Sơn.
Ngô Dụng nói:
- Thế thì rất phải lắm.
Lư Tuấn Nghĩa gạt đi mà rằng:
- Không thế được, Huynh trưởng tất phải làm chủ sơn trại, tôi không khi nào dám thi công như thế.
Tống Giang nhất định thi hành, liền sai Bùi Tuyên viết hai cái thẻ, đem ra khấn trời đất qủy thần rồi Tống Giang cùng Lư Tuấn Nghĩa phải mỗi người rút một cái. Khi mở ra xem, Tống Gang rút thẻ Đông Bình phủ, Lư Tuấn Nghĩa rút thẻ Đông Xương phủ.
Tống Giang liền truyền lệnh cất quân mã, chia làm hai bọn để đi đánh. Bọn Tống Giang thì có Lâm Xung, Hoa Vinh, Lưu Đường, Sử Tiến, Từ Ninh, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Hàn Thao, Bành Dĩ, Khổng Minh, Khổng Lượng, Giải Trân, Giải Bảo, Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Úc bảo Tứ, Vương Đình Lục, Đoàn Cảnh Trụ, tất cả hai mươi viên Đầu Lĩnh, và một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh thủy quân là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Thất, Nguyễn Tiểu Ngũ, đều đem chiến thuyền đi tiếp ứng.
Bọn Lư Tuấn Nghĩa thì có Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Lôi Hoành, Sách Siêu, Dương Chí, Đan Đình kHuê, Ngụy Định Quốc, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Dương Lâm, Yến Thanh, Âu Bằng, Lăng Chấn, mã Lâm, Đăng Phi, Thi Ân, Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Thời Thiên, Bạch Thắng tất cả hai mươi viên Đầu Lĩnh đem một vạn quân mã bộ, và ba viên Đầu Lĩnh Thủy quân là Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh dẫn chiến thuyền đi tiếp ứng, còn các Đầu Lĩnh khác đều ở nhà coi trại.
Khi cắt đặt xong Tống Giang dẫn bộ hạ đi đánh núi Đông Bình, Lư Tuấn Nghĩa dẫn các Đầu Lĩnh đi đánh phủ Đông Xương. Hôm đó là mồng một tháng ba, khí trời ấm áp dễ chịu. Tống Giang dẫn một toán quân đến nơi tên là An Sơn Trấn, cách phủ Đông Bình chừng hai ba dặm hạ trại ở đó.
Tống Giang bảo với các Tướng rằng:
- Phủ Đông Bình có quan Thái Thú là Trình Vạn Lý, và một người binh mã Đô Giám là Đổng Bình, người Đảng quận tỉnh Hà Đông, khiến hai cây thương rất giỏi, sức khoẻ muôn người không địch nổi, người ta vẫn gọi là Song Thương Tướng xưa nay. Vậy ngày nay ta đánh thành trì, trước nhất phải lấy lễ mà đãi, nghĩa là ta sai hai Tướng đưa chiến thư trước, nếu họ bằng lòng đầu hàng thì thôi không đánh, bằng không thì ta sẽ thi hành, để cho họ không còn trách ta được điều gì nữa, hiện nay ai có thể đưa thơ cho ta được?
Nói dứt lời thì thấy Bảo Uùc Tứ chạy ra ứng lời nói lên rằng:
- Chúng tôi có biết mặt Đổng Bình, vậy tôi xin đi đưa thư phen nầy.
Đoạn rồi lại thấy Vương Đình Lục chạy ra nói rằng:
- Chúng tôi mới đến sơn trại chưa có chút công lao vậy xin cùng đi một thể.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền viết thư nói vay lương thảo, rồi đưa cho hai người đem đi.
Bấy giờ Trình Thái Thú đương ngồi bàn việc quân với Đổng Đô Giám, chợt thấy người báo:
- Tống Giang sai người hạ chiến thư đến.
Trình Thái Thú gọi Úùc Bảo Tứ và Vương Đình Lục vào.
Hai người đi vào đưa thư lên trình Thái Thú. Thái Thú xem xong bảo với Đổng Bình rằng:
- Họ định vay tiền lương ở đây, ta nên định như thế nào.
Đổng Bình nghe nói cả giận, bắt đem Úùc Bảo Tứ, Vương Đình Lục ra chém.
Trình Thái Thú gạt đi mà rằng:
- Xưa nay hai nước đánh nhau, không bao giờ lại chém người lai sứ, bây giờ cứ đánh cho mỗi người mấy chục roi rồi đuổi họ về, xem họ xử trí ra sao?
Đổng Bình nghe nói, vẫn còn tức giận, liền sai trói hai người lại, đánh bật máu tươi rồi đuổi ra ngoài cổng phủ.
Hi người bị đòn khóc lóc với Tống Giang. Tống Giang nghe nói đùng đùng nổi giận, cho hai người về nghỉ ở sơn trại, rồi mới bàn định việc quân.
Chợt thấy Cửu Văn Long Sử Tiến đến trước trướng kêu rằng:
- Trước đây ở phủ Đông Bình tiểu đệ có quen một đứa con hát tên là Lý Thụy Lan rất là thân mật, vậy nay tôi xin đem ít tiền lần vào trong thành, trọ tạm nhà nó, Ca Ca ước định ngày đánh nhau để cho Đổng Bình ra thành, tôi sẽ đốt lửa trên Cổ Lâu, mà hợp đánh làm một, thì có thể thành công ngay được.
Tống Giang nghe nói khen phải, liền ưng lời truyền lệnh cho đi.
Sử Tiến lấy tiền nong gói vào khăn gói, rồi giắt ngầm khí giới mà bái tạ ra đi. Tống Giang dặn với rằng:
- Hiền đệ vào đó phải lựa cơ tiến thoái, ta ở ngoài nầy phải đợi tin tức, rồi ta mới dám động.
Sử Tiến vâng lời rồi quay ra lẻn vào thành, mà thẳng tới nhà Lý Thụy Lan. Khi Sử Tiến tới nơi Đại Bá lấy làm kinh ngạc, liền mời vào nhà trong, gọi con gái là Lý Thụy Lan ra tiếp đãi. Lý Thụy Lan mời Sử Tiến lên trên gác mà hỏi rằng:
- Lâu nay không thấy bóng vía ở đâu, sau khi nghe nói là nhập đảng với Lương Sơn Bạc làm Đại Vương ở đấy, Quan Tư vẫn yết bảng truy nã không được... Mấy hôm nay thấy đồn là quân mã ty kéo đến đánh thành để lấy lương thực, vậy sao anh lại lần đến đây được?
Sử Tiến khẽ đáp rằng:
- Chẳng giấu gì nàng, hiện tôi đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, mà chưa có chút công lao gì. Nay Ca Ca đến đánh Thành ở đây, tôi nói rõ chuyện nàng cho Ca Ca tôi biết, và đến đây để dò thám xem sao? Đây có một ít vàng bạc đem đưa để nàng chi dụng, xin chớ để vỡ chuyện ra mà khốn... Nay mai xong việc tôi sẽ đón cả gia quyến nàng lên núi một thể cho vui.
Lý Thụy Lan gật gù vàng bạc đi, cất vàng bạc đi rồi đem rượu ra để thiết đãi. Đoạn rồi Lý Thụy Lan trở xuống nhà bàn với Đại Bá rằng:
- Sử Tiến xưa nay vốn đi lại với nhà ta tử tế, hiện nay hắn làm giặc đi với bọn Lương Sơn, vậy nếu chứa hắn ở đây, không khéo thì nguy cả.
Đại Bá đáp rằng:
- Bọn hảo hán của Lương Sơn Bạc không phải là chuyện chơi, nếu ta đãi họ không ra gì, nay mai họ phá thành vào đến đây, thì tất là nguy cả.
Người vợ đứng bên cạnh nghe, mắng luôn rằng:
- Lão già ngu xuẩn, biết được việc gì? Cứ đi ra phủ mà thú ngay đi, đừng để đây rồi lại lụy cả đến mình khó chịu.
Đại Bá nói:
- Hắn đem bao nhiêu tiền bạc cho mình, nay mình không che chở cho hắn thì còn ra nghĩa lý gì nữa.
Mụ vợ lại quát lên rằng:
- Thôi đừng nói nõn nường nữa! Nhà mình hát xướng kiếm ăn, xưa nay chôn hàng mấy vạn người còn chả cần, nữa là một người ấy thì thấm vào đâu? Nếu ông không ra đi thú, thì để tôi ra thú với quan, rồi bấy giờ ra đây mà gánh tội với nó.
Đại Bá vội vâng lời mà rằng:
- Được, được nếu vậy cứ bảo con gái thiết đãi hắn ta, chớ để lộ chuyện cho hắn biết, để tôi đi với vài người lính đến đây bắt hắn, rồi sẽ đem ra thú quan một thể.
Nói đoạn liền cùng nhau tính kế thi hành.
Bấy giờ Sử Tiến ngồi trên lầu, thấy Lý Thụy Lan đi lên, nét mặt khi đỏ khi trắng, ra dáng thất thường.
Sử Tiến liền hỏi rằng:
- Chẳng hay nàng có việc gì trong nhà mà làm ra vẻ kinh hoàng như vậy?
Lý Thụy Lan đáp:
- Vừa rồi đi lên thang gác, bị vấp một cái xuýt ngã, nên có dáng kinh sợ đó.
Nói đoạn cùng ngồi uống nước với nhau, được một lát thấy có tiếng người dưới thang gác bước lên, và ngoài cửa sổ có tiếng người kêu thét, rồi có mấy chục tên lính ập vào sân bắt Sử Tiến, trói ghì lại đem giải vào phủ Đông Bình.
Khi tới phủ đường, Trình Thái Thú quát rằng:
- Quân nầy to gan thực, một mình trơ trọi, dám vào đây rồi dò thám hay sao? Phen nầy không có bố Thụy Lan vào báo thì có lẽ một thành Đông Kinh nầy nguy vào tay ngươi mất, ngươi phải thú ngay, tên Tống Giang bảo ngươi vào đây làm gì?
Sử Tiến lặng ngắt không nói một câu nào. Đổng Bình nói rằng:
- Quân nầy không tra tấn thì sao nó chịu nói.
Trình Thái Thú liền thét lên ra lệnh đem Sử Tiến tra đánh, đánh tới hơn trăm côn, Sử Tiến vẫn một mực không nói năng chi cả.
Đổng Bình nói rằng:
- Hãy đem gông gông nó lại, cho vào ngục tử tù giam đấy, để đợi bắt được lũ Tống Giang, rồi đem giải kinh sư một thể.
Tài cao tất phải mưu cao,
Ở đời kém lựa dễ sao được toàn?
Thương thay sắt đá già gan
Đem thân mắc cạm hồng nhan cho đành!
Nói về Tống Giang, khi sai Sử Tiến đi rồi, liền viết giấy sang thuật rõ tình hình đầu đuôi cho Ngô Dụng biết. Ngô Dụng xem giấy xong lấy làm cả kinh, nói cho Lư Tuấn Nghĩa biết, rồi vội vàng đến trại Tống Giang để hỏi chuyện.
Khi tới nơi Ngô Dụng hỏi Tống Giang rằng:
- Ai bảo Sử Tiến đi như thế?
Tống Giang đáp:
- Hắn nói là hắn thân đứa con hát ở trong thành, nên hắn tình nguyện xin đi đó.
- Chết nỗi! Sao Huynh trưởng làm như thế? Nếu tôi ở đây, thì quyết nhiên không thể cho đi được. Xưa nay những tụi xướng ca vẫn quen lối đưa người cửa trước, rước người cửa sau, làm hại kể biết bao nhiêu người tử tế. Dẫu có thân tình đến đâu, cũng khó lòng mà lọt những tay mụ đầu kia được. Anh ta đi phen nầy tất là nguy mất.
Nếu vậy quân sư nghĩ kế gì để cứu cho hắn?
Ngô Dụng liền gọi Cố Đại Tẩu đến mà dặn rằng:
- Bây giờ nàng phải ăn mặc giả làm người nghèo khổ, đi vào trong thành dò xem tin tức Sử Tiến ra sao, rồi về báo ngay lập tức. Nếu hắn bị vào trong ngục rồi, thì phải nói khó với người trong ngục, giả làm chỗ bà con khi trước mà vào đưa cơm rồi khẽ dặn hắn ta cứ đêm hôm nguyệt tận (cuối tháng) tháng nầy, vào khoảng tối thì ta kéo quân vào đánh thành, bảo hắn phải kiếm chỗ nào mà thoát thân mới được. Còn nàng cứ đợi ở trong ấy, đến đêm hôm nguyệt tận sẽ phóng lửa lên, để ngoài nầy tiến binh vào đánh.
Nói đoạn quay lại bảo Tống Giang rằng:
- Bấy giờ Huynh trưởng nên đem quân đến đánh Quận Vấn Thượng, để cho dân chúng phải chạy vào phủ Đông Bình, rồi Cố Đại Tẩu lẫn vào đám ấy mà đi, thì không ai biết đến nữa.
Ngô Dụng bàn định xong, lại lên ngựa mà về phủ Đông Xương. Ty cắt Giải Trân, Giải Bảo đem năm trăm quân đi đánh huyện Vấn Thượng. Nhân dân trong huyện thấy vậy đều dắt díu nhau kéo sang phủ Đông Bình để lánh nạn.
Bấy giờ Cố Đại Tẩu để đầu bù tóc rối, ăn mặc xuống áo lam lũ, để đánh lộn sòng với bọn dân chúng, chạy vào đến phủ Đông Bình, rồi lang thang giả mặt ăn xin, mà đến trước nha phủ. Ngày hôm đó biết Sử Tiến đã bị giam trong lao rồi, nàng liền kiếm một phạng cơm đưa đến trước cửa đề lao để đợi.
Được một lát, có một người lính già ở trong lao đi ra, Cố Đại Tẩu liền cúi lạy mà khóc như mưa như gió. Người lính già hỏi rằng:
- Mụ nầy đi đâu mà khóc lóc khổ sỡ thế?
Cố Đại Tẩu gạt nước mắt khóc sụt sùi mà rằng:
- Trong ngục đây có Sử Đại Lang là người chủ cũ của tôi, đã mười năm nay nghe nói đi buôn bàn ở những đâu, không sao được gặp. Ngày nay không biết vì cớ sao lại bị giam ở đây như thế. Tội nghiệp quá! Bây giờ không có ai trông nom cơm cháo chi đến, vậy lão tôi đi kêu xin được lưng cơm nguội, muốn đem đến cứu cho ông ta một bữa, dám xin Đại ca thương tình, mà cho tôi đưa vào, thực là phúc đức cho tôi vạn bội.
- Hắn là bọn giặc ở Lương Sơn, đã phạm tử tội, ai dám cho mụ vào đấy được?
- Thôi thì người ta có chết, cũng là thầy trò tình nghĩa, xin ông làm ơn cho tôi vào một chút, cho khỏi mang tội với trời.
Nói xong lại khóc nức nỡ không thôi.
Lão lính thấy vậy, nghĩ thầm trong bụng:"Nếu là đàn ông thì không cho vào được, nhưng một người đàn bà nầy, thì làm gì mà ngại? "
Nghĩ đoạn liền đưa Cố Đại Tẩu vào trong lao. Bấy giờ Sử Tiến cổ đeo gông, lưng đeo xích đương ngồi ngẫm nghĩ trong lao. Khi thấy Cố Đại Tẩu vào, thì cả kinh không dám nói lên lời. Cố Đại Tẩu thì giả vờ vừa lấy cơm vừa khóc đưa cho Sử Tiến ăn.
Đương khi đó lại có một tên Tiết Cấp còn ít tuổi, chạy đến quát lên rằng:
- Quân quái! Chỗ tử ngục, ai cho ngươi được đến đây mà đưa tin tức. Có muốn sống thì ra ngay, không thì chết đòn bây giờ?
Cố đại Tẩu biết thế không ngồi được lâu, liền khẽ nói với Sử Tiến rằng:
- Đến đêm nguyệt tận thì liệu thoát thân...
Sử Tiến toan hỏi lại, thì người Tiết Cấp đã kéo Cố Đại Tẩu mà ra ngoài cửa mất. Khi đó Sử Tiến nghe được ba tiếng "đêm nguyệt tận",thì trong bụng hiểu ngầm, chắc là đêm đó thì binh mã đánh vào thành để cứu, chàng liền định kế đến tối hôm ấy kiếm cách để thoát thân.
Thấm thoát đến hôm hai mươi chín, có hai tên Tiết Cấp ngồi nói chuyện với nhau. Một người kia hỏi:
- Hôm nay là mấy rồi?
Người nọ nhớ ngay liền đáp rằng:
- Hôm nay là ngày nguyệt tận rồi, đêm nay phải mua vàng về lễ cô hồn đây.
Sử Tiến nghe thấy, chắc hôm nay là hôm ba mươi ngày nguyệt tận, chàng liền quyết kế mong đợi đến đêm để hành sự. Gần tối hôm ấy Sử Tiến thấy có một người Tiết Cấp hơi ngà ngà say, ngồi gần ở đó, chàng liền chạy đến mà hỏi vờ rằng:
- Tiết Cấp ơi, ai ở đằng sau thế kia?
Tiết Cấp nghe hỏi quay lại đằng sau để nom. Sử Tiến liền giơ đầu gông giáng cho một nhát vào đầu, chết gục ngay xuống. Đoạn rồi chàng liền nhặt một hòn đá gõ tháo gông ra, rồi hai mắt trợn trừng trợn trạc mà đi ra sân. Bấy giờ mấy anh lính ngục nửa tỉnh nửa say ngồi quanh ở đó. Sử Tiến chạy đến đánh mấy anh chết, còn mấy anh thì mau chân chạy thoát được. Sử Tiến đánh xong bọn lính canh rồi, quay vào tháo gông cùm cho năm sáu mươi người tù trong ngục, và tháo tung cửa ngục ra, để đợi quân ngoài vào cứu ứng.
Khi đó có người vào báo với Trình Thái Thú, Thái Thú xám mặt lại rồi mời Đổng Bình sang để hỏi kế.
Đổng Bình nói:
- Cái nầy trong thành chắc có người do thám, vậy xin cứ cho người vây chặt lấy bọn tù ở đó, để tôi thừa thế ra thành bắt tên Tống Giang về đây. Còn tướng công ở nhà coi giữ thành trì cho cẩn thận mới được.
Nói đoạn liền đem quân mã ra đi, Trình Thái Thú liền sai các Tiết Cấp, cùng các Ngu Hầu, đều cầm gươm giáo đến ngục mà reo hò để canh giữ. Sử Tiến ở trong thấy vậy, cũng không dám thò ra nữa. Cố Đại Tẩu nghe thấy tin ấy, thì trong lòng lấy làm áy náy tức bực vô cùng, mà không biết làm sao cho được.
Vào khoảng canh tư đêm hôm ấy, Đổng Bình dẫn quân mã đến trại Tống Giang. Tống Giang nghe báo, chắc rằng Cố Đại Tẩu lại bị sao đây, liền truyền cho tam quân đều phải chỉnh tề, để ra nghinh địch. Quân mã được lệnh vội vàng chỉnh đốn đội ngũ, rồi kéo ra dàn trận đón đánh. Nguyên Đổng Bình là một người tinh ranh lanh lợi, tam giáo cửu lưu không gì là không thạo, quản huyền ty trúc không gì là không hay. Nhân thế mà bọn Sơn Đông Hà Bắc, ai ai cũng gọi tên là Phong Lưu, Song thương Tướng xưa nay.
Hôm đó khi trời vừa sáng, đôi bên dàn trận xong, Tống Giang đứng bên nầy trông thấy Đổng Bình, ra dáng tinh anh tuấn tú, thì trong bụng có vẻ mừng thầm. Sau lại thấy Đổng Bình đeo một cái túi tên, trong có lá cờ nhỏ viết đôi câu đối rằng:
Anh hùng Song Chiên Tướng,
Phong Lưu Vạn Hộ Hầu
Tống Giang thấy vậy, liền sai Hàn Thao ra đánh trước, Hàn Thao vâng lệnh múa cây giáo sắt, xông ra đánh Đổng Bỉnh.
Đổng Bình múa đôi thương sắt như thần hiện qủy biến, Hàn Thao không thể nào địch nổi, Tống Giang lại sai Kim Sang Ban Từ Ninh, múa câu liêm sang ra đánh thay Hàn Thao. Từ Ninh vâng lệnh, xông ngựa ra đấu với Đổng Bình, đôi bên quần nhau hơn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Tống Giang sợ Từ Ninh đuối sức, liền gõ chiên thu quân, rồi Từ Ninh cắp sang quay ngựa trở về bản trận. Đổng Bình múa song thương cưỡi ngựa đuổi theo, Tống Giang liền thừa thế trỏ tam quân đổ lại vây chặt lấy Đổng Bình.
Đổng Bình bị vây trong đám quân hết sức hăng hái để đánh xông ra. Tống Giang đứng trên đống đất cao, thấy Đổng Bình chạy sang Đông, thì trỏ cờ sang đông, Đổng Bình chạy sang Tây, lại cho cờ hiệu sang Tây, quân sĩ cứ theo hiệu cờ mà bổ vậy rất ngặt.
Đổng Bình ra sức múa song thương đánh cự hồi lâu mới tháo vây mà chạy thoát được, Tống Giang cũng không đuổi. Đổnh Bình liền thu quân kéo về trong thành.
Đêm hôm ấy Tống Giang đem binh, đến sát chân thành vây khắp cả bốn mặt, duy Cố Đại Tẩu ở trong chưa dám phóng lửa, Sử Tiến chưa dám vượt ngục để ra, nên chưa sao mà đánh phá được thành.
Nói về Trình Thái Thú nguyên có một người con gái hình dung yểy điệu, tính hạnh dịu dàng, Đổng Bình đã mấy phen toan dạm làm vợ mà Trình Vạn Lý nhất định không gả. Bởi thế nên hai bên có ý không bằng lòng với nhau từ trước. Hôm đó nhân ra trận đánh thành, Đổng Bình muốn thừa thế đương lúc chiến tranh, mà cho người vào nói với Trình Thái Thú để dạm con gái.
Trỉnh Thái Thú đáp rằng:
- Ta đây là quan văn, Đổng Bình là quan võ, hai đằng đâu gia với nhau thực là đáng lắm. Duy ngày nay thành phủ đương bị giặc cướp, sự thế nguy cấp, nếu nhận lời gả ngay thì tất bị người ta mai mỉa, vậy để khi nào đánh đuổi quân giặc, giữ yên thành quách, rồi bấy giờ sẽ bàn đến chuyện hôn nhân, cũng không lấy gì làm muộn.
Người kia đem lời ấy về nói với Đổng Bình. Đổng Bình bất đắc dĩ vâng lời để đợi, song từ đó trong lòng lại càng vơ vẫn không vui, e sau nầy Trình Thái Thú lại phụ lời ư ớc hứa, thì bấy giờ xử trí làm sao?
Đêm hôm ấy Tống Giang đánh thành rất dữ, Thái Thú liền giục Đổng Bình ra đánh, Đổng Bình cả giận vội đai nịt cẩn thận, rồi lên ngựa dẫn quân ra thành để đánh.
Tống Giang ra trước cửa trận quát bảo Đổng Bình rằng:
- Ta đây tướng mạnh ngàn người, quân hùng mười vạn, vậy toán quân nhỏ mọn kia, thì làm chi được? Sao bằng không xuống đầu thú đi cho khỏi chết?
Đổng Bình cả giận mắng rằng:
- Đồ Tiểu lại ngông cuồng, sao dám nói càn nói dở.
Nói đoạn múa song thương thẳng đến đánh Tống Giang. Bên trận Tống Giang, tả có Lâm Xung, hữu có Hoa Vinh đều xông ngựa ra đón đánh Đổng Bình, hai đằng đánh nhau được mấy hiệp, thì Lâm Xung, Hoa Vinh quay ngựa thua chạy, Tống Giang cũng kéo quân mã chạy tán loạn ra bốn mặt. Đổng Bình liền ra sức theo đuổi Tống Giang
Khi đuổi đến địa hạt huyện Thọ Xuân, cách thành chừng mười dặm đường, tới một chốn thôn trấn, đôi bên có hai dãy nhà lá, khoảng giữa có đường cái quan, Đổng Bình đương đuổi sát sau lưng Tống Giang, thì bỗng thấy phía sau có Khổng Minh, Khổng Lượng xông ra kêu lên rằng:
- Không được hại chúa ta.
Vừa nói dứt lời thì thấy hai bên dãy nhà lá, có tiếng thanh la khua rộn, rồi đôi bên cánh cửa mở tung hẳn ra.
Đổng Bình thấy vậy vừa toan quay ngựa trở lại thì ngựa bỗng vướng phải dây móc, ngả ngữa quay ra, mà vật Đổng Bình xuống đất.
Đoạn rồi bên tả có Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ, nên hữu Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, đều xông ra bắt lấy Đổng Bình lột cả mũ áo, cướp cả thương ngựa mà trói lại, rồi cho hai viên nữ tướng áp giải đến Tống Giang.
Khi đó Tống Giang đương đứng ở dưới gốc cây, đương thấy chúng dong Đổng Bình đến liền quát lui hai nữ tướng mà nói rằng:
- Ta bảo mời tướng quân đến đây, ai cho phép các ngươi trói như vậy?
Hai nữ tướng nghe nói đều len lét dạ lui, Tống Giang liền xuống ngựa cởi trói cho Đổng Bình, và cởi áo cẩm bào mà đưa cho mặc và cúi đầu lạy tạ. Đổng Bình cũng đáp lễ lại.
Tống Giang nói:
- Nếu tướng quân có lòng hạ cố, thì xin ngài nhận chức chủ sơn trại cho...
Đổng Bình nói:
- Tiểu tướng đã bị bắt tới đây, dẫu chết cũng đáng, còn đâu dám nói đến làm chủ sơn trại?
Tống Giang nói:
- Trong sơn trại tôi hiện thiếu lương thực nên định đến phủ Đông Bình để vay, chứ thực không có ý gì khác cả.
Đổng Bình đáp rằng:
- Trình Vạn Lý nguyên là một tay thầy đồ đi dạy trẻ, nay vớ được một chức béo bỡ như vậy, thì tránh sao cho khỏi hại dân? Nếu Huynh trưởng có rộng lượng cho về, thì Đổng Bình xin lừa mở cửa thành, mà thu lấy lương thảo đền ơn Huynh trưởng.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền sai người đem mũ giáp và ngựa ra trả lại Đổng Bình. Đổng Bình liền đóng đai giáp lên ngựa đi trước. Tống Giang kéo quan mã cuốn cờ im trống theo sau.
Khi tới cửa thành Đổng Bình gọi quân sĩ ra mở cửa, quân sĩ trong thành lấy lửa ra soi mặt đổng Bình, bèn mở cửa bỏ đích kiều cho vào.
Đổng Bình xông ngựa vào trước chặt đứt khoá sắt ở cửa, rồi quân mã Tống Giang ầm ầm theo vào trong thành. Tống Giang truyền lệnh cho quân sĩ không được đốt nhà đốt cửa và không được giết hại lương dân.
Đổng Bình vào tới thành, vội vàng chạy đến phủ đường, giết chết cả nhà Trình Vạn Lý và cướp lấy người con gái.
Tống Giang lập tức sai người phá cửa nhà lao, đón Sử Tiến ra, rồi mở kho tang lấy các thứ tiền nong lương thực, xếp lên xe cho ba anh em họ Nguyễn áp giải về Lương Sơn trước.
Sử Tiến được thoát ngục ra, liền dẫn người đến nhà Lý Thụy Lan, chém hết cả già trẻ không để lại một ai. Tống Giang đem cả gia tư của Thái Thú phân phát cho nhân dân và yết giấy hiểu dụ cho dân được làm ăn, quân sĩ đã chém được quan tham, còn dân sự không can chi lo sợ.
Hiểu dụ cho dân đâu đấy, Tống Giang liền rút quân ra trấn An Sơn, để toan kéo về Sơn Bạc.
Mới hay:
Trên đời mạnh nhất đồng tâm,
Xoay trời chuyển đất ầm ầm như chơi,
Xưa nay những bậc anh tài.
Mượn lò liên lạc làm nơi sinh tồn,
Góp tài góp sức góp khôn,
Rồi ra tính cuộc vuông tròn khó chi?
Ví chăng vây cánh phân ly,
Thì non nước ấy còn gì mà mong.
Lời bàn của Thánh Thán.
Đánh hai huyện Đông Bình, Đông Xương, vốn là một chuyện cuối sách, lời văn rất sâu xa, và việc lại kín đáo, độc giả cần nên xét tới, tại sao vậy? Vì chủ Lương Sơn Bạc, vốn cơ nghiệp của Tiều Cái, Sử Văn Cung là kẻ thù của Tiều Cái, lời di lệnh của Tiều Cái rằng: Ai bắt sống Sử Văn Cung, thì làm chủ ở Lương Sơn Bạc, theo lệnh mà báo thù cho Tiều Cái, nố nghiệp Tiều Cái, mũi tên thề còn kia, rõ ràng chưa quên, thì Tống Giang không có thể tranh cùng Lư Tuấn Nghĩa, rất rõ như vậy.
Thế mà Tống Giang lại vẫn cố tranh cho được, tại sao bảo rằng Tống Giang cố tranh cho bằng được? Vì bỏ lệnh Tiều Cái lại bày mưu thi đua mượn lương để đánh hai Phủ Đông Bình, Đông Xương, thì Lư Tuấn Nghĩa lại không thể cùng tranh lại với Tống Giang, rõ rệt như vậy.
Hoặc nói rằng: Hai thành kia thì thành nào dễ phá, thành nào khó phá, Tống Giang có tự chọn đâu, mà việc thắng với chẳng thắng, Tống Giang cũng chưa hề chắc được, sao biết được rằng, Tống Giang chống thắng, mà Lư Viên Ngoại khó xong, hai người kia mà không đánh nổi cả, thì không nói làm gì, nếu hai bên đều thắng như nhau, thì ngôi chủ Lương Sơn, lại chưa định vậy, nay nhà thầy nói Lư Tuấn Nghĩa không thể tranh được Tống Giang là nghĩa làm sao?
Hỡi ôi: Nghe đàn mà xét tiếng, đọc sách nên hiểu sự ra há rằng khó đâu? Há phải khó đâu? Hãy xem ở chỗ điều binh khiển tướng, mà cho hai người Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, làm bộ hạ của Lư, ai chẳng cho rằng có hai vị Quân sư tả hữu, thì việc chống thành, khi việc chống thành, thì kịp tới nơi sơn chủ, ngõ hầu chẳng phụ lòng của Tiều Thiên Vương, thực là thịnh tâm lắm vậy; Song ta cho rằng Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, thế mà không phải ở dưới trướng họ Lư đâu, vẫn là dưới trướng họ Tống, mặc dầu không ở dưới trướng họ Tống lúc nầy.
Vì rằng Tôn, Ngô tuy ở dưới trướng họ Lư, song không chịu thi hành kế hoạch, mà cách xa họ Tống, khi thấy đưa thư đến hỏi, thì vội vàng phi ngựa để bày mưu, không tiếc sức gì, cũng chẳng khác chi ở dưới trướng Tống Giang bấy lâu vậy. Hãy xét khi bỏ Lương Nhữ Địch ở dưới nước, đó chẳng phải là mưu của người đấy ư? Khi Tống Giang chưa tới, thì không bày mưu, khi Tống Giang tới, mới đua nhau giở thuật ra là ý làm sao? Thấy vì Tống Giang rõ quá? Aáy may mà không đành nổi Mộc Vũ Tiến, nếu lại đánh được ngay Mộc Vũ Tiễn, thì Ngô, Tôn tất phải làm dùng dắng, đợi Tống Giang tới mới quyết định, đánh xong thành, cứ thế thì họ Tống phải xong việc, mà họ Lư vẫn khó xong việc, cho nên ta bảo Lư Tuấn Nghĩa không thể nào tranh được nổi Tống Giang, rõ rệt như thế, mới hay một hồi tả lại đánh Đông Bình, Đông Xương, lời văn sâu, chép duyệt kín, độc giả cần phải xét ra.
Sách nầy nhiều chỗ muốn phạm đề nhau, như Giải Trân vượt ngục, lại đến Sử Tiến vượt ngục, cùng có Cố Đại Tẩu giúp nên đấy như cùng một đề tài, chợt đâu lại hẹn lấy hai chữ Nguyệt Tận làm khác đi, vậy sao mới rõ trong sự giống nhau lại khác nhai xa, diễn ra nhiều văn tự khác, nếu kẽ vô tài, thì không thể nào xếp đặt được đến thế mà tả ra vậy.
Giữa đám đao thương, kiếm, kích rối như tơ ngốt tựa lửa, lại bỗng đâu có chuyện Đồng tướng quân cầu thân khiến độc giả phải lạ mắt vì nhiều biến sắc.
Hồi 69
Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng;
Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ.
Khi đó Tống Giang toan kéo quân về Lương Sơn Bạc, bỗng thấy Bạch Thắng về báo rằng:
- Lư Tuấn Nghĩa đánh thành Đông Xương bị thua luôn hai trận. Trong thành có một tên mãnh tướng, tên là Trương Thanh, quê ở phủ Chương Đức, vốn tay kị hổ xuất thân, tài nghề ném đá đánh người, trăm viên đều trúng, người ta thường gọi là Một Vũ Tiễn xưa nay, Thủ hạ hắn ta có hai viên phó tướng, một người tên là Hoa Hạng Hổ Cung Vượng, toàn thân chạm nốt hổ, trên cổ chạm đầu hổ, tài nghề phóng thương trên mình ngựa; Và một người tên là Trúng Tên Hổ Đinh Đắc Tôn, từ mặt xuống cổ đều lỗ chỗ những sẹo, phóng cây thoa trên mình ngựa rất giỏi. Khi Lư Viên Ngoại dẫn quân đến, rồi mười ngày trời không chịu ra đánh, mãi đến hôm vừa rồi, Trương Thanh mới ra thành đánh nhau, bên nầy Hắc Tư Văn nghênh địch, bất đồ đánh được mấy hiệp, thì Trương Thanh vờ chạy, cho Hắc Tư Văn đuổi theo. Sau Trương Thanh quay lại ném một viên đá, trúng ngay vào trán Hắc Tư Văn ngã lăn xuống ngựa. Bấy giờ may có Yến Thanh bắn một mũi tên trúng vào con ngựa củ Trương Thanh, nên mới cứu được Hắc Tư Văn về trận. Đến hôm sau Phàn Thụy dẫn Hạng Sung, Lý Cổn ra đánh nhau, không dè Hạng Sung bị Đinh Đắc Tôn phóng cây thoa vào nách, lại phải thua chạy. Hiện nay hai người vẫn còn dưỡng bệnh ở trong thuyền. Bởi vậy quân sư cho Tiểu đệ mời Ca Ca đến cứu ứng ngay cho.
Tống Giang nghe nói, than với mọi người rằng:
- Lư Viên Ngoại thực là vô duyên quá, ta để cho Ngô Dụng, Công Tôn Thắng ở đó, cũng tưởng rằng đến trận thành công, để nhường ngôi chủ toạ cho ông ta, nào ai ngờ lại gặp tay địch thủ như vậy. Đã thế thì anh em ta phải mau mau đi cứu mới được.
Nói đoạn truyền lệnh các tướng lên ngựa, dẫn tam quân kéo sang phủ Đông Xương. Khi tới nơi bọn Lư Tuấn Nghĩa đón tiếp Tống Giang, cho quân tạm hạ trại rồi bàn định thi kế với nhau.
Đương khi bàn bạc chuyện trò, bỗng thấy tin báo Một Vũ Tiễn ra khơi đánh. Tống Giang liền đem quân ra cánh đồng nội rộng, dàn thành thế trận rồi các Đầu Lĩnh đều xông ngựa ra đứng trước cửa cờ để đợi.
Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì thấy Trương Thnah phi ngựa xông ra, bên tả có Cung Vượng, bên hữu có Đinh Đắc Tôn, ba ngựa cùng đến trước cửa trận, rồi ba tướng trỏ Tống Giang mà mắng rằng:
- Quân giặc cỏ ở Vũng nước, nay ta quyết một trận với ngươi...
Tống Giang lại hỏi:
- Ai ra đánh tên ấy cho ta?
Nói dứt lời thì thấy một vị anh hùng ra dáng tức giận, tay cầm Câu Liêm Sang giục ngựa ra trước trận để đánh Trương Thanh. Tống Giang trông ra biết rằng vị anh hùng ấy là Kim Sang Thủ Từ Ninh, thì trong bụng mừng thầm chắc là hai tay địch thủ với nhau được.
Từ Ninh đánh nhau được chừng dăm hiệp, thì TRương Thanh tay tả cầm thương hất vờ một cái, rồi tay hữu thò vào túi gấm lấy một viên đá, nhằm giữa mi mắt Từ Ninh ném cho một phát, Từ Ninh ngã lăn ngay xuống đất.
Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cùng xông ra bắt Từ Ninh; Bên nầy Lã Phương cùng Quách Thịnh liền sấn ra cứu Từ Ninh đem về bản trận.
Bọn Tống Giang thấy vậy, đều kinh sợ thất sắc. Rồi Tống Giang lại hỏi luôn rằng:
- Đầu Lĩnh nào ra đánh một trận nữa xem sao?
Nói chưa dứt lời thì thấy Cẩm Mao Hổ Yến Thuận phi ngựa xông ra đánh. Tống Giang toan ngăn giữ lại, thì Yến Thuận đã xông tót đến giữa trận, không sao cầm lại được.
Yến Thuận đương đánh nhau với Trương Thanh được vài hiệp thì đuối sức, không sao cự địch nổi, liền quay ngựa chạy về, Trương Thanh thừa thế đuổi theo, ném cho một viên đá vào giữa miếng kính yểm tâm ở sau lưng, đến keng một cái, Yến Thuận vội phục xuống lên ngựa mà chạy.
Đoạn rồi bên trận Tống Giang, Bách Thắng tướng Hàn Thao quát lên rằng:
- Đồ thất phu, ta sợ gì.
Nói đoạn múa gươm xông ra đánh luôn Trương Thanh. Đôi bên hăng hái đánh nhau, quân sĩ đều reo hò váng cả lên.
Hàn Thao muốn khoe tài trước mặt Tống Giang nên càng cố gắng hết sức bình sinh, mà đánh nhau rất là kịch liệt. Đánh nhau chừng mươi hiệp thì Trương Thanh lại quay ngựa chạy. Hàn Thao biết mẹo Trương Thanh ném đá, bèn kìm ngựa lại, mà không đuổi theo nữa.
Trương Thanh thấy Hàn Thao không đuổi, lại vội quay cương ngựa lại. Hàn Thoa liền giơ gươm lên để đón đánh. Chàng vừa mới giơ gươm lên, bỗng bị Trương Thanh ném ngay một viên đá trúng vào mũi, máu chảy lênh láng rồi chạy về bản trận.
Bành Dĩ thấy vậy nổi giận đùng đùng, không đợi tướng lệnh của Tống Giang vội xốc ngựa, múa đao hai lưỡi ra đánh Trương Thanh. Đôi bên chưa kịp giao nhau, thì Bành Dĩ đã bị một viên đá vào mặt, vất cả đao xuống mà chạy. Tống Giang thấy mấy tướng bị thua luôn trong lòng hơi núng, toan rút quân mã về trại. Chợt đâu thấy Xú Quận Mã Tuyên Tán ở đằng sau Lư Viên Ngoại chạy ra kêu lên rằng:
- Ngày nay nếu để giảm mất uy phong, thì sau nầy đánh làm sao được? Thử xem đá có ném được ta không?
Nói đoạn múa đao xông ngựa ra đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một kẻ ra chạy một kẻ, hai kẻ ra chạy hai kẻ, ngươi lại không biết những viên đá của Trương Thanh hay sao?
Tuyên Tán nói:
- Ngươi ném trúng được người khác, chú sao ném trúng được Trương Thanh?
Vừa nói dứt lời thì bỗng thấy viên đá ném ngay vào bên mồm, rồi Tuyên Tán bị ngã ngay lập tức. Bên kia Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn vội kéo ra bắt Tuyên Tán song vì quân tướng Tống Giang rất đông nên không sao bắt nổi.
Tống Giang thấy vậy khí giận đầy trời, rút kiếm ra tay cắt vạt áo mà thề rằng:
- Nếu không bắt được người nầy thì không lui quân về nữa.
Hô Duyên Chước thấy Tống Giang thề nguyền như vậy bèn nói lên rằng:
- Huynh trưởng nói như vậy thì anh em ta còn được việc gì nữa?
Nói đoạn vỗ ngựa Tích Tuyết Ô Truy ra trận, quát mắng Trương Thanh rằng:
- Quân trẻ con cậy thế khoe tài, có biết Đại tướng Hô Duyên Chước đây không?
Trương Thanh mắng lại rằng:
- Đồ tướng hèn nhục nước, phen nầy gặp ta thì đáng kiếp.
Nói đoạn phóng một viên đá trong tay ra.Hô Duyên Chước thấy vậy giơ tay lên đỡ, bị viên đá ném phải tay, không sao khiến nổi cây thương đành phải quay về bản trận.
Tống Giang bảo các Đầu Lĩnh rằng:
- Các Đầu Lĩnh mã quân bị thương nhiều rồi, còn Đầu Lĩnh bộ quân ai ra bắt nó cho ta? Nói đoạn thấy Lưu Đường múa đao sùng sục đi ra, Trương Thanh trông thấy cả cười mắng rằng:
- Mã quân còn chả làm chi nữa là bộ quân.
Lưu Đường cả giận chạy thẳng đến đánh Trương Thanh. Trương Thanh không đánh vội vàng quay ngựa về bản trận. Lưu Đường liền sấn lên đuổi theo giơ đao chém một nhát vào ngay chân ngựa của Trương Thanh. Con ngựa của Trương Thanh giơ chân hắt về đằng sau, rồi vẩy đuôi vung lên đập vào mặt Lưu Đường, làm cho Lưu Đường hoa mắt không biết lối nào mà lẫn.
Bấy giờ Trương Thanh ném ra một viên đá, Lưu Đường ngã lăn xuống đất, rồi đám quân Trương Thanh đổ ra bắt Lưu Đường mà quay về bản trận.
Tống Giang thấy vậy kêu to lên rằng:
- Cứu Lưu Đường với...
Nói chưa dứt lời thì thấy Thanh Diện Tú Dương Chí múa đao xông ngựa ra đánh Trương Thanh. Trương Thanh giơ thương lên đón, Dương Chí liều giơ đao lên chém, Trương Thanh né người về một bên, Dương Chí chém một nhát trượt ra ngoài.
Trương Thanh liền lấy một viên đá cầm ra tay quát một tiếng mau rồi thấy viên đá luồn thẳng qua nách Dương Chí, Trương Thanh lại ném luôn một viên đá, rúng vào mũi Dương Chí. Dương Chí cuống người lên vội cúi gục xuống yên ngựa mà chạy về trận.
Tống Giang nom thấy thế nói lên rằng:
- Nếu phen nầy bị tỏa mất nhuệ khí thì trở về Lương Sơn sao được? Ai ra đối trận cho ta bây giờ?
Chu Đồng nghe Tống Giang nói liền đưa mắt nhìn Lôi Hoành mà bảo rằng:
- Một người không ăn thua gì thì hai anh em ta cùng ra xem sao?
Nói đoạn Chu Đồng ở bên tả, Lôi Hoành ở bên hữu, cùng múa đao xông ra để đánh, Trương Thanh cười mà rằng:
- Một người không làm gì được, lại thêm một người nữa... Cho các người đến mười người xông ra cũng vô ích...
Chàng vừa nói vừa thò tay vào túi lấy đá, nét mắt vẫn nhâng không có dáng gì sợ hãi. Bấy giờ Lôi Hoành sấn đến trước, bị Trương Thanh ném cho một viên đá ngay vào giữa trán lăn xuống đất. Chu Đồng vội xong vào cứu, bất đồ lại bị một viên đá trúng ngay vào cổ.
Quan Thắng đứng bên trận Tống Giang, trông thấy vậy liền gắn hết uy thần, múa đao Thanh Long, phóng ngựa xích thố ra cứu Lôi Đồng, Lôi Hoành. Chàng vừa đến cứu hai người để chạy về bản trận, thì đã thấy một viên đá ném thẳng tới nơi, Quan Thắng nhanh mắt trông thấy, bèn giơ đao lên đỡ, thì viên đá ném trúng vào thanh đao bật cả lửa lên, Quan Thắng lại vội vàng quay về bản trận.
Song Chiên Tướng Đổng Bình thấy vậy, nghỉ thầm trong bụng: "Ta đây mới đầu hàng Tống Giang nếu không thi tài võ nghệ cho biết, thì khi về trên núi tất không có giá trị được".
Nghĩ đoạn liền vác song thương phi ngựa ra trận, Trương Thanh trông thấy Đổng bình quát mắng rằng:
- Ta với ngươi là hàng xóm với nhau, đáng lẽ nên đồng tâm để bắt giặc mới phải, nay ngươi nở lòng nào bội bạc triều đình, mà đi phò tá với giặc, như thế phỏng nhục hay không?
Đổng Bình cả giận, múa song thương vào đến Trương Thanh. Hai bên người ngựa tiến lui, ba cây thương lên xuống, đến nhau chừng năm bảy hiệp, thi Trương Thanh quay ngựa mà chạy ngay.
Đổng Bình quát lên rằng:
- Người khác bị trúng đá của ngươi, chứ ta đây thì đá nào gần được?
Nói đoạn xốc ngựa đuổi theo, Trương Thanh vừa chạy vừa lấy viên đá ném lại Đổng Bình, Đổng Bình nhanh mắt nhanh tay gạt viên đá nẩy ra ngoài mất.
Trương Thanh lấy viên đá thứ hai ném luôn phát nữa. Đổng Bình né mình tránh về một bên, viên đá lại trẫng ra ngoài.
Trương Thanh thấy hai viên đá ném không ăn thua, trong lòng hơi núng. Bấy giờ Đổng Bình đuổi sát đến đằng sau Trương Thanh, cầm thương đâm một nhát giữa sau lưng, Trương Thanh giơ lá chắn lên đỡ và né mình vào một bên, Đổng Bình đâm gãy thương trượt ra ngoài, rồi con ngựa Đổng Bình sấn lên đều với ngựa của Trương Thanh. Trương Thanh vội vàng vất thương xuống đất, rồi khoành tay ra ôm chặt lấy cả Đổng Bình, lẫn cây thương của Đổng bình mà vật xuống. Bất đồ chàng vật không thấy chuyển, rồi hai người ôm chặt nhau mà quây quần ở giữa vòng trận.
Sách Siêu ở bên trận Tống Giang, liền múa đại phủ ra giải cứu. Bên kia Cung Vượng cùng Đinh Đắc Tôn cũng xông ngựa ra đón đánh Sách Siêu, ba tướng lại dằn nhau rúm vào một chỗ, mà không sao gỡ ra được.
Lâm Xung, Hoa Vinh, Lã Phương, Quách Thịnh bèn cùng nhau xông ngựa, múa gươm múa kích ra đánh cứu Đổng Bình cùng Sách Siêu. Trương Thanh thấy thế lực không địch nổi, vội bỏ Đổng Bình chạy về bản trận. Đổng Bình hăng hái xông vào để đuổi Trương Thanh, bất chợt Đổng Bình vô ý bèn lấy viên đá nhằm khi Đổng Bình đến gần ném cho một phát. Đổng Bình nhanh mắt né mình để tránh, viên đá đi sượt qua bên tay đánh vù một cái. Đổng Bình liền quay ngựa lại mà không dám đuổi nữa.
Đằng kia Sách Siêu bỏ Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn toan xông sang để đuổi Trương Thanh, Trương Thanh lấy đá ném một phát trúng vào mặt Sách Siêu, bắn phọt máu tươi ra, rồi Sách Siêu chạy về bản trận. Khi ấy Lâm Xung, Hoa Vinh đương đánh nhau với Cung Vượng. Lã Phương, Quách Thịnh thì đương đánh nhau với Đinh Đắc Tôn. Cung Vượng đánh nhau được mấy hiệp, trong bụng đã hơi chồn, liền lấy mũi thương ra phi đánh Lâm Xung cùng Hoa Vinh, bất đồ phi thương ra không trúng, thành ra trơ trọi tay không, không có khí giới để đánh, bị Lâm Xung cùng Hoa Vinh bắt sống đem về trại Tống Giang.
Còn Đinh Đắc Tôn múa cây phi thoa, ra sức chống cự với Lã Phương, Quách Thịnh rất là hăng hái. Sau Lãng Tử Yến Thanh đứng trong trận nom thấy, liền nghĩ trong bụng rằng: "Trong một nháy mắt, mà quân ta có tới mười lăm tên Đại Tướng bị đánh, vậy nếu không bắt được thằng Tiểu Tướng nầy của họ, thì còn mặt mũi nào nữa! "Nghĩ đoạn liền vất gậy xuống lấy tên nỏ ra, nhằm bắn một phát vào chân ngựa của Đinh Đắc Tôn, con ngựa bị đau ngã khuỵu xuống đất, rồi Lã Phương, Quách Thịnh sấn nghiến vào bắt sống lấy Đinh Đắc Tôn.
Trương Thanh thấy vậy, toan xông ra cứu, song vì ít người không địch nổi, liền truyền lệnh lui quân, rồi giải Lưu Đường về phủ Đông Xương.
Hôm đó quan phủ Đông Xương đứng trên thành xem trận, thấy Trương Thanh đánh luôn mười lăm viên tướng của Lương Sơn Bạc, sau dẫu bị bắt mất Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn song lại bắt được Lưu Đường về đó thì trong lòng lấy làm vui vẻ vô cùng, liền trở về trong phủ để nâng chén mừng Trương Thanh và sai giam Lưu Đường vào trong ngục, để cùng bàn định việc quân.
Bên kia Tống Giang thu quân về trại, sai giải hai người Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn về sơn trại trước, rồi Tống Giang nói với Lư Tuấn Nghĩa cùng Ngô Dụng rằng:
- Tôi nghe về thời Ngũ Đại xưa, có Vương Ngạn Chương, trong một nháy mắt mà bắt được ba mươi sáu tướng của nhà Đường, ngày nay Trương Thanh cũng chỉ trong một loáng mà đánh nổi mười lăm viên Đại Tướng của ta, vậy sức khoẻ của Trương Thanh cũng chẳng kém gì Vương Ngạn Chương ngày trước.
Chúng nghe nói, đều im phăng phắc một lượt, Tống Giang lại nói rằng:
- Tôi xem người ấy toàn nhờ Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn làm vây cánh, vậy nay vây cánh đã bị mất, thì ta sẽ dùng lương sách mà bắt người ấy được.
Ngô Dụng nói:
- Huynh trưởng cứ vững tâm, tôi hiểu cách của anh ta, và đã định kế sách lâu rồi... Nay hãy xin cho các Đầu Lĩnh bị thương về sơn trại, và cho Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lý Lập đem hết thủy quân đi, và sắp cả xe ngựa thuyền bè nhất tề tiến lên, rồi lừa Trương Thanh ra thành, thì tất là xong việc.
Nói đoạn quay ra cắt đặt hiệu lệnh cho các quân sĩ.
Về phần Trương Thanh một hôm bàn định với quan phủ Đông Xương rằng:
- Ta tuy đánh được hai trận, nhưng thế giặc còn to, chưa trừ được gốc, vậy xin cho người đi dò xét hư thực ra sao.
Đương khi bàn luận, chợt thấy người vào báo: Về mạn Tây Bắc có tới hơn trăm xe tải lương, và trên mặt sông cũng có hơn năm trăm chiến thuyền, đều chở lương thảo tiến đi, chỉ có mấy người Đầu Lĩnh đi áp tải ở đó, Thái Thú nghe báo nói rằng: Cái đó không khéo lại mưu kế gì chăng? Ta phải cho người đi thám lại, xem có hẳn là tải lương hay không?
Ngày hôm sau, người đi thám về báo: Các xe đều xếp đầy những gạo, các thuyền dẫu có che đậy song ở trong toàn thị là túi gạo tất cả không sai.
Trương Thanh nói:
- Nếu vậy đêm nay ta ra thành đón chặn lấy đám xe, rồi sẽ cướp lấy các thuyền, thí tất là đắc thắng.
Quan phủ khen phải mà rằng:
- Làm thế thì diệu lắm, song Tướng quân phải cẩn thận mới được.
Trương Thanh vâng lệnh, rồi đến đêm kéo quân ra đi. Hôm đó mây quang trăng sáng, sao chiếu đầy trời, quân đi mười dặm đường, thì đã thấy xe lương tải đến, trong cờ viết rõ là "Lương Trung Nghĩa của trại Thủy Hử" và có một nhà sư Lỗ Trí Thâm vác thuyền trượng đi trước.
Trương Thanh trông thấy Lỗ Trí Thâm liền nói một mình rằng:
- Ta cho thằng trọc nầy một viên đá vào óc mới được...
Nói đoạn liền lấy viên đá ra ném. Lỗ Trí Thâm tuy nom thấy Trương Thanh đến, song trong bụng đương giả vờ làm mặt không biết, cứ vác thuyền trượng cắm đầu để chạy. Bất đồ bị một viên đá ném ngay vào đầu, máu tươi chảy vọt ra rồi ngã lăn xuống đất.
Quân mã Trương Thanh đều reo hò xông đến để bắt, Võ Tòng đi sau thấy, vội múa hai khẩu giới đao, sấn lên cứu lấy Lỗ Trí Thâm rồi bỏ cả xe cộ mà chạy.
Trương Thanh cướp được lương thảo lấy làm mừng rỡ, liền không đổi theo Lỗ Trí Thâm, mà giải lương thảo vào thành, Quan phủ thấy vậy cả mừng truyền thu để vào trong kho.
Trương Thanh lại xin ra đánh, Quan phủ lại dặn với rằng:
- Tướng quân phải liệu cơ đấy...
Trương Thanh vâng lời lên ngựa đi ra cửa Nam. Bấy giờ trông thấy thuyền lương đầy dẫy trên sông, không biết tới đâu mà kể. Trương Thanh liền sai mở cửa thành, mà nhất tề kéo ra cả bên sông.
Khi tới nơi bỗng thấy mây mù đen kịt, sương tối đầy trời, đám quân nhìn sát tận nhau, mà không ai trông thấy ai cả
Nguyên đó là phép thuật của Công Tôn Thắng, dùng để làm mê man quân mã của Trương Thanh, Trương Thanh thấy vậy trong lòng kinh sợ vội lui quân mã để quay về. Dè đâu vừa quay lại, thì thấy bốn mặt có tiếng hò reo, rồi bỗng thấy quân mã ở đâu ầm ầm kéo đến. Đoạn rồi thấy Lâm Xung dẫn quân kị ra ngăn áp cả người lẫn ngựa Trương Thanh xuống nước.
Bấy giờ dưới nước đã có đám Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, cùng Đồng Uy, Đồng Mãnh cùng chực sẵn ở đó. Trương Thanh xuống nước luống cuống không lên được, bị ba anh em họ Nguyễn bắt trói đem về trong trại.
Ngô Dụng cùng Tống Giang được tin, liền thôi thúc quân mã ra đánh thành rất khẩn. Một mình Tri Phủ hết sức giữ thành được một lúc, thì quân mã Tống Giang đã phá cửa tràn vào, không sao ngăn nổi. Tống Giang kéo vào trong thành, trước hết cứu cho Lưu Đường ra, rồi sau mở kho tàng lấy tiền lương, chia một phần cho dân cư ở đó, còn thì đem cả về Lương Sơn. Quan Phủ Đông Xương vốn là người chính trực thanh liêm, nên tha không giết hại. Đoạn rồi Tống Giang tụ quân chúng ở trong Phủ Đông Xương.
Bấy giờ thủy quân Đầu Lĩnh giải Trương Thanh vào phủ. Các tướng bị Trương Thanh đánh trước đều nghiến răng nghiến lợi muốn giết Trương Thanh. Duy Tống Giang thấy giải đến nơi, thì vội vàng xuống thềm đón tiếp mà nói lại rằng:
- Quân chúng không biết lỡ phạm hổ uy, xin ngài tha lỗi ấy cho...
Nói đoạn toan mời Trương Thanh lên ngồi, chợt đâu thấy Lỗ Trí Thâm đầu buộc khăn tay bằng vải, tay cầm thuyền trượng bằng sắt, xông ra để đánh Trương Thanh.
Tống Giang thấy vậy, vội ngăn Lỗ Trí Thâm lại mà quát nạt im đi. Trương Thanh thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy bèn cúi đầu lạy tạ mà xin hàng.
Tống Giang lại đổ rượu xuống đất, lại bẻ một mũi tên mà thề rằng:
- Anh em ai còn thù hằn với Trương Thanh, thì trời đất không dung tất bị chết ở nơi đao kiếm.
Chúng nghe nói đều im phăng phắc, không ai con hục hặc chi nữa. Đoạn rồi Trương Thanh nói với Tống Giang rằng:
- Ở Phủ Đông Xương có một người thú y họ Hoàng Phủ tên Đoan, xem tướng ngựa rất giỏi, xem bệnh ngựa và chữa bệnh ngựa rất tinh. Nguyên người quê ở U Châu, mắt biếc râu vàng, người ta thường gọi là Tử Nhiêm Bá (bác râu vàng). Lương Sơn Bạc ta tất có khi dùng đến hắn... Vậy xin cho đón cả vợ con người ấy lên sơn Bạc một thể cho tiện.
Tống Giang nghe nói cả mừng mà rằng:
- Nếu được Hoàng Phủ Đoan có lòng cùng nhau tụ nghĩa, còn gì hơn được nữa?
Trương Thanh thấy Tống Giang một dạ tin yêu, chàng liền đi gọi Hoàng Phủ Đoan đến để bái kiến Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh.
Tống Giang trông Hoàng Phủ Đoan mắt xanh lóng lánh, râu dài quá bụng, rõ ra một bậc phi thường thì lấy làm khen ngợi vô cùng. Hoàng Phủ Đoan thấy Tống Giang là người nghĩa khí như vậy, thì cũng vui mừng mà thuận phục xin theo tới Lương Sơn.
Khi trò chuyện thỏa hiệp rồi, Tống Giang liền truyền lệnh cho các Đầu Lĩnh thu xếp xe ngựa, chỉnh đốn quân mã và tải tiền lương đem về Sơn Trại. Khi về tới sơn trại, Tống Giang sai thả Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn ra, lấy lời ngon ngọt dỗ dành hai người rất ân cần tử tế. Hai người đều lạy tạ mà xin quy hàng ở đó.
Bấy giờ ở trong sơn trại tính tất cả lớn nhỏ có tới một trăm Đầu Lĩnh cùng đề huề xum họp với nhau. Tống Giang thấy vậy cả mừng, bèn sai đặt tiệc ăn mừng rồi nói với anh em rằng:
- Từ khi anh em ta bước chân lên núi tới đây, ơn nhờ trời đất, các công việc đều được trơn tru, không hề chút gì vấp váp. Ngày nay lại nhờ trí dũng của anh em, tôn tôi lên làm chủ trại, vậy tôi có một lời nầy muốn giải bày khúc nhôi, dám xin anh em lấy lòng nghĩa khí mà chấp thuận lấy cho, thì thực là hân hạnh cho sơn trại vô cùng.
Ngô Dụng đáp rằng:
- Huynh trưởng có điều gì dạy bảo, xin cứ nói cho anh em được biết.
Tống Giang bèn ung dung đem ý kiến để giải bày cùng các vị Đầu Lĩnh:
Mới hay:
Mấy phen lỡ đất long trời,
Anh hùng trải lắm trần ai mới già,
Đôi phen bốn bể một nhà,
Đông, Tây họp mặt san hà khiếp gan.
Cùng nhau hợp thể liên đoàn,
Non cao độc lập sóng tràn tự do.
Dọc ngang riêng một cơ đồ,
Máu nồng chan chứa một lò nghĩa chung.
Lương Sơn trăm tám anh hùng,
Giang hồ nghĩa nặng muôn trùng ai ơi!
Lời bàn của Thánh Thán.
Từ xưa chưa từng nghe nói đem đá ra đánh giặc, tự Thi Nại Am bổng không nảy ra một chuyện lạ đời, để kết lại một thiên, khiến đọc giả lạ mắt chột lòng, thấy rằng hòn đá nén ra, như đạn bay tên bắn, anh hùng Sơn Bạc, hầu hết bó tay! Không ngờ tác giả phô trương tài lạ hơn một trăm người, đến đây như hết, thế mà đến đây lại thấy tài năng của một phi thường, đọc một bộ sách bảy mươi hồi đã thấy bao nhiêu kẻ tài cao thấp, kết lại nẩy một kẻ lạ thường như cuốn như quét, như ruỗi như hịch...hết thẩy thực là chương pháp rất ly kỳ...
Bầy ra một trăm linh tám anh hùng, đến sau chót một Hoàng Phủ Đoan giỏi về tướng ngựa. Hỡi ôi! Khéo thay! Đó làm ra cho thành một chuyện Thủy Hử, xét ra cái tài dong duỗi, chưa chắc vô duujng cho thuyền xe, mà cái tật thét gào thở hộc, chưa chắc không phải cản sức đi ngàn dặm, nệ theo bề ngoài ngoài là một con vật, chưa chắc đã chẳng đáng của ở trong...cho nên bậc Tể tướng tài hiền thường có những món thưởng thức về tài phá cách, vì trong trăm năm co báo lại bất thần, thì biết chữa bệnh cho ngựa, dùng vào việc binh mã, há chẳng đáng trọng dụng lắm hay sao? Thế mà đời không ai là Bá Nhạc tri âm, coi hiền với ngu đều đến chết. Coi thường những thứ vẫn dùng, mà không biết đến, gặp khi tai vạ tới, thấy lỗi ở những chỗ thường kia, bấy giờ mới đáng than, thì thấy ra đã muộn. Nên việc dùng Hoàng Phủ Đoan, chính là gồm mọi đủ tài năng, không coi thường một chút gì hết thảy.
Hồi 70 (Hồi kết)
Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn;
Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng.
Bấy giờ Tống Giang bảo với các Đầu Lĩnh rằng:
- Lũ anh em ta bấy lâu vào sinh ra tử, mong mỏi tìm nhau, để kết lấy giang hồ đại nghĩa, vậy ngày nay đã sum họp tất cả được một trăm lẻ tám anh em, trí dũng kim toàn, anh tài không thiếu, thực là một cơ hội rất hiếm xưa nay, ai trông thấy thế mà chẳng đồng tâm hiệp lực, để cùng liên lạc với nhau. Duy trong khi gây cuộc binh đao, kể cũng thiệt hại đến nhiều dân chúng. Vậy ngày nay muốn lập đàn trai để tạ ơn trời đất qủy thần, một là cầu đảo cho anh em được vui vẻ yên lành, hai là mong triều đình sớm ra ơn xá tội để cùng nhau hết sức báo đền non nước, thì dẫu chết cũng không dám từ nan, ba là cầu cho Tiều Thiên Vương sớm thăng thiên giới thế thế sinh sinh rồi sau lại được gặp nhau, và nhân tiện cầu nguyện cho các linh hồn bị chết chóc từ trước tới nay, đều được siêu sinh tĩnh thổ về chốn lạc viên. Chẳng hay ý tưởng anh em nghĩ ra sao?
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Đó là một công quả phúc đức, anh em đều xin theo ý kiến Ca Ca chỉ giáo.
Ngô Dụng nói:
- Việc nầy tất phải nhờ Công Tôn Thắng tiên sinh làm chủ, rồi cho người đi đón Đạo sĩ các nơi để về cúng mới được.
Nói đoạn liền bàn định đến rằm tháng tư bắt đầu làm chay, hạn bảy đêm ngày công quả cho các người đi đón các Đạo Tràng về cúng, và sai người mua sắm lễ vật cùng là bày dọn Đạo Tràng. Trước Trung Nghĩa Đường dựng cây phàn lớn, bốn xung quanh kết ba từng đài rất cao, trong bày thánh trượng Tam Thanh, Thất Bảo, hai ban đặt thờ hai mươi tám vì tinh tú, mười hai ngôi sao giờ cùng các tinh chủ trên trời, và phía ngoài đặt giám đàn thờ thần tướng Thôi, Lưu Trung Thư, Đặng, Đậu.
Hôm ấy khi trời trong trẻo, gió mát trăng thanh, đàn tràng đã lập xong rồi. Công Tôn Thắng liền dẫn tất cả bốn mươi tám người đạo tràng ra làm lễ. Bấy giờ Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng đầu, rồi đến Ngô Dụng cùng các Đầu Lĩnh ra đốt hương coi lễ.
Công Tôn Thắng chủ việc đàn tràng, coi giữ các giấy sớ ấn bùa, và cùng bốn mươi tám người đạo tràng, cùng nhau mỗi ngày ra làm lễ ba khoá lễ.
Tống Giang nhất tâm cầu nguyện, mong Hoàng Thiên báo ứng hiển nhiên, liền bảo Công Tôn Thắng đốt sớ tâu lên Thượng Đế.
Đến đêm hôm thứ bảy, Công Tôn Thắng ở trên tấng đàn Hư Hoàng thứ nhất, các đạo tràng ở tầng thứ hai, Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh ở tầng thứ ba, còn các tiểu Đầu Lĩnh cùng bọn tướng tá, đều đứng cả dưới đàn, mà cùng nhau vái lạy trời xanh, cầu xem báo ứng.
Được một lát vào khoảng canh ba, chợt nghe thấy trên trời có một tiếng soạt, như tiếng xé lụa rất to, rồi thấy cửa trời về phía Tây Bắc kiền phương mở tung ra, và có một cái ban vàng, hai đầu nhỏ ở giữa rộng trông như mặt trời chói lọi, sáng rực xuống khắp trần ai. Chợt lại thấy trong đàn, có một khối lửa to như cái thúng, lừ đừ đi xuống đàn Hư Hoàng, quanh chuyển một vòng, rồi lặn xuống dưới đất, về phía chính Nam.
Đoạn rồi mặt trời trở lại như cũ, rồi mọi người cùng nhau lạy tạ xuống đàn mà đào đất để tìm.
Khi đào tới ba thước đất, chợt thấy có một miếng bia đá, chạm thiên thư ở mặt giữa và cả đôi bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn, rồi sáng hôm sau đưa tiền công quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia đá ra xem.
Khi nom đến bia đá thấy chữ nghĩa ngoằn ngoèo, khác hẳn lối thường, không còn ai biết nghĩa lý ra sao cả. Sau có một người đạo tràng, họ Hà tên là Diệu Thông, nói với Tống Giang rằng:
- Tổ phụ nhà tôi khi xưa có một bộ sách, chuyên để cắt nghĩa các lối chữ thiên thư, vậy lối chữ đây tức là lối chữ khoa đẩu, tôi có thể hiểu được, xin ngài để cho tôi dịch giúp.
Tống Giang nghe nói cả mừng, liền nhờ Hà Diệu Thông xem giúp, và dịch cho mọi người cùng hiểu nghĩa.
Hà Diệu Thông xem một lúc, rồi nói với Tống Giang rằng:
- Hai bên cạnh bia, một bên có bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" (Thay Trời làm Đạo), và một bên có bốn chữ "Trung Nghĩa Lưỡng Toàn" (trung nghĩa vẹn hai), trên có các vì sao trên trời và phía dưới chưa đủ tên họ các ngài ở đó. Nếu các ngài rộng tha phép cho, tôi xin viết rõ ra để các ngài xem.
Tống Giang nói:
- Chúng tôi mê muội không biết văn trời, nay nếu được Đạo Sĩ chỉ bảo đường mê, thì còn gì hơn nữa, dám xin Đạo Sĩ chỉ bảo rõ ràng cho biết, hoặc giả ở trong có điều chi Hoàng Thiên quở phạt, cũng xin chớ dấu chúng tôi.
Nói đoạn liền gọi Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng lấy giấy vàng mực đen ra để Hà Diệu Thông đọc cho viết.
Hà Diệu Thông lại nói rằng:
- Trong tấm bia nầy, trước mặt có ba mươi sáu hàng chữ toàn thị là sao Thiên Cương, mặt sau có bảy mươi hai hàng chữ toàn thị là sao Địa Sát, phía dưới có chứa tên họ các nghĩa sĩ ở đây cả.
Nói đoạn liền đọc ba mươi sáu hàng chữ ở trước mặt bia:
Thiên Khôi Tinh, Hô Bảo Nghĩa Tống Giang
Thiên Cương Tinh, Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa
Thiên Cơ Tinh, Trí Đa Tinh Ngô Dụng
Thiên Nhàn Tinh, Nhập Long Vân Công Tôn Thắng
Thiên Dũng Tinh, Đại Đao Quan Thắng
Thiên Hùng Tinh, Báo Tử Đầu Lâm Xung
Thiên Mãnh Tinh, Tích Lịch Hỏa Tần Minh
Thiên Uy Tinh, Song Chiên Hô Duyên Chước
Thiên Anh Tinh, Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh
Thiên Quý Tinh, Tiểu Toàn Phong Sài Tiến
Thiên Phú Tinh, Phác Thiên Bằng Lý Ứng
Thiên Mãn Tinh, Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng
Thiên Cô Tinh, Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm
Thiên Thương Tinh, Hành Giả Võ Tòng
Thiên Lập Tinh, Song Thương Tướng Đổng Bình
Thiên Tiệp Tinh, Một Vũ Tiễn Trương Thanh
Thiên Âm Tinh, Thanh Diện Thú Dương Chí
Thiên Hựu Tinh, Kim Sang Thủ Từ Ninh
Thiên Không Tinh, Cấp Tiên Phong Sách Siêu
Thiên Dị Tinh, Xích Phát Quỹ Lưu Đường
Thiến Sát Tinh, Hắc Toàn Phong Lý Quỳ
Thiên Tốc Tinh, Thần Hành Thái Bảo Đới Tung
Thiên Vi Tinh, Cửu Văn Long Sử Tiến
Thiên Cứu Tinh, Mộc Già Lan Mục Hoằng
Thiên Thoái Tinh, Sáp Sí Hổ Lôi Hoành
Thiên Thọ Tinh, Hỗn Giang Long Lý Tuấn
Thiên Kiếm Tinh, Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị
Thiên Bình Tinh, Thuyền Đầu Hỏa Trương Hoành
Thiên Tội Tinh, Đỏan Mệnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ
Thiên Tổn Tinh, Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận
Thiên Bại Tinh, Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất
Thiên Lao Tinh, Bệnh Quan Sách Dương Hùng
Thiên Tuệ Tinh, Biểu Mệnh Tam Lang Thạch Tú
Thiên Bảo Tinh, Lưỡng Đầu Sà Giải Trân
Thiên Khốc Tinh, Long Vĩ Hạt Giải Bảo
Thiên Xảo Tinh, Lãng Tử Yến Thanh
Bảy mươi hàng chữ mặt sau bia:
Địa Khôi Tinh, Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ
Địa Sát Tinh, Trấn Tam Sơn Hoàng Tín
Địa Dũng Tinh, Bệnh Uùy Trì Tôn Lập
Địa Kiệt Tinh, Xú Quận Mã Tuyên Tán
Địa Hùng Tinh, Mộc Tỉnh Can Hắc Tư Văn
Địa Uy Tinh, Bách Thắng Tướng Hàn Thao
Địa Anh Tinh, Thiên Mục Tướng Bành Dĩ
Địa Kỳ Tinh, Thánh Thủy Tướng Quân Đan Đình Khuê
Địa Mãnh Tinh, Thần Hỏa Tướng Quân Ngụy Định Quốc
Địa Văn Tinh, Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng
Địa Chính Tinh, Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên
Địa Tịch Tinh, Ma Vân Kim Sí Âu Bằng
Địa Hạp Tinh, Hỏa Nhỡn Toan Nghê Đặng Phi
Địa Cường Tinh, Cẩm Mao Hổ Yến Thuận
Địa Âm Tinh, Cẩm Báo Tử Dương Lâm
Địa Phụ Tinh, Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn
Địa Hội Tinh, Thần Toán Tử Tưởng Kính
Địa Tá Tinh, Tiểu Ôn Hầu Lã Phương
Địa Hựu Tinh, Kiển Nhân Quý Quách Thịnh
Địa Linh Tinh, Thần Y An Đạo Toàn
Địa Thú Tinh, Tử Nhiêm Bá Hoàng Phủ Đoan
Địa Vi Tinh, Nụy Cước Hổ Vương Anh
Địa Tuệ Tinh, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương
Địa Hao Tinh, Táng Môn Thần Đào Húc
Địa Mặc Tinh, Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy
Địa Xương Tinh, Mao Đẩu Tinh Khổng Minh
Địa Cường Tinh, Độc Hỏa Tinh Khổng Lượng
Địa Phi Tinh, Bát Tý Na Tra Hạng Sung
Địa Tẩu Tinh, Phi Thiên Đại Thánh Lý Cổn
Địa Xảo Tinh, Ngọc Tý Tượng Kim Đại Kiện
Địa Minh Tinh, Thiết Dịch Tiên Mã Lân
Địa Tiến Tinh, Xuất Động Giao Đồng Uy
Địa Thoái Tinh, Phan Giang Thần Đồng Mãnh
Địa Mãn Tinh, Ngọc Phan Cang Mạnh Khang
Địa Toại Tinh, Thông Tý Viện Hầu Kiện
Địa Chu Tinh, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt
Địa An Tinh, Bạch Hoa Sà Dương Xuân
địa Di Tinh, Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ
Địa Lý Tinh, Cửu Vỹ Quy Đào Tôn Vượng
Địa Tuấn Tinh, Thiết Phiến Tử Tống Thanh
Địa Nhạc Tinh, Thiết Khiếu Tử Nhạc Hoà
Địa Tiệp Tinh, Hoa Hạng Hổ Cung Vượng
Địa Tốc Tinh, Tùng Tiến Hổ Đinh Đắc Tôn
Địa Trấn Tinh, Tiểu Già Lan Mục Xuân
Địa Cơ Tinh, Thao Đao Quỹ Tào Chính
Địa Ma Tinh, Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn
Địa Yêu Tinh, Mô Trước Thiên Đỗ Thiên
Địa U Tinh, Bệnh Đại Trùng Tiết Vĩnh
Địa Phục Tinh, Kim Nhỡn Bưu Thi Ân
Địa Tịch Tinh, Đả Hổ Tướng Lý Trung
Địa Không Tinh, Tiểu Bá Vương Chu Thông
Địa Cô Tinh, Kim Tiền Báo Tử Thang Long
Địa Toàn Tinh, Quỹ Kiểm Nhi Đỗ Hưng
Địa Đỏan Tinh, Xuất Lâm Long Trâu Uyên
Địa Giốc Tinh, Độc Giốc Long Trâu Nhuận
Địa Tù Tinh, Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý
Địa Tàng Tinh, Tiểu Diện Hổ Chu Phú
Địa Binh Tinh, Thiết Tý Phụ Xái Phúc
Địa Tổn Tinh, Nhất Chi Hoa Xái Khánh
Địa Nô Tinh, Thôi Mệnh Phán Quan Lý Lập
Địa Sát Tinh, Thanh Nhỡn Hổ Lý Lân
Địa Ác Tinh, Một Diện Mục Tiêu Đĩnh
Địa Xú Tinh, Thạch Tướng Quân Thạch Dũng
Địa Số Tinh, Tiểu Uùy Trì Tôn Tân
Địa Âm Tinh, Mẫu Đái Trùng Cố Đại Tẩu
Địa Hình Tinh, Thái Viên Tử Trương Thanh
Địa Tráng Tinh, Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương
Địa Liệt Tinh, Hoạt Diêm La Vương Đình Lục
Địa Kiện Tinh, Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ
Địa Hao Tinh, Bạch Nhật Tử Bạch Thắng
Địa Tặc Tinh, Cổ Thượng Tao Thời Thiên
Địa Cẩu Tinh, Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ.
Tiêu Nhượng viết xong tất cả, rồi đọc lại một lượt cho mọi người ai nấy đều kinh ngạc vô cùng.
Tống Giang liền nói với các Đầu Lĩnh rằng:
- Tôi là kẻ tiểu lại ngu hèn, ngờ đâu lại ứng vào các tinh tú trên trời, cùng với anh em lại cùng chung một hội...Nay số trời đã định, tất phải xum họp cùng nhau, vậy anh em ta phải y theo thứ tự, giữ lấy bổn phận mà làm, chớ nên trái ý trời mới được.
Các Đầu Lĩnh nghe nói đều đáp rằng:
- Ý Trời đã định, còn ai dám cãi, từ nay đều xin nhất lực nhất tâm...
Tống Giang sai lấy năm mươi lạng vàng, tạ ơn Hà Diệu Thông. Hà Diệu Thông bèn bái tạ Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh, rồi cùng với bọn đạo tràng xuống núi mà chia tay trở về.
Bấy giờ Tống Giang bàn với Quân Sư Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh để chỉnh đốn lại trong sơn trại; Trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển vàng đề ba chữ "Trung Nghĩa Đường "rất to. Đoạn kim đình cũng thay một bức biển lớn. Phía trước đặt ba cửa quan. Phía sau Trung Nghĩa Đường, lập một toà Nhạn Đài. Đỉnh núi đặt một đại sảnh, phía Đông phía Tây đều có ngăn phòng, chính giữa đặt một bàn thờ Tiều Cái.
Tống Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên Đông; Lư Tuấn Nghĩa, Công Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng bên Tây.
Lớp núi thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên ở phòng bên tả; và Đới Tung, Yến Thanh, Trương Thanh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan ở dẫy bên hữu. Bên tả Trung Nghĩa Đường có Sài Tiến, Lý Ứng, Tưởng Kính, Lăng Chấn coi giữ việc thu phát tiền lương kho tàng, và bên hữu thì có Hoa Vinh, Phàn Thụy, Hạng Sung và Lý Cổn.
Cửa quan đệ nhất đường bên Nam trước núi, cắt Giải Trân, Giải Bảo coi giữ, Cử Quan thứ nhì Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ. Cửa quan thứ ba Chu Đồng, Lôi Hoành coi giữ.
Bên Đông núi một cửa quan, Sử Tiến, Lưu Đường coi giữ.
Bên Tây một cửa quan, Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ. Bên bắc một cửa quan Mục Hoằng, Lý Quỳ coi giữ.
Ngoài sáu cửa quan lại đặt thêm tám trại, bốn trại trên bộ, và bốn trại dưới nước. Trại bộ chính Nam có Tầm Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng Phi. Trại Chính Đông có Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn; Trại chính Tây có Lâm Xung, Đổng Bình, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc. Trại Chính Bắc có Hô Duyên Chước, Dương Chí, Hàn Thao, Bành Dĩ; Trại thủy bên Đông Nam có Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị; Trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận; Trại Đông Bắc có Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Uy; Trại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Mãnh, còn các Đầu Lĩnh ai vào việc ấy.
Lại sai Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế một ngọn cờ Hoành Hạnh, viết bốn chữ "Thế Thiên Hành Đạo" rất to. Trước cửa Trung Nghĩa Đường chế hai lá cờ thêu, một bên có năm chữ "Sơn Đông Hô Bảo Nghĩa"; và một bên năm chữ "Hà Bắc Ngọc Kỳ Lân ". Ngoài đặt các cờ Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ, và các đồ Hoàng Việt, Bạch Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh hặc đạo để dùng ra trận.
Lại sai chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu, Nhị Thập Bát Tú, Lục Thập Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung, Bát Quái, và tất cả một trăm hai mươi bốn thứ cờ. Còn các việc ấn tín binh phù, thì giao cho Kim Đại Kiện coi giữ.
Đoạn rồi chọn ngày lành tháng tốt, giết trâu giết ngựa tế lễ trời đất qủy thần treo biển lên Trung Nghĩa Đường. Đoạn Kim Đình và cắm cờ "Thế Thiên Hành Đạo "lên đỉnh núi, rồi cùng nhau yến ẩm làm vui. Hôm đó Tống Giang tay cầm binh phù ấn tín, tuyên cáo hiệu lệnh cho các Đầu Lĩnh rằng:
- Từ nay anh em đều phải giữ theo chức trách, không được cưỡng trái, để hại đến Đại Nghĩa trong sơn trại. Nếu ai trái lệnh không theo, thì lấy quân pháp trị tội...
Nói đoạn liền kê các chức vụ của các Đầu Lĩnh cho mọi người cùng biết:
Hai viên Tổng binh Đô Đầu Lĩnh ở sơn bạc, là Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa.
Hai viên Quân Sư là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, coi giữ việc cơ mật.
Một viên Tham Tán Quân Vụ, là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ.
Hai viên Đầu Lĩnh coi giữ tiền lương, là Sài Tiến và Lý Ứng.
Năm viên Hổ Tướng Mã Quân là Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, và Đổng Bình.
Tám viên mã quân Đại Khiêu Kị, kiêm chức Tiền Phong Sứ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Dương Chí, Sách Siêu, Trương Thanh, Chu Đồng, Sử Tiến, và Mục Hoằng.
Mười sáu viên Mã quân Tiểu Bưu Tướng, kiêm việc Thám tiểu là Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương Xuân, Dương Lâm, Chu Thông.
Mười viên bộ quân Đầu Lĩnh, là Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Yến Thanh, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo.
Mười bảy viên Tướng Hiệu Bộ Quân, là Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Mục Xuân, Lý Trung, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Tiêu Đĩnh và Thạch Dũng.
Tám viên Đầu Lĩnh Thủy Quân là Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đồng Uy và Đồng Mãnh.
Tám viên Đầu Lĩnh coi bốn mặt tửu điếm, để dò xét tin tức. Điếm bên Đông có Tôn Tân và Cố Đại Tẩu; Bên Tây có Trương Thanh và Tôn Nhị Nương. Bên Nam có Chu Quý, Đỗ Hưng; Bên Bắc có Lý Lập, Vương Đình Lục.
Một viên coi đại quyền về việc do thám, là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung. Tám viên Đầu Lĩnh Bộ Quân, phi báo các việc cơ mật là Nhạc Hoà, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, Bách Thắng.
Hai viên Kiều Tướng Mã quân thủ hộ ở Trung Quân, là Lã Phương, Quách Thịnh.
Hai viên Kiều Tướng Bộ quân, Thủ Hộ ở Trung Quân là Khổng Minh, Khổng Lượng.
Hai viên chuyên việc hành hình là Xái Phúc, Xái Khánh.
Hai viên Đầu Lĩnh Mã Quân giữ việc do thám trong tam quân là Vương Anh và Hổ Tam Nương. Mười sáu viên Đầu Lĩnh coi việc chế tạo sửa sang. Một viên giữ việc văn thư giấy má, trong khi khi khiển tướng điều binh là Tiêu Nhượng. Một viên Quân Chính Tư coi việc thưởng phạt là Bùi Tuyên. Một viên coi các việc tính toán tiền nong, chế tạo chiến thuyền là Mạnh Khang. Một viên chuyên chế tạo ấn tín là Kim Đại Kiện. Một viên chế các thứ cờ quạt áo bào là Hầu Kiện.
Một viên giữ việc chữa thuốc cho ngựa là Hoàng Phủ Đoan.
Một viên chuyên trị các khoa thuốc là An Đạo Toàn.
Một viên coi việc chế tạo các đồ quân khí bằng sắt là Thang Long.
Một viên chuyên chế các thứ súng là Lăng Chấn.
Một viên coi các việc nhà cửa là Lý Vân.
Một viên coi việc giết mổ trâu bò gà lợn là Tào Chính.
Một viên coi việc yến tiệc là Tống Thanh.
Một viên coi việc rượu chè là Chu Quý.
Một viên coi đắp thành trì là Đào Tôn Vượng.
Một viên coi giữ cờ súy là Úc Bảo Tứ.
Hôm đó là ngày hai mươi hai, tháng tư năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, Tống Công Minh họp hết thẩy các Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc để truyền lệnh cắt đặt xong việc. Các Đầu Lĩnh đều vâng lệnh ấn tín, cùng nhau yến ẩm ở Trung Nghĩa Đường, rồi quay ra chia giữ các việc. Trong đó có người nào chưa cắt định công việc thì cho ở tạm ở trước Nhạn Đài để chờ hiệu lệnh.
Ngày hôm sau Tống Giang lại sai khua trống tụ họp các Đầu Lĩnh ở Trung Nghĩa Đường, đốt một lò hương, rồi nói với mọi người rằng:
- Anh em ta ngày nay xum họp ở đây, là tại số trời định trước, chiếu ứng bởi các vì sao, vậy ta nên một dạ một lòng, thề cùng trời đất mà trăm năm sinh tử có nhau, thì ngõ hầu mới khỏi phụ ý Trời trọng đãi... Các anh em xin chớ sai lời.
Chúng nghe nói đều vui mừng khen phải, liền cùng nhau thắp hương, mà cùng nhau quỳ ở trước Trung Nghĩa Đường, để tuyên lời thề nguyện.
Tống Giang quỳ ở hàng đầu, tuyên lời thệ rằng:
- "Ngày hai mươi ba, tháng tư, năm thứ hai, niên hiệu Tuyên Hoà, bọn nghĩa sĩ ở Lương Sơn Bạc là: Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Sài Tiến, Lý Ứng, Chu Đồng, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng, Đổng Bình, Trun, Dương Chí, Từ Ninh, Sách Siêu, Đới Tung, Lưu Đường, Lý Quỳ, Sử Tiến, Mục Hoằng, Lôi Hoành, Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Trương Hoành, Nguyễn tiểu Ngũ, Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo, Yến Thanh, Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tán, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Ngụy Định Quốc, Tiêu Nhượng, Bùi Tuyên, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Dương Lâm, Lăng Chấn, Tưởng kính, Lã Phương, Quách Thịnh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Bào Húc, Phàn Thụy, Khổng Minh, Khổng lượng, Hạng Sung, Lý Cổn, Kim Đại Kiện, Mã Lân, Đồng Uy, Đồng Mãnh, Mạnh Khang, Hầu Kiện, Trần Đạt, Dương Xuân, Trịnh Thiên Thọ, Đào Tôn vượng, Tống Nhạc Hoà, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Mục Xuân, Tào Chính, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Tiết Vĩnh, Thi Aân, Lý Trung, Chu Thông, Thang Long, Đỗ Hưng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận, Chu Quý, Xái Phúc, Xái Khánh, Lý Lập, Lý Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch Dũng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Vương Đình Lục, Úc Bảo Tứ, Bạch Thắng, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, cùng nhau giốc lòng thành kính lập lời thề nguyện, xin Thần minh soi xét chứng cho.
Nguyên Chúng tôi vốn người bốn bể, nay họp một nhà.
Theo tinh tú làm anh em, lấy đất trời làm cha mẹ.
Một trăm tám người, tuy khác mặt song cũng vẻ vang.
Một trăm tám người, tuy khác lòng, song đều trong sạch.
Vui phải cùng vui, lo phải cùng lo.
Sống phải cùng sống, chết phải cùng chết.
Đã liệt tên trên Thượng Đế, chớ để hổ với dân gian;
Một ngày thành tâm khí đã tin, trọn kiếp tâm can không đổi.
Nếu ai mang dạ bất nhân, bỏ lòng đại nghĩa, ngoài hay trong dở, có trước không sau, thì Thượng Đế soi trên, quỷ thần soi dưới, thân tất lìa tan vì đao kiếm, mà tội còn mang nặng với phong lôi; trăm năm không được hưởng thanh bình, muôn kiếp còn sa vào địa ngục.
Đạo trời đất phân minh báo ứng, dám xin soi xét lòng thành...".
Tống Giang đọc xong, mọi người vui vẻ mà kêu lên rằng:
- Xin nguyện trăm năm xum họp cùng nhau, muôn kiếp không hề xa cách, mối giây liên lạc, bao giờ cũng được như nay...
Nói đoạn đều uống máu ăn thề, rồi cùng nhau chè chén, đến khi quá say mới tan.
Miền Thủy Bạc, vũng Lương Sơn,
Nước bèo gặp gỡ, tâm can hẹn hò,
Tài kinh tế, chí giang hồ,
Giữa trời dựng một ngọn cờ nghĩa trung,
Từ đây thỏa chí tang bồng,
Mảnh gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời,
Trăm năm nhắm bạn anh tài,
Làm trai cho đáng thân trai mới là...
Đêm hôm đó Lư Tuấn Nghĩa về nằm nghỉ trong trướng, chợt nằm mê thấy một người cao lớn, tay cầm cây bảo cung, đến nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Ta tên là Kê Khang, vì vua nhà Đại Tống, mà đến bắt giặc ở đây. Vậy các ngươi nên mau mau mà tự trói lấy thân, đừng để cho ta phải động đến thêm phiền.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói, đùng đùng nổi giận, vội cầm đao đuổi sấn lên để chém. Bất đồ chàng giơ đao lên, thì thấy lưỡi đao đã gãy tự hồi nào rồi, không sao mà chém được.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy lấy làm cả kinh, vội vàng chạy ra giá đao, để chọn lấy thanh khác. Chẳng dè khi ra tới giá đao, thì thấy bao nhiêu gươm giáo đao thương, đều gãy mẻ hết một lượt, không còn cái nào dùng được nữa.
Khi đó người kia đuổi sấn đến đằng sau Lư Tuấn Nghĩa, Lư Tuấn Nghĩa luống cuống không biết làm thế nào liền giơ tay phải lên để đánh. Chàng vừa giơ được tay lên, thì người kia đã cầm thương, đánh cho một cái gãy hẳn một cánh tay ngã lăn xuống đất. Đoạn rồi người kia lấy cuộn thừng ở lưng ra trói chặt Lư Tuấn Nghĩa mà dong đi.
Được một lát đi đến chỗ khoảng giữa kê một cái án công, và có một người ngồi nghiêm chỉnh, trông mặt về phía Nam. Người kia bắt Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở trên bãi cỏ trước chốn công đường, mà sắp sửa để tra hỏi. Chợt đâu lại thấy ngoài cửa có tiếng khóc vang trời, rồi người kia lại quát lên rằng:
- Có việc gì cứ cho cả vào đây.
Đoạn rồi thấy một tụi rất đông, vừa khóc vừa đi vào trong đó. Lư Tuấn Nghĩa trông lên thấy cả tụi Lương Sơn Bạc, một trăm lẻ bảy người đều trói tay đi đất, mà lướt xướt cùng kéo nhau vào quỳ ở đó. Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy, trong lòng lấy làm kinh lạ vô cùng.
Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ quỳ ở gần Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa bèn khẽ hỏi Đoàn Cảnh trụ rằng:
- Cớ làm sao bắt được cả bọn ta đến đây thế?
Đoàn Cảnh Trụ khẽ nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng:
- Tống Ca Ca biết Viên Ngoại bị bắt, không có kế gì cứu được, liền bàn với Quân Sư làm khổ nhục kế như thế, để quy phục với triều đình, thì mới có thể bảo toàn tính mạng cho Viên Ngoại được.
Cảnh Trụ vừa dứt lời, thì thấy người ngồi trên, vỗ tay xuống án mà mắng rằng:
- Quân cường tặc kia, bay làm nên tội nghiệt đầy trời, mấy phen triều đình sai quân đến đánh, bay đều cự địch với cả quan quân, ngày nay lại còn giả trá kêu van, để mong tránh tội hay sao? Nếu ta tha cho chúng bay, thì còn lấy đâu pháp luật để trị thiên hạ nữa được? Vả chăng chúng bay là đồ gian tham phản trắc, ta không thể nào mà tin bay được. Đám quân binh của ta đâu?
Nói đoạn liền thấy hai trăm mười sáu người Hình Quan ở cạnh vách đổ ra, cứ hai người dìu một, mà đem tất cả bọn Tống Giang, một trăm linh tám người ra sân để chém.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời, mở mắt ra nom thì thấy trên Công Đường có một cái bảng đề bốn chữ xanh "THIÊN HẠ THÁI BÌNH".
Lời bàn của Thánh Thán.
Một bộ sách bảy mươi hồi, đáng gọi là phô bày to lớn, đáng gọi là kết thúc lớn lao, đọc đấy như đàn rồng ngàn dặm cùng đều vào tới bể, không còn chút nào cảm thấy chưa xong, chỉ nực cười cho La Hán Trung khéo nối điêu thêm, thấy còn xấu thêm ra nữa.
Hoặc có kẻ hỏi rằng: Thiên Văn Thạch Kệ, việc đó thực chăng? Hay là Tống Giang đặt ra giả dối? Đó là trí khôn của kẻ ngây nói chuyện mơ màng, tác giả tự viết ra, đến đây là hết, khéo đem họ tên một trăm linh tám người, nhất nhất bày trình ra, điểm nhởn kết huyệt trong bảy mươi hồi của bộ sách vậy? Xét bắt đầu từ Thạch Kệ, Kết cuối lại lấy Thạch Kệ. Đóng mở cho một bộ sách lớn, kể việc thì 70 mươi hồi thì người 108 vị, làm quan tiết lớn sách nầy còn việc đó người kia. Dù có hay không đối với nhà viết ra chuyện không cần kể tới, thì đọc giả can chi phải thắc mắc hỏi đến?
Họp 108 người sau cùng nơi Thủy Bạc, với ý rằng không dạy được họ, Chợt đâu khéo diễn một giấc mơ của Lư Tuấn Nghĩa, với ý dẫn ra một án Trương Thúc Dạ thu đánh sau nầy cho trọn một sách mà không cần tả tới chuyện đó nữa coi như đánh lúc nào xong lúc bấy giờ. Chao ôi; quân tử xưa kia chưa rừng Tiểu Lâm cung thận như người xem xét sau nầy! Ta xem Thủy Hử đầy vẫy hàn vàn lời nói, rồi cũng phải lấy bốn chữ "Thái Bình Thiên Hạ" kết chung, thì thấy ý lắm vậy! Đời sau lại bỏ mất chỗ cuối, thêm vào một đoạn chiêu an, làm cho rõ tội của triều đình, quy công về giặc cướp, thậm chí nghĩ đem hai chữ "Trung Nghĩa" nêu cho họ, sau mà khéo phạm thượng tác loạn đến điều, mà chẳng viết gì như thế nhỉ?
Những tên sau Thiên Cương, Địa Sát, xét ra không hợp Đạo làm người, sao lại có án văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn làm sao dựng dậy Thi Nại Am mà hỏi cho ra.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro