Chào các bạn! Vì nhiều lý do từ nay Truyen2U chính thức đổi tên là Truyen247.Pro. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Thương Vợ

A.MB

Hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở cho nền văn chương kim cổ Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của một người chồng đã ít nay lại viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương, là một trong những bậc thức giả hiếm hoi của nền thơ ca trung đại Việt Nam.Ông cũng chính là người đã đưa hình ảnh người vợ tần tảo của mình ngay khi bà vẫn còn là một đoá hoa tươi tắn trên đường đời vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng làm bật lên được đức hi sinh đảm đang, tấm lòng tháo vát chịu thương chịu khó của người bạn đời ấy, qua đó cũng thể hiện tấm lòng tri ân đến người vợ của mình. Tiêu biểu là bài thơ Thương Vợ : 

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng, I
Eo sèo mặt nước buổi đò đông. I
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!    

B.TB

1.Mở đầu TB

Nói một cách ngắn gọn, Trần Tế Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thể kỉ XIX. Tuy cuộc đời ngắn ngủi cùng nhiều gian truân nhưng ông cũng có một sự nghiệp thơ ca bất hủ,chủ yếu ở hai mảng thơ: trào phúng và trữ tình có pha chút giọng cười chân biếm sắc xảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân, với nước, với đời. Thương Vợ là một trong những thi phẩm đặc sắc của ông để minh chứng cho điều đó. Bài thơ, thông qua thể thất ngôn bát cú Đường Luật, đã khắc họa rõ nét hình ảnh bà Tú - một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh cùng  tiếng lòng tha thiết, sự tri ân đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã hội lố lăng, đảo điên biến con người trở thành vô tích sự với chính mình và gia đình.

2.Trọng tâm

LĐ 1. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Bà Tú hay lam hay làm, tất tả ngược xuôi,những gánh nặng gia đình mà bà phải đảm đương :

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.  

 Mạch cảm xúc của thi phẩm dần dần mở ra với bức tranh toàn cảnh đầy nỗi khó nhọc, lo toan của bà Tú – tên thật là Phạm Thị Mẫn. Đó là một người phụ nữ tần tảo" quanh năm" suốt tháng làm nghề "buôn bán" ở một "mom sông". Tác giả đã sử dụng "Quanh năm" – cụm từ chỉ một khoảng thời gian trường kì lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên để cực tả nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải dài hết ngày tháng này sang ngày tháng khác, năm này qua năm nọ mặc cho nắng gắt hay mưa rào . Chỉ có thế thôi cũng đủ để lại trong lòng độc giả một ấn tượng khó phai về hình ảnh người vợ đầu tắt mặt tối chu toàn mọi sự trong gia đình như bà Tú.Câu thơ nghĩa chỉ là thế nhưng âm điệu nghe da diết yêu thương. Hai chữ "mom sông" chỉ một địa điểm cụ thể là cái phần đất nhô ra nơi cửa sông ấy, nhung để lại trong lòng độc giả một cảm giác chơ vơ, một hình ảnh lẻ loi đơn chiếc giữa cảnh sông nước mênh mông; thấy như có sông cồn, gió nổi, thấy có gì đấy bất trắc, không ổn, không yên nơi" mom sông" mà bà Tú buôn bán...

Vất vả là thế nhưng bà tú còn phải đảm đương gánh nặng gia đình: "Nuôi đủ năm con vs một chồng". Có thể nói, câu thơ này đã thể hiện thành công khả năng biểu đạt ngôn ngữ của nhà thơ. Trong cảm nhận của nhà thơ và của chúng ta là: "Nuôi đủ năm con" đối vs bà Tú đã là một gánh quá nặng rồi và bây giờ lại thêm " Một Chồng", thì gánh ấy nặng biết bao nhiều, và chắc chắn đôi vai gầy của bà Tú phải vất vả cự nhọc nhiều lắm mới kham nổi. Tuy nhiên cái "nuôi đủ " của bà Tú ấy  không chỉ chu toàn cho Tú Xương "chăn ấm, nệm êm" mà còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở mài nở mặt

Biết thuốc lá, biết chè tàu,
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.

(Hỏi ông trời – Trần Tế Xương)

Hay:

Hôm qua anh đến chơi đây,
Giày "giôn" anh dận, "ô Tây" anh cầm.

(Đi hát mất ô – Trần Tế Xương)

 Thế là, chỉ bằng một từ "với" và "đủ", nhà thơ cùng đồng thời nói rõ hơn, cụ thể hơn những vất vả lo toan vủa bà Tú đối với gia đình và bộc lộ nỗi chua chát, sự bất lực của mình khi phải để cho vợ gánh vác tất cả. Tú Xương cảm thấy có lỗi với gia đình, với bà Tú. Âu chi, đó cũng là một cách nhà thơi ngầm" thú lỗi" với người vợ nhân hậu của mình

LĐ 2. Đến hai câu đề, tác giả lại nói đến việc làm ăn vất vả để mưu sinh của bà Tú, qua đó ẩn chứa hình ảnh những bà vợ Việt Nam ngàn xưa trong xã hội cũ.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng, I

Eo sèo mặt nước buổi đò đông. I  

Hai câu thơ tả thực ghi lại một cách ngắn gọn và hàm súc cảnh bà Tú xoay sở, làm ăn. Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò biểu tượng thân phận người phụ nữa trong ca dao để nói đến bà Tú. Chắc hẳn, hình ảnh" con cò lặn lội bờ sông ", hình ảnh những bà vợ VN ngày xưa trong xã hội cũ, ngược xuôi tần tảo, gian nan cực nhọc, để nuôi chồng con cũng từ lâu đã đi vào hồn thơ giàu rung động của Tú Xương với bao nhiêu xót xa thương cảm. Để giờ đây, trong lúc nghĩ đến bà Tú thì con cò ấy bỗng vụt dậy vỗ cánh bay vào thi hứng Thương Vợ của Tú Xương. 

Ca dao xưa nói"con cò lặn lội bờ sông" trông đã vất vả tội nghiệp. Con cò trong thơ ông Tú hiện lên còn vất vả tột nghiệp hơn thế. Cái khung cảnh bờ sông đã là mênh mông heo hút đến rợn ngợp. Trong thơ ông Tú , có cái rợn ngợp của không gian"Khi quãng vắng", lại còn thêm cái rợn ngợp của thời gian. Ca dao nói :"con cò lặn lội" thì Tú Xương chuyển lại thành " lặn lội thân cò". Ở đây nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng, đưa hai từ" lặn lội" chen lên đứng đầu câu như muốn nhấn mạnh một làn nữa nỗi gian truân vất vả của bà tú. Cảnh lặn lội lại càng lặn lội. Ca dao nói con cò, Tú xương nói " thân cò". Ý thơ cứ xoáy sâu vào sự cực khổ. Bởi lẽ, Chữ "Thân" trong văn học xưa chính là sự đâu khổ, ê chề .Nó luôn gợi cho mọi người về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. Và khi xưa, nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ngậm ngùi trên trang giấy khi nói đến chữ "thân" bạc mệnh:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

( Bánh Trôi Nước - Hồ Xuân Hương )

Hay

Thân lươn bao quản lấm đầu 

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa

( Truyện Kiều)

Nhờ đó, câu thơ trở thành như một bức họa phác thảo về một người đàn bà mỏng manh, gầy guộc, lúi húi một mình kiếm sông giữa cuộc đời trơ trụi.

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

  Nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại là sự vật lộn đầy cam go của bà Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc. Một lần nữa, biện pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương nhưng với từ láy tượng thanh "eo sèo" gợi sự tấp nập, ồn ào để nhấn mạnh tính chất thường tình nơi chợ búa và sự lam lũ của người phụ nữ "năm con với một chồng". Mặt khác, hình ảnh "buổi đò đông" cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng hình tượng một bà Tú cần mẫn, tất bật và sự đông đúc, xô bồ đó đã từng được ca dao xưa nhắc đến:

  Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.  

  Mặc dù văng vẳng bên tai là lời dạy chân tình của cha ông ta: "Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua" nhưng bà Tú vẫn cứ khăng khăng dấn thân vào cuộc chiến tranh âm thầm và dai dẳng của những lần đôi co "eo sèo" hay chen chúc trên những chuyến đò chật hẹp, bấp bênh, mỏng manh. Tất cả đều là vì cuộc sống, vì chồng, vì con. Thật đáng khâm phục ! 

  Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm "lặn lội", "eo sèo" lên ngay vị trí đầu câu thơ kết hợp với hai hình ảnh đối nhau rất chỉnh "khi quảng vắng" – "buổi đò đông" trong hai câu thực, hình tượng người vợ tháo vát vã mồ hôi chỗ đông đúc vì phải giành giật, trào nước mắt nơi quạnh hiu khi tìm được khách hàng hiện lên với tất cả niềm tự hào của nhà thơ cả về thể chất mạnh mẽ lẫn tinh thần thép của bà Tú dù trong mọi hoàn cảnh khắc khổ nhất. 

LĐ 3.Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi phẩm chất nhẫn nhịn, cam chịu, giàu đức hi sinh cùng những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú đang gồng gánh trên vai :

  Một duyên, hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công 

Hai câu thơ là sự vận dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và cách nói dân gian. Nhân dân ta thường nói:"Vợ chồng là duyên là nợ. có duyên thì tốt đẹp hạnh phúc còn có nợ thì đâu khổ một đời ".Câu thơ của TX nhưng một tiếng thở dài nặng nề, chua chát khi duyên chỉ 1 mà nợ thì 2. 

Chồng gì anh, vợ gì tôi,

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.

(Ca dao)   

Bên cạnh đó, cách sử dụng hai thành ngữ xưa song song với nhau "Một duyên hai nợ" – "năm nắng mười mưa" vừa đối nhau về từ: "một" – "hai", "năm" – "mười", vừa đối nhau về ý đã không những khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngày một dâng  của bà Tú mà còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ khi biết vận dụng triệt để giá trị của các thành ngữ cùng các con số mộc mạc để thiêng liêng hoá hình ảnh bà Tú.

  Có thể nói, dẫu có khó khăn chông gai ra sao, "nợ" nghiêng về mình nhưng bà Tú chưa một lần chùn bước mà chỉ gật đầu nhẫn nhục cho qua và những từ "âu đành phận", "dám quản công" đã thể hiện được điều đó. Nguyên nhân dẫn đến sự cần cù, âm thầm đầy cam chịu của bà Tú tuy giản đơn nhưng cũng rất cao quý: vì duyên, vì nợ, vì đàn con nhỏ. Quả là một người mẹ, người vợ giàu đức hi sinh!

 Từ việc pha trộn lời thơ đan xen những thành ngữ đã đạt đến độ hoàn hảo về nội dung với các phép đảo ngữ tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc hoạ thành công tấm chân dung một người vợ kết tinh đầy đủ đức hi sinh, sự nhẫn nại, sự tần tảo chịu thương chịu khó, điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống trong hai câu luận. Qua đó, ông còn ngầm ý bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người vợ thân thương của mình khi bà đã quên đi cái tôi mà gánh vác hết mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thật vậy:

  Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

(Kho tàng lục bát dân gian)  

LĐ 4. Cuối cùng,  vì quá thương vợ, quá thương cho phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột,  Tú Xương đã văng ra một câu chửi: chửi anh chồng vô tích sự là mình, chửi luôn cả cái thói đời bạc bẽo một cách đắng cay và phẫn nộ: 

  Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.  

 Đến đây, Tú Xương không còn "ẩn mình" sau những vần thơ để tán dương vợ nữa mà ông đã chịu xuất hiện để nói thay cho sự oán trách chồng, trách phận của bà Tú. Cũng đến đây, ta mới thấy được cái tài năng trào phúng của tác giả. "Cha mẹ thói đời" thật là một cách nói có phần thô cứng, xù xì nhưng lại rất phù hợp với phong cách thơ ca trào phùng của thi sĩ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội "Tây tàu lố lăng" lúc bấy giờ không cho phép ông san sẻ gánh nặng gia đình cùng vợ. Mà trong cái "thói đời ăn ở bạc " ấy, có anh "chồng hờ hững cũng nhứ không". Có thể thấy, Tú xương chửi "đời" nhưng cũng "tự chửi" mình, "tự chửi" cái thói sĩ diện của một đấng nam nhi đang trên đường công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, mà không biết được mọi người xung quanh đang khổ cực vì mình.

Có thể nói, Trần Tú Xương là một con người đáng quý, đáng trân trọng khi dám sòng phẳng với bản thân, với cộng đồng, thừa nhận khuyến điểm thiếu sót với tư cách là một nhà nho trong xã hội đương thời

3. Cuối TB 

B.Kết bài

  Nói tóm lại, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình pha chút trào phúng, Tú Xương đã không những khắc hoạ nên một bức chân dung tuyệt đẹp về người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó của mình mà còn thể hiện vẻ đẹp trong nhân cách của bản thân và hình ảnh bà Tú cần mẫn, đầy lo toan đó chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ: vừa mộc mạc, chất phát, vừa cứng rắn, mạnh mẽ.  

Chú ý.
Đây là bài mình làm để tự học và làm theo dàn ý trên lớp nên sẽ có một số chỗ không ưng ý hoặc mình không làm vì mình đã làm trước đó rồi. Nhưng nếu các bạn thấy hay và phù hợp với nhu cầu học tập của bản thân hoặc cảm thâdy có nhiều chỗ thiếu sót thì hãy cmt hoặc add library nhé !
Cảm ơn các bạn !
Đừng quên vote nha !

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen247.Pro

Tags: #từ