Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

thương vợ tú xương

ai câu đề :

Quanh năm buôn bán ở mom sông ,

Nuôi đủ năm con với một chồng .

- Câu thơ mở đầu cất lên thật tự nhiên , dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình ảnh và công việc làm ăn của bà Tú .

- Từ “quanh năm” diễn tả sự triền miên về thời gian , từ ngày này sang ngày khác , tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy , bất kể mưa nắng , sớm trưa . Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó , bà Tú phải miệt mài với công việc “buôn bán” . Đó chỉ là kiểu buôn thúng bán mẹt , lời lãi chẳng được bao nhiêu ở chốn đầu sông cuối bãi .

- Hai từ “mom sông” cụ thể hóa không gian làm việc của vợ ông Tú , đó là nơi có thế đất hiểm trở , là doi đất nhô ra , ba bề là nước , khá chênh vênh nguy hiểm .

- Tú Xương đã quan sát , thấu hiểu cho nỗi vất vả của người vợ . Bởi vậy , ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông , thương mến sâu lắng . Với người vợ , một lời cảm thông như vậy của chồng cũng đủ để bù đắp cho bao nỗi đắng cay .

- Câu thơ thứ hai nêu lên căn nguyên sự vất vả của bà Tú . Bà phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề “ nuôi đủ năm con với một chồng” . Phải chăm sóc , nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi . Vậy mà bà còn phải nuôi thêm cả đức ông chồng . Ai cũng biết ông Tú tài cao nhưng phận thấp , thành ra ông chí khí uất . Tám lần ông đi thi chỉ mong bia đá bảng vàng nhưng rút cục đi không lại trở về không bởi thơ văn ông quá sắc sảo . Ông lại phải hằng ngày chứng kiến bao cảnh trái tai gai mắt “ con khinh bố”, “vợ chửi chồng” , bao điều lố lắng của xã hội dở ta dở tây đương thời . Tú Xương luôn day dứt về sự đời ô trọc . Cảnh chung niêm riêng khiến ông Tú rất kĩ tính , khó tính . Ấy vậy mà bà Tú vẫn “ nuôi đủ” . Công lao to lớn của bà nằm ở hai chữ “nuôi đủ” này . Bà Tú thắt lưng buộc bụng , tần tảo quanh năm không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về vật chất của một đại gia đình đông đảo mà bà còn phải sống lựa , chăm lo cho nhu cầu tinh thần vốn cao sang , tài tử của ông Tú . Sự đảm đang , khéo léo cảu bà thể hiện ở việc lựa ông Tú mà sống , khéo chiều sự khó tính khó nết của ông sao cho trong ấm ngoài êm .

- Hai câu thơ đầu đã đặc tả sự nhẫn nại , đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình . Qua đó nhà thơ gián tiếp bày tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình .

3/Hai câu thực

Lăn lội thân cò khi quãng vắng ,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông .

- Hai câu thơ đã cụ thể hơn tính chất , đặc thù công việc cảu bà Tú . Cách đảo ngữ “ lặn lội thân cò” , “ eo séo mặt nước” tô đậm chân dung cực nhọc , lam lũ , bươn chải của bà .

- Nhà thơ mượn hình ảnh ẩn dụ “thân cò” trong ca dao để ví von với thân phận , cuộc đời người vợ của mình . Con cò trong ca dao cực khổ , bất hạnh vô cùng :

“ Cái cò lặn lội bờ sông –Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

“Cái cò đi đón cơn mưa – Tối tưm mù mịt ai đưa cò về”

“ Cái cò mà đi ăn đêm – Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

- Nhà thơ đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận của những người lao động vất vả , lam lũ . Thân cò còn gợi dáng vẻ bé nhỏ , gầy gò , đáng thương tội nghiệp của người vợ ông Tú .

- Bà Tú bé nhỏ yếu ớt thế mà phải một mình thân gái dặm trường , đi làm qua những nơi “ quãng vắng” . Khi khỏe thì không sao nhưng khi trái gió rở trời , sảy chân bất kì thì không biết bà Tú sẽ gặp nguy hiểm chừng nào . Thế mới thâm thía câu ‘Buôn có bạn , bán có phường” . Câu thơ mang sức nặng của tấm lòng thương cảm mà ông Tú dành cho vợ .

- Bà Tú không chỉ dấn thân những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những chuyến đò đông , phải chịu những tiếng “eo sèo”, những lời qua tiếng lại cò kè mặc cả , có lườm nguyt chê bôi xô bồ . Đò đông gợi ra sự hiểm nguy , xô đẩy , chen chúc . vậy là “ cô gái nhà dòng” vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân quên đi lời mẹ dặn “ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua” , phải lăn lôn giữa chốn đời phàm tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình .

- Hai câu thơ chú trọng vào việc miêu tả nỗi vất vả , sự đảm đang của bà Tú . Ẩn sau câu chữ vẫn là tấm lòng nhà thơ với cái nhìn thương cảm , ái ngại , biết ơn , trân trọng .

4/Hai câu luận

Một duyên hai nợ âu đành phận ,

Năm nắng mười mưa dám quản công .

- Hai câu luận là lời ông Tú nhập thân vào bà Tú để than thở giùm vợ . Nhà thơ dùng nghệ thuật đối , các khẩu ngữ và những thành ngữ dân gian “ một duyên hai nợ” , “năm nắng mười mưa” , “ âu đành” , “dám quản” để bộc lộ nỗi lòng ấy .

- Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian , duyên là đieuf tốt đẹp , là sự hòa hợp tự nhiên , còn nợ là gánh nặng , là trách nhiệm mà con người ta bị vướng mắc phải . Duyên là sự may mứn , còn nợ là sự rủi ro . Ở đây , khi lấy ông Tú , may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi , tức là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều .

- Dù vậy , bà coi đó là cái phận , cái định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình . Vì thế , bà cam chịu , chấp nhận , không kêu ca mà âm thầm chịu đựng . Bà sẵn sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn tăng cấp chồng chất , bà dám “ quản công” , tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình .

- Hai câu thơ như một tiếng thở dài của bà Tú . Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng , vượt lên . Phảo chăng đó cũng chính là đức hi sinh – vẻ dẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam ?

5/Hai câu kết .

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

- Hai câu thơ vẫn là lời Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi , để rủa chính thói đời bạc bẽo , trách cứ sự vô tích sự của mình .

- Thói đời là những nếp cư xử ,hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải . Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ , là thói vô tâm cảu các ông chồng với vợ . Thói xấu ấy cũng đã thấm vào người ông Tú , khiến ông ăn ở bạc với vợ , sống thiếu trách nhiệm , đổ mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ . Như vậy , ông Tú không chỉ chửi chung thói đời mà còn chửi chính bản thân mình .

- Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của Tú Xương . Nhà thơ dùng lời ăn tiếng mói của dan gian “ cha mẹ” – một cách chửi có gọng điệu chanh chua nanh nọc , gay gắt , quyết liệt , lôi cả gốc rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi . Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương .

- Câu thơ cuối cùng là một lời rủa . Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ hững thì còn tệ hơn cả không có chồng . Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng mà sống vô tích sự , vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi .

- Hai câu thơ cuối là một cách chuộc lỗi đặc biệt của nhà thơ với vợ . Lời thơ giản dị pha lẫn nụ cười trào phúng mà vẫn chân chất , thấm thía tấm lòng thương vợ đáng quy trọng .

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu

hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Câu thơ mở đâu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú.

Hoàn cảnh vất vá, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách

nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù

mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến

chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú

buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như

một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:

Quanh năm buôn bán ở mom sông..

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh

con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có diều hình ảnh con cò trong

ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn

tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện

trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà

cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng, tác giả

đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa

đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So

với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương: Lặn

lội thân cò khi quãng vắng là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ -

đưa ra từ lặn lội lên đầu cáu, cách thay từ - thay từ con cò bằng

thân cò - càng làm tăng nỗi vất vá gian truân của bà Tú. Từ thân

gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu

sắc thấm thía hơn.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại

làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của

những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt

nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu

phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao,

người mẹ từng đặn con rằng:

. Con ơi nhớ lấy câu này

Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.

Buổi đò đông không chi có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu

gắt, những sự chen lấn, xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm

nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi

đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vá

gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn chải

trong hoàn cảnh chèn chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà

Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương, đó là tấm lòng

xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp

của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ

trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ

cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức:

Cơm hai bữa: cá kho rau muống

Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô

(Thầy đồ dạy học)

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cám phục sự hy sinh

rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công

ờ câu thơ này, nắng mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng

phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ

chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể

hiện được đức tính chịu thương chịu khô, hết lòng vì chồng vì con

của bà Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt

gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp

ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật

sâu đậm. ờ bài thơ thương vợ cũng vậy. ông Tú không xuất hiện

trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách

khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn

tri ân vợ. Về câu thơ Nuôi đủ năm con với một chồng, có người cho

rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú

phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách

riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi. sinh rất mực của vợ

mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. ông không dựa vào duyên

số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên

một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh

chịu Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. ông chửi thói đời bạc

bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ.

Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của

ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú

Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:

Cô chồng hờ hững cũng như không

. ờ cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn đối với người

phụ nữ: xuất giá tòng phu (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan

hệ vợ chồng thì phu xướng, phụ tùy (chồng nói, vợ theo), 'thế mà có

một nhà nho đám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, đám tự

thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận

ra thiếu sót, mà còn đám tự nhận khuyết điểm. Một con người như

thế chẳng đẹp lắm sao. ~

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của

Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ về đẹp

nhân bản của hồn thơ Tú Xương. bài thơ này, tác giả không chỉ

thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thôi đời mà còn tự trách.

Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm

khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ

so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại.

Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ánh và ngôn

ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú

Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn

có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: